Hiện có 6 người xem / 2348089 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09/03/2019

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai quý thư bằng Pháp văn, của hai tác giả thời thuộc địa, còn tương đối mới vì một cuốn được xuất bản thời những năm 30 và một cuốn được xuất bản năm 1947. Cuốn được xuất bản thời những năm 30 mang tựa đề là “Hiền, chàng dở hơi” (Hiền, le maboul) của tác giả Émile Nolly tức là Đại Úy Détanger, một nhà văn quân nhân, sinh năm 1880 và là tử sĩ chết vì nước Pháp vào năm 1914. Cuốn sách khổ 11x16 phân, dày 284 trang được in thật đẹp kho ả ng những năm 1928-1930, kể về cuộc đời một thanh niên người Việt (lúc đó bị gọi là An Nam), đi lính pháo thủ và khổ sở vì cuộc sống trong quân ngũ, rồi lại còn khổ sở hơn khi đi yêu một cô gái chanh chua, độc ác và… bị nàng từ chối tình yêu anh ta dành cho nàng một cách đắm say mê muội, nên được gọi là ma bùn (maboul) một từ có nghĩa là gàn dở, là dở hơi… Một năm sau ngày tác giả qua đời, trong buổi họp ngày 29 tháng 7 năm 1915, tác phẩm Hiền, chàng ma bùn đã được Hàn Lâm Viện Pháp trao tặng Giải Thư ở ng Lớn về Văn Học (Grand Prix de littérature). Dịch giả Vũ Anh Tuấn rất thích cuốn sách vì được in ấn đẹp tuyệt vời, và nhất là vì tác giả và loại sách thuộc địa này hầu như hoàn toàn bị loại khỏi tất cả mọi tự điển Văn Học và Văn Chương hiện đại của Pháp, coi như Văn Học Thuộc Địa Pháp hoàn toàn bị đào thải vì dịch giả Vũ Anh Tuấn có trong tay 4 bộ tự điển văn học loại lớn mà không tìm thấy một dấu vết gì của loại tác giả Đông Dương này. Do đó với ông, những gì hiếm là quý! Cuốn thứ nhì cùng loại sách của tác giả Đông Dương, nhưng được xuất bản năm 1947 và mang tựa đề là “Cậu bé An nam mít” (Le petit Annamite) của một tác giả tên là André D’Elbauve, nhưng cũng vô tông tích như ông đại úy Détanger, tác giả của cuốn trước. Cuốn sách khổ 11x19 phân, dày có 129 trang kể chuyện một gia đình người Pháp gồm bố, mẹ, và một con trai và một con g á i, được một người bạn Pháp đang sống ở Bắc kỳ mời đi hai chuyến tầu thủy từ Marseilles sang chơi ở một ngôi làng mang tên là Xuân ô ở miền Bắc, và kể về quan hệ của 4 thành viên gia đình người Pháp này trong lúc đi chơi với một cậu bé An Nam con một người thông ngôn và cũng có biết chút tiếng Pháp, và cuối cùng thì gia đình người Pháp g ồ m 4 thành viên này trước khi kết thúc chuyến du hành đã giúp được cậu bé An Nam có được một học bổng đi học. Câu chuyện đơn giản nhưng những chi tiết khá hấp dẫn và dễ thương nhất là khi mô tả những mối quan hệ giữa gia đình người Pháp gồm bốn người này với cậu bé ngư ờ i An Nam. Cuốn sách này cũng như tác giả André D’Elbauve cũng không hề được nhắc tới và tìm thấy trong các Tự Đ iển Văn Học Pháp th ờ i nay, nên cái gì hơi hiêm và hiếm thì dịch giả Vũ Anh Tuấn thích và lưu giữ. Sau khi được giới thiệu xong, hai cuốn sách đã được một số thành viên cầm xem một cách thích thú.

Sau khi dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu hai quý thư xong, anh Phước Hải lên ngâm tặng các thành viên bài “Đường Tăng đi thỉnh kinh”. Tiếp lời anh Phước Hải, Bs . Tiến lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ. Sau Bs . Tiến, anh Phạm Vũ lên nói về chuyện “Uống rượu mừng Xuân”. Anh Phạm Vũ nói xong, anh Phùng Chí Tâm lên hát tặng các thành viên một bài hát của Indonesia tên là bài “Con ếch xanh”. Anh Ph ù ng Chí Tâm hát xong, anh Đặng Tiến Cần lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ. Anh Cần ngâm thơ xong, anh Thanh Phong lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ vui, và hát tặng các thành viên bài “Tưởng rằng đã quên” của Trịnh Công Sơn. Tiếp lời anh Thanh Phong, anh Chử lên ngâm tặng các thành viên bài “Rau muống biển”. Sau anh Chử, Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ mà một bài đã được đăng trong Bản Tin. Hoài Ly ngâm thơ xong, anh Thanh Vĩnh lên nói về ngày 8/3 và ngày 20/10 là những ngày Phụ Nữ Quốc Tế và ngày Phụ Nữ Việt Nam. Sau anh Thanh Vĩnh, thành viên Kim Mai lên hát tặng các thành viên một bài hát của Nga. Sau Kim Mai , anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên một bài hát của Trần Hoàn và một bài hát ru của Tây Nguyên. Anh Tấn Thuận hát xong, Thùy Hương lên hát tặng các thành viên bài “Vọng về quê cũ” và bài “Lặng thầm”. Sau Thùy Hương, anh Nhựt Thanh lên nói về luật thơ Việt Nam. Anh Nhựt Thanh nói xong, Kim Thư lên hát tặng các thành viên một bài hát về Trưng Nữ Vương. Tiếp lời Kim Thư, Quan Thúy Mai lên hát tặng các thành viên bài “Mùa Xuân đầu tiên” của Tuấn Khanh. Sau Quan Thúy Mai, Kim Sơn lên ngâm thơ về ngày Phụ Nữ Quốc Tế 8/3. Kim Sơn ngâm thơ xong, Tuyết lên hát lại bài Mùa Xuân đầu tiên, và cuối cùng, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc lên hát tặng các thành viên bài Lâu Đài tình ái và cuộc họp kết thúc thật vui lúc 11g15, và các thành viên vui vẻ ra về hẹn nhau gặp lại trong kỳ họp tới.

VŨ THƯ HỮU


VÀI DÒNG VỀ

MỘT CỔ THƯ DỄ THƯƠNG

ĐÃ ĐƯỢC 311 TUỔI ĐỜI

Tôi mới có được cuốn cổ thư dễ thương này mấy ngày trước, và luôn cảm ơn Trời Đất đã cho tôi cơ duyên được gặp nó. Cuốn sách khổ 10x12 dày 493 trang và 19 trang phụ không đánh số được in năm 1708, nghĩa là 81 năm trước Đại Cách Mạng Pháp và 227 năm trước ngày tôi chào đời. Cầm cuốn cổ thư trong tay, tôi tự hỏi không biết ngày nó ra đời, thằng tôi đang bay bổng… nơi đâu? Cuốn sách mang tựa đề là “Giáo trình hội họa giảng dạy bằng các nguyên lý” (Cours de peinture par principes) của tác giả DE PILES được in ở Ba Lê (Paris) bởi nhà xuất bản Jacques Estienne, ở một cái địa chỉ cũ sì và lạ hoắc mà tôi có gửi mails hỏi vài người bạn Pháp có tuổi như tôi xem họ có bao giờ nghe thấy cái địa chỉ này không, thì cả ba đều… hổng biết, và cái địa chỉ đó như sau: đường S. Jacques, ở góc đường Parcheminerie ở khu Vertu, Ba Lê.


Có được cuốn cổ quý thư tôi dành liền cho nó trên một giờ đồng hồ để cưỡi ngựa xem hoa, vì rất nóng lòng biết qua xem trên ba trăm năm trước Hội Họa được giảng dạy ở Pháp quốc như thế nào? Là người hơi bị yêu thích tranh, điều ước muốn của tôi rất ư là hợp lý, và sau đây là những gì tôi thấy được qua cuốn cổ và quý thư này.

Ngay sau trang bìa cuốn sách là một hình vẽ bằng bút sắt cực đẹp vẽ một thiên thần đứng sau một cặp đôi; người nam đứng mé trái và người nữ đứng bên mé phải hai bên một bệ đá nhỏ, cả hai đều khỏa thân, và thiên thần nhỏ, đứng phía sau cái bệ để hai tay lên hai vai cặp đôi, cũng khỏa thân. Trên mặt bệ đá là tựa đề của cuốn quý thư. Ngay đầu cuốn sách là danh mục sắp theo thứ tự các biên khảo về hội họa được viết trong cuốn sách như: Ý tưởng về Hội họa - Cái thật trong Hội họa - Bản sao một lá thư của quý ông De Guet bàn về biên khảo nhan đề là “Cái thật trong Hội họa” - Những phát minh trong Hội họa - Trường phái Hội họa thành Athènes - Bố cục - Hình vẽ - Nếp áo quần trên tượng - Phong cảnh - Chân dung - Sắc màu - Hòa hợp bóng sáng trên họa phẩm - Thứ tự học tập - Nghị luận trong đó người ta xét xem Thi ca có đáng quý hơn Hội họa không? - Mô tả hai tác phẩm điêu khắc của tác giả Zumbo, một quý tộc người thành Sicile - Cái dở cái hay của các họa sĩ.

Ôi thật là tuyệt vời, trên ba thế kỷ trước mà Hội họa đã được quan tâm một cách tuyệt vời như thế. Cầm cuốn sách ra đ ờ i trước mình tới 227 năm, người viết tự hứa sẽ dành cho cuốn quý thư nhiều thời gian hơn để tìm hiểu v ề một ngành mà mình yêu thích, để biết từ xa xưa nó ra sao. Một điều đáng nói nữa là ở cuối cuốn sách trong 19 trang phụ có phần Mục lục được trình bày theo thứ tự các mẫu tự thật tuyệt vời vì dễ tra cứu mục nào nằm trong mẫu tự nào . Và ngoài ra còn có danh sách trên 50 danh họa được coi là những danh họa vào thời điểm đó, và việc này khiến cho người viết phải nghĩ lại về điểm hắn ta luôn tự hào cho là mình là người đọc hơi bị nhiều, nhưng, đọc nhiều đâu chả biết “chứ trong trên hơn 50 danh họa vào thời điểm đó, hắn chỉ biết tới có ba người là: Leonard De Vinci, Rembrant, và Titien…

Mặc dù phải trả một giá hơi cao cao, nhưng người viết cực kỳ yêu thích cuốn vừa cổ vừa quý thư! Và do một giây cũng là quá khứ, hắn đưa quý thư này vào chung với những quý thư trong thiên Hồi ký 60 năm chơi sách của hắn…

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

NHỮNG SUY NGHĨ VẨN VƠ

TẬP 2

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

Lời đầu

Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.

“Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình” (Đại Tự Điển Tiếng Việt - Hà Nội 1999, trang 1762). Đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là sẽ được thưởng hay chịu phạt trước tòa án lương tâm và Đấng Tối Cao, tùy theo lựa chọn đúng hay sai của mình.

Người viết chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm còn quý độc giả đồng tình hay không hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.

Ghi ơn:

Thưa quý tác giả các nguồn tư liệu! Người xưa đã dạy: “Nói phải có sách, mách phải có chứng” - “Sách” và “chứng” là những gì trích từ các bài viết mà quý vị đã phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Người viết xin được trích dẫn chỉ nhằm chứng minh một sự kiện, một quan điểm nào đó để bạn đọc xác tín hơn chứ hoàn toàn không vì lợi nhuận.

Lẽ ra chúng tôi phải xin phép quý tác giả trước nhưng vì hoàn cảnh không thể liên lạc được, xin quý vị cảm thông, lượng thứ và nhận lời cảm ơn chân thành của chúng tôi.

Thánh Kinh được trích dẫn theo bản dịch của Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.

***

DARWIN VÀ THUYẾT TIẾN HÓA

Năm 2009 đã được UNESCO chọn làm năm Charles Darwin với 2 kỷ niệm: 200 năm sinh (12/02/1809 - 12/02/2009) và 150 năm phát hành cuốn On The Origin of Species (Về nguồn gốc các chủng loại - 24/11/1859), cuốn sách đã gây tranh cãi rất lớn và dai dẳng suốt 150 năm chưa ngã ngũ và trên thực tế đã có ảnh hưởng lớn về nhiều mặt trên toàn thế giới.

Một cuộc hội thảo khoa học về đề tài này do Tòa thánh Vatican bảo trợ đã được tổ chức từ ngày 03 đến 07/3/2009 tại Viện Đại học Giáo Hoàng Grêgôriô, quy tụ nhiều nhà khoa học, thần học và triết học.

Charles Darwin sinh ngày 12/02/1809 tại tỉnh nhỏ Shrewbury phía Tây nước Anh trong một căn nhà có tên là Mount (núi), là đứa con thứ 5 trong 6 anh chị em. Ông nội Eramus Darwin là một bác sĩ đồng thời cũng là một nhà tư tưởng tự do tiếng tăm, bố Darwin là Robert Waring - bác sĩ tâm lý, giàu có, đầy quyền lực. Darwin có lối sống khép kín, trầm tĩnh và hướng nội, niềm đam mê duy nhất của ông là thiên nhiên.

Ngày 22/01/1836, ở tuổi 22, với tư cách một nhà tự nhiên học, ông đi chu du 5 năm trên con tầu Beagle, chuyến đi này làm đảo lộn cuộc đời ông. Ông được dịp quan sát, thâu thập, khám phá nhiều điều kỳ diệu về địa chất (núi lửa vùng Nam Mỹ), các hóa thạch nhiều sinh vật đã tuyệt chủng - thực và động vật ở nhiều nơi…

Lúc lên tầu Beagle ông vẫn còn tin câu chuyện Sáng Thế trong Thánh Kinh, nhưng khi về đến Luân Đôn, cái nhìn của ông đã hoàn toàn đổi khác. Ông bắt đầu hình thành lý thuyết riêng: Thuyết Tiến Hóa. Ông nhận ra rằng những chủng loại kế cận quan sát được, đặc biệt ở đảo Galopagos (vùng Nam Mỹ) giống nhau vì cùng một họ, ông xây dựng một nguyên tắc để giải thích: các chủng loại hoàn toàn không bất biến như người ta thường nghĩ trước đây, mà biến đổi một cách ngẫu nhiên, liên tục, loài nào giỏi thích ứng sẽ tồn tại, loài nào kém thích nghi sẽ tuyệt chủng. Quy luật này gọi là quy luật Chọn lọc Tự nhiên… Darwin đã ghi chép rất tỉ mỉ, thu thập dữ liệu chứng cứ cho bộ sách đồ sộ gồm 4 cuốn:

The Voyage of the Beagle;

On the Origin of Species;

The Descent of Men

và The Evolution of Emotion in Man and Animal.

Trong 4 cuốn để lại, nổi bật nhất là cuốn On the Origin of Species, trong đó ông trình bày cặn kẽ Thuyết Tiến Hóa qua các dữ kiện quan sát được.

Trong cuốn Tự Truyện ông cho biết 4 loài chim Filink của cùng 1 họ chim sẻ ở Nam Mỹ nhưng trải qua những điều kiện sống khác nhau trên đảo Galopagos mà chúng phải thích nghi, chúng đã phát triển các hình dạng khác nhau - “Đây là nguồn gốc của tất cả các ý tưởng của tôi”. Các chủng loài kể cả loài người không được tạo ra một lần hoàn chỉnh bất biến như Kinh Thánh đã dạy, mà luôn tiến hóa do nhu cầu sinh tồn đặt ra.

Tóm lại, hai vấn đề lớn mà Darwin đã đặt ra trong cuốn On the Origin of Species là sự chọn lọc tự nhiên và địa vị con người bằng vai phải lứa với bất cứ loài động vật nào. Vị trí thượng đẳng của con người phải gạt bỏ đi (phần lược tóm bài của Vũ Lưu Xuân trong nguyệt san Công giáo & Dân tộc số 171, trang 85-88).

Thế nhưng người đi tiên phong, nghiên cứu thảm thực vật và xây dựng Thuyết Tiến Hóa là ông Jean Baptiste de Monet Lamarck, nhà tự nhiên học Pháp (1744-1829). Sau nhiều năm nghiên cứu ông đã xuất bản những sách sau:

- Hệ động vật không xương sống (1801).

- Nghiên cứu tổ chức các loài (1802).

- Triết học động vật học (1809).

- Lịch sử tự nhiên động vật không xương sống (1815-1822).

Ông xây dựng “ Học thuyết thực chứng đầu tiên về quá trình tiến hóa sinh học ” từ lớp trùng cỏ, sinh vật nguyên thủy xuất hiện, theo ông, qua các thế hệ trực tiếp hoặc tự sinh dần dần hình thành các cơ thể ngày càng phức tạp hơn. Hai nguyên nhân chính của quá trình biến hóa này là khuynh hướng tự phát của sinh vật tới sự hoàn thiện và mặt khác là ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài. Sự thích nghi với môi trường, với lối sống, kéo theo sự thay đổi về nhu cầu tạo nên ở con vật những thói quen mới và đến lượt mình những thói quen này lại tạo nên những sự thay đổi trong cơ thể, Lamarck tán thành tính di truyền các tính cách đã có được mặc dù chứng minh không được (Từ điển Tên Riêng Thế Giới, tr.1127).

Trong cuốn “Triết học động vật học” (La Philosophie Zoologique - 1809), Lamarck đã hệ thống hóa các định luật của Thuyết Tiến Hóa như sau:

1. Sự hình thành loài vật: Các dạng sống trên mặt đất bắt nguồn từ vật chất thô sơ bằng con đường tự sinh.

2. Động lực phát sinh tiến hóa:

a. Động lực hiếu sinh (le dynamisme de la vie) khuynh hướng mãnh liệt, sâu xa phát triển các bộ phận.

b. Áp lực của hoàn cảnh ngoại lai:

Đặc tính chủng loại chỉ tương đối, có thể thay đổi để thích nghi với môi trường.

3. Các định luật tiến hóa:

a. Luật thích nghi: Bộ phận nào làm việc nhiều thì tiến hóa, bộ phận nào ít làm việc thì thoái hóa.

b. Luật di truyền các biến dị:

Những biến dị chung cả cha lẫn mẹ thì có sự di truyền.

4. Nguồn gốc loài người: Loài người phát xuất từ nguồn gốc sinh vật.

Thuyết Tiến Hóa của Lamarck có ảnh hưởng rất lớn trên nhà tự nhiên học người Anh sau này là ông Charles Darwin (1809-1882).

Darwin đã tổng hợp và hoàn chỉnh Thuyết Tiến Hóa của mình như sau qua tác phẩm “nổi đình đám” của ông là cuốn On the Origin of Species:

1. Lý thuyết về chủng loại: Các sinh vật cùng loại có chung một tổ tiên ban đầu.

2. Có sự biến dị nơi các sinh vật:

a. Biến dị xác định: Biến đổi đồng thời cho mọi cá thể cùng một nòi. Ví dụ cây vải ở miền Bắc sai quả, trái lại ở miền Nam không ra quả (do khí hậu và thổ nhưỡng không hợp).

b. Biến dị không xác định: Biến đổi không ngừng nơi mỗi sinh vật nhưng không có tính cách đồng loạt.

c. Các biến dị được chia ra: Biến dị di truyền và biến dị không di truyền. Nguyên nhân gây ra sự biến dị là sự thay đổi điều kiện sống và sự lai giống.

3. Sự cạnh tranh sinh tồn:

a. Cạnh tranh với các chủng loại khác.

b. Cạnh tranh trong cùng chủng loại.

c. Cạnh tranh với thế giới vô cơ bất lợi.

Muôn loài muôn vật ngày nay kể cả loài người đều do quá trình tiến hóa và biến hóa hàng triệu triệu năm mà hình thành chứ không do một cuộc Sáng Thế nào cả. Đó là kết luận chung.

Sau khi lược tóm Thuyết Tiến Hóa của hai ông tổ Lamarck và Darwin, tới phần suy nghĩ vẩn vơ của người viết. Nói là vẩn vơ vì người viết không phải là nhà khoa học, không phải là nhà chuyên môn, mà chỉ là một con người có trí khôn như những người khác và phần chắc kém cỏi hơn những người khác, cho nên những gì gây thắc mắc ở đây chỉ là những suy tư chủ quan mời gọi người đọc cùng suy nghĩ và tự tìm ra giải đáp cho chính mình, cái gì “có lý”, “hợp lý” thì chấp nhận, cái gì “vô lý”, “không hợp lý”, “phi lý” thì loại bỏ tùy theo tự do của mỗi người.

(còn tiếp)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)


QUY TRÌNH TU HÀNH

THEO CHÁNH PHÁP

CỦA ĐẠO PHẬT

Nhiều người đã trách rằng con người là vốn quý của xã hội, để xây dựng xã hội, nhưng tại sao Đạo Phật lại quá phí phạm tài nguyên sức người, khi bắt những người muốn tu hành thì đang độ tuổi có thể cống hiến cho cuộc đời phải bỏ tất cả để vô Chùa. Xuất Gia rồi thì từ lúc đó cho đến hết đời họ chỉ sống để làm việc Đạo, không tham gia đóng góp gì với cuộc đời, trong khi đó người đời lại phải cung phụng cho họ? Lời trách đó đúng hay sai? Có phải Đạo Phật buộc người muốn tu phải bỏ hết tất cả để chuyên tâm phục vụ cho Đạo, không cần biết đến mọi thăng trầm của thế sự, không thiết tha gì đến sự hưng vong của đất nước? Với tư cách là người đã nghiên cứu Đạo Phật qua rất nhiều Bộ Chính Kinh, tôi xin khẳng định là kiểu bắt buộc người tu phải Xuất Gia, phải rời bỏ cuộc đời là do những người đã hiểu sai về Đạo Phật phổ biến, không phải là của Chánh Pháp đúng Ý NGHĨA thật sự của Đạo Phật chân chính.

Thật vậy, gần ba ngàn năm qua, Đạo Phật đã bị nhiều lớp người hiểu chưa đúng lại đi truyền bá. Dưới lớp áo Tu Sĩ của nhà Phật, họ cống hiến cả một đời để phụng sự Phật, mải miết phổ biến Đạo Phật, điều đó rất đáng quý, chỉ tiếc một điều là họ chưa hiểu hết Đạo Phật nên đã làm trái ngược hoàn toàn với những gì cần hiểu, cần hành trong Đạo. Đạo Phật dặn VĂN, TƯ rồi mới TU, thì họ vừa nghe thấy, hay đọc thấy, chẳng cần Tư Duy để tìm hiểu ý nghĩa đúng, chưa phân biệt đâu là Phương Tiện, đâu mới là Cứu Cánh của Đạo, vừa nghe giảng hay đọc Kinh thấy mô tả về Phật đã vội vã đưa ra thực hiện, nên đã biến Đạo Phật từ:

- CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT trở thành là một Tôn Giáo để thờ Phật!

- Phật, thay vì là người đi trước, đã thành công trong công cuộc Giải Thoát cho bản thân, truyền lại những gì Ngài đã hiểu, đã Hành, để người sau nương theo đó mà Hành để được Thoát Khổ, thì lại trở thành là một vị Thần Linh đầy quyền năng để Cứu Độ cho mọi người!

- Phật Tử lẽ ra là những vị “Phật sẽ thành” thì trở thành là những người cầu xin để được Phật hộ trì, cứu khổ, ban vui khi sống. Khi chết thì rước về Tây Phương Cực Lạc của Phật.

- Chùa Chiền thay vì được xây dựng trong Tâm của mỗi người, bằng cách tẩy rửa đi những cái nhơ, những cái đen tối, những mưu toan ác độc, hại người… cho Đất Tâm trở thành thanh tịnh, thì mọi người lại dùng những chất liệu của trần gian, xây cất một cách hoành tráng, trang hoàng bằng những vật liệu đắt tiền để Thờ Phật!

- Tượng Phật lẽ ra được Chạm, Khắc bằng những Hạnh của Phật - tức là những việc làm, nơi Tâm của mỗi người. Mỗi Hạnh là một Tướng - thì mọi người đã dùng vàng, bạc, đá quý, gỗ, theo mẫu những Tướng Tốt mà Kinh viết, rồi đúc, tạc thành Tượng để hương khói thờ phụng!

- Phật dạy “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” thì Chùa ngày một hoành tráng, Tượng ngày càng to hơn!

- Ngũ Hương trong Đạo Phật tức là Hương Giới, Hương Định, Hương Huệ, Hương Giải Thoát, Hương Giải Thoát Tri Kiến, tức là nói về kết quả của những công việc đó được ví như là Hương để dâng cúng cho Phật Tâm hay là cho Con Đường Giải Thoát, thì mọi người đã dùng bột gỗ, tẩm hương thơm rồi đốt lên trước Tượng Phật bằng gỗ hay xi măng... cho đó là Thắp Hương cúng Phật!

- Ăn, là nạp năng lượng để duy trì cuộc sống cho cái Thân. Đạo Phật không muốn Phật Tử ăn mặn là để hạn chế Sát Sinh, vì cho rằng tất cả các loài có sự sống cũng có tình yêu thương, cũng biết quý mạng sống, cũng không muốn ai chia rẽ chúng. Tuy nhiên, không thể lấy việc Ăn Chay như là một công năng tu hành.

Về Ăn Chay, Tổ Đạt Ma dạy: “Nói Trì Trai” ấy, cần hiểu rõ, nếu không thông đạt, ắt uổng công tu.

Nói “Trai”, tức là “Chay”, tức là nói “Tề”, là sắp xếp vậy. Sắp xếp Thân, Tâm cho thẳng (tề chánh), đừng cong rối.

Nói “Trì” tức là giữ, nói “hộ” tức là giúp vậy. Ở nơi Giới Hạnh, cứ theo pháp mà hộ trì, nhất định ngoài cấm Sáu Tình, trong ngăn Ba Độc, siêng năng tỉnh xét, Thân, Tâm thanh tịnh. Có hiểu như vậy mới là chay lạt.

Thức ăn cũng có Năm Thứ: Một là PHÁP HỈ THỰC. Hai là THIỀN DUYỆT THỰC. Ba là NIỆM THỰC. Bốn là NGUYỆN THỰC. Năm là GIẢI THOÁT THỰC.

Người nào không ăn năm món ăn thanh tịnh như trên mà cứ rêu rao là Trai Giới, thì không đâu có được. Đó chỉ là Phá Chay. Mà đã Phá Chay thì sao rằng được phước.

Kẻ mê trong đời không ngộ được lẽ ấy, thả lỏng Thân Tâm, làm đủ việc dữ, ham muốn Bốn Tình chẳng chút thẹn thùng. Chỉ dứt có món ăn ngoài mà tự coi là Chay Lạt, thật không đâu có được.

- Chùa nào cũng hướng dẫn cho Phật Tử, sống thì Cầu An, khi có người thân qua đời thì Cầu Siêu, mà quên rằng Đạo Phật còn được gọi là Đạo Nhân Quả. Đã tin Nhân Quả thì cũng phải biết rằng không ai có thể thay đổi Nhân Quả của người khác. Hơn nữa, Phật không phải là Thần Linh để chuyển xoay số mạng, thay xấu đổi tốt cho mọi người. Người tin Phật làm được việc đó thì không phải là người tin Đạo Phật theo Chánh Pháp.

- Tu Sĩ, lẽ ra là những người tự tu sửa Thân, Tâm, không cần phân biệt nơi chốn, giới tính, giai cấp, thì trở thành những người mang hình tướng sắc áo, giữ y nếp sống, hình thức của Đệ Tử Phật ngày xưa, tập trung và sống biệt lập trong những ngôi Chùa. Họ không được có gia đình. Không dính dáng đến mọi việc làm ăn của đời, toàn bộ mọi sinh hoạt là do Phật Tử cung dưỡng, và cho rằng như thế mới thanh tịnh, mới có thể tu hành thành công!

Bao nhiêu thời qua, cuộc sống của các Tu Sĩ chỉ dành để phụng sự cho Phật và hướng dẫn cho bá tánh Quy Y theo Phật. Họ tách rời khỏi mọi sinh hoạt của cộng đồng, trở thành một lực lượng chuyên để dành phục vụ và quảng bá cho Đạo Phật bằng việc Tụng Kinh, Niệm Phật, học pháp, giảng pháp, thực hiện những nghi lễ Cầu An, Cầu Siêu cho bá tánh. Nhiều người còn cho rằng những nước mà Đạo Phật là Quốc Giáo có đông Tu Sĩ, nhiều Chùa Chiền, thì coi như đại phúc, vì các Tu Sĩ với đời sống thanh tịnh của họ thì lời cầu xin sẽ được Chư Phật hộ trì cho quốc thái, dân an, cho đất nước được hòa bình, thịnh vượng! Những lối hiểu biết đó ăn sâu vào lòng tín đồ từ bao đời. Trong khi đó, Đạo Phật hiểu theo những gì được Đức Thích Ca truyền từ buổi đầu thì lại khác rất xa…

Thật vậy. Đạo Phật chỉ là CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN GIẢI THOÁT, tôn chỉ của Đạo Phật là Tự Độ, không phải là một Tôn Giáo để thờ Giáo Chủ là Đức Thích Ca. Đạo Phật bình đẳng “Độ” cho tất cả, không phân biệt trong Chùa, hay ngoài Chùa, giới tính, sang hèn, giỏi dở, nghèo giàu, trẻ già, có gia đình hay độc thân, mà tất cả những ai thực hành nghiêm túc những điều mà Đức Thích Ca và chư Tổ hướng dẫn thì bản thân cũng sẽ được GIẢI THOÁT hay Thành Phật, như lời Thọ Ký: “Tất cả Chúng Sinh là Phật sẽ thành”. Thành Phật không phải là thành một vị Thần Linh đầy quyền năng có thể cứu độ cho mọi người, mà chỉ là thành tựu công việc Giải Thoát khỏi những nỗi Khổ cho bản thân người thành tựu mà thôi.

Nhưng cũng do đa số Phật Tử bao đời bị nhồi nhét về quyền năng của Phật, về sự Cứu Độ của Phật, nên sinh lòng kính trọng, tôn thờ, ít có ai bỏ thì giờ để kiểm chứng, hoặc nhìn ngược lại quy trình tu hành, Thành Phật của Đức Thích Ca xem Ngài đã tu như thế nào? Để thấy rằng “Thành Phật” có phải là thành Thần Linh để cứu độ cho mọi người hay không? Đức Phật có quyền năng đó hay không? Sự cứu độ sẽ diễn ra như thế nào? Vì vậy, theo tôi, tốt nhất là chúng ta nên tìm hiểu cho rõ về con đường tu hành của Đức Thích Ca, xem Ngài đã Tu những gì? Đã Đắc những gì? Đắc Đạo để làm gì? Sự việc diễn ra như thế nào? Xin nêu ra một số điểm chính yếu sau:

1. Con đường và mục đích tu hành của Pht Thích Ca. Có phải Ngài đi tu để trở thành Thần Linh, phù h, độ trì cho mi người hay không?

Nhìn lại con đường tu hành của Đức Thích Ca sẽ thấy Lịch Sử Đạo đều ghi rõ:

Xuất phát từ việc chứng kiến những nỗi đau khổ SINH, LÃO, BỆNH, TỬ đè nặng trên thân xác con người và biết rằng dù là bậc đế vương như bản thân Ngài cũng không thoát khỏi, nên Thái Tử Sĩ Đạt Ta bức xúc, muốn tìm cho ra cách thức để Thoát những nỗi Khổ đó. Biết rằng nếu tiếp tục ở lại đền vua, bận bịu việc triều chính, cộng thêm vợ con vướng víu khó thể tìm được điều mình trăn trở. Ngài đã rời bỏ hoàng cung, gia nhập vào đoàn tu sĩ để dấn thân đi tìm. Mất Sáu Năm học với Lục Sư ngoại đạo mà chưa có câu trả lời thỏa đáng. Cuối cùng ngài đã nhờ vào 49 ngày đêm Thiền Định dưới cội cây Bồ Đề mà tìm ra được thủ phạm đã gây ra cảnh Sinh Tử, đau khổ cho con người, cũng như cách thức để Giải Thoát. Kết quả này gọi là Đắc Đạo. Sau đó Đức Phật đã dùng hết cuộc đời còn lại của Ngài để truyền bá con đường Ngài đã tu hành, đã Chứng Đắc. Con đường này gọi là Đạo Phật.

Theo Đạo Phật, thủ phạm của mọi khổ đau, sinh tử mà con người phải chịu đựng hết kiếp này sang kiếp khác chính là cái VỌNG TÂM của mỗi người. Chính nó điều khiển cho cái Thân hành động để tạo ra Nghiệp, do đó con người đã phải luân lưu triền miên hết kiếp nọ sang kiếp kia để Trả những gì mình đã gây tạo, gọi là Luân Hồi. Chính vì vậy mà người tu theo Đạo Phật phải tìm cho ra cái Vọng Tâm để cải tạo hay chuyển hóa nó. Thấy được cái Vọng Tâm thì cũng đồng thời thấy được cái Chân Tâm hay “cái Bổn Thể Tâm”, hoặc gọi là “THẤY TÁNH”. Người tìm được cái Vọng Tâm của chính họ, chuyển hóa nó thì nó sẽ không còn dẫn dắt, làm tiếp tục tạo Nghiệp, trái lại hướng đến con đường tu hành, giải Khổ. Khi hết Khổ thì gọi là được Giải Thoát hay Thành Phật. Đó là kết quả cao nhất của Đạo Phật. Ngoài ra, người Đắc Đạo hay Thành Phật không có khả năng nào khác hoặc cứu độ cho bất cứ ai.

Qua đó ta thấy: kể cả Đức Thích Ca và Chư Tổ, cũng như người tu hành muôn thuở, không có môn học nào làm cho người “Đắc Đạo” trở thành Thần Linh như những người đã hiểu lầm văn tự phổ biến!

(còn tiếp)

TÂM NGUYỆN

Tháng 11-2018


ĐÔI BA KỶ NIỆM NHỎ…

Có người bảo tôi là người nhiều may mắn, thậm chí trên một số báo “Tiền Phong” năm ngoái xuất hiện cả một bài viết với cái tên “Dịch giả… thiệt thòi và quá nhiều may mắn”. Thì xưa nay ở đời làm gì có ai chỉ có được và không có mất. Nhưng ngẫm nghĩ thì quả thực tôi may mắn nhiều hơn, chứ có gì gọi là thiệt thòi đáng kể. Điều may mắn cơ bản phải nói ngay là tôi được làm cái việc mình yêu thích: cả đời gắn bó với chữ nghĩa, sách vở. Sau khi ra trường tôi được đi dạy học mấy năm, sau đó mới về làm anh biên tập sách ở Nhà xuất bản Văn Học từ giữa năm 1964 cho đến tuổi về hưu 60. Chính ở nơi đây tôi có cơ hội được tiếp xúc rộng rãi, được gặp gỡ nhiều người tài giỏi, có tâm, có đức. Một trong số ấy phải kể đầu tiên là Nhà văn hóa Hữu Ngọc, thuộc thế hệ cha chú của mình.

Năm 1964 tôi về công tác ở Nhà xuất bản Văn Học, thì trước đó năm 1963, bác Hữu Ngọc đã in sách ở đây: Truyện cổ Grimm hai tập, Hữu Ngọc tuyển dịch trực tiếp từ nguyên bản tiếng Đức. Ngay năm 1965 sách được tái bản lần thứ nhất, rồi liên tiếp in đi, in lại trên dưới 10 lần, thêm nhiều lần khác ở NXB Kim Đồng và nhiều NXB khác nhau khắp Bắc, Trung, Nam và các địa phương.

Là một biên tập viên mới vào nghề tôi có mặt trong quá trình tái bản Tuyển tập Grimm và sau này còn có cuốn Truyện cổ tích Pháp Thơ Đường bốn ngữ cũng do bác Hữu Ngọc biên dịch, giới thiệu. Trực tiếp biên tập bản thảo các công trình của bác Hữu Ngọc là những biên tập đàn anh cùng thế hệ tuổi với bác, như bác Hướng Minh, Trịnh Như Lương, Nguyễn Văn Sỹ, Ngô Vĩnh Viễn… Những buổi bác Hữu Ngọc đến NXB Văn Học trao đổi công việc là những cuộc chuyện trò cởi mở, tôi như một cậu học trò ngồi ngẩn tò te, há hốc mồm nghe, thu nhận được biết bao nhiêu kiến thức, cả chuyên môn, lẫn cách cư xử ở đời, hiểu ra nhiều câu chữ trong văn bản, biết thêm nhiều chuyện đông tây kim cổ…

Hình ảnh bác Hữu Ngọc sớm in sâu vào tâm trí tôi: người dong dỏng, xương xương, nhưng rắn chắc, mắt mang cặp kính trắng, đầu đội chiếc mũ vải kaki, nghe nói thời ấy ít vải, có loại mũ may lại từ vải quần áo cũ thải ra, vai đeo túi vải đựng tài liệu, hàng ngày cần mẫn cuốc bộ từ con ngõ nhỏ đầu kia phố Khâm Thiên, nơi ngã tư qua phố Tôn Đức Thắng (Hàng Bột cũ) giáp với đường Láng, lên tận số nhà 46 phố Trần Hưng Đạo - Trụ sở của NXB Ngoại Văn (“Thế Giới” sau này), đi ngang mặt bên NXB chúng tôi, số 49, bên đối diện, cùng đường phố Trần Hưng Đạo. Chặng đường khá xa, phải 5-7 cây số chứ không ít. Như vậy mỗi ngày bác đi bộ không dưới mười mấy cây số.

Có lần đạp xe đi làm, đến phố Nguyễn Thượng Hiền gần ra đường bờ hồ Thiều Quang thì gặp bác Ngọc, tôi dừng xe mời bác lên ngồi xe đèo, bác cười lắc đâu: “Anh cứ đi đi, sắp tới nơi rồi”. Người có chức vụ phụ trách cả một cơ quan lớn, lại đã có tuổi, như người khác cơ quan thường cho xe đưa đón. Bác Hữu Ngọc bảo đi bộ cũng là rèn luyện sức khỏe luôn thể. Tôi chưa từng thấy bác Hữu Ngọc lên xuống xe riêng đưa đón bao giờ.

Trước đó và cả sau khi bác Hữu Ngọc nghỉ quản lý cơ quan, về hưu, nhưng bác vẫn làm việc bình thường, bác làm cố vấn cho các ban lãnh đạo nối tiếp nhau của NXB Thế Giới và vẫn tích cực tham gia công việc “xuất”, “nhập” văn hóa, văn học. Bác vẫn viết và làm sách, ra sách và thuyết trình giới thiệu văn hóa, văn học Việt Nam cho bạn bè nước ngoài. Những buổi thuyết trình ở trong nước và trước đây còn nhiều cuộc ở nước ngoài. Theo một người cộng sự gần gũi của bác Hữu Ngọc, thì cho đến nay bác đã nói chuyện, thuyết trình cho hàng vạn người nghe. Không những bác làm công việc tuyên truyền quảng bá văn hóa Việt Nam cho đông đảo người nghe như vậy, mà có khi với một vị khách bác cũng dành cả buổi chuyện trò, giảng giải. Tôi đã cùng anh Tư Huy, hậu duệ của danh nhân Nguyễn Siêu, được tháp tùng bác Hữu Ngọc đưa một vị khách - nhà nghiên cứu văn hóa người Oxtraylia, về tận làng Lủ thăm nhà thờ, thăm mộ danh nhân Nguyễn Siêu “Thánh thơ”! Trên đường đi ông chuyện trò, giới thiệu cắt nghĩa mọi thứ lạ đối với khách. Hôm ấy mất trọn cả một buổi sáng của bác Hữu Ngọc.

Cũng nhờ có bác Hữu Ngọc và các bạn bác công tác ở NXB Văn Học, tôi còn được quen biết không ít người đáng kính trong giới trí thức Việt thế hệ trưởng thành trước Cách mạng Tháng Tám, được “chầu rìa” nhiều buổi họp mặt, giao đãi khi thì tại nhà nhà văn Hướng Minh, khi thì tại nhà nhà thơ Trần Lê Văn, nhiều lần ở cửa hàng ăn của con trai họa sĩ Phan Kế An... Ở đó tôi được biết thêm những nhà thơ như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Quang Dũng, Ngô Quân Miện, cho đến các trí thức có tên tuổi, như bác sĩ giáo sư Đỗ Doãn Đại. Tôi được hiểu thêm một thế hệ trí thức Việt Nam tài hoa, giàu lòng yêu nước, những người có tâm, có tài thực sự, chân thành, giàu lòng bác ái, lại giản dị, khiêm nhường và giàu chất hài hước.

Năm 2010, năm Canh Dần, tôi được bác Hữu Ngọc gửi cho một tấm thiếp đặc biệt: tấm ảnh bác đứng trước Khuê Văn Các, Quốc Tử Giám với lời chúc thật chân thành:

Tết con Hổ xin chúc anh Thúy Toàn sinh năm Hổ, cả năm khỏe như hổ. Mừng xuân. Joyenx printemps Happy Spring. 1000 năm Thăng Long, Hà Nội.

Trước tác của Nhà văn hóa Hữu Ngọc thật đồ sộ, ra thành biết bao bộ sách, kể từ những năm 50 thế kỷ trước cho đến nay, cuối thập kỷ thứ 3 của thế kỷ XXI. Phần lớn trước tác của bác in bằng Pháp văn, Anh văn. Tôi vốn học hành nửa vời, ngoại trừ tiếng Nga, được đào tạo tương đối bài bản, còn các ngoại ngữ đều dở dang, ú ớ… Tuy nhiên tôi vẫn mua nhiều sách có tên Nhà văn hóa Hữu Ngọc, tích cóp cho người có thể cần đến và con cháu trong nhà sau này khá hơn bố mẹ chúng sử dụng. Riêng hai cuốn sách bác Hữu Ngọc cho: cuốn Từ điển tác gia Văn học và sân khấu thế giới (có thêm triết gia quan trọng), NXB Văn Hóa, 1983 và Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Thế Giới, 1995, một cuốn có chữ tác giả: Thân tặng Thúy Toàn cuốn… Hà Nội mùa thu 83, bằng tiếng Việt, nên tôi đã tận dụng và sách đã giúp tôi nhiều trong công việc biên tập sách trong kế hoạch xuất bản hàng năm vừa qua. Đây là những kỷ vật quý giá kỷ niệm cuộc đời làm sách của tôi. Những báu vật, có tiền không dễ nay mua được!

Thuộc hàng con cháu của thế hệ trí thức tuổi Nhà văn hóa Hữu Ngọc, tuy vậy giờ đây tôi cũng đã bước qua tuổi “bát tuần”. Lứa bạn bè của tôi, nhiều người đã có thể tổng kết cuộc đời bằng những tập hồi ký lý thú. Nhiều bạn đã thành đạt trên con đường khoa học, có bằng cấp, học hàm, học vị cao phó giáo sư, giáo sư, phó tiến sĩ, tiến sĩ, thậm chí cả danh hiệu viện sĩ, có bạn là nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, nhà văn giải thưởng Nhà nước, thậm chí giải thưởng Hồ Chí Minh. Phần mình vẫn chỉ là anh có mảnh bằng đại học, một anh làm sách, dịch sách, cũng may mắn có được ít nhiều thành công được công chúng đánh giá. Mọi cái được của mình, ngẫm cho kỹ không thể có được nếu không được học hỏi qua hành động, qua sách vở, kinh nghiệm của những người đi trước, trong đó trước hết phải kể tên Nhà văn hóa Hữu Ngọc, cùng với sự giúp đỡ ủng hộ của bạn bè cùng trang lứa.

Phải nói ảnh hưởng qua nhiều công trình khoa học, biên soạn, một số tác phẩm cụ thể trong lĩnh vực dịch thuật, cũng như trong thái độ hành xử của Nhà văn hóa Hữu Ngọc trong cuộc sống đời thường cũng như trong lãnh vực “xuất, nhập văn hóa”, lãnh vực mà tôi cùng theo đuổi… không những thế có những hoạt động cụ thể của tôi, tôi còn được bác Hữu Ngọc ủng hộ, giúp đỡ bằng những việc làm tích cực, to lớn và vô tư. Là người có thời gian phụ trách mảng dịch thuật của Hội nhà văn Việt Nam, hay bầy ra những sinh hoạt liên quan đến công việc nghề nghiệp dịch sách. Có lần còn mạnh dạn đề xuất với Hội một số hoạt động quy mô không nhỏ: “Hội nghị những dịch giả miền Bắc”, rồi “Hội nghị những người dịch toàn quốc” ở Phú Yên, cuối cùng cả “Cuộc gặp gỡ quốc tế những người dịch văn học Việt Nam” lần thứ nhất vào năm 2002, được sự chấp thuận của Ban chấp hành của Hội và đích thân nhà thơ, Chủ tịch hội Hữu Thỉnh ủng hộ, xắn tay vào lo cho đủ mọi khâu, từ nội dung cho đến kinh phí chính xin Nhà nước… Trong quá trình tiến hành “Cuộc gặp gỡ”, Nhà văn hóa Hữu Ngọc đã sẵn hàng ủng hộ và tự nguyện tham gia vào nhiều khâu quan trọng. Bác đã tích cực là cầu nối để mời được nhiều đại biểu từ Pháp, Mỹ, Thụy Điển đến Việt Nam tham gia. Bác tự nguyện thực hiện nhiều buổi nói chuyện, thuyết trình quảng bá văn học văn hóa nước nhà cho bạn bè quốc tế. Lần ấy bạn bè quốc tế còn ít, chỉ có 29 người. Thậm chí “Cuộc gặp gỡ” đã tổ chức được cả một chuyến đi du lịch trên sông Hồng cho khách trong, ngoài nước cùng tham gia. Sau khi “Cuộc gặp gỡ” kết thúc thành công, bác Hữu Ngọc còn tự tay thảo thư cảm ơn bằng tiếng nước ngoài giao cho tôi, người thay mặt ban tổ chức, ký gửi đến cám ơn nhà tài trợ. Phải nói “Cuộc gặp gỡ những người dịch văn học Việt Nam ra tiếng nước ngoài” lần thứ nhất đã mở đầu cho các “Hội nghị quảng bá Văn học” sau này, mà vừa qua Hội nhà văn Việt Nam đã tổ chức rất thành công Hội nghị lần thứ 4 tại Hà Nội, Quảng Ninh và Bắc Giang.

Tôi vô cùng biết ơn Nhà văn hóa Hữu Ngọc, thầm coi bác là bậc cha chú, là người đồng hương Kinh Bắc đáng kính và người anh lớn đồng nghiệp uyên thâm, trên nữa là một người thầy dẫn dắt tôi: bằng các hình thức khác nhau, qua tác phẩm của mình cũng như trực tiếp bằng những hành động, những bài học cụ thể khác nhau.

Đã lâu không được gặp lại bác Hữu Ngọc. Nhờ có người nhắc cho nhớ là Nhà văn hóa Hữu Ngọc đã bước qua ngưỡng “bách tuế” (bác sinh ngày 22 tháng 12 năm 1918), bác vẫn minh mẫn, mạnh giỏi, vừa ra hàng loạt sách quý có giá trị. Tôi thực sự giật mình, ân hận bỏ lỡ dịp được bày tỏ lòng kính trọng, yêu mến và biết ơn bậc thầy đồng hương Kinh Bắc - Nhà văn hóa Hữu Ngọc. Tuy nhiên, người Nga có câu: “Chậm còn hơn không”. Đứa học trò vô tâm xin có mấy kỷ niệm viết ra thay lời mừng thầy dịp hưởng phúc thượng thượng thọ.

Thúy Toàn


Phụ Bản I

GIỖ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG

Các vua Hùng dựng nước Văn Lang


Vua Hùng dựng nước Văn Lang vào lúc nào?

Niên đại thường được mọi người nói đến là năm Nhâm Tuất 2879 TrKN và kết thúc vào năm Thục Phán diệt nước Văn Lang lập nên nước Âu Lạc năm Quý Mão 258 TrKN.

Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim ghi: “Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (bây giờ ở vào huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là Bố Chính. Quyền cai trị thì cứ cha truyền con nối gọi là phụ đạo”.

Xem như vậy, những điều viết trong sách sử về thời đại Hùng Vương cho đến nay cũng chỉ là phỏng đoán.

Nguồn gốc dân tộc theo Khoa học hiện đại

Có năm vấn đề cực kỳ trọng đại, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành lập nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng nói riêng và vai trò của vùng Đông Nam Á, cái nôi của nhân loại toàn cầu, nói chung là:

1- Vấn đề biển tiến (Địa chất học - Geology).

2- Thuần hóa lúa nước (Domestication of rice).

3- Phân bố tiếng nói (Ngữ học - Linguistics).

4- Khoa di truyền học (Genetics DNA)…

Các nhà sử học Việt Nam gần đây đã khai thác được kết quả của khảo cổ học trong việc viết lại lịch sử với những thành quả hết sức ngoạn mục. Tuy nhiên, bốn vấn đề còn lại chưa được khai thác hay đúng ra chưa khai thác đúng mức.

Nay ta hãy thử đối chiếu, một cách tóm lược, các thành quả khoa học này với kiến thức trong truyền thuyết, trong các văn bản sử học kể trên. Ta có thể giải mã một phần những bí ẩn trong truyền thuyết, điều chỉnh lại những điều tưởng là vô lý trong các tài liệu lịch sử. Như vậy ta có nhiều hy vọng tiếp cận sự thực lịch sử hơn và có thể vẽ lại, vào lúc nào và ở nơi đâu tổ tiên ta đã đặt được nền móng cho một dân tộc quật cường, một giang sơn cẩm tú để lại cho chúng ta như ngày nay?

1. Vấn đề biển tiến

Đây là vấn đề quan trọng bậc nhất trong việc tìm hiểu văn hóa Đông Nam Á nói chung, và tìm hiểu thời đại Vua Hùng nói riêng.

Ta đã biết rằng đợt biển tiến cuối cùng, sau thời kỳ băng hà Wurm tan, khởi đầu vào khoảng 18.000 năm trước ngày nay. Lúc đó nước biển thấp hơn bây giờ là 130m. Chúng ta cũng biết mỗi năm nước biển tiến trung bình 10mm. Đến khoảng gần 8000 năm trước, mức nước biển tương đương với nước biển ngày nay. Nước biển còn tiến thêm 2000 năm nữa mới ngưng và chỉ bắt đầu lui từ 5500 năm cách ngày nay. Nhờ tiến bộ của khoa học, nay ta được biết biển không phải đã tiến đều đặn hàng năm như vậy mà trong khoảng thời gian kể trên đã có ba lần nước biển tiến đột ngột. Việc đó xảy ra vào 14.000 năm, 11.500 năm và 8000 năm cách ngày nay.

Chính đợt biển tiến cuối cùng này, phối hợp với những cơn động đất dữ dội ở vùng Đông Nam Á đã nhận chìm toàn bộ nền văn minh lớn ở Đông Nam Á thuộc hai vùng đất khảo cổ học gọi là SUNDALAND và NANHAILAND xuống đáy biển. Trong huyền học cũng như kinh điển của các tôn giáo, người ta nói đến nạn đại hồng thủy, chắc là nói đến đợt biển tiến đột ngột này. Có nhà khảo cổ cho rằng Sundaland, đồng bằng châu thổ sông Mekong và sông Chao Phraya là trung tâm của văn hóa Đông Nam Á thời đó và cũng là nguồn gốc của văn minh toàn cầu. Đây là đồng bằng rộng nhất thế giới từ trước đến nay, diện tích gần bằng diện tích toàn bộ Bắc Mỹ Châu ngày nay. (Stephen Oppenheimer, Eden in the East, 1999).

2. Vấn đề thuần hóa cây lúa nước

Ta hãy duyệt lại sự tích hạt lúa, là một di vật dễ bị thời gian và môi trường hủy hoại, và sự thuần hóa cây lúa nước, cái xương sống của nền văn minh Châu Á. Chúng ta đã biết từ sau khi thầy trò giáo sư William Solheim II tìm thấy dấu vết của hạt lúa tại vùng Non Nok Tha, phía Bắc Thái Lan, hạt lúa có niên đại cổ hơn giống lúa ở Trung Hoa hay Ấn Độ cả ngàn năm, thì cái tư tưởng cổ điển cho Trung Hoa là quê hương của lúa nước đã bắt đầu lung lay.

3. Vấn đề ngôn ngữ

Từ hơn một thế kỷ trước, nhà bác học Charles Darwin đã nhận thấy sự liên hệ giữa ngôn ngữ và di truyền gắn bó chặt chẽ với nhau như hai mặt của cùng một vấn đề.

Chúng ta đã biết tiếng nói và chữ viết của người Cổ Việt có bốn thứ ngôn ngữ chính được lưu hành ở Đông Nam Á là Nam Đảo (Austronesian), Nam Á (Austro-Asiatic), Tây Thái (Tai-Kadai) và Hán Tạng (Sino-Tibetan). Cả bốn thứ tiếng này ngày nay đều được các cộng đồng dân tộc sử dụng ở Việt Nam tại nhiều vùng khác nhau, mà Nam Á là tiếng chính được dùng nhiều nhất: ngày xưa khi Vua Hùng mới dựng nước, người Việt thời ấy nói tiếng Nam Á.

Có cần nói thêm rằng, ở Á Đông chỉ có một tiếng nói không bắt nguồn từ nền văn minh đã bị nhận chìm ở Đông Nam Á, đó là tiếng Sino-Tibetan mà tuyệt đại đa số người Trung Hoa ngày nay đang nói.

4. Vấn đề di truyền học

Cư dân Văn Lang đời Vua Hùng nói tiếng Nam Á, và theo những định luật tương quan giữa ngôn ngữ và di truyền, họ cũng mang trong mình dòng máu Nam Á giống như người Việt ngày nay. Tất nhiên cần nhiều cuộc nghiên cứu các mẫu máu để biết tường tận hơn tính di truyền của cư dân sống ở phần đất nay là Việt Nam. Nhưng ngay trong hoàn cảnh hiện tại, nhất là sau các báo cáo khoa học của giáo sư J.Y. Chu và đồng nghiệp, các nhà di truyền học và học giả nghiên cứu về Đông Nam Á cũng đã nhất trí chủ trương cư dân Việt Nam ngày nay nói riêng và cư dân Đông Nam Á nói chung, đã mang trong dòng máu cái gene Nam Á như tổ tiên họ trước kia, từ trước thời Băng Hà (Ice Age), nghĩa là họ là người bản địa chứ không phải đã di cư từ Trung Hoa hay từ hải đảo Thái Bình Dương tới. Ngược lại, cư dân Đông Nam Á là cái nôi của cư dân da vàng, mà từ đó họ đã di cư đi mọi ngả, mà quan trọng nhất là đợt di cư sau đợt biển tiến đột ngột 8000 năm về trước: Lên phía Bắc (Trung Hoa, Nhật Bản), sang tận Mỹ Châu; phía Tây đến Ấn Độ, Trung Đông; phía Nam ra các đảo Thái Bình Dương. Điều này, ngày nay dưới ánh sáng của khoa học, đã là một sự thực được nhiều nhà khoa học hàng đầu trên thế giới xác nhận

Và ý kiến quan trọng nhất là của giáo sư J.Y. Chu và đồng nghiệp, cho rằng cư dân ở miền Đông Trung Hoa ngày nay là hậu duệ của cư dân từ Đông Nam Á di lên. Và từ đó, như trên đã nói, vấn đề cư dân Đông Nam Á là nguồn gốc của nhân loại Đông Phương đã được coi như giải quyết dứt khoát.

Tóm lại

Sự khó hiểu, rắc rối của thời kỳ Vua Hùng lập quốc chỉ có từ đoạn này và cũng chỉ do một điểm rất nhỏ là ai đó, đã vô tình hay cố ý, bỏ sót một đoạn văn rất ngắn, rồi cũng không biết vì vô tình hay cố ý, một người nào đó đã thay vì bình tĩnh tìm ra sơ sót, lại đặt thành vấn đề tranh luận để kẻ bàn đi, người tán lại, thành ra đoạn sử lập quốc mới trở nên rối rắm, vô nghĩa, đầy chuyện ngờ vực như ngày nay.

Đoạn văn bị bỏ sót đó có thể chỉ gồm chín chữ là “Long Quân dẫn năm mươi người con xuống biển”, và đoạn văn trên phải đặt vào sau câu “Âu Cơ và năm mươi người con lên núi”. Toàn bộ câu văn sẽ như sau: “Âu Cơ và năm mươi người con lên núi, Long Quân dẫn năm mươi người con xuống biển, suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương”.

Có bốn lý do có thể coi là hiển nhiên sử cũ phải viết như vậy vì:

1. Viết như thế mới phù hợp với ý của đoạn văn trên đã chia 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển vì 50 con theo mẹ lên núi không thể tôn người con trưởng là Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, một địa danh thuộc huyện Bạch Hạc, vào thời điểm đó còn là đất tiếp cận bờ biển, một địa danh thuộc vùng biển.

2. Nước Văn Lang của Vua Hùng, con trưởng của Lạc Long Quân, vì theo cha, nên cũng bắt đầu theo phụ hệ, cha truyền con (con trai) nối và cương vực gồm 15 bộ, như trong sử đã ghi cương vực là một nửa phía Nam của nước Xích Quỷ, đúng như cương vực Bắc phần và Bắc Trung phần Việt Nam hiện nay. Một nửa phía Bắc của nước Xích Quỷ thuộc 50 người con theo mẹ Âu Cơ về Bắc, không biết lúc đầu đặt tên nước là gì, nhưng sau có những nước như Điền (Vân Nam), Thục (Tứ Xuyên), Dạ Lang, Mân Việt, Lưỡng Quảng,… chắc là hậu duệ của cái mà truyền thuyết tượng trưng bằng “50 con theo mẹ lên núi” này mà ra.

3. Năm mươi con theo cha xuống biển, dù tổ tiên đã là những người biết thuần hóa cây lúa nước đầu tiên của nhân loại, nhưng lúc này nước biển tràn ngập, sinh sống tại một miền không còn bao nhiêu đất để canh tác, tất phải sống trên sông nước, sống bằng nghề đánh cá, do vậy mà sợ thuồng luồng ăn thịt nên phải vẽ mình bằng những hình thủy quái, nghĩa là phải xâm mình. Đó là sở trường của Long Quân. Vậy cư dân lập nên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu là hậu duệ của “50 người con theo cha xuống biển” mới đúng với sự thực, không thể là hậu duệ của “50 người con theo mẹ lên núi” được!

4. Người ta vẫn không hiểu sao cùng là tộc Bách Việt, khoa học đã chứng minh cùng nói một ngôn ngữ, cùng mang một dòng máu, cùng chia sẻ một nền văn hóa giống nhau mà các người ở Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Quý Châu, Phước Kiến lại dễ dàng bị Tần, Hán đồng hóa, trong khi người Lạc Việt ở châu thổ sông Hồng lại cương quyết kháng cự, duy trì được nền độc lập của mình. Nay nếu hiểu “50 người con theo mẹ lên núi” vốn chịu ảnh hưởng của mẹ là người phương Bắc, chúng ta có thể hiểu được tại sao lại có hiện tượng khác biệt kể trên. Âu cũng là kết quả đương nhiên của một bên, người Hoa, vốn gốc du mục, quen với não bộ bắt, giết, nên thích tiêu diệt, chiếm đoạt, trong khi người Việt vốn gốc nông nghiệp, có não bộ thích sống hòa ái, “chín bỏ làm mười”, “hòa cả làng”, nên vẫn quan niệm:

Tranh quyền, cướp đất chi đây,

Xem nhau như bát nước đầy là hơn.

(Trích bài của: Cung Đình Thanh)


Đền thờ Lạc Long Quân tại đồi Sim (Phú Thọ) & Đền thờ chính thờ Lạc Long Quân tại đồi Sim, nằm trong quần thể di tích lịch sử đền Hùng ( Phú Thọ ).

Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên

Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, trăm trứng ấy nở thành trăm người con trai. Một ngày, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng , mình là giống Tiên , thủy hỏa khắc nhau, không ở cùng nhau được”. Hai người bèn chia con mà ở riêng. Năm chục người theo mẹ về núi, năm chục người theo cha xuống biển, chia nhau mà thống trị những xứ đó, đó là thủy tổ của các nhóm Bách Việt . Người con cả trong số những người con theo mẹ lên Phong Châu (nay là Phú Thọ ) và được tôn làm vua gọi là Hùng Vương lập ra nước Văn Lang .

Giỗ tổ Hùng Vương (Lễ hội Đền Hùng)

Là dịp lễ quốc gia nhằm tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn của con cháu Đại Việt trước công lao dựng nước của các vua Hùng. Cứ vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch là người người lại nô nức hướng về Đền Hùng để dâng lễ, thắp hương, bày tỏ lòng thành kính và tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc.

Nhưng theo truyền thuyết thì đất nước ta có 18 đời vua Hùng. Mỗi đời vua được tính là một triều đại, tương tự như nhà Lê, nhà Nguyễn… sau này và có thể có 1 hoặc… vài chục vị vua. Do đó, tuy chỉ có 18 đời vua Hùng, nhưng lịch sử ghi nhận vào thời kỳ này nước ta có đến 108 vị vua.


Tượng Vua Hùng trong đền tưởng niệm các Vua Hùng trong công viên Tao Đàn - Tp. HCM.

LỜI KẾT

Nếu tổ tiên ta thông minh, thì ngày xưa bố Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ đã ngồi xuống cùng giải quyết vấn đề, hòa hợp hòa giải chứ không phải phải đi đến quyết định ly thân, gia đình chia cắt kẻ dắt 50 con lên rừng, người dẫn 50 con xuống biển.

Nếu vua Hùng thông minh, thì khi nghe câu nói của Mai An Tiêm thay vì sẽ ngồi suy nghĩ đúng sai về câu nói đó chứ không cố chấp đày chàng trai trẻ ra biển.

Nếu An Dương Vương thông minh, thì đã không nhận đứa con của kẻ thù về làm rể, chứ không để con gái rượu cuối cùng phải thốt lên:

“Trái tim lầm lỡ để trên đầu

Nỏ thần vô ý trao tay giặc” .

1. Ở Việt Nam, đâu đâu cũng thấy đầy rẫy những chỗ nhậu nhẹt. Người ta vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, đám cưới cũng nhậu, đám ma cũng nhậu, thậm chí không biết làm gì cũng phải nhậu. Bởi thế cho nên chẳng mấy ngạc nhiên khi lượng rượu bia ở Việt Nam lại nằm trong tốp những nước tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới.

Tôi đã nghe ai đó đã nói, rượu bia, thuốc lá và ma túy là những thứ mà ngày xưa những nước thực dân khi đi xâm chiếm các thuộc địa đã sử dụng những thứ này để làm suy yếu nội lực, tinh thần phản kháng của dân tộc đó. Việt Nam mình có lẽ cũng đang bị như thế chăng?

2. Người ta nói, sống ở Việt Nam vui lắm.

Ừ thì suốt ngày trên tivi ra rả đủ chương trình thi hài, game show hài này nọ thì bảo sao không vui. Tôi chưa thấy ở một đất nước nào, mà diễn viên hài lại được tôn vinh, được là thần tượng, là lấy làm mẫu chân lý sống cho giới trẻ như ở đây.

Thay vì chúng ta tổ chức các chương trình kích thích sự tự học, rèn luyện sức khoẻ, ý chí vươn lên trong cuộc sống hay giúp các bạn trẻ khởi nghiệp thì chúng ta lại tổ chức các chương trình thi tuyển trở thành diễn viên hài.

3. Việt Nam chúng ta luôn tự hào là Con Rồng, Cháu Tiên thông minh xuất chúng, minh chứng hùng hồn nhất là chúng ta chiến thắng được mọi kẻ thù xâm lược?...

Ngoài những chiến tích đó ra, dường như chúng ta không có một thành công nào để minh chứng chúng ta là một dân tộc thông minh, không một công trình khoa học hay phát minh sáng chế nào đóng góp cho nhân loại. (theo Kỳ Anh).

Nhân ngày Giỗ Quốc Tổ, cầu nguyện Vua Hùng phù hộ cho “Dòng giống Lạc Hồng”. Tưởng niệm công lao của Quốc Tổ, chúng ta đốt nén hương lòng và cùng nhau hát vang:

Bài hát: HÙNG VƯƠNG - Thẩm Oánh

Bốn ngàn năm văn hiến Nước Nam khang cường

là nhờ công đức Hùng Vương.

Hoa gấm giang sơn này cùng chung đắp xây

bao thời hùng uy vẻ vang.

Đời đời nhờ Hùng Vương đã vì quốc dân lập non nước này.

Cho cháu con quây quần vẽ nên cơ đồ bền vững tới nay.

Việt Nam bao sáng tươi,

thề cùng bền gan cương quyết xây Nhà Nam.

Đây cháu con Lạc Hồng từ Bắc chí Nam,

xin đoàn kết tâm đồng.

Non nước Việt Nam, nhờ Hùng Vương quyết thắng

muôn năm dòng giống Lạc Hồng!

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)

Tình đất

(tiếp theo số 154)

Thằng Thìn nắm chặt mớ tiền cô Út đưa, nhảy vọt qua đầu mấy chậu bông vạn thọ, mồng gà thấp - dải bông dành bán ngày rằm tháng giêng tới - rồi lững thững đi tắt ngang vườn thơm về phía chợ Cây Điệp. Cô Út vừa cười đưa hàm răng hột dưa trắng đẹp điếng hồn vừa nói ngọt thì biểu lên trời nó cũng đi. Đây chạy ù ra đó hai bận đi về một chút chứ mấy, lâu lắc gì. Nhưng nó không chạy mà cà-rịch, cà-tang mặc dầu trong bụng nôn muốn quýnh. Nó lầm bầm tức tối cái con quỷ Cúc mới tảng sáng đã mắc dịch bỏ đi đâu mất biệt để cho cổ thấy mặt đặt tên mình. Con trai người ta gần Tết mà mượn đi chợ. Thiệt hết đường! Tụi nó đương gầy sòng bầu cua cá cọp ăn thua sớm ở chỗ cái giếng nước cãi cọ dậy giặc coi bộ vui đáo để mà mình không được chơi. Hột của thằng Hai Chí chết rồi, lắc bao nhiêu cũng còn trơ trơ, gà nai cứ ra hoài, canh mà đặt thế nào cũng kiếm được chút đỉnh ra ăn mì thánh của ba thằng Ngầu lấy hên ngày mùng một. Đó là chưa kể hễ ra ba con, biểu nó lắc một cái thế nào cũng dính cựa lại một hai con, phải thời đặt một cái cụp bứng cái, chiều mùng một tra bộ đồ mới vô kéo nhau đi sở thú dòm con gái lấy hên hay ra bồn binh hứng gió coi tây tà…

Nó càu nhàu, lầm bầm, tưởng tượng nhưng vẫn bước đều. Nó biết sức nặng của lời nói cô Út. Ba nó kỳ khôi không giống ai, đánh con ai giựt roi cũng không tha, hễ mất cây nầy thì lấy cây khác thay vậy mà cô xin thì tha liền. Cậu Năm ôn hoàng dịch lệ vậy, ai nói gì cũng không tin mà cô lên tiếng bào chữa về vụ nó làm mất nửa tháng tiền cắt cỏ trả cho dì Tám Sang thì cậu nín khe móc bóp đưa tiền khác đem trả liền. Cô ít mét đứa nào, mà hễ cô mắng vốn xa gần thì chắc chắn là đứa đó lãnh tật. Năm ngoái con Cúc làm gì đó mà cô chỉ nói một tiếng con nhỏ bị đòn thiếu điều lòi bản họng.

Chợ Cây Điệp nhỏ bằng bụm tay mặc dầu, tưng tửng sáng hăm chín cũng đen nghẹt người ta. Giống như âm phủ họp chợ ba mươi Tết. Nó nhớ tới kiểu nói ngộ nghĩnh của ông già nó mặc dầu nó không biết âm phủ họp chợ ra sao và tại sao lại đông quá mạng. Trực nhớ lại chuyện gì đó coi bộ quan trọng, nó quýnh quáng đưa tay rờ cái túi quần ở ngoài mông, mặt tái ngắt. Chết cha… Rồi nó cười tủm tỉm. Vậy mà tưởng mất rồi. Cầm trong tay mà kiếm thiếu điều muốn xanh mặt. Nôn quýnh nôn quáng nên không khác gì ốc mượn hồn! Quên đầu quên đuôi ráo trọi.

Nó đảo mắt mấy vòng kiếm mấy chị bán trái cây. Chợ xóm nghèo sập có chủ đâu bao nhiêu, phần đông thiên hạ đụng đâu ngồi đó nên người mua phải kiếm kẻ bán. “Mua hai trái dừa Xiêm với hai trái mãng cầu Xiêm. Lựa mãng cầu nở gai vừa vừa thôi, đừng có nở tét mới chưng được tới ngày mùng Ba. Mà gai còn túm quá cũng đừng lấy. Non quá nó sượng chín không kịp. Dừa thì lựa trái họ vạt vỏ xanh rồi, búng ở đầu mà nghe cốc cốc tiếng thanh là vừa cơm, tiếng nặng đục thì đừng lấy, cứng cạy đó”. Nó cười tủm tỉm một mình. Ba người đàn bà ai cũng như nấy, lộn xộn bực mình bực mẩy, cũng bao nhiêu đó. Thứ đồ ba cái trái cây cúng rồi cũng ăn, để dành để để gì đó mà làm như chuyện lên trời, dặn tới dặn lui, gai nở gai túm, cứng cạy non cạy nghe phát mệt. Nó tấp vô chỗ một người đàn bà có mấy trái mãng cầu với một rổ sung trước mặt, sung từ chùm từ chùm như trái dâu màu đỏ bầm thỉnh thoảng lác đác vài đốm hoe hoe coi hơi lạ mắt.

“Mua giùm đi cậu Ba. Còn có mớ nầy bán đổ bán tháo về sớm dọn dẹp đón Tết. Trời ơi, mãng cầu hết xẩy, chín cây đó, gai vừa mới nở. Tới mùng Bốn thì vừa”. Nó còn đương do dự chị kia đã bồi thêm: “Nói thiệt hỏng giấu gì cậu Ba. Thấy cậu coi bộ biết ăn biết mua nên tôi nói thiệt. Mãng cầu nhà trồng đó. Ông nhà tôi tháp vô cây bình bát trồng mé rạch nên trái nó ngọt thanh lắm, không phải chua lòm như trái mãng cầu Xiêm thường đâu. Thứ nầy người biết ăn kiếm đỏ con mắt cũng không ra. Phải ở gần rạch cạn mới có cây bình bát mà còn phải biết tháp nữa…”

Thằng Thìn không biết nói gì hơn. Nó rờ rờ bóp bóp trái mãng cầu bự xộn. Da mặc dầu màu xanh lợt không đậm như mãng cầu Xiêm nó thường thấy nhưng coi bộ láng láng, mát rượi, gai nở đều, không có chỗ đèo, không có chỗ nào sâu. Thôi mua đại mua đùa cho rồi.

Nó cầm một chùm sung lên xăm xoi tò mò. Mấy con kiến lửa hay gây sự được dịp bò mau lên tay nó giơ càng tấn công chí tử những chỗ thịt non. Nó để chùm sung xuống gãi lia lịa, coi bộ bực mình muốn dợm cẳng bỏ đi chỗ khác.

Người đàn bà phủi kiến cho nó, đon đả:

- Cậu Ba thích chùm sung nầy hả. Bự xộn há. Sung mãn. Cậu lấy tính rẻ thôi. Có qua có lại.

Nó nghe hết mặc dầu bữa chợ đông, tiếng lào xào lì xì gần muốn lấn át những câu đối thoại của những người nhỏ nhẹ từ tốn. Nó không trả lời vì chưa quyết định được. Cô Út dễ chịu đã đành, tiền còn đưa hơi dư nữa, nhưng mà cô đâu có dặn mua sung. Làm lanh mua về chắc cô không rầy la gì đâu, nhưng cái thằng cha cậu Năm, tánh tình của thằng chả làm sao biết được? Hay mình tự tung tự tác thằng chả thế nào cũng nói nầy nọ nọ kia khó chịu. Lóng nầy coi bộ thằng chả ưa bắt lỗi bắt phải nhún trề với mình…

Trong trí nó lởn vởn hai ý mua - không. Nó ngần ngà ngần ngừ. Mấy bà buôn đầu chợ bán cuối chợ nói ngọt ngào bao nhiêu thì càng cắt cổ mổ họng người ta bấy nhiêu. Mật ngọt chết ruồi mà! Đâu có ai khi không mà tử tế với người lạ quắc lạ quơ mới gặp ngoài chợ?

Tiếng người đàn bà tiếp tục dong dài như một thứ bùa chú tâm lý:

- Tết nhứt ai cũng phải cúng kiếng. Trái cây là cách ước nguyện cầu xin với ông bà vậy mà. Đâu có ước gì nhiều đâu? Cầu sung vừa đủ. Sung mãng cầu vừa đủ. Đủ là được rồi phải không cậu Ba? Cầu dư mất phước. Tết ai cũng mua mấy thứ đó mà tôi không đủ vốn mua dừa Xiêm với lại đu đủ. Nặng nề bầm dập mà bán không hết ra Giêng kẹt vốn khó lòng. Tôi chỉ bán bậy bạ quơ quào ba ngày Tết kiếm chút mớ cho mấy đứa nhỏ ăn bánh mà thôi. Ngày thường còn phải coi con cái. Mấy cháu còn nhỏ quá. Cậu Ba mua mấy trái? Hai trái nầy ngon lắm nè. Qua Tết ăn phải biết! Ngậm mà nghe!

Nó bắt cười khan lên tiếng dòn. Chị đàn bà nầy nói cũng dòn, cũng hay đó nhưng mà nghe bắt tức cười. Ngậm mà nghe… Ra hè nhả… Người đàn bà coi bộ thất vọng khi thấy nó thờ ơ không có vẻ gì muốn mua. Nó thấy tội nghiệp chị ta và thấy mình ngon lành bảnh tỏn hơn khi nhớ lại nãy giờ được kêu một điều cậu Ba hai điều cậu Ba, lại còn được hầu hạ giải thích đủ điều. Cái tay áo chị rách teng beng té bẹ vá chùm vá chụp thấy dễ động lòng. Nó trả giá đại đùa cho có, bất kể mắc rẻ. Sòng bầu cua lởn vởn trong trí nó “lấy cái tay ba con nai, hột kê huề, cấm tả” tiếng cãi lộn om sòm bát nhã của tụi bạn cùng trang lứa trong xóm xóa bỏ lời dạy “nói thách mua rẻ” nó học được từ lâu.

Chị bạn hàng xăng xái giúp nó để hai trái mãng cầu xuống đáy giỏ, chị chêm tử tế bằng lá chuối khô, cảm ơn liền miệng khiến nó cảm tưởng ấm lòng. Cầm giỏ ra đi nó nghĩ mình mua mắc, thấy tiếc tiếc nhưng nó chỉ nhún vai bước đi khi ngó lại thấy cái tay áo rách be bét của chị bán hàng đương xếp đặt mấy trái mãng cầu còn lại. Nó đi thẳng tới cuối chợ kiếm dừa Xiêm. Có tiếng đàn bà khóc giãy thảm thiết đâu đó gần chỗ mấy bà bán thịt. Lại chuyện hết tiền vì giựt vòng giây hay tráo bài ba lá gì đây. Nó chen vô. Người đàn bà nước mắt đầm đìa mặt, cặp mắt đỏ ửng, nắm vạt áo cãi lẫy với một thằng cha đàn ông nào đó mặt mày vằn vện coi thiệt có cô hồn. Thằng cha nầy liếc ngang liếc dọc, nửa muốn tháo chạy, nửa muốn giải vây bằng cãi lẫy. Coi bộ mặt tỉnh tuồng của thằng chả cũng biết tụi đồng đảng chung quanh cũng khá bộ bàng. Chưa cần đó thôi, nếu có chuyện gì chúng đã hè nhau vô giúp rồi. Người thường bị đàn bà nắm áo giữa chợ mấy ai lại cười hềnh hệch như giả ngộ, cái hềnh hệch tin tưởng ăn chắc và chờ đợi coi tình hình biến chuyển cách nào.

Nó lách mình ra khỏi đám đông. Cũng chuyện đáng giận đó không hà! Kết cuộc là người đàn bà yếu đuối không làm sao được đành bù lu bù loa một hồi rồi bỏ về, chạy đầu trên xóm dưới quơ quào trám vô chỗ tiền bị mất mát!

Đáng đời! Ai biểu đàn bà mà tham lam, chỗ chúng cờ bạc mà xách đít vô! Chắc cũng loại máu me nữa rồi. Muốn giở nhà chúng về cất chuồng heo thì chúng đem bàn thờ ông bà mình ra làm củi chụm. Ruộng vườn bán hết tra thân vào cùm. Cậu Tốt nói lẩm rẩm vậy mà có lý. Nó cười tự thưởng mình. Ưa hóng mỏ nghe người lớn nói chuyện như vậy mà có lý quá cỡ, nhiều câu hay đáo để. Sao lại có chuyện đàn bà con gái mà đi đặt bài ba lá được chứ. Rồi về chạy tiền không ra, bị chồng nó đập cho một trận nên thân mở con mắt ra thì đã muộn.

Tiếng thằng cha đàn ông mầy tao với chị đàn bà làm thằng Thìn tức tức. Tiếc là lính mã tà tới chậm lụt quá. Tụi đồng bọn sẽ gỡ để giải vây cho hắn bây giờ đây. Nó giận mình không lớn con dềnh dàng để nhảy vô can thiệp, tống cho thằng cha bợm bãi một đạp té nhào, rồi đạp lên ngực kiểu Triệu Khuông Dẫn đạp Hàng Thông biểu nó trả hết tiền lại cho người đàn bà yếu đuối đáng tội nghiệp kia. Giận quá mấy thằng điếm! Nó nhớ tới trận đòn tuần trước vì thua bông vụ vuốt mặt. Tụi cờ gian bạc lận đáng ghét đã đành, tụi bày trò lường gạt hay giở thói ăn vùa thua giựt còn đáng ghét biết bao!

Nó phun nước miếng khi đi ngang qua mấy sòng bông vụ. Chun vô đó sẽ thua sạch túi lần nữa. Về nhà chơi bầu cua cá cọp với tụi Hai Chí vậy mà chắc ăn hơn. Nó đưa tay rờ thêm lần nữa túi tiền. Vẫn còn đó. Không suy suyển. Yên bụng. Nó quên buồn, đánh đòng đưa cái giỏ trái cây trên tay. Hai trái dừa còn rộng chỗ xích qua xích lại cấn lên trái mãng cầu thiếu điều giập ra nước nó cũng không thèm để ý. Chùm trái sung làm tài khôn cộ về giờ coi cũng tanh bành té bẹ, không còn hình thù đẹp đẽ như lúc mới mua nữa.

(còn tiếp)

NGUYỄN VĂN SÂM

NGƯỜI CON NÀO

RỒI CŨNG THƯƠNG MẸ

Tôi đậu cử nhân Luật năm 1971. Ít lâu sau thì xin được vào tập sự tại văn phòng của một vị luật sư khá nổi tiếng bạn thân với bố vợ tôi. Làm luật sư tập sự thì nhàn, đồng lương tương đối cũng khá. Hàng tuần, đi làm về tôi thường tới Trung tâm văn hóa Nhật ở đường Phan Ðình Phùng học thêm tiếng Nhật. Học cho biết vậy thôi, nghề luật sư không đòi hỏi phải biết tiếng Nhật. Sau ba năm tập sự, tôi thi đậu và được Luật sư đoàn công nhận luật sư chính thức, cho phép treo bảng đồng, lập văn phòng riêng.

Chưa đầy một năm sau thì tôi thôi không làm luật sư nữa mà cũng thôi không đi học tiếng Nhật, bởi vì các trung tâm ngoại ngữ đã đóng cửa.

Tôi trông nom con cái cho vợ tôi đi dạy, thỉnh thoảng cũng kiếm ăn được chút đỉnh do liên lạc với các trung tâm dịch vụ pháp lý. Người ta đưa các đơn từ, giấy má tiếng Nhật hoặc tiếng Anh đến, chúng tôi dịch phụ. Tiền bạc trung tâm tính toán rất tốt nhưng cũng chẳng được bao nhiêu.

May sao thời kỳ mở cửa, nhờ chút ngoại ngữ tôi nộp đơn xin được vào làm trong một khách sạn kiêm nhà hàng sang trọng. Tôi giữ chân tiếp đón khách, mời họ ngồi vào bàn, ghi những món họ muốn dùng, báo cho nhà bếp biết rồi các cô tiếp viên bưng ra. Tiền lương đỡ lắm, đã vậy mà mỗi cuối tháng chúng tôi còn được thưởng thêm, vợ tôi có vẻ yên tâm lắm.

Một hôm ông giám đốc khách sạn cho người gọi tôi lên văn phòng ở trên lầu. Ông chỉ chiếc ghế trước mặt trong căn phòng lạnh bảo tôi ngồi rồi cầm gói thuốc ba số năm trên bàn mời tôi hút:

- Anh quản lý nói anh biết nói tiếng Nhật?

- Vâng. Thưa ông giám đốc, ngày trước tôi có học tại trung tâm Nhật ngữ vài năm, giao dịch cũng đỡ nhưng bỏ lâu không xài nên đã quên nhiều.

- Bây giờ còn sử dụng được chứ?

- Vâng, có lẽ tạm được.

- Vậy thì tốt. Công việc tôi cần nhờ anh là thế này anh Trình ạ...

Ông ngắt ngang câu chuyện, với tay lên chiếc giá ở phía bên cạnh lấy hai chiếc cốc cao cẳng bằng pha lê rồi mở một chai Champagne của Pháp, rót ra hai ly, đặt trước mặt tôi một ly:

- Mời anh!

- Xin cám ơn ông giám đốc.

- Cứ uống đi mà. Chúng ta làm hết chai này, vừa uống vừa nói chuyện...

Ông này là tay sành sỏi, điệu nghệ. Bây giờ ông mới mở cái món bài tủ là rút trong ngăn kéo ra một gói Dunhill ‘black label’ mới tinh còn nguyên xi chưa bóc giấy bóng, gỡ giấy kiếng, bảo tôi dụi điếu thuốc ‘ba số’ vào chiếc gạt tàn rồi lịch sự cầm cả gói chìa về phía tôi, mời tôi hút.

- Champagne Pháp phải đi đôi với thuốc Ăng-lê mới tốt!

- Vâng, thưa ông giám đốc.

- Nào, mời anh!

- Không dám, mời ông giám đốc.

Chúng tôi nâng ly. Khốn khổ, rượu Champagne dù loại ‘chính hiệu’ của Pháp hoặc thuốc lá Dunhill ‘black label’ đi nữa đối với một luật sư như tôi cũng đâu có lạ. Vậy mà bây giờ sao tôi thấy nó ngon thế, cứ mát cả ruột! Nhưng cũng sờ sợ, phải có chuyện gì ông giám đốc mới ‘ưu ái’ với tôi đến thế!

- Bên công ty du lịch họ báo cho chúng ta biết khách sạn chúng ta sắp đón một vị khách quan trọng. Ông này người Nhật, muốn đích thân sang xem xét, ký kết hợp đồng về các máy móc điện tử hay chế tạo linh kiện điện tử gì đó tôi không biết rõ. Họ nhờ chúng ta... Nói thật ra là họ chỉ thị chúng ta phải biệt đãi với khách. Phải dùng mọi cách làm thế nào khách được vừa lòng.

- Thưa ông giám đốc, chúng tôi vẫn tiếp đãi hết sức lịch sự với mọi khách hàng.

- Ðúng thế, tôi hiểu. Nhưng theo tôi biết, ông giám đốc này hình như hơi già nên rất khó tính. Ví dụ trên công ty họ báo ông ta chỉ dùng tiếng Nhật, không dùng bất cứ một thứ tiếng nào khác. Ngoài ra, có lẽ cũng vì tuổi tác, tính nết ông ta cố chấp, khắc khổ, không thích giao thiệp với mọi người.

Xương sống lưng tôi lạnh toát. Tôi hiểu ông giám đốc khách sạn đang muốn đề cập chuyện gì. Quả nhiên, ông ta kết luận:

- Tôi đã bàn tính với ông quản lý. Trường hợp này ta phải dùng tới một người tương đối lớn tuổi, có căn bản học vấn - nghĩa là dùng người trí thức đàng hoàng chứ không thể đưa ra mấy cô chiêu đãi viên trẻ đẹp hoặc vài nhân viên thông dịch tiếng Anh tiếng Nhật bình thường. Anh đồng ý với tôi chứ?

Ðồng ý cái khỉ khô! Tôi là anh bồi khách sạn chứ là cái quái gì mà đồng ý với không đồng ý.

- Thưa ông giám đốc, tôi nghĩ cũng đúng.

- Xét trong khách sạn, anh phù hợp với các điều kiện đó. Tôi chỉ định cho anh làm công tác mới giúp đỡ khách sạn. Nếu anh tranh thủ được cảm tình của ông ta, chẳng những khách sạn có hoa hồng riêng cho anh mà bên đầu tư cũng có phần thưởng. Họ hứa như vậy. Còn nếu không tranh thủ được...

Ông ta bỏ lửng song tôi hiểu. Có thưởng thì phải có phạt. Nếu tôi loạng quạng, không làm nên cơm cháo sẽ bị mất việc, ở nhà nấu cơm cho vợ dễ như chơi. Tình hình như vậy, biết nói cách nào bây giờ?

- Thưa ông giám đốc, tôi không d ám nghĩ tới việc được thưởng nhưng sợ tiếng Nhật lâu không xài, tôi quên mất nhiều...

- Ðược, nhớ tới đâu dùng tới đó. Anh cứ yên tâm, tôi sẽ đích thân trông coi việc này và sẵn sàng cung cấp cho anh mọi phương tiện, kể cả tài xế và nhân viên khuân vác hành lý cho khách nếu cần. Dứt khoá t chúng ta phải tranh thủ bằng được cảm tình của ông ta.

- Vâng, thưa ông giám đốc, tôi sẽ cố gắng.

Tôi dợm đứng dậy. Ông giám đốc ngăn lại, lục các giấy tờ trên bàn:

- À này, họ cho tôi biết tên ông ta là Kwann Tae Palms... Quái, cái giấy tôi bỏ đâu mất rồi? À đây… Anh nhớ cho rõ, chỗ nào tôi cũng ghim sẵn người của ta, sẵn sàng hậu thuẫn cho anh một cách tốt đẹp. Anh đã có đồ vét, cravát... chưa nhỉ?

- Thưa có.

- Vậy thì tốt. Anh cầm giấy này xuống phòng kế toán bảo cô thủ quỹ tôi quyết định ứng trước cho anh hai tháng lương. Ðây, giấy tạm ứng đây. Nếu công việc tốt đẹp sẽ tính vào tiền thưởng.

- Vâng, cám ơn ông giám đốc.

Tôi đi, tay cầm mảnh giấy. Kỳ lạ, tại sao ông ta lại tên Kwann Tae Palms, chẳng giống với Nhật chẳng giống với Tàu? - Riêng cái họ - Palms - thì giống với Mỹ. Theo tôi hiểu, người Nhật tên họ thường là Watanabe, Saburo, Yamamoto, Fuda, Fudo, Honda, Yamaha, Suzuki v.v... Ngay đến cái tên cũng khó hiểu thế chẳng trách ông ta già, khó tính, lẩm cẩm, cố chấp, chỉ nói tiếng Nhật, không thèm nói tiếng Anh tiếng Pháp. Ôi, tôi mất việc dễ như chơi!

Hôm sau, tôi và anh phụ tá được chiếc xe du lịch màu trắng mới tinh gắn máy lạnh đưa ra phi cảng, đón ông giám đốc Nhật tận chân cầu thang máy bay. Ðây là ngoại lệ. Theo tôi hiểu, đáng lẽ chúng tôi chỉ được đón ở phía trong, sau khi ông ta đã làm thủ tục, khám xét, trình các giấy tờ.

Sau cái liếc mắt ‘ra hiệu ngầm’ của cô tiếp viên phi cảng, tôi sửng sốt: ông giám đốc Nhật trông còn trẻ, chỉ trạc ngoài bốn mươi ngang với tuổi tôi, nét mặt già dặn có thể nói là rất có duyên, nước da ngăm ngăm đen, mắt hai mí trông nhanh nhẹn tháo vát chứ không ‘một mí’ như mắt người Nhật hay người Ðại Hàn. Ðặc biệt, ông ta ăn mặc theo kiểu khách du lịch, áo sơ mi ca rô sọc chìm, quần jean, áo bỏ trong quần với sợi dây xanh tuya to bản bằng da cá sấu, giầy Adidas màu trắng. Chà chà, tôi thấy ông ta đẹp trai quá, không già lão, ‘khó tính’ một chút nào hết.

Anh phụ tá đỡ giùm chiếc va ly trong khi tôi cúi đầu thật thấp theo kiểu người Nhật, nghĩa là cứng đong đong như khúc gỗ bị bẻ gẫy, chắp tay trước ngực và cố ‘nặn’ ra từng tiếng Nhật:

- Kôn ni chi wa, y ô ku i ras shai ma shi ta. Hi ji ma shi te? (Xin kính chào ngài, chúng tôi rất vui mừng được tiếp đón ngài. Thưa ngài đi đường bình an chứ ạ?)

Ông ta ngớ người nhìn tôi, nhíu mày suy nghĩ như cố nhớ lại điều gì. Sau đó ông ta nhún vai, quyết định trao chiếc cặp Xăm-xô-nai cho cô tiếp viên xách giúp, rồi cũng chắp tay, cúi đầu thật thấp chào lại:

- Kônnichiwa! Yôku irasshaima****a! (Xin kính chào ông! Tôi rất vui mừng được gặp gỡ ông!)

Giọng ông ta nhanh và mạnh, tất nhiên thông thạo như... tiếng mẹ đẻ chứ không ỳ ạch như tôi. Tôi đoán rằng tôi nói ‘hay’ quá nên thấy ánh mắt ông ta có gì vui vẻ, tinh nghịch pha lẫn nụ cười. Tôi lại hăng hái ‘nặn’ tiếp và tự giới thiệu:

- Wa ta shi wa Trinh de su, ho te ru Y... y a dô zo yo ro shi ku! (Thưa ngài, tôi tên là Trình, nhân viên khách sạn Y... rất sung sướng được cử đến đây đón tiếp ngài!)

Nét mặt ông giám đốc Nhật vui hẳn lên, ông mỉm cười nhìn tôi sau đó cũng tự giới thiệu:

- Watashi wa ‘Kwann’ desu, dôzoyoroshiku!

(Thưa ông tôi tên là Kwann, rất sung sướng được cử đến đây gặp ông)

Tiếng Nhật dùng ý giống như tiếng Việt hay tiếng Tàu, nhân xưng đại danh từ ‘tôi’ và ‘chúng tôi’ nhiều khi dùng chung với nhau, những tiếng như ‘irasshaima****a’ và ‘yoroshiku’ vừa có nghĩa là đón tiếp lại vừa có nghĩa là gặp gỡ, tùy câu sử dụng. Hừ, lạ thật, tôi là anh bồi khách sạn chứ có phải là một VIP nào đâu mà ông ta nói rất sung sướng được ‘cử’ đến đây ‘gặp’ tôi? Ngoài ra tôi để ý thấy những câu ông ta dùng đều... bắt chước tôi y chang nhưng thu gọn lại, nhanh và thông thạo hơn. Tại sao ông ta chọc ghẹo tôi với ánh mắt hóm hỉnh như vậy? Tôi nói tiếng Nhật có gì sai sót chăng?

Kiểm tra và làm thủ tục tại khu hải quan tương đối đơn giản do có ‘người của ta’ xong, chúng tôi ra xe. Ông giám đốc Nhật đi lầm lối khác, tôi đưa tay lễ phép:

- Kô chi ra e dô zô! (Xin mời ngài đi lối này!)

Ông khách giật mình ngửng lên, vui vẻ:

- Arigatô, zogaimasu! (Vâng, xin cám ơn)

A, bây giờ thì ông ta không ‘bắt chước’ tôi nữa. Tôi thấy có cảm tình với ông ta. Rõ ràng là ông ta mau mắn, lịch duyệt, không già nua, khắc khổ như ông giám đốc khách sạn đã cho biết.

Anh tài xế đã đợi sẵn bên cạnh chiếc xe, vội vàng mở rộng các cửa mời mọi người lên và xếp va ly vào phía đằng sau. Ông giám đốc ra hiệu cho tôi ngồi bên cạnh ông ta, anh phụ tá ngồi bên trên với tài xế, sau đó xe chuyển bánh lướt êm, máy lạnh mát rượi.

Xe chạy qua cổng Phi Long, vị khách luôn luôn nhíu mày nhìn những tấm bảng quảng cáo ‘vĩ đại’ có vẻ suy nghĩ... Cặp mắt ông ta đăm chiêu, tò mò nhìn từng gốc cây, từng ngôi nhà lớn hiện đang xây cất ở hai bên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa tức Công Lý cũ, không hiểu ông ta thấy nó thế nào so với bên Nhật.

Tôi nhẹ nhàng lấy gói ba số 5 và chiếc hộp quẹt ga mới tinh mang dấu hiệu Công ty du lịch Việt Nam, lễ độ mời khách:

- Ip pon i ka ga de su ka?

(Xin kính mời ngài hút thuốc?)

Ông ta giựt mình quay lại, nhíu mày khe khẽ lắc đầu:

- Kekhô desu, arigatô!

(Không, tôi không muốn hút, xin cám ơn!)

Ðoạn, không hiểu nghĩ sao, ông ta cầm gói thuốc, ngắm nghía hồi lâu rồi bỗng ngửng lên nhìn tôi:

- Do you usually smoke this kind of Three Fives cigarette?

Ôi chao, vậy thì ông ta cũng nói tiếng Anh chứ đâu phải chỉ dùng tiếng Nhật một cách cố chấp? Tôi sung sướng quá bèn khẽ lắc đầu, buột miệng nói như cái máy:

- Oh no, sir, we don’t.

Ông ta hỏi tại sao, tôi đáp ‘because... ’ rồi cũng chẳng biết because... như thế nào nữa, bèn trả lời thành thật:

- Because this kind of cigarette is more and more expensive than our salary, out of our ability.

Vị khách bật cười, rồi tự nhiên ông ta cười lớn khẽ vỗ vai tôi thân mật như một người bạn. Tiếng Anh ông ta dùng còn thông thạo hơn cả tiếng Nhật mẹ đẻ của ông ta:

- Ồ, ông bạn thân mến, ông bạn nghèo lắm phải không?

Tôi lắc đầu:

- Không, tôi không quá nghèo nhưng cũng không nghĩ rằng tôi giàu. Chúng tôi tiết kiệm tiền bạc.

Vị khách trẻ gật đầu lia lịa:

- Vâng, vâng, tôi hiểu. Tôi cũng có một vài người bạn Việt Nam ở hoàn cảnh của ông. Thỉnh thoảng tôi có gửi quà sang tặng họ.

Chà, tay này được quá, người Nhật mà biết hoàn cảnh của người Việt Nam, thỉnh thoảng gửi tiền sang tặng, thật đúng kẻ có lòng.

Xe chạy ngang qua cửa Nhà khách Thống Nhất, bên trái là Nhà thờ Ðức Bà. Vị khách ngắm nghía ngôi nhà thờ lớn nhất miền Nam, gật đầu có vẻ vừa lòng. Sau đó tự nhiên ông ta hỏi tôi:

- Tôi đoán trước năm bảy lăm ông bạn là một luật sư?

Tôi giật mình kinh ngạc:

- Vâng, trước đây tôi theo ngành luật. Nhưng tại sao ngài lại biết điều đó?

Ông ta cười trả lời:

- Tôi biết những điều người khác không biết.

Xe về tới đường Ðồng Khởi và từ từ táp vào lề trước khách sạn. Các cô tiếp viên ra đón, xách giùm va ly cho khách. Ðích thân ông giám đốc cùng nhiều người khác dẫn vị quý khách lên lầu, giới thiệu từng ưu điểm của căn phòng hạng nhất, sang trọng.

Lúc tôi xuống, ông giám đốc đứng nán lại chờ ở chân cầu thang, thân mật vỗ vai tôi:

- Khá quá, cậu được việc quá. Tôi đã nghe báo cáo đầy đủ. Từ nay tôi cử cậu đặc trách bám sát ông ta. Công việc đâu đấy xong xuôi, tốt đẹp tôi sẽ trích số tiền hoa hồng thưởng cho cậu và cả bên công ty đầu tư nữa. Tôi không quên đâu.

- Vâng, xin cám ơn ông giám đốc.

Kể từ hôm ấy, tôi luôn luôn đi kèm với vị khách Nhật. Hình như đối với tôi, ông ta cũng có chút biệt đãi. Mỗi lần tới công ty đầu tư hoặc thăm các cơ sở, máy móc thiết bị của người Nhật, gặp gỡ ban giám đốc các cơ quan, lẽ ra tôi phải ngồi phía sau lưng như một thông dịch viên, ông ta giới thiệu tôi là một người bạn luật sư, bảo tôi ngồi bên cạnh và luôn luôn xem xét, bàn bạc với tôi. Người nước ngoài họ khôn lắm, dưới con mắt của một luật sư, tôi thấy rõ có những điều mới nhìn mình tưởng họ dại, sự thực họ nhường một bước để nhảy một trăm bước.

Trong khi đó, về phía bên mình, tôi không nói rằng họ dại nhưng tôi nói họ lanh. Lanh một cách khôn ngoan vặt, tiến một bước theo kiểu ‘thắng lợi tinh thần’ trong A.Q. Chính Truyện của Lỗ Tấn, sau này sẽ thiệt một trăm bước hay nhiều hơn. Toàn những ông thầy dùi cấp dưới, láu cá vặt mà cứ tưởng mình thông minh làm ‘cố vấn’ mà thôi. Quan hệ quốc tế không thể dùng các bộ óc láu cá vặt. Phải có kiến thức, phải có trí tuệ. Nếu không, được lợi về sợi dây thong thì sẽ mất cả con trâu. Gặp trường hợp đó tôi chỉ im lặng. Tôi không có quyền được góp ý kiến. Tất cả đều biết tôi chỉ là anh bồi khách sạn, nể khách nên họ cho tôi được ngồi cùng bàn một cách khiêm tốn, tất nhiên không được quyền góp ý kiến.

Một lần thấy họ ‘khôn ngoan’ quá, tôi kể cho vị khách nghe một đoạn trong Tam Quốc Chí - một tác phẩm cổ điển lớn của Trung Quốc rất quen thuộc với người Việt Nam: Tào Tháo dàn gần một triệu quân trên sông Trường Giang định chiếm Ðông Ngô. Chu Du, đại tướng Ðông Ngô muốn dùng hỏa công để phá quân Tào nhưng lại sợ các chiến thuyền Tào rời rạc, chạy kịp, đốt không hết được; bèn nhờ Bàng Thống xúi cho thuyền Tào kết lại với nhau. Giữa lúc ấy, quân Tào không quen thủy thổ, say sóng. Tào Tháo hỏi kế. Bàng Thống ‘xúi khôn’ là nên dùng vòng sắt kết các thuyền lại từng mảng, lót ván bên trên người ngựa đi được, quân sẽ hết bệnh. Tháo mừng lắm, nghe lời. Ra tới bờ sông, Thống bị một người nắm áo giữ lại: “À anh này gớm thật, dám xúi Tào Tháo kết thuyền cho Chu Du đốt! Tháo nó ngu, bộ anh tưởng chúng ta hết người không ai biết mưu kế của anh hay sao?” Bàng Thống giựt mình nhìn lên, thấy đó là Từ Thứ.

Rồi tôi kết luận: Ðất nào cũng có kẻ sĩ. Nước nào cũng có kẻ sĩ. Chẳng qua chúng tôi không được sử dụng phù hợp khả năng như bên các ông. Xin ông đừng nghĩ chúng tôi hết người.

Ông ta nhíu mày:

- Có, tôi hiểu. Và tôi nghĩ đó là một trong những điều đáng buồn. Chúng tôi muốn làm ăn một cách cân xứng, không muốn ‘đốt’ ai cả. Nhưng quy luật làm ăn, nếu họ tự đốt thì họ phải chịu.

Vị khách lâu nay gần như chỉ nói tiếng Anh, không nói tiếng Nhật.

Một lần khác, ông ta mua tặng tôi một chiếc đồng hồ Seiko five giá bốn mươi lăm đô, tức gần năm trăm ngàn đồng Việt Nam. Tôi cười nói đùa:

- Ðây là ‘phần thưởng’ cho sự im lặng của tôi?

Ông ta cũng cười, lắc đầu:

- Không đúng. Dù không thưởng thì các ông vẫn đứng ngoài rìa, giữ vai trò của người im lặng, không cần phải thưởng.

- Vậy thì tôi đã có đồng hồ của tôi rồi.

- Nó đã cũ, nên dùng đồng hồ mới. Hãy tặng chiếc cũ cho một người bạn nào nghèo của ông nếu họ cần tới.

- Vâng, xin cám ơn, tôi sẽ làm như vậy.

Công việc ký kết hợp đồng tiến triển tốt đẹp. Tôi nhận được phong bì ‘ứng trước’ do ông giám đốc khách sạn trao. Ông bảo tiền hoa hồng dành cho tôi khá hơn, tính theo ngoại tệ, ông ứng trước một phần để tôi xây xài. Trên nguyên tắc, nếu chúng tôi giới thiệu được khách cho khách sạn thì được hưởng năm phần trăm, kêu là tiền huê hồng, tính theo tổng số tiền phòng các ngày khách đã ở trong khách sạn. Ðằng này tôi không giới thiệu nhưng ông giám đốc cũng tính theo tỷ lệ đó, coi như tiền thưởng. Làm ở những chỗ có đô la ra vô thì sướng thế đấy, toàn những món bất ngờ mà mình được hưởng chứ tôi có công gì đâu. Ðồng thời ông cũng cho tôi, biết còn hai ngày nữa, tức sáng thứ Hai, ông khách sẽ lên máy bay về nước.

Hôm đó là chiều thứ Bảy, một buổi chiều thành phố thật đẹp. Mọi việc đã xong xuôi, vị khách Nhật hình như hơi rảnh. Ông nhìn qua khung cửa kính, có vẻ suy nghĩ và bảo tôi:

- Ông bạn luật sư thân mến - ông vẫn nói tiếng Anh, không dùng tiếng Nhật - t ôi sắp về nước. Tôi nghe nói người Việt Nam có món ‘thịt cầy’ (dog meat) ngon lắm. Nếu ông bạn vui lòng hướng dẫn tôi đi thưởng thức được thì tôi rất lấy làm sung sướng.

Tôi ngạc nhiên trợn tròn mắt:

- Dog meat? Theo… theo ý ông nói, đó... đó là món… ‘Thịt của con chó?’

Ông ta mỉm cười:

- Ðúng vậy, ‘thịt của con chó’, nếu tôi không lầm.

Ðoạn, ông ta nói tiếp:

- Theo tôi hiểu, nhà văn Trung Quốc Lin Yutang (Lâm Ngữ Ðường) có lẽ cũng thích món ‘thịt của con chó’ nên ông ta viết một truyện ngắn rất nổi tiếng lấy tên ‘Tướng Quân Thịt Chó’, tôi có đọc qua.

Ối giời ơi, thế này thì chết. Tôi như từ trên trời rơi xuống đất. Mặc dầu gốc dân Thái bình Thái lọ, rất khoái cái món ‘nai đồng quê’ nhưng tôi giải thích cho ông khách oái oăm biết rằng thường thường các quán ‘nai đồng quê’ không phải là những nhà hàng sang trọng, nếu chúng tôi dẫn khách đến đấy, lỡ có chuyện gì xảy ra thì sẽ bị cho nghỉ việc.

- Tất nhiên, ngoài món ‘dog meat’, chúng tôi còn có các đặc sản khác như ếch chiên bơ, cua rang muối, rắn xào lăn v.v... rất ngon, chúng ta nên đến đấy thì tốt hơn.

Ông ta gật đầu:

- Cũng được. Nhưng chỉ có ông với tôi đi thôi. Và tôi lái xe.

- Ối giời đất ơi, lại nguy hiểm nữa. Tôi báo cáo với ban giám đốc.

Ông quản lý lắc đầu lè lưỡi:

- Chết, ông ấy có biết đường đâu mà lái? Người nước ngoài mà lái xe trên đường phố Sài Gòn thì coi như tiêu luôn sinh mạng. Thôi, ông Trình cố nói kheo khéo giành lấy tay lái.

Tôi lái xe. Ông giám đốc Nhật ngồi bên cạnh cứ tủm tỉm cười vì nghe tôi kể lại những lời của ông quản lý. Chúng tôi tới quán Thanh Sơn ở đường Nguyễn Cư Trinh. Ðây là hậu thân của quán Ba Thừa ở đường Bùi Viện ngày trước. Thanh Hải, Ba Thừa trước đây thường rất nổi tiếng với món la-de đặc - la-de ướp lạnh đến mức tự nó đông lại, phải vỗ vỗ đáy chai cho chảy ra, không phải bỏ đá - và những món đặc biệt miền Nam như cua rang muối, ếch chiên bơ như đã kể trên.

Chúng tôi đang ăn, ông khách Nhật luôn luôn gật đầu tấm tắc khen ngon thì bọn trẻ bán thuốc lá, bán vé số nghe tiếng nước ngoài bèn bu lại mời mua. Ông ta lấy một gói ‘ba số’ và đưa tờ năm đô la.

- Nô, nô, cái này năm chục ngàn, cái này có mười mấy ngàn, hổng đủ tiền thối!

Ông ra hiệu cho cả, tụi nó mừng rỡ ‘thánh kiu’ rối rít rồi kéo nhau đi. Một đứa khác tới trễ không được chia phần bèn để cả xấp vé trước mặt ông, tỳ tay như nằm nửa người trên bàn mời mua bằng được. Ông lắc đầu.

- Ông này sắp về nước không mua vé số đâu em ạ.

Cậu thanh niên chạy bàn hình như con trai ông bà chủ tiệm đi ngang bèn ‘bợp’ nhẹ cho nó một cái, đuổi nó ra ngoài. Ối cha, lúc nó đứng dậy, khuỷu tay loạng quạng thế nào đụng phải đĩa lươn um, hất ráo xuống quần tôi. Nóng thì không nóng nhưng bẩn. Nhòe nhoẹt. Tôi bực quá đâm gắt:

- Thấy mẹ người ta… Ðã bảo mà! Làm thế nào bây giờ?

Nhà hàng đem thau nước ra lau giùm. Xong, ông khách mỉm cười, im lặng ngồi hút thuốc lá. Cái mặt tôi lúc đó chắc ‘dễ thương’ quá. Ông hỏi:

- Bạn vừa mới nói ‘th-ay me’ (thấy mẹ). Vậy ‘th-ay me’ là gì? Một tiếng lóng hay một câu chửi?

Trời đất, đang bực, đến bố tôi cũng không biết ‘thấy mẹ’ là một tiếng lóng hay một câu chửi. Tôi trả lời đại ‘thấy mẹ’ là... ‘see mother!

Ông ta lắc đầu:

- No, it isn’t. In Vietnamese, ‘thấy mẹ’, it means...

Tôi giật mình. Hai tiếng ‘thấy mẹ’ ông ta phát âm tiếng Việt rất chuẩn... y như người Việt. Tôi ngạc nhiên:

- Do you understand Vietnamese?

Ông ta mỉm cười, gật đầu:

- Yes, I know very well. Because...

Rồi như không nín cười được nữa, ông ta bỗng cười sằng sặc và... tuôn ra một tràng tiếng Việt pha lẫn tiếng chửi:

- Bởi vì tao là một thằng người Việt trăm phần trăm không có tí ti máu nước ngoài nào hết. Cái thằng ngốc! Tao với mày học với nhau hằng bao nhiêu năm ở Chu Văn An mà mày không nhận ra tao. Rõ thật!...

Một tia sáng chợt thoáng qua trong óc tôi:

- Cậu... cậu là thằng Quân đen?

- Chứ còn đứa nào vào đây nữa!

- Hèn chi...

- Hèn chi cái gì?

- Tớ hơi ngờ ngợ, trông cậu quen quá, ngay từ lúc đầu mới gặp cậu ở chân cầu thang máy bay.Thì ra...

- Thì ra ‘cố nhơn’ phải không? Còn tớ, vừa trông thấy cậu tớ nhận được liền.

- Xin lỗi, tại tớ yên trí cậu là một tay giám đốc người Nhật. Hơn nữa cậu lấy tên Kwann Tae Palms...

- Dễ lắm, cậu nhớ tên tớ là gì không? - Phạm Thế Quân. Lúc nhập quốc tịch Mỹ tớ đùa nghịch đổi cái tên Quân Thế Phạm thành Kwann Tae Palms chơi chơi cho vui, chỉ có vậy thôi không có gì khó.

- Cậu quốc tịch Mỹ, không phải quốc tịch Nhật?

- Ừ. Vợ tớ người Nhật.

Quân kể cho tôi nghe: Hồi đó học xong Kỹ sư Phú Thọ, hắn được bổ đi làm kỹ sư công chánh tại một tỉnh miền Trung xa lắc. Ngày 30 tháng 4, gặp tàu, hắn nhảy sang Mỹ, vừa đi làm vừa cố gắng học về ngành điện tử. Trong trường hắn học có một cô nữ sinh viên người Nhật, hai bên quen nhau, thương nhau, sau khi tốt nghiệp bèn làm đám cưới. Hắn leo dần lên được chức phó giám đốc của một công ty Mỹ. Vợ chồng hắn có đứa con gái đầu lòng, bố mẹ vợ hắn viết thư giục thu xếp đem con về chơi bên Nhật. Té ra bố vợ hắn là một nhà tư bản, tổng giám đốc một công ty lớn có nhiều chi nhánh ở Nhật cũng chuyên về điện tử. Bây giờ vợ chồng hắn đã có đứa con thứ hai - con trai - rất xinh và hiện hắn đang làm giám đốc một công ty chi nhánh cũng nằm dưới quyền ông già...

- Ông bố vợ tớ lớn tuổi nên cẩn thận lắm cậu ạ. Cử tớ sang Việt Nam nhưng lại sợ tớ người Việt, phía bên này sẽ ỷ y, bởi vậy ông ra lệnh cho tớ phải nói toàn tiếng Nhật và đánh tiếng rằng ‘ông giám đốc’ đã già nên rất khó tánh.

- Tớ hiểu. Người nước ngoài họ vẫn thận trọng như vậy.

Hắn cười hề hề:

- Tiếng Nhật thì tớ cũng tà tà như cậu vậy thôi, do vợ tớ dạy. Sang bên này gặp cậu, tớ mừng lắm. Không ngờ sau bao nhiêu năm, hai thằng chó chết tụi mình gặp nhau...

- Cậu tạo sự nghiệp bằng hai bàn tay, không phải là một thằng chó chết.

- Chó chết chứ sao lại không chó chết? Một đời du tử...

Gương mặt hắn hơi buồn. Hắn khẽ thở dài: Tớ xin lỗi cậu về việc làm mặt xa lạ, bữa nay mới bày chuyện ‘dog meat’ để gặp riêng cậu. Từ hôm gặp cậu tớ rất mừng, đinh ninh thế nào cũng sẽ nhờ cậu một việc...

- Chuyện gì? Tớ sẵn lòng.

- Như cậu biết đấy, tớ còn một bà mẹ già. Năm nay bà cụ tớ đã tám mươi mốt tuổi, đôi mắt đã lòa, ở với ông anh cả tớ ở Nam Ðịnh ngoài Bắc. Tớ thương mẹ tớ lắm.

- Có, tớ hiểu. Làm con thì ai cũng thương cha mẹ.

- Cám ơn cậu. Ngày trước gia đình tớ cũng nghèo như gia đình cậu. Bà cụ tớ thắt lưng buộc bụng, lai xai lưới xưới buôn bán mấy trái cam trái quýt với đứa em gái tớ ở chợ Bà Chiểu, nuôi tớ ăn học. Tớ mới tốt nghiệp, có thể nói là chưa báo hiếu gì được, đến lúc hữu sự thì lại nhảy đi sống lấy một mình không biết gì đến mẹ. Ðiều đó tớ rất ân hận. Cách đây mấy năm tớ có viết thư về quê liên lạc được với ông anh cả tớ. Từ đấy tớ luôn gửi quà và tiền về để gia đình ông anh có phương tiện phụng dưỡng mẹ tớ. Nhưng tiền bạc là một chuyện mà tình cảm gia đình lại là một chuyện khác.

- Cậu nghĩ rất đúng. Rồi sao nữa?

- Tớ định nhờ cậu đem một món tiền khá lớn ra Bắc đưa cho ông anh tớ, giúp đỡ ý kiến ông ấy sửa sang nhà cửa, xây lại ngôi từ đường khang trang đẹp đẽ theo ý muốn của bà cụ, và nói với cụ rằng tớ hứa nội trong năm tới thế nào cũng thu xếp đem vợ con về Việt Nam thăm mẹ.

- Ðược.

- Tớ đã nói với tay giám đốc khách sạn là nhờ cậu ra Hà Nội xem xét giùm tớ tình hình giấy tờ ngoài ấy ra sao, có cần gì sửa chữa không. Tay giám đốc rất đồng ý. Việc đó rất dễ, với con mắt một luật sư cậu chỉ liếc qua là biết liền có khi còn hơn tớ nữa. Rồi cậu sẽ liên lạc với tớ sau. Nhưng chuyện chính là về Nam Ðịnh, tớ giữ kín không cho ai biết. Khoảng chín giờ sáng mai tớ đem tiền đến nhà cậu, ở chơi một ngày, tụi mình chuyện trò thật kỹ. Cậu nắm vững mọi việc rồi là sáng thứ Hai tớ lên máy bay về Nhật. Bà cụ cậu vẫn khỏe chứ?

- Cám ơn cậu, bà cụ tớ còn nhưng năm nay đã bảy mươi chín, kém bà cụ cậu hai tuổi, không được khỏe lắm. Thỉnh thoảng cụ vẫn nhắc cậu Quân không biết bây giờ ở đâu, tớ nói có lẽ bên Mỹ.

- Thế này nhé, lát về cậu đưa tớ ghé vào chào cụ một chút rồi mai tớ đến. Cậu vẫn ở Tân Ðịnh?

- Ừ.

Hôm sau hắn tới. Buổi chiều, ăn cơm xong, hắn ngồi một mình ngoài hiên trên lầu bên thành lan can. Nhà tôi vắt hai ly cam tươi bưng ra. Hắn mỉm cười nhìn tôi, khe khẽ lắc đầu:

- Chị cẩn thận giống hệt nhà tôi ở bên Nhật... À này, Trình, cậu còn nhớ bài ‘Du tử ngâm’ của Mạnh Giao ngày trước cụ Tú Anh dạy tụi mình hồi lớp Ðệ thất Ðệ lục ở Chu Văn An không nhỉ?

Tôi cười:

- Nhớ chứ! Không thuộc, không viết ra chữ, cụ mắng muốn chết. Ðứa nào mà chẳng nhớ...

Tay hắn đang cầm cây que. Hắn gõ nhè nhẹ lên chiếc song sắt trên thành lan can và đọc khe khẽ:

Từ mẫu thủ trung tuyến

Du tử thân thượng y

Lâm hành mật mật phùng

Ý khủng trì trì quy

Thùy ngôn thốn thảo tâm

Báo đắc tam xuân huy

(Sợi chỉ trong tay mẹ hiền

May thành chiếc áo trên thân người con du tử

Lúc con ra đi mẹ khâu thật kỹ

Vì sợ lâu ngày con chậm trở về

Nào ai dám nói một tấc lòng của cỏ

Có thể báo đáp được ánh dương của ba tháng xuân?)

- Mỗi lần nhớ tới bài thơ ấy tớ lại ứa nước mắt, cậu ạ.

- Chuyện, thơ Ðường. Ngay đến cụ Nguyễn Du cũng còn phải mượn ý viết thành câu thơ trong truyện Kiều: ‘Dám đem tấc cỏ báo đền ba xuân’ huống chi tụi mình!

Hắn thở dài:

- Ở bên Nhật, hễ bận thì thôi, cứ lúc nào rảnh đầu óc tớ lại miên man nghĩ tới hình ảnh ba mẹ con tớ lúc mới di cư vào Nam. Ông cụ tớ mất sớm hồi gia đình còn ở ngoài Bắc. Mẹ tớ một thân một mình tần tảo nuôi tớ ăn học. Con Chi, em gái tớ (chắc cậu đã biết), lúc ấy hãy còn nhỏ mới lên bốn; còn tớ lên sáu. Khổ lắm. Mẹ tớ trước bán bánh cuốn, sau bán trái cây ở chợ Bà Chiểu. Lúc tớ thi đậu vào lớp đệ thất trường Chu Văn An là lúc mẹ tớ đã dành dụm được chút đỉnh, không phải bữa đói bữa no vậy mà như cậu thấy, trong túi tụi mình hàng ngày đi học chẳng có đứa nào có lấy một xu. Thỉnh thoảng bà cụ tớ hay bà cụ cậu cho một đồng thì hai đứa mình chia nhau uống chung một ly nước mía. Bà cụ tớ quý cậu lắm. Nay hai mắt cụ đã lòa...

- Có, tớ biết. Hôm ông anh cả vào chơi đón cụ ra Bắc, tớ có đi tiễn. Ông anh mua vé tàu hỏa Thống Nhất, ghế ngồi, bảo sẽ xuống ga Nam Ðịnh. Thấy đông người quá, trong tàu chật như nêm cối, ghế cứng mà lại phải ngồi ba ngày ba đêm không được nhúc nhích, tớ chảy nước mắt. Cụ cũng khóc, đưa hai tay quờ quạng sờ mặt tớ và nói sẽ chẳng bao giờ có dịp gặp lại...

Quân chớp mắt, hắn cúi mặt như cố che giấu một cái gì đó đang dâng lên trong cổ họng, sau khẽ thở dài nói nhỏ với tôi:

- Tớ chỉ lo mẹ tớ mất trước khi tớ về, cậu ạ. Ra ngoài ấy cậu nhớ lạy mẹ tớ một lạy, xin cụ tha thứ cho tớ và nói, năm tới thế nào tớ cũng về thăm mẹ, càng sớm càng tốt.

- Ðược, cậu cứ yên tâm.

- Ðược ngồi ăn cơm với cụ và vợ chồng cậu tớ cảm động lắm. Tớ mong được tự tay xé thịt gà để riêng ra đĩa, tiếp vào bát cho bà cụ tớ cũng giống như cậu. Mẹ tớ hai mắt đã lòa...

Thế rồi sáng thứ Hai, hắn lên máy bay về Nhật thì sáng thứ Ba tôi ra Hà Nội. Tôi đi xe lửa, vé nằm, loại tàu nhanh hai ngày hai đêm, không đi máy bay vì tính tôi quen tiết kiệm. Những lúc ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh núi non hùng vĩ của vùng đèo Hải Vân, đèo Ngang, đầu óc tôi cứ vương mang nghĩ tới hình ảnh lúc hắn lên máy bay.

Chúng tôi đưa tiễn, hắn giơ tay chào tạm biệt ‘Sayônara!’ Rồi trong lúc mọi người không để ý, hắn kín đáo chắp tay lạy về phía tôi một lạy. Tôi hiểu ý nghĩa của cái lạy đó nên chỉ gật đầu cho hắn yên tâm và giơ tay chào tạm biệt: ‘Sayônara!’ Bây giờ tôi có bổn phận đem cái lạy đó ra Bắc, cùng với lời dặn hắn sẽ trở về. Và đầu óc tôi cứ miên man nghĩ đến bài ca của người du tử:

Từ mẫu thủ trung tuyến

Du tử thân thượng y...

Người con nào thì cũng thương mẹ. Tôi yêu bài thơ đó lắm.

ĐỖ THIÊN THƯ st.


Phụ Bản II

8-3 NGÀY KỶ NIỆM

CUỘC KHỞI NGHĨA

của HAI BÀ TRƯNG

Mùng 6 tháng 2 âm lịch: kỷ niệm ngày mất của Hai Bà. Những đền thờ Hai bà trong cả nước vẫn nhớ ngày 6-2 (Âl.) tưởng niệm ngày Hai Bà nhảy xuống sông Hát để khỏi rơi vào tay giặc.

Hiện nay Nhà nước đã quyết định chọn ngày 8-3 là ngày kỷ niệm cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.

Hai Bà họ Trưng ở huyện Phong Châu đất Mê Linh. Gia đình có nghề chăn tằm. Trong nghề này gọi kén đầy là kén trắc, kén mỏng là kén nhì. Tên gọi chị là Trắc, em là Nhị có xuất xứ như thế.

Thời ấy Tô Định cai quản đất Giao Châu rất tham bạo, dân chúng chịu sưu cao, thuế nặng. Tô Định giết chồng của bà Trưng Trắc là Thi Sách, vì ông đã đứng về phía đồng bào chống đối chính sách hà khắc, tàn bạo của Tô Định. Sẵn nợ nước lại thêm thù nhà, bà Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị dấy binh vây hãm Giao Châu bình định được 65 thành rồi tự lập làm vua đóng đô ở Ô Diên Mê Linh (năm 40). Tô Định thua bỏ chạy về Nam Hải. Hán Quan Vũ sai hai dũng tướng là Mã Viện và Lưu Long cùng với đoàn quân tinh nhuệ thay thế.

Trước thế giặc quá mạnh, Hai Bà thua trận chạy đến sông Hát thì Hai Bà trầm mình.

THANH VĨNH

ĐI QUA TỪNG NGÀY

Ta đếm mỗi ngày

Bằng những bước chân chậm rãi

Những bước chân như không nỡ rời

Từng ngày qua

Từng ngày xa

Ngày nối ngày

Có thể đầy sắc vị

Có thể lướt qua như một thoáng mơ hồ

Cũng có thể mở tung cánh gió

Cất tiếng lòng rộn rã giữa không trung

Ngày đi qua có thể đỏ xanh vàng tím

Ngày đi qua có thể chua chát ngọt cay

Có ra sao cũng thể cuộc sống này

Ta trải nghiệm từng ngày thao thức

Đầy hay vơi

Đậm hay nhạt

Những sắc độ phân ly đều có từng giá trị

Cho ta gom lại làm kỷ yếu của lòng

Và cứ thế

Nhẩn nha ta đi qua mỗi mỗi

Bằng những bước chân chậm rãi

Những bước chân đong đếm từng khấc đoạn thời gian

Ngơ ngẩn những xanh vàng.

ĐÀM LAN

XIN

Chúa hỡi cho con được yêu Người
Đã bao lâu tình con chơi vơi
Tình con mộng ước hằng chôn dấu
Cõi tình khao khát giấc đơn côi !

Phạm Thị Minh-Hưng

ƯỚC MƠ

Tình luống xa xôi mấy dặm trường
Bâng khuâng ngày tháng mối sầu vương
Ơi bao kỷ niệm tràn nhung nhớ
Tiếng hát vang vang... nỗi giận hờn...
Xa cách ngàn trùng đâu bến mộng
Thầm mơ gần gũi nẻo Quỳnh hương
Cùng người mơ cạn bầu thi tửu
Ấm chút tình xa vắng. Nhớ thương...

Phạm Thị Minh-Hưng

Hương xuân

Bỗng ngây ngất câu thơ không kịp viết

Phấn thông vàng theo gió phủ bờ vai

Cả rừng cây ngơ ngác thoáng u hoài

Thu thay áo suối reo cung nhạc biếc

Bỗng ngây ngất câu thơ không kịp viết

Núi vươn cao sau giấc ngủ mơ màng

Mây long lanh uống nắng đổ mênh mang

Hoa tan tác bướm buồn đau thắm thiết

Bỗng ngây ngất câu thơ không kịp viết

Tiếng chim non ríu rít đọng trên cành

Hoa nghiêng mình chào đón mảng trời xanh

Mùa xuân đến tơ lòng ta bất diệt

Bỗng ngây ngất câu thơ không kịp viết

Thông rì rào… nức nở khúc tình ca.

NGÀN PHƯƠNG

Chờ nắng

Một mình thơ thẩn trong sân vắng
Một bông hoa nở xòe cánh trắng
Lẻ loi xóm vắng lòng xao xuyến
Tôi, một mình tôi chờ giọt nắng !

Đợi nắng

Sài Gòn tháng sáu mưa bụi bay
Mặt trời he hé trốn trong mây
Sáng nay chợt thấy lòng vương vấn
Đợi ánh nắng vàng ! Hãy đến đây !

Tháng tư

Có một ngày tháng tư
Một ngày ta bối rối
Trên đường ta bước vội
Đổi thay cả cuộc đời.

Huỳnh Thiên Kim Bội

TÌNH XUÂN

Nắng ấm, xuân về lắm ước ao

Bầy chim chào đón hót lao xao

Bướm ong lẩn quẩn vờn bông gió

Đẹp đẽ người em thắm má đào

*

Tình ơi ! trẻ mãi tuổi thơ ngây

Tha thướt nhành mai thoảng gió mây

Cười nụ hoa hồng sao đắm đuối

Thương em mộng mị cứ vơi đầy

*

Liệng bay cánh én rộng trời cao

Hạnh phúc nhân sinh sao hụt hao

Ai biết có ai về chốn ấy

Gởi lời nhung nhớ để mừng khao

*

Tết đến không gian đượm ngọt ngào

Mai vàng lướt gió, nắng hoa đào

Hương xuân rải khắp niềm thân ái

Vắng bóng người xưa bước xuyến xao !...

Thanh Châu

HỌC HÀNH

Học lễ nghĩa là trước tiên

Học hành đạo đức là duyên vững bền

Học rèn ý chí thì nên

Học chăm luôn nhớ đừng quên câu nầy

Học cho trí sáng thêm dầy

Học ngoan thành quả tròn đầy nghĩa nhân

Học thêm tiến bộ chuyên cần

Học sâu thoát cảnh cơ bần tiến lên

Học nên sự nghiệp vững bền

Học tốt bài giảng làm nên giúp nhà

Học sửa tánh nết xấu xa

Học biết xa lánh điêu ngoa gian tà

Học thầy lẽ phải điều hay

Học thêm bè bạn chung tay giúp người

Học mãi đức độ ở đời

Học tâm yên dạ nụ cười nở hoa

Học thức thích sống dung hòa

Học cao hiểu rộng bao la tình trường.

QUANG BỈNH

TAM TẠNG

ĐI THỈNH KINH

Cam phận Đường Tăng đi thỉnh kinh

Quýt tâm mộ đạo - khổ thân mình

Cầu mong bá tánh - tâm tu niệm

Dừa được Đường Vương - trộng nghĩa tình

Đủ đức, Huyền Trang - Tam Thái Tử

Xoài Trư Bát Giới, Ngộ Không trình

Bao năm lận đận - tìm chân lý

Thọ giáo Như Lai - trí huệ minh.

PHƯỚC HẢI

(Xuân Kỷ Hợi 1-1-2019)

ĐÁNG TÔN VINH

Hai lần phụ nữ được tôn vinh

Tổ chức suy ra cũng hợp tình

Ngày tám tháng ba theo quốc tế

Tháng mười hai chục Việt Nam mình

Thời kỳ phong kiến còn nam trọng

Dân tộc tự do hết nữ khinh

Hăng hái giữ gìn xây dựng nước

Công lao rất lớn đáng hoan nghênh.

THANH VĨNH

VÌ ĐÂU ?

Lòng tham dẫn đến vô minh

Làm ta quên mất chính mình là ai ?

Chúng ta làm chủ bản thân

Để cho cuộc sống được phần an vui

Hãy đừng làm sự khổ đau

Yêu thương, hiểu biết với nhau chân tình

Mê theo sự nghiệp công danh

Vì tham muốn quá tranh giành hại nhau

Người đời mãi mãi khổ đau

Bình tâm suy ngẫm vì đâu mắc vào ?

LÊ MINH CHỬ

THƠ SỰ ĐỜI

Thể thơ mới tự do phóng khoáng

Với ngôn từ giản dị, tự nhiên

Ta và thơ chắc hẳn có duyên

Nên tình mới càng sâu, ý đậm

Phản ánh cuộc sống, tâm tư, nguyện vọng…

Ca ngợi cái đẹp, phê phán khoa trương

Gần gũi với đời thường

Người đồng cảm thì thấy mến thương

Ai yêu ai ghét mặc lòng

Ta vẫn bền bỉ theo dòng… nổi trôi

An nhiên đứng vững giữa đời

Thuận theo thiên chức mà trời phú cho.

LÊ MINH CHỬ

BỒNG LAI PHỤC HIỆN

Tặng LÊ BÍCH

Người đàn bà qua sa mạc đời trai

Vú trễ tràng không chút mỡ màu con gái

Đêm trở gió phạm quy điều khờ dại

Nước xuân xưa bợt bạt sắc màu

Ngày rất thu nắng hồng ve vuốt mo cau

Đi lại giấc mơ cậu bé bắn viên bi rập rờn hy vọng

Lũ con gái bên kia sông hồn nhiên đùa sóng

Da trinh nguyên lật ngửa mảng trời chiều

Lốm đốm trắng đen ướt sượt hoang liêu

Thiếu phụ khỏa thời gian dụ dẫn miền lăn cóc

Tiết trời đa đoan hồi sinh xuân mời mọc

Gã trai si tình phục hiện một Bồng Lai.

Nguyễn Tấn Thái

HOÀI NIỆM

Trời chiều lữ khách biết về đâu

Nhặt cánh hoa rơi trải mộng sầu

Số kiếp phũ phàng nhiều lận đận

Tình duyên ngang trái lắm thương đau

Xót xa kỷ niệm ngày xanh tóc,

Khắc khoải tâm tư buổi bạc đầu.

Dừng bước viếng thăm người dưới mộ,

Tâm thành một nén hiểu cho nhau.

THANH PHONG

ĐẾN QUÁN HOA VÀNG

Tinh sương, tỉnh giấc mơ màng

Hẹn nhau đến quán Hoa Vàng đọc thơ

Tình cờ gặp lại người xưa

Hỏi thăm người ấy bây giờ ra sao

Ngậm ngùi lau nhẹ dòng châu

Rằng: Lang quân đã đi vài thiên thu.

THANH PHONG

MẤY LỜI

CHA HUẤN DẠY CON

Mấy lời cha huấn dạy con,

Khi xưa nhỏ bé chẳng cần nói chi

Bây giờ gái đã đến thì,

Những nơi “hoa nguyệt” chớ thì hở hang

Đàn ông có tính loàng quàng

Đàn bà thì phải dịu dàng nết na

Phòng khi nó bỏ tay qua,

Im đi thì dại nói ra mất lời ???

DƯƠNG TIẾN CẦN st.

KHUYÊN EM VÁY NGẮN

Em không đẹp lắm em ơi !

Nhưng vì váy ngắn “lên ngôi” cho đời

Ra đường lắm kẻ ôi thôi…

Sao đùi trắng vậy gợi đời thiết tha…

Mong em váy ngắn ở nhà

Đừng đến công sở ắt là chết anh !

Nhìn em Thủ trưởng cười dành

Thời cơ siết chặt mắt xanh yêu kiều…

DƯƠNG TIẾN CẦN

(08-3-2019)

BÓNG ĐÈN ĐÊM

Ngồi yên, đèn sắp lụn dần

Phòng sâu từng giọt bóng đêm xuyên rèm

Chạnh thương cô gái lai Xiêm

Tỏ bày chưa hết nỗi niềm cách xa

Gió xuân phơi phới đêm tà

Màu trăng khuya khoắt, bóng hoa lạnh lùng

Trông nhau chẳng thấy lối chung

Chiêm bao vẫn mớ ta cùng yêu đương.

LANG NGUYÊN

TIẾNG SÁO ĐÊM

Nơi nào thổi sáo đêm ngâu

Bên kia hàng trúc gởi sầu cho anh

Khúc nghe như liễu bẻ cành

Hay là có một mối tình ly tan

Cách sân người vẫn lặng im

Bên sông vằng vặc trăng xen bóng tùng

Ngoài hiên người ngẩn ngơ lòng

Gió êm nhè nhẹ lọt trong bức mành.

LANG NGUYÊN

Tình đơn phương

Tặng T.

Em vẫn nhớ thương nhiều
Dẫu biết không thể yêu
Người đã về bến khác
Đời trôi mãi đìu hiu

Em vẫn hoài kỷ niệm
Ngày đó còn đầy nguyên
Đường xưa trơn ướt lối
Nhưng nào có thành duyên

Em vẫn là em thôi
Người đã xa xôi rồi
Chúng mình chia hai ngả
Nghe buồn tím lên môi

Sầu đơn phương em nhận
Vì tình quá mong manh
Xin anh đừng hờn giận
Người trọn lòng yêu anh.

HOÀI LY

ĐƯA EM

VỀ TRONG ĐÊM

Khi hai bên đường nhà ai đèn sáng
Khi hai bên đường hàng cây ngủ yên
Những ngọn đèn vàng cúi đầu im lặng
Soi lòng ta nát nghiến dưới chân em

Ta đưa em về đường sương ngây ngất
Tội nghiệp vòng tay ta rất đỗi thừa
Ta là anh hùng vừa là đạo tặc
Giặc giã trong lòng ta em biết chưa ?

Chưa nói đã nghe lời ta thiếu thốn
(Trong tương lai nào ngọt tiếng trùng ca ?)
Chưa nói đã nghe lời ta nhỏ mọn
Em vẫn xa vời đi bên ngoài ta.

Ta đưa em về không gừng cay muối mặn
Đời vô tâm bứt rứt một mình ta
Em vô ý không nghe lòng biển động
Thôi em về

Ngọn sóng sẽ tan xa…

Thiếu Khanh

Saigon, đêm 12/12/1965

(Nghìn Xưa Để Lại)

NÀNG TIÊN CỦA TÔI

Nhớ mãi ngày xưa mới quen em
Sợ lắm nàng tiên lúc giận hờn
Khi ấy nom em sao đẹp lạ
Càng giận, ô kìa ! càng thêm duyên.

Nhớ lắm mắt nai nhuốm lệ rơi
Lặng im đến gió cũng bùi ngùi
Đan cho tóc ấy trôi hờ hững
Vương vào quặn thắt trái tim tôi.

Nhớ mãi ngày xưa những lối mòn
Hoa cỏ nhoẻn cười mắt ngó nghiêng
Bước chân dan díu đan đầy nắng
Đường về là ngút ngát linh thiêng.

Nhớ lúc mưa rơi đẫm vạt chiều
Ôm anh, em nói, ới anh yêu
Tay anh, lạy trời, sao ấm thế
Có biết lòng anh run rẩy nhiều…

Nhớ sáng xuân, em dặn đến nhà
Lo lắm: nói gì với mẹ cha ?
Ngại lắm bầy em thập thò ngó
Độn thổ chờ em mới… thở phà !

Nhớ cánh mai vàng vương trên tóc
Mỏng manh và rất đỗi dịu hiền
Bờ mi chớp khẽ, mai rơi mất
Chỉ còn ánh mắt nũng nịu sương…

Xuân này ta vẫn mãi bên nhau
Những chuyện ngày xưa vẫn thuộc làu
Có bao giờ em từng thủ thỉ
Cho con nghe chuyện ta ban đầu ?

LAM TRẦN

TRĂNG

Lâu ngày mới gặp Trăng

Trăng to tròn sáng tỏ

Trăng từ giải Ngân Hà

Đem hạnh phúc cho ta

Trăng soi xuống hạ giới

Đem niềm vui sáng tỏ

Cho tình yêu mặn mà

Niềm vui đến mọi nhà

Trăng hiền dịu hồn nhiên

Cho hương yêu thêm mới

Hạnh phúc có trăng tròn

Thêm thắm tươi tình đẹp

Đảo Thần tiên huy hoàng

Những đường cong huyền diệu

Đất trời bừng nở hoa.

PHÙNG CHÍ TÂM

Sài Gòn, 07/2009

XA VÀ GẦN

Khi em ở bên tôi

Sao cách xa vời vợi

Lúc em đã đi rồi

Lại thấy gần quá thôi

Xuân đến xuân đi vội

Không hái được nụ cười

Làm sao cầm giữ được

Giây phút ngát hương môi

Ơi em ! Em có biết ?

Bên nhau chẳng nói gì

Trăng Nguyên Tiêu đã hết

Sóng tình còn say mê

Nên dẫu xa và gần

Vẫn trong vòng sắc không

Là cỏ hoa của đất

Em cất giữ mùa xuân !

Tháng Giêng Đinh Hợi

LÊ NGUYÊN

THƯƠNG NHỚ EM TÔI

Giờ đây nhớ quá - Em xa xứ

Chị luôn đồng cảm - tấm chân tình

Nhưng sao vẫn mãi câm nín vậy

Có phải vì Em ? vương vấn tình !

Thủy chung ân nghĩa - trao nhầm chỗ !

Động lòng trắc ẩn - u uất sao ?

Chị muốn khuyên Em - hãy đón chào

Tương lai tốt đẹp - chờ Em đó

Công ăn việc làm suông sẻ thay

Dung nhan - Ngôn hạnh : Em đều đạt

Lâu lâu giải trí : ngâm thơ - hát

Vấn vương làm gì ? Có đáng không ?

Em nên trân trọng - ai tình nghĩa

Còn kẻ lọc lừa - xa lánh ngay

Chị cũng như Em - kiếp tha phương

Đôi khi nhớ quá : vọng cố Hương

Về thăm liên tưởng : thời xưa ấy

Kỷ niệm êm đềm - xót xa thay !

Phương xa Em hãy vui đi nhé

Suy nghĩ làm gì kẻ vô lương

Chị luôn gợi nhớ trong tâm tưởng

Xinh tươi - Duyên dáng - Sống thủy chung

Mượn Facebook tâm tình - Gởi Em yêu.

Người Chị xứ Huế kết nghĩa cùng Em xa xứ

VŨ THÙY HƯƠNG

NẾU LÀM ĐƯỢC

MỘT PHẦN TRĂM NHƯ THẾ

Tưởng nhớ nhà bác học Trương Vĩnh Ký

(1837-1898)

Tôi hỏi học sinh :

Cháu có biết gì về ông Trương Vĩnh Ký ?

Tôi hỏi trăm lần, trăm cháu trả lời : Không.

Thưa Tổ tiên của con cháu Lạc Hồng

Cần bao nhiêu thế kỷ

Sinh được một người như Ông ?

Ông lượm lặt, chắt chiu gìn giữ

Những mảnh vụn rời văn hóa cha ông

Và chăm bẵm từng từ, từng câu quốc ngữ

Nên hình hài mang hồn vía non sông !

Ông để lại cho đời

Số công trình gấp đôi tuổi Ông còn có lẻ

Nếu làm được một phần trăm như thế

Cũng đủ cho tôi xứng đáng là Người !

Vĩnh Long, 16-10-2011

VŨ ĐÌNH HUY

WERE I TO BE ABLE

TO PERFORM 1% OF WHAT HE’S DONE

Commemorating great scholar Trương Vĩnh Ký

(1837-1898)

I asked a student :

Do you know anything about Mr. Trương Vĩnh Ký ?

I asked one hundred times,

one hundred students answered : No.

Dear Ancestor of the Lạc Hồng race and of us,

the descendants

How many centuries would be necessary

To give birth to a Man like Him ?

He collected, nursed and preserved

All cultural smithereens of our forefathers

And cultivated each word, each phrase

of our national language

Giving it a shape bearing our Homeland’s soul !

He has left behind for posterity

A number of works that are more than the double

of His own age

Were I to be able to perform 1% of what He has done

It would be sufficient for me to be worthy of being a Man !

Vĩnh Long, 16-10-2011

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN

VÙNG CAO

Đỉnh núi mây trắng phủ

Quanh núi ngô mọc dày

Bé trên lưng mẹ ngủ

Dưới nắng trời gắt gay.

Tây Nguyên, 22-7-2010

VŨ ĐÌNH HUY

THE HIGHLANDS

White clouds covered the mountain top

Around the mountains maize grows real thick

On his mother’s back, little baby slept

Under the so intense heat.

Highlands, 22-7-2010

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN

TAM GIÁC VÀNG

ĐÃ YÊN BÌNH

Coi phim Bí mật Tam Giác Vàng dài 38 tập trên màn ảnh nhỏ, tôi mường tượng về vùng đất đầy bí ẩn. Nhân dịp dự hội thảo về thơ Hoa văn các nước ASEAN ở Thái Lan, tôi đã được toại nguyện.

Tam Giác Vàng ngày nay thật thanh bình. Nghe tiếng gà trưa cũng làm tôi bùi ngùi xúc động, vì con gà đó có thể mang 3 quốc tịch! Những trang sử đã sang trang được bảo tồn tại khu du lịch cho ta thấy, nơi đây từng là vùng đất dữ, mang lại chết chóc cho hàng triệu triệu người trên thế giới.

Đứng trên vùng 3 biên giới

Từ Chiang Rai đi về hướng Bắc 42km, đến Sop Kurak, cách huyện lỵ Chiang Saen 11km, điểm gặp nhau 3 biên giới Thái-Miến-Lào, từng là trung tâm Tam Giác Vàng khét tiếng một thời. Leo bậc tam cấp lên ngọn đồi cao chừng 100m, nơi đặt trạm quan sát, là nơi ngắm cảnh lý tưởng nhất. Trên đồi có dựng tấm bia bằng cẩm thạch cao 4m, ghi chữ Tam Giác Vàng bằng tiếng Anh và tiếng Thái, dưới có sơ đồ vùng Tam Giác Vàng.

Sop Kurak là nơi hợp lưu sông Mê Kông và sông Mae Sai. Tại đây, ta có thể phóng tầm nhìn qua 3 nước. Bên phải là thị xã Houei Xai thuộc tỉnh Bokeo của Lào khá sầm uất. Sau khi triệt hạ Tam Giác Vàng, chính phủ Lào đã xây dựng thành Đặc khu kinh tế Tam Giác Vàng, do một công ty Hong Kong đầu tư cả tỷ USD, trở thành điểm son của nền kinh tế Lào. Bên phải là đặc khu Kokang thuộc bang Shan Myanmar, là vùng rừng sâu núi thẳm, nên khá hẻo lánh. Trong lúc các nước lấn nhau từng tấc đất, thì ở giữa dòng có một cồn cát diện tích khoảng 1 ha, trông như bãi bồi Phúc Xá trên sông Hồng, từng là nơi đặt xưởng chế biến heroine của trùm ma túy Khun Sa, hiện giờ bỏ hoang, có lẽ chê mảnh đất dữ, nên không nước nào nhận chủ quyền.

Chính sách Thái Lan là “cấm đánh bạc nhưng không cấm sex”, nên phía Lào đã thừa cơ mở casino, thu hút lượng khách khá lớn từ Thái Lan qua. Thái Lan chỉ thuần túy khai thác du lịch, nhưng rất thành công. Phía Myanmar nóng mắt, cũng xây dựng một bảo tàng về Khun Sa nhằm cạnh tranh với Thái Lan, nhưng coi bộ còn non kinh nghiệm.

Trên đồi còn có pho tượng Phật lớn dát vàng và con voi - biểu tượng nhà Phật cùng một ngôi chùa nhỏ “Buddha of Chiang Saen” (Di tích Phật ở Chiang Saen). Tương truyền năm 1302, Đức Phật khi vân du thiên hạ từng ngồi nghỉ tại nơi đây.

Năm 2011, nơi đây từng xảy ra vụ trùm ma túy người Myanmar Naw Kham chặn cướp 2 tàu hàng Trung Quốc trên sông Mê Kông rồi xử bắn toàn bộ 13 người trên tàu, vứt xác xuống sông. Năm 2013, Naw Kham đã bị Trung Quốc bắt được và xử tử. Sự kiện bi thảm này đáng lẽ đã đi vào quên lãng, nhưng bạn đã lập bia ghi nhớ, khiến khu du lịch thêm đậm nét.

Bảo tàng thuốc phiện

Cách Sop Kurak 1km là Bảo tàng Thuốc phiện (House of Opium-Museum) rất độc đáo và lớn nhất thế giới, với kiến trúc 3 tầng trên diện tích 20ha, lọt thỏm giữa núi rừng. Để vào được bên trong Bảo tàng Thuốc phiện phải đi qua một đường hầm dài 137m xuyên ngang một ngọn núi. Đèn điện trong đường hầm sáng mờ mờ, tạo không khí rùng rợn. Hai bên vách là các bức phù điêu miêu tả cảnh thuốc phiện tàn phá con người, những thân hình tàn tạ, chết chóc, kêu khóc thảm thiết.

Đi hết đường hầm có khu vườn nhỏ ngăn cách với bên ngoài bằng nhà lồng kính trồng cây anh túc. Có lẽ ngay cả nhân viên bảo tàng cũng ngán “cô nàng” kiều diễm này, nên chăm sóc kém, trông rất èo uột. Dù sao, chúng tôi cũng được tận mắt nhìn thấy loại cây trước đây chỉ được thấy trên tranh ảnh. Nội dung trưng bày chẳng có gì đáng gọi là bí mật cả, nhưng không hiểu sao lại cấm quay phim chụp hình trên toàn bộ lộ trình. Nhưng tôi cũng nhanh tay chụp lén được bức hình hoa anh túc khi mọi người sơ ý.

Các phòng trưng bày đều có màn hình lớn và thuyết minh tự động lần lượt giới thiệu về lịch sử ra đời, sự tai quái tàn độc của loài cây anh túc. Lịch sử thuốc phiện thế giới nói chung và châu Á nói riêng, cảnh sản xuất, chế biến thuốc phiện, dụng cụ sử dụng ma túy Đông, Tây, kim, cổ, ảnh khuôn mặt hàng trăm nghệ sỹ, diễn viên, vận động viên nổi tiếng thế giới bị chết vì ma túy hoặc bị ma túy tàn phá, gian hầm các tượng sáp, cảnh hình ảnh ma túy tàn phá khủng khiếp con người: điên loạn, chém giết, vô luân.

Bảo tàng Thuốc phiện cũng cho thấy, “công đầu” thuộc về một bác sỹ người Anh tìm ra công dụng giảm đau của nhựa cây thuốc phiện, rồi ở thế kỷ 17, người ta hồn nhiên pha nhựa anh túc vào cà phê ăn với bánh ngọt, kẹo mút cho nó phê phê. Thế giới cũng không quên cuộc Chiến tranh Nha phiến giữa Trung Hoa và Anh, kết quả là Trung Hoa bị xâu xé. Rồi hình ảnh ông Lâm Tắc Từ, Tổng đốc Lưỡng Quảng thiêu hủy 1,2 triệu lạng thuốc phiện tại Hổ Môn, tỉnh Quảng Đông vào ngày 3.6.1848, lửa cháy suốt 20 ngày mới tắt.

Bảo tàng cũng đã thể hiện sự cố gắng của Thái Lan trong công cuộc diệt trừ ma túy: hoàng thái hậu Srinagarindra (1900-1995) từng đích thân đến vùng Tam Giác Vàng, vận động nông dân từ bỏ cây thuốc phiện, thay bằng các loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao; cựu Thủ tướng Thaksin cũng từng đến đây đôn đốc diệt trừ ma túy. Bảo tàng cũng tái hiện lịch sử Tam Giác Vàng từ hưng thịnh đến suy vong, cũng như cuộc đời các ông trùm ma túy, nhất là “vua heroine” Khun Sa.

Bảo tàng rất lập dị, trưng bày các logo, nhãn hiệu, thương hiệu heroine loại xịn nhất mà Tam Giác Vàng có thể phân phối đi khắp thế giới. Bảo tàng Thuốc phiện có lẽ là nơi duy nhất trên địa cầu có treo biển bán những thứ đồ có chữ opium (thuốc phiện), như cân tiểu ly bán thuốc phiện, bàn đèn, hộp đựng, ống điếu hút thuốc phiện… Tuy cái du khách mang về là đồ phỏng cổ sưu tầm, là hàng mỹ nghệ, quà lưu niệm, thuần túy thương mại, nhưng vẫn khiến tôi có cảm tưởng như họ khơi dậy những ký ức không mấy tốt đẹp.

Tam Giác Vàng thời hưng thịnh

Vùng Tam Giác Vàng rộng 195.000km2, bao gồm các bang Shan, Wa, Kachin của Myanmar, tỉnh Chiang Rai và phía Bắc tỉnh Chiang Mai của Thái Lan, các tỉnh Bokeo, Luông Nậm Thà, Udomxay và phía Tây tỉnh Luang Prabang của Lào. Tam Giác Vàng cùng với “Lưỡi Liềm Vàng” (Afghanistan, Tây Bắc Pakistan, Bắc Iran), “Tam Giác Bạc” (biên giới Colombia và Venezuela) là 3 nơi chính cung cấp gần như toàn bộ sản lượng ma túy trên thế giới.

Từ thế kỷ 19, người Anh đã phát hiện khu vực này thích hợp trồng cây anh túc, đã cử chuyên gia đến hướng dẫn các sắc tộc thiểu số trồng, chế biến, bao tiêu sản phẩm thuốc phiện bán sang Trung Hoa, trở thành ngòi nổ Chiến tranh Nha phiến (1848). Người dân nghèo khó vùng núi trồng cây gì cũng thất bại, nên cây anh túc đã trở thành nguồn thu nhập chính của người dân trong vùng. Do đường sá xa xôi hiểm trở, chính phủ 3 nước đành làm ngơ. Từ thuốc phiện Tam Giác Vàng, các “ông trùm” đã du nhập kỹ thuật tiên tiến, tinh luyện ra heroine có phẩm chất tốt nhất thế giới, được gọi là “Heroine Đông Nam Á” (SEA heroine). Vào thập niên 60 của thế kỷ trước là thời kỳ toàn thịnh của Tam Giác Vàng, đến năm 1991, sản lượng heroine vượt 3.000 tấn, đủ cho cả thế giới dùng trong 2 năm. Tam Giác Vàng còn là trung tâm sản xuất ma túy tổng hợp (ATS) và ma túy đá (ICE) cung cấp cho cả thế giới.

Sự kiện Khun Sa ra hàng, hoạt động sản xuất ma túy ở Tam Giác Vàng tuy chưa chấm dứt, nhưng đã chịu một đòn nặng, giáng xuống vị trí thứ hai thế giới sau vùng Lưỡi Liềm Vàng. Đến năm 2005 thì các nước có liên quan tuyên bố chính thức “khai tử” Tam Giác Vàng, nhưng qua vệ tinh viễn thám của Mỹ, Myanmar vẫn còn 20.000ha cây thuốc phiện dưới sự che chở của phiến quân Wa. Thế nhưng, anh túc lại bùng phát trở lại trong mấy năm nay khi diện tích trồng loại cây “ma quái” này tăng gấp đôi vào năm 2010 và chỉ 2 năm sau đã lên đến 50.000ha, chiếm 29% diện tích trồng anh túc của thế giới.

10g nhựa lấy từ vỏ trái xanh cây anh túc chế biến được 1g heroine, người nông dân bán được 3,2USD, nhưng đến được New York, giá vọt lên 500USD/g. Siêu lợi nhuận như vậy đã giải thích vì sao Tam Giác Vàng như Tề Thiên Đại Thánh, chặt đầu này lại mọc ra đầu khác. Vậy ai đã mở ra “chiếc hộp Pandora” thả ra bầy quỷ dữ?

Người mở ra “chiếc hộp Pandora”

Năm 1950, đoàn quân đói rách của sư đoàn (SĐ) 93 do tướng Lý Quốc Huy dẫn đầu mang theo cả vợ con bại trận ở Trung Hoa từ Vân Nam chạy sang Myanmar. Tướng Lý từng gửi điện cầu cứu chính phủ Đài Loan, kết quả là nhận được câu trả lời lạnh lùng “tự kiếm đường sống”. Giữa núi rừng trùng điệp tự kiếm sống bằng cách nào? Giữa lúc khốn cùng, nàng tiên Ả Phù Dung đã nở nụ cười quyến rũ. Ma đưa lối, quỷ dẫn đường, họ đã trở thành người mở ra “chiếc hộp Pandora”, bị lịch sử nguyền rủa.

Trồng cây anh túc vốn là nguồn sống của các dân tộc miền núi Myanmar từ thế hệ này qua thế hệ khác, nhưng chỉ dừng ở quy mô nhỏ lẻ. Tướng Lý đã triệt để khai thác lợi thế này; ông đã bảo kê, lấy xâu, đặt trạm thu thuế, hộ tống đoàn ngựa thồ hoặc tự mình tổ chức vận chuyển thuốc phiện qua ngả Thái Lan rồi lan tỏa khắp thế giới. Phương châm của ông là “lấy quân đội bảo vệ ma túy, lấy ma túy nuôi quân đội” (dĩ quân hộ độc, dĩ độc dưỡng quân). Khi mùa khô đến, cánh đồng bát ngát vùng biên giới 3 nước Miến-Thái-Lào tràn ngập cây anh túc, hương thơm ngào ngạt, cũng là lúc SĐ 93 tiền vô như nước.

Kết quả là ông đã kiểm soát một vùng rộng lớn gấp 3 lãnh thổ Đài Loan, 3 lần đánh bại quân Myanmar đông gấp 4 lần, có phi pháo yểm trợ. Năm 1951, khi nổ ra chiến tranh Triều Tiên, chính phủ Quốc Dân Đảng (QDĐ) Đài Loan thấy sức chiến đấu của SĐ 93, có thể sử dụng để quấy nhiễu hậu phương Trung Quốc, đã cử tướng Lý Di với cấp bậc cao hơn sang tiếp quản, điều tướng Lý Quốc Huy về nước, đồng thời gởi đồ tiếp tế. Vật phẩm tiếp tế qua đường thả dù không thể nuôi nổi đoàn quân cùng gia quyến, dân tỵ nạn có lúc lên đến 80.000 người. Lý Di buộc phải “ngựa theo đường cũ”, tiếp tục nuôi quân bằng “hộ độc”, thậm chí cưỡng bức nông dân vùng biên 3 nước phải trồng cây anh túc. Tướng Lý đã mở trường võ bị đào tạo con em tàn quân, khóa đầu đã ra lò 22 học viên, trong đó có những “tài năng” kiệt xuất, như “tướng quân thuốc phiện” La Hán Tinh, “Hoàng tử chết” Khun Sa, “trùm buôn lậu” Bành Gia Thanh…

Từ năm 1961, chính phủ Đài Loan do áp lực của Liên Hiệp Quốc, buộc phải triệu hồi tướng Lý Di, buông xuôi đám tàn quân. SĐ 93 đã tự tôn tướng Đoàn Hy Văn lên thay. Tướng Đoàn đã thay đổi đường lối, tìm đường quy thuận chính phủ Thái Lan, năm 1969, SĐ 93 cải biên thành “Đội tự vệ Bắc Thái”. Tuy vậy, lương hưởng của chính phủ Thái cung cấp không đủ sống, họ vẫn phải một phần dựa vào nguồn lợi ma túy. Năm 1980, “Đội tự vệ” hoàn thành việc giải giáp trước chính phủ Thái, “vương quốc” Tam Giác Vàng đã mất đi chỗ dựa, các “tướng lĩnh” ma túy lần lượt bị chính phủ Myanmar triệt hạ hoặc ra đầu hàng. Tướng Đoàn đã trở thành người khép lại “chiếc hộp Pandora”.

Cây anh túc có lúc đóng góp đến 1/3 GDP Myanmar, nhưng nông dân trồng nha phiến đâu có ai làm giàu nổi mà chỉ nuôi béo đám thổ phỉ, phiến quân, tàn quân, giang hồ bảo kê v.v… Trong “danh sách đen” dài dằng dặc phải kể đến Khun Sa, với biệt danh “Hoàng tử chết”, mà tên tuổi đã gắn liền với trang sử từ hưng thịnh đến suy tàn của Tam Giác Vàng.

“Hoàng tử chết” Khun Sa

Khun Sa sinh năm 1933, mẹ người Shan, bố người Hoa, tên tiếng Hoa là Trương Kỳ Phu. Khun Sa cha mẹ đều chết sớm, nên từ nhỏ thất học. Năm 1954, ông tham dự lớp học quân sự do tàn quân QDĐ tổ chức, nắm được kỹ thuật trồng thuốc phiện, chế biến heroine và cách đánh vận động chiến trong rừng núi.

Ra trường, Khun Sa chiêu mộ được 800 tay súng, được tàn quân QDĐ tiếp sức, nên đã hoành hành các bang Shan và Wa của Myanmar, biến các vùng chiếm đóng thành cơ sở ma túy. Sau khi tàn quân QDĐ buộc phải rút sang Thái Lan, Khun Sa trở nên cô độc và bị quân chính phủ Myanmar dụ bắt năm 1968. Tham mưu trưởng Trương Tô Tuyền của ông đã bày mưu “vào hang cọp” bắt 2 bác sỹ Liên Xô đang làm nhiệm vụ quốc tế viện trợ cho chính phủ tả khuynh Myanmar ngay giữa thủ đô Yangoon làm con tin, sự kiện đã gây chấn động thế giới lúc bấy giờ. Thái Lan đã đứng ra làm trung gian để đánh đổi Khun Sa.

“Thả hổ về rừng”, chính phủ Myanmar đã chuốc lấy hậu quả vô cùng tai hại. Năm 1971, Khun Sa đã hợp sức với Trương Tô Tuyền giương cao ngọn cờ “bang Shan độc lập” và thành lập “Quân Giải phóng Nhân dân bang Shan” gồm 25.000 quân và 20.000 dân quân dự bị mà dân bang Shan gọi bằng “Trương gia quân” một cách kính nể.

Năm 1985, “Trương gia quân” xây dựng được nền công nghiệp chế biến heroine hoàn chỉnh, Tam Giác Vàng trở thành trung tâm ma túy lớn nhất thế giới. “Trương gia quân” nắm tới 70% sản lượng heroine Tam Giác Vàng. Để duy trì kinh phí cho đoàn quân đông đảo, Khun Sa còn buôn lậu đá quý và vũ khí đạn dược, thu phí bảo kê tới 40%. Riêng năm 1989, ông đã thu tiền bảo kê 400 triệu USD.

Lợi dụng kẽ hở SĐ 93 tàn quân QDĐ buông súng, Khun Sa đã xây dựng Tam Giác Vàng thành vương quốc độc lập, tự phong “tướng quân nha phiến”, lần lượt đánh tan các cuộc vây tiễu của 3 nước Thái-Miến-Lào, đóng đô ở vùng Chiang Sean thuộc tỉnh Chiang Rai. “Vương quốc” của Khun Sa không phải chui rúc trong rừng rậm như nhiều phóng viên lúc đó mô tả, mà là ngang nhiên đóng trên một vùng đất phồn vinh có đủ cửa hàng, trường học, đường sá tốt, có cả TV thu qua vệ tinh, quân đội có vũ khí hạng nặng bao gồm cả tên lửa phòng không vác vai.

Năm 1993, Khun Sa tuyên bố thành lập “Cộng hòa Bang Shan” tự phong tổng thống kiêm tổng tư lệnh. Ngay sau đó, nội bộ Khun Sa đã rạn nứt, 10.000 lính người Wa tách khỏi quân Shan, hợp sức cùng 3 sư đoàn quân chính phủ Myanmar triển khai thế trận bao vây. Chính phủ Mỹ ước tính có tới 60% heroine tiêu thụ tại Mỹ do Khun Sa cung ứng, nên đã gọi hắn là “người đáng sợ nhất”, treo thưởng 2 triệu USD cho cái đầu của Khun Sa.

Sau 40 năm “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, ngày 6.1.1996, nhân ngày quốc khánh Myanmar, Khun Sa đã quả đoán đầu hàng chính phủ Myanmar khi chưa thua trận, nên ở thế thượng phong. Quận đội ông đã đồng loạt hạ súng và làm lễ quy hàng ngay tại đại bản doanh Homeng. Chính phủ Myanmar đã làm theo cam kết, từ chối dẫn độ sang Mỹ. Khun Sa cùng thủ hạ được ân xá tại chỗ, ông cùng 4 bà vợ đáp trực thăng về thẳng ngôi nhà sang trọng tại thủ đô Yangoon do chính phủ Myanmar cung cấp, ngay sát vách nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng Aung San Suu Kyi.

Từ ngày ra quy hàng, Khun Sa tuy không rời khỏi Yangoon (lệnh truy nã của chính phủ Mỹ vẫn còn đó), nhưng vẫn hoạt động kinh doanh vận tải, gỗ và đá quý. Ngày 26.10.2007, Khun Sa chết bệnh ở nhà, thi thể được hỏa thiêu.

Nghe tiếng Khun Sa, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh một tên tướng phỉ rùng rợn. Thực ra, Khun Sa là người rất nho nhã, tuy ít học, nhưng rất kính trọng người có học. Ông rất hòa nhã, gần gũi với đồng bào Shan của mình, nên được tôn thờ như một vị thánh sống, còn hơn cả bậc quân vương. Sau khi ông chết, người Shan đã mở viện bảo tàng, dựng tượng ông ở căn cứ địa Homeng. Coi hình ảnh “anh hùng mã thượng” của ông, khiến tôi liên tưởng đến tượng danh tướng Robert E. Lee, chỉ huy quân Nam thời chiến tranh Nam-Bắc Mỹ, được dựng ở cổng mộ Gettysburg.

Ông trị quân rất nghiêm, nghiêm cấm thuộc hạ dùng ma túy, nếu bị phát hiện, sẽ xử bắn tại chỗ. Để làm gương, bản thân ông cũng cai nghiện thành công, bằng chứng là 11 năm sống ở Yangoon, dưới sự giám sát chặt chẽ của chính phủ Myanmar, không hề phát hiện có ai tiếp tế ma túy cho ông.

Tam Giác Vàng ngày nay đã trở thành “con gà đẻ trứng vàng”, tôi thán phục người Thái đã triệt để khai thác tài nguyên du lịch. “Hoàng tử chết” như Khun Sa người ta còn dựng tượng xây bảo tàng hết sức bài bản để kéo du khách thập phương thì cớ gì người Việt Nam lại không có được một góc trời xanh để cảnh tỉnh hậu thế về những người đã từng để lại dấu ấn như: “Vua Thái” Đèo Văn Long, “Vua Mèo” Voòng Chí Sình…

LỮ KHÁCH - BĐ st.


Phụ Bản III

ĐỒNG LÕA

Họ thật là đẹp đôi. Thái yêu cô vì đôi má ửng hồng mỗi khi cô bắt gặp tia nhìn của anh. Mơ yêu Thái, hm, nghĩ cũng kỳ kỳ, chỉ là vì anh hay nhìn cô say đắm! Tháng ngày của họ trôi qua thật đẹp. Họ có căn nhà xinh xinh. Họ có lũ bạn chân tình. Họ có những đứa con đẹp đẽ. Họ luôn có dịp làm vui cho nhau trong căn nhà đầy ắp tiếng cười, trong không gian tràn trề âm nhạc.

Chẳng hiểu sao Mơ mê chồng hát lắm. Nhất là hôm đám cưới con gái đầu lòng. Có thể đôi mắt cười không thấy tổ quốc của anh làm anh không thấy ngoài vợ anh ra, còn có người khác sắt se mòn mỏi nhìn anh. Ấy là Màng, bạn của Mơ, và vợ chồng Màng vẫn lui tới nhà Mơ hát hò khi có dịp. Mơ chẳng để ý đến điều ấy. Thậm chí, mỗi khi hát karaoke, thì chính cô cũng còn xúi Màng hát với Thái cho… hay! Mọi người tán thưởng cái cặp ca sĩ vườn ấy với tiếng côm cốp của những ly bia hoan hỉ, và tiếng cười khúc khích của những cặp môi đầy phấn khích!

Riết rồi họ không hát ở nhà nữa, vì Mơ đã có cháu ngoại. Thằng bé phá phách chẳng để ai giành lấy mấy cái micro đã thuộc quyền sử dụng của nó từ lâu nay. Thái và các bạn tha hồ la cà ngoài phố, khi nhâm nhi chút đỉnh, khi réo rắt đàn ca.

Rồi nhà Thái sinh chuyện. Thằng rể trời đánh như anh từng nhận định về nó trước khi cưới con gái anh, bắt đầu lòi cái đuôi cáo. Nó thường xuyên đánh vợ trước mặt mẹ vợ không chút nể nang. Thậm chí, có lần nó còn ném cả mấy cái micro xuống đất vỡ tan tành, chỉ vì vợ nó ham hát cho xong bài ca nọ mà chưa kịp lấy cho chồng ly đá để nó uống bia. Hai chân nó gác lên bàn nhìn thật láo xược. Ấy vậy, mà Thái chẳng nói lấy một câu khi Mơ mách anh về thái độ mất dậy của thằng rể hỗn hào. Mơ đành mời ông bà sui qua nhà để họ khuyên can thằng con trai mất nết.

Mơ làm bữa cơm rõ ngon để đãi khách. Dù biết mục đích của bữa cơm là nhắm đến mình, nhưng Ngổ - tên thằng rể - vẫn bình chân như vại! Nó kìn kìn uống bia đua với bố vợ, mắt hấp háy…

Chuyện đến đã lúc đến, Duyên - vợ nó - kêu rêu với bố mẹ chồng, nước mắt ràn rụa:

- Ba má biết không, ảnh có… bồ đó!

- Sao con biết?

- Bạn con thấy ảnh dắt con Thơm đầu xóm vô khách sạn kìa!

- Có khi bạn con nhìn lộn thì sao?

- Không phải đâu, nó nói hỏi ba con thì biết, vì nó nói ba con cũng thấy mà…

Thái xanh mặt. Anh lén nhìn thằng rể. Nó lại hấp háy với đôi mắt đồng lõa. Chẳng là hôm nó dẫn con Thơm vô khách sạn, nó thấy ba vợ nó cũng dắt bà nào, dường như là bà Màng thì phải, cùng vô cái khách sạn trời ơi ấy…

Dĩ nhiên là Thái bênh thằng rể chằm chặp…

Hm…

LAM TRẦN

03.03.2015

LUẬT THƠ

I. ĐẠI CƯƠNG:

1. Thơ là gì?

Phạm Hiếu Nghĩa tôi định nghĩa:

Thơ là văn bản gồm nhiều câu ngắn, gọn, diễn một ý, một vấn đề trọn vẹn, sâu sắc mà có âm điệu gợi cảm.

2. Luật thơ:

Sau khi có thơ, nhiều bài hay cùng một dạng, người thời sau đặt thành luật để người mới tập làm thơ bắt chước cho hay. Vì vậy, bước đầu làm thơ, ta cần theo luật để trau chuốt âm điệu và dùng từ sâu sắc để diễn đạt cho ý vị.

Ai cho phép một người được quyền đặt luật thơ? Phải nói là không có ai cho phép hết. Người đời tuân theo luật thơ là vì thấy sự hợp lý của nó. Sự hợp lý này tùy theo năng lực thẩm âm và cảm nhận của từng người. Khi ta thấy câu thơ không đúng luật nhưng nghe hay mà bài bác tôi cho là sai. Ta phải chấp nhận cái không đúng đó để luật thơ mỗi ngày một bớt gò bó để ai cũng có thể làm thơ được nhưng giá trị là chỗ hay, bổ ích hay không mà thôi. Do đó luật thơ thường có biến thể. Ví dụ thơ Đường thì luật câu 1 là:

Luật bằng: Bằng Bằng-Trắc Trắc-Trắc Bằng Bằng vần

Nhưng Bà Hồ Xuân Hương viết:

Một đèo, một đèo, lại một đèo (Qua đèo Ngang)

Chữ thứ tư và thứ sáu sai luật

Bác Hồ viết:

Nhứt canh, nhị canh, hựu tam canh

(Thụy bất trước - trích sách “Thơ ca Hồ chủ tịch” trang 75).

Chữ thứ tư sai luật.

Tôi nhớ cuối tác phẩm Đoạn Tuyệt (?), Nhất Linh hay nhà thơ nào đó làm một bài thơ Đường, tứ tuyệt trường thiên, tôi nhớ bốn câu đầu (khổ đầu):

Anh đi đường anh, tôi đường tôi

Tình nghĩa đôi ta có thế thôi

Đã biết không mong sum hợp được

Bận lòng chi nữa phút chia phôi.

Cả câu một là thanh bằng cả là sai luật.

Thời nhà Lê, Trạng Trình thường làm thơ Đường có một hay hai câu sáu chữ gọi là lục ngôn thể. Nó không phải là thể thơ mỗi câu sáu chữ cả.

Tất cả các bài thơ trên đều được lưu truyền, có bài còn được khen hay nữa. Vì vậy ta phải chấp nhận biến thể của luật thơ. Nghĩ vậy nên khi viết lại luật thơ, tôi sửa lại cho thoáng hơn.

3. Thơ phát sanh như thế nào?

Tôi cho rằng có sanh hoạt con người là có phát sanh thơ. Trò chuyện nhau, khi hứng thú, người ta uốn éo âm điệu cho gợi cảm, sau thêm vô một ngụ ý, nó phát triển thêm để chọc ghẹo nhau, ca ngợi nhau rồi ca ngợi công đức của cha ông, người có công của dân tộc… thơ hình thành và thành hình. Vì vậy nên ta thấy bộ tộc nào cũng có sử thi tức là có thơ cả.

II. THƠ VIỆT NAM

Dân tộc Việt Nam ta, có lẽ do tiếng võng kẽo kẹt đều đều nên phát sanh ra thể thơ lục bát, song thất lục bất, hát nói rồi thơ bảy, tám chữ. Tôi xin ghi một số luật thơ để những ai muốn làm thơ thì có cơ sở mà rèn luyện.

1. Thơ lục bát:

Một câu 6, một câu 8, cứ thế mãi.

B là thanh bằng - T là trắc - Mũi tên à chỉ hợp vần - Bv là bằng vần.

Chữ cuối câu 6 có thể vần với chữ thứ tư câu 8, thanh bằng trắc trong các câu thơ không cần theo đúng.

Ví dụ: trích mấy câu Quan Âm:

Này sự con vua thủy thần

Thái tử đi tuần đội lốt lý ngư

Đi nhầm mắc lưới vẩn vơ

Chẳng chậm một giờ dao thớt phải sa.

Việt Hán văn khảo - Phan Kế Bính

2. Thơ song thất lục bát hay lục bát gián thất:

2 câu 7, một câu 6 và một câu 8. Nó là một dạng của thơ lục bát nhưng hai câu 7 có thanh bằng trắc cố định:

Thứ tự chữ: 1 2 3 4 5 6 7 8

Nhưng cũng không cần theo đúng luật bằng trắc và số từ trong câu.

Ví dụ:

Đèn nào cao bằng đèn ông Chánh

Bánh nào trắng bằng bánh bò bông

Thổi ngọn đông phong lạc vợ xa chồng (6 mà thành 8)

Nằm đêm tôi nghĩ lại nước mắt hồng nhỏ tuôn

(8 thành 10)

3. Hát nói, hát ả đào hay ca trù:

Bài thơ gồm 3 khổ, mỗi khổ 4 câu, khổ cuối 3 câu, câu cuối 6 chữ. Tên của 3 khổ là: khổ đầu, khổ giữa và khổ xếp.

- Bài thiếu khổ thì thiếu khổ giữa. Bài gồm 7 câu.

- Bài dôi khổ thì dôi ở các khổ giữa. Các khổ dôi đặt dưới khổ đầu, trên khổ xếp là được.

Trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm, ông ghi là Hát Nói không cần đúng luật miễn hát được lưu loát thì thôi. Thể thơ song thất lục bát và hát nói, chỉ xem vần bằng trắc ở 4 từ cuối câu:

Hai câu 5 và 6 là hai câu thơ, nếu thơ ngũ ngôn hay thất ngôn đều phải theo đúng luật và đối nhau; cũng có thể không đối, nếu dùng câu chữ trong sách cổ thì sao cũng được. Ví dụ bài “Chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ:

1 Thông minh nhất nam tử

2 Yếu vi thiên hạ kỳ (không đúng luật)

3 Trót sinh ra thì phải có chi chi

4 Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu

5 Đố kỵ sá chi con tạo (6 chữ)

không thấy đối và so le nhau giữa 5 và 6

6 Nợ tang bồng quyết trả cho xong (7 chữ)

7 Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung

8 Làm cho rõ tu mi nam tử

9 Trong vũ trụ đã đành phận sự

10 Phải có danh mà đối với núi sông

11 Đi không chẳng lẽ về không.

Dùng câu chữ Hán, bài “Ngán đời” của Cao Bá Quát:

Khổ giữa

Câu 5: Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt (12 chữ)

Câu 6: Kho trời chung mà vô tận của mình riêng (9 chữ)

Câu 7 và 8: gọi là xuyên mao

Khổ xếp: gồm 3 câu

Câu 9 là câu dồn, theo nhà thơ nghệ sỹ Tô Long thì viết càng nhiều càng tốt. Cuối câu 8 và 9 thanh Trắc vần nhau.

Câu 10 là câu xếp, hát nói của Cao Bá Quát thì dài lắm. Ví dụ câu 10 của bài “Ngán đời”: Quân bất kiến: Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi (17 chữ).

Câu 11 là câu keo gồm 6 chữ.

Chữ trong mỗi câu của bài hát nói thì tùy nghi, từ bốn chữ tới mười bảy chữ.

4. Mưỡu: là một hay hai cặp lục bát đặt vào bài hát nói

- Mưỡu đầu: đặt ở đầu bài.

- Mưỡu hậu: đặt ở cuối bài hay giữa câu xếp và câu keo.

5. Thơ bảy chữ hay tám chữ hay biến thể của ca trù

Luật thơ

Luật thơ trong “Thi nhân Việt Nam”, mục “Một thời đại trong thi ca”, Hoài Thanh và Hoài Chân viết: “Thất ngôn và ngũ ngôn bây giờ lại do luật Đường giãn ra (…) ưa vần bằng hơn vần trắc” và “ca trù biến thành thơ tám chữ”.

Riêng tôi, tôi thấy thơ bảy chữ hay tám chữ có hình thức của ca trù nên cho là biến thể của ca trù. Đó là hình thức chữ cuối câu 1 và 4 trắc không cần vần.

Nhận xét về thể thơ, ta chỉ nói là thơ bảy hay tám chữ thôi. Chỉ khi nào từng câu thơ có nét đặc trưng của thơ Tây - một câu chưa đủ ý thì viết tiếp ở câu sau mấy từ, chấm câu rồi sang câu khác… thì mới gọi là thơ Tây hay thơ mới. Về loại nầy, có lẽ ta không cần biết là thơ Đường giãn hay biến thể của ca trù, chỉ biết có một thực thể thơ.

- Khổ thơ mấy khổ cũng được.

- Câu thơ trong khổ: thường là bốn câu.

- Chữ trong câu: 7 hay 8 chữ hay cả 2 tùy nghi. Tôi có thấy thơ 9 chữ và tôi cũng có làm thơ 10 hay 11 chữ nữa.

- Thanh: chữ cuối câu 1 và 4 thường là Trắc, cho khi Bằng. Không vần với nhau.

- Vần:

* Chữ cuối câu 2 và 3 thường là thanh bằng và vần với nhau. Có khi trắc.

* Chữ cuối câu 4 vần với chữ cuối câu 1 của khổ sau, cùng thanh trắc (có khi cùng thanh bằng)

Nếu một bài thơ có khổ không đúng 4 câu hay hơn 4 câu mà không xếp được vào một thể thơ chánh nào thì coi là thơ tự do như vậy thì gieo vần sao cũng được hay không có vần gì hết.

Ví dụ một bài thơ tám chữ:

TỰU TRƯỜNG

Giờ nao nức của một thời trẻ dại

Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương !

Những chàng trai mười lăm tuổi vào trường,

Rương nhỏ nhỏ với linh hồn bằng ngọc.

Sắp hạnh phúc như chương trình lớp học,

Buổi chiều đầu họ tìm bạn kết duyên;

Trong sân trường tưởng dạo giữa Đào viên;

Quần áo trắng đẹp như lòng mới mẻ.

Chân non dại ngập ngừng từng bước nhẹ;

Tim run run trăm tình cảm rụt rè;

Tuổi mười lăm gấp sách lại, đứng nghe

Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp.

Trích 3 khổ

- Tác phẩm Lửa Thiêng của tác giả HUY CẬN

(còn tiếp)

PHẠM HIẾU NGHĨA

ĐỜI NGƯỜI

GIEO NHÂN THIỆN LÀNH,

LO GÌ KHÔNG NỞ RA

QUẢ PHÚC BÁO?

Không có một sức mạnh hay ý chí nào có thể vượt qua được luật nhân quả. Cho dù có tinh thông thuật số, phong thủy tới đâu, người ta cũng không thể làm trái với ý Trời.

Có một thầy phong thủy nọ chuyên xem mộ phần, nhà cửa cho nhiều người, kết quả rất chính xác. Sau khi mọi người tới xem và điều chỉnh phong thủy như lời ông thì gia đình đều trở nên phú quý. Tuy nhiên con cháu ông ngược lại đều không có một ai giàu có, cũng không có ai làm quan.

Một ngày nọ, người con trai hỏi ông:

- Thưa cha, cha là một thầy phong thủy nổi tiếng vậy mà nhà ta lại không có một ai làm quan? Sao cha không tìm cách điều chỉnh một chút để nhà ta trở nên giàu có và cũng có thể xông pha chốn quan trường?

Thầy phong thủy nói:

- Ta có thể làm được, tuy nhiên cần các con làm theo lời ta dặn. Trưa mai là ngày tốt giờ tốt, ba anh em con hãy ra mộ của ông nội để làm lễ sau đó chôn trấn vật mà cha đã gói cẩn thận này ở hướng Tây Bắc. Vài năm sau nhà ta sẽ có người làm quan. Tuy nhiên sau khi chôn không được nói một lời xui xẻo nào mà phải đi thẳng về nhà. Cách cải biến phong thủy, số mệnh của mình tốt nhất chính là tích đức hành thiện, chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, chớ thấy việc ác nhỏ mà lại nhắm mắt làm.

Trưa hôm sau, ba người con của thầy phong thủy đi ra mộ và làm theo đúng những gì cha dặn. Trên đường về bỗng nhiên gặp một người ăn mày.

Người ăn mày nói với họ:

- Cho tôi xin chút gì ăn hay cho tôi xin chút tiền đi.

Người anh cả liền đá cho người ăn mày một cái và nói:

- Thật xui xẻo lại gặp phải một kẻ ăn xin.

Khi ba người con về tới nhà, vị thầy phong thủy hỏi dồn:

- Trên đường các con đã gặp ai? Chắc chắn các con đã nói lời xui xẻo phải không?

Ba anh em nọ chỉ biết thừa nhận. Suy ngẫm hồi lâu, vị thầy phong thủy nói với con:

- Là các con không có mệnh làm quan, cho dù cha có tinh thông thuật số phong thủy tới đâu cũng không thể làm trái với ý Trời. Người ăn mày mà các con vừa gặp khi nãy chính là linh hồn của ông nội các con. Các con đối đãi với tổ tiên như vậy làm sao có phúc phần để làm quan được.

***

Lại có một câu chuyện xảy ra vào thời nhà Minh. Một gia đình nọ không may gia cảnh sa sút, khó khăn, dù vậy vẫn luôn giúp đỡ những người lang thang cơ nhỡ tới xin ăn. Một ngày nọ có một người nhà quê, vì bị lụt lội, phải tha hương từ phương Nam tới phương Bắc, khi đi qua nhà nọ bèn tới gõ cửa xin chút lương khô.

Nhìn bộ dạng tội nghiệp đói khát của người ăn mày, bà chủ nhà liền mang cho ông ta hai chiếc bánh ngô. Sau khi ăn xong, người ăn mày vô cùng cảm động trước tấm lòng của chủ nhà, liền thú nhận với bà rằng ông ta vốn là thầy phong thủy chẳng may sa cơ lỡ vận. Không có gì báo đáp tấm lòng của gia chủ, ông ta xin phép bói cho gia chủ một quẻ để tìm một khu đất tốt đặt mộ phần.

Bà chủ nhà nghe thấy vậy vô cùng vui mừng, liền nhờ ông ta tìm cho một khu đất có phong thủy tốt để đặt mộ. Vị thầy phong thủy nói sau khi cha mẹ già của bà chủ nhà qua đời nên táng tại mảnh đất ở chỗ này, chỗ này… Nguyên nhân bởi nơi đây phong thủy tốt, trước có am sơn, sau dựa vào núi, trái có Thanh Long, phải có Bạch Hổ, phía trước lại có hồ nước nên đây là mảnh đất rất quý. Người chủ nhà nghe xong vô cùng cảm kích, còn vị thầy phong thủy phán xong những lời ấy thì xin phép cáo từ.

Tuy nhiên khi xem đất cho gia chủ, ông thầy phong thủy nọ vẫn mang một tâm không tốt. Chính là khi điểm vào huyệt này và đặt mộ phần nơi đây, mười năm sau gia đình chủ nhà sẽ trở nên phú quý. Ông ta tin rằng lúc đó nhất định mình sẽ được báo đáp.

Một vài năm sau, cụ bà trong gia đình chủ nhà qua đời. Nữ chủ nhà theo đúng lời thầy phong thủy đã dặn, đặt mộ phần ở vùng đất có phong thủy trù phú đó. Quả nhiên mười năm sau, con trai của họ thi đỗ Trạng Nguyên, được phân làm quan phụ mẫu của một huyện, gia đình cũng trở lên giàu có, thoát khỏi cảnh bần hàn xưa kia.

Thầy phong thủy bấm đốt ngón tay tính toán biết được đây là lúc tới đòi tiền tài, liền tức tốc lên đường. Trong lòng ông ta nghĩ, gia chủ là người rất thiện lương, sau khi phát tài nhất định sẽ không quên ơn mình. Khi vị nữ chủ nhà vừa nhìn thấy thầy phong thủy thì vui mừng xen lẫn ngạc nhiên, rồi ôn tồn nói với ông ta:

- Chào thầy, thầy có còn nhớ tôi không. Tôi chính là người được thầy xem vị trí đặt mộ của người nhà ngày trước, hôm nay lại gặp được ông rồi. Nhờ đại ân nhân xem vị trí đặt mộ cho người nhà mà con tôi đỗ Trạng Nguyên và làm quan phụ mẫu ở một huyện rồi. Tôi muốn cảm ơn ông, đợi tôi một chút nhé.

Sau đó bà ta chạy vào nhà lấy 10 nghìn lạng bạc để tạ ơn thầy phong thủy. Nhưng vị thầy phong thủy lại vô cùng tức giận, chê món tiền ấy quá nhỏ. Kỳ thực 10 nghìn lạng bạc thời bấy giờ có thể giúp gia đình ông ta đủ sống thoải mái mấy đời. Nhưng với lòng tham không đáy của mình, ông thậm chí muốn được đền ơn 500 nghìn lượng vàng.

Năm trăm nghìn lượng vàng là một phần năm quốc khố của triều Minh lúc bấy giờ. Vị thầy phong thủy tin rằng con trai của bà chủ nhà có đủ năng lực kiếm được nhiều tiền như vậy để báo đáp ông ta. Kết quả lại không như ông ta mong muốn, bà chủ nhà chỉ đưa cho ông có chút đỉnh không đáng là bao như vậy.

Lại nói về gia đình nữ gia chủ vốn sống thiện lương, con trai cũng là một vị quan thanh liêm. Tiền bạc được quốc gia cấp phát đa phần đều dùng để giúp đỡ bách tính hoặc dùng để khắc phục thiên tai hỏa hoạn nên ngoài bổng lộc được vua ban theo quy định thì không có một khoản thu nhập nào khác cả.

Giờ đây 10 nghìn lượng bạc mang biếu cho vị thầy phong thủy đã là một nửa số tài sản vốn có trong gia đình bà. Tuy nhiên vị thầy phong thủy không hiểu rõ sự tình, cho rằng gia đình này keo kiệt không muốn cho ông ta thêm chút tiền. Càng nghĩ lại càng tức giận, vị thầy phong thủy ngày đêm nghĩ cách để làm hại gia chủ nọ.

Vào một đêm nọ, ông chạy tới mộ phần của nhà nữ gia chủ, chôn một ít thủy ngân và đồng, những thứ kim loại mà Đạo gia dùng trong luyện đan dược. Bởi ông ta cũng là một thầy phong thủy giỏi nên hiểu rằng chỉ cần chôn những thứ này thì trong vòng không đầy nửa năm vị Trạng Nguyên kia sẽ bị triều đình bãi chức quan.

Trong lòng ông ta nghĩ thầm: “Nếu ngươi đã tiếc rẻ không muốn chi cho ta thêm chút tiền như vậy, lần này ta sẽ trừng trị các ngươi một trận”. Ông ta liền chôn một chút kim loại bằng đầu móng tay bên cạnh mộ người nhà của vị gia chủ. Chỉ cần hai loại kim loại này chôn cách bia mộ một tấc, đời sau của gia tộc này đều sẽ gặp xui xẻo.

Kết quả là sau thời gian nửa năm, vị Trạng Nguyên kia không những không xảy ra chuyện mà ngược lại ngày càng thăng quan tiến chức. Vốn chỉ là một vị quan phụ mẫu ở địa phương, sau này ông được phong làm quan văn Tam phẩm trong kinh thành, còn vị nữ gia chủ được phong làm phu nhân. Vị thầy phong thủy thấy vô cùng buồn bực, không hiểu rốt cuộc tại sao lại có chuyện như vậy liền tự vấn: “Đây là chuyện gì vậy nhỉ, không thể nào như thế được! Trình độ của mình cao siêu như vậy sao bày binh bố trận đến thế mà lại không linh”.

Sau đó, một đêm nọ ông ta lại lén tìm tới ngôi mộ của vị gia chủ nọ để điều tra, cuối cùng phát hiện những kim loại mà mình chôn dưới mộ kia đều biến mất. Nhìn thấy hiện trạng như thế, ông ta cảm thấy đầu óc rất mơ hồ. Rõ ràng lúc chôn những đồ kia không hề có ai biết, hơn nữa xung quanh rõ ràng cũng không có dấu tích bị đào bới. Càng nghĩ ông càng không hiểu điều này rốt cuộc là gì. Cuối cùng ông ta vì chuyện này buồn bực mà qua đời.

Vị thầy phong thủy ngày đêm nghĩ cách để làm hại gia chủ, nhưng làm việc ác thì không tránh khỏi ý trời. Trong lúc lâm chung, ông ta bỗng dưng nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ. Chính là vào lúc ông đang chôn những đồ kim loại cạnh mộ phần gia chủ nọ thì bên cạnh có một vị quan thổ địa đang đứng nhìn. Bởi mẹ con vị gia chủ kia đều rất tôn kính, thường xuyên nhang khói đốt tiền vàng cho thổ địa nên ông ta vô cùng vui vẻ. Bởi vậy vị quan thổ địa thường xuyên bảo hộ, chăm sóc, giúp gia đình họ được bình an. Ở nơi đặt mộ phần của người nhà vị gia chủ cũng có quan thổ công coi giữ. Khi nhìn thấy hành động mờ ám xấu xa của vị thầy phong thủy, quan thổ địa vô cùng tức giận, liền thu hồi lại những kim loại kia và làm chúng biến mất.

Trong phút cận kề cái chết, thầy phong thủy hiểu ra một đạo lý, hóa ra người tốt sẽ tự có thiên tướng, có thần linh giúp đỡ. Trước khi thầy phong thủy qua đời, vị quan thổ địa nọ còn nói với ông ta một câu:

- Người tích đức hành thiện sẽ tự có Trời giúp đỡ, ông có làm chuyện xấu gì đi nữa cũng không có tác dụng.

Nghe xong câu nói này vị thầy phong thủy ngã nhào xuống đất mà qua đời.

***

Trong hai câu chuyện trên, một người muốn thông qua phong thủy để thay đổi vận mệnh, giúp gia tộc mình trở nên hưng thịnh, một người muốn thông qua phong thủy để làm tổn hại tới vận mệnh của người khác. Tuy mục đích khác nhau nhưng kết quả đều là không đạt được như mong nguyện.

Quả thực, sức mạnh của luật nhân quả lớn hơn sức mạnh của phong thủy gấp nhiều lần. Mọi chuyện đều nên thuận theo thiên lý, vạn sự đều có nhân duyên, trước có nhân sau có quả... Con người muốn thay đổi vận mệnh là điều không thể được.

Cổ nhân nói, người không có phúc đức, cưỡng ép cư trú ở nơi phúc địa sẽ gieo mầm tai ương, cũng sẽ làm mất đi vận may của mình. Cách cải biến phong thủy, số mệnh của mình tốt nhất chính là tích đức hành thiện, chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, chớ thấy việc ác nhỏ mà lại nhắm mắt làm.

Trong Kinh Dịch có câu: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”, nghĩa là: nhà tích chứa điều thiện ắt sẽ có niềm vui, nhà tích chứa điều ác ắt sẽ có tai ương. Có thể gieo nhân tích đức hành thiện thì lo gì không thể nở ra quả phúc báo?

Kiên Định - Lệ Ngọc st.


Cuộc thi truyện ngắn viết về phụ nữ

MỘT NỬA LÀM ĐẦY THẾ GIỚI

Bài thi 119:

MÀU CỦA NƯỚC MẮT

Tác giả: Huỳnh Thiên Kim Bội

Bách Hợp là một cô gái đẹp. Từ ngày gia đình xảy ra bi kịch, ba má ly hôn, hai chị gái vội vàng kết hôn. Chỉ còn cô và má sống với nhau trong căn nhà đúc hai tấm to rộng. Trái tim Bách Hợp trở nên băng giá, không còn xúc cảm, cô thu mình trong thế giới nội tâm đơn độc của riêng mình. Cô làm công nhân viên nhà nước, cơ quan hành chính, mỗi ngày đi đi về về như một chiếc bóng. Bà Bạch Lệ, má cô, chỉ biết lo lắng thở dài sườn sượt…

Tình cờ, Bách Hợp quen Tân ở chợ hoa Tết. Cuộc sống của Bách Hợp dần dần thay đổi. Hai người kết bạn với nhau rất tâm đầu ý hợp, cả hai đều yêu thiên nhiên, say mê với sách. Những lần hẹn hò đi dạo công viên vắng lặng thưa người, cà phê, tham gia các sự kiện giới thiệu sách, tặng sách cho nhau… Tân cũng thường đến nhà Bách Hợp, má cô vui vẻ tiếp chuyện với anh. Bà Bạch Lệ cảm nhận được sự thay đổi từ nội tâm và cuộc sống của con gái mình. Từ một cô gái luôn sống khép kín, buồn bã không thích giao tiếp với xã hội, rất ít bạn bè… giờ đây Bách Hợp hoàn toàn thay đổi, chiều đi làm về cô vào bếp phụ má làm cơm, cô còn đòi tắm thay đồ cho bé Bi, đứa cháu gọi cô là dì Út. Bé Bi thường nhõng nhẽo đòi dì kể chuyện đời xưa, bé thích hỏi dì những câu ngộ nghĩnh “Tại sao con mèo kêu meo meo, con chó kêu gâu gâu, con dế kêu ré ré”. Dì Bách Hợp giải thích: “Do Ông Trời sinh ra các loài vật, kêu như vậy để phân biệt”. Bé Bi lại hỏi tiếp “Vậy ông Trời ở đâu vậy dì Út”. Dì Út lắc đầu, bí với những câu hỏi của bé Bi, may mà có tiếng kèn xe của chị Bạch Đàn đến đón, bé Bi cười toe toét nói “Bye, bye bà ngoại, dì Út… con về với ba má nha” Vừa chạy vừa nhún nhảy đôi chân nhỏ xíu. Dì Bách Hợp đỡ bé ngồi lên chiếc ghế nhỏ gắn trước xe, má bé Bi rồ máy chạy đi. Bách Hợp nhìn theo, thấy bé Bi kể chuyện gì đó với má, mà hai tay quơ quơ lia lịa. “Một đứa bé hiếu động. Tuyệt vời. Chị Bạch Đàn đã chọn cho mình một con đường đi đến hạnh phúc, bình yên”.

Bách Hợp liên tưởng đến cuộc đời mình, dù cô đã mở cửa trái tim, tìm lại bản thân, mong tìm thấy hướng đi đúng cho cuộc đời. Tân đã đến và hiện hữu trong cuộc sống của cô. Mùa xuân bắt gặp và mùa xuân đi qua, chào đón mùa mưa đến. Bây giờ tháng sáu, tháng sáu của những cơn mưa bất chợt, mưa dầm dề, mưa lê thê, mưa rả rích. Mưa. Giữa con đường mưa, một lần hò hẹn, hai người trú mưa ở một mái hiên nhà. Con đường vắng lặng thưa người, mưa lớn tạt ướt cả hai người, Tân vòng tay ôm bờ eo thon nhỏ của cô, Tân trao cho cô nụ hôn dịu dàng. Im lặng. Hình như cô và Tân đều cảm nhận được tiếng nói từ trái tim mình. Tình yêu là điều bí ẩn, không lời. Ánh mắt hai người gặp nhau, đắm đuối trao gởi. Mỉm cười. Nụ hôn thứ hai thay lời tỏ tình. “Anh yêu em” “Em yêu anh” cơn mưa cứ rơi… cứ rơi… Về đến cửa nhà Tân thì thầm “Chúc em ngon giấc trong đêm nay. Anh yêu em”. Bách Hợp khẽ gật đầu mỉm cười, khuôn mặt cô nhòe nhoẹt nước mưa, chỉ riêng cô biết chan hòa trong nước mưa là nước mắt hạnh phúc.

Sau lần xin phép bà Bạch Lệ, Tân đưa Bách Hợp về thăm má anh sống ở quê. Hai người quyết định làm đám cưới. Bà Bạch Lệ rất vui lòng, cô con gái đã ngoài ba mươi tuổi, chịu lập gia đình, Bách Hợp được sống hạnh phúc, đó là điều mong ước lớn nhất của bà.

Khác với chị Bạch Đàn, Bách Hợp không muốn tổ chức đám cưới rình rang phô trương ở nhà hàng, mời thật đông khách đến dự. Cô tổ chức đơn giản trong gia đình. Má của Tân ở dưới quê, chuẩn bị vài mâm cỗ, 6 giờ sáng, xe đón dâu lên thành phố, vào nhà trình mâm quả, đôi đèn để cô dâu chú rể làm lễ gia tiên. Nhà gái mời họ nhà trai dùng bữa ăn sáng gọn nhẹ, đón dâu về quê. Họ nhà trai đón dâu mười người. Họ nhà gái đưa dâu cũng mười người. Do bà nội tuổi cao, sức khỏe yếu, không lên dự lễ cưới của cháu nội út. Ba Bách Hợp ở quê xa, bảo sẽ đến thẳng nhà trai. Bé Bi là khách mời vui nhứt, bé cười giòn lon ton chạy theo nắm tay dì Bách Hợp trêu: “Cô dâu, cô dâu, chú rể, chú rể… đội rế trên đầu… vui… vui ơi là vui”.

Đám cưới tại nhà Tân hơn 2 giờ trưa mới tàn tiệc. Sau khi khách khứa bà con đã ra về, ba Bách Hợp, ông trao cho cô hai chỉ vàng là quà cưới mừng cho con gái. Giọng ông chùng xuống:

- Ba rất yên lòng, con sống yên ổn hạnh phúc nhé! Chăm sóc má con giùm ba.

Ông từ giã ra về ngay. Bách Hợp cúi mặt len lén lau nước mắt khi nhìn ba cô lủi thủi một mình đi trên con đường làng đầy nắng gay gắt. Cô không còn giận ông như ba năm trước.

Bà Bạch Lệ từ giã bà má Tân trở về thành phố. Bà cười tươi tắn, vui vẻ chào mọi người. “Má vui khi gả được con gái lấy chồng”. Câu bà nói với Bách Hợp, với Tân, gương mặt bà rạng ngời niềm hạnh phúc. Bé Bi dùng dằng hỏi:

- Sao dì không về nhà với ngoại và Bi.

- Bắt dì Út của Bi ở đây luôn. Tân cười ha ha trêu chọc.

- Không chịu… Bi về trước chiều dì phải về với Bi nghe.

Chị Bạch Đàn bế thốc Bi lên xe, nó còn quay đầu lại ngoắc ngoắc làm Bách Hợp nghe lòng rưng rưng. Có lẽ đây là lần đầu tiên cô xa nhà, xa má…

Bách Hợp không đi hưởng tuần trăng mật, cô muốn sống với má Tân cho đến hết ngày nghỉ phép. Vì thế Tân mời ông Thiên, là người bạn vong niên của bà Bạch Lệ, cũng là người bạn của anh và Bách Hợp, cùng ở lại chơi vài ngày. Ông Thiên đồng ý ở lại hai ngày. Bà Mơ, má Tân, người đàn bà góa chồng ở độ tuổi năm mươi lăm, dáng vẻ nhanh nhẹn, khỏe mạnh, gương mặt phúc hậu, tính tình chân chất. Ba Tân qua đời năm bà bốn mươi lăm tuổi. Bà đưa Tân về sống với bà ngoại trong căn nhà tổ tiên của dòng họ ngoại, cùng với người em trai. Bà Mơ được chia cho mấy công ruộng, bà mướn người phụ gieo trồng cày cấy. Trong vườn nhà dọn chuồng nuôi hai con heo nái đẻ, bà lo cho Tân ăn học ở thành phố đến khi tốt nghiệp đại học.

Gia đình cậu của Tân cũng làm ruộng, cậu có một tiệm sửa xe gắn máy ở chợ xã, hai con nhỏ đi học trường huyện. Một gia đình trung lưu nề nếp ở miền quê. Tân thừa hưởng ở má anh tính tình thật thà chất phác. Tân sống nghiêm túc không đua đòi ăn chơi như một số thanh niên thành phố. Gần ba mươi tuổi chưa nghĩ đến chuyện lập gia đình do chưa có sự nghiệp. Từ khi mới quen nhau đôi lúc Tân phân vân về gia cảnh, nhà Bách Hợp giàu sang… Bách Hợp thương Tân bởi những điều bình dị đó, an tâm trao gởi cuộc đời mình.

Trong những ngày ông Thiên và Bách Hợp cô dâu mới sống tại nhà bà Mơ đối đãi đặc biệt, bà khéo léo trong việc nấu nướng, những bữa cơm thịnh soạn được chuẩn bị công phu với tấm lòng hiếu khách và với tình yêu thương dành cho đứa con trai độc nhứt mới cưới vợ…

Đêm đầu tiên ở nhà Tân, trong căn buồng nhỏ, giường trải chiếu hoa, mùng mền áo gối mới phảng phất mùi long não thơm nồng. Bách Hợp lặng lẽ thay quần áo ngủ. Mấy ngày chuẩn bị cho lễ cưới, ngồi xe đường dài mấy trăm cây số, tiệc cưới tiếp bà con, chụp hình… Bách Hợp cảm thấy mệt buồn ngủ, nằm xuống giường tựa đầu vào chiếc gối mềm êm, nhắm mắt chìm vào giấc ngủ.

Một cái hôn nhẹ trên trán. Bách Hợp mở mắt, khuôn mặt Tân thật gần cười tươi tắn.

- Dậy đi cô dâu mới, hơn 6 giờ sáng rồi đó.

- Thật ư! Anh vào ngủ lúc mấy giờ ?

- Khuya lắm. Hai cao thủ cờ tướng ngang tài ngang sức, chơi hoài không chịu nghỉ.

- Bác Thiên dễ hòa đồng với mọi người quá há anh?

- Bản lĩnh của người cán bộ cách mạng mà em. Thôi thay quần áo nhanh lên, hôm nay anh đưa đi chèo ghe.

- Không ở nhà ăn sáng với má à.

- Má biểu anh đưa bác Thiên và em đi chơi cả ngày luôn.

Vùng quê của Tân có nhiều khu du lịch sinh thái, đón nhiều khách du lịch đến tham quan vườn trồng hoa kiểng, vườn cây ăn trái, chèo xuồng trên kinh rạch, thưởng thức những món đặc sản của miền quê sông nước.

Đêm thứ hai. Bác Thiên và cậu Út tiếp tục đánh cờ tướng. Tân ngồi chầu rìa xem. Bách Hợp ngồi ở bộ ván với bà Mơ. Bà kể chuyện thời trẻ cưới xong theo chồng xa xứ. Vợ chồng trẻ sống vui vẻ hạnh phúc, bươn chải làm việc, Tân chào đời là niềm vui của hai vợ chồng trẻ.

Họ đã tạo dựng được một cơ ngơi nho nhỏ. Năm Tân mười tuổi, ba Tân bị tai nạn qua đời. Sống một mình nơi chốn đô thành không bà con thân thích, bà thu xếp đưa con về quê ngoại sống, tần tảo nuôi con lo cho mẹ già. Chấm dứt câu chuyện, bà nắm tay Bách Hợp, ánh mắt nhìn cô âu yếm nói:

- Má vui lắm. Tân cưới được con thật là may mắn, mau mau sinh cho má hai đứa cháu, trai gái đầy đủ nghe.

- Dạ.

Bách Hợp không biết nói gì hơn với má chồng, vốn dĩ bản tính cô là người sống nội tâm, không quen bộc lộ tình cảm của mình với người khác. Bà ngoại nằm đưa võng, đột nhiên hát một câu ca dao:

Ầu ơ…Khổ qua xanh, khổ qua đắng.

Khổ qua mắc nắng khổ qua đèo

Thương nhau dầu khổ dầu nghèo cũng thương.

Bà Mơ lắng nghe xong cười vui vẻ nói:

- Bà ngoại ơi, cháu dâu đã thương Tân thì thương đến già, không có chuyện khổ qua đắng khổ qua đèo gì cả. Phải không con dâu?

- Dạ. Bà ngoại hát ru hay quá. Chắc bà ngoại thuộc nhiều bài hát ru…

- Ờ, nhớ nhiều lắm. Bữa trưa nào rảnh, bà ngoại hát ru cho con nghe.

- Dạ.

Sau một ngày đi tham quan vui chơi, vào phòng thay quần áo xong, chờ mãi Tân vẫn chưa vào, bên ngoài vẫn râm ran tiếng cười nói của mấy cao thủ chơi cờ. Bách Hợp thiếp ngủ lúc nào không biết. Tờ mờ sáng, Bách Hợp thức giấc, cô xoay người chạm phải người Tân. Anh mở mắt nhìn Bách Hợp, vòng tay anh nhanh nhẹn kéo cô sát vào người anh… sự va chạm thân thể lần đầu tiên giữa hai người. Bách Hợp vội vàng đẩy anh ra nói nhanh:

- Em phải dậy thôi… sáng nay bác Thiên về thành phố. Em phải phụ má làm bữa ăn sáng.

- Còn sớm mà em… hôn anh đi…

- Không… cho nhớ cái tội bỏ em bơ vơ liền mấy đêm..

- Đâu phải lỗi tại anh… Tại em thì có… cô dâu mới à…

Tân nói xong cười hi hi ha ha.

Ăn sáng xong, cả nhà tiễn ông Thiên về thành phố. Bà Mơ chuẩn bị quà cho ông Thiên nào gạo nếp, chuối xiêm, dừa khô, chiếc giỏ đệm căng phồng. Ông Thiên nhận chiếc giỏ cười nói:

- Cảm ơn bà chị. Một mình làm sao ăn hết bấy nhiêu thứ này đây.

Bà Mơ ngó sửng ông Thiên:

- Anh sống một mình à. Vợ con đâu?

Tân nói thay cho ông Thiên:

- Má à, bác Thiên góa vợ. Con gái bác ở nước ngoài.

Khi ông Thiên đi rồi, bà Mơ gọi hai vợ chồng Tân đến bà nói:

- Hai đứa chuẩn bị, ngày mai về thành phố luôn. Vắng Bách Hợp má con ở trển chắc buồn lắm.

- Con chưa hết phép ở nhà v ớ i má thêm vài ngày nữa.

- Không được, về trển hai đứa đi chơi đâu đó đi, ru rú ở xó quê này làm chi.

Tân cười to, vui vẻ nói:

- Má cho phép, mình đi hưởng tuần trăng mật nghe em.

- Dạ. Cảm ơn má. Má thương anh Tân quá!

Đêm thứ ba. Đêm nay thực sự là đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ. Tân dịu dàng hỏi:

- Đêm nay được không em?

Bách Hợp im lặng xiết nhẹ bàn tay Tân. Nếu như ở nhà trong phòng ngủ của cô, cô sẽ cho Tân tiếp tục ngủ một mình suốt đêm luôn “Chú rể ơi! Sao ngu ngơ thế! Hỏi thế mà cũng hỏi!”

Khuya. Ánh trăng mờ mờ len vào khe cửa, ánh mắt hai người gặp nhau. Khuôn mặt Bách Hợp tươi tắn, đôi mắt to, lông mi cong, đôi mắt với ánh nhìn thăm thẳm diệu vợi, đôi môi hồng trẻ thơ. Tân nhìn say đắm, người con gái anh không dám mơ tưởng, giây phút này cận kề bên anh, anh cảm nhận được mùi hương tinh khiết của người con gái thanh tân, dịu dàng thuần khiết của cô dâu mới. Tân đặt môi vào môi cô, hai người hôn nhau, nụ hôn dài, miên man, chìm đắm trong nhau. Tình yêu đích thực là tình yêu ân ái vợ chồng. Bách Hợp trao thân và hiểu rằng tình yêu chính là cuộc sống, cuộc sống vợ chồng. Tân là cuộc sống, gắn bó cùng cô đêm nay và mãi mãi…

***

Thấm thoát mùa xuân lại gõ cửa. Thiên nhiên trăm hoa khoe sắc. Gió đông còn vương vấn chút se se lạnh buổi sớm mai. Trong những ngày cuối năm, tiễn đưa năm cũ đón năm mới… Vợ chồng Bách Hợp về quê ăn Tết. Vợ chồng Bạch Đàn đi du lịch ở Mỹ, tiện thể thăm gia đình Bách Hương. Vắng bé Bi bà Bạch Lệ nhớ lắm… Bà không bận rộn để chuẩn bị nhiều thức ăn như mọi năm.

Trơ trọi một mình trong căn nhà vắng lặng. Hôm nay 30 Tết. Bà nấu mâm cỗ cúng thật đơn giản, canh khổ qua, thịt kho hột vịt, chả lụa, bánh tét… cúng xong có lẽ bà ăn dần cho đến ngày mùng 3.

Đi ra đi vào, bà Bạch Lệ ngồi xuống thừ người ở sa lông. Đắm chìm trong những hồi tưởng. Cuộc sống của bà không phải là những năm tháng trôi qua, mà là những ngày tháng còn đọng lại trong tim, trong trí nhớ. Không thể nào quên. Không thể nào quên.

Nhìn lại chặng đường đã đi qua của người đàn bà bị bỏ rơi là nước mắt rơi trong những đêm dài hiu quạnh, nước mắt là bạn xoa dịu nỗi đau xé lòng…

Bà vượt qua những khó khăn thử thách thất vọng oán hờn, nhờ vào sự chia sẻ yêu thương của ba cô con gái Bách Hương, Bạch Đàn, Bách Hợp. Khi bà nghĩ mọi việc đã kết thúc, chấm dứt, là lúc mọi việc lại bắt đầu. Các con bà mạnh mẽ, để chiến thắng số phận, hoàn cảnh bi kịch của gia đình, tự giải thoát cho chính mình, có những hành động quyết liệt, kết hôn tức khắc… và sống hạnh phúc. Thời gian là liều thuốc chữa lành mọi vết thương, bà Bạch Lệ tự chữa lành vết cắt trong trái tim bà bằng sự yêu thương con trẻ. Bà yêu đứa cháu ngoại trai của mình như báu vật. Một đứa con trai bà khao khát cả đời, không có được…

Bà đang sống bình yên trong căn nhà do người chồng cũ tạo dựng nên. Ông phụ bạc bà, ký đơn ly hôn, xách va li ra khỏi nhà không chia tài sản. Từ trong suy nghĩ, có lẽ các con bà đã tha thứ bởi hành động cao thượng của cha mình. Riêng bà, nỗi đau vẫn âm ỉ cháy trong tim, vào thời điểm đó bà không thể thay đổi được hoàn cảnh, chấp nhận, buông xuôi đưa đến trầm cảm, trái tim đau nhói, đau nhói. Trái tim loạn nhịp.

Hiện tại chiêm nghiệm lại, nhìn nhận lại, từ trong sâu thẳm trái tim, bà Bạch Lệ nghĩ đến người chồng cũ, đến bà má chồng già yếu, đã bước vào tuổi chín mươi. Nghĩ đến Bách Hợp, đã kết hôn, do hoàn cảnh hai vợ chồng không có điều kiện kinh tế để mua nhà ra riêng. Tân là con trai độc nhứt, nếu Bách Hợp có con, bà Mơ sui gia khó có thể về sống chung với con trai và cháu nội.

Hơn sáu tháng nay, Tân chịu ở rể sống chung nhà với bà rất thuận thảo, lo cho bà và Bách Hợp chu đáo tận tình, đôi khi bà Bạch Lệ cảm nhận như Tân là đứa con trai ruột thịt của mình. Từ những suy nghĩ thấu đáo, cặn kẽ, hợp lý lẽ đạo đức con người, bà Bạch Lệ nghĩ tới một quyết định: “Phải thay đổi, phải tiến hành ngay tức khắc”.

Mùng 6 Tết, hai vợ chồng Bách Hợp về đến nhà. Bà Bạch Lệ bảo mùng 8 Tết bà sẽ về quê thăm bà nội, Bách Hợp đòi đưa bà đi, bà bảo muốn đi một mình, sẽ ở chơi vài ngày.

Bà Bạch Lệ về đến quê. Bà nội chưng hửng, bất ngờ hơn khi nghe con dâu trình bày rằng muốn bán căn nhà đang ở, chia đều cho sáu người, sáu phần bằng nhau.

Bà nội nói giọng nhỏ nhẹ:

- Việc này con bàn với ba mấy đứa nhỏ. Phần má khỏi chia chác gì cả, già rồi không cần tiền.

Ba Bách Hợp hỏi:

- Bán nhà rồi bà ở với ai? Bà đâu cần tiền.

- Tôi muốn giải quyết công bằng hợp lý với những đứa con. Ba đứa con gái của tôi và đứa con trai riêng của ông.

Bà nội chậm rãi nói:

- Ý má là vầy, phần của má, con chia cho Bách Hợp, hay con giữ mua căn nhà khác.

Bạch Lệ dứt khoát trả lời :

- Má nên cho cháu nội trai… Vậy là hợp lý. Phải không ông?

Người chồng cũ vẻ mặt buồn rầu, ánh mắt đăm đăm nhìn Bạch Lệ không nói nên lời.

Bạch Lệ trở về nhà, mời con gái con rể đến, cho biết quyết định của mình. Bách Hợp ôm má thật chặt, xúc động nói:

- Má luôn nghĩ đến các con, không nghĩ gì đến bản thân mình. Con thương má. Má ơi!

Bà Bạch Lệ đã sống như chính con người của bà. Bà chấp nhận tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời. Chịu trách nhiệm cho sự đổ vỡ gia đình, chịu trách nhiệm cho sự đau khổ của mình, không đổ lỗi cho người khác. Bà biết mình muốn gì và cần gì. Bà tin có thể giải quyết được vấn đề, giải quyết nhanh. Bà không muốn giữ một chút gì cho riêng mình, bà muốn trao tặng, muốn cho đi. Bà đem lại niềm vui hạnh phúc cho con cháu.

Mấy tháng sau. Việc bán nhà giải quyết xong. Bách Hợp dọn tất cả đồ đạc về căn nhà thuê tạm, trong thời gian chờ xây ngôi nhà mới cho hai vợ chồng Vợ chồng Bạch Đàn nhà cửa đàng hoàng, không vướng bận cha mẹ chồng, mong bà Bạch Lệ về sống chung gần gũi bé Bi cháu ngoại trai thương yêu của bà. Bà Bạch Lệ bảo đi du lịch sang Mỹ thăm Bách Hương khi trở về sẽ tính chuyện mua nhà hay sống với ai.

Ngày ra sân bay, bà Bạch Lệ ngỡ ngàng khi biết ông Thiên cũng đi Mỹ cùng chuyến bay với bà. Bách Hợp cười cười nói:

- Du lịch có bạn đồng hành vui vẻ nghe má.

- Tại sao giấu má không nói trước.

Ông Thiên nhìn bà vui vẻ nói:

- Cuộc sống có những bất ngờ sẽ thú vị… phải không bà. Như tôi với bà mấy chục năm tình cờ gặp lại.

Đúng thế! Bà Bạch Lệ nghĩ thầm trong đầu. Cuộc đời, cuộc sống của bà lật sang một trang mới. Bà đang bay bổng bềnh bồng trên bầu trời xanh bao la. Trái tim bà êm ả một nhịp đều đều.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI


(Các bạn có thể like và share bài viết vote bình chọn tác giả nhé. Kết thúc bình chọn lúc 19h00 ngày 27.04.2019)

BTC sẽ công bố các tác phẩm vượt qua vòng sơ loại tháng 04 vào 22.04.2019.

27.04.2019: Thông báo Top 5 thí sinh có bài viết hay nhất do BGK bình chọn.

28.04.2019: Công bố 2 giải thưởng của tháng.

30.04.2019: Công bố bài nhận xét BGK dành cho các bạn thí sinh tham dự.


Phụ Bản IV

BỆNH LÚ LẪN ALZHEIMER

A. Những giai đoạn tiến triển của Alzheimer

Bệnh lú lẫn Alzheimer tiến triển rất chậm chạp. Sự nhận biết của bệnh nhân có thể giảm dần trong vòng 7 tới 10 năm. Cuối cùng tất cả các bộ phận sinh hoạt của óc như trí nhớ, cử động, ngôn ngữ, cách cư xử, sự phán đoán và óc suy luận trừu tượng đều bị ảnh hưởng. Bệnh Alzheimer thường được chia ra 3 giai đoạn. Tìm biết về 3 giai đoạn này có thể giúp bệnh nhân và gia đình chuẩn bị cách đối phó cho tương lai. Tuy nhiên, không hẳn là bệnh nhân nào cũng theo đúng những giai đoạn này hoặc có những triệu chứng giống nhau.

1. Giai đoạn nhẹ:

Bệnh nhân trong giai đoạn này thường giảm bớt trí nhớ, đôi khi không phán đoán sáng suốt và có sự thay đổi tính tình chút ít. Họ có thể giảm sự chú ý, và bỏ dở việc đang làm. Họ cũng không muốn thay đổi và ngại chuyện khó khăn và có thể bị đi lạc ngay cả ở những chỗ đã quen thuộc.

Người nào thì cũng có lúc quên một vài tiếng hay tên người trong lúc nói chuyện nhưng người bệnh lú lẫn thì quên nhiều hơn và càng ngày càng quên thêm. Họ có thể chế ra những chữ không đâu để thay thế. Họ sẽ tránh nói chuyện để khỏi mắc lỗi và càng ngày càng khép kín, nhất là trong những dịp phải giao thiệp xã hội hay phải suy nghĩ nhiều.

Bệnh nhân Alzheimer có thể cất đồ vô những chỗ khác thường thí dụ như cất bóp vô tủ lạnh hay cho quần áo vô máy rửa chén. Họ có thể hỏi đi hỏi lại những câu hỏi và cất giữ những thứ vô giá trị. Khi mệt mỏi hoặc bực mình họ có thể nổi giận dữ dội dù thường ngày hiền lành.

2. Giai đoạn khá nặng

Trong giai đoạn này, bệnh nhân không thể sắp xếp tư tưởng hay theo được những giải thích có tính lý luận cũng như không theo được những chỉ dẫn viết ra. Họ cần được giúp chọn quần áo mặc cho thích hợp với thời tiết hoặc sinh hoạt. Dần dần họ sẽ phải được giúp mặc quần áo vì họ có thể mặc đồ lót ra ngoài hay đi giầy nhầm chân. Họ cũng có thể đại tiểu tiện trong quần.

Trong giai đoạn này, người bệnh thường mất khả năng nhận diện người thân và bạn bè. Họ có thể nhầm lẫn cho con là bạn hay vợ chồng là người lạ. Họ lẫn không biết họ đang ở đâu và không biết ngày tháng. Họ quên địa chỉ hay số điện thoại của chính mình và dễ bị đi lạc vì không thể xét đoán biết mình đang ở đâu, do đó không thể để họ một mình mà phải có người trông nom trong giai đoạn này.

Họ trở nên không yên, làm đi làm lại vài cử chỉ, nhất là về buổi chiều, hoặc nhắc đi nhắc lại một câu chuyện, một vài chữ hay cử động vô nghĩa, thí dụ như ngồi xé giấy. Càng ngày họ càng không thể nói chuyện được với ai và dẫn đến những cử chỉ kỳ lạ như hoảng loạn, kết tội người khác ngoại tình hay ăn cắp. Bứt rứt, giận dữ, khó chịu đưa tới chửi thề, đấm đá, đánh cắn, chụp giựt người khác hay la hét.

3. Giai đoạn nặng

Trong giai đoạn này, người bệnh cần được giúp đỡ trong mọi mặt sinh sống. Họ không thể tự đi lại và sau cùng không thể ngồi được. Họ không biết tự đi vệ sinh, không nói rõ được. Họ không nhận biết người nhà. Họ dễ bị sặc vì khó nuốt và có thể từ chối ăn uống. Bệnh sẽ kéo dài bao lâu?

Mực độ tiến triển của bệnh thay đổi tùy theo mỗi người. Một số người bệnh nặng khoảng năm năm sau khi được định bệnh. Những người khác có thể kéo dài 10 năm. Trung bình, người bệnh sống khoảng 8 tới 10 năm sau khi định bệnh. Một vài người sống lâu tới 20 năm. Ða số bệnh nhân không chết vì bệnh Alzheimer mà chết vì những nguyên do khác như sưng phổi, nhiễm trùng đường tiểu hay biến chứng sau khi té.

B. Ngăn ngừa bệnh Alzheimer: tập thể dục là cách tốt nhất

Một báo cáo gần đây nhất của Hội bệnh Alzheimer tiên đoán là 10 triệu người Mỹ thế hệ baby boomer tức sinh ra sau thế chiến thứ 2 sẽ bị bệnh Alzheimer (tức tỉ lệ 1/8) khiến những người trong lứa tuổi này thấy lo sợ không ít. Hiện nay đã có vài loại thuốc làm bệnh chậm tiến triển nhưng con đường tìm ra thuốc chữa hãy còn rất gian nan. Trong lúc chờ đợi thuốc chữa bệnh, chúng ta hãy nghe các nhà nghiên cứu nói về kết quả của họ.

Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy vận động thân thể mỗi ngày không những chỉ có tác dụng tốt lên hệ tim mạch và giữ cho khỏi lên cân quá nhiều mà còn có thể ngăn ngừa chứng bệnh lú lẫn quái ác. Những nghiên cứu trên dân số cho thấy tập thể dục mỗi ngày sao cho nhịp tim tăng lên trong ít nhất 30 phút có thể làm giảm nguy cơ bị bệnh. Trong một nghiên cứu trên chuột, người ta thấy vận động thân thể có vẻ như ngăn chận được những thay đổi của óc đưa tới bệnh Alzheimer.

Một nghiên cứu có tính chất quan sát về liên hệ giữa vận động với hoạt động của trí óc trên 6000 phụ nữ từ 65 trở lên trong vòng 8 năm, cho thấy những phụ nữ thường xuyên tập thể dục ít bị sút giảm trí óc như những phụ nữ thụ động. Một nghiên cứu khác tại viện đại học Chicago được thực hiện trên những con chuột đã được nuôi sao cho óc bị những mảng giống như óc bệnh lú lẫn.

Một số chuột được cho vận động thường xuyên, số còn lại không được vận động. Óc của những con chuột vận động nhiều có từ 50 đến 80% ít mảng plaque gây bệnh hơn những con thụ động. Chuột vận động cũng tiết ra nhiều chất phân hóa tố chống tạo ra plaque. Họ kết luận: “Vận động thân thể thường xuyên có lẽ là cách tốt nhất để ngừa bệnh Alzheimer, tốt hơn cả thuốc men, vận dụng trí óc hay thuốc bổ và ăn uống kiêng cữ.

C. Cách nói chuyện với bệnh nhân Alzheimer

Bệnh nhân Alzheimers thường dần dần mất khả năng đối thoại khiến người nói chuyện với họ không hiểu nổi họ đang nghĩ gì, nói gì. Do đó, nói chuyện với người bệnh là việc rất khó, chúng ta nên tìm hiểu rõ để bớt được sự bực dọc cho mình và cho họ.

Tiến triển của bệnh:

Những tuyến đường thần kinh trong óc của người bệnh Alzheimer thường bị phá hủy khiến họ không nhớ và không còn hiểu những chữ thường dùng nữa. Họ có thể cảm tưởng như biết chữ đó, có sẵn trên đầu lưỡi nhưng không thể nói ra, vì thế họ rất bực dọc. Họ có thể dùng một chữ khác để thay thế chữ định nói dù ý nghĩa khác hẳn. Hay họ có thể chế ra một chữ mới để thế chữ họ định nói.

Họ cũng có thể như bị kẹt vô một cái rãnh trên máy hát, nhắc đi nhắc lại mãi một câu hỏi. Người bệnh Alzheimer cũng có thể:

- Bị mất dòng suy nghĩ

- Vật lộn với cấu trúc của câu, chữ cho có nghĩa

- Cần thêm thời gian để hiểu bạn muốn nói gì

- Chửi thề hay nói lỗ mãng.

PHẢI LÀM SAO?

- Hiểu người bệnh. Hiểu rằng họ không cố tình làm như vậy.

- Cho họ thấy mình chú ý tới họ. Nhìn thẳng vào mắt họ và luôn ở gần bên để người bệnh biết là bạn đang lắng nghe và muốn hiểu họ.

- Không nói chuyện ở chỗ đông người và nhiều tiếng động.

- Dùng chữ đơn giản, câu ngắn. Tránh nói những câu phức tạp hay đưa lời chỉ dẫn. Khi cần, nói chậm và chia thành từng đoạn một. Ðưa ra quá nhiều giai đoạn cùng lúc sẽ làm bệnh nhân rối loạn thêm.

- Không ngắt câu bệnh nhân có thể cần nhiều phút để trả lời. Không phê bình, vội vã, sửa lỗi họ, cãi nhau với họ.

- Ðưa ra vật dụng hay hình ảnh rõ ràng khi nói. Thí dụ dẫn họ đến cầu tiêu để hỏi họ cần đi hay không.

- Không cãi nhau với người bệnh. Họ đã mất khả năng lý luận và phán đoán, do đó cố chứng minh họ sai chỉ là việc không tưởng, làm cả hai cùng tức giận.

- Giữ bình tĩnh và thư giãn. Dù bực tức, bạn nên giữ giọng hòa nhã, bình tĩnh. Nếu lời nói và giọng nói không đi đôi với nhau, bệnh nhân sẽ khó hiểu. Giọng nói, cử chỉ của bệnh nhân nhiều khi nói lên nhiều hơn chính tiếng nói của bạn.

8 Cách Ngăn Ngừa bệnh Alzheimer

Theo BS Weil, tuy nguyên nhân gây ra bệnh Alzheimer vẫn chưa biết chính xác, yếu tố lớn nhất vẫn là tuổi tác: sau 65 tuổi, cứ thêm 5 tuổi thì nguy cơ mắc bệnh lại tăng gấp đôi. Sau 85 tuổi thì nguy cơ bị bệnh là 50%. Nếu bạn muốn giảm thiểu nguy cơ bằng cách thay đổi nếp sống một cách lành mạnh, thì hãy thêm 8 điều sau vào thông lệ hàng ngày của bạn.

1. Thách thức bản thân mình. Ngày càng nhiều bằng chứng về y khoa cho thấy việc kích thích não (suy nghĩ) suốt đời là chìa khóa cho việc nuôi dưỡng và duy trì các tế bào não khỏe mạnh, chặn đứng việc giảm trí nhớ và có thể ngăn chặn được bệnh Alzheimer. Hãy thử làm công việc mình thích thú (có lương hay tình nguyện), theo đuổi các sở thích (như chơi cây cảnh, sưu tầm tem,…), tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, học ngoại ngữ, ca hát, hay cách dùng các phần mềm vi tính.

2. Dùng 1 liều thấp thuốc aspirin hàng ngày (người không đau bao tử). Một số công trình nghiên cứu phát hiện mối liên hệ giữa việc dùng aspirin (hoặc các loại thuốc kháng viêm non-steroid khác) và sự giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh Alzheimer.

3. Bổ sung Vitamin C và E. Một nghiên cứu ở trường ĐH John Hopkins cho thấy Vitamin C và E dùng chung có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer. (Vitamin C có nhiều trong trái cây như: thơm (dứa), cam, chanh, quýt, dâu, cà chua, rau có lá xanh thẫm, ớt xanh. Là chất chống sự oxy hóa căn bản trong huyết tương, làm lành vết thương, kích thích sản xuất kích thích tố. Làm chậm quá trình lão hóa. Vitamin E có nhiều trong rau, đậu phụng, đậu nành, hạt dẻ, trứng, mầm lúa. Là chất chống oxy hóa hòa tan căn bản trong mỡ của cơ thể, ngăn chặn sự oxy hóa Cholesterol LDL và các chất mỡ khác, nâng cao tính miễn dịch, giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não. Vì nó ngăn chặn sự oxy hóa chất béo trong thực phẩm, bạn nên dùng hàng ngày và nhất là trước một bữa ăn thịnh soạn.)

4. Hàng ngày nên dùng loại thuốc “bổ” multivitamin chứa hàm lượng thích hợp a-xít phô-líc (acid folic tức là Vitamin B9) cùng các Vitamin B khác (tức là Vitamin B complex) vì chúng làm giảm mức homocysteine, một loại a-xít amin tạo ra do sự phân hủy đạm động vật. Người có homocysteine ở mức cao có nhiều khả năng bị bệnh Alzheimer.

5. Nấu nướng với các loại gia vị có dược tính tốt. Nghệ, gừng, ớt chẳng những thêm hương vị cho món ăn mà còn là những chất kháng viêm thiên nhiên (còn gọi là kháng ô-xi hóa: anti-oxidant).

6. Dùng những thực phẩm giàu chất béo omega-3; trong đó phải kể cá hồi hoang dã vùng Alaska, cá mòi, bột hạt lanh (flaxseed) mới xay, và hạt óc chó (walnut).

7. Đưa vào bữa ăn nhiều trái cây, rau củ trồng theo lối hữu cơ không dùng phân hóa học, thuốc trừ sâu.

8. Hạn chế dùng các loại dầu thực vật có chứa chất béo poly-unsaturated như dầu hướng dương, dầu bắp, dầu safflower mà thay bằng dầu ô-liu ép nguội (không nấu).

Xin nói thêm:

(1) Cơ thể chúng ta chỉ cần lượng chất béo poly-unsaturated chiếm 3-7% năng lượng cần thiết hàng ngày, chất béo omega-6 chiếm 3% và omega-3 chiếm 0,5-1%, nghĩa là tỉ lệ 5-1 hay 10-1 cho omega-6 và omega-3, thế nhưng đa số chúng ta hiện nay dung nạp 2 loại chất béo này theo tỉ lệ 14-1 hay 20-1, rất có hại cho sức khỏe. Do đó, cần tăng thêm lượng omega-3 trong khẩu phần hàng ngày, có thể bằng cách uống dầu cá thu..

(2) Ở VN dầu ô-liu rất đắt; có thể thay bằng dầu đậu nành nhưng phải rất hạn chế vì trong 100g dầu đậu nành chỉ có 7g chất béo omega-3 mà đến 51g chất béo omega-6.

(3) Có thể ngâm nhanh rau củ quả trong dung dịch dấm và nước ở tỉ lệ 10% rồi rửa lại bằng nước thường để loại bỏ thuốc trừ sâu còn tồn đọng.

Hoàng Kim Thư st.

10 ĐIỀU SUY NGẪM

1. Cầu nguyện không phải là “bánh xe dự phòng” để lấy ra khi gặp khó khăn, nhưng là “tay lái” để lái đi đúng đường suốt cuộc tạm hành trên đất này.

2. Tại sao xe hơi có KIẾNG TRƯỚC lớn hơn nhiều so với KIẾNG CHIẾU HẬU? Vì QUÁ KHỨ của chúng ta không quan trọng so với TƯƠNG LAI. Vậy, hãy nhìn thẳng phía trước và đi tới.

3. Tình bạn như một QUYỂN SÁCH. Chỉ cần vài phút để đốt đi, nhưng cần vài năm để viết.

4. Tất cả những điều mình có trong đời sống nầy đều tạm bợ. Nếu được hạnh thông, hãy vui hưởng, vì nó sẽ chóng qua. Nếu không thuận lợi, cũng đừng lo lắng, vì nó cũng sẽ không kéo dài.

5. Bạn cũ là Vàng! Bạn mới là Kim Cương! Nếu ta có Kim Cương, đừng quên Vàng! Vì muốn giữ được Kim Cương, ta luôn cần Vàng để bọc Kim Cương!

6. Thường khi ta mất hy vọng và nghĩ đây là đoạn cuối đường, Thượng Đế ở trên cao cười và nói: “Hãy thư giãn, con yêu của ta. Đó chỉ là khúc quanh, chứ không phải là đường cùng”.

7. Khi Thượng Đế giải quyết những vấn đề của ta, ta đặt niềm tin nơi Ngài. Khi Thượng Đế không giải quyết những vấn đề của ta, Ngài đặt niềm tin vào khả năng của ta.

8. Một người mù hỏi thánh Anthony: “Có thể còn điều nào khổ hơn là bị mù không?” Ông thánh trả lời: “Có, lúc ngươi mất định hướng!”

9. Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, Thượng Đế lắng nghe và ban phước cho người đó. Và đôi khi chúng ta bình an, hạnh phúc, hãy nhớ rằng một người nào đó đã cầu nguyện cho ta.

10. Sự LO LẮNG không dẹp bỏ được sự KHÓ KHĂN ngày mai, nhưng nó lấy đi sự BÌNH AN hiện tại.

KIM SƠN st.

Bài thuốc dành cho nam giới

TẮC KÈ BỔ DƯƠNG

Theo Bác sỹ ĐÀO MINH SƠN

Tắc kè là con vật trầm tĩnh, di chuyển rất nhanh, nhất là khi săn mồi và là con vật chịu được mọi hoàn cảnh thời tiết, có khả năng sinh dục bền bỉ.

Từ xa xưa người ta đã biết dùng tắc kè - chế biến thành món ăn hay ngâm rượu - làm thuốc chủ trị cho các đức lang quân “kém may mắn” trong chuyện chăn gối.

Theo y học cổ truyền, tắc kè có vị mặn, bình, quy kinh, có ít độc tính. Thành phần chủ yếu có trong tắc kè là chất béo, các loại acid amin. Tắc kè làm thuốc có tác dụng bổ phế, ích tinh huyết, bổ thận dương. Khi dùng làm thuốc, người ta thường dùng một cặp tắc kè; hiếm khi chỉ dùng một con làm thuốc.

RƯỢU TẮC KÈ

Một cặp tắc kè, 15g nhân sâm, 50g nhục thung dung, thục địa, bách bộ, mạch môn, mỗi thứ 20g. Cho tất cả vào một lít rượu trắng, ngâm trong 1-2 tháng. Nên dùng trước bữa ăn hoặc buổi tối trước khi đi ngủ. Rượu tắc kè có tác dụng bổ dương, lợi ích huyết.

CANH TẮC KÈ CHIM CÚT

Một cặp tắc kè, một con chim cút, một chút gừng và gia vị.

Làm thịt chim cút chặt miếng; cho tắc kè vào cùng, đổ nước vừa đủ ngập, đun sôi, vặn lửa nhỏ hầm trong 2-3 giờ. Khi ăn cho thêm gia vị, gừng. Mỗi ngày ăn một lần. Ăn trong một tháng.

CANH NHÂN SÂM TẮC KÈ

Một cặp tắc kè, 10g nhân sâm, 100g thịt thăn, táo đỏ và gừng vừa đủ.

Rửa sạch thịt nạc, tắc kè, nhân sâm; cho tất cả vào bát hấp cách thủy. Nên dùng món này thay canh hàng ngày, có tác dụng ôn tỳ, bổ thận.

Cách “làm” tắc kè

Nhúng tắc kè vào nước nóng, cạo vẩy, chặt bỏ đầu từ hai u mắt trở lên và vứt bỏ các móng nhọn.

Bỏ hết ruột, chỉ lấy dạ dày.

Để tránh bị tanh khi chế biến, nên rửa tắc kè đã làm sạch bằng rượu gừng.

Phùng Chí Tâm st.

Tự Điển Tiếng Việt

của một Người Mỹ

Tìm thấy những ghi chép trong sổ tay một du khách Mỹ đánh rơi trên bãi biển ở Việt Nam

- Ăn đi: Không có nghĩa là vừa ăn vừa đi mà chỉ nhắc nhở ai đó ăn mạnh vào.

- Ăn mặc: Không có ăn chi cả mà chỉ có mặc không thôi

- Ăn nói: Cũng không ăn chi cả mà chỉ nói không thôi

- Buồn cười: Không có buồn gì cả mà chỉ có cười không mà thôi

- Cà lăm, Cà nhắc, Cà chớn, Cà khịa, Cà rịch, Cà tang: Không phải những loại Cà để ăn, mà những tật không hay của người ta.

- Đánh Giày: Không phải là Phang, Đánh, Đập, Đá vào Giày mà là “o bế”, làm đẹp cho Giày.

- Đánh Răng: Không phải là Đánh, Đập… cho Răng đau, mà dùng bàn chải và kem làm cho sạch răng mà thôi.

- Đi Cầu: Là đi vô toilet chứ không phải lái xe hay chạy qua cầu đâu.

- Hai Vợ Chồng: Không có nghĩa là 2 Vợ 1 Chồng mà chỉ có 1 Vợ 1 Chồng thôi.

- Hai Ông Bà: Không có nghĩa là 2 Ông 1 Bà, mà chỉ có 1 Ông 1 Bà thôi.

- Làm thinh: Không có làm việc gì cả mà chỉ yên lặng, không nói năng chi hết.

- Làm biếng: Cũng không có làm chi hết mà chỉ… chơi không mà thôi.

- La cà: không la rầy ai cả mà rề rà (?) ghé chỗ này chỗ kia.

- Làm răng (mần răng): Làm thế nào chứ không phải đi chữa Răng đau đâu.

- Ngâm thơ: Không phải là đem lá thơ ngâm vô nước, mà là đọc... kéo từng chữ cho dài ra, cho người ta nghe hay hay.

- Nhà tôi: Không phải là cái nhà để ở mà NGƯỜI BẠN ĐỜI hay MỘT NỬA KIA... của mình.

- Nhà thơ, nhà văn, nhà báo: Không có nghĩa là nhà để chứa những bài thơ, bài văn hay báo chí, mà là chỉ người làm thơ, viết văn, viết báo...

- Ông Sui: Là Ba mình gọi Ba của vợ mình, chứ không có nghĩa là “Mr. Unlucky” đâu.

- Tục ngữ: Không phải là những lời thô tục, mà là những lời dạy dỗ quý báu trong dân gian.

Nguồn: Không rõ nguồn

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

NHÀ THƯƠNG ĐIÊN

V ăn hoa một tí thì gọi là Bệnh viện tâm thần, nhưng tôi muốn gọi là Nhà thương điên hơn, nghe nó có gì đó cảm xúc, ấn tượng và thực chất. Cậy cục mãi tôi mới xin được vào thực tế nơi đây. Đơn giản thôi, người ta sợ không bảo đảm được an toàn cho tôi, người ta sợ sự soi mói vốn là đặc tính của mấy tay viết lách, người ta sợ tôi biết những điều mà người ta không muốn cho biết. Nhưng với tài viện dẫn và thuyết phục cùng bao lý do xã hội nghe rất kêu rất chính đáng rất hợp tình hợp lý, cuối cùng là rất không thể từ chối, người ta phải mở cổng cho tôi vào sau hàng loạt cảnh báo đầy đe dọa, và cam kết hùng hồn của tôi là tự chịu trách nhiệm với bất cứ tổn hại gì xảy đến cho bản thân. Thực ra thì làm ra vẻ quan trọng thế thôi, chứ nhà cửa phòng ốc kiên cố cùng những biện pháp bảo an thường trực cho cả bệnh nhân lẫn y bác sĩ thế này thì dễ gì mà xảy ra chuyện. Nhưng cẩn thận vốn không thừa bao giờ nhỉ.

Người hướng dẫn cho tôi là Trương, một nam y sĩ tuổi chừng ngoài ba mươi. Anh chàng có vóc người khá lực lưỡng, có lẽ đó cũng là một yếu tố trong tuyển chọn vào công việc này. Trương giới thiệu cho tôi một số phòng ban điều hành và y tế. Những điểm ấy chỉ cần lướt qua thôi. Tổng cộng nhân lực cho một nhà thương điên có gần trăm bệnh nhân nặng nhẹ các loại này chưa đến hai mươi người, chính xác là mười tám cộng cả bảo vệ lẫn cấp dưỡng. Trời ạ, chỉ thử hình dung số lượng công việc mà từng ấy người đảm nhận đã hoa cả mắt chóng cả mặt. Nếu là một cơ sở y tế thông thường thì không đáng ngại, đằng này… Cả một khuôn viên rộng chừng hai hecta có tường cao bao quanh. Bên trong chia làm nhiều dãy. Vòng bìa những dãy thuộc về quản lý phục vụ ăn nghỉ cho y bác sĩ cấp dưỡng bảo vệ, vì họ gần như ăn ở tại chỗ, lâu lâu mới về thăm nhà. Còn lại là các khu bệnh được chia theo mức độ nặng nhẹ của bệnh nhân. Các dãy này hầu như bao quanh một khoảng sân rộng có bài trí thảm hoa cây cảnh, khu tản bộ khu thể thao vận động. Lác đác có một số bệnh nhân đi lại, đôi ba người ngồi gốc cây nói chuyện, vài nam thanh trung niên thì bập bông mấy quả bóng. Trương cho biết đó là những bệnh nhân đã thuyên giảm khá nhiều, họ đang trở lại với những hình hài cuộc sống tự nhiên. Một số ít không có thân nhân đón về thì ở lại làm những công việc phù hợp. Những người này có khi là thân nhân bỏ hẳn từ lâu, có khi họ không muốn trở lại cuộc sống xô bồ giành giật ngoài kia, họ tự nguyện ở lại để tìm cho mình một chốn an bình, tránh nguy cơ tái bệnh. Ngang qua một dãy khác, tôi nhìn thấy trong những gian phòng là những hoạt cảnh lạ lẫm. Những gương mặt vô hồn, những ánh mắt không có thần thức, những hành vi không có chủ đích. Người thì ngồi nhìn chăm bẳm vào một khoảng không, miệng lẩm bẩm lẩm bẩm, người thì ngồi mân mê mớ tóc rối và đưa vào miệng nhai nhóp nhép, người thì cười một cách ngây ngô ngớ ngẩn, người thì nằm bò trên sàn miệng bật những tiếng êu êu vô thức, người thì ôm một con búp bê bẩn thỉu đung đưa miệng e a như ru… Đó là dãy phòng của nữ. Những người đàn bà tuy không có sự khôn lanh của nhận thức, nhưng họ vẫn mang dáng dấp của một vẻ đẹp nữ tính. Tiếp đến là dãy phòng của nam. Thấy tôi đi qua nhìn vào, vài người nhổm lên tì tay vào song cửa vẫy gọi. Họ không tỉnh táo về mặt tinh thần, nhưng phần bản năng vẫn mách bảo họ những nhu cầu. Trương cho biết, đây là những bệnh nhân thuộc dạng điên hiền. Họ chỉ ngơ ngẩn khóc cười và có những hành vi không mấy tác hại cho người ở cạnh. Tuy thế, một phòng cũng chỉ từ hai đến ba người và luôn trong tầm ngắm của y bác sĩ. Đôi lúc các y bác sĩ cũng khá vất vả với những bản năng hoang sơ của họ. Vốn con người ta luôn sống bằng hai phần, bản năng và lý trí, phần bản năng bao giờ cũng mạnh hơn, lý trí nắm vai trò điều tiết hạn chế, khi lý trí không còn thì tất cả sức mạnh bản năng khống chế toàn bộ đời sống con người. Những người này, có rất nhiều nguyên nhân mà có mặt ở đây. Khá nhiều là bị thất tình, nguyên do này phía nữ nhiều hơn, còn là tai nạn, là bị sang chấn, sốc vì một biến động mạnh nào đó, có khi là phân liệt bẩm sinh. Có những người trước khi phải bước chân vào đây, họ cũng oai phong bệ vệ lắm lắm, nhưng cái công cuộc tranh giành những phầm trăm lợi lộc mà ưu thế lại không nghiêng về phía họ, lại trở thành một cú đẩy nhẫn tâm khiến họ chới với cả phần đời còn lại. Có những người hồn nhiên trao tặng cả trái tim cả nhiệt huyết cả niềm tin gần như tuyệt đối cho một người hoặc một hình thái đầy tôn thờ ngưỡng vọng nào đó, rồi bị phản bội, một sự phản bội không hề được cảnh báo, khiến họ rơi cái ẫng xuống tầng sâu hun hút như không còn chút lực ma sát và cả cái phần trọng lượng hữu hình. Có người thì sau một thời gian điều trị đầy kiên nhẫn và tận tâm từ nhiều phía thì có thể hồi phục, nhưng nếu đời sống không êm ả rất có nguy cơ tái bệnh, bởi sự tổn thương hệ thần kinh là một di chứng lâu dài. Có người thì mãi mãi không thể thoát ra khỏi bóng tối của chính mình. Họ như luôn bị một bóng đen ám ảnh, bóng đen ấy khiến họ là người mà không được sống.

Những tiếng huyên náo vọng vào tai. Vẻ mặt Trương chợt căng thẳng, lắng nghe một chút rồi nói nhanh:

- Chị đứng đây đừng đi đâu nha.

Nói xong Trương chạy vụt đi, tôi nấn ná vài giây rồi hướng theo lối Trương vừa chạy, nhủ thầm, vừa đi vừa dè chừng, thấy có gì nguy hiểm thì tránh ngay. Lò dò một đoạn tôi nhìn thấy một dãy phòng khác hẳn các dãy phòng. Cảm giác đó như một nhà tù chứ không phải phòng bệnh. Các song sắt bao quanh một cách lạnh lùng và cách biệt, đằng sau đó là những gương mặt cũng khác hẳn những gương mặt của dãy bệnh nhân hiền. Hầu hết họ có vẻ dữ dằn hung ác. Trương đang cùng hai người áo trắng ra sức tách hai người đàn ông đang lên cơn ôm ghì nhau vật bò dưới đất. Cả hai đều có những thương tích, những vết máu nhầy nhợt trên khắp cơ thể của họ khiến tôi run cả người trong một thứ cảm xúc hỗn tạp, vừa ghê sợ, vừa thương xót, vừa cám cảnh. Khi mẹ cha họ sinh ra đời một người con, đã gửi gắm biết bao ước vọng về một tương lai đẹp đẽ, để rồi sau bao tháng năm vất vả nuôi dưỡng, thành quả của họ là một thực thể sống không ra người không ra vật thế kia ư? Những chiếc áo trắng cũng lấm lem cả rồi mà vẫn chưa xoay chuyển được tình hình. Quả thật, những người y bác sĩ làm việc ở đây quá vất vả. Vài lần nghe thông tin qua báo đài tôi được biết chế độ đãi ngộ cho những người thầy thuốc trong lĩnh vực này không cao. Vậy cái gì làm động lực cho họ để họ vắt kiệt sức mình cho công việc đầy khó khăn và nguy hiểm này. Đó là chưa kể những nguy cơ lây nhiễm từ người bệnh. Bởi hầu như tất cả họ, ngoài bệnh lý đặc biệt về thần kinh, họ cũng mang theo cả những loại bệnh thông thường hoặc hiểm nghèo khác. Bất chợt vọng lên câu hát: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng. Gian khổ biết dành phần ai”. Cuộc sống được đan kết vào nhau, phối tác vào nhau bằng nhiều loại hình công việc. Như một guồng máy vận hành phải cần tất cả những chi tiết và phụ kiện cùng các thao tác. Và nếu tất cả chỉ có cùng một chọn lựa thì chắc chắn cỗ máy không thể dẫn đến một tính năng cần thiết mà nó được yêu cầu. Xã hội nói một cách đơn thuần là sự phân bổ lao động tự nhiên. Nói một cách tâm cảm thì tạo hóa giao cho mỗi người mỗi việc, tùy vào khả năng và tâm thức mà người ta đi theo một con đường trên muôn vạn lối vào đời.

Tiếng la thét khua rộn cả một khu phòng. Hai người đàn ông mất trí kia đã xoay sang mỗi người vật lộn với một người áo trắng. Trương đang cố gắng phụ đồng nghiệp khóa chéo tay bệnh nhân để khống chế sức mạnh của anh ta, mặc cho người còn lại đang chống chịu với sự hung hãn tột đỉnh của bệnh nhân. Cuộc diện này như một luồng kích thích những bệnh nhân đang trố mắt sau các chấn song, họ la thét lên như thể cổ vũ như thể tiếp sức. Có gì như một sức phản kháng một sự thù địch đang dội lên trong họ. Tôi run bắn người, không ngờ mình chứng kiến một cảnh ngộ hết sức bi kịch như thế. Tiếng la thét cũng đồng nghĩa tiếng kêu cứu để rồi thêm mấy bóng áo trắng nữa túa về, họ xông vào đám ẩu đả ấy mà xoay mà gỡ. Cuối cùng, hai bệnh nhân bị oặt tay ra sau, trói ké lại như kẻ trộm. Gương mặt họ lộ rõ một thứ cảm xúc đỉnh điểm, vừa như một con mãnh thú đau đớn bị hạ gục, vừa như một nỗi căm thù muốn ném vào tất cả những ai đang có mặt. Những người này, trước khi bị bệnh, họ phải chịu một cú sốc nặng từ thế giới người, cú sốc ấy làm họ bùng vỡ ý thúc, tê liệt mọi cảm quan nhận thức, chỉ còn một nỗi đau hận thù vô thức. Và mỗi khi tâm tưởng họ kéo về một hình ảnh đau tức từ ký ức, thì họ lại lồng lên một thứ ngôn ngữ điên cuồng và bất lực. Nhìn những bệnh nhân cong queo thúc thủ nằm dưới đất, nhìn những người thầy thuốc tơi tả lấm lem thở dốc quệt mồ hôi, trong tôi trào lên một nỗi chua xót đến tê dại. Cõi người ta ơi, sao cợt đùa lắm nghiệt oan đến thế? Những tiếng kêu la từ những gian phòng kia cũng từ từ lắng xuống khi những y bác sĩ nữ xuất hiện với những đồ chơi trẻ em nhiều màu sắc như lúc lắc hay bóng bay, cùng những bông hoa tươi vừa hái vội trong sân bệnh viện. Những ánh mắt vô thức kia bị dẫn dụ bởi những cảnh sắc ấy, từ từ dịu đi, từ từ hiền hòa hẳn lại, và họ như buông chùng cả cái cơ thể căng gồng lúc trước.

Choáng váng và bủn rủn, tôi ngồi xệp xuống một góc tường. Lan man ngẫm nghĩ, giá như tất cả những con người đang tranh giành xâu xé lừa gạt nhau từng chút lợi nhỏ ngoài kia, hãy một lần bước qua bức tường này, bước qua lằn ranh của một thái cực, để hiểu rằng mình đang được sống hạnh phúc đến thế nào, để may ra bớt chút đi phần khắc nghiệt với nhau, để biết trân trọng tin yêu lấy một chữ Người quý giá. Ôi, nhưng mà nói cũng chỉ để mà nói, nghĩ cũng chỉ để mà nghĩ, khi con người ta không những tỉnh táo mà còn quá khôn ngoan để sát phạt nhau, thì chẳng lý nào họ chịu dừng lại vài giây để đo lường cái hậu quả. Để rồi, cách này hay cách khác, kiểu này hay kiểu khác, người ta lại bao ngậm ngùi đắng đót sâu cay khi tàn một cuộc cờ. Không biết tôi buông mình trong rời rã bao lâu, chỉ đến khi tôi nhìn thấy cái dáng nhớn nhác tất tả có phần hốt hoảng của Trương vừa đảo mắt nhìn quanh quất vừa chạy lóc xóc, chắc cậu ấy đang đi tìm tôi. Tôi vội đứng lên gọi to. Nghe tiếng và nhìn thấy tôi, Trương vội vã chạy đến:

- Trời ơi! Chị ở đây mà tôi tưởng…

- Không sao, tôi không sao, chỉ thật bàng hoàng với cảnh xảy ra vừa nãy thôi. Thật là…

- Ở đây đó là chuyện thường ngày chị ạ. Anh em đây quá quen rồi. Có ngày xảy ra đến mấy vụ ấy.

- Ôi trời, khổ cho mọi người, thật quá nguy hiểm?

- Ban ngày còn đỡ, ban đêm một số y bác sĩ về nhà, còn lại ít người rất vất vả. Nhưng biết làm sao được, việc là vậy mà.

- Vợ con ở nhà chắc lo lắng lắm.

Gương mặt Trương chợt trầm xuống.

- Ai dám lấy đâu chị. Họ sợ ở với người điên riết mình điên theo.

- Trời…

Tiếng kêu tôi như nghẹn lại. Chẳng lẽ những người này hy sinh cả cuộc đời cho những bệnh nhân này sao? Một sự hy sinh lặng lẽ âm thầm mà thật vĩ đại.

- Có khi nào cậu muốn chuyển một công việc khác không?

- Người khác thì không biết, nhưng riêng tôi hầu như không có ý định chị ạ. Nói có thể nhiều người không tin, nhưng quả thật nhìn họ đáng thương quá, mình bỏ đi là chuyện nhỏ, nhưng rồi ai sẽ lo cho họ, anh em ở đây đã quá ít rồi. Tuyển người mới khó lắm chị ạ.

Câu nói đơn giản ấy làm tôi ứa nước mắt. Như chợt nhớ mục đích của tôi khi vào đây, Trương nói:

- À, nói chuyện chị nghe rồi bỏ đi nha, đừng có viết gì về tôi cả, nếu muốn viết, hãy viết về những mảnh đời bất hạnh kia kìa. Những người như chúng tôi, tuy có vất vả một chút nhưng còn hạnh phúc hơn họ gấp nghìn lần. Còn họ thì…

Bỏ dở câu nói, ánh mắt Trương như sâu thẳm một nỗi niềm. Tôi không nói được gì nữa, chỉ im lặng, im lặng mà nghe mà cảm nhận mà chao chát đến tận cùng tâm can. Chợt có tiếng động cơ vọng đến, tôi bất chừng ngoái lại, Trương vội kéo tay tôi:

- Chị ra tham quan khu nhà bếp tí chứ?

- Ừ đi.

Trong khi bước vội theo Trương, tôi còn kịp ngoái nhìn cánh cửa xe mở cho một bóng người bước xuống. Trông có vẻ quen quen. Trương nói về những bữa ăn, cách cho bệnh nhân ăn, đây cũng là một công việc khá phức tạp. Các cô bảo mẫu trường mầm non hãy lấy làm an ủi, vì chăm sóc các cháu còn đơn giản hơn chăm sóc các bệnh nhân ở đây nhiều. Không chỉ là vung vãi mà đổ tháo bôi trét cơm canh vào nhau là chuyện thường, nên cứ sau bữa ăn là tắm. Hai nhân viên y tế và một bệnh nhân cho một lần tắm. Đó là chưa kể đến những lúc vệ sinh tự phát. Trời ạ. Hãy tưởng tượng mà xem...

Tâm trạng tôi càng lúc càng bần thần theo những gì được nghe được thấy. Trương lo lắng:

- Chị mệt hả? Mình vào đây nghỉ chút nha.

Gật đầu, theo Trương vào một gian phòng nhỏ bên cạnh gian bếp. Là gian nghỉ tạm cho các nhân viên. Rót cho tôi một ly nước và bóc cho tôi một quả quýt, Trương nói:

- Chị có thể nghỉ tạm trên giường này một lúc, tôi trông chị khá mệt mỏi rồi đấy.

- Tôi chỉ mới vào đây chưa đầy buổi sáng, mà đã thấy muốn hụt hơi thế này, vậy mà các anh em phải thường trực ngày này sang ngày khác, thật vô cùng nể phục.

- Có gì đâu chị, quen rồi mà.

Hay cho cái chữ “quen rồi”. Nhờ nó mà người ta đi qua được biết bao vật vã lầm lụi, tất tả long đong. Cho dù có những “quen rồi” không nên và không thể tán dương. Trương đi ra rồi, tôi ngả người trên chiếc giường gác tay lên trán và nhắm mắt. Những hình ảnh cứ đan xen nhảy múa. Nỗi thương cảm khiến hai dòng lệ cứ tự nhiên chảy dài. Có tiếng người vào gian bếp. Chắc họ chuẩn bị cho bữa trưa. Tôi chợt lắng tai.

“Này, ông K lại vào thăm con gái đấy. Ừ thấy cái xe là biết rồi. Cũng khổ nhỉ. Ai bảo có chức quyền giàu sang đã là sung sướng. Con gái ổng có ngày hôm nay cũng ở cái chức quyền và giàu sang đấy đấy. Nghèo nàn vất vả từng bữa ăn như bọn mình thì lấy ai mưu mô đòn phép, chỉ tội con nhỏ, xinh quá mà lại bị thành nạn nhân. Người xưa nói không sai mà, đời cha ăn mặn đời con khát nước. Cha mẹ cứ việc thủ đoạn lật lường cho đã đi để con cái nó trả giá cho sướng. Đời biết bao nhiêu tấm gương thế rồi mà thiên hạ vẫn không mở mắt ra nhỉ? Làm sao mà mở được, khi cái danh cái lợi nó cứ túm lấy người ta mà vật xuống. Chỉ khi nào nó đập cái chát vào mặt thì mới bật ngửa ra thôi. Cái bà này, hôm nay miệng mồm khiếp thế. Cứ ở đây hàng ngày nhìn thấy bao nhiêu cảnh não nùng ai oán, bao nhiêu cái cơ cầu trớ trêu của cuộc đời, không miệng mồm thế mới lạ. Thôi đi mụ, bớt choang choác đi để phước cho hàng xóm nhờ. Há há…”

Tôi lặng người trước câu chuyện, lờ mờ ra cái dáng quen quen ấy là ai rồi. Ra thế, một thời tin đồn con bé thất tình đi tu, bố nó bỏ tiền trùng tu một ngôi chùa nơi xa xôi nào đó, cũng có những tin đồn khác, nhưng tất cả cũng đi vào lãng quên. Dư luận mà, om sòm ba bữa có cái gì khác hút hơn là lại lăn theo. Những chuyện quan lớn quan bé sân trước sân sau xưa nay có gì là lạ. Nhưng để đến nỗi con cái phải rơi vào cái vòng nghiệt ngã này thì kinh khủng quá. Không muốn bị phát hiện mình đã vô tình nghe lén. Tôi nhẹ nhàng trở dậy, men theo bờ tường đi vòng ra phía trước. Bỗng tôi nhìn thấy một người phụ nữ có lẽ đã lớn tuổi. Cái mũ bảo hiểm còn chừa ra một chùm tóc trắng đen, bà đang đứng ngay cửa sổ phòng bệnh nhân nữ, đầu nghiêng tựa lên cánh tay bám vào song cửa, dáng thật thiểu não. Hẳn là một bà mẹ đi thăm con gái, tôi lần chần không dám bước tới, ngại người ấy giật mình mà bất tiện.

- Chị bớt mệt chưa?

Tiếng Trương làm cả hai người giật mình, tôi và phụ nữ ấy, bà vội chùi mắt vào tay áo. Tôi thấy mình không thể ở lại thêm phút giây nào nữa.

- Cảm ơn cậu đã giúp tôi, giờ tôi phải về rồi.

- Vâng, chị về ạ.

Có vẻ Trương đang chờ câu nói này ở tôi. Cũng đúng thôi, dù với lý do nào. Tôi gửi lời tạm biệt mọi người rồi đi vội ra cổng.

- Sao ? Đi thực tế có kết quả gì không?

Không trả lời đồng nghiệp. Tôi lặng lẽ ngồi vào bàn, chống hai tay lên cằm một lúc rồi bần thần mở máy.

- Lại thương vay khóc mướn ai rồi. Người đâu mà đa đoan…

ĐÀM LAN


THIỆN VÀ ÁC

Nắng đổ lửa trên khoảng sân lổn nhổn đất đá. Cái nắng ban trưa làm chóng phai màu áo nhưng lại tô đậm hơn làn da đã sẵn đen đúa của công nhân. Họ đang đưa lưng ra nắng. Áo đẫm mồ hôi nhưng cổ họng lại khô cháy. Dù vậy, đôi tay họ vẫn vận động nhịp nhàng, khéo léo. Những nhát cuốc bổ xuống làm nẩy lên từng mảng lớn đất khô cứng. Sau đó, chúng bị ném về một phía, chồng chất lên nhau như một ngọn đồi nhỏ cạnh chỗ sắp xây hồ bán nguyệt đang được đào vét sâu dần.

Tảo ngừng tay, ưỡn lưng vặn vẹo mình mẩy cho đỡ mỏi. Anh chép miệng: “Khát quá!” Tảo đến chỗ xô nước đá, đặt cái cuốc một bên, anh chùi hai bàn tay đầy đất cát vào hai bên mông quần rồi dùng một tay mở nắp xô, một tay thò cái ca có vài vết đất vào thùng nước. Tảo ngửa cổ uống một mạch. Nước chảy vào họng ừng ực, tràn qua hai bên mép mát lạnh. Anh cảm thấy khoẻ hẳn ra. Tảo khoan khoái buột miệng: “Đã quá!” Mấy người bạn ngoái nhìn, phì cười. Dũng thúc giục: “Lại làm mầy! Ở đó đã với không”. Tảo cũng nhoẻn cười, anh thủng thỉnh trở lại chỗ cũ nhảy xuống “đáy hồ” tiếp tục đào vét. Như vừa được tiếp sức, Tảo bổ những nhát cuốc mạnh mẽ. Anh hất đất bay lên bờ như trẻ nhỏ ném viên bi. Khoảng đất chỗ Tảo làm tụt sâu hơn nơi khác, đất rung lên dưới bàn tay thoăn thoắt của anh.

Bỗng “rổn”. Lưỡi cuốc chạm mạnh vào một vật cứng, tạo nên một âm thanh chát chúa, khô khốc. Cùng lúc, những mảnh sành văng tung toé. Tảo nghiêng người né tránh. Anh kêu lên: “Trời, cái hũ!” Mọi người đổ xô tới xem. Họ cảnh giác đưa tay bịt mũi phòng ngừa đây là hũ hài cốt người chết. Biết đâu mùi tử khí bay lên... nhưng mấy phút trôi qua không có gì hết. Chẳng có xú uế lan tỏa. Tảo thắc mắc “cái gì vậy trời!” Nhóm người cùng quay lại một chỗ. Thoáng chốc, cái hũ được đưa lên trên mặt đất. Đó là một cái hũ sành tráng men vàng bóng, to bằng cái thùng xách nước nhỏ. Cái nắp được khằn kín bằng xi măng. Bây giờ nó bể một mảnh khá to. Tảo chợt nhớ câu chuyện cổ tích có một hung thần nị nhốt trong cái hũ như thế. Ông được một người tốt bụng giúp đỡ nhưng ông ta lại gây kinh hoàng, khó khăn cho ân nhân của mình. May nhờ người ấy thông minh nên đã lừa được hắn chui trở vào “tù ngục” cũ, khâu kín lại bằng một lá bùa rồi ném xuống đáy biển. Tảo nói lên ý nghĩ của mình. Dũng, anh công nhân trạc tuổi Tảo đẩy mạnh vai bạn, cười ha hả:

- Khùng vừa thôi cha! Làm gì có chuyện hoang đường đó ha ha...

Mọi người đề nghị đập vỡ cái hũ. Không ai phản đối. Và Dũng đưa cuốc lên, cái hũ vỡ vụn. Giữa những mảnh sành, hiện ra một cái hộp gỗ nhỏ khá đẹp. Mọi người ồ lên kinh ngạc. Một người trong bọn cầm lên, mở nắp, thảng thốt kêu lên “trời, vàng... vàng...!”

Cả nhóm thợ một phen choáng váng. Họ cảm thấy tim đập mạnh, hơi thở dồn dập và chân tay run rẩy. Họ vây quanh cái hộp, trố mắt nhìn những cái khâu vàng óng ánh dưới nắng trưa. Chúng bị xỏ thành một xâu khá dài. Mấy chiếc xuyến chạm trổ khéo léo và vài sợi dây chuyền dài ngoằng mềm mại. Những người thợ xây nghèo nàn chết đứng bên mớ của cải bất ngờ này. Họ như bị thôi miên, mồm há hốc, nét mặt ngây dại. Lát sau, Dũng lấy lại bình tĩnh trước tiên. Anh hỏi:

- Bây giờ tính sao đây?

Im lặng! Chẳng ai biết tính làm sao nữa? Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Đa số đều tưởng tượng đời sống sẽ biến đổi khi có một phần của cải ấy. Họ sẽ xây nhà, mua xe máy. Sống cuộc sống sung túc hoàn toàn khác hiện nay. Họ sẽ trở thành những ông chủ đầy quyền uy trước những người làm thuê khác.

Chỉ có Tảo phân vân trước số của cải vừa nhặt được. Anh nhớ về thời thơ ấu của mình bên cạnh người bà hiền đức, nhân hậu. Bà đã kể cho Tảo nghe không biết bao nhiêu chuyện đời xưa tuyệt vời và bao giờ cũng kết luận: “ở hiền gặp lành” hoặc “người nhân hậu, thật thà luôn được hạnh phúc” và có những vạc dầu sôi, những bàn chông, những cây kéo sắc bén đang chờ kẻ ác dưới địa ngục. Tảo một mực tin như thế. Đến bây giờ, dù đã lớn những câu chuyện kể ấy vẫn còn in đậm trong trí nhớ anh. Tảo muốn trở thành một người hiền lương, tốt bụng. Dầu không phải lúc nào anh cũng được mọi người ủng hộ. Đôi khi, họ còn chế giễu Tảo, xem việc thể hiện đức tính thật thà như tính cách bất thường của một người dại. Tảo buồn nhưng vẫn tin những gì anh từng tin tưởng. Anh tiếp tục đi theo con đường mà người bà đã phác họa. Vì thế, Tảo phản đối việc chia đều số vàng khi có người đề nghị. Anh viện lý do vừa đúng vừa có vẻ lý tưởng là “nhặt của rơi phải trả lại người đánh mất”. Không phải vàng của mình mà lấy thì sẽ bị đánh giá là tham lam, hậu thế chê cười v.v... Những người bạn của Tảo có vẻ bực mình trước luận điệu đạo đức ấy. Song không ai dám cãi vì Tảo nói quá đúng. Có điều, đối với người nghèo như bọn họ thì trước ngưỡng cửa đạo đức thì hình như có cái gì khá mai mỉa để họ phải lưỡng lự lẫn hối tiếc, ngập ngừng khi bước vào. Cuối cùng Tảo thắng cuộc. Mọi người đồng ý trả lại của rơi. Họ bàn tán một hồi rồi quyết định cho chủ thầu xây dựng hay. Dũng được cử làm việc ấy.

Mọi người không phải đợi lâu. Dũng gặp chủ thầu đang trò chuyện với chủ nhà. Hai người lập tức theo Dũng trở lại hiện trường. Vừa trông thấy cái hộp, ông chủ nhà kêu lên như gặp... tri kỷ: “Rồi... chính nó! Cái hộp nữ trang của mẹ tôi”. Ông ta lắp ba lắp bắp nói như hụt hơi, mặt bừng đỏ vì xúc động.

Thế là đã rõ, không ai thắc mắc gì nữa. Cái hộp được trao lại cho chủ nhà. Ông ta mừng quá đến độ quên cả cám ơn những người thợ thật thà, tốt bụng. Chỉ có chủ thầu tấm tắc ngợi khen nhóm công nhân xây hồ bán nguyệt ở đây. Ông xuýt xoa luôn mồm vì không ngờ quanh ông bấy lâu toàn những người tốt, biết trọng nghĩa nhân hơn vàng bạc và ông ví họ như những đóa sen sắp trồng để trang điểm cho hồ bán nguyệt. Mọi người hớn hở vô cùng trước lời tuyên dương của chủ và hy vọng tràn trề khi nghe ông bảo “thế nào chủ nhà cũng thưởng cho các anh một cách trọng hậu”. Đê m đó, không ai ngủ được. Họ còn lâng lâng trong cảm giác khó tả. Họ cảm thấy mình cao quý hơn, đáng trọng hơn trong việc làm vừa qua.

Bỗng, có tiếng chó sủa vang, tiếng người xôn xao. Ánh đèn pin quét qua quét lại trong bóng tối. Mọi người giật nẩy mình khi nghe có tiếng đập cửa căn nhà dã chiến dành cho thợ mà họ đang trú ngụ: “Mở cửa, mở cửa mau!” Mọi người nhìn nhau lo lắng. Lại có tiếng đập cửa, lần này gấp rút hơn: “Có công an xã đến xét nhà”. Hoảng vía, Dũng lật đật ra mở cửa. Khoảng bảy người có súng ống đầy đủ ập vào, một người ra lệnh như một đoạn phim bắt cướp: “Ngồi im, các anh đã bị bắt!” Sau đó, họ chia làm hai tốp. Một tốp canh giữ bọn Tảo. Tốp kia lục soát khắp nơi. Họ mở va li, dở chiếu, kiểm tra cả chỗ để dụng cụ xây dựng. Không có gì lạ. Một anh công an báo cáo với trưởng nhóm: “Chẳng có gì lạ”. Người trưởng công an xã ra lệnh: “Tạm thời các anh phải về trụ sở xã vì chủ nhà viết đơn tố cáo các anh chiếm đoạt một số vàng của họ. Đợi chúng tôi điều tra vụ việc”. Tảo và các bạn bị điều về phòng tạm giam. Họ được công an xã cho biết chủ nhà đã phát đơn kiện. Họ thưa bọn Tảo đã chiếm đoạt tài sản trái phép. Số vàng của họ là năm chục cây nhưng bây giờ chỉ còn lại một nửa và họ quả quyết hai mươi lăm cây vàng kia đang nằm trong tay nhóm thợ xây hồ bán nguyệt. Mọi người kêu oan như bọng nhưng công an bảo phải chờ điều tra và để trấn an họ, trưởng công an bảo:

- Nếu các anh vô tội thì không việc gì phải sợ. Hãy tạm thời ăn nghỉ tại đây!

Thấy không thể giải thích được với chính quyền. Họ quay ra chửi trời mắng đất. Đang cơn thịnh nộ, họ chợt nhớ tới Tảo. Chính anh là đầu dây mối nhợ của cái oan này. Cũng tại anh cuốc nhầm cái hũ vàng. Và cũng tại anh ngu ngốc mang trả cho chủ nhà mới ra cớ sự. Nếu họ điều tra không ra thì họ đào đâu ra số vàng để trả. Chắc sẽ tù tội, rồi vợ con họ sẽ ra sao? Chắc phải chịu cảnh nghèo đói, lầm than. Ôi, bao nhiêu đau khổ sẽ trút lên đầu họ. Mọi người căm phẫn Tảo và không nén được họ ào tới đấm đá anh không thương tiếc. Khi công an hay được thì mặt mày anh sưng húp và mình mẩy đầy vết bầm. Anh được đưa sang trạm xá xã nằm tịnh dưỡng.

Tảo trăn trở, đau đớn từ thể xác đến tâm hồn. Nỗi hoài nghi về cái thiện và ác xâu xé, dằn vặt anh từng giây từng phút. Lẽ nào người hiền gặp lành chỉ xảy ra trong cổ tích. Còn thực tế quá phũ phàng. Tại sao lòng tham của con người lại vô cùng vô tận đến thế? Liệu Tảo có sai lầm khi mang số vàng ấy trả lại cho chủ nhân? Tảo nhớ những lời đay nghiến của Dũng:

- Thật thà hóa cha dại! Phải chi mầy để tụi tao chia vàng thì đâu đến nỗi.

Anh còn rứt rói:

- Con Mai, em g ái tao mà thành vợ mầy thì có ngày đói rã ruột ra. May mà mầy chưa có tiền cưới nó. Trời ơi! Người đâu mà ngu động trời động đất vậy trời!

Tảo ôm lấy đầu! Ừ, phải chi anh có tiền hẳn là anh cưới được Mai. Hai người sẽ xây một ngôi nhà nho nhỏ và sống hạnh phúc bên nhau. Nhưng điều đó bây giờ bỗng trở nên xa vời. Anh đang bị tạm giữ. Biết đâu rồi hai người không có cơ hội gặp lại nhau. Tình yêu rồi sẽ chỉ còn lại một ít kỷ niệm vừa ngọt ngào vừa buồn bã.

Đ iều làm cho Tảo khó chịu và khổ sở nhất là mình gây họa cho các bạn. Họ phải chịu oan ức, tù tội. Anh không oán trách họ đã nhẫn tâm đánh đập anh. Họ có quyền làm thế! Hãy còn nhẹ tay lắm! Và nếu họ bị tù thật sự thì tội của Tảo sẽ lớn nhường nào và có lẽ đến chết anh vẫn còn ân hận. Tảo chỉ còn biết chờ đợi pháp luật nghiêm minh. Ánh sáng công lý soi tỏ lòng anh, xóa tan bóng tối đang chực chờ phủ trùm lên bao cuộc đời vô tội.

Giữa lúc mọi người tuyệt vọng thì người chủ thầu xây dựng xuất hiện như một vị thần công lý, giải thoát bọn Tảo. Khi hay tin người chủ nhà đã thưa công nhân mình về tội chiếm đoạt tài sản trái phép và đòi xử theo điều luật quy định. Ông lật đật quay về thành phố tìm gặp một luật sư nổi tiếng nhờ giúp đỡ. Vị luật sư tài ba đã đưa vụ việc ra ánh sáng một cách dễ dàng.

Trước chính quyền xã, vị luật sư đã nêu những câu hỏi mà người chủ nhà không thể trả lời được:

- Tại sao sắp xây dựng mà không lấy vàng cất giữ nơi khác, nếu là vàng của ông?

- Có giấy tờ hay chứng cớ gì để xác minh số vàng ấy là của mẹ ông để lại và số lượng là 50 cây? Theo tôi điều tra thì mẹ ông mới mất cách nay hơn một năm.

Như vậy mua vàng ở tiệm nào? Có hóa đơn chứng từ gì không? Và đất mà ông thuê xây hồ bán nguyệt ông mới mua có mấy tháng nay, thể hiện qua giấy tờ chuyển nhượng. Điều này chứng tỏ vàng đó không phải là của mẹ ông. Vì không lẽ có vàng không chôn giấu trong đất nhà lại đem qua đất ruộng nhà người chôn giấu. Mà sao chính ông lại cho đào nơi giấu vàng để xây hồ. Thật vô lý.

- Nếu bảo công nhân chiếm đoạt tài sản thì chứng cớ đâu? Khi lục soát công an đâu tìm thấy dấu vết gì. Nếu bảo họ tham sao họ đem vàng trình báo cho chủ thầu xây dựng khi họ bắt gặp hộp vàng chẳng ai hay biết ngoài họ?

Và luật sư kết luận:

- Nếu kết tội những người vô tội là trực tiếp làm cho họ trở thành tội phạm sau này. Họ vĩnh viễn mất lòng tin ở con người và luật pháp. Và điều ấy thật là nguy hiểm cho toàn xã hội.

Nhóm công nhân được trả tự do ngay sau đó. Số vàng bị thu hồi, sung vào quỹ xóa đói giảm nghèo. Và chính quyền xã tuyên bố sẽ dùng toàn bộ số tiền quy đổi từ vàng để cất nhà tình nghĩa cho những công nhân nghèo thuộc địa phương, đồng thời hỗ trợ chi phí xây dựng cho các anh thợ ở xa để họ tự lo xây hay sửa nhà.

Đúng như luật sư đã khẳng định. Tảo và các anh công nhân khác đều cảm thấy sung sướng, hạnh phúc vì được chở che khi làm đúng. Họ không cô đơn! Quanh họ còn biết bao người tốt. Họ tin rằng cuối cùng thiện vẫn thắng ác.

NGUYỄN THỊ MÂY

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 09.3.2019 .... Vũ Thư Hữu . 01

Vài dòng về 1 cổ thư… 311 tuổi đời ... Vũ Anh Tuấn . 05

Những suy nghĩ vẩn vơ (tập 2) .... Lm. Giuse Ng.H.Triết . 08

Quy trình tu hành theo Chánh Pháp của Đạo Phật Tâm Nguyện . 14

Đôi ba kỷ niệm nhỏ… ......... Thúy Toàn .. 21

Giỗ Quốc tổ Hùng Vương… ...... Phạm Vũ . 28

Tình đất (tt) ......... Nguyễn Văn Sâm .. 38

Người con nào rồi cũng thương mẹ ... Đỗ Thiên Thư st. .. 44

8-3 ngày kỷ niệm… Hai Bà Trưng .... Thanh Vĩnh .. 65

Đi qua từng ngày (thơ) ............... Đàm Lan . 66

Xin - Ước mơ (thơ) ...... Phạm Thị Minh-Hưng .. 67

Hương xuân (thơ) ............ Ngàn Phương .. 68

Chờ nắng - Đợi nắng - Tháng Tư (thơ) .... H. T.Kim Bội .. 69

Tình xuân (thơ) ................ Thanh Châu .. 70

Học hành (thơ) ................ Quang Bỉnh .. 71

Tam Tạng đi thỉnh kinh (thơ) ........... Phước Hải .. 72

Đáng tôn vinh (thơ) ................ Thanh Vĩnh .. 72

Vì đâu? - Thơ sự đời (thơ) ....... Lê Minh Chử .. 73

Bồng Lai phục hiện (thơ) ....... Nguyễn Tấn Thái .. 74

Hoài niệm - Đến quán Hoa Vàng (thơ) ..... Thanh Phong .. 75

Mấy lời cha huấn dạy con (thơ) ... Dương Tiến Cần st. . 76

Khuyên em váy ngắn (thơ) ...... Dương Tiến Cần . 76

Bóng đèn đêm - Tiếng sáo đêm (thơ) .... Lang Nguyên .. 77

Tình đơn phương (thơ) ............. Hoài Ly .. 78

Đưa em về trong đêm (thơ) ........ Thiếu Khanh .. 79

Nàng tiên của tôi (thơ) ........ Lam Trần .. 80

Trăng (thơ) ................... Phùng Chí Tâm .. 81

Xa và gần (thơ) ............... Lê Nguyên .. 82

Thương nhớ em tôi (thơ) ......... Vũ Thùy Hương . 83

Nếu làm được 1% như thế (thơ) ...... Vũ Đình Huy .. 84

Were I to be able to perform 1%

of what he’s done (thơ) Vũ Anh Tuấn dịch .. 85

Vùng cao (thơ) ................. Vũ Đình Huy .. 86

The highlands (thơ) ............ Vũ Anh Tuấn dịch .. 86

Tam giác vàng đã yên bình ...... B.Đ. st. .. 87

Đồng lõa .............. Lam Trần .. 98

Luật thơ ............. Phạm Hi ếu Nghĩa 100

Đời người gieo nhân thiện lành, lo gì… ...... Lệ Ngọc st. 107

Màu của nước mắt ........ Huỳnh Thiên Kim Bội 114

Bệnh lú lẫn Alzheimer ....... Hoàng Kim Thư st. 127

10 điều suy ngẫm .......... Kim Sơn st. 134

Tắc kè bổ dương ......... Phùng Chí Tâm st. 136

Từ điển tiếng Việt của 1 người Mỹ Đào Minh Diệu Xuân st. 137

Nhà thương điên ......... Đàm Lan 139

Thiện và ác ............. Nguyễn Thị Mây 149

|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
 156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
 161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
 171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
 176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
|  151 |
 152 |
 153 |
 154 |
 155 |
|  156 |
 157 |
 158 |
 159 |
 160 |
|  161 |
 162 |
 163 |
 164 |
 165 |
|  166 |
 167 |
 168 |
 169 |
 170 |
|  171 |
 172 |
 173 |
 174 |
 175 |
|  176 |
 177 |
 178 |
 179 |
 180 |
|  181 |
 182 |
 183 |
 
Netadong.com thiết kế