Hiện có 9 người xem / 2309758 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/11/2011

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA VÀ NAY

Như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã mở đầu phiên họp bằng việc giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách tương đối cổ, một bằng tiếng Việt và một bằng tiếng Pháp.

Cuốn tiếng Việt mang tựa đề là Gió Tây của Cụ Lê Văn Hòe “biên dịch” (tác giả dùng hai từ này) và được nhà xuất bản Quốc Học Thư-Xã ở Hà Nội in năm 1951 (vừa đúng 60 năm trước) gồm các bài thơ của các nước Pháp – Anh – Ba Tư – Ba Lan – Bỉ – Bồ Đào Nha – Đan Mạch – Đức – Hà Lan – Hy Lạp – Hung – Lỗ Mã Ni – Mỹ – Na Uy – Nam Tư – Nga – Tây ban Nha – Thụy Điển – Ý và Lạp Đào Uyển. Trong tên các nước có các bài thơ được dịch (có nước có 2, 3 bài, có nước chỉ có 1 bài). Có tên nước Hung được dịch giả dịch là Hung-gia-lị và Lithuanie được dịch giả dịch là Lạp Đào Uyển. Cụ Hòe có ghi rõ là “dịch ra thơ ta có Pháp văn đối chiếu”. Đây là những bài thơ của Tây Phương mà dịch giả đã dịch rất kỹ càng, sát nghĩa sang tiếng Việt bằng nhiều thể thơ như Lục bát, Thất ngôn, Ngũ ngôn vv… Cuốn sách cũng thuộc về loại sách quý hiếm, vì Cụ Lê Văn Hòe cũng là một tác giả - dịch giả tên tuổi thời những năm 50 của thế kỷ trước.

Cuốn thứ hai bằng tiếng Pháp thuộc sưu tập mang tên “Hòm sách của người yêu sách” là một sưu tập do nhà xuất bản mang tên “Tủ sách những người tò mò” (Bibliothèque des curieux) xuất bản ở Paris hồi những năm 30 của thế kỷ trước, nghĩa là một cuốn sách độ 80 tuổi. Cuốn này là một tập truyện ngắn bằng thơ của tác giả VASSELIER, một viện sĩ của Hàn Lâm Viện thành Lyon. Cuốn truyện ngắn bằng thơ này được nhà thơ nổi tiếng Guillaume Apollinaire viết lời giới thiệu và khen tặng là hay và độc đáo. Cuốn sách còn mới tới 75%, còn giữ được bìa nguyên thủy rất đẹp. Nó còn rất quý với người viết vì ở ngay trên bìa cuốn sách ở phía trên bên tay mặt là một chữ Sển, cho thấy trước kia chủ cũ của nó là cụ Vương Hồng Sển, một người chơi sách có tiếng ở miền Nam.

Tiếp theo việc giới thiệu sách Bs. Nguyễn Lân-Đính có nói qua về 10 món ăn lạ mà anh mới giới thiệu trong Bản Tin số 66.

Tiếp lời Bs. Đính, anh Hữu đã kể một vài chuyện liên quan tới cụ Sển, và sau đó còn ngâm tặng các thành viên một bài thơ, bằng giọng ngâm rất truyền cảm của anh.

Sau anh Hữu, anh Hoàng Minh đã “khoe” với các thành viên vài cuốn sách cổ thời 1930-1945 của Tự Lực Văn Đoàn mà anh vừa tìm đuợc.

Sau khi anh Hoàng Minh giới thiệu xong, Dịch giả Vũ Anh Tuấn có kể qua một vài chuyện và duyên may đã khiến thư viện sách của mình không bị tịch thu trong 2 lần thu sách!


Buổi họp kết thúc lúc 11giờ kém 15 cùng ngày.

Vũ Thư Hữu

VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN “VƯƠNG QUỐC CHÀM”

(LE ROYAUME DE CHAMPA)

của Georges Maspéro

Đây là một trong những cuốn sách quan trọng và mắc tiền nhất trong các sách về Đông Dương.

Trước khi giới thiệu cuốn sách, tôi xin được nói qua về tác giả Georges Maspéro. Tên đầy đủ của tác giả này là Gaston-Réne-Georges Maspéro. Ông sinh ở Paris ngày 21.8.1872. Học Trung Học ở Lycée Henri IV, và sau đó theo học Trường Thuộc Địa và Trường NGÔN NGỮ ĐÔNG PHƯƠNG. Ông sang làm việc ở Căm Bốt vào năm 1894 và trở thành Phó Công Sứ năm 1899. Sau đó ông qua làm việc tại Lào một thời gian và tới năm 1903 ông sang Nam Kỳ và làm việc ở các tỉnh như Cần Thơ, Sóc Trăng, Mỹ Tho, và vào năm 1915 ông làm Công Sứ kiêm Thị Trưởng thành phố Hải Phòng. Ông là thông tín viên chính thức của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Ngoài tác phẩm này, ông còn có nhiều tác phẩm khác viết về Đông Dương trong đó có cuốn “Cảnh Hoang Tàn Đế Thiên Đế Thích” (Les Ruines d’Angkor) viết năm 1909.

Cuốn sách Vương Quốc Chàm này khổ 24x32cm và dày 278 trang với nhiều hình ảnh minh họa. Sách được chia làm 10 chương như sau đây (sau 4 trang Lời nói đầu đánh số La Mã từ I tới IV).

Chương I: Từ trang 1 - 42 nói về Xứ sở và dân chúng – Tôn giáo – Các tầng lớp dân chúng – Nhà vua và Triều đình – Phân chia lãnh thổ và công chức ở các thành thị – Hải Quân – Thuế má – Tư Pháp – Phong Tục – Tiền Tệ – Kỹ nghệ – Kiến Trúc và các ngôi đền – Âm nhạc và Văn chương.

Chương II: Từ trang 43 - 66 nói về Cội nguồn – Huyền Thoại – Quan hệ đầu tiên với Trung Quốc – Triều đại đầu tiên – Lâm ấp – Triều đại thứ nhì – Vua Bradavarman I và thánh địa Mỹ Sơn.

Chương III: Từ trang 44 - 67 nói về Sứ Lâm ấp (Lin-Yi), Triều đại thứ III, thứ IV và việc tái thiết Mỹ Sơn.

Chương IV: Từ trang 68 - 95: Thế thượng phong của Panduranga – Triều đại thứ V và thủ đô Virapura – Các cuộc xâm lấn của người Mã Lai từ năm 114 tới năm 187.

Chương V: Từ trang 96 - 109 nói về Triều đại thứ VI của Indrapura (875-991) – Về việc vua Đại Cồ Việt Lê Hoàn đánh chiếm và tàn phá thủ đô thứ nhì là Indrapura vào năm 982 lại có thủ đô mới là Vijaya. Triều đại thứ VII.

Chương VI: Từ trang 110 - 137 nói về chiến tranh với nước Đại Việt, về Triều đại thứ VIII (1044-1074) – về việc Rudravarman III bị Lê Thánh Tôn bắt làm tù binh – về Triều đại thứ IX (1074-1139)

Chương VII: Từ trang 138 - 153 nói về Đánh nhau với người Kmèrs – Triều đại thứ X (1139-1145) – về Triều đại thứ XI (1145-1318) – về việc Suryavarman II, vua Kmèrs tới Champa – về chiến dịch của Jaya Indravarman IV ở Cam Bốt – về việc người Cam Bốt xâm lăng và biến Vương Quốc Chàm làm 2 Vương Quốc Vijaya và Panravi – về việc Vương Quốc Chàm biến thành một thành phố của người Kmèrs (1203-1220)

Chương VIII: Nói về việc nhượng lại cho Đại Việt các châu Ô, châu Lý (1306).

Chương IX: Từ trang 169 - 193 nói về sự cáo chung của Triều đại XI – về Jaya Sinhavarman IV và Chế Năng – về Triều đại XII (1318-1390) – về Triều đại của Chế Bồng Nga (1360-1390).

Chương X: Sự suy tàn và Cáo chung – Triều đại XIII (1390-1458) Jaya Sinhavarman V – Sự chiếm đóng Vijaya bởi người Annamites (1446) – về Triều đại thứ XIV (1458-1471) – và về việc Lê Thánh Tôn chinh phục Champa (1471) và sự cáo chung của Champa.

Sách có nhiều hình ảnh minh họa và bản đồ rất có ích cho các nhà nghiên cứu, đồng thời là một nguồn tài liệu phong phú cho những ai nghiên cứu về Vương Quốc Chàm…


Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN


Kỷ niệm 85 năm ngày sinh của nhà văn Sơn Nam

- Ông già đi bộ (11/12/1926-11/12/2011)

Vài nét về tiểu sử Sơn Nam

(1926-2008)

Phạm Thế Cường sưu tầm và giới thiệu

Nhà văn Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tày, sinh tại làng Đông Thái, quận Gò Quao, tỉnh Rạch Giá, theo ông cho biết, đáng lý tên ông là Tài, nhưng chánh lục bộ của làng không rành chữ quốc ngữ nên ghi sai là Tày.

Lúc nhỏ, ông học tiểu học tại quê nhà, sau theo học Trung Học tại Cần Thơ.

Năm 1945, cuộc cách mạng mùa Thu, cũng như hầu hết những thanh niên thời bấy giờ, ông tham gia phong trào Thanh Niên Tiền Phong, rồi theo kháng chiến, hoạt động trong vùng Rạch Giá, Long Xuyên. Trong thời gian này ông bắt đầu sáng tác, năm 1952, tập truyện vừa đầu tiên Bên rừng Cù lao Dung và Ký sự Tây đầu đỏ nhận giải nhất, nhì của giải thưởng Văn nghệ Cửu Long do Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ tổ chức. Qua những tác phẩm đầu tay này, nhà văn Sơn Nam khắc họa hình ảnh về những người nông dân tham gia kháng chiến bằng lối hành văn giản dị, gần gũi với nhiều nét của phương ngữ Nam Bộ.

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền, Sơn Nam ở lại miền nam. Rồi ông bị giam vào cái gọi là Trung tâm Cải huấn - ngụy quyền Ngô Ðình Diệm khi chúng áp dụng chính sách trả thù những người kháng chiến cũ. Khi được chính quyền Sài Gòn trao trả tự do, ông tham gia viết bài cho các tờ báo có xu hướng yêu nước, mà tại miền nam hay gọi: “thân cộng” như: Nhân Loại, Lẽ Sống, Tiếng Chuông. Ðây là thời kỳ nhà văn Sơn Nam thật sự tìm và chọn chí hướng sáng tác cho mình, với những đề tài dã sử để né tránh sự đàn áp của chính quyền nhưng vẫn gửi gắm được tình cảm yêu nước và ngợi ca chí khí bất khuất, oai hùng của dân tộc, con người Việt Nam.

Năm 1955, ông viết những truyện ngắn đăng trong Nhân Loại Tạp San, về sau gom lại in chung trong Hương Rừng Cà Mau.

Ngoài sáng tác văn học, một loại hình sáng tác khác của Sơn Nam cũng để lại dấu ấn sâu sắc và giá trị về mặt lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội của vùng đất Nam Bộ như: Lịch sử Khẩn hoang miền Nam, Văn minh Miệt vườn Gia Ðịnh xưa, Bến Nghé xưa, Miền Nam đầu thế kỷ XX, Thiên Ðịa Hội.

Cuộc Minh Tân, Phong trào Duy Tân Bắc - Trung - Nam... Sơn Nam viết: Lịch sử Nam Bộ là lịch sử của công cuộc khẩn hoang trường kỳ và tự lực. Ý thức khẩn hoang mở đất ăn sâu vào máu thịt tôi. Ðời ông nội rồi đời cha tôi lo khẩn hoang mở đất, nên những trang viết của tôi dành cho việc khẩn hoang mở đất và là sở trường của tôi.

Ngày miền nam giải phóng, Sơn Nam trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông vẫn tiếp tục đi, sáng tác nhiều tiểu thuyết và truyện vừa như: Chuyện tình một người thường dân, Ngôi nhà mặt tiền, Âm dương cách trở... cũng như nhiều thể loại khảo cứu, văn hóa dân dã khác. Mục đích của ông là muốn làm sống lại cuộc Nam tiến, khai quật quá khứ để tìm về cội nguồn của những người tiên phong đã sống và khai phá miền Nam, để thấy được công lao của tiền nhân, thấy được những yếu tố đã tạo thành cá tính người miền Nam: giản dị, nhân hậu và chân thực.

Tháng 3.2003, NXB Trẻ ký với nhà văn Sơn Nam một hợp đồng nổi tiếng: mua quyền xuất bản toàn bộ tác phẩm Sơn Nam (đã viết và sẽ viết).

Cuộc đời nhà văn Sơn Nam là nối kết của những chuyến đi bộ, du nhập thực tế, những nghiên cứu điền dã sâu để thành triết lý văn hóa Nam Bộ. Nhiều năm trời, lúc còn khỏe ông đã rong ruổi khắp mọi nẻo đường các vùng quê, mà theo ông đi là một kiểu đọc sách trực tiếp vào đời mình. Ði để hiểu, để cảm nhận cảnh vật, con người từ hơi thở cuộc sống tới ngôn từ miền Nam, để rồi gửi gắm cảm xúc của mình vào những trang viết đó.

Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 2008, tại thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 82 tuổi.

Văn Nghiệp của Sơn Nam gồm có:

- Chuyện Xưa Tích Cũ, 2 tập (1958)

- Nguyễn Trung Trực: Anh hùng dân chài (1959)

- Tìm hiểu đất Hậu giang (1960)

- Hương rừng Cà Mau (1962)

- Chim quyên xuống đất (1963)

- Hình bóng cũ (1963)

- Vọc nước giỡn trăng (1965)

- Hai cõi U Minh (1965)

- Nói về miền Nam (1967)

- Truyện ngắn của truyện ngắn (1967)

- Vạch một chân trời (1968)

- Xóm Bàu Láng (1969)

- Người Việt có dân tộc tính không? (1969)

- Bà chúa Hòn (1970)

- Đồng bằng sông Cửu Long (1970)

- Trời nước bao la (1970)

- Thiên Địa Hội và cuộc minh tân (1971)

- Gốc cây - Cục đá và ngôi sao (1973)

- Lịch sử khẩn hoang miền Nam (1973)

- 26 truyện ngắn (1987)

- Tục lệ ăn trộm (1987)

- Người Sàigòn (1990)

- Gia Định xưa (1990)

- Bến Nghé xưa (1991)

- Theo chân người tình (1991)

- Một mảnh tình riêng (1992)

- Dạo chơi (1994)

- Hồi ký Sơn Nam (2005)


Câu chuyện về bút hiệu “Sơn Nam”

Phạm Thế Cường

 

Tôi gặp nhà văn Sơn Nam lần đầu tiên vào tháng 12/2003 trong hội nghị bạn đọc Thư viện quận Gò Vấp, đó là một ông gìa nhỏ nhắn, với thể trạng ốm yếu, khoác áo gió không thể biết màu vì quá cũ kỹ. Từ sau hội nghị đó tôi đã cùng ông nhiều lần uống cà phê và nói chuyện về sách, khi thì trong khuôn viên thư viện Gò Vấp, khi thì quán trước cửa thư viện; với ông bao giờ cũng là một ly đen nóng và tôi cũng dần dần học ông là chỉ uống cà phê đen nóng.

Trước khi gặp, tôi đã đọc hầu hết các tác phẩm của ông, trong đó có những tác phẩm tôi thích như: Hương rừng Cà Mau, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Bà chúa Hòn, Cá tính miền Nam, 20 truyện ngắn Sơn Nam, Một mảnh tình riêng… Nhưng ấn tượng với tôi nhất là truyện ngắn “Tình nghĩa giáo khoa thư” trong Hương rừng Cà Mau và cuốn biên khảo “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” nên những cuộc đàm đạo với ông bao giờ cũng tâm đắc, đồng điệu, chân tình và thẳng thắn.

Sáng 11/6/2011, lần đầu tiên ông muốn đến nhà tôi để thăm quan tủ sách và ông cũng muốn “kiểm tra” xem tôi có những tác phẩm nào của ông. Sau khi lướt qua các giá sách, ông cầm cuốn “Cá tính miền Nam” và “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” ngồi xuống bên bàn uống một ngụm trà, ông nói:

- Ông có hầu hết sách của tôi, là người Bắc ông lại thích đọc của tôi kể cũng lạ.

Thấy tôi cười không nói gì ông tiếp:

- Người Bắc các ông chê văn của người Nam, với các ông văn người Nam là bình dân, là mộc mạc, dân dã, tài tử.

Tôi vội nói để cắt lời ông:

- Và không tinh tế như văn Bắc chứ gì? Thế theo bố “dòng văn học Bắc Hà” có tội với người Nam à? Nhưng con thích cả hai dòng văn học Bắc và Nam, mỗi dòng văn học đều có cái hay riêng của nó. Chẳng hạn như văn của bố, của Hồ Biểu Chánh thể hiện rất sát và sinh động từ nét sinh hoạt đến lời ăn tiếng nói của người miệt vườn. Con rất thích cái dân dã đó.

Tôi biết ông thích dùng từ “miệt vườn” hơn từ “Đồng bằng sông Cửu Long” để chỉ vùng đất miền Tây Nam bộ, nên mới dùng từ “miệt vườn” để nói chuyện với ông và cũng là muốn chuyển sang đề tài khác.

Liền sau đó tôi lấy cuốn “Một mảnh tình riêng” bản in năm 1993 của NXB Văn Nghệ TP.HCM lật tới trang 7 và nói:

- Trong cuốn này bố giải thích vì sao bố lấy bút hiệu Sơn Nam, nhưng có lẽ …

Tôi dừng lại nhìn ông cười trêu chọc, thấy vậy ông hỏi luôn:

- Ông lại muốn soi cái gì?

Đưa cuốn sách đã giở đến trang 7 cho ông, tôi nói:

- Trong này bố chỉ giải thích từ “Sơn” còn từ “Nam” bố không nói đến.

Ông cầm xem lại và hỏi luôn:

- Ông đã đọc nhiều sách của tôi, vậy theo ông “Nam” có nghĩa là gì?

- Theo con chữ Nam ở đây là Việt Nam, là đất nước con người Việt Nam chứ không phải miền Nam.

- Ông nói đúng!

Rồi ông chậm rãi nói về cái bút hiệu đầy “cao ngạo” của mình:

- Thời Minh Mạng, ông vua này bắt người Khơ-me phải mang các “họ” như Sơn; Thạch; Kim… lúc tôi còn ẵm ngửa, mẹ tôi không có sữa, tôi thì yếu, một phụ nữ Khơ-me cho tôi bú mướn và chăm tôi như con đẻ, nếu không có bả thì tôi đã chết làm gì còn có ngày để viết, cho nên khi viết tôi nhớ đến bả và lấy họ của bả làm chữ đầu của bút hiệu. Còn chữ Nam như ông đã nói.

Dừng lại uống một ngụm trà ông tiếp:

- Trước năm 1954, tôi đã có thời hoạt động cách mạng ở Rạch Giá cùng với ông Võ Văn Kiệt, tôi biết cái “khát vọng” thống nhất đất nước của cụ Hồ, nên với tôi chỉ có con người và đất nước Việt Nam, chứ không có phân biệt người Nam, người Bắc như nhiều cán bộ người Nam hiện nay.

Trầm ngâm ông nói tiếp:

- Tôi viết nhiều sách khảo cứu về con người và vùng đất miền Nam là để nêu lên cái công khai phá của cha ông, mà cha ông là người Bắc vào đây khai phá, khẩn hoang, chứ có phải từ xưa đã có người Nam đâu.

Vâng, đọc ông nhiều, tôi cũng hiểu ông, với ông tình người là trên hết. “Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”, trong nhiều lần nói chuyện với tôi, ông thường hay nhắc đến những người đã giúp đỡ ông trong lúc khó khăn, hoạn nạn như: Đào Tăng, Kiên Giang, Đinh Công Tâm… và cả Võ Văn Kiệt, ngay sau khi giải phóng đã tìm và giúp ông nhà cửa và lương thực.

Lúc ông dừng lời, tôi nói:

- Vậy bố viết giải thích rõ cái bút hiệu vào cuốn đó cho đầy đủ.

Đã mấy năm nay ông bị bệnh nhũn não, nên tay ông rất run, ông chầm chậm, cẩn thận viết những dòng sau đây vào trang đầu cuốn “Một mảnh tình riêng” của tôi.

Sơn = họ của người Khơ-me

mà vua Minh Mạng gán ép cho

họ, đó

là Sơn

Thạch

Kim

Kiên

Nam là… An Nam

Việt Nam

(ông ký “Sơn Nam”)

11-6-2004

Trưa hôm đó tôi mời ông ăn bún nem làm theo cách của người Bắc, ông khen ngon và nói thêm: Người Bắc các ông ăn uống cũng rất tinh tế như viết văn vậy. Tôi khoái “Ba sáu phố phường” của Thạch Lam và “Món ngon Hà Nội” của Vũ Bằng.

Tiếp xúc nhiều với ông, tôi thấy ông không chỉ hiểu biết kỹ về phong tục miền Nam mà cả phong tục các dân tộc trên đất Việt, tôi nhớ lại giai thoại ông theo đoàn quay phim “Ấn tượng Sài Gòn 300 năm” ra ngoài Quảng Bình viếng mộ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, ông đã mang theo áo dài và khấn trước mộ làm cho dân Lệ Thủy, Quảng Bình phải trầm trồ khen: ông già người Nam mà rành phong tục còn hơn người Bắc.

Vâng ông là thế, luôn tìm hiểu, luôn ghi nhớ, ở đâu theo lễ nghĩa phong tục ở đó.

Tp.Hồ Chí Minh 26/11/2011

CHƯƠNG III

Về Quyển CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA

và TUYỆT ĐỐI LUẬN

CỦA THIỀN SƯ NGUYỆT KHÊ

Mở đầu, ta thấy Thiền Sư Nguyệt Khê định nghĩa về Thiền cũng như giải thích nguồn gốc Thiền đã có từ trước Đức Thích Ca, do một người tên là Phất Đang La sáng lập.

Sau khi phân tích về sự khác nhau của các môn Thiền, Ngài cho rằng “Bất Lập Văn Tự Thiền” là của Tối Thượng Thừa, gọi là “Giáo Ngoại Biệt truyền” do Đức Thích Ca đích thân truyền cho Ngài Ma Ha Ca Diếp, sau đó Bồ Đề Đạt Ma mang vào Trung Quốc. Phái Thiền này chỉ chú trọng phương pháp thực hành, chẳng lập văn tự lý luận nên gọi là Thiền Tông, khác hẳn với các phái Thiền kia.

Tuy nhiên, có một nghi vấn lớn mà những người Tu Thiền từ thời đó đến nay, do nghe quá nhiều lời ca tụng về Pháp Môn Tu Thiền nên mải ngưỡng mộ mà không thắc mắc: Nếu từ Tổ đầu tiên là Ma Ha Ca Diếp đã có “Đốn Ngộ”, thì tại sao mãi cho đến khi Thiền được truyền sang Trung Quốc - chính xác là từ các Đệ Tử nhiều đời sau của Lục Tổ - mới nảy sinh ra pháp môn Thiền Tông? Chẳng lẽ bao nhiêu đời Tổ, kể cả Đức Thích Ca cũng không thấy được giá trị siêu việt của môn Thiền, phải đợi đến du nhập vào Trung Hoa thì người Trung Hoa mới khám phá ra? Đọc lịch sử phát triển Đạo Phật, ta thấy từ thời Tổ Đạt Ma, kể cả Lục Tổ Huệ Năng, không có Tổ nào dạy riêng môn Tu Thiền, mà Thiền lúc nào cũng phải đi kèm với 5 Độ còn lại cho đủ Lục Độ. Qua đó, ta thấy phải chăng việc cố ý mượn sự tích Đức Thích Ca đưa cành Sen lên trước chúng, Ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm cười rồi được truyền Y Bát, gọi đó là “Đốn Ngộ” rồi gán ghép, cho đó là tông chỉ của Thiền Tông, hẳn không ngoài dụng ý tự đề cao pháp môn, trong khi sự thật là nụ cười của Ngài Ca Diếp và lối hướng dẫn của Thiền Tông chẳng liên quan gì đến nhau.

Thật vậy, Ngài Ma Ha Ca Diếp phải đâu mới gặp Phật vài tháng, hay hôm trước hôm sau mà nhìn thấy cành hoa và mỉm cười mà được trao Y Bát? Cái cười đó nói lên sự hiểu biết, thâm nhập Phật Pháp của cả một quá trình theo hầu Đức Thích Ca từ khi Ngài mới bắt đầu ra giảng đạo, đến lúc gần nhập diệt thì mới được giao Y Bát, để thống lãnh đồ chúng và người sau muốn nương Giáo Pháp của Phật, thì nhận ra người kế thừa để theo đó mà tu học, vì thuở đó người giảng đạo cũng đã tràn lan. Trong khi đó, người đến tham vấn Thiền chẳng hiểu gì về Thiền, nhưng chưa kịp hỏi gì thì đã bị đánh, bị hét, vậy thì “Đốn Ngộ” ở chỗ nào? Đâu thấy kể lại có ai bị đập mà lập tức “Ngộ”? Vị Thầy có nói câu nào? có giải thích thế nào là Ngộ cho Thiền sinh đâu? Như vậy họ hiểu gì rồi thời gian sau đó bỗng “hoát nhiên đại ngộ”? Cái Ngộ đó có giống như của Đạo Phật hay không? Vì Thiền Tông chỉ được phát triển sau khi Lục Tổ tịch diệt hàng 100 năm. Lúc đó Y Bát đã mất dấu từ lâu, thì liệu Chánh Pháp có bị “tam sao thất bổn”? Vì có văn tự, Y Bát đâu để nối truyền hầu kiểm chứng?

Theo Thiền Sư Nguyệt Khê,có thể căn cứ vào Pháp Thiền để phân biệt cao thấp. Ngài cho rằng “Tiểu Thừa dứt Lục Căn, phá Ngã Chấp, lọt vào Pháp Chấp. Trung Thừa phá Pháp Chấp lọt vào Không Chấp, Đại Bồ Tát phá Không Chấp (vô thỉ vô minh) rồi đạt đến cảnh giới tuyệt đối của thật tướng. Phương pháp của Thiền Tông là chẳng nhờ tất cả kinh nghiệm lý luận để đạt đến mà chỉ là một phương pháp trực tiếp chứng nhập gọi là “Đốn Ngộ Thành Phật” (tr. 17).

Điều này Ngài đã diễn giải không đúng vì các điểm sau đây:

1/- Kinh viết: Nghĩa của Bồ Tát là Bồ Đề Tát Đỏa tức là nói về vị “đã giác ngộ còn giác ngộ cho chúng sanh”. Do vậy, Công việc của Bồ tát là “Độ Sinh”, như lời nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Ngày nào còn một chúng sinh chưa được độ, con thề chưa ngồi vào ngôi Vô Thượng Chánh Giác”. Qua đó, ta có thể hiểu: Bồ Tát thành Phật là nhờ “Độ Sinh”, không phải do “Trừ KHÔNG CHẤP”. Chính Hàng Thinh Văn bị Phật quở trách là vì CHẤP KHÔNG. Người chấp Không thì “trên không thấy có Phật, dưới không thấy có Chúng Sinh. Thinh Văn sau khi chuyển qua thành Bồ Tát thì con phải thấy Chúng Sinh rồi làm công việc “Độ Sinh”, đâu phải chỉ cần phá Không Chấp là “trực tiếp chứng nhập” và “đạt cảnh giới tuyệt đối của thật tướng” như Ngài luận!

2/- Trong Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, Tổ Đạt Ma dạy:

Phàm vào đạo có nhiều đường, nhưng nói cho cùng thì không ngoài hai đường này: Một là LÝ NHẬP. Hai là HẠNH NHẬP.

“LÝ NHẬP là mượn “giáo” để ngộ vào “Tông”

Tức là cái LÝ rất cần. Người tu phải nắm vững Nghĩa, Lý trước khi bắt tay vào hành trì. Lý là bản phát thảo về những gì cần hiểu, cần hành, sau khi đã gạn lọc những cái sai. Hành là áp dụng cái Lý vào cuộc sống. Trong Kinh Phật có chê trách hàng THINH VĂN tức là những người tu mà mới NGHE là đã theo đó mà làm, chẳng cần phân biệt đó là phương tiện hay sự thật. Trong Kinh, Phật nhiều lần ca ngợi Phương. Vì thế, trong TỨ Y, Ngài đã phải dặn dò: “Y NGHĨA BẤT Y NGỮ”. nhắc chúng ta Y THEO NGHĨA LÝ MÀ LÀM, đừng y theo CHỮ. THIỀN TÔNG lại bảo chẳng nhờ kinh nghiệm lý luận thì các Ngài chưa kịp phân biệt thì đã biết đâu là đúng hay sai đã vội dùng phương pháp trực tiếp chứng nhập”? Nghe nói Phương Pháp trực tiếp chứng nhập ai mà chẳng thích, vì cuộc sống qua mau, biết được phương pháp nào đã đúng lại ngắn, gọn để thực hành theo thì còn gì bằng! Tiếc thay, phương tiện đó lại chỉ là “ngón tay”, là “phất tử” đưa lên đưa xuống!

3/- Cái KHÔNG là nói về Quả vị cuối cùng của A LA HÁN, là thuộc về quả vị của Thinh Văn, không phải là của Bồ tát.

4/- Trong các giai đoạn tu hành thì Ngộ là giai đoạn thứ 3 (Khai, Thị, Ngộ, Nhập). Sau khi Ngộ còn phải Nhập thì mới gọi là Thành Phật. Ngộ mới chỉ là Cái Thấy, cái Biết. Sau cái Thấy, Biết là cái thực hành để thực sống với cái Thấy, cái Biết đó mới gọi là Nhập. Ta có thể dùng một thí dụ nôm na là: Ngộ như là người đang khát biết rằng mình cần phải uống nước, và Nhập nói về tình trạng đã hết khát. Hai từ không thể chỉ là một. Do đó, “Đốn Ngộ” không thể “Thành Phật” được.

Người được họ tôn xưng là Tổ Sư Thiền Tông thì dạy như thế, nhưng Thiền Sư Nguyệt Khê lại cho là Thiền Tông “chẳng nhờ tất cả kinh nghiệm lý luận để đạt đến, chỉ là một phương pháp trực tiếp chứng nhập”. Họ từ đâu xuất hiện để khẳng định như thế? Nếu vẫn nhận Tổ Đạt Ma là Tổ Sư thì chẳng phải là họ tự phế bỏ lời dạy của Tổ hay sao?

Nơi trang 19, Ngài cho rằng “Phật Thích Ca Mâu Ni phát minh được Thiền Bát Nhã và dùng nó để phá tan hầm sâu vô minh, triệt để chứng ngộ vào Vô Dư Niết Bàn, nên gọi là Kiến Tánh Thành Phật”. Phật Thích Ca đặt tên pháp Thiền này gọi là Pháp Bản Trụ, chẳng do tạo tác mà có, và phủ nhận chẳng do tự mình phát minh”.

Ngài cho rằng “Pháp Thiền ra đời là do nhu cầu tự nhiên của loài người, trước khi chưa có loài người Phật Tánh đã sẵn sàng và Pháp Thiền cũng đã là bản trụ. Bao nhiêu Cổ Phật trước đời Phật Thích Ca đều nương theo đường này mà đạt đến chỗ chơn như rốt ráo, vô lượng Chư Phật – sau đời Phật Thích Ca cũng sẽ nương theo đường này để đạt đến giác ngộ cuối cùng. Ngoài pháp này ra chẳng có pháp nào khác, nên đường lối dù sẵn có, nếu chẳng có Phật Thích Ca chỉ thị thì chúng sanh ắt phái quanh quẩn trong ngã rẻ mà quên việc trở về nhà” . Trong khi đó, một đoạn của BÁT NHÃ TÂM KINH - được gọi là cốt tủy của giáo pháp Phật – viết: Tam Thế chư Phật Y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề”, tức là Ba đời chư Phật (Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai) đều nương Trí Bát Nhã mà đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác, đâu có chữ nào nói nhờ nương pháp Thiền? Đã đành thiếu Thiền Định thì không thể có Trí Huệ, nhưng Thiền Định chỉ là phương tiện để sinh Trí Huệ. Trí Huệ cũng mới chỉ là ngọn đuốc soi đường để hành giả tiếp tục hành trì trên con đường tu tập, đâu thể đốt giai đoạn, chỉ cần Thiền Định là có thể Thành Phật ngay? Kinh dạy con đường tu hành, thành Phật là: “Muôn người đi mà ít người đến được”, do thiếu kiên nhẫn, vì việc tu hành đòi hỏi phải lâu ngày cần khổ. Nếu Thiền Tông có thể bằng phương tiện trực tiếp chứng nhập gọi là “Đốn Ngộ Thành Phật”, và nếu phương pháp này hữu hiệu, thì chỉ riêng Ngài Nguyệt Khê, theo tài liệu ghi lại là thì số người theo học với Ngài có hơn 500.000 người, hẳn nay ta đã phải có 500.000 vị Phật? Nếu không phải như thế thì liệu những gì chư Thiền Sư khẳng định được bao nhiêu phần trăm đúng với thực tế?

Riêng về THIỀN ĐỊNH,Kinh Viên Giác giải thích rõ ràng như sau:

THIỀN ĐỊNH là “CHỈ”, “QUÁN

Và CHỈ, QUÁN SONG TU”

Phải Quán cái gì? Quán như thế nào? Trước đó phải làm gì? thì ta thấy Kinh VIÊN GIÁC chỉ rõ:

I.- QUÁN THÂN NÀY NHƯ HUYỂN

II.- QUÁN TÂM NHƯ HUYỂN

PHẬT có nghĩa là GIẢI THOÁT. Giải Thoát khỏi Phiền Não, Sinh Tử đã, đang và tiếp tục hoành hành trên THÂN, TÂM con người. Trên con đường tu tập thì phải nhờ vào phương tiện THIỀN ĐỊNH để tập trung cả Thân và Tâm mà tư duy, tìm cho ra cách thức để tháo gỡ những vướng mắc làm cho phải Phiền Não. Người tu phải Giới Hạnh đầy đủ, từ lúc bắt đầu ý thức cuộc đời là KHỔ cho tới lúc nương pháp môn của Đạo đều có trình tự. Chính Thiền Sư Nguyệt Khê, nơi trang 25 đã viết “Trước khi Tổ Đạt Ma đến, Thiền pháp Trung Quốc phần nhiều thuộc Trung, tiểu, Nhị Thừa. Kẻ nghiên cứu giáo tướng về lối tu ngày càng phức tạp và chi ly, học giả ít được chứng ngộ. Khi Tổ Đạt Ma đến, chuyên truyền pháp môn Tâm Địa của Như Lai, pháp ấy giản dị trực tiếp, thấu thoát ra ngoài cương yếu của giáo môn, chỉ thẳng Tâm người, thấy Tánh, thành Phật”.

Rõ ràng, Ngài viết rằng Tổ Đạt Ma đã: “Truyền pháp môn Tâm Địa của Như Lai. Chỉ thẳng Tâm người, thấy Tánh, Thành Phật”. Đó chẳng phải là Đốn giáo hay sao? Như vậy, Ngài nghĩ sao khi Thiền Tông tự xưng Tổ Đạt Ma là Sơ Tổ của mình lại không “truyền Pháp Môn Tâm Địa của Như Lai. Chỉ thẳng Tâm người, Thấy tánh Thành Phật “ giống như vậy, mà chỉ cho quán Công Án? Công Án này có thể là câu: “Ai niệm Nam Mô A Di Đà Phật”, “chữ Vô”. Đâu có công Án nào chỉ cái Tâm, cái Tánh? Hoặc như Ngài Nguyệt Khê hướng dẫn, là “phá hầm sâu vô minh” một cách chung chung. Ngài nói là ở trên tầng trời thứ 28. Làm sao đi đến đó? Phá cách nào? Chẳng lẽ chỉ cần nghe người khác nói là “hầm sâu Vô Minh”, rồi tập trung nhìn vào nó - mà Ngài cũng đâu có nói nó ở đâu để nhìn cho đúng hướng? Chẳng lẽ nhìn đâu cũng gặp nó? Và chỉ cần nhìn, là tự nó sụp đổ tan tành, rồi chỉ cần “ồ” lên một tiếng là Thành Phật?! Cả 33 vị Tổ, ta có thấy vị nào Ồ lên đâu?!

Từ xưa đến nay, người tu Phật, kể cả Thiền Tông, đều Muốn tìm cái TÁNH. Nhưng nhiều người đã chê Kinh, không đọc, nên không biết Tánh là gì? Ở đâu? Muốn tìm nó phải làm gì? Vì thế nên có kẻ kêu Ngồi Thiền, người bảo Tham Công Án. Nhưng nếu ta có đọc Kinh thì sẽ thấy thì vị trí của PHẬT TÁNH đã được Lục Tổ chỉ rất rõ: “Chúng ngươi hãy chú tâm mà nghe cho rõ. Những người mê muội đời sau nếu biết Cái Tâm Chúng Sanh tức là Thấy đặng Phật tánh. Bằng chẳng biết Cái tâm Chúng Sanh thì muôn kiếp tìm Phật khó đặng. Nay ta dạy các ngươi phải biết Chúng Sanh ở Tâm mình thì thấy Phật Tánh ở Tâm mình. Muốn cầu thấy Phật thì phải biết Cái Tâm Chúng Sanh”. Như thế thì đủ hiểu: Các Thiền Sư có ai nói về Cái Tâm đâu mà đòi dạy người khác Thấy Phật Tánh, hoặc “thẳng đến quả Phật”?

Các Thiền Sư chưa hề giải thích: Thế nào là Phật? Phải làm thế nào để Thành Phật? Trong khi Kinh Lăng Nghiêm dạy rất rõ ràng: “Các ông tu đạo Bồ Đề nếu không xét rõ gốc rễ của Phiền Não thì đối với căn trần và cái Tâm hư vọng này không thể biết được cái “điên đảo” ở chỗ nào. Cái chỗ ở còn không biết, thì làm sao hàng phục được giặc phiền não để chứng Quả Phật”. Quả Phật, như lời Kinh dạy, muốn đạt đến “phải hàng phục được giặc phiền não”. Thiền Sư Nguyệt Khê chẳng nói gì tới phiền não, mà cho là: chỉ cần tập trung nhìn Vô Minh là sẽ Thấy Tánh. Như vậy phải chăng là Vọng ngôn?

Nơi trang 26 Thiền Sư Nguyệt Khê viết: “Thiền Tông khi ngộ đạo chẳng nhờ tu tập, nếu còn tu thì chẳng phải triệt ngộ”

Việc “Ngộ Đạo” chỉ có nghĩa là hành giả thấy được con đường, tức là thấy những việc cần hiểu, cần hành để đi đến Giải Thoát, rổi sau đó phải đi (Hành) cho đến khi đạt được tình trạng Giải Thoát, vì mục đích của Đạo Phật là Giải Thoát. Nếu chỉ thấy mà không Làm (Hành) thì làm sao đến nơi? Chính vì vậy mà cần có giai đoạn gọi là TU TẬP để chuyển từ CÁI THẤY, CÁI CHỨNG sang CÁI NHẬP. Vì thế, Thiền Tông phủ nhận tu tập thì rõ ràng họ đã tưởng tượng sự chứng đắc, Thành Phật. Bởi vì từ chúng sinh Mê lầm, muốn phá mê cho nó phải nhờ TRÍ HUỆ. Nhưng muốn cho nó trở lại tình trạng thanh tịnh buổi đầu thì sau đó phải bằng hành động cụ thể. Phải đâu vừa thấy mặt mình bị dính dơ, không cần rửa mà nó tự sạch? Điều đó đối với thế gian không hợp lý mà cũng hoàn toàn khác với Đạo Phật chân chính.

Đạo Phật luôn đề cập đến từ TU TÂM tức là SỬA cái TÂM, bởi theo Đạo Phật, Thánh, Phàm, Mê, Ngộ… đều ở đó. Tu Phật là CHUYỂN CÁI TÂM từ tình trạng MÊ LẦM trở thành HẾT MÊ hay là GIÁC NGỘ. Như thế, người muốn tu theo Đạo Phật bắt buộc phải biết Cái TÂM MÊ đó là mê cái gì? Mê như thế nào? Ngộ là Ngộ làm sao? Làm gì để chuyển Mê thành NGỘ? Phải đâu chẳng cần hiểu gì về MÊ, NGỘ, PHÀM, THÁNH... mà có thể “thẳng chứng quả Phật”. Nếu thế, Đức Thích Ca còn đặt ra Lục Độ, Vạn Hạnh, Bát Chánh Đạo, Giới, Định, Huệ để làm gì? Chẳng lẽ người khai đạo lại không sáng suốt bằng những Thiền Sư đời cháu chắt cách xa Ngài hơn ngàn năm?

Nói về gia phong Tông Chỉ của các pháp THIỀN ta thấy Thiền Sư Nguyệt Khê viết:

- Dùng “Gậy”, bắt đầu từ Lục Tổ đánh Thần Hội.

- “Hét” bắt đầu từ Mã Tổ tiếp Bách Trượng.

- Mã Tổ dựng phất trần, quăng phất trần

- Bí Ma giơ chỉa

- Hòa Sơn đánh trống

- Thạch Củng giương cung

- Tuyết Phong đá cầu

- La Hán vẽ chữ

- Đại Tùy hầm khoai

- Đức Sơn vào cửa liền đập

- Lâm Tế vào cửa liền hét “Là cái gì”?

- Bá Trượng “Chớ vọng tưởng”

- Vô Nghiệp, Triệu Châu: uống trà

- Vân Môn: Ăn bánh

So với chính Kinh ta thấy những cách hướng dẫn này chẳng hề liên quan gì đến Đạo Phật. Nhưng Thiền Sư Nguyệt Khê lại so sánh những lối tiếp cơ như thế là tương ưng với “Nụ cười” của Ngài Ca Diếp thì quả là hết sức gượng ép. Ngài Ca Diếp nở nụ cười, vì hiểu được ý nghĩa của Cành Hoa Sen mà Phật muốn nói với đại chúng: Loài Hoa Sen, sống trong bùn mà vẫn nở hoa thanh khiết. Giống như Người tu Phật, nhờ vào công năng tu tập theo Đạo mà sống giữa phiền não không bị phiền não làm ô nhiễm”. Chẳng phải là Quả Vị, chẳng phải Tây Phương, Đông Phương với vàng bạc, trân châu, mã não… là phương tiện mà Phật đặt ra để dẫn đắt chúng sinh buổi đầu. Thì Nụ Cười đó là “Đốn Giáo” chỗ nào? Còn các Thiền Sư: đánh, hét, quăng phất tử, đá cầu, giuơng cung... nói lên được điều gì cho những người chưa biết gì về đường tu đến tham vấn? Nụ Cười và những lối hướng dẫn đó liên quan gì đến nhau, mà gán ghép, cho là “giáo ngoại biệt truyền”, “Đốn Giáo” như nhau?

Trong CHƯƠNG HAI, Thiền Sư Nguyệt Khê nói về YẾU CHỈ THIỀN TÔNG

Thiền Sư Nguyệt Khê không cực đoan như Thiền Sư Suzuki là bài bác văn tự. Ngài chép lại lời Phật dạy trong Kinh Lăng Già: “Dù ngôn thuyết là vọng tưởng của chúng sanh, nhưng cũng chẳng thể phế bỏ ngôn thuyết, nếu chẳng thuyết tất cả pháp, thì giáo pháp sẽ bị hoại. Nếu giáo pháp hoại thì chẳng còn Chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, vậy ai thuyết cho ai? Đại Huệ! Đại Bồ Tát chớ nên chấp trước ngôn thuyết, chỉ dùng phương tiện tùy nghi rộng thuyết kinh pháp, vì phiền não và hy vọng của chúng sanh chẳng đồng, nên chư Phật vì sự hiểu biết mỗi mỗi khác nhau của chúng sanh mà thuyết pháp khiến lìa Tâm (Thức thứ Tám), Ý (Thức thứ Bảy), và Ý THỨC (Thức thứ Sáu), vì TÂM, Ý, Ý THỨC chẳng thể đạt đến chỗ tự giác Thánh Trí vậy”.(tr. 56)

Ngài cũng trích lời Tổ Sư Đình Uyển: “Chư Tổ truyền Pháp, ban sơ tu hành gồm tam tạng giáo thừa, sau Tổ Đạt Ma chuyên truyền Tâm Ấn, phá chấp giáo để hiển Tông, gọi là giáo ngoại biệt truyền, chẳng lập văn tự. Nhưng đối với sự chẳng lập văn tự người hiểu lầm rất nhiều, thường cho là bỏ cả văn tự, lấy im lặng, tĩnh tọa làm Thiền, ấy thật là con dê câm của Thiền Môn. Vả lại, muôn pháp lăng xăng, đâu chỉ là văn tự chẳng lập thôi? Họ chẳng biết đạo tức là phải thông, sao lại cố chấp một gốc!”(tr. 62)

Trích lời Tổ là như vậy, nhưng đến phần Luận của Ngài ta lại thấy: “Tam tạng, 12 Bộ Kinh là do Phật Thích Ca giả lập, cũng do Phật phủ định: Giả lập là vì độ chúng sanh, phủ định là vì khỏi làm hại cho chúng sanh. Nếu giả lập mà chẳng thể phủ định thì chẳng phải là Phật; nếu phủ định mà chẳng thể giả lập cũng chẳng phải là Phật. Vì hay giả lập cũng hay phủ định cho nên Phật Pháp mới được viên dung vô ngại, thuần túy trọn vẹn mà chẳng có chỗ khuyết điểm.

“Phật từng thuyết “Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã” rồi ngay đó phủ định liền; Phật từng thuyết “Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên” rồi cũng ngay đó phủ định liền” Phật từng thuyết “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” rồi cũng ngay đó phủ định liền, nói giả, chẳng thật, bất khả đắc. Phật thuyết pháp như thế mới chẳng bị kẹt nơi danh tướng, dẫn dắt vào nơi tuyệt đối mà chẳng có gì cả. Hoặc có người muốn dựa theo kinh điển pháp môn để vấn nạn Phật, mà chẳng biết những kinh điển, những pháp môn đó Phật đã mỗi mỗi tự phủ định rồi! Phật vừa nói liền phá, cho đến chẳng lưu lại một chữ, chẳng còn dấu tích gì thì đâu còn gì để cho họ chỉ trích ư? Nên người vấn nạn Phật muốn báng Phật cũng như dùng nắm tay đánh hư không như ngước mặt phun nước miếng lên trời, mong chẳng tự làm nhơ cho Mình cũng chẳng được. Được hiểu như thế rồi mới có thể học Phật tham thiền!”

Lý luận hoàn toàn sai. Không phải là Phật nói rằng có quả vị, có chứng đắc rồi bảo là không có chứng đắc. Nói rồi phủ định tất cả. Nhưng bởi vì người đời vẫn quen ôm giữ. Ở thế gian thì tham luyến tiền bạc, danh vọng, của cải. Khi vào tu hành thì tham công đức nhiều ít, Quả vị thấp, cao. Chính vì vậy, Phật dạy tu hành là phải tìm công đức Vô Vi. Công đức này do Xả Chấp mà được. Do vậy nên phải tu, phải hành, phải chứng đắc, rồi mới “Đắc cái Vô Sở Đắc”. Bởi nếu còn có chứng đắc, chứng tỏ là CÒN CÁI NGÃ, mà tu hành theo Đạo Phật phải chứng cái VÔ NGÃ.

Rốt ráo của đường tu là đắc “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Người đắc được quả vị này “Do vì không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả, mà tu tất cả pháp lành liền đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác(Kinh Viên Giác). Phải đâu Phật nói rồi phủ định, hay chẳng cần tu tập gì cả như Ngài Nguyệt Khê luận? Hơn nữa, Đạo Phật có Niết Bàn, Phật Quốc, sao lại cho rằng chẳng có gì cả? Nếu tu hành gian khổ để rồi đến nơi chẳng có gì cả thì tu làm gì?

Có lẽ Thiền Sư Nguyệt Khê chưa từng đọc Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA để thấy 3 Lần trong Phẩm NHƯ LAI THỌ LƯỢNG,Phật bảo các Bồ Tát và đại chúng: Thiện Nam Tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai”. Lẽ nào những lời nói chắc thật như thế lại nói xong rồi phải phủ định vì sợ bị vấn nạn? Nếu đã sợ bị vấn nạn thì trước lúc Nhập Niết Bàn Phật đã không kêu đệ tử thông báo để ai còn thắc mắc về Phật Pháp thì Ngài sẽ giảng giải nốt cho! Lý lẽ của Đạo Phật đã được gọi là Chân Lý mà nói xong rồi phải phủ định sao? Đâu có trang nào, kinh nào nói như thế. Có lẽ Ngài đã hiểu lầm câu nói của Đức Thích Ca: “Suốt 49 năm đó ta có nói gì đâu”! Chẳng phải là Đức Thích Ca chối bỏ những gì đã thuyết, vì 12 Bộ Kinh vẫn còn lưu lại cho đến thời này người tu Phật mới có để tham khảo, học hỏi, có bị hủy bỏ bao giờ đâu mà Ngài cho là chẳng lưu lại một chữ, chẳng còn dấu tích gì? Cái “TA KHÔNG CÓ NÓI”, là ý Phật muốn nói về cái nói nhằm đề cao cái TA CHỨNG ĐẮC của những người tu hành về sau. Bởi đa phần người tu đến một giai đoạn nào đó thì thấy Mình Chứng Đắc, Mình làm pháp Sư. Mình giảng pháp cho mọi người, đâm ra kiêu mạn. Về phần Đức Thích ca, Ngài chỉ truyền lại một phương pháp để mọi người cùng thực hành, không phải để người sau hiểu lầm rồi tôn thờ Ngài như một vị thần linh theo như những phương tiện Ngài dùng trong khi thuyết giảng. Đạo Phật cũng đâu có sợ bị vấn nạn? Trong chính Kinh, kinh nào cũng có phần các Bồ tát hay đại chúng hỏi Phật. Chúng ta mới vào đạo, không biết gì để thắc mắc, nhưng nhờ vào những câu hỏi, trả lời đó mà cũng được sáng tỏ thêm.

Hầu hết người đến tham vấn Ngài Nguyệt Khê, đều hỏi về dụng công khi tham thiền, mục đích người hỏi là làm sao để kiến Tánh, không ai hỏi về con đường tu Phật. Tất cả những câu trả lời của Ngài Nguyệt Khê luôn là “chẳng nên dứt niệm, nên khởi một niệm hướng vào nguồn gốc chẳng sanh chẳng diệt, ngay đó nhìn thẳng, tới lúc hầm sâu vô minh phá tan liền thấy Phật Tánh”. Với những người hỏi pháp, Ngài đều chỉ dạy độc nhất câu đó. Câu này là lập lại lời nguyên văn của Thiết Nham Hòa Thượng khi Ngài đến hỏi pháp (tr. 153)!

Về cách thức tu hành, ta thấy Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Cách tu hành cũng như lóng nước. Nước đục để yên tịnh trong một cái bình, để cho lâu thì những bụi cát từ từ chìm lặng, mà nước trong hiện ra; hễ càng yên tịnh thì nước càng trong. Đây là dụ cho giai đoạn thứ nhất, mới hàng phục được phiền não khách trần. Đến chừng lọc bỏ cặn đục chỉ còn toàn là nước trong là dụ cho giai đoạn thứ hai, đoạn trừ căn bản vô minh. Tức là trước hết phải hàng phục Phiền Não, sau đó là trừ Căn Bản Vô Minh.

Muốn trừ Căn Bản Vô Minh thì cũng phải biết nó là gì? Ở đâu? Trừ bằng cách nào? Muốn Tu Phật thì ít ra cũng phải hiểu Phật là gì? Phải làm gì để Thành Phật. Tu như thế nào? Tu ở đâu? Đâu phải làm gì cũng là Tu? Các Thiền Sư dường như chẳng hiểu gì về con đường Tu Phật. Chưa hề nói đến Phiền Não. Không nói gì đến “Điều Phục”. Không biết đến cái TÂM. Cũng chẳng nói đến Giới, Hạnh, cứ: hét, ném tích trượng, giơ chỉa, đánh trống, đập, ăn bánh, uống trà... cuối cùng sẽ dắt người tu học về đâu? Những lối hướng dẫn đó hoàn toàn không phải là của Đạo Phật chính thống, mà là sản phẩm được cải biên bởi những người đề xướng ra THIỀN TÔNG thời đó, không có chút gì khế hợp với Kinh điển vẫn đang lưu hành của Đạo Phật. Đọc Ngài Suzuki, Taisen kể cả Ngài Nguyệt Khê, ta thấy lối hướng dẫn Thiền giống như nhau. Cũng mơ mơ, hồ hồ, dựa vào lời Phật trong Kinh, nhưng đều giải thích theo cách khác, tưởng đó là cao hơn, đốn hơn, quả vị cao hơn… nhưng tiếc là không ai có thể nương theo đó mà tu tâp thành công.

Ngài Nguyệt Khê đã tịch năm 1965. Nhục thân còn để lại, được sơn son, thếp vàng, thờ ở Diện Di Đà trong Chùa Vạn Phật, được những người ngưỡng mộ so sánh với Lục Tỗ Huệ Năng, vì họ so ra trong các Tổ từ xưa đến nay chỉ có Lục Tổ để lại nhục thân, sau này là Ngài. Họ cũng không biết rằng ở Việt Nam ta tại Chủa Đậu còn có hai Thiền Sư cũng để lại nhục thân. Đó là Thiền Sư Vũ Khắc Minh và Vũ khắc Trường. Dù vậy, theo tôi, việc để lại nhục thân không quan trọng cho bằng để lại con đường cho người sau có thể theo đó mà tu hành thành công. Lục Tổ Huệ Năng vừa để lại nhục thân, vừa để lại Quyển Pháp Bảo Đàn Kinh được những người tu Phật xem có giá trị như Chính Kinh. Qua đó có những nét chính mà người tu Phật có thể theo đó mà học, mà hành, không bị lạc vào tà ma, ngoại đạo. Ngài Nguyệt Khê có viết sách để lại, trong đó tôi đọc được quyển CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA, và ĐẠI THỪA TUYỆT ĐỐI LUẬN, nhưng theo nhận xét của tôi thì không có chút giá trị nào đối với con đường tu hành so với những Chính Kinh của Đạo Phật được.

Ngài cho rằng: “Trên hết của 28 tầng trời tức là cảnh giới của vô thỉ vô minh. (37) và một số người tu hành sau khi đạt đến cảnh giới này thì phần nhiều buông bỏ, quay lại, hoặc dậm chân tại chỗ, không bước tới, lấy cớ là không thể tư duy được nữa... Duy chỉ có Đức Thích Ca, sau khi đạt đến cảnh giới đó thì biết vẫn còn chưa đạt đến chỗ tột cùng rốt ráo, bèn chứng nhập ngay cảnh giới tuyệt đối của chân như, vượt ra ngoài Ba Cõi và 28 tầng trời cho nên gọi là “Niết Bàn” cũng gọi là “Thành Phật”.


Phụ Bản I

Nghĩa của Niết Bàn là “Ra Khỏi rừng Mê”. Rừng Mê này cũng ở trong cái Tâm Mê của mỗi người. Đâu có phải ở cảnh nọ cảnh kia ngoài không gian, khỏi tầng trời thứ 28 như Ngài tưởng rồi diễn giải làm cho người đọc thêm điên đảo?!

Muốn trừ VÔ MINH thì Kinh dạy phải dùng TRÍ HUỆ để chiếu phá. Nội hai từ “chiếu phá”, ta thấy đó là nói về sự soi sáng để làm tan bóng tối Vô Minh. Ngài Nguyệt Khê lại bảo là “Một mai tìm đến được thì lập tức lôi ra mà đập” (tr.102 Đại Thừa Tuyệt Đối Luận).

Vô Minh là từ mà Phật nói về cái Mê muội, đâu phải là một cục gì đó có tướng để có thể “lôi ra mà đập”? Và không hiểu Ngài dùng cái gì để đập? Rồi Ngài vượt lên 28 tầng trời, Ba Cõi bằng cách nào? Trong khi Tổ Đạt Ma cũng đã giải thích là Ba Cõi, hay Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chính là Ba Món Tham, Sân và Si trong Tâm của mỗi chúng ta!

Hầu hết các Thiền Sư ít nhiều gì cũng đòi thay đổi những nguyên tắc tu hành của Đạo Phật. Thiền Sư Suzuki thì đòi “tước bỏ” Kinh đi. Thiền Sư Nguyệt Khê thì cho là: “Nay con người chui đầu vào kinh điển sách vỡ, ôm chấp văn nghĩa thì điều tai hại chẳng phải là nông cạn ư? (Vì thế) chuyện không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo mới được kiến lập vậy. Nếu có thể mượn văn tự và ngữ ngôn tương đối để chỉ thị, chứng nhập vào cảnh giới tuyệt đối của chân như thì văn tự của kinh điển chỉ là mớ bá láp mà thôi”! (tr. 52-53) Ngài ca tụng những người coi thường Kinh điển: “Cho nên một số Tổ Sư của Thiền Tông đối với người học vấn uyên bác của thế tục cố nhiên không xem trọng, ngay cả 3 tạng và 12 Bộ Kinh điển cũng chẳng xem trọng, thậm chí ngay cả tư tưởng và văn tự mà các ngài xem qua cũng không có giá trị gì cả”(tr.248). Trong khi Phật dạy: “LY KINH NHẤT TỰ ĐỒNG MA THUYẾT”!

GIới của Đạo Phật quan trọng đến nỗi Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân viết: “Vì thử một trăm hay một ngàn vị A La hán được vào Niết bàn, thì từ vị A La hán đầu tiên cho đến vị A La Hán cuối cùng đều do công đức trì Giới mà được thành tựu đạo quả”, thì Ngài Nguyệt Khê đòi sửa đổi: “Giới luật của Phật Giáo cho đến hiện tại vẫn là quy củ xưa của mấy ngàn năm trước phần nhiều đều biến thành bối văn, hoặc không có cách nào tuân thủ theo. Cho nên chúng ta chủ trương cần phải sửa đổi thêm hoặc bổ sung, đem những cái vụn vặt phiền phức biến thành đơn giản, vòng vo thối nát biền thành kiện toàn, sau đó uy lực của giới luật bị mất mới có thể về nguồn, chỗ tôn nghiêm của Tăng già mất mát mới có thể cứu vãn được khiến cho ma quỷ thấy mà xa lánh rút lui, người lành thấy mà khởi lên lòng kính trọng, đây là điều kiện chủ yếu để phục hưng Phật Giáo”! (tr.319)

Đạo Phật sở dĩ tồn tại hàng bao nhiêu ngàn năm cũng nhờ GIỚI LUẬT. Người tu Phật được kính trọng cũng bởi có GIỚI, vì không SÁT, ĐẠO, DÂM, VỌNG NGỰ, và TỬU. Thế mà Ngài Nguyệt Khê cho đó là “không thể nào tuân theo”. Nếu làm theo Ngài, chẳng lẽ phật Giáo được phục hưng, mọi người nhìn thấy mà “Khởi lên lòng kính trọng” đối với những người phá giới, tự do Sát, Đạo, Dâm, Vọng Ngữ, Tửu? Như thế so với Đạo Phật chân chính là TU TÂM tức là SỬA CÁI TÂM MÊ LẦM bằng GIỚI, HẠNH, để thanh lọc cả THÂN, TÂM, thì Thiền Sư Nguyệt Khê khuyến khích người tu bỏ GIỚI để về đâu?

PHẬT là từ để nói về tình trạng thanh tịnh, giải thoát ở trong TÂM. Tổ Đạt ma dạy: “Phật ở trong Tâm như trầm hương ở trong cây. Phiền não hết thì Phật theo tâm ra. Vỏ mục hết thì hương theo cây ra. Mới biết ngoài cây không có hương, ngoài Tâm không có Phật. Nếu ngoài cây có hương, ấy tức là hương của cây khác. Nếu ngoài Tâm có Phật, ấy tức là Phật ngoài của ai khác”. Vì vậy cho nên mới nói “TỨC TÂM TỨC PHẬT”. Các Thiền Sư chẳng hề dạy tìm Tâm, mà còn dám cho là “thẳng đến quả Phật” thì quả là Đại Vọng Ngữ !

Tôi tin rằng dù người tu học chưa một lần mở Chính Kinh để đối chiếu. Nhưng một điều chắc chắn là con người ngày càng tiến bộ, không dễ tin vào những điều không thể áp dụng vào thực tế. Bởi nếu thực hành theo Đạo Phật chân chính thì kết quả là Thoát Khổ hiện tiền. Còn những người Tham, Quán Công Án thì kết quả về đâu không biết, nhưng Nhân Thừa thì chắc chắn cũng không xong, vì tu học xong, quả vị chẳng thấy, chỉ thấy cái Ngã càng lớn, dám đánh Thầy, mắng Tổ, chửi Phật! Thân, Khẩu, Ý, Ba Nghiệp không thanh tịnh mà thành Phật được thì quả là Phật đó chẳng giống ai! Không giống hình ảnh Phật trong Kinh, cũng không giống một người phàm phu mà giữ đúng Nhân thừa vậy.

Tâm Nguyện

ĐÀN BÀ DỄ CÓ MẤY TAY

Trong truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã xây dựng và miêu tả một nhân vật rất độc đáo mà lời ví đã đi vào ngôn từ trong đại chúng để chỉ những người thuộc phái đẹp có tính phòng xa để bảo vệ hạnh phúc gia đình: bà ấy có máu Hoạn Thư. Ghen tuông là chuyện thường tình của phụ nữ, nhưng phần nhiều chị em không giữ được bình tĩnh mỗi khi xảy ra sự việc nên đã làm mất mặt đức lang quân của mình và vì thế người đàn ông càng nghĩ ra nhiều cách tránh né để thoát khỏi đòn độc của “sư tử Hà Đông” mong được hưởng thụ thích thú lâu dài. Trong truyện kể rằng Thúc Sinh theo cha đi làm ăn buôn bán ở phương xa, chàng vốn là chồng của một tiểu thư con quan:

Vốn dòng họ Hoạn danh gia

Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư

Mặt ăn ở của nàng thì cũng rất mực khuôn phép đối với nhà chồng, nhưng bên trong người đẹp lại là:

Ở ăn thì nết cũng hay

Nói điều ràng buộc thì tay cũng già

Thúc lang nghề nghiệp thương trường, nhanh chóng trở thành một đại gia, tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh trong túi, tiêu tiền như nước:

Thúc Sinh quen thói bốc rồi(1)

Trăm nghìn đổ một trận cười như không

Gia đình Kiều gặp cơn gia biến do thằng bán tơ vu oan nên Vương Ông (cha Kiều) mắc nạn pháp đình – có người mách bảo việc phải lo cửa công mới yên:

Tính bài lót đó luồn đây,

Có ba trăm lạng việc này mới xuôi

Kiều bán mình mới có tiền chuộc tội cho cha. Ngả giá xong xuôi bọn người môi giới đem nàng về một nơi xa lạ:

Những là lạ nước lạ non

Lâm Chuy(2) vừa một tháng trời tới nơi

Tại đây nàng buộc phải sống kiếp đọa đày ở một thanh lâu và gặp Thúc Sinh:

Khách du bỗng có một người

Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương

Càng quen biết và đi lại nhiều lần với hoa khôi Kiều nhi, Sinh càng đắm đuối với tình:

Lạ cho cái sóng khuynh thành

Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi

Thúc Sinh cho người dò la, biết là Kiều đang ở thanh lâu của Tú Bà nên lo liệu tiền bạc chuộc Kiều ra:

Rõ ràng của dẫn trao tay

Hoàn lương một kiếp, thân vào cửa công

Công tư đôi lẽ đều xong

Gót tiên thoắt đã thoát vòng trần ai

Thúc Sinh ở với Kiều chưa được nửa năm thì Thúc ông hay tin, không bằng lòng hành vi của chàng Thúc bèn quyết lòng phân uyên rẽ thúy:

Quyết ngay biện bác một bề

Dạy cho má phấn lại về lầu xanh

Thấy lời nghiêm huấn của cha, Thúc Sinh mới đánh liều lấy tình cảm nài kêu:

Rằng: “Con biết tội đã nhiều

Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam

Trót vì tay đã nhúng chàm

Dại rồi còn biết khôn làm sao đây

Nhưng thấy Thúc ông đã nhất quyết, Sinh mới tính chuyện liều mình, chứ bỏ Kiều thì không bỏ:

Lượng trên quyết chẳng thương tình

Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi

Thúc ông thấy con lòng dạ sắt đá với Kiều nên nhờ đến cửa công phân xử:

Phủ đường sai lá phiếu hồng(3) thôi tra

Cùng nhau theo gót sai nha

Song song vào trước sân hoa lạy quỳ

Quan sở tại ra uy đã mắng Thúc Sinh:

Gã kia dại nết chơi bời,

Mà con người ấy, là người đong đưa

Và Kiều nhi hoặc là phải chiu gia hình, hoặc là phải trở về lầu xanh. Thúc Sinh lại sụt sùi khóc, ân hận trách mình trước mặt phủ quan:

Từ xưa nàng đã biết thân có rày

Tại tôi hứng lấy một tay

Để nàng cho đến nỗi này, vì tôi

Kiều được người tình đỡ tội cho, nhưng phải làm thơ để chứng tỏ tài hoa của mình:

Nàng vâng cất bút tay đề,

Tiên hoa trình trước án phê xem tường

Khen rằng: “Giá đáng Thịnh Đường(4)

Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân

Thực là tài tử giai nhân

Châu-Trần còn có Châu-Trần nào hơn

Thúc ông thấy Kiều tài sắc nết na nên cũng dẹp nỗi bất bình, thuận cho Kiều về trong đạo dâu con:

Thương vì hạnh, trọng vì tài,

Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba

Huệ lan sực nức một nhà

Càng cay đắng lại mặn mà hơn xưa

Mảng vui thú với Kiều nên Thúc Sinh đã lơ là thăm hỏi Hoạn Thư ở nhà:

Tin nhà ngày một vắng tin

Mặn tình cát lũy, nhạt tình tào khang(5)

Nhưng Kiều lại khuyên Thúc Sinh về thăm vợ:

Xin chàng kíp liệu lại nhà

Trước người đẹp ý, sau ta biết tình

Hoạn Thư nghĩ rằng nếu Thúc Sinh thú thật cùng nàng thì nàng cũng bỏ qua, nhưng Sinh vẫn cứ tiếp tục mối tình lén lút với Kiều:

Ví bằng thú thật cùng ta

Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên

Dại chi chẳng giữ lấy nền

Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình

Hoạn Thư nghĩ rằng mình đủ quyền lực và mưu mô để giải tỏa ấm ức trong lòng bấy lâu nay:

Lo gì việc ấy mà lo

Kiến trong miệng chén có bò đi đâu

Và định làm cho hai người đau đớn đến mức:

Làm cho nhìn chẳng được nhau

Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên

Làm cho trông thấy nhãn tiền

Cho người thăm ván bán thuyền biết tay!

Để cho mưu mô không bị tiết lộ, Hoạn Thư đã bưng bít một cách hơi tàn nhẫn, xử sự kẻ đến mách tin và cũng để giữ danh giá cho chồng:

Tuần sau bỗng thấy hai người

Mách tin ý cũng liệu bài tâng công

Tiểu thư nổi giận đùng đùng:

“Gớm tay thêu dệt, ra lòng trêu ngươi

Chồng tao nào phải như ai

Điều này hẳn miệng những người thị phi”

Vội vàng xuống lệnh ra uy

Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng

Trong ngoài kín mít như bưng

Nào ai còn dám nói năng một lời

Buồng đào khuya sớm thảnh thơi

Ra vào một mực nói cười như không

Và tiểu thư đã sắp đặt như một nhà quân sự để bắt Kiều về:

Lâm Chuy đường bộ tháng chầy

Mà đường thủy đạo sang ngay thì gần

Dọn thuyền lựa mặt giai nhân

Hãy đem dây xích buộc chân nàng về

Làm cho cho mệt cho mê

Làm cho đau đớn ê chề cho coi

Bọn thuộc hạ của tiểu thư đã xông thuốc mê bắt Kiều đem xuống thuyền xong thì phóng hỏa đốt nhà Kiều, lại sẵn thấy thây vô chủ gần đấy ném vào lửa cháy đen, đánh lừa dư luận. Thúc ông nhà gần đấy và gia nhân đều lầm mưu này:

Trong tro thấy một đống xương cháy tàn

Ngay tình nào biết mưu gian

Trong lúc này thì Thúc Sinh đã về tới nhà vợ, nên không biết điều gì xảy ra. Thúc ông cho lập bàn thờ nàng dâu, và đi xem bói thì được cho biết:

Người này nặng kiếp oan gia

Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho?

Mệnh cung đang mắc nạn to

Một năm nữa mới thăm dò được tin.

Khuyển Ưng, Khuyển Phệ đem Kiều về nộp cho Hoạn bà (mẹ Hoạn Thư) để lĩnh công. Khi tỉnh dậy nàng không thấy nhà mình đâu mà chỉ thấy:

Ngước trông tòa rộng dãy dài

“Thiên quan trủng tể”(6) có bài treo trên

Sau khi gạn hỏi ngọn ngành còn bị Hoạn bà mắng:

Con này chẳng phải thiện nhân

Chẳng phường trốn chúa, thì quân lộn chồng

Sẵn dịp Hoạn Thư về thăm mẹ, gia nhân trong nhà Hoạn bà thương hại tình cảnh Kiều, e rằng Kiều sẽ gặp Thúc Sinh tại đây, nên cũng có lời khuyên:

“Ở đây tai vách, mạch dừng,(7)

Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi

Kẻo khi sấm sét bất kỳ,

Con ong, cái kiến kêu gì được oan”.

Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia

Mẹ con trò chuyện lân la

Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:

“Tiểu thư dưới trướng thiếu người

Cho về bên ấy theo đòi lầu trang!”

Kiều hồi tưởng lúc còn gắn bó với Thúc Sinh ở Lâm Chuy:

“Lâm Chuy chút nghĩa đèo bòng,

Nước non để chữ tương phùng kiếp sau!”

Bốn phương mây trắng một màu

Trông vời cố quốc biết đâu là nhà

Thúc Sinh về thăm nhà được vợ đón mừng:

Tiểu thư đón cửa dã dề

Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa

Nhà hương cao cuốn bức là

Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng

Bước ra, một bước đã dừng

Trông xa, nàng đã tỏ chừng nẻo xa:

“Phải rằng nắng quáng, đèn lòa?

Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?

Bây giờ tình mới rõ tình,

Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai

Chước đâu có chước lạ đời?

Người đâu mà lại có người tinh ma!

Rõ ràng thật lứa đôi ta,

Làm ra con ở chúa nhà, đôi nơi

Bề ngoài thơn thớt nói cười

Mà trong nham hiểm giết người không dao

Bây giờ đất thấp trời cao

Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?”

Kiều sợ uy Hoạn Thư không dám ngẩng mặt nhìn lên, còn Thúc Sinh thì:

Sinh đà phách lạc hồn xiêu

“Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây?

Nhân làm sao đến thế này?

Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!”

Sợ quen dám hở ra lời,

Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa

Tiểu thư nhìn thấy vẻ buồn của chồng mới hỏi:

Tiểu thư trông mặt hỏi tra:

“Mới về, có việc chi mà động dong?”

Sinh rằng: “Hiếu phục vừa xong,

Suy lòng trắc dĩ, đau lòng chung thiên”

Hoạn Thư và Thúc Sinh chén tạc chén thù, bắt Kiều hầu rượu:

Vợ chồng chén tạc chén thù,

Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi

Bắt khoan bắt nhặt, đến lời,

Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay

Thúc Sinh đau lòng ngoảnh đi, chợt nói chợt cười và giả say để có cớ lui về nghỉ, nhưng tiểu thư biết:

Tiểu thư vội thét: “Con Hoa!

Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn

Sinh càng nát ruột tan hồn

Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay

Tiểu thư lại nói Hoa nô có nhiều tài, nên rượu xong lại bày trò chơi khác:

Rằng: “Hoa nô đủ mọi tài

Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe

Nàng đà choáng váng tê mê

Vâng lời ra trước bình the vặn đàn

Bốn dây như khóc như than

Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng

Cùng trong một tiếng tơ đồng

Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm

Thấy Thúc Sinh cứ cúi đầu gạt thầm nước mắt, tiều thư lại thét:

Tiểu thư lại thét lấy nàng:

“Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi?

Sao chẳng biết ý tứ gì?

Cho chàng buồn bã, tội thì tại ngươi!”

Sinh càng thảm thiết bồi hồi,

Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua

Giọt rồng(8) canh đã điểm ba

Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.

Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:

“Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay!”

Sinh thì gan héo ruột đầy

Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng

Người vào chung gối loan phòng

Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:

“Bây giờ mới rõ tăm hơi

Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!”

Qua ngọn bút tài tình của cụ Nguyễn Du, tiên sinh như đã vẽ ra một cuộc đánh ghen “Quý tộc” trong cuộc hội ngộ tay ba giữa Hoạn Thư, Thúc Sinh và Kiều mà người ngồi dưới sân chỉ biết gởi tâm trạng buồn thảm ai oán của mình qua phím tơ, người ngồi trên cao, ngoài mặt cố giữ bình tĩnh, dửng dưng trước đau khổ của người tình, mà cõi lòng thì dường như tan nát, chỉ có tiểu thư là lòng dạ hả hê như được mở cờ trong bụng. Thật xưa nay cũng hiếm có một phụ nữ nào như đã kể, nên cụ có câu:

Đàn bà dễ có mất tay

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan.

PPT st

Ghi chú:

(1) bốc rồi: ngày xưa chưa có tiền giấy, chỉ có tiền xu được đúc bằng đồng hoặc bằng kẽm. Người giàu có đi đâu bỏ một mớ trong túi, khi có việc chi tiêu chỉ bốc ra một nắm để trả mà không cần đếm.

(2) Lâm Chuy: thuộc tỉnh Sơn Đông, chỗ Tú Bà với Mã Giám Sinh mở Thanh Lâu

(3) Phiếu hồng: trát quan

(4) Thịnh Đường: lúc nhà Đường còn thịnh là thơ hay hơn cả

(5) Mặn tình cát lũy, nhạt tình tào khang: Cát lũy có ý nói vợ lẽ, Tào khang ý nói vợ từ lúc còn hàn vi ý nói vợ lớn

(6) Thiên quan trủng tể: tức là tể tướng

(7) Tai vách mạch dừng: dừng có mạch vách có tai, dừng là cái vách làm bằng phên

(8) Giọt rồng: rồng là cái đồng hồ của Tàu ngày xưa, làm hình như con rồng, đổ nước vào để chảy ra từng giọt


HÁT XOAN

LỐI HÁT THỜI HÙNG VƯƠNG

DI SẢN THẾ GIỚI MỚI NHẤT TẠI VIỆT NAM

Hát Xoan là loại dân ca lễ nghi, một “đặc sản” của vùng Đất Tổ. Hát Xoan thường xuất hiện trong các lễ hội mùa Xuân, hội Đình làng ở nhiều địa phương thuộc 4 phường hát Xoan (An Thái, Thét, Kim Đái và Phù Đức), tỉnh Phú Thọ.

Kiểu thức hát Xoan gần giống như hát Dậm (Hà Nam) hay hát Dô ở một số tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng.

NGUỒN GỐC

Truyền thuyết cho chúng ta biết rằng hát Xoan ra đời từ thời Hùng Vương dựng nước, đồng thời mô tả cuộc hát của nàng Quế Hoa say đắm đến mức hoàng hậu của Vua Hùng quên đi nỗi đau sinh nở của người mẹ nên đã “mẹ tròn, con vuông”. Cuộc hát ấy diễn ra vào mùa Xuân nên gọi là Hát Xuân (chệch là Xoan). Ngoài ra, theo những phường Xoan ở đây, từ thuở Vua Hùng đi tìm đất để dựng Kinh đô. Dọc đường đi, anh em Vua dừng chân lại vùng có 4 thôn: An Thái, Thét, Kim Đái và Phù Đức… Thấy trẻ em đùa hát đồng dao vui chơi, Vua sai tùy tùng gọi bọn trẻ đến hát cho Vua nghe, Vua lấy làm thích thú và dạy bọn trẻ những bài hát mà Vua nghĩ ra. Sau cả bốn làng đều truyền nhau những điệu hát do Vua Hùng dạy.

Tại nơi Vua nghỉ chân và dạy trẻ hát sau này một ngôi miếu được dựng lên gọi là miếu Lãi Lèn (hiện không còn nữa) để cảm ơn Vua đã dạy dân điệu hát hay như thế. Nghi lễ hát cúng dâng Vua của cả 4 phường Xoan đều diễn ra tại Lãi Lèn. Sau này, dân lập nên đình Thét để rước Vua về mỗi khi mở hội hoặc hát cầu Vua ban cho mùa màng bội thu, cảm ơn công đức Vua đã dạy dân làm ruộng, trồng dâu, trồng đậu, nuôi tằm và dệt vải. Thông qua việc thờ cúng này, người dân Phú Thọ coi Vua Hùng như một vị Thần nông.

Theo truyền thống, nghi lễ hát Xoan diễn ra hai lần trong năm: từ ngày mồng 1 đến mồng 7 tết Â.L (Lễ xuống đồng), sau đó là ngày 10.3 Â.L (xin Vua cấp nước xuống đồng cho cây lúa trổ đòng). Tất cả các làng tụ về miếu Lãi Lèn thờ Vua và hát nghinh Thần, sau đó các làng rước Vua về đình làng mình và tiếp tục hát ở đấy cùng 12 Quả cách (tràng mai cách, tứ dân thời cách, nhàn ngâm cách, hò chèo cách, đối dẫy cách, tứ đưa xoan cách, ngư tiều cách, xoan thời cách, hè mừng cách, mừng thu cách, đưa đông cách, hồi nghiên cách). Quả cách thứ 12 được gọi là Đóng đám (kết thúc nghi lễ cúng thờ). Hát Xoan theo trình tự quy định, gồm phần nghi lễ tôn giáo, phần diễn xướng 12 quả cách nêu trên… Cơ bản là hát lối và ngâm đọc, có thêm hát bội mang tính chất trữ tình, với nội dung về tình yêu lứa đôi, giao duyên.

Ngoài ra, hát Xoan kết hợp với dân ca địa phương tạo nên một loại hình sinh hoạt khá thú vị là Hát bợm gái, còn gọi là hát giao duyên, Hát múa bỏ bộ (có đến 160 bài), mời rượu, đúm, cài huê, xin huê, đố huê, đố chữ, mó cá. Trong cả ba chặng hát: nghinh thần, đón đào Đức Bác và bợm gái thì Hát mó cá (khoảng 100 câu) trong chặng bợm gái được coi là thú vị nhất, bởi từ câu hát đến động tác múa đều mang đầy ý nghĩa của đời sống phồn thực.

Trong khi chặng hát nghinh thần có những câu trang nghiêm như:

“ Đôi tay tôi nâng cả đám làng, Trống tôi vỗ bên vông thờ vua thờ chúa, Trống tôi vỗ bên tầm đức đại vương…”

thì lối Hát mó cá có lời hát vừa vui vẻ vừa da diết:

“Đánh cá bóng giăng, đôi ta đánh cá bóng giăng, cá thời chẳng được dung dăng bắt đào. Đôi ta mò cá đầm đăng, cá thời không được tung tăng mò đào…”

CẦN DỊCH SÁCH – HIỆU ĐÍNH LỜI CA HÁT XOAN

Các nhà nghiên cứu nghệ thuật dân gian về hát Xoan, cho biết: hầu hết lời hát Xoan tại Việt Trì - Phú Thọ được viết bằng chữ Nôm, hiện chỉ còn một bản gốc do ông Nguyễn Khắc Xương giữ, những bản chép tay bằng chữ Quốc ngữ được ghi lại sau này từ trí nhớ của một số nghệ nhân già. Việc học hát Xoan bằng chữ cổ khó tới mức các năm trước từng có cả những cuộc thi “hát Xoan đúng lời”.

Nghệ nhân của 4 phường hát Xoan kể trên hiện không ai có thể đọc được sách chữ Nôm ghi lời các làn điệu Xoan. Dù đã thấy có độ sai lệch ca từ mà các phường Xoan đang hát, nhưng chưa ai bỏ công nghiên cứu, chỉnh lại lời chuẩn. Vì thế, việc cần thiết ngay bây giờ cần làm là dịch sách ấy, rồi hiệu đính để mọi người khi hát hiểu từng câu hát có ý nghĩa thế nào. Hơn nữa, có khuyến khích được người trẻ học hát Xoan và đắm say với hát Xoan thì mới mong giữ lại được căn cốt của Xoan.

Điều đáng buồn nhất là nhiều người hiểu lầm hát Xoan là hát Ghẹo. Nhưng xoan là xoan mà ghẹo là ghẹo. Hiện nay ở Phú Thọ chỉ có 4 phường hát Xoan, còn hát ghẹo lại thuộc huyện Tam Nông. Trang phục hát Xoan cũng khác: đào mặc áo dài nâu non (không có thắt lưng bao xanh), váy đen, chít khăn mỏ quạ; kép mặc áo the khăn đóng; trai làng mặc quần áo trắng, thắt lưng đỏ.

ĐƯA HÁT XOAN VÀO TRƯỜNG HỌC

Giỗ tổ Hùng Vương năm nay cũng như mọi năm, hát Xoan không bao giờ vắng ở cửa Đình. Những đêm hát Xoan đời nay dường như vẫn ăm ắp đủ đầy ngần ấy, từ điệu hát mang tính lễ nghi tôn giáo đến diễn xướng các quả cách, hát lối, hát bội, giao duyên… như một sợi dây ràng buộc chặt giữa xưa và nay.

Trải qua cả ngàn năm, dù có lúc tưởng như đã biến mất khỏi đời sống, áo xống có thể đành xếp lại song điệu hát Xoan vẫn không ngày nào thôi ngân nga. Và mùa xuân này như những mùa xuân trước, những đêm hát Xoan vẫn mở giữa vòng ngoài người xem.

Đầu năm 2010, khi các nhà nghiên cứu âm nhạc Việt Nam hoàn thiện hồ sơ về hát Xoan để trình Tổ chức UNESCO công nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể”, thành phố Việt Trì, Phú Thọ cũng lên kế hoạch gìn giữ hát Xoan bằng cách đưa vào dạy trong các trường học.

Đây chẳng phải là một việc đơn giản, vì hát Xoan cổ có những làn điệu rất khó. Lời hát cổ cũng rất khó học, khó hiểu. Chức “ông, bà Trùm phường Xoan” dành cho các nghệ nhân thuộc tất cả các làn điệu và cũng nắm vững nhất các nghi lễ hát múa trong những buổi biểu diễn tại Đình làng và Miếu thờ. Mỗi phường Hát Xoan có một ông Trùm, nhằm để hướng dẫn và dạy dỗ các người trẻ học hát Xoan. Nhiều nghệ nhân dân gian về hát Xoan cũng lúng túng trong việc dạy hát Xoan cho các học sinh trường mẫu giáo, trung tiểu học. Nhưng khi ý tưởng trên được đưa ra đã có đến 81 giáo viên tham gia học hát Xoan do chính các ông Trùm và nghệ nhân truyền dạy.

Mất chừng một tuần lễ, các giáo viên âm nhạc có thể học được một vài bài hát cổ, kèm một vài bài được biên lời mới phù hợp với đời sống ngày nay hơn, dễ học dễ thuộc hơn.

Các trường đề ra mục tiêu giản dị: Giúp học sinh hiểu được giá trị, ý nghĩa và nguồn gốc của hát Xoan Phú Thọ, bởi tương lai của hát Xoan là ở nơi các học sinh. Sau hơn nửa năm học, tất cả học sinh đều đã biết đến hát Xoan. “Đấy mới chỉ là việc giáo dục phần ngọn, còn phần gốc thì rất lâu dài” giáo viên ấp ủ.

CÒN LẮM GIAN NAN.

Bà Trùm Nguyễn Thị Lịch ở phường Xoan An Thái, vốn là người có nhiều công lao trong việc quảng bá hát Xoan bằng nhiều hình thức, từ truyền dạy cho những người trẻ đến tham gia biểu diễn tại các chương trình văn hóa nghệ thuật quần chúng của tỉnh, viết lời mới cho hát Xoan cũng như hướng dẫn lớp trẻ tham gia các cuộc thi hát dân ca. Vậy mà nay bà Trùm cũng không khỏi ngậm ngùi cho biết phường An Thái có tới 43 người, nhưng cả chục năm rồi kể từ khi tái lập phường, khoản đầu tư “lớn nhất” đối với phường xoan An Thái, cũng là khoản đầu tư duy nhất cho hát Xoan Phú Thọ là 19 bộ quần áo cho các đào, kép. Với 19 bộ quần áo ấy, mỗi khi phường Xoan biểu diễn, 43 người (cả già, trẻ, gái. trai) chia nhau tuần tự, người này mặc ra biểu diễn xong thì vào cánh gà thay ra cho người khác mặc.

Ở phường Xoan Phù Đức, ông Trùm Lê Xuân Ngũ tự bỏ tiền may sắm trang phục và trang trải các chi phí khác khi đi biểu diễn. Tất cả vẫn chỉ nhờ nỗi mê Xoan đăm đắm truyền lại từ đời Tiên Tổ.

HÁT XOAN ĐƯỢC CÔNG NHẬN “DI SẢN THẾ GIỚI”.

Tin mừng đến với phái đoàn tỉnh Phú Thọ tham dự Hội nghị UNESCO tại Bali, Indonesia là vào đúng 11 giờ ngày 24-11-2011, các đại biểu đã nhất trí công nhận Hát Xoan Phú Thọ là “Di sản Thế giới Văn hóa Phi vật thể”.

Sau khi các Học sinh tỉnh Phú Thọ biết đến Hát Xoan, rồi Thế giới vinh danh, Hát Xoan chắc chắn sẽ phải được tỉnh Phú Thọ nói riêng, Tổng cục Du lịch và ngành du lịch Việt Nam, nói chung, đầu tư, hiệu đính, soạn các lời mới cho Hát Xoan để xứng tầm là một Di sản Thế giới Văn hoa Phi vật thể mới nhất của đất nước Tiên Rồng mến yêu của chúng ta.

Hiện nay, Việt Nam có 15 Di sản Thế giới đã được UNESCO công nhận như sau:

- Nhã nhạc – Mộc bản (triều Nguyễn) – Cố đô Huế

- Động Phong Nha – Phố (cổ) Hội An

- Mỹ Sơn thánh địa – Thành nhà Hồ

- Hội Gióng – Cồng Chiêng (Tây nguyên)!

- Điệu Ca Trù – Quan họ Bắc Ninh

- (Hoàng) Thành Thăng Long – Bia Văn Miếu (Hà Nội - 2 lần)

- Vịnh Hạ Long (2 lần) và – Điệu hát Xoan

- Thập ngũ (15) Di Sản (Thế giới)!

(Lời mới của bài hát “London Bridge”)

Đặc biệt, vào ngày 11-11-2011, Vịnh Hạ Long vừa được tổ chức NewOpenWorld (NOW) bình chọn là 1 trong 7 Kỳ quan Thiên nhiên mới của Thế giới, gồm có:

- Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh, Việt Nam

- Đảo Jeju ở Hàn Quốc

- Sông ngầm Puerto Princesa (Philippines)

- Đảo Komodo (Indonesia)

- Thác Iguazu , Brazil và Argentina

- Rừng Amazon, Nam Mỹ

- Núi Bàn ở Nam Phi, Châu Phi

Thất (7) Tân Kỳ quan (Thiên nhiên)!

(Lời mới của bài hát “London Bridge”)

Quả thật, dù nhỏ bé Việt Nam vinh dự cũng có Vịnh Hạ Long - 1 trong 7 Kỳ quan Thiên nhiên mới, để có thể sánh ngang với Trung Quốc có Vạn lý Trường thành – 1 trong 7 Kỳ quan Nhân loại mới của Thế giới với gần 200 quốc gia lớn nhỏ khác nhau!

PHẠM VŨ sưu tầm và biên sọan

ĐAM MÊ

ĐÀM LAN

Đam mê – Đó là một ngôn từ biểu cảm cho sự ham muốn đến thôi thúc ước vọng đến cháy bỏng. Không có sự đam mê ấy, con người sẽ không có được những thành công trong đời.

Nhưng không phải ai có đam mê là cũng thành công. Có một người tôi vô cùng khâm phục, mặc dù ông không gặt hái được thành quả nào từ nỗi đam mê của mình.

Tôi biết ông từ dạo còn làm việc tại tòa soạn của một tờ tạp chí. Là thư ký thường trực nên tôi có nhiệm vụ tiếp chuyện với tất cả những ai có nhu cầu liên hệ. Phần lớn họ đến để đưa bài, nhận báo biếu và nhuận bút, nhâm nhi tách nước trà và luận bàn thế sự. Không ít những khách thơ, vì yêu thơ và cũng để khoe thơ, đọc cho tôi nghe hết cả chục bài cũng chưa chán. Khổ cho cái tai thằng tôi, cứ phải nhét cho hết, mặc dù vừa vào cái tai này nó đã ra ngay bằng cái tai kia, cổ thì mỏi muốn gãy vì cứ phải gật gù. Nhưng tôi luôn nhủ mình ráng làm bồ cho thiên hạ trút hứng vậy. Ấy vậy mà một hôm tôi có được cái may mắn chuyển giao một phần chức phận của mình. Cũng là hôm tôi biết ông. Ừ mà thôi, cũng chẳng cần thiết phải hài tên hạch tuổi người ta ra nhỉ. Suy cho cùng, cái tên cũng chỉ để phân biệt nhau thôi mà. Hôm ấy, ông đến giữa lúc tôi đang tiếp hai khách làng thơ. Dựng cái xe đạp cũ kỹ khiêm tốn vào một góc hè, ông ngập ngừng trước cửa phòng, tôi vội lên tiếng:

- Mời bác vào trong này ạ!

Ông lập cập, vừa bước vội một chân lên bạc thềm ông đã rụt ngay lại, thì ra ông bỏ đôi dép ngoài cửa. Tôi lại nói:

- Bác ơi! Bác cứ đi cả dép vào đây, không sao đâu ạ.

Nhưng ông đã đến chỗ tôi ngồi, tôi liền kéo ghế mời ông. Hai người khách sau khi gật đầu chiếu lệ, họ lại thi nhau đọc những câu thơ của mình của ta. Tôi hỏi ông:

- Bác đến có việc gì đấy ạ?

Ông lôi ra một xấp giấy, lúng túng:

- Tôi…tôi muốn gửi quý báo mấy bài thơ, anh xem…

Nhận xấp giấy từ tay ông, tôi lật thử vài tờ, trong lúc ông ngồi ngẩn ra nghe hai nhà thơ đang nổ ra cuộc tranh luận thơ cũ, mới. Nhìn vẻ say sưa của ông, tôi chắc đây phải là người yêu thơ lắm lắm. Nhưng phần kiểm định bài vở là của ban biên tập, nên tôi cũng không chú ý đến thơ ông lắm. Cả ngày có đến vài chục thư bài gửi về, tôi chỉ phân loại ra rồi để đó, chứ bảo đọc hết thì tài nào. Hai người khách đã quay sang lôi ông vào cuộc. Như được gặp người cùng hội, ông cũng góp chuyện thơ phú rôm rả. Tạm để các vị khách với nhau, tôi lỉnh ra bàn ngồi vào công việc. Một chốc, câu chuyện dường đã vãn, hai người khách chào ra về, ông còn dặn với:

- Các bác nhớ nhá, cứ đến đấy hỏi ông Tá Hưu thì ai cũng biết.

- Vâng vâng, thế nào chúng tôi cũng đến.

Nhưng nhìn cách gật rối rít của họ, tôi biết ông sẽ mỏi cổ vì trông ngóng, và rồi ông cũng ra về. Vài ngày sau ông lại đến, lại đưa tôi một xấp giấy đươc gói ghém cẩn thận trong một cái bọc nylon, ông phân trần:

- Sợ nhỡ đang đi đường, gặp trời mưa ướt hết thì khổ.

Nhìn tôi đón xấp giấy bằng đôi mắt chan chứa hy vọng, ông hỏi, giọng hồi hộp:

- Thế mấy bài hôm trước anh đã xem hộ tôi chưa?

Kinh nghiệm cho tôi biết phải trả lời trường họp này thế nào, nên tôi vồn vã:

- Ồ bác yên tâm, ban biên tập đang nghiên cứu, có triển vọng đấy bác ạ.

Như chưa cảm thấy đủ, tôi buông thêm một câu:

- Bác có tuổi rồi mà viết khỏe thật đấy.

Ông nở một nụ cười sung sướng:

- Còn phải nói, tôi là tôi mê thơ từ bé cơ, lớn lên học hành chẳng được bao nhiêu, vừa thuộc đủ mặt chữ là vù ra chiến sự. Có đến hơn mười năm làm lính đấy mà có diệt được cái máu mê ấy đâu. Ngày ấy tôi cứ bị kiểm điểm suốt, vì cấp chỉ huy sợ vì mải mộng mơ mà quên cả chiến đấu. Hòa bình rồi, lại xoay quanh chuyện cơm áo gạo tiền, vợ con cứ cằn nhằn mãi, bảo có mài thơ ra thành gạo được không? Khốn nỗi, cái sự đam mê ấy nó cứ rào rạt trong huyết quản, thế là cứ chờ đêm đến, vợ con ngủ cả rồi mới giở ra viêt lách. Chữ nghĩa cứ ngả nghiêng, chắc các anh đọc cũng nhọc.

Quả thật, chỉ nhìn qua nét chữ, tôi chắc các anh ban biên tập đã có lý do để loại bài. Nhưng nhìn đôi mắt đang đau đáu ấy, ai mà nỡ nói ra điều thất vọng, tôi lại đưa đà:

- Không sao đâu bác ạ. Chữ bác thế vẫn còn tốt chán, còn có những kiểu chữ khó đến đâu chúng cháu cũng đọc được cả mà.

Rồi sau vài lời gửi gắm những đứa con gan ruột của mình, ông lại ra về trên chiếc xe đạp có tíếng kêu xục xạc của bộ sên líp già nua. Độ mươi lần như thế, ông có ý ngờ cách nói của tôi, ông gặng:

- Này, bài vở của tôi thế nào? Anh bảo cho tôi biết, chứ lần nào anh cũng nói có triển vọng, mà sao mãi chưa thấy bài nào được lên báo?

Tôi lúng túng:

- Đấy là theo cháu nghĩ, chứ quyết định là của ban biên tập bác ạ.

Ánh mắt nhìn thẫn thờ, nhuốm màu thất vọng của ông khiến tôi ái ngại, nên tỏ ra quả quyết:

- Bác yên tâm, cháu nghe nói số này có bài của bác đấy.

Ông ngờ vực:

- Thật không? Anh mà dối tôi là phải tội đấy nhá.

- Cháu nói thật đấy, không dối bác đâu.

Sắc mặt ông tươi hẳn lên:

- Tôi đã đến bao nhiêu tòa soạn rồi, may ra đây mới đúng cửa.

Rồi thấy tôi có khách, ông vội cáo từ. Tiếp xong khách, tôi thừ người lật xem những bài thơ của ông. Tôi tạm lấn quyền của anh công tác bạn đọc: Những bài thơ của ông phần lớn nói về chiến tranh, về đồng đội, về những hy sinh mất mát. Nhưng nội dung thì có mà kỹ thuật ngôn từ cứ như là kể chuyện chứ không thể thành thơ được. Tôi hiểu vì sao sự nhiệt thành của ông không có hiệu quả. Hình dung đến vẻ buồn rầu thất vọng của ông trong lần tới, và cả sự ngượng ngùng của tôi nể lời tôi nói vừa rồi không là sự thật. Thế là tôi quyết định làm một việc, nhặt ra vài ý trong thơ ông, tôi làm thành một bài thơ khác, đồng thời nói qua các anh biên tập trường hợp của ông, các anh đều tán thành. Và tôi tự bằng lòng với chính mình khi nghĩ mình đã đem lại niềm vui cho người khác, dù nhỏ thôi. Nhưng tôi thật không ngờ …

Ông đến, tôi vội vã lấy quyển tạp chí đưa cho ông, giọng hồ hởi:

- Đấy bác xem, cháu nói có sai đâu. Lần này chắc chắn có bài của bác mà.

Và tôi chỉ cho ông xem tên của ông dưới bài viết. Ông run run tay, vội lấy đôi kính lão đeo lên mắt. Ông chú mục vào trang báo một lúc rồi ngẩn người:

- Các anh có nhầm không? Bài này đâu phải của tôi.

- Làm sao nhầm được, phải đấy bác ạ.

- Không, không phải mà, tôi viết thế nào tôi biết chứ. Hay là…

Nhìn tôi với một dấu hỏi to trong mắt, bắt được vẻ luống cuống của tôi, ông nổi giận:

- A, tôi hiểu rồi. Anh đừng có mà đánh lừa tôi, tôi không cần sự thương hại của các anh nhá. Thơ tôi kém, các anh không dùng được. Không được thì cứ nói thẳng, chứ làm sao lại làm cái trò mèo này, tôi có khiến các anh mặc áo cho tôi đâu…

Thấy ông giận, tôi đâm hoảng :

- Cháu…cháu…

Không để tôi tròn câu, ông cắt ngang:

- Anh không cần phải bao biện, tôi hiểu anh tội nghiệp cho tôi. Nhưng anh có biết đây là một sự sỉ nhục không? Anh có biết trong quân ngũ việc mạo nhận chiến công sẽ bị xử như thế nào không? Đưa ra tòa án binh cơ đấy. Còn ở đây, dù có thể không ai biết, có thể tôi sẽ đem quyển báo này về mà khoe khoang với bạn bè, với gia đình. Ừ tôi có thơ đăng báo đây. Nhưng tôi không cho phép mình làm như thế, tôi không thể bắt con người ta về làm con mình. Được rồi, thơ tôi dở, không ai thèm đọc thì tôi làm cho tôi đọc. Đây của anh đây, tôi trả cho anh đấy …tôi không cần…

Nói đến đấy, ông vụt đứng dậy lập cập đi ra cửa. Sự tức giận khiến bước chân ông chệnh choạng. Tôi ngây người, chết lặng trước phản ứng của ông, quên cả câu xin lỗi.

Sau đó ít lâu, tôi cũng nghỉ làm vì tòa soạn đóng cửa. Trong suốt thời gian làm việc ở đó, đọng lại trong tôi nhất là ấn tượng về ông. Mỗi lần nghĩ lại, tôi vẫn dâng lên lòng cảm phục vì chất khí nghĩa của ông. Có lẽ đêm đêm, ông vẫn trở dậy trò chuyện với nỗi đam mê của mình. Một thứ đam mê bất cùng tận.


CHUYỆN BƯU HOA

Tình yêu là nguồn gốc tem thư?

Tình yêu chớm nở, thơ mộng, duyên dở hay bẽ bàng là nguồn cảm hứng giúp các thi sỹ, nhạc sỹ tạo ra những áng văn tuyệt tác, những vần thơ chua xót hay những bản nhạc ai oán.

Các thi sỹ Tây Phương như Lamartine đã khóc tình yêu trong những tập thơ bất hủ “Confidences”, Alfred Musset đã đau xót trong những vần thơ cảm động “Les Nuits” hay Arvers đã được nhắc nhở vì bài thơ lâm ly, ai oán “Sonnet d’Arvers”.

Ở Việt Nam chúng ta cũng thấy đã lắm thi sỹ vui buồn, đau xót vì tình yêu, chẳng hạn như Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử hay nữ thi sỹ Tương Phố trong các câu thơ:

Mắt em là một giòng sông

Hồn ta bơi lặng trong dòng mắt em

(Lưu Trọng Lư)

Nàng hỡi nàng, muôn năm sầu thảm

Nhớ thương còn một nắm xương thôi

(Hàn Mặc Tử)

Trăng thu bóng ngả bên thềm

Tình thu ai để duyên em bẽ bàng

(Nữ sỹ Tương Phố)

… nhưng mấy ai đã biết tình yêu cũng là nguồn gốc tem thư. Cũng vì tình yêu mà người ta đã phát minh tem thư.

Vào những thế kỷ thứ 17, người ta đã biết dùng thơ để cho nhau tin tức, nhưng phải quan trung gian của một người đưa thơ lấy tiền mãi lộ.

Có đôi khi thơ viết xong nhưng kiếm không ra người đưa thơ, nên thơ đành nằm đó chờ:

Buồn tình ơi hỡi buồn tình

Không ai đi Huế cho mình gởi thơ

Là câu ca dao tả tâm trạng đau buồn của một chàng trai ở xa muốn nhắn tin cho cô bạn tóc bỏ đuôi gà của miền Sông Hương Núi Ngự, nhưng kiếm không ra người để đưa thơ.

Theo sử sách, cũng nhờ tình yêu của Đông Cung Thái Tử Louis XIV nên mới có tem thư đầu tiên ra đời.

Lúc 15 tuổi, Louis XIV thích gởi thơ thăm các bạn gái trong số các thị nữ xinh xắn hầu cận Hoàng Thái hậu Anne d’Autriche, hoặc con các nhà quý tộc. Những thơ tình này thường nhờ người mang tay đến các cô bạn gái. Sợ mất thanh danh của hoàng gia nên Thủ Tướng Mazarin cho lệnh mỗi khi Louis XIV đưa thơ cho ai thì người này phải trao lại cho Fouquet, Tài Chánh Tổng Giám kiêm Bưu Chính Tổng Giám.

Lệnh của Mazarin khắt khe như vậy làm cho Louis XIV bực mình và có ý trách móc, còn Fouquet cũng chẳng sung sướng gì, vì như ở giữa búa và đe: thi hành lệnh của Mazarin thì bị Louis XIV cằn nhằn, còn làm thỏa mãn Louis XIV thì bị Mazarin bố.

Fouquet đem câu chuyện này phân trần với bạn gái là nữ bá tước Anne Genevière de Bourbon Condé thì được giúp mưu kế sau:

Lâu nay thơ của Louis XIV gởi thì có dán phía sau một băng giấy nhỏ. Bây giờ chỉ có cách là đề nghị Nhà In Hoàng Gia cho đóng vào những băng giấy đó con dấu nhà Vua và ghi thêm một bên giá tiền 2 xu. Đồng thời đặt tại các ngã tư đường những thùng thơ công cộng. Bất kỳ ai muốn gởi thơ cho nhau chỉ cần mua băng giấy nhỏ dán trên phong bì và bỏ thơ vào thùng thơ để được phân phát đến nơi đến chốn, Louis XIV muốn gởi thơ cho bạn gái chỉ cần làm như mọi người và bỏ vào thùng thơ. Mazarin không tài nào biết được.

Phương kế này chỉ áp dụng được một thời gian ngắn thì Hoàng Thái hậu Anne d’Autriche biết được và cấm hẳn việc sử dụng các băng giấy nói trên có thể coi như là tem thư đầu tiên.

150 năm về sau, tại Anh cũng nhờ những bức thơ tình trao đổi giữa đôi trẻ yêu nhau và cho nhau tin tức nên Roland Hill mới phát minh ra tem thư I penny, quen gọi là “le penny noir”.

Nguyên ngày trước muốn gởi thơ thăm nhau thì bỏ vào nhà Bưu Điện, khỏi cần dán tem vì lúc đó chưa có tem. Một người liên lạc sẽ mang thơ đến tận nhà người nhận và thâu nơi người này một lệ phí tính theo đường xa gần.

Một đôi trẻ yêu nhau, hỏi thăm tin tức nhau, nhưng mãi gởi thơ theo lối này thì quá tốn kém nên bèn nghĩ mưu kế để khỏi lệ phí. Họ bèn dặn nhau mỗi khi gởi thơ thì ghi phía sau phong bì một vài ám hiệu. Một hôm Roland Hill bắt gặp một cô thiếu nữ nhận được thơ của một chàng trai do người đưa thơ mang lại, và lật phía sau phong bì xem một chút rồi lại từ chối bức thơ, như thế để khỏi trả lệ phí. Người đưa thơ đành mang bức thơ về.

Thấy câu chuyện kỳ lạ, Roland Hill bèn hỏi dò la cô thiếu nữ thì được cô ta thú thật là cô ta đã hiểu gì mà bạn trai muốn nói chỉ đọc những ám hiệu ghi phía sau phong bì, khỏi phải nhận thơ để tránh trả lệ phí.

Roland Hill về nhà suy nghĩ và nhận thấy nếu mọi người đều làm như cô thiếu nữ thì sở Bưu Điện hàng năm mất một số tiền thu rất lớn, nên mới có ý kiến bày ra tem thư buộc người gởi:

Làm thơ giấy trắng, em gắn con cò xanh

Gởi nhà Bưu Điện nhớ tới anh đêm ngày

Bs. Nguyễn Lân – Đính st,

DI CHÚC LẠ

Đã lâu mới có dịp về thăm quê. Một hôm đang đi dạo mát tôi bất ngờ gặp ông giáo già đã nghỉ hưu. Ông mời tôi vào nhà chơi. Chúng tôi ôn lại chuyện xưa, chuyện trên trời dưới đất, chuyện thế thái nhân tình… Bỗng ông đột ngột chuyển chủ đề: mình già rồi nên có ý định viết di chúc. Ý tưởng mới lạ chẳng giống những bản di chúc thường thấy, khiến tôi bị lôi cuốn ngồi nghe ông nói. Của giả chẳng có gì nhiều nên không lo chuyện chia chác cho con cháu. Cái ông băn khoăn là chết thì chôn thế nào để kiếp sau mình được sung sướng. Vì hiếu kỳ tôi nghĩ cứ chịu khó nghe xem có học hỏi được gì không.

Ở đời người ta chết đi cũng có nhiều cách chôn, nào thiên táng, địa táng, hỏa táng, thủy táng vv… Ở Tây Tạng có tục thiên táng. Người ta đưa người chết đặt trên mặt một phiến đá phẳng ngoài thảo nguyên rồi xả xác ra cho kền kền ăn hết. Còn ở ta khi trước thường địa táng, nhưng gần đây nhiều người lại hỏa táng. Riêng ông tâm đắc nhất cái cách “thủy táng”. Thật là ý tưởng lạ, chưa hiểu tôi hỏi ông: Tại sao vậy?

Ông lý giải đây là cách mai táng đỡ tốn kém nhất. Ông học và làm theo lời Bác: Chớ điếu phúng linh đình để tốn tiền của con cháu. Theo ông thủy táng hơn hẳn địa táng vì không phải tốn tiền quan tài, không phải xây trong quan ngoài quách, không tốn tiền mua đất ở nghĩa trang, vài năm sau đỡ khoản bốc mộ cải táng và về lâu dài không sợ chuyện động mồ động mả ảnh hưởng đến con cháu trên dương thế vv… Ông nói hào hứng về viễn cảnh sau cái chết. Tóm lại là cực kỳ tiết kiệm và nhiều ý nghĩa. Với tầm nhìn xa trên mười km. Ông nói với tôi: cứ nhìn cái nghiã trang thành phố mới ngày nào nhỏ xíu mà bây giờ đã rộng bát ngát. Thành phố nhiều lần lấy đất nông nghiệp hai vụ lúa để mở rộng nghĩa trang vẫn còn chưa ổn. Đó là chưa kể đến nhà nhà đua nhau xây mộ hoành tráng. Nhiều họ còn khoanh hẳn cả mảnh đất lớn để đoàn tụ ở một chỗ. Cứ theo cái đà này mồ mả chiếm hết cả đất ruộng. Con cháu lại ngày một đông lấy gì mà cày cấy sinh sống. Thành phố cũng định di dời nghĩa trang lên miền đồi núi cho vệ sinh và tiết kiệm đất nông nghiệp, nhưng mà chưa biết vì lý do gì chưa thành hiện thực. Ông sống đây mà đang nghĩ cho con cháu mai sau, thật là người có tâm có đức, đâu phải chuyện tào lao.

Tôi nóng ruột lái khéo câu chuyện để ông đi vào đề tài chính. Lúc ấy ông mới nói rõ ý tưởng tại sao lại muốn di chúc cho con “thủy táng”. Ông sẽ nói với các con rằng: Bố chết! sau khi làm xong mọi nghi lễ thì bí mật dìm xác bố xuống sông, ở dưới ấy mát mẻ. Món ăn giàu chất đạm này bọn cá rất thích, sẽ giải quyết rất nhanh, chắc chắn chúng ăn vào sẽ rất to và béo. Như vậy bố đã nhanh chóng hóa thành kiếp cá. Ngày nay các đại gia lại có thú đi câu cá. Câu được con cá to béo, các quan vui sướng lắm. Đây rõ ràng là một chiến tích thể hiện tài nghệ câu cá nên ông phải khuếch trương bằng một bữa tiệc chiêu đãi bạn bè cũng là những ông quan cùng gu nhậu. Như vậy thông qua kiếp cá bố chuyển hóa sâu vào huyết mạch, thành các tế bào của các quan. Nói gọn một câu là bố đã hóa thành quan.

Ở những nước dân trí còn thấp thường thì người ta trọng thị quan lại hơn tất cả. Một người làm quan cả họ được nhờ. Mục đích lý tưởng của đời họ là phấn đấu làm quan. Người ta không từ một thủ đoạn nào để được làm quan. Do đó mới có chuyện chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp giả, còn giảm tuổi phi lý như tuổi ông anh lại kém cô em gái bốn tuổi… Mặc dù làm quan lương “bèo” nhưng nhiều quan nhà cửa hơi hoành tráng, còn xe ô tô đời mới vv… ấy là chưa kể cái tài xoay sở hưởng thụ mà phó thường dân làm sao hiểu nổi. Người ta nghĩ ra sáng kiến kết nghĩa rồi mời nhau giao lưu. Tất nhiên theo phương châm cổ truyền “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Anh đến giao lưu, chúng tôi chiêu đãi thật hữu hảo, thật hào phóng, chia tay lưu luyến mỗi người một phần quà. Thế rồi ít nữa anh mời chúng tôi đến giao lưu học hỏi, anh lại chiêu đãi xả láng: tiền quyết toán tiếp khách, hội thảo sao cho họp pháp, có đút túi đâu mà sợ. Vì ở “nội bộ” nên quan làm gì mà không biết. Có lần ông kể chuyện với bạn là vào trong ấy họ sống thoáng lắm, chiêu đãi các bạn đặc sản quê hương, một chén súp yến bé tẹo mà cũng triệu đồng, đĩa yến sào cũng chỉ ba triệu, rồi rượu tây mấy triệu một chai… Các con thấy bố làm quan có sướng không? Nhưng giao lưu cấp tỉnh, cấp thành phố sao bằng giao lưu học hỏi các nước bạn. Là khách mời nên mình chỉ chi chút ít còn bạn bao hết. Cứ lần lượt giao lưu học hỏi hết Á, Âu, Mỹ… tha hồ mà tham quan du lịch, lại được thưởng thức những thứ hoa thơm cỏ lạ. Tất nhiên khi chia tay lại chân thành cảm ơn sự đón tiếp trọng thị và mời bạn sang tham quan tìm hiểu đất nước quê hương tôi vào thời gian thích hợp… Còn nhiều cái sướng, cái lạ nữa không tiện nói ra đây vì “Thiên cơ bất khả lậu” mà.

Các con tôi lúc đầu thì phản đối dữ lắm vì sợ làm theo di chúc của bố thiên hạ người ta đàm tiếu chê cười. Nhưng khi tôi lý giải cái hay, cái “ích nước lợi nhà” và lấy chính cuộc đời mình làm minh chứng. Ca dao tục ngữ tân thời có câu: “Thật thà, thẳng thắn, thường thiếu thốn/ Lỗi lầm, luồn lọt lại lên lương”. Bố là người thật thà, thẳng thắn nên kiếp này thiệt thòi, thiếu thốn, sống khổ quá rồi. Chúng con sẽ làm theo di chúc của bố để kiếp sau bố sẽ sống sung sướng như trên.

Nhưng có điều ghi chú nhỏ thế này: Các con phải làm sao thật bí mật, thật kín đáo kẻo ngưới ta phát hiện sẽ phạt cái tội làm ô nhiễm môi trường sống. Tiền phạt quá tiền chôn thì gay. Đấy là lo xa thôi chứ thấy món ăn ngon cá xơi sạch còn gì mà ô với nhiễm. Vả lại lúc các con ra thấy không còn gì thì bố đã thành quan rồi, kẻ nào dám phạt.

Ngồi nghe ông giáo lý giải cái chuyện di chúc kỳ lạ để kiếp sau được sống sung sướng tôi chỉ biết cười. Hình như xả được ra nó nhẹ người, ông cười khoan khoái, rồi cám ơn tôi lắng nghe ông tâm sự. Ngồi chơi đã lâu tôi cũng xin tạm biệt ông giáo ra về, đầu tôi vẫn còn vấn vương suy nghĩ về câu chuyện giàu óc hài hước của ông giáo. Tôi bất giác bật ra một câu: “Ôi! Thế thái nhân tình”.

Độc giả nghe chuyện rồi, vậy ai có ý tưởng gì hay kể giùm nghe.

LÊ MINH CHỬ


Phụ Bản II

Hoài cảm

Tình xưa nghĩa cũ chửa phai mờ

Nét bút còn lưu niệm ý thơ

Từ độ chia tay luôn luyến nhớ

Mà nay trông nhạn vẫn im ngơ

Bao nhiêu sắc đẹp khoe dương thế

Có mấy tinh hoa hợp mộng mơ

Tăm cá bóng chim đà lỡ vận

Biết ai phương ấy có mong chờ!

Thanh Châu

Long Hòa – Cần Thơ

29.12.2007

Diệu kỳ

Anh hỡi anh có biết

Nơi nào không thấy mùa đông

Không tuyết rơi, tiết trời gía lạnh

Nơi nào không có mưa rơi tầm tã

Không lệ nhòa

Không tiếng nấc buồn đau.

Nơi nào không có mùa hè

Nắng cháy gắt gao

Không lá vàng rơi, mùa thu buồn tẻ

Nơi nào có muôn hoa nở rộ

Có bầu trời xanh

Én lượn mùa Xuân

Bao niềm vui cứ rạo rực tưng bừng

Đấy là nơi
               có tình anh yêu em tha thiết.

                                           XUÂN VÂN

         LỐI VỀ

Bụi vướng theo chân bước nặng nề

Nằm trong quán trọ tưởng là quê

Nụ cười tạm bợ say cùng mộng

Giấc ngủ chưa tròn tỉnh hóa mê

Sáu khắc nhớ trăng bờ lệ liễu

Năm canh quên gió ngọn bồ đề

Chuông chiều bỗng chợt khơi tiềm thức

Cửa ngõ bâng khuâng một lối về.

                                     TRẦN LỮ VŨ

Dòng Sông Thu

Dòng sông thu trong xanh

Đon nhận từng tia nắng

Nở thành đàn bướm trắng

Cánh dập dờn long lanh


Dòng sông thu êm đềm

Trong màn trăng buông rủ

Sông chìm vào giấc ngủ

Thành gương vàng soi đêm


Trong lòng sông mênh mông

Tung tăng con cá nhỏ

Chẳng sợ gì bão tố

Chẳng sợ gì mưa dông


Anh là tia nắng đó

Anh là ánh trăng đêm

Anh là con cá nhỏ

Dòng sông thu là em!

                          TS Vũ Đình Huy

                          02.8.1966


The Autumnal River


The clear and blue autumnal river

Welcomed each one of the sunlights

Blooming into a flock of white butterflies

With their sparkling waving wings.


The serene autumnal river

Within the lowering moon veil

Merged itself into a sleep

Turning into a golden mirror reflecting the night.


Inside the immense river bed

A little fish gambolled

Being not afraid of storms

And not caring about stormy rain.


I’m the red flash of sunlight

I’m the moonlight in the night

I’m the little fish

And you’re the autumnal river!


                                          02.8.1966

                                          Translated by VŨ ANH TUẤN

Họa thơ

BỤI PHẤN THỜI GIAN

                     của NGUYỄN-MẬU-LÂM

Đôi ta cùng chí hướng

Cùng yêu nghề giáo đến si mê

Anh và em chung lý tưởng

Chung bước đường thơ ngọt dịu ánh trăng thề

Thời gian trôi

Không xóa mờ tình yêu dành cho lớp trẻ

Bụi phấn rơi rơi trên tóc nhung huyền

Mình suốt kiếp nguyện theo nghề dạy học

Cô nữ sinh ngoan ngoãn ngày nào

Vẫn mãi yêu anh – thầy giáo cũ

Tháng ngày trôi – kỷ niệm nồng nàn

Vẫn gắn bó với tương lai lớp trẻ

Vẫn hết mình vì thế hệ mai sau

Anh xúc động ngập tràn

Dưới đèn đêm em ngồi bên trang giáo án

Vẫn yêu nghề như đã mến yêu anh

Em tươi thắm hồn nhiên như thuở học trò bé bỏng

Nhân hậu hiền hòa như màu phấn trắng bảng đen

Vì yêu anh – Em đảm đang vững bước

Đem nắng xuân hồng hạnh phúc ngập đời anh

Và vun quén vườn lòng đơm trái ngọt

Nở đầy hoa cho mái ấm mãi yên vui

Búp măng non sẽ vươn lên cao vút

Cho niềm tin – hy vọng sáng muôn đời

                                            NGÀN PHƯƠNG


Một Thoáng Malaysia – Singapore,

2 Con Rồng Châu Á Đang Bay Bổng Trong Thời Kỳ Mới

Vương Liêm

Có thể nói đây là hai con rồng của khu vực Đông Nam châu Á nằm kề cận Việt Nam trong thời kỳ mới - thời kỳ suy thoái kinh tế thế giới nhưng vẫn đang bay bổng một cách đáng khâm phục và tự hào.

Từ nhiều năm nay, sau thời kỳ mở cửa, hội nhập vào khu vực và thế giới, Việt Nam nhanh chóng trở thành một quốc gia có nhiều ưu thế trong quan hệ với hầu hết các quốc gia trên thế giới song song với sự phát triển của nhiều lĩnh vực của nền kinh tế thị trường, trong đó có ngành công nghiệp không khói là du lịch. Vì vậy, Việt Nam là nơi đã thu hút đông đảo du khách từ nhiều nước trên thế giới và ngược lại nhiều nước cũng đã là điểm hẹn của Việt Nam.

Du lịch thế giới đang phát triển và đất nước nào cũng dành nhiều ưu tiên để đầu tư phát triển nó nên vô hình chung, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều tạo thuận lợi cho người nước ngoài tới với mình, tham quan du lịch mọi miền đất nước của mình. Đó chẳng những là yêu cầu của sự phát triển đất nước mà còn là nhu cầu hưởng thụ thành quả của nền văn minh thế giới của loài người.

Nhu cầu hưởng thụ cái hay cái đẹp của xứ người đã khiến cho ngành du lịch phát triển, dù đi gần đi xa đều được mọi người ưa chuộng, thích thú bởi vì “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Cái khôn của loài người xưa nay vẫn được mọi người chia sẻ tùy theo điều kiện của mỗi người. Đi gần đi xa hay đi ngắn ngày dài ngày tùy theo “tua’ tổ chức và tùy theo túi tiền, thời gian của mỗi người.

Thời gian qua, du lịch tham quan các nước lân cận láng giềng được chúng ta thực hiện ngày càng nhiều phù hợp với túi tiền của nhiều người, như đi Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào, Singapore, Malaysia, Ấn Độ, Úc trong khu vực Đông Nam châu Á. Vừa qua, tôi chọn “tua” Malaysia – Singapore với thời gian 7 ngày 6 đêm đến các nơi như Kuala Lumpur, Genting Highland, Malacca, Merlion Park, Sentosa, Jurong…

1-Đối chiếu cảnh quan nước bạn với nước ta:

Khi đến với Thái Lan, đất nước của đạo Phật, ai nấy đều nhìn nhận đất nước này đã phát triển hơn hẳn Việt Nam vài chục năm. Còn đối với Singapore và Malaysia, đất nước của đạo Hồi, Ấn Độ, Khổng Mạnh mọi người đều khâm phục về một đất nước chẳng những có nền kinh tế phát triển vượt bực mà còn đạt được thành tựu của nền văn minh “xanh – sạch – đẹp” mà hiện nay cả thế giới đang ngưỡng mộ, phấn đấu để đạt tới.

Và sau mấy ngày đi lại, tham quan và sinh sống ở vài thành phố nổi tiếng có bề dày lịch sử, tôn giáo chủ yếu như Kuala Lampur, Malacca, Singapore… ai nấy đều ngỡ ngàng về sự phát triển và văn minh của người dân ở đây. Theo khoa nhân chủng học, cư dân ở khu vực này được các nhà nghiên cứu khảo cổ học đặt tên là Protoindochinois hay ProtoindonésienProtomalais. Nói chung các quốc gia thuộc Đông Nam châu Á đều có nguồn gốc của bộ tộc người Mã Lai hay Nam Đảo có quan hệ về huyết thống và văn hóa từ thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên tới cuối thiên niên kỷ thứ I sau công nguyên. Trong thời kỳ này, các cư dân bản địa đều có mối giao thoa với nhau không khác ngày nay.

Nếu vài năm trở lại đây, chúng ta đã nhìn thấy kiểu dáng nhà cửa ở nước ta nhanh chóng xây dựng theo mô-típ Thái thì hiện nay chúng ta lại “bắt mắt” với lối kiến trúc cầu đường, đặc biệt các loại cầu vượt, hoa kiểng, cây cảnh… ở thành phố Hồ Chí Minh không khác với ở thành phố Malaysia, Singapore. Hầu như ngành công viên, cầu đường mô phỏng hay bê nguyên xi kiểu dáng đó vào nước ta… một cách giống y hệt!

Ngày nay, nếu đứng trên bến Nhà Rồng (quận 4) nhìn về phía bến Bạch Đằng (quận 1) hay về hướng cầu Ông Lãnh dọc đường mới xa lộ Đông – Tây (từ quận 1 tới quận 5-6) hay ở ngã ba Cát Lái… chắc chắn chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi nhìn các kiểu dáng những cây cầu, cầu vượt bê tông mới, đường xe với nhiều làn xe, công viên với hoa kiểng đẹp, đèn trang trí lộng lẫy… thật gần gũi với một góc, một khu của thành phố Kuala Lumpur và Singapore. Thậm chí, lối kiến trúc nhà cao tầng, đường cao tốc, xa lộ mới… trong đó có vật liệu xây dựng, trang trí… nhất nhất đều giống với nước bạn. Có thể nói, đây là điều đáng mừng vì các nhà kiến trúc, thiết kế và xây dựng của ta đã nhanh chóng “học tập” kinh nghiệm của đất nước có nền văn minh “xanh – sạch – đẹp” đáng để học tập, chia sẻ kinh nghiệm.

Nhìn từng phiến đá cẩn lề, gạch lót lề đường, cây cảnh trồng ở công viên như cau kiểng, cọ dầu hay trên dãy phân cách đường xe trong thành phố hay ở ngoại thành… “tất tần tật” đều là của nước bạn. Có lẽ chúng ta nên tự hào với cách thức “học tập kinh nghiệm” và mô phỏng này bởi vì đó là điều tốt cho sự phát triển và văn minh của đất nước ta. Nhưng chỉ tiếc là sự học tập đó chưa rốt ráo, chưa thuộc bài hay chưa muốn làm giống y hệt nên đã chừa ra một số bài học cốt lõi, thiết yếu. Đó là những cây cầu vượt của ta nhìn thấy trơ trọi, nóng nắng hay mưa ướt khi trái gió trở trời, mưa nắng hai mùa… làm cho người dân e ngại vượt cầu.

Hầu hết cầu vượt của nước bạn, dù ở ngoại thành hay trên đường cao tốc liên tỉnh đều có mái che, mái che kéo dài ra cả trăm thước ở hai bên lối đi xuống lề đường. Do đó, người đi bộ cảm thấy an toàn khi mưa nắng, mát mẻ khi đi qua cầu vượt.

Còn các loại cây xanh ở trong công viên hay khu vực có cây cảnh dọc theo hai bên đường, kể cả trong khu phố… nước bạn đều để cho mọc tự nhiên, xanh tươi, um tùm ngày càng rậm rạp thêm để tạo môi trường xanh, thu hút và chuyển hóa khí bụi độc hại của xe cộ, đường xá. Còn ở ta thì luôn tỉa, cắt, chặt, đốn cho trống trải, cho khô héo để chết nhanh mà trồng cây khác nhưng vẫn èo uột, cằn cỗi trông hết sức “bực mình”. Chung quanh đám cây xanh mọc lên um tùm đó, người ta chăm sóc thảm cỏ đẹp, hoa trổ bốn mùa và giữ sạch sẽ lối đi… đặc biệt, chúng ta ít nhìn thấy thùng rác mà đường, lề, lối đi, vỉa hè… đều sạch, nhất là không thấy công nhân quét đường. Còn ở ta, thùng rác đặt nhan nhản ở mọi nơi nhưng lại tràn đầy rác, có nơi xông lên mùi hôi nồng nặc. Xe chở rác và công nhân quét rác giờ nào cũng thấy làm việc tạo nên cảnh quan không đẹp chút nào và đường phố vẫn đầy rác và bụi! Ở thành phố bạn, đường phố đầy xe cộ qua lại như mắc cửi nhưng lưu thông thuận lợi không nghe tiếng còi xe, tiếng ồn lớn, dù có nơi bị ách tắc giao thông nhưng không chen lấn hay giành đường vượt ẩu, không có cảnh sát can thiệp, trừ ở vài nút chặn rắc rối. Thành phố đông người, nhiều xe nhưng êm ả, thông thoáng và xinh đẹp.

Trong thảo cầm viên của thành phố bạn luôn có lối đi với mái che thông thoáng, nhẹ nhàng để tránh mưa nắng cho khách tham quan. Các trường học có sân vườn rộng, nhiều cây xanh nhưng lại có lối đi mái che nối liền từ thềm trường ra tới lề đường xe để bảo đảm an toàn cho học sinh, dài hằng chục mét. Các khu vui chơi, giải trí đều có bạt che nắng mưa màu trắng, cao khỏi ngọn cây xanh để bảo đảm thoáng mát nhưng rất an toàn với các cột thép, dây chằng chắc chắn, phẳng phiu. Trẻ con, người lớn, khách du lịch đều cảm thấy an toàn, thoải mái với cảnh quan đẹp mắt, nhất là đây đó đều sạch, xanh. Loại bạt che này chưa thấy xuất hiện ở thành phố ta. Còn những chiếc dù che tạm bợ thấp lè tè hay to đùng như có chóp nhọn nhưng lại nóng khi nắng hay ướt sũng đọng nước khi mưa, lung lay khi gió cuốn…

Điều hay khác nữa, hầu hết các khu phố, nhà cao tầng đều nối liền nhau bằng mái che, cầu vượt và đường hầm tạo an toàn và thuận lợi cho người dân, du khách đi lại, mua sắm, tham quan. Đặc biệt, giữa trung tâm Singapore mọc lên đầy rẫy những nhà cao tầng đồ sộ, kiên cố với biết bao công trình kiến trúc đa dạng khác như năm tòa nhà ngân hàng quốc gia cao hàng chục tầng đánh số từ 1 tới 5 bao quanh một “bồn nước của cải” (Fountain of Wealth) mang đầy chất phong thủy được tạo lập từ nhiều năm qua thể hiện đường nét độc đáo hai tầng địa chất (tầng mặt đất và tầng hầm) của thành phố sư tử biển với 12 con giáp mang dáng dấp văn hóa phương Đông cổ mà du khách nào cũng tới xếp hàng chiêm ngưỡng và cầu nguyện vào buổi tối. Gần đó là ga chính của đường tàu điện ngầm tỏa đi khắp thành phố được cấu trúc hai ba tầng dưới lòng đất, vừa mát mẻ vừa rộng thoáng vừa nhanh chóng khi đi lại. Người hướng dẫn cho biết các khu thương mại và đường xe điện ngầm dưới lòng đất có thể chứa được hết cư dân của thành phố khi có tình huống khẩn cấp như bị khủng bố hay bị ném bom.

Trong các nhà cao tầng có khu thương mại, mua sắm ăn uống với lối đi rộng thoáng, mát mẻ, sạch sẽ và tấp nập. Không ai chiếm dụng hay bung ra bày hàng ở lối đi. Không có hàng quán trên lề đường hay lối đi có mái che. Mọi thứ mua bán đều ở trong nhà, trong cửa hàng, trong khu cao tầng dù trên mặt đất hay dưới lòng đất.

Con đường cao tốc từ Singapore tới Kuala Lumpur dài trên 300 km (có hai đường) ở phía đông và phía tây rộng thoáng, sạch xanh, phẳng phiu... với dãy phân cách lúc trồng hoa, lúc có hàng rào chắn, kẻ vạch phân biệt luồng xe khiến cho xe các loại chạy với tốc độ cao (trên 100 km/giờ) an toàn, êm ái. Không có ngã tư, ngã ba, chỉ có đường vượt. Cứ vài chục km đường lại có một ngã rẽ vào trạm dừng nằm xa đường cao tốc. Nơi đây được bố trí như là một khu phố rộng thoáng, đầy cây xanh, hoa kiểng, có nhà nghỉ, quán ăn, siêu thị, trạm xăng, khu vui chơi cho trẻ con, đặc biệt toilet rất sạch, đẹp, thoáng, bãi đậu xe thoải mái làm cho du khách cũng cảm thấy thoải mái, thích thú với một trạm dừng nửa giờ thư giãn… Không giống như hàng quán nằm sát hai bên đường liên tỉnh hay quốc lộ của xứ ta làm cản trở lưu thông, không bảo đảm an toàn cho xe cộ, người đi đường. Bên ta, với cà phê võng tự do hoạt động lôm côm trông thật bát nháo!

Đặc biệt, dọc theo hai bên đường cao tốc Bắc - Nam nói trên không có hàng quán, nhà cửa kể cả dân chúng qua lại mà hai bên đường toàn là cây xanh, đồi cỏ sạch đẹp, có lối thoát nước ngang dọc để tránh nước mưa tuôn chảy ra đường làm hư hỏng lề đường hay phá vỡ mặt đường. Rừng cây cọ, cây giá trị như gõ, sao… được trồng trải dài theo hai bên đường cao tốc làm cho cảnh quan luôn xanh tươi, mát mẻ. Thỉnh thoảng lại có ngã rẽ sạch đẹp để chuyển hướng xe giao thông hoặc thị trấn nằm hai bên không gây trở ngại cho giao thông. Vài ba cơ sở sản xuất tư nhân hay nhà vườn, cơ quan nhà nước của ngành giao thông, môi trường đều nằm khuất ở trong rừng cây, xa đường.

2-Vài nét về lịch sử, văn hóa, văn minh nước bạn:

Cộng hòa Singapore là quốc gia nhỏ nhất của Đông Nam Á, nằm phía nam của bán đảo Malaysia, phía nam bang Johor của Malaysia và phía bắc đảo Riau của Indonesia. Singapore nằm cách xích đạo chỉ 137 km về hướng bắc. Singapore từng là một làng cá của người Mã Lai khi nó bị chiếm làm thuộc địa của Anh vào thế kỷ 19. Sau đó, quân đội Nhật chiếm đóng Singapore trong Thế chiến thứ hai, và sau nữa nước này là một phần trong sự liên kết tạo thành Liên bang Mã Lai. Khi Singapore giành được độc lập, với rất ít tài nguyên thiên nhiên, đây là một nước không ổn định về chính trị xã hội và không phát triển về kinh tế. Đầu tư nước ngoài và sự công nghiệp hóa do nhà nước chỉ đạo đã tạo ra một nền kinh tế dựa chủ yếu trên xuất khẩu hàng điện tử và gia công.

Hơn 90% dân cư Singapore sống trong các khu nhà xây dựng sẵn của Ban Phát triển Nhà ở và gần một nửa dân cư sử dụng phương tiện giao thông công cộng hàng ngày. Chính nhờ các phương tiện giao thông công cộng này cùng với sự chủ động của chính phủ trong các vấn đề môi trường đã làm cho sự ô nhiễm môi trường ở Singapore chỉ còn lại ở vùng công nghiệp nặng ở đảo Jurong. Theo hiến pháp, Singapore là một nước dân chủ đại nghị. Ban đầu, Singapore theo thể chế xã hội chủ nghĩa dân chủ sau khi độc lập, sử dụng một hệ thống kinh tế phúc lợi. Tuy nhiên sau đó chính phủ Singapore đã nghiêng dần về phía cánh hữu.

Tên Singapore xuất phát từ Singapura trong tiếng Malaysia (hay tiếng Malay), vốn được lấy từ nguồn gốc của chữ Phạn là singa (sư tử) và pura (thành phố). Từ đó Singapore được biết với cái tên Thành phố Sư Tử . Tên gọi này bắt nguồn từ một vị hoàng tử tên là Sang Nila Utama. Theo truyền thuyết, vị hoàng tử này nhìn thấy một con sư tử là sinh vật sống đầu tiên trên hòn đảo và do đó đặt tên cho hòn đảo là Thành phố Sư Tử (Singapura). Trong quá trình phát triển thành phố, Singapore lần lượt xây dựng tới ba con sư tử gồm có : ban đầu là sư tử mẹ với đầu sư tử mình cá miệng phun nước đặt nằm bên bờ eo biển ở Công viên Sư tử biển (Merlion Park), về sau lại xây dựng tiếp sư tử con cho đủ “Mẹ con” cùng hướng ra biển nhưng về sau cho quay lại tựa lưng vào nhau để sinh tồn, gần đây, lại có thêm sư tử cha cho đủ bộ ba “Cha-Mẹ-Con” dựng trên đồi cao ở đảo của khu du lịch Santosa có sòng bạc Casino nổi tiếng.

Năm 1990, Singapore đối mặt với nhiều khó khăn bao gồm ảnh hưởng kinh tế từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997, những đe dọa khủng bố từ Jemaah Islamiah, hậu vụ án 11 tháng 9 và các vụ đánh bom ở Bali. Từ năm 2004 tới nay, Lý Hiển Long, con trai cả của Lý Quang Diệu, trở thành thủ tướng thứ ba, đất nước Singapore vẫn vững bước phát triển, là một quốc gia thu hút nhiều khách du lịch nhất khu vực.

Malaysia là một liên bang gồm mười ba bang tại Đông Nam Á. Nước này gồm hai vùng địa lý bị chia tách bởi Biển Đông:

- Bán đảo Malaysia (hay Tây Malaysia) trên Bán đảo Malay (“Ma Lay” theo tiếng Mã Lai là “hoàng kim”) có biên giới trên bộ ở phía bắc với Thái Lan và thông qua Đường nối Johor-Singapore và Đường nối Malaysia-Singapore thứ hai ở phía nam nối với Singapore. Nó gồm 9 bang (Johor, Kedah, Kelantan, Negeri Sembilan, Pahang, Perak, Perlis, Selangor và Terengganu), hai bang dưới sự lãnh đạo của Thống đốc (Malacca và Penang), và hai lãnh thổ liên bang (Putrajaya và Kuala Lumpur).

- Đông Malaysia (hay Borneo thuộc Malaysia) chiếm phần phía bắc đảo Borneo, giáp biên giới với Indonesia và bao quanh Vương quốc Hồi giáo Brunei. Nó gồm các bang Sabah và Sarawak lãnh thổ liên bang Labuan.

Cái tên “Malaysia” được chấp nhận năm 1963 khi Liên bang Malaya, Singapore, Sabah và Sarawak hình thành một liên bang 14 bang. Singapore đã rời khỏi liên bang năm 1965 và sau đó trở thành một quốc gia độc lập. Dù chính trị thuộc quyền thống trị của người Malay, xã hội Malaysia hiện đại không đồng nhất, với cộng đồng người Trung Quốc và Ấn Độ khá lớn. Ngày nay, Malaysia chỉ còn lại 5 tiểu bang và đứng đầu tiểu bang là Tiểu vương. Năm Tiểu vương đặt dưới quyền lãnh đạo của Quốc vương đất nước Malaysia.

Hiện nay, du khách tới Kuala Lumpur thường được các nhà tổ chức “tua” đưa đến một số thắng cảnh mang tính truyền thống Malaysia như: Quảng trường Độc lập rộng lớn như một sân đá bóng với cột cờ cao trên 40 mét nhất thế giới, Hoàng cung Malaysia nhưng chỉ đứng chụp ảnh bên ngoài cổng rào hai bên có hai lính ngự lâm luôn ngồi trên ngựa, chùa Bà Thiên Hậu, Tượng đài chiến sĩ vô danh với tượng 7 nhân vật lịch sử đấu tranh của Malaysia gây nhiều tranh cãi, Tòa nhà Tối cao Pháp viện mang dáng dấp kiến trúc Anh quốc xinh đẹp, Đền thờ Hồi giáo lộng lẫy và hoành tráng ở thành phố hành chính mới Putrajaya cách Kuala Lumpur vài chục cây số về phía Nam với tòa nhà chính phủ xinh đẹp màu xanh có đường nét Hồi giáo nằm bên dòng sông thoáng mát sạch đẹp. Đặc biệt đền Ấn giáo có tượng Lord Murugan cao 42,7m với nhiều kiến trúc nằm rải rác trên đồi cao của động Batu (Batu caves) với ba lối đi song nhau 270 bậc, nơi phát tích của người Malay, tháp đôi Petronas với khu thương mại đồ sộ bốn tầng lộng lẫy và sầm uất nhất nước. Cao nguyên Genting không xa Kuala Lumpur ở độ cao 2.000m có khu casino nổi tiếng như Las Vegas của Mỹ thu nhỏ và Thế giới Đệ nhất khách sạn trên 3.000 phòng bên cạnh khu vui chơi giải trí của mọi tầng lớp. Một lon bia Heiniken giá tới 160.000 VNĐ. Dân bản địa hạn chế tới các sòng bạc ở các Casino nhưng nếu muốn vào đó thì phải đóng thuế tới 500 đô. Đây là quốc gia Hồi giáo nên không có cảnh tiệc tùng, nhậu nhẹt tưng bừng như ở Việt Nam.

Điều ấn tượng nhất của Malaysia và Singapore là ở các hàng quán ăn không hề bán bia hay rượu nhưng trong các cửa hàng thực phẩm, trung tâm thương mại, cửa hàng miễn thuế đều có bày bán các loại rượu mạnh đắt tiền. Rượu mạnh và thuốc lá du khách mua ở đây đều được nhận hàng ở sân bay hay cửa khẩu, chớ không được mang theo mình trong khi đi du lịch nơi này nơi kia.

Thành phố cổ Malacca bên eo biển cùng tên gọi nối liền với đảo Sumatra của Indonesia được tổ chức UNESCO công nhận là “Di sản văn hóa thế giới” với khu phố cổ đều màu đỏ rực rỡ xinh đẹp và nhiều lâu đài, pháo đài, thư viện, nhà thờ cổ (nhà thờ thánh địa Paul’s được người Bồ Đào Nha xây dựng vào năm 1521) mang dáng dấp văn hóa và kiến trúc Bồ Đào Nha. Đây còn là thành phố cổ pha trộn văn hóa Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh từ thế kỷ 17.

Cũng như Hội An của Việt Nam, Malacca là thành phố cổ xinh đẹp và yên bình của Malaysia. Tuy nhiên, nếu như vị thế thành phố cảng Hội An đã khép lại trong quá khứ 300 năm trước thì Malacca vẫn là một cảng biển đẹp và phát triển mãi đến bây giờ. Bờ biển Malacca được mở rộng đến nỗi phải chiếm biển liên tục và đến tận bây giờ thì khu vực lấn biển trở nên một thành phố mới vừa lấn biển vừa xây dựng đường phố và khách sạn, nhà ở…

Nếu như ở Malacca của Malaysia, người ta thực hiện công trình lấn biển thì ở Singapore lại nổi tiếng với công trình biến nước biển thành nước tiêu dùng cho dân chúng. Singapore ngày trước không có nước sạch tiêu dùng phải mua nước ngọt của Malaysia nhưng ngày nay, thành phố Sư tử biển không còn nhập của Malaysia nữa. Singapore đã hoàn thành một công trình biến nước biển thành nước ngọt. Một con đập lớn được xây dựng bên bờ biển phía Nam làm thành một hồ chứa nước khổng lồ. Từ đây nước biển được lắng đọng và chế biến thành nước ngọt phấn phối khắp mọi nơi cho người dân tiêu dùng và hệ thống nước ngọt này được dẫn vào con sông chảy qua trung tâm thành phố tạo nên một cảnh đẹp tuyệt vời về đêm. Ngồi trên du thuyền đi trên dòng sông này vào buổi tối, chúng ta cảm thấy mình như lạc một một chốn bồng lai tiên cảnh nào đó mà mình cảm thấy như đang nằm mơ. Cảnh trí ban đêm ở hai bên bờ sông này không có sách báo nào kể nổi về cái đẹp, cái thơ mộng, cái lung linh ảo huyền của nó.

Ban ngày của Singapore việc kinh doanh thương mại sầm uất huyên náo bao nhiêu thì ban đêm nó lại trở nên thơ mộng, ảo huyền và êm ả bấy nhiêu khi chiêm ngưỡng thành phố về đêm, nhất là đi thuyền trên sông Marina. Nó còn có mấy chiếc cầu cổ đầy ấn tượng làm cho dòng sông Marina vừa xưa vừa nay, vừa cổ kính và vừa hiện đại.

Malyasia và Singapore là hai đất nước, một cũ một mới nhưng trong quá trình phát triển cả hai đều là quốc gia có nền kinh tế phát triển về điện tử và từ lâu xứng đáng là hai con rồng đang bay bổng trên bầu trời Đông Nam châu Á.

(Cuối tháng 10/2011)

Vương Liêm



Phụ Bản III

TỪ MARYLAND

ĐI THĂM DI TÍCH LỊCH SỬ HOA KỲ

Chúng ta biết rằng kể từ vương triều Tây Sơn ở nước ta thì Hoa Kỳ mới bắt đầu hình thành. Sau khi Hoàng đế Quang Trung lên ngôi năm 1788 thì Mỹ vừa mới có Bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 4-7-1776, xác lập nền độc lập của 13 Thuộc địa cũ của người Anh – trở thành 13 Tiểu bang đầu tiên của một nước Liên bang mới: Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ (USA) với bản Hiến Pháp ban hành năm 1787, rồi năm 1788 nước Mỹ bầu George Washington làm Tổng Thống đầu tiên của mình. Lần đầu tiên có một bản Tuyên ngôn Độc lập và chế độ Tổng thống xuất hiện trên thế giới!

Trải qua quá trình lịch sử 4.000 năm của nước ta – thời kỳ chế độ Phong kiến gần cáo chung – Hoa Kỳ mới hiện diện trên bản đồ thế giới.

THỜI KỲ LẬP QUỐC HOA KỲ

Hàng ngàn năm trước, thế giới còn lại chưa biết đến Châu Mỹ và các dân tộc sinh sống trên đó. Người Vikings từ bán đảo Scandinavia đã đến thăm Canada vào khoảng 1000 SCN nhưng họ không ở lại. Sau đó dưới đời nhà Minh có người Trung Quốc là Trịnh Hòa (sống cùng thời với Nguyễn An, người Việt – người đã xây Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh nhưng ít được biết đến) đã sang Châu Mỹ rồi cũng về nước.

Cuối cùng, vào năm 1492, một thủy thủ gan dạ người Ý tên là Christopher Columbus (Cristoforo Colombo, tên Ý) đã đến vùng Caribbean, trong khi ông đang tìm hải trình từ Châu Âu đến Ấn Độ. Columbus cũng không ở lại Châu Mỹ.

Chỉ đến thế kỷ 16 thì người Pháp, Tây Ban Nha và Anh mới bắt đầu đến sống ở Bắc Mỹ. Vào đầu thế kỷ 17, có hai nhóm người Anh khác nhau đã thực hiện hai chuyến hải trình nguy hiểm, vượt Đại Tây Dương sang Bắc Mỹ:

- Nhóm đầu tiên: gồm các nông dân vào năm 1607, bắt đầu chiếm thuộc địa ở Jamestown, thuộc Virginia (VA). Nhóm này nhận thấy ở đây cây thuốc lá trồng được dễ dàng, nên họ đem nô lệ từ Châu Phi sang Bắc Mỹ để trồng thuốc lá. Hút thuốc thời đó mới du nhập từ dân da đỏ - trở thành là một phong trào rất thời thượng, quý phái ở nước Anh và người Mỹ thu hút được lợi nhuận lớn lao về thuốc lá từ Châu Âu.

- Nhóm thứ hai: gồm 101 người Anh đã đến Plymouth, Massachusetts (MA) vào năm 1620 trên con tàu Mayflower. Nhóm người Hành hương này – chống lại giáo hội Anh giáo – được một số người Da đỏ tốt bụng (dân bản địa ở Bắc Mỹ, mà Columbus lầm là người Ấn Độ nên gọi họ là Indian) giúp đỡ, hướng dẫn cách thức trồng bắp. Đến mùa thu năm 1621, nhóm người Hành hương đã tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn để cảm ơn Thượng đế về thức ăn đầu tiên mà họ đã tự trồng được. Đó là ngày lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), người Mỹ và Canada đều tổ chức lễ này rất trong thể, ngày này tất cả các thành viên gia đình đều về đoàn tụ, cùng ăn gà Tây quay (gà này được tìm thấy ở Bắc Mỹ - vì có màu lông sặc sỡ trông giống quốc phục Thổ Nhĩ Kỳ nên người ta đã gọi tên gà Tây là Turkey).

- Tới năm 1770, 13 Thuộc địa hình thành dọc theo bờ phía đông Bắc Mỹ, tất cả do người Anh đô hộ.

Tháng 12 năm 1773, một số dân Mỹ đã ném 342 thùng trà xuống biển ở Boston, bởi vì họ không muốn đóng thuế cho người Anh. Nước Anh tức giận, vài tháng sau xảy ra trận đánh ở Bunker Hill, gần Boston, MA thì cuộc chiến tranh giữa người Anh và 13 Thuộc địa đã bắt đầu.

- Một nông dân ở Virginia là George Washington lãnh đạo chiến thắng người Anh – với sự hỗ trợ của người Pháp. 13 Thuộc địa (Colonies) cũ đã trở thành 13 Tiểu bang (States) với quốc hiệu “United States of America” - quốc kỳ “the Stars and Stripes” có 13 sọc đỏ – trắng tượng trưng cho 13 Tiểu bang nguyên thủy, góc trên có 13 ngôi sao trắng trên nền xanh dương (trước đó góc cờ là quốc kỳ Anh), sau đó cứ một Tiểu bang nào gia nhập vào Liên Bang thì gắn thêm một ngôi sao. Hiện nay cờ Mỹ có 50 ngôi sao tương ứng với 50 Tiểu bang, ngoại trừ thủ đô Washington, DC.

NHỮNG CỐ ĐÔ CỦA HOA KỲ

Hoa Kỳ có các Cố đô sau:

1/- Cố đô Kháng chiến chống Anh là Boston, MassachusettsA (nên Zip code, mã số bưu chính, được bắt đầu từ Tiều bang này là: MA 01 xxx, 02 xxx, hai số đầu chỉ Tiểu bang, ba con số xxx để chỉ: City, County, Township. Cứ nhìn vào Zip code thì biết ngay địa chỉ đó thuộc Tiểu bang, thành phố, hạt, thị trấn nào. Tiểu bang lớn như CA, NY mỗi nơi có 7 Zip code).

2/- Cố đô đầu tiên là Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania (PA): nơi Tổng thống Washington sống và làm việc tại Dinh Độc Lập (Independence Palace) có chiếc Chuông Hòa Bình – quốc bảo thứ hai sau Tượng Nữ thần Tự do ở New York.

3/- Cố đô thứ hai là New York City (nằm ở giữa Phố Wall, nay có bia kỷ niệm và tượng Washington ở nơi này)

4/- Cố đô Miền Nam thời Nội chiến (1861 – 1865): 11 tiểu bang Miền Nam ly khai khỏi Liên Bang và chọn Richmond, VA làm Thủ đô với tên nước “Confederate States of America” - cờ “the Stars and Bar” (có một thanh màu đỏ nằm ngang trên nền trắng, góc trên với 11 ngôi sao trên nền xanh dương) và có Tổng thống riêng, Jefferson Davis (để đối lập với Tổng thống Abraham Lincoln của Liên Bang).

5/- Thủ đô chính thức mang tên vị Tổng thống đầu tiên: Washington, DC (District of Columbia, các Tiểu bang khác có 5 thành phố mang tên Columbia - để nhớ về Christopher Columbus, người tìm ra Châu Mỹ). Tổng thống Jefferson bắt đầu vào sống ở dinh Tổng thống là Nhà Trắng khi xây xong.

TỪ MARYLAND ĐI MỘT VÒNG

THĂM LỊCH SỬ HOA KỲ.

Người viết vừa mới sang thăm con gái đang sinh sống ở tiểu bang Maryland (đặt tên theo hoàng hậu Henrietta Maria – vợ của vua Anh Charles đệ I) – là một trong 13 Tiểu bang nguyên thủy. Từ tiểu bang này làm tâm điểm, chúng ta có thể đi một vòng thăm các di tích lịch sử thiêng liêng của Liên bang trẻ tuổi này:

- Từ Maryland (MD) này, chúng ta đi khoảng 3 giờ xe hơi sẽ đến Boston, MA – thủ đô kháng chiến Hoa Kỳ.

- Đi độ 2 giờ xe thì chúng ta đến Philadelphia – thủ đô đầu tiên.

- Chúng ta đi tiếp gần 3 giờ xe thì đến New York City (nằm trong tiểu bang mang cùng tên New York, NY) là thủ đô thứ hai.

- Cũng đi độ 3 giờ xe chúng ta sẽ tới Richmond, VA - thủ đô của Miền Nam thời Nội chiến.

- Từ Maryland, chúng ta đi tới gần nhất là Washington, DC chỉ trong hơn một giờ đi xe hơi – vì Thủ đô nằm trong đất đai cũ của hai tiểu bang Maryland và Virginia. Chỉ vì một việc nhỏ do hiều lầm giữa hai bộ phận bảo vệ của thành phố Philadelphia, PA và Dinh Độc Lập (nơi vị Tổng thống đầu tiên sinh sống cũng thuộc thành phố này) mà Tổng thống quyết định đề nghị hai tiểu bang trên nhường cho Liên Bang một miếng đất nhỏ để xây dựng Thủ đô Liên bang, riêng biệt hẳn với các Tiểu bang khác. Đó là District of Columbia mà trong đó có: thủ đô Hoa Kỳ là City of Washington, cùng với Washington County và Georgetown – có Zip code là DC 20 xxx (để khỏi ngộ nhận với một tiểu bang mang cùng tên Washington, Zip code là WA 98 xxx, 99 xxx nằm ở Bờ phía tây Hoa Kỳ).

Maryland có Zip code là MD21 xxx, MD20 xxx (chung Zip code với DC vì Thủ đô có dân số ít và tiểu bang MD nằm sát bên Washington, DC).

Người viết sang Hoa Kỳ, sống ở Bel Air, County-seat của Harford County (một trong 24 Counties và một City là Baltimore của MD) nên có Zip code là 21 014 (Tiểu bang MD, thành phố Baltimore, hạt Harford, thị trấn Bel Air). Vì thế Hoa Kỳ có 50 Tiểu bang với hệ thống hành chính gọn nhẹ là City – County – Countyseat – Township.

Thật là đáng tiếc vì trước đây, khoảng năm 1980, có người đã đề nghị Bưu chính VN dùng Mã số Bưu chính gọn nhẹ như Zip code của Hoa Kỳ, nhưng ý kiến đó đã không được chấp nhận!

(Tham khảo: nhiều tài liệu và trên Internet)

PHẠM VŨ

TẠI SAO

ĐÀN ÔNG THÍCH CÓ VỢ NHỎ?

Nhất định phải có điều gì mãnh liệt để thu hút đàn ông khiến họ mê mệt cô nhân tình, chẳng hạn như thú thỏa mãn tính ích kỷ khi yêu một lúc hai phụ nữ, thú được thoát ly khỏi nếp sống gia đình nhàm chán, thú hưởng thụ những mối giao du không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hay bổn phận…

Trong một cuộc tiệc, năm người đàn ông có thú léng phéng đã bày tỏ sự thỏa mãn của họ vì đã xây dựng được “phòng nhì”. Họ chỉ e ngại hạnh phúc gia đình cũng như sự nghiệp sẽ bị đe dọa khi chuyện ái tình vụng trộm của họ bị tiết lộ. Tuy nhiên, đối với người thứ ba mà họ tin tưởng, họ không ngớt khoe khoang rằng họ đã tìm thấy một cuộc sống kỳ diệu. Không bao lâu, cuộc tiệc biến thành một cuộc bàn bạc về nhân tình nhân ngãi với những lý luận chín chắn không khác lúc họ bàn bạc về rượu, về thuốc lá, hay về những đề tài linh tinh lang tang khác.

Lý luận của các ông chồng

Một người nói:

- Chọn nhân tình khó hơn chọn vợ nhiều. Vợ mình chọn mình vì bản tính của phụ nữ là bị chinh phục. Nhưng đàn ông phải chọn lấy “cô bồ” của mình. Các anh phải chọn lựa thật kỹ. Cô ta phải chấp nhận cuộc sống âm thầm, lẻ mọn. 

- Về phần hấp dẫn thì vợ tôi có vẻ ngon lành hơn cô nhân tình của tôi nhiều. – Một chàng trai khác nói, đồng thời giải thích lý do tại sao anh là một trong con số đang gia tăng không ngừng của những người đàn ông Mỹ hiện đang sống khá phóng túng với phụ nữ ngoài vợ mình. – Sinh lý không phải là nguyên nhân chính trong trường hợp của tôi. Một “cô bồ” có nhiều cái hấp dẫn khác và nhiều lối chài đàn ông mà người vợ nhà không thể sánh được.

Bọn họ chỉ là một nhóm nhỏ trong số các ông đã được phỏng vấn trong một cuộc điều tra kéo dài sáu tháng.

Một người đã có cháu kêu bằng ông đã phát biểu về cuộc “tồn tại hòa bình” của ông với hai bà trong mười năm như sau:

- Lúc còn trẻ, chúng ta không khôn ngoan lắm khi chọn người bạn trăm năm. Rồi con cái ra đời tạo nên những mối dây ràng buộc, nhưng dần dần chúng ta lại cảm thấy như thiếu thốn một cái gì, trong cuộc sống của chúng ta có một khoảng trống rỗng. Mọi người đàn ông đích thực đều cố gắng làm tròn bổn phận người chồng, người cha, nhưng hẳn cũng muốn có thêm cái gì đó.

Ông nói tiếp:

- Bà vợ hai của tôi làm tôi cảm thấy mình xứng đáng là đấng mày râu. Bên cạnh bà ta, tôi không còn mang mặc cảm là một thằng đàn ông tầm thường ngốc nghếch chỉ biết nói theo các bậc cha anh. Bà ta gây cho tôi cảm tưởng rằng tôi xứng đáng với mẫu người tôi mơ ước. Với bà ta, tôi cảm thấy mình đã làm được một cái gì đó – không phải chỉ riêng về tình dục mà cả về mọi sắc thái của một đời người. Chúng tôi cùng thưởng thức aâm nhạc, cùng ngắm cảnh hoàng hôn, hay tâm tình bên ly cocktail. Chúng tôi chỉ cần những gì có thể làm rung cảm cả hai chúng tôi. Chính tôi cũng tạo cho bà ta những xúc cảm tương tự.

Những ý nghĩ của ông thường được các ông chồng cảm nhận. tính ích kỷ, tính ưa thích sự hòa đồng, và ý muốn thoát khỏi vòng kiềm tỏa của gia đình là những lý do chính mà đàn ông hay viện ra để biện hộ cho chuyện lang chạ của mình.

Một nhà trinh thám tư cho biết:

- Chúng tôi đã điều tra hơn hai nghìn vụ ngoại tình. Trong mười vụ có đến chín là do tính ích kỷ của các ông; họ muốn cảm thấy rằng ít ra mình cũng là người quan trọng khi có đến hai phụ nữ phục dịch cho mình. Trong những trường hợp khác, sau khi tiếp xúc với các nữ thân chủ, chúng tôi nhận thấy rằng họ cũng không phải là những tay vừa, lúc nào họ cũng muốn biến chồng mình thành những tay sợ vợ; do đó, các ông chồng này tìm nhân tình nhằm tự hào rằng mình cũng đường đường là đấng tu mi.

Nỗi ước mong tìm thấy sự hòa đồng trong nếp sống gia đình cũng đã khiến một số ông tìm kiếm thêm bạn lòng bên ngoài khuôn khổ gia đình, để tìm người quan tâm đến những gì họ thiết tha, hoặc để thoát ly khỏi bầu không khí ngột ngạt. Một ông chồng than phiền:

- Tình trạng buồn bã của gia đình tôi chỉ do tấm thảm mà ra. Sau khi mua sắm đủ thứ trong nhà, vợ tôi mua tấm thảm. Từ đó, chúng tôi không dám tổ chức tiệc tùng nữa, sợ rủi có ai làm dơ nó. Mỗi lần tôi lỡ tay rơi tàn thuốc trên thảm đều bị vợ tôi chỉ trích nặng nề.

Thế rồi tôi gặp cô nhân tình của tôi hiện giờ. Cô ta đưa tôi về nhà dùng một cốc rượu. cô ta rất chịu khó đọc sách, nói chuyện rất hay. Cô ta mở nhạc, lần đầu tiên trong đời tôi thấy tâm hồn mình hết sức thoải mái. Tôi lỡ tay đánh đổ ly rượu xuống sàn nhà. Cô ta không trách phiền, chỉ nhỏ nhẻ: “Mặc. Biết đâu lấm rượu như thế thảm sẽ có thêm màu sắc đẹp hơn”. Tuần sau, khi đến thăm cô ta, tôi cố tìm lại vết rượu đổ trên thảm nhưng không thấy đâu cả.

Một số ông chồng cho rằng họ không cùng sở thích với vợ. Một số ông lại viện lẽ sở dĩ họ có nhân tình vì bà vợ tính tình lạnh lùng hay thiếu năng lực sinh lý.

Một số khá đông khác thú nhận rằng cuộc tình của họ với người vợ nhỏ không có gì cao thượng, mà chỉ do những ngón nghề đặc biệt của cô ả lúc làm tình.

Và nói chung, các ông thường bảo rằng theo họ thì chuyện họ có bà nhỏ không ảnh hưởng gì đến cuộc sống gia đình, nhất là nếu họ chỉ “dù” trong những thời gian tranh thủ, hay chung đụng với “cô bồ” khi vợ nhà trải qua thời kỳ kinh nguyệt.

Một ủy viên công tố cho biết rằng mỗi lần ông đi làm về, vợ ông nói huyên thuyên không biết mệt, cho nên khi nào có chuyện bực mình hay chuyện rắc rối ở tòa án, ông ít khi về nhà, mà lại tạt qua “phòng nhì” tìm sự tươi mát. Tuy nhiên, cũng như đa số các ông chồng khác, ông sẽ không bao giờ ly dị vợ lớn để ăn ở chính thức với bà nhỏ. Ông giải thích:

- Như vậy, cô ta lại trở thành một bà vợ, rồi những gì tôi phải chịu đựng ở người vợ trước lại tiếp tục tái diễn. cứ tiếp tục cảnh này còn hơn.

Về lý do không ly dị vợ nhà, một số ông cho rằng đó là lý do trách nhiệm và bổn phận. Số khác còn tính toán món tiền trợ cấp cho vợ con sau khi tòa án ra phán quyết.

Đối sách của bà vợ

Nếu chồng có vợ nhỏ mà các bà lớn lại tìm xem trong ôtô có rơi rớt chiếc kẹp tóc nào không, hay dò hỏi xem chồng có mua món gì cho cô ta không, thì quả là có hành động thất sách. Tiến sỹ Blumberg, chuyên giải quyết chuyện lủng củng gia đình ở Mỹ, cho rằng thời gian thuận tiện nhất để người vợ phản công lại là lúc cô ta chưa trở thành nguồn sống của ông chồng. Tìm cách hòa đồng với nhau, đừng bao giờ thúc ép chồng giải quyết những khó khăn tiền nong trong cuộc sống ngày một đắt đỏ, đừng bao giờ tuôn ra tất cả bực dọc của mình. Nếu chồng có một vài sở thích riêng nho nhỏ gì trái ý, cũng đừng tru tréo. Nếu hai người đều thuộc loại dễ nóng đầu, một vài cử chỉ âu yếm thông cảm của người vợ sẽ giải quyết hầu hết mọi vấn đề.

Cái mà các ông thường bảo là tính ích kỷ của mình và cho rằng chính nó đã thúc đẩy mình léng phéng với người phụ nữ khác, thật ra chỉ là tâm trạng bất an hay lo sợ.

Còn lập luận rằng sự hiện hữu của người vợ nhỏ giúp cho cuộc hôn nhân không vui được bền chặt hơn, là hoàn toàn sai lầm. Tiến sỹ Blumberg nói:

- Cái hại của cuộc tình vụng trộm là nó không giúp giải quyết được gì cả. Ông chồng muốn chứng minh nam tính của mình, nhưng khi đã có vợ nhỏ rồi thì ông ta lại thắc mắc không biết mình có thể điều khiển, thỏa mãn được người phụ nữ thứ hai này không. Mặc khác, đối với bà lớn, có bao giờ ông ngang nhiên tuyên bố chuyện đó đâu (trừ khi ông quá lậm thì không kể).

Và tất nhiên, chuyện ông ta có bà nhỏ sẽ gây thêm những điều không hay khác phương hại đến hạnh phúc gia đình với người vợ chính thức. Đó là chưa nói đến những con người tự trọng mà lương tâm vẫn không tán thành họ tìm thú vui trong những việc làm bất chính, ngay những lúc “xổng chuồng”.

Vả lại, tìm được một bà nhỏ là cả một quá trình thời gian, lại phải tốn tiền. Thế nào bà lớn cũng biết được.

Ngay khi vụ việc bắt đầu xảy ra, vấn đề quan trọng là người vợ lớn phải tìm cách đối phó thật tế nhị. Các bà phải tự vấn mình. Có phải vì các bà tự ý từ chối sự âu yếm của chồng khiến các ông phải tìm người khác để giải quyết vấn đề sinh lý không? Các bà có định làm vương làm tướng trong gia đình, khiến các ông xấu hổ với người quen không, hoặc khiến các ông phải tìm người khác sẵn sàng chịu sự bảo ban của các ông không? Có phải các bà đã để cho con cái chắn giữa hai vợ chồng để làm tường rào cách biệt không? Hay các ông lại sống theo bản năng của loài bướm thích vờn hoa?

Nếu xem xét cẩn thận vẫn không đem lại kết quả mong muốn, các bà hãy nhờ đến sự giúp đỡ của các chuyên viên tâm lý.

Tâm trạng của cô nhân tình

Thế nào là người vợ nhỏ kiểu mẫu? Thông thường cô ta phải có nét dễ xem nào đó, có sức thu hút nào đó. Cô ta có thể không hkéo tài nội trợ như người vợ lớn, có lẽ vì cô ta ít quan tâm đến chuyện đó.

Thật ra, cô ta cũng không có một tổ ấm riêng cho mình, cô ta chỉ thích những khung cảnh cởi mở phóng túng. Cô ta chỉ tìm thấy những cảm giác an toàn bảo đảm trong sự âu yếm nuông chiều hơn là trong ý thức nắm quyền sở hữu. Nhiều khi, tính chất phiêu lưu mạo hiểm của cuộc giao tiếp lén lút khiến cô ta cảm thấy cái thú được sống với chồng kẻ khác. Cô ta chỉ cần việc ông ta đến với mình để chứng minh sự hiện hữu của mối tình giữa hai người. Ông ta đến với cô ta không phải vì miễn cưỡng. Nếu không phải là kẻ kiếm chác, cô ta chỉ đòi hỏi một người đàn ông xứng đáng để con người cô đơn như cô ta kính phục và ngược lại ông ta phải tỏ ra trọng nể cô ta. Trường hợp này, cô ta sẽ cự tuyệt những tay sàm sỡ nhất thời.

Đời cô ta đầy núi cao vực thẳm. Cô ta được hưởng những lúc huyền diệu, và trải qua biết bao lúc cô đơn, trống trải, khi ông ta phải ở nhà với gia đình.

Tâm trạng của kẻ chịu cảnh chia sẻ tình yêu với người vợ chính thức đã được ghi nhận qua những lời lẽ sau, khi ông chồng trong lúc âu yếm với cô lại kêu nhầm tên vợ nhà:

- Anh cứ đưa cho nhân tình anh xem ảnh vợ con anh và cứ nói về bà xã của anh. Anh cứ bảo nhân tình anh rằng bà xã anh làm bếp khéo, là người vợ hiền. Nếu cần, anh cứ thẳng thắn bảo rằng anh rất yêu vợ anh. Nhân tình anh không e ngại đâu, vì trong thâm tâm cô ta đã hãnh diện đặt câu hỏi cho mình rằng nếu đã yêu vợ như thế tại sao anh ta lại đến với mình?

PHƯỚC TRUNG

(Theo “Sélection”)

ĐỖ THIÊN THƯ st.

PHIẾM LUẬN

CHUYỆN CƠM & PHỞ

Tác giả: Dương Lêh

Ngày nay chuyện ăn phở ở cánh đàn ông hay phía phụ nữ đã trở nê n phổ biến . Kinh tế càng phát triển, đời sống người dân dần dần được cải thiện, tốc độ phát triển của “công nghiệp ăn phở” cũng được tăng trưởng ở cấp vĩ mô. Sở thích ăn phở được chia đồng đều cho cả hai cánh đàn ông và phụ nữ. Ở đây xin được phân biệt rõ ràng, gà móng đỏ bia ôm hay ca ve là loại người tình một đêm hay một khoảnh khắc, ăn bánh trả tiền không được gọi là phở. Tương tự cái đám gà trống chuyên làm người tình một đêm hay trong chốc lát cho các bà, cũng không được gọi là phở. Phở mày râu hay phở tóc dài thường có tính “thập diện mai phục”, có nơi ẩn nấp kín đáo trong khoảng thời gian nhất định. Cho tới nay chưa có một thống kê nào để chứng tỏ rằng đàn ông hay phụ nữ, cánh nào ăn phở nhiều hơn. Thôi thì cứ nói một cách chung chung là bên nào cũng có sở thích ăn phở.

Nhưng tại sao người ta thích ăn phở?

Trước hết thử tìm hiểu ở cánh đàn ông. Tại sao đàn ông thích ăn phở?

Hồi 1. Chuyện ăn phở của quý ông

1. Tính năng thiên phú :

Nhiều người đàn ông được trời ban cho cái tính năng thích ăn phở, những người đàn ông này thích ăn phở ở mọi thời đại. Cái thời đại vàng son của họ khi còn trai trẻ, “dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”, họ tha hồ tìm cách ăn phở, ăn vô tội vạ vì lúc đó chưa muốn ăn… cơm. Cứ thấy “quán” nào xinh xắn thì nhào vô. Khi chiếm được mục tiêu rồi, các chàng vẫn tiếp tục lang thang tìm thêm quán phở khác. Theo cái khoa học về tâm lý tuổi trẻ, các chàng có tình năng thiên phú này thường có cái mặc cảm tự ti vì xấu trai, vì gia thế nghèo hèn, hoặc để thỏa mãn tự ái sợ mình không có bồ bịch như những người khác, hoặc muốn chứng tỏ là một casanova, một sở khanh, một trùm hái hoa rồi lại bẻ cành bán rao, hoặc nữa, sợ rằng sau này… ế vợ. Những người trẻ có tính năng thiên phú này thường được người đời xếp vào loại trai lơ hay những kẻ lăng nhăng, hay lừa đảo ái tình.

Sang cái thời đại những người đàn ông này đã có cơm no, và dù cơm nhà rất chu đáo, đầy đủ sơn hào hải vị, nhi đồng ra vào vui mắt, nhưng cái tính năng thiên phú vẫn tồn tại, vẫn lăng nhăng, dung dăng dung dẻ, vẫn thích ăn phở. Trong quan hệ công tác hay những sinh hoạt thường nhật có liên quan đến môi trường xã hội, các anh luôn sẵn sàng thả tầm phủ sóng của mình đến những mục tiêu tiềm năng. Khi đạt được kết quả mong muốn, các anh dùng tất cả mọi phương pháp hết sức tinh vi hoặc các password phức tạp để che chắn sao cho cơm ở nhà không biết, kể cả những đấng nhi đồng cũng không biết ngõ mà lần. Vấn đề đặt ra ở đây là chuyện các anh ăn phở sẽ kéo dài đến khi nào? Có hai hiệu ứng phát sinh:

Một là, sau khi đến quán phở này một thời gian các anh thấy hết ngon, các anh chán, rồi đì tìm quán khác, có khi các anh quan hệ hai ba quán một lúc cũng không biết chừng. Rồi đùng một cái, vì để “lộ đề thi” khiến cơm nổi giận xuất chiêu virus của ngành công nghệ ghen tương, khiến các anh phải ngưng một cái rụp, tan hàng, giã từ các quán lớn quán nhỏ một cách “vô cùng thương tiếc”… phở.

Hai là, các anh vẫn tiếp tục nuôi dưỡng “quán phở” đó cho đến khi phát sinh hậu quả nghiêm trọng và anh phải tuyên bố từ giã cơm, nói đúng ra cơm từ giã anh, cho anh ra công viên nằm đếm sao trời, tính chuyện biến phở thành cơm tăng hai. Bi kịch lại tiếp diễn, một thời gian sau anh lại chán cơm anh lại đi kiếm phở. Cứ như thế tiếp tục xào đi xào lại cho đến khi anh không còn xí quách. Ở giai đoạn hai, cuộc sống hôn nhân của anh chàng này có khi bị trở quẻ 180o. Có nghĩa là sau khi anh bỏ đi cái nồi cơm nguội cũ rích kia, rồi tấn phong nàng phở ưu tú lên thành nồi cơm mới nóng hổi, thơm phưng phức, thì chính cái nàng cơm này sau khi ở với anh một thời gian sẽ có thể cắm cho anh vài cái sừng nhọn hoắt. Thói đời thường có cảnh mạt cưa gặp mướp đắng, anh nào thích lăng nhăng ham của lạ, nói nôm na “mới chuộng cũ vong”, thường gặp những đối thủ cộm cán đưa anh vào đường thân bại danh liệt.

2.Cơm đã nguội lạnh rồi :

Khi cơm đã có một hai đấng nhi đồng thường bị xếp vô hàng cơm nguội, cơm nhão. Cơm có tuổi tác vào hàng năm trở lên, khi mà kính thích tố không còn xuất hiện trong cơ thể cũng thường bị xếp vào hàng cơm nguội có khi còn bị gọi là cơm… thiu. Cơm nhà ở vào hai tầng lớp này, thay vì được trân trọng, trái lại thường bị cánh đàn ông xem thường và bị coi là lý do để các ông đi kiếm phở. Trước mặt phở các ông thường khen thơm phưng phức, chung chi cho phở tiêu xài, mua sắm thả ga và chê trước mặt phởcơm nhà dở ẹc. Đàn ông theo kiểu này sẽ bị chê là không có khí phách. Các ông thường bị người đời cho là không chung thủy, mà nói theo phong thủy thì “gieo gió gặt bão” hoặc lãnh đủ các sao hung trong bộ tứ Kình Đà Không Kiếp của Tử Vi và rồi hậu vận sẽ điêu tàn.

Đối với cơm đã sinh con sinh cái, lẽ ra ông chồng phải rất mực thương yêu, ân cần chăm sóc, lại coi cơm như một thứ hàng quá đát, không còn những đường nét hấp dẫn của thời con gái, không còn là hình ảnh của một thời xa xưa khi anh ta còn say mê đắm đuối. Nhiều anh chàng vội vàng tiếp thu những kiến thức ngu si từ các bàn nhậu cho rằng phụ nữ, xét về cơ thể học, khi đã có con có cái thì bộ máy tình yêu coi như bị “rơ” hết rồi, “bạc” đã lỏng, không còn đáp ứng những yêu cầu của các ông. Đến khi cơm bước vào tuổi U60 thì mấy ông chê là đàn bà không có cảm giác, rất vô tư trong sinh hoạt tình yêu. Ở trường hợp này các ông có thể âm thầm lặng lẽ và kín đáo kiếm bánh ăn trả tiền liền một cách an toàn chứ không nên kiếm phở. Hoặc bằng cách nào đó ông chồng giúp cho cơm phục hồi phong độ, trở lại nhiệt tình trong sinh hoạt tình yêu, nối lại sự đồng điệu của cơm và ông chồng cũng không phải làm anh bộ đội phòng không vào những đêm “trằn trọc” khó ngủ.

3.Cơm hàng xóm ngon hơn:

Cái này mới là “quậy” dữ đây! Không biết đa số cái cánh đàn ông học ở đâu cái câu “vợ đẹp và vợ người ta” rồi cho rằng cơm của ông hàng xóm phải… ngon hơn cơm của nhà mình. Thế là đi kiếm cách thả con vật mang số đề 35 để chinh phục cơm của ông hàng xóm hòng biến thành phở của mình. Lại có hai tình huống xảy ra: Nếu cơm của ông hàng xóm đó không thuận tình thì anh chàng sẽ bị mất mặt như chơi. Còn nếu cơm kia thuận tình thì cái chuyện ăn phở của anh chàng này sẽ trùng hợp với chuyện ăn phở của cơm kia và rồi sẽ tạo ra những rắc rối của cuộc đời với tương lai đen tối. Cái tội phá hoại gia cang người khác đối với lương tâm chắc không phải là nhẹ.

4.Bỗng dưng có rung động mới lạ :

Trường hợp ông nọ có cơm nước ở nhà ngon lành chu đáo, nhi đồng tung tăng xinh xắn vui đùa, nhưng trong mối quan hệ xã hội hoặc công tác, tình cờ ông phát hiện một đối tượng có phần ngon lành hơn cơm ở nhà, thế là ông bị mê mẩn tâm thần như thời trai trẻ gặp phải tiếng sét vang dội, và rồi ông mở chiến dịch theo đuổi, chinh phục, cố gắng biến đối tượng thành phở của mình. Ở đây không bàn đến việc ông ta thành công hay thất bại trong chuyến phiêu lưu này mà hãy tìm xem nguyên nhân nào khiến ông ta đi tìm đến phở. Hạnh phúc gia đình có đầy đủ, theo như người khác thì chi cần vui thú với cơm canh đầm ấm ở nhà, cùng với vợ chăm lo tương lai của con cái. Nhưng ông này không phải vậy, ông ta quá nhạy cảm với vẻ đẹp của những người phụ nữ và để cho tiếng sét ái tình phát sinh. Với một con người như vậy tiếng sét sẽ lại đến với ông ta khi gặp một đối tượng khác, cho đến khi thân tàn ma dại, không còn hơi sức cho tiếng sét phát sinh, vợ con khinh rẻ.

5.Không được cơm chăm sóc tốt:

Trong một hoàn cảnh khác, cơm nhà lại là một nhân vật bản lĩnh, học vấn cao thành công trong công tác, trong quan hệ xã hội, tự lo liệu đời sống kinh tế cho gia đình, ông nhà không hề được cơm quan tâm chăm sóc, thương yêu. Ông nhà cảm thấy cô đơn và giải pháp phần mềm gần nhất là tìm đến phở. Chỉ cần có cơ hội là ông ta chộp lấy ngay. Có phở rồi ông tỉnh bơ để cho cơm tự do bay nhảy, ông cũng không cần biết cơm của mình có đi “ăn nem” không. Xin lưu ý trường hợp này cơm thừa điều kiện để có một anh “phở mày râu” ngon lành hơn cái ông chồng dở hơi, dấm dớ đang tồn tại ở trong nhà bà.

6.Gặp lại người xưa.

Chuyện cũng xưa như trái đất. Người đẹp ngày xưa không biến được thành cơm nên đành phải chia tay. Rồi người đàn ông tha phương cầu thực cuối cùng cũng có được cơm như ý muốn. Thời gian trôi qua, cuộc sống người đàn ông với đầy đủ hạnh phúc gia đình. Ông Trời oái oăm, dun rủi cho người phụ nữ năm xưa gặp lại người đàn ông này. Thôi thì “tình cũ không rủ cũng tới” lại thêm người phụ nữ cũng không bận bịu tay bồng tay mang, anh chàng bèn năn nỉ nối lại đường tơ và người phụ nữ kia cũng dễ dàng ưng thuận.

7.Phở đeo bám hơn hậu vệ đối phương .

Thế này thì chạy trời không khỏi nắng. Đi tu sắp sửa lên niết bàn cũng phải sa ngã, hẹn kiếp khác lên niết bàn sau. Biết người ta cơm canh đầm ấm thế mà phở tóc dài này đeo bám ráo riết. Thôi thì trong nhờ đục chịu anh chàng đành phải lén bà xã ngoan ngoãn làm vừa lòng phở được chừng nào hay chừng ấy. Nhóm phở này thường trẻ đẹp, nũng nịu và cũng thường ghen ngược với cơm của ông kép già.

8.Khắc khẩu với cơm:

Trường hợp này cũng thường gặp ở những gia đình hễ gặp nhau là cãi nhau, tranh luận to tiếng. Từ sự khắc khẩu này người đàn ông sẽ có vẻ “hướng ngoại” nhiều hơn. Những phụ nữ trong trường hợp này thường có tính nóng vội, suy diễn vấn đề với sự chủ quan rồi rút ra một kết luận vội vàng, sai trật. Thêm vào đó những phụ nữ này lại thường có tính hay ghen bóng ghen gió. Nhứt cử nhứt động của ông chồng các bà đều cho là có một hàm ý gì đó về một người phụ nữ khác. Các ông chồng sống bên cạnh những bà vợ này thường cảm thấy ngột ngạt, khó thở, cho nên sẽ dễ dàng sa ngã khi gặp một phụ nữ khác hiền hậu dễ thương hơn.

Vấn đề khắc khẩu giữa vợ chồng thường được coi là một định mệnh, một người phải chịu đựng sự khắc khẩu của người kia và thường hay che dấu không muốn cho ai biết.

9.Bên bờ hiu quạnh:

Đây là cảnh người đàn ông phải sống trong cảnh quạnh hiu, có nghĩa là cơm đã giã từ cuộc sống hiện tại để sang thế giới bên kia, hoặc đã từ giã anh để xây dựng cuộc đời mới với một người đàn ông khác dù đã có với anh vài cô chú nhi đồng đang lớn dần theo thời gian. Ở vào hoàn cảnh tiêu điều như vậy, nhiều người đàn ông muốn lập lại gia đình với một người đàn bà khác, tuy nhiên cũng không ít người đàn ông cũng không muốn bước thêm bước nữa vì thương con cái, sợ chúng buồn cho dù mẹ chúng đã dứt áo ra đi, bỏ rơi chúng không hề thương tiếc. Trường hợp này người đàn ông, nếu có cơ hội thuận tiện sẽ tìm đến một người phụ nữ và chỉ dừng chân ở “hàm” phở thay vì hàm cơm lần thứ hai.

Trên đây là những tình huống tạo điều kiện thuận lợi cho người đàn ông tìm đến phở. Tuy nhiên người đàn ông có thể không coi là những lý do chính đáng để “kiếm phở quên cơm” nếu họ biết tổ chức cuộc sống ngăn nắp từ khi bắt đầu chọn người làm cơm cho mình. Cách đối xử có văn hóa sẽ giúp cho hai vợ chồng chung sống trong niềm thương yêu bền chặt.

Dương Lêh

Sư phụ !

(Tin tức) - Tiếng tăm cụ ông “U90” vừa sinh hạ quý tử đang khiến dư luận xôn xao, bàn tán khắp vùng Nghệ An. Cụ ông chính là Trần Văn Ký, SN 1921, trú tại xã Kỳ Lân, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.

Thấy chúng tôi, cụ Ký niềm nở mời vào nhà, tay bồng con, tay rót nước mời khách: “Rõ khổ, có chuyện sinh con mà mọi người cũng làm om xòm, bàn tán khắp làng trên xóm dưới chuyện của gia đình tui. Tui cũng ái ngại lắm, nhưng vợ cả tui mất rồi, con cái cũng đã lập gia đình thành đạt. Tui ở một mình cũng buồn chứ. Tại sao họ cứ khắt khe, ích kỷ với những người sống cảnh độc thân như tui. Trẻ thì có bạn trẻ, già cũng có bạn già mà chăm sóc nhau chứ”.

Cụ Ký kết duyên với bà Nguyễn Thị Nhung người cùng xã. Vì hoàn cảnh mà bà Nhung đến cái tuổi “U40” mà vẫn một mình lẻ bóng. Đôi đũa lệch đến với nhau thật đơn giản. Chỉ dọn mâm cỗ thưa với tổ tiên là cụ Ký rước bà Nhung về làm vợ. Ngày thành hôn có đầy đủ các con, anh em nội ngoại chứng kiến.

Rồi thằng cu chào đời, nó hoàn toàn khỏe mạnh, bụ bẫm. Bà con chòm xóm đều trầm trồ khen ngợi. Khen thằng bé bụ bẫm, họ cũng càng nể phục về khả năng “diệu kì” của cụ Ký. Còn các con của cụ Ký thì không tin bố mình cao tuổi như thế mà vẫn có con được. Còn cụ Ký thì một mực khẳng định thằng cu chính là con của mình. Tranh cãi, giằng co mãi về chuyện này, mọi người đi đến một quyết định: Đưa đứa bé đi xét nghiệm AND để làm rõ trắng đen. Đây cũng là cách duy nhất để khẳng định sự chung tình của bà Nhung cũng như “bản lĩnh đàn ông” của cụ Ký.

Đến khi cầm kết quả giám định AND trong tay, có dấu đỏ chót của trung tâm giám định, các con của cụ Ký khi đó mới tin em bé mà bà Nhung sinh hạ chính là em ruột của họ.

Bs. Nguyễn Lân Đính st

(Theo Pháp luật & Xã hội)


66 ĐIỀU CẦN SUY NGHĨ

1. Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm..

2. Nếu không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho mình. Vì chính tâm mình không buông xuống nỗi.

3. Hãy luôn cảm ơn những ai đem đến nghịch cảnh cho mình.

4. Phải luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương mình, phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực.

5. Khi vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi đau khổ, hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.

6. Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai.

7. Có thể có tình yêu nhưng đừng nên vướng mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên.

8. Đừng lãng phí sinh mạng của mình trong những chốn mà nhất định anh sẽ ân hận.

9. Khi nào thật sự buông xuống thì lúc ấy sẽ hết phiền não .

10. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành.

11. Người cuồng vọng còn cứu được, người tự ti thì vô phương, chỉ khi nhận thức được mình, hàng phục chính mình, sửa đổi mình, mới có thể thay đổi người khác.

12. Đừng có thái độ bất mãn người ta hoài, phải quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc khổ cho chính mình.

13. Một người nếu tự đáy lòng không thể tha thứ cho kẻ khác, thì lòng họ sẽ không bao giờ được thanh thản.

14. Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.

15. Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời, xin anh “đa khẩu hạ lưu tình”.

16. Vốn dĩ không cần quay đầu lại xem người nguyền rủa mình là ai? Giả sử mình bị chó điên cắn một phát, chẳng lẽ chúng ta cũng phải chạy đến cắn lại cắn nó?

17. Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ nhớ đến người mình không hề yêu thích.

18. Mong đem lòng từ bi và thái độ ôn hòa để bày tỏ những nỗi oan ức và bất mãn của mình, có như vậy người khác mới khả dĩ tiếp nhận.

19. Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm tại sao phải chứa đầy những não phiền như vậy?

20. Những thứ không đạt được, chúng ta sẽ luôn cho rằng nó đẹp đẽ, chính vì anh hiểu nó quá ít, anh không có thời gian ở chung với nó. Nhưng rồi một ngày nào đó khi anh hiểu sâu sắc, anh sẽ phát giác nó vốn không đẹp như trong tưởng tượng của anh.

21. Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang thì tôi lại nghĩ đến có người không có chân.

22. Tốn thêm một chút tâm lực để chú ý người khác chi bằng bớt một chút tâm lực phản tỉnh chính mình.

23. Hận thù người khác là một mất mát lớn nhất đối với mình.

24. Mỗi người ai cũng có mạng sống, nhưng không phải ai cũng hiểu được điều đó, thậm chí trân quý mạng sống của mình hơn. Người không hiểu được mạng sống thì mạng sống đối với họ mà nói chính là một sự trừng phạt.

25. Cố chấp là nguyên nhân của khổ não, buông tình chấp anh mới được tự tại.

26. Đừng khẳng định về cách nghĩ của mình quá, như vậy sẽ đỡ phải hối hận hơn.

27. Khi anh thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối anh.

28. Người che đậy khuyết điểm của mình bằng thủ đoạn tổn thương người khác là kẻ đê tiện.

29. Người âm thầm quan tâm chúc phúc người khác, đó là một sự bố thí vô hình.

30. Đừng gắng sức suy đoán cách nghĩ của người khác, nếu anh không phán đoán chính xác bằng trí huệ và kinh nghiệm thì mắc phải nhầm lẫn là lẽ thường tình.

31. Muốn hiểu một người, chỉ cần xem mục đích đến và xuất phát điểm của họ có giống nhau không, thì có thể biết được họ có thật lòng không.

32. Chân lý của nhân sinh chỉ là giấu trong cái bình thường đơn điệu.

33. Người không tắm rửa thì càng xức nước hoa càng thấy không thơm. Danh tiếng và tôn quý đến từ sự chân tài thực học. Có đức tự nhiên thơm.

34. Thời gian sẽ trôi qua, để thời gian xóa sạch phiền não của anh đi.

35. Anh cứ xem những chuyện đơn thuần thành nghiêm trọng, như thế anh sẽ rất đau khổ.

36. Người luôn e dè với thiện ý của người khác thì hết thuốc cứu chữa.

37. Nói một lời dối dang thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì khổ như vậy?

38. Sống một ngày vô ích, không làm được chuyện gì, thì chẳng khác gì kẻ phạm tội ăn trộm.

39. Quảng kết chúng duyên, chính là không làm tổn thương bất cứ người nào

40. Im lặng là một câu trả lời hay nhất của sự phỉ báng.

41. Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình.

42. Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.

43. Đến là ngẫu nhiên, đi là tất nhiên. Cho nên anh cần phải “ tùy duyên mà hằng bất biến, bất biến mà hằng tùy duyên”.

44. Từ bi là vũ khí tốt nhất của chính anh.

45. Chỉ cần đối diện với hiện thực, anh mới vượt qua hiện thực.

46. Lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, anh dối người khác được nhưng không bao giờ dối nỗi lương tâm mình.

47. Người không biết yêu mình thì không thể yêu được người khác.

48. Có lúc chúng ta muốn thầm hỏi mình, chúng ta đang đeo đuổi cái gì? Chúng ta sống vì cái gì?

49. Đừng vì một chút tranh chấp mà xa lìa tình bạn chí thân của anh, cũng đừng vì một chút oán giận mà quên đi thâm ân của người khác.

50. Cảm ơn thượng đế với những gì tôi đã có, cảm ơn thượng đế những gì tôi không có.

51. Nếu có thể đứng ở góc độ của người khác để nghĩ cho họ thì đó mới là từ bi.

52. Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài cáng của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa địch thành bạn.

53. Thành thật đối diện với mâu thuẩn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình.

54. Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó.

55. Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối.

56. Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối anh nhất thời, nhưng nó lại gạt anh suốt đời.

57. Chỉ cần tự giác tâm an, thì đông tây nam bắc đều tốt. Nếu còn một người chưa độ thì đừng nên thoát một mình.

58. Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ này, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.

59. Nếu anh có thể sống qua những ngày bình an, thì đó chính là một phúc phần rồi. Biết bao nhiêu người hôm nay đã không thấy được vầng thái dương của ngày mai, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành tàn phế, biết bao nhiêu người hôm nay đã đánh mất tự do, biết bao nhiêu người hôm nay đã trở thành nước mất nhà tan.

60. Anh có nhân sinh quan của anh, tôi có nhân sinh quan của tôi, tôi không dính dáng gì tới anh. Chỉ cần tôi có thể, tôi sẽ cảm hóa được anh. Nếu không thể thì tôi đành cam chịu.

61. Anh hi vọng nắm được sự vĩnh hằng thì anh cần phải khống chế hiện tại.

62. Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị ô nhiễm, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh.

63. Người khác có thể làm trái nhân quả, người khác có thể tổn hại chúng ta, đánh chúng ta, hủy báng chúng ta. Nhưng chúng ta đừng vì thế mà oán hận họ, vì sao? Vì chúng ta nhất định phải giữ một bản tánh hoàn chỉnh và một tâm hồn thanh tịnh.

64. Nếu một người chưa từng cảm nhận sự đau khổ khó khăn thì rất khó cảm thông cho người khác. Anh muốn học tinh thần cứu khổ cứu nạn, thì trước hết phải chịu đựng được khổ nạn.

65. Thế giới vốn không thuộc về anh, vì thế anh không cần vứt bỏ, cái cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp. Vạn vật đều cung ứng cho ta, nhưng không thuộc về ta.

66. Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ.

Hà Mạnh Đoàn st

Cuộc đời như 1 ly café

dành cho những ai nghiền cà phê

Cuộc sống gấp gáp, cuộc đời tất bận cũng phải chậm lại, dừng bước. Từng giọt cà phê nhỏ chậm rãi, thong thả hơn cả chiếc lá vàng cuối cùng. Gió heo may đã về, se sẽ lạnh. Lặng im như đếm nhịp thời gian, nghe rõ từng khoảnh khắc nặng nề rơi, làm sao lấy lại được.

Có gì quyến rũ đến vậy trong màu nước tối thẫm và thăm thẳm như đêm đông? Từng giọt, từng giọt ánh đen, rụng xuống như sương. Trong mỗi giọt ấy đắng chát thì nhiều, ngọt bùi là có mấy. Có phải mỗi giọt cà phê ấy rơi xuống là những “giọt” đời nặng trĩu, đọng mãi đáy lòng...

Trà đạo, tửu đạo, sao không cà phê đạo?

Mai sau người ta chắc sẽ còn sáng chế ra không biết cơ man nào là đồ uống. Nhưng có thể nào thay thế được ba thứ đã gắn bó với con người từ thủa hoang sơ. Ấy là rượu, trà và cà phê. Người ta bảo sau khi tìm ra lửa, soi tỏ đường cho con người thoát khỏi cầm thú, thì việc làm ra rượu là cách khôn ngoan cất giấu, ủ giữ sức lửa âm ỉ dưới làn nước trong vắt. Rượu là lòng, lửa là đời. Vui có chén rượu, buồn cũng tìm đến rượu. Trà lại là tinh chất của đất trời, dồn tụ lại dâng lên từng búp lá. Nước xanh trong như mắt vịt, hơi nóng bảng lảng như sương khói. Chén trà dưỡng tâm và tĩnh trí. Chè tam rượu tứ. Quanh chén trà, ly rượu phải có bạn hiền, những người đồng cảm, đồng điệu chia sẻ niềm vui, nỗi buồn và ngẫm sự đời. Trà cô đọng thành một triết lý và kết nên trà đạo.

Riêng cà phê thì nép vào một góc khuất. Từ thủa cà phê theo chân người Pháp mà sang ta, tưởng đâu chỉ dành cho người giàu, kẻ sang. Hoá ra cà phê " tan" ngay vào đời sống bình dân. Người Hà Nội, người Sài Gòn và người lục tỉnh mới chỉ biết thưởng thức đồ uống đặc Tây ấy bằng vợt. Tức là một lúc có thể pha được dăm lạng có khi cả ký cà phê.

Cứ để nguyên trên hoả lò đỏ lửa ,hương vị ngọt ngào trùm cả một góc phố . Rồi châm ra vài chục ly, ấy là cách “quần ẩm” . Có lẽ chính cốt cách của người Việt, chậm rãi và chừng mực, không chịu được sự ồn ào, nên cà phê đã được “lọc” qua khẩu vị mấy đời mà sinh ra một cách thưởng thức riêng. Ngấm dần qua phin, cà phê mới chắt lọc được những cốt chất tinh tuý nhất. Bên ly cà phê nhỏ giọt, gợi cho ta những nỗi vui buồn, những kỷ niệm. Gợi nhớ tới những miền suy ngẫm sâu xa. Nó tự nhiên ùa đến, như nỗi cô đơn. Khi ấy chỉ một mình mình trước ly cà phê. Một mình mình biết, một mình mình hay.

Chẳng có ai có thể suốt ngày bên ly cà phê. Nhưng một ngày làm sao thiếu nổi. Đấy là giây phút riêng mình. Tĩnh tâm, trầm ngâm, nhìn sâu vào mình. Nhìn thẳng vào nỗi cô đơn, đau buồn và thương nhớ. Bởi thế cà phê rất kỵ sự ồn ào, thái quá. Cái ấy chỉ dành riêng cho lớp trẻ.

Có thể một triết lý cà phê 3 trong 1?

Thời buổi hối hả thoáng qua, cái gì cũng nhanh: ăn nhanh, uống nhanh và sống nhanh. Vậy là có trà hoà tan, cà phê hoà tan 2 trong 1, 3 trong 1 cho đã khát. Chỉ xin mãi được là 1 trong 1. Một người với một người. Một người trong một người. Đừng nói gì cả, lặng im chìm trong đáy nước đen thẫm. Trong lặng im mới hiểu nhau nhiều.

Nhớ Trương Chi khi xưa, khi ôm mối tình trầm mình xuống đáy sông, hồn nhập vào cây bạch đàn. Có người thợ khéo tay tiện thành bộ chén trà dâng tặng cha Mị Nương. Một hôm nàng cầm chén trà trên tay. Dưới đáy nước hình bóng người lái đò năm nào chầm chậm xoay trong lòng chén. bên tai văng vẳng tiếng hát năm xưa. Một giọt nước mắt rơi xuống, chiếc chén bạch đàn vỡ tan...

Ai chưa từng chịu những mất mát, lòng chưa cứa sâu những vết đau, hằn sâu những vết thương, thì xin đừng đến với cà phê. Khi cuộc đời đã ngấm đắng cay, mặn chát, thấm nỗi đau đời, mới tìm đến Trịnh Công Sơn nương náu. Cũng như phải qua bao chìm nổi, trải qua mấy gian truân mới đau xót đến từng câu Kiều.

Mọi sự nông cạn hời hợt, nhạt nhẽo và vô vị khó ở bên ly cà phê. Đừng nghĩ rằng cà phê là để giết thời gian, làm mềm lòng. Một đời người cũng rất cần có nỗi buồn. Nếu không, làm sao hiểu niềm vui và hạnh phúc là mỏng manh và dễ vỡ đến vô cùng. Từ trong nỗi buồn đau bước ra, con người cũng cứng rắn và mạnh mẽ hơn. Làm sao biết được cà phê đã thấm qua mấy đời người dân đất Việt. Mỗi người tự tìm cho mình một triết lý riêng, một nỗi niềm riêng. Trải qua mấy chục năm, có lẽ đã lờ mờ hình thành một “đạo” cho cà phê Viêt Nam. Đạo khó ở chữ, chẳng nói ra, không thuyết giáo, thấm sâu vào mỗi người.

Từ rất lâu chuyện uống cà phê đã trở thành một trong những niềm vui tao nhã trong cuộc sống bận rộn hàng ngày. Nhiều thế kỷ trôi qua, cà phê vẫn mang lại sự kích thích giúp bạn tỉnh táo hơn, dù bạn đang ngồi ở một chân trời nào đi nữa.

Đây đó nơi những góc phố bạn dừng chân, một quán cà phê bình dân thường được biết đến như một “đại học mươi ngàn”, nghĩa là bạn chỉ cần bỏ ra khoảng bẩy ngàn (mà hình như có người vẫn gọi là “cà phê năm nghìn”) để gọi một ly cà phê và thêm vài ngàn cho một tờ báo.

Nơi đó, những người với tâm hồn ham học hỏi, những thi sĩ, doanh nhân, công nhân… đều có thể ngồi lại với nhau bàn luận dăm ba chuyện đông tây kim cổ qua từng giọt cà phê. Có lẽ quán cà phê là nơi bạn có thể tự do nhất để suy nghĩ và phát biểu.

Chính nhờ những lần tán gẫu với nhau bên ly cà phê mà nhiều người trong chúng ta đã ngộ ra nhiều triết lý về cuộc sống, cách sống. Sự thanh nhàn, yên lặng và an bình dường như đều ở đây, bên ly cà phê với bạn.

Chúng ta học được gì qua đó?

Đơn giản là hưởng thụ giây phút ấy – có lẽ đó là một nguyên tắc để hài lòng với cuộc sống chăng?

Tản mạn xung quanh ly cà phê giúp cuộc sống của bạn thêm phong phú, vui vẻ và đầy nhiệt huyết. Những ảnh hưởng tích cực, những chiến thuật thực tiễn và những kỹ năng tạo cảm hứng mà chúng ta đang bàn ở đây đều nhằm mục đích giúp bạn ý thức đầy đủ về cuộc sống để sống trọn vẹn và cảm thấy yêu đời mỗi ngày khi thức dậy.

Nào, hãy thưởng thức một ly cà phê mình ưa thích trong lúc chúng ta đang đọc những dòng này nhé:

Bài học đầu tiên: Hâm nóng cà phê sẽ gây vị đắng

Hãy để những chuyện quá khứ thuộc về quá khứ

Cà phê nói gì?

Đừng nên hâm nóng lại cà phê. Mỗi lần bạn pha, cà phê cần phải tươi mới. Chỉ pha vừa đủ để bạn uống lúc đó mà thôi.

Cuộc sống nói gì?

Đừng hâm lại quá khứ. Quá khứ là chuyện đã rồi, chứ không phải là một lời bào chữa. Hãy để những chuyện quá khứ thuộc về quá khứ.

Nếu hâm nóng cà phê, mùi vị của nó sẽ không còn ngon nữa. Cuộc đời của bạn cũng giống như vậy. Hâm lại quá khứ chỉ khiến cho bạn thêm vị đắng mà thôi. Để có một cuộc sống vui tươi hạnh phúc, hãy chịu trách nhiệm với thực tại, và bắt đầu từ giây phút này mà thẳng tiến.

Cuộc đời là của bạn, để nếm trải

“Một tách cà phê uống vào buổi sáng mang lại sự hưng phấn tuyệt vời mà không một tách cà phê nào khác dù là buổi chiều hoặc buổi tối có thể tạo ra được”

Hãy bảo đảm cà phê bạn uống luôn luôn tươi mới. Thưởng thức ngụm cà phê đầu tiên với cảm giác sảng khoái tuyệt vời sẽ nhắc nhở bạn rằng mỗi ngày là một cơ hội mới mẻ để tạo ra những thay đổi quan trọng trong cuộc sống. Mỗi ngày là một khởi đầu mới.

Bạn không thể thay đổi những gì mình đã nói ra hoặc đã làm. Vậy cứ để quá khứ ra đi. Hãy nhớ rằng vào lúc đó bạn đã làm hết sức mình những gì có thể và giờ đây bạn cứ hy vọng vào tương lai trước mắt. Hãy hiểu quá khứ và đừng lấy đó làm lời bào chữa. Nếu bạn cảm thấy mình đã đối xử tệ bạc hoặc gây ra lỗi lầm, hãy đi xin lỗi và cố gắng sửa sai. Khi đã làm hết sức mình, hãy nhận lấy trách nhiệm và rồi đừng ngoảnh lại nữa.

Đừng tự trách mình. Ai cũng có thể gây lỗi lầm. Hãy học từ những vấp ngã, hiểu rõ những động lực khiến mình làm như vậy, rồi chộp lấy kinh nghiệm ấy để tạo ra thay đổi trong cuộc sống. Nếu cảm thấy cuộc đời không còn đáng sống nữa, hãy làm điều gì đó cho đời. Tìm cách gặp gỡ người khác. Hãy thử cố thân thiện với mọi người. Hãy nói chuyện với họ. Biết đâu họ chưa hề biết rằng bạn thật tuyệt vời. Nếu cần một nghề nghiệp khá hơn, đừng chờ người ta đem đến. Hãy săn đuổi nó. Một thái độ có-thể-thực-hiện không phải là sự chống đối hoặc lăng xăng. Nó đơn giản là một thái độ nhiệt tình, mạnh dạn và tháo vát.

Để được hạnh phúc, bạn không nhất thiết phải thành công trong mọi việc mình làm. Nhưng bạn cần tin rằng mình đã làm chủ cuộc đời này. Các nghiên cứu cho thấy người nào có trách nhiệm với những quyết định chính mình đưa ra sẽ thoả mãn trong cuộc sống nhiều hơn là người không lãnh trách nhiệm. Con người chỉ cảm thấy thực sự hạnh phúc khi cho phép cá tính của riêng mình được tự bộc lộ, chứ không phải khi làm theo nhận xét của người khác hoặc đối đầu với ý kiến của họ.

Đừng đợi người khác lát đường cho bạn đi. Hãy là người mở đường. Đừng chờ đợi cơ hội tìm đến bạn. Ngược lại, hãy săn lùng cơ hội. Người hạnh phúc không cần phải là người tài năng hơn kẻ khác, nhưng họ vẫn thường đạt được những gì mình muốn, bởi vì họ biết tìm kiếm cơ hội chứ không tìm kiếm sự bảo đảm. Họ không chờ đợi những lời động viên nhưng lại luôn ý thức với những gì đang xảy ra chung quanh mình. Họ biết rằng mỗi tình huống đều ẩn chứa những hạt giống cơ hội trong ấy, và khi cơ hội xuất hiện, họ đã chuẩn bị sẵn sàng từ bỏ quá khứ và bắt tay hành động để tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn. Mỗi ngày đều tràn đầy những cơ hội bằng vàng. Mỗi ngày đều tươi mới và tuyệt vời như tách cà phê buổi sáng. Người vui vẻ luôn chắc rằng họ cảm thụ được như vậy từng giây phút trong cuộc đời.

Hoàng Chúc st


Phụ Bản IV

BẠN TÔI V

Sáng nay bạn tôi gọi điện thoại cho biết mới gặp một chuyện làm anh buồn gần nửa giờ, và hẹn chiều nay gặp sẽ kể cho nghe.

Thấy anh nói chuyện gì đó làm anh buồn gần nửa giờ, tôi cuống quýt đòi anh giữ lời hứa chiều cho gặp, vì là người rất thuộc tính tình của anh, tôi biết rất rõ là khó có chuyện gì có thể làm anh buồn quá 5 phút, sao giờ lại có chuyện gì ghê gớm đến độ anh phải buồn tới gần nửa tiếng?

Vừa gặp nhau tại quán Bún Chả Hà Nội, với vẻ mặt còn phảng phất nét buồn, anh đã hỏi tôi: “Này Tuấn còn nhớ vợ chồng thằng Thắng con Hoan không nhỉ?” Tôi trả lời: “Con Hoan học trò cũ của anh hở? Nhớ chứ sao không? Bây giờ thì chúng là tỷ phú rồi mà!”Anh buồn rầu cho biết: “Chúng nó: anh đi đường anh, tôi đường tôi rồi! Tan vỡ rồi!”.

Hồi mới giải phóng, khoảng năm 76, 77, bọn tôi người cũ phần lớn còn thất nghiệp, thường hay tụ tập ở nhà bạn tôi để tán phễu, và Hoan, cô học trò cũ của bạn tôi, và Thắng người yêu của cô cũng thường có mặt. Thắng cao 1m80, rất đẹp giai, một vẻ đẹp hiên ngang đầy ắp nam nhi chi khí. Hoan cao 1m70, là một thiếu nữ có nét mặt đẹp một cách hiền hậu và rất cao sang, với nụ cười tươi như hoa xuân, và tuyệt vời nhất là một cái mũi dọc dừa thuần Việt, thiệt 100%... Hồi đó, mỗi khi thấy hai đứa ôm sát nhau trên chiếc Honda cũ kỹ, tất cả chúng tôi đều cùng gặp nhau ở điểm cùng gọi chúng là một cặp Kim Đồng-Ngọc Nữ. Và rồi, một thời gian ngắn sau, qua một đám cưới xềnh xoàng mà tôi có dự, chúng đã trở thành một cặp vợ chồng, chung hưởng một cuộc tình tuyệt vời vì mấy lý do sau đây:

A.- Thắng đã từ chối tình cảm của con gái một doanh nhân cực kỳ giàu có để đến với Hoan. Còn Hoan, vừa đẹp lại vừa giỏi nên có rất nhiều tài tử nam nhân đủ loại vây quanh, nhưng nàng đã gạt bỏ tất cả để đến với Thắng.

B.- Cả hai đều khá giỏi ngoại ngữ và đặc biệt hơn cả là cả hai đều cùng rất yêu thích chơi và đọc sách, và về mặt này chúng là đệ tử của tôi, và chính lòng yêu đọc sách đã khiến chúng không màng gì tới chơi bời nhảy nhót và được hưởng rất nhiều thời gian bên nhau…

Cuộc sống hạnh phúc của Thắng và Hoan kéo dài được khoảng 10 năm, từ 77 tới 87, thì một người cậu ruột của Hoan, vì trúng số ở Mỹ về giúp cho Hoan và Thắng một số vốn nghe nói lên tới 200.000 Mỹ kim. Có vốn trong tay họ đã lao vào kinh doanh, có người thì bảo vào ngành địa ốc, có người thì nói ngành kim hoàn, lại có người cả quyết là ngành chứng khoán. Ngành nào chẳng rõ, nhưng điều mà ai cũng biết là chỉ trong hơn 10 năm, năm 2000 cặp vợ chồng này đã rời bỏ cuộc sống bình thường để sống cuộc đời tỷ phú của họ, vì Thắng thì chơi xe Lexus, còn Hoan chơi riêng một xe Mercedes…

Đó là quá khứ gần của Thắng và Hoan, còn hiện tại thì sao? Chuyện bạn tôi vừa buồn rầu kể cho tôi nghe sẽ là câu trả lời cho câu hỏi trên.

“Cuộc tình tuyệt đẹp của chúng tan vỡ rồi Tuấn ạ. Cậu biết tại sao tôi buồn dữ vậy không?” Và bạn tôi bắt đầu kể:

“Chiều hôm qua, con Hoan ghé tôi lúc 7 giờ chiều và bảo tôi: “Thầy biết không, thằng khốn nạn (nó nói thằng Thắng) tuần nào cũng đi biệt từ chiều thứ sáu tới tối thứ hai mới về, và bảo con là nó đi công tác! Con dư biết là bọn nước ngoài nó có cái weekend, và vào thứ bảy và chủ nhật làm gì có chuyện chúng nó làm việc!” Nói xong, nó hếch mặt lên và hỏi tôi: “Thầy thử nghĩ xem, con có phải là đứa ngu không?” Tôi trả lời nó: “Biết rồi! Sướng lắm, nói mãi!” Nó nói: “Thầy biết gì? Nói thử con nghe coi!” Tôi bảo nó: “Thầy biết rồi, nó đi ngoại quốc ăn chả, thì con ở nhà đi ăn Nem Sở Thú chứ thua gì, phải không?” Nó cười hăng hắc và nói câu này khiến tôi vừa buồn vừa sợ quá: “Thầy thật là tinh tế và Thầy có thể là Nem của con nữa!” Tôi vội bảo nó: “Đừng có nói bậy, thôi, đi về ngay đi! Mọi chuyện bậy bạ đối với Thầy giờ đây đã là dĩ vãng cả rồi!

Nghe thấy bạn tôi kể vậy tôi hỏi: “Ý anh muốn nói là anh… hết…?” Bạn tôi cười (từ lúc gặp đến bây giờ mới thấy anh cười!) và bảo tôi: “Đại khái là như vậy… khi mục đích là làm tốt thì có nói dối một tí đâu có chết thằng Tây nào? Tuấn dư biết ta là David mà, sao mà hết được?... Tôi nhận xét: “Tóm lại dù anh nổi tiếng là bay bướm, nhưng cuối cùng thì vẫn tốt hơn khối kẻ miệng nói lời đạo đức mà tay chân thì… chẳng thèm nghe những gì cái miệng xoen xoét!” Bạn tôi cười mỉm: “Quả là có như thế, nhưng còn chuyện đáng sợ hơn nữa!”. “Chuyện chi nữa?”, tôi vội hỏi tiếp. Bạn tôi chậm rãi trả lời: “Dính vào những đứa như con Hoan lúc này, lãnh… Giải Sida là cái chắc!...”

(Bạn tôi VI đã đăng trong số 65 trang 62)

BẠN TÔI VII

Vừa nhận được một số tiền nho nhỏ của con gái tôi gửi từ Mỹ về, tôi mời bạn tôi tới Quán Chả Cá Hà Nội ăn chiều. Nhìn thấy bạn tôi đi đứng chậm chạp khác hẳn mọi lúc khác anh ta đi nhanh lẹ như một thanh niên, tôi liền hỏi thăm anh xem chuyện gì đã xảy ra khiến anh đi đúng kiểu “lão ông” như vậy! Anh cười và trả lời: “Lâu lâu giả làm ông già vài ngày, đâu có chết thằng Tây nào?” và anh cho biết lý do là đã hơi bị ngu khi ngồi xem phim trên máy vi tính 8,9 tiếng đồng hồ liền nên “hơi bị đau lưng”.

Anh bảo tôi: “Tôi kể chuyện về tôi hoài chán chết, để bữa nay tôi kể cho Tuấn nghe vài chuyện về mấy vị bạn của tôi hay, vui và lạ lắm”.

Và anh bắt đầu kể. Hôm nay mình sẽ kể cho Tuấn nghe về 3 người bạn rất đặc biệt của mình, trong ba vị đó 2 vị đã đi xa, chỉ còn một vị vẫn còn tại thế…

Tuấn ạ, trước nhất tôi sẽ kể cho bạn nghe về người bạn còn đang phây phây của tôi, nhưng cũng đã ở hàng ngũ những U70 rồi. Mấy chục năm trước ông là một Linh mục trẻ, đẹp trai và có bằng cấp rất cao. Trên đường tu, một ngày kia ông gặp một ma soeur hiền và đẹp như ma soeur, và thế là hai người cùng một lúc bị tiếng sét ái tình đánh trúng để rồi, nghe theo tiếng gọi của con tim và… vâng theo ý Chúa hai người đã rủ nhau ra-tu-riêng để rồi chỉ trong khoảng một năm rưỡi sau lại tiếp tực tu-chung với một hài nhi kháu khỉnh, mới ra đời đã cân nặng tới 4kg2, và nghe đâu ngay giờ phút này đang là một bác sĩ trẻ rất tài ba tại một bệnh viện lớn của thành phố chúng ta. Khi hai vị rủ nhau ra-tu-riêng, từ miệng lưỡi người đời cũng có một ít lời ong tiếng ve, nhưng theo bạn tôi thì những người bạn của bạn tôi đã chẳng có lỗi gì, ngược lại còn có công là đã mang lại cho đất nước và đồng bào một lương y giỏi... Không có chuyện ra-tu-riêng của họ thì lấy đâu ra người bác sĩ trẻ và giỏi đó!

Và anh kể tiếp chuyện người bạn thứ 2 của anh đã qua đời: “Tuấn ạ, đây là một con người khá kỳ dị. Anh ta được cha mẹ để lại cho một căn nhà ngoài mặt đường ở con đường trước gọi là Phan Thanh Giản và nay là Điện Biên Phủ. Căn nhà của anh ở ngay kế một rạp chiếu bóng gọi là rạp Lido cũng đã đóng cửa từ rất lâu. Anh này rất ham thích đọc sách và mua sách. Nhưng việc mua sách của anh ta không giống ai, đơn giản là vì bất cứ tác phẩm nào, bất cứ đầu sách nào anh cũng mua 3 cuốn giống nhau, một cuốn anh rọc ra để đọc bình thường còn hai cuốn kia anh gói thật kỹ và mang cất vào tủ. Trong gần 30 chục năm trời, những gói sách có 2 cuốn mới nguyên chưa rọc được chất đầy một căn phòng rộng lớn. Và rồi ngày Giải Phóng tháng Tư năm 75 đã đến. Sau ngày Giải Phóng, anh không bỏ đi đâu cả và vẫn tiếp tục trò chơi mua 3 cuốn sách đọc 1 cất 2 để rồi lần chính quyền ra lệnh tịch thu sách lần thứ nhất xẩy đến ANH ĐÃ NẰM LĂN RA TRƯỚC CỬA CĂN PHÒNG CHỨA ĐẦY CÁC GÓI SÁCH, KHÓC LÓC VÀ CHO MỌI NGƯỜI BIẾT MUỐN LẤY SÁCH THÌ PHẢI BƯỚC QUA XÁC ANH MỚI LẤY ĐƯỢC… Chính quyền được thông báo về hành vi và số sách kỳ dị của anh, nhưng hồi đó không biết giới hữu trách nghĩ sao mà anh và số sách đã được tha mạng, và sau đó hình như anh đã được cấp một giấy phép để lưu giữ kho sách đó nên, trong lần tịch thu sách thứ 2 số sách của anh vẫn được giữ nguyên vẹn. Nhưng vào khoảng những năm 90 thì anh qua đời. Chuyện kho sách và người chơi sách cách kỳ cục này được rất nhiều người biết, nhưng không ai để ý mấy, nên sau ngày anh mất, hầu như chẳng có ai biết số phận những cuốn sách chưa rọc này đã đi về đâu, vì ngay lúc này căn nhà cũ nơi chứa sách của anh ta đã biến mất, nhường chỗ cho một căn nhà cao tầng…”

Tôi nghe chuyện lạ khoái quá, nhưng cũng mời bạn tôi ăn hết phần bún chả, và sau lúc uống nước ép và ăn tráng miệng xong, mới lại nghe tiếp chuyện thứ ba mà bạn tôi khoe là đã lạ lại lạ hơn.

Bạn tôi vừa hút thuốc lá vừa chậm rãi kể cho tôi nghe về ông bạn thứ 3 của anh.

Anh kể: “Tuấn ạ, ông này là một tỷ phú ngành dệt, là chủ nhân một xưởng dệt thật lớn, và ông sống trong một biệt thự, cũng rất lớn, ở đường Ngô Tùng Châu lúc đó, mà bây giờ là đường Nguyễn Văn Đậu. Căn biệt thự rộng lớn đó của ông gồm 1 phòng khách, 1 phòng ăn, 1 thư viện, và 6 phòng ngủ trong đó có một phòng lớn gấp đôi các phòng khác, được dành làm phòng ngủ của hai vợ chồng chủ nhân. Trong 5 căn phòng còn lại đó, ông Th. tức là ông bạn tôi còn lấy riêng cho mình 1 phòng ở phía sau MÀ ÔNG THƯỜNG XUYÊN KHÓA THẬT KỸ LƯỠNG, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CHO AI BÉN MẢNG, KHÔNG CHO AI VÀO, VÀ KHÔNG CHO AI BIẾT CĂN PHÒNG ĐÓ CHỨA ĐỰNG NHỮNG ĐỒ VẬT GÌ KỂ CẢ BÀ XÃ CỦA ÔNG, CŨNG NHƯ CÁC BẠN THÂN NHẤT CỦA ÔNG, TRONG ĐÓ CÓ BẠN TÔI. Tóm lại ta có thể gọi đó là CĂN PHÒNG BÍ MẬT CỦA ÔNG TH. Căn phòng kín mít đó có máy lạnh và một cửa sổ nhỏ duy nhất, lúc nào cũng được đóng kín mít, và có màn che kín, không ai có thể nhìn thấy gì ở bên trong. Bà xã của ông cũng chẳng hề bận tâm nghĩ tới căn phòng có thể được gọi là căn phòng bí mật đó bao giờ, vì điều duy nhất mà bà bận tâm nghĩ đến là những con bài, lá bạc mà hàng ngày, bất kể mưa nắng, bà thường chơi với một lô những bà bạn cờ bạc của bà. Mấy người bạn thân của ông, trong đó có bạn tôi, lúc đầu cũng có tò mò thắc mắc hỏi ông bày biện gì ở trong đó, nhưng ông luôn đánh trống lảng và né tránh không trả lời, riết rồi mọi người cũng quen với chuyện đó, để rồi sau đó chẳng ai thèm để ý tới nữa…

Trước mắt người đời ông Th. là một con ngưởi tuyệt vời, gần như toàn thiện. Này nhá ông ta giầu nứt đố đổ vách, thế mà không keo kiệt như phần lớn những anh nhà giàu khác, vì bạn bè, thân cũng như sơ, bất cứ ai cần vay mượn đều được ông vui vẻ giúp mà chỉ nói một câu rất đơn giản dễ thương là: “Cứ cầm dùng đi, khi nào có thì trả, chuyện nhỏ!”. Ông lại còn chả thèm bon chen như chán vạn kẻ khác đã có tiền, có danh, còn muốn được giàu hơn, được coi là đa tài hơn, nên làm nhiều điều gian trá đáng khinh. Này nhé, ông quen rất thân với Luật sư Nguyễn văn Huyền và thường giúp đỡ cụ Huyền về mặt tài chính mỗi khi liên danh của cụ Huyền ra tranh cử vào Thượng viện, nên cụ Huyền rất muốn có ông trong liên danh 12 người của cụ, do đó ông Th. là người chỉ cần khẽ gật cái đầu là đã thành Thượng Nghị Sĩ, mà ông chả thèm khẽ gật bao giờ. Ông cũng thường đi chơi với các bạn ở các chốn ăn chơi sang trọng, nhưng không hề tỏ ra ham mê hút sách, gái gú, tóm lại lối sống quá tốt đẹp của ông đã khiến nhiếu người kính nể, và còn có người coi là ông Th. hơi “bị” quá đạo đức. Bạn tôi là một trong những người bạn mà ông coi là thân nhất và quý nhất, vì bạn tôi là người rất thông thạo về sách vở, báo chí và thường xuyên giúp ông mua các loại báo ảnh như France-Illustration, Noir et Blanc, Cinemonde, Cine Revue, vv… Cũng có lần bạn tôi ngỏ ý muốn xin vô căn phòng bí mật của ông, nhưng khi thấy ông né tránh không muốn đưa vào thì anh cũng bỏ qua không nghĩ tới nó nữa. Phần ông, mỗi khi tới thăm bạn tôi, hễ thấy có sách báo gì có hình ảnh các người đẹp ông thường ngỏ ý xin mua lại, nhưng mười lần như mười một bạn tôi đều vui vẻ tặng ông và còn ký tặng nữa. Phần ông, ông cũng không chịu lấy không nên mỗi khi có họa sĩ nào làm triển lãm, ông thường rủ bạn tôi cùng đi xem và lần nào cũng mua tặng bạn tôi một tấm tranh, và nói mua là để ủng hộ người họa sĩ. Quan hệ bạn bè giữa bạn tôi và ông Th. ngày càng tốt đẹp mật thiết hơn trong trên 20 năm trời cho tới năm 1999 thì ông ra đi sau khi bị đột quỵ và nằm bệnh viện Việt Pháp trong 2 tuần. Sau ngày ông mất, có lẽ vì buồn, bà Th. còn ham mê cờ bạc hơn trước nhiều vì có khi bà còn bỏ nhà đi cả tuần với các bà bạn cờ bạc của bà đi Campuchia đánh bạc, nên chúng tôi, những người bạn thân của ông Th. lúc sinh thời, ít ai có dịp gặp bà góa phụ Th. Ba năm sau, vào năm 2002, bà Th. bán lại biệt thự của bà cho vợ chồng bà Vân, sau khi thua bạc và nợ nần quá nhiều. Điều tuyệt diệu nhất là chồng bà Vân, tân chủ nhân căn biệt thự, lại là ông Tích, một người trong bọn tôi. Hai ngày trước ngày nhận nhà, ông Tích đã họp chúng tôi lại và mời cả 7 chúng tôi cùng đến vào ngày hôm đó để cùng vái trước di ảnh ông Th. để xin lỗi về việc chúng tôi, những người bạn thân nhất của ông, sắp phải gọi thợ khóa tới mở cửa căn phòng bí mật của ông. Trong hai ngày chờ đợi đó,chúng tôi mấy người bàn cãi với nhau về những gì sẽ thấy trong căn phòng bí mật đó một cách thật sôi nổi, hào hứng, chả ai chịu ai là có lý, cuối cùng mọi người cùng đi đến kết luận là tốt nhất là chờ lúc cánh cửa được mở ra là… ai nấy đều được hai năm rõ mười.

Kết cục rồi giây phút chờ đợi cuối cùng cũng đã tới. Hai hôm sau, đúng 9 giờ kém 15 sáng, cánh cửa căn phòng bí mật được người thợ khóa mở toang ra: Căn phòng được bài trí cực kỳ đơn giản. chỉ có một cái giường đơn, một table de nuit nhỏ để một cái bô, và ở trên là một tủ lạnh nhỏ dùng cho cá nhân, ngoài ra chỉ còn một cái mắc áo trên có treo 2 bộ đồ ngủ, và ở chân giường có một cái lavabo. Chỉ khi nhìn lên 4 bức tường, chúng tôi mới tìm ra điều bí mật của căn phòng: trên cả 4 bức tường là HÀNG NGÀN BỨC ẢNH NHỮNG GIAI NHÂN KIM CỒ ĐƯỢC SẮP XẾP THEO THỜI ĐẠI, NĂM THÁNG VÀ ĐƯỢC DÁN TỪNG NHÓM ĐẦY TRÊN BỐN BỨC TƯỜNG, NHƯNG DÁN RẤT THẤP – CHỈ NGANG TẦM MẮT TRỞ XUỐNG VÀ ĐIỀU ĐẶC BIỆT NHẤT LÀ CÁC GIAI NHÂN TRI KỶ TRÊN CÁC TẤM ẢNH ĐỀU ĂN MẶC RẤT ĐẸP QUA TRANG PHỤC CỦA THỜI ĐẠI CỦA HỌ, VÀ TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ MỘT HÌNH KHỎA THÂN NÀO, TRỪ CÁC NỮ TÀI TỬ CỦA THẾ KỶ 20 NHƯ GRETA GARBO, AVA GARDNER, SYLVANIA MANGANO, BARBARA STANWYCK, GRACE KELLY, GAIL RUSSELL, MARTINE CAROL, LAURENT BACALL VV… THÌ CÓ HƠI HỞ NGỰC, NGOÀI RA TRONG MẤY NGÀN BỨC HÌNH ĐÓ AI NẤY ĐỀU GIỮ NGUYÊN TRANG PHỤC CỦA XỨ XỞ VÀ THỜI ĐẠI CỦA MÌNH, NHẤT LÀ MẤY HÌNH TỨ ĐẠI MỸ NHÂN TRUNG QUỐC MẶC ĐỒ RẤT ĐẸP, NGOÀI RA KHÔNG BIẾT ÔNG TH. TÌM Ở ĐÂU ĐƯỢC NHỮNG HÌNH CÁC QUÝ BÀ QUÝ TỘC KHÁC CỦA HẦU HẾT MẤY QUỐC GIA LỚN NHƯ TRUNG QUỐC, NHẬT, ANH, PHÁP, ĐỨC, NGA, BA LAN, VV… TÓM LẠI CĂN PHÒNG BÍ MẬT CHỨA KHÔNG DƯỚI 3000 TẤM ẢNH CÁC GIAI NHÂN CỦA KHẮP BỐN PHƯƠNG TRỜI… Sau khi thấy gần 3000 bức hình các giai nhân, và sau khi bàn cãi với nhau tại sao ông Th phải giữ căn phòng luôn khóa kín không cho ai được vào, mọi người gần như chịu không hiểu tại sao ông Th. lại hành động như vậy.

Tới đây bạn tôi khoe: “Tuấn biết không? Cuối cùng mọi người quay lại hỏi tôi nghĩ sao vì họ cho là tôi thân cận với ông Th. nhất. Tôi đã bảo mọi người phải suy nghĩ về cuộc sống rất ư là đạo đức của ông Th. thì sẽ hiểu tại sao, và tôi giải thích: Ông Th. suốt một đời coi khinh chuyện gái gú, tỷ phú như ông muốn hoa hậu thì có hoa hậu, muốn minh tinh thì có minh tinh, thiếu gì? Nhưng ông đã thực sự coi thường những loại hoa hậu, á hậu, vớ vỉn, sao nọ, sao kia rẻ tiền VÌ THỰC RA NHỮNG LOẠI ĐÓ LÀM SAO MÀ SÁNH ĐƯỢC VỚI CÁC ĐẠI MỸ NHÂN TRÊN TOÀN CẦU, TRONG TẤT CẢ CÁC THỜI ĐẠI, do đó với căn phòng bí mật của ông ông ĐÃ THẦM LẶNG VUI VẦY “ẢO” VỚI TẤT CÀ NHỮNG ĐẠI MỸ NHÂN TRÊN TOÀN THẾ GIỚI VÀ TRONG TẤT CẢ MỌI THỜI ĐẠI, VÀ ĐÃ LÀM MỘT TRUYỆN TRÊN ĐỜI NÀY CHƯA AI TỪNG LÀM, TUYỆT KHÔNG?

Cuối cùng bạn tôi tiếp tục khoe: “Tuấn biết không, tất cả 6 cái miệng đều thốt ra sáu câu: CÓ LÝ QUÁ XÁ QUÀ XA!...”

VŨ ANH TUẤN


HỌ

BỊ 

PHARAON

NGUYỀN

RỦA?

Thanh Phong

Vì sao những kẻ đào mồ các vì vua Ai Cập trong “Thung Lũng Đế Vương” đều bị nhiễm một cái chết dây chuyền?

Vào đêm 4 rạng ngày 5 tháng Tư năm 1923, một nhân vật 57 tuổi đang hấp hối trong một gian phòng của khách sạn Continental ở thủ đô Caire, Ai Cập. Đến khoảng hai giờ sáng, bất ngờ ông ta gắng gượng nhổm mình lên một ít và thét to: “Chết tới nơi rồi! Tôi nghe tiếng gọi, tôi sắp sửa đi đây!”. Ngay lúc đó đèn trong phòng bỗng tắt ngấm. Cô nữ y tá đang canh bệnh nhân hoảng hốt chạy ra hành lang: ở đây cũng tối đen như mực. Sau lối mười phút vắng mặt, cô ta trở lại với một cây nến, và nhận thấy công chăm sóc của mình hóa ra vô ích.

Bệnh nhân đã chết trong một khung cảnh hệt như trong chuyện kinh dị của Edgar Poe và đó là Lord Carnavon, người đã bỏ rất nhiều tiền cho nhà Ai Cập học Howard Carter khám phá ngôi mộ của hoàng đế Toutankhamon. Ngày 18 tháng 2 năm 1923, ông Carnavon có tới chứng kiến cuộc khai quật ngôi mộ. Ở cửa hầm, người ta đọc được hàng chữ: “Thần chết sẽ không tha kẻ nào quấy phá Pharaon”.

Từ đó người ta không ngớt bàn tán về “bùa yểm” của Toutankhamon… Và không phải là vô căn cớ vì sau đó nhiều nhà tầm khảo trong ê kíp Carnavon-Carter đã nối nhau mà chết.

Khoảng đầu năm 1903, Carnavon dong ruổi khắp đất Ai Cập, nhất là trong “Thung Lũng của Đế Vương” là nơi các nhà bác học từng đào bới gần trọn một thế kỷ để tìm di tích của nền văn minh cổ Ai Cập. Từ đó ông đâm ra say mê cái thú… khai quật. Lúc ông đặt chân lên xứ này, phần đông các nhà tầm khảo đều đang sửa doạn hành lý trở về nước, vì theo họ nghĩ tất cả bí ẩn ở thung lũng sông Nil đã được khám phá hết rồi. Từ năm 1881, năm Emile Brughsh vào hầm mộ Deir el Bahri, người ta đua nhau đào bới nát cả một vùng rộng lớn. Brughshtìm được dưới đáy một cái giếng sâu 11 mét ba mươi mốt quan tài, hai mươi bốn xác ướp thuộc ba triều đại lớn của các vua thứ 17, 18 và 19, trong số đó có xác của vua Ramsès II và vua Aménophis I. Lúc ông chuyển những di vật ấy xuống tàu để đem về Viện Bảo Tàng thì đột nhiên một đám đông phụ nữ Á rập kéo tới. Họ xỏa tóc và gào thét, than oán không ngớt, luôn miệng lập lại hai tiếng “bùa yểm” khiến cho ông Brughsh cũng đâm ra bối rối, lo ngại cho bọn phu mê tín nghe thế rồi bỏ trốn tất cả.

Những kẻ cướp mộ

Thật ra, các nhà bác học tây phương đều là kẻ đến sau. Hàng ngàn năm trước đã có nhiều bọn trộm sục sạo khắp thung lũng sông Nil để tìm thức ăn vì nạn đói xảy ra thường trực và dĩ nhiên khi gặp vàng bạc họ đâu có chối từ. Cho nên đã rất nhiều phen, những bọn người đói khát ấy lẻn chui vào các nhà mồ.

Từ khoảng giữa thế kỷ 20 trở lại đây mới có cái dịch sợ hãi bùa yểm của các Pharaon, chớ khoảng 1000 năm trước Chúa Giáng Sinh không ai bàn tới vụ ấy. Người Ai Cập thượng cổ và con cháu của họ hình như chẳng ai quan tâm đến điều đó.

Năm 1900, một nhóm người võ trang đột kích những người thủ vệ ở ngôi mộ của vua Aminophis II gần thành Thèbes để xông vào hầm cướp lấy di vật. Họ lôi xác ướp của nhà vua ra khỏi quan tài, tháo gỡ cả lớp vải liệm, nhưng vàng và đồ trang sức quý giá đã mất từ lâu rồi.

Howard Carter, một nhà khảo cổ trẻ tuổi được phái tới kiểm kê sự thiệt hại và nhân dịp đó ông gặp Carnavon. Năm 1903, lúc Carnavon tới thủ đô Le Caire và đến thăm vị giám đốc Bảo Tàng Viện Ai Cập – giáo sư Gaston Maspéro – các nhà khảo cổ đều tỏ vẻ hoài nghi và tiếc rẻ: họ cho rằng không còn gì bí ẩn ở Thung Lũng của Đế Vương, vì họ chưa lần nào tìm ra một ngôi mộ còn nguyên vẹn, hoặc tìm được di vật chôn theo người chết. Giáo sư Maspéro tỏ vẻ bi quan khi ông Carnavon bày tỏ dự định mở cuộc khai quật ở nơi ấy và muốn kéo Howard Carter về làm phụ tá cho ông.

Suốt bốn năm, từ 1908 đến 1912, Carter thăm dò từng thước đất trong vùng phía tây thành Thèbes trên tả ngạn sông Nil. Cũng không phải là hoàn toàn vô ích: ông tìm được một tấm bảng gỗ khắc bài tường thuật cuộc chiến tranh do một nhân vật tên Kamosé lãnh đạo, nhằm giải phóng Ai Cập thoát khỏi cuộc xâm lăng của dân Hyksosh. Carter lấy tên nhà ủng hộ đặt cho tài liệu ấy “bảng gỗ Carnavon”. Kế đó ông tìm thêm được một số đồ lặt vặt và xác ướp của một con mèo. Nhưng vì xảy ra cuộc Thế Chiến 14-18, công tác khai quật phải đình chỉ, mãi đến mùa xuân năm 1919 mới tiếp tục, tuy nhiên Carnavon lại bắt đầu chán nản. Qua tháng Tư năm sau, ông gởi cho Carter một điện tín: “Mất quá nhiều thì giờ trong Thung Lũng các Đế Vương. Nên qua vùng khác. Tìm trong vùng trung châu sông Nil…”.

Carter đâm ra lúng túng chẳng biết phải làm sao nữa. Một buổi sáng, trong lúc vơ vẩn nhìn tàn tích của mấy gian nhà bằng đá xây cách nay lối hai ngàn năm, cạnh ngôi mộ của Ramsès VI, ông nẩy ra một ý nghĩ. Những gian nhà ấy dành cho bọn thợ cư ngụ trong thời gian xây mộ, nhưng chưa ai nghĩ tới việc đào phía dưới nền của nó. Biết đâu?

Ngày 2 tháng 11, 1922, Carter cho một toán phu bắt tay vào việc. Hôm sau, lúc tới công trường, ông ngạc nhiên thấy bọn phu ngồi ỳ ra đó chẳng ai chịu làm việc. Hỏi lý do thì người cai cho biết:

- Chúng tôi đụng một cái gì đó ở dưới nền nhà nên ngưng lại.

- Sao, đụng cái gì?

- Tôi không rõ, có lẽ một tấm đan.

Carter liền bảo họ vét đất theo cạnh tấm đan, bỗng thấy lộ ra một tấm thấp hơn. Đến chiều tối, hiện ra bốn bậc thang. Hôm sau cứ thế tiếp tục, họ đem ra ánh sáng một cầu thang đi xuống gồm 16 bậc. Bậc chót đụng một cái cửa phía trên cùng là một phiến cẩm thạch chạm dấu ấn của nhà vua mang cái tên mà Carter đeo đuổi tìm kiếm từ năm 1908: Toutankhamon.

Ông cho đục một lỗ nhỏ ở cửa giữa. Một luồng hơi nóng từ trong thoát ra, mùi nôn mửa. Sau vài phút chờ đợi cái hơi ấy tiêu tán hết, Carter thọc cây đèn bấm vào bên trong và thấy rõ một hành lang dài ngổn ngang những đá, cát từ tên vòm đổ xuống. Phía cuối còn một cái cửa nữa, cũng có dấu ấn tên nhà vua nói trên. Carter biết ngay đây là một khám phá có tầm quan trọng đặc biệt. Ông liền gởi điện tín cho Carnavon báo tin mừng. Ngày 23 tháng 11, nhà hảo tâm tới Thèbes cũng đi với ông có người con gái tên Evelyn Herbert và Calender – nhà Ai Cập học trứ danh. Ngày 25 chỉ dành để dọn cho thông hành lang, qua ngày 26, Carter dùng một cây xà-beng phá một lỗ trên cửa thứ hai.

Tiếng gọi từ thế giới bên kia

Lúc chiếu đèn vào bên trong, bất giác ông bàng hoàng như người mất hồn, mặt tái mét. Di vật của vị đế vương hết sức nhiều: rương nhỏ giát ngọc, cúp bằng vàng, bình, ché, đồ trang sức… nhưng tất cả đều nằm ngổn ngang hỗn độn. Tiếp tục cuộc khảo sát, Carter nhận thấy có kẻ trộm đã vào đây trước ông từ thời rất xưa nhưng chúng chỉ lấy có một phần cổ vật.

Vài ngày sau, nhà khảo cổ dịch được hàng chữ trên một tấm bảng: “Thần chết sẽ không tha kẻ nào khuấy phá Pharaon”. Báo chí đăng tải và bình luận lời cảnh cáo ấy. Kẻ thì cười cợt châm biếm, người thì dè dặt nửa tin nửa ngờ. Carter dĩ nhiên chẳng chút lưu tâm tới cái chi tiết nhỏ nhặt ấy.

Đến ngày 18 tháng 2, 1923, Carter cùng với Calender và nhà Ai Cập học Arthur Made mới thật sự bắt tay vào việc khảo sát. Carter chui vào một gian phòng cao ba thước. Các vách đều có vẽ hình Thần Chim Ưng Horus. Mỗi cánh cửa cũng có ảnh mặt trời với cặp cánh. Nhiều dấu hiệu huyền bí kẻ trên các tấm bình phong có vẻ như để bảo vệ giấc yên nghỉ của vị Pharaon.

Một tháng sau, Carnavon lâm bệnh nặng. Lúc đầu trên người của ông nổi những nốt nho nhỏ ngứa ngáy như bị muỗi cắn, rồi càng ngày càng nhiều đến độ không sao ngủ được. Ông vội vã trở về Le Caire nhờ bác sỹ chữa trị. Chứng ấy dứt, nhưng sức của ông cứ kiệt dần. Trong một bức thư gởi cho Carter, ông viết: “Tôi nghe tiếng gọi, tôi sẵn sàng về thế giới bên kia”. Đến ngày 4 tháng 4, con trai của ông, ông Porchester, bấy giờ là sĩ quan trong quân đội đóng ở Ấn, chỉ kịp thấy mặt cha trong cơn hấp hối. Vài giờ sau Carnavon từ trần. Ngày 6 tháng 4, tờ Figaro loan tin ấy như sau: “Cái chết của ông Carnavon khiến cho người ta nghĩ tới những bùa yểm ở mộ cổ Ai Cập. Rất có thể ông là nạn nhân của loại bùa huyền bí dưới hầm mộ Toutankhamon. Loại bùa của các pháp sư Ai Cập dùng để bảo vệ xác ướp đã cho thấy hiệu quả của nó…”.

Nhưng trước những lời bàn luận ấy, Carter so vai, chẳng tỏ ra một chút lo âu sợ sệt. Hơn nữa ông vẫn luôn luôn khỏe mạnh, và cứ tiếp tục đều đặn công cuộc khảo sát.

Nhưng trong thời gian đó, một số người liên hệ với ông Carnavon nối nhau mà chết: đại tá Aubruy Herbert, em út của ông chết 6 tháng sau, cô nữ y tá đã ngồi bên cạnh ông lúc hấp hối, viên thư ký của Carter tên Bethell, rồi tới cha của Bethell, ông Westbury. Dĩ nhiên, nguyên nhân gây ra cái chết của họ các bác sỹ đều giải thích được: không bệnh này thì cũng bệnh nọ. Nhưng cả thiên hạ đều cho đó là hiệu quả của bùa yểm. Nhiều người thắc mắc mãi về cái chết của ông Carnavon. Ông bảo là bị muỗi cắn gây ra những nốt ngứa. Nhưng thật ra ông bị một con bò cạp cắn. Tại sao ông không nói sự thật? Chỉ vì bò cạp được người Ai Cập thuở xưa coi như một con vật linh thiêng, và nói tới nó là nhắc tới hiệu quả của bùa yểm mà ông luôn luôn phủ nhận.

Ai là thủ phạm?

Các nhà bác học đã đưa ra rất nhiều giải thích cái chết dây chuyền kỳ lạ ấy. Có người suy đoán là dân cổ Ai Cập đã khám phá được phóng xạ. Bọn pháp sư đã đặt những chất gì đó trong các hầm mộ nhất là hầm mộ của Toutankhamon, và chất ấy gây ra một thứ phóng xạ giết người. Một giả thuyết khác thì cho rằng “bùa yểm” chỉ là một thứ cực vi trùng, cho nên những nhà bác học nào đã đứng gần xác ướp của Toutankhamon cũng đều mắc một loại bệnh truyền nhiễm. Ông Carnavon hẳn là bị thứ cực vi trùng ấy và đã lây cho kẻ khác.

Nhưng lạ hơn hết là một giả thuyết xuất phát từ Nam Phi: Kẻ gây ra cái chết khủng khiếp của các nhà khảo cổ là loài dơi. Bác sỹ Geoffroy Dean ở một bệnh viện tại Port-Elisabeth đã lập được một thống kê về các chứng bệnh phát hiện ở những nhà thám hiểm hang động. Họ thường mắc một chứng kỳ lạ gọi là histoplasmosis, và đã có 130 trường hợp như vậy. Bệnh phát ra do sự gần gũi phân dơi chất chứa lâu năm trong những hang động. Một thứ bệnh âm hiểm gây ra sự chết mòn. Và theo đó có thể giải thích được trường hợp của các nhà khảo cổ thường chết vài tháng hoặc vài năm sau, sau khi chui xuống những hầm mộ.

Nhưng bác sỹ Selim Hassan ở đại học Le Caire phủ nhận thuyết của ông Dean: “Nói rằng các nhà khảo cổ chết vì phân dơi có khác gì nói họ chết vì bùa yểm của Pharaon! Chính tôi đã xuống hầm mộ mà chẳng sao cả, và làm gì có dơi ở dưới ấy?”.

Cho đến cuối năm 1956 dư luận về cái chết kỳ bí của các nhà khảo cổ hầu như tàn lụi. Và vấn đề vẫn còn nguyên vẹn, người ta không tìm ra được một lối giải thích nào khác nữa.

Có người nghĩ rằng việc trù yểm của Toutankhamon cũng gây hậu quả ngược lại đối với ông ta, tức ông ta cũng là nạn nhân. Trong hầm mộ người ta thấy có câu: “Nhắc tới tên người chết là làm cho ông ta sống dậy”. Trong xã hội cổ Ai Cập người ta tin rằng cái hình phạt đáng sợ nhất là không được tái sinh. Bọn phạm pháp, bọn sát nhân đều tịch diệt, tên của họ phải bị xóa hẳn trong trí nhớ của mọi người. Có thể Toutankhamon bị người đồng thời coi là một kẻ có trọng tội, một bạo chúa. Rồi thêm lời trù yểm của ông ta làm cho thiên hạ không ai dám động tới mồ, và tên của ông ta chìm trong quên lãng luôn ba ngàn năm.

VŨ ANH TUẤN st.


|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế