Hiện có 12 người xem / 2309639 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/01/2013

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách mới. Lần này cả hai cuốn đều rất mới. Cuốn thứ nhất là một cuốn Kỷ Yếu của Hội Mỹ Thuật TP HCM (Từ Phòng Hội Họa Giải Phóng tới Hội Mỹ Thuật TP HCM – 1962-2012). Đây là một cuốn sách được in khá đẹp và có khá nhiều tranh minh họa in màu của một số họa sĩ được chọn. Cuốn sách dày gần 700 trang khổ lớn nên giá tiền bán tại Hội Mỹ Thuật lên tới 700.000 đồng, nhưng Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã mua được với giá 400.000 đồng tại một tiệm sách cũ, tuy nhiên cuốn sách thì lại mới tinh. Vì tranh cũng rất là gần với sách và vì cuốn Kỷ Yếu này có ưu điểm là có thông tin đầy đủ về các họa sĩ (khoảng gần 400 người) nên nó cũng đáng giữ như một dạng tài liệu tham khảo mà tất cả các thành viên CLB có thể dùng chung mỗi khi cần.

Cuốn thứ nhì cũng là một cuốn sách mới (8-2012) mang tựa đề là “Từ sông Hồng tới sông Mekong – Những quang cảnh Việt Nam” (Du fleuve Rouge au Mekong – Visions du Vietnam). Cuốn sách khổ 21x27cm và dày 120 trang bên trong chứa đựng toàn các tranh của các danh họa Việt Nam xuất thân từ trường Mỹ Thuật Đông Dương như quý Cụ Nam Sơn, Lê Phổ, Nguyễn Gia Trí, Mai Trung Thứ, Nguyễn Phan Chánh, Vũ Cao Đàm, Tô Ngọc Vân, Lưu Văn Sìn vv… cộng với một số họa sĩ người Pháp cùng thời với các cụ nói trên. Sách được viết bằng Pháp văn và các bài nghiên cứu là của 4 nhà nghiên cứu hội họa (2 người Pháp, và 2 người Việt). Cuốn sách được nhà nghiên cứu người Việt quốc tịch Pháp Loan de Fontbrune, một trong 4 tác giả, mang từ Pháp về đề tặng cho Dịch giả Vũ Anh Tuấn. Khi đem sách giới thiệu với các thành viên, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên một số tranh trong sách của các tác giả nói trên, mà nếu không có cơ duyên thì có để tâm tìm kiếm cũng chẳng có mà xem, vì những tranh này chỉ có trong những Bảo Tàng lớn mà thôi. Sau khi được giới thiệu, 2 cuốn sách đã được một số thành viên chuyền tay nhau thưởng thức.

Sau phần giới thiệu sách của Dịch giả Vũ Anh Tuấn, nhà thơ Thanh Phong đã lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ anh viết về Tết.

Tiếp lời nhà thơ Thanh Phong, anh Phạm Thế Cường đã giới thiệu với các thành viên một bộ tài liệu về Hiệp Định Paris khá hiếm mà anh mới sưu tầm được.

Sau anh Cường là một người khách mới, tự giới thiệu mình là một doanh nhân có một Công Ty về Phần Mềm vi tính, và ngỏ ý muốn nhờ các thành viên CLB hỗ trợ anh trong việc sưu tầm các sách văn học trước ngày giải phóng.

Kế đó anh Trần Văn Hữu đã có vài lời về Thơ, Văn và đã ngâm tặng các thành viên hai bài thơ bằng giọng ngâm khá truyền cảm của anh.

Tiếp lời anh Hữu, anh Phạm Vũ đã lên đọc một bài viết về Mỹ Quốc.

Sau anh Vũ, anh Lê Nguyên đã hát tặng các thành viên một bài hát của chính anh.

Anh Lê Nguyên hát xong, anh Thanh Châu cũng hát tặng một thành viên là Bs Nguyễn Lân-Đính một bài hát ngắn.

Đáp lời anh Thanh Châu, Bs Nguyễn Lân-Đính cũng hát tặng lại mấy câu trong bài “Trái tim không ngủ yên” bằng giọng ca rất vui của mình.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn thông báo với các thành viên là kỳ họp tới sẽ họp vào ngày 02-02-2013 (22 âm lịch) vì nếu họp như thường lệ vào ngày thứ bảy tuần thứ hai trong tháng thì đã quá cận ngày mùng 1 Tết Quý Tỵ. Ngày họp cũng sẽ là ngày các thành viên chung vui trong một bữa tiệc tất niên sau khi họp xong.


Buổi họp kết thúc lúc 11giờ 15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU

Vài dòng về cuốn

TỤC NGỮ LƯỢC GIẢI

CỦA VĂN HÒE

Trưa ngày thứ bảy vừa qua, tôi nhận được lệnh triệu tập đi dự Hội Nghị Bình Quới vào sáng chủ nhật của một mẫu hậu, và tôi đã mau chóng thông báo qua điện thoại là sẽ tuân thủ và mang theo đầy đủ tài liệu cần thiết. Nào ngờ tới 7 giờ tối, tôi nhận được tin báo từ anh Minh, một người chuyên đi tìm sách cổ giúp tôi, cho hay là anh đã thu xếp hẹn được cô cháu một nhà báo quá cố từ Long An lên, mở cửa cho anh ta và tôi vào xem tủ sách ông ta để lại mà người cháu muốn bán cho tôi. Như tôi vẫn nói, mỗi khi nghe tin ở đâu có cổ thư là tôi bỏ hết mọi việc để… đi liền.

Tôi đành phải bịa ra cớ là phải đi đón cháu Xuyên, thằng con của Đệ nhị Bà Xã của tôi từ Mỹ về, để khỏi phải đi phó hội Bình Quới. Không đi gặp thì bà mẫu hậu vẫn còn nguyên, nhưng nếu không đi xem sách thì sách có thể về tay người khác dễ như chơi, hơn nữa đâu có phải lúc nào cũng hẹn cô cháu từ Long An lên được. Ôi! vì sách mà phải bịa một tí, Chúa Trời và mẫu hậu của tôi có biết đi nữa thì chắc cũng dễ dàng tha tội. Thế là ba người chúng tôi dùng taxi vào Chợ Lớn, đến căn nhà nhỏ của nhà báo quá cố, để xem tủ sách ông ta để lại có những gì? Trên đường đi tôi cảm thấy khá hồi hộp, vì tủ sách của một nhà báo để lại rất có thể là có quý và cổ thư lắm!

Nhưng tôi hơi thất vọng khi trong số gần 600 cuốn sách để chật một cái tủ cỡ 1,2mx1,6m tôi chỉ lựa được có 23 cuốn sách xuất bản trước ngày giải phóng, phần còn lại chỉ là những sách mới đây, và rất nhiều loại sách bỏ túi của Pháp, thứ mà tôi có rất nhiều và cũng đang mong có ai cõng đi hộ.

Về đến nhà, xem kỹ lại 23 cuốn sách mua được tôi cũng thấy vui vui vì có một vài cuốn tôi khá thích. Và cuốn tôi muốn nói tới bây giờ là cuốn Tục-Ngữ lược giải của Giáo sư Văn Hòe. Thấy hai chữ Văn Hòe tôi nghĩ ngay tới cụ Vân Hạc Lê Văn Hòe, người chú giải Truyện Kiều, để rồi dở đến mấy trang cuối tôi mới thấy là mình đúng, khi bắt gặp trang quảng cáo Truyện Kiều chú giải có để bút hiệu Vân Hạc của cụ.

Cụ Lê Văn Hòe là một tác giả mà tôi có thể tin tưởng được, nên đã để cả buổi chiều chủ nhật trước để đọc cuốn sách cỡ 14cmx20 cm, và dày 224 trang, chứa đựng khoảng 700 câu tục ngữ. Tôi đọc lướt qua và ghi lại dưới đây một vài câu mà tôi thích vì tôi chưa gặp trong đời đọc sách rất phong phú của tôi:

1/ Ăn lấy vị không ai lấy bị mà đong.

Vị là mùi vị, mặn hay nhạt, ngọt hay chua, ngon miệng hay không.

Ăn lấy vị không ai lấy bị mà đong nghĩa là: ăn cốt cho biết mùi biết vị thức ăn, chứ không ai dùng cái dạ dầy làm cái bị để đong thức ăn.

Câu này khuyên người ta không nên tham ăn.

2/ Bích trung hữu nhĩ.

Bích trung là trong vách và vách là bức tường mỏng ngăn cách phòng.

Hữu nhĩ là có tai nghe.

Bích trung hữu nhĩ là trong vách có tai nghe, ý nói là ở bên kia bức vách có người lắng nghe hình như là cái vách có tai vậy. Câu này khuyên răn người đời nên giữ mồm miệng cho cẩn thận, kẻo lời nói trong buồng kín có thể lọt ra ngoài. Câu này đã được dịch nôm: rừng có mạch, vách có tai (tai vách mạch rừng).

3/ Chùa rách bụt vàng.

Chùa rách là chùa tường vách trống trải xiêu vẹo, ý nói chùa cũ kỹ tồi tàn.

Bụt vàng là tượng phật sơn son thếp vàng, ý nói tượng phật quý giá.

Chùa rách bụt vàng là ở ngôi chùa tồi tàn mà có tượng phật quý giá. Người ta thường mượn câu này để tỏ ý ngợi khen:

a/ Nơi quê mùa mà nẩy sinh người tài giỏi.

b/ Nhà nghèo khó mà có người ăn ở chính đại, quang minh.

c/ Người áo rách mà có lòng trung hậu.

Ý nghĩa câu này cũng na ná ý nghĩa câu: đất sỏi chạch vàng.

4/ Có bát sứ tình phụ bát đàn.

Bát đàn là bát nặn bằng sành tráng men, coi thô xấu hơn bát sứ nhiều.

Bát sứ là bát nặn bằng đất sét trắng, tráng men tàu, coi nhẹ nhàng thanh nhã.

Có bát sứ tình phụ bát đàn là có bát đẹp bỏ quên bát xấu.

Người ta thường mượn câu này để chê người ăn ở không có thủy chung, có mới nới cũ, tham thanh chuộng lạ quên cả nghĩa cũ tình xưa.

5/ Cóc vái trời.

Cóc ở trong hang hay chỗ tối tăm ẩm thấp.

Trời thì ở tít mù xanh, cách chỗ cóc rất xa: Vậy mà cóc vái trời, thì trời biết thế nào được. Câu này thường dùng để trỏ việc làm vô ích.

6/ Con cá đánh ngã bát cơm.

Đánh ngã là đánh đổ, đây nghĩa là ăn hết bát cơm.

Con cá đánh ngã bát cơm.- Có con cá làm thức ăn, nên ăn hết được bát cơm.

Câu này đại ý nói có thức ăn ngon thì ăn được cơm, không có thức ăn ngon thì cơm bỏ ế.

7/ Đẹp con người tươi con của.

Con của là con vật nuôi trong nhà như lợn, gà, chó ngựa…

Đẹp con người tươi con của nghĩa là trong nhà người thì đẹp đẽ, vật thì tươi tỉnh khỏe mạnh. Ý nói cảnh nhà thịnh vượng, sung sướng; từ người tới vật đều được no ấm, đầy đủ, vui vẻ khỏe mạnh.

8/ Lòng chim dạ cá.

Con chim bay trên trời, lòng nó ai biết được?

Con cá lội ở dưới nước, dạ nó ai rõ được?

Người lòng chim dạ cá là người lòng dạ khó hiểu như lòng chim dạ cá. Người vợ lòng chim dạ cá là người vợ mà chồng không hiểu lòng dạ ra sao, ý nói lòng trung thành, sự trinh tiết chưa được chắc chắn.

9/ Một mặt người, mười mặt của.

Một mặt người gấp mười (hoặc bằng mười) mặt của, ý nói của không quý bằng người. Vì người làm nên của, chứ của không làm nên người.

10/ Quyền rơm, vạ đá.

Quyền thì bé như sợi rơm, vạ thì nặng như hòn đá, ý nói quyền hành thì nhỏ mà trách nhiệm thì to, như quyền hành trách nhiệm các hương chức nước ta ngay trước.

11/ Tính không có lại có tướng.

Tính là nết, tính hạnh nết na.

Tướng là nét mặt, vẻ mặt, tất cả bề ngoài của con người.

Tính không có lại có tướng nghĩa đen là tính nết không có mà lại làm bộ. Nghĩa bóng: người không có học vấn, đức hạnh (tính), mà ngoài mặt lại làm ra bộ khôn ngoan tài giỏi.

12/ Tùy gia phong kiệm.

Tùy gia là tùy theo cảnh trong nhà giàu hay nghèo.

Phong là rộng rãi trong sự ăn tiêu.

Kiệm là tiết kiệm, dè sẻn trong sự ăn tiêu.

Tùy gia phong kiệm: Tùy theo cảnh nhà giàu nghèo mà ăn tiêu rộng rãi hay dè sẻn.

Câu này thường được nêu làm nguyên tắc trong các tiệc tùng, giỗ chạp, cưới xin, ý nghĩa cũng na ná ý nghĩa câu: “Giầu làm kép hẹp làm đơn”.

Trên đây là một số câu tục ngữ mà tôi thấy thinh thích nên ghi lại sau khi bỏ ra gần 4 giờ liền để đọc cuốn sách.

Với người chơi sách và yêu sách như tôi, mỗi khi được gọi đi coi sách, tôi đều coi là mình được hưởng một hồng ân của Thượng Đế


Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

Vũ Anh Tuấn

XUÂN VỀ

“NHỚ THÀNH PHỐ HOA ĐÀO

Nhân mùa Xuân sắp về trên đất nước, chúng ta cùng nhau nhớ về Hoa Mai và Hoa Đào qua bài hát “Nhớ Thành phố Hoa Đào” của nhạc sĩ Phan Long.

- Ở thành phố Hoa Mai nhớ thành phố Hoa Đào

- Giữa bến Nhà Rồng nhớ sông Hồng đỏ phù sa…

Mỗi khi Xuân về, tại Sài gòn – Tp. HCM và cả miền Nam, nơi nơi đều nở rộ Hoa Mai vàng tươi để đón chào mùa Xuân mới.

Hoa Mai

Mai vàng thuộc họ hoàng mai, vốn là một loại cây rừng, có thân, cành mềm mại hơn cành Đào. Hoa mọc thành chùm và có cuống dài treo lơ lửng bên cành, ở cuống lá và hơi thưa. Hoa có màu vàng, hương thơm e ấp, kín đáo, thường có năm cánh, nhưng cũng có loại mai ghép có từ 8-30 cánh. Họ nhà Mai có nhiều loại:

- Mai vàng có giống sau khi cho hoa, kết quả màu đỏ nhạt bóng như ngọc.

- Mai Tứ quý là mai nở bốn mùa,

- Nhị Độ Mai là mai nở hai lần trong năm (khác Mai thường, chỉ nở hoa một lần).

- Mai Chiếu Thủy, cây lá nhỏ, hoa mọc thành chùm, màu trắng, nhỏ và thơm, thường ghép vào núi đá cảnh ‘non bộ’, cây ra hoa vào mùa xuân.

Hoa Mai vàng chỉ có ở các tỉnh từ trung Trung Bộ trở vào Nam.

Văn nhân ví Mai là tiên, vì có vẻ thanh cao, không sợ tuyết sương và có sắc đẹp, hương thơm. Trong Chinh Phụ Ngâm, lời hẹn của người ra đi chinh chiến có hoa Mai làm chứng về thời điểm:

Thuở đăng đồ Mai chưa dạn gió

Hỏi ngày về chỉ độ Đào bông.

Nguyễn Du đã dùng hoa Mai để tả sắc đẹp của Thúy Kiều:

Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân

Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Cốt cách ở đây chính là để chỉ vóc dáng mảnh dẻ, thanh nhã như cành Mai.

Chính từ Sài Gòn – Tp.HCM tức là Thành phố Hoa Mai, ngay giữa bến Nhà Rồng, một kiến trúc cổ, nằm ngay ở Cảng Sài Gòn hướng ra Sông Hồng, chảy vòng quanh Hà Nội, với nhiều cây cầu, mà nổi tiếng và cổ kính nhất là cầu Long Biên – một nhân chứng lịch sử từ thời Pháp thuộc đến ngày nay - có hình dáng như con Rồng bắc ngang sông Hồng, dẫn vào Thành phố Rồng bay (Thăng Long), ngoài ra còn có cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Thanh Trì…

- Ở thành phố Hoa Mai ta vẫn hướng ra Hà Nội

- Nhớ tiếng dương cầm thoảng đêm gió bấc.

- Nhớ Tháp Rùa nghìn năm vẫn trẻ cùng tuổi xanh…

Hoa Đào

Từ thành phố Hoa Mai, chúng ta hướng ra Hà Nội tức là Thành phố Hoa Đào. Hoa Đào

Mùa xuân đến mang theo những cành Hoa Đào tươi thắm tô điểm cho ngày Tết ở Hà Nội. Cây Đào chỉ trồng được ở miền Bắc, là loại hoa nở vào mùa xuân, dịp Tết Nguyên Đán. Từ lâu, người Hà Nội thích chơi hoa Đào trong dịp Tết vì hoa Đào màu đỏ sẽ mang lại sự may mắn trong năm.

Đào có 4 giống:

- Đào Bích: có màu hồng thẫm, sai hoa là một loài hoa đào trồng để lấy hoa phục vụ trong những ngày Tết, ngày xuân

- Đào Phai: hoa màu hồng nhạt, cũng sai hoa và thường được trồng để lấy quả,

- Đào Bạch: ít hoa hơn, có màu trắng, tương đối khó trồng,

- Đào Thất Thốn: cây thấp nhỏ, hoa nhỏ và nhiều màu, màu đỏ thẫm thường được trồng vào chậu uốn thành các dạng thế.

Đã từ lâu, cứ vào dịp năm mới, cành Đào là một th ứ không thể thiếu đối với nhiều gia đình ở miền Bắc để đón xuân. Ngày nay hoa Đào Việt Nam cũng đã có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Ở Trung Hoa, thi sĩ Thôi Hộ có bài thơ “Đề tích sở kiến xứ” (Đề nơi đã gặp) viết về hoa Đào rất thú vị như sau:

Kh ứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện Đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Dịch nghĩa:

Hôm nay năm ngoái cửa này

Hoa Đào tương chiếu má ai ửng hồng

Giờ người biết chốn nào mong

Hoa Đào vẫn với gió đông mỉm cười.

(Mạnh Trường dịch)

Thi sĩ Nguyễn Du cũng dựa vào Bài thơ trên để viết trong Truyện Kiều:

Trước sau nào thấy bóng người

Hoa Đào năm ngoái còn cười gió đông.

Hà Nội nổi tiếng với Tháp Rùa cổ kính.

Tháp Rùa tọa lạc ngay giữa Hồ Hoàn Kiếm nằm ngay trung tâm Hà Nội.

Không khí đón Tết tưng bừng nhộn nhịp mọi nơi, khắp 36 phố cổ và các đường phố mới khác đều có hoa Đào vui mừng hớn hở, nở tung để giúp mọi người quên đi các điều buồn bã, bất hạnh trong suốt một năm qua. Hồ Hoàn Kiếm là “lẵng hoa của Thủ đô” được giăng với nhiều đèn trang trí sặc sỡ, nhấp nháy, nhất là Tháp Rùa cổ kính xa xa, trông thật như cảnh Thiên Thai hiện ra trước mắt mọi người, cùng chào đón Chúa Xuân sắp đến trên đất Hà Thành.

Vì sống ở gần Hồ Hoàn Kiếm tức Hồ Gươm, tôi có rất nhiều kỷ niệm với Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc cùng với tháp Bút và đài Nghiên. Hai di tích này do Nguyễn văn Si ê u, một nhà văn h ó a lớn của Hà Nội, đã xây một tháp đá mà đỉnh là hình ngọn bút lông, trên thân tháp có tạc ba chữ ‘Tả thanh thiên’ (viết lên trời xanh) và một đài Nghiên, là một cửa cuốn trên có đặt một cái nghiên bằng đá, tạc theo hình nửa quả đào. Qua đài Nghiên là đến cầu Thê Húc (nơi đậu lại ánh sáng mặt trời ban mai). Đầu cầu bên kia là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) tức cũng l à cổng đền Ngọc Sơn. Đền là nơi thờ Văn Xương, Quan Vũ v à Trần Hưng Đạo. Trước mặt bái đường là Trấn Ba Đ ì nh ( đì nh chắn sóng), tại đây, cậu bé học trò lớp Ba đã ra đây, leo ra bờ đất bao quanh Đ ì nh, đ ể lấy đất sét về nặn tượng hình thú vật, hình lá cây, để nộp bài Thủ công cho thày giáo.

Xa trông, góc tây nam hồ là gò Tháp Rùa. Tôi nhớ lại có một lần duy nhất, khoảng năm 1953, H à Nội tổ chức Chợ Phiên ngay tại phố Lê Thái Tổ, nằm ven bờ hồ, chính tại Chợ Phiên, khách tham quan có thể mua vé để đi qua chiếc cầu Rồng – bằng phao làm dã chiến trên các thùng phuy nổi trên hồ, sang bên Gò, bước xuống thảm cỏ xanh mướt quanh Tháp Rùa cổ kính, để thăm nơi của các Cụ Rùa, lâu lâu bò lên nằm tắm nắng, đảo mắt ngắm Hồ Gươm và thủ đô của chúng ta. Đ â y đú ng l à một dịp hi hữu mà tôi đã có cơ hội ra thăm Th á p R ù a. Hơn nữa, vì trường Nguyễn Du – nơi tôi theo học – nằm ở gần Hồ Gươm, nên tôi đã có vài lần cùng các bạn học Rước Đ è n m à u sắc rực rỡ, ánh nến lập lòe xuyên qua giấy bóng kính nhiều màu sáng loáng, vào đúng đêm Rằm trăng tròn của Tết Trung Thu.

Biết bao kỷ niệm về Hồ Hoàn Kiếm đã khắc sâu vào trong lòng tôi – một cậu bé học sinh tiểu học vô tư, ngây thơ – cho đến nay, da dẻ nhăn nheo, t ó c đã nhuốm hai màu, vẫn không bao giờ phai mờ theo năm th á ng...

Và ta nhớ Phố Cổ tuổi thơ đã đi qua

Và ta nhớ những ngày hồn nhiên vui hát ca

Ghế đá xưa hẹn hò, phút thơ ngây học trò

Chỉ còn tiếng chim trời líu lo…

Đối với tuổi niên thiếu của đa số học sinh chúng tôi là đi tầu điện, từ trạm đầu nằm ở cuối phố Bạch Mai, tầu điện chạy qua hết phố Bạch Mai, phố Huế, qua bờ Hồ Hoàn Kiếm (phố Đinh Tiên Hoàng) tới phố Hàng Đ à o, H à ng Ngang, H à ng Đường... Tầu điện cũng chạy đến khu vực Đống Đa và Cầu Giấy, lúc đó hai nơi này còn là khu ngoại ô của Hà Nội. Gia đình thân phụ tôi sinh sống ở phố Hàng Mắm, phố Hàng Thùng, phố Bắc Ninh (nay là Hàng Vôi) nên tôi thường cuối tuần nào cũng đ i tầu điện về phố Bạch Mai, lên tầu ở trạm Bờ Hồ, gần nhà Thủy tạ. Tiếng leng keng vang lên inh ỏi của tầu điện khi tài xế đạp lên còi để xe cộ, khách bộ hành tránh xa đường ray của tầu, vì đường tầu nằm ngay trên đường phố nơi tầu điện chạy qua, đó cũng l à l ý do ng à y nay tầu điện bị dẹp bỏ và tàu điện chỉ còn là một ký ức đẹp trong tâm khảm của người Hà Nội.

Sau đó, thân phụ dọn nhà về phố Hàng Điếu, phố Trương Hán Siêu (ngay sau lưng trường Quang Trung, nên tôi đã học tại trường này), tôi cùng bạn bè rủ nhau đi bộ từ phố Quang Trung, rồi rẽ phố Thợ Nhuộm tới phố Hàng Bông và phố Cấm Chỉ, trước mắt là Vườn hoa Cửa Nam, tuy nhỏ nhưng chúng tôi được các vị lớn tuổi kể rằng chính tại Vườn hoa Cửa Nam có dựng một bức tượng Nữ thần Tự do. Cùng do Barthodie thiết kế như tượng Tự do nổi tiếng ở New York có hai phiên bản đặt tại Hà Nội và Paris chỉ cao gần 3m thôi. Một phiên bản đến nay vẫn còn đứng vững trên cù lao Thiên nga trên sông Seine, gần Paris. Một phiên bản được đưa đến Hà Nội tham gia Hội chợ năm 1887, Việc Pháp đặt tượng tại đây đã làm thay đổi cảnh quan xưa, gây nỗi hoài niệm cho các nhà nho qua bài thơ:

Nhớ Quảng Văn Đình tớ đến nghe,

Câu kệ chẳng thấy, thấy Đầm xòe (Tượng Tự do)

Thập điều bặt tiếng ê a giảng,

Choáng óc kèn tây rúc tí toe

Hà Nội có 5 Cửa Ô

Mọi người Hà Nội đều có thể nêu tên chí ít là 7 cửa Ô: Yên Phụ, Cầu Giấy, Chợ Dừa, Đồng Lầm, Cầu Dền, Đ ô ng M á c, Quan Chưởng. Nhạc sĩ Văn Cao đã viết: “Năm cửa Ô đón mừng đoàn quân tiến về...” trong ca khúc Tiến về Hà Nội, từ đó, thơ văn quen viết “5 cửa Ô”. Sử ghi rằng, đầu thế kỷ 19, Hà Nội có 21 cửa Ô, đến năm 1831, c ò n 15 cửa Ô, tới nay chỉ còn lại Ô Quan Chưởng là còn nguyên vẹn.

Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội

Thành cổ Thăng Long đã từng tồn tại trong nhiều thế kỷ, xưa có ba vòng (tam trùng thành quách). Tháng 12/2003, Hoàng thành được khai quật, hơn 4 triệu hiện vật đã được phát hiện. Nhiều tầng văn h ó a qua c á c triều đại suốt thời kỳ từ thế kỷ 7 – 19 về tòa thành Đại La – Thăng Long – H à Nội đã phát lộ. Di tích hiện còn là: Cửa Bắc, Cột Cờ, các Cửa Ô. Du khách có cơ hội tận mắt chứng kiến khi về thăm Thủ đô.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám

Là một trong số di tích quý ở thủ đô Hà Nội, được xây vào tháng 10/1070 đời Lý Thánh Tông. Hiện nay có 82 tấm bia của 82 khoa thi từ năm 1442 - 1779. Nh à Đại bái và Hậu cung thờ ông tổ đạo Nho: Khổng Tử và các học trò nổi tiếng của ông. Hiện Văn Miếu – Quốc tử Giám đã được trùng tu, khu Thái Học tôn vinh các danh nhân có công xây dựng Văn Miếu, cũng như các bậc thày giáo đạo cao đức trọng như Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Chu An... Đ â y cũng l à nơi tổ chức các hoạt động văn h ó a, khoa học như hội thảo, kỷ niệm danh nhân, trưng bày chuyên đề.

- Và ta nhớ lối mòn Công viên dấu chân xưa

- Và ta nhớ phố nhỏ đường quen ai đón đưa

- Ghế đá xưa còn đây, lối quen xưa còn đây

- Bạn bè đã đi xa

- Tung cánh rộng trời mây!

Công Viên với bức tượng Người Khai sinh Kinh thành Thăng Long:

Đó là vua Lý Thái Tổ (974 - 1028), người châu Cổ Pháp, Bắc Giang, nay là xã Đ ì nh Bảng, Tiên Sơn, Bắc Ninh. Trong ngót 20 năm l à m vua, L ý C ô ng Uẩn đã có một số đóng góp tích cực đối với lịch sử: Dời kinh đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, thấy Rồng bay nên Vua Lý Thái Tổ đổi tên là thành Thăng Long; mở ra một trung tâm chính trị, kinh tế, văn h ó a mới cho đất nước; đặt nền móng xây dựng vương triều Lý thịnh trị, trên cơ sở đó nâng cao hơn tư thế độc lập, tự chủ, cũng như khẳng định bản lĩnh v à truyền thống lịch sử lâu đời của Tổ quốc, củng cố khối thống nhất dân tộc bằng cả quân sự lẫn chính trị.


Tượng Nữ Thần Tự Do trên đỉnh tháp rùa, phía bên tay phải là nhà thờ lớn Hà Nội.

Với tư thế đứng uy nghi trên bệ cao, khá vĩ đại để kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội vào năm 2010. Công viên nhìn thẳng sang Hồ Hoàn Kiếm, tọa lạc ngay trên phố Đinh Tiên Hoàng, gần Ủy ban Nhân dân Thành phố và Bưu điện Hà Nội. Nơi đây trước tên gọi là Vườn hoa Chí Linh với bức phù điêu hình bản đồ Việt Nam duyên dáng, có thời bức tượng Nữ thần Tự do tý hon, do nước Pháp trao tặng sau khi dự cuộc Đấu xảo Hà Nội, được đặt nơi đây, sau dời sang trên đỉnh Tháp Rùa, rồi về Vườn hoa Cửa Nam, sau cùng thì Nữ Thần bị mang đúc thành tượng Phật chùa Ngũ Xá, gần hồ Trúc Bạch.

Công viên Lý Thái Tổ này cũng chính là nơi Hà Nội tổ chức các buổi Lễ hội chính thức kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội.

Lễ hội Phù Đổng

Chính hội là ngày 9/4 âm lịch hàng năm. Đ ó l à đ ể kỷ niệm chàng Gióng, được tôn vinh là Phù Đổng Thiên Vương, quê quán ở làng Gióng tức làng Phù Đổng, nay thuộc huyện Gia Lâm – ngoại thành Hà Nội. Theo truyền thuyết, vào đời Hùng Vương thứ 6, giặc Ân kéo sang xâm lược nước Văn Lang. L ú c bấy giờ ở làng Phù Đổng, có một cậu bé lên 3 tuổi mà vẫn chưa biết nói. Khi sứ giả của Nhà vua đến làng, cậu bé bỗng nhỏm dậy và bật nói: “Xin Vua ban một ngựa sắt và một roi sắt để đi diệt giặc”. Sau đó Gióng lớn như thổi, một mình ăn hết 3 nong cơm, 1 nong cà và vươn vai trở thành một chàng trai dũng m ã nh. Ch à ng cưỡi ngựa sắt dùng roi sắt đánh tan giặc Ân. Khi giặc tan, ch à ng phi ngựa lên núi Sóc Sơn và bay lên trời. Nhớ công ơn chàng Gióng, dân làng đã lập đền thờ và tôn là Phù Đổng Thiên Vương.

Thành phố nhiều hồ đẹp

Thành phố Hoa Đào vốn có nhiều hồ đẹp, theo ước tính, cho tới năm 1996 H à Nội có hơn 40 hồ lớn nhỏ, nhưng quá trình đô thị hóa đã lấp đi nhiều. Trong số đó, Hồ Tây rộng tới trên năm trăm h é cta, đ ược coi là Hồ lớn nhất trong nội thành.

Ngành địa lý đã chứng minh rằng Hồ Tây là một đoạn sông Hồng cũ c ò n s ó t lại khi sông đã đổi dòng (sông Hồng còn gọi là sông Cái và sông Nhĩ H à – v ì d ò ng s ô ng uốn khúc quanh Hà Nội trông giống cái tai)...

Còn theo thư tịch thì thế kỷ 11, hồ này có tên là Dâm Đ à m ( đ ầm Mù Sương), tới thế kỷ 15 lại gọi là Hồ Tây. Hồ còn có tên hồ Lãng Bạc.

Hồ Tây từ lâu lắm đã là thắng cảnh, từ đời Lý Trần các vua chúa đã lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí. Hiện nay quanh hồ còn 61 đình, chùa, đền, phủ rất đáng tham quan.

Suy ra từ trên, ngành địa lý cho rằng, sở dĩ H à Nội có rất nhiều hồ vì trước đây hàng ngàn năm cả khu vực Hà Nội (mở rộng) hiện nay là biển nước mênh mông, rồi sông Hồng, sông Đ à v à biết bao sông khác hình thành, một số vùng cao trở thành núi như Ba Vì, Tản Viên... và nhất là các vùng trũng nay biến thành mấy chục hồ lớn nhỏ cho Thành phố Hoa Đào ngày nay. Sự biến đổi địa chất đã mang lại cho Hà Nội vô số thắng cảnh nổi tiếng nhờ vào các hồ xanh ngắt, xinh xắn, là lá phổi quan trọng cho người dân, rải rác nằm ở khắp Hà Nội.

Thành phố Sài Gòn Hồ Chí Minh

Là trung tâm du lịch lớn nhất nước, thu hút hàng năm 70% lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Sở dĩ như vậy, vì ngoài cơ sở hạ tầng khá tốt, giao thông tương đối thuận tiện, thành phố là một nơi có tài nguyên du lịch phong phú. Nơi đây là một vùng đất gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc kể từ khi thực dân Pháp đặt chân lên Việt Nam. Hệ thống các bảo tàng, nhà hát, nhà văn hóa, các công trình kiến trúc thời Pháp là những điểm du lịch hấp dẫn.

Với 300 năm hình thành và phát triển, thành phố có nhiều công trình kiến trúc cổ như Nhà Rồng, đền Quốc Tổ, dinh Xã Tây, Nhà Hát thành phố, Bưu Điện, hệ thống các ngôi chùa cổ (chùa Giác Lâm, chúa Bà Thiên Hậu, chùa Tổ Đình Giác Viên, chùa Xá Lợi, chùa Vĩnh Nghiêm…), hệ thống các nhà thờ cổ (nhà thờ Đức Bà, Huyện Sỹ, Thông Tây Hội, Cha Tam, Chợ Quán, Thủ Đức… mà các cây thánh giá trên đỉnh nhà thờ có logo “con gà trống” của Pháp). Nhìn chung, một trong những đặc trưng văn hóa của 300 năm lịch sử đất Sài Gòn – Gia Định, nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hóa, là “cơ cấu kiến trúc” Việt – Hoa – châu Âu. Một nền văn hóa kết hợp hài hòa giữa truyền thống dân tộc của người Việt với những nét đặc sắc của văn hóa phương Bắc và phương Tây.

Có thể nói Sài Gòn là trung tâm văn hóa của Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố này là nơi phổ biến báo quốc ngữ đầu tiên, là nơi ra báo quốc ngữ đầu tiên của cả nước. Sự ra đời và phát triển phong phú của sách, báo, trường học, của đội ngũ trí thức và văn nghệ sĩ, của các hoạt động và giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật… đã tạo cho Sài Gòn từ lâu là một thành phố có ảnh hưởng lớn về văn hóa đối với cả nước.

TÓM TẮT

Hôm nay, trước thềm Năm Mới xuân Quý Tỵ 2013, từ Thành phố Hoa Mai – Tp.HCM, chúng ta cùng hướng ra Thành phố Hoa Đào – Thủ đô Hà Nội. Và cùng ước mong Thủ đô sẽ giữ gìn bản sắc cổ kính, uy nghiêm trong việc quy hoạch xây dựng, nhất là bảo tồn toàn vẹn các Di sản Thế giới mà UNESCO đã vinh danh – tọa lạc trong Thành phố Hoa Đào, đó là:

- Di sản Văn hóa Phi vật thể: ĐIỆU HÁT CA TRÙ” (vinh danh vào tháng 9/2009).

- Di sản Tư liệu Thế giới “BIA TIẾN SĨ TẠI VĂN MIẾU” (vinh danh 2 lần vào tháng 3/2010 và 5/2011).

- Di sản Thế giới về Văn hóa Lịch sử: “HOÀNG THÀNH THĂNG LONG” (vinh danh vào tháng 8/2010).

- Di sản Thế giới về Văn hóa Lịch sử: “HỘI GIÓNG, ĐỀN PHÙ ĐỔNG VÀ ĐỀN SÓC” (vinh danh vào tháng 11/2010).

Đây là công việc hết sức khó khăn để bảo tồn hiện trạng 4/17 Di sản Thế giới tại Việt Nam. Vì là Thủ đô – trái tim của Tổ Quốc, Hà Nội phải làm gương cho các địa phương khác trong công việc Hậu – Di sản, vì để đạt được danh hiệu đã khó, mà việc bảo tồn các Di sản Thế giới – sau khi được UNESCO công nhận – lại càng khó khăn gấp bội.

Mong thay Thành phố Hoa Đào sẽ làm tròn sứ mệnh cao cả của mình!

(Tham khảo: Sách báo về Hà Nội và Sài Gòn, Tp.HCM)

PHẠM VŨ

Bài nói của Dịch giả Vũ Anh Tuấn

về tập thơ Đêm Hoa Lửa của các nhà thơ

Đàm Lan và Phạm Thị Minh Hưng

trong lễ ra mắt tập thơ nói trên chiều ngày 25-1-2013.

Thưa Quý vị quan khách,

Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Tổ Chức đã cho tôi cơ hội được bày tỏ những cảm nghĩ rất riêng tư, rất bình dân của tôi sau khi được đọc tập Thơ Đêm Hoa Lửa do nhà thơ Đàm Lan gửi tặng mấy tuần lễ trước.

Sau đây là những cảm nghĩ cá nhân của tôi, trên cương vị một độc giả bình thường, vì với tôi, một tập thơ chỉ có thể được coi là hay, là giá trị, khi nó được mọi người, từ người bán hàng ngoài chợ tới người giáo viên nơi học đường, từ những thanh niên, thiếu nữ tới những người trung niên và có tuổi ai nấy đều biết đến, và lưu lại trong trí nhớ một số câu thật hay, thật dễ thương, dễ nhớ. Muốn được như vậy những câu thơ trong tập thơ phải trong sáng, hiền hòa, hợp lý, không có ẩn dụ, hiện dụ, không lai căng, không có hơi hướng tình dục, không trúc trắc vv… Ngoài ra một tập thơ hay lại còn phải chịu sự thử thách của thời gian, qua nhiều năm sau mà vẫn còn được mọi người nhắc nhở, nhớ tới, như trường hợp một số câu của Nguyễn Bính.

Đọc qua tập thơ Đêm Hoa Lửa, cảm nghĩ đầu tiên của tôi là khá thích thú khi thấy cả hai nhà thơ Đàm Lan và Minh Hưng đều đã viết ra những câu thơ lời lẽ dễ hiểu, dễ cảm thông, không có ẩn dụ hiện dụ gì, không lai căng, không hơi hướng tình dục và đích thực là thuần Việt, và trên đây chính là những yếu tố tôi yêu thích nhất.

Đã có người định nghĩa thơ là hùng biện du dương. Thơ là vẻ Đẹp tuyệt trần của sự vật, và là sự chiêm ngưỡng vẻ Đẹp ấy trong lý tưởng. Lại có người cho rằng Thơ vừa là nhạc, là họa, là tạc tượng, là hùng biện, và thơ phải làm cho người đọc vui tai thích trí, phải tỏ rõ được âm thanh, bắt chước được màu sắc, khiến cho những độc giả trông thấy, và bị kích thích bởi những rung động mà Thơ mang lại và khơi động trong lòng họ.

Với những định nghĩa và tiêu chuẩn trên, tôi thấy rằng thơ của hai nhà thơ Đàm Lan và Minh Hưng đã đạt được mức trên trung bình, và tôi cho rằng như thế là đã khá thành công.

Tôi thấy nhà thơ Đàm Lan viết về đủ mọi lãnh vực, nói với mọi người và nói với ngay cả chính bản thân. Còn thơ của nhà thơ Minh Hưng chủ yếu nói về tình yêu, tình bạn, và tình người.

Vì là đồng tác giả với nhà thơ Đàm Lan ở tập truyện ngắn Nụ Hôn Muộn mới được in – nhà xuất bàn Hội Nhà Văn 2012 – trong bài này tôi xin chỉ nói qua về một số bài thơ của nhà thơ Đàm Lan mà đọc xong, tôi cảm thấy thích thú.

Trước nhất là bài Tạ Tình Nhau nơi trang 7, tôi thấy bài này rất dễ thương và khá lãng mạn với những câu như:

“Đừng thôi nhé ta đừng thôi nhau nhé

Dẫu mong manh một quán nhỏ bên đời…”

và:

“Cứ tim nhau cứ nồng câu ước hẹn

Cứ hanh hao một chút nắng trải mùa…”

Bài Ngày hôm nay nơi trang 8 với hai câu cuối:

“Và để mỗi sớm mai mặt trời đến

Lại thấy mình đầy mê mải hăng say”

Đây là bài nhà thơ tự khuyến khích mình và gián tiếp khuyến khích người đời sống lạc quan hăng hái.

Bài Dừng lại đi. Tôi ơi! Nơi trang 11

Đây là bài nhà thơ tự nhủ phải dừng lại không tiến thêm một bước nào về phía những cạm bẫy đen tối của cuộc đời và người đời. Trong bài này có câu:

Tiềm ẩn dưới những lời khen hoa mỹ

Với câu này nhà thơ tỏ ra hiểu biết khôn ngoan khi nhận chân ra rằng đằng sau những lời khen hoa mỹ chỉ là vực đen sâu hoắm, là hang dài thăm thẳm, là tan vỡ mà thôi, chớ tưởng bở.

Bài Dặn mình nơi trang 20

Qua bài này nhà thơ đưa ra nhiều tình huống để tự dặn mình và gián tiếp dặn người đồng loại nên sống cho khôn ngoan.

Tôi đặc biệt yêu thích bài Không nơi trang 22 vì đây là những quan niệm sống tuyệt vời mà tình cờ không hiểu làm sao nhà thơ lại viết ra đúng những điều mà tôi vẫn áp dụng trong suốt 78 năm sống ở trên đời. Thực là một sự trùng hợp rất đáng trân trọng.

Qua bài Độc thân nơi các trang 36 và 37, nhà thơ Đàm Lan đã thật sự ca tụng Tự Do một cách thật dũng mãnh, tôi nghĩ bài này mà đem tặng cho và để ở Tượng Đài Nữ Thần Tự Do ở Mỹ thì chắc Nàng ( Nữ Thần) thích lắm.

Bài Nhân danh tôi nơi các trang 40, 41 là một bài ca tụng Độc Lập, một nền Độc Lập mà nhà thơ tự mang lại cho mình, bài này tôi cũng rất thích và có chép và mail cho mấy mẫu hậu của tôi và các bà ấy cũng rất khoái.

Tôi cũng rất thích bài Hạnh phúc nơi các trang 170 và 171 vì qua bài này nhà thơ đã định nghĩa hai chữ Hạnh phúc rất sâu sắc và hay, ước chi những người đồng loại cũng đánh giá Hạnh phúc như nhà thơ thì thế giới này sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều!

Với niềm tin là tập thơ Đêm Hoa Lửa này sẽ được những người đọc hân hoan đón nhận và sẽ, với thời gian, đi được vào lòng người, tôi xin kết thúc những cảm nghĩ của tôi ở đây, và xin cảm ơn quý vị đã nghe tôi trình bày.

Vũ Anh Tuấn


Phụ Bản I

NGÀY XUÂN VỀ THĂM

NGUYỄN BÍNH

Phạm Thế Cường

Nhân dịp 90 năm ngày sinh Nguyễn Bính. Đầu xuân 2008, tôi cùng người bạn nối khố làm một chuyến du xuân về thăm nhà lưu niệm và viếng mộ Nguyễn Bính.

Hôm đó tiết trời xuân ấp áp sau một đợt lạnh ngắn, chỉ mặc thêm tấm áo khoác, hai chúng tôi cưỡi xe máy từ Hà Nội trực chỉ đường 1 qua Phủ Lý, rồi theo đường 21 để về xóm Trạm, thôn Thiện Vị, huyện Vụ Bản, Nam Định, quê hương Nguyễn Bính.

Đường thôn vào nhà Nguyễn Bính đã được dân làng bê tông hoá, hai bên đường là nhà thôn dân với những hàng rào bằng duối, cúc tần, dâm bụt mà trong vườn mơn mởn những rau xanh.

Bạn tôi bỗng chỉ tay về một hàng rào đan bằng tay tre, cọc là những thân tre già đã đổ màu vàng óng, những cây mùng tơi leo gần kín hàng rào, nhiều ngọn leo ra ngoài hàng rào run rẩy trước gió xuân và đọc câu thơ của Nguyễn Bính.

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi

Cách nhau một giậu mùng tơi xanh rờn.

Giậu mùng tơi ngày nay ở thôn quê cũng hiếm nhà rào vì nó trông tạm bợ và không bền, nên khi nghe lại những câu thơ vẫn cứ chập chờn với những kỷ niệm với thôn quê một thời đã xa.

Dừng xe bên cạnh giậu mùng tơi, chúng tôi chờ hai

Cô em đương độ tuổi xuân tươi

Mái tóc đen kia buông quá dài.

đang đi bộ tới gần, bạn tôi dí dỏm hỏi:

Hỏi em đương độ xuân tươi

Lưu niệm “Chân quê” đi lối nào, em nhỉ!

Hai em gái chắc là sinh viên học ở thành phố về quê ăn tết, nhom nhom nhìn hai người khách lạ áo quần vấn vương bụi đường, cô tóc dài hơn cũng dí dỏm không kém:

- Em chỉ biết nhà lưu niệm “Lỡ bước sang ngang” anh có đến thì “thôn nữ” em xin chỉ.

Không để bạn tôi trả lời em nói luôn:

- Sắp đến rồi còn khoảng hơn 200m nữa là tới, nhà có cái cổng sắt nhỏ bên tay trái ấy.

Vừa lúc đó có một người đàn bà chừng ngoài 60 đầu chít khăn mỏ quạ cắp một rổ rau tập tàng đi từ phía sau lại nghe chuyện và xen lời:

- Hai cậu đi theo tôi, tôi sẽ gọi người mở cửa cho các cậu vào.

Cô gái nói tiếp lời:

- Hai anh đi theo dì Loan, dì ở gần đấy và là họ hàng của “Chân quê” đấy.

Dì Loan dẫn chúng tôi đến nhà ông Ngọc người em rể họ của Nguyễn Bính được giao nhiệm vụ trông coi nhà lưu niệm. Theo chân ông Ngọc chúng tôi lại vườn nhà Nguyễn Bính. Ông mở cửa nhà từ đường cũng là nhà lưu niệm hướng dẫn chúng tôi thắp hương cho Nguyễn Bính và anh ruột Nguyễn Bính, nhà viết kịch Trúc Đường.

Thắp hương xong chúng tôi chậm rãi xem các hiện vật được trưng bày trong nhà. Thật buồn các hiện vật và tranh ảnh ở đây khá nghèo nàn, chỉ có khoản 20 tác phẩm in lại gần đây của Nguyễn Bính và của các nhà phê bình văn học viết về ông cùng vài bức hình ông chụp thời kháng chiến chống Pháp và sau hoà bình. Tấm bằng “giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học” của ông cũng chỉ là bản sao lại từ bản gốc được treo tại nhà lưu niệm Nguyễn Bính tại đường số 11, phường 11, Gò Vấp, TPHCM.

Theo ông Ngọc ra sân chúng tôi lại lăng mộ Nguyễn Bính ở bên trái nhà từ đường. Hai đứa chúng tôi nhổ những ngọn cỏ xen lẫn trong bụi hoa mười giờ được trồng trên mộ Nguyễn Bính, chỉnh lại vị trí bát hương chén nước, chúng tôi thắp hương viếng Nguyễn Bính. Khói hương nhẹ nhẹ theo ngọn gió xuân bay lên hoà quyện với dàn hoa đậu ván trồng trên mộ ông.

Chúng tôi lại bên ông Ngọc định hỏi chuyện thì ông nói:

- Tại vị trí ngôi mộ này ngày xưa là buồng của Nguyễn Bính, cái hàng rào kia trước là giậu mùng tơi mà ông tả trong bài “Người hàng xóm”.

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi

Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn.

Ông nói tiếp:

- Nguyễn Bính long đong kể cả lúc sống đến mất, khi sống ông lang bạt, khi mất ông cũng lang bạt đến lần thứ tư mới được về an nghỉ tại đây.

Qua lời ông Ngọc chúng tôi được biết khu đất này ngày xưa đã được gia đình Nguyễn Bính nhượng cho bà Nguyễn Thị Hường là người em trong họ, năm 1983 chính quyền địa phương mới hoán đổi cho bà Hường một khu đất khác để lấy lại khu đất này là nơi Nguyễn Bính đã sinh ra và lớn lên thời thơ ấu.

Nguyễn Bính mất ngày 20/01/1966 tại nhà người bạn và được yên nghỉ tại nghĩa trang Cầu Họ, sau khi hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh mộ ông lại chuyển về nghĩa trang Tam Điệp. Sau đó chính quyền huyện Vụ Bản và gia đình đã di dời mộ ông về quê nhà ở cánh đồng Mã Quan nơi có khu mộ dòng họ. Đến 1983 sau khi lấy lại được khu đất hương hỏa này Nguyễn Bính lại được di dời về đây yên nghỉ giữa vườn nhà.

Nghe lời kể của ông Ngọc tôi nhớ lại khổ thơ của Nguyễn Bính:

Nhà tôi có một vườn dâu

Có giàn đỗ ván có ao cấy cần

Hoa đỗ ván nở mùa xuân

Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm

Tôi hỏi ông Ngọc:

- Cái ao “cấy cần” bây giờ còn không anh.

Ông Ngọc mau miệng trả lời:

- Còn, vẫn còn nhưng thuộc nhà khác, tôi dẫn mấy chú qua.

Ông dẫn chúng tôi ra ngoài cổng đi vào hẻm bên hông lại phía sau nhà. Nghe ông gọi cổng cụ già cỡ ngoài 70 còn khoẻ mạnh ra mở cổng, ông Ngọc nói:

- Hai chú này ở Hà Nội về muốn được nhìn cái ao xưa của nhà Nguyễn Bính.

Ông cụ mời chúng tôi vào và dẫn đến cái ao “cấy cần” xưa, ông cụ nói:

- Cái ao này hiện nay nhỏ hơn cái ao xưa vì gia đình chúng tôi đã vượt (lấp) để làm cái nhà và vườn rau này.

Cụ chỉ cây mít cạnh bờ ao và nói:

- Cây mít này ngày xưa Nguyễn Bính vẫn hay leo trèo.

Cụ lại chỉ những cây khế ven ao bên kia và nói:

- Những cây khế này cũng có từ hồi Nguyễn Bính còn ở đây.

Sau khi tham quan chụp ảnh chúng tôi được cụ mời uống trà tươi của vườn nhà bằng bát sứ lớn được đặt trên khay đan bằng trúc xinh xắn, đúng với nét chân quê. Hương vị trà tươi thơm, nước màu vàng xanh uống vào ta thấy vị chát nhẹ và hơi ngọt. Uống chè tươi mộc mạc là vậy nhưng nó thể hiện sự hiếu khách và tình làng nghĩa xóm, đặc trưng của người dân Việt Nam.

Sau này tôi cũng biết thêm, nhà lưu niệm Nguyễn Bính không chỉ có ở hai nơi mà còn một gian nhỏ ở Bảo tàng Văn học Việt nam và một ở Trường THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản, gần thôn Thiện Vịnh, quê nhà thơ. Nhà Lưu niệm này được sự góp sức ban đầu của nhà thơ Gia Dũng, nay cũng có nhiều hiện vật, đặc biệt có trên 800 trang bản thảo của Nguyễn Bính.

Cuộc đời Nguyễn Bính thật truân chuyên cả cõi trần lẫn cõi âm, thật ứng với bài thơ cuối cùng của ông đã viết đăng trên tạp chí Xuân Bính Ngọ (1966) của Ty Văn hóa tỉnh Nam Hà:

Trăm năm trong cõi người ta
Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau
Khen tài nhả ngọc phun châu
Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình.
Mấy lời kỳ cựu đinh ninh
Rằng tài nên trọng mà tình nên thương

Gẫm âu người ấy, báu này
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
Nặng vì chút nghĩa xưa sau
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay.

Ra về, chúng tôi lại theo đường cũ, dọc đường lúc này gặp khá nhiều người dân đi chợ về họ gật đầu chào hỏi chúng tôi như những người đã từng quen biết. Nét “chân quê” có thể mất dần theo tiến trình đô thị hóa, nhưng ở đây, người dân làng quê Nguyễn Bính vẫn cố níu kéo, nâng niu cái giá trị “chân quê” ấy như một tài sản vô giá của cha ông truyền lại.

NGÀY XUÂN

NÓI CHUYỆN HÁI LỘC

Không biết từ bao giờ Phật tử vẫn có thói quen cứ ngày Mồng Một đầu năm thì đến Chùa lễ Phật, sau đó là ra ngoài vườn, hái hoa, bứt nhánh cây mang về nhà gọi là Hái Lộc. Do đó, cứ sau những ngày Tết là hoa cỏ sân vườn chùa xơ xác trông rất thảm hại, phải mất thời gian khá lâu mới gầy dựng lại được. Chính vì vậy mà nhiều Chùa sau đó phải tổ chức làm sẵn hoa giả, để trong Chùa để ngày đầu năm Phật tử thỉnh về nhà thay cho cây lá ngoài vườn, nhờ đó mà tránh được họa tàn sát cỏ cây ở Chùa. Là người Phật Tử của kỷ nguyên mới, chúng ta đánh giá hiện tượng trên như thế nào?

Không thể chối bỏ là Đạo Phật từ sau khi Phật khai đạo đến nay đã hơn 2.550 năm không những không rụi tàn, mai một, mà còn bành trướng ngày một rộng hơn. Phật Tử gia tăng ngày một nhiều thêm. Nhưng liệu đó có phải là một tín hiệu đáng mừng cho Đạo Phật, bởi vì chúng ta thấy hiện nay có quá nhiều sự thể hiện của tin đồ Phật Giáo xa rời hẳn tôn chỉ của Đạo Phật chân chính vốn có tôn chỉ là: Tự Tu, Tự Độ, Tự Giải Thoát.

Vậy thì nguyên nhân do đâu? Có cách nào để khắc phục hay thay đổi gì đươc không?

Ai cũng biết, từ sau khi Y Bát bị mất dấu, Chánh, tà khó phân. Người có Chánh Pháp hay không cũng rao giảng tràn lan. Lớp con, cháu cứ thế mà kế thừa. Người mến mộ Đạo Phật muốn tu học cũng không biết tin vào ai, bởi những vị đứng ra rao giảng thì ai cũng mang hình ảnh của đệ tử Phật. Cũng đầu tròn, áo vuông. Cũng tu hành thanh tịnh. Nhưng không hiểu vì sao đa phần người Phật Tử hiện đời lại tin vào sự cứu độ của Phật ngoài, cầu xin, cúng kiến để trao đổi… hoàn toàn không đúng tinh thần của Đạo Phật chân chính. Rõ ràng họ đều được sự hướng dẫn của các bậc tu hành, đâu phải do tự phát? Vậy thì lý do vì sao?

Theo tôi, có mấy nguyên do: Thứ nhất, đa phần Phật Tử quá dễ dãi, ít tìm hiểu Đạo Phật qua kinh sách, mà chỉ nghe theo hướng dẫn của vị nào đó, bởi ai cũng nghĩ đơn giản: bâc tu hành đã đầu tròn, áo vuông, mang hình ảnh của Phật thì không thể nào hiểu sai lời Phật được. Những gì họ giảng dạy đều đúng, nên thực hành theo. Do không đọc Chính Kinh, nên họ hoàn toàn không biết là không phải ai mang sắc áo tu hành thì cũng tinh thông Phật Pháp, đủ sức để hướng dẫn cho người khác. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật phân ra có nhiều hạng Tăng: Thánh Tăng, Phàm Tăng, Phá Giới tạp Tăng mà Phật gọi là "Cư Sĩ trọc", tức là dù họ mang đầu tròn, áo vuông, nhưng không giữ Giới thanh tịnh của bậc tu hành chân chính. Tất nhiên, nếu gặp phải những vị không phải là bậc tu hành chân chính thì họ làm gì có Chánh Pháp để giảng dạy.

Thứ hai, Nếu ai có đọc lịch sử Truyền Y Bát của Đạo Phật thì cũng đều biết: Trước khi nhập diệt Đức Thích Ca đã trao Y Bát cho Ngài Ca Diếp và dặn dò sau đó Y Bát lần lượt trao cho những người kế thừa để thời nào cũng có vị Giác Ngộ hiện đời cầm nắm dòng Chánh Pháp, thay mặt cho Phật.

Nhưng lời Phật chẳng được tuân giữ được bao lâu, vừa đến đợt kết tập thứ II, sau khi Phật nhập diệt khoảng 100 năm, thì đã có sự xung đột trong nội bộ Tăng chúng để tách ra thành hai khối: Một khối gọi là Thượng Tọa Bộ, là bậc Trưởng Lão trong Tăng chúng, nói rằng không chấp nhận cải cách, chỉ giữ y những gì trước kia Phật đã dạy, nên tách ra riêng lập thành nhóm mới, được gọi là Tiểu Thừa hay là PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY. Khối còn lại gọi là ĐẠI CHÚNG BỘ, là những người tiếp tục chấp nhận Tổ mới - người được tiếp tục nhận Y BÁT từ Tổ trước giao lại - Hai bên cùng phát triển song song cho dến hiện nay.

Phía Phật Giáo Nguyên Thủy thì tự cho là họ mới đúng là chánh đạo, vì thực hiện đúng theo lời của Phật dạy, không thêm bớt, thay đổi gì hết. Nhưng có một điều mà nhiều người nếu thiếu nhận xét thì khó thể phân biệt, vì lịch sử trải qua đã mấy ngàn năm, người đi sau khó có cơ sở để đánh giá. Nhưng qua lời dặn dò của Đức Thích Ca về việc Truyền Y bát, thì chúng ta thấy rằng chính Thương Tọa Bộ là những người đã ngụy biện khi không chấp nhận Tổ mới, tách thành nhóm riêng để tự rao giảng Đạo Phật, bởi các lý do sau đây:

Trước hết, họ cho là Tổ trước đã Truyền Y Bát cho người Trẻ, không xứng đáng bằng người nhiều tuổi, là bậc Trưởng Lão trong tăng chúng đương thời là họ. Họ không biết rằng rằng trong Phật Pháp không phân biệt già, trẻ, mà người Thấy Tánh, hay chứng đắc mới được truyền, vì thay thế người đi trước để cầm nắm vận mạng cả một tương lai của Đạo, đâu thể do cảm tình, hay vì già, vì tu lâu năm mà phải để cho thống lãnh đồ chúng? Bằng chứng là nếu Đạo cần người trẻ sao lúc sinh thời Đức Thích Ca không truyền cho Ngài Anan, vì Ngài vừa Trẻ, vừa thuộc Pháp của Phật như "Nước trong bình đổ ra, không thiếu một giọt"? Và sở dĩ Đức Thích Ca chọn Đức Ca Diếp đâu có phải vì ngài Già nhất trong tăng chúng, mà là vì Ngài Cười khi Đức Phật cầm Hoa Sen đưa lên trước chúng, nói lên sự thấu hiểu mục đích của Đức Thích Ca khi giảng dạy Đạo Giải Thoát. Những vị tách ra đó thật sự không nắm vững mục đích cũng như sự tu hành, chứng đắc của đạo Phật, nên không hiểu rằng Đạo Phật không thiên vị, không vì vào đạo lâu hay mau, già hay trẻ, mà phải là người Chứng Đắc, Thấy Tánh mới được giao cho tiếp tục cầm nắm giềng mối đạo, hướng dẫn người đi sau. Nếu đã thiên vị thì Đức thích Ca đã truyền cho con ruột của Ngài là La hầu La rồi.

Thứ nữa: Các vị lập ra nhóm Phật Giáo Nguyên Thủy cho rằng chính nhóm của các vị mới giữ y lời Phật dạy - như từ Nguyên Thủy mà các vị dùng - mà quên là đến đời của các vị thì Phật nhập diệt đã hơn 100 năm, trong nhóm của các vị làm gì có ai đích thân được nghe từ chính miệng của Phật giảng đễ cho là áp dụng chính xác lời Phật dạy? Các vị chỉ là người được NGHE LẠI từ những người đi trước, trong khi đó có chắc gì người các vị Tin, Nghe đó có thật sự diễn đạt đúng lời Phật hay không? Nếu thật sự các vị Tin, và cương quyết phải thực hiện đúng di ngôn của Phật thì tại sao không chấp hành theo việc Truyền Y Bát, chấp nhận quyết định của Tổ hiện tiền và sự lựạ chọn của Ngài? Bởi việc Truyền Y Bát bắt đầu từ chính Đức Thích Ca, và những đệ tử sau này của Ngài đều phải tuân theo để nói lên sự tin tưởng vào vị Giác Ngộ hiện đời toàn quyền thay mặt cho Phật quá khứ để truyền lại cho người mà bản thân phải Thấy Tánh, phải đầy đủ phẩm hạnh, nắm vững giáo Pháp để thay mặt Tổ trước. Hành vi không chấp hành đó rõ ràng là một sự Phá Giới, nổi loạn, xuất phát từ những cái Ngã chưa được điều phục của những người chưa thật sự tu sửa bản thân. Chưa chứng đắc mà muốn thống lảnh đồ chúng.

Lịch sử đã quá lâu, chúng ta không thể quay về thời kỳ Kết Tập lần thứ II để kiểm lại. Nhưng trường hợp điển hình gần nhất còn ghi lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh là Sư Thần Tú. Dù Ngài không Thấy Tánh, không đủ trình độ để được truyền Y bát, tức là chưa được quyền dạy đạo nhưng sau đó cũng tự ý mở Chùa để đào tạo biết bao nhiêu lớp người tu hành, tiếp tục truyền lần cho đến hiện đời.

Pháp Bảo Đàn Kinh còn ghi lại toàn bộ diễn tiến từ lúc Lục Tổ hãy còn là người bán củi, cho tới khi vô chùa, được Truyền Y Bát, rồi phải lánh nạn như thế nào… để cho ta thấy là các Tổ chân truyền vẫn tiếp tục Truyền Y Bát lại cho Tổ sau, liên tục cho đến đời của Lục Tổ Huệ Năng. Và những người phía kia, cũng mang hình tướng, danh nghĩa tu hành, nhưng không thật sự tu sửa, mà chỉ muốn cướp đoạt Y Bát! Họ nhiều đời vẫn không từ bỏ ý định, đến nỗi tới thời Ngũ Tổ thì Ngài phải dặn Lục Tổ dấu đi, không được truyền nữa, vì tính mạng của người giữ Y Bát sẽ lâm nguy. Chính Lục Tổ cũng từng bị đuổi giết, bị đốt chùa. Trốn vô núi họ đốt cả núi... Chưa tiêu diệt được thì cho người "trộm pháp", sai thầy Tăng Hạnh Xương mang dao tới hành thích… thì ta thấy rằng Đức Thích Ca đã không lầm khi dặn dò việc nối truyền, nếu không có Y Bát để làm tin, chắc chắn Chánh Pháp đã bị hủy diệt từ lâu!

Chánh, Tà, đúng, sai đã được chứng minh, vì những đệ tử của Sư Thần Tú sau một thời gian dài tu học với Ngài, khi sang gặp lục Tổ, khi được hỏi về các pháp của Đạo do Sư Thấn Tú giảng, họ đều trả lời y theo Văn Tự, không giống như những gì Lục Tổ giảng dạy.

Qua đó ta cũng thấy rằng Tổ trước không bao giờ sai lầm, và hành vi của người không được truyền Y Bát càng lộ rõ bản chất chưa Thoát cái Ngã. Không lo tu sửa, mà chỉ muốn làm thầy để giảng dạy cho mọi người. Xét về mặt đời thì họ chưa thoát vòng Danh, Lợi. Xét về mặt Đạo thì họ thiếu hai điều quan trọng nhất của người tu là GIỚI và BÁT CHÁNH ĐẠO. Thật vậy. Nếu họ có giữ GIỚI thì ít ra cũng phải nghe theo sự thẩm định của người Thầy. Thầy đã xét rằng họ chưa đủ Trí Huệ, chưa chứng đắc, chưa thể ra giảng dạy, nhưng họ vẫn tự cho phép mình! Xét về Bát Chánh Đạo thì họ thiếu CHÁNH KIẾN để biết mình đang Phạm Giới. Họ cũng thiếu CHÁNH NGỮ để ngang nhiên ngồi Tòa giảng Pháp dù biết rõ ràng là Thầy chưa ấn chứng, chưa cho phép có nghĩa là cái hiểu Đạo của mình chưa đầy đủ, chưa được quyền giảng đạo! Ai có đọc Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA sẽ thấy những điều kiện rõ ràng cho người Giảng Pháp: “Phải vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi Tòa Như Lai, rồi mới nên vì bốn chúng rộng nói Kinh này”. Nhà Như Lai chính là Tâm từ Bi lớn đối với trong tất cả chúng sanh. Y Như Lai chính là lòng nhu hòa nhẫn nhục. Tòa Như Lai chính là Nhứt thiết Pháp Không. An trụ trong đây, rồi sau mới dùng tâm không biếng trễ vì các Bồ tát và bốn chúng rộng nói Kinh Pháp Hoa này”. Rõ ràng họ không hiểu nghĩa của TU là SỬA, mà chỉ lo tranh giành để được ăn trên, ngồi trước thôi! Như vậy liệu có xứng đáng mang hình ảnh của Phật trên người, nói chi là ngồi Tòa để rao giảng lời Phật!

Ngoài Chữ còn có NGHĨA, mà Phật dạy phải Y NGHĨA, đừng Y NGỮ, nhưng nhiều người đã không chú ý tới lời nhắc nhở của Phật. Do đó mới có những hiện tượng mê tín, thần quyền vẫn tiếp tục thâm nhập vào giới tu hành, bởi chính bản thân người giảng pháp còn chưa hiểu được phương tiện của Phật, cứ đọc thấy đoạn Kinh nào nói về thần thông, phép mầu, cứu độ của Phật, Bồ Tát, là chấp ngay vô đó, khai triển đoạn đó, không đọc hết Bộ Kinh. Trường hợp đọc Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà chỉ đọc Phẩm Quán Thế Âm rồi tin tưởng vào một Bồ Tát Quán Thế Âm cứu Khổ cứu nạn, thành ra Nhị Thừa, mê tín, không biết rằng Bồ Tát cứu độ chúng sinh mà Kinh dạy đó cũng chỉ là những ý tưởng cao đẹp ở trong chính cái Tâm của mỗi người, không phải là vị nào đó trên trời cao, hay trên cõi Phật xa xôi nào hiện đến để cứu khi cầu xin.

Thế rồi người hiểu theo văn Tự lại được sự hỗ trợ của phương tiện truyền thông, đưa vào phim ảnh gây ra một hiệu ứng lớn về Nhị Thừa làm bao nhiêu Phật tử hiểu lầm tin theo. Điển hình là Bộ Phim Tây Du Ký của tác giả Ngô Thừa Ân, phóng tác dựa trên câu chuyện có thật của Sư Huyền Trang đi thỉnh Kinh bên nước Ấn năm xưa.

Từ những hiện tượng trong nội tâm mà Đức Thích Ca đã đăt tên là Tham, Sân và Si. Từ sự cứu độ được gọi bằng những giả danh BồTát. Cuối cùng, người hoàn tất CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT không còn bị các pháp ảnh hưởng được gọi là Như Lai. NHƯ LAI chỉ có nghĩa là ĐẾN, ĐI KHÔNG ĐỘNG, chẳng phải là tên gọi của vị Phật Tổ quyền phép vô biên.

Do không hiểu Nghĩa, chỉ Y NGỮ, nên tác giả biến toàn bộ thành những nhân vật bên ngoài. Người xem phim đều thấy một Bồ Tát Quán Thế Âm lúc nào cũng xuất hiện để cứu khi cần, và Đường Tăng tuy mang danh đi thỉnh Kinh, nhưng mọi việc từ lớn tới nhỏ đều do công của Tề Thiên Đại Thánh, một con khỉ có thần thông quảng đại! Không những thế, nhiều lần Đường Tăng còn u mê, do quá từ bi, hại đệ tử uất ức bỏ đi đến mấy lần suýt mất mạng vì yêu tinh! Cuối cùng rồi gặp được Phật Tổ Như Lai để ấn chứng và thỉnh được Bộ kinh Vô Tự!

Ông Ngô Thừa Ân không hiểu được Kinh Vô Tự chỉ có nghĩa là những gì mà người tu từ lúc Phát Tâm cho tới khi hoàn tất con đường Giải Thoát là cả một chuỗi việc làm. Từ Quán Sát, Tư Duy cho đến công việc Độ Sinh, hoàn thành Phật Quốc. Những điều đó Phật ví như hành giả đang tự mình viết một quyển Kinh. Cho nên gọi là Kinh Vô Tự, tức là người tu hành sẽ trực tiếp viết bằng công việc làm, không phải bằng chữ. Kinh như vậy thì làm sao do Đức Như Lai nào ban cho được?

Rõ ràng ông Ngô Thừa Ân cũng có nghiên cứu Đạo Phật, nhưng hoàn toàn hiểu theo nghĩa của văn tự gọi là "Y Kinh giải nghĩa". Vì thế, tuy cũng nói lên được những cái xấu là Tham, Sân, Si cần bỏ. Cũng nói lên được cái ý thức lăng xăng như khỉ, vượn. Nhưng không nói được cái Tự Độ, sự điều phục và hoàn thành Phật Quốc trong Tâm của người tu, do đó toàn bộ được chuyển ra ngoài, trở thành Nhị Thừa mà không hay.

Những danh xưng Chúng Sinh, Thánh, Bồ Tát, Phật là Đức Thích giả gọi, là để nói về những tình trạng của tư tưởng mỗi người chúng ta, từ xấu xa, chuyển dần đến tốt, đến cuối cùng là Giải Thoát. Chính vì vậy, những người không nắm vững đường lối và phương tiện của Đạo Phật, chẳng những tự mình tin sai, mà nếu còn rao giảng niềm tin đó qua sắc áo của bậc tu hành sẽ làm hại biết bao nhiêu tín đồ. Biến Đạo Phật từ "Tự Tu, Tự Độ, tự Giải Thoát' thành Thần Quyền, cầu xin nương tựa, giống như mọi tôn giáo khác!

Tất nhiên, chúng ta không thể quay lại quá khứ để trách người đi trước. Cũng không có lợi ích gì khi làm công việc đó. Cái sai, cái đúng của họ đã có Nhân Quả phán xét. Nhưng điều cần làm là chính bản thân ta, làm thế nào để đừng vướng vào cái sai của người đi trước, bởi tại sao chúng ta cứ nhắm mắt tin mà không chịu kiểm chứng, trong khi thế hệ ngày nay không thiếu Chính Kinh để tự tìm đọc, rồi chịu khó tư duy, quán sát, đối chiếu để tìm ra cái Nghĩa đúng để áp dụng theo.

Chỉ cần đối chiếu, ta sẽ thấy:

- Nếu ý thức đúng Nhân Quả thì đâu có đi kiếm cái lộc nào hơn là Tự gây Nhân thiện để hưởng Quả lành? Lộc nào đến được với ta, Phật nào phù hộ ta khi ta không chịu làm ăn một cách chân chính?

- Nếu đã tin lời Phật Thọ ký: Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành" thì tự mỗi người sẽ tìm xem cách thức để được như Phật, đâu có "Mang Phật ra mà lạy Phật" như lời Tổ Đạt Ma cảnh báo?

- Nếu biết rằng 32 tướng tốt của Phật tượng trưng cho những việc mà mỗi người Làm cho Phật của mình, thì tự mỗi người sẽ dùng hành động theo hướng dẫn của Kinh để thực hiện, đâu có mang vàng, bạc, ngọc ra mà đúc, mà tạc, rồi thắp hương xin tượng phù hộ cho mình giàu sang danh vọng, cho quốc thái dân an, cho nhân loại hòa bình?

- Thay vì đổ tiền ra xây Chùa Tướng trong khi đất nước còn nghèo, còn biết bao nhiêu trẻ em không có trường để học, người dân thiếu cầu để phải qua sông bằng những con đò nhỏ đe dọa tính mạng. Người nghèo không một mái nhà che nắng sương. Tiền đó sao không dành cho những việc làm ích lợi cụ thể cho mọi người, lại phung phí những đồng tiền mồ hôi nước mắt của bá tánh? Bởi nghĩa thật sự của Chùa là" Thanh Tịnh Địa", và cái Thanh tịnh đó nằm ở trong Tâm của mỗi một người, sau khi loại trừ Tham, Sân, Si đi. Hành động Thí xả Tham, Sân, Si là mỗi người đang hình thành cái CHÙA VÔ TƯỚNG trong tâm của mình, cho Phật của mình ngự. Đổ công sức, tiền bạc xây Chùa Hữu Tướng cho Phật nào ngự, vì “Phật là Vô Tướng, do vô lượng công đức mà thành”?

- Kinh dạy: “Mỗi người sẽ thành Phật khi cúng dường vô lượng vô số ức Đức Phật”. Cúng Dường mà Kinh dạy đó, có nghĩa là biến vô lượng vô số ức Chúng Sinh Thành PHẬT. Tức là nói về sự Giải Thoát vô số phiền não trong mỗi người. Giải Thoát được một Pháp thì Đức Thích Ca gọi là “thành tựu, hay là “Cúng dường một vị Phật”. Do đó, Cúng Dường Phật đâu có phải là mang hương hoa đi cúng các bức tượng Phật. Cúng cho thật nhiều tượng Phật, như những người đã “Y Kinh giải nghĩa”?

- Việc Cúng Dường được dặn dò phải “cúng dường thanh tịnh” tức là phải "Tam luân không". Tức là Không có người cho. Không có của cho. Không có người nhận. Mới nghe thì có vẻ khó hiểu, nhưng đó chính là để nói về hành động CÚNG DƯỜNG TRONG NỘI TÂM NGƯỜI LÀM. NGƯỜI CÚNG DƯỜNG LÀ CHÍNH MÌNH. PHẨM VẬT LÀ HƯƠNG CỦA NHỮNG VIỆC GIỮ GIỚI THANH TINH. LÀ NGŨ GIỚI HƯƠNG: HƯƠNG GIỚI, HƯƠNG ĐINH, HƯƠNG HUỆ, HƯƠNG GIẢI THOÁT, HƯƠNG GIẢI THOÁT TRI KIẾN. Đó tức là CÚNG DƯỜNG CHO SỰ GIẢI THOÁT CỦA CHÍNH MÌNH. CÚNG DƯỜNG CHO PHẬT CỦA MÌNH, đâu phải là cúng mà không lưu ý ít nhiều. Cho mà không quan tâm, không cần biết đối tượng được nhận là ai!

- Tự gây Nhân Thiện thì Quả Lành sẽ đến, cần gì tranh nhau đi hái Lộc? Cỏ cây có làm gì được cho ta? Tượng bằng xi măng, bằng đồng hay bằng ngọc thì cũng là tượng, đâu phải vì tạc thành hình Phật rồi trở thành linh ứng? Và cầu xin nào cho bằng CẦU MÀ KHÔNG CẦU, tức là GÂY NHÂN THIỆN thì QUẢ LÀNH SẼ ĐẾN, đâu phải là thắp hương, thành khẩn vái van, rồi Chư Phật sẽ chứng giám ?

Ngay cả Phật cũng phải tu mới thành. Con Ngài cũng phải tự tu. Nếu Ngài độ được thì trước hết phải Độ cho con, sao còn bắt La Hầu La đi tu làm gì? Vậy mà không ít chùa chiền cũng tin vào sức hộ trì của Tượng Ngọc để lôi kéo Phật Tử tin theo, trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ lợi dụng Đạo! Qua đó, người khác đạo sẽ cho rằng hóa ra người theo Đạo Phật cũng chỉ là thay đổi hình ảnh Giáo Chủ mà thôi, vì cũng cầu xin, van nài, chờ ban phát!

Kinh sách vẫn còn lưu hành. Sai đúng đã được Phật chỉ dẫn cặn kẽ trong đó. Phật Ngôn có dạy: "Kẻ nào ca ngợi ta, tán thán ta mà không hành theo lời ta chỉ dạy. Kẻ đó đang phỉ báng nặng nề ta". Và rõ hơn hết là Bốn câu Kệ trong Kinh Kim Cang mọi người vẫn tụng hàng ngày:

NHƯỢC DĨ SẮC KIẾN NGÃ

DĨ ÂM THANH CẦU NGÃ

THỊ NHÂN HÀNH TÀ ĐẠO

BẤT NĂNG KIẾN NHƯ LAI"

Như vậy, nếu ta cứ tượng mà cho là Phật, rồi mang hương hoa cúng lạy thì phải chăng ta đang DĨ SẮC KIẾN NGÃ? Thời thời công phu bằng Tụng Kinh, phải chăng là DÙNG ÂM THANH CẦU NGÃ? Kết quả của những việc làm đó được ghi rõ trong hai câu sau mà ai có đọc cũng thấy Phật khẳng định: “Đó là những kẻ hành tà đạo. Không thể thấy được Như Lai”. Như vậy liệu ta có nên tiếp tục làm kẻ hành tà đạo để chẳng những không thể thành tựu được cho bản thân mà còn trở thành là kẻ phỉ báng Phật vì không hành theo lời chỉ dạy của Ngài? Mang sự hiểu biết chưa đúng ra phổ biến thì lại hại thêm bao nhiêu người, bao nhiêu thế hệ tiếp theo! Như vậy liệu ta có lường trước cái quả sẽ gánh trong vô lượng kiếp hay không? Hơn nữa, của Thường Trụ tuy dễ ăn nhưng khó tiêu dung. Chỉ người không ý thức Nhân Quả mới tin là chỉ cần khoác vào người pháp phục của Đạo là được vô tư thọ dụng của bá tánh!

Đạo Phật là Đạo Giải Thoát. Còn đường tu Phật là tự nỗ lực, dựa theo hướng dẫn của kinh sách để được Thoát Khổ. Pháp của Đạo Phật dạy là NHÂN QUẢ. Người tin theo thì được dạy cho phân biệt thiện, ác, tốt, xấu để biết gây Nhân thiện mà hưởng Quả lành. Con đường người tu Phật hành trì là cố gắng thực hiện lời Thọ Ký: “Chúng sinh là Phật sẽ thành” để cũng được Giải Thoát như những vị đã đi trước. Những tiêu chí này xem ra đã bị làm sai lạc hẳn để Phật tử thế hệ này chỉ biết cúng kiến, cầu xin đổi xấu, lấy tốt! Những hiểu lầm đó do đâu, nếu không phải do lớp người đi trước “chồng mê”? Liệu thế hệ này người Phật Tử có nên tiếp tục, vì “xưa bày, nay làm” hay nên chấn chỉnh lại, bắt đầu từ những người có trách nhiệm hướng dẫn bá tánh? Không thể đổ lỗi cho người đi trước mà bản thân ta tự chịu trách nhiệm với chính mình và chính Đạo Phật mà mình đang tôn kính. Người tu chân chính thì phải có tâm Tàm, Quý, biết sám hối khi sai lầm. Như vậy nên chăng chính người có trách nhiệm hướng dẫn bá tánh nên mở chính Kinh ra, đọc thật kỹ lời Phật, để bắt đầu từ kỷ nguyên này, trả lại cho Đạo Phật một hình ảnh trong sáng, không mê tín, thần quyền, cầu xin, nương tựa như khi xưa Đức Thích Ca đã khai đạo, và Chư Tổ chân truyền tiếp tục rao giảng?

(Tháng 1/2013)

Tâm Nguyện

Nghĩ về một Bản thơ tuồng Nôm thế kỷ 18

Nguyễn Văn Sâm

1.

Tôi gọi tác phẩm mình mới có duyên gặp gỡ mấy tháng gần đây là:

Thơ-tuồng Mà Tình Con Thương

không thuần túy là tuồng hát bội, cũng không phải là một truyện thơ. Nó là thể loại đứng hai chưn trên hai thể loại vừa nói. Chữ Thơ-Tuồng là chữ tôi dùng đầu tiên để đặt tên cho những bản văn có hình thức là những truyện thơ như Thơ Lục Vân Tiên, Thơ Đoạn Trường Tân Thanh, Thơ Phạm Công Cúc Hoa, Thơ Chàng Nhái Kiểng Tiên, Thơ Lâm Sanh Xuân Nương... có sự hiện diện đồng thời trong đó của những đoạn nói lối (tán, viết), than thở (thán), hát Nam (vãn), hát Khách (loạn), nói về chí hướng, tên họ, công việc sắp làm (xướng), hát khi hành quân (bài)… là những cách phát biểu và diễn tả của hát bội, không theo khuôn khổ của thơ là kể chuyện mà theo cách thế của hát bội là đối đáp, có tính cách của kịch. Giải thích lý do tại sao có thơ-tuồng, tôi cho là do nhu cầu của người lưu dân Miền Trung đi về phương Nam sống trong bối cảnh mới, buồn bã nhớ lại những tuồng hát bội mà mình đã thưởng thức trước đây và ao ước được xem, được thưởng thức bộ môn đó ở nơi đất mới mình vừa định cư. Hát bội chẳng dễ gì có ở vùng tân tạo cực Nam trong thời gian đầu còn lưa thưa người, chưa đủ phương tiện giao thông..., thôi thì có sẵn hình thức truyện thơ, nhà văn bèn đặt ra một hình thức văn nghệ mới là thêm thắt chút đỉnh hát bội vô đó cho vui lòng người thưởng ngoạn. Chút ít cho đỡ ghiền còn hơn là chẳng có gì hết, nhớ chết được. Họ có thể thêm vô từ một truyện thơ có sẵn hay đặt nguyên một truyện thơ mới với phần hát bội xen kẽ. Và Thơ-Tuồng ra đời. Gia tài của loại hình văn nghệ mới nầy còn sót lại không nhiều, chỉ tròm trèm hai chục bộ là tối đa, ở dạng chữ Nôm cũng có mà ở dạng Quốc ngữ cũng có. Đó là một gia tài văn hóa quý giá vì nó là gia sản thuần túy Việt Nam, vì nó là sản phẩm đặc biệt của lưu dân Nam Tiến thời khai sơn phá thạch của vùng đất Gia Định, Lục Tỉnh Nam Việt.

Người xưa không có danh từ thơ-tuồng. Họ cũng chẳng cần để tâm phân biệt thơ-tuồng với truyện thơ. Đối với họ hai thứ chỉ là một và họ gọi bằng nhiều từ, khi thì là truyện/chuyện 𡀯 , khi thì là diễn ca 演歌 .

Nguyên bản Nôm nầy là Nam Kinh Bắc Kinh Truyện 南京北京 𡀯 . Xin thưa lý do tôi chọn một tên mới cho tác phẩm xưa khi phiên âm. Người xưa, Đông cũng như Tây, thường đặt tên tác phẩm của mình theo tên của nhân vật trong tác phẩm, Thơ Trần Đại Lang, thơ Phan Trần, Thơ Nàng Út, thơ Trò Đông, thơ Phạm Công Cúc Hoa, thơ Lâm Sanh Xuân Nương…, ôi thôi không thể kể hết. Ngay cả tên tác phẩm được cha sinh của nó đặt theo ý nghĩ của mình là Đoạn Trường Tân Thanh cũng bị người đời đặt cho tên mới là Kim Vân Kiều. Ngày nay người viết cũng như người đọc không còn thích cách đặt tên tác phẩm theo kiểu ngày xưa nữa, họ chuộng cách đặt nhan đề mới hơn, chẳng hạn như Đoạn Tuyệt, Đời Mưa Gió chứ không chịu tên Dũng Loan Thân… Chuyện đặt tên tác phẩm theo nhân vật lần lần tuyệt tích. Những Nga và Thuần, những Thằng Cu So, Thằng Kình, Chúa Tàu Kim Quy… mất bóng theo thời gian.

Nam Kinh, Bắc Kinh là tên hai nước nhưng thật ra là hai nhân vật chánh ở hai nước nầy, ý nghĩa của truyện là trai gái nếu có duyên nợ với nhau thì sẽ khắng khít với nhau dù qua bao trắc trở, dù chưa thấy mặt nhau cũng đã thương yêu nhau rồi.

Với cách đặt tên mới, tôi làm mờ đi nhân vật và cho nổi bật cái ý nghĩa chánh mà tác giả muốn gởi gắm. Tôi chọn câu thơ vừa ý mình trong truyện hợp với ý nghĩa của toàn truyện mà mình tiếp nhận được là: Mặt tuy chưa thấy mà tình con thương là câu thơ 112 ở tờ 4b trong nguyên bản.

Phải nói rằng truyện Mà Tình Con Thương… là một tiểu thuyết bình dân. Bình dân ở đây do (1) cách viết văn, do (2) sự cấu trúc của câu chuyện, và do (3) sự hiện diện quá nhiều của thế lực siêu nhiên. Văn. Nó không bóng bẩy và không hề bị chi phối của điển tích Trung Hoa trong sự diễn tả như Đoạn Trường Tân Thanh đã đành mà so sánh với truyện lớp dưới kế tiếp như Nhị Độ Mai 二度梅 , Phan Trần 潘陳 , Quân Trung Đối 軍中對 thì nó vẫn kém hơn. Nó nằm ở trong nhóm thứ ba là nhóm cuối cùng nhưng được phổ biến rộng rãi nhứt như Thơ Phạm Công Cúc Hoa, Thơ Lý Công, Thơ Tam Nương, Thơ Trần Đại Lang, Thơ Nàng Út, Thơ Trò Đông, Thơ Thạch Sanh Lý Thông… Nói rằng bình dân vì nhiều lý do kỹ thuật như chuyển đoạn thì dùng thoát thôi, thuở ấy, nầy đoạn, thốt đoạn; vần lắm khi ở chữ thứ tư, có lúc nằm ở chữ thứ nhì là cách hạ vần của vè, một thứ văn nói mà người đọc dễ dùng âm điệu của giọng mình chỉnh sửa sự gieo vần thậm chí có khi cũng chẳng cần vần nữa mà người ta thường gọi bằng cách đánh giá thấp là lạc điệu, lạc vận; các chữ đưa đẩy vậy thì, thôi đã, bằng nay, luống những, ngày rày, một khi, vậy mà, thay là, không ý nghĩa gì cụ thể được dùng đi lại nhiều lần để câu thơ được xuôi câu, đúng vần; diễn tả tình cảm của nhân vật thì chỉ có một điệu đơn giản, hễ tức giận thì thế nào cũng nổi giận lôi đình, buồn khổ thì thế nào cũng lăn khóc tưng bừng, nước mắt nhỏ sa, ngùi ngùi, gặp chuyện gì sợ quá thì ngã lăn ra chết giấc… Sự so sánh thì sáo rỗng, theo lối mòn đã hóa thạch và nghèo tưởng tượng: nữ nhơn đẹp thì như Hằng Nga giáng thế, như Tiên non Bồng, tóc mây đá đất, mày tằm mắt phượng, nam nhơn thì mặt mày tốt tươi, tài giỏi thì binh thơ đồ trận thông hay, sử kinh thi phú thông nghề, tánh tốt thì nhơn đức rất dầy, thiên hạ không đương (= không ai bằng). Nhiều trường hợp mô tả nhân vật chánh tài giỏi bằng trời, binh thơ đồ trận làu thuộc nhưng gặp chuyện khó, đụng hoàn cảnh trái ngang thì cũng như người bình thường thôi, chẳng làm được điều gì hay ho, lý do là sự mô tả theo công thức cho nên cái tài được mô tả xa cách với cái tài thiệt sự trong truyện… Kết cấu truyện. Hầu hết bắt đầu bằng nói rằng đời thái bình thạnh trị, đâu đâu điều xướng âu ca, muôn dân thong thả nhà nhà no say. (Sau đó thì giặc giã, cướp bóc, tham nhũng, tố gian, bắt cóc, buôn người, xô kẻ yếu đuối xuống sông xuống biển… là chuyện thường). Kế tiếp là một nhà vua không có con phải đi cầu tự. Ngọc Hoàng cho chính con trai mình hay một tiên tử nào đó xuống trần. Nhân vật nầy xuống trần mang sẵn cốt tiênduyên tiên nên sẽ là người đẹp trai/đẹp gái, tài giỏi xuất chúng và trong tương lai sẽ kết hôn với một nàng/chàng cũng đẹp cũng tài như mình để sống đời hạnh phúc với con cái tài giỏi nối nghiệp đời đời. Dĩ nhiên phần chánh của truyện là sự hoạn nạn của tiên tử, có thể chỉ một người mà cũng có thể là của cả hai, sự hoạn nạn nầy thử thách duyên tiên nhưng cuối cùng bao giờ cũng kết thúc tốt đẹp, không thể có gì khác hơn được. Họ sẽ là cặp vợ chồng hạnh phúc nhất đời, con cái họ sẽ lên làm vua như họ trước đó…

Sự nhúng tay của thế lực siêu nhiêu. Người đọc càng gần thời hiện đại càng không thích thấy tính chất bình dân của truyện thơ ở chỗ thế lực siêu nhiên nhúng tay vào đời nhân vật quá nhiều. Đoạn Trường Tân Thanh chỉ có một vài nhóm từ xa xa như bắt phong trần, cho thanh cao,(nhân định thắng) thiên (định) chứ không có chuyện Trời sai hai tiên đồng ngọc nữ Kiều và Kim Trọng xuống trần. Cũng không có chuyện lý ngư đưa nàng Kiều vào bờ ở sông Tiền Đường, không có chuyện thiên lôi đả tử tụi Khuyển, Ưng, Bạc Bà, Bạc Hạnh, thằng bán tơ, Mã Giám Sinh, Hoạn Thơ… Càng không có thế lực siêu nhiên, càng thuần túy đời thực tế, tác phẩm càng xa yếu tố kết thành tác phẩm bình dân.

Thơ Lục Vân Tiên thì yếu tố siêu nhiên có mặt, dầu rất ít nhưng cũng có: cọp cởi trói cho tiểu đồng, Trịnh Hâm bị cá nuốt thây, Nguyệt Nga được Ngư Ông cứu sống, Thể Loan và mẹ bị thiên lôi đánh… Những sự nầy một vài điều có thể cắt nghĩa bằng sự trùng hợp bình thường ở đời, chưa phải là những yếu tố siêu nhiên nhúng tay. Trường hợp thấy rõ nhứt là Truyện Thạch Sanh Lý Thông. Tiên xuống trần dạy cho Thạch Sanh binh thơ, sự hiện diện của Chằng tinh, sự huyền diệu của cây đờn thần, của nồi cơm Thạch Sanh…

Yếu tố siêu nhiên càng có mặt, tác phẩm càng nghiêng về hướng bình dân, bình dân trong sự không thực tế, trong sự giải quyết dễ dàng những khó khăn trong cuộc đời trần thế của nhân vật…

2.

Truyện kể: Vùng nọ có hai nước quan trọng là Nam Kinh và Bắc Kinh, một nước lớn, một nước nhỏ. Ngày kia vua nước Nam Kinh cầu Trời khấn Phật cho mình có được con trai vì cho tới giờ nầy nhà vua cũng chưa có con trai. Ngọc Hoàng Thượng Đế nhận được lời cầu xin do khói nhang chuyển đến bèn cho hai tiên, một nữ một nam xuống trần đầu thai vào hoàng cung của hai nước. Trước khi họ ra đi Ngọc Hoàng dặn dò là hai người xuống trần sẽ kết duyên với nhau. Tiên nữ đầu thai làm con của vua Nam Kinh, với tên là Quỳnh Nga. Lúc Quỳnh Nga tới tuổi lấy chồng thì Hoàng tử con vua Bắc Kinh cũng đến tuổi lấy vợ. Vua Nam Kinh gởi thơ mời Hoàng tử các nước chư hầu đến để cho con gái mình kén chồng. Mười tám Hoàng Tử của mười tám chư hầu đến kinh đô Nam Kinh nhưng con vua Bắc Kinh không đến được vì vua cha đang đau nặng. Công Chúa Nam Kinh không chọn được ai và các Phò Mã hụt kia đều được ban tặng bạc vàng để trở về nước. Thái Tử Bắc Kinh nghe tin Công Chúa Nam Kinh chưa chọn ai mới nghĩ rằng nàng Công Chúa có duyên nợ tiền định với mình và năn nỉ vua cha cử người đi cầu xin với vua Nam Kinh cho mình được cưới nàng.

Mai nhân là một bà vú mẫn tiệp nên đã thành công trong việc cầu hôn, được phép rước Công Chúa về Bắc Kinh để hợp hôn với Thái Tử xứ nầy. Nhà vua Nam Kinh đồng ý và Công Chúa từ giã cha mẹ lên đường, chấp nhận sự khó khăn trên đường đi vì quan niệm rằng làm thân phận gái phải đi theo chồng.

Chuyện rắc rối là vua Nam Kinh cho một bà vú nuôi từng săn sóc Công Chúa trước đây đưa dâu, trong đoàn còn có Ngọc Chân là cô con gái con bà vú, cũng cùng cỡ tuổi với Công Chúa. Có lẽ là phái đoàn đi cầu hôn đã về nước trước, chỉ có phái đoàn đưa tiễn đưa Công Chúa hạ giá mà thôi. Nửa đường bà vú đưa dâu vì lòng tham lam đã độc ác cho móc mắt Công Chúa Quỳnh Nga, lột quần áo và xô nàng xuống sông lớn… Bà tính kế thay con gái Ngọc Chân của mình vào chỗ Công Chúa Quỳnh Nga vì chắc chắn là Công Chúa sẽ chết thôi, mắt bị móc, thân thể trần truồng, mình mẩy ngâm chìm trong sông nước lạnh lẽo, thân gái sao có thể sống sót… Thế mà nhờ Trời, Công Chúa được cá lý ngư đưa vô gành một vùng đất hoang dã tên gọi là Mao Nguyên. Nàng sống ở đây, nhờ chim chóc và thú rừng giúp đỡ trong suốt ba năm trời, sau mới được một Lão Tiều gặp cứu mang về nhà, vợ chồng lão cùng nuôi nấng và nhận nàng làm con.

Một ngày kia Công Chúa Quỳnh Nga nhờ Lão Tiều đem viên ngọc cam quý của mẹ nàng tặng khi trước đến đền Nam Kinh rao bán, cốt ý là cho Thái Tử và nhà vua ở đây biết nàng đang sống trong vùng đất nào đó của mình. Từ sự biết đó hy vọng Thái Tử Bắc Kinh hoặc vua cha của nàng biết được hoàn cảnh của con.

Trong khi đó Ngọc Chân, con của bà vú, vào hoàng cung với vai trò của Công Chúa Nam Kinh. Thái Tử Bắc Kinh thấy có gì không ổn ngay từ đầu. Nàng Ngọc Chân vừa dốt vừa xấu, ăn mặc sang trọng đó nhưng áo ra đàng áo người ra đàng người, kiến thức thì sử kinh chẳng biết, giống như là con hàng thứ dân… Hoàng Tử chán ngán, ba năm không hợp cẩn, bỏ nàng ngồi ở cung lạnh một mình…

Buồn tình Thái Tử đi săn, Lão Tiều gặp được bèn trao ngọc cam cho, nói rằng mình đi câu bắt được ngọc báu nầy, xin dâng cho Thái Tử. Thái Tử cho thử, thấy ngọc có nhiều điều lạ nên quý lắm bèn đem dâng cho vua cha. Vua thấy biết chuyện ngọc quý, khuyên con trả lại cho Lão Tiều để ông ta đem dâng lên vua Nam Kinh vì cha con mình cầm quyền nước nhỏ không tiện giữ của quá quý hơn cái mệnh của mình. Lão Tiều chưa thể quyết định vì cần phải hỏi lại ý kiến Quỳnh Nga. Trong thời gian ở kinh đô Thái Tử và Lão Tiều đã thân thiết nên tâm sự với nhau.

Thái Tử cho ông biết mình đang buồn khổ vì vướng chuyện Công Chúa Nam Kinh mà nước mình rước về mấy năm trước nhưng nàng vừa xấu xí vừa dốt nát nên mình chán quá, ý muốn đem trả lại chính quốc nhưng ngại tạo sự thù nghịch giữa hai nước nên còn đương chần chờ chưa biết tính sao. Trong tình trạng nầy mình như người còn độc thân cũng nghĩ đến chuyện có người nâng khăn sửa túi.

Lão Tiều thì cho biết mình có cô con gái đẹp như tiên, sử kinh thuộc hết nằm lòng, nữ công hơn người , đi đứng thì có hoa nở dưới gót chưn. Thái Tử nghe thấy thì động lòng bèn năn nỉ Lão Tiều đem con ông đến đây, sẽ được trọng thưởng.

Về lại Mao Nguyên, Lão Tiều trình bày tự sự lại cho Công Chúa Quỳnh Nga, nàng cũng động lòng thương chồng lạnh lẽo, cô đơn do tai nạn bất hạnh của mình, nên nhờ Lão Tiều qua nói với Thái Tử chuyện về nàng là hễ khi nàng khóc thì nước mắt biến thành hạt trai, khi nàng than thở thì trời rớt mưa, khi nàng vui cười thì trời lại nắng… Quỳnh Nga lại dặn dò cẩn thận là không nên nói rằng nàng là Công Chúa Nam Kinh, sợ lậu việc nguy hiểm cho Lão Tiều.

Thái Tử gặp Lão Tiều không thấy người con gái như lão đã nói nên có hơi thất vọng, nhưng liền vui mừng khi lão dâng cả thuyền ngọc trai và nói rằng do con gái lão khóc mà có thì biết chắc rằng đó là Công Chúa Nam Kinh. Vua Bắc Kinh nghe chuyện cho rằng Lão Tiều bày đặt chuyện viễn vông để gạt người nên ra lịnh bắt giết, nhờ Thái Tử can gián và bảo lãnh nên ông chỉ bị cầm tù. Thời gian trôi qua cả năm. Ở nhà Quỳnh Nga và Mụ Tiều mỏi cổ chờ đợi người đi. Thái Tử thì nhớ thương người con gái chưa hề gặp mặt nên cho vài ông quan đi Mao Nguyên tìm kiếm. Đoàn quan đi không lại về không, kiếm tìm không được. Thái Tử nghe lời Lão Tiều cử một phái đoàn cấp cao hơn là năm Bộ trong triều, lại xuất phát đến Mao Nguyên. Nhờ thấy có chỗ phát ánh hào quang, họ đến gần, nghe mùi hương thoảng thơm và gặp người con gái rách rưới. Đó là Công Chúa Quỳnh Nga. Nàng và mẹ nuôi nghe chuyện Lão Tiều bị giam, nóng lòng và đồng ý đi về kinh đô Bắc Kinh. Ngọc Hoàng tội nghiệp Tiên nữ phải đi xa, không mắt, không xe nên cho rồng vàng xuống chở hai mẹ con đi, đường đi thay vì sáu tháng rút lại chỉ có hai giờ thôi…

Tại đền vàng, Công Chúa cảm thương sự hoạn nạn của cha nuôi nên khóc lóc, nước mắt nàng rơi xuống đều biến thành hạt châu. Thái Tử đẹp dạ, càng xác quyết rằng người nầy chính thiệt là vợ mình, đem lòng yêu dấu hết sức, bắt Ngọc Chân trả lại quần áo đã cướp đoạt khi xưa.

Vua Bắc Kinh vẫn chưa tin người con gái kia có nhiều phép lạ nên cho thử nghiệm, nào là bắt làm nắng làm mưa, nào là làm cho ngọc cam mọc thành cây, cho chim quyên cất tiếng hát ca réo rắt… Mọi chuyện đều được, vua tin nên chấp nhận cho Thái Tử cưới nàng…

Công Chúa được trả lại mắt bị khoét hơn 4 năm trước, nhờ ngọc cam rưới vào nên mắt được lành như xưa. Nàng xin chồng tha chết cho hai mẹ con bà vú. Vua cha muốn trị tội hai người đàn bà bất nhơn nầy, Quỳnh Nga lại một lần nữa xin tha cho họ...

Vua sai họ đem thơ của mình về cho hoàng đế Nam Kinh, kể lại tự sự về Công Chúa con ông. Nửa đường hai mẹ con bà vú bị thiên lôi đánh chết để trị tội đã ác độc với người tiên.

Truyện kết thúc với sự vinh hiển của những người trong cuộc như Quỳnh Nga, ông bà Tiều phu.

Vợ chồng Thái Tử sanh con trai, đứa bé được cho nối ngôi vua Nam Kinh sau nầy.

Từ đây bốn bề thanh bình, nước nhà thạnh trị, không ai có gì phải lo lắng đời sống…

3.

Với cốt truyện như vậy, với văn chương nhiều thì là mà, Thơ-tuồng Mà Tình Con Thương… 麻情昆傷 là một truyện-thơ bình dân. Nó còn có khuyết điểm ở chỗ truyện có những sơ hở đối với lý luận thông thường.

- Bà Vú đi cầu hôn, đã cầu hôn đựợc thì bỗng nhiên tác giả cho biến mất, không nói gì đến bà ta nữa khiến cho bà Vú đưa dâu tự tung tự tác, khoét mắt Công Chúa cô dâu một cách ngon ơ. Cặp mắt nầy sau 4 năm bỏ đâu đó vẫn không hư thúi, nhét lại vô hốc mắt khổ chủ, một chút nước của ngọc cam thì mắt trở lại bình thường! Khó hiểu!

- Rồng vàng chở Công Chúa Quỳnh Nga và Mụ Tiều đi hai giờ, năm Bộ đi đường theo cách thường tốn sáu tháng thế mà về đến triều đình Bắc Kinh có mặt một lúc cả hai nhóm. Bộ vào tâu với vua về chuyện Quỳnh Nga đã đến triều… Rồng đưa vừa đến đền vàng. Bộ vào tâu dộng đơn trì vua hay. Chuyện cũng lạ! Cũng khó hiểu không kém bởi vì không nghe nói phái đoàn của Bộ được cùng lên lưng rồng vàng!

Truyện còn có khuyết điểm về kỹ thuật là cho ông vua cầu tự Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng cho Tiên nữ và Tiên nam xuống trần để thực hiện chuyện Thiên duyên. Với cách viết ngày nay (hay gọi là cách viết cao hơn) thì nguyên đoạn nầy cần bỏ đi. Chỉ cần xoáy mạnh sự thương nhớ khắng khít của hai người gái trai chưa hề biết mặt thì chủ đề Thiên duyên tiền định kể như đã được làm rõ nét và người đọc thấy ngay điều tác giả muốn nói mà không cần nói rõ ràng… Chẳng hạn như chuyện thương nhớ nhau của cặp Kim Trọng Thúy Kiều, Nguyễn Du đâu cần phải cho người đọc biết về cốt tử của họ.

4.

Người xưa sáng tác chú ý đến những điều có thể ngày ngay chúng ta không chú ý. Và ngược lại. Sự sơ hở về lý luận, về thời gian là chuyện hằng có, người đọc bây giờ có thấy, có nói ra nhưng không coi đây là khuyết điểm lớn của tác phẩm. Điều quan trọng là cố tìm hiểu tại sao tác phẩm đó ngày trước lại tác phẩm ăn khách, lại là món ăn tinh thần của quảng đại quần chúng trong một thời gian dài. Nên nhớ rằng hầu hết các truyện thơ bình dân ngự trị trong lòng dân chúng thời chữ Nôm của thế kỷ 19, sang thế kỷ 20 tác phẩm được chuyển thể thành Quốc Ngữ vẫn được ăn khách như thường. Đến hậu bán thế kỷ 19 ảnh hưởng mới mất dần đi do sự xuất hiện của tiểu thuyết viết bằng văn xuôi.

Mà Tình Con Thương chứng minh Thiên Duyên Tiền Định (Duyên Trời định trước) là chân lý. Ở cõi trần nầy hai người nam nữ có thể không cần gặp gỡ hay thấy mặt nhau trước, không cần đã là vợ chồng cũng yêu thương nhau tha thiết, cũng nhớ thương mong mỏi được gặp nhau, được kết hợp. Sự nối kết vô hình nầy gọi là thiên duyên. Thiên duyên đã được định dầu kinh qua bao trắc trở, trải nghiệm những nạn tai, đem đến chết chóc của một trong hai người rồi cũng được kết hợp sau khi người kia được cải tử hoàn sanh. Thiên duyên phải thực hành cho được lời nguyền tốt đẹp của nó. Người xưa ao ước được duyên mình bền chặt, được sống với nhau tới già cho nên tác phẩm nào có chút thiên duyên thì được ưa chuộng: Thơ Lâm Xanh Xuân Nương, Thơ Lý Công, thơ Chàng Nhái, Thơ Nàng Út ở trong trường hợp nầy. Kiên định và trung trinh là yếu tố bắt buộc của hai người kết hợp bằng Thiên duyên. Kiên định thì dầu vợ nhà xấu xa tật nguyền, dốt nát, dầu Công Chúa đẹp đẽ, khôn ngoan trước mặt vua ra lịnh biểu cưới cũng nhứt định không. Bị đày, bị tù cũng nhứt định từ chối, trung thành với người phối ngẫu có thể ngày nay ta cho là mù quáng. Tay ôm bức tượng người yêu (Lục Vân Tiên), dắt mẹ chồng đi ăn xin để kiếm chồng, than khóc khi bị ép duyên… là những chi tiết thường thấy trong các truyện thơ trình bày Thiên duyên. Kiên định và Trung trinh là hệ quả tất yếu của Thiên duyên. Nó vừa là sự thử thách về tình yêu vừa là yếu tố tạo nên con người đáng quí trọng mà nhà văn muốn tạo dựng. Kẻ Xấu Sẽ Thua và Người Ngay Sẽ Thắng là kết. Sự kiện nầy đọc hết quyển truyện ai cũng thấy điều đó. Cái kết cuộc vui vẻ của những phim tình cảm Đài Loan, Hàn Quốc ngày nay…

Ba điều trên thấy hầu hết ở các truyện bình dân, mỗi điều có thể ít nhiều, diễn biến có thể khác nhau chút ít nhưng tựu trung đều diễn tả ba điều chính yếu đó. Độc giả xưa thích đọc những tác phẩm nầy vì đó là ước mơ lớn của họ mong đạt được trong đời sống thực tế mà họ thấy mình khó có hay không thể nào có được. Ước mơ nào cũng đáng yêu, sách vở càng diễn tả giống với ước mơ trong trí độc giả càng được ưa chuộng, càng được hoan nghinh. (Mặt Tuy Chưa Thấy) Mà Lòng Con Thương không lạ, không độc sáng nhưng nó nằm trong nhóm đem về cho độc giả những giây phút thoải mái do đó nó là tác phẩm ăn khách. Ít nhứt là thời nước ta chưa tiếp xúc nhiều với cách tạo truyện của Tây phương.

Ngày nay khuynh hướng thưởng thức của người đọc đã đổi thay ở lớp người trí thức thành thị nhưng một phần dân quê đồng ruộng vẫn còn thích nó, thích mình có cái duyên thiên định, có người yêu kiên trinh và những kẻ xấu bị trừng phạt loại trừ khỏi cuộc đời bằng cách nầy hay cách khác…

5.

(Mặt Tuy Chưa Thấy) Mà Tình Con Thương… xuất hiện lần đầu tiên chừng bao nhiêu lâu nay? Đó là câu hỏi hay ho người đọc tò mò về văn học khi đọc truyện nầy thường có.

Câu trả lời không dễ dàng gì. Những điều đưa ra làm lý chứng mang nhiều tính cách phỏng đoán, chưa chắc được sự chấp nhận bởi đa số học giới.

Bản in Nôm: Thường thì bản Nôm Phật Trấn 佛鎮 là những bản in do nhóm người Minh Hương là Duy Minh Thị, Minh Chương Thị ở xóm Dầu Chợ Lớn (nay là vùng An Điềm, quận 6, Chợ Lớn) và Phước Trai Tiên Sinh ở đâu đó trong vùng Gia Định, chủ trương. Họ viết ra bản Nôm gởi về vùng Việt Đông, Phật Trấn, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, khắc ván, in thành sách rồi cho chở theo tàu buôn bán hàng hóa sang Lục Tỉnh bán, thời khoảng những năm người Pháp sắp đánh Nam Việt, tới vài ba chục năm sau đó (1850-1880). Cái khổ là những bản in Phật Trấn năm khi mười họa mới đề năm khắc in, còn bình thường thì không đề năm cho nên ta chỉ phỏng đoán với sự sai lệch ba bốn chục năm là thường. Đó là bản in khắc ván, nhưng tác phẩm dùng làm căn bản để thợ coi theo đó mà khắc chắc đã xuất hiện trước đó chừng một thế kỷ, có thể là được chép tay hay được truyền miệng. Bằng chứng là Nam Kinh Bắc Kinh đã được đính chính. Hầu hết những bản in của nhóm Phật Trấn đều ghi là Duy Minh Thị đính chính ( 惟明氏訂正 = Duy Minh Thị sửa lại cho đúng). Đính chính nghĩa là phải có một bản văn để sửa, bản văn đó có thể là bản bằng giấy trước mặt, có thể là bản trong trí nhớ của ai đó, hình thức nào cũng là có trước thời của nhóm Phật Trấn Duy Minh Thị cho khắc in.

Ông Duy Minh thị đính chính theo quan điểm nào, dựa trên những lý do gì, sự đính chính chỉ chú trọng chút ít về mặt văn chương, vần điệu, chữ dùng hay là đính chính luôn cả cấu trúc đoạn mạch của tác phẩm? Mù mịt không ai biết gì.

Cách viết Nôm có bị đính chính không, những chữ xưa có bị thay đổi hoặc thêm thắt không hay ta phải chấp nhận là nó được chép theo nguyên bản? Cũng mịt mù luôn. Mà nếu không có nguyên bản trên giấy thì coi như những chữ Nôm nầy là chữ Nôm đời Nguyễn, hay nói rõ hơn là chữ Nôm của nhóm Phật Trấn Duy Minh Thị.

Chẳng có cách gì hơn là giả thiết rằng ông Duy Minh Thị không đụng chạm gì đến những chữ của người xưa, ông để nguyên cách viết và sự có mặt của chúng trong toàn văn, ông không cắt bớt, chẳng sửa đổi hay thêm thắt gì như các ông Đặng Lễ Nghi, Lê Ngọc Mai, Nguyễn Đăng Hưởng… sau nầy và những người làm công việc bổn cũ soạn lại thường làm. Từ giả thiết đó ta coi những chữ khó hiểu là từ xưa, đã có mặt ở đó trước khi có bản khắc in của Duy Minh Thị. Các chữ nầy càng nhiều thì sự khả tín về sự xuất hiện ở thế kỷ 18 hay trước nữa, càng nhiều.

Thật vậy, lọc ra những từ xưa, khó hiểu, ít dùng ở các tác phẩm khác, tôi thấy cũng khá bộn bộn… chẳng hạn như chữ ể rồng (vua bị ể mình), ca tay (ở trong tay, đưa cho cầm), no say (ấm no, đầy đủ cơm áo trong cuộc sống), con mái (cung nữ), trẩy mười hai tháng (hành trình 12 tháng), trẩy sang (đi sang qua), chứa chan (nhiều, đầy ắp), ngoan ngùy (khôn ngoan, lanh lợi), khôn hơn nửa người ta (khôn như người ta, khôn bằng người thường), cũng tày (cũng bằng, cũng như), dầu chẳng (nếu mà), bát ngát (buồn bã), chỉn khôn (thiệt là khó, chắc chắn là khó), pháy pháy (giăng giăng như tơ), tọt (đút vô một cách ép uổng), khoan khoan (đi chậm rãi, từ tốn), buông câu (thả câu, bỏ câu), nhơn sao mà có (do đâu mà được), ba chặp (một lúc, một hồi cũng hơi lâu lâu), chẳng đương (chẳng chịu được, không so sánh với được, chẳng bằng), ba bảy chạy ra (lật đật chạy ra), vận vào (mặc vào, bận quần áo vào người), chuyển động trong lòng (cảm động), chan chan (nhiều lắm), thửa (thuộc về, của), thiếp thiếp (thiêm thiếp, không cục cựa, xụi lơ cán cuốc, không nhúc nhích), thiệt thà (thành thật, chân chất), bán chác (mua bán, đổi chác), đòi nơi (nhiều nơi), nắng thanh tao (nắng ráo, trời trong), dắng dỏi (tiếng kêu liên tục của loài côn trùng hay chim chóc), xước gió (bị gió thổi tạt mạnh vô mình), tâu dộng thánh minh (tâu lên nhà vua), phát hành (xuất hành), chưng (tiếng trợ từ), bởi chưng (tại vì, do, bởi vì), dầy dầy (xum xuê, nhiều), tư lương (lo lắng, thương cảm), rén (lén một cách nhẹ nhàng), nhẫn nay (cho tới bây giờ), no nao (bao giờ), tán hoán (phơi bày ra rõ ràng), hảm giá (hãm hại người trong hoàng tộc)…

6.

(Mặt Tuy Chưa Thấy) Mà Lòng Con Thương là một tác phẩm xưa, chủ yếu để làm món ăn tinh thần cho lưu dân đến Miền Lục Tỉnh khi vùng nầy mới thành lập không lâu. Món ăn đó có chút hát bội để người đọc nhớ lại bộ môn mình từng thưởng thức, có chút an ủi rằng rồi ra mọi sự đều trắng đen rõ ràng, kẻ xấu sẽ đền tội, người ngay sẽ được thoát ra khỏi những khổ lụy do kẻ xấu tạo nên. Thiên duyên tiền định luôn luôn có và điều khiển để kết hợp huyền diệu cho những kẻ yêu nhau. Những điều trên được viết ra để thỏa mãn những ước vọng của lớp độc giả nông dân có quá nhiều yếu kém và chịu đựng quá nhiều bất công trong cuộc sống thực tế chăng? Độc giả thích nhiều, đọc nhiều, thiên hạ chịu bỏ tiền ra in khắc… có thể là câu trả lời gián tiếp.

Nhưng chắc chắn là những tác phẩm đại loại như Mà Lòng Con Thương… đã góp phần đào tạo nên tầng lớp người đạo đức, hiền hòa, nhẫn nhịn, tin tưởng ở đấng Toàn Năng, những người mà ai ai cũng mến, cũng muốn kết thân của Miền Nam Kỳ Lục Tỉnh 7, 8 chục năm trước, nay vì hoàn cảnh xã hội hầu như đã trở thành loài quí hiếm trên đà tuyệt chủng…

Tìm hiểu văn chương xưa có cái dở là đi lùi về quá khứ, xa rời những biến động của thực tế phũ phàng chung quanh khiến cho người đọc như là bị dính líu với sự ì tính, cách biệt với những vấn đề cấp thiết của xã hội mà họ đương sống trong khi xã hội hiện tại với những sinh hoạt và ý tưởng hướng về tương lai, làm cho con người hoạt động, năng nổ, khó bị đẩy lui trong cuộc đời.

Tuy nhiên rút ra được những triết lý tốt do người viết gởi gắm cũng là điều đáng cho chúng ta bỏ công.

7.

Nhiều khi tôi cũng lấy làm lạ với chính mình khi gần nửa đời sau mải mê ngày đêm không biết mệt trên những trang giấy chữ Nôm xưa cũ, thường rách te tua và phần nhiều bụi thời gian đã phủ dầy lớp lớp. Nói rằng vì thích khám phá, vì tha thiết với văn hóa dân tộc hay tầm thường hơn như thích tạo dựng một chút tiếng tăm cho mình… đều không đúng hẳn. Tôi chỉ là người lạt lòng tiếc ngẩn tiếc ngơ khi thấy một phần di sản của ông cha bị trùm phủ qua bao sóng lớp phế hưng, nếu mình có khả năng phủi bụi giới thiệu cho quần chúng độc giả thì tiếc gì chút thời gian đời hèn mọn của mình mà không bỏ công.

Và tôi tiêu quỹ số năm tháng dự trữ đời mình cho những công việc không giống ai khi được thấy hay được biết ở đâu đó có một bản Nôm chưa từng được giới thiệu thỏa đáng.

Tác phẩm Nôm đến với tôi bằng đường mua, đổi hay được trao tặng, dầu là bản chánh, dầu là bản sao, dầu bươm rách hay còn nguyên vẹn tôi đều trân quý như nhau. Đọc tới đọc lui cả chục lần, mày mò suy nghĩ từng câu khó, từng chữ lạ để mong đến được đúng ý người xưa, để hiểu tâm tình người đi trước thể hiện trong đó. Người khảo cổ, nhà xã hội học, nhà nhân chủng học cẩn thận từng li, từng chút nhỏ trong việc phục chế một thành phố bị chôn vùi dưới đất bao trăm năm, thiên hạ cố gắng phơi bày lại ra ánh sáng lại một kiến trúc bị cây rừng bao phủ để hé lộ cho nhân gian biết rằng ngày xưa cũng có một nền văn minh sáng lạn ở nơi nào đó. Giới thiệu một văn bản chữ Nôm cũng tương tợ như vậy: Chủ yếu để cho biết rằng ông bà ta vài ba trăm năm trước đây đã suy nghĩ như vậy, đã nói cách nói đó, đã dùng chữ như thế kia. Là hậu duệ, bổn phận chúng ta nên biết những đặc trưng văn hóa, văn nghệ của ông cha mình hơn là biết tường tận đời sống của nữ ca sĩ A, nam ca sĩ B ở mấy nước thừa tiền dư bạc. Ta biết để thông cảm với những khó khăn của người đi trước, để thán phục rằng trong sự khó khăn đời sống vật chất trước đây, người xưa đã không ngừng sáng tác, hay nói khác đi, ông cha ta đã không quên cung cấp cho người chung quanh những món ăn có ích lợi cho đời sống tâm tình.

Thế nhưng chữ Nôm là thứ chữ không ai dám tự hào mình biết hết, bạc đầu mòn trán lỏng gối với Nôm vẫn nhiều khi đọc sai những chữ mắc, chữ lạ hay thậm chí không biết phải đọc như thế nào một chữ mà mình mới gặp lần đầu khi nó chẳng giống chút xíu nào với những chữ mình đã từng gặp.

Tôi lao vào công việc nầy với lòng nhiệt thành, không vụ lợi dầu là tinh thần hay vật chất, do đó nếu có sai sót, xin được bỏ qua cho, ai đó cao minh có trách móc, thì cũng xin nương tình vì biển học vốn mông mênh, một vài chữ đọc mà lòng không chắc đúng có khi để vài ba năm suy gẫm vẫn không biết gì hơn vì không giải mã được tại sao người xưa viết một trường hợp độc nhứt không giống ai như vậy, tại sao con mối kia ác như vậy, gậm nhấm mất hơn nửa chữ khiến kẻ hậu sanh không thể đoán ra chữ gì khi trước mặt chỉ còn vài ba nét mờ mờ.

Trong tinh thần tôn trọng tiền nhân và độc giả, tôi biết đến đâu thưa đến đấy, tuyệt nhiên không võ đoán cho rằng người xưa viết sai nét, dùng sai chữ mà không xét tới xét lui nhiều lần ở thiệt là nhiều phương diện.


Nguyễn Văn Sâm

Victorville, CA ngày 06 tháng 09 năm 2012

(Trích trong tác phẩm Mà Tình Tôi Thương, sẽ in năm 2013)




Phụ Bản II

ĐÓN
XUÂN

Tác giả: Dương Lêh

Ai cũng nói cái năm Nhâm Thìn này trôi qua sao mà nhanh quá. Có người ở nhà không làm gì cả mà cũng thấy thời gian trôi qua vùn vụt. Những người ở nhà thuê phải trả một lần ba tháng, than thở mới quay qua quay lại đã thấy tới lúc phải đóng tiền. Còn ai ở nhà thuê phải trả mỗi tháng thì không khỏi khóc thét khi thấy bà chủ nhà cứ xuất hiện đòi tiền thuê liên tục vào mỗi đầu tháng.

Năm hết Tết đến, giới công nhân mỏi mòn, trông chờ tiền lương tiền thưởng, nhưng khi mang được về đến nhà rồi thì gặp ngay bà chủ nhà hay bà chủ nợ tiền góp đứng ngay trước cửa. Thanh toán vèo một cái còn lại năm bảy trăm ngàn phải sắp xếp làm sao chi tiêu cho đủ trong ba ngày Tết. Đó là chưa kể đến những người còn phải đi về tận nhà quê thăm cha mẹ vợ con.

Với số tiền còn dư đó, anh một công nhân như anh Tám gần nhà tôi chạy ngay ra chợ mua ngay một bao gạo đủ để ăn cho đến ngày lãnh lương kế tiếp. Anh luôn luôn thủ rất kỹ để đến cuối tháng sắp đến ngày lãnh lương, nếu không còn tiền để mua thức ăn, anh cũng còn gạo để cho bốn nhân khẩu, tính luôn vợ và hai con còn nhỏ xíu, cầm hơi thêm vài ngày nữa đến kỳ lương. Gạo ăn anh cũng phải chọn thứ nhẹ tiền chứ không dám đụng vào thứ hàng cao cấp hay nàng hương, chàng thơm miễn là các con của anh ăn vẫn ngon miệng.

Kế tiếp là phải chuẩn bị cho ba ngày Tết. Con anh dù còn nhỏ nhưng cũng biết được đây là những ngày vui lớn trong đời, mà những đứa con nít như chúng sẽ được người lớn quan tâm bằng cách sắm cho chúng những bộ quần áo mới hay cho chúng những bao lì xì đỏ thắm, cho dù sau những ngày Tết trôi qua, chúng ngồi cộng lại lấy ra một tổng số chừng năm bảy chục ngàn đồng. Trong khi đó, cha mẹ chúng thừa biết rằng những đứa con nhà giàu thường thường có tổng số tiền lì xì gấp năm bảy lần số tiền lương hằng tháng của ông chồng. Có những đứa không màng đến tiền lì xì nhưng người ta phải năn nỉ chúng để nhận giúp vì cha mẹ chúng là sếp tối cao của những người này.

Anh Tám đưa tiền cho vợ một khoản tiền nho nhỏ để mua cho hai đứa con mỗi đứa một bộ quần áo trẻ con còn mới toanh dù rằng những bộ quần áo này sản xuất tại chợ… Cầu Muối. Chị vợ chắc chắn chưa bao giờ biết bước vào một cửa hàng hiệu để mua quần áo cho con cái. Nơi đó chỉ dành cho những nhà giàu có thôi.

Bây giờ tính đến cái ăn. Những ngày Tết ăn gì. Anh Tám nghĩ, làm gì thì làm, trong nhà cũng phải có một nồi thịt heo kho với trứng vịt mà anh thường gọi đây là món Thiên Bồng nguyên soái đá banh. Anh không dám chạy đua với nhà bà bán cà phê ở cầu thang chung cư. Cứ mội lần Tết đến bà chuẩn bị đón xuân bằng một nồi thịt kho với gần một chục ký thịt bên cạnh một rổ trứng vịt chưa kể đến một hai thúng củ kiệu đầy râu ria rậm rạp. Nhìn bà chuẩn bị ăn Tết giống như nhà có giỗ tiệc lớn lao. Căn hộ của bà nhỏ xíu chứa gần một chục nhân khẩu gồm vợ chồng, con, cháu. Hộ này trước đây thuộc diện cứu đói, phải nhận trợ giúp của địa phương trong chương trình xóa đói giảm nghèo. Bất ngờ ngay sát bên chung cư có một khoảnh đất vàng được đưa vào dự án xây dựng một cao ốc văn phòng. Ngày động thổ của dự án này là ngày quán cà phê bắt đầu tấp nập, ăn nên làm ra. Toàn bộ con cháu trong nhà phải nhảy xuống phục vụ và ông bà chủ quán này phất lên từ đó. Sinh hoạt trong gia đình bà chủ quán cà phê dần dần thay đổi và khi cái cao ốc hình thành, các ngân hàng, công ty nhảy vô đặt trụ sở. Nhân viên, khách hàng vô ra tấp nập là lúc các con bà chủ quán cà phê sở hữu hai chiếc xe Air Blade, mấy cô con gái chiều chiều mặc quần áo thể thao nhãn hiệu cá sấu, mang giày adidas đi tập thể dục. Cô nào cũng có một cái điện thoại di động có màn hình “đại vĩ tuyến” săm soi cả ngày, hai ngón tay khều khều liên tục. Thằng cháu bà khoảng mười sáu mười bảy, cao nhòng, chăm chú ngồi trước một cái laptop hai tay khỏ lào xào như một doanh nhân sành điệu, có người hiếu kỳ ghé mắt thì thấy anh ta đang chơi game! Riêng bà chủ quán lúc nào cũng xúng xính trong bộ quần áo mới, mỗi ngón tay nếu không phải là một khoen vàng thì cũng là một chiếc cà rá bạch kim, đính một hột đá màu trắng lấp lánh hoặc màu xanh mát rượi. Riêng hai cánh tay trước của bà mang hai nùi “xơ-men” vàng rực. Đây hình như là tâm lý chung của những người có văn hóa kém xuất thân từ nghèo khó, khi có tiền, thường cố sắm cho bằng được những gì giới thượng lưu đang sử dụng mặc dù họ không có nhu cầu. Như đám con bà bán cà phê cũng mua laptop, điện thoại di động cao cấp chỉ để chơi game và chụp ảnh. Thực ra, chuyện ông bà bán cà phê phất lên không hề làm cho mọi người trong chung cư sinh lòng đố kỵ, tuy nhiên những người này nếu để ý chút xíu thì thấy bà ta xun xoe được vài tháng rồi đùng một cái, vào một buổi sáng nào đó bà xuất hiện đơn giản trong một bộ quần áo mặc ở nhà và hai tay thì “sạch sẽ” vô cùng, không còn một khoẻn vàng nào trên hai bàn tay và cũng không còn được một vòng lẻ loi của hai nùi “xơ men” trên hai cườm tay của bà. Không cần hỏi người ta cũng biết bà đã trải qua nhiều trận đồ tứ sắc vô cùng khốc liệt với các ông tướng xanh, trắng, đỏ, vàng, hoặc bị người ta “chặt hẻo”, hoặc “đường bay đôi cánh mỏi” vì đã “binh lủng”(1) rồi, hoặc đã lỡ “tiến lên mà chẳng biết tiến đâu”(2) hay món gì gì khác của con cháu bác thằng bần.

Trong cái ngân khoản chi tiêu vào ngày Tết của anh Tám còn có khoản chi để mua hoa trang trí trong nhà và bàn thờ. Phần dự trù kinh phí cho khoản này rất ít đủ để mua một nhánh mai nho nhỏ để trên bàn thờ và một bình hoa vạn thọ hoặc cẩm chướng hoặc một thứ gì rẻ tiền nhất. Anh Tám không quên dự trù một dĩa trái cây trước cúng sau cho mấy đệ tử thưởng thức. Anh không thấy thích thú khi nhìn vào bàn thờ của những nhà khá giả. Phải gọi là tủ thờ mới đúng vì đó không phải là cái bàn mà là một cái tủ khảm xa cừ đầy kín hết phần gỗ màu nâu bóng loáng. Trên đó thường để hai trái dưa hấu lớn như không có trái dưa nào lớn hơn, rồi một dĩa trái cây chất cao như núi nào là bưởi, thanh long, cam, táo vv... Bên cạnh còn có một đĩa trái cây đặc biệt không dùng để trước cúng sau ăn mà dùng để diễn tả một ý nghĩa nào đó. Có nhà muốn diễn tả ý nghĩa “cầu mong có vừa đủ tiền để tiêu xài” thì đĩa trái cây này sẽ gồm có một trái mãng cầu, một trái dừa mang ý nghĩa “vừa” theo cách phát âm của người miền Nam, một trái đu đủ để diễn tả ý nghĩa “đủ rồi” và một trái xoài để diễn đạt ý nghĩa “xài” trong hai chữ “xài tiền”. Có nơi người ta chưng một đĩa trái cây gồm ba món: một chùm hai, ba trái thơm chưa chín trên đầu mỗi trái còn lá với gai nhọn hoắt, một trái đu đủ, một nhánh sung đầy những quả no tròn, còn gọi vắn tắt là “thơm, đủ, sung”. Trái thơm có ý nghĩa cầu nguyện cho trong nhà luôn luôn có mùi thơm phưng phức, không bao giờ có mùi xú uế lọt vào nhà ngay khi có xe rác chạy ngang qua. “Đủ” ở đây là đầy đủ không thiếu thốn gì cả, và sung là sung túc sung mãn, cái gì cũng... sung. Anh Tám không biết có ông thánh, thần, tiên, phật nào chứng giám cho lời cầu nguyện này. Có điều anh Tám thấy trong ngôn ngữ, người miền Nam phát âm còn sai nhiều. Ví dụ như “khỏe” họ nói là “phẻ”, “thuở” thành “thở”, “doanh nghiệp” nói là “danh nghiệp”, thường nghe trên các đài truyền hình. Có người nhầm lẫn “danh nhân” và “doanh nhân”. Một bà bán “xoài thanh ca” thì rao “xài ing ca”…

Cái chuyện cúng kiếng trong ngày Tết cũng làm anh Tám đắn đo suy nghĩ. Từ trước đến giờ bà xã anh cũng hay mua giấy tiền vàng bạc về đốt mỗi khi cúng đưa ông Táo về trời. Ngoài món kẹo thèo lèo truyền thống là món đặc trưng dùng để cúng tiễn chân ông Táo về chầu Ngọc Hoàng thượng đế, còn còn có giấy tiền vàng bạc, theo bà xã anh Tám cho biết giấy tiền là một xấp… tiền giấy để ông Táo làm lộ phí. Người ta dùng giấy báo cũ rồi đóng dấu theo hình dáng những đồng xu sắp xếp từng dãy thẳng hàng. Còn vàng bạc là những tờ giấy vuông bằng bàn tay trên đó người ta phết một lớp sơn nhũ trắng thì gọi đó là bạc. Nếu phết lên đó lớp sơn nhũ vàng thì gọi đó là vàng. Có chỗ người ta bán vàng thoi, bạc thỏi. Đó là những ống giấy sơn nhũ trắng hoặc vàng, dài khoảng một tấc, hai đầu bít lại làm thành hai cái râu vểnh lên, giống như một thoi vàng hay thoi bạc trong các phim Tàu. Có người còn cúng một đĩa cá chép thật, tượng trưng cho con cá chép làm phương tiện vận chuyển cho ông Táo. Anh Tám nghĩ, cũng được, trước cúng sau ăn, một khứa là đủ rồi không cần phải mua nguyên con rất phí. Hơn nữa thịt cá chép, cùng loại với cá mè, cá trắm cỏ, không lấy gì làm ngon, xương nhiều, anh Tám phải hết sức quan tâm khi bất đắc dĩ cho các con ăn thứ cá này. Anh Tám cũng lấy làm lạ sao không thấy người ta đốt quần giấy cho ông Táo mặc lên thiên đình, bởi vì, tục truyền, ông Táo “đội mão, đi hia, chẳng mặc quần(3). Rồi anh Tám lại thắc mắc, cũng theo truyền thuyết, có tới hai ông Táo và một bà Táo làm thành bộ ba chống đỡ nồi niêu xoong chảo khi người ta nấu bếp. Bà Táo luôn đứng chính giữa, hai ông Táo đứng hai bên theo như sự bố trí của những nhà sản xuất ông lò. Cái núm chính giữa phía trên ông lò được soi một lỗ bằng hạt tiêu tượng trưng cho cái rốn của bà Táo. Rồi hai ông Táo này chắc là giống nhau, nhưng ông Táo nào thực sự đảm trách công việc lên thiên đình báo cáo hằng năm? Hay là luân phiên, mỗi ông làm một năm?

Rốt cuộc, anh Tám sẽ không duyệt cái màn đốt giấy tiền vàng bạc vì thấy vô duyên quá, hơn nữa dân phòng thường xuyên nhắc nhở: “Thời tiết nóng hạn, coi chừng củi lửa”.

Đến cái màn đi thăm viếng trong mấy ngày Tết. Anh Tám cũng phải tính toán đến cái màn dẫn vợ con về thăm họ hàng trong mấy ngày Tết, “mồng một nhà cha, mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy”. Cha mẹ anh Tám đã qua đời hết trơn, còn mấy ông chú, bà cô ở tận dưới quê xa lắc. Anh Tám hình như cũng đã ngầm thỏa thuận với họ. Tết nhất, ai ở đâu cứ ở yên đó. Bà con bên vợ thì cũng còn nhiều. Anh Tám là người rất thương vợ nên làm gì thì làm anh cũng dành ngày mồng hai để đưa vợ con về thăm bà ngoại, ông ngoại cũng đã về trời, và mấy dì, cậu cùng với cái đám con cái của họ. Anh đã dự trù cái ngân khoản lì xì cho cái đám nhóc này và cũng đã dự trù khoản lãi thu được vì quân số bên kia đông hơn và khá giả hơn anh chị Tám nhiều và các bao lì xì của họ cũng to hơn.

Những thầy cô hồi anh Tám còn học ở trường trung bây giờ cũng không biết đi đâu. Xa quá rồi ngày ấy, biết thầy cô có còn nhớ đến anh không. Thôi thì ngày mồng ba anh dành để dẫn vợ con đi Sở Thú và ở đó cho đến khi các con của anh kêu ba mẹ dẫn về nhà vì “phê” quá. Anh cũng không muốn dẫn vợ con đến những tụ điểm khác và chị Tám cũng nghĩ như vậy. Đến những tụ điểm khác cũng chỉ để hít bầu không khí đầy bụi bặm, hàng ăn uống bán với giá cắt cổ, giữ xe cũng vậy. Đâu đâu người ta cũng nói: “Tết mà anh Hai!” Đến những chỗ đó chỉ gánh lấy phiền toái cho nên anh Tám không dự trù một ngân khoản chi tiêu nào hết.

Hầu như là không bao giờ anh dẫn vợ con đến nhà bạn bè trong mấy ngày Tết vì sợ họ nói anh dắt con đi kiếm tiền lì xì. Bạn bè anh cũng không mấy khi đến thăm anh và gia đình trong những ngày đầu năm. Hình như họ có cùng suy nghĩ với anh và kết quả là nhà ai nấy ở.

Anh Tám thấy như vậy mà hay. Đầu năm trở lại cơ quan, gặp nhau tay bắt mặt mừng, chúc tụng nhau vài câu là quá đủ rồi.

Dương Lêh

(1) Ngôn ngữ trong cách chơi bài 13 lá (còn gọi là xập xám)

(2) Cách chơi bài Tiến lên

(3) Có người nói là của Trần Tế Xương, có người nói của một nhà văn nào đó nhưng không nói tên.



TẾT VỚI THI NHÂN

NHẬT NHAM

Cái Tết của ta nay tuy đã kém vẻ thiêng-liêng thủa trước, nhưng cũng vẫn còn là một ngày mà đọc đến tên, ta tự-nhận thấy bao nhiêu cái mừng, cái lo, cái vui, cái sợ! Tết là những ngày đầu mùa xuân, nên trước làn gió xuân hây-hẩy, thi-nhân cũng thấy lòng mình hồi-hộp, sôi-nổi, tưng-bừng…

Mỗi khi vườn hồng hớn-hở đua cười, chim oanh díu ran giọng hót, tao-nhân mặc khách ai chẳng cùng giang-sơn mở mặt với tân-xuân? Ai chẳng giấy bút hương-hoa ngâm vịnh, tô-điểm cho màu-sắc của vũ-trụ? Vì vậy, thi-nhân đối với tết đã từng có lắm bài nhiều vận lưu-truyền cho tới ngày nay, cùng thọ với sông núi. Nay tuy không đủ tài theo gót cổ-nhân cũng xin đem thơ cổ-nhân làm thiên giai-thoại để cùng xuân cười cợt.

Hằng năm, gần đến ngày tết, theo cổ-tục di-truyền từ nghìn xưa, trong xã-hội ta, không ai bảo ai, dù giàu dù nghèo, từ nhà quyền-quý đến chốn thường-dân, ai ai cũng phải chăm lo cho mấy ngày tết được đầy đủ. Ta hãy xem tiền-nhân ưa tết đến bực nào! Cụ Tam-nguyên Yên-Đổ (1835-1909) đã làm đến Tổng-đốc, khi cáo-quan về, gặp ngày tết, làm thơ vui tết, ước được đến tết luôn luôn:

Năm ngoài, năm kia, đói miệng chết,

Năm nay, phong-lưu đã ra phết

Thóc mùa, thóc chiêm, hãy còn nhiều,

Tiền nợ, tiền công, chửa trả hết.

Trong nhà rộn-rịp gói bánh chưng,

Ngoài cửa bi-bô rủ chung thịt

Ta ước gì được mãi như thế,

Hễ hết tết rồi thời lại tết.

Công nợ chưa trả vội, thóc lúa hãy để lại, hãy cốt tết đã! Hãy rửa lá dong, gói bánh chưng, hãy rủ nhau chung thịt lợn, sắp-sửa tết, rồi việc gì sẽ hay! Nợ để đấy! vì:

Nợ có chết ai đâu? Đòi mà chi? Trả mà chi? Cha tết!

Trời để sống lâu mãi! Tiền cũng có! Bạc cũng có! Mẹ đời!

Ta cứ có lệ, một khi năm hết tết đến, cho là năm cùng tháng tận, cần phải đòi cho hết nợ, không cho chịu đến năm sau. Cho nên cứ đến 30 tết, khách nợ đến cửa nhà con nợ đòi hỏi om sòm. Trước cảnh-tượng ấy, cụ Thượng Trứ phát cáu làm hai câu đối trên để mỉa đời! Cáu là phải, vì người ta còn chạy ngược, chạy xuôi để lo tết, chưa chắc đã đủ, còn lấy đâu mà trả nợ? Nhà nghèo mà phải chạy tết thì cực thực! Mấy câu thơ của Tản-Đà tiên-sinh (1889-1939) đủ hình-dung được cái khổ chạy tết của nhà nghèo:

Ngoảnh đi, ngoảnh lại đã đến tết!

Ông đến độ này lại thật chết,

Trời cao đất thấp, vợ chưa về;

Tháng tận năm cùng, gạo cũng hết.

Cỗ bàn duy có ba ông công,

Xu kẽm cũng không một vẩy hến.

Mà ra lúc quẫn, văn càng hay

Lại được một bài thơ khóc tết

Trời ôi! ôi tết ôi là tết!

Bác cũng còn hơn, tôi mới chết!

Gạo tẻ đã hết, nếp thời không.

Áo vợ rách tan, chồng cũng hết.

Con theo cạnh nách, méo môi sò!

Nợ réo ầm tai, câm miệng nhến

Trời còn để sống đến trăm năm

Lại mấy mươi bài thơ khóc tết.

Nhưng cái khổ lo tết cũng không thể làm giảm cái tứ thơ của thi-nhân. Cho nên lo tết thì cứ lo, mà thơ cũng không thể không có. Chẳng thế, đến gần ngày tết, ông Tú Xương (1870-1907) đã phải tức cảnh một bài:

Nhập thế-cục bất khả vô văn tự

Chẳng hay-ho cũng phải nghĩ một bài

Huống chi đã đỗ tú-tài

Ngày tết đến cũng phải một vài câu đối

Đối rằng:

Tuyệt nhân-gian chi phẩm-giá,

Phong-nguyệt tình hoài,

Tối thế-thượng chi phong-lưu,

Giang-hồ khí-cốt.

Rồi: “Viết vào giấy dán ngay lên cột,

Hỏi mẹ mày rằng: “dốt hay hay?”

- Rằng: “hay thì thật là hay.

Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú-tài.

Xưa nay em vẫn chịu ngài”

Gặp ngày tết, ông Tú Xương được một dịp phô-bày cái lòng trong-sạch, cái chí hiên-ngang của mình với chúa xuân; nhưng chỉ mình biết mình:

Tuyệt nhân-gian chi phẩm-giá,

Phong-nguyệt tình hoài,

Tối thế-thượng chi phong-lưu,

Giang-hồ khí-cốt.

Ngoài ra thế-nhân mấy kẻ đã soi suốt được đáy lòng mình, để có thể lĩnh-hội được hết cái hay trong mấy câu ấy, nên buộc lòng phải:

Hỏi mẹ mày: “Rằng dốt hay hay?”

Bà Tú chắc không biết có hay thực hay không, nhưng thấy chồng mình đã đỗ được đến bực tú-tài, văn tất nhiên phải hay: “Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú-tài”, vả “Xưa nay em vẫn chịu ngài” là giỏi.

“Ngài” được vợ khen thế chắc phải tự-đắc ngồi rung đùi để vui-vẻ với ngày xuân. Tết dù không được sung-túc, nhưng cũng phải có một vài câu đối đỏ dán cửa:

Tết có gì? Cũng viết loài, viết soài cũng chữ hoài,

dửng với họ, ra điều học-hiệc;

Xuân thời chơi! Nào câu đối câu điếc, nào pháo phiếc,

chán cho đời những sự tết-tung!

Chán cho đời mà lại lo cho mình nữa:

Xấp-xỉ ba mươi mốt tuổi đầu,

Trăm năm tính đốt hẳn còn lâu.

Ví dù thi để làm quan lớn, thì cũng nho-nhoe cưới chị hầu,

Đất nọ vẫn thường hay có trạch.

Bể kia nhiều lúc cũng trồng dâu.

“Bể dâu biến cải” là công lệ của tạo hóa. Một cái thân mình tuy có hy vọng “Đất nọ vẫn thường hay có trạch”, nhưng còn phải tùy trời. nghĩ như vậy, nên ông Tú Xương càng buồn cho thân thế:

Bố ở một nơi con một nơi,

Bấm tay tháng nữa hết năm rồi.

Văn-chương ngoại hạng quan không chấm,

Nhà cửa giao canh nợ phải bồi.

Tin bạn hóa ra người thất thổ,

Vì ai nên nỗi phải làm vôi.

Ba mươi mốt tuổi đà bao chốc,

Lặn suối trèo non đã mấy hồi!

Nhưng lo thì lo, buồn thì buồn, đến chiều ba mươi tết cũng phải đủ:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,

Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.

Mà đã đủ rồi thì cái lo, cái buồn cũng tiêu-tán, mà thi-nhân sẽ tự an-ủi:

Giàu sang có phận, đói no có Trời,

Ai ơi! Chơi kẻo già đời.

Phải! Gặp ngày xuân, chẳng vui cũng thiệt, chẳng chơi cũng già! Qua đêm giao-thừa sang mồng một, đã thấy đầy một vẻ xuân.

Tối ba mươi, nợ réo tý mùi, ấy mới tết!

Sáng mồng một, rượu tràn quý tỵ, ái chà xuân!

Cảnh-vật đều nhuộm một màu-sắc tốt tươi, mới đẹp:

Khéo bảo nhau rằng mới với me,

Hễ ai mặc rách, chẳng ai nghe.

Khăn là bác nọ to tầy rế,

Váy lĩnh cô kia quét khắp hè.

Công-đức tu-hành sư có lọng,

Xu-hào đủng-đỉnh phỗng ngồi xe.

Chẳng phong-lưu cũng ba ngày tết,

Kiết-cú như ai cũng rượu chè.

Ông Tú Xương tả cảnh người mình vui tết: Chẳng phong-lưu, nhưng trong ba ngày tết, cũng không chịu mặc rách, cũng đủ khăn là, váy lĩnh. Dẫu kiết-cú đến đâu cũng có rượu chè để thưởng xuân, cũng phải chia vui cùng hoàn cảnh. Mà không vui sao được, giữa một cái xã-hội đương tưng-bừng nô-nức về xuân:

Xuân từ trong ấy mới ban ra,

Xuân chẳng riêng ai khắp mọi nhà.

Đì-đẹt ngoài sân chàng pháo chuột,

Om sòm trên vách chiếc tranh gà.

Chí cha chí chát khua giày dép,

Đen thủi đen thui cũng lượt là.

Dám hỏi những ai nơi cố quận,

Rằng xuân, xuân vẫn thế ru mà?

Ông Tú Xương tả cảnh tết nào pháo chuột đì-đẹt ngoài sân, tranh gà om sòm trên vách là thú của trẻ con; lại những phụ-nữ đi gầy dép khua chí cha chí chát trên hè phố, mà có người nước da đen thủi, đen thui cũng lượt là, súng sính, vui xuân!

Phải! Ai chẳng có quyền vui xuân, xuân có riêng ai đâu! Già, trẻ, nhớn, bé, trai, gái, ai mà chẳng vui xuân?

Trong mấy ngày tết, có nhiều thú chơi xuân như:

1. Thú uống rượu:

Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng “Bần” ra cửa.

Sáng mồng một, rượu say túy-lý, dơ tay bồng ông “Phúc” vào nhà.

2. Thú chơi thủy tiên: Thủy tiên là một thứ đủ cả sắc, cả hương. Thi nhân ta có bài vịnh:

Thiếp ở Bồng-lai mới tới đây,

Hương trời, sắc nước tuyết xinh thay!

Xanh-xanh tóc cuốn cài hoa ngọc,

Cười nụ hoa tươi lắm khách say.

3. Thú đốt pháo: Nguyễn Hữu Chỉnh có bài thơ về xác pháo:

Xác không vốn những cậy tay người,

Bao nả công trình tạch cái thôi!

Kêu lắm lại càng tan-tác lắm,

Thế nào cũng một tiếng mà thôi.

4. Thú đánh đu: Cô Hồ Xuân Hương có bài thơ chơi đu:

Tám cột khen ai khéo khéo giồng

Người thời lên đánh, kẻ ngồi trông:

Giai đu gối ngọc khom-khom cật,

Gái uốn lưng ong ngửa-ngửa lòng.

Bốn mảnh quần hồng bay phấp-phới,

Hai hàng chân ngọc ruỗi song song.

Chơi xuân cho biết xuân chăng tá?

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.

5. Thú giải trí bằng tam cúc:

Tượng tượng xe xe xé lẻ rồi,

Sĩ đen, sĩ đỏ chẳng thành đôi;

Đố ai biết ngỏ quân gì kết,

Mã cũng chui rồi, tốt cũng chui.

6. Thú chơi tổ tôm:

Bài chạm thành, cuối cánh phỗng ầm-ầm.

Ngồi thôi chẳng bốc quân rác rảnh,

Cũng có lúc “thông tri” thời bát-sách

Cũng có khi “bạch định” bốc yêu hồng.

Cất bài lên ông lão đã nằm trong

Không đâu cả gập thông năm bảy phỗng.

Cũng có ván “tôm lèo” chờ rộng,

Vớ phải thằng bạch thủ phỗng tay tên.

Gớm ghê thay! Đen thật là đen:

Sắc như mác cũng thua thằng vận đỏ!

May-mắn nhé, hữu duyên năng tái-ngộ

Bĩ-cực rồi đến hội thái-lai:

Tiếng “tăm khôi” chi để nhường ai?

Hết bạch lại hồng thông mãi mãi…

Nào những kẻ tay trên ta ban nãy

Tói bây giờ thầy-lẩy dưới tay ta:

Tiếng bài cao lừng-lẫy khắp gần xa

Bát vạn người ta ai dám đọ,

Thế mới biết tổ-tôm đen có đỏ,

Thời anh-hùng vị ngộ có lo chi!

Trước sau, sau trước làm gì?

Với ngòi bút mô-tả rất khéo, ông Tú Xương đã so sánh cuộc tổ-tôm với cuộc đời bầy bầy xóa xóa, khi thăng, lúc giáng, thành, bại, rủi may, không biết đâu mà lường được:

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,

Nợ tang-bồng vay trả, trả vay…


Tri túc, tiện túc; đãi túc, hà thời túc?

Tri nhàn, tiện nhàn; đãi nhàn, hà thời nhàn?

(Biết đủ, tức là đủ; đợi đủ, biết bao giờ đủ?

Biết nhàn, tức là nhàn; đợi nhàn, biết bao giờ nhàn?)


Vậy, gặp ngày xuân, ta cũng tạm cho là đủ, là nhàn, mà cùng xuân vui vẻ, vui xuân vui lấy kẻo hoài…


Hoàng Chúc st

XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG

MỘT TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ THANH CAO

(KỲ 4)


THÙY DƯƠNG

Thơ mời họa:

Mừng Xuân Quý Tỵ

Ngọn gió tàn đông chuyển tiết sang

Thềm xuân lấp lánh cánh mai vàng

Rồng đi chưa vẹn Phồn, Vinh, Quý

Rắn đến quyết tròn Phú, Thịnh, Khang

Khoa học, văn minh càng tiến bộ

Bạn bè, thế giới ắt kinh hoàng

Đón chào Quý Tỵ - niềm tin mới

Nghe rộn xa gần khúc lạc hoan!


Thêm một số bài họa gởi về cho HƯƠNG XƯA:

Bài xướng:

HƯƠNG XƯA

Thơm ngát tinh hoa tỏa bút đài

Đường thi muôn thuở sắc không phai

Hương Xưa man mác tình tri ngộ

Bình cũ xôn xao khúc cảm hoài

Ngắm nguyệt tao nhân trầm nỗi nhớ

Trông hoa mặc khách rộn niềm say

Tri âm ai đó đồng thanh khí

Kết nghĩa thi đàn hẹn trúc mai!

THÙY DƯƠNG

CÁC BÀI HỌA:

1. Trang họa y đề bài thơ Hương Xưa của thi hữu Thùy Dương

Hương Xưa

Thơ ca khéo cợt khách thi đài

Đồng điệu tâm hồn dẫu tuổi phai

Mùi phú quý thờ ơ chẳng đoái

Bả vinh hoa chán ngán không hoài

Non xanhnướcbiếcduyêntaonhã

Gió mát trăng thanh thú đắm say

Chở hết Hương Xưa về đất mới

Tình thơ nhuộm thắm nắng ban mai.

CÔNG BÌNH ( CLB Thơ ca Q.3 )

2. Bài họa của Nhà Thơ Hữu Văn Vũ Bá Tài:

(Thuận nghịch độc)

Xuôi:

Đường thi rạng tỏ ánh văn đài

Chuyển biến xoay vần lúc thắm phai

Hương sắc điểm tô đời trọng mến

Tỏa thanh âm bổng vọng thi hoài

Trường ca tiếng quyện hồn ngây ngất

Nhạc ý dâng long nỗi tỉnh say

Gương sang đẹp chung tình tứ phú

Phương viên rực tỏa cánh hồng mai.

Ngược:

Mai hồng cánh tỏa rực viên phương

Phú tứ tình chung đẹp sang gương

Say tỉnh nỗi long dâng ý nhạc

Ngất ngây hồn quyện tiếng ca trường

Hoài thi vọng bổng âm thanh tỏa

Mến trọng đời tô điểm sắc hương

Phai thắm lúc vần xoay biến chuyển

Đài văn ánh tỏa rạng thơ Đường.

HỮU VĂN VŨ BÁ TÀI

CMT8 Q.Tân Bình

3. Bài họa của Nữ Sĩ Hương Hồng Lĩnh:

HƯƠNG XƯA

Nghe tin bạn quý lập thi đài

Muôn thuở thơ Đường khólạt phai

Nghìn dặm chia ly lưu luyến mãi

Hương Xưa nếp cũ nhớ nhung hoài

Rèm châu thưởng nguyệt lòng man mác

Trướng liễu xem hoa dạ đắm say

Nhớ cảnh nhớ người khôn xiết kể !

Hồi hương tái ngộ hẹn ngày mai.

HƯƠNG HỒNG LĨNH

Tokyo – Japan

4. Bài họa của nhà thơ Duy Thần:

Tàn cao rợp bong tỏa văn đài

Ngàn thuở thơ Đường nét chẳng phai

Họp mặt Hương Xưa mơ ước mãi

Chia tay rượu mới nhớ nhung hoài

Phương trời tuyết trắng đôi vần ngẩn

Dặm khách mây hồng nửa cốc say

Có phải tình thơ vương vấn bước ?

Ngập ngừng cánh hạc ngóng hình mai.

DUY THẦN Nguyễn Ngọc Hòa

Tokyo – Japan

5. Bài họa của Họa Sĩ Điêu Khắc Trần Quang:

(Thơ khoán thủ với giọng văn hài hước dí dỏm hơi tinh quái cố hữu của anh)

HƯƠNG thầm nhắn gởi bạn văn đài

XƯA nhuộm sắc gì đã chẳng phai?

CÓ lẽ tao nhân mơ tưởng mãi

KHÁC nào mặc khách ước mong hoài

HƯƠNG xưa một thuở từng say tỉnh

NAY vị ngàn đời khéo tỉnh say

ĐÂU biết rằng Thùy Dương chiếu cố

NÀO ngờ lại được kết duyên mai.

TRẦN QUANG

Họa sĩ Điêu khắc - PhanThiết

Xuân thắm

Trang tặng Nữ Sĩ Thùy Dương

Đúng đấy tàn đông én lại về

Đường mây ríu rít lượn say mê

Hương Xưa đắc ý thơ điêu luyện

Sắc mới long vui trạm trổng hề

Mặc khách trao duyên hoài cố quận

Tao nhân kết nghĩa nhớ tình quê

Xuân ơi !Khát vọng tham thiền lắng

Bút mực vô ưu giấy chẳng nề.

TRẦN QUANG

Họa sĩ Điêu khắc - PhanThiết


Chờ Xuân


Trồng một cây nêu trước sân

Cột con cá Chép, mấy vần câu thơ

Chờ xuân xông đất, ta chờ

Giật mình tỉnh giấc, qua giờ đón xuân.


Chơi Xuân

Xuân đến mang theo muôn sắc hoa

Ngày xuân tiếng pháo vẳng đâu xa

Cành mai xuân điểm cờ trong gió

Bọn trẻ vui xuân quạnh quẽ nhà.


Thôi thì

Xuân về xuân đến thăm ta

Vui xuân vài chén gọi là tâm giao

Tuổi đời ngày một thêm cao

Mặc cho trời định ta nào bận tâm.

TRẦN VĂN HỮU

01.2013

Nhớ Quê

Muôn hoa chào đón Đông Quân

Nửa đêm trừ tịch chúa xuân trở về

Trở về ta lại nhớ quê

Nhớ quê thăm thẳm đường về thì xa

Trước sân nhìn cội mai già

Chạnh lòng lữ thứ thơ đề mấy câu

Ra đi ba chỏm trên đầu

Khi về chỏm rụng thay màu tuyết pha

Đôi bờ cầu được nối qua

An Bài làng cũ nay đà khác xưa.


Nhớ ngày xưa

Mẹ ngồi khung cửi sớm trưa

Trên cành oanh hót thoi đưa nhịp nhàng

Quê tôi sơn động đèo giang

Đất linh nhân kiệt sử trang oai hùng.


Có võ tướng có nguyên nhung

Cầm quân dẹp giặc anh hùng đề tên

Ba đồn Trương Dục(*) dấu in

Phong Nha đệ nhất, Quảng Bình quê tôi.


TRẦN VĂN HỮU

12.2012

(*) Lũy Trương Dục, được Đào Duy Từ xây khoảng năm 1627 để chống với chúa Trịnh (Trịnh, Nguyễn phân tranh)

MUÔN MÙA NHẠC XUÂN

Để hoài niệm Châu Kỳ

- Kính tặng chị Kha Thị Đàng: Hiền nội, thơ ký, MC, bảo mẫu duy nhất trong suốt cuộc hành trình vì nghệ thuật của chồng - nhạc sĩ Châu Kỳ.

- Mến gởi các cháu.

Viết trong đêm 5 rạng 6/1/2013

KIÊN GIANG - HÀ HUY HÀ


Chiếc giường uyên ương một thời trôi nổi

Tuy lắc lư vẫn nồng nghĩa vợ chồng

Mấy tấm ván vẫn che mưa chắn gió

Đã phai màu theo vệt nắng tàn đông


Vật thể phù du đều là cát bụi

Chỉ còn tiếng hát xé lòng rưng rưng

Ẩn náu đô thành nhờ bóng sau lưng

Khi người dưng vẫn yêu thơ yêu nhạc


Rời cống BÀ XẾP khi đời hết giặc

Về Tân Quy Đông, cây cỏ hoang sơ

Anh vẫn viết nhạc, tôi cứ làm thơ

Bóng mát Tân Quy, vẫn còn ẩn khuất


Ở ngay trung tâm sau đến ven đô

Rắc rối thay người phổ nhạc cho thơ

Càng rắc rối, nên không cho nhập khẩu

Đời cần tiền,THƠ NHẠC như cỏ khô


Cứ tôn vinh xóm nghèo râm bóng mát

Anh phổ nhanh bài BÓNG MÁT TÂN QUY

Điệu “bô lê rô”, vẫn nồng nàn dễ hát

Hát cho đời nghe tiếng vọng Châu Kỳ


Tiệc liên hoan, mời bà con xóm mới

Đất Tân Quy là Bến Nghé SÀI GÒN

Đất Thuộc địa, hết Tây Dương rồi Mỹ

Người phương Nam vẫn giữ tấm lòng son


Châu Kỳ đã thành dân Tân Quy Đông

Tiếng hát, tấm lòng lan tỏa mênh mông

Đừng gọi ven đô là vùng lữ thứ

Hỡi lưu dân hỏi mọi người xa xứ


Kiên Giang phụ trách đài thơ quận Tám

Mời Châu Kỳ thăm trường học mồ côi

Trường Bình Đông tuổi vừa gần thế kỷ

Thành tiếng ca sâu lắng đến tuyệt vời


Ca sĩ Phương Dung hát nơi hải ngoại

Rời Gò Công, cánh nhạn trắng bay xa

Nặng lòng hoài hương vẫn nhớ quê nhà

Nhạn trắng còn bay không quên xứ sở


Rời Tân Quy lên xe ra Đà Nẵng

Hát “Tiếng chuông chùa” mừng Phật Đản Sinh

Phật tử hát theo chào mừng lễ Phật

Tiếng ca nâng niu thấm đậm nghĩa tình


Qua đất Mỹ viếng thăm bao đệ tử

Hát “Chiếc áo cũ gài nút sau lưng”

Tiếng vỗ tay như sấm nổ vang lừng

Nhạc Châu Kỳ nâng hồn quê tuyệt đỉnh


Trẻ lái xe máy, già đi xe đạp

18 chiếc vừa mất vừa cho không

Cuộc hành trình dù trôi sông lạc chợ

Vẫn đến nơi để hát trước cộng đồng


Nhạc sĩ Châu Kỳ sanh ra trong đất Huế

Thành thân, thành danh, ở khắp xa

Ngày ngưng viết hát trở lại quê nhà thảnh thơi?…


Châu Kỳ hồn thoát lên trời

Mỗi xuân hát lại một bài ca xưa

ĐÓN XUÂN NÀY, NHỚ XUÂN XƯA

CHÂU KỲ VẪN SỐNG MUÔN MÙA NHẠC XUÂN

Phạm Thế Cường st

Vũ khúc xuân


Mùa xuân đang đến xôn xao bao niềm vui

Ngàn hoa khoe sắc xinh tươi như môi cười

Bạn ơi có thấy thời gian không đợi chờ

Dục ta đi tới chân trời bao ước mơ

Nối cánh tay thêm vòng kề vai nhau

trao lời chúc

Thắm xanh như cây đời

tình yêu đâu có tuổi

Kìa xuân đã đến – vườn xuân rực rỡ

thắm mai vàng

Nghe lòng náo nức dâng trào ý thơ dạt dào

Bao nhiêu mây buồn

bao nhiêu vấn vương

Bỏ lại sau lưng – giờ đây chỉ có tình thương mến

Và ngát hương đời

Trong vũ khúc đón chào mừng XUÂN!

LÊ NGUYÊN – 0165.8031945

Trước xuân 2013


Bên ngoài Mùa Xuân


Giả dụ có một quê hương

Giả dụ có một thiên đường

Thì trên thiên đường có mặt thượng đế

Và trên quê hương có mặt tình thương.


Giả dụ đời có mùa xuân

Giả dụ mùa xuân chỉ nở một lần

Còn rất mới nguyên lòng chưa trang điểm

Một lần nhìn nhau cũng đủ quen thân.


Nếu giả dụ rằng anh sinh ra đời

Khô đọng im lìm chỉ một mình thôi

Và em sẽ không bao giờ có mặt

Thì anh vẫn là đất sét hà hơi.


Nhưng anh có đây

và em có đó

Thượng đế phủi tay đứng dậy đi rồi

Mình ngẩn ngơ tìm như nguời hành khất

Tình thương như đồng bạc rơi.


Cho nên quê hương

hỡi lòng ngơ ngác

Anh đứng trên đời mà vẫn lang thang

Cho nên thiên đường

vô cùng cách biệt

Anh sống trong đời rất đỗi hoang mang

Bởi không thấy em

vội vàng kêu gọi

Anh chợt thấy mình trong nỗi bâng khuâng

Mê mải đi tìm

em quên đáp lại

Anh đợi bên ngoài mùa xuân.


(“Trong Cơn Thao Thức” – Da Vàng – Đà Nẳng – 1971)

Thiếu Khanh


Outside Spring


Suppose there is a homeland

Suppose there is a heaven

In the heaven should God preside

And in the homeland should love reside


Suppose there is spring in life so fertile

Suppose the spring appears only once for a while

As my fresh and new heart hasn’t been embellished

Seeing each other once would be enough for us to be cherished


If it is supposed that I had come into being

All alone and quietly like some inanimate thing

And you had never been present to stay

Then I would be nothing other than breathed-on clay


But I am here and you are there

Washing off his hands God has left for somewhere

We are bewilderingly, like beggars, looking for

Love which is like their coins scattered on the floor


Oh the homeland and my puzzled mind

I am living in life but have no place to reside

Oh heaven, the reach so far beyond

I am too embarrassed to respond


Having seen you nowhere, I hurriedly raised my call

Just to see myself not in peace at all

Absorbed in searching you forget to respond

While I am awaiting outside the spring beyond

(English translation by Thiếu Khanh )

Về Quê Ngày Tết

Con hãy đến thăm ông bà nội ngoại

Nén hương thơm thắp ở nhà thờ

Con sẽ hiểu vì sao lá vàng rơi xuống gốc

Và hai tiếng quê hương nối liền mọi bến bờ …


TRN NHUN MINH

Trong đồng cỏ hoa vàng


Cỏ hoa vàng đến cuối trời

Không dưng mà hoá ra người lẳng lơ

Tìm ai trong cõi chờ xưa

Gió trăng trăm tuổi già nua một thì


Thực ra tôi chả tìm chi

Yêu mây cứ rẽ lối đi lên trời

Yêu hoa cứ đến với người

Nào tôi có biết rằng tôi biết gì


Hoa vàng nở hết mình đi

Nghe đâu tuyết trắng bay về rồi đây

Trời ơi! vàng đến thế này

Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian


TRN NHUN MINH

Tìm XUÂN

Qua hồ sen chẳng thấy nàng

Bước sang vườn cúc hoa vàng ngất ngây

Một miền sương tuyết như mây

Hải đường dẫn lối đường này sang xuân

Nao nao nhẹ bước đưa chân

Bỗng nhiên đã thấy nàng xuân vẫy chào

Thỏa lòng nay ước mai ao

Hớn hở mai, đào cung chúc Tân Xuân

LÊ MINH CHỬ

Gọi Xuân về

Chồi xanh gọi xuân về thành phố

Nắng xuân vàng nảy lộc cành tơ

Hoa khoe sắc xen câu đối đỏ

Cho cây đời tươi trổ những nhành thơ

LÊ MINH CHỬ


Tình ca MÙA XUÂN


Ôi ánh mắt ngày nào ta đã gặp

Sao thiết tha đắm đuối tuyệt vời

Đem vũ bão

Choàng lên cung nhạc loạn

Đem tình ca về ngự trên môi


Còn lênh đênh

Thuyền yêu chưa đổ bến

Ta vì Người chối bỏ mộng ngày xanh

Hồn hoang vu

Niềm tin chưa hiện đến

Ta vì Người, xa lánh cõi trần gian.


Uống cạn hương Xuân

Làn hương ngào ngạt

Cánh môi sầu khép kín nét thanh tân

Đêm gục ngã

Trên dòng sông bích ngọc

Bình minh lên tô điểm bóng mây ngàn


Đôi cánh thêu hoa vàng rực rỡ

Đàn bướm xưa

Về dệt tiếp đoạn thơ lòng

Ngoài ngõ vắng

Gió hiền ru thảm cỏ

Ta mơ màng từ giã nỗi hoài mong


Đón giấc mơ

Lả mình bên quán gió

Dãy phím ngà đang vọng tưởng trời Xuân

Ta say đắm

Nhạc Xuân hồng êm ái

Khúc tình ca mùa nắng ấm vang ngân

NGÀN PHƯƠNG

Tà Áo Trắng

Đêm nay trăng gió ngập cô phòng

Thánh thót đàn ai nẩy tiếng trong

Thấp thoáng bên hiên tà áo trắng

Đến bên anh gửi chiếc hôn nồng.

THANH PHONG

Bất ngờ

Được người khen tặng tứ thơ hay

Hay nhất anh ơi! ở chỗ này

Táy máy đưa tay sờ thử tí

Bất ngờ, em xiết chặt bờ vai.

THANH PHONG

Xuân Qúy Tỵ

Trăm hoa nở rộ, đẹp cao quý

Cánh én mừng xuân chào Tết Tỵ

Cúc diễu ngoài hiên sắc thắm tươi

Mai cười trước gió duyên toàn mỹ

Dâng quà phụ mẫu vẹn luân thường

Chúc tuổi ông bà tròn đạo lý

Thắp nén hương, quỳ lạy Đất Trời

Năm nầy Phúc Lộc Thọ như ý

THANH CHÂU

Ngắm Xuân

Mải ngắm trời xuân quên ngắm anh

Ô kìa con sáo đậu trên cành

Líu lo cất tiếng chào sương sớm

Rạo rực mây trời phơi nắng hanh.

Anh cũng vô tình chẳng ngắm em

Nhành mai run rẩy gót chim chuyền

Kìa anh quay lại… men xuân dậy

Đôi mắt nhìn chao nhịp sóng tim.

XUÂN VÂN

Vào Xuân

Thi đàn vui đón một mùa xuân

Chắp cánh bay cao trổ bút thần

Nam nữ sơ giao đà mến mộ

Trẻ già tri ngộ hóa tương thân

Vấn vương câu hát như chim hót

Lưu luyến lời ngâm tợ sáo ngân

Mừng đón tân niên tăng ngũ phúc

Rượu đầy nghênh tiếp bạn thi nhân

XUÂN VÂN

Biển chiều

“Ước gì cũng có một người

Cũng cô đơn, cũng ngậm ngùi giống tôi”

Đoàn Thị Tảo

Mặt trời đỏ trượt chân mây

Hải âu vài cánh trắng bay dật dờ

Sóng xanh vật vã níu bờ

Bóng tôi sóng soãi dính hờ vào tôi

Vũng Tàu, 01-2000

VŨ ĐÌNH HUY

EVENING SEA

“I do hope there will be a man

Who is also so lonely and so bewailing like me”

Đoàn Thị Tảo

The reddish sun glided at the horizon

A few white sea-gulls flew flashingly

Blue waves squirmingly clung to the shore

My own flat shadow carelessly stuck to me.

Vũng Tàu, 01-2000

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

HỎI CON

Cho con Vũ Hoàng Minh

Nắng sớm bừng lên trong mắt con

Sài Gòn thêm một tiếng chim non

Bao giờ con biết bay cao, rộng?

Giặt tã tay cha đã bợt mòn!

Thành phố Hồ Chí Minh, 18-4-2000

VŨ ĐÌNH HUY

ASKING MY SON

To my son Vũ Hoàng Minh

Early sunlight shined in your eyes

Saigon got an additional young bird’s chirping

When will you know how to fly high and wide?

Washing napkins, my hand has turned pale and white!

Hồ Chí Minh city, 18-4-2000

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

CẦU VỒNG

Em chợt đến, chợt đi như cầu vồng rực rỡ

Bỏ lại sau lưng mưa gió mịt mùng

Bỏ lại sau lưng tiếng mưa nức nở

Và một người lang thang trong mông lung…


8-2000

VŨ ĐÌNH HUY

RAINBOW

You suddenly came and suddenly went away
like a radiant rainbow

Leaving behind you dim and immense rain and wind

Leaving behind you the sobbing sound of rain

And a man wandering in a misty world…

8-2000

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN


CHUYỆN VỀ MỘT NGƯỜI DỊCH

TRUYỆN KIỀU Ở PHƯƠNG XA

Có trong tay cuốn sách mới Kim Kiều Hán – Việt truyện của Thái Hanh vừa được xuất bản năm 2004, bạn bè gửi từ Australia về tặng, giáo sư sử học Chương Thân liền có nhã ý chia sẻ niềm vui với tôi, bởi biết tôi đang theo đuổi đề tài “Những người dịch Truyện Kiều Nguyễn Du”. Tôi còn biết ơn giáo sư là đã gợi ý, tôi nên liên hệ thư trực tiếp với tác giả công trình trên. Thư gửi đi theo địa chỉ điện tử, không bao lâu sau tôi đã nhận được trả lời của chính dịch giả Thái Hanh và lại còn được dịch giả gửi cho một bản sách. Thật là một điều vui mừng khôn tả.

Mặc dù cho đến ngày nay vẫn còn có đôi người nghi hoặc, xuất phát từ nhận xét hời hợt, cho rằng Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng qua chỉ là bản sao đem “dịch” lại Kim Vân Kiều truyện của tác giả Trung Quốc Thanh Tâm Tài nhân… Truyện Kiều của Nguyễn Du vẫn được mọi người thừa nhận tôn vinh là một công trình sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời, một áng văn kiệt tác.(1)

Kim Kiều Hán – Việt truyện của Thái Hanh – chẳng phải thêm một lần nữa minh chứng và khẳng định cho điều trên? Tuy nhiên, có lẽ, vẫn cần nhắc lại những chuyện liên can trước đó chăng?

Phải đó, chính ở Trung Quốc người ta cũng đã bác bỏ cái điều mà người nào đó còn nghi hoặc.

Cách đây cũng phải nửa thế kỷ có lẻ, vào năm 1958, giáo sư người Trung Quốc Hoàng Dật Cầu, bấy giờ đang công tác ở Học viện Sư Phạm Hoa Nam, đã bỏ công sức ra nghiên cứu và hoàn thành công trình giới thiệu Nguyễn Du cùng bản dịch Truyện Kiều sang chữ Hán(2). Công trình của Hoàng Dật Cầu là một tài liệu biên soạn rất công phu, khoa học, giới thiệu thân thế Nguyễn Du và thời đại của Nguyễn Du, trình bầy nguồn gốc tác phẩm, kèm theo bản dịch trọn vẹn Truyện Kiều sang Hán văn. Bản dịch của tiên sinh họ Hoàng sát từng câu một và có gieo vần. Theo đánh giá công bố trên tạp chí “Văn nghệ”, cơ quan của Hội văn nghệ Việt Nam ngay sau khi công trình trên hoàn thành, thì việc dịch Truyện Kiều “cố nhiên là một việc rất khó. Nhưng ông Hoàng đã cố gắng nhiều. Có nhiều đoạn dịch khá thành công nhất là trong nửa đầu của quyển truyện”(3).

Trong dịp thế giới kỷ niệm 200 năm sinh của danh nhân văn hóa Nguyễn Du (1767 – 1820) theo quyết định của UNESCO, hai học giả khác, cũng là người Trung Quốc, giáo sư Lưu Thế Đức và giáo sư Lý Tú Chương, cán bộ Sở nghiên cứu văn học Trung Quốc, tiếp tục khẳng định: “… Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thành tác phẩm hoàn toàn mới về thiên nhiên. Tài năng nghệ thuật xuất sắc và sự lao động nhẫn nại của Nguyễn Du đã giúp nhà thơ dùng câu chuyện Vương Thúy Kiều để viết tác phẩm kiệt xuất trong nền văn học Việt Nam. Truyện Kiều bằng thơ của Nguyễn Du được lưu truyền rộng rãi ở Việt Nam, đã vượt xa mức độ lưu truyền của tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài nhân ở Trung Quốc”(4)

Gần đây nhất, còn một nhà khoa học Trung Quốc am hiểu văn hóa và văn học Việt Nam, La Trường Sơn (1938 – 2003), nguyên quán Quảng Hỏa - Quảng Đông, Trung Quốc, yêu mến và quý trọng Truyện Kiều của Nguyễn Du, trước khi mất đã kịp hoàn thành và để lại một bản dịch mới Truyện Kiều sang Hán văn. Bản dịch của tiên sinh họ La đã được giáo sư Nguyễn Khắc Phi trân trọng giới thiệu và nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh và Công ty văn hóa Phương Nam phối hợp ấn hành vào ba năm sau khi dịch giả qua đời(5).

Khỏi phải kể ra đây sự ngưỡng mộ tương tự tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du từ rất nhiều người nước ngoài khác nhau suốt hàng trăm năm qua, căn cứ qua hàng chục bản dịch khác nhau sang các ngữ Pháp, Anh, Nhật, Đức, Nga, Ba Lan, Czech, Rumani, Hungari, Hàn Quốc, Esperanto…(6). Hãy chỉ điểm lại nội hàng loạt các bản dịch Truyện Kiều từ trước đến nay sang Hán văn, trước khi trở lại với bản Kim Kiều Hán – Việt truyện của Thái Hanh, cũng cho chúng ta nhiều điều để suy gẫm. Tự hào với một kiệt tác của văn học dân tộc nhiều người Việt Nam chúng ta cũng đã sớm tìm cách giới thiệu, quảng bá với bạn bè gần xa. Không kể các bản dịch Truyện Kiều mà các học giả Việt Nam dịch sang các ngữ khác nhau, bắt đầu bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh sang tiếng Pháp ngay từ đầu thế kỷ XX đến những bản dịch cũng sang tiếng Pháp, tiếng Anh và nhiều ngữ khác của các dịch giả chúng ta thời gian gần đây nhất, như những bản dịch của Nguyễn Khắc Viện, Lê Cao Phan, Huỳnh Sanh Thông, Lê Xuân Thủy, Lưu Hoài, Nguyễn Văn Qua… Truyện Kiều được các bậc túc Nho của ta bỏ công dịch khá nhiều lần sang Hán văn: Kim Vân Kiều Lục (nhà nho khuyết danh dịch khoảng đời Tự Đức, 1848–1883, được khắc in vào năm Đồng Khánh thứ 3, Mậu Tý (1888), Vương Kim tự truyện của Nguyễn Kiên, được Lê Doãn Khôi chép tay năm 1915, Kim Vân Kiều Hán tự lục bát ca của Lê Dụ dịch năm 1946, Việt Nam đoạn trường tân thanh tục xưng Kim Vân Kiều ca khúc dịch thành Hán tự cổ thi thất ngôn luật của Tư Nguyên Mạc – bản chép tay tác giả tặng Trường Viễn Đông bác cổ năm 1950, Thúy Kiều âm dịch xuất Hán tự của Lê Mạnh Điềm, Kim Vân Kiều truyện bình giảng của giáo sư người Hoa Chợ lớn Lý Văn Hùng do công ty ấn loát Gia Hòa Chợ lớn in năm 1955) và Hán dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập của lương y Trương Cam Vũ, in lần đầu năm 1961, nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh in lại năm 1996. Không kể một bản dịch Truyện Kiều sang Hán của cụ Bùi Kỷ đã thất lạc và Kiều tập thơ cổ của Phan Mạnh Danh một cách giới thiệu Truyện Kiều Hán văn khá đặc sắc và lý thú(7).

Kim Kiều Hán – Việt truyện của Thái Hanh là sự tiếp nối công việc của các bậc tiền nhân đi trước.

Ngay trong bức thư điện tử đầu tiên đề ngày 6.7.2006 gửi cho tôi, dịch giả Thái Hanh, sau vài dòng mở đầu thăm hỏi, đã ân cần thổ lộ: “Để đáp lại tấm thịnh tình của anh qua điện thư tôi xin sơ lược qua một vài nét về những khó khăn thuộc phạm vi chuyển dịch trong suốt 10 năm qua, và cũng để đánh dấu mối quan hệ của chúng ta xin anh vui lòng cho biết địa chỉ của anh để tôi gửi biếu anh một cuốn Kim Kiều Hán – Việt truyện làm kỷ niệm buổi sơ giao”. Vậy là chẳng bao lâu sau đó tôi đã có trong tay cuốn Kim Kiều Hán – Việt truyện. Cuốn sách dày tới 490 trang khổ 14,5 x 20,5, bìa mềm láng bóng, nền màu vàng đất, tên sách bằng hai thứ chữ Việt và Hán kiểu chân phương nổi lên đặt ở bên trên hình minh họa hai cô thiếu nữ vấn khăn, mình mặc áo tứ thân, hở yếm đỏ trước ngực, váy lĩnh buông chùng, ngang lưng thắt bao tượng, tay khoác chiếc nón quai thao, đang như đưa chân bước xuống bậc đá núi dưới tán cành đào xuân. Hình ảnh ấy ta có thể nhận ra ngay là hai cô gái Việt Nam trảy hội, khác hẳn hình ảnh minh họa Kiều bấy nay thường thấy: cô gái tóc chảy dài, thắt bồng trên đỉnh, hay gài tua tủa những chiếc trâm, xiêm áo lướt thướt như hình các cô tiên yểu điệu trong tranh Tầu. Khác với bút hiệu Thái Hanh ngoài bìa, trang bìa tác giả đề rõ thêm: Kim Kiều Hán – Việt truyện. Nguyên tác của Nguyễn Du (Tố Như tiên sinh). Dịch giả: Nguyễn Khắc Nhân. Ở trang 2 và bìa 4 người đọc còn được biết rõ hơn: Dịch giả Nguyễn Khắc Nhân bút hiệu Thái Hanh, sinh năm 1920 tại Nam Hà, Việt Nam. Là một nhà nho và hành nghề Đông y từ năm 30 tuổi. Di cư vào Nam năm 1954 và hiện định cư ở Melbourne Úc từ năm 1990. Thái Hanh – Nguyễn Khắc Nhân đã từng là tác giả nhiều sách chuyên môn về Đông y. Bên cạnh đó ông còn say mê văn thơ, ngoài bản dịch Kim Kiều Hán – Việt truyện ông còn sắp cho xuất bản Minh Đạo Gia huấn diễn ca (nguyên tác Trần Hy Di).

Về cuốn sách Kim Kiều Hán – Việt truyện, dịch giả cho biết trong thư đã nhắc đến ở trên, xin phép được trích dài dài ở đây để bạn đọc có thể cũng hình dung quá trình lao động sáng tạo của người dịch: … Và một ngày nọ khi thấy trên bàn học của lũ trẻ có quyển Kim Vân Kiều, tiện tay lật coi thì gặp ngay câu: “Đoái trông muôn dặm tử phần, hồn quê theo ngọn mây tần xa xa…” càng làm tôi ngao ngán nỗi nhớ nhà bèn thuận miệng dịch ra Nho văn: “Kham lân vạn lý tử phần, Hương tâm đồ tự huớng Tần linh vân”. Dịch xong đọc lên thấy hay hay, từ đó mới nẩy ra ý nghĩ dịch bộ Truyện Kiều. Còn Truyện Kiều thì từ nhỏ tôi đã được nghe tổ phụ bình luận và bản thân tôi cũng đã học thuộc nhiều đoạn dài từ lâu, nhưng nẩy ra ý dịch ra Nho văn thì từ năm 1970, khi còn ở miền Nam Việt Nam. Tôi làm nghề thầy thuốc Đông y khi nào thư nhàn mới dịch, có khi đang “ý thơ lai láng” thì lại có khách lại phải bỏ dở, lại có lúc bí vận nên cả tháng cũng chẳng nảy được mấy câu, do đó thời gian kéo dài đến 10 năm mới hoàn tất, vả lại đó cũng là một trò chơi văn chương không nhằm chủ đích thương mại cho nên cũng không quan tâm đến.

Cái khó là với thiển học của mình đôi khi cũng bù đầu với những câu văn oái oăm của cụ Nguyễn Du. Thí dụ để anh rõ như câu: “Chém cha cái số má đào, gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi…”. Như anh biết “chém cha” là tiếng chửi của miền Bắc vậy phải nghĩ cho ra câu “chửi thề” nào của miền Nam để đối dịch mới xứng, bấy nhiêu đó thôi cũng làm tôi vò đầu nghĩ mãi để rồi tạm dịch “Thống mạ đào hoa số nhân”. Lại như câu: “Gươm đàn nửa gánh qua sông một chèo”, thì lại phải dịch ngược qua sông một chèo trước, rồi mới gươm đàn nửa gánh sau: “Quá giang nhất trạo, kiên tòng kiếm cung” hoặc câu “Trước sau nào thấy bóng người, hoa đào năm ngoái còn cười gió đông” thì tôi dịch là: “Một vô nhân ảnh hậu tiền, đào hoa y cựu tiếu truyền đông phong”. Khởi thủy tôi dùng chữ tuyệt, nhưng sau thấy chữ tuyệt là mất hẳn không hay bằng chữ một; câu chữ ở Đường thơ của Thôi Hộ: “Đào hoa y cựu tiếu đông phong”, Nguyễn Du dịch ra là Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông, nay tôi lập lại câu chữ của Thôi Hộ và thêm chữ truyền cho đúng vận. Còn câu dùng ý như câu “Dưới cầu nước chảy trong veo, bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha” thì dịch là “Kê tiền lưu thủy y nhiên, thanh thanh chương liễu kiều biên mạc thùy…”.

Tong Truyện Kiều có 3254 câu, đây tôi chỉ gợi một vài điểm nhỏ, để trình bầy với anh, ngoài ra còn nhiều câu khúc mắc, nhiều chỗ oái oăm, điển tích, gập ghềnh, phức tạp nhiều khi đã thấy nản muốn bỏ cuộc, nhưng nhờ bà xã nhà tôi chọc giận bằng một bài thơ vịnh Thanh Tâm Tài nhân trong đó có câu: “Tài sắc làm chi cho đến nỗi, phong trần gánh nặng đến phờ râu…” Tôi mới phát cáu nói bà giỏi thử làm đi coi xem nó thế nào. Bà xã (Trần Thị Loan, bút hiệu Hoàng Cúc) mới nói nếu ông cho phép tôi được nối đuôi thì để tôi vịnh các nhân vật trong Truyện Kiều góp ý tiếp tay với ông một chút cho vui. Tôi trả lời là tôi chỉ dịch nguyên văn các câu thơ lục bát còn ngoài ra các câu ưa phức tạp vịnh hội dành phần cho bà đảm nhiệm hết, xem ai “phờ râu” trước nào. Từ đó bà nhà tôi mới “hóng túi thơ” đề vịnh. Thời gian thấm thoát như thoi của 10 năm trôi nhanh.

Khi sang Úc định cư với các con, tôi vẫn tìm người thuê đánh máy để in nhưng thiếu những phương tiện sắp chữ Hán. Gần đây (2004), con trai tôi là Nguyễn Khắc Triệu mới tìm được software đánh chữ Hán Việt của Tống Phước Khải mới đánh máy ra được, nhưng khổ nỗi con tôi lại không chuyên về Hán văn nên gặp phải nhiều lỗi chính tả của Hán ngữ vì thế trong tựa bài tôi đã xin lỗi sai và chỉ giáo thêm cho.

Nói đến chữ sai tôi mới nhớ lại rằng cái mục đích của tôi là chỉ muốn gieo một mầm Nho học chữ nghĩa của nước nhà nơi hải ngoại để con em chúng ta có tài liệu tham khảo thêm, vì thế những câu dịch của tôi chỉ dùng những chữ thông thường dễ dãi, bình dị, không trau chuốt cầu kỳ tối nghiã, cốt sao con em chúng ta biết nhận xét là đủ rồi phải không anh.

Như đã nói ở trên, cuốn sách dày 490 trang. Thực ra bản dịch Kim Kiều Hán – Việt truyện chỉ in bắt đầu là trang 27 và kết thúc ở trang 446, còn phần trước, mở đầu bằng một trang giới thiệu sách của linh mục Nguyễn Văn Vĩnh, bài tựa Kim Kiều Hán – Việt truyện của dịch giả Đông y sỹ Nguyễn Khắc Nguyên hiệu Thái Hanh, tiếp đến là phần Kim Kiều Hán – Việt đề, Kim Kiều Hán – Việt vịnh và Thập nhị hồi Kim Kiều Hán Việt của bà Thái Hanh Trần Thị Loan hiệu Hoàng Cúc. Và phần sau từ trang 466 đến hết cũng dành cả cho các bài Kim Kiều Hán Việt thi vịnh (48 bài) đều là sáng tác của Hoàng Cúc.

Bản dịch Kim Kiều Hán – Việt truyện chia ra thành 20 hồi, mở đầu mỗi Hồi bằng 2 câu thơ sáng tác của dịch giả. Chẳng hạn Hồi thứ nhất mở đầu bằng hai câu: “Bên đường khóc mả Đạm Tiên/ Đồng không bỗng thấy trên yên có chàng”. Hồi thứ hai mở đầu bằng: “Chiêm bao thơ tả đoạn trường/ Đồng tâm giao kết Kim Lang, Thúy Kiều”. Hay Hồi thứ hai mươi – cuối cùng: “Chiêu hồn dàn dựng vừa xong/ Biết đâu bi thái nằm trong luân hồi”.

Văn bản được in 4 câu thơ một, tách ra thành một khổ, bắt đầu từ 4 câu tiếng Việt sau đó mới tới từng câu dịch – phiên âm Hán được viết bằng tiếng Việt trước tiếp theo mới là câu thơ bằng Hán tự.

Chẳng hạn:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Được dịch là:

Bách niên trần thế chi gian

Hán tự

Mệnh tài lương tự đa hoàn tương sai

Hán tự

Tang thương biến cái ta tai

Hán tự

Sự kinh mục kích xúc ai ai hoài

Hán tự

Theo đánh giá của Linh mục Nguyễn Văn Vĩnh trong Lời giới thiệu thì “Cụ (dịch giả Thái Hanh) đã khéo léo sử dụng Nho văn một cách tài tình, nhất là áp dụng theo y thể lục bát”(8). Trong bài về Những bản Truyện Kiều dịch ra chữ Hán của tác giả Trần Văn Chánh đăng trên một số báo Sài Gòn thứ bẩy, năm 2004, cũng đưa ra nhận xét: “Riêng bản dịch của Thái Hanh vừa được xuất bản, chúng tôi nhận thấy dịch giả có nhiều công khai suất đáng trân trọng trong việc vận dụng chữ Hán để hình thành những câu thơ lục bát đúng với điệu truyền thống của thơ Việt. Công trình này ngoài thú vui văn chương tao nhã ra, ý nghĩa thực tế có thể không nhiều nhưng chứng tỏ được tấm lòng tha thiết yêu dấu đối với tiếng Việt và Truyện Kiều của một người Việt sống trên đất khách. Điều này chắc chắn sẽ có tác dụng khích lệ tình hoài hương đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, với nghiã rằng “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn…” như cách nói của Phạm Quỳnh năm nào. Câu thơ dịch và văn viết chữ Hán của cụ Thái Hanh tuy vậy cũng còn một số mặt hạn chế, nhiều chỗ có vẻ bình dân thô sơ, được cái là chân thành, sáng sủa… ngoài ra do sơ sót của người thao tác kỹ thuật khi sử dụng phần mềm gõ chữ Hán trên máy vi tính… bản in đã để lại khá nhiều lỗi ở phần chữ Hán. Nếu khắc phục được những lỗi này, bản dịch Truyện Kiều của Thái Hanh chắc chắn sẽ còn bổ ích và đáng được trân trọng hơn nhiều(9).

Nói gì thì nói nhìn chung Kim Kiều Hán – Việt truyện của Thái Hanh cũng đã là một việc làm thành công. Cuối năm 2005, dịch giả Thái Hanh đã nhận được giải văn chương của Thủ hiến Victoria Úc (Australia) trong phần đóng góp vào tài nguyên đa văn hóa xứ sở. Đó không chỉ là niềm vui của riêng dịch giả, gia đình, người thân của dịch giả và là niềm vui và cả niềm tự hào của chung mọi người Việt.

THÚY TOÀN

-----------

1. Phải chăng truyện Kiều chỉ là một bản sao “dịch”! (Trò chuyện giữa Hữu Ngọc và Nguyễn Quảng Tuân ở Huế), Hữu Ngọc, Văn nghệ số 37, 11/9/2006.

2. Kim Vân Kiều truyện, Nguyễn Du, bản dịch ra Hán văn, nhân dân văn học xuất bản xã, Bắc Kinh 1958.

3. Tạp chí “Văn nghệ”, số 9 tháng 2 năm 1958, trang 120 – 121.

4. Nguyễn Du – Nhà thơ Việt Nam kiệt xuất và truyện Kiều của ông , Lưu Thế Đức – Lý Tú Chương, tạp chí văn học bình luận “Trung Quốc, số 6 tháng 12 năm 1965, bản dịch tiếng Việt của Cao Hữu Lang, kỷ yếu kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du”, NXB khoa học xã hội, Hà nội, 1967, trang 569.

5. Truyện Kiều , song ngữ Việt Hoa, NXB Văn nghệ 2006.

6. Thống kê không đầy đủ đã có bản dịch Truyện Kiều 14 bản sang tiếng Pháp, 6 bản sang tiếng Anh, 4 bản sang tiếng Nhật, các ngữ khác như Ba Lan, Crech, Rumani, Hungari, Hàn Quốc… mỗi ngữ 1 bản. Xem thêm Truyện Kiều những kỷ lục, Phạm Đan Quế, NXB Thanh niên, Hà Nội 2003.

7. Một bản dịch Kiều ra chữ Hán, Kim Vân Kiều lục , Trúc Khê, Tạp chí “Tri Tân”, số 1, ra ngày 3.6.1941, trang 12 - 13

Những bản dịch Truyện Kiều độc đáo , Thế Anh, bản tác giả tặng.

8. Thái Hanh, Kim Kiều Hán – Việt truyện, 1971 – 2004, First Published, 2004, trang 1.

9. Sài Gòn thứ bẩy, số 700, 21.8.2004.


Phụ Bản III

CA KHÚC NĂM MỚI

CỦA THẾ GIỚI VÀ CỦA VIỆT NAM

CA KHÚC NĂM MỚI “AULD LANG SYNE” CỦA THẾ GIỚI


Đây là một bài dân ca Âu châu thế kỷ 18, “Auld Lang Syne” là một bài thơ Scotland, do thi sĩ Robert Burns viết năm 1788 và được phổ nhạc thành một ca khúc dân ca cổ truyền. Bài hát được biết đến ở nhiều nước nói Anh văn, cả các quốc gia khác và thường được hát trong thời khắc giao thừa để bắt đầu năm mới.

“Auld Lang Syne” là phương ngữ Anh văn ở Scotland – một trong 4 xứ kết hợp thành Liên hiệp Vương quốc Anh, nổi tiếng với rượu Whisky (Whiskey, US và Irish) và luôn luôn muốn tách ra khỏi Liên hiệp, gồm có England, Wales, North Ireland và Scotland. Câu đó có thể được dịch sang Anh văn hiện đại là “Old long since”, “Long long ago” (cách đây rất lâu), “Days gone by” (những ngày đã qua) hay “Old times” (thời xưa). Vì vậy, “For auld lang syne” có nghĩa là “cho thời gian qua với những ngày xưa thân ái”… như câu đầu tiên của phần điệp khúc, được dịch thoát ra Anh văn là “For (the sake) old times”.

Lịch sử và Nội dung Bài hát

Thật ra, bài dân ca này được hát hơn 150 năm, trước khi Burns tình cờ nghe được, rồi rung động bởi ca từ, đặc biệt là câu “should old acquaintances be forgotten” từ một ông lão hát rong và chép nó ra. Burns thêm ít nhất hai khổ nhạc mới vào bài hát có sẵn theo giai điệu ngũ âm của Scotland.

Rồi Burns gửi cho bạn mình là James Johnson, một nhà xuất bản của Viện Bảo tàng âm nhạc Scotland kèm lá thư: “Đây là một bài hát cổ truyền, có từ thời xưa và chưa hề được in ấn hay phát hành, thậm chí cũng chưa có ở dạng bản thảo, cho tới khi tôi chép ra từ miệng của một ông lão”. Johnson hoãn xuất bản cho tới khi Burns lìa trần…

Lời nhạc lặp đi lặp lại một ý chính: Chúng ta có nên quên đi những người quen cũ, những bạn bè thân ái ngày xưa? Và dĩ nhiên nó ngầm mang ý nghĩa chúng ta sẽ chẳng bao giờ quên!

Trong những đoạn khác của lời nhạc, tác giả nhắc đến những kỷ niệm êm đềm cùng bạn bè rong chơi, hái hoa ngoài cánh đồng, bơi trong dòng suối… nhưng bây giờ bạn bè, người thân cũ, đã bị ngăn cách bởi sóng gió trùng dương…

“Auld Lang Syne” gợi nhớ những gì êm ái của quá khứ, của ngày tháng cũ. Việc hát bài này vào ngày Tất niên hay Giao thừa, nhanh chóng trở thành một phong tục của người Scotland và sớm lan truyền tới những nơi khác trong Vương quốc Anh. Khi người Scotland di cư khắp nơi trên thế giới, họ mang Bài hát theo. Các bài báo ở cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 mô tả rằng những người ở hai bờ Đại Tây Dương đều hát bài này để đánh dấu sự khởi đầu của năm mới.

Guy Lombardo, trưởng ban nhạc Canada “The Royal Canadiens”, thường được công nhận là người đã đại chúng hóa việc sử dụng Bài hát “Auld Lang Syne” tại những buổi lễ Đón Năm mới ở Hoa Kỳ. Từ năm 1929, Bài hát đã trở thành thương hiệu của ông qua những chương trình phát thanh thường niên trên Đài phát thanh và Truyền hình. Ngoài ra, Lombardo còn thâu âm Bài hát vào năm 1939.

Một bản chép tay cổ Bài hát “Auld Lang Syne” hiện được lưu giữ trong bộ sưu tầm vĩnh cửu của thư viện Lilly tại Đại học Indiana ở Bloomington, tiểu bang Indiana, Mỹ.

Trong văn hóa thế giới

Theo truyền thống, “Auld Lang Syne” được hát vào lúc kết thúc các cuộc sum họp vào dịp Năm mới ở khắp thế giới, đặc biệt là ở những nước nói tiếng Anh. Thông lệ phổ biến là mọi người nắm tay người bên cạnh mình để tạo thành một vòng tròn lớn quanh sàn nhảy. Đầu khổ nhạc, mọi người bắt chéo hai tay trước ngực, tay phải cầm tay trái người bên trái và ngược lại. Khi giai điệu kết thúc, mọi người tiến vào giữa vòng tròn trong khi vẫn cầm tay nhau.

Ở các nước tay thường bắt chéo nhau từ đầu bài hát, khác với phong tục Scotland. Thông lệ ở xứ này được Nữ hoàng Elizabeth II biểu thị trong đêm giao thừa mừng năm 2000 ở mái vòm Thiên Niên kỷ. Báo chí Anh chỉ trích vì Bà không bắt tay cho “đúng cách” mà không biết rằng, Bà làm theo truyền thống Scotland.

Không chỉ dịp Năm mới, “Auld Lang Syne” còn được sử dụng rất rộng rãi để thể hiện sự “kết thúc hoặc khởi đầu mới” khác: lễ tốt nghiệp, kết thúc một bữa tiệc (không phải năm mới), đám tang, buổi sinh hoạt hướng đạo sinh, bầu cử một chính phủ mới và thậm chí đóng cửa một cửa hàng bán lẻ…

Giai điệu cũng được sử dụng rộng rãi cho những lời hát khác nhau, đặc biệt là những bài hát về thể thao và cả quốc ca. “Auld Lang Syne” được ghi nhận đã hiện diện và có nhiều ý nghĩa quan trọng ở trất nhiều nước (không nói tiếng Anh) trên thế giới: Bangladesh, Trung Quốc, Đan Mạch, Pháp, Hy Lạp, Hungary, Ba Lan, Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan…

Với điện ảnh

Bài hát được sử dụng trong khá nhiều phim, dưới đây là một số cột mốc đáng chú ý của “Auld Lang Syne” trong các bộ phim nổi tiếng:

- Bài hát này xuất hiện đầu tiên trong điện ảnh với bộ phim The Black Watch (1929) của John Ford.

- Đạo diễn Frank Capra đã đưa Bài hát vào trong nhiều bộ phim của ông: Mr Deeds Goes to Town (1936), Mr Smith Goes to Washington (1939) và It’s a Wonderful Life (1946).

- Trong một cảnh nổi tiếng ở phim Wee Willie Winkle (1937), thần đồng điện ảnh Shirley Temple đã hát cho một người lính Scotland đang hấp hối nghe bài này.

- Phim Waterloo Bridge (1940) với diễn viên chính Vivien Leigh và Robert Taylor đã sử dụng bài này dưới tên Farewell Waltz.

- The Gold Rush của Charlie Chaplin, bản phát hành lại năm 1942 với âm thanh được thêm vào, có Bài hát này trong cảnh tiệc giao thừa.

- Scandal (1950) của Akira Kurosawa, đã phát Bài hát ở một quán bar đêm Noel.

- The Steel Helmet (1951) của Samuel Fuller: Nhóm lính Mỹ sửng sốt khi phát hiện rằng giai điệu này cũng được dùng làm quốc ca Hàn Quốc, khi nghe cậu bé bản xứ đi theo họ, hát “Auld Sang Syne” bằng tiếng Hàn.

- The Poseidon Adventure (1972): Những hành khách trên tàu hát vang Bài này vào đêm giao thừa, khoảnh khắc trước khi tàu bị sóng thần lật úp.

- The Last Emperor (1987): Khi gia sư của hoàng đế Phổ Nghi lên thuyền rời Trung Quốc để trở về nước Anh, một dàn nhạc nhỏ của Trung Quốc trình diễn Ca khúc này bằng nhạc cụ truyền thống.

- Ghostbusyers II (1989): Hàng ngàn công dân thành phố New York hát bài này trong một khoảnh khắc hòa bình, yêu thương và đoàn kết sau những hành động tiêu cực dai dẳng.

- Phần 2 trong tác phẩm bộ ba Infernal Affairs (Vô gian đạo -2002), giai điệu của Bài hát vang lên khi trừ khử một trùm băng đảng của hội Tam Hoàng.

Vài sự kiện liên quan đến “Auld Lang Syne”:

- Kỷ niệm lần thứ 250 ngày sinh của Robert Burn, nước Anh đã phát hành Đồng tiền xu 2 bảng. Mặt sau có câu trích dẫn từ Ca khúc này: “We’ll take a cup a’ kindness yet, for auld lang syne” (Chúng ta cùng nâng ly vì những điều tốt lành cho những ngày tươi đẹp cũ). Kiểu chữ dựa theo chữ viết tay của Robert Burns, xung quanh là hàng chữ số 1759 Robert Burns 1796.

- Trước khi bản quốc ca chính thức của Hàn Quốc là Aegukga, lời quốc ca được hát theo giai điệu của bài “Auld Lang Syne”, cho tới khi nhạc sĩ Ahn Eak-tai sáng tác giai điệu mới cho lời ca hiện nay.

- “Auld Lang Syne” đã cất lên để những người lính Anh cuối cùng rời khỏi Ấn Độ vào năm 1948, khi lá cờ Anh được long trọng kéo xuống lần cuối. Tương tự, Ca khúc được sử dụng tại buổi lễ nước Anh trao trả Hong Kong về với Trung Quốc năm 1997.

LỜI CHÍNH THỨC CỦA BÀI HÁT “AULD LANG SYNE”:

Should auld acquaintance be forgot and never brought to mind?

Should auld acquaintance be forgot and days of Auld Lang Syne?

For Auld Lang Syne, my dear, for Auld Lang Syne.

We’ll take a cup of kindness yet and days of Auld Lang Syne.

We never will forget our friends or lose the ones we know.

We never will forget our friends or the days of long ago.

A long time ago, my dear, a long time ago.

Let’s think about the things we did in the days of long ago.

And there’s a hand, my trusty fiere

And gie’s a hand o’thine.

And we’ll take a right guild willie-waught

For Auld Lang Syne.

Lời Việt:

Cùng điệu nhạc này, người Việt hát theo lời sau đây vào những lúc kết thúc buổi sinh hoạt tập thể như trại hè hoặc hướng đạo :

Giờ đây anh em chúng ta cùng nhau giã từ lòng còn lưu luyến

Cách xa nhưng ta hằng mong rồi đây có ngày còn được gặp nhau.

Bài khác có tính cách vui đùa của trẻ con ở Việt Nam có khi được hát với những lời nhạc như sau:

Ò e, con ma đánh đu, Tarzan nhảy d ù, Zorro bắn súng.

Chết cha con ma nào đây, thằng Tây nhảy dù, thằn lằn cụt đuôi.

Và khi hát đến giai điệu này thì mọi người ra về


CA KHÚC NĂM MỚI CỦA VIỆT NAM


1)- XUÂN VÀ TUỔI TRẺ - Nhạc: La Hối. Lời: Thế Lữ (Điệu Valse)


Ngày thắm tươi bên đời Xuân mới. Lòng đắm say bao nguồn vui sống.

Xuân về với ngàn hoa tươi sáng. Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng.

Ngày thắm tươi bên đời Xuân mới. Lòng đắm say bao nguồn vui sống.

Xuân về với ngàn hoa tươi sáng. Ta muốn luôn luôn cười với hoa.

Xuân thắm tươi, én tung bay cao tít trời. Vui sướng đi cao tiếng ca mừng vui reo.

Đừng để lòng thổn thức tình mê đắm. Ta trẻ vui. Ta trẻ vui đời Xuân thắm tươi.

Xuân thắm tươi, én tung bay cao tít trời. Vui sướng đi cao tiếng ca mừng vui reo.

Đừng để lòng thổn thức tình mê đắm. Ta trẻ vui. Ta trẻ vui đời Xuân tươi.

Vui sướng đi cho đời tươi sáng. Vui sướng đi cho lòng thêm tươi.

Ta hát ca đón mừng Xuân Mới. Ta hát ca cho lòng thêm hăng hái.

Hát vang lên đời ta thắm tươi. Tiết Xuân huy hoàng muôn sắc hoa.

Tiết Xuân êm đềm muôn tiếng ca. Hát vang hòa lòng thêm hăng ca.

Xuân tưng bừng!


2)- GIÓ MÙA XUÂN TỚI – của Hoàng Trọng


Gió mùa xuân tới cánh hồng tươi thắm trong nắng vàng

Muôn bướm tung bay mang sắc tươi phô cùng trời sáng

Gió mùa xuân tới bóng hồng tha thướt trong nắng đào

Kiếp sống cô đơn mơ ước ôm trong lòng hoa tươi

Xuân reo khắp nơi trời ngát hương trầm lòng mang vấn vương

Hồn say mộng ước cùng những đóa hoa

ấp ủ trái tim hướng những phút say mơ

Với mùa hoa thắm khắp trời xuân sáng vui tưng bừng

Muôn sắc khoe tươi reo hát ca vang mừng trời Xuân

Trời sáng tô màu sắc cho những cánh hoa khi trời Xuân

Thắm tô cho đời muôn mầu

Nồng ngát hương thơm trời xuân mang niềm nhớ

Cho những kiếp người sống cô đơn

ước mong mùa xuân rắc reo khắp nơi trần thế


3)- XUÂN HỌP MẶT – của Văn Phụng


ĐK: Xuân đã về, xuân vẫn mơ màng trong nắng vàng, khắp chốn tiếng reo vang.

Xuân đã về, xuân vẫn huy hoàng trong gió ngàn mừng đón xuân sang.

PK1:Vui mùa xuân năm nay gần nhau, nhớ khi xưa lúc ngây thơ, cầm tay hỏi nhau ngẩn ngơ, đến bao giờ đón xuân mơ. (ĐK).

PK2:Vui mùa xuân năm nay gần nhau, nhớ khi nào lúc ra đi, cầm tay hẹn câu chờ nhau, đến bến cầu, nắng xuân sau. (ĐK).

PK3:Vui mùa xuân năm nay gần nhau, hát vang câu mến thương nhau, cầm tay nhìn nhau cùng mơ, ước mơ xuân đến bao lần.

Xuân đã về, xuân vẫn mơ màng trong nắng vàng, khắp chốn tiếng reo vang.

Xuân đã về, xuân vẫn huy hoàng trong gió ngàn mừng đón xuân sang.

Nâng phím đàn cùng hát ca vang, trong gió ngàn mừng đón xuân sang

Mừng một ngày gần nhau, cùng mừng xuân mới.

Phạm Vũ


Một truyện ngắn của nhà văn Lê Văn Trương
mà rất ít người trong chúng ta được đọc…

NẾU TÔI ĐẾN CHẬM

MƯỜI LĂM PHÚT…

Hồi đó, tôi mới có hai mươi mốt tuổi. Cái tuổi ấy nói dài ra về câu chuyện xẩy ra cho tôi tối hôm mồng hai tết ở giữa đất Saigon.

Tôi nhớ hồi đó tôi còn là một thằng bé ngu-ngốc, chẳng hiểu một chút xíu nào về những hiểm-hóc của đời. Và chưa từng biết “nuốt” những cái mà một người khôn-ngoan cần phải biết “nuốt” để được sống vui-vẻ với kẻ khác và tránh những phiền-lụy cho mình.

Trái tim hai mươi mốt tuổi của tôi còn nhiều điều kiêng-kỵ. Nó không cho phép tôi có thể chiều người khác – mặc dầu người ấy là một người đàn bà – bằng cách đè-nén hết cả bản-ngã để có thể thản-nhiên ăn một trái chua người ta đưa mời mình, rồi tắm tắc khen là ngọt.

Chiều đàn-bà? Thì hỏi ai là người không chiều đàn-bà. Không chiều đàn-bà có chăng là một thằng quỷ. Tôi vì tuổi trẻ, vì lòng còn bồng-bột quá, mà một xuýt nữa cũng gần thành một thằng quỷ. Hồi ấy, tôi chỉ có thể chiều đàn-bà những cái mà tôi xét có thể chiều, và không hại cho nhân-phẩm làm người của tôi.

Tôi chưa thuộc lòng cái mánh-khóe của những tay thạo đời: “Đối với đàn-bà, cứ chiều họ, chiều họ dấn lên là rồi họ phải thương nhớ mình suốt đời. Họ không thể bỏ mình đi với người khác được. Vì mình đã gây ra cho họ biết bao nhiêu thói xấu mà không có một người khác nào có thể chiều”. Không có một người khác nào có thể chiều thì lẽ tất-nhiên họ phải nhớ nữa tới mình. Cái mánh-khóe ấy hiệu-nghiệm lắm. Người nghĩ ra nó khôn-ngoan lắm. Nhưng tôi đã nói với các ngài rằng hồi ấy tôi mới có hai mươi mốt tuổi, tôi chưa khôn-ngoan mà!

Cô Hai “Hãng đá” yêu tôi vì lẽ gì? Tôi không biết.

Có lẽ vì tôi trẻ, có lẽ vì tôi khỏe mạnh, có lẽ vì cái bộ mặt hiền-lành và khờ dại của tôi. Hay vì ăn thịt mãi, cô muốn đổi bữa ăn rau xem nó có ngon miệng không? Hay là đã lăn lóc bao nhiêu năm trong cõi yên-hoa, từng đòi phen chạm trán với những cáo già, sói lớn, cô thử nếm cái vị… thịt cừu non xem nó ra làm sao?

Vì lẽ gì hay vì cả ngần ấy lẽ mà cô yêu tôi, tôi không biết, nhưng chắc-chắn được một điều là vì tiền thì không. Bởi một lẽ rất thường mà các ngài có thể tin chắc-chắn, là hồi ấy tôi kiếm còn chưa đủ ăn thì lấy đâu tiền mà cho gái?

Tôi cũng không còn nhớ hồi ấy tôi “mần ăn” ra sao mà được cô yêu.

Chỉ biết mỗi khi tôi có việc qua Saigon là y như tôi đến thăm cô. Thế nào cô cũng giữ tôi ở lại chơi nhà cô một ngày. Và khi về, thế nào cô cũng dặn khan, dặn vã:

- Lần sau có qua đây, thầy ba nhớ ghé nhà em chơi nhé, không em giận lắm đa!

Cô có đẹp hay không thì hồi đó, tôi cũng còn ngờ-ngợ vì tôi chưa có một quan niệm chắc-chắn về cái đẹp, nhưng biết chắc một điều là lòng yêu của tôi bị ảnh-hưởng bởi cái tên của cô nhiều lắm. Cô Hai? Lại cô Hai Hãng đá. Cứ một cái tên “Hãng đá” cũng đủ quất, vụt vào tính tò-mò của tôi rồi.

Một khi đứng trước mặt một người đàn-bà mà lòng tò-mò nổi dậy thì nguy rồi. Vì nhìn ngắm mãi một người đàn-bà, thế nào cũng tìm thấy cái đẹp. Mà lục-lọi mãi vào đời họ, thế nào cũng tìm thấy có chỗ đáng yêu.

Phương-chi lúc ấy tôi lại đang khao khát yêu đương, đang cố tìm ra cái đẹp để mà yêu cho ấm-áp những ngày cô-quạnh ở một nơi đồng xa đất lạ.

Yêu nhau rồi, tôi mới hỏi lai-lịch cái tên rắn rỏi của cô thì thưa các ngài, có cả một trang tiểu-sử lâm-ly mà cô đã rủ-rỉ rót vào tai tôi. Nhưng tôi có thể thu vắn tất cả trong một câu: “cô nguyên trước là vị phu-nhân tay trái của một… quan tây đứng chủ một hãng làm nước đá rượu bia”.

Cái thân-thế những vị phu-nhân tay trái của các quan tây, chẳng nói thì các ngài đã thừa rõ. Nó bắt đầu từ một đêm thao-thức mà quan tây thấy xác-thịt mình đòi hỏi… một sự cần dùng cấp-bách, rồi nó kết-thúc ở dưới chân cầu tầu hãng Ba-sao là lúc quan tây đã no mùi thuộc địa, giở về quý-quốc. Rồi thì vị phu-nhân tay trái ấy lại đi tìm một quan tây khác để tái-đăng. Tấn-kịch cổ cứ luôn luôn diễn mới lại. Mà lúc hạ màn ở dưới chân cầu tầu, cũng chính là cái lúc tấn kịch lại sắp bắt đầu.

Tôi biết cô Hai trong cái thời kỳ cô nghỉ dưỡng sức để chờ đăng khóa… lính thứ hai trong cái đội lính phụ-nữ annam mà một trăm cớ bị thải-hồi thì 99 nằm trong câu: moa pạc-ti ăng foong.

Biết nhau được chừng nửa tháng thì một hôm cô bảo tôi:

- “Thầy ba ơi! Ngày mai em phải… đi lấy chồng!”

Cuộc phân-ly tuy ngao-ngán, nhưng nó cũng không đau xót lắm vì từ khi mới biết nhau, tôi và cô đều đã tính đến cái lúc lìa tan này.

Trên con đường dài dằng-dặc của cái kiếp giang hồ mà cô đã bước, đang bước và sắp bước, tôi chẳng qua chỉ là cái bóng mát để cho cô nghỉ chân.

Ấy thế là từ Mỹ Tho chỗ chúng tôi biết nhau, cô theo một quý-quan về Saigon, còn tôi thì đi Nam-Vang.

Cũng tưởng cuộc tình-duyên tôi đối với cô rồi đến đúng như câu thơ nhà thi-sỹ:

Mình như hoa dưới sông

Ta như khách qua cầu:

Nhìn nhau không chớp mắt

Gặp nhau không hội sau.

Nhưng không, hai tháng sau, tôi nhận được một phong thư của cô đinh-ninh dặn tôi khi qua Saigon thế nào cũng phải ghé vô thăm.

Có lẽ cái tuổi trẻ hăng-hái bồng-bột và thành-thực của tôi đã đem đến cho lòng cô một kỷ-niệm ấm-áp nó làm cho cô nhớ mãi con người măng-sữa đã yêu cô bằng một thứ tình thơ mộng – dù là chỉ thứ tình rong chốc lát.

Chỉ có tuổi trẻ mới biết yêu như thế. Chỉ có tuổi trẻ mới đủ năng-lực mà yêu như thế. Chỉ có tuổi trẻ mới đủ điều-kiện để thi-vị-hóa một cuộc tình-duyên chốc lát, một cuộc gặp-gỡ giữa đường.

Viết đến đây, sờ lên mái tóc đã nhuốm phong-sương, thấy giòng máu chạy trong người không còn là giòng máu nóng hổi của thủa xưa, tôi bỗng thấy lòng tôi bị xâm chiếm bởi một u-hoài. Rồi tôi bồi-hồi nhớ tới những phương trời xa thẳm mà hồi trẻ-trung tôi đã sống. Cả tấm lòng hoài-cảm của tôi chạy về xứ Nam-kỳ yêu-đương mà tôi đã để lại ở đấy những mảnh lòng son trẻ.

Từ một thằng bé vô-tư-lự chẳng bao giờ thèm để ý đến ngày mai, tôi đã thành một người với tất cả những đắn-đo mà sự sống bắt buộc tôi cần phải có.

Còn đâu cái thời-kỳ thần-tiên mà thọc tay vào túi quần, với dăm đồng bạc trong ví, tôi nghênh-ngang lê gót giầy qua phố Catinat, tưởng mình là người giàu nhất thiên-hạ.

Còn đâu những ngày mơ-mộng mà nhìn ngôi sao sáng tôi tin chắc-chắn rằng ngôi sao số-mệnh của tôi rồi đây cũng sáng như thế, hơn thế nữa.

Cả cái tuổi vàng ấy đã trôi đi, trôi đi trong xứ Nam-kỳ yêu-đương là nơi mà tôi bắt đầu tiếp sức với thế-sự và đã vỡ lòng những bài học kinh-nghiệm đầu tiên của đời tôi.

Rút mãi tim tình, tim hết sợi,

Còn thừa cái xác rách trơ thôi.

Đầu xanh đem tẩm mùi đau khổ

Về tuổi già thêm ngán sự đời.

Câu thơ của nhà thi-sỹ Tchya, lúc này, đem đến cho tôi một dư-vị vừa chua lòng vừa chát miệng.

Tôi nhớ đến cái tuổi xuân đã không còn nữa!

Tôi về Saigon thăm cô Hai ba lần thì ba lần tôi thấy hoa đổi chủ.

Lần thứ tư thì tôi gặp một tai-nạn bất-kỳ nó khiến cho tôi phải đi lang-thang suốt đêm ở hè phố Saigon.

Cái tai-nạn ấy, tự tôi gây ra hay là tự cái tuổi trẻ đầy ngay thẳng và giầu lòng danh-dự của tôi gây ra thì đúng hơn.

Ăn Tết ở xứ người vẫn là một cái khổ, một cái buồn. Huống chi lại ăn Tết ở xứ Cao-mên thì cái khổ ấy càng khổ hơn, cái buồn ấy càng buồn hơn.

Tôi sực nghĩ đến cô Hai. Ngay hôm mồng một tết, tôi đánh giây thép về Saigon. Rồi sáng mồng hai, tôi đi chuyến xe thơ đầu tiên.

Lúc hai giờ, xe đến Saigon, tôi đã thấy cô Hai chờ đón tôi ở bến xe. Chúng tôi chúc tết nhau, chúng tôi hôn nhau bằng những cái nhìn, rồi chúng tôi đưa nhau đi chơi. Trong khi chuyện trò, cô Hai nói cho tôi biết bây giờ cô không lấy Tây nữa, cô lấy lẽ một ông Hội-đồng giầu có ở Baria, mỗi tuần-lễ hai lần ông về Saigon với cô. Mà hôm nay là ngày ông ta về! Cô rất tiếc rằng bây giờ không thể ở được với tôi lâu.

Tôi vừa sắp tin là một điềm gở cho cái năm đang tới và tôi đang tính mẩm không biết tối nay ngủ đâu thì cô đã vội nói thêm:

- Nhưng độ tám giờ thì “lui” về vì tết “lui” không thể ở cả đêm được. Vậy độ chín giờ, mình lại, em chờ mình nghe.

Rồi khi từ-giã, cô lại nói thêm một câu nó làm cho tôi nóng rực cả người:

- Chúng mình sẽ hết sức… sung sướng để mừng năm mới, nghe!

Thôi thế là số giời đã tiền-định rằng tôi phải mở đầu cái năm mới này bằng sự cắm một cặp sừng nhung xinh-xẻo lên đầu một ông Hội-đồng bệ-vệ, mặc dầu trên ve áo của ông có đính một tấm băng đỏ lòe của cái Bắc-đẩu bội-tinh.

Tấm băng đỏ lòe ấy tôi nhìn thấy hiện ra cùng với bộ áo trào trắng bốp khi năm giờ tôi lượn qua cửa nhà cô Hai để dò-xét địa-thế trước.

Tôi xin thú thực rằng tấm băng đỏ nhỏ xíu ấy hơi làm cho tôi sợ. Nhưng trong cái tuổi hai-mươi-mốt, người ta có sợ chẳng qua chỉ sợ trong chốc lát. Mà cái sợ chốc lát là cái phản-ảnh dĩ-nhiên của cái can-đảm nó sắp hiện ra.

Thứ-nhất ở… trên một chiếc giường ấm-áp kia, một cô gái mỹ-miều đang hứa-hẹn cho mình lắm cái say-sưa thì cái chốc-lát ấy lại càng… chốc lát lắm lắm.

Tôi đi qua, cô Hai cũng trông thấy. Cô thừa một lúc ông Hội-đồng quay mặt đi, liền gửi cho tôi một cái hôn gió, rồi nháy nháy con mắt như có ý bảo:

- Mình hẵng chịu khó chờ.

Cô lại lắc đầu một cách ngao-ngán rồi giún vai một cái như để diễn một ý nghĩ ngầm chứa trong lòng. Cái lắc đầu và cái giún vai ấy, tôi có thể dịch nghiã bằng câu:

- Mình cũng nghèo, tôi cũng nghèo, chúng ta đều phải sống, biết làm thế nào!

Cái giún vai và cái lắc đầu ấy làm cho tôi thương-hại cô và tôi lại thuơng-hại cả tôi nữa. Vì mình nghèo không thể đường-hoàng bao một người tình-nhân, cho nên mình mới phải lẩn-lút. Nhưng tôi lại vội an ủi tôi ngay bằng cái ý-nghĩ: “Tuy lẩn-lút, nhưng cái phần người ta đem hiến mình là cái phần đẹp đẽ hơn, bởi ít nhất cũng có một chút lòng vào đấy”.

Nhưng rủi cho tôi, ý-nghĩ ấy liền đem đến cho tôi một ý-nghĩ khác: “Tôi biết cô Hai Hãng đá trước. Thế thì chính ông Hội-đồng cắm sừng lên đầu tôi, chứ có phải tôi cắm sừng lên đầu ông đâu”.

Theo thời gian mà luận thì đúng như thế. Nhưng các ngài ơi, tuổi trẻ hiếu-thắng có chịu thua kém ai bao giờ, thứ nhất lại thua kém ở cái chỗ bị mọc sừng, dù cặp sừng ấy do một người có Bắc-đẩu bội-tinh ban cho. Tôi liền vội tìm ngay lý do để bào chữa. Lúc ấy, tôi cho rằng nếu thế mà gọi là tôi bị mọc sừng thì chính là đồng-tiền cắm sừng lên đầu tôi, chứ không phải là ông Hội-đồng. Vì ông Hội-đồng ấy, nếu không nhiều tiền thì khi nào cô Hai khứng để cho ông lui tới nhà cô.

Còn nếu thế mà bảo rằng ông bị mọc sừng thì ô-hô! Chính là những cặp sừng tôi cắm, tôi cắm một cách… chắc-chắn, vì tôi chẳng cần nhờ một thứ gì mà cũng có thể cắm lên được.

Khổ quá, tuổi trẻ cứ hay lý-luận. Họ không bao giờ chịu đi tới đích ngay. Họ như cái anh dại-khờ kia đứng cạnh một kho vàng cứ phí thì-giờ ngắm-nghía mà không biết hưởng ngay. Họ không biết giá trị câu châm-ngôn: “Cứ hưởng, cứ hưởng, đừng có hỏi tại làm sao mà mày được hưởng?”.

Tôi vừa đi lững-thững trên hè phố, vừa lý-luận mãi về chỗ mình được cắm sừng hay mình bị mọc sừng. Cho đến khi tôi bước chân vào nhà cô Hai, vẫn chưa ngã ngũ về phần ai được cắm hay bị cắm cái cặp sừng quái-ác?

Trông thấy tôi, cô liền rú lên rồi ôm chầm lấy:

- Y vừa mới đi xong được chừng vài phút!

Không hiểu sao câu nói ấy làm cho tôi một-hứng. Tôi xin thề rằng tôi không sợ chạm trán với ông Hội-đồng. Nhưng tôi có cảm tưởng rằng tôi là kẻ đến sau trong một bữa tiệc mà người ta đã ăn thừa mứa.

Thì cả gian phòng, cả cái giường tây, cả thân-thể cô Hai đều chứng tỏ sự thừa mứa ấy một cách quá rõ rệt! Gian phòng bừa bãi những mẩu sì-gà, những nút xâm-banh, những vỏ cam, những tàn thuốc lá. Mà chiếc giường thì tấm khăn giải nát nhầu, chiếc gối lệch bầy ra cả một cảnh hỗn độn của một chiến-trường sau khi… im tiếng súng. Còn đến như cô Hai thì ôi thôi! Thật là hình-ảnh của một cánh đồng cỏ tàn-dụi mà cả một đoàn kỵ-mã hung dữ đã đi qua. Tóc thì xổ, sơ-mi thì một giải tụt xuống vai, mặt phấn đã bị mồ-hôi làm cho loang-lổ, con mắt thì lờ-đờ, nó biểu-lộ một sự nhọc mệt của cơ-thể.

Giời nóng mà tôi bỗng thấy lạnh giá chân tay. Bao nhiêu những thèm muốn vừa năm phút trước đây làm tôi phát sốt, phát rét, bây giờ bỗng trút sạch khỏi người tôi.

Cái lỗi, có lẽ là vì tôi đến sớm quá. Nếu tôi đến chậm mười lăm phút hay chỉ mười phút thôi! Thì cô Hai đã có đủ thì-giờ làm lại một khung cảnh để tiếp đón tôi cho nó xứng-đáng với sự chân-trọng của một cuộc gặp gỡ đầu năm.

Mười phút hay mười lăm phút? Cái mẩu thời-khắc ngắn-ngủi ấy, có khi quan-trọng bằng cả một thế kỷ. Nó gây ra những ảnh-hưởng to lớn không ngờ.

Trước cảnh-tượng tàn-phá khốc-liệt, trước bữa tiệc thừa mứa ấy, bao nhiêu khoái-cảm trong người tôi đổ xuống ầm-ầm. Những mảnh vụn bắn tung tóe họp thành một chán chường nó đưa lên mũi tôi một mùi tử-khí.

Thấy cái bộ mặt lai ngơ-ngác của tôi, cô Hai Hãng đá hiểu ngay. Cô muốn chữa một sự lầm-lỡ nhưng vô-tình cô đem thêm sự lầm-lỡ này vào sự lầm-lỡ khác.

Cô ôm tôi, bắt ngồi xuống giường, cô hôn hít, rồi cô với cầm một đĩa cam, một chai xâm-banh. Cô mở nút kêu đánh bốp, rồi cô rót một cốc đầy đưa cho tôi.

- Trà lủy mua cho em nhiều xâm-banh lắm. mình dùng một cốc đi cho… nóng người

Không hiểu sao lúc ấy tôi liền nhìn ngay thấy ở trong cái cử-chỉ của cô một trơ-trẽn một bẩn-thỉu mà cái tuổi hai-mươi-mốt không cho quyền tôi được “nuốt” trôi.

Tôi là một thằng nghèo, tôi phải… nhường bước cho những ông Hội-đồng bệ-vệ có Bắc-đẩu bội-tinh. Tôi phải nhường bước cho những con “cóc vàng”, được. Nhưng lợi-dụng những cốc rượu xâm-banh mà những con “cóc vàng” ấy đã mua trữ để cho có đủ… lửa mà đốt nóng cái cơ-thể đã suy-yếu, hòng đưa cuộc vui đến một trình-độ mê-ly thì không, tôi không thể. Tôi thấy nó không sạch-sẽ một tí nào. Tôi đến đây vì cô Hai, vì người chứ không phải vì những cốc xâm-banh. Mà những cốc xâm-banh gì? Những cốc xâm-banh mà ông Hội-đồng đã bỏ tiền túi ra mua để… phòng hồi-sinh lại cái tàn-lực của ông, để - theo lời cô Hai – cho phấn chấn.

Cái gì, chứ cái ấy, không! Tôi nhăn mặt rồi tôi từ-chối cốc rượu mà cô Hai đã để gần môi tôi. Thấy tôi từ-chối, cô Hai cố ép. Tôi lại từ-chối nữa. tôi không thể chiều cô những cái mà tôi cảm thấy nó hạ nhân-phẩm làm người của tôi xuống.

Cô bá cổ tôi, toan đổ cốc xâm-banh cho tôi thì tôi liền cương-quyết gạt ra. Cô Hai hình như hiểu những ý-nghĩ của tôi. Cô thẹn. Thẹn hóa giận. Cô vùng ném cốc xâm-banh xuống sàn, rồi nhỏm dậy vênh-váo hỏi tôi:

- Đã làm cao thế thì còn đến đây làm chi? Ai đời lại có con người kỳ-quặc thế không? Tôi không hiểu thầy đấy! Tôi không hiểu thầy đấy!

Rồi như điên, như dại, cô dận gót giầy lên những mảnh cốc vỡ, vừa dận, vừa la:

- Kỳ-quặc! và lọ. Lọ lắm!

Phải, cô Hai không hiểu, nhưng tôi hiểu đã đến tình-thế ấy thì tôi chỉ còn có một cách là ra khỏi nhà cô.

Ấy thế là tối mồng hai tết năm ấy, vì không có chỗ ngủ tôi phải đi lang-thang khắp hè phố Saigon để chờ giờ xe chạy đi Nam-vang. Chẳng may cho tôi, bắt đầu từ mười một giờ, trời lại đổ mưa xuống như trút nước. Đứng co-ro dưới một mái hiên tôi ôn lại tấn kịch đã xảy ra. Rồi tôi vùng nhận thấy một chân lý: làm cho người đàn-bà phải xấu-hổ là một điều tối nguy-hiểm. Mà muốn sống vui-vẻ với kẻ khác, cần phải bớt hăng-hái, bớt thực-thà đi một chút, cần phải biết giấu-giếm, hay là đừng để lộ những cảm-tưởng thành-thực của mình ra cũng thế.

Giấu-giếm thế, người đời gọi là khôn-ngoan, là lễ-phép, là lịch-sự.

Cám ơn cô Hai nhé, cô đã vỡ-lòng cho tôi học lấy bài học khôn-ngoan – hay giấu-giếm cũng thế - đầu tiên của đời tôi.

Bài học ấy, sáng hôm sau tôi thực-hành ngay. Và rất hiệu-nghiệm (!)

Bị thức suốt đêm, mặt tôi phờ ra. Anh tài-xế thấy thế liền hỏi tôi tối qua làm gì mà coi bộ “nhọc mệt dẫu lên” thì tôi liền nói khoác tôi vui-thú suốt đêm với một tình-nhân tuyệt-sắc.

Triết-nhân có nói: “Loài người giả-dối chỉ ưa những cái giả-dối” không biết có đúng không, nhưng chắc-chắn là anh tài nghe tôi nói thế phục tôi lắm.

… Rồi từ đấy cái ngây-thơ thẳng-thắn của tôi cứ mất dần đi để nhường chỗ cho cái khôn-ngoan giả-dối hay cái giả-dối khôn-ngoan cũng thế!

Cho mãi đến ngày nay, chìm nổi bao phen tôi mới vụt nhận ra một điều chua-chát: thời-gian và việc đời cứ làm héo dần bông hoa thơm của lòng ta. Mà sống tức là mất.

Lê Văn Trương

 

HIỀN TRIẾT HY LẠP

SOCRATE


LÊ CHÍ THIỆP

Tiểu sử – Socrate sanh trưởng tại thành Athènes (470 – 399 trước Thiên Chúa). Mẹ tên là Phénarète làm mụ, còn cha là Sophronisque làm nghề thợ-chạm. Trước hết ông học-tập nghề của cha, nhưng sau lại đeo đuổi triết-học và giảng dạy luân-lý cho dân chúng thành Athènes, nhứt là cho đám thanh-niên.

Socrate cả ngày lang-thang ngoài đường, với một cái áo choàng, mùa đông cũng như mùa hè, chơn không giày-dép; hễ ở đâu có đám đông thì ông tấp lại để nói chuyện, nghĩa là để dạy người ta điều hay lẽ phải. Mặt thì trẹt, mũi xệp, môi lớn, mắt lộ, nhưng ông quyến rũ người ta bằng lời nói có duyên, hoặc hùng-hồn, hoặc hữu lý.

Ông ăn uống rất có tiết độ, hay chịu kham-khổ, nhưng ông không phải là người sợ rượu. Truyền rằng, một hôm ông dự yến cả đêm, trong lúc ấy chén rượu luôn luôn chuyền tay giữa người đồng tiệc. Đến sáng ai nấy đều say mèm, ngã lăn, nhưng ông ra về tự nhiên, không sao cả.

Tánh ông rất trầm tĩnh, cái thứ trầm tĩnh đầy kiên nhẫn nghị lực. Vợ là nàng Xanthippe, một người đàn bà khó tánh lắm khi muốn chọc tức ông, nhưng lúc nào ông cũng đối lại bằng sự thản nhiên trầm tĩnh, nên chính nàng phải bực tức vậy. Trong cái đời tòng chinh của ông, ông tỏ ra là người lính rất có can-đảm và tỉnh trí trong lúc nguy cập, như tại trận Potidée (432) ông cứu được Alcibrade và trong trận Délion (424), ông cứu mạng cho Xénophon là một người trong đám học trò của ông.

Hồi bấy giờ tại thành Athènes có hai phái chánh-trị nghịch nhau và thay nhau cai-trị, phái dân-chủ và phái quý-tộc. Ông không theo bên nào cả; hễ phe nào có điều gì không hạp-phép nước thì ông phản đối. Vì vậy mà hai bên đều nghi kỵ ông. Huống chi nhiều người bị ông chế diễu nên đem dạ thù hèm. Sau khi Ba mươi nhà chuyên chế (Trente Tyrans) bị phái dân-chủ đánh đổ, thì có người tố cáo ông về tội đã làm hư đám thanh niên, và chẳng những không thờ thần thánh của nước lại còn bày ra chuyện thần thánh mới để huyễn hoặc lòng người. Lúc ấy người ta lầm tưởng rằng Socrate cũng là một trong đám người ngụy biện (sophistes) để làm rối loạn dân trí lâu nay. Vả lại người ta rất căm hờn Critias là người bạo ngược nhứt trong đám Ba mươi nhà chuyên chế, mà chính Critias trước kia lại có theo học với Socrate.

Trước tòa-án, quan-tòa hỏa ông vậy chớ theo phép nước, ông phải bị hình phạt nào, thì ông trả lời một cách trào phúng như vầy: Tôi đã ra công giúp nước mà làm cho đồng bào trở nên đạo đức, vậy tôi xin bỏ tôi vô Thượng-nghị-viện và được nhà nước cấp dưỡng. Tòa cho rằng lời nói ngạo mạn, bèn kêu án xử tử. Trong khi ông còn bị giam trong khám, môn đệ là Criton lập thế cho ông trốn, nhưng ông không chịu, muốn tuân theo phép nước mà thôi. Đến ngày ông phải chết, thì xế lại có lính đem chén thuốc độc đến, trong lúc ông đương vui vẻ bàn đạo lý với các đệ tử. Không đổi sắc mặt, ông bình tĩnh bưng chén thuốc độc kề lên miệng mà uống một hơi. Các đệ tử cầm lòng không được, nên sụt sùi khóc. Thấy vậy ông nói: Các ngươi làm gì vậy? Chính ta muốn tránh cái cảnh yếu ớt không hạp thời ấy nên mới cho đờn bà (vợ ông) đi ra khỏi chốn nầy. Hãy tỏ ra có nghị lực hơn chớ. Nghe vậy các đệ tử lấy làm thẹn và nín khóc. Một lát sau, thấm thuốc, ông nằm yên xuống rồi kêu Criton lại nói rằng: Ta còn thiếu Asklépios một con gà, nhớ trả món nợ ấy. Rồi ông tắt hơi.

Học thuyết Socrate – Socrate không có viết sách để lại cuốn nào hết. Ngày nay biết được tư-tưởng của ông là nhờ trước tác của các môn đệ, nhứt là của PlatonXénophon với một ít đoạn văn của Aristote. Nhưng Platon hay lấy ý riêng của mình mà thêu vẽ thêm, còn Xénophon thì lại hiểu Socrate một cách thiển-cận quá; thành thử ta khó mà biết chắc chắn được cái học thuyết ấy. Huống chi Socrate không phải là nhà triết-học mà thôi, ông lại có cái cử chỉ đặc biệt của một tín-đồ thần-bí nữa (mystique). Ông thường nói rằng, khi tĩnh tâm, thì ông nghe lời khuyên dạy của một vị-thần hộ mạng, lúc nào cũng chỉ cho ông tránh những việc không nên làm.

Chính vị-thần đó cho ông nằm chiêm bao biết trước ngày cuối cùng của ông. Vị-thần ấy có phải là lương tâm chăng? Ta không biết được. Nhưng chính đó là cái cớ để người ta tố cáo ông về tội bịa-đặt thần-thánh vậy.

Thời bấy giờ, tư tưởng Socrate kể cũng là mới lắm. Ông rất kỵ những học thuyết xưa bao quát quá. Với những người tự cho rằng cái gì cũng đã thấu hiểu hết, đã giải nghĩa được, ông đối lại bằng câu nầy: Tôi biết rằng tôi không biết gì hết (Je sais que je ne sais rien)(1). Trước ông, người ta cố tìm hiểu cái bản thể của vũ trụ, tìm biết cái gì là căn bản của vật chất; tìm giải thích trời đất và sự vật. Trái lại, cũng như các nhà ngụy-biện đồng thời, Socrate thâu nhỏ cái phạm vi của triết-học lại, chỉ nghiên-cứu đến người ta mà thôi; nhưng khác với học-thuyết ngụy biện, muốn cho người ta tự biết đặng có hạnh-phúc, ông thì muốn cho người ta tự biết đặng ăn ở cho trúng đạo, vì ông cho rằng cái chơn hạnh-phúc với đạo-đức là một vậy. Ông lấy câu nầy làm đề từ cho học-thuyết ông: Hãy tự mình biết mình (connais-toi toi-même).

Câu ấy mới xem qua thì không lấy gì đặc-sắc lắm, nhưng nếu suy nghĩ cho kỹ sẽ thấy nó thâm-thúy vô cùng. Không phải ai cũng có thể tự biết được. Trong sách Trung-Dung, thầy Tử-Tư là cháu đích-tôn của Đức Khổng-Tử có nói rằng: “Trong thiên hạ chỉ có bậc chí-thánh mới biết rõ cái tính của mình; biết rõ cái tính của mình thì biết rõ cái tính của người; biết rõ tính người thì biết rõ cái tính của vạn-vật; biết rõ tính vạn-vật thì có thể giúp được sự hóa dục của trời đất; giúp được sự hóa dục của trời đất thì có thể sánh với trời đất vậy”(2).

Socrate lấy luân-lý làm mục-đích cho sự học. Ông dụng tâm khảo sát và quyết định sao là phải, sao là quấy, sao là công-bằng, sao là bất-công, sao là minh-mẫn, sao là ngu-muội, sao là can-đảm, sao là hèn-nhát vv… Ông thường hay nói: Ai ai cũng nhận rằng trong nghệ-thuật nào cũng cần phải học-tập, nhưng về nghệ-thuật làm người thì hình như ai cũng tự cho rằng mình đã thông-thạo rồi, khỏi phải cần học-tập làm chi.

Socrate luận-biện theo một phương pháp tương tợ với của phái ngụy-biện, nhưng ông không như họ, thừa dịp những chữ tối nghĩa đặng làm cho người ta lầm lộn; trái lại, cũng như theo thuyết chánh danh của Đức Khổng-Tử, ông cố định nghĩa mỗi chữ rõ ràng đặng đưa người ta đến chơn-lý.

Trong khi luận-biện, ông không nói suông; ông dùng cái lối chất-vấn khôn khéo lần hồi đưa người ta tới cái chỗ ông đã định trước mà người ta tưởng tự mình tìm ra vậy. Ông nói rằng ông làm mụ cho tâm trí người ta đặng giúp cho nó đẻ ra những ý nghĩ hay.

Tóm lại có thể cho rằng Socrate là nhà hiền-triết lớn nhứt của Hy-Lạp vì từ ông sắp về sau, bao nhiêu học thuyết đều khởi nguồn ở tư tưởng của ông.

BÙI ĐẸP st.

--------------------------

(1): Tri chí vi tri chí, bất tri vi bất tri, thị tri giã = Hễ biết thì biết rằng biết, hễ không biết thì biết rằng không biết, ấy mới thật là biết vậy (Luận ngữ: II.17).

(2): Trung-Dung XXII. Xem Nền luân-lý Việt Nam của Lê-Chí-Thiệp, trương 39.



Phụ Bản IV

VÀI LỜI BÀN VỀ

SỰ CHẾT ĐỨNG CỦA TỪ HẢI

Mấy ngày mưa phùn cầm chơn ba anh em, một bữa chúa nhựt, gần lò sưởi. Anh Mỹ ngày thường vẫn lăm le chọc ghẹo nàng Thơ, gợi chuyện bằng mấy câu Kiều:

“Áo xiêm buộc trói lấy nhau”, cao hứng lần lượt anh ngâm:

“Khí thiên khi đã về thần

Nhơn nhơn còn đứng chôn chơn giữa vòng

Trơ như đá vững như đồng,

Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời

………………..

Trong vòng tên đá bời bời,

Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ

… Giòng thu như chảy mạch sầu,

Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên

Lạ thay oan khí tương triền,

Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra”.

Anh Luật, rất hiếu kỳ chận anh Mỹ: “Có thể nào Từ Hải lúc chết còn đứng vững cho đến bao nhiêu người khó bề lay chuyển. Rồi xác chết vẫn cảm động, khổ tâm mà chỉ mạch-sầu của người yêu mới làm cho xác kia ngã đặng… Tôi vẫn nghe người ta nói “chết đứng” theo ý tôi – chỉ mô tả sự vô cùng kinh ngạc khi mục kích việc lạ lùng quá sức tưởng tượng nên sững sờ, tay chơn bủn rủn, đứng im lìm như một pho tượng. Cũng một hai khi, có người đem câu chuyện trời trồng thuật lại cho con, em. Câu chuyện kẻ bất hiếu, vì con gà nòi, nhẫn tâm giết mẹ, bị trời trồng như cây nọc cặm giữa sân. Câu chuyện luân lý! Thật ra chưa ai chứng kiến vụ hình phạt gớm ghê ấy, nên tôi vẫn tin rằng: vừng xanh thăm thẳm kia không bao giờ mó tay đến việc trần thế dầu trên mảnh đất này có người coi mạng gá hơn mạng mẹ.

- Cần chi phải luận dông dài. Theo tôi – anh Mỹ nói – đó là sự thực của nhà thi sỹ. Hai anh vẫn thấy thú vật của Lã-Phụng-Tiên sinh-hoạt hơn loài thú của các nhà tự-nhiên-học; nhà thi-sỹ nghe tiếng của gió nói chuyện cùng hoa, đem thơ lên bán chợ trời. Thi-sỹ có quyền sửa đổi, tô điểm sự thật cho mỹ-miều, lộng-lẫy; và tin rằng nhân-loại bao giờ cũng khoa-học. Vì câu ca của thi-nhân là tiếng đẳng tâm của nhơn-loại.

- Anh Học, chúng tôi muốn biết ý-kiến nhà bác-học.

- Cần gì phải hỏi tôi. Mấy anh thường đọc trong sách nhiều chuyện sống thừa những kẻ đã chết vẫn còn máy động; nghĩa là khi tim đã ngừng, mạch đã mất, hay là rõ rệt hơn, đầu đã lìa cổ mà chơn tay còn cử động.

- Anh nhắc tôi mới nhớ câu chuyện trong quyển sách của A.Dumas tiên-sanh. Bữa mồng một tháng chín năm 1831, ở tại Fontenay-aux-Roses, ông xã J.Pierre Ledru thuật lại cho tiên-sinh và mười người khách câu chuyện cô Charlotte Corday lên đoạn đầu đài, đền tội giết Marat, nhà ngôn luận có tiếng trong hồi Đại-cách-mạng (1789). Khi đầu cô đã rơi, thì theo lời ông xã, người phụ sự cho tên tả đao nắm lấy tóc đưa đầu lên cho công chúng xem lần cuối, rồi tát vào mặt cô một cái thật mạnh. Khi đó, mặt cô Charlotte lại ửng đỏ lên, đôi mắt mở trừng thật lớn như người tức giận, vì một sự trừng phạt bất công.

Rồi một hôm kia ông xã tọc mạch tìm đến nhà tên Legros, người phụ sự cho tên đao-phủ-thủ.

Đáp lại câu hỏi của ông xã, Legros phân: “Tôi nhập đảng của Marat. Đứt đầu cô Charlotte đền tội cùng pháp luật, tôi tát cô để báo thù cho đảng.

- Nhưng anh phải kính trọng người chết.

- Nói vậy ông tưởng mấy kẻ đứt đầu chết liền hay sao? Chắc không bao giờ ông ngó vào giỏ đựng thủ cấp vừa mới lìa cổ. “Chúng nó” trợn mắt, nghiến răng ít lắm là năm sáu phút mới chịu im. Cho nên ba tháng phải thay giỏ, “chúng nó” cắn lủng hết. Đầu của bọn quý-tộc không bao giờ chịu chết một cách êm thấm như chúng mình đâu. Thế nào một ngày kia, một cái đầu quý phái, khi lìa khỏi cổ sẽ rống lên rằng: “Đức vua! Đức vua! Vạn vạn tuế!”. Để rồi ông coi.

Câu chuyện hơi khó tin. Có lẽ ông xã Ledru muốn cho các bạn rùng mình.

- Xin anh đừng quên tiên-sinh A.Dumas là một văn-sỹ rất giàu tưởng-tượng.

- Chuyện anh vừa mới kể đem lại trong trí nhớ tôi một án mạng xảy ra hồi thế-kỷ thứ 16 mà hung thủ là một vị bác-sỹ. Lúc bấy giờ nhiều nhà sinh-lý-học để tâm đến vấn-đề sống thừa; nhứt là bác-sỹ Velpeau, giáo sư khoa mổ xẻ ở Đại học đường Paris. Sẵn dịp hiếm có bác-sỹ muốn mượn đầu đồng nghiệp bị kết án tử hình để thí nhgiệm. Trong khám đường La Roquette, hai bác-sỹ đương đàmđạo:

- Tôi biết công việc tôi sẽ thi hành là dị kỳ, nhưng ông đã từng chạm trán với Tử-thần, sự chết đối với ông không còn vẻ huyền bí…, nên phi ông, phi nhà y-sỹ, không ai có can đảm và nghị-lực để chịu nổi sự thí nghiệm này… Có mặt tôi tại pháp trường; đầu ông chúng nó sẽ đưa cho tôi. Chừng đó, kề miệng sát tai ông, tôi sẽ la lên: “Vì những lời hứa lúc sanh tiền, có thế nào ông chớp mắt bên mặt ba lần, mắt trái vẫn mở, hay không? Nếu ông làm việc y như thế, thì khoa-học sẽ đội ơn ông vô ngằn, vì nhờ ông, đã đi một bước thật dài; nhờ ông, chúng tôi sẽ biết chắc rằng: đầu khi lìa xác vẫn còn nghe, hiểu và nhớ. Lại còn đủ nghị-lực để đè nén bao nhiêu sự đau, thương, tiếc, sợ và trăm ngàn cảm giác rùng rợn khác… Chỉ một sự thí nghiệm cỏn con mà thay đổi bao nhiêu điều tín ngưỡng hiện thời.

- Tôi cũng muốn giúp ngài, nhưng tôi e sự hình phạt tối ư khốn nạn mà tôi sẽ chịu nó làm cho tôi trở nên một người hèn; mà sự thí nghiệm ấy, theo tôi, nó quá lực lượng của một người quá tầm thường như tôi. Nhưng… không sao, xin mời ngài trở lại đây bữa sáng trước giờ xử tử. Nay đến đó, tôi sẽ suy xét coi có đủ nghị lực để giúp ngài thi hành sự thí nghiệm, mà tôi cho là ngông cuồng, táo bạo và, tôi xin lỗi ông, vô-hiệu-quả”. Đức hoàng đế Napoleon III chuẩn y án tử hình.

Ngày chém. Lưỡi gươm rơi xuống kêu vang. Rồi đầu đầy máu ở trên tay nhà thí nhgiệm đại tài. Máu đẫm đỏ mấy ngón tay, ướt cả áo. Mặt ấy lợt lạt xanh xao, mắt mở lớn…, chơn mày nhiếu lại. Bác sỹ cúi xuống, kề miệng vào tai la lớn… Một giây, hai giây… Dầu can đảm bực nào, bác sỹ cũng phải rùng mình hồi hộp khi mí mắt bên phải của thủ cấp lần lần khép lại, mắt trái vẫn mở.

- “Còn nữa, còn hai lần nữa, ráng, cố ráng lên…”

Lông nheo cựa động, nhưng mắt ấy vẫn nhắm.

Máu đặc lại, hết chảy. Môi bầm tím hai mắt nhắm liền.

- Tôi có đọc chuyện ấy, và mấy lời bình phẩm khôi hài lý-thú của một nhà phê bình có tiếng. Câu chuyện đó của nhà Bá tước Villiers de l’Isle Adam thuật lại trên mặt báo. Nhà phê bình, sau khi tán tụng tài văn-sỹ rồi thêm: nếu ta bỏ bớt một nét của tên ký dưới bài thì chuyện ấy thành chuyện thật. (bỏ một nét tên ấy sẽ thành câu: Le conte de Villiers de l’Isle Adam nghĩa là chuyện hoang đường của ông Villiers…)

- Anh Học thật là người phá hoại. Anh nhắc cho hai ta thuật lại những chuyện đã đọc qua, rồi anh đem lời phê-bình trào phúng để tiêu diệt. Anh còn chờ gì nữa? Đem lại những chứng cớ xác đáng cho chúng tôi biết coi xác của tướng giặc họ Từ có đứng được theo lời cụ Tiên-điền chăng?

Một phút trầm ngâm như để ôn lại những điều biết: “Những chuyện sau đây là cuộc thí nhgiệm hoặc những “ca” mà mắt của y-sĩ đã tường tận tra xét. Trong những trường hợp nầy, cần phải có người giữ được bình tĩnh, mắt luôn luôn sáng sủa trước cái rùng-rợn, và nhứt là rất chân thật trong việc trước-tác, bỏ những ý “lòe” đời, chỉ mong giúp ích cho kho Biết của nhân loại.

“Ngày 30 tháng tư năm 1884, tên Michel Campi bị tử hình.một giờ sau khi chém, nhà thí nghiệm Laborde bơm máu vô thủ cấp nó; trán và gò má lần lần ửng đỏ. Mừng. Mí mắt cử động, nhưng mắt vẫn nhắm rồi im lìm… Một vật vô tri. Mà từ đó đến sau, bao giờ cũng thí nghiệm trễ. Không thể lấy đầu tội nhân tức khắc sau phút chém, sau khi máu vô đầu lần lần sống lại, nhưng một vài phút sau sự sống đó tiêu tan. Phải chờ một giờ sau khi đầu lìa cổ mới được phép thí nghiệm, luật buộc như thế. Đó là sự trở ngại nhứt. Biết bao lần luật cản trở công việc của bác sỹ trứ danh: nếu để cho bác sỹ Metchnikoff tự do có lẽ sự đổi máu đã đem ta đến suối Trường sanh…

Bao nhiêu điều trở ngại làm cho câu nói của Brown Séquard còn nguyên giá trị: nếu ta có thể thí nghiệm ngay tức khắc sau khi đầu rơi, thì có lẽ xảy ra lắm chuyện dị thường.

Sao không dùng thú? Mấy anh sẽ hỏi. Bác sỹ Doye (B) dùng đầu chó vừa mới cắt, khi cho máu vô chỉ thấy nhăn nhó đôi phút, thế thôi… Vậy ta chỉ chờ những điều quan sát của viên bác sỹ nơi đoạn đầu đái hay là trận giặc giữa lằn tên mũi đạn… là chỗ thí nghiệm lớn lao, hết sức tàn bạo.

Trước hết tôi xin thuật một chuyện mà người bị hành hình là người Nam-việt, xử tại Saigon năm 1884. Bác sỹ Petitgaud de Gray trong tờ báo Khoa-học (Revue scientifique) cho ta biết một cách tỉ mỉ cuộc xử tử bằng dao; mà khi đầu rơi xuống lại nhằm đống cát. Nhờ cát bít mạch nên cầm máu. Bác sỹ mục-kích một chuyện lạ lùng: cặp mắt của kẻ chết chăm bẳm ngó; dầu đi chỗ nào đôi mắt ấy cũng lườm lườm ngó theo. Mặt mày cái đầu đã lìa xác kia để lộ ra một vẻ khó chịu vô ngần, nói cho đúng hơn đó là sự vô cùng kinh ngạc của người gần chết ngộp. Rồi miệng hả ra thật lớn như muốn ngáp, như muốn hít một hơi thật dài vào bộ phổi. Cũng vì mở miệng quá mạnh, đầu hết đứng vững, nghiêng một bên; cát dính mạch máu trốc ra, máu chảy lại. sự sống thừa kéo dài gần hai chục giây.

Vậy khi đầu đã lìa xác, mà còn hả miệng, trợn mắt, tỏ ra sự sợ hãi thì sự đứng của Từ sau lúc chết không phải là một chuyện hoang đàng.

Còn nhiều thí dụ khác, C.Flammarion thuật lại chuyện kẻ giết em trong bữa ăn. Một tay bụm miệng, một tay chặt cổ. Đầu đã đứt mà miệng còn ngậm và nhai nát một ngón tay kẻ sát nhơn.

Hai bác sỹ Brinton và Rossbach mục kích nhiều “ca” rõ rệt. Lúc rượt giặc, hãm thành, lính bị bắn mất đầu mà xác còn ôm súng chạy năm bảy bước. Một tên lê-dương đang ngồi uống nước, miểng trái bom tạt ngang, đầu rơi, mà thây vẫn còn ngồi vững vàng, tay còn bưng “ca” đưa lên như mình vẫn còn đủ đầu và miệng.

Bao nhiêu bằng cớ để đưa hai anh đến sự chuyển động của gân cốt sau khi chết. Sự ấy là “spasme cadavérique”; sự lưu-tồn bộ tịch trong lúc sống qua lúc chết nhứt là bất-đắc kỳ-tử.

Khác hơn “rigidité adavérique”: Chất đản-bạch (albumine) của bắp thịt đông lại làm cho xác sau khi chết cứng như khúc gỗ.

Một đàng là di-tích của sự sống, một đàng là biểu hiệu của sự chết. Khi máy đã ngưng, xe là một vật vô tri, vì trớn còn rướn tới được vài thước; thân thể của con người, vì một mũi tên tẩm thuốc, hay một viên đạn gieo sự chết bất ngờ, thì trong vài giây sẽ cử động như hồi sanh tiền. bó đuốc lúc tắt để lại lằn khói tượng hình ngọn đuốc, lúc chết, thân thể giữ lại một vài di-tích của sự sống. Hành động vẫn tiếp theo từ phút sống qua hồi chết. Vậy câu:

“Khí thiên khi đã về thần,

Nhơn nhơn còn đứng chôn chơn giữa vòng.

Bày trước mắt ta một cảnh tuợng có thể xảy ra…

Như tìm được một điều quan trọng, anh Luật cướp lời:

- Còn hai nguyên do giúp ta hiểu sự chết đứng của Từ Hải. Làng võ của ta thường khoe tài những bực tót chúng, có thể đứng vững như trồng, dầu mấy chục người tay trơn khó làm cho lui một bước. nhờ khoa đứng tấn – tấn trung bình cùng là đinh tấn – hai chơn dang ra, mình rùn xuống, giúp cho người có võ một thế đứng vững vàng. Mà khi tập võ thì giờ nào, phút nào, ngày nào cũng đứng tấn; nên thành một thói quen. Khi Từ Hải thấy phục binh đổ ra, tất nhiên xuống bộ tấn, đến lúc chết vẫn còn giữ bộ ấy, nên xác đứng vững vàng hơn… thây của người không biết võ.

- Chứng cớ đó vững… như khoa tấn, xin anh cho nghe nguyên do thứ hai.

- Từ Hải có thể chết vì gươm đao, hay vì phẫn uất. Nhưng chắc vì tên bởi một cớ dễ hiểu. Danh tướng cướp họ Từ giết người như bỡn, lại thân hộ-pháp kia, vai năm thước rộng, thân mười thước cao, bọn phục binh của Hồ-Tôn-Hiến đã khiếp vía, chắc không một gã nào bén mảng đến gần. Kế lưỡng toàn: ở xa dùng tên tẩm thuốc bắn lại. thuốc ấy có chất curare làm cho gân cốt tê cứng…

- Không được vững. Lấy gì làm chứng rằng thuở đó dân Trung-huê biết dùng chất curare. Nhưng bao nhiêu bằng cớ đã xem qua giúp ta biết rằng chuyện tả trong hai câu Kiều không phải là hoang đường.

Xét đến hai câu:

Trơ như đá, vững như đồng,

Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời.

Theo tôi, Từ Hải với tấm thân to lớn, mà khi chết lại đứng một cách oai phuông, hùng tráng, thì tay nào cũng táng đởm, có ai dám lại gần mà lay với chuyển. Đứng xa trông lại cũng đủ kinh hồn, tưởng tượng dầu ai sức khỏe bực nào cũng không thể rung chuyển… Thiệt ra xác ấy như cây trốc gốc, chỉ đụng đến là mất sự thăng bằng (équilibre), cho nên: Kiều vừa phục xuống, Từ liền ngã ra. Tuy đứng một cách coi thật là vững vàng, nhưng một xúc động nhỏ cũng đủ khuynh đảo…

- Anh quên câu: Lạ thay oan khí tương triền.

- Xin phép anh để riêng câu đó ra cho tiện sự luận bàn. Mà tôi cũng đã đi đến. Theo những sự xem xét của bác sỹ Osty thì trong vài cảnh ngộ, người sống có thể đọc, biết, hiểu những ý kiến mới nở ra trong óc người vừa chết, nếu đó là người thân yêu, triều mến. Một người thiếu phụ đương yên vui, vùng giựt mình rồi tin chắc rằng người chồng ở phương xa đã từ trần. Vài hôm sau giây thép đem tin dữ dội kia đến. Một thí dụ khác: tàu chìm tại Vịnh Hạ-Long (Bắc-kỳ), kẻ sống thừa rải rác trên mấy hòn côn đảo. Một người mẹ xa con đã mấy giờ, đương bình tĩnh, lại khóc tấm tức: chắc chắn là con vừa mới chết. Không làm sao đánh đổ sự tin quái gở kia. Ngày mai khi thuyền đến vớt, mới hay đúng giờ, phút trong khi mẹ khóc, đứa trẻ bạc phận đã trút linh hồn nơi một cù lao gần đó.

Hai anh còn nhớ sự chết của K… sinh viên trường thuốc, anh bạn vui vẻ, một sinh viên nhiều tương lai; con một vị phú hộ ở Hà-thành, K… là người lực lưỡng; trước mặt anh không khi nào tỏ sự buồn cùng thần chết. Một bức thơ ở Paris gởi về sau ba tháng du học: sức khỏe và sự học đều phát đạt. Nội nhà đều mừng chỉ bà cụ sụt sùi khóc, vì bà rõ ràng thấy K… chết, cận giường hai bạn đang quỳ. Chẳng ai tin cho đến khi được điện-tín. Bà cụ còn cho biết: có mười người đưa đám tang; đường vô nghiã điạ hai bên trồng cây cao, nơi một cánh đồng hiu quạnh. Một bức thơ của B… gởi về chứng nhận bao nhiêu sự trông thấy ấy đều thật cả.

Trong quyển: L‘Inconnu et les problèmes psychiques, C. Flammarion tiên-sinh đem cả thảy một trăm tám chục chuyện có bằng cớ xác đáng chứng nhận rằng người đương cơn hấp hối cho người yêu biết tin hung dữ, nhiều khi cách nhau thật xa. Một vị bác sỹ, tách cà-phê trong tay đương ăn lót lòng. Trong khi vui vẻ trò chuyện cùng vợ, thình lình như ai xô tách cà-phê đổ đầy mình. Ngực hồi hộp, tay rung; vài hôm sau mới rõ, trong giờ đó, đúng phút đó người anh rất yêu mến đương quằn quại trên giường chết.

Trong phút cay nghiệt ấy, bà con, hoặc thân thích của kẻ chết, nhiều khi ở thật xa, tự-nhiên nhớ lại, hoặc mơ bóng, thấy hình ảnh người đương theo tử-thần. Có khi tiếng kêu dữ dội mà chỉ một người nghe được; cánh cửa tự-nhiên mở. những thú-vật trong khi sanh tiền người chết hay tưng tiu cho ta biết sự bất tường: chó đương nằm chỗi dậy tru nghe thảm thiết; mèo đương yên giấc, giực mình đứng lùi lại kêu thê thảm. Sau mới rõ chính giờ đó người chủ thường triều mến nó trong giờ phút ấy đương quằn quại cùng sự chết. Còn nhiều điểm nữa không thể nào kể hết cho hai anh nghe. Vậy ta cũng nên biết có nhiều trường hợp người đương chết dầu ở thật xa duờngnhư muốn báo tin buồn cho những người bạn thân được rõ. Tại sao khi có, lúc lại không: nào ai biết.

Trái lại người chết có cảm động vì nỗi khổ tâm của người yêu chăng. Xác của tướng giặc họ Từ có vì suối lệ của tình-nương mà ngã xuống chăng. Đó là một vấn-đề khác. Vì chưa có ai ở thế giới bên kia về trả lời cho ta câu hỏi đó… vậy oan khí có tương triền… xin để lại một bên. Chuyện cầu tiên, cầm cơ, là một vấn đề khác…”.

Nhiều mảnh đêm lẩn núp vào căn phòng êm-tịnh; ba anh em chìm trong giấc mộng dài. Tiếng anh Mỹ vang lên như xé bức màn êm thấm:

Ông F.Challaye thuật lại khi du-lịch bên Nhựt, có được nghe một chuyện đời xưa đầy thi-vị. Nhà triết học Đức, có chơn trong ban du-lịch lên tiếng “phỏng vấn” chủ nhân, người kể chuyện: xin ông cho chúng tôi biết ngụ ý sâu xa của chuyện ông vừa mới thuật. Thung dung, người Nhựt dưng cho mọi người một chén trà với cành hoa đào tươi đẹp: cần chi ông phải nhọc công suy xét. Nếu trà nầy được ông ưa thích thì mời ông cứ tự nhiên, còn nhành hoa đẹp mắt, xin ông cứ thưởng thức. Hơi đâu phải lao tâm mệt trí để suy nghĩ tại sao hoa kia có màu sặc sỡ, trà nọ đầy mùi bát ngát. Như câu chuyện tôi đã thuật, nếu có đem lại cho các ông một vài lý thú thì già đây đã hài lòng, và xin quý ông xem câu chuyện ấy như một chén trà, như một cành đào, công đâu mà tìm nghĩa sâu xa trong đó.

Câu trả lời của ông già nước Nhựt, bữa nay tôi xem như cần phải lặp lại. Nếu mấy câu của cụ Tiên điền còn đọng lại một chút thi-vị, mời hai anh cứ thưởng thức, cần chi phải tìm tòi, cho đến nỗi sự chết hùng dũng của Từ Hải chỉ là gân với cốt, còn nước mắt rất nên thơ của Thúy Kiều chỉ là sự ngã tự-nhiên của vật vô tri. Riêng phần tôi, bao giờ tôi cũng chịu mấy câu sau đây là chí lý:

“Hằng-Nga, Quảng-Hàn, liệu có thể là có, mà tự mình không muốn bảo là không; lại cả như Khiên-Ngưu, Chức Nữ, Ngân-Hà, có lẽ cũng là không mà thế gian vẫn cứ nói như có. Vậy phàm câu chuyện của người đời có nói, tai có nghe, cứ chi là có là không, không hay có ở lòng ta vậy”.

Đó là một câu trong bài tựa của nhà thi sỹ Tản-Đà viết cho quyển Liêu-Trai chí-dị, mà tiên sanh vừa dịch xong trước ngày chết; tôi xin mạn phép hai anh lấy câu đó để kết luận cuộc bàn cãi hôm nay.

DƯƠNG TẤN TƯƠI

ĐỖ THIÊN THƯ st.

Truyện tình 2500 "T"

THỜI TIẾT TRUNG THU THÍCH THẾ! TỄU THẤY TÊ TÊ TOÀN THÂN. Thời tiết Trung thu thích thật! Tễu thấy tê tê toàn thân, Tễu thấy truyện tình toàn T tả tình thầy thuốc Trần Trọng Trí tán tỉnh Trần Thị Thu Thủy thật tuyệt! Tễu thích, Tễu tặng: Truyện tình 2500 "T" ....thật tuyệt !

Trần Thị Thu Thủy tên thật Trần Thị Thơ, trú tại thôn Tám, Trảng Tranh, Tỉnh Thừa Thiên. Thuở thiếu thời, trí tuệ thì thường thôi, tuy thế, tính Thủy thật thà, thủ thỉ thù thì, thỏn thà thỏn thẻn, thật thương!

Tới tuổi trăng tròn, Thủy tròn trặn, tươi tắn, trắng trẻo, tay tròn trĩnh, tóc thơm thơm, thật tuyệt! Thủy tuyệt trần, tôi tả thì thô thiển. Thôi thì tàm tạm thế. Trai tráng trong thôn Tám, từ trai tơ tới tuổi tứ tuần, từ tuổi tứ tuần tới tuổi thất thập, thoạt trông thấy Thủy, tất thảy tấm tắc trầm trồ: “Trời! Trắng tựa tuyết!”, “Thon thả thế!”, “Tóc thật thướt tha!”, “Ti to thế! Tròn thế!”, “Tác tuyệt! Tuyệt tác".

Trai tơ thổn thức, tứ tuần tơ tưởng, thất thập thẫn thờ. Thấy Thủy thấp thoáng, tất thảy táo tác, thập thà thập thò, thật tội. Tứ tuần thách trai tơ: tán thắng Thủy thì thua tam trâu. Thất thập thách tứ tuần: tán thắng Thủy thì thua tám thúng tiền. Thách thì thách thế thôi, thua Thủy tất tần tật.

Thủy tựa thần tiên, trai tráng trong thôn thì thô thiển, tiền tài trắng trơn, thân thế thấp tè, thế thì tán tới trăm tuổi! Tiếng tăm Thủy truyền trong toàn tỉnh.Thư từ tới tấp tới tay Thủy. Thư thì thủ thỉ tâm tình. Thư thì tranh thủ trình thêm thân thế, tiền tài. Thư thì than thở tức tưởi. Thư thì thêm thơ, thêm tranh, trang trí thật trang trọng... Trong tám tháng trên tám trăm thư, thật thế!

Trai tráng trong tỉnh tìm tới tán tỉnh Thủy tới trăm thằng. Tám thằng thân tôi: Thằng Thịnh, thằng Tân, thằng Thuận, thằng Tạo, thằng Toàn, thằng Trung, thằng Tiến, thằng Tuấn, tán tỉnh tài thế, tí ta tí tởn tới tán Thủy, tốn tiền trăm tiền triệu, tiêu tiền tới trắng tay, thua tiếp tục thua. Tám thằng thất thểu tìm tới tôi than thở: “Thôi! Tiền thế, tài thế, tập tễnh tới tán Thủy thêm thiệt thòi”.

Tôi thích Thủy, tuy thế tôi tỉnh táo tự thấy: trí tuệ tôi tầm thường, tiền tài thiếu thốn, thân thế tiếng thì to, thực tình thanh thế tổ tiên thôi, thân thế tôi thấp tẹt. Tôi trù tính: thư từ tán tỉnh, trật! Tiền tài: trật! Thân thế: trật. Tổ tiên ta từng truyền tụng: tham thì thâm. Thư từ, thân thế, tiền tài... trật trật trật! Thua thua thua! Thủy thích tinh tế, trung thực, thật thà, thế thôi. Tôi tính toán thật tình tiết: từ thị trấn Tân Tiến tận tụy tới thôn Tám tìm Thủy tâm tình, từ từ, từ từ, tránh trắng trợn, tránh thô thiển, thỉnh thoảng thêm tí tranh, thêm tí thơ tặng Thủy, trời thương trời trợ thủ thì tất thành.

Trời thương tôi thật. Tới thôn Tám, thấy Thủy trơ trọi, thui thủi trên thềm, tôi thích thú thấy tôi tính toán trúng. Tôi trấn tĩnh, từ từ tiến tới tận thềm, thì thầm: “Thủy! Tôi tên Trí, Trần Trọng Trí, thầy thuốc Tây...”, “Trần Trọng Trí!”, Thủy trầm trồ, “Thầy thuốc trị tim, trị thận, trị toàn thân thể, tiếng tăm truyền tám tỉnh! Trời, trẻ thế! Trẻ thế!” Thủy tấm ta tấm tắc. Tôi trùng tên thầy Trí, thầy thuốc thiên tài trên tỉnh. Thủy tưởng thế, thật trúng tủ, trời toàn thương tôi! Thấy tình thế thật thuận tiện, tôi tiếp tục thủ thỉ: “Thủy, tôi trốn thầy, trốn thủ trưởng, trốn tránh tất thảy, từ thị trấn Tân Tiến tới tìm Thủy!” Thủy trao tôi tách trà, thẹn thùng: “Thủy thật tầm thường, tìm Thủy thật trớ trêu...” Tôi tíu tít: “Thủy! Thủy! Thủy tránh tự ti. Thủy thật tuyệt trần, tiếng thơm truyền từ tỉnh Thanh tới tỉnh Thừa Thiên, thật thế!” “Thầy Trí tưởng thế thôi...”, tiếng Thủy trong trẻo, thánh thót. Tôi thủng thẳng tán tỉnh, thầm thầm thì thì, tu từ thật tốt, thỉnh thoảng thêm tí thán từ. Thấy Thủy thinh thích, tôi tấn tới, thả từng tiếng thật tha thiết: “Tháng tư, tôi trông thấy Thủy tha thướt trong thị trấn. Tôi thảng thốt: Trời, tiên từ trên trời tới thị trấn! Từ tháng tư tới tháng tám, tối tối tôi thao thức, trằn trọc. Tâm thần tôi trục trặc, thân thể tiều tụy. Tưởng tượng thấy Thủy trẻ trung, tươi tắn, tôi thổn thức: Thiếu thủ trưởng thì thảnh thơi, thiếu trời thì tổn thọ, thiếu Thủy thì tắc thở! Thủy! Trái tim tôi tràn trề tình thương Thủy. Tôi tìm tới Thủy trao trọn trái tim thật thà, trái tim trong trắng, trái tim thân thương, trái tim trẻ trung, trái tim trung thực... Tôi thề, tôi trao trọn!”

Thấy tôi thề thốt thật tha thiết, thật tận tình, Thủy thấy thương thương, thẹn thò túm tóc thỏn thẻn: “Thôi thôi, Trí thôi thề thốt...”. Thủy tin tôi, thật tuyệt! Thế thì tôi toàn trúng tủ, thật tuyệt! Tôi từ thủ thỉ tâm tình tiến tới thề thốt trầm trọng, toàn từ to tát: “Thủy tin tôi, thương tôi thì tôi thôi thề thốt. Thủy thiếu tin tưởng thì tôi tiếp tục thề. Tôi thương Thủy, tha thiết trao trọn tình tôi tới Thủy. Thủy tuyệt tình tôi thì tôi tự tử. Tôi theo Thủy tới trăm tuổi, tôi tuyệt tình Thủy thì tôi tắc tử!”, “Trí!”, Thủy thổn thức, “Thủy tin Trí, thương Trí...”. Tôi trúng to, trúng to! Trăng tròn tháng tám thấp thoáng trong tre, trời thu tươi tốt, tiếng thu thánh thót. Tôi tấn tới tìm tay Thủy. Tay Thủy trong tay tôi. “Thủy... Trí thương Thủy, thương tới tận tim...”, tôi thì thầm, từ từ thơm tay Thủy. Thủy thẽ thọt từng tiếng, từng tiếng thật thương: “Tính Thủy thật thà, thương thì thương thật. Trí tâm tình thế, Thủy tin. Tất thảy tình thương, Thủy trao trọn. Thủy tin: tình ta thắm thiết!”.

Trời tối, Thủy tin tưởng trao thân. Tôi thơm tay Thủy, thơm tóc Thủy, thơm tới tận tai, thơm thơm thơm thơm. Thủy thất thần túm tay tôi, thét: “Thôi, Trí! Trí thương Thủy thì thương từ từ. Tình ta tránh trần tục. Trí... thụt tay!” Trí tôi, tên trác táng, tha Thủy thì thua thiệt, tốn tiền tàu từ thị trấn Tân Tiến tới thôn Tám. Thành thử tôi tiếp tục trổ tài tán tỉnh. Tôi thủ thỉ tâm tình: “Thủy thương Trí thì thương thật tình. Thủy trao trọn tình thì Trí trân trọng. Thủy thủ thế, trốn tránh, thiết tưởng thiếu tin tưởng Trí.” Thủy thật thà tin tôi, thả tấm thân trinh trắng tùy tôi thao túng. Thân thể Thủy trắng trẻo, thơm tho.

***

Tôi tả thế thôi, tả thêm thì thô tục, tùy toàn thể tưởng tượng...

Thế thôi! tùy tưởng tượng!

Xuân Din và HKT


MỘT BÀI VIẾT 68 NĂM TRƯỚC…

NÀNG XUÂN

Cái tên của Nàng thơ mộng quá. Chỉ đọc lên, lòng cũng đã thấy rung động với bao nhiêu tình cảm êm ái, dịu dàng. Nàng về trong lúc đời đang bâng khuâng mong đợi. Sau một mùa hạ cây cỏ vàng héo dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời; sau một mùa thu ủ rũ, mơ buồn, đẫm dòng mưa lệ của Ngưu-Lang, Chức-Nữ; và sau một mùa đông rét mướt, ngọn gió bấc lạnh thấm tận lòng những kẻ cô đơn, hiu quạnh, thì vạn vật hình như mệt mỏi ê chề, sức hoạt động giảm dần, gần ngưng lại. Như một người bịnh đến lúc tàn hơi, ngày tháng uể-oải trôi qua một cách nặng nề, biếng nhác. Giữa lúc mà người ta có cảm giác như đi lần đến chỗ cùng tận của cuộc đời, thì Nàng về.

Một cơn gió mát báo tin Nàng. Cảnh vật như tỉnh một cơn mê, bừng chỗi dậy, rộn ràng vui vẻ sửa sang tiếp rước Nàng Xuân. Người ta nghe thấy tin Nàng trên những mầm non tươm trào nhựa mới, trên những nụ hoa e ấp dưới ánh bình minh và trong tiếng gáy vui vui của đôi cu đồng xuân trẻ. Vẳng xa lời hát thơ ngây:

“Cu kêu ba tiếng cu kêu

Trông mau đến Tết dựng nêu ăn chè”

Rồi hôm nay, tiếng pháo vang rền, khói hương nghi-ngút; nhạc gió du-dương êm-ái đưa Nàng trở lại với đời. Lộng-lẫy dưới ánh xuân-quang rực rỡ, Nàng luôn luôn mỉm cười trên những cành hoa non phong kín ý đẹp, duyên ngầm. Người ta thèm thuồng làn môi tươi mộng của Nàng áp lên đóa hường vừa chớm nở, bẽn lẽn ngưới hứng sương mai. Người ta nhìn “giếng mắt” của Nàng long lanh, sáng oắc trên dòng nước xanh, trong, lộng chiếu những cụm mây trắng, mây vàng êm-đềm trôi về một phía trời xa. Và say sưa biết bao nhiêu, khi tiếng Nàng lảnh lót hòa lẫn trong những lời chim tưng bừng chào đón ngày xuân hoa mộng.

Nàng, một người đàn bà kiều diễm, hữu duyên, hiền hậu, chỉ thích những cái gì đẹp đẽ, tươi sáng, dịu dàng. Và Nàng đến với đời cũng chỉ để đem lại cho đời ngần ấy thứ mà hình như đời đã đánh rơi mất cả, sau một năm trường mệt nhọc.

Tha thướt trong nguồn hân hoan trong trẻo Nàng điểm trang rất lộng lẫy làm cho lòng người phải hồi hộp, say sưa. Nàng vừa đẹp vừa có khiếu thẩm mỹ đặc biệt, nên cách ăn mặc của Nàng bao giờ cũng hợp màu sắc thiên nhiên, khiến càng tăng vẻ yêu kiều, diễm lệ. Ban ngày, Nàng mặc những chiếc áo thêu ngàn hoa rực rỡ, luôn luôn thay đổi theo từng cảnh, từng giờ. Ban đêm, mang vào một choàn nhung đen mịn nhận ngọc kim cương lóng lánh muôn sao. Một thứ hương thơm ngào ngạt quyến luyến quanh Nàng và tản mác theo gió bốn phương đượm ướp những cành hoa vừa hé nhụy, làm ngây ngất bao nhiêu chiếc bướm si tình.

Tuy Nàng hay làm duyên làm dáng, xa hoa, đài các như thế, nhưng không hề kiêu hãnh như nhiều cô thiếu nữ tân thời. Lòng Nàng mênh mông bao quát như vũ trụ, cho nên Nàng đi đến đâu là hơi xuân đầm ấm lan tràn. Nàng rất vui tánh; sự vui tánh ấy cảm hóa được vạn vật; Nàng về thì đời không còn mang bộ mặt ủ rũ âu sầu của những ngày mưa gió nữa. Với Nàng người ta được sống trong bầu không khí ấm áp dễ chịu, không phải hãi hùng trước những trận lôi đình bão giông, sấm chớp; không phải bị nhốt bực bội trong cái lò lửa nóng cháy của ngày hè, mà cũng không sợ bị bỏ quên lạnh lẽo cho đến móp cả tay chân như ở những ngày đông giá.

Cái bản tánh hòa nhã của Nàng có ảnh hưởng sâu xa đến tâm hồn người đời. Bao nhiêu bài học luân lý, bao nhiêu sự răn đe dạy dỗ cũng không chuyển lòng người hằng một ngày có mặt Nàng Xuân. Hình như Nàng có phép thần thông để gội rửa những tánh tình nhỏ nhen đê tiện của đời, nên Nàng về là người ta dẹp lại một bên những thù hiềm, ghen ghét. Người ta mỉm cười với nhau, người ta lễ phép tiếp đãi nhau, kết lại cùng nhau những cảm tình thân mật. Người ta dè dặt, giữ gìn từng lời nói, từng cử chỉ; người bình thường thô lỗ đến đâu cũng trở nên trang nhã hiền từ. Thì còn gì bất nhã hơn, là sỗ sàng lỗ mãng trước một người đẹp, nhứt lại người ấy là người mà mình quý yêu cảm mến và lúc nào cũng vui vẻ dịu dàng.

Nàng vui vẻ hữu duyên quá. Dầu lòng ta đang nặng nề bực dọc, gặp Nàng ta cũng cảm thấy được nhẹ nhàng thơ thới tươi vui. Nàng an ủi rất khéo léo những tâm hồn chán nản, buồn rầu. Gần Nàng người ta có thể nguôi quên được những nỗi buồn đau cơ cực đã qua, để tha thiết tin và hy vọng, ở những ngày mai sáng đẹp. Hy vọng! người đời sống nhờ hy vọng, mà chính Nàng Xuân đã đem lại cho người đời nhiều hy vọng hơn cả. Một năm tàn, tâm hồn ta cũng thấy tàn tạ mệt mỏi với bao nhiêu lo nghĩ tranh đấu hằng ngày.

Nhưng bàn tay mềm mại của Nàng Xuân đã vuốt ve, mơn trớn lòng ta một cách êm ái quá. Nàng tiêm vào cơ thể ta một nguồn sống dồi dào, khiến ta hy vọng nhiều thêm và hăng hái sấn mạnh bước vào năm mới. Ta có cảm giác như được một người tình nhân hiền hậu, âu yếm nuông chìu và khuyến khích. Phải chăng vì thế mà mỗi khi ngồi nhìn ra cảnh vật u-buồn dưới trận mưa tầm tã; mỗi khi trên đường đời ta gặp điều bất mãn, trái lòng thì ta tha thiết nhớ đến Nàng Xuân, mong mau hết tháng tàn năm để được thấy Nàng về dắt đến cho ta những ngày mới mẻ có lẽ may mắn nhiều hơn?

Và đây, còn ai mong đợi Nàng hơn những kẻ quanh năm phải sống xa nhà. Đêm khuya thanh vắng, gió lạnh lẽo đến bên lòng, người ta cảm thấy cô đơn quạnh quẽ và khao khát được trở về nơi ổ ấm của gia đình, chung hợp với cha mẹ, anh em. Thì Nàng về, Nàng đem những đứa con đi tản mác ấy về. Với tình thương yêu sâu rộng, Nàng trọng gia đình của người đời cũng như Nàng trọng cái gia đình vũ trụ của Nàng. Nàng không muốn nó tẻ ngắt, buồn tênh. Nhìn những vẻ mặt hân hoan tề tựu đầy đủ trong bữa tiệc của gia đình, trong bữa tiệc mà hình như người chết cũng về chung vui với kẻ sống, ta cảm thấy đó mới thật là cái vui xuân. Phải chăng Nàng chỉ vui bằng cái vui của Nàng ban bố cho đời, nên Nàng về là Nàng gieo rắc quanh Nàng bao nguồn sống mới mẻ, Nàng trang điểm cho đời được rực rỡ huy hoàng?

Vị tha và hiếu sanh là đặc tánh của đàn bà, thì đó là đặc tánh của Nàng, người đàn bà đẹp đẽ nhứt, hiền hậu nhứt ở trần gian. Trong lúc cảnh vật tiêu sơ, cây cỏ xàu úa, thì Nàng về, đem sức sanh sản lại. Êm đềm mát mẻ biết bao nhiêu khi đôi mắt bấy lâu quen với nắng cháy, mưa dầm, mà nay được nhìn đến cảnh thanh tú:

“Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.

một cảnh sống, sau những mùa chết. Mầm non chớm nụ trên cành khô héo như được Nàng nhuần tưới cho một thứ nước hồi dương.

Muốn biết được sức sanh sản của Nàng, ta hãy đi một vòng chợ Tết. Nào là đào hồng, cúc trắng, mai vàng, hướng dương, vạn thọ… nào là dưa hấu, chà là, quýt, cam, hồng, bưởi bày la liệt trong các gian hàng hoa quả, và còn nặng trĩu trên những cành cây xanh tốt trong vườn xuân rực rỡ, xinh tươi, và ngoài kia, trên cánh đồng mênh mông bát ngát, bông lúa vàng thơm no trĩu nặng dưới làn gió thoảng khiến cho nhà nông nhìn đến mà hê hả tấm lòng.

Như thế người ta sống được sống không chán nản là nhờ Nàng, mà vạn vật và tồn tại, nối dõi được mãi mãi có lẽ cũng nhờ Nàng. Nhờ Nàng mà đời trẻ lại, đổi mới và tiến hóa hơn lên. Tưởng tượng quanh năm chẳng có xuân về, ta cảm thấy đời tàn tạ, hoang vu, lạnh lẽo, trống không một cách ghê sợ.

Cho nên những lúc Xuân về, người ta ngưng cả công việc. Muôn lòng như một chỉ băn khoăn náo nức đón tiếp Nàng Xuân. Đôi liễn đỏ, nén hương thơm, dĩa mứt, chén trà, nhà nào cũng có ngần thứ ấy để đãi Nàng với tấm lòng hoan lạc. Nàng là phúc tinh của nhân loại. Người ta tin cậy ở sắc đẹp của Nàng cho đời được đẹp đẽ hơn lên; tin cậy sự vui vẻ của Nàng cho đời bớt những nỗi buồn rầu, và nhứt là ở tấm lòng hòa nhã dịu dàng, ở tình thương yêu rộng rãi của Nàng cho đời bớt ích kỷ, tranh đua, thù ghét, thương yêu nhau nhiều hơn.

Bởi thế khi Nàng đi, thì thiên hạ ngơ ngác, mơ buồn, mến tiếc. Tiếng pháo tống Xuân vừa dứt, là văng vẳng trong cây, trong gió, vọng lên những lời than thở cảnh tàn Xuân, mà người cảm Xuân đã ghi lại được những câu nầy:

Tàn Xuân

Hương Xuân còn vướng trên cành,

Mà Xuân đã vội dứt tình ra đi!

Hoa buồn ứa lệ chia ly,

Lá buồn gọi gió nằn-nì thở than,

Dòng xanh rào rạt sóng tràn,

Nhớ nhung mây bạc mơ màng trăng đêm.

Tương tư bóng ngả trước thềm,

Lòng riêng thổn thức nỗi niềm cô đơn.

HOÀI VÂN

HÀ MẠNH ĐOÀN st.

Ngày Tết

chớ cắn hạt dưa...

Lê Nguyễn

Hãi hùng công nghệ hạt dưa “ăn dễ ung thư”.

“Không ngậm chất tẩy trắng và phẩm màu công nghiệp với nhớt thải thì không thể có hạt dưa đẹp và bóng được”- một công nhân làm hạt dưa nói với tôi. Đó cũng là sự thật mà phóng viên Tiền Phong phát hiện sau hơn một tháng thâm nhập các cơ sở làm hạt dưa bằng công nghệ hết sức độc hại ở Tây Ninh và Tp.HCM.

Những ngày cận tết, mỗi ngày cơ sở Th. T. của bà H. ở xã Trường Mít, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh cho ra lò khoảng 6 tấn hạt dưa các loại. Số hạt dưa này, theo bà H., được đưa lên tập kết ở Sài Gòn sau đó bỏ mối cho các đại lý ở khu vực miền Tây và hệ thống bán lẻ ở các chợ, siêu thị.

“Ngậm” đủ chất độc

Chúng tôi có mặt tại cơ sở hạt dưa của bà H. vào một ngày đầu tháng 12. Tại khu sân rộng hơn 100m2 trước nhà, hơn 20 tấn hạt dưa tươi đã được tập kết. Theo lời bà H., hạt dưa nhập từ Trung Quốc thông qua đầu mối là một doanh nghiệp ở Lạng Sơn. Để cho ra lò loại hạt dưa sạch bóng và bắt mắt, hàng tấn hạt dưa tươi này được công nhân đưa vào bể chứa nước lạnh và xút- một loại hóa chất dùng trong ngành công nghiệp dệt nhuộm, xà phòng. “Hạt dưa tươi còn dính đất và các chất bẩn, vì vậy để làm sạch chúng phải được tẩy trắng”- bà H. nói. Ở một góc trong nhà máy chế biến, là hàng loạt phẩm màu, chất tẩy công nghiệp và dầu loại thải… tất cả chuẩn bị sẵn sàng cho công đoạn chế biến tiếp theo. Trước khi tẩy hạt dưa, hai công nhân cho nước lạnh vào bể chứa, sau đó lấy từ trong bao ra những viên xút màu trắng với trọng lượng khoảng 2-3kg cho vào nước. Giữa lúc nước lạnh gặp xút bắt đầu sôi lên sùng sục, các công nhân ở cơ sở này đổ hạt dưa vào bể ngâm. Một công nhân đóng cầu dao điện, cánh quạt được gắn trong bể cũng bắt đầu quay tít để hỗ trợ đánh sạch vết bẩn bám ở hạt dưa. Theo các công nhân, để hạt dưa được tẩy sạch hoàn toàn ít nhất chúng phải được ngâm trong dung dịch này 30 phút. Tôi hỏi ngâm lâu như vậy chất này có ngấm vào hạt dưa không. “Có ngấm vào cũng không sao, bởi sau khi rang và trộn phẩm màu vào thì ai biết được”- một công nhân trả lời. Canh đúng 30 phút, công nhân này tiến lại tháo vòi nước để cho nước bẩn tuôn ra đường ống phía sau nhà. Mùi hôi, hắc tỏa ra từ chất tẩy công nghiệp. Tuy nhiên, các công nhân cho biết, ngày nào cũng ngửi mùi này riết thành quen, chả còn nghe mùi nữa. Những hạt dưa dính đầy bùn đất, nhơ nhớp đã trở nên trắng, và sạch sẽ. Lúc này hàng loạt công nhân bắt đầu đưa hạt dưa từ bể ngâm vào bao để cân, sau đó chuyển sang 8 nồi rang là những quả cầu bằng sắt nóng ran đang chờ sẵn. Theo các công nhân, 8 chảo rang nơi này có công suất rang khoảng 500kg một suất trong hơn một giờ. Để hạt dưa chín, các nồi rang không chỉ được đun lửa liên tục với nhiệt độ cao mà dầu ăn cũng được cung cấp đủ để hạt dưa không cháy. Bà H. nói nơi đây rang hạt dưa với dầu ăn Cái Lân nên hạt dưa rất ngon và béo. Tuy nhiên, để hạt dưa bóng bẩy, một công nhân sau khi đổ dầu vào chảo rang liền đổ thêm khoảng 2 lít dầu nhớt thải vào chảo. “Đổ thêm nhớt hạt dưa mới bóng được”- công nhân này tiết lộ.

Khoảng một tiếng sau khi hạt dưa được rang, công nhân bắt đầu dùng phẩm màu công nghiệp được tách ra ở từng bao nhỏ hòa với nước và đổ vào từng chảo. Khoảng 10 phút sau khi hạt dưa chín đều, ngấm hết các phẩm màu tạo thành một màu đỏ hồng tươi, các chảo rang bắt đầu dừng hẳn, hạt dưa được đưa ra đổ ở sân chờ nguội và vô bao đưa đi tiêu thụ. Cơ sở làm hạt dưa có tên T.P ở xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn, Tp.HCM cũng không thua kém về công nghệ làm hạt dưa độc hại như cơ sở ở Tây Ninh. Theo các công nhân ở đây, mỗi ngày cơ sở này cho ra lò từ 6-8 tấn hạt dưa thành phẩm và bỏ mối khắp cả miền Nam. Theo chân một tài xế xe tải chở hàng, chúng tôi vào được cơ sở hạt dưa luôn kín cổng cao tường này. Tại đây, gần chục công nhân đang hì hục ngâm, rang hạt dưa dưới tiết trời nóng bức. Tại bể ngâm hạt dưa, hàng chục bao tải hạt dưa tươi đang được đổ vào bể ngâm với xút sau đó chúng được đưa qua 10 nồi rang. Ngoài làm hạt dưa các màu cánh gián, đỏ và đỏ huyết tươi, nơi đây còn rang hạt hướng dương. Một cô gái phụ trách việc xuất nhập hạt dưa ở đây cho biết, khách hàng có thể tùy chọn màu hạt dưa các loại với giá cả cũng khác nhau. Loại hạt dưa to màu đỏ tươi đang bán rất chạy có giá 54 nghìn đồng/kg, loại màu cánh gián 53 nghìn đồng/kg, còn hạt dưa đỏ hạt nhỏ 56 nghìn đồng/kg. Khi tôi hỏi sao hạt dưa có nhiều màu thì cô gái cho biết đó là do dùng phẩm màu để làm đẹp. Liệu nó có độc hại không? Cô gái nhanh nhảu: “Phẩm màu này chỉ thấm ở ngoài vỏ cho đẹp thôi nên không sao. Ăn hạt dưa bỏ vỏ lo gì”. Một công nhân vừa nghỉ làm hạt dưa cho cơ sở T.P cách đây 5 tháng, cho biết: “Thời gian trước đây, cơ sở này còn dùng nhớt thải để rang hạt dưa, sau đó bị lực lượng chức năng phát hiện nên đã ngưng và thay thế vào đó là dùng dầu ăn loại thải. Nhưng xút và phẩm màu thì không thể ngưng được vì xút làm hạt dưa trông sạch đẹp còn phẩm màu là bắt buộc”. Cũng theo người này, người ta hay dùng dầu ăn loại thải để rang nhưng hạt dưa không bóng được nên cứ 100kg hạt dưa người ta lại đưa thêm vào 2-3kg dầu nhớt để làm bóng. Tại cơ sở làm hạt dưa của bà H. ở Tây Ninh mặc dù chủ cơ sở cho chúng tôi thấy vài bịch dầu loại 50 lít bên ngoài ghi dòng chữ “Cái Lân” để làm tin nhưng ở nơi chế biến nhiều xô chậu còn dính nhớt thải đen kịt nằm lăn lóc. Ở một góc nơi bể ngâm hạt dưa, chúng tôi còn phát hiện hàng loạt bịch để các loại phẩm màu đỏ, cánh gián và đỏ huyết. Bên ngoài các loại phẩm màu này không ghi tên cơ sở sản xuất, cũng như phẩm màu có được dùng trong chế biến thực phẩm hay không. Một công nhân cho biết, để bảo quản hạt dưa thời gian lâu mà không phai màu, hầu hết phẩm màu được dùng là phẩm màu công nghiệp của Trung Quốc. “Loại này chỉ cần dùng 2g là 100kg hạt dưa biến thành màu đỏ tươi bắt mắt liền”- công nhân này tiết lộ. Theo người này, nếu hạt dưa dùng phẩm màu thực phẩm thì khi cắn vỏ hạt dưa thường hay dính màu ở miệng. Nhưng hạt dưa dùng bột màu Trung Quốc thì không. Còn về nhớt thải rang với hạt dưa, một công nhân cho biết “do trộn chỉ 2kg/100 kg hạt dưa nên không độc hại gì cả”. “Để tẩy mùi nhớt và phẩm màu, trước khi cho ra lò, hạt dưa cũng được bỏ thêm ít bơ vào lò rang nên khi cắn cảm thấy có vị thơm, béo”- công nhân ở cơ sở này nói thêm.

Ăn để… ung thư

Trao đổi với Tiền Phong, TS Phan Thanh Thảo- Viện trưởng Viện Công nghệ hóa học cho biết, xút (NaOH) là chất rắn màu trắng dùng trong tẩy trắng, dùng làm xà bông và xử lý nước thải trước khi cho ra môi trường… Theo TS Thảo tùy thuộc vào thời gian tiếp xúc mà tính độc hại của xút tác động nhiều hay ít. Ngoài việc ngấm qua da, xút có thể gây đột biến tế bào vú và về lâu dài có thể gây ung thư vú… Một bác sĩ chuyên ngành về vệ sinh thực phẩm ở Tp.HCM cho biết mặc dù hạt dưa khi ăn thì bỏ vỏ nhưng việc dùng các loại chất xút, nhớt và phẩm màu để chế biến đều có thể gây nguy cơ cho sức khỏe người dùng. “Hầu hết các loại hạt dưa có màu sắc rực rỡ, bắt mắt thường dùng phẩm màu công nghiệp có chứa chất Rhodamine B thường được dùng để nhuộm vải, cấm sử dụng trong sản xuất thực phẩm vì có khả năng gây ung thư. Ăn các sản phẩm nhuộm Rhodamine B có khả năng tích tụ các chất độc trong gan, thận, gây dị ứng da”- bác sĩ này nói. Một chuyên gia về hóa ở Đại học Bách khoa Tp.HCM cũng cho rằng ngay cả việc rang hạt dưa nhưng dùng dầu thực vật loại thải, đã bị hydro hóa cũng không tốt bởi loại dầu ăn này gây nên bệnh tim mạch nếu dùng nhiều và lâu dài. Gọi vào số điện thoại của một đơn vị chuyên cung cấp hạt dưa chưa qua chế biến ở đường Trần Đăng Ninh- TP Lạng Sơn, giọng một phụ nữ cho biết cơ sở nơi đây cung cấp hạt dưa cho tất cả các cơ sở chế biến hạt dưa toàn quốc. “Hạt dưa bọn tôi nhập về từ Tân Cương của Trung Quốc với giá 15 nghìn đồng/kg. Nếu lấy từ 10 tấn trở lên chúng tôi sẽ giảm còn 13 nghìn đồng/kg”- người này cho biết. Một đầu nậu ở Lạng Sơn cho biết, mặc dù “hạt dưa tươi” nhưng nếu không chế biến hết để cả năm cũng không hỏng vì nó được dùng “chất bảo quản”. Khi tôi hỏi chất gì mà tốt đến thế, đầu nậu này nói “đó là bí quyết”.

Bs Nguyễn Lân-Đính st.

06.01.2013

10 nguyên tắc

thọ thêm nhiều tuổi

Châm ngôn thứ nhất:

“Trong thiên hạ, không có chuyện làm biếng mà có thể có một thân thể khỏe mạnh”.

Châm ngôn thứ hai:

- Ði với những việc không vui vẻ của dĩ vãng và nghịch cảnh, không thấy khó chịu.

- Ðối với những ngày sắp tới không có ước vọng quá cao, nhưng luôn cầu bình an hạnh phúc.

Ba DƯỠNG:

1. Bảo dưỡng.
2.Dinh dưỡng.
3. Tu dưỡng.

Bốn QUÊN :

1. Quên tuổi tác.
2. Quên tiền tài.
3. Quên con cái.
4. Quên buồn phiền.

Năm PHÚC :

1. Có thân thể mạnh khỏe, gọi là phúc.
2. Có vui thú đọc sách, gọi là phúc.
3. Có bạn bè tri kỷ, gọi là phúc.
4. Có người nhớ đến anh, gọi là phúc.
5. Làm những việc mà mình thích làm, gọi là phúc.

Sáu VUI

1. Một vui là hưu nhưng không nghỉ.
2. Hai vui là con cái độc lập.
3. Ba vui là vô dục tắc cương.
4. Bốn vui là vui vẻ vấn tâm mà không xấu hổ.
5. Năm vui là có nhiều bạn hữu.
6. Sáu vui là tâm tình không già.

Bảy SUNG SƯỚNG:

1. Biết đủ thường sung sướng.
2. Biết giải trí khi nhàn rỗi.
3. Biết đắc chí tìm niềm vui.
4. Khi cấp thời biết tìm niềm vui.
5. Biết dùng người làm vui.
6. Biết vui khi hành thiện.
7. Bình an là vui nhất.

Tám CHÚT NỮA :

1. Miệng ngọt ngào thêm một chút nữa.
2. Ðầu óc hoạt động thêm một chút nữa.
3. Nóng giận ít thêm một chút nữa.
4. Ðộ lượng nhiều hơn một chút nữa.
5. Lòng rộng rãi thêm một chút nữa.
6. Làm việc nhiều thêm một chút nữa.
7. Nói năng nhẹ nhàng thêm chút nữa.
8. Mỉm cười nhiều thêm chút nữa.

Chín THƯỜNG :

1. Răng thường ngậm.
2. Nước miếng thường nuốt.
3. Mũi thường vê.
4. Mắt thường động.
5. Mặt thường lau.
6. Chân thường xoa bóp.
7. Bụng thường xoay.
8. Chi thường vươn.
9. Hậu môn thường co bóp

MƯỜI NGUYÊN TẮC KHỎE MẠNH

1. Ít thịt, nhiều rau.
2. Ít mặn, nhiều chua.
3. Ít đường, nhiều trái cây.
4. Ít ăn, nhai nhiều.
5.Ít áo, tắm nhiều.
6. Ít nói, làm nhiều.
7. Ít muốn, bố thí nhiều.
8. Ít ưu tư, ngủ nhiều hơn.
9. Ít đi xe, đi bộ nhiều.
10. Ít nóng giận, cười… nhiều hơn

K Thư st.


N

CƯỜI

XUÂN

Cúng Cha Mẹ Vợ Đầu Năm.

Anh nọ thắp nhang cúi đầu khấn trước hình ảnh của Cha Mẹ Vợ đầu năm. Anh ta lẩm bẩm như sau:

- Thưa Ba Má. Hôm nay là mồng 1 Tết và cũng là ngày Sinh Nhật của vợ con. Vợ con tên Hồng cho nên con chỉ việc mua tặng nàng một bó hoa hồng là xong. Cám ơn Ba Má đã không đặt tên vợ con là Kim Cương nhé!

Biết rồi.

Ngày Tết cộng đồng Việt Nam ở thành phố nọ tổ chức liên hoan có mời ca sĩ về hát. MC hỏi các bà.

- Thưa quý bà! Hôm nay quý bà mặc đẹp quá. Nếu quý ông chồng các bà nói rằng hôm nay các bà trông rất đẹp thì các bà sẽ trả lời ra sao?

Các bà đồng thanh đáp:

- Biết rồi! Khổ quá! Nói mãi…

Vẫn độc thân

Có một anh chàng độc thân, đẹp trai nọ thì thầm với người yêu vào chiều 30 Tết như sau:

- Em thích ăn bữa tối Tất Niên cùng anh chứ?

-“Dạ em rất thích”, cô bạn gái bẽn lẽn.

- Thế hẹn gặp em lúc 7 giờ tối ở nhà em nhé! Em về trước chuẩn bị đồ ăn ngon vào!

Kiêng c

Kiêng cữ ngày Tết là chuyện thường tình của người Việt.

Đúng giao thừa có một ông người Việt gọi 911 báo cho biết có trộm trong vườn nhà ông. Cảnh sát bảo ông ta hãy bình tĩnh và họ sẽ tới ngay. Ông ta liền nói:

- Các ông cứ từ từ. Đợi sau 3 ngày nữa hãy tới. Vì 3 ngày Tết chúng tôi kiêng cữ không muốn người lạ xông nhà.

ML st.

Cầu Phúc Cho Mọi Người.

Chú Tiểu: Con cầu Phật... phù hộ những người thân cùng bạn hữu của
con măi măi được khỏe mạnh và hạnh phúc.

Phật nói: Chỉ cho 4 ngày thôi.

Chú Tiểu: Thế thì xin Phật cho họ được khỏe mạnh và hạnh phúc trong
những ngày mùa xuân, những ngày mùa hè, những ngày mùa
thu và những ngày mùa đông.

Phật nói: Chỉ cho 3 ngày thôi.

Chú Tiểu: Nếu chỉ được 3 ngày thì con xin họ được khỏe mạnh và hạnh
phúc trong ngày hôm qua, ngày hôm nay và ngày mai.

Phật nói: Chỉ cho 2 ngày thôi.

Chú Tiểu: Như vậy con xin cho họ được khỏe mạnh và hạnh phúc trọn
ngày hôm nay và ngày mai.

Phật nói: Chỉ cho 1 ngày thôi.

Chú Tiểu: Vâng, cũng được.

Phật thắc mắc hỏi: Như vậy là ngày nào?

Chú Tiểu đáp: Con xin cho họ được mạnh khỏe và hạnh phúc từng
ngày.

Phật mỉm cười nói: Tốt lắm. Những người nào đọc câu truyện này của
con họ sẽ được khỏe mạnh và hạnh phúc mỗi ngày.

Cầu phúc đầu năm cho mọi người.

Bs NLD st

Xỉn…

Đêm Giao Thừa, một gã say rượu bị ngã trầy mông, chảy máu be bét. Anh ta mò về nhà, lén mở tủ thuốc, soi gương để tự rửa vết thương và băng bó cho mình. Xong xuôi, thấy bà vợ vẫn ngủ say, anh chồng lấy làm đắc chí nghĩ rằng sẽ lừa được vợ.

Sáng hôm sau, hắn bị dựng dậy vì tiếng quát của vợ:

- Có chuyện gì vậy?

- Đêm qua, ông lại say rượu phải không?!

- Đâu... đâu có!!

- Thế ai dán đầy bông băng, thuốc đỏ lên cái gương của tôi hả???

Rất tiếc!!!

Ngày Tết mọi người cùng nhau ra ga xe lửa về quê. Ba người đàn ông ra ga ngồi khề khà uống rượu ở quán chờ tàu đến. Đoàn tàu chạy vào ga vài phút rồi chuyển bánh ngay, nhân viên nhà ga cố lắm cũng chỉ kịp giúp được hai người đã ngà ngà say lên tàu, còn người thứ ba không kịp. Ông này buồn rầu đứng nhìn theo con tàu đang khuất dần.

- Thật đáng tiếc, thưa ông - anh nhân viên nói - chúng tôi thực lòng muốn cả ông cũng lên được tàu.

- Vâng, đúng là rất đáng tiếc cả cho hai bạn tôi. Vì họ đến đây chỉ cốt để tiễn tôi thôi.

MĐ st.


Cậu bé chữa chuồng cừu

Thân tặng các cháu có ước mơ lớn, yêu toán và áp dụng vào đời sống giúp đỡ cha mẹ và mọi người .

Oula là nhân vật trung tâm trong giới toán học thế kỷ XVIII. Trong các lĩnh vực như số luận hình học, thiên văn học và vi tích phân, ông đều đạt được những thành tựu xuất sắc. Nhưng nhà toán học đại tài này lúc còn đi học không hề được thầy giáo yêu quý, thậm chí ông còn bị trường tiểu học đuổi ra.

Câu chuyện là do những ngôi sao dẫn đến việc này. Lúc đó, cậu bé Oula học trong một ngôi trường của nhà dòng. Có một lần, cậu đặt câu hỏi với thầy giáo, trên trời có bao nhiêu ngôi sao, thầy giáo liền từ tốn trả lời cậu: “Trên trời có bao nhiêu ngôi sao không quan trọng, chỉ cần biết những ngôi sao trên trời là do Thượng đế đặt vào là đủ”.

Oula cảm thấy rất khó hiểu: “Trời to như vậy, cao như vậy, đất thì lại chẳng có cầu thang dẫn lên trời, vậy thì Thượng đế làm thế nào mà đặt từng ngôi sao lên trên trời được nhỉ? Mà cứ cho là Thượng đế đã đặt chúng lên màn trời thì sao Ngài lại quên số ngôi sao được nhỉ?”

Thầy giáo lại bị hỏi một lần nữa, không biết trả lời thế nào mới ổn. Ngay lúc đấy, thầy giáo cảm thấy bực mình vô cùng, không chỉ vì câu hỏi của Oula làm thầy giáo không thể trả lời, mà quan trọng hơn là vì trong khi thầy giáo coi Thượng đế là cao hơn tất cả, thì Oula lại trách Thượng đế không nhớ rõ số ngôi sao trên trời, thế nghĩa là hoài nghi với Đấng Vạn Năng. Ở thời đó, tuyệt đối không bao giờ được phép nghi ngờ Thượng đế. Oula lại không thống nhất với giáo hội và Thượng đế, thầy giáo liền đuổi Oula về nhà, không cho học.

Về nhà thì chẳng có việc gì làm, cậu liền giúp bố chăn cừu, trở thành một chú bé chăn cừu. Cậu vừa chăn cừu, vừa đọc sách. Trong những sách mà cậu đọc, có rất nhiều sách toán học.

Cừu của bố ngày càng nhiều, có đến gần 100 con. Cái chuồng cũ có lẽ đã không đủ chỗ, bố quyết định xây một cái chuồng mới. Ông ước tính dùng một mảnh đất hình chữ nhật, dài 40m rộng 15m, diện tích vừa đủ là 600m2, bình quân cứ 6m2 một con cừu. Khi đang định xây dựng, ông phát hiện rằng vật liệu của ông chỉ đủ cho một cái hàng rào chu vi 100m. Nếu xây một cái chuồng dài 40m, rộng 15m thì chu vi của nó sẽ là 110m (15+15+40+40=110). Bố cậu cảm thấy rất khó, nếu cứ làm theo tính toán thì phải thêm 10m vật liệu nữa. Nếu thu nhỏ diện tích thì diện tích bình quân của mỗi con cừu sẽ nhỏ hơn 6m2 .

Oula nói với bố, cậu đã có cách rồi, không cần phải thêm vật liệu, cũng không cần bố phải lo lắng về việc diện tích bình quân của mỗi con cừu sẽ nhỏ hơn so với tính toán. Bố không tin rằng cậu bé Oula có thể có cách gì, nên không hề để ý đến lời cậu nói. Oula tức khí, nói lớn, chỉ cần di chuyển cọc của chuồng cừu là xong ngay. Bố cậu tuy hơi nghi ngờ, nhưng cuối cùng vẫn đồng ý cho cậu con trai thử xem sao.

Khi được bố đồng ý, cậu liền đứng lên, chạy đến chỗ chuồng cừu đang chuẩn bị xây dựng. Cậu lấy một cái cọc gỗ làm trung tâm, thu nhỏ chiều dài 40m thành 25m. Cha cậu lo lắng, liền nói: “Thế thì làm sao mà thành được? Cái chuồng như vậy nhỏ quá, nhỏ quá mất rồi”. Oula cũng không trả lời, chạy đến cái chiều kia, thêm 10m nữa vào chiều rộng, chiều rộng bây giờ là 25m. Sau khi thay đổi như vậy, chuồng cừu hình chữ nhật như tính toán ban đầu đã biến thành hình vuông các cạnh 25m. Sau đó, Oula tự tin nói với bố. “Bây giờ, hàng rào đã đủ rồi, diện tích cũng đủ rồi thưa bố”.

Ông bố nghe theo thiết kế của Oula mà đóng chuồng cừu, vừa vặn với hàng rào chu vi 100m, diện tích cũng đủ, mà trông lại lớn hơn. Ông bố vô cùng vui sướng.

Bố Oula nghĩ rằng nếu để đứa trẻ thông minh như thế này đi chăn cừu thật là phí hoài. Về sau, ông nghĩ cách giúp Oula làm quen với nhà toán học Benuli. Qua sự giới thiệu của nhà toán học này, năm 1720, Oula được trở thành sinh viên của trường Đại học Basaier. Năm đó cậu 13 tuổi, và là sinh viên trẻ nhất của trường này.

Hà Mạnh Đoàn st


CHÂN TRỜI CỎ NON

ĐÀM LAN

Hai bảy tết. Trong nhà ngoài phố rộn rực không khí sắm sanh, bày biện.

“Làm cả năm ăn ba ngày tết”. Chẳng biết câu khẩu truyền ấy có tự bao giờ, mà cứ mỗi khi năm hết tết đến là nhà nhà sắm sửa, người người lo toan. Cứ như cả năm chưa từng được ăn, cả năm chưa từng được mua sắm. Chỉ có ba ngày mà thôi là các thứ. Cái gì cũng thích mới mẻ, sáng nhoáng, tươi tắn. Không khí trong nhà đầu năm có rực rỡ sáng sủa thì cả năm mới ăn nên làm ra, con cái trong nhà mới khỏe mạnh tấn tới, vạn sự trong nhà mới suôn sẻ mát mẻ. Nghĩa là bao nhiêu thứ ước muốn cho cả một năm tròn phía trước cứ như gửi gắm cả vào những ngày này vậy. Dẫu những tháng ngày của cái năm sắp hết này có những gờn gợn, có những đùng đục, có những trầy trật thì cũng đánh một cái chép miệng, đánh một cái tặc lưỡi, đánh một cái thở khì “thôi thì… cái cũ đi cái mới sẽ đến thôi, qua trường qua đoạn rồi lại hanh thông hoạn lộ ấy mà”. Ước muốn! Vâng những ước muốn như những giọt dầu chêm vào ngọn đèn cho đốm lửa lại bừng lên lấp lóa, như những làn hơi rút căng buồng phổi cho một cuộc đua tiếp sức lại bền bỉ mà bươn về phía trước. Nếu không thổi một luồng khí khát khao vào chung ngọn gió giao mùa này, thì chắc sẽ chẳng thể nào xua thốc đi những mây mờ hoen mắt cũ, để lại long lanh ánh ngước dõi lên bầu trời trong xanh với từng cụm mây trắng tinh tươm đón nắng. Những ngày mới luôn đầy ắp niềm tin trong mỗi bình minh thắp sáng vừng đông, để lại bao chim muông hoa lá trỗi lên bản đồng ca dạt dào phức điệu mùa vui, để lại ngút ngát đến tận chân trời một màu cỏ non phơi phới, đón chào sức sống, niềm tin và bao ước vọng của những cuộc đời rời rợi sắc tin yêu.

Thiên Ân vừa cúi xuống định nhặt cây phất trần, thì phải vội đứng thẳng lưng, hai tay đỡ lấy cái bụng tròn to ộ ệ, mặt khẽ nhăn vì một cảm giác đau dội lên từ đâu đó. Thiên Ánh chợt nhìn thấy la lên:

- Đã nói là ngồi yên một chỗ đi, cứ loay hoay hoài, coi chừng cái bụng đó. Làm sao để ráng mấy ngày nữa cho em bé ra đời vào mùa xuân chứ mà tọt ra mấy ngày này thì mệt lắm à nha.

Thiên Ân cười:

- Chị yên tâm đi, em chỉ thị cho nó rồi. Con mà không nghe lời mẹ là mẹ không yêu đâu.

- Ờ, mong sao nó dễ dạy rứa cũng đỡ.

- Trẻ con mà dễ dạy quá cũng không hay. Vì như vậy nó sẽ kém phát triển về trí não. Tốt nhất là nghịch nghịch một chút, tinh quái một chút, ranh ma một chút, nhưng đừng có cứng đầu, hỗn láo là được.

Thiên Ái từ ngoài cửa đi vào, nói góp.

- À, Ái về rồi đó hả? Mua xong hết chưa?

- Sao mà đã xong được chị? Nhớ cái gì lại chạy đi mua thôi, mấy ngày này thì đi rạc cả chân ra. Úi trời! May mà một năm có một cái tết, chứ mà đến hai ba cái như vầy chắc chết quá.

- Chết gì. Nếu vòng tuần hoàn thời gian như rứa thì lại có những cách thích ứng khác thôi. Mày lên tầng hai coi má gọi gì kìa.

Thiên Ái bỏ những thứ vừa ôm về lên cái bàn rồi đi lên những bậc cầu thang. Thiên Ân vịn vào cái tay ghế, nhè nhẹ ngồi xuống. Cô nghe nghe động trạng trong cơ thể mình. Hình như có cái gì đó khang khác. Ơi con ơi! Con ráng ít ngày đi, chớ mà con đòi ra hôm nay thì khổ lắm. Mấy ngày này ai cũng như vận động viên chơi trò rượt đuổi hết, con mà thò đầu ra thì mệt lắm nghe con. Mẹ muốn con được ra đời trong một bầu không khí bằng an, thanh thản, cho đời con nhẹ nhõm đỡ chật vật. Chứ mẹ không muốn con phải đôn đáo ngược xuôi vầy đâu. Ráng nghe con. Thiên Ân cứ ngồi lẩm nhẩm trò chuyện với con, đứa bé như hiểu lòng mẹ, cũng êm êm dần cơn quấy quả. Bà Thiên Minh từ trên cầu thang bước xuống, ngó ngay sắc mặt Thiên Ân rồi nói:

- Nè, con có thấy gì khác lạ trong người không? Ngó sắc mặt mày tao nghi không ổn quá.

- Dạ, không sao đâu má. Con thấy vẫn thường mà.

- Không chủ quan được đâu. Con Ánh lo đi coi sắp đồ đạc sẵn cho em đi. Lỡ nó ối một tiếng là phải lo đi liền đó.

Thiên Ánh đến cạnh Thiên Ân, xoa tay vào bụng em:

- Con thấy bụng Ân còn cao lắm mà, con nghe nói, gần sanh bụng phải trễ trễ xuống cơ.

- Không chừng đâu. Cứ sắp trước cho yên tâm. Mấy ngày này đã chộn rộn bao công chuyện rồi, đợi đến lúc lại quáng quàng lên à.

Thiên Ánh nghe mẹ nói vậy thì quày quả đi sắp xếp các thứ vật dụng cần thiết cho cả bà mẹ lẫn em bé. Sao mà linh tinh đủ thứ. Thiên Ánh chưa làm mẹ nên cũng không biết rõ là cần những gì. Nhưng từ tháng trước, Thiên Ân và mẹ đã đi mua đủ các thứ rồi, bây giờ Ánh chỉ còn sắp xếp cả vào chiếc giỏ nhựa vuông thôi. Vừa làm cô vừa lẩm thẩm “Bé con ơi! Đừng có mà o e bây giờ nhé, có mà khỏi tết luôn đó. Ba mày đi công tác mai mới về. Thiệt là… đúng cháu bà nội tội bà ngoại mà”. Quang Trực, chồng của Thiên Ân là một chuyên gia trong một ngành thuộc lĩnh vực khoa học. Họ có nhà riêng ở Sài Gòn, nhưng Thiên Ân mới sanh lần đầu, nên về nhà mẹ trước cả tháng cho yên tâm. Lại là những ngày cuối năm, không thể để cô một mình với những gì sắp xảy ra. Nhà Thiên Ân lại toàn phụ nữ, có ưu điểm trong việc chăm sóc bà đẻ, nhưng lại hạn chế khi cần sự nhanh nhẹn xốc vác của phái nam.

- Con đang làm gì mà chăm chú vậy hả Thiên Thanh?

- Dạ con đang vẽ cây mai nè mẹ.

- Giờ nó chưa nở hoa mà vẽ gì, vẽ cây không có hoa đâu có đẹp.

- Thì con vẽ cái cây trước, mấy bữa nữa ra hoa con vẽ tiếp.

- Trời ơi trời! Lại còn có kiểu vẽ dài kỳ nữa chớ. Thôi đi ăn sáng đi cô nương. Trưa è ra mới dậy, ăn sáng thành ăn trưa luôn rồi.

Bé Thiên Thanh cố thêm mấy nét bút nữa rồi mới chạy ra tô bánh canh mẹ để sẵn. Bé lên bảy rồi nhưng chưa từng thấy mặt ba. Đôi khi bé hỏi, Thiên Ái nói tránh là ba đi công tác nước ngoài, không về được. Và bé cũng chưa đủ lớn để hiểu vì sao có những lúc bà ngoại vuốt tóc bé mà khẽ thở dài.

- Ái ơi! gọi cái taxi đi, nhanh lên.

- Vậy là thằng nhỏ này nó ham vui quá rồi, nó không đợi được mấy ngày nữa rồi. Tao nhìn mặt mẹ nó là nghi rồi mà. Con Ánh coi xách đồ xuống cho em đi. Đầy đủ chưa ?

- Má coi lại đi, con sắp hết mấy thứ má mua vào rồi đó.

- Coi nào… quần áo, tã khăn, băng rốn… báo, bình sữa… thôi đủ rồi đó, xe đến chưa? Hai đứa đỡ nó ra cửa đi.

Thiên Ân hai tay ôm bụng, mặt mày nhăn nhó, cô lệt bệt bước theo sự dìu dỡ của Thiên Ánh và Thiên Ái. Chợt một chiếc taxi xịch đến cửa, Quang Trực vội vã tông cửa xe nhảy xuống.

- Ôi trời ! Sao mà về đúng lúc thế hả?

- Dạ tự nhiên hôm qua con nóng ruột quá, nghi nghi nên con xin về truớc, đi xe từ tối qua má à.

- Đúng là cái dây cái nhợ của vợ chồng và con cái.

- Chị để em.

Quang Trực quăng cái cặp lên cái ghế rồi luồn tay đỡ vợ. Thiên Ân mỉm một nụ cười yên tâm. Chiếc taxi thứ hai trờ đến, đành nhận một lời xin lỗi. Nhìn theo chiếc xe, Thiên Ái lẩm nhẩm cầu khấn. Rồi cô bần thần nhớ đến cái ngày…

- Má, bác Ân làm sao vậy má?

- À, bác Ân đi sanh em bé. Con ăn xong chưa?

- Dạ rồi. A, vậy mai mốt con có em bé để chơi rồi.

- Ừ, mai mốt tha hồ con bế em bé bác Ân.

- Thôi, con hổng bế đâu.

- Sao vậy? Chứ con thích em bé lắm mà.

- Con thích, nhưng mà con chỉ dắt em đi được thôi, chứ con bế con sợ em té lắm. Bạn Thảo lớp con, bế em bé bị té, má bạn Thảo la quá trời luôn. Má, sao má không sanh em bé cho con?

- Tại con ăn tham quá mà, ăn hết phần em rồi, làm sao má dám sanh em cho con.

- Má… con đâu có ăn tham đâu, có em thì con nhường phần con cho em chứ.

Thiên Ái ôm con vào lòng, cô mỉm cười mà nghe mắt mình nong nóng. Vẫn là câu “tuổi trẻ bồng bột”, vẫn là câu “khôn ba năm…”, một cái sảy chân không gì đỡ lại được. Lại thôi đành cái nợ cái duyên mình nó thế. Ngày mai… Thiên Ái nhắm mắt xua nhanh những ý nghĩ, mặc kệ ngày mai. Hôm nay hãy cứ là hôm nay đã.

- Thôi con lên lầu chơi đi, cho má làm công chuyện. Ui cha ơi, nhà cửa vầy mà mình tui làm sao đây trời?

Than thở thế nhưng Thiên Ái xắn tay vào việc. Cô vừa làm vừa trông ngóng cái điện thoại. “Hổng biết chị Ân sanh có dễ không nữa? Vái trời…”.

Bồn chồn, thắc thỏm, những nét lo âu hiện rõ trên những gương mặt bơ phờ ngoài cánh của phòng sanh. Những chiếc áo blu tới lui vội vã. Thiên Ân đã vào phòng sanh hơn nửa tiếng rồi. Giờ thì chỉ còn trông vào sự bình an và may mắn của kiếp phận. Cái kiếp đàn bà, sinh tử là phút này, có muốn cũng chẳng ai ghé vai mà gánh giùm cho được. “Đàn ông đi biển có bạn. Đàn bà vượt cạn một mình”. Tạo luật đã phân định rành rành thế.

Thiên Ân cong người trong cơn đau dồn thúc. Tất cả mọi sự trên đời hầu như không gì tồn tại. Tất cả mọi sự trên đời, hầu như không gì trông ngóng. Giây phút này, chỉ có một thứ thanh âm. Cái thứ thanh âm luôn biểu thị cho sự đau đớn, khổ cực, mất mát, tan nát của cuộc đời. Những chỉ có mỗi phút giây này, nó mang một hàm nghĩa hoàn toàn khác. Một thứ hàm nghĩa mà khi nó cất được lên, nó lại đem lại những nụ cười sung sướng, tươi tắn, cởi thoát, và là dấu hiệu duy nhất của sự bình yên. Một khi nó chưa cất lên, thì chưa có thể nói trước được điều gì.

- Ai là người nhà Thiên Ân?

- Đây đây ạ.

Cả bà Thiên Minh và Quang Trực lên tiếng một lượt.

- Anh là chồng của sản phụ ?

Quang Trực gật đầu.

- Anh vào làm thủ tục để chuyển phòng mổ, thai lớn lại con so, không sanh tự nhiên được.

Bà Thiên Minh ôm ngực, mặt tái đi.

- Má, má bình tĩnh đi, chuyển phòng mổ cũng mau mà. Họ xử lý kịp thời thì không sao đâu má.

Bà Thiên Minh khẽ gật, nhưng trong lòng bà, mọi thứ cứ nhộn nhạo hết cả lên. Thủ tục cần thiết được chóng vánh hoàn tất. Thiên Ân mặt mày tái ngắt, ngồi lịm trên chiếc xe đẩy vào phòng mổ. Những gì có thể nhìn thấy chỉ là thấp thoáng ánh đèn hắt ra sau ô cửa kính. Bà Thiên Minh nhắm mắt, miệng lẩm nhẩm cầu nguyện. Quang Trực đi tuốt ra ngoài hành lang bệnh viện ngước mắt trông trời. Thiên Ánh thu lu ôm cái giỏ nhựa, cô chưa từng trải qua chuyện này, nhưng cũng cảm giác được những gì Thiên Ân đang phải chịu đựng. Con với cái. Liệu chúng đem lại cho cha mẹ được những gì, mà ngay từ phút đầu tiên chúng có mặt trên đời, mẹ cha đã phải đối mặt với sự sinh tử. Nhưng cái phép của tạo hóa nó thế, biết làm sao được.

Thiên Ân phó mặc sinh mạng mình trong bàn tay của những người thầy thuốc, thân xác cô như không còn chút hơi sức nào, nhưng thần trí cô thì lại vô cùng tỉnh táo, nó như căng ra trong sự chờ đợi, trông mong. Cái phút giây định mệnh. Phút giây can hệ vô cùng mật thiết cho cả một đời người, phút giây có thể thắp lên một chùm ánh sáng chói lòa, nhưng cũng có thể làm tắt ngấm những gì đang còn le lói. Cái phút giây ấy như kéo cho căng hết cỡ sức đàn hồi của hệ thần kinh khi trong không gian bật lên hai tiếng kêu “đét đét”. Đứa trẻ đã chuyển sang màu da tím tái vì ngạt, khi rời khỏi bụng mẹ. Các cô trợ lý làm những biện pháp cần thiết, và hai tiếng đét đét là sự kết thúc của những biện pháp ấy. Không phải là một tràng âm thanh óa óa khỏe phổi, mà bắt đầu là tiếng “ọ ọ” trong cổ họng, rồi tiếp đến là tiếng “è è”, rồi mới “á….á…”. Đây mới là thứ thanh âm cần thiết nhất, thứ thanh âm không quá to nhưng cũng đủ là một hồi chuông báo hiệu một ngày đã sáng. Tiếng cô y tá hô to “Con trai, nặng ba cân hai”.Thiên Ân thở ra một hơi dài, cô nhắm mắt, cảm giác thân thể mình bỗng chốc như không trọng lượng.

Bà Thiên Minh giơ tay đón đứa cháu đỏ hỏn từ tay cô y tá mà vẫn chưa hết run rẩy. Ơn Trời! Cuối cùng thì tảng đá ngàn cân cũng đã rơi tuột đi. Quang Trực lóng ngóng xếp dọn tấm chăn cái gối be bé để bà ngoại đặt cháu vào. Cu cậu bây giờ đã khóc to hơn lúc nãy rồi. Thiên Ân còn phải nằm phòng hồi sức mấy tiếng đồng hồ nữa mới ra được. Thiên Ánh tíu tít gọi điện báo cho Thiên Ái. “Ừ..ừ.., muốn rơi tim ra ngoài luôn. Hả? Tao đâu có thấy tròn vuông gì đâu, đứa nào cũng dài cả mà… hì hì.. Rồi, thôi nghe”. Bà Thiên Minh cười hỏi:

- Gì mà tròn vuông với dài đó.

- À, Ái nó nói mẹ tròn con vuông là mừng rồi, mà con có thấy đứa nào tròn đứa nào vuông đâu, đứa nào cũng dài mà.

Bà Minh và Quang Trực bật cười. Hay thật đấy. Chỉ vừa qua cơn nguy hiểm, lo lắng là con người ta lại có thể cười ngay được.

Ba mươi tết. Một chiếc taxi ghé đến tận chân cầu thang khoa sản. Quang Trực bế vợ, bà Thiên Minh bế cháu, Thiên Ánh và Thiên Ái thì tha lôi các thứ lỉnh kỉnh. Tất cả chất vào chiếc taxi để về nhà. Đúng ra thì sản phụ chưa được xuất viện, nhưng vào lúc ngày cùng tháng tận, nên chọn giải pháp đưa Thiên Ân về nhà và mời một cô hộ lý ngày ngày đến nhà chăm sóc. Quả là thời đại dịch vụ. Mọi thứ đều có thể dịch vụ hóa được, tiện lợi cho cả đôi ba bên.

Vừa xong nơi chỗ cho hai mẹ con nằm, cu nhóc chợt khóc ré lên.

- Sao sao nào? Rồi lại ướt rồi. Từ từ tui thay tã cho ông tướng à. Giờ thì ông tướng ngon lành rồi he. Mém chút nữa là cả nhà tiêu cái tết luôn rồi. Ba nó đặt tên cho nó chưa đó?

Thiên Ánh vừa thay cho cháu vừa hỏi. Quang Trực cười :

- Chắc nhờ mẹ với mấy chị em đặt tên cho cháu đi. Bữa giờ nghĩ hoài, hổng ra cái tên nào cho ngon lành hết.

- Hay là nối luôn chữ Thiên đi. Chữ Thiên là ngon một nửa rồi, thêm cái tên nào cho kêu kêu chút là okê.

- Bà ngoại có chọn một cái tên rồi, nhưng không biết ý ba mẹ nó thế nào. Nên chưa nói thôi. Ưu tiên cho ba nó đặt trước đó.

- Dạ, thôi mẹ chọn hộ con đi.

- Thế thì ngoại đặt là Thiên Khôi nhé.

- A, tuyệt vời, Thiên Khôi là mặt trời mới. Quá xá hay rồi. Đúng là mặt trời mới mọc trong nhà ta chứ còn gì nữa. Hoan hô má.

Thiên Ái reo to như trẻ nhỏ. Bé Thiên Thanh cũng ùa theo mẹ :

- Hoan hô bà ngoại. Dzậy là con có em Thiên Khôi rồi. Sướng quá, sướng quá. Êu, chị thương em Thiên Khôi của chị lắm nè nha.

Những tiếng cười cứ thế râm ran cả nhà. Trời chiều sâm sẫm. Thiên Ánh đang loay hoay quét dọn trước cửa. Chợt cô giật mình khi nghe:

- Chị… Chị Thiên Ánh!

Nhìn ra, một bóng người dong dỏng, xách một cái va li, vẻ rụt rè. Thiên Ánh vừa hỏi vừa đi ra gần để nhìn cho rõ:

- Ai đó? Úaa… Vũ Khải…

Người đàn ông vẻ vừa mừng vừa lo lo:

- Dạ… là em..

Thiên Ánh vẫn chưa hết bất ngờ, cô chợt nhìn nhanh vào trong nhà, rồi quay lại nói:

- Sao cậu bỗng nhiên mất tăm từ ngày ấy, giờ đột ngột xuất hiện, cứ như ma vậy?

- Dạ, chị cho em vào nhà, rồi em sẽ nói rõ mọi chuyện.

- Tôi…tôi…để tôi vào hỏi nó đã. Chắc…

- Ai hỏi gì đó Ánh?

Bà Thiên Minh lẹt xẹt chân dép đi ra, trong ánh sáng nhờ nhờ, bà không nhận dạng được người đang đứng ngoài cánh cổng. Thiên Ánh lúng túng, Vũ Khải vội lên tiếng:

- Dạ thưa bác, con là Khải đây ạ?

- Khải? Khải nào? Cậu… cậu còn đến đây làm gì hả?

Âm sắc bà đổi tông giận dữ, giọng Vũ Khải buồn xịu:

- Thưa bác, con biết là con có lỗi với mẹ con cô ấy, nhưng xin bác cho con được gặp cô ấy để nói một lời, nếu Thiên Ái không tha thứ được cho con, con sẽ đi ngay, không làm phiền gia đình đâu ạ.

- Ngoại ơi ! Má con mời ngoại với bác Ánh vào ăn cơm.

Bé Thiên Thanh vừa lảnh lót vừa chạy a ra chỗ bà ngoại và bác. Nhìn thấy con bé. Vũ Khải bỏ cái va li, ngồi xụp xuống, thò tay qua cổng vói nắm tay con. Bé Thanh thấy người lạ thì thụt lui đứng sau lưng bà ngoại. Cánh tay người đàn ông từ từ buông thõng, vắt qua thanh sắt của cái cổng. Bà Thiên Minh bất giác mềm lòng vì hành vi ấy. Bà cũng cảm thấy nên để cậu ta giãi bày câu chuyện xem thế nào. Bà khẽ hất đầu ra hiệu cho Thiên Ánh mở cổng rồi dắt tay bé Thanh đi vào nhà. Thiên Ánh chỉ cái ghế bảo:

- Cậu ngồi đó chờ tôi một chút. Tôi phải nói chuyện với nó xem sao đã.

Nhưng Vũ Khải chợt ngây người như phỗng, Thiên Ánh quay lại thấy Thiên Ái đã đứng ở bức rèm cửa thông lối. Đôi mắt Thiên Ái tròn căng, sự ngỡ ngàng, sự giận dữ, sự uất hận, nhưng thoáng vương một nét mừng vui. Khoảnh khắc thời gian lúc này như ngưng lại, Thiên Ánh sau mấy giây, nhận định được tình thế, cô định lặng lẽ nhường chỗ cho hai người, nhưng bất chợt Thiên Ái hét lên:

- Anh cút ngay đi, cút ngay ra khỏi nhà tôi đi…

- Thiên Ái, hãy cho anh nói đã, anh xin em, hãy nghe anh nói đã…

- Tôi không nghe, không muốn nghe, không thèm nghe, anh biến mất không một lời suốt tám năm qua, giờ anh còn muốn nói gì chứ. Anh cút đi... cút đi…

Thiên Ái vụt quay ngoắt vào trong. Ánh chạy theo ôm lấy em gái:

- Bình tĩnh, bình tĩnh đi em…

- Bình tĩnh? Làm sao mà em bình tĩnh được chứ, chị đuổi anh ta đi đi, đi ngay đi…

- Con à, hãy cho nó một cơ hội, cho cả con nữa. Nghe nó nói xem thế nào, có gút mắc gì, có khó khăn gì, con phải nghe mới biết chứ. Má cũng giận nó lắm, nhưng đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại, con à.

Thiên Ái gục vào vai mẹ khóc nấc lên. Bao chất chứa nỗi niềm như muốn tuôn trào tháo trút cả ra. Bà Minh nhè nhẹ vỗ về con gái, đợi cô nguôi khóc, bà tiếp :

- Con phải nghĩ đến tương lai con gái con nữa. Tha thứ cho một người vẫn dễ hơn là trông đợi vào sự rộng lòng của một người khác.

Dưới ánh đèn bờn bợt, làn da mặt Vũ Khải như xanh hơn, đôi môi khô nẻ vì cái lạnh se của gió mùa, mấp máy mấp máy. Hai bàn tay anh cứ hết đan vào nhau lại mở ra. Bà Thiên Minh không chỉ nghe bằng tai, mà còn nghe bằng mắt, nghe bằng trực cảm của một người nhiều trải nghiệm. Một ngày của gần chín năm về trước, bà phẫn nộ nguyền rủa một cái tên đã khiến cho cuộc đời con gái yêu của bà trở nên nghiệt ngã. Bằng vào một trái tim người mẹ, bà đã dìu bước con mình qua cơn thắt ngặt. Vấn đề của một câu chuyện đã từng bị quy bằng hàng loạt những từ ngữ tồi tệ nhất hóa ra không phải thế. Một đời người luôn có nhiều khúc ngoặt, một trong những khúc ngoặt ấy có tên là “họa giữa đàng”. Khi tạm biệt Thiên Ái với lời hẹn sẽ trở lại với tín hiệu tốt cho một ngày vui, Vũ Khải lẫn Thiên Ái đều không biết Thiên Ái đã mang trong mình một mầm sống, cả hai lại cũng đều không biết một khúc ngoặt từ một gói heroin được phát hiện trong hành lý của Vũ Khải mà không rõ ai là chủ nhân. Khi oan ưng được phân giải thì Vũ Khải cũng đã mất ba năm ngồi tù. Với mặc cảm và nỗi buồn chán khi ra tù, Vũ Khải trốn biệt đi một nơi để tìm đường bắt đầu lại cuộc đời. Bao tháng ngày lận đận, anh cũng tạm tìm được cho mình một chân đứng thì đột nhiên nhận được tin về Thiên Ái qua một người bạn. Anh tìm về, và từng lặng lẽ nhìn từ xa bóng dáng của hai mẹ con, với một ước mong cháy bỏng. Để rồi…

Căn phòng khách với những bông hoa nhiều hình sắc, những tấm ren màn cửa mới tinh dậy một không khí hương Xuân rộn rực. Nhưng trong căn phòng ấy, trên một góc của bộ ghế salon chỉ có tiếng khóc của Thiên Ái nức lên từng cơn. Bà Thiên Minh nhẹ nhàng đứng dậy đi ra, Thiên Ánh và Quang Trực hiểu ý cũng lần lượt đi ra. Chỉ còn lại hai người. Vũ Khải tần ngần một chút rồi đứng dậy đi đến chỗ Thiên Ái, anh như quỳ xuống trước mặt cô. Cầm lấy hai tay cô, anh nhẹ đưa lên môi, Vũ Khải thầm thì :

- Anh xin lỗi em.

Thiên Ái ngước đôi mắt đẫm nước nhìn người đàn ông đang vời vợi ánh chờ trông, một giây… hai giây… cô đổ gục vào vòng tay anh. Vũ Khải nhắm nghiền mắt siết chặt lấy cô.

- Má ơi! Hoa mai nở rồi, con vẽ tiếp hoa mai vào đây nhé. Ư…

Tiếng bé Thiên Thanh réo rắt làm cả hai sực tỉnh, vội rời nhau đứng lên. Thiên Ái đưa tay áo lau nước mắt vẫy bé Thanh lại gần:

- Má! Sao má khóc dzậy má?

- Con à. Con chào ba đi con.

- Chào ba? Ba đi công tác nước ngoài mới về hả má?

- Ừ, ba đi công tác mới về đó. Con chào ba đi.

Bé Thiên Thanh vòng tay lễ phép:

- Con chào ba.

Vũ Khải nhấc bổng con lên trong đôi tay mạnh mẽ, anh dụi mặt vào tóc, vào má, vào gáy, vào cổ, vào khắp người con, anh hít hà mùi da thịt non tơ con trẻ, mắt anh rơm rớm. Thiên Ái rưng rức nhìn hai cha con, cô lại trào ra những giọt nước mắt, nhưng đôi môi hé một nụ cười ấm áp.

Bà Thiên Minh đưa ánh mắt dịu dàng nhìn từng gương mặt những con cháu, ánh lên một niềm vui mãn nguyện. Bà thong thả rút ba nén nhang châm vào ngọn nến, rồi nghiêm trang đứng trước bàn thờ lẩm nhẩm khấn vái. Tất cả dàn hàng ngang sau lưng bà, cũng cúi đầu thành kính. Mùi trầm hương tỏa nhẹ lâng lâng trong không gian, trong lênh loang ngào ngạt hồn người. Linh lang… linh lang…

- Giao thừa rồi! Hai cọc chèo mình cụng ly chúc mừng năm mới cái nào. Mời má! Mời cả nhà.

Quang Trực cầm chai rượu vang rót từ từ vào từng chiếc ly cao chân. Thiên Ân cũng được dìu ra, cô ngồi dựa ngả theo chiều dài của chiếc ghế salon dài nhất. Màu hổ phách của rượu như bóng lên sau lần thủy tinh, ánh vào mắt mỗi người một sắc long lanh. Những gò má hồng lên, những tia nhìn nồng nàn, những nụ cười hạnh phúc. Trên màn hình phẳng của chiếc ti vi ba mươi inch bỗng rộ lên từng chùm pháo hoa và tiếng hô vang của người phát thanh viên “CHÚC MỪNG NĂM MỚI”.

ĐÀM LAN


|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế