Hiện có 29 người xem / 2309520 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/10/2012

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Cuộc họp ngày hôm nay có hai người bạn mới là họ hàng của Bs Nguyễn Lân-Đính, và hai vị khác do quen biết với Lm Triết nên đến tham dự. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã mời 4 vị khách tự giới thiệu ngắn gọn về mình, trước khi mở đầu phiên họp. Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách, một mới và một cũ. Cuốn sách mới bằng tiếng Việt, khổ 16cm x 24cm, dày 1064 trang mang tựa đề là “Những Lằn Ranh Văn Học”. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã tình cờ gặp được cuốn này, và vì thấy nó là Kỷ Yếu của một cuộc Hội Thảo Quốc Tế, đã được Trường Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 21/12/2011, với sự tham dự của một số Nhà nghiên cứu và nhà giáo từ Đại Học Paris 7 (Pháp), Đại Học Hamburg (Đức) và Đại Học Kansai (Nhật), nên ông đã mua và tự hứa với chính mình là khi rảnh rỗi sẽ bỏ chút thời giờ đọc cơ man là tham luận của một vài người ông quen biết. Cuốn sách đồ sộ và được in ấn khá đẹp đã được một vài thành viên chuyền tay nhau xem qua.

Cuốn thứ nhì, cuốn sách cũ, được in trước năm 1888 (sách không ghi năm in, nhưng vì là loại sách đẹp được dùng làm sách phần thưởng, nên rất may là ở ngay mặt trong bìa trước của sách có dán tờ giấy trao giải thưởng của một Trường Làng ở Pháp và có đề ngày trao giải là ngày 6/8/1888, như vậy cuốn sách phải được có mặt trên đời trước năm 1888 hoặc là ngay trong năm 1888.) Cuốn sách khổ 11cm x 18cm, bìa cứng mạ vàng, với 3 cạnh mạ vàng tuyệt đẹp, mang tựa đề là “Cuộc Chinh Phục Xứ Bắc Kỳ bởi 27 người Pháp” và được ký tên là của Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis) và dày 316 trang, với một số minh họa bằng bút sắt tuyệt đẹp và một tấm bản đồ Xứ Bắc Kỳ vào lúc đó, được vẽ căn cứ trên các tài liệu của Đồ Phổ Nghĩa. Cuốn này rất hiếm thấy xuất hiện ở Việt Nam nên Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã phải trả một giá “sứt cổ” là 120 đô Mẽo, nhưng ông vẫn thấy thích thú vì nó quá đẹp, và sau khi xem kỹ thì nó là những trích đoạn trong Hồi Ký của Đồ Phổ Nghĩa, và là những tài liệu lịch sử khá tốt.

Cuốn sách được các thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú. Tiếp theo phần giới thiệu sách, anh Trần văn Hữu đã đưa ra một số điều giải thích một vài câu Kiều, theo ý nghĩ của cá nhân anh, và đã ngâm tặng các thành viên một bài thơ bằng giọng ngâm rất truyền cảm của anh. Tiếp lời anh Hữu, bà Thùy Dương đã đưa ra một số nhận xét về Bản Tin và một số đề nghị nhằm giúp gia tăng giá trị và sức thu hút của Bản Tin mà bà cho biết là rất nhiều bạn bè của bà rất ưa thích. Bà Thùy Dương nói xong thì bà Tâm Nguyện lên nói qua về bài thơ “Mẹ Già” bà làm ở Singapore trong dịp được vinh dự làm Oshin cho con gái bà khi cháu sinh con ở nơi quê người vì phải đi theo chồng sinh sống ở Singapore. Tiếp lời bà Tâm Nguyện, nhà thơ Thanh Phong đã ngâm tặng các thành viên một bài thơ của chính ông. Sau đó, anh Dương Lêh đã hát tặng các thành viên bài hát nổi danh “Bông Hồng cài áo”. Sau khi anh Dương hát xong, người bạn Việt Kiều đã lên tâm sự với các thành viên về cuộc sống của anh và gia quyến tại bang Ohio ở Hoa Kỳ. Sau phần nói chuyện của người bạn Việt Kiều, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã Lê văn Khoe với các thành viên là anh có tới ba bà xã ở Hoa Kỳ (mà 2 trong 3 người đã về bên kia) và anh vừa là cha, lại vừa là ông của gần 2 tá Mẽo gốc Việt, nhưng anh không khoái đi Mỹ sinh sống vì người Mỹ quá thực dụng và hơi bị ít tình cảm… Cuối cùng anh Thanh Châu, như thường lệ, đã lên hát tặng các thành viên bài “Đất nước của lời ru” bằng giọng ca rất hùng dũng của anh. Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 13 cùng ngày.


VŨ THƯ HỮU

Vài chi tiết về cuốn

“KỶ YẾU HỘI THẢO –

NHỮNG LẰN RANH VĂN HỌC”

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM 23/12/2011

Vừa bước vào tiệm sách, nhìn lên phía trên cái kệ dài để các “anh bạn” Tự Điển béo mập, to đùng, thì mình bất chợt bắt gặp cuốn Kỷ Yếu này. Trước khi nói về cuốn Kỷ Yếu này, mình cảm thấy phải cần giải thích tại sao mình lại dùng hai chữ “anh bạn” để chỉ các tự điển khả kính? Sở dĩ mình gọi thế vì ngoài một vài cuốn tự điển loại Cụ Ông của các tác giả danh tiếng như Huỳnh Tịnh Của, Génibrel, Gustave Hue, Đào Duy Anh, Thanh Nghị, Đào Đăng Vỹ vv… thì giờ đây có nhiều “anh bạn” tự điển tên lạ hoắc, và bên trong thì cũng có nhiều từ cũng lạ hoắc như cái tên tác giả vậy! Mình không có ý nói đùa vì mình có “tang chứng” rõ ràng như 2 với 2 là 4 là đã có một cuốn tự điển nào đó cho nghĩa cái lò thiêu xácgas chamber, trong khi đúng ra gas chamber là phòng hơi ngạt, còn lò thiêu xác thì phải là crematorium mới chính xác! Ngoài ra mình còn được biết một vị “oánh 7 ngày không ra một chữ tiếng Anh” mà lại ký tên trên một anh bạn tự điển Anh Việt mập hù! Hì! Hì! Lại còn một anh bạn tự điển khác đã định nghĩa từ Chauvinism (Chủ nghĩa ái quốc cực đoan) là Chủ nghĩa Vô Sanh, tức là ái quốc quá thì khó có con! Ha! Ha! Ha!

Bây giờ xin trở lại cuốn Kỷ Yếu Hội Thảo. Vừa thấy cái tên “Những lằn ranh văn học” mình đã cảm thấy không mấy khoái, vì chắc mình khó mà đủ can đảm lướt qua những lằn ranh này quá; nhưng rồi khi giở lướt qua bên trong, mình bỗng thấy trong số gần 90 bài tham luận có vài bài của vài nhân vật mình biết, và lại đồng thời biết là Hội Thảo này mang tính Quốc Tế vì có một số nhà giáo và nhà nghiên cứu đến từ Pháp, Đức và Nhật Bản, VÀ NHẤT LÀ SAU KHI BẮT GẶP GẦN 30 TRANG VIẾT VỀ CỤ NGUYỄN DU LÀ VĨ NHÂN VĂN HỌC MÌNH YÊU THÍCH, mình liền quyết định mua, vì với mình, BẤT CỨ TÀI LIỆU GÌ NHẮC TỚI CỤ THÌ DÙ HAY, DÙ DỞ MÌNH VẪN ẴM VỀ LÀ CÁI CHẮC!...

Và đến đây là lúc xảy ra chuyện tức cười, đáng được ghi lại trong đời chơi sách của mình, vì đây chính là một thí dụ điển hình nhất của chuyện GẬY ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG! Mình vừa cất tiếng hỏi giá thì anh chủ tiệm chạy từ phía trong ra cất tiếng chào ông Xưa & Nay, thì ra anh ta vẫn vào sachvatranh đọc nên biết mặt mình. Anh ta nói tỉnh queo: “Cuốn này cực kỳ hiếm, bác hên lắm mới gặp, của người bạn tôi làm Giáo Sư gửi bán 500 ngàn”. Mình nói: “Ôi giá trên sách có 280 ngàn mà sao lại bán tới 500 ngàn?”. Anh ta trả lời: “Dạ, ông bạn gửi và đòi giá đó, bác muốn bao nhiêu xin cứ cho biết để tôi nói lại với bạn tôi”. Mình bực mình quá, nhưng vì cuốn sách có gần 30 trang nói về Cụ nên đành kiên nhẫn bảo anh ta: “Anh làm ơn nói hộ là tôi trả 250 ngàn, được không?”. Anh ta nói: “Vâng để tôi nói lại với bạn tôi; bác làm ơn cho tôi số di động của bác, để nếu anh ta đồng ý bán tôi sẽ gọi bác liền!”. Miệng anh ta nói vậy, nhưng mình thoáng thấy ánh mắt anh ta lộ vẻ vui ra mặt, vì thực ra, những loại kỷ yếu này không phải lúc nào cũng có khách mua! Té ra chỉ vì mình chót là ông Sách Xưa & Nay nên mới được hưởng giá “trên trời” 500 ngàn! Mình nói: “Đây số di động của tôi đây, anh hỏi hộ và gọi tôi nếu bạn anh đồng ý bán!” Ra về mình hơi bực mình vì hôm nay cũng lại gặp một hoàn cảnh tương tự như mấy hôm trước, một anh chủ tiệm sách cũ khác lôi từ trên lầu xuống Bản Tin của CLB Sách Xưa và Nay của mình để thông báo là, theo bản tin này thì các sách có thủ bút và chữ ký của tác giả ở nước ngoài giá cả 100 ngàn đô Mẽo! Và hôm đó mình đã phải giải thích đến gần trẹo lưỡi sự khác biệt giữa nguyên bản và bản in nên anh ta mới chịu hạ giá từ 300 đô Mẽo xuống 300 đô Mít. Nhưng rồi hôm nay mình đã không phải đợi lâu, vì mới 4 giờ chiều đã thấy anh ta gọi điện cho hay là bạn anh ta đồng ý bán “rẻ” cho ông Xưa & Nay! Mình bèn thử giả vờ tỏ vẻ không tha thiết lắm và bảo anh ta: “Thôi, được rồi! Anh cứ giữ đấy, vài hôm nữa tôi rỗi tôi sẽ ghé lấy”. Nào ngờ anh ta nhanh nhẩu đề nghị mình đưa địa chỉ ở Phú Nhuận “để chốc nữa tôi có việc đi qua sẽ ghé đưa cho bác cho được việc”. Thì ra anh ta sợ mình đổi ý không lấy nữa, thế là mình đỡ được cả trăm ngàn tiền taxi…và cuốn sách đã được giao tận tay.

Có cuốn sách trong tay, mình vội ăn cơm chiều xong là dành cho nó một lúc để lướt qua nội dung, và thử ghé vài “lằn ranh” xem sao. Kết quả là mới chỉ ghé có một vài lằn ranh trong tổng số gần 90 bài tham luận thì mình đã mở tủ đưa cuốn sách vào Sưu Tập Kiều của mình và… chấm hết!

Là người sống và yêu tự do từ khi còn bé, vì từ bé mình đã được ba mình dạy cho sống độc lập tự chủ, và ngay từ hồi học thi Tú Tài, mỗi khi giở những cuốn Lịch Sử Văn Học Pháp (mà mình hiện có 6, 7 cuốn, có cuốn to đùng và đầy hình ảnh như cuốn của nhà Bordas) mình luôn luôn không thèm quan tâm nhiều tới văn phái này, trường phái kia MÀ LUÔN NGHĨ RẰNG CÁC TÁC GIẢ VĨ ĐẠI NHƯ VICTOR HUGO, HONORE DE BALZAC, VOLTAIRE, EUGENE SUE vv… KHI VIẾT RA NHỮNG TÁC PHẨM BẤT HỦ, CHẮC CHẲNG BAO GIỜ THÈM NGHĨ HỌ THUỘC TRƯỜNG PHÁI NÀY, VĂN PHÁI NỌ, TOÀN LÀ NHỮNG THỨ MÀ NGƯỜI ĐỜI SAU GÁN GHÉP CHO HỌ MÀ THÔI… Trong đời chơi sách của mình, mình đã được đọc những tác phẩm bất hủ của các tác giả nói trên VÀ LUÔN VỮNG TIN LÀ HỌ CHẲNG BAO GIỜ THÈM NGHĨ VỀ LÝ THUYẾT NÀY, LÝ THUYẾT NỌ, VĂN PHÁI NÀY VĂN PHÁI KIA, KHI VIẾT RA NHỮNG TÁC PHẨM SẼ TỒN TẠI MÃI VỚI THỜI GIAN, VÌ CHÚNG THỰC SỰ HAY VÀ ĐI VÀO LÒNG NGƯỜI!

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

&

NÓI THÊM VỀ CUỘC TRƯNG BÀY VỚI CHỦ ĐỀ :

"NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VN

CHO NỀN VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC DÂN TỘC"

TẠI NHÀ TRUYỀN THỐNG TỔNG GIÁO PHẬN Tp.HCM

TỪ NGÀY 25/08/2012 ĐẾN NGÀY 25/02/2013

Ý tưởng chủ đao :

Bất cứ một khách tham quan nào có óc tổng hợp nhạy bén một tí cũng thấy ngay "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt cả 2 phòng trưng bày: đó là ý tưởng đại kết, nghĩa là: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết", hay nói theo nhiều kiểu khác cũng vẫn không sai, như là: hiệp thông, hòa hợp. liên kết, kết đoàn, liên đới, tứ hải giai huynh đệ hoặc huynh đệ chi binh...

Thực vậy, đứng ở góc độ nào quan sát, người ta cũng thấy nhiều nét văn hóa khác nhau được đặt bên nhau để bổ túc cho nhau, để cùng nhau hướng về Chân Thiện Mỹ tương đối và tuyệt đối.

Trong cuộc gặp gỡ của Ban Mục Vụ Liên Tôn sáng ngày 01/09/2012 tại Trung tâm Mục vụ để giới thiệu tập thơ của Hàn Mạc Tử và 139 nhà thơ Công giáo khác, một tác giả đã chia sẻ: "Đạo hướng về Chân Thiện Mỹ, đời cũng hướng lên Chân Thiện Mỹ. Khi làm thơ tôi không đặt nặng vấn đề đạo hay đời, đạo đời đều tốt, đều đáng quý khi biết hướng về Chân Thiện Mỹ".

Không gian văn hóa chẳng khác nào một vườn hoa đua nhau khoe sắc. Có nhiều chủng loại khác nhau, mỗi hoa một nét đẹp riêng khiến khách tham quan không chán mắt. Những nét văn hóa ở bên nhau khác nào chị em Thúy Kiều - Thúy Vân mà đại thi hào Nguyễn Du đã tả:

"Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Một người một vẻ mười phân vẹn mười "

(Kim Vân Kiều)

Ngay trong mảng trưng bày các vị lãnh đạo Công giáo, rất hoành tráng về màu sắc và cách sắp đặt ta đã thấy nổi bật tính đại kết, tinh thần hiệp thông và thống nhất. Ở vị trí cao nhất là hình ảnh trang trọng của Đức Giáo hoàng Bênêđictô thứ 16, vị Cha chung của Hội Thánh toàn cầu, tiếp theo là 5 vị Hồng Y giáo chủ của Việt Nam, phía dưới là 102 vị Tổng Giám mục và Giám mục người bản xứ (được thụ phong từ 1933 đến 2011) phục vụ tại các Giáo phận trong nước và cả nước ngoài nữa. Các ngài xuất thân từ dân tộc Việt Nam, các ngài có gốc gác từ mọi miền của quê hương đất nước: Bắc - Trung - Nam. Các ngài có tuổi tác khác nhau, giọng nói cũng đậm nét địa phương, không hẳn giống nhau nhưng lại ngồi chung với nhau trong một Hội Thánh Công giáo Việt Nam và Hội Thánh duy nhất toàn cầu, dưới quyền lãnh đạo của Đức Thánh Cha đương kim. Tại quốc nội, các ngài liên kết với nhau thành một khối duy nhất là Hội đồng Giám mục Việt Nam dưới sự điều hành của vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục, hiện tại là Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội: Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. (H.1)

Những hiện vật văn hóa vật thể và phi vật thể được trưng bày tiếp theo là những nét văn hóa của nhiều miền, nhiều sắc tộc sát cánh bên nhau, thể hiện chính xác nhận định của Tông huấn Giáo Hội tại Á châu đại ý như sau : "Châu Á là một miền đất đa văn hóa, đa sắc tộc, đa tôn giáo ... cho nên đối với chúng ta vấn đề hội nhập văn hóa là vấn đề bức thiết".

Trong không gian trưng bày, chúng ta thấy có bóng dáng của nhiều sắc dân: dân tộc Kinh gồm 3 miền Bắc-Trung-Nam, qua những tác phẩm của từng miền: Bắc có kiệu, tòa sơn son thếp vàng, những tượng gỗ, tượng đất nung của những "Phó" nổi danh như Phó Gia, Phó Trọng (H.2); Trung có những câu đối của Cha Sảng Đình Nguyễn Văn Thích và câu đối đời vua Khải Định (H.3); Nam có những tủ thờ truyền thống (H.4), có những tác phẩm gốm Cây Mai, Lái Thiêu, Biên Hòa (H.5)...; Dân tộc ít người vùng cao Tây Bắc như Hmông, Dao, Tày, Nùng... có chiếc trống truyền thống và đôi mõ trâu từ Hà Giang đưa vào (H.6); Dân tộc Tây Nguyên có giáo đâm trâu, tượng nhà mồ, trụ bàn thờ bằng cây rừng của dân tộc K'ho (nhà thờ Mađagui cũ) (H.7); Người Hoa có sách chữ Hán, có những chữ Phúc Lộc Thọ hoặc bảng chữ antimoine thếp vàng: "Chúa Giêsu là chủ gia đình tôi" (H.8); Đồng bào Khơme có đế và tượng thờ tiêu biểu của miền đất Thủy Chân Lạp xưa (H.9); Đồng bào Chăm có các phù điêu đá voi, rắn thần Nagar, tượng thần cầu nguyện, cánh tiên... từ thế kỷ 10-13 (H.10), những hiện vật tiêu biểu của vùng đất Chămpa thuở trước.

Các tôn giáo lớn cũng góp mặt qua những hình ảnh, phù điêu như phù điêu voi thần, rắn thần của Ấn giáo (H.11), sách Tứ Thư Ngũ Kinh trong Khổng giáo, sách Kinh Phật giáo (H.12), cuốn "Tân San Tăng Bổ Thích Nghĩa Thùy Huấn Kinh" của Lão giáo.

Các tín ngưỡng dân gian cũng có mặt như tượng ông Nhật bà Nguyệt

Không chỉ nối kết những thành phần trong nước mà còn vươn ra cả thế giới trong tinh thần "tứ hải giai huynh đệ" với những sách vở, tượng ảnh, đồ thờ, những hiện vật có xuất xứ từ Pháp, Ý... (H.13+14+15)

Tóm lại, qua cuộc trưng bày này chúng ta cảm nhận được phần nào chủ trương của Hội đồng Giám mục Việt Nam qua thư chung 1980 với trọng tâm: "Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc".

Tân Sa Châu, ngày 04 tháng 09 năm 2012

TRƯỞNG BAN VĂN HÓA GIÁO PHẬN

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT

1. Xin nói lại cho rõ về một chi tiết trong bài phỏng vấn trên báo CGDT số 1872 tuần lễ từ 31/8 - 06/09/2012, trang 48: "...Việt-Bồ-La do cha Đắc Lộ thực hiện vào năm 1651, tiếp theo là những cuốn tự điển do các nhà truyền giáo tiếp tục biên soạn: Tự Điển của Đức Cha Bá Đa Lộc, Tự Điển của Đức Cha Taberd, của các thừa sai Gaspar, Génilrel, Gustave Hue hoặc của các tín hữu Công giáo như Pétrus Trương Vĩnh Ký; bộ Tự Điển tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam do Paulus Huỳnh Tịnh Của (Kitô hữu) viết và xuất bản năm 1895-1896. Mãi tới năm 1932 mới thấy xuất hiện cuốn Tự Điển Hán Việt, và năm 1936 cuốn Tự Điển Pháp Việt đầu tiên của cụ Đào Duy Anh, và năm 1949 xuất hiện cuốn Pháp Việt Đại Tự Điển của cụ Đào Đăng Vỹ.

2. Một vài hình ảnh:


TỪ TU THIỀN ĐẾN TU PHẬT (tt)

CÔNG ÁN THỨ BỐN MƯƠI BA

GẬY TRÚC CỦA THỦ SƠN

*Công Án:

Hòa Thượng Thủ Sơn giơ cây gậy trúc trước chúng mà nói:

- Này các ông, nếu gọi là gậy trúc thì xúc phạm, không gọi là gậy trúc thì trái nghịch. Vậy gọi là gì?

Lời giải:

Chỉ có cây gậy trúc mà quan trọng đến thế sao? Gậy trúc mà không cho gọi là gậy trúc, và gọi hay không gọi đều sai. Vậy phải gọi bằng gì? Sao không thấy Hoà Thượng đưa Phật Pháp ra cho chúng tăng soi quán nhỉ? Có như thế mà Ngài Vân Môn bàn rằng: “Đó là lệnh ban tha giết. Phật, Tổ phải xin tha!

Chao ôi, chư Thiền Sư đó học gì, đắc gì mà quá cao siêu như thế? Chỉ có cây gậy mà uy đã lớn như thế rồi! Liệu gậy đó chống tới địa ngục hay tới đâu đây? Nếu người sau cứ gậy trúc mà Tham chắc sẽ Đắc gậy trúc, chẳng thể đắc Phật Pháp được!

CÔNG ÁN THỨ BỐN MƯƠI BỐN

CÂY GẬY CỦA BA TIÊU

*Công Án:

Hòa Thượng Ba Tiêu nói với Tăng chúng:

- Các ông có cây gậy, tôi sẽ cho các ông cây gậy. Các ông không có cây gậy, tôi đoạt cây gậy của các ông.

Lời giải:

Các Tổ Sư Thiền luôn muốn cho người tu học những điều phi thực tế mà cũng chẳng thấy dính dáng gì đến đạo giải thoát. Hết vị dùng gậy đánh người tham học. Đưa gậy ra bắt nói nó là cái gì? Đến vị nọ lại đòi cho gậy, đoạt gậy! Trong khi Phật thì cầm cành Sen, nêu được ý nghĩa không nhiễm của đạo Giải Thoát, thì chư vị Thiền Sư đó chỉ có cây gậy trần tục để chống mà đi trên con đường trần thế trơn trợt gập ghềnh, lại còn muốn nói khác đi, nói nó chẳng phải là gậy! Chẳng trách đệ tử ngơ ngác không biết sao để trả lời cho vừa ý Thầy!

" Chỉ cần gọi đó là gậy thì vào địa ngục như tên bắn " . Đơn giản thế sao thưa ngài VÔ MÔN? Kinh Phật dạy về Nhân Quả, làm ác, gặp ác. Tạo đại tội, gây đại nghiệp mới sa địa ngục, chưa hề thấy chỗ nào bảo gọi gậy là gậy thì vào địa ngục! Quả là Các Thiền Sư ngày càng lộng ngôn, càng xa rời Phật Pháp!

Kết Luận: Cũng may cho đời sau là lần hồi các môn Thiền này tự diệt cho người tu đỡ bị hù doạ! Vật lù lù, không cho nói. Nói không đúng ý thì đọa địa ngục ! Còn các vị chê Phật, chê Tổ thì đoạ vào đâu không thấy nói!

CÔNG ÁN THỨ BỐN MƯƠI LĂM

KẺ ẤY LÀ AI?

*Công Án:

Ngài Pháp Diễn ở Đông Sơn nói:

- Thích Ca, Di Lặc còn là tôi đòi của kẻ ấy. Thử hỏi kẻ ấy là ai?

Lời giải:

Đạo Phật dạy người tu chỉ có "Tự Độ", Mình tu thì mình nhờ, có làm được gì cho ai, cứu độ được ai mà ra uy lớn như thế? Người phàm phu còn phải “tôn sư trọng đạo”, sao nơi chùa chiền thiền môn lại có những hạng tà sư cao ngạo đến mức coi khinh chư Phật như thế?

Ngài Pháp Diễn này tự xưng là Ngũ Tổ nhưng không phải là Thầy của Lục Tổ, mà thuộc dòng Lâm Tế, đắc pháp với Ngài Thủ Đoan không biết có tên tuổi trong các dòng Thiền chính thống hay không mà nói năng ngạo mạn đến như vậy. Hay pháp môn Tu Thiền chuyên đào tạo ra những vị Thầy, Tổ như thế?!

Thân mình đang nương cửa Phật, nhờ màu cờ sắc áo của Phật mà vừa có ăn, vừa nhàn thân lại vừa được người tôn trọng lại mở miệng báng Phật, khinh Tổ! Đạo Phật dạy phải Phá Chấp Ngã đi. Nhưng Ngài tu thế nào mà càng tu cái Ngã càng to! Đối với con đường tu hành, mình là kẻ hậu học, sinh ra thời sau, cách xa các Ngài hàng ngàn năm, dù có đạt đến trình độ như các Ngài mình cũng chỉ là học trò. Kính Phật, trả ơn Phật còn chưa hết!

Phàm phu thô lỗ chắc cũng không dám nói những điều bất kính như vậy! Với cái Tâm, cái Khẩu như thế mà là Thiền Sư đó ư?

Qua Công Án này ta còn thấy rõ thêm trình độ của Thiền Sư tự xưng là Ngũ Tổ! Bậc chân tu thì lúc nào cũng “Thu thúc Lục Căn”, “Ngũ Uẩn Giai Không”, nên Thân, Khẩu, Ý Ba Nghiệp thanh tịnh. Trái lại, các Thiền Sư thì lúc nào cũng ngạo mạn, tự cao, tự đại! Thấy mình hơn người đã là kiêu mạn, còn thấy Phật Thích Ca, Phật Di Lặc là tôi đòi của mình nữa thì thật là hết thuốc! Vậy mà Ngài Vô Môn hẳn đắc ý vì môn Thiền đào tạo ra những vị cao siêu như vậy nên gom vào làm Công Án người Tu Thiền về sau Tham! Đó là tội chồng mê cho người mà các vị đó không biết phải trả nghiệp thế nào cho xứng đây!

CÔNG ÁN THỨ BỐN MƯƠI SÁU

ĐẦU SÀO TIẾN THÊM

*Công Án:

Hoà Thượng Thạch Sương nói:

- Đầu sào trăm thước làm sao tiến thêm?

Có vị cổ đức lại nói:

- Đầu sào trăm thước đã ngồi lên,

Thấy đạo mà chưa thật nhập chân.

Trăm thước đầu sào, cần bước nữa.

Mười phương thế giới hiện toàn thân.

Lời giải:

Trên con đường tu hành, mỗi người đang làm công việc Phá cái Ngã Chấp, nương theo giáo lý của Đạo Phật. Cây sào trăm thước tượng trưng cho cái Chấp Thân mà mỗi người đang lui tới trong đó. Nào tham, sân, si mạn, yêu, ghét... cứ loanh quanh như thế cho đến hết một đời và sẽ tiếp tục vòng quanh trong sáu ngã luân hồi không thôi.

Thấy Đạo tức là thấy con đường Giải Thoát. Con đường này cần lìa những chấp nhất cái Thân giả hợp, cái Tâm hư vọng này, nhưng thấy chưa phải là Thoát được nó, mà cần phải Làm những công việc tương ưng. Đó là từng công việc Thí, Xả, Giới, Hạnh, Lục Độ, Bát Chánh Đạo. Một mặt để rào đón. Một mặt để tẩy rửa nó. Thời gian tu hành đó phải thường xuyên quán sát, tư duy để thấy cái Lý đúng, rồi theo đó mà thực hành. Kinh dạy: Như người thợ làm vàng cần cù chắt lọc, gom góp để làm thành tác phẩm. Từng bước đốt, đập. Chốc chốc lại đưa ra xem có đúng theo mẫu hay chưa.

Chư cổ Đức đưa đầu sào để nhắc nhở người tu: sau khi thấy cái Lý rồi thì phải áp dụng cái Lý đó. Đã nói rằng “thân này là giả tạm, là không thường còn”, thì đừng tiếp tục đắm vào nó. Đừng để nó lôi cuốn vào những hành vi Tham, sân, si, yêu, ghét...như trước kia. Đó chính là công việc gọi là tu hành mà người tu hàng ngày phải thực hiện.

Chưa Xả được cái Chấp Thân thì chưa hết Chấp Pháp. Muốn hết Chấp lại phải hiểu cái LÝ của Đạo. Do đó, người không hiểu LÝ thì cũng khó thể thực hành được vậy.

CÔNG ÁN THỨ BỐN MƯƠI BẢY

BA CỬA CỦA ĐÂU SUẤT

*Công Án:

Hòa Thượng Đâu Suất Duyệt đặt ra ba cửa để hạch hỏi người học rằng:

- Lặn lội tìm học, chỉ mưu thấy Tính, vậy Tính ở đâu? Biết được Tính mình mới thoát Sinh tử, vậy khi nhắm mắt buông tay làm sao thoát? Thoát được Sinh tử mới biết chỗ đi về, vậy khi tứ đại tan rã, mình đi về đâu?

Lời giải:

Ba câu hỏi cốt tủy cho người tu Phật. Đó là mục đích tối hậu mà mọi pháp môn tu hành: Mật Tông, Hiển Tông, Đại Thừa, Tiểu Thừa, Xuất gia, Tại gia… đều phải Thấy, nếu muốn đạt kết quả trên con đường tu. Tánh này ở trong mỗi người. Chúng sinh hữu tình đều có. Nhưng Kinh dạy: " Phải Phương tiện khéo mới thấy", “Phải có Thiện Tri Thức chỉ cho thì mới gặp". C hẳng phải do đọc nhiều Kinh sách. Ngồi thiền cho lâu. Nhập được nhiều hạ. Hạ được nhiều câu chuyển ngữ… hay dao, gậy, “đả thất”, tình cờ mà bật ra, mà Thấy được! Muốn tu hành nghiêm chỉnh thì nên nương các Chính Kinh, tìm xem Phật, Tổ dạy như thế nào, rồi từng bước thực hành theo:

Theo Kinh Đại Bát Niết Bàn, có những lý do chính để người tu không Thấy Tánh:

- Phiền não ngăn che.

- Không gặp được Thiện tri Thức để chỉ cho

- Bị Tham Sân Si che lấp.

- Phiền não hiện tại chướng ngăn.

Kinh cũng chỉ cho những phương tiện để có thể Thấy Tánh:

- Trì Giới.

- Trừ phiền não.

- Trí quán chiếu Thập Nhị Nhân Duyên.

- Hành Lục Độ Ba La Mật

- Tu Bát Chánh Đạo.

- Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỉ, Đại Xả.

- Nghe pháp, khéo Tư Duy

- Thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn.

- Phải cầu bậc Đại Thiện Tri Thức chỉ cho.

Chính vì thế mà những người không theo những phương tiện trên thì không bao giờ có thể Thấy Tánh được.

Tánh là gì? Thấy để được gì?

Qua khám phá của Đức Thích Ca, Ngài thấy rằng mỗi người đều có cái Chân Tâm, hay là CHÂN TÁNH. Nhưng qua quá trình trôi lăn, nó đã bị che mờ bởi Phiền não, Tham ,Sân, Si. Vì thế Ngài đặt ra bao nhiêu phương tiện: GIỚI, ĐỊNH, HUỆ, BÁT CHÁNH ĐẠO, TỨ DIỆU ĐẾ, LỤC ĐỘ, TỨ NHIẾP, TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, 37 PHẨM TRỢ ĐẠO vv... nhằm hỗ trợ cho việc tẩy rửa những chất bụi nhơ đã bám vào, để nó trở lại tình trạng thanh tịnh, không ô nhiễm buổi đầu.

Song song với những Hạnh phải làm ở trên, người tu còn phải TƯ DUY, SOI QUÁN. Mục đích của Soi, Quán là để thấy rõ, hiểu rõ về các pháp cũng như cách thức để Thoát nó. Vì thế, Kinh dạy phải là CHÁNH QUÁN, phải NỘI QUANG PHẢN CHIẾU. chánh Quán là tìm hiểu những đề tài thiết thực, có liên quan đến cái Sinh Tử của mình. Không phải Quán mây trôi, lá rụng vu vơ, vì Sinh Tử nằm ở tại nơi Thân và Tâm của mỗi người, không phải ở ngoài vũ trụ hay nằm trong các pháp khác.

Người tu vì không có cái Thấy Sinh Tử, đau khổ của cái kiếp người như Thái Tử Sĩ Đạt Ta, để có thể phát tâm như Ngài. Vì thế, nếu chúng ta muốn nương Đạo Phật, tu hành để Giải Thoát, để Trừ Khổ, thì phải lần theo hướng dẫn của Kinh để thấy Phật dạy Nguyên nhân cái Khổ do đâu? Thấy được nguyên nhân rồi thì tìm xem Kinh dạy cách thức TRỪ KHỔ như thế nào. Lần lượt thực hành theo đó thì ta cũng sẽ đạt mục đích như chư vị đi trước.

Phật dạy: “Có Thấy Khổ mới tìm cách Thoát Khổ”. Đó là lý do tại sao người thời nay tu mãi mà không thành công. Họ đâu có phát tâm đi tu để Thoát Khổ mà có thể đã đi tu vì trăm thứ lý do nào đó khác với mục đích của Đạo Phật, vì thế mà không đạt được mục đích giống như Đạo Phật được! Có tìm cách Thoát mới thấy mình sẵn có cái TÁNH GIẢI THOÁT, hay là PHẬT TÁNH ở trong Tâm, nhưng từ lâu bị VÔ MINH, bị THAM, SÂN, SI che khuất. Vì thế, Phật dạy: Muốn gặp Phật Tánh phải trừ THAM, SÂN SI đi.

Để trừ Tham, Sân Si lại phải có những pháp để hỗ trợ là Tứ Quán Chiếu, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Nhã, phải Giữ Giới, phải sống trong Bát Chánh Đạo, phải hành Lục Độ vv... Trong thời gian hành trì phải "Thu thúc lục căn". Phải giữ cho Thân, Khẩu và Ý luôn thanh tịnh trong tất cả mọi thời. Cứ kiên trì Hành như thế. Vừa Quán Soi, vừa dò tìm trong chính Kinh xem những điều ta hiểu, hành, có khế hợp hay không.

Dù Lục Tổ đã chỉ rõ: TÁNH là cái mà: Khi "KHÔNG NGHĨ THIỆN, KHÔNG NGHĨ ÁC" là nó đang hiện thân. Nhưng nhiều người tu cũng nắm lấy câu này, nhưng lại hành sai. Họ NGỒI THIỀN, để cho thân ngưng hoạt động, tâm cũng ngừng nghỉ, tưởng lúc đó là đã gặp được nó! không biết rằng không thể đột ngột nó hiện ra, do ta dừng nghĩ tưởng, mà do công đức gọi là "Đúc tạc tượng Phật", tức là mỗi ngày Xả phiền não, Tham, Sâm, Si đi một chút, dần dà khi đầy đủ thì sẽ hình thành. Hoặc nói một cách khác, là tượng Phật vốn sẵn có, nhưng bị Tham, Sân, Si che phủ, thì càng trừ Tham, Sân, Si, Thương, ghét... chừng nào thì tượng càng lộ rõ chừng đó.

Câu trả lời cho Công Án này là TÁNH của mỗi người ở trong TÂM của mỗi một. Người Thấy được CHÂN TÁNH, trụ được ở đó, thì ngay lúc sống đã không còn bị phiền não sinh tử làm khổ. Lúc cái thân hết nghiệp, thì cái Chân Tánh đó cũng không chết theo cái Thân. Phật Tánh này có giá trị như chiếc phao, như cồn đảo, để người tu nương vào đó mà Thoát Khổ, mà được an lạc trong cuộc sống, mặc cho giòng đời xao động với bao nhiêu pháp xấu tốt luôn diễn ra. Người tu, từ lúc phát tâm cho đến khi thành tựu đạo quả thì cũng không rời cảnh sống nơi trần gian, nhưng tâm ý được hoàn toàn Giải Thoát. Đó là lý do vì sao Đạo Phật dùng Hoa Sen để làm biểu tượng, vì Hoa Sen sống trong bùn mà không nhiễm mùi bùn. Giống như người tu theo Đạo Phật để sống trong phiền não mà không bị phiền não ảnh hưởng tới vậy.

CÔNG ÁN THỨ BỐN MƯƠI TÁM

MỘT ĐƯỜNG CỦA CÀN PHONG

*Công Án:

Một ông Tăng hỏi Hòa Thượng Càn Phong:

- Chư Bạt Già Phạm mười phương chỉ một đường Niết Bàn, không biết đầu đường ở đâu?

Sư cầm gậy vạch một đường nói:

- Đây!

Sau có ông Tăng đem chuyện ấy hỏi Ngài Vân Môn. Vân Môn cầm quạt giơ lên bảo:

- Quạt nhảy một cái lên tận tầng trời thứ ba mươi, gõ lỗ mũi Đế Thích. Con lý ngư ngoài biển Đông đánh một hèo, trời mưa như trút.

Lời giải:

Ít ra ở lời bàn cho công án này Ngài VÔ MÔN đã hạ được một câu chính xác: "Xét lại cho kỹ, cả hai ông lão đều không biết đầu đường ở đâu!"

Sở dĩ người Xuất Gia, vào chùa tu theo Đạo Phật, bỏ hết chuyện đời, làm bao nhiêu công phu. Nào là Thiền Định, Soi Quán. Giữ Tứ Oai Nghi. Gìn Thân, Khẩu, Ý, hành bao nhiêu thiện pháp, là để có ngày bản thân mình cũng vượt qua được cuộc sống phàm phu, vào hàng thánh chúng, chứng được Niết Bàn tại Tâm. Thế mà hai ông đường đường là Hoà Thượng, là người đang hướng dẫn đạo pháp cho Tăng chúng, lại dám tăng thượng mạn. Không biết mà còn chỉ, nói bậy bạ, làm cho người sau hoang mang, nghi ngờ!

Lẽ ra đã là người Xuất Gia đầu Phật thì tức lúc nào cũng phải áp dụng Bát Chánh Đạo vào cuộc sống, luôn phải Chánh Niệm, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Tinh Tấn... Nếu các vị đã có được một trong những Hạnh này hẳn không dám xuất ngôn bừa bãi, chỉ vẽ lung tung, coi thường người tham học đến như vậy! Đã chọn cuộc sống của người tu hành tức là bỏ hết việc đời, thọ thực của thí chủ để dành trọn thì giờ cho công việc tu hành, mà không tu hành chân chính là thiếu Chánh Mạng, Chánh Nghiệp. Nói năng bừa bãi làm sao có Chánh Ngữ!

Người muốn tu học và các Thiền Sinh trông cậy vào mình, vì nghĩ mình là Thiền Sư, thành thạo về Thiền để hướng dẫn cho họ đi con đường "Đốn Ngộ", "Trực chỉ Chân Tâm, KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT" như lời quảng cáo của Thiền Tông mà mọi người vẫn đánh giá như thế. Tiếc thay, qua thái độ, lời lẽ của hai vị Thầy này, ta có thể thấy ngay họ chẳng phải là Thiền Sư chân chính, bởi vì đúng nghĩa thì Thiền phải đi kèm với Định. Người nào có Thiền thì phải có Định, mà đã có sức Định là Thân Khẩu Ý phải thanh tịnh. Không có ăn nói bừa bãi. Không có thái độ ngông nghênh, tự phụ, kiêu mạn. Không nói những lời vô nghĩa!

Xét Nhân thì thấy Quả. Chẳng trách những pháp môn Thiền của những vị đó sáng lập chẳng tồn tại được lâu dài, vì có pháp đâu mà truyền lại cho lớp con cháu!

Niết Bàn có nghĩa là “Ra khỏi rừng mê”. Đường đến Niết Bàn bắt đầu từ việc quay vô, giữ Giới, lập Hạnh, gìn Thân Khẩu Ý, điều phục Lục Căn, trừ Vọng, lìa Mê để Giác. Để mình cũng tìm thấy Phật Tâm, Phật Tánh của mình. Cái Tâm thanh tịnh, được yên ổn, an lạc, đó chính là Niết Bàn. Chẳng phải ở Phật Quốc hay Đông, Tây nào xa vời.

Kết luận : Chỉ một câu hỏi thôi, cả hai người thầy đã lộ rõ trình độ, căn cơ. Đây có đáng gọi là Công Án, đáng cho người tu học đời sau Tham? Vì nếu Tham cho cùng lý, cũng chỉ thấy hai ông Thầy dạy sai mà thôi. Chẳng thấy đường nào về Niết Bàn cả. Ngài Vô Môn cũng chẳng nói, chẳng bàn được gì hơn thế, cũng tự cho là “qua được của Vô Môn đã thiệt thòi cho Ngài”! Sao không nói là người Tham Công Án này sẽ rất thiệt thòi, vì có hiểu thêm được chút gì đâu?

(Còn tiếp)

Tâm Nguyện

NHÂN BẦU CỬ TỔNG THỐNG MỸ BÀN VỀ

“TÀI SẢN MỀM CỦA NƯỚC MỸ”

Tài sản mềm của một quốc gia thường tụ hội từ nhiều nhân tố.

- Tài sản lớn nhất của Trung Quốc là 5 ngàn năm lịch sử và văn hóa đặc trưng của Nho giáo, thể hiện qua lối sống của 1.3 tỷ dân và hơn 100 triệu Hoa kiều.

- Anh Quốc: Với khẩu hiệuMặt trời không bao giờ lặn trên đế chế Anh” 100 năm trước nên người Anh thường rất khôn ngoan trong những lựa chọn về chính trị, kinh tế và xã hội… vì họ đã từng trải qua bao thời vàng son cũng như khốn khổ.

- Hoa Kỳ thì chỉ mới lập quốc hơn 200 năm nhưng hiện nay, tài sản mềm của nước Mỹ lan tỏa khắp hoàn cầu và tạo hướng cho rất nhiều trào lưu trong sinh hoạt của nhiều dân tộc.

Dù đa dạng, phức tạp và có thể gây nhiều tranh cãi, trong góc nhìn của một Việt kiều sinh sống tại Hoa Kỳ, năm tài sản mềm lớn nhất của nước Mỹ gồm có:

1. Niềm tin của người dân

Nếu hỏi một người Mỹ là họ tin vào cái gì, ngoài đức tin vào tôn giáo riêng, câu trả lời sẽ là một Giao ước xã hội (social contract).

Điều kiện đầu tiên của giao ước là tôi bình đẳng và tự do trước mọi cơ hội để mưu tìm hạnh phúc cho mình và gia đình, từ vật chất đến tinh thần. Tôi có thể là một đứa bé da mầu, lớn lên trong khu ổ chuột nhưng tôi vẫn có thể làm Tổng Thống hay là người giàu nhất nước Mỹ hay một văn nghệ sĩ tăm tiếng. Độ cao hay thấp của hành trình hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng và ước muốn của tôi.

Sau đó, tôi được chánh phủ cam kết là không ai có quyền can thiệp hay ngăn trở bất cứ hành vi nào của tôi miễn không phạm pháp. Căn bản cũng như chi tiết của hệ thống pháp luật này phải được xây dựng hay hủy bỏ với sự đồng thuận của đa số cử tri hoặc người đại biểu do dân bầu. Và tôi tin rằng trước pháp luật, tôi sẽ được xét xử bởi những người dân khác (bồi thẩm đoàn) hoàn toàn độc lập với mọi quyền lực có thể ảnh hưởng đến kết quả.

Theo Giao ước, để đánh đổi các quyền lợi trên, tôi phải có trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của những công dân khác, qua bổn phận đóng thuế hay nhập ngũ. Một phần tiền thuế sẽ được dùng để cứu giúp và tạo một mạng lưới an toàn (safety net) cho những công dân kém may mắn. Điều tranh cãi thường xuyên ở đây là chánh phủ được quyền lấy bao nhiêu tiền của tôi để làm chi phí điều hành cho bộ máy và bao nhiêu để giúp người khác? Đây cũng là đề tài chính cho bao cuộc vận động tranh cử tại mọi tầng lớp xã hội.

Chẳng hạn như trong kỳ bầu cử 6-11-2012 sắp tới tại Mỹ, hai ứng cử viên Barrack Obama và Mitt Romney đều đưa ra vấn đề hóc búa này, nhất là trong “3 cuộc Tranh luận cuối cùng” giữa 2 ông Obama và Romney trước kỳ bầu cử vào các ngày 4-10, 16-10 và 22-10-2012, dù tỷ lệ theo thăm dò là Obama trội hơn Romney là 2/1, nhưng số Cử tri thuộc các Tiểu bang “đứng giữa” (có khoảng 10 Swing states) vẫn không bị ảnh hưởng gì mấy, chỉ tới ngày cuối cùng chính họ mới quyết định bỏ phiếu cho ai. Số này ước lượng là 30% thuộc mỗi đảng Dân chủ hoặc Cộng hòa (Trong 30 năm nay, không ứng cử viên nào đắc cử Tổng thống mà không thắng tại Swing state Ohio). Mặc dù là đa số 70% số cử tri thuộc phe Cộng hòa Bảo thủ (Conservative Republicans) hoặc phe Dân chủ Cấp tiến (Liberal Democrats) – những cử tri luôn luôn bầu cho Đảng của họ để bảo vệ quyền lợi riêng của họ - nhưng tiếng nói quyết định trong mỗi cuộc bầu cử Tổng thống tại Mỹ lại trớ trêu thay thường thuộc về số 30% thuộc Swing states nói trên – vì ngày cuối cùng, nhóm này chỉ bầu cho Ứng cử viên nào có tài ba và sách lược tốt.

Năm nay, Obama hoặc Romney tối thiểu phải đạt được 270 Đại cử tri mới đắc cử Tổng thống (Số Đại cử tri hiện nay là 538 vì Quốc Hội có 100 Thượng nghị sĩ và 435 Hạ nghị sĩ – cùng với 3 Đại cử tri cộng thêm thuộc khu vực Washington D.C. được thêm vào theo Tu chính án thứ 23 năm 1961).

Dù thế nào, đa số người dân Mỹ tin vào Giao ước xã hội này và những nhân quyền cùng sự tự do tiềm ẩn bên trong. Niềm tin là nền tảng chung cho mọi thành phần trong sự vận hành quốc gia và nó tạo sự bền vững cho mọi kế hoạch, ngắn và dài hạn, của cá nhân hay của chánh phủ.

2.Văn hóa Mỹ Quốc.

Sau những đợt di cư đầu tiên từ Âu châu vào thế kỷ 18, nước Mỹ bắt đầu mở cửa rộng rãi đón nhận mọi sắc dân từ khắp thế giới. Họ đến với một “giấc mơ Mỹ Quốc” (American dream), họ chấp nhận giao ước xã hội nói trên và đã không ngừng cùng nhau tạo dựng một nền “văn hóa Mỹ Quốc” vô cùng đa dạng nhưng đặc thù, vô cùng năng động nhưng giản dị và minh bạch.

Căn bản của nền văn hóa dân gian này là sáng tạo trong trí tuệ, hăng say trong công việc, chơi đùa và mua sắm thỏa thích, tôn trọng riêng tư, không ngần ngại sử dụng quyền lực của mình, minh bạch trong thông tin, cởi mở thân thiện với người lạ và ý tưởng mới, không trừng phạt thất bại và tiếp tục cố gắng trong mọi hoàn cảnh. Trên hết, người Mỹ lạc quan vào sự thành công tối hậu của mục tiêu đời mình.

Dĩ nhiên, mặt trái của văn hóa Mỹ cho thấy nhiều nhược điểm. Như một đứa trẻ giàu có, xã hội Mỹ khá ngạo mạn và không quan tâm nhiều đến văn hóa truyền thống của nhân loại. Câu nói “my way or highway” (lối của tôi hay lối xa lộ = không theo tôi thì cút đi) thể hiện trong nhiều hành xử của người Mỹ từ chánh trị đến kinh doanh. Nhưng đứa trẻ này lại rất sáng tạo trong thời đại của tri thức, tạo nên những tài sản quý báu cho kho tàng nhân loại từ y tế đến nông nghiệp, từ công nghệ thông tin đến giáo dục, từ tài chánh đến chính trị.

Văn hóa Mỹ đã đóng góp rất nhiều cho bộ mặt ngày nay của ngôi làng toàn cầu với những thay đổi và cải thiện liên tục.

3.Nguồn trí tuệ và tài năng.

Ngày xưa mọi con đường đều dẫn đến La Mã. Ngày nay mọi tài năng đều tìm về đấu trường Mỹ:

- Trung tâm quyền lực chánh trị và quân sự tập trung tại Washington DC

- Tháp cao tài chánh nằm ở Wall Street (New York)

- Trung tâm phim ảnh là Hollywood, Los Angeles, CA

- Thế giới của công nghệ cao chọn Silicon Valley, San Francisco, CA làm điểm tựa.

- Đỉnh cao trí tuệ là Liên minh giáo dục của các đại học Ivy League (Đông Bắc Hoa Kỳ) – nhóm các đại học có truyền thống, nổi tiếng về tiêu chuẩn học thuật cao và uy tín xã hội (đại học Harvard…). Đan cử giải thưởng danh giá thế giới Nobel năm 2012 mới công bố thì – Y Sinh: Anh và Nhật – Văn chương: Trung Quốc – Hòa bình: Liên hiệp châu Âu – Lý: Pháp và Mỹ - Hóa: 2 giáo sư Mỹ - Kinh tế: 2 giáo sư Mỹ

Niềm tin về giao ước xã hội và văn hóa cởi mở là lý do chính cho sự du nhập của các tài năng thế giới. Đất lành thì chim đậu. Sự lựa chọn môi trường Mỹ để phát huy sáng tạo và xây dựng sự nghiệp của họ là một minh chứng hữu hiệu gấp ngàn lần những khẩu hiệu rỗng tuếch hay chánh sách đãi ngộ trên giấy tờ. Một lưu ý nhỏ: suốt trăm năm qua, chánh phủ Mỹ chưa bao giờ “quảng cáo” mời gọi các di dân đến Mỹ hay các Mỹ kiều quay về quê hương đóng góp.

Như một nàng con gái đẹp, thông minh, đảm đang… nước Mỹ không thiếu những chàng trai trẻ sắp hàng cầu hôn. Ngay tại những quốc gia mà dư luận thế giới cho là có thể vượt mặt Mỹ trong vài chục năm tới như Trung Quốc, Nhật, Nga, Ấn Độ… các tài năng địa phương này đã và đang ào ạt mua vé “một chiều” qua Mỹ. Trong một nền kinh tế kiến thức, tài năng là những viên ngọc quý cho đội ngũ và Đội Mỹ (Team America) chắc còn nắm lợi thế cạnh tranh này trong dài hạn.

4.Thương hiệu quốc gia.

Hiện nay có 8 trong 10 thương hiệu hàng đầu của thế giới là của Mỹ. Dù Made in Japan và Germany có thể hấp dẫn khách hàng trong vài ngành nghề và công nghệ, Made in USA tiếp tục hưởng một premium (giá nâng cấp) khá cao trong suốt 100 năm qua.

Không phải thương hiệu Mỹ không có thử thách và đối thủ nặng ký. Trong thập niên 1980 và 1990 kỹ nghệ ô tô Mỹ bị lão hóa và Toyota, Honda nhẩy vào vị thế hàng đầu tại Mỹ về chất lượng và doanh thu. Nhưng GM, Ford và Chrysler đã phục hồi nhanh chóng và thương hiệu Mỹ về ô tô lại chiếm thế thượng phong trên thị trường.

Trong ngành điện thoại di động, Nokia và RIM (Blackberry) đã nắm thời cơ và dẫn đầu thị trường trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, các công ty Mỹ lại sáng tạo và thay đổi cuộc chơi với công nghệ và ứng dụng mới. Ngày nay, hệ điều hành của Apple và Google Android đã thống lĩnh thị phần.

Sự thay máu nhanh chóng của tư duy, tầm nhìn và trí tuệ Mỹ là một vũ khí rất năng động để giữ vững giá trị của thương hiệu khi đối diện với cạnh tranh.

5.Cơ chế chánh trị và xã hội.

Sau cùng, các tài sản mềm trên lại được quản lý bởi một cơ chế vô cùng bền vững suốt lịch sử non trẻ của Mỹ. Yếu tố chính là sự phân quyền rõ rệt của 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp Mỹ khai sinh ra chế độ Tổng Thống - không cho phép một bộ phận nào có thể thao túng một bộ phận khác, bằng các cuộc bầu cử độc lập và tự do; cũng như việc chia quyền để các chánh phủ Tiểu bang và địa phương không bị sự khống chế của chánh phủ Liên bang (trung ương).

- Đệ nhất quyền: Quyền lập pháp thuộc về Quốc Hội biểu quyết các Luật với đa số quá bán, sau đó phải chuyển sang Hành pháp ký ban hành. Tổng thống có thể phủ quyết Dự luật đó. Nếu muốn chống lại, Quốc Hội phải họp lưỡng viện và biểu quyết với đa số đặc biệt là 2/3.

- Đệ nhị quyền: Quyền hành pháp thuộc về Tổng Thống, thực thi các Luật do Quốc Hội biểu quyết và Tổng Thống ban hành. Ông lãnh đạo Quốc gia và là Tổng Tư lệnh tối cao Quân đội, thành lập chính phủ nhưng phải có sự chuẩn y của Quốc Hội. Nhưng quyền hành lớn lao của ông bị Quốc Hội chế ngự bằng cách luận tội nếu Tổng Thống vi phạm lỗi nặng với đa số 2/3 để “Truất quyền Tổng Thống” và bằng phán quyết một Luật của Tổng Thống là vi hiến của Tối cao Pháp viện (TCPV).

- Đệ tam quyền: Quyền tư pháp thuộc về TCPV gồm 9 vị Thẩm phán với nhiệm kỳ suốt đời, do Tổng Thống đề nghị, Quốc Hội phê chuẩn và Tổng Thống bổ nhiệm; TCPV có thẩm quyền giải thích Hiến pháp và các Luật do Quốc Hội biểu quyết và Tổng Thống ban hành xem có vi hiến không, nếu TCPV phán quyết vi hiến thì Luật đó phải bị đình chỉ hoặc Quốc Hội có thể sửa đổi, biểu quyết lại và Tổng Thống ban hành lần nữa. Nhưng Thẩm phán TCPV vẫn có thể bị truất quyền bởi Quốc Hội với đa số 2/3, nếu vi phạm lỗi nặng.

Cẩn thận hơn, các nhà khai sáng nền dân chủ Mỹ còn đặt Tự do ngôn luận vào đệ tứ quyền để đảm bảo minh bạch và đầy đủ thông tin từ các mạng truyền thông. Chánh phủ Mỹ không được phép dính líu qua hình thức sở hữu, tài trợ hay kiểm duyệt bất cứ mạng truyền thông nào tại nội địa Mỹ. Việc xuất bản sách vở và báo chí không cần bất cứ một giấy phép gì từ chánh phủ. Quyền tự do ngôn luận này được xác nhận rõ ràng khi Tòa Án cho phép người dân quyền đốt cờ Mỹ hay biểu tình ủng hộ các kẻ thù của Mỹ.

Cơ chế nào cũng đều tồn tại những sai lầm hay xung đột mâu thuẫn. Tuy nhiên, nền tảng phân quyền và dân chủ tạo nên một minh bạch rất cần thiết để ngăn ngừa sai phạm. Những tranh luận tự do khắp nơi khắp lúc đem đến cho người dân một cảm nhận là họ đang tham dự vào việc điều hành đất nước và mọi quyết định quan trọng về hướng đi của chánh sách công phải được sự đồng ý của họ. Cơ chế này là yếu tố quan trọng để tạo niềm tin.

TÓM TẮT

Qua bao cơn bão lớn nhỏ của tình hình thế giới, trong chiến tranh hay hòa bình, các Tài sản mềm quý báu này đã góp phần quan trọng nhất để giữ vững đế chế Mỹ hiện nay. Sức mạnh quân sự, thủ thuật chánh trị, chiến lược tài chánh… không phải là những nhân tố để làm nuớc Mỹ vĩ đại. Thực ra, nhiều người đang phản biện đây là những nhược điểm của hệ thống Mỹ. Cái thiên đường thực sự của chúng ta là sự tự do của trí tuệ và con tim qua các câu chuyện thần kỳ trên màn bạc hay trên truyền hình Ngày nay là Internet.

Cố Tổng thống J.F. Kennedy bầy tỏ rõ ràng hơn về giá trị của tài sản Mỹ: “Chúng ta phải tin là dân Mỹ đủ trí khôn để phán xét các sự kiện bất ổn, các ý tưởng ngoại lai, các triết thuyết lạ kỳ và các giá trị khác biệt. Bởi vì một quốc gia không dám để cho người dân quyền quyết đoán về sự thật và giả dối trong một môi trường tự do là một quốc gia sợ sệt ngay chính người dân của mình”.

(Tham khảo: Bài viết của Alan Phan và tài liệu khác trên Internet)

PHẠM VŨ

­



Tứ Đại Mỹ nhân Hà Nội





Phụ Bản I

Tuổi thơ Nguyễn Nhược Pháp

Hai tuổi mồ côi mẹ, hưởng dương tròn hai Giáp (24 năm), người con trai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh thật là điển hình của sự bất công tạo hóa.

Thế nhưng tạo hóa đã bù lại, ban cho con người những thiên bẩm, tài hoa đặc biệt. Đó là một trang nam nhi tuấn tú, đa tài, gắn trên bầu trời thi ca nước Việt những ánh sao lung linh - nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp.

Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp.

Nguyễn Nhược Pháp là kết quả mối tình sét đánh giữa học giả Nguyễn Văn Vĩnh, một người đa tài, đa tình đất Hà thành và cô gái Lạng Sơn, Phan Thị Lựu.

Năm 1913 ông Vĩnh có khách sạn Trung Bắc ở nhà 50 phố Hàng Trống, gần hồ Gươm - Hà Nội… Cô Lựu thường qua lại trọ ở khách sạn, nên quen biết ông Vĩnh. Rồi do duyên số, họ nên vợ nên chồng.

Khách sạn Trung Bắc nằm trong khuôn viên rộng mấy nghìn mét vuông. Mặt trước quay chính phố Hàng Trống, mặt sau quay ra phố Lý Quốc Sư. Cả hai mặt đều có cổng lớn, bên trong xung quanh có vườn, cây cối xanh tươi và cổ thụ. Giữa khuôn viên này là một biệt thự ba tầng, trang bị hiện đại để làm nhà khách sạn.

Bà Phan Thị Lựu ở tầng hai. Tại mảnh đất thơ mộng này, ngày 12-12-1914, Nguyễn Nhược Pháp ra đời, sau này tên tuổi in đậm trong “Thi nhân Việt Nam”.

Ông Vĩnh đi làm, đến trưa thì nghỉ lại khách sạn với người vợ hai, tối mới về phố Mã Mây với vợ cả và các con. Tưởng thế cũng là yên ổn, nhưng số phận con người đa tài, đa tình lại vướng bận thêm nhiều và không thể dừng ở đó.

Vừa tuổi lên 2 (năm 1916), Nguyễn Nhược Pháp mồ côi mẹ. Khi biết tin ông Vĩnh có thêm một người đàn bà khác, mà là một cô đầm lai đẹp như thiên thần, thì Phan Thị Lựu không làm chủ được tình cảm của mình. Nỗi ghen tuông đã trào lên và bà đã tìm cái chết để giải thoát.

Chập chững những bước chân trên đường đời, Nguyễn Nhược Pháp được bà Đinh Thị Tính - vợ cả ông Vĩnh - mẹ cả đón về nuôi như con đẻ, với một câu thở than: Cái bà Lựu ghen ngược. Người ghen phải là tôi

Từ đó cho đến lúc lìa đời, suốt 22 năm (1916 - 1938), Nguyễn Nhược Pháp đều sống với những người anh em cùng cha khác mẹ, trong một đại gia đình, thật vui vẻ và nhiều kỷ niệm sâu sắc.

Đọc những trang hồi ức của những người thân trong gia đình phần nói về tuổi thơ Nguyễn Nhược Pháp, mới thấy rằng đây là một con người có nhiều phẩm chất cao quý, khi còn ấu thơ.

Năm 1923, gia đình Nguyễn Văn Vĩnh đã chuyển từ phố Mã Mây về phố Thụy Khuê, trước trường Bưởi (trường Chu Văn An bây giờ) gần hồ Tây.

Đây là một trong những tài sản lớn của ông F.H Schneider- một người Pháp, vốn là đồng nghiệp làm nhà in, xuất bản báo, vì yêu mến ông Vĩnh đã chuyển nhượng cho trước khi ông này về hưu ở cố quốc.

Nhà ông Vĩnh đông người, nhiều con, lại thêm bạn các con ở tỉnh lẻ về ở nhờ để tiện bề ăn học… vậy mà vẫn rất thoải mái.

Gia sản đất đai của Schneider là một khu đất rộng hơn ba nghìn mét vuông. Trong này có biệt thự hai tầng, có xưởng máy giấy mái vòm, bê tông cốt thép, không cột. Ông Vĩnh sửa lại thành nhà thờ và nhiều phòng để ở. Có mười gian nhà ngang, có bếp, nhà để xe, các phòng cho người nhà sinh hoạt…

Bấy giờ hai người con lớn của bà Vĩnh là Nguyễn Hải và Nguyễn Giang đang đi học ở nước ngoài. Còn ba người con gái: Nguyễn Thị Loan, Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Thị Vân đã lớn, được ở khu biệt thự với bà Vĩnh và một người cô ruột là bà Nguyễn Thị Tý, làm dược sỹ ở nhà thương Phủ Doãn… Nguyễn Nhược Pháp được ở chung với 7 anh chị em còn nhỏ tuổi ở khu nhà ngang.

Trong đó có Nguyễn Thị Mười, Nguyễn Dực, Nguyễn Hồ còn quá nhỏ, không tự lực được trong sinh hoạt, nên có một u già trông nom… Họ sống rất thoải mái, tự do và khép kín, tự quản, dường như người lớn không ai để ý đến…

Buổi sáng hằng ngày, Nhược Pháp cùng anh chị em học chữ nho khoảng nửa giờ do ông tú tài Phùng Năng Tĩnh người Bát Tràng làm gia sư, dạy dỗ. Rồi họ đạp xe đi học trường tư. Mọi sinh hoạt khác như giặt quần áo, cơm nước đã có người lo hết.

Trong số 7 anh em, Nhược Pháp là con bà hai, được coi là anh, mặc dù sinh sau Nguyễn Dương (con mẹ cả) mấy tháng. Thời xưa xã hội coi những người con vợ bé, chỉ là con thêm vợ nhặt. Nhưng nhà ông Vĩnh không hành xử theo lối ấy.

Theo kể lại, Nguyễn Nhược Pháp thông minh, đẹp trai, học giỏi có đầu óc tổ chức, nhiều sáng kiến, làm đầu tầu cho các em trong các hoạt động, sinh hoạt thể thao, vui chơi rất văn hóa.

Nhược Pháp có sáng kiến làm một bản hợp đồng nội bộ, cấm nói nhảm nhí. Cậu soạn ra khoảng 50 câu thông dụng hằng ngày mọi người cần tránh, ví như những từ ngữ: đếch, bỏ mẹ, bỏ xừ…, hoặc những câu chửi thề không ai được nói… Ai lỡ lời nói, người nào nghe thấy, có quyền cốc vào đầu, véo tai, coi như một hình thức phạt.

Nhược Pháp bày trò tập bơi. Khi thì hồ Tây, khi thì ra ao đình làng Thụy Khuê, lúc đến hồ Trúc Bạch. Bảy anh em đều biết bơi kể cả con gái. Nhược Pháp yêu môn bơi lội nhất. Cho tới những ngày mới bị bệnh, anh vẫn chưa chịu bỏ bơi.

Ngày chủ nhật, Nhược Pháp tổ chức đua xe quanh Hồ Tây, có giải thưởng, thu hút các bạn học cùng tham gia. Lại tổ chức trượt pa-tanh. Ban đầu chơi trên đường Hoàng Hoa Thám, sau đường đua dài đến Quần Ngựa, vòng trở về lối Thụy Khuê… Rồi tổ chức tham quan du lịch bằng xe đạp, quanh Hồ Tây, rồi quanh Hà Nội và đi xa hơn.

Mỗi tuần, cha thường cho các con tiền đi xem chiếu bóng, Nhược Pháp rủ rê mấy anh chị lớn hơn, để dành tiền ấy, làm vốn in báo Tuổi Cười. Nhược Pháp làm chủ nhiệm, Nguyễn Phổ làm chủ bút, Nguyễn Kỳ quản lý nhà in. Báo in thạch, hai màu đỏ và tím.

Mỗi tháng một số, có 16 trang, khổ 15x20 cm. Nội dung tờ báo là thông báo những tin tức gia đình, nêu tên ai học giỏi, phê phán những việc xấu. Lại có trang thể thao, biểu dương kỷ lục mới (trong gia đình), có quảng cáo các buổi diễn kịch, diễn xiếc do anh chị em tổ chức trong nhà. Trang cuối có in thơ của Nhược Pháp sáng tác.

Mỗi số ra 10 tờ, bán 5 xu cho người lớn và các anh chị lớn. Báo phát hành được mấy năm. Sau này lớn lên, Nhược Pháp đã chọn những bài thơ trong báo Tuổi Cười, thành tập thơ Ngày Xanh.

Nhược Pháp còn tổ chức một đội kịch gia đình, mà chính anh viết kịch bản và đạo diễn… Các anh chị em làm diễn viên.

Nhà có xưởng in rộng, họ kê bàn ghế thành sân khấu, tạm dùng câu đối nhà thờ trang trí, lại làm phông màn, chăng điện… nghĩa là như sân khấu thật. Giá vé 5 xu một chỗ ngồi.

Những người lớn trong nhà cũng mua vé và ngồi xem cổ vũ con em mình… Có buổi ông Vĩnh cũng ngồi xem các con diễn, ông thấy lòng tràn ngập niềm vui… Nhược Pháp còn hướng dẫn thành lập đội xiếc, phân vai diễn: Người diễn xiếc xe đạp, người làm ảo thuật, người dậy thú, người thổi kèn.

Nguyễn Nhược Pháp có những thú vui thật giản dị, không giống bất cứ một thiếu gia nào thời bấy giờ. Chăm chỉ học hành, yêu quý mọi người, và biết tự lập. Viết xong một bài thơ, một truyện ngắn, vở kịch… khi có tiền nhuận bút thì rủ một hai em, hay vài bạn bè đi ăn phở xách Nghi Xuân bang thất ở phố Hàng Đàn, giá 5 xu một bát…

Nhược Pháp đã viết được một số vở kịch, và có một ước mơ, là cùng với Phạm Huy Thông, bạn học thời ở Trung học Albert Saraut, tri kỷ văn chương, cùng nhau tổ chức một Đoàn kịch không chuyên, đưa lên sân khấu vở kịch Người học vẽ của mình.

Nhược Pháp như một trang giấy trắng thơm, một bông hoa thanh khiết. Vào những năm cuối đời, trái tim chàng thi sỹ, tác giả bài thơ Chùa Hương đã xôn xang trước một cô gái áo đen, phố Hàng Đẫy, như một lời tỏ tình.

Đó là một tiểu thư, một trong tứ mỹ Hà thành bấy giờ. Hằng ngày đạp xe qua nhà, đứng bên này đường nhìn vào vườn nhà em, ngắm nhìn bóng em thấp thoáng. Rồi hình ảnh cô gái áo đen trong vườn của nhà họ Đỗ ở phố Hàng Đẫy, cứ sống mãi trong tim Nhược Pháp...

Nhược Pháp chưa tường mặt thân mẫu của mình, nhưng được mẹ cả hết lòng yêu thương, như con đẻ. Trước khi nhắm mắt ra đi về cõi vĩnh hằng, bà dặn lại Hãy đặt mộ của tôi nằm bên cạnh Nhược Pháp.

Nguyễn Nhược Pháp sinh ra là hoạt động, cả đến khi nhuốm bệnh vẫn không ngừng ý chí vươn lên vượt qua số mệnh.

Từ 2 tuổi Nhược pháp sống với mẹ cả ở Mã Mây rồi đi học vỡ lòng. 6 năm tiếp theo học phổ thông trường Trí Tri (phố Hàng Đàn và Trung Bắc học hiệu - phố Lý Quốc Sư). 14 tuổi thi đỗ lớp 6 Trường trung học Albert Saraut. 20 tuổi đỗ tú tài phần nhất, 1935 đỗ tú tài phần hai, vào Đại học luật. Nhược Pháp luôn học giỏi, xứng đáng cho các em noi theo.

Từ năm 1930 trở đi, kinh tế gia đình Nguyễn Văn Vĩnh bắt đầu khó khăn trầm trọng. Nguyễn Nhược Pháp vừa đi học để thi tú tài, thi đại học Luật, vừa làm ở tòa báo An Nam mới, viết thơ… để có tiền nhuận bút, giảm bớt chi tiêu của gia đình cho mình…

Từ sau khi chị Nội đang đi học Luật năm thứ ba mắc bệnh mất (1933), rồi cha mất (1936), chị Vân mất (1938), và tin anh Hải mất trong Nam… Nhược Pháp buồn đau, nhuốm bệnh lao hạch…

Ngày 19-11-1938 ông trút hơi thở cuối cùng tại Bệnh viện Đồn Thủy, hưởng dương 24 tuổi.

Ông để lại ba bức thư. Một bức viết bằng chữ Pháp, cám ơn các thầy thuốc đã hết lòng cứu chữa. Một bức thư vĩnh biệt mẹ cả và gia đình (khi ấy ông Vĩnh mất được hai năm).

Một bức gửi cho người anh là nhà thơ Nguyễn Giang, với tâm nguyện, hãy chăm sóc mẹ cả và các em nhỏ tốt hơn nữa.

Ban đầu, thi hài Nhược Pháp được mai táng ở nghĩa trang Hợp Thiện, Quỳnh Lôi, Mai Động, Hà Nội, sau được bốc mộ về làng Phượng Dực, quê cha.

Khúc Hà Linh

Giai nhân áo đen

của Nguyễn Nhược Pháp

Bà Đỗ Thị Bính, người đẹp phố Hàng Đẫy lâu nay vẫn được xem là bóng hồng mà thi sĩ tài hoa Nguyễn Nhược Pháp “thầm thương trộm nhớ”. Để rồi trong những bài thơ: Đi chùa Hương, Tay Ngà, Sơn Tinh – Thủy Tinh... thấp thoáng hình bóng của một “tuyệt sắc giai nhân”...

Người đẹp áo đen

Nếu như cuộc đời của người đẹp Vương Thị Phượng phố Hàng Ngang đúng là “hồng nhan bạc phận” thì cuộc đời của người đẹp thứ hai trong “Hà thành tứ mỹ” lại bình lặng hơn nhiều. Bây giờ, ngồi trong căn nhà biệt thự Pháp ở số 3A, phố Yên Thế bà Đỗ Thị Quyên, em gái bà Bính đã ngấp nghé tuổi 90 nhưng trên khuôn mặt lẫn nụ cười dáng vóc vẫn phần nào cho thấy vẻ đẹp của người chị gái từng được mệnh danh là “giai nhân Hà thành” khi xưa.

Nhấp chén nước, giọng sang mà ấm, bà Quyên nhớ lại: Đỗ Thị Bính sinh năm 1915, là kiều nữ của cụ Đỗ Lợi, nhà tư sản thầu khoán lớn nhất Hà Thành khi đó. Cụ Đỗ Lợi thuộc dòng họ Đỗ thôn Tiên Lữ (Lập Thạch, Vĩnh Phúc).

Vốn làm việc trong sở Lục lộ, vừa giàu có lại tài năng, lên Hà Nội, ông lấy bà Nguyễn Thị Quỹ, một người con gái xinh đẹp, sắc sảo làm nghề buôn bán tại Phà Đen làm lẽ. Đỗ Thị Bính là người con đầu trong ba người con của ông Lợi và bà Quỹ.

Những năm 1930, ông Đỗ Lợi là nhà tư sản có tiếng ở Hà thành. Những người già cả ở Ngõ Văn Hương bây giờ hẳn vẫn còn nhớ ngõ Đỗ Lợi, hồ Đỗ Lợi và trại sản xuất gạch hoa Vạn Cẩm, nơi ông sản xuất gạch hoa, đúc cống xi măng cung cấp cho các công trình xây dựng của người Pháp.

Công việc kinh doanh phát đạt, ông Đỗ Lợi chuyển sang lĩnh vực thầu khoán. Gần hai mươi công trình lớn ở Hà Nội khi đó đều do Đỗ Lợi làm chủ thầu. Giàu có, trại gạch hoa Vạn Cẩm khi đó còn là nơi nhà tư sản nuôi hàng chục con ngựa đua, một thú chơi công phu và thuộc vào hàng xa xỉ lúc bấy giờ.

Đang học lớp nhì tại trường Brieux, tên thông thường là trường Hàng Cót, một buổi chiều tan học, trong lúc mải ríu rít với bè bạn, Đỗ Thị Bính bị một chiếc xe hơi cán phải. Lo lắng cho cô con gái rượu, cụ Đỗ Lợi đã không cho người đẹp đến trường mà mời thầy về nhà để dạy riêng. Với tư chất thông minh và sự ham học, bà Bính vừa thông thạo tiếng Pháp lại có thể chơi được đàn thập lục hay dương cầm.

Trong số hơn chục nhà biệt thự ở rải rác ở khắp Hà Nội, gia đình bà Bính sinh sống ở căn nhà số 30 Nguyễn Thái Học, ngày xưa là phố Hàng Đẫy. “Chị tôi có thói quen mặc đồ đen nên người đương thời thường gọi là “người đẹp áo đen”. Nếu được ông bà mua cho quần áo khác màu thì cất đi hoặc cho em chứ tuyệt nhiên không mặc màu gì khác ngoài màu đen. Màu đen đã làm cho vẻ đẹp của giai nhân thêm vẻ huyền bí, tôn thêm làn da trắng, sự sang trọng, nghiêm trang của người đẹp”, bà Đỗ Thị Quyên cho biết.

Mặc dù là người có vẻ đẹp nhất nhì Hà thành khi đó, thế nhưng, người đẹp không hề có tính kiêu sa của những tiểu thư khuê các. Trái lại, bà Bính nhất mực hoà đồng, giản dị và gần gũi với mọi người. Trong trí nhớ của người em gái thì bà Bính có một khuôn mặt trái xoan, đặc biệt là tính tình hiền hậu, nhân từ, dịu dàng. “Chị tôi ăn chay, không ăn thịt cá bao giờ. Xuân về gia đình lại đi chùa Hương cầu kinh niệm Phật. Mỗi khi đi nghỉ ở Sầm Sơn, thấy trẻ con xách lồng chim đi bán, chị tôi gọi lại mua hết rồi mở cửa lồng cho chim bay đi”.

“Bóng hồng” trong thơ

Trong bao nhiêu trái tim mê đắm người đẹp có chàng thi sĩ tài hoa Nguyễn Nhược Pháp – con trai của Nguyễn Văn Vĩnh, ông chủ nhà in Trung Bắc Tân Văn lớn nhất Bắc Kỳ lúc bấy giờ. Ngang tàng hay bình dân chả biết, nhưng cụ Vĩnh sau lần đi Pháp đã đặt luôn cái tên ấy cho cậu con trai sinh cuối năm 1914. Sau khi đậu tú tài rồi vào trường Cao đẳng Luật Đông Dương, Nguyễn Nhược Pháp không sung vào bất kỳ ngạch quan lại lẫn công chức nào mà đi làm văn, làm báo...

So về tuổi tác, Nguyễn Nhược Pháp hơn người đẹp Bính một tuổi. Chàng thư sinh nhỏ bé, với sự yếu đuối thư sinh, với cái bẽn lẽn của một hồn thơ mộng mơ đã thầm thương nhớ trộm cô tiểu thư Đỗ Thị Bính tự bao giờ.

Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ. Cho nên, để biết cái vẻ “sắc nước hương trời” của một trong bốn “mỹ nhân Hà thành” xưa, chỉ cần đọc tập thơ Ngày xưa cũng đủ để hình dung chân dung Đỗ Thị Bính “Tóc xanh viền má hây hây đỏ/Miệng nàng bé thắm như san-hô/Tay ngà trắng nõn, hai chân nhỏ”.

Đó là sự hồn nhiên của cô gái đi trẩy hội Chùa Hương:

Cùng thầy me em dậy

Em vấn đầu soi gương

Khăn nhỏ đuôi gà cao

Lưng đeo dải yếm đào

Quần lĩnh áo the mới

Tay cầm nón quai thao…

Cúi đầu nàng tha thướt

Yêu kiều như mây qua

Mắt xanh nhìn man mác

Mỉm cười về cành hoa …”

Trước hiên nhà ở phố Nguyễn Thái Học có hai giò phong lan và đặc biệt ba rặng hoa hồng nở hương thơm ngát. Chiều chiều, người đẹp lại ngồi nhởn nha trên ghế đá đọc sách, ngắm hoa. Khi ấy, Nguyễn Nhược Pháp đang làm việc tại tòa báo L’ Annam nouveau.

Ngày nào chàng thi sĩ cũng kiếm cớ đi qua đi lại ngôi nhà có người đẹp ở, để được nhìn thấy nàng cho khuây nỗi nhớ.

Ta lặng nhìn hơi lâu

Nhưng thì giờ đi mau...

Nàng chợt nghiêng thân ngà

Thoáng bóng người xa xa...

Ta mơ chưa lại hồn

Nàng lẹ gót lầu son

Vừa toan nhìn nét phượng

Giấy thẹn bay thu tròn...”

Chuyện này kéo dài và cả hai gia đình đều biết. Gia đình cô Bính cho là chuyện phải lòng của anh chàng nhà thơ trẻ cũng như nhiều chàng trai khác si mê người đẹp mà thôi. Bằng cớ là mỗi dịp xuân tới, người đẹp Đỗ Thị Bính vẫn nhận được rất nhiều hoa từ những địa chỉ vô danh.

Mỗi bài thơ của chàng thi sĩ là một nét đẹp của người con gái khuê các áo đen, là chất chứa bao niềm thương nhớ. Nhưng năm 1938, căn bệnh lao đã cướp đi sinh mệnh của nhà thơ tài hoa ở tuổi hai tư. Để rồi, tình yêu của tài tử, giai nhân được lưu giữ trong tập thơ mang tên “Ngày xưa” tha thiết ấy…

Cuộc đời bình dị

Sau khi Nguyễn Nhược Pháp mất được một năm, gia đình thuyết phục cô Bính lấy một chàng trai du học bên Pháp về. Đó chính là Bùi Tường Viên, em trai út của Luật sư nổi tiếng Bùi Tường Chiểu. Mười sáu tuổi, Bùi Tường Viên sang Pháp học về ngành silicat và là một trong những kỹ sư đầu tiên của Việt Nam. Đám cưới giữa người đẹp phố hàng Đẫy và nhà trai ở phố Quán Thánh với hàng chục xe ô tô rước dâu hạng sang được xem là một trong những đám cưới lớn nhất ở Hà thành thời bấy giờ.

Chiến tranh nổ ra, bà Bính hoạt động trong phong trào bình dân học vụ, rồi cả gia đình đi tản cư lên mãi huyện Sơn Dương, Tuyên Quang. Mặc dù sống giữa cảnh núi đồi heo hút nhưng hai ông bà đi đâu cũng vẫn khoác tay nhau theo phong cách châu Âu khiến cho không ít người ngưỡng mộ. Bằng những kiến thức cơ bản, bà đã cứu sống cho rất nhiều người thoát khỏi căn bệnh sốt rét hiểm nghèo, trong đó có cả những người con của chính mình.

Đất nước hòa bình. Trở về Hà Nội, bà Bính lại cùng chồng, con sống cuộc sống bình thường trong một ngôi nhà giản dị. Tất cả mười tám ngôi biệt thự khang trang của nhà tư sản Đỗ Lợi lúc bấy giờ đã hiến tặng cho Chính phủ. Bà tích cực tham gia phong trào bình dân học vụ, chống giặc dốt. Từ đó cho đến khi về hưu, bà công tác tại Phòng Giáo dục khu Hai Bà Trưng.

Trong ký ức của những người con, người đẹp Đỗ Thị Bính là một giai nhân tài sắc vẹn toàn. “Ngay đến bữa ăn cùng gia đình chồng, khi nào mẹ tôi cũng là người ăn sau cùng, phục vụ cho bố mẹ chồng, chồng con ăn trước…

Cho đến những ngày tháng cuối đời, bà vẫn giữ thói quen không bao giờ đến ăn ở các hàng quán, mà nhất mực trung thành với những món ăn do tự tay mình chế biến”, ông Bùi Tường Quân, con trai Bà Bính cho biết.

Ông Bùi Tường Quân, con trai út của người đẹp Đỗ Thị Bính và bức ảnh của người đẹp được "truyền thần" sang chiếc đĩa sứ.

Người đẹp Đỗ Thị Bính đã cùng chồng đi qua cuộc chiến tranh, sống cuộc sống bình dị như biết bao người Hà Nội khác. Trở về với đất, gia đình, người thân khoác cho bà bộ quần áo nhiễu đen quen thuộc, như là một sự trân trọng với vẻ đẹp của người phụ nữ Hà Nội một thời.

Giang Hoàng

MĐ st

MIÊN MAN TUỔI GIÀ

Dương Lêh

Sáng nay vừa gặp môt anh bạn già trên đường đi tập thể dục buổi sáng. Sau khi tay bắt mặt mừng, cười nói vui vẻ, đột nhiên tôi hỏi: “Sao, lúc này có làm gì đặc biệt không?”. Anh bỗng trông nghiêm nghị hẳn ra, giọng nói có phần trầm trọng: “Tôi tập Thiền, anh ạ”. Tôi thấy hơi rét như đang gặp phải một vị cao tăng từ chùa Thiếu lâm xuất hiện. Tôi đưa đẩy: “Chà, hay quá, anh tập bao lâu rồi, có hiệu quả gì không?”. Anh chậm rãi nói như một vị sư giảng đạo: “Tôi mới tập vài tháng thôi và thấy rất có hiệu quả, mình luyện cái tâm mà anh, cho nên lúc này tôi thấy tâm hồn rất là thanh tịnh”. Tôi chợt thoáng nhận ra chung quanh tôi hình như đang chùng xuống, quang cảnh trở nên im vắng như trong một cảnh chùa, mặc dù tôi đang đứng trước cổng công viên Tao Đàn đang có nhiều người qua lại đi tập thể dục. Tôi vội vã kiếu từ anh bạn để ra về cho kịp lấy xe chạy ra chợ mua một ít rau cá cho buổi ăn trưa vì sáng nay bà xã tôi phải lên lớp. Hầu hết những người bán hàng ở chợ Ve Chai này đều quen mặt một ông già bảy mươi đeo ba lô chạy xe máy vô chợ mua vội vã năm ba món cá, thịt, rau, dưa, rồi chạy ra hướng đường Nguyễn Đình Chiểu về nhà. Sau buổi dạy, vợ tôi nhắm vào mấy món nguyên vật liệu tôi mua về làm món ăn riêng cho hai đứa chúng tôi cả buổi sáng và buổi chiều. Vào các mỗi buổi chiều trừ thứ Bảy và Chủ Nhật, tôi phải đưa bà xã đi lên lớp tại một trường gần Sở Thú và tôi thì quay ngược về một xí nghiệp đồ nhựa tận trong Chợ lớn, ở một góc xa của quận 11. Tôi cũng làm nghề bán chữ.

Hình như có một sự trùng hợp nào đó khi thấy dạo này có rất nhiều người lớn tuổi tham gia học Thiền. Tầng lớp nào cũng có, từ bình dân lao động đến cả trí thức. Các buổi nói chuyện, báo cáo đề tài liên quan đến Thiền đều được khách đến dự thính đông đảo. Tại các công viên vào những buổi sáng trưa chiều tối đều có vài người lớn tuổi ngồi tham thiền, theo kiểu ông Phật, trên các bệ xi măng, hai ngón tay cái và ngón áp út ở cả hai bàn tay chạm vào nhau để ở hai bên đầu gối, mặt hướng thẳng về phía trước, mắt nhắm nghiền. Những người này chắc chắn là đang thoát tục. Tôi chợt nghĩ không biết khi ngồi như vậy, người ta nghĩ gì? Hay là không nghĩ gì cả như có một số người đã nói.

Từ trước đến giờ khi nhìn một người đang tọa thiền tôi rất tôn trọng và có cảm tình vì thấy những vị này rất gần gũi với… cửa Thiền, tức là cửa nhà chùa nơi có những ông sư, những bà cô trong những bộ áo màu nâu, màu vàng hay màu xanh da trời. Nhìn những người tu Thiền, người ta thấy có cái gì đó mang tính từ bi thể hiện rõ nhất ở những nhà tu hành trong các bộ áo cà sa. Có người mặc kiểu áo “xá xẩu” của Tàu, nút thắt giống như các võ sư trong phim kiếm hiệp, vừa đi vừa phe phẩy chiếc quạt.

Thật ra, hiện tượng có nhiều người tu tập Thiền đạo cho thấy chiều hướng tích cực trong việc phát triển về mặt đạo đức trong mối quan hệ xã hội. Mọi người được sống chung trong cảnh hòa bình hạnh phúc.

Tuy nhiên có một vài điều làm cho những người trần tục như tôi cảm thấy có phần thắc mắc khi tiếp xúc với những người nói rằng họ đang tập Thiền, thành phần này thường tập trung vào những người tương đối đứng tuổi, nam hoặc nữ, những người làm công tác đưa người đi hành hương vào những ngày có lễ hội của Phật giáo, những người tổ chức các cuộc đi tham quan mười cảnh chùa trong một ngày vv… Những người này thường hay giảng về Thiền, về chuyện đức Phật, kinh này, kệ nọ cốt để quảng cáo cho người ta thuê xe đi hành hương càng nhiều càng tốt, sau này chết được lên cõi Niết Bàn. Đi hành hương theo kiểu gì mà bắt buộc phải đi trong mười chùa trong một ngày? Có kinh sách nào ghi lại đâu. Nếu thật sự mến mộ một ngôi chùa nào đó người ta có thể đến vãn cảnh cả buổi trời, thả hồn trong bầu không khí thanh thoát, lắng nghe tiếng kinh, tiếng kệ, tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng tụng kinh trầm ấm của các bậc cao tăng trong khi hành lễ. Người đi hành hương mười chùa trong ngày thường khi đến một ngôi chùa nào đó họ chỉ việc chạy nước rút vô chùa cắm cho được cây nhang rồi chạy vội ra xe chờ đi đến chùa khác. Cuối ngày về đến nhà mặt mày hốc hác, bơ phờ cũng ráng nói là còn khỏe mạnh, tinh thần sảng khoái như đã được thần tiên cho uống nước cam lồ.

Tôi thường thắc mắc khi ngồi Thiền như vậy, người ta nghĩ gì? Chỉ còn làm công việc suy nghĩ thôi chứ tay chân coi như bất động rồi. Nếu nhìn một vị sư mặc áo cà sa đàng hoàng đang tụng kinh gõ mõ, tôi ý thức được rằng ông đang… tụng kinh. Riêng nhìn một người đang ngồi thiền trong các công viên, thực tình mà nói, chỉ có trời biết ông ấy đang nghĩ gì. Có lần tôi đem câu hỏi này đến hỏi các vị đang xả Thiền trong các công viên thì được những câu trả lời khác nhau. Có ông trả lời y chang như trong sách: “ Thiền thường được hiểu là ngồi yên, trầm tư mặc tưởng, phân tích hoặc suy nghĩ về một luận cứ, một bài thơ hoặc một bài kinh ”. Có ông trả lời ngược lại và còn nói là đảm bảo y chang như trong sách: “L à ngồi xuống, nhắm mắt lại và giữ cho trí óc không suy nghĩ gì cả, nhờ vậy giữ cho tâm trí được thanh thản bằng cách tránh thoát các vấn đề . Suy nghĩ mà là không nghĩ gì cả. Tôi thấy cái ý này quả là “cao siêu”. Cũng có người nói: “Cái này là người ta luyện về cái tâm. Anh biết cái tâm là gì không? Cái tâm là tim đó(?). Mình ngồi Thiền như vậy thì cái tâm ở trong ngực mình mới vững mạnh, không cần uống thuốc”. Thế là tôi lãnh hội được cái cầu nối từ Thiền đến Tâm rồi đi đến trái tim(?). Về nhà lên mạng lại tìm thấy một câu thấm thía: “Thiền không phải là một quang cảnh để mô tả, không phải một phương pháp để trình bày; cũng không là một biểu tượng triết học để hình dung hoặc một nghi thức tôn giáo để tu tập. Ta không thể dùng ý thức để hiểu, càng không thể dùng ngôn từ để diễn đạt lý Thiền. Cho nên, càng suy nghĩ, càng tranh luận về Thiền thì người ta càng thêm vọng tưởng, không cách nào thâm nhập được thực chất của chân lý tuyệt đối này (TTH)”. Tôi như bị dội ra khỏi càn khôn, nhưng cũng còn kịp trấn tĩnh. Tôi chỉ đang tìm hiểu một hiện tượng xã hội. Đó là muốn biết các vị cao tuổi kia đang ngồi trầm tư mặc tưởng ở các công viên, họ đang làm gì vậy.

Có người hỏi bà xã tôi biết gì về Thiền, bà xã tôi cũng là một cô giáo già dạy ngoại ngữ, trả lời rằng đầu óc trống trơn, không biết một tí tẹo gì về Thiền cả. Nhưng một bạn trẻ đang là sinh viên Y khoa sắp ra trường khi nghe câu trả lời của bà xã tôi liền nói: “Như vậy cô đã đạt đến đỉnh cao của Thiền rồi đó”. Trời ạ, không lẽ câu nói của Khổng Phu Tử: “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả” cũng áp dụng được trong trường hợp này sao? Không biết có nghĩa là biết. Không hiểu lại là đạt tới đỉnh cao vấn đề? Cái này lại cũng cao siêu nữa(!). Tuy nhiên những người tu Thiền mà muốn cho mọi người biết là họ đang tu Thiền như là ngồi trong công viên nơi đông người qua lại, như vậy có có ý nghĩa gì là Thiền nữa không?

Trong một cuốn sách nói về những câu truyện Thiền có kể truyện hai nhà sư đang đi trên đường đến một vũng lội bỗng gặp một cô gái ăn mặc đẹp muốn đi qua vũng lội nhưng chịu, không làm sao qua được. Một nhà sư tình nguyện cõng cô gái đi qua vũng lội rồi thả cô xuống, đường ai nấy đi. Đi được một quãng xa, đột nhiên nhà sư kia cất tiếng trách cứ nhà sư đã cõng cô gái vì sao tu hành mà còn phạm sắc giới. Nhà sư đã cõng cô gái trả lời ông đã bỏ cô gái ở chỗ vũng lội thế mà nhà sư khó khăn này lại mang cô gái theo trong lòng từ nãy đến giờ. Đọc truyện này tôi hiểu lõm bõm được giữa hai nhà sư này tâm ông nào bị động, tâm ông nào vững vàng.

Lại có một công án (1):

Nhân gió lay phướn, có hai ông Tăng tranh luận.

Một ông nói:

- Phướn động

Ông kia nói:

- Gió động

Cãi qua cãi lại không ra lẽ. Lục Tổ nói:

- Không phải gió động, không phải phướn động, tâm các ông động đấy.

Hai ông Tăng giật mình run sợ.

Rồi kèm theo lời giải:

Cuộc đời vẫn đầy đủ mọi pháp: nắng, mưa, tốt, xấu, thủy triều lên xuống, con nước lớn ròng, hết đêm tới ngày, vạn vật sinh sôi. Con người thì vẫn trong đà Sinh, Lão, Bịnh Tử mà tiến, và trong cuộc sống có biết bao nhiêu pháp xảy đến cho mỗi người.

Phải, trái, hơn, thua, cao, thấp... là nguyên nhân của biết bao nhiêu xáo trộn ở cuộc đời. Chuyện nhỏ thôi, gió lay phướn, không ảnh hưởng tới ai cũng làm ra được một cuộc tranh luận huống là những chuyện mất mát, va chạm quyền lợi, bị xúc phạm danh dự… Bao nhiêu người đã hại nhau chỉ vì chút quyền lợi nhỏ nhoi. Thậm chí anh em cũng sẵn sàng giết nhau để tranh chấp gia tài, của cải. Vì thế mà có Đạo Phật để nhắc nhở rằng mọi người nên giữ cái Tâm của mình. Vì chính nó có thể lôi mình xuống tận địa ngục. Nhưng tu hành thành Thánh, thành Phật cũng do nó.

Các pháp thì vốn thế, nếu Tâm mình đừng động theo nó, thì sẽ được như gió, lưu thông không trở ngại. Ngược lại, chấp lấy pháp, khởi tâm theo pháp thì trùng trùng duyên khởi, nghiệp quả kéo theo nhiều kiếp luân hồi không dứt.

Cũng may hai ông Tăng tranh cãi nhau chuyện nhỏ và nghe lời nhắc để dừng đúng lúc.

Đọc đến đây tôi lặng lẽ đóng sách lại vì sợ tẩu hỏa nhập ma.

Chuyện tôi muốn nói ở đây là hiện nay có rất nhiều người không phải nhà nghiên cứu, không phải các vị cao tăng thuộc hàng ngũ “prồ”, nhưng lại thích giảng dạy đạo pháp, thế nào là Thiền, thế nào là Tâm. Những người phàm này thường có trình độ văn hóa tương đối hạn chế, có “duyên” được tham dự một vài khóa ngắn ngày về Thiền học, hoặc nghe mấy ông cư sĩ làm công quả ở chùa hay mấy chú tiểu nói chuyện về cái tâm rồi tự cho mình là “giảng sư”, gặp ai cũng thao thao bất tuyệt, đầu không ra đầu, đuôi không ra đuôi. Ai không đồng ý thì họ cho rằng những người này còn bị cái “nghiệp”, kiếp sau khó mà được “giải thoát”(?). Những người này thường tới các gian hàng thư pháp mua chữ “Tâm” được viết ngoằn ngoèo trên giấy về treo khắp nhà để lấy hên, cũng có thể để chứng tỏ mình là người đạt đến đỉnh cao của Thiền học. Lúc này phong trào thư pháp phát triển dữ dội. Vào những ngày đầu năm, trong không khí ngày Tết cổ truyền, rất nhiều gian hàng thư pháp với những ông đồ, bà đồ còn trẻ măng, súng sính trong chiếc áo dài khăn đóng bắt chước kiểu dáng của ông đồ thời xa xưa. Ngoài chữ “Tâm” các gian hàng thư pháp còn viết và bán chữ “Nhẫn”. Người mua cũng nhiều. Trong nhà treo đầy chữ “Tâm”, chữ “Nhẫn”. Có nhà treo lớ xớ làm sao không biết mà khách đến nhà đọc thành “Nhẫn Tâm”?? Tôi có một cậu em bà con, tuổi tác ở vào hàng 6x hồi xưa học hành mới đoạt được cái cử nhân tại chức về ngoại ngữ, nhưng không tìm được việc làm vì luôn bị rớt phỏng vấn do không nói được cái tiếng nước ngoài mà anh đã học. Mới đây anh ta theo học môn thư pháp tại một ngôi chùa nào đó, về nhà anh mua cọ, mực tàu, son, mặc áo lam giống như những cư sĩ tu tại gia, rồi viết trên giấy và dán khắp nhà. Từ ngữ mà anh viết nhiều nhất là “Mẹ” đủ mọi kiểu dáng. Cô em út ranh mãnh nói với bà mẹ: “Ảnh dụ khị má để má cho tiền ảnh đó!”. Anh chàng tức quá phang lại cô em: “Ừ, mầy ác ngôn vừa vừa, coi chừng không có thằng khùng nào tới rước mầy đó nghe”. Cô em gái “xí” một cái nghe chua lè, chua lét.

Khi bước vào tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” ngoài cái chuyện quan tâm về Thiền đạo, một số người lại quan tâm vào cõi xa xăm, thế giới thứ hai mà người ta sẽ tới sau khi nhắm mắt xuôi tay. Đó là thế giới tâm linh mà người ta sẽ gặp lại những người thân yêu, những bà con thân thuộc.

Người ta tin rằng trong cuộc sống hiện tại luôn luôn có “anh linh” của những người đã về bên kia thế giới hiện diện lẫn lộn với người trần thế. Theo lời một người bạn bơi lội, một bác sĩ y khoa, cho biết tùy theo cái nghiệp của người đã chết mà anh linh của họ được tồn tại. “Họ” biết và nhìn thấy những gì chúng ta hiện đang làm để “tổng kết” cho chúng ta khi chúng ta về bên kia thế giới và cũng để được quyết định lên thiên đàng hay xuống tuốt dưới địa ngục. Đang bơi tôi cảm thấy nước trong hồ hình như lạnh hơn. Vừa bơi tôi vừa nhìn chung quanh xem có “anh linh” nào lai vãng không, nhưng hình như chỉ có “chị linh” hay “em linh” vì trong hồ bơi số lượng phụ nữ đi bơi đông hơn nam nhiều.

Vì cho rằng những người cõi âm đang xuất hiện quanh ta nên việc cúng kiến dạo này người ta không chỉ làm một cách tươm tất mà còn thêm phần phô trương. Các tiệm bán hàng mã, giấy tiền vàng bạc trong Chợ Lớn đang sản xuất các loại xe ô tô bằng giấy, khung tre mang đủ màu sắc, đủ loại nhãn hiệu, Toyota, Nissan, Mẹc-xí-đì… đều có đủ.

Một lãnh vực khác mà các vị cao tuổi thích nhào vô nghiên cứu tìm hiểu là “phong thủy”. Một từ ngữ của tiếng Trung Hoa được vay mượn để làm phai mờ đi nhóm từ ngữ của ta là mê tín dị đoan.Từ khi đất nước mở cửa, nước ngoài vào đầu tư phát triển kinh tế, phong trào di dân từ quê ra tỉnh, từ phương Bắc vào phương Nam, việc xây dựng nhà cửa bùng lên khắp mọi nơi, nhu cầu xem phong thủy phát triển rất mạnh. Trong thời kỳ khó khăn hầu như không ai quan tâm đến việc xem phong thủy có khi còn bị cho là duy tâm.

Bây giờ có quá nhiều người nói chuyện về phong thủy. Người Tây phương cũng có nói chuyện về phong thủy. Trong một tài liệu y khoa nói về việc chăm sóc trẻ sơ sinh, người ta có đề cập đến việc tổ chức phòng ốc cho trẻ nên tránh bố trí góc phòng dưới hình dáng một góc nhọn, lý do không phải sợ ma quỉ gì cả mà khó làm vệ sinh, hoặc những góc phòng chật chội, bày biện không đúng cách, tối tăm, sẽ không nhận được ánh sáng mặt trời làm cho căn phòng trở nên ẩm thấp, u ám không tốt cho sức khỏe của trẻ. Vậy người Tây Phương cũng có nói về phong thủy nhưng dựa trên cơ sở khoa học chứ không mang tính tâm linh, hay liên quan đến cõi vô hình.

Một anh bạn của tôi cũng vừa qua khỏi cái ải sáu mươi, tự nhiên nhảy vô học một khóa phong thủy do thầy từ Singapore qua dạy. Sau khi tốt nghiệp tôi thấy anh nói rất nhiều về cái môn phong thủy. Anh có vẻ như một ông thầy địa lý hơn là một ông thợ sửa xe gắn máy, cái nghề đã đem lại cho anh sự giàu có trong mấy chục năm trời. Thực ra đưa phong thủy vào việc xây dựng nhà cửa chỉ phục vụ cho một số người giàu có khi những người này sở hữu các loại nhà cửa hiện đại, những biệt thự sang trọng. Đối với thành phần trung lưu, những người bình dân lao động thường sở hữu các loại nhà phố bình thường, chung cư, hay thấp hơn nữa là những loại mái tôn vách ván thì khỏi phải bàn đến cái chuyện phong thủy. Xin hãy nghe các nhà phong thủy đã “phán” như thế này: “ Không nên xây cầu thang xoắn ốc hẹp và nằm ngay giữa nhà. Trong trường hợp này khí xoắn ốc sẽ đâm xuyên vào Thượng Tâm của ngôi nhà, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người trong nhà. Những cơn đau tim, đột quỵ sẽ tác động đến người sống trong ngôi nhà có dạng cầu thang này. ” Và “ Cầu thang không nên đặt ngay giữa nhà nếu không sẽ cản trở mạch khí trong ngôi nhà, khiến cho những người sống trong ngôi nhà dễ cáu kỉnh và thường lo lắng, kích động. Lâu ngày sẽ ảnh hưởng không tốt để sức khỏe .”(2) Quả là không có một tí cơ sở khoa học nào cả. Làm gì có thứ khí gọi là “khí xoắn ốc”. Khí này lại còn “đâm” được vào Thượng Tâm của ngôi nhà(?).Trong nhà bạn chỗ nào là “thượng tâm” và chỗ nào là “hạ tâm?” Những chứng bệnh như đột quỵ, đau tim có liên quan gì đến cái cầu thang giữa nhà. Còn nói: “…khiến cho những người sống trong ngôi nhà dễ cáu kỉnh và thường lo lắng, kích động”. Đây chỉ là đoán mò, nói một cách vu vơ vô thưởng vô phạt, để gạt gẫm người ta. Khi bị người ta chỉ trích, các “phong thủy gia” này thường hay chống chế và hù dọa: “Ừ tôi nói thế đấy, không tin thì thôi. Coi chừng bị tai họa khôn lường đấy!”

Thật ra khi bước vào cái tuổi “cổ lai hi… hữu” thì ai muốn làm gì thì làm miễn là không đụng tới tự do của người khác. Những người lớn tuổi ngồi không ở nhà cả ngày buồn lắm. Ông bạn tôi còn một hai năm nữa có số má là bảy mươi về tuổi tác, trước đây là sếp lớn của một ngân hàng, nay đã về nghỉ hưu. Mới ở nhà được vài tháng, anh ta rên rỉ: “Ôi! ở nhà không làm gì hết, buồn quá!” Tôi hỏi anh ta, “Có đi tập thể dục buổi sáng không?” – “Không!” “Có đọc sách không?” – “Không!” “Có ghiền máy vi tính không?” – “Cũng không!” Buồn là phải thôi!! Tôi khuyên anh ta đi tập Yoga đi. Mới đây có một ông già người Ấn Độ 96 tuổi rồi mới có thêm đứa con trai vài tháng tuổi. Đứa con trai đầu của ông cũng vừa mới được hai tuổi, nghĩa là ông có đứa kia hồi ông 94 tuổi. Bà vợ ông, mới… 54 tuổi, cho biết, ổng coi vậy chứ còn sung lắm. Ổng “yêu” bả liền tù tì cả đêm. Ổng còn cho biết thêm ổng khỏe như vậy nhờ tập Yoga và còn dạy cho bà môn này nữa. Bởi vậy hai ông bà đều còn rất sung sức.

Ở cái tuổi của tôi, bảy mươi rồi, nếu bảo tôi so thành công lực với với ông già Ấn Độ 96 tuổi trên đây thì tôi xin thua đẹp. Tuy nhiên tôi thấy vẫn còn trẻ trung, yêu đời, lạc quan và đặc biệt là “hiếu động”. Hiếu động ở đây không phải quậy tầm bậy tầm bạ để người đời chửi rủa mà là tôi vẫn còn thích làm việc. Tôi vẫn còn đi dạy học. Tôi dạy tiếng Anh, tiếng Hoa và đặc biệt mới đây có mấy người bạn mời tôi dạy… khiêu vũ. Thật ra, mấy người bạn này đã biết tôi trước đây đã từng dạy qua cái môn “ăn chơi” này. Nhưng vì lúc bấy giờ cái môn Anh văn đang câu được khách nên tôi đã tạm dừng nhảy nhót. Nay các ông bạn này có “nhu cầu học hỏi” nên đến mời và tôi đã nhận lời.

Như đã nói ở trên tôi phải tham gia các công việc nhà như đi chợ, nấu ăn khi bà xã tôi đứng lớp, quét, lau dọn căn phòng riêng của chúng tôi. Tôi bận rộn cả ngày chưa kể thời gian đi hát với nhau, đi nhậu với bạn bè, đi họp ở Câu lạc bộ sách. Tôi không có thời gian để dành cho cái bệnh phong trào, đó là stress. Từ xưa đến giờ tôi chưa hề biết stress là gì. Tôi cũng từng có những khoảng thời gian làm việc hết sức căng thẳng, nhưng khi về đến nhà tôi hoàn toàn quên hết công việc, chỉ biết vui đùa với vợ con. Tôi cũng quên hẳn mấy ông chủ nước ngoài thường thắc mắc, khó chịu với nhân viên, cho nên tôi không bao giờ đem cái bực bội ở cơ quan như bị chủ la mắng, cãi nhau với đồng nghiệp, về nhà trút lên đầu lên cổ vợ con như nhiều người khác thường làm.

Nhiều người cho rằng tôi quá lạc quan, coi chừng có ngày đã thất bại. Thật ra trong cuộc đời tôi không ít lần thất bại. Nhưng sau mỗi lần như vậy tôi tự bò lên, bắt đầu trở lại không than vãn với ai khác vì tôi cho rằng than vãn chẳng có ích gì.

Dương Lêh

(1) Trích từ Bản Tin số 75 của CLB Sách xưa và nay,

(2) Nguồn Internet.


Phụ Bản II

CÂU CHUYỆN VỀ MỘT BẢO TÀNG

LƯU NIỆM MỘT NHÀ THƠ NGA

Thúy Toàn

Giữa năm ngoái, 2009, trong chuyến đi công tác ngắn ngày trở lại Maxcơva cùng với nhóm chuyên gia Viện Ngôn ngữ làm từ điển Nga Việt, tình cờ anh Vũ Thế Khôi phát hiện ra bảo tàng nhà thơ Nga Nikôlai Rubtxov (Николай Рубцов _ 1936-1971) tại nhà số 3 phố Đimitri Ulianov ở trong thư viện của quận địa phương, kế ngay bên cạnh nhà số 5, tòa nhà ở góc phố vốn được cộng đồng người Việt tại Nga và nhiều cán bộ khoa học người Việt ta có dịp qua lại Nga quen gọi là Đôm 5.

Nhà thơ Nga đoản mệnh Nikôlai Rubtxov, cuộc đời ngắn ngủi chỉ có 35 năm trên đời, còn ít người đọc ở Việt Nam ta biết đến. Tuy nhiên, thơ của ông đã sớm có người dịch ra tiếng Việt và càng ngày càng có nhiều người yêu mến thơ Nga tìm hiểu và dành thời gian cùng tâm huyết dịch, giới thiệu với công chúng bạn đọc. Vào năm 1996, trên một trong những số đầu của tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam vừa ra đời ban biên tập tạp chí đã tổ chức một cuộc thi dịch thơ Nga mà đề thi chính là một tác phẩm của Nikôlai Rubtxov – bài thơ “Những chiếc lá phong đã bay đi”. Cuộc thi đã thu hút hàng mấy chục người tham gia và ban giám khảo đã chọn ra được tới hơn một chục bản dịch khác nhau có chất lượng.

Nhà giáo ưu tú – dịch giả Vũ Thế Khôi cũng là một trong những người có chân trong tổ chức cuộc thi này. Bây giờ thấy bảo tàng Rubtxov đây anh không chần chừ lập tức mở cửa vào thăm. Anh được đích thân bà giám đốc thư viện, người lập ra bảo tàng Nikôlai Rubtxov, có thể nói có quy mô đầu tiên này ở Nga, tiếp đón, bỏ ra cả buổi trò chuyện rồi hướng dẫn anh đi thăm quan các gian trưng bày.

Bà Maria Andreevna Paliôtova, giám đốc thư viện – bảo tàng vốn là cán bộ y tế, chứ không phải là nhà nghiên cứu văn chương, không phải nhà thơ, thậm chí không phải giáo viên dạy học bao giờ. Nhưng ngay khi còn công tác ở bệnh viện số 64 của Maxcơva, bệnh viện của bà đã bảo trợ cho quận Klinxki, bà đã cùng các đoàn viên Komxômôn và thanh niên quận đứng ra thành lập bảo tàng lịch sử quận Klinxki của thành phố Maxcơva. Đến năm 1980, lúc này bà đã nghỉ hưu chuyển về trông nom thư viện công cộng địa phương quận bà gắn bó, trong lễ kỷ niệm 600 năm chiến thắng trên cánh đồng Kulikovo, nơi quân Nga, Ucraina, Beloruxia năm 1380 dưới sự chỉ huy của Đmitri Đonseki đánh tan đạo quân Mông cổ - Tác ta của Hãn Mamai mở đầu cho cuộc giải phóng nhân dân Nga và các dân tộc khác thoát khỏi ách áp chế Mông Cổ - Tác ta, lần đầu tiên bà Maria Andreevna đã được nghe thơ Nikôlai Rubtxov. Bài thơ “Cảnh tượng nhìn thấy trên đồi” của nhà thơ – hồi tưởng lại những trang sử nước Nga cổ xưa kết hợp với những sự kiện lịch sử đương đại đã để lại ấn tượng mạnh cho bà Maria Andreevna.

Nước Nga, nước Nga cổ xưa –

Dù tôi đưa mắt nhìn bất cứ về đâu..

Vì tất cả những khổ đau và biết bao trận chiến

Tôi yêu quý Người, ơi nước Nga, cái thuở xa xưa,

Những cánh rừng của Người,

xóm làng và những lời cầu nguyện

Yêu quý những căn nhà gỗ bé nhỏ, những bông hoa

Và những khoảng trời nóng lên vì oi bức

Và tiếng thì thầm của vực nước

Yêu trọn đời, đến khi yên nghỉ cuối cùng…

Nước Nga, nước Nga cổ xưa!

Xin Người giữ mình, xin cẩn trọng!

Từ thời gian đó trở đi bà Maria Andreevna bắt đầu sưu tầm, thu thập các tài liệu có liên quan đến sáng tác và tiểu sử của nhà thơ lớn. Bà lặn lội về Vôlôg nơi gắn bó với tuổi thơ cũng như những năm tháng cuối đời của Nikôlai Rubtxov để viếng mộ nhà thơ và làm quen với những ai đã từng biết ông, cũng như đến tận ngôi nhà, nơi ông từng sống và bị giết chết một cách bi thảm…

Kết quả nhiều năm tìm tòi, lao động hết mình, đến tháng chín năm 2002 tại trụ sở của thư viện số 95 ở thành phố Maxcơva (nhà số 3 phố Đmitri Ulanov) đã khai trương Trung tâm Văn hóa – Khai sáng mang tên Nikôlai Rubtxov và Bảo tàng Nikôlai Rubtxov

Bảo tàng đã thu thập được nhiều bức ảnh quý: chú bé Kolia Rubtxov lúc sống ở trại trẻ, khi là sinh viên trường trung cấp Rừng, Nikôlai Rubtxov – anh lính thủy thủ, thợ đốt lò nhà máy Putilovxko - Kirov, rồi Nikôlai Rubtxov - nhà thơ vv... Nhiều hiện vật gắn với cuộc đời Rubtxov: cái làn đan bằng cành bạch dương mà Nikôlai Rubtxov mang đi hái nham lê, một phần để lại cho gia đình, phần còn lại đem bán lấy tiền mua vé tàu đến Maxcơva để vào học trường Văn chương Goocki. Cả cây đàn gió Nga mà Rubtxov từng chơi ở làng Nikol quê hương của mình, nơi nhà thơ có những tháng ngày ấm cúng hạnh phúc và nơi ông đã sáng tác được bao nhiêu tác phẩm để lại.

Sau chuyến công tác năm ngoái, dịch giả Vũ Thế Khôi đem theo về tặng lại cho tôi một cuốn sách dầy có tên lấy từ một câu thơ của Rubtxov “Hãy để tâm hồn mãi trinh bạch…” với phụ đề Rubtxovm các sự kiện trong tiểu sử còn ít được biết đến. Tác giả chính là bà Maria Andreevna. Và sau đó ít lâu qua sự giới thiệu của anh Khôi tôi nhận được từ chính bà Maria Andreevna gửi theo đường bưu điện tặng cho tôi cuốn sách khác của bà có tên ngắn gọn “Tâm hồn gìn giữ”, nội dung cũng tương tự cuốn sách anh Khôi cho tôi, chỉ có phần xếp sắp lại, có thêm bớt chút ít.

Trong chuyến đi của chính mình vừa qua trở lại Maxcơva tôi đến thăm được bảo tàng Nikôlai Rubtxov, mà trước đó anh Vũ Thế Khôi đã phát hiện và làm quen. Không được hân hạnh như anh Khôi được gặp bà Maria Andreevna, giám đốc thư viện và người sáng lập bảo tàng. Nhưng bà Olga Anaskina, phó giám đốc, có mặt hôm đó, nhiệt tình không kém đã tiếp tôi, đưa đi xem nơi trưng bày hiện vật, tặng cho tôi nhiều sách, tài liệu quý, lại nối đường giây cho nói chuyện với bà giám đốc.

Giờ đây trong tay tôi có đủ các tác phẩm của Nikôlai Rubtxov: sáu tập thơ ông kịp xuất bản khi còn sống – Sóng và ghềnh đá (1962), Thơ trữ tình (1965), Ngôi sao đồng ruộng (1967), Tâm hồn gìn giữ (1969), Tiếng rì rầm của rừng tùng (1970), Những bông hoa màu xanh (1971) và hơn 70 bài thơ chưa vào tập tuyển nào; nhiều bài viết về thân thế sự nghiệp của tác giả, đặc biệt 2 cuốn sách của bà Maria Andreevna.

Ở Nga, thơ của Nikôlai Rubtxov từ lâu đã được đưa vào giảng dạy ở nhà trường. Tên tuổi Nikôlai Rubtxov đã được xếp vào hàng các nhà thơ kinh điển. Ở các hợp tuyển thơ ca Nga của nhiều tác giả tuyển chọn khác nhau ra trong vòng một phần tư thế kỷ qua, thơ Nikôlai Rubtxov đều được lựa chọn, đưa vào khá nhiều, ngang với các nhà thơ lâu nay đã lừng danh. Vào những dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày mất… của nhà thơ Nikôlai Rubtxov đều được diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ gắn với tên tuổi nhà thơ: những Festival thơ Rubtxov, các hội thảo khoa học về sáng tác của Nikôlai Rubtxov. Năm 2006, năm Nikôlai Rubtxov 70 tuổi được coi là năm Rubtxov. Rubtxov đã được tạc tượng, dựng ở 4 địa điểm khác nhau của nước Nga.

Tiếp theo những tên tuổi như M. Lermontôv (1814 – 1841), X. Exenhin (1900-1925) ngày nay người Nga kể tới Nikôlai Rubtxov (1936-1971). Bảo tàng Nikôlai Rubtxov ở Maxcơva cũng là một biểu hiện của sự đánh giá cao, ngưỡng mộ của nhân dân Nga đối với tài năng của Nikôlai Rubtxov.


Đừng rơi lệ...


Có thời khắc - với tâm hồn tôi là niềm vui an ủi:

Mọi cái mong manh, nhưng đã hửng mầu xanh!

Có thời khắc của ngày thu tàn lụi,

Với tâm hồn tôi cũng gần gụi thân tình.


Ngập ngụa khắp nơi, nhưng vẫn muốn tìm về đầm trũng,

Mưa bốn bề, mà vẫn muốn đến với dòng sông,

Và trên dải bờ sập sùi mưa nắng

Căn nhà gỗ izba buồn giữa những con thuyền.


Bay tơi tả, lá trôi theo dòng nước

Đi ngang bên những bờ giậu, tán cành hoang….

Trong những ngày này với tôi cả công việc,

Cả những cảnh tình mất mát quý nào bằng.


Đừng rơi lệ trên gộc cây đầm trũng

Bởi vì tôi quá nóng nẩy ngỏ lòng,

Khi tôi chết – và thân tôi giá lạnh,

Bấy giờ em hãy khóc, hỡi người thương!

Nikolai Rubtxov

Thúy Toàn dịch


MÙA THU CUỐI CÙNG


Nhìn thấy ông, mọi người đều hoan hỉ,

Nhưng còn ông, ông biết mình cô đơn.

Ông đưa mắt nhìn quanh những người tụ tập trong nhà hầm,

Muốn dứng dậy, bỏ đi… nhưng không thể!


Và ông hiểu, trong ông đang mất dần nhuệ khí,

Mà bình yên tìm đâu ra được giữa những ngả dặm trường.

Bạn bè ông có đấy nơi yên tĩnh quê làng,

Nhưng ông cách xa họ thật là tuyệt vọng!


Thế là lần đầu tiên giữa những bức tường ảm đạm

Xergây Exenin ủ rũ gục đầu….

Bấy giờ ông đang sống trong linh cảm thu sầu,

Đã không còn mong gì những đổi thay hơn nữa.

Nikolai Rubtxov

Thúy Toàn dịch


Mùa thu 1925, trong bối cảnh nước Nga Xô Viết bước vào thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP). Quả là đối với một tâm hồn thơ Nga như Exenin, “người bạn đường trung thành của cách mạng tháng Mười”, nhà thơ Exenin lâm vào một tâm trạng hoang mang. Trong khi đó ông không còn có bạn. Một trong những người bạn lớn của Exenin là A.Blok đã mất năm 1921…. Nhiều kẻ trước đây là bạn ông trong trường phái hình tượng mà ông là chủ soái, sau đó ông rời bỏ đi theo con đường riêng góp tiếng nói với văn học mới cách mạng, thì đã quay lưng lại xa lánh ông, thậm chí phỉ báng vu cáo ông… Exenin thực sự cô đơn.


LEVITAN

(Theo motif bức tranh “Tiếng chuông chiều”)


Ánh tà dương nhạt hồng soi tỏ

Cửa sổ các túp nhà tường gỗ thân cây.

Trên cánh đồng hoa chuông chuông đổ

Từ tháp chuông thánh đường dâng đầy.


Tiếng chuông quanh làng, bên cửa sổ,

Bên cột thánh đường, lan tỏa xa.

Tôi nghe tiếng chuông thánh đường đổ,

Tiếng hoa chuông trên đồng cỏ thầm thì.


Đồng cỏ của người mỗi hoa chuông nhỏ

Chẳng kém chuông đồng nước Nga cổ của người,

Thấm vào hồn Nga làng quê, thành phố,

Thêm mới niềm vui, sức mới xuân tươi.

N. Rubtxov

Thúy Toàn dịch

Levitan Ixaak Il. (1860-1900) – họa sĩ – xê dịch Nga, người sáng lập trường phái tranh “phong cảnh tâm trạng”, trong đó chứa đựng nhiều liên tưởng thơ, nhiều khoái cảm.

Bức tranh “Tiếng chuông chiều” Levitan sáng tác năm 1895 là một trong những tác phẩm nổi tiếng của danh họa này, điển hình cho loạt tác phẩm thời kỳ khoảng 1873-1897.


Những bông hoa súng


Những con đường đã trải dài xa ngái!

Những cánh đồng đã nới rộng mãi xa!

Trên cao sếu lao đi không trễ nải

Vượt bập bềnh băng lũ chẳng bến bờ.


Tiếng kêu càng thêm gần, thêm hớn hở,

Gọi nhau chăng? Hò hẹn?... giữa trời xuân….

Lại những chuyện của tình yêu, tuổi trẻ

Trước mắt tôi… nhưng nào thấy cố nhân.


Hoa vẫn hoa xưa… những cô gái khác

Kéo đến bên sông dòng cuộn cuộn trôi.

Chẳng nói làm chi cho các em biết

Những chuyện xưa tôi biết ở chốn này.


Các em chạy đi, nô đùa, trêu chọc

Chạy đi đâu thế? Các cô ơi!

Lại xem này, súng trổ hoa thật tuyệt!

Nhưng lẽ nào còn ai nghe tôi….

Nikôlai Rubtxov

Thúy Toàn dịch



NÔNG NỔI CON TIM


Đừng nói chuyện khôn ngoan khi con tim loạn nhịp

Đừng nói chuyện cân đong khi con tim hôi hổi yêu thương

Đừng nói chuyện gạn lường khi con tim chỉ về một hướng

Đừng nói chuyện công tâm khi con tim chẳng có mắt bao giờ.


Là bởi thế con tim hoài nông nổi

Khi đã yêu chỉ môi mắt bồi hồi

Đã yêu rồi chỉ yêu mãi mà thôi

Cho dù đắng cho dù cay cũng vẫn…


Tình yêu ơi! Dẫu suốt đời lận đận

Dẫu con tim đã lắm lắm nhọc nhằn

Nhưng tình yêu, ai có thể ăn năn

Khi đã lỡ rơi vào sâu đáy mắt


Đừng hờn trách con tim đầy khao khát

Đừng đắng cay khi đã nói yêu thương

Dẫu tình buồn tình chết vẫn còn vương

Lời tha thiết vẫn chìm trong nỗi nhớ.

Đàm Lan


Thủ thỉ cùng con *


Cái chết là một sai lầm tuyệt đối

Chẳng còn chi sửa chữa được nữa rồi

Ba đã ngần này tuổi đời, con cũng không còn cơ hội

Ba vịn bàn thờ con mà khóc, Phước An ơi!


Ước chi đây chỉ là cơn ác mộng

Khi ba tỉnh dậy thấy con cười

Nói chuyện kinh doanh làm ăn rất nóng

Ba lau mồ hôi mừng rỡ đất trời vui.


Nhưng tiếng máy niệm “Nam mô A-di-đà Phật”

Bảo rằng con đã thực sự bỏ đi xa

Mắt con trong hình rất buồn như vừa mới khóc

Chắc con nhìn tóc trắng mái đầu ba


Từ lúc trưởng thành con không còn được ba ôm thân ái

Khi được ba ôm thì con đã không còn

Hơi nóng người ba không đủ cho xác thân con ấm lại

Ba ôm chặt con trong lòng mà ba đã mất con!


Con là nắng mai ba là chiều tà bóng xế

Ba hoang mang tê liệt thấm cơn đau

Con vắng mặt khắp nơi trong ngôi nhà ngày càng quạnh quẽ

Gió xô nghiêng cây chuối nhỏ trên lầu


Nửa đêm ba đến bàn thờ con thắp cây nhang và khóc

Nước mắt già nua không nuốt được vào lòng

Cứ chốc chốc ba giật mình hoảng hốt:

Ba lỡ hỏa táng con rồi, còn cứu vãn được gì không?


Con chân thật với mọi người và hết lòng cùng bè bạn

Chơi với ai cũng không thủ phần mình

Nụ cười hiền và tâm hồn hào sảng

Đâu có điều gì để ba ngờ cuộc sống sẽ mong manh!


Ba mốt tuổi chưa có điều chi thỏa chí

Con chưa kịp để lại gì ghi dấu một đời trai

Ba thường nhắc nhở con gắng lên cho bằng anh bằng chị

Mà bây giờ con chỉ còn lưu lại nắm tro thôi!


Ba nghe nói chết không phải là chấm hết

Chẳng qua con rũ bỏ xác thân giả tạm cõi vô thường

Nhưng ba mất con là ngàn thu vĩnh biệt

Nên lòng ba tan nát bi thương


Ba không trách con những lần con thất bại

Nhưng ba thường la con vì những chuyện vô tâm

Ba có biết đâu đến một ngày con không còn ở lại

Ôi con sống được bao lăm mà ba trách những sai lầm!


Kinh sách nói sinh tử là chuyện thường tình hiểu được

Như ngày và đêm, sáng và tối thay nhau

Rằng tan hợp là do nhân duyên từ nhiều kiếp trước

Nhưng cái biết sách vở này có an ủi được gì đâu.


Con là một trong bốn Phương của ba mẹ

Mà nay ba lạc mất một Phương rồi!

Anh Đông Phương, chị Nam Phương,

               chị Yến Phương có nỗi đau nào hơn thế

Ba mẹ già rồi, tội lắm Vĩnh Phương ơi!

24 ngày mất con.

Thiếu Khanh

* Con trai út, Phước An Nguyễn Hoàng Vĩnh Phương

  Pháp danh Nguyên Tâm

  Sinh năm 1982

  Từ trần ngày 12/9/2012 tại Sài Gòn.




GÓC BÌNH YÊN

Nhờ có Công Viên, để những chiều

Thảnh thơi tản bộ, thấy đời yêu

Hoa tô cành biếc, như lụa dệt

Nắng điểm tơ vàng, tợ gấm thêu

Chạy giỡn, em thơ trông bụ bẫm

Nhàn du, thiếu nữ dáng yêu kiều

Giữa chốn thị thành đầy huyên náo

Có Góc Bình Yên, thật mỹ miều

TÂM NGUYỆN

Tình Già

Mình cũng như tôi, tuổi xế chiều

Mạch xuân đã cạn, quá thì yêu

Không còn ảo tưởng, mang tô, vẽ

Đã hết mơ màng, lấy dệt, thêu

Mình đã qua rồi, thời phong độ

Tôi cũng còn đâu, nét diễm kiều

Nhưng còn thắm thiết câu tình nghĩa

Cũng đủ nhìn nhau… thấy mỹ miều

TÂM NGUYỆN

NGÀY NHÀ GIÁO 20/11

Ngày lễ tháng mười một

Mừng nhà giáo dạy tốt

Tài năng giỏi phát huy

Kiến thức hay lên lớp

Dạy thế hệ mầm non

Luyện nhân tài trụ cột

Nhiều thành quả xuất chiêu

Đánh bại được thù dốt

THANH CHÂU

Hoa chính là nàng

(Mừng Cát-leyơn nở hoa trắng, nhụy vàng)

Gặp nụ xuân khai, dạ mở cờ

Trông màu trinh bạch – nẩy vần thơ

Nhụy vàng phơn phớt, rung rung nhạc

Cánh trắng mơn man, mộng mộng mơ

Đăm đắm nhìn lâu lòng dịu vợi

Say sưa ngắm kỹ ý vu vơ

Hương đưa thoảng nhẹ, người thanh thản

Tuyệt lắm Nàng ơi! Tớ mãi chờ!

PN: 9.3.08

XUÂN VÂN


THẬT ĐÁNG YÊU

Nhân gian – Từ trẻ đến người già

Thích thú vô cùng lúc ngắm hoa

Cẩm chướng, hướng dương lồng nhật nguyệt

Phong lan, chiếu thủy lộng sơn hà

Sen thơm, thơm ngát quê Đồng Tháp

Lan trắng, trắng rờn, miệt Cẩm La

Mai Cúc, Tigôn, Hồng, Vạn Thọ

Gợi niềm tơ tưởng mối tình xa

XUÂN VÂN

ƯỚC

Ước làm một cánh diều bay,

Trôi về nơi ấy… giãi bày nhớ thưong

Ước làm một đóa hoa hường

Len vào tim ấy… ướp hương cho tình

Ước làm tia nắng lung linh

Rọi vào sưởi ấm “cho mình” đêm đông

Ước làm cánh gió thu phong

Thổi vào mát dạ “bạn lòng” thâu canh

Ước làm chim nhỏ hoàng anh

Líu lo giọng hót nuôi xanh cuộc tình

Ước làm chiếc bóng yên bình

Cho đây với đó bóng hình chung đôi

Cho tình ta mãi lên ngôi

Trúc mai hòa hợp sóng đôi dặm trường

XUÂN VÂN

XA

Em xa anh

Có thấy buồn không nhỉ

Ngày vắng em

Dài tưởng chừng thế kỷ

Chả bao giờ

Muốn xa cách em đâu

Chả bao giờ

Muốn xa cách em lâu

Vì xa em

Khiến lòng anh đau khổ

LÊ MINH CHỬ



NỖI NIỀM

Ta chẳng còn ai để đợi chờ

Bên dòng sông vắng

mộng vu vơ

Tháng ngày thăm thẳm

Hồn hiu quạnh

Gọi giấc mơ xưa…

Vẫn hững hờ

Ta chẳng còn ai để hẹn hò

Nhặt hoa tím

dệt mấy đường tơ

Tay rời tay

nẻo đường đôi ngả

Như khách sang sông

lỡ chuyến đò

Ta chẳng còn ai để dỗi hờn

Đèn đêm hiu hắt

nỗi cô đơn

Bên thềm rêu cũ

còn văng vẳng

Giọng hát mượt mà

đượm sắt son

Ta chẳng còn ai để cảm thông

Ánh hoàng hôn

gợi nỗi hoài mong

Âm thầm ấp ủ

niềm hy vọng

Nhem nhúm tin yêu

sưởi ấm lòng

NGÀN PHƯƠNG


KHÚC TỰ TÌNH


Chán cảnh bon chen chốn thị thành

Trở về nương náu mái nhà tranh

Bên giàn thiên lý hoa thơm ngát

Nhấp chén trà ngon kể chuyện tình

Khoai sắn đơn sơ vừa ấm bụng

Thuốc lào say khói thả trời xanh

Trưa hè dỗ giấc êm bên võng

Chim chóc xôn xao đón mộng lành


Mộng lành vừa bén lúc đôi mươi

Tưởng đã chìm theo với tuổi đời

Thuở ấy, người chê ta hát dở

Bây giờ, họ bảo tớ còn hơi

Còn hơi nên vẫn còn ca hát

Ca hát cho đời mãi mãi vui

Thấm thoát xuân nay tròn bảy chục

Lan man ôn lại giấc mơ đời


Đời ta phiêu lãng đã bao năm

Sánh bước nàng thơ tuổi nguyệt rằm

Buông lái rong thuyền trên bến nước

Thả hồn theo sóng đến xa xăm

Heo may chớm lạnh chiều thu ấy

Nhớ bạn lâu ngày lại ghé thăm

Kể chuyện buồn vui đời lãng tử

Rồi theo sông nước biệt mù tăm!

THANH PHONG


MƯA

Mưa xối xả xóa nhòa cả biển,

Cây, cỏ, người, xe, nhà cửa, núi đồi.

Chỉ còn gương mặt em thánh thiện

Và tình yêu vô vọng ở trong tôi!


Muốn nhờ mưa xoa dịu niềm thương nhớ

Muốn nhờ mưa se cóng sợi tơ lòng,

Muốn nhờ mưa tràn qua tim tan vỡ,

Cuốn hình em vĩnh viễn khỏi chờ mong!


Sau cơn mưa mây dần xanh trở lại

Sao Hôm lên trong trẻo, sáng ngời.

Tâm hồn tôi như mảnh trời thắm mãi

Có sao em lấp lánh, xa vời…

Vũng Tàu, 26.7.2003

VŨ ĐÌNH HUY


RAIN


The fast and thick rain dimmed out even the sea

Trees, grass, people, vehicles, houses, mountains and hills

Your beautiful visage remains the only thing that’s holy

And the hopeless love inside me!


I’m wishing to ask the rain to soften my longing for you

I’m wishing to ask the rain to dry my heart, making it numb and cold

I’m wishing the rain to overflow my broken heart

Sweeping your image eternally from my longing and awaiting!


After the rain clouds turned bluish again

The Evening star rose, so pure and brilliant

My soul is like a constantly gorgeously fresh sky

Having You as a far away and sparkling starlight…

Vũng Tàu, 26.7.2003

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN



XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG

MỘT TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ THANH CAO

(Kỳ 3)


Trang họa nương vận bài thơ Chiều Xanh của Nhà thơ THÙY DƯƠNG

Bài xướng: Chiều Xanh

(Tặng nhóm Thơ Ca Chiều Xanh Q.Phú Nhuận)

Chiều tà nghe chuyển ráng ngời xanh

Ngan ngát hương đưa quyện gió lành

Lả lướt thuyền thơ trôi suối ngọc

Chơi vơi sóng nhạc quyện đàn tranh

Hồn thu lạc bước miền hư ảo

Bến mộng dừng chân cõi tịnh thanh

Một thoáng phiêu du về dĩ vãng

Nghìn sầu ngưng đọng hạt long lanh.

THÙY DƯƠNG

 

Bài họa: Vườn Xuân

Từng làn mây trắng giữa trời xanh

Vãn cảnh vườn xuân gió mát lành

Lũ bướm tìm hương luôn vội vã

Đàn ong kiếm nhụy mải đua tranh

Mai vàng rực rỡ duyên đài các

Đào đỏ huy hoàng dáng lịch thanh

Hoa lá như vừa bừng tỉnh giấc

Sương mai còn đọng giọt long lanh.

TÂN VIỆT

Trang họa bài thơ Hương Xưa của nhà thơ Thùy Dương

Bài xướng: HƯƠNG XƯA

Thơm ngát tinh hoa tỏa bút đài

Đường thi muôn thuở sắc không phai

Hương xưa man mác tình tri ngộ

Bình cũ xôn xao khúc cảm hoài

Ngắm nguyệt tao nhân trầm nỗi nhớ

Trông hoa mặc khách rộn niềm say

Tri âm ai đó đồng thanh khí

Kết nghĩa thi đàn hẹn trúc mai!

THÙY DƯƠNG

Bài họa 1 : CHƯA ĐỀ

Mặc khách không mời sao dám họa

Tao nhân đâu dám nhập đề ngay

(Người họa được một thi hữu cho xem bài xướng)

Bấy lâu những ước chốn văn đài

Hội Kiến Đường thi kẻo nhạt phai

“Lạnh lẽo ao thu” còn vọng mãi

“Đèo Ngang bước tới” cứ vương hoài!

Trăng gieo ngấn nước hồn thơ dậy

Gió lọt qua mành tỉnh giấc say

Một khúc giao duyên vơi nỗi nhớ

Xuân hồi tô điểm sắc hương mai.

LƯƠNG GIANG (PN)

Bài họa 2: HOÀI CẢM

Hoàng kim một thuở chói văn đài

Nét ngọc Đường thi há để phai?

Tráng sĩ ngâm vang lời chính khí

Văn nhân trầm tưởng khúc xuân hoài

Quỳnh Như sau trướng ghi câu họa

Phạm Thái trước rèm ghé mắt say

Trải mấy phong trần hương vẫn ngát

Năm vần sắc lộng cánh hoa mai.

HOÀNG MỘNG LAN

Trang họa bài thơ Nhớ Vườn Thơ Cũ của Nhà thơ Thùy Dương

Bài xướng: NHỚ VƯỜN THƠ CŨ

Bấy lâu im vắng bóng vườn thơ

Trách bạn tri âm luống hững hờ !

Vách cũ trống trơ màu quạnh quẽ

Nền xưa vắng vẻ nét hoang sơ

Cạn dòng lá thắm hồn thao thức

Dứt hướng chim xanh dạ thẫn thờ

Hỡi khách yêu thơ hằng ngóng đợi

Hữu tình xin lại nối đường tơ…

THÙY DƯƠNG


Bài họa: TRI KỶ KHÓ TÌM !

Khao khát từ lâu gặp bạn thơ

Ông Xanh chưa chắp mối duyên hờ

Năm canh tưởng nhớ người chưa hẹn

Sáu khắc mong chờ buổi ngộ sơ

Nhắn gió gió còn trôi mải miết

Trông mây mây vẫn lặng ơ thờ

Ước gì thanh khí đồng tương ngộ

Để phím đàn ngân mãi tiếng tơ…

HUY TÙNG

Nguyễn Nhật Minh (California)




VỀ TẮM SÔNG XƯA


Ma Xuân Đạo

Về tắm sông xưa

Như về nguồn sữa mẹ

Sông vẫn còn dáng thơ

Dù trải qua dâu bể


Nguồn Nậy tiếp nguồn Sơn

Nguồn Nan chào nguồn Trổ

Một sông chung bốn nguồn

Cùng đi vào lịch sử


Linh giang nguyên tên cũ

Bởi Trịnh Nguyễn phân tranh

Lấy sông làm ranh giới

“Ranh” đọc trại là “Gianh”


Không rộng như sông Cửu

Không hùng như sông Hồng

Linh giang giòng êm ả

Linh giang nước xanh trong


Đồng ruộng núi tựa lưng

Thôn cư sông trước mặt

Kẹp giữa núi và sông

Đất nghèo nhưng cảnh đẹp


Cổ Cảng kêu Thanh Thủy

Minh Cầm hẹn Lệ Sơn

Thanh Lăng vời Phú Mỹ

Đi chợ phiên Ba Đồn


Nguồn Son ai muốn ngược

Lên chợ Bùng, chợ Troóc

Nhớ viếng động Phong Nha

Tạm quên đời ô trọc


Nguồn Nậy có ai về

Nhớ ghé thăm Thanh Thủy

Quê hương của quan Đề

Giặc Tây còn kính nể


Ngược nguồn lên Thanh Lãng

Lòng căm đứa trở cờ

Đem bán Vua cho giặc

Ngàn năm để tiếng nhơ


Súng mút chống đại liên

Tàu Tây vẫn cứ chìm

Phù Trịch sông nổi sóng

Chín năm tiếng vẫn rền…


Quê người thân trôi nổi

Lớn chí lại sơ tài

Áo cơm thành hệ lụy

Hương quan mộng đêm ngày


Về quê không xe ngựa

Thân tù áo rách vai

Cờ thua đời đã lỡ

Du tử tàn mộng trai


Nền nhà đã đổi chủ

Thôn xóm khác ngày xưa

Chỉ sông còn dáng cũ

Dòng sông thời ấu thơ


Tắm lại dòng sông xưa

Sống lại thời thơ ấu

Rũ sạch bao sầu hận

Chôn vùi chuyện được thua


Ngày tắm dòng sông xưa

Đêm mơ trời thơ ấu

Rồi xuôi tay nhắm mắt

Bên sông đầu gối bờ


MA XUÂN ĐẠO 

Tôi đuợc biết ông Ma Xuân Đạo trước năm 1945. Ông sinh vào năm nào tôi không rõ lắm, chỉ biết ông sinh ra tại làng An Bài, xã Thuận Bài, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (Trung Việt). Ông vào Nam dạy học tại trường tư thục Nguyễn Khuê (gần đường Cô Bắc, Cô Giang - Cầu Ông Lãnh) và trường tư thục Văn Lang (Tân Định) vào khoảng 1953, ông giảng rất hay và nổi tiếng về văn sử nhất là giảng dạy truyện Kim Vân Kiều của cụ Nguyễn Du. Cuối năm 1974 ông viết một truyện dài về Ngô Vương Quyền, đăng trong báo Chính Luận; mới viết được nửa chừng thì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ông cùng Thanh Thương Hoàng, Tô Ngọc, Hoài Linh Ngọc Dũng - lấy bút hiệu họa sỹ Tuýt, tính ông rất hiền hòa. Khi qua định cư tại Hoa Kỳ, buổi chiều ông thường ra ngồi nơi bãi tha ma, Tuýt mất ngày 7 tháng 7 năm 2000 mùa thu tại Virginia Hoa Kỳ; ông quê Hưng Yên di cư vào Nam rồi về sống chung với những người kể trên - riêng ông Ma Xuân Đạo không có gia đình, nhà cửa, con cái gì cả, sau ở trong một ngôi chùa gần cầu Bình Lợi (nghe nói người cháu gái gởi ông vào đó mặc dù bà con họ hàng của ông khá nhiều) ông đâm ra chán nản.

Thuở thiếu thời ông có yêu một cô gái hơi phóng đạt (indépendante et libérale) vì là “con một gia đình giàu có” tên là Anh T.. Lúc còn đi học cô đã ở trong một đoàn vũ kịch đến khi hai người làm đám hỏi xong sắp sửa chờ ngày cưới, một hôm cô mời ông đi xem kịch trong đó có cô diễn, khi xem xong ông không nói gì, rồi ông âm thầm chia tay nhau từ đấy, mặc dầu hôn lễ rất là long trọng Anh T. sau nầy lấy một anh nhạc sỹ?!

Còn ông, tôi nghe nói mất tại trại dưỡng lão của chùa (lúc ông mất tôi còn làm việc ở xa), trước khi mất ông có để lại một bài thơ “Về Tắm Sông Xưa” thật áo não.

TRẦN VĂN HỮU

Chuyện cái đèn “Pin”

của Cụ Phan Thanh Giản

Trong tài liệu nghiên cứu lịch sử đã in thành sách dưới tựa đề Danh Nhân và Lịch Sử có thuật lại câu chuyện như sau: sau khi đi sứ Pháp về cụ Phan Thanh Giản có kể về đèn điện, có đèn treo ngược cũng không tắt, nhà vua không tin cụ nói có đèn treo ngược và bắt cụ Phan làm thử một chiếc đèn như thế để vua xem, cụ Phan hoảng hốt chạy khắp nơi nhưng không tìm được chiếc đèn như thế, lo sẽ bị vua buộc tội, vì luật pháp thời phong kiến rất nghiêm nhặt, nói dối vua sẽ bị kết tội là khi quân, mà tội này có thể bị triều đình kết tội “trảm giam hậu” dù là người có chức có quyền, nhưng may thay chính lúc ấy là lúc cụ gặp ngay chú bé đi bắt ếch đêm. Tay cậu bé lôi ra ngay một cái đèn “Pin” tự tạo mà chính tay cậu vẫn làm để đi bắt ếch, bật qua bật lại, sáng luôn mấy lần làm cho cụ tiến sĩ thấy vậy nhảy bổ lại giật lấy xem thử và không quên reo vang: “Đúng rồi, đúng rồi nó là cái đèn treo ngược, cái đèn giữ mạng sống cho ta. Ta mua, cho ta mua, một quan chí năm quan ta cũng mua”. Ngay trên đây là một đoạn trong cuốn sách lịch sử Danh nhân và thời đại Đại Quang Việt Sử xuất bản miền Nam ấn hành. Như ta đã biết sau khi đồn Kỳ Hòa do Nguyễn Tri Phương thất thủ triều đình Huế sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Nam nghị hòa, kết cuộc ta phải ký hiệp ước ngày 05/6/1862 nhường cho Pháp 3 tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường. Nhưng sau khi bị vua khiển trách nặng nề, cụ Phan theo lời tấu trình của triều đình, ông lại được cử làm Tổng đốc Vĩnh Long và được lệnh phải thương thuyết lại với người Pháp để cứu vãn tình hình nhưng vẫn thất bại. Đến năm 1863 ông lại được cử làm Như Tây chánh sứ để qua Pháp điều đình chuộc lại 3 tỉnh đã mất. Trong khi người Pháp lăm le chiếm nốt 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Vua Tự Đức là một ông vua nho học nên lúc nào cũng chủ trương lấy cái học từ chương, coi đạo lý thánh hiền là mẫu mực trong thiên hạ, trong lúc chưa nhìn thấy Âu Tây đã chuyển mình qua nghiên cứu nền học thực dụng nên đã chế ra được nhiều tiện ích cho đời sống của con người.

Sứ đoàn Việt Nam đi phó Hội gồm trên 60 người, Chánh sứ là cụ Phan Thanh Giản, Phó sứ là cụ Phạm Phú Thứ và Bồi sứ là cụ Ngụy Khắc Đản cùng đoàn tùy tùng là các quan văn võ và binh lính phục dịch. Khi vào đến Sài gòn lại được Súy phủ Sài gòn cử ông Trương Vĩnh Ký vốn được coi là nhà bác học ngôn ngữ làm thông ngôn và ông Tôn Thọ Tường làm ký lục.

Khi sứ đoàn của Việt Nam cập bến Marseille thì thấy khắp nhà dân chúng thắp đèn treo ngược mà đèn vẫn sáng, đến công viên thì lại thấy có nước chảy ngược do một vòi rồng xịt lên cao và điều ngạc nhiên hơn nữa là sứ đoàn đã được người Pháp chở đi từ Marseille đến Paris trên 1 toa xe do đầu máy hơi nước kéo mà không cần phải dùng sức người đẩy hay sức kéo của gia súc gì cả. Sứ đoàn gồm 60 người gồm quan chức của triều đình có học vị cao như: cụ Phan Thanh Giản là vị tiến sĩ đầu tiên của miền Nam, phó sứ là cụ Phạm Phú Thứ, Nhị Nguyên và cụ Ngụy Khắc Đản là Thám Hoa.

Tất cả những điều nói trên đều thấy sứ đoàn chứng kiến nhưng có một số quan đại thần hủ nho cho rằng sứ bộ đi xa đã về nói láo và truyền bá trong dân chúng. Vua Tự Đức phân vân không lẽ phái đoàn có cả chục người như vậy gồm các quan chức áo mão xênh xang mà lại nói điều không thật để mang tội dối vua. Mà pháp luật thời phong kiến rất nghiêm ngặt có thể kết vào tội trảm giam hậu. Nhưng cuối cùng vua không biết thế nào nên phán ra một câu: “Những điều sứ bộ thuật lại sao nghe xa vời quá!” trong lúc phó sứ Phạm Phú Thứ đã ghi lại một cách rất tỉ mỉ trong Tây hành nhật ký do cụ thảo ra và đã lập thành sớ tâu để trình lên cho vua xem cho nên vua Tự Đức đã bỏ qua chương trình canh tân xứ sở. Trong lúc một số nước ở Tây đã bỏ lối học từ chương để chuyên học thực dụng chế ra những tiện nghi giúp ích cho đời sống con người như một số nước ở trong vùng đã thành công. Công nghệ điện khí ra đời từ thế kỷ thứ XVIII do ông Volta phát minh đã đem lại tiện ích cho con người thay thế những phương tiện thắp sáng cổ điển và bất tiện. Khi đặt chân lên đất Pháp sứ đoàn đã nhìn thấy nhà dân chúng đều thắp loại đèn chúc ngược mà vẫn sáng, đường phố thì vẫn có loại đèn này soi sáng như ban ngày. Chỉ có một điều hơi bất tiện: tất cả hệ thống dây dẫn từ nhà máy phát điện được gọi là điện “xoay chiều”, nếu đường dây không bọc kín sơ ý chạm vào sẽ rất nguy hiểm. Nhưng chiếc đèn Pin của cụ Phan Thanh Giản là 1 chiếc đèn cầm tay thì là loại đèn gì và có cần dây dẫn không? Nhà vật lý học Volta đã phát minh ra được bằng cách cho acid clohydric hòa lẫn với nước thành ra một loại điện giải sanh ra những ion có điện, cho vào 1 chiếc bình bằng thủy tinh trong đó có 1 cực bằng than và 1 cực bằng kim khí, nếu nối 2 cực lại bằng 1 sợi dây bằng kim loại Tungsten nhỏ như dây tóc thì sẽ sáng lên trong 1 chiếc bóng thủy tinh đã rút chân không và loại điện này gọi là điện một chiều - sờ tay vào không nguy hiểm. Nhà vật lý Volta đã cho thỏi than bao quanh có chứa loại điện giải và một ống bằng kim khí mà chúng ta gọi ngày nay là cục pin, hiện nay rất tiện lợi chỉ cần 2 viên pin như vậy vào chiếc đèn hình ống có gắn nút bấm thì có thể mở tắt được, loại đèn này gọi là “đèn pin” hoặc “đèn bấm”. Thỏi pin được gọi là pin Volta mà ngày nay chúng ta thấy bày bán khắp thị trường. Như vậy có thể nói công việc sáng chế trên thị trường do nhà vật lý Volta phát minh ra (1745-1827) lúc ông còn sanh tiền chứ không phải đến năm 1896 như một tờ báo đã đăng tin. Và trong lúc sứ đoàn Việt Nam trên đất Pháp ngoài việc nhìn thấy những chiếc đèn treo ngược mà vẫn sáng treo khắp nơi và còn thấy dân chúng Pháp dùng những chiếc đèn nhỏ cầm tay rất ngộ nghĩnh tiện lợi có thể bật sáng tắt tùy ý. Cụ Phan Thanh Giản vốn là người bình dị và tánh tình xông xáo cho nên mới đi kiếm cho ra chiếc đèn để về trình vua xem và cũng rất may mắn bắt gặp chiếc đèn trên tay của 1 em bé soi ếch, cụ mừng quá nhảy bổ lại và nói với em bé rằng cho ta mua 1 quan chứ 5 quan ta cũng mua. Nhưng làm sao cậu bé đi soi ếch lại có 1 cái đèn ngộ nghĩnh thế: Năm 1862 lúc triều đình Huế sai cụ Phan Thanh Giản và cụ Lâm Duy Hiệp vào Nam để ký hòa ước nhường 3 tỉnh Định Tường, Gia Định và Biên Hòa thì lúc đó người Pháp đã có mặt tại miền Nam, binh đội họ tiến vào Nam tất nhiên sẽ rơi rớt lại vật dụng và đã vào tay cậu bé soi ếch. Nhắc lại giai đoạn lịch sử khi cụ Phan Thanh Giản vào ngày 05/6/1862 được triều đình Huế gửi vào làm Kinh Lược Sứ tỉnh Vĩnh Long, lúc đấy người Pháp đã chiếm được 3 tỉnh miền đông lại còn lăm le ý đồ chiếm luôn 3 tỉnh miền tây tức là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Bên ta mở cuộc hội nghị thân thiết nhưng hội nghị chưa xong đô đốc Pháp đã lợi dụng kéo quân tràn vào chiếm luôn 3 tỉnh của Miền Nam, cụ Phan biết không thể nào thoát khỏi trọng tội với vua và triều đình nên đã tuyệt thực suốt 15 ngày nhưng không chết nên cuối cùng cụ đã dùng độc dược quyên sinh và không chờ đến khi triều đình trừng phạt cụ đã dốc hết tàn lực nói lên 9 chữ “Đại Nam hải nhai lão thư sinh tính Phan” và dặn con cháu viết lên mộ của mình. Cụ Phan Thanh Giản mất ngày mùng 5 tháng 7 năm Đinh Mão (Tự Đức thứ 20). Tiên sinh mất rồi, triều đình Huế đã buộc tội và lên án gắt gao: chức bị tước, tên bị đục bỏ trong bia tiến sĩ, mãi đến năm Đồng Khánh nguyên niên, tiên sinh mới được khôi phục.

PPT st

Chú thích:

§ Volta (1745-1827) là nhà vật lý người Ý ở Como, người đã phát minh ra điện thế xoay chiều và một chiều. Tên của ông được đặt theo đơn vị điện thế volt (ký hiệu V).

§ Denis Papin (1647-1714) sinh ở Blois là nhà vật lý người Pháp đã chế ra chiếc máy hơi nước giúp cho những đò ngang trên các sông rất tiện lợi và nhanh chóng thay thế cho các mái chèo cổ điển và chậm chạp. Nhưng lần đầu tiên khi sử dụng chiếc máy do ông chế tạo thì đã bị dân đưa đò ngang xúm lại đập phá vì sợ mất quyền lợi của họ.


Được tin chị Vũ Tú Anh - em gái út của Dịch giả Vũ Anh Tuấn - vừa qua đời, Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tại LB Nga và BBT Người Bạn Đường xin gửi lời chia buồn sâu sắc tới Dịch giả Vũ Anh Tuấn cùng đại gia đình, thân tộc. Cầu mong linh hồn chị Tú Anh được bình an trong cõi vĩnh hằng.

NBĐ xin đăng lại lời Khóc em của Dịch giả Vũ Anh Tuấn như một sự chia sẻ nỗi đau cùng với đại gia đình

Tôi khóc em tôi

VŨ ANH TUẤN


Chúng tôi là 7 anh em, một anh trai và 6 em gái. Vào giờ phút này tôi đã thuộc loại cổ lai hi từ lâu, bà em gái kế tôi và 4 bà khác cũng đều xấp xỉ 70, riêng có cô em út tôi mới 61 tuổi (tôi dùng từ cô vì cô sống độc thân chưa lập gia đình bao giờ). Sau những biến thiên, gia đình tôi cũng như mọi gia đình khác, cũng bị chia năm xẻ bẩy. Tôi và 3 em gái tôi, trong đó có người em út vừa mất, ở lại quê nhà. Trong 6 người em gái của tôi, bà em thứ 2 của tôi và gia đình sống ở Úc, bà em thứ 4 và gia đình sống ở Pháp và bà em thứ 5 và gia đình sống ở Mỹ.

Nghe tin cô em út tôi bị bệnh nặng, tất cả mấy bà sống ở nước ngoài đều về, và đây là cơ hội để 7 anh em chúng tôi được đoàn tụ. Mấy tuần lễ nay, chúng tôi đã được chung hưởng niềm hạnh phúc được gặp lại nhau đầy đủ cả 7 anh em. Nào ngờ theo sau niềm hạnh phúc là nỗi bất hạnh: cô em út của chúng tôi không qua khỏi, nhưng dù sao đi nữa chúng tôi cũng cảm ơn Chúa Trời đã cho chúng tôi được đoàn tụ để tiễn đưa em chúng tôi về nơi vĩnh hằng. Tôi viết bài này để KHÓC em tôi!

Tú Anh ơi, em dư biết là anh suốt một đời chưa hề nói và viết cái gì, dù chỉ nửa lời, để ca tụng ai, em thì cũng vậy, do đó anh viết bài này chỉ để KHÓC em và KỂ một số chi tiết cần nhắc tới trong cuộc hành trình vừa kết thúc của em đi qua cuộc đời này.

Tú Anh ơi, em là một trong những người rất hiếm hoi trên đời đã được Chúa Trời CHO ĐƯỢC HƯỞNG TỰ DO SUỐT MỘT ĐỜI, VÌ TỪ BÉ CHO ĐẾN NGÀY TRỞ VỀ VỚI CHÚA, EM CHẲNG HỀ PHẢI LÀM GÌ CHO AI, CHẲNG BAO GIỜ CÓ ANH CHỦ, CHỊ CHỦ NÀO, CHẲNG BAO GIỜ PHẢI CHỊU MỘT SỰ CƯƠNG TỎA NÀO, TÓM LẠI EM ĐÃ ĐƯỢC HƯỞNG MỘT SỰ TỰ DO TUYỆT ĐỐI TRONG SUỐT 61 NĂM, hơn cả anh CHỈ ĐƯỢC HƯỞNG CÓ 40 NĂM mà đã khoe rối lên! Việc duy nhất em làm cho chính em, cho chính sở thích của em là CA HÁT TRONG NHIỀU CA ĐOÀN ĐỂ PHỤC VỤ CHÚA VÀ NHÂN QUẦN. Ngoài ra Thiên Chúa còn dành cho em một đặc ân thứ nhì CŨNG RẤT ÍT NGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG là với một cách sống tốt đẹp, an hòa, phong lưu, hanh thông, không đua đòi xa hoa, và được học hành đến nơi đến chốn EM ĐÃ THẬT SỰ ĐƯỢC BẠN BÈ ANH EM YÊU MẾN. Anh nói vậy vì trên đời này, thiếu gì kẻ quyền cao, chức trọng, tiền rừng bạc biển nhưng chắc gì đã được thật sự mến yêu!

Dưới đây là những bằng chứng cho thấy em thật sự được yêu mến. Chỉ nửa tiếng đồng hồ sau khi em mất cả Ca Đoàn Vượt Qua, không biết làm sao có thể tới nhanh thế để đọc kinh và hát tiễn em. Rồi liên tiếp sau đó tới đêm rất nhiều bạn bè khác đã tới chia buồn với gia đình mình và thắp hương cho em. Sáng nay, mới 5 giờ sáng đã có mấy người bạn, trên đường đi ra nhà thờ Phú Nhuận đã ghé vào đọc kinh và hát tiễn em. Lúc gần 8 giờ, ngồi ở trên lầu, trong phòng anh, anh bỗng nghe tiếng đàn dương cầm đánh bài Ave Maria, thì ra một anh bạn lại viếng đã đánh để em nghe vì anh ta cho biết là anh ta được biết là em thích bài đó! Và rồi còn thánh lễ tại gia, và lễ an táng tại Thánh Đường Tân Sa Châu mà các bạn bè ai nấy đều hứa sẽ có mặt.

Riêng với anh và các chị thì sự ra đi của em là một mất mát quá lớn. Riêng anh, mỗi lần lên xuống cầu thang và nhìn thấy mặt em trong quan tài, mặt anh nhăn đi một chút, nhưng trong lòng thì anh đang khóc rống lên đó! Anh mong em thấy được nét mặt anh, và nghe được tiếng khóc lớn của anh, và xin em phù hộ cho anh đủ sức mạnh đễ vượt qua thử thách quá cay nghiệt này!

EM NÊN NHỚ RẰNG SỐNG ĐƯỢC MỘT CUỘC ĐỜI TỐT ĐẸP, LƯƠNG THIỆN, HANH THÔNG, HỮU ÍCH CHO BẢN THÂN, CHO GIA ĐÌNH VÀ CHO ĐỒNG LOẠI NHƯ EM ĐÃ SỐNG, VÀ ĐƯỢC MỌI NGƯỜI QUÝ TRỌNG YÊU MẾN MỘT CÁCH ĐÍCH THỰC, THÌ LÀ EM ĐÃ THỰC SỰ THÀNH CÔNG TRONG CHUYẾN DU HÀNH QUA CUỘC ĐỜI NÀY CỦA EM ĐÓ, TÚ ANH Ạ.










Phụ Bản III

TÌM HIỂU VỀ THƠ

Thơ văn giúp ích cho con người rất nhiều nên người xưa có câu: “Thi thơ bất độc, tử tôn ngu” có nghĩa: Thơ sách không đọc, con cháu ngày sau sẽ ngu.

Dù tiến lên hiện đại đến đâu cũng không thể coi nhẹ việc kế thừa truyền thống của dân tộc mình. Tìm hiểu, khám phá văn học Việt Nam, trong đó có thơ, chúng ta sẽ thấy còn nhiều điều thú vị. Nói về văn là cả một thế giới phong phú, đa dạng, đa sắc màu, có nhiều đặc điểm khác biệt. Người viết cũng như người đọc gồm nhiều trường phái, sở thích khác nhau. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu văn học, người ta chia văn ra làm hai thể loại: văn xuôi và văn vần. Vậy thơ nằm ở thể loại văn nào? Chắc chắn là thể loại văn vần vì thơ cũng là bài văn làm theo cảm hứng, từng câu có vần, có điệu như: Đường thi, Kinh thi, Việt thi…

Ngày xưa, trải qua hàng ngàn năm, trong quá trình lao động và đấu tranh sinh tồn, cha ông ta đã rút ra được nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu. Để truyền lại cho con cháu đời sau, người ta đã nghĩ ra những câu ngắn gọn, có vần, có điệu, dễ thuộc, dễ nhớ như ca dao, tục ngữ… Ví dụ:

- Câu nói gọn ghẽ về luân lý: “Tốt danh hơn lành áo”

- Về tâm lý người đời: “Của người bồ tát, của mình lạt buộc”

- Về phong tục: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”

- Về thường thức: “Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa”

“Ăn coi nồi, ngồi coi hướng” vv…

Hoặc có giai điệu hát lên rất hay như các bài dân ca ở các vùng miền: Dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca Nam bộ… cho nên thơ và bài hát nói gọn là: THI CA.

Ngày nay, người làm thơ, yêu thơ đã nhiều lại đủ các thành phần, tuổi tác… Có người làm thơ vì đam mê, để thư giãn, có người làm thơ “nghiệp dư”, lại có những người “chuyên nghiệp”, sống với “nghề thơ” là “Thợ thơ” hay “Nhà thơ”… Nhưng dù làm “nghiệp dư” hay “chuyên nghiệp” đã “Nhập môn” thì cũng đều phải hiểu biết về thơ. Nghề nào cũng có kỹ thuật hành nghề của mình. “Nghề thơ” cũng có kỹ thuật riêng của nó và cũng không phải tự nhiên mà có. Đó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc và rèn luyện “tay nghề” công phu.

Người làm thơ mà không có hứng, cứ gượng ép “rặn” ra thơ thì khó có sức truyền cảm và rung động lòng người, nên làm thơ thì phải có: THI HỨNG.

Khi có hứng làm thơ thì bài thơ mới hay, đọc lên nghe có hồn thơ gọi là: THI HỒN.

Dân gian có câu: “Có bột mới gột nên hồ”. Muốn có “nguyên liệu” để chuyển hóa thành thơ thì phải đi tìm “tài liệu”, đi “thực tế” như: về thôn quê, thăm quan du lịch các danh lam thắng cảnh vv… để có: THI LIỆU.

Những người suy tư, giàu trí tưởng tượng hay mơ mộng, đam mê, đắm chìm về sự việc gì đó rồi thể hiện thành thơ, gọi là: THI MỘNG.

Có người hay mượn rượu để tạo hứng làm thơ. Các bạn thơ vừa uống rượu (vừa ngắm trăng, ngắm hoa nở…) vừa làm thơ. Hai món này thường đi đôi với nhau nên mới gọi là: THI TỬU.

“Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa thơ mới hay, không phải bất cứ điều gì cũng đều nói ra bằng thơ, như thế mới là thơ có giá trị” (Lê Hữu Trác); ý tứ trong một bài thơ là rất hệ trọng, nói cách khác: Thơ mà thiếu THI TỨ không đáng gọi là thơ.

Khi làm thơ người ta thường chú ý các chữ cùng vần trong một đoạn hay bài thơ (tức vần thơ) gọi là THI VẬN.

Người làm thơ phải có năng lực ngôn ngữ, biểu đạt được ý nghĩ và tình cảm của mình. Biểu hiện ở cả nội dung và hình thức nên ngôn ngữ phải sâu sắc và “đắt”. Bài thơ, lời thơ là bởi những từ, ngữ ghép lại vì thế người làm thơ phải khéo dùng: THI NGỮ.

Cách đặt để và dùng chữ trong một bài thơ hay cái “phép” làm thơ thì cần hiểu: THI PHÁP (THI THỨC, THI CÁCH).

Làm thơ theo thể loại thơ nào thì phải theo quy định của loại thơ đó, tức là tuân theo: THI LUẬT.

Đối với thơ “TỰ DO” thì không cần quy luật nhưng cũng phải có ý thơ và hồn thơ. Ngày nay có những bài thơ “tự do” khiến người ta có nhiều tranh cãi. Người đọc khó có thể phân biệt nó ở thể loại văn gì? Vì nó không có vần, điệu nên nó không phải văn vần, nó giống văn xuôi hay một bức “điện tín” hơn. Nếu nó không đặt ở trang thơ thì đã mấy ai dám bảo đó là “bài thơ” vì thế mới có chuyện tranh luận: người nói là thơ, người cho không phải. Ở cuộc sống cũng có chuyện tương tự như sự lai tạo giữa con ngựa và con lừa sinh ra một con lai, không phải ngựa và cũng chẳng phải lừa mà người ta gọi là con La. Vậy trong văn học có bài “Thơ” không phải văn vần và cũng chẳng phải văn xuôi thì nó là “con lai”. Có người nói đùa tạm gọi nó là: THI VĂN LAI. Chẳng phải họ THI, đệm VĂN, tên LAI mà là con lai của văn và thơ.

Từ thực tế này, nên chăng? Ta lại phải suy nghĩ sâu hơn về vấn đề định nghĩa thế nào là thơ? (để dễ phân biệt giữa loại “thơ truyền thống” và loại “thơ điện tín”: THI VĂN LAI).

Người yêu thơ, làm thơ tất nhiên thích giao lưu thơ, ngâm vịnh, cái hứng thú đó là: THI THÚ.

Thú làm thơ là thú vui tao nhã và thưởng thức thơ cũng thú như thưởng thức các món ăn vậy. Khi ngâm hay đọc một bài thơ, người ta cảm nhận được cái thú vị, nét hay ho ẩn chứa trong sự vật thì mới thấy: THI VỊ.

Tiếng gọi chung cho các loại văn thơ có cách điệu riêng biệt là: THI PHÚ.

Muốn nói cả thơ và văn xuôi thì gọi là: THI VĂN. Ví dụ: Nền thi văn hiện đại.

Người từng làm thơ và có nhiều thơ hay được truyền tụng, gọi là: THI NHÂN, THI GIA, THI KHÁCH, THI SỸ (nhà thơ).

Người đàn ông hay thơ, giỏi thơ thì gọi là: THI ÔNG.

Người làm thơ hay nổi tiếng gọi là: THI HÀO. Ví dụ: Thi hào Nguyễn Du, thi hào Nguyễn Khắc Hiếu.

Làm thơ giỏi, thật cừ thì gọi là: THI BÁ. Ví dụ: Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương là hai thi bá cận đại nước Nam.

Người làm thơ xuất sắc, siêu quần, xuất chúng như thánh nhân thì gọi là: THI THÁNH - Ví dụ: Cao bá Quát là bậc văn tài kiệt xuất, một thi thánh cận đại - nên có thơ rằng:

Văn như Siêu Quát vô tiền Hán

Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường

tạm dịch: Văn tài như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì lấn lướt thời tiền Hán. Thơ hay như Tùng ThiệnVương và Tuy Lý Vương thì đánh bại thời thịnh Đường.

Những bậc kỳ tài trong làng thơ thì gọi là: THI TIÊN. Ví dụ: người đời xưa đã tặng cho nhà thơ Lý Thái Bạch thời Đường.

Người làm thơ thích giao lưu với nhau, cùng ngâm vịnh, thưởng thức mới khoái nên cần có bạn thơ tức: THI HỮU.

Nhiều người thích thơ sẽ hợp thành: THI GIỚI.

Những người làm thơ theo một khuynh hướng nào đó, rất đặc biệt, khi đọc thơ của họ thì biết họ ở trường phái nào, đó là: THI PHÁI. Ví dụ: thi phái lãng mạn, thi phái tương trưng.

Nơi tụ tập, hội họp để làm thơ ngâm vịnh; hay trên tờ báo nào đó để riêng một mục hoặc trang thơ thì gọi là: THI ĐÀN.

Tất cả những người làm thơ trong một thời kỳ nào đó thì gọi là: THI ĐÀN VIỆT NAM. Ví dụ: thi đàn Việt Nam thời tiền chiến.

Nhóm người thích thơ thường xuyên xum họp xướng họa, rồi đặt ra một cái tên riêng của nhóm thì gọi là : THI XÃ.

Trang thơ đăng nhiều bài thơ của một tờ báo, xum tụ mảnh vườn thơ gọi là: THI VIÊN.

Nơi quy tụ thật nhiều sách thơ, thơ nhiều như ta ở giữa rừng thơ thì gọi là: THI LÂM.

Người ta đề thơ trên một bức họa thì cả thơ lẫn bức họa đó gọi là: THI HỌA.

Câu Sấm mà đặt theo điệu thơ thì gọi là: THI SẤM.

Cảnh trời nên thơ, có thể gợi hứng cho thi sỹ làm thơ hay, gọi là: THI THIÊN.

Những giai thoại trong làng thơ thì gọi là: THI THOẠI. Ví dụ: Chương dân thi thoại.

Hai bộ sách của đạo Nho, thời xưa cho là cần thiết phải đọc là Kinh Thi và Kinh Thư được gọi là: THI THƯ hay THI LỄ (Kinh Thi và Kinh Lễ). Ví dụ: Người có học và có nề nếp gọi là con nhà thi lễ.

Tập thơ viết tay chưa in, hay thơ làm để gửi đi đăng sách, báo gọi là: THI CẢO.

Những bài thơ hoặc một bài thơ dài với một cốt chuyện, tác phẩm của một hay nhiều người được in thành tập gọi là: THI PHẨM.

Thơ in hay chép đóng thành tập, thành quyển thì gọi là: THI TẬP. Ví dụ: Nam âm thi tập.

Đời người cũng lắm thứ nợ, nào “nợ tiền”, “nợ tình”… và còn nợ cả thơ nữa. Đáng lẽ ta phải làm bài thơ để họa bài của thi hữu mời họa hoặc có ý tưởng vịnh một cảnh vật gì đó nhưng chưa làm được nên “nợ thơ” chưa trả gọi là: THI TRÁI.

Người xưa thường hay đi giao lưu, “người thơ” mang bên mình “bầu rượu túi thơ”. Người làm thơ dễ dàng “xuất khẩu thành thơ” và người ta gọi túi thơ là: THI NANG.

Tìm hiểu sâu về thơ, người làm thơ càng cảm thấy hứng thú. Ta biết thêm tiêu chí, thang bậc về thơ để biết mình là ai, đang ở mức nào: Thi nhân, Thi hào, Thi tiên, Thi thánh vv… tự đánh giá mình, tránh ngô nhận mình là…

“Người thơ” cũng không dấu được tâm địa của mình. Người đọc thơ sẽ biết người làm thơ đó là con người như thế nào. Tóm lại: xem thơ biết người.

Nghiên cứu sâu chút nữa ta thấy khi đọc “thi nhân” (danh từ) có nghĩa là nhà thơ, nhưng “thi nhân” (động từ) lại có nghĩa là làm việc nhân, việc thiện, làm điều lành “thi nhân bố đức”…

Bởi vậy làm thơ cũng đòi hỏi sự tìm tòi, sáng tạo của “nghề” với lương tâm của người cầm bút “người thơ” trung thực cố vươn lên một cuộc sống thật sự tươi đẹp, thực sự có ý nghĩa, có trách nhiệm để xứng đáng là cuộc sống con người. Đó là con người nhân văn, có trí thức, có khả năng sáng tạo và được tự do phát triển; có những cảm xúc về giá trị, về đẹp xấu, thiện ác, yêu ghét… Muốn có con người nhân văn phải nhờ giáo dục. Không có giáo dục thì không có học vấn, sẽ không có văn hóa, không có văn minh… nói cách khác là không có tiến bộ xã hội và loài người cũng không tồn tại với tư cách là loài người. Một quốc gia tiến bộ và thành đạt là một quốc gia tiến bộ và thành đạt trong giáo dục.

“Tôi ghét những kẻ xây dựng tên mình bằng sự băng hoại thanh danh của kẻ khác” (Gay).

“Văn chương là của chung thiên hạ, ý kiến mỗi người mỗi khác, phân tích thì được chớ không nên chê mắng” (Lê Qúy Đôn).

Lê Minh Chử

(Tham khảo: Từ điển Tiếng Việt)


NHỮNG NHÀ THƠ ĐƯỜNG

LỪNG DANH

Sinh thời nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói: “Thơ Đông, thơ Tây, thơ Kim, thơ Cổ không thơ nào bằng thơ Đường”. Đúng vậy, thời Đường chưa đầy 300 năm (618-907), nhưng đã để lại một khối lượng thơ ca đồ sộ. Năm 1707, lần đầu tiên Trung Quốc xuất bản “Toàn Đường thi”, gồm 30 tập, 900 quyển, chép 48.900 bài thơ của 2.300 thi sĩ. Số lượng thơ Đường thì hơn gấp mấy lần tổng số thơ của Trung Quốc làm trong 700, 800 năm của 8 đời (Đông, Hán, Ngụy, Tần, Tống, Tề, Lương, Hầu, Tùy).

Trong các nhà thơ đời Đường có 3 người trội nhất, có khối lượng thơ ca lớn như Lý Bạch: 1.000 bài, Đỗ phủ 1.400 bài, Bạch Cư Dị 3.840 bài.

“Địa Linh Nhân Kiệt”. Các nhà thơ đời Đường đều là các bậc “siêu nhân” tài giỏi hơn người.

Xin kể một số gương tiêu biểu. Trước hết là Vương Bột (649-676). Ông này để lại bài “Đằng Vương Các Tự” nổi tiếng, trong đó có hai câu được coi là hai câu thơ vào loại hay nhất trong thơ Đường:

“Lạc hà dữ cô vụ tề phi

Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”

(Chiếc cò bay cơi sáng ra,

Sông thu cùng với trời xa một màu)

Bài “Đằng Vương Các Tự” Vương Bột làm lúc ông mới 16 tuổi.

Nhà thơ Trương Cưu Linh (673-740) “Thất tuế năng văn”, có nghĩa là có khả năng viết văn, làm thơ lúc 17 tuổi. Nhà thơ Vương Duy (701-761), đứng đầu phái thơ Sơn thủy điền viên. Ông được coi là người “đa tài”, chẳng những giỏi thơ, mà còn giỏi cả vẽ, cả nhạc. Vương Duy là thi nhân, lại là nhạc sĩ, họa sĩ. Ông còn là thủy tổ về tráng lụa của Trung Quốc.

Nhà thơ lãng mạn Lý Bạch (701-762), được mệnh danh là “Thi tiên” (ông tiên về thơ) thì được coi là thần đồng. Năm lên 5 tuổi, ông đã đọc được “lục giấy” (nghĩa là 6 cuốn sách của Trung Quốc). Và 10 tuổi thì biết làm thơ, phú, hiểu được thanh vận, niêm, luật của thơ ca. Mỗi khi uống rượu say, vung bút Lý Bạch có thể làm được mấy chục bài thơ. Thơ của ông hay đến nỗi “quỷ thần phải khóc” (quỷ thần khốc dã).

Nhà thơ Đỗ Phủ (712-770) được mệnh danh là “thi thánh” (ông thánh về thơ). Thơ của ông là “Thi sử” (lịch sử bằng thơ). Đỗ Phủ là cháu nội của nhà thơ nổi tiếng thời Sơ Đường Đỗ Thẩm Ngôn. Đỗ Phủ đã từng nói: “Thi thị ngô gia sự” (thơ, ấy là việc của nhà tôi). Năm 7 tuổi, ông đã biết làm thơ. Đỗ Phủ đã từng nói: “Thất linh khai khẩu vinh phượng hoàng”, có nghĩa là năm lên 7 tuổi, ông đã biết làm thơ để vịnh con chim phượng hoàng. 9 tuổi Đỗ Phủ đã viết được chữ to (đại tự) và nghiên cứu được “Thư pháp” của Trung Quốc. 14 tuổi, Đỗ Phủ đã giao du. Quan hệ với các bậc tài danh văn nghệ của đời Đường.

Nhà thơ Bạch Cư Dị (772-846) nổi tiếng thời Trung Đường. Ông tự xưng mình là “Tiểu Đỗ” (em của Đỗ Phủ) được coi là “thi tình” (nhà thơ tình cảm). Bạch Cư Dị đặc biệt thông minh từ nhỏ, được coi là bậc “thần đồng”. Tương truyền lúc mới 6, 7 tháng, tuy chưa nói được nhưng ông đã biết được chữ “chi”, chữ “vô”. Nam lên 5, 6 tuổi, ông đã biết làm thơ và năm lên 7 tuổi đã biết thanh vận, cấu tạo của thơ. Bạch Cư Dị có một bà “vú nuôi”, mỗi khi làm thơ, ông đọc cho bà nghe, bà hiểu, sau đó ông mới chép và phổ biến.

Các nhà thơ đời Đường vừa là “thi sĩ” vưa là “tiến sĩ”. Họ thi đậu tiến sĩ rất sớm. Nhà thơ Vương Duy đậu tiến sĩ năm 21 tuổi. Có thể coi ông là “ông nghè” trẻ nhất thời ấy. Nhà thơ Trần Tử Ngang đậu tiến sĩ lúc 24 tuổi. Các nhà thơ Vương Xương Linh và Bạch Cư Dị đậu tiến sĩ lúc 28 tuổi. Nhà thơ biên bái Sầm Tham đậu tiến sĩ lúc 29 tuổi… Trong số đó, Bạch Cư Dị có thể coi là một tấm gương “khổ học” (chăm chỉ học tập) để đậu tiến sĩ. Ông đã tự thuật lại việc học để thi tiến sĩ như sau: “Sáng làm phú, tối đọc sách, rồi làm thơ, không nghĩ đến ngủ, đến nỗi miệng lưỡi thành da dày cộp, đã lớn tuổi mà da thịt không được đầy đặn, chưa già lão mà tóc đã trắng, răng đã long”.

Đúng, các nhà thơ đời Đường đến là những bậc thi nhân tài giỏi, kỳ lạ, được muôn đời biết đến.

Bùi Đẹp st

THỦ PHẠM: ĐỘNG ĐẤT

VƯƠNG LƯU

Từ đầu kỷ nguyên Tây lịch đến nay, đã có hơn 10 triệu người chết vì thiên tai nầy.

Giữa khi mọi người trên thế giới đang nhộn nhịp chuẩn bị đón mừng Giáng Sinh 72 thì ngày 23 tháng Chạp, tại Managua, thủ đô nước Cộng Hòa Trung Mỹ Nicaragua, một trận động đất khủng khiếp đã xảy ra, kéo dài hơn 2 phút đồng hồ làm đổ nát ngót 70% công trình kiến trúc. Con số thiệt hại về nhân mạng, theo bảng thống kê mới nhất của Viện Hành Chánh Trung Ương Mỹ, có tất cả 12.000 người chết, trên 20.000 bị thương và 250.000 người sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Riêng phần tài sản bị hủy diệt, nếu tính theo giá thị trường chung, người ta ước lượng trên 845 triệu mỹ kim (khoảng gần 400 tỉ bạc VN).

Mười hai giờ đồng hồ sau cơn địa chấn, thành phố Managua vẫn còn bị bao trùm bởi một vầng khói đen khổng lồ. Các nhà máy và toàn thể hệ thống dẫn nước không còn sử dụng được nên việc cứu chữa rất khó khăn.

Trên phi cơ nhìn xuống, người ta không còn nhận ra hình dáng đồ sộ của những tòa đại sứ,những bệnh viện lớn trong thành phố. Thê thảm hơn, là khám đường to nhất của thủ đô Nicaragua đã chìm trọn vẹn trong lòng đất, mang theo hàng ngàn tội nhân, chẳng còn để lại một vết tích gì. Đa số nhà cửa bị sụp đổ, người chết còn kẹt trong đó, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Các giới chức Bộ Y Tế đã không ngớt ra lệnh cho thuộc cấp luôn xịt thuốc sát trùng trên những đống gạch đổ nát nhằm diệt trừ hàng đàn ruồi nhặng càng lúc càng đông đảo thêm để tránh việc truyền nhiễm đến các vùng phụ cận. Đồng thời nhà cầm quyền Nicaragua cũng đã phải ra lệnh cho sở vệ sinh hỏa thiêu những xác chết còn chồng chất ngoài đường vì chẳng còn cách nào khác: nghĩa địa hết chỗ trống rồi!

Tổng Thống Jose Figueres xứ Costa Rica, sau cuộc viếng thăm vùng động đất Managua, đã tuyên bố trên đài truyền hình là chánh phủ Cộng Hòa Trung Mỹ Nicaragua đang cứu xét việc dời thủ đô nước này đến một nơi nào khác an toàn hơn vì thành phố Managua còn nằm trên vùng địa chấn, để tránh bị động đất thêm một lần nữa. Tưởng nên nhắc lại rõ ràng hơn là Managua đã từng bị tàn phá nặng nề bởi hai lần động đất trước đây vào năm 1885 và 1931.

Một lối giải thích khoa học

Qua cuộc động đất ở Managua, người ta nhìn lại lịch sử địa chấn trên khắp thế giới từ đầu kỷ nguyên Tây Lịch, thì thấy một số người chết biết được vì động đất đã lên tới 10 triệu. Nếu chỉ kể từ đầu thế kỷ 20, cũng đã hơn 1.600.000 người.

Nhưng, động đất dù xảy ra ở đâu, dù tàn phá đến mức độ nào, vẫn hkông bi thảm bằng vụ “chết trọn một làng” tên Arette ở Pháp năm 1967. Làng Arette là một làng rộng lớn, trù phú với 220 nhà cửa kiến trúc tối tân. Thế nhưng sau cơn địa chấn khủng khiếp xảy ra hồi 11 giờ 7 phút ngày 15 tháng 8, 1967, tất cả đều đổ nát, chỉ còn sót lại độ mươi nhà còn… “có thể” ở tạm được.

Đặc biệt trong vụ động đất này, hình ảnh cho thấy một người đàn ông “đã sống trở lại” sau một ngày chết ngất nhờ những vật “che chở thật huyền diệu”. Đó là chiếc bàn xiêu đổ, chịu được sức nặng của cả một mái nhà – ôi, cái mái nhà đã nghiến nát vợ ông liền ngay sau khi rơi xuống!

Một người sống sót khác đã “mô tả” với phóng viên báo chí về giây phút đầu tiên của cuộc động đất kinh khiếp đó như là một bất ngờ tột đỉnh, chứng minh cho nhân loại thấy rằng “động đất” không có dấu hiệu nào báo trước: “Tôi cứ tưởng chiếc bình đựng gaz bỗng phát nổ dữ dội bên tai”!

Nhưng tại sao có động đất? Từ khi bắt đầu nghiên cứu sự cấu tạo của quả đất, loài người vẫn chưa đi sâu được vào lòng địa cầu. Cho nên các nhà bác học đã không ngần ngại mà thú nhận rằng họ còn biết quá ít về căn nguyên cũng như từng tuyến nham nằm sâu bên dưới mặt địa cầu. Từ trước, loài người chỉ đi được trong đất do đường hầm sâu nhất, là những đường hầm ở các mỏ than đá. Người Mỹ đã thử đào từng lỗ sâu hằng chục cây số trên vỏ trái đất. Nhưng họ đã phải bỏ dở giữa chừng vì công việc nghiên cứu đó quá tốn kém và nguy hiểm.

Điều người ta biết được là địa cầu đã có từ hơn 4 tỷ rưỡi năm, đường kính dài 12.750 cây số và 98,5% thể khối khổng lồ của nó được cấu tạo bằng chất nham mà danh từ khoa học gọi là “magma” hay “bầy nhầy”.

Lớp ngoài trái đất gọi là vỏ, dày từ 60 đến 120 cây số. Nhưng có nhiều nơi trũng xuống nên chỉ dày khoảng 30 cây số hoặc ít hơn. Người ta gọi những chỗ trũng này là lới “vỏ lạnh” trên một giếng sâu đầy nước (biển).

Loài người sống trên lớp vỏ địa cầu giữa khi lòng trái đất vẫn luôn chuyển động không ngừng. Khối huyền vũ nham mãi mãi được đốt cháy từ tâm địa cầu với sức nóng là 30.000 độ. Khi ra đến lớp vỏ trong thì độ nóng ấy nguội dần chỉ còn khoảng 6.000 độ. Chỗ giao tiếp giữa khối huyền vũ nham và lớp đá cát của mặt trong vỏ trái đất ấy va chạm nhau, sinh ra sức nén dữ dội, tạo thành những chuyển động cực mạnh. Do đó, nhiều nơi lớp vỏ trái đất bị trương thẳng, căng mỏng đến độ phải nứt nẻ từng đường lớn làm cho lớp chân của vỏ địa cầu gồm những khối đá cát khổng lồ chợt nhiên gãy đổ, vỡ bung ra… Người ta gọi đó là hiện tượng địa chấn hay động đất. Nói cách khác rõ ràng hơn: động đất là mức độ rung chuyển của mặt đất do sự va chạm mãnh liệt bên trong làm sụp lở những khối đá nằm sâu bên dưới. Thoạt tiên nhà cửa bị chao động, ngả nghiêng rồi mặt đất chợt nứt ra, đồng thời lửa từ dưới bốc lên vì các ống dẫn khí bị vỡ cháy. Những đường nứt ấy được các nhà địa chất học đặt tên là “phay”. Nước có thể theo “phay” dâng lên thành lụt liền ngay sau khoảng thòi gian động đất chấm dứt.

Mỗi năm động đất mấy lần?

Người phương Đông, nhất là Trung Hoa, từ xưa, mỗi khi có địa chấn,đều giải thích theo quan niệm và cảm giác riêng. Họ cho rằng có một con “cù” bị vùi lấp ở vùng sông Hồng, lâu lâu cử động tứ chi nên gây ra động đất.

Người Tây Âu, ông Aristote (384-322 trước Tây lịch) là người đầu tiên xác nhận một cách khoa học: địa chấn là một hiện tượng do khí nén bên trong ruột trái đất thoát ra mà có.

Khoa địa chấn học ngày nay đặt căn bản khảo cứu tên những sự kiện dễ thấy nhất là đường sụp của mặt đất: “phay”. Những “phay” ở Andreas vùng California Hoa Kỳ, được các nhà vật lý học nghiên cứu kỹ nhất, cho ta biết: - Khi các lớp nham không bị ép hay kéo dài thì nằm im. – Khi bị ép không đều thì thường cong lại nhưng không gãy. – Khi lực biến dạng nhiều hơn sức dẻo thì lóp đá bị gãy sụp. Chính sự gãy sụp này tạo ra sức rung chuyển của vỏ đất. Do đó, ta có địa chấn.

Khoa học nhìn nhận rằng địa chấn gồm có hai trung tâm chính: trung tâm thứ nhất nằm sâu khoảng 60 cây số trở lại gọi là “thượng tâm” hay nhóm cạn có sức tàn phá dữ dội, trung tâm thứ hai gọi là “hạ tâm” mà nơi xuất phát sâu từ 60 đến 300 cây số thì mức độ gây thiệt hại rất yếu, không nguy hiểm lắm. Trong số hằng triệu vụ động đất mỗi năm, phần lớn thuộc về “thượng tâm” hay nhóm cạn, nghĩa là có sức phá hủy mạnh.

Sự rung chuyển này của mặt đất được các nhà vật lý học tìm cách ghi lại bằng máy đo cường độ thật kiến hiệu, gọi là địa chấn ký. Nguyên tắc hoạt động của máy rất giản dị. Người ta chỉ dùng một khối nặng có quán tính độc lập với sự rung động của vỏ đất để ghi lại mức độ xê dịch mạnh, tương đối hay cực ngắn hoặc cực nhẹ của nó. Ở Việt Nam, tại vùng cao nguyên Trung Phần Nha Trang, thấy có đặt một máy đo địa chấn tối tân áp dụng theo nguyên tắc này.

Hiện nay có lối 1.200 đài do địa chấn trên khắp thế giới được các nhà khoa học sử dụng để theo dõi các vụ động đất.

Cơ quan địa dư Hoa Kỳ ước lượng các đài quan sát về địa chấn ký nói trên đã khám phá hằng triệu vụ rung chuyển mỗi năm mà trong đó 100.000 vụ có thể nghe hoặc ghi nhận được và khoảng 1.000 vụ gây thiệt hại nặng cho nhân loại.

Tiến sỹ Bruce Bolt, giám đốc đài địa chấn ký của đại học đường California, cho biết rằng một trong các yếu tố gây ra sự chết chóc quá cao tại Managua hôm 23 tháng 12, 72 là do lối kiến trúc các cao ốc tại đây. Ông nói những cao ốc ấy được xây cất bằng gạch và đá đặc biệt nguy hiểm vì cứng nhưng dòn, dễ gãy đổ.

Trong vụ động đất ở Alaska trước đây, người Mỹ bỏ công nghiên cứu công phu để đi đến kết luận rằng sức nổ tại đó đã phát ra một năng lượng tương đương với 20 triệu tấn T.N.T. nghĩa là gấp 10 triệu lần trái bom nguyên tử nổ ở Hiroshima năm 1945.

Vòng đai lửa

Người ta ghi nhận động đất thường xảy ra ở những nơi nhiều núi tức là vùng có địa sơn tự mới tạo thành. Các địa sơn tự này vốn là địa động tự biến sang, nên vẫn luôn tiếp tục chuyển động, có sức tàn phá ghê gớm. Các nhà địa chấn học cho ta biết những nơi sau đây chiếm hết 95% sự kiện động đất trên thế giới vì có rất nhiều địa sơn tự:

- “Vòng đai lửa” Thái Bình Dương: Phi Luật Tân, Nhật, Trung Hoa.

- Những vùng thuộc bờ biển Antilles.

- Bắc Phi (rặng Atlas).

- Các vùng quanh những dãy núi cao từ Hy Mã Lạp Sơn đến Thổ Nhĩ Kỳ.

- Những quần đảo nằm trên miền Bắc Úc Châu, Nam Mỹ, Bắc Mỹ.

- Vòng đai lửa Đia Trung Hải.

- Các dãy núi Pyrénées, Karpathes vv…

Ngoài ra, có độ 5% những vùng khác nằm trên Bắc Cực không thể đoán biết trước được. Nhưng điều chắc chắn là càng xa các rặng núi mới, động đất càng hiếm và yếu đi. Sau cùng, dưới đây là 12 hiện tượng rung chuyển của lớp vỏ địa cầu từ nhỏ đến to do các nhà khoa học và địa chất gia ghi nhận được, theo thứ tự:

1. Những rung động thật nhẹ, chỉ có máy chứ người không nhận thấy.

2. Cảm thấy đuợc do một ít người sống trên những tầng lầu cao của các tòa buyn-đinh.

3. Những rung chuyển mạnh hơn, kéo dài một vài giây. Người đứng trên đất có thể cảm thấy.

4. Bát đĩa, sàn ván, trần nhà lẹt kẹt khua, lay động như khi có chiếc xe hàng nặng di chuyển qua đường phố trước nhà.

5. Những rung động lớn làm thức giấc mọi người đang say ngủ. Quả lắc đồng hồ treo tường ngã lệch, máy ngưng. Những hồ, vôi, thạch cao trát trên vách ván, tường gạch đều bị tróc ra từng lớp rơi xuống.

6. Những cơn chấn động mạnh hơn khiến người ta hoảng sợ nhưng không đủ sức gây thiệt hại cho những công trình kiến trúc vững chắc mà chỉ những nhà trong tình trạng xấu mới bị vỡ ngã, cửa kính nứt và chuông nhà thờ khua vang lên.

7. Những ngôi nhà cổ, đền đài xưa nếu không sụp đổ hẳn thì tường gạch, đá xây cũng long lở.

8. Phần lớn nhà cửa đều bị lún dù trong tình trạng nào.

9. Chỉ một phần những công trình kiến trúc vĩ đại mới có thể bị thiệt hại, kỳ dư những nhà cửa khác dù cũ hay mới cũng đều bị đổ nát.

10. Cầu, cống, ống dẫn nước… lún xuống, sụp đổ. Rừng cây trốc gốc, ngả nghiêng. Nuớc ở sông ngòi, hồ ao chuyển động dữ dội, vạt lên khỏi bờ.

11. Hủy diệt hoàn toàn những công trình kiến trúc tối tân và vững chắc nhất. đường rầy xe lửa đứt bung ra từng đoạn ở các mối nối.

12. Không vật gì còn đứng vững. Núi cũng phải vỡ. Địa hình thay đổi trọn vẹn. Mặt đất nứt nẻ tạo ra vô số “phay”. Nước theo “phay” dâng lên thành lụt…

Trước khi xếp hình ảnh và những con số khổng lồ, kinh khiếp (xem bài phụ) ở các trang này lại, xin được mượn một câu trong bài “Mort d’un village” của tuần báo Pháp Paris Match để thay cho lời kết luận: “Sung sướng thay, sự việc đó đã không xảy ra trên đất nước chúng ta”.

NHỮNG TRẬN ĐỘNG ĐẤT LỚN NHẤT THẾ GIỚI

Đây là bảng liệt kê những cuộc động đất có sức giết hại về nhân mạng nhiều nhất trên thế giới, đứng đầu là nước Trung Hoa, tại tỉnh Giang Tây năm 1556, chết mất 830.000 người.

- Năm 1248, ở Dauphiné (Pháp): 9.000 người chết

- Năm 1556, ở tỉnh Giang Tây (Trung Hoa): 830.000 người chết

- Năm 1755, ở Lisbon (Bồ Đào Nha): 50.000 người chết

- Năm 1773, ở Calcutta (Ấn Độ): 300.000 người chết

- Năm 1906, ở Cựu Kim Sơn (Hoa Kỳ): 700 người chết

- Năm 1908, ở đảo Sicily (Ý): 75.000 người chết

- Năm 1915, ở Ý Đại Lợi: 30.000 người chết

- Năm 1920, ở tỉnh Kansu (Trung Hoa): 180.000 người chết

- Năm 1923, ở Đông Kinh và Yokohama (Nhật): 143.000 người chết

- Năm 1932, tỉnh Kansu (Trung Hoa): lại bị động đất lần thứ hai: 70.000 người chết

- Năm 1935, tại Ấn Độ: 60.000 người chết

- Năm 1939, tại Chí Lợi (Nam Mỹ): 30.000 người chết và ở Thổ Nhĩ Kỳ: 23.000 người chết

- Năm 1954, ở Agadir (Bắc Phi): 15.000 người chết

- Năm 1960, tại Marốc: 12.000 người chết

- Năm 1966, ở Tashken: 3.000 người chết

- Năm 1968, tại Iran: 12.000 người chết

- Năm 1970, tại Pérou (Nam Mỹ): 66.714 người chết…

Đỗ Thiên Thư st

Thở bụng

Đơn giản mà diệu kỳ

Nguồn: Sài Gòn Tiếp Thị - VN

Thử quan sát một đứa bé sơ sinh đang nằm ngủ: phần cơ thể lên xuống đều đều theo nhịp thở không phải là phần ngực như đa phần người lớn mà là bụng! Không may, khi lớn lên rồi thì ngoại trừ số ít người có luyện tập như vận động viên, đạo gia hoặc các nhà khí công… những căng thẳng và ưu tư trong cuộc sống dẫn đến hiện tượng căng cơ, thở nhanh, thở ngắn dần dần tập nhiễm thành thói quen thở cạn, chỉ thở ở phần ngực.

Thở bụng giúp chống stress, cải thiện sức khoẻ và gia tăng khả năng phòng chống bệnh tật, nhất là các bệnh lý về tim mạch, cao huyết áp.

Khi quan sát hơi thở, cần chú tâm đến chuyển động phồng lên xẹp xuống ở bụng.

Quả tim thứ hai

Trong khi phép thở bình thường chỉ sử dụng một phần cơ hoành và cơ ở lồng ngực thì ở cách thở bụng, thường gọi là cách thở triệt để, có thể vận dụng cả cơ bụng và các cơ đáy chậu. Hệ thống cơ hoành, cơ ngực, cơ hông và các cơ vùng đáy chậu hình thành nên một cơ chế giống như một “quả tim thứ hai” để thúc đẩy lưu thông khí huyết. Bụng dưới phình lên sẽ kéo theo hoành cách mô hạ xuống để nở rộng dung tích phổi. Ngoài ra, ở thì thở ra, thở chậm và từ từ ép sát bụng dưới vừa có tác dụng xoa bóp nội tạng, thúc đẩy khí huyết đến các nơi hiểm hóc hoặc xa nhất của cơ thể mà trong điều kiện thở bình thường việc trao đổi khí huyết khó xảy ra. Thở bụng, thở sâu, thì thở ra chậm và dài hơn thì hít vào còn có tác dụng tăng cường ức chế hệ giao cảm để điều hoà thần kinh. Về mặt khí công, thở bụng có tác dụng kích hoạt khí đan điền, tăng cường nội khí và đối trị với các chứng hư hoả.

Hỗ trợ điều trị nhiều bệnh

Ngày nay, nhịp sống nhanh và mức độ cạnh tranh cao dễ gây căng thẳng tâm lý, làm rối loạn hoạt động nội tiết, suy giảm hệ miễn dịch và làm tăng nguy cơ nhiều loại bệnh từ cảm cúm, các chứng đau nhức đến những bệnh tim mạch, tiểu đường. Thỉnh thoảng hướng sự chú ý vào những hơi thở sâu là cách đối trị đơn giản và hữu hiệu. Có một số người bị bệnh khó ngủ, mất ngủ lâu ngày có thể hồi phục giấc ngủ dễ dàng ngay đêm đầu tiên được hướng dẫn quan sát hơi thở ở bụng dưới. Bác sĩ James Gordon, giám đốc trung tâm Y học tâm thể ở Washington (Mỹ) khẳng định: “Sự hô hấp chậm, sâu có lẽ là cách tốt nhất để chống stress”. Những khảo sát của giáo sư Robert Freedman, một chuyên gia về tâm thần và thần kinh cũng cho thấy lối thở bụng đã làm giảm đáng kể những triệu chứng sau mãn kinh và các chứng trầm cảm. Bác sĩ Jon Seskevich, thuộc trung tâm Y học Bắc Carolina luôn quan tâm dạy thở cho hàng chục ngàn bệnh nhân ung thư hoặc những người mắc các loại bệnh về tim, phổi. Ông nói: “Thở bụng không giúp họ khỏi bệnh ung thư, nhưng có thể làm họ giảm đau và tránh được cho họ nhiều ngày lưu trú khổ sở ở các đơn vị chăm sóc tập trung”.

Thở bụng giúp tăng dung tích phổi, điều hoà thần kinh và hoạt động nội tiết nên có thể cải thiện hoạt động chức năng của tất cả các cơ quan. Tác động dễ thấy nhất là đối với các bệnh lý về tim mạch. Thở bụng và thở dài hơi ở thì thở ra làm nở mạch ngoại biên, tăng cường lưu thông khí huyết và điều hoà thần kinh giao cảm nên cải thiện được các chứng suy tim, rối loạn nhịp tim, huyết áp thấp cũng như huyết áp cao.

Luôn có sự tương tác giữa hơi thở, cảm xúc và huyết áp. Lúc lo âu, căng thẳng sẽ thở nhanh, thở gấp và huyết áp tăng. Lúc bình tĩnh, tinh thần thoải mái, nhịp thở chậm, đều và huyết áp hạ. Do đó, thực hành tốt cách quan sát thở bụng sẽ nhanh chóng tạo ra những đáp ứng thư giãn không chỉ làm vắng bặt những nỗi khủng hoảng, lo sợ mà còn có thể giúp cắt cơn cao huyết áp.

Lương y Võ Hà

Phương pháp tập thở bụng

Nằm hoặc ngồi ở nơi yên tĩnh. Buông lỏng cơ thể, đặt một bàn tay trên bụng dưới. Hít vào đến bụng dưới, cảm nhận rõ bụng dưới hơi nhô lên dưới bàn tay. Không cố hít vào quá nhiều để tránh ngộp hơi hoặc làm mệt tim.

Thở ra chậm cho đến cuối hơi trong khi ép dần bụng dưới xuống. Có thể thở ra bằng miệng. Miệng chỉ vừa mở đủ để hơi thở thoát ra. Cảm nhận rõ lúc đang thở ra khi bụng dưới hạ xuống dần dưới bàn tay. Hít vào, thở ra từ hơi thở này đến hơi thở khác. Thì thở ra dài hơn thì hít vào. Khi thuần thục, có thể để hai tay buông lỏng bên thân hoặc trên đùi.

Có thể thở mỗi lần một vài hơi thở ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào hoặc sử dụng như một hình thức thiền trong một buổi tập dài hay ngắn tuỳ điều kiện thời gian và sở thích mỗi người. Lâu dần, thở bụng sẽ được tập nhiễm thành thói quen. Lúc này chuyển động lên xuống ở bụng dưới đã thành một phản xạ tự nhiên, không còn lệ thuộc ý thức của người tập nên được gọi là phản xạ thở bụng.

Tập lúc bụng trống, mỗi lần từ 10 phút trở lên vào những giờ nhất định, sau khi tắm rửa sạch sẽ và đã hoàn tất mọi việc trong ngày.

Thở sâu - sống lâu

Xin gửi các bạn một biện pháp tăng sức khoẻ không tốn tiền, lại có hiệu quả rõ. Tôi học từ bác sỹ Nguyễn Khắc Viện (1913-1997). Anh Viện tốt nghiệp bác sỹ y khoa Paris, bị lao phổi nặng khi gần 30 tuổi. Anh chịu 7 cuộc giải phẫu, cắt 8 xương sườn, cắt hẳn một lá phổi. Anh khỏi bệnh, chỉ còn 40 kg, nhưng cố luyện sức để sống. Năm 1954, bác sỹ chuyên khoa Pháp ước đoán anh Viện chỉ có thể sống thêm từ 3 đến 5 năm, nghĩa là chỉ đến 1957 - 1959 (khi 46 tuổi). Anh tự tin, luyện tập nơi an dưỡng. Anh khoẻ ra, về Paris làm việc bình thường từ 1960, để năm 1963 anh về nước, làm việc miệt mài, viết sách, viết báo, làm Chủ nhiệm - Tổng biên tập tạp chí Études Vietnamiennes (Nghiên cứu về Việt nam) suốt gần 30 năm. Anh đề ra phương pháp dưỡng sinh - thở sâu sống lâu, qua kinh nghiệm của chính anh. Anh còn là chủ tịch hội đá kiện (đá cầu)Việt Nam, phát triển môn đá kiện (bằng đồng xu, lông gà) trong các trường học miền Bắc, với những cuộc thi đá kiện hằng năm...

Anh Viện mất ngày 10-5-1997. thọ 84 tuổi, vượt 38 năm dự kiến, sống gần gấp đôi 'định mệnh'. Một 'hiện tượng' kỳ diệu, thần kỳ, 'un miracle!'.

Anh Viện là một trí thức lớn, con nhà nòi, con cả của cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm, lừng danh vùng Hương Sơn - Hà Tĩnh, xứ Nghệ và trong giới kẻ sỹ Bắc Hà. Anh từng được Giải thưởng Lớn về Pháp Văn - Grand Prix de la Francophonie năm 1992 của Viện Hàn Lâm Pháp.

Anh Viện nhiều lần gọi điện thoại cho tôi. Tôi nhớ như in năm 1992, khi được thưởng lớn, anh bảo tôi: "Hơn 40 cuốn sách, mấy nghìn bài báo, rồi sẽ qua đi, chỉ được vài tiếng vang nhỏ! Cái quý nhất mình để lại là bài 'vè' thở sâu 12 câu 4 chữ, dễ nhớ; cậu phổ biến rộng hộ mình nhé !".

Bài 'vè' như sau:

Thót bụng thở ra

Phình bụng thở vào

Hai vai bất động

Chân tay thả lỏng

Êm, chậm, sâu, đều

Tập trung theo dõi

Luồng ra luồng vào

Bình thường qua mũi

Khi gấp qua mồm

Đứng ngồi hay nằm

Ở đâu cũng được

Lúc nào cũng được.

12 câu, 48 chữ, vậy mà hiểu cho thấu đáo, luyện thành nếp, đạt hiểu quả cao, phải khổ luyện từ 3 tháng, 6 tháng đến 2 năm mới thật là nhuần nhuyễn. Có mấy bí quyết cần nhận rõ:

- Khí, khí lực là sức sống con người, từ hô hấp, tiêu hoá,tuần hoàn, vận động, tư duy mà tạo nên.

- Nguồn cơ bản của khí là dưỡng khí, một thành phần quyết định của không khí, trong bầu khí quyển của quả đất ta đang sống,

- Thở, hít vào và thở ra là thu nạp chất sống, loại chất độc, nuôi dưỡng cơ thể, là việc làm từ khi ra đời cho đến khi chết, tắt thở; - thở sâu là tăng đáng kể dưỡng khí vào khắp lục phủ ngũ tạng của cơ thể, xoa bóp, bồi dưỡng, tẩy rửa các bộ phận làm cho tiêu hoá thuận lợi, huyết mạch lưu thông, phổi, dạ dày, ruột, gan, thận, tim mạch khoẻ khoắn, cho đến óc não, tinh thần đều sảng khóai, phòng ngừa và chữa trị tình trạng suy yếu và nhiều bệnh tật;- cần tự luyện để biết cách thở có hiệu quả nhất, không phải thở chỉ bằng phổi mà thở chủ yếu bằng nâng cơ hoành, từ từ phình bụng cho không khí tràn sâu vào khắp khoang ngực và bụng, rồi thở ra bằng thót nhẹ bụng và ngực cho gần như hết kiệt...- dưỡng sinh toàn diện là kết hợp âm và dương, tĩnh và động, thể xác và tinh thần, lý trí và cảm xúc, hoạt động thì hoạt bát, hăng say sôi động, nghỉ ngơi thì tĩnh lặng, trống không, thư giãn, ham mê việc tốt cho đời, cho nhân quần xã hội, dửng dưng trước những ham muốn thấp kém vô bổ có hại. Những câu lạc bộ thở sâu ở Hà Nội có kinh nghiệm luyện thở sâu lúc đầu theo nhịp 1 phút 6 nhịp hít vào - thở ra (mỗi nhịp 10 giây, hít vào 5 giây, thở ra 5 giây) cho quen, sau vài tháng nâng lên dần 1 phút 3 nhịp (hít vào 10 giây, thở ra 10 giây), sau vài tháng có thể nâng lên một phút 2 nhịp là đạt được mức khả quan rồi. Người bình thường thở 1 phút 18 - 22 nhịp, có người thở gấp, nhịp rất ngắn, 1 phút đến 28 - 30 nhịp.

Khi luyện cho cơ thể quen, không cần nghĩ đến nhịp thở, vẫn thở sâu như thường. Khi đi bộ, đi xe đạp, ngồi trong ô tô, khi đọc sách, ngồi họp, bấm máy computer, khi nằm, thậm chí khi ngủ cơ thể vẫn giữ nhịp thở sâu, thế là đã đắc đạo dưỡng sinh, sẽ sống lâu hơn được hàng chục năm, thậm chí vài chục năm!

Xin chúc các bạn trẻ, già, nam, nữ, gần, xa đều tự mình kiên trì 'tham gia' câu lạc bộ thở sâu, sống có ích cho xã hội, như mong muốn của Bs Nguyễn Khắc Viện.

Chân thành chúc các bạn sống lâu trên trăm tuổi!

Bs Nguyễn Lân Đính st



Phụ Bản IV

CON LA CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG

La mule du Pape

Của Alphonse Daudet


Sur le pont d’Avignon,

On y danse, on y danse…

Ai đó chưa trông thấy Avignon vào thời của các Đức Giáo Hoàng, thì chưa trông thấy gì cả. Đầy sự sống, sự náo nhiệt, sự vui vẻ, lễ lộc liên miên; chưa bao giờ có một tỉnh thành như vậy. Cứ suốt từ sáng đến chiều, nào là những đám rước, những đoàn hành hương, bông hoa rải ngập đường, những cuộc lai đáo của các vị hồng y bằng sông Rhône, tàu thuyền được trang hoàng cờ xí bay phất phơ theo gió, lính tráng thì ca hát ở các công trường… Còn chung quanh cung điện của Đức Giáo Hoàng, người ta tựu về ồn ào như một tổ ong vậy… Ngoài những tiếng chuông nhà thờ, người ta còn nghe tiếng trống vang dội ở đàng kia, hướng cây cầu. Bởi vì ở địa phương chúng tôi, khi mà người dân bằng lòng, thì họ múa hát,… họ múa hát; và vào thời đó đường sá trong tỉnh còn quá chật hẹp cho đoàn vũ công, nên giàn trống và sáo tiêu phải đem đặt ở trên cầu Avignon, trong ngọn gió mát của sông Rhône. Và bất kể ngày đêm, người ta múa hát ở đó…, người ta múa hát ở đó…

A!, thời đại sung sướng, tỉnh thành hạnh phúc. Gươm đao không còn chém giết. Nhà tù là nơi tồn trữ rượu nho để giải lao. Không bao giờ có đói kém. Không bao giờ có chiến tranh… Thế mới hay các Đức Giáo Hoàng biết cách cai trị dân tốt là dường nào; thế mới hay tại sao dân chúng thương tiếc các Ngài là dường nào!...

Đặc biệt có một Đức Giáo Hoàng già tốt bụng mà người ta gọi là Ngài Boniface… Ôi!, với vị này, biết bao nhiêu là nước mắt đã đổ xuống ở Avignon lúc Ngài mất!...

Đó là một ông hoàng rất dễ thương, rất lịch thiệp. Ngài tươi cười với bạn từ xa, trên lưng con la, và khi bạn đến gần – dù bạn là gì đi nữa, sang hay hèn – Ngài luôn ban phúc cho bạn rất lễ phép. Đó là một Đức Giáo Hoàng thật sự của vùng Provence với cái gì đó tế nhị trong nụ cười của Ngài, một chút gì đó hài hòa trong cuộc sống. Một nguồn vui mà ít ai biết đến ở người cha hiền lành này, là vườn nho của Ngài – một vườn nho nhỏ mà Ngài đã tự tay trồng, cách Avignon ba dặm đường.

Mỗi ngày chúa nhật, sau khi hành lễ xong, Ngài đến thăm vườn nho, và khi đến đó, ngồi giữa trời nắng, con la đứng một bên, đoàn hồng y nằm ngửa nghiêng chung quanh các gốc cây, thế rồi Ngài bảo khui một chai rượu vang tươi và Ngài thưởng thức từng ngụm, từng ngụm nhỏ một, vừa nhìn vườn nho với vẻ tư lự. Kế đó, chai rượu đã cạn, chiều đã xuống, Ngài vui vẻ trở về thành thị, đoàn tùy tùng theo sau.

Khi Ngài đi ngang qua cầu Avignon, giữa giàn trống và đám vũ công, con la bắt đầu đi nhún nhẩy theo điệu nhạc, còn Ngài thì nhịp chân theo điệu múa, làm cho các vị hồng y cứ phàn nàn mãi, nhưng mà dân chúng thì ủng hộ: “Hoan hô ông hoàng nhân hậu! Hoan hô Đức Giáo Hoàng tử tế!”

Sau vườn nho, điều mà Đức Giáo Hoàng thương mến nhất trên đời, đó là con la của Ngài. Đức Giáo Hoàng rất cưng con vật nầy. Mỗi tối, trước khi đi ngủ, Ngài đi xem coi chuồng của nó có được đóng cửa kỹ không, có thiếu gì trong máng ăn của nó không, và không bao giờ rời khỏi bàn ăn mà không bảo người làm làm một tô rượu vang pha theo kiểu Pháp có nhiều đường và hương thơm, trước mắt Ngài và tự tay Ngài mang đến cho con la uống, mặc dầu có lời phê phán của các hồng y.

Phải nói là con vật cũng xứng đáng với công phu khó nhọc. Đó là một con la đen xinh đẹp, lốm đốm hồng, chân cứng cáp, lông mướt, mông nở rộng, tự hào có cái đầu gọn gàng với bờm lông đẹp, nào là dây nơ, lục lạc bạc, với những điều đó, nó còn dịu hiền như nàng tiên, mắt ngơ ngác và vành tai luôn lay động, trông như một đứa trẻ ngoan.

Cả tỉnh Avignon đều tôn trọng nó, và khi nó ra đường, không có cử chỉ đẹp nào mà người ta không biểu lộ với nó, vì mọi người đều biết rằng đó là phương cách tốt nhất để được ân huệ, và với dáng điệu ngây thơ, con la của Đức Giáo Hoàng đã đưa đẩy một người vào vòng may mắn, bằng chứng là cuộc phiêu lưu kỳ diệu của thằng Tistet Védène.

Tên Tistet Védène nầy là một thằng bụi đời ngỗ nghịch đúng nguyên tắc. Cha đẻ của nó là ông Guy Védène, làm nghề thợ bạc, đã buộc lòng phải đuổi nó ra khỏi nhà, vì nó không chịu làm việc gì cả, mà còn tạo ra sự bê tha hư hỏng cho đám thợ trẻ đang học nghề. Trong sáu tháng trời, người ta thấy nó kéo lê cái quần ở sông suối Avignon, nhưng mà chủ yếu là ở gần nhà của Đức Giáo Hoàng, bởi vì cái thằng bợm bảy nầy đã để ý đến con la từ lâu, và bạn sẽ thấy thế nào là chiêu mánh lới của nó…

Một ngày nọ, Đức Thánh Cha đi dạo chơi một mình với con la dọc theo bờ thành, thằng Tistet mon men đến gần và nói chuyện với Ngài vừa xoa đôi tay với vẻ thán phục:

- A!, Đức Thánh Cha có được con la trung hậu làm sao!... Ngài cho con xem nó một chút nhé… A! Đức Giáo Hoàng ơi, nó là một con la xinh đẹp. Nhà vua Allemagne cũng không có được một con la như vậy.

Và nó vuốt ve, và nó nói chuyện dịu dàng như nói chuyện với một cô gái vậy:

- Lại đây cưng!... gia tài của tôi… viên ngọc quý của tôi…

Và đến Đức Giáo Hoàng cũng cảm động mà tự nhủ rằng:

- Thằng nhỏ nào tốt vậy!... Nó rất tử tế với con la của ta.

Và rồi ngày mai, bạn có biết điều gì đã xảy ra? Thằng Tistet Védène thay đổi bộ đồ cũ của nó bằng bộ đồ đồng phục có kết ren, mang giầy cài khuy, và nó bước vào trường thánh của Đức Giáo Hoàng, nơi mà trước đây người ta chỉ thâu nhận con của các bậc quý phái, và cháu của các vị hồng y mà thôi… Đấy, cái mánh khóe của nó là như thế đấy!... Nhưng mà thằng Tistet chưa chịu dừng tại đây.

Một khi vào làm việc cho Đức Giáo Hoàng, thằng ranh nầy tiếp tục cái trò mà nó rất thành công. Hỗn láo với mọi người. Ngoài con la ra, nó không kiêng nể hoặc tử tế với ai. Người ta thường gặp nó cầm một bó lúa, hoặc một bó cỏ vừa lêu lêu trước dinh thự của Đức Thánh Cha vừa ngụ ý nói: “Hê! Cái nầy để dành làm gì đây?”. Dần dà rồi Đức Giáo Hoàng cũng cảm thấy già yếu, nên giao cho nó công việc chăm sóc chuồng trại, và mang tô rượu vang pha theo kiểu Pháp cho con la; điều nầy không làm cho các vị hồng y cười được.

Kể cả con la cũng vậy, điều nầy không làm cho nó cười được… Đây, vào giờ uống rượu vang, nó luôn luôn thấy năm hoặc sáu học viên chạy đến trốn trong đống rơm, một lúc sau, một mùi rượu thơm nồng nực lan tỏa khắp phòng và thằng Tistet Védène cẩn thận bưng tô rượu nho pha theo kiểu Pháp vào. Bấy giờ, sự đau khổ của con vật bắt đầu.

Tô rượu thơm phức mà nó rất thích, đã làm cho nó mọc cánh bay đuợc, vậy mà người ta dám cả gan chỉ mang đến cho nó ngửi, khi cái mũi đầy, cái tô rượu quý đó được rót vào cổ họng của mấy thằng nhãi ranh… Và còn nữa, không những chúng ăn cắp rượu vang của con vật, đám quỷ nầy còn béo tai, giật đuôi, làm đủ trò mà không một đứa nào nghĩ rằng chỉ một cú đá hậu cũng đủ đưa chúng đến tận ngôi sao Bắc Đẩu hoặc xa hơn nữa…

Nhưng mà không!, con la của Đức Giáo Hoàng vẫn không làm gì.

Con la phúc ân và bác ái!

Mặc tình cho đám trẻ quậy phá, con la cũng không nổi giận, chỉ tên Tistet Védène là nó mới tính sổ mà thôi. Giả sử như nó cảm thấy thằng đó ở phía sau nó, là đôi móng chân của nó ngứa ngáy lên và thật ra là đã có cái gì rắc rối rồi. tên vô lại Tistet Védène đã chơi xấu nó. Ngoài việc uống rượu, nó còn phát minh ra những chiêu thức rất độc hại!...

Cụ thể là nó đang toan tính dẫn con la leo lên tháp chuông cao nghều nghệu, trên đỉnh của lâu đài!... Không phải tôi kể cho bạn nghe là một câu chuyện phiếm đâu, hai trăm ngàn người dân Proven ç aux đã chứng kiến sự việc. Bạn hãy tưởng tượng sự khiếp sợ của con vật đáng thương hại là dường nào, khi mà đi xoay tròn trên cầu thang hình trôn ốc trong bóng tối mù mịt, và không biết đã trèo được bao nhiêu bậc, để rồi thình lình bước ra sân thượng chói chang ánh sáng, và ngàn bước phía dưới nó là cả một vùng Avignon quái dị, quán xá ở chợ không lớn hơn trái chanh, lính của Đức Giáo Hoàng trước đồn giống như con kiến vàng vậy, và đằng kia, trên sợi dây bạc, một cây cầu nhỏ xíu, nơi đó người ta đang múa hát, người ta đang múa hát!...

A!, con vật đáng thương!, kinh khủng biết bao!. Do đó, tiếng kêu của nó làm rúng động tất cả cửa kính của lâu đài. Đức Giáo Hoàng vội vã phóng ra ban công hỏi to:

- Có chuyện gì vậy? Ai làm gì nó vậy?

Thằng Tistet đã ở dưới sân, giả đò bứt tóc, bứt tai, khóc lóc:

- Dạ!, bẩm báo Đức Thánh Cha, đó là… là do con la của Ngài, nó đã trèo lên tháp chuông!

- Một mình nó sao?!

- Vâng!, một mình nó, thưa Đức Thánh Cha,… Kìa Ngài xem, ở trên cao đó!... Ngài có thấy hai chót tai của nó nhô ra như hai con chim én…

- Cơ khổ!... Đức Giáo Hoàng đáng thương thốt lên vừa ngước mắt nhìn… Bộ nó điên rồi sao vậy! Nó sẽ té chết… mầy có xuống không, đồ bất hạnh!...

Thật ra, con la không đòi hỏi gì hơn là được xuống… nhưng mà bằng lối nào? Cầu thang à!, không được rồi; cái đó dùng để leo lên thì còn được, chớ lúc trở xuống thì phải gãy trăm lần bộ giò!... Và con la đáng thương cảm thấy lo lắng, vừa đi vòng quanh mãi trên sân thượng với con mắt đầy sự choáng váng. Nó suy nghĩ đến thằng Tistet Védène:

- A!, quân cướp, nếu ta thoát khỏi nơi đây…, sáng mai mầy sẽ thấy một cú đá hậu là thế nào!

(còn tiếp)

Dịch thuật: Thanh Châu



HẬU QUẢ


Hoàng vừa dắt chiếc xe vào đến nhà, Vân đã nhảy xổ ra lấy chiếc cặp da quăng xuống đất, tru tréo:

- Anh đi với con đ… nào mà giờ mới vác mặt về đây hả?

Hành động của Vân khiến Hoàng nóng mặt, nhưng anh cố dằn, dùng giọng ôn tồn để kìm cơn giận của vợ:

- Em làm gì kỳ vậy? Đừng có nóng quá mà đâm hồ đồ nghe.

Giọng nói nhẹ nhàng của Hoàng đã không làm Vân nguôi giận mà cô còn la lớn hơn:

- Hồ đồ cái gì mà hồ đồ? Anh đừng có qua quýt cho xong chuyện. Trả lời tôi ngay, anh đi đú đởn với con nào hả?

Hoàng không kìm được nữa, anh quát:

- Cô im ngay cái giọng vu khống đó đi, tôi đi đâu là việc của tôi, đừng có mà suy diễn bậy bạ rồi sinh chuyện. Quá đáng vừa thôi.

Vân bù lu bù loa:

- Ối làng xóm ơi! Có ai khổ như tôi không hả trời? Quần quật từ sáng đến giờ, hạt cơm chưa dám bỏ vào bụng, nó đi đú đởn bên ngoài cho sướng thân còn bảo tôi quá đáng. Này thì quá đáng này… quá đáng này…

Đổi giọng hung dữ rồi thì tiện tay, Vân hất té mâm cơm còn đậy trên bàn xuống đất, chén đĩa vỡ loảng xoảng, đồ ăn thức uống nháo nhào, âm thanh hỗn loạn làm Hoàng muốn bể tung cái đầu, anh ôm đầu chạy một mạch vào phòng đóng cửa lại. Bên ngoài vẫn riết lên tiếng ngằn ngặt khóc kể của Vân. Hoàng bất lực trước tình trạng xảy ra gần như là thường xuyên, dù anh đã cố thủ mọi cách, nhưng hầu như không đem lại được chút thay đổi nào trong tâm tính của vợ.

Cu Minh lên sáu tuổi, bé Hiền lên ba tuổi, hai anh em rón rén lẻn ra cửa chuồn sang nhà chú Thành. Đây là trại tị nạn của hai an em mỗi khi ba mẹ có chuyện. Nhà chú Thành khóa cửa, chú còn đi đâu chưa về, Minh dắt em vào ngồi một chỗ khuất gió chờ. Văng vẳng từ trong nhà nó, vẫn vọng ra tiếng sa sả của mẹ nó. Chợt thấy ánh đèn xe quẹo vào cổng, nó kéo em dứng dậy, nheo mắt vì ánh đèn xe chói vào.

- Sao hai đứa đứng đó? Rồi, lại có chuyện rồi hả? Đợi chú lâu chưa?

Thành hỏi mà không cần hai đứa bé trả lời, anh đã quá quen với cảnh ngộ gia đình người hàng xóm. Vừa mở cửa anh vừa chép miệng:

- Khổ thân chúng mày, may mà tao chưa có vợ.

Thành nói cũng chỉ là nói một mình. Anh không hiểu Hoàng đã phải gồng mình đến thế nào để chịu đựng một tình trạng mà nghe qua ai cũng phải nhún vai lắc đầu, một số còn rùng mình vì sợ. Đúng là thật đáng sợ, nếu tất cả những phụ nữ trên đời này đều như Vân, thì cánh đàn ông ở giá cho sướng thân. Biết hai đứa trẻ đang đói, Thành cắm ngay ít nước sôi nấu cho chúng mấy gói mì. Thật tội nghiệp, cha mẹ xào xáo, con cái nheo nhệch thế này đây. Cũng tại Hoàng quá đẹp trai, phong độ lại có chút địa vị xã hội. Chưa phải là lớn lao gì, nhưng cũng tương đối là cái đích ngắm cho một số đối tượng. Nghe đâu hồi còn trẻ, chính Vân đã tìm mọi cách quyến rũ Hoàng, trói cho được người đàn ông nhiều ưu điểm đó vào tay. Cũng chính vì thế mà lúc nào Vân cũng ám ảnh nỗi sợ mất Hoàng. Hoàng đi đâu về Vân cũng tra gạn, có giọng nữ nào gọi điện hoặc đến nhà cho dù với bất kỳ lý do gì thì Vân cũng gườm gườm một thái độ bất nhã. Hoàng đã rất nhiều phen phải xấu hổ vì cách xử sự của vợ. Góp ý thì Vân bẻ họe là bao che, bênh vực hay có tình ý gì với người đó. Hoàng đã rất nhiều lần nhẫn nại cố giải thích, thậm chí đưa Vân đi xác minh để chứng tỏ sự tình cảm và sự nghiêm túc của mình. Nhưng giỏi lắm thì được vài hôm rồi đâu lại đóng đó. Quá mệt mỏi, Hoàng đành mặc kệ chuyện ra sao thì ra, không buồn phân bua, không buồn cải chính, chỉ cần tránh sự hiểu nhầm nghiêm trọng của Vân với những người phụ nữ khác là được. Và dần dần anh cũng hạn chế nhiều những giao tiếp xã hội. Thế nhưng Vân cũng chưa đủ an lòng, cô luôn tạo nên sự căng thẳng trong gia đình vì cái tính ghen tuông, đa nghi của mình. Với Hoàng bây giờ, gia đình không còn là một tổ ấm, một bến bờ hạnh phúc đúng nghĩa của nó nữa, mà chỉ còn là sự chịu đựng, mệt mỏi và chán nản. Nên nhiều hôm sau giờ tan sở, anh không muốn về nhà, mà kiếm bạn bè đi nhậu hoặc lang thang đâu đó đến tối sẫm mới về. Đó cũng là cái cớ cho Vân luôn lập trận. Cứ vậy cứ vậy mà cuộc sống gia đình của Hoàng như rơi vào địa ngục. Nhiều bạn bè thân chân tình khuyên Hoàng nên chọn một giải pháp thay đổi, cũng đã không ít lần Hoàng nghĩ tới, nhưng rồi anh không nỡ nhìn hai con phải xa cha hay xa mẹ, chúng còn bé quá sao đành bắt chúng phải gánh những oan nghiệt của người lớn. Hơn nữa, anh thừa biết, Vân không dễ dàng gì chấp nhận điều đó, cô ấy không hành động một cách cực đoan mới là lạ. Ngày trước, khi quen nhau, Hoàng đâu ngờ Vân lại có cái tính ghen tuông đến quá quắt như vậy. Dẫu có khi giận dỗi, nặng nhẹ gì Vân cũng chủ động dàn hòa và nhỏ nhẹ hứa hẹn, dịu dàng nũng nịu, Hoàng đã nhầm to khi tin vào vẻ hiền lành khả ái của cô. Khi anh hiểu rằng đó chỉ là những thủ thuật của cô để trói chặt anh thì đã quá muộn rồi. Những tưởng hai mặt con rồi thì Vân cũng sẽ đủ chín chắn và tin tưởng vào hạnh phúc của mình, nhưng không, thời đoạn nào Vân cũng có lý do để sợ, để hoài nghi, để lo lắng. Xưa thì quá nhiều đối thủ, ai cũng ngang ngửa chín mười, nay thì sinh nở, công việc gia đình và tuổi tác khiến cô tàn úa, trong khi Hoàng lại đang lúc phong độ nhất của đàn ông. Nếu có thể khóa cửa nhốt Hoàng trong nhà mà cuộc sống vẫn đầy đủ chắc Vân cũng chẳng ngại gì mà không làm. Hoàng biết mình đang mất dần cái phong vị của người đàn ông, khi quanh anh người ta xì xèo nhiều về hai từ “sợ vợ”. Nhưng Hoàng phớt lờ, vì họ làm sao hiểu hết được nỗi khổ của anh, anh chỉ cầu hai chữ yên thân mà nhiều khi còn không được. Nhiều lúc Hoàng cũng cảm thấy xấu hổ, với cương vị một trưởng phòng, anh chỉ đạo công việc đâu ra đấy, tinh thần trách nhiệm và năng lực khiến nhiều anh em nể phục, vậy mà anh lại quá bất lực, không thể giải quyết chuyện gia đình. Ngạn ngữ có câu “Người đàn ông nào cai trị được người phụ nữ thì sẽ cai trị được cả thế giới”. Tuy đó là cách nói vượt quá thực tế, nhưng cũng cho thấy phụ nữ phức tạp đến thế nào. Cánh mày râu thường than phiền với nhau “Phụ nữ khó hiểu thật”, quả tình anh không sao hiểu nổi những thất thường của vợ mình. Hình như có một bác sĩ đã nói “Đó cũng là một trạng thái bệnh lý”, nếu đúng vậy thì kinh khủng quá, chẳng lẽ cha con anh phải chịu đựng cả cuộc đời với căn bệnh không thuốc chữa này sao?

Thành bỏ dở quyển sách khi thấy Hoàng qua:

- Anh vào đây, em cho chúng nó ăn tạm mì gói rồi, anh đã ăn gì chưa?

Hoàng uể oải, mệt mỏi lắc đầu. Anh không cần phải che giấu gì với Thành cả, mà có muốn che giấu cũng không được khi hai nhà chỉ cách nhau có mỗi bức tường. Nhưng Thành rất hiểu, rất cảm thông và chia sẻ với anh.

- Ăn uống gì, nuốt làm sao trôi.

Hoàng nói sau khi đáo nhìn hai đứa con đang ôm nhau ngủ. Thành thở ra đánh khì một cái, rồi nói:

- Thôi hai anh em mình ra quán đi, anh phải lo cho sức khỏe của mình chứ, cứ vầy hoài thì làm sao chịu nổi, đổ ốm ra lại khổ.

- Ừ đi, với lại mua cho tụi nhỏ cái gì ăn thêm.

Một hơi thở dài đi kèm sau câu nói. Hai người đóng cửa rồi ra đường. Gió lây phây mát rượi khiến Hoàng thấy dễ chịu hẳn. Từ bao giờ không biết, anh quen với không khí ngoài đường nhiều hơn trong nhà. Có những hôm không có bạn nhậu, hoặc không muốn gặp ai, Hoàng cứ vòng vèo đường này sang phố khác, hết xăng lại đổ đầy đi tiếp. Có ai theo dõi chắc cho là anh khùng.

- Anh à, không lẽ không có cách gì cho tình hình này sao anh?

- Cách gì bây giờ? Những gì có thể anh cũng đã thử cả rồi. Đã không thay đổi được mà hình như ngày càng quá đáng hơn.

Thành trầm ngâm rồi khẽ thở ra:

- Em cũng không có kinh nghiệm gì trong việc này, em chỉ thấy lo cho hai đứa nhỏ. Cứ tình trạng này, rất ảnh hưởng cho sự phát triển tâm sinh lý của chúng, có khi còn di lụy cả tâm tính chúng sau này nữa.

- Anh cũng biết thế, bắt chúng phải chịu đựng những chuyện thế này thật quá tàn nhẫn. Nhưng biết phải làm sao ? Buộc chúng phải xa cha hay mẹ lại càng tàn nhẫn hơn. Anh phải có trách nhiệm trong sự lựa chọn và giải quyết vấn đề của mình, làm sao để giữ cho con sự êm ả, hiền hòa trong tâm hồn trong trắng của chúng? Thật anh bế tắc quá.

- Người ta nói “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, đúng thật.

- Giá con người có thể nhìn thấy trước được những gì mình sẽ gặp thì hay nhỉ?

- Thế thì cuộc đời này quá bình yên rồi còn gì.

- Thôi, mình ăn nhanh rồi về, kẻo hai đứa nó dậy không thấy ai lại khóc. Bác ơi! Cho cháu hộp mang về nhé.

Hai anh em mau chóng kết thúc bữa ăn.

Hoàng đánh thức hai con dậy, cho chúng ăn hết hộp cơm rồi đứa bồng đứa dắt đi về nhà. Thành nhìn theo, ngán ngẩm lắc đầu.

Vân nằm quay mặt vào trong, đôi vai chốc chốc rung lên vì tiếng nấc. Hoàng bỏ mùng cho con cẩn thận rồi ra ghế ngồi đốt thuốc lá, trầm tư vì câu chuyện với Thành lúc nãy. “Hôn nhân là một cánh cửa kỳ lạ. Người bên ngoài muốn đẩy cửa bước vào, người bên trong lại muốn đẩy cửa để bước ra”. Một câu thật chí lý, ít nhất là trong trường hợp này. Nhưng đâu phải cuộc hôn nhân nào cũng thế. Chung quanh anh cũng vô số những gia đình trẻ, họ cũng đôi khi va chạm, to tiếng với nhau, bởi vốn dĩ cuộc sống gia đình có quá nhiều nỗi lo toan, lại thêm những góc cạnh của cá tính riêng. Nhưng không lấy gì là nặng nề, khi cuộc sống vẫn luôn có đủ cả buồn lẫn vui. Không thể đòi hỏi sự toàn vẹn ở một con người, một bối cảnh. Vấn đề là ở chỗ, người ta có biết bù lấp và điều chỉnh cho nhau trong một thiện chí xây đắp hay không thôi. Mà có điều chỉnh được thì mỗi người cũng phải tự biết những ưu, khuyết của bản thân mình. Không thể có một tòa nhà hạnh phúc khi một người cứ cố xây, còn người kia lại cố đạp đổ.

Chuông đồng hồ đổ 12 tiếng, nhắc Hoàng đã nửa đêm, anh dụi điếu thuốc trong ý nghĩ “Thôi ngủ, mai còn đi làm, mọi chuyện tính sau”. Khẽ vào giường, Hoàng nằm quay mặt ra ngoài, hai cái lưng đối diện nhau, hai con tim chệch choạc, hai cái đầu chật chội.

Đoan thu dọn sổ sách xong nhìn qua bàn Hoàng, anh vẫn cắm cúi ghi chép, Đoan hỏi:

- Xong chưa hở anh Hoàng?

Hoàng ngẩng lên, Đoan tiếp:

- Hết giờ rồi, anh chưa muốn nghỉ sao?

Hoàng liếc đồng hồ:

- Đã hết giờ rồi à? Thời gian trôi nhanh thật đấy. Cô cứ về trước, tôi làm nốt chỗ này rồi về sau.

- Em muốn đợi anh về cùng. - Đoan nói với giọng chắc chắn.

- Mất công cô quá, tôi chưa xong ngay đâu.

- Sao anh khó tính thế? Bộ em làm anh vướng víu lắm à?

Vẻ hờn dỗi, Đoan nói những lại hơi mỉm một nét cười. Hoàng ậm ự, khó xử. Đoan cười:

- Em đùa đấy, anh cứ làm cho xong đi, em đợi được. Về sớm cũng chẳng làm gì, em muốn rủ anh đi bát phố một lúc.

- Bát phố?

- Làm gì mà anh giật nảy lên thế? Chị Vân cài máy ghi âm ở đây à?

Hoàng cúi đầu xuống trang giấy, tránh né cái nhìn xoi móc của một cô gái đã ngoài ba mươi, nhưng vẫn là mục tiêu của khối chàng trai. Anh nói xuôi:

- Không nói lại cái miệng cô được. Tùy cô đấy, có lỡ hẹn với ai thì đừng bảo tại tôi nhá.

Đoan mỉm cười, nhìn Hoàng tỏ ra chăm chú vào công việc, cô thừa hiểu lý do, và cũng chính vì lý do đó mà cô có vài điều muốn nói với anh. Thấy Đoan vẫn cố ý chờ mình, Hoàng cũng không muốn kéo dài thời gian, anh thu xếp giấy tờ vào cặp rồi đứng lên. Ít phút sau, hai chiếc xe song song trên con đường có hai hàng cây cao, bóng tỏa là là, mát rượi cho dòng người nhộn nhịp lại qua. Ngọn gió phây phây của một trời chiều hoa hoa nắng, đem lại cho Hoàng một cảm giác thật dễ chịu. Một buổi chiều thanh thanh, lại được đi dạo cùng một cô gái xinh xinh quả thật là một điều thú vị. Lâu lắm rồi, anh mới lại có được những phút giây như thế này, bỗng nhiên anh muốn nói một lời cảm ơn cô bạn đồng nghiệp dễ thương.

- Chúng ta có thể vào một quán cà phê không nhỉ?

- Hết sức có thể, và cũng hết sức đúng lúc, nên em không tiện từ chối đâu ạ.

Câu trả lời hóm hỉnh của Đoan đã tặng Hoàng một nụ cười vui vẻ. Cô tiếp:

- Em biết có một chỗ rất dễ thương, anh đi theo em.

Nói rồi không đợi sự đồng ý của Hoàng, Đoan rấn xe lên trước, đến một ngõ rẽ vào một con đường hẹp, cả hai dừng lại trước một cánh cổng có tấm bảng nho nhỏ với hai chữ “Thy Thy” mềm mại. Cái tên dễ thương cộng với phong cách đặc biệt của quán tạo cho người đến một ấn tượng khá cuốn hút. Hầu như cảnh trí trong khuông viên quán là hoa và lá xanh, ngay cả những mái che, không phải là những chiếc dù mang tính quảng cáo của một số thương hiệu, mà toàn phủ bằng những thứ hoa leo giàn, lót một tấm vải bạt cho khỏi nước mưa. Lác đác là những cụm hoa súng, hoa sen, đủ các màu trong những hồ nước thu nhỏ được tạo hình theo một số loại quả như quả táo, quả đu đủ, quả xoài…và một vài loại hoa, một số khác thì nhởn nhơ những chú cá cảnh nhiều màu sắc, trông rất vui mắt. Những cái hồ thu nhỏ vui mắt này được bố trí dọc theo những lối cỏ xanh mướt. Hoàng cảm thấy một không gian nhẹ nhõm, êm ái, thư thái, anh hít một hơi sâu rồi nói:

- Thật là một khung cảnh tuyệt vời.

Đoan cười đầy tự tin:

- Em biết chắc là anh sẽ thích mà. Bước chân vào đây, tự nhiên bao buồn phiền bay đi đâu hết, nhiều lúc tâm trạng không vui, em thường đến đây ngồi một mình. Mình ngồi đây nghe anh.

Đoan chọn chỗ ngồi dưới một giàn hoa tím, những dây hoa lơ thơ thả quanh, trông dìu dịu là thật lãng mạn, quá thích hợp cho một câu chuyện tình cảm. Cô nhân viên phục vụ đặt các thức uống xuống bàn, rồi mỉm cười với lời chúc:

- Chúc quý khách có những giây phút thật dễ thương.

Rồi cúi chào thật lễ phép lịch sự trước khi dời chân. Cả hai thốt lời cảm ơn. Hoàng nói:

- Ở đây có một phong cách thật đặc biệt nhỉ.

- Thời buổi cạnh tranh mà, bất cứ lĩnh vực nào, ngành nghề nào, ai tìm ra được sự mới lạ độc đáo thì coi như đã thành công một nửa rồi.

- Trên thế giới, trong một phút đã có thể nảy ra hàng vạn cái mới, vì đó luôn là nhu cầu thiết thực của đời sống con người mà.

- Sự quen thuộc dù hay dù đẹp đến đâu, mà cứ lập đi lập lại nhiều lần thì cũng đâm tẻ nhạt đơn điệu và nhàm chán. Tìm tòi sự mới lạ, không chỉ đáp ứng nhu cầu chinh phục thị hiếu, đáp ứng sự vận động đời sống, mà còn tăng trưởng những chiều, kích về nhiều mặt nữa.

Một chút ngạc nhiên khi Hoàng phát hiện, cô gái hàng ngày cùng ra vào một cánh cổng, thậm chí là một cánh cửa, không phải là một cô nhân viên văn phòng tầm thường, anh buột miệng:

- Không ngờ cô Đoan nói chuyện thú vị đến thế.

Đoan mỉm cười, nhấp một ngụm nước:

- Thì hàng ngày ở văn phòng, chỉ công việc và công việc, đâu có dịp cho chúng ta nói những chuyện khác, hơn nữa, còn tùy thuộc vào không gian, bối cảnh mà nảy ra những đề tài. Mà này, anh có thể đổi cách xưng hô nghe cho nhẹ nhàng một tí được không? Cứ cô cô tôi tôi, khô khốc, nặng nề xa lạ thế nào ấy.

Hoàng lúng túng, cười ngượng ngịu:

- Xin lỗi, tôi quen thế rồi.

Thói quen này cũng bắt nguồn từ người vợ hay ghen của anh. Một danh xưng ra vẻ khoảng cách có thể là độ an toàn tương đối cho những người phụ nữ mà anh tiếp xúc. Chỉ cần nghe một tiếng gọi “anh, em” là Vân cũng đủ cuống lên rồi. Đoan cười:

- Hình như cái sự gọi là đổi mới mà chúng ta vừa đề cập có thể xảy đến với tất cả, trừ anh.

Hoàng nhếch môi, đôi mắt anh nhuốm một vẻ u uẩn. Anh cho tay vào túi áo lấy ra gói thuốc lá, bất chợt nhớ đến hai từ: “lịch sự” anh lại cất vào. Đoan khẽ nhấp một ngụm nước, cô nhìn bâng quơ và bỗng thốt một câu vu vơ:

- Lại chẳng mấy nữa là hết năm rồi.

- Thời gian là cái thước đo độ dài của một đời người, và khi người ta chợt nghĩ đến nó thì cũng là lúc nhận ra, nó thường không dài như người ta tưởng.

- Ấy thế mà vẫn luôn có những người ném cái thước đo của mình vào những điều không đáng, chẳng biết họ có tiếc không nhỉ?

Câu nói vô tình của Đoan làm cho Hoàng chạnh lòng. Anh lảng chuyện

- Thế còn cô? À Đoan. Đâu là mục tiêu cho Đoan tìm niềm vui và sự chia sẻ đấy? Hình như cái thước của Đoan…

Đoan nhìn Hoàng bằng cái đuôi mắt biết nói, và mỉm cười:

- Đó không phải là thứ người ta cứ cố tìm mà được, đôi khi nó ở ngay bên cạnh mình mà không biết.

Hoàng né tránh ánh mắt nồng nàn của cô gái, trong anh chợt dậy lên một cảm giác thời trai trẻ, nhưng anh đã kịp nhận nó xuống. Nhìn đồng hồ, Hoàng ra vẻ vội:

- Ôi muộn quá rồi, tôi đưa Đoan về nhé?

- Nếu anh thấy cần phải về thì cứ về trước đi. Mặc em.

Giọng Đoan hờn dỗi, Hoàng phân bua:

- Ồ không, ý tôi là…

Nhìn vẻ mặt khó xử của Hoàng, Đoan thấy tồi tội:

- Thôi, anh không phải biện hộ, và cũng đừng né tránh. Em hiểu mà. Thôi thì về.

Nói xong Đoan đứng bật dậy. Hoàng vẫy người phục vụ tính tiền, cả hai đi chầm chậm ra chỗ để xe, Đoan chợt thở dài.

- Một người như anh mà phải chịu dựng một cuộc sống như vậy thì vô lý quá nhỉ.

Hoàng im lặng. Ánh mắt anh vương một thoáng sương mờ. Đoan buồn buồn:

- Em không muốn úp mở gì nữa, nói thật lòng, em cảm mến anh đã lâu, nhưng em không manh nha chiếm đoạt hạnh phúc của người, em chỉ buồn cho anh, cái gọi là “hạnh phúc”, với anh, phải nghĩ như thế nào đây? Và như thế thì anh hy sinh vì cái gì, chịu đựng vì cái gì?

Cảm động trước lời thổ lộ của Đoan, Hoàng khẽ thở dài, anh cũng muốn nói ra một chút gì.

- Thật ra thì tôi cũng không hiểu sao cuộc sống của mình ngày càng tệ hại thế. Thôi thì, không sống được cho tình cảm thì sống cho trách nhiệm vậy.

- Liệu cái sự sống cho trách nhiệm ấy sẽ kéo dài được bao lâu, và nó có đem lại được gì cho gia đình anh? Nhất là các cháu.

- Có những câu hỏi mà cả đời có khi cũng không thể tìm được câu trả lời. Nghĩ nhiều chỉ càng thêm rối, tôi chỉ nghĩ, nếu vì tôi mà những người thân chung quanh tôi phải chịu đựng những khổ đau mất mát, thì chính tôi cũng không chấp nhận được. Tôi cảm ơn Đoan đã có ý tốt với tôi, nhưng tôi đành phải xin lỗi cô vậy. Một cô gái có nhiều ưu điểm như Đoan thì không thiếu cơ hội để chọn cho mình một người thích hợp, xin cô đừng mất thời gian vì tôi, tôi thật lòng không muốn vì tôi mà cô phải chịu những điều không vui. Cô hiểu ý tôi chứ?

Đoan thở ra một làn hơi mỏng.

- Em đương nhiên là rất hiểu, em muốn nói thêm rằng, trong một phạm vi cho phép, mong anh coi em như một người bạn thân thiết nhất, có thể sẻ chia những khó khăn khi cần, chỉ vậy thôi.

- Tôi rất cảm ơn Đoan, và xin ghi nhận tình cảm đẹp đẽ này. Bây giờ thì chúng ta phải tạm chia tay rồi nhỉ.

- Hẹn mai gặp lại.

- Vâng, mai gặp lại.

Chia tay Đoan, Hoàng trở về với bao điều lởn vởn trong lòng. Quả thât cũng có đôi khi anh đã tự hỏi mình “mình đang sống vì cái gì đây?”. Vẫn là mục đích của cuộc sống con người khi nhắc đến cặp từ “Hạnh phúc”. Người ta hao tâm tổn trí, gian nan vật vã, đấu tranh, hy sinh, chịu đựng bao đau khổ để mong được có nó. Còn anh…

Hoàng bước vào nhà với bộ mặt và ánh mắt thường lệ của vợ. Có nghĩa là sẵn sàng sừng sộ, sẵn sàng nổi trận, sẵn sàng tra gạn đến cùng với tất cả những dấu vết hoài nghi, mà dường như lúc nào Hoàng trở về nhà cũng mang đầy dấu vết hoài nghi như thế. Không tỏ một thái độ nào, Hoàng lẳng lặng cất cặp, đi tắm rửa rồi ngồi vào bàn ăn với hai con đang chờ. Anh hỏi han việc học hành vui chơi của chúng chăm sóc cho chúng những miếng ăn. Vân cũng chêm vào đôi ba câu thừa thiếu, rồi nhận thấy những câu nói của mình như rơi vào khoảng không, Vân đã hườm hườm một cơn giận dữ. Cơm xong, dạy hai con học hành một lúc, Hoàng vào phòng riêng đóng cửa lại, anh vớ một cuốn sách mở ra, nằm dài trên giường và dán mắt vào nó. Lát sau, cửa phòng bật mở, Vân bước vào với bộ dạng của một quan tòa:

- Anh làm sao thế?

- Chả sao cả.

- Anh làm như không còn có tôi trong cái nhà này nữa sao?

- Tôi ốm, tôi không muốn nhiều chuyện.

- Tôi không tin.

- Tùy.

- Anh… anh đang thách thức tôi đấy hả?

- Hiểu sao cũng được.

- Á à, anh coi thường tôi quá lắm rồi.

- Muốn người khác tôn trọng mình thì phải xem mình đã biết tôn trọng người khác chưa đã.

- Tôi không tôn trọng anh chỗ nào? Vì anh mà tôi phải từ bỏ những ước mơ, vì anh mà tôi từ một cán bộ nhiều triển vọng trở thành một con đàn bà đầu tắt mặt tối vì nồi xoong tã lót, anh còn muốn gì nữa?

- Cô nên nhớ tôi chưa hề yêu cầu cô làm thế bao giờ, khi trước cô quyết định nghỉ làm, tôi đã bảo là không cần thiết, cứ đi làm cho có nơi giao tiếp xã hội, chẳng qua cô không đủ khả năng để làm tròn trách nhiệm của mình, nên bây giờ đổ tại… Nếu cô thực sự có năng lực như cô tưởng thì mọi chuyện nay đã khác.

- Vậy ra những gì tôi hy sinh cho bố con anh hoàn toàn vô nghĩa à?

- Hy sinh! Cảm ơn. Có phải vì thế mà lâu nay cô muốn bóp nghẹt gia đình này cho xứng đáng với sự hy sinh của cô chăng?

- Á… há..

Vân há miệng hét, và định thể hiện một thái độ hung tợn, Hoàng bật dậy quắc mắt:

- Tôi cấm cô ăn nói thô lỗ làm ảnh hưởng đến con và làm phiền hàng xóm, cô không nghe thì đừng trách tôi.

Cũng như mọi lần, Vân gào lên:

- Anh làm gì tôi nào… anh áp chế tôi hả… anh bắt nạt tôi hả… anh…

Một tiếng “Bốp” gọn gàng, tiếng bốp đầu tiên sau gần mười năm chung sống, tiếng bốp làm Vân choáng váng lẫn kinh ngạc, tiếng bốp đã cho thấy Hoàng không phải là Hoàng trước đó, cô ôm má trợn mắt không thốt thêm được tiếng nào. Hoàng xô cửa đi ra, anh vào phòng con, bỏ mùng và nằm ôm ấp vỗ về cho chúng ngủ. Xong, anh nhẹ nhàng đi ra, lấy mền gối ra chiếc salon phòng khách. Vân ngồi chống tay ở mép bàn với cái nhìn tức tối. Hoàng biết, rất cần thiết như là một liều thuốc đắng. Bởi không chỉ là cứu vãn hạnh phúc cho chính mình, mà còn vì môi trường phát triển cho hai con, nếu không, hậu quả về sau càng khó lường.


Vân đã có một đêm trắng, nhưng không phải là một đêm trắng cho sự cảnh tỉnh, nhìn lại mình và tự điều chỉnh. Bởi vốn dĩ Vân vẫn luôn cho rằng mình đã hành động đúng. Cũng đã có nhiều chị em góp ý, rằng giữ chồng là đúng, vì đàn ông luôn chuộng lạ, khi mình cũ đi rồi thì khó mà giữ chân người ta được. Nhưng không nên giữ theo kiểu chiếm hữu và áp lực như thế, sẽ đẩy người ta về phía đối lập mình hơn thôi. Câu châm ngôn “lạt mềm buộc chặt” vẫn là bí quyết cho phụ nữ. Càng hung hãn đanh đá thì càng làm cho người đàn ông chán và cả ghê sợ mình thôi. Nhiều khi làm thế lại gián tiếp đẩy chồng mình vào tay người khác đấy. “Con nào dám cướp chồng tôi, tôi, tôi xé xác nó ra làm trăm mảnh ấy chứ. Cái lũ đàn bà thấy đàn ông đẹp là hau háu thì chỉ có tay tôi mới trị được, hiền như các chị, nó xỏ mũi chồng nó dắt đi lúc nào không biết. Mà này nhé, chồng tôi cứ gọi là một phép, đố dám ti toe với con nào, léng phéng, tôi mà bắt được chỉ có cắt béng...”. Với kiểu tư duy của Vân, thì hạnh phúc phải là sự chiếm hữu triệt để, và cô tin tưởng rằng Hoàng không bao giờ tuột khỏi tay cô, mà sẽ chỉ như một anh con trai lớn luôn biết nghe lời mẹ. Hành động khác thường của Hoàng tối nay làm cho Vân suy diễn theo một chiều hướng khác. “Như vậy là đã có một con đ…nào đó lôi kéo, thỉn thót, xúi giục, để anh ta về trở mặt với vợ đây. Đừng hòng, tao sẽ vạch mặt chúng mày cho mà xem. Giỏi lắm anh Hoàng, anh đã tát tôi vì một con nào đó thì rồi anh sẽ phải hối hận, tôi không để yên chuyện này đâu.”

Hoàng không hề biết dến những mưu toan của vợ sau hành động cảnh cáo của mình, sáng hôm sau anh đi làm với vẻ mặt bình thường, thậm chí còn một chút vui vui, vì ít ra anh cũng đã xử sự với tư cách một người chồng trước những quá quắt của vợ. Tuy nhiên, anh cũng nhủ mình không nên lập lại hành động đó lần thứ hai, vốn dĩ trong xử sự hàng ngày, anh chưa bao giờ dùng vũ lực để giải quyết vấn đề, vì đó là giải pháp tồi tệ nhất, hạ đẳng nhất, con người có ngôn ngữ để làm gì, có văn hóa để làm gì? Xử sự thô bạo đôi khi lại làm cho sự việc càng phức tạp lên, và tình hình lại càng xấu hơn.

Vừa bước vào cổng cơ quan, Hoàng đã thấy một không khí khác thường, chưa kịp hỏi thì Quân lên tíếng ngay khi vừa nhìn thấy anh:

- A, anh Hoàng đây rồi, anh nghe tin gì chưa?

- Tin gì?

- Anh Chánh vừa mất đêm qua rồi. Lên cơn suyễn trong lúc ngủ, vợ con không kịp trở tay.

Hoàng sững sờ với cái tin không may ấy. Chánh là phó giám đốc công ty anh, là một người luôn nhiệt tình trong công việc cũng như trong các mối quan hệ, ai cũng yêu mến. Mới vài ngày trước, anh em còn ngồi lai rai với nhau, vậy mà…

- Đã có ai đến đó chưa?

- Dạ có ba người rồi. Giám đốc bảo em tìm anh, rồi ta đến đấy xem gia đình có cần giúp gi không, mai mới đi viếng. Mau đi anh.

Cả hai rảo chân vào phòng giám đốc, trên nét mặt vẫn còn thẫn thờ.

Cúi đầu mặc niệm trước linh cữu người bạn đồng nghiệp, rồi lần lượt những nén nhang được cắm vào bát hương. Thực hiện những động tác để tiễn đưa một người về bên kia thế giới, lòng ai cũng bồi hồi, thao thiết. Người đi mặc phận người đi, những người còn lại xót xa một khoảng trống. Nhìn những đứa trẻ khăn sô áo trắng, cùng mẹ vái tạ lễ mà không nén nổi niềm xúc động. Sau vài ly nước cùng những lời thăm hỏi. Mọi người đứng dậy cáo từ tang chủ. Đã quá nửa buổi sáng, cái khoảng thời gian lưng lửng không biết đi đâu về đâu, và tâm trạng hiu hiu của âm hưởng tiếng trống kèn ảo não của nhà đám, Hoàng ngơ ngơ ngẩn ngẩn dắt bộ cái xe ra đường. Vài người đã lên xe rồ máy nhẹ. Hoàng cũng vắt chân qua yên, anh chợt nghe:

- Anh Hoàng, đợi em một chút.

Quay lại, thấy Đoan đang tất tả đi đến.

- Xe em không nổ, nhờ Vỹ dắt đi sửa rồi, anh chở em nhé.

- Ừ, giờ em đi đâu?

- Đoan chưa kịp trả lời thì phía trước vọng lại tiếng chị Thư:

- Này các vị, cũng gần trưa rồi, về nhà tôi làm bữa bún riêu cho mát dạ đi.

- Tuyệt vời. Sao mà đúng lúc thế… Còn gì bằng nữa… đi thôi…

Những tiếng nói cười huởng ứng một đề xuất hấp dẫn. Hoàng cười nói với Đoan cũng vừa yên vị sau lưng:

- Hay nhỉ, con người ta dễ buồn cũng dễ vui, vừa, mới tỏ ra tang thương thế, đã lại cười ngay được.

- Thì cuộc sống mà anh, không thế thì chết vì đau buồn mất.

Hoàng cười, gật đầu, anh vừa lên tay ga thì cảm giác có một lực trì níu lại, chưa kịp hiểu nguyên nhân thì anh nghe tiếng Đoan thét lên cùng một tiếng rít của một người đàn bà:

- A, con đ… này đây rồi, bà bắt được chúng mày rồi nhá, bà cho mày chết… chết này…

Hoàng gạt vội chống xe, nhảy vào can hai người đàn bà. Đoan yếu thế hơn vì bị động bất ngờ, đang chúi mặt dưới bàn tay nắm ghì tóc của Vân. Vân, vẻ hung hãn của một người đang lên cơn ghen tột độ, miệng la chân đá, tay đấm… Hoàng kình hoảng, hét lạc cả giọng

- Buông ra, buông cô ấy ra mau, cô hiểu lầm rồi…

Tiếng hét của Hoàng vô hiệu, vì Vân không còn biết gì hơn là đối thủ đang chịu trận trong tay cô. Mái tóc Đoan bị xổ tung, và mặt cô thì liên tục bị đập xuống đường. Tình huống bắt buộc Hoàng lần thứ hai… Bốp bốp… Hai cái tát trời giáng đã tách được đôi tay Vân ra khỏi người Đoan. Ngay lập tức, Vân tru tréo:

- Ối làng nước ơi, nó bênh đ… nó đánh tôi thế này nè trời…

Những người đi trước đã quay cả lại, thấy vậy thì hết sức bất nhẫn, mỗi người một câu:

- Chị hiểu nhầm rồi, không phải thế đâu… đỡ cô Đoan dậy đi… kìa… trời ơi mặt mày trầy trụa hết cả rồi, đưa cô ấy đi bệnh viện ngay đi, xem nặng nhẹ thế nào kiện ra toà luôn… người đâu mà hàm hồ hung dữ thế chứ lại… nhà người ta thì đang tang tóc thế kia... người đâu mà…

Đoan được dìu đi, trên gương mặt cô nét hoảng loạn, bê bết máu và đất. Hoàng cảm thấy vô cùng xấu hổ và nhục nhã, anh quát:

- Đi về.

- Tôi không về.

Vân giương cặp mắt căm thù nhìn Hoàng thách thức. Hoàng quay ngoắt lên xe, nổ máy chạy về hướng bệnh viện. Trong anh, bùng lên một cảm giác ghê sợ và uất hận, anh không ngờ người vợ đã gần mười năm chung sống lại là một người kinh khủng như thế. Đến bệnh viện, Đoan còn đang trong phòng điều trị. Hoàng ôm đầu ngồi ở chiếc ghế chờ bên ngoài. Báu, một đồng nghiệp, vốn rất hiểu chuyện gia dình anh, lặng lẽ ngồi bên cạnh, đặt một tay lên vai anh. Lát sau, Đoan được đẩy ra trên chiếc giưòng với một gương mặt băng kín chỉ chừa hai con mắt và cái miệng. Hoàng ân hận:

- Đoan cho tôi xin lỗi nhé, tôi không ngờ…

Đoan cố mấp máy môi:

- Anh về với chị ấy đi, em không sao đâu, đừng dể chị ấy hiểu lầm thêm.

Hoàng không biết làm sao hơn, đành thẫn thờ ra về. Trong đầu anh, âm âm một câu hỏi: “Phải làm gì đây? Phải làm gì bây giờ?” - “Ly dị”. Đây không phải là lần đầu tiên anh nghĩ đến điều này. Nhưng vì hai đứa con còn bé dại, anh không nỡ nhìn chúng phải xa cha hay xa mẹ. Với trẻ thơ, cha mẹ đều cần thiết như nhau, vắng một trong hai đều là sự thiệt thòi lớn cho chúng. Nhưng không chọn giải pháp ấy thì biết phải làm sao để có một hướng đi tốt hơn đây? Và liệu hai đứa con anh sẽ trưởng thành như thế nào trong một hoàn cảnh như thế này?

Vân hầm hầm ngồi đợi Hoàng, vừa thấy anh, cô sấn sổ nhảy ra túm áo, đầm thùm thụp vào ngực anh:

- Đồ khốn nạn, sao anh không đi luôn đi, còn về đây làm gì?

- Cô không phải thách, không vì hai đứa nhỏ thì tôi đã đi từ lâu rồi. Tôi không thể nào sống nổi với cô thêm một giây một giờ nữa.

- Á à, anh chỉ đợi có bấy nhiêu để tha hồ đi với con đ... ấy phải không? Đừng hòng…

- Cô đừng có mà vu khống cho người ta nghe chưa? Tôi cảnh cáo cô, cô còn đụng đến người ta một lần nữa thì đừng trách tôi…

- Ghê nhỉ. Thế anh định làm gì tôi nào?

- Ly dị.

Hoàng buông hai chữ ngắn gọn mà làm mắt Vân long lên sòng sọc:

- Anh dám ly dị tôi, tôi giết, tôi giết cả hai.

Hoàng rợn tóc gáy khi nhìn vào mắt Vân, cô ta điên thật rồi.

Đàm Lan

 

|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế