Hiện có 4 người xem / 2347760 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/01/2019

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Hôm nay có một người khách, mới mà cũ, là anh Nguyễn Đức Hiệp, Việt kiều Úc, tới tham dự; anh được coi là mới mà cũ, vì anh đã có tham dự nhiều lần vào những năm đầu của CLB, và sau khi qua Úc sinh sống thì thỉnh thoảng anh về tham dự, nên anh được dành vài phút để tự giới thiệu với các thành viên, đồng thời anh cũng giới thiệu luôn với các thành viên một cuốn sách của chính anh viết mới được xuất bản nói về các sự kiện và nhân vật của Sài Gòn cũ. Anh Hiệp tự giới thiệu xong, như thường lệ, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư bằng Pháp văn.

Cuốn đầu khổ 12x18, dày 620 trang, được nhà xuất bản thời danh của Pháp là nhà Garnier Frères xuất bản năm 1947 (72 năm trước) là cuốn “Những truyện dị thường” (Histoires extraordinaires) của tác giả lừng danh người Mỹ Edgar Poe (1809-1849). Tác giả này thoạt tiên là nhà báo, sau ông chuyên viết truyện trinh thám, hình sự, và được coi là tác giả thủy tổ của truyện trinh thám. Người viết đã biết tới tác phẩm “Những truyện dị thường” này từ khi còn trai trẻ và rất thích vì quá hay, nên cũng quan tâm tìm hiểu về tác giả Edgar Poe và thấy rẳng nhân vật này chết rất trẻ, khi mới 40 tuổi, và điểm đặc biệt là không ai biết rõ nguyên nhân ông ta chết vì tật bệnh gì, và có cả lời đồn là vì tự tử. Trong gần 40 truyện của Edgar Poe, người Việt mình chỉ biết có hai truyện “Con bọ hung vàng” (La scarabée d’or) và “Con mèo đen” (Le chat noir) đã được dịch từ thời tiền chiến. Cuốn sách tuy đã 72 tuổi đời những vẫn còn mới tới 80% và được in ấn cực đẹp.

Cuốn thứ nhì khổ 20x27, dày 650 trang, bìa cứng với ba cạnh mạ vàng cực đẹp vì tuy được in năm 1876 (143 năm trước) nhưng vẫn còn mới tới 70% và ba cạnh mạ vàng vẫn vàng chóe, với bìa cứng gáy chữ mạ vàng cực đẹp. Cuốn sách mang tựa đề là “Tác phẩm của Le Sage (1668-1747) mà nội dung là toàn bộ truyện “Gil Blas de Santillane” và một số vở kịch. Truyện Gil Blas được coi là môt loại tiểu thuyết giang hồ tứ chiếng (roman picaresque) và truyện này đã được cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Việt từ thời tiền chiến, và người viết đã may mắn được đọc thì mới thấy nó cực kỳ hấp dẫn, nên tuy nhiều năm đã trôi qua, người viết vẫn nhớ tới truyện này và sẽ giới thiệu kỹ hơn trong cùng số này nơi mục Hồi ký 60 năm chơi sách.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, thành viên Phước Hải lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Liên hoan”. Sau anh Phước Hải, anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên bài “Tôi đi giữa hoàng hôn”. Anh Tấn Thuận hát xong, anh Phạm Vũ lên nói chuyện về hoa anh đào và về quốc hoa của Nhật là hoa cúc 16 cánh. Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Thanh Phong lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Vô thường” và 4 bài thơ ngắn và vui khác. Sau anh Thanh Phong, thành viên Thúy Mai lên hát tặng các thành viên bài “Gõ cửa”. Thúy Mai hát xong, thành viên Thùy Hương lên hát tặng các thành viên bài “Vọng về quê cũ”. Thùy Hương hát xong, thành viên Minh lên hát tặng các thành viên bài “Mùa Xuân Ông Đồ”. Sau anh Minh, anh Phùng Chí Tâm lên chia sẻ với anh Phạm Vũ một vài chi tiết về hoa anh đào và hát tặng các thành viên một bài hát của chính anh làm mang tựa đề là “Tôi yêu Sydney”. Anh Phùng Chí Tâm hát xong, anh Đặng Tiến Cần lên hát tặng các thành viên bài “Đôi mắt em”. Tiếp lời anh Đặng Tiến Cần, Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Đón Xuân”. Sau Hoài Ly, anh Quang Bỉnh lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Tết mưa” và “Mây trời”. Anh Quang Bỉnh ngâm thơ xong, Quan Thúy Mai lên hát tặng các thành viên bài “Việt Nam quê hương tôi”. Sau Quan Thúy Mai, thành viên Tuyết lên hát bài “Xuân và Tuổi trẻ” của La Hối. Tuyết hát xong, Kim Sơn lên chúc tết và hát tặng các thành viên một bài hát về Mùa Xuân Đầu Tiên của Văn Cao. Sau Kim Sơn, anh Thanh Châu với tiếng hát át tiếng bom lên hát tặng các thành viên bài Đón Xuân. Sau thành viên Thanh Châu, bà Tâm Nguyện, để thay đổi không khí, đã lên kể một chuyện vui để các thành viên cười. Sau bà Tâm Nguy ệ n, anh Chử đã lên hát thơ bài hát của anh sáng tác nhan đề là “Em đến rồi đấy ư?” Lúc này đã là 11g15, nhưng vì còn phải chờ nhà hàng sắp xếp bàn ghế cho tiệc tất niên, nên trong 10 phút còn lại các thành viên tranh thủ hát và ngâm thơ thêm cho tới lúc nhập tiệc.

Bữa tiệc tất niên đã diễn ra thật đầm ấm vui vẻ, và sau khi chúc Tết trước lẫn nhau, các thành viên đã vui vẻ ra về hẹn gặp lại nhau trong kỳ họp tới trong năm mới Kỷ Hợi.

Vũ Thư Hữu


 

VÀI DÒNG VỀ CUỐN

GIL BLAS DE SANTILLANE

CỦA LE SAGE

Chiều hôm thứ sáu 11/01/2019, tôi chợt nổi hứng kiểm tra lại những cuốn sách xuất bản hồi thế kỷ thứ 19 mà tôi có trên 200 cuốn, và bất chợt gặp cuốn sách quá đẹp này với 3 cạnh mạ vàng vàng chóe. Vừa nhìn thấy sách tôi mừng húm, vì sách mang tựa để là “Tác phẩm của Le Sage (1668-1747)”, một đại văn hào Pháp của thế kỷ 18 và 19, và quá nửa sách là truyện “Gil Blas de Santillane”, một cuốn truyện gợi lại cho tôi biết bao kỷ niệm đẹp trong căn nhà lớn ở Hải Phòng nơi tôi đã sống vào những năm 1937 tới 1954…

Và thế là tôi nảy ra ý kiến khoe sách vào sáng hôm sau là ngày CLB Sách Xưa & Nay mà tôi là Chủ nhiệm có buổi họp. Thoạt đầu tôi chỉ muốn cho các thành viên CLB của tôi biết 143 năm trước, người Pháp đã in được những cuốn sách đẹp như thế nào, nhưng sau vì tác phẩm Gil Blas de Santillane đã làm tôi nhớ lại quá nhiều kỷ niệm đẹp nên hôm nay tôi xin giới thiệu qua về tác phẩm vĩ đại này, một tác phẩm mà tôi tin rằng sẽ mãi mãi tồn tại và được đọc trong nhân gian.

Truyện Gil Blas de Santillane, này chiếm 370 trang trong cuốn sách khổ 19x27 phân, dày tổng cộng 620 trang này. Tôi đã gặp cuốn truyện này vào năm 1954 trong tủ sách to đùng của cụ thân sinh ra tôi, và cuốn truyện tôi gặp vào năm đó không phải bằng Pháp văn như cuốn này, mà là bằng Việt văn, và là bản dịch in làm 4 cuốn của cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch. Tôi đọc ngấu nghiến và thấy cốt truyện quá hay. Tuy 65 năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ cốt truyện đại khái như sau:

“Gil Blas là một thiếu niên con nhà nghẻo, được một người chú là một tu sĩ dạy dỗ, và năm 17 tuổi rời quê nhà để đi lên học tại đại học Salamanque, nhưng trên đường đi định mệnh đã khiến cậu gặp một băng trộm cướp và gia nhập băng cướp đó, thay vì vào đại học. Vì là thành viên một băng trộm cướp, cậu thiếu niên đã sớm được trải nghiệm sự tù đầy, và đã học được từ các kẻ đồng lõa rất nhiều mánh khóe trộm cắp gian manh. Khi ra tù, Gil Blas đã phải làm đủ mọi thứ nghề khốn khổ để kiếm sống, và đã gặp được đủ hạng người, đủ mọi thứ giai cấp trong đời, trong khi chính cậu ta cũng luôn áp dụng các mánh khóe gian manh với những người cậu gặp trong đời. Qua tác phẩm này văn hào Le Sage của Pháp đã dùng bối cảnh Tây Ban Nha để cho người đọc, qua nhân vật Gil Blas, gặp đủ hạng người như những tên đầy tớ lưu manh gian dối phục vụ những chủ nhân cũng không kém phần lưu manh, những anh nhà thơ vớ vỉn, những phụ nữ lẳng lơ, những anh chồng bị cắm sừng mà vẫn tươi rói, những nhà bác học zổm, những bác sĩ chữa lành thành què v.v… và v.v… Tóm lại qua tác phẩm này người đọc sẽ cũng được như Gil Blas trải nghiệm về đủ mọi cảnh hỉ, nộ, ái, ố của cuộc đời…”

Khi gặp bản dịch của cụ Nguyễn Văn Vĩnh tôi mới 17 tuổi, và đã biết khá nhiều Pháp văn nên đã tự hứa sẽ tìm bản chính bằng Pháp văn đọc chơi, và, vì đã hai mươi tuổi lần thứ tư cộng 4, tôi đã quên khuấy tôi đã có cuốn này trong trường hợp nào, nhưng tôi nhớ mang máng là cũng chưa lâu lắm. Cuốn sách cực đẹp, tuy đã 143 tuổi đời, gần một thế kỷ rưỡi, mà vẫn còn mới tới 80% với một số minh họa thật đẹp. Một giây cũng là quá khứ, nên tôi đưa luôn câu chuyện cuốn quý thư này vào Hồi ký 60 năm chơi sách của mình…

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

TẤT NIÊN LẦN THỨ 12

CỦA CLB SÁCH XƯA & NAY

Từ khi dọn về Tỉnh thì tôi không thường xuyên sinh hoạt với CLB. Nhưng khi được Chủ nhiệm báo là kỳ họp tháng 1 này, nhằm ngày 12 cũng là ngày Liên Hoan Tất Niên năm nay của CLB thì tôi hứa sẽ có mặt để chung vui với anh em.

Đi bằng xe đò về TP chuyến 4g00 sáng, nhưng bận chút việc nên nên mãi đến hơn 10g00 tôi mới đến nơi, thì anh em đang hát, ngâm thơ cho nhau nghe như thường lệ. Nhưng kỳ này là Tết sắp đến, nên các Thành viên hát về Xuân. Những bài hát về Hoa Đào, Mùa Xuân Đầu Tiên được các Thành viên trình bày càng làm không khí thêm rộn ràng.

Đến 10g mà vẫn thấy im ắng, không thấy bày bàn ghế ly chén như thường kỳ làm anh em không khỏi ngạc nhiên, nhưng Chủ nhiệm xác nhận là sẽ có tiệc, yên trí. Ngay sau đó là bàn ghế được nhanh chóng bày ra. Hóa ra Linh mục Cố vấn quên báo với đầu bếp, vì thế mà buổi tiệc được chuẩn bị hơi trễ. Vậy mà ngay sau khi Thành viên cuối cùng là Nhà giáo Phạm Hiếu Nghĩa do bị kẹt xe mà tới trễ, phát biểu xong thì mọi thứ cũng đã sẵn sàng.

Các Thành viên kéo nhau đứng xếp hàng để chụp hình lưu niệm. Khác với những năm trước, lần này có Thành viên đề nghị tất cả cùng hát bài LY RƯỢU MỪNG. Thế là mọi người trở thành một dàn đồng ca. Không tập dợt trước mà vẫn… hát bè, vì mạnh ai nấy hát. Ai thích giọng cao, giọng thấp thì cứ hát theo mình, chẳng cần theo ai khác. Thành viên Hà Mạnh Đoàn vừa chụp ảnh vừa múa bắt nhịp cho dàn đồng ca bất đắc dĩ này. Họ cùng đồng thanh “Cất cao ly này, hãy chúc ngày mai sáng đời tự do. Nước non thanh bình, muôn người hạnh phúc ấm no…” là ước mơ muôn thuở của mọi người dù ở bất cứ nơi đâu, không thể thiếu mỗi lúc Xuân về.

Dứt bản nhạc là mọi người ngồi vào bàn. Linh mục Triết, Cố vấn CLB tuyên bố lý do, và mời mọi người nhập tiệc. Tuy không được chuẩn bị trước, nhưng bữa tiệc vẫn có Bánh chưng, Giò thủ, Dưa kiệu, Dưa món. Mỗi bàn là một con cá to được chiên vàng rượm, và một nồi Lẩu Riêu Cua Bánh Đa với rau xanh trông rất bắt mắt. Mọi người cùng thưởng thức và bắt đầu nâng ly chúc sức khỏe nhau, mừng nhau qua một năm và chúc nhau năm mới an lành.

Đây là buổi Tất Niên lần thứ 12 tính từ ngày thành lập CLB. Một thời gian khá dài, trong đó, những Thành viên tham gia từ ngày thành lập đến nay vẫn tiếp tục, và mỗi năm đều có thêm người mới gia nhập, đa số đều ở lứa tuổi về hưu. Sở dĩ họ gắn bó lâu dài với nhau vì mỗi người đều tìm thấy ở CLB một sân chơi nghiêm túc, thanh cao, hướng đến cái hay, cái đẹp, đầy tính nhân văn, phù hợp với người lớn tuổi, và dù không hề có nhuận bút - vì Bản Tin được phát miễn phí cho những ai yêu thích - nhưng đều đóng góp bài vở một cách nhiệt tình, hàng tháng đều đặn góp bài để BẢN TIN không hề lỗi hẹn bao giờ trong suốt quá trình từ lúc thành lập đến nay. Nhiều người cũng ngạc nhiên, không hiểu vì sao một CLB không hề có thu hội phí mà lại có thể duy trì một thời gian khá dài đến như thế. Tất cả là nhờ vào sự điều hành của Chủ Nhiệm và Linh mục Cố vấn lo liệu địa điểm, phương tiện để họp hành.

Mở đầu bao giờ cũng là bài của Chủ Nhiệm nói về cuộc họp mặt kỳ vừa qua, đồng thời giới thiệu những quyển sách cổ hoặc độc đáo mà ông mới sưu tập được. Tiếp theo đó là Linh mục Cố vấn Triết với loạt bài “Những Suy Nghĩ vẩn vơ” được Ngài gom góp từ những bài vở trên báo chí nói về những mặt còn chưa tốt trên khắp mọi miền đất nước! Rồi thì bài của Cụ Bùi Đẹp, một nhà Sưu Tập lão thành từng có những Bộ Sách nói về những Di Tích Lịch Sử trong và ngoài nước. Ở nước ngoài thì có Nhà văn Lão thành Nguyễn Văn Sâm với những truyện ngắn nói về người dân Nam Bộ mà văn phong đọc lên là đã thấy dấu ấn rất riêng. Miền Bắc thì có Nhà văn Thúy Toàn với những bài vở nói về Liên Xô, một đất nước với những nhân vật, những tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới mà ông may mắn được tiếp cận thời gian du học ở đó, hoặc những áng Thơ lừng lẫy mà ông mến mộ nên thỉnh thoảng dịch ra để mọi người cùng thưởng thức. Nhà giáo Phạm Vũ mà mỗi bài là một bộ sưu tập về những cái hay, cái lạ để lại dấu ấn khắp nơi, hoặc những bài hát và tiểu sử tác giả với những tình tiết ít người biết đến. Mỗi Bản Tin không bao giờ thiếu Truyện Ngắn của hai Nhà văn Đàm Lan, Nguyễn Thị Mây và những cây bút quen thuộc: Lam Trần, Hoài Ly, với những nội dung rất phong phú, về nhiều đề tài rất dễ thương. Nhà giáo Phạm Hiếu Nghĩa với những đề tài thiên về nghiên cứu như những thủ tục thờ cúng, phong thủy. Ngoài ra còn có một số sưu tập hữu ích của Kim Sơn, Lệ Ngọc, Hoàng Chúc và một số Thành viên.

Về mảng Thơ thì rất phong phú. Các Nhà thơ hàng tháng đều đến sinh hoạt và đóng góp bài vở đều đặn. Từ buổi đầu chỉ có hai người là Nhà thơ Ngàn Phương, Tâm Nguyện, đến nay con số tham gia khá đông: Ngoài Nhà thơ nổi tiếng Miền Bắc là Trần Nhuận Minh với những bài thơ hay. Nhà thơ Lê Nguyên, Phùng Chí Tâm, Nhà thơ Thanh Vĩnh, Nhà thơ lão thành Phước Hải, Nhà thơ Thanh Châu, Quang Bỉnh, Hải Âu, Thanh Phong, Lam Trần. Đặc biệt nhất là Nhà thơ Lê Minh Chử vẫn đăng và Hát Thơ của mình. Phía nữ thì có Nhà thơ Phạm Thị Minh-Hưng, Huỳnh Thiên Kim Bội, Hoài Ly, Quan Thúy Mai, Vũ Thùy Hương. Ngoài ra còn có 3 Nhà thơ: Nhà thơ Tiến sĩ Vũ Đình Huy, Nhà thơ Xuân Vân, Nhà thơ Lang Nguyên, đã rời CLB để gia nhập vào Hội Thơ nơi cõi Vình Hằng và có Bs. Nguyễn Lân Đính, chuyên gia Dinh Dưỡng nổi tiếng đã cùng tháp tùng.

Năm vừa qua, CLB có một tin rất vui, là có bốn Thành viên: Chủ nhiệm Vũ Anh Tuấn, Nhà văn lão thành Nguyễn Văn Sâm, và hai Nhà văn Nguyễn Thị Mây và Đàm Lan, được vinh hạnh góp tên trong danh sách 2.000 tác giả được liệt kê từ năm 1905 đến năm 2016, dày đến 814 trang, trong quyển Tác Giả Việt Nam của Lê Bảo Hoàng tức Nhà thơ Luân Hoán do Nhà Xuất Bản Nhân Ảnh ở Mỹ ấn hành. Ngoài ra, Chủ nhiệm Vũ Anh Tuấn còn được Nhà Xuất Bản này in quyển CHUYỆN VUI THỜI @ của ông để phát hành trên mạng.

BẢN TIN đến nay đã đến số thứ 152, càng lúc càng thêm nhiều bài vở đa dạng, phong phú. Ngoài những Thành viên nhận được Bản Tin được in ra hàng tháng, một số độc giả ở nước ngoài thì đọc qua e-mail mà hàng kỳ Chủ Nhiệm gởi đến. Một số khi nhận được thì in ra thêm nhiều bản để biếu cho bạn bè, nhận được phản hồi rất tốt. Và dù Bản Tin chỉ do những Thành viên hay thân hữu đọc, thấy thích rồi giới thiệu với bạn bè, nhưng trang Web chính thức SÁCH VÀ TRANH số lượt truy cập đến nay cũng đã lên đến con số gần l.300.000 lượt, chứng tỏ Bản Tin cũng có thêm một số độc giả không nhỏ trên mạng.

Mọi Thành viên ai nấy theo sở trường của mình để đóng góp bài vở cho Bản Tin hàng tháng với tất cả niềm hăng say, xem đó là niềm vui của tuổi già. Riêng tôi, thì đóng góp bằng công trình suốt mấy mươi năm nghiên cứu và thực hành Đạo Phật qua những Bộ Kinh Đại Thừa. Qua đó, người đọc sẽ thấy được một Đạo Phật theo đúng Chánh Pháp thì không Chùa to, Phật lớn, làm hao tổn tiền bạc của bá tánh. Không đóng khung sau cửa Chùa. Không gò bó trong trang phục, hình thức. Không Thờ Phật. Không mê tín, dị đoan. Không nhang khói cầu xin, nương tựa. Không bỏ hết việc đời chờ người khác cung phụng cho mình, mà tự lo cho cuộc sống để tu hành, bởi vì Tu chỉ có một nghĩa là Sửa. Ai chịu tu sửa Thân, Tâm, cải Ác, hành Thiện, sống đúng đạo lý của một con người: Biết yêu thương đất nước, ông bà, cha mẹ, gia đình. Kính trên, nhường dưới. Giúp đỡ mọi người. Làm tròn trách nhiệm của một con người. Đóng góp khả năng, trí tuệ của mình cho đất nước, cho dân tộc để đền Tứ Ân, thì đó là người tu. Có vậy Đạo Phật mới có thể đi vào mọi tầng lớp trong cuộc đời, làm cho tất cả đều có được kiếp sống an vui, không phân biệt sang, hèn, già trẻ, giới tính, trình độ, độc thân hay có gia đình, trong Chùa hay ngoài Chùa, để thực hiện lời Thọ Ký: “Tất cả Chúng Sinh là Phật sẽ thành”, đúng theo ý nguyện của đấng khai Đạo là Đức Thích Ca.

Dịp Tất Niên, ngoài việc để ăn mừng trải qua một năm an lành, còn là dịp nhắc nhở mọi người là sắp chuẩn bị bước sang một năm mới, thêm tuổi, thêm kinh nghiệm sống, thời gian cũng không còn dài để làm những điều mình yêu thích, và biết rằng cuộc đời đã cho mình quá nhiều: Trong lúc nhiều nơi trên thế giới vẫn còn hỗn loạn, thì chúng ta được sống an lành trong một đất nước hòa bình bên người thân. Dù xã hội vẫn còn những con người chưa tốt, những mặt chưa hoàn chỉnh, nhưng trong đó vẫn không ít những con người đang sống tốt và làm tròn trách nhiệm với bản thân, với cuộc đời. Bản thân chúng ta thì được sống tuổi về chiều trong gia đình thuận hòa, vợ chồng, con cái cùng chia nhau những khó khăn, vui buồn của cuộc sống. Được hòa mình vào một môi trường tốt với những người cùng yêu cái đẹp, yêu văn chương, yêu nếp sống lành mạnh, thì đó là một hạnh phúc to lớn mà không phải ai cũng có thể có được, nên càng cố gắng đóng góp công sức nhỏ bé của mình để đáp lại những gì mình nhận được từ ân sủng của cuộc đời.

Nhân ngày Xuân, cũng xin được đại diện cho tất cả Thành viên trong CLB SÁCH XƯA & NAY, xin kính chúc Linh mục Cố vấn và Chủ nhiệm luôn dồi dào sức khỏe để tiếp tục điều hành cho Bản Tin ngày càng tốt hơn. Kính chúc các Thành viên tăng phúc, tăng thọ, đóng góp thêm nhiều bài vở đặc sắc và xin kính chúc quý độc giả, quý thân hữu gần xa một năm mới an khang, thịnh vượng, và thêm nhiều thành công trong cuộc sống.

Tâm Nguyện

NHỮNG SUY NGHĨ VẨN VƠ

TẬP 1

(tiếp theo số 152)

Xâu chuỗi lại các nỗi oan nỗi khổ biết bao nhiêu người phải chịu từ xưa tới nay, và sẽ còn mãi tới ngày tận cùng vũ trụ và thế giới, chúng ta có những nhận định sau đây:

1. Các nỗi oan nỗi khổ cứ mỗi ngày mỗi cao ngút trời không thể nào đong đếm được, nhà Phật tóm kết trong câu: “Đời là bể khổ”.

2. Các nỗi oan nỗi khổ phần lớn đều do con người gây ra cho mình và cho nhau. Ngạn ngữ La tinh có câu “Homo homini lupus” - nghĩa là “người là chó sói lẫn cho nhau”. Nhiều nỗi khổ ta cho rằng tại Trời, tại thiên nhiên, tại số phận… Xét cho cùng cũng tại con người cả.

Phá sạch rừng thì chịu hậu quả là lũ quét. Các nhà máy công nghiệp thải khí độc, khí gây hiệu ứng nhà kính làm biến đổi môi trường, sinh bão tố, lũ lụt. Rác thải ngập trời, nước thải các nhà máy… làm ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, sinh trăm nghìn thứ bệnh tật cho con người. Trẻ em bị đần độn, bị tật nguyền từ khi mới sinh… thường do hóa chất độc hại trong môi trường sống, cũng có khi do bố mẹ nghiện ngập, chơi bời để lại “gia tài” cho con cái. Ngày nay báo chí nói nhiều tới nhân tai hơn thiên tai, mà kể cả thiên tai cực lớn như sóng thần, động đất, núi lửa phun trào… cũng có thể có nguyên do từ sự khai thác quá mức dầu hỏa và nước ngầm, lòng đất bị rỗng nên phải chuyển động. Tóm lại, mọi tai họa xảy ra cho loài người và muôn vật đều có cội nguồn sâu xa từ tội ban đầu của con người nguyên thủy như Kinh Thánh nói: “Bởi một người mà tội đã xâm nhập vào trần gian, mà bởi tội thì có (mọi xáo trộn và) sự chết” - (Tân Ước, thư Roma đoạn 5, câu 12).

3. Trả lại cho con người sự công bằng tuyệt đối, đền bù mọi sự oan sai, đau khổ là chuyện không thể thực hiện nơi trần gian này.

4. Sự công bình là nỗi khát khao cháy bỏng, là nhu cầu thực sự của mọi người qua mọi thời đại và ở mọi nơi. Mở đầu tuyên ngôn độc lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, là lời quả quyết: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng, Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được trong những quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (sống trong yêu thương, công lý và bình an).

5. Theo định luật tâm lý xã hội: cái gì là nhu cầu phổ quát của mi người, mi nơi, mi thời đi thì cái đó phải có. Thí dụ muôn loài sinh vật có chung nhu cầu thở, thì trong thực tế phải có khí để đáp ứng. Có nhu cầu nạp năng lượng để bảo tồn sự sống và phát triển thì thực tế phải có đồ ăn để đáp ứng. Có nhu cầu khát thì thực tế phải có nước để đáp ứng.

Vậy nhu cầu đói khát công lý, chắc chắn phải có công lý tuyệt đối để đáp ứng. Nhưng trên cõi đời này không tìm đâu ra công lý tuyệt đối, thỏa đáng thì chắc chắn phải có ở đời sau nếu không có thì tất cả cuộc sống đầy bất công ở trần gian này là điều phi lý, không thể chấp nhận được (như những oan sai đã trình bày ở trên), và như vậy loài người không còn cái cao quý nhất mà Tạo Hóa ban cho, là nhân phẩm, mà bị hạ xuống ngang tầm thú vật, vì thế giới loài vật không có ý niệm về tự do, phẩm giá, trách nhiệm, công bằng… ở đây mọi loài sống theo bản năng: cá lớn nuốt cá bé, hổ dữ xé chiên lành, mạnh được yếu thua…

Để củng cố cho niềm tin có một thế giới công minh chính trực, chúng ta thấy cách chung nhân loại đã bày tỏ qua những châm ngôn, tục ngữ đầy khôn ngoan:

- “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo” - Ở đời này làm sao có chuyện “ân đền oán trả” sòng phẳng, vậy thì phải chờ kiếp sau.

- “Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu, thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” - Công lý ở đời này kiểu “con lạc đà chui qua lỗ kim” một cách dễ dàng thì câu nói trên vô nghĩa!

- “Đèn trời soi xét” hay “Ông Trời có mắt” - tức là có Đấng xét xử phân minh, thưởng phạt công bình. Trong bộ phim “ĐẤT VÀ NGƯỜI” được đánh giá cao, có một chi tiết đáng lưu ý: anh em ông Hàm, ông Thủ có một âm mưu thâm độc, tàn nhẫn để vu oan cho ông Phúc (người yêu cũ của bà Son, vợ ông Hàm). Ông Hàm bắt bà Son phải thực hiện, bà khóc lóc van lạy ông: “Ác quá, Trời có mắt, tôi không làm được đâu”.

Lòng người khao khát công lý là vậy, lý trí con người tìm hiểu, lý luận biết chắc phải có như vậy, nhưng chưa tìm đâu ra một tiếng nói quyết định, dứt khoát, rõ ràng trừ đức tin Công giáo.

Quả vậy, Kinh Thánh đã mở cho chúng ta viễn ảnh đời sau:

- “Tới bao giờ các ngươi còn xử án bất công, hay còn thiên vị phường gian ác? Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn, minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng. Giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân. Tâu Thượng Đế, xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu, vì chính Ngài làm chủ muôn dân” (Thánh Vịnh 82).

- “Tội chúng con Chúa bày ra trước mặt, lỗi thầm kín Thánh Nhan đều soi tỏ” (Tv 90,8).

- “Lạy Chúa là Chúa Trời trả báo. Lạy Chúa Trời trả báo xin Ngài quang lâm. Đấng xét xử địa cầu xin đứng dậy, trả cho lũ kiêu căng xứng việc chúng làm, (quân gian ác) chúng giết quả phụ, giết khách ngoại kiều, tàn sát cả cô nhi. Chúng bảo rằng Chúa đâu có thấy… Hãy lưu tâm này quân đần độn nhất trên đời, bao giờ mới nên khôn hỡi đồ ngu xuẩn? Đấng từng gắn đôi tai há lại không nghe được? Đấng nặn thành cặp mắt chẳng lẽ không thấy gì? Đấng sửa trị muôn dân lẽ nào không trừng phạt? Lẽ nào Chúa liên minh với bọn thẩm phán ác ôn, bọn gieo tai rắc họa chẳng kể chi luật pháp, lên án tử cho người vô tội? Tội của chúng Người đổ trên đầu chúng. Người tiêu diệt chúng vì điều dữ chúng làm. Đức Chúa là Thiên Chúa của ta sẽ tiêu diệt chúng. Công lý rồi ra sẽ trở lại pháp đình. Mọi tâm hồn chính trực sẽ tuân theo” (Tv 94).

Vấn đề là bao giờ thì Chúa xét xử? Kinh Thánh trả lời đó là ngày tận thế.

Các khoa học gia cũng đồng ý với Kinh Thánh về ngày tận thế. Họ tính ra mỗi 1 phút qua đi, mặt trời phải tiêu thụ 400 triệu tấn khí helium để giữ được ngọn lửa và sức nóng hàng triệu độ như hiện nay. Như vậy một số tỷ năm nữa nguồn khí helium sẽ cạn kiệt và mặt trời sẽ chết, như biết bao nhiêu mặt trời khác trong vũ trụ đã chết. Mặt trời chết kéo theo cái chết của trái đất và muôn vật trên nó, đó là ngày tận thế theo khoa thiên văn học.

Còn Kinh Thánh? Thưa rất rõ ràng:

- “Vậy mà Thiên Chúa đã nhắm mắt bỏ qua những thời người ta không nhận biết Ngài. Bây giờ Ngài truyền cho người ta rằng: mọi người ở mọi nơi phải sám hối. Vì Ngài đã ấn định một ngày để xét xử thiên hạ theo công lý, nhờ một người mà Ngài đã chỉ định (là Đức Giêsu) để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho Vị này sống lại từ cõi chết” (sách Tông đồ Công vụ đoạn 17, câu 31).

- “Ngay sau những ngày gian nan ấy thì mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, chín tầng trời bị lay chuyển, bấy giờ dấu hiệu Con Người sẽ xuất hiện trên trời, bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này tới chân trời kia” (Tân Ước, Tin Mừng Matthêu đoạn 24, câu 29-31).

(còn tiếp)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)

KHI NHỮNG NGƯỜI

CHƯA HIỂU HẾT ĐẠO PHẬT

MÀ LẠI ĐI TRUYỀN ĐẠO

Nhiều người đã nhìn vào những hình tượng xa hoa lộng lẫy như Chùa Vàng ở Miến Điện, Chùa Bạc, Chùa Triệu Phật Vàng ở Thái Lan, và những ngôi Chùa hoành tráng ở khắp nơi trên thế giới. Rồi thì những Tượng Phật khổng lồ cao hàng trăm thước ở Trung Quốc, Nhật, Đài Loan. Việt Nam ta vài năm gần đây cũng có một Tượng Phật Di Lặc lớn nhất Châu Á đặt trên Núi Cấm. Ở Bamiyan, Afganistan, thời Vua A Dục hoằng pháp, có hai tượng Phật khổng lồ được tạc hẳn trên 1 quả núi mà phiến quân Taliban năm 2001 đã dùng mọi cách để phá hủy cho bằng được, bất chấp lời can ngăn của quốc tế. Các Sư Tăng thì chỉ có tụng kinh, niệm Phật, học pháp, giảng pháp mà hưởng một cuộc sống thanh nhàn trong những ngôi Chùa còn lộng lẫy hơn dinh thự của bậc đế vương. Di chuyển bằng xe đắt tiền, dùng điện thoại đời mới, đi đâu thì tiền hô, hậu ủng, Chùa nào chùa nấy vườn đất bao la… Và rồi gần đây là một số bê bối đã diễn ra ngay chính nơi những ngôi Chùa danh tiếng. Nổi bật là Trụ Trì Chùa Triệu Phật Vàng bị 4.000 cảnh sát bao vây để bắt vì cho rằng đã vi phạm nhiều thứ tội, trong đó có tội rửa tiền, nhưng vẫn chưa bắt được! Có Sư có chuyên cơ riêng, có cả mấy mươi chiếc xe hơi đắt tiền, xài hàng hiệu, khi bị tố giác đã trốn sang Mỹ nhưng bị dẫn độ về và bị tuyên 114 năm tù. Một Trụ Trì ở Trung Quốc thì bị tố quấy rối tình dục các Sư Nữ và đã làm cho một Sư Nữ phải tự tử! Trụ trì khác thì bị tố quan hệ với diễn viên, có con riêng… Điều đau lòng là trong số những người vi phạm pháp luật thậm chí còn có một số chức sắc trong Hội Đồng Tối Cao của Tăng Già!

Những người dễ tính thì cho rằng đó chỉ là một vài con sâu trong Đạo, chỉ cần loại trừ là nhà Chùa vẫn sinh hoạt bình thường, không có gì đáng để lưu tâm. Nhưng người không có thiện cảm hay khích bác Đạo Phật, thì cho rằng Đức Phật dạy Vô Thường, dạy mọi người bỏ đời, bỏ thế gian, chọn cuộc sống thanh đạm, rau, dưa để sống cho qua cõi tạm, mà xem ra Đệ Tử của Ngài lại có cuộc sống còn xa hoa hơn người bình thường gấp bao nhiêu lần! Họ phê phán thế có đúng không? Hóa ra Đạo Phật nói một đường hành một nẻo chăng? Đó có phải là đường lối của Đạo Phật chân chính? Nhận xét đó có ảnh hưởng gì đến Đạo Phật không? Chúng ta sẽ bào chữa như thế nào đây?

Phải nhận rằng càng về sau này thì Đạo Phật càng phổ biến đến nhiều tầng lớp trong xã hội, người Quy Y ngày càng đông nên Chùa chiền càng mọc lên thêm nhiều, ngày càng hoành tráng. Xã hội cũng ưu tiên cho Tu Sĩ, cứ vô Chùa, cạo đầu tu là kể như không còn dính dáng tới việc trần tục nên không phải đóng góp gì cho cuộc đời. Không cần biết tu đúng Chánh Pháp hay không, chỉ cần đắp Y, mang bát, hình tướng trang nghiêm thì thấy đó là Đệ Tử của Nhà Phật. Tu sĩ chỉ cần học thuộc nghi thức, học một số pháp là có thể đi giảng Đạo. Họ cũng dùng những lời Phật hay lời Kinh để bàn sâu, tán rộng ra, Phật Tử làm sao phân biệt là có đúng Chánh Pháp hay không? Vì vậy, để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta nên ngược dòng lịch sử để tìm hiểu một số vấn đề chính yếu của Đạo Phật, để từ đó có thể có căn bản để so sánh thế nào mới đúng là Đạo Phật do Đức Thích Ca giảng dạy và Đạo Phật đã bị những người hiểu sai biến thành Thần Quyền, mê tín từ bao giờ không hay!

Trước hết, chúng ta tìm hiểu:

1. Thế nào là Giáo Pháp của Đạo Phật? Mục đích đưa người tin theo đến đâu? Người theo cần làm những gì?

2. Sự phát triển của Đạo Phật.

1.1. Về Giáo Pháp của Đo Pht

Có lẽ chúng ta đều biết, Đạo Phật được Đức Thích Ca khai mở cách đây đã gần 3.000 năm. Do thấy cuộc sống con người ngắn ngủi, không đầy trăm năm mà phải chịu biết bao nhiêu cảnh Khổ hành hạ. Vì thế, khi khám phá ra Chân Lý Giải Khổ thì Ngài bỏ hết cuộc đời còn lại để truyền lại cho những ai tin và hành theo sự hướng dẫn của Ngài sẽ được Thoát Khổ, có được một cuộc sống yên vui cho đến hết kiếp.

Để được Thoát Khổ thì mỗi người tu Phật phải tự mình hành động gọi là Tự Độ bằng những cách thức do Đức Thích Ca đặt ra: Việc đầu tiên phải ý thức cuộc sống là Khổ và muốn Thoát Khổ. Người phát tâm muốn Thoát Khổ sẽ được hướng dẫn cho Quán Sát, Tư Duy, Thiền Định rồi thực hành theo những gì mình thấy, sau khi kiểm tra xem có khế hợp với Chính Kinh. Song hành với việc Quán Sát, Tư Duy, người tu Phật phải giữ Giới và đi trong Bát Chánh Đạo để giữ tư tưởng, hành động được thanh tịnh. Khi ý thức được rằng đeo đuổi theo cảnh trần chỉ làm cho cuộc sống không an ổn, người tu sẽ “thu thúc Lục Căn” không cho chạy theo Lục Trần, không còn mong cầu, nhờ đó mà có được cuộc sống an lành cho đến hết kiếp, không cần phải cầu xin ai.

1.2. Kết quả tu hành theo Đo Pht

Người tu Phật cứ kiên trì hành đúng theo như những gì được hướng dẫn trong Đạo Phật. Nhờ Quán Sát, Tư Duy mà biết sự thật về Các Pháp nên không còn ham thích chạy theo trần cảnh giả tạm nữa. Nhờ ý thức cái Thân là hư huyễn, do Tứ Đại hòa hợp mà thành. Những ý tưởng nảy sinh do tiếp xúc với các pháp là do cái VỌNG Tâm, nên họ tìm cách chuyển hóa nó, nhờ đó mà không còn mê đắm vật chất tạm bợ, có được cuộc sống an lạc trong cảnh đời đầy xáo trộn. Người Giải Thoát cho mình khỏi bị cảnh Khổ vùi dập giữa đời được Đạo Phật ví như Hoa Sen vươn lên từ bùn nên đã dùng HOA SEN làm biểu tượng. Giải Khổ là mục đích duy nhất của Đạo Phật, còn những thứ khác như Chư Phật, Bồ Tát, Cõi nước Phật v.v... chỉ là phương tiện để dẫn dụ trong một giai đoạn mà thôi.

2. S phát triển của Đo Pht

Ngay sau khi Đắc Đạo sau 49 ngày đêm Thiền Định, Đức Thích Ca đã trở lại Vườn Lộc Giả, nơi trước đây Ngài tu chung với 5 người khác, nhưng họ đã bỏ Ngài từ lúc Ngài ngưng khổ hạnh vì ý thức “linh hồn không thể minh mẫn trong một thể xác yếu đuối”, thì cho rằng Ngài ngại khó nên khó thể tu hành thành công được. Nhưng khi thấy thần thái của Ngài lúc Đắc Đạo quay lại thì họ nhận ra Ngài đã thành công nên chấp nhận trở thành 5 Đệ tử đầu tiên của Ngài.

Từ đó, Đức Thích Ca tiếp tục chiêu mộ Đệ tử để bắt đầu giảng Đạo Thoát Khổ hay Giải Thoát cũng gọi là Đạo Phật.

Đạo Phật chủ yếu nói về mọi diễn tiến trong Tâm. Vì theo khám phá của Đức Thích Ca: Dù mọi hành động đều do cái Thân thực hiện, nhưng động cơ điều khiển chính là cái Vọng Tâm. Muốn dập tắt mọi hành động xấu thì phải khống chế cho được cái Tâm này. Thế nhưng, nó lại vô hình, vô ảnh, nằm sâu trong Thân. Cũng vì thời đó ngôn ngữ chưa đủ, phải dùng hình ảnh bên ngoài, nên rất dễ gây hiểu lầm. Vì thế, trước lúc nhập diệt, Đức Thích Ca phải giao cho người đã nắm vững đường lối Giáo Pháp của Ngài từ Lý, đến Hạnh, đã đạt kết quả - gọi là chứng đắc - mới đủ sức thay Phật đảm đương việc Đạo.

Sự việc diễn ra trong một lần trước đại chúng, khi Đức Thích Ca cầm cành Sen đưa lên, cả đám ngơ ngác không hiểu ý Phật nói gì, chỉ có Ngài Ca Diếp mỉm cười. Qua nụ cười đó, Đức Thích Ca biết Ngài Ca Diếp đã nắm vững Giáo Pháp của Ngài, có thể thay Ngài cầm nắm Tăng Đoàn và phát huy Giáo Pháp, nên trước Đại Chúng, tuyên bố giao Chánh Pháp lại cho Ca Diếp - về sau gọi là Truyền Y Bát - và dặn dò việc này nên tiếp tục để Chánh Pháp không dứt diệt.

Tiếc thay, chỉ mới 100 năm sau khi Đức Thích Ca nhập diệt thì những Trưởng Lão do bất đồng quan điểm, bất chấp lời dặn dò của Phật, đã tách ra. Từ đó những Đệ Tử Phật được chia thành hai nhóm: Nhóm do các Trưởng Lão lãnh đạo thì được gọi là Trưởng Lão Bộ hoặc Tiểu Thừa hay Phật Giáo Nguyên Thủy. Nhóm chấp nhận Tổ mới thì được gọi là Đại Chúng Bộ hay Đại Thừa. Cả hai bên đều tiếp tục truyền bá Đạo Phật theo cách hiểu của mình.

Nhóm Đại Thừa thì do Tổ được Truyền Y Bát cầm nắm, tiếp tục giữ nguyên việc Truyền Thừa do Đức Thích Ca di ngôn lại. Tổ trước truyền cho người đã Chứng Đắc tiếp tục kế nhiệm mình.

Dù bên Đại Thừa là những người thực hiện di ngôn của Phật. Đời nào cũng có người Chứng Đắc lên làm Tổ để cầm nắm giềng mối Đạo và giảng dạy. Những gì các Tổ giảng dạy được gom lại thành những bộ Kinh gọi là Kinh Đại Thừa. Những gì trong đó có giá trị như lời của Đức Thích Ca không khác, vì “Phật trước Phật sau đều bình đẳng”. Điều này phía Phật Giáo Nguyên Thủy không thể hiểu được. Họ chỉ biết rằng Kinh Đại Thừa là những lời do các Tổ về sau thuyết, không phải lời của Phật thuyết, nên họ chống đối quyết liệt, cho là ngụy tạo, và kêu gọi Phật Tử trở về với Tiểu Thừa mà họ cho đó mới là Đạo Phật nguyên chất!

Cả hai bên Đại Thừa và Tiểu Thừa đều dùng chung Giáo Pháp của Đức Thích Ca đã giảng dạy. Tu Sĩ cùng mang hình tướng đầu tròn áo vuông như nhau. Giáo Pháp cũng giống nhau: Cũng là Tứ Diệu Đế, Giới và Bát Chánh Đạo và cùng áp dụng những lời Phật giảng dạy để truyền lại. Cả hai bên đều cho rằng “Đức Thích Ca không phải là Thần Linh mà chỉ là một con người bình thường, do đoạn trừ lậu hoặc mà Chứng Quả”. Nhưng qua những gì chúng ta nhìn thấy nơi các Chùa chiền, thì Đạo Phật do Tiểu Thừa phổ biến thường thiên về hình thức, Chùa to, tượng lớn, trang hoàng lộng lẫy, điển hình là ở các nước xem Đạo Phật là Quốc Giáo như Miến Điện, Thái Lan... đều có những ngôi Chùa bằng vàng, bạc, hoặc hoành tráng còn tồn tại đến nay.

Thêm vào đó, nhiều lớp tu sĩ chưa Chứng Đắc lại đi giảng Đạo Phật. Họ cũng dùng những đoạn được trích ra từ kinh sách, nhưng do không hiểu được NGHĨA, nên chỉ y theo NGỮ mà giảng rộng ra. Qua đó, Phật không còn có nghĩa là Giải Thoát, mà là một vị Thần Linh, có thể “Cứu Độ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới”. Bồ Tát là những Đệ Tử của Phật, lúc nào cũng ứng trực để cứu khổn, phò nguy. Cứ cầu xin là sẽ được giúp. Tây Phương Cực Lạc hay Đông Phương Tịnh Quốc là những Cõi Phật có thật, nên hướng dẫn cho Phật Tử hướng tâm cầu mong được về đó. Phật Tử chỉ biết, nương tựa. Lúc hữu sự là nhang đèn trà quả đến Chùa để cầu xin. Khi sống thì Cầu An, cầu thăng quan tiến chức, làm ăn xuôi thuận buồm xuôi gió, con cái học hành đỗ đạt, tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ. Khi có người thân qua đời thì mời Sư, Thầy về tụng kinh để Cầu Siêu. Qua những bài Tụng, họ tin rằng Chư Phật và Thánh Chúng rước vong linh người chết, đưa thẳng về Tây Phương Cực Lạc!

Người theo Đại Thừa thì cho rằng Tu Phật là Tu Tâm. Hình tướng không quan trọng. Bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ trình độ, giới tính, tuổi đời… chỉ cần ý thức cuộc đời là đau khổ, muốn Thoát Khổ thì đều có thể tu hành, thành tựu như nhau, vì Đức Thích Ca đã Thọ Ký: “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. Thành Phật chỉ là “Thành tựu con đường Thoát Khổ” mà thôi. Không phải là thành một vị Thần Linh có quyền cứu khổn phò nguy cho ai. Vì vậy, tin Đạo Phật theo Chánh Pháp là tin Nhân Quả. Mỗi người tự làm, tự chịu, không ai có thể miễn giảm cho ai. Vì thế, người theo Đại Thừa “Cầu mà không Cầu”, tức là tự mình Gây Nhân để hưởng Quả. Cũng không Thờ Phật, mà chỉ hành theo đường lối Ngài đã dạy, tự mình tu sửa cái Tâm của mình để cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn. Giữ Thân, Khẩu, Ý, Ba Nghiệp thanh tịnh, vì “Chứng Thánh hay đọa phàm cũng do Lục Căn”, nên không tu nơi nào khác hơn là tu ở đó. Không cần Chùa to, Tượng lớn, vì “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”!

Từ bao đời rồi, Phật Tử vẫn được tuyên tryền là Phật, Bồ Tát là những vị Thần Linh để cứu độ mọi người nên có chuyện là đến Chùa để cúng kiến, cầu xin. Nếu bây giờ nói rằng Phật không phải là Thần Linh thì chắc chắn mọi người không khỏi hoang mang, cho rằng có thể đây là luận điệu của những kẻ phá Đạo. Vì vậy, tốt nhất chúng ta cần kiểm chứng cho trắng, đen được phân minh qua những trình tự như sau:

1. Quá trình tu hành của Đức Thích Ca:

Con đường tu hành của Đức Thích Ca và những người tu hành vô lượng đời, sau khi Phát Tâm thì cũng chỉ phải làm có mấy việc: Giới-Định-Huệ, Bát Chánh Đạo, trừ Ba Độc, Thương, Ghét, mà Kinh Viên Giác có Kệ:

Nếu người đoạn Thương, Ghét

Cùng với Tham, Sân, Si

Chẳng cần tu gì khác

Cũng đều thành Phật Đạo

NHƯ LAI không phải là Phật Tổ Như Lai có toàn quyền ban ân, giáng họa như đa phần người đời vẫn hiểu lầm, mà ý Kinh muốn diễn tả: Đó là người dù đối đầu với các pháp thuận, nghịch, khổ, vui v.v… mà vẫn không bị động tâm, lúc nào cũng bình thản, cũng NHƯ, nên được gọi là NHƯ LAI.

Để Thành Như Lai thì chỉ cần: CHỈ, QUÁN và CHỈ QUÁN SONG TU. Kinh VIÊN GIÁC viết:“Đây là phương tiện đầu tiên tu hành của Hành Giả, tức BA PHÁP QUÁN . Nếu các chúng sanh tinh tấn siêng tu Ba Pháp Quán này được hoàn toàn tức là Như Lai xuất hiện ở thế gian vậy”. Tất nhiên, không phải chỉ cần Quán là xong - như một số sách viết về Thiền kể về sự Chứng Ngộ của Thiền Sinh - mà sau đó, hành giả phải áp dụng kết quả mà mình đã Quán Sát thấy được vào cuộc sống cho Lý, Sự song hành thì mới gọi là người tu Phật thành công được.

2. Pht Tử vẫn tin rằng Pht thần thông quảng đi, có toàn quyền ban ân giáng phúc, cứu nhân, đ thế để cúng bái, cầu xin. Nhưng nhìn vào thc tế, chúng ta sẽ thấy:

- Nếu Phật là Thần Linh. Thân của Ngài là Thân Kim Cang Bất Hoại thì Phật đã không chết, đã không trà tỳ.

- Nếu Phật có quyền phép sao Ngài không ngăn việc Tu Viện Larung Gaz, lớn nhất ở Tây Tạng, là nơi đào tạo cho cả 40.000 Tu Sĩ của Đạo Phật đã bị Trung Quốc đập phá, đuổi họ về quê?

- Không cứu độ cho dân của Ngài để năm 2016 nhiều trận động đất đã lấy đi gần 9.000 sinh mạng con người và làm sụp đổ nhiều tòa tháp cổ ngay chính tại quê hương Népal của Ngài?

- Ở Miến Điện cũng có một ngôi Chùa Vàng bị lật chìm xuống sông.

- Ngay cả Đức Đạt Lai Lạt Ma, người được cho là Phật Sống, cũng phải chạy trốn, lưu vong nơi xứ người. Nếu như mọi người tưởng tượng về Phật, thì Ngài là Phật hẳn phải có phép màu, sao không thấy hiển lộ để tự cứu mình và cứu dân mình?

- Nếu cầu xin mà Phật ban cho được thì hàng mấy ngàn năm nay nhân loại xin Hòa Bình đã mỏi mòn, nhưng chiến tranh, tai ách, bất công vẫn triền miên diễn ra.

- Bản thân Phật cũng chết thì làm sao phù hộ cho ta khỏi bệnh, khỏi chết? Ngay lúc sinh thời Ngài cũng không can được khi dòng họ Thích đánh nhau với dòng họ khác làm chết hàng mấy trăm người. Nếu Phật có uy lực sao lại để chuyện đó diễn ra?

(còn tiếp)

TÂM NGUYỆN


Phụ bản I

NGƯỜI NGA BẮT ĐẦU VIẾT

VỀ VIỆT NAM TỪ BAO GIỜ?

Căn cứ vào các tài liệu được công bố trong những năm gần đây, chúng ta được biết, ngay từ thế kỷ XVIII ông cha ta đã có người, quan tâm đến nước Nga. Và người Việt Nam đầu tiên còn để lại bút tích nói về nước Nga có thể kể đến là nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) trong tác phẩm Vân đài loại ngữ, một công trình “bách khoa thư” tham khảo hàng gần 600 cuốn sách Đông Tây kim cổ, đã từng đề cập đến nước Nga. Trong phần địa chỉ thế giới ông đã giới thiệu nước Nga.

Tiếp theo là linh mục Thiên Chúa giáo của Việt Nam giáo sĩ Philiphê Bỉnh (1759) nửa đầu thế kỷ XIX, sống hơn 35 năm ở Bồ Đào Nha, vào đầu năm 1822 thì hoàn thành cuốn Sách sổ sang chép các việc, trong đó đã dành nhiều trang nói về nước Nga 1 . Sang tới thế kỷ XIX, trước hết phải kể đến Nguyễn Trường Tộ (1830-1871), một vị quan triều đình tài giỏi, chính trực, giàu lòng yêu nước thương dân và có tầm nhìn xa trông rộng. Trong bản điều trần khẩn thiết gửi lên nhà vua, Nguyễn Trường Tộ đã không phải một lần nói đến nước Nga, kinh nghiệm lịch sử của nước Nga, qua những dẫn chứng cụ thể: ...“Khoảng năm Gia Khánh nhà Thanh, Napôlêông xuất thân từ binh lính nổi lên... đốt phá Nga-la-tư”... “Người Nga lại từ sông A Mây (Amana Daria) đào đường ăn thông với phía tây núi Thống Lĩnh (Himalya)”... “Người Nga đóng thuyền ở biển Cax-piên”... “Người Nga đã có đường điện tín từ thủ đô vượt Trường Thành ở phía Đông vào Bắc Kinh ”... “ Người Nga cũng sai người sang Anh học dân công, học thao tác...” ...“ Trận đánh ở biển Đen năm trước, Nga là một nước cường thịnh bậc nhất trong thiên hạ có trăm vạn quân, đã giữ vững trong hai năm, thế mà rồi cũng bị hãm...” “Và hướng đi tới của nước Nga thế nào? 2

Đấy là phía ông cha ta. Còn phía Nga thì sao? Người Nga bắt đầu quan tâm đến việt Nam từ bao giờ? Tư liệu về Việt Nam xuất hiện ở Nga từ bao giờ? Năm 1979, trên tuần báo Văn nghệ tôi đã có dịp giới thiệu với bạn đọc hai số 31, 32, một trích đoạn trong truyện ký Hành trình vòng quanh thế giới trên tàu Coocxun (1854) của nhà văn Nga K.Stanhưukovích (1843-1903). Ở đây tác giả, bây giờ là một sĩ quan hải quân Nga, được đến Sài Gòn, thời điểm thực dân Pháp đã chiếm được Nam Bộ (Côsanhxin), đang đàn áp những ổ đề kháng cuối cùng của nhân dân ta. K.Stanhưukovich có dịp theo quân viễn chinh Pháp tiến đánh Gò Công của lãnh tụ Trương Công Định, ông đã miêu tả lại trong bút ký của mình quang cảnh Nam Bộ, Sài Gòn, Gia Định, miêu tả một cách khách quan chế độ thực dân Pháp buổi đầu ở đất nước ta và đã có cái nhìn dân chủ, đầy thiện cảm đối với cuộc chiến đấu của nhân dân ta khi đó...

Ít lâu sau, năm 1987, tạp chí Sông Hương trong số 27 ra nhân dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Mười (1917 - 1987), trong mục Tư liệu, lại giới thiệu bài Người bạn gái Nga của vua Hàm Nghi do Lỗ Thanh dịch. Mùa xuân năm 1903, ngay sau chuyến thăm Angiêri, lúc ấy là thuộc địa của Pháp, nữ văn sĩ trẻ người Nga Tachiana Shevkina Kupernik (1974-1952) đã cho xuất bản ở Moskva một tập bút ký hành trình Những lá thư từ phương xa, trong đó có một tiểu phẩm Hoàng tử Lý Tông, nói về những cuộc gặp gỡ của tác giả với vua Hàm Nghi lúc ấy đang bị đày ở đây.

Nhưng hai tài liệu mới chỉ là một phần nhỏ những gì người Nga đã viết về Việt Nam trong giai đoạn đầu của quan hệ giữa hai dân tộc. Vừa qua, có dịp trở lại Moskva anh Sokolov AA, Tiến sĩ Ngữ văn Viện Đông phương học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga, một trong những người nghiên cứu về Việt Nam từ nhiều năm nay rất có uy tín, trao đổi với anh về dự kiến và công trình giao lưu văn hóa Việt Nga của NXB Văn học, tôi liền được anh hưởng ứng và giúp đỡ ngay những tư liệu ban đầu.

Bản thân anh, Sokolov cũng đang quan tâm đến chủ đề này và trong cuộc Hội thảo Những vấn đề khoa học xã hội Việt Nam hiện nay do Hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga tổ chức tại Moskva vào ngày 28 tháng tư vừa qua, anh đã đọc một bản một bản báo cáo được nhiều người chú ý với nhan đề: Về lịch sử nghiên cứu Việt Nam ở Nga. Anh mở đầu: “Việc nghiên cứu tích cực Việt Nam ở Liên Xô chỉ bắt đầu cách đây không lâu vào đầu những năm 50. Trên thực tế, những tư liệu đầu tiên về đất nước châu Á xa xôi này xuất hiện trên báo chí và trong văn chương ở Nga ngay từ buổi giao thời giữa các thế kỉ XVIII-XIX...”.

Rồi đây, nếu bản báo cáo trên của Sokolov AA, dịch đầy đủ sang tiếng Việt được công bố, tôi tin rằng sẽ đem lại rất nhiều thích thú và bổ ích không chỉ đối với một đôi người trong chúng ta. Tạm thời, được phép tác giả, tôi xin giới thiệu sơ qua một vài nét trước để thử giải đáp các câu hỏi đặt ra từ đầu: Người Nga bắt đầu viết về Việt Nam từ bao giờ?

Theo cố giáo sư N.I.Nikulin thì nhà hàng hải Nga Aphanax Nikitin ở thế kỷ XV đã viết cuốn Cuộc hành trình qua ba bể (nhiều người Việt Nam thế hệ trước vào những năm 60, 70 thế kỷ XX, đã được biết qua bộ phim Liên Xô cùng tên Cuộc hành trình qua ba bể, kể về cuộc hành trình của ông sang phương Đông, trong đó đã nhắc đến xứ Champa, Việt Nam vào những năm 1471-1474, khi tác giả sống ở Ấn Độ. 3

Những tài liệu in ấn đầu tiên ở Nga về Việt Nam xuất hiện trong ấn phẩm định kỳ và như thông lệ, đó là bản dịch các báo chí nước ngoài (trước hết là báo chí Pháp). Vậy là năm 1821 trong tạp chí Lịch sử, thống kê và địa lý xuất bản ở Moskva đã đăng một bài báo ngắn Những tài liệu mới nhất về Côsanhxin (Nam Kỳ). Còn ở tạp chí Thông tin Moskva (Moska 1872, số 8) đăng bản dịch bài của học giả Puyrtue người Pháp Tổng quan về Côsanhxin. Ông Puyrtue đã sống ở Côsanhxin bảy năm và chia sẻ với bạn đọc các ấn tượng về đời sống, phong tục của nhân dân bản xứ cũng như vai trò của các cố đạo truyền giáo đạo Giatô.

Năm 1846, trong cuốn sách của hai tác giả người Nga A.Senikor và Stoikovich xuất bản ở Moskva Phong tục, tập quán và di tích văn hóa của các dân tộc trên địa cầu đã có một phần viết về Annam.

Khi thực dân Pháp thúc đẩy mạnh công cuộc xâm lược Việt Nam thì Nga cũng xuất hiện thêm nhiều tư liệu về đất nước chúng ta: năm 1858, tạp chí Thông tin Nga (Moskva, tập 13) trong phần Niên giám đương thời có chương miêu tả về địa lý, thiết chế nhà nước, quan hệ giữa Côsanhxin với Pháp, Sanh Peterburg 1858, số 3), soạn theo tư liệu báo chí Pháp. Một năm sau, tổng tạp chí Tờ tin gia đình có minh họa Xanh Peterburg, 1859, T.I, số 5-6) có in bài Cảng Sài Gòn và phóng sự ảnh tỉ mỉ về cảng này.

Từ đây, nhiều báo chí Nga thường xuyên đăng tài liệu của các tác giả nước ngoài và các tác giả Nga dựa trên tư liệu nước ngoài viết về Việt Nam. Từ nửa sau của thế kỷ XIX ở Nga chuyển sang một giai đoạn mới, bắt đầu công bố các ghi chép, bút ký, báo cáo của các sĩ quan Nga sau những chuyến đi của Hạm đội Nga đến vùng Đông Nam Á, trong đó có nhiều tài liệu về Việt Nam.

Trước hết phải kể đến những bút ký của Stanhưukovích như đã nói ở trên. Tiếp đến các bài viết của một nhà văn Nga khác V.I Krestovski (1840-1895) đến Việt Nam với tư cách thư ký của tướng Nga X.X. Resovski theo lời mời của Bộ Hải quân Pháp. Họ đến Sài Gòn trên một chiến hạm Nga vào đầu những năm 80 thế kỷ trước. Krestovski đã để lại các bài bút ký xúc động đặc biệt: Từ Xanhgapo đến Sài Gòn, Sài Gòn và từ Sài Gòn đến Hồng Công, in trên tạp chí Nga: Tạp lục biển và Thông tin chính phủ năm 1880. Ngoài ra là các bài bút ký của V.Nedzveski in ở Tạp chí quân sự (1883, số 10, 1884, số 7, 1885, số 5) viết về cuộc chinh phục Tông Kinh (Bắc Bộ). Hàng loạt bài về diễn biến chiến dịch Tông Kinh (1883-1885) của tác giả người Nga N.X.Ermolov in ở SanhPeterburg năm 1890. Sang đầu thế kỷ XX, cũng trên Tạp chí quân sự (1903, số 1) có bài bút ký rất lý thú của Đ.M.Simonov Lúc nhàn tản ở Đông Dương của Pháp. Côsanhxin, 1894 và 1897. Tác giả đã ở Côsanhxin mấy ngày năm 1894 và sau đó, năm 1897 đã ở tới ba tháng, đi khắp Côsanhxin, Campuchia và một số thành phố cảng của Annam (Trung Bộ).

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều nhà ngoại giao, các nhà thám hiểm và học giả Nga cũng đến Việt Nam. Tháng ba năm 1891 giáo sư V.A.Tikhômirốv đến Sài Gòn và ghi lại nhiều điều lý thú trong Hồi ký cuộc hành trình vòng quanh thế giới (11.1895). Học giả E.Eriksơn để lại bút ký Ở Sài Gòn , in trong tạp chí Khoa học tự nhiên và địa lý (1901, số 7). Rồi các bút ký của quan chức cao cấp N.Kraxnốv đến Việt Nam. Theo lệnh trên để nghiên cứu sinh hoạt của quân lính ta cũng như châu Á bản địa (1901-1902), sau đó ra thành sách Ở châu Á (Xanh - Peterbug 1903), trong đó có chương đặc biệt viết về Sài Gòn.

Phải nói là, vào những thập niên 80, 90 thế kỷ XIX có nhiều đoàn thám hiểm, giới ngoại giao, các nhà khoa học, nhà văn, nhà báo Nga đã đến Việt Nam, trên đây mới chỉ nhắc đến một ít những hồi ký, ghi chép rất đặc sắc về cảnh và người, đời sống phong tục tập quán ở đất Việt Nam lúc bấy giờ.

Cũng cần phải nhắc thêm đến chuyến thăm Việt Nam 1891 của Hoàng Thái tử Nga, ba năm sau lên ngôi là hoàng đế cuối cùng của nước Nga Nikolai Đệ nhị. Vị vua này cùng đoàn tùy tùng rất đông thực hiện chuyến viễn du chín tháng vòng quanh thế giới, trong đó đã ghé thăm Sài Gòn và Cam Ranh, và một chuyến viếng thăm lý thú nữa năm 1894 chiến hạm Zabiaca đi từ Vlatirvostock đến thăm Hồng Kông cũng ghé Hòn Gai, Cẩm Phả, Hải Phòng rồi nhận lời mời của các quan chức Pháp ở Đông Dương tổ chức lên thăm Hà Nội, ăn tết Giáp Ngọ với người Hà Nội.

Đáng chú ý là những cuốn sách của tác giả Nga viết về Việt Nam ra đời đầu thế kỷ này: Cuộc hành trình của những người Côdắc Uran đến vương quốc Bạch Thủy (Sanh Peterburg, 1903) của G.T.Khokholov và V.D.Maksmutsév được nhà văn dân chủ Nga mà tên tuổi từ lâu đã khá quen thuộc với bạn đọc ta là V.G.Kôrôlencô viết lời nói đầu Những người láng giềng phía Nam của người Tàu , người Pháp ở Tông Kinh, Côsanhxin và Annam, Xiêm và Miến Điện (Moskva 1901) của A.I.latsimir, Những lá thư từ phương xa (1903) của Sevkina - Kupermik như đã nhắc đến ở phần đầu bài. Các bài bút ký của học giả A.M.Bômsakốv bắt đầu in đều đặn từ năm 1912 và thiếu tá hải quân chỉ huy chiến hạm Rạng Đông E.R.Egoriév trong cuốn Vòng quanh thế giới những năm 1904 - 1905 (Petrôgrát, 1915) có lẽ là những tác phẩm cuối cùng của người Nga nói về Việt Nam xuất hiện trước Cách mạng tháng Mười năm 1917. Cuối cùng phải nhắc tới bá tước K.A.Viazemski (sinh năm 1852 - 1904 ), hội viên Hội địa lý đã từng chu du nhiều nơi khắp hành tinh, để lại cuốn nhật ký chưa xuất bản Cuộc hành trình bằng ngựa quanh châu Á trong đó có đoạn kể về chuyến viếng thăm Việt Nam: Tông Kinh, Hà Nội, Vinh, Huế, Tuaran, Sài Gòn, của ông vào tháng giêng đến tháng ba năm 1892.

Tôi thực sự vui mừng vì lần này có điều kiện đưa đến bạn đọc những thông tin trên. Hy vọng với sự cộng tác của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều dịch giả Việt Nam và sự hỗ trợ, hợp tác của bạn bè Nga trong một thời gian gần sắp tới, có thể lần lượt giới thiệu với bạn đọc gần xa những tài liệu lý thú nhất trong số sách báo nhắc tới ở trên, và với sự cố gắng của anh chị em Nhà xuất bản Văn học, một hai năm sau có thể hoàn thành tuyển tập các tác phẩm của các nhà văn Nga viết về Việt Nam cũng như các nhà văn Việt Nam viết về Nga trong hai trăm năm đưa tới đông đảo bạn đọc.

Thúy Toàn


1. Xem Nước Nga dưới con mắt của một du khách Việt Nam, cuối thế kỷ XVIII, Hà Nội ngày nay, số 23, tháng 3/2001.

2. Xem Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo. Trương Bá Cần. NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1988.

3. Xem Nhà du hành Nga ở thế kỷ XV nói về nước Champa N.I.Nikulin, tạp chí Xưa và Nay, 11/1997, tr.33-40.

4. Những điều viết trong bài này phần lớn dựa trên tư liệu của nhà văn Việt Nam, học người Nga, Tiến sĩ A.Solokov cung cấp ở dạng bản thảo, nay đã ra sách: Những tiếp xúc đầu tiên của người Nga với Việt Nam, bản dịch Việt, NXB Văn học, Hà Nội 1997 và bản dịch tiếng Nga đầy đủ hơn: Ruxxkie vo Vietname (Người Nga ở Việt Nam), bút ký và ghi chép thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hãng xuất bản Văn học phương Đông, RAN 2007; Bản dịch tiếng Việt, Những người Nga đầu tiên đến Việt Nam NXB Lokid Premium, Moskva 2013.

CHÀO TẾT KỶ HỢI 2019

BÀI THƠ “CÁO TẬT THỊ CHÚNG”

CỦA THIỀN SƯ MÃN GIÁC

Một Thiền sư nhận định “Đối trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui lòng chấp nhận nó”. Nhưng để đạt đến cấp độ tâm lý ấy thì thật sự phải có sự chuyển hướng tâm thức thuần thục theo chiều hướng trí tuệ.

CÁO TẬT THỊ CHÚNG

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Nghĩa:

CÁO BỆNH DẠY ĐỆ TỬ

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa nở.

Việc trước mắt qua mãi

Trên đầu già đến rồi.

Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai.

(Mãn Giác Thiền Sư)

Thời gian với lộ trình vô tận mà sự đổi thay là một thuộc tính bất di bất dịch, sự triển chuyển là cơ sở để có sự phát sinh và cả hoại diệt, sự tăng trưởng sinh sôi cũng đồng thời tàn tạ mỏi mòn. Quy luật là như thế và nền tảng của sự sống cũng như vậy. Bài thơ không còn dừng lại ở dấu ấn xưa nay của thi ca là ca ngợi miêu tả thuần túy một vẻ đẹp hay một cảm xúc bay bổng, đôi cánh cảm nhận mang màu sắc trí tuệ đã nâng lên những giá trị mang tính muôn thuở, một thế giới quan và hơn thế nữa - nhân sinh quan sống động.

Xuân đi trăm hoa rụng.

Một mệnh đề tưởng bình thường, chẳng có gì cao sâu, nhưng mấy ai cảm nhận và chấp nhận được.Ta vẫn đau lòng khi ai đó mất đi, vẫn hụt hẫng vì một sớm chia lìa hay một chiều tang tóc, ta biết sự đến đi là tất nhiên nhưng vẫn mong cho “thời gian dừng lại” hay “tuổi thơ quay về”. Ta vô tình tự mâu thuẫn chí ít là với những hiểu biết cơ bản nhất của chính mình. Ở điểm này, câu thơ đã có giá trị cảnh tỉnh sâu sắc.

Xuân đến trăm hoa nở.

Đây chính là sự tất nhiên mang tính vĩnh hằng. Vốn dĩ xưa nay con người chỉ muốn và mãi muốn thụ hưởng và chấp nhận những gì quy luật mang lại, hợp với chí hướng của mình, do đó mà có tâm lý vui khi Xuân về hoa nở, buồn khi Đông đến hoang liêu. Đâu biết rằng Đông chính là nền tảng để một ngày Xuân bừng dậy tinh khôi hào nhoáng. Không có đêm, làm gì có ngày, không có Đông làm gì có mùa Xuân, hiểu cả về mặt sự đối chiếu làm nổi bật và tính triết lý nền tảng.

Những nỗi đau càng chồng chất nỗi đau khi bên cạnh sự khắc khoải của thịt da, ta lại bồi đắp thêm sự xót xa tiếc nuối hay sợ hãi triền miên, thì tất yếu sự khổ đau càng gấp bội và đáng thương cho ai vẫn mong mỏi một điều không thật có là trẻ mãi không già, sống hoài không chết...

Vậy nên hoa nở và hoa rụng chẳng qua là một vòng quay, sự tuần hoàn tất yếu mà với cái nhìn biện chứng, tự nó không mâu thuẫn mà là hai mặt hữu cơ và bổ sung nhau.

Và từ sự tổng quan rộng lớn, Thiền sư đã đưa về mảng thời sự tính, đó là thân phận con người, điều mà bất cứ ai cũng phải đối mặt:

Việc trước mắt qua mãi

Trên đầu già đến rồi.

Quy luật của trời đất vốn mang tính lạnh lùng và công bằng đến tuyệt đối.

Khổng Lão Trang có quan điểm:

Thiên trường địa cửu hữu thời tận

....

Thiên địa bất nhân...

Bất nhân ở đây chính là không thiên vị, nhân nhượng bất cứ ai, bất cứ điều gì. Đó là quy luật tự nhiên.

Rồi một ngày có kẻ sĩ kiêm nhà hiền triết đất Trung Nguyên tiễn đưa bạn đời quá cố về miền vĩnh hằng với khúc Cổ bồn phiêu nhiên vô tư lự!

Bóng câu qua cửa sổ, giấc mộng kê vàng, đời người giấc mộng... là những ý tứ người ta vẫn thường chỉ về sự đổi thay.

Nhưng chẳng có gì nhanh, chẳng có gì chậm, mức độ vẫn bấy nhiêu, chẳng qua do con người áp đặt lên chúng bằng một thứ người ta quen gọi là thời gian tâm lý, do tiếc nuối sự đã qua, do mong mỏi kéo dài những gì tâm đắc:

Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết

Một ván cờ thua ngả bóng chiều.

(Vũ Hoàng Chương)

Việc vẫn trôi qua đều đều, người cũng tuần tự già đi. Già bởi đã trải qua thời trai trẻ, và trẻ rồi cũng sẽ già, vết thời gian in đậm trên thân xác mỗi sinh linh, ta không thể chuyển dời, duy tâm ta thì có thể. Ta hiểu được cuộc đời, sống chung với sanh, già, bệnh, chết vô tư như một dòng triển chuyển tất nhiên, ta cứ lạc quan khi tuổi già gõ cửa, có thể làm được quá đi chứ !

Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết

Con người chỉ nắm bắt hiện tượng đang diễn ra, và rồi cố chấp vào những ảnh hóa đó bằng tâm cứng đọng phi biện chứng. Sự cố chấp này chi phối cả thế giới tư duy và màu sắc cảm nhận của chủ thể.

Khi Thiền sư nói “đừng bảo...” cũng có nghĩa, Ngài chỉ ra sự phiến diện của tư duy què quặt cố hữu của con người. Đó là những rối rắm nội tại phát sinh từ sự thiếu chân xác trong kiến quan hạn hẹp để rồi bao hệ lụy cũng từ đó phát sinh theo mô thức phản ứng dây chuyền trong thế giới hạt nhân phóng xạ.

Có thể nói câu thơ như một hình thức KHAI (mở), mang lại cái nhìn mới chân xác và thiết thực hơn cho các đối tượng.

Đêm qua sân trước một nhành mai.

Hãy thoát ly sự cố chấp đi, anh sẽ nhìn rõ hơn sự mầu nhiệm của cuộc sống. Cành mai hôm nào, nay đã không còn và anh sẽ bảo chẳng có mai. Thiền sư không nói về cành mai cụ thể trong một thời điểm cụ thể đó, Ngài đang nói về cành mai BẤT DIỆT, cành mai bản thể (bản chất, nền tảng). Đây có thể gọi là phần THỊ (chỉ rõ) so với phần KHAI ở trên.

Về phương diện biện chứng học, chẳng có gì biến mất, chẳng có gì tự nhiên xuất hiện, chỉ có sự biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Tôi tuy không phải là cha tôi nhưng cha tôi vẫn hiện hữu trong tôi mặc dầu ông ấy đã mất từ lâu, dị mà đồng, đồng mà dị.

Biết rõ sự đổi thay là hiện tượng, sự miên viễn là vĩnh hằng, quy luật là việc của trời đất, tâm lý và thế giới tâm lý là của riêng ta. Sống chung với quy luật của trời đất là biết chấp nhận nó, hòa mình cùng nó trên lộ trình biến diệt vô thường mà ta không thể nào cưỡng lại được.

Một Thiền sư nhận định “Đối trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui lòng chấp nhận nó”.

Nhưng để đạt đến cấp độ tâm lý ấy thì thật sự phải có sự chuyển hướng tâm thức thuần thục theo chiều hướng trí tuệ.

Một trong những tiêu chí của Thiền học là thâm nhập được vào thế giới vô thời trong thời gian và vô không trong không gian. Có thể hiểu nôm na là tâm không còn bị chi phối do cố chấp vào những giới hạn thường tình của thời gian và không gian, hai tiêu chuẩn để xác định sự tồn tại của một sự vật, hiện tượng.

Sự an nhiên tự tại trước cái chết (thị tịch) của Thiền Sư biểu hiện cao độ, thay vì Ngài là nhân tố đáng thương hại, lại chính là nhân tố chủ động trấn an những đệ tử, những người vẫn đang khỏe mạnh trẻ trung. Đối diện sự ra đi, Ngài vẫn dõng dạc trong những Pháp kệ được Đường thi hóa, vừa mang giá trị nghệ thuật văn học, lại hàm dung triết lý sâu xa. Cả một đời phụng sự Đạo Pháp, trải bao bài thuyết pháp độ sinh, nay, ngay cả trong giờ khắc còn lại ít ỏi trên cõi đời và đang đối diện cái mà con người kinh khiếp nhất (cái chết), Thiền Sư vẫn tự tại biến đó thành bài Pháp cuối cùng của đời mình và đã trở thành bài thơ bất hủ trên thi đàn dân tộc xưa và nay.

Xin cảm ơn Thiền Sư đã để lại cho chúng ta một hình ảnh phi phàm về khí phách LÝ-TRẦN đã một thời oanh liệt của cha ông.

(Thầy Thiên Hạnh - giảng viên khóa đào tạo cao trung cấp giảng sư, Tp. HCM)

LỜI KẾT

Tết là gì? Tết là niềm vui của con trẻ ngập tràn trong hạnh phúc. Nào là kẹo, nào bánh, nào bóng bay, pháo hoa, nào tiền lì xì, nào những lời chúc lời khen “năm nay lớn quá”. Ấy là những ký ức con trẻ mỗi lần nhớ đến Tết. Chả cần hiểu Tết là cái gì, trẻ thơ chỉ quan niệm một điều: Tết là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất, là tình yêu thương mà bao nhiêu người thân giành cho nó.

Ai mà chưa đi chợ Tết thì đã bỏ phí một nửa cái Tết rồi, chợ Tết mang hết cái hồn của nơi đây, trù phú hưng thịnh: nào hoa, nào hàng, cả người nữa hòa vào dòng nhộn nhịp vui tươi, có khi chả mua cái gì đâu thế mà người ta vẫn cứ đi, chủ yếu là muốn hít cái không khí vui tươi.

Đến khoảng 28-29 là trong nhà lại dọn chỗ cho một cây mai, đào: năm cây to, cây nhỏ, năm nhiều hoa nhiều lộc, cũng có năm chả có nụ nào nhưng Tết nào cũng có mai, đào Tết. Đèn nháy, đèn màu cũng được treo lên khắp nhà.

Cuối cùng thời khắc giao thừa cũng đã đến, cảm giác ấm áp và hạnh phúc, khi thời khắc giao thừa đến cả nhà cũng ra ngoài sân xem bắn pháo hoa (nhưng chẳng biết có phải mấy năm gần đây nhà nước cấm pháo hay không mà chỗ mình không còn cái khoản đốt pháo đón giao thừa nữa). Sau đó thì cả nhà cùng bước vào trong nhà chờ bố thắp hương cúng gia tiên, bố mẹ sẽ gửi những lời chúc tốt đẹp và chân thành cho năm mới tới cả gia đình và lì xì. Rồi các con cũng gửi những lời chúc Tết đến bố mẹ mình. Cả nhà cùng ngồi ăn bánh kẹo đủ màu sắc.

Thế là một năm cũ đã qua, một năm mới đã đến, mọi người cùng chúc nhau những lời chúc tụng cho một năm mới nhiều may mắn, an lành và hạnh phúc... Cứ thế mấy ngày Tết đã trôi qua, cuộc sống lại trở lại thường nhật, có người còn chưa kịp hưởng thụ xong cái không khí Tết mà Tết đã qua rồi. Tết đến trong vội vàng và ra đi cũng vội vàng, giống như câu thơ của nhà thơ Xuân Diệu: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua, xuân còn non nghĩa là xuân đã già”.

Ca khúc: Gió Mùa Xuân Tới - Hoàng Trọng

Gió mùa xuân tới cánh hồng tươi thắm trong nắng vàng

Muôn bướm tung bay mang sắc tươi phô cùng trời sáng

Gió mùa xuân tới bóng hồng tha thướt trong nắng đào

Kiếp sống cô đơn mơ ước ôm trong lòng hoa tươi

Xuân reo khắp nơi trời ngát hương trầm

lòng mang vấn vương

Hồn say mộng ước cùng những đóa hoa

ấp ủ trái tim hướng những phút say mơ

Với mùa hoa thắm khắp trời xuân sáng vui tưng bừng

Muôn sắc khoe tươi reo hát ca vang mừng trời Xuân

Trời sáng tô màu sắc cho những cánh hoa khi trời Xuân

Thắm tô cho đời muôn mầu

Nồng ngát hương thơm trời xuân mang niềm nhớ

Cho những kiếp người sống cô đơn

ước mong mùa xuân rắc reo khắp nơi trần thế.

Cung Chúc Tân Xuân – THÂN TÂM AN LẠC

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)

TIẾNG ĐÀN HỪNG SÁNG

Nhớ về tiếng đờn của một nghệ nhân tài ba một thời.

(NVS)

Dì Ba Bành thức dậy theo tiếng chuông công phu vọng lại. Lâu nay, từ lúc mới dọn về đây, chung quanh nhà nước kinh còn ngập, những cây bình bát, cóc kèn, ô rô, dừa nước, bần... còn lừng lững chứa những khoảng sình rộng chừa cho mấy gian nhà lá lụp xụp đó đây những mảnh đất nhỏ hí lúc gần trưa nước đã mấp mé thềm, chuông công phu buổi sớm ngay từ những tiếng đầu tiên đã lâng lâng lòng dì. Qua bao đổi thay, xóm vắng giờ đã đông đúc hơn, nhưng mọi ngày âm thanh văng vẳng boong boong quyện trong không khí đánh nhịp xen lẫn tiếng mõ lốc cốc đều đặn tạo nhạc điệu buồn nhẹ nhàng hòa với quang cảnh tịch mịch của lúc bắt đầu ngày vẫn kéo dì vào cảnh giới thoát trần, u tịch... Buổi tối nhiều khi bực mình. Thường là vài đứa không góp tiền. Biết chúng nó dấu để dành đánh bài đánh bạc ở nhà thằng Tư Cồ hay nhà thằng Năm Mụn, đứa nào đứa nấy lấm la lấm lét ngó dì gãi đầu gãi tai nói trời ơi đất hỡi ba điều bốn chuyện rồi hẹn lần hẹn lữa nhưng sáng rỡ đưa mắt với nhau, ám hiệu đó làm sao qua được mắt ai? Có ăn cám xú cũng bắt thóp được chúng nhưng phải nuốt giận làm thinh. Nó nói không có, chửi bới cũng vậy thôi, không cần thiết phải dùng biện pháp mạnh. Con sâu cờ bạc, phải biết, có trời mà cản! Tụi nó đánh qua đánh lại, thằng ăn thằng thua, thằng nầy sạch túi thằng kia gom sòng. Thằng ăn rủng rỉnh tiền bạc sẽ trả nhiều, có khi trả dồn cả tháng. Thằng thua chạy đôn chạy đáo quơ quào chụp giựt đầu này đầu kia vài bữa rồi cũng phải đem tiền tới nạp. Chạy trời không khỏi nắng, mất đâu mà sợ, trừ phi tụi nó bán vợ đợ con giở nhà đi chỗ khác. Tuy nghĩ vậy, dì cũng thấy giận giận vì bị qua mặt. Trước khi đi ngủ đã đốt ba cây nhang trên bàn thờ Phật Mẫu, tụng đoạn kinh thời khuya, uống hết một ly nước lạnh rồi mà hình ảnh mấy tờ giấy bạc vung vẩy túa lua trên chiếc chiếu rách bươm ở nhà thằng Tư Cồ cũng mở banh mắt dì ra. Lăn qua lăn lại, trằn trọc trao tráo tới khuya lơ khuya lắc mới chợp mắt thiu thỉu được một chút, mơ mơ màng màng chớ có ngủ ngon lành gì đâu? Thế nhưng hễ tới hừng sáng, mấy tiếng chuông sớm bắt đầu ngân là lòng dì đã len lỏi một cảm giác nhẹ nhàng, những giận hờn bực bội tiêu tan không để lại dấu vết. Dì mường tượng hình ảnh sư cụ ngồi xếp bằng trên cái bồ đoàn lim dim mắt ê a tụng niệm. Dì nhớ tới những buổi đi lễ chùa ngày rằm, mùng một, thiện nam tín nữ chào đón, nói chuyện thân mật, (nhưng chắc họ cũng như dì, đầu môi chót lưỡi đưa đẩy cho qua lề. Ai mà chẳng tỏ ra thuần thành trong lúc ở chốn tôn nghiêm? Rồi ai về nhà nấy tiếp tục đời sống mình, ngày rằm mùng một khác lại đến chùa niềm niềm nở nở, lạy Phật tụng kinh lần nữa). Sư cụ luôn luôn điềm đạm trong cử chỉ, từ tốn trong lời nói, chậm rãi trong tách nước trà rót mời. Thái độ ung dung thư thái xuất phát từ thâm tâm, không chút gì màu mè, gượng gạo. Ngài, qua một vài câu bình thường, bâng quơ mưa nắng thế nào rồi cũng trở về thuyết luân hồi, nhân quả, khuyên xa khuyên gần mọi người:

Nhà đều ăn cả, tội mang một mình,

Người làm một việc chẳng minh,

Đến khi chết xuống ngục hình riêng mang.

Những lúc đó dì cảm động lắm, muốn ăn chay trường một tháng, làm lành, phóng sinh, tha bớt tiền lời cho mấy thằng ôn hoàng dịch lệ làm ăn không khá, cất đầu lên không nổi vay tiền đứng trả lời cả năm mà chưa mẻ được một đồng xu vốn. Dì không dám nghĩ thêm nữa.

Lời nguyện phóng sanh cả chục năm không làm được. Tụi nó vay nợ thì phải trả lời. Đó là chuyện đương nhiên. Không, lấy tiền đâu chi phí nầy kia? Tụi lính kín cũng phải cà phê hủ tiếu chút chút chớ bộ không mà được à? Dì ngừng tay giã trầu, dựng cái ống ngoái trước mặt, cái ống ngoái ngã nghiêng màu đồng vàng, lên nước óng ánh ở phía dưới, nhưng ở trên miệng vành, vôi hòa với nước trầu cau đóng một lớp đen xám, đang chiếu một bệt nho nhỏ mờ mờ dưới ánh đèn măng xông. Dì lấy chìa chận lại nó mới đứng vững, vói lấy cái khăn nhỏ, màu đỏ, kế bên rổ trầu cau, lau mép cẩn thận xong chấp tay van vái trong cửa miệng, mặt mày rất thành kính:

- Nam Mô A Di Đà Phật! Kể từ bữa nay con sám hối, không chửi bới ai nữa, tha bớt tiền lời cho người nghèo, làm ăn chơn chất. Xin Trời Phật phò hộ cho con để con giỗ quải ông bà, dòng họ con bây giờ hỏng còn ai, để tổ tiên làm ma đói con có tội với ông bà.

Van vái xong dì tiếp tục ngoái tiếp miếng trầu dở dang. Tháng trước hai cái răng cửa còn lại lung lơ mấy bữa rồi rụng ngon lành khi dì lấy lưỡi đẩy mạnh nên chuyện ngoái trầu giờ như một chuyện tiêu khiển để kéo dài cơn thèm thuồng mỗi khi lạt miệng. Lúc vui miệng dì thường giải thích với con Sáu cử chỉ lạ lùng của mình:

- Như vậy miếng trầu mới đậm đà, nước trầu mới đỏ.

Tiếng chuông mõ vẫn văng vẳng tặng cho xóm nhỏ không khí buồn buồn nhẹ nhàng, Dì Ba mơ màng đắm chìm trong không gian đượm mùi thoát tục, tuy vẫn đều đều ngoái trầu, hồn dì đã phiêu lãng về cõi thiên đường đứng ngoài phiền não sân si. Trong một phút ơ hờ cái chìa trợt ra ngoài, đâm đau điếng, dì Ba giựt mạnh tay làm đổ tách nước trà nóng, con Sáu cóm róm rót hầu từ nãy giờ. Nước thấm ướt tờ giấy tính tiền những người phải trả hôm nay kéo dì về thực tế. Cơn giận đại dương cuồng nộ tràn đến, lấp chìm hết tiếng mõ chuông vẫn từ tốn gõ nhịp.

- Mẹ tổ bà nó. Con Sáu đâu biểu coi. Biểu mầy giũa mấy cái ngạnh chìa ống ngoái lợi cho bớt bén mà mầy hỏng làm nên thân nên hình gì hết. Ngoái trầu chớ bộ ngoái mả ông mả bà mầy sao mà nhọn hoắc thiếu điều đâm lủng ruột người ta vẫn còn được! Tổ cha nó, lủng tay tao rồi nè. Xé miếng thuốc tao đấp lợi coi.

Dì ngó con Sáu bằng cặp mắt giận dữ rồi tuôn ra một câu chửi không ăn nhằm gì hết tới chuyện đứt tay của mình:

- Thứ đồ con gái hư, có một chuyện nhỏ như vậy làm cũng làm hổng được. Chắc nữa mầy làm mụ ăn quá.

Con Sáu lính quýnh xé miếng thuốc rê trong rổ trầu áp lên ngón tay trầy của chủ. Nó vừa làm vừa lấm la lấm lét liếc trộm để có thể né tránh kịp lúc những cái vả bất chợt không thể đoán trước. Thuốc đắng thấm vô vết thương rát rạt, dì Ba tiếp tục cằn nhằn theo kiểu của mấy bà chằn ăn trăn quấn:

- Rát quá! Mẹ, xui gì mà xui tận mạng. Hừm! Mới bảnh mắt ra đã đổ máu rồi. Chắc ngày nay có chuyện lớn. Đâm chém gì đây hổng biết chừng.

Ngó bộ tịch cóm ra cóm róm của con Sáu, dì càng nổi xung thiên hơn:

- Mẹ họ, mầy xích lợi gần đây bộ tao ăn thịt mầy sao, đứng xa lơ xa lắc làm sao mà cột. Bộ tao tanh lắm hả?

Con Sáu xích tới, vẫn với dáng điệu rụt rè cố hữu, ở với dì mấy năm nó hiểu bụng dạ dì quá: nóng nảy, lỗ mãng, tuy mộ đạo, kính Phật, trọng tăng, nhưng vẫn có hành động của những người tiền bạc rủng rỉnh quen thói hống hách chưa lần nào bị làm khó dễ, suốt đời đánh chửi người nhưng chưa từng bị ai đánh chửi. Con Sáu ngó bàn tay của dì, bàn tay mập tròn, cụt ngủn tù hãm phía sau cái vòng cẩm thạch xanh mướt, lên nước bóng nhoáng, coi bộ hiền từ, chậm chạp nhưng đã vả trái nhiều thanh niên đã dám kêu lén dì bằng con mẹ Ba Bành nầy, con mẹ Ba Bành nọ. Nó hồi hộp ngang, mấy ngón tay chuối cau kia mà vớt trái vô má thì thấy bảy tám ông trời chớ phải chơi ha? Đó là chưa kể dấu bốn ngón tay in lên đó cầu tới chiều mới lặn lận. Trước đây anh Tư Nhỏ, ảnh đã cằn nhằn cưỡi nhưỡi cả ngày với lại đòi tới chuyện phải quấy rồi. Bây giờ tránh trước là phải!

Dì Ba buồn tình ngồi ngắm nghía ngón tay đau rồi liếc nhìn tờ giấy nợ. Tờ giấy dài sọc tối nào dì cũng đọc cho con Sáu liếm môi méo miệng gò từng chữ, nắn nót từng số, giờ đây chỗ trắng, chỗ vàng vì bị hơ trên tấm kiếng đèn. Dì ngó mấy con số lem nhem, nghĩ tới ngày xui mà bực mình.

Bỗng đâu tiếng đàn cò từ xa vọng lại, réo rắt ru hồn người vào một đêm đông gió vi vu lạnh, len lỏi vào căn nhà lá trống trải, ngoài kia sạt sào tiếng tàu lá chuối phất phơ. Tiếng đàn thánh thoát u tịch của một đêm trăng mờ, sương nặng hột trên một cánh đồng bạt ngàn, eo sèo những ngọn lúa vừa mới nở đòng đòng rên xiết, đong đưa theo cơn gió. Tiếng đàn chập chờn ánh lửa ma trơi của tha ma mộ địa trong đêm tối trời, bi thiết như sự ra đi vĩnh viễn của người mình vô vàn thương mến, áo não như cảnh trẻ con lạc mẹ bơ vơ giữa chiến trường súng nổ đạn bay.

Nhấp một ngụm nước, dì Sáu chợt nghe tâm tư mình nhão nhẹt, sụm xuống như một căn nhà bỗng nhiên cái nền đất bị rút đi mất bằng một cách nào đó, hình ảnh đám ma ngày trước, thuở dì còn nhỏ lắm, hiện ra trước mắt, chập chờn trước hàng nước mỏng. Một buổi sáng mưa bụi phất phới, gió nhè nhẹ châm buốt mấy ngón tay nhỏ, ngác ngơ vụng dại. Chân trần đạp trên nền đất mềm mềm rin rít của bờ mẫu mấp mô, vừa thốn vừa lạnh. Mắt không hồn, lòng mềm nhũn khi nhìn bà mẹ rũ rượi, trợt lên trợt xuống phía sau cái hòm chưn nhang đang ôm ấp người cha đáng thương sau mấy năm vất vả với cơn bịnh trầm kha thuốc men thiếu thốn.

Đứa em nhỏ lẩm đẩm đi giữa đoàn người đưa đám, mắt đỏ hoe, ngơ ngơ ngác ngác, sợi dây thung cột cái đuôi tóc phía sau lắc lư theo những bước chân trơn trợt của nó tăng thêm nỗi bèo bọt xót xa trong từng cái nhìn chia sẻ cảnh ngộ. Đâu đây nghe nho nhỏ tiếng thở dài của bà nội, chập choạng bên vai cô Út...

Dì Ba dằn mạnh ly nước xuống bàn. Chút nước còn sót lại chòng chành mấy miếng xác trà nấu quá độ đã đổi sang màu xám nhạt, lượn lờ rồi chểnh mảng lặn xuống đáy, nằm im chịu đựng... như dì... chịu đựng thời gian trôi qua trong cô tịch, đơn độc. Một con thằn lằn đương liếm chút đường rơi rớt lại từ tối hôm qua ở góc bàn, giựt mình phóng mạnh lên cây cột nhà gần đó.

- Mẹ tổ đờn gì mà đờn đứt ruột đứt gan. Sáng nào cũng đờn điệu này chắc hỏng ai làm ăn được gì hết. Buồn còn hơn Hạng Võ biệt Ngu Cơ. Sáu, thằng cha nào đờn vậy mầy có biết hông? Sao hồi nào tới giờ tao hổng nghe thằng chả đờn?

Con Sáu hí ha hí hửng trả lời, giọng của người thông thạo chuyện đầu trên xóm dưới:

- Trời! Dì Ba hỏng biết chứ tiếng đờn của ổng ai mới xí được vàng nghe cũng còn phát khóc chứ đừng nói nói nghe lúc hừng sáng. Ông Văn Vĩ đó, ổng mới dọn tới ở xéo xéo trước nhà mình mấy bữa nay. Hết xẩy dì Ba ơi, ổng đui mà có ngón đờn buồn tận mạng, hổng chê chỗ nào được!

- Ờ, phải cái nhà đưa đít vô nhà thằng Tư Cồ không? Nhà cũ của má thằng Năm Mụn chứ gì? Họ vô ngã khác nên tao có biết gì đâu. À, mà sao mầy rành quá vậy? Con gái mà ngựa bà, dạo đầu trên xóm dưới tối ngày chuyện gì của ai cũng hóng mỏ nghe có bữa hư đó con! Tới chừng ôm bụng thè lè rồi than trời.

Con Sáu đỏ mặt chống chế:

- Ổng đờn trên ra dô hoài bộ dì Ba hổng biết sao? Thầy đờn đó, ổng tính mở lớp dạy đờn ở đây. Ngay bữa ổng tới, ổng biểu diễn một đường lả lướt cả xóm này bu coi đông nghẹt ai mà hổng biết? Nít nhỏ còn nằm ng ử a cũng biết huống hồ gì con!

Một cái nguýt dài thậm thượt lướt qua mặt làm con Sáu chết điếng:

- Mầy nói như vậy là mầy chưởi cha tao không bằng, thôi mầy giỏi tao ngu. Tao hổng biết gì hết. Tao dốt.

Con Sáu xách bình nước đi te te ra sau nhà, miệng lầm bầm nhỏ nhỏ. Dì Ba ngó theo nó bằng cặp mắt nháng lửa.

Tiếng chuông công phu dứt từ lâu nhưng tiếng đờn vẫn vọng lại, mơ hồ, xa thẳm. Tiếng đờn nhẹ nhàng len lỏi vào từng lỗ chân lông, căng phồng những sợi thần kinh sầu thảm, thấm vào từng khớp xương xao xuyến, bâng khuâng. Tiếng đờn thánh thót ngân dài từng chữ xế xị, nỉ non như đêm u tịch dì tiễn chồng ra đi độ nào, lúc còn trẻ lắm.

Ngoài đường cái đã vang dội trong này tiếng xe xích lô máy nổ bình bịch. Mấy tấm ván nhỏ mong manh gá ơ hờ chồng chéo lên nhau dẫn đường vào xóm đã hiện lờ mờ trước mặt. Dì Ba ngó mấy cây cột chưn cầu làm bằng gỗ đước ló lên khỏi mặt nước đục đen, thở dài nghĩ tới dòng sông ở quê nhà... Tiếng đờn như lung lay mặt nước, mấp mô mấy cọng rác lềnh bềnh, tấp vô cây cột xi măng dưới bóng đèn trước cửa. Ánh sáng phản chiếu kéo thời gian về lúc dì ngồi ngó chăm chăm cá ăn bong bóng dưới trăng một đêm rằm nào đó xa xăm, lắng nghe một bản vọng cổ của đài Pháp Á, vọng ra từ cái radio Phillips bốn đèn của thím Sứa vợ chệt Lềnh bán quán đầu xóm. Tiếng đờn lảnh lót, phân câu, phân nhịp, chẻ điệu, nhấn vuốt, tang thương réo rắt như đờn dạo chỗ xuống sáu câu của kép Út Trà Ôn xuống xề bản Tôn Tẩn Giả Điên. “Ý trời đất ơi, cái nông nổi đoạn (ờ...) trường (tình tinh tích tịch tình tinh) Bởi vì tôi quá tin nơi thằng Bàng Quyên là bạn thiết với tôi cho nên ngày hôm nay đây nó mới chặt đứt một bàn chân tôi. Còn như công cuộc ngày hôm nay đây (...)

Dì Ba thở dài thậm thượt, đổi thế ngồi nhiều lần, hớp hết mấy ngụm nước mà vẫn không hết buồn. Dì thấy mình phải nói gì đó để đánh tan không khí sầu thảm bao vây quanh mình nãy giờ:

- Sáu ơi, lên tao biểu coi. Mới sáng bảnh mắt ra gặp bản mặt mày là thấy hãm tài rồi.

Rồi dì giả lả đổi giọng ngọt ngào hơn:

- Đâu mày thử chạy qua nhà ông thầy đờn năn nỉ ông đừng đờn nữa có được hông? Kêu ổng có đờn thì để trưa hãy đờn. Tưng bửng sáng mà đờn kiểu này tao nhớ nhà quá còn làm ăn gì được nữa. Đờn gì mà nghe như chết rồi. Buồn còn hơn đám ma ông cố nội tao nữa.

Con Sáu chần chờ ngó chủ. Một phần nó tiếc tiếng đờn đã mang đến điều gì đó khang khác trong lòng nó, một phần nó thấy có chút xíu vướng víu vô lý trong lời yêu cầu. Nó lóng tai nghe như cố thâu những âm thanh quý giá cuối cùng rồi mới chậm rãi dợm cẳng bước đi.

Nghĩ sao không biết dì Ba đổi ý:

- Mà thôi, khỏi nữa, dì lại thở dài trầm ngâm tâm sự, mấy chục năm nay lo chạy cơm chạy gạo đâu có thời giờ ở không mà nhớ nhà. Sáu, tao thương tiếng đờn của ổng quá. Ổng làm tao sống lại cái thời tao còn nhỏ bằng mầy bây giờ. Tao nhớ ràng ràng bụi chuối sứ lùn sau hè, cái giếng mội sau nhà, con chó mực nằm vẫy đuôi kế bên cửa. Tiếng đờn ổng là hương vị quê hương, là hồn dân tộc đó Sáu. Ổng không đờn tao đâu có thấy lại được thời con gái của tao, tao đâu thấy được quê nhà, thấy cha, thấy mẹ, thấy em, thấy bà nội...

Con Sáu đứng lặng thinh, nó hiểu nửa nạc nửa mỡ, chữ có chữ không lời của bà chủ, nhưng trong đáy lòng nó bỗng như có phép lạ huyền bí tẩy rửa một cách chớp nhoáng những tình cảm thù địch, xa lạ với bà chủ đã có bấy lâu nay, nó không còn thấy ghét người đàn bà đã từng đánh chửi, ức hiếp, bóc lột nó nữa. Nó lờ mờ cảm nhận lời nói kia là đúng, chí tình và người đàn bà làm nghề cho vay hút máu đáng kinh tởm trước mặt cũng có một tâm tình đáng thương mến, quý trọng. Nó cũng loáng thoáng nhận chân rằng bà ta và nó ít ra cũng đồng đều trong việc cảm nhận một giọng đờn; trong việc để lòng mình xao xuyến, buồn vui cùng một nguyên nhân, như hai người bạn chí cốt, chỉ cần ngó nhau là biết lòng nhau. Hôm qua tới giờ nó thấy nhớ nhung một cái gì, lòng nó bức rức bâng khuâng nhưng nó không hiểu nguyên do. Nó chỉ thoang thoáng cảm nhận cái buồn buồn vui vui đó khác với mấy bữa vắng anh Tư Nhỏ, hay gặp lại ảnh sau cả tuần ảnh theo xe xuống miệt dưới trở về. Giờ nó mới biết đó là hương vị quê hương, là tình tự dân tộc thể hiện bằng âm thanh của người nghệ sĩ mới gia nhập vào thành phần cư dân của xóm.

Lần thứ nhứt, nó mỉm cười vuốt đuôi chủ sau cái hít hà thiệt dài:

- Dì Ba nói đúng dàng trời, ổng đờn hay quá mạng. Con cũng nhớ nhà hổng biết làm sao nói cho được.

Rồi thấy mặt chủ vui vui, con Sáu tâm sự:

- Nghe ổng đờn con nhớ trực lợi cảnh mấy năm trước, hồi còn ở dưới quê, tưởng tượng ra cảnh buồn phải xa nhà khi nghe dì Bảy hàng xóm hát ru em cái gì mà: Chiều chiều chim vịt kêu chiều, Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau!

Mẹ, con nhỏ coi lẩm rẩm vậy mà nói năng nghe được ớn, đờn gì mà nghe như thắt tim cắt ruột người ta, ai nghe hỏng khóc mới là chuyện lạ. Dì Ba kéo khăn chầm chậm lau nước mắt, con Sáu lững thững bước ra sau bếp. Tiếng đờn vẫn đuổi theo sau lưng nó, thê lương, bứt rứt, châm những mũi kim nhè nhẹ thấm thía vào lòng người đàn bà lâu nay tình cảm đã hóa đá.

Theo năm tháng, xóm Kho Năm rộn rịp hơn. Cầu ván, cầu khỉ bắt xiên bắt quàng tạm bợ trên bùn lầy nước đọng lần lần được thay thế bằng những tấm vỉ xi măng cốt sắt ngay hàng thẳng lối. Nước bùn đặt sệt của ngọn cùng con rạch đang rãy chết từ từ bị rác rến và xà bần đổ xuống chận đứng nên lớn ròng lừ đừ uể oải hơn. Một vài, rồi một vài căn nhà lầu được dựng lên, mấy cây bần, chùm bát theo nhau mất dấu, thay vô đó là những chậu kiểng, chậu hồng, những hàng bông giấy, bông bụp, dây tơ hồng, hoa ti gôn... đua nhau khoe sắc.

Tiếng đờn của người nghệ sĩ mù và âm thanh chuông mõ công phu vẫn là món ăn tinh thần của dân chúng mỗi sáng. Tiếng chuông mõ như liều thuốc rửa bợn nhơ còn sót lại của ngày hôm qua. Tiếng đờn như ly cà phê sữa nóng người ta đổ ra dĩa thổi cho mau nguội, ngồi từ tốn chấm với dầu cháo quẩy, bánh tiêu. Hai thứ, đều không thể thiếu như mấy dĩa xíu mại nước mỡ lấm tấm chung quanh, trên có miếng gan hay miếng sườn nhỏ, chấm bằng miếng bánh mì dòn rụm lót lòng buổi sáng.

Và trong tiệm nước, đề tài bàn tán ngoài chuyện lẩm cẩm, dơ dáy như con mẹ nầy theo thằng cha nọ, thằng kia ngủ với con nầy... còn có điều gì nghĩa lý hơn. Đó là chuyện mấy chú nhỏ 15, 16 con nít chưa hết con nít, người lớn chưa tới người lớn trước đây tối ngày tụm năm tụm bảy phá làng phá xóm, chọc ghẹo đàn bà con gái, sau một thời gian tập tành đờn ca đã chững chạc hơn nhiều, chiều chiều cùng nhau dợt lại bài bản để trình diễn giúp vui đám nào cần tới. Đó là chuyện tiếng đờn đã cảm hóa được dì Ba Bành, người đàn bà cho vay cắt cổ mổ họng giờ đây đã bỏ nghề cũ, mở một tiệm chạp phô nho nhỏ, sống đời lương thiện, đạm bạc, mỗi sáng ngồi bên ly nước trà nóng trầm ngâm thả hồn về quá khứ...

Bữa nào khi chuông công phu gần dứt mà chưa nghe tiếng tưng tửng đờn dạo đầu, thế nào dì cũng bồn chồn hỏi con Sáu:

- Sáu ơi! Con qua coi ông Văn Vĩ ổng dậy chưa con. Sao dì hổng nghe ổng đờn. Ổng làm reo điệu này dì ăn trầu hết ngon rồi! Con năn nỉ ổng đờn lẹ lẹ lên chứ hỏng thôi sáng nay vô vị quá. Lạt miệng còn hơn ăn trầu hỏng có vôi.

Con Sáu khỏi cần đi, trong không gian sớm mai se se lành lạnh, tiếng đờn như để đáp ứng sự chờ mong của mọi người, cất lên véo von tỉ tê, rót mật, luồn những âm thanh liếng láy vào trong hồn trong não... Tiếng đờn hương vị quê hương, đem món ăn tinh thần đến cho những người ở xóm nhỏ Kho Năm chật chội như một món quà thiêng liêng mà mọi người chấp nhận như một ân sủng cho riêng xóm mình...

NGUY ỄN VĂN SÂM

Tùy bút

KHOẢNH KHẮC MÙA XUÂN

Mùa xuân của tôi chỉ thu gọn trong một ngày rưỡi. Bắt đầu từ chiều ba mươi đến hết ngày mồng một tết.

Không như câu: “Tháng giêng là tháng ăn chơi”. Đối với tôi, mùa xuân ngắn ngủn. Thoáng thấy, chưa kịp nhìn rõ đã bay vèo mất. Đôi khi, tôi tưởng như mình chẳng có mùa xuân. Tất cả chỉ tại nghèo.

Khi gió hây hẩy, nắng vàng ươm như mật, xuân về, một ngày rưỡi bất thường xuất hiện. Lạ lẫm, đáng yêu và ngắn ngủi. Đó là một ngày rưỡi mẹ tôi nghỉ bán ăn Tết. Một ngày rưỡi mẹ sống tại nhà với chúng tôi chứ không phải ở nhà lồng chợ. Mẹ trở thành một bà nội trợ. Mẹ nấu cơm, giặt đồ, chải tóc cho tôi, vá quần áo rách, kể chuyện cổ tích… Mẹ không phải ngồi thừ người bên gánh bún lúc ế, nét mặt đăm chiêu, lo lắng. Hoặc tất bật cuốn bì, dọn bún, rửa tô… cho khách dùng lúc đắt hàng. Mẹ lầm lũi gánh hàng ra chợ từ lúc sớm mai đến tận đầu hôm mới quay về. Mỏi mệt khiến mẹ trở nên lầm lì, ít nói và xa cách.

Mùa xuân khởi đầu từ đó. Chiều ba mươi tết mẹ tôi dọn hàng về sớm hơn thường lệ. Mẹ giúp bà dọn dẹp, quét tước nhà cửa, cắm hoa vào những cái lọ trên bàn thờ Phật. Đánh bóng bộ lư đồng, xong việc, mẹ gội đầu bằng bồ kết. Hương tóc thơm thoang thoảng cứ quấn quít lấy tôi. Những nếp nhăn trên trán mẹ biến mất. Mấy dấu chân chim sau đuôi mắt dường như mờ nhạt hẳn. Mẹ trẻ ra và hiền như một bà tiên. Đêm trừ tịch gian nhà tràn ngập hạnh phúc. Tôi nằm gối đầu trên cánh tay mẹ. Úp mặt vào ngực mẹ, tôi hít đầy mũi mùi thơm quen thuộc, thân thương. Tôi lắng nghe mẹ thì thầm kể chuyện và chờ đợi giao thừa. Khoảnh khắc khởi điểm của mùa xuân. Nhưng tôi thường thiếp đi. Đó luôn là một giấc ngủ trọn vẹn đầy mộng đẹp của tuổi thơ tôi, và nó luôn được kết thúc bằng câu đánh thức ngọt ngào, âu yếm của mẹ:

- Tím, dậy đi con! Thay đồ mới rồi đi chùa với mẹ.

Hai chị tôi đã lớn, họ có niềm vui riêng tư. Chỉ có tôi là thích bám theo mẹ. Mẹ mặc áo dài, chiếc áo quen thuộc, màu khói nhang, thơm nồng mùi long não. Trên hai tà có những đường xếp lâu ngày, ủi không sao thẳng được. Thế nhưng, nó cũng làm cho dáng mẹ trở nên thanh thoát, dịu dàng. Tôi cũng mặc áo dài, chiếc áo mới màu tím lục bình bóng loáng, khiến cho cái dáng mập mạp của tôi thêm tròn trịa, mũm mĩm. Gặp người quen, ai cũng phải xuýt xoa:

- Chao ơi! Bé Tím lớn dữ hén! Mặc áo dài thấy… ú ì chứ bộ!

Tôi theo mẹ đi hết chùa nầy đến chùa khác. Dù hơi mỏi chân nhưng tôi vẫn thích. Tôi hân hoan cùng mẹ vào chánh điện quỳ lạy. Trước vị Phật nào tôi cũng cầu xin có một điều: “Xin cho gia đình được ấm no, hạnh phúc”.

Sau đó, mẹ dắt tôi ghé thăm những người trong họ hàng, thân thuộc như ông Bảy, bà Tư, bà Út. Cứ vào một nhà rồi trở ra, cái áo dài của tôi chật thêm một ít ở eo vì cái bụng chứa óc ách thức ăn và cái bóp nhỏ lại có thêm một gói lì xì. Bao giờ cũng vậy, cứ đến nhà cô Tám là tôi đi hết nổi, mẹ phải gọi xích lô đưa hai người về.

Tôi đánh một giấc ngon lành. Lấy lại sức, tôi tiếp tục… đi chơi. Lần nầy cùng đi với các bạn học. Tôi được mẹ diện cho quần sọt, áo thun để tiện việc chạy nhảy, đùa nghịch. Chúng tôi đảo hết đầu trên đến xóm dưới rồi ra chợ. Mãi đến tối mịt mới quay về nhà.

Và cánh cửa mùa xuân từ từ khép lại khi tôi bắt gặp mẹ ngồi bên góc bếp. Tóc mẹ búi gọn, tay áo xắn cao. Mẹ đang chuẩn bị cho buổi bán ngày mai.

Nguyễn Thị Mây

Ô HEO

Dạy từ thuở hãy còn trứng nước,

Yêu cho đòn bắt chước lấy người

Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi…

(Gia Huấn Ca - Nguyễn Trãi)

Xưa ông bà ta vẫn dạy: Gọi dạ bảo vâng.

Chẳng bao giờ dạy: Gọi bảo ừ.

Và ngay từ khi học mẫu giáo các em đã thuộc lòng bài hát:

Có con chim vành khuyên nhỏ

Dáng trông thật ngoan ngoãn quá

Gọi dạ bảo vâng lễ phép ngoan nhất nhà…

Nhưng tại sao giờ này con cháu chúng ta ăn nói có vẻ khó nghe, cộc lốc, không được xuôi tai cho lắm. Tạm nêu một số lý do sau:

1. Có lẽ một thời gian sau này các cháu xem quá nhiều truyện tranh Doremon, Thủy thủ Mặt trăng, Thám tử Conan…

2. Đến giờ lại đi học ngoại ngữ ngay từ mẫu giáo nên không tránh khỏi lây nhiễm văn hóa nước ngoài…

3. Những chương trình giải trí trên TV: tấu hài, kịch, hay đố vui ta luôn thấy các MC đua nhau: Ôkê, Wow, Ye lung tung cả… làm chúng ta có cảm tưởng như đang sống tại một đất nước nào đó. Mấy đứa cháu nhỏ về nhà ông bà bảo là nó cũng ôkê luôn, thích cái gì là chúng cũng “ye” luôn miệng. Trước khi về nhà riêng chúng khuyến mãi ông bà 2 chữ “Bye bye” thay cho chào ông, chào bà luôn. Chán thật!!!

Những điều lễ phép, lịch sự đơn giản như: con cái đối với cha mẹ, anh em đối với nhau, bạn bè, người yêu… giờ đây nhà nào còn giữ được thật là hạnh phúc.

Chúng tôi cứ đùa nhau: ông lịch sinh trước lâu quá chết rồi, còn ông sự thì mới đẻ nên lịch sự thời nay không đi đôi với nhau được.

Gần nhà tôi có cặp vợ chồng cứ cãi nhau là mày tao, đến giờ có con cái đến tuổi cặp kê nói chuyện với nhau cũng cứ tao mày nghe phát chán cho chúng thật!

Nói chung là bây giờ các cháu ít đọc sách, thích xem TV, và toàn chơi game, chúi mũi vào những iphone, ipad không muốn giao tiếp với nhau (cái này thì người lớn cũng vậy)… Em nào em nấy bây giờ đeo kính hết trơn rồi. Hiếm thấy cháu nào không bị đeo kính lắm. Ai cũng biết là những lời đối thoại trong tranh và TV thì ngắn gọn cho mọi người nắm bắt nhanh chứ đâu có mà trau chuốt từng câu từng chữ như những cuốn sách nên lời nói cũng không còn mượt mà, bớt thưa gởi. Thêm vào đó các em lại bị học văn mẫu nhiều quá nên sáng tác của các em dễ đi vào con đường mòn…

Các cháu ở nước ngoài vẫn có những giải thưởng hàng năm cho những cháu đạt thành tích tốt trong đọc sách. Chúng ta nên nhân rộng hoạt động này.

Tóm lại dù thích hay không thích mỗi ngày chúng ta đều nghe ôkê liên tục, khắp mọi nơi, mọi chỗ. Vậy tại sao mình không mỗi năm đưa 1 con vào như Bạn tôi đề nghị:

“Nếu người mình không chịu đưa hai từ Ô kê ra khỏi tiếng Việt yêu quý của mình thì ta tạm cho chúng ở lại, nhưng phải Việt hóa chúng bằng cách nói là Ô gà (vì kê là gà) cho năm Dậu, còn các năm khác như năm thì là Ô chuột, năm Sửu thì là Ô trâu, năm Dần thì là Ô hổ, năm Mão thì là Ô mèo, năm Thìn thì là Ô rồng, năm Tỵ thì là Ô rắn, năm Ngọ thì là Ô ngựa, năm Mùi thì là Ô dê, năm Thân thì là Ô khỉ, năm Tuất thì là Ô chó, và cuối cùng năm Hợi thì là Ô heo”. (trích trong Bạn tôi XIII - Truyện vui thời @)

Bạn bè tôi thì vui hơn bằng cách gọi là “Con gà đen” vì ô là đen mà. Nhưng có người thì cãi lại đã là gà thì phải là gà móng đỏ chứ?

Năm nay là năm con heo mà ô heo có nghĩa là heo mọi, bây giờ ta lại không dùng chữ mọi nữa mà thay bằng chữ tộc. Vậy gặp nhau mà ai dặn dò điều gì mà ta đáp lại “heo tộc”, hay “ô heo” chắc là răng môi lẫn lộn quá. Đồng ý không nào quý bạn trả lời xem:

- Ô heo (bótaybóchân.com!)

HÀ MẠNH ĐOÀN


Phụ bản II

CHƠI BÀI CHÒI NGÀY XUÂN

“Bước ra gặp đám bài chòi

Tiền dành đi chợ phải moi hết rồi”.

Câu ca ngày xưa ấy còn được lưu truyền đến bây giờ. Bài chòi là một trò chơi trong dịp xuân thu hút nhiều người tham dự. Đến bây giờ chưa có tài liệu nào khẳng định bài chòi ra đời lúc nào. Chỉ biết rằng, trò chơi mang đậm tính dân gian, tính tập thể từ thời xa xưa tồn tại đến ngày nay ở một số vùng quê Quảng Ngãi.

Hằng năm, vào dịp cuối năm khi mùa màng thu hoạch xong, tiến hành dọn dẹp, trang trí nhà cửa, làm bánh, mứt, chuẩn bị mâm ngũ quả thì cũng là lúc những người trong làng chuẩn bị địa điểm, xây dựng chòi, làm thẻ bài để chơi bài chòi. Cuộc chơi bắt đầu từ những ngày đầu năm mới (có nơi chơi từ tối 30). Cùng với sự nô nức đón xuân, vui chơi trẩy hội, chúc thọ đầu năm, nhiều người đến sân đình, sân chùa, sân chợ để tham gia cuộc chơi bài chòi. Trong không khí ấm áp của ngày xuân, hòa lẫn trong tiếng trống, tiếng nhạc, tiếng hát, tiếng mõ… cùng sắc màu của quần áo mới, trò chơi xuân càng nhộn nhịp tưng bừng.

Để tổ chức được một cuộc chơi bài chòi, người ta phải chuẩn bị một địa điểm rộng, dựng lên 9 chòi chơi bằng tranh tre đơn sơ, nhưng có từ 4-5 chỗ ngồi cho người chơi. Chính giữa là chòi trung ương có chôn một cột tre to để dựng các con bài. Bên cạnh đó kê chiếc bàn để khay tiền, cờ hiệu, trống, mõ. Cờ hiệu được làm bằng giấy màu hồng, cắt hình tam giác, dán vào một que tre. Chung quanh có 9 chòi, mỗi chòi đặt một khúc chuối cây hoặc một ống tre nhỏ để cắm những con bài, hoặc để cắm cờ khi ăn (tới). Tuy làm bằng các vật liệu thô sơ nhưng chòi được trang hoàng rực rỡ.

Bộ bài chòi gồm có 27 cặp được chia làm 3 pho: pho văn, pho vạn, pho sách; mỗi pho có 9 cặp. Khi bắt đầu cuộc chơi, anh hiệu (người hô bài) mặc áo dài đen, thắt dây lưng đỏ lần lượt đi phát các con bài cho các chòi và thu tiền các chân bài góp vào hội. Cùng lúc đó, tiếng trống, tiếng nhạc nổi lên, anh hiệu làm động tác múa chào rồi rút các con bài và bắt đầu hô. Tùy theo từng con bài mà có lời hô cho phù hợp, thường là những câu thơ lục bát, như:

Anh ngồi (mà) bên vực anh câu

Sẩy chân (mà) rớt xuống vực sâu cái ầm.*

Con Ông Ầm

Sớm mai xách cái nón lên gò

Hai mặt chụm lại cái giò tréo ngoe.

Con Tứ Cẳng

Hoặc để cho những người chơi bài thêm chờ đợi, hồi hộp, anh hiệu hô các câu thơ dài:

Chú giỏi sao chú chẳng đi thi

Cứ ăn ở xó bếp, ngủ khì chuồng trâu

Chú ơi tôi chẳng ưng đâu

Trạng không xứng trạng, có hầu cũng uổng công.

Con Lục Trạng

Đêm nằm không chiếu, lấy rơm làm giường

Dù dơi dép bướm chật đường

Màn loan gối phượng ai thương thằng nghèo.*

Nhì Nghèo

Nhiều khi anh hiệu được sự cổ vũ của những người chơi và cũng để kéo dài một “hội” chơi, anh hô những câu rất dài:

Cảm thương thái tử con trời

Ra đi săn bắn ở nơi rừng già

Thấy nàng Dương Ngọc mê sa

Căn duyên trời định đôi ta trên rừng

Gái mười tám nước đem dưng

Tấm lòng thái tử không ưng nơi nào

Một mình thẳng đến núi cao

Cùng nàng Dương Ngọc ra vào trồng lang

Lầu xanh, gác tía chẳng màng

Mẹ cha chẳng tưởng, đến vàng chẳng mơ

Cảm thương thái tử ấu thơ

Non xanh ngàn dậm bơ vơ một mình.*

Thái Tử

Khi hô xong câu thơ con bài vừa rút được, ở chòi nào trúng con bài ấy thì đánh ba tiếng mõ, anh hiệu sẽ mang con bài lên tận chòi. Trong cuộc chơi được tổ chức gần đây, thấy bất tiện nên cuộc chơi còn có thêm một anh (hiệu xạ) để chạy bài đến các chòi. Nếu chòi nào may mắn trúng được 3 con bài thì đánh lên một hồi mõ dài để báo hiệu “tới”. Và một hồi trống vang lên kết thúc một ván bài. Một “hội” đúng ra có 9 ván bài. Nhưng vì để lại một ván không chơi (không thưởng) để lấy tiền chi phí cho cuộc chơi. Xong một hội lại tiếp tục đóng tiền chơi tiếp hội khác. Và anh hội lại được dịp “trổ tài” hô của mình bằng các câu lục bát khác, rất linh hoạt, hóm hỉnh, vui tươi. Để cho thu hút người chơi, lời hô của anh hiệu có vai trò rất quan trọng.

Đây là một trò chơi có ăn tiền, nhưng không mang tính ăn thua kiểu cờ bạc, trọng tâm của nó là để vui chơi, giải trí, là một sinh hoạt có tính cộng đồng mang đậm tính dân gian trong mỗi độ xuân về.

Bài chòi được biểu diễn dưới nhiều hình thức, nhưng tất cả đều là lấy thơ lục bát làm chuẩn; với thể điệu là “Hô” và khắc nhịp còn gọi là “nhịp bài chòi”.

CÁCH HÔ BÀI CHÒI NHƯ SAU:

Chín chòi lắng nghe

Tôi kể cái vè

Bài chòi ba mươi lá

Giang tay sởn sá

Là gã Ông Ầm

Chân đi sập hầm

Là anh Tư Cẳng

Cái chi trăng trắng

Là chị Bạch Huê

Ăn cận nằm kề

Là anh Chín Cối

Một chồng hai bậu

Ba Bụng úp vô…

Sau khi rút thăm trúng lá bài “Ba Bụng” thì hô bài “Phước-Lộc-Thọ” như sau:

Ba ông ngồi nói dóc cãi vang

Ông Lộc không muốn làm quan

Muốn sao Thượng Đế Ngọc Hoàng nghĩ thương

Cho tôi nhờ lộc miên trường

Từ đây sắp tới thường thường giàu to

Nhiều trâu, nhiều lợn, nhiều bò

Một đời sung sướng khỏi lo việc gì

Năm đêm tôi nghĩ, tôi suy

Lời tục họ nói mấy khi lưu truyền

Một trăm ông lớn xuống thuyền

Ông chi cũng không lớn bằng ông tiền lớn hơn

Dù ai có giận, có hờn

Có thù, có oán khấn đơn kiện mình

Hễ la cao lễ dễ trình

Nhiều tiền quan chức xử binh anh giàu

Sách có chữ rằng:

Chữ Phú đứng trước, chữ Quý đứng sau

Dầu như có lỡ nhức đầu

Không tiền biết chạy đi đâu

Có tiền mua thuốc, mua dầu xức thoa

Còn như có muốn đi xa cũng nhàn

Xe điện, xe kéo quá giang hàng thuyền

Tàu bay, tàu lặn có tiền xuất đi

Khỏi ra vay mượn vậy thì của ai

Đời bây giờ giàu có hơn sang

Ông Phước lại cãi: Tôi làm quan hơn anh giàu

Đã biết rằng: Chữ Phú đứng trước, chữ Quý đứng sau

Chữ Phú vô phước cũng mau mạt tàn

Như tôi có phước làm quan

Quyền cao tước trọng vinh sang trên đời

Khi ở thành có muốn đi chơi

Có quân gia hầu hạ, ông Phước thời cũng sướng hơn

Có câu: vi phú bất nhơn

Hữu Lộc vô Phước cũng sạch trơn bây giờ

Ông đừng có nói dại khờ

Đã biết hữu Lộc cũng nhờ Phước hơn

Có Lộc gầy dựng giang sơn

Vô Phước đại Phí sẽ bị ác nhơn nó đoạt tài

Sách có chữ rằng:

Phú giả thân chi giả; Tài giả thân chi tai

Lộc còn cãi Phước hoài hoài luôn luôn

Ông Thọ nghe nói khôn buồn

Này ông giàu có bạc muôn, bạc ngàn

Mấy ông có Phước làm quan

Bất hạnh chết yểu họ hàng sạch đi

Ấy là Phước Lộc mà chi

Xét ra cho kỹ sao bì sống lâu

Mặc ai danh vọng khuôn cầu

Mặc ai thị chức, thị giàu mặc ai

còn tôi cứ giữ sống dai

Coi đời này tới đời khác hoài hoài vui chơi

Xét ra cho kỹ sự đời

Ba người BA BỤNG không ai thời giống ai.

THANH TÙNG - BÙI ĐẸP st.

---------

* Trong “Văn học dân gian Nghĩa Bình”- Sở VHTT, 1986


VIỆT TA CHÚC

Việt ta ra ngõ chúc nhau

Buôn may bán đắt làm câu mở đầu

Chúc sang với cả chúc giàu

Thông quan hoạn lộ qua cầu bình an

Chúc lời thanh vị nhiên khang

Chúc câu mãn đắc giấc vàng mộng xanh

Chúc em mắt ngọc long lanh

Mùa Xuân rực rỡ kết thành hoa môi

Chúc anh cuối đất cùng trời

Công trình dân dụng sáng ngời mọc lên

Chúc cô thôn nữ làng bên

Được mùa được giá lại thêm tấm chồng

Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông

Sóng yên biển lặng cá tôm tràn trề

Chúc đầy sáng tạo đam mê

Văn thơ nhạc họa tứ bề thăng hoa

Chúc gần rồi lại chúc xa

Nhà nông trồng cấy bằng ba bằng mười

Đẫy mùa vọt giá cả cười

Doanh thương xuất khẩu thuận thời xôn xao

Chúc câu nhân nghĩa ngọt ngào

Chung tay vận tác đón chào lân bang

Chúc tào khang nghĩa đá vàng

Gia cang ấm áp ắp vàn ấp iu

Chúc ơi chúc đến bao nhiêu

Người vui đạt được đôi điều đã may

Nắng vàng như thể Xuân say

Nào ta cùng nối vòng tay chúc mừng.

ĐÀM LAN

Cúc mai

Dáng gầy ẻo lá - rất mong manh

Vàng ngất ngây hồn, phơn phớt xanh

E ấp nụ cười duyên dáng lạ

Mơ màng, trăm cánh đẹp như tranh.

NGÀN PHƯƠNG

Tàn phai

Ngày phai nắng đón đêm về

Năm phai đón tết tràn trề vui chung

Thời gian phai đẹp lạ lùng

Tình người phai lạt vô cùng gớm ghê.

NGÀN PHƯƠNG

GỞI NẮNG

Ai dạo ngoài kia tuyết lạnh buồn

Tìm ai tìm giữa tuyết trời đông ?

Nghe lòng giá buốt đơn côi quá

Lầm lũi một mình tuyết mênh mông

Năm Tuất ra đi tiễn biệt rồi

Biết phận nên không nói một lời

Dầm trong mưa tuyết tình xa vắng

Âm thầm lặng lẽ lúc chia phôi !

Hình như Xuân sắp đến nơi nao

Ngàn hoa tươi thắm nở cành cao

Tuyết trắng hững hờ rơi rơi mãi

Chẳng biết tình Xuân đang xôn xao

Nơi ấy co ro đông lạnh lùng

Bên này hoa bướm đón Xuân sang

Gởi vạt nắng hồng mong sưởi ấm

Một chiều giá rét tuyết mùa đông.

Phạm Thị Minh-Hưng

Bài thơ

đêm giao thừa

Mùa xuân
Một mình
Uống ly cà phê đắng
Buồn lủi thủi
Giấu nỗi cô đơn sau một nụ cười
Cuộc sống này
Triệu triệu con người
Triệu triệu lần họ tìm nhau
Triệu triệu lần họ yêu nhau
Mùa xuân hoa đâm chồi nảy lộc
Tình yêu cũng sinh sôi
Đêm giao thừa... pháo hoa vẫn nở xòe rực rỡ
Chào đón một em bé chào đời
Trần gian thêm một con người
Có ai thống kê không ?
Mấy phần triệu
Của triệu triệu con người
Những con người sống cảnh cô đơn
Một mình lủi thủi
Không tình yêu
Giữa mùa xuân bất diệt.

Huỳnh Thiên Kim Bội

HỎI NHỎ NÀNG XUÂN

Nàng Xuân lại đến giữa bao la

Vẫn dáng yêu kiều, vẫn thướt tha

Liếc mắt : Ngàn hoa thua sắc thắm

Mỉm cười : Đàn bướm cũng la đà

Sánh bước cha ông từ vạn thuở

Song hành con cháu mãi sau xa

Cho ta hỏi nhỏ câu này nhé :

Bí quyết vì sao mãi chẳng già ?

Tâm Nguyện

Xuân 2019

XUÂN ĐẠI ĐẠO

Xưa nay học đạo luyện trường xuân

Giáo lý hoằng khai quy bổn xuân

Phản chiếu minh tâm trừ ẩm trược

Hồi quang kiến tánh đắc dương xuân

Nhơn sâm chánh quả kim đơn dược

Phật tánh chơn như xá lợi xuân

Tiểu đại châu thiên quay chánh pháp

Niết bàn thức tỉnh trải mùa xuân...

Thanh Châu

MÙA MAI NỞ

Hoa mai nở, mỗi xuân về

Màu hoa đã trót hẹn thề từ lâu

Hân hoan một mối tình đầu

Cội mai chứng kiến ân sâu nghĩa nồng

*

Bây giờ lạc bước mênh mông

Bụi thời gian chửa lắp xong mạch sầu

Để ai trằn trọc đêm thâu

Ước mơ một phút nhiệm mầu nào đây

*

Thời gian qua thuở sum vầy

Gió đông đưa đẩy, tình đầy lại vơi

Chỉ hồng Ông Tạo se lơi

Người ra đi mãi xa rời hà phang

*

Xuân về hoa lại nở vàng

Đóa mai còn đó mà nàng biệt tăm

Nhớ nhung hình bóng xa xăm

Như yêu mai nở Tết năm trước nhà.

Thanh Châu

XUÂN…

Có thể mùa xuân không phải là cánh mai vàng.

Khoe vẻ huy hoàng của đất trời giao duyên.

Mà đơn sơ thôi, xuân là tất cả dịu hiền

Trong nụ cười của người mẹ

dành cho con những ngày thơ bé

*

Mùa xuân-tất nhiên-lộng lẫy nơi bao nhiêu hội, lễ.

Với thật nhiều lý do: tất niên, giải trí…

cho thư giãn cuộc đời.

*

Mùa xuân còn ở trong tươi tắn làn môi

Chìa tay cho kẻ thấp kém hơn mình:

Chúc mừng năm mới!

*

Mùa xuân nổ như pháo vang sau bao ngày chờ đợi.

Rượu tràn ly, thơ thới những điểm trang.

Mùa xuân còn tỏa trong heo hút thôn làng:

Chỉ với bộ cánh mới loàng xoàng là xuân đà rực rỡ.

*

Ai chẳng biết mùa xuân là hội ngộ…

Là quà mừng, là biếu xén, là đàn hát hỉ hoan.

Mấy ai nghĩ mùa xuân của những kẻ tha phương

Có khi chỉ cần là cánh thư tỏ bày thương nhớ.

*

Mùa xuân rong chơi, thử xa đi tháng ngày trần bụi

Hưởng khoảng trời xanh cho thư thái tâm hồn.

Trong sân bệnh viện, ai đó ngắm lộc non…

Lạy Chúa Xuân,

sang năm con có còn xuân không nữa ?

*

Vậy đó, mùa xuân dẫu sao cũng chỉ là sương khói.

Mau biến tan sau những phút tạm tưng bừng.

Xuân, xuân chỉ ở lâu với những trái tim

Biết dừng lại, nếm xuân từng chút một…

LAM TRẦN

MỒNG BỐN TẾT

KHÔ BÒ

Một miếng khô bò, một hớp bia
Một mình độc ẩm giữa thanh khuya
Một con chó già băn khoăn ngáp
Dăm gã ruồi xanh thấp thoáng sà
Lách cách, đá va vào ly quạnh
Loay hoay, bia rót đẫm hồn ngơ
Vợ xa, lấy ai mà cự nự
Nhà vắng, buồn đến nỗi… không ngờ…

LAM TRẦN

BÒ KHÔ

Một hớp bia, lại rẻo bò khô
Một miếng ớt cay, tiếp tiếng khà
Một vần thơ long rong ngoài cửa
Đôi tiếng sủa lệt quệt xó nhà
Gạo vo mà quên chưa đỏ lửa
Rau nhặt bỗng nhớ chẳng còn gaz
Vắng vợ, đến râu còn quên cạo
Thôi đành bia hớp với bò khô !

LAM TRẦN

GHIỀN

Đến chó mà cũng nghiện khô bò
Thịt thời táp hết, ớt lè ra
Hồng hộc, nước xơi từng tô nhẵn
Quẩn quanh, răng tẩn trọn miếng thừa
Hết thịt quay qua lam nham ớt
Khô tô, ứ hử nhấm nháp bia
Thôi đành thầy trò chia nhau nhậu
Cho trọn một ngày vợ nhỡ xa…

LAM TRẦN

BẢN TÍNH KỸ LƯỠNG

Làm người phải trọng cương thường

Trên thờ cha mẹ còn đương sanh tiền

Sáng thăm tối viếng triền miên

Trả ơn dưỡng dục cùng đền dưỡng sanh

Con thời khuyên bảo lời lành

Dạy khôn dạy khéo để dành hậu lai

Giàu nghèo tùy việc ăn xài

Liệu điều có ích tiền tài dùng nên

Sách xưa có truyện lưu truyền :

Một người thợ mộc thiếu niên kiệm cần

Ở ăn ra việc cơ bần

Việc làm đặng giá, nhiều lần có dư

Ăn xài mỗi thứ từ từ

Trong nhà con cái giống như ý mình

Bạn bè thắc mắc thình lình

Thấy người tiện tặn vô tình hỏi thăm

Bạc anh làm việc cả năm

Không hay xài phí giữ cầm làm chi

Thấy hỏi đáp lại tức thì

Của tôi lại phải chia nhì không sai

Một phần trả nợ lâu nay

Một phần còn lại cho vay lấy lời

Bạn anh nghe vậy bật cười

Tôi cần học hỏi con người của anh

Rốt rồi hai bạn đồng tình

Đầu tư sự nghiệp, khách nhìn ngợi khen.

LANG NGUYÊN

CHÚC TẾT KỶ HỢI (2019)

Tiếng chó gâu vang sắp dứt rồi

Heo về… ngày tháng lạnh lùng trôi

Lụt tràn, đất lở lao đao quá

Trái trĩu, lúa oằn… mong mỏi thôi

Kính chúc nhơn sanh tâm đức vượng

Cầu mong thế giới vững yên ngôi

Niềm đau Mậu Tuất qua mau nhé !

Kỷ Hợi tân niên tốt dập dồi.

NHỰT THANH 20-11-2018

ĐÊM XUÂN

Vệt nhớ trườn đêm Xuân

Ly rượu tàn mềm nhũn

Ký ức xưa lượn uốn

Đường sóng âm ngoằn ngoèo

Thềm xuân xưa mốc meo

Thở buồn sâu quạnh quẽ

Sắc nâu bầy chim sẻ

Bay chập chờn xuyên đêm.

Vệt nhớ chợt thả rèm

Lấp che vùng mộng mị

Đêm khát thèm tri kỷ

Tôi nhặt nhầm tay tôi.

Nguyễn Tấn Thái

NGÀY VUI

Hôm nay mừng tiệc Tất niên

Đôi lời thân ái mọi miền an khang

Kiếp tằm như đã đeo mang

Ngâm thơ ca hát chứa chan tình người

Vui mùa én liệng đẹp tươi

Tình thân thi hữu vui cười thiết tha

Xưa nay tình nghĩa đậm đà

Định kỳ hàng tháng thơ ca tỏ bày

Giao lưu ngâm hát đã hay

Nếp sống văn hóa càng ngày phong lưu

Nhà thờ đẹp TÂN SA CHÂU

Ơn trên ban phước phúc mầu cho ta.

QUANG BỈNH

TẾT GIAO THỪA

Đón Tết giao thừa đốt pháo bông

Trẻ già chuẩn bị ngóng chờ trông

Màn đêm bao phủ nhiều sao sáng

Ánh điện hào quang rực rỡ sông

Tiếng trống liên hồi mừng Tết đến

Phố phường hớn hở đón chờ mong

Bầu trời pháo sáng đì đùng nổ

Nguyên Đán triển khai chuẩn bị xong.

QUANG BỈNH

ĐÔI MẮT EM

Đôi mắt em sắc như dao

Dẫu xa từ cái thủa nào, khó quên

Bất ngờ tôi lại gặp em

Vẫn đôi mắt ấy sáng lên, ấm nồng

Ôi em, cách trở hoài mong

Để tôi mang mãi nỗi lòng xốn xang

Hóa ra đò chẳng sang ngang

Bao nhiêu năm vẫn đợi chàng thủy chung

Tình yêu thường rất lạ lùng

Đã thương, thương đến tận cùng mới cam.

DƯƠNG TIẾN CẦN

ÔNG NỘI CỦA CON

Ông là ông nội của con

Ở tuổi thượng thọ mà còn tinh nhanh

Ông lo dạy cháu học hành

Bao nhiêu điều tốt ông dành cho con

Còn trời, còn nước, còn non

Dù xa ông, cháu mãi còn nhớ ông

Cháu như cá nhỏ trong sông

Lòng ông biển rộng mênh mông bến bờ

Ông cho cháu cả giấc mơ

Ông cho cháu cả tuổi thơ tuyệt vời

Cháu yêu ông nhất trên đời.

LÊ MINH CHỬ

YÊU MUỘN

Gặp gỡ nhau chi buổi xế chiều

Cho lòng xao xuyến dạ đăm chiêu

Anh ơi ! Chớ phụ tình em nhé !

Yêu !

Chợt thấy em cưng quá mỹ miều

Tim hồng loạn nhịp, bỗng thèm… yêu

Ngó qua liếc lại, không ai thấy

Liều !

Bao năm công tác, chẳng hề… yêu

Nay đã lui về sống quạnh hiu

Anh muốn, lòng em đây cũng muốn

Chiều !

Gặp gỡ nhau luôn mỗi sớm chiều

Băng ghềnh vượt thác, thử nhiều chiêu

Sức tuy hơi kém, gân còn dẻo

Phiêu !

Sức đã mong manh tuổi xế chiều

Phờ râu lỏng gối, cũng vì… yêu

Vẫy tay từ biệt nhau lần cuối

Tiêu !

THANH PHONG

THĂNG HOA

Em huyễn hoặc để anh say đắm

Đảo Thần Tiên Đại bàng múa ca

Đảo hoang dã mơ màng đắm đuối

Nét vàng son dấu ấn tài hoa

Đêm thanh vắng trăng sao bừng sáng

Ánh bình minh rực rỡ muôn hoa

Khi tình yêu bừng lên tuyệt đỉnh

Như thiên thần rực rỡ trong đêm

Yêu hạnh phúc tình xuân mê mải

Vẫn ngọt ngào yêu mãi thăng hoa.

PHÙNG CHÍ TÂM

Sài Gòn, 07/2009

BÔNG SEN ĐẦU ĐÔNG

Có một bông sen đầu đông

Biếc xanh lặng lẽ

Tỏa hương thầm thật khẽ cho tôi

Tưởng mất em rồi

Chỉ riêng nụ cười em trao

Đủ nối lại những thước phim dang dở

Đủ sống lại những ngày giờ chan chứa niềm vui

Dẫu biết rằng không thể trả lời

Anh vẫn hỏi vì sao ta đã có nhau bên dòng đời cát bụi

Dẫu chỉ như tia chớp bừng sáng chói

Trên bầu trời thăm thẳm hư không

Dẫu chỉ như tia lửa nhỏ than hồng

Sưởi ấm tâm hồn chẳng bao giờ tắt

Ơi bông sen từ trong bùn đất

Vươn trên mặt hồ ngát xanh

Thời gian trôi đi sẽ xóa rất nhanh

Tất cả lâu đài, tường thành, kho báu

Chỉ riêng làn hương bông sen yêu dấu

Sẽ còn, còn mãi với thời gian !

*

Tôi lại viết bài thơ về hạnh phúc

Như một lời tâm sự cùng em

Điều làm tôi bao đêm thao thức

Dẫu có trong tay sao vẫn cứ đi tìm

*

Trời vào thu sớm nay có gió hây hây

Có chim câu nhà ai bay lượn

Có hạt sương long lanh tôi từng vay mượn

Lại mượn thêm để được thấy hồn say

*

Có gì vui hơn có nguồn thơ dâng đầy

Có tình khúc dạt dào sóng nhạc

Có quê hương sớm chiều thơm ngát

Có tiếng cười em còn vọng đâu đây

*

Hạnh phúc đó thật giản đơn gần gũi

Tôi chợt hiểu con người cần học ở thiên nhiên

Như én báo tin xuân chao liệng

Nhẹ như không bay chạm tới mây thiền.

LÊ NGUYÊN

27/8/2006

XUÂN XA QUÊ

Xuân đi - Xuân đến - Xuân về

Bao người nhắc nhở lỗi thề quê hương

Dân lành sinh sống hiền lương

Email - Facebook - Messenger - Zalo

- Viber vương vấn tình

Nhà xưa - sông núi - Trường Đình

Biết bao lăng tẩm hiển linh khôn lường

Vài giòng bày tỏ vấn vương

Ra đi năm tháng nhớ thương đong đầy

Giờ đây lưu trú nơi nầy

Thân đơn lạc lõng - vui vầy còn đâu ?

Bao đêm thức trắng canh thâu

Nhớ ơi da diết ! Đã lâu không về

Đời hoang kiếp bạc não nề

Mong năm KỶ HỢI phủ phê an lành.

VŨ THÙY HƯƠNG

ƯỚC MƠ

Tôi ước trời ban phép nhiệm màu

Nói ra tất cả nghĩa cao sâu

Cho người hiểu biết điều nhân cách

Cho kẻ bất lương phải cúi đầu

Tôi ước trời ban phép nhiệm màu

Cho quân gian ác cũng điên đầu

Giục đời hôm sớm luôn tâm niệm

Để cõi trần gian bớt khổ sầu

Tôi ước trời ban phép nhiệm màu

Loài người phải biết mến yêu nhau

Bảo nhân, hận oán sang thành thiện

Giúp cả mọi người hết bệnh đau

Tôi ước trời ban phép nhiệm màu

Trị dân, cứu nước được cao sâu

Gần xa trên dưới vui lòng cả

Lập lại Hòa bình khắp Á Âu

Tôi ước trời ban phép nhiệm màu

Hòa bình bốn biển cả năm châu

Hạch nhân, hỏa tiễn, bom khinh khí

Nguyên tử triệt tiêu hết thảm sầu

Tôi ước trời ban phép nhiệm màu

Làm cho nhân loại hết binh đao

Chiến tranh tàn khốc đều ngưng hẳn

Thế giới vầy vui nối nhịp cầu…

PHƯỚC HẢI

NỤ VÀ HOA

Cứ làm Nụ mãi đi

Nở hoa để làm chi

Mai ngày phai tàn úa

Chạnh lòng chuốc sầu bi

Cứ làm Nụ mãi đi

Môi chúm chím thầm thì

Say - Tình - Xanh hương thoảng

Xuân đời tràn sắc thi.

VŨ MÃO

Năm 2007

BUD AND FLOWER

Be a BUD forever

For what reason should you burst

Later on when withering

Sadness is what you’ll bring

Be a BUD forever

Your slightly opened lips whisper

Drunk - Love - a flashing scent

Life is overflowed with poetry and romance.

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN

Year 2007

HÀ NỘI VÀO XUÂN

Xuân về náo nức say trời đất

Sắc đào dâng nụ hé môi tươi

Người vui về chợ đơm hương tết

Phường phố cổ xưa thêu dáng đời

Rộn rã nói cười xuân đằm thắm

Giao thừa hoa pháo tắm trong mơ

Bài ca ai hát thân thương quá

Lan sóng dặt dìu buông ý thơ

Hà Nội - Tràng An ngày xa vãng

Tiếng chuông lay sóng Phủ Tây Hồ

Đài Nghiên - Tháp Bút như đang vẽ

Tấp nập đông vui năm Cửa Ô…

VŨ MÃO

HANOI IN SPRINGTIME

Spring has come back,

people and things everywhere turned bustling and drunk

The peach-tree offered its smile - like budding buds

People happily came back

from the market overflowed with Tết’s perfume

Ancient wards and streets wove the silhouette of life.

*

Ringing laughters and talks in an engaging springtime

On the New Year’s Eve,

flowers and fireworks seemed like bathing in a dream

Who sang a so affectionate and lovely song

Spreading a now largo now presto music filled

with poetical inspiration

*

Hà Nội - Tràng An in days past

The bell sounds shook the Phủ Tây Hồ’s waves

The Đền Nghiên (Ink-slab estrade)

- Tháp Bút (Pen Tower) seemed like they were paintings

People were so crowded,

bustling and happy at all the five Cửa Ô (City Gate)…

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN


Phụ bản III

CÁI THANG GẪY

- Cái thằng cha kỳ cục!

Lượm vừa lầm bầm vừa bước ngang căn nhà nho nhỏ mà dường như lúc nào hắn cũng ở đó thì phải! Không kỳ cục thì tại sao cô cứ đi qua là y như hắn đã dõi mắt ếch nhìn ra, cái nhìn khiến cô nóng ran cả người, cho dù có là ngày mưa rét mướt! Không hiểu cái gã “rảnh” ấy có đi làm hay không, nhưng chính khi chiều về, lúc cô thong thả lần theo tiếng chuông mà đến cầu kinh trong ngôi nhà thờ, là đã thấy gã ngồi bất động trên ghế, nhìn ra đường từ bao giờ!

Chẳng biết có phải tại Lượm lưu ý hay để ý, lưu tâm hoặc để tâm đến cái gã trời đánh ấy hay không, mà những khi cô cố tình quay ngoắt lại một cách đột ngột là thế nào cũng đụng phải đôi mắt lỳ lợm… thấy ghê của gã!

Riết rồi Lượm chẳng thèm chú ý tới gã nữa. Thậm chí cô nghĩ vơ vơ vẩn vẩn rằng, có lẽ gã cũng giống như con chó nhà kia, mập như con heo, nằm canh cửa dọc theo lối cô đi nhà thờ. Con heo dễ thương ấy cứ hít hít lấy cô rồi ngước nhìn cô gái trẻ, vừa tỉnh bơ vừa có vẻ muốn làm quen mà chưa có dịp.

Dĩ nhiên, sau này cô không đi phía nhà hắn nữa, mà đảo sang mé bên kia để ánh mắt có vẻ rình mò ấy phải ngại ngùng. Nhưng ngay sau lần ấy, thì hắn đã kéo xệch cái ghế ra sát bìa ngõ mà tật xưa tái diễn! Bực mình, cô nghiến cái guốc chẳng mấy cao vào viên sỏi vô duyên nằm hờ hững ven đường. Ai ngờ, cú giận hờn ấy khiến cô loạng choạng suýt ngã vào con heo đang đứng lên đón người quen chưa biết tên là chính cô!

Cái gã ấy mới… điên, khi bụm miệng, đỏ mặt tía tai vì cố nhịn một nụ cười chưa được cấp giấy phép. Cô quắc mắt nhìn hắn khiến cái đuôi mắt của hắn đang hí hởn bỗng cụp lại, y như con heo cụp đuôi vì sợ cô té vào nó. May mà nó không làm dữ với cô kìa…

- Sao vậy….

Cái đồ quỷ, vì hắn còn dám hỏi cô nữa cơ à! Đáng lẽ hắn phải ba chân bốn cẳng chạy ra, đỡ cô lên chứ. Đàng này…

Hm, mà không được, chẳng may hắn chạy ra thật thì có nên nói gì hay im như thóc đây? Đầu cô nghĩ thế mà miệng cô lại ngúng nguẩy:

- Kệ tui…

- Ơ hay! Có ai làm gì đâu nào…

Rồi gã ngồi im, nhìn cô dời bước đi, hai tay nhẹ kéo ống quần dài cho khỏi lết xuống nền đường hơi lam nham nước vì cơn mưa trái mùa lúc nãy. Tự nhiên cô quay lại nhìn hắn, và chính cô chẳng hiểu vì sao mà miệng cô lại khẽ… cười!

Thế mới… chết!

Sáng 29 tết, lần này là buổi sáng vì cô mới được nghỉ tết, cô đi lễ thay cho buổi chiều định sẽ lang thang ngoài phố ngắm hoa xem cảnh. Lễ xong, chưa về tới chỗ nhà hắn thì cô đã thấy hắn đang loay hoay trên cái thang cọ rửa cánh cổng đã ngả màu. Hình như hắn nghe thấy tiếng chân quen của cô hay sao mà quay ngay lại. Cái thang chữ A chân thấp chân cao giật mình vì cú đảo người của gã mất hồn nên cứ thế chao đi, rồi hắn rớt cái oạch ngay trước mắt mỹ nhân. Lượm la lên:

- Sao vậy?

Cái gã gì kỳ cục! Hắn hình như cố tình trả đũa câu nói hôm nọ của cô, giọng hắn chứng tỏ hắn đang rất đau mà cũng rất… hề:

- Kệ tui…

Rõ ràng chữ “tui” kéo dài như tiếng còi xe lửa ấy tố cáo hắn không hề muốn nói như thế, mà là:

- Đau quá Lượm ạ! Đỡ dùm cái đi, năn nỉ mà!

Lượm phì cười vì sự tưởng tượng của mình. Làm gì hắn biết tên cô mà có thể sẽ gọi tên cô ngọt ngào như thế…

Thật ra, thì hắn lại bám tay vào cái thang thổ tả, định níu lấy nó rồi đứng lên. Nhưng cô gạt đi:

- Bộ… ông muốn té phát nữa à!

Chậc! vậy là cô đỡ… nách cho hắn đứng lên, trong khi hắn lầu bầu phát… rùng mình:

- Đừng gọi đây bằng “ông” nhé! Ông tên là…

Cái tên khó nghe quá. Lượm vừa dìu hắn vào nhà vừa thắc mắc:

- Tên gì?

- Lặt! Tên ông là Lặt nhé, còn tên… bà?

Bà Lượm hết sức bực mình vì hắn làm như cố tình dựa vào bà, vừa phì cười vì xem ra tên hai người ghép lại rất… có duyên:

- Tên “bà” là Lượm nhé… Lặt…

Có thế mà họ đã “bồ” với nhau! Ngay từ mồng một tết…

LAM TRẦN

TRỜI BÁO CHO VUA TƯỚNG

BIẾT THUỘC CẤP NÒNG CỐT

I. Đại cương

Trong thời loạn, giặc giã tứ tung, nếu ai cũng cậy sức mình mà không tùng phục ai cả thì cảnh loạn lạc có lẽ khó bề yên được. Thời đó, cần có người thâu phục được người tài năng dưới trướng để cùng nhau giúp rập việc thì đất nước, xã hội mới yên. Do đó, trong lịch sử có trường hợp vị chỉ huy, lãnh đạo thấy được người tài năng chân chánh để trọng dụng và tin dùng thì xã hội mới ổn định được.

II. Các vị lãnh đạo biết được người phò tá tài năng và trung hậu:

1 .Lê Li với Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí:

Sau khi quân Minh chiếm nước ta, đặt ách thống trị lên dân ta rất hà khắc nên nhơn dân nổi lên đánh phá lẻ tẻ khắp nơi. Có hai cuộc khởi nghĩa lớn của con cháu nhà Trần là Giản Định vương, con thứ vua Nghệ Tông xưng là Giản Định hoàng đế. Sau khi thắng được vài trận lớn, ông lại nghe lời nói gièm mà giết Đặng Tất và quan tham mưu là Nguyễn Cảnh Chân làm lòng người chán nản. Con ông Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân rước Trần Quý Khoách, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang. Đồng thời họ bắt Giản Định đế về tôn lên làm Thái Thượng Hoàng. Dân ủng hộ vua nhưng hiệu lịnh bất nhứt nên thua và bị bắt cả. Trong hoàn cảnh đó có lẽ cần có người lãnh đạo biết cận thần cật ruột để không có gì phải nghi ngờ. Tất cả dốc một lòng lo cho đất nước thì mới thành công được.

Ông Trần Nguyên Hãn đi bán dầu sanh sống, vô đền Chèm ngủ nhờ và nghe ông thần làng bên đi chầu về nói là Thượng Đế cho Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi của nước Nam. Nguyễn Trãi cùng Trần Nguyên Hãn tới Lê Lợi và cùng hợp sức chống quân Minh. Nguyễn Trãi dùng mưu, lấy mỡ viết lên lá cây “Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần”. Kiến ăn mỡ, lá rụng, dân đọc và cho đây là điềm trời nên dốc lòng ủng hộ Lê Lợi. Lại thêm một vị khác, tôi võ đoán là Nguyễn Xí lượm được một lưỡi kiếm, Lê Lợi lượm được một cán gươm. Đem lưỡi và cán gắn vô thì nó dính chặt không rút ra được. Hai người cùng bàn Lê Lợi là chúa, Nguyễn Xí là tôi. Quan văn, tướng võ đã có, họ cùng một lòng chống giặc nên đã thành công.

2. Chúa Sãi, Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Tiến:

Chúa Sãi tin dùng Đào Duy Từ và giao cho ông nhiệm vụ phòng thủ và ngăn chặn quân của chúa Trịnh từ Bắc đánh vô. Một đêm, Duy Từ chiêm bao thấy một con cọp từ ngoài chạy vô rồi mọc hai cánh bay lên. Sáng ra ông thấy Nguyễn Hữu Tiến từ ngoài đi vô và đứng hầu dưới thềm. Mời vô hỏi chuyện thì thấy Tiến nói năng lưu loát và tỏ ra có cơ trí, Đào Duy Từ tiến cử lên chúa Sãi và được cho làm tiết chế. Nguyễn Hữu Tiến nổi danh là hổ tướng Nam triều. Tới đời chúa Hiền, nhân bất hòa với Nguyễn Hữu Dật, Tiến rút quân về mà không cho tướng yêu của chúa Hiền là Nguyễn Hữu Dật biết làm ông nầy khốn dốn. Dù vậy, không thấy chúa Hiền trách phạt gì dù thời nầy chúa Sãi đã mất khoảng 40 năm. Có lẽ các chúa Nguyễn vẫn coi Nguyễn Hữu Tiến là trụ cột giữ vững cơ nghiệp của nhà chúa. Do đó, thế miền Nam vẫn vững vàng.

3. Đường Thái Tổ Lý Uyên và Tần Thúc Bảo:

Tần Thúc Bảo đi công tác, tới Lâm Đồng, ông lên viếng đền Ngũ Tử Tư và ngồi dựa vô bệ tượng mà ngủ và chiêm bao thấy một con Rồng vàng giãy giụa vì bị một con thú dữ đang gầm gừ muốn xé xác. Bỗng một con Kỳ Lân phục bên mình ve vẩy đuôi. Thúc Bảo nhảy lên lưng Kỳ Lân, nó chạy như bay đến chỗ con Rồng vàng. Thúc Bảo đánh con quái vật lăn ra chết, con Rồng vàng vô mây biến mất. Tỉnh dậy, thấy con Long câu hí vang. Nhảy lên lưng, Long câu chạy như bay xuống núi và thấy một đám bịt mặt vây đánh một người mắt sáng, râu ba chòm. Thúc Bảo tới đánh giải vây và bắt một tên hỏi, nó nói Đông cung Thái Tử chặn giết Đường công Lý Uyên. Người mà ông đánh trúng vai là Đông cung Thái Tử đó. Thúc Bảo bỏ trốn, Lý Uyên rượt theo hỏi tên để tạ ơn không được nên về lập một ngôi chùa và tạc tượng Thúc Bảo mà thờ. Như vậy là vua tôi biết mặt nhau. Về sau khi Ân Vương, Tề Vương hại Tần Vương bị giam và đuổi các tướng đi trừ Tần Thúc Bảo. Thúc Bảo xin về thăm gia đình rồi ở luôn. Thấy vậy, Lưu Hắc Thát đem quân đánh về Trường An. Đường Thế Tổ cho triệu Tần Thúc Bảo về chống giặc và ban cho đôi giản trên đánh hôn quân dưới đả loạn thần. Tần Thúc Bảo đánh tan giặc Hắc Thát và được phong là Hộ Quấc Công Tinh Kiên vương Thiên hạ Đô đốc Đại nguyên soái với đôi giản diệt trừ gian nịnh. Nhà Đường thời đó bắt đầu hưng thịnh.

4. Lý Quảng thời nhà Minh:

Lý Quảng là con Binh Bộ Thượng Thư đã qua đời, được tiên Lữ Đồng Tân cho khôi giáp với một Thủ quyển có chân dung các vị anh hùng và biểu kết nghĩa với mấy người đó đặng sau nầy phò vua giúp nước. Lý Quảng mở xem thì thấy hình mình, anh em họ Từ Hồng Cẩm và cả anh chàng lỗ mãng đen thui Hồ Quỳ nữa. Sau đó gặp Trương Giác, Sở Vân, hình họ cũng hiện lên. Gặp bạn mới, mở ra cũng có hình cả. Sau khi cứu giá thành công, Lý Quảng được phong là Anh Võ Bá. Bạn bè Lý Quảng cũng được phong là Tướng quân, là Tổng binh cả. Các tướng cướp như Bạch Diệm Hồng ở Phi Phụng Sơn cũng được phong nữ tướng, đám ăn cướp Cam gia trại của anh em Mẫu dạ xoa Cam Thập nhị cô cũng được phong là nữ Tổng binh. Nhóm Lưu Cẩn sang cầu vua Hồng Mao đánh Đại Minh, Lý Quảng được phong Nguyên soái, đem anh em đi chống giặc, hoạn nạn một thời gian dài mới thắng trận, đem lại thanh bình cho Trung Hoa.

Khánh Hội - Quận 4 Saigòn ngày 24-8-2018

PHẠM HIẾU NGHĨA

VUA HEO

(cổ tích Việt Nam)

Ngày xưa có một đứa bé không cha không mẹ, được người ta nhặt về nuôi để sai vặt. Vì nó bẩn như lợn nên người ta gọi là thằng Heo. Mặc cho ai muốn chế nhạo khinh bỉ mình thế nào, Heo vẫn coi thường mọi người. Trải qua những năm đói kém, Heo vẫn sống và ngày một lớn. Năm mười lăm tuổi, Heo đến ở với một ông quan lớn.

Một hôm, ông quan bắt Heo múc một thau nước để rửa chân cho mình. Khi Heo mó đến chân quan, quan trỏ vào mấy cái nốt ruồi và dặn:

- Tao có ba cái nốt ruồi đỏ ở chân đây. Mày hãy coi chừng! Nếu cào xước lên thì cả họ nhà mày cũng khó mà đền cho ta cái tướng quý đó, con ạ!

Heo ta nghe nói nghĩ bụng: “Cái thứ người mới chỉ mới có ba nốt ruồi vặt đã làm gì mà nhặng lên như thế!” Nghĩ đoạn, Heo vạch áo cho quan xem những nốt ruồi của mình và nói:

- Quan lớn chỉ có ba cái nốt ruồi thôi mà đã quý đến thế, còn tôi có đến chín nốt đây này.

Ông quan thấy thằng bé có những chín nốt ruồi đỏ ở sau lưng thì lấy làm lạ lắm, bụng nghĩ thầm: “Trời ơi! Làm sao mà nó có tướng quý thế kia! Về sau nó không làm vua thì cũng làm chúa mà thôi. Nếu để cho nó làm vua làm chúa thì còn thể thống gì nữa. Phải tìm cách giết đi mới được”.

Thế rồi mấy hôm sau, ông quan trao cho đứa hầu gái một gói thuốc độc và bảo nhỏ rằng:

- Mày nhớ rắc thuốc này vào cơm cho thằng Heo ăn. Nhưng phải giữ thật kín miệng, nếu để ai biết tao sẽ giết mày trước.

Người hầu gái cầm lấy gói thuốc độc, bụng thương Heo vô hạn. Nhưng nàng không thể trái lời chủ được đành phải rắc vào bát cơm để dành phần cho Heo. Hôm ấy, Heo phải đi chợ mua giấy bút cho chủ. Trở về thì vừa lúc người hầu gái đang cho lợn ăn. Thấy Heo bưng bát cơm sắp và vào miệng, nàng vội vàng lấy thanh củi, vừa gõ vào cái máng lợn ăn vừa vờ mắng lợn:

- Heo ôn! Heo ôn! Heo ăn Heo chết, mà Heo không ăn Heo cũng chết!

Nàng vừa gõ vừa nói như thế đến ba lần. Heo nghe lấy làm chột dạ, nhưng vẫn chưa hiểu ý tứ thế nào liền chạy lại hỏi nhỏ:

- Thế nào? Có việc gì nói cho tôi biết đi!

Cô gái đáp:

- Heo đừng có quên tôi, tôi sẽ cho Heo biết.

Heo gật đầu. Nàng vội dắt Heo ra một chỗ vắng, kể hết sự tình cho nghe, và bảo:

- Nếu Heo không trốn mau, tai vạ sẽ đến nữa. Không sao tránh khỏi.

Heo cảm ơn cô gái vô cùng, ôm lấy đầu nàng hôn hít và nói:

- Sau này nếu tôi làm nên thì nàng cứ tìm đến, nhưng phải đến với mớ tóc lòa xòa như thế này thì tôi mới nhận ra được.

Heo bỏ đến ở với một lão trọc phú. Trọc phú thấy Heo đến xin việc, chưa biết nên dùng vào việc gì. Nhân có mấy đứa con đang chơi bời lêu lổng, hắn bắt Heo trông nom chúng cho mình. Công việc kể ra cũng nhàn và Heo làm tròn phận sự. Nhưng phải mấy đứa bé nghịch ngợm hết sức; chúng nó làm cho Heo phải theo dõi rất vất vả, lại thường bị mắng oan. Heo cắn răng không nói gì cả.

Một hôm, trọc phú thấy mấy đứa con có vẻ buồn bèn bảo Heo:

- Mày hãy bò xuống làm ngựa cho các anh ấy cưỡi. Có thế các anh ấy mới vui mà tao thuê mày mới đáng đồng tiền.

Heo cực chẳng đã phải phủ phục xuống cho hết đứa lớn đến đứa bé leo lên lưng. Chúng nó thích lắm. Cho nên, ngày hôm sau trò ấy lại diễn ra. Thằng con lớn của trọc phú cưỡi lên lưng Heo, nó beo tai Heo, Heo không nói gì. Một chốc, nó vớ cái roi đánh vào đít Heo, miệng kêu “nhoong nhoong” như kiểu bố nó cưỡi ngựa. Heo không nhịn được nữa, ngoái tay ra sau lưng gạt đứa bé một cái. Đứa bé văng mạnh ra đằng trước, đầu va phải tường vỡ óc mà chết.

Thấy đứa bé chết, Heo sợ, vội vàng bỏ trốn. Heo đi rất xa, tìm đến một ngôi chùa ở trên núi, xin với hòa thượng cho mình được ở lại hầu hạ rồi sẽ cắt tóc quy y. Hòa thượng đang cần một em bé hàng ngày trèo lên bệ lau chùi các pho tượng, nên nhận cho Heo ở chùa. Công việc không có gì đáng phàn nàn. Một hôm, hòa thượng nhìn thấy những chỗ kẽ chân tay của các pho tượng còn đầy bụi bặm bèn mắng Heo làm ăn dối trá. Qua hôm sau, Heo cố sức lau kỹ vào kẽ tay kẽ chân các tượng nhưng khó mà lau cho sạch. Tức mình, Heo trợn mắt nhìn một pho tượng và nạt lớn:

- Nhấc tay lên cho ta lau!

Tự nhiên pho tượng gỗ giơ tay lên trời. Lau xong, Heo lại phán:

- Duỗi chân ra nhanh, không ta cho ăn một gậy!

Pho tượng Phật đang ngồi xếp bằng vội nhổm dậy duỗi chân cho Heo lau. Nhờ làm theo cách ấy, Heo lau được sạch tất cả các pho tượng. Lau xong đâu đấy. Heo lại hô lên cho các tượng trở về nguyên vị.

Từ đấy trở đi, Heo vẫn làm theo lối đó. Nhưng một hôm, sau khi lau xong Heo quên truyền cho các tượng bỏ tay xuống, và co chân lại, cứ để thế mà về trai phòng. Buổi tối, các hòa thượng lên chùa tụng kinh thấy tất cả tượng Phật đều đứng duỗi chân thì vô cùng kinh ngạc, mới cho gọi hết thảy sư vãi trong chùa tới để chứng kiến một cảnh tượng chưa từng có bao giờ. Khi hỏi đến Heo, chàng thú nhận là do hôm nay mình đãng trí quên bảo các pho tượng ngồi xuống như cũ. Hòa thượng nghĩ bụng: “Chỉ có thiên tử mới sai khiến được Phật. Đứa bé này đã sai khiến được Phật hẳn có ngày làm vua. Nếu ta không báo quan trên, một mai họ truy nã, tất ta sẽ mang lỗi”.

Nghĩ đoạn, hòa thượng liền cho người mật báo lên quan. Nhưng có một chú tiểu khác đã mách cho Heo biết, nên Heo bỏ trốn trước khi quan tới.

Lần này Heo đến ở với một phú thương. Trước nhà phú thương có một hàng cau mọc đều ngăn ngắt. Hắn giao cho Heo hàng ngày phải múc nước tưới cau. Một hôm, Heo mệt quá ngồi nghỉ dưới bóng cây, Heo chỉ vào ba cây cau, buột miệng nói đùa:

- Cây này là cha, cây này là mẹ, cây này là con!

Tự nhiên, ba cây cau ấy trở nên lớn bé cao thấp khác nhau: cây cau cha vụt lớn cao hơn tất cả, trái lại cây cau con lùn tịt xuống, buồng của nó cọ gần sát đất.

Qua hôm sau, phú thương bước ra vườn thấy mấy cây cau thay hình đổi dạng thì lấy làm kỳ dị, bèn gọi Heo đến hỏi cho ra duyên cớ. Heo đáp:

- Chính do tôi bảo mà nó thay đổi như thế!

Phú thương rất đỗi lạ lùng nhưng cũng bảo Heo:

- Nếu phải thế thì mày hãy làm cho nó trở lại như cũ, bằng không tao sẽ cho mày một trận nhừ đòn.

Heo trợn mắt, bảo hắn:

- Người ta “ăn một đọi, nói một lời” chứ có đâu lại thế. Tôi nhất định không làm khác với lời của tôi đâu!

Phú thương nổi giận tìm gậy toan đánh Heo, Heo bỏ chạy thục mạng. Mặc dầu bụng đói, chàng không dám dừng lại. Mãi đến nửa đêm, vừa mệt vừa buồn ngủ ríu mắt, Heo chui đại vào một nhà kia để kiếm chỗ ngả lưng. Trong lúc ấy các giường chõng đều chật ních những người mà lại ngủ say như chết. Heo trông thấy ở gian bên có bàn thờ Long thần vừa đủ một chỗ nằm, lại có cả chiếu dùng để đắp rất tốt, bèn vứt tượng Long thần vào một xó nhà rồi trèo lên bàn làm một giấc rất ngon lành. Tờ mờ sáng hôm sau Heo đã dậy, lại tiếp tục đi nữa.

Khi chủ nhà dậy, thấy Long thần nằm dưới đất mà trên bàn thờ có vết tích người nằm chưa dọn thì lấy làm lạ, vội trải chiếu và đưa tượng lên. Nhưng khi họ mó tay vào tượng Long thần thì lạ thay, cả bao nhiêu người xúm lại cũng không cất nổi. Đang khi ngơ ngác nhìn nhau thì bỗng có một người thượng đồng lên, thay lời Long thần bảo mọi người rằng:

- Ta vốn ở đất của nhà vua, vua đặt ta ở chỗ nào thì ta ở yên chỗ đó.

Thấy thế mọi người tin là thiên tử đã đến nhà mình tối hôm qua. Tin ấy truyền ra ngày một rộng, giữa khi dân chúng đang ngong ngóng đón chờ một vị minh chúa ra đời, cứu vớt thiên hạ khỏi cảnh lầm than điêu đứng. Hôm ấy, Heo chạy lên núi gia nhập vào một đám giặc. Chàng theo họ đi đánh, dần dần lập được nhiều công trạng. Thế rồi, nhờ sức khỏe và mưu cơ, cuối cùng chàng được cả sơn trại bầu làm trại chủ. Từ đó người ta theo về mỗi ngày một nhiều, nhất là lúc họ biết Heo là người sai khiến được Thần, Phật. Heo cầm quân chống với quân triều, đánh cho chúng nhiều trận thất điên bát đảo. Đất của Heo mở rộng ra mãi. Chàng tự xưng vua, đặt triều đình và quan chức. Kẻ thù của chàng thường gọi chàng là vua Heo.

Cho đến khi xa giá vua Heo có dịp đi qua tỉnh cũ của mình ngày trước, thì bỗng có mấy người trong đội tiền vệ dẫn một cô gái tóc xõa ngang vai đến trước ngự doanh. Thoạt đầu, chàng không nhớ ra là người nào cả. Nhưng khi nhìn đến mớ tóc, chàng nhận ra ngay người hầu gái, bạn chàng và ân nhân của chàng ngày trước. Lập tức, chàng đưa nàng về kinh, lập làm hoàng hậu.

HÀ DIỆP st.

CHO VÀ NHẬN

Một hôm, một sinh viên trẻ có dịp dạo chơi cùng giáo sư của mình. Vị giáo sư này vẫn thường được các sinh viên gọi thân mật là “người bạn của sinh viên” vì sự thân thiện và tốt bụng của ông đối với họ. Trên đường đi, hai người chợt thấy một đôi giày cũ nằm ở giữa đường. Họ cho rằng đó là đôi giày của một nông dân nghèo làm việc ở cánh đồng gần bên, và người ấy đang chuẩn bị kết thúc ngày làm việc của mình.

Anh sinh viên quay sang nói với vị giáo sư:

- Chúng ta hãy thử trêu chọc người nông dân xem sao. Em sẽ giấu đôi giày của ông ta rồi thầy và em cùng trốn vào sau những bụi cây kia để xem thái độ ông ta ra sao khi thấy bị mất giày.

Vị giáo sư ngăn lại:

- Này, anh bạn trẻ, chúng ta đừng bao giờ đem những người nghèo ra mà trêu chọc để mua vui cho bản thân. Nhưng em là một sinh viên khá giả, em có thể tìm cho mình một niềm vui lớn hơn nhiều nhờ vào người nông dân này đấy. Em hãy đặt một đồng tiền vào trong mỗi chiếc giày và chờ xem phản ứng ông ta ra sao.

Người sinh viên làm như lời vị giáo sư chỉ dẫn, sau đó cả hai cùng trốn vào sau bụi cây gần đó. Chẳng mấy chốc người nông dân đã xong việc và băng qua cánh đồng đến nơi đặt giày và áo khoác của mình. Vừa mặc áo khoác vừa xỏ chân vào một chiếc giày, bác nông dân bỗng cảm thấy có vật gì cứng cứng bên trong. Ông ta rút chân ra, cầm giầy lên xem thì đó là một đồng tiền.

Sự kinh ngạc bàng hoàng hiện rõ trên gương mặt ông. Ông ta chăm chú nhìn đồng tiền, lật hai mặt đồng tiền qua lại và ngắm nhìn thật kỹ. Rồi ông nhìn khắp xung quanh nhưng chẳng thấy ai. Lúc bấy giờ ông bỏ đồng tiền vào túi, và tiếp tục xỏ chân vào chiếc giày kia. Sự ngạc nhiên của ông dường như được nhân lên gấp bội, khi ông tìm thấy đồng tiền thứ hai bên trong chiếc giày.

Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, người nông dân quỳ xuống, ngước mặt lên trời và đọc to lời cảm tạ chân thành của mình. Ông bày tỏ sự cảm tạ đối với bàn tay vô hình nhưng hào phóng đã đem lại một món quà đúng lúc, cứu giúp gia đình ông khỏi cảnh túng quẫn người vợ bệnh tật không ai chăm sóc và đàn con đang thiếu ăn.

Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động, nước mắt giàn giụa. Vị giáo sư lên tiếng:

- Bây giờ em có cảm thấy vui hơn lúc trước nếu như em đem ông ta ra làm trò đùa không?

Người thanh niên trả lời:

- Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà em sẽ không bao giờ quên. Đến bây giờ em mới hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói mà trước đây em không hiểu:

Cho đi là hạnh phúc hơn nhận về.

LỆ NGỌC st.


Phụ Bản IV

20 ĐIỀU BẠN CẦN GHI NHỚ

ĐỂ CÓ MỘT CUỘC SỐNG

TỐT ĐẸP HƠN

Ai trong chúng ta cũng mong muốn sống một cuộc đời thành công và hạnh phúc, nhưng điều đó không phải tự nhiên mà có được. Nếu bạn muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, hãy ghi nhớ 20 điều dưới đây:

1. Bạn sinh ra không phải để làm hài lòng tất cả mọi người. Vậy nên đừng quá bận tâm tới những gì người khác nói về bạn, hãy cứ là chính mình.

2. Nếu bạn muốn đạt được những thứ bạn chưa từng có, bạn phải làm những điều bạn chưa từng làm.

3. Nếu bạn tin rằng những đường chỉ tay nói lên số phận của bạn thì bạn cũng đừng quên rằng, chúng cũng chỉ nằm trong lòng bàn tay bạn mà thôi.

4. Cuộc sống luôn cho bạn cơ hội thứ hai. Nó được gọi là ngày mai.

5. Toàn bộ đại dương cũng không thể làm đắm được một con tàu trừ khi nước ngập vào trong. Tương tự, toàn bộ những gì tiêu cực trên đời cũng không thể nào hạ gục được bạn trừ khi bạn cho phép nó thấm vào người mình.

6. Hãy học cách trân trọng những gì bạn đang có trước khi thời gian dạy cho bạn biết trân trọng những gì bạn đã từng có.

7. Chính trải nghiệm chứ không phải thứ gì khác, là thứ làm nên con người bạn.

8. Hãy ở bên người làm cho bạn cười, ngay cả khi bạn mệt mỏi, không vui.

9. Đừng vội vàng từ bỏ người mà bạn yêu thương, bởi tình yêu đâu phải ai cũng may mắn tìm được nhau.

10. Hãy đếm số tuổi của bạn bằng số bạn bè, chứ không phải số năm. Hãy đếm cuộc đời của bạn bằng nụ cười chứ không phải những giọt nước mắt - John Lennon.

11. Không có ai hoàn hảo cả. Đó là lý do tại sao bút chì có cục gôm.

12. Thứ đắt giá nhất trên đời này là lòng tin. Để có được có khi cần rất nhiều thời gian, nhưng để đánh mất thì chỉ cần vài giây ngắn ngủi.

13. Một cái đầu đầy nỗi sợ hãi sẽ không còn chỗ trống cho những ước mơ.

14. Tiền xu luôn gây ra tiếng động, nhưng tiền giấy lại luôn im lặng. Bởi vậy, khi giá trị của bạn tăng lên, hãy giữ cho mình khiêm tốn và ít nói đi.

15. Đôi khi bạn phải tự mình đứng dậy và bước tiếp, bởi không ai làm điều đó thay bạn đâu.

16. Tôi không biết chìa khóa của thành công là gì, nhưng tôi biết chìa khóa của thất bại là cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi người - Bill Cosby.

17. Sống trong đời sống cần có một tấm lòng - Trịnh Công Sơn (Để gió cuốn đi).

18. Mỗi ngày hãy sống như thể đó là ngày cuối cùng của bạn.

19. Khóc cũng sống, cười cũng sống. Tại sao ta không chọn nụ cười để sống.

20. Thứ quý giá nhất đối với mỗi người không phải là tiền bạc hay địa vị… mà chính là sức khỏe. Bởi vậy, hãy quan tâm tới sức khỏe trước khi quá muộn bạn nhé!

HOÀNG KIM THƯ st.

Tản mạn Xuân cho người

Tặng một người

Một mùa Xuân nữa lại về, Tuấn Khanh. Vậy là anh đã xa đất nước hơn bốn mươi năm rồi phải không?

Những cánh hoa mai vàng đã nở lác đác trên cây ở sân nhà gợi nhớ trong tôi rất nhiều kỷ niệm. Những mùa xuân cũ có anh, Tuấn Khôi, Lan Hạ, Thương Tuyết. Nhớ năm nào chúng ta rủ nhau đi chợ Tết Nguyễn Huệ để ngắm vạn sắc hoa Xuân nở rộ được bày bán cho mọi người mua chưng Tết. Hết dạo quanh chợ Hoa, rồi lại cùng nhau chụp ảnh, anh nhớ không? Anh hay anh Tuấn Khôi đã chụp cho tôi bức ảnh bên tượng Thiếu Nữ của Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thư trưng bày ở vườn hoa trước Tòa Đô Chính cũ, rất đẹp và đầy mơ mộng (đối với tôi). Đi loanh quanh trên đường phố Sài Gòn và nghỉ chân ở Bến Bạch Đằng đến khi chiều xuống, nắng tắt mới chia tay ra về.

Ngày ấy sao mà vui quá anh nhỉ? Tuy con đường bày bán những bông hoa Tết không hoành tráng, đầy màu sắc tươi tắn, có hình ảnh sinh động như hiện nay, nhưng thời ấy của chúng ta thật là vui phải không anh? Nơi nào của Sài Gòn cũng náo nhiệt, vui tươi vì chúng ta đã trải qua tuổi thanh xuân đẹp đẽ ở đây. Và Lan Hạ, Thương Tuyết và tôi như những cánh chim sẻ nhỏ luôn hót ríu rít, bay lượn giữa trời sắp sang Xuân.

Lúc ấy, bất cứ điều gì cũng làm tâm hồn thiếu nữ đôi mươi rộn ràng, bay bổng trong không gian đất trời vào Xuân. Tôi ước gì mình được đi mãi để ngắm cỏ cây hoa lá, người người rộn rịp mua sắm đi lại đón Xuân về.

Rồi một ngày, anh tạm xa chúng tôi rời Sài Gòn lên đường tập huấn lái phi cơ C.123 (hình như thế), tôi lại theo Thương Tuyết, Lan Hạ ra phi trường tiễn anh sang một đất nước xa xôi.

Anh biết không, Tuấn Khanh, tôi tiễn anh với một tâm trạng kỳ lạ vì bỗng dưng tôi lại nhớ đến quyển “Đời phi công” của nhà văn Toàn Phong có đoạn viết mấy vần thơ “Chinh Phụ Ngâm”:

“Chàng từ đi vào nơi gió cát

Đêm trăng nầy nghỉ mát nơi nao”

Và “chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt” đã viết tiếp:

“Xưa nay chiến địa nhường bao

Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu”

Anh đã lên đường và tôi trở về với nỗi niềm bâng khuâng vô cớ. Thì thôi, là người trai của “thời chinh chiến ấy” mà phải không anh?

Ngày đó, tôi vẫn nghĩ là anh và Thương Tuyết sẽ thành đôi. Vì Lan Hạ lúc nào cũng kéo Thương Tuyết đi cùng trong các lần gặp gỡ thân tình, còn tôi chỉ tháp tùng vậy thôi.

Nhưng rồi anh lại nên duyên với chị Phương Minh trái với suy đoán của tôi, và đường đời đã rẽ lối, đưa chúng ta đi về vạn nẻo.

Những mùa Xuân sau đến và đi qua không còn vui nữa. Rồi biến chuyển thời cuộc càng đẩy chúng ta ra xa nhau hơn. Lan Hạ và Tuấn Khôi, Anh và Phương Minh, Thương Tuyết cùng người yêu của em ấy như những chiếc lá trôi theo dòng đời đưa đẩy. Ai cũng có một đời riêng.

Và tôi cũng thế, một đời một mình lênh đênh bươn chải cho qua hết một đoạn đường gian khổ.

Cám ơn Trời Đất đã cho chúng ta gặp lại nhau. Đã qua hết những mùa Xuân buồn bã vì vắng tình thân. Tôi lại được sum họp bạn bè ai cũng có gia đình đầm ấm, hạnh phúc; con cái thành đạt. Chỉ Thương Tuyết sống đơn thân, nhưng bù lại em ấy có cậu con trai hiếu thảo với mẹ vô cùng.

Riêng tôi bằng lòng với cuộc sống mình đã chọn, vẫn vui khỏe yêu đời.

Nhưng sao đêm đêm vẫn nhớ về những hình ảnh xa xưa, có phải tôi là người “đuổi theo bóng tình yêu” phải không Tuấn Khanh?

Thân mến thăm Anh và gia đình trong mùa Xuân mới nầy.

HOÀI LY

CÁCH GIẢI ĐỘC GAN

CỰC KỲ HIỆU NGHIỆM

Y học cổ truyền thế giới còn nhấn mạnh cách giải độc gan bằng phương pháp bấm huyệt.

1. Tại sao phải giải độc gan?

Gan là cơ quan nội tạng quan trọng nhất của cơ thể bởi nó tham gia vào hầu hết các quá trình sinh học diễn ra trong cơ thể. Những hoạt động giúp duy trì sự sinh tồn của cơ thể mà gan có tham gia vào gồm có:

- Tạo ra mật giúp tiêu hóa thức ăn, chuyển hóa chất dinh dưỡng từ thức ăn thành năng lượng cung cấp cho cơ thể, điều chỉnh lượng chất béo, vitamin, khoáng chất vi lượng và chất đường mà cơ thể cần.

- Sản xuất các chất cần cho hoạt động của não, tủy sống, sản xuất và bài tiết cholesterol, kiểm soát sự đông máu.

- Sản xuất ra các yếu tố miễn dịch và loại bỏ vi khuẩn, giúp cơ thể tạo ra sức đề kháng chống lại nhiễm trùng.

- Lưu trữ các chất quan trọng có thể nuôi sống cơ thể để cung cấp lại cho cơ thể vào những thời điểm cần thiết.

- Giải độc cơ thể bằng cách bài tiết các chất độc hại ra khỏi cơ thể.

Chính vì những vai trò quan trọng này, gan phải luôn đạt được sự khỏe mạnh để đảm bảo làm tốt các chức năng của mình.

Gan hoạt động tốt, cơ thể sẽ khỏe mạnh, chức năng lọc máu sẽ hoạt động tốt hơn. Điều này sẽ đem lại lợi ích cho các bộ phận khác của cơ thể. Ngược lại, nếu gan bị nhiễm độc, khả năng lọc bị hạn chế hoặc không có khả năng lọc các chất độc đi qua nó thì chất độc đó sẽ đi vào cơ thể, phát tán vào trong máu. Sự xâm nhập của các chất độc hại có thể dẫn đến bệnh ung thư gan và nhiều bệnh khác.

Giải độc gan là tiến hành những biện pháp làm sạch gan, đào thải độc tố ra khỏi gan, giúp gan thực hiện tốt chức năng của mình.

2. Những cách giải độc gan đơn giản

Thực ra, giải độc gan không hề khó. Có một cách đơn giản nhất là bạn nên thường xuyên ăn những loại thực phẩm tốt cho gan.

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, có một danh sách dài các loại thực phẩm có lợi cho gan như hành, tỏi, nghệ, súp lơ, atiso, bồ công anh, giảo cổ lam...

Mỗi ngày uống 1 cốc nước chanh vào buổi sáng cũng là cách giải trừ chất độc tích tụ qua đêm ở mật, kích thích bàng quang co bóp, giúp mật chảy vào ruột con, nhờ đó, các chất độc hại được loại bỏ nhanh hơn ra khỏi cơ thể.

* Huyệt thái xung

Y học cổ truyền thế giới còn nhấn mạnh cách giải độc gan bằng phương pháp bấm huyệt.

Bác sĩ Nogier trong cuốn “Acupuncture by Acupressure” xuất bản tại New York, Mỹ năm 1978 hướng dẫn một cách rất đơn giản để kiểm tra gan của bạn có bị nhiễm độc không và cách giải trừ chất độc ra khỏi gan như sau:

- Tìm huyệt thái xung: Huyệt thái xung là khe nằm giữa ngón chân cái và ngón số 2 bên cạnh nó.

- Dùng ngón tay cái ấn vào huyệt thái xung nếu thấy đau là tình trạng chức năng gan của bạn không được tốt, càng đau nhiều thì chức năng giải độc gan càng kém.

- Giúp gan giải độc bằng cách dùng ngón tay day trên chỗ đau khoảng 1 phút, ngày làm 2 lần vào buổi sáng thức dậy và buổi tối trước khi đi ngủ.

Duy trì cách thức này trong thời gian dài, cảm giác đau dần dần sẽ mất đi, kèm theo đó là cảm giác ăn uống ngon miệng, ngủ tốt hơn, tinh thần không bị căng thẳng. Điều ấy có nghĩa là chức năng gan của bạn đã hoạt động tốt hơn.

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.


BÍ QUYẾT CHỌN VỢ

Nói có sách, mách có chứng. Các bạn trai nào đang còn “đơn thương độc mã”, hoặc là “lắm mối, tối nằm chèo queo”, thì hãy mở sách Thánh Kinh ra, và cùng nhau xem 15 cách để lấy được vợ là những cách nào nha!

CÁCH 1

Sách Đệ Nhị Luật (21:11-13) - “Ngươi hãy đi tìm một nữ tù nhân chiến tranh, đem nàng về nhà, cạo trọc đầu, cắt tỉa móng tay móng chân cho gọn gàng tươm tất, và cho nàng mặc quần áo mới vào. Thế là nàng sẽ thuộc về ngươi”.

* Cách này hơi tốn công, mà cũng khá tốn kém, xét cho cùng thì chỉ có lợi cho thẩm mỹ viện và mấy cái tiệm làm “neo” thôi!

CÁCH 2

Sách Xuất Hành (2:16-21) - “Hãy đi tìm một người đàn ông có 7 đứa con gái, và hãy chinh phục lấy lòng ông ta bằng cách xách nước về cho súc vật của ông ấy uống. Ngươi (Môsê) sẽ lấy được một trong những người con gái của ông ấy làm vợ”.

* Cách này hơi “gay” đấy!

CÁCH 3

Sách bà Rút (4:5-10) - (Boaz) “Hãy đi mua một mảnh đất địa ốc, và trong phần giao kèo, đừng quên là phải có một người đàn bà được bao gồm trong đó”.

* Cách này thực tế quá, đúng là có tiền mua tiên cũng được! Nghe có vẻ thuận lợi cho những ai hành nghề địa ốc.

CÁCH 4

Sách tiên tri Hô-sê (1:1-3) - “Ngươi (Hôsê) hãy đi tìm một kỹ nữ mà lấy làm vợ”.

* Cách này hơi khó xài???

CÁCH 5

Sách Thủ Lãnh (21:19-25) - “Ngươi (Bengiamin) hãy đi dự tiệc và hãy ẩn mình, chờ cho tới khi các cô gái ra khiêu vũ thì hãy nhanh tay túm lấy một cô, rồi mang về làm vợ”.

* Cách này táo bạo và liều mạng quá. Coi chừng vô nhà đá ngồi xé lịch mệt nghỉ đấy!

CÁCH 6

Sách Sáng thế (2:19-24) - “Hãy để cho Chúa tạo nên một người vợ cho bạn (ông Adam) trong lúc bạn đang say giấc điệp”.

* Cách này sẽ làm cho bạn mất hết một cái xương sườn.

CÁCH 7

Sách Samuel (1Sm 18:27) - “(Đavít) đem 200 bao quy đầu kẻ thù của cha vợ tương lai để làm quà cưới”.

* Cách này đúng là cách của “dân anh chị” trong chốn giang hồ.

CÁCH 8

Sách Sáng thế Ký (29:15-30) - “Giacóp đồng ý đi cày ở rể suốt 7 năm để được nắm lấy tay người đẹp, nhưng rồi bị đánh lừa, cưới phải một người đàn bà khác. Sau đó đành phải ở rể thêm 7 năm nữa để cuối cùng mới có thể lấy được đúng người đàn bà trong mộng mà mình muốn lấy làm vợ ngay từ thuở ban đầu”.

* Rõ là toi công suốt 14 năm mới lấy được vợ!

CÁCH 9

Sách Sáng Thế Ký (4:16-17) - “Cho dù không có ai ở chung quanh ngươi (Cain), nhưng ngươi cứ chịu khó rảo quanh, đi tới đi lui. Đừng lo! Thế nào thì cuối cùng rồi ngươi cũng sẽ tìm được một người nào đó thôi mà!”

* Ôi thôi, cách này lắm kẻ ở Âu Mỹ cũng đang theo đuổi, chịu khó mà phơi dài dài…

CÁCH 10

Sách Étte (2:3-4) - (Xerxes, Ahasuerus) “Tìm cách trở thành một hoàng đế, rồi tổ chức cuộc tuyển lựa người đẹp”.

* Cách này rất có lợi cho mấy cô thường hay ghi tên thi hoa hậu.

CÁCH 11

Sách Thủ Lãnh (14:1-3) - “Khi bạn (Samson) gặp được người đúng ý thì hãy về nhà thưa với bố mẹ bạn: Bố mẹ ơi, con đã nhìn thấy cô đó đó; bố mẹ xin cưới cô ấy giùm con đi. Nếu bố mẹ từ chối hoặc hỏi lý do thì bạn cứ việc nhõng nhẽo trả lời: Con nhất quyết chỉ cưới cổ làm vợ thôi! Hổng thèm ai khác hết!”

* Trường hợp này chỉ có thể áp dụng cho quý bạn nào là con trai độc tôn duy nhất trong nhà thôi!

CÁCH 12

Sách Samuen (2 Sm 11) - (Đavít) “Âm mưu giết chết chồng của người đàn bà mà mình ham muốn”.

* Xin chớ manh động! Cách này chỉ có thấy ở đám dân mọi rợ trong rừng, hoặc sống theo “luật rừng” mà thôi!

CÁCH 13

Sách Các Vua (11:1-3) - “Đừng có kén quá (Salomon) kẻo ế vợ. Hãy biết dung hòa giữa chất lượng và phẩm luợng”.

* Cách này tốt đấy các bạn ơi. Vả lại, tắt đèn, nhà ngói cũng như nhà tranh thôi!

CÁCH 14

Sách Đệ Nhị Luật và sách Lê-vi - “Hãy chờ cho ông anh của ngươi chết đi, rồi ngươi hãy lấy người đàn bà góa đó, tức là chị dâu của ngươi, làm vợ”.

* Đây không những chỉ là ý kiến hay mà thôi, mà còn chính là luật của thời đó đấy, các bạn ạ!

CÁCH 15

Thư Thánh Phaolô (1 Cr 7:32-35) - “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co”.

* Nói chung, các nhân vật trong trường hợp cuối cùng này là các “đấng” cùng các “bậc” ở một mình, hoặc là ở vậy từ 2000 năm trước cho đến nay.

LÝ PHU THÊ - MĐ st.

Lời nói thật của một bác sĩ

Các Bác sĩ,

Khi vào nghề Y đến nay đã hơn 30 năm, hễ cứ đến ngày Thầy Thuốc là nhận của nhau những lời chúc tụng. Tôi không biết là mình có nên chúc tụng đồng nghiệp và nhận lời chúc tụng của người khác không, khi mà, ngành Y bây giờ không làm tròn trách nhiệm với người bệnh, thì cũng vài dòng cảm ơn những gì các bạn đã chúc nhau, và xin đưa ra những nguyên tắc chung để bà con cẩn thận với sức khỏe của chính mình.

Nguyên tắc thứ nhất:

Đừng tin những gì quảng cáo trên báo đài, truyền thông và thế giới mạng về thuốc. Vì không độc thì không gọi là thuốc, người ta chỉ uống thuốc để tự tử, chứ không ai uống nước để tự tử bao giờ. Chính vì thế, mà ở các quốc gia tiên tiến, cấm quảng cáo thuốc trên phương tiện truyền thông dân dụng, chỉ được quảng cáo thuốc ở tạp chí và hội thảo chuyên ngành Y.

Nguyên tắc thứ hai:

Khi đi khám bệnh bất kỳ ở đâu, người bệnh cần có 1 câu hỏi phải hỏi: “Bệnh của tôi do nguyên nhân gì?” Vì chỉ có thầy thuốc giỏi mới điều trị nguyên nhân bệnh, còn lại những thầy thuốc kém hiểu biết chỉ biết điều trị hậu quả - hay còn gọi là chữa triệu chứng - của bệnh.

Nguyên tắc thứ ba:

Đừng bao giờ tin những gì mình tìm kiếm trên mạng internet rồi tự suy diễn, tự làm bác sĩ cho mình và gia đình mình. Vì như thế chỉ làm hại chính mình và gia đình mình. Hãy cứ nghĩ, nếu bản thân bạn đủ khả năng được các trường Y nhận vào học thì các bạn đã trở thành bác sĩ, chưa kể các bác sĩ đã được đào tạo chính quy một thời gian dài về bộ máy tinh vi nhất của quả đất - con người - bình thường và bất thường từ tế bào đến bao nhiêu rối loạn khác về cả thể chất lẫn tinh thần, nhưng chưa chắc họ đã giỏi, thì các bạn chỉ vài cú enter với google, không có kiến thức căn bản về y khoa, thì các bạn như người điếc không sợ súng và tự hại mình thôi.

Nguyên tắc thứ tư:

Đừng bao giờ tin những quảng cáo về các loại thức ăn, thức uống bổ, giúp chữa bệnh này hay bệnh khác.

Ví dụ: sữa chống loãng xương, thực phẩm chức năng, thức uống collagen v.v... chỉ là những trò kinh doanh để kiếm lãi. Loãng xương là một trong những tiến trình của một quá trình lão hóa của bất kỳ động vật nào được diễn ra ở mức độ phân tử sinh học, tiến trình này cho tới nay, y học vẫn còn mò mẫm và bất lực.

Nguyên tắc thứ năm:

Ăn uống và làm việc là thuốc. Ăn uống và làm việc đúng thì không hoặc ít bệnh tật. Ăn uống và làm việc sai là tự đưa mình vào nơi khổ đau của bệnh tật, vì sức khỏe quý hơn vàng.

Chúc cộng đồng sức khỏe dồi dào, khỏe mạnh, hạnh phúc và phồn vinh!

Dr. Hồ Hải - Kim Sơn st.

25 năm qua phụ nữ Nhật Bản

giữ kỷ lục thế giới là sống lâu nhất

với tuổi thọ trung bình 84

và không bao giờ béo phì, theo Fitbodycenter

Vậy, bí mật của phụ nữ Nhật Bản là gì? Giải thích cho điều này, Naomi Moriyama, tác giả cuốn “Japanese Women Don’t Get Old or Fat” (Phụ nữ Nhật Bản lâu già và không béo), đưa người đọc vào căn bếp của mẹ cô tại Nhật Bản. Người phụ nữ tiết lộ những bí mật để sống lâu dài và khỏe mạnh.

Moriyama nói rằng, thực phẩm giúp khỏe mạnh và giảm cân chính là một phần của các món ăn hàng ngày ở Nhật Bản. Thực phẩm hàng đầu giúp cho cuộc sống khỏe mạnh, tuổi thọ cao và giữ dáng người thanh mảnh là 7 món lành mạnh bao gồm: Cá, rong biển, trái cây, đậu nành, gạo, rau và trà xanh. Tất cả món này đều có đặc tính chống lão hóa và đóng góp rất nhiều cho việc giảm cân theo cách khỏe mạnh và kiểm soát trọng lượng tốt.

Người Nhật thưởng thức bữa ăn nấu tại nhà mỗi ngày. Bữa ăn truyền thống bao gồm cá nướng, cơm, rau nấu chín, súp, trà xanh và hoa quả. Đặc biệt người Nhật tiêu thụ khoảng 10% cá trên thế giới, mặc dù họ chỉ chiếm 2% dân số toàn cầu.

Tại sao phụ nữ Nhật Bản sống lâu và không béo phì Moriyama cũng cho biết, từ thời thơ ấu trẻ con Nhật đã được giáo dục bằng những quy tắc trong ăn uống. Họ ăn từ từ, nhai chậm rãi để thưởng thức độ ngon của món ăn. Quy tắc của người Nhật là không bao giờ để thức ăn đầy bát, đĩa. Mỗi món ăn được để ở một đĩa riêng biệt, không trộn lẫn vào nhau.

Theo Moriyama, món ăn Nhật Bản được chế biến khá dễ dàng, thức ăn thường được nấu chín, hấp chín hoặc nướng ở một thời gian ngắn. Thay vì bánh mì, người Nhật ăn cơm trong mỗi bữa ăn và đó thực sự là một trong những khác biệt chính cho bữa ăn giữa người phương Đông và phương Tây.

Ở Nhật, bữa ăn sáng được coi là bữa ăn quan trọng nhất. Bữa sáng bao gồm một số loại thực phẩm và đồ uống, nhưng chủ yếu là trà xanh, cơm, súp, đậu phụ, tỏi, rong biển, trứng tráng hay cá. Người Nhật hiếm khi dùng món tráng miệng ngọt. Không phải là phụ nữ Nhật không thích chocolate, bánh, kem và bánh ngọt mà đơn giản họ nhận ra những hậu quả tiêu cực và tác dụng phụ của chúng đối với sức khỏe.

Một điều không thể thiếu giúp người Nhật, đặc biệt là phụ nữ trẻ mãi không già, được Moriyama kết luận trong cuốn sách chính là tập thể dục. Cô khẳng định: “Tập thể dục là một phần trong thói quen hàng ngày ở Nhật Bản. Để duy trì một lối sống lành mạnh, họ đã xây dựng cả một nền văn hóa đi xe đạp, đi bộ và đi bộ đường dài”.

Theo Vnexpress.net - Phùng Chí Tâm st.


NGHỊCH CẢNH

N ghịch cảnh là những chuyện tồi tệ mà cho dù không hề muốn người ta vẫn cứ phải đối mặt với nó. Mà những chuyện như thế thì nhiều lắm và luôn xảy đến cho ta bất cứ lúc nào. Ví dụ: ta đang khoẻ mạnh, bỗng gặp một tai nạn giao thông, ta bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến một bộ phận chức năng của cơ thể, ta bỗng nhiên trở thành một người bị khiếm khuyết, cuộc sống ta bỗng nhiên có một sắc màu khác có thể tương phản hoàn toàn với cuộc sống lúc trước, ta mất đi một số bạn bè, một số sinh hoạt yêu thích… hoặc một sự phản bội, lừa đảo từ người yêu, bạn bè, đồng nghiệp, cảm giác hẫng hụt, đau đớn, cay đắng, chua xót… một thứ cảm trạng thật tệ hại, mọi điều trở nên tối tăm, mờ mịt, tinh thần suy sụp, tình cảm đổ vỡ, mất tự tin, mất cả niềm tin… hoặc một sự mất mát do thua lỗ, thiên tai, trộm cắp, hệ trọng hơn là mất người thân, sự hoảng loạn, mất phương hướng, đau thương, tiếc nuối… một tình trạng hết sức căng thẳng trầm trọng, không dễ gì gượng dậy trong một khoảng thời gian ngắn… hoặc những người chung quanh ta như hàng xóm, người thân, cộng sự nhưng là người có lối sống, cách hành xử bất thuận, trái chiều, thậm chí là đối nghịch hoàn toàn, nhưng ta không thể đơn phương xử lý vì sự bất khả kháng từ nhiều góc độ, vì vậy mà luôn có những cảm giác khó chịu, bức xúc, bực bội, dồn nén… hoặc ta đang phải sống trong một hoàn cảnh bất tiện, thiếu thốn tiện nghi, có những chật vật khó khăn mà không dễ gì khắc phục được, tâm trạng tù túng, bức ách, cô thúc trong nhiều hoạt động ước muốn…

Có nghĩa nghịch cảnh luôn hiển hiện trong cuộc sống của chúng ta. Then chốt của vấn đề là ở chỗ ta không có quyền sắp xếp, chọn lựa hay quyết định, ta luôn bị động trong sự bắt buộc phải tiếp nhận, phải đối mặt, phải ứng xử, phải khắc phục. Để giải quyết được cần có những kỹ năng đặc biệt. Đặc biệt là bởi là không thường xuyên được vận dụng trong thường ngày, chính vì vậy mà nó không thuộc thành quán tính, và nó đòi hỏi chúng ta nhiều hơn tâm lực, và cả sự cố gắng trong nhiều mặt. Thông thường, không ai tự đặt mình vào tâm thế của một sự xáo trộn hay biến động. Nên hầu hết không có sự chuẩn bị tâm lý, và khi đột ngột bị rơi vào một cảnh huống bất thuận thì dễ bị sốc, sang chấn, có khi là đột quỵ. Thường ngày ai cũng luôn nghe những chuyện bất trắc xảy ra đây đó, với những quen và không quen. Nghe thì cũng xuýt xoa bàn tán, nhưng rồi do sự bàng quan mà rơi nhanh, chuyện thiên hạ ấy mà, liên quan gì đến mình đâu. Để rồi khi chính bản thân mình gặp phải điều tương tự lại không tận dụng được tính kinh nghiệm.

Nói vậy, nghịch cảnh là sự bất khả kháng, thì thôi còn bàn giải làm cái gì. Cứ việc phó mặc cho cái sự cuốn đi và dồi dập của nó ra sao thì ra thôi. Ồ, xin đừng nói thế. Cho dù nghịch cảnh là điều ta không muốn, nhưng bất kỳ lúc nào ta cũng có khả năng phải đương đầu đối mặt. Vậy, có nên không tự rèn cho mình một tâm thức ứng phó? Sự rèn luyện này không phải chỉ đến lúc có sự diễn biến của thực tế mới có cơ hội cho ta thâm nhập chính khả năng của mình. Mà ta có thể tập sự cho nó bằng những giả thiết cụ thể. Ví dụ: khi nhìn thấy bất kỳ một sự việc bất thuận nào đó xảy đến với bất kỳ một ai đó, dù quen hay lạ, ta hãy thử đặt mình vào vai vị của họ, và thử suy ngẫm xem, mình sẽ ứng phó thế nào với cảnh huống ấy. Những suy ngẫm này, nếu được vận dụng thường xuyên, với độ sâu nhất định, nó sẽ tự lập thành một cơ sở hành vi nền tảng, sẽ trú sâu vào tiềm năng của nội lực, và bất chừng khi cần đến, nó sẽ vụt ẩn hiện trong tâm não, và phần nào đó nó sẽ trợ giúp ta khá đắc lực trong việc ứng phó. Không có sự rèn luyện nào là thừa, và sự rèn luyện này càng không thừa nếu không nói là rất cần thiết.

Còn có một sự rèn luyện nữa. Đó là rèn luyện tâm thế trong hiện tại của nghịch cảnh. Đó là khi ta đã phải tiếp nhận nghịch cảnh trước mắt mà không thể xử giải một cách chóng vánh. Có những nghịch cảnh đột nhiên rơi ập vào mình, ngay lập tức là sự choáng váng, bị động và có khi là bất lực. Nhưng khoảnh khắc đột ngột ấy qua đi, điều ta phải đối mặt sẽ là lâu dài và đòi hỏi rất nhiều công sức. Yếu tố đầu tiên là sự nhận định tình trạng, mức độ của sự thiệt hại và những diến tiến sắp tới. Khi nhận định được tình trạng, ta có thể điều chuyển một tâm thế phù hợp để đi dần qua những chuyện không hay ấy. Và hẳn là không có câu chuyện khúc mắc nào có thể tháo gỡ mà không cần đến những kỹ năng. Và kỹ năng đầu tiên là sự kiên nhẫn và chịu đựng. Nếu không kiên nhẫn và chịu đựng được, thì vấn đề đã không thể giải quyết được một cách hiệu quả mà còn có thể trở nên rối rắm hơn, phức tạp hơn, trầm trọng hơn. Sự kiên nhẫn và chịu đựng này chỉ có thể có được sau một quá trình dài tự dằn nén những cảm xúc bột phát như nóng nảy, bực bội, nổi cáu… Không dễ gì dằn nén được những cảm xúc ấy trong một bối cảnh bức nghiệt trước mắt và vẫn còn đang tiếp diễn. Còn phải tùy vào tâm tính, bản ngã, bản lĩnh, tầm nhìn của mỗi người. Không nên lầm tưởng chịu đựng có nghĩa là bó tay chịu thua, là yểu nhược trước tình thế, mà sức chịu đựng bền bỉ là nền tảng cho một sức bật, khi sức chịu đựng kéo dài với tính kiên nhẫn và đương đầu với thử thách, sẽ bồi đắp cho ta lòng can nghị cùng với những chắt lọc và cả sự giác ngộ về những điều tiềm ẩn trong chính ta và sự kiện. Nhờ thế, những ý tưởng loé lên sẽ như một mũi tên chĩa về phía trước, chỉ cho ta thấy con đường sắp tới sẽ được bước tiếp như thế nào.

Một kỹ năng nữa là tự biết dắt tay mình đi qua bằng những lời hứa thầm. Rằng: hãy cố gắng đi qua ngày hôm nay ta sẽ có một ngày mai khác. Chắc chắn là phải có, bởi không có gì là sự đánh đổi vô ích cả. Mọi lao tâm tận lực đều sẽ được đền bù bằng cách này hay cách khác. Có thể nhanh có thể chậm, nhưng một ngày mai đầy hứa hẹn ấy sẽ đến, sẽ phải đến. Nếu ta buông xuôi, ta cho rằng mọi sự đã hết, đã không thể nào khác được, cho dù thực tế cũng đúng là như vậy, thì đúng là hết thật, hết không còn phương cách nào vực lại được. Nhưng bằng vào những cố gắng với tất cả khả năng mình, thì cho dù ta không thể có lại được điều trước đó, thì ít nhất ta cũng đạt được những hiệu quả nho nhỏ từ những tháng ngày ta thử sức mình.

“Cô ấy, cậu ấy thật đáng nể, tôi mà gặp chuyện như vậy chắc chỉ có chết”. Kha khá nhiều câu tương tự khi nhìn thấy người nào đó trỗi lên từ nghịch cảnh. Nhất là những người mà trước khi xảy ra nghịch cảnh họ dường như chẳng biết khổ là gì. Nhưng tiềm năng của con người ta lạ lắm nhé. Có những điều bình thường cứ nghĩ là không thể làm được, nhưng khi cần thiết và cần thiết một cách bức bách, thì tiềm năng, nội lực sẽ phát lộ và được thi triển rất tốt. Nhờ tiềm năng này mà con người ta đi qua được rất nhiều chặng đường dằn xóc, trúc trắc, khổ ải. Để rồi, bất chợt có khi nhìn lại, người ta cũng ngạc nhiên với chính mình, không thể hỉểu được cái gì đã thúc đẩy mình đi qua bước đường ấy. Xin đừng nghĩ chỉ là lý thuyết, thực tế đã minh chứng rất nhiều trường hợp. Vì vậy mà hãy cầm lòng bằng một câu thế này: “Cuộc sống tốt nhất là không gặp nghịch cảnh, nhưng sẽ tốt hơn nếu ta biết cách đi qua nghịch cảnh bằng một tâm thái dễ chịu nhất”.

ĐÀM LAN

BÊN NHÁNH SÔNG CHIỀU

Nắng trốn đi đâu mất, bầu trời giận dỗi tối sầm. Gió vội vàng đong đưa cây quạt. Một luồng không khí mát rượi tràn tới, chạy dài trên hàng dầu ven đường. Cây lá reo vui và những chiếc hoa dầu hân hoan lìa cành, xoay tròn trong gió. Chúng thi nhau múa rồi lăn kềnh lên mặt đất và rơi đầy khoảng sân nhà tôi.

Mưa không đổ, mặt trời ló đầu ra khỏi đám mây đen, tinh nghịch ném những tia nắng chói chang ra xung quanh như ngầm bảo: “Có ta đây! Đừng hòng giở trò mưa ơi!” Chẳng biết mây và mưa có nghe thấy gì không mà trời bỗng trong veo màu mảnh chai biêng biếc. Còn tôi, tôi nghe… bà ra lệnh:

- Nghị! Lấy chổi quét sân đi con!

Úy trời! Quét sân. Chán chết! Bà mua đất làm chi nhiều quá không biết? Cất nhà ba gian hai chái hẳn hoi thế mà vẫn còn thừa ra khoảng sân rộng ơi là rộng! Một mình bà sống thui thủi ở đây. Chỉ khi phượng nở đỏ rực, ve sầu rền vang trên nhánh lá thì tôi mới xin ba mẹ về đây nghỉ hè. Tưởng là sung sướng, nào ngờ! Bà bắt tôi chọn lựa: Một là nấu nướng, hai là quét sân. Tất nhiên tôi chọn công việc thứ nhì nhưng thông thường tôi giả bộ quên. Chẳng biết bà có khám phá ra ý đồ của tôi không mà thỉnh thoảng bà lấy chổi ra sân quét.

Hôm nay, có bà ở nhà. Hết đường lánh nặng tìm nhẹ, tôi xách cây chổi ra sân. Đứng nhìn khoảng đất rộng rãi nầy đã thấy mỏi lưng. Tôi bực bội dứ dứ cán chổi về phía hàng dầu ngoài kia:

- Đồ quỉ! Hoa lá có rụng thì phải về cội chứ! Sao bay lung tung vào đây cho khổ người ta vậy hả?

- Mầy làm gì vậy Nghị?

Tôi giật nẩy mình, quay lại. Văn đang toét miệng cười với tôi:

- Mầy làm gì mà xỉa xói cây dầu vậy hả?

Một tia sáng bỗng lóe lên trong cái đầu u tối của tôi:

- Tao ra lệnh cho mấy cái hoa dầu kia rụng ngay tức khắc.

- Chi vậy?

- Đặng tao hốt đem bán.

- Ai mua mà bán?

- Bà Ba xóm mình chớ ai. Mua xuất khẩu lời lắm, làm giàu nhấp nháy, mầy ơi.

Văn quýnh lên:

- Chúa ơi! Vậy sao, cho tao quét với nghen!

Tôi làm bộ khó nghĩ, đưa tay bóp trán, gật gù:

- Thôi được, chỗ bạn bè. Nhưng với một điều kiện. Mầy quét, tao hốt, tiền bán chia đôi.

Văn mừng rỡ, đồng ý liền. Trong lúc nó khom lưng quét lia quét lịa thì tôi chạy vô nhà lấy ky. Trở ra, hai phần ba khoảng sân đã sạch bong. Hoa dầu bị gom thành một đống như ngọn đồi thu nhỏ có trăm nghìn cánh. Thấy mồ hôi mẹ, mồ hôi con đầm đìa trên trán Văn. Tôi ân hận bảo:

- Để tao quét cho. Vào nhà uống nước đi!

Sợ tôi nói ngược, Văn dặn dò:

- Nhưng mầy phải giữ lời hứa là chia đôi tiền nha!

Tôi bật cười, gật đầu:

- Ừ mà, rõ khổ!

Văn chạy vào nhà, tôi chưa kịp quét thì tụi thằng Đực, Tú, Tuấn kéo tới. Chúng đứng dạng chân, hai tay chống hông nhìn cứ như dân anh chị ở vườn. Tuấn hất hàm:

- Giỏi quá ta! Bữa nay, mầy quét sân chắc trời mưa to.

Đực góp lời:

- Trời sắp có bão rồi.

Tôi thản nhiên tán:

- Cười người hôm trước, hôm sau người cười, các bạn ạ!

Văn đã trở ra, nó liền khoe:

- Tụi tao sắp giàu rồi.

Đực nghinh mặt:

- Ăn cắp, ăn trộm đồ của ai mà giàu mau quá vậy?

- Ê, đừng hỗn nghe bạn! Hai ông sẽ bán hàng xuất khẩu, hì hì…

Cả ba thằng trợn mắt, kêu lên một lượt:

- Bán gì?

- Hoa dầu! Văn chỉ đống hoa dầu trên mặt đất.

- Trời! Ai mua thứ nầy, khùng vừa thôi hai cha.

- Bà Ba mua cho hai cha chứ ai. Mặt hàng mới, chưa ai biết đâu. Bà Ba bả giàu dữ lắm. Tôi tán thêm vào.

Cả ba thằng nhao nhao:

- Cho tụi tao bán với!

Tôi ra vẻ hào hiệp:

- Cứ tự nhiên, các bạn.

- Bây giờ làm sao?

Tôi mắng mỏ:

- Ngu như tụi mầy thì nghèo chết. Chỉ có vậy mà không biết, để tao chỉ cho. Về nhà lấy chổi quét sân, nếu siêng thì quét cả đường làng. Bao nhiêu bông dầu hốt hết cho vào bao rồi đem tới nhà bà Ba

- Mầy chờ tụi tao làm rồi đem bán một lượt nghen!

- Ừ!

Ba đứa phóng nhanh ra cổng. Văn giành quét tiếp phần còn lại. Nó cho phép tôi ngồi tựa gốc bưởi… canh chừng hoa dầu. Tội nghiệp cái thằng cẩn thận, biết bảo quản “hàng xuất khẩu”. Gió hiu hiu, có lẫn mùi thơm của hoa bưởi ru tôi vào giấc ngủ. Tôi thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi thằng Văn lấy chổi chọt vào hông, tôi mới choàng tỉnh.

- Dậy đi ông. Tao mệt muốn chết mà mầy ngủ tỉnh bơ hà! Tụi thằng Đực trở lại rồi kìa.

Tuấn, Tú, Đực đang khệ nệ khiêng cái bao to tổ bố vào cổng. Chúng ném cái bao cạnh đống hoa dầu của tôi rồi bảo:

- Nè, còn nhóc luôn, hốt không kịp.

Đực đưa một ngón tay lên môi, thì thầm:

- Tụi mầy đừng nói cho ai biết nghe, mất giá à! Để tao kiếm tiền mua một trái banh da đá chơi.

Tôi gật đầu tán thành nhưng trong bụng cũng hơi ớn. Tưởng nói chơi, ai dè tụi nó tin thiệt. Tôi tìm cách thoát thân:

- Tụi bây đi hỏi giá đi! Để tao canh chừng cho.

Bốn thằng bạn của tôi chạy ra đầu xóm tìm bà Ba. Còn tôi, tôi cũng chạy ra ngõ sau rồi lủi vô ruộng, băng qua đường. Đến bụi trâm bầu cạnh nhánh sông nhỏ, tôi mới dừng lại rồi chui vào đó.

Vậy là thoát. Bây giờ, chỉ còn chờ mặt trời chếch bóng, khói thổi cơm chiều từ những mái lá kia bay lên nhuộm xám không gian. Lũ bạn tôi cũng như chim bay về tổ, chúng trở lại nhà để ăn cơm. Tôi chỉ chờ có thế.

Tiếng cười trong trẻo bất ngờ vang lên làm tôi hoảng hồn. Ba bốn đứa con gái đang đứng bên bờ sông chuyện trò vui vẻ. Bỗng một đứa trong nhóm bảo:

- Ê, tắm không tụi bây?

Cả nhóm nói như reo:

- Tắm!

Như có ai đánh trống trong ngực tôi. Nhịp tim tự nhiên tăng tốc, nhảy loạn xà ngầu. Nó kêu thình thịch, thình thịch nghe phát sợ. Tôi nhắm nghiền đôi mắt. Để chắc ăn, tôi đưa cả hai tay bụm mặt.

Lát sau, mở choàng mắt, tôi càng kinh hãi hơn khi thấy mấy cái áo vắt trên cành cây gần đó. Và dưới sông, mấy đứa con gái đang nhởn nhơ bơi lội, cười đùa ầm ĩ.

Phút chốc, tôi thấy mình biến thành anh thư sinh ngày xưa. Vào một hôm xa lơ xa lắc nào đó đã lạc vào chốn non bồng. Anh bắt gặp mấy tiên nữ đang tắm suối. Anh ta đã đánh cắp một đôi cánh trắng. Tôi thì khác. Tôi chẳng biết làm sao cho thoát khỏi cái bụi trâm bầu quái ác nầy. Nếu đám con gái dưới kia phát hiện có một thằng nhóc đang ngồi đây. Thế nào tụi nó cũng la ầm lên. Và, tôi, một “Nam nhi chi chí” sẽ mang án oan tức khắc. Cả xã sẽ gọi tôi là… thằng ngó con gái tắm sông. Trời! Có mà chết! Nhục ơi là nhục! Cắn đứt ba cái lưỡi, chết ba lần còn nhục. Phải làm sao đây? A! Tôi nghĩ ra một cách tuyệt vời. Tôi cởi áo trùm kín mặt mày, đầu cổ, chỉ chừa một bên mắt để nhắm hướng. Có như vậy, tụi con gái mới không biết thằng nào đang nhìn chúng. Và, một, hai, ba… chạy! Tôi đứng phắt dậy, chạy! Tôi chạy như bị ma đuổi. Chạy bừa lên mạ non, bùn văng tứ tung. Mặc! Cứ chạy. Chân giẫm phải gai mắc cỡ, đau thấu trời. Kệ! Vẫn chạy. Từ cha sanh, mẹ đẻ tới giờ, chưa lần nào tôi chạy nhanh như lần này, bỏ lại sau lưng tiếng thét của mấy đứa con gái vọng lên từ dưới nhánh sông chiều:

- Oái, oái… ma… ma… ma!

Vừa thấy cổng nhà sau, không kịp xô cửa, tôi nhảy đại lên giường, kéo mền trùm kín từ đầu tới chân, và tiếp tục… run.

Nghe rầm ì như sắp sập nhà, bà tôi chạy vội vào buồng. Bà hốt hoảng kêu lên:

- Trời, con… làm sao vậy… Nghị?

Tưởng tôi trúng gió, bà đi kiếm chai đầu. Tội nghiệp! Bà đổ cả chai dầu lên sống lưng tôi. Khi đã tỉnh táo, tôi xếp cái áo lại, giấu tận đáy rương. Và, từ đó, nó được nằm yên, không bao giờ tôi mặc lại cái áo ấy.

Từ ngày về quê, đây là lần đầu tiên tôi ngủ không yên. Cứ giật mình hoài vì những cơn ác mộng. Tôi thấy lũ bạn báo thù và đang tắm sông thì bị… con gái ngó.

NGUYỄN THỊ MÂY

(Trích truyện dài TÍN HIỆU MÙA XUÂN)


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 12.01.2019 ....... Vũ Thư Hữu . 02

Vài dòng về cuốn Gil Blas de Santillane của Le Sage Vũ Anh Tuấn 06

Tất Niên lần thứ 12 của CLB Sách Xưa & Nay ..... Tâm Nguyện . 08

Những suy nghĩ vẩn vơ (tập 1-tt) ... Lm. Giuse Ng.H.Triết . 14

Khi những người chưa hiểu hết Đạo Phật

mà lại đi truyền đạo Tâm Nguyện . 19

Người Nga bắt đầu viết về VN từ bao giờ? ..... Thúy Toàn .. 29

Bài thơ “Cáo Tật Thị Chúng”.......... Phạm Vũ . 36

Tiếng đàn hừng sáng ........... Nguyễn Văn Sâm .. 43

Khoảnh khắc mùa Xuân ...... Nguyễn Thị Mây .. 54

Ô heo ........................ Hà Mạnh Đoàn . 56

Chơi bài chòi ngày xuân ........... Bùi Đẹp st. .. 60

Việt ta chúc (thơ) .................. Đàm Lan . 66

Cúc Mai (thơ) - Tàn phai (thơ) ....... Ngàn Phương .. 67

Gởi nắng (thơ) ........... Phạm Thị Minh-Hưng .. 68

Bài thơ đêm giao thừa (thơ) ..... Huỳnh Thiên Kim Bội .. 69

Hỏi nhỏ nàng Xuân (thơ) ...... Tâm Nguyện . 70

Xuân đại đạo (thơ) ........ Thanh Châu .. 70

Mùa Mai nở (thơ) ................. Thanh Châu .. 71

Xuân… (thơ) ................ Lam Trần .. 72

Mồng Bốn tết: Khô bò (thơ) ........... Lam Trần .. 73

Bò khô (thơ) - Ghiền (thơ) .......... Lam Trần .. 74

Bản tính kỹ lưỡng (thơ) ............. Lang Nguyên .. 75

Chúc Tết Kỷ Hợi 2019 (thơ) ......... Nhựt Thanh .. 76

Đêm Xuân (thơ) ............. Nguyễn Tấn Thái .. 76

Ngày vui (thơ) - Tết Giao thừa (thơ) ...... Quang Bỉnh .. 77

Đôi mắt em (thơ) ............ Dương Tiến Cần . 78

Ông Nội của con (thơ) ....... Lê Minh Chử .. 78

Yêu muộn (thơ) ............. Thanh Phong .. 79

Thăng hoa (thơ) .................... Phùng Chí Tâm .. 80

Bông Sen đầu đông (thơ) .............. Lê Nguyên . 80

Xuân xa quê (thơ) .............. Vũ Thùy Hương . 82

Ước mơ (thơ) ............... Phước Hải .. 83

Nụ và hoa (thơ) ................. Vũ Mão .. 84

Bud and flower (thơ) ....... Vũ Anh Tuấn dịch .. 84

Hà Nội vào xuân (thơ) ......... Vũ Mão .. 85

Hanoi in springtime (thơ) ......... Vũ Anh Tuấn dịch .. 86

Cái thang gẫy ................ Lam Trần .. 88

Trời báo cho vua tướng biết thuộc cấp nòng cốt .............. Phạm Hiếu Nghĩa . 91

Vua heo ................ Hà Diệp st. .. 94

Cho và nhận ................. Lệ Ngọc st. 100

20 điều bạn cần ghi nhớ… .............. Hoàng Kim Thư st. 103

Tản mạn xuân cho người ................. Hoài Ly 105

Cách giải độc gan…. ........ Đào Minh Diệu Xuân st. 107

Bí quyết chọn vợ ............... MĐ. st. 110

Lời nói thật của một bác sỹ .......... Kim Sơn st. 114

25 năm qua phụ nữ Nhật Bản… ...... Phùng Chí Tâm st. 116

Nghịch cảnh ................. Đàm Lan 118

Bên nhánh sông chiều ......... Nguyễn Thị Mây 122


|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
 156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
 161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
 171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
 176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
|  156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
|  161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
|  171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
|  176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
Netadong.com thiết kế