Hiện có 9 người xem / 2348079 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ CUỘC HỌP NGÀY 13/11/2021

CỦA CLB SÁCH XƯA VÀ NAY

Cuộc họp hôm nay là cuộc họp sau 5 tháng giãn cách, và cũng là cuộc họp với ít thành viên đến tham dự nhát sau gần 15 năm liên tục đông và vui, tuy nhiên điều đáng nói là hôm nay, tuy số thành viên tham dự ít, CUỘC HỌP VẪN VUI NHƯ THƯỜNG!

Như thường lệ dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 tân quý thư mà ông mới có. Lần này cả hai cuốn đều bằng tiếng Việt: cuốn đầu là một tập thơ mỏng do nhà Văn Học in năm 1991 mang tựa đề là “TÔI PHẢI NÓI VỀ ĐẤT NƯỚC NGA gồm các bài thơ các nhà thơ Nga viết về nước Nga mà dịch giả Thúy Toàn đã tuyển chọn và dịch, và cuốn thứ nhì cũng là bản dịch một tập thơ của thi hào Nga IVAN TURGHENEV tựa đề là TUỔI GIÀ Thơ văn xuôi 1878-1882 cũng do dịch giả Thúy Toàn dịch. Dịch giả Thúy Toàn được coi là một chuyên gia về văn học Nga, đồng thời cũng đã đóng góp các bài viết về nước Nga trên Bản Tin của CLB Sách Xưa và Nay trong suốt 10 năm qua. Hai bản dịch nói trên, một cũ (1991) và một mới (2021) đều mới được ông đề tặng và gửi tặng dịch giả Vũ Anh Tuấn mấy ngày trước. Sau khi được giới thiệu hai cuốn sách đã được vài thành viên chuyên tay nhau xem một cách thích thú.

Sau khi dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu hai tân quý thư, thành viên Lệ Ngọc đã đăng đàn hát tặng các thành viên một bài hát của Phạm Duy. Lệ Ngọc hát xong, anh Thái Sơn lên nói về vài chuyện liên quan tới các phụ nữ trẻ và ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Sau anh Thái Sơn, chị Võ Ngọc Liên lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ về đề tài “Mẹ”. Sau chị Liên, thành viên Kim Sơn lên nói về dịch Covid 19 và một số biện pháp phòng dịch. Kim Sơn nói xong, Thùy Hương lên đọc bài thơ “Trải lòng với chị Thanh Xuân” là một người bạn chung nay không còn đứng dậy được và phải nắm một chỗ. Sau Thùy Hương. Kim Mai cũng lên đóng góp mấy bài thơ “Tìm mãi thương yêu”. “Đoàn người lữ thứ” và “Gõ cửa”. Kim Mai ngâm xong, anh Ngụy Kỳ Nam cũng lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Quê mùa” và “Mùa nước nổi”. Tiếp lời anh Ngụy Kỳ Nam, anh Thái Sơn hát thêm một bài tặng các thành viên mà không cần micro. Anh Thái Sơn hát xong, anh Hùng lên nói về sức khỏe và việc trị huyết áp. Anh Hùng nói xong, Tuyết lên hát tặng các thành viên ca khúc “Đố ai”của Phạm Duy và cuộc họp kết thúc lúc 11 giờ cùng ngày, mọi người vui vẻ ra về, hẹn gặp lại nhau trong kỳ họp tới.

Thư Hữu

VÀI CHI TIẾT VỀ MỘT CUỐN CỔ THƯ 122 TUỔI ĐỜI

MÀ MÌNH MỚI CÓ CƠ DUYÊN GẶP LẠI

M ình nói “gặp lại” vì mình gặp nó lần đầu tại nhà một nhân vật văn học rất nổi tiếng khi bác ta còn ở đường Kỳ Đỗng, nay mới gặp lại cuốn sách tại một của hàng sách cũ ở đường Nguyễn Thái Sơn, và số tiền mình phải trả chỉ là 200 đô mít, một cái giá mà mình cho là khá rẻ so với giá trị cuốn sách. Đây là một cuốn sách bằng Pháp văn được một nhà xuất bản Pháp rất nổi tiếng là nhà Plon in năm 1899 tức là 122 năm trước. Cuốn sách mang tựa đề “Chuyến đi vòng quanh châu Á”(Le tour d’Asie) của tác già Marcel Monnier (1853-1918), một người được coi vừa là một nhà thám hiểm, một phóng viên, một nhiếp ảnh gia và một nhà văn Pháp. Cuốn này có một dấu sao ngay dưới tựa để cho biết nó là cuốn 1 của một bộ 3 cuốn và đề tài chính của cuốn 1 này là COCHINCHINE (Nam Kỳ), ANNAM (Trung Kỳ), và TONKIN (Bắc Kỳ), và ngay nơi trang cuối có quảng cáo cuốn 2 với 2 ngôi sao với đề tài là l’EMPIRE du MILIEU (Trung Quốc). Cuốn sách được xuất bản năm 1899 thì năm 1900 nhận được giải thưởng Marcelin Guerin của Hàn Lâm Viện Pháp Quốc trao tặng. Vì thích cuốn 1 này là cuốn nói toàn về chuyện Trung Nam Bắc kỳ của mình nên tôi có để tâm tìm hiểu thêm thì biết là toàn bộ là 3 cuốn nhưng cuốn thứ ba vì đụng chạm chính trị gì đó nên không được in, tóm lại trong cả bộ chỉ có cuốn nói về nước mình là tôi thấy nên quan tâm.

Gặp lại cuốn quý thư trong những ngày Covid chết tiệt nhàn rỗi tôi đã cưỡi ngựa xem hoa và cất công giới thiệu với quý bạn như dưới đây:

Cuốn sách nói về ba kỳ ở nước ta và nói về Nam Kỳ (Cochinchine) đầu tiên và phần này được chia thành VI (6) chương như sau:

- Chương I nói về các điều sau : Cảm xúc khi mới tới – Các chuyện lăng nhăng ở Nam Kỳ - Một buổi họp của Hội Đồng Thuộc Địa – Sài Gòn ban ngày và buổi tối với đèn lồng.

- Chương II nói về : Phong cành ngoại ô - Trên sông Đồng Nai - Thác Trị An.

- Chương III nói về: Nơi xứ Mọi

- Chương IV nói về : Từ Sài Gòn tới Pnom-penh - Con đường đi Angkor

- Chương V nói về : Angkor

- Chương VI nói về : Bangkok theo đường chim bay

Phần hai nói về Trung Kỳ (Annam) được chia thành IV (4) chương như sau:

- Chương I nói về : Bờ biền Sắt - Đà Nẵng và Ngũ Hành Sơn - Trên đường cái quan

- Chương II nói về : Huế và ngoại ô - Các Dòng Thừa Sai ở Trung Kỳ - Kim Long - Cuộc hội chợ của người Lào

- Chương III nói về : Nơi ở của hoàng gia - Hội Xuân - Một đại hội ở triều đình Huế

- Chương IV nói về : Vóc dáng quan lại - Ở phủ ông Hoàng Touli - Ăn tiệc cưới - Quan lớn Nguyễn Trọng Hiệp - Những cảm nghĩ về du lịch của Đệ Tam Nhiếp Chính vương

Phần ba nói về Bắc Kỳ (Tonkin) được chia thành VI (6) chương như sau:

- Chương I nói về : Các cuộc tiếp xúc - Hải Phòng -Vịnh Hạ Long - Hòn Gai và Kẻ Bảo

- Chương II nói về : Hà Nội

- Chương III nói về : Đường đi Yên Thế - Ở doanh trại ông Để Thám - Một tướng cướp biển đã nghỉ hưu

- Chương IV nói về : Đường tàu hỏa đầu tiên ở Bắc Kỳ - Từ Lạng sơn tới Ải Nam Quan

- Chương V nói về : Ở Quảng Tây - Long Châu

- Chương VI nói về : Trong thung lũng Sông Thương -Ở trang trãi La Croix Cuvelier ở Lục Nam - Chế độ bảo hộ nông nghiệp

Thật là một cuốn sách có khá nhiều chuyện để đọc về người mình vào thời điểm đó, dưới cái nhìn của một phóng viên Pháp trên 100 năm trước…

Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI”

Vũ Anh Tuấn


LỊCH SỬ
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

(tiếp theo số 177)

BÀI 15:

NIỀM TIN TRÊN PHIẾN ĐÁ HAY
CÁC THÁNH ĐƯỜNG THỜI TRUNG CỔ

­ Lịch sử Giáo Hội từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14 được đánh dấu bằng một số biến cố quan trọng như:

- Cuộc ly khai của Giáo Hội Chính Thống vào năm 1054.

- Sự xuất hiện của các Dòng Hành Khất: Phan Sinh và Đa-Minh.

- Sự phát triển của các Đại Học Công Giáo.

Trong khi đó Kitô Giáo không ngừng bành trướng và lan rộng khắp nơi. Ta có thể nói Âu Châu thời bấy giờ là một Âu Châu toàn tòng Công Giáo.

Và chính trong một Âu Châu toàn tòng Công Giáo mà các ngành nghệ thuật đã phát triển mạnh mẽ; từ ngành điêu khắc đến ngành hội họa, từ nghệ thuật xây cất đến nghệ thuật trang trí đều mang mầu sắc tôn giáo và nói lên niềm tin của người làm nghệ thuật cũng như của toàn thể Dân Chúa.

Trong phạm vi bài này, chủ yếu chúng ta sẽ đề cập đến nghệ thuật kiến trúc các Thánh Đường Kitô Giáo từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14.

I. VÌ SAO XÂY CẤT THÁNH ĐƯỜNG?

Với sự phát triển của Kitô Giáo, số giáo dân ngày một thêm đông. Trong khi đó các ngôi thánh đường cũ quá chật hẹp, thiếu ánh sáng, thiếu không khí, đa số lại được xây cất bằng gỗ dễ cháy. Những lý do trên thúc đẩy việc xây cất những ngôi thánh đường mới rộng lớn và kiên cố hơn. Tuy nhiên, một lý do sâu xa nữa có tính cách quyết định, là quan niệm của Âu Châu toàn tòng Công Giáo đối với Thiên Chúa. Chúa là Đấng siêu việt, vì thế ngôi nhà Chúa ngự phải xứng đáng với địa vị cao cả của Ngài. Và cứ thế, từ vùng này đến vùng khác, từ giáo phận này đến giáo phận khác, người ta đua nhau xây cất Thánh Đường cho Chúa.

II. AI LÀ NGƯỜI CHỦ XƯỚNG ?

Phát xuất từ các tu viện mà đứng đầu là tu viện CLUNY, nơi khởi xướng các phong trào cải cách. Ban đầu, các tu sĩ chỉ có ý định sửa sang và mở rộng các ngôi thánh đường của tu viện. Rồi từ tu viện này đến tu viện khác, phong trào xây cất thánh đường lan rộng đến các giáo phận. Chính các Đức Giám Mục cũng muốn có một ngôi thánh đường xứng đáng bên cạnh Tòa Giám mục của mình. Do đó các ngài đã ra sức cổ võ cho công việc xây cất thánh đường.

Trước lời kêu gọi của các Đức Giám mục và các nhà giảng thuyết, toàn dân đều hăng hái tham gia phong trào xây cất. Công cuộc xây cất trở thành như một cơn sốt. Mọi người, mọi tầng lớp, đua nhau đóng góp vào công việc chung. Người giàu góp tiền, góp của, người nghèo góp sức, góp công. Có những vị vua chúa đã quen với nếp sống nhung lụa, nay xả thân kéo gỗ, xẻ đá với mọi người. Cũng có những chủ nợ ăn lãi quá đáng, nay xin góp tiền của bất công để mua thêm gạch đá. Người ta hì hục kéo những tảng đá lớn trong thinh lặng. Lâu lâu lại có người đứng lại thú nhận tội lỗi trước mặt Chúa và trước mặt anh em.

Mọi người làm việc cực nhọc như thế trong một thời gian lâu dài. Nhà Thờ Đức Bà ở Paris khởi công năm 1163 và đến năm 1345, tức là 182 năm sau, mới thực sự hoàn tất. Để xây dựng vương cung Thánh Đường tại Strass-bua, 20 ngàn nhân công đã phải cật lực làm việc mỗi ngày dưới sự chỉ đạo của các kiến trúc sư vừa là đốc công lại vừa là thầu khoán.

Nhà văn Pháp Paul Claudel khi đứng ngắm một ngôi Thánh Đường thời Trung Cổ đã tự hỏi làm sao người ta có thể làm nên những công trình vĩ đại như thế trong một Âu Châu hồi đó hãy còn nghèo đói. Và ông đã tìm được câu trả lời. Đó là đức tin .

III. NHỮNG ĐOẠN ĐƯỜNG NGHỆ THUẬT

Trước năm 1000, dưới triều đại Carôlô, nhà thờ có tường thẳng đứng, mái tam giác, vừa dễ xây cất vừa đỡ tốn kém. Lối kiến trúc này quá thô sơ và không làm hài lòng những người có con mắt nghệ thuật.

Sau năm 1000, cùng với ảnh hưởng của nền văn hóa Đông Phương và của các nước Hồi Giáo, một số người chủ trương trở về với lối kiến trúc cổ của người Rôma. Do đó, được gọi là thể loại Rôma, khác với thể loại Gô-tíc, chịu ảnh hưởng của người Gốt, tiền thân của những người Pháp hiện nay.

THỂ LOẠI RÔMA

Thể loại này lần đầu tiên được thể hiện nơi các thánh đường tại Thụy Sĩ, một vài vùng của nước Pháp và nhất là miền Lombardie (nước Ý) nên được gọi là thể loại Lom-ba.

Tham vọng của các nhà kiến trúc ngày một lớn. Các ngôi Thánh Đường xây cất theo lối Rôma lúc đầu đơn giản, nhưng đến thế kỷ 11 thì được khai triển thêm : lối đi giữa được kéo dài ra và một lối ngang cắt lối giữa theo hình thánh giá. Tháp chuông trước đây được xây riêng, nay được sát nhập với gian chính, tạo cho ngôi thánh đường một vẻ uy nghiêm, hùng vĩ.

Tuy nhiên lối kiến trúc này lại gặp khó khăn là cách lợp mái. Nếu lợp bằng gỗ theo thông thường cho nhẹ nhàng thì lại không giải quyết được vấn đề hỏa hoạn. Vì thế các kiến trúc sư phải nghĩ đến vấn đề lợp bằng đá. Nhưng mái bằng đá quá nặng đòi hỏi tường và cột phải vững chắc đủ sức chịu đựng.

Cộng thêm với kính màu là các hình điêu khắc bên trong. Thể loại này làm ta liên tưởng đến lòng đạo đức sâu sắc, sự thinh lặng chiêm niệm của tu sĩ, thích hợp cho một đời sống nội tâm dồi dào mà điểm chính là đức tin. Nếu sau này, thể loại Rôma được thay thế, không phải vì nó đã sai lầm hay thất bại, mà chính vì khi cố gắng hoàn chỉnh nó, con người đã khám phá ra thêm những cái mới lạ. Thêm vào đó lối kiến trúc này có một cái gì khiêm tốn, không còn thích hợp với sức vươn lên của thế giới Kitô Giáo đang trong thời kỳ phát triển mạnh, muốn dùng phiến đá để diễn tả niềm cậy trông của mình. Một niềm cậy trông đưa con người lên tới Thiên Chúa.

THỂ LOẠI GÔ-TIC

Khác với thể loại Rôma vững chắc, chân đứng vững trên đất, ngôi thánh đường Gô-tic hướng về chiều cao nhiều hơn. Lúc đầu có lẽ các kiến trúc sư không có chủ ý đưa chiều cao lên để diễn tả hướng vươn lên của tâm hồn. Đây là cái bí hiểm của nghệ thuật, một nghệ thuật được nuôi dưỡng bằng niềm tin và bằng lòng đạo đức sâu xa. Đặc điểm của kiến trúc Gô-tic là hinh cung nhọn (Ogive). Hai hình cung nhọn gặp nhau trên đỉnh cho ta liên tưởng đến đôi bàn tay chắp lại.

Trong thể loại Gô-tic, sức nặng đè lên các chân cột. Tuy nhiên để thêm phần vững chắc, người ta còn xây dựng những bức tường cuốn (arc boutant) để chịu lực, khiến người xem có cảm tưởng ngôi thánh đường vừa thanh tao, vừa vững chắc, có kết cấu hài hòa, tổng hợp được nghệ thuật kiến trúc của một thời đại.

Ngoài ra, khi nói đến hai thể loại Rôma và Gô-tic, người ta không thể bỏ qua nghệ thuật điêu khắc của thời Trung Cổ.


Trên cửa lớn vào thánh đường, trên mỗi đầu cột, tùy theo thời trang, được chạm nổi hình hoa lá hoặc hình thú vật.

Bên trong thánh đường, dọc theo các bức tường là những bức họa vẽ lại những chuyện trong Thánh Kinh.

Những bức tranh, bức họa này lúc đầu thô sơ, nhưng với sự tiến bộ của nghệ thuật, ngày càng tinh vi, mặc dầu vẫn mang tính cách qui ước: Đấng Thánh thì mang hào quang; con vật có sừng biểu hiện cho ma quỉ.

Thêm vào đó nghệ thuật màu sắc và nghệ thuật pha trộn ánh sáng trên các cửa hoa thị và cửa kính màu có thể gây cho du khách những cảm giác khác nhau. Bước vào nhà thờ Đức Bà Paris buổi sáng, người ta có cảm giác tịch mịch, cô liêu.

Để tăng thêm vẻ đẹp của ngôi thánh đường, người ta thường lát gạch vuông bằng đất sét nung đỏ, có vẽ hình hoa lá rất đẹp mắt, hoặc gạch màu sặc sỡ kiểu Ả- Rập.

V. TA NGHĨ GÌ ?

Nếu điện Parthénon tiêu biểu cho nền văn minh thời cổ đại Hy Lạp, và cung điện Versaille tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc của Pháp vào thế kỷ 17, thì các ngôi đại thánh đường từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14 tiêu biểu cho nền nghệ thuật Kitô Giáo thời Trung Cổ.

Sử gia Daniel Rops đã nói: “Nếu tất cả thế giới Kitô Giáo thời Trung Cổ bị hủy diệt, chỉ còn lại những ngôi thánh đường, thì những ngôi thánh đường ấy cũng đủ để cho ta một cái nhìn tổng quát về đời sống tinh thần và vật chất của thời Trung Cổ”.

Các ngôi thánh đường này quả là một kho tàng qui giá của nhân loại và là một biểu tượng rõ nét của đức tin Kitô Giáo.

Bài đọc thêm

1. SỰ HÌNH THÀNH CỦA ĐẠI HỌC PARIS

Những người giảng dạy cũng như những người đến học trong các trường không phải là trường của Nhà Thờ Chính Tòa Paris thường hay có sự tranh chấp với Đức Giám Mục và vị phụ trách giáo dục của ngài. Các vị này không an tâm trước những đổi mới và bầu không khí tự do, lý do khiến các trường mới này thành công. Tại đây phương pháp học bằng tranh cãi (disputatio) thắng thế. Phương pháp này cho phép đặt ra bất cứ vấn đề gì, từ những vấn đề căn bản đến những vấn đề thời sự nhất. Người dạy cũng như người học ra sức duy trì và nới rộng sự tự do tư tưởng của mình, trong lúc vị Chưởng Ấn Nhà Thờ Đức Bà Paris lại cố bám lấy quyền tự do chấp nhận hay không chấp nhận những người đến giảng dạy.

Để tự bảo vệ và nhất là để được tự do bổ nhiệm các giáo sư, người dạy và người học phải dùng đến phương pháp đoàn kết thành một khối (universitas), là phương pháp đã từng giúp cho các nghiệp đoàn, các công xã được quyền đàm phán hay quyền độc lập đối với các vua chúa. Vậy là họ liên kết với nhau thành Hiệp Hội các Thầy Giáo và học sinh Paris. Họ được Đức Giáo Hoàng Inocentê III (kể từ năm 1208) nâng đỡ. Vị Giáo Hoàng này muốn áp dụng cái chính sách mà Tòa Thánh đã thực hiện có kết quả là một Đan Viện có thể được đặc ân miễn chuẩn khỏi mọi sự can thiệp của Đức Giám Mục địa phương, và chỉ trực thuộc Tòa Thánh. Ngài cũng muốn áp dụng chính sách này trong lãnh vực giáo dục. Năm 1215, một vị đặc sứ của Đức Giáo Hoàng là Robert de Courcon, đã công nhận các quy chế của Đại Học Paris.

Sự căng thẳng đối với Đức Giám Mục Paris vẫn tồn tại. Năm 1229 do một câu chuyện rất tầm thường, cảnh sát đã can thiệp. Nhiều sinh viên bị giết. Đại Học liền bãi khóa. Đức Giám Mục Paris muốn nhân cơ hội này đặt lại quyền bảo trợ của mình, nhưng với Sắc dụ Parens scientiarum. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX đã long trọng xác nhận quyền tự trị của Đại Học Paris đối với Đức Giám Mục địa phương. Từ nay Đại Học Paris thuộc quyền Tòa Thánh. Với tư cách pháp nhân, Đại Học Paris đã trở thành một thế lực chính trị, phải trân trọng.

Cùng với Đại Học Paris, nhiều Đại Học khác đã xuất hiện. Ở Ý, có Đại Học Bôlônha (nổi tiếng về khoa Giáo Luật), Đại Học Neapoli ; Tại Pháp có Đại Học Montpellier (nổi tiếng về khoa Y). Đại Học Orléans, Toulouse, Angers ; tại Anh có các Đại Học Oxford và Cambridge.

Từ năm 1200, giáo sư và sinh viên đã quy tụ thành phân khoa và có chỗ ở cho sinh viên mỗi miền và mỗi quốc gia, với những người đứng đầu được bầu chọn.

Théo, tr. 368b

2. NGHỆ THUẬT THÁNH

Nghệ thuật thánh hôm nay

Ước gì nghệ thuật của thời đại chúng ta và của tất cả các dân tộc và các quốc gia cũng được quyền tự do thi thố trong Giáo Hội, miễn là nghệ thuật này giữ được vẻ tôn nghiêm và trang trọng phải có trong thánh đường cũng như trong các lễ nghi thánh. Như thế nghệ thuật thánh hôm nay cũng có thể hòa nhịp với bản nhạc vinh quang mà những bậc vĩ nhân đã từng ca hát trong các thế kỷ qua để làm rạng rỡ đức tin Công giáo.

Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, số 123

Học hỏi về nghệ thuật thánh

Các giáo sĩ, trong thời gian theo học triết học và thần học, cũng phải được học hỏi về lịch sử và những bước tiến của nghệ thuật thánh, cũng như về nguyên tắc lành mạnh mà các tác phẩm nghệ thuật thánh phải dựa theo; Như thế họ sẽ biết quý trọng và duy trì những công trình đáng kính của Giáo Hội, cũng như có thể đưa ra những ý kiến thích hợp cho các nghệ thuật gia trong khi thực hiện các tác phẩm.

Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, số 129

(còn tiếp)
Bosco Nguyễn Văn Đình, Ofm
Giuse Nguyễn Hữu Triết

LÝ THUYẾT & THỰC HÀNH ĐẠO PHẬT

Giáo Pháp Đạo Phật có hai phần, phần Lý thuyết gọi là LÝ và phần thực hành gọi SỰ. Nhiều người cho rằng cần gì Lý thuyết cho dông dài, mất thời gian, cứ bắt tay thực hành thì sẽ có kết quả nhanh hơn ! Đó là vì họ không biết rằng Đạo Phật dạy : “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”, có nghĩa là không thể Hành theo sự hiểu biết của người khác. Vì biết họ hiểu đúng hay sai, xong hay chưa ? Người không có tay nghề mà vác búa đục lung tung thì hư tác phẩm. Người thiếu hiểu biết trong Đạo Phật mà Hành pháp nào đó, thí dụ như Ngồi Thiền, khi chưa biết mục đích của Thiền, chưa biết những gì có thể diễn ra trong lúc Thiền, cũng như kết quả của Thiền là gì, thì sẽ sinh ra hai hiện tượng : Hoặc kiêu mạn nếu thấy chút gì đó, hoặc Tẩu hỏa nhập ma vì bị Thiên ma dẫn dắt. Vì thế mà Đạo Phật có quy trình VĂN-TƯ-TU. Không thể vừa nghe xong là Tu luôn. Trước đó cũng phải có GIỚI, ĐỊNH để giúp cho việc khai mở cái Trí HUỆ. BÁT NHÃ TÂM KINH khẳng định : “Tam thế Chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật đa đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề” . “Bát Nhã Ba La Mật Đa” được dịch là “Trí Huệ đáo bỉ ngạn”. Ba đời Chư Phật đều nhờ vào Trí này mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phải có Trí Huệ mới trừ được VÔ MINH, mới phân biệt những điều cần Hành để đưa tới kết quả mong muốn. Biết Hành đến đâu là đủ ? Trí Huệ cũng là Chánh Kiến, có được do kết quả của Chánh Tư Duy, Chánh Định.

Con đường tu Phật được Đức Thích Ca bày ra, mục đích là chỉ lại cho người đi sau một hành trình để Thoát Khổ. Qua bao nhiêu đời Tổ tiếp nối, mỗi Tổ đều có cách trình bày của mình, với mong mỏi người sau hiểu được, chấp nhận vào Đạo rồi thực hành mà hết Khổ. Nhưng như nhiều vị tu hành thời trước đã than thở : “Chúng ta thời này cách Phật và Hiền Thánh quá xa”, vì bao nhiêu thời qua, bao nhiêu người tu là bấy nhiêu kiểu suy đoán, giải thích, giảng luận, bày ra nhiều cách thức thực hành, làm mọi việc càng rối ren hơn. Ai cũng có vẻ là bậc chân tu, đạo cao, đức dày, người nào cũng nói mình mới là Chân truyền, nối truyền giòng Chánh Pháp. Biết nghe ai ?

Tuy vậy, có một điều chắc chắn là : Muốn tìm thứ gì thì trước đó thì phải được người đã thành công mách lại cho phương hướng, hình dung cái mà ta cần tìm, hình dáng, màu sắc ra sao để ta có thể phân biệt với hàng chục, hàng trăm thứ tương tự. Dấu hiệu để nhận biết là ta đi đúng hướng, sắp gặp thứ mà ta cần tìm. Thí dụ như muốn tìm Trầm thì cần phải vô rừng nào ? Cây nào mới có Trầm. Cách thức để nhận biết cây đang chứa Trầm..Phải đâu mới nghe nói Trầm là quý rồi cứ thấy rừng là xông vô, gặp cây nào cũng đốn, cũng chặt, cũng chẻ ra mà lấy được Trầm ? Muốn tìm Ngọc cũng thế. Làm sao nhận ra đá nào có chứa Ngọc ? Làm sao phân biệt Ngọc giữa đống đá cuội ? Trinh sát đi bắt người mà không hề biết được nhân dạng, mặt mũi người đó thì làm sao bắt đúng người cần bắt. Chẳng lẽ gặp ai cũng bắt ? Do đó, chỉ có người đã thành công mới có thể chỉ lại đường đi nước bước, để cho người đi sau đỡ mất nhiều thời gian mày mò, gọi đó là “Tâm truyền Tâm”, hoặc “Dùng Tâm ấn Tâm”. Do vậy, chỉ người đã Thấy Tâm mới có Tâm để truyền. Người chưa Thấy Tâm biết gì mà Truyền ? Đó là lý do mà chúng ta cẩn đọc Chính Kinh để nghe lời Tổ là những người dã tu hành thành công để lại kinh nghiệm tu học. Nhưng do lời người đã sống từ hàng mấy trăm năm về trước mô tả sự việc, nên người đọc cần thận trọng, phải gạn lọc, tìm hiểu cho rõ ý nghĩa trước khi áp dụng, và phải “Y Kinh liễu nghĩa bất y Kinh vị liễu nghĩa”. Chỉ nên thực hành theo Kinh nào mà mình đã rõ nghĩa, vì “Y Kinh giải nghĩa Tam Thế Phật oan”.

Chắc chắn chúng ta đều đồng ý rằng không thể làm một việc gì mà có thể thành công nếu không nắm rõ quy trình, cách thức. Đạo Phật cũng không khác. Đọc Kinh Lăng Nghiêm, ta thấy Phật dạy : “Cũng như vị Quốc Vương, bị giặc đến xâm lăng, đem binh dẹp trừ, nếu không biết giặc trú ngụ tại đâu thì không bao giờ dẹp được” ! Thực tế đúng như thế. Đất nước có bốn phương, tám hướng. Giặc đang tấn công phương nào ? Không chỉ là phương hướng. Phải nắm luôn lực lượng của họ có bao nhiêu ? Thế mạnh, thế yếu như thế nào ? Muốn thắng giặc cần có binh pháp ra sao ? Nếu không nắm rõ những yếu tố đó của giặc thì làm sao thắng được giặc ? Tu hành cũng không khác. Chưa biết Đạo Phật cuối cùng về đâu ? Có lợi ích gì cho ta ? Có xứng đáng cho ta bỏ công sức, thời gian để theo đuổi để khỏi bỏ cuộc nửa chừng, vì tu hoài mà không thấy bến bờ là đâu? hay do không hiểu mục đích của Đạo Phật, nên nửa chừng tự nhiên hô hoán lên là đã Chứng đắc ?

Nhiều người tưởng rằng cứ Xuất Gia, vô Chùa thì đã là người tu hành. Nhưng vì sao có quá nhiều người tu cả đời mà không thành công ? Phải chăng vì họ không hiểu đúng những việc cần làm, do thiếu phân tích phần Lý để hiểu rõ từng Pháp, từng việc, biết vì sao phải hành những Pháp đó ? Hành thế nào cho đúng ? Khi đã hiểu rõ mọi thứ thì chỉ cần bắt tay vào thực hành. Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên có Kệ :

Đa văn là chim cánh vàng

Oai thế võ lực mạnh

Văn là kho hành bảo

Ở đâu lợi ích đấy

Văn là cầu cống to,

Cứu khỏi mọi khổ ách,

Văn là thuyền lái lớn

Đưa qua biển sanh tử

Đa văn chí được sáng

Vì sáng Trí Huệ thêm,

Trí Huệ hiểu nghĩa rộng

Thấy, Nghe, tu đúng pháp ...

Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy trong Pháp Bảo Đản Kinh : “Tất cả sự, Lý phải hiểu đến tận chỗ chơn”.

Ai cũng biết rằng Đại Thừa có 12 Bộ Kinh. Người tin, người chống. Người chống thì cho rằng đó là “Kinh ngụy tạo”, vì không phải là lời của Phật thuyết, mà của các Tổ về sau viết. Điều đó không sai. Điều đáng nói là họ không nghiên cứu lịch sử của Đạo Phật để biết rằng các Tổ Đại Thừa là những người được Truyền Thừa, tức được sự ủy nhiệm của Phật. Bắt đầu là Ngài Ca Diếp, truyền lần xuống tất cả là 33 vị. Những vị được phong làTổ đều là người đã Thấy Tánh, đủ điều kiện để giảng đạo. Được Tổ đi trước Ấn Chứng. Và chúng ta nên biết, không phải ai tu Phật cũng Chứng Đắc, cũng có quyền giảng Pháp. Đó là điều mà nhiều người không đọc lịch sử Đạo nên không hiểu. Đạo Phật không buộc ai phải tin, trái lại, còn dặn dò phải kiểm tra cho kỹ rồi mới nên Tin. “Ngay cả lời của Như Lai, nếu có lòng nghi ngờ cũng không nên thọ trì” .(Đại Bát Niết Bàn).

Kinh không phải để đọc lướt qua, càng không phải để Tụng, vì đó là những lời giải thích cho những việc cần hiểu, cần làm để đạt kết quả của Đạo. Nhưng vì đó là những lời được giảng rồi chép lại cách đây hàng ngàn năm. Một phần chưa chắc người dịch đã là người Chứng Đắc, vì thế sự diễn tả đôi khi không thể rõ ràng, đòi hỏi người đọc phải Tư Duy cho kỹ rồi mới áp dụng. Đọc Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA sẽ thấy lời dặn dò, đối với quyển Kinh là phải : “Thọ trì đọc tụng, giải nói biên chép, Y Pháp tu hành” . Tức là khi đã có quyển Kinh thì phải đọc nhiều lần, giải nói, biên chép, tìm ra ý nghĩa để rồi “Y Pháp tu hành” . Nhưng đa phần chỉ mang Kinh ra Tụng, ê a nhịp nhàng theo chuông mõ thì làm sao hiểu được ý nghĩa để thực hành ? Mà đã không thực hành thì làm sao có được kết quả ?

Một thì dụ nhỏ là Kinh Bát Nhã, là một Kinh được gọi là “Nhật tụng” của người tu. Nhiều người có thể đọc thao thao : “Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề”, có nghĩa là Ba đời chư Phật đều y theo Trí Huệ Qua Bờ Bên kia mà thành Vô Thượng Chánh Đẳng chánh Giác. Nhưng nếu không tìm hiểu ý nghĩa “Trí Huệ qua bờ bên kia” là gì ? Muốn có Trí Huệ đó thì phải làm gì ? Thì làm sao bản thân mình có thể thành công, tức là “qua bờ bên kia” ? Trong khi đó, ngay phần đầu Kinh đã giải thích : “Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời Chiếu Kiến Ngũ Uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Có nghĩa là Bồ Tát Quán Tự Tại hành sâu vào Trí Huệ qua bờ bên kia là Soi để thấy Ngũ Uẩn là Không thì sẽ độ hết Khổ ách. Tức là Trí Huệ có được là nhờ Chiếu Soi Ngũ Uẩn để thấy nó là Không. Thấy Ngũ Uẩn là Không thì sẽ được qua Bờ bên kia, tức là được Giải Thoát. Nhưng Thấy nó là Không thì nó đã Không chưa, đã Giải Thoát chưa ? Hay là Nói Không mà Hành Có ? Đó là phần hành giả phải phân tích cho rõ nghĩa rồi đưa ra thực hành gọi là SỰ.

Cũng giống như một người muốn chạm một pho tượng. Trước hết phải có mẫu, sau đó là biết cần những dụng cụ nào để sắm sửa cho đầy đủ rồi bắt tay vào thực hành từng đường nét để hình thành pho tượng. Ta đang muốn “Thành Phật”, tức là dựa vào mẫu là Đức Thích Ca, thì phải xem Ngài dạy những gì ? Làm như thế nào ? Rồi từng bước ta thực hành theo để hoàn thành Phật của mình.

Một số Đệ Tử của Lục Tổ thấy được nhờ Ngồi Thiền mà Đức Thích Ca đắc đạo, nên lập hẳn ra một Tông, gọi là THIỀN TÔNG, chuyên lấy việc Khai Công Án làm công phu tu hành. Người thầy sẽ giao cho đệ tử một Công Án nào đó, thí dụ như chữ KHÔNG, hoặc “Ai niệm Nam Mô A Di Đà Phật”. Người trò cứ miệt mài Khai, đến một ngày nào đó ngộ ra ý nghĩa của CÔNG ÁN thì cho là Chứng Đắc ! Thật ra nói “Khai Công Án” cho lớn lao, nhưng chỉ là tên gọi khác của Tư Duy một Pháp nào đó theo bên Đại Thừa. Tiếc một điều là những vị đặt ra Môn Khai Công Án đã không đối chiếu lịch sử tu hành của Đức Thích Ca, để thấy có phải Phật Đắc Đạo là Đắc cái Không hay không ? rồi chỉ thấy cái KHÔNG mà tưởng là mình Chứng Đắc,trong khi Đạo Phật có biết bao nhiêu Pháp cần phải Quán Sát, đâu phải mỗi chữ Không ? Nào là Vô Thường, Vô Ngã, Hữu Ngã, Hữu Vi, Vô Vi, Tâm, Tướng, Pháp, Tánh Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Lục Đạo, Lục Độ.. v.v... Mỗi chữ, mỗi Pháp đều có ý nghĩa mà người tu học cần biết để áp dụng vào công cuộc tu hành. Cái thấy các Pháp là KHÔNG chỉ là một giai đoạn Quán sát Các Pháp của người tu hành, đâu phải là đích đến của Đạo Phật, vì con người đang sống trong cõi Nhân, là Cõi Có Tướng, vẫn phải mặc áo, ăn cơm, tiếp xúc với những Pháp hữu tướng khác, đâu thể nói tất cả các Pháp là Không được ?

Và rồi, bao nhiêu thời qua, biết bao nhiêu người đã Tu Thiền, sao không thấy được bao nhiêu người Đắc Đạo ? Chỉ mỗi chữ VÔ mà Ngài Vô Môn đã bỏ ra cả 6 năm dài, quên ăn, quên ngủ. Rồi một ngày nọ, Ngài cho là mình Chứng đắc, rồi trình Kệ cho Thầy. Nhưng đọc bài Kệ Chứng Đắc của Ngài, ta chỉ thấy 4 câu 5 chữ VÔ, chẳng hiểu nghĩa lý ra làm sao! Sau đó Ngài viết quyển VÔ MÔN QUAN, gom mấy mươi Công Án của những ngưởi đi trước, trong đó có nhiều Công Án gọi Phật là “que cứt khô”, “Ba cân mè’ ! Ngài Vô Môn còn cho là người đắc được Pháp Không còn cao hơn cả Phật ! “Thích Ca, Di Lặc, còn là tôi đòi của những kẻ đó” ! Quả là lộng ngôn, không giống ngôn ngữ của người Thực Chứng. Tất cả chỉ vì Ngài không biết “Trong Phật Pháp người có Chứng Đắc là kẻ Tăng Thượng Mạn”! Bởi vì sao ? Nguời tu Phật đến cuối cùng sẽ Chứng được cái “Vô Ngã”. Vô Ngã tức “Không có Ta”. Đã Không Có Ta thì lấy ai Chứng Đắc ? Thế mà Thiền Tông vẫn dùng tài liệu này cho các Thiền Sinh học !

Một vài Thiền Sư có để lại sách viết về Thiền, trong đó có Thiền Sư Suzuki và Thiền Sư Nguyệt Khê. Thiền Sư Suzuki viết Thiền Luận đến mấy ngàn trang, chê Phật Thích Ca : “49 năm tích cực du hóa sau ngày thành đạo đều nhằm luận giải sự Giác Ngộ ấy rồi vẫn chưa nói được tiếng nói cuối cùng, rồi tất cả những trầm tư sau này của Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân và Vô trước, tất cả không biện minh được hết lời, cạn ý” (tr. 74. Quyển Thượng). Tuởng sao, đến lượt Ngài lại kết luận : “Tôi mong đem đến bạn một ý niệm, dẫu mơ hồ về Đạo Thiền theo như tinh thần đã được truyền lại Viễn Đông trên ngàn năm” ! Viết để luận về Thiền mà lại bảo : Dầu có đem hết tâm trí nghiền ngẫm thiên cảo luận này vẫn không khỏi hoang mang về đại nghĩa của Thiền Pháp”, và : “Mục đích của bài luận này không nhằm chứng minh suông Thiền là cái gì không thể hiểu được và như thế không ích gì bàn nói đến. Chú tâm của tôi, trái lại, là thử tận lực làm sáng tỏ ra, dầu kết quả phải thiếu sót và lệch lạc” .

Thiền Sư mà nói về Thiền một cách mơ hồ, luận đến mấy ngàn trang mà bảo người đọc “dầu có đem hết tâm trí nghiền ngẫm vẫn không khỏi hoang mang về đại nghĩa Thiền Pháp” ! Ngài còn cho là “thử tận lực làm sáng tỏ ra, dầu kết quả phải thiếu sót và lệch lạc” thì người tu học còn mong chờ gì khi bỏ công ra nghiên cứu luận về Thiền của Ngài ? Trong khi Ngài chê Đức Thích Ca suốt 49 năm luận giải sự Giác Ngộ mà chưa nói được tiếng nói cuối cùng thì Đại Thừa có đến 33 Vị Tổ. Đó chẳng phải là những vị Giác Ngộ sao ?

Thiền Sư Nguyệt Khê thì viết Tuyệt Đối Luận, chê Kinh sách : “Nay con người chui đầu vào kinh điển sách vở, ôm chấp văn nghĩa thì điều tai hại há chẳng phải là nông cạn ư ? (Vì thế) chuyện không lập văn tự và ngôn ngữ tương đối để chỉ thị, chứng nhập vào cảnh giới tuyệt đối của chân như thì văn tự của Kinh điển chỉ là mớ bá láp mà thôi. ! Ngài cho là chỉ cần “Nhập thẳng vào tuyệt đối đó là Thiền Tông, không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, Thấy Tánh thành Phật”. Phương pháp Ngài đưa ra là : “phủ định cái phủ định sau cùng (tức là đập tan vô thỉ vô minh) bèn nhập thẳng vào cảnh giới tuyệt đối, cho nên gọi là “Đốn ngộ”.

Cái “Hoát nhiên đại ngộ” được Ngài giải thích như sau : “Phủ định cái gọi là hình tướng, cái gọi là tên gọi, phủ định cái gọi là tư duy và cảm giác, sau cùng vô thỉ vô minh không có tư duy - không có cảm giác cũng bị phủ định luôn, cho đến khi không thể phủ định được nữa thì cõi tương đối kết thúc, liền nhập vào cảnh giới tuyệt đối, bèn hoát nhiên đại ngộ” !. Ngài tự cho : Cõi Tuyệt đối không phải là chỗ mà ngữ ngôn và văn tự có thể biếu tượng được, cho dù với trí huệ của Phật Thích Ca vì muốn cho con người đích thân chứng được cảnh giới ấy nên Ngài đã dùng đủ mọi phương pháp và ví dụ để miêu tả mà vẫn chưa thể bày tỏ ra ngoài để chỉ dạy cho con người tự tu tự chứng”.

Và đây là phương pháp mà Ngài chỉ dạy : “Do đây mà quán sát, nếu muốn vũ trụ tương đối này kết thúc thì duy chỉ có đem vô thỉ vô minh là tất cả mọi nguồn gốc của tương đối ra mà đập tan, rồi sáu cõi tương đối mới có thể kết thúc”.

So với Giáo Pháp của Đạo Phật khi biết do Vô Minh là Mê Lầm rồi tạo Nghiệp, thì dùng Trí Huệ để chiếu phá Vô Minh, chuyển hóa nó, để nó trở thành Minh, thì Ngài Nguyệt Khê kêu “đem nó ra mà đập” ! Vô Minh đâu phải là cục gạch hay hòn đất để có thể dễ dàng lôi ra đập ? Nó ở đâu ? Lôi ra cách nào ? Lấy cái gì để lôi ra ? Dùng cái gì để đập ? Nếu chỉ cần Phủ Định tất cả thì vào cõi tuyệt đối thì cõi đó ở đâu, hay chỉ là cõi tưởng tượng của Ngải ?

Nhiều người cũng biết cuộc đời là Vô thường, cái Thân thì mong manh, không sống mãi, nên cũng muốn tìm Đốn Giáo để tu cho nhanh. Thiền Tông tự nhận Tông của mình là Đốn Giáo dẫn chứng bằng tích Ngài Ca Diếp mỉm cười khi Phật đưa cành Sen lên, hay Lục Tổ Huệ Năng đánh cho Thần Hội ba gậy...xem ra chẳng dính dáng gì đến Thiền !. Lý chưa thông, nên khi áp dụng, thay vì giảng cho người tham hỏi thì người Thầy chỉ “đưa ngón tay lên”, “nhại câu hỏi”, “hét”, “đánh”, quăng phất trần”, “đóng sập cửa cho gảy chân” .. cho đó là “vô ngôn thuyết” ! Đức Thích Ca giảng nói suốt 49 năm, trước khi nhập diệt còn thông báo cho đại chúng là ai còn thắc mắc thì cứ đến hỏi, Ngài sẽ giải đáp. Đâu có “Vô ngôn thuyết” ? May là Ngài vận dụng đủ thứ phương tiện, lập ra đủ thứ cảnh giới để diễn tả Đạo Giải Thoát trong một thời gian dài như thế, mà chỉ có mỗi Ngài Ca Diếp Chứng Đắc. Những Thiền Sư chỉ “đưa ngón tay” lên thì người tham hiểu ý Thiền Sư muốn nói gì mà học ?

Do không có ngôn ngữ để truyền thừa, nên Ngũ Phái Thiền đã một thời làm mưa làm gió, rốt cuộc, theo nhận xét của Ngài Pháp Diễn Thiền Sư “Pháp Nhãn Tông truyền sang Cao Ly. Vân Môn đã thất truyền từ lâu, chỉ còn ba Tông Qui Ngưỡng, Tào Động, Lâm Tế, nhưng con cháu các Tông chỉ lấy Cội Nguồn Gia Phổ để Truyền Thừa với nhau, ghi trên Pháp Quyển là Thiền Sư đời thứ mấy mà thôi, nếu hỏi về Gia Phong Tông Chỉ thì chẳng thể trả lời” (Cội nguồn Truyền Thừa của Ngài Nguyệt Khê ).

Trong khi Thiền Sư Suzuki chê Phật và các Tổ về sau là “chưa nói hết lời, cạn ý”, nhưng viết hàng mấy ngàn trang mà không giải thích được thế nào là THIỀN ĐỊNH, thì Kinh VIÊN GIÁC chỉ cần vài câu Kệ là đã giải thích rõ về ý nghĩa của THIỀN để người đọc có thể nương theo đó mà Hiểu, mà Hành :

THIỀN ĐỊNH LÀ CHỈ, QUÁN

VÀ CHỈ QUÁN SONG TU .

CHỈ là dừng hết mọi hoạt động của Thân, của Tâm, thì người tu Phật nào cũng đã biết rồi. THIỀN QUÁN còn gọi là VIPASSANA thì người tu Phật nào có đọc Kinh sách thì cũng biết. Nhưng Quán pháp nào ? Quán như thế nào ? Bao nhiêu Pháp là xong ? Hay “Quán một pháp cũng đắc tâm” ? Có Pháp nào để Quán, và Quán như thế nào để Đắc Đạo như Đức Thích Ca hay không? Đó là điều mà những người tu Phật nếu chưa hiểu rõ để bổ sung phần Lý cho rõ ràng thì không bao giờ Ngồi THIỀN thành công được.

Đạo Phật dù được mở ra cách đây đã gần 3.000 năm, nhưng không phải là mớ lý thuyết mơ hồ, khó hiểu, khó thực hành. Trái lại đó là cả một quy trình, giải thích về Cảnh Khổ của kiếp sống con người, và cách thức để vẫn tiếp tục cuộc sống giữa phiền não mà không những không bị phiền não vùi dập, còn được an vui, hạnh phúc gọi là đạt Hữu Dư Y Niết Bàn.

Theo Đức Thích Ca, con người không chỉ có mặt ở trần gian trong hiện tại, chết là hết, mà có thể hết Tử rồi lại Sinh, Sinh rồi lại Tử theo vòng Nghiệp Lực đã gây tạo, gọi là Luân Hồi. Tu theo Đạo Phật lả để kết thúc Vòng Luân hồi. Muốn Thoát Vòng Luân Hồi không phải là ngưng không lập gia đình, không có vợ chồng, sinh con, đẻ cái, mà là thoát sự ràng buộc với cái Thân giả tạm. Khi ý thức được cái Thân chỉ là món mà mình tạm có ở hiện kiếp thì không gắn bó với nó, không chìu theo sở thích của nó, nhưng cũng không vùi dập hay bỏ bê nó. Vẫn giữ một nếp sống bình thường, nhưng không vì cung phụng cho nó mà gây Ác Nghiệp, chỉ tạo Thiện Nghiệp. Rồi tìm cho được cái Bổn Thể Tâm hay cái Mình Thật. Khi đã Thấy được cái Bổn Thể Tâm hay Thấy Tánh, hành giả sẽ sống với cái Chân Tánh đó thì sẽ không còn theo Cái Thân mà Luân Hồi, nên gọi là kết thúc vòng Luân hồi.

Con đường tu hành theo Đạo Phật là học để hiểu rõ nguyên nhân của Khổ và cách thức Thoát Khổ. Theo Đạo Phật, “Hữu Thân, hữu Khổ”. Sinh ra là đã khổ, rồi Già, Bệnh, Chết là những nỗi Khổ đeo dẳng cái Thân con người. Nguyên nhân của Những Nổi Khổ lớn và cách giải quyết được nêu rõ trong TỨ DIỆU ĐẾ gồm KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. Người tu sẽ theo những phân tích của từng Đế mà chiêm nghiệm, rồi nếu thấy những lời Phật giải thích đó là đúng lý thì áp dụng ĐẠO ĐẾ, tức con đường để Thoát Khổ. Từng giai đoạn, từng Pháp mà Đạo Phật hướng dẫn đều nhằm mục đích đưa đến cứu cánh Thoát Khổ, không phải là để Chứng đắc Quả vị cao, thấp hay thành Thánh, thành Phật như nhiều người đã hiểu lầm.

Dù con đường tu Phật được Chư Vị Giác Ngộ nhiều thời giải thích bằng nhiều cách, nhưng rốt lại chỉ có hai nơi để tu sửa là THÂN và TÂM. Thân là tai sai và Tâm là chủ nhân. Chủ nhân sáng suốt thì điều khiển tai sai làm việc tốt cho cả hai. Chủ nhân Vô Minh thì đưa cả hai vào Nghiệp xấu, phải trả không kiếp này thì kiếp sau, không thể tránh được. Do vậy mà Tu PHẬT là phải TU TÂM, chỉ cần “Trực chỉ Chân Tâm, Kiến Tánh thành Phật” , vì tất cả vướng mắc hay Giải Thoát, chứng Thánh hay đọa Phàm cũng do đó. Tu Tâm chính là Đốn giáo. Người tu có thể ở bất cứ đâu ? Làm bất cứ nghề gì ? Độc thân hay có gia đình ? Già hay Trẻ, Nam hay Nữ. Không cần sửa Tướng, không cần lý thuyết dông dài. Không cần xây Chùa, đúc tượng. Không cần bỏ nhà cửa, cha mẹ. Không cần sống đời độc thân, có thể làm bất cứ ngành nghề gì, miễn là lương thiện, xã hội cho phép, không hại người khác và không dính vào nghiêp Sát.

Nghiên cứu cho kỹ lý thuyết của Đạo Phật, ta sẽ thấy đó không phải là một Tôn Giáo dạy Thờ Phật, mà là một Con Đường, người đi trên đó được hướng dẫn từng bước, để nhìn cho rõ Các Pháp, nhận rõ bản thân, nhận rõ kiếp sống để ý thức mà sống cho tốt đẹp hơn, trở thành một con người hoàn hào hơn, lợi mình, lợi người để mình và chung quanh đều được hạnh phúc, an vui trong kiếp sống.

Nhờ những phương tiện mà Đạo Phật dẫn dắt, người tu sẽ không còn Tham, Sân, Si, ích kỷ, kiêu mạn, không chỉ nghĩ vun vén cho bản thân, trái lại còn Từ Bi, Hỉ Xả, biết gieo Nhân Thiện thì Quả lành sẽ tự đến. Họ được dạy phải đền Tứ Ân là Ân Phật, Ân Thầy, Ân Đất Nước, Ân Chúng Sinh, tức là phải biết Ân tất cả mọi người chung quanh đã đóng góp cho cuộc sống của mình. Chúng ta thử tưởng tượng nếu một xã hội mà không có trộm cắp, không ai ỷ mạnh, hiếp yếu, không có ai gian tham, bóc lột, lừa đảo ai, trái lại còn biết kính trên, nhường dười, tất cả mọi người yêu thường nhau, giúp đỡ nhau, tất cả đều được sống trong an vui, hạnh phúc. Đó chẳng phải là Niết Bàn tại thế hay sao ? Đó chính là mong mỏi của Đức Thích Ca khi khai mở Đạo Phật mà mấy ngàn năm qua vẫn chưa thực hiện được.

Người ý thức được lợi ích mà công việc tu hành mang lại, sẽ thấy kiếp sống này không phải vô giá trị, Thân này là ô trược, cần phải bỏ đi để mơ về một Nước Phật xa xôi nào, mà biết rằng mình may mắn có được Thân người để tu hành. Vì như lời Phật dạy “Nhân thân nan đắc”. Được làm người, đầy đủ Thân căn là điều rất đáng quý. Trước khi tu hành thì Lục Căn là Lục Tặc, vì nó luôn đòi hỏi phải cung phụng cho nó để đôi khi làm những điều xấu, tạo Ác Nghiệp vì nó. Khi đã giáo hóa nó xong, thì nó lại trở thành Lục Hộ Pháp để yểm trợ công việc tu hành cho người tu. Đó là lý do vì sao có tượng Đức Di Lặc bụng to, ngồi cười thoải mái với sáu đứa bé đeo bám quanh người. Hình Tượng đó tượng trưng cho người đã điều phục xong Lục Căn. Trước khi tu hành thì chúng là Sáu Tên Giặc, chuyên mang ngoại pháp về phá hại Thân, Tâm. Sau khi điều phục xong, thì Lục Tặc trở thành là sáu đứa bé vô hại, vui vẻ leo trèo quanh người. Không phải có một Ông Phật Di Lặc để mọi người tạc tượng để thờ, để cầu xin ! Phải “Điều phục xong Lục Căn thì mới thành Phật”. Đó là lý do mà Đạo Phật gọi Phật Di Lặc là Phật Vị Lai.

Phần LÝ rất quan trọng, là căn bản, là hướng nhắm, là sơ đồ, là phát thảo cho tác phẩm. Đẹp hay xấu, đúng hay sai, nhanh hay chậm là do phần Lý hoàn chỉnh hay không ? Lời Chư Vị Giác Ngộ dạy không sai : TU PHẬT LÀ TU TÂM. Là Sửa cái Tâm cho ngay thẳng, không còn quanh co, âm mưu, thủ đoạn, hại người, hại vật. Hình tướng không có giá trị đối với công việc tu hành. “Đầu tròn” nhưng Tâm đầy mưu mô tính toán, mưu danh, trục lợi thì liệu có phải là người tu ? Việc tu hành diễn ra nơi Tâm của mỗi người thì việc gì phải cất Chùa cho thật to cho hao tổn tiền bạc của bá tánh, rồi người tu tập trung vô đó, bỏ hết mọi việc, bắt người khác phải cung dưỡng cho mình tu ? Điều đó chỉ đúng trong thời Phật mới khai đạo.

Thật vậy, người tu phải hiểu là do thời xưa chưa có chữ viết, Giáo Pháp của Đạo Phật chưa có người nắm vững. Vì thế Phật phải bắt buộc Chư Đại Đệ tử bỏ hết việc đời, không được có gia đình để khỏi bận bịu, vướng víu, để toàn tâm toàn ý nghe Phật giảng rồi ghi nhớ, tương lai phổ biến. Thời này thì Kinh sách tràn lan, ở đâu cũng có, đâu cần phải bỏ hết việc đời để chú tâm nghe rồi ghi nhớ ? Do đó, bắt người muốn tu đang tuổi thanh xuân phải bỏ hết mọi việc đời, không góp sức mình để phụ giúp kinh tế cho gia đình, lo cho cha mẹ già yếu và trả nợ cuộc sống, thì đó là phí phạm sức người lẽ ra dùng để phục vụ đất nước, dân tộc, thì không những có lỗi với Đời mà cũng có lỗi với Đạo.

- Chỉ cần lên google gỏ : Phật có phải là Thần Linh không ? Sẽ cho câu trả lời là : “Đức Thích Ca không phải là Thần Linh, Ngài cũng là một con người bình thường như mọi chúng ta. Nhờ đoạn trừ phiền não mà được Giải Thoát”. Vậy thì chúng ta nghĩ sao khi mấy ngàn năm qua - cho đến hiện nay - mọi người vẫn Cầu An, Cầu Siêu, tốn bao nhiêu tiền bạc để cất biết bao nhiêu Chùa, Tháp để Thờ Phật, mục đích cầu xin Chư Phật gia hộ, phù hộ, độ trì ?

Hiểu cho đúng về quy trình tu hành theo Đạo Phật, ta sẽ thấy, toàn bộ những hình tướng mà người tu Phật mang trên người nói lên những điều họ cần thực hiện trong suốt cuộc đời .

Muốn tu hành thì phải Xuất Gia, Cạo tóc, Đắp Y, xây Chùa, đúc Tượng Phật, cúng dường Phật...mang ý nghĩa như sau:

- “Xuất Gia” không phải là rời nhà thế tục, mà là “Ra khỏi nhà lửa Tam Giới”.

- “Cạo Tóc” là Cạo sạch phiền não.

- “Đắp Y” là phủ lên Thân, Tâm một màu Giải Thoát.

- “Xây Chùa” là làm cho “Đất Tâm” trở nên thanh tịnh.

- “Đúc, tạc, Tượng Phật”, là dựa theo những việc mà Phật đã làm, coi đó là khuôn mẫu, rồi bắt chước theo để hình thành Tượng Phật của mình. Mỗi người theo đó mà hành, gọi là đúc, tạc, hay Chạm Tượng Phật cho mình. Không phải dùng vật liệu quý rồi chạm thành hình tượng Phật ngày càng to, để thờ, để cầu xin.

-“ Cúng dường Phật” : Muốn cúng dường Phật thì phải hiểu thế nào là Chúng Sinh. “Độ” được một chúng sinh, đó là ta đã “Cúng dường một vị Phật”. Một đời tu hành, mỗi người phải “Cúng dường vô lượng vô số ức Phật” trong nghĩa này. Không phải là tạc cho thật nhiều Tượng Phật rồi thắp hương để cúng.

- “Cuộc Đời ô trược” mà Đạo Phật dạy bỏ, không phải là người đời, là thế gian, mà là những Tham, Sân, Si, của bản thân. Ba Món đó lúc nào cũng sinh sôi, nẩy nở, trùng trùng, điệp điệp nơi Tâm. Phật ví như cư dân của cả ba thế giới. Người tu phải “độ” cho hết. Đó là ý nghĩa của “Phật cứu độ Tam Thiên Đại Thiên thế giới”. Không phải đi cứu độ thế giới bên ngoài, vỉ Đạo Phật dạy Tự Độ.

- Nói rằng kiếp sống Vô Thường không phải để mọi người bỏ đời, vô Chùa tu, cả ngày chỉ Tụng kinh, Niệm Phật chờ về Niết Bàn, mà để thấy cuộc đời không dài. Duyên phận, thời gian bên người thân và những người ta yêu quý không kéo dài mãi, để yêu thương người, yêu thương cuộc đời, góp tay xây dựng để cuộc đời được tốt đẹp hơn. Nếu Đạo Phật dạy người tu phải bỏ thế gian thì sao còn dạy phải Đền Tứ Ân, phải thực hiện để có 32 tướng Tốt, 80 vẻ đẹp của Phật ?

- Lục Tổ Huệ Năng có Kệ : “Phật Pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác”. Người tu Phật là người sống giữa thế gian. Ví như người cuộc sống phải qua lại trên giòng sông Sinh tử, phiền não, nên phải học cách để chế ngự nó, để vẫn sống trong nó mà không bị nó nhấn chìm, đâu phải dọn lên bờ tránh sông nước, rồi tự hào là mình đã “thoát” ? Do vậy, Lục Tổ cho rằng người rời bỏ thế gian mà tìm Giải Thoát cũng như người đi tìm sừng thỏ : “Ly thế mịch bồ Đề. Cáp như cầm thố giác”. Cái “Thoát” của Đạo Phật là ở trong nó mà không bị nó vùi dập. Vì vậy mà Đạo Phật đã dùng biểu tượng là Hoa Sen để nói lên tính cách “Trong bùn mà không vương mùi bùn”, cũng như hình ảnh Đức Phật ngồi trên Đài Sen, mà nhiều người không hiểu chỉ biết tạc ra để Thờ !.

- Giáo Pháp của Đạo Phật bình đẳng tế độ cho tất cả mọi người, Phật Thọ Ký : “Ta là Phật dã thành. tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”, đâu có nói là chỉ Tu Sĩ mới là Phật sẽ thành ? . Nếu nói về nghĩa của Tu, thì bất cứ ai, có Sửa cái Tâm của mình, có Giữ Giới và Hành theo Bát Chánh Đạo thì đó là người tu. Đâu cần phải cạo đầu, mặc Y ? Tổ Đạt Ma dạy : “ Nếu thấy tâm mình là Phật thì không cần cắt tóc cạo râu. Hàng bạch y vẫn là Phật. Nếu không thấy Tánh, cắt tóc cạo râu vẫn là ngoại đạo”. Lục Tổ Huệ Năng dạy : “Chư Thiện Tri Thức. muốn tu hành thi ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở Chùa. Ở nhà mà lòng thường tu hành, thì cũng như người Đông phương có lòng lành. Ở Chùa mà chẵng tu thì cũng như người Đông phương có lòng dữ. Nếu lòng trong sạch thì Tánh mình tức là Tây Phương vậy”.

Chính những người chưa học hết Phật Pháp mà lại ra giảng dạy đã làm cho Đạo Phật bị đóng khung sau cánh cổng Chùa, không “đại chúng hóa” như Đức Thích Ca mong mỏi. Họ quan trọng hóa việc tu hành, cho rằng Tu Sĩ là những người hy sinh cuộc đời để “Cứu nhân độ thế”, vì thế phải độc thân, phải có sắc tướng, phải ở trong Chùa thì mới được gọi là Tu Sĩ, mới đắc Quả nọ, quả kia... Núp sau lưng hình tượng Phật, họ được hưởng mọi sự tôn trọng, chẳng cần làm gì để mưu sinh, lại được hưởng mọi tiện ích cao cấp của cuộc sống, được sự cung dưỡng của bá tánh.

Thời nào họ cũng kêu gọi bá tánh cất Chùa cho to, trang hoàng cho lộng lẫy nguy nga, viện lẽ là để tôn vinh Phật, để họ ở đó phụng sự Phật, trong khi Phật đã nhập diệt gần 3.000 năm rồi, Ngài đâu cần ai phụng sự ? Đọc Kinh Kim Cang, ta thấy sinh thời Đức Phật sinh hoạt bình thường như mọi người : “Lúc đó gần đến giờ ăn, Đức Thế Tôn đắp Y, mang bát vào Thành Xá Vệ mà khất thực. Trong thành ấy, Đức Phật theo thứ tự ghé từng nhà khất thực xong, trở về Tịnh Xá, dùng cơm rồi cất y bát. Sau khi rửa chơn xong, Đức Phật trải tòa mà ngồi” . Sau khi đã thành Phật rồi thì Đức Thích Ca cũng tự mình làm mọi việc, đâu cần ai phải phục vụ ? Đệ tử Ngài sau này hình như không còn thấy mấy người theo Hạnh đơn sơ đó. Chùa giàu thì Sư ngủ phòng máy lạnh, ra đường thì tiền hô hậu ủng, dù lộng nghênh ngang, làm cho nhiều người mỉa mai “ai bảo đi tu là khổ. Đi tu sướng lắm chứ” ! Như vậy phải chăng là bôi bác Đạo, vì làm mất di hình ảnh giản dị, thanh tịnh của người tu được cho là bỏ đời ! ? Suy cho cùng, những Tu Sĩ sống ở trong Chùa, ngoài sắc phục cũng đâu có làm điều gì khác hơn người muốn tu mà không thích vô Chùa ? Vẫn là Giữ Giới, Quán sát, tư duy, Thiền Định, sống theo Bát Chánh Đạo ? Do đó, họ không những nợ bá tánh từ chén cơm, ấm thuốc, cho tới mọi tiện ích của cuộc sống, mà còn nợ cuộc đời đã cho họ nương tựa, vì “Ông tu, ông đắc, bà tu, bà đắc”, đâu có ai tu giùm cho ai được ? Phật cũng đâu có phải là Thần Linh để Tu sĩ cầu xin Phật gia hộ để trả ân ?

Người không hiểu thế nào là Đạo Phật thường chỉ nhìn bề ngoài để đánh giá. Ở đâu có Chùa, có Tượng Phật thì cho là “đất Phật”. Nhưng nếu chịu khó tìm hiểu thì sẽ thấy : CHÁNH PHÁP, TÀ PHÁP đều cùng đọc Kinh, cũng chiếu lời Phật dạy, nhưng do tư duy không đến nơi, đến chốn mà khi thực hành thì khác nhau : Một bên Quay Vô để Tu sửa cái Tâm, Tự Độ để được Giải Thoát hay Thành Phật, gọi là Nhất Thừa hay Phật Thừa. Một bên quay ra, hình tượng hóa tất cả những gì viết về Chùa, Phật, Như Lai, Bồ Tát..để Thờ, rồi thắp hương để Cầu Xin “Được Độ”, gọi là Nhị Thừa hay Quyền Thừa. Đọc Kinh Kim Cang ta sẽ thấy có Kệ để phân biệt Tà, Chánh rất rõ ràng : “Ai nương sắc thấy Ta. Dùng âm thanh để cầu ta. Kẻ đó hành tà đạo. Không thể thấy Như Lai”. Qua đó, ta thấy phần LÝ trong Đạo Phật quan trọng như thế nào đối với công việc tu hành mà người muốn tu hành chân chính không thể xem thường nếu muốn thành công vậy.

Tâm Nguyện (Tháng 5/2021)


ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO

RA ĐỜI Ở NAM BỘ

-Vị trí Việt Nam chúng ta thuộc bán đảo Hoa Ấn, nơi tập trung nhiều mối đạo, nhiều môn phái, có hằng trăm tổ chức tín ngưỡng, màu sắc tôn giáo, có đạo tập hợp thành nhiều tổ chức như Đạo Phật Việt Nam, trước ngày hòa bình có đến 45 giáo hội, giáo phái lớn nhỏ, đạo Cao Đài có trên 20 Giáo hội v.v…

Tôn giáo là 1 sản phẩm lịch sử gắn liền với điều kiện lịch sử xác định . Do đó tôn giáo ở miền nam Việt Nam (Nam bộ ) cũng có những nét đặc trưng riêng .

Là một vùng đất đa tộc người, nơi đất lành chim đậu của di dân người Việt, người Khmer, người Hoa, người Chăm và các tộc người khác, Nam Bộ đã trở thành môi sinh thuận lợi để phát triển các tôn giáo có nguồn gốc Bắc Bộ, Trung Bộ hoặc tiếp biến từ các tộc người cộng cư và từ người Pháp. Vì vậy, đây chính là vùng đất phong phú nhất về tín ngưỡng – tôn giáo ở Việt Nam, với đầy đủ bốn loại hình tôn giáo đa thần và độc thần, nội sinh và ngoại sinh. Vì vậy, đời sống tâm linh của người Việt Nam Bộ khá phức tạp, chịu ảnh hưởng đồng thời của nhiều tôn giáo có nguồn gốc khác nhau.

Thổ Địa – Thần Tài & Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa

1.Các tôn giáo đa thần

Tôn giáo đa thần Bao gồm các tôn giáo thờ cúng nhiên thần: phổ biến nhất là thờ cúng Thổ Địa – Thần Tài, Táo Quân, Ông Thiên (gia đình), Cá Ông (đình miễu ven biển), Thành Hoàng Bổn Cảnh, Sơn Thần (đình miễu trong nội địa), Bà Chúa Xứ, Linh Sơn Thánh Mẫu (đền miễu ở núi Sam, núi Bà Đen, và rải rác), Ngũ Hành Nương Nương (miễu). Ngoài ra, một số nơi còn thờ cúng Ngọc Hoàng, Mẹ Phật Mẫu Diêu Trì, Cửu Thiên Huyền Nữ, Ông Tà, Hà Bá – Thuỷ Long, Mười Hai Bà Mụ, Ông Tơ Bà Nguyệt, v.v.

Sự khác nhau giữa tôn giáo đa thần miền Bắc Và Miền Nam

Khác với Thành Hoàng có nguồn gốc nhân thần ở miền Bắc, miền Trung, Thành Hoàng Bổn Cảnh ở Nam Bộ là nhiên thần, chỉ có danh hiệu chứ không có lý lịch, thần tích, và chỉ một phần trong số đó có sắc phong thần của triều đình với tên gọi chung là “Thành Hoàng Bổn Cảnh”.

Kế tiếp là các tôn giáo thờ cúng nhân thần: phổ biến nhất là thờ cúng gia tiên – tổ tiên (tang ma, đám giỗ, cúng việc lề), Quan Thánh Đế Quân (gia đình), Bà Thiên Hậu, Ông Bổn (chùa, miễu), tổ nghề nghiệp. Ngoài ra, một số nơi còn thờ cúng Tổ tiên nhân loại (Cửu huyền trăm họ), các danh nhân – anh hùng dân tộc: Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại, Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc binh Kiều, Phan Công Hớn, Thầy Thím, liệt sĩ cách mạng (đền, miễu, dinh), v.v.

Ngoài ra, từ sau năm 1954, người Việt Bắc Bộ còn đưa vào một vài nơi ở Nam Bộ (như thành phố Hồ Chí Minh) các tôn giáo thờ cúng nhân thần: Quốc tổ Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần, v.v.

2.Các tôn giáo độc thần

Tôn giáo độc thần Bao gồm các tôn giáo dân tộc: đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đạo Cao Đài được thành lập năm 1926 tại Tây Ninh, kết hợp đạo Phật với Đạo giáo, Khổng giáo, Công giáo, đạo Thánh Mẫu, có 2,4 triệu tín đồ trên cả nước (2009), tập trung nhất ở Tây Ninh, Bến Tre, Long An, Tiền Giang. Phật giáo Hoà Hảo được thành lập năm 1939 tại An Giang, trên nền tảng Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, kết hợp đạo Phật với tín ngưỡng dân gian, được công nhận tổ chức tôn giáo năm 1999, hiện có khoảng 1,3 triệu tín đồ ở Tây Nam Bộ, tập trung đông nhất ở An Giang.

Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa

Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời năm 1867 tại An Giang, được công nhận tổ chức tôn giáo năm 2010, hiện có khoảng 78.000 tín đồ ở Tây Nam Bộ, tập trung nhất ở An Giang. Ngoài ra, một số người còn tin theo các giáo phái, hệ phái bắt nguồn từ Phật giáo như Bửu Sơn Kỳ Hương (thành lập năm 1849 ở An Giang, có khoảng 15.000 tín đồ ở Tây Nam Bộ), Huỳnh Đạo (thị xã Châu Đốc, An Giang), đạo Ông Trần (xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, Bà Rịa-Vũng Tàu), đạo Dừa (cồn Phụng, xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, Bến Tre), v.v.

Các tôn giáo thế giới

Kế tiếp là các tôn giáo thế giới: Phật giáo Bắc Tông, Công giáo, Tin Lành. Tiếp nối truyền thống của người Việt ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, người Việt Nam Bộ cũng dành ưu tiên cho đạo Phật, xây dựng chùa chiền trên khắp đồng bằng, đặc biệt là những vùng đồi núi sót. Tính chung tất cả 9 tổ chức và hệ phái bao gồm cả Phật giáo Nam Tông, đạo Phật có khoảng 10.000.000 tín đồ trong cả nước (2010). Đạo Công giáo, đạo Tin Lành cũng có đông tín đồ, phần lớn là giáo dân di cư từ miền Bắc.

Các cơ sở thờ tự ở Nam Bộ

Tương ứng với hình thái đa dạng về tôn giáo là mạng lưới dày đặc các cơ sở thờ tự. Rất nhiều cơ sở thờ tự cũng đồng thời là di tích lịch sử – văn hoá của Nam Bộ như đền Linh Sơn Thánh Mẫu ở Tây Ninh; chùa Bà ở Bình Dương; đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai; lăng Ông Lê Văn Duyệt, chùa Ông, chùa Bà ở TP.HCM; lăng Hoàng Gia, lăng Trương Định, lăng Tứ Kiệt ở Tiền Giang; lăng và đền thờ Thoại Ngọc Hầu, miễu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc; đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá; v.v.


Đền thờ Nguyễn Trung Trực & đền Linh Sơn Thánh Mẫu.

a/Các lễ hội tôn giáo ở Nam Bộ

Tương ứng với sự phong phú về cách thức hoạt động sản xuất và về tôn giáo, lễ hội của người Việt Nam Bộ cũng rất đa dạng, bao gồm cả bốn loại hình lễ hội truyền thống ở Việt Nam: lễ hội nông nghiệp – ngư nghiệp; lễ hội tưởng niệm danh nhân – anh hùng dân tộc; lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo; và hỗn hợp. Tất cả đều mang sắc thái Nam Bộ mặc dù nhiều lễ hội bắt nguồn từ Trung Bộ. Ở các đình làng, thường xuyên có các lễ hội Kỳ yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành Hoàng Bổn Cảnh, các thần linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ, giúp dân an cư lạc nghiệp.

Lễ hội Nghinh ông

Ở vùng ven biển, lễ hội Nghinh Ông là sự kiện quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hoá và tâm linh của cư dân. Ở Bà Rịa – Vũng Tàu, nơi có 10 đền thờ cá voi, nhiều nhất ở miền Nam, bên cạnh lễ hội Nghinh Ông còn có lễ Lệ Cô Long Hải từ 10/2 đến 12/2 âm lịch để thờ cúng Mẫu – Nữ thần và kết hợp cúng thần biển. Ở Bến Tre, lễ hội Nghinh Ông được tiến hành vào ngày 16/6 âm lịch hằng năm tại các làng ven biển thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri. Trong ngày hội, tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung để nghinh Ông, tế lễ, vui chơi và ăn uống. Ở Cần Giờ (TP. HCM), Vàm Láng (Tiền Giang)… đều có lễ hội Nghinh Ông trọng thể hằng năm.

Lễ hội tưởng nhớ danh nhân

Lễ hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên… và lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc binh Kiều, Phan Công Hớn… đều là những lễ hội long trọng do nhân dân tổ chức, với sự bảo trợ của chính quyền địa phương.

Lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo

Lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo bao gồm hội đền Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen; lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam; các lễ tết cổ truyền như tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ; các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành… Trong số đó, lớn nhất là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ 23/4 âm lịch ở núi Sam, Châu Đốc, một địa chỉ hành hương tiêu biểu của Nam Bộ, hằng năm thu hút đến 2,9 triệu người hành hương và du khách (2008). Trên đây là đôi nét về các tôn giáo ở Miền Nam việt nam ( tôn giáo ở Nam Bộ )

Biểu tượng Phật giáo Hòa Hảo - Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ & Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo, xưa thuộc làng Hòa Hảo, nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

a/ Phật giáo Hòa Hảo

Là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm Kỷ Mão 1939 , lấy pháp môn "Học Phật - Tu Nhân" làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia (Tại gia cư sĩ). Tôn giáo này lấy nền tảng là Đạo Phật , kết hợp với những bài sấm kệ do chính Huỳnh Phú Sổ biên soạn. Theo thống kê năm 2019 có khoảng 970.000 (0,60%) tín đồ Phật giáo Hòa Hảo khiến tôn giáo này trở thành tôn giáo có số tín đồ đông thứ 4 tại Việt Nam. [1]

Lịch sử

Phật giáo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu , tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ , huyện Phú Tân , tỉnh An Giang ) vào năm 1939 do Huỳnh Phú Sổ sáng lập.

Huỳnh Phú Sổ , còn được gọi là "Thầy Tư Hoà Hảo", "Đức Huỳnh Giáo chủ", khi đó chưa đầy 18 tuổi, tuyên bố mình là bậc "Sinh nhi tri", biết được quá khứ nhìn thấu tương lai, được thọ mệnh cùng với Phật A-di-đà và Phật Thích-ca Mâu-ni , xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để Chấn hưng Phật giáo , cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và "đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc". Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc nam do ông kê toa hoặc nước lã, giấy vàng, lá xoài, lá ổi, bông trang, bông thọ, đồng thời qua đó ông truyền dạy giáo lý bằng những bài sám giảng (còn gọi là sấm giảng) do ông soạn thảo.

Vì vậy chỉ trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng.

Ngày 18/5 năm Kỷ Mão (tức 4/7 1939 ), Huỳnh Phú Sổ bắt đầu khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo mới của mình: Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó, ông được các tín đồ suy tôn làm thầy tổ, và gọi ông bằng cái tên tôn kính là Đức Tôn Sư, Đức Thầy.

Kể từ đó, ông lần lượt làm nhiều bài thơ ca , sau được tập hợp lại thành quyển Sấm giảng thi văn giáo lý, nội dung cốt lõi là giáo lý của Đức Phật Thích Ca , và có phần gần gũi với tư tưởng thần bí và tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ lúc bấy giờ.

b/ Đạo Cao Đài

Là một tôn giáo độc thần được thành lập ở Miền Nam VN vào năm 1926. Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Để tỏ lòng tôn kính, một số các tín đồ Cao Đài thường tự gọi tôn giáo của mình là Đạo Trời.

Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ trụ này. Tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được "Đức Cao Đài" trực tiếp chỉ định. Và đạo Cao Đài chính là được Thượng đế trực tiếp khai sáng thông qua Cơ bút cho các tín đồ với nhiệm vụ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có nghĩa là Nền đạo lớn cứu khổ lần thứ Ba.

Đạo kỳ

Cao Đài là một tôn giáo mới dung hợp nhiều yếu tố từ các tôn giáo lớn, gồm cả Phật giáo , Đạo giáo , Nho giáo , Hồi giáo , Cơ Đốc giáo , Thần Đạo và cả một số tôn giáo đa thần thời cổ đại, thể hiện qua Ngũ Chi Đại Đạo . Thậm chí tôn giáo này còn thờ phụng một số nhà chính trị, nhà văn cận đại mà họ gọi là “Tam thánh đứng đầu Bạch Vân Động”, bao gồm Tôn Dật Tiên , Victor Hugo Nguyễn Bỉnh Khiêm (xem Tam Thánh ký hòa ước ). Các tín đồ thi hành những giáo điều của Đạo như không sát sinh, sống lương thiện, hòa đồng, làm lành lánh dữ, giúp đỡ xung quanh, cầu nguyện , thờ cúng tổ tiên , và thực hành tình yêu thương vạn loại qua việc ăn chay với mục tiêu tối thiểu là đem sự hạnh phúc đến cho mọi người, đưa mọi người về với Thượng đế nơi Thiên giới và mục tiêu tối thượng là đưa vạn loại thoát khỏi vòng luân hồi . Thuyết thần trí

Tuy được khai sinh chính thức vào năm 1926 , có nguồn nói rằng đạo Cao Đài khởi nguồn vào đêm Giáng Sinh năm 1925 trong lúc tình trạng nước Việt Nam đang rất hỗn độn. [1] Cao Đài nhanh chóng phát triển về quy mô và số lượng tín đồ. Theo thông tin của Ban Tôn giáo Chính phủ, dẫn thống kê năm 2010 của các tổ chức Cao Đài thì có khoảng hơn 2,4 triệu tín đồ [2] , còn theo Thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam cũng trong năm 2009 thì số người tự xem mình là tín đồ Cao Đài tại Việt Nam là 807.915 người, [3] cũng có nguồn ghi hơn 5 triệu [4] . Về mặt tổ chức đạo Cao Đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc với 958 tổ chức Họ đạo cơ sở được công nhận. Trên toàn quốc có 35/38 tỉnh thành đạo Cao Đài hoạt động với 65 Ban Đại diện, 1.290 cơ sở thờ tự (sak năm có khoảng 4000 tín đồ mới nhập môn vào đạo Cao Đài) [2] . Ngoài ra, có khoảng 30.000 tín đồ nữa sống ở Hoa Kỳ , Châu Âu Úc . Theo trang thông tin và truyền giáo Cao Đài hải ngoại, số tín đồ Cao Đài là khoảng 5 triệu.

Hiện nay

Cùng với chính sách mở cửa của chính quyền Việt Nam , các tôn giáo , trong đó có cả Cao Đài giáo cũng hoạt động dễ dàng hơn. Tòa Thánh Tây Ninh được mở cửa lại cho các hoạt động tôn giáo lớn của sak triệu tín đồ, thậm chí được xem như một điểm di tích tham quan du lịch nổi tiếng của Việt Nam . Từ năm 1995 đến 2011 , chính quyền bắt đầu công nhận các tổ chức tôn giáo Cao Đài như những tổ chức hợp pháp, gồm 9 Hội Thánh Cao Đài, 1 tổ chức giáo hội Cao Đài Việt Nam (Bình Đức), 1 Pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi và 18 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập. Ước tính hiện tại, toàn đạo có khoảng gần 3 triệu tín đồ trong cả nước, sinh hoạt tại 38 tỉnh thành, tập trung chủ yếu ở Nam Bộ . Ngoài ra, có khoảng 30.000 tín đồ nữa sống ở Hoa Kỳ , Canada , Campuchia , Châu Âu Úc .

Đạo thờ Mẫu:

Trong tín ngưỡng của người Việt và của một số dân tộc thiểu số khác ở trên lãnh thổ VN, việc tôn thờ nữ thần, thờ mẫu thần, thờ mẫu tam phủ tứ phủ là hiện tượng khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tât cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, mẫu thần, mẫu tam phủ tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất

Tín ngưỡng thờ Mẫu VN là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh hưởng ngoại lai từ đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ VN đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, sak buộc của xã hội Nho giáo phong kiến

Trong truyện kể dân gian về bà chúa Liễu Hạnh lưu truyền trong dân gian khá phong phú, sau này một số được ghi chép lại trong các sách cổ như Việt điện u linh, ngoài ra còn có các truyện kể dân gian khác về các vị nữ thần được các sách sau này tập hợp và ghi chép lại.

Ngoài các ghi chép-sáng tác như trên, cũng có một nguồn tư liệu khác được dân gian sáng tác từ các huyền thoại, truyền thuyết và thậm chí là các truyện, thơ về các Thánh Mẫu. Đó là các bài hát văn ở Mẫu Tam phủ Tứ phủ với phần cốt lõi của các bài hát văn là lai lịch, sự tích các vị thần, nhất là các Thánh Mẫu. Ngoài ra còn nhiều tình tiết khác về khung cảnh, dung nhan, tướng mạo của các vị thần được những người sáng tác vô danh diễn tả, tô vẻ sak để bảo trì sự tín ngưỡng.

Đạo Dừa:

Ông Đạo Dừa, tên thật là Nguyễn Thành Nam (1909-1990), là người sáng lập Hòa đồng Tôn giáo hay còn được dân gian quen gọi là Đạo Dừa; là một tín ngưỡng tại miền Nam Việt Nam, ở Bến Tre, Việt Nam.

Năm 1950, ông trở lại xã Phước Thạnh dựng đài bát quái cao 14 thước, đêm đêm lên ngồi hành đạo trên đài, choàng một manh áo, chịu đựng mưa nắng. Cuộc sống tu hành đơn sơ, đạm bạc, thức ăn chỉ là trái cây, chủ yếu là dừa (nên mới có biệt danh là Ông Đạo Dừa). Mỗi năm ông chỉ tắm một lần vào ngày Phật Đản.

Năm 1958, ông gửi thư phản đối TT Ngô Đình Diệm về một chính sách nào đó, nên bị bắt giam, sau được thả ra…

Năm 1963, ông Nguyễn Thành Nam đến Cồn Phụng thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xây dựng chùa Nam Quốc Phật’’, và tại đây ông lập ra đạo Dừa. Ông đặt mua một xà lan lớn có sức chứa sak sak tấn, thiết kế làm ba tầng đưa về neo đậu bên một khu đất, trên đó xây dựng một số tháp, đài, nhà khách, vườn hoa…

Ông tự xưng là Thiên nhơn giáo chủ Thích Hòa Bình, tuyên bố theo cả ba tôn giáo là Nho, Phật, Lão. Đạo của ông không cần tụng kinh, gõ mõ mà chỉ cần ngồi tham thiền và ăn chay, tưởng niệm… và khuyến khích người đời sống tôn trọng lễ nghĩa và yêu thương nhau, cư xử hòa mục với nhau. Về thực phẩm, Đạo Dừa khuyên nên ăn dừa và uống nước dừa.

Kinh nghiệm sanh và sống tại Việt Nam các bạn không nên thắc mắc nhiều, khi nghiên cứu đến tôn giáo, tôn giáo là chỗ dựa tinh thần của con người, khi sống thì cầu an, tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ, thoát mọi chướng duyên khi gặp nạn. Đến lúc qua đời thì cũng cầu cho an, siêu sanh về nơi thế giới tịnh hóa, thánh thiện, cao siêu, giải thoát.

Tóm lại, cứu cánh của mỗi đạo, không đạo nào giống đạo nào:

Đạo Phật thì mọi người con Phật cầu về với Phật. Đạo Cao Đài thì nguyện sanh về Tiên cảnh, cảnh Trời cao tột. Đạo Phật giáo Hòa Hảo thì tu cách xử thế, cầu về Tây phương Cực lạc theo lời chỉ dạy của Thầy Huỳnh Phú Sổ. Đạo thờ Mẫu thì cầu an cư lạc nghiệp, về với cõi khoái lạc của Mẫu mẹ. Đạo Dừa thì thờ Phật và Chúa Jésus, cứu cánh của đạo nầy là cầu cho siêu phóng tâm hồn, bá gia bá tánh an cư lạc nghiệp.

Cứu cánh của các đạo thì không cao không thấp, nhưng người lập đạo tùy theo căn cơ cao thấp của chúng sanh mà lập đạo. Đứng về gốc độ chúng sanh thì có cao thấp, nhưng đứng về gốc độ các bậc sáng lập đạo thì vô biên.

Sự tận thiện của hoa lan, không phải là của hoa hường gai, sự tận thiện của hoa hướng không phải là của saka, sự tận thiện của saka không phải là của mimosa…mỗi loài hoa vẻ đẹp tận thiện riêng của từng loài hoa cống hiến cho mọi người từng cái đẹp hiện hữu… đấy cũng chính là sự nhận định đối với các đạo giáo (Đạo đức kinh).

Phạm Vũ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)

Phụ bản I

CẬU BÉ VÔ GIA CƯ

VÀ TẤM BẰNG ĐẠI HỌC HARVARD

Chỉ có một bàn tay với 2 ngón, Sơn đã bắt đầu hành trình của một đứa trẻ vô gia cư không biết đọc biết viết, rồi trở thành sinh viên trường đại học danh tiếng bậc nhất thế giới. Và Sơn hiện là cố vấn cao cấp cao cho Tập đoàn IBM ở Mỹ.

Lớn lên ở công viên

Năm 2006, lần đầu tiên tôi gặp Trần Tôn Trung Sơn khi cậu đang học lớp 7 Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa (TP.HCM), để viết bài về một tấm gương nghị lực tuyệt vời. Ấn tượng đầu tiên của tôi về Sơn là rất lễ phép, ít nói, nhưng đôi mắt thì ánh lên sự ấm áp và thông minh đặc biệt. Cậu còn có vẻ hài hước nữa. Tôi đã chảy nước mắt khi nghe anh Trần Sơn, ba của Sơn kể về những tháng ngày tối tăm của gia đình.

Năm 1992, Trần Tôn Trung Sơn sinh ra trong một gia đình nghèo ở bờ sông Bến Hải (Quảng Trị), mảnh đất hứng chịu chất độc da cam suốt những năm 1960 - 1970. Ba của Sơn là bộ đội từng chiến đấu trên mặt trận Lào. Ngày Sơn ra đời, cả nhà ai cũng buồn vì cánh tay trái ngắn tũn teo lại, không có bàn tay, còn tay phải thì cũng chỉ có 2 ngón. Vợ chồng anh Sơn đau đớn vì biết đây là di chứng của những năm chiến tranh. Càng đau đớn hơn khi dân làng bàn tán vì hình hài khác thường của Trung Sơn. Thương con, vợ chồng anh quyết định rời làng. Thế là giữa đêm khuya, ôm đứa con chỉ mới 20 ngày tuổi, vợ chồng anh Sơn nuốt nước mắt vào lòng, âm thầm lên tàu vào nam với hy vọng mảnh đất này sẽ có nhiều cơ hội để mở ra tương lai cho đứa con không lành lặn.

3 năm đầu tiên, “nhà” của Sơn là công viên Tao Đàn, “giường” chính là tấm chiếu trải xuống đất. Ba mẹ Sơn ban ngày gửi Sơn tại làng Hòa Bình (Bệnh viện Từ Dũ) để đi làm thuê, đi học nghề, đêm cả nhà lại về công viên ngủ. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, vợ chồng anh Trần Sơn vẫn ngày đêm không nguôi giấc mơ nuôi con ăn học nên người.

Khi Trung Sơn lên 7 tuổi, ba mẹ mới dành dụm đủ tiền để thuê một phòng trọ nhỏ. Hành trình đi xin học cho con lúc bấy giờ của anh Sơn khổ cực trăm bề. Không trường học nào chịu nhận một đứa trẻ tật nguyền. Nhưng sau đó, ánh mắt vừa hy vọng vừa đau đớn của anh Sơn đã làm cô Hiệu trưởng Trường tiểu học dân lập Vạn Hạnh xúc động, nhận Sơn vào học. Trường cách nhà trọ 20 km, anh Sơn phải xin làm ở một chỗ mới gần trường để giúp con. Hết giờ học ở trường, ba lại chở Sơn đến nhà một cô giáo dạy trẻ khuyết tật cách trường 15 km để học viết chữ. Hôm nào cũng vậy, 9 giờ đêm hai cha con mới về tới phòng trọ.

Điều kỳ diệu là càng lớn Sơn càng thông minh và nghị lực. Những tháng ngày nhìn con tập viết bằng 2 ngón tay vô cùng đau đớn, ba của Sơn đau nhói lòng nhưng vẫn thủ thỉ động viên con... Sơn nhận thức được tình yêu vĩ đại của cha mẹ, nên đã không phụ lòng. Năm lớp 5, Sơn là học sinh giỏi cấp thành phố môn toán và tiếng Việt, là một trong 5 học sinh giỏi nhất Q.Tân Bình, thủ khoa đầu vào Trường Nguyễn Gia Thiều, thủ khoa khi thi vào lớp chuyên Anh Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa. Lên THPT, Sơn đậu vào Trường phổ thông Năng khiếu (ĐH Quốc gia TP.HCM) và liên tục là học sinh xuất sắc của trường.

Người khiến các giáo sư Đại học Harvard bật khóc

Sau đúng 10 năm, năm 2016, tôi bất ngờ khi nhận được điện thoại của anh Trần Sơn. Anh nói như reo: “Trung Sơn đã tốt nghiệp ĐH Harvard và trở thành cố vấn của IBM rồi cô!”, khiến tôi nghẹn ngào.

Gặp lại tôi, anh Trần Sơn kể, sau khi học xong lớp 11 Trường phổ thông Năng khiếu TP.HCM, năm 2010, Sơn nhận được học bổng 2 năm lớp 11 và 12 tại Trường trung học Fairmont (Mỹ). Sơn cũng tham gia rất nhiều hoạt động thiện nguyện tại châu Phi, dạy học cho trẻ em nghèo, gây quỹ giúp đỡ người vô gia cư...

Anh Trần Sơn đưa tôi xem rất nhiều thứ, trong đó có bức thư khen của Tổng thống Obama và những bài luận của Trung Sơn khi nộp đơn vào ĐH Harvard.

Đó là bài luận bằng tiếng Anh của cậu bé bị chất độc da cam cướp đi sự lành lặn của đôi tay, tựa đề Nhìn đời qua bàn tay, có đoạn: “Khi còn là đứa trẻ, bàn tay này đã víu chặt mặt đất để giúp tôi cân bằng. Nó đã nắm chặt lại để giúp tôi có những cú đấm mạnh nhất khi chơi võ. Nó bám chặt vào thành chiếc xe đạp đua 4 bánh của tôi. Khi lớn lên, bàn tay này đã chịu đau đớn viết nên những con số, những nét chữ cho đến khi tôi có thể viết nên bài luận đầu tiên của mình về mẹ. Sau này, nó đã cầm bút để diễn tả những ý nghĩ tôi có trong đầu và giúp tôi giải những bài toán khó. Bàn tay duy nhất này đã từng tháo rời chiếc xe đạp của bố tôi ra để xem nó hoạt động thế nào, giúp tôi xoay tròn chiếc thước lên không trung giống như các nhà sư Thiếu Lâm, hay thích thú vẽ nên những bức tranh người que. Nó đã cầm viên phấn khi tôi dạy toán cho trẻ em nghèo, gõ lên bàn phím khi tôi làm việc cho một công ty máy tính trong kỳ nghỉ hè, và nắm lấy tay của bất cứ ai tôi gặp”...

Đọc xong bài luận, các giáo sư của ĐH Harvard đã bật khóc trước chàng trai nhỏ bé có nghị lực phi thường. Cùng với thành tích học tập và các hoạt động đáng nể trong quá trình học trung học của Sơn, năm 2011, Trường ĐH Harvard đã đón Sơn bằng học bổng toàn phần ngành công nghệ thông tin.

Trong một bài luận khác có tựa Hành trình của tôi, Sơn viết: “Những chiếc ghế công viên đã trở thành ngôi nhà mới của chúng tôi, nơi hành trình của tôi bắt đầu. Bố tôi làm việc cả ngày trong nhà hàng, trên lưng vừa cõng tôi vừa rửa bát đĩa và lau chùi nhà vệ sinh. Đêm đến, hai cha con tôi ngủ trên bất kỳ chiếc ghế nào tìm thấy. Để giữ ấm cho tôi, bố tôi cởi áo trải lên ghế và ôm chặt lấy tôi... Trong 3 năm, bố tôi chưa một đêm ngủ yên. Trong 3 năm đó, ông đã không ngừng từ bỏ hy vọng sẽ tìm ra cuộc sống tốt hơn cho tôi”.


Trở thành cố vấn của IBM

Năm 2016, trước khi tốt nghiệp ĐH Harvard, Sơn nộp hồ sơ vào Tập đoàn IBM. Vượt qua hàng ngàn ứng viên, Sơn đã được chọn để thể hiện khả năng của mình. Trong 2 ngày, Sơn phải chứng minh thực tài trước 4 hội đồng qua các bài thuyết trình, kiểm tra trình độ chuyên môn và hoạt động khác với các yêu cầu khắt khe. Cuối cùng, Sơn là một trong 8 ứng viên được nhận vào Tập đoàn IBM với vai trò cố vấn.

Trong lần gặp lại anh Trần Sơn vào năm 2016, anh kết nối với con trai qua điện thoại. Sau khi được ba giới thiệu có tôi, người từng viết bài về Sơn cách đây hơn chục năm, đang ngồi cùng, Sơn lập tức lễ phép “con chào cô” và trò chuyện cùng tôi. Trong giây lát, hình ảnh cậu bé với đôi mắt thông minh và ấm áp vụt trở về. Và rồi chớp mắt một cái, cậu bé đã trở thành một Trần Tôn Trung Sơn chững chạc, trưởng thành đã thực hiện trọn vẹn giấc mơ của ba mẹ dưới vòm trời công viên năm nào. Tất cả đều được làm nên từ một đôi bàn tay khuyết thiếu ấy!

Mới đây nhất, trong tháng 12.2017, nhờ xuất sắc trong công việc, Sơn được Tập đoàn IBM thăng chức, trở thành quản lý vùng, làm việc tại Atlanta, bang Georgia (Mỹ).

Hầu như hằng ngày, Sơn đều gọi điện về thăm ba mẹ. Sơn cho biết cậu nhớ mãi những lời thủ thỉ của ba ngày xưa: “Bàn tay con có thể viết chữ, làm văn, giải toán, có thể ôm ba mẹ, có thể chơi võ và bơi… Nghĩa là con không có gì khác thường với bạn bè cả. Con hãy sống chân thành, vui vẻ, bạn bè sẽ hiểu và đón nhận con”. Sơn đã học tập, lớn khôn và được đón nhận bằng chính ý chí, niềm tin và nghị lực mà ba đã truyền cho Sơn, theo cái cách rất riêng đó của ba!

Thật vui mừng khi em trai của Sơn, Trần Tôn Đại Nghĩa cũng đang học lớp 11 tại Mỹ. Đại Nghĩa cũng thông minh, học giỏi và sắp tới có ý định nộp hồ sơ vào Đại học Harvard như anh trai mình.

Mỹ Quyên - Lệ Ngọc st.


NHỮNG MẨU TRUYỆN NGẮN

ĐÀN VỊT TRỜI

Vào những mùa đông, chúng ta thường thấy hàng đàn vịt trời bay thành hình chữ V, bay hàng trăm dặm từ Bắc xuống Nam để tìm nơi ấm cúng.

Các nhà khoa học đã khám phá rằng những đàn vịt trời đó có những quy luật di chuyển rất đáng cho chúng ta suy gẫm về tinh thần đoàn thể.

1. Mỗi khi con vịt vẫy cánh bay, chúng sẽ tạo ra một luồng gió quyện và tạo ra một hấp lực nâng con vịt bay bên cạnh. Như vậy, khi chúng bay theo đội hình chữ V thì con nọ nương vào hấp lực của con kia, chúng có thể bay nhẹ nhàng hơn và tăng khả năng bay xa hơn gần gấp đôi.

Con người ta cũng vậy, nếu những người có cùng một chí hướng mà biết cách hợp quần thành những đoàn thể hay cộng đồng để nương tựa nhau thì dễ đạt được những mục đích cao cả hơn.

2. Khi một con vịt bị xa rời khỏi đội hình thì nó sẽ cảm thấy bị đuối sức vì phải tự lực nên nó lại phải cố gắng bay vào trong đội hình để nương tựa vào hấp lực của những con vịt bay trước.

3. Riêng con vịt bay đầu đàn là không được hưởng hấp lực của bạn đồng hành nên nó rất chóng mỏi mệt. Khi nó mệt thì nó sẽ bay xuống nương vào đội hình và sẽ có con vịt khoẻ mạnh khác bay vào vị trí dẫn đầu. Cứ như vậy, thay đổi trong suốt ngày bay.

4. Trong khi bay, chúng thường lên tiếng kêu quác quác để thúc dục nhau bay theo kịp một tốc độ.

5. Khi một con vịt bị đau hay bị bắn trọng thương phải rời khỏi đội hình thì sẽ có hai con vịt đồng hành rời theo để nâng đỡ và bảo vệ. Hai con đó ở bên cạnh con vịt yếu kém cho đến khi tự bay đuợc hoăc bị rớt chết thì chúng mới bỏ bay theo đoàn vịt khác.

TIẾNG VANG

Hai cha con nọ đang đi men theo triền núi. Bỗng người con trai nhỏ trượt chân và ngã, em la lớn lên “Ối chao!”. Em lấy làm ngạc nhiên khi thấy ở miền núi xa có tiếng ai nhái lại “Ối chao!”.

Em tò mò la lên “Ngươi là ai?” thì em nhận lại tiếng nhái lại “Ngươi là ai?” Tức giận quá, em quát lên: “Quân đốn mạt!” thì em lại nghe tiếng nhái lại: “Quân đốn mạt!”.
Em nhìn người cha và hỏi “Thế là thế nào hở cha?”

Người cha mỉm cười và nói: “Này con hãy xem đây”.
Nói rồi, ông nói lớn lên: “Anh hay quá!” thì nghe tiếng trả lời “Anh hay quá!”. Rồi ông lại la lên: “Anh tuyệt vời quá!” thì cũng nghe tiếng trả lời “Anh tuyệt vời quá! ”

Người con ngạc nhiên nhưng cũng vẫn chưa hiểu. Người cha ôn tồn giảng: “Đó là tiếng vang con ạ! Khi có những khoảng trống rộng rãi như ta có trước mặt đây thì các tiếng động lớn hay tiếng nói lớn nó sẽ dội lại như vậy.

Con nói những lời tức giận thì nó sẽ dội lại những lời tức giận, cha nói những lời đẹp đẽ thì nó sẽ dội lại những lời đẹp đẽ!

Ở đời cũng vậy! đời là sự dội lại của các hành động của ta. Khi tâm ta có lòng từ bi thì chúng ta sẽ nhận lại sự yêu thương. Khi ta hành động những điều xấu thì nỗi bất hạnh sẽ lại xảy đến cho chúng ta.”

TUY XA MÀ GẦN

Có một vị hiền triết đã hỏi các đệ tử rằng: “Tại sao trong cơn giận dữ người ta thường phải hét thật to vào mặt nhau ?”

Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử ấy đã trả lời: “Bởi vì người ta mất bình tĩnh, mất tự chủ!”

Vị hiền triết không đồng ý với câu trả lời, ngài bảo: “Nhưng tại sao phải hét lên trong khi cả hai đang ở cạnh nhau, tại sao không thể nói với một âm thanh vừa phải đủ nghe ?”

Các đệ tử lại phải ngẫm nghĩ để trả lời nhưng không có câu giải thích nào khiến vị thầy của họ hài lòng.

Sau cùng ông bảo:

“Khi hai người đang giận nhau thì trái tim của họ đã không còn ở gần nhau nữa. Từ trong thâm tâm họ cảm thấy giữa họ và người kia có một khoảng cách rất xa, nên muốn nói cho nhau nghe thì họ phải dùng hết sức bình sinh để nói thật to. Sự giận dữ càng lớn thì khoảng cách càng xa, họ càng phải nói to hơn để tiếng nói của họ bao trùm khoảng cách ấy.”

Ngưng một chút, ngài lại hỏi:

“Còn khi hai người bắt đầu yêu nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao? Bởi vì trái tim của họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất nhỏ…” Rồi ngài lại tiếp tục: “Khi hai người ấy đã yêu nhau thật đậm đà thì họ không nói nữa, họ chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau bằng tình yêu của họ. Cuối cùng ngay cả thì thầm cũng không cần thiết nữa, họ chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, thế thôi! Vì qua ánh mắt đó họ đã biết đối phương nghĩ gì, muốn gì..”

Ngài kết luận:“Khi các con bàn cãi với nhau về một vấn đề, phải giữ trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau… Nếu không thì có một ngày khoảng cách ấy càng lúc càng rộng, càng xa thì các con sẽ không còn tìm ra được đường quay trở về !”

TẠM THỜI (VÔ THƯỜNG)

Một vị thầy tâm linh nổi tiếng đến trước cửa lâu đài của vị vua nọ. Vì Thầy nổi tiếng rồi nên các người lính canh không ai chặn ông lại khi ông đi vào và tiến thẳng đến trước mặt nhà vua đang ngồi trên ngai vàng.

- Ông muốn gì? - nhà vua hỏi.

- Tôi muốn có một chỗ để ngủ trong cái quán trọ này, ông ta đáp.

- Nhưng đây không phải là quán trọ, đây là tòa lâu đài của ta, Vua trả lời.

- Xin hỏi bệ hạ rằng ai là sở hữu tòa lâu đài này trước bệ hạ?

- Vua cha ta, Ngài đã chết rồi.

- Và ai là sở hữu trước cha của bệ hạ?

- Ông nội của ta, Ngài cũng đã chết.

- Và cái chỗ này, nơi mà người ta sống một thời gian ngắn rồi dọn đi.

Như vậy thì nó không phải là một quán trọ mà bệ hạ đang ở đó hay sao? ° ° °

Sớm hay muộn gì tất cả chúng ta đều phải dọn đi, kể cả đời này và nhiều đời sau nữa! Không có gì trong cuộc đời này là thường hằng, mọi thứ trên đời này đều vô thường.

AN HƯỞNG CUỘC ĐỜI

Ngày xưa, có vị Hoàng Đế nọ muốn ban trọng ân cho một người cận thần.

Nhà vua phán: "Ngươi có công lao rất lớn với ta. Kể từ cổng thành trở đi, ngươi phóng ngựa đi tới nơi nào ngươi dừng lại thì khoảng đất đó ta sẽ ban cho ngươi". Viên cận thần nhảy lên ngựa phóng đi, ra sức phóng ngựa để có được càng nhiều đất càng tốt. Người đó đi suốt ngày đêm, khi mệt và đói cũng không dám ngừng nghỉ vì muốn có nhiều đất.

Tới một ngày kia, sức khoẻ kiệt quệ vì đói và mệt, hắn lả đi gần chết ở trong rừng.

Hắn lẩm bẩm : "Tại sao ta tham lam quá độ vậy, ta tận sức để có được nhiều đất đai. Bây giờ thì gần chết rồi ta chỉ mong có được một thước đất để được chôn cất mà thôi!"

Hàng ngày, chúng ta gắng sức làm việc để mong có tiền tài, danh vọng và quyền thế. Chúng ta tận sức tới mức xao lãng sức khoẻ, đôi khi quên cả cuộc sống với gia đình, quên cả những cảnh đẹp thiên nhiên. Hãy sống tỉnh thức, an hưởng cái đẹp của thiên nhiên, tìm ra lẽ sống của cuộc đời.

Đào Minh Diệu Xuân st.

VÀI CHUYỆN ĐÁNG SUY GẪM

Chịu phạt thay

Tại một lớp học trong ngôi làng nhỏ ở Nam Phi. Nhiều giáo viên da trắng tình nguyện đến dạy đều không chịu đựng nổi những học sinh bản xứ ngỗ nghịch còn man rợ. Chỉ trong ít tuần, họ đã bỏ dạy và ra đi, lớp học giải tán. Ngày nọ, cô giáo Sandina tình nguyện đến đây. Cô thăm hết các gia đình trong làng trước khi khai giảng lớp học. Có rất đông học sinh đến lớp, chúng yêu mến cô vì cô có vẻ dễ chịu hơn những thầy giáo trước đây. Ngày đầu tiên, cô viết trên bảng những tội thường xảy ra và quy định hình phạt kèm theo, như: Chọc bạn: 10 roi khẽ tay; Đánh nhau: 15 roi; Ăn cắp: 20 roi, v.v... Rồi bảo học sinh cam kết phải làm đúng các quy định ấy. Cả lớp đồng tình.

Ngay ngày đầu, các trò tố giác một bạn ăn cắp bánh mì. Khi bị gọi lên đứng, Jastun nghênh ngang không sợ ai cả. Nó đưa tay ra sẵn sàng chịu 20 roi. Lúc ấy, thay vì cầm roi đánh nó, Sandina đưa roi cho nó và bảo: “Vì cô là cô giáo mà không dạy được các em, cô sẽ chịu hình phạt thay em.” – Jastun hoàn toàn bất ngờ, thái độ nó thay đổi lập tức, cả lớp xầm xì kinh ngạc. Cô giáo đưa tay ngửa ra trên bàn và bắt buộc nó phải đánh. Jastun quất thật nhẹ, cô bắt phải quất mạnh lên, được vài roi, nó oà khóc rồi chạy ra khỏi lớp, cả lớp đều khóc, cô Sandina cũng khóc.

Ngày hôm sau, Jastun trở lại lớp, xin lỗi cô. Một không khí hoàn toàn khác với những lớp học trước đó. Mọi người yêu thương nhau. Những kẻ cứng đầu nhất cũng đã sửa đổi. Một đứa trẻ chỉ thấy sự trừng phạt mà không thấy tình thương trong cách giáo dục, sẽ trở nên ngang ngược hơn.

Cùng Suy ngẫm: "Người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bệnh.”

Thế giới ảo

Một hôm, cảm thấy đói bụng tôi bước vào một tiệm ăn.

Tôi chọn một góc kín đáo để có thể làm việc một mình.

Trong khi chờ đợi người phục vụ mang thức ăn, tôi lấy máy tính xách tay ra làm việc, bỗng tôi nghe sau lưng một tiếng nói:

- Chú ơi, cho cháu xin hai ngàn.

- Không có tiền lẻ, đi đi.

- Cháu chỉ xin hai ngàn để đủ mua chút cơm thôi mà...

Tôi làm thinh và chăm chú vào máy tính để mở hộp thơ .

- Chú ơi, chú nói họ xịt tí nước mắm vào cơm cho cháu nhé.

Tôi nhận ra thằng nhóc vẫn đứng đó.

Người phục vụ đem đĩa thức ăn đến cho tôi, tôi bảo anh cho thằng nhóc một phần cơm và thêm tí rau xào.

Anh hỏi tôi sau đó có muốn đuổi nó ra khỏi tiệm không, lương tâm tôi bảo không, nên cuối cùng tôi nói:

- Anh cứ để thằng nhóc ở lại và dọn lên cho nó món gì ngon hơn đi.

Lúc đó, thằng nhóc mới ngồi vào ghế trước mặt tôi và hỏi:

- Chú ơi, chú đang làm gì vậy?

- Đọc điện thư.

- Điện thư là gì hả chú ?

- Là thư mà người ta gửi qua mạng .

Tôi biết thằng nhóc không hiểu gì, nhưng vì không muốn nghe hỏi thêm, tôi nói tiếp :

- Thì cũng như là thư thường thôi, nhưng gửi qua mạng.

- Mà mạng là gì hả chú?

- Thì là một nơi trong máy tính người ta có thể nghe nhạc, nghiên cứu, đọc tin tức, học hỏi, làm việc, và làm rất nhiều thứ khác nữa, nhưng là trong thế giới ảo.

- Ảo là gì hả chú?

- Ảo nghĩa là cái mình tưởng tượng ra, là cái mình không thể sờ mó được, là nơi trong đó mình có thể tạo ra nhiều thứ theo sở thích riêng, và là nơi mình có thể biến đổi thế giới theo như mơ ước.

- Ôi, thích quá, cháu cũng đang sống trong thế giới ảo mà.

- Cháu cũng có máy tính sao?

- Dạ không, nhưng cái gì cháu đang sống cũng giống như thế giới ảo vậy... Mẹ cháu lang thang ngoài phố cả ngày, tối mẹ về trễ lắm, nên nhiều khi cháu chẳng gặp mẹ nữa... Còn cháu ở nhà lo cho em cháu, nó đói nên khóc hoài. Cháu cho nó uống nước lã cho đỡ đói, mà nó cứ tưởng là canh... Bố cháu thì đi tù lâu rồi... Nhưng cháu cứ tưởng tượng đến
ngày Tết gia đình mình được sum họp, mọi người ăn uống thỏa thuê, anh em cháu có quần áo mới và nhiều tiền lì xì, rồi cháu được đi học để sau này trở thành bác sĩ giỏi nữa... Có phải như thế là ảo không hả chú?

Tôi đã đóng kịp máy để những giọt nước mắt không rơi xuống bàn phím.

Tôi chờ cho thằng nhóc ăn xong, trả tiền, rồi để lại cho nó số tiền còn lại. Nó toét miệng cười như để thưởng lại tôi. Cả đời tôi chưa bao giờ nhận được một nụ cười tươi đến thế.

Câu chuyện này cho thấy hằng ngày chúng ta vẫn đang sống trong một thế giới ảo điên rồ, dù chung quanh là thực tế tàn nhẫn, chúng ta vẫn làm như không thấy gì...

Trời động lòng vì người hiếu hạnh

Mưa to như trút nước, cả trời đất trắng xóa rồi xám xịt một màu.... Người chồng bỗng bật dậy, tim đập thình thịch. Ông vội đốt ngọn đèn, lay lay vợ mình đang ngủ bên cạnh. Người vợ trở mình ngồi dậy, nói:

"Sao thế...? Nước vào nhà à....?".

"Tôi lo cho bố mẹ...!"

"Ông nói cái gì thế ? Bố mẹ không phải đang ở nhà của họ à? Nếu có sập, thì sập nhà mình, còn chỗ bố mẹ, vững chãi lắm...! " "Vững thì vững chứ, nhưng bên ấy địa hình thấp, nếu chẳng may nước vào, thì cũng chẳng phải chuyện đùa đâu…!" "Trước nhà có đê, sau lại có kênh, làm sao nước vào được? Ngủ đi !

"Mưa vẫn to như trút nước. Người chồng lại bật dậy, tim đập thình thịch. Lần này, người vợ không bị lay cũng tự ngồi dậy. "Ông rốt cuộc là bị làm sao? Còn có để cho người khác ngủ không...?"

"Tôi vẫn cứ không yên tâm, bố mẹ cũng đều đã già rồi, nếu nước vào nhà thì có chạy cũng chẳng chạy nổi…"

"Nếu không thì ông qua đó xem xem sao...?" "Ừ, để tôi qua xem sao....!" Nói rồi, người chồng mặc quần áo, đi ra ngoài.

"Ông định để tôi ở nhà một mình à? Đợi chút, tôi cũng đi...!"

Mặc áo mưa, tay cầm đèn pin, hai vợ chồng đẩy cửa, bước vào trong màn mưa... Ầm...! Sấm nổ vang trời. Mưa to như trút nước, tưởng như trên trời có bao nhiêu nước, Trời trút xuống trần gian hét. Mưa như điên cuồng, mưa thối đất, thối cát. Hết chập này sang chập khác... Cả trời đất tối dầm lại, không hiểu chuyện gì mà "Ông như đang khóc hay cuồng nộ, giận dữ điều gì...?"

Hai vợ chồng vội vã đi đến trước cửa nhà, mọi thứ vẫn bình yên như cũ. Người vợ nói: "Thế nào? Tôi đã nói không sao mà ông cứ không tin. Giờ thì yên tâm rồi chứ...!".

Hai vợ chồng lại thở phào, lận đật quay về đường cũ. Vừa đến trước cổng nhà, cảnh tượng trước mắt khiến cả hai kinh ngạc sững sờ....!

*Nhà họ đã bị sập. Nếu như ở trong đó, có lẽ họ đã gặp đại nạn rồi...!

Bầu trời loé lên vài tí chớp, sáng ngoằn ngoè, giống như đang cười...!

Chắc có lẽ..., Trời động lòng vì lòng hiếu tử của người đàn ông hiếu hạnh...!

*Trời vẫn còn đang mưa…!*

Ngẫm đời nay và chợt nhớ về Tào Tháo Tào Tháo: Gian hùng cả đời nhưng không thoát 8 chữ "Kính vợ đắc thọ, nể vợ sống lâu!"Càng có thiên hạ trong tay, quyền lực to lớn, càng phải biết trân trọng và bảo vệ những người ở bên như Tào Tháo từng làm.

Trong Tam Quốc, nếu nói đến ai là người khó đánh giá nhất thì không thể bỏ qua nhân vật Tào Tháo - vị đại tài của thịnh thế, gian hùng của loạn thế do các nhà phê bình kỳ cựu thừa nhận.

Người đời gọi ông hai tiếng "gian hùng" được chia thành 2 nghĩa: "Gian" của gian trá, và "Hùng" của anh hùng. Sự kết hợp hoàn hảo của hai từ tưởng chừng trái ngược nhau lại miêu tả trọn vẹn và đầy đủ nhất về tính cách con người của Tào Tháo.

Muốn nhận xét, trước hết phải thấu tỏ. Đặt vào bối cảnh cuối thời Đông Hán lúc bấy giờ, quần hùng tranh đấu, các thế lực quân phiệt nổi lên khắp nơi. Nếu không thể biến thành mãnh thú thì chỉ có thể chờ người khác tới "làm thịt", đây chính là đạo lý sống còn trong mỗi cuộc chiến tranh.

Mạng sống còn khó giữ, lấy đâu ra gốc rễ để yên phận trung thành? Chính vì thế, để bảo đảm và không ngừng khuếch trương quyền lợi của mình, việc Tào Tháo trở thành gian hùng là điều không khó lý giải.

Cho dù nguyên nhân và kết quả cuối cùng ra sao, những hành động xấu của Thái tổ Vũ Hoàng đế này cũng không thể tẩy sạch. Thế nhưng, không vì những điểm tối mà chúng ta bỏ quên những điểm sáng trong con người ông. Đó chính là bản lĩnh chính trị và quân sự kiệt xuất, là biệt tài dùng người và trọng người, cũng là một người chủ gia đình có tâm, có tình, biết chăm lo cho thê tử.

Nhận xét về tình cảm của Tào Tháo, có người đã dùng 7 chữ sau: "Đa tình, thâm tình, cũng trường tình."

Người ta có câu: "Anh hùng khó qua ải mỹ nhân". Tào Tháo cũng vậy, ông nổi danh là một người phong lưu, yêu giang sơn và yêu cả mỹ nhân. Nhưng người đẹp lọt vào mắt ông chiếm số lượng lớn, bản tính đa tình. Khi thu phục tướng lĩnh đối địch Trương Tú, Tào Tháo thấy thím của vị này là Châu thị có nhan sắc hơn người nên cưỡng ép đòi "thu nhận", khiến Trương Tú vừa hàng lại phản, dẫn binh đòi truy sát Tào Tháo. Chính vì bản tính đa tình lần này, Tào Tháo buộc phải để con trai trưởng Tào Ngang yểm trợ phía sau, cuối cùng chết dưới gươm đao. Thê tử lúc đó của Tào Tháo là Đinh phu nhân đau khổ và giận dữ không thôi, dọn đồ bỏ về nhà mẹ đẻ.

Tào Tháo bỏ hết mặt mũi và kiêu ngạo, ba lần bốn lượt tới nhà bà hối lỗi, mong được tha thứ để đón vợ về nhưng do nản lòng thoái chí, đánh mất đứa con nuôi yêu thương, Đinh phu nhân kiên quyết từ chối, cho rằng tình cảm đã cạn, nên dừng lại ở đây. Nghe vậy, Tào Tháo không hề tức tối mà đến gặp bố vợ để xin phép, nếu sau này Đinh phu nhân có tìm được người nào tâm đầu ý hợp khác, hãy cứ cho phép, không cần bận tâm đến ông. Sau đó một thời gian, Biện phu nhân được Tào Tháo đưa lên vị trí thê tử. Tuy xuất thân nghèo nàn nhưng bà là người hiểu đại nghĩa, hiền lương thục đức nên rất được Tào Tháo tôn trọng.

Có một lần nghe tin Biện phu nhân rất thèm mận xanh của quê hương, ông ta lập tức cử người tới Sơn Đông lấy giống về trồng ngay trong hậu viện nhà mình. Đến ngày cây mơ chín tỏa hương gần xa, Biện phu nhân vô cùng cảm động. Có thể thấy rằng, ở trên chiến trường, Tào Tháo có thể là một gian hùng giết người không chớp mắt, nhưng khi trở về gia đình, ông chỉ là một người chồng bình thường, tuy đa tình nhưng cũng rất thâm tình.

Đến tận trước khi lâm chung, ngoài vấn đề quốc gia, quân cơ đại sự, Tào Tháo vẫn không quên sắp xếp hợp lý cho gia đình: "Mấy người phụ nữ của ta cả đời vất vả, sau khi ta chết, cho họ ở lại đài Đồng Tước, không được ngược đãi, phải phân phát hương quí cho họ, để tránh lãng phí, dạy họ đan giày cỏ để kiếm thêm ít tiền..."

Có một số sách còn ghi lại rằng, Tào Tháo dặn thêm: "Mồng 1 và ngày rằm hàng tháng, nhớ hướng về lăng mộ của ta để nhảy múa để ta nhìn ngắm các nàng."

Không còn âm mưu quỷ kế, không còn toan tính thiệt hơn, những lời nói cuối cùng của Tào Tháo không giống Ngụy Vương nắm trong tay giang sơn mà chỉ là một người cha già, phó thác hậu sự cho vợ con sau này. Đằng sau cả cuộc đời gian hùng, người ta mới được chứng kiến một mặt tình cảm dịu dàng của ông. Nhiều người cho rằng, hành động này của Tào Tháo làm mất bản sắc anh hùng, vướng bận nhi nữ tình trường quá mức. Nhưng bản sắc anh hùng làm sao bằng bản chất con người, bằng tình cảm trân trọng trong lúc sinh tử biệt ly. Có cả thiên hạ trong tay, quyền lực to lớn đến mấy thì bảo vệ, trân trọng những người bên cạnh mình chính là điều cơ bản nhất.

Nghịch lý

Một Thiên Thần sau khi hết sứ mạng ở trần gian được trở lại thiên đàng. Thượng Đế hỏi Thiên Thần nhận xét về con người và cuộc sống của người Việt như thế nào.

Thiên Thần lúng túng thưa: “Ôi chao, Kính thưa Thượng Đế, Con người Việt vô cùng kỳ quái!”

Thượng Đế : Tại sao họ lại kỳ quái?

Thiên Thần bẩm: “Họ kỳ quái vì họ sống với vô vàn nghịch lý. Con xin đơn cử vài điều:”

Khi không có tiền, họ ăn rau rừng nấu ở nhà; Khi có tiền, họ cũng ăn những thứ rau rừng ấy nhưng phải tốn nhiều tiền ở nhà hàng sang trọng.

Khi không có tiền, họ đi xe đạp; Khi tiền bạc rủng rỉnh, họ cũng lại đạp cái thứ xe đạp tập thể dục

Khi không có tiền, họ phải đi bộ cả ngày kiếm cơm; Khi có khá tiền, họ cũng phải đi bộ để giảm béo Ôi con người, họ có bao giờ không dối lừa ngay cả với bản thân?!

Khi không tiền, họ khao khát được kết hôn; Khi có tiền, họ lại ước muốn được ly dị người đã đồng cam cộng khổ thuở họ còn hàn vi.

Khi không tiền, vợ họ thành thư ký; người giúp việc nhà… Khi có tiền, thư ký của họ được biến thành vợ hai, vợ ba, để theo họ đi du hý.

Khi không tiền, họ thích chơi sang như người giàu có; Khi có tiền lại vào hang động ăn chay giả vờ sống như kẻ nghèo rớt mồng tơi.

Ôi con người! Họ chẳng bao giờ nói ra lời thật, đơn giản;

Họ nói chơi cổ phiếu là không tốt, nhưng rất say mê đầu tư chứng khoán.

Họ nói tiền bạc là tai họa, nhưng cứ lao khổ tích lũy cho nhiều.

Họ nói địa vị cao thật cô đơn, nhưng luôn thèm muốn chức quyền, và lo lót khối tiền chạy chức.

Họ nói cờ bạc, rượu chè, trai gái có hại, nhưng cứ mê man với những thứ đó.

Ôi chao con người! Họ chẳng bao giờ hiểu thấu đáo những gì họ nói và không bao giờ nói ra những gì họ muốn nói.

Thượng Đế mỉm cười phán: “Thế mới là Con người đầy mâu thuẫn và dục vọng! Thiên thần thật không may chỉ gặp những Con người như thế vốn đầy dẫy trên đất Việt. Lần sau ta mong thiên thần lưu tâm là đất Việt còn có những con người biết chế ngự những hành vi nghịch lý này, đã biết tri túc và sống cuộc đời của CON NGƯỜI đúng nghĩa.”

Hà Mạnh Đoàn và Hoàng Chúc st.

Phụ bản II

ĐỢI CHỜ

Có những đợi chờ được đền bồi trong phút chốc

Có những đợi chờ dằng dặc những tháng năm

Mỗi cuộc đời luôn có những đợi chờ tiếp nối

Từ những non tơ cho đến lúc trưởng thành

*

Đợi chờ nào rốt rồi cũng phải đến kết cuộc

Mỹ mãn tươi vui hay tức tưởi nghẹn ngào

Có ra sao thì đợi chờ luôn là một sợi dài xuyên suốt

Đôi lúc đợi chờ như một đỉnh dốc cheo leo

*

Sẽ là vui nhất với những đợi chờ trong ấm áp

Sẽ là hay hơn khi đợi chờ với niềm tinh tấn trong tim

Sẽ đẹp biết bao khi đợi chờ những cành khô trổ nụ

Và hạnh phúc bởi đợi chờ say đắm những yêu thương

*

Khi phải đợi chờ thời gian ngỡ dài vô tận

Khi được đắp đền bỗng sáng lòng sáng dạ sáng mênh mang

Dù muốn dù không ai cũng phải đợi chờ đâu đó

Để cuộc đời được nếm trải những say mê

Đàm Lan


Quê Mùa

Sông hồ lãng mạn phía trời xa

Dãi nắng dầm mưa chợt nhớ nhà

Giã bạn xuôi con đò miệt thứ

Về đồng kịp nước lũ phù sa

Từng thu ngọn chướng qua miền hạ

Chút lộc thiên nhiên thưởng món quà

Nở tím tưng bừng bông súng dại

Bao lần lỗi hẹn áo bà ba

13/06/2021 Ngụy Kỳ Nam

Mùa Nước Nổi

Theo dòng lũ cuốn hạt phù sa

Nước nổi miền Tây đẹp nõn nà

Phủ kín tươi non bờ lạch trũng

Tràn đầy rực rỡ cánh đồng xa

Lung linh gió thổi nền thơ mộng

Lãng đãng mây trôi cảnh điệu đà

Quá đã dzô mùa xanh súng dại

Chiều vàng đỏ tím đậm rừng hoa.

17/06/2021 Ngụy Kỳ Nam

Tiếng gọi quê hương

Còn đâu cá lội ven dòng suối

Lửa đạn tơi bời ngay trước mũi

Lũ giặc cuồng điên pháo đỏ trời

Binh đoàn thiện chiến đường mù bụi

Theo đã giải phóng Battambang

Bám trụ truy lùng bao đỉnh núi

Mặt trận đâm sườn đất Thái Lan

Tàn quân tán loạn già non tuổi.

12/10/2020, Ngụy Kỳ Nam

Lính tình nguyện Việt Nam

Một thuở tung hoành trong lửa đạn

Angkor Wat khúc ca hùng tráng

Căm hờn cháy bỏng tuổi thanh xuân

Lặng lẽ gan lì tầm ngoại hạng

Dũng cảm khôn ngoan khuất giặc thù

Oai hùng ác liệt muôn năm tháng

Đâu màng kỷ niệm tấm huân chương

Hạ cánh làng quê đầy lãng mạn.

01/11/2020, Ngụy Kỳ Nam

(Kỷ niệm đồng đội đánh trận chiến trường
giải phóng Campuchia 07/01/1979)

Thụy Miên

Chìm vào giấc mộng hoàng hoa

Con tim bé nhỏ mù lòa ngẩn ngơ

Lục bình tím lịm trời thơ

Xuôi tay phó mặc ước mơ không thành

Mỏi mòn nỗi nhớ mong manh

Niềm tin gãy vụn năm canh muộn phiền

Vẫn đam mê suối tóc huyền

Nét mi hạ giới - lâm tuyền chênh vênh

Nẻo xa mây trắng bồng bềnh

Sáo diều réo rắt hồn thênh thang buồn

Chơi vơi thác lũ mưa nguồn

Mảnh trang sơn cước quay cuồng đong đưa

Bước chân về lại ngày xưa

Rêu phong phủ kín - thu chưa hẹn thề

Chim lìa tổ lạnh tái tê

Long đong lạc bước biết về nơi đâu

Mong manh nước mắt tình đầu

Vời trông vạn dặm vó câu rã rời

Tạ ơn ai suốt một đời

Bóng hình xa tít - trùng khơi ngậm ngùi

Đành quên cay đắng ngọt bùi

Tìm vào kỷ niệm - chôn vùi xuân xanh.

Ngàn Phương

Lời ru sỏi đá

Người về trong bóng hoàng hôn

Thu – yêu man mác – ngõ hồn lâng lâng

Lời yêu ngào nghẹn bao lần

Rêu xanh ấp ủ - chỉ ngần ấy sao?

Chạnh buồn gió lạ xôn xao

Lời ru sỏi đá dạt dào mong manh

Tiếng ca biền biệt âm thanh

Nét mi hạ giới – trời xanh nhuốm sầu

Nai vàng lạc nẻo rừng sâu

Thềm rêu nắng úa phủ màu chân như

Ngẩn ngơ thầm hỏi thực hư

Về đâu giấc mộng thiên thư nhạt nhòa

Tình thơ lay động lá hoa

Ngàn mây thao thức đậm đà duyên xưa

Lắng nghe dĩ vãng đong đưa

Nơi xa hun hút mộng chưa cạn lời

Còn dư vang cũ tuyệt vời

Người không trở lại – cõi đời buồn tênh.

Ngàn Phương

Người em chồng

Cô Tám là tên ở nhà (1)

Người em chồng thân thương

Nhớ ngày xưa anh Hy nói (2)

Chị Tám và cô tám

Đã không màng hạnh phúc riêng

Chăm lo đại gia đình

Hiếu thảo với ba mẹ

Chăm sóc các anh chị

Dạy dỗ đàn cháu ngoan

Nhớ thuở hai anh đi học tập (3)

Cô và các chị cùng các cháu

Đã thăm nom hai anh

Cô và các cháu là dây liên lạc

Để anh chị thành đôi (4)

***

Trong gia đình bên chồng

Trên kính dưới nhường

Thuận hòa trước sau

Nếu có xung đột

Rồi cũng qua mau

Khi các cháu thành danh

Cô cũng được hưởng phúc

***

Năm hai ngàn lẻ mười

Anh Hy qua đời

Lại cuối năm đó

Chị dâu về Trời

Năm hai nghìn mười lăm

Anh chồng châu – Tổ (5)

Cô đã buồn rầu

Chẳng chịu đi đâu

***

Khi em bệnh già

Chị vẫn mong rằng

Em còn ở lại

Vài năm nữa thôi

Nhưng đã không được

Một chiều mưa buồn

Ngày chín tháng chín (6)

Cô về Tiên cảnh

Em chồng đức độ dễ yêu

Các cháu thương nhớ cô như mẹ Hiền.

Ngày 30/10/2020,
Thúy Mai (Quan Thúy Mai)

Ghi chú:

(1) Cô Tám tên là Trần Thị Cẩm

(2) Anh Hy là chồng của Thúy Mai

(3) Học tập cải tạo

(4) 14/12/1980 anh Trần Đình Hy học tập cải tạo về, Thúy Mai và anh Hy thành đôi vào ngày 02 tháng 01 năm 1981

(5) Anh chồng của Thúy Mai

(6) Ngày 9 tháng 9 âm lịch (25/10/2020)

Sống theo dịch bệnh

Họp bạn niềm vui chung mỗi người

Tình thương yêu quý đến mà chơi

Dịch Côvi theo dõi cách ly bệnh

Gặp mặt chào nhau khỏe cuộc đời

*

Bươn chải quản đời không đổi thay

Gia đình chung sức vượt chông gai

Nuôi con khôn lớn tình Cha Mẹ

Nhất trí vươn lên cùng sống tốt

*

Dân quê thay đổi hướng tương lai

Lao động cần cù nuôi sống ngày

Phát triển nông thôn xây dựng mới

Tăng gia xuất khẩu ra miền ngoài

K.H Quang Bỉnh 2020 – 0907089929

Vượt Khó

Người thương gởi phận tại quê

Nuôi dạy con ngoan đã trọn bề

Trời định xa nhau không trở lại

Chưa tròn hạnh phúc nghĩa phu thê

Nhà nghèo thiếu hụt cứ quanh quẩn

Trẻ nhỏ chăm lo thật ủ ê

Gái lớn theo chồng nơi xứ lạ

Gia đình thoải mái khoái khỏi cơn mê.

K.H Quang Bỉnh 2020 – Tiền Giang

Cầu treo Mỹ Thuận

Cầu Mỹ Thuận xe cộ nhanh

Trên đầu gió thổi mây lành mênh mông

Tiền Giang bè bạn Vĩnh Long

Sừng sững cột đỡ nửa dòng nước trong

Công trình thế kỷ chung lòng

Quy mô hùng vĩ lưu thông dễ dàng

Không còn cảnh cũ phà ngang

Giao thông buôn bán nhiều hàng hơn xưa

Bao năm hoài vọng ước mơ

Nước Úc xây dựng tặng cho nghĩa tình

Nối liền các tỉnh đẹp xinh

Hàng hóa trao đổi dân mình nhanh tay

Nào ai du lịch miền Tây

Dừng chân ghé lại lòng đầy mến thương

Tâm tư khắc khoải dặm trường

Ghé qua CHÙA ƯỚC bốn phương hội về

Từ thành phố đến miền Quê

Cầu treo lợi ích mải mê con đường.

K.H Quang Bỉnh 2020


Kính phục anh!

Đời anh đã trải lắm gian lao

Nhắc đến khôn ngăn ngấn lệ trào

Cá chậu luôn mơ sông biển rộng

Chim lồng vẫn ước núi trời cao

Nếu không tử tội chờ hành quyết

Thì cũng tù binh đợi đổi trao

Son sắt một lòng vì Tổ Quốc

Sá chi thân phận khổ ra sao

Thanh Vĩnh (Nguyễn Công Ân)

(42/7 bis Hồ Hảo Hớn, Quận I TP.HCM
ĐT 3.8361295)

Đền Bạch Mã

Bạch Mã đền xưa rất hiển linh

Tiếng tăm lừng lẫy đất thần kinh

Anh hùng chiến đấu vì yêu nước

Liệt sĩ hy sinh đã bỏ mình

Giữ vững quê nhà nhờ nhuệ khí

Đánh tan quân giặc cậy tinh binh

Muôn đời chiếu rạng gương tiền bối

Bảo vệ toàn dân sống thái bình.

Thanh Vĩnh (Nguyễn Công Ân)

(42/7 bis Hồ Hảo Hớn, Quận I TP.HCM
ĐT 3.8361295)

Hồng Thắm Ngàn Sau

(“Mãi mãi tuổi 20” của Nguyễn Văn Thạc
và nhật ký Đặng Thùy Trâm)

Chống Mỹ bao nhiêu lứa Thạc Thùy

Trăm trang nhật ký cuộc đời ghi

Tuổi xanh dân nước không toan tính

Sổ tím về mình có nghĩ suy

Chữ nặng nghĩa tình, dìm, cứ nổi

Người nhuần trung hiếu, thác, còn đi

Một thời rực lửa vàng trang sử

Hồng thắm ngàn sau ngọc quốc kỳ.

Trần Nguyên Phò

(CLB Nhà giáo ưu tú TP. HCM)

Lửa Thiêng

(Kính họa “Hồng thắm ngàn sau” của Trần Nguyên Phò)

Không hẹn gặp nhau Thạc với Thùy

Anh hùng liệt sĩ sử xanh ghi

Lòng con gái giỏi luôn ngời sáng

Chí cả trai tài khó suyễn suy

Tiếp bước cha anh bền chí tuyến

Đáp lời sông núi quyết tâm đi

Lửa thiêng rạng chiếu soi hồn nước

Đỏ máu vàng sao rực rỡ kỳ.

Thanh Vĩnh (Nguyễn Công Ân)

42/7 bis Hồ Hảo Hớn, Quận 1, TP. HCM

ĐT (bàn): 028 – 38361295

Về quê

Nam Ô – Thủy Tú chiều mộng mơ

Biển xanh cầu rộng rất nên thơ

Hải Vân Liên Chiểu say hồn khách

Mỹ Khê chào đón các bạn thơ

Gặp lại càng thêm lưu luyến bạn

Đến thăm càng thấy vấn vương tơ

Nhấp nhô sóng vỗ tình thêm mặn

Một thoáng hoàng hôn ánh tỏ - mờ.

Kim Thoa - 2016

Về dự Đại hội thơ đường Mỹ Khê, Đà Nẵng.

Sông quê (Sông Nam Ô)

Trong tôi từ ấy đến giờ

Thủy Tú chảy mãi không mờ nhớ nhung

Bao nhiêu gợn sóng chập chùng

Bấy nhiêu tâm sự gởi cùng dòng sông

Xa vời thuở tuổi bên song

Bờ vai tóc xỏa in trong nắng chiều

Đàn cò trắng muốt dập dìu

Tiếng riêu trầm lắng phiêu diêu ngày nào

Còn đâu cái buổi xôn xao

Nhớ về quê cũ nôn nao tấc lòng

Xa rồi nhưng vẫn thường mong

Về bên mẹ để ngắm dòng sông xưa

Trích trong “Mưa lòng” - Kim Thoa, trang 83.

Dừng bước phiêu lưu

Những chuỗi ngày trôi như thoáng qua

Tưởng như Ta chẳng đã là Ta

Ai đã vào đời, ai đã sống?

Ai từng nhỏ lệ khóc phôi pha?

Thân nầy của ai, hay của TA?

Mà sao chẳng giống tháng năm qua?

Từng tuổi già suy, từng bước yếu

Như nước đầu ghềnh, như nắng sa!

TA mãi lao theo những khóc cười

Đâu hay đã nhạt nét xuân tươi

Chiều nay soi bóng trên dòng nước

Chợt thấy đười mình đang cuốn trôi!

Ta sống những năm như giấc mê

Giật mình, quá nửa kiếp ê chề!

Ham gì đeo bám đời lận đận!

Dừng bước phong sương , trở gót về.

Tâm Nguyện

Gặp Thầy

Ngày xưa con tìm Thầy

Giữa không gian vô tận

Mòn mỏi bao tháng ngày

Bao nhiêu là lận đận

Với người đười con học

Bao gian trá lọc lừa

Tham lam và si đắm

Mừng được, khổ khi thua!

Giữa yêu thương, thất vọng

Ganh ghét với hận thù

Con chạy mòn gót nhỏ

Càng tìm càng bơ vơ!

Kinh nghiệm là máu xương

Là con roi khắc nghiệt

Là gục ngã, vùng lên

Là sức mòn, tâm kiệt!

Tâm Nguyện

Cõi Mê Mộng Về

Mặt Trời tỏa nắng khắp nơi

Sắc vàng lan bóng chơi vơi Hạ về

Lá rơi rụng cạnh vỉa hè

Phượng Hoàng đỏ rực: tiếng Ve trên cành

*

Mãi nghe vang vọng âm thanh

Ngẩn ngơ điệp khúc duyên lành trao nhau

Cùng mang tâm trạng âu sầu

Cao xanh thấu hiểu bể dâu nợ trần?!

*

Xin van vái: ban Hồng Ân

Toàn cầu thoát cảnh cùng bần nguy nan

Mong ngày mai: thôi sầu than

Việt nam – Thế giới: bình an thuở nào

*

Hương thơm ngây ngất ngạt ngào

Hân hoan chúc tụng lời chào thân thương

Sắc hồng rạng rỡ ven đường

Trong cơn đồng thiếp: mãi nương mộng về.

Vũ Thùy Hương

Thuở Ấy Sài Gòn

Mai đây dẫu hết giãn cách

Ngành nghề sinh hoạt: quẫn bách qua rồi

Xót thương bao trẻ đơn côi

Người thân khuất núi chơi vơi cõi trần

Vẫn luôn cầu mong hồng ân

Dịch ra đi mãi giáng trần làm chi

Dịch gây tang tóc phân ly

Trong cơn đồng thiếp ướt mi nguyện cầu:

Vang trong hồi tưởng khắc sâu

Sài Gòn hoa lệ, nhà lầu xe hơi

Từ Nam chí Bắc khắp nơi

Dừng chân lưu trú: tuyệt vời viễn đông

Đất lành chào mộng tình nồng

Giang tay đón nhận tạo công việc làm

Ngọt bùi sướng khổ đồng cam

Thơ ca xướng họa phương Nam nghĩa tình

Giật mình giông bão thành hình

Tai ương giáng họa! Kinh hãi tràn lan!

Cách ly sống cảnh cơ bần

Não lòng hồi tưởng bình an thuở nào.

Vũ Thùy Hương

Vẫn Mãi Nguyện Cầu

Nam, Trung, Bắc: tình đậm đà

Nguy cơ đại dịch xông pha tuyến đầu

Xác nằm ướp lạnh thâm sầu

Cùng chung khúc ruột bao câu ân tình

*

Đất lành trăn trở hãi kinh

Bão giông hiểm họa quê mình bất an

Ngậm ngùi phận số lầm than

Tha phương khốn khổ nguy nan trở về!!!

*

Hồi hương não ruột tái tê

Trời cao xin hỏi cõi mê phương nào?!

Gợi bao tình cảm dạt dào

Vẫn luôn hoài vọng ước mơ phước lành

*

Trong cơn đồng thiếp mộng thành

Chim bay, bướm lượn: âm thanh tuyệt vời

Vần Thơ xúc cảm trao lời

Chung tay tiếp lửa cho đời ngát hương.

Vũ Thùy Hương

BÌNH MINH GỢI NHỚ

Sương mai còn đọng trên cành

Tiếng Gà gáy sáng âm thanh hào hùng

Xưa kia Hương Ngự tưng bừng

Chuông Chùa Thiên Mụ đã từng âm vang

Tha phương vọng tưởng xóm làng

Nhớ Ba , nhớ Mạ hai hàng lệ rơi

Phong ba , bão tố muôn nơi

Vào Nam xứ lạ rối bời ưu tư

Tìm đâu nơi chốn an cư

Quây quần thân thuộc như từ xa xưa

Ước gì những chuyến đò đưa

Đến nơi bến đậu gió mưa không còn

Người thân chờ đợi mõi mòn

Thoã bao mộng ước Sài Gòn đơn côi

Giọt buồn rơi rụng bờ môi

Giọt hiu hắc nhớ thì thôi giã từ

Tai ương

đâu chốn an cư

Thu Dung , Dã Chiến ...

hình như tăng nhiều

Ngoài kia

cảnh vật tiêu điều

Ngỡ như lạc lối

vào chiều ba mươi

Vũ Thùy Hương (05/12/2021)

Thơ là Binh pháp

Thơ là binh pháp thời bình

Người thiện nghe thấy đồng tình, đồng thanh

Đồng điệu, đồng cảm... đấu tranh

Chiến thắng cái ác, gian mành ở đời

Lê Minh Chử

Nói và Làm

Thêm lần nữa chúng ta mới thấy

Kịch bản cũ lại tái diễn... buồn thay

Đọc chuyện xưa, ngẫm việc nay

Gây bao thất vọng có hay không à?

Tưởng rằng ông đã nhận ra

Bài học cay đắng... để mà sửa sai

Họp nói như báo như đài

Nhưng khi ra ngoài lại nghĩ khác đi

Lê Minh Chử

Đến làng Kônxtantinôvô

Quê hương thi hào Nga

Xergây Exênin

Chiều lơ lửng dát vàng trên đỉnh tháp

Sông dửng dưng trôi khuất dưới bóng cây

Mảnh vườn nhuốm một nỗi buồn xưa cũ

Em xòe ô đi trong mưa bay

Con gà sắt đứng canh ngôi nhà gỗ

Mái còn thơm mùi nhựa thông tươi

Đàn sếu bay qua hồ nước lặng

Thả nỗi buồn vu vơ ngang ngọn mấy cây sồi

Năm tháng cuộn trên sừng bò khắc khoải

Người yêu xưa, thiên hạ cũng quên rồi

Đôi mắt màu mưa, ngực trần mịn trắng

Có nhớ chăng? Chỉ còn một tôi thôi..

Tôi ném mũ xuống bụi gai, vồn vã

Kính chào anh!

Anh phiêu lãng nơi đâu?

Môi dập máu những câu thơ trong trẻo

Đến bây giờ, còn day dứt lòng nhau...

Tiếng chuông lịm vào giải rừng tối sẫm

Tỉnh thức cuối đồng, đốm lửa xa

Tôi như ánh trăng mờ, run rẩy

Bay mơ hồ trong thăm thẳm hồn Nga...

Trần Nhuận Minh , Riadan 6.1990


VISITING THE KONSTANTINOVO

VILLAGE, HOMELAND

OF RUSSIAN POET

SERGUEI ESSENINE

The evening was hanging on the inlaid
with gold tower peak

The river indifferently flew hidden under the trees’ shade

The garden was tinted with an ancient sadness

You opened the umbrella and walked in the flying rain

The iron cock stood guarding the wooden house

Its roof still had the pleasant sweet smelling
of fresh pine resin

The flock of cranes flew across the silent water lake

Casting a vague sadness over the tops of some oak-trees

Years and months rolled up on restless oxen horns

The old lover, people have forgotten

The rain-colour eyes, the soft and white breast

Do people remember? There remains only me...

I threw my hat at the thorny bush
and showing great warmth

Greetings!

Where are you wandering about?

The lips were bloodily struck with very pure poems

Which up to now still harass our minds...

The bell sound was lost into the dark dense forest

Awaken at the near end of the field,
a far away dot of light

I was like the trembling fading moon

Flying vaguely in the immensity of the Russian soul...

Riadan 6.1990

Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn

Phụ bản III


VÌ SAO HƯ BỘ NHỚ?

BS Lương Lê Hoàng

Nếu tưởng người già mới lẫn thì chưa đủ. Tình trạng sa sút trí nhớ đến độ "vừa nghe đã quên" của người trẻ từ lâu đã vượt xa mức báo động.

Ai chưa tin xin thử xem có bao nhiêu người nhớ nổi số... driver license ! Nhiều người quên tuốt luốt, quên giờ vào sở, quên luôn công việc, quên cả vợ con, đến độ sau giờ làm việc phải ngồi hàng giờ ở bàn nhậu để cố nhớ nẻo về nhà, thậm chí quên hết đến độ chỉ còn nhớ có mỗi ngày... lãnh lương!

Chuyện gì cũng có lý do. Bộ nhớ mau hư thường vì nạn nhân chính là thủ phạm do thiếu nhiều thứ, cùng lúc lại thừa vài món trong cuộc sống thường ngày. Đó là:

* Thiếu ngủ:

Không kể người lỡ chọn nghề trực đêm, thiếu ngủ vì thức quá khuya dường như là "mốt" của nhiều cư dân trong các thành phố. Kẹt một điểm là chất lượng của trí nhớ gắn liền với độ sâu của giấc ngủ, theo kết quả nghiên cứu ở Đại học Schleiweg- Holstein. Nhưng nếu tưởng như thế chỉ cần dùng thuốc ngủ để ngủ cho được nhằm tăng cường trí nhớ thì lầm. Thuốc an thần tuy tạo được giấc ngủ nhưng não bộ đồng thời cũng mê một lèo khiến bộ nhớ quên luôn công việc.
thiếu ngủ

* Thiếu nước:

Não lúc nào cũng tiêu thụ không dưới 20% năng lượng của cơ thể riêng cho chức năng tư duy. Não vì thế rất cần nước và chất đường sinh năng.

Theo chuyên gia ở Đại học Erlangen, uống không đủ nước trong ngày lại thêm bữa ăn chiều thiếu chất ngọt là một trong các lý do khi tín hiệu thần kinh vừa nhập vào lại ra ngay, cứ như nước đổ đầu vịt.

* Thiếu dầu mỡ:

Chất béo loại cần thiết cho cấu trúc của tế bào thần kinh như 3-Omega, Acid Linoleic... là món ăn chính của não bộ. Đừng tưởng kiêng cử là béo tốt cho não. Trái lại là khác. Tất nhiên đừng để tăng chất mỡ máu vì đó là yếu tố bất lợi cho hoạt động của bộ não. Nhưng thiếu mỡ cũng tai hại tương tự.

* Thiếu dưỡng khí:

Thêm vào đó, não không thể dán tín hiệu thần kinh, dù là hình ảnh hay âm thanh vào bộ nhớ nếu tế bào thiếu dưỡng khí vì thiếu máu. Chính vì thế mà nhiều thầy thuốc khuyên dùng cây thuốc có công năng cải thiện hàm lượng dưỡng khí trong não bộ ngay cả cho người chưa phát hiện triệu chứng "đụng đâu quên đó”.

* Thiếu vận động:

Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy người cao tuổi nếu vận động thể dục thể thao trong ngày thì ít quên hơn người không vận động. Theo các nhà nghiên cứu về lão khoa ở Hoa Kỳ, vận động trong ngày là điều kiện để bộ não không thiếu dưỡng khí trong đêm. Cũng không cần hình thức thái quá, nhẹ nhàng thôi, như đi bộ, bơi, chạy xe, khí công..., miễn là ngày nào cũng có.

* Thiếu tập luyện:

Muốn não "bén nhọn" như xưa mà không tập luyện chẳng khác nào chưa học bài. Chơi ô chữ, sudoku, học ngoại ngữ, vẽ tranh..., kiểu nào cũng tốt, càng nhiều cách giải trí càng hay, miễn là đừng ngồi yên mỗi ngày nhiều giờ trước máy truyền hình vì đó là hình thức tai hại cho bộ não.

* Thừa Stress:

Bôi sạch bộ nhớ là một trong các phản ứng phụ của nội tiết tố nẩy sinh trong tình huống Stress. Biết vậy nên tìm cách pha loãng Stress bằng thể dục thể thao, thiền định, kiểu nào cũng được, miễn vui là chính.

Thêm vào đó, đừng tự đầu độc cơ thể và bộ não bằng thuốc lá, rượu bia, thịt mỡ... Với bộ não "ngập rác" thì quên là cái chắc vì đâu còn chỗ nào để nhớ!

* Thừa chất oxy-hóa:

Hàm lượng chất gây rỉ sét tế bào sản sinh từ rối loạn biến dưỡng, độc chất trong môi trường ô nhiễm, khói thuốc lá, độ cồn, phụ gia trong thực phẩm công nghệ, hóa chất trong dược phẩm... càng cao, tế bào não càng mau già trước tuổi. Cầm chân chất oxy-hóa bằng hoạt chất kháng oxy-hóa vì thế là biện pháp chủ động để bộ nhớ đừng mau "hết đát".

Hãy đừng "đem não bỏ chợ" qua lối sống chẳng khác nào có thù sâu với não bộ. Nếu đối xử với não bạc bẻo thì đừng trách có lúc "có vay có trả”.

Hoàng Kim Thư st.


CON CHIM BỊ MÙ?

Nơi khu vườn anh nhà văn nọ có một cây si rất rậm rạp, xanh lá quanh năm. Từ phòng viết của mình, qua một tấm cửa kính, anh có thể nhìn thấy cây si ấy. Thói quen của anh là thức sớm mỗi ngày để viết, và anh vô cùng ngạc nhiên khi ngày nào, cũng có một con chim tới đâm đầu vào cửa kính phòng anh. Nhiều ngày liên tục, liên tục, sáng nào cũng vậy, anh đã có ý nghĩ: Phải chăng con chim đó bị mù? Hay bị một chứng bệnh nào đó?

Sự lý giải không được thỏa mãn, lại nhiều ngày tiếp tục trôi qua. Cho tới một hôm, anh quyết định bước ra khỏi cửa phòng mình, đứng về phía con chim, đối diện với tấm kính để nhìn vào căn phòng. Anh không thể tin nổi vào mắt mình. Trước mắt anh là một cảnh tượng quá đẹp đẽ. Một cây si lung linh xanh thẫm in hình trên tấm kính, như thể ở một nơi nào đó thật xa, trong một không gian rộng hơn, sâu hơn. Và anh biết, con chim nhỏ bé kia đã "chán" cây si quen thuộc mỗi ngày của mình khi nó bất ngờ phát hiện ra một "cây si" khác. Nó đã đâm đầu vào đó để mong tìm tới một nơi đẹp đẽ hơn, lung linh hơn,...

Đôi khi, chúng ta không biết những gì chúng ta đang có mới là điều quan trọng, là hạnh phúc thực sự của chúng ta, mà chúng ta cứ đeo đuổi những chuyện mãi đâu đâu.

LỜI NÓI CỦA ĐỨA TRẺ NGHÈO KHIẾN ANH TRỢ LÝ NHÀ GIÀU XẤU HỔ

Nhà từ thiện người Mỹ Kenneth Behring đã từng nói: “Đừng bao giờ phán đoán bừa bãi về người khác”…

Vào những năm 1990 của thế kỷ 20, Behring đang đi ngang qua vùng Vịnh San Francisco thì bất ngờ phát hiện chiếc ví của mình bị mất. Người trợ lý lo lắng nói: “Có lẽ nó đã bị mất khi đi bộ qua khu ổ chuột ở Berkeley vào buổi sáng. Vậy phải làm sao bây giờ?”

Behring tỏ ra bất đắc dĩ nói: “Chúng ta chỉ có thể chờ người nhặt được ví liên lạc tới mà thôi”.

Hai giờ sau, người trợ lý thất vọng nói: “Mất rồi, đừng đợi nữa. Chúng ta không nên hy vọng vào những người ở khu ổ chuột”.

“Không, ta vẫn muốn chờ thêm một chút”. Behring bình tĩnh nói.

Người trợ lý cảm thấy rất khó hiểu, nói: “Trong ví có danh thiếp, người nhặt được nếu như muốn trả lại cho chúng ta thì họ chỉ cần mất vài phút gọi điện thoại. Nhưng chúng ta đã đợi cả buổi chiều, rõ ràng là họ không có ý định trả rồi”.

Behring vẫn kiên trì chờ đợi. Khi trời sắp tối, chuông điện thoại đột nhiên vang lên. Chính người nhặt ví đã gọi điện và yêu cầu họ đến nhận ví tại một địa điểm trên phố Kata.

Người trợ lý càu nhàu: “Đây lẽ nào là một cái bẫy? Chẳng lẽ họ bắt cóc tống tiền?”

Behring không để ý đến lời nói của người trợ lý, lập tức lái ô tô đến khu phố Kata. Khi đến nơi hẹn, một cậu bé mặc quần áo rách rưới đi tới, trên tay cầm chiếc ví của Behring. Người trợ lý cầm chiếc ví, ông mở ra và đếm đếm, phát hiện thấy trong ví không thiếu một đồng tiền nào.

“Cháu có một thỉnh cầu”. Cậu bé nghèo nói. “Các ông có thể cho cháu một chút tiền không?”

Lúc này, người trợ lý cười ha hả: “Ta biết ngay…” Behring vội ngắt lời người trợ lý rồi mỉm cười hỏi cậu bé muốn bao nhiêu tiền.

Cậu bé nghèo không suy nghĩ nhiều liền nói: “Chỉ cần một đô la là đủ”. “Cháu mất rất nhiều thời gian mới tìm được nơi có điện thoại công cộng, nhưng cháu không có tiền, vì vậy cháu phải mượn một đô la của người khác để gọi điện. Giờ cháu cần phải trả lại số tiền này cho người ta”.

Nhìn vào đôi mắt trong veo của cậu bé, người trợ lý cúi đầu xấu hổ. Behring hào hứng ôm cậu bé.

Ngay lập tức, Behring đã thay đổi kế hoạch từ thiện trước đó của mình. Thay vào đó, ông đầu tư vào việc xây dựng một số trường học ở Berkeley để trẻ em nghèo từ các khu ổ chuột dù không có tiền vẫn được đến trường.

Trong buổi lễ khai giảng, Behring nói: “Đừng phán đoán bừa bãi về người khác. Chúng ta cần cho mỗi người một cơ hội, chào đón một trái tim nhân hậu thuần khiết. Một trái tim như vậy đáng để chúng ta đầu tư”.

Sansan - Bùi Đẹp st.


BÀ MẸ TÂY

Tác giả là một dược sĩ hồi hưu. Ông tốt nghiệp Đại Học Dược Khoa Sài Gòn 1968. Định cư tại Gia Nã Đại từ 9/1982, tốt nghiệp Đại Học Dược Khoa Toronto 1985. Năm 2011, ông góp bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên, một chuyện vui sống động trên một chuyến bay từ Hồng Kông về Bắc Mỹ. “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con Của Mẹ” là bài viết thứ ba của ông, không chỉ sống động mà còn xúc động trong cách viết, cách kể. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết.

* * *

– Gió đông gió tây, gió nào đã đưa cậu tới đây?

– Chẳng có gió đông, chẳng có gió tây, chỉ có “gió chướng” thôi. Gió chướng đã mang tôi tới đây để gặp tên bạn “khỉ gió” thuở còn tắm truồng đấy!

– Cậu lúc nào cũng ăn nói “khó tiêu”. Dễ có trên ba chục năm không gặp cậu. Thú thật đi, có phải cậu đến đây để thăm bà bé không? Tôi không mách bà xã cậu đâu. Đừng lo.

– Cậu đoán đúng mới có một nửa. Đúng, tôi vừa đi thăm viếng một người đàn bà.

– Ai thế? Tôi có biết người đó không?

– Có thể cậu biết. Bà mẹ tôi ấy mà.

– Cậu không đùa đấy chứ. Mẹ cậu đã mất ở Việt Nam. Tôi cùng bạn bè đã gửi lời chia buồn từ ngày nảo ngày nào rồi. Hay là mẹ của mẹ bầy trẻ? Nhưng mà bà xã của cậu mồ côi mẹ mà!

– Không, bà mẹ nuôi, bà Steinberg mà tôi đã có lần nói với cậu khi mới tới thành phố này đó. Nhớ không? Đây là lần đầu tiên tôi đi tảo mộ.

Tôi ở bên bà suốt buổi sáng nay rồi đi ăn trưa với lão luật sư già của bả.

– Nhớ, nhưng tôi chưa hề nghe nói cậu là con nuôi của bà triệu phú từ tâm này. Ê, đừng thấy sang bắt quàng làm họ nhé. Khi cậu rời khỏi nơi đây thì bả cũng đã qua đời. Tôi nhớ rất rõ.

– Hồi đó tụi mình chưa an cư nên tuy ở gần mà như nghìn trùng xa cách, chả mấy khi được ngồi tâm sự như bây giờ nên cậu không biết. Chuyện dài lắm, tôi sẽ kể cho cậu nghe. Bây giờ tụi mình đi kiếm cái gì lót dạ đã.

Buổi tối hôm đó, đôi bạn tri kỷ đối ẩm, nói chuyện “cổ tích”.

*

Năm tôi đến đất nước này, chu kỳ suy thoái kinh tế bắt đầu. Việc làm hiếm hoi, nhưng chính phủ vẫn mở rộng vòng tay nhân ái tiếp nhận người tị nạn. Cậu có bà xã giỏi giang, đi làm nuôi chồng con. Cậu chỉ lo nội trợ, đưa đón con cái đi học, có thì giờ rộng rãi dồi mài kinh sử. Còn tôi, độc thân tại chỗ, vợ con còn kẹt lại Việt Nam, một cảnh hai quê. Vừa mong mau chóng ổn định cuộc sống vừa mong đủ điều kiện tài chánh bảo lãnh gia đình.

Chưa bao giờ tôi nghĩ có ngày phải đi ăn mày chính phủ Gia Nã Đại. Mỗi tuần sắp hàng ngửa tay nhận chi phiếu bảy chục đô la, rồi còn bị cô thư ký người Việt nói xỏ xiên, thúc giục tìm việc. Tôi đã cảm nhận tất cả ê chề nhục nhã của kiếp tha hương.

Rất may mắn, tôi đã gặp cậu và được cố vấn nên sau vài lần xin việc bị từ chối khéo, tôi điền đơn tại bệnh viện Montford theo đúng lời cậu chỉ dẫn. Lý lịch khai rất gọn, phần học vấn bỏ trống, không ghi tốt nghiệp đại học Việt Nam. Xin làm Pharmacy Attendant, công việc sai vặt trong khoa Dược.

Bà trưởng phòng nhân viên bệnh viện đọc hồ sơ, ngước mắt nhìn tỏ vẻ thương hại rồi nói, được rồi, anh cứ về, khi nào có chỗ trống sẽ gọi phỏng vấn.

Vừa định đứng dậy thì bà ra dấu cho tôi ngồi xuống, ngập ngừng… Tôi biết bên hospice, nhà an dưỡng của bệnh nhân cận tử, đang cần một orderly nam, tức y công đàn ông. Nếu anh không ngại tôi sẽ giới thiệu. Đang đói việc, tôi bằng lòng ngay, bất cứ việc gì.

Y tá trưởng của hospice vui mừng đón nhận tôi.

Bà cho biết công việc không nặng nhọc nhưng đòi hỏi sự nhẫn nại hơn bình thường. Chỉ phục vụ một bệnh nhân đặc biệt và khó tính. Gia đình bệnh nhân này là ân nhân của bệnh viện, đã hiến tặng toàn bộ xây cất và các trang thiết bị cho hospice nên tên của người chồng quá cố, “J.D. Steinberg” được vinh danh trên bảng đồng.

Bà thành thật cho biết đã có 2 nữ y công bị trả lại vì bệnh nhân không hài lòng và thêm một nữ nữa bỏ việc vì không chịu nổi áp lực.

Tuy nhiên lương bổng rất hậu hĩnh. Bệnh nhân này sẵn sàng trả thêm tiền thưởng tương đương với tiền lương của bệnh viện.

Bà muốn thay đổi, đề nghị tuyển nhân viên nam, hy vọng nam có sức chịu đựng tốt hơn nữ.

Bệnh nhân là bà Steinberg, khoảng gần bảy chục tuổi, bị ung thư buồng trứng, đã di căn, giai đoạn cuối. Đẹp lão, mập mạp, tướng mệnh phụ. Bà tiếp tôi lạnh lùng, sau khi cô chuyên viên trang điểm rút lui. Hỏi vài câu vắn tắt lấy lệ, rồi cho tôi kiếu.

Quả thật công việc rất nhàn hạ, nhưng không thơm tho. Bác sĩ, y tá thăm bệnh và cho thuốc men theo thời khoá biểu. Cô quản gia kiêm thư ký công ty của gia đình trình diện vào buổi trưa mỗi ngày, đem thức ăn khoái khẩu của bà và quần áo mới. Tôi chỉ giúp bà làm vệ sinh tiêu tiểu buổi sáng, ngay trên giường và đổ phân vào cầu. Buổi chiều, sửa soạn bồn tắm, giúp bà làm vệ sinh thân thể và đẩy xe đưa bà đi dạo.

Ngoài ra, chùi rửa phòng, thay bọc trải giường, mang quần áo chăn mền qua phòng giặt ủi…v…v… Thỉnh thoảng ghé mắt xem bà có cần sai bảo gì không. Khẩn cấp thì phải chạy tìm y tá bác sĩ trực.

Tôi được sắp xếp cho ở góc cuối phòng, ngăn bằng chiếc màn kéo, đủ kê chiếc giường đơn, ghế nằm và bàn viết. Một ngày chỉ thật sự làm việc độ 3 hoặc 4 tiếng, ăn uống ở câu lạc bộ. Thời giờ quá dư thừa nên tôi mượn sách chuyên môn của thư viện đọc, mơ một ngày nào đó sẽ lấy lại được bằng hành nghề.

Một buổi tối, bà rên khò khè đau đớn, tôi chạy lại thì nghe bà quát, đi lấy cho ta cái “donut” ngay. Ta cảm thấy khó chịu quá!

Tôi cuống quít nói, thưa bà giờ này quá khuya, e không có tiệm bánh donut nào mở cửa, bà có thể chờ đến sáng sớm mai không?

Bà nổi quạu, phán, đồ ngu! Xuống bảo y tá trực đưa.

Tôi răm rắp chạy báo cáo bà y tá già. Bà cười ngặt nghẽo, đưa cho tôi cái vòng cao su mầu cam trông giống như ruột xe vespa, bảo, đấy, donut là cái này này.

Tôi vỡ lẽ, té ra donut cũng là tên gọi của cái vòng đệm cao su, dùng để kê dưới bàn tọa cho êm.

Mấy ngày sau, khi đã hơi khoẻ, bà ngoắc tôi lại, ra lệnh, ê thằng Tầu con, xuống kêu con nhỏ làm tóc lên chải đầu cho ta. Hôm nay ta có khách lại thăm.

Bị chạm nọc nhưng tôi vẫn đủ bình tĩnh, khẽ thưa, xin bà đừng gọi tôi là Tầu con. Tôi đã 36 tuổi rồi và là người Việt Nam không phải Tầu.

Trái với sự mong đợi của tôi, bà tỏ vẻ thân thiện, ngồi thẳng dậy, tròn mắt, hỏi lại, Việt Nam? Việt Nam? Con trai của ta chiến đấu ở Việt Nam và đã mất tích từ năm 1970, cũng trạc tuổi của mi.

Tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Ngờ ngợ có sự liên quan tới Bác Sĩ John Steinberg mà tôi quen biết khi còn trong quân đội.

Kể từ đó, mỗi khi có dịp, tôi gạ gẫm bà kể thêm về người con trai. Bà rất hứng khởi.

Sự nghi ngờ ban đầu đã dần dần sáng tỏ. Gom góp các chi tiết và đối chiếu các sự kiện, tôi đã chắc đến 99.99% John Steinberg, con trai của bà, và Bác Sĩ John Steinberg, bạn tôi, là một người bạn quý.

*

Theo bà, John là một đứa trẻ có nhiều cá tính ngay từ nhỏ. Thông minh, bướng bỉnh, tinh thần tự lập cao. Nhiều tự ái, nóng tính, hơi cố chấp và đặc biệt xung khắc với cha.

Ông Steinberg muốn hướng chàng thành một doanh gia. John, trái lại, xem Bác Sĩ Albert Schweitzer là thần tượng. Ước vọng trở thành thầy thuốc giỏi, từ bỏ thế giới văn minh, đến các xứ nghèo Phi Châu, mang tài năng và nhiệt tâm phục vụ không điều kiện.

Sau khi tốt nghiệp Y Khoa McGill, lúc chuẩn bị nội trú chuyên ngành tại Bệnh Viện Ottawa thì xảy ra một cuộc đấu khẩu dữ dội giữa hai cha con. John giận cha, bỏ qua Mỹ, tình nguyện nhập ngũ. Được huấn luyện quân sự tại Fort Bragg và tu nghiệp chuyên môn tại Womack Army Medical Center NC. Y Sĩ Đại Úy John Steinberg sau đó được gửi qua Việt Nam, bổ sung toán quân y thuộc Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, đóng tại Nha Trang.

John vẫn thư từ liên lạc với bà mẹ đều đặn. Cho đến một buổi chiều ảm đạm mùa thu năm 1970, ba sĩ quan đồng ngũ của binh chủng gõ cửa báo tin con bà đã mất tích khi đang thi hành nhiệm vụ, được ghi vào danh sách M.I.A.

Ông Steinberg bị nỗi hối hận dầy vò, tự đổ lỗi cho chính mình, đã đưa đẩy con trai vào chỗ chết. Ông qua đời ba năm sau.

*

Thời gian John công tác, tôi đang làm việc tại bệnh xá gia đình binh sĩ cũng đồn trú Nha Trang. Chúng tôi cùng đi làm dân sự vụ thường xuyên tại các bản thượng hẻo
lánh nên quen biết rồi thân nhau. Thỉnh thoảng tụ tập ăn uống nhậu nhẹt tại các quán bờ biển hoặc đi nghe nhạc phòng trà.

Khi tin John tử trận bay đến phòng làm việc, tất cả ban quân y chúng tôi đều bàng hoàng. John và toán dân sự vụ Việt Mỹ chết bỏ xác khi máy bay trực thăng trục trặc kỹ thuật, đáp tạm xuống bãi đất hẹp gần nhánh sông chảy xiết. B40 bắn rớt ngay lúc vừa cất cánh trở lại. Duy có một y tá Việt Nam tên Công thoát hiểm một cách kỳ diệu. Hắn ngụp lặn, bơi ngược dòng nước, băng rừng suốt đêm đến được nơi an toàn.

Quá hoảng loạn trong nỗi kinh hoàng tột độ, Y Tá Công bị hậu chấn thương nặng, chuyển về khoa tâm thần Tổng Y Viện Cộng Hòa điều trị vài tháng rồi được cho giải ngũ. Hắn vẫn đến xin thuốc an thần và thuốc ngủ đều đặn nên từ đó anh em đổi biệt danh “Công Ngủ” thành “Công Không Ngủ”.

Những năm cuối của thập niên 70 và đầu thập niên 80, tôi hay lang thang khắp chợ trời. Tình cờ gặp lại “Công Không Ngủ”. Hắn đã lột xác, trông bảnh bao, da dẻ hồng hào, ra dáng công tử vườn. Hắn khoe buôn bán thuốc Tây, thu nhập khấm khá. Hắn bỏ một buổi buôn bán, mời tôi đi nhậu ở tiệm ăn sang trọng trên đường Nguyễn Huệ. Đãi rượu Martell và thuốc thơm ba số. Lúc đã ngà ngà, hắn nhắc lại chuyện cũ. Bật mí tất cả những gì chưa từng bật mí.

*

Chiếc trực thăng chao đảo vì phi công bị B40 xuyên nát cổ. Đủ loại súng thi nhau nhả đạn, mọi người nhốn nháo chen nhau nhảy xuống. Đạn đan tròng tréo, có người rớt lịch bịch, có người nằm xuống khi chân chưa chạm đất. Bác Sĩ Steinberg cùng hắn và vài người nữa chạy thẳng xuống sông. Các người kia bơi theo dòng nước. Ông bác sĩ Mỹ to cồng kềnh, bơi hoặc lặn cũng không ổn nên tìm chỗ ẩn nấp dưới đám lau sậy.

Vốn là dân xóm Cồn, giỏi bơi lội, lại nhỏ con nên “Công Không Ngủ” nhanh như chớp, phóng xuống giữa dòng, vớ một ống sậy dài, ngậm thở, lặn ngược dòng, đánh lạc hướng của nhóm du kích chạy xuôi trên bờ đang truy đuổi từng người. Nghe tiếng súng AK nổ ròn rã, hắn biết những bờ bụi chắc chắn là những mục tiêu bị nhắm bắn. Hắn tự khen mình thông minh, không trốn theo ông bác sĩ cũng không bơi xuôi giòng. Rất có thể nhiều người đã lãnh đủ những tràng đạn vừa qua.

Đợi khi bóng dáng đám du kích đã hoàn toàn mất hút, hắn bơi đến chỗ ông bác sĩ thăm dò. Vùng máu loang lổ đang lan rộng chứng tỏ ông đã trúng đạn. Sờ mũi, vạch mắt, nghe tim, biết ông đã chết, hắn chỉ kịp mở nút gài túi áo trên lấy chiếc ví dầy cộm, lột chiếc đồng hồ trên tay.

Tiếng đám du kích vui cười nghe rõ dần, có lẽ họ trở lại thu nhặt chiến lợi phẩm. Hắn đẩy xác ông bác sĩ ra giữa dòng để gây sự chú ý, giúp hắn có thêm thì giờ lặn ngược dòng trốn càng xa càng tốt.

Nằm ếm dưới nước, chờ trời tối, hắn bước nhanh vào khu cây cối rậm rạp, nhắm hướng sao đi tới. Rạng sáng, hắn gặp một người đàn bà thượng đeo gùi sau lưng, địu con phía trước đi làm rẫy. Hắn bập bẹ vài tiếng thượng học được, xin chỉ đường đến đồn bót gần nhất.

Bài học mưu sinh thoát hiểm, cộng với may mắn cùng sự giúp đỡ của người dân tốt bụng đã đưa hắn trở về bình yên.

Lợi dụng việc sống sót hy hữu sau tai nạn, hắn đã đóng kịch rất khéo, giả bệnh, qua mặt được mọi người và giải ngũ.

Hắn cho biết trong chiếc ví của ông bác sĩ, ngoài số tiền mặt khá lớn, đủ để hắn sửa sang nhà cửa và mua chiếc xe Honda 90 đời mới, còn có một lá thư, một tấm hình, vài thứ giấy tờ linh tinh.

Hắn cho tôi địa chỉ nếu muốn đến xem. Tôi không có dịp vì còn mải lo chuyện vượt biển.

Sự sống của bà Steinberg kéo dài hơn ước tính của các bác sĩ. Bà cho là lời cầu nguyện của bà đã được lắng nghe và hy vọng phép mầu nhiệm sẽ đến qua ơn cứu rỗi.

Một tuần trước sinh nhật, bà điện thoại cho hai cô con gái lớn nhắc nhở. Năn nỉ các con cháu sẽ đến và ở chơi với bà một buổi. Bà dặn tôi đến ngày đó phải thu dọn căn phòng trống kế bên sạch sẽ, kê thêm bàn ghế và phụ giúp nhà hàng chăm lo phần ẩm thực.

Tôi chợt có ý nghĩ nhân dịp này sẽ tặng bà một món quà sinh nhật bất ngờ. Đánh điện tín nhờ vợ tôi mang đến “Công Không Ngủ”, hẹn giờ ra bưu điện nói chuyện điện thoại viễn liên.

Tôi ngỏ ý muốn mua cái ví của Bác Sĩ Steinberg cùng tất cả các thứ trong đó. Thỏa thuận xong giá cả, tôi yêu cầu hắn tạm thời fax ngay cho tôi những thứ có trong chiếc ví.

Ngày hôm sau, chỉ nhận được bản fax của lá thư và tấm ảnh, nhìn không rõ lắm nhưng chữ có thể đọc mò được.

Tiền thì hắn nhận đủ nhưng chiếc ví không bao giờ được gửi. Về sau nghe chú hắn nói, hắn đang tìm đường vượt biên và cái ví sẽ là lá bùa khi xét ưu tiên định cư Mỹ.

Sau nhiều năm không ai nhận được tin tức về chuyến tầu của hắn. Có lẽ cái ví cũng theo hắn định cư dưới lòng đại dương.

Buổi sáng sinh nhật, bà dậy thật sớm tuy cả đêm trằn trọc. Người làm tóc, người trang điểm bận tíu tít. Người ta thay cho bà một bộ đầm sang trọng. Trông bà tươi tỉnh, cười nói huyên thuyên, không ai nghĩ rằng đó là một bệnh nhân sắp từ giã cõi trần. Bà nói đã lâu lắm rồi, không thấy mặt mấy đứa cháu ngoại, không biết chúng nó cao lớn thêm và xinh đẹp như thế nào. Bà tưởng tượng sẽ ôm từng đứa, sẽ phủ mưa hôn trên từng phân vuông của những khuôn mặt thiên thần. Sau đó nếu Chúa có bắt đi ngay bà cũng an lòng.

Chỉ tưởng tượng thôi mà cảm xúc đã dâng trào trên niềm hạnh phúc ảo.

Các tiếp viên nhà hàng mang thức ăn bầy biện đẹp mắt, chiếc bánh sinh nhật hấp dẫn đặt giữa bàn. Tất cả kiên nhẫn chờ được phục vụ.

Suốt từ sáng đến quá trưa, bà bồn chồn, đứng ngồi không yên. Vẫn không thấy con cháu xuất hiện. Toàn thể nhân viên hospice không chờ đợi được nữa, bàn nhau tụ tập vây quanh bà, vỗ tay hát bài mừng sinh nhật. Bà gắng gượng ngồi nghe đến câu cuối, xua tay ra dấu mệt mỏi, để nguyên quần áo nhờ tôi đỡ lên giường.

Cô thư ký lăng xăng lên xuống, liên tục điện thoại khắp nơi, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Buổi chiều, cô trở lại buồn bã báo tin, cả hai gia đình của hai con gái bà đang vui chơi ở Disney World Orlando Florida từ vài ngày nay.

Bà Steinberg suy sụp tinh thần thấy rõ. Không ăn uống. Đóng cửa, không tiếp bất cứ ai. Tôi trở thành liên lạc viên duy nhất của bà với bên ngoài. Rất khó khăn ép bà uống thuốc đúng giờ.

Tối hôm đó, cơn đói đánh thức, bà sai tôi mua một tô súp gà và ly sữa. Tôi mua thêm một chiếc bánh chocolate donut và một cây đèn cầy. Bà chỉ húp vài muỗng súp và một phần ly sữa. Tôi mở bao lấy chiếc donut để trên đĩa giấy, thắp cây đèn cầy, bưng về phía bàn ngủ. Run run hát nho nhỏ, happy birthday to you, happy birthday to you, happy birthday to Mrs. Steinberg…

Bà há hốc miệng ngạc nhiên, im lặng vài khoảnh khắc rồi quay mặt vào tường. Tôi ngỡ bà phản ứng giống như khi nghe nhân viên bệnh viện hát chúc mừng trước đó. Ngờ đâu bà quay lại với đôi mắt ướt, giơ hai tay ôm chầm lấy tôi. Líu lưỡi cám ơn, cám ơn. Bà thổi đèn cầy rồi ăn hết chiếc bánh bình dân một cách ngon lành, nói, đây mới chính là cái “donut” mà ta muốn. Bà cám ơn tôi lần nữa, đã cho bà một sinh nhật tuyệt vời và độc đáo.

Bà vui vẻ trở lại nhanh chóng. Kể đủ mọi chuyện ngày cũ, toàn những chuyện về John. Trong ba người con chỉ có John nhớ sinh nhật của bà, dù đi đâu xa cũng quay về vào ngày ấy. Bà nhất định cho rằng, bằng cách nào đó, chính John đã mượn tôi thực hiện sáng kiến sinh nhật donut.

Tôi nói có một món quà sinh nhật và trao cho bà chiếc phong bì đựng bản fax của lá thư và tấm hình. Thêm một lần ngạc nhiên thích thú, bà mở ra. Mới lướt qua tấm hình và đọc vài hàng của lá thư, bà thở hổn hển. Những thứ này ở đâu ở đâu ra? Đúng là nét chữ của ta, đây là lá thư ta gửi John cám ơn lời hỏi thăm sức khỏe khi ta bị té gẫy chân và cho biết tình trạng đã ổn định. Làm sao mi có được? Nói ngay, nói ngay! Còn tấm hình mờ nhưng ta biết đó là hình chụp ta và con chó Buddy.

Tôi cho bà biết chuyện thật đời tôi, tất cả những gì tôi nghe về bạn quá cố của tôi, lúc còn sống, lúc lâm nạn và tại sao tôi có được những thứ đó.

Bà nhờ tôi kê gối đẩy lưng cao lên. Đọc kinh tạ ơn Chúa. Bà càng tin rằng John đã nhập vào tôi và mang thông điệp của tin mừng đến cho bà.

Bà đã mệt lắm rồi. Linh tính những ngày giờ cuối cùng đã điểm, tôi ở lại bên cạnh bà.

Thấy bà không ngủ, tôi hỏi có cần gọi y tá không? Bà không trả lời, cầm tay tôi đặt lên ngực phía trái tim, cặp mắt lạc thần, nhìn vào hư không, nói lẩm bẩm như người mộng du.

Baby John của mẹ, con có biết 12 năm nay không có ngày nào mẹ ngưng thương nhớ con? Mẹ nhớ từ tiếng con khóc lúc chào đời…, mẹ nhớ lúc con chập chững những bước đi…. Mẹ nhớ những ngày tuyết đổ mẹ dẫn con vào lớp học giao cho cô giáo vườn trẻ, con níu áo mẹ không rời, mẹ phải ở với con suốt buổi rồi đem con về…. Mẹ nhớ những đêm con ho cảm lạnh, mẹ thức trắng đêm ôm ru con ngủ…. Mẹ nhớ…Mẹ nhớ…. Mẹ khóc mừng ngày con tốt nghiệp đại học…. Mẹ tưởng con của mẹ sẽ mãi mãi êm ấm trong vòng tay mẹ. Nhưng con, con… đã đi và đi không trở lại. Lúc sinh thời, cha con nếu có lỗi với con thì cũng chỉ vì yêu con. Hai cha con bây giờ đã xum họp ở thế giới khác, đâu còn giận hờn. Mẹ cũng sắp sửa gặp cha con và con đây. Con ngoan nhé. Mẹ yêu của con.

Tôi lặng yên quỳ xuống đầu giường để bà vuốt tóc. Ước gì thật sự là John để bà trút hết nỗi niềm chất chứa bấy lâu và để cho tình mẫu tử thăng hoa.

Bà chợt tỉnh, nhận ra tôi nhưng vẫn tiếp tục xoa đầu. Ta thấy hình ảnh của John qua con, con cũng là con ta. Bà dí ngón trỏ lên trán tôi, mỉm cười, nụ cười nhân ái nhất nhận được trong đời, mắng yêu, “THẰNG TẦU CON CỦA MẸ”. Chúa ơi! Bà gọi tôi là con và xưng mẹ!

Không biết ai xúc động nhiều hơn ai. Có lẽ không phải là bà mà là tôi. Tôi bỗng buột miệng vô thức…Mẹ, Mẹ… rồi á khẩu. Dòng nước mắt tôi chảy, giọt nước mắt bà lăn dài. Cả hai ôm nhau hoà tan trong nước mắt.

Trưa hôm sau bà lệnh cho cô thư ký mời luật sư gia đình gặp bà thảo luận chuyện quan trọng. Ông đang có việc ở Âu Châu nên chỉ nói chuyện qua điện thoại và hứa sẽ đổi vé, bay về trên chuyến gần nhất.

Bác sĩ được triệu đến khẩn cấp.

Bà Steinberg yếu dần, bỏ ăn từ chiều hôm trước, môi khô. Nuốt khó khăn. Mũi thuốc morphine giảm đau liều cao chỉ giúp bà thiếp đi một chốc. Đắp thêm chăn, xoa bóp chân tay, vẫn còn lạnh. Bà đã bị ảo giác, mất định hướng thời gian và không gian. Liên tục thì thào gọi tên John. Tôi nắm bàn tay lạnh của bà vuốt nhẹ, khẽ gọi, mẹ ơi! mẹ ơi!.

Bà thở không bình thường nữa, hắt ra rồi bất động. Bác sĩ vạch mắt, rọi đèn pin soi đồng tử, nhìn đồng hồ lắc đầu. Xong một kiếp người!

Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mọi người đã có mặt trong phòng. Hai người con gái đi cùng hai luật sư của họ, luật sư gia đình, giám đốc các công ty kinh doanh của gia đình, các đại diện và luật sư của các hội từ thiện, một vài họ hàng thân cận.

Tất cả yêu cầu luật sư gia đình công bố di chúc. Họ tranh cãi khá lâu, không ồn ào nhưng rất gay gắt. Không đi đến kết quả nên đồng ý giải quyết sau tang lễ.

Nghe thoang thoáng có người đề cập đến tên mình nhưng tôi để ngoài tai vì nghĩ không có gì liên hệ.

Luật sư yêu cầu giải tán để nhân viên nhà quàn làm phận sự. Nhiều người trước khi bước ra khỏi cửa ném cho tôi cái nhìn khó chịu, có người đi ngang tôi với vẻ thù hận ra mặt. Tôi không hiểu tại sao. Không lẽ kỳ thị chủng tộc?

Những gì xảy ra trong những ngày vừa qua khiến cho tôi chán ngán tình đời. Một quyết định xẹt trong đầu. Đi thật xa. Phải, sẽ đi thật xa để khỏi nhìn thấy những con diều hâu bạc tình bạc nghĩa đang rỉa xác một người đàn bà nhân hậu. Tôi bước vào phòng, đặt một nụ hôn trìu mến trên trán bà mẹ nuôi. Nói nhỏ, lạy mẹ, con đi.

Tôi về nhà nhét vội vài bộ quần áo vào va li, bỏ lại tất cả đồ đạc, ra bến xe đò Greyhound mua vé đi thẳng Toronto. Cuộc đời lưu lạc bắt đầu từ đó.

*

Ông luật sư đãi tôi ăn trưa tại một nhà hàng ở khu phố vắng. Chuyện xảy ra 32 năm trước được giải mật. Khi ông đang ở Paris, bà Steinberg điện thoại, muốn sửa di chúc. Ông
chấp hành chỉ thị, thâu băng cuộc đối thoại, soạn thảo văn bản ngay trên chuyến bay khứ hồi. Không may, bà đã không kịp duyệt ký trước khi ra đi.

Các cuộc tranh cãi sau khi bà chết bùng nổ giữa các luật sư.

Di chúc chính thức quy định rõ, gia tài được chia làm 3 phần đồng đều, cho 3 người con. Riêng phần của John Steinberg có ghi chú thêm. Vì đã được liệt kê trong danh sách quân nhân mất tích, nên nếu 5 năm sau khi bà mất, vẫn không nhận được tin tức mới, phần này sẽ được chia 50/50. 50% giành cho các cơ quan từ thiện đã chỉ định. 50% sẽ thuộc về 2 người con còn lại.

Theo bản dự thảo di chúc mới, phần của John được sửa lại, sau 5 năm phần này sẽ được trao cho tôi thay vì chia 50/50 cho các cơ quan từ thiện và 2 người con gái.

Ông luật sư yếu thế, không thuyết phục được mọi người chấp nhận lời di chúc phi văn bản. Nếu đưa ra toà án phân xử cũng không hy vọng thắng. Kiện cáo có thể kéo dài, sẽ rất tốn kém. Điều quan trọng nhất, người có quyền lợi là tôi thì biệt tích giang hồ, không tìm thấy địa chỉ liên lạc. Bản di chúc cũ được thi hành. “Định mệnh đã an bài”, không thể thay đổi.

Ông trao cho tôi cuốn băng. Giữ lại như một kỷ niệm, ghi nhận tình thương và lòng hào hiệp của bà mẹ nuôi đối với tôi.

*

– Là triệu phú hụt, cậu có tiếc không?

– Không, không bao giờ. Tôi vẫn nhớ chuyện tái ông thất mã. Trong cái rủi luôn luôn có cái may đền bù. Trong cái may luôn luôn ẩn nấp cái rủi. Nếu lúc đó là triệu phú, nhiều phần đã biến tôi hư hỏng. Tiền không do công sức của mình làm ra là tiền…lèo. Xài tiền lèo thì mình cũng trở thành lèo. Sẽ ỷ lại, không cầu tiến.

Vì đã không là triệu phú nên tôi mới là tôi như bây giờ. Bằng lòng với hiện tại.

Tôi có hai bà mẹ. Bà mẹ da vàng để lại vết tích đậm nét da vàng trên thân xác tôi. Bà mẹ da trắng để lại nhiều dấu ấn khắc sâu trong tâm khảm tôi. Tôi yêu cả hai.

Nếu đến lễ Vu Lan hay Ngày Của Mẹ có ai hỏi tôi, bông hồng hay bông trắng cài áo? Tôi sẽ bảo, vui lòng cài cho tôi hai bông trắng.

– Xin cạn ly mừng cậu có hai bà mẹ trong đời. Chúc cậu đêm nay ngủ thật ngon, sẽ mơ hội ngộ BÀ MẸ TÂY… có con là “thằng Tầu con”.

Nguyễn Cát Thịnh - Đỗ Thiên Thư st.


TẬN NHƠN LỰC MỚI TRI THIÊN MẠNG

I. Đại cương:

Cuộc sống đôi khi như có thời Trời trong đó. Cứ coi chuyện nhà Tây Sơn, với Nguyễn Phúc Ánh thì đủ thấy. Tinh binh Tây Sơn vô đánh và chiếm được Quy Nhơn. Với khí thế đang hiện lên, Trần Quang Điệu và Vũ Văn Dũng đưa quân vào Nam với ý đồ chiếm Gia Định thì Nguyễn Phúc Ảnh không còn căn cứ địa nữa nhưng đánh đâu thua đó. Nguyễn Phúc Ảnh chiếm Phú Xuân xong thì đưa quân vào Nam đánh Trần Quang Diệu, phái quân ra Bắc đánh nhà Tây Sơn, đánh đâu thắng đó và sau thì diệt được nhà Tây Sơn. Đó chẳng qua thời nhà Tây Sơn đã hết rồi vậy.

II. Các sự kiện minh chứng thời Trời:

A. Khúc Thừa Dụ giành độc lập cho Giao Châu.

- Đối thủ tự suy tàn:

Nhà Tùy của Trung Hoa đem quân dọa đánh, vua Hậu Lý Nam Đế là Lý Phật Tử sợ quá nên đầu hàng, Giao Châu lại bị Bắc thuộc lần thứ ba. Từ năm 602 đến 906, dân Giao Châu luôn nổi lên đánh phá để giành độc lập nhưng không được. Đến thời nhà Đường của Trung Hoa cai trị, quan nhà Đường tàn ác quá nên người Mường dụ người Nam Chiếu sang đánh quân nhà Đường ở Giao Châu. Năm 863 Nam Chiếu diệt quân Đường và đặt quan cai trị Giao Châu. Vua Đường sai Cao Biền sang đánh đuổi quân Nam Chiếu, Giao Châu lại nội thuộc nhà Đường như cũ. Trong mười năm đánh nhau giữa quân Đường và Nam Chiếu, dân Giao Châu bị giết tới mười lăm vạn người (Việt Nam Sử Lược trang 67 – 70). Do đó, các hào trường Giao Châu âm thầm tổ chức đối kháng chớ không cầu ngoại viện. Cuối thế kỷ thứ chín, Trung Hoa vào Thời Đại lọa. Mặt Bắc thì Tần, Hán, Chu, Thục, Sở chực cấu xé nhau. Mặt Tây có nước Nam Chiếu hùng mạnh đã sang đánh quân Đường ở Giao Châu. Mặt Nam thì cương vực nhà Đường còn lị là Nam Đường ốm yếu mà Chu Ôn lăm le cướp ngôi; họ đang thoi thóp chờ chết. Thế hết hưng tới suy cứ diễn biến một cách bình thường mà thôi. Với thế Nam Đường như vậy, các bậc hào trưởng, trí sĩ biết lợi dụng thời cơ, biết xây dựng thế lực thì việc giành được độc lập ở trong tầm tay mà thôi.

Hào trưởng Khúc Thừa Dụ, nhà nho Trịnh Khiển Lâm, lò võ Mai Đông của Nguyễn Tam Thanh… âm thầm xây dựng thế lực rồi họ tìm đến để liên kết với nhau. Họ cho người len lỏi vào thành Đại La dưới hình thức là buôn bán. Bất ngờ họ đánh úp thành Đại La, tướng nhà Đường là Lý Bính phải đầu hàng.

Khúc Thừa Dụ lại nhún mình tâu xin vua Đường phong làm Tiết độ sứ Giao Châu. Vua Đường cũng rút Lý Bính về để lo bảo vệ Nam Đường. Khúc Thừa Dụ với nội lực của Giao Châu đã giành độc lập cho Giao Châu dưới danh nghĩa là quan của nhà Đường để lo củng cố thế lực mà bảo vệ Tổ quốc.

(Theo Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim và Đinh Bộ Lĩnh của Hàn Thế Dũng)

B. Nguyễn Phúc Ánh với nhà Tây Sơn:

- Đối thủ chết:

Tây Sơn khỏi nghĩa đã xoay hẳn bàn cờ Việt Nam. Họ vô Nam diệt họ Nguyễn, ra Bắc diệt họ Trịnh. Dòng dõi Chúa Nguyễn còn sót một người là Nguyễn Phúc Ánh, ông tập hợp các tướng cũ của tiền triều để gây dựng lại cơ nghiệp. Đã nhiều lần khôi phục được miền Nam nhưng ông bị Nguyễn Huệ đánh tan. Ông cầu viện Tiêm La, vua Tiêm cử hai tướng với hai vạn quân sang cứu và bị Nguyễn Huệ đánh tan. Lúc này nhà tây Sơn chia làm ba:

o Nguyễn Lữ ở Gia Định

o Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn

o Nguyễn Huệ, ở Bắc Hà để đương đầu với Trung Hoa.

Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại miền Nam của Nguyễn Lữ. Thấy thế khó thắng được vua Quang Trung, ông cầu viện nước Pháp. Vua Pháp thì giúp nhưng quan Pháp thì không chịu đưa quân vào. Giám mục Bá Đa Lộc tự mua mấy chiếc tàu và mộ một số lính Pháp sang giúp. Như vậy coi như Nguyễn Phúc Ánh tự lực là chánh. Nhưng khắc tinh của ông là vua Quang Trung đột ngột băng hà ở tuổi 40. Các tướng của Ngài cũng giết hại lẫn nhau: Ngô Văn Sở, Lê Trung, Nguyễn Văn Huấn đều là tướng giỏi cả mà bị giết. Với tình thế như vầy, nếu không có mấy tàu chiến của Bá Đa Lộc, thiển nghĩ Nguyễn Phúc Ánh vẫn tắng được Tây Sơn. Do đó, việc cầu cứu nước Pháp là vô ích, và để tiếng xấu muôn đời. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh thống nhứt được giang san và lên ngôi lấy hiệu là Gia Long.

C. Triệu Khuông Dẫn và việc chiếm ải Đồng Quan do danh tướng Cao Hành Châu trấn thủ.

- Đối thủ chết

Khi vua Hậu Châu là Quách Ngạn Oai muốn giết Triệu Khuông Dẫn nên ban chiếu:

Lãnh binh tam thiên, tốc thượng Đồng Quan

Cầm Cao Hành Châu, hồi dinh định đạt.

Trấn thủ ải Đồng Quan là Cao Hành Châu, vị tướng lừng danh bách chiến bách thắng. Lịnh vua ban là phải chiếm cho được ải Đồng Quan để lấy công chuộc tội. Nếu không chiếm được thì sẽ bị giết. Với ba ngàn quân là quá ít thì làm sao chiếm ải cho được. Khuông Dẫn ở vào thế lưỡng nan thì đành phải liều vậy.

Đi tới núi Côn Minh, gặp ăn cướp, Khuông Dẫn dụ được hai đầu mục là Đổng Long và Đổng Hổ, chúng dêm 8.000 lâu la nhập vào quân của Khuông Dẫn. Tới núi Thái Hành Sơn, gặp ăn cướp chận đường, Khuông Dẫn cũng dụ được hai tướng cướp là Châu Bá và Lý Thông. Đầu mục là Đỗ Nhị Công dẫn 5.000 lâu la đi theo. Phần còn lại giao cho vợ ở lại điều hành sơn trại. Quân Khuông Dẫn bây giờ gộp lại đã trên mười ngàn quân rầm rộ kéo tới ải Đồng Quan.

Lúc bấy giờ Cao Hành Châu chỉ là một sứ quân lẻ loi, ông lại bịnh nặng. Trung với nhà Hậu Hớn thì ông có thể liều thân báo quấc. Con ông thì không có chức tước gì mà bắt phải liều thân thì tội nghiệp nên bắt vợ con phải về quê sanh sống.

Quân Triệu Khuông Dẫn tới khiêu chiến mấy ngày nên Cao Hành Châu cho khai ải xuất chiến. Ông mới đứng dậy định leo lên lưng ngựa thì té nhào xuống bất tỉnh. Thấy bịnh tình mỗi ngày một nặng, liệu không đánh được, ông tự tử để tròn danh tiết. Viên phó tướng đầu hàng dâng ải cho Triệu Khuông Dẫn. Rõ ràng là cơ trời đã chuyển, không ai kéo lại được đâu. Do đó trong cách hành xử, ta tự lực là chánh.

Khánh Hội – Quận 4 Saigon ngày 07-6-2018

Phạm Hiếu Nghĩa

Phụ bản IV

NHÂN KỶ NIỆM 200 NĂM SINH VÀ 140 NĂM MẤT

CỦA VĂN HÀO NGA FEDOR DOSTOIEVSI

(1821-1881)

Có một cây “đại thụ” của cánh rừng “đại ngàn” văn học Nga (chữ dùng của cụ Nguyễn Tuân) – Văn hào Fedor Dostoievski (1821-1881) đã đến với giới bạn đọc Việt Nam ngay từ những thập niên của thế kỷ vừa qua (thế kỷ XX). Mà lại thật là đặc biệt, tác phẩm của F.Dostoievski mãi lâu về sau mới được dịch sang tiếng Việt, nhưng chính văn hào đã có mặt trong sáng tác của người Việt ngay từ cuối những năm 30. Ấy là trong tiểu thuyết Người thất thế (1938) của nhà văn Nam Bộ Hồ Biểu Chánh (1885-1958) hay tiểu thuyết Bướm trắng của nhà văn Bắc bộ Nhất Linh (1896-1963), những tác phẩm văn học Việt Nam, sớm mang dấu ấn của văn hào Nga Fedor Dostoievski: những tác phẩm văn học Việt Nam này rõ ràng đã được phóng tác theo bộ tiểu thuyết đồ sộ hàng nghìn trang nổi tiếng Tội ác và trừng phạt của Dostoievski. Được tiếp cận với sáng tác của Dostoievski qua các bản dịch tiếng Pháp, tiếng Anh, hay những bộ phim của các đạo diễn Pháp, Mỹ… dàn dựng theo bộ tiểu thuyết của Dostoievski sớm được đưa sang chiếu rộng rãi ở các thành phố lớn nước ta khi đó. Cả một thế hệ độc giả, khan giả thanh niên Việt Nam, trong đó trước hết là nhiều cây bút Việt Nam đã có tên tuổi lúc đó, đã sớm chịu ảnh hưởng của F. Dostoievski qua con đường tiếp cận “khúc xạ” như thế.

Nhà văn Nguyễn Tuân (1910-1987) chẳng hạn “Trong buổi nhố nhăng” Nhật – Pháp năm 1942 đã bị Tây bắt giam ở Sở Liêm phóng. Trong nhà giam Nguyễn Tuân đã nhắn cha mình gửi vào cho được ba bộ Tội ác và trừng phạt cùng Bút ký từ ngôi nhà chết của F. Dostoievski để nghiền ngẫm. Được tha, Nguyễn Tuân tiếp tục đọc cho đến sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công để rồi đi kháng chiến chống Pháp mới tạm ngừng đọc “Dốt”.

Về sau, kháng chiến thắng lợi. hòa bình được lập lại, rồi cả đất nước thống nhất tác phẩm của văn hào Nga F. Dostoievski lần lượt được các thế hệ người dịch chuyển ngữ sang tiếng Việt. Bước đầu lẻ tẻ các tác phẩm nhỏ, như Những đêm trắng…, tiếp theo là các bộ tiểu thuyết đồ sộ, chủ yếu của ông và ngày nay bạn đọc chúng ta có thể tìm hiểu F. Dostoievski qua bộ tuyển tập 6 tập (NXB Văn học và TTVH NN Đông Tây) ra những năm 1999-2008, bộ tuyển tập 10 tập (NXB Nga Premitem Lokid và Quỹ Hỗ trợ quảng bá văn học Nga – văn học Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam ra từ năm 2012 – 2019).

Nhân dịp kỷ niệm đáng nhớ 200 năm sinh của văn hòa Nga Fedor Dostoievski (1821-1881) đồng thời là 140 năm mất của ông, chúng tôi cũng xin đóng góp thêm chút đỉnh để cùng đông đảo bạn đọc Việt Nam tỏ lòng yêu kính và biết ơn một trong những thiên tài văn hào Nga Fedor Dostoievski.

ĐỀ TỪ DƯỚI CHÂN DUNG DOSTOIEVSKI

Nhà thơ I.F.Annerski (1855-1909)

Trong ông Lương tâm đã làm nên nhà tiên tri và thi sĩ.

Trong ông từng sống cả anh em nhà Karamzov, cả lũ ma quỉ

Nhưng cái mà bây giờ là ánh sáng dịu dàng cho chúng tôi

Chính là ngọn lửa nóng nung thiêu đốt cuộc đời Người.

Thúy Toàn dịch

DANH NGÔN CỦA FEDOR DOSTOIEVSKI

+ Những con người ưu tú phát lộ ra ở sự phát triển đạo đức cao và ở ảnh hưởng về đạo đức cao.

+ Con người là cả một thế giới, chỉ cần có sự thức tỉnh cơ bản cái cao quí trong con người đó.

+ Hiểu biết và cảm nhận thậm chí vừa chính xác và ngay tức khắc, nhưng để trở thành một con người thì không thể ngay tức khắc, mà phải tạo tác ra con người.

- Ai dễ dàng thiên về đánh mất niềm kính trọng đói với mọi người, người ấy trước hết không tôn trọng bản thân mình.

+ Tôi không thể hình dung ra cảnh tượng có một lúc nào đó lại không biết mình phải làm gì.

+ Tốt hơn cả là bằng lao động và tranh đấu để đạt được sự độc đáo và tình cảm về phẩm hạnh bản thân mình.

+ Dẹp bỏ trong bản thân nghĩa vụ và không thừa nhận trách nhiệm, trong khi đó lại đòi hỏi mọi quyền lợi cho mình, chỉ có là lũ lợn.

+ Một người hoạt động chân chính, bước chân lên đường, lập tức nhìn thấy trước mình là biết bao công việc, không thể buột miệng mà than thở, rằng người ta không giao việc gì cho mình, mà nhất thiết tìm ngay ra và làm được một việc gì đó tốt đẹp.

+ Không có các lý tưởng, nghĩa là không, ít ra là những mong muốn cụ thể một điều tốt đẹp hơn thì không bao giờ có thể có được một hành động tốt đẹp nào.

+ Loài người không thể sống, không có những ý tưởng khoan lượng, tha thứ.

+ Con người có thể có những sai lầm. Sai lầm không phải là sự giả đối, không chặn đứng… Sự nghiệp chính nghĩa không thể chết đứng chỉ vì ít nhiều có những sai lầm: ý tưởng, trên đó mọi cái dựa vào, sẽ còn bền vững mãi. Bước thứ nhất không đạt được, sẽ đạt được ở bước tiếp theo.

+ Không có những phôi thai khả dĩ và tốt đẹp không thể đưa con người vào thời thơ bé, không có những mầm mống khả dĩ tốt đẹp không thể đưa một thế hệ lên đường.

+ Không phải trí tuệ là cơ bản, mà hướng dẫn cho trí tuệ là bản thể, là trái tim, là những bản chất cao thượng.

+ Có trí tuệ, chính là đạt được cái mà anh muốn có.

+ Để hành động một cách khôn ngoan, riêng có trí tuệ vẫn chưa đủ.

+ Người cười một cách sảng khoái là con người tốt.

+ Hài hước chính là hóm hỉnh, ý nhị của một tình cảm sâu sắc.

+ Có người bằng tiếng cười bộc lộ toàn bộ bản thân ra, và anh đột nhiên nhận chân ra người đó… Nhưng tiếng cười trước hết phải chân thành.

+ Một dấu hiệu xấu là khi không còn biết hiểu sự hài hước, bóng gió, bông đùa.

+ Không ngạc nhiên bất cứ điều gì, chính là dấu hiệu của sự ngu đần, chứ đâu phải là sự thông thái.

+ Đứa ngu dốt hiểu được rằng mình ngu dốt, chính là đứa không còn ngu dốt.

+ Một sự thật đáng ghi nhớ: Chúng ta bằng ngôn ngữ mới trưởng thành và non trẻ có thể truyền đạt được những hình thái sâu sắc nhất của tinh thần và tư tưởng của các ngôn ngữ phương tây.

+ Những tư tưởng hay đòi hỏi được xứng với một văn thể sáng ngời, văn thể đó có thể nói, là bộ y phục bề ngoài, còn những tư tưởng đó là tấm thân dưới lần y phục.

+ Hãy học hỏi và đọc sách. Hãy đọc những cuốn sách nghiêm chỉnh. Cuộc đời sẽ làm phần còn lại.

+ Có ba loại những kẻ đê mạt trên thế gian: những kẻ đê mạt ngây ngô, có nghĩa, những kẻ tin tưởng rằng, sự để mạt của chúng là sự hào hiệp cao cả nhất; những kẻ đê mạt, tự thấy xấu hổ về sự đê mạt của mình trong ý đồ tất yếu dù sao đi nữa cũng phải làm cho đến cùng, và cuối cùng là là những kẻ đê mạt, những kẻ đê mạt thực thụ.

+ Tính cách cao cả nhất và điển hình nhất của nhân dân ta – đó là tình cảm công bằng và sự khát vọng lẽ công bằng.

+ Không có màn sương mù nào che được những tia sáng của sự thật.

+ Trong số kẻ thù đôi khi có kẻ có ích hơn, là trong giới hạn bè.

+ Tình yêu có sức mạnh đến mức tái sinh được của chính chúng ta.

+ Sức mạnh không ở trong những lời chửi bới.

+ Lòng tự ái và tự phụ quá mức không phải dấu hiệu của phẩm chất tốt đẹp của bản thân.

+ Chỉ những quân vô loại mới điêu ngoa.

Thúy Toàn dịch theo sách

Bản giao hưởng trí tuệ

Của V.L-Vorontsov

NXB “Đội Cận vệ thanh niên”

Moskva 1977

+ Thế gian sẽ được cái đẹp cứu giúp.

+ Ngừng đọc sách – có nghĩa là ngừng suy ngẫm.

+ Không có mục đích, cuộc sống sẽ nghẹt thở.

+ Hạnh phúc không ở trong hạnh phúc, mà trong sự đạt tới hạnh phúc.

+ Chân lý không có tình yêu là sự giả dối.

+ Con người tìm ra thời gian cho mọi việc mà anh ta thực sự muốn làm.

+ Chỉ cần đòi hỏi rất ít để hủy hoại con người: làm cho anh ta thấy ra là sự nghiệp anh ta theo đuổi, không cần cho ai cả.

+ Không phải xấu hổ vì không biết, mà phải xấu hổ vì không chịu học.

+ Nếu như anh lên đường đi tới đích, mà trên đường cứ dừng bước nhặt đá ném trả mọi con chó rồ ra sủa anh, thì chẳng bao giờ anh đi tới đích.

+ Yêu con người, nghĩa là nhìn thấy người ấy đúng như Thượng thế tạo nên.

+ Đừng đem những hậm hực bức bối làm rác ký ức, kẻo chẳng còn chỗ cho những giây phút tươi đẹp.

+ Cố gắng đọc những cuốn sách thông minh và nghiêm chỉnh, còn cuộc sống sẽ làm nên phần còn lại.

+ Tôi có quyền nhìn cuộc sống bằng đôi mắt của tôi…

+ Điều chủ yếu – đừng lừa dối chính mình!

+ Không thể yêu cái mà ta không biết.

+ Muốn chiến thắng thế gian, chiến thắng chính bản thân mình.

+ Con người – chính là trận địa giữa Thượng đế và quỉ dữ.

+ Ai muốn làm điều có ích, thậm chí hai tay bị trói buộc cũng có thể làm được.

+ Nhà văn, viết ra tác phẩm không thành công, dễ dàng trở thành nhà phê bình cay độc, giống như rượu vang tồi có thể trở thành thứ dấm tuyệt hảo.

+ Lòng trắc ẩn có thể, chính là qui luật duy nhất tồn tại của nhân loại.

+ Có ba điều mà phần lớn con người e sợ: tin cậy, nói sự thật và là chính bản thân mình.

+ Con người bất hạnh bởi vì không biết là mình hạnh phúc.

+ Bất cứ ai trong đời cũng có những ngày phải nén chịu.

+ Người muốn chân lý, đã mạnh mẽ khủng khiếp.

+ Im lặng – là một tài năng lớn.

+ Điều quan trọng nhất trong quan hệ yêu đương – mong muốn được ở bên nhau.

+ Mọi thứ trong đời là tạm thời cả. Nếu như mọi cái tốt đẹp – hãy tận hưởng, tình trạng đó không kéo dài mãi mãi. Còn, nếu như mọi cái điều tồi tệ, cũng chẳng phải buồn phiền, điều này cũng chẳng mãi mãi.

+ Giữa quỉ sứ và con người khác nhau như thế nào? Mefistofel của Gơte nói: Tôi là một phần của cái phần tổng thể, phần muốn điều ác, nhưng lại làm điều tốt! Chao ơi! Con người đã có thể nói về bản thân mình điều hoàn toàn trái ngược.

+ Toàn bộ nửa phần thứ hai của cuộc đời con người bao gồm thường chỉ là từ những thứ tích lũy được những thói quen cho phần đầu.

+ Những con người thông minh thường làm nhiều điều ngu ngốc hơn những con người hạn chế.

+ Trong tình yêu trừu tượng đối với nhân loại hầu như bao giờ anh cũng chỉ yêu chính bản thân mình.

+ Trong trái tim thực sự yêu hoặc là sự ghen tuông giết chết tình yêu, hoặc tình yêu giết chết sự ghen tuông.

+ Con người là một điều bí mật. Cần phải đoán ra bí mật đọ, và nếu như suốt đời anh đoán nó thì đừng nói là mất hết cả thời gian… tôi nghiền ngẫm về bí mật ấy, bởi vì tôi muốn thành con người…

+ Điều tốt đẹp hơn còn ở phía trước! Đơn giản là phải tin điều đó.

+ Con người thích đong đếm những tai vạ rủi ro, nhưng không đo đếm những niềm vui.

+ Cuộc sống không có tình yêu, không phải cuộc sống mà chỉ là sự tồn tại. Không có tình yêu không sống nổi, con người được ban phát tâm hồn là để yêu thương.

+ Người Nga thường hay cười ở chỗ, đúng ra phải khóc.

+ Phẩm chất cao thượng nhất và mạnh mẽ nhất – đó là tha thứ! Nhưng không thể tha thứ, mà không yêu thương! Yêu và tha thứ kẻ thù của mình chỉ có thể là con người có Thượng đế trong tâm hồn.

+ … Đằng ấy đỏ mặt… Đó là tính cách của một trái tim đẹp…

+ Mọi con người đều quanh quẩn bên trái tim mình, mọi con người đều tự giãi bầy với bản thân mình không biết mệt. Tội lỗi của mình không sợ, thậm chí cả khi đã nhận thức được nó. Giá mà chỉ cần biết ân hận. Đừng đưa ra những điều kiện với Thượng đế. Đừng căm ghét những kẻ quay lưng lại các người, làm nhục các người, chửi bới các người và vu khống các người.

+ Thời gian tốt đẹp không rơi từ trên trời xuống, mà chúng ta tạo ra nó, nó nằm ở trong tim chúng ta.

+ Sống, có nghĩa là làm ra một tác phẩm nghệ thuật từ chính mình.

+ Mọi người có biết rằng điều cao cả nhất và mạnh mẽ nhất, và mạnh khỏe nhất và có ích nhất phía trước cuộc đời, là hồi ức tốt đẹp nào đó, và đặc biệt láy ra từ tuổi thơ, từ nhà hộ sinh.

+ Những suy nghĩ vĩ đại đến không chỉ từ trí óc vĩ đại, mà còn từ tình cảm lớn.

+ Con người tự tạo ra những điều đau sót, rồi lại còn than vãn nữa.

+ Chẳng lẽ giúp đỡ không là dấu hiệu của sức mạnh đạo đức (“Chàng ngốc”).

+ Nếu muốn chiến thắng cả thế giới, hay chiến thắng bản thân mình (“Lũ quỉ ám”).

+ Tôi từ lâu đã thôi đặt ra câu hỏi cho mình: Thượng đế tạo ra con người hay con người tạo ra Thượng đế.

+ Hạnh phúc vĩ đại nhất – đó là biết ra chí ít là do đâu không hạnh phúc.

+ Tôi đọc lại cái mà bây giờ tôi viết ra và tôi thấy rằng tôi thông minh hơn nhiều cái mà tôi đã viết ra.

+ Tốt hơn là không hạnh phúc, nhưng biết được rằng hạnh phúc do đâu và sống làm thằng ngốc (“Chàng ngốc”).

+ Thời gian – đó là mối tương hỗ giữa tồn tại và không tồn tại.

+ Không có gì trong thế gian khó khăn hơn là tâm hồn ngay thẳng và không có gì dễ dàng hơn là đi nịnh nọt.

+ Hãy trở thành mặt trời – thế là mọi người thấy bạn.

Thúy Toàn đọc nhặt ra và dịch.


VỀ QUÊ NỘI (tiếp theo)

Truyện ngắn

Có tiếng sụt sùi của má tôi đang cất lên làm cả hai bà cháu sực tỉnh,trở về hiện tại, bà nội lau nước mắt, ngoắt má lại gần, nghẹn ngào:

-" Vợ Út Vinh đừng buồn giận mẹ nghe con,tại mẹ cạn nghĩ,nghe lời xúc xiểm của Hai Viên mà đưa con về trút gánh nặng cho ba má con, làm gãy đỗ tình thân,vợ chồng chia cách,dâu của mẹ phải cực khổ trăm bề, ba chồng con lúc sanh tiền đã rầy rà mẹ biết bao nhiêu, ông cứ băn khoăn, lo lắng cho vợ Vinh hoài không lúc nào quên,cho đến trước khi mất còn dặn lại phải tìm kiếm con về đây, nhưng rồi thời cuộc loạn lạc, lớp gia đình, điền sản tiêu tán, thằng chồng bây lại đi biền biệt mấy năm trời, mẹ rối rắm không biết làm sao cho trong nhà trong cửa yên bề, phần tới lúc Gia Mỹ, Gia Hương thành gia thất mẹ phải chu toàn bổn phận cha mẹ.

Mẹ xin lỗi con dâu,con hãy tha lỗi cho mẹ. Nghe mẹ chồng mình hạ mình xin tha thứ như vậy, Mầu hết sức cảm động, càng khóc lớn và thổn thức nói:

- "Con không hề giận cha mẹ,mẹ không có lỗi gì cả, chỉ tại hoàn cảnh lúc xưa xảy ra như vậy, và con phải chịu thôi, bây giờ may cũng có chồng con thương yêu lo lắng cho ba mẹ con được hạnh phúc tròn vẹn, phận làm con là phải hiếu kính cha mẹ, đền đáp công sinh thành dưỡng dục, cha
mẹ hai bên đều bằng nhau chúng con đều phải hiếu thảo.

Ba tôi cũng không ngăn được sự xúc cảm nói với bà nội :

- " Từ nay vợ chồng con và các cháu sẽ cùng chăm lo phụng dưỡng cho mẹ, mẹ cứ yên tâm đi"

Nét mặt bà nội tôi lúc này như giản ra, thanh thản và vui vẻ :

- " Mẹ cám ơn các con, cháu hết thảy, thôi bây giờ mấy đứa ra nhà sau rửa mặt nghỉ ngơi thay đồ ngắn trong nhà đi.

À, sẵn đây mẹ nhờ vợ Út Vinh xuống nhà ngang sắp xếp lễ kiêng thường, và đám giỗ của ba con ngày mai với đám người làm nghe con.Mẹ đã cắt đặt Hai Viên đi chợ hôm
qua rồi, nhưng con xem còn thiếu thốn gì, thì cho mẹ hay biết nghe.

Nói xong bà quay vào buồng nằm nghỉ.

Má tôi dạ tiếng nhỏ rồi bước liền x u ống nhà sau, ba tôi cũng dợm đi theo nhưng tôi đã kịp níu tay ông lại nhõng nhẽo đòi ông dắt đi thăm vườn tược của ông bà nội . Lòng tôi lúc nầy lâng lâng một nỗi niềm khó tả,nửa vui, nửa lao xao
thương cảm, thương má tôi nửa đời tuổi xuân lận đận, khó nhọc, còn vui vì mình đã tìm lại được tình thân tộc.

Cô Hai Viên gặp lại ba má tôi trong sự hối hận về cách đối xử với em ruột vì ganh tị, hẹp hòi, nhưng ba má đều bỏ qua hết mọi việc hồi xa xưa, cho gia đình vui vẻ sum họp.

Và cách mấy hôm trước, tôi lại nghe ba má ngồi bên nhau nói chuyện về việc bà ngoại nhắn tin cho hai ông bà về Thới Trung Hốc Môn sau bao năm tháng lìa bỏ quê hương của người con gái xinh đẹp một thời "Mười tám thôn vườn trầu" .

Má tôi hẳn vui mừng lắm, vì từ ngày đó, bà như trẻ lại,không còn nỗi buồn phảng phất trên gương mặt, và tôi cũng vậy, tôi vui mừng vì được về QUÊ NỘI, nhận họ hàng thân thuộc, vui cùng niềm vui của cha mẹ thân yêu./.
Hết,

Hoài Ly


SẮC MÀU TÌNH YÊU

Truyện ngắn

Một lần, trong cơn say rượu, thằng em kết nghĩa lè nhè: - Này, chị tưởng chị sáng tạo... văn học đấy à? Lầm to!

Tôi ngượng ngùng:

- Eo ơi, chị có tưởng vậy bao giờ. Chú lầm rồi.

Nó kề khuôn mặt đỏ lừ nực nồng mùi men chua loét gần sát mặt tôi, nói như quát:

- Không, tôi không lầm. Chị không có sáng tạo gì ráo. Chị chỉ là một người ghi chép.

Biết cãi với người say chỉ thêm tức, tôi đấu dịu:

- Ừ, thì ghi chép, cũng đúng!

Nó chồm tới, cặp mắt đỏ ngầu:

- Phải! Ghi chép thôi! Chị nhìn lại đi, tác phẩm của chị thế nào? Nói lên điều gì? Chỉ có mỗi một vấn đề giáo dục cứ được lặp đi lặp lại, nhào nặn, vo tròn, bóp méo!

Cảm thấy bị xúc phạm nhưng tôi cố gắng nghĩ rằng đấy chỉ là rượu nói, không phải thằng em kết nghĩa muốn làm mình đau đớn, nghẹt thở, bực tức, giận dữ...nhưng tôi cố nén, tôi không muốn tình nghĩa chị em biến mất khi tôi thốt ra những câu khó nghe. Im lặng! Tưởng tôi ngủ gật, nó vỗ mạnh vào vai tôi:

- Phải không chị?

- Phải!

Tôi gật đầu. Mong nó về quách cho xong. Nhưng, nó lại thản nhiên bật bếp gas, bắc ấm nước lên. Nó định châm trà. Vậy là khổ! Sắp phải chịu đựng. Nghe và nghe! Không gì chán cho bằng nghe một người say nói. Liên miên. Nhắc đi nhắc lại mãi những câu mà nghe đã thuộc lòng. Đã vậy, còn phải nhìn khuôn mặt đỏ rật như da gà chọi đang cơn say máu.

Phải giật mình thon thót khi cặp mắt đỏ quạch trợn trừng, trợn trạo cứ nhắm thẳng vào mình. Phải ngó hai cánh mũi phập phồng, giần giật, hỉnh lên. Và, phải ngửi mùi chua loét phà vào mặt mình. Tôi ngao ngán tựa lưng vào thành ghế, vòng tay ra sau ót, đỡ lấy cái đầu tội nghiệp của mình. Nước sôi, nó tự động lấy một vốc trà ném vào bình. Nhiều cọng trà rơi lợt đợt ra ngoài, chẳng buồn nhặt, nó châm nước. Bật cười hô hố khi thấy nước tràn ra ngoài, khiến cho những cọng trà vương vãi trên bàn cựa mình xòa lá mềm mại.

Thế là đi đời cái khăn trải bàn mới mua. Lớp nhựa sẽ co lại rúm ró như mặt bà già. Đoán được ý tôi nó hất hàm:

- Mai, em mua cái khác đền cho.

Nguýt xéo, tôi gầm gừ:

- Mệt quá!

Kéo ghế, ngồi đối diện tôi, nó rót hai tách trà rồi bưng bằng hai tay, đưa ngang mày:

- Tiền chủ, hậu khách. Mời chị!

Bật cười, tôi nhận xét:

- Khùng quá, chú ơi!

- Chị biết tại sao em khùng không?

- Tại sao?

- Đọc truyện ngắn của chị.

Tôi đỏ mặt vì tức nhưng cố gắng không nói gì hết. Nó cười ha hả, gật gù:

- Im lặng là vàng. Lầm to, trường hợp này, im lặng là... đồng ý. Mà bà chị chối cũng không được. Truyện của chị cứ xoay vòng nghề giáo.

Cho chị biết, bài nào em cũng có đọc ráo trọi. Đọc xong, chóng mặt. Vì xoay vòng vòng.

Thở hắt ra, tôi phân bua:

- Chú nói cũng đúng. Nhưng tôi là giáo viên thì viết về giáo dục là đương nhiên rồi.

Vừa nhấm nháp trà, nó vừa nhìn chằm chằm vào mắt tôi. Hình như nó không say. Nó chỉ mượn rượu làm tấm bình phong che dấu bản chất nhu nhược và dùng rượu để khơi dậy tính hiếu thắng của một thằng nhóc thường xuyên thất bại. Tội nghiệp! Tôi dịu giọng:

- Chú nói đúng lắm.

Nó chụp lấy cơ hội:

- Đấy, chị chịu rồi chứ gì. Bà chị ơi, thường ngày phải lên lớp, chị chưa thỏa sao mà bắt cái ngòi viết cũng... lên lớp. Nhân vật của chị cũng lên lớp dài dài.

Tôi bật cười:

- Theo chú, tôi nên viết như thế nào, về cái gì?

Nó ưỡn ngực, khoác tay:

- Cái gì cũng được ráo. Miễn đừng có giáo dục trong đó. À, có thể là chuyện... lừa đảo, chuyện... ma, chuyện tình, chuyện các Sao lộ hàng...

- Những thể loại đó, đề tài đó tôi... đâu có nắm vững.

Với lại có nhiều cây bút lão luyện đã chọn chúng rồi. Họ rất thành công. Còn tôi, làm sao dám múa rìu qua mắt... nhà văn. Tôi chỉ là người ghi chép như chú vừa bảo. Muốn viết, phải có vốn sống, mà tôi...

- Thì chị hãy mau tiếp cận với môi trường đó, kiếm vốn.

Nghĩ đến chuyện bôn ba để gần gũi đối tượng... tôi phát ngán:

- Thôi, chị đầu hàng.

Bỗng dưng nó giận dữ, thét to đến nỗi tôi giật nẩy mình:

- Dở, quá dở! Vậy thì đừng viết nữa, gác bút đi!

Nó đứng lên, xô ghế sang một bên, lừng lững đi ra cửa. Bóng tối chụp xuống dáng người thiểu não. Trong này, ánh đèn sáng quắc, gay gắt, nhức nhối. Tôi bật khóc.

Từ hôm ấy, tôi gác bút. Bao nhiêu cảm hứng, niềm vui trong sáng tạo đã biến mất. Tôi dật dờ, ngơ ngẩn như một mụ dở hơi. Chẳng biết mình muốn gì và sẽ làm gì. Quanh quẩn toàn những chuyện vặt vãnh, tủn mủn của đàn bà. Làm bếp, ăn uống, dọn dẹp và ngủ. Đáng lẽ, tôi phải béo ra, hai gò má chảy xệ, da loáng mỡ. Nhưng, trái lại. Tôi như cái xác khô. Vô cảm! Mùa hè tới. Trường học đóng cửa, càng nản hơn. Thời gian cứ trôi, rất chậm. Tôi ra vào, vào ra, bức bối. Cuối cùng, quyết định phải viết thôi. Một câu chuyện không có giáo dục trong đó. Hình sự hoặc là kinh dị chẳng hạn. Không thì...

Sáng nay, tôi dậy sớm. Trời trong vắt không một gợn mây. Hơi sương mát rượi. Trên vòm cây sau nhà, chim ríu ran hót chào ngày mới. Tôi hân hoan nhận ra niềm vui đã trở lại với mình. Không chần chừ, tôi vào nhà, mang cây bút và quyển vở ra sau vườn, định đến ngồi bên ngôi mộ cổ, dưới vòm cây ngọc lan. Nơi mà thuở bé tôi vẫn thường chơi trốn tìm. Tôi sẽ viết ở đó, chứ không phải ở cái bàn đặt cạnh cửa sổ, trông ra vườn sa ri của ngoại. Tôi bắt đầu chán cái thế giới quen thuộc và những bài viết cũ của mình. Thằng em kết nghĩa nói đúng. Cần phải luôn luôn đổi mới phong thái viết lẫn nội dung. Để cái nghề dạy học của tôi ngủ yên mà thoát ra... một lối khác, như nghĩa địa chẳng hạn.

Khung cảnh ở đây khiến tôi giật mình sửng sốt. Chao ôi, lạ hoắc lạ huơ. Như một nơi chưa hề đặt chân tới. Mới hôm nào, thanh minh, nó vẫn... y sì, âm u, yên tĩnh. Vậy mà... Ngôi mộ cổ bị nhốt trong vòng rào khác. Bỗng dưng tôi nhớ đến ngôi mộ xây bằng gạch men xanh, màu trời quang. Ngôi mộ của một cô gái trẻ chết vì... mộng du trong thế giới tình yêu. Bị tình phụ, buồn và chết. Một cái chết vô nghĩa. Rẻ rúng. Chỉ vì một cái đồng hồ mạ vàng cô tặng người mình yêu. Và người cô yêu tặng lại cho người hắn yêu.

Cái đồng hồ, thước đo thời gian ấy bỗng trở thành thước đo tình yêu.

Một vật thể biểu hiện tình yêu. Mất nó, đời đáng chết. Và, cô chết.

Người ta đem cô ra đây, đặt dưới mái vòm tráng men bóng loáng, màu hy vọng. Hy vọng bắt gặp tình yêu vĩnh cửu.

Bây giờ cái màu xanh ấy biến mất. Nơi đó là một khoảng sân tráng xi măng phẳng lì, ghép nối những viên gạch tàu đỏ au. Màu chiến thắng!

Trên đó, rải rác những chậu hoa kiểng, đẹp và sang. Vẻ giàu có thắng thế, chiếm lĩnh khoảng không gian dành cho người chết.

Một người đàn ông tóc hoa râm hiện ra ở khung cửa, hách dịch hất hàm:

- Dòm ngó gì đó, cô?

- Tôi tìm ngôi mộ xanh. Tôi giật mình, ấp úng.

Như để nhìn rõ mặt tôi, ông ta bước đến chỗ rào, gần nơi tôi đứng:

- Lấy cốt rồi.

- Ồ, ai lấy vậy, ông?

- Tôi

- Ủa, lạ vậy kìa? - Tôi ngạc nhiên, kêu lên. Người đàn ông kiêu hãnh:

- Đâu có gì lạ. Ba má cô ta đồng ý mà. Năm chỉ vàng chớ ít ỏi gì. Tôi phải chi năm chỉ mới xong việc.

Tôi kinh hồn trước sức mạnh vạn năng của đồng tiền, lắp bắp:

- Linh hồn cô ta sẽ về đâu?

Bật cười ha hả, gã đàn ông nhìn tôi như nhìn một người từ hành tinh khác vừa tới.

- Có lẽ lên thiên đàng hoặc xuống địa ngục.

Hắn nói đúng. Chỗ này không dành cho tình yêu mà là nơi phơi bày lòng tham không đáy. Ngôi nhà to thế kia, còn chưa đủ. Vươn tới, vươn tới, lấn dần đất mộ. Không còn chút hứng thú nào để viết lách, tôi bỏ vào nhà. Nghe tôi kể lể, tức tối mẹ tôi thản nhiên bảo:

- Thôi đừng để ý chuyện người ta nữa. Lo làm để có cái ăn, cái mặc.

Sao con không ngồi viết ở góc nhà, ra ngoài đó làm chi cho bực bội.

Mẹ tôi xách giỏ đi chợ. Thằng em kết nghĩa cũng vừa tới cửa theo sau là một cô gái trẻ, xinh xắn. Hôm nay, trông chú em có vẻ tươi tỉnh, hạnh phúc khác thường. Quần áo thẳng thướm. Mái tóc bù xù bấy lâu được cắt tỉa khéo léo, bóng mượt. Đến trước mặt tôi, nó xoa hai tay vào nhau, cười cầu tài:

- Chị.

- Chú mới tới, còn...

- Đây là người yêu của em.

Ra vậy! Cô bé thẹn thùng, hai gò má bừng đỏ, miệng cười e ấp, duyên dáng. Tôi buột miệng: “Em xinh lắm!” Thằng em kết nghĩa như lá cờ gặp gió lớn, phấn khởi: “Em chết vì nụ cười của nàng đấy!” Cô gái lúng túng, liếc dài: “Anh này!”

Tôi bật cười. Thằng em trời ơi, đất hỡi nói luôn một mạch:

- Chị, nàng rất thích những bài viết của chị nên muốn làm quen. Nàng thường bảo bài chị viết thường gợi trong lòng nàng dòng cảm xúc đặc biệt. Chị giáo dục bằng nghệ thuật.

- Không dám, chú cho tôi lên tàu bay giấy à? Chú có nghĩ như vậy không?

Nó cười toe toét, đáp tỉnh queo:

- Em cũng đồng ý với người em yêu. Tuy hai mà một đấy! Bà chị thân yêu.

Nheo mắt, nó tiếp:

- Chị đã dùng ngòi bút để nói lên mơ ước hoàn thiện cuộc sống.

Tôi bật cười. Ôi, cái thằng em kết nghĩa và tình yêu. Tôi nhớ đến những bức tranh nó vẽ. Toàn những gam màu tối. Một khuôn mặt u ẩn, hốc hác, dài thượt. Thiếu nữ trong tranh thường phải đội một con bồ câu xoải cánh, hoặc một hàng cây trụi lá, dọc theo con đường vắng ngắt, cô quạnh. Toàn cảnh buồn bã, đơn điệu. Từ nay, chẳng biết nó sẽ ghi chép gì trên khung lụa. Tôi chợt nhớ đến trang giấy trắng, chưa viết dòng nào và cây bút gác.

Nguyễn Thị Mây (Trà Vinh)


MỤC LỤC

Chi tiết về cuộc họp ngày 13/11/2021 ......... Vũ Thư Hữu ............ 03

VÀI CHI TIẾT VỀ MỘT CUỐN CỔ THƯ 122 TUỔI ĐỜI MÀ MÌNH MỚI CÓ CƠ DUYÊN GẶP LẠI
Vũ Anh Tuấn ........... 10

Lịch sử Giáo Hội Cộn g Giáo (tt- số 177 )
Bosco Nguyễn Văn Đình, Ofm & Giuse Nguyễn Hữu Triết . 14

LÝ THUYẾT & THỰC HÀNH ĐẠO PHẬT
Tâm Nguyện ............ 23

ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TÔN GIÁO
RA ĐỜI Ở NAM BỘ .............................. Phạm Vũ ............ 43

CẬU BÉ VÔ GIA CƯ
VÀ TẤM BẰNG ĐẠI HỌC HARVARD
Mỹ Quyên - Lệ Ngọc st ........... 57

NHỮNG MẪU TRUYỆN NGẮN

Đào Minh Diệu Xuân st ....... 63

Đàn Vịt Trời ...................................................... 63

Tiếng Vang ............................................................. 64

Tuy xa mà gần ........................................................ 65

Tạm thời (Vô thường) ............................................. 66

An hưởng cuộc đời ................................... 67

VÀI CHUYỆN ĐÁNG SUY NGẪM
Hà M nh Đoàn - Hoàng Chúc st. ...... 68

Chịu phạt thay ............................................. 68

Thế giới ảo ............................................... 69

Trời động lòng vì người hiếu hạnh ....................... 71

Nghịch lý ................................................ 75

Đợi Chờ ........................... Đàm Lan ........... 78

Quê Mùa ............................ Ngụy Kỳ Nam ........... 79

Mùa Nước Nổi ......................... Ngụy Kỳ Nam ........... 79

Tiếng gọi quê hương .................. Ngụy Kỳ Nam .......... 80

Lính tình nguyện Việt Nam ................. Ngụy Kỳ Nam .......... 80

Thụy Miên ............................. Ngàn Phương ........... 81

Lời ru sỏi đá ............................ Ngàn Phương ........... 82

Người em chồng ........................... Thúy Mai .......... 83

Sống theo dịch bệnh .................. K.H Quang Bỉnh .......... 85

Vượt Khó ........................... K.H Quang Bỉnh .......... 85

Cầu treo Mỹ Thuận .......................... K.H Quang Bỉnh .......... 86

Kính phục anh! ......................................... Thanh Vĩnh .......... 87

Đền Bạch Mã ................................. Thanh Vĩnh .......... 87

Hồng Thắm Ngàn Sau ............. Trần Nguyên Phò ........... 88

Lửa Thiêng ......................... Thanh Vĩnh .......... 88

Về quê ................................. Kim Thoa ........... 89

Sông quê (Sông Nam Ô) ................... Kim Thoa ........... 89

Dừng bước phiêu lưu .................. Tâm Nguyện ........... 90

Gặp Thầy ................................. Tâm Nguyện ........... 91

Cõi Mê Mộng Về .............................. Vũ Thùy Hương ........... 92

Thuở Ấy Sài Gòn ..................... Vũ Thùy Hương ........... 93

Vẫn Mãi Nguyện Cầu ............... Vũ Thùy Hương ........... 94

Bình Minh Gợi Nhớ .............. Vũ Thùy Hương ........... 95

Thơ là Binh pháp .......................... Lê Minh Chử ........... 96

Nói và Làm .............................. Lê Minh Chử ........... 96

Đến làng Kônxtantinôvô
Quê hương thi hào Nga Xergây Exênin
Trần Nhuận Minh ................ 97

VISITING THE KONSTANTINOVO VILLAGE, HOMELAND OF RUSSIAN POET SERGUEI ESSENINE
Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn ... 99

VÌ SAO HƯ BỘ NHỚ? ................ Hoàng Kim Thư st . ......... 102

CON CHIM BỊ MÙ? ......................... Bùi Đẹp st . ......... 105

BÀ MẸ TÂY ........................... Đỗ Thiên Thư st. ......... 108

TẬN NHƠN LỰC MỚI TRI THIÊN MẠNG
Phạm Hiếu Nghĩa ................. 124

NHÂN KỶ NIỆM 200 NĂM SINH VÀ 140 NĂM MẤT CỦA VĂN HÀO NGA FEDOR DOSTOIEVSI (1821-1881)
Thúy Toàn 129

VỀ QUÊ NỘI (tiếp theo số 177) ............ Hoài Ly ......... 139

SẮC MÀU TÌNH YÊU ................. Nguyễn Thị Mây ......... 142


|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
 156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
 161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
 171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
 176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
|  156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
|  161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
|  171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
|  176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
Netadong.com thiết kế