Hiện có 4 người xem / 2335975 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 08/10/2011

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA VÀ NAY

Mở đầu phiên họp, như thường lệ, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách mới sưu tầm được: cuốn thứ nhất bằng tiếng Pháp nhan đề là: “Chủ nghĩa lãng mạn và Nghệ thuật” (Le Romantisme et l’Art) được xuất bản năm 1928 (83 năm trước), khổ 17x25 cm, dày 320 trang, của 13 đồng tác giả, tất cả đều là những nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng của Pháp như L. Hautecoeur, M. Aubert, R. Rey, P.Jamot. A. Joubin vv… Cuốn sách 320 trang này chứa đựng 48 phụ bản cực đẹp cho người đọc xem những tác phẩm hội họa và nghệ thuật của trên 20 tác giả. Nội dung cuốn sách là một loạt những cuộc hội thảo giữa các chuyên gia giúp người đọc hiểu hơn về chủ nghĩa lãng mạn và Nghệ thuật. Đây không phải lãnh vực của người viết, nhưng người viết đã sưu tầm dưới góc cạnh sách hơi cổ vì nó đã được xuất bản 83 năm trước, và nhất là vì nó còn giữ được đủ 48 phụ bản cực đẹp, không kể việc nó là một kho tài liệu vô giá đối với những nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật. Cuốn thứ nhì, cũng bằng Pháp văn nhưng lại là bản dịch tác phẩm “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi ra Pháp văn, một bản dịch cực kỳ chi tiết và rất được học giới tôn trọng. Cuốn này được xuất bản năm 1987 bởi Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Pháp, khổ 15x21cm và dày 573 trang + với 75 trang bằng Hán Nôm. Người viết không chuyên về sử học nên chỉ biết là Nguyễn Trãi đã viết tác phẩm này trong lúc Cụ về nghỉ hưu ở Côn Sơn với nỗi buồn và sự cô đơn của một tâm hồn vừa triết gia, vừa thi sĩ, và Cụ viết để nghiền ngẫm về những nỗi hưng vong đã, và đang xảy ra, đồng thời cũng để dạy dỗ con cháu sống sao cho tốt, cho hợp đạo lý làm người. Người dịch là một nhà thơ mang quốc tịch Pháp, ký tên là P. Schneider, và có biệt danh là Xuân Phúc (1912-1998). Người viết cũng đã có gặp dịch giả này nhiều năm về trước vì trong thập niên 60 ông có dịch Truyện Kiều. Nay nhìn ảnh chân dung của ông ở bìa sau cuốn sách, người viết thấy rằng nét mặt, và nhất là cái mũi của ông, cho thấy ông không thể nào là một người Pháp 100%, nên đã cất công tìm hiểu và được biết rằng ông là một người Việt lai Pháp, sinh ở Hà Nội có hai cụ thân sinh đều là các vị lai Âu Á. Và đây chính là lý do tại sao ông lại ký thêm biệt danh Xuân Phúc. Tác phẩm Quốc Âm Thi Tập là một tác phẩm tuyệt vời, bản dịch lại cũng tuyệt vời luôn nên người viết vô cùng yêu quý tác phẩm này.

Tiếp lời dịch giả Vũ Anh Tuấn, một thành viên, anh Hoàng Minh đã giới thiệu một bản thảo của nhà văn quá cố Vũ Bằng và 2 cuốn sách thuộc dạng bản đẹp, lại còn có cả chữ ký của Nguyễn Tuân, tác giả cuốn Vang bóng một thời, đã thật sự một thời vang bóng…

Sau anh Hoàng Minh, anh Phạm Vũ đã có nói phớt qua về Cách Mạng Tân Hợi và 3 chị em nhà Tống Khánh Linh, Tống Mỹ Linh, và một Tống… gì Linh nữa.

Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Hữu đã lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ bằng giọng ngâm rất truyền cảm của anh.

Sau khi anh Hữu ngâm thơ, anh Nguyễn Hừng đã có một bài nói ngắn về 7 tên gian thần và bài Thất Trảm Sớ.

Cuối cùng, chị Tường Uyển, ái nữ cụ Toan Ánh có ít lời giới thiệu vài di cảo của cụ sắp được in.

Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 15 cùng ngày.


Vũ Thư Hữu

CUỐN HUẾ, KINH THÀNH BÍ ẨN

(HUE, LA MYSTERIEUSE)

Tôi có được cuốn sách này là do một anh bạn mang từ Pháp về. Anh ngỏ ý muốn nhường cho tôi, vì biết tôi thích sách cổ viết về Việt Nam, và tuy thích sách thật, nhưng cái giá anh muốn, thì tôi lại không thích tí nào, và tôi đã định gửi trả lại anh, thì rất may là lúc lại lấy sách anh lại thích một bức tranh của tôi… và, đó chính là cơ duyên khiến tôi có được nó.

Cuốn sách này khổ 14 x 22cm, dày 312 trang, và của Louis Chochod, một quan chức, có người nói là một nhà giáo, tôi không biết rõ và chỉ biết chắc chắn là một người Pháp đã sống ở Huế một thời gian khá lâu. Do đó nội dung cuốn sách này chính là những điều ông ta đã quan sát được, đã nghe thấy được trong khoảng thời gian từ 1906 tới 1926 – hai mươi năm trời, để kể lại trong cuốn này.

Sách được chia làm 4 phần:

– Phần nói đầu gồm 5 chương

– Phần II gồm 6 chương

– Phần III gồm 4 chương

– Phần IV gồm 5 chương.

Trong Phần nói đầu:

– Chương 1: Một hệ thống thế giới theo các nhà hiền triết Trung Hoa thời nguyên thủy

– Chương 2: Khái niệm về thời gian và cách làm lịch ở Trung Hoa cổ

– Chương 3: Vũ trụ khai tịch luận và mối quan hệ của nó với 1 số lễ hội trong năm

– Chương 4: Bát Quái của Phục Hi

– Chương 5: Tế Giao (mà theo tác giả này người mình “gọi nhầm” là Nam Giao).

Trong Phần II:

– Chương l: Ý nghĩa cuộc sống và cái chết của người An Nam

– Chương 2: Biểu tượng Rồng

– Chương 3: Bùa ngải tình yêu ở Huế

– Chương 4: Ngọc rắn

– Chương 5: Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ và sự tích Nhai Trầu

– Chương 6: Huyền thoại Ngũ Hổ.

Trong Phần III:

– Chương 1: Khí hậu ở Đông Dương và ảnh hưởng của khí hậu trong văn chương bình dân của người An Nam

– Chương 2: Các nhà nho An Nam và các kỳ thi Hương thi Hội

– Chương 3: Nghê thường vũ y

– Chương 4: Cổ nhạc.

Trong Phần IV:

– Chương 1:

a/ Đồ Sứ Men Lam (Huế) và Đồ Gốm ở An Nam cho tới năm

1909

b/ Một lò Gốm Sứ ở Huế - Dự án thiết lập năm 1918

c/ Nói thêm về Đồ Sứ Men Lam – Lịch sử cận đại

– Chương 2: Cuộc triển lãm mỹ nghệ thực hành ở Huế năm 1909

– Chương 3: Ghi chú về các phương pháp làm nghề đúc của người An Nam

– Chương 4: Một vài ngôi chùa trên sông Hương và ở Gia Hội

– Chương 5: Tiểu đảo Gia Hội và những lời chúc phúc cho
Kinh thành Huế bí ẩn…

Nội dung sách nặng về bói toán, phong thủy và những điều huyền bí nhưng sách cũng vẫn là một nguồn tài liệu cho các nhà Huế học…



Trích Hồi ký 60 năm chơi sách – Chương VI

Vũ Anh Tuấn

TRUYỆN THÚY KIỀU

Truyện Thúy Kiều là một truyện không phải tự cụ Nguyễn Du sáng tác theo trí tưởng tượng đặt thành truyện mà do tiên sinh thấy có một tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân, tuy văn chương diễn tả cũng tầm thường nhưng cốt truyện lại có những tình tiết éo le. Trong truyện có một người đàn bà tài sắc rất mực, khôn ngoan đủ điều lại trung hiếu tiết nghĩa vẹn toàn mà số phận long đong, mây trôi bèo dạt, khiến trong kiếp sống con người ai cũng phải tin vào thuyết “Tài mệnh tương đố” nên Tố Như(1) tiên sinh mở đầu câu chuyện:

Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ Tài, chữ Mệnh, khéo là ghét nhau

Toàn chuyện có 3254 câu và câu cận kết: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài” có ý khuyên ta cốt giữ lấy cái bụng, chứ không nên cậy tài. Làm người nên cố gầy lấy cái nền đức cho nhẹ cái nghiệp kiếp sau, chứ càng có tài càng hay sinh sự thì cái nghiệp lại càng thêm nặng mãi ra. Ai cũng đọc Truyện Kiều, từ hàng thượng lưu trí thức cho đến hàng dân dã cũng đều cho là rất hay, vì trong đó có đủ nhân vật điển hình cho mọi tầng lớp trong xã hội, mà cách mô tả rất sống động, qua những câu lục bát dễ hiểu, dễ nhớ, cho nên Truyện Kiều đã được tôn lên hàng tuyệt phẩm của Văn Nôm. Một khi tìm được gốc tích xác thực của lối thơ “sáu, tám” này thì tác phẩm cũng có thể là ứng viên sáng giá trong việc bầu chọn quốc thư. Một dịch giả danh tiếng của nước ta cũng đã từng thốt ra câu: “Truyện Kiều còn, nước ta còn” khi dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp, đó là cụ Nguyễn Văn Vĩnh(2). Nhưng bên cạnh cái hay về văn chương của Truyện Kiều đã được nhiều người tán thưởng thì cũng có một số người lên án Truyện Kiều là quá lãng mạn, thậm chí cho là dâm thư và để ngăn chặn bớt sức lan tỏa quá nhanh chóng trong dân chúng nên ca dao đã có câu: “Đàn ông chớ đọc Phan Trần, đàn bà chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều”. Báo chí một thời cũng đã tranh luận về vấn đề này giữa báo Hữu Thanh của cụ Nghè Ngô Đức Kế(3) và chủ bút tờ Nam Phong do cụ Phạm Quỳnh(4) cầm đầu. Những khuất tất xã hội trong đời sống con người thì có nhiều, nhưng phóng tác một tác phẩm nêu lên tình huống đã đưa đẩy con người đi đến chỗ tưởng như không lối thoát mà lại kết thúc câu chuyện bằng vinh quang với những vần thơ quốc âm gây hứng thú cho người đọc, càng đọc càng thấy muốn đọc thì chỉ có cụ Tiên Điền(5) mới có cái văn tài ấy. Có lẽ tính văn học đã phát tiết trong tâm hồn cụ tú làng Tiên Điền tâm trạng hoài Lê(6) quá mãnh liệt, cụ đã ký thác đời mình với cuộc đời nàng Kiều và những u uất khổ đau đã khiến cụ lúc sắp mất cụ còn than thở:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Đoạn Trường Tân Thanh(7) tục gọi là Truyện Kiều đã thoát thai từ câu chuyện của một tác giả người Trung Hoa như đã nói ở phần trước, truyện được xây dựng trên một số đông nhân vật, tất nhiên phải dựa theo điển tích của quê hương tác giả. Xin kể ra một số nhân vật như sau:


PPT st

Chú thích :

(1) Tố Như: cụ Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ.

(2) Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936): dịch giả nhiều truyện từ tiếng Pháp ra tiếng Việt, như Thơ ngụ ngôn của La Fontaine – Truyện trẻ con của Perrault – Truyện ba người ngự lâm pháo thủ của A.Dumas và nhiều truyện khác nữa. Ông cũng có chân trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.

(3) Ngô Đức Kế: hiệu Tập Xuyên người tỉnh Hà Tĩnh (Trung phần) đỗ tiến sỹ triều Thành Thái, từng làm chủ bút tờ Hữu Thanh chủ trương đả kích văn thơ lãng mạn.

(4) Phạm Quỳnh: học giả, làm Thượng Thư bộ Lại triều Bảo Đại.

(5) Tiên Điền: cụ Nguyễn Du người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

(6) Hoài Lê: tâm trạng của người sống vào thời Lê mạt Nguyễn sơ.

(7) Đoạn trường tân thanh: tiếng than khóc mới về nỗi đau lòng.

(8) Nàng Ban, ả Tạ: nàng Ban là Ban Chiêu đời nhà Hán, ả Tạ là Tạ Đạo Uẩn đời Tấn, hai người đàn bà có tiếng hay chữ đời xưa.

(9) Chung Kỳ: Chung Tử Kỳ ở đời Xuân Thu là người tài nghe âm nhạc, một hôm Bá Nha ngồi gảy đàn, bụng nghĩ trên núi, thì Tử Kỳ khen: “Tiếng đàn chót vót như núi cao” – Kịp khi Bá Nha đang đánh đàn lại nghĩ xuống dưới sông thì Tử Kỳ lại khen: “Tiếng đàn cuồn cuộn như nước chảy”. Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha dứt dây, đập đàn đi bảo rằng: “Trong thiên hạ không còn ai nghe được đàn ta nữa”.

(10) Tư mã Tương Như: Tư mã Tương Như đời nhà Hán gảy khúc đàn “Phượng Cầu Kỳ Hoàng” để ve nàng Trác Văn Quân, Trác Văn Quân nghe khúc đàn hay mà mê rồi hai bên lấy nhau.

(11) Kê Khang: Kê Khang đời nhà Tấn, hay đàn có thầy dạy cho khúc Quảng lăng.

(12) Chiêu Quân: Chiêu Quân là cung nhân đời nhà Hán, vua đem gả cho chúa Hung Nô, lúc đi đến cửa ải, nhớ nước nhớ nhà; cưỡi ngựa gảy đàn tỳ bà để tả cái cảnh buồn.

(13) Thôi, Trương: Tây Sương Ký: nàng Thôi Oanh Oanh cùng với Trương Cũng phải lòng nhau ở mái Tây chùa Phổ Cứu. Hai người cũng tốt đôi phải lứa đã đi ăn ngủ với nhau, rồi sau không lấy nhau.

(14) Mã giám sinh: tên người chồng của Tú bà.

(15) Nàng Oanh: theo Hán Thư: cha nàng Đề Oanh phạm tội cung hình, nàng dâng thư lên tâu vua Văn Đế xin chuộc tội cho cha. Vua cảm lòng hiếu của nàng ấy mà tha tội cho người cha.

(16) Ả Lý: theo Đường tùng thư: nàng Lý Ký nhà nghèo, bán mình chịu tình nguyện đem thân vào cúng thần rắn để lấy tiền cứu cha mẹ, về sau nàng giết được thần rắn rồi lấy được vua Việt Vương.

(17) Tú bà: tên người đàn bà chủ thanh lâu.

(18) Vương bà: mẹ nàng Kiều.

(19) Sở Khanh: tên người đánh lừa dẫn Kiều đi trốn.

(20) Mã Kiều: tên người đàn bà chỉ dẫn Kiều làm cam kết không đi trốn như đã bị Sở Khanh lừa.

(21) Tống Ngọc, Tràng Khang: Tống Ngọc là người nước Sở, Tràng Khang tức là Tư mã Tương Như đời nhà Hán. Hai người đều đẹp trai và hay có tính trăng hoa.

(22) Thúc Sinh: tên người quen với Kiều tại thanh lâu, rồi lấy Kiều làm lẽ.

(23) Châu, Trần: họ Châu, họ Trần đời đời lấy nhau.

(24) Hoạn Thư: vợ của Thúc Sinh.

(25) Khuyển, Ưng: tay chân thân tín của Hoạn Thư.

(26) Giác Duyên: pháp danh của sư trưởng Chiêu ẩn am.

(27) Hằng Thủy: tên của vị sư quen với sư Giác Duyên.

(28) Bạc Hạnh: cháu của Bạc bà.

(29) Từ Hải: tên của tướng giặc, quen với Kiều tại chốn thanh lâu, rồi lấy Kiều.

(30) Bình Nguyên quân: tên của tướng nước Triệu đời Chiến Quốc, có tính đãi khách rất hậu, trong nhà lúc nào cũng có hơn 3000 tân khách.

(31) Phiếu mẫu: do tích lúc Hàn Tín còn hàn vi đói khổ, bà Phiếu mẫu cho ăn một bữa cơm. Về sau làm nên phú quý trả ơn một nghìn vàng.

(32) Hà Tôn Hiến: tên quan Tổng đốc đi dẹp giặc.

(33) Hoàng Sào: tên của tướng giặc đời nhà Đường.

Tại Tp. Hồ Chí Minh thuộc quận Nhất, hiện nay có đường Nguyễn Du, nối liền đường Hai Bà Trưng và đường Cách Mạng Tháng 8.

Và đường Ngô Đức Kế nối liền dường Tôn Đức Thắng và đường Hồ Tùng Mậu.


BÀI THƠ QUỶ MÔN QUAN

CỦA NGUYỄN DU

Nhân ngày sinh lần thứ 191 của Thi hào Nguyễn Du (16/9/1820-16/9/2011) nhà báo Vương Liêm đã có buổi nói chuyện chuyên đề hàng tuần tại Cung văn hóa lao động thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 25/9/2011 với chủ đề: “Thi hào Nguyễn Du với bài thơ Quỷ môn quan”.

Ông Vũ Anh Tuấn Chủ nhiệm câu lạc bộ Sách Xưa & Nay và một số thành viên đã tới dự.

Chúng tôi xin giới thiệu nội dung bài nói chuyện của Phó Chủ nhiệm CLB Vương Liêm.

1-Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Du (1765-1820)

1.1 Thân thế:

Nguyễn Du sinh ngày 23/11 năm Ất Dậu nhằm ngày 3/1/1766 năm Cảnh Hưng thứ 26 tại phường Bích Câu – Thăng Long (Hà Nội ngày nay), trong một gia đình đại quý tộc.

Ông tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, nguyên quán làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con thứ bảy của Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1775), là Tể tướng Lê triều, tước Xuân Quận Công, từng cầm quân đi đánh giặc lập nhiều công, có lần đánh với quân Nguyễn Nhạc (Tây Sơn). Mẹ ông là vợ lẽ thứ ba của Xuân Quận Công tên Trần Thị Tần. Cụ Nguyễn Nghiễm có 8 bà vợ với 21 người con. Cụ còn là sử gia, nhà thơ.

1.2 Sự nghiệp:

Năm 1783, Nguyễn Du 18 tuổi, đi thi Hương ở trường thi Sơn Nam và đỗ Tam trường (Tú Tài), không học tiếp, lấy vợ và làm con nuôi viên Chánh Thủ Hiệu ở Thái Nguyên, khi ông này mất, Nguyễn Du được kế tập giữ chức ấy. Cuối đời, ông có hai vợ, một thiếp với 12 con trai và 6 con gái.

Năm 1789, vua Quang Trung kéo quân ra Bắc đánh quân ngoại xâm nhà Thanh. Vua Lê Chiêu Thống bỏ chạy qua Trung Quốc, Nguyễn Du đi theo nhưng không kịp nên quay về quê quán.

Năm 1796, Nguyễn Du lại tìm đường vào Gia Định để theo Nguyễn Phúc Ánh chống quân Tây Sơn nhưng bị bắt ở Nghệ An. Nhờ quen biết nên ông được tha và quay lại Tiên Điền. Ông sống vất vả với nghề săn thú, bắt cá tại quê nhà nên đã đi khắp 99 ngọn núi của dãy Hồng Lĩnh (nên có biệt hiệu Hồng Sơn Lạp Hộ).

Mùa thu 1802, Gia Long lên ngôi, có lần ra Bắc mời Nguyễn Du ra gặp và được bổ Tri huyện Phù Dung, rồi thăng lên Tri phủ Thường Tín (Thăng Long). Năm sau, ông được cử lên ải Nam Quan tiếp đón sứ thần Mãn Thanh.

Năm 1805, ông cáo bệnh từ quan liên tiếp ba lần không được. Đến năm 1813, ông được thăng Cần Chánh điện Đại học sĩ và được cử cầm đầu Sứ bộ sang Trung Quốc. Ông mất năm Nhâm Thìn (16/9/1820), thọ 56 tuổi, do mắc bệnh dịch lan tràn từ Nam ra Bắc. Cuộc đời làm quan triều Nguyễn gần 20 năm.

- Tác phẩm: Quốc âm có 4 thi phẩm, trong đó nổi trội là Đoạn Trường Tân Thanh (truyện Kiều) và Văn tế Thập loại chúng sinh. Hán văn có 3 tác phẩm, trong đó nổi bật Bắc hành Tạp lục.

2-Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Quỷ môn quan

2.1 Giới thiệu tập thơ Bắc hành Tạp lục

- Đó là tập thơ ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương Bắc, từ đầu năm Quý Dậu 1813 tới đầu năm Giáp Tuất 1814. Tập thơ có 131 bài chữ Hán. Đây là tập thơ nói lên lòng thương cảm sâu xa những người trung nghĩa bị hãm hại, những người tài hoa bị vùi dập, những người lao động cùng khổ bị đói rét cùng nỗi khinh ghét giới thống trị kiêu căng và tàn bạo. Tất cả được Nguyễn Du nói lên bằng những vần thơ hết sức sâu sắc. Riêng bài thơ thứ 5 có tên “Quỷ Môn Quan”, tên một địa danh thuộc xứ Lạng.

2.2 Vị trí địa lý của Quỷ môn quan (Ải Chi Lăng)

- Quỷ Môn Quan sau này được gọi là Ải Chi Lăng, là một “ải” thuộc xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn trên QL 1A từ Hà Nội đi Lạng Sơn theo hướng đông bắc. Ải Chi Lăng cấu thành từ một thung lũng hẹp ép giữa hai dãy núi (đông là núi đất, tây là núi đất, tây là núi đá Cai Kinh dựng đứng).

- Dọc theo thung lũng ven đường cái quan dài 5km và rộng 3km có các núi thấp như Hàm Quỷ, Phượng Hoàng, Kỳ Lân, Mỹ Yên…

- Tại Ải Chi Lăng có thành Chi Lăng ở vào cây số thứ 109 tính từ Hà Nội (gần ga Trăm Năm ở cây số 105), tới cây số 154 thì tới thành phố Lạng Sơn.

- Thành cổ tại Ải Chi Lăng do quân Minh đắp trong thời gian xâm lược Việt Nam (khoảng 1410) có chu vi 154 trượng và cao 5 thước, nay chỉ còn nền cũ.

- Phía nam Ải Chi Lăng có hai khối đá lớn có hình dáng giống như thanh kiếm khổng lồ gọi là Lê Tổ Kiếm và một tượng đá có hình dáng như một người quỳ gối và bị cụt đầu gọi Liễu Thăng thạch (18/9/1427).

- Ngoài Ải Chi Lăng còn có Quỷ Môn Quan, theo sách cổ, nó nằm ở phía nam huyện Bắc Lưu thuộc châu Uất Lâm tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) cách 30 dặm. Mã Viện đánh Việt Nam thời Hai Bà Trưng có dựng bia và tạc rùa đá (năm 43 sau CN). Truyền thuyết dựng bia ghi “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” và người đời truyền tụng: Quỷ môn quan! Quỷ môn quan! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn!

2.3 Lịch sử của Ải Nam quan:

- Địa danh này gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh chống các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lược của dân tộc Việt Nam, như nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh…

- Ải Chi Lăng còn gắn liền với các hoạt động của các nhà quân sự tài năng như:

* Hai Bà Trưng (40-43 sau TL): Cuộc khởi nghĩa thắng lợi làm vua ba năm. Mã Viện đem quân đánh Hai Bà ngang qua ngã Lạng Sơn tới Quỷ môn quan được Nguyễn Du nhắc tới trong bài thơ Quỷ môn quan: “Hán tướng công gì kể bấy nay”.

* Thời Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành (980-1005): Sau khi nhà Đinh suy yếu, quân nhà Tống mở đầu cuộc xâm lăng Đại Việt, tiến vào Lạng Sơn, đi đến Chi Lăng bị Lê Hoàn chặn đánh giết chết tướng nhà Tống, tướng còn lại sợ phải rút quân về. (Chuyện kể Núi quỷ có 7 ngọn tượng trưng cho 7 chiến sĩ hy sinh tại đây)

* Thời Lý Thường Kiệt: Đầu năm 1076 quân nhà Tống lại đưa quân tràn qua biên giới chiếm đóng Lạng Sơn và tới Quỷ môn quan. Tướng Lý Thường Kiệt đưa quân đến ngăn chặn (chuyện kể về trấn áp 7 núi quỷ) nhưng lại lui về lập phòng tuyến ở bờ sông Như Nguyệt. (bài thơ là bản tuyên ngôn độc lập thứ 1).

Nhà Tống tham lam cố tình chiếm đóng đất Quảng Nguyên thuộc tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, tới năm 1084 mới trả lại cho ta sau nhiều năm đấu tranh ngoại giao.

* Thời Trần Quốc Tuấn:

+ Lần 1 năm 1257, quân Nguyên đánh nước ta qua ngã Vân Nam – Lào Cai dọc theo sông Hồng tới Thăng Long. Năm sau 1258, vua Trần Thái Tông đã ra trận đánh thắng ngoại xâm.

+ Lần 2 năm 1283, nhà Nguyên đem quân sang đánh nước ta qua ngã Lạng Sơn tới Ải Chi Lăng bị quân Trần Quốc Tuấn (tức Tiết chế Hưng đạo) cùng nhiều tướng giỏi dùng chiến thuật “hố bẫy ngựa” đánh đuổi khiến Thái tử Thoát Hoan phải chui ống đồng trốn về nước (1/1285).

+ Lần 3 năm 1287, Thoát Hoan chỉ huy sang đánh nước ta qua ngã Lạng Sơn và đường biển, bị đánh tại sông Bạch Đằng (1288).

* Thời Lê Lợi… và các thủ lĩnh của xứ Lạng: Tới cuối đời nhà Trần (hậu Trần), nhà Minh chiếm đóng Đại Việt (1414-1427). Lê Lợi khởi nghĩa ở đất Lam Sơn kháng chiến chống quân Minh 10 năm (1418-1427). Kết thúc bằng chiến thắng Chi Lăng và Xương Giang khu vực Quỷ môn quan. Liễu Thăng bị giết tại đây. Nguyễn Trãi sáng tác Bình Ngô đại cáo (bản tuyên ngôn độc lập thứ 2).

* Thời kỳ nước ta bị đô hộ:

+ Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc đầu tiên (214-208 tr TL): Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đánh nước Văn Lang của vua Hùng, quân Tần “thây phơi, máu chảy hàng mấy chục vạn” (Bên đường gió lạnh luồng xương trắng).

+ Cuộc xâm lăng của Triệu Đà nước Nam Việt (Quảng Châu - Trung Quốc ngày nay) đánh chiếm thành Cổ Loa của vua An Dương Vương (179 tr TL) nước Âu Lạc.

3-Nội dung và ý nghĩa bài thơ Quỷ môn quan

3.1 Nguyên tác và bản dịch của bài thơ:

Núi liên tiếp, cao vút tận mây xanh

Nam Bắc chia ranh giới ở chỗ này

Là nơi nổi tiếng nguy hiểm đến tính mạng

Thương thay, bao nhiêu người vẫn phải đi về qua đây.

Bụi gai lấp đường, mãng xà, hổ tha hồ ẩn nấp

Khí độc đầy đồng, quỷ thần mặc sức tụ họp

Từ thuở xa xưa, gió lạnh đã thổi bao đống xương trắng

Chiến công của tướng nhà Hán có gì đáng khen !

Bản dịch của Quách Tấn :

Núi trập trùng giăng đỉnh vút mây

Ải chia Nam Bắc chính là đây

Tử sanh tiếng đã vang đồng chợ.

Qua lại người không ngớt tháng ngày

Thấp thoáng quỷ đầu nương bóng khói

Rập rình cọp rắn núp rừng cây.

Bên rừng gió lạnh luồng xương trắng

Hán tướng công gì kể bấy nay ?

3.2 Nội dung bài thơ:

“Quỷ Môn Quan” với núi non chập chùng, đỉnh núi mây giăng đêm ngày. Ải này là chỗ phân chia ranh giới hai xứ hay Nam và Bắc (nếu kể tới Ải Nam quan hay Hữu nghị quan – cửa khẩu Đồng Đăng). Xưa nay sự chết chóc hay cuộc chém giết (chiến trường) nổi tiếng là ác liệt, đẫm máu. Người người đều qua lại tấp nập bất kể đêm ngày – con đường cái quan lên tới biên giới, cửa khẩu (cuộc xâm lăng nào của phương Bắc cũng đều qua ngã này, cuộc kháng chiến chống ngoại xâm nào của ta cũng đều tổ chức tại đây). Thú dữ cũng như ma quỷ, âm hồn của tử sĩ luôn hội tụ đêm ngày: nơi đầu sóng ngọn gió hiểm nghèo. Khắp nơi đều là gió lạnh và xương người trải qua bao đời. Đặc biệt, quân quan nhà Hán dù là tài giỏi nhưng liệu đánh thắng phụ nữ thì có gì là anh hùng!

3.3 Ý nghĩa bài thơ:

Rõ ràng, nội dung bài thơ mang ý nghĩa yêu nước và nhà thơ có tình yêu dân tộc đậm đà nên đã sáng tác bài thơ vừa mô tả nơi hiểm địa, nơi cửa khẩu nổi tiếng nhưng là chiến trường đánh thắng ngoại xâm từ xưa tới nay. Nơi đây đã chia rõ ranh giới hai nước. Vậy thì đừng có ai tới xâm phạm, gây hấn, chiếm đoạt.

3.4.Mở rộng : bài thơ trên sông Như Nguyệt:

Nơi đây quân của Lý Thường Kiệt đánh thắng quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy (sang hơn 8 vạn, chết đến quá nửa). Chiến thắng do chiến sĩ ta nghe khí thế của bài thơ mà hăng hái tiến công quân giặc. Tướng Lý Thường Kiệt đã từng đưa quân lên Quỷ Môn Quan để ngăn chặn quân xâm lược nhà Tống. Do thế yếu phải rút về trấn giữ sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay).

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch:

Sông núi nước Nam, vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời.

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời !


VƯƠNG LIÊM


Phụ Bản I

Tháng 11 năm nay kỷ niệm 60 năm ngày mất của Nam Cao (30/11/1951), nhà văn kiệt xuất của nền văn học Việt Nam hiện đại, là một trong những đại thụ của dòng văn học Hiện thực phê phán, người đã sản sinh ra Chí Phèo; Thị Nở đã đi vào thành ngữ dân gian Việt Nam. Năm nay cũng là 70 năm Đôi lứa xứng đôi (tên cũ của Chí Phèo) ra mắt độc giả. Tôi xin giới thiệu đôi nét về ông.

ĐÔI NÉT VỀ TIỂU SỬ VĂN HỌC

CỦA NAM CAO

PHẠM THẾ CƯỜNG (sưu tầm và biên soạn)

 

Từ lời tựa của Lê Văn Trương

Nhà văn Lê Văn Trương, một tượng đài sừng sững của văn đàn Việt Nam cuối những năm 1930 đầu 1940 của TK20 khi được nhà xuất bản Đời Mới mời viết lời tựa cho Đôi lứa xứng đôi (sau năm 1946 đổi tên thành Chí Phèo) đã viết: “Giữa lúc người ta đang đắm mình trong những chuyện tình thơ mộng và hùa nhau phụng sự cái thị hiếu tầm thường của độc giả, ông Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối riêng, nghĩa là ông không thèm đếm xỉa đến cái sở thích của độc giả. Những cạnh của tài ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn của con người biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình.”

Lê Văn Trương quả không nhầm, Nam Cao là người đến với văn chương sau Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng những người đã xây dựng nền văn học Hiện thực phê phán với những nhân vật để đời như anh Pha, chị Dậu, Năm Sài Gòn, Xuân tóc đỏ còn Nam Cao đã xây dựng nên Chí Phèo, Thị Nở, một kiểu nhân vật mới được hình thành từ nông thôn Việt Nam bắt đầu xuất hiện những loại người bất bình thường, dị dạng do sự cai trị, đè nén của thực dân, phong kiến mà sản sinh ra họ.

Với Đôi lứa xứng đôi, Nam Cao đã khẳng định được mình trên văn đàn Việt Nam thời ấy và cũng từ đây Nam Cao đã tiến một bước dài, nếu không muốn nói là kỳ diệu trên con đường văn chương của mình với những tác phẩm thuộc hàng xuất sắc như Lão Hạc, Đời thừa, Sống mòn, Đôi mắt, Nhật ký ở rừng…đã mãi mãi tồn tại trong lòng các thế hệ độc giả Việt Nam.

Những cột mốc

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29/10/1915 trong một gia đình Công giáo nghèo tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Nam Song (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Thủa nhỏ ông được gia đình cho học ở trường làng, sau đó học tiếp tiểu học và thành chung ở Nam Định. Giữa năm 1933, lúc 18 tuổi ông phải bỏ học do bị bệnh tim và thấp khớp nên không thi lấy bằng Thành chung được, khi bệnh tình đỡ ông được gia đình cưới vợ và cuối năm đó ông vào Sài Gòn kiếm sống.

Sau gần 03 năm ở Sài Gòn, Nam Cao lại bị bệnh nặng và phải trở lại quê nhà. Được mẹ và vợ chăm sóc, bệnh tình thuyên giảm ông thi lấy bằng Thành chung. Cũng từ đây ông bắt đầu sáng tác.

Từ cuối năm 1936 đến đầu năm 1941 với bút danh Thuý Rư, ông đã gửi in tác phẩm của mình trên Tiểu thuyết thứ bảy như Cảnh cuối cùng; Hai cái xác; Nghèo; Đui mù… Sau đó ông còn đăng trên Ích Hữu như: Những cánh hoa tàn; Đường gió bụi; Trở về… Ngoài bút danh Thúy Rư ông còn sử dụng các bút danh Xuân Du, Nguyệt nhưng không nhiều. Cũng trong thời gian này ông dạy học ở trường Công Thanh – Hà Nội.

Đầu năm 1941, trường Công Thanh đóng cửa, Nam Cao về Thái Bình dạy học ở trường Kỳ Giang và vẫn tiếp tục viết văn. Trong năm này với bút danh Nam Cao ông gửi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) cho nhà xuất bản Đời Mới với lời tựa của Lê Văn Trương. Từ đây Nam Cao đã có chỗ đứng trên văn đàn Việt Nam và bút danh Nam Cao đã thực sự trở thành tên của ông.

Năm 1942 Nam Cao trở về quê viết văn, tác phẩm của ông vẫn tiếp tục ra mặt độc giả trên TTTB. Với những trải nghiệm của ông khi làm thầy giáo dạy học ở Hà Nội, Thái Bình ông đã bắt tay vào viết tiểu thuyết Sống Mòn (vốn có tên là Chết mòn-năm 1944 thì viết xong). Đây gần như một tiểu thuyết triết lý, ở đó ông miêu tả những con người “chết ngay khi đang sống”. Nhân vật của sống mòn là tầng lớp trí thức tiểu tư sản nghèo sống bằng nghề dạy học với những ước mơ không vược quá bữa cơm hàng ngày, họ luẩn quẩn trong môi trường chật hẹp, tù túng, khép kín với những xung đột nhỏ nhem, ích kỷ và u mê, trong đó chỉ có thầy giáo Thứ là có vẻ sáng suốt hơn cả nhưng cũng chỉ đủ thấy mình đang “sống mòn” mà không sao thoát ra được.

Năm 1943 cùng với Tô Hoài; Nguyễn Huy Tưởng; Nguyễn Đình Thi; Nguyên Hồng, Nam Cao tham gia hội Văn Hóa Cứu Quốc, một mặt tích cực công tác hội ông vẫn viết đều đặn đưa in trên TTTB như Mua danh; Xu-vơ-nia; Truyện tình; Đời thừa... và tiếp tục hoàn thiện Sống mòn. Năm 1944 ông ra mắt tập Nửa đêm do NXB Công Lực-Hà Nội in.

Tháng 8/1945 ông tham gia giành chính quyền ở quê nhà và được bầu làm Chủ tịch Việt Minh xã. Đến đầu năm 1946, Nam Cao lên công tác ở hội Văn Hóa Cứu Quốc trung ương. Làm thư ký tòa soạn tạp chí Tiên Phong của hội và tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách Đặc phái viên Văn Hóa Cứu Quốc. Trong thời gian này ông viết Nỗi truân chuyên của khách má hồngĐường vô Nam đăng trên Tiên Phong.

Những năm đầu kháng chiến chống Pháp Nam Cao làm ở báo Cứu Quốc và viết các truyện ngắn như: Đợi chờ; Đôi mắt; Ở rừng; Những bàn tay đẹp… lấy cảm xúc từ những chuyến đi thực tế. Đầu năm 1950 ông tham gia chiến dịch Biên giới với tư cách là ủy viên tiểu ban Văn nghệ TW, từ những chuyến đi thực tế này ông viết: Trần Cừ; Hội nghị nói thẳng; Định mức…

Là một nhà văn hiện thực với tác phong xông xáo, Nam Cao theo đoàn cán bộ vào vùng địch hậu, ông nói “Không vào đó thì lấy gì mà viết” và trong chuyến đi về Ninh Bình ông đã bị giặc bắt ở huyện Gia Viễn vào ngày 29/11/1951 và hôm sau (30/11/1951) ông bị giặc sát hại.

Ông mất đi giữa lúc sức viết đang khỏe và tài năng đang ở độ chín đã để lại bao thương tiếc cho bạn bè, đồng chí và giới văn chương, là một mất mát cho văn học cách mạng, Đúng như Bài đọc tại lễ truy điệu Nam Cao trong Hội nghị tranh luận hội họa ngày 21/12/1951 của Nguyễn Huy Tưởng:“Cái chết anh dũng của Nam Cao vừa là cái tang cho giới văn nghệ và văn hóa Việt Nam, vừa nói lên cái truyền thống, cái ý thức phục vụ sâu sắc của những người công tác văn nghệ kháng chiến.”

Sáng tác của Nam Cao chủ yếu là truyện ngắn về hai đề tài chính: Nông dân và Trí thức nghèo. Ông cũng viết tiểu thuyết nay còn để lại cho chúng ta là Sống mònChuyện người hàng xóm. Ông là ngôi sao sáng của dòng văn học hiện thực phê phán, văn của ông có sức hấp dẫn của sự sát với đời sống thực của con người dưới cái xã hội thuộc địa nửa phong kiến với bao cảnh đời éo le, nghèo khổ, bế tắc của người dân mất nước trước Cách mạng.

Trong kháng chiến chín năm ông đã cùng với các nhà văn Nguyễn Huy Tưởng; Nguyễn Đình Thi; Nguyên Hồng; Nguyễn Công Hoan; Tô Hoài; Trần Đăng, Bùi Hiển… đã sớm hòa nhập và trở thành những cây đại thụ của nền văn học Cách mạng hiện thực XHCN. Tác phẩm của ông ở thời kỳ này hừng hực khí thế cách mạng, miêu tả những khó khăn, thiếu thốn của cuộc kháng chiến nhưng con người ở đó luôn lạc quan, yêu đời, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc.

Với những đóng góp của mình vào nền văn học nước nhà, nhà văn Nam Cao đã được Nhà Nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên, năm 1996. Năm 2001 kỷ niệm 50 năm ngày ông hy sinh, Bưu chính Việt Nam đã phát hành bộ tem về Nam Cao.

NAM CAO LÀM THƠ

Trước khi trở thành một nhà viết văn xuất sắc thuộc loại hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại, Nam Cao đã là một nhà thơ với bút hiệu Thuý Rư, Nhiêu Khê,… Cũng như nhiều nhà thơ lúc bấy giờ, ông viết nhiều bài thơ tình và cũng có một số bài trào phúng đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy, Hà Nội tân văn, Tiểu thuyết thứ Năm và một số báo khác. Dưới đây xin giới thiệu hai bài thơ của Nam Cao

Đổi Thay

(Đăng trên Tiểu thuyết thứ Năm, 1939)


Lòng người là khói là hương,

Hương bay tám gió, khói vương bốn trời.

Buồn cho tôi! Muốn lòng người,

Là con sông nhỏ chảy xuôi một dòng.


Thế rồi tôi lại muốn sông

Đừng ra bể nữa, cho lòng mang mang…

Buồn cho tôi muốn tình nàng,

Có hình như đá rõ ràng từ đây.


Ai làm cho gió đưa mây,

Cho mây vương núi, đổi thay muôn hình.

Đổi thay là trái tim tình,

Một làn mây đủ xuôi mình phụ ta.


Khi chiều thẫm

(Đăng ở Hà Nội tân văn số 61 ra ngày 12/4/1941)


Chiều thẫm lại. Hàng cây yên dáng nhớ,

Trăng không lên. Sao đẫm lệ ; lu mờ,

Tôi khua lòng, lòng ướt át, và thơ

Buồn đẫm cánh không bay nhè nhẹ được.


Đời tối quá! Em ơi tôi nguyện ước

Một bàn tay thắp hộ lửa lòng lên;

Một thấm thân ấm áp ghé ngồi bên;

Câu dìu dịu vỗ về hồn nhức nhối;


Đôi tai bạn để nghe lời tim nói.

Em xa xôi, tôi cô độc, em ơi!

Còn gì buồn bằng những lúc sương rơi

Từng hạt nặng trên lưng tàu lá chuối!


Sương khóc hộ cho đời tôi trơ trọi,

Cho đời em lạnh lẽo chốn phòng không

Cho con chim đơn lẻ giữa mênh mông,

Khi chiều thẵm, hàng cây yên dáng nhớ.

                          PHẠM THẾ CƯỜNG

                          sưu tầm và giới thiệu


CÂU CHUYỆN XUNG QUANH HÌNH MẪU

CHÍ PHÈO, THỊ NỞ

TRẦN THỊ HỒNG

Giữa trưa một ngày nóng nực nhất trong tháng bảy gia đình tôi có khách đó là ba thanh niên. Vào tới nhà, sau khi chào gia chủ, họ tự giới thiệu:

- Chúng cháu là Đông Hồng đạo diễn và Quốc Anh diễn viên của Công ty Cổ phần Nghe nhìn Thăng Long. Công ty có ý định dựng bộ phim hài, dựa theo tác phẩm "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao, để trình chiếu trong dịp tết sắp tới.

Sáng nay, anh em chúng cháu vừa về Nhân Hậu, tới nhà tưởng niệm và khu mộ, để thắp hương xin phép ông rồi! Bây giờ chúng cháu tới gia đình báo cáo lại với hai bác. Đồng thời, rất muốn hai bác cho nghe thêm những câu chuyện liên quan đến tác phẩm Chí Phèo.

Tôi bảo: “Truyện Chí Phèo của cha tôi, thì đã được các nhà phê bình văn học và bạn bè, đồng nghiệp của người đề cập khá nhiều. Các anh có thể tìm đọc. Nhưng vì các anh muốn dựng phim hài, tôi cũng xin mạo muội kể vài mẩu chuyện tôi từng được nghe từ người thân và dân làng có chút hài hài để các anh tham khảo”.

Rồi tôi kể: “Chú ruột tôi là Trần Hữu Đạt bảo: Cha tôi xây dựng nhân vật Chí Phèo là dựa vào hình ảnh của ba người: Người thứ nhất tên là Chí. Cha mẹ ông Chí đều ở làng tôi, gia cảnh rất nghèo, quanh năm làm thuê, cuốc mướn. Khi cha mẹ mất đi, Chí còn lại một mình, không có ruộng vườn, nhà cửa. Ngày ngày Chí đến làm việc cho một người làng tên là Trương Pháo.

Ông Trương Pháo thuê Chí mổ lợn rồi đem ra chợ bán. Làm xong, Chí không đòi tiền, chỉ xin cút rượu và một đoạn cái phèo của con lợn. Có hai thứ đó là xong bữa của Chí. Mỗi buổi tối, sau khi uống rượu xong, Chí khật khưỡng đi đến cái lều ở chợ.

Ai gặp Chí cũng hỏi để trêu đùa: “Anh Chí đi đâu đấy?”. Chí trả lời ngay: “Đi phèo đây”. Ý của Chí là đi ngủ. Cứ thế Chí sống một mình, chẳng lấy được vợ. Nhưng Chí rất hiền, không rạch mặt, ăn vạ.

Người thứ hai tên Trinh, ông này không biết cha, mẹ quê quán ở đâu. Ông chính là đứa trẻ người ta nhặt được ở cái lò gạch bỏ hoang. Ông uống rượu rất nhiều, và khi rượu vào thì lời ra. Ông chửi mọi người và chửi trời, chửi đất. Hễ hơi động vào ông là ông nằm ăn vạ. Nhưng ông có vợ và một đàn con đông đúc.

Người thứ ba tên Đào. Ông Đào là em họ bà nội tôi. Ông khỏe mạnh, có cha, mẹ, vợ con ở làng. Nhưng nhà cũng nghèo. Vợ ông chính là bà Trần Thị Nở. Một trong hai người cha tôi dựa vào để xây dựng nhân vật Thị Nở. Ông Đào cũng chính là anh lực điền làm thuê cho nhà ông Chánh Bính (nhân vật Bá Kiến).

Trong ba người này, ông Trinh và ông Đào sống rồi chết ở làng. Riêng ông Chí về sau bỏ làng đi biệt xứ. Không có việc đâm chém giữa Chí Phèo và Bá Kiến. Song, mãi đến những năm gần đây, người ta phát hiện ra rằng, ông Chí không có vợ nhưng thực ra có con.

Con ông có tên là Rụ. Đó là kết quả mối tình của ông với một bà buôn trứng ở làng. Xung quanh mối quan hệ của anh canh điền với bà vợ ba Bá Kiến, trong tác phẩm cha tôi chỉ viết: “... Hắn nhớ đến “bà Ba”, cái con quỷ hay bắt hắn bóp chân mà lại bóp lên trên, trên nữa. Nó chỉ nghĩ đến sao cho thỏa, chứ có yêu hắn đâu. Hồi ấy hắn hai mươi tuổi. Hai mươi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh... Bà thấy xa xôi không được, phải làm đến nơi. Bà bảo hắn rằng: “Mày thật thà quá! Con trai gì hai mươi tuổi mà đã như ông già”. Hắn vẫn giả vờ không hiểu. Bà lẳng lơ bảo: “Chả nhẽ tao gọi mày vào chỉ để bóp chân thế này thôi ư?...”.

Nhưng anh Hoàng Cao là con bác ruột tôi, lại kể câu chuyện rất hài thế này: Một buổi trưa hè, chồng đi vắng, bà vợ ba Nghị Bính (Bá Kiến) sai con ở đi hái nhãn. Còn lại một mình ở nhà, bà gọi Chí Phèo lên rồi đưa cho Chí một cái quạt lông rất to, cán dài...

Bà sai Chí Phèo quạt cho bà, nhưng phải quạt thật mạnh. Chí Phèo quạt. Bà Ba mặc yếm lụa vàng, không thắt giải ngang, mặc váy lục đen, nằm trên phản, chân quay về phía Chí Phèo.

Chí Phèo quạt cái thứ nhất. Bà Ba giục: “Quạt mạnh vào”. Chí Phèo quạt cái thứ hai mạnh hơn. Yếm bà Ba hở ra và váy lục tốc lên. Chí đỏ mặt, chuyển đứng về phía đầu bà, thì bà liền xoay chân về phía “Chí Phèo” đứng và lại giục:

- Quạt nữa đi!

Chí Phèo quạt cái thứ ba, gió cũng thổi hợp với cái giãy giụa khéo léo của người nằm. Toàn bộ những cái cần che đậy trên người bà Ba đã hở hang, phô bày ra hết. Bà bảo:

- Thằng khỉ!

Lúng túng, Chí Phèo run run đáp:

- Lạy bà! Con không dám.

- Bà cho dám! - Tiếng bà Ba cất lên...

Tưởng rằng chỉ có trời, bà Ba và Chí Phèo biết việc ấy. Nào ngờ, còn có một người nữa biết việc này, đó là ông Loan. Ông Loan là người hầu tráp của Chánh Bính. Ông Loan đã vô tình được mục kích toàn bộ hành động của bà Ba và Chí Phèo.

Anh Hoàng Cao vốn là bạn với anh Nho, con út của ông Loan. Một lần anh đến chơi với bạn, gặp ông Loan cũng đang có mặt ở nhà anh Nho. Hai anh ngồi tán chuyện với nhau. Hết chuyện trên trời dưới biển chán thì lôi chuyện của cha tôi ra nói. Ông Loan mới tủm tỉm cười mà rằng:

- Tớ biết một chuyện còn hay gấp mấy truyện giáo Tri viết. Chúng mày biếu lão chai rượu, lão kể cho mà nghe.

Sau đó ông kể câu chuyện trên cho các anh nghe. Ông còn chỉ vào bộ tràng kỷ trong nhà anh Nho mà nói: “Tớ có bộ tràng kỷ này là từ vụ đó”.

Ông Loan nói thêm: “Bà Ba là một người đàn bà tinh ranh, bà thừa biết tôi đã chùi mép cho bà nên bà nhũn nhặn bảo: “Tôi rất quý cái bụng của anh. Anh ăn ở, thu vén cho nhà này từng ly, từng tí một. Tôi biết lắm anh ạ! Anh cứ yên trí: Gái có công chồng chẳng phụ”. Rồi bà vội lật đầu giường, lấy ví của chồng, đưa cho tôi.

Kể chuyện này xong, ông Loan đã dặn rất kỹ những người ngồi nghe phải giữ mồm giữ miệng. Nhưng chẳng hiểu sao, câu chuyện “thâm cung bí sử” đó, vẫn nhanh chóng lan ra khắp làng. Từ đấy đám thanh niên, cứ mỗi lần gặp nhau, là thường cợt nhả. Chúng đấm vào lưng nhau rồi quát:

- Thằng khỉ!

Người bị đấm giả vờ khúm núm:

- Lạy bà! Con không dám!

Rồi đua nhau vừa cười váng lên, vừa hét:

- Bà cho dám, bà cho dám.

Chúng cứ vừa đấm, vừa cười ngặt nghẽo với nhau.

Cuộc đời của hai người phụ nữ, cha tôi dựa vào để xây dựng lên nhân vật Thị Nở cũng có nhiều nét hài.

Người thứ nhất là bà Trần Thị Nở. Cha bà Nở là ông Trần Hữu Kính, chuyên đi đóng thuê cối xay lúa, nên gọi là phó Kính. Bà Nở người đã xấu, tính lại dở hơi và rất hay cười. Đặc biệt, bà rất dễ buồn ngủ, mà đã buồn ngủ thì không sao cưỡng lại được. Do vậy, bà lăn ra ngủ ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào: chân đống rạ, chỗ gốc chuối, chân bụi tre... Thậm chí, có lần bà ra ao để xách nước. Vừa đến bờ ao, gặp cơn gió mát, đặt lọ xuống đất, ngồi dựa vào gốc sung, bà làm luôn một giấc dài.

Hàng xóm còn luôn nhắc đến tài bếp núc của bà, để răn dạy con gái. Bởi với bà Nở khi đã chồng, con rồi mà cơm bữa nào cũng trên sống, dưới khê, bốn bề nhão nhoét. Nhưng hễ ai vừa động kêu ca một tiếng, là ba dẩu ngay môi lên, rồi cãi lại rằng “sống đâu mà sống, chỉ hơi sượng thôi!”. Tuy vậy bà Nở vẫn chồng con đề huề. Chồng bà chính là ông Đào (cậu nhà văn Nam Cao) như trên tôi đã nói.

Người thứ hai là cô Trần Thị Thìn, con cụ phó Thảo. Cô Thìn cũng xấu: mặt ngắn, mũi to, da sần sùi và cũng dở người. Cô là em ruột bác Trần Duy Nâm, anh rể của mẹ tôi.

Nhà cụ Thảo thuộc hàng khá giả ở làng. Bác Nâm làm lý trưởng, gia cảnh bề thế. Nhưng cô Thìn vừa xấu, vừa dở tính, không lấy được chồng. Con trai làng, người nghèo thì không dám “với”, người giàu thì họ lại chê. Thật khổ cho cô Thìn, vì bản thân cô lại rất muốn lấy chồng. Hàng ngày mẹ sai đem chép ra vườn làm cỏ. Vườn nhà cô ở ngay cạnh đường đi. Các anh trai làng thường xuyên đi lại trên đường. Vì vậy cô cũng thường xuyên ngừng tay để bắt chuyện và mời mọc các anh vào vườn chơi. Do vậy cô làm cả ngày mà cỏ vẫn mọc xanh rì.

Cô bị mẹ mắng, chửi luôn luôn vì cái tội đó. Lúc ấy cô mới xếu mếu cái: “Thì u lấy chồng cho con đi”. Các anh trai làng biết vậy. Họ nghịch ngợm trêu: “Cô Thìn ơi! Hãy lấy tôi nhá!”. Lúc ấy, mũi Thìn bạnh ra, miệng cười hết cỡ. Và anh con trai cũng vừa cười vừa lảng.

Đang vui chuyện, chợt nhìn ra ngoài trời, thấy đã tắt nắng, tôi bảo:

- Thôi hẹn dịp khác, bây giờ muộn rồi! Các anh đi đường xa, sợ tối quá, không tiện.

Đạo diễn Đông Hồng và diễn viên Quốc Anh đứng dậy, nắm chặt tay chồng tôi!

- Chúng cháu cảm ơn hai bác rất nhiều ạ!

Trần Thị Hồng, con gái Nam Cao

BÀI THƠ NAM QUỐC SƠN HÀ

KHÔNG PHẢI SÁNG TÁC CỦA LÝ THƯỜNG KIỆT

và vấn đề nói dối nói thật của người Việt ta

TRẦN NHUẬN MINH

Quả thật chúng ta đã nói dối quá nhiều, viết dối quá nhiều. Bản thân tôi cũng đã từng nói dối, đã từng viết dối. Cứ nhớ đến là lại xấu hổ. Đã đến lúc phải nói thật, viết thật. Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, là khẩu hiệu của đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam và cũng là phương châm hành động của những người Cộng sản chân chính Việt Nam. Chính tôi đã trực tiếp nghe từ Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu khuyến khích các nhà văn nói thật, viết thật, và yêu cầu các nhà văn lấy đó làm tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của mình.

Có một thời kỳ khá dài, chúng ta nghĩ rằng: cái gì có lợi cho cách mạng, dù cái đó không diễn ra, vẫn là sự thực. Còn cái gì không có lợi cho cách mạng, dù cái đó có diễn ra ngay trước mắt, cũng không phải là sự thực. Quan niệm này, theo tôi, xuất phát từ câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông: “Cái gì có lợi cho cách mạng thì cái đó là chân lý”, mà Nguyễn Đình Thi thuật lại, trong ghi chép của Hà Minh Đức. Cũng theo Nguyễn Đình Thi, trong bài nói chuyện về văn nghệ ở Diên An năm 1942, “Mao Trạch Đông phủ nhận tính người, đề cao tính giai cấp và thực dụng của văn học”. (Nguyễn Đình Thi – Chim phượng bay từ núi, của Hà Minh Đức, nhà xuất bản Văn học, 2010).

Chúng ta lại phải đánh giặc, hai lần kháng chiến trường kỳ, vô cùng gian khổ và ác liệt, cần phải chiến thắng bằng mọi giá, để giải phóng đất nước, giành độc lập tự do cho dân tộc, kể cả đốt cháy giải Trường Sơn, nếu cần, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.

Trong binh pháp của mọi thời, mọi quốc gia, ai cũng biết có thuật nghi binh. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, chúng ta cũng dùng thuật nghi binh, làm lạc hướng chú ý của đối phương để tạo ra chiến thắng áp đảo ngay từ trận đầu… Nhưng áp dụng nó trong văn chương và học thuật lại là vấn đề khác, có khi tạo ra những sai lầm vài thế kỷ… Ví như bài thơ Phóng cuồng ca rất nổi tiếng của Trần Tung, Bồi tụng Bùi Huy Bích thời Lê ghi là của Trần Quốc Tảng, 200 năm sau, sai lầm này của ông Bùi vẫn không sửa hết được. Gần đây là bài thơ Nam quốc sơn hà… không phải của Lý Thường Kiệt. Giáo sư Bùi Duy Tân, người thày dạy tôi ở trường đại học Tổng hợp Hà Nội, đang điều trị ung thư thời kỳ cuối cùng ở bệnh viện Hữu Nghị, nhờ con chở đến và xin đăng ký phát biểu trong hội thảo thơ tại nhà Thái Miếu trong Ngày thơ Việt Nam, do nhà thơ Vũ Quần Phương, chủ tịch hội đồng Thơ chủ trì và tôi là ủy viên hội đồng, đư ợc phân công cùng với nhà thơ Vũ Quần Phương, thực hiện cuộc hội thảo này. Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt thường được biểu diễn trong màn múa hát dàn dựng theo phong cách s ử thi rất hoàng tráng với giáo mác oai hùng tại sân khấu chính của Ngày thơ Việt Nam. Giáo sư nói với chúng tôi rằng: đây là lời phát biểu cuối cùng của ông, vì ông không biết sẽ “đi” ngày nào. Chúng tôi đã dành cho ông 45 phút, trong khi những người khác, chỉ có 15 phút. Tại đây, trong không khí linh thiêng của nhà Thái Miếu, có đốt hương trầm khi hội thảo khai mạc, giáo sư đã chính thức báo cáo rằng, bài thơ ấy khuyết danh, giáo sư là người đầu tiên gán cho Lý Thường Kiệt và sau đó, ông cùng những cộng sự của ông và những học trò của ông nữa, đã viết vào tất cả các loại sách giáo khoa, từ cấp tiểu học đến trên đại học. Và bây gi ờ, ông xin lỗi các thế hệ thày giáo và học trò… Nghĩ cũng tiếc, bởi bài thơ mấy chục năm nay, đã được coi là Bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất của dân tộc do Lý Thường Kiệt soạn thảo. Và tên ông, Lý Thường Kiệt, sánh ngang với Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh. Bây giờ không phải của Lý Thường Kiệt thì ứng xử ra sao… Thực ra, không có ý kiến chính thức của giáo sư, bất cứ ai có chút am hiểu văn thơ thời Lý Trần, cũng đều biết bài thơ ấy không phải của Lý Thường Kiệt, nhưng không ai dám nói và đủ độ tin cậy để nói ra. Bây giờ, trên các diễn đàn và trên các sách báo, vẫn có người nói và viết về bài thơ của Lý Thường Kiệt… Dù vài năm nay, sách giáo khoa dạy cho học sinh phổ thông trong nhà trường, bài thơ ấy đã đề khuyết danh rồi. Và một bạn tôi cho hay, bài thơ NAM QUỐC SƠN HÀ thiếp chữ vàng đề tên Lý Thường Kiệt trong bảo tàng lịch sử nay cũng không đề tên tác giả nữa. Như thế là sự thật đã được khôi phục theo đúng tinh thần đại hội VI của Đảng.Ví như Thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, một Hồ Xuân Hương dân gian, cũng như một Đoàn Thị Điểm dân gian trong truyện Trạng Quỳnh, mà tôi đã trình bày lại khá căn kẽ trong các BẢN TIN trước…Tôi nhớ giáo sư Hoàng Xuân Hãn hoặc giáo sư Trần Thanh Mại, một trong hai ông, đã kêu to lên rằng: “mồ cha không khóc đi khóc đám mối”. “Mồ cha” là Lưu Hương ký. “Đám mối” là Thơ truyền tụng… Vậy mà “đám mối” ấy, có trong tất cả các sách giáo khoa dạy sự trung thực văn hóa cho học trò ở mọi cấp học trong nước, chưa kể ở nước ngoài… Được biết có thời kỳ, chúng ta còn định làm hồ sơ để UNESCO công nhận Hồ Xuân Hương (nhân vật dân gian) là thi hào dân tộc như Hội đồng hòa bình thế giới đã từng công nhận thi hào dân tộc Nguyễn Du. Xuân Diệu đã có tập sách Ba thi hào dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Hãy chỉ nói hai vấn đề rất lớn và rất nhỡn tiền trong văn chương, chưa kể trong các loại khoa học đòi hỏi sự chính xác khác. Ví như nguyên nhân cuộc kh ở i nghĩa Mai Thúc Loan, sách giáo khoa s ử học, hàng vài chục năm, đã viết, do Mai Thúc Loan cùng nông dân Nghệ Tĩnh phải gánh vải cống sang Trung Hoa cho Dương Quý Phi ăn… Khi tra vào tiểu sử Dương Quý Phi thì Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm 713, năm ấy, bố mẹ Dương Quý Phi còn chưa lấy nhau. Năm 719, nghĩa là 6 năm sau, Dương Ngọc Hoàn mới sinh ra, năm 736 mới vào cung, năm 739 mới làm phi cho vua Đường Minh Hoàng và được gọi là Dương Quý Phi… Rồi em bé Đuốc sống Lê Văn Tám. Tôi đã có 7 năm dạy học (1962 – 1969) và 22 năm làm bí th ư chi đoàn và bí th ư đoàn (1962 – 1974), thường nêu cao tấm gương anh hùng hiếm có của anh. Nhưng chỉ một lần, đến thăm kho xăng ở Hà Khẩu, thị xã Hồng Gai, một kho xăng loại nhỏ, sau khi nghe thuyết trình về hệ thống cấu trúc, bảo ôn, và nguyên tắc bảo vệ của các kho xăng, tôi đã nghi ngờ chuyện Lê Văn Tám là bịa rồi… Biết bao trường học, con đường, công viên… hiện vẫn còn mang tên Lê Văn Tám… Gần đây, giáo sư Phan Huy Lê, một nhà sử học đầu ngành và là chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã công bố công khai trên báo chí ý kiến của giáo sư Trần Huy Liệu, trước khi mất, về việc ông, khi làm Bộ trưởng tuyên truyền, đã tạo ra hình tượng anh hùng này, chỉ để tuyên truyền trong kháng chiến chống Pháp, thì tôi tin ngay và càng thêm kính trọng hai vị giáo sư. Rồi cành đào Thăng Long mà vua Quang Trung gửi tặng Ngọc Hân công chúa đang ở Phú Xuân (Huế) là do một nhà viết chèo bịa ra, sau này được sử dụng trong nhiều cuốn sách như một tư liệu chính thức về mối tình cao đẹp của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Ấy là chưa kể “phát minh khoa học” lạ lùng: “ăn ngô bổ hơn ăn gạo” …vân vân và vân vân…

Tôi có hai câu thơ, xin các bạn cùng nghe:

Ngày vĩ đại, là ngày không nói dối

Và ngừng bắt chim, khi nó ấp con…

Nói vậy thôi, chứ “không nói dối” là một điều rất khó tránh và không ít trường hợp, ta dùng nó như một phương tiện hành xử. Vì những lời nói dối, dễ được nghe hơn những lời nói thật, nhất là với đàn bà, trẻ con và các cấp trên. Ví như tôi thường kể cho các cháu ngoại nghe về lòng tốt đến không thể nào có, của các bà tiên, ông bụt, trong các chuyện cổ, và đương nhiên là tôi vẫn biết đó là những điều bịa. Rồi nữa: mọi cố gắng đều tốt đẹp. Nhưng nếu cố gắng quá, thì ngay sự quá ấy, cũng biến mình thành một kẻ giả dối, mà mình có biết đâu…


TRỞ LẠI AN TẤT VIÊN

Phạm Thế Cường

An Tất Viên ở P.11, Q.Gò Vấp, TP.HCM trước là một trang viên nhỏ rộng 3.566m2 được nhà văn Hồ Biểu Chánh mua từ năm 1943 với giá 400 đồng bạc Đông Dương. Năm 1958, sau khi mất tại biệt thự Hồ Biểu Chánh (nay thuộc đường Hồ Biểu Chánh, quận Phú Nhuận) nhà văn được đưa về đây an táng theo nguyện vọng lúc sinh thời. Hai năm sau, năm 1960 con gái ông- bà Hồ Văn Vân Anh cũng chuyển hẳn về đây sinh sống để lo chăm sóc phần mộ cha. Năm 2004 được sự giúp đỡ của sở TT-VH Tp.HCM, tại đây đã xây dựng nhà lưu niệm Hồ Biểu Chánh.


Nhận lời mời của anh Lê Kỳ Lân, cháu ngoại nhà văn Hồ Biểu Chánh, tôi đến dự giỗ lần thứ 53 của Nhà văn. Năm nay đám giỗ không tổ chức trong An Tất Viên mà tại nhà riêng của anh Kỳ Lân, cách An Tất Viên khoảng 40m. Vì là giỗ năm lẻ nên các cháu nội ngoại ở xa, làm ăn sinh sống tại nước ngoài không về sum họp được như ba năm trước. Nhưng vẫn là dịp để con cháu, chắt nội ngoại trong nước được quây quần ôn lại sự nghiệp của Cụ. Anh Kỳ Lân nhắc các con, cháu, chắt không quên sự nghiệp lớn lao, đáng trân trọng của nhà văn Hồ Biểu Chánh, đồng thời luôn nhớ về người ông, người cố như một tấm gương đạo đức để suốt đời noi theo. 

Đám giỗ năm nay vắng bóng má Hồ Văn Vân Anh, người con gái thứ 4 của nhà văn. Năm ngoái má, người con cuối cùng còn sống của Hồ Biểu Chánh cũng theo cha và các anh chị em về nơi chín suối sau một cơn bạo bệnh.

 Tôi vào An Tất Viên kính cẩn viếng nhà văn Hồ Biểu Chánh, tôi vẫn như thấy hình ảnh má Vân Anh ngồi bên mộ cha mỗi sáng ngày nào. Ba năm trước nhân ngày giỗ thứ 50 của Hồ Biểu Chánh, tôi đã gặp má Vân Anh chính tại đây. Má lúc đó đã 93 tuổi ngồi trên ghế tựa nhỏ bên mộ cha như đang trò chuyện với người đã khuất. Tôi vẫn nhớ như in lời của má: “Tôi hạnh phúc hơn nhiều người, hàng ngày sau khi thức dậy tôi đều ra đây chuyện trò với ba tôi”. Có lẽ giờ này má đang thỏa sức nói chuyện với người cha kính yêu - nhà văn Hồ Biểu Chánh của mình.

Học tập cha, má Vân Anh cũng thường xuyên ghi chép nhật ký. Trong nhà lưu niệm Hồ Biểu Chánh, bên cạnh những di vật của người cha nhà văn, tôi bất ngờ gặp 18 cuốn nhật ký của má Vân Anh. Nhớ lại lời má trước đây “Tôi cũng học ba ghi nhật ký hàng ngày”.

Lật giở từng trang nhật ký bắt đầu viết từ đầu năm 1975 của má với những dòng chữ khỏe khoắn và đẹp, không ai nghĩ đó là chữ viết của bà cụ đã ngoài 80. Mỗi trang nhật ký đều đau đáu những kỷ niệm về người cha, về các cháu nội ngoại ở bên trời Tây. Những tâm sự hàng ngày bên mộ cha cũng được má ghi chép cẩn thận.

Thấy tôi xúc động trước những trang bản thảo của ông ngoại và nhật ký của má Vân Anh, anh Lê Kỳ Lân nay đã là một ông già ngoài 70 nói nhỏ:

- Tôi có một bản sao bức thư của ông ngoại, tôi về lấy cho anh Cường xem.

Đó là bức thư của Hồ Biểu Chánh gửi các con. Bức thư tràn đầy một tấm lòng người cha thể hiện một nhân cách văn hóa lớn. Từ trước tới này chúng ta mới chỉ biết về Hồ Biểu Chánh thông qua các tác phẩm của mình, nhà văn luôn đấu tranh bảo vệ phong tục tập quán gia đình, quê hương và đạo lý làm người, luôn bênh vực kể yếu hèn, nghèo khổ, chống lại sự áp bức của kẻ có chức có quyền trong xã hội. Nhưng bản thân cuộc đời Hồ Biểu Chánh cũng chính là tấm gương đạo đức không chỉ con cháu mà người đời cũng phải noi theo.


Nhà văn đã từng làm quận trưởng ở nhiều quận, huyện thuộc các tỉnh Nam Bộ dưới thời Pháp thuộc nên có nhiều cơ hội và điều kiện gần gũi người dân lao động, nông dân nghèo khổ bị nhiều tầng áp bức bóc lột vì cụ là một nhà Nho có Tây học, tuy là quan chức nhưng cụ sống thanh bạch, liêm chính quan tâm tới cuộc sống nghèo khổ (như lao động, tá điền), bị người giàu có, địa chủ cậy thế ỷ quyền hiếp đáp không như một số cán bộ của dân hiện nay.

Hãy đọc những dòng cụ viết cho con: “… Ba chỉ nói với con rằng sự nghiệp ba để lại cho các con hiện thời chỉ có một tấm gương thẳng ngay và trong sạch mà thôi. Ba ước mong các con noi theo tấm gương ấy mà lập thân. T heo con mắt của người đời nay… thì tấm gương ấy dường như mất giá. Nhưng nếu con ngó xa ra một chút, thì con sẽ thấy phú quí tuy rực rỡ mà ít bền vững, còn đạo đức tuy êm đềm song vui vẻ.”

Lời dạy con từ hơn 60 năm trước của Hồ Biểu Chánh đến nay vẫn còn nguyên giá trị và xứng đáng cho người đời nay noi theo.

Trở lại An Tất Viên lần này tuy vắng má Vân Anh nhưng tôi cũng mừng vì An Tất Viên đã có chị hai Dung và anh ba Lân hai người con đầu của má thay má gìn giữ hương khói và nền nếp gia phong của gia đình.



TỪ TU THIỀN ĐẾN TU PHẬT

(Tiếp theo)

CHƯƠNG 2

Về Quyển CHÂN THIỀN ZEN

của Thiền Sư Taisen Deshimaru.

Phái Tào Động do dòng THANH NGUYÊN HẠNH TƯ là một người đắc pháp với Tổ Huệ Năng. Theo đồ biểu của dịch giả Trúc Thiên thì ta thấy: Từ Ngài HẠNH TƯ Thanh Nguyên (năm 740) cho tới Ngài Tào Sơn là người lập ra Phái Tào Động (840-869) là cách nhau hàng trăm năm.

Lối dạy về Thiền của phái Tào Động cũng giống như bên Phái Lâm Tế: là cũng “Đả Thiền”, tức là dùng gậy hay “thẻ tre” đánh lên người đang Ngồi Thiền. Thẻ của Tào Động được giải thích: Trước hết là những lời giáo huấn được viết lên đó (tr. 107). Sau đó là những cú đập của thẻ Thiền là để kéo những người đang bị rơi vào trạng thái hôn trầm hoặc tán loạn trở lại, gọi là để duy trì cường độ chăm chú của người Ngồi Thiền.

Nhưng việc “Đả Thiền” của Phái Lâm Tế thì hoàn toàn khác. Thiền Sư Taisen kể: Năm ông 17 tuổi. Ngày nọ ông đến một tu viện Phái Lâm Tế, thăm Đại Sư A… (về sau ông này trở thành chưởng môn phái Lâm Tế). Ông được đại sư giới thiệu đến Thiền Viện Kamakura gần Tokyo. Nghỉ hè sau đó, ông đến Thiền Viện này.

Nhưng kỷ luật ở đó quá nghiêm khắc, 2 giờ sáng là phải thức dậy để tọa Thiền. Các vị Sư thì không ông nào nói năng đúng đắn, lại thêm một vị sư trẻ sử dụng gậy hết sức mạnh bạo, mà cây gậy thì to, dài, khác hẳng thẻ roi của thiền Tào Động. Ở đó muỗi lại nhiều vô số, khiến trong buổi tọa thiền ông ta phải động đậy để xua. Thế là cứ nhúc nhích thì vị sư lại giáng cho một gậy tá hỏa tam tinh. Đôi lúc ông ta lại ngủ gục, thế là có dịp cho sư nọ phang thẳng tay! Hai vai của ông ta rướm máu. Ông ta chán nản muốn bỏ đi, nhưng lỡ hứa ở lại l tuần nên đành chịu trận.

Vào một buổi sáng cuối tuần, khi vị sư (có lẽ cũng đang mớ ngủ) giáng cho ông ta một gậy, nhưng thay vì đánh vào vai lại trúng vô đầu. Thế là ông nổi nóng, đứng dậy, giật phắt cây gậy, quật cho vị sư kia tới tấp. Mọi người đang ngồi thiền nhôn nháo đứng cả dậy, vây quanh ông để khuyên can, nhưng ông vung gậy đánh tứ tán rồi chạy đi”.

Ông trở lại đạo thất của Đại Sư A… và nói là không thích Thiền, muốn bỏ đi. Vị đại sư còn đang ngạc nhiên thì lúc đó vị sư bị đánh cũng đến than van về vụ tai tiếng ông ta đã gây ra cho đạo tràng. Vị Đại Sư phá lên cười: “Đấy mới thật là Chân Thiền”.

Quả thật ta khó mà nghĩ ra ai mới là Chân Thiền? Người đánh hay người bị đánh! Và nếu cho rằng cứ ngồi cho muỗi đốt, rồi ăn gậy mà thành Phật thì ta chưa thấy chính Kinh nào nói đến!

Thiền Sư Deshimaru, là Tổ đương thời của phái Tào Động viết quyển CHÂN THIỀN ZEN. Trong quyển này ta lại thấy một số điều đáng lưu ý như sau:

I- Ông tự xưng mình là Tổ thứ 84 tính từ Đức Thích Ca (tr. 179) là sai, vì trong Đạo Phật chỉ được tính có 33 vị Tổ mà thôi. Trong PHÁP BẢO ĐÀN KINH có viết: Đến đời Lục Tổ Huệ Năng thì do những người tranh chấp Y Bát, sẵn sàng giết người có nó để chiếm đoạt để lên làm Tổ. Vì thế, Ngũ Tổ đã dặn Ngài phải dấu đi không truyền nữa”. Cho nên, dù Phái Tào Động xuất phát từ gốc là Hạnh Tư Thiền Sư là người đắc pháp với Lục Tổ. Nhưng Lục Tổ không hề truyền Y Bát cho Ngài Hạnh Tư được làm Tổ kế vị, vì thế các nhánh về sau không thể theo đó mà tính tiếp. Bởi Lục Tổ có rất nhiều đệ tử đắc pháp, phải riêng đâu Hạnh Tư Thiền Sư? Do đó, Đúng hơn là phái này nên xếp lại thứ tự của mình cho khớp với lịch sử. Chỉ được quyền xếp thứ tự của riêng Phái mình, tính từ người đặt cái tên Tào Động mà thôi. Gom chung với chư Tổ quá khứ để mọi người tưởng lầm phái của mình chính thức được Truyền Y Bát là sai. So với chánh pháp là Vọng Ngữ.

II.- THIỀN CỦA PHÁI TÀO ĐỘNG :

Đây là một trong NGŨ PHÁI THIỀN nổi tiếng một thời, chuyên Tu và dạy THIỀN.

THIỀN được Thiền Sư Taisen giải thích như sau: “Nếu có ai hỏi “Thiền là gì?”, tôi trả lời: “Thiền không gì khác hơn là ngồi yên”.

TỌA THIỀN của Phái Tào Động là:

* Tọa Thiền không mục đích, không vì cái gì cả.

*Nhờ Tọa thiền, các hoạt động của vỏ não, của chất xám êm lắng xuống, và trung não mới có thể vận hành, phát triển, cho phép đạt đến trí huệ vô hạn. Như vậy Tọa Thiền là chân lý tuyệt đối chứ không phải chân lý tương đối. thực hành tọa Thiền, đó là nhắm thẳng đến cõi Ngộ.

*Tọa Thiền là tĩnh lặng tuyệt đối, tĩnh lặng mọi tư tưởng, Tọa thiền là Vô Niệm. Tọa thiền là thực nghiệm Bồ Đề, Trí Huệ tối thượng (57).

* “Chân Thiền của Phật chính là tọa thiền. Vậy tọa thiền là gì? Đó là ngồi xếp bằng, thân thật ngay ngắn, tâm không suy nghĩ điều gì, dù là nghĩ về Phật hoặc về giác ngộ. Có thái độ này, tâm ta sẽ trùng khít với chân tâm của chư Phật. Không suy nghĩ đến sinh tử, đến nghiệp quả hoặc luân hồi” .

*“ Không làm gì hết, chỉ ngồi đó là Thiền. Ngồi tự nhiên là thực hành tuyệt đối. Như vậy, tư thế ngồi tự nhiên là con đường đưa đến thành Phật”.

So sánh với THIỀN của Đạo Phật ta thấy như sau:

Ai cũng biết Đức Thích Ca sau 6 năm tu học với Lục Sư ngoại đạo mà không thành công. Ngài đã quyết định trải tòa cỏ để ngồi tĩnh tọa dưới cội cây Bồ Đề. Sau 49 ngày đêm thì Ngài đắc đạo. Hành động tĩnh tọa sau này gọi là Thiền Định. Kinh sách thì không đề cập đến Đức Thích Ca đã làm gì trong 49 ngày Ngồi Thiền Định đó, nhưng dựa vào lời Ngài hân hoan tuyên bố ngay sau khi cho là Đắc Đạo “Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao nhiêu kiếp, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Hỡi kẻ làm nhà, từ đây ta đã gặp được ngươi rồi. Ngươi không được làm nhà nữa. Bao nhiêu cột kèo của ngươi đã gảy vụn, rui mè của ngươi cũng tan nát cả rồi. Trí Ta đã đạt đến Vô Thượng Niết Bàn, ta đã hoàn toàn giải thoát”... thì ta thấy rằng trong thời gian ngồi tĩnh lặng đó Ngài đã tập trung tư tưởng mà tư duy, tìm thủ phạm đã “làm nhà”, tức là đã xây nên ngôi nhà Sinh Tử, cái mà Ngài đã phải hy sinh, bỏ cả ngai vàng, vợ đẹp, con xinh để đi tìm cho bằng được. Cuối cùng, nhờ 49 ngày đêm Thiền Định đó Ngài mới tìm ra. Qua đó, ta thấy, Ngài đâu có ngồi đó, diệt hết tư tưởng mà có thể phát hiện ra điều mình cần khám phá?

Do Kinh sách không ghi lại rõ là Đức Thích Ca đã làm gì trong lúc NGỒI, nên những phái tu học về sau mạnh ai nấy giảng giải theo cách hiểu của mình. Phái Tào Động cho là: “Ngồi xếp bằng, thân thật ngay ngắn, tâm không suy nghĩ điều gì, dù là nghĩ về Phật hoặc về giác ngộ. Có thái độ này tâm ta sẽ trùng khít với chân tâm của chư Phật”.

Qua khẳng định này, ta thấy Thiền Sư Taisen chưa hiểu thế nào là Phật và cách thức tu hành để Thành Phật, cho nên cũng không thể nào hiểu được thế nào là Tâm của Chư Phật. Theo Ngài, “không suy nghĩ gì hết, bỏ cái tâm trống không thì đó là trùng khít với Tâm của Chư Phật”. Như thế, hóa ra cỏ cây gỗ đá không có tâm, không biết suy nghĩ thì đồng với chư Phật? Chư Phật không phải Vô Tâm. Các Ngài có đến TỨ VÔ LƯỢNG TÂM. Và Tâm của các Ngài thì thanh tịnh, đâu có phải là chỉ trống không? Và cái tâm ngổn ngang, đầy phiền não như ta, nếu chỉ bỏ trống không trong thời gian Ngồi Thiền, thì khi xả Thiền nó cũng trở lại phiền não, đâu thể rỗng rang được?

Theo Đạo Phật, trong Tâm của mỗi con người có hai trạng thái được gọi là PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ. Phiền não, xao động, nghĩ ác, thương, ghét, hơn, thua… thì đó là cái Tâm Chúng Sinh, hay là Phàm Tâm. Và cái gọi là Bổn thể Tâm hay cái Chân Tâm thì thanh tịnh, như như. Vì thế, người tu phải tìm cách “Điều phục” hay là “Diệt độ chúng sinh” hay là “chuyển hóa cái tâm” để nó từ trạng thái PHÀM trở về với trạng thái thanh tịnh, hay là THÁNH, gọi là tu hành. Đâu phải cứ NGỒI lặng im không suy nghĩ mà nó sẽ tự thánh hóa?

Với kiểu ngồi bất động, ta thấy Lục Tổ có Kệ:

“Lúc sống ngồi, chẳng nằm

Khi chết, nằm, chẳng ngồi

Gốc là cục thịt thúi

Làm chi vậy mệt ôi” !

Có nghĩa là cái Thân này do Tứ Đại hợp thành, chỉ là đống thịt hôi nhơ. Nếu lúc sống nó cứ ngồi trơ ra đó, gọi là ngồi hoài không nằm. Rồi khi chết đi thì nằm một đống, không ngồi được nữa, thì cả đời làm như vậy chỉ mệt thôi. Chẳng sinh ích lợi gì. Ý Ngài chê kiếu Ngồi Thiền mà Kinh Duy Ma Cật gọi là “ngồi sững ở đó”. Bây giờ Thiền Sư Taisen lài cũng dạy người tu: “không suy nghĩ gì hết, bỏ cái tâm trống không”, giống y như những gì mà Lục Tổ và Kinh đã chê trách!

Cách hướng dẫn Ngồi Thiền của Thiền Sư Taisen: “Tọa Thiền là tĩnh lặng tuyệt đối, tĩnh lặng mọi tư tưởng”, trong khi đó, Lục Tổ dạy:

“Có tình hiểu biết đương nhiên động

Không động là loài chẳng có tình

Học đạo nếu tu hạnh chẳng động

Giống loài chẳng động tức không tình

Muốn tìm cảnh thiệt tâm không động

Trong lúc động mà Tánh chẳng lay

Chẳng động, thiệt ròng tâm chẳng động

Không tình đâu có giống Như Lai”

Có nghĩa là con người là giống hữu tình đương nhiên là phải động. Nhưng làm sao để trong lúc động mà không ảnh hưởng đến cái Tánh, gọi là Động mà không Động. Do vậy mà phải tu học. Lời Lục Tổ dạy quá rõ: Nếu tu để trở thành không động như cây cỏ, là loài vô tình. Nếu thật sự không có tình thì chẳng phải là giống Như Lai.

Nơi khác trong Pháp bảo Đàn Kinh, Lục Tổ nói về những người dạy Thiền sai: “Chư thiện tri Thức, lại có người dạy ngồi xem cái tâm, quán tưởng Tâm, Cảnh vắng lặng, ngồi yên chẳng dậy, bảo theo đó mà lập công phu. Người mê chẳng hiểu, cố chấp làm theo rồi thành điên dại. Số người lầm như thế chẳng phải ít. Truyền dạy nhau như vậy thiệt là lầm to”! Trong khi đó, tất cả những phái Thiền, kể cả Phái Thiền Tào Động, cũng xưng Tổ Đạt Ma và Lục Tổ là “Tổ Sư Thiền”, nhưng lại không biết, không thấy lời cảnh báo này của hai vị Tổ Sư mình! Xem ra hình như các phải dạy TU THIỀN chỉ muốn mượn danh của hai Tổ như là một thứ nhãn mác để lừa người ngưỡng mộ hai vị, để họ vì tin các Ngài rồi theo họ để học mà thôi. Bởi những gì họ giảng dạy đâu có giống chút nào với lời của Hai Tổ?

Về Dứt hết tư tưởng, trong Pháp Bảo Đàn Kinh, có bài kệ:

Ngọa Luân tài rất hay

Dứt được cả tư tưởng

Đối cảnh lòng không động

Bồ Đề ngày vượn lớn”

Lục Tổ Huệ Năng thì :

Huệ Năng tài chẳng hay

Không dứt cả tư tưởng

Đối cảnh lòng động hoài

Bồ Đề đâu vượn lớn”

Tức là Ông Ngọa Luân nào đó, dứt được cả tư tưởng, đối cành lòng không động thì cho rằng mình rất hay, Bồ Đề ngày càng vượn lớn. Ngài Huệ Năng thì cho rằng Ngài chẳng có hay, chẳng dứt tư tưởng, đối cảnh lòng vẫn động và Bồ Đề không có vượn lớn”. Có nghĩa là người chẳng biết thế nào là tu hành thì dứt hết tư tưởng, đối cảnh không động, thấy rằng mình tu hành ngày càng cao. Ngược lại, Ngài Huệ Năng không dứt tư tưởng bởi vì Ngài lúc nào cũng Quán Sát, Tư Duy. Nếu dứt tư tưởng làm sao tư duy, để phân rõ đúng, sai, chân giả? Đối cảnh Ngài vẫn động, có nghĩa là thấy người đời còn mê lầm thì Ngài càng tìm cách để giảng giải cho họ thoát được cảnh mê. Có nghĩa là Ngài lúc nào cũng động, là làm công việc nối tiếp con đường “tát cạn vực nước mắt của chúng sinh đang đau khổ” của Chư Phật. Và người thật tâm tu hành thì không nhắm vào quả vị, vào cao, thấp, hơn, thua… nên đâu có thấy mình tu ngày càng cao mà cho là Bồ Đề vượn lớn?

Thiền Sư Taisen định nghĩa về GIÁC NGỘ như sau:

* Tọa Thiền chính là giác ngộ. Giác ngộ chỉ là tọa Thiền (44).

* Giác Ngộ không phải là một trạng huống đặc dị của tâm thức, đó không phải là cái chiếm hữu, nắm bắt. Giác Ngộ là một tâm trạng bình thường vốn có. Khi đã vào thế chỉ quán, chú ý hoàn toàn vào tâm hết vọng niệm thì đó là Giác Ngộ. (tr.77)

* Nếu lìa bỏ thân Tâm, quên đi bản ngã và đặt tất cả vào đại lực của Phật thì lúc đó không cần dụng tâm cũng có thể thoát vòng sinh tử, giác ngộ thành Phật.

Trước hết ta thấy Thiền Sư đã giải thích sai về Tọa Thiền và Giác Ngộ. Ngài cho rằng; “Tọa thiền là Giác Ngộ, Giác Ngộ là Tọa Thiền”, trong khi đó hai từ này nói về hai việc hoàn toàn khác nhau. Tọa Thiền nói về hành động của cái Thân, ngồi xếp bằng trong tư thế kiết già hay bán già. Còn Giác Ngộ là nói về tình trạng dứt hết mê lầm của cái Trí. Có thể nhờ Tọa Thiền, nhiếp niệm tư duy, gọi là Thiền Quán mà đưa đến kết quả là Giác Ngộ như Đức Thích Ca. Nhưng Tọa thiền dứt khoát không phải là Giác Ngộ. Bởi thực tế đã chứng minh: có biết bao nhiêu người Tọa Thiền, mà được bao nhiêu người Giác Ngộ?

Ngài cho rằng: “Nếu lìa bỏ thân tâm, quên đi bản ngã và đặt tất cả vào đại lực của Phật thì lúc đó không cần dụng tâm cũng có thể thoát vòng sinh tử, giác ngộ, thành Phật”. Đó là lời giải thích của người không hiểu ý nghĩa của từ Phật. Nếu Phật là Đức Thích Ca thì Ngài đã nhập diệt mấy ngàn năm rồi, ta biết đại lực Ngài là gì? Ở đâu? làm cách nào đặt tất cả vào đó? Thân tâm này làm sao lìa bỏ? Kinh Phật thì cho là “hàng phục rồi dùng lại”, Ngài bảo lìa bỏ, thì lìa cách nào? Trong chính Kinh dạy: VĂN-TƯ-TU, tức là nghe pháp xong rồi phải Tư Duy để hiểu cho rõ, cho chính xác, sau đó mới bắt tay vào hành trì. Đâu có nơi nào dạy đem Tâm của mình đặt vào đại lực của Phật để thành Phật?

Muốn “Đổ khuôn”, hay gọi là “đúc tượng” Phật, thìTổ Đạt Ma dạy: “Người cầu đạo giải thoát phải lấy thân mình làm lò, lấy Pháp làm lửa, lấy Trí Huệ làm tay thợ khéo, lấy Ba Giới tu tịnh, Sáu Ba La Mật làm khuôn phép, nấu chảy và rèn luyện chất chân như Phật Tánh ở trong Thân cho thấm nhập khắp tất cả các hình thức giới luật; y lời đó mà vâng làm, mỗi mỗi không hở sót, thì tự nhiên thành tựu hình tướng của chân dung”. Phải đâu chỉ cần NGỒI THIỀN là khỏi cần tu hành ? Hơn nữa. Kinh viết, Đức Thích Ca nhờ Ngồi Thiền mà Đắc Đạo, đâu có nói Ngài thành Phật nhờ Ngồi Thiền? Nếu chỉ cần Ngồi Thiền mà Thành Phật, khỏi cần tu hành, thì Kinh còn dạy làm các hạnh: Giới, Định, Huệ, Lục Độ, Bát Chánh Đạo, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Nhiếp vv… để làm chi?

Thiển Sư Taisen giải thích: “Giác Ngộ là một tâm trạng bình thường vốn có. Khi đã vào thế chỉ quán, chú ý hoàn toàn vào tâm hết vọng niệm thì đó là Giác Ngộ”. Giác Ngộ giải thích theo kinh là sự bừng tỉnh khi dứt hết mê lầm. Đó không phải là một tâm trạng bình thường, vì nếu binh thường thì lẽ ra mọi người đều đã giác ngộ, cần chi phải giữ Giới, phải Thiền Đinh, phải có Trí Huệ? Vào thế Chỉ Quán tức là chỉ mới dừng mọi vọng niệm để quán sát, tư duy. Đó mới chỉ là hành trình để tiến tới Giác Ngộ, chưa thể gọi đó là Giác Ngộ.

Nếu thiền Sư Suzuki ca ngợi “ngón tay của Câu Chi” hay việc đưa lên đưa xuống cây phất tử, cho đó là phương tiện “chỉ thẳng” của nhiều Thiền Sư, thì Thiền sư Taisen ca tụng Ngồi Thiền. Ông nói: “Chỉ trong mỗi việc đơn giản là ngồi yên cũng đã hàm tàng muôn vàn bí mật”. Ông nói : “Tọa Thiền là tĩnh lặng tuyệt đối, tĩnh lặng mọi tư tưởng. Tọa thiền là Vô Niệm. Tọa thiền là thực nghiệm Bồ Đề, Trí Huệ vô thương (tr.57).

Thiền Sư Taisen cũng hiểu lầm nghĩa của Vô Niệm. Lục Tổ dạy: “VÔ NIỆM là trong khi niệm lòng không động niệm”. Và “Chư Thiện Tri Thức. Đối với các cảnh mà tâm chẳng nhiễm gọi là Vô Niệm. Trong các niệm tưởng của mình, Tâm thường lìa cảnh, chẳng vì đối cảnh mà sanh tâm. Bằng đối với trăm việc tâm chẳng nghĩ đến, các niệm tưởng đều bỏ hết, và nếu một niệm dứt tuyệt thì chết liền và phải chịu đầu sanh chỗ khác. Ấy là một điều lầm to, người học đạo khá suy nghĩ lấy đó”. Như vậy ta thấy lời Tổ hoàn toàn khác với lời hướng dẫn của Thiền Sư Taisen.

Đối với Thiền Tào Động, “thực hành Tọa Thiền là giác ngộ” (tr.73).

Thiền Sư Taisen đã vật chât hóa cái Giác Ngộ và cho rằng vị trí nó là ở Trung Não. Ngài cho rằng: “chỉ cần Tọa Thiền, chất xám êm lắng xuống và trùng vào mới có thể vận hành, cho phép đạt đến trí huệ vô hạn…” Trí huệ thuộc về tư tưởng, đâu thể có vị trí hay màu xám như Ngài diển tả ? Ngài cũng không biết rằng trí huệ do Tư Duy mà có, chẳng phải do tư thế Ngồi Thiền. Bằng chứng là Lục Tổ, đâu có Ngồi Thiền ngày nào mà Trí Huệ vẫn sáng suốt nên được truyền Y Bát.


Phụ Bản II

Thiền Sư Taisen cho rằng: “Hiệu quả của Tọa Thiền đặt căn bản trên sự đứng đắn của tư thế. Tư thế sai lệch có thể nguy hiểm hoặc ít ra cũng vô hiệu”.

Nơi trang 66 thì Thiền Sư Taisen giải thích: “Tọa Thiền là thực hành việc trần tư chiêm nghiệm trong tư thế ngồi. Chính nhờ trầm tư trong tư thế tĩnh tọa mà đức Thích Ca đã chứng ngộ”.

Chính Ngài đã viết: chính nhờ trầm tư trong tư thế tĩnh tọa mà Đức Thích Ca đã giác ngộ”. Nhưng khi hướng dẫn Thiền thì lại dạy: “Tư thế cho đứng đắn, Ngồi để tâm trống không, không suy nghĩ gì hết”. Rõ ràng Ngài đã không làm giống như Đức Thích Ca đã làm, là trầm tư trong tư thế tĩnh tọa như chính câu Kinh Ngài đã trích. Chứng tỏ Ngài đã mâu thuẫn với chính lời mình nói. Và chỉ Tĩnh tọathiếu trầm tư thì làm sao giác ngộ?

THIỀN ĐỊNH được Kinh VIÊN GIÁC giải thích: “THIỀN ĐỊNH LÀ CHỈ QUÁN, VÀ CHỈ QUÁN SONG TU”. Ngồi yên lặng mới là CHỈ. Thiếu QUÁN. Do đó chưa thực hành đúng cách của THIỀN ĐỊNH.

Con đường Thành Phật theo chính Kinh dạy là phải “Thấy chúng sinh”, rồi phải “Điều Phục Chúng Sinh”. Phải “Độ tận chúng sinh” thì mới thành Phật. Cách hành Thiền của Thiền Sư Taisen lại bảo “Tu thế Ngồi tự nhiên là con đường đưa đến thành Phật”. Thậm chí nơi trang 115 Ngài còn dạy là: “Trong tọa Thiền, trong khi ăn, trong lúc ngủ.nếu chuyên tâm thì nghiệp chướng có thể tiêu trừ, có thể thành Phật…” là hoàn toàn không đúng với chính Kinh. Đã gọi là tu TỨC LÀ PHẢI SỬA. Trước đó phải biết tại sao cần SỬA. SỬA ở đâu? Sau đó bắt tay vào thực hành, thì mới gọi là Tu hành. Thiền Sư chưa biết THIỀN chỉ có công dụng là sinh Trí Huệ, tức là để mở ra cái Trí hiểu biết, vì thế Ngài cũng không biết cả việc phải TU như thế nào, chỉ một mực đề cao THIỀN, cho đó là tất cả!

Đạo Phật được gọi là Đạo để ĐỘ KHỔ hay là để “Trừ Phiền Não”. Muốn “trừ Phiền Não” thì phải biết nó ở đâu? Vì thế mà cần THIỀN ĐỊNH là để tập trung cả Thân lẫn Tâm để tư duy. Trong khi đó, Phái Tào Động dạy “cứ Ngồi, tâm để trống không, không suy nghĩ điều gì”. Chỉ Ngồi suông, thi xả Thiền có hiểu biết được gì thêm?

Trong Pháp Bảo Đàn Kinh Lục Tổ dạy: “Chư Thiện Tri Thức. Đạo phải là thông lưu, sao lại làm cho nó ngưng trệ? Tâm không trụ pháp thì Đạo thông lưu. Còn tâm trụ pháp ấy là mình trói lấy mình. Bằng nói rằng thường ngồi chẳng động thì cũng như Xá Lợi Phất ngồi im lặng trong rừng mà bị Duy Ma Cật quở vậy”.

Dù các phái Thiền đều là đệ tử truyền đời của LỤC TỔ HUỆ NĂNG, nhưng cách hiểu, cách hành về Thiền đã khác hẳn với những gì Ngài truyền dạy được ghi lại trong PHÁP BẢO ĐÀN KINH. Theo Kinh Lăng Nghiêm, tu hành quyết định phải đủ 3 điều: Thứ nhất, Dùng Giới Luật nhiếp phục tự tâm. Thứ 2, Nhơn Giới Tâm mới sinh Định. Thứ 3, Nhân Định, Tâm Phát Huệ”. thì Với Thiền Sư Taisen thì “chỉ cần Ngồi Thiền”. Nhưng Ngồi Thiền của phái Tào Động do Ngài hướng dẫn cũng không giống như bên Phật Đạo. Do đó, không thể tự xưng rằng Phái Thiền của mình là CHÂN THIỀN được.

Trong Pháp bảo Đàn Kinh, Lục Tổ dạy: “Nếu chẳng biết cái ý chỉ của pháp, tự mình lầm con khá, sợ e lại khuyên dạy người khác”. Nhưng hình như các Thiền Sư không hề đọc chính Kinh, cũng không đọc tích “Con chồn Hoang” của Bách Trượng, nói về một giảng sư chỉ hạ sai một chuyển ngữ mà phải đọa làm chồn 500 kiếp. Do đó các Ngài không hề biết gì để sợ.

Phật dạy: “Ly Kinh nhất tự đồng ma thuyêt”, nhưng đa phần sách của các Thiền Sư viết thì chẳng có chút gì liên quan tới chính Kinh, thậm chí như Ngài Suzuki còn đề nghị “tướt bỏ” Kinh đi! Vì thế, những người muốn tu học thời nay cần rất thận trọng, bởi nếu không đọc Chính Kinh làm sao ta biết được rằng việc Truyền Y bát đã kết thúc từ thời Lục Tổ Huệ Năng? Thiếu hiểu biết về lịch sử của Đạo cho nên thấy Thiền Sư Taisen là người của dòng Tào Động, xuất phát từ gốc của đệ tử Lục Tổ thì cho đó là dòng Chánh Pháp, cứ theo đó mà tin. Có mở Kinh ra để kiểm chứng thì ta mới biết Thiền Sư Taisen đã nói ngược lại với những gì chư Tổ dạy.

Đa phần chúng ta vào Đạo do Tin người đi trước. Nói về niềm tin thì Đức Phật có dặn dò: “Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy ta đã nghe thấy có người nói một lần rồi. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được truyền lại từ xưa. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy được truyền từ phương xa tới. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vi điều ấy được viết ra từ trong Kinh sách. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì chính ta suy diễn và nói ra như thế. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến của ta. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì tính cách có thể chấp nhận của các điều ấy. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì sự kính trọng của ta đối với người đã nói ra điều ấy.

Nhưng tự các con, các con đã hiểu rõ ràng có một điều gì đó đúng với đạo lý, không bị chê trách, được các bậc thiện tri thức thiện tâm tán đồng và có thể mang lại hạnh phúc an vui. Các con phải thực hành điều đó”. Phật đã dặn dò kỹ như thế, nhưng nếu ta không đọc Chính Kinh làm sao biết để thực hành theo?

Trong Đạo Phật, người Thầy rất là quan trọng. Dù ta có thành tâm đến mấy, nhưng quả vị của ta sẽ tùy thuộc vào trình độ của người hướng dẫn. Kinh VIÊN GIÁC dạy: “Này Thiện Nam! Có loại chúng sanh có thể chứng được VIÊN GIÁC. Song, nếu chúng gặp Thiện Tri Thức là Thinh Văn hóa độ, thì chúng thành Tiểu Thừa. Còn gặp Thiện Tri Thức ,là Bồ Tát hóa độ thì chúng thành Đại Thừa. Nếu gặp Như Lai dạy tu đạo Vô Thượng Bồ Đề, thì chứng thành Phật Thừa”. Đó là nếu may mắn gặp những người Thầy chân chính. Dù họ chưa tu hành đến nơi đến chốn cũng không đến nỗi làm hư mất tâm Bồ Đề của người học. Nguy hiểm hơn hết là gặp phải tà sư: “Có những chúng sanh đi tầm Thiện Tri thức chỉ dạy đường lối tu hành, nhưng lại gặp ngoại đạo tà sư dạy bảo nên chúng nó sanh ra tà kiến, hiểu ngộ không chơn chánh. Đây không phải là lỗi tại chúng sanh đó, mà lỗi tại tà sư”.(V.G.)

Dù là lỗi tại tà sư, nhưng người lãnh hậu quả, chịu thiệt thòi lại là người nghe pháp! Nhưng người mới phát tâm tu hành làm sao phân biệt ai là tà sư, ai mới là người giảng dạy đúng chánh pháp, vì pháp sư nào xem ra cũng tu lâu năm, giảng pháp thao thao, uy tín lừng lẫy, được đông đảo người tin nhận? May quá, cũng không phải là hết cách, bởi thời này Kinh sách đã được các vị tu hành đi trước dịch ra tiếng Việt, tái bản liên tục, không sợ thiếu... Lời Phật từ cách đây mấy ngàn năm vẫn còn nguyên giá trị, tại sao ta không mở ra để tự đọc, tự hiểu? Có người cho rằng không nên đọc Kinh, vì “Kinh cao lắm, để các vị tu hành đọc, ta cứ sống thiện, ăn hiền ở lành là được rồi”! Họ không biết Phật dạy: “Giác Ngộ không cần tuần tự. Ly huyển không cần phương tiện”. Tức là không cần phải lần lượt theo thứ tự, từ thấp lên cao, mà mọi người đều có thể dùng phương tiện “Đốn Giáo” của Đạo Phật là “Trực chỉ Chân tâm” rồi tu ở đó. Tổ Đạt Ma đã dạy: “TỨC TÂM TỨC PHẬT”, “MUỐN TÌM PHẬT THÀ TÌM TÂM”. Như vậy tại sao cứ loanh quanh làm những việc khác, tìm thứ chi khác, cho phí thời giờ vốn hữu hạn của chúng ta ?

Không có Kinh cao, thấp, chỉ có Kinh liễu nghĩa và Kinh Bất liễu nghĩa đòi hỏi người đọc phải có một trình độ tu hành nhất định. Phật đã dặn dò: “Y Kinh liễu Nghĩa, bất Y Kinh vị liễu nghĩa”, vậy tại sao ta không chon Kinh liễu nghĩa mà đọc rồi thực hành theo đó? Và phải chăng, thà tự mình đọc, rồi hiểu nhầm, tu nhầm rồi tự chịu hậu quả lấy, còn hơn là để người khác đọc Kinh rồi giảng lại cho nghe, để rồi đôi khi họ cũng chỉ Y theo văn tự mà giải nghĩa, rơi đúng vào lời cảnh báo là: ”Y Kinh giải nghĩa tam thế Phật oan”?! Hoặc họ cũng chẳng cần đọc Kinh, tự sáng tác ra đường lối tu hành nào đó, thầy trò xưng tán nhau, rồi cứ thế truyền lần xuống, như trường hợp giảng dạy của các Thiền Sư vừa trích ở các phần trước, thì ta nghĩ sao? Bỏ bao nhiêu thì giờ, công sức để tu hành mà kết quả lại trở thành “báng Phật, nhạo Pháp”! Đời người lại qua mau. khi biết được thì đã muộn. Lúc đó ai sẽ đền cho ta?

Tâm Nguyện (còn tiếp)

SỨC MẠNH

DÂN TỘC VIỆT NAM

Khí thiêng sông núi ảnh hưởng tới con người, tạo nên sức mạnh của con người. Đất nước Việt Nam nằm bên bờ biển Thái Bình Dương, dọc theo dãy Trường Sơn, có núi cao, sông rộng với biển cả mênh mông. Non nước này, núi hùng vĩ, biển bao la, tất nhiên phải là địa bàn cư trú của một dân tộc oai hùng, và chúng ta có thể kiêu hãnh tự hào chúng ta là dân tộc đó.

Thực vậy, dân tộc Việt Nam là một dân tộc mạnh đã từng bao nhiêu phen chống lại bạo lực muốn xâm lấn đất nước. Tổ tiên chúng ta với những phương tiện thô sơ đã đắp thành, đào hào, gìn giữ đất nước. Thành cao, hào sâu chỉ giữ vững được với sức mạnh của con người, với ý chí quyết thắng. Thành nào vững bằng Vạn Lý Trường Thành, vậy mà nhà Minh Trung Hoa đã thua, và quân Mãn Thanh đã vượt thành lũy để cai trị cả nước Tàu.

Cũng đám quân Mãn Thanh kiêu hùng ấy, khi chúng sang Việt Nam theo sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà, chúng đã bị quân Việt Nam ta, dưới quyền lãnh đạo của vua Quang Trung đánh cho tan nát tơi bời ở trận Đống Đa vào ngày mồng năm tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789).

Hai mươi vạn quân Thanh, bị quân ta tiêu diệt thây chất thành núi, máu chảy thành sông.

Hình ảnh vua Quang Trung đã ghi vào tâm khảm người Việt Nam. Giới bình dân không biết mặt Ngài, theo chiến công oanh liệt hiển hách oai hùng của Ngài, tưởng tượng ra hình dáng một vị tướng quân dũng mãnh, đã họa hình Ngài theo sự tưởng tượng đó, cưỡi ngựa cầm ngọn giáo oai nghiêm trong một bức tranh Tết thời bình.

Dán bức tranh trên tường trong ngày Tết, giới bình dân đã thán phục Ngài, và cũng nhắc nhở để con cháu hiểu về Ngài, hiểu về sức mạnh của dân tộc qua những người áo vải, qua những nông dân, thời bình thì lo làm ăn cày cấy, nhưng thời loạn lại nhất tề xông ra cứu nước. Sức mạnh dân tộc Việt Nam tiềm tàng trong mọi người, và chính sức mạnh này đã giúp dân ta quật khởi khi bị quân giặc uy hiếp.

Trước vua Quang Trung, vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn cũng chỉ là một nông dân uất hận về giặc Minh dày xéo non sông đất nước đã khởi nghĩa ở Lam Sơn tự xưng là Bình Định Vương để đánh đuổi quân giặc.

Sau mười năm gian khổ, giặc mạnh ta yếu, những tưởng giặc đè bẹp nổi quân ta, nhưng giặc đã thua:

Nực cười châu chấu đá xe

Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng

Sức mạnh của dân tộc không ở nước rộng, quân nhiều mà ở tinh thần muốn mạnh. Nước Tàu rộng, dân Tàu đông, giặc Minh tàn ác, không những chỉ muốn chiếm đất nước ta mà chúng còn muốn đồng hóa dân ta. Nước ta nhỏ, dân ta không nhiều, nhưng trước thế giặc lớn chúng ta đã tự tạo sức mạnh muôn người như một, theo Bình Định Vương quyết tâm đuổi giặc. Sau mấy năm khởi nghĩa trận Tụy Đông, nghĩa quân đã đại thắng Vương Thông, trận Chi Lăng đã giết chết Liễu Thăng và năm 1428 quân Minh đã đại bại.

Thắng quân Minh, Bình Định Vương đã tha không giết chúng, câu nói nhân từ lịch sử còn ghi tới ngày nay: “Phục thù báo oán là cái thường tình của con người, nhưng cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ”.

Giặc Minh tan, bài Bình Ngô Đại Cáo báo cáo cho dân chúng biết công việc diệt giặc đã xong.

Bình Ngô Đại Cáo do cụ Nguyễn Trãi thảo ra là một áng văn giá trị đời Lê, lời lẽ mạnh mẽ và đanh thép mà dưới đây là mấy câu đầu :

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên: Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.

Bài Bình Ngô Đại Cáo còn dài, chúng tôi chỉ xin nêu mấy câu để thấy cái hùng mạnh trong văn khí Việt Nam, nó tiêu biểu cho cái sức mạnh tiềm tàng của dân tộc.

Có cứng mới đứng đầu gió, dân tộc ta có mạnh mới chống cự được giặc phương Bắc, đuổi được giặc phương Tây, oai hùng trên đường Nam tiến xây dựng giang sơn gấm vóc ngày nay. Bổn phận của con cháu phải ra công gìn giữ.

Nhìn một lão ông Việt Nam với chòm râu bạc trông thật hiền, nhưng bên trong cái hiền từ, qua đôi con mắt, là cả sự quắc thước của tuổi già. Hoàn cảnh đến, ông già này có thể sẽ là một Bá Lý Hề đời Xuân Thu, ngoài sáu mươi tuổi mới làm tướng cầm quân dẹp giặc, hoặc có thể sẽ là một Khương Tử Nha hội họp 800 trấn chư hầu ở bến Mạnh Tần để trừ bạo trụ.

Dân tộc Việt Nam đã từng có những người trẻ như Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản “phá cường địch báo hoàng ân”, với tuổi nhỏ cầm quân đánh tan giặc mạnh. Đấy là sức mạnh của tuổi trẻ cương cường, đấy là sức mạnh của dân Việt Nam bất khuất. Sức mạnh này tiềm tàng trong thời bình, đã luôn luôn biểu lộ mạnh mẽ những khi tổ quốc lâm nguy.

Những trang hào kiệt cứu nước, tượng trưng cho sức mạnh của dân tộc, thường xuất thân từ mọi giới, nhưng một số lớn từ giới bình dân. Vua Đinh Tiên Hoàng chỉ là một trẻ chăn trâu khi nhỏ tuổi, vậy mà sau này đã dẹp loạn thập nhị sứ quân, thống nhất giang sơn lập nên nhà Đinh tuy ngắn ngủi nhưng danh tiếng lưu muôn đời.

Vào thế kỷ thứ X, đất nước chúng ta đã từng bị phân chia làm 12 mảnh, mà sự thống nhất cũng đã được thực hiện dễ dàng nhờ ý chí của dân tộc. Dân ta muốn thống nhất đất nước ai mà chia rẽ nổi, lịch sử đã nhiều lần chứng minh với thời đại Nam Bắc Triều Lê, Mạc, với thời đại Trịnh Nguyễn phân tranh, nhưng sau cùng nước Việt Nam bao giờ cũng là nước Việt Nam duy nhất, bất khả phân.

Có lúc đất nước tuy qua phân, nhưng ý chí của dân tộc là thống nhất, với sức mạnh tiềm tàng trong mọi tầng lớp dân chúng, nhất định không ai ngăn cản được sự thống nhất của Việt Nam. Bao nhiêu anh hùng đã quên mình vì nước, và chúng ta đã từng thắng những quân địch mạnh hơn với khí giới tối tân như ông Nguyễn Trung Trực đã thắng quân Pháp ở Nhật Tảo.

Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa

Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần

Lửa hồng Nhật Tảo lừng trời đất

Gươm bạc Kiên Giang khóc quỷ thần

Hai câu thơ trên trích trong một bài thơ của cụ Huỳnh Mẫn Đạt nhắc lại công trạng của cụ Nguyễn Trung Trực.

Cụ Nguyễn Trung Trực đã bị giặc Pháp giết, nhưng dân chúng Việt Nam còn nhớ ơn cụ. Tại Kiên Giang dân chúng lập đền thờ cụ tại các xã Vĩnh Thanh Vân và Vĩnh Hòa Hiệp.

Cái chết của cụ đã kích thích cho lòng dân thêm hăng hái căm thù quân Pháp và tạo sức mạnh cho dân ta trong những cuộc nổi dậy chống quân thù.

Mỗi khi chúng ta đi qua một ngôi đền thờ cúng một vị anh hùng dân tộc, như đền Quận công Tống Phước Hòa tại Sa Đéc, chúng ta phải nhớ đây là một sự tỏ lòng thành kính đối với những vị có công với quốc gia. Sự tôn kính này chính là một hình thức biểu lộ sức mạnh của dân tộc. Chúng ta thờ kính các vị anh hùng, chúng ta muốn noi gương các người để bảo vệ non sông.

Nước mạnh nêu mỗi người dân cùng chung một ý chí. Trong cơn hoạn nạn, mọi người chúng ta đều muốn vùng đứng lên, noi gương các ông Ngô Quyền giết quân Nam Hán, Lý Thường Kiệt ngăn quân Triệu Tiết, Quách Quỳ, Hưng Đạo Vương ba lần dẹp tan quân Nguyên.

Các anh hùng đất nước đều được dân ta tôn sùng, như Tả quân Lê Văn Duyệt, người có công lớn với miền Nam, với tổ quốc, ngày nay đền thờ luôn luôn khói hương nghi ngút ở xã Bình Hòa, Gia Định. Không những chỉ trong ngày tuẫn tiết dân chúng tới lễ bái mà cả trong thường nhật, người đến dâng hương cúng rất đông đảo.

Sức mạnh của dân tộc biểu hiện qua sự sùng kính anh hùng, sức mạnh còn biểu lộ dưới nhiều hình thức khác.

Sức mạnh này sẵn có ngay từ khí thiêng sông núi, con người chịu ảnh hưởng đất trời, trải qua những cuộc hưng vong đã được hun đúc để càng kiêu hùng dũng mãnh hơn.

Nói về sức mạnh không chỉ nói riêng về quân sự, chính trị mà phải kể cả về mặt xã hội, kinh tế v.v…

Những cuộc giải trí trong các hội hè đình đám, nhắc lại những sự nghiệp oai hùng của tổ tiên cũng là một hình thức biểu hiện sức mạnh của quá khứ. Xem đám diễn trận của Đinh Bộ Lĩnh với kiếm trần, với cờ lau nhắc lại cả một quá khứ oanh liệt của dân ta. Bức tranh vẽ cuộc diễn trận nhìn như vô lý vì khi vua Đinh đã lên ngôi cửu ngũ thì đâu còn dùng cờ lau.

Đúng là như vậy, nhưng nghệ thuật Việt Nam có tính cách tượng trưng, những cờ lau cốt để nhắc lại cả thời kỳ chăn trâu, nhà vua cùng lũ mục đồng cờ lau tập trận, vì vậy nên bên những kiếm trần với tàn lọng, những ngọn cờ lau thường được nổi bật lên giữa đám rước huy hoàng, hàng năm được tổ chức ở Hoa Lư vào ngày 15 tháng 2 âm lịch…

Trong ngày hội Hoa Lư, các em bé trong lúc diễn trận thường cùng nhau ca vang những câu hát lúc thiếu thời vua Đinh hát cùng chúng bạn mục đồng:

Cỏ cây ấy nuớc non này

Nước non quanh quất có cây xanh rì

Rừng hoang cỏ rậm để chi

Phen này ta quyết dọn đi cho rồi

Này này chúng bạn ta ơi!

Vua Đinh Tiên Hoàng ngày nay là hình ảnh của một vị lãnh đạo thống nhất giang sơn. Trong dân chúng còn truyền tụng rất nhiều câu ca dao nhắc tới sự nghiệp nhà vua, nhắc tới ngày hội, và khuyên nhủ mọi người, ai là con cháu Rồng Tiên không đuợc quên ngày hội Trường Yên, tức là hội Hoa Lư phải nhớ ngày hội để nhớ võ công oanh liệt của vua Đinh diệt Thập nhị sứ quân:

Ai là con cháu Rồng Tiên

Tháng hai nhớ hội Trường Yên thì về

Về thăm đất cũ Đinh, Lê

Non xanh nước biếc bốn bề như xưa

Đất cũ Đinh, Lê là nơi hai triều đại Đinh, Lê đóng đô, tức là đất Hoa Lư với đền vua Đinh và đền vua Lê Đại Hành.

Bên những hội hè đình đám kỷ niệm các vị anh hùng của đất nước, sức mạnh của dân tộc còn được biểu lộ qua nếp sống hàng ngày của người dân Việt Nam. Có mạnh chúng ta mới chế ngự được non cao biển cả, mới biến được đất hoang thành đất phì nhiêu. Hình ảnh những nông phu cày bừa ruộng đất là một hình ảnh khỏe của dân tộc, nói lên sức mạnh bất diệt của giống nòi.

Đây là những hình ảnh nói lên sức mạnh và nhựa sống dồi dào của dân tộc Việt Nam. Vợ chồng người nông dân chân lấm tay bùn, cày sâu cuốc bẫm đã thu hoạch được kết quả là bó lúa nặng trĩu trên tay người vợ. Hình ảnh này không phải chỉ là biểu tượng riêng cho sức mạnh vật chất, hình ảnh này còn nói lên cả cái sức mạnh tinh thần của dân tộc.

Sức mạnh tinh thần này đã giúp người nông dân Việt Nam bền gan vững chí, hai sương một nắng cấy cày làm mùa để tăng sản lượng quốc gia, làm quốc gia mạnh về đường kinh tế.

Tục ngữ ta có câu: Mạnh vì gạo, bạo vì tiền. Chúng ta cứ có một nền kinh tế phong phú, dân chúng ta có đủ gạo ăn và thừa gạo xuất cảng đi, mọi người sẽ no ấm. Kinh tế chúng ta mạnh! Việc sản xuất điều hòa, người nông dân không hề quản ngại vất vả. Nhìn người phụ nữ Việt Nam đi cấy, cấy lúa dưới nắng cháy, ruộng lại ngập nước quá con khoai, chúng ta phải thán phục và biết ơn, vì chính những người phụ nữ này đã làm cho đất nước chúng ta giàu mạnh.

Rủ nhau đi cấy đi cày

Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu

Trên đồng cạn dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa

Và cũng chính một số lớn phụ nữ Việt Nam khác đã tham dự vào những công tác khai thác các ngành khác, làm tăng sự phồn thịnh cho nền kinh tế quốc gia, nghĩa là tạo thêm sức mạnh cho dân tộc. Thấy một đoàn phụ nữ đi chợ, bắt gặp một vài phụ nữ đang làm vườn cuốc đất, chúng ta đừng coi thường, với công việc họ làm, họ đang góp phần vào sinh hoạt và phát triển quốc gia.

Chúng ta lại từng bắt gặp từng đoàn phụ nữ lao động đang nỗ lực trong những công việc khai thác hoặc xây cất, hoặc gánh vác chuyên chở. Chính những công việc tầm thường này đã làm cho dân tộc chúng ta thêm mạnh. Mỗi người phải ý thức sự đóng góp của mình và của người khác vào cộng đồng quốc gia qua những việc làm nhiều khi rất khiêm tốn.

Dân tộc chúng ta cũng lại mạnh về những hoàn cảnh địa lý thiên nhiên. Dãy Trường Sơn đã là một bức thành tạo hóa đã dành cho chúng ta để ngăn mọi sự xâm lăng từ phía Tây lại. Với núi cao rừng rậm, lại thêm sự quyết tâm bảo vệ biên cương, trải qua lịch triều, không bao giờ có quân ngoại xâm vượt dãy núi Trường Sơn vào phá rối nước ta.

Đối lại với dãy Trường Sơn là biển Đông, và đây cũng là biên giới thiên nhiên của đất nước. Biển lớn đã giúp ta ngăn giặc ngoài, và chúng ta cũng đã từng thắng những trân hải chiến đáng kể.

Biển Đông giúp chúng ta ngăn giặc ngoài, nhưng biển cũng chính là nguồn lợi to lớn về kinh tế của dân ta. Chúng ta đã chinh phục và khai thác biển cả để đánh cá, câu tôm. Những cánh tay rắn chắc của dân chài chính là sức mạnh của dân tộc để thu về bạc bể.

Những con thuyền ra khơi, chống sóng lớn, đè gió cả, để trở về với những khoang thuyền đầy tôm cá, đấy chính là những chiến thắng của chúng ta vậy.

Sức mạnh của dân tộc Việt Nam tiềm tàng trong nếp sống hiền hòa của mọi giới. Ngư phủ hàng ngày ra khơi đánh cá, nông dân ngày ngày chăm lo công việc đồng áng, thợ thuyền chiều sớm mải mê với nghề nghiệp, những người đó họ có ngờ đâu chính họ là sức mạnh của đất nước, chính công việc của họ đã điều hòa nếp sống của dân tộc, chính nhờ có họ mà quốc gia bền vững.

Có những người dân hàng ngày cọ xát với sự nguy hiểm, nhưng họ vẫn bình tĩnh để thắng, thắng mọi gian lao cũng như thắng tất cả mọi sự đe dọa, của con người cũng như của thiên nhiên. Người lên rừng đốn củi phải đề phòng tai họa rắn rết, cọp báo, người đi biển phái lo đối phó với gió bão bất thần, người công nhân phải ngăn ngừa những thảm họa lao động. Tất cả trong mọi trường hợp sự bình tĩnh và kiên trì là sức mạnh của dân ta.

Có kiên trì chúng ta mới lấy ra ở thiên nhiên những nguồn lợi vật chất. Không có kiên trì làm sao có kết quả này. Kiên trì là một sức mạnh giúp con người không nản lòng trước thất bại và hăng hái trước mọi sự thành công.

TOAN ÁNH


Chữ “NGỜ”

Nắng thu vàng thế gian

Còn lòng người đen tối

Miệng thơn thớt nói cười

Mà tâm hồn giả dối.


Đi tận cùng đau khổ

Để đứng dây vươn lên

Chưa có trải nghiệm trên

Sao biết được hạnh phúc


Cô gái quê ngày xưa

Giờ đã là bà chủ

Kẻ làm thuê ngày xưa

Nay đã thành tỷ phú


Tên “ác ôn” ngày xưa

Họ tưng bừng đón rước

Khi có tiền mang về

Thành kiều bào yêu nước


Có kẻ luôn vỗ ngực

Là chính nhân quân tử

Hèn hạ vô tích sự

Toàn làm việc tiều nhân


Có ai ngờ ngày xưa

Cái đinh ninh là đúng

Bừng tỉnh và tĩnh tâm

Thấy nghiêm trọng sai lầm


Thế cuộc sẽ đổi thay

Con người cũng thay đổi

Có chữ “Ngờ” ai hay

Đang diễn ra từng ngày


                                 LÊ MINH CHỬ


Bâng khuâng nỗi nhớ


Bình minh – nhặt nắng ướp trang thơ

Cho trái tim xanh bớt hững hờ

Từ dạo biển tình khô ước hẹn

Lời thề nguyền cũ chợt vu vơ


Trót ném tuổi xuân vào nghịch cảnh

Nửa đời sực tỉnh – lệ rưng rưng

Vầng trăng kỷ niệm thành cô quạnh

Lẻ bóng đăm chiêu ở cuối rừng


Bước chân phiêu bạt khắp ngàn phương

Chạnh muốn về thăm lại cố hương

Bến nước con đò như vẫy gọi

Mẹ già một nắng với hai sương


Xa vắng tri âm thiếu nụ cười

Làm sao tìm lại tuổi đôi mươi

Chồn chân mỏi gối – lòng cay đắng

Hoang phí tương lai – một kiếp người


Gió mưa cuồng loạn phai màu mắt

Lạc lối nẻo về hun hút xa

Nhung nhớ tiếc thương tim héo hắt

Mộng đoàn viên trổi khúc sầu ca


NGÀN PHƯƠNG

Chờ anh

Em chờ anh trong nắng đẹp bình minh

Náo nức lòng chen một chút rối tinh

Hoa cỏ đang cười, đời đang rộng mở

Vụt tiêu điều bởi thiếu bóng hình anh


Em chờ anh trong bóng nhạt hoàng hôn

Đếm bước thời gian, xốn xang, bồn chồn

Chiều tím, nỗi cô đơn thêm héo hắt

Chẳng thấy anh lòng khắc khoải buồn hơn


Em chờ anh trong mưa đêm lạnh buốt

Đường phố trầm mình, xóa sạch bụi thời gian

Linh hồn em ướt sũng, lệ hòa chan

Ôi! Tất cả đã trở thành băng giá


Anh ở đâu? Hỡi người anh yêu dấu

Nơi đồng bằng hay núi thẳm rừng sâu

Bụi phong sương thắm đượm sắc dãi dầu

Có biết chăng em mỏi mòn trông đợi


Em vẫn chờ anh… sao anh không đến

Có lẽ nào lời hò hẹn dở dang?

Có lẽ nào mộng đẹp đã lỡ làng?

Đợi chờ anh, em trở thành hóa đá

Hãy về đi, người đàn ông kỳ lạ.

                                        XUÂN VÂN



LÒNG QUÊ THEO MỘT BƯỚC ĐƯỜNG MỘT ĐAU(1)


1. Thao thức suốt đêm dài không ngủ

Nhớ thương ai trận lũ vừa qua

Thương người mất của bỏ nhà

Chôn con lìa vợ thật là thê lương


2. Thương cụ già mồm nhai mì gói

Chìm nửa người môi tái tay run

Nhà nhà khốn khổ tận cùng

Sống trên sóng nước lạnh lùng đêm thâu


3. Quê miền Trung đất nhường sỏi đá

Biển miền Trung lấn cả hoa màu

Mỗi năm bảo phủ lên đầu

Mưa tuôn như thác dìm sâu xóm làng


4. Nhớ năm cũ lệ tràn đôi mắt

Xót đau chung như cắt ruột da?

Họa đâu tội báo oan gia

Chôn chồng dưới nước, tre già cột thây


5. Buồn đau đáu bờ mi ươn ướt

Rồi hôm nay lại chực trào ra

Miền Nam dải đất phù sa

Cửu Long chín khúc bao la Tháp Mười


6. Lúa chớm chín ôm vàng hạt ngọc

Lá thay màu trải dọc bờ kênh

Nông dân vui với ruộng mình

Ráng chiều sắc lúa trông in một màu


7. Bóng đêm xuống gió may lành lạnh

Tối om om vẳng tiếng kêu la

Lũ về phá vỡ đê ta

Phên trôi mái tốc, cửa nhà ngập sâu


8. Nhìn thấy cháu bé xinh tròn tuổi

Người thân đang vác vội trên vai

Vụng về cứu trẻ xuôi tay

Phản kia cháu đã giấc dài ngủ yên


9. Chiếc xuồng nhỏ mẹ con giăng lưới

Giòng xoáy sâu Đồng Tháp hiểm nguy

Đang rình thần chết cướp đi

Mẹ chìm đáy nước, con ghì được cây


10. Gió mùa Thu mẹ ru con ngủ

Năm canh chầy…

Năm canh chầy thức đủ tròn năm(2)

Nam Quan cho đến Đồng Nai

Lời ru vẳng vẳng trải dài mặt sông


                                            HẢI ĐĂNG

                                            TRẦN VĂN HỮU

Trích yếu : (1) “Lòng quê theo một bước đường một đau”
của cụ Nguyễn Du.

(2) trích câu ca dao.


SINH VIÊN ĐÀO MƯƠNG


Ta cuốn sương lên, gọi núi đồi

Đang mơ màng ngủ: dậy đi thôi.

Thậm thịch cuốc vung, rung chuyển đất

Đỏ lựng mặt trời leo núi coi.


Nào cuốc nhanh tay, đầm thật mạnh

Nào hát ca vang gọi nước về.

Đàn chim sáo tới, nghiêng đôi cánh,

Ngừng hót, nhìn ta, tai lắng nghe.


Mai nước vào đây tưới ruộng đồng,

Niềm vui như nước chảy quanh vùng.

Chiều về, đất kéo chăn sương đắp,

Kéo nữa xa ta, đất lạnh lùng!


                                 Đồng Chanh, 06.4.1964

                                 VŨ ĐÌNH HUY


STUDENTS DIGGING DITCHES


We roll up clouds and call mountains and hills

That are dreamingly sleeping to wake up

The sneaky and thudding sound of brandished soil
picks make the soil shaking

The reddish sun climps up the mountain to look at.


Let’s hoe up quickly and ram real strongly

Let’s sing aloud, calling water to go back

The flock of mynahs came, inclining their wings

Stopped chirping, looked at us and attentively listening.


Tomorrow water will flow in, irrigating the fields

Our joy is like water flowing around the area

Evening came, the ground covered itself with a dew blanket

Being afraid that, once far from us, it will turn cool and cool!


                                                   Đồng Chanh, 06.4.1964

                                                   VŨ ĐÌNH HUY

                                                   Translated by VŨ ANH TUẤN


PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA CA DAO


Ca dao chính là tiếng nói của đồng nội, là âm vang của làng quê tổ truyền, phản ánh sinh hoạt nông thôn, chứa chan tình cảm dân tộc và màu sắc xứ sở. Chúng ta thích vì, ca dao dễ nhớ, giàu âm điệu, giàu hình ảnh và có ý nghĩa. Thứ hai, ca dao mộc mạc dễ thương, không quý phái cao xa như Đường Thi. Ca dao “có sao nói vậy”, đôi khi lại rất phàm tục khiến người ta phải bật cười. Thứ ba, nội dung của ca dao rất phong phú, nhất là phần diễn tả tình yêu đôi lứa, rất tình tứ. Nếu ai đó muốn viết thư cho người yêu và muốn dẫn chứng chút ít ca dao cho có vẻ…văn học dân gian thì đã có vô số câu ca dao phù hợp với hoàn cảnh của từng người. Tha hồ mà thổ lộ tâm tình. Thử tưởng tượng nếu một cô gái nhận được một bức thư tình với vài câu ca dao như:

Anh đi…nước Úc giáp vòng

Đến đây trời khiến đem lòng thương em.

Hay:

Sông dài cá lội biệt tăm

Phải duyên chồng vợ trăm năm cũng chờ.

Như thế, cô gái nhận được thư sẽ cảm động và không nỡ thẳng tay từ chối.

Hình ảnh trong ca dao rất sắc nét, mạnh mẽ, có khí lực, trong trẻo như không khí đồng quê buổi sáng. Một trong những hình ảnh mà ca dao thường đề cập đến là hình tượng người Phụ nữ. Muốn biết Phụ nữ thời xưa như thế nào, thử đi tìm trong ca dao.

NGOẠI HÌNH ĐẸP – HẤP DẪN

Ca dao phác họa những người đẹp đồng quê có dáng đứng không phải liễu rũ, mềm mại, yếu đuối như tiểu thư khuê các, mà là:

Trúc xinh trúc mọc đầu đình

Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

Trúc xinh trúc mọc bờ ao

Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.

Thân trúc thẳng, suông, mảnh mai, láng, dùng để so sánh với dáng thon cao, mạnh khỏe của cô gái nông thôn, thật thích hợp. Có dáng thon thả của thân trúc cộng thêm mái tóc dài thì tuyệt hảo:

Tóc em dài em cài hoa lý

Miệng em cười có ý anh thương.

Chân mày vòng nguyệt có duyên

Tóc mây dợn sóng tợ tiên non Bồng.

Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. đôi mắt đẹp “lúng liếng” (liếc qua liếc lại) đó ở dưới đôi lông mày lá liễu thanh tú, thì chàng trai nào không uống rượu cũng “say lừ đừ”:

Hoa thơm hoa ở trên cây

Đôi mắt em lúng liếng, dạ anh say lừ đừ

Những người con mắt lá răm

Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền.

Nhan sắc, nét đẹp trên người cô gái được các chàng trai cụ thể hóa qua hình ảnh các vật dụng hằng ngày như dao, hoặc bông hoa:

Cổ tay em trắng như ngà

Con mắt em liếc như là dao cau

Miệng cười như thể hoa ngâu

Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.

Hay:

Hai má có hai đồng tiền

Càng nom càng đẹp càng nhìn càng ưa.

Ba thương má lúm đồng tiền

Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua.

Vừa có khuôn mặt đẹp, vừa có thân mình “ngực nở eo thon”, đẹp cả phương diện thẩm mỹ lẫn phương diện tướng số:

Những người thắt đáy lưng ong

Vừa khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con.

Cách ăn mặc, trang phục của cô gái nông thôn cũng được miêu tả tỉ mỉ, gợi hình và rất… hấp dẫn:

Đàn ông đóng khố đuôi lươn

Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh.

Còn gì thích mắt cho bằng nhìn cô gái tuổi xuân hơ hớ mặc yếm đào để lộ hông, eo và lưng trông thật nõn nà bắt mắt, cho nên chàng chịu hết nổi mới:

Vì cam cho quít đèo bồng

Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương.

Vì vậy, chàng xin kết hôn cùng người đẹp:

Vào vườn trẩy quả cau non

Thấy em đẹp dòm muốn kết nhân duyên.

TÂM HỒN ĐẸP – ĐÁNG KÍNH

Từ khi cô gái lấy chồng, chúng ta không còn thấy hình ảnh xinh đẹp của cô trước khi kết hôn, mà chỉ thấy Đức tính của người Phụ nữ - theo quan niệm Nho giáo – đan kết lại thành hình ảnh của cô. Hình ảnh này bị bao phủ dày đặc bởi trách nhiệm và bổn phận với chồng, con, gia đình chồng. Còn quyền lợi của cô thì…chẳng thấy đâu cả. Quyền lợi chẳng có, bổn phận và đức tính thì nhiều vô kể, lấp lánh như những vì sao…

1/- TÒNG PHU:

Một khi đã chọn được ý trung nhân rồi, phận gái tóm gọn trong chữ Tòng. Bổn phận của phụ nữ là “xuất giá tòng phu”, sau khi dâng ly rượu tiễn biệt, từ giã cha mẹ đi theo chồng:

Rượu lưu ly chân quỳ tay rót

Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh.

Chữ Tòng được tôn trọng triệt để, không chỉ người phụ nữ bình dân, ngay cả giai cấp quý tộc, con gái vua lấy chồng cũng phải giữ phận chữ Tòng:

Con vua lấy thằng bán than

Nó dắt lên ngàn cũng phải đi theo.

Hay:

Ghe bầu trở lái về đông

Làm thân con gái thờ chồng nuôi con.

Nho giáo dạy người phụ nữ có bổn phận phải nghe lời chồng:

Con quốc kêu khắc khoải mùa hè

Làm thân con gái phải nghe lời chồng

Sách có chữ rằng: phu xướng phụ tòng.

2/- CHẤP NHẬN VÀ CHUNG THỦY:

Người phụ nữ sẵn sàng chấp nhận những thiếu sót của người đàn ông được cô gọi là chồng. Không vì người đó xấu mà buồn. Không vì người đó nghèo mà xấu hổ. Cho dù có xấu, có nghèo hơn những người khác nhưng người đàn ông đó là của riêng cô, người cô nương tựa suốt đời. Không so sánh chồng mình với chồng người khác. Thật đáng khen. Thời nay, số phụ nữ bỏ chồng vì hoàn cảnh kinh tế eo hẹp không phải là ít. Hiếm có người nào thốt lên câu:

Xấu xa cũng thể chồng ta

Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.

Hay:

Chồng ta áo rách ta thương

Chồng người áo gấm xông hương mặc người.

3/- ĐỒNG CAM CỘNG KHỔ:

Hình ảnh cô gái xinh đẹp độc thân biến thành hình ảnh người vợ hiền, theo lang quân đi tới góc biển, chân trời, dù cực khổ cũng không sờn lòng.

Đi đâu cho thiếp đi cùng

Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam.

Chữ “thiếp” thật khiêm tốn, có một chút cổ điển, một chút e ấp, nũng nịu. Chữ “cùng”, “cam” và “chịu”, nhỏ nhẹ, ngọt lịm… nói lên sự tình nguyện chia sẻ nỗi khó khăn gian khổ với người chồng trong cuộc đời. Hết lòng, hết dạ. Nghe rất thương, rất mát ruột!

4/- NHƯỜNG NHỊN:

“Một sự nhịn, chín sự lành”. Đức tính nhường nhịn chồng cho êm nhà êm cửa của phụ nữ thời xưa thật đáng quí. Thời nay ít có phụ nữ nào được như vậy, dù biết rằng nhịn là điều nên làm nhưng chưa chắc đã thực hiện được. Đàn ông thường nóng tính. Đàn bà cũng… tính nóng. Khi tranh cãi, chồng giận thì vợ bực mình cãi lại, nhưng phụ nữ thời xưa thì khác, đã không nổi cáu mà lại cười mơn. Xoa dịu cơn giận của lang quân bằng cách “dụ khị” cưới vợ bé cho chàng! Anh chồng nghe xong nhất định sẽ phì cười và… hết giận. Gia đình sẽ đầm ấm như cũ:

Chồng giận thì vợ làm lành

Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì?

Thưa anh, anh giận em chi

Muốn cưới vợ bé em thì cưới cho.

Thái độ tự kềm chế, trầm tĩnh của người vợ để giữ hòa khí trong gia đình rất đáng cho phụ nữ thời đại hiện nay học tập:

Chồng giận thì vợ bớt lời

Cơm sôi, nhỏ lửa một đời không khê.

Hình ảnh “cơm sôi” đối với hình ảnh “chồng giận”. Thấy ngay cơn giận của chồng đang bùng lên giống nồi cơm đang sôi sùng sục trên bếp. Và “nhỏ lửa” đối với “bớt lời” rất chỉnh. Khi lửa bị giảm đi, lập tức cơm bớt sôi (giống như cơn giận của anh chồng đang hạ xuống) và từ từ chín để cho ra nồi cơm ngon (vợ chồng hòa thuận trở lại). Thật tuyệt! Thật hay, hình ảnh thí dụ thật đơn giản, ngay trong đời sống. Cơm “khê” chỉ sự tan rã, mất hòa khí ở trong gia đình. Nếu không bớt lửa thì nồi cơm sẽ khét mất còn gì.

5/- CỘT TRỤ KINH TẾ CỦA GIA ĐÌNH:

Người phụ nữ là lao động chính trong nhà, làm việc quần quật, đảm đang, trồng trọt, canh cửi, buôn tảo bán tần. Nuôi chồng đi học để mai sau tên đề bảng vàng, rỡ ràng tổ tiên. Anh chồng chỉ có mỗi một việc ăn xong rồi học và chờ khoa thi. Người vợ đặt hết hy vọng vào người chồng. Mong chồng thi đậu thì công lao của chị hy vọng được đền bù. Nếu gặp anh chàng nào lận đận mãi vì thi cử thì thật đáng buồn, chị phải chịu cảnh lam lũ xuống đời:

Em thời canh cửi trong nhà

Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng.

Trước là vinh hiển tổ đường

Bõ công đèn sách lưu phương đời đời.

Hay:

Em là con gái Phụng Tiên

Bán rau mua bút mua nghiên cho chồng.

Nữa mai chồng chiếm bảng rồng

Bõ công tắm tưới vun trồng cho rau.

6/- CUNG KÍNH – CHU ĐÁO:

Cô vợ chăm sóc, lo lắng cho chồng đi trọ học trong trường không thiếu thứ gì. Lại rất ngoan, lúc nào cũng lễ phép chào thưa chồng, thật dễ thương:

Đôi bên bác mẹ cùng già

Lấy anh hay chữ để mà cậy trông.

Mùa hè cho chí mùa đông

Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi.

Hết gạo thiếp lại gánh đi

Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao.

Hỏi thăm đến ngõ thì vào…

Tay đặt gánh xuống miệng chào: thưa anh.

Cô vui vẻ cung cấp “mồi” cho chồng “nhậu”. Có một người vợ như thế hẳn là thích thú vô cùng:

Đốt than nướng cá cho vàng

Lấy tiền mua rượu cho chàng uống chơi.

7/- HIẾU KHÁCH:

Nhất là khách lại là bạn của chồng, dù cực nhọc đến mấy, người phụ nữ lúc nào cũng đơn độc, lủi thủi, cố gắng cơm nước phục vụ khách đầy đủ, tươn tất, cho vui lòng lang quân:

Cái bống là cái bống bình

Thổi cơm nấu nước một mình mồ côi.

Rạng ngày có khách đến chơi

Cơm ăn rượu uống cho vui lòng chồng.

8/- HY SINH:

Đối tượng cũng lại là chồng, con cùng gia đình chồng. Không quản nắng mưa, cực khổ, trèo đèo, lặn suối. Chữ “khổ” (có vị đắng, lo lắng), “gánh” (cho cảm giác nặng nề)., “lụy” (trói buộc, sự gì phiền đến thân), “đắng cay”,”mặn nồng”, “gắng công” (cố sức) dồn dập tuôn ra. Toàn là những từ chỉ sự khổ sở, nhọc nhằn. Không thấy có vị ngọt:

Có con phải khổ vì con

Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

Có chồng phải lụy cùng chồng

Đắng cay phải chịu mặn nồng phải theo.

Hoặc:

Thương chồng nên phải gắng công

Nào ai xương sắt da đồng chi đây.

Xem gia đình chồng là gia đình mình. Chu toàn bổn phận làm dâu, giữ gìn danh tiếng cho gia đình chồng. Nuôi mẹ chồng và con cái khi chồng đi xa:

Anh về hái đậu trảy cà

Để em đi chợ kẻo mà lỡ phiên.

Chợ lỡ phiên tốn công thiệt của,

Miệng tiếng người cười rõ sao nên.

Lấy chồng phải gánh giang sơn

Chợ phiên còn lỡ, giang sơn còn gì.

Hay:

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

Nàng về nuôi cái cùng con

Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.

9/- QUÊN THÂN MÌNH:

Bản thân và nhan sắc không còn gì cả. Úa tàn, ủ rũ, cực khổ. Thật là tội nghiệp. Còn đâu “yếm thắm hở sườn”, hấp dẫn như lúc chưa chồng. Người vợ trèo đèo, lặn suối, mò cua bắt ốc suốt ngày để mưu sinh. Cụm từ “vú xếch lưng eo” dễ làm cho người ta liên tưởng đến hình ảnh “vú thòng dưa gang”. Chữ “vì” được lập đi lập lại nhiều lần nhấn mạnh “thủ phạm” làm nhan sắc tàn phai chính là người chồng:

Một ngày ba bận trèo đèo

Vì ai vú xếch lưng eo hỡi chàng.

Vì chàng thiếp phải mò cua

Những như thân thiếp thì mua mấy đồng.

Vì chàng thiếp phải long đong

Những như thân thiếp cũng xong một bề.

10/- CHỊU ĐỰNG BẤT HẠNH:

Nếu vô phước gặp một người chồng không ra gì, bài bạc, ăn chơi phá của, công nợ ngập đầu, người vợ âm thầm gánh chịu, trang trải nợ nần, “ngậm bồ hòn” không dám than van vì sợ xấu hổ:

Chồng em nó chẳng ra gì

Tổ tôm xóc đĩa nó thì chơi hoang.

Nói ra xấu thiếp hổ chàng

Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà.

Nói đây thời có chị em nhà

Còn năm ba thúng thóc với một vài cân bông.

Em bán đi trả nợ cho chồng

Còn ăn hết nhịn cho hả lòng chồng con

Đắng cay ngậm quả bồ hòn…

11/- YÊU NƯỚC:

Khuyến khích chồng lên đường đánh giặc, bảo vệ đất nước, giúp chồng yên tâm lên đường bằng cách chăm sóc gia đình chu đáo:

Chàng ơi phải đi lính thì đi

Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.

Anh đi em ở lại nhà

Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.

TÓM TẮT

Hình tượng Phụ nữ Việt Nam Ngày xưa thật tuyệt vời. Vừa đẹp người, vừa đẹp nết. Họ là những người vợ đảm, mẹ hiền, lại có tinh thần yêu nước. Hoàn hảo quá! Không chỗ nào chê được. Và cũng thật đáng thương. Không được học hành vì “phụ nhân nan hóa”, “con gái không cần học nhiều”. Không được ngang hàng với nam giới vì phụ nữ chỉ là thành phần phụ thuộc, “ăn theo”, suốt đời phải mang ba chữ Tòng. Khoảng không gian của người phụ nữ chỉ giới hạn trong gia đình.

Gái thì giữ việc trong nhà

Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa.

Thời xưa chưa có phong trào nữ quyền, phụ nữ chịu rất nhiều thiệt thòi. Trong một gia đình, đạo đức cũ luôn khuyên nhủ người đàn bà phải phục tùng, không đòi hỏi, phải tận tụy hy sinh, hết cho chồng lại cho con. Ảnh hưởng Nho giáo sâu đậm “Tam tòng, Tứ đức” đè nặng lên tư tưởng của những người phụ nữ có giáo dục, con nhà nề nếp.

Chúng ta rất khâm phục phụ nữ thời xưa, sức chịu đựng, đức hy sinh của họ thật vô cùng. Gặp nghịch cảnh gì cũng âm thầm chịu đựng. Có lỗi là bị chồng bỏ. Ít thấy ai bỏ chồng cho dù chồng thuộc loại “tổ tôm xóc đĩa” vì trọng danh giá “nói ra xấu thiếp hổ chàng”.

Phụ nữ Ngày nay không hoàn toàn giống như phụ nữ thời xưa. Một số quan niệm lỗi thời đã bị đào thải, nhưng một số đức tính căn bản vẫn còn. Có lẽ, do ảnh hưởng Nho giáo lưu truyền trong thơ văn. Giá trị đạo đức vẫn còn được phụ nữ trong nhiều gia đình Việt Nam duy trì, nhưng uyển chuyển cho phù hợp thời đại. Căn bản, phụ nữ đã thực hiện được quyền bình đẳng trong gia đình, quân bình giữa “cho” và “nhận”. Phụ nữ không đóng vai trò phục tùng mãi, mà là nhẹ nhàng, thuyết phục, vừa giữ được hạnh phúc gia đình, vừa không phải chịu đựng quá nhiều.

Có thể nói qua Ca dao – bộ phận rực rỡ nhất của nền văn học dân gian – Phụ nữ có dịp nhìn lại bóng dáng của chính mình trong “cổ kính” mà rút kinh nghiệm, có cách cư xử trong gia đình cho thích hợp hơn.

(Tham khảo: - Nhiều nguồn - Internet)

PHẠM VŨ


Phụ Bản III

VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC KINH DỊ

Việc nghiên cứu sâu sát về văn học kinh dị đòi hỏi nhiều thời gian cũng như nhiều công phu tìm tòi, tra cứu và thu thập các tư liệu. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin giới thiệu vài nét đặc trưng của thể loại văn học này. Một thể loại bị nhiều người chối bỏ nhưng trên thực tế, nó vẫn tồn tại với những ưu và khuyết điểm của mình, với những lời khen tiếng chê của công chúng cũng như của giới phê bình văn học .

Khi công chúng bắt đầu chán chê các loại tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết hiện thực vốn đã chiếm ưu thế từ năm 1860 thì họ bắt đầu tìm kiếm những thể loại mới. Dĩ nhiên là vẫn còn nhiều người đọc các loại tiểu thuyết ấy, nhưng riêng những độc giả tinh tế, sâu sắc và đòi hỏi cao hơn thì lại muốn có một cái gì đó khác với việc miêu tả trung thực thế giới khách quan hay những con người trong đời thực. Văn học loại này phụ thuộc quá nhiều vào logique, lý trí và những chuẩn mực của xã hội nên nhiều khi đã tỏ ra đơn điệu và cứng nhắc.

Tất cả những ai khao khát một sự thật sâu sắc và một điều gì đó như là sự tiết lộ đều quay sang thể loại kinh dị với nhiều hy vọng. Họ linh cảm rằng chỉ có thể loại này mới có thể đáp ứng được những nguyện vọng sâu kín nhất của họ. Yếu tố kinh dị có thể được nuôi bằng sự hoang tưởng, đôi khi là sự cuồng loạn, nhưng nó luôn được nuôi bằng niềm hy vọng của độc giả.

Hầu hết các giới đều phản đối các nhà văn viết tiểu thuyết kinh dị. những người có thần kinh mạnh mẽ thì không thích những chi tiết ma quái vì họ luôn nhớ là ngày xưa ở trường, người ta đã dạy họ rõ ràng là một với một là hai. Những người theo đạo Thiên Chúa giáo thì ngờ rằng các nhà văn viết truyện kinh dị đã về phe với quỷ dữ. Những kẻ cầu tiến thì trách móc các nhà văn, cho rằng họ không quan tâm đến những vấn đề chính trị và giới trí thức nửa mùa thì chỉ coi truyện kinh dị là một thứ sách đọc thêm để rèn luyện phong cách viết văn… Thế nhưng số còn lại, dù là số ít, vẫn ủng hộ các nhà văn viết truyện kinh dị: đó là những kẻ hiếu kỳ, những người hay lo sợ, những kẻ nhiệt thành hăng hái, những kẻ không mang đầu óc thủ cựu… Nói tóm lại, đó là tất cả những ai muốn tìm kiếm một điều gì đó khác với những cái đã thấy trong đời thường.

Thật tiếc khi người ta cho là yếu tố kinh dị gắn liền với sự điên rồ cuồng loạn hay những trò phù thủy. Thực ra, kinh dị là một hiện thực được nhìn dưới một con mắt khác. Yếu tố kinh dị cho phép các nhà văn đề cập các vấn đề liên quan đến chúng ta, miêu tả bằng những từ ngữ cụ thể, những hình ảnh sinh động rút từ những chuyện xảy ra trong đời sống thường ngày: thời gian, định mệnh, thế giới bên kia, bộ mặt của Chúa Trời, sự cứu rỗi, tình yêu… Các nhà nghiên cứu thần học và triết học cũng đã đề cập đến các vấn đề này một cách sâu sát hơn nhưng tiếc thay, hiểu được họ chỉ có những người có trình độ nhận thức cao hoặc có đầu óc cao siêu như họ. Các nhà văn viết truyện kinh dị trái lại dùng những hình ảnh, những biểu tượng, những phép liên tưởng… đôi khi cũng hơi mạo hiểm, để làm cho mọi người hiểu được điều họ muốn nói. Họ thường khắc họa bằng những hình ảnh thông thường bên ngoài: một bông hồng với sự liên tưởng đến mùa xuân, đến một thiếu nữ, đến máu hay lòng ham muốn. Điều quan trọng là phải nhìn bông hoa ấy theo một cách riêng biệt nào đó. Các nhà văn không hề thay đổi đối tượng phản ánh. Họ chỉ nhân lên ý nghĩa và quyền lực của các đối tượng ấy. Họ không hề bóp méo thế giới khách quan mà chỉ đưa ra một cách nhìn mới về cái thế giới ấy.

Chỉ có yếu tố hoang đường, kỳ bí và yếu tố thần tiên là liên kết với yếu tố kinh dị. Tất cả những cái còn lại đều là đối kháng hoặc xa lạ với nó. Nếu văn học về khoa học viễn tưởng có một nền tảng khoa học với các giả thuyết về sự tồn tại của sinh vật ở các hành tinh khác, sự tồn tại của các quy luật sinh học khác… thì văn học kinh dị chỉ quan tâm đến một điều: thể xác và linh hồn của con người ở ngay trên hành tinh này mà thôi. Ngược với các nhà văn khác, tư tưởng của các nhà văn viết truyện kinh dị thường là phi lý: tư tưởng ấy không hề lưu tâm đến cái gì khác ngoài những nguyên tắc và nhưng phương thức thuộc về lĩnh vực thơ ca. Một nhà văn viết thể loại này thường chỉ chú ý đến những điều kỳ diệu của cái thế giới bên trong của con người. Họ xem nhẹ cái mà người ta gọi là thực tại. Một nửa cuộc đời mình, con người dùng để ngủ và họ chỉ thức trong một nửa còn lại. Thế nhưng Pascal đã từng tự hỏi: “Không biết là một nửa cuộc đời mà chúng ta ngỡ rằng mình thức kia có phải cũng là một loại giấc ngủ hơi khác biệt với giấc ngủ thực hay không, cái giấc ngủ mà trong đó chúng ta thức mà vẫn nghĩ rằng mình đang ngủ”. Các nhà văn viết truyện kinh dị cũng thế. Lẫn lộn giữa mộng và thực, thích mộng hơn thực, họ mạnh dạn và hăm hở lao vào khám phá cái thế giới xa lạ, kỳ bí và rùng rợn, sản phẩm của chính cái trí tưởng tượng vô cùng phong phú của mình.

Sẽ rất sai lầm khi nghĩ rằng những người đọc tiểu thuyết kinh dị luôn bằng lòng với những gì mà các nhà văn viết theo thể loại ấy đem đến cho họ. Dù nhàm chán cái đơn điệu của các loại tiểu thuyết khác, và say mê tìm kiếm một cái gì đó mới hơn, thế nhưng người đọc cũng không muốn những chi tiết thường gặp trong các cuốn tiểu thuyết kinh dị làm xơ cứng tâm hồn mình. Lúc đầu, công chúng dễ dàng bị lôi cuốn bởi các yếu tố rùng rợn, ma quái… Thế nhưng dần dà, họ trở nên quen thuộc với những thứ đó. Loại tiểu thuyết đen (roman noir) khi mới xuất hiện đã tạo ra những cơn sốt trong giới độc giả. Thế nhưng dần dần, nó trở nên quen thuộc đến độ người ta có thể rút ra một “công thức chung” như “cách thức làm bánh” cho kết cấu của một cuốn tiểu thuyết loại này:

Một lâu đài cổ xưa mà một nửa đã đổ nát.

Một bà già chết treo với nhiều nhát dao đâm ở cổ.

Một hành lang dài có nhiều cánh cửa trổ ra mà đa số là những cánh cửa bí mật.

Ba xác chết đẫm máu.

Trộm, cướp thao túng.

Một liều lượng vừa đủ những lời thì thầm, những tiếng rên la tắt nghẹn và những tiếng động kinh hoàng.

Tất cả những “vật liệu” trên được trộn kỹ vào nhau, thêm “mắm, muối, gia vị” rồi chia làm ba phần hay ba quyển. Thế là có một cuốn tiểu thuyết đen dành cho tất cả những ai muốn giải trí trước khi đi ngủ!

Đồng thời, tiểu thuyết kinh dị càng khó gây được sự chú ý của độc giả hơn. Những hồn ma vật vờ, những con quỷ hung tợn, những ngôi nhà mồ âm u, những khu nghĩa trang hoang vắng lạnh lẽo… mà người ta đã gặp đầy dẫy trong các quyển tiểu thuyết càng lúc càng khó tạo “ép-phê” hơn. Một lớp độc giả mới được hình thành, tinh thế, sâu sắc và đòi hỏi cao hơn. Họ chờ đợi những tác phẩm mới không những chỉ đơn giản kéo căng các dây thần kinh của họ mà còn phải làm cho họ chao đảo thật sự và trở nên sâu sắc bằng cách đi tìm ở đó những sợi dây bí ẩn làm rung lên những nỗi kinh hoàng mà trước đó họ chưa bao giờ biết tới.

Các nhà văn viết truyện kinh dị có cái chung là đều xây dựng tác phẩm của mình dựa trên yếu tố rùng rợn. Tuy vậy, ở mỗi người, kết cấu truyện, cách xây dựng nhân vật, cách mô tả các sự kiện, cách sử dụng các chi tiết gây rùng rợn, phong cách viết… lại mang những sắc thái hoàn toàn riêng biệt. Các tác giả tên tuổi trong làng văn học kinh dị rất đông đảo: Hoffmann, Edgar Poe, Hitchcock, Mérimée, Maupassant, Villiers de L’Isle – Adam, Alexandre Dumas, Walpole, Maturin, Samuel, Beckett… nhưng nổi bật nhất là Hoffmann, Edgar Poe, Hitchcock và Prosper Mérimée.

Hoffmann (nhà văn Đức, thế kỷ 18) đến với văn học kinh dị ngoài ý muốn, mặc dù ở lĩnh vực này, ông đã đạt được nhiều thành công rực rỡ. Hoffmann không thuộc những người ngay từ lúc mới trưởng thành đã thẳng thừng tuyên bố: “Hoặc văn chương hoặc không gì cả”. Là luật gia và viên chức nhà nước nhưng Hoffmann rất yêu âm nhạc và hội họa. Khoảng thời gian Hoffmann làm người điều khiển phần âm nhạc trong một nhà hát ở thành phố Bamberg (Đức) là những tháng ngày được ông coi là hạnh phúc nhất đời vì lúc đó, ông được sống đúng với sở nguyện của mình. Ông viết vở ca nhạc kịch “Andine” với hy vọng sẽ được lưu danh hậu thế nhưng oái oăm thay, người đời sau lại biết đến tên tuổi của Hoffmann qua những truyện kinh dị của ông chứ không phải qua vở ca kịch mà ông đã dành nhiều công sức và tâm huyết để viết ra. Người ta thường gặp lắm điều kỳ quặc nơi các thiên tài. Ở Hoffmann, chính sự kỳ quặc trong cách sống và trong văn chương của ông đã làm ông nổi tiếng. Có nhiều người đã cho rằng Hoffmann chẳng qua chỉ là một kẻ say rượu bị quỷ ám và kết thúc cuộc đời trong một nhà thương điên. Thực ra, chính những bất hạnh trong cuộc đời đã đẩy Hoffmann đến chỗ khác người. Ông đã tìm đến với thế giới kinh dị để quên đi quãng đời thơ ấu cơ cực, quên đi cô vợ ngu đần, quên đi thân phận cay đắng của chính mình, sự thúc bách của kế sinh nhai và những mối lo âu phiền toái trong cuộc đời ô trọc. Trong các truyện kinh dị của mình, Hoffmann rất ít sử dụng những chi tiết kỳ diệu, sự xuất hiện của các oan hồn, ma cà rồng hay người sói… Yếu tố kinh dị trong truyện của ông nằm ở nội tâm: ông miêu tả những hoang tưởng tồn tại một cách oan nghiệt trong ý thức của con người rồi được bộc lộ trong những giấc mơ, những cơn mê sảng, những ảo giác hay những cơn sợ hãi cuống cuồng. Hoffmann không nhằm vào yếu tố siêu nhiên như các nhà đạo đức và các nhà văn có tầm cỡ trước ông đã làm. Trái lại, ông tiếp tục phân tích con người, nhưng trong một lĩnh vực hoàn toàn khác. Ông viết: “Hỡi độc giả thân mến, tôi muốn kéo bạn ra khỏi cái khuôn khổ chật hẹp của cuộc sống tầm thường, vô vị hàng ngày bằng cách đem lại cho bạn một thú tiêu khiển hoàn toàn đặc biệt: giới thiệu với bạn một phạm vi mới trong cái vương quốc, ở đấy có những điều trong cuộc sống và trong hiện thực sâu sắc mà ý thức của con người điều khiển một cách tùy ý. Hoffmann không viết cho những người có tầm nhìn thấp kém, tức là những kẻ ngu ngốc, những kẻ lười suy nghĩ và những kẻ mê tín dị đoan. Ông chỉ viết cho những người biết nhận ra sự thật qua tấm màn che được dệt bằng những chuyện viển vông điên rồ nhất. Cuốn “Rượu thuốc của con quỷ” là quyển sách có giá trị nhất của Hoffmann vì nó mang cả hai chủ đề được coi là chính yếu của ông: sự điên loạn và thế lực của cái ác. Truyện viết về một thầy dòng tên là Médord. Bị giằng xé giữa trời cao và hỏa ngục, Médord đã uống một thứ rượu thuốc của quỷ và trở thành một kẻ bị quỷ ám phạm vô số tội sát nhân trong vô thức của mình. Các truyện nổi tiếng khác của ông là: “Công chúa Brambila”, “Cái bình vàng”, “Thầy Bọ chét”, “Thái ấp”, “Hồn ma cưới vợ”… Ông không chỉ thành công rất lớn ở Đức mà còn ở các nước khác như Anh, Pháp, Mỹ… Nhiều nhà văn trong và ngoài nước thuộc các thể hệ sau ông đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những truyện kinh dị của Hoffmann.

Nếu ở thế kỷ 18, Hoffmann đã giữ một địa vị gần như là độc tôn trong lĩnh vực văn học kinh dị thì sang thế kỷ 19, nhà văn người Mỹ Edgar Poe (1809 – 1849) chính là kẻ “kế vị”. Tuy là kẻ “hậu bối”, song Edgar Poe đã gần như vượt hẳn Hoffmann vì ông đã đáp ứng đúng lúc cái thị hiếu của công chúng ở những năm 1860 về truyện kinh dị: khoa học hơn, nhưng rùng rợn hơn. Nếu các cuốn truyện của các nhà văn trước hầu hết đều là sản phẩm của một trí tưởng tượng hỗn loạn cuồng điên hoặc của những hoang tưởng vô căn cứ thì Edgar Poe lại cho ra đời những tác phẩm mang tính chất gần như là trái ngược. Ở các truyện kinh dị của ông, tất cả đều có vẻ đúng liều lượng, được tính tóan chi li, được sắp xếp kỹ càng để đạt tới một cứu cánh. Ở Poe, lòng yâu khoa học và lòng yêu thơ ca gặp nhau: đó là hai hoạt động của một bộ óc ở trạng thái lành mạnh và hướng thượng. Nơi ông, trí tưởng tượng đã không còn là “đàn bà điên trong nhà” như cách nói của các nhà triết học. Qua truyện “Eureka”, Poe mong muốn kế tục các định luật của Newton và của Laplace. Ông cũng chứng minh rằng nếu không có thơ ca, vốn dĩ là sự sáng tạo tuyệt đối, thì khoa học sẽ không bao giờ tiến bộ cả.

Dĩ nhiên là các truyện kinh dị của Poe không hề sử dụng đến những bà tiên, những pháp sư, phù thủy hay ma quỷ, oan hồn hoặc các nhân vật siêu nhiên nhất mà cả Hoffmann cũng đã không sử dụng. Nếu các truyện kinh dị trước kia là “lạnh” thì truyện của Poe lại “lạnh” hơn và “lạnh” theo kiểu khác. Yếu tố kinh dị trong truyện của Edgar Poe có vẻ “bề trong, đơn giản, tự nhiên và thực” hơn là do ông chỉ đưa ra các sự kiện để người đọc suy gẫm trong khi Hoffmann luôn tìm cách cho chúng ta thấy rằng quỷ sứ đã nhúng tay vào cuộc sống dương gian và luôn hoành hành ở đó. Cốt truyện của Poe mới đọc sơ qua thì có vẻ điên rồ, hoang đường và phi lý. Thế nhưng dưới những con mắt tinh đời, truyện của ông thực sự là những tác phẩm mang giá trị nhân bản và giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. So với Hoffmann thì có lẽ ở thời đại thực nghiệm, Poe được ưa chuộng hơn và trên thực tế, “Những truyện kinh dị” của ông đã làm hồi hộp không biết bao nhiêu là độc giả trên toàn thế giới. “Con mèo đen”, “Bọ rầy vàng”, “Vụ án mạng ở đường Morgue”, “Mặt nạ tử thần đỏ”… là những truyện được biết đến nhiều nhất trong số các truyện kinh dị của Edgar Poe.

Hitchcock được nhắc nhở rất nhiều trong làng văn học bởi các truyện kinh dị được ông tuyển rải rác từ các tác giả khác và giới thiệu lại. Các tuyển tập này thường mang những tựa đề rất “giật gân”: “Những truyện ghê rợn”, “Những truyện gây sợ hãi”, “Những truyện không nên đọc ban đêm”… Trên thực tế, nội dung của các truyện trong những tuyển tập này cũng rất hấp dẫn. Nhiều khi trong truyện không hề có ma quái mà người ta vẫn thấy rùng rợn. Chẳng hạn như trong tập: “Những truyện ghê rợn” có truyện “Giọng nói trong đêm (của William Hope Hodgson) kể về một đôi trai gái bị mắc một chứng bênh rất đỗi kỳ quái. Sau khi chiếc tàu bị bão đánh đắm, họ may mắn tìm lên được một xác tàu cũ trên đó có một loại nấm lạ màu xám ăn lan khắp boong tàu. Sau mấy ngày, lương thực hết, họ đành phải ăn thử thứ nấm đó và thế là khắp thân mình họ nổi lên thứ nấm ma quái đó. Các truyện: “Khi thành phố đã ngủ yên” (Ray Bradbyry), “Đêm thứ hai trên biển”… trong tập “Những truyện không nên đọc ban đêm” là những truyện có sự hiện diện của yếu tố ma quái. Truyện “Nhà mồ có máy điều hòa khí hậu” (Andrew Benedict) làm người đọc rùng mình vì cách trả thù vừa quái dị, vừa ghê rợn dành cho một kẻ bạc tình.

Ngoài “Carmen”,… nhà văn Pháp Prosper Mérimée (1803 – 1870) còn được biết đến qua những truyện kinh dị: “Tượng thần Vệ nữ ở Ille”, “Lokis”, “Những linh hồn trong lò luyện tội”, “Rắn thần Djoumane”. Trong số các tác phẩm trên, Mérimée coi “Tượng thần Vệ nữ ở Ille” là kiệt tác của mình và ông quả đã không lầm vì truyện ấy đã được công chúng hoan nghênh nồng nhiệt. Truyện kể về một tượng thần Vệ nữ bằng đồng được tìm thấy ở thành phố Ille (Tây Ban Nha). Một chàng trai hời hợt tuyên bố sẽ lấy bức tượng làm vợ và kỳ lạ thay, khi anh ta lấy chiếc nhẫn dành cho vợ sắp cưới của mình đeo vào ngón tay của bức tượng thì không còn lấy nhẫn ra được nữa. Đêm tân hôn, pho tượng đồng đã thế chỗ cô dâu trên giường cưới và siết chết chàng trai bất hạnh trong vòng tay ôm của mình. “Lokis” (tiếng Lithuanie có nghĩa là “Gấu”) kể về một phụ nữ quý tộc sinh ra một đứa con trai sau khi bị một con gấu cưỡng bức trong chuyến đi săn cùng chồng. Trong đêm tân hôn, chàng trai con của gấu ấy đã ăn thịt cô vợ của mình rồi bỏ đi biệt tích. Ngay chính bản thân Mérimée cũng thấy “sợ” khi đọc truyện kinh dị. Ông nói với bà De la Roche Jacquelin: “Khi tôi tự kể cho mình nghe những chuyện ma quái, tóc tai trên đầu tôi cứ dựng đứng cả lên. Thế nhưng, cho dù cảm giác ấy là rất thật, tôi vẫn không tin có ma quỷ và sự nghi ngờ của tôi lớn đến đỗi, nếu tôi có trông thấy một con ma thật đi chăng nữa thì tôi cũng sẽ chẳng tin”. Sự nghi ngờ của Mérimée thật đáng lo ngại: ông nghi ngờ để được bình tĩnh hơn trước những điều vừa lôi cuốn, vừa làm ông sợ hãi: cái vô hình, cái siêu nhiên và thần linh.

Nói về văn học kinh dị, mỗi người, mỗi giới đều có những ý kiến khác nhau: người khen kẻ chê; người tán thành, kẻ phản đối. Dù sao đi nữa, qua những bước thăng trầm của mình, văn học kinh dị đã luôn từng bước tiến tới sự hoàn thiện. Cuộc đời vô cùng phong phú, đa dạng, con người theo bước tiến của xã hội ngày càng có nhiều suy nghĩ mới lạ thì thiết tưởng văn học cũng phải đa dạng, phong phú theo thì mới phản ánh đúng cuộc sống, tâm tư tình cảm của con người và đáp ứng được những nguyện vọng, nhu cầu ngày càng lúc càng nhiều của họ. Có người cho rằng văn học kinh dị các tác dụng xấu, nhất là đối với giới trẻ. Trong một chừng mực nào đó thì điều này cũng đúng. Đúng là không nên đọc văn học kinh dị một cách bừa bãi nhưng trên tinh thần đổi mới tư duy hiện nay, thiết nghĩ cũng không nên nhận xét nó một cách thô thiển hàm hồ và coi đó là một thể loại văn học đáng bị chối bỏ và đào thải.

LƯƠNG PHAN

(Theo cuốn “La littérature fantastique en France”

của M. Schneider và một số sách của các tác giả đã dẫn)

ĐỖ THIÊN THƯ st.

VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH

Nhân dịp Vịnh Hạ Long của Việt Nam sắp “có thể”được thế giới bình bầu là một trong 7 Kỳ quan Thiên nhiên mới, chúng ta thử tham quan một trong 7 kỳ quan của thế giới:

VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH

– KỲ QUAN MỚI CỦA THẾ GIỚI

Vạn lý Trường thành, tượng trưng cho nền văn minh cổ của Trung Hoa, là một trong những công trình nổi tiếng nhất thế giới. Trường thành cách Bắc Kinh khoảng 75km về hướng tây bắc. Điểm cao nhất ở Balading khoảng 800m trên mặt nước biển.

XÂY DỰNG TỪ THỜI CHIẾN QUỐC

– NHÀ TẦN XÂY THÊM

Việc xây dựng Trường thành này bắt đầu từ thời Chiến Quốc (476-221 TCN). Đầu tiên, vài bức tường được xây dựng tại những điềm chiến lược bởi nhiều nước chư hầu để bảo vệ phía bắc của họ. Đến năm 221 TCN, sau khi hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Tần là Tần Thủy Hoàng, thống nhất đất nước, hoàng đế đã quyết định nối các bức tường này lại và nối dài thêm trở thành Vạn lý Trường thành.

Theo sử sách ghi lại, khoảng 1 triệu người, tức khoảng một phần năm dân số Trung Hoa thời đó, đã tham gia vào việc xây dựng Trường thành, thời gian mất hơn 10 năm. Đến nay thiên nhiên đã phá hủy hầu hết các bức tường này.

Bức tường thành, mà ngày nay chúng ta viếng thăm, được xây dựng vào thời nhà Minh ở thế kỷ 16. Bức tường trải dài từ đèo Thượng Hải đến tỉnh Tân Cương. Tổng chiều dài của bức tường này là hơn 6.700km.

Có rất nhiều điểm quan trọng về mặt chiến lược dọc theo bức tường này. Các pháo đài được xây dựng tại các điểm chiến lược này. Các tháp đèn hiệu được xây dựng ở cả hai bên tường tại những điểm cao. Khi phát hiện kẻ thù, lửa hiệu sẽ được đốt trên tháp để làm dấu hiệu báo động.

Trước triều Minh, bức tường được xây chủ yếu bằng đất và đá hòn. Dưới đời Minh, hầu hết các đoạn được xây bằng gạch và đá tảng. Chẳng hạn như đoạn gần Bắc Kinh gồm những tảng đá lớn và những viên gạch lớn được kết nối bằng đất và đá hòn. Đoạn này cao khoảng 6 – 7 mét.

Cứ cách khoảng đều nhau ở phía nam của Trường thành, lại có cổng với các bậc đá dẫn lên chỗ cao nhất của bức tường. Trên mặt tường thành được lát bằng ba hoặc bốn lớp gạch lớn. Mặt tường thành rộng từ 4 – 5 mét, đủ chỗ cho 5 con ngựa chạy song song. Dọc theo tường có các công sự, tường chắn có lỗ châu mai được xây bằng gạch và có những pháo đài, tháp canh cách khoảng đều nhau.

Tường thành chạy qua núi và khe. Việc xây dựng dọc theo các dốc đứng trong điều kiện khắc nghiệt, là cực kỳ khó khăn. Nhiều tảng đá dài đến 2m và nặng đến 1 tấn. Tất cả đá, gạch và vôi đều phải được đem lên núi bằng sức người. Đất và gạch được chuyển lên bằng tay hoặc chở trong giỏ do lừa hoặc dê kéo. Người ta nhẩm tính rằng lượng gạch và đá để xây Trường thành đủ để xây một bức tường cao 5m và dày 1m vòng quanh thế giới.

ĐOẠN MUTIANYU

Những du khách Trung Quốc và quốc tế rất quen thuộc với đoạn Bát Đạt Lãnh, nhưng lại không biết rõ đoạn Mutianyu của Trường Thành ở huyện Hoài Nhu, cách Bắc Kinh 79km. Thung lũng Mutianyu ở huyện Hoài Nhu, là một điểm chiến lược đến độ ở đây có giao tranh thường xuyên trong suốt lịch sử Trung Hoa.

Bức tường đầu tiên trong khu vực này được xây dựng vào khoảng 1.400 năm về trước. Việc xây dựng bức tường hiện tại bắt đầu từ đới nhà Minh (1368 - 1644) và phải đến thế kỷ 15 mới hoàn tất. Những ngọn núi quanh thung lũng có rừng rậm, trong đó có nhiều con suối thiên nhiên và cây lá đẹp. Trong quá khứ, đây là điểm quân sự trọng yếu, ngày nay đoạn tường này là một nơi thú vị để đến thăm.

ĐOẠN SIMATAI

Đoạn này cách Bắc Kinh 110km, có 135 vọng gác. Đoạn tường dài 19km này rất nguy hiểm khi trèo lên, nhưng lại rất ngoạn mục khi ngắm nhìn, vì nó uốn khúc lên xuống trên những đỉnh núi, mà những đỉnh núi này trông giống như bị cắt ra bởi những chiếc rìu khổng lồ. Vọng gác Wangjinglou ở trên sườn núi cao 986m là đỉnh của đoạn Simatai và cũng là chỗ nguy hiểm nhất để đến, vì du khách phải đi qua một con đường chưa được sửa chữa, kể cả “cầu thang” và “cầu vượt”.

“Cầu thang” là một dốc đứng khoảng 60o– 70o, du khách phải bò lên bằng tay cùng đầu gối và phải rất cẩn thận. Còn “cầu vượt” là một đoạn đường khoảng 100m với bề ngang chưa đến 1m đi qua một vực sâu 500m. Không có gì để nắm tay cả, chỉ một trận gió nhẹ cũng đủ làm cho du khách run lên vì sợ hãi. Vì sự nguy hiểm trong việc đến Wangjinglou, ngày nay chỉ có ít người đã từng đặt chân lên tháp.

ĐOẠN GUBEIKOU

Với độ dài tổng cộng là 21km, đoạn này nằm ở phía đông Bắc Kinh, cách trung tâm thành phố 128km. Đoạn tường thành này được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1386 và sau đó, được một viên tướng nhà Minh mở rộng vào năm 1567. Nó vẫn còn giữ nguyên vẻ nguy nga, mặc dù một phần đã bị vỡ do pháo Nhật bắn vào trong cuộc kháng Nhật từ năm 1937 – 1945 của Trung Quốc.

Đoạn tường thành này leo trên núi với độ cao từ 400m– 900m. Khác với những đoạn tường kia, đoạn này có độ rộng rất khác nhau, với phần rộng nhất có thể chứa 5 con ngựa chạy song song, còn phần hẹp nhất chỉ một người đi lọt. Một con đường dẫn đến đoạn tường đã được xây dựng cho du khách. Có nhiều di vật đã được đào tại đây, gồm có: mũi tên, súng bằng tre, cối xay và dao bằng đá. Những di vật này đã được trưng bày như một phần thu hút du khách.

Ủy ban Trùng tu Trường thành và Văn phòng Quản trị Bát Đạt Lãnh đã được thành lập tại Bắc Kinh và bắt đầu cuộc vận động, thu góp được gần 10 triệu Nhân dân tệ để trùng tu Trường thành. Trong đó, sẽ xây dựng Nhà Bảo tàng Trường thành tại Bát Đạt Lãnh.

ĐOẠN TRƯỜNG THÀNH GẦN BẮC KINH

Đoạn gần Bắc Kinh là phần được bảo quản tốt nhất của Trường thành. Một vài chỗ đã được tái thiết kể từ năm 1949. Bức tường thành này chạy dài 629km trong phạm vi khu vực Bắc Kinh. Có hơn 100km đã được bảo quản tốt và hai đoạn đã được phục hồi cho du khách quốc nội và quốc tế đến chiêm ngưỡng.

“Bất đáo Trường Thành phi hảo hán”

(Chưa đến Trường Thành thì chưa phải là hảo hán - người đàn ông dũng cảm)

Câu ngạn ngữ của Trung Quốc trên là có từ ngày xưa và Mao Trạch Đông đã tự tay viết trên một tấm biển lớn. Ngày nay, tấm biển bằng đá in bút tích của Mao Trạch Đông được đặt ngay khi bắt đầu đoạn đường leo lên Trường thành. Rất nhiều người trong đoàn du lịch chỉ đến đứng cạnh tấm biển đá đó chụp ảnh, mặc dù “ăn gian” như vậy chỉ được coi là “hảo hán dỏm”. Thứ nhất là vì Trường thành có chiều dài tới 6.700km; thứ hai theo Hán ngữ “đáo” có nghĩ là “đến” thôi, chứ không nhất thiết phải leo lên; thứ ba là muốn leo lên cái tháp canh trên đỉnh đầu tiên thì mới có ngót…1.000 bậc, mà gió thì rất lộng. Như thế đa số đều chụp vài tấm ảnh, về “làm le” với bạn bè, như thế cũng được rồi.

(Việt Nam ta chơi sang hơn bằng cách thêm vào hai chữ “Vạn lý” cho oai hơn Trung Quốc, vì họ chỉ gọi gọn là “Trường thành”)

Hà Nội cũng có một con đường mang tên Phố “Trường Thành” chắc là để nhớ đến di tích lịch sử vĩ đại nhất - mà các phi hành gia khi bay trên quỹ đạo, chỉ nhìn thấy cảnh duy nhất là Trường Thành này từ hành tinh Trái Đất nơi chúng ta đang sinh sống.

Trong truyện Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm có nhắc đến di tích này:

Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt

Khói Cam tuyền mờ mịt thức mây

Chín lần gươm báu trao tay

Nửa đêm truyền hịch đợi ngày xuất chinh…

Có giả thuyết phải chăng ngày xa xưa, biên giới của nước Lạc Việt - Giao Chỉ ta kéo dài tới tận Trường thành?

Thật là hãnh diện cho Trung Quốc, vì vào ngày 7-7-2007, Vạn lý Trường thành đã được bình chọn là một trong 7 Kỳ quan mới của thế giới kể sau đây:

Vạn lý Trường thành ở Trung Quốc

Đấu trường Colosseum, ở Ý

Thành phố đá Petra, Jordan

Đền Taj Mahal (Ấn) !

Tượng Chúa Cứu thế, ở Rio (Brazil)

Phế tích Machu, Peru

Kim tự tháp Chichen, Mexico

Thất (7) tân Kỳ quan (thế giới)!

(Lời mới của bài hát London Bridge)

VỊNH HẠ LONG CỦA VIỆT NAM

Hiện được Thế giới bình bầu nằm ở vị trí thứ 27 (tới đầu tháng 10-2011) trong 28 địa danh trên thế giới, chỉ còn hơn 30 ngày chạy nước rút trong cuộc đua có tỉ lệ 1 chọi 4 này – do Tổ chức NewOpenWorld (NOW) bình chọn và sẽ công bố 7 Kỳ quan Thiên nhiên Mới vào đúng ngày 11-11-2011 sắp tới.

Rất nhiều người yêu Vịnh Hạ Long đã vào website: www.new7wonders,com để bầu chọn cho Vịnh Hạ Long trở thành một trong 7 kỳ quan mới

Chúng ta hy vọng Vịnh Hạ Long - sẽ là một trong 7 Kỳ quan Thiên nhiên Thế giới Mới - để có thế ngang tầm với Vạn lý Trường thành nổi danh thế giới.

(Tham khảo: - Nhiều nguồn - Internet )

PHẠM VŨ

TÂY CŨNG TAM SAO THẤT BẢN

Cách đây hai ngày một bà bạn rất thân của tôi, trước đã có dạy Văn Chương Pháp ở một trường Trung Học, có ghé thăm tôi và bảo tôi: “Này ông bạn nhiều tài… liệu, làm ơn tra cứu và cho biết câu thơ sau đây chính xác là của nhà thơ cổ điển Pháp nào? Có phải là của Ronsard không?”

Và bà đọc cho tôi nghe và viết cho tôi câu thơ dưới đây:

“Et rose elle a vécu ce que vivent les roses,”

Những bài thơ cổ điển của các tác giả cổ điển Pháp hồi thế kỷ thứ 16, 17 đã hầu như hoàn toàn đi vào dĩ vãng đối với tôi, nhưng tôi bị cái tật hơi chiều quý bà, và hễ quý bà nào nhờ là vô phương từ chối... Tôi liền bảo bà ta: “Được rồi, em ngồi đấy đi, anh tìm ngay là biết liền, vả lại chưa tìm anh cũng có thể bảo đảm với em là không phải của Ronsard, vì câu này nổi tiếng quá mà! Nó là của François de Malherbe!” Bà nói:”Nếu thế xin tìm minh chứng hộ em đi!”

Tôi liền đến giá sách lấy cuốn “Dictionnaire biographique des auteurs” (Tự điển tiểu sử các tác giả) của nhà Laffont-Bompiani xuất bản năm 1964 (trang 157) thì tìm được các chi tiết sau đây về François de Malherbe. Ông này là một nhà thơ cung đình của Pháp và sinh ở Caen năm 1555 và mất ngày 16-10-1628 ở Paris, còn Pierre de Ronsard thì sinh năm 1524 và mất năm 1585 (tức là hoàn toàn thuộc về thế kỷ thứ 16). Sau đó tôi lấy tiếp tới cuốn “Nouveau dictionnaire de citations françaises” (Tân tự điển dẫn điển của Pháp) của tác giả Pierre Oster do nhà xuất bản Hachette-Tchou xuất bản năm 1970. Tôi mời bà bạn lại ngồi kế bên và hai mái đầu bạc chúi vào nhau tìm từ trang 72 tới trang 81 là mục dành cho Pierre Ronsard (1524-1585) mà không thấy dấu vết câu thơ nói trên: như vậy là không phải Ronsard là tác giả câu thơ trên rồi. Và bây giờ chúng tôi tìm xa xuống dưới (vì sách được sắp xếp theo thứ tự thế kỷ và năm) thì nơi trang 129, dưới tên François de Malherbe (1555-1628) chúng tôi đã tìm thấy câu thơ bà bạn hỏi trong dẫn điển số 1259 gồm 2 câu thơ được viết bằng 4 dòng như sau đây:

Mais elle était du monde où les plus belles choses

Ont le pire destin:

Et Rose elle a vécu ce que vivent les Roses,

L’espace d’un matin.

Xin tạm dịch:

Nhưng nàng thuộc về một thế giới mà những điều tốt đẹp nhất

Lại có số phận hẩm hiu nhất:

Và là cánh Hồng nàng đã sống thời gian của những cánh Hồng

Chỉ trong khoảnh khắc một buổi sáng.

Bà bạn tôi hào hứng nói: “Đúng là của Malherbe chứ không phải là của Ronsard anh ạ! Nhưng tôi bảo bà: “Em đừng vội, chúng mình tìm thêm nữa cho chắc ăn!” Tôi liền ra giá sách lấy thêm cuốn: “Encyclopedie des Citations” (Bách khoa tự điển các dẫn điển) của P. Dupre do nhà xuất bản Trévise ở Paris xuất bản năm 1959. Nơi trang 14 ở đầu cột bên trái dưới tên François de Malherbe, ở dẫn điển mang số 152 chúng tôi thấy cũng là 2 câu thơ trên và cũng được viết bằng 4 dòng như dưới đây:

Mais elle était du monde où les plus belles choses

Ont le pire destin;

Et rose elle a vécu ce que vivent les roses,

L’espace d’un matin.

Đương nhiên là bản dịch tiếng Việt thì cũng vậy, duy chỉ có khác là nếu áp dụng cho bài ở cuốn này thì hai chữ Hồng phải được viết là hồng (không viết hoa).

Và ở dưới cả 2 bài trong 2 cuốn, hai chúng tôi đều thấy để tựa đề là: “Consolation à Monsieur du Perier, Gentilhomme d’Aix-en-Provence, sur la mort de sa fille”, xin tạm dịch: “Bài thơ dùng để an ủi ông du Perier quý tộc ở Aix-en-Provence (ở cuốn kia viết là Perrier) về cái chết của cô con gái ông ta”.

Tóm lại điều chắc chắn 100% là tác giả câu thơ nói trên là Malherbe chứ không phải Ronsard.

Tuy nhiên vì thấy các chữ Rose và Roses cũng như tên Perier được viết khác nhau, ở một cuốn thì được viết hoa, cuốn kia thì lại không viết hoa, một cuốn viết với một chữ r, cuốn kia lại viết với hai chữ rr, hai chúng tôi tìm thêm ở hai cuốn tự điển khác nữa của các nhà xuất bản lớn như Larousse và Littre, thì đều thấy là các chữ rose và roses đều được viết chữ thường và tên Perier chỉ có 1 chữ r. Vậy thì ra ở cuốn các chữ Rose và Roses được viết hoa, tác giả và các đồng tác giả “chơi ngông” (fantaisie) một chút thôi còn vụ một chữ r hay hai chữ rr thì nơi viết hai chữ rr là sai và NHƯ VẬY HÓA RA TÂY CŨNG… TAM SAO THẤT BẢN NHƯ THƯỜNG, tuy nhiên Tây nó chỉ dám chơi ngông viết hoa thôi và thừa một chữ r thôi, đâu bằng được Ta, vì Ta cho Malherbe biến thành Ronsard luôn, thế mới sướng!...

Vũ Anh Tuấn – 15-10-2011


Phụ Bản IV

CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT

Cháu lâu đời nhất:

Khổng Kiên, người được ghi nhận là cháu 75 đời của Khổng Tử, hiện sống ở Nhật Bản. Gần đây, Khổng Kiên đã viết cuốn “Học thuyết kinh doanh của Khổng Tử” nội dung chính là: Tư tưởng chỉ đạo phát triển kinh tế của Nhật Bản và một số khu vực công nghiệp ở Châu Á được phát triển từ Đạo Nho. Cuốn sách được phát hành rộng rãi ở Nhật.

Khổng Tử ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ ở nước Lỗ, nay là tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

Nhân ngày kỷ niệm 2540 năm ngày sinh của Khổng Tử, Công ty du lịch tỉnh Sơn Đông đã sản xuất 2540 huy hiệu bằng vàng, mỗi cái nặng 16gam, để tưởng nhớ nhà triết học và nhà nho vĩ đại của Trung Quốc. Tổ chức UNESCO và “Quỹ Khổng Tử” của Trung Quốc còn tổ chức hội thảo tại Bắc Kinh, có hơn 300 học giả từ hơn 20 nước cùng cháu chắt của Ngài đang sống ở Đài Loan cũng được mời về dự, với chủ đề “Địa vị lịch sử và ảnh hưởng của Khổng Tử và tư tưởng Nho giáo đối với xã hội hiện đại”.

Biên niên sử gia đình:

Theo báo “Nước Nga Xô Viết”, một gia đình ở CHDCND Triều Tiên đã ghi chép tỉ mỉ mọi sự kiện xảy ra trong gia đình suốt từ năm 1834 đến nay. Trải qua 7 thế hệ. Cuốn biên niên sử gia đình đã dày tới 42 tập, trong đó có nhiều thông tin quý báu về đời sống của nhân dân Triều Tiên.

Lục đại đồng đường:

Cụ bà Tăng Nguyên Pháp, khi ấy 127 tuổi, ở xã Thái Viên, huyện Phong Đô, tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) lục đại đồng đường (6 đời sống chung trong 1 nhà). Con trai lớn của cụ năm nay 107 tuổi, cháu nội trên 80 tuổi, chắt 51 tuổi, chút 30 tuổi, thành viên nhỏ nhất trong gia đình là cu chít 12 tuổi.

Bà cụ Tăng Nguyên Pháp, sinh năm 1860, lấy chồng năm 21 tuổi, đến năm 30 tuổi chồng chết. Tính ra, người phụ nữ này đã ở vậy gần 100 năm. Ở tuổi 127, cụ vẫn gánh nước, giặt giũ, nấu cơm và vẫn ham bơi lội.

BẠN CÓ BIẾT VỀ QUỐC CA

Tên bài quốc ca:

Việt Nam: “Tiến quân ca”.

Trung Quốc: “Nghĩa dũng quân tiến hành khúc”.

Nhật Bản: “Thời đại của quân vương”.

Ấn Độ: “Ý chí nhân dân”.

Ba Lan: “Ba Lan không diệt vong”.

Thụy Điển: “Người là quê núi bắc quốc quang vinh cổ
kính”.

Pháp: “Bài ca người Marseille”.

Mỹ: “Cờ sao sọc”.

Na Uy: “Đúng! Chúng tôi yêu tổ quốc”.

Hy Lạp: “Ca ngợi tự do”.

Băng đảo: “Ca ngợi nghìn năm”.

Thổ Nhĩ Kỳ: “Độc lập tiến hành khúc”.

Arghentina: “Tổ quốc tiến hành khúc”.

Tây Ban Nha: “Hoàng gia tiến hành khúc”.

Quốc gia cổ nhất, dài nhất, ngắn nhất,…

Quốc ca cổ nhất là quốc ca Nhật “Kimigayo”: lời của quốc ca này viết ra từ thế kỷ thứ 9.

Quốc ca cổ nhất trong số 23 bài quốc ca không lời là quốc ca Tây ban Nha, có từ năm 1770.

Quốc ca dài nhất, quốc ca Hy Lạp là 4 khúc đầu trong một bài thơ của vua Salômông gần 158 đoạn

Quốc ca ngắn nhất là quốc ca Nhật, Jordani, San Marino. Lời của 3 quốc ca này chỉ vỏn vẹn có 4 dòng.

Quốc ca được lặp đi lặp lại nhiều lần nhất là quốc ca Anh. Ngày 9.2.1909, đoàn kèn đồng của đội Đức đã cử hành bài quốc ca Anh lặp đi lặp lại khoảng 16 – 17 lần trên sân ga Rathonao, thành phố Bradobuoc. Trong khi chờ vua Anh Etust VII trên chuyến tàu riêng của hoàng gia còn bận khoác bộ quân phục thiếu tướng của quân đội Đức trước khi xuống tàu.

Quốc ca được nhiều người biết nhiều nhất là quốc ca Pháp “La Marsiellaise” do Claude Josep Pouget de Lisle (1760 – 1836) sáng tác năm 1792. Bài hát này được chọn làm quốc ca Pháp ngày 14.7.1875 rồi được chọn lại lần nữa 14.7.1879.

Quốc ca Việt Nam hào hùng nhất thế giới

Website Cracked. Com đưa tin Quốc ca Việt Nam – bài “Tiến quân ca” của nhạc sỹ Văn cao – được xếp thứ nhất trong số các bài quốc ca hào hùng nhất thế giới sau khi lấy ý kiến của người đọc. Đây là trang tin tháng 2.2011 của Mỹ chuyên thực hiện những thống kê thú vị về lĩnh vực văn hóa, mnghệ thuật, khoa học kỹ thuật, xã hội… trên thế giới với hàng triệu lượt độc giả mỗi ngày. Theo Cracked. Com, độc giả đã bình chọn 6 bài quốc ca hào hùng xếp lần lượt từ thấp đến cao. Tiến quân ca của Việt Nam giữ vị trí quán quân, hạng nhì là bài La Marsiellaise (Pháp), xếp thứ ba là Independence march (Thổ Nhĩ Kỳ), thứ tư thuộc về Himnusz (Hungari), thứ năm thuộc về bài quốc ca Ý: I casino deghi Italiani và thứ sáu thuộc về quốc ca Algeria – Qassaman.

(theo tạp chí Tem số 110, 9.2011)

BĐ(st)

HẠNH PHÚC VÔ HÌNH

Có một phú ông vô cùng giàu có. Hễ thứ gì có thể dùng tiền mua được là ông mua về để hưởng thụ. Tuy nhiên, bản thân ông lại cảm thấy không vui, không hề hạnh phúc.

Một hôm, ông ta nảy ra một ý tưởng kỳ quặc, đem tất cả những đồ vật quý giá, vàng bạc, châu báu cho vào một cái bao lớn rồi đi chu du. Ông ta quyết định chỉ cần ai có thể nói cho ông làm thế nào để hạnh phúc thì ông sẽ tặng cả bao của cải cho người đó.

Ông ta đi đến đâu cũng tìm và hỏi, rồi đến một ngôi làng có một người nông dân nói với ông rằng nên đi gặp một vị Đại sư, nếu như Đại sư cũng không có cách nào thì dù có đi khắp chân trời góc bể cũng không ai có thể giúp ông được.

Cuối cùng cũng tìm gặp được vị Đại sư đang ngồi thiền, ông ta vui mừng khôn xiết nói với Đại sư: “Tôi chỉ có một mục đích, tài sản cả đời tôi đều ở trong cái bao này. Chỉ cần ngài nói cho tôi cách nào để được hạnh phúc thì cái bao này sẽ là của ngài”.

Lúc ấy trời đã tối, màn đêm sắp buông xuống, vị Đại sư nhân lúc ấy liền tóm lấy cái túi chạy đi. Phú ông sợ qua, vừa khóc vừa gọi đuổi theo: “Tôi bị lừa rồi, tâm huyết của cả đời tôi”.

Sau đó vị Đại sư đã quay lại, trả cái bao lại cho phú ông. Phú ông vừa nhìn thấy cái bao tưởng đã mất quay về thì lập tức ôm nó vào lòng mà nói:“Tốt quá rồi!”. Vị Đại sư điềm tĩnh đứng trước mặt ông ta hỏi: “Ông cảm thấy thế nào? Có hạnh phúc không?” - “Hạnh phúc! Tôi cảm thấy mình quá hạnh phúc rồi!”.

Lúc này, vị Đại sư cười và nói: “Đây cũng không phải là phương pháp gì đặc biệt, chỉ là con người đối với tất cả những thứ mình có đều cho rằng sự tồn tại của nó là đương nhiên cho nên không cảm thấy hạnh phúc, cái mà ông thiếu chính là một cơ hội mất đi. Ông đã biết thứ mình đang có quan trọng thế nào chưa? Kỳ thực cái bao ông đang ôm trong lòng với cái bao trước đó là một, bây giờ ông có còn muốn đem tặng nó cho tôi nữa không?”.

Câu chuyện thú vị này đã khiến tôi chợt nhận ra bản thân mình trong đó. Bạn liệu có phát hiện ra rằng, khi mất đi hoặc thiếu thứ gì đó bạn sẽ luôn nhớ về nó, nhưng khi có được rồi thì lại dễ dàng coi nhẹ, thậm chí nhìn mà không thấy nó?.

Nếu từng yêu, bạn sẽ hiểu được điều đó. Mối tình đầu…

Đối phương gọi điện hỏi thăm bạn, tặng quà cho bạn đều khiến bạn vui rất lâu. Tuy nhiên, một khi bạn đã xác lập mối quan hệ hoặc kết hôn thì tất cả sẽ biến mất hoặc tất cả đều biến thành điều hiển nhiên. Và khi đó là chuyện đương nhiên, liệu bạn còn trân trọng nó nữa?

Con người luôn quan tâm, hoài niệm thứ đã mất song lại không biết trân trọng những thứ mình đang có, đang sống trong hạnh phúc mà không biết mình hạnh phúc. Có lẽ, đó chính là bất hạnh lớn nhất của con người và cũng là nguyên do khiến hạnh phúc cứ mãi vô hình.

Ông trời cho ta khả năng nhìn thấy thì sẽ sắp xếp cho ta những bài học về sự mất đi, mất đi để có thể nhìn thấy. Nhìn thấy hạnh phúc mình đang nắm giữ.

Hoàng Chúc st

Đâu là giải pháp tốt?

Một người phụ nữ lo lắng bế con đến gặp bác sỹ phụ khoa và nói: “Bác sỹ, tôi có một vấn đề nghiêm trọng và rất cần sự giúp đỡ của ông! Ông thấy đấy, con tôi còn chưa đến 1 tuổi và tôi lại đang mang thai một lần nữa. Tôi không muốn những đứa trẻ sinh ra quá gần nhau”.

- “Ồ vậy thì” - bác sỹ hỏi - “cô muốn tôi làm gì?”

Người phụ nữ nói: “Tôi muốn ông giúp tôi ngừng mang thai, tất cả là nhờ ông”.

Vị bác sỹ suy nghĩ một lúc, rồi ông nói với người phụ nữ: “Tôi nghĩ rằng tôi có một giải pháp tốt hơn cho vấn đề của cô. Và còn bớt nguy hiểm cho cô nữa...”. Cô gái mỉm cười, tin tưởng nghĩ rằng bác sỹ sẽ đáp ứng được yêu cầu của cô.

Và rồi ông lại tiếp tục: “Cô thấy đấy, để cô không phải chăm sóc hai đứa trẻ cùng một lúc, thì hãy giết chết đứa trẻ cô đang bế trên tay. Bằng cách này, cô có thể nghỉ ngơi một thời gian trước khi đứa còn lại được sinh ra. Vì nếu chúng ta giết một trong hai đứa bé, thì không quan trọng là đứa nào phải không? Vả lại sẽ không có một mối nguy hiểm đe dọa nào cho cô nếu cô chọn đứa bé cô đang bế”.

Người phụ nữ kinh hoàng, mặt biến sắc: “Không thể được thưa bác sỹ! Làm vậy thực sự là quá khủng khiếp! Thật dã man khi giết một đứa trẻ...”

“Tôi đồng ý” - bác sỹ trả lời - “nhưng mà khi đến đây và nhờ tôi thì có vẻ như cô chấp nhận được điều đó mà, vì vậy tôi nghĩ đó là giải pháp tốt nhất”.

Cô gái ôm chặt đứa bé trên tay, chào từ biệt bác sỹ ra về, và không mảy may nghĩ đến việc thực hiện điều mà cô vừa định làm cách đó ít phút...

Bác sỹ mỉm cười và nhận ra rằng ông đã giữ vững quan điểm của mình. Ông đã thuyết phục được người mẹ rằng không có sự khác biệt nào trong việc giết chết một đứa trẻ đã được sinh ra và một đứa trẻ vẫn còn trong bụng mẹ. Tội ác là như nhau!

Đâu đó trong ông vang lên câu nói:

“Phá thai” nói rằng tôi phải hy sinh người khác vì lợi ích của bản thân mình.

Nhưng “Tình người” ngăn tôi lại, và nói rằng tôi cần phải hy sinh bản thân mình vì lợi ích của người khác.

Nếu bạn đồng ý, xin hãy “chia sẻ” thông điệp này đến những người khác.

Chúng ta có thể cùng nhau cứu được rất nhiều mạng sống quý giá!

MĐ st

10 món  C Ơ M  nổi tiếng trong ẩm thực Việt

Cơm với người Việt không được coi là một loại thức ăn mà thường coi là món chủ lực để ấm bụng trong các bữa ăn. Tùy vùng miền có rất nhiều loại cơm và biến thể của cách nấu.


1. Cơm gà – Hội An

Chưa ăn cơm gà xem như chưa tới Hội An. Cách nói có phần cường điệu ấy có lẽ xuất phát từ lòng tự hào khi đề cập đến cơm gà – một thứ hương vị quê nhà bình dị, khó quên của người dân phố Hội.

Cơm gà đơn giản là cơm nấu ăn với gà luộc nhưng cái đặc sắc là những yếu tố trong món ăn bình dị này như cơm, gà, nước chấm, đồ chua ăn kèm đều mang hương vị, phong cách ẩm thực rất riêng của miền Trung. Cái đặc biệt của món cơm gà xứ Hội bắt nguồn từ nét riêng của cách chế biến thịt gà theo “gu” miền Trung, nghĩa là gà xé nhỏ, bóp thấm với hành tây, rau răm và gia vị. Cái khéo của người làm là khiến miếng thịt mang thơm thơm, cay cay nhưng vẫn không bở thịt và mất mùi gà.

Nước dùng gà được dùng để nấu cơm nên hạt cơm không trắng mà ánh một sắc vàng nhẹ, căng tròn, ngọt lịm vị gà. Với phong cách nhỏ nhẹ của người miền Trung, món cơm gà được bày trong chiếc đĩa nhỏ chỉ đủ làm lưng bụng thực khách. Đĩa cơm thường trang trí thêm ít lá bạc hà, rau răm, những lát hành tây trắng nõn, tương ớt đỏ tươi, muối tiêu lấm chấm, ăn kèm với loại tương ớt sền sệt, cay xé lưỡi theo khẩu vị của người địa phương.

Có một cách khác làm món cơm gà, nhưng người vùng Tam Kỳ - Quảng Nam hay Đà Nẵng mới thường chế biến theo cách này. Thịt gà không xé sợi mà chặt thành từng miếng vừa phải, vàng ươm. Gà không chỉ luộc, đôi khi còn được chiên giòn.


2. Cơm Ghẹ - Phú Quốc

Cơm ghẹ là món ăn ngon, giàu chất đạm, vị lạ đặc trưng rất ấn tượng và cũng rất khó quên khi đặt chân đến Phú Quốc.

Thành phần chính của cơm xào ghẹ Phú Quốc là cơm trắng, thịt ghẹ bóc sẵn, hành tây xắt lát mỏng, tỏi, ít tương cà vàng, dầu ăn. Thịt ghẹ bỏ vào chảo xào sau khi phi tỏi vàng cùng với hành tây, cơm trắng. Tương cà giúp cho món ăn có màu sắc đẹp, nêm gia vị vào để có hương vị ngon. Cơm xào ghẹ Phú Quốc khi chế biến có màu vàng ươm cũa tơ vàng óng ánh rất đẹp. Cơm khi xào xong được ăn kèm với dưa leo xắt nhuyễn, rau tươi, cà chua xắt lát dùng với nước mắm pha chế sẵn.


3. Cơm hến – Huế

Người Việt Nam bao giờ cũng ăn cơm nóng, còn cơm hến của xứ Huế lại được chế biến từ cơm nguội đánh tơi nhưng cơm hến được nấu từ thứ gạo ngon nên vẫn mềm dẻo. Ăn cơm hến tưởng như là một món trộn với những nguyên liệu phong phú mà đơn giản như hến luộc, nước hến, hoa chuối thái rối, khế chua, rau răm...

Cơm hến hòa cùng vị bùi của đậu phộng, vị cay của ớt, vị đậm đà của mắm ruốc, tạo nên một món thanh đạm. Cơm hến là món khá cay, có mùi ruốc mặn nồng thơm nức mũi, vị chua thanh của khế, mùi thơm ngây ngất của rau thơm, chuối bắp, bạc hà, vị ngọt đằm thắm của nước hến, béo ngậy của tóp mỡ... Người ăn cơm hến đôi lúc vẫn chưa vừa lòng với món ớt tương cay nồng sẵn có, còn cắn thêm trái ớt tươi" rồi xì xụp, xuýt xoa hít hà cho nước mắt nhỏ giọt, mới thấm thía được cái ngon của cơm hến.


4. Cơm Âm phủ - Huế

Cơm Âm phủ là một món ăn có từ lâu đời của đất cố đô, rất đậm “chất Huế” gồm nhiều nguyên liệu tạo thành, đa màu đa sắc nhưng lại rất bình dân. Cái tên nghe rất lạ, tạo cho thực khách vẻ “sờ sợ” nhưng lại là một món ngon độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực Huế.

Cơm Âm phủ gồm các nguyên liệu như: cơm trắng, tôm, thịt nướng, chả lụa, trứng tráng, rau thơm, dưa leo, đồ chua... Cách làm cũng khá công phu. Cơm là thành phần chính nên việc chọn gạo để nấu là rất quan trọng. Để cơm ngon phải chọn gạo thơm, có chất lượng tốt.

Cơm Âm phủ có trong bốn mùa. Nếu có dịp đến thành phố Festival Huế, đắm chìm trong khung cảnh thơ mộng của nơi đây, du khách hãy thưởng thức món cơm đậm chất Huế này.


5. Cơm Tấm – Sài Gòn

Cơm tấm vốn là món đặc sản truyền thống của người dân miền Nam mà đặc biệt là người Sài Gòn. Xưa kia, người dân thường sử dụng món ăn này trong bữa sáng, vừa đơn giản mà thuận tiện. Nhưng nay, món cơm tấm độc đáo này được dùng trong nhiều cửa hàng, quán xá, nhà hàng, khách sạn như một món cơm chính trong bữa trưa, tối…

Cơm tấm là món ăn độc đáo bởi lẽ đây thứ cơm được nấu từ những hạt gạo vỡ nhỏ, vụn. Những mảnh hạt gạo vỡ được sàng riêng và nấu chín lên bằng bếp củi.

Cơm tấm có hương vị thật nhẹ nhàng nhưng rất đặc biệt và hấp dẫn người thưởng thức. Một đĩa cơm tấm ăn kèm với sườn, bì, chả, trứng và nước mắm sẽ khiến cho các vị giác của bạn phải trầm trồ bởi vị ngon mà không ngấy.


6. Cơm cháy - Ninh Bình

Tương truyền, cơm cháy Ninh Bình được hình thành hơn 100 năm (từ cuối thế kỷ 19), do một chàng thanh niên người Ninh Bình tên là Hoàng Thăng học được và phát triển từ một món ăn của người Hoa, sau đó mở rất nhiều tiệm ăn ở Hà Nội lẫn Ninh Bình. Từ đó món cơm cháy được lưu truyền, phát triển và trở thành một đặc sản của vùng đất Cố đô.

Để làm món cơm cháy thơm ngon, người Ninh Bình dùng gạo nếp hương, chọn hạt gạo tròn và trong để nấu. Khi nấu phải nấu bằng than củi và dùng nồi gang thì mới có miếng cơm cháy vàng thơm, vừa dẻo vừa ngon. Cháy lấy ra từ nồi mang ra phơi từ hai đến ba nắng. Cơm cháy cần được bảo quản nơi kho dáo, tuyệt đối tránh ẩm mốc, lúc gần ăn thì mới mang ra chiên giòn. Nếu chiên để qua buổi hay qua ngày thì cơm đều bị hôi dầu, ăn sẽ không ngon.

Ăn cùng cơm cháy có thể là thịt bò, tim, cật lợn xào với các loại rau như hành tây, nấm rơm, cà rốt và cà chua… ăn đến đâu, chan lên miếng cơm cháy đến đó. Miếng cơm kêu xèo xèo, bốc khói, toả ra mùi thơm. Khi ăn, cơm giòn tơi, chứa nhiều hương vị của món ăn thập cẩm nóng sốt mà đậm đà.


7. Cơm Dừa – Bến Tre

Xứ dừa Bến Tre không chỉ nổi tiếng với các sản phẩm kẹo dừa, rượu dừa, qua bàn tay tinh tế của người dân nơi đây biến món cơm dân dã hằng ngày trở thành một đặc sản lạ lẫm với người ăn bằng món cơm dừa.

Để được món cơm dừa ngon phải mất gần hai giờ đồng hồ. Những trái dừa xiêm được cắt ngang một phần trên đầu quả dừa để trút nước ra và dùng miếng cắt đó như cái nắp để đậy lại. Gạo ngon vo sạch bằng nước rồi sau đó vo lại nước cuối cùng bằng nước dừa, để ráo nước. Cho gạo vào trong trái dừa rồi đổ lượng nước dừa vào vừa đủ, đậy nắp lại cho kín. Cơm dừa nấu với nước dừa được hấp cách thủy trong nồi nên hương thơm, vị ngọt đều kết đọng lại trong mỗi hạt cơm. Khi cơm chín hơi ngả màu vàng nhạt do bị thấm hơi dầu từ cơm quả dừa. Cơm dừa ăn có vị beo béo nên ăn nóng mới ngon.

Cái thú khi ăn cơm dừa là ăn trực tiếp trên trái dừa, không phải ăn bằng chén. Với trái dừa xinh xắn trắng ngà, mùi thơm của dừa hòa quyện cùng làn khói bốc lên làm cho tất cả các giác quan đều hưởng trọn vẹn hương vị của món ăn.


8. Cơm lam

Cơm lam là loại cơm được làm từ gạo (thường là gạo nếp) cùng một số nguyên liệu khác, cho vào ống tre, giang, nứa v.v. và nướng chín trên lửa.

Cơm lam bỏ trong những ống tre, đốt trực tiếp trên lửa, khi ăn chẻ bỏ lớp cháy đen bên ngoài. Cơm lam ăn ngon, lạ miệng, hương vị khác hẳn cơm thường, chỉ cần bỏ ống cơm ra đó thấy mùi thơm rất hấp dẫn. Bẻ miếng cơm lam, chấm muối vừng hoặc muối lạc cho vào miệng, ta sẽ thấy ngon, thơm, dẻo, rất đậm đà, ngoài hương thơm của gạo nếp còn thoảng hương vị thơm thơm của nứa rừng qua lửa. Cơm Lam là món cơm đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên.


9. Cơm niêu đập

Theo văn hóa của người Việt cho rằng nồi đất là nồi nấu ăn ngon nhất. Gạo Tám mà nấu bằng nồi đồng hoặc bằng các thứ nồi khác đều không thể có hương vị như nấu bằng niêu đất.

Cái niêu đất nung nâu sẫm be bé, miệng hơi khum to hơn tô canh một chút đậy nắp kín với đôi đũa cả gác một bên. Ăn cơm đập ở các nhà hàng, khi niêu cơm được bê lên, người phục vụ mới gõ nhẹ chiếc búa nhỏ vào niêu, những mảnh đất nung vỡ vụn rơi xuống đất còn lại trên tay là ổ cơm chín mịn màng ở giữa nhưng chung quanh là một lớp cháy giòn đều vàng mỏng.

Thường cơm niêu được ăn kèm với cá kho tộ, cà pháo chấm mắm tôm, canh cua mồng tơi….


10. Cơm nị

Cơm nị một món ăn truyền thống của người Chăm, Châu Giang, An Giang. Cơm nị thường là gạo nấu với sữa nhưng có người lại thích thêm nho khô vào để tăng thêm khẩu vị.

Người Chăm hay ăn Cơm nị với cà púa là món ăn được chế biến từ thịt bò rất độc đáo. Hai món ăn này thường bổ sung cho nhau tạo nên hương vị độc đáo và cầu kỳ mang khẩu vị người Chăm.

Cơm nị - cà púa mang mùi ngọt béo của sữa, vị bùi của đậu phộng, vị mặn ngọt của thịt bò cùng với vị cay xè của ớt, vị ngọt của nho khô làm ngẩn ngơ lòng thực khách. Tất cả đem lại cho người ăn một cảm giác thơm ngon, thật lạ miệng, no bụng mà chẳng thấy ngán.

Bs. Nguyễn Lân Đính st

Chuyện phiếm

về tình yêu vợ chồng!

6 tuần đầu...

6 tháng sau... và...

6 năm sau... Đọc để biết tình yêu trong tương lai!

1. Lời yêu thương:

- Sau 6 tuần: Anh yêu em.

- Sau 6 tháng: Tất nhiên là anh yêu em.

- Sau 6 năm: Nếu không yêu, tôi cưới cô làm gì?

2. Khi đi làm về:

- Sau 6 tuần: Em yêu, anh về rồi.

- Sau 6 tháng: Đã về.

- Sau 6 năm: Nấu bữa tối chưa?

3. Quà tặng:

- Sau 6 tuần: Em yêu, hy vọng em sẽ thích sợi dây chuyền này.

- Sau 6 tháng: Anh mua một bức tranh, anh nghĩ treo nó ngoài phòng khách thì rất hợp.

- Sau 6 năm: Lương đây, muốn mua gì thì tự đi mà mua.

4. Điện thoại đổ chuông:

- Sau 6 tuần: Em ơi, có người muốn nói chuyện với em này.

- Sau 6 tháng: Điện thoại của em đấy.

- Sau 6 năm: Nghe điện thoại đi.

5. Nấu nướng:

- Sau 6 tuần: Anh chưa bao giờ được ăn món nào ngon hơn thế.

- Sau 6 tháng: Em nấu món gì cho bữa tối thế?

- Sau 6 năm: Lại là món này à?

6. Lời xin lỗi:

- Sau 6 tuần: Em yêu, đừng lo, anh thề không bao giờ tái phạm.

- Sau 6 tháng: Được rồi, anh hứa.

- Sau 6 năm: Biết rồi, nói nhiều thế.

7. Quần áo mới:

- Sau 6 tuần: Trông em như thiên thần trong bộ đồ này.

- Sau 6 tháng: Em lại mua quần áo mới à?

- Sau 6 năm: Suốt ngày quần với áo.

8. Kế hoạch cho kỳ nghỉ:

- Sau 6 tuần: Mình sẽ đi nghỉ vài ngày ở nơi nào đó em thích.

- Sau 6 tuần: Đi nơi nào đó vừa gần vừa rẻ ý.

- Sau 6 năm: Du lịch làm gì, ở nhà thì có chết ai.

9. Cái tivi:

- Sau 6 tuần: Chúng mình xem phim gì tối nay?

- Sau 6 tháng: Anh thích phim này hơn.

- Sau 6 năm: Để kênh này xem bóng đá đi. Em không thích thì cứ ngủ sớm.

10. Chiếc gường:

- Sau 6 tuần: Chúng mình cưa bỏ nửa chiếc giường đi em ạ.

- Sau 6 tháng: Chiếc giường này vừa đủ em ạ.

- Sau 6 năm: Anh ra ngoài nằm cho thoáng.

11. Đi xe máy:

- Sau 6 tuần: Khiếp, giữa anh và em ngồi thêm được 1 người nữa đấy.

- Sau 6 tháng: Mình mua chiếc SH cho đủ chỗ ngồi em ạ.

- Sau 6 năm: Mỗi người đi một xe cho nó tiện.

12. Nhà:

- Sau 6 tuần: Chúng mình cần một phòng là đủ.

- Sau 6 tháng: Mình nên tìm mua nhà có 4 phòng.

- Sau 6 năm: Ta nên có hai cái nhà, phòng khi mình cãi nhau.

13. Con cái:

- Sau 6 tuần: Có bầu chưa em.

- Sau 6 tháng: Còn 4 tháng nữa anh làm bố rồi!

- Sau 6 năm: Đi thử ADN.

14. Tiền bạc:

- Sau 6 tuần: Tiền của anh là của em.

- Sau 6 tháng: Em phải để cho anh ít tiền tiêu vặt chứ!

- Sau 6 năm: A! Anh dám lập qũy đen à!

15. Nghe em nói:

- Sau 6 tuần: Không nghe em nói anh nhớ lắm.

- Sau 6 tháng: Anh biết rồi!

- Sau 6 năm: Em im lặng một lúc không được sao!

16. Đi siêu thị:

- Sau 6 tuần: Ở cạnh em là anh vui rồi.

- Sau 6 tháng: Mua nhanh nhanh rồi về.

- Sau 6 năm: Em đi một mình được rồi

17. Trang sức:

- Sau 6 tuần: Để anh mua cho em đôi hoa tai cho đủ bộ.

- Sau 6 tháng: Mua làm gì nhiều hả em.

- Sau 6 năm: Cứ đeo mấy cái thứ ấy, cướp nó giật cho… có gì thì đừng bảo tui đi nuôi.

18. Ủi đồ:

- Sau 6 tuần: Em ủi lúc nào nhanh thế.

- Sau 6 tháng: Còn cái này chưa ủi này.

- Sau 6 năm: Chờ cô ủi có mà ở trần đi làm.

19. Nghe vợ nói:

- Sau 6 tuần: giọng em cứ líu ríu như chim hót ấy, anh nghe cả đời không chán.

- Sau 6 tháng: Nói ít thôi cho anh còn xem bóng đá.

- Sau 6 năm: Sao cứ quàng quạc như vịt suốt ngày thế nhỉ, không biết mệt à!

20. Sang đường:

- Sau 6 tuần: Từ từ em, để anh dắt sang đường nào, xe cộ thế này nguy hiểm lắm.

- Sau 6 tháng: Nhìn vào mà sang đường.

- Sau 6 năm: Làm gì mà dò dẫm như thế, chết làm sao được mà sợ.

21. Ăn đêm:

- Sau 6 tuần: En có đói không, em thích ăn gì, anh chạy ù ra ngoài phố mua về cho.

- Sau 6 tháng: Vừa ăn tối xong giờ này đã đói rồi à, lấy tạm gói sữa mà uống đi.

- Sau 6 năm: Ăn gì mà ăn lắm thế, người ngợm thì béo ú lên rồi kia kìa.

22. Trang điểm:

- Sau 6 tuần: Em trang điểm nhẹ nhàng nhưng rất ấn tượng, anh rất tự hào khi đi bên cạnh em.

- Sau 6 tháng: Thôi, không trang điểm có chết ai đâu nào.

- Sau 6 năm: Son son với chả phấn phấn, mất thời gian. Có định đi không thì bảo!

23. Món ăn:

- Sau 6 tuần: Món ăn có vị hơi lạ nhưng là sản phẩm của chính tay em làm nên thật tuyệt vời.

- Sau 6 tháng: Em xem bố trí thời gian đi học nấu ăn đi.

- Sau 6 năm: Nấu ăn thế này thì ai mà nuốt nổi hả trời, vợ với chả con.

24. Du lịch:

- Sau 6 tuần: Anh sẽ đưa em đi khắp thế gian này.

- Sau 6 tháng: Ở nhà thôi, đi một chuyến cũng mất toi mấy tháng lương.

- Sau 6 năm: Du lịch du liếc gì, năm nào cũng đi chưa chán à!

25. Chuyện ấy:

- Sau 6 tuần: mỗi ngày một lần, suốt đời em nhé.

- Sau 6 tháng: hôm nay anh mệt.

- Sau 6 năm: Để yên cho tôi ngủ, khều khều cái gì.

26. Uống café:

- Sau 6 tuần: Em nhớ lần đầu mình đi uống café với nhau không, anh thích lúc như thế này.

- Sau 6 tháng: Mình mới đi tuần trước rồi mà.

- Sau 6 năm: Ra đấy làm cái gì, xem tivi còn có lý hơn.

27. Mua đồ cho con:

- Bé sau 6 tuần tuổi: phải tự tay anh chọn anh mới yên tâm.

- Bé 6 tháng: bộ nào cũng được.

- Bé 6 tuổi: có bộ đồ mà cũng không biết mua cho con, thế mà cũng làm mẹ.

28. Mua quà cho bố mẹ vợ:

- Sau 6 tuần: Anh biết tính bố mẹ lắm, cứ để anh mua.

- Sau 6 tháng: Em xem bố mẹ cần gì thì mua.

- Sau 6 năm: Ông bà già rồi, có cần đâu mà mua.

29. Sau giờ làm:

- Sau 6 tuần: Để anh đón em về luôn, rồi mình cùng đi ăn tối.

- Sau 6 tháng: Em về nấu cơm trước, anh xong việc về ngay.

- Sau 6 năm: Em cứ ăn cơm trước, anh nhậu với bạn rồi.

30. Đọc báo:

- Sau 6 tuần: anh thấy mấy quyển báo, truyện này hay quá nên mua cho em đọc.

- Sau 6 tháng: mục vui cười này hay quá (cả 2 vừa đọc vừa cười khúc khích).

- Sau 6 năm: anh ơi mục ĐBGB trên web trẻ thơ có topic này hay lắm em đọc cho anh nghe nhé - Ui xời em đọc đi anh đang buồn ngủ.

31. Copy topic này cho chồng đọc:

- Sau 6 tuần: Đâu đâu, cũng hay đấy chứ em, để anh đọc rồi rút kinh nghiệm.

- Sau 6 tháng: Cứ từ từ để đấy, lúc nào rảnh anh xem.

- Sau 6 năm: Rách việc, không có việc gì làm nữa hay sao?

32. Vợ thân hình hơi tròn trịa, luôn hỏi chồng một câu hỏi: Em có béo không anh?

- Sau 6 tuần: Không, nhìn em phúc hậu.

- Sau 6 tháng: Không!

- Sau 6 năm: Nhiều mỡ quá, ngấy lắm!

C Ư I 

Chuyện 1:

Ông bố bảo đứa con: Xích con chó dữ lại. Cậu con hỏi: Nhà sắp có khách từ xa tới à bố? Bố đáp: Không! Mẹ mày sắp từ mỹ viện về!

Chuyện 2:

Ông chồng đi làm về bất chợt thì gặp vợ đang nằm với một người bạn thân. Ông rút súng bắn chết ngay thằng bạn. Bà vợ nói ngay: Cứ cái đà này thì ông sẽ mất hết bạn bè!

Chuyện 3:

Dịp lễ Giáng Sinh một em bé viết thư cho ông già Noel: Xin Ngài cho con một đứa em. Ông già Noel phúc đáp: Con hãy gởi mẹ con lên đây!

Chuyện 4:

Thầy giáo hỏi cả lớp: Các em đã hiểu việc kinh nguyệt quan trọng thế nào đối với phụ nữ chưa? Trò Mike đáp: Thưa hiểu. Khi chị con nói tháng này không có thấy kinh nguyệt thì mẹ con ngất xỉu, bố con bị đột quỵ tim, còn anh tài xế thì vùng chạy ra ngoài cửa!

Chuyện 5:

Cậu bé hỏi bố về sự khác biệt giữa hai từ “confident” và “confidential”. Ông bố liền đáp: Nếu bố nói con là con ruột của bố, tức là bố “confident” [tự tin, tin chắc]. Còn nếu bố nói nhỏ với con rằng thằng Bob hàng xóm cũng là con của bố và là em của con thì đó là “confidential” [kín, bí mật]!

MĐ st

 C Ầ N  P H Ả I  T H Í  C O N  Đ Ầ M 

- William, anh có nghe em nói không?

William Ferrier, 25 tuổi, ngẩng đầu lên. Khuôn mặt xương xẩu, và cái nhìn trầm mặc, khiến từ chàng toát ra một vẻ thông minh, sắc sảo. Ngay hôm nay, ngày 10 tháng Tư, 1963, ngay lúc này, William đang ngồi ăn sáng với Gigele, vợ chàng, trong căn nhà nhỏ của họ ở vùng ngoại ô thành phố Paris. Nói ăn sáng thì không đúng lắm; muốn chính xác phải nói là William đang ngồi trước mặt vợ anh ta. Vì từ nãy đến giờ chàng gần như không ăn, hoặc ăn rất ít…

- William, hãy bỏ quyển sách ra một phút và nghe em nói!

William gạt cuốn sách Nghệ thuật chơi Cờ Vua sang kế bên một Bàn Cờ Vua loại bỏ túi được để ở kế bên đĩa cơm còn đầy tú hụ. Anh nhìn vợ mình bằng một ánh mắt khó chịu.

- Rồi! anh nghe em đây em yêu...

Bằng một cử chỉ hờn giận, Gigele xoắn chiếc khăn ăn. Nàng quả là đẹp, tóc hung, nước da trắng, cặp môi xinh xinh khiến nàng đã đẹp lại đẹp hơn. Họ đã cưới nhau từ 6 năm trước. Khi lấy William, nàng mới 17 tuổi. Hai người là bạn của nhau từ thời thơ ấu, và cuộc hôn nhân thuần túy vì tình, vì yêu, không chút toan tính. Sự việc có vẻ như toàn vẹn, hoàn hảo, siêu tốt đẹp.

- Anh ạ, vừa rồi, ở văn phòng em nhận được một cú điện thoại của ba em.

- Thế à…

- Anh chả thèm hỏi em cái gì về ông cụ hả?

- Có! Có chứ ba em khỏe không?

- Ba bịnh lắm, vì thế ba mới gọi em. Ba muốn chủ nhật tới anh và em ghé thăm ba.

- Chủ nhật tới thì không thể được em ạ!

- William ơi, ba em có thể ra đi bất cứ lúc nào vì bệnh tim của cụ, và ba muốn gặp anh và em.

- Vậy thì em đi gặp ba đi, còn anh thì chưa đi được. Ba má ở tận Reims, còn anh thì sắp có một trận thi đấu cờ Vua ở Paris.

- William ơi, việc này không thể trì hoãn được!

- Thôi! Anh xin em, chúng mình không bàn về chuyện này nữa!

- Có, còn thiếu gì thứ phải bàn! Anh thành điên vì Cờ Vua và những con cờ chết tiệt, và em, em cũng đang phát điên lên đây! Anh chả còn chịu làm gì cả và đang sống bám vào em đây này.

- Thì anh đang tìm việc làm mà…

- Đâu có! Anh ở lì ở nhà và suốt ngày ôm mấy cuốn sách và quân cờ. Ôi! thức tỉnh lại đi, anh đâu có thế này hồi ta mới cưới nhau!

Ánh mắt của William bỗng rực sáng:

- Anh chịu chả biết tại sao tự nhiên anh say mê cờ Vua như thế này. Để từ từ rồi anh sẽ giải thích cho em hiểu…

- Không, không giải thích gì hết, hễ anh nói về vụ đó là em phát ớn.

William bực bội chúi đầu vào cuốn sách trở lại.

- Được rồi, tùy em thôi!

- William ơi, anh ráng chủ nhật này đi với em nhé…

- Đầm ở ô đen số 3!

- Sao, anh nói gì?

- Phải thí con Đầm ở ô đen số 3! Rõ ràng là phải vậy! Đây chính là nước cờ cần thiết! Em biết nước cờ này hay biết chừng nào không? Thí con Đầm ở ô đen số 3 để được một nước chiếu bí không gì sánh nổi! Ôi, nhưng thật ra làm sao em hiểu được! Em đâu có biết chơi…

Gigele thở dài chán nản. Nàng thực sự không hiểu chuyện gì đang xẩy ra, tuy nhiên nàng quyết tâm không chịu thua, ngược lại nàng nhất định sẽ chiến đấu chống lại cái thứ Cờ Vua đang từ từ, và ngày ngày, chiếm mất chồng nàng, còn dữ dằn hơn cả một cô tình nhân xinh đẹp. Không! Mặc dầu nàng không biết chơi, nàng cũng vẫn sẽ vẫn cùng William giao đấu một trận sống mái mà một trong hai người phải toàn thắng người kia.

Đầu tháng 5 năm 1963, Willian đã đành phải một lần chấp thuận rời vùng ngoại ô Paris để đi tới Reims. Phải nói là anh ta chả có cách nào khác, vì ông già vợ anh ta qua đời. Trong suốt thời gian tang lễ, anh ta đã khiến nhiều người lo lắng cho anh ta, vì anh ta gầy tọp hẳn đi, ánh mắt như ngây dại, và rồi, ở nhà thờ cũng như trong đám tang, miệng anh ta thường xuyên lầm rầm cầu nguyện. Thái độ của anh làm những người biết anh quá sức ngạc nhiên, vì từ xưa đến nay, William vốn là kẻ vô tín, chẳng tin cái chết tiệt gì; nay tại sao lại tin và cầu khấn liên miên thế này?... Duy nhất chỉ có Gigele biết là cái miệng anh ta không phải lâm râm các lời cầu nguyện, mà là lẩm nhẩm các nước cờ, bệnh mê cờ Vua của anh đã và đang ngày càng trầm trọng hơn. Vừa xong tang lễ, Gigele thử nêu một đề nghị mà nàng biết tỏng trước là sẽ không có hiệu quả gì:

- William ơi, anh có biết ba đã nói gì với em trước lúc nhắm mắt không? Ba muốn anh bỏ đừng mê cờ Vua nữa, vì nếu tiếp tục, ba tin chắc anh dám thành điên, thành người mất trí lắm.

- Thôi bỏ đi, đừng nói chuyện này với anh!

- Đó là lời trối trăn của ba, William ạ!

- Cho anh hai chữ bình an đi! Em có thể nói với anh bất cứ việc gì trừ việc bỏ chơi cờ Vua. Nghe rõ chưa?

Ngày 1, tháng bảy, 1963. Hai tháng đã trôi qua, và trong hai tháng đó đã có rất nhiều đổi thay với cặp vợ chồng nhà Ferrier. William và Gigele càng ngày càng cách biệt. Mỗi người trong họ bây giờ sống và tiến triển trên một hành tinh khác nhau: Gigele trong thế giới hiện thực, William trong một thế giới gồm những ô đen, ô trắng, với những quân Vua, Đầm, Hề, Mã, Xe, và Tốt.

Hôm 1 tháng bảy này, khi đi làm về - một việc làm giúp cả hai sống một cách chật vật – Gigele thở dài một cách chán nản. Nàng cũng đã gầy đi rất nhiều, đôi má cũng tóp đi, đôi mắt cũng xớn xác như má như mắt của William. Từ bỏ chăng? Rời bỏ kẻ bệnh hoạn, chỉ có thể làm nàng cũng bệnh hoạn luôn, kẻ điên, chỉ có thể cũng làm nàng điên luôn chăng? Làm được như vậy là phải, là khôn ngoan. Nhưng phải, hay là khôn ngoan, lại không phải là những vấn đề có thể được đặt ra ở đây, đơn giản là vì nàng yêu William, và luôn luôn tin chắc rằng, ngoài chàng ra, nàng chẳng bao giờ có thể yêu ai khác.

William bước tới đón vợ. Nàng buồn bã bao nhiêu, thì ngược lại, chàng có vẻ hớn hở bấy nhiêu. Chàng vung cao tay đưa ra một lá thơ:

- Em yêu ơi, thật tuyệt vời! Anh được lựa chọn để tham dự cuộc thi Vô Địch Cờ Vua Pháp Quốc! Hai tuần nữa anh sẽ phải đi tới Nice là nơi cuộc thi được tổ chức. Em sẽ đi với anh, đúng không? Em là chỗ dựa tinh thần vô cùng cần thiết cho anh!

Một phút trôi qua trong im lặng. Gigele nở một nụ cười buồn:

- Anh có nghĩ tới chuyện là em đang có một việc làm, và không thể vắng mặt được không?

- Em chỉ việc xin nghỉ chứ có gì khó đâu.

- Không William, em sẽ không đi!

- Gigele ơi, anh van em mà!

- Em sẽ không đi William ạ, nếu anh dự thi, em sẽ rời bỏ anh! Anh sẽ phải lựa chọn hoặc là em, hoặc là Cờ Vua, lựa ngay đi!

Hoàn toàn bị bất ngờ khi thấy vợ mình nói vậy, William đứng thõng tay, nhìn vợ chàng bằng ánh mắt như không muốn tin và đau khổ. Trong giây lát, nàng như tìm lại được William của những ngày xa xưa, chàng trai mà nàng đã yêu, và vẫn còn yêu.

- Gigele ơi, không thể thế này được! Lúc này em không thể đối xử với anh như thế này được!

- “Lúc này!”

- Phải, chỉ còn mười lăm ngày nữa là phải dự thi. Em có nghĩ rằng từ nay tới lúc đó anh sẽ phải ở trong một trạng thái tinh thần bấn loạn như thế nào không? Anh sẽ thua là cái chắc! Em không được quyền làm anh thua cuộc!

- Rồi sau đó anh cũng cóc cần nếu chúng ta bỏ nhau, phải không?

- Không, ý anh không phải vậy… Nhưng thôi! Để anh dự thi về rồi mình tính tiếp. Được chứ?

Gigele nhìn chồng nàng một lúc lâu. Thôi, thế là hết! Nàng đã gắng chịu đựng, nhưng nàng đã thua. Giờ đây, chả còn chi là quan trọng, đáng nói. Nàng chỉ còn việc rời bỏ chàng vĩnh viễn luôn. Trừ phi…

- William, anh có nhớ một hôm anh nói với em về chuyện phải thí con Đầm? Như vậy có nghĩa là làm sao?

- Ơ, thật tuyệt vời! Tự nhiên em lại quan tâm tới cờ Vua sao?

- Khỏi hỏi, hãy mau trả lời em đi!

- À, là thế này. Trong một số tình huống, người chơi cần thí một con cờ để dành một thắng lợi, thường là chung cuộc: và làm vậy có nghĩa là thí… Trong trường hợp anh nói thí con Đầm, thì là vì con Đầm là một con cờ rất quan trọng, nên sự thí nó là để chiếu bí dành phần thắng đẹp nhất.

Gigele lại giữ im lặng thêm một lúc, rồi nàng tuyên bố bằng một giọng nói trang trọng:

- Em sẽ cùng đi với anh tới Nice!

Ngày 15 tháng bảy, 1963. William và Gigele vừa tới Nice. Vào lúc 8 giờ sáng, William rời khách sạn để tới Tòa Nhà Nghị Viện nơi cuộc thi được tổ chức. Gigele, vào phút chót đã từ chối không đi cùng, lấy cớ là bỗng nhiên bị choáng váng nhức đầu. Thế là chàng đến một mình, và ngồi vào bàn thi đấu trước đối thủ. Chàng cảm thấy vô cùng tự tin. Việc vợ chàng bất thình lình thay đổi thái độ, để ủng hộ chàng sau khi phản kháng dữ dội, đã khiến chàng cảm thấy cực kỳ hưng phấn, sung mãn. Kết quả là chàng đã thắng đối thủ trong ba giờ đồng hồ để đoạt chức vô địch, một thành công rất đáng kể.

Khi chàng rời bàn thi đấu, viên trọng tài tiến lại gặp chàng và đưa cho chàng một lá thơ. Ông cho biết lá thơ tới khi cuộc thi đấu mới bắt đầu, nhưng luật thi không cho phép ai đưa bất cứ vật gì cho hai đấu thủ trong khi thi đấu, nên bây giờ ông mới đưa lá thơ được.

William Ferrier cầm lá thơ và đọc: “Gửi Anh William”, và chàng nhận ra nét chữ của vợ mình. Rất lo lắng và hồi hộp, chàng xé vội bì thơ…

William yêu dấu,

Em biết chắc là anh sẽ thắng cuộc. Phần em, em không biết kết quả thi đấu của mình ra sao. Vì anh đâu có biết là, đã từ lâu nay, cả hai chúng ta cũng đang thi đấu cờ Vua. Em thực liều quá, thực điên quá khi dám so tài với một nhà vô địch như anh! Lỗi lầm này phải qui cho Tình Yêu; vì Tình Yêu chấp nhận tất cả mọi sự liều lĩnh, mọi sự điên rồ. Khi em dọa là sẽ bỏ anh, và khi em đòi anh lựa chọn giữa em và niềm đam mê cờ Vua của anh, thì anh đã chọn cờ Vua. Mặc dầu vậy, em đã chấp nhận đi cùng anh đến đây. Em rất tiếc, em xin lỗi, vì em đến không phải để làm điểm tựa tinh thần cho anh để anh thắng, mà chính là để được chết gần bên anh hơn...

William sụm người xuống, tay chống mạnh vào bàn làm đổ lung tung nhiều quân cờ trên bàn cờ.

Đừng tìm em ở khách sạn, vì em rời khỏi khách sạn rồi. Khi tìm được ra em thì đã quá muộn. Vâng anh yêu, em đã chơi nước cờ cuối cùng của em, nước cờ duy nhất mà anh đã dạy em, và hình như là nước cờ hay nhất: sự thí con Đầm!... Để chữa cho anh khỏi căn bệnh của anh, em nghĩ anh cần phải gặp một tai biến lớn. Chả hiểu cái chết của em có đủ để tạo nên tai biến đó không? Em không được biết, nhưng nếu có là đủ, thì em cũng chẳng còn để mà thụ hưởng… Vĩnh biệt William thân yêu, em đã áp dụng bài học anh dạy em. Tương lai sẽ cho biết em có phải là một học trò giỏi hay không.

Được William báo động và cầu cứu ngay không chậm một giây, cảnh sát ở Nice thông báo hình dạng của Gigele cho tất cả mọi nơi chốn trong thành phố, và chỉ một thời gian ngắn sau đó họ đã tìm thấy nàng nằm bất tỉnh tại một khu đất trống. Mặc dù số lượng thuốc ngủ nàng đã uống cũng khá nhiều, nhưng các bác sĩ cũng đã kịp cứu được Gigele tỉnh lại. Khi nàng tỉnh lại, William trực sẵn ở đầu giường. Chàng đã nói với nàng một cách ngắn gọn:

- Em đã thắng ván cờ: anh thua và xin bỏ cuộc!...

Vũ Anh Tuấn dịch một truyện của Bellemare, rút trong tác

phẩm “Ngã Năm lo âu và hãi sợ” (Le carrefour des angoisses)

* Con bài này còn được gọi bằng tên “Hoàng hậu”

|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế