Hiện có 6 người xem / 2309581 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 13/7/2013

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ để mở đầu phiên họp Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách mới mà ông mới có và mới được biết tới. Cuốn đầu là một cuốn “lưu hành nội bộ” nói về một nhà giáo kiêm nhà từ thiện ở Hố Nai tên là nhà giáo Phạm Tất Hanh đã qua đời năm 2011. Cuốn sách được giới thiệu, vì nó nói về một nhà giáo đã là đồng nghiệp của Dịch giả Vũ Anh Tuấn nửa thế kỷ trước hồi năm 1963, và vì nó chứa đựng một bài viết của ông nói về người bạn quá cố của mình. Cuốn thứ nhì được giới thiệu là một cuốn sách to đùng, nặng đúng 5 kí lô, mang tựa đề là “Tâm và Tài, họ là ai?” của một nhiếp ảnh gia tên là Nguyễn Á. Cuốn sách giới thiệu 400 nhân vật thuộc đủ mọi lãnh vực cộng với một số hình ảnh các hoạt động thường nhật của họ. Cuốn sách hình ảnh đẹp và có điểm đặc biệt là nó nặng tới 5 kí lô. Cuốn sách là của Cô Kim Thư, một thành viên CLB, đã cho Dịch giả Vũ Anh Tuấn xem và nhờ giới thiệu với các thành viên khác, vì hôm đó cô bận nên phải vắng mặt không đi họp. Cô đã được một trong số 400 nhân vật trong sách tặng vì là một thân nhân của cô, chứ không phải cô đã bỏ ra tiền triệu (1.500.000) để mua. Còn lý do Dịch giả Vũ Anh Tuấn chấp nhận giới thiệu sách thì là vì nơi trang 622 của cuốn sách có một vị là một tác giả đã cộng tác với Bản Tin của CLB trong nhiều tháng nay, mỗi tháng một bài viết, và đó là Dịch giả Hoàng Thúy Toàn (ký bút danh là Thúy Toàn), cựu Giám Đốc Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây, hiện chuyên nghiên cứu về Văn Học Nga. Sau khi được giới thiệu sách đã được nhiều thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Tiếp lời Dịch giả Vũ Anh Tuấn, anh Vương Liêm đã có một cuộc nói truyện và có một số nhận xét, so sánh, liên quan tới chuyến du ngoạn thăm đất nước Lào mà anh vừa đi về.

Sau khi anh Vương Liêm nói xong, anh Trần Văn Hữu lên hò tặng các thành viên bài Nam Ai mang tựa đề là “Hương Mắm Đồng Quê” bằng giọng hò rất ấn tượng của anh.

Kế đó các thành viên đã tiếp tục thảo luận và bàn cãi với nhau về việc in ấn tập thơ của chính các thành viên CLB để kỷ niệm 7 năm CLB được thành lập, về số lượng bài sẽ in, về cung cách tuyển chọn vv… Sau gần một giờ thảo luận đã đi đến quyết định là đã có 5 thành viên được mọi người đồng ý chỉ định họp thành ban Tuyển Chọn, và sau khi tuyển chọn thì sẽ thông báo kết quả cho các tác giả để các tác giả có toàn quyền sửa chữa, thay đổi, hoặc rút bỏ.

Buổi họp trong không khí vui vẻ, hào hứng, đã kết thúc vào 11 giờ 15 phút cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI DÒNG VỀ CUỐN CỔ THƯ MANG TỰA ĐỀ LÀ

BA ĐẠO QUÂN Ở BẮC KỲ

(Trois colonnes au Tonkin)(1894-1895)

của Tướng GALLIÉNI

– Cựu Tư Lệnh Đệ Nhị Lãnh Thổ Quân Sự ở Bắc Kỳ

Người viết được biết đến cuốn cổ thư này là nhờ anh bạn ở Pháp mang về nhờ bán, nhưng vì giá tiền anh đòi quá cao, vả lại ngay lúc này số người sử dụng tiếng Pháp cũng khá hiếm, nên đành phải trả lại anh để anh cho sách “quy hồi cố quận”.

Tuy nhiên trong gần hai tuần lễ có cuốn cổ thư trong tay, vì thấy nó cũng là một tư liệu lịch sử đã 114 năm tuổi, nên người viết có đọc qua và thấy nó khá hay nên viết bài này giới thiệu nó với các độc giả của Bản Tin.

Cuốn cổ thư này khổ 14x22 cm, dày 164 trang, được xuất bản năm 1899 ở Paris và là của Tướng Galliéni (1849-1916). Vị tướng tác giả cuốn sách chỉ sang Bắc Kỳ trong thời gian từ 1892-1896. Khi tới Bắc Kỳ ông ta chỉ mới mang quân hàm Đại tá, và ông là người đã cùng với Thiếu Tá Lyautey, đánh nhau với quân Cờ Đen và tổ chức hệ thống Hành Chánh ở Bắc Kỳ.

Cuốn cổ thư được chia làm 3 Phần:

Phần I – Từ trang 1 - 34 mang tiểu tựa là “CÁC CUỘC HÀNH QUÂN Ở CAI – KINH” (Tháng 12-1893-Tháng 1-1894). Gồm Lời nói đầu và 9 chương như sau:

- Chương I.- Nói về địa lý và chính trị.

- Chương II.- Nói về các chỉ thị tổng quát phải tuân hành.

- Chương III.- Nói về tình hình ở Cai Kinh.

- Chương IV.- Các cuộc hành quân sơ khởi – Vấn đề tiếp vận

- Chương V.- Nói về việc tổ chức và lập thành ba Đạo Quân.

- Chương VI.- Nói về xuất phát ba đạo quân – Bao vây Lung Lai.

- Chương VII.- Quân Cờ Đen bỏ chạy – Truy kích – Lục soát sào huyệt.

- Chương VIII.- Lập các nơi đồn trú và việc tách rời các đạo quân.

- Chương XIX.- Kết luận. (Hết phần I)

Phần II – Từ trang 35 - 88 mang tiểu tựa là “CÁC CUỘC HÀNH QUÂN Ở BA KỲ VÀ Ở MIỀN THƯỢNG SÔNG CẦU”(Tháng 4 – 1895). Gồm 10 chương:

- Chương I.- Phần sơ khởi.

- Chương II.- Tổ chức các đạo quân.

- Chương III.- Việc quân tiếp vụ và tổ chức việc truyền tin.

- Chương IV.- Lệnh xuất phát.

- Chương V.- Các rắc rối – Các cố gắng phối hợp của bọn giặc cướp.

- Chương VI.- Tập trung hành quân.

- Chương VII.- Chiếm đóng Ke-Thuong.

- Chương VIII.- Từ Ke-Thuong tới Bắc Cạn.

- Chương XIX.- Cần một trận đánh về phía Tây – Kết thúc các cuộc hành quân.

- Chương X .- Kết luận.

Phần III .- Từ trang 89 - 164 mang tiểu tựa là “CÁC CUỘC HÀNH QUÂN Ở YÊN THẾ” (Tháng 10-Tháng 11-1895). Gồm 14 chương:

- Chương I.- Phần sơ khởi.

- Chương II.- Địa phương – Kẻ địch – Chiến thuật phải áp dụng.

- Chương III.- Chương trình phải thực hiện – Tình hình ngày 20 tháng Mười.

- Chương IV.- Các biện pháp mới bắt đầu áp dụng từ ngày 20 tháng Mười để củng cố các lực lượng chiếm đóng ở Yên Thế và đầu tư vào Tam Giác Bo-Ha – Mo-Trang – Nha-Nam.

- Chương V.- Cơ quan vệ sinh – Quân tiếp vận – Truyền tin.

- Chương VI.- Tình hình từ ngày 5 tới ngày 20 tháng 11 – Thành lập các toán quân khác – Đầu tư.

- Chương VII.- Thám sát ở phía trong Tam Giác Bo-Ha – Mo-Trang – Nha-Nam.

- Chương VIII.- Sửa soạn tiến quân phía trước.

- Chương XIX.- Các biện pháp áp dụng chung quanh Yên Thế: trong vành đai Cho-Phong, trên đường hỏa xa, trên sông Thương vv…

- Chương X.- Hành quân phía trước.

- Chương XI.- Ngày 30 tháng 11 – Di tản các đồn lũy giặc cướp (quân của Đề Thám bị bọn Tây gọi là giặc cướp) – Sự tháo chạy của Đề Thám.

- Chương XII.- Truy kích tàn quân Đề Thám và tách rời các đạo quân.

- Chương XIII.- Chiếm đóng Yên Thế.

- Chương XIV.- Kết luận.

- Phần Kết luận được chia làm ba đoạn:

a.-Trang bị cho quân lính.

b.- Tổ chức và phát xuất các đoàn xe tải quân nhu.

c.- Nguyên tắc và tổ chức trị an.

Đây cũng là một tài liệu đóng góp vào kho tài liệu lịch sử, mà các sách do bọn Tây thuộc địa viết đã cung cấp cho những nhà nghiên cứu lịch sử của ta…

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI.

Vũ Anh Tuấn

Một thoáng tham quan đất nước Lào,

ngày nay đổi mới trong cổ kính ngày xưa

Trong quá trình tìm hiểu lịch sử đất nước Lào anh em – Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ngày nay (2/12/1975) và vương quốc Lán Xạng (Triệu voi) thời xưa (1353) ai cũng biết được xứ sở này từng bị quân Xiêm xâm lược (1772) cướp đi quốc bảo tượng Phật ngọc, kinh thành Vạn tượng (Viêng Chăn) bị đốt phá nặng nề, nhiều tượng Phật bị hủy hoại và thực dân Pháp đã chia tách vương quốc này giao cho đế chế Xiêm (1893) gần phân nửa đất nước nằm phía bên kia sông Mê Kông, tức vùng Đông Bắc Thái Lan ngày nay bao gồm 18 tỉnh thành với số dân gần 20 triệu người.

Từ đó tới nay, lãnh thổ Triệu voi chỉ còn lại 236.800km2 với dân số vào khoảng 6,5 triệu người, gồm ba sắc tộc chính: Lào Lùm (60% tổng dân số cả nước, lối 3 triệu người) sống ở vùng đồng bằng dọc theo sông Mê K ông và miền Nam, Lào Thơng độ 2 triệu người (35%) sống ở vùng núi cao thuộc miền Bắc và Lào Xủng chiếm 15% dân số thường cư trú ở vùng cao thuộc miền Trung. Người Pháp thống trị đất nước Lào sau khi sáp nhập phần đất còn lại ở phía đông và bắc sông Mê Kông vào lãnh thổ Đông Dương (ba nước Lào, Campuhia và Việt Nam). Chúng lại chia thuộc địa này ra ba phần như đã chia Việt Nam thành Nam, Trung, Bắc để cai trị.

Nhằm chống lại sự xâm lược, áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp, nhân dân Lào đã anh dũng nổi dậy đấu tranh để giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Cùng chung số phận với Việt Nam, nhiều cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm lúc đầu đều thất bại. Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập cho ba nước Đông Dương, phong trào đấu tranh của nhân dân Lào đã chuyển sang giai đoạn mới. Tháng 10/1945 cuộc khởi nghĩa của nhân dân thắng lợi và tuyên bố độc lập. Giống như ở Việt Nam, thực dân Pháp quay trở lại và cuộc kháng chiến của ba nước kéo dài 9 năm kết thúc thắng lợi với sự ra đời của hiệp định Genève 1954. Sau đó, đế quốc Mỹ can thiệp vào ba nước và sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của ba nước một lần nữa đã kết thúc thắng lợi vào năm 1975. Nhân dân Lào và Việt Nam cùng nhau khởi đầu xây dựng đất nước từ thời kỳ bao cấp sang đổi mới cho tới ngày nay hội nhập vào khu vực và thế giới.

Cùng với Campuchia, Việt Lào nằm trên một bán đảo, mảnh lục địa xanh ở Đông Nam châu Á, ba dân tộc đã cùng chung một vận mệnh. Riêng Lào Việt hai anh em cùng chung một hệ núi Trường Sơn, cùng chung dòng Cửu Long. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam từ lâu có quan hệ gắn bó keo sơn và cùng chung nhiệm vụ chiến lược có tính lịch sử. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đều là kiến trúc sư vĩ đại của mối quan hệ đó. Từ năm 1977, Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Lào Việt càng làm đậm nét quan hệ đặc biệt, không ngừng được tăng cường và phát triển hết sức tốt đẹp giữa hai nước.

Đoàn tham quan du lịch của Hội người cao tuổi thành phố Hồ Chí Minh được Thành ủy tạo điều kiện đi sang đất nước Lào anh em bằng ô tô theo quốc lộ 1A và đường 9 Nam Lào để tới cửa khẩu Lao Bảo sau khi ghé viếng tượng đài kỷ niệm chiến thắng Làng Vây và Khe Sanh (năm 1972) để nhớ lại các trận đánh then chốt trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước đem lại chiến thắng vẻ vang tạo nên bước ngoặt quan trọng cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước cùng với nước bạn anh em.

Đường 9 Nam Lào chạy cắt ngang phía Nam Lào từ huyện Cam Lộ (tỉnh Quảng Trị) qua cửa khẩu Lao Bảo – Đen Sa Vẵn tới tỉnh Savanakhet dài trên 200km, thời chống Mỹ nhân dân hai nước đã làm nên chiến thắng lẫy lừng như đập tan chiến dịch Lam Sơn 719, chiến thắng Làng Vây, bao vây và tiêu diệt cứ điểm Khe Sanh – Tà Cơn. Ngày nay, đường 9 Nam Lào trở thành cung đường 9 xuyên Á, đã nối liền bốn nước trong khối Asean là Việt Nam – Lào – Thái Lan – Myanmar bằng bốn cây cầu hiện đại bắc qua sông Mê Kông kỳ vĩ ở bốn trục đường của tám thành phố đối diện từ Nam Lào qua Trung Lào đến Tây và Tây Bắc Lào. Bốn cây cầu này là hành lang và đầu mối nối liền các thành phố Bangkok, Viêng Chăn, Savanakhet, Thaket với Vinh và Đà Nẵng.

Từ trục đường này, khách du lịch có thể ăn sáng ở Bangkok, ăn trưa ở Thaket và ăn tối ở Vinh hay Đà Nẵng trong ngày. Từ đó, nền kinh tế và du lịch của bốn nước có chung dòng Mê Kông ngày càng phát triển mạnh trong khu vực Asean. Đó là chưa kể tới quốc gia nằm ở đầu nguồn sông này là Trung Quốc ngày càng có thế mạnh trong sự hợp tác khu vực và quốc tế. Các quốc gia này, có thêm Úc đã chi viện cho nước Lào xây dựng nhiều công trình thế kỷ như cầu, đường, bệnh viện, trường học, chợ mới, nhà chính phủ… Hiện nay Trung Quốc là nước có thế mạnh trong khai thác đất nước giàu tiềm năng kinh tế này, ngoài đưa hàng hóa nhiều chủng loại áp đảo các nước khác, còn trúng thầu khai thác mỏ vàng lớn nhất khu vực tại tỉnh Thakhet gần biên giới Việt – Lào ở miền Trung.

Rời đường 9 Nam Lào, đoàn tới thành phố Thaket có nhiều ngôi nhà cổ mang kiểu dáng kiến trúc lãng mạn Pháp cổ - nằm bên dòng sông Mê Kông mà bờ bên kia là thành phố Nakhon Phanom của Thái Lan. Nơi đây, vào năm 1929, nhà hoạt động cách mạng Nguyễn Ái Quốc từ tới đây trước khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương ở Quảng Châu (Trung Quốc) nay là Đảng Cộng sản Việt Nam trong vài ngày nhưng đã để lại nhiều chứng tích lịch sử quan trọng còn lưu giữ tới ngày nay.

Cuộc hành trình của đoàn còn tiếp tục viếng thăm thủ đô Viêng Chăn để chiêm ngưỡng các công trình lịch sử - văn hóa như tham quan Vườn Tượng Phật với hàng trăm tượng Phật huyền bí pha trộn hai tôn giáo Phật và Hindu nằm trong vườn cây âm u bên dòng sông Mê Kông mà đối diện bên kia cũng có ngôi vườn thứ hai tương tự nhưng hoàng tráng hơn thuộc tỉnh Nong Khai (Thái Lan) do cùng một nhà sư sáng tạo sau ngày du học Ấn Độ trở về, chùa vàng Thát Luỗng (có lưu giữ xá lợi Phật) có năm sinh cùng với thủ đô Viêng Chăn (1560), Khải hoàn môn Patuxay, chùa Sisaket cổ kính xây dựng từ năm 1818 lưu giữ trên 6 ngàn tượng Phật và nhiều kinh sách cổ viết trên lá cọ, chùa Ho Pha Keo là ngôi đền tiền triều phong kiến Láng Xạn của vương quốc Lào có kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật cao, nơi lưu giữ Ngọc lục báu vật quốc gia của Phật nhưng nay không còn do bị quân Xiêm cướp đưa về Bangkok cất giữ tới nay. Chùa đền này trở thành một bảo tàng có nhiều tượng Phật điêu khắc đầy vẻ huyền bí. Đoàn còn tham quan và mua sắm ở cửa hàng miễn thuế nơi cửa khẩu Viêng Chăn – Nong Khai do vợ chồng một thương gia họ Đào gốc ở Vinh (Việt Nam) sang làm ăn từ thời trước cách mạng tháng Tám 1945 và nay trở thành nhà doanh nghiệp lão thành (trên 80 tuổi) giàu nhất nước Lào (có cửa hàng miễn thuế ở các tỉnh thành lớn và cửa khẩu) rất có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, trong đó có sản xuất nhiều mặt hàng nổi tiếng thế giới như trà, cà phê Đào Hương (có tiếng như cà phê Trung Nguyên). Đoàn có nhiều dịp ngắm nhìn toàn cảnh sông Mê Kông ở thành phố Savanakhet Hạ Lào quê hương của Chủ tịch Cayxỏn Phumihan, Thaket Trung Lào và thủ đô Viêng Chăn.

Từ một quá khứ đau thương do đất nước và dân tộc bị thực dân xâm lược cắt xén mà ngày nay, con người Lào đã trở nên trầm lặng, phong cách lối sống giản dị, chậm rãi, không đua đòi, tranh cãi nhưng lịch sự, lễ phép và mến khách, chấp hành luật pháp cao. Cả thủ đô nhiều xe ô tô giao thông trên đường phố như vậy mà không có tiếng còi, không kẹt xe và không tai nạn. Trong 6 ngày đi lại nhiều tỉnh thành, thủ đô Viêng Chăn có chiều dài trên 450km từ Nam lên Bắc qua Trung hầu như không trông thấy một bóng dáng anh bộ đội hay một cảnh sát giao thông, thế mà an ninh trật tự vẫn duy trì tốt.

Với đất nước và con người khiếm tốn, dễ thương như vậy nên rất có nhiều quốc gia láng giềng trợ giúp để đưa đất nước triệu voi hòa nhập vào khu vực và thế giới, làm xóa nhòa nỗi đau thương, hận thù ám ảnh qua nhiều năm tháng của một vương quốc được lập quốc từ thế kỷ 16 sau công nguyên.


Bài, ảnh: Vương Liêm


CÓ MỘT CUỐN SÁCH NHƯ

THẾ ĐÓ

Quyển hai

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT

KINH THÁNH

MỘT KHO TÀNG BẤT TẬN

Một quyển sách duy nhất, một kho tàng chân lý bất tận, trong đó chứa đựng đủ những gì ta cần phải biết về Thiên Chúa, về nhân loại, về vũ trụ, theo quan điểm tôn giáo. Đó là Kinh Thánh, Thiên Chúa có mặt trên mỗi trang sách. Ngài tự mặc khải dưới mọi khía cạnh, Ngài nói, Ngài làm: tất cả đều được viết trong đó. Còn con người? Con người cũng được mô tả trong đó một cách rất chân thực. Những hoài bão cao thượng, những hành vi chân chính cũng như những việc làm bỉ ổi, những yếu đuối tận đáy lòng con người: tất cả được phơi bày ra trên những trang giấy Kinh Thánh mà thời gian chẳng những đã không làm phai mờ lại còn tô đậm thêm mãi. Người ta sẽ không bao giờ hiểu được nền tảng của tôn giáo, đạo đức và pháp luật, nếu không biết sứ điệp do cuốn sách này phổ biến ra. Về vũ trụ, Kinh Thánh không ghi lại những kiến thức khoa học, nhưng trình bày ý nghĩa sâu xa của vũ trụ, về vật chất, xác định giá trị và mục đích của nó: phụng sự con người, hầu con người phụng sự Thiên Chúa”. (Trích “Dẫn vào Kinh Thánh Tân Cựu Ước” của Linh mục Đaminh Trần Đức Huân - Sàigòn 1969).

Từ góc độ văn hóa, Kinh Thánh là kho tàng minh triết của nhân loại, được trân trọng qua mọi thời đại. Vì thế, dù là Kitô hữu hay không, việc tiếp cận Kinh Thánh là điều nên khuyến khích”. (Trích lời Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm giới thiệu cuốn “Cựu Kinh Ca” của Trần Lưu Nguyễn – NXB Tôn giáo 2012).

1. Nền tảng văn minh:

“Nền văn minh Tây phương như hội họa, âm nhạc, điêu khắc, văn chương, hiến pháp, luật lệ: tất cả sẽ mất ý nghĩa sâu xa, nếu người ta rút hết nội dung đã được cảm hứng theo Kinh Thánh. Những nhà điêu khắc thời danh của thành Chartres, những họa sĩ thiên tài như Michel-Ange, Rembrandt, Gréco; những văn gia nổi tiếng như Racine, Shakespeare, Goethe, Pascal; những triết gia nổi tiếng như Kierkegaard, K. Jaspers, G.Marcel; những tác giả bản tuyên ngôn nhân quyền hay hiến chương Liên Hiệp Quốc: tất cả đều đã được nuôi dưỡng bằng Kinh Thánh” [“Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Đức Chúa toàn năng” – Tổng thống Mỹ Harrys Truman đã nói như vậy về thành tựu của hội nghị tại San Francisco, một hội nghị đã góp phần vào việc soạn thảo hiến chương Liên Hiệp Quốc (năm 1945)]. Tòa nhà văn minh Tây phương đưa trên ba cột nền: trí tuệ của người Hy Lạp, trật tự pháp lý của người Roma và tinh thần tôn giáo đạo đức Do Thái giáo và Kitô giáo, kết tinh trong Kinh Thánh. Cột nền thứ ba này đem lại cho hai cột nền trên sức vững mạnh bền bỉ.

Với nền văn minh khác: ta có thể đặt câu hỏi: Kinh Thánh có ảnh hưởng gì tới các nền văn minh khác chăng? Đây là vấn đề lịch sử, nên cần phải đợi tương lai trả lời. Tuy nhiên, một số sự kiện đang chứng tỏ ảnh hưởng của Kinh Thánh đã bắt đầu nơi khối Á phi. Phi châu hiện giờ thực là một môi trường thuận lợi cho việc nảy nở chân lý Kinh Thánh, và từ trạng thái sơ khai, lục địa đen đó đã dễ dàng chấp nhận một trật tự mới về tư tưởng, về cảm nghĩ, về hành động do Kinh Thánh đem lại. Á châu, nơi xuất phát các tôn giáo lớn trên hoàn cầu, cũng đang dần dần đồng hóa nền tư tưởng Âu châu và do đó, một cách gián tiếp, không thể nào tránh được những ảnh hưởng Kinh Thánh. Một cách trực tiếp hơn, các nhà trí thức Á châu, nhất là Viễn đông, đang lưu ý sưu tầm tư tưởng Kinh Thánh, mà đó đây đã có khuynh hướng đặt bên cạnh nền tư tưởng cổ truyền như Cao Đài Giáo bên Việt Nam” (Trích “Dẫn vào Kinh Thánh Tân Cựu Ước” của Lm. Đaminh Trần Đức Huân - Sàigòn 1969).

2. Nguồn cảm hứng bất tận của chân thiện mỹ:

Chân, thiện đã được nói nhiều trong các tập Thượng, Trung, Hạ (nhất tập). Trong tập này, người viết xin mạn phép đề cập tới cái mỹ, tức là cái đẹp trong mỹ học.

Nói tới cái đẹp, người ta phân biệt ngay:

a. Cái đẹp tự nhiên hay thiên nhiên do Đấng Tạo Hóa làm ra trong vũ trụ, như một phong cảnh đồng quê, phong cảnh núi non hùng vĩ, phong cảnh rừng núi hài hòa, những bông hoa đủ màu, đủ sắc… những nét đẹp này con người không đụng chạm vào, không chỉnh sửa được - nếu có bàn tay con người chỉnh sửa theo ý mình thì cái đẹp đó mất giá trị tự nhiên của nó. Thí dụ: một hòn đá cảnh được dòng suối chảy bào mòn hàng nghìn năm, tạo thành hang ổ với những góc cạnh tuyệt đẹp, có khi thiên nhiên tác dụng vào hòn đá tạo thành hình dáng con vật này con vật kia, nếu người ta lại dùng đục, dao đẽo gọt tý nào đó để hoàn thiện nó theo ý mình thì hòn đá cảnh đó mất giá trị tự nhiên của nó.

b. Cái đẹp nhân tạo do con người làm ra cũng từ những vật liệu tự nhiên, nhưng được bàn tay con người tác động làm nên một tác phẩm hài hòa, đẹp mắt. Thí dụ như một chiếc bình gốm đẹp, một hòn non bộ đẹp, một tiểu cảnh đẹp… Cái đẹp này đồng nghĩa với nghệ thuật, tức là cái đẹp do bàn tay con người khéo léo tạo ra theo những quy luật nhất định của từng ngành chuyên môn, như thơ phú, kịch nghệ, hội họa, kiến trúc, điêu khắc…

Nghệ thuật theo lối phân chia cổ điển thì có hai loại chính: đó là nghệ thuật không gian và nghệ thuật thời gian, hoặc nói cách khác: nghệ thuật tĩnh và nghệ thuật động, người ta cũng gọi chúng là văn hóa vật thể và phi vật thể.

Nghệ thuật không gian gồm kiến trúc, điêu khắc và hội họa. Một tác phẩm được xếp loại nghệ thuật không gian vì nó có hình thể rõ ràng, chiếm một không gian nhất định và ở trạng thái tĩnh (yên một chỗ, không di chuyển), thí dụ một bức tranh, một bức tượng, một ngôi nhà, người ta có thể quan sát ở nhiều góc độ: cao, thấp, trên, dưới, phải, trái, trước, sau… và thời gian, thời điểm nào cũng không bị hạn chế: quan sát lúc nào, quan sát bao lâu tùy ý.

Nghệ thuật thời gian gồm thi ca, âm nhạc, vũ điệu và kịch tuồng, thời hiện đại từ khi bắt đầu có phim ảnh, người ta thêm vào nghệ thuật thứ bảy, đó là điện ảnh.

Một tác phẩm được xếp loại nghệ thuật thời gian vì nó không có hình thể rõ ràng, không chiếm một vị trí nhất định, không tồn tại lâu cho người ta nắm bắt, quan chiêm (chúng chỉ được diễn tả qua các dấu hiệu), thí dụ: một đoạn văn, một câu thơ đọc lên, ngâm lên, người thưởng thức vừa nghe qua đã biến mất, chỉ để lại một ảo ảnh mông lung trong tâm trí người nghe mà thôi – thí dụ một câu thơ đọc lên:

“Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

(Kiều)

Nếu có 100 người nghe câu thơ này thì hẳn phải có 100 cảnh sắc khác nhau về chi tiết, chỉ giống nhau hai điểm chủ yếu là đồng cỏ xanh và cành lê bông trắng, nhưng cũng không thể ấn định cành lê ở chỗ nào trên đồng cỏ.

Một câu nhạc hát lên, vừa nghe xong chưa kịp “thưởng nếm” đã biến mất, một điệu múa, một cảnh tuồng vừa diễn ra đã vội lui đi nhường “chỗ” cho cảnh tiếp theo…

Chính vì sự mong manh, chóng vánh của những tác phẩm này nên mới có quy luật lặp đi lặp lại, đây là quy luật căn bản của nghệ thuật thời gian, vì có lặp đi lặp lại thì người thưởng thức mới nắm bắt được, mới cảm nghiệm được cái hay, cái đẹp của nó. Thế nhưng nếu lặp đi lặp lại y chang một yếu tố nào đó trong chủ đề thì sẽ vô cùng nhàm chán, nên lại có những quy luật về sự lặp lại để người thưởng thức vừa không quên cái cũ, vừa lãnh hội được cái mới, mở ra một chân trời bao la của cái đẹp. Thí dụ: một điệu vũ được lặp lại bằng những cái vẫy tay, những cử chỉ của thân xác, uốn éo theo điệu nhạc; một vở chèo có nhiều lời thoại cũng như cử điệu được lặp đi lặp lại, nhất là đối với vai hề… một câu thơ được lặp lại trên nền nhịp điệu được phân chia đều đặn của từng loại thơ.

“Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

(Kiều, thơ lục bát)

Một cách lặp lại với kỹ thuật cao trong thi ca và âm nhạc: trong thi ca gọi là “thuận nghịch độc”, trong âm nhạc gọi là “Retrograde”, thí dụ: (một cách đọc ngược biến thể)

“Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”

(Ca dao)

Xuân ý (Thùy Dương)

(thuận nghịch độc)

Đọc xuôi ®

“Xuân sang gió tỏa ngạt ngào hương

Nắng quyện đào mai rạng cúc hường

Trần cảnh tịnh yên tan chớp bể

Thế nhân êm lắng tạnh mưa nguồn

Nhuần tươi mướt cỏ hoa phơ phất

Mượt óng xanh tơ liễu vấn vương

Vần dệt tứ trao Chung đợi Bá

Xuân mơ nhạc khúc vẳng canh trường”

Đọc ngược ¬

Bài “Dẫn nhập Tin Mừng

Đọc xuôi ®

“Đen trắng nổi chìm in bóng nước

Thực hư hay dở rọi lồng gương”

Đọc ngược ¬

Bài “Khép ơn cứu độ

Đọc xuôi ®

“Mầm no đất tốt sinh sai quả

Hạt lép đồng khô chết hỏng đời”

Đọc ngược ¬

(Bài giảng Nước Trời: CLB Đồng Xanh thơ Sàigòn, NXB Tôn giáo 2012)

Một lời ca cất lên cần được lặp lại để xoáy sâu vào lòng thính giả, thí dụ bài Nghìn Trùng Xa Cách của Phạm Duy:

“Nghìn trùng xa cách

Người đã đi rồi

Còn gì đâu nữa

Mà khóc với cười.

Mời người lên xe

Về miền quá khứ,

Mời người đem theo

Toàn vẹn thương yêu…”

(câu 1, nhạc lặp lại y nguyên; câu 2, nhạc lặp lại 3 lần theo lũy tiến, mỗi lần lên 1 bậc) – Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 811, ngày 20/2/2013).

Bài Bên Sông Babylon (ngồi nhớ Sion quê nhà) của nhạc sư Tiến Dũng: (giới thiệu chủ đề): “Bên sông Babylon” – (xoáy sâu chủ đề): “Ngồi tôi khóc, ngồi tôi khóc, ngồi tôi khóc Sion, Sion. Bên sông Babylon, tiếng thông reo, tiếng thông reo, tiếng thông reo nỉ non, nỉ non!”.

Cả hai tác giả đã dùng kỹ thuật lũy tiến để lặp lại, làm cho thính giả vừa không thể quên được yếu tố cũ, vừa mở lòng ra đón nhận những yếu tố mới, nghệ thuật là ở chỗ đó.

Trên đây là hai tác giả “cây đa cây đề” của làng nhạc đạo và đời. Những tác phẩm có giá trị khác nếu đem phân tích, chúng ta cũng thấy nguyên tắc hay định luật thẩm mỹ này luôn được tôn trọng. Thí dụ các bản nhạc không lời Domino của Jessie; bản Come Back To Sorrento của Aldo Marinello; bản Love Story của Taylor Swift.

Dù lặp lại hay triển khai, mở rộng nhưng làm sao phải giữ được tính thống nhất, duy nhất tính (unitas) của một tác phẩm kèm theo với tính độc sáng (không sao chép, không bắt chước một nét nào của một tác phẩm ra đời trước đó), mới làm nên giá trị một tác phẩm nghệ thuật, dù là vật thể hay phi vật thể…

Tới đây người viết xin tạm ngưng về vấn đề thẩm mỹ vì không dám “múa rìu qua mắt thợ”, để xin chuyển sang phần áp dụng vào bộ Kinh Thánh theo thứ tự các ngành nghệ thuật.

3. Bảy ngành nghệ thuật của nhân loại đều được thể hiện trong Kinh Thánh hoặc khơi nguồn, gợi hứng từ Thánh Kinh:

3.1 Văn chương thi phú và âm nhạc

3.2 Vũ điệu

3.3 Kịch, tuồng

3.4 Kiến trúc

3.5 Điêu khắc

3.6 Hội họa

3.7 Điện ảnh

***

3.1A Văn chương Thánh Kinh

Thánh Kinh, bộ sách rất phong phú về thể văn và nghệ thuật ngôn từ.

1. Thể văn:

Lời Chúa đến với chúng ta trong Kinh Thánh qua những tác phẩm mà hơn 40 tác giả viết bằng nhiều thể văn. Các sách Kinh Thánh được viết dần dần trong vòng 1000 năm, ở nhiều nơi, nhiều miền khác nhau nên các tác giả chịu ảnh hưởng của rất nhiều nền văn hóa, phong tục, tập quán địa phương: văn hóa Sume, văn hóa Acđiên, văn hóa Canaan, Ai Cập, Hy Lạp, Babylon, La Mã… Ảnh hưởng của những nền văn hóa trên được thể hiện qua các thể văn tác giả dùng để diễn tả những bài học tôn giáo, những chân lý đức tin.

2. Văn vần:

+ Thi ca: các tác giả sử dụng vần điệu làm thành những bài thơ, đó là các Thánh vịnh, Thánh thi. Sách Thánh vịnh gồm 150 bài thơ dài ngắn khác nhau, không hạn chế số khổ, số câu, số chữ trong câu:

- “Phúc thay người chẳng theo mưu ác

Không đi vào nẻo lạc tội nhân

Không quần tụ với lũ tham tàn

Trọng luật Chúa họ vui sung sướng

(Tv 1,1-2)

- “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa

Thần trí tôi hớn hở vui mừng

Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi

Phận nữ tỳ hèn mọn

Người đoái thương nhìn tới

Muôn thế hệ ngàn đời

Sẽ khen tôi diễm phúc…”

(Thánh thi Ngợi Khen – Lc 1,46-55)

+ Các sách Cách ngôn, Huấn ca, Ai ca và Diễm tình ca là những sách có vần điệu tự do dễ đọc, dễ nhớ tựa như thi ca, thành ngữ, ngạn ngữ, ca dao, tục ngữ của văn chương Việt Nam.

- “Công cuộc người lành

Bảo tồn sinh hoạt

Kết quả gian ác

Hướng theo tội tình

Đường đến sống thật

Là giữ kỷ luật

Khinh dể lời khuyên

Tức là dại dột

(Cn 10,16-18)

- “Đông qua rồi

Mưa đã thôi

Trăm hoa nở

Dưới trần vui

Mùa ca hát đã đến nơi

Tiếng chim ca vang khắp đồi

Vả đương khoe trái mơn mởn

Nho thì thơm ngát tỏa hương ngọt ngào

(Dc 2,11-13)

- “Lắng nghe cha huấn dụ con ơi

Thực thi đúng tức thời được sống

Thân phụ được con cái tôn trọng

Quyền thân mẫu được vững vì con

Ai mến Chúa cầu khẩn van lơn

Dốc lòng chừa mong ơn tha lỗi

(Hc 3,2-4)

- “Thành xưa đông nghịt những dân

Sao nay thơ thẩn một mình ngồi đây

Thành trì cô độc dường này

Thủ đô các tỉnh sao rày nộp tô

(Ai ca 1,1)

+ Đồng dao:

- “Ta sánh dòng dõi này với ai? Ví như bọn con nít ngồi ở chợ nói với bạn mình rằng: Tụi tôi đã thổi sáo cho các anh mà các anh không múa nhảy, tụi tôi đã hát những bản đưa đám mà các anh không khóc” (Mt 11,17).

So với đồng dao Việt Nam:

- “Dung dăng dung dẻ

Dắt trẻ đi chơi…”

- “Xẻ cưa lừa xẻ

Ông thợ nào khỏe

Thì ăn cơm vua

Ông thợ nào thua

Thì ăn cơm làng

Ông nào lang thang

Thì về bú mẹ

3. Văn xuôi:

+ Thể văn lịch sử:

Lịch sử ở đây không hoàn toàn hiểu theo nghĩa sử hiện đại, trong đó sử gia cố tìm ra sự tương hợp giữa biến cố và điều họ kể. Sử gia trong Kinh Thánh chỉ coi biến cố như là phương tiện để chuyển tải một bài học tôn giáo. Do đó họ không nhắm sự tương ứng giữa bản văn và biến cố toàn diện mà chỉ lưu ý tới một vài khía cạnh của biến cố hợp với bài học tôn giáo họ muốn dạy dỗ dân chúng. Đàng khác chuyện họ kể là việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử loài người nói chung và lịch sử dân Israel nói riêng nên họ không ngần ngại nói về những phép mầu của Thiên Chúa. Dầu sao sử gia Kinh Thánh cũng đã dùng mọi phương tiện mà sử gia thế giới vẫn dùng và cách trình bày cũng như lối văn cũng không khác các sử gia hiện đại.

Cựu Ước có 21 tác phẩm thuộc loại sử ký; Tân Ước có 5 tác phẩm. Sau đây là một trích đoạn tiêu biểu theo thể văn lịch sử:

- “Bởi chưng đã có nhiều người tra tay viết lại trình tự các biến cố đã xảy ra giữa chúng tôi theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ cho Lời đã truyền lại cho chúng tôi thì tôi thiết nghĩ là sau khi đã theo sát mọi sự một cách tường tận, cũng nên, thưa ngài Thêophilô, cứ tuần tự mà viết lại cho ngài ngõ hầu ngài được am tường rằng giáo huấn ngài đã lãnh nhận thực là đích xác” (Lc 1,1-5).

- “Trong những ngày ấy, hoàng đế Augustô ra sắc chỉ ban hành lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ. Việc kiểm tra này đã thi hành lần đầu thời Quiriniô trấn nhiệm xứ Syri và mọi người đều đi đăng tên vào sổ bộ, ai về thành nấy…” (Lc 2,1-4)

- “Năm thứ 15 thời hoàng đế Tibêriô chấp chính, Pontiô trấn nhiệm xứ Giuđê, Hêrôđê làm quận vương xứ Galilê và em là Philíp làm quận vương vùng Iturê, Trakhônit, và Lysania làm quận vương xứ Abilênê, dưới thời thượng tế Hanna và Caipha… Có lời Thiên Chúa truyền cho ông Gioan con ông Dacaria trong sa mạc…” (Lc 3,1-3).

+ Thể văn luật pháp:

- “Nếu gặp nố tranh tụng nhiêu khê và nghi vấn như trường hợp đổ máu, dân sự tố tụng… mà ngươi thấy khó xử. Hãy chỗi dậy lên thẳng nơi Chúa Trời ngươi đã ấn định, đến cùng các tư tế thuộc dòng Lêvi, vào hầu vị quan tòa mà vấn kế họ, họ sẽ chỉ cho ngươi biết đường xét xử…” (Đnl 17,7-9).

+ Thể văn gia phả:

- “Sách gia phả Đức Chúa Kitô, con vua Đavit, con Abraham: Abraham sinh Isaac, Isaac sinh Giacóp, Giacóp sinh Giuđa và anh em ông… Nathan sinh Giacóp, Giacóp sinh Giuse, chồng của Maria, bởi bà thì Đức Giêsu gọi là Kitô đã sinh ra” (Mt 1,1-18)

+ Thể văn kể chuyện: chuyện tổ phụ Giuse:

- “Sau đây là gia đình ông Giacóp: Giuse được mười bảy tuổi thì đi chăn chiên, dê với các anh. Khi ấy cậu còn trẻ, cậu đi với các con trai bà Binha và các con trai bà Dinpa, là các bà vợ của cha cậu. Cậu mách cha tiếng đồn không hay về họ. Ông Israel yêu Giuse hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, và ông may cho cậu một áo chùng dài tay. Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh, thì sinh lòng ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu. Giuse chiêm bao, cậu thuật lại cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm” (St 37,1-5).

+ Thể văn tự sự: Nỗi khổ của thánh Phaolô:

- “Họ là người phục vụ Đức Kitô ư? Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa, hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. 5 lần tôi bị người Do Thái đánh 40 roi bớt một, 3 lần bị đánh đòn, 1 lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tàu một ngày lênh đênh giữa biển khơi… tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống, chịu rét mướt trần truồng…” (2Cr 11,23-29)

Cuộc đời của thánh Phaolô đã kết thúc bằng án tử hình (chém đầu) ở Roma vào năm 67 sau hơn 2 năm bị bắt ở Do Thái, bị dẫn về Roma xét xử. Mộ của ngài còn đó và mới được các nhà khoa học khảo sát.

+ Thể văn giáo huấn: nghĩa vụ đối với cha mẹ.

- “Hỡi các con, hãy nghe cha đây, và làm thế nào để các con được cứu độ. Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân. Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, để nhờ người mà con được chúc phúc. Vì phúc lành của người cha làm cho cửa nhà con cái bền vững, lời nguyền rủa của người mẹ làm cho trốc rễ bật nền. Chớ vênh vang khi cha con phải tủi nhục, vì nỗi tủi nhục đó chẳng vinh dự gì cho con. Quả thật, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính; và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh chê.

Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp trời. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa”.

Khiêm tốn: “Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người nhào phóng. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa” (Hc 3,1-18).

Bài Huấn ca trên đã có 1.700 năm trước Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi.

+ Thể văn điếu tang:

- “Bấy giờ ông Đavít đọc bài văn tế này khóc vua Saun và ông Giônathan, con vua. Ông nói: Để dạy cho con cái Giuđa. Bài “Cây Cung”, được ghi chép trong sách Người Công Chính:

Hỡi Israel, trên các đồi của ngươi, những người con ưu tú đã bỏ mình. Than ôi! Anh hùng nay ngã gục! Các người đừng báo tin cho thành Gát, đừng công bố trong các phố phường Átcơlôn, kẻo con gái người Philitinh vui mừng, con gái bọn không cắt bì hớn hở!

Hỡi núi đồi Ghinbôa, ước gì trên các ngươi chẳng còn mưa rơi sương đọng, chẳng còn những cánh đồng phì nhiêu, vì tại đó khiên thuẫn các anh hùng đã bị vứt bỏ! Khiên thuẫn của Saun không được bôi dầu, nhưng vấy máu của những người bị đâm, dính mỡ các anh hùng; cây cung của Giônathan không lùi lại, thanh gươm của Saun không trở về vô hiệu quả. Saun và Giônathan, ôi những con người dễ thương, dễ mến, sống chẳng xa nhau, chết cũng chẳng rời, nhanh hơn chim bằng, mạnh hơn sư tử!

Thiếu nữ Israel hỡi, hãy khóc Saun, người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy, đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng.

Than ôi! Các anh hùng đã ngã gục giữa lúc giao tranh! Trên các đồi của ngươi, Giônathan đã bỏ mình! Giônathan, anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh! Tôi thương anh biết mấy! tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ. Than ôi! Anh hùng nay ngã gục, võ khí đã tan tành!” (2Sm 1,17-27) – (có thể so sánh với bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu 1861).

- “Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền

Lòng dân trời tỏ

Mười năm công vỡ ruộng,

xưa ắt còn danh nổi như phao.

Một trận nghĩa đánh Tây,

thân tuy mất tiếng vang như mõ.

Nhớ lính xưa

Cui cút làm ăn

Riêng lo nghèo khó,

Chưa quen cung ngựa, đưa tới trường nhung,

Chỉ biết ruộng trâu, ở theo làng hộ…

Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,

Thương vì hai chữ thiên dân.

Cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm,

Cam bởi một câu vương thổ.

Hỡi ôi!

Có linh xin hưởng”

+ Thể văn thư tín:

14 thơ thánh Phalô Tông Đồ gởi cho các giáo đoàn và những người thân thiết; 7 thơ chung của các Tông Đồ giải nghĩa thêm đạo lý Tin Mừng.

- Mở đầu: “Phaolô, nô lệ Đức Giêsu Kitô được kêu gọi làm Tông Đồ…

Kính gởi anh em hết thảy ở Roma, những người được Chúa yêu mến,…

- Kết thơ: Tôi xin gởi lời chào Priscina và Aquila, những người cộng sự của tôi trong Đức Kitô…

Xin gởi lời chào…

Anh em hãy chào nhau, hãy áp má hôn nhau cách thánh thiện, hết thảy các Hội Thánh của Đức Kitô gởi lời chào anh chị em.

Tái bút 1.

Tái bút 2.

Ân sủng và bình an của Đức Kitô ở cùng anh chị em” (Thư thánh Phaolô Tông Đồ gởi giáo đoàn Roma).

+ Thể văn tiên tri:

Lối văn này ít thấy dùng trong văn học Tây phương, nó giống như lối văn sấm của Viễn đông. Các sách tiên tri dùng thể văn này để công bố những lời răn đe của Thiên Chúa, báo trước những phần thưởng cho người thiện làm việc lành và những hình phạt cho kẻ bất lương làm điều ác… Thường mở đầu bằng câu: “Thiên Chúa phán thế này”, và thường kết bằng câu: “Đó là lời Thiên Chúa phán

- Lại có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: “Ngươi thấy gì?” Tôi thưa: “Tôi thấy một cái nồi sôi sùng sục, mặt nồi từ phiá Bắc nghiêng xuống”. Và ĐỨC CHÚA phán với tôi: “Từ phía Bắc tai họa sẽ ập xuống mọi cư dân xứ này; vì đây Ta kêu gọi tất cả các dòng tộc thuộc các vương quốc phía Bắc, - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Chúng sẽ đến, và mỗi dân sẽ đặt ngai của mình tại lối vào các cổng thành Giêrusalem; tứ phía tường thành sẽ bị chúng phá đổ, tất cả các thành khác của Giuđa cũng vậy. ta sẽ tuyên án phạt cư dân xứ này, lên án mọi hành vi gian ác của chúng, vì chúng đã bỏ Ta, đã đốt hương kính các thần khác và đã sụp lạy những sản phẩm tay chúng làm ra” (Gr 1,13-16).

+ Thể văn phóng sự chiến trường:

Người Philitinh giao chiến với Israel. Người Israel chạy trốn trước mặt người Philitinh và bị tử thương ngã gục trên núi Ghinbôa. Người Philitinh bám sát vua Saun cùng các con trai vua, và chúng giết ông Giônathan, ông Avinađáp và ông Manki Sua, các con vua Saun. Áp lực của mặt trận dồn về phía vua Saun.

Lính bắn cung nhận ra vua. Vua rất run sợ khi thấy lính bắn cung. Vua Saun bảo người hầu cận: “Rút gươm ra và đâm ta đi, kẻo bọn không cắt bì ấy đến đâm ta và ngạo ta”. Nhưng người hầu cận không dám vì quá sợ. Vua Saun mới lấy gươm ra và lao vào mũi gươm. Người hầu cận thấy vua đã chết cũng lao mình vào mũi gươm của anh ta và chết theo vua. Thế là vua Saun, với ba con trai, người hầu cận và mọi người của vua đều cùng chết ngày hôm đó. Người Israel ở bên kia thung lũng và ở bên kia sông Giođan, thấy người Israel chạy trốn và vua Saun cùng các con vua đã chết, thì bỏ các thành của họ mà chạy trốn. người Philitinh đến và chiếm cứ các thành ấy” (1Sm 31,1-7).

+ Thể văn Khải Huyền (đặc biệt của Thánh Kinh):

Được dùng để bộc lộ những bí ẩn, nhất là vào thời kỳ thế mạt… những sự kiện trong tương lai được báo trước bằng những thị kiến, những chiêm bao, những hình ảnh có tính tượng trưng, thường thì khi biến cố xảy ra rồi người ta mới nghiệm ra đúng như lời Kinh Thánh đã báo trước:

- Tay ĐỨC CHÚA đặt trên tôi. ĐỨC CHÚA dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng ấy đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?” Tôi thưa: “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ, Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy: Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA”. Tôi đã tuyên sấm như tôi được lệnh. Vậy có tiếng động khi tôi đang tuyên sấm; có sự rung chuyển và các xương xích lại gần, ăn khớp với nhau. Tôi nhìn thì thấy trên chúng đã có gân; thịt đã mọc lên và da đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí chưa có ở nơi chúng. Người lại bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần khí: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh”. Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.

Bấy giờ, Người phán với tôi: Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Israel. Này chúng vẫn nói: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời!” Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel. Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Giuđa và Israel thành một vương quốc thống nhất” (Ed 37,1-14) (Đây là hình ảnh tiên báo sự hồi sinh của Israel và cũng báo trước ngày kẻ chết sống lại thời thế mạt).

(Còn tiếp)

Phụ Bản I

MỘT NHÀ VĂN NGA

CÓ DUYÊN VỚI VIỆT NAM

Cách đây ít lần nhờ ông bạn Phan Trác Cảnh, chủ Nhà sách số 5 phố Bát Đàn, mà lần đầu tiên tôi được biết đến tờ tạp chí Lá Lúa, cơ quan của Chi hội Văn nghệ Nam Bộ. Ở số 1/1951, số Đặc biệt Hội nghị kiểm thảo văn nghệ Nam Bộ, tôi để ý thấy một chi tiết nhỏ nhưng khá lý thú, đối với các thế hệ bạn đọc ngày nay có lẽ xem là lạ. Ở trang 17, tường thuật lễ khai mạc Hội nghị cán bộ văn nghệ Nam Bộ, diễn ra trong những ngày 7, 8, 9 tháng 1 năm 1951, có đoạn viết:

“Đúng 15 giờ 40 ngày 7 tháng 1 năm 1951 Hội nghị khai mạc. Nghi thức thường lệ. Các đại biểu được giới thiệu:

Hội nghị bầu Chủ tịch danh dự: HỒ CHÍ MINH, QUÁCH MẠC NHƯỢC VÀ ILYA ERENBOURG.

Hội nghị kiêu hãnh và phấn khởi nghĩ đến ba vị lãnh tụ tiên phong của nền văn nghệ dân chủ tiến bộ chiến đấu cho Hòa bình thế giới” 1 .

Từ lâu trong lễ khai mạc các Hội nghị ở ta không còn giữ cái thủ tục đó. Nhưng nhắc để các bạn trẻ ngày nay biết thêm một chi tiết, tuy “ấu trĩ” nhưng cũng ghi nhận tấm lòng của thế hệ trước chúng ta đối với các danh nhân và cũng nhân dịp này tôi muốn được cùng mọi người tìm hiểu thêm sâu một chút tên tuổi nhà văn Nga Ilya Erenburg mà ngay từ thời đó đã được nhân dân ta quý trọng, đặt ngang bằng với tên tuổi Bác Hồ, vị lãnh tụ tối cao của dân tộc ta lúc đó đang lãnh đạo toàn dân kháng chiến giành độc lập tự do cho đất nước, nhà văn Trung Quốc Quách Mạc Nhược, ngọn cờ đầu của văn học Cách mạng Trung Quốc lúc đó .

Erenburg Ilya Grigorevich (1891-1967) - nhà văn Nga Xô Viết, nhà hoạt động xã hội. Tác giả nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó nổi bật là bộ ba tiểu thuyết Pari sụp đổ (1941-1942, Giải thưởng Nhà nước Liên Xô 1942), Bão táp (1947 – Giải thưởng Nhà nước Liên Xô 1948) và Ngọn sóng thứ 9 (1951-1952), truyện dài Mùa tuyết tan (1954-1956), Sự biến niên của lòng sông cảm. (Những bài viết trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại, 1965; hay bộ hồi ký Con người, năm tháng cuộc đời (1-6 tập, 1961-1965) vv...

Nhà văn Nga Xô Viết Ilya Erenburg được biết đến ở Việt Nam ngay từ những năm 30 thế kỷ trước. Trong Hồi ký Nhớ lại buổi đầu gặp gỡ của mình nhà văn Như Phong (1917-1985) ghi nhận, sau tác phẩm Người mẹ của Gocki, mặc dù viết trước Cách mạng tháng Mười Nga thành công, thế hệ thanh niên ta những năm 30 vẫn quen coi đó là tác phẩm tiêu biểu của Văn học Xô Viết, họ “say mê tìm đọc hết các tác phẩm của Văn học Xô Viết mà trong thời kỳ đó người ta có thể kiếm được bằng cách này hay cách khác: Thép đã tôi thế đấy của Nikolai Ostrovski, Đất vỡ hoang của Mikhain Solokhov, Thất bại của Phadaev, Trapaev của Phurmanov, Không kịp lấy lại hơi thở của Ilya Erenburg...” 2 . Như vậy là Ilya Erenburg đã nằm trong số nhà văn Xô Viết đầu tiên có duyên được bạn đọc Việt Nam tìm đến ngay từ những năm 1930 của thế kỷ qua. Tiếp theo “từ năm 1950, biên giới Việt Nam phía Bắc mới được mở rộng để đón chào văn nghệ Xô Viết, ngay trong thời kháng chiến trước những năm 1954, những tên tuổi, ngoài Gocki và Maiakovski, như Aleksei Tolstoi, Ilya Erenburg, Konstantin Simonov, Mikhain Solokhov, Boris Polevoi, Galina Nikolaeva vv... đã trở nên quen thuộc với giới văn nghệ Việt Nam và một số tác phẩm của Maiakovski, Erenburg, Simomov, Polevoi đã được dịch ra và phổ biến rộng rãi cả trong miền rừng núi và nông thôn Việt Nam...” 3 nhà văn lão thành Vũ Đức Phúc nay đã ngoài 90, từng khẳng định như thế. Thiếu tướng – Nhà văn, Nhà lãnh đạo tư tưởng, văn nghệ quân đội trong bài Những kỷ niệm cũng đã cho biết: “Trong những năm chiến tranh chống Pháp từ 1946 – 1954, tôi là người say sưa tìm kiếm các tiểu thuyết Xô Viết để đọc. Lúc ấy chúng tôi gặp được những tiểu thuyết của Erenburg, của Phadaev, của Solokhov, Kazakievích, Polevoi, Simonov...” 4 . Và rồi một cây bút của chúng ta, nhà báo – nhà văn Thép Mới, đã trực tiếp được gặp nhà văn Nga Xô Viết Ilya Erenburg. Năm 1950, sau khi biên giới phía Bắc của ta được giải phóng người của ta bắt đầu được cử đi đến các nước để giao lưu. Thép Mới nằm trong số những người đó. Trên tạp chí “Văn nghệ” kháng chiến số 30 ra ngày 16/9/1951 ông đã cho đăng bài Chúng tôi đã được gặp các nhà văn Xô Viết. Trong số các nhà văn Nga Xô Viết có tên tuổi lần đầu tiên tiếp những người viết Việt Nam có Ilya Erenburg. Thép Mới ghi lại “Đồng chí Phađaev (tác giả của Chiến bại đã dịch ra tiếng Việt sau này; lúc đó đang lãnh đạo Hội Nhà văn Xô Viết) ngồi ở đầu bàn, tóc bạc phơ. Nét mặt hiền hậu vô cùng. Chúng tôi ngồi bên tay phải đồng chí. Trước mặt chúng tôi là nhà văn Erenburg, vẫn trong bộ đồ xanh rêu, vẫn cặp mắt sâu xa, nét mặt trầm ngâm suy nghĩ như lần chúng tôi đã được gặp ở Prage (Tiệp Khắc)”... Về nước, Thép Mới bắt tay vào dịch các bài văn chính luận của Ilya Erenburg viết trong những năm tháng chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại. Các bản dịch tác phẩm của Ilya Erenburg ra tiếng Việt của Thép Mới đã được một số phổ biến trên tạp chí “Văn Nghệ”, về sau NXB Văn Nghệ đã ấn hành thành tập sách nhỏ có tên Thời gian ủng hộ chúng ta. Trên sách báo của ta xuất hiện tiếp các bản dịch tác phẩm khác của Ilya Erenburg. Chẳng hạn, cũng trên “Văn Nghệ” bạn đọc được đón đọc Bức thư ngỏ của E-ranh-bua gửi các nhà văn Tây phương do nhà thơ Xuân Diệu dịch 5 . Về sau các tác phẩm khác của Ilya Erenburg lần lượt được nhiều người chuyển ngữ sang tiếng Việt: Paris sụp đổ, Bão táp, Chân dung người đương thời (trích Con người, năm tháng, cuộc đời) và vv...

Tác phẩm của Ilya Erenburg đã để lại dấu ấn sâu trong lòng nhiều bạn đọc Việt Nam. Trong bài Kỷ niệm về văn học Nga Xô Viết của nhà thơ Giang Nam 6 có tâm sự “Nếu tôi không nhớ lầm thì tác phẩm văn học Xô viết đầu tiên mà tôi được đọc trong một chuyến đi công tác và vùng tự do Khu 5/1950 là một bài báo ngắn, một tùy bút văn học. Đó là bài viết về cái tháng sáu năm 1941 đau thương và căm giận của Ilya Erenburg được dịch ra tiếng Pháp và đăng trong tạp chí của Đảng Cộng sản Pháp. Bài báo nói gọn trong 3, 4 trang giấy khổ nhỏ mà toát ra một sức mạnh kỳ lạ, một sức thôi miên không cưỡng lại nổi. Tôi đọc 1 lần, 2 lần rồi 3 lần. Đối với tôi, đúng là một sự phát hiện. Quả thật, cho đến lúc bây giờ, tôi vẫn không thể hình dung con người có thể viết về chiến tranh, về kẻ địch, về nhân dân và Tổ quốc thân yêu của mình với tất cả sự cháy bỏng của tâm hồn đến như thế. Những tài liệu được dẫn ra chân thực một cách đáng sợ. Một cô gái bị treo cổ lên cành cây; các gia đình không còn đàn ông, những người phụ nữ Nga làm việc lặng im, những con mắt không có nước mắt. Hình như cuộc sống đã bày sẵn mọi dữ kiện, không phải lựa chọn, sắp xếp, thêm thắt gì cả... Vậy mà từng dòng, từng dòng, tác phẩm cuốn hút người đọc, dẫn từ bất ngờ này đến bất ngờ khác và cuối cùng lay động cả tim anh ta, thôi thúc anh ta đứng dậy, cắn răng lại cầm chắc súng, quyết bảo vệ những gì tốt đẹp nhất, nhân đạo nhất, thiêng liêng nhất không chỉ của tâm hồn Nga, đất nước Nga mà của cả mọi tâm hồn, mọi đất nước. Trước sự tấn công của một lũ phát xít cựu kỳ man rợ. Phải chăng cũng là người lính nên chúng ta dễ hiểu nhau hơn? Phải chăng trong bài báo ngắn này không có bàn tay sắp xếp của người nghệ sĩ hết sức nhạy cảm đã làm cho mỗi trang viết của Ilya Erenburg thực sự là một bài hịch đánh giặc đi thẳng vào lòng người. Bài hịch ấy được viết bằng một phong cách giản dị, chính xác, đầy chất thơ nên có sự thuyết phục lớn” 7 .

Còn thế hệ chúng tôi, lúc bấy giờ đang ở lứa tuổi 11, 12 cũng ghi nhớ nhiều câu văn của Ilya Erenburg được nhà văn Thép Mới dịch ra tiếng Việt, thuộc lòng cho đến tận bây giờ, khi chúng tôi đều đã thuộc thế hệ vượt ngưỡng “cổ lai hy” cả. Một người bạn đồng môn thủa thiếu thời, đồng tuế (tuổi Hổ - Mậu Dần) – học giả, nghệ sĩ, nhà hoạt động xã hội Trần Quân Ngọc trong Ghi chép về những cuộc gặp với các nhà văn Nga đã viết: “Cho tới nay tôi vẫn còn thuộc lòng từng đoạn văn của Erenburg qua bản dịch của Thép Mới: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất, yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh” 7 .

Cách đây dễ đã có gần nửa thế kỷ, vừa theo học khóa tiếng Nga 2 năm, về nước làm phiên dịch xây dựng nhà máy Xuyphephốtphát Lâm Thao, anh bạn Ngọc của chúng tôi đã “điếc không sợ súng” viết một bài báo bằng tiếng Nga gửi sang Liên Xô cho tạp chí “Bảo vệ hòa bình”, chỉ ghi tên người nhận là nhà văn Ilya Erenburg, bây giờ là Đại biểu Xô Viết tối cao Liên Xô, Phó chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới. Sau bao tháng ngày hồi hộp chờ đợi, cuối cùng Ngọc đã nhận được thư phúc đáp của chính nhà văn Ilya Erenburg.

“Mátxcơva, ngày 28 tháng 11 năm 1960

Bạn Trần Quân Ngọc thân mến

Xin cảm ơn bạn về sự tin cậy. Rất tiếc tôi không tự sửa được bản thảo của bạn, vì tôi bận đi công tác nước ngoài trong một thời gian dài. Tôi đã chuyển bản thảo của bạn cho Bộ biên tập tạp chí “Bảo vệ Hòa bình” (V.Zashitu mira). Tôi nghĩ rằng bạn sẽ nhận được thư trả lời của họ. Dù sao với ba năm học tiếng Nga, bạn đã nắm tiếng Nga không đến nỗi tồi.

Chúc bạn nhiều tiến bộ

Ilya Erenburg” 8

Bài báo của Ngọc sau đó được đăng vào một số tạp chí “Bảo vệ hòa bình”. Hơn thế nữa ít lần sau Ngọc được cử đi học tiếp và trở lại Matxcơva. Trong một lần trường đại học, nơi Ngọc theo học được đón nhà văn Ilya Ernbyra đến thăm. Tuy bữa ấy Ngọc có việc đi xa, trở về trường muôn, buổi đón tiếp nhà văn Ngọc không được dự, nhưng trở về đúng lúc nhà văn ra xe và Ngọc may mắn đã kịp nắm được tay nhà văn và trao đổi đôi lời: “Ilya Grigorievich! cháu là sinh viên Việt Nam, cháu tiếc không được nghe bác nói chuyện hôm nay!”. Tay trong tay, chúng tôi nói chuyện với nhau qua cửa xe ô tô chừng mấy phút. Ông nói: “Ồ, thề à, thật là thú vị được gặp một sinh viên Việt Nam ở đây hôm nay! Cháu xa nhà đã lâu chưa? Bác rất tiếc là chưa có dịp sang thăm đất nước cháu. Tuy vậy bác cũng có vài cái may mắn là đã được gặp mặt và quen biết Chủ tịch Hồ Chí Minh của cháu khi Người còn trẻ, đang hoạt động trong Quốc tế cộng sản tại Moskva vào những năm ba mươi và sau đó tại Paris vào năm 1946, khi Người sang thăm nước Pháp. Đó là một con người tuyệt vời, kiến thức sâu rộng, vô cùng giản dị và đầy lòng nhân ái. Bác rất tiếc là còn biết ít về nền văn hóa Việt Nam. Ngày còn trẻ, bác có để tâm nghiên cứu chút ít nền văn hóa của dân tộc Chăm sống trên dải đất Việt Nam” 9

Hiện tôi có trong tay cuốn sách của Bảo tàng cách mạng Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp năm 1946, do TT UNESKO bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam ấn hành năm 2003, tại Hà Nội, trong đó ở trang 91 có ghi lại sự kiện ông Ilya Erhenburg đến thăm Cụ Chủ tịch vào 2 giờ, ngày 21 tháng 7 năm 1946.

Thúy Toàn

Ghi chú:

1 Lá lúa số 3, 1951, trang 17

2 Tuyển tập Như Phong, NXB Văn học, 1994, T2, trang 252

3 Xem Những kỷ niệm không dễ gì phai lạt, NXBVH, 1997, trang 703

4 Như trên, trang 703

5 Tạp chí Văn nghệ, số 30, 16/9/1951

6 Giang Nam, Tạp chí Văn học, số 2/1983. In lại trong Những kỷ niệm không dễ gì phai lạt, NXBVH 1997, trang 308-310.

7 Những kỷ niệm không dễ gì phai lạt, trang 307

7 Những kỷ niệm không dễ gì phai lạt, trang 307

8 Xem TC Văn học nước ngoài, số 6/2006, trang 174-176

9 Xem TC Văn học nước ngoài, số 6/2006, trang 174-176

ĐẠO PHẬT QUA LỜI GIẢNG DẠY

CỦA LỤC TỔ HUỆ NĂNG

TRONG PHÁP BẢO ĐÀN KINH

LỜI NÓI ĐẦU

Người tin vào Giáo Pháp ĐẠI THỪA thì đương nhiên tin vào việc TRUYỀN Y BÁT của Đức Thích Ca, vì đó là Di Ngôn của Ngài. Đã tin như thế thì cũng biết rằng dù Kinh ĐẠI THỪA không phải do chính kim khẩu của Phật thuyết, mà do các Tổ về sau giảng, mục đích chỉ là khai triển cho rõ thêm những gì ngày trước Phật đã thuyết. Đa phần những quyển Kinh Đại Thừa như DIỆU PHÁP LIÊN HOA, KIM CANG, DUY MA CẬT, LĂNG NGHIÊM đều được mở đầu bằng “ Như thị ngã văn …” có nghĩa là mượn lời của Phật để thuyết. Điều đó với người không hiểu gì về việc Truyền Y Bát thì cho là ngụy tạo. Nhưng với người đã hiểu thì không có gì thắc mắc, bởi việc TRUYỀN Y BÁT có nghĩa là Tổ trước thấy người kế nhiệm cũng đã Chứng Đắc. Sự hiểu biết về Giáo Pháp cũng không khác chi mình, nên chọn làm người thay mặt mình, tiếp tục giữ gìn và quảng bá Phật Pháp, nối tiếp con đường của Đức Thích Ca để lại. Như vậy, Tổ chính là PHẬT HIỆN ĐỜI. Các Ngài hoàn toàn có quyền xưng mình là Phật. Dù vậy, các Ngài vẫn khiêm tốn, mượn danh Đức Đạo Sư khai triển Giáo Pháp, để người đọc thêm tin tưởng mà hành theo. Dù vậy, suốt những quyển Kinh Đại Thừa ta không hề thấy sự kiêu mạn nào của Tổ đã giảng ra Kinh đó. Các Ngài không hề hài danh, hài tánh để người sau phải tôn vinh. Đó là một yếu tố để qua đó ta có thể đánh giá được cái “ VÔ NGÃ ” của người đã Đắc Pháp.

Chúng ta đều biết, Đạo Phật ra đời trong bối cảnh đất nước Ấn Độ đã có quá nhiều Giáo phái. Họ thờ đủ thứ Thần với những huyền thoại về phép mầu, thần thông biến hóa, có quyền sinh, sát, ban ơn, giáng họa. Vì thế, khi mở ra một đường hướng mới, Đức Thích Ca cũng không thể làm khác họ. Do đó mà phải có Phật, Bồ Tát thần thông biến hóa, cứu khổ cứu nạn. Có Cõi Phật đầy dẫy Bảy Báu, là điều mọi người luôn ham thích, - cả đời phấn đấu để đạt được, bất chấp thủ đoạn, bất chấp tội ác - để cho họ mong mỏi về đó mà chấp nhận những điều kiện Phật đưa ra, là phải GIŨ GIỚI, phải bỏ ÁC, hành THIỆN... Tu Sĩ thời đó phải bỏ nhà đi sống lang thang ngoài rừng. Phải có những hình thức khác biệt với người đời để được nhiều người chấp nhận thì Phật cũng phải dùng cách đó để thuyết phục người tin theo, sau đó sẽ dắt họ từ từ tiến thêm. Nhưng dần dà, các Tổ khai sáng Đạo Phật phải chắt lọc, để chỉ giữ lại những tinh túy, cần thiết nhất, bỏ đi những hình thức rườm ra, không dính dáng đến mục đích tu hành. Từ đó những quyển Kinh Đại Thừa đã ra đời. Về sau, thì Quyển SÁU CỬA VÀO ĐỘNG THIỂU THẤT và PHÁP BẢO ĐÀN KINH của hai vị Tổ gần với thời của chúng ta nhất thì không dùng “ Như Thị ngã văn ” nữa, mà hai Tổ trực tiếp đứng ra giải thích nghĩa lý của các pháp mà Phật đã thuyết cũng như cách HIỂU, cách HÀNH thế nào cho đúng với Đạo Phật chân chính. Vì vậy, từ buổi đầu, chúng ta thấy Đức Thích Ca và các Tổ phải Xuất Gia, Cạo Tóc, Đắp Y, Ngồi THIỀN mới “ đắc đạo ” . Khi ý nghĩa của việc tu hành ngày càng khai sáng, thì trong Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA đã nói rõ: “ Bất cứ ai, làm gì, ở đâu, ăn vận thế nào, miễn Y PHÁP TU HÀNH thì đều THÀNH PHẬT . Tổ Đạt Ma thì PHÁ TƯỚNG một cách quyết liệt. Thậm chí đến thời Lục Tổ Huệ Năng thi Ngài chưa Quy Y, Thế Phát, Xuất Gia và cũng không hề Ngồi Thiền xuất nào mà vẫn được Đạo. Đó không phải là một sự đổi khác hay cách tân, mà chỉ loại bỏ những thứ rườm rà không cần thiết mà ngày xưa do hoàn cảnh nên bắt buộc phải có. Qua đó, người sau biết rằng muốn tu hành thì không bắt buộc phải Y vào Hình Tướng, chỉ cần nhắm vào CÁI TÂM mà tu sửa, vì mọi vướng mắc, phiền não, Sinh, Tử là ở đó.

Thật vậy, TU chỉ có một nghĩa là SỬA. TU PHẬT, là gỡ cái TÂM vướng mắc với trần cảnh để vẫn tiếp tục sống trong đó mà không bị nó làm KHỔ. Mục đích đã rõ ràng, thì chỉ cần nắm vững Phương Tiện để áp dụng. Thế nhưng, nhiều người vẫn cố chấp, cho là muốn tu hành thì cần phải thực hiện mọi pháp giống y như Đức Thích Ca đã làm ngày xưa mới đúng! Rõ ràng những người này đã không nắm vững con đường và mục đích của việc tu Phật. Xin được phép dùng một thí dụ cho sáng tỏ. Giả sử ngày xưa có một khúc kinh, rạch. Người muốn đi qua đó phải xắn quần lội xuống nước thì mới qua được. Sau đó thì cầu đã được bắc lên. Như vậy, chẳng lẽ vì bắt buộc phải giống y lớp người đi đầu mà những người sau không được dùng cầu để qua con kinh. Phải tiếp tục lội nước, trong khi mục đích chỉ là qua phía bên kia? Thế rồi, nhiều thời qua, bất chấp những lời giảng giải của Chư Tổ, có biết bao lớp người tu hành đã giữ y hình thức như thuở ban đầu Đức Thích Ca đã làm. Cũng là Xuất Gia, Cạo Tóc, Đắp Y, Khất Thực… mà sao không thấy có ai THÀNH PHẬT? Vậy thì việc kiên quyết giữ nguyên Hình Tướng nói lên điều gì? Lẽ nào cứ tu hành đời này sang đời kia, không có kết quả mà chúng ta vẫn chưa chịu xét lại để xem ngoài Hình Tướng còn phải làm gì nữa chăng?

Không những thế, mục đích tu hành của rất nhiều người sau này đôi khi hoàn toàn khác với mục đích của Đức Thích Ca. Lịch sử Đạo Phật có nói rõ, Đức Thích Ca PHÁT TÂM vì thấy cảnh SINH, LÃO, BỆNH, TỬ đè nặng lên cái thân con người. Ngài Xuất Gia là muốn rời bỏ những sự ràng buộc, vướng víu của vợ con, địa vị, đi tìm cách thức để Thoát cảnh đó. Khi tìm được nguyên nhân cũng như cách thức để Thoát, thì gọi là “Đắc Đạo”. Khi hoàn tất Con Đường Giải Thoát thì gọi là THÀNH PHẬT. Như vậy, Thành Phật chỉ là hoàn thành Công việc tự Giải Thoát cho bản thân. Sau đó, Ngài thuyết cho mọi người cách thức để cũng làm được như Ngài. Nhưng càng về sau thì Thành Phật qua những người chấp lầm văn tự trở thành một vị Thần Linh, có quyền năng “cứu độ Tam Thiên Đại thiên thế giới”. Do đó, nhiều người lại Xuất Gia tu hành vì tôn kính, muốn phụng sự Phật để sau khi chết được rước về Nước Phật! Thậm chí có người Phát Tâm đi tu vì thấy uy danh của Phật quá lớn… nên cũng bắt chước Xuất Gia. Nghĩ rằng “Bỏ cái nhỏ để được cái lớn”. Biết đâu mai kia mình cũng sẽ “hoát nhiên đại ngộ”! Đức Thích Ca thì đi tìm con đường để Thoát Khổ. Mục đích đã rõ, nên khi Ngài tìm ra thì gọi là “Đắc Đạo” hay “Ngộ Đạo”. Người sau chẳng biết mình tìm gì? Chẳng biết phải tìm cách nào? Ở đâu? Vậy mà cũng mong có ngày Chứng Ngộ!

Đạo Phật ra đời cách đây đã mấy ngàn năm. Thời nào cũng có người xuất gia tu hành. Thật có, giả có. Mạnh ai nấy giảng. Chính những người không chịu tìm hiểu ý nghĩa những lời Phật thuyết, cứ Y NGỮ mà hiểu, mà hành, đã đẩy Đạo Phật đi rất xa. Từ Tự Tin, Tự Độ, nương theo hướng dẫn trong Kinh để Tự Giải Thoát trở thành cầu xin Phật Độ cho. Sống thì Cầu An. Chết thì Cầu Siêu. Cầu tai qua nạn khỏi, thăng quan tiến chức, thi đỗ… Nếu cứ “hữu cấu tất ứng” hóa ra Nhân Quả của Đạo Phật chân chính đã trở thành vô nghĩa! Căn bản của Đạo Phật là Tự Độ, vậy mà đến này ta thấy chùa nào cũng nghi ngút khói hương!

Con đường tu Phật được Đức Thích Ca bỏ ra 49 năm để thuyết. Nhưng vì thời đó không đủ ngôn từ để nói về CÁI TÂM. Bởi nó vô hình, vô tướng, không thể diễn tả. Trong Kinh Lăng Nghiêm, ta thấy Phật phải giảng đến lần thứ 7 thì Ngài Anan mới hiểu ra. Cũng nhờ về sau các Tổ giảng Kinh Đại Thừa, qua giải thích thêm của Các Ngài mà chúng ta mới hiểu rõ thêm về sự liên quan giữa Cái Tâm và mục đích của Đạo Phật.

Thật vậy. Sở dĩ Đạo Phật xuất hiện ở trần gian là vì thấy con người hàng ngày phải đối đầu với Phiền Não, với Sinh, Lão Bệnh Tử. Vì thế, mục đích của Đạo Phật nhằm đào tạo, trang bị cho con người khả năng miễn nhiễm với Phiền Não để tiếp tục sống chung với nó. Mọi dính mắc, khổ đau, phiền não là do CÁI TÂM. Chỉ cần THẤY NÓ, rồi SỬA, hay gọi cách khác là ĐIỀU PHỤC, hoặc CHUYỂN HÓA nó, để nó không còn CHẤP vào các TƯỚNG HỮU VI thì sẽ được GIẢI THOÁT. Đó là lý do vì sao Đạo Phật dùng HOA SEN làm biểu tượng, là vì dù được sinh ra và lớn lên từ Bùn, nhưng không bị Bùn làm cho ô trược, nói lên sự “THOÁT TỤC NGAY CHÍNH NƠI TRẦN TỤC”. “THOÁT PHIỀN NÃO NGAY CHÍNH TRONG PHIỀN NÃO”. Nếu Hoa Sen được trồng trong chậu nước tinh khiết. thì làm sao nói lên được tính cách của nó là “không nhiễm mùi bùn”? Như vậy, nếu Đạo Phật không được lưu hành tại cảnh đời ô trược, mà người tu bắt buộc phải đóng khung, xây tường che chắn, biệt lập, để Phiền Não không động tới được thì HOA SEN còn có ý nghĩa gì nữa! Phải chăng vì thế mà Lục Tổ có Kệ: “Phật Pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác. Ly thế mịch Bồ Đề. Cáp như cầm thố giác”. Có nghĩa là Phật Pháp ở tại thế gian. Không rời xa thế gian mà giác ngộ. Rời thế gian mà tìm Giải Thoát thì cũng giống như đi tìm sừng thỏ”.

Mỗi đời Tổ đều nối tiếp nhau để khai triển lời Đức Thích Ca đã giảng day, vì các Ngài có nhiệm vụ thực hiện Di Ngôn của Đức Thích Ca, đời đời nối truyền Chánh Pháp, để phá mê, Giải Khổ cho chúng sinh. Từ những Pháp Phật giảng ngày xưa, do không đủ ngôn từ để diễn tả, nên được cho là “xa kín nhiệm sâu”. Đến đời các Tổ, qua các Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, DIỆU PHÁP LIÊN HOA, VIÊN GIÁC, LĂNG NGHIÊM, DUY MA CẬT vv… người tu học sẽ được giải thích một cách rõ ràng, để không bị hiểu lầm mà rơi vào thần quyền, mê tín. Chỉ lo Tự Độ, Tự Tu, Tự Giải Thoát.

TU PHẬT là để THÀNH PHẬT. Thành Phật là để được Giải Thoát. Giải Thoát đó như thế nào? Tu ở đâu? Công phu ra sao? Thế nào là Thấy TÁNH. Làm sao Thấy được Bổn Thể Tâm. TRÍ BÁT NHÃ là gì? Kể cả những thắc mắc: Có cần bỏ hết mọi thứ để vô Chùa, cạo tóc, đắp y, chay lạt… mới tu hành được? Phước Đức, Công Đức, Chúng Sinh là gì? Tây Phương, Đông Phương ở đâu? Làm sao đến đó?... Tất cả đều được Lục Tổ giảng giải trong Pháp Bảo Đàn Kinh đem lại cho chúng ta một sự hiểu biết một cách rõ ràng đúng theo tinh thần của Đạo Phật chân chính, không hề mâu thuẫn với mục đích của Đạo Phật do Đức Thích Ca giảng dạy.

Người chê Kinh Đại Thừa không do chính bản thân mình kiểm chứng, đánh giá mà chỉ vì nghe lời người không hiểu gì về việc Truyền Y Bát tuyên truyền, rồi nghe theo đó mà phỉ báng, khích bác, để rồi chính mình khi hành trì các pháp cũng không biết sẽ về đâu, quả là một sự thiệt thòi. Vì vậy, sao chúng ta không thử đọc qua Kinh Đại Thừa một lần xem những lời chỉ trích, chê bai đó thực, hư như thế nào? Để rộng đường dư luận, b ắt đầu từ tập này, tôi xin trích lại những lời giản dạy của Lục Tổ, thêm vào đó là nhận xét của riêng tôi, qua quá trình tìm hiểu, đối chiếu với khá nhiều quyển Kinh Đại Thừa khác, để chúng ta có dịp tự mình đánh giá lại sai, đúng. Phần chính Kinh vì quá dài nên tôi rút bớt lại, chỉ giữ những ý chính. Mong rằng có thể khơi lại giòng Chánh Pháp đã bị chôn vùi từ nhiều đời, và để chúng ta có dịp so sánh những điều mình đang hiểu, đang hành xem có phù hợp với những gì do chính Đức Lục Tổ giảng dạy hay không để kịp thời chấn chỉnh.

Trân trọng.

Tâm Nguyện

CÁCH ĐỌC KINH PHẬT

Trước khi lược giải Kinh, xin nói qua về cách đọc Kinh như sau:

Theo tôi, có hai cách đọc Kinh:

Thứ nhất là đọc một cách khách quan, như người đọc tiểu thuyết hay đọc truyện kiếm hiệp. Cũng hiểu nội dung. Cũng nắm được diễn tiến theo lời Kinh mô tả. Nhưng người đọc chỉ là người đánh giá cao, thấp, đúng, sai, hay, dở, đối với những nhân vật trong truyện... Nhân vật trong đó dù có đánh nhau long trời lở đất, hay đưa nhau lên ngai vàng thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến người đọc. Thí dụ đọc Pháp Bảo Đàn Kinh, ai cũng thấy Bài Kệ của Ngài Huệ Năng cao hơn của Sư Thần Tú. Thấy những người hỏi pháp và những lời giải thích của Lục Tổ. Nhưng đó là việc của những nhân vật trong Kinh. Người đọc sẽ dừng ở chỗ kiến thức về Đạo cũng được mở mang đôi chút nhờ lời giải thích của Tổ. Nhưng điều đó chỉ mới như người đọc được toa thuốc. Dù thấy đầy đủ các tên thuốc trong toa, nhưng chưa trực tiếp uống, nên bệnh chưa thể thuyên giảm.

Cách thứ hai, dành cho những người muốn tìm hiểu và thực hành theo, đúng như ý nghĩa VĂN-TƯ-TU mà Đạo Phật nhắc nhở. Đọc Kinh tức là nghe những bài giảng được ghi chép lại là VĂN. Trong đó có biết bao nhiêu vấn đề mà người muốn tu hành cần phải hiểu rõ, nắm vững. Đó là nghĩa của TƯ. Sau khi tư duy, tìm hiểu rõ ràng, chấp nhận rồi thì thực hành theo, tức là TU. Nhưng những người vào nhóm này cũng chia thành 2 khuynh hướng:

Khuynh hướng thứ nhất là đi tìm những pháp chứng đắc để hành trì. Hy vọng sẽ đi đường tắt, thành công mau nhất. Những người này rất dễ rơi vào hoang tưởng, vì đôi khi rơi vào bẫy của văn tự, chấp lầm những Cảnh Giới, Quả vị nhầm “khuyến tu” của Đức Thích Ca.

Khuynh hướng thứ hai là thận trọng tìm xem ý nghĩa, mục đích cụ thể của con đường tu hành. Những pháp mà Đạo Phật đặt ra, khuyên người tu nên làm gồm những gì? Hành trì theo đó thì được gì? Có xứng đáng công sức bỏ ra hay không? Bởi đôi khi điều ta mong muốn không phù hợp với điều mà Đạo Phật hứa hẹn thì tu làm gì cho phí uổng công sức? Con đường này thì mất nhiều thì giờ để tìm hiểu. Nhưng một khi đã xác định được mục đích và hiểu rõ phương tiện thì người đó sẽ không bị nản lòng, thối chí. Họ chỉ làm theo những gì họ biết một cách chắc chắn, sau khi đã cẩn thận dò tìm, đối chiếu. Do đó, khi đúc kết lại thì thấy cuối cùng Đạo Phật dạy về Nhân Quả thì những người này không còn mê tín, thần quyền. Cũng nhờ hiểu rõ Phương Tiện của Phật, họ Biết rõ thế nào là Chứng Đắc. Biết Chứng Đắc để được gì, nên họ chỉ tự điều phục và Tự Độ chính mình. Nhờ đó không bị rơi vào ngã mạn.

Có rất nhiều vấn đề được đặt ra trong Kinh nếu chúng ta không hiểu thì không thể mang ra thực hành được. Mà nếu không thực hành được thì việc đọc Kinh không ích lợi gì nhiều cho người đọc. Thí dụ có một đoạn Kinh, Ngũ Tổ bảo môn nhân “Các ngươi hãy lui về, mỗi người xem Trí Huệ của mình, lấy Tánh Bát Nhã của Bổn Tâm mình mà làm một bài Kệ”. Nếu là người muốn tìm kỹ càng đương nhiên phải thắc mắc: Thế nào là Trí Huệ? Tánh Bát Nhã là gì? Ở đâu ra? Tại sao phải dùng Tánh Bát Nhã để làm Kệ mới được?

Tất nhiên để hiểu được những chữ đó đòi hỏi một quá trình tìm tòi, học hỏi, rồi đối chiếu với Kinh khác để kiểm chứng lại cái hiểu của mình xem có phù hợp với lời Kinh dạy gọi là “Khế Kinh” hay không. Khi đã hiểu được thì ta cũng có thể áp dụng cho chính bản thân, hay ít ra cũng hiểu được phần nào vấn đề của việc tu tập, rồi lý đương nhiên, ai thấy tốt mà không làm theo? Do đó, TIN, HIỂU, HÀNH là căn bản không thể thiếu cho ai muốn tiến xa hơn trên con đường tu Phật.

Xin nói qua về Trí Huệ và cách tìm.

Trí Huệ là cái trí hiểu biết về Con Đường Giải Thoát, để phân biệt với Trí Thức là những hiểu biết thuộc về thế gian. Để có cái Trí Huệ, hay còn gọi là Trí Bát Nhã, Đạo Phật có Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh để hướng dẫn.

Ngay câu đầu Kinh ta thấy Kinh viết: “Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Tức là người hành giả hành sâu vào Trí Huệ để qua bờ bên kia, soi thấy Ngũ uẩn là Không, sẽ độ hết khổ ách.

Ai cũng hiểu mục đích của Đạo Phật là ĐỘ KHỔ. Theo Đức Thích Ca, con người sở dĩ KHỔ là vì VÔ MINH nên CHẤP LẦM. Cái Thân giả tạm mà ta đang mang, chỉ là Cái thân ứng hiện để trả Nghiệp Quả ta đã gây tạo. Không phải là TA. Vậy mà mọi người cứ cho đó là Ta để rồi theo sự điều động của Mắt, tai, Mũi, Lưỡi, THÂN, Ý, tiếp tục gây Nghiệp. Nghiệp lại tạo ra cái Thân khác, cho nên phải triền miên hết Tử, lại Sinh... Cái vòng lẩn quẩn đó sẽ không bao giờ kết thúc cho đến khi mỗi người tự dùng dao trí Huệ để cắt đi. Do vậy, TRÍ HUỆ là cái Biết Sáng suốt, hiểu rõ về KHỔ và cách thức để THOÁT KHỔ.

Theo cách gọi của Đạo Phật. Những người không tu hành Giải Thoát được là ở Bờ Bên Này. BỜ BÊN NÀY là nói về những suy, nghĩ, hành động hoàn toàn lệ thuộc vào THÂN và TÂM. Muốn qua Bờ Bên Kia thì phải xem xét về hai món đó. Kinh LĂNG NGHIÊM dạy: “Giải Thoát hay triền phược đồng do Sáu Căn. Chứng Thánh hay đọa phàm cũng bởi Sáu Căn chớ không có con đường nào khác”.

SÁU CĂN đó tức là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý thuộc v ề CÁI THÂN. Cái TÂM mà Đạo Phật đề câp đến, đó là những ý thức, suy nghĩ xuất phát từ cái Thân. Quan sát cả hai để thấy rằng hiện tại dù Thân đang tới lui, Tâm đang lao xao theo Nghe, Nhìn mà nghĩ tưởng mọi thứ. Nhưng một thời gian, dài hay ngắn nào đó rồi cái Thân cũng sẽ hết kiếp, hoàn trả lại cho Tứ Đại những gì nó đã vay mượn. Cuối cùng nó cũng sẽ về Không. Như vậy dù nó hiện đang Có, nhưng cũng chẳng khác với Không. Do đó mà Kinh viết: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc” Nhưng không phải chỉ cần thấy như thế mà đã hết Khổ. Hành giả sau khi chấp nhận cái Lý như thế là đúng thì phải áp dụng cái lý mình đã thấy đó vào cuộc sống, để cởi trói dần dần những sự ràng buộc với cái Thân và Tâm. Cuối cùng người hành như vậy sẽ được giải thoát, hết Khổ.

“Trực chỉ Chân Tâm. Kiến Tánh Thành Phật”. Đó là con đường ĐỐN GIÁO, khác với những người do không nắm được con đường tu hành, tự cho mình là căn cơ thấp, cứ theo Tiệm Giáo mà tu, rồi cả đời ăn chay, tụng Kinh, Niệm Phật. Ngồi Thiền cho thật nhiều giờ, nhiều năm tháng. Giữ Giới thật kiên cố... mà không biết sẽ về đâu!

Phạm vi bài này tôi xin nhấn mạnh một sổ điểm cần hiểu và nêu ra một số cách thức người tu học nên thực hành. Dù vậy, đó cũng chỉ là những gợi ý, vì dù có nói rõ thế nào đi nữa thì người đọc cũng không thể qua đó mà hiểu về đạo, khỏi cần giữ Giới, Quán Sát, Tư Duy, hành những Phẩm Trợ Đạo được. Phật dạy mỗi người cần tự tư duy, quán sát để tự hiểu lấy, gọi là “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Đuốc đây là Trí Huệ vậy.

Tâm Nguyện

(Còn tiếp)

75 NĂM TRƯỚC

THẠCH LAM NÓI VỀ DỊCH VĂN

Cái ích lợi của sự dịch văn, và những tài liệu quý báu mà sự dịch văn ngoại quốc sẽ mang đến cho văn chương ta, ai ai cũng đều biết cả. Ai cũng cảm thấy cái cần phải dịch văn ngoại quốc, trong văn chương nước nhà đang mở mang. Vậy mà chúng ta thấy rõ ràng rằng những áng văn dịch vẫn không được hoan nghênh ở xứ này. Có nhiều độc giả hễ thấy văn dịch là không muốn xem, và bởi thế, nhiều báo chí không dám đăng luôn những bài văn đó.

Sự lãnh đạm ấy có thể cắt nghĩa được vì hai lẽ: lẽ thứ nhất, dịch văn nước ngoài – nhất là văn Pháp – là một công việc rất khó, ít người làm nổi. Những người chuyên dịch văn ở bên ta thường thường chỉ hiến độc giả những bản dịch sai lầm và không có giá trị mấy. Trong lúc dịch, những người đó đã để rơi ở dọc đường mất cả những cái tinh hoa của nguyên văn, và những công trình họ làm nên không còn gì quyến rũ người đọc nữa. Nhiều tác phẩm ngoại quốc rất hay trở nên những tác phẩm rất tầm thường ở tiếng ta, và những độc giả biết tiếng Pháp – rất nhiều – thích xem những tác phẩm đó ở nguyên văn hơn.

Lẽ thứ hai, sự chọn lựa những tác phẩm để dịch không được sác đáng. Những tác phẩm đáng dịch lại không dịch, chỉ đi dịch những tác phẩm nào mà người dịch xét ra có thể bán chạy được: sự tính toán về lợi lộc ấy dần dần làm giảm giá trị của những tác phẩm dịch đi. Một thí dụ: trong văn chương mới của Tàu tôi chắc không hiếm những tác phẩm hay và đặc sắc, vậy mà chúng ta chỉ được đọc vài quyển tiểu thuyết rỗng tuếch và ủy mị của Tử-trầm-Á, hay vài cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp nhảm nhí. Người mình thích đọc văn Tàu, các nhà dịch văn lợi dụng lòng thích đó đã dịch bất cứ tác phẩm nào của Trung quốc. Chúng ta không biết một chút gì về các tác phẩm của các nhà văn Tàu hiện giờ, hay của các nhà văn Nhật bản.

Dịch văn căn cứ trước hết vào sự lựa chọn. Đó là một công việc chỉ thành tựu được khi nào làm theo một phương pháp nhất định, có quy củ hẳn hoi. Dịch lung tung, không có lựa chọn, cũng nguy hiểm như dịch liều. Phải dần dần ảnh hưởng người đọc khiến họ sẵn sàng đón tiếp và hiểu biết những tác phẩm dịch sau này. Có những tác phẩm của nước ngoài mà ta không có thể không bị trừng phạt khi đem ngay vào thư viện nước nhà. Có những tác phẩm dễ dàng dọn đường cho những tác phẩm khác, và chỉ một công việc định về lâu dài có thể thu gồm dịch được cả.

Có lẽ, những bản dịch cuốn Les trois Monsquetaires, hay Ngụ ngôn của La Fontaine, mà ông Nguyễn văn Vĩnh đã xuất bản, được người đọc hoan nghênh. Nhưng sau đó, còn có những tác phẩm Pháp nào dịch được chú ý nữa đâu? Cũng thế, bây giờ người đọc đã bắt đầu chán những tác phẩm dịch của Tàu: ta lấy làm ngạc nhiên rằng nhiều người còn vẫn cứ dịch những tiểu thuyết mà người Tàu dịch lại của Anh hay Mỹ, hoặc tự đặt ra mà chúng ta không biết.

Tôi đã có dịp nói đến những tác phẩm dịch của ông Nguyễn Giang, quản đốc tủ sách Âu tây tư tưởng. Ngoài cái lỗi dịch rất vội vàng và cẩu thả, không đúng nguyên văn – ông Giang chắc chỉ chữa sửa qua những công việc của nhiều người khác – những tác phẩm chọn lựa đi quá cái trình độ thưởng thức – mà thưởng thức bằng tiếng quốc ngữ – của độc giả. Tủ sách Âu tây tư tưởng chỉ có thể và có ích lợi là một tủ sách bình dân và phổ thông, truyền bá bằng công việc dịch văn những tư tưởng của Âu tây, và đi dần từ chỗ dễ đến chỗ khó. Phải có một thời gian sửa soạn, và không phải ngay lần đầu mà khiến cho người ta hiểu được Racine, lại qua một bản dịch sai nhầm nữa!

Tôi muốn gọi tính thận trọng của người dịch văn. Người này phải hiểu rằng dịch sai hay nhầm, tức là phản hai lần: phản tác giả mà mình dịch tác phẩm, lại phản cả lòng tin của độc giả đối với tác phẩm ấy nữa. Chớ có ai tưởng rằng dịch văn là một công việc dễ dàng, và kẻ nào không đủ tư cách thà đừng dịch nữa còn hơn. Công việc dịch văn phải để dành riêng cho những người hiểu biết, học rộng cả ở tiếng ngoại quốc và tiếng nước nhà, những người coi công việc dịch văn không phải là một công việc thêm thắt và mua vui, mà chính là một công việc quan hệ, có ích lợi lớn cho văn chương; tóm lại, những người có lòng kính trọng cái của quý báu nhất trên đời: những tư tưởng của một nhà nghệ sĩ.

THẠCH LAM

HOÀNG KIM THƯ st














Phụ Bản II

CHUYỆN TÌNH THƠ MỘNG:

LƯU TRỌNG LƯ & PHÙNG THỊ CÚC

Nhân dịp kỷ niệm 101 năm ngày sinh của Lưu Trọng Lư

Chúng ta tìm hiểu về Tiểu sử và Mối tình nên thơ của ông:

Lưu Trọng Lư là tên thật, sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912 tại Cao La Hạ, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học.

Học trường Quốc Học Huế đến năm thứ ba thì bỏ ra Hà Nội học tư, rồi bỏ đi làm thơ, làm báo, viết văn.

Chủ trương Ngân Sơn Tùng Thư tại Huế năm 1933-1934. Sau 1954, ông làm vụ trưởng Vụ Sân Khấu Bộ Văn Hóa, và là Tổng thư ký Hội Nghệ Sĩ Sân Khấu Việt Nam.

Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Tiếng Thu (1939), Người Con Gái Sông Gianh (1966), Từ Đất Này (1971), Hồng Gấm. Tuổi Hai Mươi (kịch thơ, 1973).

Mặc dù Lưu là một trong những người cổ động cho Thơ Mới ồn ào nhất, đọc thơ ông, người ta vẫn có cảm tưởng nó chẳng mới bao nhiêu. Thơ Lưu Trọng Lư vẫn là một khúc đàn xưa, giàu tình cảm lẫn nhạc điệu với những rung động chân tình, dễ gây ấn tượng trong người đọc.

Nhận xét của Hoài Thanh - Hoài Chân: "... thơ Lưu Trọng Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta".

Chuyện tình thơ mộng

giữa thi sĩ Lưu Trọng Lư với nữ sinh Phùng Thị Cúc

Cô nữ sinh Phùng Thị Cúc thời đang yêu

Trong Thi nhân Việt Nam (của Hoài Thanh, Hoài Chân), Lưu Trọng Lư được đánh giá cao với những bài thơ nổi tiếng như: Nắng mới, Tiếng thu, Thơ sầu rụng, Một mùa đông, Giang hồ, Còn chi nữa, Thú đau thương, Chiều cổ… Bài thơ “Một Mùa Đông” kể lại một câu chuyện tình thơ mộng nhưng dang dở của thi sĩ với cô gái xinh đẹp Phùng Thị Cúc.

- Phùng Thị Cúc sinh ngày 18/8/1920 tại làng Châu Ê, xã Thủy Bằng, ven đô Huế, quê nội ở xã Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Bà là con ông Phùng Duy Cẩn từng làm quan triều Nguyễn, có thời làm tham công chỉ huy việc xây lăng Khải Định. Mồ côi mẹ từ lúc 3 tuổi, bà theo cha sống ở Tây Nguyên. 6 tuổi đã theo cha sống khắp các tỉnh vùng cao nguyên trung phần ròng rã 9 năm, rồi mới về Huế học Trường Đồng Khánh.

Năm 1946, bà tốt nghiệp nha khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội khóa đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Toàn quốc kháng chiến, bà ra vùng tự do phục vụ cho cách mạng. Vì một cơn bạo bệnh, Phùng Thị Cúc được đưa sang Pháp điều trị. Tại Pháp sau khi khỏi bệnh, Phùng Thị Cúc tiếp tục theo học và tốt nghiệp bác sĩ nha khoa. Sau đó Phùng Thị Cúc đã kết hôn với bác sĩ Bửu Điềm. Tên Điềm Phùng Thị ra đời từ đó. Mãi đến năm 30 tuổi, bà mới đến với nghệ thuật điêu khắc. Vào năm 46 tuổi, bà có cuộc triển lãm đầu tiên và được công chúng Pháp chào đón nồng hậu. 36 tác phẩm điêu khắc của bà được đặt khắp lãnh thổ nước Pháp. Tên tuổi của Điềm Phùng Thị đã nổi danh khắp châu Âu. Những năm cuối đời bà quay về sống ở quê hương và đã mất ở Huế năm 2002.

Trở lại với thời điểm và nguyên cớ ra đời của bài thơ Một mùa đông .

Khi đó Cúc mới là một cô nữ sinh, từ Huế ra Hà Nội học Trường Thăng Long. Trên chuyến tàu tốc hành Huế – Hà Nội, cô được người chị là bạn của Lưu Trọng Lư gửi gắm nhà thơ trông nom giùm em gái, với lời dặn thân tình “Dọc đường giúp em một chút”.

Cúc là một cô gái Huế sang trọng, đài các, hoa khôi của Trường Đồng Khánh. Gương mặt kiều diễm với đôi mắt đẹp mang nét buồn vời vợi cùng nụ cười thiên thần có má lúm đồng tiền đã hút hồn nhà thơ đa tình của chúng ta ngay từ phút đầu gặp gỡ. Suốt chặng đường dài hai người cũng chẳng có chuyện gì nhiều để nói với nhau. Cúc im lặng ngắm cảnh dọc đường. Và nhà thơ thì lẳng lặng nhìn ngắm giai nhân.

Khi tàu về đến ga Hà Nội, nhìn thấy trên gương mặt người đẹp thoáng chút lo lắng, vì đây là lần đầu tiên cô tới Thủ đô, nhà thơ đã hỏi địa chỉ và tình nguyện đưa cô đến tận nơi. Thi sĩ đã thực hiện đúng lời bạn dặn dò và chắc hẳn đó cũng là “mệnh lệnh của trái tim” chàng.

Tìm đến đúng địa chỉ, Lưu Trọng Lư đưa Cúc lên tận căn gác nhỏ, nơi có căn phòng của những người bạn, người chị của cô đang ở. Chào hỏi, dặn dò rồi bịn rịn chia tay. Khi vừa xuống gác, ra đến đường thì tình cờ Lưu Trọng Lư gặp thi sĩ Phạm Hầu – người bạn nhỏ của nhà thơ khi đó đang học Cao Đẳng Mỹ thuật ở Hà Nội. Phạm Hầu mời Lư vào nhà chơi. Khi lên gác, bước vào một căn phòng, mở cửa sổ ra, nhà thơ giật mình khi nhìn thấy người bạn đường xinh đẹp mà mình vừa chia tay ít phút trước đây đang ở ngay bên khung cửa sổ của căn phòng đối diện. Vậy là không một chút đắn đo, Lư quay sang nói ngay với bạn: “Mình ở luôn đây với cậu được không?”. Phạm Hầu nhiệt tình vui vẻ đồng ý ngay. Lưu Trọng Lư vui sướng ngây ngất. Nhà thơ chỉ còn biết cảm ơn trời đất đã run rủi cho mình được gặp mối duyên may mắn kỳ lạ này. Suốt mùa đông năm đó, giữa cái giá lạnh của tiết trời Hà Nội nhà thơ đã được sống trong sự ấm áp dịu nhẹ của một mối tình sáng trong, thơ mộng.

Ở căn phòng bên này cô gái cũng không thể vô tình. Bởi ngay lần đầu tiên, khi nhà thơ nhìn qua cửa sổ đã bắt gặp đôi mắt Cúc mở to, sững sờ nhìn người anh “dẫn đường” rồi sau đó bối rối mỉm cười rời khỏi khung cửa. Sau này, thật lạ lùng mỗi khi nhà thơ bất thần mở cửa sổ lại nhìn thấy Cúc: khi thì đang ngồi đọc sách ôn bài, khi thì đang cắm một lọ hoa. Cũng có khi Cúc chẳng làm gì, ngồi suy tư mơ mộng. Cũng có khi nghe một tiếng ho nhẹ, nhà thơ mở hé cửa nhìn sang lại bắt gặp nụ cười bối rối, e thẹn của người đẹp. Cũng có lần khi mở cửa sổ, nàng không hề ngước lên nhìn, cho đến lúc cánh cửa như tự nó khép lại. Lại có lần không biết vì chuyện gì, Cúc ném sang bên này một cái nhìn hờn giận, trách móc khiến nhà thơ ngơ ngẩn suốt một buổi chiều.

Bài thơ lấy cảm hứng từ mối tình

Lưu Trọng Lư - Phùng Thị Cúc

Mọi việc dường như chẳng có gì khác lạ: Cửa sổ mở rồi lại đóng, đóng rồi lại mở. Thế nhưng sự trông đợi nhớ nhung đã thấm vào gan ruột từng ngày từng ngày một. Làm sao có thể nhớ hết được biết bao lần Cúc đã vào trong giấc mơ của thi sĩ đa tình, đã trở thành nguồn cảm hứng cho bài thơ Một mùa đông ra đời. Bài thơ gồm 4 đoạn kể lại một “love story” trong mộng ảo mà thấm đẫm những nỗi đau có thật.

Đôi mắt em lặng buồn

Nhìn thôi mà chẳng nói,

Tình đôi ta vời vợi

Có nói cũng không cùng.

Yêu hết một mùa đông

Không một lần đã nói,

Nhìn nhau buồn vời vợi

Có nói cũng không cùng.

Trời hết một mùa đông

Gió bên thềm thổi mãi,

Qua rồi mùa ân ái:

Đàn sếu đã sang sông.

Em ngồi trong song cửa

Anh đứng dựa tường hoa,

Nhìn nhau mà lệ ứa,

Một ngày một cách xa.

Đây là dải Ngân Hà,

Anh là chim Ô thước

Sẽ bắc cầu nguyện ước

Một đêm một lần qua.

Để mặc anh đau khổ,

Ái ân giờ tận số,

Khép chặt đôi cánh song!

Khép cả một tấm lòng!

Nhà thơ đã lý giải thật tài tình tâm trạng và nỗi lòng của mình. Có lẽ đây là đoạn thơ có những câu thơ ấn tượng hơn cả:

…Em chỉ là người em gái thôi,

Người em sầu mộng của muôn đời,

Tình em như tuyết giăng đầu núi,

Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.

Ai bảo em là giai nhân

Cho đời anh đau khổ?

Ai bảo em ngồi bên cửa sổ

Cho vướng víu nợ thi nhân?

Ai bảo em là giai nhân

Cho lệ tràn đêm xuân?

Cho tình tràn trước ngõ?

Cho mộng tràn gối chăn?

Thật thú vị khi được biết rằng trong bài thơ lãng mạn này lại chứa đựng những câu chuyện hoàn toàn có thực. Nhà thơ Lưu Trọng Lư kể rằng, sau một thời gian sống cạnh nhau, tình cảm của hai người cũng có “bước phát triển” mới. Theo sự sắp đặt của những người bạn, có lần hai người đã đi chơi chùa Thầy cùng với một nhóm bạn. Sau một hồi leo núi, nhìn chung quanh chẳng thấy ai, chàng và nàng ngượng ngập đi bên nhau. Đến trưa cả nhóm mới trở lại sân chùa cùng ăn trưa. Bữa trưa có gà quay và rượu vang Pháp. Bắt chước mọi người, Cúc cũng uống vài ly rượu nho. Đôi má ửng hồng và cặp môi nhuốm màu nho chín, rơi trên trán vài lọn tóc đen nhánh… Tất cả đã tạo thành một hình tượng nghệ thuật có sức ám ảnh lớn:

… Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm

Em vẫn đùa nô uống rượu say.

Em có biết đâu đời vắng lạnh,

Lạnh buồn như ngọn gió heo may.

Môi em đượm sặc mùi nho tươi,

Đôi má em hồng chúm nụ cười,

Đôi mắt em say màu sáng lạn,

Trán em để lỏng làn tóc rơi.

Tuy môi em uống, lòng anh say,

Lời em càng nói càng chua cay

Anh muốn van em đừng nói nữa,

Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.

Hãy xếp lại muôn vàn ân ái

Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau,

Thuyền yêu không ghé bến sầu

Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng.

Hãy như chiếc sao băng băng mãi

Để lòng buồn, buồn mãi không thôi.

Câu chuyện tình thơ mộng đã không dẫn đến một kết thúc có hậu. Họ mãi mãi là một đôi tình thân giữa một nghìn trùng xa cách. Đến năm 1975 họ mới có dịp gặp lại nhau. Cúc từ Pari về Hà Nội. Người em gái bé bỏng ngây thơ hôm nào đã là bà Điềm Phùng Thị – một điêu khắc gia nổi tiếng thế giới. Hôm đó Hội Nhà văn mở tiệc mừng các trí thức, nghệ sĩ ở nước ngoài về, trong đó có Điềm Phùng Thị và họa sĩ Mai Trung Thứ là người đã say mê vẽ bức chân dung Tôn Nữ Lệ Minh (vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư) năm 17 tuổi. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dắt tay Điềm Phùng Thị đến chỗ vợ chồng nhà thơ Lưu Trọng Lư đang ngồi và nói: “Đối mặt nhau rồi, ngâm lại bài thơ ngày xưa đi.” Tên tuổi của nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị được lưu danh trong từ điển Larousse, đó là một niềm tự hào đáng kể. Nhưng cũng là một niềm vinh hạnh lớn khi bà trở thành nhân vật chính trong một bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Lưu Trọng Lư

NGƯỜI EM SẤU MỘNG

(Nhạc sĩ Y Vân phổ nhạc bài thơ “Một mùa Đông” và lấy tên bài hát là “Người em sầu mộng”)

Em là gái bên khung cửa

Anh là mây bốn phương trời

Anh theo cánh gió chơi vơi

Em vẫn năm trong nhung lụa

ĐK: Em chỉ là em gái thôi

Người em sầu mộng muôn đời

Tình như tuyết giăng đầu núi

Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời

Ai bảo em là giai nhân

Cho đời anh đau buồn

Ai bảo em ngồi bên song

Cho vương vấn nợ thi nhân

Ai bảo em là giai nhân

Cho lệ đêm dâng tràn

Cho tình giăng đầy trước ngõ

Cho mộng tràn gối chăn.

TÓM TẮT

Lưu Trọng Lư thuộc thế hệ mở đầu của phong trào Thơ Mới . Những bài thơ mang âm hưởng trữ tình lãng mạn, thanh thoát, giàu nhạc điệu của ông, được công chúng đương thời nồng nhiệt chào đón, đã góp phần đem lại sự chiến thắng cho Thơ Mới trong buổi ban đầu.

Phùng Thị Cúc tức là Điềm Phùng Thị - là nhà điêu khắc nổi tiếng trên thế giới, được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học, văn học và nghệ thuật châu Âu. Bà được đưa vào danh sách những tài năng lớn của nghệ thuật thế kỷ XX trong từ điển Larousse.

Mối tình giữa thi sĩ Lưu Trọng Lư và cô nữ sinh Phùng thị Cúc thật là một mối tình nên thơ, trữ tình nhất và cũng xứng tầm “trai tài, gái vừa sắc lẫn tài” – dù có ngang trái, chính sự ngang trái này khiến cho cả hai tình nhân nhớ mãi không thôi, vì “Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở…” (Hồ Dzếnh)

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Tài liệu về Lưu Trọng Lư và Điềm Phùng Thị trên sách báo)

MONG

Mưa buồn đan sợi tơ mành,
Mưa rơi, rơi mãi, khóc than nhạt nhòa,
Nắng sầu, ủ rũ đâu xa,
Không về sưởi ấm cánh hoa uá màu,
Mây trời tím ngắt, chiều mau,
Nắng xa, sợi nhớ sợi nhàu vẫn đây,
Vấn vương... Xuân cũ mộng đầy,
Nhớ nhung ngày tháng sum vầy, ấm êm,
Đợi chờ, đêm mộng dài thêm
Biển mênh mông quá, cánh mềm hải âu,
Nắng ơi, Nắng hãy về mau,
Xin đừng hờ hững, tình sầu xót xa,
Cho mưa tạnh hạt, ngày qua,
Bình minh Nắng đẹp, hồn hoa thắm tình...

Phạm Thị Minh-Hưng

Em đã đi rồi

Em vắng xa rồi! Ôi, nhớ thương
Lòng tôi ngây dại mối sầu vương
Tình xưa mộng cũ đành chôn dấu
Day dứt hồn tôi nỗi đoạn trường
Em lạc bước, đường xa vạn hướng
Thênh thang lẻ bóng cõi mù sương
Mình tôi lầm lũi tình băng tuyết
Hoa cỏ úa nhàu, nhạt sắc hương...

Phạm Thị Minh-Hưng

Tiếc đời cho Ai

Đôi Mắt ấy đang rất buồn - rơi lệ,
Khi Người Yêu đã vĩnh biệt - ra đi,
Bước trần ai, chẳng vương vấn điều gì,
Sao vội vã, Người lìa xa cõi tạm.

Con đường trần - vắng bóng, biết nơi đâu,
Lá vàng thu úa rụng, khóc thương, sầu
Trăng quạnh quẽ, mây u buồn, gió thảm,
Còn gì đâu, Người về... nơi xa lắm!

Tiếc thương Người, lòng tôi buồn vô hạn,
Đời ai rồi, cũng đến thế mà thôi,
Cũng trắng tay, trong ngày cùng tháng tận,
Mặc kệ đời, rơi nước mắt tả tơi!

Phạm Thị Minh-Hưng

Xin em giữ lại

Nhà thơ không có tuổi già

Yêu trăng, yêu gió thiết tha yêu đời

Đã là thi sĩ em ơi!

Tâm hồn bay bổng không nơi bến bờ

Tình anh hoà quện vào thơ

Xin em giữ lại để chờ kiếp sau

LÊ MINH CHỬ

HUYỀN BÍ TÌNH YÊU

Em cũng như muôn vàn cô gái khác

Điều huyền bí nào làm rung động trái tim anh

Hương tình yêu như gió thoảng qua nhanh

Mà tình em đẹp trong anh mãi mãi

Nhớ thương này anh biết tỏ cùng ai?

Ở phương xa em có nhớ anh không?

Trời không mưa mà lòng nổi bão giông

Anh mơ ước ngày mai ửng ánh hồng

Mở mắt ra là được gặp em yêu

LÊ MINH CHỬ

ĐIỀU EM MUỐN NÓI

Anh như làn gió lạ

Ùa vào ôm lấy em

Cho lòng em xao xuyến

Bồn chồn đứng không yên

Anh ơi!

Em ước là cánh chim

Bay đi khắp muôn nơi

Bay theo anh suốt đời

Để được gần anh thôi

Anh ơi!

Rừng xanh tít chân trời

Sau mưa màu tươi mới

Tâm hồn em phơi phới

Em yêu anh thật rồi

Em yêu anh suốt đời

LÊ MINH CHỬ

NGUYỄN CHÍNH



Tiếng Việt Bắc Nam

Bắc bảo Kỳ, Nam kêu Cọ (gọi là Kỳ Cọ)
Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi

Ôi! Bắc quở Gầy, Nam than Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh
Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
Nam mần Sơ Sơ, Bắc làm lấy lệ
Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc Vạc tre, Bắc kê Lều chõng
Bắc nói trổng Thế Thôi, Nam bâng quơ Vậy Đó
Bắc đan cái Rọ, Nam làm giỏ Tre,
Nam không nghe Nói Dai, Bắc chẳng mê Lải Nhải
Nam Cãi bai bải, Bắc Lý Sự ào ào
Bắc vào Ô tô, Nam vô Xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng
Khi nắng Nam mở Dù, Bắc lại xoè Ô
Điên rồ Nam Đi trốn, nguy khốn Bắc Lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc Từ từ, Bắc khuyên Gượm lại
Bắc là Quá dại, Nam thì Ngu ghê

Nam Sợ Ghê, Bắc Hãi Quá
Nam thưa Tía Má, Bắc bẩm Thầy U
Nam nhủ Ưng Ghê, Bắc mê Hài Lòng
Nam chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh

Nhanh nhanh Nam bẻ Bắp, hấp tấp Bắc vặt Ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi đi! Bắc hô: cút xéo!
Bắc bảo: cứ véo! Nam: ngắt nó đi!
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn!
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác

Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay.
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó.

Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam: ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi!
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội

Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy

Bắc quậy Sướng Phê, Năm rên Đã Quá!
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng

Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa

Bắc vua Bia Bọt, Nam chúa La-De
Bắc khoe Bùi Bùi lạc rang, Nam: Thơm Thơm đậu phọng
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn

Nam toe toét «hổng chịu đèn», Bắc vặn mình «em chả»
Bắc giấm chua «cái ả», Nam bặm trợn «con kia»
Nam mỉa «tên cà chua», Bắc rủa «đồ phải gió»
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ

Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan

Bắc xuýt xoa “Cái Lan xinh cực!” ,
Nam trầm trồ “Con Lan đẹp hết chê!”
Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền

Bs. Nguyễn Lân-Đính st

Gió khuya

Ngọc lưu ly đong trên cành

Gió âm thầm khóc bên mành tương tư

Nửa linh hồn gửi biên khu

Nửa con tim khép phòng thu gió lùa

Bâng khuâng mưa khóc giao mùa

Đèn soi bóng lẻ, người chưa trở về

Mùa đau hoa lửa lập lòe

Gió cô đơn siết mặt hề bi ai

NGÀN PHƯƠNG

TẠ ƠN NGƯỜI

Xin tạ ơn bàn tay mang ánh sáng

Đã vớt ta thoát khỏi bể trầm luân

Dìu dắt ta đi trọn bước đường trần

Đủ can đảm vượt qua nghìn chướng ngại


Xin tạ ơn tia mắt nhìn êm ái

Giúp ta thêm nghị lực trước phong ba

Khi hồn ta gục ngã dưới trăng tà

Lúc tuyệt vọng quyết đi tìm cái chết


Xin tạ ơn trái tim hồng tha thiết

Tình mông mênh vời vợi khoảng trời xanh

Tình thiêng liêng ngào ngạt gió thơm lành

Cho ta thấy niềm tin và lẽ sống


Xin tạ ơn nụ cười ru diễm mộng

Có ngàn sao nạm ngọc đóa sen vàng

Tiếng chuông chùa trầm mặc xé không gian

Lời kinh nguyện đưa ta về bến giác

NGÀN PHƯƠNG

ĐÓN NHẬN TUỔI 70

Sinh nhật mừng vui Thất Thập rồi

Bảy mươi nét đẹp vẫn xinh thôi

Tuổi xuân sức khỏe còn mang đến

Dáng hạ an bình cứ tiến trôi

Bạn hữu giao lưu luôn gắn bó

Văn thơ sáng tác chẳng hề vơi

Phong lưu rất mực tăng nhân cách

Phúc hậu làm duyên thọ với đời

THANH CHÂU

Nghĩ suy

Biết điều sống phải lẽ cho đời

Lánh dữ làm lành tốt bạn ơi!

Giúp đỡ người nghèo qua khốn khổ

Cưu mang kẻ khó khỏi ly rời

Bao che lúc bệnh tình thang thuốc

Cứu hộ khi cùng nghĩa nếp xôi

Phước đức thanh cao trời đất biết

Lòng luôn thoải mái với đương thời

THANH CHÂU

Mưa Sài Gòn

Xe bon trên đường

Trời chang chang nắng

Bỗng gió bất thường

Xô cây, lá rụng.


Cơn mưa ập đến

Ào ào, ào ào

Sài Gòn mưa mau

Đến, đi chớp mắt.


Không một hối tiếc

Cũng chẳng luyến lưu

Tình như bày hươu

Vô tư uống suối


Gắp trăng tắm gội

Cũng đùa giỡn chơi

Khi thỏa thích rồi

Quên không tiếc nuối.


Xa không bịn rịn

Vắng không nhớ nhung

Chẳng là tri âm

Không là tri kỷ.


Bất chợt Sài Gòn

Giữa đường hoa mỹ

Cơn mưa tế nhị

Chảy vào trang thơ


Chỉ những hạt mưa

Đọng làn mi biếc

Hạt mưa diễm tuyệt

Rịn từ con tim.

XUÂN VÂN

TIẾNG THƠ

Tiếng thơ êm ả mênh mông

Lời thơ trang trải nỗi lòng đầy vơi

Thơ bay cao vút lưng trời

Thơ nghe ngào ngạt hương đời ngất ngây

Thơ về quyện gió cùng mây

Thơ thêm hương vị tháng ngày trong ta

Thơ mang tình nghĩa đậm đà

Thơ gieo bao nỗi thiết tha với đời

Thơ làm vui cả đất trời

Thơ xoa dịu mọi đầy vơi nỗi long

Thơ hòa gió mát trăng trong

Thơ nguồn an ủi hoài mong cuộc đời

Thơ như tiếng sáo ngàn khơi

Thơ là câu hát đẹp trời yêu thương

Thơ liền tình bạn bốn phương

Thơ ơi ta mãi vấn vương bên long

Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông

Hãy xin gởi chút hương nồng cùng thơ

XUÂN VÂN

Thơ và rượu

Rượu nồng thơ cũng nồng say

Ngỡ ngàng nhận rượu từ tay em rồi


Rượu còn nguyên chửa nhấp môi

Mà lâng lâng tưởng đang mời cạn ly


Mấy vần theo bước người đi

Để thơ và rượu luôn kề bên nhau

Tam Đảo 20.4.2012

LÊ NGUYÊN

CHỈ ƯỚC MONG ANH


Đêm thu thăm thẳm ánh sao mờ

Tiếng dế xa vời gió thoảng đưa

Thao thức, băn khoăn, lòng bứt rứt

Anh giờ không biết ngủ hay chưa?


Em biết anh nhiều nỗi xót đau

Đắng cay hằn vết trán in sâu

Trắng đêm em thức không hề ngại

Chỉ ước mong anh vợi nỗi sầu.


Bão đã tan, mưa đã tạnh rồi

Trời xanh rộng đẹp lắm anh ơi!

Đường dài gai góc không ngăn được

Bước của ta đi dựng cuộc đời

27.9.1962

VŨ ĐÌNH HUY

CRAVING ONLY FOR YOU

The unfathomably autumnal night with blurred starlight

The far away cricket chirping, flashingly carried by the wind

Restless, anxious, with an uneasy mind

I’m asking myself whether you already sleep or not yet?


I do know that you’re having a great deal of sufferings

Bitterness has left deep traces on your forehead

Without any worry I can stay up all night long

Only hoping that your melancholy might be relieved


The storm is over, the rain has stopped

So wide and beautiful is the blue sky, oh my dear!

The long and thorny way simply cannot hamper

Our footsteps on our way to build a brighter life

27.9.1962

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

GIÂY PHÚT NGỪNG BƠI


Sự thật dễ đâu chiều ý muốn

Ước mơ như thể ngược dòng trôi

Sông chảy ào ào dòng nước cuộn

Cuốn đời ta tuồn tuột về xuôi


Nếu ta giây phút bơi ngừng lại

Đích sẽ càng xa sóng xóa mờ

Dòng nước cuốn ta lùi mãi mãi

Ngàn năm mơ ước chỉ là mơ

Hà Nội 03.5.1963

VŨ ĐÌNH HUY

THE MOMENT ONE STOPS SWIMMING


Truths cannot easily pamper our desire

Dreams seem like drifting upstream

The river flows impetuously with whirling waves

Whirling our life towards the downstream.


Were we to stop swimming for a moment

Our destination will turn farther and be blurred by the waves

The water current will sweep us backwards forever

For thousands of years, all dreams are simple dreaming

Hà Nội 03.5.1963

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

TÂM HỒN

Tâm hồn người như biển bao la

Tình thương yêu như nước chan hòa

Hơi nước thành mây, mưa khắp chốn

Lại tụ về sông chảy đến ta.

Hà Nội 04.5.1963

VŨ ĐÌNH HUY

OUR SOUL

Our soul is like the immense sea

While love is like overflowing water

Water steam turns into cloud and rain everywhere

Then gather into rivers that again flow towards us.

Hà Nội 04.5.1963

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

ĐÍNH CHÍNH

Bài thơ: Gió thu gây hương nhớ (Số 86 tháng 7)

Trang 55, Đoạn 4, Câu 19: Mùa thu đến

thêm vào: Lá thu rơi

Hương thu gợi nhớ

Dáng người mình thương


Chuyện Dê !

gọi là Dương

Dê to lớn có quốc tịch Pháp gọi là Đại tây dương

Dê không thích đánh nhau gọi là Thái bình dương

Dê số nghèo không may mắn gọi là Dương cực

Lịch khoả thân gọi là Dương lịch

Hai con dê cao hứng gọi là Dương Dương tự đắc

Oai phong của dê gọi là Dương oai

Dê đi nước ngoài gọi là Xuất Dương

Cuộc đời của dê gọi là Dương thế

Dê không mặc áo gọi là Dương trần

Bạn của dê đực gọi là Dê cái

Dê cao niên gọi là Dê già

Dê già thích gái trẻ gọi là Già Dê

Đàn dê gọi là Dương cầm

Tiếng của dê gọi là Âm dương

Dê không ngay thẳng gọi là Dương gian

Dê hay nghĩ ngơi gọi là Dương suy

Dê không đàng hoàng gọi là Dê bậy

Dê nói năng tùm lum gọi là Dương sảng

Dê mạnh khoẻ gọi là Cường dương

Dê ngồi xe lăn gọi là Liệt dương

Dê biển gọi là Hải dương

Dê núi gọi là Sơn dương

Dê ở đồng bằng gọi là Bình dương

Dê rừng gọi là Dương lâm

Dê kéo xe gọi là Dương vận hạm

Dê chạy dzòng quanh mấy nàng dê cái gọi là Tuần dương hạm

Ăn thịt dê gọi là Hưởng dương

Dê đựcNam dương

Dê mắc bịnh giang mai gọi là Dương liểu

Dê… vất vảDương cực

Cơm của dê gọi là Dương châu

Dê có cha làm lớn gọi là Dương gia tướng

Dê có mắt nhỏ híu gọi là Dương hí

Dê hay đi chơi xa gọi là Du Dương

Dê chỉ có một móng ở chân gọi là Nhất Dương chỉ

Dê thái giám gọi là Thái Dương

Phở mà nấu thịt dê gọi là phở tái dê (xin đừng nói lái...)

Dê ở Thái Lan gọi là Thái Dương

Dê Thái Lan liên hệ với dê ở nơi khác gọi là Thái Dương Hệ

Ngun: Trang web Tài Ngc

Trao cái lẳng lơ

Đem cái lẳng lơ dấu chốn nào

Tìm người tâm đắc để riêng trao

Bao năm ôm ấp niềm cay đắng

Một thuở đong đưa khúc ngọt ngào

Những tưởng đau thương còn chất ngất

Nào ngờ hạnh phúc bỗng xôn xao

Từ nay trên nẻo đường rong ruổi

Cùng khách tình chung thỏa khát khao!

Thanh Phong

MỪNG EM SINH NHẬT 70

Mừng em tuổi đã bảy mươi

Mà con tim vẫn xanh tươi xuân thì

(10/11/2012)

Thanh Phong

Trở về cát bụi

Ta Cứ Tưởng Trần Gian Là Cõi Thật
Thế Cho Nên Tất Bật Ðến Bây Giờ!
Ta Cứ Ngỡ Xuống Trần Chỉ Một Chốc
Nào Ngờ Ðâu Ở Mãi Ðến Hôm Nay!

Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc ðời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay

Cuộc ðời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và ðâu biết ngày mai?
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi

Thì người ơi! Xin ðừng ganh, ðừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì ðời ta ðã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen

Ta là cát ta sẽ về với bụi
Trả trần gian những cay ðắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!

Tú Vũ st.


XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG

MỘT TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ THANH CAO

(KỲ 7)

Thêm một số bài họa cho HƯƠNG XƯA

Bài xướng:

Hương xưa

Thơm ngát tinh hoa tỏa bút đài

Đường thi muôn thuở sắc không phai

Hương xưa man mác tình tri ngộ

Bình cũ xôn xao khúc cảm hoài

Ngắm nguyệt tao nhân trầm nỗi nhớ

Trông hoa mặc khách rộn niềm say

Tri âm ai đó đồng thanh khí

Kết nghĩa thi đàn hẹn trúc mai!

THÙY DƯƠNG

Bài họa thứ 14 (*)

HƯƠNG XƯA

Hương xưa nghìn thuở ngát thi đài

Như khúc Tầm Dương mãi chẳng phai

Vần cũ nối dài tâm sự mới

Hoa xưa tỏa thắm sắc hương hoài

Gương soi thế cuộc trăng mờ tỏ

Vần họa tri âm rượu tỉnh say

Thanh khí hòa âm nâng dũng khí

Xuân đời vĩnh cửu ngát hương mai !

Nhà thơ XÍCH ĐIỂU (82t)

410 Trần Hưng Đạo, Quận 5

Bài họa thứ 15:

HƯƠNG XƯA

Vừng dương rực rỡ ánh xuân đài

Cốt cách Đường thi mãi chẳng phai

Muôn thuở tao nhân còn ngưỡng mộ

Ngàn năm mặc khách vẫn quan hoài

Đông tàn tuyết tỏa lòng thêm ấm

Xuân tới hoa khai mắt ngắm say

Thanh khí tương cầu tình đượm thắm

Tao phùng xin hẹn một ngày mai.

HỒNG VÂN NGUYỄN ĐÌNH TÙNG

32 Lý Nam Đế, Hà Nội

Thêm một số bài họa cho KẾT NGHĨA VƯỜN MAI

Bài xướng:

KẾT NGHĨA VƯỜN MAI

Duyên thơ kết nghĩa dựng Vườn Mai

Bình cũ HƯƠNG XƯA chén cảm hoài

Rượu mới xôn xao niềm khát vọng

Men nồng ấm ủ mộng tương lai

Tinh hoa nương bóng đài Văn Học

Nghệ thuật noi gương bậc thiện tài

Son sắt tơ lòng chung thắm dệt

ĐƯỜNG THI ngọc gấm mãi không phai.

THÙY DƯƠNG

Bài họa thứ 3:

KẾT NGHĨA VƯỜN MAI

Thiện duyên ai đó lập Vườn Mai

Óng ánh vàng hoe được ngắm hoài

Lều túp tương thân hồi dĩ vãng

Lâu đài hờ hững buổi tương lai

Cái thùng trống rỗng càng kêu lớn

Các bậc hiền nhân lại ẩn tài

Vun tưới Vườn Mai tươi thắm đẹp

Sắc hương muôn thuở chẳng hề phai.

Nhà thơ LÊ VĂN QUẾ (92t)

Giáo học hưu trí, Lê Văn Sỹ, P.14, Q.3

Bài họa thứ 4:

KẾT NGHĨA VƯỜN MAI

Mỗi độ xuân về muôn cánh mai

Tình xưa nghĩa cũ nhớ nhau hoài

Xuân về đổi mới đời hoa mộng

Tết đến mang theo cảnh thái lai

Thành thị vươn lên nhìn thế giới

Khắp nơi tiếp đón bậc nhân tài

Bao nhiêu xuân tết, bao thi tứ

Xuân tết cổ truyền chẳng nhạt phai.

HẢI SƠN

89, Nguyễn Thông, Q.3

(*) Theo thứ tự kể từ những bài họa trước đã đăng.

Xin xem loạt bài XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG – MỘT TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ THANH CAO kể từ kỳ 1: Bản tin nguyệt san 75; kỳ 2: Bản tin 76; kỳ 3: Bản tin 78; kỳ 4: Bản tin 81; kỳ 5: Bản tin 82; kỳ 6 : Bản tin 85.

Website: www.sachvatranh.com

Tác giả: Dương Lêh

Bà ấy vào nghề từ khi người ta bắt đầu bỏ cả vườn tược để phân lô, chia nền ra bán tại vùng đất Bồ An này. Dọc theo con đường thẳng tắp trước đây được coi như đường làng, bây giờ trải nhựa bằng phẳng, hai bên có lề xi măng. Nhiều nhà gắn bảng hiệu bán đất, bán nền… làm cho thôn xóm trở nên náo nhiệt. Trước nhiều nhà mới được sơn phết, tân trang, luôn luôn có người đứng mời gọi khách qua đường dừng lại để họ chào bán nhà đất.

Đầu tiên, thấy hàng canh bún nuôi ông chồng với hai đứa con nheo nhóc quá chật vật, bà kiêm thêm cái nghề cò nhà đất. Mỗi buổi sáng sau khi bán xong, bà dọn dẹp tất cả đồ đạc vào trong nhà, thay chiếc áo tươm tất hơn, rồi đi dài lên xóm trên nơi bà biết có mấy căn nhà đang kêu bán. Bà đứng vớ vẩn đâu đó chờ dân từ dưới Saigon lên dáo dác tìm mua nhà, mua đất, bà giới thiệu hết căn này đến căn khác. Bà đã có bước đầu tiên trong nghề cò nhà như vậy đó.

Ông chồng mới ngoài bốn chục nhưng lại thất nghiệp không còn làm ăn gì được. Nghe nói cách đây vài năm ông còn làm phu khuân vác gạo ở trên bến Bình Đông. Một ngày nọ khi đang vác một bao gạo chỉ xanh bước lên tấm ván bắc từ bờ sông lên chiếc ghe chài, sơ ý sẩy chân ngã xuống sông, bao gạo bám theo rớt xuống đè lên hai chân đang nằm im bất động ngay chỗ mớn nước, sóng rập rờn vỗ nhẹ vào bờ. Thế là bể xương mắt cá. Không biết có bể vụn vằn như thế nào mà sao khi lành, chân vẫn không trở lại bình thường. Khi đi phải chống nạng, và cây nạng này đến nay đã lên nước bóng lưỡng.

Nằm nhà, vợ nuôi không phải làm gì cả lại sinh tật uống rượu. Chiều nào cũng vậy, bà vợ dù có bận việc đến đâu cũng phải đi mua về cho ông một đĩa thịt chó, khi thì chả chìa, khi thì luộc, khi thì một tô rựa mận cho ông ăn với bún và không bao giờ quên một xị rượu đế. Ông nói: “Tôi quen rồi các ông ạ. Dù có chết đến nơi mà có đĩa thịt chó bên cạnh, tôi cứ ăn rồi ra sao thì ra”. Ông có vẻ hả hê cho rằng trước đây ông đã phải làm lụng cực nhọc để nuôi mấy cái máy nhai này, bây giờ ông sa cơ thất thế thì bà vợ ông phải lo.

Đúng là bà vợ phải lo. Bà đã phải chạy đầu này đầu nọ chèo kéo cho được khách hàng đến mua miếng đất này, căn nhà nọ để kiếm tiền cò. Gốc gác từ ngoài Bắc vô, bà cảm thấy mình có tài ăn nói, có tài thuyết phục, không như mấy bà hàng xóm người trong này, hiền lành, nhút nhát. Khách hàng vừa từ chối không hài lòng căn nhà hướng tây, là các bà hàng xóm này để cho họ bỏ đi luôn. Bà cũng tự khích lệ bản thân: “Phải cố, phải cố nói làm sao con kiến trong hang phải bò ra, phải nói làm sao cho người ta đồng ý mua căn nhà dù cho căn nhà đang ở trong tình trạng cái nóc ở dưới đất và nền lại nằm chổng lên trời, họ cũng phải đồng ý mua”.

Bà bắt chước người ta nói chuyện phong thủy. Bà mua mấy cuốn sách bán ở trước mấy cổng chùa mang về đọc. Rồi bà nghiệm ra cách giải thích. Bà nói hay đến nỗi nếu tổng kết những lời giải thích của bà thì một căn nhà dù ở hướng đông, tây, nam, bắc, hướng nào cũng tuyệt vời, cũng ăn nên làm ra, con cháu đứa nào cũng đỗ đạt thành công, bét lắm không được tại chức cũng có cái chuyên tu. Thực ra bà cũng có năng khiếu lắm. Số là bà có bà má ngày xưa thường hay đến những đền, chùa làm lễ, lên đồng lên bóng, rồi bà cụ truyền cho con gái cái khả năng ăn nói như các bà bóng trên đền hay các sư cụ trong chùa. Người con gái không ngần ngại chuyển những điều giáo huấn của bà mẹ thành chiến thuật trong công tác gọi là pi-a (PR) để chiêu dụ khách hàng.

Rồi bà bắt đầu thăng tiến. Bà dẹp cái hàng canh bún, tậu một xe máy chạy đầu này, đầu nọ giới thiệu cho khách từ những nhà mặt tiền, đến những miếng đất tận cùng con hẻm đều được khách mua nhanh chóng. Giấy tờ mua bán bà bao luôn, khách không phải làm gì cả ngoài công việc ra ngân hàng chuyển tiền cho người chủ nhà hay chủ đất. Bà bỗng dưng nổi tiếng là một cò nhà có uy tín. Khách hàng từ chín phương, mười hướng, tận chân trời, góc biển đều tìm đến bà. Thế rồi bà cứ thế mà phất lên, phất lên…

***

Nhà bà ấy nằm ngay ở một ngã ba đường, có lợi thế hai mặt tiền, nhưng bà chỉ cho cửa chính trổ về hướng đông, hướng mặt trời mọc, với bốn tấm sàn chồng lên cao nghều nghệu, có mái nhọn hình nón úp theo kiểu lâu đài, đây là thời trang xây nhà của các đại gia. Phía sau cổng chính là khoảng sân rộng có mái che dùng làm “ga-ra” cho chiếc xe con Camry mà bà thường gọi là chiếc Cam ly. Bà là một đại gia ở khu này mới giàu lên khoảng mười năm nay. Hai đứa con, một trai, một gái, đi học ở Sing về. Đứa con gái lớn đã lấy chồng, có con, đang giúp mẹ phụ trách vấn đề kinh doanh của một công ty địa ốc. Bà cũng thường xuyên có mặt ở công ty để chỉ đạo công việc. Tối nào bà cũng có tiệc tùng với những đại gia đồng nghiệp và các quan chức mà bà thường xuyên giao dịch. Bà vẫn còn ông chồng còn phải chống nạng đi lại trong nhà. Ông này bây giờ yếu rồi, bà xếp cho ông ở một căn phòng trên lầu phía sau, có con ở hầu hạ. Ông vẫn thường sai nó đi mua thịt chó về cho ông nhậu, nhưng bây giờ ông uống rượu tây, nó “êm” hơn, nhưng không làm giảm độ khoái khẩu của thịt chó. Ông cứ lẩn quẩn ở cái phòng phía sau này, ăn xong lại lăn ra ngủ. Ông cũng có một TV riêng để xem bóng đá và một máy nghe nhạc dĩa. Ông nhờ con ở mua dĩa của mấy đứa bán dạo bằng xe ba gác có loa phát thanh làm ồn ào cả khu phố.

Gần đây ở cái thành phố Saigon này phát sinh nhiều kiểu bán hàng rong mới. Những món hàng mà cách đây hai ba chục năm chưa hề có. Ví dụ như dĩa hát. Hồi xưa mặt hàng này thường được bán trang trọng trong tiệm sách đặt riêng biệt tại một quầy trang trí đẹp mắt trong những gian hàng ở thương xá Tax hay Eden. Người bán thường là những cô thiếu nữ xinh đẹp trong tà áo dài thướt tha, người thì mang màu thiên thanh, người thì e ấp dưới màu hồng phấn. Hồi còn trẻ tôi có quen một cô bán dĩa hát trong thương xá Tax. Cô này, gốc ở Marie Curie và đang học ở Văn Khoa, hiểu biết rất nhiều về những ca sĩ Pháp, Mỹ và những ban nhạc của hai quốc gia hàng đầu này thời đó. Tôi thường ra gian hàng của cô để mua dĩa hát và cũng để la cà nói chuyện trên trời dưới đất với cô. Thỉnh thoảng tôi mua vài xâu chuỗi hàng mỹ nghệ làm bằng các loại vỏ nghêu sò ốc hến từ Nha Trang mang về làm quà cống hỉ. Cô tỏ vẻ thích thú và cho biết cô sẽ treo lên tường trong phòng rất đẹp, chứ không mang vào cổ sợ bị “quê”. Tôi cũng thấy đúng như vậy.

Bây giờ dĩa hát được chất đống trên xe đẩy có loa phát ra những giọng ca truyền cảm của những ca sĩ có tên trong đống dĩa nhạc đó. Những loại hàng rong mới du nhập này còn có “keo diệt chuột”. Người ta cho thu băng bài quảng cáo về loại keo này, rồi phát ròng rã suốt lộ trình. Ban đầu bài quảng cáo được phát bằng giọng miền Bắc, nhiều người trong Saigon này không hiểu. Có lẽ nhà phân phối biết được nên đã thay đổi cho phát thanh bằng giọng miền Nam. Hàng rong lưu động bằng xe đạp còn có “bánh giò, bánh giò nóng đây” cũng được phát bằng loa. Những cái loa hàng rong này cộng với những cái loa lớn có công suất cao đặt trước những cửa hàng quần áo thời trang, cửa hàng vật dụng thể thao, phát ra tiếng nhạc đinh tai nhức óc, biến Saigon thành một cái chợ âm thanh vĩ đại. Hình như là ở những nơi sản xuất ra các loại âm thanh ồn ào nhức óc đó người ta không có khái niệm về ô nhiễm tiếng ồn.

Saigon hồi xưa tới giờ nổi tiếng với những khu ăn chơi. Những nhà hàng sang trọng, những nhà hàng có khiêu vũ ở những khách sạn 5 sao, nơi mà những đại gia thường tụ tập ăn chơi, vi vút tiêu tiền không cần suy nghĩ. Bà giám đốc công ty nhà cửa mà tiền thân là một bà bán canh bún cũng ở trong hàng các đại gia đó, nhưng bà đi theo cánh các “lây-đi”. Các bà thỉnh thoảng mới nhập chung với quý ông ở những độ lớn khi có một đại gia nào đó trúng một quả thầu xây dựng công trình. Ngoài ra, các bà đi chơi riêng. Thế giới của các bà là những party sang trọng, mang tính cách tây phương, do một bà trong nhóm tổ chức, và luân phiên hàng tuần thay đổi người cầm chịch. Mỗi lần họp mặt như vậy chừng năm sáu bà, hầu hết các bà đều rảnh rang không phải lo chuyện chồng con. Có bà ly dị, có bà vẫn đang có chồng nhưng ông chồng lại đi theo bà hai, có bà, chồng công tác dài hạn ở nước ngoài, có bà đang còn ông chồng nhưng “bất khiển dụng” như cái bà giám đốc “canh bún” này đây… Nhóm đàn ông bắt cặp đi chung với các bà ở đây không phải là những đại gia trong giới kinh doanh mà là những thanh niên còn trẻ trung khoảng hai lăm, ba mươi tuổi. Mấy anh chàng nheo nhẻo này thường xuất thân từ những lò dạy khiêu vũ, sau khi “tốt nghiệp”, các chàng đến những tụ điểm khiêu vũ để tìm những bà đến chơi mà không có đàn ông đi theo, họ mời mọc các bà để dìu các bà nhảy theo điệu nhạc. Dĩ nhiên các bà cũng thích lắm vì được các cậu trẻ nhảy giỏi, dìu đúng theo bài bản đã học thì còn gì bằng. Đến cuối giờ các cậu em được các bà “bo” hậu hĩnh. Lâu dần, mỗi bà khi đến một tụ điểm khiêu vũ đều có một cậu em “ruột” của mình ra dìu nhảy. Rồi tình cảm phát sinh, các chàng trai trẻ trung đầy sức sống này không bao lâu sau biến thành “người tình tuyệt vời” của các bà. Đến đây thì “hồn ai nấy giữ”. Bà nào cũng có người tình riêng cho mình rồi thì tự do tạo hoàn cảnh để đến với nhau một cách riêng tư như đi du lịch xa, đến những danh lam thắng cảnh như Huế, Đà Nẵng, Nha Trang vv... giống như những cặp vợ chồng mới cưới đi hưởng tuần trăng mật, theo kiểu nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng của Mỹ Liz Taylor lúc đó đã 60 tuổi lấy ông chồng Larry Fortensky mới 29 tuổi cũng “mát trời ông Địa” như thường.

***

Một ngày nọ, người ta đột nhiên nhìn thấy trước nhà bà giám đốc “canh bún” có treo một tấm bảng “nhà bán chính chủ, liên hệ Cô... đtdđ: 090…”. Có người nhìn qua khe cổng chính không còn thấy chiếc xe “Cam Ly” đâu cả. “Ông già chống gậy” ở ngoài sau cũng biến mất tự bao giờ. Chừng nửa tháng sau có người dẫn đến một toán công nhân và chở lại các loại vật liệu xây dựng như cát, xi măng, sắt… đến sửa chữa căn nhà.

Một ông già đang ngồi uống cà phê ở quán gần đó thấy vậy chỉ tay vào tờ báo: “người ta nói gần hai tháng nay đây nè, nhà đất đóng băng…”. Một anh bạn trẻ ngồi bên cạnh chêm vào: “Chung cư cũng đóng… tuyết nữa bác ạ”.

Dương Lêh

Phụ Bản III

GIỜ VIỆT NAM

QUA CÁC GIAI ĐOẠN

DUY THỨC

Như ta biết, ở Việt Nam cũng như một số nước châu Á (Trung quốc, Nhật Bản…) người ta dùng cả hai thứ lịch tính ngày tháng trong năm.

DƯƠNG LỊCH VÀ ÂM LỊCH

Dương lịch, còn gọi là Tây lịch Grégoire, được truyền sang Việt Nam vào thời các cố đạo Thiên Chúa phương Tây đến truyền giáo và chính thức trên giấy tờ từ lúc Pháp đặt nền cai trị.

Âm lịch, còn gọi là lịch ta (nông lịch), nhà Minh Trung Hoa theo chân sự đô hộ lâu đời của Trung Hoa đã du nhập sớm vào nước ta từ trước. Các vương triều đều dùng lịch này để ghi sử, chiếu chỉ, bản văn… Đến nay ta vẫn còn dùng trong các đền, chùa (rằm/mồng một = sóc/vọng) các dịp lễ quan, hôn, tang tế, trên các lá số tử vi và nhất là để ăn tết.

Ta biết dương lịch tính theo sự vận hành của quả đất quay quanh mặt trời, thành năm, chia mùa, tháng. Năm gồm 365 ngày 2422 (hay gần ¼ ngày). Mỗi tháng có 30 – 31 ngày. Riêng tháng 2 chỉ 28 ngày. Với số dư gần ¼ ngày, cứ 4 năm (gồm những năm chia chẵn cho 4) tháng 2 có 29 ngày. Với số thiếu của gần ¼ ngày (hay 0,0078 ngày) trong 1 năm, lâu năm tích tụ lại trở thành một số lớn bằng 1 ngày. Do đó trong 400 năm, như nói ở trên, sẽ có 100 ngày nhuận 29/2, nhưng chính xác chỉ có 97 ngày nhuận thôi. Vì vậy những năm có hai số 0 sau cùng (1800-1900…) sẽ không có ngày nhuận trong tháng 2. Với cách tính đó, sau 400 năm chỉ sai 0,0003 ngày hay 25 giây 9 sao.

Âm lịch thì tính theo sự chuyển động của mặt trăng. Một chu kỳ trăng tròn, trăng khuyết tính 1 tháng gồm 29 ngày 13 giờ. Có thể đây là cách tính của nhân loại vào thuở sơ khai. Mỗi tháng có 29-30 ngày (tháng thiếu, tháng đủ) và một năm chỉ có 354 ngày.

Người Trung quốc xưa gọi đó là Hoa lịch hay vạn niên lịch. Việt Nam gọi là hiệp kỷ lịch. Theo ý kiến học giả Đào Trinh Nhất thì phải gọi đây là âm dương hiệp lịch. Bởi âm lịch (lịch ta) không chỉ theo tuần trăng (âm) mà còn căn cứ vào sự vận chuyển của mặt trời (dương) mà lập thành. Do đó, cứ 3 năm, có 1 tháng nhuận để phù hợp với lần quay của quả đất quanh mặt trời. Chúng ta còn thấy rõ trong 24 tiết của lịch ta như thanh minh, đại hàn, xuân phân, đông chí… đều trùng hợp với ngày dương lịch mỗi năm (thanh minh thường là ngày 5/4 dương lịch, hạ chí 21/6, thu phân 23/9, đông chí 22/12 dương lịch…).

Năm 1994 (Giáp Tuất) lập xuân vào ngày 24/2 (24 chạp âm), thanh minh 5/4 (25/2 âm).

Năm nay, 1995 (Ất Hợi) lập xuân ngày…, thanh minh ngày…

Hai thứ lịch trên, có nhiều điều chưa hợp lý.

Như lịch ta (nông lịch) có số ngày ít, phải thêm 1 tháng nhuận trong 3 năm, thời tiết sai lệch bởi đã nhuận hay chưa nhuận.

Lịch Tây có những bất tiện sau:

a) Mỗi tháng có số ngày chênh lệch nhiều (từ 28 đến 31 ngày).

b) Số ngày trong 4 tam cá nguyệt không bằng nhau, lục cá nguyệt cũng thế.

c) Mỗi tháng có 4 hoặc 5 chủ nhật.

d) Mỗi năm bắt đầu vào một ngày khác nhau của tuần lễ.

Vì thế, Liên hiệp quốc đã thành lập một ủy ban nghiên cứu về lịch, do bà Elizabeth Achotis làm chủ tích. Đã có hơn 500 dự án cải cách lịch. Ủy ban đã cứu xét và chấp nhận một mẫu lịch gọi là Tứ quý bình phân, có nghĩa là 4 quý bằng nhau về số ngày.

Lịch này, đại khái mỗi năm vẫn chia làm 12 tháng, 4 quý, 365 ngày. Mỗi quý 3 tháng gồm 91 ngày bằng nhau: tháng đầu quý có 31 ngày, hai tháng sau 30 ngày. Do đó, mỗi lục cá nguyệt có số ngày bằng nhau.

Đặc biệt ngày đầu mỗi quý (tháng 1, 4, 7, 10) đều là ngày chủ nhật. Vì vậy ngày đầu năm đúng vào ngày chủ nhật.

Mỗi quý có 13 tuần lễ. cứ cuối năm sẽ có 1 ngày đặc biệt lấy tên là “Ngày W”, xem như ngày giao thừa để chuẩn bị năm mới, ăn tết. Những năm nhuận (4 năm/ lần) gồm 366 ngày, thêm vào 1 “ngày W” nữa vào cuối tháng 6. Những ngày này không mang thứ của tuần lễ. Dùng lịch này sẽ tiện lợi là năm nào cũng sẽ giống nhau, không khác nhau ngày, thứ, tháng, quý…

Nhưng dự án này, có lẽ gặp khó khăn nên chưa đưa ra áp dụng chung cho thế giới.

MÙA XUÂN ĐẾN TỪ LÚC NÀO? NÊN CÚNG RƯỚC GIAO THỪA VÀO GIỜ NÀO?

Có người cho rằng, khi đến ngày lập xuân đã bước vào mùa xuân rồi. Ngày lập xuân thỉnh thoảng có rơi đúng vào ngày mồng một tết của ta, nhưng phần nhiều là trước hoặc sau tết Nguyên đán một số ít ngày. Ta thấy trong cả thế kỷ XX, chỉ có hai lần lập xuân đúng vào ngày tết ta như:

· Tết nguyên đán năm Quý Mùi 4/2/43 = mồng 1 tết (lập xuân).

· Tết nguyên đán năm Nhâm Thân 4/2/92 = mồng 1 tết (lập xuân).

Ta thấy nhiếu tết cách trước hoặc sau tiết lập xuân một số ngày, như:

· Tết Nguyên đán năm 1993 (Quý Dậu) 23/1/93 - lập xuân ngày 4/2/93 (nhằm 13/1 Quý Dậu).

· Tết Nguyên đán năm 1994 (Giáp Tuất) 10/2/94 - lập xuân ngày 4/2/94 (nhằm 24/12 Quý Dậu).

· Tết Nguyên đán năm 1995 (Ất Hợi) 31/1/95 - lập xuân ngày …2/95 (nhằm …).

Người ta đề nghị nên lấy ngày lập xuân của trời đất làm ngày tết của con người để Thiên – Địa – Nhân hòa hợp. Ta biết nhiều nước trên thế giới, kể cả nước bạn láng giềng Campuchia, Lào đều ăn tết vào những ngày khác với ta và Tây. Thậm chí dân tộc Chăm trong nước ta cũng có 2 tết khác nhau giữa người Chăm Hồi giáo và Chăm Bà Ni.

Cũng đã có người đưa ý kiến là thường người ta đón giao thừa vào lúc 24 giờ (0 giờ hay 12 giờ đêm) là chưa đúng với sự vận chuyển âm dương của giờ khắc đêm hết sang ngày mới, và đề nghị nên đón giao thừa (giao = trao đổi, thừa = tiếp nối) vào đầu giờ Tý tức vào lúc 23 giờ đêm trừ tịch. Giờ Tý là đầu 12 chi và là giờ đầu của một ngày mới (Nguyên đán).

GIỜ KHẮC VIỆT NAM QUA NHIỀU BIẾN ĐỔI

Chúng ta biết từ lâu, giờ được quốc tế thừa nhận dựa theo kinh tuyến 0 làm múi giờ (thời đạo) khởi điểm là GMT (Greenwich mean time = giờ quốc tế = giờ lấy kinh tuyến chạy ngang qua thành phố Greenwich nước Anh làm gốc). Quả đất dựa theo kinh tuyến, được chia làm 24 múi giờ.

Ở Việt Nam, múi giờ quốc tế GMT+7. Với những chiếc đồng hồ do người phương Tây du nhập vào Việt Nam thế kỷ trước, đều theo cách tính ấy. Khi đồng hồ chỉ 7 giờ là ở ta mặt trời đã mọc lên 1 sào (theo cách nói của người xưa).

Thời thuộc Pháp, nước ta vẫn giữ giờ quốc tế ấy (GMT+7). Bấy giờ mặt trời vừa mọc tại Việt Nam, quãng 6 giờ sáng. Khi Nhật xâm lược Đông Dương, bắt đầu có sự thay đổi 1 rồi 2 giờ trong ngày:

1. Kể từ khuya 31/12/1942 rạng 1/1/1943, giờ Việt Nam (đã dùng từ thời thuộc Pháp = GMT+7) phải kéo đồng hồ lên thêm 1 giờ. Vậy là GMT+8. Mặt trời vừa mọc đã là 7g. Giờ ngọ (đứng bóng) không còn là 11 giờ đến 13 giờ nữa, mà là từ 12 giờ đến 14 giờ.

2. Kể từ khuya 31/3/1945, rạng 1/4/1945, lại tăng thêm 1 giờ nữa, tức: GMT+9. Mặt trời vừa mọc đã là 8 giờ, giờ ngọ từ 13 đến 15 giờ.

Người ta biết Nhật cưỡng ép tăng 2 lần 2 giờ để phù hợp với múi giờ của nước Nhật (GMT+9), quan lính Nhật sang Đông Dương khỏi phải điều chỉnh đồng hồ đang dùng.

3. Kể từ 19/8/1945, giờ Việt Nam trở lại như cũ (GMT+7).

4. Ở miền Nam Việt Nam, khi quân Mỹ đổ sang, kể từ khuya 31/12/1959, rạng 1/1/1960, giờ của miền Nam Việt Nam bị kéo lên thêm 1 giờ. Tức GMT+8. Mặt trời vừa lên đã là 7 giờ sáng. Giờ ngọ là 12 đến 14 giờ.

Mỹ làm thế là để phù hợp với cái đồng hồ chỉ giờ (gồm 12 số) tại nước Mỹ, cách Việt Nam 11 múi giờ. Khi được kéo thêm 1 giờ thì đồng hồ ta chỉ 8 giờ thì ở Mỹ là 20 giờ, kim trên mặt đồng hồ ở Washington chỉ số 8. Tức ở miền Nam Việt Nam 8 giờ sáng (đã kéo thêm 1 giờ) là 8 giờ tối của thủ đô Mỹ.

5. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ 1/5/1975 giờ Việt Nam (Đông Dương) trở lại đúng GMT+7 (ngày 13/6/1975, có thông báo của Nhà nước thống nhất cả nước dùng giờ Đông Dương theo múi giờ GMT+7; nhưng nhân dân đã thay đổi giờ ngay sau ngày giải phóng).

Người xưa, trên văn bản cũng như bói toán, chia ngày đêm làm 12 giờ dựa theo thập nhị chi (12 con giáp) có tương ứng với giờ GMT+7 bắt đầu một ngày mới như sau:

Giờ Tý = 23 giờ (+ tíc tắc) đến 1 giờ.

Giờ Sửu = 1 giờ (+ tíc tắc) đến 3 giờ.

Giờ Dần = 3 giờ (+ tíc tắc) đến 5 giờ.

Giờ Mẹo = 5 giờ (+ tíc tắc) đến 7 giờ.

Giờ Thìn = 7 giờ (+ tíc tắc) đến 9 giờ.

Giờ Tỵ = 9 giờ (+ tíc tắc) đến 11 giờ.

Giờ Ngọ = 11 giờ (+ tíc tắc) đến 13 giờ.

Giờ Mùi = 13 giờ (+ tíc tắc) đến 15 giờ.

Giờ Thân = 15 giờ (+ tíc tắc) đến 17 giờ.

Giờ Dậu = 17 giờ (+ tíc tắc) đến 19 giờ.

Giờ Tuất = 19 giờ (+ tíc tắc) đến 21 giờ.

Giờ Hợi = 21 giờ (+ tíc tắc) đến 23 giờ.

Như thế, một người ra đời vào khoảng 1/4/1945 đến 19/8/1945 vào lúc 12 giờ trưa theo giấy khai sinh đã ghi sẽ không phải thuộc giữa giờ ngọ như hiện nay, mà muốn lấy số tử vi cho đúng phải kể là giờ tỵ (9 giờ - 11 giờ chớ không phải 12 đến 14 giờ).

ĐỖ THIÊN THƯ st.

MỘT TRUYỆN TÌNH ĐƯỢC VIẾT 75 NĂM TRƯỚC

CHUNG TÌNH

Hoa Mộng

Đã nữa tháng nay Minh Nguyệt nghiễm nhiên là vợ Chánh Tâm, người mà bấy lâu nàng ao ước, khát khao để có ngày được diễm phúc dâng hiến trái tim non nớt và mối tình trong sạch chẳng chút vẫn đục trong tâm hồn, vì nàng cảm thấy Chánh Tâm là người có đủ tài năng trí đức có thể bảo thũ cho nàng và gây cho nàng mối tình nồng nàn, khắng khít.

Nàng sung sướng hớn hở như con chim đã thoát khỏi cái lồng giam hảm chật hẹp, nay được tự do nhẩy nhót trong vườn hoa xuân để tìm sinh thú trong buổi chiều xuân đầm ấm.

Nét mặt nàng lúc nào cũng vui vẻ tươi cười như muốn tỏ cho ta biết để trầm trồ khen ngợi và ca tụng nàng đã được toại lòng mong ước, vì nàng đã hoàn toàn là vợ chính thức của Chánh Tâm, người mà nàng đã yêu, đã đặt lên trên tất cả mọi cái yêu quý giá trong đời.

Nàng yêu chồng một cách nồng nàn đắm đuối; nàng chẳng muốn xa chồng trong một giây một phút, nàng luôn luôn muốn sống bên cạnh chồng để âu yếm thiết tha, chỉ trừ những buổi đi làm bó buộc để mưu cầu sự sống cần thiết nhưng trong những giờ khắc ấy không khi nào nàng quên được cái diện mạo khôi ngô, tuấn tú của chồng, lúc nào cũng phảng phất trong màng óc, lúc nào cũng ẩn hiện trong nhản quang nàng, rồi mơ màng tới cái phúc êm đềm đầy lạc thú nàng hồi tưỡng đến những nỗi sung sướng khi chồng nàng ngồi bên cạnh nàng âu yếm vuốt ve mái tóc mai và thỏ thẻ bên tai nàng những tiếng yêu đương ân ái, thánh thót như tiếng chim hót trong buổi chiều xuân, rồi chồng nàng dịu dàng ôm nàng vào lòng, ghé miệng đặt lên đôi môi đõ thắm của nàng những cái hôn nồng nàn say đắm sau những nụ cười duyên tươi tắn như bông hồng hàm tiếu trong buổi sáng tinh sương.

Cho hay đó là cái bãn-tánh thiêng liêng của cặp vợ chồng mới cưới, là nền tảng của ái tình chân thật.

Hôm nay cũng như mọi hôm, đúng sáu giờ rưởi nàng đả lệ-khệ đặt lên bàn một mâm cơm đầy nhửng món ăn ngon lànhnóng sốt khói bay nghi ngút sực nức mùi thơm mà nàng đã cặm cụi nấu nướng từ lúc chồng nàng mới bước chân đi làm. Nàng hy vọng chờ chồng về, nàng đã sắp đặt trong trí những câu chào hỏi ân cần đễ an ủi để làm cho chồng quên những sự nhọc nhằn trong những giờ làm việc; mệt mới với nhửng toán cộng dài hằng trăm con số làm cho điên đầu mỏi óc; nàng sẽ dâng cho chồng những món ăn mỹ vị tự tay nàng cẩn thận trông coi để tỏ cho chồng biết là người nội trợ đảm đang, người vợ đoan chính và phục tòng.

Yên lặng… nàng trầm ngâm nghĩ ngợi, bổng chuông đồng hồ dè dặt điểm bẫy tiếng như xua đuỗi cái ý nghỉ vẩn vơ trong trí, chăm chú ngó mông ra ngoài, nàng lẩm bẩm nói:

- Quái, mọi hôm bẩy giờ thiếu mười lăm đả về, còn hôm nay, đúng bẩy giờ rồi củng chưa thấy bóng, hay là anh em bạn rũ đi chơi rồi!

Đó là những lời phỏng đoán, song nàng vẩn tin chắc rằng chồng nàng chẳng khi nào thất tín với nàng chẳng đễ cho nàng phãi hoài mong, vì xưa nay có đi chơi đâu củng cho nàng biết trước.

Bổng vụt một ý nghĩ như luồng điện nẩy trong óc, một chứng cớ chắc chắn phá tan lòng ngờ vực.

À phải hôm nay thứ sáu kỳ máy bay chạy chàng còn phãi ở lại đánh thơ, lần trước củng vậy chàng đã dặn ta rồi.

Sau tiếng thở dài chán nãn, thất vọng nàng ngồi thừ ra yên trí đợi chờ rồi trái tim cũa nàng đường như cùng với quã lắc đồng hồ đập theo một dịp đễ đếm từng giây, từng phút chớ nàng có biết đâu Chánh-Tâm, chồng nàng sau một hồi điêu đứng với kiếp nhân sanh, cay đắng cho cái xã hội vô cùng độc ác đang tâm, cướp hết cả hạnh phúc của đời chàng. Chàng đành nuốt lệ khóc thầm, chôn sâu những ngày vui xưa vào trong cõi lòng u-uất, lìa cái gia-đình mới đắp đầy hoa-mộng như cái tổ êm-ấm của uyên ương.

Chàng đi… đi không hòng trở lại, đi dấn thân vào con đường chông gai gió bụi, ra nơi góc biển chân trời, sống trong những ngày đòi đoạn với mối sầu tình mênh mông tràn ngập cã cỏi lòng và lưu lại cho nàng cái kỹ niệm thê lương thãm khốc bằng một bức thơ vỉnh quyết, mà bức thơ ấy sẽ giết nàng.

Yên trí chờ đợi, rồi một định kiến sáng suốt sóa hẵn thì giờ chán nản, nàng vội vàng kéo ngăn bàn lấy những bức thơ mà chồng nàng đã gỡi cho nàng hồi chưa cưới, hồi còn là cặp tình nhân để ôn lại cái kỷ niệm êm đềm trong thời kỳ quá vãng.

Chưa kịp lấy những bức thơ kia, thì dưới mắt nàng đã hiện ra một mảnh giấy gấp tư ngoài đề “Em Minh-Nguyệt” mà nàng đã nhận ngay được là nét chữ của chồng nàng.

Hốt-hoảng nàng đoán sẻ có sự chẳng lành sẫy tới; vội vàng nàng giỡ thơ ra, dài hai trang đầy kín chữ nhòe nhoẹt như khoáng nước mà nàng phải trố mắt ra nhận từng nét mới đọc được.

Em Minh-Nguyệt

“Em ơi! Lần cuối cùng anh xin em tha thứ, vì anh chẳng giử tròn bổn phận đối với em. Anh xin em đừng vội trách anh là người bội bạc nhẩn tâm bỏ em bơ vơ trong cỏi tạm nầy với tấm lòng đau khổ. Không đâu, chỉ vì anh quá thương em anh chẳng muốn cho em cùng chung số phận với anh phải chịu điều cực khỗ. Anh không muốn tấm linh hồn trẻ trung đầy hy vọng của em phải đầy ải vào nhửng ngày tối tâm, nhửng ngày mưa gió âm thầm với lòng ích kỷ của anh, nên anh phải chết, chết đi để mong cho em sẻ cùng ai gây nên cuộc đời mới có nhửng ngày vui đầy đủ cho khỏi phụ với tuổi xuân”.

“Than ôi! Anh có ngờ đâu xả hội khinh bỉ anh, hân hủi anh, tàn nhẩn phá hoại cái đời hạnh phúc của anh dưới lòng ích kỷ của mọi người”.

“Em ơi! Sau khi cưới em về được mấy hôm anh bị chủ hảng bất lương ỷ quyền áp chế đè nén anh nhiều đều cực khổ rồi sa thải anh một cách rất bất công, bất chính. Anh gượng sầu làm vui không dám ngỏ cho em biết sợ em buồn. Anh vẩn hai buổi đi làm, nhưng thực ra em ơi! trong nhửng ngày ấy, anh đi lang thang cùng đường cùng phố, hết chỗ nầy sang chỗ khác với mảnh đơn xin việc làm mới hòng chuộc lại được nhửng ngày vui xưa. Nhưng ngao ngán thay cho cái đời ô trọc, cho xả hội hiện thời đối với anh ơ thờ lảnh đạm, mạt sát anh, coi anh như người không tên không tuổi trong sổ đoạn trường. Chẳng còn đủ nghị lực dằn sự căm hờn tủi nhục ấy nên anh nhờ giòng nước vô tình lôi cuốn anh về cỏi chết lạnh lùng thảm khốc, để kết liểu một đời thanh xuân vô vị!”.

Đọc đến đây nàng cãm động, những giọt nước mắt long lanh từ từ rơi xuống cặp má đào. Một giây lâu, nàng lau nước mắt rồi cố hết sức định thần đọc tiếp:

“Thôi thế là từ đây anh chẳng còn là người chồng yêu quý của em nữa, em chẳng còn thấy bóng anh lẫn quất trong cỏi trần hoàn, linh hồn anh đã bay theo ngọn gió, lơ lững trong đám mây, khói tỏa mịt mù trong cỏi thâm u. Thân thễ anh đã chôn sâu vào trong bụng cá hoặc đã chìm xuống vực sâu thăm thẳm, lăn lộn trên đất cát, bùn lầy giữa biễn minh mông”.

“Than ôi! Từ nay ngàn trùng ly biệt âm dương hai ngã chia lìa, vợ chồng ta có gặp nhau họa chăng trong kiếp tái sanh”.

“Em ơi! Trước khi ngắt lời vĩnh biệt anh xin chúc cho em ở lại dương trần được mọi điều như ý nguyện, còn anh sau khi chết linh hồn anh sẽ vấn vương bên mình em để phù hộ cho em hằng ngày…”

Thôi chào em ở lại

Chồng yêu quý của em

Tuyệt bút

CHÁNH-TÂM

Đến đây như một luồng điện rất mạnh thâu hút thân thể nàng. Chân tay rụng rời người lạnh toát như nước đá, hai hàm răng nghiến lại chỉ còn rít lên được mấy tiếng: Ối trời ơi! Chồng tôi…! Rồi nghẹn ngào uất ức như bít lấy hơi thở, nàng ngất đi như người đã chết. Sau dần dần hai giòng suối lệ trào ra đầm đìa thành vũng nước trên ván nàng nằm. Tỉnh say, say tỉnh rồi nàng than khóc kêu gào thảm thiết như để trút bớt nỗi bi thương chất chứa trong lòng.

Ôi trời ơi! Chánh Tâm chàng ơi! Cơ cực cho em biết chừng nào. Em có ngờ đâu nữa đường đứt gánh, rồi đây thân em biết nương tựa vào nơi ai. Chàng ơi! Thân em từ đây khác nào như con nhạn lẻ bầy bơ vơ khóc bạn khắp phương trời, thân em khác nào như chiếc thuyền không lái, linh đinh giữa nơi bến khổ, sông mê còn biết đâu là bờ là bến – Ôi chàng ơi! Em quyết chết để theo chàng…

Nàng lại lịm đi, chỉ còn nghe thấy những tiếng nấc uất ức từ trong cổ họng đưa ra.

Rồi cơm chẳng ăn, nước chẳng uống nàng cứ kêu gào than khóc hết ngày ấy sang đêm khác, khóc cho tới khi nước mắt đã cạn, trái tim khô héo vì thỗn thức; rồi buồng phổi mệt nhọc dần dần hắt ra hơi thở cuối cùng sau mấy tiếng kêu kiệt lực.

Một làn tử khí lạnh lẻo từ từ bao phủ cả căn phòng trống trải. Ánh sáng lù mù của ngọn đèn hoa kỳ khi tỏ khi mờ, chập chờn như con ma đói thèm thuồng đang rình cái thây chết…

Tiếng cú gọi hồn, giọng gà eo óc vẵng đưa ra trong rừng thẵm; ngoài biển cả sóng vỗ ầm ỳ thêm gợi mối đau lòng người lữ thứ…

Rồi ba năm qua, đêm ấy một đêm mây mù sương phủ, một đêm giá rét lạnh lùng, giữa bầu trời ảm đạm, ngoài bải tha ma im lìm ghê rợn. Tiếng côn trùng rên rỉ đó đây hòa với tiếng lá cây lào xào trước gió khác nào như tiếng khóc âm thầm của hồn oan vất vưởng không người thờ cúng. Xa trông một bóng đen lù lù sụp bên ngôi mộ, sụt sùi khấn vái như thương tiếc, như van lơn xin thứ tội.

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st

CHA SỞ CỦA GIÁO XỨ CƯ NHÀN

LE CURÉ DE CUCUGNAN

của ALPHONSE DAUDET

Thầy tu Martin là cha sở của giáo xứ Cư Nhàn…

Hiền lành như bánh mì, thật thà, ngay thẳng như vàng ròng, cha sở thương mến giáo dân xứ Cư Nhàn bằng tình thương phụ tử. Với cha, giáo xứ Cư Nhàn là Thiên Đàng hạ giới, nếu mà giáo dân xứ Cư Nhàn biết đem lại cho cha một chút hài lòng…

Nhưng mà, than ôi!, mạng nhện giăng đầy trong phòng xưng tội, và vào ngày lễ Phục Sinh, bánh thánh vẫn còn nằm nguyên trong hộp thánh!.

Vị linh mục hiền lành phải đau đớn con tim, và luôn luôn cầu nguyện Thượng Đế ban ân huệ là đừng chết trước khi gom lại được đàn chiên thất lạc trở về với giáo hội.

Nay, bạn thấy rằng Thượng Đế cũng thương tình!...

Một ngày Chúa Nhật, sau nghi lễ Phúc Âm, cha sở Martin đăng đàn thuyết giảng.

Cha nói:

- Chào các bạn. các bạn có tin được lời của tôi nói thì tin. Đêm rồi, tôi là một kẻ phàm phu tội lỗi, đã mơ thấy lạc bước đến cửa Thiên Đàng.

Tôi gõ cửa. Thánh Pierre ra tiếp tôi:

- Nầy!, ông đấy à!, ông Martin dũng cảm. ngọn gió tốt nào thổi đến đây vậy?... Và ông có việc chi cần hỏi?

- Chào mừng Thánh Pierre xinh đẹp. Ngài là người cầm giữ quyển sổ lớn và chìa khóa vàng. Thật lòng mà nói, là tôi cũng quá tò mò, Ngài có thể nói cho tôi biết có bao nhiêu giáo dân xứ Cư Nhàn đang ở trên Thiên Đàng?

- Tôi không có điều chi từ chối với ông đâu, ông Martin ạ!. Ông hãy ngồi xuống đi, rồi chúng ta cùng tham khảo chung với nhau vấn đề.

Và Thánh Pierre đeo cặp kính vào, mang quyển sổ lớn lại, mở ra:

- Chúng ta hãy xem nào… Giáo xứ Cư Nhàn phải không? Cư… Cư… Cư Nhàn… Đây rồi… Cư Nhàn… Nầy, ông Martin quả cảm!. Trang giấy trắng tinh, không có một linh hồn nào!... Không có một giáo dân xứ Cư Nhàn nào ráo trọi!...

- Sao vậy!... Không có ai là giáo dân xứ Cư Nhàn ở đây sao?.

- Không một ai!...

- Có lý nào!... Ngài xem kỹ lại coi!.

- Không có ai cả, ông thánh ơi!, ông hãy tự động mà xem đi, nếu ông cho rằng tôi nói đùa!...

Khổ cho tôi, tôi giậm chân thất vọng, tôi chấp tay cầu xin lượng hải hà!... Thấy vậy, Thánh Pierre mới nói:

- Ông không nên xao xuyến con tim, bởi vì ông có thể mắc một cú máu đột quỵ đấy!... Thật ra cũng không phải là lỗi của ông!... Ông cũng nên biết rằng: giáo dân xứ Cư Nhàn của ông, cầm chắc là đang ở bên trại Thanh Lọc trong vài quý!...

- Ôi!, Thánh Pierre vĩ đại, xin Ngài hãy thương xót!. Ít ra là xin Ngài giúp đỡ cho tôi được gặp…, được an ủi họ!.

- Rất sẵn lòng, ông bạn ạ!... Hãy cầm đôi dép nầy và mang vào… Bởi vì con đường không được tốt lắm đâu!... Có mang dép là ổn rồi!... Bây giờ, ông hãy đi thẳng phía trước mặt. Ông cứ nhìn xem, ở tận nơi xa kia, chỗ khúc quanh đó, bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cửa bằng bạc, có cẩn đầy những thánh giá đen… Ông hãy gõ cửa, thì người ta sẽ mở. Chúc phúc, thượng lộ bình an.

Và tôi đi bộ… tôi đi mãi… Biết bao nhiêu là sự hồi hộp!. Chỉ cần nghĩ đến điều nầy là tôi nổi da gà. Một con đường nhỏ đầy những gai gốc, những cây thạch lựu gai đỏ hoa, những con rắn xanh huýt gió, dẫn dắt tôi đến một cái cửa bằng bạc.

- Băn!... Băn!...

Một giọng khàn khàn áo não lên tiếng:

- Ai gõ cửa vậy?

- Linh mục giáo xứ Cư Nhàn

- Xứ… ?

- Dạ!, giáo xứ Cư Nhàn ạ!

- À!, vào đi…

Tôi bước vào. Một vị thiên thần to lớn và đẹp đẽ với đôi cánh sậm như ban đêm, với một bộ y phục chói sáng như ban ngày, với cái chìa khóa bằng kim cương đeo ở sợi dây nịt, đang ngồi viết rẹt rẹt trong một quyển sổ còn lớn hơn cái quyển sổ của Thánh Pierre.

Vị thiên thần hỏi:

- Rốt cuộc rồi thì ông muốn gì, ông hỏi gì?

- Bẩm bạch Ngài Thiên Thần xinh đẹp của Thượng Đế, tôi muốn… Có lẽ là tôi quá tò mò… Nếu Ngài có giữ ở đây các giáo dân xứ Cư Nhàn?...

- Giáo dân xứ ?...

- Dạ!, giáo dân xứ Cư Nhàn ạ!... Và chính tôi là người trụ trì của họ.

- À!, thầy tu Martin phải không?

- Vâng ạ!, xin được hầu Ngài.

- Ông nói là giáo dân xứ Cư Nhàn à?

Vị thiên thần mở sổ và lật từng trang vừa thấm nước bọt ở ngón tay để dễ bắt giấy…, rồi thở dài mà bảo:

- Giáo xứ Cư Nhàn!... Ông Martin à, chúng tôi không có một ai là giáo dân xứ Cư Nhàn ở trong Trại Thanh Lọc cả!...

- Chúa ơi!, không có ai là giáo dân xứ Cư Nhàn ở Trại Thanh Lọc cả!... Ôi!, Thượng Đế ôi!, vậy thì họ ở đâu?!...

- Nầy, ông thánh!, họ ở trên Thiên Đàng, chớ ông còn muốn họ ở đâu nữa?...

- Nhưng mà tôi từ Thiên Đàng đến đây.

- Ông từ Thiên Đàng đến đây!. Rồi sao?

- Không biết làm sao!... Họ không có ở đó!... Ôi, Đức Mẹ ôi!...

- Ông còn muốn gì nữa, ông Linh Mục. Họ không có ở trên Thiên Đàng. Họ không có ở nơi Trại Thanh Lọc. Không còn có trạm trung gian nào nữa. Vậy thì họ ở… trong Địa Ngục!

- Thánh Giá ơi!..., Đức Chúa ơi!... e!... e!... e!... có lẽ nào?!... Thánh Pierre vĩ đại lại đi nói dối với tôi sao?... Tôi đâu có thấy gì!. Ôi!, khổ cho tôi!. Làm sao mà tôi về Thiên Đàng cho được, khi mà giáo dân xứ Cư Nhàn không có ở đó?!...

- Nghe đây, ông Martin đáng thương!, bởi vì ông muốn biết rành mạch từng chút, từng chút một tất cả sự việc nầy, và nhìn cho tận mắt xem nó chuyển biến ra sao, thì ông phải đi theo con đường mòn nầy và lướt cho nhanh nếu ông biết chạy. Ông sẽ gặp bên trái một cái cổng lớn… Ở đó, ông có thể hỏi thăm tin tức tất cả mọi việc!... Trời phò hộ cho ông!...

Và vị thiên thần đóng cửa lại.

Đó là một con đường mòn dài, được trải đầy than hồng!... Tôi đi lắc lư như người say rượu. Tôi đi lạng chạng ở mỗi bước chân. Mình tôi ướt sũng, mỗi sợi lông trong người tôi là một giọt nước!... Tôi thở hổn hển trong cơn khát!... Nhưng cũng may, nhờ có đôi dép của Thánh Pierre cho mượn, nên tôi không bị cháy chân!.

Khi tôi đi được, không biết bao nhiêu bước chân chập chững, tôi thấy ở bên tay trái có một cái cửa… không phải… một cái cổng to mở rộng như cửa một hỏa lò!... Ô!, các bạn ơi!, một cảnh tượng hãi hùng làm sao!... Ở đó, người ta không hỏi tên tôi! Ở đó không có sổ sách!. Từng đoàn người lũ lượt kéo nhau vào cửa, như người ta đi vào quán ăn, ngày Chúa Nhật vậy!...

Tôi đổ mồ hôi hột, và dĩ nhiên tôi cảm thấy ớn lạnh, tôi run lên. Tóc tôi dựng đứng. Tôi cảm thấy một cái mùi gì khen khét của da thịt bị cháy, giống như mùi khét của tay thợ rèn Eloy, đốt sắt để đóng móng cho con la trong giáo xứ Cư Nhàn vậy!. Tôi ngột ngạt trong cái không khí hôi thối, nóng bức!.

Tôi nghe tiếng la thét kinh khủng, tiếng rên rỉ, tiếng tru tréo, tiếng chưởi rủa…

Một ông quỷ đầu trâu mặt ngựa, cầm cây đinh ba chỉa vào tôi, hỏi:

- Nầy!, nhà ngươi đi vào hay không vào, nói đi!...

- Tôi à?!, tôi không vào. Tôi là bạn của Thượng Đế.

- Nhà ngươi là bạn của Thượng Đế à?! Ê, đồ phàm phu! Rồi nhà ngươi làm gì ở đây?

- Tôi đến… Đừng la tôi, kẻo tôi không đứng vững trên đôi chân nữa rồi!... Tôi đến… Tôi đến từ xa… Trân trọng đến hỏi thăm ông, coi tình cờ có biết một ai đó là giáo dân xứ Cư Nhàn không?

- Ô!. Trời ơi!. Sao mà nhà ngươi ngu ngốc đến thế!... Nhà ngươi không biết rằng tất cả giáo dân xứ Cư Nhàn đều ở đây sao? Đây nầy con quạ ướt!... Hãy nhìn đi, nhà ngươi sẽ thấy là chúng ta đã sắp xếp tất cả họ ở đây, những giáo dân xứ Cư Nhàn tốt lành của nhà ngươi đó!...

Và tôi thấy ở giữa một trận cuồng phong đỏ lửa kinh hoàng!..., vụt hiện ra:

Gã Coq Galine – các bạn biết mà – gã thường say sưa về quậy phá vợ con.

Catarinet… con nhỏ ăn mày… với cái mũi hỉnh lên trời… lúc nào cũng nằm một mình trong lẫm lúa…

Gã Pascal Doigt de Poix bán dầu ôliu

Cô Babet đi mót thóc. Muốn được đầy bịch, ả phải bóc trộm vài nạm trong bó lúa kế bên!...

Thầy Grapasi đang vô dầu xe cút kít.

Gã Dauphine bán quá đắt đỏ nước lã trong giếng nhà!...

Gã Tortillard ngạo nghễ khi gặp tôi.

Gã Coulau với cô vợ Zette

Thằng Jacques

Thằng Pierre

Thằng Toni

Cảm động vì tình tiết, tái mặt vì lo sợ, người dự nghe than van mà thấy trong đị ngục phơi bày: nào là ông bà, nào là cha mẹ, nào là bà con, nào là bạn bè của mình!...

Nhà tu hiền lành nói tiếp:

- Các bạn đã nhận định được chưa. Việc nầy không nên để kéo dài, trì hoãn… Tôi đảm trách linh hồn, và tôi muốn rằng…, tôi muốn cứu vớt các bạn ra khỏi cái vực thẳm mà bạn đang sắp sửa rơi xuống!...

Ngày mai, tôi bắt đầu vào việc, không thể trễ hơn ngày mai được. Công tác nầy không thể thiếu. Đây là cách tôi hành sự. Để cho mọi việc trôi chảy, chúng ta phải theo thứ tự từng ngày một…

Ngày mai Thứ Hai, tôi rửa tội cho các cụ ông, cụ bà… không có chi nhiều.

Ngày Thứ Ba, dành cho trẻ em, tôi sẽ làm nhanh.

Ngày Thứ Tư, dành cho thanh niên nam nữ, việc nầy không lâu lắc.

Ngày Thứ Năm, dành cho đàn ông, chúng ta sẽ chấm dứt nhanh.

Ngày Thứ Sáu, dành cho phụ nữ, không có chuyện chi nhiều.

Ngày Thứ Bảy dành cho các chủ máy xay bột, thì quá rảnh rang.

Ngày Chúa Nhật, nếu xong việc, chúng ta rất hạnh phúc.

Các bạn có thấy không?. Khi mà lúa đã chín, thì chúng ta phải gặt. Khi mà rượu đã chuốc, thì chúng ta phải uống. Kìa là khá nhiều vải sợi bị dơ bẩn mà chúng ta cần phải giặt sạch, và giặt cho thật sạch!...

Đó là ân huệ mà tôi cầu nguyện cho các bạn. Amen!...

Cái gì đã nói ra là được thi hành.

Người ta giặt giũ vải sợi sạch sẽ.

Kể từ ngày Chủ Nhật đáng ghi nhớ đó, hương thơm của giáo xứ Cư Nhàn bay xa mười dặm đường.

Và vị linh mục Martin hiền lành cũng cảm thấy hạnh phúc và hoan hỷ.

Một đêm nọ, cha sở của giáo xứ Cư Nhàn nằm mơ, thấy mình vượt qua con đường chiếu sáng trên Thiên Đàng, theo sau là đoàn diễu hành huy hoàng của tất cả các con chiên mộ đạo, ở giữa những ngọn đèn cầy chiếu sáng rực rỡ, trong nguồn hương thơm bát ngát, có nhóm đồng tử vui vẻ đang hát Thánh Ca.

Dịch thuật: THANH CHÂU

CODEX GIGAS

cuốn sách lớn nhất gọi là

Kinh thánh của quỉ

Vào đầu thế kỷ XIII, tại vùng Bohemia (Cộng hòa Séc), đã ra đời cuốn sách lớn nhất mọi thời đại mà người ta thường gọi là “Kinh thánh của quỉ”. Đó là một cuốn sách nặng khoảng 75kg, cao 92cm, rộng 50cm và dày 22cm, bìa bằng gỗ, gồm 624 trang; người ta đã phải dùng 160 tấm da lừa để làm thành 312 tờ giấy kép đóng lại thành 624 trang. Tuy mang tên gọi “của quỉ” nhưng không phải là cuốn sách huyền bí, mà tên La-tinh là Codex Gigas, được làm tại tu viện Podlazice dòng Benedic ở miền trung Bohemia. Theo truyền thuyết nó được một tu sĩ làm bằng tay chỉ trong 1 đêm. Bị kết án chôn sống trong tường vì phạm lỗi, vị tu sĩ xin làm một công trình để chuộc tội. Ông cam đoan chỉ làm trong 1 đêm, nhưng khi thấy không thể làm xong, ông bèn cầu xin sự hỗ trợ của quỉ. Để bày tỏ sự tri ân với quỉ, ông đã lồng một hình ảnh quỉ vào trong sách, vì vậy có tên gọi đó.

Được làm trên giấy da với nhiều hình minh họa . Kinh thánh của quỉ là bản thảo lớn nhất thế giới viết bằng tiếng Latinh. Trong đó có vô số những công thức “thần dược” bí hiểm chữa đủ loại bệnh, chưa kể hàng trăm mánh khóe giải quyết tình huống bất thường. Đây là cuốn sách lớn nhất thời Trung đại.

Zdenek Kalista, nhà sử học và chuyên gia bản thảo thời Trung đại của Thư viện quốc gia Prague nói rằng: “Codex Gigas bao gồm cả Kinh Thánh Cựu ước và Tân ước, tiếp đến là ghi lại biên niên Cosmas soạn vào thế kỷ XII gồm Necrologium của Tu viện Podlazice, giáo trình xưng tội, bản viết tay về lịch sử tự nhiên, biên niên ký cổ xưa nhất về CH Séc Latin... tổng số 11 đầu mục tất thảy. C ó thể nói đây là một thư viện chứ không phải chỉ có một cuốn sách”.

Một trong những nội dung giá trị nhất của cuốn kinh là chương mang tiêu đề Chronica Bohemorum - bản ghi chép lại Biên niên ký Bohemia cổ xưa và hoàn thiện nhất.

Ngoài ra trên những trang sách cuối cùng, người ta còn tìm thấy lịch ghi chép ngày lễ Phục sinh sẽ rơi chính xác vào ngày tháng nào trong những năm tới.

Hoàng đế Rodolf II từ lâu đã để ý đến cuốn sách này và đã cho đưa về thư viện của ông tại lâu đài Prague. Tại đây nhà vua đã tập hợp một khối lượng đáng kể những tài sản quý hay kỳ lạ. Sau khi ông qua đời năm 1612 di sản của ông bị phân tán. Khi cuộc chiến tranh 30 năm giữa vương quốc Séc và Thụy Điển (1618-1648) quân đội Thụy Điển thắng trận, đã lấy cuốn sách này đem về Stockholm năm 1648 coi như chiến lợi phẩm.

Từ 17 năm nay, tổng thống Cộng hòa Séc – Václav Havel đã đề nghị Thụy Điển chấp nhận cho Cộng hòa Séc trưng bày báu vật này. Năm nay Thụy Điển đã đồng ý đưa cuốn sách về Thư viện quốc gia Prague trong thời gian tổ chức cuộc trưng bày.

Tuy chưa phải là “châu về hợp phố”, nhưng người dân Séc lần đầu tiên sau nhiều thế kỷ đã được nhìn lại báu vật của mình.

(Xưa Nay, 428 tháng 6-2013)

BĐ st










Phụ Bản IV


BẠN TÔI XIX

hay là Một thí dụ điển hình

về “Nếp sống văn man”

Sáng nay tôi ghé thăm bạn tôi, và thấy người ra mở cửa không phải là anh, mà là bà em gái anh. Bà cho biết là anh chưa về và bảo tôi một lát nữa quay lại. Vừa lúc đó thì anh về tới, tôi thích quá, nhưng hơi ngạc nhiên khi thấy nét mặt anh buồn xo khác hẳn với mọi khi bao giờ cũng tươi rói. Tôi hỏi anh lý do thì được anh bảo vào nhà đã rồi anh sẽ cho biết lý do.

Hai chúng tôi lên sân thượng cho thoáng mát, và sau khi an tọa anh bắt đầu buồn rầu kể nỗi buồn xé ruột anh vừa trải qua cho tôi nghe.

Nghe xong, chính tôi lại cũng thấy buồn ngây ngất, và ngồi viết ngay bài này chia sẻ với quý vị độc giả để hy vọng quý vị cũng cùng hai anh em tôi… buồn chút chơi!

Sau đây là nguyên văn những gì tôi được nghe anh kể: “Tuấn biết không, sáng nay trên đường từ Tân Định về nhà, mình đi trên đường Hoàng Văn Thụ và gặp một vụ tai nạn giao thông: một xe côngtenơ to đùng lạc tay lái đâm vào nhà dân làm sập hai căn nhà 1 tầng ở ngay quá nhà thờ Phú Nhuận vài trăm thước. Có xe cần cẩu đang câu cái côngtenơ ra và cảnh sát chặn đoạn đường đó để xe cứu hộ làm việc, và do đó con đường kẹt cứng. Mình đi cùng một cô bạn làm việc tại một bin đinh cách chỗ tai nạn xảy ra độ 700 mét. Thấy không đi được, mình bảo cô ta đi quẹo về đường Trần Huy Liệu rồi đi qua một đường hẻm lớn để vòng trở ra phía trên nơi có tai nạn để đến nơi làm việc. Nào ngờ con hẻm lớn đầy nhóc xe honda, xe đạp, không cách nào len vào được. Sợ cô bạn muộn giờ đến sở làm, mình gọi một cái taxi và đưa cô ta đi lối đường Nguyễn Trọng Tuyển nằm song song với đường Hoàng Văn Thụ, để quẹo đường Trương Quốc Dung ra nơi cô ta làm việc. Đây chính là lúc xảy ra điều làm mình buồn xé ruột Tuấn ạ. Cậu có thể tưởng tượng được không? Con đường Nguyễn Trọng Tuyển (giao thông 2 chiều) đầy nhóc xe và ở cả hai phía mọi người già trẻ, đàn ông, đàn bà, khối kẻ đeo kính trắng trông rất trí thức, tất cả đều hễ thấy chỗ trống là xông vào “cóc thèm để ý là họ đang đi bên mé trái ở cả hai chiều”. Ôi! như vậy thì chỉ trong một lúc là sẽ khóa nhau lại và sẽ đứng ị lại, kẹt xe mệt nghỉ! Ngồi trong taxi, mình buồn quá khi nghĩ rằng người mình già trẻ lớn bé chẳng hề có chút ý niệm, ý thức gì về công lộ, tất cả là tư lộ, muốn giao thông thế nào tùy thích. Những lúc như thế này mà bọn ngoại nhân nó thấy được thì chúng được dịp cười đã đời, khi thấy đã sang thế kỷ 21 mà còn có những nếp sống, có thể nói là rất ư là văn man như thế này!

Và, anh kể tiếp: “Ngồi trong taxi, mình cảm thấy buồn quá, vì mình đã hy vọng đưa được cô bạn đến sở kịp giờ làm nên mới chịu phí tiền đi taxi, nhưng giờ thì thật là không biết sẽ kẹt bao lâu mới thoát ra được!”

Thấy anh kể vậy người viết hỏi: “Vậy sao anh về được? Làm sao giải tỏa được đoạn đường bị kẹt? Anh kể tiếp: “Vào lúc đó mình khấn Mẹ Âu Cơ và đòi Mẹ phải làm phép lạ để giải quyết vấn nạn này. Và Mẹ Âu Cơ thật sự đã rất thiêng khi đã nhanh chóng nghe lời thỉnh cầu của mình và đã làm một phép lạ nho nhỏ như sau đây: Ngay lúc mọi người vẫn tiếp tục tràn qua mé trái (ở cả hai hướng) thì ngay chỗ chiếc taxi chở mình đang nằm ụ, có một thanh niên lực lưỡng xuất hiện. Cậu ta giang tay ngăn những người đang lấn sang mé trái và đẩy họ trở lại phía bên phải để hướng kia có thể có đường đi, và rồi nhờ thế mà hướng kia dần dần đi được và cả hai bên không còn khóa nhau lại nữa và dần dần đoạn đường lại lưu thông được. Giá mà xuống xe được chắc mình xông tới bắt tay anh bạn thanh niên có lương tri và thiện ý đó quá!

Kể xong câu truyện, nét mặt anh trở lại bình thường dần dần, và anh cho biết là đã có một lần anh cũng đã có hành động tương tự như người thanh niên nói trên để không cho bọn ngoại nhân có cơ hội cười người mình, anh kể: Hôm đó mình đứng chờ xe buýt trên đường Phạm Ngọc Thạch nơi gần ngã ba Võ Thị Sáu – Phạm Ngọc Thạch. Mình đang đứng thì thấy một anh taxi ghé lại đậu ngay đúng cái trạm xe buýt nơi ở trên đường có mấy cái vạch vàng và hai chữ “xe buýt”. Mình vừa tính bảo anh ta là không nên đậu ngay bến xe buýt thì anh ta đã rời xe đi sang bên kia đường mất rồi, và ngay lúc đó có một ngoại nhân độ hơn ba mươi tuổi, tiến lại gần chiếc taxi và lấy điện thoại di động ra định chụp hình. Mình xông ra và quát lên” Don’t take any picture! You’re not allowed to do so!” (Không được chụp hình! Anh không được phép chụp!). Anh bạn ngoại nhân hỏi mình: “But, who are you?”

(Nhưng, ông là ai?). Mình trả lời: “I’m a security agent” (Tao là nhân viên an ninh). Nghe thấy “security” (an ninh) anh bạn ngoại nhân bỏ điện thoại vô túi và lỉnh mất. Tuấn biết không? Nó định chụp để mang về bêu rếu người mình là hơi bị… ít văn minh khi đậu xe ngay bến xe buýt!

Tôi bảo bạn tôi: “Thôi anh vui trở lại đi, nỗi buồn theo gió bay đi rồi, chúng ta hãy vững tin vào vận nước, dần dần rồi người mình sẽ không còn có những những nếp sống văn man như chạy xe trên lề đường tỉnh bơ, mà còn chạy nhanh nữa – hút thuốc lá ở khắp mọi nơi công cộng – xả rác bất cứ nơi nào thích xả - há miệng ra là văng tục – để nhạc vang cả xóm lúc đã rất khuya hoặc lúc còn rất sớm – đậu xe chắn ngay cửa nhà hàng xóm vv…và vv…

Nghe tôi nói vậy bạn tôi vui hẳn lên và anh hạ quyết và tâm là sẽ đi tìm một bà Đạo Quên thật đẹp để xin… cùng tu. Tuy tôi khuyên bạn tôi như vậy nhưng chính bản thân tôi khi viết những giòng chữ này thì vẫn còn cảm thấy hơi buồn buồn, nên tôi cũng tự nhủ là, trong tương lai gần, hễ bạn tôi tìm được bà Đạo Quên nào thật đẹp và tu ở đâu thì tôi cũng… tu cùng anh luôn!

Vũ Anh Tuấn

TOA THUỐC

TRONG ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ

HỒ ĐẮC DUY

Đại Việt sử ký toàn thư, q.VII, tr. 15b ghi chuyện gì?

Tại sao Hoàng đế Trần Dụ Tông bị bệnh liệt dương?

Trâu Canh là ai?

Thế nào là bệnh liệt dương?

Bệnh liệt dương trong y học hiện đại?

Giải Nobel Y học năm 1998 đã trao cho Robert F.Furchgott, Louis J. Lgnarro và Ferid Murad vì công trình nghiên cứu tìm ra cơ chế của bệnh liệt dương

Những bộ sử vĩ đại của Việt Nam hiện còn và đang được lưu hành là Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục Đại Việt sử ký tiền biên đều có ghi lại câu chuyện Hoàng đế Trần Dụ Tông mắc bệnh liệt dương.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, tr. 126 có chép:

“Trâu Canh là con của Trâu Tôn người phương Bắc, khoảng năm Nguyên Phong (1251-1258) làm thầy thuốc, đi theo quân Nguyên. Khi quân Nguyên thua, Trâu Tôn bị bắt. Tôn ở lại chữa bệnh cho các vương hầu thời đó phần nhiều thấy công hiệu. Người trong nước nhiều lần cho Tôn ruộng và gia nô thành ra giàu có. Trâu Canh là con nối nghiệp cha nhưng không có hạnh kiểm…”.

Bệnh án liệt dương của Dụ Tông Hoàng đế

Đại Việt sử ký toàn thư , tr. 132 chép:

“Vào đêm Trung thu năm Khai Hựu thứ 11, các vương phi, cung nữ triều Trần dạo thuyền ngắm trăng trên Hồ Tây, hoàng tử thứ mười của vua Minh Tông, tên là Hạo, mới lên 4 tuổi cũng được đi theo. Không hiểu sơ sẩy thế nào mà hoàng tử này rơi xuống nước. Mọi người hoảng hốt nhảy xuống mò tìm, mãi hồi lâu mới mò được xác hoàng tử kẹt ở lỗ cống đơm cá. Khi vớt lên thì Hoàng tử đã chết. Thượng hoàng sai thầy thuốc Trâu Canh cứu chữa. Trâu Canh tâu rằng: có thể cứu được nhưng phải dùng kim châm vào các huyệt, hoàng tử có thể sống nhưng chỉ sợ sau này sẽ bị liệt dương”.

Trâu Canh đã cứu được hoàng tử. Phép mầu cải tử hoàn sinh của vị thần y này không những làm hoàng gia mừng khôn xiết, mà dân chúng ở kinh thành cũng đồn đãi xa gần, ai cũng phục Trâu Canh là một bậc thần y, tài ba siêu việt. Ông ta sau được phong lên Quan Phục hầu Tuyên Huy Viện Đại sứ kiêm Thái y sư.

Thời gian trôi qua, không ai còn nhớ câu nói cuối cùng của Trâu Canh khi cứu hoàng tử Hạo.

Năm lên 14 tuổi, Hoàng gia cưới vợ cho Dụ Tông, Hoàng hậu là Công chúa Y Từ, con gái thứ tư của Bình Chương Huệ Túc vương. Đến lúc đó thì lời nói năm xưa của thần y Trâu Canh trở nên ứng nghiệm.

Dụ Tông nhận ra mình không có khả năng làm chồng. Điều đó gây cho vị vua trẻ một mối lo âu. Lỗi về người đàn ông hoàn toàn. Lấy ai nối dõi, bảo vệ ngai vàng họ Trần bây giờ?

Toa thuốc quái đản

Bấy giờ Trâu Canh thấy vua bị liệt dương dâng phương thuốc nói rằng: “Phải giết một bé trai, lấy mật hòa với dương khởi thạch mà uống. Ngoài ra phải thông dâm với chị hay em ruột mình thì mới hiệu nghiệm. Vua làm theo, thông dâm với chị ruột mình là Thiên Ninh công chúa quả nhiên có công hiệu” (Đại Việt sử ký toàn thư, tr.132).

Lời nói đó làm cả hoàng gia ai cũng bối rối. Mới nghe qua tưởng chừng như đùa, nhưng đó là chuyện thật. Để giữ vững cơ nghiệp, vua chúa có sá chi chuyện giết hàng vạn người, nói gì đến một đứa bé. Nhưng còn chuyện “ngủ với chị mình hay em gái mình” điều đó trái với luân thường, đạo lý.

Lịch sử không nói lời chi tiết chỉ ghi rằng: “Vua làm theo, thông dâm với chị ruột mình là Thiên Ninh công chúa quả nhiên có công hiệu”.

Liệt dương hay còn gọi ED (erectile dysfunction) là gì?

Trong y khoa hiện đại, bệnh liệt dương là một vấn đề lớn, liệt dương là một thuật ngữ mô tả sự suy nhược tình dục (sexual deficiency) của đàn ông.

Bệnh liệt dương còn gọi là bất lực, yếu sinh lý hoặc là rối loạn cương dương vật (Erectile dysfunction). Ngày nay người ta gọi chung là bệnh ED.

Trong các tác phẩm y học của Tuệ Tĩnh hay Hải Thượng Lãn Ông (1720). Các tác phẩm viết về vấn đề tình dục của Trung Quốc như Tố Nữ Kinh ở thế kỷ thứ V, Kama Soutra của Ấn Độ cũng đã đề cập đến căn bệnh này.

Bệnh liệt dương đã không được nói đến trong suốt nhiều thế kỷ, từ phương Tây cho đến phương Đông bởi người ta cho rằng tình dục là chuyện không đứng đắn, mặc dù nó luôn luôn là một vấn đề sát sườn quan trọng của đời sống. Nó là vấn đề luôn luôn được cá nhân quan tâm đến từng ngày, nó là cái thước đo của sức khỏe, nó được nghĩ đến nhưng không được nói ra bằng lời hoặc trao đổi với người khác kể cả người hôn phối.

Chính vì không được trao đổi, không được nghiên cứu một cách công khai khoa học. Vì tâm lý của các bệnh nhân ít ai tự nhận mình là kẻ bị liệt dương hay bất lực cho nên những khám phá, nghiên cứu, điều trị căn bệnh này đã không có một tiến bộ đáng kể nào trong nhiều thế kỷ.

Về phương diện Tây y thì nghiên cứu về nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị bệnh liệt dương chỉ mới được chú ý gần đây thôi. Các yếu tố của nguyên nhân gây ra liệt dương ảnh hưởng đến nay vẫn còn mù mờ chưa được hiểu rõ.

Mãi cho đến năm 1970, người ta vẫn cho rằng liệt dương phần lớn là do nguyên nhân tâm lý. Về yếu tố tâm lý như là sự lo lắng, phiền muộn, sức ép tâm lý, quan hệ tình dục của người bạn đời hiển nhiên có ảnh hưởng rõ ràng lên chức năng cương dương vật, nhưng những yếu tố tâm lý khác như những “stress môi trường” không phải là nhỏ.

Liệt dương hay nói chính xác hơn là rối loạn cương dương vật (ED) có thể phối hợp giữa nhiều yếu tố: tâm lý, thần kinh, mạch máu, cấu trúc dương vật… Các yếu tố này có tác dụng qua lại tương tác lẫn nhau.

Tháng 12 năm 1992, The National Institutes of Health Consensus Development Conference on Importance của Hoa Kỳ đã định nghĩa: “Rối loạn cương dương vật là một tình trạng không có khả năng cương cứng, hoặc không duy trì được tình trạng cương cứng để thực hiện việc giao hợp cho đến lúc kết thúc do đó không làm thỏa mãn được bạn tình”.

Có hai nguyên nhân gây bệnh.

Nguyên nhân thực thể:

Bệnh về mạch máu: xơ vữa động mạch, cao huyết áp.

Tiểu đường: bệnh này dẫn đến sự thay đổi và làm tổn thương các dây thần kinh và mạch máu.

Tác dụng phụ của thuốc như thuốc cao huyết áp, thuốc điều trị bệnh tim, thuốc chống dị ứng, thuốc điều trị bệnh tâm thần và các loại thuốc khác.

Nghiện thuốc lá, rượu, ma túy.

Các bệnh về dây thần kinh như bệnh múa vờn, sừng hóa; hay các bệnh về dây thần kinh làm cho sự dẫn truyền thần kinh tủy sống đến dương vật bị gián đoạn.

Do phẫu thuật: như giải phẫu

Tổn thương tủy sống.

Và một vài nguyên nhân khác.

Nguyên nhân tâm lý : luôn luôn là yếu tố đi kèm theo với các yếu tố thực thể, nó bao gồm sự không hài lòng, không thoải mái, thú vị về các hoạt động tình dục của mình, stress, ức chế, lo lắng buồn rầu…

Đa số những vấn đề tâm lý của bệnh liệt dương đều thuộc về cảm xúc.

Cảm xúc là một quá trình hoạt động tâm thần biểu hiện thái độ của con người đời với các kích thích bên ngoài cũng như trong cơ thể, là thái độ của con người đối với diễn biến của thực tế, của môi trường sống. Cảm xúc bắt nguồn từ kích thích trên các giác quan. Cơ sở giải phẫu của cảm xúc phần lớn nằm ở vùng dưới vỏ não, vùng gian não. Cơ chế sinh lý của cảm xúc là cơ chế thần kinh, mỗi cảm xúc đều tạo biến đổi trong cơ thể như mạch máu co thắt hay giãn nở ra; tim đập nhanh hay chậm lại; một sự thẹn thùng làm hồng đôi má của cô gái dậy thì… cảm xúc làm tăng hay giảm khí sắc như vui hay buồn, sợ hãi lo lắng… và xung cảm (exlasy) là một cảm xúc mãnh liệt.

Liệt dương là một xung cảm của sự sợ hãi, lo âu do người đàn ông cho rằng mình không thể làm được chuyện đó.

Có hai loại liệt dương:

1. Liệt dương tuyệt đối: đó là trường hợp dương vật không cương lên được.

2. Liệt dương tương đối: dương vật có cương, đôi khi mạnh bình thường, trong giấc ngủ, trong khi hôn mê nó vẫn cương bình thường, điều này chứng tỏ bộ máy dương vật vẫn tốt và hoàn hảo, nhưng khi giao hợp thì nó không tuân theo ý muốn của chủ nhân vả trở nên mềm nhũn.

Khi có một kích thích hay một ham muốn tình dục cho dù có tác động trực tiếp hay không trên dương vật, thì kích thích này sẽ phát ra một tín hiệu, tín hiệu này từ não bộ được chuyển đến trung tâm gây cương ở tủy sống và làm cho nó hoạt động.

Kết quả là:

- Làm giãn nở các động mạch.

- Các cơ trơn quấn quanh động mạch hang cũng như quấn quanh các hang mạch máu giãn ra. Sự giãn nở đó làm tăng áp lực trong các hang, các hang này sẽ đè và ép lên các tĩnh mạch. Đó là cơ chế gây cương.

NO là sản phẩm cuối cùng của kích thích và ham muốn. Nó có tác dụng giãn cơ, tác dụng của nó trong tế bào là làm gia tăng mức của chu trình GMP, dưới tác động này các cơ trơn giãn ra và gây nên hiện tượng cương dương vật.

Chính nhờ vào khám phá độc đáo này mà Viện Karolinska của Thụy Điển đã trao giải thưởng Nobel về Y học năm 1988, cho Robert F. Furchgott, Louis J. Ignarro và Ferid Murad.

Việc điều khiển chỉ huy dương vật thuộc về não bộ và tủy sống – điều gì mà não bộ và tủy sống ra lệnh thì điều đó được dương vật thi hành. Đôi khi người đàn ông muốn cương lên thì nó lại ù lì mềm yếu. Suy nhược tình dục bắt nguồn từ bản chất đa cảm của người đàn ông, và hơn bất cứ cố gắng nào khác của con người, tình dục của đàn ông là một trò chơi của sự tự tin.

Có lẽ 700 năm trước, Trâu Canh đã hiểu và nghĩ đến điều mà cả một quá trình khai sinh môn tình dục học-tâm lý tình dục với các nghiên cứu được hỗ trợ bằng các phương pháp thống kê hiện đại, và nghiên cứu dược phẩm, các phương pháp điều trị bệnh bất lực cuối cùng chỉ đi đến được một kết luận như Trâu Canh đã nghĩ: liệt dương chỉ là một vấn đề tâm lý, một vấn đề thuộc xúc cảm, một trò chơi của sự tự tin. Sự sợ hãi và ấn tượng đầu tiên là mấu chốt của vấn đề trị liệu.

Trâu Canh là một thầy thuốc giỏi trong lĩnh vực tâm lý tình dục. Và ông ta đã sử dụng sự hiểu biết về nghề nghiệp của mình trong một mưu đồ khác.

Thực chất toa thuốc của Trâu Canh

Nghiên cứu toa thuốc điều trị bệnh liệt dương của Trâu Canh cho Dụ Tông, ta thấy có hai yếu tố cần được phân tích:

- Dược phẩm gồm: Mật + Dương khởi thạch.

- Hoạt động tình dục: Thông dâm với chị hay em ruột mình.

Cả hai yều tố này đều có sự tàng ẩn không bình thường.

1. Đòi hỏi mật của một đứa bé đồng nghĩa với khuyến khích giết chết một người. Đó là một việc trái với đạo đức của xã hội và y đức.

2. Thông dâm với chị hay em ruột mình: là một đòi hỏi trái với luân lý của gia đình và xã hội.

Như vậy là Trâu Canh đã đặt triều đình nhà Trần, Thượng hoàng Trần Minh Tông vào một cái thế là phải đi ngược đạo đức và luân lý mà mục đích chỉ để Dụ Tông Hoàng đế có người nối dõi?

Tất cả âm mưu này chẳng qua là một đòn tâm lý ác liệt đối với Dụ Tông thông qua sự yểm trợ mạnh mẽ của Thượng hoàng và Thái hậu cũng như Công chúa Thiên Ninh.

Điều trị liệt dương là điều trị cảm xúc, điều trị cái nguyên nhân tâm lý đã gây ra hậu quả liệt dương như các cơ chế y khoa hiện đại đã nói trên.

Chính Trâu Canh đã gây ra cái nhân ấy mười năm trước khi ông ta nói sẽ “liệt dương về sau”. Vị Hoàng thái tử đã bị ám ảnh từ đó. Một dấu ấn ngày càng trở nên hãi hùng đối với vị hoàng tử đáng thương kia.

Một định kiến cho rằng mình liệt dương đã được thiết lập. Và người duy nhất có thể phá bỏ cái định kiến ấy không ai khác hơn là Trâu Canh. Vì hơn một lần ông ta cứu sống vị vua này. Trâu Canh đã cứu sống Dụ Tông lúc 4 tuổi. Trâu Canh được triều đình xưng tụng là thần y. Nay Trâu Canh lại chữa được bệnh liệt dương cho Dụ Tông. Phương pháp kỳ dị của y được toàn thể Hoàng gia đồng tình vun vào, ngay cả Thiên Ninh Công chúa cũng chấp nhận. Điều này càng gây cho Dụ Tông lòng “tự tin”, có thể lòng tự tin ấy đã đánh đổ các định kiến Dụ Tông chiến thắng được sự bất lực.

Tóm lại, những điều mà Trâu Canh đưa ra trong toa thuốc này chỉ là một ấn tượng khủng khiếp làm cái chìa khóa để xóa bỏ cái định kiến. Ông ta đã làm động tác của một nhà phân tâm học hiện đại với một số ma thuật cho đến nỗi Thượng hoàng Trần Minh Tông phải chán ghét thậm tệ nhưng không thể giết chết y được, mặc dù y đã phạm tội tày trời.

Trang 132 của Đại Việt sử ký toàn thư chép tiếp: “Canh từ đấy được yêu quý hơn, được ngày đêm ở trong hậu cung hầu hạ thuốc thang, Canh liền thông dâm với cung nữ, việc phát giác, Thượng hoàng Minh Tông định bắt Canh chết, nhưng vì có công chữa bệnh cho vua nên được tha…”.

Một thần y nhưng không có đạo đức. Trâu Canh đã khuynh đảo được triều đại nhà Trần trong gần 30 năm và kết quả sự điên khùng của Dụ Tông là để lại cho Dương Nhật Lễ - một người không phải dòng dõi nhà Trần lên làm vua thay mình, điều đó góp phần vào việc làm suy đổ triều đại nhà Trần sau này.

BĐ st

HƠI

BỊ

...

ĐÀM LAN

Trong cuộc sống ta thường thấy có những người giống nhau về tính cách, giống nhau về sở thích, giống nhau về quan điểm, giống nhau về diện mạo.

Những thứ giống nhau ấy không hiếm, còn rất nhiều nữa là khác. Nhưng giống nhau đến cả ý hướng, tâm tình và một số ngẫu nhiên nữa thì không dễ có. Vậy mà may mắn sao tôi có được một gần như phiên bản ấy, cho dù hai vị trí địa lý cách xa đến gần 2000km, cho dù hai cái ngày oe oe hiếng mắt nhìn đời ấy cũng cách xa nhau đến hơn chục năm có lẻ. Nói một cách chính xác là giáp trước giáp sau, nghĩa là cầm tinh cùng một con. Mà con vật này thường được xem như một biểu tượng về sự mạnh mẽ nhưng ngang ngạnh, bướng bỉnh không ai bằng. Xin chân thành thú nhận rằng kể ra thì cũng không sai. Có điều đặc tính ấy có bị lạm dụng quá hay không thôi.

Như đã sơ qua, quả tình lắm phen cả tôi lẫn Nhỏ (nhân vật thứ hai trong chuyện này) cười óa lên một cách đầy ngạc nhiên và thích thú khi phát hiện thêm một điểm trùng nhau. Nếu tổng đài điện thoại có quy định phạt nếu quá volum trong máy thì chắc tôi và Nhỏ đã mất khối tiền cho chuyện này. Nhưng may quá, chẳng có ai nghĩ ra cái quy định ù a ú ớ ấy, nên hai đứa cứ việc xả phanh mỗi khi có chuyện đắc ý, vì đó là thứ phương tiện tốt nhất mà. Quen thân nhau từ lúc nào chẳng nhớ, chỉ biết cả hai có một giao kèo hơi bị… chặt là không được giấu nhau bất cứ chuyện gì, đặc biệt là chuyện “Củ Au”, đây là biệt danh dành cho “ người dưng” vô phúc nào đó. Nói thêm là tôi và Nhỏ là chuyên gia trong việc dùng tiếng lóng, ngay cả đến tên cha sinh mẹ đẻ cũng tạm cất qua một bên, để tìm đặt cho nhau một hư tự khác. Nhớ lần đó tôi nhanh nhảu đặt ngay cái tên Nhỏ, Nhỏ vui vẻ chấp nhận ngay, còn không, hiền lành dễ thương thế cơ mà, ngay lập tức Nhỏ tặng cho tôi một cái tên tua tuả gai không là gai “Nhím”. Tôi la lên cự nự, Nhỏ bảo, tưởng tên Nhím là ghê lắm đó hả? Chẳng qua xù gai nhát thỏ thôi chứ thịt da có một nhúm bé xíu làm được gì, còn Nhỏ đây có nghĩa “bé hạt tiêu”, hiền sao được mà hiền, đặt cho nhau thế để dễ bề lừa thiên hạ thôi. Ai chà, ra hậu sanh khả… ứng thật.

Cùng là môn đồ của Tự Bang, tôi và Nhỏ thường gọi điện chát bùm nhau mỗi khi có bài đăng báo. Hai từ “chát bùm” ở đây có thể hiểu là chúc mừng nhau đấy. Một lần thấy mặt Nhỏ chình ình trên Ước Mơ Xanh, tôi đang hậm hự, thế mà chưa nghe khai báo gì nhá, thì chuông điện thoại reo. Vừa cầm máy Nhỏ đã tuôn một hơi:

- Nhím có tội to bằng cái đình đấy nhá. Lần này phải phạt thật nặng mới được, dám bí mật với bản cô nương hở?

- Chưa biết là ai dài cổ chịu phạt đâu nhá, đang định đè mặt chỉ tên thì tự nhiên xuất đầu lộ diện, còn to giọng nữa hả?

- Thôi đi, đừng có mà bưng hầu bít họng người ta, ối giời ơi, cái mẹt phè phè thấy mà phát ghét.

- Ở đâu?

- Chưa biết gì á? Trên Áo Trắng đấy chứ đâu.

- Ủa, lên rồi à, có hay đâu. À hà, thế là một đều nhé.

- Sao lại một đều?

- Chứ con ngốc nào trên Ước Mơ Xanh đây?

Lần này đến lượt Nhỏ:

- Ối trời, mới gửi cách nay nửa tháng chứ mấy mà đã lên rồi á. Rồi rồi, xí xóa nghe.

- Cùng chát bùm nữa chứ.

- Đương nhiên rồi, nào chát bùm bùm…

Cả hai cùng cười như ngọc vỡ.

Sau vụ được giới thiệu trên báo, tôi và Nhỏ nhận được khá nhiều thư làm quen của bạn đọc, bạn viết. Vui lắm, những lá thư chứa chan tình thân thiết, dù chưa tỏ tường mặt mũi ra sao, nhưng chỉ qua sự đồng cảm của chữ nghĩa đã cảm giác như thân quen tự bao giờ vậy. Trong số những lá thư ấy nổi lên tên tuổi của một bậc đàn anh. Là một tên tuổi tôi đã từng được đọc nhiều, nghe nhiều và cũng có phần ngưỡng mộ nữa, thế mà giờ được nhận thư thăm hỏi, không những chỉ thăm hỏi, mà còn có những lời động viên thật chân tình, tôi vui sướng lắm, mấy khi được sự đoái tưởng của các bậc tiền huynh. Tiếp tiếp đến mấy thư sau thì nghe chừng có gì đó lênh đênh, sóng sánh. Trong tôi cũng dụ dự một phần cảm xúc. Mối tem giao ngày càng phát triển, xem chừng có hơi hướng “Củ Au”. Tôi cứ chập chùng giữa hai ý nghĩ, giấu Nhỏ hay khoe Nhỏ, đã đành là giao kèo, nhưng lúc chưa có thì nói hăng lắm, giờ thì lại… chuyện riêng tư mà bô bô thì hơi bị… ngại thật. Vả lại cũng chưa có gì là rõ rệt lắm. Thôi thì cứ để thời gian nữa đã. Giữa lúc ấy thì Nhỏ phôn cho tôi, buông ngay một câu phủ đầu:

- Hình như dạo này có người thiếu thành thật thì phải.

- Thôi đi nàng, đừng có mà chặn đường đón ngõ.

- Vậy chứ mà trúng tim hồi nào không biết đó. Nhưng mình sãn sàng cho người ta cơ hội hối cải, giờ nghe đây, Nhím nhận được bao nhiêu lá tỉnh tò rồi?

- Cũng dăm ba.

- Ít thế, Nhỏ có đến vài chục cơ đấy nhá.

- Thế đã chấm được ai chưa?

- Cũng có đối tượng đáng phải suy nghĩ đấy.

- Bật mí xem nào?

- Ai dại thế. Trần gian đang buổi nhiễu nhương, trân châu bảo ngọc dễ thường bày ra cho chúng xơi mất à.

- Tự ái dồn cục rồi nghe.

- Cứ dồn cho đầy bao đi rồi đem ra sông bỏ. Tạm gác đây đã nhé, phim hay cắt nửa chừng mà.

- Đồ quỷ sứ.

Tiếng cười giòn thay cho lời chào. Tôi nửa ấm ức vì cái nỗi tò mò chưa thỏa, nửa hơi hôi hối vì đã trót không thật với Nhỏ, cũng có sao đâu, khi đã có thành ý thì không bao giờ là muộn cả. Chuông bên kia lại inh ỏi:

- Alo, đầu dây xin nghe a.

- Thiên hạ ra vẻ văn hóa điện thoại gớm ta.

- Nếu biết trước là Nhím thì khác rồi, có chuyện chi rứa?

- Mình đang muốn tận dụng cơ hội của thiên hạ dành cho, để ti toe cùng thiên hạ chuyện một mẩu đây.

- Thấy chưa. Biết ngay là thắc tha thắc thỏm rồi phải nhỏm dậy thôi. Trích ngang lý lịch xem nào.

Tôi cười, hít một hơi dài rồi bắt đầu… phát sóng:

- Nghe đây “Xuân xanh vừa độ gần tứ thập. (tiếng Nhỏ: Hơi bị cũ) Nhà vách ba gian vắng chó mèo. Cơm ngày ba bữa đẫy một niêu. (Hơi bị Cao Bá Quát) Chốn ven sông nắng sớm mưa chiều. Nghe chao chát cánh diều trong vân vũ.

- Eo ơi, răng mà nghe róng riết, nhịp tim hàng xóm cũng dồn dập lây. Chà chà, có vẻ dân làng ta hỉ?

- Đương nhiên, không những là dân làng mà có khi còn là già làng nữa đó, ơ mà già làng thì hom hem quá, thôi thì cũng cỡ thầy đề, thầy lý chi đó.

- Cho nên có kẻ mơ màng “Hến em” chứ gì.

Cười và cười. Đến phiên Nhỏ thập thò lai lịch, hoá ra Au của Nhỏ và Au của tôi (cứ tạm cho là vậy đi) lại có cùng một bơ của dòng Hương duyên dáng. Lại một hơi bị… trùng. Cao hứng cả hai hẹn hò sẽ có ngày bềnh bồng trên thuyền rồng sông Hương, nghe lãng mạn không chịu được. Tưỏng tượng hai nường đỏng đảnh ra vẻ thẹn thùng nghiêng nghiêng nón bài thơ… chu choa, ác không chịu được.

- Có Áo Trắng mới rồi nè em.

- A có rồi hả chị? Cho em một cuốn đi.

Cứ như một người yêu bé nhỏ mong chờ phút giây gặp gỡ, mối nợ duyên cứ son sắt từng kỳ. Chị chủ sạp báo không lần nào dám lãng quên phần của một độc giả rất trung thành. Mở xem ngay mình có gì trong số này không đã. Nếu có, nhẫy cẫng lên cho ha hả niềm vui trước khi bấm máy khoe đâu đó, không có hơi buồn buồn một chút nhưng xem xem các chiến hữu kỳ này có những ai. Có ai phê bình là tư tưởng cục bộ thì cũng chịu chứ phải đọc những bài của những cái tên gần gần trước đã, số nào mà thấy có nhiều cái tên gần gần ấy thì thích lắm, cảm giác đang được quây quần cùng nhau vậy.

Ơ, sao bài thơ này lại ở đây? Không những chường mặt trên trang báo với một cái tên lạ hoắc mà lại còn cẩn thận dòng chữ đề tặng V.A nào đó nữa chứ. Không lẽ bên sắp chữ sắp nhầm tên tác giả, làm sao mà có chuyện đó được, ăn rồi chỉ có chừng đó việc mà lại nhầm một cách chết ngươi thế này có mà toi cơm à. Nhưng nếu không phải bị nhầm theo cách đó thì tại sao? Tôi nhầm lại càng không, bởi vì bài thơ đặc biệt này tác giả đã nắn nót dòng chữ viết tay “Chỉ tặng riêng em”. Và với dòng chữ ấy thì không những tôi đã đọc đi đọc lại hàng mấy lần mà còn thuộc luôn từng chữ một. Vậy thì chỉ còn một khả năng là ai đó đạo thơ của Au để tặng nàng lấy le. Phải rồi, chắc chắn là vậy, thơ Au thênh thang quá mà, đâu có dễ kiểm soát, phải tin ngay cho Au để truy tìm thủ phạm, để kiện tác quyền mới được. Cô nàng V.A nào mà biết đây là một sản phẩm vay mượn thì chắc cũng biến sớm.

Chuông lúc nào không chuông, chuông đúng lúc người ta đang nguồn cơn lai láng thế này.

- Alo…

- Nhím ơi! Nhỏ đang tức chết đây.

- Tức chuyện gì?

- Nhỏ bị phản bội rồi.

- Ai phản bội?

- Hắn chứ còn ai.

- Coi chừng hiểu nhầm nhau đấy thôi, bình tĩnh đi đã.

- Nhầm làm sao được mà nhầm, chình ình ra trước mắt thế này mà. Nhím đọc Ao Trắng mới chưa?

- Rồi, vừa xong, mà sao…

- Nhím có thấy bài thơ đề tặng V.A nào đó không?

Ngực tôi nhốt lên một cái:

- Cái gì? Sao lại liên quan đến bài thơ đó?

- Bài thơ đó hắn bảo là chỉ tặng riêng Nhỏ, thế mà giờ lại đàng hoàng trên báo đề tặng người khác, Nhím bảo có tức điên lên được không cơ chứ.

Tôi sững người, trong đầu ong ong một thứ âm thanh không rõ rệt, trong máy vẫn ra rả tiếng Nhỏ :

- Hắn ký tên khác nhưng Nhỏ biết chắc chắn là hắn, hắn có hàng tá bút danh cơ mà. Phen này thì…

- Nhỏ này, có vấn đề rồi đây.

Vắn tắt một cách nhanh gọn, tôi nói cho Nhỏ nghe chuyện của mình. Cả hai cùng hiểu ra, Nhỏ lặng đi một lúc bỗng bùng lên phẫn nộ:

- Á à, dám lừa bản cô nương này à, à không nhị bản nương mới đúng.

- Thật không ngờ…

- Nhím này, hắn có đả động gì với Nhím chuyện tài trợ in thơ không?

- Không, nhưng hắn rất thường kêu ca về chuyện nhà dột, muốn mua ít vật liệu để sửa sang mà không có tiền, hắn có nhắc Nhỏ về ngày sinh nhật của hắn không?

- Có, nhắc đến mấy lần cơ, Nhỏ cứ tưởng hắn nói vu vơ cho vui thôi.

- Trong ba lá thư gần đây nhất, hắn tỏ ra kể lể nhiều thứ lắm, Nhím cũng đã hơi nghĩ ngợi, nhưng cho rằng tình cảm nên mới tâm sự thế. May mà mình chưa có động thái nào bị sập bẫy hắn. Hắn hỏi tiền Nhỏ để in thơ à?

- Không hỏi thẳng, kiểu như là gợi ý, bảo thơ hắn là các báo đặt hết rồi, ra là bán hết ngay, hắn dự thi thơ ở một tờ báo, bảo Nhỏ giả vờ viết thư đến tờ báo đó khen thơ hắn để ban giám khảo chú ý.

- Quá tồi, không ngờ cả hai đứa mình lại bị vướng chung một cái lưới.

- Mình phải làm cái gì đi chứ, nữ quái như chúng ta mà còn bị lừa thì không biết hắn đã lừa bao nhiêu các bé rồi.

- Phải làm một trận ra trò chứ, không thể bỏ qua được. Ai mà ngờ nồi canh văn nghệ đang bốc khói nghi ngút ngon lành lại lều bều một con sâu róm thế này.

- Rồi, bây giờ tạm gác máy đã, cùng đề ra kế hoạch, phương án nào tối ưu nhất thì… a lê hấp…

- Ôkê.

- Ấy đừng OK kẻo hơi bị nhầm.

Đang tức mà cả hai cũng phá lên cười. Bỏ máy xong, tôi trào lên cơn giận, đúng là “biết người biết mặt nào ai biết lòng” may mà “chưa biết người biết mặt nhưng đã biết lòng” rồi. Nghĩ lại thời gian thư từ qua lại chưa nhiều nhặn gì lắm, cũng chưa từng có những hứa hẹn xa xôi, một lần gặp mặt cũng còn chưa tính đến, vậy mà… Rõ là phường lừa đảo. Thì ra hắn cứ thấy trên báo có gương mặt nữ nào xuất hiện thì tìm cách làm quen rồi… Phải làm cách nào trừng trị cho hắn một trận đích đáng cho hắn thật chừa cái thói này đi mới được, nếu không hắn cứ còn tính chuyện lừa thiên hạ dài dài, lại mang tiếng chung cho những anh em trong giới nữa chứ. Thật đúng là không cứ phải trong áo cà sa là thầy tu cả.

Vắt óc moi tim, cuối cùng cả hai chúng tôi cùng tìm ra một phương án, Nhỏ thích quá sau khi bàn bạc xong toàn bộ kế hoạch bèn hứng chí la lớn:

- A ha, phen này có kẻ khốn nạn rồi, chúng mình phải tác chiến thật nhịp nhàng mới được.

- Nhỏ nè, Bộ chỉ huy quân sự không mời chúng mình làm tham mưu là một sai lầm đấy nhỉ.

- Hẳn rồi, không khéo sau chuyện này tụi mình lên sĩ quan chứ chẳng chơi. Nhưng mà trước mắt cứ phải đánh cho gọn trận này đi đã.

- Nghe cứ như nhà quân sự thứ thiệt ấy.

Thế là không quân đổ bộ cùng hỏa xa xung kích trong một chiều mưa rất Huế. Cả hai không nín được cười khi Nhóc tròn mắt tròn cả mồm trước hai vị khách không mời đang ướt sũng sịu từ đầu đến chân:

- Trời đất quỷ thần ơi! Làm sao mà cả hai vị lại ngẫu hứng Huế rong trong cái mùa nhèm nhẹp này? Lại không thèm báo trước để khổ chủ bày trò đón rước nữa chứ.

- Vẫn còn nhiều thời gian để Nhóc thể hiện vai trò chủ nhà hiếu khách đấy. Còn lý do vì sao ư? Hồi sau sẽ rõ.

Rồi mặc Nhóc với một mớ câu hỏi trong đầu cùng dáng điệu vội vã chăm sóc hai vị khách bất thình lình. Sau khi đã được chỉnh trang đâu đó, tôi hỏi Nhóc về một số quán cà phê trên địa bàn thành phố. Chọn được hai địa điểm lý tưởng rồi, tôi ưu tiên cho Nhỏ phát pháo trước. Chao ôi là chao ôi, cái giọng mượt như nhung của Nhỏ đang thánh thót rót vào tai thế kia hẳn bên đầu dây đang rộn rạo nhịp tim lắm chứ chẳng không. Và Nhỏ gác máy:

- Xong bước một, giờ đến bước hai.

Khoảng hơn mười phút sau, chuông phiá bên kia lại reo. Nếu ví giọng Nhỏ như Khiếu thì giọng tôi không khác gì Họa Mi, phớt lờ những lợn cợn ngắt đoạn vì sự lúng túng trong giọng nói bên kia, tôi cứ tha hồ hát bài ca hội ngộ, thật nồng nàn, thật tha thiết, và nhấp nháy vài tia hứa hẹn những thú vị bất ngờ, có là thằng ngốc mới từ chối một cuộc gặp như thế. Buông máy, tôi đánh mắt với Nhỏ trong vẻ ngơ ngác đến tội nghiệp của Nhóc. Sau hai tô cơm hến đến căng bụng, tôi và Nhỏ lên hai cái xe thồ đi về hai hướng.

Các bạn nghĩ sao khi với một cuộc hẹn đầu tiên mà trễ đến gần mười lăm phút. Chắc là phải giận dỗi, phải trách móc, nào là thiếu tôn trọng, thiếu nhiệt tình, thiếu quan tâm…nói chung là một phản ứng vô cùng khó chịu. Nhưng với cuộc hẹn này thì lại khác hẳn, nghĩa là tỏ vẻ rất thông cảm với lý do đối phương đưa ra, lại còn hớn hở như bắt được vàng nữa chứ. Một nụ cười tươi hết cỡ khi nhìn thấy bộ dạng rất ấn tượng của đối phương khi xuất hiện. Cái áo mưa trùm không hết nguời, cái mũ chụp vội trên mái tóc ướt bệt những nước là nước, hai ống quần thi nhau nhỏ tong tong xuống nền quán, da mặt tái đi vì lạnh. Nói chung là toàn cảnh mà đã từng tự giới thiệu là hơi bị bắt mắt thì bây giờ trông hơi bị… đáng thương. (Hộc tốc đạp xe trong mưa gần ba cây số còn gì). Sau vài câu thăm hỏi, vài lời nhớ nhung, đối tượng len lén nhìn đồng hồ, con bé tôi thì cứ vô tư mà hót. Lại nhìn đồng hồ, hình như ruột gan đang phải bỏng rồi, lửa lan đến buồng phổi, lan đến cổ rồi:

- Em… em thông cảm, anh có việc gấp phải đi chút xíu, anh quay lại ngay hỉ.

- Đi đâu mà gấp vậy, lúc khác không được sao? Mới gặp nhau có một tí đã lo đi rồi.

Môi dẩu ra, mắt liếc xéo, đầu nghẹo đi, nũng nịu không chịu được.

- Tại anh lỡ hẹn lúc chiều không báo lại được, anh ra gặp họ một chút, xong việc anh lại liền mà.

Vờ vịt rứa thôi, liền ra vẻ ngoan ngoãn hiền lành, mắt chớp chớp:

- Vậy anh đi đi, quay lại liền nha, em chờ anh đó.

- Ừ ừ, em chờ anh chút hỉ.

Lại cái áo mưa trùm không hết người, lại cái mũ chụp vội, lại cái xe đạp rin rít những vòng xích. Đợi cái xe khuất bóng, nhờ điện thoại của chủ quán, tôi với Nhỏ hí há một tràng cho sự thành công bước đầu của kế hoạch. Cô chủ quán nhướng mắt ngạc nhiên khi nghe cuộc điện đàm.

- Lát hồi xong em thanh toán luôn nhá chị.

Hơn nửa tiếng sau, đối tượng lại xuất hiện trước cửa quán, mặt xám đi thêm ít nữa, bộ quần áo thì hầu như không còn chỗ nào là không dính nước:

- Trời ơi, em mà biết anh phải vất vả thế này thì em không gọi cho anh đâu.

- Không sao đâu mà, em ra đây mà không cho anh biết thì còn nói gì chuyện tình cảm tụi mình nữa chứ. Tại bữa nay trời mưa dữ quá. Em uống thêm gì đi.

- Thôi, anh xong việc với người ta chưa?

- À… ự… cũng còn vướng tí nữa, xíu anh lại phải gặp họ lần nữa mới xong.

- Vậy lát anh lại phải đi nữa á?

- Thì công chuyện quan trọng mà, nếu không anh đã hủy rồi.

- Hay là thôi, em về để cho anh đi công chuyện với người ta nghe.

- Không không, không cần đâu.

- Hay em đi với anh?

- Thôi thôi, trời mưa gió như ri em đi chi cho khổ.

Xúc động đậy ghê nơi.

- Hay là anh đi cho xong đi rồi về đưa em đi ăn cái gì với. Hòi chiền nôn gặp anh em đã ăn gì đâu, giờ đói bụng quá.

- Rứa hả? Sao bây giờ em mới nói? Mình đi ăn bây giờ luôn cũng được.

- Thôi, anh còn công chuyện mà, đâu có yên tâm yên trí mà ngồi ăn, anh cứ đi đi, em còn ráng được mà.

Còn không biết cờ bay phấp phới trong bụng nữa thì thôi. Có người yêu biết chăm lo, biết thông cảm như ri thì sung sướng quá hè. Đừng có mà giả vờ chăm sóc nữa kẻo đổi ý bây giờ.

- Em tốt quá, vậy anh đi nhanh rồi về liền nghe, đợi anh chút hỉ?

Sẽ còn phải vài cái “hỉ” nữa đấy. Lại chụp máy của chủ quán hí ha hí hố, lần này cô chủ quán hình như đã thủng chuyện, cứ ngồi cười mím chi.

Lần thứ ba, hình như cái bậc cửa của quán cà phê vừa được nâng lên thì phải. Sao mà bước chân lên phải rướn thế kia?

- Mình…đi ăn…đi em.

- Anh mệt lắm rồi hả? Thôi, mệt lắm rồi thì về nhà nghỉ đi, mai gặp cũng được mà.

- Anh không… không sao, đi được mà, ai lại để em…

- Thôi, nhìn anh thế này thì em ăn cũng không vô. Anh về nghỉ đi, mình còn nhiều thời gian mà, à mai gặp em đưa anh cái hôm bữa anh hỏi đó nghe.

- Ua có hả?

- Thì có em mới ra đây chứ.

Dám chắc cơn mệt bớt ngay đi một nửa, khỏi cần hối thêm lần nữa, lửa cháy tới óc rồi, nên lóc ta lóc tóc như con gà nhảy ổ.

- Trời mưa miết, anh kêu xích lô cho em về nha, cho khỏi ướt.

- Em tự kêu được mà, anh về nghỉ đi không cảm lạnh bây giờ. Em đợi ngớt mưa một chút rồi về cũng được.

Răng cái trên bạt tai cái dưới, cũng chẳng còn đủ sĩ diện để cố làm thêm một hành động ga lăng nào nữa. Thêm một cuộc điện thoại cho màn kết, xong tôi ngồi vào một chiếc xích lô dưới tán cây. Chợt thấy thương bác xích lô già trong ba cây số dưới trời mưa tầm tã.

Đã từng nghe “trời long đất lở, sấm nổ trong đầu”, thì đây là dịp tốt nhất để mục sở. Qua cái mồm há hốc, cặp mắt trợn ngược, cả khối thân hình cứng đờ trong một tư thế, trông không khác một pho tượng trong bàn tay người thợ vụng. Không biết có ngọn gió độc nào khiến con người ta á khẩu ngay lập tức không nhỉ? Bởi vì trước tình thế ấy, tôi và Nhỏ hiện nguyên hình là hai nữ quái, với một tràng cười có thể ví với tiếng mở nút của chai sâm banh. Kéo cái ghế ngồi đối diện, tôi chuẩn bị cho chiêu cuối cùng kết thúc kế hoạch, thì bỗng cả ba cùng giật mình vì một tràng vỗ tay lốp bốp vang lên rất gần, cùng một giọng nói hể hả:

- Hay lắm hay lắm. Nam một đầu, Bắc một đầu. Sút tung một cú, khiến Tràng cầu lung lay.

Thì ra là Nhóc, Nhóc đã tự giải quyết những thắc mắc của mình bằng cách làm anh trinh sát.

- Thế nào, bài ca không quên của anh vẫn còn vang mãi những giai điệu mượt mà thật đấy nhỉ. Nhưng lần này thì kẻ cắp bà già, chạy đâu được nữa.

Cái pho tượng hơi vẹo vọ một chút:

- Ơ…tôi…tôi…

Và vẫn Nhóc:

- Thật tâm cho người ta trọng

- Thật đức cho người ta kính

- Thật tình cho người ta thương

- Đừng giở thói lẹo lươn mà người ta khi dể.

Ngón đòn chung cuộc thật ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi. Không còn cách nào khác, pho tượng lao vụt ra ngoài thêm không kịp choàng cái áo mưa, vồ lấy cái xe đạp, lót ta lót tót leo lên, cắm ca cắm cúi lủi một mạch. Không hẹn mà cả ba chúng tôi cùng cười phá lên:

- Hình như hắn hơi bị…

ĐÀM LAN



|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế