Sáng mùng 6 Tết, sau khi ăn điểm tâm, tôi muốn về thẳng nhà và không ghé tiệm sách của anh bạn tôi như mọi khi, nhưng trước khi tới của, tôi bỗng có linh cảm là rất có thể có cái gì hay hay đợi tôi ở quán sách, và rồi tôi lại thẳng tiến thêm 600 mét, để ghé tiệm sách mà tôi tự đặt tên cho là Mãn Nhãn Lâu, nằm trên đường Trần Huy Liệu. Tới nơi tôi thấy chị chủ tiệm đang ngồi giữa nhiều chồng sách để la liệt chung quanh. Thì ra chị đang dọn dẹp lại những thứ sách tầm thường, mà chị thường bày ở kệ dưới thấp. Cặp mắt chuyên “tầm thư” của tôi đụng ngay một cuốn sách nhỏ nằm ở trên cùng một chồng sách. Cuốn sách có cái bìa rất lạ: đó là một tượng đá có hai bàn tay chắp vào nhau một cách hời hợt, và ngay ở trên là tên một người Pháp mà tôi biết :Henri Guillot, một Giáo Sư dạy tại một Trường Thực Nghiệp ở Courbevoie bên Pháp. Nhìn cuốn sách tôi biết ngay là cái bìa là do chủ sách làm lấy, chứ làm gì có nhà xuất bản nào trình bày bìa kiểu kỳ cục như vậy. Cầm cuốn sách lên tôi thấy rõ là mình đã nghĩ đúng vì cái ảnh tượng đá được dán đè lên bìa cuốn sách, và trên gáy sách tôi thấy người chủ sách, có chữ viết rất đẹp, đã viết tên ba cuốn sách mà ông ta đóng dính vào nhau. Đó là ba cuốn: Tiểu Tự Điển Những Từ Khó (Petit Dictionnaire des Mots Difficiles), Những Câu Nên Nói – Những Câu Không Nên Nói (Ce qu’il faut dire – Ce qu’il ne faut pas dire), và Những Điều Cần Biết (Ce qu’il faut savoir). Cả ba cuốn đều được in năm 1937 (năm sinh trên giấy tờ của tôi), một sự trùng hợp tình cờ mà thích thú, và điều mà tôi thích nhất là đây chính là những cuốn sách tôi đã gặp tại nhà Bác Lê, trong một lần ghé thăm khi Bác ở đường Kỳ Đồng hồi trước 75. Và điều đáng thích hơn nữa là khi hỏi giá chị bạn tôi trả lời tỉnh bơ:”10 ngàn”, ôi, thực là trên cả tuyệt vời, và tôi bỗng cảm thấy như là mình vừa trúng số khi có cả một kho tàng trí thức liên quan tới thứ ngoại ngữ mà tôi được học từ bé và yêu thích, mà chỉ phải chi có 10 đô mít (bằng giá hai tờ báo ngày). Về đến nhà, tôi bỏ hết các việc khác và dành ngay những giờ phút đầu tiên cho ba cuốn sách. Chủ nhân có dán nhiều hình (mà chắc ông thích) và có ký tên là Lê Văn Lý. Tôi không được hân hạnh được biết ông là ai, ở đâu, làm gì, nhưng điều tôi biết chắc, và có thể đoan chắc với ông, là tôi sẽ săn sóc cuốn sách kỹ không kém ông, và cuốn sách của ông lưu lạc và đến với tôi là đến đúng chỗ nhất, là gặp người đáng thay ông giữ nó nhất. Tôi xin giới thiệu qua loa rơ măng về nội dung 3 cuốn sách: A.- Cuốn trên cùng là cuốn Tiểu Tự Điển Những Chữ Khó. Với cuốn này tôi tìm thấy những chữ không có trong một vài tự điển Pháp Việt mà tôi có như động từ Embobeliner có nghĩa là dụ dỗ bằng lời lẽ ngọt ngào (Tự Điển Pháp Việt của Thanh Nghị không có động từ này) – Từ Nautonier có nghĩa là người lái tàu nhưng phần lớn chỉ dùng trong thi ca(Tự điển Pháp-Việt của Viện Khoa Học Xã Hội là một cuốn thật hay, thật đủ, nhưng cũng không ghi chi tiết là từ nàyphần lớn chỉ dùng trong thi ca), tóm lại với một cuốn tự điển tốt thì những từ khó này hầu như đều được giải nghĩa cả tuy nhiên cuốn sách nhỏ bé này có cái hay là gom tất cả những từ khó đó lại một chỗ để người đọc, hay là người học, gặp được chúng. B.- Cuốn thứ nhì tôi thấy khoái hơn vì nó như một thứ sách dạy thêm cho người đọc những gì mà nhà trường không dạy để bổ túc cho những gì ta đã học được ở học đường. Xin nêu dưới đây một vài thí dụ:
1.- Nếu khi sang Pháp bạn hỏi một ai đó là anh ta học ở đâu, bạn có thể nghe thấy anh ta trả lời :”J’ai visité le Lycée Kléber”, hoặc bạn có thể nghe một người cha khoe con mình học ở Trường Thương Mại nói:”Mon fils visitel’École Pratique de Commerce”, động từ visiter là không đúng và không nên nói, vì động từ đúng và nên dùng làfréquenter, do đó những câu trả lời đúng phải là “J’ai fréquenté le Lycée Kléber” và “ Mon fils fréquente l’École Pratique de Commerce”.
2.- Đừng nói là :”Mon frère est en Japon – en Maroc” mà phải nói là :”Mon frère est au Japon – au Maroc”.
3.- Đừng viết là :”Je m’éfforcerai...”(Tôi sẽ cố gắng…) mà phải viết đúng là :” Je m’efforcerai…” vì chữ e được theo sau bởi hai chữ f không bao giờ có dấu sắc. Đại khái là cuốn sách nhỏ này chỉ cho người học cách viết đúng tiếng Pháp qua 116 trường hợp, và nó thật là thích thú với người yêu thích Pháp văn như tôi. C.- Cuốn thứ ba “Những Điều Cần Biết” gồm 200 đặc ngữ và ngạn ngữ Pháp, ví dụ Kẻ không làm gì cả hoặc làm một việc vô bổ (Celui qui ne fait rien ou qui se livre à une vaine occupation) thì là Celui qui se tourne les pouceshoặc Kẻ giàu sụ và là nhân vật quan trọng thì được gọi là :”C’est un Pérou”, còn ngược lại kẻ không quan trọng thì được coi là :”Ce n’est pas le Pérou”… Tóm lại ba cuốn sách nhỏ này rất quý với những người yêu thích tiếng Pháp như tôi, và tôi đã tự cho là mình may mắn, vì đầu năm ra phố đã … lượm được vàng! Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI. |