Hiện có 8 người xem / 2348082 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/01/2020

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn quý thư mà ông mới có. Lần này là lần đầu tiên ông giới thiệu với các thành viên hai cuốn bằng photocopy nhưng là hai cuốn rất đặc biệt.

Cuốn đầu là một cuốn bằng tiếng Việt mang tựa đề là Vương Dương Minh của tác giả Phan Văn Hùm (1902-1946) là một nhà văn, nhà báo, và là một nhà cách mạng quê ở Bình Dương. Còn Vương Dương Minh (1472-1529), là người mà cuốn sách nói tới, là một chính trị gia, triết gia, và tư tưởng gia nổi tiếng thời nhà Minh ở Trung Quốc. Là người chẳng quan tâm gì tới triết học và chính trị, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã rất thích cuốn sách photocopy này đơn giản vì nhiều năm trước cuốn sách này chính là ở trong tủ sách của ông, và đã bị mất khi ông cho một bà bạn mượn đọc và bà đã làm mất trên xe buýt. Nhiều năm trước ông đã mua cuốn sách này vì ông thích nó có mấy dòng chữ viết bằng Pháp văn của tác giả đề tặng một người tên là Phan Văn Chánh ngày 28/10/1944, và nhất là vì có chữ ký là một chữ “hùm” đơn độc, không viết hoa, tượng trưng cho một mãnh hùm, mãnh hổ. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã thích vì sau nhiều năm lại “tái hồi Kim Trọng” với chính cuốn sách của mình dưới dạng sách photocopy.

Cuốn thứ hai bằng Pháp văn mang tựa đề là Các chuyến đi và các sứ mạng của Lm Đắc Lộ (Voyages et Missions du Père A. de Rhodes) được xuất bản năm 1884 của tác giả H. Gourdin, một linh mục cũng thuộc Dòng Tên, và được in đúng theo bản nguyên thủy được in năm 1653, cộng với những ghi chú thêm của tác giả. Dịch giả Vũ Anh Tuấn thích cuốn sách vì nó sẽ phần nào giúp thỏa mãn tính tò mò của ông về những chuyện liên quan tới Lm Đắc Lộ và chữ Quốc ngữ, vì ngay lúc này đang có những tranh cãi lùm xùm, lải nhải vì công hay tội của Ngài, là những chuyện mà ông tuyệt đối không bao giờ dính tới, vì ông luôn quan niệm một cách cực kỳ bình dân và thiết thực là “những giá trị thật, sẽ tự chúng tồn tại, không người này biết thì người kia biết” đâu cần quái gì tới những tranh cãi lem nhem. Và ông đã mua cuốn sách để xem Lm tác giả H. Gourdin ghi chú thêm những chi tiết nào, đơn giản thế thôi. Trong lúc giới thiệu, hai cuốn sách và chữ “hùm” ký không viết hoa của tác giả Phan Văn Hùm, đã được đưa cho tất cả mọi thành viên xem một cách thích thú.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu hai cuốn quý thư xong, anh Phước Hải đã lên chúc Tết trước các thành viên bằng một bài thơ khá truyền cảm và hay. Tiếp lời anh Phước Hải, anh Lương Văn Nhung cũng lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Mừng Xuân mới”. Sau anh Lương Văn Nhung, anh Phạm Vũ lên có bài nói ngắn về chuyện phân tích tên của Hai Bà Trưng. Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Nhựt Thanh lên nói về chuyện người xưa có những bàn thờ thờ Trương Phi, Lưu Bị và Quan Công. Sau anh Nhựt Thanh, chị Đinh Thị Diệu lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Xuân hội thơ”. Chị Diệu ngâm thơ xong, chị Kim Mai lên hát bài “Cô láng giềng” tặng các thành viên. Tiếp lời chị Kim Mai, anh Phùng Chí Tâm lên bày tỏ vài cảm nghĩ của anh về Tết năm ngoái và Tết năm nay, và hát tặng các thành viên bài “Cây Xương rồng”. Anh Tâm hát xong, chị Thùy Hương lên nói lời chúc Tết và hát tặng các thành viên hai bài thơ “Lưu Tình”, và “Cảm nhận chung”. Sau Thùy Hương, anh Quang Bỉnh lên chúc Tết các thành viên và đọc tặng các thành viên bài vè rất vui về đủ “các loại bánh” trong dân gian. Tiếp lời anh Quang Bỉnh, Kim Sơn lên chúc Tết và đọc tặng các thành viên bài “Nắng mùa Đông chí”. Sau Kim Sơn, anh Chử lên ngâm tặng các thành viên bài “Chuyện râu tóc”. Anh Chử ngâm xong, anh Thanh Phong lên đọc tặng các thành viên vài bài thơ vui và hát bài “Nỗi lòng người đi” của Anh Bằng. Anh Thanh Phong hát xong, thành viên Tuyết lên chúc Tết và hát tặng các thành viên một bài nhạc Xuân. Tuyết hát xong, Kim Thư lên hát tặng các thành viên bài “Cô gái Việt”. Kế đó Lệ Ngọc lên chúc Tết và hát tặng các thành viên bài “Mộng chiều Xuân” của Ngọc Bích. Sau Lệ Ngọc, anh Hùng lên nói qua về việc “dù trông hơi già, nhưng các bộ phận trong cơ thể vẫn… còn thanh xuân” và khuyên mọi người nên dùng “bột nghệ pha mật ong” cho khỏe. Cuối cùng, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom, lên hát tặng các thành viên bài “Xuân và tuổi trẻ” và buổi họp kết thúc lúc 11g15, để các thành viên cùng nhập tiệc tất niên một cách thật vui vẻ, vừa ăn ngon, vừa hát vui tưng bừng, tất cả mọi người nâng ly chúc nhau một Năm Mới Vui, Khỏe, Hanh Thông và Thịnh Vượng.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ

MỘT QUÝ THƯ 87 TUỔI ĐỜI

MỚI ĐƯỢC MỘT THÂN HỮU TẶNG

Trong đời chơi sách người viết đã được tặng trên dưới 500 cuốn sách, một số trên 300 trăm cuốn với lời đề tặng của các tác giả, và khoảng 200 cuốn khác, do các thân hữu, mà phần lớn là thuộc phái đẹp mến tặng. Nhưng điều đáng nói là người viết không ngờ là sau khi “đã hết hai mươi tuổi lần thứ 4, cộng 5”, mà vẫn còn được một thân hữu là nhà văn Nguyễn Văn Sâm ở Mỹ gửi về tặng một cuốn bằng Pháp văn mang tựa đề là “Paris, Saigon trong bầu trời xanh” (Paris Saïgon dans l’azur) của một cặp tác giả là hai anh em ruột Jérome (1874-1953) và Jean (1877-1952) Tharaud. Đây là một cặp tác giả cực kỳ nổi danh của Pháp và hai anh em đã luôn viết chung trong gần 50 năm trời, với khá nhiều tác phẩm được in đi in lại tơi bời có cuốn như cuốn Con đường Damas (Le chemin de Damas) được in đi in lại tới 70 lần. Ngoài ra hai anh em tác giả này còn được vào Hàn Lâm Viện Pháp, người anh Jérôme năm 1938 và người em Jean năm 1946. Và sau đây là vài chuyện vui vui và kỳ kỳ về hai anh em Jérome và Jean Tharaud. Khi được một văn hữu hỏi: “Nét đặc trưng của hai anh là gì?” Họ trả lời: “Hai chúng tôi là một, nhưng người này lại rất khác người kia…” và khi được hỏi: “Muốn chết thế nào?” Họ trả lời: “Muốn chết chung cùng một lúc” nhưng họ đã không thực hiện được ý muốn vì người em là Jean qua đời ngày 8/4/1952 và người anh Jérôme qua đời ngày 28/1/1953, đúng 9 tháng sau, và điều kỳ lạ là sau khi người em qua đời, người anh trở thành câm, không nói năng gì trong suốt 9 tháng cho tới khi cũng qua đời. Cuốn sách khổ 13x18, dày 246 trang, tuy được in 87 năm trước (1932) bởi nhà xuất bản Plon của Pháp, nhưng vẫn còn mới tới 70%, và là một cuốn du ký kể về chuyến bay trong mười ngày khi đường bay Paris - Saigon mới được thành lập, và phải bay qua các thành phố như Marignane, Naples, Athène, Damas, Bagdad, Agra, Calcutta, Rangoon, Bangkok và cuối cùng tới Saigon. Cuốn sách 246 trang được chia thành XV chương như sau đây:

Chương I.- Nói về: Chuyện khởi hành

Chương II.- Trận bão

Chương III.- Bay trên biển sóng đã êm

Chương IV.- Sa mạc

Chương V.- Vương quốc châu ngọc

Chương VI.- Karachi

Chương VII.- Những tòa lâu đài thần tiên

Chương VIII.- Dòng sông chúa tể

Chương IX.- Nơi xứ sở của Gandhi

Chương X.- Con đường vàng ánh

Chương XI.- Rangoon

Chương XII.- Động cơ bị hư

Chương XIII.- Bangkok

Chương XIV.- Angkor

Chương XV.- Saigon.

Qua bài viết này, người viết muốn cảm ơn anh bạn đã tặng sách, và tự hứa với chính mình là khi rảnh sẽ, thay vì chỉ cưỡi ngựa xem hoa như mới làm, sẽ đọc kỹ cuốn du ký của anh em nhà Tharaud hơn.

Trích hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN

LỊCH SỬ

GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

(tiếp theo số 164)

BÀI 2:

THÁNH STÊPHANÔ

CÁI GẠCH NỐI GIỮA KITÔ GIÁO

VÀ DO THÁI GIÁO

Thoát thai từ Do Thái giáo, Kitô Giáo đã từ từ ly khai với tôn giáo này và trở thành một tôn giáo riêng. Người gióng tiếng chuông đầu tiên đánh dấu cho cuộc ly khai và được xem như cái gạch nối giữa hai tôn giáo này là Thánh STÊPHANÔ. Vậy Thánh STÊPHANÔ là ai?

I. THÁNH STÊPHANÔ LÀ AI?

Theo Sách Tông Đồ Công Vụ, sau khi Chúa Giêsu về trời, số môn đệ theo Chúa ngày càng đông, khiến cho việc sắp xếp tổ chức gặp nhiều khó khăn. Trong các bữa ăn huynh đệ hoặc các bữa tiệc Thánh Thể đã có sự sơ suất, thiếu đồng đều trong việc phân phát của ăn làm cho các bà góa từ các cộng đoàn hải ngoại cảm thấy như bị bỏ quên. Để tránh những trường hợp đáng tiếc như thế xảy ra, gây hiểu lầm giữa anh em, các Tông Đồ quyết định chọn một số người Trợ Tá. Các người này sẽ thay thế các Tông Đồ lãnh trách nhiệm sắp xếp và phân phối. Như thế các Tông Đồ sẽ rảnh tay để chuyên chăm rao giảng Tin Mừng. Có bảy người được chọn. Họ là những người đáng tin cậy. STÊPHANÔ đứng đầu nhóm.

Ông là người Do Thái, lại có tài ăn nói và có lẽ đã sống lâu năm tại hải ngoại. Do đó, ông đã hấp thụ được nền văn hóa Hy Lạp. Từ chỗ đứng đầu nhóm 7 người, Stêphanô dần dần trở thành cộng tác viên đắc lực của các Tông Đồ trong việc rao giảng Tin Mừng. Ông được giao trách nhiệm chuyên lo cho các cộng đoàn hải ngoại, môi trường mà các Tông Đồ khó xâm nhập. Điều này đã khiến cho những người Do Thái trở về từ Kyrênê, Alexandria, Kilikia bất bình với Stêphanô. Họ đứng ra tranh luận với ngài nhưng không thể nào địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Chúa Thánh Linh đã ban cho ngài. Quyết tâm hại ngài, họ xách động quần chúng, các kỳ mục và các kinh sư rồi ập tới bắt Stêphanô đưa ra xét xử tại Thượng Hội Đồng. Họ đưa một số người ra làm chứng gian và khai: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Hắn lại nói rằng Giêsu, người Nazareth sẽ phá hủy Đền Thờ và thay đổi tục lệ của Ông Môsê”. Đối với người Do thái, Luật Môsê là Thánh thiêng. Không ai được thêm bớt hay bãi bỏ. Còn Đền Thờ là nơi Chúa ngự; phá Đền Thờ là phạm đến Chúa, không thể tha thứ được. Thêm vào đó Stêphanô lại nhiều lần thẳng thắn chỉ trích người Do thái là đã giết các Tiên Tri mà nay vẫn chưa chịu nương tay. Ông nói: “Họ giết những người đã tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến, Đấng mà nay các ông đã phản bội và giết chết…” (Cv 6,52-53). Những lời này gây công phẫn nơi người Do Thái, khiến họ ném đá Stêphanô đến chết, bất chấp luật lệ. Nhưng trước lúc chết, Stêphanô vẫn bình tĩnh quỳ xuống và kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ” (Cv 8,60).

II. THỜI ĐẠI CỦA THÁNH STÊPHANÔ

Ôn lại Lịch sử Giáo Hội thời sơ khai, ta thấy, sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Maria và các Tông Đồ đã phải trốn lên sân thượng của một ngôi nhà để cầu nguyện. Lời cầu nguyện luôn luôn là sợi dây liên kết các môn đệ đầu tiên. Mười ngày sau đó, đang lúc họ cầu nguyện, Chúa Thánh Linh đã ngự xuống trên họ. Từ những con người ít học, nhát đảm như Phêrô và Gioan, họ đã trở thành những người hiểu biết, có khả năng trình bày Lịch sử cứu độ cách gãy gọn và can đảm minh chứng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Mặt khác, chính cũng nhờ bị bắt bớ mà các môn đệ đã từ Giêrusalem tản mác đi khắp vùng Giuđêa và Samaria. Nhiều người ngoại giáo đã tin vào lời giảng dạy của các Tông Đồ như quan Thái Giám người Etiôpia hay gia đình viên sĩ quan Cornêliô (Cv 8,35-38; 10,1-48). Trong khi đó, nhiều người Do Thái vẫn cứng lòng trước những lời nói đầy xác tín của Phêrô: “Chúng tôi đây, xin làm chứng về những việc Đức Giêsu đã làm… Thiên Chúa đã cho Người xuất hiện tỏ tường với chúng tôi là những kẻ đã được cùng ăn, cùng uống với Người, sau khi người từ cõi chết sống lại…” (Cv 10,40-42). Một số các môn đệ khác đã tiến xa lên phía bắc, tới Antiôkia, và chính nơi đây họ đã xưng mình là Kitô hữu.

III. TẠI SAO NGƯỜI DO THÁI LẠI BẮT BỚ THÁNH STÊPHANÔ?

Lý do rất đơn giản: người Do Thái lúc nào cũng nghĩ rằng Chúa Giêsu là một Tiên tri giả đã dám nói phạm thượng tới Thiên Chúa của họ và dám thay đổi luật của Ông Môsê. Có người lại còn cho rằng Chúa Giêsu là kẻ làm loạn, nên đã bị tử hình. Trong lúc đó các Tông Đồ và các Trợ Tá như Stêphanô đều quả quyết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Ngài đã thực hiện tất cả những gì Thánh Kinh đã loan báo về Đấng Cứu Tinh của nhân loại. Hơn nữa, những khác biệt giữa hai tôn giáo cứ mỗi ngày một gia tăng. Đạo Do Thái tin cách tuyệt đối vào Luật Môsê, trong lúc Kitô giáo tuy nhận luật Môsê làm căn bản nhưng lại đặt hết tin tưởng vào Phúc Âm Chúa Giêsu. Người Do Thái tuân thủ luật lệ cách nghiêm nhặt đến độ trở thành máy móc, trong lúc các Kitô hữu, theo tinh thần Phúc Âm, lại tuân giữ luật lệ cách uyển chuyển “có tình, có lý”. Về mặt tổ chức, Do Thái giáo không có chế độ lãnh đạo tập trung, còn Đạo Công Giáo lại có một vị lãnh đạo chung và duy nhất, là Đức Giáo Hoàng. Về lễ nghi phụng tự, trong lúc người Do Thái vẫn theo lối cũ, thì nền phụng vụ Kitô giáo đã đổi mới: không còn cắt bì, không kiêng ăn thịt một số thú vật mà người Do Thái cho là ô uế. Trong hôn nhân, người Do Thái vẫn cho phép ly dị, trong lúc Kitô Giáo lại không chấp nhận.

IV. TA NGHĨ GÌ?

Trong suốt hai mươi thế kỷ qua, người Do Thái luôn mang cái mặc cảm là những kẻ đã giết Chúa Giêsu và có lúc họ bị ngược đãi, bị sát hại. Điều này đã khiến Giáo Hội, nhân danh lòng khoan nhân vô bờ của Thiên Chúa và tình nhân loại, phải kêu gọi mọi người thi hành bổn phận bác ái của mình. Đứng ra ngoài mọi quan điểm chính trị, Công Đồng Vaticanô II đã viết: “Vì người Do Thái và Kitô hữu cùng chung hưởng một di sản tinh thần thật vĩ đại, nên Thánh Công Đồng muốn cổ võ, khuyến khích sự hiểu biết và kính trọng nhau, nhất là bằng việc học hỏi Thánh Kinh, Thần học và đối thoại trong tinh thần anh em” (Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo hội và các Tôn giáo ngoài Kitô giáo, số 4).

Ước gì những người đã từng được Chúa chọn làm dân riêng của Ngài cùng sớm nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Thế.

Bài đọc thêm

PHẢI CÓ THÁI ĐỘ NÀO ĐỐI VỚI
NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHỐI BỎ ĐỨC TIN?

Trong thời kỳ bách hại Đạo vào thế kỷ thứ 3, người ta gọi là Lapsi (tiếng La Tinh Lapsi có nghĩa là những kẻ vấp ngã, những kẻ sa ngã) những Kitô hữu vì bị đe dọa mà đã cúi đầu tuân theo lệnh của Hoàng Đế Đêxiô ban hành vào năm 250, buộc họ phải dâng của lễ tế các thần ngoại.

Khi cuộc bách hại tạm lắng xuống, Giáo Hội đứng trước một vấn đề nan giải là phải đối xử thế nào với những người sa ngã nói trên: Giáo Hội có được phép tha thứ tội chối đạo nặng nề này không? Phải chăng chỉ một mình Chúa mới có quyền kết án? Ngoài ra, giải hòa với Giáo Hội những người sa ngã trong giai đoạn nhiễu nhương này phải chăng là khuyến khích sự hèn nhát?

Nhà Thần Học La Mã Novatianô chủ trương một Giáo Hội gồm những người “trong sạch và cứng rắn” đã loại trừ mọi sự hòa giải. Trái lại, Đức Giám Mục thành Carthago là Thánh Cyprianô (tử đạo năm 258), lại cho rằng Giáo Hội đã được Chúa Kitô ban quyền “tháo và gỡ” không giới hạn. Toàn bộ quan niệm về Bí Tích Hòa Giải được đặt thành vấn đề. Đối với Thánh Cyprianô, sự hòa giải phải được ban cho những người “sa ngã”, nhưng trước đó phải buộc họ trải qua một thời gian đền tội nghiêm khắc và kéo dài.

Cuộc tranh luận rất sôi nổi. Đức Giáo Hoàng Cornêliô được chinh phục bởi thái độ đầy lòng thương xót của Thánh Cyprianô, đã triệu tập một Công Đồng tại Rôma vào năm 251. Công Đồng này kết án chủ thuyết cực đoan của Novatianô.

Novatianô từ chối tuân phục. Ông lập ra một Giáo Hội ly khai lan rộng từ Roma đến Alexandria. Giáo Hội này tồn tại mãi cho tới thế kỷ thứ 7.

Vào thế kỷ thứ 4 sau đó, nhiều cuộc khủng hoảng khác có cùng một tính chất đã xảy ra, do việc có những cuộc bách hại mới. Các cuộc khủng hoảng này cũng đã kéo dài theo nhiều căng thẳng và ly khai như thế!

(Trích Théo, tr. 313c)

(còn tiếp)

Bosco Nguyễn Văn Đình, Ofm

Giuse Nguyễn Hữu Triết


TÁC HẠI

CỦA Y NGỮ BẤT Y NGHĨA

(tiếp theo số 164)

Việt Nam chúng ta là một đất nước chưa phát triển, còn nhiều người nghèo, cái ăn, cái mặc còn chưa đủ. Trường Học, Bệnh Viện còn thiếu. Cầu, đường cho người dân đi, lại cho thuận tiện việc mưu sinh cũng chưa đủ, nhưng cũng không chịu kém cạnh! Có những tượng bề thế, ngang tầm quốc tế, thậm chí có 3 tượng lớn nhất so với Đông Nam Á, đổ biết bao nhiêu tiền bạc, công sức vô đó. Đó là:

1. Tượng Phật Nằm Chùa Hội Khánh - Bình Dương xây năm 2013 dài 52m cao 12m độ cao cách mặt đất 23m nằm trên mái Chùa, được tổ chức Kỷ Lục Châu Á xác nhận là “Tượng Phật Nhập Niết Bàn trên mái chùa dài nhất Châu Á”.

2. Tượng Phật Ngồi Chùa Linh Phong, Phù Cát - Bình Định cao 69m, đường kính 52m cao nhất Đông Nam Á.

3. Chùa Khai Nguyên - Sơn Tây có Tượng Phật lớn nhất Đông Nam Á sắp khánh thành cao 72m, có 13 tầng. Trong chùa có 1975 tượng Phật lớn nhỏ.

4. Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông đặt trên đỉnh núi Yên Tử là Tượng đồng nguyên khối lớn nhất Châu Á với chiều cao 12,6m, nặng 138 tấn.

Những Chùa có Tượng lớn hàng mấy mươi mét cũng không ít:

- Chùa Vĩnh Tràng - Tiền Giang có Tượng phật Di Lặc cao 20m nặng 250 tấn.

- Tượng Phật Di Lặc ở Núi Cấm cao gần 34m.

- Chùa Linh Ứng - Đà Nẵng có tượng Quan Thế Âm cao nhất Việt Nam: 67m với 7 tầng. Đường kính Tòa sen 35m, lòng 17m.

- Tượng Phật Nhập Niết Bàn Chùa Vàm Ray dài 54m.

- Tượng Thích Ca Nhập Niết Bàn Chùa Linh Sơn Bình Thuận, Núi Tà Cú, dài 49m.

- Tượng Phật Bồ Tát Quan Thế Âm Chùa Hưng Thiện, Bạc Liêu cao 43m.

- Tượng Phật Thích Ca bằng đồng dát vàng Chùa Bái Đính - Ninh Bình cao 10m nặng 100 tấn.

Đó là nói về những Tượng nổi bật. Về số lượng Chùa thì Việt Nam ta có tổng cộng 14.401 ngôi Chùa tập trung ở những Trung tâm là Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh và Thừa Thiên, Huế. Chùa nào ít ra cũng có hàng chục hay hàng trăm pho Tượng! Đồng Nai cũng có đến 478 ngôi Chùa. Số Tăng Ni chính thức là 44.498 vị cho tất cả những hệ, phái. Không tính đến những Tịnh Thất địa phương nào cũng có, mạnh ai nấy chiêu mộ Đệ tử!

Phật đã không phải là Thần Linh, không phù hộ được cho ai, thì việc đổ tiền bạc, công sức, thay vì để xây dựng, kiến thiết đất nước, làm những công trình, nhà ở, xây Bệnh Viện, Trường Học để có ích cho dân, cho nước, lại bỏ ra xây Chùa để Thờ Phật và dựng Tượng Phật cho to, thì quả là phí phạm! Đã vậy, trong khi nhiều người không có được một chỗ ở cho đàng hoàng, phải sống trong những căn chòi rách nát. Áo quần còn không được lành lặn thì nhiều Chùa rộng thênh thang chỉ để vài vị Sư ở để hương khói cho một số Tượng! Miền Bắc nước ta có khi một Sư còn làm Trụ Trì tới hai ba Chùa! Chùa nào cũng không ngại tốn kém, tạo cảnh quang đẹp để hấp dẫn khách thập phương!

Từ hiểu sai về Phật, về Chùa, về cách thức tu hành, những Tu Sĩ đã bỏ hết mọi việc, không tham gia sinh hoạt, làm ăn. Kể cả sinh kế cũng không bận tâm. Mọi chi phí từ Cất Chùa, trang hoàng Chùa, cho đến nhà cửa, phòng ốc, cơm nước, phương tiện sinh hoạt, đi lại… của các Tu Sĩ đều do những thí chủ lo. Tu Sĩ dành toàn bộ ngày tháng chỉ dành để tụng kinh, Niệm Phật, học Phật, giảng pháp. Điều đó không những hoàn toàn sai đối với Đạo Phật, mà còn có lỗi với xã hội, với cuộc đời…

Thật vậy. Ngược dòng lịch sử khai mở Đạo Phật, chúng ta sẽ thấy: Do buổi đầu mới thành lập Tăng Đoàn, Giáo Pháp chỉ mỗi Đức Thích Ca là người chỉ dạy. Chữ viết cũng chưa có. Chưa thể ghi thành văn bản. Các Đệ Tử Phật lúc đó là lực lượng nòng cốt, cần phải tập trung để nghe giảng rồi học thuộc lòng, tương lai giảng lại, nên Đức Phật bắt họ phải bỏ hết mọi việc để được toàn tâm toàn ý lắng nghe và ghi nhớ. Do vậy Phật phải phương tiện để kêu gọi các Cư Sĩ ủng hộ mọi thứ, để các Tu Sĩ yên tâm mà tu hành, bằng cách nói rằng “Bố thí cho người tu hành sẽ được phước báo vô lượng”.

Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng vào thời điểm mới thành lập Tăng Đoàn. Lý do như đã giải thích trên. Hơn nữa, cuộc sống người tu lúc đó hết sức đơn giản. Không xây Chùa chiền, Tịnh Thất. Chỉ ngụ ở cội cây hay trong rừng. Y thì may bằng vải thô, hoại sắc. Đi chân trần. Tới giờ ăn thì xếp hàng đi Khất Thực. Được gì ăn đó, chỉ nhằm giữ lại mạng sống để tu hành. Nên người cung dưỡng cũng không quá tốn kém.

Nhưng càng về sau này thì cuộc sống các Tu Sĩ đã quá khác xưa. Không còn: “Ăn ít, biết đủ. Như chim bay không. Dấu không thể tìm” nữa, mà Chùa nào Chùa nấy hoành tráng, đồ sộ. Trang trí bằng những vật dụng xa hoa đắt tiền! Chùa giàu thì các Sư ở phòng máy lạnh. Ăn chay nhưng toàn thức ăn cao cấp, ngoại nhập. Bước ra đường thì xe hơi đời mới đưa đón. Điện thoại di động thì cao cấp với danh nghĩa: để phục vụ Đạo Pháp! Y Phục cũng bằng hàng ngoại nhập. Thậm chí Chùa của Hòa Thượng Thích Vĩnh Tính ở Đài Loan còn sang hơn khách sạn 5 sao! Bồ đoàn may bằng gấm Thượng Hải. Sư có phòng Sauna để tắm. Đi khất thực bằng xe Lexus! Họ không còn theo hạnh yểm ly của Tu Sĩ thời xưa, coi vật chất, danh lợi như đàm dãi. Ngoại trừ cái đầu cạo trọc và mặc áo Cà sa, họ hưởng thụ vật chất không thiếu thứ gì, làm cho nhiều người nhìn vào rồi mai mỉa: “Ai bảo đi tu là khổ. Đi tu sướng lắm chứ”!

Về Giáo Pháp thì sau khi Phật nhập diệt khoảng 200 năm thì đã có chữ viết. Mọi thứ được ghi chép lại thành văn bản, không cần phải học thuộc lòng nữa, và cho đến hiện nay thì số lượng Kinh được cho là “Thiên Kinh vạn quyển”. Chùa nào cũng ấn hành. Cần Kinh nào cũng có. Thậm chí chỉ cần lên mạng thì muốn đọc Kinh hay tham khảo tất cả mọi vấn đề về Phật Pháp đều không thiếu. Vì thế, Tu Sĩ cần gì phải dành hết thì giờ để học thuộc lòng Giáo Pháp mà không được tham gia sinh hoạt mọi việc và tự lo cho cuộc sống mà tu hành? Mã Tổ Bách Trượng ngày xưa đã: “Nhất nhật bất tác. Nhất nhật bất thực”, một ngày không làm, một ngày không ăn. Ngày nào ông cũng cuốc đất, trồng rau như mọi người. Đệ tử dấu cuốc đi, không để cho ông làm, thì ông không ăn!

Việc Tu Sĩ chỉ Tụng kinh, Niệm Phật, không tham gia vào việc đời, kể cả việc mưu sinh, được giải thích là thực hành y theo nếp sống của Phật và Chư Tăng ngày xưa. Họ không hiểu lý do vì sao các Tỳ Kheo thời đó không được tham gia việc đời, để thấy rằng không còn thích hợp với hoàn cảnh hiện tại. Họ không hiểu trình tự tu hành để hiểu rằng người tu theo Đạo Phật không thể thiếu Sáu điều kiện căn bản: “VĂN-TƯ-TU. GIỚI-ĐỊNH-HUỆ”, tức là khi nghe Pháp hay đọc Kinh thì phải Tư Duy để hiểu rõ ý nghĩa rồi mới thực hành. Phải đầy đủ GIỚI, phải có sức ĐỊNH. Nhưng không chỉ giữ Giới không hở sót một cách máy móc, mà còn phải có TRÍ HUỆ để việc Giữ Giới không phải là gông cùm trói buộc người giữ. Quay đâu cũng đụng Giới, làm cho cuộc sống tu hành trở thành nô lệ của Giới! Người tu hành thành tựu không phải do giữ GIỚI đầy đủ, mà còn do nhiều việc làm phối hợp với nhau, trong đó phải có sự hướng dẫn của Trí Huệ. Trí Huệ quan trọng đến nỗi BÁT NHÃ TÂM KINH viết: “Tam Thế Chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Có nghĩa là Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai đều nhờ Trí Huệ mà đắc Vô Thượng Bồ Đề.

Người không có Trí Huệ để phân biệt NGỮ với NGHĨA, không những không thực hiện đúng lời Phật dạy, mà còn làm ngược lại với Chánh Pháp qua các việc sau:

1. Trong Chánh Pháp thì Phật chỉ là kết quả Giải Thoát mà người tu đạt được. Không phải là Thần Linh. Kể cả Đức Thích Ca và Chư Vị Giác Ngộ cũng không phù hộ được cho ai. Vì thế, việc cất Chùa để Tu Sĩ ở để phụng sự cho Phật là phí phạm tiền của bá tánh vô ích. Đạo Phật dạy Nhân Quả, nên người dạy cho bá tánh dựng Tượng Phật, Bồ Tát để Thờ cúng, Cầu An, Cầu Siêu là Nhị Thừa, mê tín, không có trong Đạo Phật chân chính.

2. Giáo Pháp của Phật Giáo Nguyên Thủy hay Đại Thừa đều cho rằng Phật chỉ là “một con người bình thường như tất cả mọi người. Nhờ đoạn trừ lậu hoặc Tham, Sân, Si mà được Giải Thoát”. Như vậy những người dựa theo những tướng tốt của Phật rồi dùng các chất liệu tô, đắp, đúc, tạc thành Tượng rồi thắp hương thờ phụng, cầu xin phù hộ, độ trì là theo Giáo Pháp nào?

3. Việc nhận sự cung dưỡng của bá tánh để tu hành thì chúng ta thấy: Trong Đạo Phật thì Ai tu nấy đắc. Tu sĩ không thể tu giùm phần người khác, tại sao bắt mọi người phải cung phụng cho mình mọi thứ để mình nhàn thân mà tu hành? Người tu dù cho có tu hành đắc đạo đi nữa thì cũng không thể “độ” được cho ai. Ngay cả Đức Thích Ca cũng chỉ có thể dùng Giáo Pháp để nhắc nhở, hướng dẫn người khác mà thôi. Bởi việc tu hành theo Đạo Phật là tự độ. Cho nên việc thọ thí của bá tánh là món nợ phải trả không kiếp này thì kiếp sau. Người ý thức Nhân Quả không ai dám thản nhiên thọ dụng của bá tánh, huống chi là gợi ý để bá tánh cúng dường những phẩm vật sang trọng, đắt tiền cho Phật rồi chính mình hưởng dụng!

4. Người tu được Phật dạy phải đền Tứ Ân. Nhưng Phật không phải là Thần Linh thì đâu thể cầu xin để Phật gia hộ cho Đất Nước, cho cha mẹ, cho các thí chủ để trả ơn? Vậy ta sẽ trả cách nào? Hơn nữa. Tu Phật không phải là để thờ Phật, mà phải Thành Phật. Đã thành Phật thì còn phải tu 32 Tướng Tốt, 80 vẻ Đẹp. Những Tướng đó không phải do chạm khắc nơi gỗ hay xi măng, đá mà thành. Đó là kết quả của những việc đối xử với Ông bà, Cha mẹ, Thầy, bạn và mọi người. Giữ Giới, Hạnh. Tinh tấn. Không nói dối, không gây chia rẽ, giúp đỡ mọi người. Như vậy, nếu ta vô Chùa, né tránh các pháp, không tiếp xúc với mọi người thì làm sao có thể thực hiện những Tướng đó? Đã không tiếp tay với mọi người để góp phần xây dựng xã hội, còn bắt xã hội phải phục vụ mình thì làm sao gọi là đền Tứ Ân? Như vậy rõ ràng đi ngược lại lời Phật dạy.

5. Nhiều người cũng chưa có được cái Phát Tâm chân chính, giống như Đức Thích Ca, là muốn Thoát nỗi Khổ của Sinh, Lão, Bệnh, Tử mà cái Thân phải mang. Lại cho rằng “Cõi đời là ô trược” là “bể khổ” nên Xuất gia tu hành! Thật ra, cuộc đời đâu có lỗi? Từ xưa đến nay, cuộc đời vẫn cung phụng mọi thứ để nuôi sống con người. Mưa nắng hai mùa. Thực phẩm dồi dào. Quanh năm hoa đẹp. Bốn mùa trái lành. Cảnh vật tốt tươi. Chính do con người Tham, Sân, Si, tranh giành vật chất, hủy hoại môi trường, tàn sát lẫn nhau, làm cho cuộc sống dấy động, trần gian mới trở thành phiền não, ô trược! Vậy mà con người thay vì đi Tu để Sửa những tính xấu, tính ác của mình, lại cho rằng vì đời là ô trược nên phải bỏ đời để đi tu? Quả là nghịch lý!

Người tu đạo Giải Thoát chân chính là người vẫn tiếp tục sống giữa đời, trong đó vừa góp tay xây dựng cuộc đời, vừa tu sửa Thân, Tâm để thể hiện kết quả “Sống giữa phiền não mà Thoát phiền não, như Hoa Sen, vươn lên giữa bùn”. Vậy mà từ bao thời nay, biết bao nhiêu người đang tuổi thanh xuân, tràn trề sức sống lại bỏ mặc cuộc đời cho người khác mặc tình xây dựng hay tàn phá, lánh mình lên non cao, động vắng, hay núp sau cánh cửa chùa để yên ổn mà tu hành! Nghe Đạo Phật nói rằng cuộc đời là Vô Thường, chưa kịp hiểu hết Ngài nói thế có dụng ý gì, đã vội bỏ hết mọi việc, rồi ngày tháng chỉ lo tụng Kinh, Niệm Phật chờ về Niết Bàn, trong khi cuộc sống của mỗi người cũng kéo dài cả 100 năm! Trong thời gian đó, những người yêu thương cuộc đời vẫn âm thầm xây dựng, cải tiến khoa học, kỹ thuật, tìm ra thuốc men để khắc chế bệnh hoạn, sáng tạo thêm những tiện ích phục vụ con người để cuộc sống con người tươi đẹp hơn. Điều lãng phí là khi họ bỏ đời đi tu, thì chẳng những không góp phần xây dựng cuộc đời, không lo được cho bản thân mình còn bắt những người đang lăn lóc, ngụp lặn trong đời mà họ cho là “bể khổ” phải cung phụng họ để họ được nhàn nhã, thảnh thơi mà tu, để mai kia, nếu có thành tựu thì cũng chỉ bản thân họ được nhờ mà thôi. Nhưng được cung phụng mọi thứ còn chưa đủ, nhiều tu sĩ còn vận động mọi người góp tiền để xây dựng Chùa cho to, tượng cho lớn, để cạnh tranh với các nước chung quanh!

Đạo Phật thường khuyên bá tánh nên Thí, Xả và hầu hết Phật Tử đều tin rằng “Bố Thí cho Chùa, cho Tu Sĩ là Bố Thí cho Phật. Phước báo sẽ nhận lại gấp trăm, gấp nghìn lần”, nên đôi khi họ so đo, tính toán với cha mẹ, bà con và những người nghèo, nhưng với Chùa chiền thì nghĩ rằng đó là cúng cho Phật nên rất hào phóng. Bao nhiêu cũng không tiếc! Bố Thí mà có tính toán, chọn đối tượng để cái quả nhận lại gấp trăm, gấp nghìn lần! Không biết rằng: Đó là một dạng đầu tư, không phải là Thí, Xả của Đạo Phật. Về Chân Bố Thí thì Kinh DUY MA CẬT viết: “Nếu người thí chủ dùng tâm bình đẳng, thí cho một người ăn xin rất hèn hạ xem cũng như tướng phước điền của Như Lai, không phân biệt, lòng đại bi bình đẳng, không cầu quả báo, đó gọi là đầy đủ pháp thí vậy”.

Qua đó, chúng ta thấy, từ việc hiểu sai, áp dụng sai và giảng giải sai Giáo Lý của Đạo Phật, từ xa xưa, nhiều người đã biến Phật thành Thần Linh, biến Đạo Phật từ Đạo Giải Thoát trở thành Đạo lệ thuộc, tôn thờ Giáo Chủ y như những tôn giáo thần quyền khác. Họ giảng rộng về quyền năng và lòng Từ Bi của Phật rồi tự đặt mình vào địa vị trung gian giữa Phật và bá tánh, để bá tánh cần gì thì mang lễ vật thông qua họ để cầu xin Phật phù hộ, che chở, cứu khổ, cứu nạn! Điều đó làm cho nhiều người không thật sự hiểu Đạo, cho là đức Phật thiên vị cho Đệ Tử Ngài. Để cho đệ tử nhàn hạ, chỉ cần nhân danh Ngài là được bá tánh phục vụ được ăn trên, ngồi trước! Nhưng nếu có đọc Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên và tích “Con Trâu Dưới Núi” của Ngài Quy Sơn, ta thấy không phải Chư Vị Giác Ngộ không cảnh báo những người tu đã ỷ lại vào thí chủ mà không lo tu hành nghiêm túc! Theo tôi, ngay cả tu hành nghiêm túc thì món nợ người thọ dụng của thí chủ vẫn phải trả, không kiếp này thì cũng kiếp khác, Phật không thể trả thế cho ai được.

Tóm lại, mục đích của Đạo Phật xuất hiện giữa đời là để “cứu khổ muôn sinh”. Nhưng gần ba ngàn năm Đạo Phật đã vào đời chỉ thấy Chùa Chiền phát triển, cái nào cái nấy đồ sộ, nguy nga. Tượng ngày càng cao to, sừng sững khắp nơi. Chư Sư thì xe cộ nghênh ngang, tiền hô hậu ủng, trong khi bá tánh vẫn còn đau khổ, lầm than! Nhiều người không thể hiện những đức tính khiêm tốn, đơn sơ, ly dục, thanh tịnh, như những gì Phật đã dạy, làm cho nhiều người nhìn vào đánh giá sai Đạo Phật chân chính.

Đọc cho hết Giáo Pháp của Đạo Phật, hiểu cho đúng những Phương Tiện mà Phật đã dùng thì ta thấy: Tu Phật không phải để thành Phật, thành Thánh theo nghĩa là thành một vị Thần linh cấp nào đó, như Thượng Tọa Thích Nhật Từ khẳng định: “chỉ có Tu Sĩ thanh tịnh thì mới Chứng Đắc”, trong khi Phật dạy: “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. Có nghĩa là tất cả mọi người đều có khả năng Thành Phật! Bởi vì việc Tu Phật chỉ là học lý thuyết của Đạo, nghe Chư Vị Giác Ngộ phân tích để thấy vật chất là phù du, cái Thân không tồn tại lâu dài mà dừng tạo Nghiệp, tu sửa Thân, Tâm, để không bị cuốn theo khổ, vui của kiếp sống, được an nhiên giữa dòng đời biến động như biểu tượng là Hoa Sen mà Đức Thích Ca đã dùng, để nói về những người đã đạt cảnh “Thoát phàm ngay chính trong phàm”. “Thoát phiền não ngay chính trong phiền não”. Thế thôi. Mọi người chỉ cần giữ 5 Giới, tin Nhân Quả, sống theo Bát Chánh Đạo. Ý thức bổn phận để tùy sức mình mà trả ân cho cuộc đời là đủ. Không cần phải rời bỏ gia đình, không cần phải sống đời độc thân. Không cần xa lánh thế nhân, cũng không cần Chùa to, Phật lớn mà vẫn đạt được kết quả Giải Thoát.

Muốn được như thế, thì nơi cần tu sửa là Cái Tâm của chính mình. Không còn tạo Nghiệp, thì sẽ không bị đọa, cần gì ai cứu độ? Và sự thật là có cầu xin Phật cũng đâu có cứu độ được, vì Ngài cũng chỉ là người đi trước, tự tu để Tự Độ và hướng dẫn cho chúng ta thôi. Ngài cũng chỉ xưng là ĐẠO SƯ, tức là người dẫn đường, và NHƯ LAI, có nghĩa là đến, đi, đều NHƯ, không bị các pháp làm cho xao động mà thôi. Chỉ có những người Mê Tín, hiểu sai mới cho rằng Phật là Thần Linh, có quyền cứu độ cho mọi người. Những người chưa hiểu hết Giáo Pháp của Đạo, chưa Thấy Tánh, chưa Chứng Đắc, đi truyền bá Thần Quyền, mê tín, lại cho rằng mình đang Hoằng Dương Chánh Pháp, không ngờ là đang Vọng Ngữ, Vọng Hành, Phá Chánh Pháp, hậu quả của Y NGỮ vậy.

TÂM NGUYỆN

12/2019

HÁT THEN

Di sản Văn hóa Phi vật thể


Hát then ( Hán Việt : Tráng tộc dân ca):

Là một thể loại ca nhạc tín ngưỡng của người Choang Trung Quốc du nhập vào Việt Nam đến với Tày , Nùng . Mang trường ca, mang màu sắc tín ngưỡng thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin Ngọc Hoàng giải quyết một vấn đề gì đó cho gia chủ.

Từ “then” là đọc chệch từ “thiên” ( 天 tian) trong tiếng Choang , tức Trời. Người Choang Trung Quốc cũng như người Tày và người Nùng coi việc hát then là hát để tế Trời (tức Ngọc Hoàng Thượng đế).

Nhạc cụ và lời hát

Âm nhạc là yếu tố xuyên suốt cuộc hát then. Hát then có nhiều bài bản, làn điệu. Người Tày, người Nùng không kể tuổi tác, giới tính, những người mê tín cũng như không mê tín rất thích nghe hát then.

Lời hát theo hình thức diễn xướng tổng hợp ca nhạc Đàn tính , múa , diễn với nhiều tình huống khác nhau. Đảm nhiệm chức năng của một diễn viên tổng hợp. Họ vừa hát, tự đệm, vừa múa và diễn để thể hiện nội dung câu hát, đôi khi còn biểu diễn cả những trò nhai chén, dựng trứng, dựng gươm...

Trong hát then mỗi làn điệu then thì sắp xếp các đoạn khác nhau, có thể hiểu là đi theo những đường khác nhau hay dùng những lời hát khác nhau nhưng đều tuân theo một bài bản và kết thúc đều có kết quả giống nhau, đường đi giống nhau. Trong tất cả thể loại hát then đều qua cùng những chỗ đường đi như nhau. Lúc thì lên rừng núi non thượng ngàn, khi thì lên thiên. Thường là vạn lấy hồn lấy vía siêu lạc ở các chốn về hay săn bắt, bắn lấy những con thú trên rừng về để giải hạn, khao tổ tiên, khao mẫu sinh hay mẹ sinh (mẫu ban lộc sinh đẻ). Đến đoạn cuối cùng là qua hải hay còn gọi là khảm hải: là cửa ải cuối cùng vượt qua đây là đến được những nơi cần đến như: cửa mẹ sinh, vua cha ngọc hoàng hay vài chỗ quan trọng khác... tùy loại then. Xong việc hồi lại binh mã trở về bàn sơn hay bàn thản gốc pháp, khao binh rồi tổ tiên gia chủ là xong việc (khao lao).

Các vùng hát then

Năm 2018 có 16 địa phương sở hữu hát then. Trung tâm hát then ở 13 tỉnh miền núi phía Bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Hiện tại đã xuất hiện hát then ở các tỉnh Đắk Nông, Đắk Lắk và Tp. Hồ Chí Minh khi người Tày và người Nùng di cư đến. 

Mỗi vùng làn điệu then lại có những nét độc đáo riêng:

Then Cao Bằng dìu dặt tha thiết

Then Lạng Sơn tươi vui, rộn ràng

Then Tuyên Quang dồn dập như thúc quân ra trận

Then Hà Giang nhấn nhá từng tiếng một

Then Bắc Kạn như chuyện kể thầm thì

Nghi lễ then của người Tày (tại các tỉnh Lào Cai , Hà Giang , Cao Bằng , Tuyên Quang , Thái Nguyên , Lạng Sơn , Quảng Ninh , Bắc Giang ) và người Nùng (tại các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang) là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia của Việt Nam .

Hát Then được vinh danh

Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại

Thông tin từ Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ngày 13/12 cho biết: Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam được ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại.

Ngày 13/12/2019 giờ Việt Nam, tại Phiên họp Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản Văn hóa Phi vật thể lần thứ 14 của Tổ chức UNESCO diễn ra tại Bogotá, Colombia, di sản Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại.

Việc UNESCO vinh danh hát Then là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại đã góp phần khẳng định bản sắc văn hóa phong phú của dân tộc Việt Nam, sự gắn kết cộng đồng, đề cao tôn trọng đa dạng văn hóa, khuyến khích đối thoại giữa các cá nhân, cộng đồng, dân tộc khác nhau vì sự khoan dung, tình yêu và lòng bác ái đúng theo tôn chỉ và mục tiêu của Công ước 2003 về bảo vệ di sản Văn hóa Phi vật thể của UNESCO.

Thực hành nghi lễ Then thể hiện tình đoàn kết giữa các tộc người, tôn trọng thế giới quan tộc người theo mục tiêu của UNESCO; giúp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của di sản các cộng đồng dân tộc không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Thay mặt Bộ VH - TT & DL cùng cộng đồng thực hành nghi lễ Then của người Tày, Nùng, Thái, Cục Di sản văn hóa đã cam kết thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ các giá trị của thực hành Then; cảm ơn Hội đồng thẩm định, thành viên của Ủy ban Liên Chính phủ, Ban thư ký đã làm việc tận tình để ghi danh di sản này của Việt Nam.

Theo Ủy ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, hồ sơ đề cử di sản Văn hóa Phi vật thể Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam đáp ứng 5 tiêu chí để ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại.

Đầu tiên là thực hành Then ở Việt Nam tạo thành một phần cơ bản trong đời sống tinh thần của người Tày, Nùng, Thái, phản ánh mối quan hệ giữa con người, thế giới tự nhiên và vũ trụ. Nghi lễ Then thể hiện bản sắc văn hóa của các dân tộc này, từ phong tục đến nhạc cụ, múa, âm nhạc. Nhờ các chức năng văn hóa xã hội, Then góp phần giáo dục đạo đức, lối sống nhân đạo và bảo vệ các phong tục, truyền thống văn hóa ở Việt Nam.

Việc ghi danh Nghi lễ Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam sẽ làm nổi bật sự đóng góp của di sản trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc và củng cố tình đoàn kết giữa các dân tộc khác nhau; thu hút sự chú ý đến các di sản khác trên khắp thế giới, bao gồm các thực hành nghi lễ, nghi lễ mang tính xuất nhập thần và nghi lễ shaman.

Sức sống của di sản được đảm bảo bởi các cá nhân, gia đình hoặc cộng đồng, những người mời thầy Then đến làm lễ cầu sức khỏe, cầu an và cầu mùa. Từ năm 2001, Chính phủ đầu tư kinh phí từ các Chương trình quốc gia về văn hóa để bảo vệ di sản văn hóa của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, trong đó có nghi lễ Then.

Các biện pháp bảo vệ được đề xuất theo định hướng mà chương trình này khởi xướng, gồm: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn để bảo vệ, phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật thể; khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và tạo điều kiện phù hợp phục vụ nghiên cứu; triển khai các hoạt động nhận diện, kiểm kê và tư liệu hóa; nghệ nhân dân gian truyền dạy kiến thức bằng cách kết hợp đưa hát Then, tính tẩu vào chương trình giảng dạy ở trường, xuất bản các ấn phẩm để nghiên cứu, giảng dạy, quảng bá, di sản Then bằng cách thúc đẩy, khuyến khích những người trẻ quan tâm đến việc thực hành. Các cộng đồng và nghệ nhân đã tích cực tham gia vào việc lập kế hoạch, đề xuất các biện pháp bảo vệ di sản.

Nghệ nhân dân gian và các cộng đồng liên quan tích cực tham gia vào tất cả các giai đoạn chuẩn bị hồ sơ đề cử thông qua các cuộc họp, hội thảo, hội nghị và tập huấn. Các cộng đồng, nhóm người, cá nhân, câu lạc bộ, thầy Then và gia đình đang thực hành Then đều thể hiện sự đồng thuận một cách tự nguyện bằng văn bản, thông qua các bản ghi âm, ghi hình, bao gồm cả ý kiến về mong muốn hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ đề cử cũng như các cam kết của họ để bảo vệ di sản văn hóa.


Nghệ nhân Mã Văn Trực biểu diễn làn điệu hát Then. Ảnh:Minh Đức

TỪ KẾT

Di sản thế giới với du lịch

Các di sản thế giới của Việt Nam sau khi được công nhận luôn được đánh giá cao và được định hướng khai thác để phát triển trở thành các khu, điểm du lịch có ý nghĩa quốc gia và quốc tế, làm động lực cho sự phát triển du lịch ở nước này.

Tối 28/11/2019, lễ trao giải World Travel Awards (WTA) 2019 diễn ra tại Oman, Lần đầu tiên Việt Nam được World Travel Awards vinh danh ở hạng mục “điểm đến di sản hàng đầu thế giới”, vượt qua Trung Quốc, Ai Cập, Brazil...

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)

TÔI ĐỌC THƠ

của NHÀ THƠ HÀN QUỐC

KIM KWANG - KYU


Trong tập thơ Em đã sống vì ai của nhà thơ Hàn Quốc Kim Kwang-Kyu do dịch giả Lê Đăng Hoan chuyển ngữ sang tiếng Việt, không hiểu sao có một bài thơ trong đó đặc biệt để lại cho tôi một ấn tượng sâu, cứ ám ảnh tâm tôi phải suy ngẫm hoài, bài thơ Trước cửa (tr.67-69) bài thơ không viết theo các thể thơ truyền thống - không theo niêm luật, không cố định ngắt câu, ngắt chữ… Một bài thơ văn xuôi, hay có thể nói là một câu chuyện văn xuôi, lại có cả bốn năm nhân vật (kể cả “tôi” tác giả). Nhưng vẫn là một tác phẩm thật sự thơ, cô đọng, hàm súc, giầu ngữ điệu, âm thanh.

Tập thơ Em đã sống vì ai gồm các sáng tác của Kim Kwang-Kyu nằm trong giai đoạn kéo dài suốt mười hai năm, từ năm 1986 đến năm 1998, giai đoạn chuyển mình để đi lên của Hàn Quốc, giai đoạn đất nước Hàn Quốc đang xây dựng để trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Là một người Việt Nam đang sinh sống trong giai đoạn đất nước mình cũng đang chuyển đổi tìm đường thoát khỏi đói nghèo lạc hậu, dần xây dựng thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, như Hàn Quốc đã xây dựng thành công, đọc thơ Kim Kwang-Kyu tôi như tìm thấy mình có phần trong đó, cảm nhận được ngay, thấm thía ngay.

Người ta thường bảo sự sinh nở bao giờ cũng đi kèm vất vả, khổ đau. Quá trình đi lên của một đất nước khác gì sự sinh đẻ. Tất nhiên đời sống xã hội nảy sinh nhiều điều mâu thuẫn, đem cho mỗi người nhiều điều mới lạ cũng không khỏi không ít những mất mát chia phôi.

Bắt đầu ngay từ đời sống mỗi gia đình, mỗi con người.

Mùa xuân đến em chẳng buồn rắc hạt, gieo hoa… Vì em chỉ cần mua sẵn tất cả các loài cây đã lớn như hoa hồng, hoa mộc liên…

Em là người có thật nhiều cây cối. Chỉ có điều em không hề biết tên, dù chỉ một loài cây.

Em gọi tất cả các loài cây đầy ắp trong khu vườn rộng lớn ấy bằng cái tên chung, đó là từ cây (bài Cây tr.41).

Trong một bài khác ta lại thấy:

Tuy vậy, dù cho chật chội thì những cây hoa nhài, hoa ô chúc, cây nấm lông… vẫn được vào chất đầy phòng khách chật hẹp… Có cây đến nay đã nhiều tuổi hơn các con tôi…

Các con tôi, chúng thích thú đồ dùng điện tử và thức ăn sẵn, chúng đâu có thích thú gì với các loài hoa đã lâu năm này. Mỗi lần ngang qua, chúng chỉ lướt nhìn một cách lạnh lùng. Không có tôi, chúng cũng chẳng thèm tưới nước.

Con người trở nên cô đơn:

Rồi cũng sẽ quen với cuộc sống một mình, khi con cái đi nước ngoài không hề tin tức. Hóa đơn thuế theo thời gian, cứ đến đều bay đến…

Tiếng chim cúc cu sau rừng cứ hót, như trách sao lại bán ngôi nhà xưa. Để cuối cùng di chuyển đến chung cư, cứ mỗi lần giá lò sưởi lên cao, lại nằm bẹp vì bệnh đau lưng hành hạ… (bài Đầu mùa đông, tr.95-97).

Ngoài xã hội lại càng lắm điều đổi thay, thay đổi, thậm chí dẫn đến cả bi kịch, thảm kịch.

Sự phát triển nhanh chóng của xã hội công nghiệp văn minh máy móc làm cho thiên nhiên đang bị hủy phá từng ngày, là căn nguyên cho những loài rắn độc lại tự do lan tràn … (bài Rêu phong, tr.209).

Mảnh vườn Norumok của nhà Bong Ku bán rẻ đi từ thuở ấy, không biết tự bao giờ, đã trở thành nơi đổ rác,… đã thành nơi chứa phế thải thối tha… Tất cả cảnh thơ mộng ngày xưa… bây giờ, chỉ còn lại trên màn hình vô tuyến (bài Mảnh vườn Norumok, tr.125).

Sự đời xoay chuyển đến mức anh Park, từ một nông dân thuần phác, sau khi những cây đặc sản trong nhà nilon thất bát, cho máy ủi san bằng mặt đất, anh làm thành một bãi để xe hơi… Anh Park trở thành ông chủ trông xe với ánh mắt sắc sảo. Mặt đất đã biến màu do khói xe và vết loang của dầu mỡ động cơ. Cùng với thời gian tiếng đồn nơi đây trở thành nơi ăn tiêu phung phí… Và kết cục anh Park bị một băng cướp đến thủ tiêu, trấn lột!...

Máu của người nông dân thuần phác, cuối cùng rồi cũng phải trở về trái đất, trộn lẫn với dầu xe ô tô vấy bẩn… (bài P, tr.127-129).

Tình người phai lạt, đi đến xuất hiện một cách sống mới: tất cả… tiền đâu, không bán chịu, cũng chẳng ai mua chịu (bài Thời đại không có người anh, tr.131); đến một tình trạng mới trong đời sống xã hội: Một mẫu đất Seoul mười triệu người sống từng đàn chen chúc. Một mảnh đất không để lọt vào kẽ sắt, mảnh đất mà bọn con buôn bất động sản, chúng sở hữu, rồi tự do mua bán, chuyển nhượng thế chấp, mặc sức tung hoành. Cũng trên mảnh đất này, tôi suốt ngày đêm, làm ăn cực nhọc, kiếm từng đồng xu, như một kẻ nhỏ mọn thấp hèn, tiết kiệm từng hào để sống đua chen,…

Nhưng nói gì thì nói, cái cốt lõi cuộc đời vẫn còn đó, đất nước, thiên nhiên vẫn tươi đẹp. Lá cây rơi xuống hết, còn quả hồng chín đỏ (bài Nhìn lên cây hồng tr.17). Chim bồ câu lại đến làm tổ trong cái chuồng cũ nát sau mười năm ròng. Chú chuồn chuồn… khẽ khàng đậu xuống, trên cành hồng lung linh… và rồi cả thung lũng, cả dãy núi K’nak, một màu xanh bắt đầu mở rộng. Và rồi đợt gió lạnh đầu xuân qua đi, mùa hoa lại nở, Gac-na-ri vàng, lóa mắt bên đường đi; Trên sườn núi Fin-tal-le nở rộ. Cánh hoa nhỏ từng run run trong gió, đã giữ gìn cho mùa xuân rực rỡ, hơn cả biển thép chỏng chơ nghiêng ngả bên đường…

Sự đời như bốn mùa thay đổi trong năm, không một ai, không tài nào ngăn cản nổi. Nhưng trên đời còn có nhiều người tốt, như người phụ nữ, người vợ trong gia đình hoàn toàn chỉ sống vì người khác, ra đi lại làm cho cả gia đìnhsẽ dần dần thay đổi. Mỗi người chắc sẽ lặng lẽ để được sống như em (bài Em đã sống vì ai, tr.213-215). Hay anh tá điền và cô gái… chỉ tấm lòng nhân hậu và thân thể trẻ trung, không mang theo một cái gì hết thẩy. Nhưng ở mọi nơi, họ làm ăn chăm chỉ, thì tất cả hoa thơm sẽ nở trên đất họ làm, trên mái nhà những quả bí phơi mình hấp dẫn… Tuy sinh ra không có gì mang theo nhưng đã có khối óc thông minh và đôi tay vạm vỡ. Họ đưa hết sức mình và gặt hái nhiều thành quả (bài Không có gì mang theo, tr.221-223).

Trở lại bài thơ Trước cửa. Phải chăng bốn năm nhân vật ở đây chính là những con người đang cùng đồng hành vào cái công việc biến đổi đất nước đi lên. Họ là những người nắm quyền điều khiển mọi người, họ là các đại gia, họ là giới truyền thông, họ là người lao động chân tay, họ là “tôi” người làm những câu thơ câu văn, “vô vị”. Tất cả đều có phần và đều có trách nhiệm trước thời cuộc, đều phải đối diện ở “sau cánh cửa”, phải trả lời với tòa án lương tâm.

Quả thực là tập thơ Em đã sống vì ai của nhà thơ Hàn Quốc Kim Kwang-Kyu lại thêm một lần nhắc nhở chính bản thân một người đọc Việt Nam, mà ở đây cụ thể chính là tôi, một người dân Việt tuy đã ở tuổi quá “thất thập cổ lai hy”, trước vận mệnh của đất nước mình.

Xin cám ơn ông, nhà thơ ưu tú của xứ Hàn và cảm ơn dịch giả Lê Đăng Hoan có con mắt tinh đời phát hiện ra một viên ngọc sáng giá của Kim Kwang-Kyu khả kính ở một chân trời khác xa xăm. Anh đã trau chuốt lại bằng tài nghệ của mình, cho chúng ta được chiêm ngưỡng thấu hiểu vẻ đẹp của ngọc lạ, cho chúng ta cảm giác cả con người làm ra viên ngọc đó là nhà thơ Kim Kwang-Kyu cũng như quê hương xứ Hàn của ông trở nên gần gũi với mỗi chúng ta.

Kim Kwang Kya

Em đã sống vì ai

Lê Đăng Hoan dịch, NXB Hà Nội – Thúy Toàn


Phụ bản I

MẢNG TỐI CỦA MÙA XUÂN

Nàng Xuân âm thầm không nói, nhưng đang bước những bước hối hả để mang Mùa Xuân đến cho đời. Những nụ hoa cũng đang chờ nở rộ để cùng trời đất hòa với niềm vui cho một Mùa được đặt tên đẹp nhất trong Bốn Mùa mà từ quang cảnh cho tới tâm hồn con người đều mong mỏi và chào đón nhiệt tình.

Mùa Xuân như một làn hơi thở nhẹ, chạm vào những phím tơ lòng của ai thì những cung bậc của con người đó sẽ tùy tâm trạng, cảm xúc của mình mà rung lên những làn điệu để hòa nhịp. Với người phơi phới yêu đời thì rộn rã, hân hoan:

“Ngày thắm tươi bên đời Xuân mới. Lòng lắng nghe bao niềm vui tới. Xuân về với ngàn hoa tô thắm. Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng”.

“Xuân đã đến rồi gieo rắc ngàn hồn hoa xuống đời. Xuân mang niềm vui cho ngày xanh không vương sầu lan…”

“Xuân đã về Xuân vẫn mơ màng. Bao tiếng cười khắp các chốn reo vui…” “Ngoài trời bao la bao cô gái đẹp cười xinh như hoa. Lập lòe tà áo xanh xanh chen bông tím vàng đẹp hơn tiên nga…”

“Mùa Xuân nói với em câu gì. Mà sao mắt em vui thế?”

Xuân vui thế đó. Như cảnh tiên giữa trần. Thế nhưng, đâu đó vẫn còn những mảng tối, trong đó, những tiếng thở dài u uất, những nghẹn ngào không thể tỏ bày nên có người cũng đã phũ phàng:

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu?

Ai mang Xuân đến gọi thêm sầu?”

Bóng tối đó là chiến tranh. Những người lính trẻ bắt buộc phải ra chiến trường. Họ phải bỏ lại gia đình, vợ con, cha mẹ già, nên khi mùa Xuân đến, gợi nhớ đến cảnh gia đình sum họp, đầm ấm, là lòng họ thêm nhớ gia đình tha thiết. Bản thân người lính cũng đâu có thích những cảnh máu đổ xương rơi. Họ đã phải ngồi một mình trong vọng gác đang dêm khi mọi người đón Giao Thừa đầm ấm bên gia đình.

“Đón Giao Thừa một phiên gác đêm. Chào Xuân đến súng xa vang rền. Xác hoa tàn rơi trên báng súng, ngỡ ràng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi…”

Họ đâu có muốn giết nhau. Họ đâu có muốn xa lìa người thương. Họ thèm sống bên gia đình yên ả. Nhưng nhiều người trong họ đã phải tức tưởi nằm xuống nơi rừng sâu heo hút nào đó, trong khi họ luôn mơ ước một ngày chinh chiến sẽ tàn:

“Rồi có một ngày, có một ngày chinh chiến tàn, anh trở về quê tìm lại thương mến năm xưa

Họ thầm lo sợ:

“Đêm Giao Thừa nhìn hỏa châu lơ lửng

Chợt nghe lòng xao xuyến nhớ vu vơ

Nếu chinh chiến ngày đêm còn tiếp diễn

Còn biết bao tình đẹp lỡ mong chờ…”

Vì thế, họ rất muốn một ngày nào đó, cơn ác mộng sẽ qua đi, họ sẽ:

“Xin trả lại đây thép gai giăng với những hào sâu, lỗ châu mai với những đạn bom, bấy lâu nay máu anh rơi cho còn lại đến mãi bây giờ…”

Để họ sẽ thực hiện ước mơ, rất bình dị, giản đơn: “Rồi anh sẽ dựng ngôi nhà xưa. Rồi anh sẽ đón cha mẹ về. Rồi anh sẽ sang thăm nhà em, với miếng cau, với miếng trầu, ta làm lại từ đầu”.

Họ nào đâu mơ ước gì lớn lao, chỉ là một cuộc sống thanh bình, một mái nhà đơn sơ, có đôi vợ chồng cùng chia ngọt sẻ bùi, một thửa ruộng nho nhỏ… “với con trâu, với nương dâu”… Với họ, chỉ cần bao nhiêu đó đã là: “Thiên Đường này mơ ước bao lâu”!

Nhưng chiến tranh, chiến tranh đã cướp đi tất cả mơ ước nhỏ bé của họ. Theo thống kê không đầy đủ thì cuộc chiến chống Pháp, Người Việt đã thiệt hại khoảng hơn 600.000 quân. Dân chúng khoảng 400.000. Cuộc chiến từ 1945 đến 1975 khoảng 3 triệu người đã ngã xuống!

Chiến tranh không chỉ tàn phá biết bao đất nước, mà còn phá nát gia đình của bao nhiêu con người đang tuổi thanh xuân. Họ đã phải ngã xuống khi tuổi còn đang xuân, căng trào nhựa sống. Bao nhiêu nấm mồ là bấy nhiêu quả phụ phải vật lộn với đời để vừa làm cha, vừa làm mẹ của những đứa con bất hạnh. Những đứa trẻ chưa kịp lớn, chưa được vòng tay ấm áp của người cha che chở đã phải lận đận theo mẹ góa mưu sinh. Đau xót biết bao!

Nghĩ đến điều đó, người chiến sĩ đã hờn Xuân:

“Nếu Xuân về tang thương khắp lối, thương này khó cho vơi, thì đừng đến Xuân ơi!”

Nàng Xuân thì cứ vô tư làm nhiệm vụ của mình. Hoa cỏ cũng theo thời tiết mà làm đẹp cho vũ trụ. Phần con người, lẽ ra họ là tạo vật có mang hình ảnh của Thượng Đế, là con của Ngài, được tạo ra bằng hình ảnh của Ngài và được giao cho gìn giữ trái đất mà Ngài gọi là ĐỊA ĐÀNG, để cùng sống vui vẻ, hạnh phúc với nhau. Nhưng vắng Ngài, họ đã trở mặt! Họ không nhường nhịn nhau, mà còn gây gỗ, tranh giành, tàn sát lẫn nhau. Họ quên rằngThượng Đế không có xa rời con người. Ngài vẫn ở cùng con người như những lúc dâng Thánh lễ, bao giờ Linh mục bao giờ cũng nhắc nhở: “Chúa ở cùng anh chị em”.

Phải, mọi người đều là con của Chúa, tất cả đều là anh em. Sao không nghe lời Chúa để đừng trở súng giết hại lẫn nhau hòng tranh phần thắng? Trong số đó cũng không ít những người là đệ tử nhà Phật. Chẳng phải Chúa, Phật ra đời vì muốn đem tình thương đến với muôn người, muôn loài? Chúa đã chịu khổ hình, chịu chết vì con người. chỉ yêu cầu con người: “Trước kính mến một Đấng Chúa Trời trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy”. Đó là hai điều được tóm lại trong MƯỜI ĐIỀU RĂN của Chúa. Vậy mà ta hàng ngày khăn áo đến nhà thờ để đọc, để tán tụng Chúa, để cầu xin đủ thứ ơn, mà lời ân cần dạy, được cho là Điều Răn của Ngài thì không thèm tuân giữ cho trọn vẹn mà lại tưởng rằng mình đủ đạo đức để đòi về Thiên Đàng khi qua đời?

Người Phật Tử cũng được dạy hạnh “Thường Bất Khinh Bồ Tát”. Vì tất cả mọi người đều là “Phật sẽ thành”. Mọi người đều có chủng tử của Phật, tức Phật Tánh. Sao con người lại đi lường gạt nhau, tàn sát nhau, chẳng phải là gạt Phật, giết Phật đó sao?

Chiến tranh cũng do con người khởi xướng. Súng nổ, đạn rơi, bao nhiêu con người đã ngã xuống vì thiếu tình thương nhau. Bởi vậy cố Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã viết:

Chiều lại chiều nghe vọng đến tiếng Kinh buồn.

Chiều lại chiều nghe vọng đến những hồi chuông. Câu Kinh chiều vang vang đều dưới ánh hồng ngọn đèn mờ hỏa châu, dân mình nguyện cầu từ lâu xin THƯƠNG NHAU.

Lời nguyện cầu, ngay sỏi đá cũng ngậm ngùi.

Lời nguyện cầu, ngay sỏi đá cũng lệ rơi! Câu Kinh chiều…

Con người rất tài hoa, chế tạo đủ thứ máy bay, phi thuyền, xe tăng, thiết giáp, bom đạn sát thương cao để tàn sát nhau, chỉ có hai tiếng THƯƠNG NHAU để thế giới im tiếng súng, để con người được sống trong hòa bình, để trẻ con không thiếu hơi ấm của người cha. Người vợ trẻ không vắng người chồng chia sẻ niềm hạnh phúc lứa đôi. Để những người cha mẹ già yếu có được con cái săn sóc trong lúc xế bóng sao mà khó thực hiện đến vậy?

Chừng nào con người mới nhìn nhau là anh em, là đồng CON CỦA THƯỢNG ĐỂ, MANG HÌNH ẢNH NGƯỜI?

Chừng nào con người mới thấy trước mặt mình là Phật, là Bồ Tát hiện thân để mà cung kính, mà yêu thương, giúp đỡ?

Làm sao, làm sao để con người quay lại với Thiện Tâm, với tình yêu thương của Thiên Chúa, với lòng từ Bi của Phật, để Mùa Xuân mới thực sự trọn vẹn?

Xuân ơi, ta không cần Xuân mang hoa muôn màu đến, mà hãy mang YÊU THƯƠNG về cho nhân loại, xóa đi mảng tối còn sót lại, để người biết thương người. Không còn cảnh người bóc lột người, để khắp nơi không còn tiếng nấc nghẹn ngào mỗi khi Xuân đến, mà tràn ngập tình nhân ái. Con người biết yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mà Thượng Đế ban tặng để giữ màu xanh cho trái đất, biến trái đất thành Địa Đàng, thành Niết Bàn. Khi con người xóa đi ích kỷ, hận thù mà mở lòng Từ, lòng Bi, thì nước mắt sẽ không còn rơi mà môi ai cũng nở nụ cười, vì lòng họ tràn đây an lạc. Lúc đó họ không còn là con người, mà thật sự hiện thân là con của Thượng Đế, là những Bồ Tát, Phật tại thế như các Ngài luôn mong mỏi khi nhập thế để nêu tấm gương và hướng dẫn cho con người từ mấy ngàn năm trước đây.

Mong ngày đó vậy thay.

Tâm Nguyện

(Tháng 12/2019)

THẾ GIỚI TÂM LINH

TRONG SÁNG TÁC

CỦA NGUYỄN DU

I. Một số vấn đề lý luận chung

1. Khái niệm văn hóa

Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Từ văn hóa trong Chu Dịch được tách thành hai từ văn và hóa. Nghĩa gốc của từ văn là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Văn là hình thức đẹp đẽ trong lễ nhạc, trong cai trị, trong ngôn ngữ, trong cách cư xử…

Đến thời Tây Hán, Lưu Hướng đã sử dụng từ văn hóa sớm nhất, văn hóa được hiểu như một thức giáo hóa con người. “Dùng văn hóa không thay đổi được sẽ chinh phạt”. Về sau, văn hóa được hiểu như một phương thức để xây dựng cuộc sống.

Trong giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. 

Tóm lại, văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội.

2. Khái niệm tâm linh

Tâm linh bao gồm chữ “tâm’ và chữ “linh” tạo nên. Theo từ điển Hán Việt của Thiền Chửu, “tâm” có nghĩa là tim, thuộc về thế giới bên trong. “linh” có rất nhiều nét nghĩa như “linh” trong linh hoạt, nhạy bén; “linh” trong thần linh; người chết cũng được gọi là “linh”; “linh” còn được dùng để nói đến những ứng nghiệm, bói toán.

Theo từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, tâm linh được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất tâm linh là khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra với mình, theo quan niệm duy tâm. Thứ hai, được dùng theo nghĩa tâm hồn, tinh thần.

Theo quan niệm của Nguyễn Đăng Duy thì: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong đời sống, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng, cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được ngưng đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm”.

Như vậy, có thể hiểu tâm linh là niềm tin của con người vào sự linh thiêng, tâm linh gắn liền với ý thức cả con người. Tâm linh bắt nguồn từ niềm tin của con người. Đó là niềm tin thiêng liêng về tổ tiên, niềm tin về Mẫu, Phật, Chúa, niềm tin về các thần thành hoàng…

Nói đến khái niệm tâm linh, cần phải đặt trong sự tương quan với các khái niệm khác: tâm linh với tín ngưỡng - tôn giáo. Tín ngưỡng và tôn giáo không đồng nhất với nhau. Tín ngưỡng và tôn giáo đều có chung niềm tin thiêng liêng nhưng tín ngưỡng không có giáo chủ, giáo lý, giáo hội cụ thể, không phải là nơi giảng kinh thuyết pháp mà chỉ là nơi thề tự, cúng tế, hội hè, thường được tổ chức ở đền, đình, miếu… Ở tín ngưỡng, con người ta thấy mọi vật đều linh thiêng, tập trung giải quyết mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Tín ngưỡng gắn kết mọi người với nhau, cùng hướng con người tới sự thịnh vượng của cuộc sống. Tức tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh còn tôn giáo không hoàn toàn là tâm linh mà chỉ là dạng đặc biệt của tâm linh.

Qua đây, chúng ta cần phân biệt giữa tâm linh và mê tín dị đoan. Mê tín dị đoan là “những ý thức, hành vi mê muội, tin dựa vào những biểu tượng trái lẽ tự nhiên, có những hành vi lễ bái, ứng xử mang tính chất cuồng tín, nhảm nhí, trái với lẽ phải và hành vi thông thường của mọi người xung quanh, làm hại đến đời sống vât chất và tinh thần của mọi người”. Tâm linh không phải là mê tín dị đoan, tâm linh là niềm tin linh thiêng trong đời sống tinh thần của con người tin vào tổ tiên, thần thánh, Phật, Chúa… hay những người không đi tu mà vẫn đi chùa, đền, đình, vẫn ăn chay, lễ Phật. Niềm tin ấy đánh thức tâm hồn con người để sống và làm việc tốt hơn xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của cha ông. Còn mê tín dị đoan là tin một cách mê muội, làm hao tốn tiền bạc, có khi thiệt hại cả tính mạng.

3. Khái niệm văn hóa tâm linh

Văn hóa tâm linh là thuật ngữ được hiện diện trên văn đàn vào khoảng mười lăm năm gần đây, nhất là sau khi một số nhà nhân học, tâm lý học, khoa học xã hội quốc tế thừa nhận yếu tố tâm linh, một trong bốn thuộc tính của con người (con người xã hội, con người sinh học, con người tâm lý, con người tâm linh). Tâm linh có hai nghĩa: khả năng đoán biết một biến cố sẽ xẩy ra; tinh - khí - thần của người. Từ đó trở đi, một câu hỏi tưởng chừng như ẩn số: “Con người là một bí ẩn” mà nhiều nhà tư tưởng lớn đặt ra ở thế kỷ XIX, được triết học văn hóa giải mã khi nghiên cứu con người: cái tự nhiên và cái phi tự nhiên, lý trí và tình cảm, trí tuệ và bản năng, lý tưởng và tính dục, cái thiêng và cái tục, nhân vị và siêu nhân v.v… Như vậy, khi ghép tâm linh vào văn hóa, thì khái niệm văn hóa tâm linh là hình thái văn hóa của một tộc người gồm: tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian (folklore) và một phần của sáng tạo khoa học, nghệ thuật như sự thăng hoa, phút xuất thần, “tia chớp” cảm hứng sáng tạo, trí tuệ phát sáng của nhà khoa học và nghệ sĩ.

Theo Nguyễn Đăng Duy: “Văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện những giá trị thiêng liêng cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo”. Văn hóa tâm linh không chỉ bao gồm giá trị văn hóa vô hình mà cả những văn hóa hữu hình. Văn hóa tâm linh là sợi dây liên kết cộng đồng, lưu giữ truyền thống, giáo dục lòng nhân ái và tinh thần hướng thiện, góp phần tạo nên chiều sâu sức sống cho nền văn hóa dân tộc.

Văn hóa tâm linh có những đặc điểm sau:

Tính thiêng: “Có thể coi tâm linh là một khái niệm tâm lý nói lên sự gắn kết ba phạm trù thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai. Chỉ ở con người mới có các phạm trù thời gian và sự gắn kết chúng lại với nhau”. Có linh hồn hay do thần giao cách cảm hoặc các luồng điện hiện lên trong trường sinh học? Hay chỉ là chuyện người đang sống hướng tất cả tinh thần, khí chất, tình cảm về người đã khuất!? Đây là đề tài đòi hỏi sự nghiên cứu công phu của nhiều ngành khoa học. Có điều, việc hướng về cội nguồn, biết ơn người đã khuất, tri ân công trạng của các bậc tiên hiền, tôn vinh những danh nhân có công với nước, với dân là một phong tục đẹp ở nước ta.

Tính hòa giải: Giáo lý của các tôn giáo lớn ở nước ta có một đặc điểm chung là tính hòa giải. Ba tôn giáo là Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Đạo giáo được du nhập từ nước ngoài, nhưng khi vào nước ta đều được bản địa hóa, dân gian hóa, phong tục hóa để dễ bề truyền bá. Giáo lý của ba tôn giáo cũng có nhiều điểm rất khác nhau, có những tri thức rất cao siêu, suy lý tư biện, thậm chí huyền bí, nhưng ở cả ba đều mang tính nhân văn, lấy con người làm trung tâm: yêu con người, cầu mong xã hội thái bình, quốc thái dân an, mở rộng lòng bác ái công bằng, từ bi, hỷ xả, triết lý sống gắn với thiên nhiên v.v…

II. Thế giới tâm linh trong sáng tác của Nguyễn Du

1. Lễ hội

Hội là những cuộc chơi. Chúng ta có tết Nguyên Đán ngày đầu năm mới, tết Thượng Nguyên 15 tháng Giêng, tết Trung Nguyên, tết Thanh Minh, tết Đoan Ngọ, tết Trung Thu... Đây là những dịp để mọi người nhất là nam thanh nữ tú gặp gỡ, trò chuyện, kết bạn, vui chơi. Còn lễ cũng đi kèm với hội dưới hình thức cúng bái với thần thánh, tiên, Phật, hoặc người cõi âm như lễ rước thần Lúa, lễ cầu mưa, nghi lễ phồn thực, lễ tảo mộ. Nguyễn Du đã đưa những lễ hội truyền thống của dân tộc vào trong sáng tác của mình.

Trước hết đó là tiết thanh minh và hội đạp thanh. Lễ tảo mộ trong tiết thanh minh vào tháng ba âm lịch là một nét đẹp trong truyền thống văn hóa Việt. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã đề cập đến vấn đề này: “Thanh minh trong tiết tháng ba/ Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Khi đi tảo mộ, ta sẽ thấy hai trường hợp xảy ra, một là với những nấm mồ có được người thân cúng viếng, sửa sang thì ngôi mộ sẽ sạch sẽ, ấm áp; còn với những mộ vô chủ thì cỏ mọc um tùm, hương khói lạnh tàn. Thúy Kiều khi đi qua nấm mộ của Đạm Tiên đã phải thốt lên rằng:

“Rằng: sao trong tiết thanh minh

Mà sao hương khói vắng tanh thế này?”

Sau lễ là hội, đây là dịp để mọi người giao lưu, gặp gỡ, nhất là với những nam thanh nữ tú. Mọi người đều háo hức, chờ đợi: “Gần xa nô nức yến anh/ Chị em sắm sửa bộ hình chơi xuân,/ Dập dìu tài tử văn nhân,/ Ngựa xe như nước áo quần như nêm”. Đây cũng là nơi mà Thúy Kiều đã gặp chàng Kim. Trong hội sẽ có những trò chơi đòi hỏi sự tham gia của mọi người như tục đố lá. Đây là trò chơi dân gian, các chàng trai, cô gái sẽ bẻ một nhành cây rồi đó xem số là chẵn hay lẻ mà đoán vận may rủi.

Thứ hai là rằm tháng bảy, còn gọi đó là tháng cô hồn. Đây là dịp để con cái báo hiếu với cha mẹ, cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ mạnh khỏe, sống lâu. Nguyễn Du đã mời các cô hồn đến dự lễ cầu siêu trong “Văn chiêu hồn”. Không cần biết họ là ai? Người thế nào? Chỉ biết đó là những hồn oan của những người đã mất, hồn không nơi nương tựa, đói ăn, đói mặc.

2. Cõi âm, hồn ma

Cõi âm còn gọi là nơi chín suối, chốn cửu tuyền, thế giới bên kia... Nguyễn Du hình dung ra đó là một nơi hết sức đen tối với những hồn ma không đầu và có đầu nheo nhúc, ngẩn ngơ, xiêu dạt, không nơi nương tựa: “Lòng nào chẳng thiết tha,/ cõi dương còn thế nữa là cõi âm”; “Trong trường dạ tối tăm trời đất/ Có khôn thiêng phảng phất u minh,/ Thương thay thập loại chúng sinh,/ Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.”

Trong “Văn chiêu hồn”, tồn tại rất nhiều hồn ma, đó là những hồn ma bơ vơ, cô đơn, lẻ loi: “Hồn mồ côi lần lữa đêm đen”, “Hồn đơn phách chiếc”, “Cô hồn thất thểu dọc ngang”...

Nguyễn Du còn thường xuyên trò chuyện với người đã chết, tức người đang nằm dưới mộ. Người nằm dưới mộ có đủ mọi loại người, Nguyễn Du hầu như quan tâm đến tất cả. Có thể kể ra đây những hồn ma được Nguyễn Du nhớ đến sau đây:

- Người phụ nữ: đó là nàng Tiểu Thanh, cô Cầm, người hầu cũ của em, người đẹp ở đất La Thành, người đàn bà trong đá vọng phu, các bà phi vợ vua Thuấn, chị em Tiểu Kiều, Đại Kiều thời Tam Quốc, Dương Quý Phi, Ngu Cơ, ba người đàn bà ở miếu Tam Liệt... Và đặc biệt là hình ảnh người vợ hiền đầu gối tay ấp đã mất của nhà thơ trong bài Ký mộng.

- Người tài, người hiền: Nguyễn Du quan niệm rằng xưa nay hiếm, lại hay bị trời đất ghen ghét. Ông mến họ vì họ là những người trung nghĩa, yêu nước thương nòi, trọng dân kính chúa, một đời vì nghĩa lớn quên mình, một lòng tận trung báo quốc. Ông hết lời tuyên dương họ và nêu bật được những nét tích cực nhất của họ. Ông ca ngợi Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành, nghìn năm nằm dưới đất tóc ông vẫn dài nhất định không chịu hàng phục nhà Thanh (Quế Lâm Cù Các bộ). Ông thông cảm cho Liễu Tông Nguyên, một trong bát đại danh gia, thương cho số kiếp đày đọa của con người tài hoa, thấu hiểu vì sao cỏ cây khe suối nơi ông ở đều có tên là Ngu (Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch). Qua sông Hoài nhớ Hàn Tín, Nguyễn Du nhắc đến nghĩa cử cao đẹp đền ơn Phiếu mẫu, nhắc đến tình nghĩa vua tôi... (Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu). Cũng trên sông Hoài, Nguyễn Du vừa phục tài thơ vừa thâm cảm chính khí của người anh hùng dân tộc thời Nam Tống là Văn Thiên Tường, tác giả Chính khí ca nổi tiếng (Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa tướng). Ông cũng ca ngợi Âu Dương, người được mệnh danh là Hàn Phi đời Tống. Bùi Tấn Công tướng mạo tầm thường mà văn võ song toàn, một đời xả thân cống hiến nhưng cứ bị bọn hoạn quan lộng quyền, phải cáo quan về nghỉ (Bùi Tấn Công mộ). Tỷ Can, Liêm Pha, Dự Nhượng, Kinh Kha đều là những bề tôi trung nghĩa. Tỷ Can chết một gò cây cỏ đều được thành nhân. Liêm Pha nghìn thuở tên tuổi vẫn còn truyền. Kinh Kha một lần ra đi làm lạnh cả dòng nước sông Dịch. Gương trung liệt của Dự Nhượng nghìn đời còn ghi...

Nguyễn Du không chỉ thương cảm số phận bi đát của họ mà ông còn khâm phục họ. Đối với những người mắc một nỗi oan lạ lùng như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nhạc Phi... Nguyễn Du tự xem mình cùng hội cùng thuyền, tự ngồi vào ngã tự cư con thuyền số mạng chòng chành của những nhân vật sống cách ông hàng nghìn năm. Nguyễn Du đau đớn thay Khuất Nguyên Hãy sớm thu tinh thần vào cõi hư vô, nuốt tủi thay Đỗ Phủ, ngậm hờn thay Nhạc Phi. Mười năm huyết chiến để làm nên cái việc. Bị giết ở đình Phong Ba để triều đình tạ tội với người Kim (Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ)... Đó là những người tài, một sớm một chiều bị số phận vùi dập. Còn đối với những kẻ ảc, kẻ xấu thái độ của ông cũng rất rõ ràng. Ông phê phán Tào Tháo, chê giễu Tô Tần, mắng chửi không tiếc lời đối với vợ chồng Tần Cối, kẻ đã hại chết người anh hùng Nhạc Phi…

3. Mồ mả, tha ma

Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, thế giới này hiện diện rất rõ. Thanh Lãng nói hơi quá nhưng có cơ sở: “Nguyễn Du thi sĩ của niềm tin dị biệt, thi sĩ của mồ mả, tha ma, nghĩa địa...” Thật vậy đã có 84 lần Nguyễn Du nhắc đến mồ mả, đình đền, gò đống trong 250 bài thơ của mình. Đây là không gian của người chết. Quả là Nguyễn Du quan tâm nhiều đến ngôi nhà của người chết. Thực ra trong thơ chữ Hán có bộ phận thơ đi sứ, ở đó ông thường nhắc lại những nhân vật tiếng tăm trong lịch sử Trung Quốc mà ông đã được đọc qua sách và hay chứng kiến tận mắt trên đường đi; tất nhiên phải nói đến mồ mả, đình đài... tuy không nhất thiết phải vậy! Và ở một số bộ phận thơ khác, trong phong cảnh cũng có lẩn khuất hình ảnh những nấm mộ hoang, những đống xương tàn, những đình đài xiêu ngã. Trong thế giới của sự sống thì cái chết là một cái gì vô cùng bí ẩn, con người luôn thấy sợ hãi trước nó và muốn hiểu biết về nó. Nguyễn Du hơn ai hết đã ý thức về sự sống tạm bợ ngắn ngủi này và luôn lo lắng phập phồng về cái chết. Bao nhiêu câu hỏi về nhân sinh cứ ngổn ngang khiến Nguyễn Du không thể không đưa nó vào thế giới nghệ thuật của mình. Nó trở thành một mốì bận tâm sâu sắc và hễ lúc nào thuận tiện thì nó bật ra trong thơ. Cho nên những đình đền, gò đống, mồ mả thường phát ra tín hiệu âu lo về cuộc sống nhân sinh và Nguyễn Du là người luôn luôn nhanh nhạy nắm bắt tín hiệu đó và phát sóng đi, lan truyền tới mọi người. Nếu không thế tại sao cứ gặp mồ mả, gò đống thì Nguyễn Du xúc động?

“Vãng sự bi thanh trừng

(Chuyện cũ bi thương nấm mồ cỏ xanh)

Lộ kinh Tam Tấn giai khâu thổ

(Dư Nhượng chủy thủ hành) - Thu chí

Hình như ông muốn kiến giải về những nấm mồ, những gò đống kia nhưng rồi có lẽ không kiến giải nổi nên ông chỉ nói theo cách nói của người xưa với giọng ngùi ngùi:

“Thiên niên cổ mộ một Phiên ngu”

(Ngôi mộ nghìn năm ở Phiên Ngung cũng đã mất)

Triệu Vũ Đế cổ cảnh

“Thu thảo nhất khâu tang thử lạc”

(Một nấm cỏ thu thành hang chuột cáo)

Âu Dương Văn Trung mộ

Cái chết, thời gian cũng vùi lấp. Chỉ có không gian của vũ trụ là trường tồn. Tiến trình đi đến hủy diệt tan rữa ấy không nhường bước trước một ai. Vua chúa hay thường dân cuối cùng cũng chỉ còn lại một nấm đất.

“Phong xuy cổ trủng phù vinh tận”

(Gió thổi vào nấm mồ xưa bao vinh hoa hư ảo tan hết)

Ngẫu thư công quán bích

“Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ”

(Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ còn trơ lại một nấm đất)

Hành lạc từ II

Nấm đất ấy lại tiếp tục đi vào hệ thống tan rã, nó sẽ bị san phẳng hoặc sụp đổ, nghiêng lở để cuối cùng không còn lại dấu vết nào. Con người khi ấy thực sự trở về cát bụi. Như vậy những vấn đề khác được đặt ra: con người chết rồi sẽ đi đâu, về đâu? Có sự tồn tại của kiếp sau đời người hay không? Kiếp này và kiếp sau có liên quan gì? Khoảng giữa kiếp trước và kiếp sau phần xác tàn rữa, còn phần hồn nương tựa vào đâu, hay cứ phải lơ lửng vật vờ?... Những câu hỏi không có lời đáp, con người không thể tìm biết được. Vì thế cho nên cái chết đối với con người thật đáng sợ. Và cuộc sống hiện tại là tất cả, ông khuyên con người phải biết tôn trọng cuộc sống của mình, phải biết nắm giữ vận mệnh của mình.

Trong Truyện Kiều, không gian du xuân của 3 chị em Thúy Kiều không phải là cảnh quang êm ả mà là không gian của mồ mả, tha ma, nghĩa địa “ Ngổn ngang gò đống kéo lên/ Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay” . Sau đó không lâu hình ảnh bóng ma kỹ nữ Đạm Tiên xuất hiện. Bóng ma ấy là sợi dây định mệnh theo suốt cuộc đời của Thúy Kiều.

4. Cầu cúng, khấn vái

Thờ cúng là một phong tục, nét văn hóa của người Việt nhằm nhớ ơn đến tổ tiên, ông bà, cầu mong ông bà phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. Trong các sáng tác của Nguyễn Du, ta có thể thấy rõ việc này thông qua lập đàn cầu đảo, lập đàn chiêu hồn. Thúy Kiều trước Phật đài cầu an cho cha mẹ: “Nén hương đến trước thiên đài/ Nỗi lòng khấn chữa cạn lời phân vân”. Hay như Thúc Sinh mời thầy đạo sĩ về lập đàn cầu đảo mong tìm thấy tin tức của Kiều: “Trên tam đảo, dưới cửu tuyền,/ Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng,/ Sắm sanh lễ vật đưa sanh/ Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han”. Những oan hồn trong “Văn tế thập loại chúng sinh” đã được Nguyễn Du lập đàn cúng: “Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo./ Của có chi bát cháo nén nhang/Gọi là manh áo thoi vàng/ Giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên”. Thắp nhang, khấn vái để nói lời tri ân với người đã chết, có khi đó là sự sẻ chia tâm tư với người bất hạnh nơi chín suối. Thúy Kiều khi đi qua mộ Đạm Tiên đã thắp hương và khấn vái: “Đã không kẻ đoái người hoài,/ Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương/ Gọi là gặp gỡ giữa đường/ Họa là người dưới suối vàng biết cho/ Lầm rầm khấn khứa nhỏ to/ Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra”.

Trong Truyện Kiều nhân vật thề nguyền với nhau rất nhiều. Những từ: Thề, nguyền, nguyện xảy ra 23 lần, câu thề được nói ra 7 lần và một lời (lời thề) 18 lần. Trong “Văn chiêu hồn”, tự thân tác phẩm cũng đã cho thấy một cách rõ rệt hai thế giới âm - dương. Người trên cõi thế cúng tế để giải thoát cho các linh hồn chết oan ở cõi âm.

5. Giấc mộng

Thế giới tâm linh trong sáng tác của Nguyễn Du còn được biểu hiện thông qua giấc mộng. Giấc mộng thể hiện việc nhìn thấy người hay sự kiện hiện ra như thật trong giấc ngủ. Đó như là đỉnh điểm của mọi mong ngóng, ám ảnh được tái hiện trong giấc ngủ của con người.

Có giấc mộng lành và có giấc mộng dữ. Giấc mộng lành không gây ra nỗi sợ hãi, lo lắng cho con người mà thường mang lại may mắn. Trong thơ chữ Hán, giấc mộng xuất hiện nhiều và cảm động nhất là cuộc gặp gỡ người vợ quá cố đầu gối tay ấp trong bài “Ký mộng”. Tình cảm của ông đối với vợ thật sâu nặng. Ông không ca ngợi vợ như Bùi Hữu Nghĩa, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Kiều, ông thực sự nghĩ về vợ bằng tất cả nỗi nhớ nhung xuất phát từ tình yêu. Nguyễn Du xa nhà năm tháng phiêu bạt, người vợ nếu không mất thì chắc cũng đang chờ đợi héo hon. Ông đã hình dung ra điều ấy. Gặp lại vợ trong giấc mơ, bao nhiêu nỗi niềm trong tưởng tượng được dịp tuôn chảy dạt dào. Nguyễn Du nói trong mộng thấy rõ ràng Mộng trung phân minh kiến nghĩa là thấy rất rõ người vợ từ quê hương lặn lội tìm chồng nơi bến sông, nhan sắc vẫn như xưa tuy áo quần có hơi xốc xếch. Thêm nữa, người vợ vốn không biết đường mà núi Tam Điệp nhiều hổ báo, sông Lam lắm thuồng luồng, đường đi hiểm trở... Vẽ ra bao nhiêu lý do để thấy chuyện đi tìm chồng của vợ là cực kỳ khó khăn nhưng nhớ nhau quá đành phải liều... nàng chỉ có một lý do duy nhất là nhớ chồng. Tình cảm mới đẹp làm sao! Vợ Nguyễn Du đã vượt qua tất cả, cả khuê môn lẫn đường xa vất vả chỉ để nói lên tiếng nói tình yêu. Và người chồng càng tuyệt vời, sâu sắc hơn khi tưởng tượng ra tất cả những điều ấy trong giấc mộng.

Giấc mộng dữ đem đến sự sợ hãi, lo lắng, ám ảnh. Giấc mộng gặp Đạm Tiên của Thúy Kiều có thể coi là giấc mộng dữ để rồi từ đó số phận của Kiều gắn với những lần báo mộng đó. “Thoắt đâu thấy một tiểu kiều/ Có chiều phong vận có chiều thanh tân”; hay “Vâng trình hội chủ xem tường/ Mà xem trong sổ đoạn trường có tên”; “ Rỉ rằng: nhân quả dở dang/ Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao/ Số còn nặng nghiệp má đào/ Người dầu muốn quyết, trời nào có cho/ Hãy xin hết kiếp liễu bồ/ Sông Tiền Đường, sẽ hẹn hò về sau” .

Như vậy thông qua giấc mộng, Nguyễn Du muốn nói điều gì? Thế giới tâm linh tràn ngập trong bài thơ. Mộng - thực. Người sống - người chết. Trần thế - âm phủ. Hai thế giới này có thể tương thông qua hình thức giấc mộng.

Còn rất nhiều bài thơ khác Nguyễn Du đề cập đến giấc mộng và chính ông cũng tự nhận thấy mình là người hay sống trong mộng, cũng không chỉ mình ông mà cả thiên hạ đều sống trong mộng

“Tri giao quái ngả sầu đa mộng

Thiên hạ hà nhân khấp mộng trung”

Ngẫu đề

Nguyễn Du đã dùng cách nói của Lão Trang để giải thích nhưng thực ra đây cũng là cách chứng thực cuộc đời. Cuộc đời này với những mong ước chỉ có thể có trong giấc mộng mà thôi. Mà cuộc đời này khác gì giấc mộng Trần thế bách niên khai nhãn mộng ( La phù giang thủy các độc tọa ). Do đó mà con người luôn thu mình lại với cái bóng, chia sẻ với cái bóng, nhưng rồi ngay cả cái bóng cũng chẳng giải quyết được gì.

6. Ý nghĩa của các yếu tố tâm linh trong sáng tác của Nguyễn Du

6.1. Phản ánh hiện thực đời sống

Trước hết đó là hiện thực đời sống tâm linh. Có những hiện tượng tâm linh tồn tại ảo như trời, phật, thần thánh, chiêm bao, mộng mị… Tuy nhiên, đa số chúng ta đều thừa nhận rằng có thế giới siêu nhiên ngự trị trong đời sống của con người và sự phán quyết của thế giới quyền năng này được gọi là số phận, nghiệp, duyên, kiếp. Bên cạnh niềm tin vào sự linh thiêng khi cầu khẩn, người xưa còn tin vào chiêm bao, mộng mị, cho rằng mọi việc diễn ra trong giấc mộng đều mang một ý nghĩa nhất định. Hiện thực đời sống tâm linh còn được người xưa nói đến niềm tin vào luật nhân quả: “gieo nhân nào thì gặt quả đó”, “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ”.

Bên cạnh đó còn có yếu tố tâm linh tồn tại thực như đền, đình, mồ mả, thờ cúng, khấn vái… Nhu cầu tâm linh là nhu cầu chính đáng của con người, đó là điểm tựa không thể thiếu trong đời sống trần thế. Vào dịp lễ tết hay ngày rằm, mồng một, ngày giỗ ông bà, con cháu trong gia đình đều làm lễ để cúng tổ tiên, ông bà. Theo quan niệm của người xưa, mồ mả là nơi yên nghỉ cuối cùng của tổ tiên, mọi việc trong cuộc sống hiện tại của con cháu đều liên quan đến mồ mả, tổ tiên, vì vậy mà con cháu phải có ý thức giữ gìn, chăm sóc phần mộ của ông bà. Một hiện tượng tâm linh thực nữa đó là người Việt thích được xem bói như xem ngày động thổ, giờ hạ huyệt, cũng thích thề nguyền. Đó là những tập tục không thể thiếu trong đời sống của dân Việt.

Ngoài ra, thông qua hiện thực đời sống tâm linh chúng ta có thể thấy được hiện thực đời sống xã hội đương thời. Các yếu tố tâm linh không phải là một cái gì xa lạ mà chính là hiện thực đời sống được lạ hóa với tính chất kỳ lạ, những yếu tố tâm lý như là một hình thức nghệ thuật nhằm phản ánh cái thực của đời sống xã hội. Mượn ảo để nói thực. Đó là hiện thực cuộc sống lay lắt bởi đe dọa của chiến tranh, sự đổi thay của thời đại, sự tang thương bể dâu của cuộc đời, sự chóng vánh, ngắn ngủi của một kiếp người, nhất là bức tranh phong phú, đa dạng về xã hội từ thế kỷ XVIII- XIX.

6.2. Ý nghĩa giáo dục sâu sắc

Đằng sau những câu chuyện về yếu tố tâm linh là những bài học sâu sắc cho con người.

Thờ cúng với bài học đạo đức, lòng bao dung. Chúng ta thờ cúng các vị thần là vì theo quan niệm đó là lực lượng siêu nhiên có khả năng giúp đỡ con người tai qua nạn khỏi, đem lại cuộc sống bình an. Đồng thời cũng nhắc nhở những người đang sống phải nhớ đến cội nguồn, biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc sinh thời và thờ phụng khi họ qua đời. Thông qua hình tượng Thúy Kiều mà giáo dục lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Thờ cúng tổ tiên có ý nghĩa giáo dục quan trọng đối với các thành viên trong gia đình, dòng họ. Đó không chỉ là nhu cầu đền ơn đáp nghĩa mà còn là nhu cầu tinh thần bù đắp những thiếu hụt trong cuôc sống thực tại khó khăn của con người.

Lời thề với bài học về tinh thần trách nhiệm. Con người phải chịu trách nhiệm với những gì mình đã nói, những việc mình đã làm. Đó là con người dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.

Ngoài ra, thông qua yếu tố tâm linh thì con người xích lại gần nhau với nhau hơn, tăng tính đoàn kết, nó là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Qua đó, thể hiện ước mơ, khát vọng hạnh phúc của con người. Mơ ước một xã hội tự do, công bằng, hạnh phúc, khát khao về tình yêu tự do.

KẾT LUẬN

Việc am tường về văn hóa, đặc biệt là văn hóa tâm linh với những biểu hiện sinh động, phong phú của nó đã giúp cho Nguyễn Du có cái nhìn toàn vẹn, sâu sắc về cuộc sống, con người. Thế giới tâm linh tràn ngập trong sáng tác của Nguyễn Du và được ông sử dụng như một phương tiện hữu hiệu nhằm bộc lộ nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Ẩn sau cái thế giới đó là những vấn đề nóng bỏng của thời đại, những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để rồi bạn đọc có thể tìm thấy cho mình những giá trị văn hóa truyền thống từ lâu đời của cha ông, đó là tục thờ cúng tổ tiên, là những lễ hội mang đậm màu sắc dân gian, là những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp được truyền từ đời này sang đời khác. Chính yếu tố tâm linh làm cho tác phẩm mang nhiều nét buồn thương, bi thiết vì những nấm mồ vô chủ, những oan hồn cô đơn, lạnh lẽo đồng thời ta lại thấy được chân dung của một con người với tình thương bao la, một nhà nhân đạo lớn của dân tộc, một người hết lòng vì đời. Những sáng tác của Nguyễn Du mãi mãi để lại sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi trái tim ông đã đập cùng nhịp đập của hàng triệu người dân Việt Nam.

Tác giả khuyết danh - ĐỖ THIÊN THƯ st.


Hoa Nhân Sinh

1.

Huê làng nhàng trở mình. Ngoài trời nắng hừng đông hé rạng ở đâu tận phía đầu cù lao nhưng ánh sáng đương trên bờ ngự trị không gian trước sân, tràn lấn vô trong nhà qua cánh cửa mở he hé. Mọi vật còn lờ mờ nhưng cũng đủ cho mắt nhận dạng bằng những đường viền của vật dụng mà Huê bắt đầu quen quen trong thời gian ngắn ngủi hôm qua tới giờ. Con bé Thương Thương đã ra khỏi mùng từ lúc nào đương lục đục ở trong buồng tắm phía sau nhà. Nghe tiếng xối nước của con, Huê thấy vui vui và hãnh diện khi cảm nhận về những bước đầu trưởng thành đúng đắn của con mình. Con bé có thể tự làm những công việc mà Huê nhớ lại ngày xưa ở tuổi nó mình được cha mẹ nuông chìu và được sự binh bổ của bà ngoại nên còn phải đợi nhắc tới nhắc lui nhiều lần. Nói gì chuyện tự tắm rửa, riêng một bữa ăn thì cũng từ khi chuối trồng tới chuối trổ cũng chưa rồi, cần phải biết bao nhiêu lời năn nỉ…

Cựa mình nằm thẳng lại, ngước mặt trên nóc mùng để nghe thêm lần nữa cảm giác mê mẩn mất hồn đêm qua. Cái khoái cảm hình như nằm trên toàn thân thể, vẫn còn ở trong trạng thái tỉnh thức, sẵn sàng ứng chiến, không chịu đi vào giấc đông miên. Vậy là những ước ao ngày trước không bao giờ dám nghĩ mình sẽ có, đã trở thành hiện thực. Anh ta cũng háo hức, cũng dồn dập chớ đâu phải cây đá gì dầu được phủ ngoài bằng bộ dạng cục mịch thờ ơ… Huê cười lên thành tiếng che dấu sự mắc cở thầm. Mầy ngựa quá Huê ơi! Dính thì chết toi, rắc rối lắm. Thằng chả đâu chắc đủ bao dung! Có chuyện gì rồi thì mọi chuyện lỡ làng trớt quớt hết!

Con bé đã súc bình từ đời thuở nào, đương châm nước sôi sau khi thay trà mới. Nó hơi ngạc nhiên về tiếng cười khan của mẹ nhưng chỉ liếc mắt về phía đó một giây rồi bình thản tiếp tục công việc. Hình như súc bình, châm trà là nhiệm vụ của nó mỗi sáng nên cử chỉ chăm chú, tỏ ra thành thạo chắc chắn ai thấy cũng khen.

Thương Thương lên tiếng như người lớn:

- Mời mẹ dậy rửa mặt, dùng trà buổi sáng.

Chà! Lại còn mời mọc bằng ngôn ngữ điệu hạnh kiểu con nhà giàu quý phái. Dùng với lại chả dùng! Cái ngữ nầy lớn lên thì phải biết!

Tuy nghĩ vậy nhưng Huê vẫn ngồi dậy, vuốt tóc tai, liếc mau những nếp áo quần, nói với con như với bạn:

- Cám ơn con. Để đó cho mẹ! Đêm qua con ngủ được không? Mẹ ngại nằm chật con không quen nên chẳng dám nhúc nhích nhiều. Mà tía con đâu rồi kà?

Con bé quay lại mẹ, đôi mắt tròn lớn, đen tuyền, mi thiệt cong:

- Lâu rồi con thường ước ao có bà tiên nào đó hóa phép cho mẹ về đây ngủ với con vài đêm cho con đã thèm. Bây giờ bà tiên đã giúp con toại nguyện rồi. Hồi tối qua con ngủ thẳng giấc thiệt ngon. Nằm chiêm bao thấy nhiều chuyện vui quá xá, lúc nãy mới ngủ dậy còn nhớ mang máng bây giờ quên hết trơn rồi.

Sực nhớ tới chuyện hồi hôm cần phải giấu, Huê giựt mình, ngó thẳng con để đoán ý nó. May quá, con bé vẫn lộ nét ngây thơ như lúc nào sau câu vừa nói.

Tâm hồn Huê dào dạt trước cảm tưởng dài dòng nhưng khá tội nghiệp của con. Cô kéo con vô lòng mình, vuốt tóc nó. Con bé nhắm mắt lại như thưởng thức đến tận cùng tình cảm thân thương biền biệt lâu nay mới vừa được nhận lại:

- Tía sáng nào cũng đi bộ chừng vài chục vòng quanh nhà, nhiều khi đủ rồi lại còn ra ngoài bờ sông ngồi ngóng trời ngóng đất. Tía nói buổi sáng khí trời trong lành, sương đêm đã rửa sạch những bụi trần của ngày hôm trước, là lúc tốt nhứt cho sức khỏe của con người.

Nghe nhắc tới chuyện ngồi bờ sông ngóng trời ngóng đất Huê nhớ tới thói quen của mình mười năm trước khi còn là thiếu nữ nhiều mơ mộng thường ngồi dõi mắt trông theo đám lục bình lững lờ trôi nghĩ đến chuyện đi xa. Đi thiệt xa để thoát khỏi cảnh nghèo. Chắc Nhơn cũng mang tâm sự gì đó nên thích ngồi ngắm sông buổi sáng, Huê nghĩ như vậy và triền miên trong suy tư như quên sự có mặt của con...

Thương Thương ngừng nói, nắm bàn tay mẹ, vuốt vuốt những cái móng sơn màu đỏ lợt của mẹ, Huê tiếp lời con:

- Buổi sáng là lúc con người gần gũi với thiên nhiên, nghĩ ra được nhiều điều chí lý, xóa bỏ được những bợn nhơ trong tư tưởng…

Người mẹ nựng má đứa con:

- Mà con tôi nói chuyện như người lớn. Giỏi quá. Nói mà có hiểu hết không đó? Nhưng thôi, bỏ ba cái chuyện khó khăn nhức đầu nầy đi, mẹ hỏi con chớ lâu nay con tắm rửa một mình hay còn phải bắt tía tắm cho con như lúc còn nhỏ?

Thương Thương nói bằng bộ mặt tự hào với cái mỏ chu chu vảnh vảnh thấy bắt ghét:

- Hết bốn tuổi, bước qua năm tuổi là tía bắt con tắm rửa một mình, tự lo hết mọi chuyện. Từ quần áo, tới cơm nước, học hành. Tía chỉ kiểm soát và hướng dẫn thôi, không làm giùm, cần lắm thì phụ giúp sơ sơ thôi. Tía nói con gái mỗi ngày mỗi lớn, phải thêm trách nhiệm. Ban đầu là trách nhiệm với thân thể và công việc của mình, sau là trách nhiệm với người thân thuộc…

Con bé dựa lưng vô đầu gối mẹ, tay mân mê tà áo trước bụng, nói mà không ngó lên mẹ. Huê nhẹ nhàng gạt tay con ra khỏi tà áo nó đương cầm. Thương Thương dựa hẳn vô Huê hơn nữa, ngước mặt lên nói:

- Mới đây tía thu xếp cho con đi học với hai bạn ở gần nhà. Đi bộ, tía không đưa rước nữa, đi bộ cho quen chưn quen cẳng, cho biết giờ biết giấc. Một hai sáng Chúa Nhật tía mới chở con qua chợ mua tờ báo, gói xôi hay trái bắp mà thôi. Tía nói như vậy nữa lớn lên mới biết làm công chuyện nầy kia, không tùy thuộc ai hết, giỏi giang như mẹ vậy.

Huê lại cười mãn nguyện. Anh chàng khéo nói quá. Lại nịnh nọt xa gần. Còn biết dạy con theo lối mới, không cho nó ỷ lại. Con bé nói chuyện khôn ngoan, rành rọt. Cám ơn đời đã cho tôi người tình hờ tuyệt vời. Người tình Kỳ Nhơn, chịu nuôi con nhơn tình từ khi con còn trứng nước. Anh ta dạy con tôi đúng ý tôi, dạy nó tự lập, cẩn thận, trách nhiệm và những ý thức có tính nhân văn…

Bé Thương Thương đi tới bàn, rót nước ra hai cái ly, đậy nắp ly cẩn thận, nói rằng rót trước cho nguội không thôi nước nóng mẹ với tía khó uống. Con tôi học tánh lo xa và săn sóc người khác từ đâu vậy kà? Cái tánh nghĩ giùm người khác đáng quý nhưng lớn lên trong cái xã hội xô bồ đầy rẫy những chuyện trái lòng phải chăng là một điều tốt? Nghĩ như vậy nhưng tôi chủ trương dạy cho bé sống vì người vẫn hơn là làm gương cho bé tinh thần ích kỷ, giành giật của người khác vốn đã trở thành căn bịnh ung thư của xã hội hiện nay. Có lo ngại cho tương lai bé nếu bé sống bằng tâm hồn nhân thiện trong xã hội nầy thiệt tình nhưng còn hơn để nó vô cảm, suy nghĩ trên những lợi lộc cực gần trước mắt, nhỏ mọn đến bần tiện vốn là điều tôi cho rằng kéo giá trị con người xuống thấp hèn dầu cho giàu có, quyền thế tới bực nào.

Nhơn bước vô nhà, gắn cái kết lên móc trên vách sau cánh cửa, đề nghị cả ba đi ra quán ăn sáng bún mắm, món đặc biệt ở đây, nói rằng mỗi tuần chị chủ chỉ bán buổi sáng Chúa Nhựt thôi. Không muốn thiên hạ xầm xì về chuyện đã ngủ lại đêm ở nhà Kỳ Nhơn, tôi hỏi khó, cũng là tìm lý do để từ chối:

- Hôm nay là rằm tháng Giêng sao lại có bán bún mắm?

Nhơn kiên nhẫn giải thích rằng thì là mỗi tuần chỉ có một ngày Chúa Nhật, người ta đợi chờ để kiếm thêm chút tiền chợ, nếu tránh luôn những ngày lục trai, thập trai gì đó… thì con cái họ đói.

Tôi thích thái độ nầy của Nhơn, bao dung, kiên nhẫn trước những câu hỏi thiệt trẻ con hay lừng khừng của tôi. Tôi ngó anh bằng con mắt sắc lẻm, nói chận đầu mà làm bộ như là đã biết tổng tồng tông mọi chuyện:

- Không sợ ‘người ta’ ghen hay sao mà đòi đi ăn quán với em. Em đâu có chân dài đâu mà anh phải hy sinh. Nát nước rồi người tình ơi!

Tôi chu mỏ làm nũng như Thương Thương vừa mới đây.

Nhơn lườm yêu tôi, không trả lời. Tôi nói thầm: “Cái mặt điển trai nầy ở xóm cụt cùng cửa sông cửa biển với đời sống đơn giản của dân chúng chung quanh quen với ruộng đồng rẫy bái, chém chết cũng cả đống cô gắm ghé. Không có công chúa con của chức sắc lớn ủy nầy ủy kia hay ái nữ của đại gia chủ của năm bảy tòa lầu đài do anh chị em kết nghĩa xây tặng cũng thiếu gì con gái rượu của các chủ vườn bát ngát, chủ vuông tôm bự xộn…”

Khi Nhơn khóa cửa, đút chìa khóa vô túi thì tôi nghiêm chỉnh móc trong túi xách ra cái ống khóa đồng bự xộn đã mua sẵn từ trước ở thành phố, móc vô chỗ còn chút rộng của cái khoen, bấm lại rồi dang tay quăng thiệt mạnh chìa xuống sông Cồn Cộc. Anh chàng ngó tôi ngạc nhiên. Chắc là người chưa biết trò chơi cột chặt tình tình yêu của du khách đến Paris mới bày đặt ra mấy chục năm gần đây.

Tôi nói như là tay chơi sành sõi:

- Khóa chặt tình yêu của mình. Nhốt tình của anh với em không cho thoát ra. Lâu ngày khóa có thể cũ sét nhưng vẫn còn đó. Sau nầy nếu anh hết yêu em thì ít ra thấy cái khóa nầy, cũng biết rằng đã có thời sống trong tình yêu, tình yêu nồng nàng và chơn thật.

Nhơn bộc lộ sự cảm động, anh run giọng nói, dầu che dấu bằng cách ngó ra sông phía chỗ cái chìa khóa rơi xuống mấy phút trước, nhận xét:

- Có hơi cải lương đó, nhưng tình yêu là chơn thật.

Tôi chỉnh:

- Nên nhìn ở mặt ý nghĩa và ước vọng.

Tôi biết chắc mình đã lấy trọn hồn anh dầu rằng trước mắt không biết bao giờ hai đứa mới được đường hoàng sống chung như những cặp vợ chồng bình thường.

Con người là sinh vật thiệt kỳ lạ thiệt. Đã đưa hết hai tay ra chộp bắt tình yêu rồi, nhưng khi thấy tương lai tươi sáng trước mắt lại ham hố nhoài mình tới, không biết có còn tay nào để với chụp không hay là lại ngã lộn xuống sông nước vô tình. Nghĩ tới đây tôi thấy mắt mình cay cay, chắc là đỏ đỏ, lưng tròng. Trời chưa sáng rõ lắm nhưng người tình tôi đã thấy, anh liếc mau qua mặt tôi lần nữa để kiểm chứng rồi lầm lì đẩy xe ra, đợi tôi ngồi lên sau yên…

2.

Đường ra bến phà dài hai mươi mấy cây số không đủ cho tôi trao truyền bao nhiêu thương nhớ lâu nay. Hai tay tôi choàng vòng qua bụng anh. Anh nói gì cũng không cần nghe, chỉ lo cảm nhận hơi ấm chuyển qua ngực mình. Gió tạt càng lạnh tôi càng ép sát mặt mình vô lưng anh, tay càng xiết chặt.

Nhơn năn nỉ:

- Em cho anh thở với, ôm chặt quá hết thở ai nuôi bé Thương Thương?

Tôi nũng nịu:

- Cho chết luôn! Ngon không?

Làm thinh một hồi lâu anh chàng mới lên tiếng:

- Bún mắm bữa nay không nghe mùi thơm mằn mặn của mắm, chắc là bà Ba hết mắm, nước lèo cạn nàng chắc bèn thế bằng nước muối.

Tôi thích tiếng nàng anh vừa mới dùng. Có chút bỡn cợt nhưng nhẹ nhàng, không mấy ác tâm. Tôi véo chỗ rún của Nhơn một cái đau điếng:

- Đừng giả bộ ngây thơ, em hỏi ngon không. Nói trật là chết với em.

- Thì đã nói rồi, bún mắm mà không đủ lượng mắm… Ui… Ui… Ngon!

- Gì ngon. Không hỏi bún mắm đâu à nha!

- Đừng bắt nói mà. Biết rõ quá rồi còn hỏi. Biết được chấm điểm ngon là quý rồi.

- Thì nói đi!

Tôi vừa ra lịnh vừa ngắt rún anh mạnh hơn. Không biết sao tôi thích ngông cuồng quậy tưng quỉ-cái kiểu gái mới đời nay. Để bù lại mấy năm trước chỉ đứng xa xa thèm thuồng ngó trộm anh nồng nàn hôn chị Cảnh chăng? Vậy mà anh chàng cũng bướng bỉnh không trả lời. Thấy rằng bắt bí địch thủ quá thì trò chơi mất vui, lại sợ tay mình quá trớn lang thang lạc hướng, tôi giả bộ bao dung, sẵn dịp chọc anh luôn:

- Thôi, không biết thì tha cho đó. Để sau nầy sẽ khảo bài lại, bây giờ anh ghé vô chùa Quan Âm cho em lạy Phật ngày rằm tháng Giêng. Cũng cầu cho mọi chuyện suông sẻ. Được đi sớm. Sau nầy rước được anh qua bển không có gì trục trặc…

Nhơn nạt tôi như bao lần trước:

- Đã biểu đừng tính cái kiểu trời thần đó mà. Tôi không đồng ý đâu. Bất nhơn sát đức!

Anh chàng chắc đã bực bội lắm nên mới đổi cách xưng hô. Tôi nhỏ nhẹ:

- Thì thôi! Để sau nầy hẵn tính. Bây giờ cho em vô dưng hương cái đã. Có gì đâu mà làm dữ vậy ông thần!

Chùa đông nghẹt người bán buôn xin xỏ trước tam quan. Ngoài cửa có hai Phật tử áo lam nghiêm chỉnh đứng gác, chỉ cho khách thập phương vô cúng vái, chặn lại những người ăn xin, những con buôn với các lồng chứa kềnh càng chim muông, rùa cá bán cho người làm phước phóng sanh ngày rằm. Tiếng chửi rủa, trách móc nằn nì om ỉ. Chúng tôi cũng khó nhọc lắm mới lách được đoàn người chắn lối để vô, vậy mà cũng có một hai đứa nhỏ bán nhang đèn giấy tiền vàng bạc lừa dịp xô đẩy khách rồi chạy tuốt vô sân chùa.

Tôi kéo Nhơn lên chánh điện bắt anh lạy Phật, vái cho hai đứa sau nầy sum họp xong rồi muốn làm gì làm. Anh chàng căn đi dặn lại đừng mua đốt giấy tiền vàng bạc, nói rằng vô ích, chỉ tổ làm giàu cho tụi Tàu khựa dối đời, Diêm vương nào cho phép chúng phát hành ngân hàng âm phủ bằng những tờ giấy vụn in đô la giả. Không biết tại sao tôi thấy yêu quá thái độ lừng khừng của Nhơn, chỉ đứng xá Phật mấy xá bằng cái lưng ngay đơ rồi lẻn ra ngoài trong khi tôi đương quỳ khấn vái xin xâm.

Tôi hào phóng đặt tiền hơi nhiều trong dĩa công đức khi vị sư già bàn xâm vừa mới cầm lá xâm trên tay đã buột miệng khen xâm Thượng Thượng của cô tốt quá, chắc là năm nay cô có nhiều tin lành, làm ăn thành công lớn. Đi xa được mọi sự như ý…

Tôi hỏi thầy chớ đi xa có phải là được chồng rước qua Mỹ hay không, thầy lật sách đọc một đoạn dài lời bàn nào là Quan Vũ quá ngũ quan, nào là Hàn Tín thụ phong ấn tướng rồi nói rằng chuyện định cư chỉ là bước đầu, rồi còn có những thành công lớn hơn thập bội. Thành công gì thì thầy không biết, thiên cơ không lậu cho người phàm, xâm chỉ nói mí mí, mé mé thôi. Tôi nói đùa với thầy chắc là con qua đó gặp thời, làm chủ cả chục cái tiệm nail hay mở một lúc năm bảy tiệm phở, chỉ ngồi rung đùi tính cách làm sao hốt bạc cho nhiều, chứa đầy những túi bảy gang mang về Việt Nam xây nhà cao cửa rộng cho cha mẹ, anh em.

Tội nghiệp sư ông, người gật đầu lia lịa, không biết rằng miệng tôi tuy leo lẻo nhưng lòng chẳng chút nào tin. Cuộc sống của tôi khiến cái màn bi quan đen ngòm luôn luôn phủ xuống trước mặt. Tôi thú nhận là chuyện ánh sáng huy hoàng ở cuối đường hầm tôi nghe thì nghe vậy nhưng tin tưởng chẳng có bao nhiêu. Vị sư già kiên nhẫn khuyên rằng con người nên sống bằng niềm tin tương lai và lòng tin ở những thế lực siêu nhiên luôn phù trợ những người làm lành. Sư nhấn mạnh lần nữa ở tương lai tốt đẹp của tôi nếu tôi có đủ sức mạnh tâm hồn để phấn đấu. Tôi chúa ghét từ phấn đấu vốn được nghe tới nhàm chán lâu nay nên làm thinh luôn. Chung quanh tôi những người chờ đợi tới phiên mình nghe bàn xâm dầu đương lo ngại vì những lá xâm xấu Hạ Hạ của họ cũng hướng ánh mắt vui mừng, ngưỡng mộ tương lai huy hoàng được vị sư vẽ ra trước mắt tôi.

Tôi ra sân kiếm Nhơn. Anh chàng đương đứng nói chuyện với một vị sư trung niên nơi chỗ bờ một cái hồ xây nối liền với con lạch cùng cạn được làm chỗ phóng sanh cá, rùa. Một vài Phật tử đứng lóng nhóng gần đó hóng chuyện. Có hai ba cô coi bộ cũng mướt lắm đương đứng trong nhóm. Hình như Nhơn có quen với họ. Tôi thấy mình nóng mặt ngang xương.

3.

Ngó mấy người thả cá, thả rùa xuống hồ, Nhơn quay qua chỉ cho vị sư những người dân đứng lố nhố ở phần lạch bên ngoài tường rào của chùa:

- Thầy coi đó. Người bên nầy phóng sanh thì người bên kia tìm cách bắt lại. Tội nghiệp những con cá con rùa, vui tự do chưa được mấy mươi giây thì liền khổ lại vì lao lý. Người phóng sanh như vậy có tội hơn là có phước. Những con vật nhỏ bé kia tội tình gì mà phải làm con cờ trong trò chơi bắt thả của người đời!

Vị sư thở dài:

- Vậy mà còn đỡ... mới hồi rằm tháng bảy hai ba người vác bình điện ra giựt điện. Bao nhiêu cá lớn cá bé, bao nhiêu rùa mẹ rùa con vừa mới được phóng sanh mấy giây trước thì bị điện giựt chết liền, nổi lên lật ngửa đưa bụng trắng hếu. Cái hại là có một bé gái lẫm chẫm sao mà đưa chưn xuống nước, bị điện giựt phải chở đi nhà thương. May mà không chết…

Nhơn chồm mình tới dòm xuống hồ. Nghẹt lềnh. Chắc là đàn cá nầy từ lâu không tìm cách chun qua lưới. Chúng biết được bên nầy là tự do, bên kia là tù ngục rạc ràng, là đớn đau chết chóc chăng

Như biết ý nghĩ của Nhơn, vị sư thở dài:

- Duyên nghiệp của từng sinh vật thôi. Nghiệp nhẹ thì thoát. Chun được vô lùm bụi, hoặc lặn sâu trốn kỹ, hoặc ở lại trong hồ không chịu bơi ra lạch. Nghiệp nặng thì…

Nói tới đây vị sư ngừng lại, nín lặng, ngó vô vách tường chùa có vẽ những hình bàn chông, chậu máu, cưa hai nấu dầu hay lặn hụp trong Nê hà xú uế. Ngôn ngữ nặng nề mang tính cách trừng phạt răn đe ghê rợn không quen với người tu hành nên ông ngừng lại, có lẽ là để lựa ý chọn lời.

Nhơn đưa ý kiến:

- Thầy có nghĩ rằng chuyện phóng sanh kiểu bắt thả nầy tạo thêm lòng tham, phát triển hơn lên tánh tranh đoạt chiếm giựt chăng?

Vị sư vẫn giọng nhè nhẹ, ông nói mà mắt theo dõi những con rùa trăng trắng, nhỏ bằng bàn tay trẻ em, đương lặn lội trong làn nước trong:

- Cũng có đó! Nhưng phần lớn những người nầy vì nghèo khó nên tìm cách kiếm thêm thu nhập, còn tánh tham có nổi lên hay không cũng còn tùy, nhưng chắc chắn là người phóng sanh tạo được tánh lành khi thương và thông cảm với nỗi khổ của những con vật bị bắt.

Nhơn không biện luận thêm. Anh biết bàn cãi những chuyện như thế nầy luôn luôn không đi đến chỗ đồng thuận, thường sanh ra mích lòng. Người phóng sanh thực hiện sự phóng sanh vì lòng yêu thương thú vật thì còn khả dĩ, phóng sanh vì muốn mua một chút phước đức để làm hành trang cuối đời thì khó chấp nhận. Thâm tâm Nhơn vẫn cho rằng đừng có chuyện phóng sanh vẫn tốt hơn vì sẽ không có nhóm người tìm đủ mọi cách giăng bắt, sẽ không có cảnh người mua đi bán lại thú vật ngay trong cảnh chùa chiền. Sự trang nghiêm biến mất đã đành mà có chút gì giả dối trong sự thể hiện tình thương.

Huê bước ra khỏi chánh điện, ngó quanh quất, khi thấy bóng Nhơn liền đi xâm xâm đến nhập bọn ở phía sau.

Vị sư gật đầu chào khách mới rồi chậm rãi nói thêm:

- Ta hãy coi thế giới nầy như một khu vườn bao la vô cùng tận mà mỗi con người, mỗi con vật, mỗi gốc cây, hòn đá, thậm chí một cụm mây trời hay một cơn gió thổi đều là một đóa Hoa Nhân Sinh có ý thức. Tất cả đều sản xuất hoa trái cho đời cách nầy hay cách khác. Với thuận duyên thì hoa cho quả tốt, tạo nên con người lương thiện hoặc thú vật hiền từ. Nghịch duyên thì cho quả sâu, úng thúi, thiên tai gió bão hay sanh ra con người tật nguyền, ác độc, vô cảm, nghĩa là một cái trái, cái quả có hại cho hoa trái chung quanh, cho đời nói chung.

Một cô trong nhóm lên tiếng:

- Thưa thầy, nghịch duyên nặng có thể không có dịp được thụ phấn mặc dầu Hoa Nhân Sinh đẹp cách mấy cho nên sẽ không kết được quả, nói gì được có trái tốt.

Hình như cô nầy nói mà ngó Nhơn một cách lém lỉnh. Tôi không thích cách nói quá cụ thể của cô ta. Hình như cô mượn dịp phát biểu giữa đám đông để nói lên một ẩn ý gì đó chỉ người trong cuộc mới hiểu được rõ ràng.

Vị sư vẫn vô tình:

- Mô Phật! Vậy đó, mọi sự tùy nhân duyên.

Tôi muốn lên tiếng để nói gì đó nhưng chưa tìm được ý hay vì đương bận tâm. Tay mặt vẫn còn xuýt xoa về hai ngón cái và trỏ bị chút phỏng rát do đốt giấy tiền vàng bạc khi nãy. Có đau thì nuốt vô lòng, làm thinh, nói ra càng bị rầy thêm rằng không nghe lời, làm chuyện ruồi bu bắt chước cái dở của thiên hạ mà không xét suy.

Bỗng có tiếng kêu cứu của một đứa trẻ bị hụt chưn ở giữa lạch ngoài tường chùa. Nhiều giọng hốt hoảng kêu cứu om sòm nhưng không ai nhảy xuống cứu. Nhơn và những người đương nói chuyện nảy giờ cũng cũng chạy ra nhưng bị bức tường trước mặt cản lại khiến họ chỉ đứng ngó trong thất vọng. Rồi như có một cơn gió thổi mạnh, một đứa trẻ chừng mười mấy tuổi, chưn có tật khập khễnh nhưng chạy như bay về phía lạch, phóng mau lên đầu tường rồi nhảy ùm xuống phần lạch bên ngoài, sải ba bốn sải về phía nạn nhân.

Vị sư chấp tay:

- Mô Phật! Em bé đó là quả của một Hoa Nhân Sinh thiện duyên to lớn. Em từng làm nhiều điều tốt khó ngờ. Tật nguyền nhưng đã phụng dưỡng bà nội mình với tất cả lòng chí hiếu. Sư trụ trì cho phép em và bà cụ được vô trong khuôn viên chùa hưởng nhờ sự từ bi của Phật tử mỗi khi chùa có lễ lạc…

Tôi buột miệng:

- Hoa Nhân Sinh thiện duyên!

Tôi học được ý nầy và nghĩ tới Thương Thương. Con bé là quả của duyên giống xấu nhưng chắc chắn rằng nhờ đất, phân tốt nó sẽ thành một quả có ích cho người chung quanh. Tôi đưa tay vịn ngang hông Nhơn để tỏ ý cám ơn anh nhưng liền đó bắt gặp một ánh mắt sắc lẻm vừa ngạc nhiên vừa không thân thiện quét ngang mặt. Cảm thấy bực mình nhưng rồi nhìn lên vẻ mặt thanh thoát, nhẹ nhàng của tượng mẹ Quan Âm lòng tôi hối hận, tôi hít một hơi thiệt dài rồi thở ra để tạo sự thanh thản trong lòng khi buông tay rời khỏi hông Nhơn.

Người con gái kia chào Nhơn để ra về với bạn. Giọng chào thân mật và tiếng anh ngọt ngào của cô ta dùng để gọi Nhơn không còn làm tôi bực mình nữa. Tôi muốn mình là quả của một Hoa Nhân Sinh thiện duyên, không ghen tức vì ý muốn chiếm hữu, nhứt là chiếm thêm, giành phần, kiểu cá ngon con ăn con rọng chờ ngày đánh vảy.

4.

Con đường độc đạo về bên thành phố Sóc Trăng bình thường dài hun hút bữa nay trở thành ngắn ngủn nhưng tràn đầy hoa thơm cỏ lạ kết bằng kim cương, mã não. Gió mát thổi vô mặt tôi đem lại cảm giác nhẹ nhàng phơi phới thần tiên.

Tôi lên tiếng, giọng thiệt nhẹ nhàng:

- Cái chị hồi nãy tên gì vậy?

- Cô Hai cô Ba gì đó bán bánh ngoài chợ. Quen mặt như người mua kẻ bán.

Rõ ràng là câu trả lời cố khỏa lấp một điều giấu diếm. Tôi lại muốn véo rún anh nhưng thấy đương thanh thiên bạch nhựt nên kềm chế.

Bỗng con đường trở nên trần tục đến tội nghiệp khi trước mặt chúng tôi không xa lắm là một đám đông đương lình xình vì chuyện đánh người của nhóm người đồng phục áo xanh, áo vàng với sự lẩn quẩn của mấy người mập mạp, trắng trẻo, áo trắng dài tay hay áo thun đắt tiền, ai nấy nếu không gầm gừ, hình sự thì cũng đương khẩn thiết nói chuyện bằng điện thoại cầm tay đời mới mắc tiền. Một người dân coi bộ cùn mằn, cùi đày, mặt đen đúa quỳ duới đất chấp hai tay, ngửa mặt lên van xin thảm thiết nhưng vẫn bị bọn quần chúng tự phát áo trắng, áo thun đánh đấm tơi bời. Tôi nhắm mắt thiệt kỹ, Nhơn lách xe ra xa, chạy bừa giẫm lên cỏ phía lề bên trái để tránh, anh triết lý khi đã chạy được một khoảng xa xa:

- Xấu hổ quá khi mình phải giả đui đi qua, coi như không thấy không nghe điều bất bình. Rồi phải cố gắng dùng đời sống bình thường để xóa tan hình ảnh và cảm giác vừa ghi nhận. Đó là công việc không phải dễ dàng gì. Cảnh tượng làm mình nhói tim quá nên tạo thành dấu ấn đậm, không dễ tan biến mà không để lại chút tì vết tâm linh.

Tôi phẫn nộ ngang, cũng chẳng biết mình phẫn nộ với ai:

- Sao người kia có thể ươn hèn quá vậy chớ!

Nhơn nói trong tiếng thở dài:

- Phải vậy thôi, nếu không muốn mang tù cả chục năm để rồi tan nhà nát đời về tội chống người thi hành công vụ.

Hai đứa tôi nín thinh hơi lâu. Con đường lúc nầy trở nên đen tối, ảm đạm đến kỳ cục. Tôi đoán ý Nhơn. Hẳn anh đương đau đớn về tệ trạng người tàn nhẫn đánh người vừa chứng kiến. Tâm lý đó cũng thường thôi, ai chẳng vậy khi còn có chút nhân tính. Còn tôi hợp ý với bài học mới vừa thủ đắc nên mang thêm một nỗi xót xa nặng nề khi nghĩ tới Hoa Nhân Sinh của xã hội hiện nay tạo được chẳng bao nhiêu hoa thơm quả đẹp nhưng hoa thúi, quả sâu được mùa nở rộ khiến cho miền địa đàng của ông cha tạo dựng bao năm nay đương trên đường sa đà, tuột dốc. Và mình thì cằn cỗi cái tâm do phản ứng vô cảm để được yên thân làm hóa mộc rồi hóa thạch từng ngày từng ngày một cái tâm trong sáng một thời của mình.

Lên tiếng bằng một chút hài hước tôi mong kéo cả hai ra khỏi màn bi lụy:

- Anh lo tưới phân tốt để Hoa Nhân Sinh nầy tạo thêm quả đẹp đi. Còn hơn xách thùng siêu phân tưới lang thang bất câu chỗ đúng chỗ sai.

Nhơn lầm bầm:

- Cái tánh nói xàm lớn sầm sầm cái đầu cũng không chịu bỏ!

Nghe trong cách nói chứa đựng một sự thương yêu tràn ngập. Tôi hãnh diện xiết chặt vòng tay mình hơn chút nữa. Để khỏi mắc cở với chính mình tôi hát lên nho nhỏ bài dù kê thường được hát trong tiệc cưới của đồng bào Khmer ở trong xóm.

Nỗi ám ảnh về đám đông lộn xộn chúng tôi vừa lướt qua mấy phút trước không rời tâm trí. Nó xào trộn với kỷ niệm về lần cãi cọ 6, 7 năm về trước với người tía không bao giờ được nhìn nhận của Thương Thương. Và tôi muốn mửa thốc mửa tháo, phải áp mũi vô lưng Nhơn quẹt qua quẹt lại thiệt mạnh để thay đổi thứ không khí ô nhiễm tâm hồn mình đương hít vô buồng phổi. Tôi phân tích lòng, thấy mình không thù hận, không cay đắng với người đã tạo ra nghiệt cảnh cho tôi mà chỉ chua xót cho đất nước và thương hại cho những người như anh ta, những người đã bị vô minh hướng dẫn, đến chết vẫn không biết mình lặn hụp trong địa ngục mê lầm.

Vậy mà nghĩ tới đây tôi lại thắc mắc về mình và cảm thấy lạ lùng là tại sao chưa tới ba mươi tuổi đầu tôi lại mắc hội chứng tâm tư, tâm tư về mấy cái chuyện bâng quơ chẳng giúp mình khá gì hơn trong cái xứ không thuộc về những kẻ thấp cơ thua vóc như chúng tôi.

Thiệt kỳ lạ, tình cảm lợm giọng chán chường và cảm giác tự hào, yêu đời cùng một lúc hiện diện trong tôi, mỗi thứ đều rõ nét. Chúng tương phản như một tờ giấy, mặt trắng mặt đen…

Và thay vì thở dài, tôi đã mỉm cười khi nghĩ rằng trong oan trái, mình là đóa Hoa Nhân Sinh khổ nạn nhưng đã tạo được một trái tốt cho đời nhờ sự vun trồng khéo léo của Nhơn. Tôi nhéo nhẹ rún anh, nói nho nhỏ: Mẹ thương con quá Thương Thương ơi, đóa Hoa Nhân Sinh thiện duyên bé bỏng của mẹ. Cám ơn Kỳ Nhơn xóm Cồn Cộc, người làm vườn quá tuyệt vời của tôi!

Một chiếc xe gắn máy trong hẻm khuất đâm xẹt mạnh ra đường cái không cần biết trời đất gì. Nhơn thắng xe thiệt mau đồng thời lách lạng tuyệt vời để tránh tai nạn trong đường tơ kẽ tóc. Tôi va đầu vô lưng Nhơn một cái đau điếng thiếu điều gãy mũi vừa mới được nâng cao mấy tháng nay.

Khi xe đã lấy lại tốc độ bình thường, không hẹn mà chúng tôi cùng nói một lượt:

- Hoa Nhân Sinh nghịch duyên!

Và cả hai cười lớn trong gió lộng ù ù bên tai.

Nguyễn Văn Sâm

Mồng 1 Tết Ất Mùi (19-2-2015)


Phụ bản II

NGHE GIÓ MÁCH

Nghe gió mách hương miền xa đã đượm

Sắp ùa về trên đôi cánh huyền xuân

Nắng linh lang khấp khởi những ân cần

Kìa thai sắc đang hườm hoa biếc nụ

Nghe gió mách khúc nhạc bừng xuân nở

Đã trỗi lên từ những khóm vườn xanh

Búp tươi non tở mở khắp nhánh cành

Chờ mai sớm khúc huyền ca thánh thót

Nghe gió mách những chòm râu hoa cước

Đã cười rung hào sảng những ngân nga

Nét phượng bay tung phác những tài hoa

Trang giấy gió thỏi mực tàu tao tuyết

Nghe gió mách thảo thơm từng trang viết

Những vần thơ xao xuyến khắc hồng minh

Nắng hoan ca thanh sắc sắc khang bình

Kìa xuân thắm hạnh nguyên từng hương ấm.

ĐÀM LAN

TUYỆT ĐỈNH

XUÂN

Cũng vẫn là Xuân đấy thôi

Mà sao ta cứ bồi hồi với Xuân

Xuân nay rộn rã tưng bừng

Nàng Xuân thắm đượm thơm lừng nắng mai

Sắc Xuân ấm áp hoa cài

Hương Xuân ngào ngạt thêm say mộng lòng

Gió Xuân phe phẩy tóc bồng

Nắng Xuân rực rỡ má hồng thêm duyên

Rượu Xuân chuốc chén bạn hiền

Đêm Xuân vào mộng như tiên giáng trần

Thơ Xuân tình đượm lâng lâng

Nhạc Xuân trổi khúc vang ngân rộn ràng

Tơ Xuân dìu dặt mơ màng

Lòng Xuân man mác bàng hoàng nhớ ai !

Lời Xuân nặng nghĩa trúc mai

Tình Xuân tuyệt đỉnh thêm say mộng lòng

Ngày nào ước cũng là Xuân

Đời như trẻ lại hoa lòng thắm tươi !

XUÂN VÂN

MUỐN VINH SANG

PHẢI DÃI DẦU

Phú quý vinh sang phải dãi dầu

Hoa thơm phong nhụy cất nơi đâu

Lợi danh thật giả tai nghe biết

Tài lộc thực hư mắt thấy hầu

Dưới trướng cầm kỳ lưu luyến nhạc

Sân Trình thi họa nhớ canh thâu

Chiều tà bóng xế thơ cùng bạn

Tiếng nhạc lời văn mãi đượm mầu.

HOÀNG THỊ VINH

NỐI NHỊP CẦU THƠ

Đôi vần nối nhịp bắc cầu thơ

Bằng hữu chi giao mấy cũng vừa

Xướng họa tài sơ niêm sợ thiếu

Giao lưu trí mọn luật lo thừa

Bằng tô ý đẹp thêm trong sáng

Trắc điểm lời hay bớt nhạt mờ

Phú lục văn chương kho bất tận

Đường thi, lục bát mãi say mơ.

HOÀNG THỊ VINH

Tiếp bước Đường thi

Đường thi Đất Việt rực thiên hương

Tiếp bước tiền nhân vượt dặm trường

Mặc khách tao nhân trao ước vọng

Nam thanh nữ tú trải yêu thương

Khuôn vàng thước ngọc mơ thi tứ

Ý đẹp lời hay mộng diễm chương

Xướng họa giao lưu ngời lẽ sống

Điểm tô sông núi đẹp phi thường.

NGÀN PHƯƠNG

Hương sắc Đường thi

Kính chào bằng hữu khắp mười phương

Đang đắm men say với luật Đường

Rực rỡ thất ngôn vờn ánh nắng

Long lanh bát cú cợt màn sương

Vàng son gieo tứ ngời thanh sắc

Châu báu dệt vần tỏa ngát hương

Chén rượu thiên cung tràn diễm ảo

Tơ trời se kết mộng trùng dương.

NGÀN PHƯƠNG

Lời tự tình

của người bán hàng rong

Hoa súng nở ngỡ đất cười

Mặt cô hàng gánh rạng ngời như hoa

Trời bao la đất bao la

Càn khôn một gánh sơn hà thênh thang

Hè qua thu đến đông tàn

Gánh càn khôn gãy gian nan quá nhiều

Ruổi dong ngựa sắt sớm chiều

Nụ cười ánh mắt đựng nhiều nhớ thương

Qua từng góc nhỏ quê hương

Đan từng sợi nhớ sợi thương tím lòng

Xuân về từ lúc tàn đông

Người về chẳng thấy mênh mông đất trời

“Núi cao chi lắm núi ơi !

Núi che mặt trời che mất người thương”

Xe lăn mòn lối quê hương

Chở theo giấc mộng dặm trường tìm nhau

3/12/2017

NGUYÊN LÊ - TRẢNG BÀNG

GỌI XUÂN

Nàng Xuân hỡi, cả đất trời mong đợi
Muôn cánh hoa dâng hết nét rạng ngời
Cành lá thắm căng đầy xanh mượt lộc
Hạt sương mai lấp lánh, nụ xinh tươi

Nàng Xuân ơi, lòng hân hoan phơi phới
Đón mừng Xuân sắm sửa rộn ràng vui
Thời gian nghe lặng lẽ phút chia phôi
Đang đếm ngược còn đâu ngày tháng cũ ?

Một chút chơi vơi trong giờ sau cuối
Chút ngậm ngùi tiễn bước tháng năm đi
Chút dư hương thăm thẳm xót xa gì
Như pha lẫn trong niềm vui hớn hở

Xuân hỡi, hãy cho đời bao mơ ước
Xuân nồng nàn, rực rỡ vạn niềm vui
Kìa Xuân ơi ngàn hoa khoe sắc thắm
Đón chào Xuân bừng nở khắp đất trời

Ngày tháng cũ lui dần vào dĩ vãng
Đón mùa sang khắp nơi chốn reo mừng
Rộn rã bài ca năm mới đến rồi
Vang vang tiếng cười hạnh phúc yêu thương...

Phạm Thị Minh-Hưng

Màu hạnh phúc

Hạnh phúc không kiếm tìm ở đâu xa
Tình yêu không nở hoa, hoa úa tàn
Đời sẽ khép khi tim minh khép lại
Hãy sống biết yêu thương biết mỉm cười
Hạnh phúc là tình yêu giữa con người
Khi người ta cho tình yêu say đắm
Khi người ta nhận tình yêu đầm ấm
Khi người ta tan vào những nụ hôn
Khi người ta miên man trong cảm xúc
Người ta sẽ nhận ra màu hạnh phúc
Xanh đở vàng lục lam chàm tím tím
Màu của hạnh phúc của tình yêu thương.

Huỳnh Thiên Kim Bội

BÀI THƠ TẾT

Tôi muốn gửi đến anh một bài thơ thật ý nghĩa
Gửi đến em một giai điệu đậm đà
Gửi đến chị chút gió thoảng ngân nga
Lời mộc mạc của lòng xuân trong tôi từ lâu lắm.

Tôi muốn nói với mọi người rằng

cuộc đời luôn rất ngắn

Để băn khoăn về ai đó ghét ghen
Để lôi thôi về bao chuyện thấp hèn
Tỉ như chuyện con gà ganh tiếng gáy !
Tôi chỉ muốn tâm hồn tôi mỗi tối
Như giòng sông bé nhỏ lững lờ trôi
Mang trong lòng đầy ắp những tanh hôi
Của cuộc đời, pha loãng ra và trao cho muối biển.

Tôi vẫn hát dù mùa xuân chưa hoàn thiện
Việc đem niềm vui cho tất cả mọi người
Vì cuộc đời, như cánh lá cũng rụng rơi
Để chiếc khác xanh hơn hân hoan vào cõi sống.
Tôi vẫn ngân nga bài thơ làm trong nắng sớm
Mãi đủ đầy cái hương sắc tinh khôi của đất trời,

của những hạt sương vơi đu trên lá biếc ;

Và gửi cho ai còn giữ mãi tâm hồn hoa mộng.
Tôi vẫn đi trong ánh mai vàng đượm
Lả tả rơi những cánh mỏng mê hồn
Mà tưởng ra đâu đó những nụ hôn

của những người yêu nhau,

hay của lúc tao phùng sau bao ngày chiếc bóng.
Tôi vẫn uống chút cà phê buổi sớm
Có khi chỉ một mình để chiêm ngắm chính bản thân
Sống sót qua bao biến cố thăng trầm
Và tim vẫn trào dâng bao ước vọng

Rồi sáng sáng khi dương quang lồng lộng
Thử tình tang cái hồn nhạc xuân nguyên
Thử ươm đơm, xuyên xẻ lối ưu phiền
Được giòng thơ nào…

Đêm, tôi hát, tôi ngâm

và tặng những ai trong vòng đời lưu luyến.

LAM TRẦN

QUẺ BÓI ĐẦU NĂM

Khai bút đầu năm bói quẻ mai

Để xem thế cuộc cách an bài

Tiền lương mỗi tháng còn khiêm tốn

Vật giá hằng ngày cứ tiến bay

Báo chí liệt kê dư học giả

Nhân dân lo lắng thiếu anh tài

Càn Khôn biểu hiện linh thiêng đó

Ai đắc tâm thành hưởng thới lai.

Thanh Châu

NHỚ MỘT CHIỀU XUÂN

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ tà áo trắng mỹ miều vãng lai

Nhớ con lộ chạy dài thôn ấp

Hoa mai vàng nở khắp đó đây

Tiếng oanh thỏ thẻ vui vầy

Chiều Xuân đầm ấm cỏ cây tươi cười

Nhớ hương chiều hai người sánh bước

Trên đường làng còn ước mưa Xuân

Tâm hồn phơi phới lâng lâng

Ngỡ rằng lạc chốn mấy tầng Thiên Thai

Chiều chiều sao mãi nhớ ai

Nhớ vầng mây trắng bay bay xa vời.

Thanh Châu

CHÙA LÁ

Cùng em đi lễ chùa

Xe bon bon đường xa

Em đi làm công quả

Tôi là khách lãng du

Qua nhịp cầu nho nhỏ

Bóng dừa nước lô xô

Chùa nghèo đơn sơ đó

Dưới mái lợp lá dừa

Em sà ngay vào bếp

Trán còn đượm mồ hôi

Như người tu thân thiết

Các em chào chị ơi !

Những đứa trẻ lên mười

Cả những bé lên năm

Để trái đào phơ phất

Trong màu áo xanh lam

Em nhặt rau đun nước

Thoăn thoắt đôi bàn tay

Sắp xong rồi - “tiệc” chay

Nấm rơm và trái ngọt

Tôi dạo bước quanh chùa

Lòng thành nơi cửa Phật

Nghe lâng lâng thanh thoát

Trong hương ngát gió đùa

Đường về như gần lại

Bởi tâm linh thảnh thơi

Mang theo hồn chùa Lá

Trong lòng em và tôi...

LÊ NGUYÊN

MÙA XUÂN

của RIÊNG TA

Xuân đời không đón cũng về đây
Ta không chờ đợi, chẳng mê say
Lòng không xao xuyến, không nô nức
Trong khi người thế mãi cuồng quay

Ta đứng xa nhìn, mặc thế nhân
Ai gọi là Xuân, họ cũng Xuân
Rồi tiếc Xuân qua, mong Xuân lại
Theo Xuân tàn tạ biết bao lần !

Từ thuở trong ta có mùa Xuân
Bằng Hoa Tâm nở giữa hư không
Hoa ấy không tàn, Xuân bất tận
Nên chẳng màng Xuân của thế nhân.

Tâm Nguyện

GHÉ BẾN THƠ

Cánh bướm vàng bay trong nắng thu
Gió thu hiu hắt, sóng xô bờ...
Thuyền ai lặng lẽ trôi trên sóng
Chở khách tình si, ghé... bến thơ !

Đón ngày bình yên

Sáng ra chăm sóc vườn cây
Nghe chim vui hót, đón ngày bình yên
Còn chăng một thoáng ưu phiền
Thì xin gửi nốt sang miền... tịnh không ...

TRONG NẮNG

TRONG GIÓ

Tia nắng vàng tươi lọt kẽ mành
Mỉm cười, đôi mắt sáng long lanh
Mơn man gió nhẹ hôn làn tóc
Trao chiếc hôn nồng, khẽ gọi : Anh !

THANH PHONG

QUÊ TA

Thủ Vĩ kết

QUÊ ta nay đã ngát ngàn HƯƠNG

TRẠM xá xinh tươi rộn lớp TRƯỜNG

MAI nở khoe màu bên bóng QUẾ

LIỄU lay động lá dưới vầng DƯƠNG

CẦU cao lối thuận tùy xuôi LỘ

RUỘNG mượt kinh thông mặc tưới VƯỜN

SÔNG nước êm đềm ra tận BIỂN

NHỚ người cách mặt nặng lòng THƯƠNG.

LANG NGUYÊN

LÊN ĐÈO

Thủ Vĩ Láy Song Từ

NGANG ĐÈO lại ngẩn số ĐANG NGHÈO

TƠ CHÉO đầy đường mặc CHỚ TEO

ĐÁ NGỬA băn khoăn nhiều ĐỨA NGÃ

VÒNG EO bỡ ngỡ lắm ONG VÈO

LÁ RƠI dưới gót tay LƠI RÁ

THÂN NGHẺO bên sườn mắt NGẨN THEO

NƯỚC CHẢY đầm mình mau NẨY CHƯỚC

LEO ĐỀN tạm nghỉ cuộc LÊN ĐÈO.

LANG NGUYÊN

XUÂN AN KHANG

Vào xuân búp nở Thọ - Đào - Mai

Sướng khổ tranh đua cứ miệt mài

Bạn hữu thân quen thường gặp mãi

Gia đình các cháu được phúc thay

Bạn bè chòm xóm không phai nhạt

Ăn tết miền quê vui suốt ngày

Cuộc sống an nhàn luôn ưa thích

Mỗi năm hưởng thọ hướng tương lai.

QUANG BỈNH

YÊU VIỆT NAM

Đất nước thành rồng cạnh biển đông

Thiên nhiên tạo cảnh lạ nhiều phong

Non cao đất rộng thêm hang động

Ruộng lúa phì nhiêu đất phú nông

Sông nước quanh co cây trái ngọt

Tài nguyên mặt đất lắm chờ mong

Tình yêu tổ quốc hồn dân tộc

Vẻ đẹp Việt Nam quốc tế trông.

QUANG BỈNH

TÌNH CA CHO TÔI 1

Nhớ người xưa ấy bao năm

Nỗi lòng thuở đó âm thầm vấn vương

Giờ người xa cách đại dương

Còn ta với mối buồn thương nghìn trùng

Thôi đừng tiếc nuối mông lung

Chuyện trăm năm nữa cũng dừng mây bay

Ta về khép lại song gầy

Giữ riêng một khối tình đầy đau thương.

HOÀI LY 30.4.2016

TÌNH CA CHO TÔI 2

Mây vẫn bay về chốn xa xôi

Gió mãi theo về bốn hướng trời

Người có còn chăng phương xa đó

Ta gửi hồn trong lá thu rơi

Với người đời trôi về nơi mô

Cho ta níu lại, chút mong chờ

Với ta năm tháng như dừng lại

Lòng nhuốm rêu buồn xanh cõi mơ

Nhớ người từ giã bốn mươi năm

Giờ tóc pha sương bạc nửa chừng

Tan mất xuân thì miền xanh thẳm

Tình đà phai lạt thể người dưng

Người đi rồi và ta xa nhau

Vầng trăng mười sáu cũng âu sầu

Thế nhân cười ta hoài dĩ vãng

Ta chỉ lặng thầm dẫu thương đau.

HOÀI LY

CẢM NHẬN XUÂN

Sài gòn hai tám buồn thiu

Qua ngày hai chín quạnh hiu nẻo đường

Ba mươi hương khói cúng dường

Giao thừa ngũ quả nhà vườn kính dâng

Mồng một Con - Cháu nghĩa ân

Mồng hai bè bạn cùng nâng rượu mời

Mồng ba tiễn biệt vài lời

Chào đưa Tiên Tổ đón mời ra đi

Mồng bốn cúng giỗ ướt mi

Nhớ người Anh rể ra đi không về !

Mậu Thân gợi nhớ não nề !

Dân lành xứ Huế ê chề thê lương !

Mồng năm ngoạn cảnh mờ sương

Tao Đàn - Nguyễn Huệ ánh dương rạng ngời

Xuân Canh Tý thật tuyệt vời

Trưng bày sản phẩm bao lời ngợi ca

Mồng sáu chuông vọng ngân nga

Sổ sách - tài liệu bôn ba đi làm

Hạt dưa cắn đến mỏi hàm

Lì xì mời rượu luận đàn ngày Xuân

Bao nhiêu vất vả gian truân

Tạm quên đón Tết tri ân chân thành

Cầu mong năm mới tốt lành

Nước nhà khởi sắc - Ban ngành hanh thông

Thơ ca: Xuân - Hạ - Thu - Đông

Tháng ngày vui thú - kết bông mọi nhà

Giờ đây tề tựu Ông Bà

Cùng Cô - Chú - Bác thật là vui thay

Lời Thơ tiếng hát mê say

Gừng cay - Trà đậm: Chúc may mắn hoài.

VŨ THÙY HƯƠNG

CẢM XUÂN CANH TÝ

(2020)

Mừng xuân đón Tết chào Canh Tý

Nô nức nông thôn và phố thị

Ly mới tạc thù với cố nhân

Vần xưa xướng họa cùng tri kỷ

Ấm no cuộc sống đã an tâm

Tươi sáng tương lai cần quyết chí

Hội nhập trào lưu bốn chấm không (4.0)

Văn minh hiện đại đang trù bị.

THANH VĨNH

XUÂN CẢM

Lại một năm qua Tết đến rồi

Nhẹ nhàng thong thả bóng xuân trôi

Không sờn chí cả cùng sông núi

Chẳng thẹn lòng son với đất trời

Ấm cúng gia đình vui hiện tại

Êm đềm kỷ niệm nhớ xa xôi

Ngắm mai vàng nở hồn phơi phới

Dệt mấy vần thơ gởi tặng đời.

THANH VĨNH

Ngẫu hứng

I

BÂNG KHUÂNG

Bây giờ em có chồng rồi

Sao em vẫn mặc áo hồi anh may ?

II

MÙA ĐI

Cây đung đưa, để ngọn gió có hồn

Chim vẫy cánh cho mùa đi thăm thẳm.

III

ĐÊM KHUYA

Con chó cậy có chủ sủa ầm ĩ trong làng

Còn vầng trăng thì im lặng sáng.

IV

NGOÁI LẠI

Khi trời đất bỗng nhiên yên ắng lạ

Neo nhà đi ! Bão lớn sắp đến rồi !

V

THOÁNG HIỆN

Thế sự, ngàn năm còn tập lẫy

Nhân tình một phút đã buông xơ.

VI

ĐẤT NHẠT

Chẳng biết gió nói gì với mình

Cây vẫn cứ lắc đầu và gật.

VII

BIỂN CHIỀU

Hải âu lại lượn vào đất núi

Thuyền nằm trên bãi nhớ trời xa.

VIII

ĐÔI BẠN

Cái ÁC vỗ vai cái THIỆN

Cả hai cùng cười đi về tương lai...

Bồ Hòn 1986

Trần Nhuận Minh

BRAIN-WAVE

I

SPLEENY

Now that you’re already married

Why do you still wear the dress I’ve made for you?

II

GONE AWAY SEASON

Trees swaying, giving the wind a soul

Birds waving their wings to let the season go far

far away

III

LATE IN THE NIGHT

The dog relying vaingloriously on his master

barked noisily in the village

As for the moon, it silently shone

IV

TURNING BACK

When heaven and earth

suddenly turned strangely silent

Bind the house! A great storm is about to come!

V

FLEETINGLY APPEARING

Things mundane, though

one thousand years of age,

are still like a baby who learns

to turn over on his back

While human sentiment takes only

one minute to give way

VI

VAPID SOIL

Well I don’t know what the wind has told me

But the tree continues to shake its top and nods

VII

EVENING SEA

Albatrosses continue to soar

into the mountainous land

The boats lying on the beach miss

the high and far sky

VIII

TWO FRIENDS

EVIL slaps GOOD on the shoulder

Both of them laugh and walk towards the future...

Bồ Hòn 1986

Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn

Đố vui ngày xuân

Bạn hãy dùng bìa mỏng, cắt thành 4 hình A, B, C, D như hình vẽ dưới đây. Rồi dùng 4 mảnh ấy xếp lại thành 1 chữ T cân đối như mẫu bên cạnh

Việc này không giản dị như bạn tường. Bạn mất bao nhiêu phút để ghép hình này.

(xem giải đáp tại trang 113)

NCT.


TÁC DỤNG

của LỜI HỨA, LỜI THỀ

I. Đại cương

Xưa nay nhiều ngươi cho rằng lời hứa, lời thề chỉ nói suông thôi chớ không có tác dụng gì. Có người có việc tức tối cùng người khác thì chọn đền, miếu linh thiêng để cùng nhau thề. Thề xong, cuộc sống cũng cứ diễn tiến bình thường. Có lẽ đó là những việc nhỏ mọn nên báo ứng của lời thề không có hay không thấy. Nhưng những việc lớn, coi chừng có báo ứng.

II. Các chuyện thề

1. Lời thề của hai người đàn bà về một cái quần.

Đây là câu chuyện tôi đọc thời còn đi học, sách nào tôi cũng không nhớ, có lẽ sách viết về các vị trạng nguyên của Việt Nam. Tôi xin kể lại câu chuyện nầy để cho thấy có khi thần thánh cũng linh thiêng lắm, ta không nên vái bậy thề càn.

Xưa có một anh nho sanh ở vùng quê, một hôm ngồi trước hiên nhà, anh thấy chị đàn bà nhà ở gần đó lấy cây sào dài khều cái quần lãnh ở nhà kia. Đưa được cái quần tới hàng rào, chị đem cất cây sào. Anh nho sanh vội lánh mặt để khỏi làm chứng cho phiền. Trở ra, ngó quanh ngó quẩn, chị tới hàng rào lấy cái quần xếp gọn lại đem vô nhà.

Chiều, nhà kia về, thấy mất quần, chị đi tìm bốn phía không thấy, chị liền kêu chủ nhà giáp đó hỏi. Sau một hồi nói qua nói lại, chị mất quần nói rằng nhà chị ở đây, có khi quần tôi bay qua đó mà chị lượm được, xin chị cho tôi xin lại. Chị lấy quần nói không thấy và không lượm được. Tranh cãi không được, hai chị thách nhau tới đình mà dân làng cho là linh lắm để thề. Cả hai đều hăng hái ra đi. Tới dình, chị lấy quần thề:

- Nếu tôi có lấy quần chị nầy mà chối thì bước ra khỏi đình cho tôi hộc máu mà chết. Còn chị nầy đề quyết oan cho tôi thì ra khỏi đình chị cũng hộc máu mà chết.

Cả hai ra về trong êm ả. Nửa tháng sau, cậu nho sanh tới đình, đứng trước bàn thờ thần mà nói:

- Chính mắt tôi trông thấy chị nọ lấy quần của chị kia mà lại thề bán mạng như vậy, thần không xử gì thì tôi chê thần không linh. Nói xong, cậu ra về.

Tối đến, cậu nho sanh thấy một ông quan mũ cao áo dài bước vô nhà xá cậu nho sanh một cái rồi nói:

- Tôi là thần của đình làng đây. Cậu mai kia sẽ đậu Trạng nguyên và làm quan to. Xin hỏi cậu, khi xử kiện, cậu có vì một cái quần mà giết một mạng người không?

Nói xong ông quan lặng lẽ ra về. Bữa sau, cậu nho sanh sắm lễ vật tới cúng đình để xin lỗi.

Sự việc nầy có hay không? Xét thấy không có gì là bằng chứng xác đáng. Ta chỉ nghe và ghi nhận sự việc thôi.

2. Lời hứa của Lịch Sanh thời Hán Sở tranh hùng

Khi Hàn Tín chực đem quân đánh nước Tề, Lịch Sanh xin Hán vương cho sang Tề khuyên vua Tề đầu hàng để tránh đổ máu. Hán vương thảo chiếu giao cho Lịch Sanh sang Tề. Gặp vua Tề, Lịch Sanh nói:

- Nếu đại vương nghĩ đến nước mất nhà tan thì cùng tôi bàn bạc, bằng không thì cứ giết tôi đi.

Câu nói nầy cần giải thích vế thứ hai là “bằng không thì cứ giết tôi đi”. Vế nầy có nghĩa là nếu đại vương không nghĩ đến nước mất nhà tan, cứ để sự thế tự nhiên diễn biến, Hàn Tín sẽ đến đánh Tề thì cứ giết tôi đi. Sau khi bàn bạc, vua Tề bằng lòng đầu hàng nhưng Hàn Tín vẫn đem quân tới đánh. Như vậy lời hứa giải quyết cho Hàn Tín không đánh Tề không có hiệu quả. Vua Tề giết Lịch Sanh bằng cách quăng vô vạc dầu đang nấu sôi cho chết. Như vậy, lời hứa của Lịch Sanh đã ứng nghiệm.

3. Lời thề của Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi thời Tam Quấc

Nhà Hán suy vi, giặc khăn vàng nổi lên đánh phá. Lưu Bị, Trương Phi và Quan Công kết nghĩa anh em cùng đi đầu quân giết giặc và thề rằng:

- Chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi dẫu rằng khác họ, song đã kết nghĩa anh em thì phải cùng lòng hợp sức cứu khổn phò nguy, trên báo đền nợ nước, dưới yên định lê dân. Chúng tôi không cần sanh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, chỉ muốn chết cùng năm, cùng ngày, cùng tháng. Hoàng thiên hậu thổ soi xét lòng nầy. Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cùng giết.

Tình Lưu Quan Trương gắn bó nhau. Sau, Đông Ngô đánh Kinh Châu, bắt được Quan Công giết đi. Lưu Bị hưng binh báo thù và báo cho Trương Phi cùng hợp lực. Trương Phi chuẩn bị đi đánh báo thù, vì quá nôn nóng nên đánh đập thuộc hạ. Phi uống rượu say, hai tên thuộc hạ vô cắt đầu đem sang đầu Tôn Quyền. Vậy là Quan Công và Trương Phi cùng chết một năm. Lưu Bị hưng binh đánh Đông Ngô. Hai bên lập thế trận, giằng giai thách đánh… Thế rồi Lưu Bị bị Lục Tốn đánh cho tan tác phải chạy về Bạch Đế thành rồi sanh bịnh mà băng hà. Có lẽ Lưu Bị chết sau Quan Công chỉ một hai năm thôi. Như vậy, tôi cho rằng lời thề đã ứng nghiệm. Với thế nước, tôi cho rằng phải như vậy thôi.

4. Lời thề của Tôn Kiên về Ngọc Tỷ, thời Tam Quấc

Đổng Trác chuyên quyền, chư hầu họp nhau đánh chiếm được Lạc Dương, Viên Thiệu cho đóng quân ở đó. Kiên tới giếng nọ trong Lạc Dương mò được Ngọc Tỷ (Ấn của vua). Tôn Kiên qua trại Viên Thiệu cáo từ để về Giang Đông. Viên Thiệu đòi Ngọc Tỷ, Tôn Kiên nói không lượm được và thề:

- Tôi được của ấy mà giấu đi thì sẽ chết dưới mũi tên hòn đạn.

Tôn Kiên nhổ trại bỏ Lạc Dương mà đi. Về Giang Đông, rèn luyện quân mã. Tôn Kiên đem quân đánh Lưu Biểu, vây thành Tương Dương. Một tướng ở Tương Dương phá vòng vây để đi cầu viện. Một mình Tôn Kiên phóng ngựa rượt theo thì bị đá và tên bắn trúng đầu chết ở chưn núi.

Như vậy lời thề của Tôn Kiên đã ứng nghiệm.

5. Văn kiện mượn Kinh Châu của Lưu Bị mà không trả

Sau khi Lưu Bị, Tôn Quyền hợp lực phá Tào xong, Lưu Bị chiếm Kinh Châu. Lỗ Túc sang đòi vì có công phá Tào. Khổng Minh nói Kinh Châu là của Lưu Biểu, nay con Lưu Biểu là Lưu Kỳ giữ thì đúng rồi. Lỗ Túc nói:

- Nếu công tử có mệnh hệ nào thì phải đem thành trì trả lại cho Đông Ngô.

Khổng Minh chấp nhận. Lưu Kỳ mất, Lỗ Túc sang đòi, Lưu Bị viết văn kiện mượn Kinh Châu cho tới khi nào lấy được Tây Xuyên sẽ trả. Thế rồi Lưu Bị chiếm được Tây Xuyên của Lưu Chương, Lưu Bị viết giấy nói trả trước ba quận là Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng nhưng Quan Công đang giữ Kinh Châu lại không giao. Lưu Bị lại hẹn chiếm được Đông Xuyên và Hán Trung sẽ trả. Chiếm được Đông Xuyên và Hán Trung cũng chưa chịu trả. Tôn Quyền hẹn với Tào Tháo đánh úp Kinh Châu. Quan Công đang đánh Tào, Lã Mông đánh úp chiếm Kinh Châu rồi chia quân đánh chiếm các nơi. Quan Công bị Lã Mông bắt giết đi.

Lưu Bị biểu Quan Công giao ba quận trước, Quan Công không giao nên bị bắt và bị giết để Kinh Châu và các quận huyện mất trọn về Đông Ngô. Lời hứa đã thành hiện thực.

6. Lời thề của gian thần nhà Tống là Trương Ban Xương và Vương Đạt (đoạn sau ghi là Vương Trạch. Có lẽ tên và sự phiên âm có gì bất nhứt mà ghi như vậy?).

Vua nhà Tống muốn chọn người hiền tài để giúp nước nên mở khoa thi võ trạng và cử Ban Giám khảo là:

· Thừa tướng Trương Ban Xương.

· Binh bộ Đại Đường Vương Đạt (sau nầy ghi Vương Trạch?)

· Hữu quân Đô Đốc Trương Tuấn.

· Nguyên Nhung Tông Trạch (có lẽ ở tại triều đình, Tông Trạch có phẩm trật nào riêng nhưng gọi là Nguyên Nhung có lẽ oai hơn chăng? Khi được lịnh cầm quân ra trận mới gọi Nguyên Soái).

Trước khi bắt đầu khảo hạch, Tông Trạch yêu cầu mọi giám khảo phải thề để tỏ lòng ngay thẳng:

- Tông Trạch thề: “…như tôi có lòng khi quân ngộ quấc, ăn hối lộ thì cho tôi thác về nghiệp đao tiễn”.

- Trương Ban Xương thề: “…như tôi có khi quân ngộ pháp, ăn hối lộ thì cho tôi đời nầy hóa làm heo ngoại quấc chết về nghiệp đao kiếm”.

- Vương Đạt thề: “…lòng tôi có khi quân thì cho tôi hóa ra làm dê và đồng thác như vậy”.

- Trương Tuấn thì thề rằng: “…nếu tôi có lòng khi quân thì tôi chịu chết nơi miệng muôn người”.

Khoa thi nầy có tiểu Lương Vương Sài Quế dự thi. Sài Quế sắm 4 phần lễ vật xứng đáng với 4 bức thư mang đến cho các vị Giám khảo để nhận cho y đậu chức võ trang. Ba vị kia nhận còn Tông Trạch thì không.

Khảo thí bắt đầu, Trương Ban Xương mắng đè Nhạc Phi. Đến thi bắn cung, Nhạc Phi bắn 9 mũi đều trúng hồng tâm. Sài Quế xin thi thí võ để dụ dỗ Nhạc Phi chịu thua, nếu Nhạc Phi không chịu thì thừa kế giết đi. Sài Quế nói với Nhạc Phi nếu ngươi giả thua chạy thì ta trọng thưởng, bằng không thì tánh mạng khó toàn. Nhạc Phi không chịu nhưng không dám đánh, chỉ tránh né. Giám khảo Trương Ban Xương cho Sài Quế đậu Trạng nguyên. Nhạc Phi không chịu và nói nếu lập sanh tử mạng, ai chết nấy chịu thì mới dám đấu. Sanh tử mạng lập xong, Nhạc Phi đâm chết Sài Quế.

Trương Ban Xương đời giết Nhạc Phi, Nhạc Phi phải trốn.

Về sau, Trương Ban Xương mưu bắt các vua Tống đưa sang Kim. Khương Vương trốn về, bỏ kinh đô ở Biện Lương mà tức vị tại Kim Lăng. Nhạc Phi được vời về triều phong quan chức chống giặc. Nhạc Phi bị Trương Ban Xương gạt về triều để giết. Mưu gian bị lộ, Trương Ban Xương bị cách chức. Nhạc Phi đang dẹp giặc ở Hồ Quảng, quân Kim đánh Kim Lăng. Vua và các đại thần bỏ chạy và rủi gặp Trương Ban Xương, hắn bắt nhốt và qua dinh Hồ Hãn (anh Ngột Truật) gọi tới bắt. Vợ Xương thả cho chạy. Ban Xương bỏ nhà theo luôn Hồ Hãn. Vua lại gặp Vương Trạch, hắn bắt vua trói lại và đi báo Hồ Hãn. Con của Trạch thả cho vua trốn, Trạch theo luôn Hồ Hãn. Hồ Hãn, Ngột Truật vây vua Tống ở Ngưu Đầu Sơn. Nhạc Phi tới bảo vệ vua và hạ chiếu thơ. Nhạc Phi sai Vương Quới đi bắt một con heo về để giết tế cờ, và sai Ngưu Cao bắt một con dê để tế cờ. Cả hai, mỗi người bắt một lính Kim thế cho heo và dê.

Ngột Truật muốn lên núi bắt hai lính Tống về làm heo dê để tế cờ nhưng sợ nguy hiểm nên dùng Trương Ban Xương và Vương Trạch làm heo dê để tế cờ.

Như vậy, lời thề của Trương Ban Xương và Vương Trạch đã ứng nghiệm.

7. Lời hứa của toàn quyền Pháp với vua Thành Thái

Bắt đầu từ sau lễ đăng quang ngày 02-02-1889, Hoàng tử Bửu Lân, con vua Dục Đức lên ngôi vua lấy hiệu là Thành Thái. Năm 1897, cầu Tràng Tiền được khởi công xây dựng bắc qua sông Hương từ kho đúc tiền. Buổi lễ đặt viên đá đầu tiên để xây dựng cầu có sự hiện diện của vua Thành Thái. Với ý cho rằng hãng thầu Eiffel đảm trách là vĩnh cửu, khâm sứ Levécque nói với vua Thành Thái (“Nhà Nguyễn chín chúa mười ba vua” của Thi Long xuất bản ngày 29-8-1999):

- Khi nào cái cầu nầy gãy thì nhà nước bảo hộ sẽ trả lại nước An Nam cho bệ hạ.

Bất ngờ, năm Giáp Thìn 1904, một cơn bão ác liệt thổi qua kinh thành Huế, thổi luôn bốn vại cầu xuống sông. Mấy bữa sau, trong một buổi tiệc, vua Thành Thái bắt tay viên khâm sứ và hỏi:

- Thế nào, thưa ông, cái cầu gãy rồi đó.

Viên khâm sứ đánh trống lảng nói sang chuyện khác.

Cuộc thế giới chiến lần hai 1939-1945 Nhựt hất cẳng Pháp khỏi Đông Dương và hứa tạo điều kiện cho Việt Nam tuyên bố Độc lập. Tranh thủ cơ hội đó, ngày 11-3-1945 vua Bảo Đại tuyên bố Độc lập, hủy bỏ tất cả các hiệp ước đã ký với Pháp trước đây (Gần 400, vua chúa triều Nguyễn của Lưỡng Kim Thành xuất bản ngày 15-7-2014). Như vậy Hòa ước 1874 quy định vua nước Nam phải thuận nhường đứt đất sáu tỉnh miền Nam cho nước Pháp và hòa ước 1883 rằng nước Nam chịu nhận nước Pháp bảo hộ. Giao thiệp với ngoại quấc phải do nước Pháp chủ trương. Hai hòa ước 1874 và 1883 bị hủy bỏ đương nhiên không còn hiệu lực nữa. Năm 1884 Pháp sửa lại hòa ước 1883 là Bình Thuận, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa thuộc về Trung kỳ. Hòa ước ký xong, Pháp bắt đem cái ấn của vua Tàu phong cho vua Việt Nam, thụt bễ nấu lên và hủy đi.

Tháng 9-1945 Nhựt đầu hàng đồng minh, Việt Minh cướp chánh quyền và yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 30-8-1945 vua Bảo Đại thoái vị và được mời làm cố vấn cho Bác Hồ. Khi được cử vô phái đoàn sang Trung Hoa, Bảo Đại gởi đơn từ nhiệm và sống lưu vong ở Trung Hoa. Tháng 3-1947, các đảng phái Quấc gia họp ở Quảng Châu tuyên bố đặt dưới sự lãnh đạo của vua Bảo Đại. Thấy vậy, Pháp thỏa hiệp với vua Bảo Đại.

Thỏa ước 05-6-1948 Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam. Nước Việt Nam được tự do thực hiện nền thống nhứt. Ngày 02-3-1949, Nam kỳ quyết sáp nhập Nam kỳ vô Việt Nam. Như vậy, từ đây Việt Nam được độc lập và toàn vẹn lãnh thổ như xưa. Nước Pháp chánh thức trả Độc lập cho Việt Nam

Ngày 24-4-1949 Bảo Đại về nước và 01-7-1949, Chánh phủ lâm thời của Bảo Đại được thành lập. Bảo Đại lấy danh hiệu là Quốc Trưởng.

Như vậy, lời hứa của Levécque đã thành hiện thực.

Khánh Hội, Quận Tư Saigòn ngày 05-10-2019

PHẠM HIẾU NGHĨA

NGƯỜI LÍNH CỨU HỎA TÍ HON

Tại thành phố Calgary tỉnh bang Alberta (Canada), một bà mẹ trẻ 26 tuổi đau khổ nhìn đứa con trai mới 6 tuổi đầu thật dễ thương và cũng rất tội nghiệp đang chết lần mòn vì chứng bệnh ung thư máu ở giai đoạn cuối cùng. Trên cõi đời nầy, chắc không có danh từ nào đau thương ngậm ngùi cho bằng hai chữ “cuối cùng”. Mặc dù tâm tư rối bời tan nát nhưng người phụ nữ trẻ vẫn quyết tâm phải làm một cái gì đó cho đứa con bất hạnh của nàng trước khi cháu ra đi. Như muôn ngàn bậc cha mẹ khác, nàng mong con mình lớn lên và thành đạt những ước vọng trong đời nhưng giờ đây thì mơ ước kia đã tan thành mây khói vì chứng bệnh ung thư oan nghiệt. Tuy thế nàng vẫn muốn cho giấc mơ của con mình thành sự thực. Cầm lấy tay con nàng âu yếm hỏi:

- Billy, có bao giờ con mơ ước và mong muốn khi lớn lên con sẽ làm gì hay không?

- Mẹ ơi! Con luôn ôm mộng trở thành người lính cứu hỏa. Bà mẹ trẻ nhìn con mỉm cười:

- Được rồi con. Để xem chúng ta có thể làm cho mơ ước con thành sự thật.

Ngay sau đó, nàng tới sở cứu hỏa địa phương gần nhà ở Calgary để gặp chàng lính cứu hỏa Bob, người có trái tim bao la như tỉnh bang Alberta. Nàng trình bày ước muốn cuối cùng của con trai mình và hy vọng là Billy sẽ được ngồi trên xe cứu hỏa đi một vòng phố.

Bob trả lời ngay:

- Được chứ! Chúng tôi sẽ làm hơn thế nữa. Vậy bà cứ chuẩn bị cho cháu nó sẵn sáng lúc 7:00 giờ sáng thứ tư, chúng tôi sẽ giúp cháu trở thành người lính cứu hỏa danh dự trong suốt một ngày. Cháu sẽ sinh hoạt trong trạm cứu hỏa, ăn uống chung với chúng tôi, đi công tác khi có kêu gọi cấp cứu. Ngoài ra, nếu bà cho chúng tôi biết kích thước của cháu, chúng tôi sẽ may cho cháu một bộ đồng phục lính cứu hỏa thực sự với nón đồng có huy hiệu Sở Cứu Hỏa Calgary, cộng thêm những sọc vàng chói trên đồng phục và đôi giày cao su. Hãng sản xuất đồ trang bị cũng gần đây để chúng tôi kịp đặt hàng.

Ba ngày sau, Bob đến đón Billy, trang phục đầy đủ cho cậu và hộ tống cậu từ nhà thương ra tới xe cứu hỏa ngay chỗ khóa cài và thang leo. Billy ngồi đàng sau và phụ điều khiển xe về trạm cứu hỏa. Trong ngày đó có ba lần gọi cấp cứu và cậu đều được tháp tùng trong cả ba. Cậu ngồi trên xe cứu hỏa, xe hồng thập tự và cả xe của xếp cứu hỏa. Cậu còn được thâu hình trên bản tin địa phương. Mơ ước đã thành hiện thực với tất cả tình yêu thương và sự ân cần của những người chung quanh đã như ánh hào quang soi sáng làm cậu sung sướng xúc động tới độ đã kéo dài cuộc sống thêm 3 tháng hơn sự dự liệu của tất cả các bác sĩ.

Nhưng con người không ai vượt qua được định mệnh, một đêm buồn nọ, Billy bắt đầu hấp hối và bà y tá trưởng người luôn tin tưởng theo ý niệm là tại nhà vĩnh biệt, không một ai đáng chết trong cô đơn nên bà bắt đầu gọi thân nhân cậu bé xấu số vào nhà thương gấp. Sau đó bà sực nhớ lại cái ngày mà Billy sống trọn vẹn vai trò người lính cứu hỏa nên bà vội vã gọi giám đốc Sở Cứu Hỏa hỏi xem họ có thể gởi ngay một nhân viên trong đồng phục tới nhà thương với Billy trong khi cậu đang chết lâm sàng. Vị giám đốc trả lời ngay:

- Chúng tôi sẽ làm tốt hơn thế nữa. Chúng tôi sẽ có mặt tại nhà thương trong vòng năm phút. Nhưng xin bà giúp giùm tôi một việc. Đó là khi bà nghe tiếng còi hụ và đèn chớp thì xin bà thông báo trên hệ thống phóng thanh là không có cháy nhà gì hết. Đó chỉ là sở cứu hỏa tới gặp một trong những nhân viên tuyệt vời nhất một lần cuối cùng nữa thôi. Và cũng xin bà mở rộng cửa sổ căn phòng của Billy.

Độ năm phút sau, một chiếc xe cứu hỏa trang bị khóa cài thang leo tới nhà thương và cầu thang được bắt lên một cánh cửa sổ đang mở rộng trên lầu 3. Rồi thì 16 lính cứu hỏa lần lượt leo lên thang vào phòng của Billy. Với sự đồng ý của mẹ cậu, họ lần lượt ôm cậu vào lòng thật lâu trong ngậm ngùi và nói với cậu rằng họ yêu thương cậu vô vàn.

Qua hơi thở hấp hối, Billy mệt mỏi nhìn vị giám đốc nói:

- Thưa ông giám đốc! Cháu đã thực sự là người lính cứu hỏa rồi phải không?

Vị giám đốc dịu dàng trả lời:

- Đúng vậy Bill! Cháu quả là lính cứu hỏa và Đấng tối cao Jesus đang cầm tay cháu đó. Nghe tới đây, Billy mỉm cười nói:

- Cháu biết rồi. Người đã cầm lấy tay cháu suốt ngày nay và có cả các thiên thần đang ca hát.

Thế rồi cậu nhắm đôi mắt lại… một lần cuối cùng mang hình ảnh người lính cứu hỏa tí hon đi về vùng miên viễn...

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

Một dấu phẩy

Phiên tòa xử vụ ly dị, tòa phán với ông chồng:

- Ở với vợ lớn, không được ở với vợ nhỏ.

Ông chồng về nhà đưa bản án cho bà vợ lớn, chỉ sửa lại dấu phẩy:

- Ở với vợ lớn không được, ở với vợ nhỏ.

Có người hỏi nhà văn Oscar Wilde (1856 - 1900) sao ông thường có vẻ đăm chiêu. Nhà văn Anh này đáp:

- Sáng nay tôi đã bỏ quên một dấu phẩy trong một bài thơ. Chiều nay tôi phải lấy lại.

Sai một phẩy, nhảy ngàn dặm

Một giáo viên tiếng Anh đã đề nghị mỗi sinh viên đặt những dấu thích hợp vào câu sau: “Woman without her man is nothing”. Bọn con trai ngắt câu: “Woman, without her man, is nothing” (đàn bà, nếu thiếu nửa kia của mình, thì chẳng là gì cả). Bọn con gái lại ngắt câu như sau: “Woman: without her, man is nothing” (phụ nữ: thiếu cô ta, đàn ông chẳng là gì cả).

Một phụ nữ Mỹ đi du lịch ở châu Âu gửi điện về cho chồng: “Có một chiếc xuyến đẹp mê hồn, giá 75 đô. Em mua được không?” Anh chồng lập tức trả lời “No, price too high” (không, giá quá cao). Nhưng nhân viên điện tín mắc một sai lầm nhỏ đã bỏ qua dấu phẩy và thành: “No price too high” (không giá nào là quá cao). Được lời như cởi tấm lòng, cô vợ mua ngay chiếc xuyến. Khi về Mỹ, cô vợ khoe chiếc xuyến làm người chồng choáng váng. Người chồng đem vụ “bỏ sót dấu phẩy” này ra tòa và thắng kiện… Từ đây, các hãng điện tín đòi hỏi nhân viên phải đánh vần dấu câu trong bức điện chứ không dùng ký hiệu. Nghĩa là phải viết “No comma price too high” (không phẩy giá cao quá).

Dấu phẩy đôi khi có giá đến nửa triệu đô. Năm 1870, trong danh sách các mặt hàng được miễn thuế vào Mỹ, lẽ ra là câu “Tropical fruit-plants for the purpose of propagation” (các cây nhiệt đới ăn trái nhằm mục đích nhân giống) thì người ta đánh nhầm dấu nối thành dấu phẩy, thành “Tropical fruit, plants for the purpose of propagation” (trái cây nhiệt đới, cây nhằm mục đích nhân giống). Thế là toàn bộ các loại trái cây nhiệt đới được nhập miễn thuế vào Mỹ. Tới khi người ta phát hiện ra sai sót chết người này, đã mất khoảng 500.000 USD tiền thuế không đòi lại được!

Được yêu, được sống nhờ dấu phẩy

Ông bố nọ muốn lấy tên nhà thơ La Mã vĩ đại Virgile đặt cho con trai mình. Khốn nỗi, ông lúng túng viết nhầm thành Virgule, tiếng Pháp có nghĩa là dấu phẩy. Anh chàng lớn lên cũng khẳng khiu như dấu phẩy, không thành nhà thơ mà vào làm bưu điện. Anh thầm yêu trộm nhớ cô hàng xóm Sophie. Cô gái này lại yêu chàng trai không yêu cô. Bao nhiêu thư gửi đi mà không nhận được hồi đáp... Rồi một hôm cô quyết định ra bưu điện gửi bức điện (chứ không viết thư nữa) cho chàng trai nọ.

- Tôi muốn gửi một bức điện - cô buồn rầu nói, mắt không nhìn Virgule, nhân viên bưu điện.

Virgule cầm bút cảm động lắp bắp nói:

- Cô vui lòng đọc nội dung

- Je t’aime, virgule, Je t’adore, virgule, Je voudrais tant que tu me dises que tu m’aimes aussi, point” (Em yêu anh, phẩy, em thương anh, phẩy, em muốn anh cũng nói với em rằng anh cũng yêu em, chấm).

Anh chàng Virgule không cho virgule là dấu phẩy mà hiểu đó là tên mình: Em yêu anh, Virgule, em thương anh, Virgule… Anh chàng bưu điện yêu cầu cô gái nhắc lại. Sophie làm theo: “Em yêu anh, Virgule, em thương anh, Virgule…” Mắt anh ta sáng lên. Sophie nhận ra anh chàng này đáng yêu làm sao. Và họ đến với nhau.

Còn đây là giai thoại về hoàng đế Alexandre Đệ Tam - Nga (qua tiếng Anh): từ chối ân xá cho một phạm nhân, ông đọc “Pardon impossible, to be sent to Siberia” (Không thể ân xá, đày đi Siberia). Vợ ông là Dagmar (cháu gái vua Đan Mạch Christian IX) là một người vô tâm, nên đã đánh nhầm dấu phẩy thành “Pardon, impossible to be sent to Siberia” (Ân xá, không thể đày đi Siberia). Thế là người tù này thoát tội.

Đặt sai dấu phẩy, biết bao chuyện dở cười dở khóc đã xảy ra!

Plus ONE more: an advertising in Vietnam

Chấm phẩy thật quan trọng!

Gia đình nên có 2 con, vợ chồng hạnh phúc.

Gia đình nên có 2 con vợ, chồng hạnh phúc.

BÙI ĐẸP st.


Phụ bản III

CHIẾC ĐỒNG HỒ CŨ

Đã lâu lắm, Thành mới trở lại căn nhà này, nơi anh và Tuệ có thật nhiều kỷ niệm của những ngày còn đi học. Họ rất thân nhau, đến nỗi anh từng là phù rể cho bạn mình. Vậy mà dần dà họ lại lãng xa nhau mà không hề có nguyên cớ gì rõ rệt. Chỉ biết rằng những buổi viếng thăm của cả hai vợ chồng Tuệ thưa dần đi. Rồi chỉ có Tuệ đến chơi mà không có Nga - vợ Tuệ:

- Sao không chở Nga đến?

- Ờ, lúc này Nga bận bịu với mấy đứa nhỏ nên phải ở nhà Thành ạ!

Anh cũng cố tin vào lời bạn nói. Nhưng trong thâm tâm, anh biết chính vợ mình là nguyên nhân mọi sự! Lấy vợ giàu xem ra cũng nhàn, nhưng tự do hóa ra lại bị xén mất. Bảo rằng Tuyết ghen cũng không hẳn, vì có bao giờ Thành léng phéng với ai! Nhưng Tuyết cứ như sợi xích giữ khư khư anh trong bốn bức tường. Tuệ chẳng để ý gì lắm về chuyện ấy, nhưng Nga lại cảm nhận rất nhanh như mọi phụ nữ khác trên đời! Thế là cô quyết định không bao giờ theo chồng đến nhà bạn để lây lất chờ mãi mới thấy mặt chủ nhà nữa. Kín đáo liếc về phía cầu thang khuất sau cái tủ, chị thấy khuôn mặt khó chịu của nữ gia chủ cứ đăm đăm ngó ra ngoài…

Thời gian trôi qua, rồi chẳng còn ai quan tâm tới nhau nữa. Thỉnh thoảng có ai đó nhắc về người ngày xưa từng là bạn cũng chỉ làm Thành thêm buồn vì chẳng biết làm sao để tìm lại tình thân ngày nào. Cuộc đời bỗng lộ ra mặt trái của nó khi Tuyết lâm bệnh. Tiền của dù có đội nón ra đi, thì chị chỉ còn là cái thân xác mỏng manh phập phù. Ngày trước nhanh nhẹn bao nhiêu thì giờ đây chị yên vị trên chiếc ghế đu đưa suốt ngày. Chị bị bệnh thần kinh, miệng luôn lảm nhảm những điều vô nghĩa.

Cái mặt trái chết tiệt ấy cũng đổi luôn cuộc đời của anh, khiến anh từ kẻ ăn bám vợ lại phải lêu bêu ngoài đường với nghề xe ôm vụn vặt để nuôi người vợ yếu đau. Anh chẳng có mụn con nào mà chia vui sẻ buồn, hay để chỉ bảo cho chúng những điều tốt đẹp. Bán nhà lớn rồi mua nhà nhỏ để trang trải nợ nần xong, anh mới thấy mình thật là cô quạnh giữa dòng đời. Anh vẫn là Thành của ngày xưa với sự thủy chung không hề suy suyển, thứ mà vợ anh luôn nhắc nhở mỗi khi anh ra khỏi nhà. Cho đến tận bây giờ, thỉnh thoảng chị vẫn léo nhéo trong ánh mắt ngây ngô đến tội nghiệp:

- Nhớ đừng có chàng màng với con nào nghe…

Có bao giờ anh chàng màng với ai, cho dù bác sĩ khẳng định việc không có con có nguyên nhân từ phía người vợ hay ghen bóng ghen gió ấy. Ngay cả giờ đây, anh cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc đi tìm hạnh phúc khác. Nhìn vợ ngô nghê, anh thấy lòng quặn thắt…

Lục tung mớ đồ cũ hôm dọn nhà, anh chợt thấy lại cái đồng hồ cũ. Cầm nó lên, lòng anh thẫn thờ nhớ lại tháng ngày đã qua. Thật ra, nó là một món hàng mà Tuệ bán cho anh. Thuở ấy, người ta cứ xài đồ cũ vì chẳng có thứ gì mới tinh để sắm. Vừa nhìn thấy cái Seiko ấy, anh đã thốt lên:

- Đẹp quá hả?

- Thích thì tao để lại cho!

- Nhưng tao không có tiền…

- Thì… xin vợ mày!

- Nó keo lắm mày ơi, chỉ phát tiền ăn sáng và uống cà phê cho tao thôi…

- Tao bán cho mày trả dần, được chưa?

Thật ra, Tuệ cũng chẳng giàu có gì, thậm chí nhà anh chỉ bằng gian bếp của vợ chồng Thành thôi! Nhưng anh biết bạn mình nghèo hơn mình nữa kìa. Chuyện giàu có chỉ là chuyện riêng của Tuyết mà thôi. Ấy vậy mà anh cũng ráng mua thiếu cái đồng hồ ấy, cho dù Tuyết chẳng cho anh lấy một xu. Anh cũng cố trả cho Tuệ được quá nửa số tiền rồi… stop!

Người mua thiếu thì ngại gặp chủ nợ. Kẻ bán chịu, phần thì không muốn lấy lại món hàng vì biết tính thế nào cho thuận cả đôi bên, phần vì thấy tội nghiệp ông bạn mình dưới sự kềm kẹp của bà vợ keo cú:

- Thôi thì mày cứ để đó xài, khi nào có tiền thì trả cho tao cũng được!

Nga lại khác chồng:

- Anh à! Hay… bỏ phứt nó đi! Đòi như… gãi ghẻ cũng mệt! Chẳng thà coi như mất để tâm hồn được yên ổn, còn hơn nay nghĩ, mai nghĩ phát bực…

Tuệ cũng nghĩ vậy, nhưng anh không muốn cô nghĩ mình coi bạn hơn chuyện sòng phẳng. Nga dịu giọng:

- Hơn nữa, anh Thành làm gì có tiền mà trông với mong, cho ảnh quách đi là… rảnh nợ!

Cũng vì thế mà chuyện chia lìa tình bạn có thêm một lý do để xảy ra một cách nhẹ nhàng và chóng vánh. Nhưng hôm nay, Thành đã có hẳn một ý định để nối lại tình xưa nghĩa cũ.

Vậy là anh tìm đến nhà Tuệ. Anh ngờ ngợ cái khuôn mặt trên bàn thờ mà không dám nghĩ đó chính là bạn mình vì sao mà… chua xót thế!

Đôi bên nhận ra nhau như ánh chớp, mãi Thành mới bập bẹ:

- Tuệ đâu Nga?

- Đó, ảnh đó…

Chị vừa nói, vừa ngước mắt lên tấm di ảnh của chồng mình.

Thành thấy như trời đất cuồng quay! Tiếng là không quan tâm tới nhau nữa, nhưng mỗi khi nhớ lại ngày xa xưa, hình ảnh của Tuệ vẫn rõ nhất trong ký ức của anh. Vậy mà…

Nga tiếp lời:

- Ảnh mất đã hơn một năm rồi anh Thành ạ! Trước đó, ảnh cũng bệnh một thời gian. Anh biết tính ảnh đó, ảnh chẳng bao giờ chịu chụp hình vì cứ nghĩ mình… xấu trai thôi. Nên cái hình đó là hình chụp lén ảnh khi ảnh đã bị bệnh. Nhìn khác xưa phải không anh?

Hai con người ấy bỗng nhiên gần nhau đến lạ kỳ. Chẳng phải nỗi mất mát của mỗi người đã không bóc đi hết khoảng cách mơ hồ từng làm họ quên nhau bao năm qua sao? Chuyện mỗi người rồi thành chuyện chung: Tự nhiên, Nga thấy không còn ghét cay ghét đắng Tuyết nữa, kẻ mà thật ra chị chưa lần nào được chuyện trò quá một hai câu hỏi thăm nhát gừng. Tự nhiên, Thành thấy thật dễ chịu khi nói với Nga:

- Hôm nay, lại đây thăm vợ chồng Tuệ, không ngờ nó đã ra đi khiến cái nợ xưa tôi chẳng còn cơ hội trả nữa Nga ơi!

Dù biết bạn chồng nhắc đến chuyện gì, nhưng Nga vẫn hỏi:

- Nợ nần gì hả anh?

- Thì chuyện cái đồng hồ…

- A! Chuyện đó xưa quá rồi anh Thành ạ…

- Vậy là Nga có biết chuyện này mà…

Ngẫm nghĩ một lúc, anh tiếp:

- Thật ra, Nga biết đó, tôi nào có tiền để trả cho vợ chồng Nga đâu… Rồi vợ tôi trở bệnh, khiến mọi sự đảo lộn lại hoàn toàn… Tôi đã bán nhà để lấy tiền thuốc thang cho Tuyết. Dù sao, nợ thì phải trả… Chưa nói là phải xin lỗi cả anh lẫn chị…

Anh vừa đứng lên, lại gần di ảnh người bạn thân, thắp cho người ấy một nén nhang, vừa như rất thì thầm:

- Tao xin lỗi vì đã phụ lòng tốt của mày. Mày cũng biết rõ hoàn cảnh tao lúc ấy không cho phép tao trả được cái nợ này. Mày cũng bỏ lỗi cho Tuyết, vì bây giờ cô ấy cũng chẳng khác gì đứa bé thơ dại…

Anh bần thần ngồi xuống ghế, mắt anh đỏ hoe. Đôi mắt Nga bỗng buồn hẳn đi sau giây phút cảm động ấy. Anh chìa cho Nga cái phong bì:

- Nga à! Thế này là quá trễ, nhưng tôi cũng xin trả lại phần nợ mà tôi đã thiếu hai bạn ngày xưa. Nó chẳng làm Nga ưng ý đâu, vì biết trả thế nào cho xứng với quãng thời gian dài ấy…

Có một nụ cười rất nhẹ thoáng qua trên môi Nga:

- Anh Thành à! Tụi em từ ngày ấy đã quyết định không… nghĩ ngợi đến chuyện này nữa rồi! Hôm nay, em rất mừng vì anh ghé đến chơi như một người bạn thân. Anh Tuệ nếu còn sống chắc cũng vui lắm vì biết anh vẫn còn giữ cái đồng hồ cũ kỹ ấy…

Cái phong bì cứ nằm yên giữa bàn như cái lô cốt cuối cùng chặn mọi nẻo vào ra. Nga đứng lên, cô đành nhét nó vào túi áo của Thành, vừa khôi hài:

- Biết “tội” là được rồi anh ạ! Em nghĩ là mình đừng quá câu nệ để tình bạn thêm rối rắm…

Anh nhìn vào bức di ảnh: Thằng bạn của anh không hề cười, nhưng dường như trong đáy mắt của nó vẫn có cái gì thân thiện như ngày nào. Có một chút lúng túng khi anh bước chân ra cửa:

- Thôi thì cám ơn Nga vậy! Hôm nào rảnh, mời Nga sang chơi với bọn mình…

Bước chân anh chẳng mấy nhẹ nhàng, dù lòng anh luôn nhắn nhủ rằng, lỗi không phải ở anh chút nào! Nó lầm bầm nhắc đi nhắc lại, cuộc đời ai cũng có lúc không ngờ phạm phải điều mình cấm kỵ …

- Lạy ông lạy bà cho con chút tiền bố thí…

Anh nghe lòng mình xao xuyến đến lạ. Chân anh như bị hút đến phía cụ bà ăn xin. Anh lấy cái phong bì ra khỏi túi áo, rồi đưa vào tận tay bà cụ:

- Bác cất đi kẻo mất nhé…

Lòng anh bỗng thanh thản lạ lùng, đến độ anh chẳng hề nghe tiếng bà lão ấy cám ơn…

Về đến nhà. Rồi có một luồng sáng quét ngang trí lòng anh khiến anh giật nẩy người. Giữa tâm luồng sáng ấy, dường như có tiếng ai trầm trầm mà rõ ràng, đĩnh đạc:

- Sao mày không đón bà ấy về? Nhà mày đâu đến nỗi chật chội…

Trở lại chỗ bà cụ ngồi lúc nãy, bà đã đi đâu mất rồi, vì trời cũng đã tối…

Câu chuyên lại tiếp tục khi sáng hôm sau, lúc anh dắt xe ra khỏi nhà, anh đã thấy cụ bà ấy ngồi ngay trước ngõ vào nhà anh, với chiếc nón lá trước mặt có lẽ mới mua từ tối hôm trước…

LAM TRẦN

Những thứ chúng ta đánh mất

giữa vòng xoáy cuộc đời

LÊ HIẾU

Xã hội ngày một phát triển, con người cũng ngày càng bị cuốn theo dòng xoáy. Chúng ta nhìn thì tưởng như nhận được rất nhiều, nhưng lại thường hoảng sợ bất an. Chúng ta vẫn mải miết chạy đi, nhưng lại là một bên truy tìm, một bên vứt bỏ… Vậy thì rốt cuộc chúng ta đã nhận được những gì, và đã đánh mất những gì?

Cái mất thứ nhất: Yên lòng

Khi còn bé, ở trong nhà cũ, đêm ngủ hầu như không cần phải đóng cửa, càng không lo lắng sẽ mất cái gì. Mặc dù không có điều hòa, nhưng vẫn mát mẻ yên tĩnh, không khí thật trong lành… Bây giờ, ở căn nhà lớn rộng rãi, rất cao, rất đẹp, nhưng lầu trên lầu dưới cửa luôn phải đóng chặt, cổng, hàng rào phòng hộ bao kín xung quanh nhà. Tuy vậy, vẫn nơm nớp lo sợ bị mất trộm.

Cái mất thứ 2: Nhiệt tình

Khi còn bé, hàng xóm láng giềng như người một nhà, gần gũi thân mật, có đồ ăn ngon liền mang sang cho nhau. Nhà ai có chuyện, mọi người xung quanh đều đến chung tay giúp đỡ…

Ngày nay, chúng ta cùng ở trong một cộng đồng, thậm chí sát vách, ở cùng một tầng lầu, mỗi ngày đều gặp mặt nhau, nhưng có khi hoàn toàn không biết nhà bên cạnh là ai.

Cái mất thứ 3: Sức khỏe

Khi còn bé, mấy đứa con nít ở nông thôn thích nhất là ra sông ra đồng bắt tôm cá, hoặc lẻn vào vườn hái mấy quả dưa leo, trái cây tươi ngon ăn tại chỗ… Ngày nay, trong siêu thị, cá con nào cũng to, rau quả đóng gói trông cũng rất đẹp. Nhưng mà cho dù có rửa bao nhiêu lần, vẫn lo lắng chưa sạch, không ai dám chắc đồ mình ăn là có đảm bảo hay không.

Cái mất thư 4: An toàn

Khi còn bé, trẻ nhỏ luôn tụm 5 tụm 3 trên đường vui cười đùa giỡn, đuổi bắt nhau, thỉnh thoảng cũng chỉ có mấy con chó vàng chạy ngang qua, đám trẻ lượm sỏi ném chúng cười thích thú… Ngày nay, xã hội phát triển đi lên, đường càng ngày càng rộng, xe cộ cũng càng nhiều. Tuy nhiên, đi đường luôn phải chú ý, không thể thoái mái nô đùa như xưa, bởi vì nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào!

Cái mất thứ 5: Náo nhiệt

Khi còn bé, chỉ một số nhà có TV, cứ đến xế chiều, đều có người bưng chén đi sang hàng xóm xem TV. TV tuy là trắng đen, hình ảnh cũng không rõ, nhưng người xem thì lại rất đông, đôi khi còn chen chúc, cảm giác thật là náo nhiệt.

Ngày nay, mỗi người có trên mình một chiếc điện thoại thông minh, đi đâu cũng không rời cái điện thoại. Điện thoại ấy, đi đến chỗ nào có thể phát TV đến đó, tuy nhiên khi mọi người gặp nhau, lại ai xem của người đấy.

Cái mất thứ 6: Hoài niệm

Khi còn bé, tiệm chụp ảnh không nhiều lắm, một năm cùng lắm cũng chỉ được đi chụp ảnh một vài lần. Mỗi tấm hình đều rửa ra thì mới xem được, nên ai cũng cho vào khung ảnh, giữ gìn thật cẩn thận kỹ càng. Mỗi lần lấy ra xem, đều là ngập tràn những hồi ức!

Ngày nay, có khi vài năm cũng không đến tiệm chụp ảnh, camera, điện thoại, ipad… lúc nào cũng ở bên người. Tự chụp, chụp đồ ăn, chụp phong cảnh… Đôi khi, chụp nhiều đến nỗi đầy cả bộ nhớ, nhưng những hồi ức, những lưu niệm thực sự thì lại chẳng có mấy!

Cái mất thứ 7: Thỏa mãn

Ngày xưa, quần áo con nít chỉ có vài màu sắc đơn giản, hơn nữa còn mặc lại quần áo cũ của anh chị để lại, nhưng mỗi bộ đều là bảo bối của chúng ta, vô cùng thích thú, vô cùng hài lòng! Ngày nay, quần áo đủ màu sắc, kiểu dáng khác nhau, tủ quần áo treo đầy ắp, nhưng luôn cảm thấy mình còn thiếu, không đủ đẹp, không có quần áo như ý để mặc…

Cái mất thứ 8: Đơn giản

Khi còn bé, đồ chơi không có nhiều, chỉ là những thứ bi, bao cát, dây chun… không phong phú, nhưng chúng ta có thể chơi một trò chơi cả ngày, mà vẫn thấy vui vẻ!

Xã hội phát triển càng lúc càng nhanh, chúng ta cũng càng ngày càng bận rộn. Ngày nay, trong điện thoại di động lúc nào cũng có bạn online, trong nhà ai cũng có đồ chơi đắt tiền. Mặc dù khoa học kỹ thuật đã mang đến các loại hình giải trí vô cùng đa dạng, nhưng chẳng còn có bạn bè thân mật khăng khít như khi còn bé nữa.

Cái mất thứ 9: Tự do

Khi còn bé, cả vùng chỉ có một rạp chiều phim, thậm chí người dân bình thường không đi xem được, có thể xem lại trên TV cũng không nhiều! Có khi trong thôn chiếu phim ngoài trời, đám bạn chúng ta liền tụ tập lại với nhau, leo lên cây, ngồi trên mái nhà, mang theo hạt dưa ở nhà đi cùng nhau nhấm nháp, niềm vui thật vô tận!

Ngày nay, rạp chiếu phim ngày càng nhiều, phim 3D, phim Hollywood… tha hồ tuyển chọn. Xếp hàng mua vé, chọn vị trí trên mạng hết sức tiện lợi dễ dàng. Tuy nhiên, khi đến xem, người ngồi bên cạnh là ai cũng không biết. Toàn là khách đến xem, xem xong ai về nhà ấy!

Cái mất thứ 10: Chân tình

Ông nội lầy bà nội, chỉ cần nửa đấu gạo; ba lấy mẹ, cũng chỉ cần nửa con trâu. Chỉ cần vậy là có thể kết hôn, nhận một tờ giấy đăng ký kết hôn, mở một tiệc rượu là xong, đồ ăn cũng chỉ có vài món đơn giản, nhưng thực sự rất vui vẻ. Rồi cứ vậy sống hạnh phúc với nhau, chẳng biết đến khái niệm người tình bồ nhí là gì.

Ngày nay, lễ cưới xa hoa, tiệc tùng đình đám. Tuy nhiên, nhiều đôi lứa sống với nhau dăm bữa nửa tháng đã chán chường. Thậm chí còn ngoại tình, đánh ghen… hầu như nơi nào cũng có. Quả thực, cuộc sống ngày nay, chúng ta vẫn luôn cho rằng đủ đầy, phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những điều tốt, chúng ta đã để vụt mất quá nhiều thứ. Nếu không phải hổ thẹn thì có thể nói rằng, chúng ta đang ngày càng trở nên ‘nghèo khó’ nhất thế gian.

HOÀNG KIM THƯ st.

GIẢI ĐÁP ĐỐ VUI


Thu thập bằng chứng

về linh hồn theo khoa học

Nếu linh hồn tồn tại sau cái chết,

nó có thể được một cơ thể khác tiếp nhận

Theo GS Peter Fenwick, Viện Tâm thần học thuộc Đại học Kings (Anh): “Nếu có thể chứng minh rằng con người vẫn tiếp nhận thông tin khi họ bất tỉnh và thoát xác thì đó là bằng chứng không thể tranh cãi về việc ý thức tồn tại tách rời bộ não”.

Có lẽ, ý tưởng về linh hồn cũng xuất phát từ hoàn cảnh này. Con người từ thời cổ xưa, khi trải qua trạng thái ảo thân, cho rằng khi đó phần tinh thần rời khỏi phần thể xác. Từ đó, họ bắt đầu tin vào sự tồn tại bên ngoài cơ thể.

Linh hồn ra đời từ đâu?

Bằng chứng khoa học đáng ngạc nhiên nhất về linh hồn xuất phát từ lĩnh vực cơ học lượng tử, hay nói cụ thể hơn là từ những nghiên cứu về các hiện tượng hạ nguyên tử tạo ra ý thức. Quan điểm truyền thống cho rằng, ý thức của chúng ta được hình thành từ mạng lưới hàng tỷ nơron. Nhưng hai giáo sư Stuart Hameroff (Đại học Arizona, Mỹ) và Roger Penrose (Đại học Oxford, Anh) đã xây dựng một lý thuyết, theo đó, ý thức còn là sản phẩm của quá trình tính toán lượng tử diễn ra ở vi ống, một dạng cấu trúc siêu nhỏ của tế bào não.

Trước đây, nhiều người cho rằng một cơ chế như vậy không thể tồn tại, vì các máy tính lượng tử được tạo ra ban đầu chỉ có thể hoạt động ở môi trường vô cùng lạnh chứ không phải ở mức nhiệt độ cao như ở não. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong 5 năm gần đây cho thấy, cơ học lượng tử tham gia vào khá nhiều quá trình sinh học không lạnh, trong đó có quang hợp.

Một công trình của Anirban Bandyopadhyay (Viện Khoa học Vật liệu Quốc gia Nhật Bản) còn hé mở khả năng các bit thông tin lượng tử có thể gắn kết trong môi trường nhiệt độ cao của các vi ống đơn lẻ ở tế bào.

Trạng thái gắn kết giữa các vi ống được tạo ra nhờ năng lượng sinh học. Khi quá trình cung cấp máu và oxy ngừng lại, sự gắn kết không còn, nhưng thông tin lượng tử không mất đi. Nó có thể phát tán vào vũ trụ, tồn tại và tiếp tục hoạt động dưới một hình thức nào đó. Nếu bệnh nhân được cứu sống, thông tin sẽ được não tiếp nhận trở lại. Có lẽ vì thế mà những người từng có trải nghiệm cận tử có thể nhận biết thế giới xung quanh khi họ bất tỉnh.

Nếu như giả thuyết này là đúng, thì câu hỏi đặt ra là: Quá trình lượng tử tạo thành ý thức xuất hiện từ đâu? Câu trả lời, theo GS Penrose và một số nhà khoa học, là từ vụ nổ lớn Big Bang. Theo quan điểm này, mọi dạng ý thức đều được tạo ra cùng thời điểm với vũ trụ. Và nếu linh hồn có tồn tại thì nó cũng gắn với khởi nguồn của vũ trụ.

Sự đầu thai của linh hồn

Ý tưởng của GS Penrose ám chỉ đến một cơ chế để ý thức tiếp tục tồn tại sau khi thân thể con người đã chết. Nhưng nó sẽ đi về đâu? Theo GS Hameroff: “Nếu người bệnh không được cứu sống, ý thức sẽ đi vào vũ trụ và biết đâu có thể một ngày nào đó sẽ được một cơ thể khác tiếp nhận trở lại”.

DOPS hiện đang lưu giữ khoảng 1.400 hồ sơ về các trường hợp được cho là thuộc dạng này. Phần lớn đó đều là những đứa trẻ nhớ được tiền kiếp. Các em có thể kể vanh vách trước đây mình là ai, sống ở đâu, làm gì, trông như thế nào và nhiều chi tiết khác.

Ian Stevenson, một trong những chuyên gia tâm thần học hàng đầu nước Mỹ, người sáng lập DOPS bắt đầu thu thập những câu chuyện về tiền kiếp từ năm 1960. Trong số các tài liệu ông ghi nhận được, có nhiều trường hợp một đứa trẻ được sinh ra có bớt ở đúng vị trí vết thương mà các em đã bị trong kiếp trước. Một số luôn bị ám ảnh sợ những sự vật, hiện tượng đã gây ra cái chết trong tiền kiếp.

Stevenson và các đồng nghiệp của ông chưa bao giờ khẳng định rằng hiện tượng đầu thai thực sự xảy ra. Họ chỉ cố gắng thu thập các bằng chứng về nó. Trong khoa học, những bằng chứng này có thể chẳng bao giờ đủ để khẳng định linh hồn con người tồn tại sau cái chết về thân xác và sau đó tái sinh trở lại trong một cơ thể mới. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể khẳng định rằng không có linh hồn.

LỆ NGỌC st.

24 ĐIỀU CON GÁI

KHẮC CỐT GHI TÂM

1. Không bao giờ gửi ảnh nhạy cảm cho bất kỳ ai.

2. Biết một chút về trang điểm, ăn mặc.

3. Học một môn võ tự vệ nếu có thể.

4. Đọc nhiều sách.

5. Bồi dưỡng cho mình 1 sở thích lành mạnh như trà đạo, yoga...

6. Ít xem phim, đọc truyện ngôn tình rồi đắm chìm trong thế giới không hiện thực.

7. Con gái chỉ nên yêu 3 lần trong đời: Một lần là ngây thơ, một lần khắc cốt ghi tâm và một lần là cả đời (!?)

8. Đừng vì tạm bợ mà yêu một ai đó, cũng đừng coi một người đàn ông là tất cả của mình.

9. Nếu không thích ai đó và biết chắc không có kết quả, đừng cho họ hy vọng.

10. Thường xuyên hỏi han bố mẹ, chăm về thăm nhà.

11. Ghi nhớ một điều: Trên đời này, chỉ có bố mẹ

là yêu bạn vô điều kiện.

12. Đừng dây dưa với người yêu cũ.

13. Skincare đầy đủ. (Chăm sóc da)

14. Cười nhiều lên.

15. Thích cái gì hãy tự mua thay vì trông chờ vào ai đó.

16. Ngưng “thả thính” lung tung.

17. Hãy khen một cách chân thành

và chê một cách không ác ý.

18. Đầu tư cho mình một đôi giày xịn,

một chiếc túi chất lượng.

19. Ít bạn cũng không sao

nhưng hãy có ít nhất một người bạn thân.

20. Đừng nói xấu sau lưng, có gì hãy nói thẳng.

21. Khi ai đó tin tưởng kể bí mật cho bạn,

đừng để người thứ ba biết đến.

22. Yêu thương bản thân mình trước tiên.

23. Ngừng hy vọng cả thế giới coi bạn như công chúa.

24. Cố gắng không thức quá khuya, không dậy quá muộn. Tự lập, tự chủ và tự do.

ĐỪNG TIN TẤT CẢ NHỮNG GÌ MÌNH ĐỌC.

PHẢI BIẾT GẠN LỌC CÁI XẤU

VÀ TẬP SỐNG CÁI TỐT

Lm. MI TRẦM tổng hợp - Hoàng Chúc st.

Café sữa với Café đen

Vào quán uống nước, em luôn gọi café đen. Anh luôn gọi café sữa.

Người ta mang nước ra, luôn luôn nhầm lẫn. Anh café đen. Em café sữa.

Em nhanh tay đổi 2 món. Người bồi bàn đứng ngẩn ra, mặt đầy vẻ thắc mắc. Anh cười trừ. Đợi người ta đi, anh trách:

- Sao không để người ta đi rồi em hãy đổi? Làm mất mặt anh quá!!!

Em cười phá lên:

- Đằng nào cũng vậy. Đâu có gì mắc cỡ!

Em con gái mà lại thích café đen. Anh con trai nhưng rất thích café sữa.

Em bảo café đen nguyên chất, tuy đắng nhưng uống rồi sẽ mang lại dư vị, mà nếu pha thêm sữa thì sẽ chẳng còn cảm giác café nữa.

Anh bảo café cho thêm tí sữa sẽ đậm mùi café hơn, lại còn cảm giác ngọt ngào của sữa…

Anh và em luôn thế. Khác nhau hoàn toàn.

Anh và em không yêu nhau. Đơn giản chỉ là bạn bè. Mà không, trên bạn bè một chút. Gần giống như tình anh em.

Nhưng em không chịu làm em gái anh. Em bảo, em gái có vẻ phụ thuộc vào anh trai, có vẻ yếu đuối, có vẻ… hàng trăm cái “có vẻ” và em không đồng tình.

Anh cũng không muốn anh là anh trai của em. Anh trai suốt ngày phải lo cho em gái, bị nhõng nhẽo, vòi vĩnh đủ thứ. Anh không thể kiên nhẫn.

Lâu lâu em hẹn anh ra ngoài đi uống café. Em café đen, anh café sữa.

Thỉnh thoảng buồn buồn anh lôi em đi vòng vòng, rốt cuộc cũng đến quán nước. Anh café sữa. Em café đen.

Anh có bạn gái. Bạn gái anh xinh xắn, rất dịu dàng, nữ tính. Đi với anh giống như 1 con thỏ non yếu ớt. Anh tự hào bảo, cô ấy không “ba gai”, bướng bỉnh như em.

Em có bạn trai. Bạn trai em đẹp trai, galant, luôn chiều chuộng em. Đi với em, anh ấy không bao giờ khiến em tức chết. Em kiêu hãnh khoe, anh ấy thực sự là chỗ dựa vững chắc.

Hai cặp thỉnh thoảng gặp nhau. Em vẫn café đen. Anh luôn café sữa.

Bạn trai em nói, anh đổi ly cho em. Em không chịu, café đen là sở thích của em.

Bạn gái anh thắc mắc, anh không uống café đen như những người con trai khác. Anh nhún vai, café sữa hợp khẩu vị với anh.

Trong lúc nói chuyện, thường thường anh và em vẫn cãi nhau. Bạn trai em luôn là người hòa giải. Bạn gái anh dịu dàng nói anh phải biết nhường nhịn con gái.

Cuối cùng anh là anh. Em vẫn là em.

Anh chia tay bạn gái. Cũng có thời gian chông chênh. Nhưng anh không hối tiếc. Anh và cô căn bản không hợp nhau. Dù cô ra sức chiều chuộng anh, nhưng anh vẫn thấy thiếu thiếu cá tính gì đó. Mà cá tính thiếu ấy mới thật sự hấp dẫn anh.

Em chia tay bạn trai. Có một lúc cảm thấy trống vắng. Nhưng em không hối hận. Em và bạn trai không tìm được tiếng nói chung. Dù anh ấy không khiến em bực mình, ít khi gây sự với em. Nhưng em vẫn thấy thiếu thiếu. Mà “thiếu thiếu” ấy làm em chán nản.

Anh và em không hẹn mà gặp nhau ở quán café cũ.

Em gọi café đen.

Anh gọi café sữa.

Người bồi đã quen với 2 người. Anh ta không để nhầm chỗ nữa.

Anh yên lặng. Em cũng không nói. Đợi người bồi đi, anh kéo ly café đen về phía mình, đẩy ly café sữa về phía em.

Hôm đó 2 người uống thử “khẩu vị” của người kia.

Đêm ấy, anh nhắn tin cho em: “Café đen hay thật! Anh bắt đầu thấy thích nó!”

Em nhắn tin lại cho anh: “Café thêm sữa cũng rất tuyệt vời. Em sẽ uống café sữa…”

Sau đó em và anh luôn đi cùng nhau, bất luận ở đâu, em cũng luôn gọi café sữa cho em và không quên gọi café đen cho anh…

Café đen hay café sữa đều là café, phải không?

Tình yêu đắng hay tình yêu ngọt đều là tình yêu… chẳng phải sao???

Quan Thúy Mai st.


ĐỂ CUỘC SỐNG

TRỞ NÊN THÚ VỊ HƠN

Chỉ với vài điều đơn giản dưới đây thôi, chúng ta có thể làm cuộc sống của mình trở nên thú vị hơn rất nhiều:

1. Không phải lúc nào cuộc sống cũng phức tạp và rối tung như chúng ta tưởng. Đôi khi, mọi chuyện rất đơn giản. Miễn là bạn cảm thấy vui vẻ thì đó chính là sống.

2. Luôn tuân thủ nguyên tắc đạo đức của bạn. Hãy tin tưởng vào những giá trị mà bạn được nuôi dưỡng và tin tưởng. Không bao giờ cho phép những người khác tước bỏ điều đó khỏi bạn.

3. Quan trọng hơn, đừng bao giờ kìm nén nụ cười. Hãy cười to, thật và sảng khoái. Hãy tâm niệm rằng: “luôn miệng mỉm cười, may mắn tự nhiên đến”.

4. Luôn tư duy cởi mở và nhìn thoáng về mọi chuyện. Hãy học cách phá bỏ những bức tường định kiến và tỏ ra tôn trọng những ý tưởng mới xuất hiện.

5. Luôn khao khát tri thức. Hãy để cuộc đời mang đến những bài học. Nên nhớ rằng sẽ không có một ngày nào mà bạn không cần học hỏi từ cuộc sống cả.

6. Học cách tha thứ. Hãy để trái tim bạn được giải phóng khỏi những ý nghĩ xấu xa, đen tối khiến nó nặng trĩu.

7. Khám phá. Thế giới này sở hữu vô số cảnh đẹp khó tưởng tượng nổi, miễn là bạn có cơ hội khám phá chúng. Du lịch có thể tốn kém, nhưng nếu chịu khó để ý, bạn cũng có thể tìm thấy rất nhiều địa chỉ bỏ túi tuyệt vời ở gần nơi mình ở.

8. Hãy dành thời gian cho riêng mình mỗi khi cuộc sống trở nên quá ngột ngạt và căng thẳng.

9. Hãy vứt điện thoại và email sang một bên khi bạn đang cố gắng trò truyện với ai đó. Những sự tương tác nửa vời, không toàn tâm toàn ý sẽ hoàn toàn thất bại.

10. Tìm kiếm những khía cạnh tích cực trong cuộc sống của mình và tâm sự, chia sẻ chúng với những người khác.

11. Hiểu rằng không có ai trong cuộc sống giống ai và gánh nặng cuộc sống của mỗi người mỗi khác. Đó là một trở ngại thú vị mà chúng ta đều phải học cách vượt qua.

12. Không ngừng hoàn thiện bản thân nhưng đừng quên yêu chính mình. Bạn sẽ không thể yêu được ai nếu như không biết yêu và trân trọng mình trước tiên.

Và cuối cùng, đôi lúc hãy thử làm những việc mà bạn vẫn sợ. Sẽ rất vui đấy! Hãy thử làm những điều bất ngờ, bất thình lình bạn lại ngộ ra một điều hay ho nào đấy!

Chúc bạn một mùa Xuân ấm áp.

Kim Sơn st.

CHUYỆN DZUI !!! ĐẦU NĂM

1. Cũng còn nhiều người tốt lắm

Đi mua bao thuốc lá giá 20.000 đồng, anh Ba đưa cho chủ quán tờ giấy 50.000 đồng. Được thối lại 40.000 đ ồng, anh Ba đút túi thật nhanh và bước đi. Anh chủ quán chạy theo kêu:

- Chú em, chú em để quên không lấy bao thuốc lá nè!

Anh Ba nghĩ: “Trên thế gian vẫn còn nhiều người tốt, mình thật tồi tệ!” Xúc động rút tờ 10.000 đồng ra, anh Ba đưa lại cho anh chủ quán và nói:

- Lúc nãy anh trả dư cho em 10.000 này!

Chủ quán cũng cảm động quá, nói:

- Thôi chú đưa bao thuốc lá kia cho anh. Anh đổi cho gói thuốc thật.

…Sao lại có người thật thà cũng như mình! Lại xúc động, anh Ba nói:

- Anh đưa tờ 50.000 kia đây, em đổi cho tờ tiền thật.

Anh chủ quán kia mặt như mếu:

- Thôi chú đưa tờ 10.000 lúc nãy anh đổi cho tờ khác!

...Híc! Người ta tốt thế mà mình thật tồi tệ! Ngại quá, anh Ba móc cái điện thoại trong túi ra:

- Cái này của anh, lúc nãy em lỡ tay cầm nhầm... Em xin trả lại cho anh.

Hết ý!!!

2. MÌ & TRỨNG

Một buổi sáng, người cha làm hai bát mì. Một bát có trứng ở trên, một bát không có. Ông hỏi con trai muốn ăn bát nào?

Cậu con trai chỉ vào bát có trứng nói:

- Con muốn ăn bát này ạ

- Nhường cho bố đi

- Không, bát mì này là của con

- Không nhường thật à? Ông bố dò hỏi

- Con không nhường!

Cậu bé kiên quyết trả lời rồi đắc ý với quyết định của mình.

Ông bố lặng lẽ nhìn con ăn xong bát mì thì mới bắt đầu ăn bát của mình. Đến những sợi mì cuối cùng, người con nhìn thấy rõ ràng trong bát của cha có hai quả trứng.

Lúc này, ông bố chỉ hai quả trứng trong bát mì, dạy con rằng:

- Con phải ghi nhớ điều này, những gì mắt con nhìn thấy có thể chưa đủ, thậm chí không đúng. Nếu con muốn chiếm phần lợi về mình, con sẽ không nhận được những cái lợi lớn hơn.

Và ngày hôm sau, người cha lại làm hai bát mì trứng, một bát trên có trứng và bát không có trứng. Người cha hỏi:

- Con ăn bát nào?

Rút kinh nghiệm từ lần trước, cậu con trai ngay lập tức chọn bát mì không có trứng. Thật ngạc nhiên, khi cậu bé ăn hết bát mì vẫn không có quả trứng nào. Trong khi đó, bát mì của người cha không những có quả trứng ở trên mà còn một quả nữa ở dưới đáy.

Ông chỉ vào bát mì của mình và nói:

- Không phải lúc nào cũng dựa vào kinh nghiệm được đâu con trai à. Đôi khi cuộc sống sẽ lừa dối con, tạt gáo nước lạnh vào con khiến con phải chịu thiệt thòi. Con không được quá khó chịu hay buồn bã. Hãy xem đó là một bài học.

Một thời gian sau, người cha lại nấu hai bát mì như những lần trước và hỏi con trai chọn bát nào. Lần này, cậu con trai muốn cha chọn trước.

Ông bố chọn bát mì có trứng và ăn ngon lành. Cậu con đón lấy bát mì không trứng mà ăn, thần thái lần này bình tĩnh.

Ăn một lúc cậu chợt phát hiện trong bát của mình có 2 quả trứng. Người cha mỉm cười nói với cậu con trai:

- Con thấy không, khi con nghĩ tốt cho người khác, những điều tốt đẹp sẽ đến với con. Khi con không màng đến lợi ích riêng của bản thân, cuộc đời sẽ không để con phải chịu thiệt.

3. CHUYỆN NGƯỜI TRỒNG NGÔ

Tại vùng trang trại xa xôi, có một người nông dân năm nào cũng trồng được những cây ngô rất tốt.

Năm nào ông cũng mang ngô tới hội ch ợ liên bang và năm nào ngô của ông cũng đạt giải nhất. Ai cũng cho rằng ông có những bí quyết riêng độc đáo. Có một lần, một phóng viên phỏng vấn ông và phát hiện ra rằng người nông dân luôn chia sẻ những hạt giống ngô tốt nhất của mình với những người hàng xóm ở các trang trại xung quanh.

Phóng viên hỏi:

- Tại sao bác lại chia những hạt giống tốt nhất đi, trong khi năm nào họ cũng đem sản phẩm đến cùng hội chợ liên bang để cạnh tranh với sản phẩm của bác?

Người nông dân thật thà đáp:

- Anh không biết ư? Gió luôn thổi phấn hoa và cuốn chúng từ trang trại này sang trang trại khác, từ cánh đồng này sang cánh đồng khác. Nếu những người hàng xóm quanh tôi chỉ trồng được những cây ngô xấu thì việc thụ phấn do gió rõ ràng sẽ làm giảm chất lượng ngô của chính trang trại của tôi. Tức là, nếu tôi muốn trồng được ngô tốt, tôi cũng phải giúp những người xung quanh trồng được ngô tốt đã!

Cuộc sống cũng như vậy. Những người muốn được hạnh phúc phải giúp những người sống quanh mình hạnh phúc. Những người muốn thành công phải giúp những người quanh mình thành công. Giá trị cuộc sống của bạn được đo bằng những cuộc sống mà bạn “chạm” tới.

HÀ MẠNH ĐOÀN st.


Phụ bản IV

ĂN ĐƯỢC LÀ TIÊN

Theo tổng hợp của MAI KHANH ở “Trí Thức Trẻ” Tết Đinh Hợi 2007

& tài liệu của Viện Dinh dưỡng Bộ Y tế, có bổ sung

1. NÊN ĂN TẠP.

Để mạnh khỏe sống lâu đúng với tiềm năng tạo hóa sinh ra cho con người (khoảng 45 ngàn ngày tức là 125 năm); ta cần ăn tới gần 9 chục chất khác nhau (gồm gần 6 chục vi lượng khoáng, gần 2 chục loại vitamin, và gần 1 chục loại acid amin nữa). Vì vậy mỗi ngày nên ăn khoảng mươi, mười lăm loại thực phẩm khác nhau.

2. NÊN ĂN CHẬM, NHAI THẬT KỸ.

Mỗi miếng nhai 30 lần, mỗi bữa 30 phút - để tận dụng hết các vi lượng có trong thức ăn: bảo vệ não, giảm béo, làm đẹp da, phòng được ung thư.

3. NÊN ĂN THỰC PHẨM GỐC.

Không có nghĩa là tuyệt đối không ăn thực phẩm đã chế biến chút ít, mà chỉ để cho bộ máy tiêu hóa của ta tránh được các bệnh thực phẩm thời nay không được tươi.

4. NÊN ĂN SỚM.

Bữa sáng phải là một bữa chính và ăn sớm để “khai quang trí lực”. Bữa tối, ăn nhẹ hơn và ăn sớm để xa giờ đi ngủ, sẽ không bị béo bệu; đêm đến dạ dày và trí óc đều được nghỉ ngơi.

Bữa tối ăn “nặng” dễ mắc bệnh béo phì, các bệnh tim mạch, tiểu đường, tắc nghẽn tuyến tụy, viêm loét dạ dày, ung thư đường ruột và cả nằm mê các cơn ác mộng nữa.

5. NÊN ĂN NHẠT.

Bớt muối (tối đa 10g muối/ người/ ngày). Bớt mỡ (nên thay bằng dầu thảo mộc). Bớt đường (dưới 500g đường/ người/ tháng). Nhưng quả chín thì ăn thả cửa (ăn tới mức bão hòa).

6. NÊN ĂN “ÂM ẤM” THÔI.

Ăn quá nóng không tốt cho tiêu hóa. Để nguội một chút sẽ trường thọ đó.

7. NÊN ĂN TƯƠI.

Làm tươi, ăn tươi, để tận dụng các chất dinh dưỡng trong thực phẩm. Không ăn đồ ăn thừa.

8. NÊN ĂN CÂN ĐỐI.

Ăn chất béo có mức độ, ăn ít mỡ, mà nên ăn dầu và lạc, vừng. Ăn chất đạm ở mức vừa phải. Ăn ít đạm nguồn động vật (thịt, trứng, sữa) mà ăn nhiều cá hơn 3 bữa mỗi tuần. Tăng các món chế biến từ đậu tương (đậu hũ, đậu nành).

9. CẦN ĂN NHIỀU CÁC CHẤT XƠ.

Ăn nhiều rau, củ, quả để vừa có nhiều vitamin và các vi lượng khoáng, vừa có nhiều chất xơ để quét nhanh ra khỏi hệ tiêu hóa các độc tố và cholesterol thừa.

10. NÊN ĂN SẠCH.

Không bụi bậm. Không bị ô nhiễm. Không mang vi trùng, vi khuẩn, mầm bệnh vào người.

11. NÊN ĂN SỐNG.

Những thực phẩm nào có thể ăn sống thì nên ăn sống. Nhưng không ăn “gỏi”, ăn “tái” quá nhiều, nhất là với thực phẩm không được tươi.

12. NÊN ĂN ĐIỀU ĐỘ.

Ăn uống theo cữ (không no dồn, đói góp), đúng giờ, phù hợp với đồng hồ sinh học của cơ thể mình.

13. NÊN CHIA NHỎ BỮA ĂN.

Sang thế kỷ 21 này, người ta sẽ ăn ngày 5 đến 6 bữa. Ngoài 3 bữa chính còn có 3 bữa nhỏ lúc 10 giờ, 16 giờ và 20 giờ, sẽ có tác dụng rất tốt. Nó khác xa với ăn vặt; ăn vặt là không có giờ giấc và định lượng, thường tác hại cho bữa chính.

14. CHỈ UỐNG NƯỚC VỪA ĐỦ.

Uống theo nhu cầu, tùy theo thể trạng, nếp hoạt động (chân tay hay trí óc, nhiều hay ít), thời tiết (nóng hay lạnh) mà uống nhiều hay ít. Uống nhiều nước không phải bao giờ cũng tốt. Không: uống xã giao, uống tiếp khách, uống theo khoái khẩu. Nên uống xa các bữa ăn.

15. NÊN UỐNG TRÀ XANH.

Uống chè tươi phòng tránh được ung thư, tránh đứt mạch não, trị được sâu răng và làm chắc răng(*)

Sách “Trà luận” của Tô Đông Pha (1037-1102) khuyên ta: “Sau mỗi bữa, nhấp chén trà đặc, khỏi bệnh viêm lợi và làm chắc răng”.

PHÙNG CHÍ TÂM st.

-------------

(*) Ghi chú: Theo Giáo sư của WHO - Tổ chức Y tế Thế giới TỀ QUỐC LỰC (người Mỹ gốc Hoa), trong bài nói chuyện “Bí quyết Mạnh khỏe & Sống lâu” ở Bắc Kinh thì: Sáu loại đồ uống bảo vệ sức khỏe là:

1. Trà xanh,

2. Vang đỏ,

3. Sữa đậu nành,

4. Sữa chua,

5. Canh xương,

6. Canh nấm.

NỢ NẦN

Ô i cha là mỏi cái lưng, tôi dừng cuốc nhìn ánh chiều đang nhạt, chắc cũng hơn năm giờ rồi, thôi nghỉ, còn đi cho gà cho cá ăn nữa là vừa. Vừa lau mồ hôi, tôi vừa rẽ cỏ đi về phía căn nhà gỗ nho nhỏ bên rìa vườn. Khu vườn của tôi không lớn là mấy, chỉ hơn sáu nghìn mét vuông với vài trăm cây ăn trái. Sự chăm sóc sẽ không là nặng nhọc nếu có thêm một người phụ nữa. Có điều, không đơn giản khi tính đến chuyện ấy. Một người giúp việc đàng hoàng, thật thà và nhiệt tình thì quả là một sự đánh đố khắc nghiệt trong thời buổi nhập nhòa đen trắng này. Tôi thường không quá xét nét người, nhất là những người vì sự khó khăn mà phải đem thân chịu sự sai bảo, phải gánh những phần việc nặng nhọc, nguy hiểm, đôi khi còn phải bưng tai bịt mắt mà chịu đựng những lời khó nghe từ những người đang nắm giữ phần sống của mình. Tôi lại dễ động lòng trắc ẩn, dễ cả tin vào những lời than thở, nỉ non, dễ nhắm mắt cho qua những thiếu sót nhỏ nhặt, dễ chấp nhận những yêu cầu, chỉ cần là không quá đáng của cái vế thường được gọi là “kẻ dưới”. Nói một cách chân thật nhất, tôi là một kẻ biết thương người, một kẻ luôn lấy hai chữ nhân tâm làm đầu, một kẻ thường không cho phép đem những ưu thế của mình đòi hỏi sự phục dịch đầy nhẫn nhục của người khác, và thật tình tôi không muốn làm phiền hay làm khổ bất kỳ ai trong mọi tình thế. Nếu có thể cho đó là những ưu diểm thì không phải là không đáng. Có điều những ưu điểm đó lại biến thành những yếu điểm cho những người biết cách lợi dụng. Biết rõ nhược điểm của mình, nhưng tôi chẳng làm sao thay đổi được, đành vậy, trời sinh mỗi người mỗi tâm mỗi tính, hay nhờ dở chịu thôi. Cũng chính vì thế mà tuy công việc có phần vất vả, nhưng tôi chẳng dám mượn người giúp. E chuyện khó lòng về sau, tâm lý của người đi làm công thường chẳng mấy ai hết lòng với chủ. Họ cho rằng làm nhiều làm ít cũng bấy nhiêu lương, hết công hết sức làm chi cho uổng. Đã vậy họ luôn thừa cơ để tận dụng những cái lợi cho mình, chưa kể đến một lúc nào đó máu tham bốc mờ nhân trí, họ sẽ trực tiếp gây hại cho chủ. Thực tế đã quá nhiều những bài học thảm thương, nghĩ mà buồn cho thế thái, nhân cách, lương tri đôi khi chẳng đáng mấy đồng lẻ. Thôi thì đành chịu khó thêm chút nữa vậy, việc hôm nay làm không xong thì mai làm tiếp, sức mình đến đâu thì cày sâu đến đó vậy. Đa mang cho lắm chỉ tổ vác họa vào thân. Ấy thế mà rồi cũng xong khối việc, lâu lâu nhìn những gì đã qua đôi tay của mình, lại mỉm cười tự thưởng cho mình một câu “Được đấy”. Thì có mỗi một mình, không tự khen thì đợi ai khen nữa.

- Chị ơi…

Tiếng gọi rụt rè khiến tôi ngoảnh ra cổng, một hình dáng lạ, ai thế nhỉ? Ai mà còn đến vào giờ này?

- Có việc gì đó em?

Trong thời gian của câu hỏi, tôi đã lướt nhanh qua người đứng ngoài cổng. Một cô gái độ ngoài ba mươi, tay xách một túi hành lý như có vẻ ở xa tới, bộ quần áo cũ kỹ, hơi nhàu, gương mặt hốc hác, tái ngắt, lộ rõ vẻ mỏi mệt.

- Chị… chị có cần người làm không ạ?

- Không em.

Nét thất vọng kèm theo chút gì như hoảng hốt.

- Chị không cần thật ạ?

Tôi gật đầu, cố như vớt vát, cô gái nói thêm:

- Em hỏi mấy nhà gần đây, họ bảo chị ở một mình, lại vườn rộng, chắc sẽ cần người.

- Thì cũng đúng thế đấy, nhưng chị tự lo liệu được, nên…

Tôi bỏ dở câu nói, nhìn nét mặt thẫn thờ của cô gái lạ, tôi chạnh lòng. Ánh mắt cô gái nhìn mông lung trong không gian tai tái giấc cuối ngày, ánh mắt bơ vơ, cô độc, ngơ ngác, lo âu và tuyệt vọng. Cô gái chợt khẽ nhăn mặt, đưa tay ôm bụng, tôi thoáng thấy tấm áo gồ lên khoảng giữa, nhưng cô quay lại khẽ gật đầu chào tôi:

- Cảm ơn chị, em đi.

Bước chân rã rời, không khó khăn gì mà không nhận thấy đó đang là một tình cảnh đáng lưu tâm. Tôi buộc miệng:

- Em này…

Cô gái quay ngoắt lại, trong mắt như sáng lên:

- Chị…

Tôi mở khóa cổng, bước hẳn ra ngoài, quét tia nhìn qua bụng cô gái, đúng là cô gái đang có mang, tôi nhẹ giọng:

- Em ở xa đến đây à?

- Dạ, vâng.

- Thế bây giờ em đi đâu?

Cô gái cúi đầu, giọng hơi ướt:

- Dạ… em không biết đi đâu nữa.

Tôi im lặng vài giây cân nhắc, rồi thở ra bảo:

- Thôi, em vào đây đã.

Có vẻ bất ngờ, nhưng cô gái im lặng theo tôi. Vào đến nhà, tôi đưa một cái ghế tựa cho cô:

- Em ngồi đây nghỉ tí cho đỡ mệt đi đã, chị làm xong mấy việc vặt rồi chị vào.

- Chị có việc gì, em làm phụ với.

- Thôi, em cứ nghỉ đi, chị làm xong ngay ấy mà.

Cô gái nghe lời, ngồi xuống ghế, tôi nhanh tay với những công việc cần thiết. Trong đầu ngồn ngộn những câu hỏi “Làm sao mà phải đi tìm việc làm trong lúc bụng dạ như thế? Có uẩn khúc gì chăng? Có chồng hay không có? Chắc là không, chứ nếu có thì sao lại ra nông nỗi thế? Mình cho người ta vào nhà như vậy có mạo hiểm quá không? Mình có biết gì về người ta đâu? Lỡ bị gài bẫy thì làm thế nào? Nhưng chắc không phải thế đâu, nhìn mặt thấy có vẻ hiền lành lắm mà. Nếu không cho người như vậy vào nhà, chí ít là cũng nghỉ tạm qua một đêm thì mình lại không đang tâm. Chắc không sao đâu, hẳn là người ta gặp chuyện gì quá đáng nên mới như vậy. Thôi thì cứ giúp người ta qua lúc này đã, cũng chẳng dễ gì mà hại được mình. Đừng tự nhát mình thế chứ”. Nghĩ thế, tôi thấy yên tâm hơn. Xong hết việc, tôi bảo cô gái đi tắm rửa rồi ăn cơm. Sau bữa cơm, trông cô gái có vẻ khá hơn. Cô mở túi xách, lấy ra cái chứng minh thư đưa cho tôi:

- Chị cầm đi ạ, chứng minh của em đấy.

Tôi cầm coi qua rồi trả lại, nói:

- Thế này Sương ạ. Thực tình thì chị không có khả năng nhờ người giúp việc đâu. Lúc nãy thấy trời sắp tối rồi, em lại bụng dạ thế này, nên chị bảo em vào nghỉ tạm qua đêm nay đã rồi mai tính.

- Em cảm ơn chị. Bây giờ em mới dám nói, nếu chị không cho em vào thì chắc em cũng không biết mình có đi nổi mấy bước nữa không.

- Thế nhà em ở đâu?

Sương cúi mặt một lúc, rồi đưa tay lên chùi mắt, tôi im lặng, đoán biết cô sẽ nói gì đó cho tôi nghe. Đúng vậy, giây lát cô ngẩng lên nhìn tôi, mắt đỏ hoe:

- Em xin lỗi chị, chuyện của em buồn lắm, nếu…

Hiểu cô nghĩ gì, tôi nói ngay:

- Tuy không rõ cụ thể là em gặp chuyện gì, nhưng nhìn qua chị cũng đoán hiểu phần nào. Chị em mình gặp nhau hôm nay, cũng là có một chút duyên, nếu em có gì không vui, nói chị nghe xem chị có giúp được gì cho em không?

- Chị tốt quá, đúng là trời còn thương em, cho em được gặp chị thế này.

Ngưng một chút, Sương bắt đầu kể:

- Nhà bố mẹ em ở ngoài Bắc cơ chị ạ. Em lấy chồng rồi theo chồng vào đây, cũng được hơn sáu năm rồi. Em có thai đứa này là đứa thứ hai, đứa đầu là con trai, đã gần bốn tuổi, nhưng phải gửi ông bà nội cũng ở ngoài Bắc, vì vợ chồng em vào đây còn khổ lắm, lo không nổi cho cháu. Em cũng đâu có định sinh nữa, nhưng bị lỡ nên phải đành để. Có điều, khổ vì làm ăn vất vả mấy em cũng cố chịu đựng được, nhưng cái khổ của em… (Sương ngừng lại và nấc lên, tôi khẽ thở dài, trông cô đau khổ quá). Em khổ vì chồng em là nhiều nhất. Hầu như không ngày nào là anh ta không đánh em chị ạ…

- Đánh?

Sương khe khẽ gật đầu, lại đưa tay chùi mắt.

- Em bầm mặt tím mày như cơm bữa, lúc đầu còn khóc lóc van xin, nhưng chẳng ăn thua gì, anh ta đánh chán tay thì thôi, không ai can được. Chính quyền thôn xã, bà con láng giềng can thiệp, anh ta bảo vợ tao thì tao dạy, đứa nào chõ mõm vào tao đánh luôn đứa đó. Anh ta còn đặt điều, vu cho em bao nhiêu là thói xấu để có cớ đánh đập, mà khổ nỗi, em thì đầu tắt mặt tối suốt từ sáng sớm đến nửa khuya, có thò đi đâu được mà bảo là chơi bời, lê lết. Việc nhà lớn nhỏ chớ hề anh ta đụng tay, đi làm công cho người ta được đồng nào giữ riêng đi uống rượu hết, say rồi về nhè em đánh, tức bực ai ngoài đường cũng về nhè em đánh, không có tiền ăn nhậu về hành em. Vốn liếng được mấy sào đất trồng tỉa vặt vãnh chỉ gọi là đủ đắp đổi, em phải đi làm thuê cho người ta mới gọi là có tí tiền dành lo cho con.

Nhìn xuống bụng mình, Sương thở hắt:

- Độ ba tháng nữa là em sinh, trong tay không có một đồng tiền nào, có cái nhà ọp ẹp anh ta cũng đốt mất rồi…

- Cái gì? Đốt cả nhà á?

- Vâng. Hôm rồi say sỉn nổi khùng lên vác dao rượt em chạy khắp xóm, may mà cái thai không làm sao, đòi giết em không được thế là về đốt nhà. Chị bảo em còn khổ đến thế nào nữa. Còn được mấy cái quần áo phơi ngoài dây, khuya em lẻn về lấy rồi trốn đi đây. Nói thật với chị, hai ngày qua em chỉ có mỗi gói mì vào bụng. Không gặp được chị thì không biết…

- Trời ơi trời!

Nếu nói là bịa thì người phụ nữ này không đủ tài để bịa được một câu chuyện như thế, mà thật thì… trời ơi, kinh khủng quá. Hốt nhiên tôi nghĩ về mình, may quá, tôi không bị gặp phải loại đàn ông ấy. Cứ bảo đẹp xấu gì cũng lấy cho có tấm chồng mà nương tựa, nhưng chồng kiểu này thì chắp cả guốc lên mà vái.

- Vậy anh em gia đình hai bên có biết không?

- Dạ biết cả đấy, nhưng cả hai gia đình đều ở xa, có vào cũng chỉ được dăm ngày là về, đâu lại đóng đó.

- Chẳng lẽ em không làm cách nào để thoát khỏi cảnh ấy sao?

- Em biết làm cách nào bây giờ hả chị? Con thì sắp hai đứa rồi, dù thế nào cũng phải có cha, mà em có đi đâu cũng chẳng thoát khỏi anh ta được, bỏ thì không cho bỏ, nhiều lúc em cũng mong anh ta bỏ em đi cho em đỡ khổ, một mình em làm nuôi con còn tốt gấp mấy lần. Nhưng mà rồi…

- Vậy lúc trước thương nhau mà lấy hay bị ép gả?

- Dạ, do thương mà lấy, chứ mà bị ép nữa chắc em tự tử lâu rồi. Mà ngày chưa lấy nhau anh ta hiền lành tử tế lắm cơ, em nào ngờ.

Tôi thừ người, cái khổ của người đàn bà biết nói sao cho hết nhỉ? Không chồng không con thì bảo là cô quả cô độc, lấy chồng rồi thì phải sống chết cả đời vì chồng vì con, gặp được người chồng tốt thì còn coi như có phước, gặp cái thứ trời đánh thánh đâm như vầy cũng phải cắn răng mà chịu. Cho dù cũng đã có không ít những người phụ nữ tìm cách bức thoát, có thoát được cũng đã mang đầy thương tích, cũng chẳng dễ dàng gì tìm lại được một hạnh phúc êm đềm.

Sương đã ngủ say, có lẽ cô đã quá mệt rồi, tôi còn trăn trở mãi không ngủ được. Câu chuyện của một người xa lạ giờ ở ngay bên tôi làm tôi bứt rứt. Tôi phải làm thế nào trong tình cảnh này đây? Vốn tâm tính tôi ưa lo chuyện bao đồng, lại gặp một vấn đề nan giải này bảo sao tôi coi như không nghe được. Chuyện giữa đường cứ như đặt để vào tay, có lẽ giữa tôi và cô gái này có một chút duyên phận, bởi sự dẫn dắt ngẫu nhiên nhưng lại rõ ràng là có cơ sở. Nếu như cô ấy gặp tôi vào một thời khắc khác, không phải là khi sâm sẩm tối, không phải trong bộ dạng quá thiểu não đến tội nghiệp như thế, và nếu tôi là một người lạnh lùng, vô cảm, thì chưa chắc đã có lúc này. Một mảnh đời vất vưởng đang trông vào chút lòng nhân đức của tôi, dù muốn dù không tôi cũng không thể nào đẩy con người khốn khổ này ra đường. Thôi thì…

Tờ mờ sáng Sương đã nhỏm dậy, tôi cũng đã thức giấc trước một lúc, thấy cô rón rén bước xuống giường, tôi lên tiếng:

- Em dậy sớm thế?

- Dạ, em quen dậy vào giờ này, chị cũng dậy sớm thế ạ?

- Ừ, chị cũng quen rồi, việc nhà nông mà, có ai trễ muộn được đâu.

Cả hai loay hoay một lúc thì xong phần việc buổi sớm. Tôi đun nước nấu hai gói mì và ấm trà. Ăn xong, tôi bảo Sương:

- Sương này, chị nói thế này nhá.

Sương như nín thở nhìn tôi.

- Nghe qua chuyện của em, chị thấy rất bức xúc, nhưng chưa biết rồi có giúp gì được cho em không. Trước mắt, em cứ ở lại đây, chị em rau mắm cũng xong thôi, rồi từ từ xem tình hình ra sao mới tính được.

Cô gái xúc động ứa nước mắt:

- Em mang ơn chị quá, em không biết nói sao bây giờ nữa.

- Không cần phải nói gì đâu, ai thì cũng làm như chị thôi. Còn công xá thì…

- Không, không, chị đừng nói đến công xá, em được chị giúp cho thế này là quý lắm rồi, em không dám đòi hỏi gì hơn đâu, chị đừng nghĩ ngợi gì cả.

Tôi im lặng ngẫm nghĩ một chút rồi gật đầu:

- Ừ thôi, để cho em thoải mái tự nhiên, chị không nói chuyện ấy nữa, nhưng lúc nào mệt mỏi, em cứ việc nghỉ ngơi, không phải cố đâu nhé. Công việc chị thì cũng không nhiều, chị vẫn quen làm một mình cả đấy, nên em đừng có nghĩ ngợi lung tung mà cố quá, lỡ ảnh hưởng cháu thì chị không đền được đâu.

- Dạ, chị cứ yên tâm, em tự biết sức mình mà.

Nói vậy thì nói chứ tâm trạng của người chịu ơn nó nặng lắm, tôi rất hiểu điều đó, nên mỗi lúc thấy Sương vã mồ hôi vì cố sức trong công việc thì tôi thấy mình rất khó chịu, tuy vẫn luôn nhắc chừng cô, nhưng đôi khi cũng vờ làm ngơ cho cô có được cảm giác đền đáp để có thể thoải mái hơn trong sinh hoạt. Thấm thoát Sương đã ở cùng tôi hai tháng, nhìn bụng Sương mỗi ngày một to ra mà tôi thầm lo. Không biết sắp tới sẽ tính sao đây? Chẳng lẽ để cô sinh nở ở nhà tôi luôn sao? Thứ nhất là sự nguy hiểm khi sinh, vì khá xa cơ sở y tế, nhỡ đêm hôm chuyển bụng thì biết làm thế nào. Lại tôi cũng chẳng dư dả gì mà cưu mang cô mãi được, dù lòng có tốt đến đâu thì cũng phải có điều kiện hỗ trợ mới có thể tốt được. Tôi chưa từng vào cuộc, nhưng cũng thừa hiểu những gì cần phải có cho người phụ nữ vào lúc ấy. Biết làm sao đây? Đi vay mượn để lo chuyện bao đồng chăng? Chắc thiên hạ sẽ cười cho dữ lắm, nhưng nếu cùng quá cũng phải vậy thôi, ai cười thì cười, không lẽ kéo người ta lên nửa chừng rồi thả cho người ta rớt cái ịch xuống. Hóa ra không chỉ mình tôi nghĩ ngợi, mà nhân vật chính còn nghĩ ngợi hơn tôi nhiều.

- Chị ơi, chị có đi phố chị gửi giùm em bức thư này nhé.

- Gửi cho mẹ em à?

- Dạ vâng. Bữa giờ em không dám liên lạc, sợ chồng em biết chỗ đến tìm, gây phiền hà cho chị. Nhưng giờ thì phải vậy thôi, còn gần tháng nữa em sinh rồi, làm sao ở đây mà vạ chị mãi được. Em liên hệ với mẹ em, để mẹ em vào đón em.

- Thế thì chồng em cũng sẽ biết.

Sương thở dài:

- Đành vậy thôi, em chỉ cố tránh để con em bình yên ra đời lúc này thôi, chứ làm sao tránh được anh ta cả đời này hở chị?

Tôi im lặng, biết nói gì bây giờ. Một lúc Sương lại tiếp:

- Cái số kiếp em nó thế thì phải chịu thế, chẳng làm sao khác được.

Số với kiếp. Cũng chẳng có cách lý giải nào khác hơn, không phải là số thì sao lại gặp người như thế. Người đàn bà lấy chồng là buộc mảnh đời mình vào một sợi chỉ, mặc giông gió đẩy đưa theo từng cơn nóng lạnh. Vui buồn, sướng khổ tùy thuộc vào tâm thái của người đàn ông. Có ra sao thì cha mẹ, anh em cũng không có quyền tham dự. Bảo rằng tạo hóa thì phải thế, trời sinh rà đàn ông đàn bà là để kết hợp lại với nhau, nhưng sao lại có những cuộc kết hợp đọa đày đến thế.

Thân cá nước đục, thân cò ăn đêm. Nhìn ánh mắt thất thần và gương mặt mét xanh của Sương khi nhìn thấy người đàn ông đi cùng mẹ cô cũng đủ hiểu đấy là ai. Anh ta ném một cái nhìn sáng quắc về phía vợ trước khi mở lời với tôi. Cái nhìn mà tôi là người ngoài cũng lạnh cả sống lưng. Một nỗi căm giận bùng lên trong tôi, nhưng tôi phải cố nén, nếu không, hẳn cô gái tội nghiệp kia sẽ phải gánh một hậu quả khủng khiếp.

- Thì ra vợ tôi lâu nay ở nhà chị, thế chị và cô ấy quen biết thế nào?

Rõ là một câu nói gây hấn.

- Chẳng thế nào cả, tôi cần người giúp việc, cô ta đến xin việc thì tôi cho vào làm, thế thôi.

Không cố tình chăng nữa, thì tôi cũng không đủ bình tĩnh để làm một chủ nhà lịch sự. Gã đàn ông nhìn tôi soi mói, sỗ sàng:

- Sao lại đi thuê một người bầu bì nặng nhọc thế kia vào làm việc?

Tôi quắc mắc nhìn thẳng vào anh ta:

- Thế thì tại sao vợ anh trong lúc bụng mang dạ chửa thế kia mà phải đi xin việc làm để kiếm miếng sống?

Nếu tôi không phải là chủ nhà mà anh ta đang đứng, có lẽ tôi không tránh khỏi một động tác nào đấy từ gương mặt đỏ bự hầm hầm kia. Mẹ Sương len vào giữa tôi và anh con rể, ôn tồn:

- Thôi chị thông cảm, vì vợ chồng chúng nó có chút chuyện không vui nên nó mới nóng thế. Chị cho tôi xin lỗi, cảm ơn chị đã giúp đỡ em nó lâu nay. Xin phép chị hôm nay cho chúng tôi đón em nó về.

- Bác ạ, cháu không biết gì về chuyện riêng của hai người, nhưng quả thực là cháu rất lo cho Sương, tuy không quan hệ thân thiết gì, chị em cũng mới biết nhau đây thôi, nhưng cháu thấy gia đình nên quan tâm đến em nó nhiều hơn. Cháu là người ngoài mà còn không nỡ…

Người mẹ thở dài, trong đôi mắt bà một nỗi buồn dâng kín.

- Vâng, cảm ơn chị. Chúng tôi ở xa quá nên đôi khi cũng không giúp em nó được nhiều. Thuyền theo lái, biết làm sao được.

Câu nói buông xuôi, phó mặc. Tôi nhìn về phía Sương, em hướng về tôi tia mắt khẩn cầu và khẽ lắc đầu. Tôi thở dài. Chỉ là một người dưng, tôi có quyền gì để thay đổi được số phận em. Đi đến trước mặt Sương, tôi kìm lắm để không ôm lấy em bởi hành động ấy lại không tốt cho em một chút nào, tôi móc túi lấy món tiền đã chuẩn bị sẵn, nhét vào tay Sương:

- Em hãy cầm một chút này về lo cho cháu nhé.

- Thôi, thôi chị…

- Cầm đi cho chị vui, coi như chị cho cháu vậy. Mong sao em mẹ tròn con vuông. Nếu có nhớ đến chị hãy đặt tên con là Yên Yên nhé. Chị rất muốn mẹ con em sẽ được bình yên.

- Chị…

Nước mắt Sương chảy tràn trên má, tôi nắm chặt tay em. Người mẹ đã đến bên cạnh, bà nhìn tôi, đôi mắt cũng rưng rưng.

- Cảm ơn chị, cảm ơn chị nhiều lắm.

- Thôi. Mọi người đi đi không trễ xe.

Gã đàn ông khốn kiếp kia đã ra cổng từ lúc nào. Hai mẹ con Sương dìu nhau đi ra. Tôi tiễn đến cổng thì dừng lại. Họ còn phải đi bộ một quãng nữa mới đến trạm xe buýt. Gã kia cắm mặt đi trước, không cả một lời chào xã giao, hẳn gã còn căm tôi lắm vì câu hỏi móc ban nãy. Tôi nhìn theo dáng đi ì ạch của Sương mà thương quá. Chỉ cái tên cũng đã nói lên sự mỏng manh của một kiếp phận rồi. Có chút duyên nào đâu, chẳng qua chỉ là một thứ nợ nần mà thôi.

ĐÀM LAN

TIẾNG ĐÀN NĂM CŨ

Trăng tròn vành vạnh, chênh vênh trên tán cây phượng già bên kia đường. Ngàn có cảm giác như cành lá được dát một lớp vàng trong suốt, mềm mại, huyền hoặc. Dòng sáng nhạt dần khi trăng lững thững đi lên vòm trời lồng lộng gió. Ngàn bất giác lạnh và chợt nhớ tiếng đàn năm cũ.

Thuở đó, cây phượng bên nhà Dĩ hãy còn trẻ trung. Cứ mỗi độ hè về, những chiếc lá bé xíu lặng lẽ úa vàng, rắc đầy mảnh sân con. Dĩ và Ngàn hay ngước nhìn lo lắng, sợ nó chết khô. Thế nhưng, một sáng cả hai đứa òa lên kinh ngạc khi trông thấy những chùm nụ bum búp nhô ra. Ở giữa có một đóa phượng rụt rè xòe cánh, run run. Dĩ hét lên:

- Ngàn ơi, mùa hạ đến rồi! Mình sắp được nghỉ…

Ngàn cũng thích mùa hạ, vì những ngày đó, Ngàn tha hồ giúp ba mẹ việc đồng áng. Buổi tối lại được được xúm xít nghe đờn ca tài tử nữa. Nào là cậu Ba Hên, cô Bảy Lài, bác Tư Tôn và mấy anh chị láng giềng. Cô Bảy Lài tuổi đã bốn mươi mà vẫn chưa chịu lấy chồng, cứ ở vậy chẳng biết tại sao. Giọng ca của cô mùi rệu, mượt như nhung. Mỗi lần cô cất giọng vô câu vọng cổ tim Ngàn muốn rớt ra ngoài một nỗi xao xuyến lan tỏa khắp cơ thể rồi tụ lại ở tim, làm nó cứ bổi hổi bồi hồi. Còn cậu Ba Hên của Dĩ đàn hay hết biết. Mấy ngón tay của cậu như có phép mầu. Khi cậu bấm lên phím đàn, sợi tơ run lên, âm thanh túa ra, bủa vây mọi người, bằng một loại cảm xúc cũng da diết không kém. Lúc ấy, Ngàn cảm thấy cuộc sống sao thi vị quá! Dĩ đàn cũng hay lắm. Tuy chưa bằng người cậu ruột nhưng so với thanh niên trong xóm thì đứng đầu. Dĩ hay đàn để tập cho Ngàn hát bài Dạ cổ hoài lang. Giọng Ngàn khàn khàn nhưng nhờ tập riết rồi nghe cũng đơ đỡ, đủ để góp vui cho chòm xóm.

Đêm ấy, cái đêm trăng ngằn ngặt sáng. Mấy anh chị, chú bác xóm trên vác đàn xuống xóm Ngàn rủ đàn ca giao lưu. Họ còn mang theo trà, rượu, bánh trái nên buổi đàn hát đông vui khác thường. Khi trăng treo hững hờ trên nhánh lá phía xa xa, bác Hai xóm trên bỗng ra dấu bảo mọi người im lặng rồi nói:

- Hôm nay vui quá! Để tui bảo con Lụa nhà tôi hát phục vụ bà con nghen!

Tiếng vỗ tay hoan hô om trời. Cậu Ba Hên cũng nổi hứng bảo:

- Vậy tui cử thằng Dĩ cháu tui đàn giao lưu nghen.

Ai nấy cũng đều vỗ tay đôm đốp. Thì ra chị mặc áo bà ba tím, tóc vấn một bính thả sau tấm lưng thon là chị Lụa, con bác Hai. Nãy giờ chỉ thấy chị ngồi bên bác cười tủm tỉm, Ngàn tưởng chị không biết hát, chỉ đi theo nghe thôi chứ.

Khi chị đứng dậy, yểu điệu bảo:

- Em xin hát bài Dạ cổ hoài lang.

Mắt Dĩ sáng bừng như ánh trăng thu. Khi chị Lụa cất tiếng ca, mọi người im bặt. Cảm giác bồng bềnh, buồn não nuột phủ trùm không gian. Tim Ngàn se thắt, nghẹn thở khi bắt gặp ánh mắt đắm đuối của Dĩ thả dài từ mái tóc, bờ môi đến tận gót chân người đẹp. Chị Lụa dứt tiếng hát, mọi người vỗ tay, reo hò ầm ĩ:

- Ồ, hay quá trời quá đất! Hay hết biết!

Mọi người yêu cầu chị hát thêm bài nữa. Không biết chị sẽ hát bài nào vì Ngàn đã len lén lùi ra sau rồi chạy một mạch về nhà. Ngàn úp mặt xuống gối, nước mắt tuôn như mưa. Ngàn biết mình đã mất Dĩ từ lúc ấy.

Năm học đó, Dĩ học kém hẳn vì anh mãi đuổi theo chị Lụa. Ngoài giờ học, anh hay xách đàn lên xóm trên, chẳng biết anh làm gì ở đó mà đến tối mịt mới vác đàn về. Cứ thế cho đến khi anh… rớt tốt nghiệp THPT. Ngược lại, Ngàn cắm đầu cắm cổ học để quên buồn, quên đau. Hết giờ học thì xuống bếp hay tuôn ra đồng nhổ cỏ, hoặc làm bất cứ việc gì cho đến khi màn đêm rụng xuống đôi vai. Thời gian đúng là một ông thầy thuốc giỏi! Ngàn dần dần lạnh lùng với nỗi nhớ vô vọng, với những mong đợi không cần thiết. Ngàn hầu như chai cứng cảm xúc, chẳng biết vui hay buồn khi hay tin chị Lụa muốn đổi đời đã lấy chồng Đài Loan, rồi bỏ quê hương về xứ lạ. Dĩ buồn tình cũng bỏ xứ đi biệt tích. Lạ là anh không mang theo cây đàn. Nó vẫn còn nằm im trên vách lá, cạnh chỗ bàn học của anh. Cây đàn nằm im, trầm tư đếm thời gian lướt qua những sợi tơ hoen rỉ.

Ngàn đỗ đại học nên cũng rời quê lên phố. Ở đó, Ngàn làm thêm đủ thứ việc để có tiền đóng học phí và tự nuôi bản thân. Nào là gia sư, chạy bàn quán cà phê, rửa bát ở quán cơm… Ngàn không có thời gian để yêu và nhớ. Vừa tốt nghiệp đại học, Ngàn khăn gói quay về quê hương. Nhờ tấm bằng loại giỏi, Ngàn xin làm nhân viên cho một ngân hàng nhà nước không khó lắm. Ngàn lại cặm cụi làm rồi được đề bạt chức vụ kế toán trưởng. Cuộc sống vật chất thoải mái dần. Ngàn tích cóp, dành dụm một thời gian và xây được căn nhà hai tầng lộng lẫy.

Đêm nay, giữa im ắng đất trời, bất chợt tiếng đàn nghẹn ngào vang lên giai điệu bài Dạ cổ hoài lang từ phía ấy. Tưởng là mơ! Ngàn chạy ra ban công, nhìn sang nhà Dĩ. Dưới ánh trăng khuya, bóng một người đàn ông gầy guộc gập mình trên cây đàn. Âm thanh sẽ sàng như tiếng khóc thút thít của người cô phụ chờ chồng mòn mỏi. Đúng là Dĩ đã về! Trông anh thảm hại quá! Ngàn thoáng chạnh lòng. Nhưng, đã muộn! Ngày mai, Ngàn lấy chồng. Chồng Ngàn cũng là Phó giám đốc Ngân hàng sẽ đến rước dâu rất sớm, khi mặt trời vừa lên. Đêm nay là đêm cuối của một thời con gái mệt nhoài vì yêu và ghét, phấn đấu và thành đạt! Ngàn trở vào, khép vội cửa, trùm chăn ngủ một giấc ngon lành.

Sương thánh thót rơi. Có phải trời cao khóc thương tiếng đàn năm cũ!

Nguyễn Thị Mây

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 1 1 . 01 .20 20 ....... Vũ Thư Hữu . 01

Vài dòng về 1 quý thư 87 tuổi đời

mới được một thân hữu tặng .... Vũ Anh Tuấn . 05

Lịch sử Giáo Hội Công Giáo (tt - kỳ 2) .............................

Bosco Ng.V.Đình, ofm & Lm. Giuse Ng.H.Triết .... 07

Tác hại của Y Ngữ Bất Y Nghĩa (tt & hết) .... Tâm Nguyện . 13

Hát Then: Di sản Văn hóa Phi vật thể ...................... Phạm Vũ . 21

Tôi đọc thơ

của nhà thơ Hàn Quốc Kim Kwang-Kyu Thúy Toàn .. 27

Mảng tối của mùa xuân ................................ Tâm Nguyện . 33

Thế giới tâm linh

trong sáng tác của Nguyễn Du .. Đỗ Thiên Thư st. .. 38

Hoa Nhân Sinh .................................. Nguyễn Văn Sâm .. 52

Nghe gió mách (thơ) ......................................... Đàm Lan . 69

Tuyệt đỉnh… Xuân (thơ) ................................. Xuân Vân .. 7 0

Muốn vinh sang phải dãi dầu -

Nối nhịp cầu thơ (thơ) ... Hoàng Thị Vinh .. 71

Tiếp bước Đường thi -

Hương sắc Đường thi (thơ) .. Ngàn Phương .. 72

Lời tự tình của người bán hàng rong (thơ) .. Nguyên Lê .. 73

Gọi Xuân (thơ) ...... Phạm Thị Minh-Hưng .. 74

Màu hạnh phúc (thơ) ........ Huỳnh Thiên Kim Bội .. 75

Bài thơ Tết (thơ) ............. Lam Trần .. 75

Quẻ bói đầu năm - Nhớ một chiều Xuân (thơ) Thanh Châu 77

Chùa Lá (thơ) ............... Lê Nguyên .. 78

Mùa Xuân của riêng ta (thơ) ....... Tâm Nguyện . 79

Ghé bến thơ - Đón ngày bình yên -

Trong nắng trong gió (thơ) .. Thanh Phong .. 8 0

Quê ta - Lên đèo (thơ) ........ Lang Nguyên .. 81

Xuân an khang - Yêu Việt Nam (thơ) ........... Quang Bỉnh .. 8 2

Tình ca cho tôi 1 - Tình ca cho tôi 2 (thơ) ..... Hoài Ly .. 83

Cảm nhận Xuân (thơ) ........... Vũ Thùy Hương . 8 4

Cảm Xuân Canh Tý 2020 - Xuân cảm (thơ) . Thanh Vĩnh .. 8 5

Ngẫu hứng (thơ) ........... Trần Nhuận Minh .. 86

Brain-wave (thơ) ....... Vũ Anh Tuấn dịch .. 87

Đố vui ...................... NCT .. 89

Tác dụng của lời hứa, lời thề ..... Phạm Hi ếu Nghĩa . 90

Người lính cứu hỏa tí hon ....... Đào Minh Diệu Xuân st . .. 97

Một dấu phẩy ........... Bùi Đẹp st. 100

Chiếc đồng hồ cũ ...... Lam Trần 104

Những thứ chúng ta đánh mất… .... Hoàng Kim Thư st 110

Giải đáp ............ 113

Thu thập bằng chứng về linh hồn… ..... Lệ Ngọc st. 114

24 điều con gái khắc cốt ghi tâm ... Hoàng Chúc st. . 116

Café sữa với café đen ....... Quan Thúy Mai st. . 118

Để cuộc sống trở nên thú vị hơn ...... Kim Sơn st. 121

Chuyện dzui !!! đầu năm ......... Hà Mạnh Đoàn 122

Ăn được là tiên ......... Phùng Chí Tâm st. 1 30

Nợ nần ............. Đàm Lan 130

Tiếng đàn năm cũ ................. Nguyễn Thị Mây 141

|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
 156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
 161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
 171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
 176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
|  156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
|  161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
|  171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
|  176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
Netadong.com thiết kế