Hiện có 7 người xem / 2348076 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/10/2019

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư. Lần này, cuốn đầu tiên được giới thiệu là một cuốn bằng Pháp văn và là một tập thơ của nhà thơ người Anh nổi tiếng nhất trong triều đại nữ hoàng Victoria của Anh là nhà thơ Alfred Tennyson (1809-1892), đã được một dịch giả Pháp cũng rất nổi tiếng là Léon Morel dịch ra Pháp văn. Cuốn sách này thực ra đã được giới thiệu khá kỹ càng ngay trong số Bản Tin của tháng này, nhưng nó vẫn được dịch giả Vũ Anh Tuấn mang đến cho mọi thành viên xem tận mắt vì nó đã được dịch giả Léon Morel ký tặng một nhân vật cộm cán của người Pháp là Viện sĩ Hàn Lâm Viện Pháp Ernest Lavisse (tên ông này được đặt cho một đại lộ ở quận 12 thành phố Paris). Lời đề tặng được viết vào năm 1899 (vừa đúng 120 năm trước), và nay tình cờ cuốn sách lại lưu lạc vào tủ sách của dịch giả Vũ Anh Tuấn, khiến ông trở thành người chơi chung với ông Lavisse CÙNG MỘT CUỐN SÁCH NHƯNG CÁCH NHAU 120 NĂM. Tuy ông không coi chuyện này quan trọng gì, vì ông Lavisse là ai thì vẫn là chuyện riêng của ông ấy, dịch giả Vũ Anh Tuấn vẫn muốn đem cuốn sách cho mọi người coi tận mắt, vì nó là một chuyện tình cờ vui vui, và đơn giản chỉ có thế thôi! Cuốn thứ nhì là một cuốn bằng tiếng Việt và là một bản dịch truyện Gulliver’s travels, một tác phẩm lừng danh và bất hủ của văn hào Anh Jonathan Swift do dịch giả Hà Mai Anh (người đã dịch cuốn Tâm Hồn Cao Thượng của Edmond de Amicis) dịch, mà tình cờ dịch giả Vũ Anh Tuấn gặp và mua được. Cuốn này hồi năm 1944 (75 năm trước), đã được cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Việt, và dịch giả Vũ Anh Tuấn đã được đọc từ lúc đó, để đến bây giờ lại tình cờ gặp bản dịch này. Cả hai bản dịch đểu rất hay vì cả hai dịch giả đều là những vị có thực học và có lương tâm nghề nghiệp rất cao. Chỉ hơi khác nhau một chút là cụ Vĩnh dịch là QUI LI VE DU KÝ, còn dịch giả Hà Mai Anh dịch là GUI-LI-VE DU-KÝ, và cuốn của cụ Vĩnh có những minh họa cực đẹp của danh họa Mạnh Quỳnh. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã có cái may là có cả hai bản dịch tuyệt tác này. Sau khi được giới thiệu, hai cuốn sách được một số thành viên cầm xem một cách thích thú.

Sau khi dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, anh Phạm Vũ lên nói về nhà văn, họa sĩ Mỹ Stan Lee vừa qua đời ở Nữu Ước. Anh Phạm Vũ nói xong, anh Dương Tiến Cần lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Đừng chờ đợi”. Sau anh Cần, anh Bs. Tiến lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Ký ức về mẹ”. Anh Tiến ngâm xong, đến lượt Thùy Hương lên nói về vấn đề tâm linh và ngâm tặng các thành viên bài thơ mang tính chất tâm linh nhan đề là “Lạ đời”. Sau Thùy Hương, Quan Thúy Mai lên hát tặng các thành viên một ca khúc. Quan Thúy Mai hát xong, anh Nhựt Thanh lên kể về những hồi ức của anh khi mới lên Sài Gòn nhiều chục năm về trước. Tiếp lời anh Nhựt Thanh, anh Phùng Chí Tâm lên nói về ngày 10/10 và hát tặng các thành viên mấy ca khúc thật hay của Nga với giọng ca điêu luyện của anh. Sau anh Phùng Chí Tâm, chị Đinh Thị Diệu lên nói về ngày 1/10 là ngày quốc tế Người Cao Tuổi. Chi Diệu nói xong, anh Thanh Phong lên đọc tặng các thành viên hai mấy bài thơ vui rất dễ thương. Sau anh Thanh Phong, anh Chử Đồng Minh lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ. Anh Minh ngâm thơ xong, Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên một bài ca của cố nhạc sĩ Trần Hoàn. Sau Lệ Ngọc, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc lên hát tặng các thành viên bài “Truyện tình ba mùa mưa”. Anh Thanh Châu hát xong, anh Hùng lên nói và truyền bá một số động tác thở có tác dụng tốt cho mọi người, và cuối cùng chị Hoàng Anh lên có vài lời giới thiệu hai cuốn sách hay, và buổi họp kết thúc trong niềm vui tái ngộ lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ

MỘT QUÝ THƯ THẬT ĐẶC BIỆT

Đây là một cuốn trong tủ sách thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, với khoảng trên 500 cuốn sách đã cùng mình chia sẻ cuộc sống trong gần 40 năm qua. Cuốn này thuộc loại trẻ nhất vì được xuất bản năm 1926 (93 năm trước), còn những cuốn còn lại rất nhiều cuốn đã trên bách tuế, thậm và chí có cuốn đã trên 150 tuổi đời. Cuốn này tuy tuổi chưa cao lắm, nhưng nội dung thì lại thực đặc biệt. và tựa đề của nó là “Những hình vẽ của các văn nhân” (Dessins des littérateurs), và tác giả của nó là Eduard Deverin (1881-1946) một nhà văn kiêm họa sĩ tài tử. Cuốn sách khổ 14x23cm, dày 141 trang, được dành để viết về các hoàn cảnh, các tình huống khác nhau trong đó mấy chục văn nhân từ Euripide (480-406 trước CN) là một kịch tác gia Hy Lạp thời danh của thành Nhã Điển, Dante (1265-1321) nhà thơ người Ý thời Trung Cổ, tác giả Thần Khúc, tới nhà văn Pháp đương đại Jean Cocteau… Sách có tổng cộng 60 tranh vẽ trong đó có 36 phụ bản nguyên trang, và người viết cảm thấy rất thích thú khi thấy trong số các văn nhân được nói tới trong sách mình biết được các nhân vật như Dante, Victor Hugo, Baudelaire, R.Dorgelès. A.Dumas, A.France, Th.Gautier, Goethe, A.T.E.Hoffmann, R.Kipling, P.Loti, P.Mérimée, Montesquiou, Musset, G. de Nerval, Pétrarque, G.Sand, Thackeray, và P.Verlaine… tóm lại biết được tới 19 người, nhưng lại chửa bao giờ biết là họ còn là họa sĩ tài tử, cho mãi tới bây giờ khi hết 20 tuổi lần thứ tư cộng 5… mới biết! Tuy nhiên trong số 19 người mình biết, người viết chỉ thích nhất là Victor Hugo vì khi vừa mới vào đời (77 năm trước), hắn đã được cụ thân sinh của hắn cho tiếp xúc với tác phẩm bất hủ Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables) của Cụ. Sau khi gặp được cuốn quý thư, người viết tự hứa sẽ dành thời giờ đọc kỹ để thấy rằng những văn nhân được nói tới đều rất đa tài… và chắc cũng phải đa tình luôn… để cho hắn được có hơi hướm với họ một tí!

Trích hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN


­

NHỮNG SUY NGHĨ VẨN VƠ

TẬP 2

(tiếp theo số 161)

TIẾN HÓA HAY TẠO HÓA?

Đây là một bài viết của Gs. Chu Hảo đã đăng trên tạp chí Tia Sáng số Tết Bính Thân 2016.

Trang PVHg’s Home nhận được bài viết của ông qua thư trao đổi và đã được ông đồng ý cho sử dụng. Gs. Chu Hảo là Tiến sĩ Vật lý, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, hiện là Giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức.

Mặc dù khoa học đã đạt được những thành tựu vô cùng vĩ đại, các quy luật của thế giới tự nhiên cứ lần lượt được phơi bày, sân chơi của Chúa cứ ngày càng hẹp lai; nhưng cứ mỗi lần các nhà khoa học vén được một bức màn đen do Chúa dựng nên này thì lại thấy một bức màn đen khác sừng sững trước mặt. Và cho đến tận ngày nay hai câu hỏi nguyên thủy: “Vũ trụ được hình thành thế nào?“ Loài người xuất hiện từ đâu? Từ loài khỉ lớn (vượn hay tinh tinh) tiến hóa lên, hay do Chúa tạo ra?, xem ra vẫn chưa có câu trả lời cuối cùng; và “ liệu có thể có câu trả lời cuối cùng hay không? ” lại là một câu hỏi hóc búa khác.

Thuyết Big Bang hầu như đã được kiểm chứng. Ngày càng có nhiều bằng chứng khách quan cho thấy vũ trụ mà chúng ta đang ở trong đó được sinh ra từ một vụ nổ lớn trong hư không khoảng 14 tỷ năm trước, rồi giãn nở không ngừng, đồng đều theo mọi hướng, chứa hàng trăm tỷ thiên hà có kích thước khoảng 100.000 năm ánh sáng (1 giây ánh sáng là 30 vạn km); mỗi thiên hà lại chứa hàng trăm tỷ ngôi sao; mỗi ngôi sao lại có một hệ thống hành tinh quay xung quanh như kiểu hệ Mặt trời của chúng ta. Khoảng hơn mười tỷ năm nữa Vũ trụ sẽ dừng giãn nở, co sụp lại thành một điểm như lúc ban đầu.

(Theo tạp chí TIME thì những khám phá vũ trụ học mới nhất chứng tỏ vũ trụ sẽ giãn nở mãi mãi, và do đó sẽ loãng dần đến hư không - PVHg).

Nếu thuyết này là đúng thì vẫn còn những câu hỏi chưa thể có câu trả lời: Trước Big Bang là cái gì? Vì sao nó lại vận hành một cách trơn tru, hoàn hảo như thế? Vì sao các hằng số vật lý của vũ trụ (tốc độ ánh sáng, điện tích của điện tử, hằng số Plank…) lại được gán cho những giá trị chính xác đến nỗi chỉ cần một trong các hằng số ấy thay đổi đi một phần triệu giá trị vốn có thì thế giới này sẽ không có sự sống, không có chúng ta, con người có khả năng tìm hiểu vũ trụ?

Mặc dù vậy, các bằng chứng thực nghiệm về sự hình thành và tiến hóa của vũ trụ đến nay vẫn ủng hộ thuyết Big Bang. Điều này khác hẳn với sự nghi ngờ đối với Thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc loài người, rộ lên trong vài chục năm gần đây. Số người ủng hộ Thuyết Tiến Hóa còn rất nhiều (chẳng hạn xem Nguyễn Văn Tuấn, http://ykhoa.net/binhluan/).

Nhưng những người phản đối càng ngày càng làm tôi “nao núng”. Xin chia sẻ với bạn đọc những gì tôi thu nhận được từ lập luận của những người “phủ nhận sạch trơn” Darwin (chẳng hạn xem https://viethungpham.com/).

Hình dưới: “Darwin’s Doubt” (Sự nghi ngờ của Darwin), một cuốn sách bestseller của tiến sĩ Stephen C. Meyer.

Chúng ta đều biết Charles Darwin (người Anh, 1809-1882) đã công bố Thuyết Tiến Hóa của mình trong hai cuốn sách kinh điển: “Nguồn Gốc Các Loài” (1859) và “Nguồn Gốc Con Người” (1871). Trong đó ông đã khẳng định:

1. Các loài động vật tiến hóa từ bậc thấp lên bậc cao hơn theo quy luật chọn lọc tự nhiên, những biến dị nhỏ ngẫu nhiên có lợi trong quá trình cạnh tranh sinh tồn được tích tụ dần;

2. Sự sống được hình thành một cách tự phát ngẫu nhiên từ một tập hợp các nguyên tố hóa học;

3. Loài khỉ lớn (tinh tinh) là tổ tiên trực tiếp của loài người.

Vào thời điểm ấy (giữa thế kỷ XIX) học thuyết này đã được hưởng ứng một cách cuồng nhiệt và tiếp tục mê hoặc các thế hệ sau cho đến tận cuối thế kỷ XX. Cho đến tận ngày nay trong các trường học trên toàn thế giới người ta vẫn vô tư rao giảng những quan điểm phi khoa học của Darwin. Sự “ngộ nhận thế kỷ” này có thể do hai nguyên nhân chính sau đây:

Một là, công trình của Darwin ra đời vào đúng lúc xu thế vô thần và duy vật của Thế kỷ Khai minh đang nở rộ; nó đánh trúng vào tâm lý khoa học thời đại: sự sống và con người không phải do Chúa tạo ra.

Hai là, cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất đạt được những thành công rực rỡ với sự ra đời của Vật lý học Newton đã làm cho cộng đồng khoa học ngây ngất với ý tưởng cho rằng “sân chơi” của Chúa đang thu hẹp lại và một ngày không xa khoa học sẽ trả lời được mọi câu hỏi về vạn vật. Thế nhưng, như bạn đọc sẽ thấy, đấy là một sự ngộ nhận tai hại.

Sự sai lầm của Thuyết Tiến Hóa và sự ngộ nhận về nó sẽ không xảy ra nếu Darwin được biết đến công trình khoa học vĩ đại về Di truyền học của Gregor Mendel (người Tiệp, 1822-1884) ra đời năm 1866, tức là chỉ sau cuốn “Nguồn Gốc Các Loài” có 7 năm. Giá như ông biết thì chắc ông đã buộc phải xem xét lại các luận điểm của mình.

Không chỉ Darwin không biết mà cả thế giới cũng hầu như không biết tới công trình khoa học của Mendel, vì nó đã bị rơi vào quên lãng. 30 năm sau, vào năm 1900, lý thuyết di truyền của ngài linh mục người Tiệp ấy mới được các nhà khoa học Đức và Hà Lan phát hiện. Từ đó Di truyền học mới thực sự chào đời, và ngày càng được khẳng định, đóng vai trò quan trọng mang tính nền tảng trong Sinh học như thuyết Lượng tử trong Vật lý học.

(còn tiếp)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)

MÔN THIỀN QUÁN

& ĐẠO PHẬT

MÀ TÔI ĐÃ ĐƯỢC DẠY

(tiếp theo số 161)

Trí Huệ tức là sự hiểu biết sáng suốt. Nó không từ trên trời rơi xuống mà ở sự tìm tòi của bản thân mỗi người, cộng với sự khai mở của người Thầy. Người phát tâm dũng mãnh bao nhiêu mà gặp Thầy dốt không có Pháp để Truyền thì cũng như không. Đó là trường hợp của Thái Tử Sĩ Đạt Ta mất 6 năm với Sáu vị Thầy giỏi nhất đương thời lúc đó mà không thành công. Và về sau như Ni Sư Satomi Myodo trong “Hoa trôi trên sóng nước” của dịch giả Nguyên Phong, nói về một phụ nữ, bỏ cả con cái cho cha mẹ ở quê; bỏ cả chồng, để đi cầu đạo. Một đời quyết tâm đi tìm Thầy để học đạo, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, khó khăn để cầu đạo. Nhưng rốt cuộc đến cuối đời mới gặp được người Thầy - người mà bà chê, không dự định học - lại chỉ được cho bà cách thức đúng nhất. Phí phạm cả một cuộc đời! Tôi thì may mắn hơn, được Thầy tự đi tìm, mà Thầy lại có Pháp chân chính để truyền cho, và nhờ có Chính Kinh để kiểm chứng, nên rút ngắn thời gian rất nhiều.

Thầy tôi thường nói rằng việc tu học cần phải Tâm Truyền Tâm. Tất nhiên người thầy phải đắc cái Tâm thì mới có Tâm để truyền cho đệ tử. Người chưa hiểu Tâm là gì? Chưa biết Tánh là gì thì lấy Tâm đâu mà truyền? Lấy sự hiểu biết về cái Tánh ở đâu ra để dạy cho đệ tử?

Phải nói là cái gốc ngoại đạo của tôi cũng là một may mắn, bởi vì tôi chẳng biết Chứng Đắc, Quả Vị là gì để cầu mong. Ngồi Thiền cũng chẳng mong cầu Thần Thông hay biết trước tâm ý người khác hoặc những chuyện sắp xảy đến, trong khi anh em gốc Đạo Phật thì không tránh khỏi những mong ước đó nên Tâm của họ bị xao động. Đa phần họ đọc Kinh chỉ muốn tìm xem phần nào nói về Chứng Đắc, Thấy Tánh, để thực hành, không chú ý đến những điều khác. Rốt cuộc là không thấy được gì. Trong khi với tôi thì khi cái tâm lặng yên, không khởi bất kỳ mong muốn gì, chỉ cần hiểu biết, không quan tâm, đến Quả Vị hay Thần Thông, thì có khoảng thời gian lại thấy biết trước được một số việc. Nhưng tôi không thích, không thấy đó là mục đích mình cần tìm, nên sau đó tôi báo lại với Thầy để nhờ Thầy đóng lại cho đỡ phiền.

Thầy tôi truyền đạo đúng theo tinh thần Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: “Khai, Thị, Ngộ, Nhập”. Ông Khai cho đệ tử thấy, biết, rồi tự mỗi người hành trì để Ngộ, Nhập. Thấy nhiều hay ít, mau hay chậm là do công năng của cá nhân mỗi người. Người Thầy không thể làm giùm cho đệ tử được. Người thầy chân chính, biết Pháp, sẽ chỉ đúng đường trong thời gian ngắn nhất, không vòng vèo, không bắt học, hành những pháp vô ích. Tôi chỉ có duyên gặp Thầy chỉ vỏn vẹn 4 năm. Thầy biết trước rằng thời gian trụ thế của mình không dài, nên lúc nào cũng nhắc đi nhắc lại: “Anh chị em nên cố gắng, vì thời kỳ hành nguyện của tôi đến năm 1981 là hết”. Lúc đó anh em cứ tưởng Thầy sẽ đi làm việc khác. Không ngờ Thầy qua đời đúng vào năm đó. Lúc Thầy còn thì những gì cần hỏi tôi đã hỏi xong, nên sau khi Thầy đi rồi thì tôi tiếp tục đọc Kinh, giải Kinh để hiểu thêm chi tiết.

Với câu hỏi là tu Phật có việc Chứng Đắc hay không thì tôi thấy: Sự Chứng Đắc của Đạo Phật có hai phần: Phần CHỨNG LÝ, tức là hành giả đã thấy, đã hiểu, đã ngộ những lý lẽ của Đạo Phật, và phần CHỨNG SỰ, tức là thâm nhập những cái LÝ của Đạo để nó trở thành những việc được thể hiện trong suy nghĩ, trong hành động hàng ngày trong cuộc sống. Nếu kể về những hiện tượng lạ để đánh dấu bước tiến của hành giả thì bản thân tôi khi tu học cũng có một số hiện tượng lạ xảy ra. Thời gian Thiền, có sức Định thì có hiện tượng biết trước, đọc được tâm ý người khác một cách tự nhiên mà không cần mong cầu. Bạn đến nhà chơi, tôi thấy họ là biết ý họ muốn cần gì? Có lần người bạn đùa, kêu tôi móc tiền trong túi ra hùn với ông rồi chia đôi, tôi bảo: Ông có l đồng chớ mấy. Ông cười ngất, móc trong bóp ra có đúng 1 đồng! Lần khác. Con đường Trương Minh Giảng đến nhà Thầy ngày nào tôi cũng đi cả mấy lượt, nên nhà cửa, phố xá hai bên đều quen thuộc. Có lần tôi đi một mình, định ghé nhà Thầy thì thấy có khách, nên tôi quay về nhà một người bạn ở đường Huỳnh Văn Bánh. Ở đó một lúc rồi trở lại. Vậy mà lần trở lại này, tự chạy xe, giữa buổi sáng. Đèn đỏ tôi vẫn thấy để dừng. Xe cộ dập dìu xuôi ngược tôi vẫn thấy vẫn tránh, mà con đường và phố xá hai bên bỗng lạ hẳn. Không còn nhận ra con đường quen thuộc trước nữa. Tôi cố định thần nhìn kỹ xem ban nãy mình đi hướng nào? Hướng lên nhà thầy hay hướng quay về thì không thể nhận ra. Vừa lái xe, vừa hoang mang. Cuối cùng tôi quyết định: Nếu đi đúng hướng đến nhà Thầy thì ghé vô, còn nếu không đúng thì về. Mãi cho tới lúc thấy tháp chuông của Nhà Thờ Tân Sa Châu thì chỉ còn cách nhà Thầy tôi có mấy căn, tôi mới nhận ra đó là đường tới nhà Thầy nên quẹo vô luôn.

Có một lần, trong Đạo Tràng, có anh Luật Sư, bạn đạo, mang bài của tôi viết ra để bình luận và anh chê rất nhiều. Tôi vẫn ngồi lắng nghe, nhưng tôi không nhận ra mình nữa. Tôi thấy lòng rất bình thản, thân tôi dường như tan ra... Tôi báo với Thầy thì ông bảo tôi về bình tĩnh, Chánh Định sắp đến. Thế là tôi khởi tâm nghi ngờ, làm gì có việc Chánh Định đến dễ dàng như thế. Vậy mà không hiểu sao từ đó bỗng nhiên những gì tôi hiểu về Đạo bỗng nhiên như bị xóa hẳn trong tôi. Tôi ngơ ngác không còn hiểu biết gì hết, báo với Thầy thì ông nói tại tôi kiêu mạn nên bị mất. Rồi tuần sau, trong một lần họp, trước bàn thờ trong gia đình của một bạn đồng tu, Thầy đã thắp hương xin lãnh nghiệp cho tôi. Tôi cũng Sám Hối và Quán Soi lại từ đầu, dần dà sự hiểu biết mới trở lại.

Thầy tôi nói Pháp Phật có một sự linh thiêng, không phải để cợt đùa. Thí dụ như Thần Thông, Tha Tâm Thông mà người Ngồi Thiền với cái Tâm tĩnh lặng đều có thể đạt được. Nhưng đó không phải là cứu cánh của Đạo nên người thật tâm tu hành không ai lấy đó làm sự chứng đắc hay tiến bộ của đường tu, trái lại chính nó sẽ làm cho hành giả bị dính mắc, thích thú với khám phá của mình dần dà sẽ giãi đãi trên công việc tiến tu. Tôi đã chứng kiến điều đó trong anh em. Có người bạn đồng tu làm Kỹ sư Trưởng Nha Hàng Không trước năm 1975. Ông nói mình có nhiệm vụ sửa máy bay nên hay bay thử. Lợi dụng việc bay thử, ông bay sang Nhật để học với Thiền Sư Suzuki đến 17 năm. Lần đầu tiên gặp thầy tôi ông nói huyên thuyên, thầy tôi phải vỗ bàn nói với ông: “Phật Pháp tại thế gian. Tại đây nè”, thì ông mới thôi. Sau đó ông xin theo tu học với Thầy tôi luôn. Không biết ông học với Thiền Sư Suzuki được những gì? Chỉ nghe nói là Ngồi Thiền vô, chỉ cần kéo chân lên đi bẵng đi mất luôn, lúc tỉnh lại thì thấy 2 tiếng đã trôi qua. Nhờ có thời gian dài Ngồi Thiền nên khi học với thầy tôi, ông mở Thần Thông rất nhanh. Thấy chuyện người nọ người kia rất chính xác, nên hay bị nhiều người theo hỏi về kết quả vượt biên của thân nhân. Lạm dụng quá nên thời gian sau Thần Thông của ông cũng bị mất. Vì thế, trong Đạo Tràng Thầy tôi hay đóng Thần Thông cho những người tự nhiên khai mở, không để cho họ bị ảnh hưởng đến việc tu hành.

Tôi vẫn kiên trì viết đủ mọi đề tài để nộp cho Thầy. Riêng có lần có hiện tượng đặc biệt mà tôi đã viết tay trong tập học trò để ghi lại. Đó là lúc 8 giờ kém 10, ngày 26 tháng 4 năm Kỷ Mùi. Khi tôi viết bài về Phật Pháp rồi đọc lại, thì có một nỗi vui mừng cùng tột đã đến với tôi. Nhìn quanh phòng ngủ, cảnh tượng vẫn như cũ mà tôi thấy hoàn toàn xa lạ. Một hiện tượng rất kỳ lạ diễn ra trong con người của tôi. Tôi thấy trong người thanh tịnh, hạnh phúc một cách lạ lùng. Tôi cảm nhận từ đây tôi bắt đầu một cuộc đời mới nên đã khóc nức nở rất lâu, vì thấy ân Phật, ân Thầy quá to tát, đưa mình từ Vô Minh trở về với Chân Lý, mình duyên may lắm mới được gặp. Trước đó, đêm 18 tháng 4 tôi thấy đầu óc mình trống rỗng mà tôi ví như là hư không. Không suy nghĩ được điều gì, nên lấy bài thơ của người bạn ra họa, sau đó làm một loạt mấy bài Kệ Thơ, xin ghi lại vài bài sau:

Bài thứ 1:

Chỉ cần quay lại nhận ra nhau

Ai nói Sông Mê, bến Ngộ nào?

Ta vẫn là Ta, đâu biến đổi?

Chẳng qua là một giấc chiêm bao.

Bài thứ 2:

Sông Mê chưa từng qua

Bờ Giác không là nhà

Tung tăng trong các cõi

Tự tại một mình ta.

Phật Tánh

(Bài này tôi cố ý ghép tên của Thầy và tên của tôi.

Thầy tôi tên LƯỢNG, còn tên tôi là Biên)

Tánh Phật giờ đây đã hiển tường

Quang Minh soi suốt khắp mười phương

Vô Lượng, Vô Biên, vô sở đắc

Không Mê, không Ngộ, vượt Vô Thường.

TÂM-TƯỚNG-PHÁP- TÁNH

TÂM có gì đâu để phổ truyền ?

TƯỚNG là hư huyễn, được bao niên ?

PHÁP thì Sinh, Diệt, làm sao Đắc ?

TÁNH vốn muôn đời vẫn ở yên.

NHÂN QUẢ

Nhân mê Quả nên Nhân còn mắc Quả

Ta không cần hưởng Quả, chẳng gieo Nhân

Từ hư không, Như hiện giữa dương trần

Tâm vô ngại, không mê mờ Nhân Quả.

NHƯ LAI XUẤT THẾ

Như ánh hào quang rọi khắp trần

Lai khứ chưa hề động gót chân

Xuất Thánh, nhập phàm không ngăn ngại

Thế gian là chốn Phật hiện thân.

Những bài này được thầy tôi khen là Thoát và lấy đọc giữa Đạo Tràng.

Tôi vẫn tiếp tục viết và nộp bài đều đặn cho Thầy. Cho đến khi tôi viết về Nhân Quả thì thầy kêu tôi từ đây khỏi đưa bài cho ông xem nữa, vì tôi đã đủ trình độ để tự viết.

Một lần đó tôi đến nhà Thầy thì ông kêu tôi viết một bài nộp cho ông. Tôi hỏi viết về đề tài gì, thì ông bảo: Đề tài gì cũng được, nhưng cho vô đó mươi bài thơ mà chị đã làm. Về nhà tôi suy nghĩ tại sao không tóm tắt con đường tu hành của mình. Thế là tôi viết ngay đêm đó, sáng sớm mang lên nhà nộp cho ông. Bài này sau đó trở thành bài được ấn chứng chung với 24 anh em, được Thầy gọi là “Thấy Lý Trung Đạo” trong một buổi lễ long trọng được tổ chức tại nhà một người bạn đồng tu ở đường Bùi Thị Xuân. Cũng thêm một điều lạ là nhà này nằm ngay mặt tiền đường, vậy mà cả gần 60 người tụ họp, ăn uống, làm lễ suốt từ 8 giờ sáng đến hơn 2 giờ chiều vẫn không bị ai phát hiện.

Tóm lại, nói đến Thiền Quán là nói đến con đường tu Phật, vì Đức Thích Ca Đắc Đạo cũng nhờ Thiền Quán. Nhưng việc Đắc Đạo của Đức Thích Ca là gặp được, tìm ra được cách thức để Thoát Khổ, không phải chỉ quán một chữ VÔ, hiểu được rồi cho là Chứng đắc như bên Nhà Thiền. Thủ phạm của Sinh Tử đã được Đức Thích Ca chỉ rõ rồi: Đó là cái Vọng Tâm, tức là cái Tâm mê lầm. Đến lượt chúng ta thì không còn khó khăn vì không biết bắt đầu từ đâu như Ngài, mà đã sẵn con đường mà Đức Phật và Chư Tổ đã vạch sẵn, nhiệm vụ của chúng ta là kiểm tra lại, xem mình có chấp nhận được những điều đó hay không? Nếu quán sát, thấy đồng ý, thì thực hành theo.

Mục đích tu hành của mỗi chúng ta là phải Thành Phật, tức là được Giải Thoát như lời Thọ Ký của Đức Thích Ca. Nhưng muốn thành Phật thì phải “Độ tận Chúng Sinh”. Do đó, chúng ta cần biết Chúng Sinh mà Đức Thích Ca dạy chúng ta phải Độ đó là gì? Ở đâu? Nếu không biết thì làm sao để Độ? Rồi còn Niết Bàn, Phật Quốc. Nếu chúng ta không biết cảnh giới đó ở đâu? Đến đó bằng cách nào thì làm sao để về đó? Thế nào là Phật, Bồ Tát? Rồi thì Hữu Ngã, Vô Ngã, Vô Thường, Thường Còn… Nếu chúng ta không biết những từ đó nói về điều gì thì làm sao hoàn tất sự hiểu biết để đưa ra thực hành? Rồi thì nào là Có, Không, Quán Thân, Quán Tâm, Quán các Pháp mà theo Lục Tổ Huệ Năng thì “tất cả sự, lý phải hiểu đến tận chỗ chơn”. Đó là mục đích Thiền Quán của Đạo Phật. Do đó người tu không chỉ Thiền Định, mà phải Thiền Quán. Quán Các Pháp để biết sự thật về nó vốn dĩ không thật, không bền để đừng tham lam, ham muốn rồi tự làm khổ mình. Quán Vô Thường, Vô Ngã để xả bớt cái Chấp Ta. Cuối cùng sau khi thấy các pháp, kể cả cái Thân của ta không thật, không bền, để “bỏ giả, về thật” không còn chấp nhất, dính mắc, tham lam, ham ôm giữ cái giả nữa. Nhưng dù nói rằng giả, mà nó hiện đang tạm Có. Vì vậy mà người tu cần thấy rõ để chấp nhận Lý Trung Đạo: Ở trong cảnh Có mà không dính mắc, tâm như hư không, để “Thoát phàm ngay chính trong phàm”.

Người tu cứ tuần tự theo hướng dẫn của Đạo Phật, để cuối cùng thấy rằng từ cách đây đến gần 3.000 năm mà Trí Huệ của Đức Phật thật hết sức siêu việt. Sử dụng phương tiện một cách tài tình. Thấy con người quá tham lam, độc ác, kiếp sống không dài mà cứ tranh giành, vơ vét, hại người, để bản thân và gia đình hưởng thụ, bất chấp người chung quanh phải đau khổ. Nhưng những việc ác mà mọi người làm không kết thúc khi hết kiếp, mà kiếp sau phải luân lưu để Trả Quả nên Phật vì thương con người mà tìm cách dụ họ, đưa vào Con Đường Giải Thoát, để con người không còn bị cảnh Khổ dập vùi nữa.

Biết bản chất con người vốn tham lam. Bỏ thứ này, muốn được thứ khác tốt hơn, Phật đã vận dụng những Quả Vị. Tả những Cõi Phật huy hoàng để dụ họ xả bớt Tham sân si, hận thù, để được vào đó. Nhờ vậy, con người mới cố gắng hành trì. Sau khi bỏ được những phàm tánh trước kia. Biết cuộc sống Vô Thường nên không còn tranh giành, thù hận, trái lại, biết yêu thương nhau, để mọi người cùng chung sống trên trái đất nào khác tiên cảnh với bốn mùa hoa cỏ xanh tốt, trái ngọt, cây lành. Người càng Xả cái Chấp phàm thì càng được thanh tịnh, an vui. Nhưng cuối cùng họ sẽ thấy: Chẳng phải là Thành Thánh, Thành Phật, mà như kết luận bằng ANH NHI HẠNH trong Kinh Đại Bát Niết Bàn: Những Quả Vị, những Cõi Phật được mô tả cũng chỉ là những Lá Dương Vàng mà người cha nói là vàng thật, mục đích chỉ là để dỗ cho con nín khóc! Hành cho đủ những việc cần hành, Xả cho sạch phàm, tưởng là sẽ lên Thánh Vị. Độ cho hết những Chúng Sinh trong tâm, tưởng là sẽ thành một vị Phật quyền năng ghê gớm, được Tam Thiên Đại Thiên thế giới tôn thờ, hóa chỉ để được thành một con người đúng nghĩa và Thoát Khổ mà thôi.

Đi một vòng cho thật xa, để rồi quay trở lại điểm xuất phát. Nhưng từ lúc quay lại, cũng vẫn là con người đó, mà không còn những tính xấu, tính ác, lại biết Từ, Bi, Hỉ, Xả. Biết kính trên, nhường dưới. Biết yêu thương, hiếu dưỡng ông, bà, cha mẹ. Kính Thầy, yêu bạn, giúp đỡ mọi người. Không nói lưỡi đôi chiều. Kính trọng và giúp đỡ mọi người, xem đó như là những vị Phật sẽ thành để không xúc phạm hay làm tổn hại ai. Rõ ràng Đức Thích Ca không mở ra một Tôn Giáo để các tín đồ sùng bái, phụng sự mình. Trái lại, Ngài chỉ là một Đạo Sư, là một nhà tâm lý, một nhà giáo dục công dân tuyệt vời với phương tiện siêu đẳng. Đúng là “không thể nghĩ bàn”.

Rõ ràng người tu đã bị Phật lừa bằng phương tiện rất khéo. Nhưng sự lừa dối đó xuất phát từ lòng yêu thương, và kết quả là chính người bị lừa được hạnh phúc, an vui, không phải là người lừa hưởng thành quả! Cuộc đời của Phật đã chứng minh: Ngài không hề thu gom hay lạm dụng chút gì của đời. Một đời tu hành của Ngài cuộc sống rất giản dị. Ăn thì đi khất thực để được cho gì, ăn nấy, mục đích chỉ để cho cái Thân tồn tại. Mặc thì bằng vải liệm thi. Đi chân trần. Ngủ ở cội cây hay trong rừng. Cả đời sống của Ngài chỉ là để hướng dẫn cho con người Thoát Khổ bằng nhiều phương tiện. Lời nói và thực hành của Ngài đều chân thật. Kết quả những người hành trì theo hướng dẫn của Phật là có thật, đưa đến cứu cánh Thoát Khổ, Thoát Phiền não. Nhưng muốn Hành cho đến nơi đến chốn thì phải Thấy cho rõ, phải Hiểu cho đúng. Vì thế, người muốn nương Đạo Phật để thoát Khổ, thì không có phương pháp nào tốt hơn là THIỀN QUÁN vậy.

Tâm Nguyện

(Tháng 8/2019)

HAI CỐ NHÀ THƠ LỚN

“CẶP BÀI TRÙNG” XUÂN - HUY

CÙNG LÀ HAI DỊCH GIẢ ĐÁNG NỂ

Vào đầu những năm 1960, vừa trở thành anh giáo dạy tiếng Nga tại trường Trung cấp Ngoại ngữ Mễ Trì, ngoại thành thủ đô, kề sát tận thị xã Hà Đông, một buổi tôi được nhà thơ Hoàng Minh Châu sống cùng gia đình gần đó đưa cho giấy của Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam mời về tham gia buổi họp triển khai công việc ra tập tuyển Thơ Liên Xô, để sang năm 1962, chào mừng Kỷ niệm 45 năm Cách mạng tháng Mười Nga. Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, phụ trách Ban Đối ngoại đã soạn thảo đề cương tập tuyển. Cẩn thận Ban Biên tập muốn tranh thủ ý kiến bổ sung. Tôi ngần ngại nhưng được các bậc đàn anh động viên, tôi cũng mạnh dạn nêu ý kiến có lẽ nên chăng bổ sung một số tên tuổi mới xuất hiện lại trên thi đàn Nga, chẳng hạn như Sergay Esenin, và một số tác phẩm của số nhà thơ Xô Viết các nước Cộng Hòa, mới được giải thưởng quốc gia, giải thưởng văn học Lênin, như tác phẩm của Petrus Brovka (Belarus), Eduard Megielaitis (Litva), Macsim Rưnski (Ukraina), Miecdo Tusun-Zade (Tacgich)… Tôi được đề nghị cung cấp tư liệu tiếng Nga và thực hiện bản dịch nghĩa mời các nhà thơ khác dịch thành thơ Việt.

Qua các tài liệu dịch nghĩa, nhà thơ Xuân Diệu đặc biệt hứng thú với sáng tác của Sergey Esenin. Ông đọc bản dịch nghĩa, bảo tôi đọc nguyên bản tiếng Nga cho ông nghe một lần, một lần nữa, rồi một lần nữa, hỏi lại nghĩa những từ ông chưa thật hiểu, chưa hình dung ra… Ông đã chọn ra tới bốn bài để chuyển thành thơ, số lượng nhiều nhất so với số bài của các tác giả khác được đưa vào tập tuyển. Cả bốn bản dịch thơ Esenin của Xuân Diệu khi ấy về sau đã được in đi in lại nhiều lần và gần đây nhất, năm 2017, lại được in lại trong Tuyển thơ Sergey Esenin do Quỹ hỗ trợ quảng bá văn học Việt Nam - Văn học Nga” của Hội Nhà văn Việt Nam chuẩn bị bản thảo, NXB Nga “Lokid Premium” ấn hành dành gửi tặng bạn đọc Việt Nam.

Còn nhà thơ Huy Cận bạn thơ “cặp bài trùng”, “bạn nối khố” của ông, vừa đi họp Đại hội của Hội các nhà văn Á Phi về, nhận chuyển dịch thơ của nhà thơ Trung Á Tacgich Tusun-Zađe, trích đoạn trường ca Ngày hội trên sông Xưđecria.

Kể từ những ngày được cộng tác làm tập tuyển thơ Liên Xô và nhất là sau khi trường Trung cấp ngoại ngữ Mễ Trì giải thể giữa năm 1964, tôi được về làm anh biên tập ở tổ văn học nước ngoài của NXB Văn học (khi NXB Văn hóa của Viện Văn học sáp nhập với NXB Văn học của Hội nhà văn thành NXB Văn học thoạt đầu thuộc LHVHNT Việt Nam sau trực thuộc Bộ Văn hóa), càng ngày tôi càng có nhiều cơ hội gần gũi với đôi bạn thơ Xuân - Huy nổi tiếng. Nhà thơ Xuân Diệu, ngoài sáng tác, để nhiều tâm sức cả cho mảng dịch thuật. Ông tham gia tập thơ Trữ tình Puskin (ra năm 1966), thơ Blok-Esenin (1983) - do tôi đứng tên chủ trì, nhiều tập thơ dịch khác do NXB Văn học có trong kế hoạch xuất bản. Đặc biệt trong giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước và nhất là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ xâm lược, nhà thơ Xuân Diệu là người tham gia dịch nhiều thơ bạn bè nước ngoài ủng hộ cuộc đấu tranh của Việt Nam chống xâm lược, lên án đế quốc Mỹ… Tổng kết sau này Xuân Diệu ra riêng một tập thơ dịch của nữ thi sĩ Blaga Dimitrova với cái tên rất đẹp Vây giữa tình yêu, viết về đề tài Việt Nam (NXB Văn Học 1968) và tập tuyển thơ thế giới với cuộc đấu tranh của nhân dân ta có cái tên không kém phần “thơ mộng” - Việt Nam hồn tôi (NXB Văn học, 1974).

Là biên tập NXB Văn học tôi thường được trực tiếp làm việc với nhà thơ Xuân Diệu - cộng tác viên “ruột” của NXB. Và thường làm việc tại căn buồng riêng của nhà thơ ở tầng 1 biệt thự số nhà 24 phố Cột Cờ (sau này đổi mang tên đường Điện Biên Phủ). Và trong những lần đến làm việc tôi cũng được thấy hoặc chuyện trò với nhà thơ Huy Cận, cùng gia đình sống ở tầng trên tòa nhà “Nhà tôi hai bốn Cột Cờ” nổi tiếng này.

Mỗi lần hẹn tôi đến làm việc nhà thơ Xuân Diệu bao giờ cũng chuẩn bị sẵn một tách cà phê túi pha sẵn với một đĩa nhỏ trên bầy gọn ghẽ đôi ba chiếc bánh bích qui, chiếc kẹo nước ngoài (tiêu chuẩn bìa C của nhà thơ được mua ở cửa hàng Tông Đản). Bữa ấy đi làm về, nhà thơ Huy Cận lên gác thay quần áo ngoài, trời nóng cởi trần đánh bộ quần soóc, lại đeo chéo vai kè kè chiếc bi đông. Ông đi tập thể thao thì phải. Nhà thơ ngó vào buồng bạn “cặp bài trùng” của mình, thấy tôi ông chào hỏi và cười hì hì định bước vào, chắc định bắt chuyện. Xuân Diệu xua xua tay: “Diệu đang có khách, mà Cận không có phần ở đây đâu…” Thực sự là tôi vui thích được tận mắt chứng kiến một chi tiết tình bạn thân thiết đến thế.

Sau năm 1986, biết tin tôi có việc đi công tác sang Bungari làm việc với nhà xuất bản “Europa”, nhà thơ Huy Cận đến cơ quan mình, sang ngay NXB Văn học gửi cho tôi một phong thư. Mở ra có nửa tờ giấy A4 in sẵn địa chỉ: Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam với mấy dòng chữ viết tay của nhà thơ: Anh Thúy Toàn, tôi gửi anh ba cái thư (đã có tem LX) để nhờ anh bỏ thùng thư ở Moskva và 1 cái thư gửi giám đốc “Europa” để anh đưa tay và lấy giùm về 2 quyển (2 bản) thơ XD in ở Budapest (dịch ra tiếng Hung) do “Europa” xuất bản… Sau lời chúc sức khỏe, chữ ký Huy Cận, có ghi rõ ngày 13/6/1986.

Bạn ông, nhà thơ Xuân Diệu đã qua đời ngày 18/12/1985 Huy Cận vẫn chăm sóc bạn như khi bạn còn sống cùng nhà. Tôi lại sực nhớ, câu nói của nhà thơ Xuân Diệu nói hôm nào khi Huy Cận, bộ dạng như một ông chủ hàng phở ở phố cổ: “Diệu đang có khách… Cận không có phần ở đây đâu…” Quả thật là một đôi bạn chí cốt Xuân - Huy!

Đầu năm 1990, thân phụ chúng tôi qua đời tại quê, tận bên Từ Sơn, Bắc Ninh, nhà thơ Huy Cận vì bận công việc, nhưng đã không quên gửi cho tôi thư chia buồn. Và rồi đến khi tôi đã đến tuổi nghỉ hưu ông lại chép tay tặng cho bốn câu thơ ông dịch tác phẩm của nhà thơ Trung Á cổ điển: Omar Khayyam

Chúng ta là những quân cờ

Trong tay thượng đế dật dờ thấp cao

Khi tiến trước, lúc lùi sau

Cuối cùng đều bị quẳng vào hư vô .

Thơ Omar Khayyam (Ba Tư, thế kỷ 11)

Huy Cận chép lại ngày 31/3/1999

Mãi về sau này tôi mới giật mình để ý đến ngày nhà thơ Huy Cận chép tặng tôi bài thơ ông dịch: 31/3/1999. Ông chúc ngày sinh nhật 11/3 vừa qua của tôi. Tôi đã nghỉ chế độ được một năm. Và bấy giờ tôi mới nhớ thêm ra là đúng hai tháng nữa: 31/5/1999 nhà thơ Huy Cận sẽ thượng thượng thọ bát tuần!

Tôi đến nhà ông tặng ông hai tấm ảnh tình cờ trước đó, đã bắt gặp nhà thơ Huy Cận ra ngồi trên ghế đẩu trước cửa nhà số 24 - “Nhà tôi hai bốn Cột Cờ…” nổi tiếng, và tôi đã kịp bấm máy ghi lại. Thoạt nhìn thấy ông tôi đưa máy lên ngắm, linh tính ông cảm thấy chuyện gì đó không ổn, đưa tay lên che mặt. Tôi phải đến gần năn nỉ là hình ảnh nhà thơ Huy Cận về nghỉ ngơi, có thời gian ngồi ngắm cuộc đời của nhân dân, đất nước đang diễn ra sôi nổi trước mắt ông cũng có thể có ý nghĩa nào đó đối với hậu thế chứ! Nhà thơ Huy Cận ngồi ngay ngắn lại cho tôi bấm máy.

Nhà thơ chép tặng cho tôi bản dịch thơ của mình chính là trước lúc chia tay buổi tôi đến tặng ảnh ông bữa ấy. Nhận được bức thư chép tay tặng vật của ông, ra về tôi cứ lăn tăn suy đi nghĩ lại. Có phải chăng nhà thơ lớn an ủi tôi, một cá thể trong lớp hậu thế tấp tểnh nối gót bước đường thế hệ tiền bối các ông. Hãy bằng lòng với hạnh phúc được hưởng cuộc sống mà thượng đế ban cho nơi trần thế. Nhưng sống, dù thế nào cũng phải sống cho chỉn chu. Thì đây tặng vật gửi lại cho “em”, chỉ là bốn câu thơ thôi nhưng “anh” chép lại ngay ngắn, có đầu có cuối, có ngày tháng ghi nhớ… còn nội dung mấy câu thơ ngắn ngủi triết lý cuộc đời, nó đâu có gì tiêu cực, mà ngược lại nó thôi thúc ta sống cho đáng sống mà thôi.

Tôi lại sực nhớ một bản dịch thơ khác của nhà thơ Huy Cận in chung trong chùm thơ của thi hào Pháp Vichto Huygo, có tới sáu bản dịch của sáu nhà thơ Việt Nam trên trang báo Văn nghệ từ tháng 5 năm 1985 nhân kỷ niệm 100 năm mất của tác giả (1885-1985). Bản dịch của nhà thơ Huy Cận chỉ có 3 thi tiết, ngắn gọn nhất, nhưng lại có chú thích xuất xứ của nguyên bản, mà Huy Cận đặt tên “Thăm mồ con”: “Con gái đầu của thi sĩ, Lêôpônđin, bị chết đuối cùng chồng bẩy tháng sau khi cưới, ngày 4/9/1846. Trên đây là bài thơ mà V.Huygô thăm mồ con ba năm sau”. Đúng là tác phong của Huy Cận, chỉn chu trong mọi việc. Ấy vậy mà năm 1993 NXB Văn học cho in một tập tuyển thơ V.Huygô, mà bài thơ Huy Cận đã dịch công bố trên báo trước đó 8 năm, lại có đầu đề khác và đối tượng tác giả đi viếng lại là người yêu. Sách ra ít lâu sau, biên tập NXB nhận được thư của anh Hoàng Bình Trọng, từ miền Trung gửi ra góp ý cho bản dịch kia trong sách của NXB. Bây giờ mới té ngửa ra: từ giám đốc đến biên tập chủ quan tin vào người dịch, là trí thức, tiếng Pháp giỏi từ trước Cách Mạng tháng Tám, không ai phân vân gì cứ thế cho in. Tôi cũng là người có phần chịu trách nhiệm trong đó bởi vì tôi là người giúp việc cho giám đốc có tên chịu trách nhiệm bản thảo. Chỉ nhớ lại bản dịch của nhà thơ Huy Cận tôi cũng thêm một lần ân hận, đỏ tai, đỏ mặt.

Đấy hai cố nhà thơ lớn, “cặp bài trùng” Xuân - Huy tham gia công việc dịch thuật, người nhiều người ít: Xuân Diệu coi dịch thuật là một mảng sáng tác ngôn từ quan trọng đời mình - trong kỷ yếu tiểu sử hội viên Hội nhà văn Việt Nam, ngoài sáng tác thơ, văn, Xuân Diệu còn đưa bốn tác phẩm dịch của mình:

1. Thơ Nadim Hitmét (1962),

2. Vây giữa tình yêu (1968),

3. Thơ Nicôla Ghiden (1982),

4. Những nhà thơ Bungari (1985)…

Đáng ra còn có thể kể: Việt Nam hồn tôi, tuyển thơ chống Mỹ do ông tuyển chọn, nhưng phần lớn là những bản dịch của ông đăng trên sách báo về đề tài này.

Còn bạn thơ của ông, nhà thơ Huy Cận, tuy không có những tập thơ dịch, nhưng thỉnh thoảng ông cho công bố bản dịch đóng góp vào các trang thơ dịch trên báo chí, thậm chí chép tặng người này người kia, nhưng qua những bản dịch lẻ tẻ ít ỏi cũng có thể thấy một Huy Cận nhà thơ đồng thời cũng có thể coi là một dịch giả đáng kính nể.

THÚY TOÀN


Phụ bản I

Âm Dương

Chị Nhàn thành khẩn chụm đầu ba cây nhang vô ngọn đèn dầu đương ngùn ngụt tỏa khói đen. Nhang bắt lửa bùng lên thành ngọn, chị chậm rãi khum bàn tay kia làm quạt nhè nhẹ dập tắt ngọn lửa. Hai bàn tay xòe ra kẹp nhang chị đứng trước bàn thờ xá xá rồi cắm vô cái ly đựng cát làm lư hương tạm. Bàn thờ dọn xong xả từ lâu. Bốn chén chè đậu trắng, chén mẻ sứt mà chè thì chỉ nằm chong chênh qua khỏi mức nửa chén, cố ý để thật xa nhau cho có phong cách bữa giỗ. Hai dĩa thịt gà xé phai từ nửa con gà mua chịu từ người bạn hàng quen thuộc mấy chục năm nay. Chị đã cố tình trộn với thiệt nhiều bắp cải, thêm nửa cái bắp chuối hột mới bẻ ngoài sau nhà, dĩa gỏi gà coi cũng bắt mắt, tươm tất và khêu gợi nhờ sự hòa hợp nhuần nhuyễn của nhiều màu sắc.

Cúng, ừ thì cúng, nhưng vẻ nghèo nàn của vật thực trong việc cúng kiếng so với bao lần trước đã đoạt mất ở chị cái tâm trạng sung sướng nhè nhẹ của người thực hiện một việc thiêng liêng của phút tương giao với người khuất mặt. Khói nhang tỏa trong không gian hẹp của căn nhà, bay mùi thơm thơm khiến nao nao nhớ đến những lần Tết nào đó đã bay hút tuyệt cùng trong thời gian tươi đẹp của quá khứ, những cái Tết háo hức bồn chồn khoe áo mới, được phép làm mọi chuyện ngày thường bị cấm đoán, những ngày chị - lúc đó là đứa trẻ - thấy mình quan trọng hơn, được mọi người quan tâm hơn và không một mảy mai trách nhiệm. Bây giờ cũng cái thời gian đó, Tết, biết bao là trách nhiệm và không còn một ai quan tâm tới mình. Đứa con gái hủ hỉ bao lâu nay năm rồi đã chết tức tưởi vì phong đòn gánh khi lượm sắt vụn cho kế hoạch nhỏ bị sắt gạch đứt tay, mẹ nó vì nghèo khó bỏ qua luôn sau khi đắp sơ sài cho con bằng mấy cọng thuốc rê với hy vọng rằng cũng không đến nỗi nào. Một mình còn lại thui thủi sớm bửng ra đi, tối mịt mới về ngả lưng thở dốc. Suốt ngày cơm đường nước chợ, ngon dở tùy theo bán buôn thành công thất bại, nắng mưa cực nhọc không biết mở miệng tâm sự cùng ai.

Chị lấy tay mặt đè đè lên bên tay trái ngực. Không đụng được chỗ thịt mềm mềm ngày xưa từng làm hướng cho bao cặp mắt khát khao, giờ chỉ nghe nhói nhói đau lăn tăn phía bên dưới trái tim, tình trạng như muốn nói có triệu chứng trục trặc chi chi đó nhưng chưa bộc lộ rõ ràng. Chị nín thở chờ cơn đau đi qua. Quái, lần nầy hơi dài hơn những lần trước. Một sự thông báo có mặt không được người nhận vui lòng chào đón. Chị chắp tay trước ngực trước lư hương, vái ông bà và vong hồn cha về dương thế thăm con cháu luôn tiện hưởng bữa cúng đơn sơ, đạm bạc. Chị hơi khựng lại một giây. Ông bà thì không cần hài tên đã đành, cha mẹ nhớ tên nhưng lại quên lửng tên ông già chồng. Chị vừa vái van vừa suy nghĩ mông lung, nghe nói người nào chết lâu quá rồi thì được đi đầu thai, hồn không thể về dương thế hưởng của cúng nữa. Mà phải như vậy mới được, nếu không đi đầu thai thì làm sao con cháu nhớ hết tên ông bà mà giỗ chạp quải đơm. Mẹ mình chắc cũng không còn dưới đó, bà chết khi mới sanh mình ra, giờ đã hơn ba chục năm rồi. Tuy nghĩ vậy chị Nhàn vẫn đọc tên mẹ, rồi vái tên cha sau. Nhớ tới người cha chồng chị muốn vái luôn nhưng hơi bối rối. Ông già ảnh chết chưa đầy năm chắc là về được. Mà kẹt quá trí nhớ hồi nầy lú lẫn tên ổng cũng không nhớ ra. Chị vừa nhắm mắt lại vừa trợn trừng mắt dưới mi, tập trung trí não lục lại tất cả chỗ ngõ ngách của trí nhớ cái tên ông già ít nhất có một vài lần chị thấy.

Thôi chịu, chị lấy ba cây nhang khác, bật hộp quẹt đốt. Hộp quẹt cây quá cụt mà thuốc hơi mềm, chị chụm ba, bốn cây làm một quẹt thiệt mạnh, nghe một tiếng cháy xè rồi tắt ngún. Chị liệng mấy cây diêm mắc dịch đó xuống đất, bóc mấy diêm khác... Ngọn lửa liếm nhang lần này thiệt mau. Chị chấp nhang giữa hai tay vái “hương hồn cha chồng tôi sống khôn thác thiêng về dương thế trong bữa cúng rước ông bà Tết năm nay”.

Cắm nhang vô ly cát lần nữa, chị mỉm cười. Vái đỡ vậy thôi, làm sao hơn được nữa, không biết vong hồn ổng về được không. Lẫn lộn quá rồi. Chị khum mình xá xá. Nghe đau nhức khó chịu chỗ xương sống ngang hông. Chỗ nầy thì nhức hoài mấy năm nay. Chứng nầy hành hạ mấy người đàn bà đẻ nhiều mà! Mình đẻ có ba đứa, đâu nhiều nhỏi gì, chắc là mấy năm gần đây lao tâm lao lực quá độ thêm vụ ăn uống thiếu thốn, cố cho đầy bao tử, bất kể thức ăn thật sự tốt hay không cho sức khỏe nên mình mẩy báo động lên tiếng đòi bồi dưỡng.

Chị vừa như mỉm cười với ý nghĩa mình mới đặt ra vừa nắm nắm tay vòng qua sau lưng đấm đấm chỗ đau. Cái đau bên ngoài lâu nay khiến tạm quên cái đau bên trong vẫn âm ỉ hiện diện. Khổ quá, cái mòi rệu rạo như răng bà già thấy được bất cứ trên vị trí nào của thân thể. Gì mà không còn chỗ nào nguyên lành coi cho được, cho vui đời nghèo. Bộ phận nào không có chuyện này cũng có chuyện kia, không đau hông thì đau xương sống, không đau chỗ tim phổi thì đau chỗ thận, bàng quang. Như chĩnh mắm nêm là đây. Ông bà mình ngày xưa nói lẩm rẩm không căn cứ trên khoa học khoa hiếc gì hết vậy mà trúng quá xá. Thân thể không còn là niềm hãnh diện của mình nữa mà đã thành một tội vạ, một gánh nặng phiền toái, ưu tư. Chị ngó lên bàn thờ, nãy giờ mà tàn nhang không rớt xuống, cong cong gần tròn một vòng nhưng than của cọng vẫn được lớp tro nhang bao bọc như khi chưa được đốt. Lớp cát trong ly vẫn còn mới tinh chưa bị phủ mặt như những lần cúng kiếng trước đây. Người ta nói đó là điềm báo ông bà về. Chị thốt nhiên đưa tay kéo áo kéo quần cho thẳng thớm chỉnh tề. Ông bà khuất mắt mày nhưng đã hiện diện trong nhà này, đang hưởng vật thực cúng kiếng của mình, không thể xốc xếch được. Chị lật đật đi mở tủ kiếm mấy cái ly nhỏ rót nước lạnh để lên trên bàn. “Xin ông bà cha mẹ tha lỗi cho, đáng lẽ phải có chút rượu làm lễ nhưng lúc này khó kiếm lại mắc quá”. Chị đứng thẳng trước bàn thờ kiểu như một người hầu hạ ông bà đương dùng tiệc. Bỗng nhiên chị thấy mình xẻn lẻn ngang, ai đời van vái xin lỗi ông bà mà nói chuyện mắc quá không mua nổi. Làm như mua chút rượu cúng ông bà là một gánh nặng không bằng. Cái khó nó bó cái khôn là vậy. Đời mạt pháp, thiên hạ sống trong túng cùng. Ước gì ảnh về được thăm mình. Ước gì giấy tờ của ảnh làm mau hơn để mình được bay ra khỏi chỗ này sớm. Nếu sớm hơn mấy năm trước thì con nhỏ đâu tới nỗi bỏ thây trong trạm y tế phường tức tưởi như vậy. Ước gì mình trúng số độc đắc được một lần, lúc nầy ngày nào cũng xổ, cũng có người trúng, mình nhịn ăn mua bao nhiêu lần, mỗi lần cả chục tấm, cũng đều như không, trật lất trật lơ, tới hai con chót an ủi cũng không bao giờ thấy.

Như là có bóng người, hai người chứ không phải một, từ chỗ bàn thờ thoáng mau lại cửa rồi trở vô. Chị định thần nhìn kỹ nhưng không thấy gì. Có lẹt đẹt vài tiếng pháo nổ xa xa, tiếng nổ cũng không lớn như ngày xưa, như là không đủ thuốc hay họ quấn giấy không được chặt. Ngoài đường nắng đã lên, tiếng người nói hòa với tiếng dép kéo lê trên mặt đường. Một cảm giác mâu thuẫn hiện lên trong lòng chị, vừa muốn ông bà về chứng kiến cảnh nghèo nàn của mình để thỏa mãn sự vái van nhưng lại vừa sợ ma. Có thể hai cái bóng vừa thấy là có thiệt chớ không phải hoa mắt nhìn lầm.

Chợt chị rùng mình, như có một bàn tay lạnh buốt rờ lên đầu chị, chị hắt hơi. Cảm rồi, chị nói thầm, ngày Tết gió độc hơn ngày thường. Tết là ngày giao thoa của hai năm mới-cũ, Tết cũng là giai đoạn liên hợp của âm-dương nên trong gió có phảng phất hơi âm, ai yếu bóng vía thường bị cảm lạnh, có khi bị liệt giường luôn. Chị đi vô buồng trong lấy thêm cái áo mặc tròng lên, nói lầm thầm trong trí, ma quở kiểu nầy chắc hết Tết nhứt gì quá!

Ngó chỗ tay áo bị rách sờn mà lòng chị quặn xuống, chị ngó quanh quất trong nhà để ước lượng những gì hơi đáng tiền mà mình có rồi ngó lên mấy cây nhang trong cái lư hương, một lần nữa chị lại ước ao ông bà phù hộ cho mình trúng số để thoát ra khỏi cảnh bần hàn đeo đẳng cả chục năm nay...

“Anh chờ tôi với, mình đi có bạn chung cho vui”.

“Sao anh coi bộ gấp vậy, mà tới bây giờ mới ra?”

“Tôi có biết gì đâu, tưởng cũng giấy tờ như mọi khi nên chần chờ, té ra ngày tư ngày Tết trên kia, ở đây mình được tự do đi lại. Khổ quá, không ai nói gì với mình nên cứ lẩn quẩn trong đó, tới chừng thấy tư bề lưa thưa còn có mấy móng mới sực biết, bỏ ra, thời may gặp được anh đây”.

“Ở chỗ nầy cái tình còn ít hơn trên kia nữa vì ai cũng biết rằng là chỗ tạm trú để chờ lịnh đi lên đó - dưới hình dạng nầy hay hình dạng kia. Lo lắng, thắc mắc cho tương lai mình nên không ai buồn ngó ngàng gì tới ai khác”.

“Dửng dưng với vấn đề của kẻ khác là yếu tính của con người dầu nó ở đâu và dưới hình thái nào”.

“Không có cái lo nào hơn hơn cái lo liên quan tới mình”.

“Tôi có lộc ăn rồi anh biết không, nghe mùi hương thì biết có người mời nhưng cần phải nghe họ vái tên mình mình mới biết phải về nhà của ai, chỗ nào. Con gái tôi đó. Ừ mà con dâu anh chớ ai”.

“Tôi cũng đã có nghe mùi hương mời nhưng vẫn thắc mắc vì không thấy nhắc tới tên mình”.

“Chắc nó quên tên ông già chồng nó rồi. Trên đó chuyện quên tên người khuất mặt khuất mày chúng ta là thường. Anh đi với tôi cho có bạn nhe. Ba ngày này âm dương giao hòa, mình đi không cần giấy phép đi đường, miễn là tới chập tối phải về có mặt là được. Họ sợ ban tối mình lang thang trên đó làm hại người dương”.

“Phải, biết bao nhiêu anh chị lợi dụng khí âm của mình làm chuyện phá làng phá xóm rồi. Ngày thường mặc dầu nhận được nhang mời, có tên kêu vẫn đi không được à?”

“Ngày thường phải cần giấy phép, nếu con cháu không hài tên mình ra thì càng khó nữa. Rằm tháng Bảy cũng là ngày Tự Do. Nói chung ở đây cái nạn thư lại bàn giấy không khác gì với trên kia là bao”. (còn tiếp)

Nguyễn Văn Sâm

(Houston, Texas, 3-1990)


Nhạc sĩ của Mùa Thu

Đặng Thế Phong & Đoàn Chuẩn

1. Đặng Thế Phong ( 1918 - 1942 ).

Ông sinh tại thành phố Nam Định . Cha là Đặng Hiển Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Vì cha mất sớm, gia cảnh túng thiếu, Đặng Thế Phong phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung tại trường trung học Saint Thomas d'Aquin. Ông lên Hà Nội vẽ cho một số tờ báo và học với tư cách dự thính tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tới năm 1939 . Thời gian ông học ở đây đã để lại một giai thoại. Trong một kỳ thi, Đặng Thế Phong vẽ bức tranh cảnh một thân cây cụt. Giáo sư, họa sĩ người Pháp Tardieu c hấm bài, khen ngợi nhưng nói rằng: Em sẽ không sống lâu được!

Cuộc đời Đặng Thế Phong rất long đong, lận đận. ông phải sống lang bạt và trải qua nhiều nghề. Tháng 2 / 1941 , ông lang thang vào Sài Gòn rồi sang Campuchia , mở lớp dạy nhạc và đến tháng 8 /1941 ông trở lại Hà Nội.

nhạc sĩ thuộc thế hệ tiên phong của tân nhạc Việt Nam , giai đoạn âm nhạc tiền chiến . Ông mất năm 24 tuổi vì bệnh lao trên một căn gác số 9 phố Hàng Đồng, Nam Định năm 1942 .

Ông chỉ để lại ba nhạc phẩm: Đêm thu ca khúc đầu tay 1940 , Con thuyền không bến hoàn chỉnh tại Nam Vang , trình diễn lần đầu tại rạp Olympia, Hà Nội năm 1941 và Giọt mưa thu 1942 - nhạc phẩm cuối cùng của ông.

Cả ba ca khúc của ông đều viết về mùa thu và hai trong số đó Con thuyền không bếnGiọt mưa thu được xếp vào những tác phẩm bất hủ của tân nhạc Việt Nam.


Tình yêu và tình ca bất tử

Đặng Thế Phong là một chàng trai khôi ngô, và đặc biệt có đôi môi đỏ như son, chính khuôn mặt “đẹp” mà như mong manh ấy phần nào nói trước một cuộc đời đoản mệnh.

Đối với gia đình, Đặng Thế Phong rất gắn bó và gần gũi với mọi người, đặc biệt chàng trai này không ngần ngại trao gửi mọi tâm sự cho người chị tên Bạch Yến như một người bạn thân thiết. Kể cả sau này khi yêu một người con gái và đó là mối tình lớn nhất, duy nhất trong cuộc đời thì Phong cũng đều chia sẻ với chị.

Trong thời gian sống và làm việc ở Hà Nội, một cơ duyên đã đưa chàng nhạc sĩ tài hoa bạc mệnh này gặp gỡ bóng hồng của đời mình, Nàng tên là Tuyết, là một thiếu nữ xinh đẹp quê ở Thái Bình, lên Hà Nội bán hàng cho người cô. Thế là sau bao ngày đêm mơ tưởng, tương tư về nàng, một buổi, Đặng Thế Phong quyết định đánh liều viết một lá thơ và lấy can đảm vào cửa tiệm trao cho nàng.

Như duyên tiền định, người thiếu nữ trong mộng của Đặng Thế Phong đã hồi âm và đáp lại tình cảm với ông. Những ngày sau đó, tài tử và giai nhân được sống trong tình yêu đẹp long lanh như cổ tích, duy chỉ có điều nó quá ngắn ngủi.

Từ tuổi còn chưa vị thành niên, Đặng Thế Phong đã có tài chơi guitar bằng những ngón đàn giàu cảm xúc và giọng hát làm xiêu lòng người. Thế nên trong tình yêu mãnh liệt đầu đời, Đặng Thế Phong đã trút hết tình cảm vào sáng tác ca khúc đầu tay “Đêm thu” vào năm 1940.

Về hoàn cảnh ra đời của Con thuyền không bến, có tài liệu cho rằng ca khúc này được Đặng Thế Phong hoàn chỉnh ở Nam Vang và lần đầu trình diễn tại rạp Olympia, Hà Nội năm 1941. Theo nhạc sĩ Lê Hoàng Long:

“Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa Tuyết (người yêu của ông) để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang đều biết thị xã này có con sông Thương, có hai dòng nước, bên đục, bên trong rõ rệt! Một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò vào trong khoang để coi thư và đây đúng là thư của người yêu từ thành Nam gửi lên cho ông, báo tin nàng nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông lung lắm! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác Con thuyền không bến buồn não ruột…

Hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau để sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai người yêu, hát nhẹ nhàng, giọng dạt dào tình cảm như rót vào tai cô bài Con thuyền không bến mà ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ nàng…”

2. Đoàn Chuẩn (15/6/1924 - 15/11/2001)

Sinh ra trong một gia đình tư sản ở Hải Phòng, ông lớn lên ở Hà Nội và là nghệ sĩ chơi đàn ghi-ta Hawaii. Ông sáng tác ca khúc đầu tiên là “Ánh trăng mùa thu” vào năm 1947. Ca khúc này gắn với một kỷ niệm về làng Khuốc (đất Chèo).

Tất cả ca khúc của ông đều được ghi tên tác giả là “Đoàn Chuẩn-Từ Linh”. Thực ra Từ Linh (? - 1992) không trực tiếp tham gia sáng tác, nhưng Đoàn Chuẩn ghi tên chung hai người để tôn vinh người bạn tri âm của mình, tôn vinh tình bạn đã góp phần tạo cảm hứng nghệ thuật. Từ Linh tên thật là Hà Đình Thâu - một nhiếp ảnh gia. Cái tên chung để sử dụng vẫn là một ẩn số đối với công chúng. Đầu năm 2000, ông bị tai biến mạch máu não và qua đời lúc 22 giờ, ngày 15/11/2001.

Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và Từ Linh

Có thể nói, tình bạn giữa Đoàn Chuẩn - Từ Linh là một tình bạn mẫu mực. Chơi thân với nhau từ thời trai trẻ, khi cả hai tiền nong đều rất dư dả (hiện gia đình Từ Linh còn giữ được giấy mời xem phim của rạp Đại Đồng có ghi Giám đốc Đoàn Chuẩn và Phó giám đốc Từ Linh), cho đến khi Từ Linh ốm rồi tạ thế, Đoàn Chuẩn vẫn trước sau như một. Hôm tang lễ Từ Linh, trong vòng hoa viếng bạn, thay vì hai chữ “vĩnh biệt”, Đoàn Chuẩn lại viết là “Tạm biệt Từ Linh”.

Buồn thay và cũng trớ trêu thay, năm ông mất cũng là năm những nhạc phẩm của Đoàn Chuẩn - Từ Linh được ký giấy phép cho phổ biến lại ở trong nước, vì thế không chắc là ông có đã dịp nào để nghe được những bài nhạc mà nếu ông không dự phần vào việc sáng tác thì cũng ít nhiều liên hệ. Ít ra thì Đoàn Chuẩn cũng may mắn hơn ông chút đỉnh (dù khá muộn màng) là “thân bại” nhưng “danh chưa liệt”, vào những năm tháng cuối đời còn được người đời đến gõ cửa xin phỏng vấn ít câu. Còn Từ Linh, vì ít có ai biết rõ về ông, cũng chẳng ai kịp phỏng vấn, hỏi han gì đến ông như là Đoàn Chuẩn nên ông không có được cơ hội nào để bộc lộ. Ông chỉ như chiếc bóng mờ nhạt bên cạnh Đoàn Chuẩn.

Đoàn Chuẩn hay Từ Linh, ai tài hoa hơn ai? Nếu chỉ căn cứ vào những tấm ảnh hai chàng chụp chung với nhau thời còn trai trẻ thì Đoàn công tử có nhiều phần đẹp trai hơn, nhưng chàng nào trông cũng có vẻ “nghệ sĩ đa tình” cả. Phong lưu hơn, chắc phải là Đoàn Chuẩn, vì chàng là công tử con nhà giàu. Chàng nghệ sĩ Đoàn Chuẩn được nuông chiều hết mực và ăn xài rộng rãi, thả giàn. Chắc là chàng cũng ít nhiều tiếc nhớ thời vàng son ấy nên trong “Đường về Việt Bắc” mới có câu “Tiếc đời gấm hoa ta đành quên”. Chàng được nuôi cho ăn học đàng hoàng, môn học mà chàng say mê nhất là âm nhạc, và chàng cũng sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như vĩ cầm, tây ban cầm và hạ uy cầm. (Một trong những người thầy có uy tín của chàng là nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ, tác giả “Giáo đường im bóng”). Vừa đẹp trai, vừa con nhà giàu, lại vừa tài hoa lẫn phong lưu rất mực như vậy, chắc hẳn cánh “bướm đa tình” là chàng đã phải mặc sức mà “đùa vui trên muôn hoa, bên những bông hồng đẹp xinh” của Hà Thành hay thành phố Cảng, chứ đâu có lý nào chàng lại than thở “thuyền tình không bến đỗ người ơi” và thở than “đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi”, nghe mà thảm sầu!…

Tất nhiên, như hầu hết các nhạc sĩ sáng tác khác, không phải tất cả những bài nhạc Đoàn Chuẩn - Từ Linh viết ra đều hay, đều là “tuyệt phẩm” như nhiều người vẫn gọi… Những bài như “Cánh hoa duyên kiếp”, “Gửi người em gái” (hay “Gửi người em gái miền Nam”)… tuy có hay nhưng nhạc điệu và lời hát cũng không sánh được với những bài trước đó. Điều rõ ràng là, sau ngày nhạc sĩ Đoàn Chuẩn qua đời, người ta vẫn hay làm công việc giới thiệu lại những tình khúc gọi là “tiêu biểu” của hai ông, được hiểu là những bài hay nhất, được nhiều người yêu chuộng nhất, những bài kể trên ít được nhắc đến… Ngoài những bài nhạc được phổ biến từ trước, những bài khác nữa nếu có, cũng ít người biết đến, ít được giới yêu nhạc chú tâm và tán thưởng.

Hiện đã xác định được tổng cộng là 19 ca khúc của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, trong đó các sáng tác của ông thường đề cập nhiều đến mùa thu:

1. Ánh trăng mùa thu 1947 (ca khúc đầu tay) 2. Tình nghệ sĩ 1947, 3. Đường về Việt Bắc 1948, 4. Lá thư 1949, 5. Thu quyến rũ 1950, 6. Chuyển bến 1952, 7. Gửi gió cho mây ngàn bay 1952, 8. Cánh hoa duyên kiếp (hay “Dạ lan hương”)1953, 9. Lá đổ muôn chiều 1954, 10. Tà áo xanh (hay “Dang dở”) 1955, 11. Chiếc lá cuối cùng 1955

TỪ KẾT:

- Mùa Thu “ sầu mộng Đặng Thế Phong

Ca khúc Giọt Mưa Thu được ông viết vào những ngày cuối đời trên giường bệnh năm 1942 . Ban đầu bản nhạc mang tên Vạn cổ sầu , nhưng theo ý một vài người bạn, ông đặt lại là Giọt mưa thu cho bớt sầu thảm hơn. Một số ý kiến cho rằng ca khúc này có sự tham gia viết lời của cố nhạc sĩ Bùi Công Kỳ .

Giọt Mưa Thu được xếp vào những ca khúc hay nhất của tân nhạc VN . Phạm Duy cho rằng Giọt Mưa Thu cùng hai nhạc phẩm khác của Đặng Thế Phong khởi đầu cho dòng “nhạc thu” Việt Nam sẽ được Văn Cao Đoàn Chuẩn tiếp nối. Giọt Mưa Thu cũng là cảm hứng cho nhạc sĩ Hoàng Dương sáng tác bài Tiếc thu nổi tiếng và kể cả Trịnh Công Sơn đã ảnh hưởng bởi Giọt Mưa Thu khi viết ca khúc đầu tay Ướt mi (khi TCS xúc động nghe “Thanh Thúy liêu trai” hát bài Giọt mưa thu và cảm hứng sáng tác bài Ướt mi để riêng tặng nữ ca sĩ mà ông yêu mến) .

Giọt Mưa Thu ( Vạn cổ sầu) - Đặng Thế Phong

Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi,

Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi

Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu, Ai khóc ai than hờ!

Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành,

như nhủ trời xanh

Gió ngừng đi, mưa buồn chi, cho cõi lòng lâm ly…

Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây,

Lòng vắng muôn bề không liếp che gió về

Ai nức nở thương đời, chân buông mau,

dương thế bao la sầu

Người mong mây tan cho gió hiu hiu lạnh,

mây ngỏ trời xanh

Chắc gì vui, mưa còn rơi, bao kiếp sầu ta nguôi

Gió xa xôi vẫn về. Mưa giăng mù lê thê

Đến bao năm nữa trời... Vợ chồng Ngâu thôi khóc vì thu.

- Mùa Thu “lạc quan Đoàn Chuẩn”

Đối với nhiều người, mùa thu như một bức tranh đẹp nhất trong bốn mùa với màu xanh của đất trời, với sắc vàng của hoa cúc, của áo mơ phai và của cả lá vàng. Mùa thu là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ và nhạc sĩ. Nhưng sáng tác hay và lấy mùa thu là chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm của mình có lẽ chỉ có Đoàn Chuẩn - Nhạc sĩ của mùa thu.

Nghe nhạc Đoàn Chuẩn, ta cảm thấy có tiếng lá rơi nhè nhẹ, có tiết heo may se lạnh, có cả mùi thơm của cốm ủ lá sen. Nghe giai điệu của ông, ta cảm thấy bâng khuâng, yêu thương, luyến tiếc…

Thu Quyến Rũ - Đoàn Chuẩn & Từ Linh

Anh mong chờ mùa Thu,

Trời đất kia ngả mầu xanh lơ

Đàn bướm kia đùa vui trên muôn hoa,

Bên những bông hồng đẹp xinh.

Anh mong chờ mùa Thu,

Dìu thế nhân dần vào chốn Thiên Thai

Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay.

Mùa Thu quyến rũ Anh rồi.

Mây bay về đây cuối trời, Mưa rơi làm rụng lá vàng,

Duyên ta từ đây lỡ làng,

Còn đâu những chiều. Dệt cung đàn yêu.

Thu nay vì đâu tiếc nhiều, Thu nay vì đâu nhớ nhiều

Đêm đêm nhìn cây trút lá,

Lòng thấy rộn ràng, Ngỡ bóng ai về.

Anh mong chờ mùa Thu,

Tà áo xanh nào về với giấc mơ

Mầu áo xanh là mầu anh trót yêu,

Người mơ không đến bao giờ.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)

HÀN MẶC TỬ

TRONG MẮT MỘT DỊCH GIẢ NGƯỜI PHÁP


90 NĂM NGÀY SINH HÀN MẶC TỬ (22/9/1912-2002)

Le Hameau des Roseaux, Đây thôn Vỹ Dạ là tên một tập thơ Hàn Mặc Tử được dịch ra tiếng Pháp và được NXB Arfuyen, Paris, cho ra mắt bạn đọc năm ngoái. Dịch phẩm gồm 60 bài thơ chọn lọc trong các tập Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương, Xuân Như ýThượng thanh khí. Hai người đứng tên đằng sau công việc dịch thuật khó khăn này là Hélène Péres và Vũ Thị Bích, trong đó Hélène Péres giữ vai trò chính. Bà vốn là một bác sỹ từng có luận án về Khái niệm trực giác trong Bệnh lý học tâm thần. Nhưng từ những năm 60 bà có làm thơ, trong đó có những tác phẩm đáng chú ý như Résonances - Âm vang (1978), La mémoire et la voix - Ký ức (1983), Le dévoilement - Vén màn (1998)… Bà bắt đầu tìm hiểu tiếng Việt gần mười năm nay. Năm 1993 bà đã đến Việt Nam và có lẽ quyết định dịch thơ Hàn Mặc Tử từ lúc ấy. Đồng thời với việc dịch, bà đã nghiên cứu về Thơ mới nói chung, về Hàn Mặc Tử nói riêng khá sâu sắc. Cuối tập thơ có in kèm một bản tiểu sử nhà thơ do bà soạn được và những người am hiểu Hàn Mặc Tử cho là kỹ lưỡng và chính xác. Sau đây là một số suy nghĩ được bà trình bày trong một cuộc phỏng vấn, sau khi dịch phẩm được hoàn thành (những đầu đề nhỏ là của TT&VH):

Tại sao tôi lại đến với thơ Hàn Mặc Tử?

Mọi sự xảy ra như sau: Khi tôi bắt đầu tiếp cận tiếng Việt, tôi học với chị Vũ Thị Bích, bạn tôi, chị Bích đưa tôi đọc vài mẩu thơ của Hàn Mặc Tử và tôi cảm thơ ông từ đấy. Lúc ấy, tiếng Việt của tôi vẫn còn thô sơ, cho nên tôi phải học thêm, đào sâu thêm, và dần dần tiến thêm, tôi đọc được thơ Hàn Mặc Tử. Sau đó tôi có ý định dịch và in tập thơ này với sự cộng tác của chị Vũ Thị Bích, bởi vì, nếu không có chị thì chắc tôi đã không hoàn tất được tác phẩm này.

Quá trình dịch từ thơ có vần đến thơ tự do

Đây là một công việc dàn trải trên 5 năm. Như tôi vừa nói lúc nãy, bước đầu là tự tôi, phải đọc và hiểu thơ Hàn Mặc Tử, nhưng dĩ nhiên, với khả năng tiếng Việt còn non yếu, tôi phải nhờ chị Bích giúp, nhất là khi tôi dịch mà vấp phải những từ Hán Việt, hoặc những từ không có trong từ điển, chị Bích đã giúp tôi tránh dịch phản nghĩa, điều đó rất quan trọng. Việc chuyển ngữ sang thơ Pháp có vần sẽ đưa đến rất nhiều phản nghĩa. Hơn nữa, cũng không thể chuyển từ một ngôn ngữ đơn tiết như tiếng Việt, với những câu thơ bảy chữ, tám chữ, sang một câu thơ tiếng Pháp đều đặn, mà chữ Pháp như ta đã biết, thường đa tiết, làm như thế sẽ không tránh khỏi việc phá vỡ ý và lời thơ. Tôi nghĩ rằng trong việc dịch, chúng ta phải rất khiêm nhường, cố gắng nói lên bằng giọng người dịch, cái tiếng của nhà thơ, chứ không được áp đặt một cách giả tạo những vần điệu không ăn nhập gì với ngôn ngữ thơ của tác giả.

Mối quan hệ giữa Hàn Mặc Tử và các nhà thơ khác trong Trường Thơ loạn

Thời kỳ ấy, như mọi người đã biết, là một thời kỳ lịch sử đầy xao động, khó khăn và những biến cố lịch sử kinh hoàng của thế giới đang ngấm ngầm chuẩn bị. Tôi rất xúc động nhìn thấy, giữa những xáo động ấy, có một nhóm người Việt trẻ tuổi, sau này trở thành nhóm nhà thơ trẻ Bình Định, xoay quanh Hàn Mặc Tử, họ trao đổi với nhau, đưa ra những tranh luận sôi nổi về thi ca, những người viết trẻ này rất quý mến nhau, họ say mê thể loại Thơ mới vừa ra đời ít lâu trước đó, nhưng phải nói là nhờ họ mà phong trào Thơ mới được mở rộng: Những cấm kỵ, những niêm luật khắt khe của thơ Đường luật đã tan vỡ để nhường chỗ cho một cách diễn đạt mới, một trữ tình cuồng nhiệt và thành thực, và tôi nghĩ rằng những điều đó rất đáng được chú ý. Trong số những người ấy phải kể Chế Lan Viên, Yến Lan, sau nữa là Bích Khê và Quách Tấn, bạn thân của Hàn Mặc Tử. Tuy Quách Tấn là một nhà thơ cổ điển, nhưng ông vẫn giữ mối liên lạc chặt chẽ với nhóm này. Hiện tượng những nhà thơ trẻ này cần được nghiên cứu một cách cẩn trọng, nhất là người ta tìm thấy trong ngôn ngữ thơ của Hàn Mặc Tử, những điểm mà người ta lại thấy trong cách diễn tả của những người khác. Ví dụ có những điểm tương đồng trong thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê, Hàn Mặc Tử và Yến Lan. Tôi nghĩ rằng đây có một hiện tượng mà người ta gọi là liên văn bản - l’intertextualité - rất thú vị.

Những ảnh hưởng từ các nhà thơ Pháp đã được tiêu hóa nhuần nhuyễn

Dĩ nhiên là một số nhà thơ Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, người ta thường bắt gặp dấu ấn của những nhà thơ lớn của Pháp, những nhà thơ lãng mạn, hậu lãng mạn và tượng trưng. Nhưng nếu có những dấu vết ấy thì nó đã được tiêu hóa nhuần nhuyễn, được hội nhập sâu xa, trong tinh thần và cảm xúc thi ca Việt Nam. Chắc chắn là qua những tiếp xúc với các nhà thơ Pháp, Hàn Mặc Tử có sự giàu thêm, phóng khoáng hơn, tự do hơn trong cách diễn tả những trữ tình và cảm xúc. Nhưng đó không phải là sự bắt chước hay sao chép dưới bất cứ hình thức nào. Mà ảnh hưởng này đã tan ra, biến vào thơ ông, để trở thành một nghệ thuật hoàn toàn Việt Nam.

Chính Hàn Mặc Tử cũng đã giải thích điều đó trong một bài viết về quan niệm thơ của ông. Trong bài này, Hàn vừa công nhận món nợ với Baudelaire, lại vừa giữ khoảng cách với Baudelaire. Theo ông tự nhận xét, thì những đam mê của mình nghiêng về tinh thần, còn ở Baudelaire, những đam mê nghiêng về thể xác. Dĩ nhiên ở Hàn Mặc Tử cũng có những đam mê thể xác, rất mãnh liệt nữa, nhưng chúng luôn luôn hướng thượng, về phía đạo. Chúng ta đừng quên Hàn Mặc Tử là nhà thơ Công giáo, và điều này là cốt yếu trong tác phẩm của ông, nhất là trong phần cuối, ông đã nuôi dưỡng nguồn thơ của mình, không những qua thi ca mà còn qua cả Thánh kinh, Phúc âm, qua các lễ thức thánh giáo nữa.

T.K. (lược dịch) - HOÀNG KIM THƯ st.

Cho tới tận cùng của vô vọng, thơ Hàn luôn luôn là một êm ái dịu dàng, một ánh sáng vô minh, một niềm vui huyền diệu làm cho Hàn rung động đến phút cuối.

Trích bìa bốn Le Hameaux des Roseaux

THẾ KỶ XX: NHỮNG KỶ LỤC

ĐÁNG GHI NHỚ CỦA ĐIỆN ẢNH THẾ GIỚI

Vào tháng 10-2000 - Hiệp hội Điện ảnh thế giới - có văn phòng đặt tại thành phố New York, Mỹ, đã cho công bố những kỷ lục đáng ghi nhớ của điện ảnh thế giới trong thế kỷ XX, kể từ khi hai anh em nhà Lumière phát minh ra máy chiếu phim vào cuối thế kỷ XIX.

Kỷ lục về quốc gia sản xuất phim nhiều nhất

Ấn Độ là quốc gia đã giữ kỷ lục thế giới trong suốt 3 thập niên cuối thể kỷ XX về lượng phim sản xuất nhiều nhất hằng năm. Đỉnh điểm là vào năm 1990, khi lượng phim do Ấn Độ sản xuất đã lên đến con số 1.000, trong khi chỉ có 385 bộ phim được sản xuất tại Mỹ và 156 bộ tại Pháp.

Kỷ lục về những nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong các bộ phim

Đó là nhân vật thám tử Sherlock Holmes (trong các tiểu thuyết của nhà văn Conan Doyle) xuất hiện trong tất cả 197 bộ phim. Kế đến là Hoàng đế Napoléon xuất hiện trong 172 bộ phim, rồi Bá tước ác quỷ Dracula xuất hiện trong 155 bộ phim và Đức Chúa Jesus Christ xuất hiện trong 125 bộ phim. Những nhân vật nổi tiếng khác như người rừng Tarzan, cô bé lọ lem Cendrillon, anh hùng lục lâm thảo khấu Robin Hood, nữ hoàng Ai Cập cổ đại Cléopâtre cũng đã có mặt trong 100 bộ phim.

Kỷ lục về lượng khán giả đến rạp xem một bộ phim

Kể từ khi thực hiện vào năm 1939, bộ phim Cuốn theo chiều gió nổi tiếng của điện ảnh Mỹ, dựa theo tác phẩm cùng tên của nữ văn sỹ Margaret Mitchell, đã được 120 triệu khán giả khắp thế giới mua vé vào xem tại rạp chiếu bóng.

Kỷ lục về số giải thưởng được trao cho một bộ phim

Đó là bộ phim sử thi Ben Hur thực hiện vào năm 1959 bởi điện ảnh Mỹ đã đoạt đến 11 giải thưởng Oscar. Kế đến là bộ phim Cuốn theo chiều gió cũng đoạt được 10 giải thưởng Oscar. Riêng bộ phim Pháp Chuyến tàu điện ngầm cuối cùng đã đoạt được 11 giải thưởng Césars vào năm 1981. Đến năm 1991, bộ phim Cyrano de Bergerac cũng đã đoạt đến 10 giải thưởng Césars.

Kỷ lục về kinh phí thực hiện cao nhất cho một bộ phim

Đầu tiên là “siêu phẩm điện ảnh” bộ phim Titanic với chi phí thực hiện lên đến gần 300 triệu USD. Kế đó là bộ phim Thế giới nước do diễn viên điện ảnh Mỹ Kevin Costner vừa đóng vai chính vừa làm đạo diễn, thực hiện vào năm 1995 với kinh phí lên đến gần 200 triệu USD. Tiếp theo là các bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao (phần 2 mang tên Bóng ma đe dọa), Rambo III, Siêu nhân, Có ai sợ thỏ Roger không?...

Kỷ lục về độ dài thời lượng của một bộ phim

Đó là bộ phim do điện ảnh Anh sản xuất vào năm 1970 có tựa đề Bộ phim dài và buồn tẻ nhất thế giới, có thời lượng dài đến 48 giờ chiếu liên tục. Tuy nhiên, bộ phim này chỉ được chiếu biểu diễn để đoạt kỷ lục thế giới về độ dài thời lượng của bộ phim chứ không được thương mại hóa.

Bộ phim dài thứ 2, nhưng rất có giá trị, mang tựa đề Napoléon, do đạo diễn Abel Gare thực hiện vào năm 1927, có thời lượng đến 9 giờ.

Kỷ lục về sự nổi tiếng của một nhân vật phim hoạt hình

Chắc chắn đó phải là chú chuột Mickey được sản sinh lần đầu tiên trên màn ảnh vào tháng 11-1928 và được lồng tiếng nói bởi chính người khai sinh ra nó là Walt Disney. Ngày nay, hình ảnh của chuột Mickey được khai thác bởi trên 3.000 doanh nghiệp lớn nhỏ khắp thế giới và đã mang về cho Công ty điện ảnh Disney tiền bản quyền lên đến 60 triệu USD/năm.

Kỷ lục lạ về một bộ phim có thể tỏa mùi

Đó là bộ phim Polyester do Mỹ sản xuất vào năm 1981. Khán giả vào rạp xem phim này sẽ được tặng một tấm bìa cứng mà trên đó có dán 10 túi nhỏ được đánh số thứ tự từ 1-10. Khi một con số nào đó xuất hiện trên màn ảnh thì khán giả mở chiếc túi nhỏ có cùng số ra. Và thật bất ngờ, khi từ trong túi bốc ra các mùi, khi thì thơm như bông hoa hồng, khi thì hôi như tất để lâu không giặt hay nồng như xăng…

Kỷ lục về bộ phim có nhiều cảnh hôn nhau nhất

Đó là những cảnh trong bộ phim Don Juan do điện ảnh Mỹ sản xuất vào năm 1927. Trong phim này, nhân vật đóng vai Don Juan đã thực hiện đến 127 cảnh hôn nhau với 2 nữ diễn viên đóng chung với mình.

Còn trong lịch sử điện ảnh thế giới thì nụ hôn lâu nhất kéo dài đến 3 phút 5 giây do nữ diễn viên Jane Wayman - vợ đầu tiên của cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan - thực hiện trong bộ phim sản xuất vào năm 1940.

Kỷ lục về màn ảnh chiếu phim lớn nhất

Đó là màn ảnh hình bán nguyệt được thiết kế trong Trung tâm chiếu phim Imac ở thủ đô Paris, Pháp. Được biết màn ảnh này có diện tích rộng đến 1.144m2, đến nỗi cả 500 ghế ngồi đều được thiết kế nghiêng tự động theo tầm nhìn của khán giả đối với một nhân vật nào đó trong phim.

Còn rạp chiếu phim có sức chứa lớn nhất thế giới hiện nay là rạp Radio City Music Hall ở thành phố New York, có thể đón một lần đến 6.000 khán giả vào xem phim.

VĂN HÒA (theo Ciné Revue) - ĐỖ THIÊN THƯ st.

ĐỀN BÀ CHÚA KHO

(BẮC NINH)


Đền Bà Chúa Kho nằm trên lưng chừng ngọn núi Kho, tại khu Cô Mễ, phường Vũ Ninh, Tp.Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Đây không chỉ là khu di tích lịch sử có giá trị nằm trong quần thể di tích của khu Cô Mễ (gồm: Đình - Chùa - Đền) mà còn là nơi hàng năm nhân dân khắp cả nước hành hương mang tính tín ngưỡng. Ngay sau đền thờ Bà Chúa vẫn còn một đường hầm có kết cấu hình mái vòm nằm lùi sâu trong chân núi, chỗ cao nhất của đường hầm là gần 2m, đào xuyên qua lòng núi Kho để đi ra phía sông Cầu (sông Như Nguyệt), cửa hầm phía này rất khó bị phát hiện. Các bô lão nhiều đời đều nói đường hầm do Bà Chúa Kho xây dựng. Thời xa xưa, khi chưa có đê điều chống úng lụt cao rộng, kiên cố như bây giờ có lẽ cửa hầm cũng chính là bến cảng để tập kết và điều chuyển binh lực, vật lực đi các nơi. Đây cũng là cứ điểm quân sự lợi hại bởi tính bất ngờ, đặc biệt dễ thủ khó công. Khi đêm xuống quân đội Nhà Lý có thể bí mật tập kích quân địch đang đóng ở bờ bên kia sông Như Nguyệt sau đó xuôi dòng rút quân lên thành Thị Cầu. Phía trước đền Bà Chúa Kho là một đầm nước rất rộng bao quanh 3 mặt là núi có thể đi thuyền nhẹ vào tận chân núi Chùa hoặc xuyên ra hồ Thủy (nay đã bị bồi lấp) tiến theo hướng nam để về thành cổ Bắc Ninh (dọc theo đường tàu hỏa ngày nay). Suối Hoa xưa nằm trên con đường này; một mặt còn lại đi ra sông (nay bi chắn bởi con đê bằng bê tông). Trong những năm chiến tranh chống Mỹ nó là nơi đóng quân của tiểu đoàn cầu phà quân đội ta nên có thể suy ra rằng thời xưa có thể là nơi tập kết của thủy binh nhà Lý.

Ngôi đền có liên quan đến sự kiện Lý Thường Kiệt lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống năm 1076. Vào thời đó ở làng Cô Mễ, núi Kho, Cầu Gạo... vốn là những nơi đặt kho lương thực của quân Lý ở bờ nam chiến tuyến Như Nguyệt (Sông Cầu). Núi Kho, núi Dinh, Thị Cầu cũng vốn là một vị trí chiến lược có thể kiểm soát con đường từ Lạng Sơn qua sông Cầu về Thăng Long xưa.

Đền Cô Mễ thờ Bà Chúa Kho chính là nơi tưởng niệm một người phụ nữ Việt Nam đã khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong thời kỳ trước và sau chiến thắng Như Nguyệt.

Vào đời nhà Lý, Bà có công giúp triều đình trông coi kho lương thực tại Núi Kho (tỉnh Bắc Ninh) và đã “thác” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống vào ngày 12 tháng 1 năm Đinh Tỵ (1077).

Nhà vua thương tiếc phong cho Bà là Phúc Thần. Người dân nhớ thương Bà lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho.

Bà Chúa Kho xuất thân từ một gia đình nghèo khó ở làng Quả Cảm gần đó. Sau khi lấy vua Lý, thấy ruộng đất ở đây bị hoang hóa, bà xin vua cho về làng chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang. Không ai biết tên bà, khi bà qua đời, nhân dân lập đền thờ để ghi lại công ơn bà là đã hết lòng chăm lo cho dân ấm no, trông coi các “lẫm thóc, lẫm tiền” của Nhà nước. Công lao của bà đã được triều đại phong kiến ghi nhận qua việc sắc phong đền thờ bà là “Chủ khố linh từ” (Đền thiêng thờ bà Chúa Kho).

Ở thôn Cô Mễ còn một ngôi đình và ngôi chùa cổ. Chùa Cô Mễ có từ lâu đời. Ngày nay trong chùa còn ba pho tượng đá khá đẹp mang rõ phong cách điêu khắc thời Mạc. Chùa còn lại đến nay là kiến trúc thế kỷ XIX, làm theo kiểu chữ T chạm khắc công phu. Đình Cô Mễ kiểu chữ Nhất với năm gian, hai vì. Các mảng chạm khắc gỗ thể hiện theo các đề tài long vân khánh hội, ngũ hổ tranh châu với nghệ thuật điêu luyện. Đình thờ Trương Hống, Trương Hát là những anh hùng có công giúp Triệu Quang Phục (549-570) chống giặc Lương.

Hiện nay một số nhà nghiên cứu công bố các công trình khảo cứu khẳng định Đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh không thờ một người phụ nữ trông kho lương (dẫn chứng?) và chỉ ra các ngôi đền ở Hà Nội, Hà Tĩnh, Nam Định mới thực sự thờ (một vài) thần mẫu trông coi kho lương của triều đình (triều Trần, triều Nguyễn).

Tuy nhiên các công bố này hầu như không đến với người dân, hàng năm vẫn có hàng nghìn người từ các nơi trên khắp Việt Nam và nước ngoài hành hương đầu xuân về Bắc Ninh để cầu tài cầu lộc, quan trọng nhất là vay tiền Bà Chúa Kho, mong cho một năm mới công việc xuôi thuận, phát tài.

Cũng giống như ở Bắc Ninh gồm có (Đình - Chùa - Đền), Chùa Tiên Sơn là ngôi chùa cổ có từ thời nhà Lý và Đền thờ Bà Chúa Kho là nơi tưởng niệm người phụ nữ đã khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong thời kỳ trước và sau chiến thắng Như Nguyệt (1076) cũng có từ thời này sau này do chiến tranh và phong trào bài trừ tín ngưỡng dân gian nên ngôi chùa đã bị phá đổ nát, miếu Bà Chúa cũng theo đó xuống cấp, mãi tới gần cuối thế kỷ 18 dân làng ở đây đã trùng tu lại nhỏ gọn bên cánh tả của chùa Tiên Sơn. Phía sau chùa Tiên Sơn là kho quân lương dành cho quân binh sĩ và tích trữ cứu đói cả vùng Phủ Đức Quang, Thiên Lộc, La Sơn.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Lịch triều hiến chương loại chí tại núi Tiên, “Minh Lang Minh Lương Vân Chàng” thuộc bộ Việt thường cổ Vương quốc kinh đô ngàn Hống cư dân bộ lạc Việt thường quốc bên cạnh Sông Lam (Cựu Đô Ngàn Hống) của cư dân bộ lạc Việt thường quốc bên Sông La, kênh nhà Lê (dòng Minh Giang) và Sông Lam dưới chân núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh (Cựu Đô Ngàn Hống) nay là Hồng Lĩnh có 199 ngọn (theo Ngọc Phả Hùng Vương hiện lưu giữ tại bảo tàng Hùng Vương) bên cạnh Dinh Đô Quan Hoàng Mười.

Tương truyền, Bà Chúa Kho là người có nhan sắc tuyệt trần, có công chiêu dân dựng lập làng xóm vùng Đàng Ngoài, giúp nhân dân khai khẩn đất đai nông nghiệp vùng Hoan Châu Nghệ An thời Lý - Trần, từ năm 1030. Vào đầu thời kỳ này (đầu thời nhà Lý), đất Hà Tĩnh (phía bắc đèo Ngang) vẫn là vùng đất biên cương của Đại Việt với Chiêm Thành...

Sau này bà trở thành một vị hoàng hậu (tương truyền vào thời Lý), giúp nhà Vua trong việc kinh bang đất nước, giữ gìn kho lương. Bà đã bị giặc giết trong lúc phát lương cứu đỡ dân làng vào ngày 12 tháng 1 năm Đinh Tỵ (1077).

Cảm kích đối với tấm lòng bao dung của bà, nhà vua đã có chiếu phong cho bà là Phúc Thần, nhân dân Minh Lương của nước Đại Việt nhớ ơn và lập đền thờ ở vị trí kho lương sau chùa trước kia. Niên giám 1009-1225 đây là ngôi Miếu Thờ vọng Bà Chúa Kho duy nhất của dãy đất Miền Trung nguyên mẫu sau Cổ Mễ Bắc Ninh.

Đền Bà Chúa Kho ở Tiên Sơn nhìn về hướng Bắc, phía trước đền là dải đồng lúa trũng, uốn khúc theo triền núi bên ngã ba sông Lam, sông La và dòng Minh Giang uốn lượn quanh làng, quanh năm dòng nước trong xanh. Ðền có kiến trúc thời Lê, được bố trí theo chiều dọc, chạy từ chân lên sườn núi Tiên Sơn.

Cũng giống như ở Cổ Mễ Bắc Ninh, cổng tam quan là công trình mở đầu cho cụm kiến trúc này. Các công trình kiến trúc chính của đền, chùa bao gồm sân đền, hai dải vũ, tòa tiền tế, hậu cung... Tất cả tạo thành một thể thống nhất, uy nghi.

Hàng năm trước đây nhân dân địa phương đều tổ chức ngày giỗ rất trang trọng với những nghi thức truyền thống, sau này do bị phế tích lãng quên nên nghi thức lễ hội dần mai một, bây giờ mới dần khôi phục hồi sinh. Đại lễ hội Đền Tiên Sơn được tổ chức trang nghiêm vào ngày 15 tháng giêng hàng năm.

BÙI ĐẸP st.

 


Phụ bản II

TẢN ĐÀ (1889-1939)

TIỂU SỬ VÀ CUỘC ĐỜI


Trời sinh ra bác Tản Đà,

Quê hương thời có, cửa nhà thời không.

Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông,

Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly.

Túi thơ đeo khắp ba kỳ,

Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng.

- “Dạ bẩm lạy Trời, con xin thưa:

Con tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn

Quê ở Á Châu, về Địa cầu

Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt”.

…Đà chưa cạn, Tản chưa mòn,

Còn ai thi sĩ, lại còn tri âm.

Nực cười cho bác Mai lâm,

Thương nhau chi sớm ! Mà lầm khóc nhau.

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sinh năm Thành Thái nguyên niên (năm thứ nhất) tức là năm Kỷ Sửu, ngày 20 tháng 4, dương lịch là 25-5-1889 (không phải sinh năm Mậu Tý 1888 như nhiều tài liệu chép), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, một làng trung du nhỏ bên sông Đà, chỉ cách núi Tản Viên 10 km đường chim bay. Nay Khê Thượng được nhập với một số xã khác trở thành xã Sơn Đà thuộc huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội.

Tản Đà thuộc một dòng họ khoa bảng lâu đời, chính quán ở làng Lũ tức Kim Lũ, thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, có sông Tô Lịch chảy qua. Nay nhà thờ tổ họ vẫn còn ở xã, được xếp vào di tích liệt hạng, vì có nhiều nhân vật lịch sử và danh nhân văn hóa của đất nước, như Nguyễn Công Thể (Công Thái); tổ sáu đời của Tản Đà, được phong đến chức Tả thị lang Bộ Lại, Thượng thư Bộ Lễ, Thái bảo Thái phó Kiều quận công, đã có công đấu tranh với triều đình nhà Thanh để giữ được đất biên cương ở trấn Tuyên Quang bị nhà Thanh lấn chiếm; Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (thần Siêu thánh Quát); đầu xứ Trừu tức Hổ Trừu, nhà thơ trào phúng, tú tài Quyến, em ruột Hổ Trừu, theo lãnh tụ Cần vương Ngô Quang Bích được cử sang Trung Quốc tìm gặp Tôn Thất Thuyết v.v… Nhà thơ trào phúng Nễ Xuyên Nguyễn Thiện Kế cũng là anh rể của Tản Đà.

Khi nhà Nguyễn nắm được quyền thống trị đất nước, các cụ dòng họ Nguyễn làng Khê Thượng đã lập lời thề không ra làm quan với triều đại mới. Từ đó, dòng họ sa sút nghèo khổ, chỉ làm “thầy đồ làng”; tới Nguyễn Danh Kế (1837-1891) là thân sinh Nguyễn Khắc Hiếu vừa phải đi học vừa làm thợ thổ (làm đất thuê) để nuôi mẹ.

Vì quá túng thiếu nên Danh Kế đã ra thi, đỗ cử nhân triều Tự Đức, bổ tri huyện Nam Sang, tri phủ Trí Nhân, rồi Xuân Trường (đều thuộc Hà Nam Ninh ngày nay), thăng án sát Ninh Bình rồi mất. Tuy gửi thân vào chốn quan trường nhưng Danh Kế có cốt cách một nhà nho tài tử, và, trong chốn bình khang đã gặp một đào nương tài sắc ở phố Hàng Thao - Nam Định là Nhữ Thị Nghiêm. Yêu vì tài, cảm vì tình, hai người đã lấy nhau hồi Danh Kế làm tri phủ Xuân Trường. Từ cuộc hôn nhân ấy đã sinh ra Nguyễn Khắc Hiếu, còn tên là Cứu, thường được gọi là ấm Cứu” rồi ấm Hiếu”. Ấm Hiếu là con thứ tư và là con út của bà Nhữ Thị Nghiêm và là con trai thứ 11, cũng út của Nguyễn Danh Kế (vì ông có ba vợ, 11 con trai).

Năm Nguyễn Khắc Hiếu lên ba tuổi, bố mất, năm lên bốn, mẹ lại trở về nghề cũ với tiếng đàn câu hát, khi Hà Nội, khi Bắc Ninh. Từ đó, Nguyễn Khắc Hiếu được anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tái Tích, phó bảng ra giáo thụ, nuôi dưỡng.

Theo chí hướng của ông anh, Nguyễn Khắc Hiếu được đào tạo theo đường cử nghiệp, trong thời gian học trường Quy Thức (Hà Nội), nho sinh đa tình đã có mối tình đầu với cô gái họ Đỗ phố Hàng Bồ.

Năm Nhâm Tý (1912), Ấm Hiếu lều chõng tới trường thi Nam (Nam Định), mong cái cử nhân làm lễ đón giai nhân, nhưng bị rớt vì làm sai một bài văn sách.

Tản Đà thi trượt ở trường Nam, về tới phố Hàng Bồ, mắt được chứng kiến cảnh tượng người đẹp lên xe hoa về tay người khác.

Nguyễn Khắc Hiếu trở nên điên loạn, vào dãy Huơng Sơn tìm hổ quỷ, tế Chiêu Quân ở Non Tiên, nhịn ăn ở ấp Cổ Đằng v.v… Nguyễn Thiện Kế hiệu Nễ Xuyên, một nhà thơ trào phúng nổi tiếng đương thời và là anh rể Tản Đà (lấy bà Nguyễn Thị Hiền là chị cùng cha khác mẹ với Tản Đà làm vợ kế) đưa về nghỉ ở nhà Bạch Thái Bưởi, nhà tư sản dân tộc. Chính nhờ được Nguyễn Thiện Kế khuyên nhủ đọc Tân thư (cổ động cách mạng dân chủ tư sản của các nhà trí thức Trung Quốc) ở nhà họ Bạch, Nguyễn Khắc Hiếu đã ôm ấp một hoài bão, một lý tưởng mới, gạt bỏ hẳn con đường cử nghiệp.

Những bài viết đầu tiên của Tản Đà ra mắt bạn đọc là những bài luận văn triết lý đăng trên Đông Dương tạp chí (của Nguyễn Văn Vĩnh) năm 1915; cũng năm này Tản Đà lập gia đình. Từ đấy Nguyễn Khắc Hiếu bắt đầu nổi tiếng với bút danh Tản Đà.

Ngày 20 tháng 4 Kỷ Mão tức ngày 07 tháng 6-1939, Tản Đà mất tại nhà 71 đường Cầu Mới, Ngã Tư Sở, Hà Nội (nay là nhà số 47 đường Nguyễn Trãi) và an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện. Một trùng hợp: Tản Đà sinh và mất đều vào ngày 20 tháng 4 âm lịch.

TÁC PHẨM

1916: Khối tình con (thơ)

1917: Giấc mộng con (truyện, tựa viết năm 1916)

1918: Khối tình bản chính (văn luận thuyết)

1918: Khối tình bản phụ (văn luận thuyết)

1918: Khối tình con II (thơ)

1919: Đàn bà Tàu (dịch truyện phụ nữ Trung Quốc,

có lời bình và thơ)

1919: Đài gương (luận về đạo đức của phụ nữ

theo quan điểm Khổng Mạnh)

1919: Lên sáu (sách giáo khoa, văn vần)

1919: Thần Tiên (truyện)

1920: Lên tám (sách giáo khoa, văn vần)

1921: Còn chơi (văn xuôi và thơ)

1922: Tản Đà tùng văn (văn xuôi và thơ)

1922: Đại học (dịch)

1923: Truyện thế gian I

(luận thuyết, truyện, thơ, nhiều tác giả)

1923: Truyện thế gian II

1924: Trần ai tri kỷ (truyện)

1924: Quốc sử huấn mông (sử)

1924: Kinh thi (dịch)

1925: Thơ Tản Đà (thơ)

1928: Nhàn tưởng (ghi chép tư tưởng, cảm nghĩ)

1928: Tam tự kinh An Nam

(sách giáo khoa dạy chữ Nho)

1929: Giấc mộng lớn (tự truyện)

1932: Giấc mộng con II (truyện)

1932: Thề non nước

(truyện, cùng in truyện ngắn Kiếp phong trần)

1932: Trần ai tri kỷ (truyện)

1932: Tản Đà văn tập (luận văn)

1932: Khối tình con III (thơ)

1934: Tản Đà xuân sắc (văn xuôi)

1937: Liêu Trai chí dị (dịch)

1940: Vương Thúy Kiều chú giải

(in sau khi Tản Đà mất)

1915-1917: bốn vở ca kịch đã công diễn: Thiên Thai,

Tây Thi , Người Cá, Dương Quý Phi.

1938-1939: dịch Thơ Đường trên báo Ngày Nay

Chủ trương An Nam tạp chí từ 1926 đến 1938 với nhiều thơ văn chưa in thành sách. Viết trên nhiều báo khác.

Đang soạn: Thời hiển thi tập (tập hợp, tuyển thơ của các tác giả đương thời), Khổng Tử lược truyện (đều đã đăng quảng cáo ở các sách của Tản Đà thư cục).

B.T. - ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

ÂM VANG NGÀY MỚI

Gió vi vu làn hương ngan ngát từ những cánh đồng xa

Mây ruổi sóng thênh thang giữa vòm trời xanh ngắt

Tiếng chim vui véo vót nhưng hạt thơm ngày mùa

Tung tăng tung tăng những con sông dạt dào

lớp lớp phù sa nong nả

*

Người người bước đi trong âm vang rộn tươi

của ngày đón nắng

Khơi xa chập chùng những chuyến tàu vào ra

ăm ắp mẻ đầy

Cây non trổ nhánh vạt lúa bung cờ

những quả trứng tròn hé mỏ xinh xinh

Bạt ngàn quả chín hương thơm lừng

những giọt mồ hôi mê mải

*

Những con tim xanh ắp ước mơ thập thùng

nhịp thời gian xáo xốc

Làn môi nhỏ sắc hồng thánh thót khúc đồng ca búp nụ

Những ánh biếc trong ngần

khóe duyên sóng sánh thức mùa yêu

Nồng nàn vòng tay hơi ấm chung chiêng

ập òa run tiếng thở

*

Mỗi mỗi ngày đều đặn tiếng chuông ngân

thanh thỏa khắc nhiên hòa

Dắt dắt những ưu trầm cất lên nốt nhạc xanh

thoát thai từ huyễn dụ

Chắt lọc chút thanh tân giữa bộn bệ

mà thắp lên sáng chói một niềm tin

Cho âm vang ngày mới đủ ánh soi đường

đến cõi hồng quang khấp khởi

-----------------------

Tôi cũng muốn dừng ngang đây

cho bài thơ giữ nguyên thanh khí bừng tươi sắc tỏa

Người người sẽ bảo tôi mê hồn chữ nghĩa

bung lụa những giấc mơ huyễn vọng

Giữa những nhập nhèm oan khiên

khủng hoảng những niềm tin

Người ta đang hết sức nhấn chìm nhau

vào những vạc dầu quỷ đỏ

*

Tôi cũng muốn lờ đi như không từng nghe từng thấy

Nhan nhản những cú vọ đầu trâu rắn ba đầu

trong những thây ma biết nói

Nhan nhản những tấn trò ma thuật đến tinh vi

chỉ với mục tiêu bất chấp để giật giành

Nhan nhản kẻ thủ ác sau lưng trước mặt

gần gần xa xa và ngay cả trong nhà

*

Tôi đã cố để không muốn tin những gì

người người ngày ngày đang đối mặt

Thần thánh chung giường ngạ quỷ linh thiêng

tráo trở lộn sòng những bán mua

Dòng sông bội bạc cứ duyềnh lên

sau những cái bắt tay và nụ cười tử tế

Ta đang ở đâu đây ? Trần gian - Địa ngục

như chẳng còn mỏng mảnh một lằn ranh

*

Tôi vẫn muốn níu giữ một giấc mơ

cho dù những giấc mơ bây giờ thật dễ vỡ

Nhưng giấc mơ đôi khi còn chút gì cứu cánh

cho những con thuyền nương đến bến bình an

Đêm vẫn còn dài rất dài

nhưng cố mà lắng lấy chút âm vang

Biết đâu một khoảnh khắc bình minh sẽ lại bừng lên trong những trái tim đã từng lầm lệch

*

Giữa những hoang tàn đổ nát

vẫn lại mọc lên những mầm xanh khát vọng

Hãy cứ chết đến tận cùng rồi tự khắc sẽ hồi sinh.

ĐÀM LAN

LÀM SAO ?

Nhìn hình khuôn mặt rạng ngời
Mãi cười mộng tưởng suốt đời hanh thông

Dẫu cho tràn ngập bão giông
Lạc quan đi nhé - sầu đông qua rồi

Bạn tôi nhắc nhở ỉ ôi
Thơ sao buồn thảm ! Hãy thôi đi nào

Thương bạn tình cảm dạt dào
Từ nay tôi sẽ... bới đào thơ vui

Quên đi sầu não rủi xui
Tập làm thơ thẩn thật mùi bạn nghe

Nói thì nói thế giật le
Tìm đâu từ ngữ... để che muộn phiền.

VŨ THÙY HƯƠNG

Đơn phương

Gió cuốn mây trôi nhớ cố nhân

Xa xôi ngàn dặm - đỉnh phù vân

Chưa hòa chung nhịp - Không tròn ý

Đã hẹn tương tri - Chẳng hợp vần

Hiên đợi trăng vàng mong tái ngộ

Ngõ chờ mây bạc - ước dừng chân

Sương thu mờ ảo tin càng vắng

Tim lạnh - Hồn côi - Lạc nẻo trần.

NGÀN PHƯƠNG

Mơ về đất Việt

Đơn sơ hạnh phúc - mộng bình thường

Đất khách đêm dài vọng cố hương

Mơ góc phố buồn lay lắt gió

Nhớ con đường vắng nhạt nhòa sương

Quê Người man mác - đầy hoang tưởng

Đất Mẹ ngậm ngùi nỗi luyến thương

Ảo vọng tương lai còn diệu vợi

Vầng trăng thao thức suốt canh trường.

NGÀN PHƯƠNG

Đợi mưa

Ta ngồi bên song cửa
Ta ngồi đợi cơn mưa
Mưa từ trời rơi xuống
Ta nghe mưa suốt mùa
Đợi nghe tiếng chim ca
Đợi một cành hoa nở
Đợi cơn mưa dứt hạt
Đợi gì trong tim ta ?

Huỳnh Thiên Kim Bội

Cầu vồng

Cầu vồng sau cơn mưa
Trên bầu trời lộng gió
Cầu vồng là ảo ảnh
Buồn thăm thẩm xa vời.

Huỳnh Thiên Kim Bội

SINH NHẬT THỨ 71

Tặng Lê Thị Hạnh

Đâu còn gì vui như ngày xưa

Khi về đây trời cứ giăng mưa

Mùa buồn dâng lên bao bão tố

Nỗi niềm sao biết nói cho vừa

Trời vẫn âm u màu sương xám

Trăng chiều như khuất bóng trong mây

Hoa thưa lá rũ bên đường dặm

Ta vẫn người xa lạc chốn này

Bảy mốt đến rồi ta với ta

Uống chút bia thơm rượu đã ngà

Nhớ cố nhân xưa đêm từ biệt

Thuở ấy trăng non nay quá già

Sinh nhật nào cũng lướt đi nhanh

Cho thời gian làm phai tóc xanh

Có phải thu tàn mang đông đến

Ta ngồi ôn lại những buồn tênh.

HOÀI LY

8/10/2019

THÁNG TÁM

TÌNH HƯ HAO

Tình xa phút chốc nào ngờ

Ơi tình day dứt bơ vơ biển chiều

Lạc vào lối mộng liêu xiêu

Gặp nhau chi để cho nhiều trái ngang

Cõi tình cay đắng bẽ bàng

Thu về hiu hắt lá vàng xót xa

Màn sương mờ phủ bao la

Heo may giá buốt chiều qua ngập ngừng

Tình xanh xa vắng lạnh lùng

Bóng đêm vò võ chập chùng mộng du

Tìm đâu chiếc lá chiều thu

Bay theo gió cuốn mịt mù chốn nao !

Hoàng hôn nắng ngả xanh xao

Bao con sóng đổ hư hao đoạn trường

Vàng thu lá úa sầu vương

Âm thầm tiếng sóng tiếc thương muộn màng...

Phạm Thị Minh-Hưng

“Tình” ở đây có thể là Tuổi trẻ, là Sức khỏe. Là điều tốt đẹp, là mọi thứ yêu quý của một người khi mất đi, thì tiếc nuối vì không bao giờ có lại lần thứ 2!

KHI TA NẰM XUỐNG...


Ta thấy những người thương
Ngào nghẹn trong khói hương
Lệ tràn trong tiếng nấc,
Tiếc thương và tiếc thương...

Bu quanh con cháu ta
Khăn tang trắng như hoa
Đứa buồn xưa tệ bạc
Đứa thản nhiên cười đùa!

Tiếng chuông rền thiết tha
Người sống lệ chan hoà
Thôi giã từ tất cả
Tiếc gì giấc mơ xa...

Tiếng búa đinh vô tình
Cách ngăn hai thế giới
Từ đây ta một mình
Trên đường xa diệu vợi...

Trả lại người cuộc sống
Đầy dẫy những đam mê
Hờn ghen và đau khổ
Hạnh phúc lẫn ê chề...

Dẫu xưa người tệ ác
Dẫu xưa người thiết tha
Ta cũng xem bình đẳng
Như sương muối ngày qua

Khi sống chẳng cho vui
Lúc xa nhau đừng khóc
Hối tiếc có được gì
Ta đâu cần nước mắt!

Hai hàng người đưa tiễn
Thầm lặng như trăng xa...
Cúi đầu nhìn thân phận
Thấy con đường sẽ qua

Xe tang đi chầm chậm
Như nhắn gởi lời chào
Trần gian ơi, vĩnh biệt
Vạn kiếp chẳng còn nhau...

Người qua đường hờ hững
Nhìn ảnh kẻ qua đời
Xem : trẻ, già, lớn, bé
Và dửng dưng nói cười

Chợ đời vẫn xôn xao
Thiên hạ vẫn tranh nhau
Miếng mồi ngon: Danh, Lợi
Mặc cả thêm ồn ào!

Hãng xưởng vẫn chạy đều
Khi ta nằm bất động
Dõi mắt nhìn cuôc đời
Vẫn miệt mài tranh sống...

Sông sâu nước vẫn chảy
Biển cả vẫn sóng gầm
Có gì trong vũ trụ
Khi một ánh sao băng!

Lần lượt kéo nhau vào
Màn đời buông khép kín
Vai tuồng đóng trọn rồi
Lời xưa đành câm nín!

Quyến thuộc lệ tuôn trào
Những mong ta ở lại
Giận mình quá vô tình
Thuở bên ta lúc ấy...

Ngọn lửa hồng bừng lên
Xoá sạch mọi nỗi niềm
Nắm xương còn sót lại
Bạc trắng màu vô biên!

Cháu con dù tiếc thương
Bạn bè dù vấn vương
Thế nhân dù đau xót
Cũng dần quên... dần quên...

Họ kể nhau về ta
Như những chuyện đời xưa
Đào bới từng kỷ niệm
Tìm âm vang nhạt nhòa...

Rồi họ cũng sẽ quên
Rồi mưa nắng phủ lên
Mộ bia mờ, rêu mọc
Thời gian xoá tuổi, tên

Nắm mồ như nhắn nhủ
Người sống vạn đời sau
Rằng: cuối đường tranh đấu
Là nắm đất bạc màu!

Dư âm một kiếp sống
Có gì đâu, gì đâu!
Giữa không gian vô tận
Giữa còn, mất, lao xao!

Những lời khen, tiếng chê
Những gì xưa thụ hưởng
Như chút sương đầu cành
Cơn gió qua rơi rụng

Biết sống để làm gì?
Thì chết đâu hối tiếc
Biết cuối đuờng về đâu?
Thản nhiên khi hết kiếp

Chuỗi ngày sống trên đời
Hiến dâng cho tất cả
Tiếc gì đâu uống, ăn
Ham gì đâu, huyễn, giả!

Bao ân tình, duyên nợ
Khi sống trả xong rồi
Có gì đâu lưu luyến
Khi tách bến ra khơi?

Thêm một lần chết nữa
Có nghĩa lý chi đâu?
Con đường xưa quen thuộc
Nhắm mắt chẳng lạc nào!

Bọt bèo theo duyên họp
Thì theo duyên rã tan
Có ta, đời thêm đẹp
Không ta, thế vẫn gian!

Tâm Nguyện (1986)


Ngoài sông nước lớn

Má ngồi kể lể chuyện dòng sông

Mưa dầm nước lớn thấy vòi rồng

Cá xưa nhiều lắm ăn không hết

Đâu giống bây giờ lội biệt tăm

Má vẫn ngồi đây mơ ngoài ấy

Trời mưa má lại nhớ ba mầy

Công tử thế thời về làm ruộng

Thấy đỉa hết hồn vía lên mây

Nhớ những đêm trăng đi kéo cá

Lòng hồ nước xuống quá nhiều tôm

Ba bây ham lắm cười híp mắt

Đỉa hút máu no ổng chẳng dòm

Hồi đó cá nhiều không bán hết

Kéo lên thấy nhỏ trả về sông

Giăng lưới theo bờ nhiều cá lớn

Chèo ghe gỡ cá lúc nước ròng

Má kể ngày xưa lúc chiến tranh

Trăng sáng dòng sông rõ trong xanh

Chú Tư giăng vó ra mà kéo

Máy bay thấy lạ bắn tan tành

Chú Tư ngã xuống dòng sông ấy

Máu đỏ nhuộm dài một khúc sông

Dân làng ghép ván đi chôn gấp

Con chú một đàn ngó mênh mông

Người lớn ngày xưa đã qua đời

Má ngồi nhắc nhở mãi không thôi

Sông ấy bây giờ bao nhiêu tuổi

Đã trải bao nhiêu chuyện đổi dời.

NGUYÊN LÊ (TRẢNG BÀNG)

BẤT NGỜ

Vòng xoáy xã hội đổi thay

Họ vẫn ngày ngày theo nhịp sống riêng

Ai khó khăn, mặc khó khăn

Ta giàu, ta có, ta ăn một mình

Ai rồi cũng phải về thôi

Nhưng ai lại ngồi trước cảnh khó khăn

Quản lý yếu kém của mình

Kéo theo trật tự an ninh khôn lường

Tham nhũng phải có chức quyền

Không nói dân cũng biết liền là ai

Câu trả lời quá bất ngờ

Rớt cái mặt nạ… bây giờ là đây !

LÊ MINH CHỬ

CHẢY ĐI SÔNG ƠI

Đã tưởng chẳng bao giờ nữa

Ý đã lìa mà tình vẫn còn vương

Đã tưởng tắt rồi ngọn lửa

Cánh hoa rơi còn để lại hương

Không chỉ biết yêu, trái tim còn biết nhớ

Nhớ lắm em ơi ! Không thể nào quên

Đã bao lần gặp nhau bên tượng Chúa

Người giang tay che chở nỗi niềm riêng

Nào ai biết có một dòng sông thiêng

Từ ngọn nguồn xa đâu phải kiếm tìm

Mà đã gặp bên bờ xanh ấy

Nối nhịp cầu cho tôi và em

Chảy đi sông ơi ! Mang sóng hồn tôi

Để được đắm mình trong làn nước mát

Cho dịu bớt cồn cào khao khát

Giữa dòng phù sa đến tận chân trời.

LÊ NGUYÊN 30/12/2007

LỜI TÂM SỰ

Tôi nhớ đầu tiên một nụ hôn

Của người vợ trẻ tóc mây buông

Nàng cười khẽ nói qua môi thắm

Ta mãi yêu nhau thắm thiết luôn

Chiều ấy mưa phùn tiết lập đông

Nàng ngồi đan áo ấm cho chồng

Tôi nhìn âu yếm đôi tay vợ

Mà thấy mến thương nở tấc lòng

Có một chiều xuân ngắm đất trời

Hai người đứng cạnh hát chơi vơi

Tình ta chung thủy như non nước

Sức sống tràn dâng đẹp cuộc đời

Muốn nói gì đây thế cuộc bài

Dòng đời mỏng mảnh của trần ai

Ngày nao hạnh phúc còn tươi sáng

Nàng đã cho tôi tình đắm say

Ảm đạm hành trình bước lãng du

Vầng trăng điểm khuyết khói giăng mù

Lá vàng yếu ớt đành rơi rụng

Nàng vội ra đi khuất vĩnh thu !

Từ đó đến nay tôi vẫn tôi

Ái ân thật sự cách xa rồi

Ly bôi sao lỡ duyên như thế

Vạn lượng bóng hồng khó đổi ngôi !...

Thanh Châu

QUẢ MÍT

Xướng họa cùng Hồ Xuân Hương

Thân em như quả mít trên cây
Vỏ nó sù sì, múi nó dày
Quân tử có yêu thì đóng cọc
Xin đừng mân mó, nhựa ra tay !

Hồ Xuân Hương

Họa:

MÍT NÒI

Mít nòi, hoa trái trổ đầy cây
Hương vị thơm ngon, múi lại dày
Đúng lứa, rinh về anh đóng cọc
Nhựa tuôn lai láng, dính đầy tay !

THANH PHONG

MÍT TỐ NỮ

Tố nữ no tròn mới chín cây
Đã em thơm ngát, múi em dày
Cho anh nếm thử, anh rờ thử
Nhựa dính đầy môi lẫn dính tay !

THANH PHONG

HẠT BÔNG TRONG GIÓ

Kìa, một hạt bông bay đầu trời cuối đất
Chẳng nơi đâu cho nó một chỗ dừng !
Nói chi là chăn ấm nệm êm
Tạm ngơi nghỉ chờ ngày hóa kiếp…

Nhưng đôi tay dù bần thần mải miết
Cũng chẳng làm đầu óc thôi nghĩ mông lung
Ta có muốn chi để được sống an lành
Mà chỉ muốn chết đi trong lòng đất
Để vươn lên từ tối tăm hư nát
Thành cây tươi và sáng sủa trên đời
Cho dù lúc ấy chẳng ai còn nhớ đến cái nhỏ nhoi
Là hạt bông ta đã từng một thời hiện diện…

Ta đâu cần bay qua bao sông biển
Dù cánh tay đủ sức nhào lộn khắp sơn hà
Nhưng như thế, hóa ra
Ta chỉ là hạt bông vạn vạn lần vô dụng !
Đích của ta là chen chân vào nơi mục ruỗng
Cùng lá cây ẩm mốc, cùng giun dế dưới chân đời
Để một ngày, và ngày ấy thật vui
Ta lột xác chào bình minh tươi tắn…

Gió ơi gió, đừng rung lên ngằn ngặt
Mà đẩy ta vào chỗ bảng cấm dừng
Khiến ta cứ mãi lang thang
Kéo dài kiếp sống ngỡ ngàng, vô tâm
Âm thầm,
Mãi vẫn âm thầm…

LAM TRẦN

KÝ ỨC MẸ TÔI

Lòng mẹ như mặt biển Đông

Tình mẹ như nước trong nguồn biển khơi

Mẹ yêu như suối nguồn về

Như dòng sữa ấm sớm khuya bao lần

Mẹ như trái ngọt mùa xuân

Mẹ nhìn như mặt trời hồng ban mai

Mẹ hôn như tựa hoa nhài

Mẹ thương như cả bầu trời tuôn mưa

Mẹ xoa như gió vườn đua

Mẹ bồng như thể gió đưa nhẹ nhàng

Mẹ ru thấm đượm tim gan

Mẹ cười vui mãi giòn tan trong đời

Mẹ cho con được làm người

Mẹ là tất cả cuộc đời của con

Thiên nhiên trời đất nước non

Như hòa trong mẹ cho con thành người

Tâm hồn mẹ tỏa sáng ngời

Mẹ mong con hãy nhớ lời mẹ khuyên

Biết yêu Tổ quốc thiêng liêng

Vì Dân không tiếc máu xương của mình

Mẹ của tôi, Mẹ quang vinh

Quê hương đất nước nghĩa tình đậm sâu.

BS. NGUYỄN VĂN TIẾN

KHUYÊN CON

LẤY CHỒNG

Cuộc đời ngắn ngủi quá thôi

Mới thoáng đó đã bảy mươi tuổi rồi

Con ơi suy nghĩ tình đời

Bon chen rồi cũng về nơi suối vàng

Lấy ai cho đáng một chàng

Chớ lấy thằng nghiện đời tàn biết không

Phải là khí tiết đàn ông

Không hề nghiện rượu và không hai lòng

Một đời chung thủy vợ chồng

Gia đình hạnh phúc ấm nồng con ơi.

DƯƠNG TIẾN CẦN

TRÁCH AI

Trách ai vô cớ vô duyên

Hứa rồi lỗi hẹn lãng quên lữa lần

Để người khác phải tần ngần

Ở đời chữ tín rất cần giữ cho.

DƯƠNG TIẾN CẦN

ĐÊM THU

Rét căm, gió lạnh sương ngăn

Tình sầu cảm thấy đêm càng dài thêm

Án văn giấy mực mờ im

Bên đàng dậu biếc, ánh đèn thê lương

Bóng trăng thu khắp dặm trường

Bạn hiền sông nước, một phương xa vời

Nhớ nhà, nhớ kẻ xa xôi

Lòng riêng trí não, rã rời tâm can.

LANG NGUYÊN

CHIẾC ĐÈN

PHÒNG SÁCH

Phòng thư một chục năm liền

Đèn kề cùng với bút nghiên chẳng rời

Đua nhau thức trọn canh dài

Chẳng quên những lúc bỏ rơi xó tường

Đã trầy sạch lớp dầu sơn

Mùi thơm sách vở vẫn còn giữ nguyên

Ba sinh hương lửa ước nguyền

Mai sau biết có lâu bền hơn không ?

LANG NGUYÊN

TẬP LÀM THƠ

Nhớ tuổi học sinh thuở thiếu thời

Tập làm thơ mới để vui chơi

Đêm nằm thao thức thành duyên nợ

Viết vội đôi câu lúc thảnh thơi

Khó mấy bao nhiêu đều mặc kệ

Ngâm ca rung động tấm lòng côi

Dòng thơ lưu luyến mong tao ngộ

Bạn hữu gần xa kính trọng mời.

QUANG BỈNH

ĐƯỢC PHƯỚC

Thời gian thấm thoát bảy tư xuân

Thể dục vui đời đến cửu tuần

Mắt tỏ da mồi đầu hói bạc

Con người mạnh khỏe sống thương nhân

Bạn bè rỗi rảnh làm từ thiện

Thôn xóm bình an cùng kết thân

Thơ phú thêm trang câu lạc bộ

Trời cho hưởng thụ sướng vô ngần.

QUANG BỈNH 2018

Thu bay

Sau tiếng dế kêu màu thu bỗng qua nhà

Bóng hòe nhuốm nửa phần buồn năm ngoái

Giọt trăng cũ tan trong hồn hoa cúc dại

Tóc trắng mờ từng ngấn bước thu đi

Nghe mơ hồ xao xác những chia ly ...

*

Mang mang quá nỗi dỗi hờn mây nước

Yên lặng quá khiến không cầm lòng được

Yêu đi! Yêu đi! Chiều đã nổi heo may

Chẳng có kiếp sau đâu, bạn tình ơi, xin hãy

Đổi ngàn đời lấy phút mịt mù say ...

*

Đầu ta rung lên như cái chuông nhỏ bé

Trước vẻ đẹp vang vang đầy trọng thể

Ôi thu em lộng lẫy đến kiêu sa

Ta khao khát muốn vỡ vào xanh thẳm

Thành vàng bay muôn dặm mỗi hiên nhà...

7-1991

Trần Nhuận Minh

FLYING FALL

Following the cricket’s song,

the fall colour suddenly passed by the home

The shadow of the sophora tinted

one half of the last year’s sadness

The old moondrop dissolved in the soul

of the wild chrysanthemum

White hair turned dim line by line along

with the steps of the Fall that was leaving

One heard vaguely the fluttering of the parting moments...

*

So confused was the clouds and waters’ sulkiness

So silent that one cannot hold back one’s feelings

Let’s love! Let’s love! the evening coldish

north-westernly wind has risen

There will be no future existence, o my love, please

Exchange one thousand existences for a dim

and distant dead drunk minute…

*

My head rang like a small bell

Before the so resounding and solemn beauty

O Fall, you’re so valiantly resplendent

I’m craving for being broken into the deep blue

To turn into gold and fly thousands

of miles over each one of the verandas...

7-1991

Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn

LÊN SÀIGÒN

Cách mạng tháng 8 thành công, toàn dân Việt Nam sôi sục tinh thần chống Pháp để giữ nền độc lập vừa mới giành được, thanh niên đều gia nhập lực lượng Việt Minh chống Pháp. Khi Pháp trở lại tái chiếm, dân bỏ thành phố về nông thôn hay vô bưng chống Pháp. Có lẽ do trời xui đất khiến, một số bạn học của Ba tôi theo lực lượng Cộng Hòa vệ binh Nam bộ, một bộ phận của mặt trận Việt Minh chống Pháp. Đó là lực lượng do một nhóm trí thức Sàigòn cướp võ khí của Hải quân Sàigòn, họ đang đưa ghe, tàu và quân đội về Đồng Tháp Mười để lập căn cứ chống Pháp. Sau một trận bị vây đánh, có lẽ để cả đơn vị không bị tiêu diệt, viên chỉ huy cho lịnh ai muốn rã ngũ thì tự do rã ngũ. Ba tôi tự rã ngũ trở về nhà. Khi đánh nhau, đã kề bên cái chết nên khi về nhà, nhóm Việt Minh địa phương mời tái tham gia, Ba tôi từ chối.

Trong giai đoạn Cách mạng 1945 tới khi tôi và Ba tôi lên Sàigòn là khoảng nửa năm đầu của năm 1949, Tây vô làng, chúng gặp ai giết nấy nên tất cả mọi người phải chạy vô vùng sâu để trốn. Ban ngày, nhà nào cũng vậy, những đồ đạc cần thiết thì đem ra vườn, đem xuống vùng dừa nước ven sông rạch mà giấu, chiều mới đem vô nhà. Có lẽ cũng cần nói qua tại sao Tây vô làng lại giết dân. Sau nầy tôi tìm hiểu thì gần như toàn dân thành phố về nông thôn và vùng sâu để chống Pháp nên tên tướng Le Roy (?) của Pháp đưa ra kế hoạch là vô nông thôn thì giết càn để dân sợ mà trở về thành phố. Hình như tới cuối năm 1949 tướng Le Roy bị thay thế, thời nầy Pháp không còn giết càn nữa.

Một buổi chiều, sau khi đem đồ đạc vô nhà thì nghe tiếng súng nổ chát chát. Nhìn ra vườn, thấy Việt Minh kéo tới mương nước phục kích. Gia đình mạnh ai nấy chạy để thoát thân. Tây còn xa thì họ bắn chát chát, Tây tiến tới thì họ rút chạy. Tới nhà tôi ngay bên con rạch, bọn Tây dừng lại dở nhà dưới (chỗ nấu nướng và ăn cơm) bằng lá chất dựa vách ván của nhà trên để đốt. Đến hơn nửa đêm, ngôi nhà ngói sập xuống chúng mới bỏ đi. Tài sản, vật dụng trong nhà bị cháy hết. Bà nội tôi để dành năm trăm đồng phòng khi cần đến, Bà để trong cán chổi tàu cau gồm những sóng lá tàu cau bó lại. Cây chổi thì bỏ lăn bỏ lóc trên ván trong nhà, nó cũng cháy tiêu. Giá trị của 500 đồng thời nầy còn khá lớn. Cuộc sống lúc bấy giờ quá vất vả. Ba tôi mượn giấy Laissez passer của một người bà con ở thành phố rồi liều mạng lên Sàigòn. Từ Tân Nhựt ra Chợ Đệm, lên xe đò ngồi một lát thì tới Chợ Lớn rồi ra Sàigòn là xong. Đường đi ngắn ngủi mà đi thì phải nói liều mạng mới dám đi vì khi xe tới Phú Lâm thì ngừng lại, mọi người xuống xe cho tên Tây kiểm giấy, sau đó thì phải đi ngang tên trùm bao bố. Bao bố trùm cả người chừa hai lỗ ở mắt để nhìn. Nó thường là những tên Việt Minh hàng Pháp. Pháp đặt nó đứng để nhận diện Việt Minh lên Sàigòn. Hễ ai đi ngang, nó gật đầu thì Tây bắt ngay, có khi cuộc đời kể như xong. Về Sàigòn rồi cũng vẫn chưa yên vì Tây thường bố ráp để kiểm tra. Ba tôi phải chạy vạy để xin giấy Laissez passer. Xin được giấy rồi mới sống yên ổn ở Sàigòn được. Cái khổ của Việt Minh rã ngũ thời bấy giờ là vậy.

Nhưng nếu rã ngũ mà tới đồn Tây trình diện thì sau một thời gian hỏi han, nó cũng cấp giấy tờ cho sống bình thường. Nhưng như vậy thì bị mọi người gọi là Việt gian. Không ai muốn mình bị gọi là Việt gian cả.

Khánh Hội - Quận 4 ngày 20-7-2019

PHẠM HIẾU NGHĨA

Phụ bản III

LÚC CÒN THƠ NGÂY

(Tiếp theo số 161)

Chi càng trông chờ thì tin thư càng bặt. Chị Mỹ Lệ đã trở về quê, cô còn biết hỏi tin Nam với ai bây giờ, chị Mua cũng bó tay vì dãy nhà trọ cũng đã đổi chủ.

Thời gian trôi mau, Diệu Chi đã thi đậu Trung học, ra trường và đi làm việc cho một Công ty Dược phẩm. Tuy bận rộn với công việc làm, nhưng không bao giờ cô quên được anh, người lính biển hiền lành của cô. Từng đêm, Chi đều khắc khoải nhớ lời nói của anh, tâm hồn nặng trĩu nỗi buồn không nguôi.

Rồi theo ngày tháng qua, bé Phương Chi đành hanh, lắm lời, nhiều chuyện đã lớn, trở nên đằm thắm, hiền ngoan, học hành giỏi giang, một thiếu nữ xinh tươi tuổi trăng tròn nên có một thanh niên con nhà gia thế đến xin cầu thân.

Sinh nhật lần thứ mười tám của Diệu Chi cũng đã đến. Cả nhà cùng nhau tổ chức buổi tiệc long trọng cho cô gái yêu của gia đình. Bà Diệu Thu tất bật lên menu cho bữa ăn, cậu Ba Ninh An đi đặt bánh, Phương Chi phụ trách trang trí, chị Mua thì phụ nấu ăn với mợ Năm. Riêng nhân vật chính thì chưa hay biết về dự định của gia đình, có vẻ thờ ơ với tuổi đời của mình, không buồn, không vui.

Diệu Chi đi làm về, vừa vào phòng mới ngồi xuống giường, chưa kịp thay áo dài, thì có tiếng gõ cửa:

- Cốc, cốc .

- Ai đó, vô đi!

Phương Chi mở cửa bước vào:

- Em đây, chị Hai, sinh nhật của chị tới đây, có mời khách nào không? Nếu có, thì mấy người để em nói mẹ sắp xếp cho chị.

Chi vẫn ngồi im như thả hồn vào mông lung. Phương Chi nói xong, không nghe Chi trả lời, cô quay lại, nhìn chị ngạc nhiên:

- Kìa chị Hai, chị sao vậy?

Diệu Chi giật mình vội đáp:

- Không em à, chị chỉ thích thu hẹp trong gia đình thôi, mời khách làm chi, nhưng riêng em thì đặc biệt nghe, hãy mời Thanh Chung đến đi nha.

Mặt Phương Chi bỗng đỏ hồng lên rất đáng yêu, cô bé lí nhí:

- Sao lại mời anh ấy vậy chị Hai? Chị đã bảo là không mời khách mà?

Diệu Chi mỉm cười:

- Thì em với Thanh Chung đã làm lễ sơ vấn rồi, thì cũng như người nhà mình rồi còn gì?

Phương Chi thẹn thùng:

- Chị Hai ghẹo em hoài, em còn nhỏ mà ba mẹ đã gả rồi, em mắc cỡ với bạn bè quá đi.

Diệu Chi đáp lại:

- Hai bên gia đình có hôn ước trước mà, em quên sao? Ba mẹ nhận lễ cho yên lòng, chứ không như chị...

Thấy chị buồn bã, Phương Chi xúc động nói nhỏ:

- Chị đừng buồn, rồi anh Nam sẽ về mà, lâu nay chị có nhận được thư hoặc tin tức gì của ảnh không?

- Không, em à, chị chỉ nghe nói anh ở Giang Đoàn tận Cà Mau mấy năm rồi, nhưng từ lâu anh ấy đã không viết cho chị một lá thư nào cả.

- Cũng không gửi qua chị Kiều My hả chị?

- Không, em, chị có lên Phú Nhuận hỏi thăm bạn, mà Kiều My chỉ lắc đầu, chị cũng không hiểu tại sao nữa.

Hai chị em ngồi yên lặng hồi lâu, cho đến lúc Phương Chi rời khỏi phòng, Diệu Chi mới trở về với thực tại.

Bữa tiệc sinh nhật của Diệu Chi diễn ra thân mật trong gia đình, với sự có mặt của Thanh Chung, hôn phu của Phương Chi. Mọi người đều vui vẻ, thoải mái, kể cả Diệu Chi là nhân vật chính. Tàn buổi tiệc, cả nhà tụ họp ở phòng khách dùng trà và trò chuyện.

Sau đó, Thanh Chung xin phép ra về, Phương Chi theo đưa chàng trai ra cửa, khi hai bạn trẻ đi khuất sau cánh cổng nhà, Thanh Chung quay lại nói thầm vào tai cô gái, mặt mày Phương Chi bỗng xanh như tàu lá, tay chân run rẩy, đứng không vững làm Chung phải đưa tay đỡ và an ủi:

- Em nên bình tĩnh, ráng kềm cảm xúc để tìm cách báo lại cho chị Hai biết nghe em.

Phương Chi vẫn còn run nhưng cũng ráng lên tiếng hỏi:

- Anh ơi, làm sao anh biết được chuyện này.

- Anh Thanh Chương là bạn của chồng chị Mỹ Lệ ở Gò Công, cách đây hai hôm, anh ấy gặp ảnh ở đình Nhơn Hòa, Cầu Muối, nơi anh ở trọ để đi làm công nhân may, tình cờ anh ấy nói chuyện về gia đình bên vợ và đề cập đến chuyện anh Lê Nam, em út của gia đình đã chết ở Năm Căn hơn ba tháng rồi, anh cũng nói cho anh Chương là anh Lê Nam đã lập gia đình trên một năm rồi, doanh nghiệp ở nhà vợ anh sắp đặt, mặc dù anh đã hết sức phản đối bằng cách ở lại đơn vị không đi phép lâu rồi Phương Chi à.

- Vậy rồi bây giờ làm sao anh, em có nên nói cho chị Hai biết tin này không? Mà sao anh Chương biết chị em quen với anh Lê Nam?

- Tại em không biết đó chứ, lúc anh chị Mỹ Lệ còn mướn nhà đối diện nhà mình, anh Chương thường đến chơi, nên biết chuyện của hai anh chị, mới nói cho anh hay để báo lại cho chị Diệu Chi đó.

Phương Chi thở dài:

- Em rối quá, biết mở lời ra sao với chị Hai đây anh?

- À, trời tối rồi, anh về kẻo ba mẹ bên nhà trông đó, cho em gửi lời thăm ông bà anh nhé, hôm nào em nghỉ hai giờ học cuối, em sẽ ghé thăm ba mẹ anh nhé.

Thanh Chung tần ngần hồi lâu, mới nắm tay từ giã hôn thê, lên xe ra về. Cô bé Phương Chi thẫn thờ bước chậm chậm một cách khó nhọc vào nhà, cô cố gắng giữ bình tĩnh để mọi người trong nhà không biết chuyện, cô đến phụ với chị người làm dọn dẹp bàn tiệc, quét dọn phòng khách. Xong xuôi, Phương Chi thấy chị mình đang đi về phòng nên bước theo sau, cô đứng hồi lâu, ngập ngừng trước cửa, mới lên tiếng gọi chị. Diệu Chi ra mở cửa, bỗng giật mình khi thấy nét mặt buồn buồn của em gái, nhưng vẫn yên lặng. Phương Chi bước vô, ngồi bệt xuống giường, vẻ mặt bối rối khiến Diệu Chi hết sức ngạc nhiên, liền đển ngồi kế bên, đặt tay lên vai em, nhỏ nhẹ hỏi:

- Có chuyện gì vậy em, sao chị thấy lo lắng quá thế?

Phương Chi run run nắm tay chị gái, miệng nói lấp vấp:

- Việc gì vậy, em nói chị nghe mau đi em.

- Chị Hai, anh Lê Nam mất rồi!

- Phương Chi ơi, em vừa mới nói gì vậy? Anh Nam sao rồi?

Diệu Chi hỏi mà hai hàng nước mắt đã lăn dài

- Anh Thanh Chung mới cho em biết là anh Nam đã tử trận ở Năm Căn, được gia đình đưa về chôn ở quê nhà hơn một trăm ngày rồi chị Hai ơi!

Nghe đến đây, Diệu Chi bỗng kêu lớn: “Chúa ơi!” và ngã vật xuống giường, mắt nhắm nghiền, mặt mũi xanh xao làm Phương Chi hết hồn, hét ầm lên, chạy chân đất ra phòng khách kêu cứu. Cả nhà đều hoảng hốt, vội chạy hết vào phòng để tiếp cứu cô gái tội nghiệp. Bà nội và mẹ Chi quýnh quáng thoa dầu, bóp tay chân cho cô, kêu gọi lay tỉnh liên hồi, nhưng Chi vẫn còn nhắm mắt ngất đi. Người cha bình tĩnh hơn, gọi điện thoại cho Bác sĩ gia đình đến khám bệnh cho con gái, có bác sĩ săn sóc, tiêm thuốc khỏe nên Diệu Chi dần tỉnh lại, nhưng vẫn còn mệt, cả nhà đều lui ra, chỉ còn chị Mua ở lại chăm sóc cho Chi.

Cô gái mở mắt, thấy chị giúp việc trung thành đang ở kế bên, nước mắt đã ứa ra, nàng gọi nhỏ:

- Chị lại gần đây, em nói này nghe.

Chị Mua tiến đến, Chi kéo tay chị ngồi xuống, thì thầm vào tai chị:

- Chị ơi, anh Lê Nam chết rồi!

Chị Mua hoảng kinh hồn vía, la lớn:

- Trời ơi, thiệt vậy sao cô Hai!

Chi cũng hốt hoảng, vội đưa tay bịt miệng chị ấy, nói nhanh:

- Đừng nói lớn, cả nhà nghe bây giờ chị, em khổ quá chị ơi, anh ấy đi xa, đã quên lời hứa chờ đợi khi em trưởng thành, để em ở lại một mình trên đời rồi. Diệu Chi khóc nức nở trong vòng tay của chị Mua, nhưng chị chỉ biết ôm bé Chi của mình dỗ dành, an ủi mà thôi.

Mấy ngày sau, cô cố nén nỗi buồn riêng để không ai nhận biết, và rồi Diệu Chi có một quyết định táo bạo, cô làm đơn xin nghỉ phép thường niên ở Công ty và về báo với gia đình là sẽ làm tăng ca ở lại sở làm trọn ngày.

Chi lên xe đò đi về Gò Công, quê hương của Nam nơi mà Diệu Chi chưa từng đến bao giờ.

Xuống bến xe, Chi kêu xe xích lô chở về Ấp Mới, theo sự chỉ dẫn của Thanh Chương. Xe chạy qua cây cầu nhỏ, bên trái con đường vào ấp có một Tòa Thánh Thất Cao Đài. Đển cổng ấp, xe ngừng lại, Diệu Chi bước xuống trả tiền và cám ơn. Bác xe nhìn cô gái, hỏi:

- Cô ở xa mới về hả? Chừng nào cô trở lên thành phố? Cô cho tôi biết để đến đón cô ra bến xe, vì ở đây ít xe cộ lắm cô à!

- Dạ, con sẽ trở lên Sài Gòn ngay trong chiều nay đó bác.

- Vậy khoảng ba giờ chiều nay, tôi đến rước cô để kịp chuyến về thành phố nhen cô?

Bác xích lô quay xe đi rồi mà Diệu Chi vẫn còn đứng nhìn theo đầy cảm động bởi tấm lòng người xa lạ.

Diệu Chi xách chiếc giỏ nhỏ đi dài theo con đường đất dẫn vào ấp trong buổi sớm mai vẳng vẻ. Đang không biết hỏi thăm ai nhà của Lê Nam thì từ xa có một cô gái nách đứa em nhỏ đi tới, Chi mừng rỡ bước tới đón cô gái ấy:

- Cô ơi, cho tôi hỏi thăm nhà của anh Lê Nam, đi lính Hải quân ở đâu vậy? Cô gái nhỏ hơi giật mình, đứng lại đưa mắt nhìn người thiếu nữ mặc áo dài trắng dáng vẻ thành thị, một hồi mới trả lời:

- Nhà anh Bảy Nam hả, anh chết rồi mà, còn nhà thì ở gần đây nè, để tui dẫn chị đi.

Diệu Chi theo chân cô bé mà lòng nặng trĩu đến trước căn nhà gạch xây theo kiểu xưa, hai gian một chái. Cô bé dắt Chi tới cửa hông nhà bếp gọi lớn:

- Bà Sáu ơi, có khách kiếm nè!

- Ai vậy bây, tao ra liền.

Bà Sáu ra tới cửa, đứng khựng lại khi thấy Diệu Chi, cô liền khoanh tay cúi đầu chào bà, bà đưa tay che trán, hấp háy đôi mắt:

- Đứa nào đây bây?

- Dạ, thưa bà con là Diệu Chi, nhà đối diện nhà chị Hai Lệ ở Sài Gòn. Thưa bà, có mạnh khỏe không?

Bà Sáu bỗng bước tới ôm lấy cô òa khóc:

- Chi đây hả, thằng Nam chểt rồi con ơi, bàn thờ nó ở nhà trên kìa.

Diệu Chi cũng ngã vào lòng người bà trào nước mắt. Lát sau, như chợt tỉnh, bà vội lau lệ, kéo tay cô gái dắt lại ghế:

- Ngồi, ngồi đi con, rồi hai bà cháu nói chuyện nhe.

- Tại má nó hết á, trước đó Nam có kể với ngoại, nó thương con lâu rồi, nhưng má nó nhất quyết cưới con Ngọc cho nó, lấy lý do hai nhà không môn đăng hộ đối, con là con gái thành thị, yếu đuối, mà nhà này lại cần một người con dâu miền quê mạnh mẽ, xốc vác để đảm đương việc đồng áng, thằng Nam nó phản đối dữ lắm, ngày ăn hỏi nó trốn biệt cho đến khi cưới, ba nó phải xuống tận đơn vị trình bày với chỉ huy và dẫn độ về mới thành lễ. Cho đến khi gia đình bà nhận được tin dữ, nó vẫn chưa về phép một lần nào cả. Lúc nó mất, mới nghe bạn cùng đơn vị kể lại là cách hai hôm bị nạn, nó được giấy phép về thăm nhà, nhưng nó đã nhường cho bạn và ở lại. Ngay đêm đó, ba chiếc giang thuyền đậu sát nhau trên sông, đã bị gài thủy lôi nổ tung, và nó ở trên một trong ba chiếc thuyền ấy. Tội nghiệp quá đi con ơi!

- Thôi con lên thắp nhang cho Nam đi, để ngoại đi nấu cơm cho hai bà cháu ăn nghe con, đã trưa rồi.

Đứng trước di ảnh của anh, Diệu Chi lại giọt vắn giọt dài: “Vậy là anh đã thật sự xa em rồi, một nén hương thắp cho anh lần đầu và lần cuối. Em đến thăm và từ biệt anh mãi mãi”. Cô nói thầm trong nỗi đau không dứt.

Khi ngồi ăn bữa trưa với bà ngoại Nam, Chi nhỏ nhẹ hỏi:

- Bà ơi, sao nhà mình vắng quá vậy? Mọi người đâu hết rồi bà?

- Má thằng Nam và chị Ba nó đi Sài Gòn bán gạo, còn Ngọc vợ nó thì đã xin về nhà mẹ sau khi cúng một trăm ngày rồi con à. Ngoại và má phải cho nó về lại nhà thôi vì tụi nó cũng chưa có con cái gì.

Nghe vậy, Diệu Chi cũng chỉ biết cúi đầu buồn bã. Cơm nước xong, cô phụ dọn dẹp với bà rồi xin phép ra thăm mộ Nam và quay về Sài Gòn luôn vì chỉ xin phép nghỉ có một ngày. Bà ngoại Nam lại sụt sùi thêm khi tiễn Diệu Chi ra cửa, trước đó bà đã nhờ Tí Nị (cô bé lúc sáng dẫn Diệu Chi đến nhà) đưa ra mộ được chôn trên đất nhà.

Một lần nữa, cô gái như chìm vào nỗi đau vô tận của một thiếu nữ vừa lớn lên thấm đẫm một tình yêu lúc còn thơ ngây, đã bị cách biệt, tan tác vì nỗi chia ly trong trận chiến khốc liệt.

Trong hoàng hôn của miền quê hoang vắng ngày hôm ấy, bóng dáng người con gái áo trắng đứng âu sầu như in dấu buồn trên bia mộ của người lính biển, và rồi chuyến xe đò cuối ngày rời tỉnh lỵ Gò Công mang Diệu Chi trả về thành phố với những giọt lệ rơi dài theo đường thiên lý với nỗi niềm khôn nguôi vì “Chàng đi theo nước” mãi mãi không về nữa.

HOÀI LY

THỦ THẾ

Kể từ sau cuộc nội chiến, chưa bao giờ tư tưởng phòng bị lại phát triển rực rỡ đến thế!

Thử mua chiếc xe máy mà xem: ngoài việc chọn xe sao cho vừa túi tiền lại hạp nhãn, thì việc đầu tiên kẻ tậu được con ngựa sắt oai hùng ấy làm, là mua ngay vài cái khóa càng to càng tốt, kẻo khôn ba năm dại chỉ một giây là chiếc xe ấy đã đổi chủ mà không cần phải bàn giao cà-vẹt! Có thể phải tập đi lùi để mỗi khi nhấc mông ra khỏi con ngựa cưng ấy, thì ngoài chuyện khóa vài vòng vào bánh trước, bánh sau sau khi đã khóa cổ xe và chân xe tử tế, chủ nhân rất nên đi lùi để đăm đăm và đăm đăm vào con chiến mã của mình. Thậm chí nên mua thêm bộ máy tạo xung điện rồi dán vài cái điện cực vào rốn, cùng lập trình cứ vài giây là giật đùng đùng, ý là nhắc nhở:

- Coi chừng mất xe nha má Hai!

Dĩ nhiên, má Hai hay má Ba còn phải cột sợi dây nối cổ tay mình với cổ tay đứa con xinh xinh, kẻo đi lạc thì ít, mà e rằng có bọn bắt cóc nào đó đang âm thầm theo dõi là nhiều lắm cơ đấy! Sự phòng bị cũng rất nên chu đáo cho cái điện thoại đút ở túi quần, vì một đường dao lam lướt qua nhẹ như khói mây, cũng làm nó tạ từ kỷ niệm! Nếu chẳng may mà cặp kính mát để quên trong cốp xe, bị mọc cánh bay về phía phương trời vô định, dù xe gửi trong bãi đàng hoàng, thì hãy mừng vui vì bớt được một thứ phải nhớ hằng ngày, bởi vật gì cũng chẳng nên ly thân nhé! Chớ bảo rằng đeo trên mắt thì an toàn! Bởi trộm thì kiêng, còn cướp thì chẳng phải xem ngày khi ra tay giải phóng!

Hm, chớ có ỷ y rằng chiếc khăn quàng cổ điệu đà sẽ chắn che hết mọi cặp mắt trên đời! Bọn thiên lý nhãn thừa biết quanh cái cần cổ xinh xinh và nõn nà ấy, ít ra cũng là sợi dây chuyền rất cần cho vài cữ ma túy quá liều của tay cướp mặt mũi xám ngoét! Mấy thằng tiên nâu này cóc cần biết đó là đồ gia bảo hay là quà tặng của ý trung nhân mà anh ta, ông ta, hay lão ta… đã nhịn đến mòn mỏi mới có thể sắm được cho kẻ đang làm mình run rẩy trái tim!

Lại chớ đắc chí cả cười:

- Ơ! Bóp em chẳng có gì để mất mà sợ!

Ừ! Bóp em mất thì… thôi! Nhưng em ngồi vi vút với nhân tình trên xe thế kia mà nách quàng bóp hay giỏ, thì ngứa mắt lắm lắm. Thằng cướp sẽ rồ ga nghe như tomahawk phóng ngang xe chàng và nàng, để có khi sau đó, chàng phải niệm hương trước quan tài nàng sau cú giật rất không báo trước làm nàng rơi vào cõi thiên thu rất ngậm ngùi chỉ vì cái giỏ vốn chỉ có mấy đồng lẻ gửi xe…

Xe đẹp thì nhớ mua phụ kiện này nọ chống trầy xước, dù có chống xước trầy đến mấy, thì cũng phải cọ quẹt với bá tánh trên những con đường chỉ thấy xe thôi cũng đủ ngộp! Có ghé vào quán bên đường để làm tô bún bình dân vì tiền mua xe “cha nó rồi”, thì cũng phải liệu chừng vì ở thời đại rực rỡ ngày nay, lề đường và lòng đường đã không còn biên giới! Thế nên, nếu có con mụ nào đấy leo xe lên lề rồi vì mắt ngước lên trời hay sao đó mà ủn đổ xe người khác xuống một cách rất đớn đau, thì có thể, mụ còn xỉa xói:

- Xe của đứa nào để… mất dậy vậy hả?

Nếu vì tinh thần độc lập tự do mà hăng tiết vịt lên, thì e rằng con mụ thổ tả kia sẽ giở thói giang hồ ra, thứ giang hồ thói đã du nhập từ hồi nào chẳng biết!

Xem ra, nếu “quan trọng” cái bao tử hơn là cái xe, thì nhớ trợn lòi mắt ra, ngửi lòi lỗ mũi ra, nghi ngờ lòi óc ra, bởi: liệu rau có ngâm thuốc trừ sâu không, liệu hạt tiêu hay hạt đu đủ, liệu thịt heo có phải từ heo chết không, liệu nước lèo thật hay lèo “lèo”?

Má ơi! Thật là chúng con đang lâm vào mê hồn trận của mọi thứ trên đời! Đi ăn buffet mà tưởng như ra trận, bởi cái đám tàu tạp um sùm và nhộn nhạo như lũ heo 3 ngày bị bỏ đói! Con cá với má rằng, tuy con còn đồng trinh, mà con từng nhìn thấy đồ nghề của một thằng miệng thì nhồm ngoàm, còn đồ nghề rất eo ơi của nó thì đang chĩa vào gốc cây thiên tuế mà… phun! Con cá với má là, cây thiên tuế ấy rồi cũng èo uột mà thác, bởi cái lũ bầy hầy ấy có lẽ sẽ bắt chước đồng bọn mà tưới ướt từ thân đến gốc loài cây tội nghiệp ấy, bởi những cái vòi rồng của chúng có thể điều khiển tám phương bốn hướng được một cách rất ư là điệu nghệ!

Cà phê thời buồi này, quên, thời buổi này cũng là thứ phải lưu ý như bất cứ thứ gì cho vào mồm để nuốt, nhai, hay chỉ để ngậm! Cái gì đẻ ra tiền đều có đồ giả, nói theo kiểu bắc kỳ là đồ đểu! Chứ không phải “đá tinh khiết” để quởn quởn ngậm chơi, nhiều khi chỉ là đá lấy từ nước ngầm khu nghĩa trang sao? Nghĩa trang có nghĩa là… khu vườn nghĩa hiệp, nhưng nước ngầm nghĩa trang thì nghĩa hiệp cái… nghĩa địa gì? Chứ không phải hồi xưa ăn cóc, ổi ngâm là… sướng lắm, mà thời đại vàng son hôm nay, có thể người ta ngâm cả formon cho lục phủ ngũ tạng con người thành bãi tha ma sao? Chứ không phải có hàng tỉ thứ hóa chất độc hại người ta vẫn bán buôn rất độc lập và tự do kết liễu lương tâm con người hằng ngày sao? Chứ không phải cờ tang đoản mệnh của người bị ung thư ngày càng gần nhà mỗi người sao? Chứ không phải kể lể vụ này hoài mà không hết sao vậy trời?

Hm, than thở không thôi cũng đủ ung thư cái cuống họng, huống là hằng ngày phải nghe thấy những điều đớn đau và bực bội. Che lỗ tai ư? Bưng con mắt ư? Bịt lỗ mồm ư?

Có che, hay bưng bít thì vẫn ngửi thấy, mó sờ thấy, thậm chí là hiểu, là biết, là cảm nhận những điều khốn nạn đang bủa vây lương tâm con người. Bão gây ngập lụt thì còn đổ cho… cái số nó vậy! Chứ xả đập mà chết người thì đích thị thằng xả đập là kẻ sát nhân! Kẻ sát nhân mà không bị kết án, có lẽ nó là cái gì gì chứ không hề là người! Có đủ thứ “đập” vẫn đập, vẫn xả chết hàng triệu cái lỗ tai, biến dạng hàng triệu khối óc trẻ thơ làm chuột bạch, làm đen kịt bầu trời phương nam bằng những cột khói ô nhiễm mà, chẳng thằng nào con nào chịu trách nhiệm, mà ngược lại, chỉ có những nụ cười giả ngơ, giả câm, giả điếc… cứ như như thế mới đúng quy trình!

Thế nên, mỗi người đều rất phải phòng vệ, để ít là nếu có bị ung thư vì ô nhiễm, thì chết… từ từ thôi, để còn thời giờ mà khóc cho lũ hậu sinh tội nghiệp! Để nếu mình có chết vì bị tọng thuốc trừ sâu qua thực phẩm độc hại từ bắc phương xuống, thì cũng còn tự làm bài văn tế bằng Tiếng Việt đầy xúc cảm, chứ quyết không để thứ ngôn ngữ nghe như lai tàu hán hóa hay háng hóa nơi cửa miệng con dân đất Việt vốn đầy kiêu hãnh!

Phòng vệ chỉ vì nghi ngại, nghi ngờ mà ra! Sợ người ta biểu tình thì nghi ngại những chỗ “tụ tập đông người”, kể cả nơi quán cà phê! Sợ người ta phao tin phao ảnh, nên nghi ngờ hết thay thảy, huống là kẻ đeo cái máy chụp hình đi lon ton ngoài đường chỉ để kiếm con sâu mà chụp. Cứ thử mà xem!

Và dường như, ai cũng là người khả nghi cả! Bởi mọi ánh mắt, mọi lời nói đều rất cầm chừng và đầy… thế thủ!

Hu hu…

LAM TRẦN

Hãy thong thả Sống

Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.

Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau. Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ. Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.

Cả hai người trên có thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết” dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.

Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời. Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết. Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay. Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.

Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống”. Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.

Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.

Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu.

Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình. Sau ba năm chị mất, cậu con trai mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ). Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.

Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục. Chị là người biết sống trong nỗi chết. Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.

Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li. Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói:”Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình”. Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không? Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.

Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên, giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa, đi gần, nào đó của mình.

Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ. Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết. Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ức đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.

Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v... sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.

Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già. Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.

Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống. Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt (ICU) lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng.

Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.

Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v… Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa. Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào. Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.

Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích (Thánh Vịnh).

Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.

Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.

Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết.

Chắc lúc đó chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân đứng.

Trần Mộng Tú – Lệ Ngọc st.


C Ư Ờ I

CH Ú T

CH Ơ I

CHÊ TRÁCH

Có một linh mục già rất tốt, được mọi người yêu mến và không mất lòng ai. Ngày kia, ngài có việc phải đi xa. Vừa mới lên xe khởi hành thì có một bà hàng x óm, sống cạnh nhà xứ hay có tính chê trách người này người nọ, hỏi xem có thể đi cùng xe với cha không, cha đồng ý. Đi được một lát, bà gợi chuyện:

- Thưa cha, con kể cho cha biết về một người đàn bà xấu nết, đó là người hàng xóm của con.

- Bà ấy xấu nết lắm sao?

- Dạ vâng. Xấu lắm ạ.

- Vậy chúng ta hãy lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện cho bà ấy để bà có thể bỏ được nết xấu.

Thế rồi, cha xướng kinh: Nhân danh Cha... và bà phải thưa suốt 50 Kinh Mân Côi. Vừa đọc xong 50 kinh, bà lại tiếp tục phàn nàn:

- Cha ạ. Con đã phải chịu đựng bà ta quá nhiều. Con không thể kiên nhẫn hơn được nữa.

- Con nói đúng. Với một người như thế, phải kiên nhẫn lắm mới có thể chịu đựng được. Vậy chúng ta hãy lần thêm 50 Kinh Mân Côi nữa cho con. Xin Chúa ban thêm ơn kiên nhẫn cho con.

Và rồi cha đọc tiếp: Nhân danh Cha... Và thế là họ cùng đọc thêm 50 kinh nữa. Khi kinh cuối cùng vừa dứt, bà chớp lấy cơ hội nói luôn:

- Thưa cha, bà ấy sống rất tệ với chồng. Ông ấy khổ lắm cha ạ.

- Thật tội nghiệp cho ông chồng ấy lấy phải người vợ không ra gì. Vậy chúng ta hãy lần thêm một chuỗi nữa để cầu cho ông ấy.

Và rồi cha lại xướng lên: Nhân danh Cha… Khi vừa xong 50 kinh lần thứ 3, cha chủ động hỏi:

- Thế còn ai khổ vì bà ấy nữa không con, để cha con mình đọc tiếp?

- Dạ, thưa cha… thưa cha… hết người khổ rồi ạ.

NHÀ KINH THÁNH LỖI LẠC

Có một nhà Kinh Thánh lỗi lạc, ông nói gì cũng dùng lời Kinh Thánh mà nói. Đức Giám Mục nghe nói thế bèn gởi một linh mục đến điều tra. Vị linh mục đến trước nhà nhìn qua cánh cửa hé mở thấy nhà Kinh Thánh đang ngồi nhậu nên đứng ngoài quan sát.

Bỗng dưng một giọng đàn ông ngà ngà lên tiếng:

- Này bà, họ hết rượu rồi (Ga 2:3).

Bà vợ đáp:

- Ngày nào cũng nhậu. Ông muốn mua thêm mấy lon bia nữa hả?

Nhà Kinh Thánh:

- Một hòm bia (Xh 25:10).

Bà vợ trợn mắt:

- Một hòm bia lận hả? Ngày mai lấy tiền đâu mua đồ ăn cho con chứ?

Nhà Kinh Thánh nửa tỉnh nửa say:

- Đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy (Mt 6:34).

Bà vợ cằn nhằn:

- Ông thì không lo, nhưng tôi lo. Tôi không đi.

Nhà Kinh Thánh:

- Đi mau lên (1 Sm 9:12). Đưa chân đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi! (Cv 26:14).

Vị linh mục đứng bên ngoài hoàn toàn kinh ngạc !?

MÁY NÓI DỐI

Ông nọ mua về một robot chuyên phát hiện nói dối. Sau bữa cơm tối, ông đem biểu diễn cho cả nhà. Ông hỏi cậu con trai:

- Hồi chiều con làm gì?

- Con làm bài tập.

Tức thì máy tát cho cậu bé một cái nảy đom đóm. Cậu vội vã đính chính:

- À, không. Con coi phim...

- Phim gì?

- Phim hoạt hình “Toy Story”.

Máy tát cho cậu bé một cái nữa. Cậu lắp bắp:

- Dạ, không. Con coi phim sex.

Tuy thích thú trước sự chính xác của chiếc máy nhưng ông bố không quên lên lớp cậu con:

- Ở tuổi của con, không những bố chăm chỉ học hành mà còn chẳng bao giờ để mắt vào cái khoảng sex xiếc đó.

Máy liền quay sang xáng cho ông bố một cái cực mạnh.

Bà vợ cười lăn:

- Thấy chưa, ai biểu ông để nó đánh con ông!

Máy liền táng cho bà vợ một cái lăn ra đất.

Hôm sau, người ta thấy tấm bảng “Robot for sale” treo trước cửa.

HÀ MẠNH ĐOÀN st.


Phụ bản IV

ƯU ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM

Một đoàn hợp xướng nổi tiếng tổ chức cuộc biểu diễn báo cáo định kỳ thường niên. Khách mời có đủ các giáo sư âm nhạc, các nhà sáng tác, phê bình, các nghệ sĩ nổi tiếng và nhiều chính khách. Hết chương này nối tiếp chương khác, giọng ca của các ca sĩ cứ hòa quyện lấy nhau, dường như mỗi âm thanh, mỗi lời ca đều phát ra từ chiếc đũa chỉ huy của vị nhạc trưởng - nhịp nhàng, đúng chỗ, đúng lúc, đúng thanh điệu..., thể hiện kết quả của một quá trình luyện tậ p gian khổ và trình độ diễn xuất cao.

Dòng thác âm thanh cùng lời ca kỳ diệu như đưa cả người hát và người nghe vào trạng thái thăng hoa, ngây ngất như trong mơ trong mộng. Bỗng nhiên, một giọng nữ trong veo cất lên cao vút. Một giọng độc xướng kỳ lạ, nhưng lại xuất hiện ở vị trí không dành cho những người độc xướng! Vị nhạc trưởng ngỡ ngàng, ngẩng đầu; dàn hợp xướng dường như bắt đầu rối loạn... May thay, sự cố chỉ xảy ra trong một vài giây; ngay lập tức mọi thứ lại trở về quỹ đạo bình thường và buổi biểu diễn đã kết thúc hết sức mỹ mãn.

Những tràng vỗ tay như sấm và nghi lễ tặng hoa vừa chấm dứt thì vị nhạc trưởng đã hầm hầm lao vào phía sau sân khấu:

- Ai đã hát lạc giọng?

- Là tôi ạ. - một cô gái mới nhập đoàn không lâu đang thút thít ngồi khóc trong sân khấu.

Vừa đúng lúc đó có một vị thượng khách bước vào, ông nhạc trưởng đành phải tươi cười bước ra nghênh tiếp. Vị giáo sư âm nhạc nổi tiếng nói:

- Tôi rất muốn gặp cô gái đã hát lạc giọng. Đã lâu lắm rồi, tôi chưa được nghe một giọng nữ cao nào đẹp và mượt đến mức như vậy. Nếu biết cách huấn luyện, sẽ có được một ca sĩ lớn.

Thế là cô gái hát lạc giọng bị cả đoàn chỉ trích đó đã trở thành học trò của vị giáo sư nổi tiếng. Quả nhiên, sau vài năm, cô bé lọ lem đó đã trở thành một ngôi sao lớn trong giới thanh nhạc.

Suy Tư

MỘT SỐ NGƯỜI CHỈ NHÌN THẤY CÁI SAI CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÁC, NHƯNG CÓ NGƯỜI LẠI NHÌN THẤY ĐƯỢC CẢ ƯU ĐIỂM TRONG NHỮNG SAI LẦM.

ĐỂ CÓ THỂ TRỞ THÀNH LOẠI NGƯỜI THỨ HAI, CẦN PHẢI VỪA CÓ LÒNG BAO DUNG VỪA CÓ TRÍ TUỆ. THIÊN CHÚA RẤT THÍCH LOẠI NGƯỜI THỨ HAI NÀY.

HOÀNG CHÚC st.


LÀM NGAY

KHÔNG BAO GIỜ THỪA

1. Uống nhiều nước.

2. Ăn sáng như Vua, ăn trưa như Ông hoàng và ăn tối như Kẻ ăn xin (ăn ít).

3. Ăn nhiều thức ăn mọc trên cây và ăn ít thức ăn được chế tạo trong nhà máy.

4. Sống với 3 chữ N: Năng lực - Nhiệt thành - Nhân ái

(bản tiếng Anh là 3 chữ E: Energy, Enthusiasm và Empathy).

5. Tìm ra thời gian để cầu nguyện.

6. Chơi trò chơi nhiều hơn.

7. Đọc sách nhiều hơn so với năm trước.

8. Mỗi ngày dành 10 phút ngồi yên lặng

9. Ngủ tối thiểu 7 giờ

10. Vừa đi bộ vừa mỉm cười 10-30 phút mỗi ngày

11. Đừng so sánh cuộc đời của mình với cuộc đời của những người khác. Không biết hành trình của họ như thế nào đâu.

12. Đừng có những suy nghĩ tiêu cực hoặc nghĩ những điều mà mình không thể làm chủ. Thay vào đó, hãy đầu tư năng lực của mình vào ngay thời điểm hiện tại.

13. Đừng làm gì quá sức. Phải giữ một giới hạn cho bản thân.

14. Đừng coi mình quá nghiêm trọng, coi như không ai sánh nổi.

15. Đừng phí năng lực quý ‎ báu vào những chuyện ngồi lê đôi mách.

16. Hãy biết mơ nhiều hơn ngay khi còn đang thức

17. Ghen tỵ là phí thì giờ. Mình đã có tất cả những gì mình cần rồi.

18. Hãy quên đi những chuyện đã qua. Đừng nhắc người thân nhớ lại những lỗi lầm trong quá khứ. Điều đó sẽ làm tan vỡ hạnh phúc đang có.

19. Cuộc sống quá ngắn để tốn thời gian căm ghét bất cứ ai. Chớ ghét bỏ ai

20. Hãy dàn hòa với quá khứ của mình để tránh làm hỏng cái hiện có

21. Không ai nuôi dưỡng hạnh phúc của mình, ngoài chính mình.

22. Hãy coi cuộc đời là một trường học và bạn đang ở đó để học. Những điều khó hiểu chỉ là một phần của chương trình học, chúng xuất hiện rồi biến dần giống như môn Đại số. Nhưng những bài học mình thu nhận được sẽ kéo dài suốt đời.

23. Hãy mỉm cười và cười nhiều hơn nữa.

24. Không buộc phải thắng trong mọi cuộc tranh cãi. Hãy bằng lòng với sự bất đồng.

25. Hãy thăm hỏi thường xuyên gia đình mình.

26. Mỗi ngày hãy đưa lại vài điều tốt cho người khác.

27. Hãy tha thứ cho mọi người về mọi chuyện.

28. Hãy dành thời gian cho các cụ ngoài 70 và các cháu dưới 6 tuổi.

29. Cố gắng làm được cho 3 người mỉm cười mỗi ngày.

30. Không cần biết những điều người khác nghĩ về mình.

31. Công việc không chăm sóc được khi mình đau ốm. Bạn mình mới làm được. Hãy luôn liên lạc với nhau.

32. Hãy luôn làm những chuyện đúng đắn.

33. Hãy gạt bỏ mọi chuyện bất lợi, không đẹp hoặc không vui

34. Trời sẽ chữa lành mọi chuyện.

35. Dù cho mọi hoàn cảnh tốt hay xấu cũng sẽ thay đổi.

Phùng Chí Tâm st.

THAY ĐỔI LỐI SỐNG VÀ CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG

tiến tới “SỐNG KHÔNG BỆNH”

PHÒNG NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ TOÀN DIỆN BỆNH MẠN TÍNH

BẰNG KẾT HỢP Y HỌC CỔ TRUYỀN - Y HỌC HIỆN ĐẠI

(LIỆU PHÁP 4 T)

ThS.BS. Quan Vân Hùng

(tiếp theo số 161)

Hãy suy nghĩ bài thơ:

HÃY SỐNG TRONG THẾ GIỚI BIẾT ƠN

(TƯ DUY TÍCH CỰC)

Hãy biết ơn những người khiển trách ta

Vì họ giúp ta tăng trưởng Định Tuệ.

Hãy biết ơn những người làm ta vấp ngã

Vì họ khiến năng lực của ta mạnh mẽ hơn.

Hãy biết ơn những người bỏ rơi ta

Vì họ đã dạy cho ta biết tự lập

Hãy biết ơn những người đánh đập ta

Vì họ đã tiêu trừ nghiệp chướng cho ta.

Hãy biết ơn những người lường gạt ta

Vì họ tăng kiến thức cho ta.

Hãy biết ơn những người làm hại ta

Vì họ đã tôi luyện tâm trí của ta.

Hãy biết ơn tất cả những người khiến ta được Kiên Định Thành Tựu.

Bị lường gạt ta “lo - buồn - giận - sợ” thì được gì? Tiền danh lợi đã mất, kẻ lường gạt đã trốn mất, chi bằng xem đây là kinh nghiệm bài học đắt giá, suy ngẫm lại cách làm việc, sáng suốt hơn… về sau không ai lường gạt được mình, hơn nữa nhờ tự rèn luyện kỹ năng giao tiếp qua kinh nghiệm “xương máu”, ta thành công vượt bực, trong lòng “mang ơn” kẻ đã lường gạt mình. Hãy nhớ “không thể thay đổi được hoàn cảnh - con người bên ngoài ta, nhưng có thể thay đổi được tư duy - cảm xúc - hành động của chính mình”.

Qua truyện này, khi gặp một sự việc không như ý, nếu nghĩ đây là điêu rủi cũng không sai, nhưng không thể thay đổi con người - hoàn cảnh (bị mất ngựa, thi rớt, bị lường gạt…) nhưng mà sẽ kéo theo tâm lý - cảm xúc tiêu cực (lo - buồn - giận - sợ). Còn nếu nghĩ ngược lại là điều may (tư duy tích cực) thì cũng có thể đúng và sẽ không phải lo - buồn - giận - sợ. Như vậy ta nên suy nghĩ theo kiểu nào khi gặp một vấn đề bất như ý??? Tóm lại, học thuyết Âm Dương của Y học cổ truyền đã chỉ dạy “Mọi sự vật, hiện tượng đều có 2 mặt đối lập Âm - Dương (mặt tốt - xấu, khía cạnh vui - buồn, điều rủi - may,…) và thường thì chỉ một mặt xuất hiện, mặt kia còn tiềm ẩn nhưng chắc chắn là có, và thực tế đúng như thế. Như vậy khi ta gặp bất cứ điều gì không hài lòng, cho là điều rủi thì thay vì ta suy nghĩ theo điều rủi, không tốt thì chắc chắn sẽ sinh ra lo - buồn - giận - sợ, thì ta hãy tìm mặt tích cực của vấn đề, suy nghĩ và thực hiện mặt tích cực đó thì chắc chắn cuộc sống sẽ bình an hơn, stress sẽ nhẹ hơn.

2. T2 - Chế độ ăn : (ăn uống sao cho khỏe)

Chế độ ăn uống để duy trì sức khỏe cần 4 yếu tố: Ngon - Bổ - Lành - Cân bằng âm dương.

* Ngon - bổ - lành: dùng thực phẩm tự nhiên (hữu cơ), thô (toàn phần), tươi sống.

* Tiến tới một chế độ ăn quân bình âm dương (axit-kiềm).

- Theo nghiên cứu của các chuyên gia dinh dưỡng và lý thuyết Otto Warburg: cơ thể con người (huyết dịch) có tính hơi kiềm là tốt nhất (pH = 7,35 - 7,4). Nếu cơ thể con người có khuynh hướng axit thì hoạt động tế bào kém, các chức năng yếu đi, chất thải khó bài tiết ra ngoài, chuyển hóa cũng chậm theo, tăng gánh nặng cho gan thận, suy giảm sức đề kháng, dễ xuất hiện các bệnh mạn tính, trước tiên dễ bị cảm cúm, nhiễm siêu vi (dân gian gọi là trúng gió). Đồng thời, tình trạng axit làm cho cơ thể mau già yếu, dễ mệt mỏi, tâm thần không ổn định. Yếu tố then chốt quyết định là chế độ ăn uống, thức ăn có thể chia thành nhóm sinh axit, sinh kiềm và trung tính. Những thức ăn ngon hấp dẫn phần lớn đều mang tính sinh axit như thịt, lòng đỏ trứng, gạo trắng, bánh mì trắng, đường trắng, hóa chất phụ gia thực phẩm; trái lại các loại rau - củ - đậu, rong biển, trái cây đều mang tính sinh kiềm. Chỉ riêng gạo nứt là mang tính cân bằng âm dương nhất.

- Chế độ ăn thịt: có nhiều đạm động vật nhưng không ở dạng đơn thuần mà ở dạng liên hợp như Nucleoprotein, Lipoprotein,… trong quá trình chuyển hóa sẽ sinh axit, cho ra nhiều sản phẩm độc hại cho cơ thể như urê, acid uric, nitrit, nitrat,… chính lượng nitrit - nitrat cao trong máu sẽ phối hợp với các gốc Oxy tự do sẵn có trong cơ thể tạo thành Nitrosamin - chất gây ung thư (có nhiều trong thịt nướng - chiên - hun khói). Do đó đối với người trưởng thành, lượng đạm động vật nên đạt từ 25-30% trên tổng lượng đạm là thích hợp.

- Chế độ ăn chay: có ưu điểm kiềm hóa máu, nếu trong bữa ăn chay, thay gạo trắng bằng gạo nứt, có đậu, mè, nấm thì không sợ thiếu chất đạm - các loại acid amin, đặc biệt một số nấm ngoài tính chất chứa nhiều đạm lại có những hoạt chất chống ung thư (nấm bào ngư, nấm đông cô, nấm tuyết, nấm mèo đen, nấm hầu thủ). Nếu ăn chay trường, trong mỗi bữa ăn cần luôn luôn có đủ 4 nhóm: rau - củ - quả, bột đường, đạm thực vật (đậu - nấm), dầu thực vật. Ăn gạo nứt muối mè kèm thức ăn chay thì rất tốt cho sức khỏe.

- Chọn các thức ăn uống có chứa các vitamin kháng ung (vit. A, B, C, E), có khoáng chất chống ung thư (Mg, Kẽm, Germanium, Selenium).

- Tình trạng axit cũng thường xuất hiện khi lo lắng thái quá hay lao động quá sức.

- Cách ăn: cần nhai kỹ lưỡng trước khi nuốt, khi nhai kỹ thức ăn đã được tiêu hóa 1 phần và được kiềm hóa 1 phần nhờ nước bọt. Chính cuộc sống hiện đại đầy khẩn trương khiến người ta ăn vội vàng (fast-food) không có thì giờ nhai, điều này chắc chắn ảnh hưởng không tốt đến bộ máy tiêu hóa.

- Nước uống có phẩm chất tốt: chất khoáng lượng thích hợp, không chất có hại, độ cứng vừa, chứa nhiều oxy, chứa ion bicarbonat, có tính kiềm.

- Giới hạn dùng nước đá, kem lạnh dễ làm rối loạn tiêu hóa, viêm họng.

- Chế độ ăn trở về thiên nhiên

1. Kiêng cữ hẳn: mỡ động vật (heo gà bò)

2. Hạn chế: thịt (nướng - hun khói - chiên), muối, đường, trứng, hóa chất (phẩm màu, hương - vị thực phẩm, chất bảo quản, phụ gia,…) → thực phẩm công nghiệp - đồ hộp.

3. Nên ăn: thực phẩm hữu cơ - tươi - thô (toàn phần), chưa tinh chế: cơm gạo nứt, rau (bông cải, dền, bắp cải), củ (carot…), đậu (đậu trái, đậu hột: đậu đen - đỏ), nấm (nấm bào ngư, nấm đông cô, nấm tuyết, nấm mèo đen, nấm kim chi, nấm mỡ, nấm hầu thủ), rong tảo biển, trái cây (táo, dâu…), tỏi, hành tím, rau thơm, mè đen.

4. Uống đủ nước: nước khoáng kiềm, nước trà xanh, nước trái cây, nước gạo nứt rang, nước đậu đen, sữa đậu nành tươi (mới nấu), nước sả.

5. Nhịn ăn để thanh lọc cơ thể: từ 1 đến 3 ngày/đợt, 1 đến 4 đợt/năm

→ TÓM LẠI KHI ĂN UỐNG CẦN CHÚ Ý NHIỀU KIỀM HƠN AXIT.

3. T3 - Tập luyện:

Có nhiều phương pháp tập luyện nhằm nâng cao sức khỏe (hệ miễn dịch):

+ Thư giãn: chống stress (thư giãn thụ động và chủ động)

+ Tự xoa bóp: thúc đẩy lưu thông khí huyết, chống ứ trệ, như phương pháp tự xoa bóp “Cốc Đại Phong” là phương pháp tự xoa bóp toàn thân từ đầu đến chân, có tác dụng kép (của xoa bóp và vận động), làm tăng tiết Endorphin, có tác dụng tăng miễn dịch, làm sảng khoái dễ chịu, tăng sức khỏe.

+ Luyện thở bụng khi mệt, căng thẳng.

+ Tập Thái Cực Quyền: Đây là môn võ dưỡng sinh rất phù hợp cho người lớn tuổi, sức khỏe kém. Môn võ này vừa giúp vận động toàn thân, lại giúp tinh thần bình an (thiền trong thế động). Tập hương công, Yoga... cũng có lợi cho sức khỏe.

+ Ngoài ra có thể tập thiền định (thiền thở).

+ Đi bộ chậm, thở sâu.

+ Các môn thể thao: tránh quá sức.

4. T4 - Thuốc:

Thuốc Tây (điều trị triệu chứng) - Thuốc Đông dược hay các liệu pháp không dùng thuốc (châm cứu - xoa bóp...): thuốc đông y theo biện chứng luận trị.

Chú y bồi bổ hệ miễn dịch: Các dược liệu bổ tinh - khí - thần như Đỗ trọng, Ba kích, Nhân sâm, Nhung hươu nai, Linh chi, Tâm sen…

IV - BÀN LUẬN:

1. Để phòng ngừa, các liệu pháp trên khó thực hiện ở người còn trẻ khỏe, còn ham danh lợi, chưa từng bị bệnh nặng, còn thích ăn ngon mặc đẹp đua đòi…

2. Phương pháp trên phù hợp với người lớn tuổi, sức khỏe kém, cuộc đời đã qua nhiều phong ba bão táp, ba chìm bảy nổi, đã nếm đủ các lạc thú cũng như đã chịu nhiều đau khổ, do đó dễ thấm thía các giá trị cuộc sống (quan hệ 4T: Tôn Trọng - Tương Trợ - Tha Thứ - Thân Thương), tư duy tích cực, luật nhân quả.

V - KẾT LUẬN:

Con đường bệnh tật đầy đau khổ, Y học cổ truyền có thể góp phần phòng bệnh - giảm nguy cơ bệnh, điều trị, hạn chế tái phát tiến tới SỐNG KHÔNG BỆNH bằng cách giúp bồi dưỡng nội lực (chính khí) làm tăng sức đề kháng với bệnh tật, đó là liệu pháp 4T:

T1 → Tinh thần - tâm lý: bình an thoải mái, giảm stress

(lối sống 3 giảm - 1 không)

T2 → Thực phẩm quân bình âm dương (axit - kiềm) → thực phẩm hữu cơ, tươi sống - thô: nhiều rau củ quả đậu nấm, gạo nứt tốt hơn gạo trắng, hạn chế thực phẩm đông lạnh - chế biến - công nghiệp (đồ hộp).

T3 → Tập luyện thường xuyên luôn kết hợp với thở sâu - thở bụng.

T4 → Thuốc từ cây cỏ, chú ý dược liệu bổ tinh - khí thần, kết hợp thuốc Tây nếu thực sự cần thiết.

ThS.BS Quan Vân Hùng

PGĐ Trung tâm y võ - dưỡng sinh

Email : qv hung@yahoo.com

Đt. 035 489 0311

Cô Lê Ái Liên st.

NẾU BẠN CON GÁI

Nếu bạn có con gái, đừng chỉ dạy con cách yêu thương người khác, mà hãy dạy con cách bảo vệ chính mình. Đừng chỉ dạy con cách tôn trọng người khác, hãy để con biết giá trị bản thân và con cũng phải trân trọng chính mình…

Sinh con gái, nghĩa là cha mẹ phải chuẩn bị cho mình kiến thức và tâm lý riêng để dạy con. Con gái thường yểu điệu, nhẹ nhàng, sống tình cảm thậm chí yếu đuối. Tuy nhiên, cha mẹ hãy dạy con về niềm kiêu hãnh của phụ nữ. Phụ nữ có thể buồn, cũng có thể khóc, nhưng tuyệt đối không thể ủy lụy hay van nài ai.

Dưới đây là 16 điều trong quan điểm dạy con gái :

1. Nếu ai đó khen con đẹp, cứ bảo con cảm ơn họ và quên đi. Nếu ai đó khen con ngoan ngoãn, cũng hãy khuyên con cảm ơn và phải cố gắng tốt hơn nữa. Với con gái, nhan sắc không là tất cả. Con xinh đẹp không chưa đủ, con còn phải sống tốt mới là ý nghĩa.

2. Hãy dạy con về bất hạnh ở đời. Nếu con thấy ai khóc òa như một đứa trẻ khi tổn thương, dù là trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng hãy dạy con cách cho họ mượn một bờ vai. Và nếu gặp người khốn cùng, hãy để con hiểu con phải giúp họ với tất cả những gì con có. Đừng để con dửng dưng với bất hạnh ở đời, vì sẽ có lúc đau lòng, con cũng cần người ở bên khi chúng ta không ở đó.

3. Hãy dạy con về lời khen, dạy con đừng tiếc lời khen dành cho người khác. Nhưng hãy để con biết đừng biến lời khen dư thừa thành thói nịnh hót ở đời. Chẳng ai thích nghe lời xấu xí về mình, vẫn là nên dành cho nhau những lời dễ nghe.

4. Hãy nói với con về sức mạnh của nụ cười. Hãy để con biết con xinh đẹp nhất khi cười. Đừng tiết kiệm nụ cười khi nó có thể mang đến cho con và người quanh con cả một bầu trời ấm áp.

5. Cũng hãy nói với con về nỗi đau hay những muộn phiền. Rằng con sẽ phải đối mặt với những điều không vui, thậm chí là mất mát nặng nề. Nhưng hãy để con hiểu con không bao giờ một mình, đừng cam chịu. Hãy mở lòng ra, chia sớt nỗi niềm của mình với người yêu thương con.

6. Hãy dạy con về niềm kiêu hãnh của phụ nữ. Phụ nữ có thể buồn, cũng có thể khóc, nhưng tuyệt đối không thể ủy lụy hay van nài ai. Tốt xấu gì cũng có thể đến nhưng rồi sẽ nhanh đi như một cơn gió. Con phải hiểu có kiêu hãnh và lòng dạ của mình là ở lại, vì vậy phải gìn giữ nó thật kỹ.

7. Hãy để con biết bạn chính là điều không thể thiếu trong cuộc đời con, nhưng phải là bạn tốt. Dạy con chọn bạn, một là cho con thêm một bàn tay níu vịn, hai là khiến con có thêm một tai họa một đời. Bạn tốt sẽ là người bên con, cùng con san sẻ những điều cha mẹ khó lòng hiểu hết. Bạn xấu sẽ hóa thù, đừng để nghĩa tình nơi con sẽ có lúc phải trả giá. Vì vậy, phải để con hiểu đâu là bạn tốt, đâu là bạn xấu.

8. Hãy dạy con cách cho đi và nhận lại. Cho thứ con có nhưng không có nghĩa là cho hết thảy. Cho vừa đủ, cho để vui lòng con, sưởi ấm lòng người. Đừng tính toán khi cho đi nhưng cũng hãy mưu cầu được nhận lại. Không có mối quan hệ nào tốt đẹp ở đời chỉ toàn cho mà không thể nhận.

9. Nói với con, đừng sợ bóng tối hay những điều xấu xí của nhân loại. Quan trọng vẫn là đôi mắt của con nhìn được gì, lòng dạ con thấy được những gì tốt đẹp của loài người. Đừng vì bóng tối mà quên mất nắng ấm. Đừng vì điều không hay mà quên những điều tốt đẹp khác.

10. Buồn vui ở đời đều không là bất biến. Buồn đó rồi sẽ vui ngay. Vì vậy đừng buồn mãi một chuyện không vui. Cũng đừng quá vui mà lại có lúc phải buồn. Bình thản, từ tốn thì mới mong bình yên.

11. Hãy dạy con đừng vội vã hơn người mà đánh mất chính mình. Tiến một bước sai trái để hơn vạn người cũng là vô ích. Có lùi trăm bước để là chính mình cũng là xứng đáng. Ở đời, tiến hay lùi, hơn hay thua vẫn ở chính mình.

12. Đừng bao giờ chỉ thấy mỗi nơi con đứng, ngay cả khi có cao hơn bao nhiêu người. Nhìn lên đi để còn biết con vẫn chưa có gì, phải đi tiếp thế nào. Nhìn xuống đi, để biết con đã có những gì và phải bảo vệ những gì đang có.

13. Hãy luôn ở hiện tại mà nhìn về tương lai. Nhưng đừng bao giờ quên quá khứ. Con người vẫn là phải sống cùng cả hiện tại, tương lai và quá khứ để thấy mình đủ đầy và mạnh mẽ hơn.

14. May hay rủi, thành ở bại nhiều khi con không quản được hết. Quan trọng vẫn là con đã cố gắng thế nào. Kết quả đôi khi không là tất cả, cần thiết vẫn là con đã trưởng thành ra sao.

15. Hãy để con hiểu con phải trở thành một cô gái độc lập và có chủ quyền. Con cần tình yêu nhưng không cần tiền của đàn ông để hạnh phúc. Con có thể cho ai mượn bất cứ thứ gì, trừ đàn ông. Nếu con muốn hạnh phúc, hãy có tiền của chính mình và có đàn ông của riêng mình.

16. Và điều cuối cùng, nếu bạn có con gái, đừng chỉ dạy con cách yêu thương người khác, mà phải dạy con cả cách bảo vệ chính mình. Đừng chỉ dạy con cách tôn trọng người khác, hãy để con biết con cũng phải trân trọng chính mình…

KIM SƠN st.

MÁ HỒNG MỘT THUỞ

Trời sinh làm kiếp má hồng

Là xui em những đèo bòng truân chuyên

“M á hồng” là nhũ danh cho một nửa thế giới. Một nửa thế giới ấy nếu thiếu đi sẽ là cả một đại họa, sẽ không thể tồn tại được một chu trình kiến vận của tạo luật, sẽ không còn cái gọi là sắc màu cuộc sống, ngắn gọn hơn, là không có cả nửa thế giới còn lại nữa. Nhưng một nửa thế giới vô cùng quan thiết này đã, đang hiện diện và tồn tại như thế nào?

Bằng vào giới chức từ đấng thiên năng giao phó, những má hồng mặc nhận thân sinh nghiệp tại với bao nỗi thăng trầm đa đoan trúc trắc. “Má hồng phận bạc”. Không bỗng dưng mà nảy ra câu thành ngữ ấy. Nó đã được chiêm nghiệm từ hàng nghìn hàng triệu mảnh đời liễu yếu tự Đông Tây kim cổ. Cho đến bây giờ và cho đến cả muôn sau, câu thành ngữ ấy vẫn luôn có một vị trí cố định trong thế giới người.

Vì sao lại bạc?

Là bởi vì cuộc sống luôn đòi hỏi quá nhiều ở người phụ nữ. Cứ như đã sinh ra làm phụ nữ thì phải có nhiệm vụ chu toàn tất thảy mọi điều. Phải đẹp, phải xinh, phải duyên, phải giỏi, phải biết năng động, phải biết lo toan, phải biết dịu dàng, phải biết chu đáo, phải biết hy sinh, phải biết nhường nhịn, phải biết khoan dung, phải biết chịu đựng… Có quá nhiều cái phải, và thiếu bất kỳ trong những cái phải ấy thì cứ nghiễm nhiên như là có lỗi. “Phụ nữ gì mà…”. Lại một yếu tố đặc tính của tạo hóa, phụ nữ luôn sống theo cảm tính, lấy tình cảm làm căn bản sống, bao nhiêu khó khăn gian khổ gì cũng có thể cưu mang gánh vác được chỉ vì một chữ “Tình”. Trong khi đối tượng phối tác thì lại mang một đặc tính hết sức trái ngược “tham lam và ích kỷ”. Đây là vấn đề then chốt để bao nhân trần khổ ải chất lên tấm thân mỏng mảnh yếu đuối. Đôi lúc nghĩ tạo hóa cũng hết sức tinh vi khi sắp bày cơn cớ. Để bao mảnh đời mỏng manh yếu đuối ấy vẫn dẻo dai bền bỉ mà chống chèo qua sông to biển lớn nghiệt oan cũng nhờ vào một chữ “Tình” thăm thẳm.

Phần lớn phụ nữ thường đơn giản trong khát vọng. Họ chỉ mong có một cuộc sống bình ổn bên những người mà họ thương yêu. Họ luôn muốn đem hết khả năng sức lực của mình để mà lo toan chăm sóc chồng và con. Không hiếm khi họ bỏ quên cả bản thân, điều họ mong được đáp lại là tình cảm. Chỉ cần một hành động quan tâm nho nhỏ thôi, họ cũng đủ phấn khích và thỏa mãn lắm rồi. Họ không nhiều tham vọng chinh phục những đỉnh cao nào cả. Họ lặng lẽ làm chiếc bóng, làm một thứ phông nền cho những bước tiến của chồng con, họ lấy niềm vui và sự thành đạt của chồng con làm hạnh phúc của mình. Và cũng không ít những người trong số này phải nhận lại những hồi đáp tệ bạc. Những “đối tác” cứ như tự cho mình nghiễm nhiên được thụ hưởng, mà không hề nghĩ rằng trong những thành quả mình có được một phần không nhỏ thuộc về những công sức lặng thầm kia.

“Chẳng lẽ không có đàn ông, phụ nữ không sống nổi sao?”

Đó là câu có thể thốt ra từ khoảng 20% những người phụ nữ đủ mạnh mẽ cứng cáp để không phải phụ thuộc quá nhiều một nửa của phía bên kia. Típ phụ nữ này thường là cái gai trong mắt đàn ông. Là bởi họ làm cho đàn ông không có cơ hội thể hiện cái gọi là nam tính của mình, không có cơ hội sở hữu hay ít nhất cũng tỏ ra được một chút oai phong. Trong con mắt của đa số đàn ông, phụ nữ không được phép thoát khỏi sự quyền chế của họ. Như một định lý bất biến ở cuộc đời này “Chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Vì thế mà với đàn ông ít nhất cũng có được vài thế mạnh, mạnh về sức lực, mạnh về tiềm lực kinh tế, mạnh về quan niệm số đông xưa nay nghiêng ưu thế về họ. Để rồi đó đây trên trái đất này, vẫn luôn có rất nhiều những mảnh đời mong manh yếu đuối phải chịu sự khuất lụy của kiếp “má hồng phận bạc”.

Trên đời này không có gì là tuyệt đối, số đông không có nghĩa là tất cả, vẫn có một thành phần phụ nữ có được một đời sống êm ấm hạnh phúc thực sự. Thành phần này đương nhiên là đã có được những yếu tố then chốt của giới phái, họ cũng phải trải nghiệm gánh vác những trách vụ đặc trưng của tạo luật, nhưng điều quan trọng hơn, là họ nhờ gặp được những người đàn ông thực sự biết quan tâm, biết chung chia, biết tôn trọng và thương yêu đúng nghĩa, nhờ đó mà sự vất vả lo toan cũng giảm đi được ít nhiều. Chỉ có điều so với tổng thể thì con số này thật quá chênh lệch. Nên nhìn quanh nhìn quẩn vẫn thấy quá nhiều má hồng nhạt nhòa nước mắt, vẫn thấy nhan nhản những bất công đày đọa, những gương mặt dàu dàu héo úa, những giọt nước mắt lã chã rơi trên những đôi tay gầy guộc, những khuất chìm dồn nén xuống tận đáy lòng, những âm thầm gắng gượng mà đi qua mảnh đời phận bạc long đong.

Cách này hay cách khác, hình thức này hay hình thức khác, bối cảnh này hay bối cảnh khác, những má hồng vẫn dọc dài kiếp phận truân chuyên. Tác giả bài viết này thật lòng gửi đến một lời tri cảm những đấng mày râu đáng bậc trượng phu, đúng nghĩa chính nhân quân tử. Các vị đã làm cho những người phụ nữ của các vị cảm nhận được ý nghĩa về sự có mặt của họ trong cuộc đời này. Và cũng xin mong cầu phần nhiều những “nam nhi chi chí” khác, hãy sống xử một cách chân thành, có tình và tôn trọng hơn một nửa của mình. Cho dù một nửa của bạn ấy chẳng tài cán nổi trội, chẳng hương trời nước sắc, họ chỉ có một trái tim và một tấm lòng đã trao cả về bạn. Nếu tất cả những người đàn ông trên thế gian này, biết mình biết người một chút, thì chắc chắn những “má hồng” cũng sẽ không đến nỗi “phận bạc”. Nhân một ngày cho một nửa thế giới mỏng manh liễu yếu, xin gửi lời cầu chúc đến những chị em yêu quý của chúng ta thật sự có một ráng hồng hạnh phúc trên đôi má dẫu làn da đã tô đậm những vệt màu thời gian.

ĐÀM LAN


HƯƠNG ĐỒNG BẰNG

Nắng tắt, bầu trời ngan ngát tím. Gió dìu dịu làm những tán lá dừa nhẫy nhượt xanh. Bóng tối loang dần, tràn ngập khắp nơi. Không gian như bị phủ trùm bởi một tấm màn nâu sẫm. Ngột ngạt! Bức bối! Bỗng, trăng lên. Vầng trăng tròn to như một cái đĩa đỏ rừng rực nhô lên từ chân trời đàng đông, lửng thửng đi lên, nằm chênh chếch trên tán lá dừa ven sông, rắc những luồng sáng nhàn nhạt xuống dòng sông vắng lặng, nhuộm vàng suồm suộm những đóa Điệp Lào dọc bờ bên bồi.
Càng lên cao, trăng càng thu nhỏ, sáng vằng vặc. Những vì sao nhấp nhánh đã mờ dần. Ánh trăng dịu dàng trải một tấm voan mỏng mảnh vàng óng ánh. Gió quyện hương hoa hoàng lan thơm ngát. Mọi thứ chợt bừng sáng, thơm tho. Quyên tự hỏi chẳng lẽ trăng sáng hơn đèn? Cũng có thể lắm! Bởi vì giữa ánh trăng, Quyên nhìn thấy con đường bên kia sông thấp thoáng bóng người, hai con chó nhỏ đùa giỡn, chạy đuổi nhau quanh gốc cây bã đậu. Rải rác những chiếc xuồng ba lá nhấp nhô giỡn sóng. Trăng rơi xuống giữa dòng sông chấp chới, khi chìm, khi nổi.
Ông ngoại Quyên ra tới đầu hẻm, bắt gặp Quyên ngồi vắt vẻo trên cái đòn gánh đặt ngang hai miệng thùng nước đầy, mắt đăm đắm nhìn vầng trăng trôi dập dềnh trên mặt nước.
Ngoại chắc lưỡi:
- Con nhỏ nầy làm ngoại hết hồn. Tưởng con lọt xuống sông sao mà không gánh nước vô nhà.
Quyên quay lại, mỉm cười:
- Ngoại nhìn kìa! Có ai múc ánh trăng vàng đổ đi.
- Bày đặt mơ mộng. Thôi, vô nhà! Bà ngoại đang “tụng kinh” kia kìa, liệu hồn!
Quyên chẳng ngạc nhiên chút nào. Bà ngoại vốn nóng tính nhưng hiền khô. Suốt ngày, bà ngoại hết càu nhàu chị Hai đến rầy la Quyên. Chỉ có Út Toàn là được cưng như trứng. Trong nhà ai cũng hiểu điều đó. Nhất là ông ngoại. Ông thường giải thích nguyên nhân gây ra triệu chứng “Khẩu xà, tâm Phật”.
- Người ta bảo gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Thật đúng với trường hợp nầy. Bà ngoại tụi bây bị mắng riết rồi nhiễm luôn vi trùng quạu quọ. Phải nhìn nhận bà cố lạ đời thiệt. Bữa nào bà không chửi bà ngoại bây thì ăn cơm không vô.
Quyên trố mắt:
- Bởi vậy ngoại mới ra riêng cho bà cố hết mắng vợ phải không?
Ngoại phì cười, mắng yêu:
- Cha mầy! Đâu có dễ vậy. Tưởng thoát, ai dè lâu lâu, bà cố bây đi xe kéo qua đây chửi bà ngoại cho đỡ ghiền.
- Sao bà cố ở ác với bà ngoại quá vậy. Ông ngoại?
- Ngoại đã giải thích bao nhiêu lần rồi mà con cứ hỏi đi hỏi lại mãi. Chính ngoại cũng không rõ lắm. Có lẽ do ngoại con không đẻ được mụn con nào để nối dõi tông đường nên bà cố ghét. Bà bảo gái độc không con. Bà vừa tức con dâu vừa tức bản thân. Vì chính bà đã lựa dâu. Ông ngoại bị ép duyên đó nghen. Hồi đó, ngoại còn nhỏ, chưa muốn lấy vợ còn ham vui chơi. Nhưng bà cố bắt đi coi mắt vợ. Nhìn thấy bà ngoại bây lúp ló ở cửa buồng, cười rúc rích mãi, hổng chịu ra. Sợ trễ hẹn với lũ bạn, ngoại xông đại vô buồng, nắm tay, kéo ra. Bà ngoại bây hồn phi phách tán, luýnh qua luýnh quýnh vấp phải ngạch cửa, sợ té, bà ôm chầm lấy ngoại. Ngoại cũng ôm lại. Vậy là sa lưới. Nhưng khi thành hôn rồi thì đủ thứ chuyện rắc rối, toàn chuyện tủn mủn, vụn vặt. Chúng như những con mối gậm nhấm dần mòn mái ấm gia đình.
Quyên thở dài:
- Đó là những chuyện gì vậy ngoại?
- Bà cố thường ca cẩm về đôi chân to bè của con dâu Nó không được như chân bà “Đôi gót sen vàng”. Dù biết chuyện đó đã quá lỗi thời. Bây giờ không ai thèm bó chân để có những cái ngón bị cúp xuống, gãy gập như cùi. Chúng khiến cho bước đi lóng cóng, liêu xiêu như sắp ngã. Bà cố biết rõ hơn ai hết với những bàn chân được phát triển bình thường mới có bước đi vững vàng, đủ sức gánh vác chuyện nặng nhọc. Hoặc ít ra cũng là việc nhà. Bà đã ngủ quên trong ảo tưởng quyền quý xa xưa. Cứ cố tình thắp hào quang ảo quanh mình bằng cách nhắc đi nhắc lại rằng ít ai có được đôi chân bé tí như chân mình. Bà đã chịu đớn đau biết bao mới sở hữu nó. Bà làm cho mọi người ngán ngẩm nhưng không ai dám nói ra. Không ai dám bảo quan niệm đó quá tai hại. Vì như vậy người phụ nữ gần như vô dụng. Và điều đó xảy ra bên Tàu. Và chính họ cũng nhận ra sai lầm.
Quyên gánh nước vào nhà. Dựng đòn gánh cạnh đó, trút nước vào cái lu rồi đi tắm. Tiếng mẹ dịu dàng vọng ra từ nhà trước:
- Mẹ đã bảo con mướn người ta gánh đi. Mới bây lớn gánh nước nhiều quá sẽ bị lùn.
Quyên liến thoắng trả lời:
- Con không sợ! Lùn thì đỡ tốn vải may quần áo.
- Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún đó nghen. Nói không nghe lời, sau này bị chê đừng hối hận nghen.
Quyên đâu muốn cãi mẹ và bà. Quyên thương mẹ, thương bà nhiều lắm. Mẹ rất có hiếu dù chỉ là một đứa con nuôi. Mẹ sẵn sàng bỏ hết mọi thứ để được sống bên ngoại và phụng dưỡng hai người đã cưu mang mình dù không chút huyết thống. Dù cho ba mê vợ bé, mẹ cũng cắn răng chịu đựng để tảo tần nuôi sáu miệng ăn và chuyện học hành của con. Nhà nghèo, Quyên muốn tiết kiệm chút nào đỡ chút nấy. Vả lại, ông ngoại còn làm cho Quyên cặp thùng to bằng... ống ngoái trầu của bà. Tuy mất công gánh nhiều lần nhưng chẳng mệt chút nào.
Nó đi ra sân. Ông ngoại đã nhấc cái ghế bố to đùng do ngoại tự đóng dạo nọ, đặt cạnh hàng rào trông ra dòng sông. Ông nằm vắt chân chữ ngũ, tay gác lên trán, mắt đăm đăm nhìn bầu trời đêm. Quyên đến ngồi bên cạnh ngoại, hai chân đong đưa. Ông bỗng nói:
- Quyên, ngoại đố con đếm được chòm sao ở góc trời kia nhưng phải kèm theo chữ Ông sao sáng.
- Dễ ẹc! Một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng, bốn ông sáu sang...
- Lanh chanh quá làm sao được việc chứ! Ngoại cười to. Muốn làm việc gì cũng phải tập trung tư tưởng dù chỉ nhỏ thôi. Con nhớ chưa.
- Dạ. Hihi... giờ ông kể chuyện cho con nghe đi. Chuyện thời thơ ấu của ngoại đó.
- Kể hoài, con nghe không chán à?
- Dạ không. Con vẫn cứ thích nghe!
Quyên nằm xuống cạnh ngoại lắng nghe giọng trầm trầm của ông:
- Hồi đó, ngoại còn bé lắm! Ông cố con đã giao cho ngoại một cây kéo và bảo hãy cắt vạt cỏ ở góc sân kia. Ngoại thắc mắc hỏi sao không nhổ quách đi cho tiện thì ông ấy bảo đi chân không trên cỏ êm hơn trên đất. Ngoại hất mặt lên trời bảo là chuyện nhỏ. Nhưng khi bắt tay vào việc, ngoại mới biết việc đó không nhỏ như ngoại tưởng. Bấy giờ mới thấm thía câu “nói thì dễ mà làm mới biết đá biết vàng”. Sự ba hoa chích chòe của ngoại đáng xấu hổ. Những nhát kéo vụng về làm bãi cỏ nham nhở như mái tóc bị sởn so le, trông còn xấu hơn lúc để mọc tự nhiên. Thật không ngờ, ông cố lại khen ngoại có kiên nhẫn. Biết chịu khó làm. Nếu cố gắng hơn dần dần sẽ giỏi. Ngoại mừng lắm! Thấy mình quan trọng hẳn ra. Ông cố lại giao cho ngoại một cây kéo lớn hơn, dặn khi rảnh rỗi hãy tỉa hàng rào. Cũng không hơn lần trước. Ngoại cầm kéo bằng hai tay, cắt lia, cắt lịa. Chừng nhìn lại trông nó giống một bức tường xanh xơ xác, méo xẹo. Ai đi ngang cũng tức cười. Ngoại tưởng ông cố sẽ rầy nhưng trái lại, ông khen làm nhanh hơn ông nghĩ. Ông dặn lần sau cắt cẩn thận hơn. Phải canh cho ngay ngắn thì mới đẹp. Ngoại hiểu ra, làm được, làm nhanh là một việc còn làm cho nó đẹp, hoàn chỉnh thì phải cần nghĩ cách. Thế là lần sau ngoại căng dây ở hai đầu hàng rào, canh cho ngay ngắn rồi mới cắt và tất nhiên làm chậm hơn nhưng khi xong thì chính ngoại còn phải hài lòng. Bà con láng giềng đều khen ngoại khéo tay. Sau rốt, ông cố giao cho ngoại cây kéo hớt tóc. Sau giờ học, ngoại phải ra tiệm hớt tóc của ông cố để học nghề. Tội nghiệp mấy ông chú của con. Họ bị... đưa đầu cho ngoại thử việc. Tóc của họ vừa dầy vừa trơn, ngoại cắt trợt lớt hoài khiến họ kêu đau rần trời. Người nào cũng xin ông cố cho... để tóc dài để khỏi phải mang một mái tóc quái đản, chẳng khác gì cái miểng dừa bể xẹo xọ chụp lên đầu.
Quyên bật cười:
- Rồi ngoại có thành công không?
- Có chứ! Có công mài sắt có ngày nên kim! Năm mười bốn tuổi, ngoại đã nổi tiếng hớt tóc khéo nhất vùng.
- Từ đó, ngoại làm thợ luôn hả ngoại?
- Đâu có, ngoại phải lo học chữ. Những ngày nghỉ mới ra tiệm phụ cha cho quen tay nghề.
Quyên nằm xuống cạnh ngoại:
- Rồi tới chừng nào ngoại mới ra phụ ông cố luôn?
- Khi ông cố mất. Năm đó, ngoại mới mười sáu tuổi. Ngoại phải nghỉ học để kiếm tiền lo cho gia đình. Bà cố con xưa là tiểu thư quyền quý, Có biết làm gì ngoài việc thêu thùa. Rồi do loạn lạc, túng thế, bà phải lấy một người nghèo khó. Đó chính là ông cố. Tuy nhiên, ông cố đúng là một người chồng tốt, một người cha tốt. Ông đã lo cho vợ con đầy đủ. Ông đã dạy cho các con mình rằng được làm việc là một điều hạnh phúc. Mỗi công việc sẽ cho ta nhiều bài học về cuộc sống. Có lao động mới tồn tại. Ngoại cũng tin như vậy! Nhờ có nghề hớt tóc mà ngoại đã thay cha chạy gạo nuôi cả nhà. Phải nhìn nhận bà cố là người biết sắp xếp cuộc sống gia đình. Trước tiên, bà cho ngoại nghỉ học hẳn để hành nghề. Bà lo cưới vợ cho ngoại lúc ngoại mới tròn mười tám tuổi. Bà chọn một đứa con dâu vừa đẹp vừa giỏi nhất xóm. Và con dâu lại trở nên một người kiếm tiền cho bà một cách dễ dàng.
Quyên kinh ngạc kêu lên:
- Eo ơi! Bà cố bắt bà ngoại con làm gì vậy ông?
- Làm bánh bao, bánh bò, bánh mặn... ôi thôi đủ thứ bánh. Ngoài ra còn mua thêm nhiều hàng hóa khác rồi gánh vào Sóc để bán đổi lúa cho người dân tộc Khmer.
- Bán đổi lúa! Bán đổi lúa là sao vậy ông?
- Nghĩa là bán cho ai thích ăn bánh không phải trả tiền liền. Bà ngoại con cho thiếu chịu, ghi sổ để đó. Đợi tới mùa lúa chín, người ăn bánh chịu sẽ trả bằng cách quy ra thóc. Coi lại sổ xem mình thiếu bao nhiêu giạ lúa thì đong lúa trả.
- Ủa, sao con thấy như vậy lâu có tiền hơn bán lấy tiền mặt.
- Ừ! Đúng là lâu hơn nhưng lời gấp năm gấp bảy. Lại dễ bán hơn. Vì người nghèo đâu có tiền tiêu vặt. Họ chỉ trông đợi vào mùa lúa chín.
Quyên ngồi bật dậy, nhìn ông:
- Làm như vậy là tốt hay xấu vậy ngoại?
- Vừa tốt vừa xấu! Tốt ở chỗ bán như vậy người nghèo có thể ăn uống, mua hàng hóa khi họ túng thiếu, không có một xu dính túi. Nhưng việc này cũng rất xấu vì tạo cho một số người nghèo thói quen ăn trước trả sau, không đè nén được sự thèm muốn nhất thời về điều không cần thiết. Không biết tiết kiệm. Đã nghèo sẽ nghèo thêm.
- Eo ơi! Sao bà cố lại làm như vậy. Ngoại biết sao không cản mẹ mình?
- Lúc đó, ngoại còn quá nhỏ để hiểu và vì lo hành nghề cũng không chen vào chuyện của mẹ. Nhưng bà ngoại hiểu rõ. Tuy còn nhỏ nhưng lại rất thông minh và nhân hậu. Và đã làm giảm tội cho gia đình chồng bằng một cách tuyệt vời.
Quyên nắm hai bàn tay ông áp lên má:
- Kể tiếp đi ngoại! Bà đã làm sao?
Ông cười, giọng hân hoan hơn:
- Sau nhiều năm vâng lời mẹ chồng bán hàng đổi lúa, bà con thấy nhà ngày càng ngày càng khá giả hơn. Các ông chú con, người học may, người làm thợ mộc đã ra nghề, đã được bà cố hỏi vợ cho. Năm đó, trời hạn hán mất mùa. Những người thiếu nợ phải nợ thêm năm nữa. Chưa kể lại mua thêm, thiếu thêm rất nhiều. Bà cố con mừng quýnh vì sắp giàu to, bà cho làm một cái bồ lúa to gấp ba bình thường để chuẩn bị chứa lúa góp thu về. Đúng lúc đó, bà ngoại con làm mất sổ nợ. Do việc bán buôn một tay bà ngoại con lo nên cả nhà đâu biết ngô khoai gì. Đâu biết ai nợ, nợ bao nhiêu và nhà ở đâu? Vậy là mất trắng! Bà cố điên tiết, hết đánh đến mắng nhiếc đủ điều. Lôi cả dòng họ con dâu ra chửi, nhục mạ. Chưa hả giận bà còn đuổi bà ngoại con ra khỏi nhà để cưới vợ khác cho ngoại. Nhưng ông đâu chịu nghe theo. Bà con tuy làm mất sổ nợ nhưng trước đây đã đem lợi đến cho gia đình biết bao nhiêu. Công còn nhiều gấp mấy lần cái đánh mất. Nên ngoại đã bỏ nhà theo bà ngoại con. Ngoại thấy ở đây cần người gác cổng nên xin vào làm để có nhà cho vợ con ở. Tuy vất vả nhưng ở đây vui hơn gấp nghìn lần ở nhà con à. Chỉ tiếc, lâu lâu, bà cố lại đi xe lôi, xe kéo đến đây mắng nhiếc, chì chiết bà ngoại con.
- Con có điều nầy chưa rõ nè ngoại. Vì sao làm mất sổ nợ mà ngoại bảo là đỡ tội cho gia đình chồng?
- Đúng là vậy con à. Thật ra, những người thiếu nợ kia đâu biết là bà con làm mất sổ nợ. Vì bà ngoại con vào Sóc tuyên bố do hạn hán, mất mùa, bà cố cho hết tất cả nợ họ còn thiếu. Hãy an tâm lo làm ăn mà thoát đói. Họ mừng quýnh. Hết lời ca ngợi công đức của bà cố con. Thật may, mùa sau họ trúng lớn. Ngày Giáp tết, họ mang nào heo nào gà, nào lúa, nào nếp mới... đến nhà tạ ơn. Hết lời ca tụng bà cố. Vỡ lẽ, bà cố hối lỗi, đi xe lôi qua rước ông bà ngoại về nhà ăn tết.
- Rồi ông bà có về không?
- Có chứ. Về đốt nhang mừng tuổi ông bà, chúc tết mọi người rồi đi.
- Sao không ở luôn vậy ngoại?
- Bà cố con đã có các chú chăm lo rồi, còn bà ngoại con chỉ có ông ngoại thôi. Vả lại, ở riêng không ai... chửi. Ha ha... Bà ngoại con tuyệt nhất trên đời! Đúng là như vậy. Đối với ông, bà là một phụ nữ tuyệt vời mà ngoại từng biết.
- Dạ. Con yêu bà lắm!
- Chưa hết đâu con. Còn chuyện này nữa. Khi bà cố bệnh nặng, sắp qua đời thì những người Khmer thiếu nợ kia đã tự động quyên góp trong Sóc được một số tiền lớn để mang ra cho bà cố con thang thuốc. Rồi khi bà cố mất, họ kéo đến chật cả nhà, than khóc như chính người thân của họ ra đi. Bấy giờ, mọi người mới hiểu sâu sắc một điều rằng lòng nhân ái là một gia tài lớn lao nhất đối với mỗi con người (Danh ngôn).
Đêm đã về khuya. Ngoại giục Quyên đi ngủ để mai còn đi học sớm. Quyên cầm tay ông:
- Ngoại ơi! Ngoại muốn sau này con làm nghề gì?
- Nghề gì cũng được, tùy theo ý thích của con miễn là một nghề lương thiện.
Quyên nhìn vầng trăng lơ lửng trên cao:
- Con muốn trở thành cô giáo. Để con dạy cho học trò của con phải tốt với mọi người như bà ngoại của con.
Ông mỉm cười:
- Ừ, tốt lắm! Muốn vậy thì phải ráng học cho giỏi. Cô giáo dở toán nghen. Cô giáo mà toán chỉ có năm điểm thì chưa là tấm gương sáng đâu nghen cô nương!
Quyên mắc cỡ nhớ lại bài toán kiểm tra sáng nay chỉ đạt điểm trung bình. Nó đưa nắm đấm lên cao, hét lên:
- Kể từ nay, con nhất định đạt điểm mười!
Ông cười thành tiếng. Trên cao, vầng trăng nghiêng nghiêng, lung linh, vằng vặc sáng!

Nguyễn Thị Mây


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 12.10.2019… Vũ Thư Hữu . 01

Vài chi tiết về một quý thư thật đặc biệt ..... Vũ Anh Tuấn . 04

Những suy nghĩ vẩn vơ (tập 2 - tt) ..... Lm. Giuse Ng.H.Triết . 0 6

Môn Thiền Quán & Đạo Phật

mà tôi đã được dạy (tt & hết) Tâm Nguyện . 10

Hai cố nhà thơ lớn

“Cặp bài trùng” Xuân - Huy… ...... Thúy Toàn .. 19

Âm dương ....... Nguyễn Văn Sâm .. 26

Nhạc sỹ của Mùa Thu:

Đặng Thế Phong & Đoàn Chuẩn ......... Phạm Vũ . 32

Hàn Mặc Tử trong mắt 1 dịch giả người Pháp .. H.K.Thư st .. 40

Thế kỷ XX: Những kỷ lục

đáng ghi nhớ của điện ảnh thế giới ....... Đ.T.Thư st. .. 45

Đền Bà Chúa Kho ........... Bùi Đẹp st. .. 48

Tản Đà (1889-1939) tiểu sử & cuộc đời .. Đ.M.D.Xuân st . .. 54

Âm vang ngày mới (thơ) ....... Đàm Lan . 59

Làm sao ? (thơ) ...... Vũ Thùy Hương . 61

Đơn phương – Mơ về đất Việt (thơ) ..... Ngàn Phương .. 62

Đợi mưa - Cầu vồng (thơ) ..... Huỳnh Thiên Kim Bội .. 63

Sinh nhật thứ 71 (thơ) ......... Hoài Ly .. 64

Tháng Tám tình hư hao (thơ) .... Phạm Thị Minh-Hưng .. 65

Khi ta nằm xuống… (thơ) ......... Tâm Nguyện .. 66

Ngoài sông nước lớn (thơ) ........ Nguyên Lê .. 68

Bất ngờ (thơ) ........ Lê Minh Chử .. 69

Chảy đi sông ơi (thơ) ........ Lê Nguyên .. 70

Lời tâm sự (thơ) .......... Thanh Châu .. 71

Quả mít (thơ H.X.Hương)

Họa: Mít nòi - Mít tố nữ (thơ) ..... Thanh Phong .. 72

Hạt bông trong gió (thơ) ..... Lam Trần .. 73

Ký ức Mẹ tôi (thơ) ........ Bs. Nguyễn Văn Tiến . 74

Khuyên con lấy chồng - Trách ai (thơ) ... Dương Tiến Cần .. 75

Đèn thu - Chiếc đèn phòng sách (thơ) ... Lang Nguyên .. 76

Tập làm thơ - Được phước (thơ) ...... Quang Bỉnh .. 77

Thu bay (thơ) ....... Trần Nhuận Minh .. 7 8

Flying Fall (thơ) ....... Vũ Anh Tuấn dịch .. 79

L ên Sàigòn ........... Phạm Hi ếu Nghĩa . 80

Lúc còn thơ ngây (tt & hết) ..... Hoài Ly .. 8 3

Thủ thế ....... Lam Trần .. 91

Hãy thong thả sống ....... Lệ Ngọc st. .. 9 5

Cười chút chơi ....... Hà Mạnh Đoàn st. 100

Ưu điểm & khuyết điểm .... Hoàng Chúc st. 104

Làm ngay không bao giờ thừa .... Phùng Chí Tâm st. 106

Thay đổi lối sống & chế độ ăn uống…

Liệu pháp 4T (tt & hết) ..... Lê Ái Liên st. 108

Nếu bạn có con gái .....Kim Sơn st. 114

Má hồng một thuở .... Đàm Lan 118

Hương đồng bằng ....Nguyễn Thị Mây 122


|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
 156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
 161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
 171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
 176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
|  156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
|  161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
|  171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
|  176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
Netadong.com thiết kế