Hiện có 13 người xem / 2316479 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09/8/2014

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách mà ông thấy là khá đặc biệt. Lần này cả hai cuốn đều là sách tương đối mới. Cuốn đầu bằng tiếng Pháp và mang tựa đề là: “Nước Việt Nam Thời Các Vương Quốc” (Le Vietnam des Royaumes); đây là một cuốn sách khổ 21x30 được in trên giấy dày và cực đẹp, ở trong có gần 100 hình ảnh các cổ vật gốm sứ đủ loại, và đặc biệt nhất là có nguyên một sưu tập đồ sứ men lam Huế rất đẹp, đồng thời cũng có luôn một số bưu thiếp cổ cả trăm năm. Đây là một cuốn sách nói về cổ vật với hình minh họa và bài viết của 12 tác giả do một nhà xuất bản của một Hội Nghệ Thuật (Cercle d’Art) ở Pháp in. Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu cuốn sách vì ông may mắn là người được tác giả Loan de Fontbrune, là một trong số 12 tác giả, đề tặng và mời xem bộ sưu tập đồ sứ men lam Huế mà bà đã cho mượn để triển lãm và in vào sách. Cuốn sách thứ nhì được giới thiệu là một cuốn Kiều được dịch sang tiếng Đức vào năm 1964 vừa đúng một nửa thế kỷ trước (50 năm). Cuốn sách khổ 13x22 phân, dày 294 trang, được in rất đẹp bằng một thứ giấy cũng rất đẹp và, đặc biệt nhất là nó có 12 minh họa được vẽ rất đẹp. Truyện Kiều đã được dịch sang nhiều thứ tiếng, nhất là tiếng Pháp có tới trên 10 bản dịch khác nhau, nhưng với tiếng Đức thì có lẽ đây là bản duy nhất. Sau khi được giới thiệu, 2 cuốn sách đã được các thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Tiếp lời Dịch giả Vũ Anh Tuấn, anh Nhựt Thanh đã lên nói chuyện về việc thắp nhang mà anh đã để tâm nghiên cứu và viết bài.

Anh Nhựt Thanh nói xong, anh Hữu đã lên trả lời anh Nhựt Thanh về vấn đề giờ, khắc và năm sinh của Phật Thích Ca, sau đó anh đã ngâm tặng các thành viên một bài thơ bằng giọng ngâm rất truyền cảm của anh.

Vào thời điểm này, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã đề nghị hai anh Nhựt Thanh và Hữu không nên tin vào những thông tin mà họ đã hỏi được từ các cá nhân về ngày và năm sinh của Đức Phật Thích Ca, mà chỉ nên tìm hiểu cho thật chính xác, trong vài bộ Từ Điển Bách Khoa danh tiếng để được an tâm tin tưởng.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn nói xong, anh Dương đã lên nói chuyện về một vài vấn đề về ngôn ngữ học.

Tiếp lời anh Dương, anh Chử đã lên hát thơ tặng các thành viên bài Chiều Thu do chính anh sáng tác.

Anh Chử hát thơ xong, anh Thanh Châu đã lên hát tặng các thành viên một lúc hai bài hát Cái Ao và Lòng Mẹ bằng giọng ca “tiếng hát át tiếng bom” cực kỳ hùng dũng của anh.

Cuối cùng Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã có lời kêu gọi các thành viên đóng góp bài để cùng nhau làm một Bản Tin số 100 thật đặc biệt để kỷ niệm tháng thứ 100 của CLB Sách Xưa và Nay.

Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 15, và mọi thành viên vui vẻ ra về, hẹn nhau tháng sau lại gặp lại…

VŨ THƯ HỮU


CUỐN ĐÔNG DƯƠNG (INDOCHINE)

- MỘT CỔ THƯ ĐÃ 118 TUỔI ĐỜI (1896)

CỦA ĐẠI TÁ HENRI DE PONCHALON

Đây là một cổ thư rất quý, vì nó cung cấp khá nhiều tài liệu sử học về việc quân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng (Tourane), trong những năm 1858 – 1860.

Tuy nhiên, trước khi giới thiệu cuốn sách, người viết muốn trình bày trước một số chi tiết cần thiết liên quan tới địa danh Đông Dương, vì đa số người Việt mình thường nghĩ là Đông Dương chỉ gồm có ba nước là Miên, Lào và nước ta. Thực ra địa danh Đông Dương chỉ một bán đảo ở Á Châu, nằm giữa Trung Hoa và Ấn Độ, gồm các nước Miến Điện, Thái Lan, Tây Mã Lai, Singapo, Cam Bốt, Lào và Việt Nam. Địa danh Đông Dương thuộc Pháp (Indochine francaise) mới là có 3 nước, và thoạt đầu vào năm 1887 chỉ có Cam Bốt và Việt Nam (Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ) và mãi tới năm 1893, bọn Pháp mới lấy thêm và sát nhập Lào vào Đông Dương thuộc Pháp, và địa danh này biến mất vào các năm 1949-1950 khi các quốc gia trên dành được Độc Lập qua nhiều Hiệp Định.

Bây giờ người viết xin được giới thiệu cuốn cổ thư quý giá này. Sách khổ 16x25cm và dày 336 trang, với một số hình vẽ minh họa và bản đồ.

Ở ngay đầu cuốn sách tác giả có vài trang viết cho các con trai của ông. Kế đó là một vài thông báo chỉ dẫn khi đọc cuốn sách, rồi tới Phần Giới Thiệu. Sau đó sách được chia làm ba Phần:

Phần 1: “Từ Pháp sang Đông Dương” gồm 5 chương

từ trang 52 - 96.

Phần 2: “Chiến dịch Đông Dương” gồm 8 chương

từ trang 97 - 243.

Phần 3:“Từ Quảng Đông về Toulon” gồm 3 chương

từ trang 244 - 320,

và cuối cùng là Phần Kết Luận.

Vì đây là một cuốn sách được viết dưới dạng Ký ức về du lịch và về các Chiến dịch mà tác giả đã tham dự và chứng kiến, phạm vi bài viết này sẽ chỉ nói về Phần 2 vì có liên quan tới Việt Nam của chúng ta.

Và sau đây là các chi tiết đáng quan tâm trong Phần 2:

Chương 1: Việc đánh chiếm Đà Nẵng (Tourane). Trong chương này tác giả kể về việc bọn Pháp đánh bom và chiếm Đà Nẵng - Việc đánh chiếm các đồn lũy ở phía Đông và phía Tây Đà Nẵng – Tác giả nói về cảnh quan “ngôi làng” Đà Nẵng vì tác giả dùng từ “village de Tourane” – Về việc san bằng cái đồn ở phía Tây – Về việc bọn Pháp đi tuần thám trên sông Đà Nẵng.

Chương 2: Việc tiến quân đánh Cam Le. Trong chương này tác giả nói về việc quân Pháp đánh chiếm một nơi mà tác giả viết là Cam Le (phải chăng là Cẩm Lệ? Người viết không biết rõ) – Về việc tàn phá ngôi làng đó – Về những tin tức nhận được từ Bắc Kỳ – Về việc tái thiết thành phố Đà Nẵng – Về việc chiếm một thành lũy tên là Don Mai (Đồn Mai chăng?) – Về việc tái chiếm cái đồn ở phía Đông – Về việc sửa soạn cho chiến dịch đánh chiếm Sài Gòn – Về những quan hệ giữa viên Thủy Sư Đô Đốc và Đức Cha Pellerin (Tên ông Đức Cha này sau được đặt cho một ngôi trường).

Chương 3: Chiến dịch đánh chiếm Sài Gòn. Trong chương này tác giả viết về các sự việc như: Khởi hành từ Đà Nẵng – Vịnh Cam Ranh – Vũng Tàu (Cap Saint-Jacques) – Đánh chiếm đồn Yentao – Tiến vào sông Sài Gòn – Vụ nổ lớn ở Cần Giờ – Quang cảnh hai bờ sông Đồng Nai – Pháp đánh chiếm liên tiếp 6 đồn lũy – Đánh bom và chiếm các thành ở phía Nam – Cảnh Saigon – Cảnh Chợ Lớn – Đánh phá và chiếm đóng thành Sài Gòn – Tác giả trở lại Đà Nẵng.

Chương 4: Trên sông Đà Nẵng. Trong chương này tác giả nói về các vụ việc như sau: Vụ tấn công cái đồn ở phía Đông – Các vị trí của quân thù (quân Việt Nam) ở hai bên bờ sông – Các khu rừng nguyên sinh – Các cuộc săn bắn – Người sung sướng nhất trần gian – Vụ thất trận ở Đồn Kỳ Hòa – Việc tái chiếm cái đồn ở phía Tây – Trận nã pháo ngày 6 tháng 5.

Chương 5: Trận đánh ngày 8 tháng 5 – Hòa Ước. Trong chương này tác giả viết về các chuyện sau đây: Trận đánh ngày 8 tháng 5 – Đánh chiếm cái đồn còn kháng cự – Đánh chiếm cái đồn “Những đụn cát nhỏ” – Các cuộc Hội Nghị để ngưng chiến -– Dịch tả và bão tố – Ý kiến của các quan Việt Nam về các Linh Mục Thừa Sai – Hết kỳ hạn ngưng chiến – Các biện pháp để sửa soạn một cuộc chiến nhỏ.

Chương 6: Các trận đánh ngày 15 tháng 9 và ngày 18 tháng 11. Trong chương này tác giả viết về các sự việc sau đây: Trận đánh ngày 15 tháng 9 – Các lính canh rất nhanh lẹ –Trung úy Boreau – Đánh chiếm đồn bên phải và đồn đỏ – Các con voi trận – Phó Đề Đốc Page – Trận đánh ngày 18 tháng 11 – Cái chết của Thiếu tá Déroulède – Đánh chiếm các đồn binh trên đường tới Huế – Việc di tản từng bước một các tiền đồn – Việc Thiếu úy Prot bị giết.

Chương 7: Di tản khỏi Đà Nẵng. Trong chương này tác giả viết về các vụ việc sau đây: Ngôi làng Kiên Chân – Đô Đốc Page đi Hồng kông – Bệnh dịch mới – Di tản khỏi làng Kiên Chân – Các quan Việt Nam vui chơi – Ngôi làng nổi – Giải giáp và di tản khỏi các đồn – Binh lính xuống tàu – Đà Nẵng trong khói lửa – Một đêm trên chiến thuyền – Các loạt đạn bắn từ chiến thuyền – Kỷ niệm chót.

Chương 8: Những ngày ở Sài Gòn. Trong chương này tác giả viết về các vụ việc sau đây: Từ Đà Nẵng tới Sài Gòn – Sài Gòn – Trang trại các thầy đồ – Thành cổ và thành mới – Khí hậu ở Nam Kỳ – Chiến thuyền Europe bị đắm – Lăng Cha Cả – Nghĩa trang ba tàu – Trại quân đồn trú ở Sài Gòn – Phong trào thương mại – Những tên Do Thái ở Viễn Đông – Tương lai của thuộc địa – Rời Sài Gòn để ra về.

Cuốn sách quả là một nguồn tài liệu tốt cho những ai quan tâm nghiên cứu lịch sử nước nhà…

Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

Vũ Anh Tuấn


Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT

***

TÍN HỮU 3 KHÔNG

Không Linh mục

Không Nhà thờ

Không Họ đạo

Ghi chú : 1. Thánh Kinh được trích dẫn theo bản dịch của Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ. 2. “3 không” là những hoàn cảnh khó khăn bất khả kháng, ở đâu còn có thể liên lạc được thì tín hữu phải gắn bó với mục tử, nhà thờ, và họ đạo của mình.

Imprimatur: Ngày 19/07/2014

ĐGM Phêrô NGUYỄN VĂN KHẢM

(Ấn ký)

PHẦN I: NHỮNG HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT

1. Tín hữu tại thành phố Antiôkia : “Vậy những người bị phân tán vì cơn bách hại nhân vụ ông Stêphanô, đã đi đến tận Phênikia, Kyprô và Antiôkia, nhưng họ không giảng lời Chúa cho ai khác ngoài người Do Thái. Trong nhóm họ có vài người Kyprô và Kyrênê, những người này khi đến Antiôkia thì đã giảng cho cả người Hy Lạp nữa, loan báo cho họ Tin Mừng về Chúa Giêsu. Có cánh tay Chúa ở cùng họ, một số đông đã tin theo và trở lại cùng Chúa. Tin ấy đã đồn thấu tai Hội Thánh ở Giêrusalem… và cũng chính tại Antiôkia mà môn đồ được mệnh danh là Kitô hữu (bạn Chúa Kitô)” (Cv 11,19-26).

Ghi chú : Antiôkia cách Giêrusalem 550km về phía Bắc ở bên bờ sông Ôrônta thủ phủ tỉnh Syri của Roma với nửa triệu dân, thứ ba sau Roma và Alêxanđria (Antiôkia nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ).

2. Tín hữu thời kỳ Phân Tháp : “Một trong những văn bản của chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn có ảnh hưởng mạnh và trực tiếp tới Giáo hội cơ sở trong suốt thời kỳ cấm Đạo chính là chỉ dụ Phân Tháp của vua Tự Đức tháng 7/1861. Nội dung của chính sách Phân Tháp của nhà Nguyễn là xé lẻ các cư dân trong gia đình Công giáo, phát tán vào làng không Công giáo, tiến tới mục đích là loại bỏ làng Công giáo, cũng có nghĩa là xóa bỏ tổ chức Giáo hội cơ sở: xứ, họ Đạo, những hạt nhân quan trọng của Giáo hội Công giáo trong công cuộc truyền giáo” (Ngô Quốc Đông, nguyệt san CG&DT số 227 tháng 11/2013, trang 124).

3. Tín hữu tại đảo Phú Quý : Phú Quý là một hòn đảo thuộc tỉnh Bình Thuận, Giáo phận Phan Thiết, cách quần đảo Trường Sa 196 hải lý (gần 363km), hội tụ nhiều luồng dân từ đất liền ra làm ăn với đủ thành phần và sắc tộc. “Lược sử giáo họ kể: Năm 1971, người Công giáo đầu tiên đặt chân tới đảo là bà Nguyễn Thị Hường (thường gọi là bà Long) quê ở Đồng Hới. Chồng bà là dân gốc đảo, kết hôn với bà và gia nhập đạo Công giáo, đưa bà về đảo sinh sống… cho tới năm 1990 mới có thêm một người Công giáo nữa từ đất liền ra dạy học, đó là cô Anna Nguyễn Thị Lý cùng với cả gia đình”.

(Hồng Hương, CG&DT số 1906 từ ngày 10-16/5/2013).

4. Tín hữu tại Côn Đảo : Côn Đảo là tên một quần đảo ngoài khơi thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, cách Vũng Tàu 97 hải lý (gần 180km) và cách sông Hậu 45 hải lý (gần 84km). Thời Pháp thuộc, Côn Đảo được biết tới như một trại tù biệt xứ. Ở đây ngoài những người bị giam giữ còn có những nhân viên hành chánh và gia đình họ, cũng có nhiều cư dân đã sinh sống, từ lâu ở đây và cả những người rời đất liền tới nơi này để làm ăn sinh sống… Về phía Giáo hội Công giáo thì có những tù nhân Công giáo bị lưu đày và cũng có những cư dân Công giáo sống ở đây. “Nhà thờ Côn Đảo được xây dựng vào năm 1954, cung thánh được thiết kế theo tinh thần tiền Công Đồng: Có 1 bàn thờ chính và 2 bàn thờ phụ, phía trên bàn thờ chính là Nhà tạm, trên nữa là tượng Đức Mẹ ẵm Chúa Giêsu cao khoảng 1,5m. Hai bàn thờ phụ có tượng Trái Tim Chúa và tượng Đức Mẹ Fatima cao 0,9m. Tháng 10/1967, Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã cùng một số cha tới thăm viếng họ đạo; từ cuối tháng 10/1969, Côn Đảo không có cha sở, các Linh mục chỉ thay phiên ba tháng một lần đến và ở lại một tuần. Đầu năm 1976, chính quyền địa phương trưng dụng Nhà thờ, loại bỏ những yếu tố tôn giáo như Hang đá Đức Mẹ, tháp chuông, thiết kế lại Nhà thờ để làm rạp chiếu phim. Mọi sinh hoạt tôn giáo của tín hữu chỉ là những giờ kinh gia đình hoặc những nỗ lực cá nhân để sống Tin Mừng trong cuộc sống hàng ngày. Trải qua một thời gian dài, tín hữu phải sống trong âm thầm lặng lẽ như vậy mãi tới tháng 6/2009, cha Phêrô Đặng Duy Linh, chánh xứ Đất Đỏ mới ra tới đảo, tìm hiểu, tiếp xúc với bà con giáo dân và chính quyền địa phương… Sau bao nỗ lực, cố gắng của cha Phêrô, cộng đoàn Dân Chúa họ đạo Côn Sơn và ân nhân xa gần rộng lòng giúp đỡ chia sẻ, Nhà nguyện họ đạo Côn Sơn đã hoàn thành mang lại sức sống và những sinh hoạt tôn giáo của họ đạo Côn Sơn. Côn Sơn trước đây thuộc địa phận Xuân Lộc, từ 2005 thuộc địa phận Bà Rịa Vũng Tàu. Ngày 15/2/2014, Đức cha Tôma Nguyễn Văn Trâm, Giám mục Giáo phận Bà Rịa Vũng Tàu đến thăm mục vụ và ban Bí tích Thêm sức cho 19 em thiếu nhi và 9 tân tòng thuộc họ đạo. Đây là lần đầu tiên Đấng bản quyền Giáo phận đến thăm mục vụ họ đạo Côn Sơn kể từ năm 1967. Họ đạo Côn Sơn hiện có 400 giáo dân trong tổng số 7.000 dân của huyện đảo” (Tuần báo CG&DT số 1945 từ 21-27/2/2014, theo trang thông tin Giáo xứ Đất Đỏ).

5. Tín hữu ở đảo Hải Tặc : “Hải Tặc” là tên một quần đảo nhỏ ngoài khơi tỉnh Hà Tiên, cách đất liền khoảng 18 hải lý trên đường ra Phú Quốc. “Hải Tặc” gồm một số đảo nho nhỏ, hòn gần Campuchea nhất chỉ cách đất Campuchea 2km. Cướp biển đóng đô ở một vài đảo, chờ thuyền bè đi ngang qua thì cướp, do đó có tên “Hải Tặc”. Một số đảo khác có dân cư và có cả những tín hữu Công giáo nữa. Từ 1954 mới có hiện tượng quy tụ cộng đoàn, một số gia đình đã dựng một nhà nhỏ cấp bốn làm Nhà nguyện, quy tụ đọc kinh cầu nguyện. Mãi tới năm 2014, cha chánh xứ Hà Tiên mới đi quyên tiền xây Nhà thờ, giáo dân các đảo có khoảng 400 người. Như vậy, nếu tính từ người Công giáo đầu tiên ra đảo tới nay cũng phải mất gần 100 năm tín hữu phải sống âm thầm, lặng lẽ …

6. Tín hữu tại Triều Tiên : Đất nước Triều Tiên kể từ 1953 trở về trước là vùng đất màu mỡ cho hạt giống Tin Mừng, quê hương của hơn 100 Thánh Tử Đạo đã được tôn phong và 128 vị Thánh Tử Đạo nữa sắp được tôn phong nhân chuyến công du của Đức Giáo hoàng Phanxicô sang Hàn Quốc vào tháng tám sắp tới. Tin Mừng đến với đất nước Triều Tiên là một phép màu giống như Hội Thánh Antiôkia ở chỗ giáo dân đi hàng đầu mở đường cho các vị Thừa sai tới gặt hái và củng cố nền tảng Giáo hội vững chắc hơn. Tương truyền rằng ban đầu có một người Triều Tiên mua, xin hay lượm được một cuốn Kinh Thánh, cũng có thể là cuốn giáo lý Công giáo của người Trung Hoa hay Nhật Bản gì đó, người này tìm hiểu và tin theo rồi phổ biến, tuyên truyền, lôi kéo được những người khác cùng tin theo, niềm tin cứ lớn lên, cứ âm thầm lan rộng, mãi sau 2 thế kỷ mới có Thừa sai đến củng cố, bổ sung những gì còn thiếu sót, còn yếu kém và tổ chức cơ sở Giáo hội là các cộng đoàn Dân Chúa, đào tạo các lãnh đạo địa phương… Niềm tin ban đầu của các tín hữu Triều Tiên cũng giống như trường hợp các tín hữu Êphêsô khi Thánh Phaolô đặt chân đến và hỏi họ: “Khi tin theo, anh em đã nhận được Thánh Thần chưa?”, họ trả lời: “Ngay cả việc có Thánh Thần chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói…(Cv 19,2).

7. Làn sóng di dân : Hiện nay di dân là vấn đề lớn của cả thế giới, cách mạng công nghiệp làm thay đổi bộ mặt xã hội ở nhiều phương diện. Đời sống nông nghiệp cố hữu bị phá vỡ, đất đai nông nghiệp càng ngày càng thu hẹp nhường chỗ cho các nhà máy, các khu công nghiệp thu hút nhiều công nhân, đồng lương từ các nhà máy hấp dẫn người ta hơn. Dân chúng bỏ nông thôn về các thành phố, khu công nghiệp, người dân bám lấy việc làm nên nhiều khi phải di chuyển liên tục và tới những vùng rất xa xôi. Người tín hữu cũng bị cuốn hút theo làn sóng di dân này. Về mặt tôn giáo họ sẽ phải sống lẻ loi, thiếu thốn trăm bề.

Báo Tuổi Trẻ ngày 14/5/2014: “Nông dân bỏ ruộng không chỉ do đi làm xa nhưng còn do nhiều nguyên nhân khác, trong đó có sự yếu kém của hạ tầng thủy lợi cũng như tổ chức sản xuất của địa phương” (Lê Kiên, Hà Đồng).

Cách nay khoảng gần 20 năm, người viết có xem một cuốn phim Mỹ trên truyền hình, không nhớ nhan đề là gì nhưng có nội dung như sau: Một thiếu phụ người Mỹ khoảng 40 tuổi, chồng đã qua đời, để lại cho chị ba đứa con, chị tần tảo nuôi con thật vất vả, may mắn thay chị gặp một kỹ sư người Úc, hình như vợ cũng chết hay đã ly dị để lại cho anh hai đứa con, thế rồi họ yêu nhau và kết hôn trên đất Mỹ. Một thời gian sau chuyện làm ăn không thuận lợi, anh phải về Úc lập nông trại. Khi cơ sở vật chất tạm ổn, anh đón vợ con về Úc sinh sống. Chị thật không ngờ quê chồng quá xa xôi hẻo lánh, không có đường bộ, phải dùng máy bay nội địa cả tháng mới có một chuyến tới vùng anh ở. Chị và các con tỏ ra thất vọng vì thiếu thốn đủ điều, nhất là điện, nước. Tối phải thắp đèn dầu, nước phải ra giếng múc… giao tiếp với hàng xóm phải dùng xe ngựa, xe bò. Thế nhưng tình yêu của anh chị đã khắc phục được tất cả, dần dần gia đình cũng ổn định nhưng còn mặt học hành của các con thì sao đây? Trường ở trên tỉnh rất xa, không có đường xe, phải qua sa mạc… may thay Bộ Giáo dục Úc đã có kế hoạch đáp ứng nhu cầu bức thiết này, đó là kiểu học từ xa qua radio, người mẹ rất chu đáo, tới giờ học nhắc các con lấy sách giáo khoa, tập vở, mở radio nghe cô giáo hướng dẫn… kiên trì trong cảnh thiếu thốn, các con chị cũng thi đậu tiểu học, trung học, chúng lại rất ngoan, rất khỏe mạnh, siêng năng giúp đỡ cha mẹ trong mọi công việc đồng áng, chăm sóc đoàn vật… và trong cảnh sống lẻ loi, xa vắng như vậy, anh chị vẫn cảm thấy hạnh phúc, chị không bao giờ tỏ ra ân hận vì đã lấy anh, vì đã nhận nước Úc làm quê hương. Xem xong cuốn phim, người viết không khỏi bâng khuâng tự hỏi: Nếu gia đình này là Công giáo thì họ sẽ sống đạo như thế nào đây?

Ngay tại Na Uy, nhiều tín hữu cũng sinh sống và làm việc ở những vùng xa xôi, ít có dịp được gặp gỡ anh chị em và mục tử. Đức cha Berislav Grgic Giáo phận Tromso đã chia sẻ: “Việc loan truyền đức tin thì gặp khó khăn do quãng đường xa mà các mục tử phải đi. Linh mục của chúng tôi phải di chuyển nhiều, có khi lên đến 2.000km mỗi tháng, để tới thăm các giáo hữu ở các miền xa vắng và cử hành Thánh lễ cho họ. Vào các tháng mùa đông, công việc này càng gây mệt mỏi cho Linh mục chúng tôi” (Ngọc Lâm, Báo CG&DT số 1882 từ 2-8/11/2012, trang 23).

PHẦN II: NHẬN ĐỊNH

1. Trong các hoàn cảnh trên, có một điểm giống nhau, đó là tâm lý hoang mang, lo sợ cả về mặt xã hội lẫn tôn giáo. Những nhà tâm lý thường đúc kết: Trên đời này có ba điều người ta sợ nhất – đó là tình trạng cô thân, cô thế và chia ly. Người tín hữu trong những hoàn cảnh trên có một lúc cả ba nỗi sợ hãi: Đơn độc, lẻ loi, không chỗ nương tựa, cách ly khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, bên cạnh những người ruột thịt thân yêu…

2. Xét về mức độ thì chính sách Phân Tháp là độc ác và ghê gớm nhất. Trong những hoàn cảnh khác, chí ít cũng còn gia đình một vài người quây quần nâng đỡ nhau. Chính sách Phân Tháp tách cá nhân ra khỏi gia đình, phân chia vào những gia đình hoàn toàn xa lạ, bị kiểm soát như một tù nhân, bị đày đọa như một tội đồ khổ sai, mặt còn bị thích 2 chữ Tả Đạo. Trong những hoàn cảnh trên, người tín hữu có thể ở một trong hai trường hợp này:

- Đối với người có đức tin mạnh mẽ, có lòng yêu Chúa thiết tha, quyết một dạ trung thành – thì sẽ tìm mọi cách có thể để giữ đạo và còn làm chứng cho đạo nữa. Có biết bao người đã kiên trì, nhẫn nhục, chịu đựng đau khổ để luôn thể hiện một đời sống thật tốt, thật đẹp đến nỗi những gia đình quản chế họ thay vì khi dể, ghét bỏ, cũng đã dần bình thường đối xử.

- Đối với những người kém lòng đạo, nhếch nhác, khô khan nguội lạnh thì dần dần sẽ quên kinh hạt, quên luôn cả đạo nghĩa và mất luôn cả đức tin. Khổ đau, tủi nhục đã vùi dập họ khiến họ ngã lòng, buông xuôi theo nếp sống dân ngoại, hy vọng được một chút tự do, dễ dãi trong cuộc sống hàng ngày, những người này có khi phải tới giờ lâm tử mới tìm đường ăn năn trở lại.

PHẦN III: PHẢI LÀM GÌ
ĐỂ GIỮ ĐẠO VÀ TRUYỀN ĐẠO?

1. Đừng sợ : Trước hết phải minh định rằng ở bất cứ đâu, bất cứ hoàn cảnh nào, người có đức tin vẫn giữ đạo được và vẫn truyền đạo được. Cứ bám chặt vào Chúa Giêsu thì chẳng phải sợ hãi gì: “Thầy đây, đừng sợ” (Ga 6,20). Chúa Giêsu đã thắng ma quỷ, thế gian, tội lỗi và thần chết. Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa. Ngài luôn ở cùng ta cho đến tận thế (Mt 28,20), ta sợ ai? Tác giả Thánh vịnh nói một cách tự hào:

Chúa là nguồn ánh sáng,

là ơn cứu độ, tôi còn sợ ai?

(Tv 26,1)

Chúa là mục tử chăn dắt tôi,

tôi chẳng thiếu thốn gì …

dù qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn,

vì có Chúa ở cùng.

Côn trượng Ngài bảo vệ Con vững dạ an tâm

(Tv 22, 1-4)

Có Chúa ở cùng tôi, tôi chẳng sợ gì

Hỏi người đời làm chi tôi được

(Tv 117,6)

Trong muôn nỗi khó khăn, nguy hiểm, thủ lãnh Môsê, thủ lãnh Joshua và cả Đức Mẹ Maria đều được trấn an:

Đừng sợ! Vì Ta ở cùng ngươi” (Gs 1,9).

Có một câu chuyện về một cậu bé sáu tuổi, con một thuyền trưởng tàu viễn dương. Trong một hải trình vượt đại dương, thuyền trưởng cho con đi theo, giữa lòng biển khơi dậy sóng, giông tố nổi lên, thủy thủ đoàn được lệnh khẩn cấp vào vị trí ứng phó, mọi người đều lo sợ trước những gì sắp xảy đến, thế mà cậu bé cứ lấy đồ chơi bày ra dưới sàn tàu chơi một mình như chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Ông đầu bếp bế cậu vào một góc phòng, ông hỏi: “Bão tố thế này mà cháu không sợ à?”, “Cháu hổng sợ, bố cháu là thuyền trưởng mà!”. Trong những hoàn cảnh khó khăn như trên, việc đầu tiên người tín hữu cần phải làm là bình tĩnh, không để nỗi sợ hãi đè bẹp mình.

Tất cả những ai gặp Chúa Giêsu, những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người thì được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn” (Tông huấn Niềm Vui Của Tin Mừng của ĐGH Phanxicô ngày 24/11/2013, số 1).

2. Cần một niềm tin : Để không sợ thì phải hoàn toàn tin tưởng, phó thác nơi Chúa là Cha giàu lòng từ bi thương xót, không bao giờ bỏ rơi con cái. Sách Công vụ Tông đồ viết về viên thái giám, làm quan lớn trong triều bà Canđakê, Nữ hoàng nước Êthiop. Ông này làm Tổng quản kho bạc của bà, ông đã lên Giêrusalem hành hương và bấy giờ trên đường về. Ngồi trên xe ông đọc Thánh Kinh nhưng không hiểu, Thánh Thần đã thúc đẩy ông Philipphê theo kịp xe… Sau khi nghe ông Philipphê làm chứng về Chúa Giêsu, nhà quan nói: “Sẵn nước ở đây, có gì ngăn trở tôi chịu phép Rửa không?”. Ông Philipphê đáp: “Nếu ngài tin hết lòng thì được”. Nhà quan nói: “Tôi tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa”. Thế là cả hai xuống nước và ông Philipphê làm phép Rửa cho ông quan. Ông quan về nước trong niềm hoan lạc (Cv 8,26-40).

(Quan thái giám một mình về nước Êthiop với cuốn Thánh Kinh để sống và làm chứng cho niềm tin… lúc này chưa có Tông đồ, môn đệ nào tới đó cả… Êthiop sau này có rất nhiều người theo đạo không biết có phải nhờ ảnh hưởng của niềm tin đầu tiên này không).

Trường hợp tướng quân Naaman, vị tướng của vua xứ Aram bị phong cùi được tiên tri Êlisa chữa lành, ông đã tuyên xưng Chúa của Israel là Chúa Tể độc nhất, ông nguyện thờ phượng suốt đời… Khi về nước, ông đã xin nhà tiên tri một xe đất “Thánh” để về đắp bàn thờ, thờ Chúa, tiên tri Êlisa đã cấp đất cho ông (2V 5,6).

(Naaman về nước đem theo niềm tin vào Thiên Chúa và thể hiện niềm tin đó qua bàn thờ bằng đất lấy từ Israel, một mình ông (và chắc chắn có vợ con ông nữa) đã sống và thể hiện niềm tin trên quê hương của mình là đất nước Aram).

Trường hợp ba nhà đạo sĩ phương Đông đến thờ lạy Chúa Hài Đồng, dâng vàng, nhũ hương và mộc dược, sau đó thì trở về quê quán mình đem theo niềm tin vào Đấng Cứu Thế mà ông cùng với gia đình sống với niềm tin đó và như thế cũng quá đủ để được ơn cứu rỗi.

Chính Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,17).

Mỗi lần Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành bệnh nhân, Ngài thường tuyên bố: “Đức tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22).

3. Thể hiện niềm tin bằng việc cầu nguyện (mọi nơi, mọi lúc đều có thể cầu nguyện):

a. Cầu nguyện – điều trọng nhất: Điều quan trọng nhất cần phải làm để sống tốt đạo đẹp đời đó là cầu nguyện. Bạn đã tin Chúa là Cha toàn năng tạo thành trời đất muôn vật, trong đó có bản thân bạn. Tin thì phải liên hệ, liên lạc, việc đó gọi là cầu nguyện hay là hầu chuyện Chúa: thưa với Chúa bất cứ điều gì mình muốn thổ lộ, đồng thời lắng nghe tiếng Chúa vang lên ngay trong thâm tâm mình – đó là định nghĩa của cầu nguyện.

Lưu ý một điều : Cầu nguyện là một đặc tính của loài người. Sở dĩ loài người có thể tiếp xúc với Chúa vì đã được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, được Chúa chia sẻ cho một phần bản tính của Chúa: Có trí khôn, có ý chí, có tự do, có tình yêu, có lương tâm – nghĩa là có một linh hồn sống động trong một ngôi vị độc lập đối với mọi người và mọi vật khác. Con vật hoàn toàn không có khả năng cầu nguyện: Chỉ vì chúng không có linh hồn.

b. Công dụng của cầu nguyện:

§ Nối kết ta với Chúa, biến khoảng cách rất xa thành cực gần.

Có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người” (Đệ Nhị Luật 4,7).

Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khấn Người” (Tv 144,18).

§ Cho ta chiêm ngưỡng Chúa, hòa nhập với Chúa: Nhiệm hiệp (đỉnh cao của cầu nguyện – Trong lịch sử Giáo hội, nhiều vị Thánh đã xuất thần khi thiền định nguyện cầu).

Ngày đó anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (Ga 14,20).

§ Được thanh tẩy khỏi những ô chược, tham sân si: “Anh em được thanh sạch nhờ Lời Thầy đã nói với anh em” (Ga 15,3) – “Gần đèn thì sáng” (tục ngữ).

§ Gia tăng các nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến) càng cầu nguyện tốt càng mạnh tin, ngược lại càng mạnh tin thì lại càng cảm thấy cần phải hầu chuyện Chúa. Việc cầu nguyện và đức tin ví như thuyền với nước, nước nổi bao nhiêu, thuyền nổi bấy nhiêu, nước rút bao nhiêu, thuyền hạ bấy nhiêu.

§ Đời sống sinh nhiều hoa trái: Nhờ hồi tâm cầu nguyện ta mới biết sửa sai, mới gia tăng những gì còn thiếu: “Thầy là cây nho, anh em là cành, ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

§ Nhận được mọi ơn lành: “Người nhận lời chúng ta khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người. Nếu chúng ta biết rằng Người nhận mọi lời chúng ta xin, thì chúng ta cũng biết rằng chúng ta sẽ nhận được những gì chúng ta đã xin Người” (1Ga 5,14-15).

Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho; vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ thì cửa sẽ mở cho. Có người nào trong anh em khi con mình xin cái bánh mà lại cho nó hòn đá? hoặc nó xin con cá mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,7-11).

4. Hành trang hay bửu bối :

a. Cần một cây Thánh giá: Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận gần 14 năm phải sống cách ly với Giáo phận, với đàn chiên và cả người thân yêu ruột thịt hay bạn bè, không xâu chuỗi, không sách nguyện, không có bất cứ đồ thờ phượng nào. Một hôm ngài nói với anh quản giáo:

- Anh làm ơn cho tôi mượn một con dao nhỏ!

- Không được! Trái quy định – Lỡ bác tự tử tôi phải chịu trách nhiệm.

- Anh yên chí đi, Giám mục không bao giờ tự tử, tin tôi đi, chúng ta là bạn tốt của nhau mà! Tôi chỉ mượn nửa tiếng đồng hồ thôi.

Thương tình, anh ta lấy cho Đức cha một con dao nhíp và dặn:

- Bác phải trả lại tôi trước khi thay ca đó!

- Chắc chắn rồi.

Thế là Đức cha cặm cụi lấy một miếng gỗ, đẽo gọt một cây Thánh giá nhỏ, đơn sơ, mộc mạc nhưng “đẹp” lạ lùng. Đúng giờ ngài trao lại anh ta con dao.

- Đúng hợp đồng nhé! Anh thấy chưa, Đạo Công giáo cấm tự tử mà!

Mấy hôm sau lại tới phiên anh này, ngài lại tỉ tê nài nỉ:

- Giúp nhau một lần nữa nhé!

- Chuyện gì nữa đây hả bác?

- Anh làm ơn cho xin nửa mét dây điện nhỏ, loại một sợi và một cái kìm.

- Không được, lỡ bác treo cổ thì sao?

- Không bao giờ một Giám mục Công giáo mà treo cổ, hơn nữa nửa mét dây nhỏ tí này có muốn treo cũng chẳng được. Chết đâm chết chém gì thì chết chứ không treo cổ đâu.

Nể tình anh lại đáp ứng yêu cầu của Đức cha. Đức cha đã nhanh tay làm một sợi dây chuyền nhỏ bằng khúc dây điện để đeo Thánh giá, giấu kín trong người. Trước giờ thay ca, ngài hân hoan đem trả lại chiếc kìm với lời cám ơn chân thành và nụ cười khả ái.

Thế là Đức cha đã có một cây Thánh giá, món đồ thờ phượng duy nhất trong cuộc lữ hành “đơn thân” giữ đạo và làm chứng cho Đạo mười mấy năm trường. Ban đêm ngài đặt Thánh giá trên một tấm khăn trước mặt, bánh lễ là những mẩu vụn được gửi vào kèm theo những món thực phẩm tiếp tế, rượu lễ trong những bịch nilon nhỏ cột chặt ngâm trong lọ thuốc bóp mầu nâu sẫm lởn vởn những miếng gừng, nghệ,… Thế là với một giọt nước, vài giọt rượu, một mụn bánh, lấy lòng bàn tay làm chén lễ, lời nguyện, sách Thánh, kinh nguyện Thánh Thể đều đã thuộc lòng, ngài cử hành cuộc khổ nạn của Đức Kitô mỗi ngày. Kết hợp cuộc đời của mình với Thánh giá Chúa, nhờ thế mà Đức tin luôn vững vàng, Đức cậy luôn bền bỉ, Đức mến luôn nồng nàn và cuộc sống chan chứa niềm vui khiến những người “quản chế” cũng phải ngạc nhiên.

Còn việc lần hạt thì sao? Thưa rằng đã có đốt ngón tay mà thân mẫu từng dạy từ nhỏ, cứ thế triền miên lần hạt… Cây Thánh giá đơn giản nhưng cần thiết biết bao cho người lữ hành: “Vinh dự của chúng ta là Thập giá Đức Kitô” (Gl 6,14).

Bạn hãy luôn mang theo mình Thánh giá Chúa, hãy treo trên đầu giường, hãy vẽ trên tường nơi bạn ở, để bạn có nguồn an ủi, có sức mạnh và cũng là dấu hiệu cho mọi người biết bạn là Kitô hữu.

b. Một cuốn Thánh Kinh nếu có được thì tuyệt vời, hãy cầu nguyện với cuốn Thánh Kinh này và giữ gìn, bảo quản thật kỹ, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Nếu chẳng may mà không có được thì bạn hãy làm như sau: Lấy một cuốn tập rồi ghi lại đại ý những lời Thánh Kinh mà bạn còn nhớ được. Thí dụ:

- Chuyện Chúa tạo thành trời đất: “Từ ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất”.

- Chuyện Chúa Giêsu xuống thế làm người.

- Những lời Chúa Giêsu dạy về lòng hiếu kính với Chúa Cha: “Chỉ ai làm theo ý Chúa Cha mới được vào Nước Trời”.

- Những lời dạy về lòng thương người, cư xử công bình và bác ái với mọi người: “Của Xêda trả cho Xêda, của Chúa trả cho Chúa”; “Các con hãy yêu thương nhau”; “Hãy tha thứ không phải 7 lần mà 70 lần 7”… Cứ kiên trì nhớ được tới đâu ghi tới đó, giữ kỹ như gia bảo và truyền lại cho thế hệ sau…

c. Một cuốn sách kinh chiều hôm ban mai (nhựt khóa, mục lục). Nếu chẳng may không có được thì cũng hãy làm như trên: Lấy một cuốn tập, ghi lại các kinh mình đã thuộc kẻo có một ngày nào đó mình không còn nhớ được nữa, hoặc rủi ro bệnh tật có nhớ cũng chẳng ghi chép được, thế rồi đời mình qua đi, đời con đời cháu chẳng còn biết gì nữa.

Hai tập ghi chép này rất quan trọng vì nó sẽ trở thành tài liệu cơ bản để truyền đạt giáo lý đức tin cho con cháu và những người muốn tin theo. Nên nhớ rằng các kinh đọc hàng ngày chính là những bài giáo lý, thần học đơn sơ, cô đọng nhất. Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền có lần đã nói với các Linh mục: “Tôi được diễm phúc sang Roma học đủ thứ thần học, nhưng cho tới bây giờ thần học mà tôi nhớ nhất là kinh bổn đồng ấu và các kinh mẹ tôi dạy từ tấm bé”. Hãy dạy cho con cháu bắt đầu từ dấu Thánh giá – tôn vinh Chúa Ba Ngôi, tôn vinh Ngôi Hai xuống thế làm người, tôn vinh Ngôi Hai cứu chuộc. Đó là ba mầu nhiệm chính trong Đạo.

Kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh đều quy về ba mầu nhiệm đó. Kinh Tin, kinh Cậy, kinh Mến… cắt nghĩa từng chữ từng câu toàn là giáo lý, thần học cả đấy!

Kinh Tin kính dạy những điều phải tin, kinh 8 Mối phúc, kinh 10 Điều răn, kinh 5 Điều răn Hội Thánh, kinh 14 Mối thương người, kinh Cải tội 7 mối… đó là toàn bộ những gì phải giữ.

Kinh 7 Bí tích là những gì phải lãnh nhận…

Các kinh khác cũng chứa đựng giáo lý về những gì phải tin, những gì cần xin, cần giữ, cần lãnh nhận… kiên trì thực hành và dạy dỗ những chân lý trên chúng ta sẽ không bao giờ rời xa Thiên Chúa và ơn cứu độ của Người. Sống như thế thì dù chúng ta thiếu thốn Kinh Thánh, sách giáo lý, những bài giảng lễ… nhưng Lời Chúa vẫn tác động đem lại sức sống dồi dào: “Lời Chúa luôn ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng bạn” (Rm 10,8).

d. Đời sống luân lý tức là những gì cần phải giữ, phải thực hành đối với bản thân cũng như đối với tha nhân, có thể tóm gọn trong hai lệnh truyền sau đây:

- “Hãy làm lành, lánh dữ; tìm kiếm bình an và ăn ở thuận hòa” (Tv 33,15).

- “Muốn vào Nước Trời hưởng sự sống đời đời thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,17).

Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho thắc mắc của chàng thanh niên giàu có: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Cứ thành tâm, theo lương tâm mà tuân giữ như trên là đẹp lòng Chúa, chắc chắn Chúa sẽ yêu thương, chúc phúc và dành phần thưởng đời đời cho ta: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha Thầy yêu mến, Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).

5. Đời sống Bí tích tức là những điều cần lãnh nhận thì như thế nào ?

Chúa Giêsu đã quả quyết với Thánh Phaolô: “Ơn của Thầy đủ cho con” (2Cr 12,9). Trong hoàn cảnh không có Linh mục cử hành các Bí tích cho ta tham dự, ta vẫn có thể sống với các ơn Bí tích. Nên nhớ rằng người tín hữu khi chịu phép Rửa tội là được tham gia chức Linh mục của Chúa Giêsu, chức Linh mục này được gọi là Linh mục cộng đồng. Người tín hữu có thể cử hành một vài Bí tích và có thể thông công với các Bí tích khác.

A. Bí tích Rửa tội :

Trong trường hợp khẩn cấp, đặc biệt bất cứ ai cũng có thể cử hành Bí tích Rửa tội, kể cả người ngoại giáo, miễn là có lòng tin và có sự hiểu biết hiệu quả của Bí tích Rửa tội, là tẩy rửa người ta sạch mọi tội lỗi, cho người ta được làm con Chúa, được lên Thiên Đàng, đồng thời biết cách làm đúng như Giáo hội vẫn làm là lấy nước lã đổ trên đầu kẻ lãnh Bí tích Rửa tội và đọc công thức: “Tôi rửa(ông, bà, anh, chị, em), nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Dĩ nhiên với người lớn thì phải có đức tin, có sự hiểu biết giáo lý Công giáo, có lòng sám hối và thành tâm theo Chúa. Còn đối với trẻ nhỏ chưa đến tuổi khôn thì phải bảo đảm sẽ được dạy dỗ đạo lý khi em lớn khôn. Điều quan trọng là phải lấy một tập hay một cuốn sổ ghi đầy đủ chi tiết người chịu phép Rửa tội (Sổ Gia đình Công giáo):

- Tên Thánh

- Tên họ (khai sinh)

- Ngày, tháng, năm sinh

- Tên bố, tên mẹ

- Ngày, tháng Rửa tội, nơi Rửa tội

- Người làm phép Rửa tội

- Người đỡ đầu

Sổ này phải giữ cẩn thận cùng với những tài liệu giáo lý, Thánh Kinh trong gia đình và chuyển giao cho thế hệ sau. Nếu đã có một Cộng đoàn nhỏ thì sao một bản giao cho người đứng đầu Cộng đoàn, người này có trách nhiệm ghi chép sổ Đạo của cả Cộng đoàn và bảo quản kỹ để giao cho Linh mục Quản nhiệm sau này nếu có.

B. Bí tích Thêm sức :

Người tín hữu không thể ban Bí tích Thêm sức, chỉ có Giám mục và các Linh mục được Giáo luật hoặc Giám mục ủy quyền mới được đặt tay ban Bí tích Thêm sức. Nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt này, với thành tâm thiện chí, với lòng sốt sắng cầu xin, chắc chắn chúng ta cũng sẽ nhận được dồi dào ơn Chúa Thánh Thần vì Ngài là “Cha kẻ bần cùng” (Ca Tiếp Liên lễ Chúa Thánh Thần), có ai bần cùng thiêng liêng hơn những tín hữu trong hoàn cảnh này? Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo trợ, Đấng Ủi an. Có ai cần bảo trợ, cần được ủi an hơn những tín hữu này? Do đó khi các em nhỏ tới tuổi khôn (8 tuổi trở lên), cha mẹ dạy cho con cái về Chúa Thánh Thần, là Ngôi thứ ba, quyền năng bằng Chúa Cha và Chúa Con, Ngài ban cho tín hữu bảy ơn thiêng liêng là: ơn Khôn ngoan, ơn Hiểu biết, ơn Biết lo liệu, ơn Sức mạnh, ơn Thông minh, ơn Đạo đức và ơn Kính sợ Đức Chúa Trời.

Trong một buổi cầu nguyện nào đó của gia đình, nếu có các gia đình khác nữa thì càng tốt, trước một bàn thờ đã dọn sẵn, mọi người đọc kinh cầu nguyện, giục lòng ăn năn sám hối… Hát một bài về Chúa Thánh Thần: Cầu xin Chúa Thánh Thần (nếu thuộc). Nếu có thể được, gia trưởng đọc một đoạn Kinh Thánh nói về Chúa Thánh Thần – Thí dụ sách Công vụ 8,14-17, hoặc Cv 2,1-9, hoặc Ga 14,15-21… Nếu không có sách thì người cha kể chuyện Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên Đức Mẹ và các Tông đồ đang khi các ngài cầu nguyện, Chúa Thánh Thần dùng một cơn gió lớn làm rung chuyển nhà các ngài đang hội họp và dùng lưỡi lửa đậu trên đầu các Tông đồ, ban cho các ông bảy ơn của Ngài và cho các ông nói được nhiều thứ tiếng lạ, người các nước nói tiếng khác nhau khi nghe các Tông đồ giảng đều hiểu như nghe tiếng mẹ đẻ vậy.

Tiếp theo em bé được mời quỳ lên, cha mẹ và các bậc phụ huynh có mặt nghiêm trang đặt tay lên đầu em bé và nói: “Xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên con”. Sau đó đọc kinh Cám ơn và kết thúc buổi cầu nguyện. Bữa ăn hôm ấy nên có món gì đặc biệt để “mừng Chúa Thánh Thần”. Thành tâm thực hành như vậy, làm sao mà Chúa Thánh Thần lại có thể làm ngơ, không ban ân huệ dồi dào cho con cái Ngài! Chúa Giêsu đã dạy: “Nếu các ngươi vốn là kẻ xấu còn biết cho con cái mình của tốt lành, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11,13).

C. Bí tích Thánh Thể :

Vắng bóng Linh mục thì không thể có Thánh lễ, cũng không thể có Bí tích Thánh Thể, nhưng đối với người có lòng tin thì không bao giờ thiếu Chúa, vì Chúa Giêsu đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Thầy không để anh em mồ côi… Ngày đó anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em …” (Ga 14,18-20).

Có một câu chuyện rất cảm động về giấc mơ của một người bạn trẻ đang sống trong đau khổ, thất vọng. Giấc mơ đó như sau: Một hôm anh gặp Đức Giêsu trên bãi biển, hai người vừa đi vừa nói chuyện rất vui, nhìn lại phía sau anh thấy bốn lốt chân song song trên cát, rồi tới một lúc anh chỉ còn thấy hai vết chân thôi, lúc ngồi nghỉ anh mới hỏi Chúa: “Tại sao có quãng đường chỉ có hai vết chân?”, Chúa mới trả lời: “Vì lúc đó Ta bồng con trên tay”. Anh hiểu ra rằng lúc nào Chúa cũng ở bên anh. Những lúc anh gặp thử thách gian nan, tưởng chừng như Chúa vắng mặt, lại là lúc anh được Chúa bồng trên tay. Suy nghĩ đó làm anh cam đảm hơn chấp nhận cuộc sống.

Trong cảnh thiếu thốn, ngặt nghèo về phần linh hồn này, người tín hữu phải làm gì đây?

a. Chúng ta không có Thánh Thể nhưng chúng ta có Lời Chúa. Hiến chế Lời Chúa của Công Đồng Vaticanô 2 đã xác định: “Lời Chúa phải được tôn thờ ngang với Mình Máu Chúa”.

Hãy làm một bàn thờ đơn sơ tùy hoàn cảnh cho phép, có hoa, đèn… Đặt cuốn Kinh Thánh trên đó để tôn thờ, mỗi lần đi ngang qua hãy cúi chào như tôn thờ Mình Thánh Chúa. Nếu không có Kinh Thánh thì hãy lấy một cuốn sổ thật đẹp, chép một số câu Kinh Thánh mình nhớ được, nhờ những người viết chữ thật đẹp viết, rồi đặt trên bàn thờ thay Kinh Thánh.

b. Rước lễ thiêng liêng: Nên nhớ rằng với lòng tin vững vàng, lòng cậy bền đỗ, lòng mến thiết tha, lòng ăn năn sám hối sâu thẳm và lòng ước ao cháy bỏng, khi Rước lễ thiêng liêng (tha thiết xin Chúa ngự vào linh hồn mình vì không có Thánh Thể), người tín hữu nhận được hiệu quả như Rước lễ thật vậy. Đây là kiểu Rước lễ “Duy hiệu” khác và đối lập với kiểu Rước lễ “Duy tích” (nghĩa là lên Rước lễ mà không có lòng tin, thiếu những điều kiện chuẩn bị cần phải có). [Duy tích, Duy hiệu quả, Bí tích và Hiệu quả là những kiểu nói chuyên môn của khoa thần học]

Lưu ý một điểm : Rước lễ thật sự thì một ngày tối đa được hai lần mà thôi. Trừ trường hợp thêm Rước lễ như của ăn đàng. Còn Rước lễ thiêng liêng thì càng nhiều càng tốt, không hạn chế. Do đó mỗi lần đọc kinh cầu nguyện chung hay riêng, hãy dạy cho nhau cách Rước lễ thiêng liêng để bảo đảm linh hồn chúng ta luôn được “sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

c. Thánh lễ hàm thụ: Buổi cầu nguyện chung trong gia đình hay cộng đoàn nhỏ vài gia đình sum họp có thể biến thành Thánh lễ hàm thụ, đặc biệt vào ngày Chúa nhật. Thực hành như sau:

- Khâu chuẩn bị: Nơi chốn sạch sẽ, thoáng mát, trang trí đẹp, đủ ghế cho người tham dự, đón tiếp nồng ấm…

- Khởi đầu: Người hướng dẫn nói đôi lời chào đón mọi người rồi làm dấu, hát một bài quen thuộc (nếu có thể), đọc kinh, lần hạt, sau đó đọc kinh Ăn năn tội (sám hối), hát kinh Thương xót hoặc đọc (nếu thuộc).

- Người hướng dẫn dâng một lời cầu nguyện tự phát phù hợp hoàn cảnh.

- Đọc Lời Chúa: Một đoạn Kinh Thánh (nếu có sách), một câu Kinh Thánh (nếu không có sách).

- Mọi người im lặng suy gẫm câu Kinh Thánh.

- Người hướng dẫn chia sẻ ý nghĩa và kinh nghiệm sống câu Lời Chúa đó, những người khác được mời chia sẻ kinh nghiệm của mình…

- Đọc kinh Tin Kính (tuyên xưng đức tin).

- Dâng lời nguyện chung (viết sẵn 3 lời nguyện ngắn hợp hoàn cảnh hiện tại, trao cho 3 người đọc, sau mỗi lời nguyện mọi người đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con).

- Người hướng dẫn kể lại việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể (nếu có Tin Mừng thì đọc: Mt 26,26-30; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25).

- Kinh Chiên Thiên Chúa (nếu thuộc).

- Rước lễ thiêng liêng (người hướng dẫn gợi ý cho mọi người ước ao rước Chúa, rồi im lặng, suy nghĩ, tạ ơn riêng).

- Hát một bài về Thánh Thể như: “Ta là bánh hằng sống”, hay “Đây lòng Chúa ái tuất” nếu thuộc, hoặc được chép ra sẵn ít bản…

- Kinh Trông Cậy và ba câu lạy.

- Kết thúc buổi “Lễ hàm thụ” bằng những ly nước lã, nước trà hoặc kẹo bánh, trái cây… với những trao đổi thân tình trước khi chia tay, hẹn kỳ tới gặp lại.

Kiên trì thực hành như trên sẽ chẳng bao giờ mất đức tin được.

Người viết mới được đọc câu chuyện về một nhà nghiên cứu khoa học công tác tại một vùng gần bắc cực. Lần đó vào dịp lễ Giáng Sinh, một cộng tác viên người địa phương biết ông là Công giáo nên mời về nhà mừng Giáng Sinh. Trước khi dự tiệc vui, chúc nhau Giáng Sinh và năm mới hạnh phúc, chủ nhà mời mọi người dự buổi cầu nguyện và mời mọi người lần lượt cầu nguyện. Sau cùng chủ nhà kéo hộc bàn lấy ra một chiếc khăn trắng nhưng đã ố vàng nhiều chỗ, ông trịnh trọng trải lên bàn và tuyên bố: “Đây là một khăn thánh trải trên bàn thờ để đặt bánh và rượu lên, rồi vị Linh mục đọc lời truyền phép làm cho bánh rượu trở thành Mình Máu Thánh Chúa. Đúng 50 năm trước đây tôi đã dự Thánh lễ và giúp lễ cuối cùng này trước khi bị phân tán và lưu lạc lên đây, tôi đã mang theo khăn này trong mình và hàng năm cứ lễ Giáng Sinh lại lấy ra chiêm bái để tưởng nhớ về Thánh lễ Linh mục cử hành”. Nhà nghiên cứu xúc động và thật sự cảm thấy thèm khát dự một Thánh lễ và được rước lễ vì chính bản thân ông tuy là Công giáo nhưng cũng khá lâu rồi không tới Nhà thờ dự lễ. Buổi cầu nguyện đã làm sống lại niềm tin nơi ông.

Người viết cũng được nghe về lòng tin của những tín hữu Tiệp Khắc trong thời kỳ vô cùng khó khăn, các Linh mục bị quản chế. Giáo dân vùng sâu vùng xa vắng bóng chủ chiên trong thời gian dài, hàng tuần một số tín hữu kiên trì dù phải lao động cật lực, vất vả cũng cố dành thời gian tập trung tại Nhà thờ đọc kinh cầu nguyện, họ đã lấy chiếc áo Các phép cũ của cha sở và chiếc dây Các phép (Stola) trải trên bàn thờ để cùng nhau chiêm ngắm mà tưởng nhớ tới Thánh lễ Linh mục vẫn dâng với họ thuở nào và họ khát khao biết bao được rước Mình và Máu Thánh Chúa! Nhờ những buổi cầu nguyện như thế mà niềm tin vẫn được duy trì và củng cố tại quê hương Tiệp Khắc cho tới nay.

Những buổi cầu nguyện chung với lòng khao khát cháy bỏng của ăn trường sinh là Bánh hằng sống, người viết mạn phép gọi là những Thánh lễ “hàm thụ”.

Nếu có được các phương tiện truyền thông như TV hoặc Radio thì việc tham dự Thánh lễ từ xa qua TV hay Radio là điều cần thiết và rất hữu ích, người tín hữu không thể bỏ qua.

D. Bí tích Giải tội :

Vắng bóng Linh mục thì cũng không có Bí tích Giải tội, nhưng người tín hữu không bao giờ thất vọng bởi vì “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta nên dù chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2,4-6), nên chúng ta cũng không lo thiếu ơn tha thứ miễn là chúng ta thật lòng sám hối và khao khát ơn Hòa giải.

Một anh trộm cướp bị kết án tử hình, phải đóng đinh trên Thập giá bên cạnh Chúa Giêsu. Anh đã thật lòng ăn năn sám hối khi tự thú nhận: “Chúng ta phải chịu như thế này là đích đáng xứng với việc chúng ta làm, còn ông này có làm chi nên tội?”, rồi anh đặt trọn niềm tin và cậy trông nơi Đức Giêsu: “Thưa ông! Khi nào về Nước của ông, xin ông nhớ đến con”. Đức Giêsu thấu suốt cõi lòng anh nên đã tha thứ tất cả tội lỗi và hình phạt cho anh khi tuyên bố: “Tôi bảo thật anh, ngay hôm nay anh sẽ ở trên Thiên Đàng với tôi” (Lc 23,39-44).

Trong thực tế mỗi người hãy luôn xét mình, kiểm tra cuộc sống mỗi tối trước khi đi ngủ và nhất là ngay sau những lần chúng ta yếu đuối, sa ngã, phạm tội nặng và cả những tội nhẹ chủ ý. Hãy hồi tâm đặt mình trước Nhan Chúa và thật lòng hối lỗi, ăn năn, tha thiết nài xin Chúa giàu lòng thương xót tha thứ cho chúng ta. Phần chúng ta cần phải rút kinh nghiệm, chấn chỉnh, sửa chữa. Hãy đọc những kinh sám hối: Kinh Ăn năn tội, kinh Cáo mình, kinh Vực sâu, hãy hát những bài sám hối nếu thuộc như bài: Con nay trở về, Lạy Chúa đoái thương nghe tiếng con phàn nàn… Hãy đọc kinh, cầu nguyện, đọc Phúc Âm, làm việc lành để đền tội. Hãy làm và dạy con cháu cùng những người khác làm như vậy, không lẽ Chúa là Cha nhân hậu lại hẹp hòi chấp nhất đến độ không tha thứ cho chúng ta! “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu tình thương, Chúa nhân ái đối với mọi người” (Tv 144,8-9).

E. Bí tích Xức dầu Bệnh nhân :

Không có Linh mục thì cũng không có Bí tích Xức dầu Bệnh nhân, nhưng chúng ta luôn có Chúa Thánh Thần là Đấng An Ủi luôn đồng hành với con cái Người. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để xin ơn đức tin vững vàng, lòng cậy trông tuyệt đối nơi tình thương của Chúa và lòng phó thác trọn vẹn trong tay Chúa. Hãy nhớ lại những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu, từ nhà Tiệc Ly cho đến núi Calve, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha liên tục, chúng ta hãy bắt chước Chúa. Để thêm niềm hy vọng, bạn hãy nhớ tới biến cố Chúa sống lại vinh quang và đã lên Trời trước mặt các Tông đồ.

Những việc cần phải làm khi lâm bệnh hay nguy tử:

- Thật bình tĩnh, bám chặt lấy Chúa, không hoảng sợ trước cái chết như một biến cố nhất định chắc chắn sẽ đến với tất cả mọi người không trừ một ai.

- Sắp xếp cho ổn thỏa mọi sự ở đời này: công việc, di chúc nhất là vấn đề nợ nần, vướng mắc.

- Luôn cầu xin và thực hành việc sám hối triệt để (xem phần Bí tích Giải tội).

- Nếu Chúa không để cho chúng ta trong cảnh “đơn thương độc mã”, một mình một cõi thì vấn đề khẩn thiết là có một vài người thân yêu bên mình. Sự có mặt của họ là một nguồn an ủi lớn lao cho người sắp ly trần. Nếu chẳng có người ruột thịt, chẳng có người đồng đạo thì những bạn bè ngoài Công giáo cũng rất cần. Đừng ngần ngại báo cho người thân hay bạn bè biết.

Đây lại đặt ra vấn đề là lúc ta còn khỏe mạnh, còn sức lao động làm ăn, hãy giao thiệp tốt với mọi người, hãy mau mắn giúp đỡ mọi người cách vô vị lợi thì khi đến lượt mình, họ cũng sẽ không bỏ rơi ta. Dĩ nhiên đây không phải là vấn đề lạm dụng lòng tốt của họ về phương diện vật chất, mà chủ yếu là sự hỗ trợ về tinh thần.

Hãy cầu nguyện tha thiết (nếu chẳng nói được thì đọc thầm trong lòng):

- Con phó linh hồn trong tay Cha.

- Con phó linh hồn trong tay Cha.

- Con khát khao được lãnh nhận các Bí tích sau cùng.

- Con phó linh hồn trong tay Cha.

- Xin tha thứ mọi lỗi lầm và đón nhận linh hồn con, lạy Cha giàu lòng thương xót và tha thứ.

Vấn đề hậu sự nếu là người đồng đạo nào bên cạnh, chúng ta hãy lo an táng anh chị em ta theo nghi thức Công giáo đơn giản nhất, và cắm cho họ cây Thánh giá trên mộ phần.

Mỗi người Công giáo hãy tự chuẩn bị như trên và hãy giúp những người khác theo hướng dẫn ở trên.

F. Bí tích hôn phối :

Thông thường thì phải làm thủ tục theo Giáo luật và phải có thừa tác viên chứng hôn cùng hai nhân chứng. Nhưng hoàn cảnh đặc biệt không có thừa tác viên hướng dẫn và chứng hôn, Giáo luật cũng đã dự trù.

Giáo luật Điều 1116 – Hình thức bất thường: Các cuộc hôn phối không Linh mục: Nếu không thể có hoặc không thể tới được một trong các vị có thẩm quyền chứng hôn mà không sinh bất tiện lớn thì những người thực sự muốn kết hôn có thể kết hôn cách thành hiệu và hợp pháp trước mặt hai nhân chứng thôi:

- Khi có nguy tử.

- Ngoài trường hợp nguy tử, nhưng tiên đoán dự trù cách khôn ngoan rằng tình trạng khó khăn sẽ kéo dài một tháng.

Trong cả hai trường hợp trên đây nếu có một Linh mục hoặc một Phó tế (không có ủy quyền cần thiết) có thể hiện diện thì phải mời các vị ấy tới chứng kiến việc cử hành hôn phối cùng với các chứng nhân, mặc dù hôn phối vẫn thành hiệu chỉ nguyên trước mặt các chứng nhân thôi.

Sự hiện diện của Linh mục (hay Phó tế) như thế vẫn luôn luôn hữu ích cho việc chuẩn bị tinh thần của những người kết hôn; hơn nữa trong trường hợp nguy tử, chiếu theo các quyết định của điều 1079, thừa tác viên thánh có thể chuẩn miễn các ngăn trở nếu có, và chuẩn luôn việc giữ hình thức của giáo luật, nghĩa là sự hiện diện của một hoặc thậm chí hai chứng nhân… và chuẩn miễn luôn sự hiện diện của mình vì sẽ sinh cớ cho ngài bị tòa án truy nã !

Công tác chuẩn bị cho đôi tân hôn:

1. Phải dạy cho biết những điều căn bản về hôn nhân tự nhiên và Công giáo.

- Mục đích: Lấy nhau để yêu thương giúp đỡ nhau phần hồn phần xác.

- Sinh sản và dạy dỗ con cái theo luật Chúa (quyền lợi và nghĩa vụ vợ chồng – vấn đề tình dục trong đời sống vợ chồng theo luật tự nhiên là điều tốt đẹp, không phải tội lỗi).

- Đặc tính: Đơn hôn (một vợ một chồng), vĩnh viễn (không ly dị, không rẫy bỏ nhau) cho đến khi một trong hai mất đi.

- Phải chắc chắn có sự tự do, tự nguyện, không có gì ép buộc.

- Không mắc ngăn trở:

a. Nữ tuổi đúng 18 trở lên. Nam tuổi đúng 20 trở lên.

b. Họ hàng: Họ máu hàng ngang: Cấm kết hôn trong vòng bốn cấp, nghĩa là con chú con bác, con cô con cậu, con bá con dì… không được kết hôn. Tới đời cháu chú cháu bác… thì được kết hôn (trường hợp con chú con bác… lấy cháu chú cháu bác thì được phép, vì sang cấp năm rồi).

Lưu ý luật dân sự cấm kết hôn trong vòng ba đời, nghĩa là tới hàng cháu chú cháu bác vẫn bị cấm.

Cách tính: Nếu ông bà nội ngoại của đôi trai gái mà là anh chị em ruột với nhau thì họ vẫn còn bị cấm kết hôn theo luật đời.

Họ máu hay họ do kết hôn trực hệ, nghĩa là ông bà tới con, cháu, chắt… thì cấm tuyệt đối (ông bà không thể lấy chắt nội ngoại của mình).

c. Ngăn trở Chức thánh và lời khấn trọng thể: Cấm kết hôn trừ phép đặc biệt của Đấng bản quyền.

d. Ngăn trở tội ác, nghĩa là một trong hai hoặc cả hai người âm mưu cố ý giết vợ hay chồng mình hoặc vợ hay chồng của người kia để rồi cưới nhau.

e. Ngăn trở kết hôn do một trong hai hoặc cả hai đã có vợ, có chồng hợp pháp đạo đời mà họ đều còn sống thì hôn nhân sau không thành (trừ trường hợp một người Công giáo lấy người bên lương chỉ có phép đời, không có phép đạo, bây giờ ly dị và tái hôn với một người không bị ngăn trở thì được phép vì hôn phối trước là vô hiệu).

f. Ngăn trở khác đạo: Một người đã được Rửa tội không thể kết hôn thành sự với một người chưa Rửa tội (trừ ra có phép chuẩn của Đấng bản quyền). Gặp hoàn cảnh khó khăn không thể liên lạc được với Đấng bản quyền, cũng không thể có Linh mục hay Phó tế nào ghé qua được thì chỉ còn cách động viên người bên lương đón nhận niềm tin Công giáo, dạy những điều cần kíp rồi Rửa tội cho họ, sau đó mới cử hành Lễ kết hôn.

g. Ngăn trở do bất lực, nghĩa là một trong hai người hay cả hai người không có khả năng giao hợp được. Nếu bất lực này có trước khi kết hôn không thể chữa được (vĩnh viễn) và tuyệt đối thì hôn phối sẽ vô hiệu (tình trạng son sẻ do một hay cả hai bên dẫn tới việc không thể sinh con thì không phải ngăn trở bất lực).

h. Ngăn trở dưỡng hệ: con nuôi hợp pháp (có chính quyền chứng thực) không thể kết hôn với cha mẹ hay anh chị em con của cha mẹ nuôi.

Trên đây là những ngăn trở chính làm cho hôn nhân ra vô hiệu, cần phải xem xét kỹ trước khi kết hôn.

2. Phần thực hành: Trường hợp không thể liên lạc với chủ chăn thời gian kéo dài nhiều năm, thậm chí nhiều chục năm do chiến tranh loạn lạc, cấm cách, lưu đày hoặc ở những nơi thật xa xôi cách trở như hải đảo, trong thâm sơn cùng cốc, chẳng biết mình thuộc quyền cai quản của chủ chăn nào… Nếu phải giải quyết vấn đề hôn nhân thì sau khi chuẩn bị như đã trình bày ở trên, cha mẹ hay một giáo dân có uy tín nào đó, nếu không có thì chính đôi bạn mời hai người làm chứng tới (chứng nhân phải trên 18 tuổi, rửa tội rồi hay chưa rửa tội cũng được):

- Dọn một bàn thờ đơn giản nếu được.

- Mọi người cùng đọc kinh cầu nguyện.

- Đôi tân hôn giục lòng ăn năn tội.

Sau đó nắm tay nhau trước mặt hai nhân chứng, thề hứa tự nguyện nhận nhau làm vợ, làm chồng; hứa giữ lòng chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau ốm, để yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời (có thể viết ra rồi cầm mà đọc).

Sau đó nếu có nhẫn thì xỏ cho nhau, nếu không có thì thôi. Mọi người chúc mừng đôi tân hôn và cùng đọc kinh cầu nguyện cám ơn Chúa rồi ra dự tiệc (nếu có tổ chức).

Lưu ý quan trọng: Cần ghi vào sổ Gia đình Công giáo:

- Ngày thành hôn.

- Chồng: Tên thánh, họ tên, ngày và năm sinh, nơi sinh, rửa tội ngày, tên cha, tên mẹ.

- Vợ: Tên thánh, họ tên, ngày và năm sinh, nơi sinh, rửa tội ngày, tên cha, tên mẹ.

- Hai người làm chứng: tên thánh, họ và tên.

- Chủ hôn (nếu có).

Tất cả đều ký và viết tên (sổ này lưu giữ kỹ trong gia đình, con cái sinh ra trong vòng một tháng thì kiếm người đỡ đầu và rửa tội cho nó, cũng ghi ngày rửa tội, lý lịch đứa con và tên người đỡ đầu… Khi nào liên lạc được với chủ chăn thì nộp sổ cho ngài để ghi vào sổ bộ của Giáo xứ).

Tín hữu nào cũng làm như thế,
gia đình nào cũng làm như vậy.


PHẦN IV: HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ TRUYỀN GIÁO

Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; dạy họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho các con” (Mt 28,19-20).

Người tín hữu bất cứ ở đâu và trong hoàn cảnh nào, cũng phải chu toàn hai bổn phận chính là: Sống niềm tin và chia sẻ hay làm chứng cho niềm tin.

Sống niềm tin nghĩa là nên Thánh, là tuân giữ lời Chúa một cách cặn kẽ.

Chia sẻ hay làm chứng niềm tin có nghĩa là làm việc Tông đồ truyền giáo. Nguyên sự có mặt của một tín hữu tốt đã là một công tác truyền giáo, vì thế người tín hữu nên có mặt ở nhiều nơi, nhiều tổ chức, đoàn thể lành mạnh, dĩ nhiên phải hy sinh thời giờ, công sức, có khi cả tiền bạc đóng góp với mọi người, nhưng chúng ta ý thức đó là công tác Tông đồ.

Người tín hữu làm quen với mọi người, sống thật tốt với mọi người, chan hòa với mọi người, nhất là hàng xóm, láng giềng. Chúng ta vui vẻ chào hỏi mỗi khi gặp nhau, năng thăm viếng gia đình họ, sẵn sàng giúp đỡ họ khi có việc này việc nọ, nhất là việc hiếu hỉ. Cụ thể sống bác ái bằng việc xả thân phục vụ, nhất định thành công sẽ đến – “Thêm bạn bớt thù” là châm ngôn của đời ta.

§ Cố Linh mục Antôn Nguyễn Hữu Văn, Cha sở Nhà thờ Thánh Phaolô, đường Trần Hưng Đạo, Cần Thơ, một nhà truyền giáo nhiệt thành, có kể câu chuyện sau đây:

Khoảng năm 1976-1977, phong trào dân thành thị miền Nam ào ào đi kinh tế mới, nhất là những gia đình có người đi học tập… Tại một xóm nhà lá lụp xụp ngoại ô thành phố Cần Thơ, một hôm có một gia đình hai vợ chồng và hai đứa con mua được một căn nhà nhỏ và dọn về ở. Ban đầu còn lạ lẫm, xa cách nhưng “trước lạ sau quen”, anh chị mạnh dạn đến thăm chào hàng xóm láng giềng, vui vẻ chào hỏi, chuyện trò với mọi người và bà con cảm thấy từ ngày anh chị này về chung sống, xóm làng vui vẻ hơn. Bà con cũng ghé thăm gia đình anh chị, anh chị tiếp đón niềm nở và họ ngạc nhiên vì biết được gia đình anh chị theo đạo Chúa. Họ khen anh chị hiền lành, vui vẻ, các con anh chị ngoan ngoãn lễ phép, không lêu lổng như một số trẻ con trong xóm. Họ còn ngạc nhiên hơn khi thấy anh chị và con cái mỗi tối khoảng bảy giờ, thắp đèn bàn thờ rồi cả nhà ngồi trên tấm chiếu cầu kinh. Mỗi Chúa nhật anh chị cho hai con mặc đồ tươm tất rồi khóa cửa gửi hàng xóm đi đâu đó, khoảng hai giờ sau lại dắt nhau về. Họ đánh bạo hỏi anh chị thì được anh chị cho biết anh chị dẫn các cháu đi dự Lễ Chúa nhật để thờ phượng Đức Chúa Trời, vì anh chị là người Công giáo. Giữa xóm lao động bình dân, anh chị đã âm thầm cho mọi người xung quanh thấy anh chị là những người hiền lành, tử tế, con cái anh chị ngoan ngoãn không ai cần phải đề phòng điều gì. Dù còn nghèo, làm ăn vất vả nhưng hạnh phúc của gia đình anh chị như hiện hình trước mặt mọi người.

Một buổi tối kia trời mưa lất phất (khoảng 19 giờ), một thiếu nữ tới gặp cha Văn xin theo đạo, cha tiếp đãi ân cần và xin chị cho biết công ăn việc làm và lý do xin theo đạo. Chị ta kể rằng chị đang làm phát thanh viên ở Đài phát thanh Cần Thơ, chị ở cùng xóm với gia đình Công giáo kia. Chị thấy gia đình này hiền lành, thân thương với bà con và thật là hạnh phúc, chị hiểu ra chính đạo Công giáo đã rèn luyện anh chị như vậy, do đó chị muốn tìm hiểu đạo như thế nào…

Tục ngữ có câu “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, gia đình Công giáo này đã sống và làm chứng cho niềm tin bằng lời nói và nhất là bằng gương sáng của một gia đình Công giáo sống Phúc Âm chân thành, cho dù về mặt đức tin họ sống đơn độc giữa những người các tôn giáo bạn hoặc không tôn giáo.

§ Câu chuyện thứ hai chính Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn kể trong bài giảng Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Nhà thờ B'Đơ tại Bảo Lộc cách nay 7, 8 năm. Người viết có mặt và đồng tế trong Lễ đó.

B'Đơ là một làng dân tộc K'Ho, vị trí từ cầu Đại Nga trên đường lên Đalat, rẽ trái khoảng 10km trong rừng sâu. Năm 1962, cha già cố Laurensô Hóa (cha Hóa Thượng) lóc cóc đạp xe theo đường mòn từ Bảo Lộc vào tận B'Đơ truyền giáo và ngài đã rửa tội được một người đầu tiên ở đây. Thế rồi cuộc chiến kéo dài, B'Đơ thuộc vùng bất ổn, cha già cố Hóa cũng không vào được. Bẵng đi một thời gian khá dài tới thập niên 80-90 thế kỷ XX, dân K'Ho quy tụ về khá đông, một cộng đồng Công giáo hình thành và dần dần lớn mạnh, các chủ chăn ở Bảo Lộc tới nâng đỡ tổ chức củng cố cộng đoàn, liên hệ đất làm Nhà nguyện, có các sinh hoạt tôn giáo. Khoảng năm 2010 thì Nhà thờ B'Đơ được khánh thành, Nhà thờ khá lớn trang trí theo văn hóa K'Ho khá đẹp, và B'Đơ đã được nâng lên hàng Giáo xứ với khoảng gần 2.000 dân Công giáo. Người viết rất vui và lấy làm lạ khi thấy ca đoàn khoảng 60 thanh niên nam nữ tập hát để chuẩn bị lễ đặt viên đá đầu tiên, họ để xe ở sân Nhà thờ gần đường lớn trong làng, cách chỗ tập hát khoảng 100m, không có người coi xe, xe đạp, xe Honda khá nhiều, mà hầu như không khóa, thế mà không xảy ra vụ trộm cắp nào, hỏi thăm bà con dân tộc thì được biết dân làng thật thà chẳng ai lấy của ai, ngày Chúa nhật nhà nhà đi dự Lễ, cửa cũng chẳng khóa nữa! Nghe nói về mặt đạo cũng như đời, B'Đơ là một làng dân tộc kiểu mẫu – Tạ ơn Chúa! Chúng ta nhớ lại lời Chúa Giêsu: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy là loài nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên thì lại là thứ lớn nhất, nó trở thành cây đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được” (Mt 13,31-33).

§ Câu chuyện thứ ba: Hạt giống đức tin trên đảo Phú Quý.

Đảo Phú Quý thuộc tỉnh Bình Thuận, cách đất liền 57 hải lý (106km), tàu chạy hết 5 giờ, đảo có diện tích 16km2. Từ năm 1844 đảo đã trở thành nơi hội tụ nhiều luồng dân di cư từ đất liền ra làm ăn với đủ thành phần và sắc tộc, đông nhất là người Kinh. Năm 1971, người Công giáo đầu tiên đặt chân tới đảo là bà Nguyễn Thị Hường (thường gọi là bà Long), quê ở Đồng Hới. Chồng bà là dân gốc đảo, kết hôn với bà và gia nhập đạo Công giáo, đưa bà về đảo sinh sống. Tuy nhiên, đạo Công giáo chỉ mới phát triển trên đảo này từ năm 1990, khi cô giáo Anna Nguyễn Thị Lý tình nguyện ra đảo dạy học, mang theo gia đình. Là một cựu tu sinh của Dòng MTG Quy Nhơn, cô đã gây dựng và liên kết cộng đoàn vốn rất ít ỏi anh chị em Công giáo trên đảo để nâng đỡ đức tin cho nhau trong hoàn cảnh không có Linh mục coi sóc. Cô tìm gặp những người đồng đạo khác như ông Nguyên, ông Rô, bà Long, ông Kính... tạo nên cộng đoàn nhỏ bé vài chục người, cố gắng duy trì, tụ họp nhau mừng các ngày lễ lớn Công giáo. Đức cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi, Giám mục Giáo phận Phan Thiết lúc bấy giờ cũng luôn canh cánh với đứa con nhỏ ở xa. Ngài quan tâm theo dõi và liên lạc với cộng đoàn Phú Quý qua cô Lý. Trên mảnh đất do gia đình cô Lý hiến tặng Giáo phận, Đức cha Nicôla đã cho người ra xem xét và xây cất một ngôi nhà (khánh thành năm 2000) dành cho việc sinh hoạt của cộng đoàn và giao cho cô Lý coi sóc. Từ đây, mỗi Chúa nhật, bà con giáo dân quy tụ về để cùng nhau đọc kinh và suy tôn Lời Chúa. Vì hoàn cảnh không có Linh mục, cô Lý đã đem hết vốn sống và kiến thức từ những năm tháng học tập trong dòng ra để hướng dẫn Giáo lý và Đức tin cho anh chị em mình. Rồi khi có điều kiện, cô lại đưa họ về Tòa Giám mục để lãnh các Bí tích. Là một nhóm giáo dân nhỏ, lại không có Linh mục hướng dẫn tâm linh, nhưng cộng đoàn có một sức sống và niềm tin mạnh mẽ, trong tinh thần chia sẻ, nâng đỡ, bao bọc với tha nhân xung quanh. Mãi đến năm 2007, bà con mới có Thánh lễ Phục Sinh đầu tiên trên đảo do cha Anrê Lương Vĩnh Phú dâng. Năm 2009, cha Phêrô Nguyễn Đình Sáng, Quản lý TGM Phan Thiết, được Đức cha Giuse trao nhiệm vụ thay Tòa Giám mục chăm lo cộng đoàn Phú Quý. Ngài đã phải bôn ba để xin đất xây dựng Nhà thờ. Năm 2011, chính quyền cấp cho giáo họ gần 2.000m2 đất xây dựng Nhà thờ. Có đất rồi, Cha Sáng lại tiếp tục gởi thư ngỏ đến các Giáo xứ trên cả Giáo phận Phan Thiết và đi gõ cửa nhiều nơi để xin kinh phí xây dựng Nhà thờ. Ngày 2/5/2012, Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Nhà thờ đảo Phú Quý. Tháng 03/2013, khi công trình Nhà thờ đã gần hoàn tất, Đức Giám mục cử cha Giuse Nguyễn Thanh Cảnh ra quản nhiệm giáo họ cho đến hôm nay.

Hơn 20 năm kể từ ngày cộng đoàn Phú Quý nhen nhúm thành lập với vài gia đình, toàn đảo hiện nay có 50 hộ Công giáo với 166 anh chị em giáo dân trên tổng số dân trên đảo là 26 ngàn, trải rộng trong ba xã Tam Thanh, Ngũ Phụng và Long Hải. Cụ Nguyên, người cao tuổi nhất trong cộng đoàn Phú Quý nghẹn ngào nói rằng cụ đã mãn nguyện vì trước khi nhắm mắt có thể an tâm về đạo nghĩa của con cháu. Với tổng cộng 25 người con cháu, gia đình của cụ chiếm 1/6 tổng số giáo dân trên đảo. Ông John Võ, một Việt kiều Mỹ gốc đảo, chia sẻ: “37 năm ở xa nhưng lúc nào lòng tôi cũng đau đáu hướng về Phú Quý. Khi biết chính quyền cho phép xây Nhà thờ, gia đình tôi và bạn hữu đã cố gắng dành dụm nhiều hơn để gởi về góp gạch góp đá xây Thánh Đường cho con cháu. Hôm nay nhìn thấy Nhà thờ đẹp đẽ khang trang mà tôi vui mừng muốn khóc”. Cô Anna Nguyễn Thị Lý, người có công quy tụ và gầy dựng cộng đoàn Công giáo trên đảo Phú Quý thuở ban đầu, bộc bạch: “Điều ước muốn lớn lao nhất trong đời tôi là được có một mục tử đến ở giữa đàn chiên trên đảo này. Giờ đây điều đó đã thành hiện thực, tất cả là hồng ân của Thiên Chúa”. Còn vị đại diện chính quyền địa phương thì nhận xét ở một góc độ khác: “Nhà thờ Công giáo hiện diện trên đảo sẽ góp phần tích cực vào việc phát triển, đáp ứng các nhu cầu và hoạt động xã hội, văn hóa, tinh thần cho người dân trên đảo, cũng như cho khách du lịch và các thuyền nhân ghé lại cảng liên hệ làm ăn, mua bán”. Có thể nói, Giáo đoàn nhỏ bé này đang làm men, làm muối của Tin Mừng giữa 26 ngàn cư dân trên đảo. (Hồng Hương, bài “Nhà thờ Công giáo đầu tiên trên đảo Phú Quý”, tuần báo CG&DT số 1906, ngày 10-16/5/2013, trang 20-21).

KẾT LUẬN

Người tín hữu thời nào cũng thế, có thể phải bó buộc sống xa Nhà thờ, xa chủ chăn săn sóc linh hồn, xa cộng đoàn, xa những phương tiện cần thiết nâng đỡ đức tin như các Bí tích, thế nhưng Chúa thì không bao giờ ở xa và Lời Chúa cũng luôn gần ngay trên môi miệng và trong lòng chúng ta (Rm 10,8). Trong hoàn cảnh đơn độc này chỉ còn Lời Chúa là phao cứu hộ của ta, hãy bám lấy để sống: “Ai tuân giữ lời tôi sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8,52).

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU THIẾT

15/06/2014

***

Lưu ý đặc biệt :

1. Phần trình bày về việc sống các Bí tích chỉ được áp dụng trong hoàn cảnh Đạo bị cấm đoán, bắt bớ, ngăn trở lâu dài như tình trạng ở Triều Tiên hoặc ở các hải đảo xa xăm, trong rừng sâu, núi thẳm không biết đến bao giờ mới gặp được các chủ chăn, hoặc trường hợp nguy tử như Giáo luật Điều 1116 đã nói. Khi nào có thể liên lạc được với các chủ chăn thì phải hết sức cố gắng liên lạc để đón nhận các Bí tích.

2. Cuốn sổ Gia đình Công giáo phải ghi cẩn thận và bảo quản thật kỹ, khi nào gặp được chủ chăn thì trao lại cho ngài một bản sao để ghi vào sổ cái của Giáo xứ. Còn cuốn sổ xin giữ lại làm gia bảo truyền tử lưu tôn.

_____________________________________________________


Phụ Bản I

THƠ THIỀN,

PHẬT NGÔN & THƠ ĐỜI

Thơ hay văn xuôi là phương tiện để giải bày tư tưởng của người viết. Không phải bất cứ Thiền Sư hay bậc Giác Ngộ nào cũng có thể làm Thơ hay Kệ, nhưng người biết làm Thơ hay Kệ thì dùng đó để nói lên suy nghĩ của mình. Người đọc Thơ của các vị Thiền Sư sẽ theo sự hiểu biết của mình để luận giải ý nghĩa của nó, vì có những bài nêu ý nghĩa rõ ràng, đọc qua là hiểu. Nhưng có nhiều bài mà người đọc sẽ theo trình độ của mình mà hiểu. Nhưng dù nói rõ hay không? Cao, hay thấp, thì thắc mắc: Tại sao ta lại có mặt ở trên cõi đời này? Sống để làm gì? Có lẽ là câu hỏi nghìn đời. Thiền Sư HÀN SƠN (691-793) đã viết:

Sinh ra giữa cuộc bụi hồng

Khác nào con kiến rơi trong bát này

Ngày ngày lẩn quẩn loay hoay

Không rời miệng bát nào hay thế nào ?

Thần tiên khuất nẻo trên cao

Dưới đây phiền muộn khổ đau bời bời

Tháng năm như nước chảy trôi

Mới đây tóc đã đến hồi tuyết pha.

Thiền Sư ví cuộc đời như chiếc bát, và con người như là con kiến rơi vào trong đó, cứ loanh quanh, lẩn quẩn, bò tới bò lui, không rời miệng bát với những phiền muộn vây quanh. Thần Tiên thì khuất nẻo trên cao, không mong gì nương nhờ, trong khi tháng năm cứ trôi, chưa hiểu được điều gì đang diễn ra thì cái Già đã tới! Bài thơ dừng ở đó, không giải thích thêm hay cho thấy một lối thoát nào.

Nhưng với Thiền Sư Mẫn Giác thì không phải Hoa nào rồi cũng phải rụng. Ngài cho ta thấy thêm một cái nhìn của người tu Phật: Trong khi bao nhiêu hoa theo Xuân mà nở, rồi tàn lụi khi Xuân đi. Đêm qua trước sân vẫn còn lại 1 cành Mai:

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa nở

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu, Già đến rồi

Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành Mai.

Cành Mai còn lại ở sân trước nói đến một sự lội ngược dòng của người tu Phật. Sự tồn tại của cành Mai đó mang ý nghĩa gì, thật ra chưa chắc người sau giải thích đã đúng ý của Thiền Sư Mẫn Giác. Nhưng qua hai bài Thơ, ta thấy, Thiền Sư Hàn Sơn thời điểm viết bài thơ đó chưa nói được điều gì liên quan đến công việc tu hành, mới chỉ đặt câu hỏi về cuộc đời. Thiền Sư Mẫn Giác thì nói rằng không phải tất cả Hoa Mai đều theo Xuân mà nở rồi cũng theo Xuân mà tàn. Có thể đó là cảnh liên quan đến cái Thấy Đạo của Ngài. Nhưng người đọc cũng không biết suy nghĩ gì về những cành Mai vẫn còn nơi sân trước, không biết liên quan gì đến Đạo Phật, chỉ thấy hay hay, thế thôi.

Thiền Sư Tô Đông Pha thì nói về cảm nhận của mình sau khi “đến”, hay là “tới”, có nghĩa là đạt được mục đích của việc tu hành qua Bài Kệ:

Mù tỏa Lô Sơn, sóng Triết Giang

Khi chưa đến được, hận muôn ngàn.

Đến rồi, nhìn lại, không gì lạ

Mù tỏa Lô Sơn, sóng Triết Giang

Tức là theo Thiền Sư Tô Đông Pha, cái “tới” của Đạo Phật không làm đổi thay gì cảnh sống thường nhật. Cũng là sóng Triết Giang làm mù tỏa Lô Sơn. Ngài cho rằng cái “tới”, cái “chứng” đạo làm cho người tu háo hức lúc chưa đạt được. Nhưng khi đạt được rồi thì cũng chẳng có gì lạ, mọi thứ vẫn như trước kia.

Nêu một vài bài Thơ, Kệ chưa hẳn đã là tiêu biểu, mà chỉ để đánh dấu vài chặng đường của một số Thiền Sư, để chúng ta thấy rằng khó thể qua những lời trong đó để có cái thấy, biết về đường hướng tu hành, hay có gì cho chúng ta nghĩ thêm về cuộc đời, để biết cần phải làm gì? Bởi đó chính là kết quả của hành trì, quán sát, tư duy của mỗi vị. Nhưng nếu so sánh với mục đích của Đạo Phật thì ta sẽ thấy: Chính vì cuộc đời có quá nhiều phiền não mà Đạo Phật đã có mặt, nhằm đưa ra hướng giải quyết cho con người. Nên làm gì với kiếp sống? Có lẽ ta sẽ thấy được phần nào qua Ngụ Ngôn được cho là của Phật sau đây:

“Có một người đi qua cánh đồng, gặp 1 con hổ. Anh ta bỏ chạy, con Hổ đuổi theo. Đến một bờ vực, anh ta chụp được 1 sợi dây leo và đu mình lơ lửng trên đó. Bên trên con hổ đang cúi xuống nhìn làm anh ta run sợ cuống cuồng, nhưng nhìn xuống đáy vực thì lại thấy 1 con hổ khác đang nhe răng nhìn lên! Bỗng dưng ở đâu xuất hiện hai con chuột, 1 đen, 1 trắng đang gậm nhắm sợi dây mà anh ta đang níu. Chợt anh nhìn thấy 1 quả dâu chín mọng kề bên. Thế là một tay nắm chặt sợi dây leo, tay kia nhặt quả dâu bỏ vào miệng! Chao ôi, nó mới ngọt làm sao!”

Con hổ đó là thần chết đang rượt đuổi mỗi chúng ta, có chạy đâu cũng không thoát. Bờ vực sâu hoắm, không bị hổ ăn thịt thì rớt xuống cũng chết! Đã vậy còn 1 con nữa bên dưới đang chực chờ. Leo lên không được, mà tuột xuống cũng không xong! Sợi dây leo mỏng manh mà con người đang nắm lấy để giữ cái mạng thì lại bị hai con chuột gậm nhắm. Một đen, một trắng tượng trưng cho ngày và đêm. Làm sao bây giờ? Chút hy vọng nhỏ cũng không có. Trước sau gì cũng chết. Vậy thì có trái dâu ngon lành kề bên sao không thưởng thức nó? Nhưng “thưởng thức” như thế nào? Có lẽ mỗi người sẽ có cách của riêng mình. Đó cũng là một loại đi tìm hạnh phúc cho bản thân mà tự mỗi người sẽ có câu trả lời cho chính mình.

Vào khoảng hơn thập niên gần đây, mọi người vẫn chuyền tay nhau hoặc mang ra viết Thư Pháp để treo, hai câu thơ, ý nghĩa rất nhẹ nhàng, thâm thúy, mà ai đọc cũng thấy thích, được dịch từ thơ của một nhà thơ Li Băng Kahlil Gibran:

Cám ơn đời mỗi sáng mai thức dậy.

Ta có thêm ngày nữa để yêu thương.

Vâng, nếu kiếp sống chỉ để tranh giành, xâu xé nhau thì con người có khác gì với những loài thú hoang dã, mạnh được, yếu thua! May quá, cuộc đời vẫn còn đó những yêu thương. Dù là ích kỷ, chỉ yêu thương gia đình mình thì cuộc đời cũng bớt đi những hỗn loạn, bởi vài năm gần đây báo chí đưa những thông tin nhức nhối: Cháu giết ông bà. Cha giết con. Vợ giết chồng. Chồng giết vợ. Giận chồng giết con. Con giết cha mẹ. Anh giết em. Bạn bè cũng giết nhau... vì những nguyên nhân không đáng. Chỉ cần một lý do nhỏ xíu đủ để cướp đi sinh mạng của người khác, bất kể đó là cha, mẹ là những người đã sinh ra, nuôi dưỡng mình. Bất kể đó là vợ, chồng, là anh em ruột thịt với nhau, bạn bè từng chia ngọt xẻ bùi với nhau để rồi khi hết cơn nóng giận hay hết hơi men, tỉnh lại thì hối hận cũng đã muộn!

Chừng nào con người mới thật sự yêu thương nhau để xã hội hết hỗn loạn? Đó cũng là trăn trở của những nhà lãnh đạo các tôn giáo. Để con người bớt nghĩ ác, làm ác và biết yêu thương nhau, các vị giáo chủ đã phải đưa ra Thiên Đàng, Niết Bàn, cho những ai sống trong sạch, không vi phạm những gì không thuộc về mình. Dạy cho con người biết Kính Chúa, yêu thương lẫn nhau. Muốn cho con người nhìn nhau như trong đối tượng có hình ảnh của Chúa để tôn trọng nhau, khi hành lễ, các linh mục luôn đọc câu: “Chúa ở cùng anh chị em”, Đạo Phật thì nói rằng “Mỗi chúng sinh đều có Phật Tánh”, tức là mỗi người đều là những vị “Phật sẽ thành” để khuyên mọi người nên hành hạnh “Thường bất khinh Bồ Tát”, vì trước mắt ta đều là những vị Bồ Tát, mai kia sẽ Thành Phật, ngay từ bây giờ nên kính trọng họ.

Nhưng con người dễ đâu chịu nghe. Họ chỉ một mực kính trọng Chúa, Phật mà thôi, bởi vì, với họ, đó là những người ban ân phúc, giúp đỡ cho họ, còn đồng loại thì giống như họ, thì cần gì phải kính nể, yêu thương? Chính vì vậy mà họ khinh thường người khác, có cơ hội là sẵn sàng tranh giành, cướp đoạt, trực tiếp, hay gián tiếp, sẵn sàng bán rẻ lương tâm của mình miễn thu lợi về cho mình càng nhiều càng tốt.

Đọc thông tin trên báo, ta thấy tên tội phạm nào sau khi lãnh án tử hình đều mong được ân xá để có cơ hội “làm lại từ đầu”. Nhưng rất hiếm trường hợp được giảm án, vì trước khi tuyên án, Hội Đồng Xét Xử thường xét rất kỹ về nhân thân, về động cơ gây án. Họ chỉ loại ra khỏi xã hội những kẻ xét là vô phương cải tạo. Phần những kẻ tội phạm, phải chi họ có chút suy nghĩ để biết trước rằng không thể nào thoát được lưới của luật pháp hẳn sẽ không dám làm liều. Hơn nữa, nếu trước lúc gây án, họ nhớ lại cha, mẹ, vợ, con để nghĩ là họ sẽ sống ra sao nếu chẳng may mình không thoát? Bản thân họ thì “sát nhân giả tử” đã đành. Cả đời còn lại, người thân họ sẽ phải đối mặt với bản án dư luận rằng con, chồng, cha của họ là tên sát nhân, cướp của! Nếu có chút nghĩ đến và thương họ hẳn cũng phải chùng tay! Rồi những nạn nhân nữa, họ cũng có cha, mẹ, vợ, con. Ta tước đoạt mạng sống của họ thì những người thân của họ sẽ ra sao? Rõ ràng những kẻ gây ác nghiệp không nghĩ đến ai, kể cả bản thân mình! Tại sao không thương chính mình mà phải đợi lãnh án tử, biết không còn cơ hội sống nữa mới biết quý mạng sống, mới nghĩ mà thương cha, mẹ, vợ, con, xin được sống để có cơ hội làm lại từ đầu? Dư luận đều nghĩ rằng nếu không bị sa lưới pháp luật thì liệu những người đó có chịu sám hối chăng? Hay thấy dễ ăn quá nên lại tiếp tục?

Người luơng thiện thì ngoài nếp sống hiền lương còn nghĩ đến con đường tu hành. Mọi người đều nghĩ rằng nếu muốn tu hành thì nhất định phải Xuất Gia, phải sống ở trong chùa, phải đầu tròn, áo vuông, phải tụng kinh, niệm Phật, phải bỏ hết việc đời, làm gì cũng phải làm trong “Chánh Niệm”. Suy nghĩ việc đời là “Thất Niệm”! Trong khi đó, nếu đọc chính Kinh, ta sẽ thấy, 32 TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT chỉ là kết quả của những việc làm hết sức đời thường, hết sức con người, ở tại cõi đời, không phải ở Niết Bàn xa xôi diệu vợi nào. Xin đơn cử vài TƯỚNG: “Như Lai đã từng A Tăng kỳ kiếp tu trì Tịnh Giới, cho nên nay được cái thường BÀN CHÂN BẰNG PHẲNG. Nhờ sự cúng dàng cha mẹ, Hòa Thượng, Sư Trưởng và các bậc có đức, cho nên được TƯỚNG NGHÌN XOÁY ỐC DƯỚI BÀN CHÂN. Hễ thấy cha mẹ, Hòa Thượng, Sư trưởng và những bậc có đức thì ra xa đón chào, sửa đặt tòa ngồi, cung kính lễ bái, dẹp bỏ lòng kiêu mạn, nhờ thế mà nay được TƯỚNG NGÓN TAY DÀI VÀ NHỎ. Thường giúp cho người những thứ cần dùng, nhờ thế mà được TƯỞNG BẢY CHỖ ĐỀU ĐẶN. Tự mình dẹp bỏ tính kiêu mạn, biết điều hòa tính tình, tùy theo sở thích của mọi người. Như pháp tu hành để diệt các điều bất thiện và tăng trưởng các pháp lành. Nhờ thế mà được TƯỚNG NỬA MÌNH TRÊN NHƯ MÌNH SƯ TỬ, TƯỚNG CÁNH TAY TRÒN LẲN VÀ TƯỚNG XƯƠNG NGỰC BẰNG PHẲNG, TƯỚNG NGÓN TAY NHỎ VÀ THÂN HÌNH ĐẦY ĐẶN. Nhờ không nói lưỡi hai chiều và làm cho những người tranh giành phải hòa thuận mà được TƯỚNG CÓ 40 RĂNG, TƯỚNG RĂNG KHÍT KHÔNG HỞ KẼ, TƯỚNG RĂNG BẰNG NHAU, ĐỀU ĐẶN. Nhờ tu các nghiệp từ bi mà được TƯỚNG RĂNG TRẮNG NHƯ NGÀ. Thấy người thiếu thốn vui vẻ giúp đỡ, đón đưa, nhờ thế mà được TƯỚNG HÀM VUÔNG NHƯ HÀM SƯ TỬ. Chứa góp lòng thương, coi hết thảy chúng sinh như cha mẹ, nhờ nhân duyên ấy mà ĐƯỢC SẮC MẮT XANH BIẾC và TƯỚNG MẮT NHƯ MẮT NGƯU VƯƠNG. Thấy người có đức, thành thật tán thán, do đó mà được TƯỚNG BẠCH HÀO.

Trích ra một số TƯỚNG trong 32 TƯỚNG TỐT của PHẬT, để ta thấy nhiều người đã tưởng tượng đó là những hảo tướng đâu đâu xa vời, rồi theo đó mà dùng xi măng, đồng, vàng, đá quý, thạch cao, để tạc lấy mà thờ. Trong khi đó chỉ là những việc làm tốt đẹp cho người khác mà mỗi người cần dựa vào đó để Làm theo, gọi là tạc nơi Thân, Tâm của chính mình, để hoàn thành 32 Tướng Tốt cho Phật của mình. Người cứ dùng chất liệu trần gian để tạc, chứng tỏ chưa hiểu gì về TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT. Như thế càng tạc tượng cho to, dùng chất liệu quý chừng nào càng làm hao tổn tiền bạc của bá tánh, và càng chứng minh là họ chưa học hết lý thuyết của Đạo Phật. Không hiểu lời Phật dạy: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”!

Cũng qua 32 TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT, ta thấy rõ ràng đó chỉ là phương tiện để Đức Thích Ca hướng dẫn cho con người sống tốt với nhau hơn, và tu hành không nhất thiết phải thuộc cho nhiều Kinh, phải chăm chú Niệm Phật, bởi thật ra GIỚI của Đạo Phật cũng chỉ để ngăn con người không rơi vào ác đạo, và mục đích của Đạo Phật chỉ là để hướng dẫn con người nên SỐNG, VÀ CƯ XỬ ĐÚNG THEO TRÁCH NHIỆM CỦA MÌNH ĐỐI VỚI CUỘC ĐỜI. Giai thoại về Nguyễn Công Trứ có ghi lại: Có một vị Sư, ỷ thuộc nhiều Kinh, đã viết câu đối:

Thuộc ba mươi sáu quyển Kinh, chẳng Phật, thánh, thần, tiên, nhưng khác tục

Nguyễn Công Trứ đối lại:

Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử, đếch ra người .

Qua hai câu đối, ta thấy vị Sư thì cho rằng thuộc mấy chục quyển Kinh thì dù chưa thành thánh, thần, tiên, Phật, nhưng khác với người trần tục. Vị Sư đó cũng không biết rằng việc tu hành không phải do thuộc nhiều Kinh. Lục Tổ Huệ Năng không biết chữ, làm sao đọc, làm sao thuộc Kinh? Vậy mà Ngài được Truyền Y Bát để làm Tổ. Vị Sư cũng quên rằng nếu làm người thì phải cư xử đúng như một con người với Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trong gia đình thì hiếu thảo với cha, mẹ, ngoài xã hội thì làm tròn trách nhiệm của một người công dân. Nếu không phải như thế thì làm một con người còn chưa xong. Điều này thì Nguyễn Công Trứ đã nói đúng, có điều ông đã dùng lời lẽ quá nặng nề.

Tu Phật, mới nghe tưởng như phải làm những điều lớn lao, cao siêu, xa vời, vì những Bộ Kinh tả cảnh Phật hào quang chói lóa, Tây Phương Cực Lạc với Bảy Báu trang nghiêm, thanh tịnh, Chư Bồ Tát bay lướt mười phương, chỉ cần nghe lời khẩn cầu là cứu độ. Do đó, người chưa biết Nghĩa thật sự của việc tu hành thường vọng ra ngoài, tưởng tượng một Cảnh Phật ở cõi xa xôi, diệu vợi nào. Không ngờ cảnh đó ở tại nơi Tâm của mỗi chúng ta. Những gì mà Đức Thích Ca diễn tả về Cõi Phật chỉ là phương tiện để con người ham thích, vọng về đó mà bớt ôm giữ, tranh giành của cải vật chất trần tục, để cùng được sống yên ổn, an vui trong cuộc đời giả tạm.

Đọc Bài Kệ Vô Tướng của Lục Tổ Huệ Năng ta sẽ thấy: Giới, Thiền Định mà nhiều người giảng tràng giang đại hải tưởng như phàm phu muôn đời không thể hiểu nổi, thì với Ngài lại rất đơn giản:

Lòng bình đẳng đâu cần giữ Giới

Làm việc ngay há đợi Tu Thiền!

Đúng thế. Nếu ta không Sát sinh, không trộm cắp, tà dâm, nói dối, rượu chè be bét thì bản thân đã tự có GIỚI, cần gì phải Thọ Giới? Cái đó Đạo Phật gọi là GIỚI TỰ NHIÊN. THIỀN ĐỊNH chỉ là tập trung Thân, Tâm để tìm ra những điều cần làm và thực hành, nghĩ rằng sẽ đạt tới những Quả vị, thành Thánh, thành Phật, cuối cùng cũng chỉ để con người ngưng làm ác, biết yêu thương người, vật quanh mình, để tất cả đều được sống trong an vui, hạnh phúc. Nếu ta đã sống ngay ngắn, chân chính là vô tình ta đã đi đúng vào quỹ đạo của đạo Phật, do căn cơ từ kiếp trước, thì cần gì phải NGỒI cho nhiều, cho lâu, hay để thả hồn về cảnh giới cao siêu, huyền hoặc nào? Lục Tổ Huệ Năng có NGỒI THIỀN suất nào đâu mà vẫn Thấy Tánh. Đức Thích Ca cũng chỉ Ngồi có 49 ngày đêm mà được đạo. Nếu ta Ngồi hoài mà không thấy gì. Không biết Ngồi để làm gì? thì có lẽ nên xem lại để khỏi phí thì giờ vô ích. GIỚI, ĐỊNH, HUỆ là gì? Làm sao để có? Với Lục Tổ Huệ Năng thì: “Tâm địa không quấy, thì Tánh mình GIỚI. Tâm địa không Si, thì Tánh mình HUỆ. Tâm địa không rối, thì Tánh mình ĐỊNH”. Tức là cứ giữ cái Tâm cho ngay thẳng, không làm điều gian ác thì tự mình đã có Giới, đâu cần Tứ oai Nghi. Bởi nếu cái Thân giữ Tứ Oai Nghi mà cái tâm không ngay ngắn thì liệu có ích gì không?

Nếu để qua một bên những hình thức, hay Giáo Chủ của các tôn giáo thì con người chỉ còn lại hai nẻo: THIỆN và ÁC mà thôi. Vì nếu nhìn cho kỹ thì chúng ta thấy, dù giảng nói rất nhiều giáo pháp. Nói cách này, cách khác. Hoặc hứa thưởng THIÊN ĐÀNG, NIẾT BÀN. Hoặc đe dọa ĐỊA NGỤC, nhưng tựu trung chỉ là để thuyết phục con người, để cho con người CẢI ÁC, HÀNH THIỆN. Như vậy, nếu chúng ta đã thuần thiện thì lo gì phải sa Địa Ngục mà Cầu Siêu cho mất công? Ngược lại, nếu cả đời làm ác thì đừng nghĩ rằng mời thầy cao cấp tới tụng khi qua đời mà Chư Phật sẽ rước về Tây Phương Cực Lạc! Nếu chỉ cần Tụng mà siêu thăng thì Nhân Quả của Đạo Phật hóa ra vô ích? Có lẽ suy nghĩ đó chỉ phù hợp với con người thời văn minh chưa phát triển, thời này mọi thứ đều phải hợp lý thì mới chấp nhận được.

Đạo PHẬT nói NHÂN QUẢ để con người biết rằng những việc làm tốt hay xấu của mình, dù không ai biết, nhưng nó sẽ quay trở lại cho chính mình để con người thôi nghĩ ác, làm ác. Nói THƯỜNG CÒN là để chúng ta biết rằng không phải chết là hết, mà chỉ thay đổi hình tướng mà thôi. Những việc làm tốt, xấu, sẽ không mất theo cái Thân để chúng ta đừng gây Nhân Xấu để không những kiếp hiện tại bản thân ta và những người chung quanh được an ổn, kiếp sau nếu có cũng không phải bị đọa. Nói VÔ THƯỜNG để chúng ta biết rằng gia đình sum họp, đầy đủ cha, mẹ, vợ chồng, con cái mà chúng ta hiện đang có, rất mong manh, không phải mọi thứ sẽ tồn tại mãi, mà mai kia, khi Vô Thường đến, chúng ta sẽ không còn bên họ, hoặc chính chúng ta sẽ ra đi.

Rất nhiều người thích những câu thơ mang ý nghĩa man mác của Đạo và cả Đời của tác giả Ẩn Sĩ:

Trăm năm trước thì ta chưa gặp

Trăm năm sau biết có gặp lại không ?

Cuộc đời sắc sắc, không không

Thì thôi ta hãy hết lòng với nhau.

Bài thơ nói về cái Duyên hội ngộ trong hiện kiếp cần trân trọng, vì chúng ta thử xét, trong hàng tỷ tỷ hạt bụi trôi vô định trong vũ trụ, nếu không có Duyên thì dễ gì gặp được nhau? Nhất là Cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, bạn bè. Bản thân ta cũng là một hạt bụi bé nhỏ, có được người yêu thương, quan tâm chăm sóc thì quý biết bao. Nếu ý thức Vô Thường sẽ đến một ngày nào đó, cướp đi người thân của mình hẳn mọi người sẽ thương mến nhau hơn. Qua đó, cuộc sống sẽ thêm ý nghĩa, để cuộc đời không còn là vực nước mắt, là bể Khổ nữa, vì mọi người cùng nương tựa, chia sẻ khó khăn gian khổ khi còn bên nhau, để mai kia khi phải xa lìa nhau không có gì phải nuối tiếc, vì đã cư xử hết lòng với nhau.

So sánh thơ của các Thiền sư trích dẫn, ta thấy các Ngài chỉ lo nhìn hoa nở, hoa tàn, sóng phủ trên sông, không nêu ra được điều gì liên quan đến việc tu hành. Rõ ràng là chỉ NHÌN RA, trong khi Đạo Phật dạy người tu phải QUAY VÀO, bởi vì thấy VÔ THƯỜNG diễn ra trên cảnh vật làm sao bằng thấy diễn ra ngay chính nơi bản thân mình? Ngụ Ngôn của Phật thì chỉ rõ điều nên làm trong cuộc sống, nên sống thực tế với những gì đang diễn ra trước mắt, bởi cuộc sống lúc nào cũng bị đe dọa bởi cái chết. Cũng chính vì sự đe dọa đó mà chúng ta cần sống an vui trong chuỗi ngày giới hạn của mình.

Qua mấy câu thơ của hai tác giả: Kahlil Gibran và Ẩn Sĩ, ta thấy họ nêu lên được cái thực tế, đáng trân trọng của cuộc sống. Con người sống để làm gì nếu không biết yêu thương và cư xử hết lòng với nhau? Đó cũng là mục đích mà mọi tôn giáo chân chính đều hướng tới.

Cuộc đời vốn thế, vẫn là mặt trời mọc, lặn, sớm nắng, chiều mưa, hoa tàn, hoa nở, con nước lớn, ròng. Danh lợi, vật chất ngày càng thêm hấp dẫn. Nếu mọi người ý thức được sự công bằng theo luật pháp đời thôi, thì mọi thứ cũng đã tốt đẹp rồi. Trái lại, ai cũng muốn thu về cho mình nhiều thứ tốt đẹp nhất mà ít tốn công sức, chính vì thế mà trần gian thêm rối loạn! Vì vậy, để gỡ bớt những tham muốn bạc, vàng, châu báu của trần gian rồi tranh giành nhau để chiếm đoạt làm cho cuộc đời thêm bất ổn, Đức Thích Ca đã mô tả Tây Phương Cực Lạc được trang hoàng bằng những thứ quý báu nhất, để cho con người bớt bám lấy của cải trần gian rồi theo điều kiện mà Đạo Phật đặt ra để sống cho tốt đẹp mong có ngày được Phật rước về đó.

Thế rồi đối lập với những người xem cảnh đời là thật rồi tranh giành, bóc lột, xâu xé nhau lại sinh ra một số khác cho cuộc đời chẳng có ý nghĩa gì cả, dính líu tới tục lụy là Khổ, nên bỏ hết mọi sinh hoạt của cuộc đời để chỉ tụng Kinh, Niệm Phật chờ Phật rước, thành phí hoài cả kiếp sống. Tất nhiên mỗi người đều có quyền sống theo ý thích, vì tự chịu trách nhiệm lấy cuộc đời của mình. Nhưng sở dĩ họ chọn cách sống như thế là do hiểu lầm ý Kinh, lời Phật. Thử đối chiếu các Giới và Hạnh mà người tu Phật phải giữ, ta thấy, rốt cuộc đó chỉ là phương tiện để giúp cho người chưa đủ tự chủ ngưng làm ác và sống cuộc sống đạo đức. Do đó, thật ra không cần tu hành khó khăn, gian khổ, chỉ cần mọi người ý thức cảnh trần là giả tạm để yêu thương, giúp đỡ nhau. Không còn Tham Lam, Sân Hận, Si Mê, ganh tỵ, mà chỉ còn lòng TỪ, BI, HỈ, XẢ, thì trần gian đau khổ sẽ biến thành Niết Bàn, Phật Quốc. Con cái yêu thương cha mẹ. Vợ chồng yêu thương nhau. Hàng xóm, láng giềng hòa thuận. Nước này không tranh chấp với nước kia để gây cảnh máu đổ xương rơi, thì cảnh trần sẽ đẹp biết bao. Đó là Niết Bàn tại thế, còn tìm ở đâu xa vời?

Việc tu hành với nhiều người thật là thiên nan, vạn nan. Phải giữ hàng mấy trăm Giới. Ngay cả đi, đứng, ngồi, nằm cũng bị gò bó. Với Tổ Đạt Ma chỉ đơn giản:

“Bao giờ học Tâm thôi.

Viên thành tướng chân thật

Chợt rõ bỏ ý tu”

(Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất)

Thật vậy, Tâm là chủ của Vạn pháp. Người tu Phật chỉ cần “Điều Tâm” là xong, vì Thiện, Ác, Xấu, Tốt, Ma, Phật, Địa Ngục, Niết Bàn... đều khởi từ đó. Ai biết được điều này gọi là Tu Đốn. Còn nếu không biết, cứ Tướng mà hành, lại hướng ra tìm Phật ngoài, thì ắt nhiều kiếp cũng khó xong.

Tôi tin rằng một ngày không xa, khi Chánh Pháp được phổ biến rộng rãi, mọi người đều hiểu được ý nghĩa thật sự của việc tu hành, quay vào Tâm của mình để mà Tu Sửa, thì không những tất cả mọi người đều được an vui, mà đồng tiền của bá tánh cũng sẽ được sử dụng một cách hợp lý hơn. Đã đành Phật Tử quen xem Chùa chiền như một nơi để hướng về, để nương tựa, để tìm an ổn khi bị dòng đời vùi dập, trong khi chưa đủ sức để Tự Độ, nên Chùa chiền không thể thiếu. Chính vì vậy mà lẽ ra những vị tu hành phải là người đã ý thức rõ mục đích của Đạo Phật, có nhiệm vụ phá mê cho bá tánh, dẫn dắt họ hiểu cho đúng về Đạo Phật, để họ biết rằng Phật không phải là một vị Thần Linh mà ai thành khẩn cầu xin thì sẽ phù hộ độ trì cho, mà Phật là tình trạng Giải Thoát mà bất cứ ai hành trì theo con đường Đức Thích Ca đã chỉ thì cũng sẽ được Giải Thoát giống như Ngài. Rồi thay vì cất Chùa cho hoành tráng chỉ để những Tượng đá, Tượng gỗ ngự, thì cất vừa phải, dành những đồng tiền bá tánh đóng góp để làm học bổng, giúp đỡ những trẻ em nghèo, cho chúng có điều kiện học chữ, học nghề, tương lai lo cho bản thân, không để vì nghèo túng, đói khổ mà “bần cùng sinh đạo tặc”. Đó cũng là cách tiếp tay với xã hội “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, vì giới trẻ chưa đủ suy nghĩ chín chắn, không thể thả nổi mà có thể tự vào đời và trưởng thành theo con đường tốt, cần có thời gian ở trong môi trường giáo dục để được định hướng và rèn luyện nhân cách, đạo đức.

Thêm một sự thật quá đắng lòng không thể không nhắc đến. Đó là hình ảnh Bệnh Viện quá tải. Bệnh nhân từ khắp nơi khăn gói đến ăn chực nằm chờ chữa trị nằm la liệt. Điều kiện ăn, ở, vệ sinh quá thiếu thốn. Nhiều nhóm từ thiện cũng rủ nhau chia sẻ những bữa cơm, những ly nước, đỡ bớt chút gánh nặng cho họ. Nhưng đã thấm vào đâu, bởi có quá nhiều hoàn cảnh cần giúp đỡ. Phải chi những đại gia tiền bạc thừa thãi, muốn làm phước góp phần xây thêm Bệnh Viện, Xây Cầu, Làm Đường cho dân đi lại mua bán, làm ăn. Cứu giúp những trường hợp quá khó khăn, bệnh mà không tiền chữa trị. Giúp chút vốn cho những người đang trắng tay, muốn vươn lên mà không có phương tiện thì tốt biết mấy. Bồ Tát có nghìn Tay, nghìn Mắt để làm gì, nếu không phải là để Thấy, để cứu giúp bá tánh được nhiều hơn? Thay vì hành Bồ Tát Hạnh, trực tiếp đưa tay “cứu khổ cứu nạn” cho người đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn, đang cần sự trợ giúp khẩn cấp để vượt qua, sao các vị lại phải dồn thật nhiều tiền cất Chùa rồi kêu họ vào đó cầu xin Phật? Những người đang bị bức bách kia cũng là những vị “Phật sẽ thành”. Giúp họ cũng là giúp cho Phật. Phước báo đâu có mất. Hơn nữa, làm phúc, bố thí mà không tính toán so đo, không đòi hỏi phước báo trả lại, đó là ta đang hành pháp Chân Bố Thí, thật sự thể hiện tâm TỪ, BI, HỈ, XẢ của người tu Phật và đức yêu thương, đùm bọc nhau. “Thương người như thể thương thân” của con người đối với nhau.

Vài năm gần đây, một số trường hợp tự tử vì bế tắc đã làm rúng động xã hội. Họ đã hết cách, cùng đường nên phải chối bỏ cuộc sống. Do xã hội thiếu quan tâm để kịp thời giúp họ, để lại hệ quả đau lòng suốt đời cho người thân của họ. Mong rằng những vị hằng tâm, hằng sản đừng để cho những trường hợp bi thương như vậy xảy ra nữa. Người xưa có câu:

Dẫu xây chín bậc phù đồ.

Không bằng làm phúc cứu cho một người.

Là con của Phật, đang học làm Hạnh Bồ Tát, lẽ ra ta nên “tầm thinh cứu nạn”, vì đợi đến lúc họ cùng quẫn mà hành động dạt dột, ta mới nghĩ lại thì đã muộn mất. Gần đây có một đại gia tuyên bố bỏ ra cả ngàn tỷ để giúp những trẻ em bị bệnh tim được giải phẫu. Đó là một tin rất đáng mừng cho xã hội mà con người chỉ biết nghĩ đến bản thân như hiện nay.

Kiếp người tuy nói là ngắn ngủi, nhưng trong 100 năm đó những người yêu thương cuộc đời đã làm biết bao nhiêu việc hữu ích cho xã hội. Nghiên cứu biết bao phương thức để trị bệnh. Cải tiến khoa học kỹ thuật để phục vụ cho cuộc sống. Mọi người đâu cần làm gì lớn lao, chỉ cần tùy theo khả năng của mình mà đóng góp cho xã hội, vừa trả nợ áo cơm, mà cũng là đền Tứ Ân. Nếu ta thật sự biết yêu thương cuộc đời, biết quý trọng giá trị của cuộc sống, lòng không còn câm thù, đố kỵ, mà thanh thản, an vui, hẳn mỗi sáng thức dậy ta lại có thể nghĩ đến 2 câu thơ:

Cảm ơn đời mỗi sáng mai thức dậy.

Ta có thêm ngày nữa để yêu thương .

Đúng thế. Chỉ cần mọi người biết yêu thương nhau thì cuộc đời sẽ tươi đẹp biết bao nhiêu. Trước hết là Gia đình hạnh phúc. Xã hội không còn ai bóc lột ai. Mọi người không tạo Ác Nghiệp, đương nhiên lúc sống được an vui mà khi hết kiếp, bỏ thân xác cũng sẽ về nơi tốt lành, chẳng cần ai Độ cho. Sống không cần Cầu An. Chết cũng không phải Cầu Siêu. Đó cũng là hình thức Tự Tu, Tự Độ theo Nhân Quả của Đạo Phật chân chính.

Cũng tại lớp người đi trước hiểu lầm văn tự, không chịu đọc hết Kinh để thấy những lời giải thích lần lượt trong đó. Vừa mới nghe giảng về Phật đã tưởng Phật là “Thần Linh có thể cứu độ cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới” nên sinh lòng ngưỡng mộ, rồi Xuất Gia tu hành để “Cống hiến cuộc đời cho Phật”. Khi vào tu rồi thì cứ rập khuôn theo hình tướng, việc làm mà ngày xưa Đức Thích Ca và Chư Tăng đã làm, không tìm hiểu cho kỹ để biết đâu là phương tiện, đâu là cứu cánh, rồi cứ thế, đời nọ truyền, đời kia tiếp nối. Cho nên, cứ nói đến tu hành là mọi người nghĩ ngay đến Ly Gia, Cắt Ái, Đầu tròn, Áo vuông, bỏ hết việc đời. Vì thế, nhiều người cũng muốn tu hành, nhưng vướng bận cha mẹ già, con cái chưa trưởng thành, hẹn lúc về hưu, rảnh rang sẽ đi tu, thì có người lại nhắc nhở: “Nhược đãi lão lai phương Niệm Phật. Cô Phần đa thị thiếu niên nhân”. Có nghĩa là đừng đợi già rồi mới tu. Người chết phần nhiều ở tuổi còn trẻ” làm cho họ càng thêm hoang mang.

Nhưng nếu có đọc Pháp Bảo Đàn Kinh, ta thấy Lục Tổ dạy: “Phật Pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác” mà ai có nghiên cứu Đạo Phật sẽ thấy: Tu Phật là để học cách đối phó với cuộc đời, không phải để trốn đời, không phải để xa lánh, chối bỏ cuộc đời, vì người tu xong còn phải đền Tứ Ân. Việc tu hành theo Đạo Phật chỉ là để con người tiếp tục sống giữa trần gian đầy phiền não mà không còn bị phiền não nhấn chìm. Không phải để bỏ đời vọng về Cõi Phật nào khác. Kiểm chứng lại ta thấy: Thuyết VÔ THƯỜNG, KHỔ, KHÔNG, VÔ NGÃ nói về cuộc đời là Khổ, là không trường tồn, để chúng ta thấy được sự mong manh của kiếp người. TỨ DIỆU ĐẾ thì 2 Đế trước để nói về những cảnh Khổ mà kiếp người phải chịu đựng. Hai Đế sau là DIỆT ĐẾ và ĐẠO ĐẾ, chỉ CON ĐƯỜNG CẦN THEO ĐỂ ĐƯỢC HẾT KHỔ. Phương Tiện tu hành là GIỚI và BÁT CHÁNH ĐẠO là những gì con người nên tuân thủ, nên thực hiện trong cuộc sống, để THÂN, KHẨU, Ý được thanh tịnh, không bị va chạm, vướng mắc với các Pháp mà thôi.

Hầu hết Phật Tử đều hiểu lầm, tưởng rằng Xuất Gia là đã “Thoát vòng tục lụy”. Cho rằng Giữ càng nhiều Giới, Tụng Kinh, Niệm Phật nhiều thời trong ngày, Ngồi Thiền càng lâu thì công đức càng nhiều. Không ngờ ngoài NGỮ còn có NGHĨA mà Phật đã dặn trong TỨ Y là phải Y NGHĨA BẤT Y NGỮ. Có nghĩa là nếu chưa phân biệt được NGHĨA và NGỮ để thực hành cho đúng, thì người tu hành khó thể thành công được. Thật vậy, nếu chỉ LY GIA mà chưa rời NHÀ LỬA TAM GIỚI. CẮT ÁI với cha mẹ, anh em, vợ con, mà không cắt đứt VÔ MINH, THAM ÁI. XA RỜI QUYẾN THUỘC, mà chưa rời 3 Nghiệp của Thân và 4 Nghiệp của Khẩu. thì những việc làm trên hình thức đó chẳng có giá trị gì đối với công việc tu hành. Giữ TƯỚNG GIỚI không có giá trị bằng TÂM GIỚI. Vì hình tướng thì ngay ngắn, mà cái TÂM còn buông lung thì làm sao thanh tịnh? Ngay cả HÌNH TƯỚNG của người tu không phải dừng ở Đầu Tròn, Áo Vuông, mà để nói lên những gì mà họ cần thực hiện trong cuộc đời tu hành. ĐẦU TRÒN, ÁO VUÔNG, tượng trưng cho những suy nghĩ, những gì được chứa đựng trong đầu không nên góc cạnh, mà tròn trịa, trơn tru. Những gì được thể hiện nơi Thân, cũng phải ngay ngắn, để đối pháp, đối nhân không bị va chạm, không làm thương tổn người khác. CẠO TÓC tượng trưng cho sự CẠO SẠCH PHIỀN NÃO, không để nó đeo đẳng, vướng víu trong đầu. THÂN ĐẮP Y HOẠI SẮC tượng trưng cho sự THOÁT PHÁP. SẮC là nói về những Pháp mà mọi người vẫn phải đối mặt hàng ngày: Đó là Tham, Sân, Si, Thương, Ghét, Giận hờn, Đố kỵ… Cần phải HOẠI nó, loại nó ra khỏi suy nghĩ, hành vi của ta. Do đó, không phải là chỉ cần nhuộm màu vàng cho áo, cạo cho sạch tóc. Đi, đứng, ngồi, nằm cho trang nghiêm. Giữ thật là nhiều Giới là xong!

Mọi người đều đã rõ việc tu hành cần thực hiện bằng hành động Xả những thói xấu, chẳng phải chỉ do hình tướng hay thức ăn. Cho nên có câu:

Tham, Sân, Thương, Ghét.. không chừa

Bo bo mà giữ tương dưa ích gì.

Người tu có thành tựu được hay không là do những việc làm gọi là Hạnh. Cũng giống như một người chạm, hay nặn tượng. Có thành hình, có giống như mẫu hay không là do tay nghề, do hiểu rõ cách thức, do công phu thực hiện, không phải do sắc phục, hay nơi chốn làm việc. Vì vậy, nếu chúng ta không muốn phí phạm thời gian thì nên xét kỹ để thực hành cho đúng theo lời Phật, Tổ dặn dò.

Phải nói rằng con người rất là may mắn. Vừa sinh ra đã được đặt vào trái đất là một hành tinh màu mỡ với bao nhiêu kỳ hoa, dị thảo. Cây lành, trái ngọt sum suê. Biển rộng mênh mông. Sông dài uốn lượn. Núi non chập chùng. Thảo nguyên bao la với rất nhiều phong cảnh được thiên nhiên khắc họa tuyệt vời. Xuân, Hạ, Thu, Đông Bốn Mùa đủ các loài hoa khoe sắc. Chỉ cần con người đừng tranh giành, bắn giết nhau, đừng tàn phá thiên nhiên mà chung tay giữ gìn, vun bồi để cùng nhau thưởng ngoạn thì trần gian sẽ trở thành Địa Đàng. Chúng ta đừng quên rằng kiếp sống không dài, dù có sức mạnh để lấn át người khác mà tranh giành được thứ gì quý giá thì cuối cùng cũng phải bỏ lại mà thôi. Nếu lời cảnh báo của các Tôn Giáo không đáng cho chúng ta quan tâm, thì lịch sử đã chứng minh: Bao nhiêu bạo chúa, bao nhiêu nhà độc tài, bao nhiêu kẻ sống ích kỷ rồi cũng chẳng đem theo được gì. Vì thế, những lúc còn bên nhau thì hãy yêu thương nhau, yêu thương cuộc đời, góp tay làm những việc thiết thực cho cuộc đời, để mai kia khi ra đi không có gì phải hối tiếc.

Năm 2012, Richard Teo một Bs Thẩm Mỹ người Singapore rất thành đạt, giàu có, phát hiện mình bị ung thư Phổi giai đoạn cuối và đã qua đời ở tuổi mới 40! Trước khi mất vài tháng, ông đã đến nói chuyện với Nhóm SV Nha Khoa để chia sẻ những ý nghĩ về đời sống. Trước kia ông cho rằng vật chất đầy đủ là hạnh phúc. Ông đã phấn đấu và đạt được mọi thứ, sẵn sàng chối bỏ lương tâm của một Bs, chuyển sang học ngành Thẩm Mỹ để có thật nhiều tiền, và ông đã thành công trong một thời gian ngắn. Đến lúc biết mình sắp chết ông mới nhận ra là chưa biết cách sống, và thấy rằng mình đã học được bài học, là “Nên tin tưởng Đấng Tạo Hóa trong tâm và biết yêu thương người khác thay vì chỉ yêu bản thân”. Theo tôi, đó cũng là một thông điệp đáng cho chúng ta suy gẫm.

Tháng 7 vừa qua, liên tiếp những tai nạn máy bay, cướp đi sinh mạng của hàng loạt người khiến thế giới bàng hoàng, thấy rõ cái chết không hẹn trước với bất cứ ai. Cuối tháng lại thêm Toàn Shinoda, một Vlogger rất nổi tiếng trên mạng. Là người tốt nghiệp từ Mỹ, nhưng chọn quay về VN để làm việc. Em cũng là người đầu tiên mang Vlog du nhập vào VN, truyền tải những nội dung nóng hổi của giới trẻ dưới góc nhìn hài hước, nhưng sâu sắc, đã ra đi ở tuổi 27, mang theo bao nhiêu hoài bão, làm dậy sóng cộng đồng mạng trẻ, làm cho họ ngỡ ngàng, tiếc nuối. Hàng triệu người trẻ đánh giá rằng dù Toàn ra đi rất sớm, nhưng đã “cháy” hết mình cho cuộc sống, và cho rằng có lẽ qua đó họ cũng sẽ bắt đầu nhìn lại cuộc sống của chính mình.

Dù cuối đường ai cũng biết là cái chết đang đợi, nhưng mải chạy theo những ham muốn, những nhu cầu của cuộc sống, ít ai nghĩ tới ngày đó. Đợi đến lúc sắp chết mới hay rằng mình chưa kịp sống! Tôi nghĩ rằng đó không phải chỉ là tâm trạng của Bs Teo mà còn là của rất nhiều người. Vấn đề không phải là chúng ta sống thọ hay không, mà là đóng góp được gì cho xã hội, cho cuộc đời trong thời gian tồn tại. Mỗi người hoàn toàn có quyền hưởng thụ cuộc sống theo cách của mình miễn không vi phạm đạo đức. Có gia đình thì có cái hạnh phúc của lứa đôi, có người chia vui, sẻ buồn. Vợ chồng cùng giáo dục, nhìn con cái trưởng thành, thành công trong cuộc sống. Độc thân thì ít trách nhiệm hơn. Người tu Phật cũng không cần phải nhịn ăn, nhịn mặc, không được dính tới vật chất của trần gian. Nếu ý thức rõ ràng về NHÂN QUẢ, ta sẽ thấy, nếu muốn nhà lầu, xe hơi, phương tiện tối tân thì Đạo Phật cũng đâu có cấm, miễn là những thứ đó được trao đổi một cách công bằng, không do vi phạm pháp luật, đạo đức, bóc lột, hay lợi dụng người khác.

Giữa hai thái cực: Cưng chiều cái Thân, đáp ứng cho nó mọi yêu cầu, bất chấp đạo lý, nhân cách, và hành hạ nó, bắt nó ăn đói, mặc rách, thức khuya dậy sớm đều không cần thiết, bởi thật ra mọi lỗi lầm không phải do nó. Thủ phạm chính là cái VỌNG TÂM. Cái Thân là đống tứ đại kết hợp, chỉ là tay sai mà thôi. Khi chưa tu hành thì nó lôi con người vào đường xấu. Gây tội, tạo Nghiệp. Nhưng lúc ý thức được việc tu hành thì chính nó lại là ân nhân, đưa người tu đến Giải Thoát. Vì nhờ có Mắt mà ta mới đọc được lời Phật, Tổ. Nhờ có Tai ta mới nghe được những lời thuyết giảng. Nhờ có cái Thân này ta mới thực hành được những pháp lành. Giúp đỡ được cho người khác. Bộ phận chỉ huy chính là CÁI TÂM. Do đó con đường Tu Phật theo ĐỐN GIÁO là CHUYỂN HÓA CÁI TÂM, hay là ĐIỀU TÂM, không phải ĐIỀU THÂN.

Việc tu Phật dù bàn rộng ra thì đến Thiên Kinh Vạn Quyển, nhưng tóm lại, chỉ cần khống chế 6 tên giặc: MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN, Ý, không cho nó đưa các pháp vào làm náo loạn cái Tâm của mình và làm ảnh hưởng đến người chung quanh để tất cả đều được an vui. Nhưng không phải nhắm mắt, bịt tai, không nếm, ngửi, va chạm, hay Diệt hết mọi tư tưởng, mà chủ yếu là thanh lọc Cái Tâm, vì đó là nơi tiếp nhận và phản ứng với Các Pháp… Chuyển hóa nó, tẩy đi các chất độc là Tham, Sân, Si, Thương, Ghét, để khi đối pháp không còn Khởi những thứ đó nữa thì những cuộc sống của mọi người sẽ nhẹ nhàng hơn, vì chúng ta thấy, đa phần bạo lực đều khởi đầu do Sân Si mà ra.

Việc tu hành là chủ yếu ở nơi Tâm, nên không cần phải rườm rà hình tướng, cũng không cần phải cách ly với người đời. Mọi người vẫn vừa có thể tiếp tục công việc bình thường, vừa học hỏi và thực hành ngay tại cuộc sống thường nhật. Vì thế, bất cứ ở đâu, ăn mặc như thế nào, làm nghề gì thì cũng có thể tu được. Nhưng khó hơn cả là Tu Tại Gia. Ông bà ta có câu: “Thứ nhất là tu Tại Gia. Thứ nhì tại Chợ. Thứ ba tại Chùa” có thể hiểu như sau: Tại Gia thì khó tu hơn cả, vì quanh mình lúc nào cũng có người. Trên là cha, mẹ. Kề bên là vợ con. Quanh nhà là hàng xóm. Vô sở làm thì cấp trên, bạn cùng sở. Nếu không tốt nhịn tránh sao khỏi va chạm? Lại phải gánh vác cho cả gia đình, với cơm, áo, gạo, tiền và trăm thứ khác. Vật giá thì cứ leo thang. Đồng lương thì giới hạn… đối phó cũng đủ điên cái đầu. Ở Chùa thì tách biệt với thế nhân. Đã có tường rào che chắn. Quanh mình chỉ là những người cũng tu hành như mình, cùng giữ Giới, nên cũng bớt Sân Si, tranh chấp ngôi thứ. Hơn nữa, mọi thứ, từ cái ăn, cái mặc và tất cả chi phí đã có người cung cấp, không phải làm lụng vất vả để kiếm ăn. Cả ngày chỉ Tụng Kinh, Niệm Phật, lại không tham gia việc đời, đâu phải va chạm thì có gì mà phiền não!

Nhưng Tu tại gia có cái lợi là vừa có thể làm tròn trách nhiệm của một người con, một người làm cha, mẹ, một người công dân của xã hội, vừa trực tiếp đóng góp công, sức mình để trả nợ Tứ Ân. Như thế, dù có tu hành không xong thì cũng không mang nợ bá tánh, bởi ai cũng biết: “Ông tu, ông đắc. bà tu, bà đắc”. Người tu dù có thành công thì cũng chính mình hưởng thành quả mà thôi, không thể san sẻ hay cứu độ cho ai khác. Nhiều lắm là chỉ hướng dẫn lại mà thôi.

Người không đọc Kinh, chỉ nghe người khác nói rồi tin thì sẽ bị thiệt thòi, vì có đọc Kinh mới thấy Đức Thích Ca đã dùng rất nhiều Phương tiện: Tả bao nhiêu Nước Phật huy hoàng, tráng lệ. Bao nhiêu vị Phật, Bồ Tát hiển linh. Bao nhiêu Quả Vị. Bắt người tu phải giữ bao nhiêu Giới. Hành bao nhiêu Hạnh… tưởng chừng thực hiện xong sẽ trở thành Phật hay thánh nhân, ngồi trên Tòa Sen để “cứu nhân độ thế” làm cho nhiều người hiểu lầm văn tự mơ màng, ảo tưởng… không ngờ kết quả chỉ là “SỐNG AN, CHẾT LÀNH. CÓ TÁI SINH CŨNG VỀ NƠI TỐT ĐẸP”. Đó là mục đích của Đạo Phật được ghi rõ trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Người Tu Phật chỉ làm công việc SỬA CÁI TÂM CỦA MÌNH, loại trừ THAM, SÂN, SI, THƯƠNG, GHÉT, thì lúc nào, hoàn cảnh nào mà chẳng làm được, đợi gì phải rảnh rang, nhẹ gánh áo cơm? Ngược lại, càng vào Đạo sớm ngày nào là được lợi lạc ngày đó. Chính sự hiểu lầm từ bao thời, cho rằng nếu muốn tu hành thì phải đầy đủ hình tướng đã cản trở biết bao nhiêu người muốn phát tâm, làm cho Đạo Phật không đại chúng hóa được mà chỉ dành riêng cho một số người đủ điều kiện Xuất gia mà thôi. Xét kỹ con đường tu hành, dù là Xuất Gia hay tại gia, chúng ta thấy mục đích cuối cùng vẫn là đạt được: “Tứ Đại Giai Không” hay “Lục Căn thanh tịnh”. Những thứ này do Chuyển Hóa cái Tâm mà có kết quả. Hình tướng, nơi chốn, hoàn toàn không đóng góp hay quyết định gì cho việc thành tựu đó cả.

Có người sẽ không đồng ý, cho rằng nếu tu theo Đạo Phật mà chỉ cần làm có bao nhiêu việc thì quá tầm thường, bởi rõ ràng Kinh viết nào là Chư Phật, Chư Bồ Tát, Tứ Quả Thánh. Tây Phương Cực Lạc, Đông Phương Tịnh Quốc… Rồi thì Phật “cứu độ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới” là thế nào? Chẳng lẽ những điều đó không có thật? Và tu hành nếu cuối cùng chẳng có Chứng Đắc gì cả thì chịu đựng bao gian khổ để làm gì?

Điều này có lẽ phải hỏi lại người chất vấn. Chẳng lẽ chúng ta quên Đạo Phật được gọi là ĐẠO ĐỘ KHỔ hay là Đạo NHÂN QUẢ? Tự con người thấy Khổ, Phát Tâm vô Đạo để trốn, được một thời gian lại đòi làm Phật, làm Thánh, Đòi quả này quả nọ!? Như vậy Đức Thích Ca hay chính chúng ta tiền hậu bất nhất? Thấy vậy ta mới thương Đức Thích Ca. Vì thương con người, muốn cho họ hết Khổ mà Ngài đã phải bày ra vô số phương tiện, rồi còn phải biện minh trong Phẩm Anh Nhi Hạnh, Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Lại như Anh Nhi lúc kêu khóc, cha mẹ liền lấy lá dương vàng mà bảo rằng : Nín đi đừng khóc. Vàng đây ta cho con. Anh Nhi thấy là dương vàng tưởng là vàng thật bèn thôi không khóc nữa. Nhưng đây là lá dương, chẳng phải vàng thật. Cũng vậy, trâu gỗ, ngựa gỗ, người gỗ, Anh nhi cũng tưởng là trâu, ngựa, người thật liền chẳng khóc nữa”. Lá Dương Vàng, Trâu gỗ, ngựa gỗ.. là các Nước Phật, Quả vị… là Phương Tiện mà Đức Thích Ca dùng để dỗ con nít nín khóc. Con người nhờ đó mà Hết Khổ. Như vậy chẳng phải Đức Thích Ca đã đạt được mục đích hay sao?

Phải nhìn nhận rằng Đức Thích Ca không chỉ là một nhà truyền giáo mà còn là một nhà Tâm Lý Học siêu đẳng. Biết con người vì đam mê vàng, bạc, kim cương, ngọc ngà châu báu là những món quý của trần gian, rồi tranh giành, lừa dối nhau, thậm chí là giết nhau để chiếm đoạt, tạo Ác Nghiệp, trong tương lai gần hay xa phải trả. Nhưng nếu nói chuyện Trả Nghiệp thì xem ra quá xa vời, con người có thấy đâu mà sợ. Cho nên Ngài dùng đúng Bảy món Báu, mà rất rất nhiều, ở một nơi khác, để cho con người tạm buông bỏ những thứ nhỏ nhặt đang tranh giành, hy vọng sẽ có được nhiều vô số kể, rồi làm theo những gì Ngài hướng dẫn để được rước về đó. Nhờ vậy mà tạm được yên ổn. Con người vốn ham địa vị, nếu biết tu hành rồi chẳng có được chức vụ nào trong Đạo thì tu làm gì? Vì thế, Tứ Quả Thánh được đưa ra để dụ họ, trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa gọi đó là Hóa Thành Dụ, tức là một chỗ tạm nghỉ ngơi cho người đi đường xa. Nhưng không phải là hành trì gian khổ cuối cùng là chẳng được gì hết. Cái người tu đạt được gọi là VIÊN NHƯ Ý BỬU CHÂU. Có nghĩa là mọi thứ đều được hài lòng, do không còn đòi hỏi, tìm cầu. Đó là cái Hạnh Phúc, cái An Lạc chẳng phải là thứ mà tất cả mọi người, nghèo cũng như giàu, sang cũng như hèn đều mong có đó sao?

Nhìn lại cuộc đời tu hành của Đức Thích Ca, ta thấy từ lúc Đắc Đạo cho đến đi giảng suốt 49 năm, Ngài không hề thi triển thần thông, không hề cứu độ một ai. Thậm chí cuối đời còn chết vì “ngộ độc thực phẩm” do Thuần Đà cúng dường! Chẳng lẽ lúc sống chỉ là con người bình thường, sau khi chết lại hiển linh? Tất cả “Chư Phật, Bồ Tát, cứu độ Chúng Sinh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới”, là nói về nhũng tư tưởng tốt, xấu, lúc nào cũng lăng xăng khởi, diệt trong Cõi Tâm của mỗi người. Trong đó có những tư tưởng thánh thiện, giả gọi là Phật, Bồ Tát, và những tư tưởng xấu, ác, si mê được gọi là Chúng Sinh. Nói Tam Thiên Đại thiên hay Ba Cõi vì có 3 xu hướng: Tham, Sân và Si, lúc nào cũng “trùng trùng duyên khởi”. Mỗi người phải tự mình độ những “Chúng Sinh” đó cho chính mình, nên Đạo Phật gọi là Đạo TỰ ĐỘ. Nếu Phật Thích Ca Độ được mọi người thì Ngài còn đặt ra Giáo Pháp để hướng dẫn chúng ta làm gì. Cứ dạy cầu xin là đủ, và cũng không cần đề cập đến NHÂN QUẢ nữa! Với người ngóng chờ về Tây Phương, Đông Phương thì Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Ly thế mịch Bồ Đề. Cáp như cầm thố giác” Có nghĩa là việc tu hành thành tựu hay không, cũng ở tại trần gian. Không thể tìm giải thoát ngoài thế gian. Rời thế gian, tưởng tượng cảnh giới nào đó để tìm Bồ Đề thì cũng giống như tìm sừng thỏ. Hơn nữa, cảnh trần dù giả tạm, nhưng cũng kéo dài cả 100 năm, chúng ta hoàn toàn có quyền mơ màng chuyện bên kia thế giới, nhưng tại sao không chung tay cùng mọi người xây dựng hiện tại cho nó thêm tốt đẹp, vì có vô Chùa đi nữa vẫn phải dùng áo, cơm và mọi phương tiện sinh hoạt của đời? Nếu có xét kỹ Nhân Quả hẳn mọi người không dám khinh xuất. Có lẽ vì lý do đó mà ta thấy MÃ TỔ ngày xưa dù cai quản cả một Thiền Viện, nhưng đã “Nhất nhật bất tác. Nhất nhật bất thực”.

Qua tham khảo khá nhiều Bộ Kinh lớn, tôi rút ra kết luận rằng Đạo Phật chân chính là một con đường giúp cho con người giải quyết cuộc sống một cách hết sức là thực tế. Người tu Phật không làm cho cuộc đời thay đổi, nhưng tự thay đổi cái nhìn của mình đối với cuộc đời. Nếu trước khi tu học mọi người thấy cuộc đời là Thật, lúc nào cũng chiều theo những gì do Lục Căn mang vào làm cho cái Tâm luôn bất an. Rồi khi thấy bất lực với cuộc đời thì mong chờ sự cứu độ của Thần Linh, dù không biết rằng các vị có hay không. Từ khi biết đến Đạo Phật, người tu sẽ học được sự Tự Chủ, Tự Tin, tự tạo Nhân lành và biết rằng Quả Thiện sẽ đến mà không cần cầu xin ai. Ngay cả khi lỡ phạm tội ác tày trời thì cũng chẳng cần phải Sám Hối với Phật nào, chỉ cần tự Sám và không tái phạm, vì biết đó là tự ta có lỗi với chính mình, bôi bẩn Phật của chính mình, không ảnh hưởng tới Phật nào khác. Và cũng chính ta là người phải trả Nghiệp, không có Phật nào trả giùm hay có quyền tha thứ cho ta được.

Không xin bớt. Không nài thêm. Gặp điều xấu thì biết đó là Quả đã gieo từ trước, không phải tự nhiên mà đến với mình, nên không oán trách. Không vi phạm những gì không thuộc về mình. Tự mình sắp xếp cuộc sống, không nương tựa, cầu xin… tất cả nhờ Quán Sát, Tư Duy, chiêm nghiệm, thực hành. Qua đó sẽ thấy cuộc đời không bền, không thật, chỉ là giấc mơ trăm năm nên con người sẽ rộng lượng hơn, bao dung hơn, yêu thương cuộc đời hơn, và đóng góp trong sức mình để xứng đáng một kiếp sống, bởi ý thức có được thân người không dễ dàng. Biết cuộc đời là Vô Thường. Duyên cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè cũng khó khăn lắm mới có thể gặp nhau, và chỉ được gần bên nhau kiếp này mà thôi. Một lần chia tay sẽ là mãi mãi, vì thế nên trân trọng thời gian bên nhau và yêu quý nhau, để kiếp sống được an vui gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Đó là những gì mà Đức Thích Ca đã bỏ một đời để rao giảng và 33 vị Tổ nối truyền còn ghi lại trong Kinh Sách.

Phải chăng khi người đời không còn đối đầu, thù nghịch, tranh giành với nhau, mà chỉ còn tình yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau thì tất cả sẽ được sống an lành, hạnh phúc cho đến hết kiếp trên hành tinh xanh này. Đó không chỉ là mục đích của Đạo Phật, mà cũng là mục tiêu của tất cả các Tôn Giáo chân chính, và những con người văn minh, tiến bộ vậy.

Tâm Nguyện (7/2014)

THẦN BÚT NGUYỄN DU

QUA CÁCH SỬ DỤNG

9 LẦN - 3 TỪ LÁY

PHẠM ĐAN QUẾ

Nói về Văn chương nghệ thuật Truyện Kiều thì thực không bút nào tả xiết, và ta đành phải dùng ý sau đây của Mộng Liên Đường chủ nhân trong LỜI TỰA TRUYỆN KIỀU viết từ cách đây gần hai thế kỷ (1820): “...Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi đau đớn như đứt ruột...” hoặc “...Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy...”. Chúng tôi không chỉ muốn ca ngợi văn tài của Nguyễn Du một cách chung chung mà nêu ra những dẫn chứng cụ thể rõ ràng, xin được xét ở đây cách sử dụng 3 từ láy độc đáo của Thần bút Nguyễn Du.

1. TỪ LÁY NGỔN NGANG

Ngổn ngang được dùng 4 lần trong Truyện Kiều ở những vị trí khác nhau với sắc thái tu từ khác nhau nhưng đều rất hợp cảnh, hợp người. Khi chị em Kiều đi lễ hội Đạp Thanh là cảnh:

0049. Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.

Ngổn ngang : hình dung những vật rải rác không có hàng lối (Từ điển Truyện Kiều), chị em Kiều kéo nhau lên gò lên đồi, những gò đống (đồi núi không cao lắm) ở đây chồng chất mọi nơi không có trật tự gì cả. Từ láy đặt lên đầu câu làm tăng vẻ lộn xộn của cảnh vật nơi đây.

Sau hội Đạp Thanh, tối đến, dưới ánh trăng “Gương nga chênh chếch dòm song”, Kiều nhớ và nghĩ đến Đạm Tiên và Kim Trọng mà:

0183. Ngổn ngang trăm mối bên lòng,

Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

Ngổn ngang theo nghĩa bóng chỉ tình hình bề bộn nhiều mối (Từ điển Truyện Kiều), ý nghĩ của nàng trở nên lộn xộn, chồng chất tựa như không gỡ ra được, từ láy cũng đặt ở đầu khổ thơ như muốn nhấn mạnh đến những mối lo nghĩ trong lòng, không biết làm sao.

Khi Kiều quyết định bán mình thì Vương Ông toan “gieo đầu tường vôi”, nàng phải tìm lời khuyên can, những lời khuyên đầy tình nghĩa của một người con hiếu thảo nên:

0683. Phải lời, ông cũng êm tai,

Nhìn nhau giọt ngắn giọt dài ngổn ngang.

Ở đây là những ý nghĩ bộn bề nhiều mối, từ láy ngổn ngang tách riêng thành một nhịp ở cuối câu tạo nên sự cân đối hoàn chỉnh, sau tiểu đối giọt ngắn giọt dài, không chỉ vì gieo vần và nhịp điệu mà còn cân đối cả về mặt ý nghĩa xót thương, cay đắng trước cảnh gia biến.

Sau khi gặp được Từ Hải, tạm yên ổn thì Từ ra đi, Kiều trong cảnh “chiếc bóng song mai” nhớ đến gia đình, cha mẹ, chàng Kim và lòng rộn lên bao ý nghĩ:

2245. Tấc lòng cố quốc tha hương,

Đường kia nỗi nọ, ngổn ngang bời bời.

Ngổn ngang chỉ tình hình bề bộn nhiều mối, ở vị trí vần ứng được dùng kết hợp với bời bời chỉ tình trạng rối ren mối này vướng mối khác, hai từ láy gần nghĩa đi liền ở cuối câu nêu bật được tâm trạng của nàng Kiều khi dõi theo hình bóng của Từ:

2247. Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

2249. Đêm ngày luống những âm thầm,

Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương.

Đoạn thơ 6 câu này có tới 5 từ láy đặt đúng chỗ cho thấy tâm trạng của Kiều ngập tràn âm hưởng và cảm xúc, dù câu đầu có tới hai từ Hán Việt vẫn tao nhã, nghệ thuật mà đầy vẻ dân dã, vẫn đến được với người đọc bình dân.

Tuy ngổn ngang được dùng 4 lần nhưng lần đầu là về vật chất (Ngổn ngang gò đống), ba lần sau đều là tâm lý, tinh thần. Nếu ta chú ý thì thấy ngổn ngang khi nằm đầu câu lục (0183), khi nằm cuối câu bát (0684) và khi nằm giữa câu bát (2246), cả ba trường hợp đều là những vị trí hợp tình hợp cảnh, mỗi vị trí có một giá trị tu từ và sắc thái biểu cảm riêng không thể thay thế.

2. TỪ LÁY HÃI HÙNG

Ta biết rằng giá trị ngữ nghĩa của từ láy phụ thuộc vào vị trí của nó trong câu thơ. Cùng miêu tả tâm trạng sợ hãi đến khủng khiếp của Kiều, nhưng trong những hoàn cảnh khác nhau lại có những mức độ biểu cảm khác nhau và Nguyễn Du đã đặt từ láy hãi hùng ở những vị trí khác nhau trong những câu thơ sau đây:

+ Sau khi bị bắt cóc và đánh thuốc mê, Kiều đang còn thiêm thiếp, mê man trong một lâu đài lạ thì:

1719. A hoàn liền xuống giục mau,

Hãi hùng, nàng mới theo sau một người.

+ Và đây là cảnh Thúy Kiều cùng Sở Khanh đi trốn khỏi lầu Ngưng Bích, trốn khỏi mụ Tú Bà trong tâm trạng sợ bị bắt lại, một mình giữa đêm khuya, khi Sở đã quất ngựa truy phong:

1127. Một mình khôn biết làm sao,

Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng.

+ Còn đây là khi nhận lễ vật của Hồ Tôn Hiến, Kiều đang là phu nhân của Từ nhớ đến những ngày lưu lạc, gian truân đã qua, nghĩ đến việc thuyết phục Từ Hải ra hàng. Nàng muốn Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương và trong dòng tâm sự của nàng, ta được đọc:

2485. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,

E dè sóng gió, hãi hùng cỏ hoa.

Tuy cả ba từ hãi hùng đều nằm ở câu bát, nhưng khi thì ở đầu câu, khi ở giữa câu, khi ở cuối câu là do tâm trạng nàng mỗi lúc một khác. Từ láy hãi hùng đặt ở đầu câu, câu thơ có sức nặng thể hiện cao nhất nỗi sợ hãi của Kiều, từ này lùi về sau trong câu thơ mức độ đó cũng giảm dần. Liên hệ đến 3 trường hợp trên, ta thấy ý nghĩa của từ láy đúng là như vậy. Trong cơn mê man, bàng hoàng tỉnh dậy trong trạng thái khiếp sợ đã đến chỗ cùng cực nên hãi hùng đứng ở đầu câu bát: Hãi hùng nàng mới theo sau một người.

Ở trường hợp thứ hai, Kiều đắn đo trong suy tính, hoảng sợ trước sóng gió của cuộc đời nhưng vẫn là tính toán của một vị phu nhân nên mức độ có giảm bớt: E dè sóng gió, hãi hùng cỏ hoa.

Sau cùng, hãi hùng tách riêng thành một nhịp ở cuối câu, Kiều sợ bị Sở Khanh bỏ rơi là tâm trạng lo sợ nơm nớp tuy vẫn còn ngồi trên ngựa thì đấy lại là trường hợp từ láy khi đứng ở cuối câu thường mang ý nghĩa tổng kết, kết luận về một trạng thái tâm lý được miêu tả trước đó nên mức độ lại giảm hơn: Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng.

Kể ra cũng lạ khi Nguyễn Du chỉ dùng có 3 từ hãi hùng mà đều ở câu bát với 3 vị trí khác nhau đúng như những gì ta thấy. Bằng các phương tiện miêu tả khác nhau, hệ thống từ láy đã thể hiện được các giá trị ngữ nghĩa nhất định trong Truyện Kiều và các từ này tạo thành thế giới nghệ thuật ngôn từ phong phú của Nguyễn Du. Tuy nhiên, nếu ta bỏ qua không xét xem từ láy đã được sử dụng trong những văn cảnh khác nhau thì sẽ không thấy hết được tài năng của nhà thơ. Vì vậy ở đây, chúng tôi muốn cùng quý vị độc giả rút ra nhận xét về ba từ láy cụ thể trên đây đã được Nguyễn Du cùng sử dụng ba lần trong những hoàn cảnh khác nhau để xem ông đã xử lý chúng như thế nào trong những tình huống khác nhau. Và đây là từ láy thứ ba:

3. TỪ LÁY VẪY VÙNG

Riêng từ vẫy vùng nói về một con người có thói quen hành động tự do, tùy thích, không chịu một sự kiềm chế nào đã được dùng ba lần trong Truyện Kiều thì đều tập trung vào một mình Từ Hải.

+ Khi ở cuối câu trong lời giới thiệu: “Giang hồ quen thú vẫy vùng” - vẫy vùng tuy là động từ nhưng được dùng bổ nghĩa cho danh từ thú thành một cụm từ đặc biệt để giới thiệu người anh hùng nghệ sĩ trong Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.

2173. Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo

Chỉ bằng hai từ láy đường đường, vẫy vùng, Nguyễn Du đã nói lên cái sức mạnh tinh thần được biểu hiện cụ thể thành hành động của Từ Hải, khí phách của một người anh hùng mà ông yêu quý. Chàng đã có tất cả những biểu hiện bên ngoài khiến mọi người phải kính trọng và có năng lực hoạt động một cách tự do, không chịu một sự kiềm chế nào.

+ Khi ở giữa câu “Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi” thì từ láy này đúng là một động từ có nghĩa đen chỉ sự bơi lội tự do của loài sống dưới nước mà nghĩa bóng là tự do hoạt động, mặc sức tung hoành theo cách nói của Kiều để ca ngợi Từ Hải trước mặt tên phản trắc Hồ Tôn Hiến:

2549. Rằng: Từ là đấng anh hùng,

Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi.

+ Khi thì ở đầu câu “Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên”, từ láy này với chức năng trạng ngữ được đảo lên đầu để nhấn mạnh tạo thêm sức biểu cảm của câu thơ. Trong đoạn Tái hồi Kim Trọng, Kim được ông già họ Đô kể lại đến lúc Kiều gặp được Từ Hải và nói phải tìm hỏi tiếp Thúc Sinh thì mới biết rõ câu chuyện về sau… Và Thúc Sinh đã ca ngợi Từ bằng hai từ láy vẫy vùng, đùng đùng để diễn tả khí phách của chàng:

2921. Gặp nàng thì ở Châu Thai,

Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên.

2923. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,

Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.

4. KẾT LUẬN

Nếu xem lại các mục từ trên, thì cùng với 3 từ láy hãi hùng (Hãi hùng, nàng mới theo sau một người – E dè sóng gió, hãi hùng cỏ hoa – Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng) là 3 từ láy ngổn ngang với ý nghĩa về tinh thần (Trừ văn cảnh đầu có ý nghĩa vật chất cụ thể – Ngổn ngang gò đống kéo lên), ta cũng thấy lúc ở đầu câu, lúc ở giữa hoặc cuối câu như vậy: 0183. Ngổn ngang trăm mối bên lòng, 2246. Đường kia nỗi nọ, ngổn ngang bời bời, 0684. Nhìn nhau giọt ngắn giọt dài ngổn ngang.

Ngoài ra, từ láy vẫy vùng được dùng 3 lần cho Từ Hải cũng như thế: 2173. Giang hồ quen thú vẫy vùng, 2550. Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi, 2923. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên… Xin lập một bảng so sánh cụ thể:

Từ láy

Vị trí

Ngổn ngang

0183. Ngổn ngang trăm mối bên lòng,

Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

Đầu câu

2245. Tấc lòng cố quốc tha hương,

Đường kia nỗi nọ, ngổn ngang bời bời.

Giữa câu

2 từ láy

0683. Phải lời, ông cũng êm tai,

Nhìn nhau giọt ngắn giọt dài ngổn ngang.

Cuối câu

Hãi hùng

1719. A hoàn liền xuống giục mau,

Hãi hùng nàng mới theo sau một người.

Đầu câu

2485. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,

E dè sóng gió, hãi hùng cỏ hoa.

Giữa câu

2 từ láy

1127. Một mình khôn biết làm sao,

Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng.

Cuối câu

Vẫy vùng

2923. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,

Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.

Đầu câu

2 từ láy

2549. Rằng: Từ là đấng anh hùng,

Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi.

Giữa câu

2173. Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.

Cuối câu

Phải chăng hoàn toàn chỉ là vô tình, hay do Nguyễn Du đã viết những câu thơ trên bằng mẫn cảm nghệ thuật của một nghệ sĩ thiên tài mà ở cả 3 trường hợp trên, các từ láy đều không ở những vị trí trùng nhau và ở đúng những vị trí cần thiết như vậy, lúc ở đầu câu, lúc giữa câu, lúc cuối câu? Mỗi từ trong 3 từ láy trên chỉ được sử dụng 3 lần và ở mỗi vị trí chỉ có một lần! Nghĩa là 9 lần trong cùng một mô thức. Và phải in nghiêng đậm những từ láy trên mới thấy rõ hết được. Cũng nên nhận xét thêm rằng trong 3 từ láy trên trường hợp nào cũng có một khổ thơ có hai từ láy. Ta có cảm tưởng như ở đây có một sự sắp xếp thần bí nào đó vậy! Chắc chắn là nếu như phải suy tính xem đặt những từ láy này ở vị trí nào thì không sao có thể viết được những câu thơ như trên. Quả là thần bút Nguyễn Du!

PHẠM ĐAN QUẾ


THẾ LỮ

VỚI THƠ & NHẠC


(1907-1989)

NGHỆ SĨ TÀI HOA VỀ VĂN – THƠ – NHẠC – HỌA

TRONG TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Tên thật là Nguyễn Đình Lễ, hoặc Thứ Lễ. Thứ Lễ nói lái thành Thế Lữ: Người khách phiêu du qua trần thế.

Ông dùng bút hiệu Lê Ta, và cả Lê Tây khi viết văn vui (bài Lê Tây viết cho Lê Ta, Ngay Nay, số 169 trang 15). Các tên của ông lập thành một vế câu đối, không ai đối nổi: Thế Lữ làm quà hai thứ lễ: Một quả Lê tây, một quảy Lê ta.

Nhất Linh công nhận chất sáng tạo mới của ông trong: “Nguyễn Thế Lữ, một nhân vật mới trong làng thơ mới” trên báo Phong Hóa số 54,1933.

Thế Lữ gia nhập ban biên tập Phong Hóa, và trở thành thành viên Tự Lực Văn Đoàn 1934 ngay khi Nhất Linh thành lập. Ông hoạt động tích cực cùng các bạn văn nghệ sĩ trên hai báo Phong Hóa, Ngày Nay từ 1932 tới 1940.

Thời kỳ 1934-1937, sau khi Mấy Vần Thơ ra đời, ông được người đời ưa thích nhất trong số các nhà thơ mới.

Ông là người tiên phong trong việc xây dựng nền thơ mới, những câu thơ của ông còn mãi trong lòng người yêu thơ:

- Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu!

(Hổ Nhớ Rừng)

- Rũ áo phong sương trên gác trọ

Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang…

(Giây Phút Chạnh Lòng)

- Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên

(Lời Than Thở của Nàng Mỹ Thuật)

Những tiêu mục Tin Thơ, Tin Văn Vắn… của ông, là những bài phê bình thơ, dậy cách làm thơ, thưởng thức thơ được thanh niên đón đọc sôi nổi. Ông đã đỡ đầu nhiều nhà thơ trẻ như Xuân Diệu, Huy Cận… Ngoài ra, những truyện đường rừng, truyện kinh dị, truyện trinh thám… của ông cũng rất được hâm mộ… vì chúng đột nhiên cùng ông xuất hiện trên văn đàn Việt Nam. Thế Lữ còn là một người làm báo tài hoa. Với bút hiệu Lê Ta, (Lễ =Lê ngã, với chữ nho ngã = Ta, một cách đùa với luật chiết tự, phân tích chữ), ông viết phóng sự, bút chiến, văn vui… rất thu hút, như loạt bài Lê Ta Làm Báo, Lê Ta Xuống Hải Phòng…

Khi nền móng thơ mới thiết lập xong, rực rỡ hơn bao giờ hết với hàng loạt thi sĩ đầy tài năng: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên,… mà nhiều thi nhân đã được chính ông khám phá và giới thiệu. Thế Lữ quay sang kịch nói, tuy vẫn viết, vẫn làm báo Ngày Nay. Là một nghệ sĩ say mê kịch, đầy tài năng, tự học trước một thể loại hoàn toàn mới, ông đã trở thành một diễn viên kỳ đặc, một nhà dàn cảnh (đạo diễn) xuất sắc đầu tiên. Ông muốn xây dựng nền kịch nói riêng của Việt Nam. Vì sân khấu bao giờ cũng là bộ mặt văn hóa của một nước. Đó là lúc ông tìm thấy nơi dừng lại, sau bao nhiêu tìm kiếm, khám phá, xây dựng, rồi để lại con đường cho người đi sau: Có lẽ chỉ nơi sân khấu đầy biến đổi, những màn kịch phù du, như thật như ảo… là phù hợp với tâm hồn vô trụ, lúc nào cũng đi tìm cái mới của ông.

TIẾNG SÁO THIÊN THAI của Thế Lữ

Ánh Xuân lướt cỏ Xuân tươi

Bên rừng thổi sáo một hai kim đồng

Tiếng đưa hiu hắt bên lòng

Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn…

Tiếng Sáo Thiên Thai là một bài thơ lục bát. Theo nhà nhạc học Phạm Quang Tuấn, về ý thơ, có một sự vừa tương phản vừa hòa hợp giữa cái vui của cảnh Xuân tươi, Tiên đồng với cái buồn buồn của Thi sĩ nhớ Thiên Thai không bao giờ tìm lại được.

Ca khúc Tiếng sáo Thiên Thai

Thơ: Thế Lữ - Nhạc: Phạm Duy

Xuân tươi, êm êm ánh xuân nồng,

Nâng niu sáo bên rừng, Dăm ba chú kim đồng...

(Hò xang xê) Tiếng sáo

Nhẹ nhàng lướt cỏ nắng, Nhạc lòng đưa hiu hắt,

Và buồn xa buồn vắng, Mênh mông là buồn!

Tiên Nga, buông lơi tóc bên nguồn,

Hiu hiu lũ cây tùng, Ru ru tiếng trên cồn...

(Hò ơi làn) Mây ơi!

Ngập ngừng sau đèo vắng, Nhìn mình cây nhuộm nắng,

Và chiều như chìm lắng, Bóng chiều không đi!

Trời cao xanh ngắt! Xanh ngắt! Ố ố ô kìa!

Hai con hạc trắng (ơ) Bay về (về) nơi nao?

Trời cao xanh ngắt! Ố ố ô kìa! Ố ố kìa!

Hai con hạc trắng (ơ) Bay về (về) Bồng Lai.

(Đôi) Chim ơi. Lên khơi sáo theo vời,

Hay theo đến bên người, Tiên Nga tắm sau đồi...

(Tình tang ôi) Tiếng sáo,

Khi cao, cao mờ vút,

Cùng làn mây lờ lững,

Rồi về bên bờ suối,

Cây xanh mờ mờ...

Êm êm, ôi tiếng sáo tơ tình,

Xinh như bóng xiêm đình,

Trên không uốn thân hình...

(Đường lên, lên) Thiên Thai!

Lọt vài cung nhạc gió, Thoảng về mơ mộng quá,

Nàng Ngọc Chân tưởng nhớ, Tiếng lòng bay xa...

Nhạc sĩ Phạm Duy là một trong các nhạc sĩ tiền bối của nền âm nhạc nước ta với số lượng ca khúc trên 1000 bài gồm nhiều thể loại, là bạn thân của Văn Cao, hơn Văn Cao hai tuổi. Năm 2005, Phạm Duy đã hồi hương và về sinh sống ở Tp HCM, đã từ trần vào ngày 27-1-2013. Ông đã phổ nhạc bài Tiếng sáo Thiên Thai vào năm 1959 tại Sài Gòn.

THẾ LỮ đặt lời Việt cho ca khúc:

Xuân và Tuổi trẻ của La Hối

Có những khúc xuân ca, khi hát lên, chúng ta lại nôn nao nhớ về kỷ niệm của ngày Tết xưa cũ. Âm nhạc cũng giống như người tình, thường đem lại sự hân hoan, khắc khoải và những hoài niệm khôn nguôi... Hơn 60 năm trôi qua, mỗi độ xuân về, bất cứ ai là người Việt Nam đều không thể nào quên được giai điệu thắm tươi, rạo rực và thiết tha của La Hối trong ca khúc “Xuân và Tuổi trẻ”.

Nhạc sĩ La Hối sinh năm 1920 tại Hội An (Quảng Nam) trong một gia đình phong lưu mà phần đông con cái đều có ít nhiều năng khiếu về nghệ thuật. Từ nhỏ, La Hối đã tỏ ra là một học sinh xuất sắc ở các môn học và đặc biệt rất có năng khiếu về âm nhạc. Cậu tự học, tự nghiên cứu âm nhạc Đông-Tây, 14 tuổi đã tập tành sáng tác những giai điệu vui tươi, sôi nổi... Từ năm 1936-1938, La Hối vào Sài Gòn để hoàn chỉnh chương trình học vấn đồng thời cũng là dịp để cậu gặp gỡ, học hỏi các giáo sư, nhạc sĩ về nhạc cổ điển Tây phương. Sau đó, ông trở về Hội An dạy đàn và vận động những người cùng sở thích thành lập Hội yêu Âm nhạc (Société philharmonique). Ông được anh em tín nhiệm bầu làm hội trưởng và ông cũng là người đầu tiên đưa các hành khúc cách mạng Việt Nam vào chương trình hòa tấu (trước đó chỉ sử dụng nhạc ngoại quốc). Một số nhạc sĩ trẻ thời đó đã từng được La Hối hướng dẫn như: Dương Minh Ninh (tác giả ca khúc Gấm vàng), Lê Trọng Nguyễn (tác giả Nắng chiều), Lan Đài (tác giả Chiều tưởng nhớ)...

Trong giai đoạn phát xít Nhật xâm chiếm Trung Hoa, VN và các nước Đông Nam Á khác, phong trào kháng Nhật nổi lên mạnh mẽ ở khắp VN. La Hối đã gia nhập một tổ chức chống phát xít. Tháng 5-1945, ông và 10 đồng chí trong tổ chức bị Nhật bắt giữ. Sau nhiều ngày giam giữ và tra tấn vô cùng dã man, quân Nhật đã đem tất cả 11 người ra xử bắn và vùi lấp chung một huyệt tại chân núi Phước Tường (phía tây nam Tp. Đà Nẵng). Năm ấy, nhạc sĩ La Hối mới 25 tuổi!

Ca khúc Xuân và Tuổi trẻ được sáng tác trong thời kỳ La Hối bị hiến binh Nhật theo dõi, hoàn cảnh sống rất phức tạp và vô cùng khó khăn, thế nhưng giai điệu của tác phẩm lại là niềm hứng khởi, phấn chấn tin yêu vào cuộc sống.

Qua tìm hiểu và xúc động trước cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy khí phách của chàng nhạc sĩ - liệt sĩ tài hoa, Thế Lữ đã xin phép gia đình La Hối để đặt lời Việt cho nhạc phẩm giá trị này (Trước đó chỉ có lời tiếng Hoa). Từ đó, Xuân và tuổi trẻ luôn vang lên trong mỗi độ xuân về.

Nhạc sĩ La Hối vĩnh viễn ra đi trong tư cách một chiến sĩ khi tuổi đời còn rất xuân: 25 tuổi, nhưng ông đã kịp để lại cho đời một Xuân và tuổi trẻ bất diệt!

Xuân và Tuổi Trẻ - N hạc La Hối - Thơ Thế Lữ

Ngày thắm tươi bên đời xuân mới,

Lòng đắm say bao nguồn vui sống.

Xuân về với ngàn hoa tươi sáng,

Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng.

Ngày thắm tươi bên đời xuân mới,

Lòng đắm say bao nguồn vui sống.

Xuân về với ngàn hoa tươi sáng,

Ta muốn luôn luôn cười với hoa .

Xuân thắm tươi, én tung bay cao tít trời,

Vui sướng đi, cao tiếng ca mừng vui reo

Đừng để lòng thổn thức tình mê đắm

Ta trẻ vui, ta trẻ vui đời xuân thắm tươi

Xuân thắm tươi, én tung bay cao tít trời,

Vui sướng đi, cao tiếng ca mừng reo

Đừng để lòng thổn thức tình mê đắm

Ta trẻ vui, ta trẻ vui đời xuân thắm tươi

Vui sướng đi cho đời tươi sáng,

Vui sướng đi cho lòng thêm tươi,

Ta hát ca đón mừng xuân mới,

Ta hát ca cho lòng thêm hăng hái

Hát vang lên đời ta thắm tươi,

Tiết xuân huy hoàng muôn sắc hoa

Tiết xuân êm đềm muôn tiếng ca

Hát vang hòa lòng thêm hăng hái

Hát vang lên đời ta thắm tươi,

Tiết xuân huy hoàng muôn sắc hoa

Tiết xuân êm đềm muôn tiếng ca,

Xuân tưng bừng ...

Tác phẩm và phong cách nghệ thuật của THẾ LỮ

Là một nghệ sĩ đa tài, Thế Lữ hoạt động rộng rãi trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật, từ thơ, văn xuôi nghệ thuật (kinh dị, trinh thám, lãng mạn) cho đến báo chí, phê bình, dịch thuật và sân khấu. Trong tất cả các lĩnh vực, Thế Lữ đòi hỏi sự nghiêm túc, phong cách làm việc khoa học, cặn kẽ, tỉ mỉ, luôn muốn tìm ra sự hoàn mỹ. Đó là biểu hiện cho khát vọng của Thế Lữ: luôn săn đuổi và phụng thờ cái Đẹp đến suốt đời, như ông từng nêu tuyên ngôn trong bài thơ Cây đàn muôn điệu:

Tôi chỉ là một khách tình si

Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể.

Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ,

Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca

Cách tân nghệ thuật

Thế Lữ được xem là người có đóng góp đáng kể vào việc hiện đại hóa thơ Việt Nam. Tuy chưa thoát hẳn khỏi phong cách diễn đạt ước lệ của thơ cũ, thơ ông đã có những cách tân táo bạo về hình thức nghệ thuật[. Ông đã thử nghiệm nhiều thế thơ khác nhau (trừ thơ Đường luật ), bao gồm cả lục bát, song thất lục bát, năm chữ, bảy chữ, tám chữ trường thiên và cả thơ phá thể. Do đặt nặng tính duy lý, nên đơn vị trong thơ Thế Lữ không phải là mỗi câu thơ đơn lẻ mà là một mảng thơ, cấu trúc theo văn phạm tiếng Pháp. Khác với thơ cũ thường hàm súc, cô đọng, thơ ông thường đề cao tính dư thừa và diễn đạt khúc chiết, logic. Vì lý do này, Thế Lữ thường sử dụng lối “bắc cầu” thông dụng trong thơ Pháp, nhằm kết dính các câu thơ và cả đoạn thơ thành một mạch với nhau. Ông cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, như phép đảo ngữ, sử dụng nhiều dấu câu, liên từ... tuy nhiên những cách tân này không góp phần làm mới nhiều đến giọng điệu hoặc thể thơ trong thơ Thế Lữ. Những thể thơ đấy Thế Lữ chưa sử dụng thuần thục, về sau được các nhà thơ mới khác khắc phục. Ở thời kỳ đầu của Thơ mới, những cách tân của Thế Lữ đã mở đường cho bút pháp của nhiều nhà thơ sau này.

Đánh giá về Thơ

Hà Minh Đức nhận xét: “Thơ Thế Lữ giàu chất lãng mạn, trữ tình. Hình ảnh thơ đẹp, giọng điệu thơ mềm mại, trau chuốt. Tuy nhiên, cảm hứng thơ ít phát triển, hình tượng thơ có ít biển hóa và trong một số trường hợp rơi vào đơn điệu”. Uyên Thao khi bình luận, cũng cho rằng Thế Lữ chỉ hoàn toàn thành công ở một số bài như Nhớ rừng, Ý thơ, Tiếng sáo Thiên Thai, Giây phút chạnh lòng, còn lại thì chỉ thành công ở từng tiếng, từng âm, trong mỗi đoạn, mỗi câu.

Dù như thế nào, ảnh hưởng và vai trò tiên phong của Thế Lữ đối với thơ mới vẫn được công nhận. Vũ Ngọc Phan ghi nhận: “ Phan Khôi , Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy ở tương lai của thơ mới”. Và Hoài Thanh hoa mỹ hơn: “Độ ấy thơ mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam... Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ”.

TÓM TẮT

Tự lực Văn đoàn là tổ chức văn học chưa có tiền lệ trong văn học Việt Nam - được lãnh đạo bởi một nghệ sĩ đa tài, một con người giàu tâm huyết và có tầm nhìn xa - Nhất Linh đã biết đoàn kết cả nhóm lại trong một ý hướng chung do mình xướng xuất, biết truyền niềm say mê mãnh liệt của mình cho người khác, nhất là có con mắt tinh đời, biết khơi gợi đúng thiên hướng của từng người để mỗi tác giả trong Văn đoàn trở thành một cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại.

Bài thơ của 8 thành viên Tự lực Văn đoàn

Trong giờ phút chia tay với Xuân Diệu vừa được bổ làm Tham tá nhà Đoan tại Mỹ Tho: Hoàng Đạo, Nhất Linh, Thạch Lam, Huy Cận, Thế Lữ, Tú Mỡ, Khái Hưng, Xuân Diệu (theo thứ tự chữ ký) mỗi người góp một câu:

BÁT TIÊN QUÁ… CHÉN

Bỗng dưng thi sĩ hóa tây Đoan

Nửa mặt nhà văn, nửa mặt quan

Chén rượu tiễn đưa thơ khó nghĩ

Nỗi niềm cách biệt ý khôn toan

Hôm nay nhớ bữa chia bùi ngọt

Lát nữa còn vui cảnh tóp chan

Ví thử anh em đều xuất cả

Còn tuôn ra lắm mạch thơ gàn…

Hanoi 02-02-1940

Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu cho “thơ mới”… Sau đó, Thế Lữ được cả làng “thơ mới” thừa nhận là chủ soái thi đàn. Và Xuân Diệu, người tiếp bước Thế Lữ đem lại sự toàn thắng cho “thơ mới”, phổ vào thơ cái ma lực của những cảm xúc đắm say quyến rũ. Tự Lực Văn Đoàn là nơi phát hiện ra Anh Thơ, Tế Hanh, Nguyên Hồng, Đỗ Đức Thu, Mạnh Phú Tư, Bùi Hiển, Thanh Tịnh... (Nguyễn Huệ Chi –Thử định vị Tự lực Văn đoàn).

Trong buổi đầu của nền văn học quốc ngữ Việt Nam, Thế Lữ đã có những đóng góp to lớn cả ở thơ, truyện, báo chí, và sân khấu kịch nói. V ới ý thức chủ động học tập phương Tây để đổi mới nền văn học nước nhà, thực hiện tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn, ông đã tìm đến văn học Anh Pháp và có sự tiếp nhận sáng tạo độc đáo kĩ thuật sáng tác trong thể loại truyện ngắn. Đặc biệt là thể loại truyện trinh thám. Tiếp thu linh hoạt năm hình m ẫu truyện trinh thám của nhà văn Mỹ Edgar Poe mà hầu hết các nhà viết truyện trinh thám coi là khuôn mẫu, kết hợp tư duy Đông – Tây độc đáo, Thế Lữ đã có nhiều thử nghiệm mới mẻ, góp phần đặt nền móng cho truyện trinh thám Việt Nam.

Thế Lữ là người “khởi điểm của những khởi điểm” (Đỗ Lai Thúy, 2000, 31). Tên tuổi của ông gắn liền với tiến trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Về thơ, Thế Lữ là một trong người mở đầu, khẳng định vị thế cho Thơ Mới (1932-1942).

Về truyện, Thế Lữ là một trong số ít những nhà văn đầu tiên góp phần lớn hiện đại hóa truyện truyền kỳ, mở đầu truyện kinh dị huyễn tưởng hiện đại và cũng là một trong những người đặt nền móng cho thể loại truyện trinh thám Việt Nam.

Thế Lữ còn là một nhà báo, một cây bút phê bình văn học sắc sảo của Tự Lực Văn Đoàn. Đặc biệt, ở lĩnh vực sân khấu, ông vừa là diễn viên vừa là đạo diễn vừa là nhà biên kịch có tài, góp phần to lớn trong việc xây dựng nền kịch nói Việt Nam buổi đầu phôi thai đến những đỉnh cao của nó.

PHẠM VŨ

Tham khảo: Sách báo & Internet

BỨC CHÂN DUNG

BỊ TỐNG GIAM

Thúy Toàn

Vào năm một nghìn bảy trăm… Không thấy trong sử sách Nga ghi rõ ngày giờ, năm tháng. Nhưng căn cứ vào các tình tiết trong câu chuyện mà chúng tôi sẽ thuật lại dưới đây thì sự việc đã xảy ra vào khoảng giữa thế kỷ mười tám dưới thời nữ hoàng Elizaveta Pêtrôvna (1709-1761/62), con gái sa hoàng Đại đế Piôtrơ Đệ nhất. Vào một ngày đẹp trời (hẳn phải đẹp trời người ta mới hay đi dạo), ngài Lakov Stelin, giáo sư “hùng biện học và biểu tượng” của Viện Hàn lâm khoa học, phụ trách vụ Nghệ thuật, đi dạo qua các quầy hàng, cửa hiệu bên ngoài mấy cổng thành Kremli ở Matxcơva. Trong một cửa hàng bán đồ mỹ nghệ, ngài Stelin đã bắt gặp một bức tranh chạm khắc làm ngài sửng sốt kinh hoàng. Theo lệnh của nữ hoàng từ lâu ở đế chế Nga đã thiết lập chế độ kiểm duyệt chặt chẽ các chân dung vẽ nữ hoàng. Nhiệm vụ kiểm duyệt giao phó cho Vụ Nghệ thuật Xanh-Peterburg, không có phép của Vụ bất cứ một chân dung nào của nữ hoàng của bất cứ ai vẽ đều không được trưng bày, không được bán. Ở đây không phải chân dung vẽ mà chỉ là một bức tranh chân dung chạm khắc, không nằm trong trách nhiệm của Vụ do ngài Stelin phụ trách. Nhưng dù sao rồi cũng chỉ riêng ngài Stelin sẽ bị khiển trách vì tội sơ suất, không để mắt hết mọi chuyện. Để tránh bị kẻ nào khác tố giác, ngài Stelin bỏ ngay tiền ra mua hết các bức tranh chân dung chạm khắc bầy bán, cho chất lên xe ngựa, phóng một mạch trong hai ngày đêm về kinh đô Xanh-Peterburg, dâng lên nữ hoàng.

Có một điều còn làm ngài Stelin lúng túng không biết nên ra sao: kèm theo những bức chân dung phải có lời trình giải. Biết ăn nói sao đây?: Các bức chân dung chạm khắc này khá chững chạc, chân thực. Đó là bút pháp của một người có tên là Kônôn Timôfeev mà lâu nay ít nhiều đã được công chúng thừa nhận, tuy chỉ là một họa sĩ nghiệp dư. Thực ra Kônôn Timôfeev vốn là một viên chức thừa hành khiêm nhường ở Sở Hải quan Trung ương. Công việc của ông là không cho phép bất cứ một kiện hàng nào đi qua mà không đóng thuế. Ở vị trí này ông Kônôn Timôfeev là một người chi li và kiên định. Ông đã mang không ít của cải về làm giàu cho công quỹ nhà nước. Song bấy nay ông không hề được khen ngợi công trạng của ông cũng không được đánh giá. Trong cuộc đời ông chỉ thực sự có được niềm vui, niềm hứng khởi là ở công việc đêm đêm ông hì hụi làm thêm. Ông thực sự tìm ra ý nghĩa cuộc đời ở chỗ này. Làm xong phận sự người viên chức nhà nước, về nhà ông tự giam mình trong căn buồng chật hẹp, lấy những tấm lá đồng ra và gần như thức trắng cùng những đêm trắng Peterburg ông đưa mũi bút kim chạm khắc những bức tranh. Sau khi hoàn thành tác phẩm ông đặt giấy in lên mặt tranh, đưa lên bàn ép, thế là sau một lát trong tay ông đã run rẩy một bức tranh chạm khắc thơm mùi mực. Việc chạm khắc trở thành niềm say mê, thu hút tâm trí người viên chức Hải quan. Và ông đã thu hái được thành công - tác phẩm ông làm ra được cả các họa sĩ chuyên nghiệp khen ngợi. Kônôn Timôfeev mượn tác phẩm của các họa sĩ chuyên nghiệp làm mẫu. Và các bản chạm khắc của ông so với nguyên mẫu hết sức chuẩn xác, đôi khi trông còn đẹp hơn. Năng khiếu quan sát nhận biết cần thiết đối với công việc hải quan đã thực sự có ích cho công việc tay trái của Kônôn Timôfeev. Trong khi sang tranh trên bản chạm khắc Kônôn Timôfeev thường phát hiện ra những chỗ tác giả - họa sĩ đã thiếu sót hoặc diễn đạt không thật đúng với thực tế: khi thì cái giây móc gắn không đúng chỗ túi đựng đồ, khi lại là tấm huân chương sa hoàng thiếu mất vạch… Và ở ông có một điểm yếu: ông thích thêm thắt, bổ sung các chi tiết vào tranh, nhưng thực sự cần cho đúng với thực tế. Các họa sĩ - tác giả tranh mẫu ở chỗ này cũng bỏ qua cho ông, không lấy thế làm điều, vì xem đó là những tiểu tiết. K.Timôfeev chạm khắc rất nhiều tranh. Cả những cảnh chiến trận thời Piôtrơ Đại đế, cả những biểu tượng Flaman về đề tài cổ đại, nhưng nhiều hơn cả là các kiểu chân dung, trong số đó có chân dung nữ hoàng Elizaveta Pêtrôvna, mà ông vô cùng sủng kính. Ông chạm khắc lại chân dung nữ hoàng trong trang phục đại lễ, ở đó nữ hoàng được miêu tả toàn thân, cả những bức chân dung thường nhật, ở đó váy áo đầu tóc nữ hoàng chỉ trang điểm giản dị bằng những bông hoa khiêm tốn. Các tác phẩm của mình Timôfeev hào phóng tặng cho bạn bè, còn số ít đưa đến gửi các cửa hàng nhờ bán hộ, kiếm thêm chút thu nhập. Đặc biệt K.Timôfeev thành công ở bức chân dung cuối cùng vẽ nữ hoàng: bức chân dung nữ hoàng trong giờ phút đăng quang. Ông đã dồn bao nhiêu tâm sức, tình cảm cho công việc chạm khắc chân dung này. Ở đây, có thể nhà họa sĩ nghiệp dư đã có được cảm hứng sau lần được tận mắt chiêm ngưỡng nữ hoàng Elizaveta thích lui tới Sở Hải quan. Nữ hoàng thường đến bất chợt, mang theo rất ít tùy tùng. Bà đi qua các kiện hàng và bất chợt chỉ vào một hòm hàng nào đó bắt mở ra: xem các quan ngài nghị viện đặt mua những đồ vật quý giá gì từ nước ngoài gửi về? Một trong những lần vi hành như thế của nữ hoàng, có thể anh viên chức khiêm nhường của Sở đã may mắn trộm thấy dung nhan nữ hoàng. Chạm khắc lại bức chân dung nữ hoàng trong suốt buổi đăng quang do họa sĩ A.Melnikôv vẽ (1745), được trời phú cho biệt tài quan sát tinh tường và bản tính tôn sùng sự thật, Kônôn Timôfeev bất giác đã đính chính sửa chữa nguyên bản…

Nhìn thấy bức chân dung của mình do Stelin đem từ cửa hàng Matxcơva về nữ hoàng Elizaveta thực sự nổi “cơn tam bành thịnh nộ”. Để hả giận nữ hoàng cho giải tán nhà hát cung đình, bãi bỏ các tối vũ hội, ra lệnh lục soát tất cả các cửa hàng bán tranh, truy tìm những ai đã mua những bức tranh chạm khắc chân dung bà. Và vậy là số phận Kônôn Timôfeev đã được định đoạt. Nhà họa sĩ nghiệp dư bị bắt ngay tại nhiệm sở - Sở Hải quan Trung ương, bị tra tấn cực hình, bắt phải thú nhận có âm mưu gì đó. Không lấy được lời cung khai nào cả, cho rằng đây là tên âm mưu cực kỳ ngoan cố, cực kỳ nguy hiểm, vì thế ông bị đánh đập đến chết. Thật oan uổng, Kônôn Timôfeev cho đến khi tắt thở vẫn không hiểu mình bị kết tội gì. Ông có làm việc gì ám muội đâu. Ngược lại ông đã cúc cung phụng sự đế chế, phụng sự nữ hoàng. Với nữ hoàng ông một lòng sủng kính. Ông đã chạm khắc bao nhiêu chân dung của nữ hoàng. Và bức chân dung cuối cùng của “đức mẹ” ông đã bỏ bao nhiêu tâm lực, mang tất cả niềm hứng khởi, hân hoan, trìu mến để thể hiện…

…Theo nhiều ghi chép còn lưu giữ được cho tới nay thì con gái của Đại đế Piôtrơ, Elizaveta Pêtrôvna, là một người xinh đẹp hiếm có, Sứ thần Pháp khi đó là Campredon đã viết: “Một hoa khôi hoàn mĩ từ eo lưng, diện mạo, đến đôi mắt, đôi tay duyên dáng”. Một quan đại thần nước ngoài khác, Quận công Tây Ban Nha Đờ Liria cũng phụ họa: “Một nhan sắc siêu phàm”. Bá tước Nga Suvalôv còn cho rằng khó có thể nêu ra được một người phụ nữ khác có được dung nhan hoàn thiện hơn dung nhan nữ hoàng Elizaveta. Và thậm chí đến cả Elaterina Đệ nhị (1729-1796), còn hơn người tiền nhiệm của mình, không bao giờ chịu chia sẻ với ai cả về vinh quang nữ hoàng, lẫn vinh quang nữ giới, cũng ghi nhận: “Bà… cực kỳ kiều diễm, có đôi chân tuyệt đẹp”. Nhiều bức chân dung Elizaveta cũng khẳng định điều đó: một thân hình cân đối, thanh thoát, mặc dù hơi đẫy đà (theo kiểu các bậc bảo trợ lộng lẫy thời đại Rôma) với đôi vai tròn lẳn, vòng tóc kết quanh đầu màu hạt dẻ, cặp lông mày tối thẫm, đôi mắt to thăm thẳm mầu hồ thủy với cái nhìn tỏa sáng, sinh động. Chân dung của nữ hoàng Elizaveta đủ kiểu chiếm cả một gian trưng bày trong cung điện Mùa đông. Các họa sĩ đương thời ganh đua nhau giành quyền được vẽ nữ hoàng “Đức mẹ” của nước Nga. Tưởng như chẳng có gì đáng ngạc nhiên trong chuyện này: người đàn bà đẹp thích được người ta vẽ mình. Trang phục thì khác nhau, điệu bộ, tư thế đầu ngoảnh, cử chỉ… khác nhau, nhưng nét mặt thì dường như không thay đổi, các họa sĩ có lẽ người nọ đã sao chép y nguyên của người kia. Và thêm vào đó, trong hàng hà vô số chân dung của nữ hoàng tuyệt nhiên không tìm đâu ra một bức vẽ hình nhìn nghiêng. Thì ra đã có một mệnh lệnh tối cao quy định lấy bức chân dung khắc họa của họa sĩ hàn lâm Ivan Xôkôlôv (1717-1757), bức vẽ năm 1746 làm mẫu chuẩn. Lại đã có lệnh kiểm duyệt tranh trước khi cho bầy, cho bán, như đã nói ngay từ đầu… Tất cả mọi chuyện ấy là bởi vì, thực ra nữ hoàng Elizaveta trông rất xấu xí. Người đương thời đã từng lưu truyền những câu đồn đại châm biếm, hài hước (tất nhiên chỉ trong giới người Nga ở nước ngoài, còn ở trong nước thì cực kỳ nguy hiểm) về cái mũi to bè như củ khoai tây, cái cằm xệ, đôi má xi xị, cùng đôi tay ngắn ngủn, núng nính của nữ hoàng… Những lời ca ngợi của các nhà ngoại giao Pháp, Tây Ban Nha chẳng qua cũng chỉ là những lời ca ngợi ngoại giao. Những nhận xét “khách quan” của họ lập tức sẽ đến tai nữ hoàng mà vị bá tước Suvalôv, một bậc đại quan trong triều, thì từ lâu đã tìm kiếm cơ hội được nữ hoàng sủng ái. Còn lời nhận xét của Ekaterina II? Chẳng qua là một biểu hiện lòng biết ơn và đại lượng của Ekaterina II đối với người đã tác thành đám cưới cô công chúa Phổ đáng thương với hoàng thái tử nước Nga, mở đường cho cô ta leo lên ngai vàng nữ hoàng Nga. Sau vụ việc bức chân dung chạm khắc của Kônôn Timôfeev, nữ hoàng Elizaveta hạ thêm một chiếu chỉ nữa: từ nay các tranh chân dung chạm khắc cũng chịu sự kiểm duyệt nghiêm ngặt, thêm vào đấy không chỉ Vụ nghệ thuật Viện Hàn lâm Khoa học, mà còn lập thêm một Vụ đặc trách khác cùng chịu trách nhiệm công việc kiểm duyệt. Với hành động kiên quyết và bền bỉ của mình, nữ hoàng Elizaveta đã đạt được mục đích của mình: bà đã để lại cho các thế hệ sau muôn vàn bức chân dung, mà hình ảnh bà ở bức nào cũng giống bức nào thật tuyệt đẹp. Tuy nhiên không hiểu phép thần diệu nào một bức chạm khắc của Kônôn Timôfeev vẫn được lưu giữ lại trong dân gian. Ngày nay bức chân dung chạm khắc này được trưng bày trong một tủ kính riêng biệt tại thư viện công cộng Hoàng gia Xanh-Peterburg. Dưới tấm kính là hình miêu tả một người đàn bà béo núc với cái mũi to, hơi bẹt, cái cằm xệ thịt và đôi mí mắt nặng nề, như ngái ngủ. Đây mới là hình ảnh thực của vị nữ hoàng Nga Elizaveta, một trong những sa hoàng Nga lạ lùng nhất, kết hợp một cái đầu thực sự có tầm cỡ quốc gia với sự hiếu danh của nữ giới, sự cao cả kiêu hãnh và thói trả thù ty tiện, tấm lòng nhân hậu hào phóng và sự tàn bạo lạnh lùng.

Trích tập “Kể chuyện về văn hóa Nga” T.T

Viết theo tài liệu sách báo Nga


Phụ Bản II

CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN

& những chứng cứ lịch sử – pháp lý

về chủ quyền của Việt Nam

đối với HOÀNG SA – TRƯỜNG SA

PHAN HUY LÊ

I. Châu bản triều Nguyễn, một kho tư liệu lịch sử vô giá.

Châu bản triều Nguyễn, đúng như tên gọi của nó, là những văn thư trình lên nhà vua phê duyệt, mang dấu “ngự phê”, “ngự lãm” bằng màu son đỏ của Hoàng đế và đóng ấn tín của Hoàng đế cùng các cơ quan của triều đình nhà Nguyễn. Dấu ấn “ngự phê”, “ngự lãm” gồm nhiều loại hình khác nhau từ “Châu phê” có thể bằng một đoạn văn hay vài ba từ ngắn gọn như “Tri đạo liễu” (Biết cho), “Y tấu” (Y theo lời tâu), “Hảo” (Biết cho), đến “Châu khuyên” là vòng son đỏ điểm lên tên người hay sự việc mà nhà vua lựa chọn, “Châu điểm” là chấm son đỏ chấm lên đầu văn bản mà nhà vua chấp thuận, “Châu mạt” là nét son quẹt lên tên người hay sự việc không được nhà vua chấp thuận, “Châu cải”, “Châu sổ” là nét son gạch sổ lên những chỗ biểu thị sự phủ nhận hay cần chữa lại.

Tất cả những văn bản này do một cơ quan giữ vai trò như Văn phòng của Hoàng đế đảm nhiệm. Thời Gia Long (1802 – 1819) lúc đầu do Thị thư viện, Thị hàn viện, Nội hàn viện chuyên trách, sang thời Minh Mệnh (1820 – 1840) đổi thành Văn thư phòng rồi năm 1829 chuyển cho Nội các với chức năng “giữ sổ sách và chầu hầu tả hữu”. Trải qua triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị (1841 – 1847), tổ chức của Nội các với các cơ quan chuyên trách và số lượng quan chức, nhân viên có nhiều thay đổi theo hướng quy định chặt chẽ nhiệm vụ văn thư và lưu trữ của triều đình. Trong thời Pháp thuộc, Nam triều mất dần các quyền lực và năm 1933, vua Bảo Đại bỏ Nội các, lập một văn phòng mang tên Ngự tiền văn phòng.

Trong 143 năm tồn tại (1802 – 1945), kho tàng Châu bản triều Nguyễn hẳn rất đồ sộ. Nhưng rất tiếc là qua những biến cố lịch sử, qua chiến tranh và những tác động của thời gian, khí hậu, khối lượng Châu bản bị mất mát, hư hỏng khá nhiều. Hiện nay kho Châu bản triều Nguyễn do Trung tâm Lưu trữ quốc gia I thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước bảo quản. Theo kết quả kiểm kê năm 2012, các tờ Châu bản đóng thành 773 tập, gồm khoảng 85.000 văn bản. Ngoài ra còn khoảng hơn 3.000 tờ bị kết dính chưa được xử lý.

Châu bản triều Nguyễn gồm nhiều thể loại văn thư từ chiếu, chỉ, dụ,… đến khải, biểu, tấu, trình,… Trừ một số bản “phụng sao”, phần lớn là nguyên bản, bản gốc với nguyên dấu “Ngự phê”, “Ngự lãm” và ấn tín hoặc có dấu “Ngự phê” hoặc có ấn tín. Đây là một kho tàng tư liệu gốc rất quý giá, phản ánh trung thực tư tưởng chính trị cùng chủ trương, đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại của triều Nguyễn. Ngoài các văn bản từ nhà vua ban xuống, trong kho tàng Châu còn có loại tấu, khải, trình,… do các cơ quan của triều đình, các địa phương tâu lên xin ý kiến nhà vua. Loại văn bản này phản ánh khá khách quan cả tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội đa dạng của đất nước từ tình trạng mùa màng, thủy lợi, công thương nghiệp, đời sống người dân, các cuộc bạo loạn,… đến những vụ khiếu kiện, những hiện tượng tham những, việc thuyên chuyển, thăng giáng quan lại các cấp, những thay đổi trong bộ máy nhà nước và triều chính… Đây là một nguồn sử liệu gốc vô cùng quý giá phản ánh tổ chức và hoạt động của vương triều Nguyễn, tình hình mọi mặt của đất nước.

Châu bản là loại văn thư có dấu phê duyệt của Hoàng đế và ấn tín các cơ quan nhà nước, thuộc loại độc bản, quý hiếm, văn bản gốc với tính xác thực cao và giá trị thông tin về nhiều mặt, phản ảnh trung thực tình hình đối nội, đối ngoại của vương triều Nguyễn, trong đó có quan hệ giao lưu với nước ngoài. Do những giá trị xác thực đó và những ý nghĩa mang giá trị quốc tế, ngày 14/5/2014 UNESCO đã công nhận Châu bản triều Nguyễn là Di sản Tư liệu thế giới, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

II. Những Châu bản liên quan đến Hoàng Sa – Trường Sa

Từ mấy năm nay, nhiều nhà khoa học nghiên cứu về hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa đã chú ý khai thác kho Châu bản triều Nguyễn.

Website “Biên giới lãnh thổ” và Tuyển tập các Châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Ủy ban Biên giới quốc gia xuất bản, đã giới thiệu 19 văn bản Châu bản triều Nguyễn liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa. Trong số đó, văn bản 1 là bản tâu trình về việc chọn người sung vào Quốc sử quán và sự phê chuẩn của nhà vua, hoàn toàn không liên quan đến chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, còn lại 18 văn bản. Ngoài ra, nhà sử học Phan Thuận An ở Huế đem một tờ Châu bản ngày 15/12 năm Bảo Đại thứ 13 (15.12.1939) do gia đình lưu giữ trao tặng Bộ Ngoại giao. Như vậy cho đến nay, có cả thảy 19 đơn vị Châu bản triều Nguyễn liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được phát hiện và công bố.

Trong số 19 đơn vị Châu bản liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa, tôi chỉ nghiên cứu 18 văn bản thời Nguyễn trước thời Pháp thuộc, khi triều Nguyễn là một quốc gia độc lập tiêu biểu chủ quyền quốc gia. 18 văn bản này gồm 16 văn bản thời vua Minh Mệnh (các năm 1830, 1833, 1834, 1835, 1836, 1837, 1838) và 2 văn bản thời vua Thiệu Trị (năm 1847), trong khoảng thời gian từ 1830 đến 1847. Hai tờ Châu bản thời Thiệu Trị cho biết từ năm Thiệu Trị 5 (1845) đã hoãn việc phái thuyền ra Hoàng Sa, chờ năm sau phúc trình lại. Năm Thiệu Trị 7 (1847) Bộ Công tâu vì việc công quá bề bộn, xin dừng lại, đợi năm sau phúc trình lại (Châu bản 17, 18). Sau đó, chưa tìm thấy Châu bản tiếp theo. Vì vậy, tôi sử dụng cả 18 tờ Châu bản, nhưng tập trung khảo cứu 16 tờ Châu bản thời Minh Mệnh.

Trong khi nghiên cứu những văn bản này, tôi kết hợp với những tư liệu tương ứng và liên quan trong các nguồn tư liệu khác của nhà Nguyễn, quan trọng nhất là Đại Nam thực lực, Tiền biên và Chính biên, Đại Nam liệt truyện, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Đại Nam nhất thống chí.

BÙI ĐẸP st

(Tạp chí Xưa & Nay, số 449, tháng 7.2014)

ĐỊA DANH HOÀNG SA

TRONG

CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN

HẢI ĐƯỜNG

Trong Châu bản Triều Nguyễn, từ năm 1830 – 1847 thuộc các triều Minh Mệnh (1820 – 1840) và Thiệu Trị (1841 – 1847) hiện còn 11 văn bản (7 tấu, 2 phúc tấu, 2 dụ) đề cập trực tiếp đến địa danh Hoàng Sa.

Bản đồ Việt Nam thời Nguyễn: Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, hai quần đảo ở Biển Đông được vẽ thành một dải gồm 29 hòn đảo với tên chung “Hoàng Sa – Vạn Lý Trường Sa” (đăng trong A propos des iles Paraceles của P.A.Lapique, Saigon, 1929)

1. Hai bản tấu của thủ ngữ Đà Nẵng

ngày 27/6 Minh Mệnh 11 (1830):

Thuyền buôn của tài phú Pháp Ê-đoa, thuyền trưởng Đô-ô-chi-ly, phái viên Lê Quang Quỳnh cùng thủy thủ đoàn, ngày 20 rời cảng Đà Nẵng đi Lữ-tống (Lư-Tông, Luçon) buôn bán. Giờ Dần ngày 27, Ê-đoa và 11 thủy thủ đi trên chiếc tam bản lớn cập cảng nói rằng: canh 2 đêm 21, ở phía tây Hoàng Sa (xứ Cát Vàng) thuyền đụng đá ngầm bị ngập nước. Thuyền trưởng và phái viên còn đi sau. Cảng đã phái thuyền đem theo nước uống cứu hộ, giờ Ngọ đã gặp và đưa họ về cảng. (Tập Châu bản Minh Mệnh 43, trang 57, 58).

2. Dụ ngày 18/7 Minh Mệnh 16 (1835):

Chuyến đi Hoàng Sa lần này công vụ hoàn tất. Riêng cai đội Phạm Văn Nguyên trên đường công hồi đã trì hoãn, có chỉ giao bộ Công trị tội. Nay phạt 80 trượng cho phục chức cai đội. Các tên giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn Văn Hoằng vẽ họa đồ Hoàng Sa chưa chu tất, phạt mỗi tên 80 trượng. Các tên hướng dẫn hải trình Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh thưởng mỗi tên một tiểu “Phi long ngân tiền”; binh thợ, dân phu hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi theo thưởng mỗi tên 1 quan tiền. (Tập Châu bản Minh Mệnh 54, trang 92).

3. Phúc Tấu của bộ Công

ngày 12/2 Minh Mệnh 17 (1836):

Châu phê (vua phê): “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước, rộng 5 tấc, khắc sâu hàng chữ “Năm Bính Thân (Minh Mệnh 17), họ tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu”. Đã phái thủy quân chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhựt giờ Mão hôm qua đi Ô – thuyền rời Thuận An vào Quảng Ngãi quản suất việc vãng thám Hoàng Sa kỳ nầy. Bộ đã cho làm đủ số cột mốc gởi gấp vào Quảng Ngãi. Châu cải (vua sửa lại): “Báo gấp cho Quảng Ngãi thực thu ngay, giao cho tên ấy nhận biện”. Châu phê: “Thuyền nào đi tới đâu, cắm mốc tới đó để lưu dấu”. (Tập Châu bản Minh Mệnh 55, trang 336)

4. Tấu của bộ Hộ ngày 11/7 Minh Mệnh 18 (1837):

Xin 5 ngày cứu xét tấu sách của Quảng Ngãi xin khai tiêu (thanh toán) việc chi cấp lương tiền cho dân phu công vụ Hoàng Sa. (Tập Châu bản Minh Mệnh 57, trang 211)

5. Tấu của bộ Công ngày 13/7 Minh Mệnh 18 (1837):

Lần đi Hoàng Sa nầy trở về, trừ bọn Kinh phái thủy sư suất đội Phạm Văn Biện, tỉnh phái hướng dẫn Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, đà công Lưu Đức Trực khởi hành chậm trễ đã bị xử phạt. Nên chăng chiếu lệ thưởng tặng cho binh dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi theo, xin đợi chỉ. (Tập Châu bản Minh Mệnh 57, trang 244).

6. Dụ ngày 13/7 Minh Mệnh 18 (1837):

Trước có phái thủy sư, giám thành, binh dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định đi Hoàng Sa đo đạc, cắm mốc, vẽ họa đồ, trừ bọn Phạm Văn Biện gồm 4 tên can tội đã có chỉ phạt trượng. Còn binh dân đi theo lặn lội biển cả cực khổ, thưởng mỗi tên binh đinh một tháng lương, dân phu mỗi tên 2 quan tiền (Tập Châu bản Minh Mệnh 57, trang 245).

7. Tấu của Quảng Ngãi

ngày 19/7 Minh Mệnh 19 (1838):

Xin chiếu lệ miễn thuế năm nay cho 2 chiếc “Bổn chinh thuyền” đã đưa binh dân đến Hoàng Sa đo đạc giáp vòng từ hạ tuần tháng 3 tới hạ tuần tháng 6, hoàn tất công vụ nay đã trở về. (Tập Châu bản Minh Mệnh 64, trang 146).

8. Tấu của bộ Công

ngày 2/4 nhuần Minh Mệnh 19 (1838):

Việc phái vãng để đo đạc giáp vòng Hoàng Sa kỳ năm nay, ấn định khởi hành hạ tuần tháng 3, nhưng vì gió đông nổi lên liên tục kèm theo mưa lớn, tới hạ tuần tháng 4 vẫn chưa khởi hành được, xin tấu trình. (Tập Châu bản Minh Mệnh 68, trang 21)

9. Phúc Tấu của bộ Công ngày 26/1 Thiệu Trị 7 (1847):

Tháng 6 Thiệu Trị 5 (1845) phụng sắc về việc đình hoãn thám Hoàng Sa. Nay phúc tấu đợi chỉ có nên thám vãng Hoàng Sa kỳ này hay không? Châu phê: “Đình hoãn”. (Tập Châu bản Thiệu Trị 41, trang 83).

10. Tấu của bộ Công ngày 28/12 Thiệu Trị 7 (1847):

Hàng năm, vào mùa xuân theo lệ phái binh thuyền vãng thám Hoàng Sa thuộc hải cương nước nhà cho thành thục đường đi lối lại. Năm 1845 có chỉ đình hoãn kỳ vãng thám 1846. Vì công vụ bận rộn, năm nay cũng xin được đình hoãn. Châu phê: “Đình hoãn”. (Tập Châu bản Thiệu Trị 51, trang 235).

BÙI ĐẸP st

(Tạp chí Xưa & Nay, số 63B, tháng 5.1999)

VỀ BỨC THƯ

CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG

GỬI CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO

TRUNG QUỐC NGÀY 14.9.1958

LƯU VĂN LỢI

Mấy hôm nay, Bắc Kinh kỷ niệm 50 năm bức thư ngày 14.9.1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Câu chuyện bức thư của ông Phạm Văn Đồng mà Bắc Kinh lấy làm nền cho luận điệu Việt Nam dân chủ cộng hòa đã “công nhận” Hoàng Sa là của Trung Quốc. Nguyên văn bức thư như sau:

“Thưa đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mối quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.

Đã ký: Phạm Văn Đồng

Chính phủ Trung Quốc tuyên truyền đây là một “bằng chứng” Việt Nam công nhận quần đảo Hoàng Sa là của Trung Quốc.

Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm Văn Đồng người ta thấy bức thư chỉ có một nội dung là ủng hộ Trung Quốc quy định hải phận rộng 12 hải lý và hứa sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải tôn trọng quy định 12 hải lý.

Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lãnh thổ, càng không nói gì đến vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại xuyên tạc là “sự công nhận” Hoàng Sa là của Trung Quốc?

Ý định của ông Phạm Văn Đồng là ủng hộ quyền bảo vệ an ninh của Trung Quốc. Người ta chưa quên bối cảnh chính trị năm 1958. Khi đó Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc vừa giành được thắng lợi vĩ đại là đánh bật được Chính phủ Tưởng Giới Thạch thân Mỹ ra Đài Loan. Mỹ cay cú đe dọa Trung Quốc, cho hạm đội 7 vào eo biển Đài Loan. Đài Loan chưa rút khỏi Kim Môn, Mã Tổ, hai hòn đảo sát liền địa lục Trung Hoa và quấy rối Trung Hoa nhân dân. Bấy giờ Trung Hoa nhân dân còn yếu và đang thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Trên tinh thần hữu nghị Trung – Việt, ông Phạm Văn Đồng thấy phải ủng hộ quyền của Trung Hoa nhân dân bảo vệ an ninh của mình và chống thái độ hung hăng của Mỹ khi đó đã đưa hạm đội 7 vào eo biển Đài Loan. Thật đáng buồn là một cử chỉ anh em cao cả sau này lại bị Bắc Kinh lợi dụng và xuyên tạc thành “bằng chứng công nhận” chủ quyền của Trung Quốc. Ông Phạm Văn Đồng không nói đến vấn đề Nam Sa, Tây Sa vì Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam và Hội nghị hòa bình San Francisco năm 1951 đã bác bỏ yêu cầu của Liên Xô trao Paracels cho Trung Hoa nhân dân với tỉ lệ áp đảo 46/51. Nếu Bắc Kinh thật lòng muốn kỷ niệm bức thư của ông Phạm Văn Đồng thì chính phải kỷ niệm tư tưởng hữu nghị cao cả của bức thư. Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và lịch sử để chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ lâu thuộc chủ quyền Việt Nam.

BÙI ĐẸP st

(Tạp chí Xưa & Nay, số 315 – tháng 9.2008)

“Tâm Thành Lễ Bạc”

Tấm lòng của một “nhà nho” hiện đại

“ Tâm Thành Lễ Bạc ” của Nguyễn Phúc Vĩnh Ba , một nhà thơ ở đất Thần Kinh, là một tác phẩm dạng s amizdat - La thanh đường tàng bản.

Cuốn sách 128 trang, gồm 16 bài viết theo lối cổ văn, từ cáo (tức tuyên cáo, tương tự Bình Ngô đạ i cáo), phú, hịch, văn tế, đến văn bia . Theo mục lục:

1. Nhất thống sơn hà đại cáo

2. Văn tế Vua Hàm Nghi

3. Hịch cứu tế lương dân bị lũ lụt

4. Văn tế âm hồn thất thủ kinh đô

5. Văn bia khu tưởng niệm nhà lao An Nam

6. Văn bia Cố Cả Leopold M. Cadiere

7. Văn tế Nam Phong chủ bút Phạm Tiên sinh

8. Văn tế Th á c Gougah & Liên Khàng

9. Phú bạn Vong niên

10. Văn tế nạn nhân vụ sập cầu C ầ n Thơ

11. Tân Mão tân niên phú

12. Văn tế khóc vợ (viết cho bạn)

13. Văn tế Nguyễn Tri Phương

14. Quý Tỵ tân niên phú

15. Điếu văn bạn học: anh Trần văn Kháng

16. Văn tế tử sĩ Hoàng Sa

Giá trong sách có thêm hai thể văn “chiếu” và “biểu” nữa là “đủ bộ” . Sự vắng mặt của hai thể văn này cũng dễ hiểu: tác giả chẳng phải một học sĩ Viện Hàn Lâm chuy ê n soạn chiếu thư cho vua, mà cũng không đang sống trong thời quân chủ để có dịp dâng biểu lên vua về một việc gì đó. Nói chung, đây là các thể loại văn học (genre s of literature) cổ điển mà bây giờ hầu như tuyệt chủng , ngoài số di sản quý giá đang dần dần trở thành… hóa thạch. Hiện nay có lẽ còn không bao nhiêu người, ngoài các nhà nghiên cứu cổ văn, thích thưởng thức lối văn biền ngẫu nhiều nhạc điệu rất thú vị này, mà người sáng tác (thành công) thể văn này trong cả nước dễ chừng còn ít hơn nữa – chắc là không đủ đếm trên đầu ngón tay. Sự xuất hiện một tác phẩm loại này là một điều ngạc nhiên lý thú.

“Nhất thống sơn hà đại cáo” (giả định khâm mạng vua Gia Long tuyên cáo thống nhất sơn hà) bài văn đầu trong toàn tập, ôn lại một giai đoạn lịch sử cát cứ và khai phá, chiến đấu và xây dựng phần đất phía Nam của các chúa Nguyễn để sau đó tiến đến thống nhất giang sơn:

Khai khẩn đồng hoang núi thẳm, mồ hôi nước mắt kể biết mấy sông

Giao phong pháo nổ lũy tan, xương cốt máu me đổ tràn từng cuộc

Hơn bốn mươi năm Bắc Nam nội chiến, kìa Bố Chánh còn lưu vết đạn, kỳ được thua nghĩ bấy đau thương

Qua sáu bảy đợt Trịnh Nguyễn phân tranh, nọ L ũy Thầy vẫn rõ dấu gươm, trường thắng bại thấy thừa tức bực

Tiếp theo, bài Văn tế Vua Hàm Nghi mở đầu với những lời bi tráng:

Vua một nước lưu đày vì nước, khổ ấy là vinh

Người hai quê khắc khoải nhớ quê, chết mà như sống

Việc bôn tẩu mưu đồ diệt tặc dân còn ghi cốt khắc tâm minh

Chuyện bại hư hữu chí vô thời, sử đã chép công bình chính thống

Cuốn sách khép lại với bài Văn tế 74 tử sĩ trong trận hải chiến Hoàng Sa (năm 1974):

Những cái chết đã đi vào quốc sử, con cháu nghe mà xót dạ bàng hoàng

Bao con người vì gánh vác giang sơn, cây cỏ thấy cũng chạnh lòng tê tái

Trùng dương sóng dữ, mập mờ thuyền viễn thú, thân trai há sợ kiếp gian nan

Hải đảo gió cuồng, vời vợi biển quê hương, vai lính thêm bền lòng hăng hái

Thể văn này vốn là của Tàu. Tiền nhân ta đã dùng chữ Nho và thể văn biền ngẫu đối đáp này trong mọi sinh hoạt của triều đình và trong chương trình giáo dục quốc gia từ rất lâu đời; chỉ đến sau năm 1918 lối văn “bát cổ vần vè” đó mới chính thức nhường chỗ cho các thể loại văn học mới theo với sự bãi bỏ các kỳ thi nho học.

Lối văn biền ngẫu giàu nhạc điệu đọc lên nghe âm thanh lên bổng xuống trầm này, ngoài việc được dùng trong các văn bản chính thức của triều đình như cáo , chiếu , biểu , tấu , văn , hoặc văn nghị luận đạo lý, mang tính hàn lâm nghiêm túc, hay các bài văn tế trịnh trọng và cũng mang tính hàn lâm không kém, nó còn được các nhà nho xưa, thành đạt hay “bất phùng thời”, dùng trong các bài phú là loại “văn chơi” sang trọng và tao nhã của những người có học “chữ thánh hiền”.

Mặc dù chữ Nho được các triều đình Việt Nam dùng chính thức như văn tự quốc gia, nhưng các nhà nho Việt Nam xưa đã sớm dùng chữ Nôm thay thế chữ Hán trong các thể văn Tàu này để sáng tác thơ phú. Tuy vậy, thơ Nôm Hàn luật [i] được sáng tác nhiều và phổ biến hơn văn Nôm. Bài phú Cư Trần Lạc Đạo của vua Trần Nhân Tôn (thế kỷ 13) được xem là bài văn đầu tiên thể loại này được viết bằng chữ Nôm.

Đến cuối thế kỷ 18, ông Lê Qu ý Đôn từng làm bài văn Nôm “Mẹ ơi con muốn lấy chồng” thể hiện tài năng sử dụng thành ngữ tục ngữ tiếng Việt; và thi hào Nguyễn Du cũng dùng chữ Nôm làm bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, cũng là một loại “văn chơi”.

Từ đầu thế kỷ 19 trở về sau, các nhà nho Việt dùng chữ Nôm cho các sáng tác thơ phú của mình là rất phổ biến. Cảm động nhất có lẽ là cụ Đồ Chiểu dùng thể văn này trong các bài văn tế để bày tỏ tình cảm của mình với cuộc chiến đấu của nhân dân chống quân xâm lược và ghi nhận cuộc sống lầm than của người dân trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng.

Nhưng từ khi triều đình bãi bỏ các kỳ thi chữ Hán, các văn nhân cũng không còn mặn mà với loại văn đối ngẫu; rồi phong trào vận động văn học bằng chữ quốc ngữ vào những thập niên 30, 40 của thế kỷ trước đã đẩy thể văn cổ này vào thế vĩnh viễn “thất sủng”. Đến nay chỉ họa hoằn người ta mới thấy vài bài văn loại này (chủ yếu là “phú”) xuất hiện trên các tờ báo Xuân, thường là với giọng trào phúng. Và vì với mục địch mua vui trong ba ngày Tết, những bài “phú” này thường không được nghiêm chỉnh lắm về vần, đối và âm điệu trong câu.

Tâm Thành Lễ Bạc có lẽ là tác phẩm đầu tiên về thể văn cổ này, ít nhất là từ giữa thế kỷ 20 đến nay, nếu không muốn nói là từ sau kỳ thi hương cuối cùng ở đầu thế kỷ trước, được sáng tác một cách n g hiêm túc về mặt kỹ thuật và với tấm lòng thành kính của một “nhà nho hiện đại” hoài cổ, ôn lại một số khía cạnh hay vụ việc lịch sử cận đại (Nhất thống sơn hà đại cáo, Văn tế Vua Hàm Nghi, Văn tế âm hồn thất thủ Kinh đô, Văn tế Nguyễn Tri Phương…), hay bày tỏ tình cảm trân trọng và ngưỡng mộ những chiến sĩ bỏ mình vì nước mới đây (Văn bia khu tưởng niệm nhà lao An Nam, Văn tế tử sĩ Hoàng Sa…) và thương xót trước vong linh những người không may tử nạn trong thiên tai và tai nạn do sai lầm của con người (Hịch cứu tế lương dân bị lũ lụt, Văn tế các nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ…).

Viết ra những bài văn trên với tất cả lòng thành kính, tác giả Nguyễn Phúc Vinh Ba vẫn cho sự bày tỏ tâm thành đó chỉ mới là một chút lễ đơn sơ đối với tiền nhân và những người dân đã khuất. Cái tựa Tâm Thành Lễ Bạc của cuốn sách có lẽ có ý nghĩa như thế.

Tuy vậy, đọc “văn giả cổ” của Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, ví dụ, trong Văn tế Âm hồn thất thủ kinh đô năm Ất Dậu (1885) .

Tên bay đạn lạc, súng thằng Tây tìm kẻ ngây thơ

Lê thọc kiếm đâm, thịt dân Việt làm mồi lang sói

Thây nghĩa sĩ ngổn ngan g đường Thảnh Nội, dồn đống xóm Âm Hồn

Máu lương dân vung v ã i cửa Đông Ba xông tanh cầu Gia Hội

Man mác đám mây chiều phiêu dạ t , người dương gian thêm chạnh nỗi hàn ôn

Lạnh lành cơn gió chướng hắt hiu, khách âm cảnh còn vương tình trần giới …

ắt ta nhớ giọng văn tha thiết thê lương trong các bài Văn tế của cụ Nguyễn Đình Chiểu:

Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây

Trăm năm âm phủ ấy chữ qui, nào đợi gươm hùm treo mộ

Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng

Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Ôi thôi thôi! Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gởi lại bóng trăng rằm

Đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ …

(Nguyễn Đình Chiểu – Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Trong “Tâm Thành Lễ Bạc” ngoài những sự kiện và nhân vật lịch sử đã qua, Nguyễn Phúc Vĩnh Ba không bỏ qua những tai ương giáng xuống phần mệnh người dân trong cuộc sống luôn bất an hiện tại. Tác giả không kể chuyện chung chung hay hư cấu, mà đề cập những người thật việc thật rất cụ thể. Từ một trận lụt “làng hóa thành đồng”:

Mưa xối xả kinh thiên động địa, tối mày tắt mặt, phút giây vần vũ gió gào

Lũ hung hăng phạt mộc băng sơn, trôi gốc trốc cây, thoáng chốc mênh mông khí buốt

Tràn Hố Hô, xả Kẻ Gỗ biết mấy ngàn khối nước, ôi thôi rồi bao xã suýt tan hoang

Sạt Tả Lam, lở Khe Mơ chừng gần chục mét đê, còn chi nữa, dăm vùng đà trợt hớt

Nhà ngột thở, lụt lên sát mái, trẻ phá rui tay vẫy gọi trời

Xóm im hơi, làng hóa thành đồng, dân chạy lũ bùn hoen thấu trốt…

(Hịch cứu tế lương dân bị lũ lụt)

đến tai nạn thảm khốc ở Cần Thơ trong thời đại khoa học công nghiệp:

Sắt thép bỗng ầm ầm đổ xuống, y sao như sấm nổ trời cao

Dầm xà sao như rắc rắc gẫy đôi, giống hệt sợi thừng thiêu lửa nóng

Tiếng kêu cứu ai mô thảm thiết, dưới sàn, dưới đá, nhìn quanh sao mù mịt bốn bề

Lời trối trăn đâu rõ nghẹn ngào, trong nước trong bùn, nghe cố cũng hù hờ tám hướng.

Suốt mấy tuần sục tìm ráo riết, lính bộ thợ hầm đào sục sục, hy vọng đen đen tựa đêm đen.

Bao chục người nằm chết tanh tao, con thơ vợ dại khóc hù hù, khăn tang trắng trắng như tay trắng.

(Văn tế nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ…)

Ngày nay có lẽ chẳng còn được mấy người thích đọc cổ văn, nên một “nhà nho hoài cổ” như Nguyễn Phúc Vĩnh Ba dễ cảm thấy lạc lõng trong “cuộc sống với internet” hiện tại.

Có một giai thoại kể rằng có lần trước mặt vua Tự Đức ông Cao Bá Quát từng ứng khẩu một bài thơ thất ngôn bát cú bằng chữ Hán, trong đó mỗi câu thơ chữ Hán lại có xen hai chữ nôm. Trong bài thơ đó có hai câu này:

Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ

Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai .

(Trong vườn, chim oanh hót tiếng khề khà

Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm)

Giai thoại này rất phổ biến, được kể lại trên nhiều sách báo với hai câu thơ như thế. Đáng lẽ ra theo đặc tính đối nhau trong thơ thất ngôn bát cú, hai câu thơ trên phải được viết:

Viên trung oanh ngữ khề khà chuyển

Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.

(Trong vườn tiếng chim oanh hót khề khà

Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm)

“Oanh ngữ” (danh từ) đối với “đào hoa” (danh từ); “khề khà chuyển” (trạng từ + động từ) đối với “lấm tấm khai” (trạng từ + động từ) thì mới “chỉnh” và thích hợp. Nhưng cho đến nay chưa thấy những người có trách nhiệm hay có uy tín về cổ văn học lên tiếng chỉnh lại sự sai lầm này.

Có chỗ nói bài thơ với câu thơ được viết như thế xuất phát từ sách Văn Đàn Bảo Giám của Trần Trung Viên. Mà sách Văn Đàn Bảo Giám thì do nhà Nam Ký (Ký – dấu sắc) xuất bản lần đầu năm 1925. Cuốn sách ra đời chỉ bảy năm sau kỳ thi Hương cuối cùng (1918); lúc đó lớp nho học trong nước còn không phải là ít. Vậy mà ngay từ bấy giờ người ta đã bắt đầu không còn hiểu cấu trúc của một bài thơ ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn tám câu, là thể loại bắt buộc trong một kỳ thi quốc gia trước đó, nói chi đến các thể loại cáo, phú, hịch, văn tế, văn bia dài hơi!

Vĩnh Ba (mới ngoài sáu mươi?) không phải thuộc lớp nho sinh từng vác lều chiếu đi dự các kỳ thi hương ba năm một lần , vốn đã được bãi bỏ từ ngót một trăm năm nay rồi , nhưng dường như cho đến nay Nguyễn Phúc Vĩnh Ba có lẽ là một trong số người ít ỏi còn “chơi” một cách thông thạo và hoàn toàn nắm vững kỹ thuật sáng tác các thể cổ văn này. Cũng như trong những áng văn xưa của tiền nhân, trong văn Vĩnh Ba ít thấy câu đối thi [ii] , nhưng câu đối phú thì cũng đầy đủ câu song quan, cách cú, hạc tấc (hay gối hạc [iii] ) rất tề chỉnh, và các vế đối rất nghiêm túc.

Các áng cổ văn của các danh nho uyên bác đời trước thường dùng nhiều điển tích văn hoa và thâm thúy, đọc rất “nặng” nhưng rất thú vị. (Dùng điển tích là đặc tính uyên súc của các nhà đại nho, chớ không phải nhược điểm của thể loại). Văn của Nguyễn Phúc Vĩnh Ba khá “bằng phẳng”. Ngoài những sự kiện lịch sử được giải thích ở phần chú thích sau mỗi bài, hình như tác giả “hy sinh” điển tích để bài văn dễ đọc dễ hiểu hơn với nhiều người đọc “hiện đại”. Đành rằng điển tích mang lại nhiều thích thú cho một số ít người đọc chọn lọc, nhưng phần lớn người đọc bây giờ đã ít nhiều trở nên ngoại đạo với thể loại văn học cổ sắp hóa thạch này. Điển tích sẽ góp phần quyết định khiến họ củng cố thêm thái độ… “kính nhi viễn chi”!

Thiếu Khanh

i Nguyễn Thuyên, làm quan Hình bộ Thượng Thư, tức như Bộ Trưởng Tư Pháp, dưới triều vua Trần Nhân Tông. Do có công làm bài văn tế đuổi cá sấu trên sông Hồng, tương tự như ông Hàn Dũ bên Tàu đã làm, nên được vua Trần Nhân Tôn cho đổi họ Hàn - Nguyễn Thuyên thành Hàn Thuyên. Hàn Thuyên được cho là người Việt Nam đầu tiên làm thơ Đường luật bằng chữ Nôm, nên loại thơ này được gọi là thơ (theo) Hàn luật.

ii Câu đối thi thuộc loại câu song quan, nhưng gồm hai câu thơ bảy chữ, lời và ý đối nhau:

Lòng nghĩa dân thảo với ngô quân

Tiếng nghịch đảng lỗi cùng địch vực

Trời xuống nàn quỷ trắng mấy năm

Người uống giận suối vàng lắm bực

(Nguyễn Đình Chiểu – Văn tế Lục tỉnh nghĩa sĩ trận vong)

iii Câu “song quan”: Loại câu này mỗi vế một câu từ ba chữ trở lên, khá đơn giản, nhạc tính tương đối nghèo nên ít được tác giả sử dụng:

Thừa thiên mệnh tất làm vua

Cứu lương dân thời được nước

….

Nay mừng ngôi cửu tộ vững vàng

Vẫn nhớ thuở tẩu bôn xuôi ngược

(Nhất thống sơn hà đại cáo)

Hay:

Vẳng đôi tai còn nghe khúc “Thuật Hoài”

Bừng con mắt đã thấy câu “Trung Ngãi”

(Văn tế 74 tử sĩ trong trận hải chiến Hoàng Sa)

Loại câu “cách cú” - mỗi câu gồm hai phần (hoặc hai nhịp):

Hơn thế kỷ trôi qua trước mắt, anh linh thiên cổ còn đây

Mấy bi thương chất kín trong lòng, hương hỏa tứ thời ngát mãi

(Văn tế âm hồn thất thủ kinh đô…)

Hay:

Đề Thám, Đình Phùng, Đội Cung, Thái H ọc, bao nhiêu phen kh ở i nghĩa không thành

Cần Vương, Dân Đảng, Nghĩa Thục, Văn Thân, mấy mươi cuộc mưu đồ đều bại

(Văn bia khu tưởng niệm nhà lao An Nam ở Guyane)

Câu “gối hạc” hay “hạc tất” gồm ba phần hay ba “nhịp” (như cẳng chim hạc) Loại câu này với câu “cách cú” do nhiều thành phần, giàu nhạc điệu hơn, nên thường được dùng nhiều hơn, như cấu trúc câu chính trong tác phẩm:

Cơm vài quơ thôi đủ, rau dưa cho có, thủng thẳng đi tới mép tử sinh

Rượu mấy chén đã bưa, khô mắm cũng không, chuếnh choáng bước qua bờ tối sáng

(Phú Bạn vong niên)

Một dải đất vẫn là cương thổ, ông cha xưa bao đời gầy dựng, sao cam lòng để vuột mất đi

Dăm hòn đảo ấy vốn bản hương, anh em nay mấy độ canh cầy, quyết tận sức ra gìn giữ mãi

(Văn tế 74 tử sĩ trong trận hải chiến Hoàng Sa)

Mỗi năm mỗi có một mùa Trung Thu vui nhộn, truyền thống dân tộc.

Trăng Trung Thu lại là một vầng Trăng xinh đẹp và sáng tỏ nhất trong năm. Vì vậy, người ta thường bày ra Lễ Hội để vui chơi, để thưởng Trăng. Và phong tục được truyền lưu cho đến ngày nay.

Hễ nói đến Trung Thu, thì người ta nghĩ đến Trăng thanh gió mát, trà ngon, bánh ngọt, và thơ ca:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.. .

Hoặc là:

Hỡi trăng mơ màng

Sao trăng êm soi trên con thuyền chàng

Vì đâu trăng vui nên trăng rụng xuống cầu...

Hoặc là:

Dẫu cho ngọn núi phơ đầu bạc

Cũng có vầng trăng dõi bóng ngà...

Trung Thu cũng là lễ hội vui vẻ của trẻ em. Con nít có dịp vui chơi, xách lồng đèn, ngôi sao, con cá, mà nghêu ngao ca hát, cho cuộc sống thêm phần ý nghĩa...

Nhạc sĩ Lê Thương cũng có nói lên điều nầy qua bài ca bất hủ Thằng Cuội:

Bóng trăng trắng ngà có cây đa to

Có thằng Cuội già ôm một mối mơ

Lặng im ta nói Cuội nghe

Ở cung trăng mãi làm chi

Bóng trăng trắng ngà có cây đa to

Có thằng Cuội già ôm một mối mơ

Sáng rơi xuống đời, sáng leo lên cây

Sáng mỏi chân rồi, sáng ngồi xuống đây

Cùng trông ánh sáng cười vui

Chị em ta hãy đùa chơi

Sáng rơi xuống đời, sáng leo lên cây

Sáng mỏi chân rồi, sáng ngồi xuống đây

Các em thích cười muốn lên cung trăng

Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang

Mười lăm tháng Tám trời cho

Một ông trăng sáng thật to

Các em thích cười muốn lên cung trăng

Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang

Thanh Châu

Có người kể rằng: Một hôm một nhà sư Tây Tạng ngồi đốt củi nấu nước, nhìn làn khói lờ lững bay lên, không biết tới đâu, về đâu…, ông bỗng nghĩ đến khi cầu nguyện, ta cũng muốn đưa lời cầu nguyện của ta đến các đấng ở Niết bàn, ở Thiên đình… thì mượn làn khói đưa lên thôi. Sau đó, ông ta chế cây nhang và quy định là trước khi cúng ta đốt để khi cầu nguyện thì lời cầu của ta theo làn khói mà đến các đấng thiêng liêng. Tục đốt nhang bắt đầu từ đó.

Nhưng đốt nhang thì đốt mấy cây? Có lẽ chỉ đốt một cây thôi. Nhưng nhiều người cùng cầu nguyện thì thế nào? Tất cả mọi người cùng hướng về một làn khói có lẽ cũng được. Nhưng kẻ trước người sau, kẻ cầu việc nầy, người cầu việc kia làm rộn lên trong một đường di chuyển sẽ làm cho các đấng chỉ nghe ồn ồn mà không biết nói gì. Từ đó, người ta cho rằng khi ta cầu nguyện, ta đốt một cây nhang để cầu cho riêng mình. Vậy cũng được. Có lẽ phải giải thích rằng các đấng không biết có bao nhiêu tỷ tỷ tế bào để tiếp nhận với sự liên thông cực kỳ nhạy bén nên nhận được hết các lời cầu nguyện miễn là nó không bị nhiễu động.

Có lẽ bắt đầu có tục đốt nhang thì chỉ đốt một cây thôi. Nhưng khi đạo Phật truyền sang Trung Quấc, các nhà sư Trung Quấc thì cho rằng khi cúng kiến, cầu nguyện thì phải đốt ba cây. Một cây dâng trời, một cây dâng đất, rồi đến cây thứ ba mới dâng đến Phật, Thánh, Thần, tổ tiên, ông bà ta. Về lý thì đốt ba cây cũng phải. Về sau, thông lệ đốt ba cây đã phổ quát rồi thì cầu Trời người ta vẫn đốt ba cây. Thôi thì như vậy cũng được.

Nhưng Trời, Đất có cần biết việc người cầu khấn các vị khác không? Cũng có thể cần biết để xem nó nói để hại nhau thì trừng phạt nó. Cũng có thể là không cần biết vì người lớn mà biết việc riêng tư nhỏ mọn của thế nhơn làm gì! Ở đây, tôi cũng thêm một chút về quả báo. Tôi cho rằng khi nói lời thủ ác, nó tung ra những vi điện. Vi điện nầy cứ theo vòng từ trường mà tác động trở về chớ không phải Trời, Phật… làm ra như vậy.

Do đó, khi cúng kiến ta chỉ cần đốt một cây nhang thôi. Nếu đốt nhiều quá thì dòng ý tưởng cầu nguyện của ta loãng đi trong làn khói quá lớn.

Tóm lại, theo tôi:

- Mỗi người, mỗi lần cúng kiến chỉ cần đốt một cây nhang thôi.

Khánh Hội Quận Tư Saigòn ngày 10.8.2013

NHỰT THANH

(Phạm Hiếu Nghĩa)

ANDRÉ MALRAUX

Stéphane Doutrelant

“Tiểu thuyết hiện đại, dưới mắt tôi, là một phương tiện đặc quyền để diễn tả cái bi kịch của con người, chứ không phải là một sự giải thích cá nhân”

Malraux

“Nơi trung tâm của con người châu Âu, và nổi bật lên trên mọi hoạt động lớn của cuộc sống của nó, là một sự phi lý căn bản”

La Tentation de l’Occident – Sự cám dỗ của phương Tây

“Con người là một ngẫu nhiên và thế giới, về căn bản, do quên lãng tạo thành”

Les Noyers de l’Altenburg

“Tự do (…), là sự ý thức và cách sắp đặt của con người đối với những cái tất yếu của số phận nó”

Le Temps du mépris

“Mỗi người ai cũng đau khổ vì suy nghĩ. Trong sâu thẳm của mỗi người, lý trí chỉ quan niệm con người trong môi trường vĩnh cửu và ý thức về cuộc sống chỉ có thể là một nỗi lo âu quằn quại triền miên”

La Condition humaine – Thân phận con người

“Các người cũng biết rõ như tôi rằng cuộc sống chẳng có một ý nghĩa gì cả: cứ sống cô độc thì không sao thoát khỏi lo âu về số phận. Cái chết sừng sững ở đầu kia, các người hiểu không, là một bằng chứng không thể nào phủ định được về sự phi lý của cuộc đời”

La Voie Royale – Con đường hoàng gia

“Garine không cần cái Thiên đường địa giới: Tôi không thể trở lại quá nhiều với cái mà tôi đã gọi là “huyền thoại của mục đích”. Anh ta đâu cần định nghĩa cách mạng là gì mà cần làm cách mạng (…). Vấn đề cốt yếu đối với Garine không phải là biết tham gia cuộc cách mạng đó như thế nào mà là biết phải làm thế nào để thoát khỏi cái mà anh ta gọi là vô nghĩa, là phi lý”.

La Question des Conquérants

– Các vấn đề của kẻ đi chinh phục

“Hẳn là khi tôi sáng tạo ra hình tượng Garine là tôi sáng tạo ra một anh hùng (với cái nghĩa anh hùng đối lập với nhân vật). Rõ ràng là sáng tạo này có mang một nhân sinh quan riêng biệt (…). Garine hành động (…) với tư cách là một sáng tạo luân lý học”

La Question des Conquérant

– Các vấn đề của kẻ đi chinh phục

“Cuốn sách và nhân vật đã ra đời từ một suy nghĩ xem con người có thể làm gì chống lại cái chết. Do đó mới có cái mẫu anh hùng không mục đích ấy. Sẵn sàng chịu đựng sự tra tấn chỉ vì một cái ý tưởng của anh ta về bản thân – hoặc có thể cả vì một sự bất thần bắt gặp số phận của mình – bởi cái sẵn sàng chịu đựng tra tấn đối với anh ta hình như là kẻ duy nhất chiến thắng được cái chết”.

Antimémoires – Phản hồi ức

“Khi anh ta nói anh ta sẽ tự tử, là anh ta chẳng tin lời anh ta; nhưng vì nàng đã tin nên anh ta đang đi vào một thế giới trong đó chân lý không tồn tại nữa. Chẳng có cái thật cũng chẳng có cái giả, mà chỉ có cái đang sống”

La Condition humaine – Thân phận con người

ANDRÉ MALRAUX (1901 – 1976)

TRUYỆN KÝ

1921 – Mặt trăng giấy

1926 – Sự cám dỗ của Phương Tây

1928 – Những kẻ đi chinh phục

1930 – Con đường hoàng gia

1933 – Thân phận con người

1935 – Thời buổi của sự khinh bỉ

1937 – Hy vọng

1943 – Những cây hồ đào của Altenbourg

TIỂU LUẬN

1947 – Tâm lý học nghệ thuật

1951 – Tiếng nói của im lặng

1952 – Nhà bảo tàng tưởng tượng

1957 – Sự biến thái của Thần linh

1967 – Phản hồi ức

1976 – Sợi dây và những con chuột nhắt

HOÀNG KIM THƯ st

Chiều Nghĩa Trang

Nghĩa trang tím ngắt bóng chiều tà,

Mây vờn đồi núi chập chùng xa,

Khói lam nghi ngút hương trầm mặc,

Hôm nay con về thăm Mẹ Cha!

*

Hoa quả xinh tươi con kính dâng,

Con quỳ trước mộ lòng tri ân,

Mẹ Cha ơn đức như trời biển!

Lời dạy ngày xưa, con khắc tâm.

*

Nghẹn ngào con nhớ thuở mười ba,

Mẹ dắt con đi thăm mộ cha,

Mẹ ngồi cô độc, khăn sô trắng

Trái tim rũ rượi, hồn đi xa!

*

Chiều xưa hôm ấy, giống chiều nay,

Cỏ lau hoa trắng thướt tha bay,

Hoàng hôn màu tím xôn xao nhớ,

Dáng mẹ hao gầy, bước như mây!

*

Vẫn biết dòng đời triền miên xoay,

Sanh Lão Bệnh Tử, vẫn loay hoay,

Tạo Hóa muôn đời không thay đỗi

Sao ta day dứt nỗi u hoài!

*

Đường xưa lối cũ vẫn còn đây,

Một mình ta đứng giữa trời mây,

Người xưa xa hút mờ nhân ảnh,

Hiu hắt bên ta, cánh vạc bay!

Nguyễn Thị Ngọc Vân

BIRTHDAY

Có ước mơ nào không dang dở?

Có thành công nào không đọng chút suy tư?

Có thất bại nào làm ta mãi ơ hờ

Mà quên đi rằng ta đang vẫn sống?

Vâng, cuộc đời ngoài kia còn đầy nắng ấm

Chưa kể rằng, hoa vẫn nở khoan thai

Hoặc cánh chim vẫn ríu rít đàn bầy

Dù phía chân trời đang tụ dần cơn bão tố!

Vâng, cuộc đời còn chờ ta với bao điều bỡ ngỡ

(Vì ông lão bảy mươi còn học lão bảy mốt cơ mà!)

Huống chi ta, mới sáu chục phôi pha...

Còn nhiều lắm để tìm tòi, học hỏi;

Và nhiều nữa để buồn đau vời vợi

Cùng nụ cười tủm tỉm cuối đêm trăng

Mà vui một mình, mà hát trọn cõi lòng...

Rằng ta, rằng đời ta còn vô vàn hạnh phúc!

Sinh nhật mình, ta tưởng chỉ có loài chim chóc

Mà ta hằng tô điểm mỗi câu thơ

Là hót cho ta nghe những tình khúc bất ngờ

Khi lắc cái mỏ và neo mình bên ô cửa kính.

Sinh nhật mình ư! Mình có chi toàn vẹn?

Để từ phương xa gửi gió phút mộng lành

Để từ tim anh trao tặng chút tình thân

Để từ tim em nói rằng happy birthday to you, đấy!

Tuy không ngạc nhiên, vì ngạc nhiên là thừa thãi

Vì những tấm lòng vẫn mãi mãi loang tan

Như áng mây trên tít tắp trong ngần

Dần dần tan, men vào lòng muôn chốn

Mây ở đó, là bọt bia cuồn cuộn

Cụng với ta cho tung tóe nụ cười

Mây ở đó dù tan, mãi chẳng vơi

Như mối tình của chúng ta, những bạn bè thân ái

Happy cho tất cả chúng ta, vì sau bao bươn chải

Ta còn chán vạn thời giờ mà ngẫm nghĩ về nhau...

LAM TRẦN 26.02.2014

TỐI THÁNG BẢY

(cho 1 người vừa ra đi trong mưa gió)

Tối tháng bảy mưa rơi
Như giọng hát nửa vời
Gọi ai về đất lạnh
Xa năm tháng miệt mài...

Tối tháng bảy hoa lan
Chụm tóc rối khẽ khàng
Chào ai bên ánh nến
Khóc kẻ rời nhân gian...

Tối tháng bảy âm thầm
Có tiếng dế khẽ ngâm
Bài thơ sầu hiu hắt
Đọng trong vũng nước loang...

Tối tháng bảy phân vân
Mắt nhắm nhìn thiên đường
Bằng linh hồn tha thiết
Chút bịn rịn người thân

Tối tháng bảy đợi chờ
Trong môi mím hoang sơ
Lời kinh còn đọc dở
Câu cuối ý tạ từ

Tối tháng bảy rơi mưa
Nhang tàn những hương thừa
Cố kéo linh hồn lại
Thế trần những chuyện xưa…

LAM TRẦN 21.07.2014

NHỚ PHẬT

Nhớ Phật từ bi, đến viếng chùa

Nếm mùi giới luật với cà dưa

Hữu ngôn kinh điển xem chưa đủ

Vô tự chơn kinh học chẳng thừa

Quyết chí tu hành trong hiện tại

Không màng nghĩ quẫn chuyện đời xưa

Công phu thức tỉnh từng giây phút

Vạn pháp do Tâm luyện sớm trưa ...

Thanh Châu

TIẾNG CHUÔNG CHÙA

Chuông ngân vang tiếng khắp trùng khơi

Biển cả bao la đảo sáng ngời

Mây nước thiêng liêng chùa tịnh vắng

Núi non cảnh giác thế chơi vơi

Lời kinh bát nhã khai Tâm Giới

Tiếng mõ công phu nguyện Đất Trời

Bảo vệ Trường Sa về một mối

Quê hương Tổ Quấc mãi xinh tươi ...

                                                      Thanh Châu

EM VỀ AN HẠ

“Ngồi lâu em sợ người ta nói…”

Đôi má hồng lên vẻ thẹn thùng

Anh hỏi gì đâu thêm bối rối:

“Em về biết có nhớ ai không?”

*

Em về tà áo bay nhè nhẹ

Cỏ dưới chân em cũng hữu tình

Nắng lợt chiều im rơi bóng lẻ

Cầu tre lắt lẻo bước chênh vênh.

*

Em về xa dưới Cầu An Hạ

Lất phất ven đường mía trổ bông

Vườn khóm trông theo nhiều mắt quá

Khói chiều vương vấn ngọn tầm vông.

*

Anh – gã giang hồ mang nghiệp lính

Trên đường chinh chiến tới quê em

Ở đây heo hút đồng mông quạnh

Mấy khóm nhà tranh thở khói hiền.

*

Em mới ra trường – cô giáo mới

Học trò mấy đứa mặt hiền khô.

“Em về An Hạ - “an” gì nổi!

Thôi hỏi làm chi chuyện hải hồ!”

*

Nói giỡn vậy mà em cũng giận

Tan trường nghiêng nón bỏ về luôn

Phất phơ tà áo trên đường ruộng

Ôi dễ thương chưa - chút lẫy hờn!

Thiếu Khanh

Đức Hòa, 12/1965

VU VƠ

(Nghìn Xưa Để Lại)

Bữa nay thấy nắng không vàng

Hiu hiu đứng gió hai hàng cây xanh

Dấu giầy thưa ngõ nhà anh

Lá thư viết dở không đành đốt đi

Bữa nay không rõ duyên gì

Bao nhiêu mây trắng đổ về một phương

Dặt dìu một nhớ hai thương

Nhớ thương chi cũng vô thường mà thôi

Lòng không bên lở bên bồi

Con sông nước lã buồn trôi hững hờ

Thiếu Khanh

Saigon, 14/4/2013

MẸ LÀ TẤT CẢ

Bất kể ngày đêm

                  mẹ đều làm

Miễn sao có tiền nuôi con

Bất kể việc gì

        vì các con

               mẹ đều làm

Dù ngày hay đêm

Dù mưa hay nắng

Miễn sao có tiền nuôi con ăn học

Mẹ ơi! Càng nghĩ càng thương

Mẹ là tất cả

Mẹ là tất cả

         cuộc đời của chúng con

LÊ MINH CHỬ

MỖI BÀI THƠ

LÀ MỘT BÔNG HOA

Mỗi một từ là tinh hoa chắt lọc

Mỗi câu thơ như mật bọc ngọt ngào

Mỗi bài thơ hay thể hiện làm sao

Để người đọc thấy dâng trào cảm xúc

Đượm tình người và thắm màu hạnh phúc

Có giá trị gì cho cuộc sống chúng ta

Mỗi bài thơ đẹp tựa một bông hoa

LÊ MINH CHỬ

ĐƠN CÔI

Bắt chước Cao Bá Quát

Hoàng hôn nhuộm tím câu thơ

Cánh Phù dung rụng bên bờ chia ly

Giọt sương buồn đọng rèm mi

Bâng khuâng vương chút hoài nghi lắng trầm

*

Thiệt thòi – ôm mối tình câm

Lang thang mây trắng xa xăm cuối trời

Nhớ thương – xúc cảm dâng khơi

Con tim thổn thức cạn lời yêu đương

*

Chạnh lòng nhắn gió Ngàn phương

Qua bờ liễu úa – sông Tương hao gầy

Ý thơ sóng sánh vơi đầy

Bóng chiều lẩn khuất – làn mây ngậm ngùi

*

Đường đời vạn nẻo ngược xuôi

Tìm quên lòng vẫn chưa nguôi nỗi niềm

Ba sao kề mảnh trăng liềm

Chữ Tâm xao xuyến môi mềm khàn hơi

*

Ưu tư – đau đớn tình đời

Đường khuya – gót nhỏ – buông lơi nẻo về

“Một mình gieo bước nặng nề

Gió tung xác lá bên hè tả tơi

Hồn chênh vênh – bóng chơi vơi

Đất cong mặt giận – chân trời lảng xa”

NGÀN PHƯƠNG

BẾN LÒNG

Họa bài Bến Sông Chiều đất khách

của Á Nam Trần Tuấn Khải

Đêm lạnh – buồn xa vắng

Vời trông ngút dặm khơi

Tình đời mây thoảng nhẹ

Sụ thế – nước trôi xuôi

Sương tuyết say hồn khách

Phong ba luyến cuộc chơi

Thuyền thơ về chốn cũ

Thương chẳng nói nên lời…

NGÀN PHƯƠNG

NIỀM VUI

Muốn sống lâu nhưng rất sợ già

Con tim còn nẩy lộc đơm hoa

Duyên văn trau chuốt đầy sâu lắng

Nghĩa bút miệt mài vẫn thiết tha

Bằng hữu giao lưu – thơ chắp cánh

Tri âm xướng họa – tứ chan hòa

Yêu đời – mong được đời yêu lại

Hưởng cảnh an vui – ý mặn mà

NGÀN PHƯƠNG

(Bài tham khảo: Cùng Cụ Phan Bội Châu uống rượu dưới thuyền ở sông Hương)

BÓNG NGUYỆT HUYỀN

Lóng lánh trên sông bóng nguyệt huyền

Thuyền trôi lơ lửng ngủ triền miên

Mưa phùn rắc ngõ anh chàng Cuội

Gió bấc đùa mây chú thỏ hiền

Ngọc Thố biến đâu thân mất dạng

Hằng Nga trốn biệt bóng không lên

Trời khuya bát ngát mây che núi

Tâm vẫn bâng khuâng một nỗi niềm

LANG NGUYÊN

LỜI KHUYÊN

Lòng ác dễ thành cảnh nhiễu nhương

Tham lam ích kỷ, khó ai nhường

Lợi danh tránh hết đừng tranh cạnh

Hòa khí kiên gan khéo đối đương

Quân tử chi màng khi được mất

Hiền nhân chẳng nệ lúc sầu thương

Lời xưa gởi lại lưu trần thế

Đừng để trôi đi những lẽ thường

LANG NGUYÊN

PHÙ DU

BÓNG THỜI GIAN

Thời gian mờ xóa dấu yêu xưa

Vẫn còn ngày nắng đợi ngày mưa,

Nơi cũ là đây, con phố ấy

Nhớ bước ai, chiều thu lá bay

*

Thời gian hờ hững có chờ ai

Chẳng chút xót thương, chẳng đoái hoài,

Đi mãi, lững lờ không trở lại

Đời người như một giấc mơ dài…

*

Biết làm sao giữ, thời gian ơi !

Sắc hương tàn úa, tháng ngày vơi,

Giàu – Nghèo tất tả con đường sống

Tinh hoa – Hèn hạ cũng buông xuôi…

Sẽ một ngày vàng nát – Lệ tuôn rơi !

Hờ hững – Thời gian vùi chôn – Tả tơi,

Cõi tạm – Quán trọ đời – Phù du một cõi,

Bâng khuâng sao ! Và tâm hồn bối rối,

Ngập ngừng khi gần đến… Cuối con đường !

PHẠM THỊ MINH HƯNG

ĐIỆU BUỒN MƯA

Biển chiều chợt vội cơn mưa

Mây buồn hiu hắt nắng chưa nhạt mầu

Gió về sầm sập mưa mau,

Lạnh lùng quạnh vắng ngút sầu chơi vơi

*

Miên man gió mưa tuôn rơi

Mưa rơi rơi mãi Tình ơi xa vời !

Ôi ! Thương nhớ biết sao nguôi

Mưa rơi đành đoạn – Tình ơi bẽ bàng !

*

Người đi biển rộng thênh thang

Mưa rơi chất ngất muôn vàn xót đau.

Tìm đâu ấm áp chìm sâu

Tìm đâu đâu nữa nhạt mầu dấu yêu !

*

Tìm đâu những phút bên nhau,

Tìm đâu ngày tháng mộng đầu thiết tha !

Mưa nghiêng, bóng ngả, chiều qua,

Mưa rơi rơi mãi Tình xa ngút ngàn !

Quạnh hiu biển vắng mênh mang

Thông reo vi vút sóng vang lời buồn

Hạt mưa rơi ướt tâm hồn

Sóng hôn bờ cát mưa tuôn nhạt nhòa.

Người xa tình cũng vội xa

Nghìn năm biển vẫn mặn mà nhớ mong

PHẠM THỊ MINH HƯNG

TRÁCH

Trách gió trách mây trách hoa vàng dẫn lối

Trách cái ngày mình đổ xuống đời nhau

Trách sông sâu nhưng không thể bắc cầu

Trách duyên lỗi. Trách tình không khuy nút

Biền biệt bóng. Biền biệt chiều không nắng

Lối về xưa nay nhuộm thẫm màu rêu

Người xa rồi, ta còn lại bao nhiêu ?

Lời say đắm để đong thành nỗi nhớ

Trách người? Không. Chỉ trách mình phận mỏng

Chuyện con tim, ai nào lỗi hơn ai

Tình không trọn, rẽ đường duyên đôi ngả

Ta trở về ôm lấy nỗi riêng ta

Một mai nhé nếu tình cờ đâu đó

Hãy cúi chào, đừng trách hận chi nhau

Duyên không phận, duyên cài nhành hoa trắng

Để ngậm ngùi bên lối vắng chiều tan

ĐÀM LAN

THÊM MỘT LẦN

Thêm một lần thêm ngọn nến lung linh

Trong mắt nhớ sắt se chiều hoa dại

Bóng thời gian chong dài thêm mắt đợi

Thêm một lần ai ước vẹn lòng ai

Ngày như đếm ngày đi trong men đắm

Nắng bên hiên khao khát một miền say

Dấu chân tìm theo ngọn gió heo may

Người khẽ hát một câu… mùa hoa cải

Kia sóng sánh cốc bia vàng bên phố

Có niềm vui nhè nhẹ ở trong lòng

Mắt ai thơm ngào ngạt ủ hương nồng

Từng tay ngón khép theo vòng như thể…

Đừng thổi nến… hãy cứ mềm như thế

Tiếng thu sang man mác động triền môi

Nét ưu trầm thơ thoảng phía xa xôi

Ngày như ngắn

Ngày rơi

Vời vợi mắt…

ĐÀM LAN

ĐÀ LẠT CÓ MƯA KHÔNG

Em lên thành phố hoa

Anh ra ngoài biển nắng

Lời ca em mang theo

Gửi vào làn mây trắng

*

Bài ca bay lên trời

Mừng ngày sinh nhật Chúa

Em mang theo ánh lửa

Lửa ta chia nhau rồi

*

Giữa thông xanh mờ sương

Trên mặt đồi cỏ rối

Trong ngân nga hồi chuông

Em có nghe tiếng gọi

*

Lời gọi từ biển xa

Từ những con sóng dội

Cũng muốn thành bài ca

Thành vi vu gió thổi

*

Dã quỳ thay nắng lên

Có rực vàng phố núi

Rưng rưng hạt sương đêm

Còn đọng trên cánh mềm

*

Hoa trao gửi hương nồng

Gió nói lời nhớ mong

Mây bay từ biển mặn

Đà Lạt có mưa không ?

                         LÊ NGUYÊN


GIẾNG

Giếng trong lấp lánh ánh trời

Như gương soi những mặt người thêm tươi

Ngọt ngào ngụm nước giếng khơi,

Bâng khuâng uống cả môi người soi chung

20.7.1966

VŨ ĐÌNH HUY

THE WELL

The clear well is sparkling with sunlight

Like a mirror, reflecting happier people’s faces

Sweet is the mouthful of the deep well water

Gloomily, one drinks even the lips of the person

with whom one is mirroring.

20.7.1966

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

TRÙNG HỢP

Trùng hợp ngẫu nhiên hay là số phận?

Hai Nhà thơ – hai chớp sáng ngang trời.

Hoa cúc vàng tơi tả dưới mưa rơi

Vẫn xòe cánh phủ hai mồ cô lạnh!

                     ***

Không ước hẹn sao họ cùng quyết định

In tập thơ mang tên gọi thâm tình:

Hoa cỏ may – thành tập thơ định mệnh

Không cho người sinh thấy mặt con mình!

                     ***

Hoa cỏ may dăng dày như vải liệm

Găm vào thân tác giả nỗi đau đời!

Hoa cỏ may như đường kim ẩn hiện

Níu bước ai đi viếng mộ hai người!

Matxcơva 11.10.1995

VŨ ĐÌNH HUY

· Xuân Quỳnh (06/10/1942-29/8/1988), tác giả tập thơ “Hoa cỏ may”, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội, 1989.

· Vũ Đình Hạnh (23/12/1946 – 11/10/1994), tác giả tập thơ “Hoa cỏ may”, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1995.

COINCIDENCE

It’s a chance coincidence or is it fate?

The two poets – two flashing lights on the sky

Yellow marigold flowers,

         though ragged under the falling rain

Still spread their petals,

        covering the two cold and lonely graves!

Not agreeing in advance, why they both decided

To print the two collections of poems bearing

                    a same affectionate name

The “Raphia-grass flower” has turned into

                   a predestined collection of poems

Not allowing its authors to see their works!

Raphia-grass flowers stretched thick as a shroud

Pinned into the authors’ bodies the pains of life!

Raphia-grass flowers are like appearing

                   and disappearing stitches

Grabbing the footsteps of he who visits the poets’ graves!

Moskow, 11.10.1995

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

· Xuân Quỳnh (06/10/1942-29/8/1988), authoress of the collection of poems “Raphia-grass flower”, New Literary Work Publishing House, Hanoi, 1989.

· Vũ Đình Hạnh (23/12/1946 – 11/10/1994), author of the collection of poems bearing the same title “Raphia-grass flower”, Literature Publishing House, Hanoi, 1995.

CHIM MỎI CÁNH

CHAO NGHIÊNG NẮNG HẠ

1 = Cánh Phượng tàn, sầu Ve khóc Hạ

2 = Mưa Ngâu rơi, Chẩu Chuột trông Thu

3 = Mây buồn che khuất, vầng trăng lạnh

4 = Thổn thức canh thâu, chạnh nhớ người

                 ***

Yến trắng ơi! Mây xuân ơi!

Ra đi mà chẳng một lời dặn nhau

Sông dài bể rộng nông sâu

Lòng người thay đổi biết đâu mà dò

Qua sông nhớ tới trạo đò

Người đi mà chẳng thốt cho một lời

                    __

Trích yếu : Chẩu Chuột “con nhái bén”

Trạo Đò: người chèo đò

HẢI ĐĂNG: TRẦN VĂN HỮU

Chết vì yêu

MOURIR D’AIMER

Đi xem phim Mourir D’aimer khán giả phải cầm theo khăn tay. Ở bên Pháp trong vòng ba tuần lễ, tại thủ đô Paris có 220.000 khán giả xô nhau đi xem phim; khi xem, hễ xem tới đâu khóc tới đấy, rồi cả nước Pháp tranh nhau đi xem phim, khi xem tới đoạn nào cũng đều khóc sướt mướt, lau ướt hết khăn tay. Phim căn cứ trên một chuyện có thật.

Chuyện cô giáo Gabrielle Russier chồng ly dị, để lại cho cô hai đứa con, tuổi đời cô còn nhỏ, “31 tuổi” đi yêu một cậu học trò mới 17 tuổi, tên Christian Rossi gặp nhiều trở lực khiến vòng tay học trò đưa tới kết cuộc “cô giáo tự tử”.

Câu chuyện đã làm dư luận Pháp xôn xao một độ. Tổng thống Pompidou bị chất vấn đã ngậm ngùi đọc thơ P.Eluard.

Sự thành công của phim Mourir D’aimer cũng như chuyện tình “Love Story” đoạn kết không có hậu là lẽ sống đã sắp đặt sẵn.

HẢI ĐĂNG: TRẦN VĂN HỮU st


Phụ Bản III

Đồng tiền VẠN LỊCH

Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng

Công em dan díu với chàng đã lâu

Bây giờ chàng ở cơ cầu

Chàng phụ công thiếp thiếp hầu về đâu?

Khi còn bé tôi vẫn được nghe mẹ hát ru, thường thì lời ru là những câu ca dao hoặc những bài đồng dao,… nhưng cũng có khi đó lại là những vần thơ nói về Đồng tiền Vạn Lịch kể lại một câu chuyện mà sau này tôi mới biết nội dung như sau:

“Xưa có một người lái buôn tên là Vạn Lịch, nhờ vốn liếng của vợ mà buôn bán trở nên rất giàu có. Nhưng khi làm nên cơ nghiệp, hắn thấy vợ không còn nhan sắc nữa nên có ý định tống cổ vợ đi, bèn nhân một hôm vợ trò chuyện với anh đánh giậm, vu cho là ngoại tình, hắn gây chuyện với vợ rồi xỉ vả nàng thậm tệ. Mặc dầu vợ thề thốt hết lời nhưng hắn không nghe. Hắn trả xống áo cho nàng, vứt cho một thoi vàng, một thoi bạc và đuổi đi ngay.

Bơ vơ một thân một mình nàng gặp lại người đánh giậm, bèn gạt nước mắt kể lể sự tình. Khi biết anh ta chưa có vợ lại sống một thân một mình, nàng bảo:

- Hắn bảo tôi dan díu với anh, tôi xin được lấy anh làm chồng, dù có khổ sở thế nào đi nữa tôi cũng chịu được. Chúng ta sẽ làm ăn nuôi nhau.

Anh chàng đánh giậm không biết từ chối thế nào đành dẫn người đàn bà kia về túp lều của mình dựng bên bờ sông và họ trở nên vợ chồng. Hàng ngày chồng vẫn làm nghề cũ, còn vợ thì ở nhà chăn nuôi gà vịt. Tuy nghèo nhưng họ sống êm ấm, không xô xát với nhau bao giờ.

***

Ba năm trôi qua. Một hôm trời mưa, chồng rỗi việc ở nhà, vợ ngồi vá áo. Chồng thấy đàn gà thi nhau mổ thóc ở thúng, sẵn có thỏi vàng của vợ trong thúng khâu, hắn không biết là vật gì liền cầm lấy ném đàn gà. Chẳng may ném mạnh quá thỏi vàng văng luôn xuống sông. Thấy vậy, vợ trách chồng:

- Kìa, người sao mà ngu đần thế! Anh có biết anh vừa ném cái gì không?

- Thứ ấy thì thiếu gì. Những lúc bắt cá ở một vũng kia tôi vẫn nhặt được luôn nhưng không biết dùng làm gì nên lại vứt bỏ.

Đến lượt vợ lại ngẩn cả người, liền hối hả giục chồng đi lấy về. Quả nhiên đó là vàng và lạ thay mỗi thỏi đều có dấu hiệu riêng của Vạn Lịch. Nguyên do Vạn Lịch từ ngày đuổi vợ, buôn bán có phần thua lỗ. Một chuyến bị bão, thuyền đắm, Lịch thoát được thân còn bao nhiêu vàng bạc của cải đều chìm xuống và trôi dạt vào đây. Thế là kho vàng của Lịch lại thuộc về tay vợ chồng anh đánh giậm.

Từ khi có của, cô nàng bèn xây dựng nhà cửa và sửa soạn cho chồng. Thấy chồng quá ngờ nghệch, vợ bảo phải năng giao du với người ta để học khôn, học khéo hòng mở mặt với đời.

Chồng nghe lời, nhưng chả có ai thèm chơi với thằng nổi tiếng đần độn. Luôn mấy hôm liền, hắn đi không về rồi. Vợ hỏi:

- Đã chơi được với ai chưa?

- Chưa

Vợ lắc đầu nói một mình rằng:

- Người đâu u mê đến thế. Suốt mấy ngày mà không làm quen được một ai. Họa có chơi với phỗng thì được!

Nghe nói thế, chồng tưởng vợ bảo mình không chơi với người thì chơi với phỗng, bèn tìm đến một ngôi đền vắng ở xa xóm. Hắn lân la làm quen với mấy tượng phỗng đặt ở hai bên sân đền. Thấy phỗng nhe răng cười, hắn cũng cười theo, rồi lại quàng vai bá cổ làm như chơi đùa với người thật. Sau đó hắn đi mua bún, mua lòng, mua rượu về mời ăn, nhét cho mỗi tượng một miếng vào miệng, cùng ăn và cùng uống. Cuối cùng chẳng thấy phỗng nói gì, hắn tức mình xô phỗng từ trên bệ lăn kềnh xuống đất rồi bỏ ra về. Khi vợ hỏi, hắn kể lại tình thực. Nàng giậm chân kêu trời, đành giữ chồng lại nhà để dạy khôn cho hắn.

Không ngờ ngôi đền ấy lại là nơi phát tích của nhà vua. Sau khi anh đánh giậm xô đổ tượng phỗng: nhà vua bị đau bại một nửa người. Bao nhiêu danh y vào cung chữa bệnh đều lắc đầu bó tay. Một ông quan thái bốc gieo quẻ báo tin rằng ngôi đền này động. Pho tượng phỗng đổ xuống đất làm cho họ chú ý. Nhưng khi định dựng tượng dậy thì lạ thay, hàng chục người mó vào đều nâng không nổi. Tin ấy bay về kinh đô, nhà vua rất lo, liền sai yết bảng cho tất cả thần dân ai dựng được phỗng lên bệ thì sẽ hậu thưởng. Hôm ấy cô vợ đi chợ qua đó thấy thế, bèn về hỏi chồng:

- Hôm ấy anh làm thế nào đẩy ngã pho tượng xuống được?

Hắn đáp:

- Tôi chỉ khẽ ẩy một cái là đổ ngay.

- Thế bây giờ có dựng lên được không?

- Làm gì mà chả được.

Vợ bèn cùng chồng ra giật bảng xin quan cho vào nâng thử. Quả nhiên khi người đánh giậm mó tay vào tượng liền đứng lên được.

Từ hôm đó nhà vua khỏi bệnh. Vua sai lấy vàng bạc thưởng cho vợ chồng nàng nhưng họ không nhận, chỉ xin làm một chân tuần ty ở sông Cả. Chức vụ tuần ty chỉ ngồi thu thuế không cần biết chữ. Vua ưng cho ngay. Hai vợ chồng liền đi nhậm chức. Sẵn vàng bạc, họ xây dựng nhà cửa rất nguy nga ở bên cửa sông. Từ đó họ nổi tiếng giàu có trong vùng.

Một hôm, thuyền của Vạn Lịch đi qua đây, đỗ lại ở cửa tuần cho người lên nộp thuế. Cô nàng biết vậy liền ra lệnh bắt chủ thuyền phải đích thân đến nộp. Tiến vào công đường, Lịch xiết bao kinh ngạc khi thấy ngồi trước án là người vợ cũ của mình cùng anh chàng đánh giậm ngày xưa. Nàng mỉa mai bảo hắn:

Biết rằng anh vẫn đi buôn,

Em về kiếm chốn nha môn ngồi tuần.

Dù anh buôn bán xa gần,

Làm sao tránh khỏi cửa tuần em đây.

Nghe câu ấy, Vạn Lịch vô cùng xấu hổ. Vừa thẹn vừa uất, hắn nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn lại vợ lần nữa. Đoạn hắn làm giấy kê khai tất cả của cải đem biếu nàng nói là để chuộc lỗi xưa rồi tự tử. Khi hay tin Vạn Lịch chết, nàng rất hối hận, nên đem tất cả tài sản của Vạn Lịch, tâu vua xin đúc một thứ tiền gọi là “tiền Vạn Lịch” rồi đem phân phát cho những người nghèo khổ”.

Nội dung câu chuyện chỉ có thế nhưng đã có nhiều dị bản, nhiều vở kịch được dàn dựng công phu, thậm chí có những nhạc phẩm kể lại chuyện tình ly kỳ này. Tôi đã tìm trên Google và Wikipedia chỉ thấy truyện kể bằng văn xuôi, nhạc, kịch nhưng không thấy truyện kể theo thể loại thơ. Tình cờ ba tôi – Khánh Hà – cho biết xưa ông đã có tập thơ này. Vì biến cố 54 ba tôi không kịp mang theo nhưng vẫn thuộc chúng. Được chúng tôi thúc giục, ba tôi đã dành trọn 3 ngày để viết lại. Năm nay ông cụ đã 84 tuổi nhưng ông vẫn nhớ gần như đầy đủ. Tuy vậy có một vài chỗ không nhớ chính xác lắm rất mong tìm được chính bản.

ĐỒNG TIỀN VẠN LỊCH

Ngẫm xưa lắm chuyện nực cười

Đàn ông đâu có lạ đời nhà ghen

Đồng tiền Vạn Lịch đề tên

Vàng phai đá nát không quên nghĩa chồng

Tú Hiên phận gái má hồng

Tuổi vừa đôi tám đang vòng liễu tơ

Vườn đào oanh én tin đưa

Cùng chàng Vạn Lịch se tơ từ ngày

Bán buôn trải mấy năm chầy

Tiền rừng bạc bể dựng xây cơ đồ

Xuân xanh một chút phận bồ

Vì chồng dấn bước giang hồ quản bao

Xa khơi nước chẩy mòn hao

Xuống ghềnh lên thác má đào chưa phai

Lênh đênh mặt nước chân trời

Nghĩ thuyền theo lái như ai theo chồng

Dọc ngang chiếc lá nhẹ bồng

Rẽ luồng nước biếc trải vùng non xanh

Một hôm gió lạnh mặt ghềnh

Vợ chồng buông mái thuyền mành thuận xuôi

Mưa bay mặt nước sóng nhồi

Văn Sàng tới đó nàng ngồi xa trông

Thấy người lúi húi bên sông

Một anh đánh giậm lạnh lùng rét run

Ngẫm người sá phải thân giun

Mà đem dẫm bước dầm bùn cho cam

Lưới tre giỏ trúc buộc dàm

Đôi tay ruồng dẽ hai hàm khua xênh

Chân trời mặt nước mông mênh

Trông người lại ngẫm đến mình mà thương

Ông xanh độc địa sao đương

Đẩy người vào vũng tang thương dập vùi

Rét mà nghĩ mướt mồ hôi

Ngẫm xưa vua Trụ cắt đùi nỡ sao

Lòng nhân thương kẻ đồng bào

Bỗng đâu giọt ngọc mưa rào tuôn rơi

Chàng rằng gái cũng lạ đời

Có chồng mà lại thương người trai tơ

Lạ cho duyên kiếp còn vờ

Xót anh đánh giậm lên bờ mà theo

Càng van càng cứ như khêu

Làm cho dạt sóng trôi bèo mới cam

Ghé thuyền vào tận bến Nam

Dục chân sào bắc cầu Lam cho nàng

Tai nghe lệ ứa hai hàng

Nguồn ân bể ái xin chàng đoái thương

Vợ chồng gửi thịt gửi xương

Nỡ nào rẽ bước chia đường hỡi ai

Dám đâu mơ tưởng người ngoài

Cơ hàn trông thấy kiếp loài thương vay

Thuyền tình chẳng xét lòng ngay

Xui nên bể thảm vơi đầy ngả nghiêng

Chàng rằng nếu chẳng tình riêng

Thấy ai sao bỗng tỏ duyên lòng đào

Nói chi nóng máu hoàng bào

Xót ai thì vẫn tơ hào với ai

Thuyền không nhớ bến bến ơi

Bến đừng ngẩn trách cho vơi thuyền tình

Than rằng phận thiếp cũng đành

Tấm thân chìm nổi gập ghềnh quản chi

Xót vì bỗng chốc phân ly

Còn vương chút áo bước đi lại dừng

Vì đâu xót muối cay gừng

Tấm thân bồ liễu xin đừng nghi oan

Chàng nghe ngứa ruột nồng gan

Gái đâu có gái đa đoan lọc lừa

Có làm chi gói áo thừa

Thôi thì trao nốt khỏi nhơ nhuốc mình

Từ đây vỡ kính rơi bình

Ném cho gói áo dứt tình chia tay

Thuận buồm gieo thẳng cánh bay

Dù ai bến cũ hoa bay mặc dầu

Dòng thu như đội cơn sầu

Hắt hiu bãi cỏ chòm lau bơ phờ

Non sông lạnh ngắt như tờ

Thuyền xa bến cạn đừng chờ héo hon

Gió xuân như thổi cơn buồn

Ngoái trông mà vẫn như tuôn mạch sầu

Trời hôm đã xế bóng dâu

Chim oanh mai mỉa con âu lênh đềnh

Mịt mù nước biếc non xanh

Cánh buồm xa lắc bao quanh trở về

Non sông nghĩ thẹn lời thề

Muốn dò thăm bạn còn e sượng lòng

Bấy lâu khăng khít với chồng

Nỡ nào mà để lạnh lùng nước mây

Quyết đi tìm cánh hoa bay

Biết anh đánh giậm rồi đây có nhìn

Nghĩ càng như đốt lửa phiền

Trách người cầm lái để thuyền lênh đênh

Thôi thì gặp bước chịu đành

Cũng liều mình hãy dấn mình xem sao

Tìm chàng đánh giậm nơi nao

Họa chăng thấy hạt mưa rào đoái thương

Đem thân về tới quê hương

Trong khăn gói sẵn có vàng sẽ hay

Vàng này ba lạng riêng tay

Dấu vào gói áo những ngày chồng xưa

Nếu chàng đánh giậm duyên ưa

May mình xây dựng tư cơ có ngày

Vì duyên mình lại không may

Thân này tắm mát sông này cũng cam

Một mình nghĩ Bắc nghĩ Nam

Xăm xăm rảo bước sầu oan tìm chàng

Bên sông tới đó vội vàng

Hỏi anh đánh giậm quê chàng nơi đâu

Cơ trời xô đẩy gặp nhau

Thiếp là vợ lái ngồi đầu thuyền buôn

Gặp cơn gió táp mưa tuôn

Chân mây sầu thảm gió luôn dật dờ

Thiếp nay lỡ bước giang hồ

Tép tôm cũng xiết cá cua cũng rành

Nếu chàng se kết duyên lành

Giang sơn thiếp gánh gia đình thiếp lo

Chàng nghe nàng nói nguyên do

Chạnh lòng chàng mới nhỏ to yêu nàng

Chàng rằng may gặp bạn vàng

Hèn này sánh với gái sang xa vời

Dù cho sắc nước hương trời

Yêu hoa ai nỡ bỏ rời cánh hoa

Văn Sàng quê ở không xa

Chí Thành tên gọi họ là họ Ngô

Nỗi nhà theo dõi nghiệp nho

Kém thua chàng ốc chịu mò giỏ tôm

Nhà còn chị gái trông nom

Lều tranh vách cỏ sớm hôm đi về

Ví chăng trăng tựa hoa kề

Thương nàng gánh vác tứ bề long đong

Nàng rằng phận gái theo chồng

Vận may xây đắp non bồng cũng nên

Giữa đường gặp gỡ là duyên

Xin chàng chớ sợ ngó sen lấm bùn

Nếu còn cách trở núi non

Thì thân xác thiếp gieo hồn đáy sông

Chàng nghe nàng nói thương lòng

Cánh hoa sao nỡ ném dòng nước xa

Cùng nhau thề hẹn trăng già

Nhà tranh liền nối gót hoa cùng về

Từ đây biển hẹn non thề

Kính nhường hai chữ sớm khuya trong lòng

Âm thầm phận tủi duyên oan

Vợ chồng tay bắt chị em mặt mừng

Xưa vàng ba lạng dắt lưng

Bán đi một lạng cầm chừng tay buôn

Có đêm cửa xếp trăng tròn

Mành lau rèm trúc nỉ non giọng tình

Trước nhà ngọn gió thanh thanh

Nhớ xưa tựa mái thuyền mành với ai

Giờ sao mưa nón gió tơi

Chàng từng dầm cán giỏ quai đi về

Mấy hôm tôm cá chẳng hề

Vào đầy giỏ sỏi mang về đổ đi

Khù khờ chẳng biết vật chi

Buồn lòng mai nghỉ đợi khi nước chiều

Nàng từng một dạ tin yêu

Dặn tôi đi chợ cậu Nhiêu coi nhà

Trước hiên ngồi đánh chén khà

Nhờ anh coi thóc đuổi gà đỡ thay

Dặn rồi sớm vội đi ngay

Mải quên vàng gói khăn tay gối đầu

Thực vàng chẳng phải thau đâu

Còn phong hai lạng gối đầu giường tre

Khi chàng uống rượu say nhè

Mắt lim dim mới ngả nghê cạnh giường

Vật gì rắn chắc như xương

Gói khăn tay để đầu giường kệnh sao

Vội vàng mở gói tay trao

Ô hai cục sỏi từng vào giậm ta

Báu chi phủ lụa phong là

Tiện tay cầm ném đàn gà cho xong

Khi nàng về chợ long đong

Thấy chàng còn ngủ giấc mòng lơ mơ

Tới giường mở chiếu tay sờ

Rằng phong khăn gói cậu vơ đằng nào?

Chàng vừa sực tỉnh chiêm bao

Rằng sao gói sỏi gối vào giường chi?

Đàn gà ăn thóc như di

Tiện tay tôi đã ném đi hộ nàng

Nàng nghe xiết nỗi kinh hoàng

Người đời ai nỡ cầm vàng quăng đi

Chàng nghe bỡ ngỡ hồ nghi

Rằng như vật ấy hiếm chi chút nào

Mấy hôm đánh giậm hồ ao

Cá cua chẳng được nó vào đầy phe

Đem về đổ lấp bụi tre

Vườn sau chứa để đắp be thành từng

Nàng nghe nửa sợ nửa mừng

Dễ chăng bạc bể tiền rừng trời cho

Dắt tay ra đến đầu gò

Đống vàng coi đã như kho chứa đầy

Nhác trông mở mặt tươi mày

Mừng nào cho quá mừng này nữa không

Từ khi nối gót theo chồng

Ngờ đâu xây đắp non bồng như chơi

Chẳng qua muôn sự ở đời

Nắm phần trời vẫn thương người có nhân

Khôn ngoan chẳng lọ ngu đần

Đần ngu có phúc có phần là hơn

Từ đây gây đức làm ơn

Ra tay vun bén giang sơn vì chồng

Đôi vai một quẩy nhẹ bồng

Nước non còn muốn khuyên chồng nên danh

Bỗng đâu lúc ấy phân tranh

Quan quân phút đã tung hoành khói mây

Ai người sấm sét ra tay

Thành hoàng muôn dặm long lay cột đồng

Đêm thanh nàng mới khuyên chồng

Tìm người kết bạn quen hòng lập thân

Lưỡi gươm xua đuổi gian thần

Xe nhung tiến bước chống quân tham tàn

Mấy hôm xung đột chiến tràng

Theo quan Châu úy trên đàng dâng công

Vận may vừa bén chỉ hồng

Quan quân thắng bước đều cùng lai kinh

Lạ thay tính nết Chí Thành

Đai lưng vẫn dắt một bình rượu tăm

Đông đi lịch đã qua năm

Xuân về lại đến vừa rằm tháng giêng

Tìm nơi gió mát bình yên

Là nơi tĩnh mịch ngả nghiêng rượu bầu

Bước chân tới bến thành sau

Thấy ông Phỗng đá ngay đầu ngồi trơ

Mình hay chén rượu gật gờ

Rượu không sẵn nhắm còn chờ bạn quen

Rượu ngon không có bạn hiền

Lấy ai cùng uống cho bền cuộc say

Có thiêng ông phỗng đá này

Với mình nhắp một chén cay rửa sầu

Nên chăng đá cũng gật đầu

Để mình nghiêng chuốc rượu bầu làm vui

Nói xong với phỗng kề đùi

Uống vơi vơi chén lại ngồi chuốc dâng

Khi chàng say mặt đỏ bừng

Nhìn ông phỗng đá ngập ngừng như say

Đôi vầng non ngọc lung lay

Say say say tít đổ quầy cả đôi

Người say người ngáy như lôi

Đá say đá đổ mồ hôi ướt đằm

Người say người tỉnh đêm rằm

Đá say đá vẫn còn nằm trơ trơ

Sớm mai sầm sập đổ mưa

Người về đá vẫn nằm chờ tướng quân

Không thiêng ai gọi là thần

Đêm ngày sấm chớp gió rung nặng nề

Tiếng đồn khắp chợ cùng quê

Vàng cân tiền giấy đi về kêu van

Sân rồng xuống chiếu khâm ban

Ai nâng trẫm sẽ thăng quan thưởng hàm

Người nâng phỗng vẫn nằm khàn

Không xê một tấc không rời một li

Gớm cho phỗng đá gan lì

Chí Thành đến trước tâu quỳ xin nâng

Đức vua tay bắt mặt mừng

Ngự xem tráng sĩ liệu chừng nổi chăng

Chàng xin tỏ hết tài năng

Tay nâng phỗng đá dậy phăng bao giờ

Năm mây bỗng xuống chiếu tờ

Cho tùy ý muốn dâng thưa bệ rồng

Được tin về tới khuê phòng

Giãi bầy lòng thắm ngỏ cùng Tú Hiên

Nàng rằng muôn đội ơn trên

Cậu tao xin chức lãnh quyền Tuần châu

Chàng nghe ưng ý vào tâu

Cậu tao xin chức Tuần châu Văn Sàng

Tú Hiên nhẹ bước lên đàng

Từ nay lên bậc quan sang một nhà

Trên sông riêng mở một tòa

Lệnh ông đã thét cồng bà cũng kêu

Vinh hoa bõ lúc hiểm nghèo

Kìa ai bẻ lái vặn chèo là ai

Trai thương vợ cũ không rời

Gái yêu chồng cũ một đời không quên

Đã đành rẽ thúy chia uyên

Tơ lòng còn vướng tơ duyên rối bời

Đã hay dun dủi tự trời

Phũ phàng nghĩ trách lòng người bạc đen

Bao giờ cho gặp người quen

Cho người biết mặt khỏi duyên bẽ bàng

Non xanh nước biếc mây vàng

Sông sâu uốn khúc nẻo đàng chơi vơi

Thuyền tình vừa ghé tới nơi

Khách tình sao chẳng đến chơi với tình

Thuyền tình muôn dặm mênh mông

Khách tình còn nhớ bạn tình hay quên?

Tơ tình luống tủi vì duyên

Chung tình còn đó chất bên cạnh lòng

Thương thay duyên kiếp bềnh bồng

Ngày xanh uốn nguyệt má hồng lại qua

Đời người mấy lúc vinh hoa

May sao vượt bến mà ra sông Tần

Vẽ vời một bức phong ngân

Hoa đào có một mười phần thanh cao

Có đêm gió lửng trăng cao

Thuyền ai qua bến dừng sào ngâm nga

Đêm thanh sực tỉnh hồn hoa

Con chim giục sáng con gà gọi canh

Có ngày mây tạnh trời xanh

Thuyền ai lững thững gập ghềnh chèo bơi

Khi nhàn dạo bước hiên mai

Nom tăm cá lặn trông vời nhạn sa

Thùng thùng trống giục trăm hoa

Sớm tan canh lại tối đà thu không

Ngày đêm tính đốt xoay vòng

Xuân thu như đuổi năm cùng qua giêng

Nghĩ mình còn chút nỗi riêng

Dở hay cũng bởi khôn thiêng lọc lừa

Một hôm trời trở gió mưa

Mưa dầm gió bấc năm xưa khác nào

Trước dinh ngồi khoác áo bào

Nàng trông thấy chiếc thuyền nào đang qua

Lệnh truyền cho lính gọi loa

Ghé vào trình giấy rồi ra mặc thuyền

Loa đồn thét gọi liền liền

Mời ngay chú lái ghé thuyền trình quan

Loa đồn lại thét vang vang

Làm cho chú lái nóng gan dừng chèo

Thuyền vừa tới bến hạ neo

Rét run chàng phải bước leo lên cầu

Gặp cơn gió thảm mưa sầu

Cũng đành vuốt mặt nhấc đầu bước lên

Tay cầm lá giấy hoành then

Chân đi khấp khểnh bước lên trên bờ

Nỗi riêng bất ý chẳng ngờ

Đứng trên thềm đá đợi chờ lệnh quan

Còn đang khúm núm trước màn

Hé trông thấy một ông quan một bà

Dễ chăng nắng quáng đèn lòa

Quả này bà lớn xưa bà lái buôn

Xưa ta dẩy lấm vùi bùn

Giờ ai điểm phấn tô son lạ lùng

Trông chàng có vẻ thẹn thùng

Tú Hiên mời Lịch ta cùng ngồi chơi

Lái buôn ngày cũ chàng ơi

Chàng còn nhớ thiếp là ai chăng là?

Từ ngày lỡ bước bước ra

Theo chàng đánh giậm thế mà nên thân

Hôm nay gặp lại cố nhân

Gói vàng ba lạng đền ân trước này

Duyên trời dù có đổi thay

Tình xưa nghĩa cũ có ngày nào quên

Lịch nghe cúi chẳng dám nhìn

Mặt như chàm đổ xám đen như đồng

Buồn buồn tủi tủi trong lòng

Xuống thuyền chàng nhảy xuống sông lìa đời

Chân sào chưa kịp cầm lôi

Xong đời chú lái thương ôi còn gì

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Chân sào khiếp hãi vội đi trình đồn

Tú Hiên nghe nói lòng buồn!

Chao ôi! Chàng nỡ gieo hồn đáy sông

Dù sao cũng nghĩa vợ chồng

Nàng lo mai táng tỏ lòng xót thương

Chí Thành cũng chẳng xem thường

Đúc tiền Vạn Lịch để thương nhớ chàng.

Thơ rằng:

Đồng tiền thích bốn chữ vàng

Công em dan díu với chàng đã lâu

Bây giờ chàng ở cơ cầu

Chàng phụ công thiếp, thiếp hầu về đâu?

Thiếp đây như đóa hoa ngâu

Đang khi tươi tốt thiếp trao cho chàng

Bây giờ nhị rữa hoa tàn

Hồng nhan thiếp kém thì chàng lại chê

Xin chàng ba chữ thiếp về

Dù chàng năm thiếp bảy thê mặc chàng

Lắm quân quan bận nhà hàng

Lắm người lịch sự hơn chàng chàng ơi

Chàng về thiếp cũng xin thôi

Bể hồ tát cạn ai hôi thì vào

Trên trời có một vì sao

Chỗ quang chẳng mọc mọc vào đám mây

Hồ vơi càng tát càng đầy

Chàng đi lấy vợ, thiếp nay lấy chồng

Chẳng tin lấy đấu mà đong

Trong vòng thì hẹp, ngoài vòng thì vơi

Thế là đôi lứa vừa đôi

Rồi ra kẻ ngược người xuôi mặc dầu

Dù chàng lấy vợ nơi đâu

Thiếp xin giúp đỡ trăm cau ngàn vàng

Năm trăm em gởi cho chàng

Còn năm trăm đốt giải oan lời thề.

HẾT

HÀ MẠNH ĐOÀN

8 CÂU NÓI TUYỆT VỜI

TRÊN THẾ GIỚI

1. “Đừng bao giờ đùa giỡn với cảm xúc của người khác, bởi vì bạn có thể giành chiến thắng, nhưng hậu quả là bạn chắc chắn sẽ mất đi người đó trong suốt cuộc đời của bạn”.

(Shakespeare)

2. “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ, không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt”.

(Napoléon)

3. “Tôi rất biết ơn tất cả những người đã nói KHÔNG với tôi. Nhờ vậy mà tôi biết cách tự mình giải quyết sự việc”.

(Einstein)

4. “Nếu tình bạn là điểm yếu lớn nhất của bạn, thì bạn chính là người mạnh mẽ nhất trên thế giới”.

(Abraham Lincoln)

5. “Một người tươi cười không có nghĩa là họ không có nỗi buồn. Điều đó có nghĩa là họ có khả năng đối phó với nỗi buồn đó.”

(Shakespeare)

6. “Cơ hội giống như bình minh, nếu bạn chờ đợi quá lâu, bạn có thể bỏ lỡ nó”.

(William Arthur)

7. “Khi bạn ở ngoài sáng, tất cả mọi thứ đều theo bạn, nhưng khi bạn bước vào bóng tối, ngay cả cái bóng của bạn cũng không đi theo bạn nữa”.

(Hitler)

8. “Đồng tiền luôn phát ra âm thanh. Nhưng tờ tiền thì luôn im lặng. Vì vậy, khi giá trị của bạn tăng lên, thì hãy luôn luôn giữ yên lặng”.

(Shakespeare)

Hoàng Chúc st

Tình Yêu và Mùa Hạ

Nhớ những ngày xa xưa, thời tấm bé… Trời ơi, mùa hè vui vẻ gì đâu. Này nhé, theo chân lũ bạn lem luốc lội khắp ngõ ngách chơi đùa. Khi thì thả cho chú diều bay cao trên bầu trời xanh xanh, mấy thằng bé chúng tôi nằm tựa đầu trên bờ con đường đất mà hai bên cơ man nào lũ tre kẽo kẹt theo làn gió mát. Nhìn những chú diều đảo qua lại dưới lớp mây trời trắng như bông, nghe lũ ve rỉ rả bên tai ồn ồn. Những âm thanh đều đều ấy có khi ru chúng tôi vào giấc ngủ hiền hòa. Cho đến khi có tiếng gọi í ới của ai đó, khi phát giác ra giọng mẹ thì hỡi ơi, cái roi đã hằn lên đít một nhát đau ơi là đau. Rồi cả lũ cũng tan hàng về nhà, lắm khi mẹ kéo tai tôi đau điếng, nhưng tay kia, mẹ lại vừa giữ cái roi mây, vừa cẩn thận cầm con diều mà mẹ biết tôi đã rất mất công làm nó cả buổi trời nóng nực.

Cũng có lúc chúng tôi bới mấy liếp khoai người ta trồng đâu đó, lôi lên vài củ khoai rồi chạy ra con lạch nhỏ sau đình, rửa qua cho hết đất cát, và ngon lành chén với nhau vị khoai sống ngòn ngọt, nghe tiếng khoai dòn trong hàm răng, thật tuổi học trò ngày xưa sao dễ thương quá.

Rồi leo lên ụ đất cao, nơi có cái mả xưa, um tùm cỏ tranh. Bọn tôi ra sức nhổ những cây cỏ tranh nhỏ mà dai ác liệt, có khi mấy đứa ngã chổng kềnh mới nhổ lên được một bụi, rồi tước vỏ và nhai như nhai mía. Dĩ nhiên là ngon tuyệt, và cũng dĩ nhiên, cái tai tôi lại được mẹ lôi về, sau khi bà “tế” cho một trận nên thân, vì cái tội không trông em mà bỏ đi chơi như thế. Mẹ còn dọa:

- Mày cứ đi chơi cho nhiều vào, con ma nó kéo mày đi mất luôn đấy nhé.

Nói tới ma, thuở ấy chẳng hiểu sao mà chúng tôi rất sợ đi ngang gốc cây bàng cạnh sân đình. Lỡ có đi qua, cả bọn thế nào cũng khom lưng ù chạy một mạch, với lời dặn dò của ai đó từ bao giờ:

- Này, chúng mày đi qua đấy mà chửi tục là ma nó từ trên cây sẽ bắn cho mỗi đứa một mũi tên là toi nhé.

Đấy, mùa hè ngày xưa là thế đấy, có khi còn leo xuống lòng cống lộ thiên, bắt cá. Được cái nước rất trong, những con cá be bé “đứng” ve vẩy đuôi trong làn nước, ngoắt một cái đã biến mất khi những bàn tay nhỏ bé của tôi chỉ vừa kịp chạm vào mặt nước. Mãi rồi cũng bắt được vài con, có khi chả có cái gì đựng, bèn túm áo lại, cho cá vào, xúc đầy nước, vội vàng trèo lên bờ… chạy cho nhanh! Khi nước cạn, lại vội vội vàng vàng trượt xuống nước, lại túm thêm ít nước, lại chạy lên bờ, rồi lại… Có khi về đến nhà, mấy con cá bé tẹo đã tắt thở từ hồi nào, vì quãng đường về đến nhà làm gì còn cống nước. Vậy mà có lúc, tôi đã khóc vì mấy con cá ngoẻo ấy. Thật là “tình cảm”. Về đến nhà, mẹ đã đứng đấy tự lúc nào, mẹ dứ dứ cái roi vào vai tôi, tay kia, mẹ để đàng sau lưng. Đến khi tôi năn nỉ mẹ tha cho cái tội đi chơi thì mẹ chìa cho tôi chiếc lọ be bé có con cá phướn hồng hồng thật đẹp, chả hiểu từ đâu mà mẹ có. Mẹ cười cười bảo tôi:

- Cho con đấy! Mau vào mà ăn cơm.

Nghĩ lại mà bây giờ tôi còn cảm động, nước mắt cứ chực trào ra, các cụ ạ! Ôi tôi yêu mùa hè, Ôi tôi yêu mẹ biết bao! Ôi ngày xưa, ngày xưa…

Những tháng ngày học trò quả là vui, nhất là vào những ngày hè. Nhìn những cánh phượng vẽ cả một trời màu đỏ tươi rực rỡ, lũ học trò tha hồ bay nhảy, tha hồ nghịch ngợm. Cuộng hoa phượng là một vũ khí ác liệt. Nó dài và be bé như cây tăm, mà dai lắm. Dùng nó làm bì mà bắn vào ai đó thì một là kẻ bị bắn sẽ khóc vì đau. Hai là kẻ bắn cũng đau không kém, có khi còn hơn, nếu kẻ bị bắn về méc bố mẹ. Bố mẹ nó sẽ sang méc bố mẹ mình, và a lê hấp, bố mẹ mình đâu muốn bị mang tiếng là bênh con, nên cứ cho thằng con nghịch ngầm có tiếng, vài ba roi phát rét. Vậy mà, mai lại chơi với nhau, lại leo lên cây phượng, hái mấy trái phượng già, đập ra, lấy mấy cái hột ăn. Bùi bùi, vui vui…

Nhưng mùa hè bắt đầu có nỗi buồn khi những cậu cô ngày nào đã lớn. Những tháng ngày vùi đầu sử kinh cũng không làm mất đi niềm vui của những cô nàng áo trắng xinh xinh và những anh chàng quần xanh thẳng thớm. Trái tim còn son trẻ đã biết rung theo nhịp của từng sợi tóc bay bay ai đó ngồi bên cửa sổ. Những tinh nghịch của kẻ nào đó có khi đã làm xao động tâm hồn mộng mơ chưa lần biết tình yêu là gì. Chỉ biết, có những lúc sao mà cứ thừ ra như… làm sao ấy, có cái gì đó réo gọi trong tâm hồn. Đôi khi chỉ là cái nhìn ngang không chủ ý, mà ai đó nghĩ ngợi mông lung và suy non đoán già cùng đặt ra nhiều phương trình để giải cái bài toán kỳ bí: Tình yêu là cái chi chi. Có khi chỉ là một lời bông đùa mà cả đêm về trằn trọc, chả biết cái “đằng ấy” có hiểu rằng ta… khó nói lắm không! Ôi, tuổi trăng tròn mà tim méo xẹo. Chắc nhũn não quá. Mặt cứ dài ngoẵng cả ra. Rồi các nàng bắt đầu… diêm dúa đi một tí. Để làm chi vậy ta! Ai mà biết! Nhưng biết đấy, biết rằng từ xa mà… gần lắm, có ai đó đang theo dõi từng cử chỉ của mình, mộng du đến độ thầy cốc cho một cái mới giật bắn người như có hỏa tiễn Saturn gắn ở… Lại có khi lơ đãng vì bóng ai đó mà đọc công thức sinh học gì đó thành RMK là 1 hãng thầu gì gì đó quên cha nó mất rồi… Ôi, ngày xưa mơ với chả mộng.

Và mùa hè lại đến như hằng năm, mà sao lòng ta như xát muối vậy! Không, như bôi alcool thì có! Ôi, mai xa rồi thằng ta ơi. Làm sao bi giờ. Thư viết rồi mà sao đưa đây. Nhờ mấy “bà” kia đưa dùm ư! Chết! Mai chúng hê lên cả làng thì… độn thổ mất. Chần chừ, trù trừ, suy với chả tính! Cuối cùng đành cất vào đâu đó để lòng tê tái lòng. Trời ơi, mai nghỉ hè rồi! Trời ơi! Màu phượng sao buồn thế! Sau mấy tháng hè, biết còn gặp lại… người xưa? (làm như hè xong là người ta chết hết hay sao ấy)

Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn…

Man mác cái khỉ khô! Tê tái buồn thì có!

Rồi 20. Rồi 30. Rồi nhiều cái mươi nữa. Cho đến một ngày, ta gặp lại những cố nhân ngày xưa. Ta lại vui vẻ trò chuyện như chưa hề có gì xảy ra trong tâm hồn. Chả biết “họ” có như vậy không nữa? Mà sao ta lại chả thấy yêu tí ti ông cụ nào. Vui vui thì có! Sao vậy cà! Hết buồn rồi hè ơi. Hoa phượng ơi, cứ rực lên trên màu nắng nhé, để đôi khi thấy ngươi, thấy lũ ngươi, ta nhớ về cái thuở học trò, chem chép cái miệng đã móm vì răng rụng dần, và ta tự cười. Đồ mát!!!

LAM TRẦN 12.05.2013

CẢM XÚC NHÂN MÙA VU LAN

Chỉ còn vài ngày nữ­­a là đến ngày Lễ Vu Lan. Hơn 40 năm qua, vào ngày này, mình đi chùa lễ Phật và được cài một bông hồng trắng trên ngực áo! Trong không khí tôn nghiêm, thiêng liêng ấy, mình da diết nhớ Ba Má, nhất là Má, nhớ vô cùng!

Khi lên mười tuổi, Ba mình mất. Má chỉ mới 38 tuổi, vẫn rất trẻ đẹp. Má mình hát và chơi đàn tranh rất hay. Dù có nhiều người danh giá tìm đến, nhưng bà kiên quyết ở vậy, thờ chồng, nuôi con. Má mình sống bằng tình yêu thương dành cho hai chị em và bằng những hoài niệm dành cho Ba mình.

Mình nhớ ngày xưa, những chiều thứ bảy, chủ nhật, ba má con cùng đi thăm mộ Ba ở nghĩa trang gần Hòn Chồng. Trong lúc mình và chị đi cắm nhang ở những ngôi mộ kế bên, Má ngồi cặm cụi nhổ từng cọng cỏ mọc trên mộ Ba, vừa thầm thì trò chuyện cùng Ba. Nghĩa trang vắng đìu hiu, nghe thật rõ tiếng lá rơi xào xạc. Nắng chiều hắt lên một màu tím ngắt trên những đồi núi màu xanh sẫm phía sau nghĩa trang. Buồn hiu hắt! Không bao giờ mình quên được dáng Má ngồi trang nghiêm, và thật cô đơn bên mộ Ba trong bóng chiều tà pha sắc tím!

Buổi tối, mình ngủ chung với Má. Nhiều đêm khuya, giật mình tỉnh giấc, không thấy Má đâu, mình chạy ra phòng thờ, thấy Má đang gục đầu trên bàn thờ Ba khóc lặng lẽ. Mình chạy lại ôm chầm lấy Má, và hai Má con cùng khóc với nhau...

Nhưng sau đó, Má đã gượng dậy vì các con. Và, thật phi thường, như một cây đại thụ mạnh mẽ, Má đã là chỗ tựa vững chắc, êm ái, luôn bảo bọc, che chở, tỏa bóng mát cho các con. Dù Ba mất sớm, nhưng hai chị em mình luôn đầy đủ, sung túc về vật chất lẫn tinh thần.Tụi mình rất hạnh phúc vì Má vừa là Ba, vừa là Má, là Cô giáo và vừa là người bạn thân thiết, tuyệt vời của hai chị em nữa.

Nhưng những ngày hạnh phúc không lâu! Lúc mình chuẩn bị thi lên năm thứ hai Dược Khoa, Má mất. Mình khủng hoảng, đau đớn tột cùng! Nhưng vì muốn giữ lời hứa với Má trước khi mất, mình đã cố gắng gồng mình ngồi học thi, đầu óc chữ nghĩa quay cuồng, nước mắt tuôn rơi và trái tim tan nát! Có lẽ Má đã dõi theo phù hộ cho mình, nên mình đã may mắn qua trót lọt kỳ thi năm ấy. Và cũng mất hơn nửa năm sau, mới trở lại bình thường...

Năm sau đó (?), bài hát Nửa Hồn Thương Đau ra đời. Khi đọc và hát những ca từ của bài này, trong mình oà vỡ những cảm xúc: “Nhắm mắt, chỉ thấy một chân trời tím ngắt, chỉ thấy lòng nhớ thương chất ngất, và tiếng hát, và nước mắt… Khóc lẻ loi một mình”. Bài hát dường như dành cho Má, và mình da diết nhớ Má. Nhớ dáng Má ngồi thật cô đơn trong bóng chiều tím ngắt, nhớ tuổi thơ của mình luôn quấn quýt bên Má, nhớ biển Nha Trang những chiều tối cùng Má ngồi ngắm biển và ngắm trăng, nhớ những con đường yên tĩnh ba má con cùng đi dạo dưới những hàng cây phượng thơ mộng, nhớ những món ăn thật ngon má đã nấu cho hai con gái cưng,.. nhớ về Má thật nhiều và cũng nuối tiếc thật nhiều vì mình chưa làm được gì để báo hiếu cho Má. Và ngày xưa, lúc đó, mình đã hát bài hát Nửa Hồn Thương Đau với tất cả tấm lòng. Sau này, khi hát lại bài hát này, vẫn đong đầy những cảm xúc.

Khi đã trưởng thành và có một gia đình hạnh phúc bên chồng con, mình càng nhớ Má, càng thấu hiểu sâu sắc hơn tấm lòng cao cả của Má. Ngày xưa, khi Ba mất, Má còn rất trẻ và đã cô đơn biết dường nào, nhưng Má đã hy sinh tuổi xuân, vẫn kiên định một lòng son sắt với chồng, con! Mãi mãi, mình luôn ngưỡng mộ, biết ơn, và thương nhớ Má!

Từ khi chị của mình (DK 73) sang Úc, thỉnh thoảng mình mới về Nha Trang. Mấy tháng trước mình có về Nha Trang và có ghé thăm mộ Ba Má.

Nguyễn Thị Ngọc Vân

CHÚNG TA CẦN TIN

CÓ THƯỢNG-ĐẾ

PHẠM ĐÌNH TÂN

Ngày nay, chỉ nói đến Thượng-Đế thôi, nhiều người đã có thái-độ hoặc diễu-cợt, hoặc mỉa-mai. Họ cho những tư-tưởng đó nếu không do tâm-trí mê-tín thì cũng do đầu-óc lạc-hậu mà ra. Họ nói: “Thời-đại này là thời-đại nguyên-tử, thời-đại vệ-tinh, thời-đại phi-thuyền không-gian. Khoa-học đã khám-phá bao nhiêu sự lạ-lùng và đã giúp người ta không còn bị ràng-buộc với trái-đất nữa. Vậy ai còn ngu-muội tin vào thần-thánh, tin vào những vật vô-hình, tin vào Thượng-Đế cai-trị chúng ta. Nếu phải tin có một vị Chúa-tể giúp-đỡ con người, vị đó là khoa-học”.

Biết bao nhiêu người đã và sẽ nói những lời trên đây. Họ tưởng chỉ có khoa-học mang hạnh-phúc cho nhân-loại. Họ không ngờ chính nhà khoa-học lại không tin như thế. Mà nhà khoa-học đây không phải là nhà khoa-học tầm thường, chính là nhà khoa-học đại-tài, nhà khoa-học người ta đã tặng cho cái danh-hiệu là “cha đẻ vệ-tinh Mỹ”, nhà khoa-học đang sửa-soạn cuộc du-hành đầu tiên của loài người lên mặt trăng và các hành-tinh khác. Nhà khoa-học trứ-danh đó là bác-sĩ Werner Von Braun.

Chiều thứ hai 14.5.1962, tại Đại-học đường Massachusetts bên Mỹ, ông đã tuyên-bố: “Phóng một người lên mặt trăng phải tốn 2 tỷ Mỹ-kim, nhưng việc đó đáng tốn kém”.

Ông lại còn tuyên-bố những lời ý-nghĩa hơn trước đó mấy giờ, trong một cuộc hội báo:

“Nhờ những điều hiểu-biết về ngoại-tầng không-gian, nhiều người cho rằng chúng ta không cần có đức-tin. Đó là điều nhầm-lẫn. Muốn hiểu tạo-vật ngày nay, chúng ta cần tin có Thượng-Đế hơn cả những người sống ở thời Trung-Cổ”(1).

Thế là nhà khoa-học công-khai công-nhận tài-sức và sự hiểu biết của loài người chưa mảy-may đáng kể trước vũ-trụ bao-la và con người dầu sau này có tài-giỏi đến bậc nào, nhờ khoa-học vẫn không thể vượt được quyền Đấng Tạo-Hóa, Đấng Thượng-Đế.

Trí-khôn và tài-sức con người làm cho khoa-học phát-triển và khoa-học giúp con người sống dễ chịu hơn, sáng-tạo ra những phương-tiện thuận-lợi, khám-phá ra nhiều điều lạ-lùng của tạo-vật. Tuy nhiên, nếu suy-nghĩ kỹ, người ta càng sáng-chế và càng khám-phá, người ta càng dấn mình vào vòng lệ-thuộc kỹ-thuật và máy-móc. Con người đã sáng-chế ra vệ-tinh, sáng-chế ra phi-thuyền không-gian. Kỳ-diệu biết bao! Nhưng ngồi vào trong vệ-tinh, nằm vào trong phi-thuyền không-gian và ngay ngồi trong chiếc xe-hơi chạy trên mặt đất này, có ai nghĩ rằng con người đã mất tự-chủ rồi không, con người đã phải tùy-thuộc vào máy móc không? Chỉ một giọt dầu không chảy, một luồng điện không thông, một hạt bụi bám vào máy-móc, tức thì xe không chạy, vệ-tinh không bay, phi-thuyền ngừng lại, con người có thể thoát khỏi những tai-nạn bất-ngờ ấy chăng? Vậy khoa-học giúp người thì có giúp, nhưng không giải-thoát con người mà còn ràng buộc con người hơn nữa. Chính con người cũng biết thế khi họ dặn nhau: Khoa-học không lương-tâm, chỉ hại cho tâm-hồn. Mà quả thực-thế. Con người biết xây nhà chọc trời, biết chinh-phục không-gian, nhưng con người không biết sống một đời sống chính-đáng, một đời sống trung-tín, thật-thà, ngay-thẳng. Và đó là điều tai-hại vì chính những điều sau này là những điều cốt-yếu đem hạnh-phúc chính-thực cho con người. Nhưng có bao nhiêu người nhớ đến câu phương-ngôn trên kia?

Đằng khác mới sáng-chế được chiếc vệ-tinh nhỏ bé, chiếc phi-thuyền như hạt bụi trong không-gian mà con người đã tự-hào là tài-giỏi thì con người, nếu có lòng trung-thực, phải nghĩ gì về Đấng đã tạo-dựng nên vũ-trụ với hàng trăm ngàn triệu tinh-tú nhịp-nhàng luân-chuyển hàng mấy mươi ngàn thế-kỷ rồi? Và không nói đâu xa-xôi, con người phải nghĩ gì về Đấng đã tạo nên chính con người với bao nhiêu cơ-quan phức-tạp, tinh-tế làm cho con người sống-động, biết suy-nghĩ, hiểu-biết và cảm-thông với mọi vật chung quanh mình?

Chỉ mấy điều đơn-sơ trên này cũng đã chứng-tỏ vũ-trụ này phải có Đấng tạo-dựng và chỉ-huy. Cho nên nhà khoa-học càng biết nhiều càng thấy mình không đáng kể trước Hóa-Công, càng phải quỳ xuống mà tôn-kính Ngài.

Và tôn-kính Đấng Tạo-Hóa, Đấng Thượng-Đế để dẹp lòng kiêu-ngạo của con người, để con người biết sợ-hãi khi làm điều trái, biết tìm sự an-ủi khi gặp phải thử-thách, âu-lo.

Chính nhà vô-thần Voltaire trước đây cũng đã phải kêu lên rằng: “Nếu không có Thượng-Đế thì người ta phải tạo ra Ngài” (Si Dieu n'existait pas, il faudrait l'inventer).

Vì vậy mà bác-sĩ Werner Von Braun trên kia không những khuyên người ta tin có Thượng-Đế mà còn kêu gọi người ta nhớ điều tin đó là điều cần-thiết. Những người ngay-thẳng và thiện-chí hãy chấp-nhận điều đó như một lời cầu-nguyện tha-thiết của mình.

ĐỖ THIÊN THƯ st

(1) Tin này đăng trong bản tin Pháp ngữ của Việt Tấn Xã ngày 16.5.1962 nhưng không thấy dịch sang bản tin Việt-ngữ của hãng đó.


Tới giờ này, ông Sang thấy cuộc đời ông đã được cái “số” đưa đẩy ông sát rạt từ nhỏ tới lớn, rồi bây giờ tới già, tới luôn cái thời điểm ông sắp phải về chầu tiên tổ. Nói vậy chớ ông cũng chưa đến nỗi nào. Theo như cô bạn gái đang ở cách ông nửa vòng trái đất, ông vừa tìm lại được sau gần năm chục năm biệt tăm, đã gửi cho ông một cái đĩa CD ghi lại toàn bộ lá số Tử vi về cuộc đời ông, cho biết ông còn thoải mái thưởng thức bốn cái worldcup trước khi “bái bai” cái thế giới bon chen này ở tuổi ngoài chín mươi.

Cũng được thôi, ông mong sao tới chừng đó ông đánh một giấc thẳng cẳng rồi thăng luôn, để cho con cháu và người thân một sự bất ngờ thú vị, bởi vì ông đã dặn dò trước rồi. Ông cho rằng nếu đúng như cái CD đã phán thì ông thấy cuộc đời ông đã sống quá đầy đủ. Ông có thể nói ông đã “enjoy” cuộc sống của ông từ nhỏ, đến lớn, đến già, đến… chết.

Ông nhớ lại hồi còn nhỏ, ông ở trong một gia đình không phải nghèo, cha ông làm Préparateur ở Pharmacie nói nôm na theo tiếng Việt là Bào chế viên ở tiệm thuốc tây. Nghề này bây giờ không còn nữa, nhưng ngày xưa cha ông sống thoải mái, có tiền mua nhà, dù là một căn nhà cấp bốn và nuôi sống vợ con. Ông lại được học hành tại một trường trung học tiếng tăm lừng lẫy ở Saigon. Ông chẳng phải lo lắng gì đến cái học phí như những đứa trẻ ngày nay phải “vượt khó” để đi học. Bởi vì cái trường trung học danh tiếng mà hồi đó ông theo học là một trường công lập miễn phí hoàn toàn. Không những không lấy một xu nhỏ nào của cha mẹ học sinh mà trường còn cấp học bổng cho mấy đứa học sinh giỏi mà nghèo khó. Mấy đứa nầy thích lắm coi như đi học mà có lương mang về giúp đỡ cha mẹ chúng. Nhờ vậy chúng nó lại càng cố gắng học giỏi hơn nữa để năm nào cũng được học bổng. Một năm mười hai tháng không hề có họp phụ huynh học sinh. Coi như cha mẹ giao khoán cho nhà trường về công việc học tập của lũ trẻ. Hồi đó không có cái vụ cha mẹ học sinh làm cò mồi kêu gọi đóng góp cho nhà trường khoản này khoản nọ. Bây giờ, nào tiền đồng phục đi học, đồng phục thể thao mỗi năm một kiểu. Cha mẹ học sinh thường hay hát: “Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn...”

- Sao buồn vậy Chị Ba?

- Thì hết hè, tựu trường phải chạy học phí cho ba đứa nhỏ, rồi sắm quần sắm áo đồng phục sách vở…

“Số” của ông từ nhỏ đã sướng rồi. Ông đi học thoải mái. Hết giờ học ông đi xem phim với bạn ở những rạp quanh quẩn ở Saigon, hoặc chơi bóng đá, bóng bàn, tối về học ôn bài vở, sáng tiếp tục đi học sau khi dứt một tô hủ tíu, hay một cái bánh bao, đính kèm một chén xíu mại. Ông không hề biết đến cái cảnh con nhà nghèo khó phải phụ giúp cha mẹ làm việc nhà, gánh gồng việc chợ búa, buôn thúng bán bưng, như bài thơ tả cảnh nhà nghèo ở ngoài bắc mà ông đã học trong lớp.

“…Con nhà khó nhiều khi vất vả,

Ngoài học đường thư thả được đâu,

Khi thời quẩy nước tưới rau

Chợ tan đón gánh theo sau mẹ già …”

(Cảnh vui của nhà nghèo – Tản Đà)

Rồi thì ông cũng mò lên được năm cuối cùng của bậc trung học. Đến đây ông bắt đầu hiểu lơ mơ về cái số mệnh của mỗi người và ông cảm thấy sung sướng khi cha ông, một buổi chiều đi làm về, cho biết ông chủ nhà thuốc tây hứa tài trợ cho ông đi Pháp du học sau khi đậu xong bằng Tú tài toàn phần. Ông thích quá, tập trung vào việc học và rồi cuối năm đó ông dễ dàng tốt nghiệp bậc trung học. Nhưng cái tin ông thi đậu đến muộn màng đối với ông chủ nhà thuốc tây vì ông ta đã ra đi trước rồi. Ông không đi quanh quẩn trên trái đất này mà ông đi thẳng lên thiên đường vì bị “đứt gân máu” đột ngột trước đó một tháng. Ngày xưa không gọi đó là bệnh “tai biến mạch máu não” hay gì gì đó mang tính y học hiện đại mà chỉ truyền miệng một cách nôm na dễ hiểu như vậy. Vậy là xong kế hoạch đầu đời cho một tương lai sáng quắc của ông coi như đứt chến. Nhưng lúc đó ông chưa đủ hiểu biết để nuối tiếc. Cha ông cũng có an ủi “trước đây ông chủ nói như vậy, nhưng biết đâu dù còn sống ông ta không tài trợ cho con cũng huề thôi”.

Dầu sao ông cũng coi như số mệnh đã dẫn ông đi một lối khác không đúng với dự định ban đầu. Ông nghĩ cách kiếm “đường binh” khác cho cuộc đời của mình. Lúc bấy giờ ở Saigon, một số lớn thanh niên trai trẻ sau khi học xong trung học đều muốn nhanh chóng có một nghề để ra làm việc như một chuyên viên tại một công sở, một công ty kinh doanh nào đó trong nước hay của nước ngoài với mức lương mà họ biết chắc rằng dư sức nuôi sống bản thân và chu toàn cả một gia đình bé nhỏ mà họ sẽ tạo dựng sau này.

Ông Sang nộp đơn thi vào một trường Cao đẳng chuyên nghiệp và trường Cao đẳng sư phạm. Cách bao sân như thế này theo ông Sang lúc bấy giờ không sẩy vào đâu được. Quả thật, ông đậu ngay vào một trường chuyên nghiệp kinh doanh, và ông đã không ngần ngại bỏ hẳn kỳ thi vào trường sư phạm vì ông cho rằng số phận đã không muốn cho ông làm nghề thầy giáo mà ông cũng biết chắc chắn rằng sau này ra trường sẽ làm nghề cầm phấn tại một tỉnh nơi miền sông nước xa xôi nào đó.

Ông Sang đã ngoan ngoãn tuân theo số mệnh để an phận “cày” suốt ba năm trời để lấy bằng tốt nghiệp. Tuy nhiên, thời gian đã trôi qua nhanh chóng, vì ông đã có “nữ quới nhân phò trợ”. Vừa vào năm thứ nhất được mấy tháng ông đã quen Ngân. Từ đó, động cơ thúc đẩy ông đến trường học cho tốt là để được nhìn thấy người con gái quê quán ở Biên Hòa, một tỉnh sát nách Saigon. Thật sự đã quen biết nhau rồi nhưng thời gian để tiếp xúc trò chuyện cũng không nhiều. Thỉnh thoảng vào giờ nghỉ giải lao ông lò mò qua dãy bàn con gái kéo một cái ghế trống đến ngồi gần cô này trò chuyện trong năm bảy phút đến khi chuông reng thì rút dù về phía con trai ngồi vào chỗ, tiếp tục học hành nghiêm chỉnh. Qua bao nhiêu lần gặp nhau ngắn ngủi ông Sang, lúc bấy giờ là một anh sinh viên nheo nhẻo, đã xâu kết thành một chuỗi thông tin về người con gái đó. Ngân là con gái độc nhất trong một gia đình khá giả đứng giữa hai người con trai. Người anh đang học năm thứ ba trường Y Saigon và cậu em út còn hai năm nữa xong phần trung học. Ông bố là một nhà kinh doanh chuyên mua bán phụ tùng các loại xe du lịch. Ông muốn con gái trở thành một nhà doanh nghiệp. Ông không nhất thiết bắt con gái phải theo cái nghề bán phụ tùng xe hơi, ông để con gái tự do dấn bước vào trong thương trường. Cô có thể đi vào con đường kinh doanh địa ốc, một nhà đầu tư chứng khoán, hay một nhà kinh doanh trong các ngành nông lâm hải sản…

Lên đến năm thứ ba tình cảm hai người đã rất khắng khít. Thỉnh thoảng, khi có giờ nghỉ giữa buổi học, hai người sóng đôi thả bộ ra trước đường, bước qua nhà thờ Francico vừa nói chuyện tâm tình vừa tận hưởng không gian tĩnh mịch của nhà thờ.

Rồi kỳ thi tốt nghiệp cũng nhanh chóng trôi qua. Chàng sinh viên Sang có ngay công việc làm đúng như ý muốn, nhưng cô sinh viên Ngân không cần phải đi xin việc làm đâu cả mà lại được gia đình giúp lấy vé máy bay lên đường sang Mỹ du học.

Ngày xưa sự chia cách như thế này thật khó mong có ngày tái hợp. Chuyện của Sang và Ngân cũng không có gì khác hơn. Ngân ra đi thoải mái lý do cô còn quá trẻ chỉ cần bỏ ra ba hoặc bốn năm nữa cô sẽ có học vị cao hơn, và khi trở về cô sẽ có công việc làm quan trọng hơn mà cô cũng còn trẻ để tính chuyện chồng con một cách dễ dàng. Lúc bấy giờ có ai nghĩ rằng cô sẽ trở về đâu? Dù sao thì sự ra đi của Ngân cũng đã làm chết trong lòng Sang không ít.

Đến đây chuyện làm ăn của Sang quả thật bình lặng vô cùng. Tiền lương hằng tháng tiêu xài không hết cho dù phải chung chi vài chầu nhậu nhẹt với bạn bè hay một vài màn khiêu vũ. Tiền còn thừa ông bỏ vào quỹ tiết kiệm ở ngân hàng. Cuối tuần có thời gian rảnh rỗi anh thả vào hồ bơi, ngụp lặn thỏa thích chừng hơn tiếng đồng hồ rồi về nhà nằm đọc sách. May mắn cho anh là có được cái thú đọc sách. Ở Saigon ngày xưa, kể cả mọi người dân ở các tỉnh thành ai ai cũng cảm thấy sung sướng vì được đọc sách thoải mái. Sách nhiều không kể xiết. Sách bán tràn lan ở những kiosque san sát nhau dọc theo đường Lê Lợi, đường Tự Do. Người ta thường hay nói: “Ở Saigon, trên là trời dưới là sách”. Nhà nào cũng vậy không ít thì nhiều đều có một tủ sách. Một người cậu của ông Sang lúc bấy giờ có thú mê đọc sách. Ông thực hiện một tủ sách gia đình, sắp xếp thật ngăn nắp. Ngoài cửa tủ sách ông để một tấm bảng nhỏ ghi: “Tủ sách Trần gia” vì ông cậu họ Trần. Con cái sáu bảy người vừa trai vừa gái đều được đặt tên một cách đơn giản “Trần văn” hay “Trần thị” gì đó tiếp theo là cái tên hoặc An, Bình, Hạnh, Phúc vv... Ông khắc một con dấu bằng đồng hình dáng hột xoài ghi bốn chữ “Tủ sách Trần gia” đóng bằng mực đỏ vào trang đầu của tất cả những cuốn sách để trưng bày trong tủ. Ông giữ sách kỹ không ai bằng. Khi đọc một cuốn sách ông từ từ rút ra khỏi tủ cuốn sách đã chọn, rồi ngồi lên ghế xếp nhẹ nhàng lật từng tờ nghiền ngẫm đọc. Thấy con cháu đọc sách mà bẻ ngược phần đã đọc ra ngoài sau ông chỉnh liền. Ông thường nói: “Sỹ nhân tam nhật bất độc thư, tắc diện mục khả tăng, ngôn ngữ vô vị” rồi ông diễn giải theo lối nói bây giờ: “Người trí thức ba ngày không đọc sách, mặt mày thấy ghét, miệng mồm nói những lời bá láp”. Mỗi khi có một cuốn sách mới xuất bản ông thường mua hai cuốn, về nhà làm thủ tục đóng dấu cất vào tủ còn một cuốn để ở ngoài cho bạn bè mượn. Rủi ro có cuốn nào ra đi biến biệt thì ông khóa tủ không bao giờ cho ai mượn cuốn còn lại vì phải để dành cho ông đọc.

Chỗ làm việc của ông Sang hồi đó nằm ở khu Chợ lớn. Đây là một siêu thị cho người nước ngoài. Phòng Kế toán nằm phía sau khu vực mua bán. Trong phòng đa số là phụ nữ khoảng chừng mười lăm người. Đàn ông chỉ có bốn người. Hai ông già là sếp khoảng chừng bốn chục. Người thứ ba là Ông Sang và một cậu thanh niên làm nhân viên sai vặt. Đa số những phụ nữ làm việc trong phòng kế toán đều xếp vào đàn chị của ông Sang còn vài cô chắc cũng mới ra trường đâu đó xuýt xoát tuổi với ông Sang. Không nói cũng biết những phụ nữ làm việc cho công ty nước ngoài lúc bấy giờ ăn mặc rất đẹp, đẹp hơn nhiều so với những người phụ nữ làm công chức hay các cô giáo ở các trường học.

Ngồi sau lưng ông Sang là một cô bạn đồng nghiệp vào trước ông Sang khoảng nửa năm. Cô hay cười mỗi khi ông Sang pha trò hay kể một chuyện vui gì đó. Nghe nói cô học Luật năm thứ hai tự nhiên tạm ngưng nhảy ra đi làm kiếm tiền.

Cô nói:

- Chừng nào đi làm không được nữa thì mình đi học lại.

Cô nói nghe quá dễ dàng. Thật vậy, hồi đó lương của cô chắc chắn là phải hơn một công chức có cử nhân Luật.

Ông Sang thấy cô bạn mới này cũng vui. Cô biết rất nhiều bài hát. Ngày nào cũng vậy, buổi trưa hay buổi chiều ông và cô bạn sóng đôi bước ra khỏi nơi làm việc tà tà đi về phía đường Nguyễn Tri Phương. Đến đây hai người chia tay, cô đi về phía đường Nguyễn Tiểu La còn ông thì đi ngược về đường Nguyễn Trãi, đến nhà cha mẹ ông đối diện bệnh viện Phước Kiến.

Một buổi chiều tháng sáu, trời mưa lất phất, cô che dù, ông nấp theo đi bên cạnh. Vừa đi, cô se sẽ hát:

“Nhớ chiều nào tôi đến thăm em,

Hai bên đường phố đã lên đèn

Mưa xuân giăng mờ trắng khung trời…”(1)

Đến đường Nguyễn Tri Phương, cô vẫn tiếp tục hát: “nhưng hôm nay xa rồi…” Ông Sang không nói lời chia tay như mọi khi mà vẫn nấp dưới dù theo cô đi miết về đường Nguyễn Tiểu La. Ông Sang không thể cắt đứt giây phút hạnh phúc tuyệt vời đó. Nhưng khi về gần đến nhà, cô mới nhận ra:

- Ý! Sao anh không về?

- Về sao được? Tâm hát hay quá trời quá đất. Tôi quên về luôn.

- Anh xạo sự.

- Thật mà.

- Thôi về đi cha. Bà già chờ cơm kìa.

- OK, thôi “bai” nghe.

Nói xong ông ngoắc chiếc xích lô đang trờ tới, chỉ đường về nhà. Đêm đó ông Sang thao thức. Ông nghĩ tới cô bạn gái hồi chiều, khung cảnh êm đềm quá. Giọng hát cô nhẹ nhàng như cơn mưa lúc đó. Ông nhớ cả mùi tóc và hơi thở cô thoang thoảng qua từng cơn gió. Ông trằn trọc và chợt nhận ra ông đang cần có một người con gái để yêu thương để nói… xạo và cười đùa. Ông cũng thích cái lối nói chuyện ngang tàng của cô này. Có lẽ cô nghĩ ông cũng ngang tuổi với cô. Mấy bà chị hay nói:

- Con Tâm nó lý sự dữ lắm. Dân học Luật mà!

Ông nghĩ. Đúng rồi! Nếu cô này cứ học lên ra làm luật sư để tranh luận, cãi lẫy trước tòa chắc là xôm tụ lắm.

Một buổi trưa, chuông reng đến giờ tan sở, ông Sang tắt máy cộng đứng lên từ từ bước ra khỏi phòng. Tâm chụp vội cái bóp cầm tay bước theo sau. Hai người đi gần đến cổng chánh, thình lình Tâm bị vấp, ông Sang nhanh tay chụp tay Tâm giữ lại để cô khỏi té. Một chiếc dép văng ra xa. Để Tâm đứng lại vững vàng, ông Sang bước tới nhặt chiếc dép, quan sát:

- Đứt quai rồi Tâm ơi, làm sao đi đây?

- Phước họa khôn lường, ông ơi! Tâm than thở.

- Có gì đâu mà phước với họa. Sửa một chút là xong, nhưng rủi là không có đồ nghề.

- Làm sao đi ăn đây?

Ông Sang bàn:

- Thôi Tâm về văn phòng đi. Tôi đi ăn thật nhanh rồi mua cái gì đó về cho Tâm nhe.

- OK, bánh mì đi.

Đợi cô nàng đi chân dép, chân đất, cà nhắc về văn phòng. Ông bước nhanh ra cổng đi bộ theo kiểu olympic về nhà. Cả nhà ông đã ăn uống xong rồi. Ông vô bếp làm cấp tốc một dĩa cơm. May quá hôm nay bà già làm món gà rô-ti. Vừa có nấu cơm vừa có mua trừ hao vài ổ bánh mì. Ông chén thật nhanh đĩa cơm rồi lấy một ổ bánh mì, cho vào hai miếng gà rô-ti sau khi loại bỏ hai miếng xương nhọn hoắc. Ông không quên cho thêm một tép hành lá, một miếng dưa leo, xịt cho một miếng xì dầu, rồi lấy một tờ giấy tập học trò gói ổ bánh mì lại. Ông phóng nhanh ra cửa, sờ đầu con chó nằm giữ nhà, đi như chạy về sở làm. Nếu có ai tinh mắt và biết chuyện sẽ nói: “chắc anh chàng đang sợ “nàng” đang càm ràm vì đói bụng”.

Đến nơi, còn đúng mười phút tới giờ làm việc. Ông vội đưa Tâm ổ bánh mì. Mấy bà chị nhao nhao lên:

- Trời ơi! Coi cậu Sang mua bánh mì cho con Tâm kìa.

- Sao mà có phước được người ta thương quá vậy hè!

Tâm mắc cỡ quá chụp ổ bánh mì chạy chân đất vào phòng thay quần áo ngồi ăn. Còn thời gian ông Sang nhặt chiếc dép của Tâm lên xem và chỉ cho mấy bà chị thấy:

- Đứt dép rồi nè. Bàn chân bộ bén lắm sao mà cứa đứt quai.

- Sửa giùm cho nàng đi!

- Ba mươi giây!

Ông chạy lại chàng nhân viên sai vặt mượn cái kềm rồi trở về bàn lấy một cái kẹp giấy bằng kim loại bẻ thẳng ra, soi mấy lỗ nơi đầu dây da bị đứt. Ông dùng cọng kẽm từ cái kẹp giấy xâu hai đường rồi siết lại thế là xong. Ông đưa lên cho bà con xem:

- Xong rồi!

Mấy bà chị trầm trồ khen, vừa lúc đó tiếng chuông reng, mọi người ai về bàn nấy, mở máy nghe rẹt rẹt rồi cặm cụi làm việc. Tâm cũng đã kịp về bàn. Thấy đôi dép để dưới chân có vẻ lành lặn, cô đưa chân ướm thử thấy như chưa bị đứt. Cô hài lòng đưa đôi mắt trìu mến về phía ông Sang, rồi cúi xuống làm việc, trong khi ông sếp người nước ngoài đứng điểm danh từng người, và sau đó, quay vào phòng riêng.

Ông Sang đang ngồi kiểm tra toán số các hóa đơn giao hàng, thình lình có một miếng giấy nhỏ được xếp làm tư từ phía sau bay tới rớt trước mặt. Tâm muốn nói với ông cái gì đây! Ông từ từ mở miếng giấy ra xem sau khi liếc chừng anh sếp đang ngồi xem báo trong phòng. Tấm giấy ghi: “Cám ơn, anh tử tế với Tâm quá chừng, i l. u”(2).

Ông Sang cúi đầu sát mặt bàn, quay về phía sau, ông giơ ngón tay trỏ đưa lên miệng nhìn Tâm nói khẽ: “suỵt!”, rồi hôn nhẹ lên tờ giấy, ông liếc nhìn vào phòng sếp, sửa lại tư thế ngồi ngay ngắn tiếp tục làm vịêc. Buổi chiều hôm đó, hai người cũng sóng đôi đi về hướng Nguyễn Tri Phương. Đến chỗ chia tay, ông Sang kín đáo nắm lấy tay Tâm siết nhẹ rồi nói:

- Anh về nha!

- Ok, anh về.

Sáng hôm sau, một người nước ngoài, gốc Hàn quốc đi vào phòng sếp nói chuyện, sau đó ông ta bước ra đi về phía ông Sang mời ông vào phòng bàn công việc. Ông Sang biết anh chàng này tên là Kim ở trong nhóm cố vấn tài chánh của công ty. Qua bàn bạc, Ông Sang mới hiểu ra là công ty muốn mời ông ra chi nhánh Cam Ranh làm việc, lương gấp đôi. Sẵn máu giang hồ vặt, ông Sang nhận lời ngay. Trong thâm tâm ông nghĩ cứ nhận lời đi còn lên đường chắc là còn phải qua nhiều thủ tục.

Ông Sang trở ra bàn làm việc, mấy bà chị hỏi dò, có phần lo lắng:

- Có gì đó Sang?

- Mấy ổng mời ra Cam Ranh làm việc. Ông Sang nhìn Tâm nói trong khi cô đang trố mắt nghe ngóng.

- Làm luôn hay sao?

- Làm luôn.

- Lương bổng như thế nào?

- Gấp đôi. VGS 10.

- Ngon quá! Sang đi không?

- Trả lời OK rồi.

- Chừng nào đi?

- Chưa biết.

Một lát sau anh chàng người Hàn quốc quay lại. Anh ta đến nói gì đó với ông sếp người Việt lớn tuổi. Không nghe ông ta nói gi, chỉ thấy ông sếp người Việt gật đầu lia lịa rồi cười nói:

- Được rồi, tôi sẽ sắp xếp xong ngay.

Sau đó, anh chàng Hàn quốc tiến về phía ông Sang và mời ông Sang lên gặp Tổng Giám Đốc. Anh ta còn bảo ông Sang mang theo tất cả những đồ đạc cá nhân. Ông trả lời “không có gì” rồi bước theo anh ta ra khỏi phòng sau khi đưa mắt nhìn về phía mọi người trong phòng, kể cả Tâm, và mọi người cũng đang nhìn về phía ông có phần kinh ngạc như tự hỏi: “Ủa đi liền sao cà?”

Không phải “đi liền” nhưng cái nhìn đó là lời từ giã sau cùng của ông Sang đối với mọi người.

***

Nơi ông Sang ở để làm việc là một khu dân cư nghèo trước đây là một làng đánh cá. Sáng sớm dân chúng ra đầu làng đón xe buýt đi đến khu làm việc. Ngôi làng còn có vẻ hoang sơ, chưa có được một trạm bưu điện nên không làm sao liên lạc về Saigon bằng thư tín. Điện chưa có. Những nhà khá giả sử dụng đèn “măng-sông”, những nhà nghèo hơn thì sử dụng đèn dầu các loại. Do thông tin liên lạc còn khó khăn nên đã sáu tháng rồi ông Sang không hề có thông tin gì ở Saigon, ông Sang nhớ tới Tâm. Không biết giờ này cô ra sao rồi. Nếu ông không đi Cam Ranh không biết giờ chuyện tình cảm của hai người sẽ đến đâu. Ông nhớ hoài tiếng hát của Tâm trong buổi chiều mưa ngày ấy.

***

Vừa bước chân xuống máy bay ông Sang không đi ngay về nhà mà bảo taxi chạy ngay đến văn phòng kế toán, nơi ông đã ra đi cách đây hơn sáu tháng.

Ông đẩy cửa bước vào. Thoáng nhìn ông thấy có năm bẩy người mới lạ, chắc họ mới được tuyển dụng sau này. Mọi người nhìn lên và có người chợt nhận ra, tiếng của Huệ lớn nhất:

- Ý! Anh Sang về kìa!

Rồi không ai bảo ai mỗi người một câu chào làm cho văn phòng đột nhiên nhốn nháo lên. Ông Sang mỉm cười gật đầu chào lại, vẫy tay đối với những người ngồi phía xa. Vừa lúc đó một người ngồi gần chỗ ông Sang đang đứng, gọi ông và nói:

- Anh Sang, Tâm lấy chồng rồi…

Dương Lêh

(1) Bài hát ‘Mưa chiều kỷ niệm’ của Duy Yên và Quốc Kỳ.

(2) i l. u = I love you


Phụ Bản IV

NĂM TUẦN LỄ

TRÊN KHINH KHÍ CẦU

(Cinq Semaines En Ballon)

của Jules Verne

HẦM VÀNG

(Ba thầy trò vừa mới cứu thoát được một vị linh mục người Pháp, khỏi bàn tay tàn bạo của một bộ tộc da đen!)

Sáng hôm sau, trời trong quang đãng, con tàu Khải Hoàn trôi nhẹ về hướng tây. Nạn nhân đã tỉnh hẳn, nên lên tiếng gọi những người bạn mới một cách rõ ràng. Người ta vẹt màn ra, để cho y thở cái không khí trong lành của buổi sáng.

Bác sĩ hỏi:

- Bạn có được khỏe không?

Vị linh mục trả lời:

- Cũng khá! Tôi đã gặp các bạn như trong giấc mơ. Bây giờ, tôi có thể nhận định được điều gì đã xảy ra. Vậy các bạn là ai, để tôi không quên tên các bạn, trong lời cầu nguyện cuối đời của tôi?

- Chúng tôi là ba nhà du hành Anh Quốc, đang cố vượt qua mảnh đất Phi Châu bằng khinh khí cầu, và trên đường đi, chúng tôi hân hạnh cứu bạn!...

Thầy tu nói:

- Khoa học cũng có những vị anh hùng cứu r ỗ i!

Kennedy nói:

- Tôn giáo cũng có anh hùng hy sinh vì đạo cứu đời!

Bác sĩ hỏi:

- Bạn đi truyền giáo, phải không?

- Tôi là thầy tu truyền giáo của dòng Lazaristes... Trời đã gởi các bạn đến cứu tôi. Nhờ ơn Trời, công cuộc hành đạo của tôi đã xong... Nhưng mà, các bạn đến từ Châu Âu, vậy xin các bạn hãy kể về nước Pháp cho tôi nghe đi!... Đã 5 năm qua, tôi không có tin tức gì hết!...

- 5 năm - Kennedy nói - Một mình với bọn dã man đó à?

Vị linh mục nói:

- Đó là những linh hồn cần phải được gội rửa. Những người anh em ngu dốt và hung dữ ấy, chỉ có tôn giáo là khai sáng họ trở nên hiền hậu văn minh!

Bác sĩ Samuel Fergusson trả lời theo yêu cầu của thầy tu về tình hình của nước Pháp. Y chăm chú nghe với nước mắt nhỏ giọt!... Chốc chốc y lại nắm tay Joe và Kennedy... Bác sĩ pha mấy tách nước trà mà y uống rất là vui vẻ. Khỏe ra, y có thể ngồi xổm dậy để nở một nụ cười, mà thấy mình bay trong không gian trong lành!

- Các bạn là những nhà du hành gan dạ, - y nói - Rồi các bạn sẽ thành công thôi. Các bạn sẽ gặp lại cha mẹ, bạn bè, và Tổ Quốc của các bạn...

Nói đến đây, thầy tu cảm thấy thấm mệt vội đi nằm. Nhờ sự chăm sóc tận tình của bác sĩ mà bệnh nhân khỏe lại!

Bác sĩ hết sức ngạc nhiên về câu chuyện của thầy tu kể qua lời nói bập bẹ bằng tiếng Anh. Bác sĩ vội bảo:

- Hãy nói bằng tiếng mẹ đẻ của bạn đi, như vậy thì đ ỡ vất v ả hơn. Chúng tôi cũng hiểu được mà!

Thầy tu bèn kể lại cuộc đời của mình bằng tiếng Pháp:

- Tôi là một thanh niên trẻ ở làng Aradon, thuộc miền Bretagne. Cái năng khiếu đầu tiên lôi kéo tôi vào nghiệp tu hành, vào cuộc đời nguy hiểm quên mình. Tôi gia nhập vào Hội Tuyên Giáo của Thánh Vincent De Paul thành lập... Năm hai mươi tuổi, tôi rời quê hương để đi vào vùng hẻo lánh ở Phi Châu mà truyền Đạo. Và ở đó, từ từ vượt qua các trở lực, chống chỏi các thiếu thốn, tôi tiến vào trung tâm của các bộ lạc ở dọc theo bờ sông Nil. Trong hai năm trời, tôn giáo bị chối bỏ, lòng nhiệt thành bị mai một, tình thương không được chấp nhận, tôi bị cầm tù bởi một giống dân hung d ữ tên là Nyambarra, và phải chịu đựng muôn vàn sự bạo lực hành hạ. Vậy mà tôi vẫn kiên trì tìm cách giáo hóa họ... Sau, cái bộ lạc nầy bị tan rã trong một trận đánh dữ dội với một bộ tộc khác. Tôi bị bỏ lại, vì kể như đã chết!

Thay vì trở về quê hương, tôi lại tiếp tục công cuộc hành hương truyền đạo. Trong hai năm kế tiếp, tôi đến các vùng mọi rợ khác, vì sự thúc đẩy của Thượng Đế để truyền giáo... Sau cùng, tôi cư ngụ trong bộ lạc tên là Nyam Nyam, gọi là xứ sở dã man. Mấy ngày nay, chúng nó gán cho tôi cái tội, đã làm chết vị tộc trưởng, và sẽ bị xử tế thần vào trưa nay!...- Thầy tu kể tiếp - Tôi không ân hận gì, về cuộc đời sắp sửa chấm dứt. Đời tôi đã thuộc về Thượng Đế rồi!

- Bạn hãy hy vọng luôn luôn. - Bác sĩ khuyên lơn - Chúng tôi sẽ cứu bạn khỏi tay tử thần, cũng như chúng tôi đã cứu bạn tay ngục tù!

- Tôi không đòi hỏi gì hơn nơi Trời. – Nhà tu trả lời - Nhờ Trời mà tôi được bắt tay các bạn, và nghe lại tiếng nói của quê hương tôi.

Nhà truyền đạo trở nên mệt mỏi... Ngày giờ trôi qua trong sự hy vọng và lo ngại.

Về chiều, trời có vẻ nóng bức. Joe báo cáo có một vầng sáng ở hướng tây. Vị bác sĩ quan sát hiện tượng một cách kỹ lưỡng:

- Có lẽ là một núi lửa đang hoạt động!

Kennedy nói:

- Nhưng mà gió sẽ đưa chúng ta đến đó!

- Chúng ta sẽ vượt lên tầm cao an toàn!

Ba giờ sau họ đến tận ngọn núi lửa.

Đàng trước, là một miệng núi lửa cháy đỏ rực, đang phun trào nham thạch sôi sùng sục, chảy xuống thành suối lửa bắn tung tóe...

Những tảng đá bay vọt lên cao.

Quang cảnh thật là ngoạn mục và hiểm nghèo.

Nếu ngọn gió cứ tiếp tục thổi, thì khinh khí cầu sẽ bay vô miệng núi lửa. Họ không thể đi vòng quanh được.

Bác sĩ mở đèn khò tối đa, cho giãn nở hơi. Con tàu vượt lên cả ngàn mét cao!

Nằm trong giường bệnh vị linh mục có thể ngắm nhìn những phún thạch rực rỡ! Ông nói:

- Đẹp đẽ biết là bao nhiêu! Sức mạnh của Tạo Hóa thì vô biên, trong sự biểu dương kinh hoàng!

Mười giờ tối thì con tàu đã rời xa ngọn núi lửa. Màn đêm lại bao phủ mặt đất. Nhà tu nằm ngủ trong sự hôn mê lặng lẽ.

Joe hỏi:

- Liệu y có qua khỏi không, tội nghiệp!

Bác sĩ bảo với vẻ thất vọng:

- Y sẽ tắt trong tay chúng ta. Hắn yếu lắm rồi. Tôi đã lo liệu hết cách!

Người bệnh xin không khí thở. Miếng màn vải được vén lên. Y thở một cách khoan khoái, trong cơn gió nhẹ của đêm trường trong trẻo. Ánh sao lung linh. Ánh trăng chiếu sáng. Vị tu sĩ nói yếu ớt:

- Các bạn ơi!, tôi ra đi thôi. Cầu Trời phò hộ cho các bạn, trên bước hành trình và Ngài trả giúp tôi cái món nợ ân nghĩa nầy! Chết là trở về với vĩnh cữu. Chết là dứt mọi phiền muộn ở trên thế gian nầy. Xin các bạn hãy giúp đỡ tôi quỳ lên!

Kennedy nâng y lên. Thật là thảm não, khi mà nhìn thấy tứ chi của y rũ rượi, cứ trĩu xuống. Rồi đó, vị linh mục khấn nguyện:

- Cầu xin Thượng Đế hãy thương xót con!

Cử chỉ cuối cùng nầy cũng là sự biết ơn thiêng liêng đối với các người bạn quen biết một ngày, và y ngả đầu vào tay của Kennedy với gương mặt rạng ngời một niềm vui chưa bao giờ có ở thế gian nầy, giữa ánh sáng dịu hiền của trăng sao... Bác sĩ nghiêng mình xuống chuẩn mạch và bảo:

- Ông ấy đã chết rồi! Ngày mai, chúng ta sẽ chôn cất vị linh mục nầy trên mảnh đất Phi Châu.

Rồi cùng một lượt, cả ba người đều quỳ xuống mặc niệm...

Ngày mai, một ngọn gió thổi con tàu bay từ từ đến một vùng núi xa xôi... Kìa là miệng núi lửa đã tắt, đây là vực thẳm hoang vu, không có một giọt nước nào trên đồi khô cằn!

Bác sĩ quyết định hạ cái giỏ tàu xuống một cái vực thẳm để thực hiện việc chôn cất.

Khi con tàu đã chạm đất, thì bạn Joe nhảy xuống trước. Một tay nắm cái giỏ tàu, một tay lượm đá bỏ lên tàu để dằn bì. Xong gã buông tay kia ra, và có thể dùng hai tay mà đưa lên tàu thêm cả trăm ký đá để làm bì cân bằng cho bác sĩ và Kennedy bước xuống đất.

Trong khi bác sĩ đi nghiên cứu thế đất, thì Joe và Kennedy lo đào một cái huyệt đủ sâu, để thú rừng không thể moi xác lên được. Thi hài của vị linh mục được đặt xuống một cách kính cẩn, và phủ đất lên, rồi những tảng đá được dằn lên để làm nấm mồ. Nhưng họ không tìm ở đâu ra cây gỗ để làm Thánh Giá cho mộ bia.

Bác sĩ bảo với hai bạn đồng hành:

- Một nghịch cảnh lạ lùng của tạo hóa, một sự tình cờ hi hữu. Các bạn có biết thầy tu khổ hạnh nầy đang nằm ở vùng đất nào không?

- Ông định nói gì, bác sĩ?

- Thầy tu nầy hành đạo trong sự nghèo khó, nay y được nằm nghỉ trong hầm vàng... Những khối đá mà bạn đạp dưới chân đó là những quặng vàng có độ tinh khiết khá cao! Các bạn hãy cầm xem, những hòn đá nặng lắm!

Thanh Châu dịch thuật

THỜI-GIAN

SẼ ĐỊNH-ĐOẠT GIÁ-TRỊ

PHẠM ĐÌNH TÂN

Chủ tọa buổi lễ phát “Giải thưởng Văn-chương toàn-quốc” hôm 8.9.1962 ông Bộ-trưởng đặc-nhiệm Văn-hóa và Xã-hội, đã ứng khẩu nói một câu làm nhiều người suy-nghĩ. Ông cho thời-gian sẽ định-đoạt giá-trị một tác-phẩm văn-chương.

Ý-kiến trên đây phát-biểu trong một buổi lễ trao giải-thưởng văn-chương thực đầy ý-nghĩa, vì nó vừa giải-đáp những thắc-mắc cá-nhân nếu có, vừa ấn-định cái giá-trị chính-thức của một tác-phẩm ra đời.

Có người cho một tác-phẩm được thưởng là một tác-phẩm giá-trị. Đó không phải là điều sai, nhưng cũng không phải là điều đúng hẳn. Cái giá-trị của một tác-phẩm được thưởng chỉ là một giá-trị tương-đối mà thôi, bởi vì ý-kiến của một người hay của một ban giám-khảo chưa chắc hoàn-toàn, ấy là chưa kể ý-kiến đó rất có thể bị lầm-lạc bởi cảm-tình, bởi mặc-cảm hay vì ảnh-hưởng nào khác…Ngay những tác-phẩm được những người đương thời ca-tụng chưa chắc đã là một tác-phẩm được lưu-truyền hậu-thế.

Một nhà văn đã viết trong Văn-Đàn số đặc-biệt về tiểu-thuyết trước đây những lời này:

“Tôi đã từng thất-vọng về những sách được giải-thưởng, kể cả giải-thưởng văn-chương Nobel. Tin rằng sức học của mình chưa vượt khỏi mức sơ-đẳng, trách nào không đạt nổi cái hay của các văn-phẩm lừng dnah thế-giới, tôi đã chịu khó thăm dò ý-kiến nhiều văn-hữu đọc nhiều hiểu rộng hơn tôi thập bội, thì hầu hết cũng đều mù-tịt như tôi: Không hiểu cái hay ở chỗ nào, và cái điểm đáng được thưởng trong cuốn sách là gì”.

Chính một nhà thơ Việt-Nam cũng đã phải ngơ-ngác trong một trường-hợp tương-tự. Năm trước đây ông được cử đi dự hội các nhà thơ quốc-tế họp tại Bruxelles (Bỉ). Nhân dịp này ông được gặp một hội-viên trong ban giám-khảo đã chấm nhà thơ St John Perse của Pháp trúng giải-thưởng Nobel. Ông liền xin vị giám-khảo đó cho biết cái hay của những tác-phẩm trúng giải. Vị giám-khảo đó cười và không trả lời. Nhà thơ nhắc lại:

- Nếu ông không cho biết ý-kiến, tôi sẽ sang đến nước ông để được ban giám-khảo chỉ-giáo, vì chúng tôi là một nước nhỏ đang muốn học-hỏi người rất nhiều.

Biết không thể giữ yên lặng được, cuối cùng vị giám-khảo đã nói để thoái-thác:

- Thì ông cũng là một nhà thơ mà!

Những tác-phẩm đầu của Françoise Sagan bán chạy cũng nhờ một số người viết bài phê-bình ca-tụng. Những nhà phê-bình đó là những người nào? Lớp trẻ có, lớp già có. Về lớp trẻ thì không ai lạ gì bởi vì những nhân vật, những bối-cảnh trong tác-phẩm của Sagan đều là hình bóng của họ, hình bóng những người sống phóng-đãng, sống vô kỷ-luật, chà-đạp lên mọi trật-tự thiên-nhiên và ước định. Thế còn lớp các nhà phê-bình già? Những người này bị mặc-cảm của tuổi-tác ám-ảnh nên cùng hùa theo với các nhà phê-bình lớp trẻ để khỏi mang tiếng là kẻ lỗi-thời. Chính ông Hàn-lâm Pháp đã nghiêm-nghị tố-cáo cái tâm-trạng hèn-yếu kia của các nhà phê-bình đứng tuổi:

“Không cần giải-thích cho lắm, cuốn tiểu-thuyết đầu tiên của Sagan đã được đưa lên tận mây xanh do nửa tá những nhà phê-bình già-nua và văn-sĩ kỳ-cựu, trong số ấy có vị đã từ-trần. Những ông này lo bị lỗi thời tưởng rằng mình ca-ngợi Sagan thì nối được giây tình-cảm với phái thanh-niên, leo lên chuyến xe đang chạy, tạo-lập một tinh-thần mạnh-dạn tỏ ra cho thanh-niên biết rằng không còn thành-kiến hủ-bại nào, không có sự ngượng-ngùng phản trào-lưu nào làm hao-mòn lý-trí của các ông. Các ông tìm ở Françoise Sagan không những một tiểu-thuyết gia mà còn tìm một người trả lời cho công chúng về tâm trạng của các ông nữa…

“Người ta không thấy cuốn tiểu-thuyết mới đây (Les Merveilleux nuages) của Sagan kém những cuốn trước của bà ta. Nếu cuốn này làm người ta thất vọng là vì các cuốn trước đã được người ta quá đề cao; thật ra, trước sau, cuốn nào cũng giống nhau cả”.

Đó, thời-gian đã định-đoạt giá-trị các tác-phẩm của Sagan. Chỉ mới có mấy năm thôi mà tác-phẩm của nàng đã sụt xuống trông thấy. Bây giờ chúng ta còn có thể căn-cứ vào những lời ca-tụng trước đây của các nhà phê-bình không? Rồi đây, các tác-phẩm khác của Sagan chắc-chắn sẽ còn xuống nữa, và cái tên Sagan nếu còn lưu lại với hậu-thế, là chỉ để ghi một trong những cơn cuồng-phong của thời-đại.

Tóm lại, cái giá-trị của một tác-phẩm được thưởng chỉ là một giá-trị tương-đối, chính thời-gian mới ấn-định được cái giá-trị đích-thực của nó. Và, đó mới là phần thưởng cao-quí nhất, mà người cầm bút cần phải cố-gắng chiếm-đoạt.

Tuy vậy, các giải-thưởng văn-chương không phải vì thế mà kém phần cần-thiết. Ít ra chúng ta cũng lưu ý quần-chúng về một vài tác-phẩm khác mực thường, đồng thời khuyến-khích nhà sáng-tác luôn luôn cố-gắng để tiến-bộ. Chỉ hai yếu-tố đó cũng đủ buộc chúng ta phải lập ra nhiều giải-thưởng văn-nghệ, nhất là trong giai-đoạn này, nếu chúng ta muốn Việt Nam sớm ra khỏi nạn chậm tiến để bay bổng trên vòm trời đầy sao của nền văn-học thế-giới.

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st

CUỘC PHỎNG VẤN

Đây là cuộc phỏng vấn của một phóng viên với một nhà văn. Nhưng đãng trí thế nào, phóng viên quên béng bút danh của nhà văn. Bản thảo lại mơ màng đánh đu bên lưng chừng bàn giấy, một bàn tay tò mò lật ra, vậy nhà văn nào thấy mình trong cuộc phỏng vấn này thì tự điền tên vào nhé.

PV: Xin chào nhà văn. Rất vui khi được tiếp chuyện cùng nhà văn hôm nay. Và lời đầu tiên xin chúc nhà văn sức khoẻ, niềm vui và sự may mắn.

NV: Vâng, xin cảm ơn những lời chúc của bạn, và cũng thật may vì có lẽ hôm nay tôi được trao đổi với bạn những điều thú vị.

PV: Dạ vâng. Không phải là có lẽ mà hy vọng là thế ạ. Câu đầu tiên xin được hỏi nhà văn rằng nguyên cớ nào để nhà văn chọn con đường chinh phục độc giả?

NV: Nguyên cớ ư? Theo tôi thì để đi vào một công việc gì đó thường là do khả năng tự nhiên chủ động dẫn dắt, việc viết văn là một minh chứng rõ nhất cho điều này. Bởi ý muốn, sự ham thích, khả năng tư duy và chuyển tải, không phải từ bên ngoài cấy cắm được vào, mà phải bắt nguồn từ chính khả năng nội tại, có đầu tư đào tạo hay bồi dưỡng thì cũng chỉ là sự phù trợ. Nói tóm lại phải có cái gọi là thiên tư hay tố chất tự nhiên từ chính mình.

PV: Có câu “ Nhà văn đi tìm danh tiếng”, vậy xin nhà văn cho biết cảm nghĩ về sự nổi tiếng?

NV: Trước hết tôi muốn nói theo quan điểm của cá nhân tôi, rằng nhà văn thực sự thì không phải đi tìm danh tiếng, mà sự nổi tiếng, nếu có, là được nhiều người biết đến qua những tác phẩm của mình. Tuy nhiên, sự nổi tiếng là con dao hai lưỡi. Nếu nổi tiếng bằng tài năng thật sự thì cũng không tránh khỏi những lời xảo nghị bởi lòng đố kỵ, ganh tị, vì dư luận luôn hoài nghi sự thành công của một người, để thuyết phục được lòng tin của họ là điều không tưởng. Còn nếu nổi tiếng bởi sự vay mượn hay lên gân chốc lát, lại càng là điều tệ hại hơn. Mặt trái của vấn đề thường đem lại cho đương sự những phiền toái, rầy rà và mệt mỏi. Tôi rất sợ khi tuổi còn trẻ nhỡ viết cái gì đó tạm gọi là được được, và nhận những ngôn ngữ hào phóng của công luận, thì đó rất dễ trở thành một cái hố sâu.

PV: Nói vậy thì nhà văn không mong muốn mình là người nổi tiếng?

NV: Nói một cách chân thực thì không phải là không mong. Bất kỳ ai trên đời cũng đều muốn được nhiều người biết đến mình qua thành quả của sự lao động, những người làm nghệ thuật lại càng mong muốn nhiều hơn. Không chỉ bởi sự thoả mãn tính hư vinh, mà còn có cảm giác vui sướng vì mình đã đóng góp được một phần hữu ích vào cuộc sống. Và sự hữu ích ấy sẽ cấp số nhân nếu số lượng thụ hưởng không chỉ bó hẹp trong một phạm vi. Vì vậy, nếu ai đó bảo rằng “tôi không cần sự nổi tiếng” thì hoàn toàn không thật lòng. Chỉ có điều nên biết xử sự thế nào với sự nổi tiếng ấy.

PV: Nếu nói rằng sự nổi tiếng là được nhiều người biết đến, vậy nhà văn có nghĩ mình nhanh chân không so với một số khác?

NV: Phải nói ngay là tôi chưa từng nghĩ mình được nhiều người biết đến, có chăng là đâu đó trong những cuộc bạn bè, may ra chợt ai nhắc đến một cái tên. Hơn nữa, tôi không phải là người thích chạy nhanh, mà có thích chắc cũng không chạy được, vì văn chương không phải là một cuộc điền kinh việt dã, nên đúng hơn là cho đến giờ phút này, tôi vẫn chưa là người nổi tiếng. Việc tác phẩm của mình được một số ít bạn bè và độc giả yêu mến, cũng chỉ có thể gọi là một niềm vui và là động lực cho tôi đi tiếp con đường phía trước. Thế đã là tốt lắm rồi. Vả lại, nên hiểu thế nào là sự nhanh chân?

PV: Ồ, hình như vừa có sự đổi vai. Vậy nhà văn nghĩ gì về một số cây viết trẻ đã sớm được công luận chú ý?

NV: Bạn rất thông minh khi biến một câu trả lời thành một câu hỏi. Vậy tôi có thể nói về vấn đề bạn vừa nêu thế này nhé. Đã có câu “tài không đợi tuổi”. Người trẻ nhưng có những tư duy vượt trội, những biểu hiện xuất sắc, những thành quả cụ thể có sức thuyết phục, được sự chú ý và đề cao của công luận là điều đáng mừng. Nhưng chính sự hào phóng của công luận, với những từ ngữ tán thưởng quá mức lại trở thành một cơn gió to. Cơn gió to này ban đầu thì có vẻ cất người trẻ lên cao, làm người trẻ thấy mình bay bổng, lâng lâng hạnh phúc, nhưng cũng chính là lúc người trẻ rơi vào trạng thái mất trọng lượng, lơ lơ lửng lửng, và rồi khi đôi chân không đứng vững trên mặt đất, thí chính cơn gió to ấy sẽ làm người trẻ nghiêng ngả ngã dúi dụi, sưng trán vều môi, và đầy thương tích khi va vập phải những chướng ngại. Đó là sự thật của một số người trẻ chìm mất tăm, hoặc trở thành một loại kênh kiệu ngạo mạn dở hơi lố bịch, sau một thời làm tâm điểm của công luận. Đó là nói về một số trường hợp có tí tài, một số khác thì trở thành nạn nhân gần như ngay lập tức từ những chiêu thức lăng xê vì nhiều mục đích, mà phần lớn là sự vay mượn hay gán đặt. Số này thì hiểm họa cao hơn rất nhiều lần, cay đắng hơn là chỉ vì muốn nổi tiếng bằng mọi giá trong nhất thời mà đánh rơi cả một cuộc đời đẹp đẽ. Những sự nổi tiếng đó, với tôi thật là vô giá trị.

PV: Có vẻ như nhà văn không quá nhiều tham vọng với sự nghiệp của mình?

NV: Không hẳn. Chỉ là tham vọng theo ý nghĩa nào thôi. Bởi tham vọng trong lĩnh vực này một cách quá lố có thể đồng nghĩa với sự ảo tưởng. Mà ảo tưởng là điều hết sức tối kỵ với người làm nghệ thuật. Nếu tôi viết mà không có tham vọng đến với độc giả thì tôi viết để làm gì. Nên tham vọng của tôi chỉ là được đưa những điều tâm niệm của mình đến với nhiều người, và trong chừng mực nào đó, góp thêm chút phần tham kiến đã là tốt lắm rồi.

PV: Xin phép nhà văn, chúng ta chuyển sang một đề tài khác nhé. Nhà văn nghĩ gì về cái gọi là cũ-mới trong văn học hiện nay?

NV: Sự đổi mới luôn là sự cần thiết trong tất cả mọi lĩnh vực. Có đổi mới, có sáng tạo, có đột phá thì mới có phát triển. Thế nhưng có điều nên lưu ý một chút rằng: mọi sự đổi mới đều mang tính thử nghiệm, và khi sự thử nghiệm được trải qua một thời gian thẩm sát tính hiệu quả tích cực của nó vào đời sống, thì sự đổi mới đó mới nên được công nhận. Không ít những cuộc thử nghiệm thất bại, để lại những hệ luỵ đáng kể, khi người ta ào ào chạy theo phong trào chỉ với một ý nghĩ vội vã rằng mình là người tiên phong, là người hiện đại, là người dũng cảm, lôi kéo không ít những thanh thiếu niên chưa đủ trí lực để phân định dở hay. Không những bản thân người đó tự chuốc lấy những hậu quả, mà còn gieo hiểm họa cho nhiều người. Trong lĩnh vực văn chương thì tính hệ luỵ của nó sẽ lâu dài, bởi trong một chừng mực nào đó thì người viết sách được xã hội xem như một thành phần trí thức, là người dẫn đường, nên vô hình chung một số độc giả ngộ nhận thang giá trị trong văn phẩm ấy, dẫn đến những góc nhìn và hành xử lệch lạc. Chưa hết, khi những người trẻ đang độ cao trào ấy, thì sự tự thị của họ là vô cùng, họ bác bỏ hết những giá trị được xây dựng từ hàng trăm có khi là hàng nghìn năm, chỉ thừa nhận giá trị mà bản thân họ đề ra. Đó là một sự ngông cuồng đến ngu xuẩn.

PV: Có vẻ như nhà văn đang rất bức xúc trước một hiện trạng?

NV: Không bức xúc làm sao được, khi bên cạnh những người trẻ ngông cuồng ấy cũng lại có một số tên tuổi đàn anh hô hào ủng hộ, phong cho cặp từ “dám nói”, là vì trong thời của họ, hoặc trong vốn liếng của họ, họ không tìm được những từ vựng thích hợp cho sự diễn trải những vấn đề, hoặc họ bị đóng khung trong một phạm vi chuẩn mực nào đó, nên khi họ thấy có những người nói ra những điều mà họ bức ách bấy lâu, thì họ lấy làm thỏa mãn. Chính những người này lại càng làm hỏng thêm, méo mó thêm những giá trị văn hóa, tạo thành một xu hướng văn chương của một thời đoạn, và họ gọi đó là đổi mới, là hiện đại. Thực sự ra, những cái mà họ cho là đổi mới ấy nó đã xuất hiện đây đó trước nhiều năm rồi, và nó cũng đã bị đào thải khi quá trình song hành cùng cuộc sống dần không còn chỗ đứng. Hoặc đâu đó trên thế giới đã đào nhẵn đến tận cùng sâu thẳm vấn đề rồi, giờ họ mới xới lại, mà xới lại một cách thô thiển, rồi tự cho là mình tài giỏi. Bởi dù có thế thời nào, thì các vấn đề chính của đời sống con người cũng bấy nhiêu thôi, có khác chăng là cái cách nó diễn ra và một số nảy sinh theo từng hình thức của mỗi thời đoạn. Vì vậy, với quan điểm của tôi, không có mới, không có cũ, chỉ là có nói lên được điều gì tốt đẹp không thôi.

PV: Có phải vì thế mà nhà văn chọn cho mình một văn phong khá khác biệt?

NV: Thực ra không thể nói có sự chọn lựa ở đây. Tôi nghĩ “tư tưởng nào thì phong cách ấy”. Trong tư duy của bạn đã có sẵn một định hướng con đường bạn sẽ tiếp bước. Trong mọi lĩnh vực đều như thế, trong việc viết lách này lại càng phải là như thế. Bạn sẽ không viết ra nếu bạn không suy tư trăn trở chiêm ngẫm về đề tài bằng chính góc nhìn của bạn, và cách diễn trải lại càng không thể vay mượn, bạn phải nói ra bằng một cách tự nhiên nhất mà bạn có thể. Và đó là cái người ta gọi là văn phong, thể cách, là cái mà người ta có thể nhận diện người viết mà chưa cần nhìn đến bút danh.

PV: Xin hỏi nhà văn một câu hỏi khá nhạy cảm.

NV: Sẽ không là nhạy cảm nếu người ta không cố tình tránh né.

PV: Vâng, đúng là như vậy. Có nghĩa nhà văn sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi cho dù ở góc độ nào? lĩnh vực nào?

NV: Tất nhiên. Chỉ cần trong phạm vi của khả năng tôi.

PV: Vâng. Vậy hình như nhà văn không mấy quan tâm đến giải thưởng? Vì sao ạ?

NV: Đây đúng là một câu hỏi hơi nhạy cảm một chút rồi. Nhưng không sao. Thật ra, nói không quan tâm thì cũng không đúng, bởi bất kỳ công việc nào đều được sự đánh giá năng lực và giá trị hữu ích thông qua các giải thưởng. Ở những lĩnh vực khác, sản phẩm có hình khối sắc màu cụ thể, có tính công dụng rõ rệt thì sự đánh giá dễ chính xác hơn. Còn trong lĩnh vực nghệ thuật, thì phần lớn người ta thẩm định theo cảm quan cá nhân là chính, thang bậc thì tùy vào phạm vi rộng hẹp của cảm quan ấy. Và như thế thì độ tin cậy và chuẩn xác của giá trị một tác phẩm gần như hoàn toàn không có cơ sở định lượng.

PV: Nhưng khi thẩm xét giải thưởng thì luôn có một hội đồng, không chỉ một vài cá nhân, nếu nói vậy thì những giải thưởng đều có vấn đề cả sao?

NV: Tôi không có ý nói như thế, điều tôi muốn dẫn giải chính là vì không có cơ sở định lượng căn cốt, mà sự thẩm định nhiều khi không thể công bằng một cách đầy thuyết phục. Nếu không phải vậy thì hãy nhìn vào các giải thưởng mà xem, nếu nó đủ độ thuyết phục thì làm gì còn có dư luận đa chiều như thế. Mà nói thật, chê vẫn nhiều hơn khen. Nên với tôi, giải thưởng thật sự có giá trị là ở công chúng. Một tác phẩm bao giờ đối tượng phục vụ của nó cũng là cộng đồng, nên nếu nó được tiếp nhận một cách rộng rãi thì đó đã có thể xem như một giải thưởng. Mặt khác, yêu cầu chuyên sâu của tác phẩm thì hẳn cần phải có sự thẩm định bậc cao, song với quan niệm riêng của mình, tôi không cho đó là điều quan trọng. Bởi không ít những tác phẩm được lưu truyền qua nhiều thế hệ nhưng đương thời của nó thì gần như không được nói đến nhiều, có khi còn bị công kích, đánh đập lên bờ xuống ruộng nữa. Vậy nên giải thưởng có hay không cũng không nói lên được điều gì cả.

PV: Vâng, vậy ta bỏ qua chuyện giải thưởng, xin hỏi nhà văn một câu nữa cũng không kém phần nhạy cảm.

NV: Ồ, hình như bạn cố tình dồn tôi vào chỗ khó thì phải.

PV: Không, không đâu ạ. Cũng như nhà văn đã nói: sẽ không là nhạy cảm nếu người ta không tránh né. Vậy xin nhà văn cho biết: có thông tin là nhà văn với một trình độ văn hoá khá khiêm tốn, vậy có trở ngại gì cho công việc của nhà văn không ạ?

NV: “Trình độ văn hoá”. Ý bạn muốn nói…

PV: Dạ, là nói về học lực.

NV: Thế thì trước khi trả lời câu hỏi chính, tôi xin đưa ra quan điểm của mình về cụm từ này đã nhé. Theo tôi, nếu nói về học lực, thì phải dùng cụm từ “trình độ học vấn” mới chính xác. Vì cái gọi là “văn hoá” đó là cách sống xử của con người với đời sống chung quanh mình. Và tôi nghĩ “Trình độ không đồng nghĩa với bằng cấp, và bằng cấp lại càng không đồng nghĩa với văn hóa”.

PV: Ồ nhà văn nói rất chính xác. Xin cảm ơn nhà văn, tôi sẽ rút kinh nghiệm cho những trường hợp sau ạ.

NV: Hơi ngoài lề một chút, nhưng tôi muốn nói thêm rằng: trong sự phong phú của kho tàng ngôn ngữ Việt, người ta luôn sử dụng nó một cách tùy tiện có khi là thái quá và bất cập, có thể nói một cách cụ thể là người Việt nhưng chưa chắc ai cũng hiểu và dùng cho chính xác ngữ nghĩa tiếng Việt, vì vậy mà rất nhiều khi những ý nghĩa, tính chất của các khái niệm thường chung chung và mập mờ, dẫn đến cách hiểu đa chiều, và nói thật, rất nhiều người khá khôn ngoan trong việc chơi chữ này. Bây giờ tôi sẽ trả lời vào câu hỏi chính của bạn. “Trình độ học vấn khiêm tốn”. Chính xác. So với phạm vi của “bằng cấp” thì tôi chỉ là kẻ đứng ngoài bờ rào mà ngó vào. Nhưng không phải cứ đến trường thì mới gọi là học. Bằng cấp chưa chắc đã biểu thị đúng cái gọi là sự hiểu biết tương ứng với bằng cấp ấy. Nhiều khi bằng cấp còn phản chủ đến tội nghiệp. Có rất nhiều cách cho con người ta thu nạp kiến thức. Với tính đặc thù công việc của mình, thì sự tích lũy của tôi trên rất nhiều phương diện, rất trực quan qua đời sống hàng ngày. Rồi bằng vào khả năng tư duy tự nhiên của mình mà tôi có được một chút hiểu biết tàm tạm để sống và làm việc. Vì vậy mà cái sự học của tôi sẽ không có điểm dừng, cho dù không đạt được yêu cầu của xã hội về mặt bằng cấp, thì trong một phạm vi nào đó tôi cũng đã có được chút vốn liếng rất thiết thực.

PV: Hình như nhà văn rất tự tin vào chính mình?

NV: Không phải là hình như mà chính xác là tôi rất tự tin. Nhưng không tự tin đến mức chủ quan và ảo tưởng. Có câu “Phải biết mình là ai chứ”. Đúng. Trong đời quan trọng nhất là “phải biết mình là ai”? những ưu khuyết của bản thân, khả năng và tham vọng cũng phải tương đồng, không ai có thể vững vàng bước chân mình nếu chưa đi đã chạy.

PV: Vâng. Một câu hỏi nữa: nhà văn quan niệm thế nào là Hạnh Phúc ạ?

NV: Hạnh phúc là một cảm giác vui sướng khi người ta đạt được một mong cầu nào đó. Hình như đã từ rất lâu, người ta quen gói ghém ý nghĩa của hai từ Hạnh Phúc chỉ trong phạm vi hôn nhân, tình cảm gia đình, và người ta chỉ mải miết theo đuổi những định hình hạnh phúc to tát hoặc chưa dễ có được ngay, mà không hề biết rằng vẫn luôn có những niềm vui nho nhỏ mà hiện hữu bên ta hàng ngày. Thêm nữa là mỗi người có một hoặc nhiều ước nguyện khác nhau, trên nhiều lĩnh vực khác nhau, và khi đạt được một mong mỏi nào đó người ta gọi đó là hạnh phúc. Vì vậy mà giá trị của cặp từ Hạnh Phúc không có một định chuẩn, nên có rất nhiều người xét trong một phạm vi tương đối họ thực sự đang nắm giữ hạnh phúc trong tay, nhưng nếu được hỏi, họ vẫn cho rằng họ đang đau khổ chứ không sung sướng như người ta tưởng, để rồi một ngày nào đó, một nguyên do nào đó, họ vấp phải sự mất mát thì họ mới chợt hiểu ra. Bởi vậy mà thông thường ta vẫn phải nghe những tiếng thở than phiền muộn, càng nhiều tham vọng lại càng ít thấy mình hạnh phúc.

PV: Nói vậy là những người sống đơn giản là những người hạnh phúc.

NV: Không tuyệt đối nhưng có thể tạm cho là như vậy, khi biết hài lòng, biết sự giới hạn của cuộc sống, biết những gì có thể và không có thể với mình, thì người ta có một tâm thế an nhiên tự tại, dễ chịu, và đó thật sự là một niềm hạnh phúc lâu dài.

PV: Thật là nhẹ nhõm, mong sao mỗi người đều có thể tìm thấy hạnh phúc theo cách mà nhà văn đã nói. Cuộc trò chuyện của chúng ta đã khá dài. Vậy xin nhà văn trả lời cho một câu hỏi cuối cùng. Nhà văn có ý định thay đổi hoàn cảnh sống của mình không ạ? nếu có thì khi nào ạ?

NV: (cười một cách thoải mái) Hình như đây là một câu hỏi không thể thiếu trong các cuộc phỏng vấn. Có vẻ câu hỏi trước đóng vai trò môi giới cho câu hỏi này thì phải. Tôi chắc câu trả lời của mình sẽ không được xuôi tai nhiều người cho lắm. Nhưng tôi không thể nói khác với quan điểm của mình. Theo tôi, mỗi người có một sự thích nghi với mỗi hoàn cảnh sống khác nhau. Không có một mô hình chuẩn cho cuộc sống. Chỉ là đa số hay thiểu số. Và cũng như mọi vấn đề, luôn luôn có tính hai mặt. Quan trọng là người ta thấy thoải mái, vui vẻ, bằng an với chính mình mà không gây thiệt hại gì cho những người chung quanh là được. Độc thân không có nghĩa là cô đơn hay bất hạnh, và hôn nhân cũng không có nghĩa đã thật sự hạnh phúc. Bởi nếu hôn nhân là hạnh phúc thì tại sao người ta lại ly hôn nhiều đến thế? Tôi muốn là một kẻ rong chơi chứ không muốn trói mình đằng sau một cánh cửa, để rồi thấy cuộc đời mình cứ lẳng lặng chìm đi mỗi ngày. Có một số người bảo đó là cách sống ích kỷ, tôi không nghĩ thế. Cuộc sống, suy cho cùng chỉ là để con người ta đáp ứng nhu cầu của bản thân. Vì vậy, tôi cho rằng hãy sống với những gì mình mong ước chứ đừng nên sống trên môi người, để rồi cuối cùng chỉ thấy mình là một thứ robot không hơn. Như thế thì phí quá.

PV: Rất cảm ơn nhà văn về buổi trò chuyện này. Xin chúc nhà văn sức khỏe và sự bình an, và xin hẹn gặp lại nhà văn trong một dịp khác.

NV: Vâng, cảm ơn bạn.

ĐÀM LAN

LỜI KÊU CỨU

CỦA NGƯỜI HIỀN

Uyên ký xong, chưa kịp buông viết, Định đã chồm tới, chộp tờ đơn ly dị, lật đật gấp làm tư, cho vào túi, phòng khi Uyên đổi ý. Định lạnh lùng đi ra cửa, ngồi trên chiếc Dream 2 bóng lộn, trước khi đề máy, Định tàn nhẫn vẫy tay, nhếch một bên mép: “Bái… bai…!”. Uyên gục xuống, ôm mặt khóc nức nở. Thế là hết! Hạnh phúc vỡ tan! Mười năm tình nghĩa mặn nồng giờ đây chỉ còn cơn đau bầm gan tím ruột. Ngôi nhà ấm cúng, rộn tiếng nói cười, kể từ nay trống vắng, lạnh lùng. Tất cả đã đổi thay. Từ lúc nào không rõ, Uyên chỉ mơ hồ thấy bất hạnh thoát ẩn thoát hiện bên đời, ra sức đe dọa, công phá hủy hoại nền móng hạnh phúc gia đình. Và, hôm nay, nó đã hiện nguyên hình. Dù Uyên đã dày công chống trả, xây dựng nhưng vô hiệu. Uyên hoàn toàn thua cuộc và xác nhận điều đó bằng chữ ký trên tờ đơn xin ly dị mà Định đưa ra. Mười năm qua, Uyên đã đấu tranh không ngừng nghỉ để bảo vệ tình yêu của mình, giữ cho bé Thư một người cha. Uyên cũng có tự ái nhưng cô không muốn cái tôi của mình che khuất bé Thư. Đứa con được tạo hình trong những ngày tháng ngọt mật hương vị tình yêu. Cái thuở đất trời bỗng nhỏ bé hơn cả ánh mắt người tình và cái thế giới đông đảo con người hẳn phải ngạc nhiên vì sự tìm đến nhau của hai kẻ ở hai đầu đất nước. Người Nam, kẻ Bắc. Vậy mà vừa thoáng trông thấy nhau trong giảng đường đại học, họ đã phải ngỡ ngàng, ngập ngừng chẳng muốn quay đi. Uyên không sao quên được ánh mắt Định lúc ấy. Sâu thẫm, dịu vợi và thu hút. Uyên bàng hoàng ngẩn ngơ đánh rơi cây bút. Nhặt lên, Uyên cứ loay hoay vẽ những đường vô nghĩa trên trang vở, để lời giảng của thầy bay lãng đãng trên vòm cao giảng đường. Mãi đến lúc Đinh gọi: “Cô… sao cô bé không về?”. Uyên mới chợt tỉnh, thẹn thùng nhìn giảng đường vắng ngắt, chỉ còn lại hai người.

Uyên và Định yêu nhau dễ dàng như có duyên nợ từ kiếp trước. Cả hai đều nghèo. Tình yêu đã giúp họ vượt qua khó khăn để cảm thông nhau. Định thường bảo:

- Yêu em, anh vui niềm vui của em, buồn nỗi buồn của em. Vì vậy, anh phải cùng em chia sẻ khó khăn, gánh gồng nặng nhọc.

Đinh giúp Uyên việc nhà. Anh kèm Toán, tiếng Anh cho hai đứa em Uyên, sửa sang lại mái nhà, chuồng heo, điện đóm… Anh cáng đáng tất cả những việc lẽ ra ba Uyên phải chu toàn. Đằng nầy, ông bỏ mặc những đứa con sớm mồ côi mẹ để chạy theo một mối tình mới. Chúng đói no ra sao cũng được, ông cứ lo hưởng thụ như lúc vợ còn sống. Ham vui và vô trách nhiệm là tính cách bất di bất dịch của ba Uyên. Chị Thuyền, chị hai của Uyên, đứa con gái lớn của ông chưa tốt nghiệp phổ thông trung học đã rời ghế nhà trường để đi buôn. Một mình chị nuôi bốn miệng ăn. Người thiếu nữ đang xuân lăn xả vào giữa chợ đời kiếm sống. Gió bụi thời gian, gai chông dọc đường mặc tình nhuộm xám ước mơ riêng tư của chị. Thuyền từ chối lời cầu hôn của người yêu để được tự do… nuôi đàn em dại, trong đó có Uyên. Uyên yêu chị lắm! Cô cũng muốn bỏ học để cùng chị lo cho gia đình. Nhưng, chị Thuyền cương quyết bảo: “Một mình chị dừng lại cũng đủ rồi. Em không phải lo! Ráng học thật giỏi. Mai nầy đỗ đạt, giúp gia đình cũng chưa muộn. Biết đâu lúc ấy, chị cũng phải nương dựa vào em”.

Thương chị, Uyên chỉ còn biết chăm học và đã thành công. Kết quả ngoài sức tưởng tượng. Uyên đỗ thủ khoa và được chọn nhiệm sở. Đơn vị công tác của Uyên là một ngôi trường tại trung tâm tỉnh lỵ. Nó đẹp cổ kính và trang nghiêm. Nơi gắn bó với Uyên từ độ ấy đến giờ. Định cũng được điều về đó. Dạy chung trường, hai người có cơ hội gần gũi, tình yêu càng sâu đậm hơn. Định hỏi cưới, Uyên lưỡng lự. Ra trường, mới có mấy tháng, chưa làm gì được cho gia đình, lẽ nào Uyên đi xây dựng hạnh phúc bản thân. Chị Thuyền biết chuyện, khuyên:

- Em cứ đi lấy chồng. Đời người con gái chỉ có một thời. Đừng để nhan sắc tàn phai. Gia đình mình đã có chị lo. Em hãy yên tâm.

Uyên phản đối:

- Tại sao chị hy sinh được mà không cho em làm việc tốt?

Chị Thuyền bật cười, mắng yêu:

- Lãng duyên chưa! Chị có hy sinh gì đâu. Em muốn làm việc tốt thì cứ làm. Có chồng rồi làm việc tốt không được sao? Rõ khổ!

Vậy là họ cưới nhau. Đây là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc tình của Uyên. Định mồ côi cha mẹ, chỉ còn một người thân là chị cả đã lập gia đình tại thành phố. Chị Tâm, chị của Định rất giàu nghị lực. Từ hai bàn tay trắng đã gây dựng một cơ ngơi nho nhỏ, có việc làm ổn định, đời sống thoải mái. Vì thế, Định yên tâm. Anh dồn sức lo cho gia đình Uyên. Ai cũng khen Định tốt, Uyên khéo chọn chồng. Hạnh phúc của Uyên làm cho bạn bè phải mơ ước. Rồi bé Thư chào đời. Hạnh phúc lại nhân đôi. Giữa Uyên và Định có mối dây ràng buộc. Ngôi nhà tràn ngập niềm vui. Đúng lúc đó, ba Uyên về. Một sự trở về muộn màng, vô tích sự, chẳng ai chờ đợi. Sự có mặt của ông chỉ gợi lại nỗi chua xót đắng cay của những ngày vất vả trước đây. Những bữa cơm chỉ có vài cọng rau xanh, một dĩa nước mắm trong. Những đêm đông giá buốt mấy chị em nằm co vì đói lạnh. Tất cả thao thức chờ cánh cửa bật mở, chị Thuyền về, đứng giữa vùng tranh tối, tranh sáng, nét mặt chị bơ phờ, mệt mỏi nhưng vẫn cố gượng cười, chìa ra những ổ bánh mì nóng hổi, giòn tan. Vừa ăn, Uyên vừa nhớ mẹ và hận ba. Uyên tiếc đôi cánh cò đã rũ và giận con đại bàng lại sải cánh bay xa, bỏ mặc chim non trong cơn giông bão.

Ba Uyên quay lại giữa lúc trời quang, mây tạnh. Ông mang theo tuổi già và sự thất bại nhiều mặt. Một lần nữa, ông nhuộm xám khoảng trời xanh của đàn con. Tự biến mình thành kẻ nát rượu, ông kéo gia đình trượt dốc, quay lại cảnh sa sút ngày nào.

Đồng lương có hạn, nhà thêm người, mức chi ngày một tăng. Ngoài giờ lên lớp, hai vợ chồng Uyên phải làm thêm nghề phụ hầu chia bớt gánh nặng cho chị Thuyền. Uyên dọn hàng tạp hóa tại nhà để vừa buôn bán vừa trông chừng con, vừa tiện việc hoàn tất sổ sách, giáo án. Uyên kiếm thêm được một ít tiền nhưng phải đánh đổi nhiều thứ khác: Nhan sắc, uy tín nghề nghiệp, sự sạch sẽ, ngăn nắp trong nhà và thì giờ chăm sóc chồng con. Những chiếc áo đẹp, Uyên cất kỹ vào va li sợ nó chóng bẩn, hư hại khi mua bán. Uyên mặc những bộ đồ cũ, xộc xệch. Lúc nào Uyên cũng trưng bày nét mặt mệt mỏi, thiếu ngủ, không trang điểm ra trước mặt chồng và học sinh. Vì không nghiên cứu bài trước khi lên lớp nên bài giảng của Uyên có phần thiếu sót, kém sức thuyết phục, dẫn đến tình trạng giảm sút sự kính trọng của học sinh và đồng nghiệp. Bây giờ, Uyên chỉ lo buôn bán. Uyên bỏ chân ngoài dài hơn chân trong. Vì không chuyên kinh doanh, nên kết quả thu cũng nhỏ. Nó lại chiếm khoảng thời gian quá lớn của cô. Uyên bán hàng chục món linh tinh, nhặt nhạnh từng đồng lời bèo bọt. Tạo ra một môi trường chật hẹp, bề bộn, nặng mùi vị quanh mình. Tạo thuận lợi cho kiến chuột, muỗi sinh sống. Chúng tha hồ tung hoành trong nhà, gây cảm giác bực bội, chán nản cho Định. Sau những giờ làm việc, Định về nhà, ngã người ra chiếc ghế tựa bốc mùi ngai ngái, chốc chốc lại đưa tay đập muỗi hoặc nhổm dậy vì kiến. Đôi khi anh phải bò xuống gầm giường, mọp sát đất nhìn vào đáy tủ hoặc vạch vách tìm xác con chuột chết, để kịp thời xóa tan bầu không khí nặng mùi thối. Lúc đầu, Định dọn dẹp giúp Uyên. Nhưng sau đó, đâu cũng vào đấy. Anh đành bó tay, Định đã quá mệt mỏi vì những giờ lên lớp chính khóa rồi sau đó là những giờ phụ ở các điểm dạy thêm, Định cần vô cùng một chỗ yên tĩnh, không có một ông già lúc nào miệng cũng sặc hơi men, lè nhè những câu vớ vẩn về tình yêu, mưa nắng, chuyện hình sự đăng trên các báo… Hai đứa em trai Uyên không còn ngoan ngoãn, bỏ học, nghề nghiệp không ổn định. Chúng hận đời, chán gia đình. Đi thì thôi, về tới nhà là chúng gây gỗ, văng tục. Chúng làm cho hoàn cảnh thêm bi đát và Định không còn cách nào khác hơn là chờ đến tối mịt mới quay về. Anh cảm thấy không thể kéo dài tình trạng nầy và đi đến một quyết định: đổi nghề.

Định lên thành phố gặp chị, nhờ giúp. Nhân dịp người anh rể đi buôn gỗ, Định xin đi theo. Công việc có khó khăn nhưng cuối cùng suôn sẻ. Hai anh em tậu được một cửa hàng bán gỗ các loại tại thành phố. Định trở về mua nhà mới, đón vợ con ra riêng. Uyên vừa mừng vừa lo, cảm thấy khó xử vô cùng, bỏ mặc gia đình mà đi thì không nỡ. Còn ở lại, Uyên cũng chẳng giúp được bao nhiêu. Hiểu lòng Uyên, chị Thuyền bảo:

- Em đã có chồng, phải theo chồng! Việc nhà đã có chị lo. Vả lại, em út đã lớn, đều có việc làm. Còn ba già yếu, đâu có đòi hỏi gì nhiều mà em phân vân, chưa quyết?

Vâng lời chị, Uyên về nhà mới. Ngôi nhà không lớn nhưng thoáng đãng, xinh xắn. Mảnh sân con phía trước ngát hương hoa hoàng lan và sau vườn, rợp bóng cây bạch đàn. Uyên thích ngồi bên cửa sổ ngắm mặt trời chiều đỏ ối tuột dần xuống chân trời. Những tia nắng cuối ngày rực rỡ bừng lên, ưng ửng màu da cam, trải dài, nhạt dần trên thảm cỏ mượt mà như tấm thảm nhung. Bé Thư chập chững đi trong sân, thỉnh thoảng cúi nhặt một chiếc lá úa đội lên đầu rồi quay lại cười với Uyên, để lộ mấy cái răng chuột bé tí, xinh xắn. Uyên lâng lâng trong niềm vui ngọt ngào lạ lẫm, cứ ngỡ nằm mơ. Một giấc mơ tuyệt đẹp. Do công việc làm ăn, Định thường phải vắng nhà. Có khi chuyến đi kéo dài nửa tháng. Ở nhà, Uyên nhớ chồng, cảm thấy chỗ ở mới buồn tênh, lạnh lẽo. Uyên nhớ ngôi nhà cũ, chật hẹp trong xóm nghèo, nhớ chị Thuyền dạo nầy hay buồn ngơ buồn ngẩn. Chiều chiều, chị gõ mõ, tụng kinh. Uyên nhớ hai thằng em hận đời, về tới là đòi ăn, nhớ ba thở nực nồng mùi rượu, nói đi nói lại mãi một câu. Chịu không nổi, Uyên thường bồng con về nhà thăm. Biết gia đình túng thiếu, Uyên thường tiêu xài tiết kiệm rồi dùng tiền để dành mua một ít quà cho bên nhà. Những lúc như thế, chị Thuyền thường can:

- Đừng làm vậy, Uyên ơi! Chồng em biết, sẽ giận đó.

Uyên trấn an chị:

- Không sao đâu, Định thường khen em có hiếu, biết lo cho gia đình. Chính vì thế, Định mới yêu em.

Không đồng ý, chị Thuyền bảo:

- Đó là lúc chưa cưới kia. Bây giờ, em làm vậy lỡ Định cho là em bòn rút, đem về nuôi gia đình rồi làm sao? Không nên đâu!

Uyên cãi:

- Em không tin như thế, cùng một việc làm, lẽ nào khi thì mang ý nghĩa nầy, lúc lại có dụng ý khác.

Chị Thuyền buông thõng câu nói:

- Nếu không nghe lời chị, em sẽ khổ!

Uyên không nghe lời thật. Cô tiếp tục quà cáp. Thỉnh thoảng Uyên mời cả nhà qua dùng cơm khi Định về. Nhìn gia đình đoàn tụ, ăn uống vui vẻ, Uyên vui lắm. Cô nào biết, đời không đơn giản như lòng cô. Đầy rắc rối, phức tạp và tàn nhẫn.

Những chuyến đi của Định dài hơn, có khi cả tháng mới về một lần. Ban đầu, hai ngày anh về rồi ở lại nhà vài hôm. Lần lần, một tuần rồi hai tuần mới ghé lại như ghé trạm, nghỉ ngơi, chi tiền rồi đi ngay. Anh ít có thì giờ gần gũi, âu yếm, vuốt ve vợ con. Dường như anh về là để gặp bạn, mời ăn nhậu. Hôm sau, Định kêu đau đầu nhưng chiều lại say cho đến ngày đi. Gần đây, Định lại sanh tật nói lớn tiếng, nạt nộ, mắng Uyên như tát nước. Uyên buồn tủi lắm, nhưng thấy chồng quanh năm vất vả vì mình, Uyên nhẫn nhịn, cố giữ hòa khí. Trong khi đó, hai đứa em và ba Uyên thường tìm tới nhà. Thoạt đầu, họ chỉ viếng thăm. Dần dần, họ lợi dụng bản chất hiền hậu, hiếu thuận của Uyên mà kiếm chác. Họ hết xin cái nầy, cái nọ trong nhà, lại vay tiền. Thấy Uyên chấp thuận dễ dàng, chẳng bao giờ đòi lại, họ càng thích khoe khổ, than thiếu vốn. Thậm chí, họ còn ngỏ lời vay tiền Định. Định hái ra bạc nhưng anh phải đánh đổi bằng sức lao động của chính mình. Chứ anh không hái ra những đồng tiền từ trên tay kẻ khác. Anh phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt của mình, bằng những ngày lao đao chốn rừng sâu. Xa vợ con, bè bạn, hy sinh bao năm đèn sách, nghề nghiệp ban đầu. Chính thế, anh trọng đồng tiền. Tiền là mục đích của đời anh. Tiền là trên hết.

Ba và hai em Uyên đã phạm một sai lầm đáng tiếc: Ham tiền mà lại là tiền của Định. Dù họ chỉ bòn mót những con số nhỏ nhoi, không bằng một cữ nhậu “chào sân” của Định. Anh vẫn bực. Định có cảm giác mình đang bỏ muối xuống biển, chẳng lợi lộc gì. Anh tiếc nhưng không tiện nói ra. Mọi ấm ức, anh trút lên đầu Uyên. Định bắt đầu ân hận vì đã lấy Uyên làm vợ, tự đào mồ chôn mình. Định ngầm so sánh Uyên với những người đàn bà khác mà anh có dịp giao tiếp khi buôn bán. Một sự chênh lệch quá rõ. Uyên hiền đến dại dột. Uyên chỉ biết sống vì những ràng buộc của bổn phận, của đạo lý. Còn vợ người ta thông minh, lém lỉnh. Họ tỏ ra là những phụ nữ bản lĩnh trong “giai đoạn mở cửa”, trong thời đại kinh tế thị trường. Lấy Uyên, anh phải dang tay ôm lấy “nợ nần”. Đúng là “kẻ ăn bánh còn người gom rác”. Chẳng biết bao giờ mới thoát. Anh chán lắm! Định trở nên tàn nhẫn với Uyên. Anh thích làm khổ Uyên! Anh cho đó là lẽ công bằng vì Uyên làm anh khổ. Anh thường cố ý khen cô nầy giỏi, cô kia đẹp với Uyên, Uyên chỉ biết khóc. Sáng nay, vừa thức giấc, Định đã kiếm chuyện. Anh lấy thư ra đọc. Uyên hỏi, anh bảo:

- Thư bồ

Uyên run lên vì giận. Cô không còn chịu đựng được nữa. Cảm thấy tức tối lẫn ghê tởm giọng lưỡi tàn độc của chồng, cô thét lên:

- Anh im đi!

Định trâng tráo:

- Tao không im! Mày dám làm gì tao nè?

Uyên chồm tới, thẳng tay tát vào má Định một cái nẩy lửa. Vì bất ngờ, Định lãnh trọn năm dấu tay Uyên. Cáu tiết, Định đập Uyên một trận ra trò rồi ngồi vào bàn viết đơn xin ly dị. Mọi việc được kết thúc đúng như ý Định mong muốn. Uyên ký ngay vào tờ đơn, không chút do dự. Và, anh đã bỏ đi.

- Mẹ, mẹ đừng khóc nữa mẹ ơi!

Uyên bừng tỉnh, ngước lên. Bé Thư đang đứng cạnh Uyên, dang đôi tay bé bỏng ôm lấy mẹ. Siết chặt con vào lòng, Uyên khóc như mưa, như gió. Nhưng bé Thư nào hiểu gì. Bé quá quen với cảnh mẹ khóc. Nó đưa bàn tay vỗ nhè nhẹ vào lưng mẹ rồi nói:

- Nín, nín đi mẹ! Để con hát ru mẹ ngủ nghe mẹ! Rồi bé hát câu ca dao mà Uyên thường hát khi dỗ bé:

Anh buồn có chốn thở than

Em buồn như ngọn đèn tàn thắp khuya.

Uyên chợt nhớ về chốn cũ. Ở đó, con đường trải đá lổn nhổn, quanh co, dẫn đến ngôi nhà chật hẹp trong xóm nghèo. Ở đó, chị Thuyền mái tóc ngả màu khói sương, sớm chiều tần tảo. Ở đó, hai đứa em lêu lỏng vì thiếu người dạy dỗ và ở đó có ba, một người đến cuối đời vẫn chưa tìm được hướng đi riêng cho mình. Tất cả gợi lên trong lòng Uyên nỗi giận hờn lẫn xót thương, tội nghiệp. Chúng hòa quyện vào nhau, biến thành mối dây chằng chịt bổn phận, khó rời. Uyên phải về thôi. Dù ở đó chẳng có gì cho Uyên hết. Còn gì nữa mà ở lại đây? Ngôi nhà ư? Định đã tuyên bố cho Uyên, Uyên không cần. Cái Uyên cần là tình yêu, nhưng Định đã giết chết nó rồi. Mọi thứ đối với Uyên bây giờ là vô nghĩa. Uyên vội vã thu dọn quần áo, xếp vào va li cũ, quà tặng của bạn bè nhân ngày Uyên và Định cưới nhau, Uyên không mang theo những món gì mà không phải do Uyên làm ra. Chỉ có bé Thư, Uyên chiếm lấy. Đó là gia tài duy nhất, ngoài Uyên còn có Định góp phần tạo nên. Nhìn ngôi nhà lần cuối, Uyên kéo con đi ra cửa. Một chiếc xe du lịch đỗ lại trước mắt Uyên. Kiên, bạn Định đẩy cửa, nhảy xuống, nét mặt hốt hoảng, giọng nói như hụt hơi:

- Chị… Uyên, anh… Định bị tông xe, nặng lắm, chắc khó sống, chị theo tôi…

Đánh rơi chiếc va li xuống đường, Uyên chết lặng mấy giây mới kêu lên được:

- Trời ơi!

Như cái máy. Cô kéo con leo lên xe. Hiểm nghèo đã đi qua. Định thoát chết nhưng một chân bị cưa. Khi anh ngất trên vũng máu, một ít tiền, đồng hồ đeo tay, nhẫn vàng đều bị kẻ gian thừa cơ hội lấy mất. Trong túi Định chỉ còn lá đơn xin ly dị. Người ta trao nó cho Uyên. Cô đã xé đi. Xem như không có nó dù trong Uyên vết rạn nứt chưa lành lặn và tình yêu đã chết. Nhưng Uyên cương quyết không bỏ rơi Định. Hết tình, cô sẽ sống với anh bằng nghĩa. Nghĩa vợ chồng. Bằng sự ràng buộc của bổn phận, đạo lý, của tình người và vì con. Bé Thư cần một người cha. Uyên sẽ xây dựng hạnh phúc với những sắc màu như thế. Tựa như chiếc cầu vồng vắt ngang đỉnh trời sau cơn mưa. Và, Uyên bỗng thấy mình hạnh phúc.

Nguyễn Thị Mây (Trà Vinh)

Phân biệt rau củ

Ta & TQ

cho con ăn dặm

Mách mẹ cách phân biệt dâu tây, hành tây, khoai tây, tỏi, cà rốt Ta và Trung Quốc khi đi chợ để chọn đồ ăn dặm cho con.

Lựa chọn thực phẩm cho trẻ ăn dặm vốn đã lắm mối lo, từ chuyện chọn đúng món ăn phù hợp với con, hàm lượng dinh dưỡng thế nào cho đến tiêu chí tránh dị ứng, tránh hóc nghẹn… Vậy nhưng, các bà mẹ hiện đại ngày nay còn phải “đau đầu” hơn khi trên thị trường tràn ngập những loại hoa quả, rau củ có xuất xứ không rõ ràng.

Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ hệ tiêu hóa vẫn còn non nớt, chính vì vậy, mẹ nên lưu ý chọn cho bé hoa quả, rau củ phải đúng mùa, đúng vụ và tốt nhất nên được trồng ở chính nước ta để đảm bảo độ tươi ngon và an toàn.

Chỉ với một chút quan sát cẩn thận khi đi chợ, mẹ có thể dễ dàng phân biệt được các loại rau củ Ta và Trung Quốc:

1, Khoai tây

Khoai tây rất giàu carbohydrate. Điều này làm cho khoai tây trở thành thực phẩm lý tưởng cho những bà mẹ muốn con tăng cân. Các loại Vitamin có trong khoai tây như vitamin C và B cũng rất cần thiết cho sự hỗ trợ hấp thu carbohydrate của cơ thể. Ngoài ra, khoai tây còn giúp cải thiện chức năng não cho trẻ nhờ vào hàm lượng axit amin và axit béo như axit béo omega-3 dồi dào.

Khoai tây lành tính, ít gây dị ứng nên mẹ có thể cho bé làm quen với khoai tây bắt đầu từ tháng thứ 6. Khoai có hai loại là khoai tây da hồng và khoai tây da vàng. Nếu quan sát, mẹ sẽ dễ dàng phân biệt được sự khác nhau giữa khoai tây Ta và khoai tây Trung Quốc dựa vào những đặc điểm như:

· Khoai tây da vàng

Cảm quan bên ngoài:

Khoai tây Trung Quốc thường to, dài, vỏ dầy trong khi đó khoai tây ta củ vừa phải, tròn, vỏ mỏng.



· Khoai tây da hồng

Hình dáng bên ngoài:

Khoai tây da hồng của ta cũng thường nhỏ hơn khoai Trung Quốc, vỏ hay bị trầy xước vì mỏng. Mắt ở củ cũng ít hơn và nhỏ hơn.



2. Cà rốt

Cà rốt có màu sắc đẹp, vị ngọt hấp dẫn và là nguồn vitamin A tuyệt vời cho bé. Ở các nước phương Tây, các bác sỹ nhi khoa luôn khuyên mẹ nên cho bé tập ăn dặm đầu tiên bằng cà rốt.

Hiện nay nếu đi chợ, mẹ sẽ dễ dàng nhận ra có hai loại cà rốt khác nhau: Một loại cà rốt rất dài, màu cam đậm có xuất xứ từ Trung Quốc và một loại ngắn hơn, màu cũng nhạt chính là cà rốt Ta.

Mẹ có thể phân biệt dựa vào những đặc điểm cụ thể như

Cà rốt Trung Quốc thường dài, có màu đậm và hầu hết cuống đầu bị ngắt, cà rốt Ta ngắn, màu nhạt hơn, vẫn còn cuống.



3. Tỏi

Nhiều chị em thường nghĩ tỏi là món ăn của “người lớn” và không cần thiết phải cho con ăn. Tuy nhiên, tói lại chính là một trong số những thức ăn được xếp hàng đầu về tác dụng giúp hệ thống miễn dịch của cơ thể hoạt động tốt hơn, để chống lại vi khuẩn, vi-rút gây bệnh.

Một tép tỏi tươi nhỏ xào chín sơ cùng thịt hoặc nghiền nát, trộn lẫn trong rau, cháo của con mỗi ngày đều rất tốt cho sức đề kháng của trẻ.

Phân biệt tỏi Ta và tỏi Trung Quốc cũng không khó nếu mẹ biết những đặc điểm này


4. Dâu tây

Hiếm có cô bé, cậu bé nào lại không mê mẩn những quả dâu tây chín đỏ ngọt lịm. Dâu tây cũng được các chuyên gia dinh dưỡng đánh giá là một trong những siêu hoa quả rất tốt cho bé. Hàm lượng chất xơ có trong dâu tây cao gấp đôi trong quả cam nên dâu tây có lợi cho hệ tiêu hóa của bé, giúp giảm cholesterol. Đặc biệt, vitamin C có trong dâu tây làm giảm sắc tố đen, mang lại cho bé làn da trắng hồng.

Tuy nhiên, trên thị trường hiện nay có rất nhiều dâu tây nguồn gốc xuất xứ không rõ ràng.

Khi lựa chọn dâu tây cho con, mẹ nên lưu ý:


5. Hành tây

Trẻ nhỏ không thích ăn hành tây. Vậy nhưng hành tây lại vô cùng tốt cho sức khỏe của các bé. Không chỉ tốt cho tiêu hóa, giúp trẻ thông minh mà hành tay còn chứa chất tổng hợp canxi rất cần cho cơ thể trẻ. Ngoài cách xào hành tây thông thường, mẹ cũng có thể chế biến những khoanh hành tây thành “bim bim” khi chiên cùng bột mì, sữa tươi cũng rất ngon cho bé.

Cách phân biệt hành tây ta và Trung Quốc mẹ có thể tham khảo gợi ý sau:


Hà My/ theo Thanh Nga - chi cục BVTV (khampha.vn)

Bs Nguyễn Lân-Đính st

NHÂN BẢN TIN THỨ 100,

ĐIỂM LẠI MỘT SỐ SINH HOẠT

THƯỜNG KỲ CỦA CÁC THÀNH VIÊN

TRONG CLB SÁCH XƯA & NAY

BẢN TIN số 100 là một minh chứng cho một sân chơi trong sáng, lành mạnh, hữu ích, bền bỉ, dẻo dai của CLB Sách Xưa & Nay. Nhẩm tính lại thời gian là đã hơn 8 năm. Chính xác là 8 năm và 4 tháng.

Nói đến CLB SÁCH XƯA & NAY là phải nói đến 2 nhân vật, là linh hồn của CLB : Đó là Linh Mục Nguyễn Hữu Triết, cố vấn của CLB và Ô. VŨ ANH TUẤN, Chủ Nhiệm CLB. Lm. Triết là người sở hữu Bộ Sưu Tập Đèn nhất nhì cả nước, và có Bộ Sưu Tập Kiều bao nhiêu người mơ ước. Cũng nhờ Linh Mục cho mượn phòng họp thoáng đãng, có quạt máy, có dàn âm thanh, còn phục vụ trà nước để CLB có nơi sinh hoạt hàng tháng. Không chỉ có thế, anh em đến họp còn thấy Linh Mục rất hòa đồng, đích thân đi rót nước mời các thành viên! Chủ Nhiệm CLB cũng là người từng đoạt giải về Sách. Do yêu Sách, muốn góp tay phổ biến Sách mà CLB đã hình thành và BẢN TIN được duy trì đến nay.

Nói về Sách sưu tầm thì phải nói đến Chủ Nhiệm. Bản thân ông nhờ giỏi 2 ngoại ngữ, nên hàng tháng ông đều có ít nhất là 2 quyển Sách, Xưa, Lạ để giới thiệu cho các thành viên, trong đó có rất nhiều tài liệu rất quý, nhưng vì là ngoại ngữ nên ít ai đọc được để mua, nhờ đó mà đến tay ông với giá chấp nhận được. Hồi ký 60 năm chơi sách của ông là những bài viết về những quyển sách hay mà ông đã sở hữu. Ông còn dịch một số tác phẩm đã xuất bản và sưu tầm những bài viết hay, có giá trị của thời trước đưa vào Bản Tin. Ông có một loạt truyện ngắn BẠN TÔI được rất nhiều người ở nhiều nước thích. Ngoài ra, ông còn làm Thơ, và rất tự hào về trường phái Thiên Cữu độc đáo của mình.

Về tham gia bài vở của các thành viên thì đầu tiên chỉ có một vài cây bút chuyên nghiệp. Trước hết là Phó Chủ Nhiệm, Nhà Báo VƯƠNG LIÊM, Ông cũng đã có mấy đầu sách. Bác Vương Liêm “chuyên trị” những đề tài liên quan đến địa danh, di chỉ, danh nhân nước ta. Ông cũng từng đề xuất ngăn chặn văn hóa độc hại, xây dựng nếp sống văn minh, xóa bỏ những hủ tục thờ cúng, mê tín dị đoan, hạn chế cất chùa đồ sộ tốn kém trong khi người dân còn khó khăn.

Sau đó phải kể là Cụ BÙI ĐẸP, người được sách Kỷ Lục Guinness VN công nhận là NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN BIÊN SOẠN BỘ SÁCH “DI SẢN THẾ GIỚI”. Đề tài của cụ liên quan đến sở trường của mình. Về sau, có sự cộng tác của Gs.Tiến Sĩ NGUYỄN VĂN SÂM, người từ trước những năm 1975 đã có viết sách. Ông tham gia với những tuồng cổ, truyện cổ và sách viết bằng chữ Hán Nôm, là thứ chữ hầu như đã mai một. Có lẽ ông là một trong những người hiếm hoi còn quan tâm đến thứ chữ này. Ngoài ra, thỉnh thoảng ông cũng góp vài truyện ngắn mang nét đặc trưng của miền thôn quê Nam Bộ. Theo lời ông, ông dành tình cảm rất đặc biệt cho CLB, lần nào về VN ông đều cố gắng tranh thủ đến để họp với các thành viên.

Truyện ngắn thì có nhà giáo Dương Lêh. Thời học sinh, sinh viên, ông cũng từng viết báo tường, nên có ít nhiều kinh nghiệm. Ông có những truyện kể lại những kỷ niệm thời học sinh, những câu chuyện thời mới Giải Phóng và những chuyện mang tính thời sự nóng bỏng thí dụ như Sửa sắc đẹp, Kinh doanh nhà đất, về Mẹ Chồng Nàng Dâu, Cơm, Phở, Đám Cưới, Đám ma vv... được ông thêm mắm dặm muối rất dí dỏm, nhằm xây dựng nếp sống văn minh trong đời sống vợ chồng, trong xã hội, phê phán những hủ tục... để Bản Tin thêm phong phú.

Từ những người chỉ Yêu Sách và Đọc Sách, nhiều thành viên CLB lần hồi bỗng dưng trở thành những cây viết nghiệp dư mà chính họ cũng không ngờ. Trong số những “cây viết” trưởng thành từ CLB Những người Yêu sách không thể không nhắc đến thành viên PHẠM VŨ, một cựu nhà giáo. Từ người đến tham gia CLB cho vui, đọc và thích thú với bài vở trong đó – như lời có lần ông tâm sự - “Từ trước đến giờ ông không từng viết, nhưng ông thử…” Rồi sau đó là như chúng ta đã thấy: Đều đặn mỗi Bản Tin là một đề tài của ông viết về những điều rất đáng quan tâm như Thời Vua Hùng, Chế độ Tổng Thống do Hoa Kỳ khai sinh, Tượng Nữ Thần Tự Do, Khoa Bảng ngày xưa, Từ Bạc Liêu đến Nasa, nói về những người con nổi tiếng của đất Bạc Liêu. Những bản nhạc, bài thơ bất hủ. “Túc cầu Giáo” vv... Mỗi bài đều cho thấy ông rất chịu khó sưu tầm tài liệu, kết hợp lại với nhau để có những bài viết rất đặc biệt cống hiến cho người đọc.

Từ khoảng hơn 2 năm qua thì có thêm sự cộng tác của Nhà Văn, Nhà Thơ nữ Đàm Lan. Phải nói là bút lực của nhà văn trẻ này rất khỏe. Sáng tác rất hăng, cốt chuyện thì dễ thương, hấp dẫn, hành văn nhẹ nhàng, lưu loát, mà không kém phần sâu sắc.

Từ những số gần đây thì có thêm những cây bút Nguyễn Thị Mây và Lam Trần với thủ pháp nhẹ nhàng, duyên dáng và những câu chuyện nho nhỏ đầy thú vị.

Về mảng Thơ thì hầu như tất cả thành viên CLB đều có thể làm thơ. Cộng tác từ buổi đầu là hai Nhà thơ Tâm Nguyện, Ngàn Phương. Sau đó lần lượt khá nhiều nhà thơ tham gia, trong đó có Nhà Thơ Thiếu Khanh, Thùy Dương, Xuân Vân, Hải Đăng Trần Văn Hữu, Lê Minh Chử, Thanh Phong, Thanh Châu, Đàm Lan, Phạm Thị Minh Hưng, Lam Trần, Giáng Ngọc. Bản tin còn có sự góp mặt của Nhà thơ Giáo Sư Tiến Sĩ Vũ Đình Huy, Nhà Thơ, Đạo Diễn, Nhạc Sĩ Lê Nguyên, là những nhà thơ đã có tiếng tăm, đã xuất bản Thơ, được những nhà phê bình chuyên môn đánh giá cao. Chưa kể còn có sự tham gia của Trần Nhuận Minh, là một Nhà Thơ rất nổi tiếng của nước ta.

Những Nhà Thơ thành viên của CLB không chỉ biết làm thơ, thỉnh thoảng cũng góp những bài viết hoặc những phê phán rất đanh thép, đáng quan tâm. Thí dụ như Nhà Thơ Thiếu Khanh, cũng là một dịch giả, đôi lần cũng viết bài phê phán những người dịch tiếng Việt ra tiếng Anh đã không giới thiệu được những cái hay, cái đẹp của thơ, nhạc VN cho người nước ngoài, trái lại, theo dẫn chứng của ông là “bôi bác”, vì làm sai lệch, hoặc đổi hẳn ý nghĩa của câu văn, câu thơ của tác giả. Không biết quý dịch giả đó có đọc thấy hay không? Ông cũng đề cập đến chất lượng bài dịch tương xứng với thù lao của dịch giả, vì không phải ai cũng dịch tốt. Nói theo ngôn ngữ bình dân là “tiền nào của nấy” vì tâm lý chung ai cũng so bì đắt, rẻ khi muốn nhờ dịch một văn bản.

Gần đây, các Nhà Thơ thành viên CLB cũng đã gom lại những tác phẩm đã đăng trong Bản Tin để in một tập thơ lưu niệm lấy tên là MÂY BẠC, vừa mới ra lò cách đây 2 tháng.

Ngoài ra, trong hơn 8 năm, CLB cũng đã có 3 thành viên tách ra để đi lập chi nhánh CLB ở cõi khác: Đó là Phó Chủ Nhiệm Lưu Nhật Quang, Thành Viên PTT (Phạm Phú Thành, cháu cố cụ Phạm Phú Thứ), và cách đây mấy tháng là Nhà Thơ Xuân Vân, để lại thương tiếc khó nguôi cho các thành viên. Trong tháng vừa qua, có thêm một cảm tình viên của CLB, Nhà thơ Trần Quang cũng vừa ra đi. Thời gian trước ông có góp một số bài thơ và bài viết cũng như chịu khó thỉnh thoảng từ Phan Thiết đến sinh hoạt với CLB.

BẢN TIN của CLB, bài vở dù là truyện dịch hay mới viết đều hướng về những thú vui thanh cao, tao nhã. Điểm độc đáo của Bản tin, có lẽ chưa từng có trên bất cứ báo nào trên thế giới, là có 2 bài viết của hai Tôn Giáo cùng song hành. Đó là bài viết về Đạo Thiên Chúa của Lm. Jos Nguyễn Hữu Triết, Chánh Xứ Nhà Thờ TÂN SA CHÂU, và những bài viết về Đạo Phật của bà Tâm Nguyện. Chứng tỏ những người theo những Tôn Giáo chân chính không bao giờ có sự chia rẽ, đố kỵ với nhau, vì cùng hướng về mục đích thiện hóa con người. Lm. Triết ngoài uyên bác về Thánh Kinh thì kiến thức rất rộng, Ngài cũng không bỏ sót những bản nhạc, những bài viết trên các báo chí thời đại có liên quan đến Thiên Chúa Giáo. Một số thành viên kỳ cựu, đến với CLB từ buổi đầu thành lập. Cũng có những người đến sau đó, đầu tiên định ghé cho biết, rồi sau đó gắn bó luôn với CLB. Chẳng hạn như Bs. Nguyễn Lân-Đính, cháu nội của Học Giả NGUYỄN VĂN VĨNH. Ông chẳng những gắn bó, đi họp thường xuyên mà còn gởi những bài viết về dinh dưỡng hoặc những bài sưu tập để các thành viên thưởng lãm. Ông nói hàng tháng ông đều mong đến ngày để đi họp với anh em, nhưng vì tuổi cao, nên có lúc đến ngày họp thì… lại quên, đề nghị Chủ Nhiệm nhắc cho ông.

Có những vị ở tận Miền Bắc, chưa từng đến họp mặt với CLB, nhưng hàng tháng vẫn gởi bài vở để đăng, đó là Nhà văn Thúy Toàn với những bài viết về những nhân vật nổi tiếng của nước ta hoặc của nước Nga mà ông từng du học. Hoặc những bài thơ dịch từ thơ Tiếng Nga, cho ta một cảm nhận về thơ ở xứ sở Bạch Dương. Qua đó ta thấy dù là người ở thời đại nào, xứ sở nào thì cũng đều ca tụng tình yêu nam nữ, yêu quê hương, đất nước, con người. Chính những điều đó làm cho Thơ không có ranh giới, mà chỉ có những cảm xúc được truyền tải qua Thơ làm say đắm lòng người.

Trong những buổi họp, Chủ Nhiệm thường giới thiệu những cuốn sách độc đáo mà ông mới tìm được. Sau đó, các thành viên lên góp ý, phát biểu về đề tài nào đó, hoặc ai vừa đi xa về, thấy có gì hay, mới, lạ, thì chia sẻ với anh em. Thường thường buổi họp nào cũng có sự góp vui của các thành viên:

- Đạo Diễn, Nhà Thơ, Nhạc Sĩ Lê Nguyên, thình thoảng mang đàn ghi-ta đến để đàn, hát những bản nhạc do ông sáng tác, rất hay, rất chuyên nghiệp. Nhất là những buổi Tất Niên, bao giờ ông cũng đàn hát vài bài cho mọi người nghe. Anh em rất thích thú.

- Nhà Thơ Thanh Châu, người có “tiếng hát át tiếng bom” thường cuối buổi họp hay lên hát tặng các thành viên. Ông có giọng hát rất hùng hồn, và khi cất lên thì dù “Tiểu Đoàn 307”, “Năm anh em trên một chuyến xe tăng”, hay “Cô Láng Giềng”, “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Cô Hàng nước”, “Cây đàn bỏ quên”, “Em đến thăm anh một chiều mưa” đều… hùng hồn như nhau, tạo không khí rất sôi nổi. Có lúc cử tọa còn vỗ tay hát theo. Không chỉ làm Thơ, ca hát, Nhà Thơ Thanh Châu còn góp những truyện dịch thường xuyên đăng trong Bản Tin.

- Nhà thơ Lê Minh Chử không ngâm thơ mà thỉnh thoảng lên HÁT những bài Thơ của chính ông làm mà ông gọi là HÁT THƠ. Rất độc đáo. Đôi khi ông cũng góp những bài viết “Luận cổ, suy kim”, nhẹ nhàng mà sâu sắc.

- Người có 1 giọng ngâm rất trầm ấm là Nhà Thơ Hải Đăng Trần Văn Hữu thì thường xuyên lên ngâm để anh em thưởng thức.

- Ngoài ra thỉnh thoảng có những khách mời ghé lại rồi hát hay ngâm thơ, đó là Cô Tường Uyển, ái nữ Nhà văn Toan Ánh và Cô Lan Hinh, ái nữ của Nhà văn Á Nam Trần Tuấn Khải.

- Có một Nhà Giáo ở tận Quận 8, dù không có đóng góp bài vở, nhưng đều đặn đi họp với CLB. Sự hiện diện của ông cũng nói lên cảm tình ông dành cho CLB.

- Nhà Kiều học Phạm Đan Quế và Ô. Bá Khoát, chủ nhân vườn Kiều cũng có những bài đặc biệt gởi cho Bản Tin. Thường là Tất Niên nào hai vị cũng đến dự với CLB. Mỗi dịp hai vị này hội ngộ là CLB được dịp nghe thêm những điều hấp dẫn về Kiều và những bài Thơ có liên quan đến Kiều. Các thành viên lại có dịp mở mang thêm kiến thức.

Về Ban Chủ nhiệm, theo quy định thì 5 năm bầu lại một lần. Không giống những CLB khác, mọi người giành nhau chức Chủ Nhiệm, riêng CLB này thì các thành viên đều có vẻ không ham chức quyền. Không hiểu họ khiêm tốn hay là nhờ đọc nhiều nên… cũng khôn ra. Thấy chức Chủ Nhiệm đã không có tiền, mà mỗi tháng còn mất tiền điện thoại cho anh em để nhắc gởi bài vở, phải đích thân duyệt qua, sắp xếp thứ tự bài vở, tìm tranh để trang trí, xong, giao lại cho thành viên Hà Mạnh Đoàn lo khâu dàn trang. Cũng phải nói thành viên Hà Mạnh Đoàn cũng là nhân vật không thể thiếu cho Bản Tin. Trong những kỳ họp là lo chụp hình, tới kỳ là dàn trang cho Bản Tin hình thành, thỉnh thoảng cũng góp bài. Cũng phải kể thêm là “nội tướng” của thành viên Hà Mạnh Đoàn không chỉ ủng hộ về mặt tinh thần cho Bản Tin, mà cũng tìm những bài hay, lạ để sưu tập góp vô, mà ta thấy ký tên là Hoàng Chúc. Cuối cùng là chính Chủ Nhiệm phải… tự bỏ tiền túi ra để phát hành. Không những tặng không cho các thành viên, còn gởi đi biếu những bạn bè ở xa. Không biết có phải do những lý do đó hay không, mà các thành viên trong CLB tuy nhiều tuổi, nhưng rất minh mẫn và không có ai nghễnh ngãng, vậy mà tới kỳ bầu lại Ban điều hành, mặc cho Chủ Nhiệm hết lời động viên, kêu gọi, nhưng mọi người lờ đi, coi như… không biết, không nghe, không thấy! Tội nghiệp, Chủ nhiệm không tìm được hình nhân thế mạng nên đành phải tiếp tục.

Những thành viên, dù là chuyên nghiệp hay là những cây viết bất đắc dĩ đều không có nhuận bút nhuận mực gì hết. Nhưng ai nấy đều hăng say, nhiệt tình viết, lấy đó làm niềm vui và thư giãn cho tuổi về chiều. Hàng tháng, mỗi Thứ Bảy thứ nhì, họ họp nhau lại ở Nhà Thờ Tân Sa Châu, nhận Bản Tin, và trò chuyện với nhau. Họ hát hay ngâm thơ, hoặc có sách mới hay đề tài gì hấp dẫn thì kể cho nhau nghe, xong rồi giải tán. Mỗi cuối năm là cùng nhau liên hoan Tất Niên, mừng 1 năm trôi qua trong an lành. Cứ đều đặn như thế nhiều năm qua, mọi người hầu như quên mất thời gian, không hay đã đồng hành với nhau gần 1/10 thế kỷ! Bản Tin cũng được nhiều người xin về rồi photo thêm để biếu cho bạn bè. Có người còn gởi tặng bạn bè ở nước ngoài. Ngoài 4 trang Web bạn, được ghi ở trang cuối của Bản Tin, cập nhật thường xuyên, ai muốn xem từ số đầu đến số mới nhất cũng sẵn trên mạng, chỉ cần nhắp chuột. Riêng trang chủ sachvatranh.com chỉ mới tính từ hơn 3 năm qua mà con số truy cập đã hơn 400.000 lượt, chứng tỏ cũng được sự quan tâm của cộng đồng mạng. Điều đó càng khich lệ tinh thần của các thành viên hơn, thấy rằng việc mình làm cũng có chút ý nghĩa. Công sức mình truyền tải những tâm tư, tình cảm, không chỉ các thành viên thưởng thức với nhau, mà cũng được nhiều người thích thú theo dõi và có những phản hồi tốt. Sự thiếu sót của Bản Tin có lẽ là không thu hút được giới trẻ. Nhiều Sinh Viên cũng có tới họp, nhưng chỉ được vài kỳ là bỏ đi. Có lẽ vì không có đề tài nào “hot” để thu hút, cũng không có mạn đàm hay mỗi kỳ là một thành viên thuyết trình một đề tài nào đó như anh em có lần đề nghị, nên thiếu sức hấp dẫn. Hơn nữa, có lẽ sự quan tâm của người nhiều tuổi, đã qua thời bon chen kiếm sống khác xa với giới trẻ đang cần những kinh nghiệm thực tế để vào đời, không có thì giờ để thưởng thức những áng văn hay, những bài thơ bất hủ, vì thế nên khó thể gặp nhau. Cái thiếu sót nữa là mảng tin Sách Xưa phong phú hơn Sách Nay.

Không biết có phải vì đa phần thành viên là các cụ ông, cụ bà thuộc lứa U 7,8,90… nên bộ óc đã lão hóa, không thể tiếp thu thêm cái mới, hay vì Sách Xưa thì người viết có trách nhiệm với đứa con tinh thần của mình hơn. Nội dung cũng sâu sắc hơn, nhân văn hơn, nói về những cái hay, cái đẹp cái thanh cao, tao nhã của cuộc sống, mang tính cách giáo dục cao, nên đọc rồi thì chẳng những khó quên, mà còn muốn lưu giữ cho thế hệ mai sau. Còn giới trẻ ngày nay sống hời hợt, nên viết cũng cạn cợt hơn chăng? Và những cuốn sách được mọi người lùng sục nhiều chẳng qua là nghe nó bị cấm, vì khai thác khía cạnh dung tục của cuộc đời như “Bóng Đè”, Sợi xích” chỉ có làm cho giới trẻ thỏa mãn trí tò mò thôi, nên làm sao sánh được với Sách Xưa? Nói chung, thời đại này tuổi trẻ có lối sống và suy nghĩ khác với lớp người trước rất xa. Dù sao, có CLB Sách Xưa & Nay là một sân chơi lành mạnh cho các cụ ông, cụ bà có nơi để giao lưu, thư giãn, và để thì giờ chịu khó đọc, viết, cũng là hoạt động giúp cho bộ óc chậm lão hóa cũng là một liều thuốc tốt cho tuổi già.

BẢN TIN dù chỉ là một tập san nhỏ bé, mỗi kỳ không tới 200 trang, nhưng chứa đựng một nội dung xây dựng, lành mạnh, góp phần cố súy cho văn hóa đọc đang dần bị quên lãng bởi cuộc sống quá hối hả như hiện nay. Việc làm tốt đẹp cũng nhận được một khích lệ nhỏ. Năm 2010, CLB SÁCH XƯA & NAY được Sở Văn Hóa Thông Tin TP HCM tặng giấy khen vì đã có công đóng góp tích cực cho hoạt động của Thư Viện Khoa Học Tổng Hợp năm 2009.

Có lẽ Chủ Nhiệm là người hạnh phúc nhất. Cứ mỗi lần hỏi thăm ông bài vở số này ra sao, bao giờ câu trả lời cũng là: “Hay hơn số cũ mà còn kém xa số tới!”. Ông rất tự hào vì được sự ủng hộ không những của thành viên trong CLB, mà nhiều độc giả, bạn bè cũng khen ngợi là ông duy trì được Bản Tin nhiều năm như thế không phải là điều ai cũng có thể làm được. Chính vì vậy mà ông hứng chí, tuyên bố là sẵn sàng tiếp tục điều hành đến Bản Tin Số 300 mới chịu thôi. Các Thành Viên và Quý độc giả thân mến cứ chờ để thoải mái xem. Các thành viên khác thì không biết thế nào, riêng tủ sách của Chủ Nhiệm thì ông tuyên bố: “Dù có khai thác đến Bản Tin số 1.000 cũng chưa hết”.

Cũng nhân BẢN TIN số 100, xin kính chúc Ban Điều Hành, các Thành Viên và những vị cộng tác được dồi dào sức khỏe, tăng thêm tuổi thọ và sáng tác thêm hăng say. Cũng xin kính chúc quý độc giả luôn vui, khỏe, yêu đời, và rất mong nhận được sự cộng tác của quý độc giả, để Bản Tin thêm nhiều mục hấp dẫn, mang thêm nhiều niềm vui đến với nhiều người.

Tháng 9/2014 - Tâm Nguyện



|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế