Hiện có 28 người xem / 2521207 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/05/2019

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách ông mới có, một cuốn bằng Anh văn và một cuốn bằng Pháp văn. Cuốn thứ nhất bằng Anh văn mang tựa đề là “Các nhân vật nổi tiếng - sự kiện và hồ sơ” (Famous people factfile); cuốn sách bìa cứng, khổ 12x21, dày 256 trang, được xuất bản năm 2006, chứa đựng chân dung, tiểu sử và các sự kiện liên quan tới khoảng 1200 nhân vật thế giới từ trước năm 1000 sau công nguyên tới nay, và điều tuyệt vời là tất cả các sự việc đều được trình bày bằng hình ảnh có màu. Cũng trong số Bản Tin trước (số 156) dịch giả Vũ Anh Tuấn cũng đã dành ba trang để cho thêm chi tiết về cuốn quý thư mà ông muốn mọi người được nhìn thấy tận mắt. Cuốn thứ nhì, bằng Pháp văn, mang tựa đề là “Truyện ngắn cho người trẻ cũng như người già” (Contes pour les jeunes et les vieux) của nhà văn Pháp danh tiếng André Theuriet, được xuất bản năm 1886 (133 năm tuổi), bìa cứng cực đẹp, ba cạnh mạ vàng, khổ 17x25, dày 290 trang, trong có 65 minh họa cực đẹp bằng bút sắt. Sách thuộc loại hư cấu, nhưng những truyện ngắn coi như được bảo đảm là hay vì danh tiếng của văn hào này. Sách gồm 21 truyện ngắn, nhưng tác giả này chưa hề được giới thiệu với người Việt chúng ta. Có cuốn sách trong tay, dịch giả Vũ Anh Tuấn tự hứa, khi rảnh, sẽ dịch một hai truyện ngắn này để giới thiệu nhà văn Pháp này với người Việt chúng ta. Sau khi sách và một vài hình minh họa bằng bút sắt được giới thiệu, một vài thành viên đã chuyền tay nhau xem hai quý thư một cách thích thú.


Sau phần giới thiệu sách, thành viên Phước Hải đã lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ về Trần Nhân Tông. Tiếp lời anh Phước Hải, Bs.Tiến lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ về Điện Biên Phủ. Sau Bs.Tiến, Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Bia hành!” và hát tặng các thành viên bài “Về quê hương mình”. Sau Thùy Hương, thành viên Quang Bỉnh lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Thân phận” và ca tặng các thành viên bài ca cổ “Con sáo”. Tiếp lời anh Quang Bỉnh, anh Lương Vĩnh Nhung lên ngâm tặng các thành viên bài “Mười cái thích của người cao tuổi”. Sau anh Nhung, anh Nhựt Thanh lên nói về họa thơ và họa thơ lục bát. Anh Nhựt Thanh nói xong, anh Thanh Vĩnh lên nói về Ngày Quốc Tế Lao Động và về Điện Biên Phủ. Sau anh Thanh Vĩnh, Thùy Mai lên hát tặng các thành viên hai bài “Lúa mùa duyên thắm” và “Gót chinh nhân”. Tiếp lời Thùy Mai, anh Chử Đồng Minh lên ngâm tặng các thành viên bài “Khải hoàn ca”. Anh Chử Đồng Minh ngâm xong, anh Dương Tiến Cần lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Sau anh Cần, anh Thanh Phong lên ngâm tặng các thành viên mấy bài thơ hài như “Dư hương”, “Số đào hoa”, “Tính sổ nợ”… Sau anh Thanh Phong, anh Phùng Chí Tâm lên nói về những kỷ niệm trong tháng 5, rồi ngâm và hát tặng các thành viên một bài thơ và một bài ca. Tiếp lời anh Phùng Chí Tâm, Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên một bài ca. Lệ Ngọc hát xong, anh Phạm Vũ lên nói về nhạc sĩ Văn Giản và bài thơ “Dại khờ” của Tú Xương. Anh Phạm Vũ nói xong, thành viên Tuyết lên hát tặng các thành viên bài “Mẹ tôi” của Nhị Hà. Và sau cùng, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom, lên hát tặng các thành viên bài “Cô hàng nước” và buổi họp kết thúc lúc 11g20 cùng ngày. Các thành viên vui vẻ chia tay, hẹn gặp lại nhau trong kỳ họp tới.

VŨ THƯ HỮU




VÀI DÒNG VỀ

MỘT NIỀM VUI, NHỎ MÀ LỚN,

VÌ KHÔNG MUA ĐƯỢC BẰNG TIỀN,

VÀ KHÔNG PHẢI AI CŨNG CÓ ĐƯỢC

Mười ba năm trước, ngày khai mạc CLB Sách Xưa & Nay, cũng là ngày Bản Tin lưu hành nội bộ của CLB Sách Xưa & Nay ra chào đời. Những số đầu mỗi số chỉ có vài chục trang, nhưng sau số trang tăng dần và trung bình mỗi số khoảng 130 tới 150 trang, và thỉnh thoảng có số dầy hơn. Và, thoáng một cái, số hiện tại đã là số 157, tức là 157 tháng hay là 13 năm. Tuy không hề có 1 xu ngân sách, cũng như chẳng hề nhận tài trợ nào của một ai, nhưng Bản Tin vẫn tồn tại, và ra đều hàng tháng, chính vì nhờ vào lòng yêu sách của trên 15 cây bút, đa phần là tài tử, nhưng đều đã trọng tuổi và có học vấn đầy đủ, chính thống, và điều hay nhất là tất cả “đều viết chùa” không thèm quan tâm gì tới tí nhuận bút nào! Mỗi tháng số lượng được photocopy ra chỉ có khoảng 70 bản thuộc dạng “lưu hành nội bộ”, và khoảng trên dưới 40 bản được tặng cho các thành viên, phần còn lại được gửi đi cho các “thành viên tại chỗ” (on the spot members) ở khắp nơi, ngoài ra Bản Tin còn được đưa lên đầy đủ trên trang mạng cá nhân của Chủ nhiệm là trang Sachvatranh.com nay đã có gần 1.300.000 lần xem. Bản Tin được mọi người yêu thích vì được viết bằng một văn phong trong sáng, chính xác, với các thông tin liên quan tới sách và thơ văn phong phú và phi chính trị, đồng thời cũng rất ích lợi cho người đọc về nhiều lãnh vực khác nhau của đời thường, giúp người đọc mở mang kiến thức…

Là Chủ nhiệm, người viết có đóng góp trong 157 số khoảng 200 bài viết khác nhau ở đủ mọi thể loại được các độc giả rất yêu thích, nên trong năm vừa qua (2018) đã nhận được nhiều cuộc gọi và điện thư yêu cầu cố gắng gom các bài viết vào 1, 2 cuốn sách để các độc giả đó, phần lớn đều cao và rất cao tuổi, dễ thưởng thức hơn! Người viết đã hứa và đã rất cố gắng để mấy hôm trước đã thỏa mãn được nhu cầu của một số bạn thân, và đã ra được, dưới dạng “lưu hành nội bộ” cuốn đầu tiên mang tựa đề là “12 năm viết và dịch”. Cuốn sách khổ 20x28, dày 578 trang được chia làm 2 phần:

- Phần 1: Văn truyện dịch và Truyện ngắn

- Phần 2: Biên khảo và Sưu tầm.

Phần một gồm 62 bài viết và phần hai gồm 69 bài viết, tổng cộng là 131 bài viết, nghĩa là khoảng 2/3 tổng số bài viết trong bộ Bản Tin. Ngay lúc này cuốn sách chỉ được làm độ 10, 15 bản để dành cho các người thân thiết nhất của tác giả, nhưng trong tương lai gần cuốn sách có thể được chính thức xuất bản và phổ biến rộng rãi.

Cầm cuốn sách to đùng trên tay, người viết cảm thấy rất hài lòng vì đã cố gắng giữ được lời hứa với các thân nhân, và cảm thấy rằng nó đã mang lại cho mình một niềm vui nhỏ mà lớn, vì thứ niềm vui này không mua được bằng tiền, và không phải ai cũng dễ dàng có được!

Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN



NHỮNG SUY NGHĨ VẨN VƠ

TẬP 2

(tiếp theo số 156)

Trong phim “ Đất và Người ” được rất nhiều người ái mộ, đánh giá cao, có đoạn ông Hàm (con người tiêu biểu cho tầng lớp phong kiến, gia trưởng, chồng chủ vợ tôi), đã ra lệnh buộc bà Son vợ ông phải làm một điều đại ác, vu cáo dòng họ đối thủ của họ Trịnh - bà Son đã run rẩy khóc lóc thưa với ông: “ Tôi không thể làm đâu, Trời có mắt

Sách Châm Ngôn trong Kinh Thánh có câu: “ Mắt Chúa Trời ở mọi nơi mọi chỗ, hằng dõi theo kẻ dữ người lành (Cn 15,3).

Khi gặp những điều bất trắc, người ta vẫn buột miệng kêu “ Trời ơi! ” Ý niệm về một Ông Trời tạo hóa đã được thể hiện trong ca dao tục ngữ, tức văn chương bình dân truyền khẩu, từ xửa từ xưa trước khi dân ta có chữ viết:

“ Lạy Trời mưa xuống,

Lấy nước tôi uống,

Lấy ruộng tôi cày,

Lấy đầy bát cơm,

Lấy rơm đun bếp…

“ Con chim nó hót trên cành,

Nếu Trời không có thì mình có sao.

Con chim nó hót trên cao,

Nếu Trời không có làm sao có mình

Đạo Trời từ xưa trên đất nước ta là quốc giáo. Các vua chúa ngày xưa vẫn tế Trời, ngày nay tế đàn Nam Giao ở Huế là một chứng tích cụ thể.

Chỉ đến thế kỷ XVIII trở về đây mới nảy sinh một bộ phận nhỏ trong nhân loại, dựa vào tiến bộ khoa học phủ nhận Chúa Trời, phủ nhận công trình Sáng Thế, cho rằng chỉ có chân lý khoa học mới là tuyệt đối, còn Thánh Kinh sai với khoa học là mê tín dị đoan, chân lý đức tin không có cơ sở vững chắc. Bằng chứng họ nêu ra là đoạn Kinh Thánh nói về Sáng Thế trong 7 ngày là vô lý không thể tin được, rồi ngày thứ nhất Chúa dựng nên ánh sáng tới ngày thứ tư Chúa mới dựng nên mặt trời mặt trăng và các tinh tú, như thế là “ sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. Thánh Kinh còn cho rằng mặt trời xoay quanh trái đất nên có vụ thủ lãnh Giosuê chỉ mặt trời bảo nó đứng lại (Gs.10,12)… điều này nhà thiên văn học Galilê đã chứng minh ngược lại và đã phải trả giá đắt khi ông dám bảo: “ Kinh Thánh sai. Người ta vẫn đổ thừa rằng Tòa án Giáo Hội đã kết án Galilê vì ông đã quả quyết và chứng minh trái đất quay quanh mặt trời. Thực ra trước Galilê, Copernic - nhà thiên văn học Ba Lan (1473-1543) đã khám phá ra các hành tinh quay quanh mặt trời, ông đâu có bị Giáo Hội kết án.

Chuyện Galilê bị kết án là vì ông đã tuyên bố: “ Kinh Thánh sai ” khi thủ lãnh Giosuê bảo: “ Mặt trời đứng lại, và ông bị quản chế trong một Tu viện, chết vì già yếu chứ không phải lên giàn hỏa thiêu như nhiều người đã nghĩ do bị tuyên truyền sai lạc.

“ Ôi! Khờ dại thay những kẻ không biết và không hiểu Kinh Thánh ” (Lc.24,25). Ai cũng biết rằng các môn học đều có đối tượng riêng và có phương pháp riêng - Y học có đối tượng và phương pháp của y học, khảo cổ, sử học, sinh vật học, toán học, văn học… đều có đối tượng và phương pháp riêng, không thể lấy “râu ông mà cắm cằm bà” được. Vậy Thánh Kinh cũng có đối tượng và phương pháp riêng. Thánh Kinh không dạy khoa học nên không thí nghiệm, tính toán như khoa học.

Thánh Kinh dạy Tôn giáo, dạy đức tin, dạy luân thường đạo lý, dạy chân lý… Cả đoạn sách Sáng Thế chỉ dạy những nội dung này:

1. Từ trước muôn muôn thuở, trước khi có vũ trụ đã có một Đấng quyền năng vô cùng, Ngài tự hữu, không do ai tạo thành.

2. Mọi loài trong trời đất (vũ trụ) đều do Chúa tạo dựng và không có một loài nào, vật gì dù nhỏ bé đến đâu, hữu hình hay vô hình mà không do Chúa tạo thành.

3. Chính Chúa ấn định việc nghỉ ngày cuối tuần.

4. Loài người có hồn có xác, cao cả hơn mọi loài hữu hình và là hình ảnh của Chúa.

5. Người nữ là bạn đường của người nam, cùng bản tính và đồng địa vị (bình đẳng) với người nam.

6. Hôn nhân là do chính Chúa thiết lập.

7. Loài người (nguyên tổ) được Chúa dựng nên và ban ân huệ đặc biệt là tự do, nhưng tự do cũng dẫn tới trách nhiệm, mà vì có tự do, có trách nhiệm nên cần được thử thách. Rất tiếc, ông bà nguyên tổ đã không qua được thử thách này nên đã phạm tội và kéo theo hệ quả tai hại của tội là sự dữ và kết cuộc là cái chết.

Thánh Phaolô đã quả quyết: “ Bởi một người mà tội lỗi đã vào thế gian và bởi tội thì có sự chết ” (thư Roma đoạn 5, câu 12). Tuy nhiên Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã lên kế hoạch cứu chuộc loài người mà Chúa Giêsu là người thực hiện và hoàn tất việc đó để từ đây “ Ai tin vào Người thì sẽ được cứu độ, tức là được sống đời đời ” (Tin Mừng Gioan đoạn 3, câu 16).

Toàn thể đoạn văn Sáng Thế chỉ nhằm dạy những chân lý nêu trên, còn lời văn trình bày thì chỉ theo quan sát, kiến thức bình dân thời xa xưa ấy, không theo khoa học.

Ví dụ:

Sáng sớm ta thấy hừng đông trước rồi mới thấy mặt trời sau. Do đó tác giả Kinh Thánh kể ngày thứ nhất Thiên Chúa dựng nên ánh sáng, rồi ngày thứ tư mới dựng nên mặt trời mặt trăng và các tinh tú. Nếu 7 điểm nội dung nêu trên là sai thì mới bảo Kinh Thánh sai được, còn cách diễn tả thế này thế kia là quyền của tác giả, không thể so sánh với khoa học mà bảo rằng Kinh Thánh sai.

Trong lãnh vực văn chương, ta vẫn nói buổi sáng mặt trời mọc ở đàng Đông, buổi chiều mặt trời lặn ở đàng Tây - Chẳng đúng khoa học tí nào nhưng văn chương vẫn đúng, vẫn hay. Hoặc người ta dùng những phương pháp tu từ như:

- Nhân cách hóa: Hoa cười, biển hát, sông nước vỗ tay…

- Ẩn dụ: Làn sóng Cách mạng, mũi nhọn xuất khẩu, học sinh này sáng dạ, học sinh kia tối dạ… ai dám bảo sai?

- Hoán dụ: Làng này có bao nhiêu nóc nhà? Nhà này có bao nhiêu khẩu? Cho mày biết tay tao…

Bây giờ mận mới hỏi đào,

Vườn xuân đã có lối vào hay chưa?

Mận hỏi thì đào xin thưa,

Vườn xuân có lối nhưng chưa ai vào

(Ca dao)

- Phúng dụ: Chuyện “Lục súc tranh công”, “Chuyện trí khôn ngươi đâu?” hoặc bài thơ “Hổ Nhớ Rừng” của Thế Lữ:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,

Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa…

- Thể tỷ hay kiểu so sánh:

Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

(Ca dao)

Lấy cái vô hình không cân đo đong đếm được sánh với với cái hữu hình là quả núi, là nguồn nước… chẳng khoa học tí nào cả.

Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây chụm lại thành hòn núi cao

(Ca dao)

Xét theo khoa học thì thật ngớ ngẩn, có 1 triệu cây chụm lại cũng chẳng thành hòn núi, vì cây là chất mộc, còn núi là chất đá, thế nhưng đây vẫn là chân lý vì câu này chỉ có ý dạy “hợp quần gây sức mạnh”.

Những người yêu nhau chẳng thể thiếu được những nụ hôn, một hình thức thể hiện tình cảm, nhưng dưới khuôn thước của ngành y học thì thật là mất vệ sinh và là cơ hội lây nhiễm bệnh nhanh chóng nhất.

Những ví dụ nêu trên chả ai nhân danh khoa học để phản đối, thế mà Thánh Kinh thì người ta chẳng cần tìm hiểu gì cả, cứ nhân danh khoa học mà chối bỏ, như thế liệu có công tâm hay không?

Nếu đã phủ nhận Thánh Kinh, phủ nhận công trình Sáng Thế thì các nhà khoa học phải giải quyết vấn đề nguồn gốc của vật chất là yếu tố cơ bản của muôn vật muôn loài. Vật chất ban đầu từ đâu mà có? Tới đây thì các nhà khoa học vào ngõ bí, đành nhắm mắt phán: Vật chất tự nó mà có, vật chất tự hữu, không do ai tạo thành, vật chất hằng hữu, trường tồn.

Chứng minh bằng khoa học? Thưa không ai chứng minh được, không lấy gì để chứng minh được nên các nhà khoa học cũng phải đi tới điểm cuối cùng là Đức tin - Tin vật chất tự hữu và hằng hữu, bởi không còn lối thoát nào khác nữa trừ ra, là phải tin có Thượng Đế, có Chúa Trời sáng tạo mà thôi.

Kết thúc bằng Đức tin thì lý thuyết tiến hóa mệnh danh là khoa học rõ ràng cũng chẳng khoa học tí nào, vì cái mấu chốt, cái cốt lõi không mang tính khoa học, không theo đường lối khoa học mà duy tâm trăm phần trăm.

(còn tiếp)

Tân Sa Châu, ngày 18/12/2017

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)



QUY TRÌNH TU HÀNH

theo CHÁNH PHÁP

của ĐẠO PHẬT

(tiếp theo số 156)

2.8 . VỀ NGƯỜI GIẢNG PHÁP hay PHÁP SƯ:

Mục đích của Đạo Phật là đưa mọi người đến Giải Thoát hay Thoát Khổ. Tu theo Đạo Phật là để được Giải Thoát. Người chưa đắc Pháp, chưa tự Giải Thoát được thì làm sao biết cách Giải Thoát mà hướng dẫn cho người khác? Khi chưa biết Nghĩa để Y, chỉ Y Ngữ mà thuyết, thì sẽ rơi vào trường hợp được cảnh báo là “Y Kinh giải nghĩa Tam Thế Phật oan”! Pháp Sư phải là người đã Hành và đã thành tựu. Đã Thấy cái Tâm mới có thể mang kinh nghiệm truyền lại cho người sau, gọi là Tâm Truyền Tâm. Người chưa Chứng Đắc thì làm sao biết thế nào là Cái Tâm? Cách thức để Thấy Tâm, Thấy Tánh để giảng dạy? Vì thế họ chỉ loanh quanh dạy làm lành, lánh dữ và thờ Phật để cầu xin được cứu độ mà thôi.

Tổ Đạt Ma dạy: “Người chưa Thấy Tánh mà nói Pháp là ma nói”, vì họ chỉ Y NGỮ mà giảng, chưa rõ NGHĨA để Y, nên dắt người nghe đi vào Quyền Thừa, Nhị Thừa, không phải Phật Thừa. Điều đó rất là tai hại, vì người càng tu lâu năm thì càng chấp vào thời gian tu hành để cho là mình tu lâu thì phải cao, khó chấp nhận người khác, nhất là người tu ít năm hơn mình. Họ quên rằng vấn đề là tu đúng hay không? Chứng Đắc hay không? Không phải là mới tu hay tu lâu năm. Do đó, trong Đạo Phật có câu: “Phàm Phu còn có tâm quay về mà Thinh Văn thì không”. Những người chưa hiểu đạo, bản thân mê mờ thì chỉ hại chính họ, nhưng nếu đem sự hiểu biết chưa đúng đó ra phổ biến thì gọi là “chồng mê” cho người khác, thì hậu quả rất là tai hại. Bằng chứng là Đạo Phật đã phổ biến gần 3.000 năm rồi mà Phật Tử chỉ biết Thờ Phật, khi Xuất Gia tu hành là cũng để phụng sự cho Phật, hiếm người biết cách tu hành để Thành Phật như ý vị sáng lập là Đức Thích Ca đã mong mỏi.

2.9 . VỀ SỰ CỨU ĐỘ CỦA PHẬT

Đọc trong Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN, ta thấy viết: Khi Phật giảng pháp thì La Hầu La lơ đãng không nghe. Phật bảo: “Gặp Phật ra đời rất khó. Giữ được thân người là khó, và Đắc Đạo cũng khó. Nay con đã được thân người, lại gặp Phật ra đời, cớ sao biếng lười chẳng chịu nghe pháp vậy? La Vân viện cớ còn nhỏ, chờ lớn lên sẽ nghe. Phật bảo: Muôn vật vô thường, thân người cũng khó giữ. Người có thể giữ mạng người đến lớn không? La Vân trả lời: La Vân con đây không thể giữ được, nhưng Phật há chẳng giữ giùm mạng con ư? Phật bảo: “Này La Vân, ta còn không giữ được cho ta, huống chi là giữ giùm cho ngươi”. Bằng chứng rõ ràng là chính Phật cũng đã nhập diệt, cho ta thấy những lý thuyết Ngài đã đưa ra không sai: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Đã Có Tướng là phải chịu hoại diệt, không trừ ai. Như vậy cũng đồng thời chứng minh là Ngài đã không Độ được cho bản thân, không Độ được cho cha, mẹ, vợ con, thì ta nghĩ sao lại cầu xin cho Ngài Độ cho ta khỏi bệnh, khỏi chết, được tăng phước, tăng thọ, giảm họa, tiêu tai, đưa vong linh người thân đã qua đời của mọi người về Tây Phương Cực Lạc được?

2.10 . Vì sao cho rằng Phật “Cứu độ Tam Thiên Đại Thiên thế giới”? Chúng Sinh là những ai?

Tu Phật chính là quay vô để tu sửa Thân, Tâm. Sở dĩ Kinh nói “Phật cứu độ Tam Thiên Đại Thiên thế giới” là nói về mỗi người đều có 3 loại tư tưởng Tham, Sân, Si. Từng sát na chúng sinh ra trùng trùng, điệp điệp, đông như cư dân của cả thế giới. Người tu phải quay vô lo Độ cho chúng, không phải Độ cho thế giới nào bên ngoài.

Chúng Sinh tức là những tư tưởng đen tối xuất phát nơi Tâm của mỗi người. Khi trong Tâm không còn khởi những tư tưởng đen tối nữa thì sẽ được Thanh Tịnh, lúc đó gọi là Phật Quốc hay Tịnh Quốc được hình thành nơi đó, vì bản thân người hành sẽ được an vui, gọi là Chúng Sinh đã Thành Phật. Do đó, chỉ có Phật của mỗi người độ cho chính bản thân mỗi người mà thôi. Người tin rằng Phật ngoài sẽ cứu độ cho mình là Nhị Thừa, là Mê tín, không phải là người tin Đạo Phật theo đúng Chánh Pháp.

Lục Tổ Huệ Năng giải thích về Chúng Sinh như sau: “Chư Thiện Tri Thức. Chúng Sanh trong Tâm mình tức là: Lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các Tâm này đều gọi chung là Chúng Sanh. Mỗi người phải dùng Tánh của mình mà độ lấy mình mới gọi là thiệt độ”.

Chúng ta cần hiểu Đạo Phật theo đúng quy trình của việc tu hành, để thấy rằng những nhân vật mà Phật mô tả đều ở trong nội tâm của người tu. Nhưng thời đó nói rằng có cái Tâm Vô Tướng thì không ai có thể tưởng tượng ra được. Vì thế, Đức Thích Ca phương tiện diễn tả, mới nghe qua thì hoàn toàn giống như cảnh bên ngoài.

Theo Phật, trong Tâm của mỗi chúng ta có Ba tình trạng:

- PHẬT: là những tư tưởng thanh tịnh, an ổn, như như.

- BỒ TÁT: là những tư tưởng đã được Giải Thoát, nhưng có sứ mạng khuyên giải, hướng dẫn, giải thích cho những tư tưởng còn vướng mắc, còn đau khổ, động loạn để cho chúng nó hiểu ra mà chấp nhận để thay đổi. Do đó, Kinh dạy là muốn thành Phật thì phải qua giai đoạn “Hành Bồ Tát Hạnh”, tức là phải làm công việc giúp cho chúng sinh của mình chuyển đổi từ mê lầm sang trạng thái thức tỉnh.

- CHÚNG SINH: là những tư tưởng thuần túy phàm phu, còn chấp nhất, dính mắc, đau khổ.

- Khi chuyển được một tư tưởng còn đau khổ, phiền não gọi là CHÚNG SINH sang an ổn, thanh tịnh thì gọi là “Cúng Dường Một Vị Phật”. Do vậy, một đời mỗi chúng ta sẽ Cúng Dường Vô Số Ức Đức Phật là như thế, không phải tạc cho nhiều Tượng Phật rồi cúng!

2.11 . PHƯƠNG TIỆN CỦA ĐẠO PHẬT

Nhiều người cứ tưởng tu Phật là để Thành Phật, như là thành một vị Thần Linh, có 32 Tướng tốt, 80 vẻ đẹp, ngồi trên Tòa Sen cứu độ cho bá tánh. Chí ít cũng là trở thành bậc Thánh Nhân cao siêu, hay những Thiền Sư nói năng, cử chỉ khác đời. Điều này làm cho một số người khiêm tốn phải e ngại. Số khác thì lại kiêu mạn khi đạt được chút hiểu biết nào trong Đạo, như trường hợp những Thiền Sinh được kể lại trong Vô Môn Quan! Nhưng nếu có đọc hết quy trình của Đạo, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả chỉ là phương tiện mà Đức Thích Ca đã dùng để dẫn dụ con người. Chính vì con người quá đam mê vật chất của cõi đời, thích tranh giành, chất chứa để hưởng thụ mà tạo Nghiệp, gây bao nhiêu đau khổ cho bản thân và những người chung quanh nên Đức Thích Ca phải nghĩ ra cách để dụ cho con người buông bỏ từ từ.

Người tu Phật thoạt tiên được vẽ cho con đường tu hành có vẻ như là cao siêu, vĩ đại, người sẽ trở thành bậc Thánh Nhân, thoát tục. Sau khi hết kiếp sẽ được về Niết Bàn. Nước Phật A Di Đà toàn Bảy Báu với những dây vàng giăng khắp, cát vàng trải làm thềm v.v… Không ngờ rằng Bảy thứ Báu mà nước Phật A Di Đà dùng để trang hoàng Phật Quốc là nói về cái Tâm thanh tịnh, nhờ trừ được Ba Nghiệp của Thân và Bốn Nghiệp của Khẩu!

Sở dĩ gọi đó là BẢY BÁU, vì Bảy thứ đó mỗi người chúng ta ôm giữ từ đời này sang đời nọ, kiếp này đến kiếp khác không chịu buông bỏ, không chịu xa rời, nên Phật ví như đó là Báu vật! “Dây vàng giăng khắp” là nói về Giới. Người Giữ Giới coi như được bảo vệ trong vòng đai an toàn. “Ao nước chứa Tám Công Đức” được tả ở Tây Phương Cực Lạc chỉ là kết quả của việc hành theo Bát Chánh Đạo mà thôi. Nước Phật được tả là một cảnh giới trên hư không, mà vàng bạc, châu báu là vật chất thì làm sao để ở hư không được? Vì Phật chỉ sử dụng giả cảnh để dẫn dắt người tu, cho nên mới gọi là Phương Tiện.

Phương Tiện được giải thích trong Phẩm Anh Nhi Hạnh của Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Lại như Anh Nhi lúc kêu khóc, cha mẹ liền lấy lá dương vàng mà bảo rằng: Nín đi đừng khóc, vàng đây ta cho con. Anh Nhi thấy lá dương vàng tưởng là vàng thật bèn thôi không khóc nữa. Trâu gỗ, ngựa gỗ, người gỗ, Anh Nhi cũng tưởng là trâu, ngựa, người thật, liền chẳng khóc nữa. Do vì chẳng phải thật trâu, ngựa v.v... mà tưởng là thật trâu, ngựa nên gọi là Anh Nhi”.

Đức Như Lai cũng vậy. Nếu có chúng sanh muốn tạo tội ác, Đức Như Lai vì họ mà nói Trời Đao Lợi Thiên là cõi tốt đẹp an vui tự tại. Chúng sanh nghe cõi vui đẹp như vậy, sanh lòng ưa thích bèn thôi chẳng tạo tội ác mà siêng thực hành những nghiệp lành. Nhưng thật ra cõi trời Đạo Lợi là sanh tử chẳng phải thật an vui tự tại.

Lại như có chúng sanh nhàm khổ sanh tử, Đức Như Lai vì họ nói hạnh quả Nhị Thừa, nhưng thật ra quả Nhị Thừa chẳng phải rốt ráo chân thật, vì hàng Nhị Thừa biết lỗi sanh tử, thấy vui Niết Bàn bèn có thể tự biết có dứt cùng chẳng dứt, có chơn thật cùng chẳng chơn thật, có tu cùng chẳng tu, có chứng đặng cùng chẳng chứng đặng. Như Anh Nhi kia đối với vật chẳng phải vàng mà tưởng là vàng thật”.

Người có Trí Huệ thì đều biết rằng tất cả những Cõi Phật, Quả vị cũng chỉ là phương tiện để dỗ cho Anh Nhi nín khóc, tức là để dụ cho con người hết Khổ. Cái Thoát Khổ mới chính là mục đích của Đạo Phật như mọi người vẫn thường nghe nói: Đạo Phật là “Đạo Độ Khổ” vậy.

2.12 . CÚNG DƯỜNG PHẬT.

Có hai hạng người hiểu sai về nghĩa của Cúng dường Phật.

Hạng thứ nhất đọc thấy trong Kinh viết “Long Nữ cúng cho Phật viên châu có giá trị liên thành” thì lập tức thành Phật. Chư Bồ Tát mang lâu đài, mở xâu chuỗi đáng giá trăm nghìn lượng vàng. Bồ Tát mang nhà cửa, xe cộ, kiệu cán, thậm chí thành quách, vợ con, thê thiếp, đầu, mắt, đốt thân, đốt tay… cúng dường cho Phật…” thì cho rằng Đạo Phật xui mọi người Xả, đừng ôm, đừng chấp, để rồi mang những thứ quý giá của mình cúng cho Ngài! Thảo nào mà Phật Quốc được mô tả trang hoàng toàn là Bảy thứ Báu!

Hạng thứ hai đó là những Vị Truyền Đạo mà chưa hiểu hết nghĩa của Phật nên cũng không hiểu thế nào là Cúng Dường Phật. Đó là những nước mà Đạo Phật là Quốc Giáo như Miến Điện, Campuchia, Trung Quốc, Pakistan và một vài nước mà các Tu sĩ thời xưa đã dày công gom góp vàng bạc, công sức của Phật Tử để đúc thành Tượng Phật rồi trang trí bằng kim cương hồng ngọc, là những báu vật giá trị nhất của trần gian lên. Thậm chí mái chùa còn đúc bằng cả mấy tấn vàng, hay tạc Tượng Phật lên cả một quả núi, tốn kém không biết là bao nhiêu tiền bạc, công sức của Phật Tử! Họ góp công của để xây Chùa. Cái sau phải to hơn cái trước. Nước này phải cất lớn chùa hoành tráng hơn nước kia để chứng tỏ lòng mộ Đạo! Hoặc như Thiền Sư Nguyệt Khê từng cắt thịt của mình, hay có vị từng đốt tay, thiêu thân, nghĩ là làm như thế để CÚNG DƯỜNG PHẬT vì Kinh đã viết như thế!

Những người hiểu như thế gọi là đã “Y Kinh giải nghĩa” làm oan cho Ba Đời Phật! Thật vậy. Sinh thời, Đức Thích Ca chỉ cần mỗi ngày ăn một bữa và ngụ ở cội cây hay ở trong rừng, đâu có cần Chùa Chiền đồ sộ, trang hoàng lộng lẫy? Do đó, trước khi muốn CÚNG DƯỜNG PHẬT thì phải hiểu cho đúng thế nào là PHẬT thì mới Cúng Dường cho đúng được.

Phật, không phải là Thần Linh, chỉ là tình trạng Giải Thoát mà người tu hành đạt được. Do đó, Kinh dạy: Mỗi chúng sinh đều có PHẬT TÁNH, tức là mỗi người đều có Khả năng Thành Phật. Và Thành PHẬT không phải là thành một vị Thần Linh có quyền năng, có thể “Cứu độ Tam Thiên Đại Thiên Thế giới”, mà chỉ có nghĩa là người đã được Giải Thoát khỏi Phiền Não, Sinh Tử, đạt được tình trạng an ổn, thanh tịnh, như như, ngay cả khi đối Pháp cũng không động mà thôi. Nói cách khác, đó là người đã được Giải Thoát. Họ không còn bị các pháp hành hạ làm cho Khổ nữa. Tình trạng đó gọi là Thành Phật. Thế thôi. Không có gì linh thiêng hay huyền bí hết.

Nghĩa thật sự của “Cúng Dường Phật”đưa được một CHÚNG SINH thành PHẬT, không phải là mang nhà cửa, xe cộ, vàng bạc đến trước tượng Phật để Cúng! Cúng Dường Phật tức là CON ĐƯỜNG ĐỘ SINH vậy.

2.13 . SAO GỌI LÀ BỐ THÍ BẢY BÁU:

Con người tạo Nghiệp qua 3 nơi: THÂN, KHẨU và Ý. Lúc bắt đầu suy nghĩ hay ý thức điều gì là do cái Ý. Khi diễn tả thì qua cửa miệng là KHẨU. Ở Thân thì hành động.

KHẨU có 4 Nghiệp: Đó là Nói láo, Nói lưỡi đôi chiều tức là nói thêm bớt để hại người, lợi mình. Chửi mắng, xúc phạm người.

THÂN có 3 Nghiệp là THAM, SÂN và SI.

Cộng hai thứ Nghiệp từ Thân và KHẨU thành ra 7 Nghiệp. Những Nghiệp này con người ôm giữ khư khư từ đời nọ sang đời kia, không chịu buông bỏ nên Phật ví như người giữ Của Báu. Vì vậy, khi tu hành, chịu XẢ nó đi thì Phật gọi là Bố Thí Bảy Báu cho Phật, chẳng phải là Bố Thí ngọc ngà, vàng bạc, châu báu hữu tướng. Vì Phật là để nói về tình trạng Giải Thoát trong mỗi con người. Không phải là một nhân vật có thật. Giải Thoát là Vô Tướng, do đó đâu thể nhận những thứ hữu tướng? Phật cũng là Vô Tướng. Cõi Phật được cho là ở hư không, thì ai nhận của Bố Thí? Nhận rồi chứa ở đâu?

Ngày nào mỗi người còn ôm giữ 7 Nghiệp là còn ràng buộc, còn đau khổ. Xả nó đi thì gọi là CÚNG DƯỜNG CHO PHẬT, hay là được GIẢI THOÁT. “MỞ XÂU CHUỖI ĐEO TRÊN CỔ” là xả bỏ những hư danh mà ta ôm giữ, đeo mang. “CÚNG LÂU ĐÀI CHO PHẬT” là Xả bỏ những cái CHẤP mà ta vẫn quen trú ngụ trong đó. THÀNH QUÁCH, CUNG ĐIỆN, ĐỀN ĐÀI, VỢ CON, KIỆU CÁNG, v.v... cũng là những thứ có giá trị mà ta quen sử dụng, trú ngụ, ham thích… không phải là những thứ vật chất hữu tướng của trần gian… “Chuỗi trân châu đeo cổ” hay “Viên Châu có giá trị liên thành” mà nàng Long Nữ dâng cho Phật để thành Phật chỉ là Cái Vọng Tâm. Gọi nó là liên thành, vì nó chứa đựng cả 3 thứ: Tham, Sân và Si. Xả nó đi thì sẽ được Giải Thoát, không phải Phật nhận vàng bạc, châu báu, lâu đài, nhà cửa của mọi người rồi ban Quả vị cho họ! Rõ ràng “Y Kinh giải nghĩa Tam thế Phật oan”, bởi nhiều người hiểu lầm nên mang những thứ quý giá như nhà cửa, đất đai… cúng cho Chùa mà cứ nghĩ là Cúng Dường Phật!

2.14 . PHẬT QUỐC hay TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC.

Do Xả Bảy thứ NGHIỆP được gọi là Bố Thí BẢY BÁU nên Phật nói rằng NƯỚC PHẬT được trang hoàng bằng BẢY BÁU. Ngài dùng Tây Phương Cực Lạc, Phật Quốc, Niết Bàn hay Bờ Bên Kia để tả phía thanh tịnh, tốt đẹp, đối lập với những cái Tâm phàm đầy động loạn mà khi chưa tu hành mọi người vẫn ôm giữ. Nói “TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC cách 18 ngàn dặm”, theo giải thích của Lục Tổ thì 10 ngàn dặm tức là THẬP ÁC. Nếu bỏ Thập Ác, hành Thập Thiện là sẽ rút ngắn được 10 ngàn dặm. Còn 8 ngàn dặm là Bát Chánh Đạo. Chỉ cần hành Bát Chánh Đạo nữa là rút ngắn thêm 8.000 dặn nữa, là đến Tây Phương Cực Lạc.

Thật ra tất cả chỉ là phương tiện mà Phật dùng để cho con người vì ham thích được đến đó mà xả bỏ bớt những đam mê, hấp dẫn của trần cảnh, không còn đấu đá, chém giết tranh giành với nhau làm cho cuộc sống đã ngắn ngủi mà còn đau khổ, bất an. Hết Khổ tức là sẽ được Hạnh Phúc. Do đó thực hành theo Đạo Phật chỉ để được Thoát Khổ, được sống một cuộc sống an vui. Lúc hết kiếp, nhờ do thời gian sống không có tạo Nghiệp ác nên không thể rơi vào đường dữ. Do đó, nói rằng Phật cứu độ con người, nhưng Đức Thích Ca chỉ là người đưa ra giải pháp, tự mỗi người hành động để Phật của mình cứu lấy mình nên gọi là TỰ ĐỘ. Người đọc Kinh, hiểu chưa hết rồi cúng kiến, van nài cầu xin Phật Độ gọi là những người Nhị Thừa hay Quyền Thừa, không phải là Đạo Phật theo Chánh Pháp. Nhưng do họ tin tưởng Phật mà không làm điều ác thì họ cũng sẽ không phải đọa. Nhưng đó là do Nhân Quả của chính họ, không phải do Phật ban cho họ.

2.15 . NHÂN QUẢ

Đạo Phật cũng được gọi là Đạo NHÂN QUẢ, vì dùng Nhân Quả để nhắc nhở con người. Đức Thích Ca cũng không phải là người sáng tạo ra Luật Nhân Quả, nhưng Ngài chính là người khám phá ra nó và nhắc nhở mọi người để đừng tạo Ác Nghiệp, vì Nhân Quả không mất.

Theo Đạo Phật thì tất cả mọi việc đều là NHÂN, sẽ có cái QUẢ tương ứng. Làm tốt thì sẽ có Quả tốt. Làm xấu thì sẽ gặt Quả xấu. Ngay cả khi chết, cái Thân sẽ trở về cùng cát bụi, nhưng Nhân Quả sẽ theo mỗi người không rời. Do có Nhân Quả mà có Luân Hồi để trả những gì đã gieo ở kiếp trước. Phật không có khả năng thay đổi Nhân Quả giúp cho bất cứ ai. Do đó, Đạo Phật dạy mọi người nên Cải Ác, hành thiện, không cầu xin, nương tựa. Người muốn Cầu xin thì nên “Cầu mà không cầu”, tức là hãy hành động thì đương nhiên, không chóng thì chầy Quả sẽ đến.

Nếu đã tin sâu Nhân Quả thì cũng không tin chuyện Tụng Kinh Vãng Sanh, vì khi người chết là nghiệp lực đã hình thành, không thể vì nghe một vài câu Kinh mà có thể Chuyển Nghiệp được. Không thể nhờ rước nhiều Tu Sĩ đạo cao, đức dày mà chuyển đổi được Nhân Quả cho người qua đời. Đọc Kinh Vu Lan Bồn chúng ta thấy lúc Ngài Mục Kiền Liên trông thấy mẹ bị đọa Địa Ngục thì quá đau khổ, khóc lóc van xin Phật cứu. Phật cảm động cùng Thánh Chúng bay lên hư không rưới nước cam lồ xuống tắt lửa Địa Ngục, cứu bà Thanh Đề. Nhưng vừa thoát Địa Ngục này bà Thanh Đề liền sinh vào Địa Ngục khác, cho ta thấy Nhân Quả ăn sâu vào ký ức của người làm việc Thiện hay Ác. Tự họ sẽ chọn một hình phạt cho tương ứng với việc xấu mình đã gây tạo, người ngoài không cứu được. Do vậy mà người ý thức cần tự mình tu hành để thay đổi Nhân Quả, không mong chờ ai cứu cho. Đó mới là đạo Phật chân chính.

2.16 . TỨ ÂN

Đạo Phật hướng dẫn mọi người tu sửa Thân, Tâm bằng GIỚI-ĐỊNH-HUỆ, BÁT CHÁNH ĐẠO. Qua Tám việc Chân Chánh phải người áp dụng hàng ngày đã đầy đủ chuẩn mực đạo đức của một con người rồi. Người có CHÁNH NGHIỆP, CHÁNH MẠNG thì làm sao có thể sống bất chánh, nuôi thân bằng những nghề bất chánh? Một con người mà không Tham, không Sân, không Si, lại sáng suốt (Chánh Kiến), biết suy nghĩ trước khi hành động (Chánh Tư Duy). Nói năng cũng dùng những lời lẽ chân chánh (Chánh Ngữ). Như vậy, họ nhờ khuôn khổ này mà không tạo nghiệp nơi Thân, Khẩu và Ý, đương nhiên cuộc sống của họ sẽ không gặp những điều phiền lòng vì họ cũng không gây phiền não hay khó chịu cho người chung quanh. Cuộc sống như thế đã quá tốt đẹp rồi.

Bấy nhiêu đó cũng chưa đủ. Đạo Phật còn muốn con người phải sống tốt đẹp với mọi người hơn bằng cách yêu cầu người tu Phật sau khi làm xong cho mình thì phải đền TỨ ÂN. Đó là Ân Phụ Mẫu, Ân Đất Nước, Ân Thầy, Ân Chúng Sinh. Rõ ràng Đức Phật Thích Ca chuẩn bị cho con người một cuộc sống với đầy đủ trách nhiệm, không chỉ đối với bản thân, không tạo Nghiệp để nó phải chịu Khổ, mà còn cư xử trọn đạo với Ông bà, Cha mẹ, đất nước, với Phật, với Thầy và với tất cả mọi người đã giúp tạo dựng cuộc sống cho mình.

Người bỏ đời để vô Chùa tu thì chỉ đền Ân Phật, làm sao đền được Ân Cha mẹ, Ân Đất nước, Ân Chúng Sinh? Phật đâu có phải là Thần Linh để ta cầu nguyện gia hộ cho cha mẹ, đất nước, chúng sinh để đền đáp? Cho nên nhiều thế hệ qua những người phổ biến Đạo đã hiểu lầm làm biết bao nhiêu người đã hy sinh cuộc đời một cách oan uổng. Việc làm đó không những có lỗi với cuộc đời, vì làm phí uổng bao nhiêu sức người thay vì để xây dựng cuộc đời thì lại dành cả đời để chỉ Tụng Kinh, Niệm Phật chờ về Niết Bàn, mà còn có lỗi với Đạo Phật, vì Đạo Phật dạy người tu “Thoát phiền não ngay chính trong phiền não”, mà biểu tượng Hoa Sen để nói về sự tức là “Thoát Trần gian ngay giữa trần gian”, không phải vô Chùa núp sau cổng Chùa, hay lên non cao, động vắng, xa lánh thế nhân để phiền não không động đến được mà cho là đã được Giải Thoát.

(còn tiếp)

TÂM NGUYỆN

Tháng 1-2019






Tranh của cố danh họa Bửu Chỉ giát … vàng







Phụ Bản I

 


Nhà văn trinh thám đại tài Mỹ

Edgar Poe

và một số nhà văn trinh thám Việt Nam

I. Edgar Poe (1809-1849)

Tên đầy đủ là Edgar Allan Poe. Ông là nhà văn , nhà viết kịch, nhà phê bình, nhà thơ Mỹ . Poe là ông tổ của thể loại truyện trinh thám và hình sự, ông có sự ảnh hưởng đến Baudelaire , Dostoevsky , Sir Conan Doyle ...

Nói tới truyện trinh thám, quái đản và rùng rợn, ai cũng phải nhắc đến nhà văn đại tài Poe. Ông là người đầu tiên viết những truyện bí mật và ly kỳ, dùng suy luận tỉ mỉ và khoa học để dẫn tới kết thúc - đó là những truyện khơi mào cho loại tiểu thuyết trinh thám ngày nay. Ai đọc truyện của Poe cũng đều bị lôi cuốn một cách say sưa từ trang đầu tới trang cuối. Ngày nay Poe không những được coi là một trong các nhà văn tài ba nhất Mỹ Quốc mà còn được cả thế giới thán phục.

Nhưng nếu ta biết được cuộc đời đầy đau khổ của văn sĩ, ta mới càng thương xót cho con người lỗi lạc mệnh yểu đó, để tưởng nhớ những giai đoạn gây cảm hứng cho ông viết nên những truyện bất hủ và sáng tác những vần thơ tuyệt diệu mà ngày nay cả nhân loại được thưởng thức.

Song thân của Poe là kịch sĩ lưu động nay đây mai đó. Cậu bé sinh ngày 19/01/1809 tại thành phố Boston, bang Massachusetts. Khi mới lên 3 đã mồ côi cha mẹ, và được một thương gia tên là John Allan đón về nuôi, vì thế sau này ông mới xen chữ Allan vào giữa tên mình. Gia đình Poe lên đường định cư ở Anh quốc, năm năm sau thì trở về Virginia (thuộc địa Anh đầu tiên, 1607). Tuổi thơ của ông phải chia xa, phải cảnh lưu đày từ nơi này đến chốn khác, nỗi đau khổ trong người ông là nỗi bi đát của thân phận vì chính những đổi thay bất ngờ. Khi 17 tuổi, Poe vào học tại Đại học Virginia, nhưng chàng thanh niên phóng túng đó đã cờ bạc và rượu chè, vì vậy người cha nuôi bực bội đã triệu chàng về nhà. Vài tháng sau, Poe lại bỏ nhà ra đi.

Ngay lúc tuổi còn non như vậy, Poe đã tỏ ra có thiên tài về văn chương, nhưng tiền nhuận bút nào có ăn thua gì, sao đủ nuôi sống chàng, nên chàng buộc lòng phải ghi tên nhập ngũ, rồi thăng lên tới chức thượng sĩ. Sau chàng được chấp nhận vào trường võ bị West Point, nhưng chẳng bao lâu, vì không chịu nổi kỷ luật nghiêm khắc ở đó, nên chàng vi phạm thường xuyên các điều luật và bị trục xuất sau 8 tháng học tập tại đó.

Từ đấy trở đi, Poe nhất quyết kiếm cách sinh sống bằng cây bút. Tới năm 1835, chàng cưới cô em họ là Virginia Glemm làm vợ (mới 14 tuổi). Thơ, truyện ngắn và các bài bình bút của Poe bắt đầu được nhiều người chú ý. Chàng quá mải miết viết văn, và vợ chàng, vì yêu quý chàng, nên mỗi khi chàng thức khuya viết lách dưới ngọn đèn lù mù, nàng cũng ngồi chầu chực bên chồng - có lẽ để gây thêm cảm hứng cho chồng. Ngờ đâu chẳng bao lâu, chính nàng thụ bệnh lao phổi, và qua đời vào ngày 30/01/1847.

Cái chết của người vợ yêu quý đã làm Poe vô cùng đau đớn trong một thời gian, rồi chàng đâm ra bê tha quá độ để giải sầu, cố sao tìm khoái lạc để quên đau thương. Tới 1849, chàng lại đính hôn với người yêu thuở thiếu thời, lúc đó là một quả phụ giàu có, thì đột nhiên văn sĩ bị nhóm gian manh bắt cóc và đầu độc. Trước khi qua đời, Poe đã đi du lịch đến Baltimore, Maryland và biến mất ở đây. Vài ngày sau, những người lạ mặt đã phát hiện ra ông đang trong tình trạng mê man, nhếch nhác nằm bên ngoài đại sảnh thành phố. Bác sỹ J.Snodgrass, bạn của Poe thấy ông đang trong tình trạng bất tỉnh, cho rằng người bạn của mình bị say nặng cần phải nhập viện cấp cứu. Nhưng sau đó tình trạng sức khỏe của ông không được cải thiện. Vài ngày sau, ông suy sụp và lâm vào trạng thái bất tỉnh. Poe mất ngày 7/10/1849.

Matthew Pearl, tác giả cuốn “Bạn Poe”, đã dành 3 năm nghiên cứu về Poe, đặc biệt là hoàn cảnh dẫn đến cái chết của ông trong hơn 150 năm qua. Pearl đã tìm thấy chứng cứ chứng minh rằng Poe bị mắc bệnh u não nghiêm trọng. Điều này lý giải tại sao Poe chết một cách đột ngột như vậy, cũng như tình trạng ảo giác và hôn mê tinh thần trước khi chết.

Sáu truyện ngắn trong cuốn sách này được coi là hay nhất của Edgar Poe. Độc giả sẽ thấy nó thuộc sáu loại khác hẳn nhau, có truyện rùng rợn, có truyện quái đản và ly kỳ, có truyện đượm vẻ triết lý và phân tâm lý. Nó đã cho ta thấy các biến chuyển trong tâm hồn một nhà văn có tài nhưng đã chịu nhiều đau khổ.

1. Edgar Poe - Nhà văn làm nên chuẩn mực Mỹ

Gia tài đồ sộ bao gồm các truyện ngắn, thơ và các các lý thuyết phê bình văn học là minh chứng cho tầm vóc của Poe như một nhân vật quan trọng trong nền văn chương thế giới. Ảnh hưởng của ông đến hình thức thơ ngắn và truyện ngắn là không thể phủ nhận. Trong lịch sử văn chương và các sách giáo khoa, Poe không chỉ được coi như vị “kiến ​​trúc sư” chính cho truyện ngắn hiện đại mà còn là người tiên phong cho phong trào “nghệ thuật vị nghệ thuật” của văn học châu Âu thế kỷ 19.

Khác với thế hệ các nhà nhà phê bình đi trước chủ yếu quan tâm đến các khái quát về đạo đức hay ý thức hệ, phê bình của Poe tập trung vào các chi tiết mang tính hình thức như phong cách hay cấu trúc tác phẩm, các yếu tố góp phần vào hiệu quả hay thất bại tác phẩm đó. Người đọc nhận thấy ở ông kỹ thuật cũng như khả năng xử lý ngôn ngữ xuất sắc cùng với một trí tưởng tượng luôn tràn đầy cảm hứng và độc nhất vô nhị.

Giới văn nghệ sĩ theo trường phái Tượng trưng của Pháp vào cuối thế kỷ 19, những người cũng ghi dấu ấn vào sự thay đổi của văn chương hiện đại đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tác phẩm thơ và truyện ngắn của ông. Chính sự giao thoa giữa triết học và nghệ thuật này đã củng cố vị trí quan trọng của Poe trong lịch sử văn chương.

Trong những năm đầu của sự nghiệp, các truyện ngắn đầu tiên của ông chủ yếu xuất hiện trong cuốn Philadelphia Saturday Courier. Trong số đó, truyện “MS.Found in a Bottle” của ông đã được Baltimore Visitor Saturday trao giải câu chuyện hay nhất. Tuy nhiên, số tiền kiếm được vẫn không đủ để Poe có thể tự trang trải cuộc sống một cách độc lập. Người cha nuôi Allan qua đời vào năm 1834 và không để lại cho ông chút tài sản thừa kế nào.

Những năm sau đó, tình trạng tài chính của Poe được cải thiện dần khi ông chuyển về Richmond (bang Virginia) cùng dì và cô em họ 12 tuổi Virginia - người mà ông kết hôn sau này vào năm 1836, nhận một chân biên tập viên tại The South Literary Messenger - một tạp chí văn học tại Richmond.

Ngoài có chung một nền tảng lý thuyết, văn chương của Poe còn ghi dấu ấn ở những xúc cảm tâm lý mãnh liệt, đặc biệt là các câu chuyện kinh dị, trong đó bao gồm cả những những tác phẩm hay và nổi tiếng nhất của ông.

2. Văn học kinh dị hiện đại:

Ba câu chuyện “The Black Cat”, “Cask of Amontillado” và “The Tell-Tale Heart” được kể theo ngôi thứ nhất, thông qua đó Poe có thể tự do khám phá thế giới nội tâm của nhân vật.

Nhân vật tôi trong Con mèo đen tính tình ban đầu vốn rất vui vẻ, yêu súc vật, đặc biệt là con mèo đen Pluto. Nhưng sau khi cảm thấy sự thân thiết quá độ của con mèo, anh ta lại trở nên khó chịu, cư xử thô bạo với vợ, và bắt đầu hành hạ động vật. Đỉnh điểm của sự tức giận chính là hành vi chọc mù mắt Pluto, giết con mèo và treo lên cành cây.

Vì ân hận, anh ta đã tìm một con mèo đen khác thay thế, nhưng anh ta lại bắt đầu thấy khó chịu và muốn giết nó. Khi anh cầm rìu giết mèo, vợ ngăn lại thì anh ta bổ rìu vào đầu vợ và chôn vợ vào trong bức tường của hầm rượu.

Một câu chuyện đáng sợ không phải nằm ở những hành vi giết người mà nằm trong chính sự rối loạn tâm thần của nhân vật mà Poe đã tạo ra bằng một hệ thống ngôn ngữ rất lãnh đạm, với sự tỉnh lược những miêu tả diễn biến nội tâm nhưng lại dựng nên được một bầu không khí u uẩn, chết chóc, và cô độc, quái dị của tâm hồn con người.

3. Khoa học viễn tưởng và truyện trinh thám

Không chỉ là người mở đầu cho văn học kinh dị hiện đại, Poe còn mở lối cho hai thể loại văn chương thịnh hành khác: khoa học viễn tưởng và truyện trinh thám.

Được truyền cảm hứng bởi tinh thần thời đại của cuộc cách mạng Công nghiệp vào đầu thế kỷ 19, cộng thêm với niềm đam mê khoa học và công nghệ, hai truyện ngắn có cốt truyện xuất sắc “The Unparalleled Adventure of Hans Pfaall” và “Von Kempelen and His Discovery” đã ra đời, dự báo trước cho một thể loại văn học sẽ phổ biến ở thế kỷ 20.

Tương tự như vậy, ba câu chuyện giàu tính suy tư của ông gồm “The Murders in the Rue Morgue,” “The Purloined Letter”(một bức thư có chứa thông tin gây hại; thông tin mà Bộ trưởng tàn bạo D. muốn sử dụng để tống tiền tác giả của nó) và “The Mystery of Marie Roget” đã xây dựng một hệ thống các nhân vật chính đặc trưng và các quy ước văn chương cho dòng tiểu thuyết trinh thám: thường là một tay thám tử nghiệp dư giải được một vụ án mà các nhà chức trách phải bó tay, đi cùng với một cộng sự ghi chép lại chuỗi suy luận của anh trong quá trình điều tra.

Được coi như ông tổ cho các trào lưu văn chương quan trọng như Chủ nghĩa biểu tượng và Chủ nghĩa siêu thực lại có ảnh hưởng đến nhiều tác giả nổi tiếng, bản thân Poe cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều tác giả và phong trào văn học.

Kỹ thuật sử dụng các yếu tố ma thuật và quỷ dữ của Poe chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của E.T.A. Hoffman cũng như tiểu thuyết Gothic của Ann Radcliffe, trong khi cảm xúc chủ đạo trong nhiều tác phẩm của ông - nỗi thất vọng và u sầu lại phản ánh đặc điểm của trào lưu văn học Lãng mạn đầu thế kỷ 19.

Khả năng thiên tài của Poe nằm ở chỗ: ông tái hiện lại những nỗi ám ảnh cá nhân của mình và của thế hệ văn chương trước dưới một hình thức nghệ thuật hoàn hảo, cùng lúc lại tạo ra những hình thức mới, một phương thức biểu đạt nghệ thuật mới cho lứa nghệ sĩ sau này.

II. Thế Lữ và Truyện Trinh thám của Edgar Poe

Sau thành công của Vàng và máu (1934) và Mấy vần thơ (1935), Thế Lữ tiếp tục làm độc giả thích thú với một series truyện trinh thám ra đời từ 1936. Bắt đầu từ truyện Dòng máu đứt quãng, tiếp sau là loạt truyện Lê Phong phóng viên, Mai Hương và Lê Phong, Những nét chữ (1937), Đòn hẹn (1939), Gói thuốc lá (1940) liên tiếp xuất hiện trên báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn. Truyện truyền kỳ, kinh dị thì có sự tiếp biến từ văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam, Trung Quốc với sự gặp gỡ văn học phương Tây. Còn truyện trinh thám ở nước ta thời bấy giờ, tuy ở Nam Kỳ từ 1916-1917 đã có những sáng tác mang yếu tố truyện trinh thám phương Tây của Biến Ngũ Nhy, Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Phú Đức, Sơn Vương, Bửu Đình… nhưng với Thế Lữ vẫn là một thử nghiệm hoàn toàn mới lạ. Đọc lại những tác phẩm đầu tiên ở buổi phôi thai của nền văn học quốc ngữ ấy, có thể nói, đến Thế Lữ, truyện trinh thám đã có một bước phát triển mới, được khẳng định như một thể loại văn học riêng và là sự tổng hợp Đông - Tây thú vị từ sự gặp gỡ và tiếp nhận sáng tạo năm hình mẫu truyện trinh thám Edgar Poe.

Các truyện trinh thám của Thế Lữ cũng xây dựng cốt truyện theo mô-típ truyện trinh thám - vụ án của Poe nhưng đã có sự pha trộn phong cách của một số cây bút phương Tây khác, khá rõ nét như kiểu kết thúc của Agatha Christe. Hoặc cách xây dựng cặp đôi nhà thám tử tài ba và bạn của nhà thám tử rất quen thuộc của Poe.

Về cốt truyện, tuy xây dựng các chi tiết diễn biến vụ án gần như trùng khít với truyện của Poe nhưng Thế Lữ đã bổ sung thêm những nguyên nhân gây nên vụ án khá quen thuộc với người đọc Việt Nam thời bấy giờ.

Nhân vật, đề tài, diễn biến của hai tác phẩm khá trùng khít, nhất là chi tiết khám phá mật mã đều là thấm ướt miếng da và hơ lên lửa. Nhưng khác với Poe, Vàng và Máu ngoài không gian thực còn đi vào khai thác yếu tố huyền bí tượng trưng trong hình ảnh núi rừng linh thiêng, tạo thêm một không gian tín ngưỡng tâm linh với màu sắc thần linh - ma quỷ huyền bí vốn có nền tảng từ văn hóa phương Đông, khiến cho câu chuyện phù hợp với người đọc Việt Nam và mục đích sáng tác thời bấy giờ: phá bỏ óc mê tín bằng cách lý giải khoa học. Về cách giải mật mã, Thế Lữ chỉ vay mượn chi tiết mật mã - giải mã, còn nội dung đã Việt hóa theo kiểu những câu thần chú của các thầy địa lý Tàu: Miệng có hai răng; ba chân bốn tay; Mày vào trăm chân; Mày lên ba tay… làm tăng sự huyền bí nhưng cũng gần gũi với người đọc Việt Nam vốn quen thuộc với những chuyện truyền kỳ Trung quốc nhất là mô típ “Tàu để của”. Nhờ mô típ quen thuộc này và kiểu kết thúc có hậu của truyện cổ tích dân gian: kẻ ác, kẻ xấu bị trừng phạt bằng cái chết, người tốt sẽ lấy được kho báu, tác phẩm của Thế Lữ tuy có bóng dáng duy lý của Edgar Poe nhưng hoàn toàn Việt Nam và có giá trị hiện thực và lịch sử độc đáo của nó.

Với kiểu truyện vừa trinh thám phiêu lưu vừa kinh dị kỳ ảo độc đáo này, Edgar Poe được coi là “tổ sư truyện trinh thám hiện đại”, Con cánh cam vàng được “lấy tên để đặt cho một tùng thư tiểu thuyết trinh thám ở Pháp (Le scarabee d’or)” (Hữu Ngọc, 2000, 530). Còn Vàng và Máu của Thế Lữ, đã mở ra một kiểu truyện đường rừng đặc sắc với những cây bút tiếp nối như Lan Khai, Tchya Đái Đức Tuấn. Kế thừa thành tựu của những cây bút mở đường nền văn học quốc ngữ trên mảnh đất Nam kỳ như Biến Ngũ Nhy, Phú Đức, Lê Hoằng Mưu, Sơn Vương… (các tác giả này gần với Maurice Leblanc hơn Poe) và cùng với Phạm Cao Củng, Bùi Huy Phồn, Thế Lữ đã góp phần khẳng định sự ra đời của thể loại truyện trinh thám Việt Nam.

III. Nhà văn trinh thám VN

Phạm Cao Củng (1913 - 2012)

Ông sinh tháng 10-1913 tại Nam Ðịnh. Học hết bốn năm thành chung, ông vào học Trường Kỹ nghệ thực hành Hải Phòng (Trường Bách nghệ) nhưng bỏ dở để đi làm báo, viết văn. Bước đầu sự nghiệp của ông là viết truyện trinh thám, kiếm hiệp, mạo hiểm kỳ tình... cho Nhà xuất bản Mai Lĩnh (Hải Phòng) với các bút danh Văn Tuyền, Trần Lang, Phương Trì. Ðồng thời ông còn viết cho các báo Loa, Phong Hóa, Ngày Nay ký tên là Phạm Cao Củng, Phạm Thị Cả Mốc, Án Cao...

Năm 1974 , Phạm Cao Củng sang Mỹ chơi với gia đình một người con gái, là con của người vợ thứ hai của ông. Ngày thống nhất năm 1975 , ông bị kẹt không về nước được, sau này ông đã có về VN mấy lần, lần cuối cùng ông về nước là năm 2004 .

Ông mất ngày 17/12 / 2012 , tại Florida , hưởng thọ 100 tuổi.

Không chỉ viết truyện trinh thám , Phạm Cao Củng còn viết tiểu thuyết kiếm hiệp và mạo hiểm kỳ tình. Nhà văn đã từng dịch truyện kiếm hiệp Tàu. Ông thích viết những đề tài “đặc biệt khác lạ”. Năm 1940 , nhạc sĩ Đặng Thế Phong từng sáng tác ca khúc Gắng bước lên chùa với phần lời (thơ) của Phạm Cao Củng.

Cuốn hồi ký Phạm Cao Củng

Được nhà văn viết dần trong nhiều năm và dừng lại ngày 31-3-1999. Năm đó ông tròn 100 tuổi ta và độc giả được biết đến cuộc đời của một nhà văn đi trọn một thế kỷ với những bước đầu của nền báo chí văn chương hiện đại, với những thăng trầm lịch sử thời cuộc.

Cảm tưởng đọc sách như nghe ông lão trăm tuổi kể chuyện hồn nhiên, chân thật, từ tuổi 15 đã được cấp thẻ phóng viên thể thao, từ đang học thành chung đã cùng một người bạn ra tập truyện ngắn in xong không bán được, nợ tiền nhà in, rốt cục bố mẹ phải trả, từ nhân vật Kỳ Phát có nguyên mẫu là một người bạn nhỏ tuổi cùng học Trường Bách nghệ, từ nhà văn viết truyện trinh thám mà được mời vào phòng phản gián của Công an Việt Minh điều tra thành công một số vụ án, cho đến cả những chuyện tình ái riêng tư với nhiều phụ nữ.

Người đọc sẽ cảm nhận được ý chí, nghị lực của một con người biết tạo lập cuộc sống của mình, quá trình của một nhà văn biết xây dựng sự nghiệp của mình. Nhà văn học sử sẽ có thêm được những tư liệu đáng tin cậy từ hồi ức của một người trong cuộc để dựng lại bức tranh văn học sử hiện đại thời kỳ đầu.

Cho đến nay văn học hiện đại Việt Nam đã có hơn trăm năm hình thành và phát triển, nhưng riêng thể loại tiểu thuyết trinh thám thì dường như ít được tiếp tục và tiếp nối. Ðiều tâm niệm của nhà văn Phạm Cao Củng khi bắt tay vào viết thể loại này được ông gửi lại trong hồi ký cho thế hệ nhà văn sau: “Luôn luôn tôi chỉ ao ước viết được những truyện trinh thám mà việc rất có thể xảy ra được trong xã hội Việt Nam, và vai chính cần phải có được những tính cách hoàn toàn Việt Nam” (Phạm Xuân Nguyên).

Qua Hồi ký, ta được biết rằng chính nhờ hồi nhỏ đọc sách của Phạm Cao Củng mà sau này dịch giả Phạm Tú Châu, người cháu gái của ông, đã thoải mái mà dịch “Tuyết Sơn Phi Hồ” lừng lẫy của Kim Dung, góp thêm thành quả cho các dòng văn học bên lề nhưng rất bề thế và sống động ở Việt Nam.

IV. Nhà văn Trần Chánh Chiếu

(Gibert Chiếu 1868 - 1919 )

nhà văn, nhà báo và là nhà cải cách tại VN. Ngoài là một nhà chính trị, yêu nước, kinh tài, ông còn là một nhà văn , nhà báo sáng giá của miền Nam VN vào buổi đầu. Ông là người cầm đầu phong trào Minh Tân . Đây là một phong trào chính trị tương đương với phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục , và có mối quan hệ với phong trào Đông Du của Phan Bội Châu . Ông đã biết vận dụng ngòi bút của mình vào con đường duy tân cứu nước. Khi ông mất, một nhà nho yêu nước ở Hà Nội là Phan Hữu đã điếu ông bằng một bài thơ trong đó có câu:

Quốc tịch mang danh dân Phú Lãng ( Pháp )

Thâm tâm vẫn máu họ Hùng Vương .

Tác phẩm Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Chánh Chiếu, xuất bản năm 1910 (54 trang) văn hãy còn vần và đối. Trong không khí của những phong trào vận động Minh Tân và Đông Du hồi đầu thế kỷ, tác giả đã viết lời Tựa như sau: Từ ngày các đấng cao minh trong Lục châu bày diễn dịch các thứ truyện chữ nho ra quốc âm, thì ít thấy có truyện nào nói việc trong xứ mình. Các truyện đang bán đương thời là truyện Tàu. Nay tôi ngụ ý soạn một bổn nói về việc trong xứ mình, dùng tiếng tầm thường cho mọi người dễ hiểu đặng. Ấy là làm thử nên chỗ nào có sơ siểng xin chư quý vị khan quan dung túng.

LỜI KẾT

- Văn sĩ thiên tài Edgar Poe Không chỉ là người mở đầu cho văn học kinh dị hiện đại, Poe còn mở lối cho hai thể loại văn chương thịnh hành khác: khoa học viễn tưởng và truyện trinh thám.

Khả năng thiên tài của Poe nằm ở chỗ: ông tái hiện lại những nỗi ám ảnh cá nhân của mình và của thế hệ văn chương trước dưới một hình thức nghệ thuật hoàn hảo, cùng lúc lại tạo ra những hình thức mới, một phương thức biểu đạt nghệ thuật mới cho lứa nghệ sĩ sau này.

- Thế Lữ cũng có nhiều điều kiện thuận lợi do những yếu tố tiếp nhận mang tính chất cá nhân gần gũi với Poe hơn cả. Đó là hoàn cảnh sống, môi trường văn hóa, lịch sử, điều kiện giáo dục, yêu cầu nghề nghiệp của một nhà báo. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là tâm hồn nghệ sĩ rộng mở trong ông. Thể loại nào Thế Lữ cũng đi vào với tất cả say mê của mình như người đi tìm Cái Đẹp, và muốn đi đến tận cùng thế giới thuần khiết của Cái Đẹp.

- Phạm Cao Củng cũng chịu ảnh hưởng đậm nét truyện trinh thám Conan Doyle và Edgar Poe. Nhân vật thám tử Kỳ Phát, Tám Huỳnh Kỳ là những đóng góp quý báu của Phạm Cao Củng với thể loại truyện trinh thám Việt Nam.

Nhưng ở cảm nhận cá nhân, chúng ta thấy chất duy lý trong truyện trinh thám của Edgar Poe chỉ có Thế Lữ thể hiện được đầy đủ nhất thông qua năm hình mẫu truyện trinh thám đã phân tích.

- “Hoàng Tố Anh hàm oan” của Trần Chánh Chiếu, có thể là truyện trinh thám VN đầu tiên, vì đã xuất bản từ năm 1910.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)



Tình đất

(tiếp theo số 156)

Vậy mà trong lúc ăn tôi như mất hồn. Ông Bảy nói gì tôi cũng không biết. Con Út nó hỏi gì tôi đâu có nghe. Dường như nó nhờ tôi ăn xong vạt mặt mấy trái dừa cho nó để chừng nào rảnh nó sắp lên hai cái dĩa bàn thang để trên bàn thờ cúng ông bà đêm ba mươi. Tôi từ chối bằng lý lẽ gì đó nói vậy cho có vậy mà. Để ăn xong ba hột là vọt liền. Thời giờ là vàng bạc mà.

Dòm cái bàn tay có ba cọng gân nổi lên tròn như ba sợi đậu đũa của ông Bảy đưa đưa chậm chậm gắp mấy cái bông bí luộc, tôi mường tượng thấy ngón tay trỏ của thằng Hai Lé đưa chầm chậm run run lâu lâu lại ngừng lên một con nào đó của dãi tướng sĩ tượng, xe pháo ngựa xanh, đỏ. Nhớ tới chuyện đánh cu-di tôi như mở cờ trong bụng. Muốn đánh ăn thì phải biết bắt tẩy cái thằng xổ. Tôi thì tôi biết thóp của thằng Hai Lé. Tay nó run run trên con nào chém cha tôi cũng không đặt trên đó mà đặt con cách đằng xa. Nó mà lướt qua mau con nào thì bắn súng cái đùng tôi cũng đặt con đó. Tôi bắt nét mặt nó tài lắm. Khi một chút thịt trên mặt dưới mắt trái nó giựt giựt thường là nó xổ lại con mới xổ cách đó một hai bàn trước.

Biết tẩy nó, tôi ăn nhiều trận quá xá thợ mộc. Đặt một trúng mười mà tôi cứ trúng lia chia. Vậy mà cuối cùng tôi thường bị cháy túi vì gần sáng tụi nó đổi qua “đánh me”. Me của nhà thằng nầy nhiều khi kỳ nghĩ không ra. Dám đi một mạch tới cả chục lần liền. Hồi hôm tôi cháy túi là vì nó đi 4 lần rền. Lần đầu cửa yêu đi 5 lần, độ vài bàn nó sang túc 6 lần rồi trở lại yêu 11 lần. Cái điệu nầy có đứa tán gia bại sản chớ hỏng phải chơi. Gần sáng nó đi cửa lượng 10 lần. Nhà cái gom hết, ai cũng thua đậm không còn một xu dính túi. Cay quá tôi ỉ ôi mượn thêm 300 cũng hết, lúc kiểng nhà thờ Chợ Quán đổ thì rã sòng ai nấy thất thểu ra về.

Sao mai đã mọc sáng ở hướng Đông, tôi lội trong đám bông của con Út mà đi xiểng niểng, cặp chưn như làm bằng giấy, yếu thiếu điều muốn ngã trên đống phân ngựa nó ủ rơm trên mặt để dành. Phải ngủ một giấc rồi tới đâu tới. Mệt quá rồi. Thức trọn đêm tim đập thình thình. Sương đêm giáp Tết lạnh thiệt. Tôi rùng mình mấy cái, nhảy mũi liên tu trước khi kịp chui mình vô mền trùm tấn đầu cổ kín mít. Phải ngủ một giấc thiệt lâu mới được. Thức đêm kiểu này mình đồng da sắt cũng ngã… nằm xuống vun vai một cái thì mí mắt kéo xuống không còn biết gì nữa. Đâu đó một giấc, ngó ra thấy trưa trờ trưa trật nên tung mền thức dậy. Qua bên nhà giữa coi chuyện Tết nhứt tới đâu rồi. Nếu thấy thuận tiện khảo con Út một mớ để gỡ. Cậu không có tiền cậu nằm nhà làm sao chịu được. Cả hai năm nay ông già bịnh nằm trong nhà trong, mọi chuyện con Út lo hết. Tôi về cơm nước có sẵn, quần áo bỏ ra cho dì Tám hay con Cúc giặt giùm, tới tháng cho thêm nhắm mớ, lúc nào thua quá thì làm lơ. Họ thì không mở miệng kêu rêu gì nhưng trong bụng chắc cũng không ưa gì.

Chuyện đó càng rõ ràng hơn khi qua nhà thấy dì Tám Sang má con Cúc đương dương môi múa mỏ nói xấu tôi đủ điều nào là nhiều khi nghe tôi nói dì muốn nổi máu hậu sản. Tôi chọc giận thiên hạ dữ vậy sao? Hay là tại tôi không có tiền cho? Dì khen con Út được nết, ý muốn nói tôi mất nết, tầm bậy, tầm bạ cờ bạc thâu đêm suốt sáng, tiền vô cửa trước ra cửa sau, không biết giữ, không lo tu tỉnh làm ăn… Vậy mới biết thiên hạ sợ trước mặt, đấm c. sau lưng, làm bộ nể nể, cậu cậu, nói vuốt đuôi theo mình, chứ để họ tự do nói điều họ nghĩ thì còn lâu! Vậy mới biết lòng người. Nghe dì nói vậy là tôi biết chuyện tình duyên của tôi trắc trở rồi. Bà già vợ nói xấu chàng rể ghe tàu chở không hết kiểu này thì còn lâu bả mới chịu gả con. Dầu cho con Cúc đành mà bả không đành thì cũng như gáo nước nhỏ tưới lửa thành đâu tan. Thôi chuyện con Cúc để qua một bên. Không có kí lô cờ-ram nào với bả thì ráng chịu, mình làm chứ ai vô đó. Mà nó có sắc nước hương trời gì đâu. Nước da bánh ích. Tại nó mới lớn nên coi ngồ ngộ vậy chớ cỡ nó ngoài chợ hằng hà. Thiếu gì. Muốn cao hơn, trắng trẻo lịch sự đứa hơn thì không có chớ cỡ nó, ghe tàu!

Chuyện cần bây giờ là có tiền để đi gỡ trận hồi hôm. Mấy chuyện khác để qua một bên. Tính sau. Phải khôn mới được. Phải nhịn nhục. Bất bình cũng cứ dửng dưng, cũng đừng liếc xéo cũng đừng cười khi. Tôi nói trong bụng như vậy nên nghe hết mà tôi làm bộ giả đò như không nghe, tính tuồng bóc một trái quít ăn.

Tôi biết thế nào nó cũng la vì chưa cúng ăn vậy không nên. Vậy mà trật lất, nó làm thinh, tỉnh rụi. Bà già vợ Tám Sang rút dù ra ngoài sau. Tôi nói bậy bạ câu gì đó cho có lần nữa. Nó cũng làm thinh như câm. Tôi thất vọng, điệu này làm sao mình mở miệng mượn tiền. May quá nó hỏi sao tôi đi xe về sớm.

Tôi nói láo trơn như mỡ là bữa ba mươi thiên hạ tan chợ sớm, chạy đâu có tiền. Rồi tôi mượn tiền nó. Phải nói gãy lưỡng tiền mới lòi. Khi đưa tiền, cái bộ mặt của nó như bún thiu, tôi thấy cũng bất nhẫn. Mà kỳ quá, cái hình của bà già tôi trên bàn thờ thường ngày tôi đi đâu bả cũng ngó theo, tôi quen rồi không có gì đáng chú ý. Dân xe ngựa mà đâu có yếu tim, nhưng bữa nay hồi tôi cầm tới số tiền, tôi nghe như ai đổ nước đá vô sóng lưng, tôi rùng mình ớn lạnh ngó lên bàn thờ, như là bả nhăn mặt rầy tôi hồi nhỏ, một giây thôi, tôi mọc ốc cùng mình, hai cặp mắt tấm hình bả rướm nước mắt như mấy người đàn bà bị chồng bỏ, gặp tai nạn dàng trời, hay có con hoang đàng hư hỏng, chửi cha mắng mẹ gì đó. Tôi còn mài mại nghe như có tiếng thở dài. Quen lắm. Không thể lầm được. Tiếng thở dài nhẹ, nghe buồn thúi ruột. Tiếng thở dài 5 năm trước mỗi khi nghe là bả biểu gì tôi cũng làm. Năm năm nay không còn được nghe nữa. vậy mà lúc đó tôi nghe phát ra từ trên bàn thờ, sau tấm khuôn hình, tôi cảm thấy mình tội lỗi ngút đầu. Thua thiếu tứ giăng đến lúc nào đó không còn vùng vẫy nổi tôi sẽ làm bậy, sẽ lụn bại, không ra gì, lết bằng mo, bò bằng mủng, đầu đường xó chợ ăn mày ăn xin. Má tôi rầy đó… Tôi móc tiền ra tính trả lại con Út rồi tu tỉnh làm ăn nhưng nghĩ sao đó tôi bỏ vô túi lại. Chơi cho đã cái ngày Tết này rồi nghỉ cũng được. Tôi đi thẳng qua nhà thằng Hai Lé.

***

Cô Út cặp mắt sâu quắm, đầu chụp cái khăn rằn sọc đỏ đã xuống màu lợt lạt, để ló ra ngoài trước lúa túa mấy sợi tóc con coi bộ cũng đã bớt đen, từ tờ mờ sáng tới giờ thẫn thờ đi xuống đi lên khu vườn cũ. Sao mà lạ quắc lạ quơ. Sao mà nghe lạnh lẽo không còn cái ấm cúng ngày xưa mỗi sáng tưới bông. Không còn nghe cái thân thiện nao nao của những ngày lội trong vườn thơm, tước lá hay chặt thơm với chú Bảy đếm cho thiên hạ chở đầy xe cá này sang xe cá kia ra chợ Bình Tây.

Khác cảnh đã đành, còn nghe khác không khí nữa. Nghe ngộp ngộp như không đủ không khí để thở. Mắt đỏ hoe như muốn khóc. Cô lạ lùng ngó con đường bây giờ đã tráng nhựa thẳng thớm hơn, bóng láng hơn ngày trước bội phần. Hồi nào hàng dầu bên đường còn nhỏ xíu, trồng ở trong lồng, được cột dựa vô một miếng ván nhỏ mới đứng vững được, bây giờ cây đã lớn xộn, bự tròm trèm bằng thân hình một người lớn đương ngóng ngọn lên trời như giỡn hớt với không trung. Chỗ vườn thơm, nhà cửa chen lấn thiếu điều cỡi lên lưng nhau, lại có một con đường trải đá đỏ xuyên ngang, đi thẳng vô chỗ đám mà hồi trước thằng Thìn ưa quần lội bắt dế sau những buổi mưa tạnh hột.

Khu vườn lại còn khó định chỗ hơn. Mấy cái nhà lụp xụp thì còn đó, cái nhà lầu cây tiệm may của vợ chồng ông người Bắc thì cũng còn nguyên, chỉ khác là tấm bảng tiệm may đã hạ xuống, mà cái vườn kế bên thì biến mất tăm mất tích. Bù vô là một dãi nhà lầu ba từng dài dọc có tường cao bao bọc chung quanh. Cái cửa sắt chềnh dềnh khép kín mà hình như là có lính gác nữa. Nói chung, nhà cửa ở đây coi vừa phảng phất hồi đó vừa coi bộ khá khẳm hơn. Người đi đường như đông đúc hơn mà ngóng mỏi mắt không thấy mặt nào quen. Biết chắc như một với một là hai đi từ Ngã Sáu đi qua khỏi chùa độ năm trăm thước, bên kia đường là khu vườn lài cũ của mình, còn bên này đường là khu vườn thơm mà sao cứ ngại ngại nghi nghi không dám đề quyết. Cô ngó chăm chăm dãi nhà lầu một đỗi hèn lâu như để trả lời mấy câu hỏi có thể nhảy ra trong đầu rồi ngó xuống đất thở dài.

Dãi nhà lầu tấp nập khách ra vô ồn ào náo nhiệt tiếng cười thương nữ ngó xuống người chủ đất cũ như thở dài như chọc tức. Kế bên cửa sắt, giơ đầu dưới trời nắng chang chang một người đàn ông một mắt ngồi trước một thùng thuốc lá lẻ, trên mặt thùng mấy bao thuốc không làm mẫu chịu đựng nắng lâu ngày đã đổi màu nhợt nhạt nhăn nhó, coi cũ mèm nghèo nàn.

Người đàn ông tật nguyền ngó cô Út chăm bẳm một hồi như ngờ ngợ, như muốn kêu nói một điều gì nhưng rồi nuốt nước miếng ngó xuống cái chưn mặt của mình, đưa tay gãi gãi một mụt ghẻ hòm lớn đại được đắp bằng hột lịch đã khô đang đổi sang màu đỏ sậm.

Văng vẳng trong một căn phòng nào đó cao tuốt trên lầu một giọng đàn bà trẻ, ca bài ca cải cách kiểu giang hồ, giọng ca bà chả bà chẹt thiệt nhà quê khó cảm:

Cô mười cô chín hai cô anh muốn cô nào,

Có muốn dắt đi đừng cho má cổ hay.

Hai người đàn ông cặp kè vai nghiêng ngả bước ra, người nầy lầu bầu với người kia:

- Mẹ! Tao đâu thèm dắt một, tao dắt hết, có tiền mua tiên cũng được, nhưng mà hồi đó kìa. Bây giờ vô đây thiếu gì con ngon. Họ tuyển ở đâu mà gái chiếng không, lần nào vô đây hú hí rồi về cũng muốn thôi vợ. Hèn chi hồi đó nghe tin mở Bình Khang thiên hạ ngóng cổ cò chờ hoài…

Ai đó giọng sành sỏi:

- Hồi đó chỗ nầy là xóm Vườn Lài. Đi ngang qua mùi lài thơm phức. Bên kia đường là cái vườn thơm. Thơm còn ngọt hơn thơm Bến Lức. Của một chủ. Họ ngu bỏ mẹ, trồng mấy thứ mắc dịch đó huê lợi đâu có bao nhiêu. Chủ mới khôn hơn nhiều. Làm ăn ba cái vụ nầy tiền vô như nước. Thời buổi nào lại không có người muốn nghe tiếng đàn réo rắt của ca kỹ bến Tầm Dương?

- Anh dân chơi mà nói nghe bất thông. Chủ mới là trùm anh chị đó. Công An Xung Phong gác cửa lềnh đó không thấy sao? Yên bụng chuyện nầy chuyện kia cũng là nhờ ông ta đó. Thế thần lắm mới mua được đất tống chủ cũ đi. Mạnh ngang trời mới chạy được cái giấy phép hái ra tiền nầy.

Cô Út kéo mí khăn lau mắt. Chuyện đời sao như có ai lấy trấu xát tới xát lui vô dạ. Cảnh tung tăng chạy giỡn ngày trước luồn trong mấy luống bông, cảnh giơ cao bình tưới tiếp nhựa sống cho những đóa hoa mơn mởn, cảnh dàn bông thơm ngát ngút ngàn, cảnh tấm thảm dát bạch ngọc lúc đầu ngày bay nhảy chập chờn trước mắt. Cảnh anh Hai bỏ mạng vì con rắn hổ lửa cắn thầy thuốc rắn đem thuốc giải với lá lưỡi cọp tới trễ nên sùi bọt mép. Cảnh anh Ba xớ rớ sao mà đạp đinh hàng rào chỗ chuồng ngựa mấy bữa sau bị phong đòn gánh vật, tất cả như những bức họa trên nền xám từ từ chạy lại như thể sẵn sàng úp vô mặt cô. Cô như lên cơn, nói lảm nhảm một mình:

- Anh Năm thấy chưa, tại anh làm bậy nên gia đình mình tan nát hết. Cái vườn của ông bà mồ hôi nước mắt bốn chục năm nay, sanh mạng hai anh mình trong đó. Một đời cha mình đổ mồ hôi dựng nhà dựng cửa, bây giờ anh làm cho vô tay người khác để họ làm chuyện trời thần.

Một chiếc xe autobus treo bảng Chợ Lớn-Bình Tây ngừng lại bên kia đường. Cô lụi xụi bước qua lộ, leo lên xe, dáo dác kiếm chỗ ngồi. Mấy năm ở rẫy bái bây giờ cô như ngại ngùng văn minh thị thiềng. Người đàn ông bán thuốc lẻ dòm chăm bẳm theo cô Út lần nữa, mắt nháy nháy, nhỏm đít lên ý như muốn chạy theo kêu nhưng rồi lại ngồi xuống khi bóng cô khuất bên trong xe.

- Không biết rồi mình còn về thăm lại cuộc đất nầy bao nhiêu lần nữa. Buồn thúi ruột. Nhớ quá nên lặn lội, nhưng về thấy tang thương biến đổi càng đau.

Một đứa học trò nhỏ, áo bà ba trắng, tóc kẹp ngồi cùng băng lõ mắt ngó sững người đàn bà đi cùng chuyến xe đương ngồi láp dáp một mình.

***

Bao nhiêu năm nay tôi thường chiêm bao thấy mình đương ở trong căn nhà cũ. Tôi thấy mình tưới nước bông lài buổi sáng sớm mai. Tôi cảm nhận được rõ ràng mùi bông lài thơm nhè nhẹ trong không khí, một mùi quen thuộc mà tôi không thể nào gặp được bất cứ chỗ nào. Tôi thấy mình rửa cẳng, kỳ cọ chỗ đất có trùng đùn. Thấy ba má anh Hai anh Ba đủ hết mà không thấy anh Năm. Thấy tôi khom khom sới phân ủ để ra luống mới. Vía tôi nói với tôi: Ủa, vườn nầy anh Năm ảnh làm giấy tờ giả ký tên ông già để lại trọn gia tài cho một mình ảnh rồi ảnh bán cho thiên hạ lâu rồi mà. Cả mười mấy năm rồi. Vía tôi cũng nói tôi đương ở Mỹ Tho chớ đâu còn ở xóm Vườn Lài nữa. Vậy mà tôi vẫn vui vẻ tưới nước, xới phân từng luống từng luống, chăm chỉ và sung sướng với công việc của mình.

Ba tôi kêu mấy đứa con lại đứng xung quanh rồi ông rờ đầu tôi nói vườn nầy là của chung anh em tụi bây. Giữ thì anh em đoàn tụ, không giữ thì trôi sông lạc chợ chia lìa mỗi đứa một nơi, có khi còn không bao giờ thấy mặt nhau…

Cứ ba cái chuyện cũ như vậy của lúc ở Vườn Xoài mà tôi thấy đi thấy lại hoài, chuyện tôi với con Cúc đi bán bông, chuyện phơi bông, chuyện bẻ thơm đếm cho bạn hàng, chuyện thằng Thìn bắt được con dế cơm bự xộn nó hí hửng đem khoe bị tôi biểu thả nó buồn thỉu buồn thiu… Bữa nào thấy chiêm bao kiểu đó thì sáng thức dậy lòng buồn dã dượi cả ngày, ước sức muốn chạy ngay lên Sài Gòn thăm lại miếng vườn cũ.

Cái thằng cha bán thuốc điếu sao coi giống anh Năm. Nhưng sao lại có một mắt hà? Không lẽ ảnh bị tai nạn gì đó? Mà thôi phải - không gì mặc kệ. Nhìn làm khỉ gì cho mất công, tình nghĩa gì nữa. Ủa sao bao nhiêu năm nay mà chỗ nầy vẫn còn bay mùi thơm bông lài? Bộ cái mùi nó núp sẵn trên hàng cây dầu chờ tôi về bu lại mừng sao chớ? Dám lắm à. Thơm như hồi đó, có khác gì đâu. Cái mùi thoang thoảng nhẹ khi tảng sáng sương còn chưa tan.

Thấy thiên hạ tấp nập nhớ tới lúc còn đi bán bông. Ai mà hỏi chọc chớ bông lài nầy có cặm bãi cứt trâu không thì in như rằng con Cúc sẽ liếc háy người ta nói móc họng hay xỏ xiên gì xa gần. Lúc đó tôi chỉ cười cười phân trần rằng đừng coi là cứt trâu thuần túy mà nên coi là phân đi. Phân đem sức sống lại bông lài. Bông lài cần được cắm vô phân trâu đó. Bây giờ đây kiếm đỏ mắt một người chọc gái kiểu đó cũng không có. Tôi là nhánh bông lài không những bị tước bỏ phân cứt trâu mà còn bị rứt ra khỏi chậu đất tôi bén rễ đâm cành từ ngày mới lú lên cặp lá đầu tiên. Tôi nhớ đất nhớ phân nên héo hon gầy guộc tàn tạ chờ ngày nằm xuống như một cây khô không hương. Bây giờ tôi là thứ không còn ai ngó tới huống gì người buông lời ghẹo ngọc trêu huê?

***

Xe rồ máy thổi vọt một cuộn khói đen xì đằng sau đít rồi từ từ nhích bước trước khi vô tốc độ, giống như một con heo bị đuổi, đủng đa đủng đỉnh bước đi không tỏ chút gì vội vàng. Trận mưa chiều đổ ụp xuống nhạt nhòa cảnh vật. Qua lớp kiếng đục trầy trụa, cô Út ráng hết sức bình sanh thâu vô mắt lần chót hàng cây dầu đương độ lớn - dãi nhà lầu có tường bao xung quanh - rue Pierre Pasquier - Hưng Long tự - rue Frédéric Drouhet - nhà máy đá với hãng rượu la-de con cọp…

Mưa càng lúc càng lớn. Như cầm tỉnh mà đổ.

Cái chéo khăn rằn sọc đỏ nhích lên lướt nhè nhẹ qua lại trên mắt người đàn bà luống tuổi, thân ái.

NGUYỄN VĂN SÂM



ĐIỂN TÍCH & Ý NGHĨA

NHỮNG TỪ NGỮ THƯỜNG THẤY:

3 CHÌM 7 NỔI 9 LINH ĐINH

Dưới đây là một số từ ngữ mà ta vẫn thường dùng đến trong thi văn nhứt là thi văn cổ, với ý nghĩa, nguồn gốc phát sinh nguyên thủy.

Ba chìm bảy nổi chín linh đinh

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

(Thơ HỒ XUÂN HƯƠNG)

Trong ngôn ngữ Việt Nam ta, để diễn tả trạng huống gian truân vất vả đủ điều mà người nào đó phải hứng chịu, vẫn có thành ngữ “Ba chìm bảy nổi chín linh đinh”

Thành ngữ nầy vốn là một câu “thiệu” về cách làm tương của đồng bào ta ở tỉnh Quảng Bình vì rằng làm tương phải ủ cơm nếp lấy meo mất 3 ngày, rồi ngâm với đậu nành rang cho chìm và nổi 7 lần kế đó; cứ 9 phần tương thì tra vào 2 phần muối cho vừa ăn. Kể chung đó quả là cái cảnh khó khăn rắc rối lắm vậy nên có người đã lấy đó mà ví với cuộc truân chuyên lận đận của con người thiết tưởng rất hữu lý.

Lâu ngày cái nghĩa bóng từ câu “thiệu” làm tương ấy trở thành phổ cập mà khi dùng tới ai cũng hiểu.

Có người dùng trại ra thành “Ba chìm bảy nổi sáu linh đinh” hoặc “Ba chìm ba nổi chín linh đinh” nhưng ý nghĩa vẫn là một như kể trên.

Hiện nay có lẽ nghĩa bóng của từ ngữ nầy đã lấn át mất cái nghĩa đen làm tương rồi vậy.

Lầm than

Đây là tiếng Nôm hoàn toàn nhưng nguyên lai được dịch từ chữ Hán “Đồ thán”

- Đồ: đất bùn

- Thán: than lửa

Cả hai thứ đều dơ dáy, lem luốc. Thế nên người xưa đã dùng chữ “đồ” ghép với chữ “thán” để diễn đạt nghĩa bóng: cực khổ nghèo nàn vất vả, cơ hàn tức cuộc đời lem luốc như dính bùn dính than vậy. Trong “Kinh Thư” có câu “Hữu Hạ hôn đức dân truy đồ thán” (Vua nhà Hữu Hạ đức tối nên dân rơi vào cảnh than lửa, đất bùn).

Vậy Lầm Than tức Đồ Thán: nguồn gốc phát sinh từ ngữ Lầm Than là do dịch từ Đồ Thán và Đồ Thán đã được người xưa cấu tạo như trên đã dẫn.

Hàn Lâm?

Hàn Lâm, có nghĩa là “Rừng Bút” tức là nơi tập hợp các nhà văn học trong nước.

Từ ngày xưa, các ông vua Trung Hoa cũng như Việt Nam, có vua rất quý chuộng văn học, nên đã bày ra Viện Hàn Lâm, để hội tụ càng đông đủ càng tốt những bậc giỏi văn chương chữ nghĩa trong khắp xứ.

Lại có chức quan Hàn Lâm, cũng nhằm mục đích trên. Những ai được phong quan Hàn Lâm chánh thức được quý trọng, được đạt thành quan tước hẳn hòi từ đời Đường

Còn ở Việt Nam, dần dần về các đời vua sau này thì người được sung vào Hàn Lâm trở nên lỏng lẻo, bừa bãi dần. Có lẽ do đó mà chức Hàn Lâm thét rồi chỉ là chức hàm mà thôi, tức là được phong cho Hàn Lâm, coi như được đeo cái danh dự suông, chớ chẳng còn thực lộc thực quyền như thời xưa nữa.

Lời vàng đá

Trong thi văn ta thường thấy dùng tới từ ngữ “lời vàng đá” hoặc “câu đá vàng” tức chỉ sự thủy chung, không đổi dời của lòng người.

Chẳng hạn trong Kiều có câu:

“Đã lòng quân tử đa mang

Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung”

Trong Đường Thi thì có: “Duy hữu đồng tâm nhân, khả đương kim thạch luận” (nghĩa là: Duy chỉ có người một lòng một dạ, mới bàn đến chuyện đá vàng).

Nguyên xuất xứ từ câu: Kim thạch chi ngôn khắc vi ngũ phủ (Lời vàng đá đã khắc ghi vào cõi lòng).

Hổ trướng

Là nơi đóng quân là bản doanh của vị soái tướng, vì thường thì cái trướng của tướng soái thích thêu vẽ hình con hổ (cọp biểu dương sức mạnh).

Nguyên có tích vua nước Lương là Từ Ti Ngạc mỗi khi mở cuộc chiến chinh vẫn dùng da hổ mà dựng thành vách quanh trướng để hội họp chủ tướng, bàn định quân cơ, cho kín đáo, vì cho rằng da hổ ngăn cách tiếng nói, người bên ngoài khó nghe lọt được chuyện quân bí mật. Bởi thế, gọi là “hổ trướng” vậy.

HOÀNG KIM THƯ st. 



LUYẾN ÁI QUA THI CA

NGUYỄN TẤN LONG

Nhưng ở nơi thôn quê đồng nội, sự giận hờn ấy lại trở thành lời xỉ mạ, châm biếm kẻ chuộng đa thê:

“Ba vợ bảy nàng hầu,

Đêm nằm chuồng trâu, gãi đầu bằng chổi”

Hoặc:

“Một vợ nằm giường Lèo

Hai vợ nằm chèo queo

Ba vợ nằm chuồng heo !”

Sự châm biếm ấy chính là tâm tư phẫn nộ của người đàn bà đối với những ông chồng bình dân, không có quyền lực như một ông vua.

Tóm lại từ ngàn xưa, quan niệm hôn nhân nước ta vẫn diễn biến theo hai dòng lịch sử của tâm tư chống đối nhau. Sự chống đối khá mãnh liệt mà chúng ta còn tìm thấy tính chất tích cực phản ánh trong ca dao, tục ngữ rất nhiều.

Ở đây, chúng tôi xin lược dẫn một số ít để chứng minh điều đó.

Trước hết, những người có quan niệm hôn nhân vị luyến ái xem những cặp vợ chồng không xứng đôi như những cây đinh đóng trước mắt. Họ lớn tiếng châm biếm:

“Chồng lớn vợ bé thì xinh,

Vợ lớn chồng bé ra tình chị em”.

Hoặc:

“Chồng thấp mà lấy vợ cao

Qua sông nước lớn, cõng tao bớ mầy”.

Thật mỉa mai! Tuy nhiên, phái hôn nhân vị mưu sinh cũng chẳng vừa, họ tìm cách chống chế:

“Chồng già vợ trẻ là duyên

Vợ già chồng trẻ là tiên ba đời”.

Hay:

“Có phúc lấy được vợ già,

Sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh

Vô phúc lấy phải trẻ ranh,

Nó ăn nó phá tan tành nó đi!”

Chúng ta thấy rõ ràng là một tương phản quan niệm luyến ái.

Trong xã hội bình dân trải mấy nghìn năm, hình ảnh hôn nhân đã diễn ra đủ màu sắc. Trong lúc làm lụng gần gũi nhau nơi thửa ruộng nương dâu, nơi mặt đê thềm giếng, nếu sự gần gũi ấy là cơ hội để thổ lộ tâm tình luyến ái thì cơ hội ấy cũng xảy ra những quan niệm chống đối về hôn nhân.

Sự tương phản ấy đã chạm nhau chan chát. Nếu bên nào không chống chế nổi tất nhiên bị nhục suốt đời. Bởi vậy dù muốn dù không họ vẫn phải bảo vệ lấy hoàn cảnh mình.

Một cô gái lấy anh chồng lớn tuổi tức thì bên tai cô ta đã nghe ngay một lời châm chọc:

“Vô phúc múc phải anh chồng già,

Ra đường người hỏi rằng: cha hay chồng?

Nói ra đau đớn trong lòng,

Ấy cái nợ truyền kiếp, có phải chồng em đâu!”

Dù là một cô gái quê mùa buộc lòng cô ta cũng phải đứng vào quan niệm vị mưu sinh chống đỡ:

“Áo dài chẳng nệ quần thưa,

Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm”

Họ cũng dí dỏm và hiểu tâm lý nhau lắm! Để khỏi bị thua thiệt phái vị mưu sinh tìm thấy trong bản chất phái vị luyến ái hay kén chọn nên trễ duyên, họ châm biếm:

“Ai ơi trẻ mãi ru mà,

Càng đo đắn lắm càng già hết duyên”

Hoặc:

“Cô kia má đỏ hồng hồng

Cô không lấy chồng còn kén đợi ai ?

Buồng không lần lữa hôm mai,

Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương!”

Hay:

“Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng,

Trăm khôn nghìn khéo không chồng cũng hư

Con trai chưa vợ đã xong,

Con gái không chồng buồn lắm em ơi !”

Lại nữa:

“Đi đâu mà chẳng lấy chồng

Người ta lấy hết chổng mông mà gào

Gào rằng: Đất hỡi trời ơi !

Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng ?

Ông trời ngoái cổ xuống trông:

- Mày hay kén chọn ông không cho mày !”

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.





Tranh của danh họa Nguyễn Siên






Phụ Bản II




TẶNG EM

MỘT ĐÓA TIGON

Ta tặng em một đóa Tigon
Người đời vẫn gọi loài hoa tim vỡ
Ta tặng em như khất lần một món nợ
Từ cái ngày mình đã chia xa

Giữ lại gì ngày tháng đã đi qua
Khi mình đã âm thầm câu ly biệt
Trái tim đau đã bao lần hối tiếc
Những tình cờ rồi bóng vỡ hoa phai

Chuyện bâng khuâng chuyện cũ khẽ thở dài
Con phố nhỏ lá từng rơi những thuở
Bước chân xưa vẫn ngập ngừng dang dở
Mưa gọi chiều chiều vẫn cứ mênh mang

Đóa Tigon em ạ… vẫn hong vàng
Phai sắc đỏ thế là phai bóng nhỏ
Gói lại tim nhau gửi vào lời mây gió
Ta chậm buồn… tình vẫn cứ gieo neo.

ĐÀM LAN


LỜI NHẮN NHỦ TRÁI TIM

Gìn giữ nhé những mặn nồng hơi thở

Dẫu tình đời ngày tháng có phôi pha

Gìn giữ cả trái tim em nức nở

Tiếc thương đời lạc lõng giấc mơ hoa...

Trái tim hỡi sao em hay cắc cớ

Chẳng nhu mì như lá úa mùa thu

Cứ sắt se thoi thóp giữa sương mù

Hay em có điều gì chưa muốn ngỏ ?

Hoàng hôn tới em thường hay hiu hắt

Làm khó chi cho hơi thở bơ vơ !

Cuộc đời này cũng chỉ một giấc mơ

Xin em nhé, vô tư đừng khắc khoải !

Ngày nào đó - em làm cao khó bảo

Giận hờn - không cùng hơi thở yên vui

Thế thì thôi, ta cũng sẽ ngậm ngùi

Quên tất cả tương lai và cuộc đời nghiệt ngã

Cõi hư không ở nơi nào ai biết

Muốn vui thêm hỏi có được hay không ?

Trái tim ơi đừng dại khờ cách biệt

Hãy nhịp nhàng cùng hơi thở vui cùng

Xin em đó, trái tim hay đỏng đảnh

Hãy vui tươi đằm thắm thuở tình xanh

Đừng kiêu sa nhõng nhẽo... cuối thu buồn

Cho ước mộng dài lâu mãi vấn vương...

Phạm Thị Minh-Hưng


Ánh đạo vàng

Giọt lệ mỏng đong đưa trong nỗi nhớ

Nụ cười buồn bôi xóa vạn niềm tin

Khép đôi mi vùi lấp vũng ân tình

Lòng thổn thức thương thân mình bất hạnh

Đời điên đảo quay cuồng cung nhạc lạnh

Ta cô đơn chìm đắm biển trầm luân

Ta u sầu chối bỏ tuổi thanh xuân

Thời gian chảy, môi nhạt nhòa sắc thắm

Ta gục ngã chơi vơi bên vực thẳm

Tim mù lòa tan vỡ mộng mong manh

Tay buông xuôi tìm giấc ngủ yên lành

Ngàn thu tím xây mồ chôn ảo vọng

Ta chợt tỉnh - chân trời xa lồng lộng

Tiếng chuông chùa lay động bóng trăng xanh

Lời câu kinh như gió lạ xuyên mành

Vẳng tiếng sáo thiên thai nghiêng cánh hạc

Ta cúi mặt - quỳ dưới chân Đức Phật

Ánh đạo vàng rực sáng khắp ngàn phương

Ôi nụ cười độ lượng - ngát thiên hương

Ôi, ánh mắt từ bi trùm vũ trụ

Ta đoạn tuyệt nỗi u hoài hiện hữu

Hồn nhẹ nhàng chắp cánh vượt trùng khơi

Ta bay trong vùng hạnh phúc tuyệt vời

Tình nhân loại chan hòa muôn thế hệ.

NGÀN PHƯƠNG


CHIỀU QUÊ

Thương mến tặng Kim Nguyệt

Chiều lên

hoàng hôn xuống

mây bay dạt hướng rời

gió xạc xào trên luống

cỏ xanh non tận trời.

Đêm về

sau nắng quái

phủ tím màu nương xa

lúa chắc thì con gái

chờ mùa gặt mọi nhà.

Ta đến

đây hơi lạ

nghe chim hót ngày tàn

biết mình còn nhớ quá

một chút hương trần gian.

Chiều quê

cảnh êm đềm

ngân tâm hồn man mác

cho lòng yêu thương thêm

bỏ xa đời bụi cát.

HOÀI LY

12/04/2019


Khúc mưa

Tháng ba giữ chút tàn phai
Nắng vàng rực rỡ lá vàng bay
Ngoảnh lại ta quên miền quá khứ
Ưu phiền buông bỏ. Ta ngủ say
Ngoại ô xóm vắng buồn hiu hắt
Rạt rào rào rạt hạt mưa rơi
Tỉnh giấc mơ màng, dậy đi thôi
Cơn mưa tháng sáu ướt sân rồi
Giọt mưa lênh láng giọt mưa giăng
Dây phơi áo lụa màu lụa trắng
Ngập ngừng chân bước lạnh bàn chân
Giơ tay ta đón làn gió mát
Ta đứng im lìm giữa cơn mưa
Chỉ một mình ta giữa cơn mưa
Mưa giăng rơi xuống giữa trưa hè
Lòng ta ấm lại một niềm vui
Dù tháng ba hay là tháng sáu
Dù trời nắng hay là trời mưa
Hoa vẫn ra hoa, hoa thắm sân vườn
Là ta đó tháng ngày bình yên...

Huỳnh Thiên Kim Bội


Xin cám ơn

tháng tư này của tôi

Nataliya Ivanovna Khalampieva

Xin cám ơn tháng tư này của tôi,

Người đã đến hiền lành và cẩn trọng.

Người chỉ cho ban mai thanh vắng

Vào chòi canh không khóa cửa của tôi.

Xin cảm ơn, chuỗi ngày tốt đẹp

Và những buổi chiều dao động phân vân.

Sự yên nghỉ của anh thầm kín dậy em

Hồi phục lại sự bình yên tâm chí !

Em lại không vội vã

Lấy lại những thói quen cuộc sống ngày thường.

Lại thầm lắng và yên lòng

Cho đến lúc tâm hồn bị tổn thương

không đột nhiên thảng thốt.

Thúy Toàn dịch


Hai bài thơ về Việt Nam

Nataliya Ivanovna Khalampieva

Tôi đứng trên bờ hồ Hà Nội,

Hồ có tên gọi là Hồ Gươm

Theo truyền thuyết dưới đáy hồ

có cụ rùa ngủ hàng trăm năm

Nhưng khi có kẻ đến đọa đày dân chúng

Khi thời khắc tối đen ập đến,

Từ đáy hồ rùa lại bới gươm thiêng

Không chỉ gươm thiêng mà cả

linh khí hào hùng.

Ban sức mạnh đánh tan lũ giặc…

Bữa nay mặt lặng im phảng phất

Sóng im, gió lặng dường như chưa bao giờ

có chiến tranh tang tóc

Nhưng sao cùng đứng trên bờ hồ

Có kẻ vẫn thẫn thờ

Còn rùa vẫn nằm sâu dưới đáy hồ

không chớp mắt. 

 

Gửi các nhà thơ

VIỆT NAM

Nataliya Ivanovna Khalampieva

Tôi gửi đến các bạn món quà - đơn giản tuyết

Tuyết trắng ngời, tuyết trắng chói chang,

Mong tuyết sáng ngời ngời, hào phóng

Phủ khắp đất đai, khắp chốn xa gần…

Mong tâm tưởng các bạn tươi sáng ngời thêm,

Mong những ước mơ sẽ thêm cao đẹp

Từ Xibiri, từ Iakutiya xa tít tắp

Mang phấn trắng tinh khôi sẽ đến được nơi này

Để viết lên mặt tuyết trắng

Mối tương giao hữu nghị, những vần thơ

Tuyết trắng tinh tôi gửi tới từ xa.

Thúy Toàn giới thiệu và chọn dịch



THƯƠNG THÂN !

Tội cho Thân quá Thân ơi !

Bộ xương lủng lẳng, lớp vôi kết thành

Bồi thêm mươi ký thịt tanh

Thêm vô ít mỡ đóng quanh mô mềm

Gân dây chằng chịt, buộc kềm

Đồng thời đưa máu tưới quanh thân hình

Ruột, gan, phèo, phổi mong manh

Dạ dày, thực quản, tim non phập phồng,

Răng nghiền thực phẩm đỡ lòng

Bộ da, nắng kép, mưa đơn, dãi dầu !

Theo thời gian cũng phai màu

Oai phong mấy cũng lụy sầu tháng năm !

Cả ngày tổn sức, lao tâm

Được ăn ba bữa, chút giường ngả lưng !

Mải lo cắm cúi đấu tranh

Tuổi xuân bay mất, tóc xanh bạc dần !

Người thương cứ cách xa dần

Không ưa cứ gặp, nỗi buồn bủa vây !

Sớm chiều rảo chạy đông, tây

Kiếm ăn, kiếm để, mặt mày xác xơ !

Tom tom, góp góp, mệt phờ

Một cơn hoạn nạn, ra tro, chẳng còn !

Sức còn, đầu dãi phong sương

Tuổi già, bệnh hoạn lại vương vào người

Lao lung vất vả để rồi

Một cơn bệnh nặng, trút hơi sau cùng

Những gì góp nhặt, săn lùng

Ra đi bỏ lại, chẳng mang được gì !

Thế là xong một kiếp người !

Thế là kết thúc một đời gian truân !

Cả đời vất vả, lao lung

Cuối cùng thiêu rụi, chỉ còn trơ xương !

Tâm Nguyện



KHUYÊN CON

Từ khi tuổi cha còn xuân

Việc nhà chuyện xóm chuyên cần không lơi

Nuôi con khôn lớn nên người

Trong nhà êm ấm ngoài đời đảm đang

Tuy nghèo nhưng không tiếng tham

Nhiều năm lao động xe lam cuốc giờ

Về già vào hội văn thơ

Vườn cây ao cá thảnh thơi tinh thần

Cùng dân xóa đói giảm dần

Ngành nghề phát triển thương nhân đón mời

Thương con cha nhủ mấy lời

Cần kiệm liêm chính đang thời chớ quên

Văn hóa xã hội vững bền

Rượu chè cờ bạc không nên lè nhè

Tránh xa ngõ ngách xì ke

Ngày xưa cha mẹ cửa nhà lo toan

Gia đình ăn ở vẹn toàn

Kính trên nhường dưới vuông tròn tại gia.

QUANG BỈNH


GIỮA CHỪNG

Mặt trời mọc giữa ban ngày

Vầng trăng hiện giữa đêm nay trải vàng

Sao mai chiếu giữa trần hoàn

Phượng hồng nở giữa nắng ngàn xe tơ

*

Ân tình nằm giữa lời thơ

Cho hoa khoe đẹp giữa bờ mắt ai

Gieo vần suốt giữa buổi dài

Ý tha thiết giữa cảm hoài chuốt trau

*

Nhớ nhung ở giữa thương nhau

Dòng sông nối giữa đôi đầu chưa xa

Dù cho cách giữa sơn hà

Một niềm tin giữa bao la với người

*

Có nhau trong giữa cuộc đời

Niềm vui hiện giữa đầy vơi chuỗi ngày

Gia đình đẹp giữa trần ai

Tình yêu ngự giữa tâm này bình an.

Thanh Châu


ĐỜI

Đời người tạm trú tại trần gian

Gian dối nhiều năm cứ mộng vàng

Vàng bạc hại ta bao sự khổ

Khổ thân lắm kẻ cũng đa mang

Man g chi bất nghĩa, đời tội

Tù tội vô nhân, sống chớ than

Than mãi thế thì - chung một khám

Khám giam tham nhũng - cảnh gian nan.

PHƯỚC HẢI


ĐẠO

Nan giải kẻ gian lắm tội tù

Từ nay quyết chí chọn đường tu

Hồi tâm giác ngộ, khi lầm lỗi

Tỉnh thức cơn mê cảnh mịt mù

Bồ Tát, chỉ đường nơi Phật độ

Quan Âm, gội rửa thoát âm u

Nam mô cứu khổ người trần tục

Lánh dữ làm lành chẳng tội tù.

PHƯỚC HẢI


ĐỢI EM

TRONG MƯA

Đợi em trong mưa

Bên dòng sông nhỏ

Trời nghiêng trút gió

Không gian nhạt nhòa

Đợi em trong mưa

Nghe tim nức nở

Tìm trong mảnh vỡ

Đâu hình em xưa

Đợi em trong mưa

Sấm rền than thở

Cho ngày gặp gỡ

Bao giờ bao giờ

Đợi em trong mưa

Trái tim thắp lửa

Xuân chiều muộn đó

Còn say đến giờ

Đợi em trong mưa

Cuộc chờ muôn thuở

Duyên tình không nợ

Nên hồn bơ vơ…

LÊ NGUYÊN


Về hưu

sinh hoạt CLB thơ

Hội thơ già trẻ họp chung

Vui tươi giản dị hòa cùng ý thơ

Chẳng vì chức tước ngày xưa

Bí thư, chủ tịch bây giờ là dân

Mọi người cùng đón nàng Xuân

Vần thơ hương ngát lâng lâng tâm hồn

Làm thơ để nhớ cội nguồn

Công cha nghĩa mẹ ta luôn ghi lòng

Nỗi niềm ai đó chờ mong

Tôi mơ về tắm con sông quê nhà

Hội thơ tôi cũng thiết tha

Vui câu mộc mạc chan hòa tình thân.

DƯƠNG TIẾN CẦN


NHỊP CẦU THƠ

Tương hội tri giao tặng mấy bài

Chút duyên hàn mặc góp cùng ai

Nối vần thơ cũ quên chiều xuống

Thắp sáng tình ta mộng đắm say.

THANH VĨNH


TRÌ TRỆ

Xã hội không chuyển động

là xã hội giật lùi

sẽ chẳng có hiện tại

và không cả tương lai.

LÊ MINH CHỬ


CHƯA CHẮC

Mở nhiều con đường khác

nhưng chưa chắc là mới

vì mới mà khô cứng

thì thật là thảm hại

có khác nào xác chết

được đem sơn quét lại.

LÊ MINH CHỬ



BIA HÀNH !

Sáng nay sinh nhật bạn Thơ

Zô chút xíu Bia nào ngờ xỉn luôn

Về nhà đầu óc quay cuồng

Gục ngay tại cửa tròn - vuông muôn màu

Thật lâu tỉnh dậy đầu đau

Tay chân uể oải - ôi rầu làm sao

Bia không biết uống tự cao

Zô cùng Anh - Chị ôi chao thảm sầu

Từ nay sẽ mãi khắc sâu

Giọt bia không uống thì đâu cảnh này

Bao lời căn dặn chiều nay

Giao lưu - đàm đạo đến đây vui vầy

Trời ơi ! Đất hỡi ! Xỉn đây

Thơ thì muốn đến - lạ thay Bia hành

Thôi thì quyết chí dỗ dành

Qua đi say xỉn - chân thành từ Bia.

VŨ THÙY HƯƠNG



MỘT NỬA

Thân tôi hai nửa một đời

Nửa ghim cho vợ, nửa rời đất quê

Nửa sự nghiệp, nửa rượu chè

Nửa người, nửa ngợm bết bê cuộc đời

Muốn ngưng cái nửa cho rồi

Người thơ bảo cứ nửa hoài chẳng sao

Nửa tỉnh còn nửa chiêm bao

Bâng khuâng nửa nhớ nửa vào hư vô

Chưa tin kẻ nói xô bồ

Nửa trong nửa đục hơn hồ nước dơ

Rong chơi nửa khúc rừng mơ

Chim kêu gà gáy biết mô đường về…

LANG NGUYÊN


NHỚ NHÀ

Hết lầu KIỀU đến vùng đồng nội

Trước mắt nhìn dãy núi giăng giăng

Đường xưa tiều gánh dưới trăng

Thuyền chài xuôi bến vừa chừng chiều hôm

Dòng nước xa xanh um cây cối

Nhà bên sông sương khói la đà

Quê hương trông tít mù xa

Bên làn mây bạc vài ba cánh hồng.

LANG NGUYÊN


Bướm và Hoa

Nhớ xưa: em là hoa hồng thắm
Ta: bướm đi hoang lạc bến chiều
Mật ngọt lòng hoa, ngây ngất nếm
Ngẩn ngơ, hồn bướm bỗng đăm chiêu...

Từ ấy đi về những nẻo xa
Vui cùng mây nước với trăng hoa
Sống đời hoang dã, xa nhân thế
Không cả tình thương một mái nhà

Vườn hồng độ ấy nở nhiều hoa
Bến cũ tình xưa lại ghé qua
Ngan ngát hương yêu giờ hạnh ngộ
Thương ai, lệ thắm bỗng chan hòa

Một sớm tung tăng dưới nắng hồng
Mơ màng đuổi bắt ánh sương trong
Sương tan... đời bướm theo mây gió
Vắng bướm, tình hoa có não nùng ?

THANH PHONG



ĐẾN LÚC

Rồi sẽ đến lúc về bụi đất.
Bao ước mơ chôn chặt đáy lòng
Nằm nghe gió thổi bâng khuâng
Chẳng còn nghĩ ngợi, chẳng phân vân gì !
Chẳng còn chút sân si tranh chấp
Hay mọn hèn cúi gập van xin
Để lụy phiền nối lụy phiền
Để gian dối nối đảo điên suốt đời !
Sẽ đến lúc thảnh thơi ngơi nghỉ
Chẳng còn ai van vỉ đợi chờ.
Khóc, cười : những chuyện vu vơ
Hơn, thua là việc mù mờ bất phân !
Sẽ đến lúc chẳng cần gian dối
Vì dối gian là sợi dây oan
Trói cho lời nói ngập ngừng
Vô hồn đôi mắt, bần thần con tim !

Sẽ đến lúc trước thềm xuân đến
Bên lư hương ta nguyện lên trời
Cầu cho những cái tả tơi
đời ta trót phải, xa rời cháu con.
Xin đôi mắt đầy hồn sông núi.
Xin con tim phơi phới tình yêu
Đôi tay sạm nắng sớm chiều
Đem cho đời những cánh diều bao dung

Nằm nghe gió thổi bâng khuâng
Đời tươi lúc ấy, có cần ta không ?

LAM TRẦN


CHUYẾN XE BUÝT

Chuyến xe buýt lướt trong mưa sớm

Hờ hững qua từng bến đậu quen

Riêng một mình anh chờ một bến

Thầm mong bến ấy có em lên.

Xe đến rồi đi, anh hụt hẫng

Người lên đông quá, vắng em thôi.

Mưa thu như trút nhòa khung kính

Gieo mãi lòng anh nỗi ngậm ngùi !

Hà Nội, 09-1974

VŨ ĐÌNH HUY


THE BUS TRIP

The bus glided in the early rain

Indifferently went by each one of the familiar stations

At a particular station, I alone waited for You

Secretly hoping that You’ll come up there.

The bus came and was gone, I felt missing

So many people came up, but You alone was absent

Autumnal rain made the glass frames dazzling

Sowing in my heart, an everlasting bewailment !

Hanoi, 09-1974

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN



VẮNG TRĂNG

Vắng trăng trời đất mịt mùng,

Thiếu em, đời cũng lạnh lùng lắm em !

Gập ghềnh chân bước trong đêm,

Mong trăng, lại nhớ em thêm mấy lần !

VŨ ĐÌNH HUY


ABSENCE OF THE MOON

With no moon, the earth and sky are dim and distant

Without You life is also really so cool !

I walked bumpily in the night

Longing for the moon,

while recalling You so may more times !

03-1966

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN






LUẬT THƠ

(tiếp theo số 156)

Theo Việt Nam Văn học Sử yếu của Dương Quảng Hàm có ghi:

- Câu: số câu trong bài, trong khổ không nhứt định. Có thể câu trong bài liên tục từ đầu đến cuối.

- Khổ: một bài có nhiều khổ. Mỗi khổ 4 câu hay 6 câu hay 8 câu. Các khổ trong một bài cũng có số câu khác nhau.

- Chữ: số chữ trong một câu từ 2 đến 12 chữ, không theo thứ tự nào.

Ba trường hợp câu, khổ, chữ nầy, tôi xếp vào loại thơ tự do.

Thường, các nhà thơ sáng tác có số chữ nhứt định là 5, 7, 8, 9, 12 chữ. Tuy vậy trong một bài, ví dụ 8 chữ cũng có vài câu hoặc 7 hoặc 9 chữ.

Xem thế, thể thơ này rất tự do. Ta khẳng định thơ mới chỉ cần xem luật vần ở trên. Nếu không đúng như luật ở trên, ta xếp vô thể thơ thích hợp hay thơ tự do.

Ví dụ:

ĐÊM XUÂN SẦU

Trời xuân vắng, cỏ cây rên xào xạc

Bóng đêm luôn hoảng hốt mãi không thôi

Gió xuân lạnh, ngàn sâu thôi ca hát

Trăng xuân sầu, sao héo, cũng thôi cười

Trên đồi lạnh, Tháp Chàm sao ủ rũ

Hay hận xưa muôn thủa vẫn chưa nguôi ?

Hay lãnh đạm, Hời không về Tháp cũ,

Hay xuân sang, Chiêm nữ chẳng vui cười ?

Bên Tháp vắng, còn người thi sĩ hỡi,

Sao không lên tiếng hát đi người ơi ?

Mà buồn bã, âu sầu trong đêm tối,

Người vẫn nằm há miệng đớp sao rơi ?

CHẾ LAN VIÊN

5. Thơ Hai cư (Nhựt viết Haiku)

Thể thơ này do nhà giáo Nhật Chiêu giới thiệu năm 1991. Nó chỉ có 3 câu, không niêm, luật, vần, bằng trắc gì hết.

Câu 1: 5 âm tiết.

Câu 2: 7 âm tiết.

Câu 3: 5 âm tiết.

Như vậy một bài thơ Haiku gồm 17 âm tiết. Một từ “buồn bã”, theo tôi, có 2 âm tiết. Ông Nhật Chiêu nói rằng một bài thơ hay là ở tính Thiền. Tuy nhiên theo nhà thơ Duy Thần tức kỹ sư Nguyễn Ngọc Hòa, một Việt kiều Nhựt nói một bài thơ Haiku hay là đọc liền mạch được trong một hơi thở. Rất tiếc ông không dẫn chứng và giải thích rõ.

Phạm Hiếu Nghĩa tôi nghe Nhật Chiêu giới thiệu thơ Haiku, tôi không hiểu tính Thiền nhưng cũng sáng tác đại, xin ghi vài bài để dẫn chứng.

1. NƯỚC

Nước chảy tải phù sa

Chặn dòng, nó cuốn nhà xuống sông

Nước mềm nhưng chớ hòng.

24.7.2009

2. CON TRÂU

Trâu giúp người cày đất

Chưn trâu lại dẫm nát bờ đê

Trâu nằm vũng tư bề.

07.7.1999

3. CON LẬT ĐẬT

Thẳng lưng lật đật ngồi

Tôi đặt cho nằm, bật dậy thôi

Hay nhỉ, vô thế rồi.

12.7.1992

4. CON RÙA LẬT NGỬA

Một con rùa lật ngửa

Bốn chưn dốc sức cố mà bơi

Nó nằm nguyên một chỗ.

24.6.2007

Tôi có chép bốn năm bài Haiku (không phải bốn bài trên) đưa cho Duy Thần, ông nói không phải phong cách Haiku. Tuần sau, ông sửa và đưa lại tôi và nói tôi sẽ đăng báo Nhựt và dịch ra tiếng Nhựt. Nhưng tôi lại cho là không phải phong cách thơ của tôi nên bỏ đi. Có điều là sửa lại nhưng mỗi bài thơ vẫn ba câu. Do đó, theo tôi, nếu gọi thơ Haiku mà chỉ có hai câu là không đúng.

6. Biến thể của thơ Haiku

Gần đây có thi hữu sáng tác thơ mỗi khổ ba câu. Tôi cho rằng đấy là biến thể của thơ Haiku, tôi cũng có sáng tác. Sau đây tôi xin chép một bài để trình làng thơ cho vui.

NÓ ĐI RỒI

Ba mẹ con con bé xuất ngoại rồi

Nó học giỏi mà… ngẫm hỡi ơi…

Qua nước Mỹ để đem tài phục vụ Mỹ

Sao vậy ? Cô nhìn tôi lí nhí

Ở nước nhà, sức nó, sống sao đây ?

Tốt nghiệp rồi e cứ mãi lây dây

Nay ra đi, hẳn chịu khổ rồi đây

Nhưng phải hy sinh để sau nầy đỡ chút

Nghe nói, lòng tôi chua chát quá !!!...

28.3.2016

NHỰT THANH

IV. Họa thơ

Các bạn chơi thơ Đường thường có thú họa thơ. Có người nói chơi thơ Đường thú vị ở chỗ dễ kết bạn thơ. Thấy bạn tặng một bài, ta họa lại. Tình bạn thơ bắt đầu gắn bó nhau. Nó thân thiết khi bài xướng cũng như họa, hai bên đều tâm đắc nhau. Theo tôi, thể thơ nào cũng có họa. Trước 1975, tôi có họa một bài thơ lục bát, em họ tôi là Phượng Hải, trưởng thi đoàn Chim Phượng góp ý rằng họa thơ lục bát thì phải họa hai vần, vần chưn và vần lưng. Họa thơ lục bát tưởng dễ mà khó vì vần lưng và chưn của câu tám gần nhau quá mà không được lập lại từ liền kề của nguyên tác. Họa thơ Đường thì khó ở cặp đôi. Đã nói họa thơ thì thể thơ nào cũng khó nhưng vui với nhau thì khó cũng kệ, ta mày mò vượt khó mà thôi.

Thế nào là họa thơ?

Theo tôi thì họa thơ là trò chuyện nhau bằng thơ về một vấn đề. Bài xướng là nêu vấn đề. Ta họa lại nghĩa là ta bàn cùng bạn về vấn đề đó. Ta phản bác, tán đồng ý kiến của bạn hay ta bàn rộng thêm.

1. Họa thơ lục bát:

Ta nói ý của ta bằng thơ lục bát nhưng:

- Vần cuối câu sáu 1 phải trả lại

- Vần sáu của câu 8 và vần cuối câu 8 phải trả lại, nhưng không được dùng lại chữ liền kề của nguyên tác. Ví dụ bài xướng “Thập bát vị tình thơ” do thi hữu Minh Hồ mời họa tháng 5-1991. Nay ông đã qua đời. Xét vì dùng bài thơ xướng này, tôi không trục lợi gì nên táo bạo in làm ví dụ. Nếu gia đình ông không bằng lòng thì tôi xóa ngay.

THẬP BÁT VỊ TÌNH THƠ

Những lời cay đắng Quế Chi

Muốn quên đi phải vài ly Gia

Hoàng Hoa sao chẳng nghĩ suy

Việc Sĩ Quân Tử có mất vui

Những lời Cam Thảo ngọt bùi

Mà không trao gởi, gởi mùi Huỳnh Liên

Sài Hồ tâm trí không yên

Hạnh Nhân sao vội lại biên thơ nầy

Tình thơ Bán Hạ mới đây

Những câu Nguyệt Thạch trao tay vịnh đề

Phòng Phong giao hữu đề huề

Sa Sâm mát dạ trao về tay ai ?

Tình thơ Xích Thược hòa hai

Thiên Môn gió lộng thơ khai vịnh đề

Đào Nhân sao vội trách chê

Những lời Đỗ Trọng tái cả lòng

Quảng Bì rộng lượng mênh mong(1)

Vì câu Trác Bá thủy chung đậm tình.

Tháng 5-1991

MINH HỒ

(1) Nguyên tác ghi “mong” có lẽ thiếu dấu ô chăng?

Họa vận (giữ nguyên tựa)

THẬP BÁT VỊ TÌNH THƠ

Trạng nguyên lưỡng quốc… Đỉnh Chi

Bỉnh Khiêm sánh ngọc lưu ly ai

Đức tài Nguyễn Trãi xét suy

Quý Đôn ông hỡi… chuyện không vui ?

Gia Thiều ngâm khúc cũng bùi

“Tự tình…” Bá Nhạ thật mùi buồn liên

Hưng Đạo đuổi giặc giữ yên

Hàn Thuyên văn tế, cải biên chữ nầy

Nguyễn Khuyến thơ đượm buồn đây

Hữu Nghĩa chịu chém mà tay thơ đề

Văn Trị thì chẳng chịu huề

Công Định ông hỡi… đi về… hỡi ai !!!

Châu Trinh một dạ không hai

Bán dầu, ông Nguyễn… công khai chủ đề(1)

Huy Cận thơ mới… ai chê ?

Tình thơ Xuân Diệu nghe điếng lòng

Lan Viên sầu thảm buồn mong(2)

Đông Hồ thơ mới hòa chung… thắm tình

Thương người nghĩa khí linh đinh

Thương người tài trí giúp mình sống vui.

Đọc giao lưu 19-5-1991

TRƯỜNG THANH*

(1) Nguyễn An Ninh đi bán dầu cù là và kêu gọi chống Pháp… bị tù tới chết

(2) Nguyên tác chữ “mong”. Ghi “MÔNG” vẫn có nghĩa.

2. Họa thơ có vần thoải mái như Hát nói, thơ bảy, tám chữ, thơ Tây hay thơ mới hay thơ tự do. Tôi chưa thấy ai họa các thể thơ nầy nhưng nếu họa, có lẽ hễ có vần với nhau thì ta họa trả vần còn không thì thôi. Thơ mới mới ra đời trong giai đoạn 1932 nhưng hình như nó cũng có biến thể. Đúng luật thơ thì một khổ có 4 câu, có 2 vần là hai cặp vần liền hay vần chéo hay vần ôm. Họa thì ta trả bốn từ vần lại. Trong khi đi giao lưu thơ, một thi hữu là ông Hoàng Anh Đỗ có mời tôi họa một bài thơ mà chỉ có câu 2 và câu 4 thanh bằng và vần với nhau. Câu 1 và 3 thanh trắc, không vần. Tôi thích bài thơ nên họa một bài tiêu biểu cho các thể thơ có vần thoải mái nầy. Đó là bài “Trăng tịnh yên”. Ông Hoàng Anh Đỗ qua đời rồi. Vì vô vị lợi nên tôi cũng táo bạo đem in vào bài “Luật thơ” với bài họa của tôi. Nếu gia đình ông Hoàng Anh Đỗ không bằng lòng thì tôi sẽ xóa ngay.

TRĂNG TỊNH YÊN

Đọc giao lưu tháng 6-1991

tại CLB thơ Quận 10, Tp.HCM

Ngày dữ dội đã mang đi con nắng

Trả về đêm bình lặng ánh sao trời

Sao nhấp nhánh gọi mời tôi cảm thức

Tôi dịu dàng hồn vịnh cánh sao rơi

(Cảm thức trong tôi nói gì với nắng

Nắng đi về bên ấy có xa không ?

Mà trở lại chắc nắng còn nguyên vẹn

Để cho tôi nhìn mặt nắng tươi hồng !)

Chứ đêm biếc dọn về đây ở

Mang theo trăng là một dải thiên

Khung trời rộng cho tôi dòng cảm thức

Ngửa mặt nhìn chờn chợ bóng sao xa

Tôi tắm gió, cài sao lên mắt biếc

Bận toàn trăng, đùa nghịch sóng mây đêm

Ôi nhỏ bé cơ hồ như nát vụn

Thế mà tôi thao thức giữa trăng mềm

Trăng một tịnh yên. Tôi chưa quên được

Bởi mai ngày nắng dữ lại về theo

Thì thôi nhé, tôi ôm vầng trăng ngọc

Gửi tặng đêm năm bảy ý thơ nghèo

Cả một trời sao. Một trời trăng đó

Cả một tôi, dòng cảm thức đang lên

Tiếc không đủ trăm câu lời hoa mỹ

Nên thơ mình trôi lại giữa lênh đênh.

Tháng 6-1991

HOÀNG ANH ĐỖ

Họa vận (cùng tựa)

TRĂNG TỊNH YÊN

Ngày lặn, đêm về từ muôn vạn nẻo

Cứ vần xoay thế mại, đấy cơ trời !

Cơn nắng gắt đi rồi, hồn khuây khỏa

Đêm huyền mơ xua đuổi nắng vàng rơi

Nắng đi rồi hẳn mai nầy trở lại

Đuổi trăng đi, nhơn thế có buồn không ?

Vũ trụ thế, cứ đi vòng xoáy ốc,

Tôi mơ trăng mà tha thiết nắng hồng

Đêm đã về với muôn ngàn nét vẻ

Trăng cùng sao như dựng cõi hằng

Tôi bỗng thấy lòng lâng lâng thổn thức

Thả hồn về cõi mộng mấy tầm xa

Trăng với gió ru hồn tôi ngây ngất

Trăng dịu dàng, gió mơn trớn vào đêm

Tay lặng lẽ vứt tung mùi tục lụy

Uống trăng mơ nhấm nháp đến môi mềm

Lâng lâng tưởng tâm hồn ngưng đọng lại

Trăng lặn rồi, ánh sáng chửa buồn theo

Tôi thờ thẫn với tâm tư khó hiểu

Đêm trăng huyền có ve vuốt kiếp nghèo ?

Trăng hỡi, phải muôn ngàn sao lấp lánh

Để theo trăng đêm đến để cùng lên ?

Trăng hiền từ nên sao về tụ hội

Để cùng trăng, hồn mộng mãi đong đênh !

TRƯỜNG THANH*

3. Họa thơ ĐƯỜNG LUẬT (tôi chỉ nói thể Thất ngôn bát cú) cũng như họa các loại thơ khác, ta họa trả lại 5 vần của nguyên tác. Nếu nguyên tác làm theo luật Bằng thì ta họa lại bằng luật Trắc (từ 2 câu 1 là Bằng là luật Bằng. Ngược lại là Trắc).

Ví dụ: Xướng họa với Thanh Vĩnh về Tuổi già:

TỰ CẢM TUỔI 70 (luật Trắc)

Lật bật mà nay bảy chục rồi

Bóng chiều thong thả phớt lờ trôi

Ba miền Tổ quốc ngao du viếng

Năm vận Đường thi xướng họa chơi

Gảy khúc tình ca hòa nhịp sống

Gặp người đồng điệu ngát huơng đời

Cờ tàn thế sự còn hăng đấu

Quyết thắng nàng thơ chẳng để lơi.

THANH VĨNH (2005)

Họa vận (đổi tựa)

TUỔI VỀ CHIỀU (luật Bằng)

Anh và tôi cũng đã già rồi

Lửng thửng đò chiều, lửng thửng trôi…

Uy viễn tướng công, danh dấn bước

La Sơn phu tử, cảnh rong chơi

Sáu lăm lên hạng cao niên kỷ

Bảy chục vào hàng đậm tuổi đời

Số mạng, có, không, suy nghĩ mãi

Sức tàn khoan nhặt mái chèo lơi…

NHỰT THANH*

V. Nhận xét chung:

Nhìn tổng thể các thể thơ, thơ nào cũng có biến thể. Do đó, theo tôi, ta chỉ cần theo luật nòng cốt của bảy thể thơ chánh thôi: lục bát, song thất lục bát, hát nói hay ca trù, thơ bảy hay tám chữ (thơ bảy chữ giản ra từ thơ Đường thì tôi bỏ đi), thơ Đường, thơ mới hay thơ Tây mỗi khổ 4 câu theo đúng luật vần, thơ Hai-cư (thơ Nhựt). Có bạn thơ sáng tác theo lối mỗi khổ 4 câu nhưng câu đầu 3 chữ, câu kế 4 chữ, câu kế 5 chữ, câu kế 6 chữ. Hoặc câu đầu 5 chữ, câu kế 6 chữ, câu kế 7 chữ, câu kế 8 chữ và nói rằng đã đặt ra nhiều luật thơ mới. Có bài hai hay ba câu viết liền chỉ là một câu thôi. Tôi cho rằng nói luật thơ mới là không đúng. Bốn năm năm nay, tôi chưa thấy ai sáng tác theo dạng đó. Có điều là không thấy bài thơ nào thuộc dạng đó đi vào lòng khách thơ, độc giả nên nói nó chưa phải thể thơ mới có lẽ cũng phải thôi.

Tôi cho rằng ngoài những thể thơ đã có quy cách, có nhiều tác phẩm trong văn học thì đó mới là một thể thơ. Nếu chỉ rải rác một vài bài không theo quy cách cũ nào thì cứ coi là thơ tự do. Tôi cũng cho rằng ta không nên đặt ra quá nhiều luật thơ làm rối cho người làm thơ.

Thơ Đường có bài sai luật vẫn hay, không ai nói gì về cái sai đó như trên đã nói. Bài “Qua đèo Ngang” câu 1:

Một đèo, một đèo, lại một đèo (Hồ Xuân Hương)

Chữ thứ tư “Đèo” là sai, phải là trắc

Chữ thứ sáu “Một” là sai, phải là bằng

Vậy câu nầy sai luật nhiều nhưng bài thơ lại được khen hay đúng hình thức cốt lõi của thể thơ nào thì coi là biến thể của thể thơ đó, ngay cả thơ Đường. Ngoài ra thì coi là thơ tự do.

Nếu có tác giả nào sáng tác theo một hình thức mới mà nổi tiếng, tạo thành một phong trào mô phỏng để sáng tác, lúc bấy giờ ta mới đặt tên cho thể thơ mới đó và coi là một thể thơ chánh, nếu không thì bỏ đi hay coi là thơ tự do.

Tôi cho rằng với quan điểm thoải mái như vậy mới khuyến khích được phát huy nền thơ của nước nhà.

Khánh Hội - Quận 4 ngày 07-3-2019

PHẠM HIẾU NGHĨA

* Trường Thanh, Nhựt Thanh là bút hiệu của Phạm Hiếu Nghĩa.

Tu chánh và phát huy bài LUẬT THƠ của Nhựt Thanh trong tác phẩm “Đời Thơ với Tuổi Thất Thập Cổ Lai Hy” của Nhựt Thanh - xuất bản năm 2012.



NGUỒN GỐC VÀI TỪ NGỮ CỔ:

TẠI SAO “ĐÔNG BÍCH”

CÓ NGHĨA LÀ SÁCH VỞ ?

Dưới đây là vài thành ngữ xưa ta vẫn thường đọc thấy trong các áng thi văn cổ, tưởng cũng cần biết ý nghĩa nguồn gốc của từng thành ngữ như thế nào.

Đông Bích

“Đông Bích” là một thành ngữ Trung Hoa không biết là có từ hồi nào, nhưng đã rất xưa.

Đây là thành ngữ ngụ ý về thi văn, sách vở.

Tại sao “Đông Bích” lại là sách vở thi văn?

Có hai cách giải thích:

1. Đông là hướng Đông, Bích là tên một ngôi sao trong Nhị thập bát tú, chủ trách về việc khảo hạch văn chương, thi phú; vì thế “Đông Bích” chỉ về sách vở thi văn. Theo nghĩa nầy có vẻ quá vắn tắt và cũng chẳng mấy rõ rệt, nên người ta lại có cách giải thích thứ nhì như sau:

2. Đông, là phương Đông, Bích là vách tường; vậy thì “Đông Bích” là bức tường ở hướng Đông. Nhưng do đâu mà bức tường phía Đông lại là sách vở?

Lại có hai nguồn gốc:

Một là vì người xưa nhứt là những nho sinh văn nhân, thường cất giữ tồn trữ sách vở, kinh sử tại hướng mặt trời mọc là hướng sáng sủa, cao quý, đáng tôn kính. Cho nên cần phải để sách vở về hướng Đông, hầu tỏ lòng quý trọng tôn kính đối với sách vở, kinh sử.

Hai là, do một huyền thoại, liên quan đến Đức Vạn thế sư biểu Khổng Tử.

Truyền rằng sau khi Tần Thủy Hoàng tàn bạo chủ trương thiêu đốt hết sách vở và chôn sống học trò thì một dịp nọ bỗng dưng người ta tìm thấy một kho chứa đầy sách vở kinh sử giấu kín trong một bức tường về hướng Đông của một ngôi nhà cổ nọ. Mà đây lại là số sách vở của Đức Khổng Tử lưu lại. Huyền thoại chỉ kể có bấy nhiêu, không nói rõ đó là số kinh sách của chính Đức Khổng Phu Tử tàng trữ cất giấu lại, trước khi Ngài từ trần, do Ngài tiên đoán được cái ngày Tần Thủy Hoàng đốt sách hay do người nào khác giấu vào đây.

Đấy, do hai ý nghĩa vừa kể trên, mà “Đông Bích” ngụ ý sách vở, nơi cất giữ kinh sử hoặc tủ sách, hay thư viện vậy.

Bể Sở sông Nghiêu

Để so sánh vắn tắt, nhưng ngụ ý thâm thúy, về sự khác biệt của hai giai đoạn, hoặc hai triều đại: lúc thì hết sức lầm than, điêu linh; khi thì vô cùng yên vui, ấm no, hoan lạc người ta dùng thành ngữ “Bể Sở sông Nghiêu”.

Trong truyện thơ “Phan Trần” có câu “Tát vơi bể Sở, khơi dần sông Nghiêu” (tức là làm cho cuộc sống người dân bớt khổ dần, để càng ngày càng được an lạc), chính là đã dùng đến thành ngữ trên vậy.

Điển tích của thành ngữ như sau:

- Vua Sở mải chạy theo mộng tranh bá đồ vương nên cứ gây giặc giã, tạo ra toàn những cảnh chết chóc, lúc nào cũng đeo đuổi chiến tranh, khiến dân chúng cực kỳ khổ sở đau thương…

- Ngược hẳn lại, thời đại vua Nghiêu, một vị vua nhân hậu, coi dân như con đẻ, đã tận tâm lo lắng đem lại cho dân chúng đời sống no ấm, thái bình, chẳng ai biết chiến tranh, chém giết là gì, thuần một lòng đoàn kết, tương thân tương ái. Cuộc đời vô cùng hạnh phúc…

ĐỖ THIÊN THƯ st.







Tranh của danh họa Nguyễn Trí Minh




Phụ Bản III

 


HAI TÂM HỒN

Trời đã vào hạ. Lũ ve râm ran từ tận trên những tàng cây cao nghệu như muốn bù chút thanh bình vào không gian oi nồng dù trời đã tối. Quỳnh lang thang một mình dưới những tàng cây ngất ngưởng ấy. Anh hơi lo ngại biết đâu, một trong số chúng lại không gãy ra rồi rơi nơi chính nó nhăm nhe là đỉnh đầu anh. Dù thế, đôi chân anh vẫn từ tốn đốt thời gian trên đoạn đường êm ả ấy.

Anh nhớ như hằng nhớ về người vợ quá vãng của mình. Tim anh như thắt lại trước tình yêu Tâm dành cho anh. Làm sao anh không nhớ đến nàng hằng ngày được, khi cô hy sinh tất cả cho người cô yêu mến. Là một thương binh tứ cố vô thân, lại rời xa chiến trường với nỗi cô đơn cùng cực trong lòng khi biết rằng di chứng của vết thương khiến anh không thể có con nối dõi. Lúc ấy, anh từng tự phì cười khi nghĩ:

- Ồ! Mình có là gì, có tông đường nào đâu mà lo chuyện nối dõi?

Rồi trong tích tắc, anh lại nao lòng vì biết thế là hết cho cuộc tình của anh. Cũng vì vậy, mà anh chẳng hề liên lạc lại với Tâm, dù lòng anh vô cùng đau đớn.

Nhưng chính nàng, đã đem niềm vui sống lại cho anh, khi quyết định lấy anh, dù biết chắc rằng, ngoài nàng ra, chẳng ai muốn nhận một gã đàn ông như thế làm chồng. Tâm còn phải ráo riết tranh đấu với mẹ, để bà cho nàng lập gia đình với anh:

- Mẹ không cho con lấy ảnh, thì con xin cam tội bất hiếu mà rời xa mẹ, mẹ ơi…

Ấy là, bà chưa biết hết sự tình đau đớn mà con bà đã chấp nhận khi kết hôn với Quỳnh! Nhưng nhìn sâu vào con mắt đỏ hoe của đứa con gái duy nhất, bà không những thấy mềm lòng mà còn cảm phục vì sự chung thủy của nàng.

Dĩ nhiên là họ chẳng bao giờ có con. Tâm phản bác lại ý định xin con nuôi của cả mẹ lẫn chồng, vì nàng chỉ muốn dành trọn cho chồng thứ tình yêu duy nhất nàng có được khi hai người bắt đầu quen biết.

Anh cố ngăn dòng nước mắt đang chực trào ra trong đêm vắng. Nhưng rồi trong một giây đầy xúc cảm, anh kệ cho chúng túa ra trong cơn gió nực nồng mùa hạ. Cầm giữ làm gì trái tim đau đớn của mình, khi hết mẹ vợ rồi đến chính người anh yêu vô cùng lại ra đi vĩnh viễn. Thật đớn đau, khi họ để tất cả gia sản lại cho anh. Đó không chỉ là cái nhà xinh xắn, chút tiền gửi trong ngân hàng khiến anh có thể sống nhàn hạ, mà còn cả lòng thủy chung tuyệt vời…

Tiếng sóng vỗ đều đều rồi cũng làm anh nguôi ngoai niềm thương nhớ. Cái bệ đá anh ngồi trông sang bên kia sông với những ánh đèn thấp thoáng. Những chiếc ghe vẫn rì rầm trên mặt nước mông lung cô quạnh. Có bóng ai tiến lại gần rồi bần thần dừng lại sau lưng anh. Biết thế, nhưng anh chẳng thiết đến, vì tâm trí anh đã bị nhốt kín dưới những con sóng dập dềnh. Chẳng biết là bao nhiêu lâu, bàn tay ấy mới khẽ chạm vào vai anh:

- Anh ơi…

Quỳnh giật mình vì cái chạm vai nhát gừng ấy. Anh quay lại:

- Gì đấy, cô…?

Trong cái ánh sáng nhá nhem, khuôn mặt một phụ nữ hiện ra xinh xắn mà nhợt nhạt:

- Anh… có…

Rồi cô im bặt. Cơn gió ven sông tốc chiếc váy cô lên làm cô vội vàng đưa tay đè lên thứ vải mỏng tang ấy, khiến mầu chiếc quần lót như lộ ra không chỉ từ chiếc váy ấy mà cả từ đôi mắt thẫn thờ của cô. Bỗng cô ngồi xuống bên cạnh anh, đôi môi nhợt nhạt của cô cố gắng lắm mới thốt lên được ba chữ:

- Anh… đi không?

Anh chợt tỉnh hẳn người, lắp bắp:

- Không, à mà… bao nhiêu?

Giọng cô run bắn lên:

- Em… không biết nữa!

Cô nuốt nước bọt:

- Vì hôm nay… là lần đầu anh ạ!

Quỳnh như bị hút vào cái ma lực lạ lùng ấy. Anh gọi taxi rồi đưa cô vào một quán cà phê. Đối diện với anh là một phụ nữ đầy lo lắng. Ánh mắt rất đẹp có thêm chút điểm trang cẩu thả khiến nó như giấu diếm điều gì:

- Sao cô phải đi làm… nghề này?

Dĩ nhiên lại là một thiên tình sử được cô tô vẽ đậm đà. Quỳnh thử chấm dứt:

- Cứ coi như mỗi lần… hai trăm, cô bằng lòng chứ?

- Dạ… được, vậy tối nay thì sao ạ?

- Tối nay, tôi không được khỏe. Nhưng tôi muốn cô là của… riêng tôi thôi! Vì tôi rất sợ bị lây bệnh... ăn chơi nhé!

Rồi một chút ngẫm nghĩ, anh tiếp:

- Tối nay mở hàng, tôi gửi cô ba trăm. Hẹn mai gặp, cũng tại đây nhé…

Cô ra về mà lòng vừa mừng vừa lo lắng. Mừng vì đã không phải trải qua một đêm cô từng bận tâm tưởng tượng suốt cả tháng ròng. Lo vì không biết ngày mai sẽ ra sao, dù trước mắt, cô gần như đã quyết tâm bước vào con đường xù xì để lo cho chồng cô sắp đến ngày lìa cõi thế.

Phải rồi, chỉ vì gã chồng trác táng mà cô đành đánh mất cuộc sống bình thường như biết bao cô gái khác. Cái mã đẹp trai cùng giọng nói mê hồn của gã đã làm đời cô điêu đứng. Ăn chơi phù phiếm cùng hút sách đã tỉa dần sinh khí không chỉ của gã mà còn đẩy mọi sự ra chỗ hư không. Cô chẳng còn gì ngoài mái nhà trống hoác, cùng người chồng hắt hiu sắp về cửa tử. Cô chẳng thể bỏ mặc cái thân xác bất động ấy mà đi làm! Cô cũng không thể buôn bán bất cứ thứ gì vì mọi cái đã được gã nướng sạch vào sòng bài cùng đám gái gú ngoài kia! Cô cũng chẳng thể nhờ vả ai, vì chính cô đã lìa bỏ mọi người mà bám theo hồn ma bóng quế. Rồi cô nghĩ dại rằng, cái thân xác đã lâu nay quên ôm ấp, biết đâu có thể tạm tìm cho cô một lối ra, cho dù có bi thiết khó lường!

Hôm sau thì Quỳnh dắt cô về nhà mình. Vừa bước chân ra khỏi phòng tắm mát rượi với chiếc khăn thơm tho quấn ngang mình, cô đã được anh trao tận tay bộ quần áo mới tinh. Lúng túng, cô trở lại phòng tắm rồi trở ra trong trang phục làm cô như thật mới và thật duyên dáng. Quỳnh kéo ghế cho cô ngồi khiến cô thắc mắc:

- Giờ… sao đây anh?

- Thì ngồi đây, kể lại cho tôi nghe chuyện hôm qua cô nói…

- Anh biết mà làm gì, với lại em còn phải về…

- Ừ, kể xong rồi về, vụ kia… từ từ đã chứ có sao đâu!

Câu chuyện buồn lần này lớp lang hơn khiến anh có thể nhìn sâu vào mắt cô mà cảm nhận được sự thật thà trong đó:

- Anh nói cho cô biết, cô gì nhỉ?

Cô thấy vui vui khi anh xưng anh với cô:

- Em tên Nhung…

- Anh nói cho Nhung biết, anh chẳng phải là cái thứ ăn chơi như, xin lỗi, như chồng cô đâu! Nhưng vô tình mà biết hoàn cảnh của em, anh nghĩ mình phải có bổn phận giúp em đôi chút.

Trong ánh mắt của Nhung, có cái gì lấp lánh như những giọt lệ sắp trào ra. Anh tiếp:

- Anh chẳng giàu có gì, nhưng những thứ anh có thì không phải tự tay anh làm ra, mà là của hai người phụ nữ tuyệt vời nhất trong đời anh. Do vậy, anh vừa có bổn phận gìn giữ, lại vừa có bổn phận dùng nó để giúp đỡ ai đó trong đời. Vậy, hàng tháng anh sẽ gửi em chút tiền để em chăm sóc cho chồng em. Và em chẳng có bổn phận phải… gì gì với anh cả! Anh nói vậy cho rõ, vì anh muốn mình xứng đáng với tình yêu mà vợ anh dành cho anh khi cô ấy còn sống. Anh cũng sẽ không sang nhà em, dù để săn sóc cho chồng em, vì anh không muốn em bị người đời dị nghị…

Nước mắt cô trào ra. Cô không thể hôn anh như rất muốn, cô lại càng không thể cùng anh ngụp lặn trong yêu đương để chứng tỏ lòng biết ơn của cô đối với anh. Cô ra về mà lòng trĩu nặng với lời nói với theo của anh:

- Nếu có việc gì cần thêm tiền, em cứ báo cho anh nhé…

Rồi chồng Nhung cũng ra đi như bao người trước đó. Nhung bận lòng vô cùng với người đàn ông tử tế kia. Nhưng anh vẫn giả ngơ trước những nài xin của cô. Cho đến một hôm, mọi sự lại mở toang ra một trang mới.

Cô đến nhà anh như mọi lần: đáng yêu và thùy mỵ. Giờ đây, cô đã tự tin hơn vì đã đi làm sau bao tháng ngày vất vả với kẻ liệt giường. Hôm nay là sinh nhật Quỳnh. Cô biết, vì có một lần được anh cho xem mấy tấm hình trong bóp, cô lén xem căn cước và ghi nhớ ngày tháng ấy trong đầu, rồi chờ đợi.

Cô tặng anh một chiếc sơ mi thật đẹp. Chẳng những thế, cô còn tậu cả một chai rượu để mừng sinh nhật người đã cứu vớt đời mình. Lạ thật! Đã lâu lắm, cả hai mới có một tối vui êm đềm như thế. Rồi chuyện đến cũng phải đến. Hai kẻ vô tình tìm thấy nhau, đêm nay mới thật sự có nhau trong cái tối như hũ nút, trên chiếc giường ngày xưa của vợ chồng Quỳnh. Tiếng họ thật thanh thản lạ lùng:

- Anh ơi, sao nó…xìu vậy?

- Ừ! Đó là kết quả của chiến tranh em à. Thế nên, em ở với anh là… phí lắm. Lấy chồng đi, anh lo cho…

Cô nhào lên trên người anh. Mắt cô như tóe lửa trong màn đêm:

- Anh Quỳnh! Anh mới thật là người chồng đúng nghĩa của em. Và đáng phục thay khi vợ anh vẫn yêu anh dù anh không được như bao người đàn ông khác.

Đột nhiên, cô bật dậy. Ngồi giữa giường, cô nói với vong linh người đã khuất:

- Chị Tâm ơi, cho em chăm sóc anh ấy nhé…

LAM TRẦN



ĐÀ NẴNG:

TỪ NÚI BÀ NÀ, BÃI NAM Ô, ĐẾN…

“HẢI-VÂN-QUAN”

Và Chùa Non Nước, có từ 130 năm trước,

với 5 ngọn núi Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

- tức Ngũ Hành Sơn...

Thắng cảnh ngay tại thị xã thì ít, nhưng đến Đà Nẵng du khách có thể xem nhiều thắng cảnh đặc biệt ở vùng ngoại ô Đà Nẵng. Ngoài thú tắm biển làm dịu mát làn da thớ thịt, hít thở không khí trong lành từ đại dương thổi vào, du khách đến Đà Nẵng có thể đi thăm các di tích lịch sử, cổ viện Chàm, nghĩa địa Y Pha Nho, núi Tiên Sa, bãi bể Mỹ Khê, Phú Lộc, Thanh Bình để ngoạn cảnh và tìm lại sự thanh thản của tâm hồn sau những chuỗi ngày chật vật vì mưu sinh, để cho tâm tư được rảnh rang, dù trong chốc lát, hầu có dịp nghiền ngẫm sự đời đổi thay qua các cuộc biến chuyển trong khi những nơi này vẫn thản nhiên thi gan cùng tuế nguyệt.

Trong những buổi chiều về, không còn gì thú bằng ngồi trên ghế đá, phóng tầm mắt nhìn những con tàu mang nhiều màu sắc lướt sóng tiến ra Cửa Hàn.

Du khách đi về hướng Bắc Đà Nẵng sẽ thấy Núi Bà Nà, trước đây là nơi nghỉ mát, khí hậu rất tốt, nay vì chiến cuộc chưa khai thác lại.

NAM Ô - một làng gần biển cách Đà Nẵng 15 cây số, có bãi bể đẹp, tại đây du khách có thể tắm bể leo núi, hóng gió và nhìn xa xa là Hải Vân Sơn.

HẢI VÂN QUAN - cách Đà Nẵng 19 cây số, đèo cao 496 thước, trên đỉnh đèo có thể chiêm ngưỡng cảnh núi non trùng điệp hùng vĩ. Ban đêm đứng trông ta ngoài phía biển nhìn thấy những đốm sáng từ các thuyền mành đánh cá hay từ những tàu lớn thuộc Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ, ánh sáng nhấp nháy qua sóng biển tựa hồ như muôn ngàn hạt kim cương lóng lánh sáng ngời.

Hiện này đỉnh Hải Vân sơn là nơi giao điểm hàng ngày của các chuyến xe hàng nối liền hai tỉnh Huế Đà Nẵng. Đặc biệt xuyên qua lòng Hải Vân sơn có một con đường dùng cho đường sắt xuyên Việt được xây dựng từ lâu và được gọi Hầm Sen.

NGŨ HÀNH SƠN - đi về phía Nam du khách có thể viếng thăm kỳ quan Ngũ Hành Sơn tức là Chùa Non Nước. Ngũ Hành Sơn cách Đà Nẵng 8 cây số gồm có 5 ngọn núi Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn và Thổ Sơn tượng trưng cho ngũ hành tinh của tạo hóa.

Muốn viếng Ngũ Hành Sơn từ Đà Nẵng phải qua cầu Trịnh Minh Thế rẽ về phía tay mặt. Chùa này có từ thời Minh Mạng cách đây 130 năm. Trong chùa có nhiều tượng Phật và nhiều động.

Trong năm 1957 một động mới thuộc đỉnh Kim Sơn được tìm thấy đó là động Quan Thế Âm. Tất cả những hang động ở đây đều có nhiều thạch nhũ hiện ra nhiều hình tượng được du khách hình dung là tượng Tề Thiên, tượng Quan Thế Âm, hình công múa phượng bay v.v...

LỆ NGỌC st.



NGƯỜI ĐÀN BÀ CUỐI CÙNG

Hoài Ly

Người đàn ông mặc trên người chiếc áo sơ mi cũ, nhầu nhĩ gương mặt khắc khổ lẫn buồn rầu, vai đeo túi vải đen, bồng trên tay đứa bé gái chừng hơn một năm đang khóc ngằn ngặt, mặc dầu anh ta cố ru dỗ đứa con cách vụng về nhưng mãi nó vẫn không nín mà ngày càng khóc lớn hơn. Anh thật lúng túng với đứa trẻ dẫy đạp hoài, bỗng chốc trời chợt đổ mưa lớn xuống chỗ hai cha con đứng, làm anh ta vội vàng lấy chiếc mũ đội đầu xuống che cho bé gái và chạy nhanh lại núp dưới hàng cây chuối mọc ven đường.

Người cha khổ sở cố lấy thân mình che cho con, ôm xiết con vào lòng mặc cho những hạt mưa to rơi vào quất lên đầu, lên lưng anh ta.

Mưa ngày càng lớn hơn, tiếng mưa hòa cùng tiếng khóc đứa trẻ làm anh não ruột, nhưng đành chịu. Nền trời xám xịt hiện lên một tia sét xé ngang bức màn dần đen kịt kèm theo tiếng sấm nổ ầm tiếp theo.

Cô gái đang ngồi trên bộ ván trong căn nhà tranh xiêu vẹo giật mình nhìn ra ngoài thấy bóng người đàn ông co ro bồng bế đứa trẻ dưới màn mưa, cô vội bước xuống chạy đến tấm vách nhà lấy cái nón lá, và chiếc áo mưa móc ở đó, rồi chạy mau đến chỗ hai cha con đứng, cô nói nhanh:

- Chú choàng áo mưa cho em mau đi, đội nón rồi vô nhà tôi trú đỡ, không thôi em bé bệnh bây giờ đó.

Vừa nói cô ta vừa đi mau trước dẫn đường. Người đàn ông ngập ngừng mất mấy giây, nhìn xuống đứa trẻ trên tay rồi cũng bước mau theo cô gái lạ.

Vào tới nhà, cô quay qua thấy người cha vẫn ôm đứa con thân mình ướt sũng, nước nhỏ giọt trên nền nhà, anh ta còn đứng lựng khựng mãi chẳng nhúc nhích, cô nói lớn:

- Chú mau đi, để bé ướt hết vậy hông tốt đâu.

Ông ta nghe vậy, liền bước tới tấm ván đặt con xuống, nó lại quẩy mình khóc lớn.

Cô gái liền giúp người cha cởi áo mưa đang choàng đứa trẻ ra, tay rút liền chiếc khăn bông lớn treo trên sợi dây thép trước mặt, tay kia cởi cái áo ướt đẫm của em bé, quấn vội thân hình nhỏ bé ấy trong khăn, xong đặt bé chỗ khô ráo, và như chợt nhớ ra, cô tập tễnh đi ngay vào bếp, nhúm lửa trong cái cà ràng, rồi bưng lên để trên bộ ván, dùng tay hơ ấm cho đứa bé con.

Ngoài trời vẫn còn mưa rả rích, gió lạnh thổi xào xạc trên những khóm chuối. Trong căn nhà tranh, đứa bé đã nín khóc, thiếp đi có lẽ vì quá mệt, thật đáng thương.

Lúc nầy, cô gái mới giật mình nhìn qua bên cạnh, người cha tội nghiệp ngồi thu mình ở mép bộ ván, đang run lên vì ướt, vì gió lạnh thổi tạt vào, không nói nên lời nào. Cô ấy vội nói:

- Xin lỗi chú tại tôi lo cho cháu bé nên quên, chú đợi chút xíu.

Nói dứt câu, cô đi vào trong, khi trở ra tay cầm một bộ quần áo nam, tuy cũ nhưng sạch sẽ, đưa cho anh ta rồi nói:

- Chú thay đồ ra đi, để mắc bệnh khổ lắm à.

Người đàn ông này còn do dự thì cô nói ngay:

- Chú đừng ngại gì hết, đây là quần áo của ba tôi để lại, tôi giặt sạch và cất giữ kỹ, chú thay lẹ đi.

Người cha bước vào trong, thay bộ đồ trên người. Thấy anh ta bước ra, loay hoay với đống quần áo ướt, cô gái mau miệng nói:

- Chú để đó, chút tôi giặt luôn cho.

Đến đây, con bé chợt cựa mình khóc thét. Cô vội vàng bước lại ẵm bé lên, định dỗ cho nó nín nhưng chợt cô la lớn:

- Chú ơi, sao bé nó nóng quá kìa!

Người cha liền tiến tới, đưa tay rờ trán, và mở khăn rờ khắp người con, hoảng hốt nói:

- Chết rồi, nó sốt quá, làm sao giờ đây?

Cô gái cũng lính quýnh, nhìn quanh, suy nghĩ chút xíu rồi nói:

- Chú để tôi tìm áo mặc cho cháu, xong nấu nước lau mát và đánh gió cho giảm sốt. Ở đây giờ nầy chỉ có thể làm vậy thôi hà. Chú đừng lo, tôi biết cách trị theo dân gian theo ba tôi chỉ.

Người cha thở dài:

- Cô giúp giùm cha con tôi với, chớ tôi không biết làm sao giữa trời đêm mưa gió thế này.

- Chú giữ bé để tôi tìm quần áo mặc cho ấm.

Cô ấy lại trở ra với bộ đồ trẻ em, miệng nói:

- May quá, có đồ của con người chị bà con ghé đây hồi tháng rồi để quên, tôi lấy cho cháu mặc đỡ.

Người cha mừng rỡ vội thay áo cho con trong khi cô ấy đi nấu ấm nước nóng để chườm cho đứa con gái nhỏ.

Cô cầm miếng chanh, biểu anh ấy lật người con bé lại, rồi chà mạnh chanh trên lưng, và khắp người em bé. Nhìn thân hình con dịu hoặt theo bàn tay cô gái vừa quen mà quá tốt vậy, lòng người cha đau nhói, mắt rưng rưng, nhưng cắn răng nén buồn trước nghĩa cử nầy.

Xong xuôi, cô bê lên thau nước nóng, nhúng cái khăn nhỏ vào nước vắt khô, xếp lại đặt lên trán đứa bé. Năm phút sau, thăm chừng thấy khăn khô, cô lại tiếp tục nhúng khăn đắp trán cho bé lần nữa, lần nữa... cho đến khi nước nguội, cô đi thay lượt khác.

- À, chú, chú đã cho cháu bé ăn gì chưa vậy?

Tới lúc này, anh ta mới nhớ ra cái túi vải nằm trơ nơi góc ván, anh vừa lục túi lấy ra cái bình sữa nhỏ vừa trả lời:

- Từ sáng đến giờ, cháu chỉ uống có một chút sữa rồi khóc và ói hết, mà cũng hết sữa rồi cô à, tôi cũng không biết chỗ nào có để mua cho con nữa.

- Ở chỗ đồng không mông quạnh nầy thì đâu có bán thứ gì, may ra ở chợ xã, huyện mới có thôi hà. Ráng hết đêm nay, sáng mai tôi ra chợ bán rau sẽ chỉ đường chú ra huyện, giờ tôi nấu cơm ăn và chắt nước cơm cho bé uống với muối đỡ.

Người cha thốt lên:

- Như vậy phiền cô, tôi ngại quá.

- Có gì đâu, tối rồi, tôi cũng ăn cơm mà, chỉ có rau mắm, chỉ sợ chú chê thôi.

Người đàn ông lặng im, vẻ ngại ngùng.

Không lâu sau, cô xuất hiện với mâm cơm, tuy chỉ có chén mắm nêm, đĩa rau lang luộc nhưng nóng hổi, cơm bốc khói thơm mùi gạo mới, bất giác anh ta thấy bụng đói cồn cào.

- Chú ăn trước đi, để tôi bón cho bé chút nước cơm, để nó bụng không, tội nghiệp.

Nói xong, cô ẵm đứa gái nhỏ, lay dậy rồi lấy nước cơm trong mâm, múc từng muỗng nhỏ đút cho bé, ban đầu nó hé mắt, dẫy mẫu nhưng sau có lẽ vì đói bụng nên chép miệng nuốt hết, cô đút thêm hai ba muỗng nữa thì bé nhè ra, tiếp tục ngủ thiếp, cơn sốt đã hạ bớt.

Người cha vẫn ngồi đó, bối rối. Cô gái lúc này, đã để em bé xuống, đắp lên mình nó tấm mền mỏng mới tinh, quay lại thấy cơm còn y nguyên thì cau mày:

- Bộ chú chê cơm tôi hả?

Người đàn ông giật mình liền giả lả:

- Tôi đâu dám vô phép ăn trước. Tôi đợi cô ăn chung chớ không chê đâu.

Cô ta nghe vậy, dịu giọng:

- Thôi cùng ăn đi chú, trễ rồi.

Bữa cơm tối cũng xong, cô gái nhanh nhẹn mang mâm ra sau bếp, rồi đi lau quét sạch sẽ bộ ván, mang ly nước mưa lóng trong cho vị khách không mời mà đến. Một lát sau, chờ anh ta uống xong, cô cất tiếng:

- Đêm nay chú nằm tạm ở bộ ván nghe, còn bé sẽ ngủ với tôi ở trong buồng để tránh gió, cũng để canh chừng cháu có sốt lại hay không.

- Cô cứ để cháu nằm với tôi ngoài nầy cũng được mà.

- Không được, ngoài nầy trống trải, gió lạnh, em nhỏ quá sao chịu nổi, bộ chú sợ tôi làm gì con chú hả?

Người cha xua tay, ngắt lời:

- Không, không đâu, tôi đâu có nghĩ xấu cho cô, chỉ sợ cháu quấy quá giấc ngủ cô thôi.

- Không sao, cứ vậy đi, mai phải đem bé đi trạm xá chú à.

- Thì thôi theo ý cô đi

Người con gái lặng thinh, đi ra ngoài kéo tấm phên cửa xuống, thắp chiếc đèn hột vịt để trên bàn nhỏ, rồi đem mùng ra giăng ở bộ ván, và nhẹ tay bế đứa nhỏ vào trong, tay kia xách theo cái đèn bão treo trên vách.

Người đàn ông đành thở ra nhìn theo, một lúc sau, anh ta vén mùng nằm xuống thì đã thấy tấm mền và cái gối để đó từ bao giờ. Anh gác tay lên trán, nghĩ ngợi rồi thiếp đi. Chợt có tiếng khóc trẻ con, anh tỉnh dậy, vội tốc mùng bước ra, đi lần vào buồng. Anh ta dừng lại nhìn vào, cô gái đang ôm đứa con của anh trong lòng cách trìu mến, miệng à ơi ru nó, nó trở mình ư e rồi như nghe tiếng hát nên im bặt, ngủ tiếp. Anh đứng tần ngần nhìn dáng nằm nghiêng mái tóc xõa dài ấy, thở mạnh, quay lưng đi ra ngoài, chui vô mùng định ngủ tiếp nhưng sao thao thức mãi đến sáng.

Tinh mơ, lúc cô gái thức dậy bế em bé ra, thì đã thấy người cha ngồi trên ván, mùng mền gối được xếp ngay ngắn bên cạnh.

- Chú định đi sao? Chú sẽ đi về đâu? Chú đem theo cháu bé đi xa vậy có tiện hôn?

Cô gái hỏi liền miệng rồi như nhận ra mình hỏi mà không để người đối diện kịp trả lời thật kỳ cục nên cô vội khỏa lấp:

- Xin lỗi chú nghe, tôi nhiều chuyện quá phải hôn, tại tôi lo cho em bé thôi, nó còn nhỏ quá.

Người cha vội nói:

- Không sao, tôi đưa con bé đi tìm mẹ nó, mà cả mấy tháng trời không gặp. Có người quen chỉ đường nhưng tôi tìm kiếm hoài đâu có được, còn thêm lạc đường đến tận đây lại bị mắc mưa, bé con thì bị bệnh, tôi đang không biết làm sao, may mà gặp cô đây có lòng cho trú đỡ một đêm.

Cô gái cảm thấy xúc động:

- Chú à, đây là ấp cuối của xã L., nên nó được gọi ấp Cùng, tới đây thì hết đường đi, phải trở lại đường cái, quẹo trái một quãng đồng, sẽ đến chợ xã, gần đó có trạm xá, chú đưa cháu vô trong đó cho người ta khám, xin thuốc uống, để lâu sợ nặng thêm, giờ thì tạm hết sốt, nhưng với thời tiết nầy... Chú nên đi mau đi, tôi đoán còn mưa nữa nên không đi bán rau, với lại hôm qua mưa lớn, đâu cắt rau được.

- Cám ơn cô giờ xin phép tôi đi đây.

Người đàn ông đeo túi vải lên vai, đội nón, tay bồng con gái bước ra đi theo hướng con đường cô gái nói lúc nãy.

Cô gái đứng tựa cửa nhìn theo bóng người đi cho đến khuất ở cuối đường.

Chợt nhớ điều gì, cô liền quay vào nhà vơ vội cái nón lá, áo mưa định chạy theo, nhưng chợt dừng lại, quay ra sau nhà dắt chiếc xe đạp khập khễnh đi ra. Cô trèo lên yên, nhấn bàn đạp chạy gấp về phía trước. Xa xa, thấy bóng người bước xiêu xiêu, tay bồng đứa trẻ, mừng quá cô gọi lớn:

- Chú gì ơi, chú đợi tôi với.

Rồi ráng sức chạy nhanh hơn, đến ngang người đang đi bên đường cô thắng xe lại, thở hổn hển nói:

- Chú để tôi chở đi cho mau đường còn xa dữ lắm, chú đi bộ biết chừng nào tới.

Người đàn ông đang đi, nghe tiếng nói kế bên, thoáng giật mình đứng lại:

- À! Cô. Có gì vậy, tôi đi bộ được mà.

- Chú ơi, còn xa lắm em bé cần được khám bệnh càng sớm càng tốt, cứ lên xe đi chú, tôi chở đến trạm xá mau.

Anh ta cứ đứng đó, làm cô gái sốt ruột giục:

- Lẹ lên chú, rủi mưa tới thì khổ.

Nghe vậy, anh ta liền leo lên yên sau, cô lấy trớn, hai bàn chân đạp mạnh pê đan chiếc xe ì ạch trên đường sình trơn ướt.

Ở trạm xá ra, ngang qua chợ nhóm cạnh đường, cô ta thắng gấp làm cả hai cha con đều giật nẩy mình con bé chợt khóc ư ướt.

- Chú đợi tôi ở đây nghe, tôi ra liền.

Rồi tập tễnh đi vào một cửa hàng nhỏ, lát sau trở ra, tay cầm một gói giấy bỏ vào giỏ xe

- Xong rồi, tôi và chú trở về nhà để cháu bé uống thuốc, nghỉ ngơi cái đã rồi đi đâu thì đi.

Anh ta nín im, theo cô gái trở về. Đến nhà, cô ngừng lại, xuống xe, tay lau mồ hôi trên mặt, rồi đem xe đạp đi cất.

Lúc trở ra, thấy người cha vẫn đang loay hoay với gói thuốc mới lãnh, cô lẹ tay giành lấy bịch nylon và toa thuốc của ông y sĩ đã ghi:

- Tôi có học chữ mấy năm, để tôi cho cháu uống, nhưng phải nấu nước sôi trước pha sữa cho con bé uống trước đã.

Cô thấy vẻ ngại ngùng của người cha nên cất tiếng:

- Tôi có tánh lanh chanh, ưa giúp người ta, chú đừng giận tôi nghe.

- Không đâu, tôi mang ơn cô không hết nữa là…

Nước sôi già, cô pha sữa cho bé đút từng chút cho đứa nhỏ uống no, rồi quay qua đọc toa thuốc, dò tên từng thứ, phân thuốc, tán nhỏ cho cháu uống xong thì ôm vào lòng ru ngủ. Đứa bé nằm im trong vòng tay cô ta. Thật lâu, cô mới dám đặt nhè nhẹ em bé xuống và âu yếm nhìn ngắm nó, nhủ thầm:

- Thật như là một thiên thần nhỏ.

Người cha cứ ngồi nhìn hoài vào các cử chỉ của người con gái mới quen đã nhiệt tình với hai cha con. Anh suy nghĩ hồi lâu, mới rụt rè nói nhỏ:

- Cô cho tôi gởi tiền hộp sữa của cháu.

Cô gái nghe vậy, liền gạt ngang:

- Có nhiêu đâu chú, tôi cho cháu vì thấy thương như em tôi vậy mà, chú trả tiền tôi buồn lắm đó.

Người đàn ông đành thôi, không nói thêm gì nữa. Cô lại đi vào trong đem ra một cái áo len mỏng màu hồng trẻ em, nói:

- Đây là áo ấm tôi mới móc xong hôm qua nè, đẹp hôn, tôi tặng cho bé mặc.

Người cha hết sức bối rối, muốn nói cám ơn, mà nghẹn ngào, chỉ ấp úng:

- Cô, cô à…

Cô gái tốt bụng suýt sặc cười trước vẻ mặt khó diễn tả của anh ta, cô ráng nín lại, quay mặt nơi khác.

(còn tiếp)

HOÀI LY


ĂN SỨA

NHA TRANG, KHÁNH HÒA

Nhiều người rất khoái ăn sứa nhưng ít ai biết đến đời sống của loài sứa.

Sứa trông như thực vật nhưng chính là động vật thuộc loại xoang trường (coelentérés) cùng với loại san hô. Thân sứa trong suốt như thủy tinh, mềm mại như chiếc lá mang đủ màu sắc từ xanh, hồng cho đến đỏ sẫm, tím và chứa bên trong đến 95% nước. Cho nên, nếu con sứa nằm phơi nắng trên cát khoảng 12 giờ liền thì tan dần, mỏng đét ra như tờ giấy bóng. Nếu đặt con sứa lên tờ giấy thấm, nó sẽ bị giấy hút và biến mất một cách kỳ lạ.

Đặc điểm của sứa là bộ tóc, nó có tính co dãn còn hơn cả sợi dây cao su. Một sợi tóc của nó dài có vài phân nhưng nếu kéo ra, dài cả mét. Còn đầu sợi tóc là mũi kim chích tự động chứa cả một ống thuốc độc, một cái cò, một ống giác nhỏ bằng cây kim cúc. Khi cò cử động, ống chích tự phóng ra, đầu ống giác gắn chặt vào da thịt kẻ thù mà không thể gỡ ra được, mãi cho đến khi chất độc chảy hết vào da kẻ thù thì ống giác mới rơi ra. Tuy nhiên, không phải sợi tóc nào cũng mang đầu ống giác, có thứ có mũi kim chích vào da như ong đốt, có thứ thì cuốn chặt lấy con mồi như rắn.

Đầu sứa giống hình chuông hay ô (dù) cũng trong suốt như thân sứa màu trắng đục và miệng sứa thông xuống dạ dày, một loại dạ dày rất đơn giản.

Vào mùa hè, sứa cái đẻ hàng ngàn trứng trôi nổi bồng bềnh trên mặt biển cả. Sứa đực dùng chất nhầy kết thành màn phủ lấy trứng. Các trứng sứa tự ấp như vậy trong một thời gian cho đến lúc nở ra thành con sâu mọc lông tơ, một loại sâu rất nhỏ nhưng bóng loáng, chìm vào lòng biển hay lẫn vào các hang đá ven gành. Tại đây, chúng bám chặt rồi nở ra 8 tay, dùng tay để bơi lội và bắt mồi, nhưng hình dáng thì chẳng khác nào loài thảo mộc. Khi lớn lên, chúng từ bỏ hình hài thảo mộc để trở thành động vật. Chúng lột xác một cách kỳ dị. Đầu tiên, chúng trở thành cái “đĩa” nhỏ màu trắng trong suốt như bằng thủy tinh. Mỗi “đĩa” bắt đầu chuyển động, tách rời xa nhau. Sau vài tuần bơi trong nước, chúng phồng lên, tóc mọc ra tua tủa để trở thành con sứa.

Hình dạng và kích cỡ của sứa thì rất khác nhau. Có con chỉ to bằng bàn tay, có con lớn hết cỡ, đường kính tới năm, bảy mét, nặng hàng trăm ký, trông giống như chiếc bè.

Trên mặt biển, đàn sứa nổi trôi trông giống như một vườn hoa đủ màu sắc - từ hồng sang đỏ sẫm đến xanh, tim tím. Sứa không có mắt, không có vây, không có xương, di chuyển bằng cách phóng đi như một “hỏa tiễn”.

Tạo hóa đã ban cho nó có tài bơi thật mạnh, để tránh mọi nguy hiểm như bão tố, sóng thần. Với thân hình mảnh mai như thế nhưng sức chịu đựng của sứa thì “vô địch” không bao giờ bị vùi dập đến rách nát, thương tích.

Đối với con người, sứa là một kẻ thù rất nguy hiểm. Chúng thường chích đốt những người bơi lội. Nhiều người bị sứa chích làm bỏng da hay bị dị ứng, ngứa ngáy khó chịu. Đôi lúc, người bị sứa đốt lên cơn động kinh bỏ mạng.

Sứa đối với người phương Tây chỉ có dùng vào việc bón phân cho hoa màu, ít ai nghĩ đến việc ăn nhậu. Riêng đối với người Á Đông, nhất là đối với người Việt chúng ta, sứa trở thành món nhậu thật tuyệt vời.

Vào mùa hạ, sứa nổi lên mặt biển thành từng bè. Ngư dân bắt lấy sứa đưa vô bãi, xẻ thịt, xắt thành từng miếng nhỏ để đem bán ở các chợ. Người ta đong sứa bằng một loại chén đất, giá mỗi chén từ một đến hai ngàn đồng tùy theo loại sứa chân hay sứa tai. Sứa tai thì mềm nhũn, mau tan hơn là sứa chân; sứa chân cứng, giòn, ăn như sụn.

Thịt sứa rất hiền và mát. Mua sứa đem về nhà rửa sạch cho ra hết nước biển và cát bám vào thịt. Nếu là sứa chân thì đem thái nhỏ, trộn chung với thịt gà luộc, thịt heo thái mỏng, thêm đậu phụng rang giã nhỏ, đu đủ bào, rau răm, chanh ớt, khế, dưa chuột… trứng vịt luộc với bánh tráng chín bóp nhỏ. Còn ăn theo lối bình dân, đơn giản thì dù là sứa chân hay sứa tai, chỉ làm nộm sứa bằng cách trộn với đu đủ bào, đậu phụng rang, rau răm, chanh, ớt… lai rai với bánh tráng nướng, khề khà với đế thì cũng… đủ thấy đất trời quay cuồng!

BÙI ĐẸP st.




Tranh của danh họa Nguyễn Khoa Toàn






Phụ Bản IV



Thế hệ của BỐ

Một hôm. cậu con trai hỏi bố của mình:

- Bố ơi, con không hiểu ngày xưa bố và mọi người sống như thế nào khi không có Internet, không có máy tính, không có tivi , không có điều hòa, không có điện thoại di động?

Người bố trả lời:

- Thì cũng giống như thế hệ ngày nay thôi con: sống mà không biết đến nguyện cầu, không có lòng trắc ẩn, không có danh dự, không có sự tôn trọng, không biết xấu hổ, không khiêm tốn và không thích đọc sách…

Thế hệ bố, và thế hệ trước, sinh ra trong khoảng thời gian từ năm 1945-1985 thật là may mắn, khi:

- Ai cũng không ngại đi học một mình từ sau ngày đầu tiên đến trường. Sau giờ học, ai cũng được chơi đến tận tối mịt.

- Không ai ôm tivi từ giờ này qua giờ khác. Và ai cũng có những người bạn thực sự chứ không phải với những người bạn từ Internet.

- Nếu như khát, bọn bố uống luôn nước máy, chứ không phải nước đóng chai. Bọn bố ít bị ốm, dù rằng hay ăn chung uống chung, như 4 đứa cùng uống chung 1 cốc nước quả. Nếu có ốm thì ông bà chữa bệnh cho bằng các loại thuốc rẻ tiền trong nước sản xuất, hay là bằng các bài thuốc dân gian. Bọn bố không bị béo phì, dù rằng ngày nào cũng chén căng bánh mì và khoai tây.

- Bọn bố chơi bằng các đồ chơi tự làm lấy và chia sẻ đồ chơi, sách truyện với nhau. Ngày xưa, các gia đình hầu hết là không giàu có. Nhưng các ông bố bà mẹ đã tặng cho con cái tình yêu của mình, dạy cho con biết trân trọng những giá trị tinh thần chứ không phải là vật chất, dạy cho con biết thế nào là giá trị thực sự của con người: Sự trung thực, Lòng trung thành, Sự tôn trọng và Tình yêu lao động.

- Ngày xưa, bọn bố chưa bao giờ có điện thoại di động, đầu DVD, trò chơi điện tử Play Station, máy tính, không biết thế nào là Internet, chat… Nhưng bọn bố có những người bạn thực sự, là khi: Thường đến chơi nhà nhau mà chả cần phải có lời mời, đến nhà ai gặp gì ăn nấy.

- Ký ức của thế hệ ngày đó chỉ là những tấm ảnh đen trắng, nhưng đầy ánh sáng và rực rỡ, ai cũng trân trọng lật mở cuốn album gia đình với sự thích thú, tôn kính, trong cuốn album đó luôn lưu giữ chân dung của ông bà cụ kỵ các con…

- Thế hệ bố không bao giờ ném sách vào thùng rác, mà đứng chồn chân trong hàng để mua sách, rồi sau đó đọc chúng suốt ngày đêm.

- Bọn bố không bao giờ đưa cuộc sống riêng tư của thiên hạ ra để đàm tiếu, cũng như biết giữ bí mật cuộc sống của gia đình mình, không phải như những gì bây giờ đang xảy trên Facebook và Instagram….

- Thế hệ bố, có lẽ, là thế hệ cuối cùng mà con cái biết nghe lời cha mẹ.

- Thế hệ bố, có lẽ, là thế hệ đầu tiên biết lắng nghe con cái.

- Thế hệ bố là như thế đó, là “phiên bản giới hạn”, vậy nên các con hãy biết tận hưởng những ngày bên bố mẹ, hãy biết học hỏi và trân quý… Trước khi thế hệ này biến mất, nhé con.

KIM SƠN st.


NỬA ĐỜI VỀ SAU

* Nửa đời về sau, hãy trầm tĩnh.

Đôi khi bị người khác hiểu lầm, đừng tranh luận. Trong cuộc sống, có nhiều chuyện khó có thể nói rõ ràng đúng sai, nhiều điều không hoàn toàn đúng hoặc hoàn toàn sai…

* Nửa đời về sau, hãy bình thản.

Người ta đến độ tuổi nào đó, tự nhiên không còn thích ồn ào. Tâm thái bình thản giúp con người khỏe mạnh, sống lâu. Cho dù đời sống vật chất dư dả hay túng thiếu, nội tâm bình thản là sống hạnh phúc.

* Nửa đời về sau, hãy biết nhún mình.

Bất đồng ý kiến với với con cái, mâu thuẫn với bạn bè, không sao cả. Khi đó bạn hãy về làm chút việc nhà… Trong lúc làm lụng, bạn sẽ thấy tâm trạng và suy nghĩ của mình dịu lại.

* Nửa đời về sau, đừng ân hận.

Cuộc đời là con đường dài với vô số ngã rẽ, và ta luôn luôn phải lựa chọn. Không có cơ hội nào lặp lại nữa, lựa chọn rồi thì đừng ân hận, cũng đừng nghĩ rằng muốn làm lại từ đầu.

* Nửa đời về sau, hãy tiếp tục tìm tòi, học tập.

Đọc sách xem báo, vẽ tranh, ca hát, nghe nhạc…tất cả những thứ đó đều có thể đem lại niềm vui, làm cho mình thư thái, dễ chịu.

* Nửa đời về sau, hãy đơn giản.

Suy nghĩ quá nhiều, chỉ làm cho đời mình thêm phức tạp. “Đơn giản” là một ân huệ mà trời ban cho chúng ta, sao lại bỏ nó đi. Cảm nhận món ngon, chơi vui đây đó, tán chuyện trên trời dưới biển với bạn bè…

* Nửa đời về sau, đôi lúc nên dễ dãi với mình.

Ăn trái cây, rau quả, thực phẩm lành mạnh là tốt rồi nhưng có lúc thèm thịt cá? Vậy thì cứ ăn đi!

* Nửa đời về sau, hãy ăn mặc đẹp.

Yêu cái đẹp là điều ta theo đuổi cả đời, đừng nghĩ mình có tuổi rồi không nên chưng diện nữa. Lúc lưng còn thẳng, chân còn khỏe, hãy mặc cho đẹp cho sang…

* Nửa đời về sau, đôi lúc ngờ nghệch một chút cũng chẳng sao.

Có những chuyện cần thờ ơ thì thờ ơ. Cái gì không làm rõ được thì thôi, kệ nó. Mình có thể quên đi ai đó thì quên đi. Nếu chỉ biết nhớ không biết quên, chỉ biết tính toán chi li, mà không biết phiên phiến cho qua, chỉ biết khôn khéo mà lại không biết vụng về… thì cuộc đời nặng nề, còn lúc nào được thanh thản.

* Nửa đời về sau, hãy mong điều may cho người khác.

Ta đối với đời thế nào, đời cũng sẽ đối với ta như thế. Hãy khen bạn bè, khen con cháu, thậm chí cả người xa lạ cũng đừng tiếc một lời đẹp! Khi mình làm cho người khác vui, mình sẽ nhận ra rằng mình cũng vui…

Quan Thúy Mai st



BÀI THUỐC ĐƠN GIẢN

TRỊ GÚT

Bài 1

- 100g lá trầu xắt nhuyễn

- 1 trái dừa nạo (loại dừa non dùng để uống nước), vạt mặt đi, cho trầu đã xắt nhuyễn vô, đậy nắp lại, để 30 phút rồi chắt lấy nước uống.

Uống buổi sáng khi chưa ăn gì. Sau khi đi tiểu thì mới ăn sáng.

Uống 7 ngày liên tiếp. Bệnh này thuốc Tây trị không hết nhưng có nhiều bài thuốc Nam trị hết, đây là cách mới nhất.

Bài 2

Mỗi ngày chỉ cần ăn 2 lá rau má, ăn chừng 1 tháng.

TRỊ SƠ GAN CỔ TRƯỚNG

(UNG THƯ GAN)

Vật liệu:

- Mắt mía (loại nào cũng được)

Nam: 7 mắt mía

Nữ: 9 mắt mía

- Dừa xiêm (lấy nước) 1 trái. Nếu dừa nhỏ 2 trái

Cách nấu:

Cho cả mắt mía + nước dừa vào chung nấu còn lại khoảng 1 chén. Để nguội uống cứ thế uống trong vòng 3 ngày.

- Hiệu quả xẹp bụng và khỏi bệnh ngay.

Cách trị tuy đơn giản nhưng rất hiệu quả. Mong quý bệnh nhân thực hiện để khỏi bệnh.

Tâm Nguyện st.


NHỮNG LOẠI THỰC PHẨM

GIẢI ĐỘC HIỆU QUẢ

1. ĐẬU XANH:

Thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, trừ phù thũng, lợi tiểu, chữa lở loét, trị cảm nắng và giải khát tuyệt vời… Cháo đậu xanh là món rất tốt cho mùa hè, có thể ăn với đường hay ít ruốc thịt. Chè đỗ xanh cũng ngon và hạ khí rất tốt… Khi làm không nên nấu lâu quá sẽ làm giảm các tác dụng tốt.

2. ĐẬU ĐỎ:

Cũng có tác dụng lợi tiểu, giảm táo bón, thúc đẩy dạ dày co bóp; trị được các chứng mụn lở, thủy thũng, đi tả, đau buốt cơ thể, nôn mửa… Cháo đậu đỏ giúp tiêu phù nước tiểu, tránh độc. Hãy ngâm đậu đỏ qua đêm, vớt ra rửa sạch, ninh thành chè không đường, ăn để giải độc rất tốt.

3. ĐẬU ĐEN:

Trừ phong nhiệt, giải độc, nhuận tràng và dùng làm thuốc bổ dưỡng rất thích hợp với người thận yếu hư, suy nhược khi cảm nặng. Xôi đậu đen, cháo đậu đen, chè đậu đen đều là món ăn rất tốt trong mùa hè, giúp nhuận tràng, lợi tiểu - thích hợp với mọi lứa tuổi; kiên trì ăn đều hằng ngày chữa trĩ chậm nhưng chắc chắn và tốt hơn hẳn cắt, thắt (cắt, thắt là can thiệp thô bạo).

* Kết hợp đậu xanh, đậu đỏ và đậu đen.

Mỗi thứ 100gr nấu chung với cam thảo, ăn cả cái lẫn nước, để phòng các chứng bệnh mùa hè rất tốt.

4. GIÁ ĐỖ:

Thanh nhiệt, giải độc, là loại thực phẩm cung cấp nhiều vitamin C và E.

5. ĐẬU NÀNH (Đậu tương):

Nhuận tràng, bổ trong, giải độc, thích hợp với mọi lứa tuổi. Đậu nành là loại thực phẩm tuyệt hảo làm giảm nguy cơ mắc các bệnh: ung thư, tim mạch, “gout” (thống phong), thận và chứng thừa cholesterol. Đậu nành rất cần thiết cho trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ chậm phát triển. Cháo đậu nành giúp nhuận phế, tiêu đầy chướng hơi, lợi tiểu. Sữa đậu nành có vitamin A, B1, B2, D, PP, K, F và các men có ích cho tiêu hóa.

6. HẠT KÊ:

Không có cám nên không kích thích thành ruột. Đặc biệt kê có nhiều chất xơ ôn hòa nên rất dễ tiêu hóa, giải độc rất tốt. Ăn cháo kê làm trắng da phụ nữ, lại cũng giải độc, thanh nhiệt, lợi tiểu và bổ nữa.

7. GẠO NỨT (Lức):

Là gạo còn nguyên cám, không giã, có hàm lượng chất xơ phong phú, có tác dụng hút nước, hút mỡ nên giải độc tốt và rất có ích cho người hay bị táo bón. Sáng ăn bát cháo gạo nứt hay uống cốc sữa đậu nành pha gạo nứt là cách giải độc tốt nhất.

8. CÀ-RỐT:

Chứa nhiều carôtin- β, nên cải thiện táo bón, bài trừ được chất độc. Nhưng chỉ cà-rốt tươi mới có tác dụng giải độc tốt nhất. Có thể dùng nước ép cà-rốt pha thêm mật ong, nước chanh… vừa ngon, vừa giải khát lại vừa giải độc.

9. CỦ ĐẬU:

Vị ngọt, tính mát; có công dụng giải nhiệt, giã rượu rất tốt; có nhiều chất xơ, rất tốt cho tiêu hóa, giúp dạ dày co bóp tốt, lợi cho đại tiện. Có thể ăn sống, làm gỏi, nấu canh, xào với thịt hoặc rửa sạch rồi ép lấy nước uống giải khát. Nướng thì để nguyên cả vỏ, ăn ngọt và rất mát.

10. LÁ CỦ ĐẬU:

Cũng có rất nhiều chất xơ, lại không đắng, chát - khi ăn sẽ có cảm giác no bụng, thúc đẩy dạ dày co bóp, phòng chống được táo bón. Rửa sạch lá củ đậu, nhúng qua nước đang sôi, trộn lẫn với tỏi đã băm nhỏ cùng ít dầu ô-liu, là ta có món “xa-lát” vừa ngon, vừa bổ.

11. NGÓ SEN:

Cũng lợi tiểu, lại có tác dụng đẩy các chất phế thải ra ngoài để làm sạch máu. Dùng dưới dạng sắc uống thay trà, nấu thành chè, nấu canh xương, làm gỏi hoặc rửa sạch rồi ép lấy nước và thêm mật ong để uống.

12. LÁ CẢI CỦ:

Có hàm lượng vitamin và xơ vô cùng phong phú khiến ăn ngon, thúc đẩy dạ dày co bóp tốt và cải thiện táo bón. Ngoài nấu canh còn có thể ép lá cải củ thành nước, thêm chút mật ong, vừa giải độc mà lại rất bổ.

13. CẢI CỦ:

Rất lợi tiểu, nhiều xơ nên chống táo bón tốt, đồng thời có cả tác dụng chống béo. Để giải độc tốt nhất nên ăn sống hay ép thành nước, hoặc làm “xa-lát”.

14. CẢI CÚC:

Chứa nhiều vitamin A, có tác dụng bảo vệ gan. Nên chế biến thành những món canh hợp khẩu vị ăn hàng ngày.

15. GIẤM:

Cũng giúp lợi tiểu, ăn vào có tác dụng tăng cường trao đổi chất, thải các acid có hại, giải tỏa mệt mỏi. Sau mỗi bữa ăn, chiêu một ngụm giấm ăn sẽ rất có ích cho sức khỏe.

PHÙNG CHÍ TÂM st.



CHIM CƯU

loài chim chung tình

Trong Kinh Thi có câu: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu; yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”.

Nghĩa là: “Ríu rít như chim thư cưu kêu ngoài bãi sông. Người con gái dịu dàng đoan chính sánh đôi cùng người quân tử”. Câu này dùng để khen một cung phi của vua Văn Vương có phẩm hạnh đoan chính. Thi sĩ Tản Đà giảng ra theo thể thơ lục bát dưới đây:

“Quan quan cái con thư cưu,

Con trống con mái cùng nhau bãi ngoài,

Dịu dàng thục nữ như ai,

Sánh cùng quân tử tốt đôi vợ chồng”.

Giống chim thư cưu thường ở dưới nước hay ở các bãi sông. Giống chim này đẻ ra từng đôi một, con trống con mái, và chỉ đi từng đôi, không bao giờ đi lẻ. Đặc biệt nhất là đôi này không bao giờ đi với đôi khác. Đời nhà Hán, Mao Trạch làm truyện chú thích Kinh Thi có nói loài chim thư cưu rất thân với nhau nhưng cũng rất phân biệt. Trong “Liệt Nữ truyện” có ghi loài chim thư cưu không bao giờ bốn con cùng đậu chung một cành, và không bao giờ trông thấy giống thư cưu đi lẻ.

Vì giống thư cưu có đức tính tốt và có phân biệt như vậy, nên người xưa thường dùng để ví với người thục nữ và trang quân tử cùng kết làm vợ chồng: thuơng yêu nhau rất mực nhưng rất phân biệt và cung kính nhau.

Những thi sỹ, văn nhân dùng danh từ “Hà Châu” để nói vợ chồng gìn giữ tình nghĩa với nhau. Mà “Hà Châu” là rút ra từ mấy câu trên vậy.

HOÀNG CHÚC s t.


Ngày của Bố

Chủ nhật 16/6/2019

Con ơi…

Trên con đường nhựa bố con ta đi qua mỗi ngày, biết bao nhiêu bánh xe lớn bánh xe bé lăn qua nhưng chẳng thể nào cản được những rễ cây to đội lên làm nứt toác mặt đường.

Trên con đường ấy có những cơn mưa, cơn mưa đầu mùa làm cho cha con ta có khó khăn trên đường đi nhưng người nông dân sau những cơn mưa ấy thường đi vào rừng thu hoạch nấm mối. Những cây nấm mỏng manh ăn ngon, dai như những thớ thịt gà vậy mà nó đủn cả mảng đất đỏ thật dầy thật to… lúc trước bố phải dùng hết sức mới cuốc được miếng đất ấy.

Mạnh mẽ hơn là nhưng búp măng tre từ từ đâm lên như muốn phóng lên tới cõi trời cao thăm thẳm…

Những con ve sầu sau nhiều năm ở dưới đất sâu có loài từ 2-5 năm, có loài từ 12-15 năm mới trồi lên mặt đất sau khi mảnh đất đã được cơn mưa thấm làm mềm đất...

Bướm, chuồn chuồn cũng như thế sau khi tự chui ra khỏi kén chúng mới có sức khỏe còn không chúng sẽ chẳng bao giờ bay được vì không đủ sức tự mình thoát khỏi bước đầu tiên.

Con gà, con chim, con rùa, cá sấu… bước đầu tiên là phải tự mình phá vỏ bọc của chính mình để tạo ra nội lực cho những bước đi kế tiếp. Đó là thử thách, bài học thứ nhất dành cho những kẻ muốn trở nên mạnh mẽ…

Hai quả bom được thả ở Hiroshima và Nagasaki. Hai thành phố tan hoang chẳng còn tí gì là sự sống. Nhưng rồi có một cây tự vươn lên trên đống tro tàn đó chính là cây bạch quả (Ginkgo - Ngân hạnh) nằm cách bãi bom ở Hiroshima khoảng một dặm, sáu cây bạch quả dường như bị thiệt hại khá nặng trong vụ nổ. Nhưng điều ngạc nhiên hơn là tất cả chúng đều còn mầm sống, những chồi non nhanh chóng xuất hiện, mọc đè lên những thân cây bị cháy. Cũng vì điều này, cây bạch quả đã trở thành biểu tượng cho hai từ “hy vọng” ở đất nước mặt trời mọc.

Ở VN ta cứ một ngôi nhà phá đi chuẩn bị giấy tờ để xây dựng thì thế nào cũng có một loạt cây mọc lên. Một trong những cây vươn nhanh nhất, cho quả nhanh, và có tán rộng và mát chính là cây trứng cá hay còn gọi là cây mật sâm. Quả và lá chứa nhiều chất chống oxy hóa. Chữa trị được nhiều loại bệnh như ung thư, gút… Ai muốn có bóng mát nhanh thì trồng cây trứng cá…

Trên đây là những bài học về sự sống các loài cây, các con vật mà kiến thức phổ thông con đã học bố chỉ nhắc sơ lại thôi. Còn sau đây là nội lực đức tin mà con đã được đánh dấu trở thành người con của Thiên Chúa sau 1 tháng chào đời.

Sau khi CGS chết mọi việc tưởng chừng như kết thúc nhưng rồi một ngày kia các môn đệ từng chạy trốn của Ngài đã túa ra khắp mọi ngả đường, đi ra muôn nước để rao giảng về chính người đã chết ấy… Các môn đệ đã có một nội lực khủng khiếp khi dãi dầu với chính người thầy ba năm trời trên khắp mọi nẻo đường, chịu đói, chịu khát… chịu tử nạn như chính thầy của mình đã chịu. Có những lúc tưởng như sự truyền rao của các tông đồ kết thúc khi các ông đã bị chết hết. Nhưng máu các Ngài đã là những dưỡng chất quý báu để trổ sinh các mầm sống mới. Để rồi ngày nay biết bao nhiêu thế lực muốn đè bẹp đã không thể nào đè bẹp được.

Đó là sức mạnh, những nội lực…

Vậy nội lực này lấy từ đâu?

Nội lực này phải tự luyện hàng ngày cũng như kiến thức phải nạp đều đều từ con chữ đơn đến con chữ kép, từ bài toán giản đơn đến những bài phức tạp… chẳng phải một sớm một chiều mà ta đã làm ngay được những việc khó cũng như người học võ luyện công, đấm bao cát lúc đầu thật đau tay nhức ráo mình mẩy, nhưng sau này tăng dần đấm vào tường hay vào thân cây cũng bình thường thôi. Trong tiểu thuyết võ thuật Kim Dung hay kể lại những kỳ tích được ăn nhân sâm ngàn năm, uống huyết rắn thần hay được một cao nhân truyền công lực suốt đời cho ai đó trước khi chết khiến cho người này công lực trở nên thâm hậu trong thời gian rất ngắn… đó chỉ là truyện kể chơi cho hấp dẫn cho ly kỳ thôi chứ trên đời này đều phải tập luyện hết. Ngay cả chờ sung rụng vào miệng cũng phải tính toán há miệng sao cho khi gió thổi trái sung phải rớt đúng vào miệng cả là một sự cố gắng chứ đừng tưởng bở!!!

Nhân ngày này bố lượm được trên Internet

NHỮNG ĐIỀU CẦN NÓI VỚI CON

1. Con nên học hành tử tế vì không ai có thể lấy kiến thức của con đi.

2. Con không nên sử dụng tiền nếu đó không phải là của con.

3 . Con nên khép miệng khi ăn để giữ được phép lịch sự.

4. Con hãy biết dành dụm tiền để dùng cho những ngày khó khăn.

5. Đừng bao giờ nhận kẹo từ người lạ.

6. Đừng vừa đi vừa ăn vì như thế sẽ không biết được điều gì sẽ xảy đến với con.

7. Con hãy biết trân trọng người khác thì con sẽ nhận lại điều con muốn.

8. Con có thể làm được mọi thứ nếu con muốn và quyết tâm.

9. Mọi thứ đều có giá của nó.

10. Hãy luôn cười thật tươi mỗi ngày.

11. Có hai vấn đề cần con đặc biệt quan tâm đó là tài chính và sức khỏe của con.

12. Sự nhã nhặn và từ bi không tốn gì cả.

13. Hãy cư xử với người khác như cách con muốn họ làm với mình.

14. Con chỉ đạt được thành công khi con bỏ công sức.

15. Chỉ “muốn” sẽ không mang lại thành công cho con mà con cần “hành động”.

16. Hãy luôn cư xử tốt với tất cả mọi người.

17. Đừng nhìn chằm chằm người khác vì như vậy rất bất lịch sự.

18. Hãy giữ cửa khi mở, đặc biệt khi còn người khác đang bước vào.

19. Hãy thành thật với chính bản thân mình.

20. Hãy cảm ơn khi con được khen ngợi.

21. Cuộc đời quá ngắn, thế sao con phải buồn rầu.

22. Hãy khen ngợi người khác vì như thế con sẽ mang lại niềm vui cho họ.

Chopin luyện đàn 18 tiếng trong 1 ngày! Ngồi được 18 tiếng trong 1 ngày cũng đã là thiên tài rồi và người ta cho rằng thiên tài chỉ có 1% còn bao nhiêu là phải do chuyên cần hết. Người ta có thể mua được bằng này bằng nọ nhưng chẳng thể nào mua nổi kiến thức. Mua được bằng cử nhân, tiến sĩ âm nhạc nhưng chắc chắn không thể đánh đàn một bản nhạc hay được!!

Hà Mạnh Đoàn



GIẤC MƠ ĐỔI ĐỜI

- Tôi không thể tha thứ được!

Thành nói với một âm vực nhỏ gọn nhưng lạnh và sắc, cộng với nét mặt gần như đóng băng làm Huyền như va phải một bức tường rắn khiến cô phải thụt lui hai bước... Cô ngó trân trân vào gương mặt người đàn ông đã có cùng cô hơn mười năm chung sống, hơi thở cô ứ nghẹn trọng cổ họng, tay chân không kềm nổi một độ rung cho dù nó đã được cố gắng hết mức. Bỗng có tiếng một đứa trẻ từ ngoài cổng chạy vào liến thoắng:

- Ba ơi… ba ơi, chú Tân cho con bong bóng nè ba ơi…

Huyền quay ngoắt và sụp xuống để đón lấy đà chạy của đứa con gái, chỉ nhanh hơn một giây, Thành đứng ngáng trước mặt Huyền dang tay ôm bổng đứa bé, và cũng vẫn giọng nói sắc gọn, nhỏ nhưng sức nặng của nó đủ đè bẹp niềm khao khát trong lòng người đàn bà:

- Cô đi đi, từ nay nó là một đứa trẻ mồ côi.

Rồi không một chút trù trừ để có cơ hội cho một lời van xin, Thành quay lưng khuất nhanh sau cánh cửa để vọng lại một âm thanh khô khốc lạnh lùng. Huyền đổ sụp xuống chết lặng giữa mảnh sân hoe hoe vài sắc hoa trong chiều nắng nhạt. Tiếng con gái hồn nhiên sau cánh cửa làm quặn thắt cả ruột gan, Huyền ôm bụng cong gập người, cô muốn khóc mà không thể nào bật ra được thanh âm đang dồn thành những tiếng nấc khùng khục trong cổ họng. Một lúc sau, cô đưa mắt đờ đẫn nhìn ngôi nhà sang trọng đến xa lạ, câm lặng đến tàn nhẫn, ngôi nhà mà cô ngỡ rằng sẽ rộng cửa đón cô sau bảy năm lênh đênh ở xứ người. Vậy mà… Huyền biết rất rõ tính Thành, cô không thể lay chuyển bức tường đá trong anh, nhưng cô cũng không thể trách oán anh, anh không hề có lỗi, tất cả những tội lỗi thuộc về cô, cho dù động cơ và mục đích nó là gì đi nữa thì cũng không thể bào chữa cho những hành vi của một người đàn bà đã phản bội lại tình yêu và lòng tin của người chồng. Trời sẫm dần, cánh cửa kia đã không một lần hé ra, Huyền ôm mặt, chống tay đứng dậy, thất thểu bước ra ngoài cánh cổng...

Thành nhè nhẹ rút cánh tay ra khỏi đầu bé Thúy, nhè nhẹ ngồi dậy, sửa lại đầu con trên gối, kéo thêm mép chăn lên ngực cho con rồi nhè nhẹ bước ra khỏi giường, giắt cẩn thận chân mùng, rồi lại nhè nhẹ khép cửa phòng. Ra phòng khách, Thành ngồi vật trên cái ghế salon, mắt đăm đắm nhìn lên trần, rồi lại nhìn quanh những đồ vật trong căn phòng. Những thứ đồ vật mà khi mua chúng về anh hồ hởi bao nhiêu thì bây giờ anh căm ghét chúng bấy nhiêu. Anh biết mình vô lý, vì những thứ vật dụng vô tri này nào có lỗi gì, chúng chỉ có một nhiệm vụ là đem lại sự thoải mái cho con người khi sử dụng chúng. Như cái ghế salon anh đang ngồi đây, rõ ràng là êm ái hơn rất nhiều so với những cái ghế gỗ thô kệch ngày xưa. Thành ôm đầu trong sự hỗn lọan của bao hình ảnh cũ mới. Trời ơi! Anh muốn la hét, muốn đập phá, muốn làm một cái gì đó thật điên cuồng để trút xả những đớn đau trong lòng, nhưng anh không thể, không thể, vì đứa con gái bé bỏng tội nghiệp đang ngon giấc trong phòng kia, và vì những ô cửa hàng xóm sẽ sẵn sàng thập thò, và những tiếng cười đầy ngạo nghễ chế giễu sẽ sẵn sàng xa xả quanh anh, như tiếng cười đểu cáng khốn nạn mà anh đã nghe phải ấy… ôi tiếng cười... tiếng cười quái ác ấy cứ lồng lộng trong tri giác anh. Thành bất chợt đập liên hồi đầu mình xuống nệm ghế salon, và hàm răng thì nghiến chặt đến rung người…

Huyền thở dài nhìn mớ rau và mấy con khô quắt trong tay mình, rồi lại liếc nhìn cái phản thịt tươi roi rói, đầy ngồn ngộn với bàn tay thoăn thoắt thái cắt của người bán hàng, bắt đôi chân mình dời đi mà ánh mắt còn luyến tiếc, thôi về vậy, còn hai ngày nữa mới được rờ vào nó. Hai ngày nữa là thứ bảy cuối tuần, là ngày cả nhà được phép có một thực đơn hấp dẫn hơn những ngày khác. Một bữa cơm đơn giản, nhanh chóng hoàn tất, cũng vừa lúc Thành đẩy cái xích lô vào bóng mát của cây trứng cá trước nhà, lôi cái mũ trên đầu xuống lau những gịọt mồ hôi tuôn thành dòng trên má. Huyền đón chồng với nụ cười và câu hỏi đầy quan tâm như thường lệ:

- Anh mệt lắm không? Hôm nay có khách nhiều không anh?

- Ừ cũng tàm tạm, cơm xong chưa em?

- Có hôm nào anh về mà chưa có cơm đâu, chưa có làm sao yên với cái tật háu đói của anh chứ.

Thành cười, khẽ cụng mũi vào má vợ, Huyền sung sướng nhưng tỏ vẻ thẹn thùng khẽ ẩy chồng ra:

- Anh này… đi rửa mặt cho mát đi rồi ăn cơm.

Khi cả hai vợ chồng đã ngồi vào mâm, nhìn những thứ thức ăn quen thuộc trên mâm, Thành ái ngại xoa tay vào bụng vợ:

- Cứ ăn uống hoài như thế này làm sao em đủ sức khỏe cho con?

- Anh đừng lo mà, một tuần chỉ cần một chút thịt cá bồi dưỡng là cũng đủ cho mẹ con em khỏe lắm rồi.

Thành lại khẽ thở dài:

- Lúc trước mà biết lấy anh em phải khổ thế này thì anh nhường em cho tay Hấn để em đỡ khổ.

Huyền làm mặt giận:

- Anh có thôi đi không? Em có phải là một con mèo đâu mà nhường chứ.

- Anh xin lỗi, xin lỗi, anh vui miệng nói thế thôi, chứ có cả đống vàng anh cũng chẳng chịu nhường em cho ai đâu. Thôi cho anh ăn cơm đi, anh đói lắm rồi.

Huyền còn ngúng nguẩy, nhưng tay thì xới cơm và mắt thì liếc chồng một cái thật ngọt. Thành cười xòa đón lấy chén cơm lùa vào miệng từng miếng ngon lành.

Mấy tháng sau, chiếc xích lô của Thành chở một vị khách đặc biệt, vị khách này mặt tái mét, tay ôm bụng cố nén nhưng những tiếng rên cứ bật ra đầu môi, và Thành lần đầu tiên tham dự một cuộc đua cua-rơ xích lô với cái đích là bệnh viện phụ sản, rồi phần thưởng cho anh là một cô con gái xinh xắn, để cả nhà lại vui sướng bồng bế nhau lên chiếc xích lô trở về căn nhà gỗ nhỏ nhoi trong cái xóm lao động nghèo.

Có thêm đứa bé, có thêm những tiếng cười và cũng là thêm những khoản chi phí khác. Nhiều ngày trời mưa không có khách, Thành lại cọc cạch cái xe về nhà với một khoản tiền vay nóng. Đứa bé được một năm tuổi, Huyền đeo con sau lưng lăn lóc với mớ tôm con cá trong một khu chợ gần nhà. Cũng chẳng đến đâu khi bé Thúy lại hay ốm vặt. Nợ ít rồi nợ nhiều, những lúc không có khách Thành làm thêm việc bốc vác ở các vựa trái cây. Công việc nặng nhọc nhưng cũng góp phần giảm bớt chút khó khăn. Buôn bán ở chợ, Huyền lọt vào tai đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Rồi một hôm, Huyền nói với chồng:

- Anh à, mình phải tính cách khác thôi, chứ vất vả cực nhọc như vầy hoài mà có đủ thiếu vào đâu đâu.

- Cách gì? Anh thì có làm được gì hơn ngoài những công việc hiện thời, còn em vừa lo cho con vừa chạy chợ, còn thời gian công sức đâu mà làm thêm được cái gì khác.

- Em nghe người ta nói đi xuất khẩu lao động cũng được lắm anh à.

- Cái gì? Thôi, thôi đi. Dứt khoát là không tính đến chuyện đó được đâu. Lấy tiền đâu ra mà đóng, rồi họ đưa đi tít mút mù xa nào thì anh biết đâu mà tìm. Không được, em đừng có nghĩ tầm bậy vậy nữa nghe.

Nhưng Huyền vẫn nghĩ, mỗi khi nhìn cảnh nhà mình, nhìn đứa con nheo nhệch, thì ý nghĩ ấy trong cô lại càng nóng bỏng hơn. Vả lại, một chút ghen tị thường tình của đàn bà khi nhìn chung quanh mình những cô nàng láng lẩy áo quần, xủng xẻng vòng xuyến. Phải có tiền, phải có thật nhiều tiền, bởi so về nhan sắc cô nào có kém thua ai, ngày cô làm đám cưới với Thành là ngày đau buồn nhất cho những chàng trai kém may mắn, đặc biệt là Hấn, người mà thỉnh thoảng Thành đem ra nói đùa với cô. Hấn hơi xấu trai, lại là thành phần côn đồ trong trường, nhưng nhà hắn giàu có nhất nhì trong vùng, hắn si mê cô đến điên dại, cũng đã nhiều lần đón đường hành hung Thành, nhưng những điều đó chỉ làm Huyền thêm khinh ghét và xa lánh hắn. Sau đám cưới cô ít lâu, hắn bỏ đi đâu mất. Có đôi lần Huyền thoáng nghĩ, nếu ngày ấy cô lấy Hấn thì sao nhỉ? Nhưng rồi cô gạt nhanh suy nghĩ ấy, không thể nào, Hấn không thể đánh đổi được tình yêu nồng đậm của cô và Thành suốt năm năm, cho dù biết trước sẽ phải khổ nhiều vì cái nghèo của Thành, Huyền vẫn không hề ân hận khi nhận lời lấy anh. Nhưng giờ thì phải khác, tình cảm là tình cảm, còn cuộc sống vẫn là cuộc sống vẫn có những đòi hỏi nhất định của nó, cô không thể sống mãi trong cảnh bần hàn này, còn bé Thúy nữa, nó sẽ có một tương lai như thế nào khi cha mẹ nó cứ mãi chật vật với từng miếng cơm manh áo như bây giờ? Bao đêm trằn trọc, bao ngày suy tính, cuối cùng Huyền quyết định một việc quan trọng mà không có sự đồng ý của chồng, cô thầm nhủ rồi anh sẽ hiểu mà thông cảm cho cô thôi, suy cho cùng cô đâu chỉ vì riêng bản thân mình. Và thế là Thành tê tái khi một hôm về nhà được người hàng xóm trao lại con cùng với một bức thư của vợ. Tuy rất giận, nhưng anh hiểu rằng sự thúc bách của hoàn cảnh đã tạo nên sự thể. Vất vả hơn với cảnh gà trống nuôi con, nhưng rồi anh cũng dần nguôi ngoai khi những đồng tiền đầu tiên Huyền gửi về từ một địa danh có những chữ khó đọc. Đổi giận thành thương Thành luôn thư từ động viên an ủi vợ, anh cũng mong một cuộc sống hoàn toàn khác đang thay đổi dần dần trong ngôi nhà. Thôi thì… vợ chồng còn sống với nhau cả đời mà, hy sinh vài năm để có được sự đổi đời âu cũng đáng.

Về Huyền, khi bắt đầu bước chân đi, cô đâu biết mình phải trải qua nhiều truân chuyên đến thế. Đầu tiên cô nhận giúp việc nhà cho một gia đình, lúc đầu cũng gặp khá nhiều khó khăn, nhưng được sự giúp đỡ của những người cùng cảnh ngộ, cô cũng quen dần. Nhưng đến một ngày kia, cô bị ông chủ nhà ấy làm nhục. Đau đớn, Huyền định tự tử, nhưng nghĩ đến chồng con ở nhà, cô lại cắn răng chịu đựng, nhưng rồi câu chuyện võ lở, cô bị một trận đòn ghen thâm tím và bị đuổi ra đường chỉ với một bọc quần áo. Chơ vơ nơi đất khách, không người thân, không tiền bạc, không giấy tờ, không cả một nơi trú ngụ. Chuyện đi xin việc là điều không thể, vì chẳng ai dám nhận một người vơ váo không có lấy một sự bảo đảm về nhân thân. Chỉ có một loại việc, mà việc ấy đúng ra cô đã bước vào từ ngôi nhà đầu tiên ấy. Đã nhiều lần cô âm thầm những giọt nước mắt tạ tội với chồng, anh sẽ không thể nào biết được, bởi sẽ chẳng có con đường nào để thông tin ấy đến được tai anh. Thì thôi, đã trót rồi còn gì nữa cho những bước chân lui, ngày nào gia đình cô có được một cuộc sống kha khá, thì cô sẽ rời bỏ cái chốn lầy lội, nhuốc nhơ này, sẽ trở lại là cô vợ hiền của anh như ngày nào, những tháng ngày nơi đây mãi mãi là một bí mật của riêng cô. Ngàn lần xin lỗi chồng, rồi Huyền nhắm mắt hướng về nơi có những ánh đèn xanh đỏ chớp nháy bước tới.

Huyền choáng người khi nhận ra Hấn, và Hấn cũng kinh ngạc đến đờ đẫn khi nhận ra Huyền. Trời ơi! Oan gia nghiệp chướng thế nào mà lại gặp nhau tại chốn này? Huyền muốn bỏ chạy nhưng không còn kịp, những bàn tay thô bạo đã nắm lấy cô, những ly rượu đã đè nghiến lấy miệng cô, áo váy cô mặc trình bày ra trước mắt Hấn cái thân phận hiện tại của cô. Hấn chết sững, câm lặng, bởi Hấn chỉ là một thông ngôn cho đám người này, anh ta không thể tỏ ra được một động tác nào để bảo vệ cô, lại càng không thể tỏ ra là một người đồng hương quen biết. Anh ta cúi đầu vào ly rượu, những hình ảnh ngày xưa hiện về, và bất chợt anh ta quắc lên một ánh mắt thích thú nhìn Huyền, ánh mắt làm cô lạnh buốt cả người, ánh mắt như một bản án tử hình, Huyền mơ hồ cảm thấy một điều gì đó khủng khiếp đang đợi cô. Nhưng cô không thể nào trốn thoát được, cô đã là một con cá mắc lưới, chỉ biết giương đôi mắt sợ hãi nhìn lưỡi dao sắp bổ xuống đầu mình.

Không để Huyền kịp có thời gian suy tính chuyện gì, ngay trong đêm ấy, sau khi cùng những người kia ra về, Hấn quay lại ngay. Mặc cho Huyền kêu van, với món tiền đã cầm vào tay, người chủ đã đẩy Hấn vào phòng cô và chốt của lại. Hấn đứng trước mặt Huyền, rồi bật cười ngạo nghễ:

- Kết quả của một cuộc tình đẹp đẽ ngày xưa đây sao? Hay thật. Thú vị thật.

Huyền thụt lui vào góc giường trừng mắt:

- Anh bước ra, anh không được đụng vào người tôi.

Hấn cười ngặt nghẽo:

- Này cô em xinh đẹp. cô có tư cách đuổi tôi sao? Nên nhớ là tôi đã thanh toán tiền cho chủ cô rồi nhé, còn nhiều hơn người khác nữa ấy chứ, cũng có nghĩa cô em phải chìu tôi tận tình hơn người khác chứ không phải to tiếng mà đuổi tôi ra ngoài đâu nghe chưa.

Hấn nói đúng, cô không có quyền giữ lại tấm thân này với bất kỳ ai, khi cô đã bán nó cho những đồng tiền đều đặn gửi qua biên giới. Những đồng tiền được đóng cái mác là lợi nhuận của một cửa hàng mà cô đã hợp tác với một số người. Càng minh chứng cụ thể hơn là những bức hình khi cô trong vai một người khách du lịch chụp với những người bán hàng. Đột nhiên cô đau nhói trong lòng khi nghĩ đến nếu Thành biết được chuyện này. Sự cẩn thận đã để lộ yếu điểm của cô:

- Thôi được, tôi chấp nhận, nhưng anh không được để cho chồng tôi biết chuyện này.

- Tất nhiên rồi, trừ khi tôi muốn trông thấy nó hộc máu ra mà chết.

Huyền ném vào Hấn một tia mắt căm hờn trước khi cắn răng chịu đựng sự giày xéo của hắn. Hấn như một con thú điên cuồng, vừa để thỏa mãn cơn thèm khát người con gái khi xưa, vừa để trả thù cho một sự thất bại mà hắn vẫn ôm hận chưa nguôi. Không chỉ một lần, mà Hấn đã trở thành một khách quen của nhà hàng với độc nhất một cô kỹ nữ. Mọi người nhìn vào, thì thầm tô lên đó một vẻ đẹp văn hóa: Đấy, người đồng hương có khác, họ có tình với nhau thế đấy”. Chỉ có Huyền nuốt trăm cay nghìn đắng vào lòng, rã rời thân xác sau mỗi lần hành hạ của Hấn.

- Hãy nói yêu tôi đi, tôi sẽ tha.

- Không bao giờ.

- Thế thì mày sẽ chết… sẽ chết trong tay tao…

Có lẽ Huyền sẽ chết thật, vì sự giới hạn của sức lực, của sự chịu đựng, cuối cùng Huyền đổ bệnh, nhà chủ sợ trách nhiệm nên ném cô vào một bệnh viện. Huyền được cứu chữa, khỏi bệnh, Huyền nghĩ đến chuyện trở về, và chỉ có trở về cô mới thoát khỏi Hấn, vả lại những gì cô cần có cũng đã tạm gọi là tương đối. Điều Huyền không ngờ tới là Hấn, sự căm hận dai dẳng đã biến hắn thành một người đê tiện, và cái camera mini là một thứ phương tiện đắc dụng.

Thành với tâm trạng hồ hởi, hưng phấn tính từng ngày để đón vợ trở về sau bảy năm xa cách, để cùng vui hưởng một đời sống tốt đẹp mà cả hai đã dày công tạo dựng. Tất cả những phấn khích của anh bị dập tắt một cách tàn nhẫn vào một ngày anh nhận được một cái dĩa VCD. Suốt chiều dài của những thước phim ấy không hề có một lời bình, chỉ có những hình ảnh, những hình ảnh đủ đè bẹp dũng khí của một người đàn ông, đủ thiêu đốt hết những lâu đài hạnh phúc, đủ đập tan một tương lai êm đẹp của một gia đình. Cuối cùng của những thước phim ấy là một tràng cười không dứt, tràng cười lanh lảnh, ngạo nghễ, đắc thắng ấy chẳng khác gì những lưỡi dao khoáy sâu vào tận cùng gan ruột. Thành đã chết đứng, chết lịm, chết lặng, nếu không có đứa con gái còn nheo nhéo bên tai thì anh đã đâm đầu vào tường mà chết thật. Cái ngày Huyền về, Thành đã không ra sân bay đón, anh không còn đủ can đảm để nhìn mặt Huyền. Nhưng anh còn đủ tỉnh táo, đủ trấn tĩnh để gạt đi cái ý nghĩ đâm cho người đàn bà kia một nhát. Nên khi Huyền xuất hiện trước cửa nhà, thì tất cả những gì anh có thể làm được chỉ là bật ra một câu nói:

- Tôi không thể tha thứ được.

Huyền nhìn gương mặt khốn khổ của mình trong gương, gương mặt nhuốm đầy vẻ đau thương, ủ rũ và phai tàn, nhưng vẫn còn giữ nguyên vẻ đẹp vốn dĩ của nó. Huyền bật một cái cười chua chát: Đẹp, mi đẹp mà làm gì, cái đẹp của mi đã mang tai họa đến cho chồng con mi và cả chính mi nũa. Huyền bất giác nghĩ đến một giải pháp, cô nhếch môi và mắt ứa lệ, phải thế thôi, còn gì nữa đâu. Đã gần một tháng nay, Huyền chỉ rời khách sạn với mỗi một lý do, cô muốn được gặp con, muốn được ôm con vào lòng, dù chỉ một lần rồi xa mãi. Nhưng Thành đã không cho cô có được một phần cơ hội. Cánh cổng ngôi nhà vẫn luôn đóng im ỉm, sự im lặng của khước từ và cười cợt. Cô không biết được có còn ai tồn tại trong ngôi nhà ấy không. Huyền bỗng quyết định, cô phải gặp con bằng mọi cách, cho dù Thành có đối xử với cô như thế nào đi nữa, chỉ một lần, một lần thôi, nếu không cô sẽ không cam lòng nhắm mắt.

Cái nút chuông nhấn đến lần thứ hai thì cánh cửa hé ra, để lộ gương mặt một phụ nữ trẻ. Huyền nghe như một nhát roi quất vào mình, à thì ra, anh cũng khá mau chóng đấy anh Thành ạ.

- Chị tìm ai ạ?

- Tôi tìm ông chủ nhà này.

- Ba tôi ạ? Ba tôi đi vắng rồi, chị có việc gì nói với tôi cũng được.

Một ý nghĩ khác làm Huyền run chân, cô vội hỏi:

- Vậy anh Thành, anh Thành có con gái là bé Thúy ấy…

Không đợi Huyền hết câu, cô gái “à” một tiếng:

- Vậy là chị tìm anh chủ nhà cũ hả? Tôi không biết ảnh đi đâu đâu, ba tôi mới mua lại căn nhà này mà, à ba tôi về kia rồi, để tôi hỏi xem ông có biết không? Ba ơi…

Người đàn ông khá lớn tuổi, nhìn chăm chăm vào Huyền một chút rồi hỏi:

- Cô có phải là cô Nghiêm Thị Bảo Huyền không?

- Dạ thưa phải ạ.

- Cô đợi tôi một chút.

Nói rồi ông ta đi vội vào nhà, Huyền ngây đờ người trước việc Thành đã bán nhà, anh đi đâu? Anh cắt đứt tình mẹ con của Huyền một cách quyết liệt vậy sao? Anh còn gửi lại cái gì cho Huyền? Hay là một cái địa chỉ nào đó? Huyền khấp khởi khi thấy người đàn ông kia bước ra trên tay là một cái phong bì. Huyền đón lấy và bóc ngay ra, đó là một tấm ngân phiếu mang tên cô có trị giá… Huyền lảo đảo ngã gục xuống, tiếng người chủ nhà mới la lên:

- Cứu… cứu… cấp cứu…

ĐÀM LAN


ĐÊM ẤM TÌNH NGƯỜI

Tôi tung cọc tiền lên trời trước ánh mắt buồn bã, tiếc nuối, tuyệt vọng của Linh. Cuối cùng, tôi vẫn thắng nó, qua một cuộc đỏ đen.

Linh là bạn học cùng lớp với tôi. Nhà hai đứa gần bên, đều nghèo. Lẽ ra, chúng tôi phải hiểu nhau, thân thiết, gắn bó mới phải. Đằng nầy, giữa hai đứa là một khoảng cách rất rõ, dù tôi có nhiều cố gắng để rút ngắn, nhưng không kết quả.

Trong lớp, tôi học không giỏi, bài vở không đạt đến mức xuất sắc, tối ưu nhưng thầy cô bộ môn ít phải phiền lòng vì tôi. Linh thì khác. Nó thông minh, nhạy bén hơn tôi nhiều. Linh giải toán rất cừ, làm văn cũng khá. Chỉ tiếc là nó bộp chộp, thiếu cẩn thận nên trong những lần thi thường vướng một số lỗi nhỏ để bị điểm thấp, ít vượt qua tôi. Thấy được điểm yếu đó, thầy chủ nhiệm có nêu nhận xét trước lớp để Linh và chúng tôi rút kinh nghiệm trong học tập. Linh không nghĩ thế. Nó cho rằng thầy không ưa nó chỉ vì cái nghèo thâm căn cố đế của gia đình và cái tật hay nói đay nói nghiến, châm biếm của nó. Đúng là Linh có tất cả những khuyết điểm mà tự nó kể ra. Thay vì sửa đổi để được thầy yêu, Linh lại ganh tị. Đối tượng mà nó chọn là tôi. Chẳng phải tôi tốt lành gì dễ dàng bỏ qua cho Linh. Thật ra, Linh giận cũng có cơ sở. Thầy chủ nhiệm đem tôi ra làm tấm gương bảo Linh soi. Nó không thấy tôi chăm chỉ học hành, cần cù lao động, hòa nhã với bạn bè mà hình ảnh phản chiếu là một thằng nhóc nịnh nọt đến độ nhu nhược, sẵn sàng cho mọi người lấn lướt, miễn được yên thân thì thôi. Đã vậy, tôi là đứa ngu, học như vẹt, như cuốc kêu ra rả. Tôi chỉ biết lặp lại những điều nhớ được, chẳng chút sáng kiến, chẳng biết vận dụng. Tóm lại, đó là học gạo. Linh cay đắng bảo “Tiếc là gạo lại làm cho người ăn… được no”. Thằng no là tôi. Nó đói, nó ghét cũng phải. Gia đình tôi cũng nghèo, cái nghèo lưu truyền từ đời cố tổ đến giờ. Ít khi tôi được ăn no. Đơn giản là vì thiếu gạo, nhà đông người. Một chục chẵn. Ba người lớn và bảy đứa trẻ. Ông nội tôi già yếu, mất sức lao động. Ba mẹ tôi rất siêng năng làm lụng nhưng không đủ đâu vào đâu. Khi đói, hai đầu gối phải bò. Tôi là đứa lớn nhất, tôi đi làm thêm đâu có gì lạ! Để không ảnh hưởng chuyện học hành, tôi chọn nghề bán bánh mì đêm.

Nắng chiều chụp xuống ngọn cây xa. Ánh sáng ửng hồng rực rỡ nấn níu thêm giây lâu rồi mới chịu chìm vào lòng đất. Bóng tối êm đềm lan tỏa. Đèn đường bật sáng. Đó là giờ lao động của tôi. Sau khi ăn tối qua loa, tôi vác cái bao ra lò bánh mì nhận vài chục ổ rồi rảo bước khắp các ngõ hẻm. Mãi đến khi ánh đèn từ các khung cửa sổ tắt lịm, tôi mới quay về. Thường thì khoảng mười một giờ khuya. Số tiền lời kiếm được chỉ đủ mua bốn lít gạo. Tuy ít nhưng gia đình tôi cũng ấm bụng phần nào. Cũng chính vì vậy, tôi phải chịu đựng nhiều thứ, kể cả Linh. Cũng như tôi, nó bán bánh mì. Linh oai hơn tôi ở chỗ có xe đạp. Nó luôn đến lò trước, chọn bánh ngon và đi rao hàng trước. Chẳng hiểu sao Linh không chọn một con đường khác mà cứ phóng xe qua lại những chỗ tôi cuốc bộ. Nó chờ có ai gọi: “Bánh mì”. Lập tức, Linh vòng xe lại bán chận. Đã vậy, nó cười nhăn nhở như ngầm bảo: “Đừng hòng qua mặt tao!” Lúc đầu, tôi ức lắm, muốn đập nó một trận để chừa cái thói vô duyên.

Nhưng nghĩ lại, chẳng ích gì. Có làm nó u đầu, sứt trán cũng chỉ đào sâu thêm hố ngăn cách, tạo thêm mầm móng thù hằn. Tôi nhịn, nó càng lấn tới. Cũng vì vậy mà hôm nào tôi cũng là người bán hết sau cùng. Về nhà muộn nhất. Con đường vắng tênh, không có ai ngoài tôi với chiếc bóng của mình. Đôi khi, tôi dừng lại bên một gốc cây, gục đầu vào đôi bàn tay. Tôi muốn khóc để vơi đi phần nào thua thiệt. Nhưng, lúc đó, mắt lại ráo hoảnh, tôi cảm thấy bình tâm hơn, mạnh mẽ hơn và rộng lượng hơn. Tội nghiệp Linh. Nó nghèo vật chất lẫn tinh thần. Chỉ tại cái tật hay nói, nói dai, nói đùa, nói chẳng kịp nghĩ suy. Linh há miệng như người ta giương cung không nhắm hướng. Mũi tên muốn bay đi đâu cũng được. Chết ai nấy chịu. Cũng vất vả nuôi gia đình nhưng do tật kể lể ơn nghĩa mà người nhận khó chịu, bực bội hơn là ghi nhớ công lao của nó.

Mùa hè năm nay tôi bán đắt hơn thường lệ nhờ những trận bóng đá tranh giải “vô địch”. Đêm nào có trận đấu, tôi bán bánh mì mau hết hơn. Số lượng bánh cũng tăng nhờ mấy pha “cá độ”. Trong đó có cả cá “ăn bánh mì”. Người nào thua trả tiền mua bánh. Đây là loại cá độ có tính cách mua vui hơn là sống chết như nhiều hình thức khác. Cứ sau một màn đá bóng, bánh mì, xôi, chè, cháo… thi nhau chui vào bụng khán giả bên thắng và tiền chui khỏi hầu bao bên thua để lọt vào túi bọn tôi. Tôi rất thích, vừa được xem tranh giải vừa bán đắt.

Đêm nay, Cộng hòa Séc đấu với Đức để tranh giải vô địch bóng đá Châu Âu. Quán cà phê chật cứng khách hàng. Bán đắt điên. Tôi vù đi lấy thêm bánh ba lần mà không đủ bán. Số tiền lời tăng gấp mấy lần. Mân mê những tờ giấy bạc trong tay, tôi liên tưởng đến cây bút máy, bộ sách giáo khoa và quà bánh cho em út mà lòng lâng lâng vui sướng. Bỗng có ai đập mạnh vào vai tôi. Quay lại, tôi bắt gặp khuôn mặt ma mãnh của Linh. Nó nhìn tôi, nheo một mắt.

- Ê Quý, cá độ không mậy?

Tôi lắc đầu:

- Thôi, tao không dám đâu.

Nó chợt rắn giọng như ra lệnh:

- Mầy phải chơi! Nhóm bán bánh mì đêm đều cá độ, thằng nào từ chối thì… đừng trách.

Tôi bất bình, nói lớn:

- Cá độ hay không là quyền của mỗi người, không ai bắt buộc ai được hết.

- Nhưng tao bắt buộc mày, được không? Muốn tỏ ra hiền hậu, đàng hoàng hả mậy?

Nhìn khuôn măt vênh váo đưa tới trước, tôi muốn đấm một cái vào đó cho bỏ ghét nhưng nén được. Rõ ràng là nó lại muốn gây sự. Chưa biết tính sao thì có giọng nói của anh Tư cùng xóm chen vào:

- Thôi, phá lệ một bữa đi Quý. Mỗi thằng bỏ ra có năm mươi ngàn đồng, thấm tháp gì. Nếu thua, mầy kể như hôm nay lời ít một chút chớ gì.

Tôi không nghĩ như anh Tư nhưng thấy bỏ ra năm mươi ngàn đồng để êm chuyện thì cũng được. Dù đó là đồng tiền lao động cực khổ của tôi. Tôi móc túi lấy tiền đưa cho Linh, tham dự cuộc đỏ đen đầu tiên trong đời mình. Và, tôi đã thắng cuộc. Số tiền chia ra được bốn trăm ngàn đồng, cộng với tiền lời bán bánh nữa thì ra con số bất ngờ, lý thú: Sáu trăm ngàn đồng. Tôi trở nên “giàu có”. Chưa bao giờ tôi được số tiền to như thế. So với người khác thì nó chỉ là một con số nhỏ nhoi, khiêm tốn. Nhưng với tôi là một gia tài. Tôi nhẩy cẩng, tung tiền lên cao rồi chụp lấy. Tôi mừng như thể đã giành được chiếc cúp bạc.

Đường về nhà hôm nay đẹp quá. Trăng nghiêng nghiêng bên hàng cau. Những chiếc lá đẫm màu đen bóng, lung linh, xao động. Tôi vừa đi vừa hát, những khúc ca vui nhộn, thân quen. Xa xa, ánh đèn từ ô cửa nhà tôi hắt ra một vệt sáng ấm áp, chờ mong. Tôi biết mẹ tôi vẫn còn thao thức đợi tôi trong đó. Mấy củ khoai lùi mẹ lột vỏ sẵn dành cho tôi. Cái mùng cũ cũng đã được giăng lên, chờ tôi về và tôi sẽ thiếp đi trong hạnh phúc ngọt ngào.

Tôi chợt nhớ tới Linh, chắc nó sẽ không ngủ được. Linh thường phàn nàn với bạn bè như thế. Nó bảo không bao giờ có ai chờ nó. Về tới, Linh luồn tay vào khe vách, mở cái móc sắt, cửa bật ra. Nó lách vào. Bên trong tối thui. Nó nổi cáu, đá mạnh vào cái ghế, va vào vách đánh thức mọi người và lầu bầu, trách móc của ba mẹ nó tuôn ra. Đêm nay, chắc cũng thế. Khoảng sân nhà Linh tối om. Chẳng có ánh đèn nào soi tỏ lối đi của Linh. Bỗng dưng tôi cảm thấy có lỗi vì đã thắng nó trong lần nầy. Tôi đã cướp mất của nó một phần tiền lời, dù không cố ý. Linh như người ngã ngựa mà tôi còn nhẫn tâm giành lấy vũ khí của nó, số tiền lời, uy tín của nó đối với đàn em và ba mẹ… Tôi ngồi bệt xuống bên đường chờ Linh. Không phải đợi lâu. Nó đạp xe cọc cạch, vòng vèo tiến dần đến. Tôi chạy ra, đưa tay chặn. Nó đỗ xe lại bên đường, quắc mắt, hỏi:

- Ê, mày muốn gì?

Tôi ôn tồn:

- Tao muốn gặp mầy.

- Gặp tao làm gì?

Nhét tờ năm mươi ngàn vào túi Linh, tôi nói:

- Trả tiền lại cho mầy chớ chi.

Nó trố mắt nhìn tôi:

- Tao… không cần.

Tôi nắm tay nó:

- Biết rồi! Nhưng đó là tiền của mầy, lấy lại đi. Tao đã bảo là không thích cá độ mà. Mai tao sẽ trả lại cho mấy thằng kia luôn. Ăn tiền của tụi mầy tao nuốt không vô đâu.

Linh chợt xiết tay tôi. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ánh mắt thân thiện của nó, những tia sáng ấm áp tình người, tình bạn.

NGUYỄN THỊ MÂY




MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 11.5.2019 .............. Vũ Thư Hữu

Vài dòng về một niềm vui, nhỏ mà lớn, vì không mua được bằng tiền… ......... Vũ Anh Tuấn

Những suy nghĩ vẩn vơ (tập 2 - tt) ......... Lm. Giuse Ng.H.Triết

Quy trình tu hành theo Chánh Pháp của Đạo Phật (tt) .......... Tâm Nguyện

Nhà văn trinh thám đại tài Mỹ Edgar Poe & 1 số nhà văn trinh thám Việt Nam ........ Phạm Vũ

Tình đất (tt & hết) .................................... Nguyễn Văn Sâm

Ba chìm bảy nổi chín linh đinh ............... Hoàng Kim Thư st

Luyến ái qua thi ca ................................ Đào Minh Diệu Xuân st

Tặng em một đóa Tigon (thơ) ............................. Đàm Lan

Lời nhắn nhủ trái tim (thơ) ................ Phạm Thị Minh-Hưng

Ánh đạo vàng (thơ) ....................................... Ngàn Phương

Chiều quê (thơ) ..................................................... Hoài Ly

Khúc mưa (thơ) ............................... Huỳnh Thiên Kim Bội

Xin cám ơn tháng tư này của tôi (thơ N.I.Khalampieva) .. T.Toàn dịch

Hai bài thơ về Việt Nam (thơ N.I.Khalampieva) .... Thúy Toàn dịch

Gởi các nhà thơ Việt Nam (thơ N.I.Khalampieva) . Thúy Toàn dịch

Thương thân! (thơ) ........................................ Tâm Nguyện

Khuyên con (thơ) ............................................. Quang Bỉnh

Giữa chừng (thơ) ............................................ Thanh Châu

Đời (thơ) - Đạo (thơ) .......................................... Phước Hải

Đợi em trong mưa (thơ) .................................... Lê Nguyên

Về hưu sinh hoạt CLB thơ (thơ) ................ Dương Tiến Cần

Nhịp cầu thơ (thơ) ........................................... Thanh Vĩnh

Trì trệ - Chưa chắc (thơ) ................................ Lê Minh Chử

Bia hành! (thơ) ......................................... Vũ Thùy Hương

Một nửa (thơ) - Nhớ nhà (thơ) ........................ Lang Nguyên

Bướm và hoa (thơ) ....................................................... Thanh Phong

Đến lúc (thơ) ...................................................... Lam Trần

Chuyến xe buýt (thơ) ..................................... Vũ Đình Huy

The bus trip (thơ) ................................... Vũ Anh Tuấn dịch

Vắng trăng (thơ) ............................................ Vũ Đình Huy

Absence of the moon (thơ) ..................... Vũ Anh Tuấn dịch

Luật thơ (tt & hết) ................................... Phạm Hi ếu Nghĩa

Tại sao “Đông Bích” có nghĩa là sách vở ... Đỗ Thiên Thư st

Hai tâm hồn ....................................................... Lam Trần

Đà Nẵng: từ núi Bà Nà… Hải Vân Quan ........... Lệ Ngọc st

Người đàn bà cuối cùng ........................................ Hoài Ly

Ăn sứa Nha Trang, Khánh Hòa ........................... Bùi Đẹp st

Thế hệ của Bố .................................................. Kim Sơn st

Nửa đời về sau ....................................... Quan Thúy Mai st

Bài thuốc đơn giản trị: Gút- Sơ gan cổ trướng .... Tâm Nguyện st

Những loại thực phẩm giải độc hiệu quả ....... Phùng Chí Tâm st

Chim Cưu loài chim chung tình ................... Hoàng Chúc st

Ngày của Bố: Chủ nhật 16/6/2019 .............. Hà Mạnh Đoàn

Giấc mơ đổi đời ................................................. Đàm Lan

Đêm ấm tình người .................................. Nguyễn Thị Mây

 



|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
 156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
 161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
 171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
 176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
|  156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
|  161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
|  171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
|  176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
Netadong.com thiết kế