Hiện có 17 người xem / 2309530 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 10/12/2011

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA VÀ NAY

Như thường lệ Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách cổ bằng Pháp văn mà ông vừa có cơ may có được. Thoạt đầu, người mang chúng từ Pháp về có ý muốn nhượng lại với giá mà anh ta cho là hữu nghị là 1200 đô Mẽo hai cuốn. Tuy rất thích hai cuốn sách nhưng Dịch giả Vũ Anh Tuấn đành chịu thua vì không có khả năng chi ra một số tiền hơi “bị” lớn như vậy. May thay, trong lúc cùng chủ nhân hai cuốn sách tới thăm một bà bạn, anh này tình cờ bắt gặp một bức tranh của Văn Đen treo ở phòng ăn nhà bà bạn, và khi trở về anh nhờ Dịch giả Vũ Anh Tuấn hỏi xem bà bạn có muốn nhường bức tranh lại không và giá cả là bao nhiêu. Bà bạn thân cho biết là nếu Dịch giả Vũ Anh Tuấn thích thì bà sẵn lòng để lại vì bà cũng không chú ý gì tới bức tranh của ông xã bà để lại lắm, và bà bảo “anh muốn trả em bao nhiêu cũng được”. Dịch giả Vũ Anh Tuấn cho biết theo thời giá bức tranh đáng trên 1000 đô nhưng ông chỉ có khả năng chi độ 500 đô mà thôi. Nghe vậy bà bạn vui vẻ nói:”Được rồi, anh trả em bao nhiêu cũng được, miễn là anh kiếm cho em một tranh nào khác, của họa sĩ nào cũng được, để treo thế vào chỗ bức này!” Và thế là bức Văn Đen đã được dùng để đổi lấy 2 cuốn sách, và như vậy Dịch giả Vũ Anh Tuấn chỉ phải chi có hơn 500 đô một tí để được sở hữu 2 cuốn sách quý mà ông đem “khoe” hôm nay. Cuốn đầu mang tựa đề là “Cuộc chiến ở Bắc kỳ” (La guerre du Tonkin) dày 1212 trang, khổ 18 x 28cm, nói về toàn bộ việc quân Pháp dánh chiếm Bắc Kỳ, và có trên 300 minh họa vẽ bằng bút sắt cực kỳ đẹp. Cuốn này được xuất bản trong những năm 20 của thế kỷ trước. Cuốn thứ nhì mang tựa đề là: “Ở Đông Dương” (En Indochine), khổ 25 x 33cm, có cạnh mạ vàng và có trên 200 hình ảnh minh họa. Đây là một cuốn sách nói về thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng và cai trị ở Đông Dương, gồm 3 nước, Việt Nam, Mên và Lào mà lúc đó chúng gọi là các Quốc Gia Liên Kết. Sau khi được giới thiệu 2 cuốn sách quý đã được một số thành viên cầm xem các hình ảnh minh họa một cách thích thú.

Sau phần giới thiệu sách, anh Vương Liêm, Phó Chủ Nhiệm CLB đã có một cuộc nói chuyện về chuyến đi du lịch Mã Lai và Singapore mà anh vừa đi về. Anh đã đưa ra một số nhận xét và so sánh giữa hai quốc gia nhỏ đó và chúng ta.

Tiếp lời anh Vương Liêm, chị Lan Hinh, ái nữ của Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải, đã lên nói chuyện về “Khu vườn bí ẩn có khả năng chữa bá bệnh” tại Long An mà chị vừa đi thăm về. Sau khi nghe chị Lan Hinh kể, một số thành viên dự tính CLB sẽ ghé thăm vườn đó một chuyến trong tương lai gần.

Kế đó, nhà thơ Thanh Châu đã hát tặng các thành viên bài “Cuộc đời vẫn đẹp sao! Tình Yêu vẫn đẹp sao!” mặc dầu nhà thơ đã là dân làng “Cổ Lai Hi” từ rất lâu…

Cuối cùng anh Phạm Vũ đã nói chuyện về chuyến Mỹ du mà anh mới đi và mới về. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã có lời thông báo và lời mời các thành viên tham dự bữa ăn tất niên sẽ được tổ chức vào ngày thứ Bảy 14 tháng 1, năm 2012. Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 15 cùng ngày.

Vũ Thư Hữu

VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN “ĐỜI SỐNG QUÂN SỰ Ở BẮC KỲ”

của Đại Úy LECOMTE

Đây cũng là một cuốn sách khá cổ vì được xuất bản năm 1893 (118 năm trước). Trước khi nói về cuốn sách xin có vài hàng về tác giả. Đại Úy Lecomte tên đầy đủ là Jean-François-Alphonse Lecomte, ông sinh ở Saury-sur-Nied (Moselle) ngày 2 tháng 3 năm 1850. Tình nguyện gia nhập quân đội năm 1867, đến Bắc Kỳ ngày 10 tháng Giêng năm 1884, và tham chiến trong lữ đoàn của tướng Négrier và trở về Pháp sau khi Pháp chiếm Lạng Sơn, và được vinh thăng Đại tá năm 1902.

Cuốn sách dày 347 trang khổ lớn này được chia thành 32 chương.

Chương 1: Nói về ngày tác giả rời khỏi nước Pháp để sang Bắc kỳ vào ngày 10 tháng Giêng năm 1884.

Chương 2: Nói về tác giả ghé Port-Said.

Chương 3: Nói về Kênh đào Suez mà ông đi qua.

Chương 4: Nói về vườn Bách thảo ở Tân Gia Ba mà ông ghé qua.

Chương 5: Nói về ngày tác giả tới Bắc kỳ.

Chương 6: Nói về trận chiến đầu tiên mà tác giả tham dự là trận Bắc Lệ vào ngày 13 tháng 6, 1884.

Chương 7: Nói về trận đánh ở Kép (8 tháng 10, 1884).

Chương 8: Nói về La Toria (có thể là một chiến thuyền)

Chương 9: Nói về những tù binh ở Núi Bop.

Chương 10: Nói về đời sống của binh lính Pháp ở Hà Nội.

Chương 11: Nói về cuộc chiến từ Chữ tới Đồng-Song (3-6 tháng Hai, 1885)

Chương 12: Nói về cuộc thám sát từ Đồng-Song tới Chữ (6 tháng Hai, 1885)

Chương 13: Nói về việc quân Pháp tiến vào Lạng Sơn ngày 13 tháng Giêng 1885.

Chương 14: Nói về cuộc thám sát các nơi chốn ở Lạng Sơn ngày 14 tháng Giêng 1885.

Chương 15: Nói về các ngọn núi và vách đá ở Lạng Sơn.

Chương 16: Nói về 3 viên sĩ quan đi nhờ con tàu Poitou.

Chương 17: Nói về trận Bắc Lệ (18 tháng Giêng 1885).

Chương 18: Nói về ngày tác giả tới Kép (19 tháng Giêng 1885).

Chương 19: Nói về trận Hòa Mộc (ngày 2 và 3 năm 1885).

Chương 20: Nói về quân Pháp tiến vào Tuyên Quang (ngày 3 tháng 3, năm 1885)

Chương 21: Nói về 3 viên Trung úy của Trung Đoàn 143.

Chương 22: Nói về tác giả đi công tác với mấy tên quan người Tàu

Chương 23: Nói về các tù binh.

Chương 24: Nói về chuyện muỗi.

Chương 25: Nói về Linh mục Grandpierre.

Chương 26: Nói về bệnh dịch tả.

Chương 25: Nói về câu chuyện về cậu bồi tên là Sao.

Chương 26: Nói về một thánh lễ ở Hà Nội.

Chương 27: Nói về chuyến đi Lào Cay.

Chương 28: Nói về một nhân vật bản xứ tên là Nguyễn Tiên.

Chương 29: Nói về ngày tác giả từ giã xứ Bắc kỳ.

Chương 30: Nói về sự hồi hương của tác giả.

Cuốn sách cũng có một số hình ảnh minh họa, vẽ bằng bút sắt rất đẹp, và cũng là một tài liệu quý hiếm cho các nhà nghiên cứu lịch sử, hiếm vì nó đã ra đời cách đây 118 năm…





Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương 6

Vũ Anh Tuấn

Tết này đã là 46 năm nhà thơ tài hoa Nguyễn Bính ra đi vào cõi vĩnh hằng. Nhà văn Chu Văn và Phan Hoài Nam cũng đã nhớ lại bài thơ Tết cuối cùng của ông viết cho tập san Xuân Bính Ngọ của chi hội nhà văn Nam Hà thời đó. Để kỷ niệm ngày mất của ông, chúng tôi xin đăng “Bài thơ tết cuối cùng của Nguyễn Bính” do Phạm Thế Cường sưu tầm

Bài thơ tết cuối cùng

của Nguyễn Bính

Tháng cuối đông năm 1965. Sau lễ Noel. Tiết đại hàn buốt giá. Chiến tranh. Tuy ở nơi sơ tán vùng nông thôn hẻo lánh thuộc xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân, nhưng Ty Văn hóa Nam Hà vẫn giữ cái nếp làm báo tết. Gọi là báo nhưng thực ra nó chỉ là một tờ tập san khổ 19/27, trên dưới 40 trang, ra 3 tháng một kỳ. Tuy vậy, người viết nào được in một bài vào số tết cũng là một vinh hạnh, vui lâng lâng, chộn rộn hàng tháng.

Dịp ấy lại có lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh thi hào Nguyễn Du. Dự định của lãnh đạo Ty là sẽ phải có những bài viết thật trang trọng về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn tiên sinh. Họ lập hẳn một ban làm báo tết và một hội đồng duyệt hẳn hoi.

Những ngày này, không hiểu có điều gì thôi thúc mà tinh thần Nguyễn Bính rất phấn chấn, ông viết đam mê như kẻ nhập đồng. Chỉ trong vòng dăm bảy ngày gì đó, ông viết xong hai bài thơ, mà sau này trở thành những tác phẩm “để đời”, như cách nói của chúng ta hôm nay. Bài trước có tên là Bài thơ quê hương, với những câu chữ bay bổng mà cuốn quyện như keo mật:

Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang
Có cô Tấm náu mình trong quả thị
Có người em may túi đúng ba gang

Quê hương tôi có ca dao tục ngữ
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi
Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi...

Bài thứ hai có tên Kính gửi Nguyễn Du và Truyện Kiều. Ai trong cơ quan cũng biết Nguyễn Bính coi Nguyễn Du là thần tượng số một. Nguyễn Bính thuộc Truyện Kiều làu làu. Ông viết xong bài thơ cứ úp úp mở mở khoe với anh em trong cơ quan, nhưng lại không cho ai đọc trước, muốn gây bất ngờ ở “phút 89”. Hôm đọc duyệt, ông Trưởng ty Chu Văn, chủ tịch hội đồng, cứ nhướng nhướng đôi mục kỉnh về phía Nguyễn Bính, rồi nói:

- Nghe anh em xì xào rằng anh Bính có bài thơ về Nguyễn Du hay lắm, mời anh đọc lên cho hội đồng cùng nghe!

Nguyễn Bính cười, chờ lúc ra hội đồng đủ mặt mới trịnh trọng giở trang giấy viết công phu – chữ đẹp như xếp rồi hắng giọng ngâm nga:

Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều

Cảo thơm lần dở trước đèn
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa
Trăm năm trong cõi người ta
Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau
Khen tài nhả ngọc phun châu
Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình.
Mấy lời kỳ cựu đinh ninh
Rằng tài nên trọng mà tình nên thương
Khen rằng giá đáng Thịnh Đường
Thì trao giải nhất, chi nhường cho ai
Gẫm âu người ấy, báu này
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
Nặng vì chút nghĩa xưa sau
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay
Thương vui bởi tại lòng này
Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời
Lòng thơ lai láng bồi hồi
Tưởng người nên lại thấy người về đây...

Khác với âm hưởng rộn ràng vui tươi trong Bài thơ quê hương, bài Kính tặng Nguyễn Du và Truyện Kiều hay thì hay thật, hay đến độ cả hội đồng lặng đi một lát, nhưng cảm hứng chủ đạo toàn bài, có gì đó như vận vào số phận long đong, ghềnh thác của Nguyễn Bính.

Một thành viên trong hội đồng nói:

- Có mấy câu sai sái anh Bính ạ.

Nguyễn Bính đã ngồi xuống lại đứng lên phẩy tay một cái:

- Các ông đừng duy tâm quá. Thơ hay là được. Tôi chính thức nộp bài này cho báo tết. Một câu một chữ không được sửa!

Mọi người nhìn nhau đắn đo, suy tính. Đăng thì hơi ngần ngại, nhưng bỏ thì tiếc. Cuối cùng thì quyết định đăng. Cũng là muốn có thêm mấy đồng nhuận bút để Nguyễn Bính tiêu tết nữa. Lúc nào Nguyễn Bính cũng thiếu tiền.

Câu chuyện qua đi… và mọi người chuẩn bị cho một cái tết bận rộn… riêng Nguyễn Bính, muốn tạo một xuân tha hương nữa, lại chọn ngày giáp tết đến nhà người bạn, bị một luồng gió lạnh, ông rùng mình thổ huyết và ngất xỉu. Gia đình chủ nhà hết lòng chạy chữa nhưng không kịp nữa rồi…

Tân thanh đáo để vị thùy dương

(Tân thanh sau hết ngậm ngùi vì ai)

Có lẽ cái khoảnh khắc con tim ông bắt đầu ngừng đập, vong hồn cụ Nguyễn Tiên Điền đã về đón ông thật nên đã “linh báo” khiến ông thốt ra lời thơ “tưởng người nên lại thấy người về đây”? Cái buổi sáng người ta đưa ông ra đồng cũng hệt như khung cảnh “tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời”. Và bài thơ Kính gửi Nguyễn Du và Truyện Kiều đã trở thành “Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau” đúng như trong bài thơ ông viết.

(Nguyễn Bính mất ngay ngày hôm đó tức là 30 tết (20 tháng 1 năm 1966) khi sắp bước sang tuổi 49)

Ngày Xuân đọc lại một bài báo 100 năm trước

KHUYÊN ĂN TẾT

TRẦN THIỆN DƯƠNG

Nay tôi coi nhựt báo Lục-tỉnh-tân-văn thấy các ông cũng muốn mở mang cho đồng bào ta mau khôn, thế nên tôi xin dâng một bài nói về việc công ích, xin ông chủ-sự làm ơn in vào nhựt trình, thì tôi lấy làm cám ơn vô cùng.

Từ xưa đến nay trái đất đi đủ 360 vòng vị chi một năm, theo tục ông bà để lại hễ mãng một năm thì ăn tết một lần, ấy cũng là phải, tôi không dám chê, song mà ông bà bày ra nghĩa là trong một năm kẻ ăn người làm cực khổ, nên mới để một ngày nguyên đáng đó đặng ai ai đều nghỉ ngơi cho thỏa sự cực khổ trong một năm, gọi là ngày xuân; ấy là việc ông bà làm rất phải, thì trong một ngày ấy cúng quảy ăn chơi cũng đủ, mà sao tôi thấy trong đồng bào ta hể tới ngày ấy ai ai cũng đốt pháo, đốt giấy bắc thảo, giấy tiền, vàng bạc, dựng nêu, treo bùa tứ tung ngũ hoành, gián giấy liền xì, làm bánh nọ vật kia chất trên bàn thờ đăng đăng đê đê, đánh áo đánh quần tới bảy bữa, nào me, nào lú, bài cào, tứ sắc, xóc dĩa, cỏ nhơn và đủ các thứ khác nữa, lại thêm cúng lạy trong bảy ngày ấy đã mòn đầu gối gần vài tất, lạy vập đầu xuống đất méo gần nữa cái, lại thêm ôm áo rộng, cập danh thiệp đi mừng tuổi và cung hỉ chổ nọ chổ kia gần rớt cặp đùi nữa, còn trong nhà ngoài cữa gián giấy đỏ giấy xanh và treo liễng cúng. Thậm chí có ông ăn tết rồi thì bán nhà bán cửa, nợ réo trước réo sau, đợ vợ bán con mà trả không đủ cũng về các cái tệ đó.

Nay tôi thấy trong đồng bào ta còn mê mẫn lắm, nên tôi mới đăng bài nầy mà khuyên cho tiểu ngộ, bỏ lần lần cái phí vô ích ấy đó, chớ tôi cũng còn thiếu niên tân tân không dám chê bai gì đâu, xin các ông đừng chấp. Tôi xin kể các món vô ích ấy ra cho các ông nghe:

“Giấy bắc thảo, giấy tiền, vàng bạc, là đồ đốt ra tro mà thôi, chớ ông bà nào mà lấy đâu, dẫu có lấy cũng không bận được. Còn pháo thì nổ lụp bụp ít tiếng rồi hết, lại thêm bay tàn cho cháy nhà cháy cữa, đã một cái vô ích nhi hữu tồn lại mất tiền cho chú chệc nữa. Còn dựng nêu treo bùa, tôi cũng biết để mà trừ ma trừ quỉ song mà trong một năm ma quỉ đi đâu không bắt; đợi đến ngày tết mới bắt người ta làm chi. Còn giấy xanh giấy đỏ gián vô đâu thì dơ đó, lại tốn tiền mua nữa, thì cũng không ích gì. Treo liễng đối thì ngày thường để làm gì mà không treo, đến ngày tết mới treo, vã lại treo nó cũng không té tiền té gạo gì mà phỏng treo, ấy cũng là vô ích nữa. Còn ôm áo rộng đi mừng tuổi, thì hễ hết một năm thì gọi làm thêm một tuổi nữa, nghĩa là cho biết người nọ từ đẻ ra cho đến bây giờ là mấy năm mà thôi, chớ không phải ai cho tuổi phòng đi mừng, còn danh thiệp là để mà gởi cho những người anh em bạn mình ở xa một năm không thấy mặt một lần, nên gởi cho người ta biết mình trong khi thong thả an lạc mà không quên bạn hữu, hay là mình mới làm quen với người nào mà người ấy chưa biết tên mình thì đưa cho người ấy biết mà thôi; chớ không phải là đến ngày tết mà đem tên họ cho người nầy người khác, lỗ nào cũng có tên, mà những người ở gần thì cần gì phải đưa danh thiệp, vì người ta đã biết rồi. Còn ông bà bày ra ngày tết là ngày để mà nghĩ xác, chớ không phải ông bà biểu ngày ấy phải đánh cờ bạc cho thua hết nhà hết cữa”.

Những mấy đều tệ ấy của nước tàu mà lấy qua cho nước Nam ta, từ xưa đến nay, mà không ai khuyên dải cho đồng bào rõ.

Vậy nên tôi xin khuyên các anh em đồng bào ta hãy xét những lời của tôi khuyên đó, mà bỏ lần cái tiêu phí vô ích ấy đi, họa may có khá chăng? Nếu các ông không bỏ đặng, tôi e các nước văn minh bên Âu, Mỹ chê cười rằng: nước ta hơn 25 triệu người mà không có người kiến thức. Tôi thường thấy nước Pháp là một nước phú cường trong toàn cầu ai ai đều kiên, mà không ăn tết tới bảy ngày thay, huống nước ta là bần nhược và đãi đọa vậy thì biết chừng nào mà giàu có như người ta, nên xin các ông hãy bắt chước theo như nước Pháp thì hay hơn.

Huỳnh Nguyệt Anh st.

ĐỂ MÙA XUÂN

CÒN MÃI NƠI ĐỜI

Có lẽ trên trái đất này không có một tạo vật nào lại thông minh, giỏi giang, xinh đẹp bằng con người. Các sinh vật khác chỉ có sự sống mà không thể nào có được cái trí, cái tài như chúng ta. Chỉ có con người mới có những đức tính nói lên sự hoàn hảo, tinh tế về cách sống: Nhân bản, nhân văn, nhân hậu, nhân nghĩa, nhân đức, nhân từ... mà những ai có được những tính cách này đều được mọi người tôn quý. Trong vũ trụ mà con người đang sống, được người đạo Thiên Chúa cho là do Thượng Đế tạo ra, bởi vì nó trật tự, hùng vĩ, xinh đẹp, hữu tình quá sức tưởng tượng hay sáng tạo của con người. Nhưng con người không chỉ dừng ở đó để chỉ chiêm ngưỡng và bái phục, mà cũng góp tài trí của mình để điểm tô thêm và sáng tạo thêm, cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn lên bằng phương tiện khoa học, kỹ thuật hiện đại mà ta thấy: Chỉ cần 1 cú nhắp chuột là nắm được thông tin toàn cầu, tán gẫu với bạn bè, làm quen với những người xa lạ trên toàn thế giới. Muốn nghe nhạc, học hỏi bất cứ điều gì đều có thể tìm được trên chiếc máy Vi tính nhỏ bé. Con người không ngừng học hỏi, sáng tạo, nên từ rất nhiều năm qua, núi cao, biển lớn, sông dài đã không còn là một trở ngại lớn không thể vượt qua. Họ chinh phục không gian bằng máy bay, đại dương bằng tàu, thuyền. Họ cũng tìm ra nguồn năng lượng để thắp sáng, sưởi ấm, vận hành máy móc, chế tạo ra bao nhiêu tiện ích khác. Về phương diện Y Học, con người cũng không bó tay chờ chết khi lâm bịnh, mà các nhà Khoa Học cũng nghĩ ra những phương pháp cắt bỏ những tế bào bịnh, thay thận, thay tim, ghép giác mạc, thụ tinh trong ống nghiệm… Đó cũng là một loại thần thông biến hóa của con người, mà tín đồ của bất cứ tôn giáo nào cũng phải nhìn nhận.

Con người tuy nhỏ bé, yếu đuối, nhưng hung dữ, thâm độc còn hơn hùm beo, rắn rít, cộng với sự thông minh và sáng tạo, nếu cứ để tự do phát triển mà không hướng thiện có ngày sẽ tranh giành, tàn sát nhau, đưa đến diệt vong. Vì thế mà các tôn giáo đã ra đời để đưa họ vào khuôn khổ. Có hai tôn giáo được cho là có ảnh hưởng lớn nhất trên toàn thế giới, đó là Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo. Lý thuyết của hai vị Giáo Chủ có vẻ rất khác biệt, nguồn gốc cũng hoàn toàn khác biệt. Một Chúa Giêsu, nói mình là Ngôi Hai, một trong 3 vị Thiên Chúa ở cõi trời, giáng trần một cách hèn hạ trong máng lừa để cứu rỗi cho loài người, và sau đó, cũng chính loài người đã sát hại Ngài! Một Đức Phật Thích Ca, xuất thân là một Thái Tử, nhìn cảnh khổ của con người rồi phát tâm đi tìm cách Thoát khỏi những thảm cảnh đó. Cho đến khi khám phá ra được rồi thì suốt đời còn lại, Ngài đã dùng mọi cách để truyền bá phương pháp mà ai tin, thực hành theo sẽ có được một cuộc đời sống an, chết lành. Mọi lời hứa hẹn khác đều chỉ là phương tiện mà những người không đọc kỹ chính Kinh thường hay nhầm lẫn để suy tôn Ngài thay vì thực hành theo đó.

Với Đạo Thiên Chúa, sau khi đưa ra Thiên Đàng, Địa Ngục là hai sự thưởng phạt mà mọi người sẽ đối diện sau khi chết để cho biết: Người Thiện Tâm sẽ được về nước Chúa sau khi chết. Muốn vậy, khi sống phải giữ Mười Điều Răn của Chúa, 6 Điều Răn của Hội Thánh, nhưng tóm lại chỉ là “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy”. Một công thức đơn giản mà xem ra cũng ít người thực thi trọn vẹn.

Đạo Phật thì cũng nói Niết Bàn, Phật Quốc, Tây Phương Cực lạc, cho những người sống thiện, và Địa ngục cho những người chơn ác tâm. Nhìn chung ta thấy, phải chăng dù hai giáo pháp, xuất phát từ hai vị Giáo Chủ, một bên Đông Phương, một bên Tây Phương. Lý thuyết có vẻ khác biệt, nhưng mục đích hình như chỉ có một: Là giáo hóa con người để bớt đi cái ác.

Nhiều người do sự hiểu biết hạn chế đã khích bác tôn giáo không cùng chính kiến với mình, không biết rằng là các Ngài đều là sứ giả, rao giảng về ĐIỀU THIỆN, dùng sự thưởng, phạt để con người bớt làm ác, bớt hại nhau để cuộc sống được tốt đẹp hơn lên. Thế nhưng cũng có rất nhiều người hiểu lầm, chỉ siêng đi nhà thờ, đọc Kinh, cầu xin mà bỏ quên điều kiện bắt buộc là KÍNH CHÚA thì phải YÊU NGƯỜI. Mọi người đều được dạy là tất cả mọi người đều là con của Thượng Đế, được Ngài yêu thương như nhau. Như vậy, ta thử nghĩ: Có khi nào ta lại mở rộng cửa và hoan hỉ tiếp rước một người đánh đập hành hạ, chèn ép, lừa đảo, không đối xử tốt với con mình? Xét từ lòng yêu thương con cái, thì quân dữ chỉ hành hạ Chúa trong một lần duy nhất khi đưa Ngài treo lên cây Thập Giá và dùng lưỡi đòng đâm vào tim Ngài, thì chúng ta một đời hành hạ Ngài bằng cách bắt Ngài chứng kiến cảnh con cái của Ngài bị ngược đãi! Dù Thượng Đế nhân từ vô cùng, nhưng những lời Ngài dạy đã trở thành Điều Răn, không được vi phạm, mà chúng ta hết lần này đến lượt khác, luôn làm trái ý Ngài, thì lúc chết sao xứng đáng để đòi vào nước của Ngài?

Bên phía tín đồ của Đạo Phật cũng thế. Một số do quá tưởng tượng và sùng bái hình ảnh Phật được mô tả trong Kinh, rồi không chịu đọc kỹ, để thấy rằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Phật không phải để dùng vàng, bạc, đồng gỗ tạc để thờ, mà để mọi người lấy đó làm mẫu rồi tự mình bắt chước làm theo, để bản thân cũng có được. Xin đơn cử vài Tướng Tốt của Phật được trích trong Kinh ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN:

Tướng thứ nhất là BÀN CHÂN BẰNG PHẲNG, ta thấy Kinh viết: “Như Lai đã từng trong vô lượng A Tăng Kỳ kiếp dốc lòng tu trì TỊNH GIỚI, cho nên nay mới được cái TƯỚNG BÀN CHÂN BẰNG PHẲNG”. Tướng thứ hai là BÀN CHÂN CÓ NGHÌN XOÁY ỐC, Kinh viết: “Nhờ sự cúng dàng cha mẹ, Hòa Thượng, Sư trưởng và các bậc có đức, cho nên được TƯỚNG NGHÌN XOÁY ỐC DƯỚI BÀN CHÂN”. Tướng thứ 3 là NGÓN TAY DÀI VÀ NHỎ, Kinh viết: “Đối với chúng sinh không mang lòng làm hại, không có ý tưởng cướp đoạt, hễ thấy cha mẹ, Hòa Thượng, Sư Trưởng và các bậc có đức thì ra xa đón chào, sửa đặt tòa ngồi, cung kính lễ bái, dẹp bỏ lòng kiêu mạn, nhờ thế mà nay được TƯỚNG NGÓN TAY DÀI VÀ NHỎ”. Có đủ ba hạnh kể trên, nên được TUỚNG GÓT CHÂN ĐẦY ĐẶN”. Những tướng còn lại cũng thế. Chỉ là : “hiếu kính cha mẹ, Sư Trưởng và những bậc có đức, giúp người, dẹp bỏ lòng kiêu mạn, không nói lưỡi hai chiều, hòa giải những cuộc tranh chấp, tu sạch ba nghiệp, giúp đỡ người nghèo, bố thí” vv…

Những TƯỚNG đó có được là kết quả của những việc mà con người cư xử với nhau, thì làm sao có thể dùng vàng, bạc để tạc được, và chỉ dùng đó để thờ thì được lợi ích gì? Rồi thì Kinh là những bài giảng và lời của Phật dặn dò những việc phải làm: nào là phải Từ, Bi, Hỉ, Xả, nào là Bát Chánh Đạo. Rồi thì Bát Nhã Tâm Kinh, dạy người tu phải “Hành thâm” bằng cách Quán Sát cái Ngũ Uẩn, để thấy nó chỉ là Không, để bớt đắm nhiễm vào nó, thì sẽ hết Khổ. Nhưng các Đệ tử của Ngài thay vì làm theo đó thì lại mang ra mà tụng, gia thêm chuông, mõ, chập chõa, phèng la… bắt Ngài phải nghe đi nghe lại mỗi ngày mấy lượt, thì liệu có phải là phỉ báng Ngài hay không?

Về hình ảnh Đức Phật ngồi trên Tòa Sen đâu có phải là điều gì quá cao siêu mầu nhiệm, hiển linh, mà chỉ là hình ảnh tượng trưng của một vị nhờ tu sửa Thân, tâm, làm những hạnh lành, nên đạt được kết quả là được Giải Thoát Phiền Não, sống giữa phiền não mà không còn bị phiền não làm ô nhiễm. Cái Giải Thoát phiền não giữa phiền não được ví như Hoa sen, vươn lên từ bùn mà không nhiễm mùi bùn. Cho nên Đạo Phật đã dùng hình ảnh của Đức Phật Ngồi trên đài Sen, tượng trưng cho ý nghĩa đó. Nếu người thật, ngồi trên đài Sen thật thì Hoa Sen nào mà có thể đủ to, đủ sức để chứa một người ngồi lên mà không gãy nát hoặc bẹp dúm? Cho nên nếu con người tạc lấy, rồi nhìn ngắm như một biểu tượng, một tấm gương sáng về sự Giải Thoát để học hỏi, làm theo thì nên, còn để thờ thì coi chừng làm oan cho Phật. Bởi vì Ngài dạy: “Chúng sinh là Phật sẽ thành”, tức là mọi người sẽ làm được như Ngài, đâu có Kinh nào, chỗ nào dạy phải tôn thờ Ngài?

Như vậy, phải chăng nếu suy cho cùng thì ta thấy có rất nhiều điểm trùng hợp trong Giáo lý của hai tôn giáo:

- Nếu Đạo Thiên Chúa cho rằng Thiên Chúa là “Đấng trọn tốt, trọn lành”, là Đàng, là Sự sống, là Sự Thật, thì bên Đạo Phật, Phật là Chân, Thiện, Mỹ.

- Bên Đạo Thiên Chúa nói rằng mọi người đồng là con của Thượng Đế, trong mỗi người đều có hình ảnh Chúa ngự trị trong lòng, thì bên Phật giáo nói rằng “Mỗi chúng sinh đều có Phật Tánh, đều là Phật sẽ thành”, dạy người tu phải hành hạnh Thường Bất Khinh Bồ Tát, vì tất cả mọi người đều là Phật sẽ thành.

- Điều Răn của Đạo Thiên Chúa và Giới của Đạo Phật có nhiều điểm rất giống nhau: Không giết, không tham lam, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối.

- Đạo Thiên Chúa cho rằng “Con người là tro bụi, sẽ trở về với bụi, tro”, thì Đạo Phật cho rằng cái Thân con là Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) hợp thành, hết duyên sẽ trả về cho Tứ Đại.

- Đạo Thiên Chúa nói rằng Chúa “công bình tuyệt đối”, thì Đạo Phật có Luật Nhân Quả không thiên vị.

- Hai tôn giáo đều dạy làm lành lánh dữ và nói về sự thưởng, phạt sau khi chết. Người lành được lên Thiên Đàng hay về Tây Phương Cực Lạc, người ác phải đọa Địa Ngục.

- Khi một người làm ác thì bên Thiên Chúa cho là bị quỷ xúi dục, bên Đạo Phật cho là đã làm theo “Chúng sinh tánh”, hay “Phàm tánh”.

Cái khác nhau giữa hai sự mô tả, thì bên Đạo Thiên Chúa cho Quỷ là một thứ ở bên ngoài con người, nhưng Đạo Phật cho nó chính là tư tưởng của mỗi người, là một loại tư tưởng chưa được cải tà quy chánh.

Nhưng chung quy, Ma Quỷ hay Phàm Tánh đều là những cái xấu, đối đầu với cái Thiện, cái thanh tịnh, trong sáng mà hai tôn giáo đều hướng tín đồ mình tới đó. Rõ ràng hai bên như hai nhóm người leo lên cùng một đỉnh núi, nhưng nhóm leo sườn bên phía Đông, nhóm leo sườn phía Tây, đâu thể nói rằng phía này mới đúng, phía kia là sai, trong khi đích đến là đỉnh Chân, Thiện, Mỹ như nhau?

Con người thì có đủ thứ xu hướng, vì thế, tôn giáo cũng phải đa dạng để thích nghi. Nhưng những tôn giáo chân chính đều dạy tín đồ cải tà, quy chánh, cải ác, hành thiện. Nếu ta đừng nhìn tôn giáo qua hình ảnh của vị sáng lập, mà chỉ nhìn mục đích mà họ hướng con người tới thì sẽ thấy rằng cuộc đời đã quá nhiều buồn đau bởi những điều bất như ý. Nào là được, mất, hơn, thua, ốm đau, những cuộc sinh ly, tử biệt, những làm ăn thất bại làm cho con người luôn mệt mỏi vì đối đầu. Nếu không có những lời đe dọa bị trừng phạt ở một kiếp sau, hẳn là người ác sẽ lộng hành, cuộc đời sẽ hỗn loạn thêm biết bao nhiêu! Và làm gì để cho con người bớt đi cái ác, nếu không nói về sự ban thưởng để khuyến thiện? Một khi con người bỏ đi cái ích kỷ, ác độc thì sẽ sống tốt với nhau để xã hội thêm trật tự, gia đình thêm hạnh phúc. Bởi liệu các vị Giáo Chủ có hài lòng khi thấy tín đồ của mình tay này bỏ hàng núi tiền để xây Nhà Thờ, cất Chùa cho hoành tráng, tạc tượng các Ngài cho uy nghi, lộng lẫy, mà tiền đó chưa hẳn là do kiếm được một cách lương thiện. Trong khi đó, tay kia lại tàn phá thiên nhiên là rào chắn mà các Ngài đã dựng ra để ngăn lũ lụt làm hại các con của Ngài? Chúng ta thấy hàng năm, cứ mùa mưa đến là có nhiều nơi rơi vào tai ách. Người chết, nhà cửa, đồ đạc, gia sản ít ỏi để sống qua ngày cũng bị cuốn theo dòng nước mà lời than khóc chẳng thấu đến trời cao! Kẻ tạo ra tội ác đó chẳng nặng còn hơn phá Chùa sao? Rồi thì khi Bố Thí, nhiều người cũng chọn nơi nào mà đồng tiền được hứa là sẽ nhân lên gấp 100, gấp 1000 lần mà không thấy lời Phật dạy: “Nếu người thí chủ dùng tâm bình đẳng thí cho một người ăn xin rất hèn hạ, xem như tướng phước điền của Như Lai, không phân biệt, lòng đại bi bình đẳng, không cầu quả báo, đó gọi là đầy đủ pháp thí vậy” (Duy Ma Cật tr. 69) Sao không nhìn thấy những người hạ tiện, khốn cùng kia cũng là các con của Chúa, của Phật, nhưng đang còn bị đày đọa có thể vì tiền oan nghiệp chướng nào đó, để giúp họ như gián tiếp giúp các Ngài, và coi việc tàn phá thiên nhiên như phá cảnh quang của nhà các Ngài, bóc lột đồng loại là bóc lột con của các Ngài để dừng tay kịp lúc?

Mệt mỏi với những bon chen quanh năm, điều con người mong ước là được những ngày tháng xả hơi, nghỉ ngơi hoàn toàn, thăm viếng, chúc tụng nhau, cùng thưởng thức những món ngon, cùng vận những bộ cánh đẹp nhất, nhà cửa được trang hoàng lộng lẫy nhất, không còn những đấu đá, đối đầu của ngày thường, mà lòng ai cũng phới phới trong thời tiết hiền hòa, cây cối đâm chồi, nẩy lộc. Những điều đó gom lại làm thành những Ngày Xuân. Và như thế, những gì mà các tôn giáo chân chính mang lại, phải chăng là để Mùa Xuân Còn Mãi Nơi Đời? Bởi nếu cho rằng đây chỉ là CÕI TẠM để chỉ mơ màng một cõi Vĩnh Hằng nào đó, mà quên rằng Cõi Tạm này cũng kéo dài cả 100 năm, mọi người vẫn phải sống ở đó. Sao không tiếp tay xây dựng mà lại thờ ơ hay tìm cách để hủy hoại đi, miễn là có lợi cho mình?

Ai cũng đều biết câu: “Cây xiên bên nào thì ngả bên đó”, để nói về ảnh hưởng về sau của những việc ta làm khi đang sống. Chính những cách sống ngày thường của mỗi người là những viên ngọc quý hay hoa thơm, cỏ đẹp, hoặc là những sỏi đá, gai góc để hình thành Cõi Vĩnh Hằng mà ta sẽ về, vì những việc lành, dữ đều không mất. Khi về trình diện với Thượng Đế, mỗi người đâu có mang theo của cải hay chức vụ, địa vị đã tạo dựng. Chắc chắn Thượng Đế sẽ không có hỏi lúc sống ta học được bao nhiêu bằng cấp? Đi Nhà Thờ bao nhiêu lần? Viếng được bao nhiêu kiểng Chùa? Tụng được bao nhiêu biến kinh? Mà sẽ hỏi về những điều Thiện mà ta đã làm, những gì ta đã đóng góp cho cuộc đời.

Các vị Giáo chủ đã đi xa, nhưng hình ảnh tôn quý, những đức tính cao đẹp, những lời khuyên dạy hữu ích vẫn trường tồn để con người làm mốc mà noi theo. Điều Răn, Giới Luật là những rào cản đạo đức để gìn giữ cho con người không rơi vào ác đạo. Bằng cách nâng con người trở thành Con của các Ngài, để người yêu quý các Ngài sẽ yêu thương nhau. Tình Thương được nhen nhúm trong những cái Tâm con người, sẽ mãi nhân lên, xua tan những đen tối, xấu xa làm vẩn đục cuộc sống, để suốt kiếp sống dù ngắn hay dài của mỗi người sẽ là những Mùa Xuân ấm áp cho cuộc đời. Người Cho sẽ thấy hạnh phúc vì được mang niềm vui của mình san sẻ. Người Nhận thấy đỡ buồn tủi vì không còn đơn độc, muốn phấn đấu vươn lên nhưng truyệt vọng. Chút vốn nhỏ nhoi mà tưởng chừng như vượt quá tầm tay, giờ bàng hoàng mở lòng đón nhận những bàn tay ấm áp đang chìa ra, vực mình lên trong hoàn cảnh bi đát nhất, để thêm tin tưởng rằng Thượng Đế không bỏ rơi họ! Những con người bình thường phút chốc như lung linh ánh hào quang, hóa thân thành Thiên Thần, Bồ Tát đang tầm thinh cứu khổ cứu nạn. Lời cầu xin như đã được Thượng Đế nghe thấu. Thay cho những giọt nước mắt tủi hờn là những dòng lệ xúc động nghẹn ngào vì được cảm thông. Hạnh phúc hiển nhiên mà tưởng chừng như trong mơ! Số vốn ít ỏi mà trở thành liều thuốc hồi sinh cho cuộc đời còn lại của cả một gia đình! Đệ tử của Lưu Linh chỉ cần bớt đi một đêm nhậu. Người giàu có bớt đi một chút hưởng thụ xa hoa, là giúp được bao nhiêu hoàn cảnh đáng thương như thế!

Nếu thật sự Thượng Đế như mô tả, là: “Đấng thông suốt, thấy hết mọi việc” thì hẳn Ngài cũng sẽ hạnh phúc biết bao khi thấy các con mình biết yêu thương, đùm bọc với nhau. Đó là sự thực hành mà Ngài dành cho con người đóng góp phần của mình để nói lên lòng yêu kính Ngài, bởi Ngài đã quá vinh quang, cần gì ta phải ca tụng?

Chưa hết, chữ nghĩa trong Kinh sách đôi khi mang tính ẩn dụ: Nếu “Phật Tánh”, hay “Chúa” vẫn ngự trong mỗi con người chúng ta, thì phải chăng, khi “Phật diệt độ” hay “Chúa chết” cũng mang ý nghĩa là người nào đó đã mất đi ánh sáng hay sự thánh thiện, thanh tịnh của Thượng Đế, của Phật trong họ, để cho bóng tối của đố kỵ, độc ác ngự trị? Và sự Phục Sinh của Chúa, Phật trở lại nơi đời trong mỗi người, có thể là lúc họ dũng cảm xua đi bóng tối, để sự thánh thiện, thanh tịnh lại quay về nơi cái tâm của họ chăng? Và “nhà tạm” mà Chúa ngự trong đó, chắc gì là trong ngăn tủ khóa kín trên bàn thờ? mà có thể là ngay tại trong lòng của mỗi người chúng ta. Vậy mà biết bao lần chúng ta đã lấy lửa hận thù, đố kỵ, để thiêu đốt Ngài!

Mỗi năm một lần, người Phật Tử tưng bừng mừng Lễ Phật Đản với hoa đăng, cờ xí rợp trời. Người Thiên Chúa giáo háo hức dựng cảnh hang đá, máng lừa, mục đồng, để chờ đợi và đón mừng Chúa Giáng Sinh. Trong khi đó, quanh năm, biết bao lần Chúa, Phật đã phải tức tưởi dọn ra khỏi tâm hồn ta để ta trân trọng thỉnh ma quỷ vào ngự trị trong đó! Sao không giữ lòng mình cho thanh sạch để Chúa, Phật sẽ ngự mãi, để “nên một” với các Ngài? Câu “Phật trong nhà không thờ, đi thờ Thích Ca ngoài ngõ” để nhắc những người Phật Tử là mỗi người có cha, mẹ là Phật Thích Ca, Di Lạc đang ở trong nhà, cần nên phụng dưỡng, kính trọng. Phước đức đó còn lớn hơn là cúng chùa, cúng Phật. Nhưng mỉa mai thay! Nhiều người đối xử tệ bạc với cha mẹ, lại sẵn sàng mang tiền bạc, hương hoa đến Chùa để cúng cho hình tượng của Ngài! Câu “Âm phủ dương gian đồng nhất lý” nói về Địa Ngục, Thiên Đàng đã hình thành ngay khi mỗi người còn sống, đâu phải chờ lúc chết mới hiện ra?

Nói về Luật Nhân Quả và sự Công Bình của Thiên Chúa thì chúng ta thấy rằng nếu ai tin rằng những người làm ác cả đời, khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, về Nước Chúa, chỉ cần thỉnh Thầy tụng Kinh Cầu Siêu, hay nhờ Linh Mục dâng lễ, thì rõ ràng đã hiểu sai hoàn toàn. Bởi đã nói “Công Bình Vô Cùng” thì phải hiểu rằng không có việc miễn giảm. Nợ là phải trả. Tội là phải đền. Ngôi Trời, Ngai Vàng mà các Ngài còn bỏ thì sá gì vài nải chuối, chút hương hoa lại phải thay đổi luật lệ của mình đã đặt ra sao? Có thay đổi được chăng là chính bản thân người làm tội phải sám hối và sửa đổi ngay khi còn sống, đừng cố tình vi phạm rồi nghĩ rằng đã có người bảo kê sau khi chết, Thượng Đế nhân từ vô cùng sẽ nhậm lời cầu xin để tha thứ cho! Không thể nào có việc như vậy. Bởi nếu như thế không khác nào khuyến khích người đời làm loạn, tha hồ cướp bóc, lừa đảo, hại người, cuối cùng rồi thì cũng về Thiên Đàng. Nếu thế thì Thượng Đế sẽ trả lời thế nào với những người một đời sống lương thiện? Và có lẽ luật Công Bình, Nhân Quả cần phải sửa đổi lại, vì chẳng còn ai tin vào đó nữa! Đôi khi tín đồ hai bên thường hiểu lầm, tưởng rằng một khi đã “Rửa Tội” hay “Quy Y Tam Bảo” là cầm chắc chiếc vé lên Thiên Đàng hay về Tây Phương Cực Lạc, rồi sống buông thả, chờ mong chờ vào sự cứu độ hay cứu rỗi của các Giáo Chủ mà quên rằng các Ngài chỉ cứu rỗi ta bằng cách đưa ra Giáo Pháp để ta làm theo, không phải là để chúng ta tôn thờ, ca tụng các Ngài rồi đương nhiên các Ngài sẽ đưa về nước của mình! Bởi nếu dễ dàng như thế thì các Ngài còn đặt ra Điều Răn hay Giới làm gì? Chỉ cần bảo thờ phụng các Ngài thôi là đủ rồi!

Ngày ngày đi ngang qua Chùa hay Nhà Thờ ta đều nghe vọng ra những lời cầu xin, mà không biết rằng để được nhậm lời hẳn phải có thành ý gì đó để đáp ứng. Muốn Chúa “nới tay”, mà ta đã ngừng tay móc túi, bóp cổ đồng loại bằng hàng gian, hàng giả, lường công, tráo đấu chưa? Cầu Phật Độ cho gia đình ta đừng gặp vận rủi, con cái ngoan, giỏi, được thăng quan, tiến chức mà tâm ta không chịu rời việc ác, cứ tàn phá thiên nhiên, rút ruột, xén bớt công trình! Có bao giờ ta cầu xin cho người nghèo bớt Khổ hay chỉ xin cho mình? Nhà đã có thì xin biệt thự, xe hơi! Ghế đã cao còn muốn ghế cao hơn! Chúa, Phật sẽ cho bao nhiêu ta mới vừa lòng? Cũng đừng nghĩ rằng chuyện “Giu-đa bán Chúa” chỉ có trong Phúc Âm. Một đời chúng ta bán Chúa biết bao lần bằng cách sống bất nhân bất nghĩa để người ngoài nhìn vào đánh giá tôn giáo của mình đang theo! Những “con trùng trong thân sư tử, ăn thịt sư tử” cũng chẳng phải chỉ ở trong kinh sách, mà chính là những Phật Tử với lối sống đạo đức giả, chỉ biết đi Chùa, tụng Kinh mà tâm địa xấu xa, dối trên, lừa dưới, hay những kẻ khoác áo tu hành nhưng chẳng phải vì để cống hiến cuộc đời phục vụ đạo pháp, mà để hưởng dụng của thường trụ, khỏi phải vất vả bon chen kiếm sống. Bởi đâu có thật tâm tu hành, nên đạo chẳng học, đức chẳng tu, lời Phật dạy trong Kinh chẳng chịu đọc kỹ, chỉ “Y Kinh giải nghĩa”, truyền bá mê tín, dị đoan, chồng thêm mê cho người khác! Cho nên, chỉ cần chúng ta sống đúng theo lời Chúa: Kính Chúa, Yêu người, hoặc lời Phật: Từ, Bi, Hỉ, Xả. Mọi người sẽ tùy theo nhiệm vụ, khả năng của mình mà đóng góp cho xã hội và luôn tôn trọng, yêu thương và giúp đỡ nhau, thì trần gian sẽ bớt đi thảm cảnh rất nhiều. Tâm bình, thế giới bình. Nếu mọi người cùng ý thức cõi trần này là cõi tạm, vật chất là phù du, việc lành dữ không mất, để không còn tranh giành, cao thấp, hơn thua, đố kỵ với nhau, và cùng sống an lành cho đến khi hết kiếp, thì ngày nào chẳng là ngày Xuân, đâu phải mỗi năm chỉ diễn ra vỏn vẹn có mấy ngày? Cảnh sống như thế phải chăng là mơ ước của các vị Giáo Chủ khi xuống trần, mà chính Chúa cũng đã phải chịu đổ máu mình ra để giáo hóa chúng ta? Có vậy mới xứng đáng mang danh là Đệ Tử của các Ngài vậy.

Tâm-Nguyện

(tháng 12/2011)

NHHOA ĐÀO – HOA MAI

Trước khi bước vào con đường sáng tác âm nhạc, nhạc sĩ Đoàn Chuẩn từng là nghệ sĩ nổi tiếng biểu diễn đàn ghi-ta Hạ–uy-di (guitare hawaienne). Có lẽ tính uyển chuyển, lả lướt của loại nhạc cụ này đã ảnh hưởng không ít đến âm hình tiết tấu và âm hình giai điệu trong các ca khúc nổi tiếng của Đoàn Chuẩn như: Gửi gió cho mây ngàn bay, Tình nghệ sĩ, Thu quyến rũ…

Mỗi lần mùa xuân tới, người mộ điệu thường nhắc nhở tới bài “Gửi người Em gái” – đây là ca khúc duy nhất Đoàn Chuẩn nói về mùa xuân, trong khi các ca khúc khác thường nhắc tới mùa thu:

- Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng,

- Rừng Đào phong kín cánh mong manh hé hoa lòng…

HOA ĐÀO

Mùa xuân đến mang theo những cành Hoa Đào tươi thắm tô điểm cho ngày Tết ở Hà Nội. Cây Đào chỉ trồng được ở miền Bắc (từ Hà Tĩnh trở ra), là loại hoa nở vào mùa xuân, dịp Tết Nguyên Đán. Từ lâu, người Việt Nam thích chơi hoa Đào trong dịp Tết vì hoa Đào màu đỏ sẽ mang lại sự may mắn trong năm.

Đào có 4 giống:

- Đào bích: có màu hồng thẫm, sai hoa, là một loài hoa đào trồng để lấy hoa phục vụ trong những ngày Tết, ngày xuân,

- Đào phai: hoa màu hồng nhạt, cũng sai hoa và thường được trồng để lấy quả,

- Đào bạch: ít hoa hơn, có màu trắng, tương đối khó trồng,

- Đào thất thốn: cây thấp nhỏ, hoa nhỏ và nhiều màu, màu đỏ thẫm thường được trồng vào chậu uốn thành các dạng thế.

Đã từ lâu, cứ vào dịp năm mới, cành Đào là một th ứ không thể thiếu đối với nhiều gia đình ở miền Bắc để đón xuân. Ngày nay hoa Đào Việt Nam cũng đã có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Ở Trung Hoa, thi sĩ Thôi Hộ có bài thơ “Đề tích sở kiến xứ” (Đề nơi đã gặp) viết về hoa Đào rất thú vị như sau:

Khứ niên kim nhật thử mơn trung

Nhân diện Đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

Dịch nghĩa:

Hôm nay năm ngoái cửa này

Hoa Đào tương chiếu má ai ửng hồng

Giờ người biết chốn nào mong

Hoa Đào vẫn với gió đông mỉm cười.

(Mạnh Trường dịch)

Thi sĩ Nguyễn Du cũng dựa vào Bài thơ trên để viết trong Truyện Kiều:

Trước sau nào thấy bóng người

Hoa Đào năm ngoái còn cười gió đông.

- Hà Nội chờ đón Tết, hoa chen người đi, liễu rủ mà chi!

- Đêm tân xuân Hồ Gươm như say mê,

Không khí đón Tết tưng bừng nhộn nhịp mọi nơi, khắp 36 phố cổ và các đường phố mới khác đều có hoa Đào vui mừng hớn hở, nở tung để giúp mọi người quên đi các điều buồn bã, bất hạnh trong suốt một năm qua. Hồ Hoàn Kiếm là “lẵng hoa của Thủ đô” được giăng với nhiều đèn trang trí sặc sỡ, nhấp nháy, nhất là Tháp Rùa cổ kính xa xa, trông thật như cảnh Thiên Thai hiện ra trước mắt mọi người, say mê, cùng chào đón Chúa Xuân sắp đến trên đất Hà Thành.

- Chuông reo ngân, Ngọc Sơn sao uy nghi, Ngàn phía đến lễ Đền, chạnh lòng tôi nhớ đến người em…

Sắp đến Giao Thừa, tiễn năm cũ đón năm mới, nhiều người Hà Nội có thói quen đi lễ và hái lộc ở Đền Ngọc Sơn – hòn đảo ngọc nằm giữa Hồ Hoàn Kiếm nên th ơ . Mọi người phải bước qua Cầu Thê Húc - cây cầu của ánh sáng ban mai - màu đỏ thắm, nổi bật giữa mặt nước hồ xanh, cây cối xanh, như nối đất với trời, cho Rùa thiêng mỉm cười, quên đi mọi nỗi niềm cay đắng, giữa nước hồ ô nhiễm, trong không khí bụi khói của Hà Thành náo nhiệt xe cộ, trên một địa cầu đang nóng lên!

- Tôi có ng ười em gái, tuổi chớm dâng hương, mắt nồng rộn ý yêu thương

- Đôi mắt em nói nhiều, tha thiết như giáng Kiều, ôi tình yêu…

Tác giả có một người em gái nhỏ, có giáng người đẹp như nàng Thúy Kiều – nhân vật chính trong cuốn “Đoạn trường Tân thanh” – mà thi hào Nguyễn Du đã gửi gấm tâm sự ‘trung thần bất sự nhị quân’ (ông đã làm quan triều vua Lê, sau đó bấm bụng làm quan với triều Nguyễn) diễn tả trong nhiều câu thơ:

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Tài với tình tự nó có cái giá trị, nhưng nếu không có cái tâm để làm chỗ nương tựa, thì tài với tình thường hay làm cho ta xiêu đổ… Cho nên, Nguyễn Du mới kết thúc Truyện Kiều bằng hai câu thơ:

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.

- Nhưng một sớm mùa thu, khép giữa trời tím ngắt, nàng đi gót hài xanh

- Nàng đi trong dạ sao đành, đường xưa lối cũ, ân tình nghĩa xưa…

Nước ta, theo Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam, sông Bến Hải và vĩ tuyến 17 được chọn làm giới tuyến quân sự tạm thời, nên lúc đó có cuộc di cư của hơn một triệu đồng bào từ miền Bắc vào miền Nam – do Pháp tạm chiếm – để chờ đợi thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử trên cả nước…

- Rồi ngày thống nhất đến rất nhanh khôn ai ngừng

- Cầu chia giới tuyến đến mai đây san đất bằng

- Nụ cười trong gió sớm, anh đến chờ em, giữa Cầu Hiền Lương…

Sông Bến Hải thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị (gần sông Gianh, chứng tích của thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài gần 2 thế kỷ trước đây) bắt nguồn từ dãy Trường Sơn đổ nước ra Biển Đông ở Cửa Tùng, chiều dài khoảng 100km. Lòng sông nơi rộng nhất khoảng 200m, tại vị trí Cầu Hiền Lương rộng 170m. Vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước lấy sông Bến Hải làm giới tuyến quân sự và Cầu Hiền Lương bắc qua sông cũng chia làm hai nửa. Cầu Hiền Lương do lính Pháp xây dựng năm 1950 (trước đấy hai bờ qua lại bằng thuyền). Cầu có 7 nhịp, dài 178m, được lát bằng 894 miếng ván. Theo Hiệp định Geneve, mỗi bên có chủ quyền 89m cầu, và sau hai năm, tổng tuyển cử sẽ thống nhất đất nước.

Nhưng ranh giới trên Cầu Hiền Lương và sự chia cắt đôi bờ sông Bến Hải đã kéo dài hơn 20 năm. Cho đến đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, giới tuyến này chính thức bị xóa, nơi đây trở thành một chứng tích lịch sử về công cuộc kháng chiến hào hùng nhưng đầy gian khó của dân tộc ta.

Phụ Bản I

- Xuân năm nay, đường đêm Ca-ti-na Hoa Mai rơi, rủ nhau nơi phương xa…

Đất nước gom về một mối, đường đêm Ca-ti-na (tên cũ trước năm 1956) của thành phố Sài Gòn rộn ràng niềm vui xum họp hai miền Bắc Nam với nhiều hoa Mai đón chào Tết thống nhất đầu tiên của quê hương.

Catina là dạng chữ viết từ: Katherine (tiếng Hy lạp) có nghĩa ‘tinh khiết’, còn có dạng Carila, Catrina, Catania, Catalina, thường dùng cho phụ nữ. Catina cũng là tên một chiến hạm của Pháp thời vua Napoleon I, đã được đặt tên cho con đường đẹp nhất của Saigon, với Nhà thờ Đức Bà uy nghi, tráng lệ ở một đầu, và sông Saigon nên thơ, lãng mạn nằm ở một đầu kia của đường Catina.

Đến thời kỳ từ 1956-1975 con đường mang tên đường Tự Do, và sau 1975, Saigon được đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh, và đường Tự Do cũng đổi là đường “Đồng Khởi” – tên một phong trào nổi dậy ở tỉnh Bến Tre.

HOA MAI VÀNG

Hoa Mai vàng thuộc họ hoàng mai, vốn là một loại cây rừng, có thân, cành mềm mại hơn cành Đào. Hoa mọc thành chùm và có cuống dài treo lơ lửng bên cành, ở cuống lá và hơi thưa. Hoa có màu vàng, hương thơm e ấp, kín đáo, thường có năm cánh, nhưng cũng có loại có đến 8-9 cánh, loại này chỉ mọc trên núi rừng Trường Sơn. Có nhiều lọai mai:

- Mai vàng có giống sau khi cho hoa, còn kết quả màu đỏ nhạt bóng như ngọc

- Mai Tứ quý là mai nở bốn mùa,

- Nhị độ Mai là mai nở hai lần trong năm (khác Mai thường, chỉ nở hoa một lần).

- Mai Chiếu thủy, cây lá nhỏ, hoa mọc thành chùm, màu trắng, nhỏ và thơm, thường ghép vào núi đá cảnh ‘non bộ’, cây ra hoa vào mùa xuân.

Hoa Mai vàng chỉ có ở các tỉnh từ trung Trung Bộ trở vào Nam. Văn nhân ví Mai là tiên, vì có vẻ thanh cao, không sợ tuyết sương và có sắc đẹp, hương thơm. Trong Chinh Phụ Ngâm, lời hẹn của người ra đi chinh chiến có hoa Mai làm chứng về thời điểm:

Thuở đăng đồ Mai chưa dạn gió

Hỏi ngày về chỉ độ Đào bông.

Nguyễn Du đã dùng hoa Mai để tả sắc đẹp của Thúy Kiều:

Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân

Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Cốt cách ở đây chính là để chỉ vóc dáng mảnh dẻ, thanh nhã như cành Mai..

- Trời thắm gió trăng hiền, Hà Nội thêm bóng dáng nàng tiên.

Nam Bắc sum họp, đất nước vui ca, Hà Thành đón tiếp nhiều người ra Bắc tái ngộ với thân nhân. Chúng ta cùng hát vang ca khúc “Nhớ thành phố hoa Đào” của Phan Long:

Ở thành phố hoa Mai nhớ thành phố hoa Đào

Giữa bến Nhà Rồng nhớ sông Hồng đỏ phù sa

Ở thành phố hoa Mai ta vẫn hướng ra Hà Nội

Nhớ tiếng dương cầm thoảng đêm gió bấc

Nhớ Tháp Rùa nghìn năm vẫn trẻ cùng tuổi xanh!

(Nguồn: Internet và Truyện Kiều của Bùi Kỷ)

PHẠM VŨ

GÓP PHẦN NÂNG CAO

CHẤT LƯỢNG SỐNG CỦA CON NGƯỜI

Nhà thơ TRẦN NHUẬN MINH

(Tham luận sẽ đọc tại Liên hoan thơ Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ nhất, ngày 10 – 13 tháng Giêng Nhâm Thìn, tại TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, trong Ngày thơ VN lần thứ 10, hướng tới Ngày thơ Quảng Ninh lần thứ 25)

Thật là có ý nghĩa, khi mùa xuân này, chúng ta gặp nhau tại đây, bên bờ Vịnh Hạ Long, một kỳ quan thiên nhiên thế giới, hai lần được UNESCO công nhận là Di sản thế giới về cảnh quan thẩm mỹ và về địa chất địa mạo. Điều đó, tất cả chúng ta đều biết. Nhưng tôi nghĩ, có lẽ không phải ai cũng biết, Vịnh Hạ Long còn là một kho tàng thi ca đã có khoảng 750 năm tuổi, bắt đầu từ một đêm trăng thanh, vị vua anh hùng, sau khi mất, được quần thần phong THÁNH, là Trần Thánh Tông (1240 – 1290), đã ngủ trên thuyền và cảnh đẹp kỳ diệu của Vịnh Hạ Long đã đi vào một bài thơ tứ tuyệt bất hủ của ông:

Triêu du phù vân kiệu

Mộ túc minh nguyệt loan

Hốt nhiên đắc giai thú

Vạn tượng sinh hào đoan

Phan Võ dịch:

Sớm chơi núi mây nổi

Tối ngủ bến trăng thanh

Bỗng nhiên được thú lạ

Ngọn bút nảy muôn hình

Từ đó, các nhà thơ nổi tiếng trong nước và nhiều nhà thơ lớn khác, đến từ các châu lục, trong đó có cả các thi hào, với ngôn ngữ khác nhau, bằng cái tài và cái tâm của mình, đã sáng tạo nhỉều thi phẩm xuất sắc, lắng nghe được tiếng nói huyền vi của vũ trụ, từ lúc những giọt nước và những thớ đá đầu tiên được sinh thành, để hòa hợp con người và thiên nhiên, không chỉ làm vẻ vang cho vùng đất này mà còn làm giầu thêm những giá trị tinh thần cho một quốc gia và cho cả nhân loại. Vì vậy, tôi tin là các bạn sẽ không ngạc nhiên khi biết núi Bài Thơ, xưa tên là núi Truyền Đăng, nay ở mép nước Vịnh Hạ Long, người lính biên phòng nhiều triều đại đứng gác trên ngọn núi này, đã đốt lửa hiệu báo về kinh thành Thăng Long, mỗi khi vùng biển vùng trời Đông Bắc có bóng giặc xâm lược. Tháng 3 năm 1468, vị hoàng đế anh minh nhất của nhà Lê là Lê Thánh Tông, sau khi duyệt võ trên sông Bạch Đằng, đã buộc thuyền trong bóng núi và cho khắc lên vách đá bài thơ tràn đầy khát vọng về sự cường thịnh của đất nước Thiên Nam vạn cổ hà sơn tại (Trời Nam muôn thuở non sông vững)… Sau đó, chúa Trịnh Cương, văn võ toàn tài, đã có thơ họa khắc vào vách núi, và nhiều thi nhân đời sau làm theo, biến quả núi này thành một quả núi thơ, một kỳ đài thơ hùng vĩ và xanh thẳm giữa trời biển mênh mang của Di sản thế giới. Thơ Trịnh Cương có câu:

Tái tuân nhất dự phu đài duyệt

Quần hổ cam ca hải yến niên

(Cuộc chơi ai cũng vui cười

Các quan ca tụng biển trời lặng trong)…

Và như thế, chủ đề hoà bình, ổn định, hữu nghị và phát triển giữa các cộng đồng dân tộc Châu Á – Thái Bình Dương mà chúng ta tâm niệm ngày hôm nay, trong Liên hoan thơ này, các thi nhân Việt Nam đã chạm tới từ 700 năm trước. Chúng ta đã kế tục một cách xứng đáng và biến những tâm nguyện ấy thành hiện thực với sự có mặt của hàng trăm nhà thơ của châu lục với niềm tin yêu mới vào thời đại chúng ta đang sống. Vâng, tôi nói các nhà thơ, và không chỉ các nhà thơ, mà còn cả các nghệ sĩ và nhân dân đã hát vang thơ ở vùng trời biển Di sản thế giới này, là nói theo nghĩa đen. Bởi từ tháng 3 năm 1988, nhân 520 năm, ngày bài thơ dựng nước của vua Lê Thánh Tông khắc trên vách núi Truyền Đăng, mà tôi đã nói ở trên, các nhà lãnh đạo của vùng đất này đã cho phép tổ chức Ngày Thơ Quảng Ninh hằng năm vào ngày 29/3, với sự tham gia, cùng với đông đảo công chúng, của nhiều nhà thơ, đến từ thủ đô Hà Nội và nhiều tỉnh thành khác trong cả nước. Đó là ngày Lễ hội thơ ca đầu tiên ở một tỉnh, với ý nghĩa xã hội toàn vẹn và nội dung hoạt động phong phú của nó, để 15 năm sau, Hội Nhà Văn Việt Nam kế thừa và phát triển, đã “nhân rộng ra cả nước thành Ngày Thơ Việt Nam”, như nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam đã từng nói. Năm nay, Quảng Ninh đăng cai tổ chức Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 10 và sau đó tổ chức Ngày Thơ Quảng Ninh lần thứ 25 vào ngày 29/3, trong tinh thần đó, làm cho thơ ca thành một vùng ảnh hưởng lành mạnh và cao cả vào đời sống tinh thần của nhân dân trong dịp mùa xuân về. Vùng đất rất giầu truyền thống văn hóa này đã tôn vinh thơ và đến lượt mình, các nhà thơ đã làm vẻ vang thêm cho nó. Tôi cầm bút ở đây đã tròn 50 năm và nhận ra sâu sắc rằng, thơ không chỉ ca ngợi đất nước mà cao cả hơn, còn thăng hoa và bảo vệ mọi giá trị của con người, trước những biến động của thời cuộc.

Hàng trăm năm nay, người ta bàn về thơ đã nhiều, có nhiều tập sách đã thành kinh điển, trong đó có những đúc kết của những tài năng rất lớn, trí tuệ rất cao sâu của cả nhân loại mà phải vài thế kỷ mới có một người… Cứ tưởng đến thế là xong, ai ngờ không phải. Tất cả mới bắt đầu. Và người ta lại phải bàn tiếp. Thơ vẫn là một cái gì bí ẩn, thăm thẳm xanh trước mặt như biển cả, tầng tầng lớp lớp mênh mông như rừng đại ngàn. Không có chỗ tận cùng. Và đấy cũng là một trong những lý do để chúng ta có mặt ở đây. Không ít trường hợp, những bài thơ hay nhất thường được ra đời theo linh tính chứ không phải theo lý luận và chỉ khi mình “vô ngã” thì nó mới thanh thoát, tự nhiên. Cũng như tiếng rền của núi sông, nếp vằn của hổ báo, nào biết ánh sáng bay trên đầu nó là ánh sáng nào. Có nhà thơ vốn liếng trong trường ốc chả được bao nhiêu, nhưng bằng sự thẩm thấu tự nhiên các tầng văn hóa của dân tộc và của nhân loại, tác phẩm của họ vẫn là sự bừng sáng và hào hoa, về tài năng trí tuệ của nhiều thế hệ mà họ bỗng nhiên thành người đại diện. Đôi khi h ọ đi trong cái mù mờ đầy cảm hứng của tâm hồn, của chính họ, có thể do trời ngẫu nhiên mà ban tặng cho họ, với những bước chân xiêu vẹo, nhưng đã vẽ lên những giá trị th ẩ m m ỹ huy hoàng, mà trước đó chưa từng có, làm giầu sang không biết đến bao nhiêu phẩm giá văn hóa cho một thời đại mà họ đã sống. Vì vậy, càng học thơ, làm thơ, càng thấy thơ có một cái gì đó rất khó nắm bắt, rất khó chinh phục. Hình như thơ phát triển được, để mỗi người mỗi khác, ngay trong một người cũng mỗi giai đoạn mỗi khác, mỗi quốc gia mỗi khác, và mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia lại khác nữa, là nhờ ở điểm “đặc thù” này. Vì thế mà những đỉnh cao mới, mới có cơ hội xuất hiện và những lý luận về thơ mới căn cứ vào đó mà luôn luôn được bổ sung… Cũng vì thế, thơ mới cần đến mọi cố gắng của mỗi chúng ta, chờ đợi mọi sáng tạo tiếp theo của mỗi chúng ta. Vẫn luôn luôn giành chỗ cho mỗi chúng ta hiện diện như những chủ nhân mới đầy uy lực.

Bất cứ cái gì ra đời, đều có cái lý do chính đáng của nó. Nh ững tìm tòi không ngừng của các nhà thơ hiện đại hay hậu hiện đại, cùng nhiều xu hướng nghệ thuật khác nhau, là nhằm khai thác và thăng hoa cái phần còn lại, vẫn tiềm ẩn và thao thức trong sáng tạo những giá trị tinh thần mới mẻ của con người. Và đi theo cái này, ủng hộ cái này, không bao giờ nên bài xích hoặc ruồng bỏ cái kia, như tôn giáo và màu da, chúng cần phải được cùng tồn tại, tôn trọng và bình đẳng trong mọi giá trị. Tôi nghĩ thế và không hề lạnh nhạt hay thành kiến với các sáng tác theo các khuynh hướng nghệ thuật khác tôi, thậm chí trái ngược với tôi. Bởi thơ là của muôn nhà, đến từ muôn nẻo đường khác nhau, không chỉ của hiện thực cuộc sống mà còn của cả cõi tâm linh xa xăm… Thơ, cũng vì thế, đến từ nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau, với nhiều ngôn ngữ, phong tục tập quán, thẩm mỹ và xu hướng nghệ thuật khác nhau, cùng làm giầu sang thêm cho đời sống, góp phần nâng cao chất lượng sống của con người. Dù đến từ bất cứ ngọn nguồn sáng tạo nào, thơ vẫn phải đạt được hai yêu cầu. Một, phải làm cho con người sống với con người tốt hơn, dù con người đó ở bất cứ dân tộc nào, quốc gia nào và như thế, cái thước để đo nó vẫn là giá trị nhân văn. Hai, làm giầu thêm cho văn hóa, chứ không chống lại văn hóa. Tràn đầy trong thơ vẫn phải là khát vọng hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc, các quốc gia. Tôi có câu thơ:

Ta mong mọi quốc gia bước lên những đỉnh cao mới

Bằng những bậc thang không có máu người,

là trong tinh thần ấy. Và như thế, vẻ đẹp thi ca của mỗi nhà thơ chúng ta, không chỉ hiện ra qua các hình tượng nghệ thuật và nhịp điệu, mà trước hết ở tư tưởng, với sự điềm đạm, hồn nhiên, thậm chí hiền minh, thấm thía, qua từng câu thơ hoặc qua toàn bộ tác phẩm.

Thành tựu đã đạt được của thơ ca mỗi nước, qua hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm, tạo thành những đặc trưng của thơ ca phương Đông, đã và đang được tìm hiểu, khám phá, như những giá trị bất tử của loài người. Đó là cơ sở để mọi cách tân của chúng ta, nối liền được quá khứ với tương lai, trong sự phát triển tất yếu của nó, thể hiện sinh động và phong phú số phận và khát vọng của nhân dân, trong một xã hội còn không ít bất trắc, ngày càng đòi hỏi được dân chủ và văn minh hơn. Tôi nghĩ đó là tiếng nói chung của mỗi chúng ta ngày hôm nay. Phấn đấu cho những ý tưởng nhân văn cao cả đó, chúng ta có quyền hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, và tác phẩm của chúng ta, cũng vì thế, mà hy vọng sẽ có mặt ở tương lai, vì phẩm giá của con người, như một bằng chứng về một thời đại mà chúng ta đã sống.

Chuyện Phong Thủy ở Singapore

Nếu ai có đến Singapore (thành phố sư tử - lấy nghĩa theo chữ Phạn: Singa = sư tử và pura = thành phố) đều nghe nói và kể nhiều câu chuyện về phong thủy. Đó là “phong thủy” đặc trưng theo tập quán, truyền thống hay văn hóa cổ đại của người Hoa. Bởi vì đa số người dân Singapore là người Hoa kiều.

1-Công viên Sư tử biển (Merlion park).

Tọa lạc bên bờ sông Singapore thuộc khu thương mại nằm ở về phía nam đất nước – thành phố này có tượng con sư tử cái (đầu sư tử, mình con cá) to lớn được xây dựng theo hướng nhìn ra dòng sông rộng lớn, miệng đang phun nước xuống sông. Gần đó, còn có sư tử biển con đứng quay lưng vào hướng sư tử mẹ theo ý nghĩa mẹ - con đoàn kết, thương yêu và nương tựa vào nhau. Đó còn là hình tượng của tình thương yêu, đoàn kết và đùm bọc lẫn nhau của người dân Singapore.

Trước đây, chính quyền xứ sở - thành phố này xây dựng tượng sư tử biển chủ yếu là coi vật này là biểu tượng mà thôi nhưng sau khi tượng này bị sét đánh tét đầu trong cơn giông bão trùng hợp với tình hình kinh tế của Singapore suy sụp. Chính quyền cho rằng kinh tế của Singapore có liên quan tới tình trạng sức khỏe của tượng “biểu tượng” này nên nhanh chóng mời thầy địa lý (phong thủy) danh tiếng bên Trung Quốc sang nghiên cứu và phục hồi lại tượng sư tử biển theo truyền thống phong thủy trong thời gian ngắn nhất. Kỳ lạ thay, sau khi tượng này được khôi phục theo phong cách mới mang đậm nét phong thủy thì đất nước Singapre bỗng chuyển mình trỗi dậy một cách phi thường và kỳ lạ.

Ở đảo Sentosa nằm sát bờ biển cực nam của Singapore là khu vui chơi kiểu Las Vegas ở Mỹ, trong đó có sòng bạc gần gũi với kiểu dáng Las Vegas – thành phố hiện đại của Singapore nằm trên đồi cao 131m với tòa tháp Tiger Sky Tower. Đứng trên đầu tháp du khách nhìn thấy toàn cảnh thành phố Singapore và một phần đất nước Malaysia và Indonesia ở phía Bắc và phía Nam của đất nước này. Trên đảo còn có tượng Sư tử cha với dáng điệu oai phong lẫm liệt ở trên đồi cao nhìn ra biển Nam.

Từ đó, chính quyền sở tại bắt đầu đưa ra nhiều chương trình phát triển đất nước theo hướng có nội dung và tư tưởng phong thủy. Chính quyền lẫn nhân dân Singapore đều nói tới và đề cao tư tưởng “văn hóa phong thủy”, trong đó những con số tượng trưng cho “phát tài, phát lộc” đều được sử dụng để làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước. Nơi đây còn có Bảo tàng sáp, nơi trưng bày hình ảnh và di sản lịch sử nhằm tái hiện đất nước Singapore.

2-Trung tâm thương mại Suntec City:

Xung quanh mỗi công trình, mỗi sự vật ở Singapore là một câu chuyện phong thủy khá lý thú. Nổi tiếng nhất hẳn là Trung tâm thương mại Suntec City. Theo tài liệu của Thư viện quốc gia Singapore, Suntec xuất phát từ chữ tiếng Hoa xin da, có nghĩa là “thành tựu mới”, được xây dựng từ năm 1989, khánh thành tháng 8 / 1995. Suntec City là một khối bao gồm 4 tòa nhà 45 tầng và một tòa 18 tầng bao quanh Đài nước Thịnh Vượng, nối tiếp bởi một dãy nhà thấp. Nhìn từ trên cao, Suntec City giống như một bàn tay trái khum khum, giữ trong lòng một chiếc nhẫn vàng cực lớn, còn dãy nhà thấp là cổ tay.

Năm tòa nhà này được mang số từ 1 tới 5 và mỗi tòa nhà là một ngân hàng quốc gia Singapore, tượng trưng cho sự thịnh vượng hay kho báu của đất nước.

3- Đài nước Thịnh Vượng :

Bàn tay trái, theo quan niệm của người Hoa, là bàn tay nắm quyền lực, cả tổng thể Suntec City thể hiện khao khát “một tay nắm giữ của cải toàn thế giới”. Đài nước Thịnh Vượng được làm bằng đồng với niềm tin rằng sự kết hợp kim-thủy (đặc biệt là kim loại đồng) là biểu tượng cho sự thành công. Đài nước hình tròn đường kính 21m, có 4 chân cao 13,8m biểu tượng cho 4 sắc tộc và tôn giáo ở đảo quốc sư tử. Điều đặc biệt nhất ở đây là thay vì phun nước lên cao, đài nước Suntec phun nước xuống thấp (tuôn trào tự tại) và tụ vào trong với ý nghĩa của cải tụ hội về nơi này.

Vòng quanh chân đế đài nước nằm trên mặt đất có dựng 12 bàn đá tượng trưng cho 12 con giáp trong năm và mỗi con giáp đều khắc hình đề tên con giáp có ghi vài dòng chữ nói về tính cách, ý nghĩa và nội dung con giáp. Khách du lịch đến xứ sư tử thường được khuyên đến đài nước này vào những giờ khắc mầu nhiệm (mở cửa đón khách tham quan lúc 18 giờ hàng ngày). Mọi người được hướng dẫn đi vòng quanh chân đế đài nước giơ bàn tay trái ra và cầu nguyện theo ý thích. Xong rồi du khách đi xuống tầng dưới đất nơi có đài nước như nói ở trên.

Người ta lại xếp hàng chờ tới lượt để theo lối đi tiến vào đài nước đang sôi sục tuôn trào tự tại (như đài nước ở trước tòa nhà New World nhìn ra công viên 23/9 Quận 1). Mọi người lại nối đuôi đi vòng quanh đài nước và chạm tay 3 lần vào nước để nhận được sự may mắn.

Một câu chuyện ly kỳ khác là sự ra đời của đồng xu mệnh giá 1 đô la bằng đồng mang hình bát quái. Chuyện kể, khi xây dựng hệ thống tàu điện ngầm vào thập niên 1980, một nhà phong thủy đã nói với Thủ tướng Lý Quang Diệu khi ấy, rằng việc đặt quá nhiều sắt thép vào lòng đất là chạm “long mạch” và không tốt cho đất nước. Để “giải hạn”, vị thầy bảo mỗi gia đình Singapore phải treo một hình bát quái trước cửa. Điều này dĩ nhiên là bất khả thi ở một đất nước đa sắc tộc và tôn giáo như Singapore. Ông Lý Quang Diệu vì thế đã nghĩ ra đồng xu mang hình bát quái mà hầu hết người dân đều mang theo trong mình.

5-Singapore Flyer (Đu quay):

C ó đường kính 150m, cao 165m, có 28 cabin, mỗi cabin có sức chứa 28 người. Một vòng quay của nó mất 30 phút và cho phép khách tham quan nhìn toàn cảnh phần phía nam của đảo quốc có hình dạng một con cua. (Vài năm trước, ở khu vui chơi Phú Mỹ Hưng Quận 1 có hệ thống đu quay này).

Ngày 15 / 4 / 2008, Singapore khánh thành chiếc đu quay lớn nhất thế giới bên bờ vịnh Marina, gọi là Singapore Flyer. Không hiểu có phải vì giá vé quá cao - 29,5 SGD (hơn 400 ngàn đồng)/người lớn và 20,65 SGD/trẻ em - mà việc kinh doanh có vẻ chật vật, chưa kể một vài trục trặc kỹ thuật gây tai tiếng.

Sau hơn 3 tháng vận hành, ngày 28 / 7, ban quản lý đu quay ra một thông cáo báo chí khiến nhiều người sửng sốt: Singapore Flyer quay trái chiều phong thủy (!?) . “Chiều quay ban đầu - cho phép du khách ngắm nhìn trung tâm tài chính khi đu quay lên cao, và hướng về phần phía đông hoang vu khi xuống thấp - đã thu hút sự chú ý của các nhà phong thủy. Theo họ, quay như thế là lấy đi năng lượng của đất nước và quay lưng với của cải vốn đã có sẵn ở trung tâm tài chính”, bản thông cáo viết.

Nghe lời các thầy phong thủy, người ta đã đổi hướng quay của Flyer. “Mitsubishi Heavy Industries - công ty thiết kế và xây dựng công trình này - tiến hành các thực nghiệm và tái cấu hình trục quay cùng các cabin, đảm bảo an toàn và thoải mái cho khách tham quan”, thông cáo cho biết. Theo báo Straits Times, chi phí cho việc trở chiều quay của Flyer lên đến 6 chữ số (1 đô la Singapore - SGD - đổi được gần 14.000 VN đồng).

Không rõ việc đổi hướng công trình biểu tượng quốc gia này có linh nghiệm hay không, chỉ biết rằng tháng 12 năm ấy, một sự cố điện khiến đu quay đứng yên, treo lơ lửng 173 du khách trong 6 tiếng đồng hồ giữa không trung. Giờ đây, phần lớn thời gian trong ngày, Singapore Flyer nằm yên nghỉ ngơi. Thế nhưng sinh hoạt ồn ào, náo nhiệt và thịnh vượng của Singapore “con rồng đang bay cao” hay “Sư tử biển phun nước” vẫn không ngừng lại một giây phút nào.

Vương Liêm

(Xuân Nhâm Thìn 2012)

Nguồn gốc của 7 ngày trong tuần

Nguyễn Phổ

Tại sao tuần lễ lại có 7 ngày? Vì sao số 7 lại được coi là con số "mầu nhiệm"? Bởi vì nó được xuất phát từ quan niệm của người châu Âu và liên quan đến hiểu biết của các nhà khoa học thời ấy về vũ trụ.

Theo họ, trái đất là trung tâm của vũ trụ, có 7 hành tinh quay xung quanh nó là Mặt Trời, Mặt Trăng và các vì sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và ngày ấy con người cũng mới biết đến 7 nguyên tố kim loại là vàng, bạc, đồng, sắt, chì, kẽm và thủy ngân. Họ coi 7 nguyên tố đó tương ứng với 7 hành tinh trong hệ mặt Trời, nên đã lấy mỗi ngày tượng trưng cho một hành tinh mà theo thế giới quan của họ mỗi hành tinh là một vị thần và được đặc trưng bởi nguyên tố kim loại với những tính chất nhất định.

Ngày đầu tiên trong tuần lễ được coi là ngày của vị thần thân thiết nhất, quan trọng nhất là Mặt Trời và ứng với thứ kim loại quý nhất là VÀNG. Đó là ngày Chủ Nhật. Tiếng Anh gọi là Sunday, tiếng Đức là Sonntag có nghĩa là ngày Mặt Trời.

Ngày thứ Hai được giành cho vị thần canh giấc ngủ đêm đêm của con người, đó là Mặt Trăng và tương ứng với nó là nguyên tố kim loại BẠC, thứ kim loại quý thứ hai sau vàng. Tiếng Anh là Monday, tiếng Đức là Montag có nghĩa là ngày Mặt Trăng.

Ngày thứ Ba được ứng với sao Hỏa và nguyên tố tương ứng là SẮT. Bởi sao Hỏa được coi là thần của chiến tranh mà vũ khí, áo giáp đều làm bằng sắt. Ngày nay người Pháp gọi là Mardy, còn người Tây Ban Nha gọi là Martes. Tiếng Anh là Tuesday, đây được coi là ngày của những chiến binh, của nam giới.

Ngày thứ Tư tiếng Anh là Wednesday, tiếng Pháp gọi là Mercredi, tiếng Tây Ban Nha là Mercoles có nghĩa là ngày của sao Thủy. Sao Thủy được coi là vị thần của thương mại. Theo hình dung của người xưa, đây là vị thần thường xuyên phải đi nhiều nên nguyên tố tương ứng là THỦY NGÂN. Thứ kim loại nặng, dễ di động.

Ngày thứ Năm người Pháp gọi là Jeudi, người Tây Ban Nha gọi là Juebes là ngày dành cho chúa tể của các vị thần linh, ứng với đó là sao Mộc và kim loại đi kèm là KẼM. Bởi kẽm có tính chất không gỉ nên nó đặc trưng cho sức mạnh của khôn cùng sao Mộc - vị thần sấm chớp. Có lẽ vì vậy mà ngày thứ Năm người Đức gọi là Donnerstag, nghĩa là ngày sấm chớp. Còn trong tiếng Anh nó là Thursday.

Ngày thứ Sáu người Pháp gọi là Vendredi, người Tây Ban Nha gọi là Biernes có nghĩa là ngày của sao Kim. Hành tinh này được coi là tượng trưng cho nữ thần của tình yêu. Ứng với sao Kim là nguyên tố kim loại ĐỒNG, một kim loại mềm dẻo, phản xạ những tia sáng lấp lánh. Các dân tộc ở Bắc Âu gọi nữ thần tình yêu là Fray, vì thế người Đức gọi thứ Sáu là Freitag và người Anh gọi là Friday. Đây được coi là ngày của nữ giới.

Còn ngày cuối cùng trong tuần được coi là của sao Thổ, vị thần mà theo quan niệm của người xưa là gây ra các nỗi bất hạnh, đau khổ về mặt tinh thần cho con người. Nên ứng với nó là nguyên tố CHÌ, một kim loại độc hại. Trong các ngôn ngữ ở châu Âu hiện nay chỉ còn tiếng Anh giữ nguyên được gốc tên gọi của sao Thổ (Saturn) để chỉ ngày thứ Bảy - Saturday.

Trên đây là khảo cứu nhỏ về nguồn gốc của các ngày trong tuần mà nguyên gốc tên gọi của nó còn giữ được trong ngôn ngữ của một số quốc gia châu Âu giúp chúng ta hiểu thêm về cách đặt tên ngày của người châu Âu cổ.

Bs. Nguyễn Lân Đính st

MÙNG 5, 14, 23

CÓ PHẢI LÀ NHỮNG NGÀY XẤU KHÔNG?

Mùng năm, mười bốn, hăm ba

Là ngày nguyệt kỵ chớ nên ra đường

Hoặc:

Mùng năm, mười bốn, hăm ba

Đi sao về vậy, chẳng ra việc gì?

Đó là những ngày mà từ ngàn xưa Trung Hoa và Việt Nam ta quan niệm là những ngày xấu nên rất kiêng kỵ. Những việc gả cưới, tang ma hoặc làm ăn, đi xa đều phải tránh.

Nhưng rất ít người biết rõ nguồn gốc của ba ngày này xuất phát từ đâu và lấy cơ sở nào để cho là ngày xấu.

Theo sách lịch của Trung Quốc thì ba ngày này là ba ngày kỵ trong mỗi tháng nên được gọi là “Ngày nguyệt kỵ”.

Ngày này là ngày ở Trung cung (ngôi Trung ương ở Hà Đồ) mà Trung cung lại là ngôi vua và lấy số 5 làm biểu hiệu. Số 9 là cửu cung. Đếm từ 1 đến 5 thì số 5 nhập vào Trung cung, rồi cộng thêm vào số cửu cung (tức là số 9) nữa thì được 14 cũng nhập vào Trung cung, cộng thêm số 9 nữa thì được 23 cũng lại nhập Trung cung nữa. Như vậy là ba lần đều nhập Trung ương (mùng 5, 14, 23)

Ngôi Huỳnh sát là hung sát ở Trung ương (trung cung), mà Thái Tuế (ngôi vua) lại chồng lên ngôi Huỳnh sát, cho nên kẻ dưới phải tránh người trên. Nếu không tránh mà phạm tới bề trên phải gặp hung lai.

Theo cuốn “Trâu kiết” có nói: các ngày kỵ đó, theo lời kinh dạy, đã do sắc của vua (Trung Hoa) bôi bỏ rồi nên chẳng phải câu nệ.

Trái lại, theo sách Hiệp kỳ của nhà vua, xét thuyết giải trên cho là có lý nên vẫn để ý (tức là không bôi bỏ).

Nhưng thực tế thì những ngày này không phải là ngày xấu, vì đó là các ngày trong tháng mà nhà vua thường xa giá đi kinh lý hoặc tuần tra khắp hoàng thành. Trong ba lần đi của mỗi tháng thì chu kỳ của mỗi lần đi cách nhau 9 ngày.

Ngôi vua được biểu hiện bằng số 5 (còn gọi là ngũ phúc tức là 5 cái phúc: Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh). Lấy ngày mùng 5 của tháng là lần đi thứ nhất nên hết chu kỳ 9 ngày là lần thứ hai vào ngày 14 (lấy 2 chữ số 14 cộng lại = 5, được ngũ phúc). Rồi tiếp một chu kỳ 9 ngày nữa là lần thứ ba vào ngày 23 (lấy 2 chữ số 23 cộng lại cũng là = 5, ngũ phúc).

Theo tục lệ từ ngàn xưa của Tàu thì người dân không được quyền trông thấy mặt vua. Thậm chí các quan trong triều đình cũng còn chưa thấy mặt vua. Vì mỗi lần chầu đều phủ phục trong sân rộng cách xa chỗ vua ngồi mấy mươi mét, cúi đầu không dám ngước mặt lên. Chỉ có những cận thần và cận vệ mới được đối diện với vua mà thôi.

Do đó, khi xa giá của vua đi thì thần dân đều được lệnh phải đóng cửa ở trong nhà, không được lén dòm ngó hoặc lảng vảng ngoài đường nơi xa giá đi qua. Nếu không tuân lệnh mà rủi bị quan quân đường gặp thì sẽ bị chém đầu.

Vì vậy, dân gian truyền miệng nhau, phải kiêng kỵ ba ngày này để tránh sự xui xẻo gặp lúc vua đi mà gánh lấy tai họa. Rồi dần dần quá lâu ngày và vì mê tín nên ba ngày này trở thành ngày xấu phải kiêng kỵ đối với các việc có tính quan trọng (cưới gả, tang ma, làm ăn, xây nhà, đi xa…)

Hủ tục này của nước Tàu đã truyền sang Việt Nam ta từ thời Bắc thuộc, vua chúa nước ta cũng noi theo như thế, cho nên có chuyện Trạng Quỳnh nước Nam đã dùng nguyên những trái đậu đũa thật dài xào ăn để khi ăn phải ngước mặt lên mới bỏ được trái đậu vào miệng, đó là dịp trông thấy mặt vua.

Xét ra, nếu có xấu thì cũng không phải tại ngày đó mà chỉ tại một số ít người nào đó gặp phải vận xui ngẫu nhiên trùng hợp vào ngày đó mà những người mê tín vịn vào đó để cho là ngày xấu.

Giả thử, những người gặp hên trong những ngày đó như là trúng mánh, trúng số độc đắc… người ta giấu đi, mấy người mê tín đâu biết để mà cho là ngày tốt (hên).

Đó là chuyện ngày xưa còn hiện nay đã được hầu hết dân bỏ đi rồi.

Bùi Đẹp st

TẤT CẢ ĐỀU VÔ THƯỜNG

1-Thời gian: Vô Thường

Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh nhưng chỉ có hiểu đời thì mới:

Qua một ngày vui một ngày,

Sống thanh thản, sống thoải mái.

Qua một ngày mất một ngày.

Vui một ngày lãi một ngày.

2-Hạnh phúc: Vô Thường

Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.

3-Tiền: Vô Thường

Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng mang đến, khi chết chẳng mang đi. Nếu có người cần giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khỏe và niềm vui thì tại sao không bỏ ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ! Người khôn biết kiếm tiền, biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đừng làm tôi tớ cho nó.

4- Đời sống : Vô Thường

“Quãng đời còn lại càng ngắn thì càng phải làm cho nó phong phú”. Người già phải thay đổi quan niệm cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh”, hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao chất lượng cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của tuổi già.

5-Thế Gian: Vô Thường

· Tiền bạc là của con (không chắc lắm) - Tài sản có thể bị mất vì các nguyên nhân:

v Thiên tai,

v Hỏa hoạn,

v Pháp lệnh của vua hay chính quyền tịch thu,

quốc hữu hóa…

v Trộm cướp,

v Con cái.

· Địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khỏe là của mình.

· Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn.

· Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một chút, hỏi vài câu là thấy đủ rồi.

· Con tiêu tiền cha mẹ , thoải mái; Cha mẹ tiêu tiền con, chẳng dễ.

· Nhà cha mẹ là nhà con ; Nhà con không phải là nhà cha mẹ.

· Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.

· Ốm đau trông cậy ai ?

Trông cậy con ư ? Nếu ốm dai dẳng chẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu (cửu bệnh sàng tiền vô hiếu tử).

Trông vào bạn đời ư ? Người ta lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi.

Trông cậy vào đồng tiền ư ? - Chỉ còn cách ấy .

· Cái được, người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm.

· Chân lý của Đạo, thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn.

· Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình (tỷ thượng bất túc tỷ hạ hữu dư), biết đủ thì lúc nào cũng vui (tri túc thường lạc).

· Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt, tự tìm niềm vui.

· Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui.

· Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như có cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được. Huống hồ nghĩ ra, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao.

· Quá nửa đời người dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc nào muốn thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống vì ý thích hay không thích của người khác, nên sống thật với mình.

· Sống ở trên đời không thể nào vạn sự như ý , có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm cho khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.

· Tuổi già, tâm không già , thế là già mà không già; Tuổi không già mà tâm già, thế là không già mà già. Nhưng xử lý một vấn đề thì nên nghe người già.

· Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức . Ăn uống quá thanh đạm thì không đủ chất bổ; quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ; quá ồn ào thì khó chịu… Mọi thứ đều nên “vừa phải”.

· Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn tham uống…)

· Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh).

· Người khôn phòng bệnh, chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống.

· Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới khám chữa bệnh… Tất cả đều là muộn.

· Chất lượng cuộc sống của người già cao hay thấp, chủ yếu tùy thuộc vào cách tư duy, tư duy hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng tư duy hướng lợi để thiết kế cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và sự tự tin, cuộc sống có hương vị; tư duy hướng hại là tư duy tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết.

· Chơi là một trong những nhu cầu cơ bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm cho mình một trò chơi ưa thích nhất, trong khi chơi hãy thể nghiệm niềm vui chiến thắng, thua không cay, chơi là đùa. Về tâm và sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh.

· “Hoàn toàn khỏe mạnh”, đó là nói thân thể khỏe mạnh, tâm lý khỏe mạnh và đạo đức khỏe mạnh. Tâm lý khỏe mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao thiệp; đạo đức khỏe mạnh là có tình thương yêu, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu.

· Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập , bưng tai bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong hoạt động xã hội, thể hiện giá trị của mình, đó là cuộc sống lành mạnh.

· Cuộc sống tuổi già nên đa tầng đa nguyên, nhiều màu sắc, có một hai bạn tốt thì chưa đủ, nên có cả một nhóm bạn già, tình bạn làm đẹp thêm cuộc sống tuổi già, làm cho cuộc sống của bạn nhiều hương vị, nhiều màu sắc.

· Con người ta chịu đựng, hóa giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình. Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất. Quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống thế nào.

· Tại sao khi về già người ta hay hoài cựu (hay nhớ chuyện xa xưa)? Đến những năm cuối đời, người ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói xa vời, đã đứng ở sân cuối, tâm linh cần trong lành, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tìm lại những tình cảm chân thành. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thuở nhỏ, cùng bạn học nhớ lại bao chuyện vui thời trai trẻ, có như vậy mới tìm lại được cảm giác của một thời đầy sức sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là một niềm vui lớn của tuổi già.

· Nếu bạn đã cố hết sức mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó! Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả (trái) ngắt vội không bao giờ ngọt.

· Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình một dấu chấm hết thật tròn.

· Sống ngày nào, vui ngày nấy! Đó là giải thoát!

Bs Nguyễn Lân Đính

22/12/2011

SẮC XUÂN 

Tôi vốn dĩ rất ấn tượng với màu hoa trắng. Bất cứ loài hoa nào mang màu trắng cũng đều cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng thanh thoát, bâng khuâng.

Niềm cảm xúc đó khiến tôi chưa một lần bỏ qua dịp sở hữu hay chiêm ngưỡng nó. Đặc biệt là hoa hồng trắng. Thật đáng buồn khi màu hoa thánh thiện ấy lại mong manh vô cùng. Hoa trắng luôn có tuổi thọ thấp hơn những loài hoa mang các sắc màu khác. Có lẽ đó là một quy luật hiển nhiên khi sự thanh khiết, thánh thiện thường không thể tồn tại lâu trong thế giới cuộc đời. Mặc dù vậy, tôi vẫn rất yêu màu hoa trắng, một màu hoa bất diệt.

Chắc chắn rằng không một ai trong đời lại chưa một lần đi dạo chợ hoa ngày tết. Một bức tranh hội tụ toàn cảnh sắc thiên nhiên. Bức tranh đã cho ta một sự cảm xúc sâu sắc, khi được đắm mình trong chiếc thảm rực rỡ và ngào ngạt hương thơm. Và khi đã lạc vào chốn thiên thai tại thế ấy, thì không ai ghìm nổi nỗi xúc động đang đưa tâm hồn mình bay bổng giữa vườn xuân. Như đã thành thói quen, chưa năm nào tôi từ chối nổi cái thú đi dạo chợ hoa ngày tết, ngoại trừ những trường hợp bất khả kháng. Cũng như lúc này, tôi đang chìm giữa biển sắc, nhưng vốn trung thành với ấn tượng, tôi vẫn ném tia nhìn sục sạo khắp các ngõ ngách của những khóm hoa. Khốn nỗi, màu hoa tôi yêu lại rất hiếm hoi trong những ngày này. Vì người ta quan niệm rằng: đầu năm không nên chưng hoa trắng trong nhà, không khéo lại trắng cả năm thì khổ. Dù sao tôi vẫn không bỏ cuộc khi chưa ra khỏi khu chợ hoa. Hơn nữa, chẳng dại gì, khi cả năm mới có được một lần ngắm hoa thỏa thích lại không mất tiền. Đang tiếp tục với cuộc thưởng ngoạn, tôi bỗng nghe có tiếng trầm trồ:

- Ồ, cành mai đẹp quá!

Nhìn về phía phát ra tíếng nói, một cô gái trong bộ quần áo lam lũ, chân đi đôi ủng với nửa phần bùn đất, đang ngây người dán mắt vào một cành mai gần đó. Tôi bất giác nhìn theo và cũng thầm công nhận: cành mai thật tuyệt. Sự phân chia cân đối của các nhánh cành cùng với những chùm nụ như phụ kín, lác đác trong số nụ ấy là ánh vàng của vài cánh hoa nở vội. Có lẽ những cánh hoa ấy đang háo hức tung ra giữa thanh thiên chiếc áo xuân rực rỡ. Dù rất ít tình cảm với màu vàng (vì tôi nghe nói màu vàng là màu phản bội) nhưng tôi buộc phải công nhận một điều: Thượng đế đã rất có lý khi chọn màu vàng của hoa mai làm biểu tượng của mùa xuân. Thử tượng tưởng xem, khi những ngày đầu năm, căn nhà như sáng hẳn lên với một cành mai đang rũ tung sắc vàng ra tứ phía. Và cái ánh sắc chói lòa ấy dễ đem đến cho con người ta nguồn hy vọng vào một cuộc sống no đủ, sung túc. Không biết có phải màu vàng ấy trùng với màu của một thứ kim lọai có giá trị rất cao, và là màu của một thảm lúa vàng trong mùa bội thu. Dẫu sao thì hoa mai không thể thiếu trong mùa xuân. Có điều, số phận cành mai tuyệt đẹp kia sẽ thuộc về ai thì tùy thuộc vào sự quyết định của người đang tạm là chủ nó. Lẽ đương nhiên nó sẽ không thuộc về tôi hay cô gái đang sững sờ trước vẻ huy hoàng của nó kia. Cô gái đã dợm bước đi, lại chợt dừng lại, trong mắt cô, một ánh nhìn khao khát đến nao lòng. Cái nhìn ấy gây cho tôi một niềm hoài cảm. Một sự thúc đẩy vô hình nào đó, khiến tôi đuổi theo cô gái. Khi đã bắt kịp cô, tôi mở lời bắt chuyện:

- Cành mai ấy đẹp quá cô nhỉ?

Nhìn tôi với một thoáng ngạc nhiên nhưng rồi cô gái cũng gật đầu:

- Vâng! Đó là cành mai đẹp nhất từ trước giờ tôi đã thấy.

- Thế sao cô không tìm cách sở hữu nó?

Cô gái mỉm một nụ cười buồn :

- Tôi làm sao có được diễm phúc đó hở anh?

Vẫn biết đó là câu trả lời mà tôi đã ước đoán, nhưng chẳng qua chỉ là cái cớ để làm quen. Chuyển đề tài, tôi lân la:

- Chắc cô đi sắm tết?

- Tôi đi ngắm tết thì đúng hơn.

Bật cười vì lối chuyển ngữ sát sườn của cô gái, cô chợt nhìn tôi vẻ lạ lẫm, như nhìn một gã ngớ ngẩn. Tôi nhận ra sự vô ý của mình, vội nói:

- Xin lỗi cô, tôi cười là vì dường như tôi đang có bạn đồng hành.

- Bạn đồng hành? Ồ thế thì anh đã nhầm rồi, tôi đang rất bận.

- Thì tôi cũng có rảnh rỗi đâu.

- Không rảnh rỗi? vậy sao anh lại có thời gian đi vớ vẩn thế này?

- Là vì… tôi đang bận… bận làm quen ấy mà.

Cô gái vỡ lẽ phì cười, rồi bằng một thái độ ẩn ý, cô nói:

- Tôi có cảm giác như đang nói chuyện với người ngoài hành tinh vậy?

Tôi sựng lại, nhìn từ ngực đến chân, trừ cái mặt vì tôi không đem theo cái gương. Tôi có gì khác với mọi người đâu nhỉ? Vậy không lẽ cái mặt tôi giống người ngoài hành tinh lắm sao? Thấy tôi ngơ ngác, cô gái lại cười:

- Anh giống như người ngồi dưới gốc cây đa trên mặt trăng ấy.

Ái chà, cô ta cũng đáo để đấy chứ, nhưng tôi cũng kịp trả đũa ngay:

- Ồ cô nói đúng dấy, vì tôi đang đi cạnh Hằng Nga mà.

Cô gái khẽ “hứ” một tiếng và quay ngoắt đi, nhưng tôi đã kịp nhìn thấy một ráng hồng lan trên má cô. Tôi bỗng cười, và cô cũng bật cười. Môt lần nữa xin cảm ơn Thượng đế khi Ngài đã sáng tạo ra nụ cười, vì chính nụ cười đã góp phần chuyển tiếp thái độ rất hiệu quả. Hai chúng tôi đã tự nhiên hơn và rồi qua câu chuyện tôi được biết. Cô gái là chị của bảy đứa em. Một tình cảnh thường thấy trong các gia đình ở nông thôn. Đó là sự thiếu hụt, khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Với một mảnh vườn rau trên diện tích hơn ba sào, chỉ đủ để đánh đổi từ những giọt mồ hôi mặn đất lấy từng hạt gạo nuôi sống bấy nhiêu con người đã là khó nhọc, thì lẽ đương nhiên khó mà sắm sửa một cái tết cho ra trò. Cô gái bùi ngùi nói thêm :

- Đã bao năm rồi, mẹ tôi chỉ ước có một cành mai thật đẹp cho vui nhà, nhưng rồi năm nào cũng như năm nào, mẹ tôi lại lui cui ra vườn cắt vài nhành hoa có sẵn, và nói vui rằng: Không có mai rừng thì ta chưng mai nhà vậy .

Ngang qua một quầy bán tranh và lịch, tôi lướt mắt và bắt gặp một sắc vàng đổ xòa trên một khung tranh. Tôi nói vội với cô gái :

- Cô đứng đây chờ tôi tí nhé.

Rồi không đợi cô gái kịp trả lời, tôi len vào hỏi giá tờ tranh. Ít phút sau, trước khi tờ tranh được cuộn lại, tôi đã kịp nhìn thấy hai chữ ghi chú bên dưới “Sắc Xuân”. Trở lại nơi cô gái đang đứng đợi, tôi ngập ngừng:

- Chút quà nhỏ cho mùa xuân mới, cô vui lòng nhận nhé.

Cô gái lúng túng:

- Tôi không thể nhận quà của một người lạ được.

- Có thể chúng ta chưa quen, nhưng cũng không còn là lạ, coi như kỷ niệm của buổi đầu gặp gỡ, có được không?

Tôi vừa nói vừa ấn bức tranh vào tay cô gái, cô gái run tay đỡ nhẹ và mở ra, cô reo lên:

- Đẹp quá!

Chỉ vào hai chữ ghi chú, tôi nói:

- Có thể bức tranh này không đẹp bằng cành mai thật kia, nhưng tôi hy vọng “Sắc xuân” sẽ ngự suốt bốn muà trong gia đình cô.

Cô gái không giấu vẻ xúc động, ngước mắt nhìn tôi với tia ấm áp, lời cảm ơn thốt ra cùng lúc hơi ấm từ bàn tay cô truyền sang bàn tay tôi. Trong tôi như rộn lên vầng sáng của “Sắc Xuân”

ĐÀM LAN

Phụ Bản II

THÀNH NGỮ VÀ ĐIỂN TÍCH

TRONG TRUYỆN KIỀU

Câu

Nội dung

Ý nghĩa

2

Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau

Xưa nay tài mệnh không ưa nhau

3

Trải qua một cuộc bể dâu

Biển xanh hóa thành ruộng dâu, tức là sự thay đổi của cuộc đời

5

Lạ gì bỉ sắc tư phong

Tạo hóa đã cho mình hơn cái nọ thì phải kém cái kia

8

Phong tình cổ lục

Là bộ sách nói chuyện phong tình đời xưa

10

Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng

Đời nhà Minh bên Tàu có hai kinh đô là Nam Kinh và Bắc Kinh

11

Có nhà viên ngoại họ Vương

Viên ngoại tức cũng như trưởng giả

15

Đầu lòng hai ả tố nga

Tố nga là người con gái đẹp

20

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Ý nói cái tướng phúc hậu của Thúy Vân mặt như mặt trăng tròn, lông mày như con tằm nằm ngang

25

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Mặt trông như nước mùa thu, lông mày phơn phớt như núi mùa xuân

28

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai

Ý nói tài của Kiều thì có người sánh được, chỉ sắc thì không ai bì được

32

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương

Hồ cầm là cái đàn Tỳ bà, ngày xưa Hán Nguyên Đế có bà Chiêu Quân phải đi cống rợ Hồ, thường hay đánh cái đàn ấy cho nên mới gọi là Hồ cầm

36

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

Cặp kê là chữ kinh Lễ, con gái đến 15 tuổi thì búi tóc và cài kê, giống như cái trâm, nghĩa là đã thành người lớn

39

Ngày xuân con én đưa thoi

Ngày xuân thấm thoắt như cái thoi dệt cửi, thường làm theo hình con én

50

Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay

Giấy tiền vàng bạc ở vùng Nghệ Tĩnh gọi là vàng vó

66

Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương

Cành thiên hương là một cành hoa thơm của trời, ý nói người đàn bà đẹp

77

Sắm sanh nếp tử xe châu

Nếp tử là áo quan, xe châu là linh xa

78

Vùi nông một nấm, mặc dầu cỏ hoa

Vùi nông là chôn rồi bỏ đó không ai ngó đến

79

Trải bao thỏ lặn ác tà

Trải bao ngày tháng

156

Một nền Đồng Tước, khóa xuân hai Kiều

Hai Kiều là Đại Kiều và Tiểu Kiều đời Tam Quốc, một người lấy Tôn Sách, một người lấy Chu Du. Nếu gió Đông không giúp Chu Du trong trận Xích Bích thì hai Kiều đã bị Tào Tháo bắt đem về đài Đồng Tước:

“Đông Phong bất dữ Chu lang tiện,

Đồng Tước xuân thâm tỏa Nhị Kiều”

160

Gặp tuần Đố lá, thỏa lòng tìm hoa

Lễ hội Đố lá

162

Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai

Hoa lan mùa xuân, hoa cúc mùa thu mỗi hoa đều có vẻ đẹp riêng

190

Sen vàng lãng đãng như gần như xa

Sen vàng là bước chân của người đàn bà

192

Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây

Cuối đời nhà Tấn có một người đánh cá đi lạc vào một cái suối, đi mãi gặp chỗ tiên ở

193

Thưa rằng: Thanh khí xưa nay

Cùng một thanh thì hợp nhau

195

Hàn gia ở mãi Tây Thiên

Hàn gia là tệ xá

208

Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường

Tú khẩu là miệng thêu, cẩm tâm là lòng gấm, ý nói là người văn hay

238

Chưa xong điều nghĩ, đã đào mạch tương

Bà Nga Hoàng và bà Nữ Anh ngày xưa khóc vua Thuấn bên bờ sông Tương cho nên bây giờ người ta lấy chữ Tương ví với nước mắt đàn bà

255

Mành tương phơn phớt gió đàn

Mành mành căng bằng tre gió thổi vào nghe như tiếng đàn

266

Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang

Lam Kiều là chỗ thần tiên ở

275

Là nhà Ngô Việt thương gia

Hồ Việt hay Ngô Việt đồng nghĩa là người đi buôn bán nay đây mai đó

306

Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về

Hợp Phố xưa thuộc về Giao Châu tức là nước Nam ta. Nay là vùng Châu Khâm, Châu Liêm bên Quảng Đông. Về thời đại Bắc thuộc ở miền bể ấy có nhiều ngọc trân châu, quan Tàu cứ bắt dân đi lấy, bao nhiêu ngọc trai đều bỏ đi nơi khác. Sau người Mạnh Thường sang làm quan có nhân chính tự nhiên ngọc trai lại về. Ý nói rằng của báu này biết là của ai mà đem trả người ta, nhân việc Kim Trọng bắt được kim thoa của Kiều để quên trên đầu tường

365

Sông Tương một giải nông sờ

Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia

Chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương. Nhớ nhau không thấy mặt nhau, cùng uống nước sông Tương

410

Chẳng sân Ngọc bội thời phường Kim môn

Bậc quân tử đeo ngọc để ví cái đức hạnh cũng thanh quí như ngọc. Về sau cho tiếng bội ngọc là người làm quan to, vua Hán Vũ Đế cho những người có văn học chực ở cửa Kim mã để khi có điều gì thì vua han hỏi. sau người ta lấy chữ Kim mã mà nói chỗ để tiếp các bậc văn học

434

Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu

Ngày xưa người Trác Dận nhà nghèo không có đèn bắt đom đóm vào để làm đèn mà học, cho nên về sau người ta lấy chữ trướng huỳnh là màn đom đóm mà gọi cái buồng học

437

Tiếng sen sẽ động giấc hòe

Giấc hòe là nhân tích Thuần Vu Phần ngày xưa ngủ dưới cây hòe chiêm bao thấy hai sứ giả vời vào làm phò mã rồi được phong làm Thái thú ở đất Nam Kha vinh hiển hơn 20 năm đến khi thức giấc dậy thì chỉ thấy đàn kiến bên mình

439

Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần

Vua Sở Tương Vương nằm mơ thấy một nguời đàn bà đẹp lắm, hỏi là người ở đâu thì thưa rằng: Thiếp là thần nữ núi Vu Giáp, sớm làm mây tối làm mưa

453

Chén hà sánh giọng quỳnh tương

Chén hà là cái chén ngọc màu vàng úa như nắng buổi chiều. quỳnh tương là chén rượu bằng nước ngọc quỳnh, uống vào trong bụng sinh ra trăm mối cảm tình

529

Cửa đài vừa ngỏ then hoa

Cửa đài là cũi xếp thành cái cửa

532

Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề

Chết chưa chôn còn quàn ở đất khách

549

Ông tơ gàn quãi chi nhau

Gàn quãi là ngăn trở

603

Để lời thệ hải minh sơn

Chỉ bể mà thề, chí núi mà nguyện

619

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn

Hạt mưa nghĩa là thân phận người đàn bà. Tục ngữ có câu: Thân em như hạt mưa dào, hột sa xuống giếng, hạt vào vườn hoa

621

Sự lòng ngỏ với băng nhân

Băng nhân là người làm mối

694

Tinh kỳ giục giã đã mong trở về

Tinh kỳ là giờ Dần hôn

703

Trời Liêu non nước bao xa

Là đất Liêu Dương, chỗ Kim Trọng đi hộ tang chú

710

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan

Tình sử: chuyện một người con gái phải lòng một người lái buôn. Người lái buôn ấy đi không về, cô ta ốm tương tư mà chết. Đem hỏa táng xương thịt cháy cả, duy trong bụng chỉ còn một cục không sao cháy được, đập cũng không vỡ. Đến sau người lái buôn về khóc, nước mắt sa vào cục ấy tan ra huyết

726

Giao loan chắp mối tơ thừa mặc em

Loan giao là một thứ keo để gắn phím đàn người ta thường dùng điều ấy nói về tình xưa nghĩa cũ đã gián đoạn đi mà nối lại được.

773

Lạy thôi, nàng lại rén chiềng

Rén là thong thả, se sẽ; chiềng là trình thưa

812

Mạt cưa, mướp đắng đôi bên một phường

Một người đi bán mạt cưa giả làm cám, một người bán mướp đắng giả làm dưa chuột. Hai người bán lẫn cho nhau thành hai anh bợm cùng mắc bợm

837

Nước vỏ lựu, máu mào gà

Những gái thanh lâu tiếp khách xong, lấy vỏ lựu nấu lên và pha máu mào gà mà làm vệ sinh thì lại được như nguyên

869

Đoạn trường thay lúc phân kỳ

Kỳ là đường rẽ, phân kỳ là mỗi người đi một ngã

871

Bề ngoài mươi dặm tràng dinh

Đường đi bên Tàu, cứ 5 dặm có một cái quán gọi là đoản dinh, 10 dặm có một cái quán gọi là trường dinh

875

Nhìn càng lã chã giọt hồng

Lấy điển nàng Tiết Linh Vân đời nhà Tùy, khi từ biệt song thân để ứng tuyển vào cung khóc đến nỗi những giọt nước mắt chảy ra như máu

884

Khi vào đôi đóa, khi ra vội vàng

Đôi đóa là vờ vĩnh, hững hờ

901

Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân

Tùng là cây thông, quân là cây tre to, người ta hay ví hai cây này với người quân tử, có đại lượng

912

Cầu giá

Lớp sương đọng trên mặt cầu

918

Thần hôn

Sớm hôm hỏi thăm cha mẹ (kính lễ)

942

Hàn thực, nguyên tiêu

Hàn thực là Tết mùng 3 tháng 3, Nguyên tiêu là Tết rằm tháng giêng, tục bên Tàu hai ngày Tết ấy cũng rất vui, ý nói ngày đêm nào cũng được vui như hai ngày ấy

962

Tam bành

Sách Phật nói rằng: trong con người có 3 cái thần gọi là: Bành kiêu, Bành cứ, Bành chất; ba thần ấy hay xui người ta làm điều ác rồi cứ đến ngày Canh Thân lên tâu Ngọc Hoàng Thượng đế. Sách Đạo giáo gọi là Tam Thi

978

Bì tiên

Roi da

1018

Túc nhân

Số tiền định, là nợ nần kiếp trước

1039

Chén đồng

Đồng tức là đồng tâm, lời nguyện ước

1044

Quạt nồng ấp lạnh

Theo kinh Lễ, thờ cha mẹ quạt khi nồng, ấp khi lạnh

1045

Sân Lai

Đời nhà Chu bên Tàu có ông Lão Lai đã 70 tuổi, cha mẹ hãy còn, một hôm ông mặc áo ngũ sắc ra sân múa rồi giả cách ngã khóc như trẻ con, để làm vui cho cha mẹ

1046

Gốc tử

Là cây tử, nói ví cây tử là cha

1053

Duềnh

Vực sâu

1074

Đồng vọng

Nghe văng vẳng

1084

Tiện hồng

Là gởi thư, bởi tích vua Hán Vũ Đế bắt được thư buộc ở chân con nhạn của Tô Vũ bên Hung nô gởi về

1087

Mở xem một bức tiên mai

Tiên mai là tờ giấy hoa tiên

(Còn tiếp)

PPT st

SỰ TÍCH TRẦU CAU

Vua Hùng Vương thứ IV có người con trai “thứ” được phong làm quan Lang đất (Cao). Nhân thế lấy chữ Cao đứng đầu tên, để phân biệt hai người. Người anh, được giữ nguyên họ nhà vua.

Quan Lang sánh duyên cùng người con gái họ Biện, sau năm năm sum hợp, kế tiếp sanh được hai trai, đứa lớn đặt tên là Tân, nhỏ là Lang, khi lớn lên tướng mạo rất thông minh đĩnh ngộ, và lạ lùng thay, hai anh em mặt mũi giống nhau như đúc. Những người quen thuộc tới lui thăm viếng thường khi còn nhận lầm kêu lộn, gây nên nhiều chuyện tức cười.

Năm Tân với Lang được 16 – 17 tuổi, vợ chồng quan Lang thọ bệnh, theo nhau sớm khuất, anh em lo việc tống táng cha mẹ xong xuôi, hai anh em cùng đến học chữ tại nhà thầy đồ Lưu Huyền.

Họ Lưu có người con gái tên gọi Xuân Phù, niên kỷ đang độ trăng tròn, nhan sắc nàng cũng thuộc hạng thượng lưu, gấm tía. Khi hai anh em đến trọ, Xuân Phù hay ở trong nhà vén rèm mà nhìn trộm. Thấy hai chàng cũng xinh trai, thông minh đĩnh ngộ, phương phi thì đem lòng yêu mến, riêng thầm mơ ước, sẽ được cầm sắc cùng ai?

Lưu Công biết ý con, cũng ưng lòng gả, song trong hai anh em, không biết nên chọn người nào. Ông đắn đo suy nghĩ mãi mà rốt cuộc cũng không quyết định được, mới hỏi ý Xuân Phù.

Nàng thưa:

– Con xin cha gả con cho người cầm đũa trước.

Lưu Công y theo lời, bèn sai dọn cơm cho học trò ăn. Lúc hai anh em họ Cao ngồi vào mâm, ông để ý coi thấy Lang nhường đũa cho anh lấy trước, liền chờ xong bữa, gọi Tân bảo rằng:

– Thầy muốn nhận anh là rể thầy, anh nghĩ sao?

Tân hỏi ý em, rồi xin vâng thuận.

Sau khi thành hôn, Tân và Xuân Phù rất là tương đắc dọn về nhà cũ, ăn ở cùng Lang. Ba người chung lưng góp sức làm nương để nuôi nhau. Trên thuận dưới hòa đã giữ kết tình chia cơm sẻ áo.

Một hôm Xuân Phù ở nhà nấu bữa. Tân và Lang ra nương cuốc đất, trồng rau, chiều tới, không hiểu vì sao khác lệ thường. Lang lại một mình về trước. Vừa tới cửa thì thấy chị dâu ra đón, tươi cười rồi âu yếm hỏi:

– Sao chàng không đợi chú hai, lại về sớm thế? Chừng quá nhớ thiếp chăng?

Lang kinh sợ bẽn lẽn nói: Em Lang đây mà nào đâu phải anh Tân, chị nên nhìn kỹ, lần sau đừng lầm vậy nữa!

Xuân Phù xấu hổ, nín lặng quay vào, nhưng đến lúc chồng về, nàng kể lại hết đầu đuôi tự sự với Tân. Người anh khổ nỗi có tánh hay ghen, dầu không nói gì, nhưng từ độ đó, đối với em ra tuồng hờ hững. Tình máu mủ ruột rà, ngày càng lạnh nhạt, chẳng được đằm thắm như xưa.

Lang thấy vậy buồn tủi vô cùng, tự nghĩ bụng: Ta cùng chị dâu tuổi không chênh lệch là bao. Nếu cứ quyến luyến mà ở đây mãi, e rồi một mai, sự nghi kỵ khó tránh khỏi. Huống chi anh chị ta yêu thương nhau như Phụng Loan Cầm Sắc, còn ta chỉ là con chim nương tổ ở nhờ, ai đâu quan thiết nhìn ngó đến làm chi? Sao bằng ra đi đi cho sớm!

Nghĩ vậy Lang lặng lẽ bỏ nhà ra đi, nỗi buồn tủi trong lòng càng thêm ngao ngán, và kéo nặng nề bước chân vô định.

Sau vài ngày lang thang, Lang đi đến một khu rừng bị suối ngăn cách lối. Giữa lúc ngơ ngác dừng gót đứng lại, bỗng thấy một đoàn kiến, đang bò quanh một cái xác ve khô.

Lang cảm khái, ngửng lên trời mà than rằng:

– Loài côn trùng còn biết trọng tình huyết mạch, chung sống với nhau. Cớ sao ta là người mà đến đỗi anh em chia rẽ! Số phận ta dễ cũng chỉ như là cái kiếp ve kia mà thôi?!

Nói đoạn, lại bưng mặt khóc mãi. Hồi lâu khản cổ, đứt hơi nằm phục xuống đất mà chết.

Người quanh đó thương hại, liền thâu liệm hài cốt và vùi nông bên đường.

Cao Tân từ khi em đi rất ăn năn hối hận, chàng buồn rầu bảo vợ:

– Anh em tôi như chân tay nào phải như cái nút áo, mà rày nay đứt mai đơm! Nay vì cớ có nàng mà em tôi phải nghi sự ti hiềm, chẳng biết sống no hay là đói, vậy nàng phải để tôi dấn bước tìm em tôi về, cuộc tái hợp vợ chồng ta hãy chờ đến khi anh em tôi trở lại.

Xuân Phù nghe theo lời chánh đáng, khẳng khái ưng chịu, Tân liền khăn gói lên đường. chàng đi khắp mọi nơi, hang cùng thủy tận, song chẳng thấy tung tích người em đâu cả!? Đâm ra thất vọng.

Nhưng bỗng một hôm, đến một con suối không có đường qua, Cao Tân đi dọc theo bờ suối, bỗng thấy một ngôi mộ bên vệ đường, chàng mệt quá không còn cất bước đuợc nữa, Tân tìm một gốc cây ngồi xuống định nghỉ một lúc rồi sẽ đi tiếp. Chợt có mấy người đi qua đường, ngó chàng, kinh ngạc bảo rằng:

– Ô hay có lẽ, người nầy đã được cải tử hoàn sanh hay sao?

Tân không hiểu họ nói chuyện ai, bèn hỏi lại thì họ đáp:

– Ngày này năm ngoái, có chàng thiếu niên mặt mũi y hệt như cậu, không hiểu buồn phiền đau ốm ra sao, đến chết ở đây. Chúng tôi làm phước chôn ở chỗ cậu đang ngồi đó. Chẳng biết bao lâu trên mả bỗng thấy mọc lên cái cây này. Nay chúng tôi thấy cậu lại càng nghi hoặc quá!

Tân nghe nói khóc ầm lên. Chàng đứng ngó cái cây thẳng vút, và cao sừng sững, trên ngọn tán lá xòe ra như cái lọng xanh, lại có bông, có trái. Chàng cảm động bảo mọi người rằng:

– Nếu vậy thì kẻ bạc mệnh, chính là em tôi đó. Chỉ vì tôi vụng xử, để tình anh em có điều chinh lệch nên em tôi mới phẫn chí ra đi, không ngờ lại tìm đến chỗ này mà chết. Em tôi chết rồi thì tôi còn lòng nào mà ham sống nữa.

Nói đoạn không để một ai kịp ngăn cản, Cao Tân đập mạnh đầu vào gốc cây tự vẫn. Những người chứng kiến bất ngờ lấy làm thương xót, liền bảo nhau mai táng một bên mộ người em.

Cách ít lâu sau, họ đi ngang qua đây, thấy nổi lên một hòn đá xanh, hình thể rất hùng tráng. Đều cho là sự lạ lùng xưa nay chưa từng có.

Nàng Xuân Phù ở nhà nghe tin đồn đại, trong lòng phân vân khôn xiết, bởi không tường hư thực ra sao? Nàng bèn đóng cửa ra đi tìm chồng.

Khi đến nơi hỏi dân bản thổ, thì trăm người một miệng, đều nói giống nhau, không có mối nghi ngờ là câu chuyện bịa đặt. Nàng bồi hồi đến dưới gốc cây, đứng bên hòn đá, nuốt lệ than rằng:

– Hai anh em họ Cao quê người chết thảm, thiệt cũng tại ta. Nay chồng ta đã theo em mà chết, thôi ta đành một quyết theo chồng!

liền gieo đầu vào tảng đá. Mọi người chứng kiến thấy nàng đã chết, thì càng hiểu thêm cảnh ngộ của ba người. Bèn xúm lại cùng nhau chôn Xuân Phù ở khít bên hòn đá lạ.

Rồi từ đó, trên mộ nàng, thấy có một thứ giây leo, bám chằng chịt vào mặt đá. Lá xanh mơn mởn, tươi tốt khác thường.

Một ngày kia vợ chồng Lưu Công sang thăm nhà rể, thấy cửa đóng then cài, cửa nhà vắng lạnh, ông bà mới lân la dò hỏi những người lân cận cho hay, nhà này cửa đóng then cài đã lâu, không biết họ đi đâu, có người biết chuyện kể lại mối oan khiên ấy.

Liền theo lời chỉ dẫn, tìm đến bên rừng, khóc than vật vã, rồi xuất tiền lập một ngôi miếu thờ tại đó, gọi là “miếu Tam Phương”.

Phàm kẻ lại qua, đều tạt vào dâng hương lễ bái, coi như đền thờ các vị linh thần.

Về sau, có lần vua Hùng Vương đi tuần du đến đây nghe câu chuyện lạ, nhà vua nức nở khen là một việc tình nghĩa dị kỳ.

Bèn sai tùy quan hái trái trên cây, bứt lá giây leo hợp lại mà nhai thử, để nếm xem mùi vị, ăn vào thì thấy mùi cay và tiết ra mùi thơm, đến khi nhổ lên mặt đá, thì nước miếng hiện ra một màu đỏ thắm, rất đẹp đẽ.

Nhà vua cho là một thứ thực phẩm rất quý, lại lấy đá nung thành vôi, thì gia vị lại càng thơm ngon, làm cho người ăn được hồng hào nhan sắc. Thấy vậy nhà vua liền truyền lấy giống cây đem trồng khắp mọi nơi trong nước. Và đặt tên là Tân Lang, cho cây có trái, còn giây leo thì gọi là giây Phù Lưu. Nhưng đời sau dân cư giản tiện, lại đặt cho cái tên nôm na là “cây cau” và dây “trầu không”.

Từ đó người ta đua nhau lấy trầu cau làm đầu trong việc lễ cưới hỏi, ngụ ý để noi gương vợ chồng Cao+Lưu mà giữ được chung thủy tiết nghĩa.

Miếu Tam Phương bên khu rừng, hiện nay thuộc làng Nam Hoa, huyện Nam Đàn, vẫn được các triều vua phong tặng, quanh năm còn nghi ngút khói nhang.

Lời chú : Tôi tình cờ đọc được trong một tờ báo “mất tên, xuất bản năm 1947” có đăng truyện sự tích trầu cau, thấy hay và rất cảm động. Không giống như bài nhạc của ông Phan Huỳnh Điểu.

Hải Đăng Trần Văn Hữu st.

TRI KỶ

Người xưa nuôi chí lớn hay giữ lòng cao chỉ mong được một người biết cho là suốt đời tự lấy làm an ủi. Là vì có nhiều người đến lúc hai tay buông xuôi vẫn còn hậm hực rằng chưa gặp được ai là tri kỷ. Ở đời quen nhau đã khó rồi, hiểu nhau và cảm thông được lại càng khó hơn nữa biết bao!

Có cuộc gặp gỡ bằng thân yêu, thân yêu mà chưa hiểu nhau nên lầm nhau, đến khi biết là lầm lại hóa ra thường. Có cuộc gặp gỡ bằng xung đột, xung đột vì chưa hiểu nhau, khi hiểu nhau rồi thì khăng khít gỡ không ra. Có cuộc gặp gỡ bằng hình thức, nhưng cũng có cuộc gặp gỡ qua tinh thần. Một câu văn, một khúc nhạc, một tư tưởng, một ý nghĩ cũng đã làm cho một cuộc gặp gỡ thêm đằm thắm và bền bỉ, dù chỉ có khi qua linh tính mà chưa trông thấy hình hài.

Một nhịp thang, một chuyến tàu, một phòng tiệc, một xung đột nho nhỏ, hạnh phúc ẩn hiện không xa, có khi không tiện ngỏ lời, hay vì muốn ngỏ lời mà còn đắn đo và nhất là vì kém thẳng thắn, kém thành thật hay vì lòng tự ái mà thường bỏ lỡ mất cơ hội tao phùng!

KHUYẾT DANH

THÙY DƯƠNG St

Nhà thơ Huy Cận hẳn đã đồng cảm với tư tưởng này khi ông bày tỏ nỗi nuối tiếc da diết của mình khi bỏ lỡ những cơ hội ngàn vàng để có được một người bạn tri kỷ quý báu trong đời. Trong bài thơ TÌNH MẤT ông đã viết:

Ôi ! những kẻ tôi chỉ chào một bận

Chân xa nhau , lòng chưa kịp giao thân...

Ôi ! bao kẻ chỉ một lần gặp gỡ !

Bởi vì sao lòng tôi rất thương đau

Khi nghĩ thầm : “Nếu ta đã gần nhau !”

(Xem bài TÌNH MẤT của Huy Cận trong bản tin tháng 2 năm 2009 - số Tân Niên - với bản dịch tiếng Anh của Thùy Dương)


Thơ vui mừng Tân niên


XUÂN VỀ ĐIỂM 12 CON GIÁP

Ngày Xuân hoa trái rộ um tùm

Kể chuyện đầu năm: - vui nhấp Rum

TRÂU – CHUỘT sân si tranh đứng giúp

CỌP – MÈO đấu đá suýt rơi ùm

Anh RỒNG, chị RẮN kinh đuôi CHUỘT

Chú NGỰA, cô DÊ ngán miệng hùm

GÀ, CHÓ, HEO nhà luôn chộn rộn

Tha hồ “phó nháy” xếp đầy “Bum”

Xuân Nhâm Thìn (2012)

XUÂN VÂN

· Phó nháy: chụp ảnh nghiệp dư

· Bum: Album


        Hoa đối ảnh

Khói núi ngoài xa gió dậm ngàn

Sương mờ thu hẹp cả không gian

Xuân phơi vài cánh hoa đang nở

Đông cảm dăm bông cúc chớm tàn

Giữa ngã ba đời duyên đối ảnh

Trên đường hai cõi mộng tương quan

Thảo nào mưa nắng phai màu tóc

Đếm mỗi ngày qua một võ vàng

                                    TRẦN LỮ VŨ

          ƯU TƯ

Hôm nay trời đổ mây mù

Nha Trang mang nỗi ưu tư đáy lòng

Trôi theo đêm lạnh chiều đông

Ai mang giá rét ướp trong tim này

Nha Trang sóng vỗ từng ngày

Mà người tận mãi chân mây hiểu gì

                                TRẦN VĂN HỮU


            LỠ BƯỚC

Vịnh Nha Trang phủ sương mù

Đèo heo hút gió, chiều thu chạnh lòng

Thì thầm Xuân lại hỏi Đông

Có người lỡ bước, đứng trông phương này

Nước non vui thú tháng ngày

Hoàng lương giấc mộng tỉnh say được gì

                                 TRẦN VĂN HỮU

Trích yếu :

· Chạnh lòng: cảm động

Đêm khuya ngồi tựa gốc bồng

Sương sa lác đác chạnh lòng nhớ anh

· Lỡ bước: trót gặp chuyện không may

· Hoàng (là vàng) lương (là ): giấc mộng kê vàng


Thú chơi hoa kiểng

(Thập Thủ Liên Hoàn)


1. Cuộc đời sinh động kiểng cùng hoa

Tạo cảnh mỹ quan trước cửa nhà

Thưởng thức cây tùng hình – Ngũ Phúc

Nâng niu cội bách thế – Tam Đa

Phong Lam sắc Huệ niềm vui tới

Nguyệt Qưới hương Lài sức khỏe ra

Thỏa mộng bồng lai trong khoảnh khắc

Ví bằng ngoạn cảnh khắp sơn hà


2. Hà tất phải là rượu mới say

An nhàn kết bạn với tình cây

Con ong ghiền mật luôn đi lại

Cánh bướm mê màu mãi lượn bay

Giọt nắng chập chờn tăng vẻ đẹp

Ánh sương lấp lánh tạo thơ ngây

Muôn hồng nghìn tía, nghe cao hứng

Phước thọ liên hoan nối tiếp hoài


3. Hoài bão mơ màng như lớp sương

Kiểng hoa thú vị mấy ai tường

Nhị Long Ngọa Địa – trò ẩn náo

Nhất Trụ Kình Thiên – thế đỡ nương

Vạn Thọ cao niên luôn sống động

Phù Dung thấp số mãi vô thường

Lá non thay đổi cho cành úa

Đẹp mắt người trồng, chân lý vương


4. Vướng bận chương trình sớm đến trưa

Công lên chuyện xuống mãi say sưa

Tỉa cành săn sóc bao nhiêu đủ

Tưới nước chăm lo biết mấy vừa

Lựa giống cây trồng thêm trải nghiệm

Chọn nguồn phân bón định hơn thua

Muốn cho hoa kiểng luôn tươi tốt

Che chở nắng mưa bất luận mùa


5. Mùa kiểng trình bày để ngắm chơi

Bỏ bao công sức được khen lời

Tham quan nghệ thuật còn ưa thích

Gắm ghé bàng quan cũng chán khơi

Quân tử xem hoa tùy lựa chọn

Hiền nhân ngắm kiểng vẫn xin mời

Sá gì kèn cựa đồng tiền nước

Ý kiến người mua tợ ý trời


6. Trời đất âm dương tạo cõi trần

Cỏ cây tươi tốt dịp xuân phân

Tăng nhanh phát triển nhiều hao đạm

Đẩy mạnh quá trình ít tốn lân

Ẩm ướt mặt bằng khi nắng gắt

Xốp tơi gốc rễ lúc mưa tàn

Kiểng hoa tế nhị như người đẹp

Phải được quan tâm mỗi lúc cần


7. Cần kiểng chưng bày đẹp tại gia

Phô trương vạn vẻ dáng kiêu sa

Hoa bông ngụ ý lời cung chúc

Hoa kiểng coi như món tặng quà

Long Mã Hồi Đầu – câu ước nguyện

Long Đàn Phượng Vũ – khúc hòa ca

Linh hồn vạn vật bày tâm sự

Cùng với cao niên triết lý già


8. Già rồi phải có chút đam mê

Ghẹo kiểng đùa hoa mấy chỗ chê

O bế tạo hình cho được thế

Chắt chiu sửa dáng ép vào đề

Vui chơi bỏ mất giờ ăn uống

Thoải mái mang về giấc ngủ nghê

Tháng lụn ngày qua theo cuộc sống

Để quên tóc bạc lẫn nhiêu khê


9. Khê khê khô mực nhậu lai rai

Tiếp nối, phong lưu tháng với ngày

Chén rượu ân tình cần thế hiện

Chung trà cảm mến để trình bày

Mơ màng bóng nguyệt vào đêm tối

Sảng khoái vầng dương đến sớm mai

Cảnh vật lồng hoa thêm sắc sảo

Thỏa lòng nghệ sĩ rộn BonSai


10. BonSai sở thích toại lòng ta

Tấn thoái tùy duyên dệt mộng ngà

Hoa kiểng luôn luôn tươi tính trẻ

Kiểng hoa mãi mãi đẹp lòng già

Kiểng hoa vốn thú vui tao nhã

Hoa kiểng là men sống đậm đà

Kết bạn thiên nhiên bòn hạnh phúc

Cuộc đời sinh động kiểng cùng hoa

THANH CHÂU



(*) Thông thường mọi sự vật trên đời đều do luật nhân quả. Nhân tốt thì quả đẹp và ngược lại. Nhưng nhiều khi quy luật nhân quả trở thành nghịch lý, và chính cái đẹp nằm trong nghịch lý này. Phải không các bạn yêu thơ?


ĐỐ KIỀU

VÀNH NGOÀI BẢY CHỮ

Nghề chơi cũng lắm công phu

Làng chơi cũng phải biết cho đủ điều

Tú Bà giáo án Thúy Kiều

Vành ngoài bảy chữ học nhiều cho xong

Đố em bảy chữ nghĩa thông

Anh xin kết nghĩa làm chồng của em

Đáp:

1. Khấp là khóc nhớ thương yêu

2. Tiễn là cắt tóc thề điều đa đoan

Tỏ tình thắm thiết của nàng

3. Thích là xâm trổ tên chàng trên tay

4. Thiêu là hương đốt thề ngay

5. Giá là hò hẹn từ nay chẳng rời

6. Tẩu là khách hết tiền chơi

Rủ đi chạy trốn đến nơi đánh lừa

Để chàng vào bẫy xin chừa

7. Tử là thề chết chẳng vừa lòng nhau

                                                       BÁ KHOÁT


Hứa một, quên mười

Chợ bày la liệt mặt hàng

Nhưng khách bối rối hoang mang lạ lỳ

Nhìn mà chẳng biết mua gì

Trong lòng lo ngại thầm thì truyền nhau

Ăn rau sợ thuốc trừ sâu

Cá biển thì tàu lại ướp u – rê

Heo, bò và cả thịt dê

Lở mồm long móng khó bề yên tâm

Thịt gà lo sợ hát năm (H5N1)

Nước tương lại sợ có mầm ung thư

Cá, thịt lượng kháng sinh dư

Thanh tra, sản xuất bây chừ tin đâu?

An toàn thực phẩm hàng đầu

Ai ơi làm giàu cũng phải có tâm

Hãy vì lợi ích nhân dân

Nâng cao dần dần văn hóa kinh doanh

Mấy ông quản lý loanh quanh

Thông tin minh bạch và nhanh dân nhờ

Sản xuất chớ có mập mờ

Thanh tra xin chớ làm ngơ ăn tiền

Người tiêu dùng khắp mọi miền

Mau mau kiến nghị gửi liền cấp trên

Một lời trân trọng thì nên

Hãy đừng hứa một lại quên cả mười

                                         LÊ MINH CHỬ

Bất chợt xuân về

Xuân lại về rồi nữa đấy ư?

Ô hay không biết tự bao giờ

Cây mai trước ngõ hoa vàng óng

Chậu cúc bên thềm cánh mượt tơ

Rộn rã lòng người vương ý thắm

Xôn xao cảnh vật dậy hồn thơ

Bồi hồi tấc dạ như vang bóng

Một thuở thiếu thời rạng ước mơ...

THÙY DƯƠNG


      BỞI, VÌ (*)

Sen thắm vì bùn dưỡng trổ hoa

Hương thơm vì gió thoảng trên tòa

Biển xanh bởi sóng xuôi bờ cát

Nước vững vì dân giữ đạo nhà

Tơ óng vì tằm trơ xác nhộng

Nhạc êm bởi điệu khéo giao hòa

Thơ hay bởi ước không tròn mộng

Tình đẹp bởi người đã cách xa

                                THÙY DƯƠNG


TUYỆT VỜI XUÂN


Ngỡ lần đầu gặp mùa Xuân

Lòng xao xuyến lạ - bâng khuâng bồi hồi

Lạc vào bến Mộng xa xôi

Con tim ấm áp suối trôi lững lờ


Gió Xuân ngào ngạt hương thơ

Nắng Xuân thắm đượm ngẩn ngơ bàng hoàng

Nhạc Xuân say đắm nồng nàn

Tình Xuân bay bổng dịu dàng như ru


Rượu Xuân chén tạc chén thù

Lâng lâng lạc bước phiêu du non Bồng

Đêm Xuân trọn giấc mơ hồng

Hồn Xuân tha thiết hoài mong ngọt ngào


Duyên Xuân nhuộm thắm má đào

Mộng Xuân huyền diệu thầm trao chuyện lòng

Trăng vàng lơi lả bên song

Hương Xuân nhẹ thoảng – đồi thông rì rào

                                              NGÀN PHƯƠNG

      Vô chiêu

Ngày anh luận kiếm Hoa Sơn

Trăng còn bé bỏng, em còn trẻ thơ

Bởi trời chẳng lộ thiên cơ

Anh đâu biết có bây giờ là đây

Gặp người đối thủ non tay

Không cao bí kíp chẳng dày võ công

Nụ cười tin cậy mênh mông

Thấm qua kinh mạch mở lòng anh ra

Anh về trong cõi người ta

Trăng sao vằng vặc – cỏ hoa ngời ngời

Chợt hay công lực tan rồi

Em vô chiêu đã thắng người hữu chiêu!

Thiếu Khanh

(Nghìn Xưa Ðể Lại)




Gặp gỡ thoáng qua

Ôi, có những người tôi gặp gỡ

Chỉ một lần thôi cũng khó quên.

Lắm lúc lặng đi vì chợt nhớ,

Lại sưởi lòng tôi ấm áp thêm.

Dù chẳng bao giờ tôi gặp lại

Em – người tôi đã gửi yêu thương,

Thì như gieo hạt không chờ hái

Vẫn được mùa sai bát ngát hương…

29-1-1966

TS Vũ Đình Huy

MEETING IN A FLASH

Oh, there were people I’ve met

Only one time, but I couldn’t forget

At times, I turn stunned when suddenly thinking of them

While feeling warmer in my heart.

Although I’ve never met thee again

You – to whom I’ve offered my love

It’s like sowing seeds, with no plan to harvest

But I always have a so scented bumper crop…

29-1-1966

Dr. Vu Dinh Huy

Translated by Vu Anh Tuan



TÁO QUÂN
KHÔNG PHẢI CỦA RIÊNG NGƯỜI VIỆT NAM

Ông còn là thần bảo trợ của các gia đình Nhật, Trung Hoa, Hy Lạp

NHẤT THỤ

Hăm ba tháng Chạp tới rồi,

Hôm nay ông Táo về trời phải không?

Đường trời diệu vợi, mênh mông,

Ông đi hỏa tiễn? hay dùng phi cơ?

Văn minh thời buổi bây giờ,

Người ta tiến bộ nên lờ ông luôn

Ngựa ông, cá chép không còn,

Đầu ông, cái mũ cánh chuồn cũng không

Thói đời khoa học cuồng ngông.

Còn toan phế thải Táo Công về vườn.

Chỉ nói cách đây chừng hai mươi năm, mỗi dịp sửa soạn đón xuân về, tất cả mọi gia đình Việt Nam không thể nào bỏ qua được lễ ông Táo. Hôm ấy là ngày hai mươi ba tháng chạp âm lịch – tại sao lại hai mươi ba? – khi ấy cành nêu chưa dựng, bánh chưng chưa nấu, nhưng nhịp sống khắp nơi từ thành thị đến thôn quê bắt đầu lắng xuống, và mỗi bà nội trợ hôm đó đi chợ, không ai bảo ai, mà đều nhớ mua một con cá chép thật to. Cá phải lựa cho kỳ được con nào thật tươi, thật khỏe. Về đến nhà, việc đầu tiên là kiếm một chậu nước rồi thả vào, mặc cho cá bơi. Đàn trẻ nhỏ vừa tò mò, vừa thích thú, đang định lấy chiếc que chọc cho cá quẫy mạnh, thì đã bị mắng, vội rụt tay lại, nhưng không quên nêu ra câu hỏi ngây thơ:

– Mẹ ơi! Mua cá để làm gì?

Bà mẹ hiền, tuy hơi bực mình, nhưng cũng đành phải trả lời: “Cá để làm ngựa cúng ông Công”.

“Cá mà lại làm ngựa?”. Tất nhiên lũ trẻ phải nghĩ như vậy nhưng biết rằng chuyện cúng lễ là việc rất quan trọng của người lớn, hỏi thêm nữa có thể bị ăn đòn, nên chúng rủ nhau lảng đi chơi.

Thực ra, các vị nội trợ đảm đang và hiền từ của chúng ta nhiều lúc cũng phải tự mình hỏi mình: “Tại sao Táo Quân lại cần đến cá chép?”. Điều này, cho đến nay vẫn còn là bí mật, hoặc giả người nào đầu tiên đã đặt ra những tục lệ đó cũng chỉ do một sự tình cờ.

Lục trong đống sách vở cũ, chúng ta chỉ được biết thêm rằng cá chép có tên là “lý ngư” vốn được coi là một giống thông minh trong loài thủy tộc. Người ta còn chép truyện ở vực vũ môn, thuộc ngọn sông Dương Tử, tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu, có giống cá chép, hàng năm đến đó thi nhau nhảy, con nào vượt khỏi sẽ hóa rồng.

SỰ TÍCH VUA BẾP

Từ con cá chép đến ngựa ông Táo, rồi lại từ Táo quân đến ngày 23 cuối năm, quả thực phong tục tín ngưỡng của ông cha chúng ta đã có những gì rất đặc biệt nhưng cũng rất mịt mờ. Nhưng, chưa hết! Lễ ông Táo, ngoài con cá chép, có nhiều nhà kèm thêm hai cây mía dài, dựa hai bên bàn thờ, nói là làm gậy cho ông chống đi đường lên chầu trời. Không kể đến ba chiếc mũ cánh chuồn, ba bộ áo và ba đôi hia bằng giấy bắt buộc phải có, nếu không thì nhất định không phải là lễ Táo Công!

Nhắc đến con số 3 trên đây tức là phải kể đến chuyện cổ tích Táo Quân:

Ngày xưa, tại Việt Nam, có một cặp vợ chồng tên là Trọng Cao và Thị Nhi. Họ không có con, anh chàng Trọng Cao mê đánh bạc. Khuyên can chồng nhiều lần không được, Thị Nhi bỏ nhà ra đi. Một ngày kia, trên bước đường lưu lạc, nàng gặp một người đàn ông thương tình giúp đỡ và nhiều lần che chở. Cảm vì nghĩa, trọng vì tài, Thị Nhi kết duyên với chàng, tên anh là Phạm Lang. Trọng Cao đánh bạc thua nhiều, nên gia cảnh ngày càng sa sút, cho đến lúc hóa thành trắng tay. Buồn cho mình, lại nhớ đến người vợ khổ sở khi xưa, anh quyết chí đi tìm. Giữa một ngày 23 tháng Chạp cuối năm, định mệnh dun dủi dẫn anh tới cửa nhà vợ cũ, khi ấy đã ôm cầm thuyền khác. Gặp người chồng mặc dù xưa kia lầm lỗi, nhưng lúc đó đã thành một người hành khất, rách rưới đáng thương, Thị Nhi không cầm được lòng, lại nhân khi Phạm Lang đi săn vắng, liền đem cơm và quần áo ra giúp cho Trọng Cao. Tình xưa nghĩa cũ, đôi bên còn đang khóc lóc, hàn huyên, thì chợt Phạm Lang đi săn đã về tới cổng.

Trong một phút không kịp đắn đo, Thị Nhi tưởng như mình đang làm một việc lầm lỗi, ám muội. Nàng xui Trọng Cao ẩn vào trong một đống rơm ngoài sân bếp. Trớ trêu làm sao, Phạm Lang lại vừa săn được một con nai, nên anh quăng con vật vào giữa đống rơm rồi châm lửa đốt để làm thịt. Ngọn lửa bốc to, mà Trọng Cao vì không muốn làm hại đến danh giá của vợ cũ, nên đành chịu chết cháy. Thị Nhi thấy vậy cảm thương cũng nhảy vào đống lửa. Đến lượt chàng Phạm Lang, thấy vợ hủy mình, cũng nhảy vào lửa chết theo.

Chuyện kể tiếp rằng, về sau Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy cả ba người đều có tiết nghĩa nên phong cho làm ba vị thần Táo Quân, được dân gian hàng năm hương khói phụng thờ.

Tất cả giai thoại trên, nhằm giải nghĩa điển tích “hai ông một bà” đối với chúng ta, chỉ là một chuyện tưởng tượng vừa ngớ ngẩn vừa buồn cười. Có thể một câu chuyện tương tự đã từng xảy ra, nhưng tất nhiên nó không liên quan gì đến ông “Vua Bếp”.

TÁO QUÂN TRUNG HOA

Bằng chứng là người Trung Hoa cũng có Táo Quân. Ông Táo Tàu được liệt kê trong danh sách những vị thần của Lão Giáo, trông coi việc nhân gian. Theo đạo Lão, thế gian chia làm ba giới: thiên đình, âm phủ và thủy phủ. Đứng đầu hết là Thái Thượng Lão Quân, ở thiên đình thì có Tứ Đại Thiên Vương, Nhị Thập Bát Tú, Lôi Thần, Vũ Thần, Vân Thần, và Phong Thần. Trông coi việc nhân gian là Nam Tào coi việc sanh, Bắc Đẩu giữ sổ tử cùng với Ngũ Phương Thần, Tứ Thời Thần, Đương Niên Thần, Đương Cảnh Thần, Thành Hoàng Thần, Thổ Công, Táo Quân, Môn Thần, Tài Thần Văn Xương Đế Quân, Quan Thánh Đế Quân… Ở âm phủ thì có Thập Điện Diêm Vương Địa Tạng Vương; thủy phủ có Tứ Hải Long Vương cùng các vị Hà Bá.

Táo Quân Trung Hoa rất linh thiêng, có lẽ vì ông ở trong bếp nên biết hết chuyện của người đời. Hàng năm, vẫn theo sách vở Lão Giáo, thì cứ đến ngày 23 tháng Chạp, cách một tuần bước sang năm mới các vị Táo Quân lại trở về trời để tâu hết việc thiện ác của nhân gian.

Hà Nguyên Phủ, một học giả đời Thanh, trong cuốn “Táo Công truyện” và “Táo Công kinh”, kể rằng thi sĩ Tô Đông Pha, khi làm Thái Thú đất Tô Châu, đã nhờ Táo Quân hiển linh, mà diệt được bệnh thiên thời, cứu nguy cho dân chúng. Vào một đêm 23 tháng Chạp, Thái Thú họ Tô, nằm mơ thấy một vị thần mũ cao áo dài, tự xưng là Táo Quân, cưỡi ngựa đến trước phủ, kêu ông mà bảo rằng: “Đất Tô Châu này hung thần nhiều, cát thần ít. Các vị cát thần thấy hung thần lộng hành quấy phá nhân gian nên chán nản bỏ đi. Bọn hung thần mặc sức hoành hành, nhiễu hại dân lành, bắt đem về nộp cho Diêm Vương, xung vào đội binh quỷ sứ. Vậy muốn dân được bình yên, phải giết trâu bò làm lễ cúng các hung thần, cầu xin họ dời đi nơi khác”.

Tô Đông Pha, tỉnh dậy, làm theo lời Táo Quân truyền, quả nhiên sang năm sau bệnh dịch biến hết. Nhớ ơn ông Táo mách bảo, Tô Thái Thú truyền cho dân trong toàn hạt Tô Châu, từ đó mỗi năm cứ đúng ngày thần mộng, lại sắm áo mũ giấy, ngựa giấy để cúng Táo Quân, tiễn đưa ông Táo lên trời.

Tục lệ cúng hia mũ cho ông Táo có lẽ bắt đầu từ đời nhà Thanh truyền khắp nước Trung Hoa rồi sang Việt Nam.

Lễ ông Táo, nếu theo đúng sách, phải lập hai bàn thờ, bởi vì theo thuyết của Hà Nguyên Phủ: Táo Quân có hai vị, một vị coi sóc tật bệnh, một vị xem xét tội ác, nên phải cúng hai bộ y phục giấy, ngựa giấy mới đủ.

Người Việt Nam thường cúng Táo Quân và khấn theo sách “Thọ Mai Gia Lễ” của Hồ Gia Trân: “Đông Trù tư mệnh, Táo Phù Thần Quân, cúi xin chứng giám. Ngày tháng thoi đưa, năm vừa tháng Chạp, các tội lỗi đầu năm chí cuối, xin ngài châm chước ít nhiều. Trong cửa nhà, từ trẻ đến giá, xin ngài phù hộ cho mạnh khỏe”.

Ngày lễ Táo Quân, tại miền Nam trước đây, có tục đốt hết chân hương ở bàn thờ, rồi thay cát trắng mới vào mấy bình hương.

Người ta thường lẫn Táo Quân với Thổ Công. Thổ Công là vị thần được thờ phụng suốt năm, bất cứ ngày kỵ lạp nào cũng phải được nhắc đến. Và Táo Quân cũng không phải là vị thần Hành khiển được cúng vào chiều ba mươi cuối năm. Sách “Chu Lễ” có từ đời nhà Châu, cho rằng có 12 vị thần Hành khiển lần lượt thay đổi nhau:

Năm Tý : Lý Tào phán quan, Chu vương hành khiển.

Năm Sửu : Khúc Tào phán quan, Triệu vương hành khiển.

Năm Dần : Tiêu Tào phán quan, Ngụy vương hành khiển.

Năm Mão : Liễu Tào phán quan, Trịnh vương hành khiển.

Năm Thìn : Biểu Tào phán quan, Sở vương hành khiển.

Năm Tỵ : Hứa Tào phán quan, Ngô vương hành khiển… vân vân và vân vân.

TÁO QUÂN HY LẠP

Trong bầu không khí rét mướt của một chiều cuối đông, hai bàn thờ đặt trước sân bếp, những nén hương khói lên cuồn cuộn, tiếng xuýt xoa khấn vái của vị gia chủ khăn đóng áo dài, với bóng dáng vô hình của các vị linh thần lẩn khuất đâu đây, làm tăng thêm sự trang trọng của thời gian và của kiếp người. Bầy trẻ nhỏ thì thầm bảo nhau: “Thế là ông Táo đã lên chầu trời!”. Trong bếp, bà mẹ hiền đang đốc thúc gia nhân đem mấy cỗ đầu rau, mấy chiếc hỏa lò năm cũ ra chôn ngoài vườn, rồi quét dọn bếp nước sạch sẽ, đặt vào đấy vài cỗ đầu rau mới.

Nhìn vào cỗ đầu rau, chúng ta chợt hiểu cái bí ẩn của sự tích “hai ông một bà”: bà đầu rau chính là khối đất nặn nhẵn nhụi chắc nịch đặt ở giữa, với hai “ông” là hai khối đất khác, mảnh mai và hơi cao hơn, đặt phía trước, phân ra hai bên.

Táo Quân, Táo Công hay “Vua Bếp” của chúng ta chính là hình ảnh tượng trưng cho mỗi gia đình, chồng vợ, cha mẹ, anh em, con cái sống chung dưới một mái nhà, vui vẻ có nhau, lo buồn có nhau.

Cùng một văn minh Đông Phương người Nhật Bản hình dung Táo Quân bằng vị thần Inari. Thần Inari Nhật không thờ trong bếp, mà lại thờ ngoài vườn. Cũng như Táo Quân, Inari bảo vệ cho từng gia đình, và mỗi năm phải được cúng vào ngày Ngọ thứ nhất. Inari lại có hai chú hồ ly là bộ hạ, làm môi giới trần gian. Bởi vậy muốn được Inari ban phúc cho trước hết phải lo lót với hai chú hồ ly, được tạc tượng miệng ngậm một chiếc thìa khóa. Thần Inari có đền thờ chính tại tỉnh Yamasiro, ngày nay là Usimi. Thần rất ưa được cúng bằng những chiếc bánh đậu hũ chiên, gọi là “Gammodoki”. Thần là một trong vô số các vị Kami, linh thần ban phúc giáng họa cho trần gian.

Người Tây Phương, khi mới đặt gót tới Việt Nam và Trung Hoa, thấy có tục thờ cúng Táo Quân, họ liền theo thần thoại Hy Lạp mà dịch “Vua Bếp” là Dieux Lares.

Lares, Táo Quân Hy Lạp, vốn có nguồn gốc từ văn minh étrusque, cổ Ý Đại Lợi, phát triển rất sớm từ hơn một ngàn năm trước Thiên Chúa kỷ nguyên. Lares là vị thần chủ yếu của mỗi gia đình, dưới vị thần này còn có các “dieux mânes”, nói chung những người đã khuất. Thần Lares được thờ chung với thần Pénates, trông coi về sự thịnh vượng sung túc, cũng như người giữ thức ăn. Táo Quân Hy Lạp được hình dung với một con chó nằm phủ phục dưới chân. Mỗi buổi sáng, thần được cúng dâng các món ăn, hoa trái và rượu chát. Táo Quân cũng được người Hy Lạp tượng trưng bằng ngọn lửa để trên bàn thờ mỗi gia đình, và phải được giữ cho không bao giờ tắt. Sự tín ngưỡng thần thoại làm cho người ta tin rằng, nếu không may ngọn lửa thờ bị tắt đi, thì gia đình không thể thoát khỏi sự lụn bại suy vong. Không cứ mỗi nhà có Táo Quân, mà mỗi làng, mỗi tỉnh, quốc gia đều có một Táo Quân. Khi nào, thành phố gặp tai nạn, bị phá hủy, thì người ta phải cố gắng bảo vệ ngọn lửa thiêng và mang đi nơi khác. Do đó, thần thoại Hy Lạp có câu chuyện hòang tử Eneé, khi thành Troie bị người Hy phá hủy, mang lửa thì Táo Quân trốn, sang miền Ý Đại Lợi ngày nay, kết duyên với nàng Lavinie, rồi lập ra xứ La Mã.

ÔNG TÁO VẪN CÒN

Ngày nay, trừ ra một số rất ít gia đình nệ cổ còn giữ tục cúng ông Táo, ông “Vua Bếp” linh thiêng cưỡi cá chép, đội mũ cánh chuồn đã gần biến hẳn trong nếp sinh hoạt của người dân Việt Nam. Khoa học văn minh với những bếp điện, tủ lạnh, đã đánh những đòn cuối cùng để kết thúc chiến dịch “Chống ông Táo” khởi đầu từ phong trào văn nghệ Tự Lực văn đoàn với những tuần báo trào phúng “Phong Hóa” và “Ngày Nay”, kể từ khoảng năm 1935.

Táo Quân không còn nữa trong tín ngưỡng, nhưng dưới một hình thức khác, vẫn còn tồn tại trong văn chương. Hàng năm, trong những tập báo Xuân, hay báo Tất niên, chúng ta vẫn có những bài “lập bô” của ông Táo, kết toán niên đế, với những giọng hài hước, cay chua. Trong một số báo tết “Phong Hóa” trước đây, các nhà văn Tự Lực đã diễu ông Táo bằng một bài thơ về sự “không mặc quần”.

Hăm ba ông Táo dạo chơi Xuân

Đội mũ đi hia, chẳng mặc quần

Trời hỏi: “Làm sao ăn mặc thế?”

Thưa rằng: “Hạ giới nó duy tân!”

Hẳn không còn ai lấy những chuyện diễu cợt đó làm phiền lòng. Cũng như chúng ta đã từng thích thú và buồn cười khi ngâm nga những vần “Gởi ông Táo” của một thi sĩ nho gia: Đồ Cổ.

Hôm nay tháng Chạp, hăm ba,

Phố phường nhộn nhịp sao nhà vắng không?

Lẽ ra vàng khối, mũ rồng

Bởi chưng thua bạc nên không có gì.

Lòng thành xin tiễn ông đi

Thiên đình cuốc bộ, ông thì tâu cho

Tâu dùm cho phận nhà nho

Ơn trời mạnh giỏi ấm no đủ dùng

Không ham gì miếng đỉnh chung

Không cầu phú quý, không mong phát tài

Đã bao nhiêu bận tâu trời

Mỗi năm một lượt, phí lời không đâu

Năm nay chán chẳng buồn tâu

Máy mồm dặn với mấy câu gọi là

Để tôi trêu cụ Trời Già

Điên gan, cụ tức thằng cha dở người.

…………………………………

Cái duyên của Táo Quân với báo chí Việt Nam hẳn sẽ còn dài. Dưới mỗi ngọn bút đặc sắc, ông Táo biến thành muôn hình muôn vẻ. Biết đâu đấy không là một cách hiệu nghiệm nhất để giữ lại những sắc thái của dân tộc, những vang bóng của nếp sống cũ, mà thời đại văn minh nguyên tử luôn luôn bắt buộc chúng ta phải gạn lọc khắt khe, đem sắp xếp nó vào những tủ sách, những viện Bảo tàng.


ĐỖ THIÊN THƯ st.

Phụ Bản III

ĐỀ THÁM ĐÒI GƯƠM

PHẠM ĐAN QUẾ

Khoảng những năm 50 thế kỷ 20, ký giả Nguyễn Dương Vân có giới thiệu một tài liệu nói là rút ra ở tập Di cảo của Học giả Nguyễn Văn Tố, còn lại ở Viễn Đông Bác Cổ. Chúng tôi xin lược lại và giới thiệu với bạn đọc tài liệu trên như một tư liệu tham khảo. Tính chính xác của câu chuyện cần phải nghiên cứu nhưng ít nhất nó cũng cho ta thấy sự ngưỡng mộ của nhân dân với người anh hùng chống xâm lược Hoàng Hoa Thám.

*

Hồi năm 1937, học giả Nguyễn Văn Tố đang làm việc tại Viện Viễn Đông bác cổ Hà Nội với tư cách thường trực Viện thì có một người Pháp đến xin gặp. Đó là đại tá Chofflet( [1] ) đã ngoài 80 tuổi cùng đi với một cô con gái nuôi người Việt trạc 30 tuổi. Đại tá đề nghị học giả thay mặt Viện nhận lại đôi gươm của Đề Thám mà ông lấy được tại chiến trường như một chiến lợi phẩm và ông luôn giữ tại HANOI HOTEL nơi ông ở từ khi về hưu năm 1913 đến lúc ấy đã trên hai mươi năm.

Đôi gươm ấy do một người họ Trịnh đã bảy đời chuyên nghề rèn gươm ở Quảng Châu đúc cho tổng đốc Lưỡng Quảng là Hà Châu Phiên đã từ gần hai thế kỷ. Vì vậy trên cán gươm có khắc 4 chữ: Hà Thị Thiện Sử. Hình như họ Hà có dự vào đạo binh Tôn Sĩ Nghị sang Việt Nam bị đánh bại và đã bị mất đôi gươm này. Đến khi gươm về tay Đề Thám thì người ta đã khắc chữ Hoàng đè lên chữ Hà trước khi dâng lên ông. Chofflet có gửi đôi gươm này về Pháp cho chuyên viên kiểm tra lại thì quả thấy chữ Hoàng chồng lên chữ Hà và nhận rằng thứ thép gươm không kém thép Blue steel of Lancashire dùng rèn gươm cho hoàng tộc Anh. Chofflet rất quý đôi gươm đó và thường để trong tủ kính nơi phòng khách, nay phải đem nộp cho Viện bác cổ cũng vì một lý do hết sức kỳ lạ. Sau đây là lời trình bày của Chofflet:

1. ĐÊM 10-2-1913 (tức mồng 5 tháng giêng Quý Sửu)( [2] ).

Tôi mộng thấy một chiến sĩ ăn mặc như người sơn cước thân cao vai rộng nước da sậm hiện ra giữa phòng khách của tôi. Sau khi nhìn kỹ, tôi lấy làm kinh dị bởi hình người không có đầu. Người này đi tới đi lui một hồi rồi đến đứng rất lâu trước tủ kính mà nhìn vào đôi gươm, đoạn tới chỗ tôi nằm, chờm thân mình vào màn rồi biến mất. Tôi la lớn và giật mình tỉnh dậy. Mặc dù kinh sợ tôi cũng cho rằng vì ban ngày mình thấy rõ đầu và thân của Đề Thám nên quá xúc cảm mà ban đêm mơ thấy như vậy chăng.

2. ĐÊM SAU.

Đêm sau tôi lại chiêm bao thấy Đề Thám lần đến trước màn và tôi có cảm giác nghe thấy tiếng nói: - Mi có trả đôi gươm cho ta không?

Tôi rất muốn trả lời nhưng không sao nói được. Hình Đề Thám tỏ vẻ giận dữ, hai tay cầm hai thanh gươm bẻ gãy thành tiếng chát óc điếc tai làm tôi giật mình tỉnh dậy. Tôi nhảy xuống giường, bước vội lại chỗ hình người đã đập gãy đôi gươm với ý định lượm những mảnh gươm gãy. Nhưng dưới gạch trống trơn không có vật gì. Tôi chạy lại tủ kính thì thấy khóa vẫn y nguyên, đôi gươm vẫn còn bày nơi thường lệ. Từ đó về sau thỉnh thoảng tôi nằm mộng thấy ông về luôn luôn. Vào cuối năm ấy (1913), tôi bỗng có ý định bắt chước các vọng tộc Việt Nam đặt chéo đôi gươm trên tường cùng với các báu vật khác để trang hoàng căn phòng.

3. ĐỀ THÁM LẠI HIỆN RA .

Độ một tháng sau lần treo gươm trên tường, đến ngày giỗ Đề Thám là ngày mồng 4 tết, đêm ấy sau khi đọc sách, tôi vừa nhắm mắt thiu thiu thì trong phòng bỗng lóe ra một ánh sáng rồi tắt đi liền. Bất giác tôi nhìn lên tường chỗ treo đôi gươm thì thấy giữa đôi gươm bắt chéo, Đề Thám hiện ra, đôi mắt trợn lên, liếc qua liếc lại. Tôi có kể chuyện cho một người bạn sĩ quan là tín đồ Thông Linh học, ông khuyên tôi biên thư về Pa-ri hỏi tập san Thông Linh (Revue Spirite) nhờ giải thích hiện tượng này. Bốn tháng sau, viên chủ nhiệm kiêm chủ bút phúc đáp rằng hiện tượng đó xảy ra ở nhiều nơi không riêng gì ở Việt Nam và khuyên tôi trả lại gươm để tránh những điều không hay về sau…

Bắt đầu từ đó, tôi không dám khinh thường sự hiện về của Đề Thám nữa. Tôi nhận rằng có nhiều lúc tôi định trả gươm nhưng lại tự hỏi: Trả cho ai bây giờ? Đành rằng trả cho con cháu nhưng tôi biết Đề Thám chỉ có một con gái là Hoàng Thị Thế hiện ở Pháp. Như vậy thì làm sao trả? Mặt khác, một sĩ quan chuyên nghiệp như tôi há không có quyền giữ lấy chiến lợi phẩm hay sao? Dù còn sống ở thế giới bên kia, theo ý tôi, ông cũng không bắt được tôi phải trả.

Nghĩ như vậy nên trí tôi bình tĩnh lại và trong khoảng mười năm (bắt đầu từ 1922) tôi không để ý gì đến ông Đề Thám nữa, có lẽ vì tôi thấy những lời đe dọa của ông không đem lại hậu quả gì khó khăn cho tôi. Nhưng bỗng nhiên một hiện tượng bất ngờ làm xáo trộn các ý định của tôi.

Sau khi về hưu, tôi ăn ở luôn tại Hanoi Hotel. Chỗ tôi ở là một căn phòng rộng lớn cùng với con gái nuôi tôi. Tôi không còn bà con gì ở bên Pháp và sống tại Việt Nam quá nửa đời người, tôi định gửi xương nơi đây mà tôi xem như quê hương thứ hai của mình. Bỗng một hôm tôi nhận được thư của một vị chưởng khế bên Pháp cho biết rằng một người anh con bác xuất ngoại sang Mỹ đã từ trần và vì không có con cháu nên di chúc để lại gia tài cho tôi. Gia sản ấy khá lớn gồm vài bất động sản tọa lạc tại đất Pháp. Vì thế, tôi nhất định trở về Pháp và sẽ ở luôn bên ấy vì tôi đã ngoài 80 tuổi rồi.

4. ĐỀ THÁM HIỆN TRỞ LẠI.

Đúng ba ngày sau bức thư trên, tôi chiêm bao thấy Đề Thám. Lần này ông có đầu và là một vị tướng lĩnh oai vệ có hai tên theo hầu ăn mặc như quân lính Việt Nam trong những buổi lễ rước thần. Đêm hôm ấy, nói cho đúng, tôi thực chưa ngủ thì bỗng Đề Thám hùng dũng hiện ra trước mặt, trợn mắt nhìn tôi. Điều lạ là lần này tôi không thấy kinh sợ như mấy chục năm về trước. Tôi nghe rõ lời ông la lối đe dọa gay gắt đòi gươm mặc dù đôi môi ông không hề động đậy.

Thấy tôi im lặng, ông nổi giận ra hiệu cho hai tên lính trói tôi lại. Ông dùng ngón tay trỏ chỉ vào mặt và bảo nếu ba ngày nữa không trả gươm thì ông sẽ cho biết tay. Ông vừa dứt lời thì một tên lính đá tôi một cái làm tôi giật mình tỉnh dậy.

5. THẾ RỒI SANG NGÀY THỨ NĂM.

Tôi đang ngồi đọc sách thì bà X. ở cạnh phòng tôi sang gõ cửa đưa thư. Tôi đứng ngay dậy ra cửa lấy thư. Bà X. vừa quay lưng đi thì bỗng nghe một tiếng "rầm": một mảng trần nhà to tướng rơi ngay vào chỗ tôi vừa ngồi ban nãy. Nếu như mọi ngày chị Ba, cô hầu của bà X. đưa thư sang thì tôi vẫn ngồi yên nhận thư thì chắc là không thoát chết. May hôm đó chị Ba đi vắng. Liệu có phải Đề Thám bắt đầu thực hiện kế hoạch của ông không? Hay do tôi luôn bị ám ảnh nên sợ quá vận ngay những việc ngẫu nhiên vào mình…

Độ một tuần sau, tôi lại mộng thấy ông Đề. Lần này, ông đòi quyết liệt hơn: ông bảo đấy mới là cảnh cáo sơ sài.

Chuyện hơi đặc biệt là ở chỗ: tôi ở khách sạn này đã gần 30 năm mà hàng năm chủ khách sạn đều cho người kiểm tra sửa chữa những chỗ hư hỏng, việc này lại vừa tiến hành được 15 hôm nay. Thế thì sao trần nhà lại sụt, nó đâu có nứt rạn gì, con gái tôi cũng tin như thế và lại khuyên tôi nên trả ngay gươm.

6. TÔI ĐỔI PHÒNG.

Mặc dù định trả, tôi vẫn tò mò muốn biết Đề Thám sẽ hành động thế nào nữa đây? Nhân dịp chủ khách sạn xây thêm một tầng lầu, tôi liền đổi chỗ đến một phòng vừa xây xong.

Ngay đêm đầu tiên ở phòng mới, tôi đã mộng thấy ông Đề. Ông lại hầm hầm giận dữ đòi gươm và lại hẹn cho ba ngày phải trả. Nói xong ông biến mất. Không hiểu sao lần này tôi đâm hoảng sợ đến sởn gai ốc.

Hai ngày trôi qua, sang ngày thứ ba tôi vẫn cẩn thận để ý đề phòng. Cho đến 7 giờ tối…

7. NGUY HIỂM ĐẾN NƠI.

7 giờ tối, người bồi đã mang cơm lên phòng. Bỗng chẳng biết tại sao khách sạn mất điện: một hiện tượng rất ít xảy ra. Hôm ấy lại là đêm Trung thu, tôi định tìm ra chỗ sáng để ăn nhưng lại sợ có gì xảy ra chăng. Vì có thói quen ăn nóng nên lưỡng lự mãi, tôi đành chuyển ra bàn gần cửa sổ. Vừa húp xong đĩa súp thì bỗng "đoành" một viên đạn từ đâu sượt qua thái dương, tôi la lên một tiếng rồi bất tỉnh. Khi tôi tỉnh lại, bác sĩ nói nếu viên đạn đi chệch độ một phân thì đầu tôi chắc chắn đã không còn nguyên vẹn như vậy.

Sau mới tìm ra nguyên nhân là một tên lính mới tuyển của viên thiếu tá nhà bên lau súng sơ ý để đạn nổ… Cùng với việc trần nhà sụp, tôi đã thấy hai cuộc đe dọa đều có kết quả: Như thế là Đề Thám có uy thế hẳn hoi. Tôi quyết tâm trả gươm.

Đêm đó, tôi lại mộng thấy ông Đề với bộ mặt vui vẻ cảm ơn ý định trả gươm của tôi. Nhưng tôi thắc mắc hỏi ông: - Đành rằng tôi trả gươm, nhưng trả gươm cho ai, thưa ông?

Ông Đề suy nghĩ một lúc rồi nói: - Tôi chỉ còn một đứa con gái là Hoàng Thị Thế hiện ở bên quý quốc đã có hai con với người chồng Pháp, chắc đại tá biết rõ. Nếu muốn làm tôi vui lòng, xin đại tá thương lượng với con gái và rể tôi, chắc chúng nó sẽ hân hạnh tiếp nhận kỷ vật của tôi.

Tôi bảo con gái viết thư ngay cho kỹ sư Ferrand, con rể ông Đề tại Mézières. Sau bốn tháng không thấy hồi âm, tôi giục nó viết bức thư thứ hai mà phải một tháng sau mới có thư phúc đáp.

Thư ấy làm tôi suy nghĩ khá lâu. Ông không chịu nhận nó viện lẽ vợ ông đang bị đau tim, đôi gươm ấy có thể khêu gợi những kỷ niệm không tốt làm vợ ông khó lành bệnh. Cuối cùng ông viết: "Nếu ngày nay, tôi phô bày ra các vật ấy, chẳng khác nào tôi lật lại những trang sách quá khứ đẫm máu làm hoen ố tình bang giao giữa hai nước nói chung và có phương hại đến quan hệ tình ái giữa vợ chồng tôi nói riêng. Tôi nghĩ tốt hơn hết là chúng tôi không nhớ gì về cái quá khứ đáng tiếc ấy".

Bức thư này đặt tôi vào một tình trạng khó xử. Nhưng chính đêm ấy, ông Đề lại hiện về lần nữa và buồn bã nói: - “Con gái tôi đã quyết tình quên chuyện cũ, tôi để cho đại tá trọn quyền sử dụng đôi gươm ấy. Tôi chỉ có một điều kiện: Đôi gươm ấy không thể đem về bên Pháp. Đại tá có thể đem tặng cho một nhà bảo tàng trong xứ chúng tôi nếu không thể trao lại cho con cháu một trong 5 cận vệ thân tín của tôi là Phong, Lôi, Vũ, Hỏa và Điện. Nhất là con cháu của Phong vì Phong là người trung hậu và khí tiết rất cao: Chính quý quốc muốn mua chuộc nó rất đắt giá mà nó không hề chịu nhận. Vả lại con gái nuôi của đại tá cũng là con đẻ của Phong chỉ tiếc nó là con gái không thể nối dõi tông đường. Nếu có thể, nó ráng đi tìm tông tích người anh trai của nó mà trao lại đôi gươm càng tốt".

*

Đại tá Chofflet nói tiếp với học giả Nguyễn Văn Tố: "Chính vì muốn thỏa mãn ý của ông Đề mà tôi đã tốn nhiều tiền để tìm cho được miêu duệ của năm người cận vệ của ông. Nhưng đã ngoài 20 năm tang thương biến đổi cũng không mấy ai còn nhớ! Bởi các lý do kể trên, tôi tự xem như là có nghĩa vụ thiêng liêng đem đôi gươm tặng cho Quý Viện".

*

Và như vậy đáng lẽ đôi gươm ấy hiện còn ở viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Tuy nhiên từ năm 1937 đến nay, biết bao đổi thay dâu bể, lại qua hai cuộc chiến tranh hiện đã không biết đôi gươm có còn không? Thực là đáng tiếc, đôi gươm tượng trưng cho trang sử oanh liệt chống ngoại xâm của dân tộc liệu còn được tàng trữ tại nơi nào trên đất nước Việt Nam không?

PHẠM ĐAN QUẾ

[1] Năm 1909 Chofflet mới là thiếu tá được thống tướng Geil cử đi cứu Voisin bị Đề Thám bắt cóc và sau này, nhiều lần tham gia đàn áp nghĩa quân.

[2] Đề Thám bị sát hại ngày 9-2-1913. Bọn Lương Tam Kỳ đã chặt đầu ông dâng lên đại uý Nhã Nam Bouchet ngày 10-2-1913.

--------------------------

Địa chỉ liên hệ: Phạm Đan Quế, 18/42 đường Trần Quang Diệu, Phường 14, Quận 3, TP Hồ Chí Minh, ĐT số 08. 8435270

NEW ENGLAND

– NƠI HOA KỲ LẬP QUỐC

YANKEE

T ừ này đối với dân khu vực Nam Hoa Kỳ, “ Yankee ” có thể mang ý nghĩa dân miền Bắc. Với các dân tộc ở các nước khác thì “Yankee” nghĩa là người Mỹ. Nhưng, được dùng thật chính xác thì “Yankee” có một ý nghĩa rõ ràng hơn: Yankee liên hệ tới dân sống trong khu vực New England (Tân Anh Quốc) – khu vực rất giống “Cựu”Anh Quốc gồm 6 tiểu bang: Main, New Hampshire, Vermont, Massachusetts, Rhode Island và Connecticut

Yankee của New England có cá tính riêng biệt, được kết tinh từ lịch sử và địa lý của khu vực. New England đã được những người Thanh Giáo (Puritans) đến từ Anh Quốc khai khẩn vào những năm 1600. Thanh Giáo là một nhóm tôn giáo chống lại nghi thức của Anh Giáo. Họ muốn “làm thanh khiết” tôn giáo, khiến tôn giáo trở nên nghiêm ngặt hơn và đơn giản hơn. Họ cũng rất không khoan dung về cách sinh sống cúa người dân. Chẳng hạn, khi một thuyền trưởng trở về nhà sau 3 năm hải trình, hôn vợ mình ngay trên thềm cửa, anh ấy bị cảnh cáo nơi công cộng.

Vậy thì cá tính của Yankee là trung thực nhưng khôn ngoan, thực tế hơn là lãng mạn; ít nói, tần tiện, nguyên tắc và tự lập.

Cá tính trên của Yankee có thế lý giải vai trò đặc biệt mà khu vực New England đảm đương trong lịch sừ lập quốc của Hoa Kỳ.

BOSTON – THỦ ĐÔ KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP

Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ kéo dài từ 1775 tới 1781. Thành phố Boston (đặt theo tên một cảng nằm ở đông bắc Anh Quốc và cũng là tên của điệu slow waltz theo tiếng Pháp) của tiểu bang Massachusetts (đặt theo tên một bộ lạc Da đỏ, có nghĩa “đồi lớn”) thuộc khu vực New England – đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc tranh đấu giành độc lập. Chính những biến cố tại Boston đã dẫn đến Cách Mạng.

Du khách có thể thăm những cột mốc Cách Mạng bằng cách dạo một vòng “Con Đường Tự do”:

1. Đường Tự do bắt đầu tại “Boston Common”. Ngày nay là một công viên, Common thời xưa là khu đất trống dùng để hành hình tử tội và làm trại lính. Khi người Anh chiếm Boston vào năm 1768, họ đóng quân ở đây và trận đánh đầu tiên với dân 13 Thuộc địa xảy ra tại Common.

2. Trong thời gian dẫn đến Cách Mạng, “Old South Meeting House” là một nhà thờ và, như tên gọi, là một nơi hội họp quan trọng của dân Boston. Ở đây, các nhà lãnh đạo như Samuel Adams đã đọc diễn văn khơi gợi những cảm xúc của 13 Thuộc địa. Chỉ vài giờ trước khi “Boston Tea Party” (dân giả dạng làm Da đỏ, ném nhiều thùng trà xuống vịnh Boston, để phản kháng người Anh), hàng ngàn dân mới họp để thảo luận về thuế trà quá cao.

3. “Old State House” là tòa nhà từ nơi này, người Anh cai trị thuộc địa Massachusetts. Vào ngày 18-7- 1776, bản Tuyên ngôn Độc lập được tuyên đọc từ ban công tòa nhà này. Tượng sư tử và kỳ lân, quốc huy của người Anh bị hạ bệ. Đường phố phía ngoài tòa nhà State House cũng là nơi xảy ra “Boston Massacre” (người Anh trả đũa và gây ra cuộc thảm sát dân Boston) vào năm 1770.

4. “Faneuil Hall”, đôi khi được gọi là “Nôi của Tự do”, có chức năng vừa là ngôi chợ (tầng dưới) vừa là nơi hội họp (trên lầu). Sau bị người Anh chiếm mất.

5. Đường Tự do đi tiếp đến khu Bắc Boston, ở đây du khách có thể thăm “Ngôi nhà của Paul Revere” – là một thợ bạc và một anh hùng nổi tiếng của Cách Mạng.

6. Chặng cuối của Đường Tự do là “Bunker Hill”. Dân Thuộc địa bảo vệ nơi này chống lại một đội quân Anh hùng hậu hơn. Tuy sau bị thua, nhưng đã gây thiệt hại lớn lao cho quân Anh. Sự kiện Bunker Hill thuyết phục dân Thuộc địa chiến đấu hăng say hơn. Đối với dân Thuộc địa, đó là chiến thắng trong chiến bại.

Chính vì thế, tiểu bang Massachusetts được vinh dự mang Zip code là: 01 xxx và 02 xxx (xxx chỉ Thành phố, Hạt, Thị trấn thuộc Tiểu bang đó)

THỦ ĐÔ ĐẦU TIÊN: PHILADELPHIA

Thành phố này đã có có 300 năm lịch sử, không những là Thủ đô đầu tiên của Hoa Kỳ mà còn có chiếc Chuông Tự Do (Liberty Bell) – quốc bảo thứ hai, chỉ sau Tượng Nữ thần Tự Do của đất nước non trẻ này. Chính tiếng Chuông từng vang lên khi người Mỹ tuyên đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” vào ngày 4-7-1776 – mà hơn 100 năm sau đó mới có Tượng Tự Do – và Chuông Tự Do cũng ngân lên vào năm 1787 khi Hoa Kỳ công bố bản “Hiến Pháp” đầu tiên trên thế giới, kết hợp 13 tiểu bang thành Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ với nguyên tắc “Tam quyền phân lập” (Check & balance), quy định chế độ Tổng Thống với sự kiếm soát chặt chẽ của Quốc Hội và Tối cao Pháp Viện với 9 vị Thẩm phán có nhiệm kỳ suốt đời; mà cho tới nay đất nước này chưa hề có một cuộc đảo chánh nào cả.

Philadelphia , có nghĩa là “tình huynh đệ” (brotherly love) trong tiếng Hy Lạp - là thành phố lớn nhất của tiểu bang Pennsylvania. Tên tiểu bang là do ghép tên vị có công sáng lập là William Penn, một tín đồ Thanh giáo bị bức hại, phải lưu vong sang lục địa mới, ông đã mở mang vùng đất này, thành lập vùng thuộc địa Penn + sylvania (có nghĩa “khu rừng”) được nhà vua Anh công nhận. Suốt đời ông cổ súy cho nền độc lập của 13 thuộc địa, xây dựng nền cộng hòa và bảo vệ tư do tín ngưỡng và là một trong những “Quốc phụ” đặt nền móng cho Liên Bang mới này nên William Penn được dựng tượng toàn thân trên Tháp trung tâm của Tòa thị chính Philadelphia.

Năm 1776, đại biểu của 13 tiểu bang họp tại Philadelphia, ký kết Hiệp ước Liên bang, bầu George Washington làm tổng tư lệnh Liên quân Thuộc địa, đánh dấu sự ra đời của Hoa Kỳ. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh độc lập (1773 – 1783), Washington được bầu làm Tổng thống đầu tiên, Philadelphia đương nhiên trở thành Thủ đô đầu tiên của Hoa Kỳ.

CHUÔNG TỰ DO VANG ĐỘNG THẾ GIỚI

Di tích lịch sử Philadelphia chỉ thua kém Boston, đứng đầu là Dinh Độc lập, nơi năm xưa Washington đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Suốt hơn 200 năm qua, người ta vẫn giữ nguyên mọi hiện vật, từ cây viết lông ngỗng đến bình mực. Tham quan Dinh Độc lập hoàn toàn miễn phí, nhưng phải nhận vé vào cổng và qua kiểm tra an ninh nghiêm ngặt. Trước Dinh Độc Lập có tượng đồng của Tổng thống Washington khiến du khách phải dừng bước mặc niệm.

“Quốc bảo thiêng liêng” của Dinh Độc lập là “Chuông Tự Do”. Lúc đầu Chuông được treo ở tháp chuông trên cao, về sau được hạ xuống đất, đặt trong một phòng kính thủy tinh đặc biệt. Chuông chỉ cao 1m, nặng khoảng 900kg. Trên Chuông có khắc dòng chữ trích từ Kinh Thánh: “Tuyên cáo tự do khắp đất nước cho mọi nhà”. Chuông có vết nứt lớn theo chiều dọc nên tiếng kêu không được trong. Chính Chuông Tự Do đã ngân vang khi bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ được tuyên đọc và lan truyền khắp thế giới: sự ra đời của một quốc gia non trẻ vào ngày 4-7-1776 (đây là ngày Lễ Độc lập của Mỹ), đã trở thành khuôn mẫu cho một loạt cuộc cách mạng dân chủ ở châu Âu noi theo.

Năm 1751, người Mỹ đặt làm chiếc Chuông này tận bên Anh, nhưng trình độ công nghệ lúc đó còn hạn chế nên Chuông đã bị nứt ngay trên hải trình đến Mỹ. Năm 1846, tiếng Chuông Tự Do vang lên lần cuối cùng để chúc mừng sinh nhật cố Tổng thống Washington (1732 – 1799). Từ đó trở đi, Chuông im hơi lặng tiếng, chu du vòng quanh Hoa Kỳ để người dân chào đón “Vật thiêng”, và sau cùng an vị tại Dinh Độc lập ở Philadelphia để mọi người đến chiêm ngưỡng.

Hơn 200 năm qua, Chuông Tự Do đã tuyên cáo tự do qua các thời kỳ, trở thành một vật chứng về chủ nghĩa yêu nước của Hoa Kỳ.

NGÔI NHÀ CỦA NGƯỜI MỸ ĐẦU TIÊN

Đó là theo cách nói của các nhà viết sử Mỹ gọi Benjamin Franklin. Ngôi nhà nổi tiếng của ông tọa lạc trong Công viên Lịch sử Quốc gia Độc lập. Ông là một nhà vật lý học, sáng chế ra Cột thu lôi. Ông vừa là thợ in, vừa là nhà bác học, triết gia, chính trị gia, nhà hoạt động xã hội và nhà ngoại giao có uy tín khắp châu Âu. Franklin còn là một “quốc phụ” của Hoa Kỳ, là một trong những người đã đưa ra ý tưởng về một nhà nước Hoa Kỳ mới trong thời kỳ cách mạng. Dù không làm tổng thống, cùng với Alexander Hamilton (Bộ trưởng Ngân khố đầu tiên thời Washington), Benjamin Franklin được vinh dự in hình trên đồng đôla Mỹ tờ 100 USD (Hamilton trên tờ 10 USD). Đây là hai chính khách duy nhất, không phải là tổng thống, cùng sánh ngang với các vị Tổng thống khác có hình trên tiền Mỹ (Washington tiền 1 USD, Jefferson – 2 USD, Lincoln – 5 USD, Jackson – 20 USD và Grant – 50 USD).

NGÔI NHÀ GRAFF HOUSE CỦA THOMAS JEFFERSON

Đây là ngôi nhà nổi tiếng - nơi Jefferson (sau này trở thành vị tổng thống thứ 3 của Mỹ) viết bản “Tuyên ngôn Độc lập” với những tư tưởng mới mẻ chưa từng có: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”.

DIỄN VĂN GETTYSBURG NỔI TIẾNG THẾ GIỚI

Gettysburg ở miền nam tiểu bang Pennsylvania, cách Philadelphia 1 giờ xe chạy, là chiến trường xưa lớn nhất Mỹ trong chiến tranh Nam – Bắc (1861 – 1865). Nơi nhỏ xíu mà hai bên đã tập trung 160.000 quân, quân Nam của tướng Lee bị thua, quân Bắc của tổng thống Lincoln thắng lợi và đánh chiếm Richmond, thủ đô của Confederate States of America, tướng Lee phải đầu hàng. Chỉ 5 ngày sau, Tổng thống Lincoln bị ám sát.

Chính tại lễ khánh thành nghĩa trang Gettysburg, Tổng thống Lincoln đọc diễn văn ứng khẩu trong chỉ 2 phút, có 10 câu, có đoạn: “Chúng ta phải hồi sinh Đất nước dưới sự che chở của Thượng đế, khiến một ‘Chính phủ Của dân, Do dân, Vì dân mãi mãi trường tồn”.

Gettysburg nay đã được xây dựng thành Công viên Quân sự Quốc gia, trở thành di tích chiến trường xưa lớn nhất Hoa Kỳ. Trong đó có “Bia Hòa bình”, nơi xưa Tồng thống Lincoln đọc bài Diễn văn nổi tiếng có đặt tượng bán thân của ông, dưới khắc toàn văn diễn văn bất hủ Gettysburg. Ngoài ra, còn có cả cờ của miền Nam “Sao và Thanh lớn” (Stars & Bar). Tiểu bang North Carolina có dựng cả tượng tướng Lee cưỡi ngựa oai vệ. Chính sự khoan dung của miền Bắc chiến thắng, đã mau chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, từ đó trở đi, Hoa Kỳ bao la, đa chủng tộc, tôn giáo mãi mãi không còn chia rẽ nữa.

KHU PHỐ TÀU – SÀI GÒN NHỎ

Philadelphia là một thành phố cổ, nhiều khu nhà cổ kính, đan xen với nhiều nhà cao tầng mới xây, có Dinh Độc Lập – nơi Tổng thống Washington sinh sống và làm việc. Cũng tại đây Chuông Tự Do - sau bao thăng trầm chứng kiến sự ra đời của biết bao sự kiện lịch sử khi khai sinh Liên Bang mới – nay an vị tại đây để mọi người tới chiêm ngưỡng.

Người viết cũng háo hức cùng gia đình đến Philadelphia thăm viếng Chuông Tự Do cùng khu Phố Tàu khá lớn , nằm cạnh khu Sài Gòn Nhỏ với nhà hàng Maxim’s nổi tiếng (như Maxim’s của Sài Gòn trước năm 1975) - nơi đây, các đoàn ca nhạc từ California hoặc từ Việt Nam sang trình diễn cho Việt kiều thưởng thức nhạc Việt để đỡ nhớ quê hương. Kể ra, người Việt chúng ta cũng ngang nhiên như các thiểu số chủng tộc khác sinh sống ở Mỹ: Hoa kiều có Chinatown, Ý kiều có Little Italy, thì Việt kiều cũng có Little Saigon. Chợ Việt có mặt ở nhiều nơi: California, Texas, Philadelphia, Virginia (sát cạnh Washington,DC)…

KHU VỰC RIÊNG BIỆT CỦA NGƯỜI AMISH

Amish là tên gọi theo Jacob Ammann (Amen), Amish là một giáo phái tách ra từ phái Mennonites. Họ có nguồn gốc ở vùng Alsace, Thụy Sĩ, vào đầu thế kỷ 18 nhiều người Amish di dân tới Hoa Kỳ sống ở Philadelphia nhiều nhất.

Điểm đặc biệt là người Amish ưa thích ăn mặc giản dị, đời sống đơn giản với thật ít lệ thuộc vào các tiện nghi hiện đại, khu sinh hoạt họ không sử dụng điện, điện thoại, dùng đèn dầu hỏa, không dùng nước máy, họ bơm nước giếng lên sử dụng, đi xe ngựa, hạn chế xe hơi, nhà làm bằng cây, gỗ, ít xây lầu bằng xi măng cốt thép. Họ quan niệm là Thiên Chúa cho ta cái gì thì ta chỉ sử dụng cái đó thôi. Người Amish rất sùng đạo, tất cả do vị mục sư quyết định. Phần lớn sống đời sống nông nghiệp đơn giản, chất phác, hiền hòa, hay giúp đỡ người khác, ít gây sự đánh nhau…

Người Amish di dân sống ở 27 tiểu bang: Pennsylvania, Indiana, Ohio, Iowa, Minnesota, Wisconsin… của Hoa Kỳ và sống ở Ontario, Canada nữa. Nghiên cứu vào năm 2008 cho biết dân số người Amish gia tăng 249.000 người, họ di dân về ở Idaho… (bờ tây Hoa Kỳ), sự gia tăng dân số (12,7%) nhanh chóng khiến họ phải khai khẩn thêm đất đai để có đủ chỗ sinh sống.

Nhiều du khách đã đến tham quan khu vực sinh sống của người Amish - do các công ty du lịch tổ chức nhằm tìm hiểu một ốc đảo người Amish nằm lọt vào giữa xã hội Hoa Kỳ văn minh, hiện đại nhất nhì thế giới, xem họ sống như thế nào và - cũng là một cách để giúp người Amish gia tăng thu nhập hàng ngày trong việc bán các mặt hàng thủ công mỹ nghệ do người Amish tự tạo ra, như cuộc sống nông thôn mọi nơi sinh sống bằng cách tự cung tự cấp.

Nếu khán giả nào có xem phim “Witness” (Nhân chứng) do tài tử kỳ cựu Clint Eastwood đóng, thì xã hội người Amish được diễn lại thật là sống động và xác thực. Quả thật người Amish là “hoa lạc giữa rừng gươm” hoặc “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi… văn minh hiện đại”. Mọi người đành phải “Ngả mũ chào thua” vậy.

(Tham khảo tài liệu về Lịch sử Hoa Kỳ và trên Internet)

PHẠM VŨ

SÁNG TÁC THƠ BẰNG MÁY TÍNH

Trong CLB Sách Xưa & Nay có nhiều cụ ông và cụ bà đã gần đất xa trời nhưng vẫn níu kéo thời gian lại bằng cách trẻ hóa tuổi và nghệ thuật trẻ hóa này rất ư là thông minh: Có cụ tự xưng: “mình mới có 24 tuổi lần thứ 3”, “còn em mới 21 lần thứ…3”…, lập tức có hai cụ khác đính chính ngay: “Tôi mới có 20 tuổi lần thứ 4”, cụ kia thêm: “còn tôi 20 lần thứ 4 thêm một tẹo”. Hóa ra mình 28 lần thứ hai và được các cụ cho là nhiều tuổi nhất. Thôi thì đành chấp nhận mình là mgười cao tuổi nhất và tạm thay cho chữ cụ bằng anh hoặc chị cho đúng với tinh thần này.

Năm cũ đã qua và năm mới lại đến mỗi anh chị lại được cộng thêm 1 tẹo nữa. Tôi xin được trình bày một trò chơi mới mong quý anh chị càng tươi trẻ trong năm mới đó là vọc máy tính qua trò chơi: SÁNG TÁC THƠ BẰNG MÁY TÍNH

Trước hết bật máy tính lên (máy có mạng à nghen) và truy cập địa chỉ: http://lamtho.vn/thomay/

Sau khi Enter màn hình có hai khung:

Khung bên trái (1/3 màn hình) như một menu các loại:

1. Thơ Máy sáng tác thơ

2. Số tử vi bằng thơ

Khung bên phải (2/3 màn hình) là nơi thực hành

Xin được trình bày thật rõ ràng hơn mục 1 còn mục 2 khỏi cần vì các bạn còn “trẻ” không nên xem Tử vi kẻo thất chí khi đường đời còn dài.

Sáng tác ngẫu nhiên một bài thơ:

- Trước hết chọn thể loại: Lục bát, song thất lục bát, thất ngôn bát cú… ô bên trái.

- Chọn phong cách: Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Xuân Diệu… ô bên phải.

- Nếu muốn thêm một khổ hay xóa bớt ta nhấp vào một trong các nút ở bên dưới.

Chọn Thơ lục bát - Phong cách Kiều ta có (tự đặt tên vì máy không đặt):

Hết tư phong hết đoạn trường

Hết Kiều khóc hết chày sương tấm lòng

Chiêm bao gió mát trăng trong

Tơ trùng hoa phượng thắm dòng nho gia

Nếu chọn thơ lục bát, phong cách chị Ngàn phương cũng ra bài nữa!!!

Thơ máy đọc xuôi đọc ngược:

Chức năng này tạo ra những bài thơ độc đáo mà chị Thùy Dương hay anh Phạm Đan Quế cũng phải giật mình đấy

- Ta cũng vào bên trái chọn mục thể loại

- Bên phải chọn: Thơ đọc xuôi ngược

- Nếu muốn dài hơn hay bớt đi thì nhấn vào nút thêm và bớt ở bên dưới.

Thơ xuôi nguợc

Đọc xuôi:

Ngoài song gió lạnh dẫn gần xa

Một mối tình son phấn tỉnh ra

Thoai thoải ngát hương sông nước dạo

Trống canh dồn gối hạc giang hà

Hoài xuân thắm lại hoa đào nở

Ngựa với thuyền vàng úa thiết tha

Ngoài cõi chín quan tiền đám cỏ

Oai linh nắng nhạt bước thôi mà

Đọc ngược

Mà thôi bước nhạt nắng linh oai

Cỏ đám tiền quan chín cõi ngoài

Tha thiết úa vàng thuyền với ngựa

Nở đào hoa lại thắm xuân hoài

Hà giang hạc gối dồn canh trống

Dạo nước sông hương ngát thoải thoai

Ra tỉnh phấn son tình mối một

Xa gần dẫn lạnh gió song ngoài

Thơ máy học tiếng Anh

Đến cái mục này thì anh Dương Lê và chị Tâm Nguyện cũng phải thán phục đấy.

- Chọn thể loại bên tay trái

- Chọn thơ học tiếng Anh bên phải

- Dài hay ngắn chỉ việc nhấp chuột thôi

Phrase câu, seem có vẻ như,

Just công bằng, cross ngã tư, line đường,

Appear xuất hiện, school trường,

Tiger con hổ, bed giường, through xuyên,


Spring mùa xuân, advice khuyên,

Sexy hấp dẫn, boat thuyền, dumb câm,

Beautiful đẹp, held cầm,

Rain mưa, that đó, poem bài thơ,


Flute cây sáo, flag lá cờ,

Raise lên, guess đoán, kiss her thơm nàng,

Sky bầu trời, shop cửa hàng,

Need cần, clear sạch, page trang, from từ,

Gởi thông điệp qua Thơ Máy.

Những chữ đầu câu thơ là thông điệp bạn muốn gửi ư? Ở đây nó làm được tất tần tật

- Chọn thể loại tay trái

- Thơ tình bên tay phải

- Ghi thông điệp muốn gửi: Chúc Mừng Năm Mới Câu Lạc Bộ Sách vào ô trống bên dưới và bên tay phải là bài thơ theo phong cách Trần Đăng Khoa

Chúc sáng nay hàng bưởi tiếng gà

Mừng vui phất cờ chạy xồ ra

Năm canh chiều mẹ về in bóng

Mới ngỏ lời thôi giục quả na

Câu hát bâng quơ giàn bí đỏ

Lạc loài không rõ cuối đồng xa

Bộ hành với nụ hồng ngơ ngác

Sách dạy lời cây lúa múa ca

Thơ máy theo chủ đề tự tạo

- Thể loại do mình muốn

- Phong cách tự do tùy mình thích…

- Dài ngắn tùy thích

Đây chính là mảnh đất màu mỡ dành cho các anh chị thả hồn sáng tác.

Nhập các từ khóa thể hiện chủ đề, mỗi từ khóa không quá 4 từ, cách nhau bởi dấu phảy hoặc xuống dòng : mùa xuân, tưng bừng, mai đào nở rộ, xum họp

Mùa Xuân thành nhạc rộn ràng

Tưng bừng xum họp oanh vàng sương mai

Mai đào nở rộ hoa lài

Ngồi trên thuyền có ngón dài anh vươn

Kiểm tra niêm luật bài thơ.

Cái này chị Thùy Dương thích là cái chắc vì chị thường hay có bài viết về niêm luật trong thơ Đường.

Nhập thể loại bài thơ vào ô bên trái.

Nếu có lỗi máy sẽ đưa ra những lỗi dươi đây và tự sửa đến khi đúng thì thôi (cũng tiện)

(1) Lỗi sai vần

(2) Lỗi thiếu (thừa) từ

(3) Lỗi không hợp ngang vần

(4) Lỗi sai bằng trắc.

Nếu nhờ bác Google dịch sang Anh hoặc Pháp chắc anh Tuấn, anh Dương hay chị Thùy Dương phải bược cười bể bụng. Cuối cùng sau khi máy tác (không phải là sáng tác) quý vị có thể gửi cho bạn bè thưởng lãm vui Xuân vài ba ngày tại nút cuối cùng. Nhớ ghi email của người gửi và người nhận.

Tôi nhớ khi học sáng tác nhạc có người đề nghị lấy 1câu ở bản này, 1 câu ở bản kia… ghép thành bản nhạc riêng nghe thì cũng hay hay nhưng may quá mình không làm chứ không thì thành kẻ đạo nhạc rồi. Chuyện kể rằng khi một nhạc sĩ nọ mời nhạc sĩ khác nghe mình trình diễn bỗng thấy vị này luôn đứng lên ngả mũ chào bèn hỏi: “Ông chào ai vậy”. Được trả lời: “À mấy người quen trong bài hát của ông đó mà”.

Vài dòng suy nghĩ thả hồn theo máy chắn chắn khi quý anh chị sau khi làm những bài thơ này sẽ trẻ thêm một ít thời gian nữa vì các anh chị sẽ bược cười không ít thì nhiều mà cười là liều thuốc bổ, có bổ ngữa cũng vẫn vui vì “Xuân mà”. Nhưng thơ văn phải xuất phát từ con tim chứ đâu phải là máy móc… đạo thơ theo phong cách này hay phong cách nọ, mình phải là mình không thể là ai khác.


Hà Mạnh Đoàn

Phiếm luận

KHI QUÝ PHU NHÂN ĂN... PHỞ

“Trung tâm nghiên cứu xã hội GEWIS của Đức đã tiến hành cuộc khảo sát trực tuyến đối với 1.427 đàn ông và phụ nữ tuổi từ 25 đến 35. Kết quả là 53% phụ nữ cho biết đã không chung thủy với bạn đời, trong khi tỷ lệ đó ở đàn ông là 59%.”

Ai đó đã nói: “Chinh phục một phụ nữ theo nguyện vọng của mình là một điều khó, nhưng giữ được người ấy mãi mãi ở bên cạnh mình quả là khó hơn nhiều”. Người viết tự thêm vào nhóm từ “theo nguyện vọng của mình” để xác định việc chinh phục một phụ nữ là một chuyện khó, chứ nếu không theo nguyện vọng thì việc chinh phục cũng chỉ để hái hoa qua đường rồi tan hàng. Theo nguyện vọng của mình còn có nghĩa là mình sẽ chọn người đó làm người bạn đời, làm mẹ của những đứa con tuyệt vời của mình. Thế nhưng sự đời bao giờ cũng éo le gay cấn. Có nhiều người không giữ được một người phụ nữ cho suốt cuộc đời của mình. Có khi chỉ giữ được phần xác còn phần hồn của người phụ nữ thì bay bổng như cánh diều ở phương trời khác. Có người không giữ được cả phần xác lẫn phần hồn của người phụ nữ, có nghĩa là người ấy đã một đi không trở lại.

Nói như vậy có phải là người phụ nữ một khi đã lấy chồng thường có khuynh hướng muốn tìm một hướng đi mới lạ khác chăng? Không hẳn như vậy. Có rất nhiều phụ nữ sau khi lấy chồng một mực thương yêu chồng, sống chung thủy trọn vẹn vai trò người vợ, cho dù về sau người chồng sa đà, lầm lỗi không làm tròn trách nhiệm một đấng phu quân. Không những thế những người phụ nữ này còn đề cao, tôn vinh danh giá của chồng: “chồng em đẹp, chồng em sang, chồng em… đứng đắn…đàng hoàng”(1)

Nhưng tại sao lại có không ít người phụ nữ đành lòng đi ăn phở trong khi đang chung sống cùng chồng, người từng được âu yếm gọi là… cơm.

Có nhiều người phụ nữ như vậy không? Chưa có ai thống kê, chỉ biết được thỉnh thoảng nghe nói vợ ông A, ông B ông C gì đó đi ăn phở. Ngặt một điều là người ta cũng không biết được ông A, ông B, ông C gì đó có biết vợ mình đang ăn phở không?

Khảo sát để tìm hiểu lý do các đấng phu nhân đi ăn phở, cuộc khảo sát cho biết:

1. Người phụ nữ có nhu cầu quan hệ thể xác quá lớn .

Đây là trường hợp những người phụ nữ luôn luôn khao khát hành vi quan hệ vợ chồng, nên khi có chồng nhưng rủi ro gặp ông chồng chỉ kham nổi trong khoảng thời gian nào đó rồi kiệt sức hay mất “khả năng chi trả”, những người phụ nữ này dễ dàng đi ăn phở với những người đàn ông mà họ có dịp tiếp xúc trong công tác, trong mối quan hệ xã hội mà không cần phải trải qua giai đoạn quan hệ tình cảm sâu đậm. Như thế họ sẽ quên những người đàn ông này dễ dàng để rồi sau đó họ có thể đến với những người đàn ông khác khi có cơ hội và điều kiện thuận tiện. Khoái cảm của những người phụ nữ này là được tiếp xúc với những mặt hàng mới lạ, những cảm giác kỳ thú khác nhau ở từng người đàn ông. Có một cặp vợ chồng có ba đứa con kháu khỉnh, sau này khi chúng lớn lên với lý do đặc biệt, ba đứa nhỏ được cho đi thử DNA, kết quả chỉ có đứa đầu là con của ông chồng, hai đứa sau là con của hai người đàn ông khác.Tuy nhiên những người phụ nữ thuộc týp này sẽ phải đương đầu với một mối họa vô cùng to lớn nếu họ tình cờ gặp phải một người đàn ông hoang đàng lãng tử đã bị nhiễm HIV.

2. Người vợ bị coi như là oshin.

Nhiều ông chồng có tính gia trưởng, coi vợ như là một người phục vụ toàn bộ các công việc trong nhà và cả những mối quan hệ bên ngoài. Điển hình là trường hợp ông nọ tuổi ngoài ba mươi được người ta mai mối cưới được một người vợ tốt. Vài năm sau những đứa con xinh xắn ra đời. Trong khi chung sống người vợ bị coi là oshin, đồng thời là thư ký riêng giúp việc cho ông chồng coi sóc một doanh nghiệp nho nhỏ. Chẳng bao lâu sau doanh nghiệp này sập tiệm, ông chồng không có việc làm gì khác, bà vợ cũng trở về với công việc của một oshin và phục vụ ông chồng. Thế rồi trong một dịp tình cờ bà quen một người đàn ông chết vợ, ông này đối với bà rất mực tôn trọng, ân cần chăm sóc. Bà thấy không thể nào có một người đàn ông khác đối xử với bà tốt như vậy. Nhìn lại ông chồng, cái ông cơm của bà, từ khi lấy nhau bà không hề được ông tôn trọng mà chỉ thấy bị bạc đãi, coi thường từ cái tinh thần gia trưởng, độc đoán. Thỉnh thoảng bà tìm lý do này, lý do nọ để bỏ cơm và tìm đến người bạn tình không những có được giây phút thanh thản mà còn được thương yêu chiều chuộng. Người đàn ông kia cũng chấp nhận kéo dài tình trạng lén lút để giữ gìn hạnh phúc của con cái. Xét về tâm trạng của người phụ nữ này, có ý kiến cho biết, họ không có gì phải hối hận khi phải lừa dối chồng để đến với người tình mà họ thấy thật sự có hạnh phúc. Nếu có đổ bể ra họ cũng sẵn sàng chấp nhận chia tay với ông chồng không bao giờ biết tôn trọng vợ mình.

3. Bị cơm bế quan tỏa cảng:

Ông vừa lo làm ăn vừa có những mục giải trí riêng, hằng ngày ra đi từ sáng sớm, tối mịt mới về, con cái có gia đình ở riêng. Ngày lễ, Chủ Nhật ông hết chơi gôn, đến tennis, nhậu nhẹt, say sưa về nhà lăn quay ra ngủ. Đầu năm đến cuối năm không hề “thương yêu” vợ một lần. Đặc biệt cơm vẫn lo cho bà đủ thứ từ miếng ăn, thức uống đến quần áo, nữ trang, bà muốn món gì là ba mươi giây sau có ngay, kể cả thuốc men, khi ốm đau có ngay bác sĩ chăm sóc. Bà nghĩ không lẽ ông biểu lộ tình thương chỉ bằng cách cung cấp cho bà những thứ toàn mang tính vật chất, còn món ăn tinh thần, một lời nói âu yếm, một cử chỉ vuốt ve, một buổi đi dạo trong công viên của hai vợ chồng trao đổi nhau về chuyện con cái, cháu nội cháu ngoại, chuyện làm ăn kinh tế, chuyện thời sự… hoàn toàn là một con số không. Bà chợt nghĩ hay là ông chồng mình thực thi các sách lược bế quan tỏa cảng này là để giữ chân vợ không cho vợ có một hành vi lãng mạn nào hết. Thế là bà có ý nghĩ của “người nông dân nổi dậy” cùng lúc với sự ức chế vì thiếu thốn tình cảm đã lên đến tột cùng. Cơ hội tình cờ đến. Bà ra đi. Xin nói ngay, bà chỉ đi ăn… phở với một người đàn ông khác rồi lại trở về nhà với bốn bức tường vây kín. Từ đó cứ cách mười bữa, nửa tháng bà lại vắng nhà trong chốc lát để thư giãn và tìm giây phút lãng quên cái “hỏa ngục” mà ông chồng đã dành riêng cho bà. Chiến thuật cầm tù để giữ chân bà xã của ông chồng coi như bị phá sản, nhưng ông không biết.

5. Cơm trở thành bún thiu:

Đây là trường hợp nhiều ông chồng bị lâm vào hoàn cảnh bi đát như bệnh hoạn nằm một chỗ, hoặc có đi lại cũng phải bằng gậy bốn chân. Đàn ông trong hoàn cảnh này coi như Nam Tào giữ sổ rồi, các ông ra đi sớm ngày nào khỏe cho người ở lại ngày ấy. Đáng thương phải dành cho người phụ nữ. Có bà phải ứng chiến bên cạnh ông chồng hai mươi bốn trên hai mươi bốn để đút cháo, cho uống thuốc, làm vệ sinh, kể chuyện trên trời dưới đất để an ủi cho ông ấy lấy tinh thần Đôn Ki sốt chống lại bệnh tật là những cối xay lúa. Đó là trường hợp ông còn “kỹ năng nghe hiểu” chứ nếu ông rớt vào đời sống thực vật thì thôi chịu. Bà không cần phải biểu diễn “kỹ năng kể chuyện” cho ông ấy nữa mà làm gì. Trong trường hợp này những khi bà bán cái cho các con chăm sóc ông ấy giùm bà trong một khoảng thời gian nào đó đủ cho bà ra ngoài thư giãn, giải trí, hay đi shopping, hay nghe nhạc, khiêu vũ… Trong những giờ phút rảnh rang như thế này, ông Trời thường trớ trêu dẫn dắt bà đến với một người đàn ông đồng cảm với bà, cùng chung một điện tâm đồ với bà. Rồi thì từ đó về sau thay vì đi ra ngoài thư giãn, giải trí bà đi… ăn phở với người đàn ông đó.

Cũng với hoàn cảnh tương tự, một bà có ông chồng tuổi tác không cao lắm nhưng đã biến thành ông cụ non, suốt ngày quanh quẩn trong nhà hết ôm máy vi tính, đến nghe nhạc, đọc báo. Nhiều lúc không biết làm gì thì ngồi nghe trong cơ thể đoán chứng bệnh nào đó đang phát triển để rồi bảo vợ đưa đi bệnh viện khám. Nếu bác sĩ khám không ra bệnh, ông sẽ chê bác sĩ yếu tay nghề. Bà vợ thỉnh thoảng không khỏi so sánh ông chồng mình với những người đàn ông quen biết và thấy họ luôn luôn năng động, yêu đời và biết cách chăm sóc gia đình, vợ con. Bà cảm thấy “oải” với ông chồng mình quá, không hề có chút hứng thú gì khi ở bên cạnh ông chồng. Bà nghĩ có lẽ bà phải chịu cảnh lạnh lùng, tẻ nhạt trong cuộc sống vợ chồng cho tới ngày về bên kia thế giới. Thế rồi, cơ hội nghìn năm một thuở bà quen một người đàn ông đang ở xa vợ con nửa vòng trái đất. Trước sự lịch lãm, dịu dàng, trí thức và linh hoạt của người đàn ông đó, bà không ngại ngùng đến với người ấy bằng tình cảm trọn vẹn mỗi khi có điều kiện thuận tiện. Từ nay bà đã có phở để thưởng thức.

Đứng trên một quan niệm về đạo đức, một số người cho rằng người phụ nữ ấy phản bội chồng con và gia đình hoặc không chung thủy thì có phần oan uổng. Ngoài những nhu cầu về tinh thần cũng như về vật chất, người phụ nữ cũng cần được quan tâm đến nhu cầu về sinh lý. Tại sao lại bắt buộc họ sống mà không có sự quan tâm đến những nhu cầu thiết thực đó? và rồi họ sẽ bị những cơn stress hành hạ trong cuộc sống.

6. Cơm trả bài yếu xìu, hoặc không thuộc bài luôn:

Từ sau đám cưới đến năm bảy năm sau đó, cơm tỏ ra bình thường và đã đem lại kết quả khả quan với vài nhi đồng kháu khỉnh, bình an lớn mạnh. Thế nhưng sau đó cơm dần dần nguội lạnh theo thời gian. Chuyện vợ chồng, cơm thực hiện một cách miễn cưỡng, có khi phải đợi bà vợ nhắc nhở khuyến khích. Cơm không bao giờ trả bài cho ngon lành, khi thì cơm có vẻ như muốn làm sớm nghỉ sớm. Xong việc lăn ra ngủ như chưa từng được ngủ bao giờ. Trong khi đó người vợ chưa bao giờ có được cảm giác thỏa mãn kể cả thời gian mới cưới, lúc ông chồng còn trai trẻ phong độ và chuyện vợ chồng cũng đưa đến kết quả từng tí nhau ra đời khỏe mạnh. Thế nhưng người vợ luôn luôn bị hụt hẫng, không bao giờ biết đến cảm giác của một người phụ nữ đạt đỉnh cao khoái lạc. Nhiều khi bà nghĩ rằng không lẽ chuyện gần gũi vợ chồng là chỉ có vậy thôi sao, tuyệt đối không có gì là hứng thú và cuối cùng bà cùng với ông tuyên bố “miễn chiến bài” đêm đêm mỗi người một giường cho yên chuyện. Nhưng “con Tạo trớ trêu” bày ra cảnh éo le rắc rối, bà tình cờ quen được một người đàn ông tại một bữa tiệc tân gia ở nhà một người bạn. Qua cách nói chuyện của người đàn ông đó cộng với cách ăn nói có vẻ chân thật và vô cùng bặt thiệp khiến bà cảm thấy như đã quen người đàn ông này “từ kiếp trước”. Thừa dịp đi một mình bà đồng ý để ông ta mời đi ăn vào vài ngày sau đó. Rồi tiếp theo vài lần đi ăn uống, nghe nhạc ở những nơi xa xôi kín đáo, bà thấy người đàn ông này có những điểm tuyệt vời mà ông chồng không hề có rồi sau cùng bà nhận lời đi Vũng Tàu với người đàn ông ấy. Sau chuyến đi bà phát hiện chuyện vợ chồng quả là tuyệt diệu mà ông chồng của bà không đem tới được cho bà…

7. Cơm là một người đàn ông lực điền, thích nhậu nhẹt.

Đây không phải để ám chỉ ông chồng là một nông dân cày sâu cuốc bẫm, mà là một người đàn ông bình thường có trình độ văn hóa nhất định nhưng chỉ phải cái tật là về “chuyện ấy” thì anh ta thực hiện như con hổ đói, tiêu thụ con mồi ngấu nghiến rồi lăn kềnh ra ngủ như chết. Mỗi lần đi nhậu nhẹt say sưa với bạn bè, trong khi những người khác đi tăng hai để giải quyết cơn hưng phấn thì anh trở về nhà bắt vợ phục vụ. Thế là cái cảnh hùng hục của ông chồng lại tái diễn. Người vợ tự cảm thấy như một đồ vật vô tri vô giác để ông chồng tùy tiện sử dụng. Rồi trong một dịp tình cờ khi tập thể dục buổi sáng ở một công viên, bà gặp một người đàn ông chết vợ, người này đã dành cho bà một thứ cảm tình đặc biệt, cho nên sáng nào bà cũng đến công viên tập thể dục nhưng chủ yếu là để găp người đàn ông đó, để được đi bên cạnh, để được sưởi ấm từ làn hơi đàn ông của người ấy. Từ những cuộc hẹn hò ăn sáng cơm tấm, phở (nghĩa đen)… dần dần đưa hai tâm hồn đồng điệu vào khách sạn. Những cử chỉ dịu dàng, thân thiết của người đàn ông đã đem lại cho người phụ nữ đó cơn khoái lạc vô biên mà ông chồng lỗ mãng của bà không hề có được.

8. Ông ăn phở, bà cũng ăn phở:

Tình huống này người ta còn gọi là “ông ăn chả, bà ăn nem”. Biết chắc chắn chồng mình đang thưởng thức một món phở tàu bay hay tàu lặn nào đó rồi, thế mà ông ta cứ chối phăng phăng, lại còn mắng mỏ vợ con. Bà căm thù sâu sắc, lợi dụng còn chút đỉnh dung nhan của buổi chiều tà sérénata, bà cặp bồ với một người đàn ông khác, ngang nhiên kéo dài mối quan hệ trong bầu không khí của một vùng Trung Đông ngập tràn lửa khói.

9. Người tình trong chốc lát:

Đây là trường hợp của những người phụ nữ rủi ro có chồng đã ra người thiên cổ nhưng không muốn bước thêm bước nữa, ở vậy nuôi con, hoặc có chồng nhưng lại đính kèm những bệnh về nam khoa, hoàn toàn không đem lại niềm khoái cảm cho vợ hiền. Giới phụ nữ gặp trường hợp này, có người phải tự giải quyết mỗi khi có nhu cầu thể xác bộc phát. Có người tự đi đến một số rất ít địa điểm có những “chàng Kiều” để được thỏa mãn trong vài giờ. Nơi đây việc bảo mật về nhân thân của người phụ nữ được tuyệt đối giữ gìn nghiêm khắc bằng mọi cách, kể cả việc đảm bảo cho người phụ nữ không để lây nhiễm HIV. Trong bài trước, người viết không xếp mấy “chàng Kiều” vào danh mục phở của quý bà, quý cô, ở đây người viết chỉ muốn trình bày một hoạt cảnh đặc biệt của xã hội mà có thể nhiều người chưa biết.

10. Ăn phở để bù đắp chi phí gia đình.

Ở những cặp vợ chồng tương đối còn trẻ trung, con cái còn nhỏ dại, tình cờ quen biết với các đại gia cao tuổi nhưng còn hảo ngọt, còn ham “gái một con trông mòn con mắt, hai con trông quắt cần câu…”. Khi có “alô” của đại gia, người phụ nữ tìm đến khách sạn đại gia đang ở sau đó cùng với đại gia qua đêm, hay qua ngày rồi ra về cùng với món tiền lì xì vài hai vé của đại gia. Có phụ nữ được chồng đưa tới chỗ của đại gia rồi hẹn ngày giờ đến đón về. Người chồng này rất dễ dàng thông cảm vì số tiền người vợ được đại gia lì xì sẽ đem về bù đắp vào chi phí gia đình. Ở Tây phương trường hợp này khá phổ biến, khác với hình thức kinh doanh “call girls” ở Mỹ.

11.Ăn phở từ xa.

Trường hợp này còn gọi là ăn phở bằng tinh thần, hay nói theo kiểu bình dân là ngoại tình trong tư tưởng. Người phụ nữ đã có một mối tình đầu thắm thiết ở tuổi học trò, nhưng vì lý do đặc biệt nào đó, hai người phải hát bài ca dang dở, mỗi người mỗi phương trời cách biệt. Mười, mười lăm năm sau, trời xui đất khiến, hai người gặp lại nhau, anh chàng đã có rờ moọc vợ con dài sọc, còn nàng thì “duyên thiên” đã “nhô đầu dọc”(2) rồi, lại thêm tay bồng tay mang. Nhưng tình cũ như thỏi nam châm hút hai người lại với nhau. Hai người dù đã có hai gia đình đầm ấm riêng nhưng vẫn nghĩ đến nhau. Thỉnh thoảng, không chịu nổi sự nhớ nhung hai người lại đến với nhau tại một nhà hàng, một quán cà phê nào đó rồi chia tay ai về nhà nấy, như vậy cũng đủ thỏa lòng mong đợi, đồng thời giữ được tình trạng “ăn phở từ xa”.

Kết luận:

Tóm lại, nam nhi hay nữ giới ai cũng là những con người bình thường, ai cũng có những ham muốn mà các nhà đạo đức thường gọi là dục vọng. Ngoài miếng ăn, giấc ngủ người ta, cả nam lẫn nữ, ai cũng muốn hưởng thụ niềm cảm xúc tuyệt vời trong sự gần gũi giữa người đàn ông và người đàn bà. Sẽ là vô duyên nếu đi khuyên bảo một người đàn ông hay một người đàn bà: “Này, anh hay chị không được ăn phở nhé”. Mà có lẽ chỉ nên nói rằng: “Ừ, có ăn gì thì ăn, đừng để thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

Dương Lêh

(1) Câu này chôm từ một bài hát cải lương trong tuồng “Nửa đời hương phấn”

(2) Lấy từ câu thơ của Hồ Xuân Hương: “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc”, ý nói người con gái chưa có chồng.

Xuân Nhâm Thìn 2012

HUYỀN SỬ CON RỒNG CHÁU TIÊN

- GỐC TÍCH CỦA RỒNG VIỆT

Việt Nam là đất nước của “Con Rồng Cháu Tiên” với huyền thoại khởi nguyên:

1/- KINH DƯƠNG VƯƠNG

Vua đầu tiên nước ta – Kinh Dương Vương (Lộc Tục) là cháu bốn đời Viêm Đế Thần Nông – vị thần coi nghề nông ở trên trời. Ông là Tổ thứ nhất của dân tộc Việt Nam, họ Hồng Bàng dựng nước.

Dựa vào truyền thuyết, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên viết rằng: Lộc Tục lên làm vua vùng đất phía nam núi Ngũ Linh (Quảng Đông) vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 TCN). Lộc Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Cương vực Xích Quỷ khá rộng lớn, phía bắc là núi Ngũ Linh, phía nam giáp nước Hồ Tôn (sau này là vương quốc Champa), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) và phía đông là biển Nam Hải.

Nước Hồ Tôn (Phú Yên đến Quảng Ngãi): Thời vua Hùng biên giới phương nam nước ta chỉ đến đèo Hải Vân. Bên kia đèo này là tỉnh Bình Thuận ngày nay, lúc ấy là nước Hồ Tôn của người Chăm. Gọi là nước nhưng thực chỉ là một liên minh bộ lạc lớn là bộ lạc Cau (vùng từ Phú Yên đến Bình Thuận) và bộ lạc Dừa (vùng Quảng Nam - Quảng Ngãi) cùng nhiều bộ lạc nhỏ khác. Khi nhà Hán xâm chiếm nước ta thì chiếm luôn nước Hồ Tôn lập thành huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam. Dân Tượng Lâm từng hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.

Kinh Dương Vương lấy con gái của Chúa hồ Động Đình là Thần Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua.

2/- LẠC LONG QUÂN

Sùng Lãm lên làm vua thay Kinh Dương Vương, lấy hiệu là Lạc Long Quân. Tương truyền rằng Lạc Long Quân có gốc Rồng từ dòng họ của mẹ nên thường ở dưới động nước. Khi người dân có việc cần giải quyết, thường đến trước động nước kêu to lên: “Bố ơi, ở đâu? Hãy đến với ta”. Thế là Lạc Long Quân liền lên cạn giải quyết mọi việc khó khăn cho dân chúng.

Truyền thuyết được ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái thời Trần kể rằng: Lạc Long Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ ở động Lăng Xương kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ sinh được một bọc trăm trứng, nở thành trăm con trai. Khi các con khôn lớn, Lạc Long Quân nói: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, không thể ở lâu với nhau được”. Bèn chia 50 con cho Âu Cơ đem lên núi, còn Lạc Long Quân dẫn 49 người con xuống biển, để lại người con cả nối ngôi, hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước Văn Lang, đóng đô ở thành Phong Châu, truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.

Cũng từ truyền thuyết này mà người Việt chúng ta vẫn cho rằng Tổ Tiên của mình là Tiên Rồng.

Trong ca dao dân gian có bài ca về sự tích “Trăm trứng trăm con” giàu tính sử học:

Gần đàng xa ngõ thiếp nghiêng tai chàng tỏ thiếp tường,

Lạc Long Nam Việt gặp nàng Âu Cơ.

Dạo chơi sơn thủy dật dờ,

Đạp nhằm dấu thỏ một giờ thọ thai.

Nở ra nửa gái nửa trai sẵn sàng,

Nửa thì quy phụng rồng loan.

Nửa theo quê mẹ cho nhàn tấm thân.

Thiếp hỏi chàng, chàng nói từng câu

Hỏi thăm thiếp lại Tý Mẹo Dần ai sanh ?

3/- HÙNG VƯƠNG

Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương, Đó là Hùng Vương thứ nhất, mở đầu một thời đại mà sử sách gọi là thời đại Hùng Vương.

Nhà vua đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ ngày nay), truyền ngôi được 18 đời, từ đời thứ nhất đến đời thứ 18 là Hùng Duệ, đều gọi là Hùng Vương. Các tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là Bố Chính.

(Do ngôi Hùng Vương cha truyền con nối được 18 đời, nhưng kéo dài hơn 2 000 năm làm có nhiều người hoài nghi và đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau. Trong truyền thuyết con số 9 và bội số của 9 (18, 36…999…) thường mang tính chất biểu tượng (số thiêng) chứ không có ý nghĩa toán học. Phải chăng 18 đời vua chỉ mang ý nghĩa là nhiều đời, truyền nối lâu dài).

Đến nay di tích thời đại Hùng Vương hãy còn trên đỉnh Hùng Sơn (Núi Hùng) cách Hà Nội 97km, cũng gọi là Núi Đền, Nghĩa Lĩnh hay Nghĩa Cương. Bia 4 chữ lớn “Cao Sơn Cảnh Hùng”. Hiện nay, tại xã Hy Cương, huyện Lâm Thao còn có phần mộ và Đền vua Hùng. Tại huyện Bạch Hạc, Vĩnh Yên có Đền lớn thờ các vua Hùng, tương truyền dựng trên nền cung điện xưa.

4/- GỐC TÍCH CỦA RỒNG VIỆT

Trong 12 con giáp, Rồng là con duy nhất không tồn tại trong giới tự nhiên. Đấy là một sáng tạo nảy sinh từ trí tưởng tượng của con người. Trong khi phương Tây hình dung Rồng là con vật thần thoại đầu chó, cánh dơi, vuốt sư tử, đuôi rắn, tượng trưng cho sức mạnh ma quỷ, chuyên quấy rối, hại người… thì phương Đông coi Rồng là con vật linh thiêng, tượng trưng cho vẻ đẹp hoàn mỹ và sức mạnh phi thường. Dưới các vương triều phong kiến Việt Nam, Rồng trở thành một biểu tượng cao quý, một môtip trang trí trang trọng, gắn với quyền lực tối cao của Vua chúa.

Người ta vẫn thường khẳng định gốc tích con Rồng – hay đúng hơn, gốc tích của hình tượng con Rồng – là ở Trung Quốc. Tuy nhiên, từ việc khảo cổ, những chứng cứ về nguồn gốc phương Nam của con Rồng cũng không phải là ít.

VIỆT NAM VỚI HUYỀN SỬ RỒNG TIÊN:

Nước ta là đất nước của con Rồng cháu Tiên, với huyền thoại khởi nguyên Lạc Long Quân (bố Rồng) lấy bà Âu Cơ (mẹ Tiên) đẻ ra trăm trứng nở trăm con, thủy tổ của nòi giống Việt. Từ khi dựng nước, người Việt cổ đã có tục vẽ mình (xăm hình Rồng trên mình) để chống lại các loài thủy quái. Đến đời Trần, tục vẽ mình vẫn phổ biến từ vua đến dân, như nhận xét của vua Trần Nhân Tông:

“Nhà ta vốn là người ở vùng hạ lưu, đời đời ưa chuộng hùng dũng, nếp nhà theo nghề võ nên xăm hình Rồng vào đùi để tỏ lòng là không quên gốc”.

Phải chăng người xưa đã lấy tên Rồng để chỉ một loài bò sát cổ đại mà thời ấy gọi là Thuồng luồng, cũng có thể là rắn nước hay cá sấu – những con vật mạnh mẽ, to lớn, dữ tợn thường gặp trên sông nước? Chưa rõ, chỉ biết rằng nhiều đình chùa ở miền Bắc nước ta có tục thờ Thần rắn. Rắn (hoặc Rồng) đã trở thành một đối tượng được người Việt cổ tôn sùng và thần thánh hóa.

Măt khác, trên một lưỡi qua Đông Sơn phát hiện ở núi Voi (Kiến An, Hải Phòng) có khắc rất đẹp hình ảnh một con cá sấu mõm dài, mình dài, chân ngắn, có nhiều khả năng biểu hiện hình dạng những con Rồng đầu tiên. Cũng trên một số mũi giáo đồng, một số tấm đồng che ngực, một số mặt trống đồng thời Đông Sơn, không ít lần xuất hiện hình con vật thân dài, đuôi đôi khi cong, mình đôi khi giao nhau đối xứng, có giá trị trang trí cao như hình Rồng ở những thế kỷ sau. Thêm nữa, nhìn lại hình ảnh con Rồng Việt ở buổi đầu của lịch sử, dễ dàng nhận ra cái dáng thon thả, tròn trặn với nhiều khúc uốn lượn thoăn thoắt, dài và nhỏ đều dần về phía đuôi, rất gần với con Rồng thời Lý.

Tuy chúng ta chưa vội khẳng định con Rồng Việt có tiền thân là con cá sấu hay một loài rắn nước cổ đại sống ở các sông ngòi vùng nhiệt đới, những chứng cứ khảo cổ học, phong tục học nêu trên cũng là chỗ dựa đáng tin cậy cho chúng ta một Nhận thức rằng hình ành con Rồng không nhất thiết được du nhập từ Trung Quốc với văn hóa Hán tộc, mà rất có thể có nguồn gốc bản địa – từ phương Nam – để rồi từ đó truyền đi.

RỒNG TRONG TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC:

Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung cũng thường nhắc đến con Rồng. Ta có thể dễ dàng bắt gặp Hàng long thập bát chưởng với Kiến long tại điền, Tiềm long thăng thiên, Giao long xuất hải, Thần long bái vĩ, Phi long tại thiên, Kháng long hữu hối… Đây là tên các thế võ phỏng theo tên gọi các quẻ trong Kinh Dịch. Ngay móng vuốt của Rồng cũng hình thành môn võ công: Long trảo thủ, Long tượng chưởng, Cầm long công… Mà Rồng là con vật chỉ có trong linh thoại, đứng đầu Tứ linh “Long, Lân, Quy, Phụng”. Đưa con Rồng vào trong tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã đưa con người trở về với thế giới linh thoại, một thế giới vượt xa hiện thực, ở ngoài thế giới hiện thực.

RỒNG VIỆT CÓ BẢN SẮC RIÊNG:

Chúng ta thấy con Rồng thời Lý vừa chịu ảnh hưởng hình thể Rồng đời Tống, lại vừa có nhiều nếp uốn tương tự như một kiểu hoa văn khắc trên một khuôn đất nung ở di chỉ văn hóa Hòa Bình (Thanh Hóa). Nh ững con Rồng đời sau tiếp tục biến đổi ngày càng có khu y nh h ướng gần hơn với Rồng Hán tộc về những điểm chủ yếu. Tất nhiên qua sự rung động hoa mỹ của mình, những nghệ sĩ Việt Nam vẫn để lại dấu ấn Việt Nam trên con Rồng đó. Mỗi hiệp thợ, mỗi nghệ nhân trong từng thời kỳ đều có những sáng tạo riêng, các phong cách đó đan xen vào nhau để phát triển. Ví dụ như trong khu vực Lam Sơn (Thanh Hóa), những con Rồng trên văn bia Vĩnh Lăng được chạm theo kiểu con Rồng thời Lý, còn cặp Rồng đá đứng trước điện chính lại vừa đưa một chân trước vuốt râu và có thân hình chắc khỏe của con Rồng thời Lê. Hay đầu Rồng bằng đá nung thời Trần tìm được ở gần chùa Côn Sơn (Hải Dương) có dạng như đầu một con trâu được cách điệu hóa “nom hiền lành ngộ nghĩnh, hàm dưới có mười răng dẹt kiểu răng bàn cuốc và môi trên kéo dài, cuộn lại như cái vòi”, khác hẳn đầu Rồng đất nung tìm thấy ở Lam Kinh (di tích kỷ niệm Lê Lợi)…

TÓM TẮT

Điều chắc chắn là từ ngàn xưa, hình tượng con Rồng thần thoại đã là một biểu tượng quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam. Không gian tung hoành của Rồng thật rộng lớn, tuyệt đối: mặt đất, dưới nước, trên không. Biết bao tên núi (Long Đại sơn), tên sông (Cửu Long giang), vịnh biển (Hạ Long, Bái Tử Long), đảo (Bạch Long Vĩ), vùng đất (Hàm Rồng), kinh đô (Thăng Long)… gắn liền với hình ảnh Rồng – con vật thần thoại, linh thiêng thân quen mà cao quý ấy.

(Tham khảo nhiều sách báovà sách Lịch Sử Việt Nam)

PHẠM VŨ

Phụ Bản IV

HÁT XOAN PHÚ THỌ

Hội nghị Ủy ban Liên chính phủ họp tại Bali, Indonesia (ngày 21 đến 29.11.2011) hồ sơ hát xoan là hồ sơ duy nhất được sự đồng thuận hoàn toàn của ban thẩm định và đánh giá là hồ sơ làm tốt nhất trên tổng số 33 hồ sơ khẩn cấp được đệ trình lần nầy. Tổng số di sản được bảo vệ khẩn cấp được ghi nhận sáng 24.11 là 10 di sản của 9 quốc gia (Việt Nam, Indonesia, Iran, Trung quốc, Brazil, Mali, Mauritus, Mông Cổ, UAF).

Hát xoan là loại dân ca lễ nghi, một đặc sản của vùng đất Tổ Hùng Vương. Hát xoan thường xuất hiện trong các lễ hội mùa xuân, hội đình làng ở nhiều địa phương thuộc tỉnh Phú Thọ. Kiểu thức hát xoan gần giống như hát dặm (Hà Nam) hay hát dô ở một số địa phương vùng đồng bằng sông Hồng. Truyền thuyết là lời hát “phục vụ bà đẻ”, bằng chứng là thần tích của miếu Lải Lèn còn ghi rõ, khi vợ vua Hùng Vương mang thai đã lâu, tới ngày sinh nở, đau bụng mãi mà không sinh được, một người hầu gái bèn nói với vợ vua nên mời nàng Quế Hoa xinh đẹp, múa giỏi, hát hay… về múa hát có thể làm bớt đau và sinh nở được. Và nhờ nàng Quế Hoa hát, múa vợ vua đã quên cả đau đớn và vượt cạn dễ dàng. Vua Hùng hết sức mừng rỡ, khen ngợi nàng Quế Hoa và những lời hát hay. Vua truyền cho các con gái học lấy những lời hát, điệu múa nhịp nhàng ấy rồi đem phổ biến trong cung đình.

Phú Thọ hiện có 4 phường xoan gốc với 120 người hát và biết hát xoan. Từ 80-104 tuổi có 30 người, 60-80 tuổi có 38 người, còn lại là dưới 60 người trong đó có 10 nghệ nhân. Hát xoan là loại hình nghệ thuật dân gian nên cách truyền dạy thông qua truyền khẩu. Tuy nhiên, bây giờ hát xoan cũng đã bị thất bản nhiều bởi ảnh hưởng từ các làn điệu hát dân ca khác như hát chèo, quan họ,… nhất là lớp đào, kép. Âm điệu trong hát xoan hoàn toàn khác biệt không giống với bất cứ làn điệu dân ca nào, cho nên để hát xoan đúng, đủ và mượt mà cần phải có thời gian tập luyện rất công phu…

Cứ mỗi dịp xuân về, phường xoan phải tập luyện từ trước Tết, rồi từ mùng 6 tháng giêng phuờng xoan lại khăn áo lên đường. Đêm hát xoan bao giờ cũng được tổ chức ở trong đình, trước miếu chứ không có sân khấu.

Đêm hát thường chia thành ba chặng. Chặng một: hát múa mời vua về dự hội đình với dân làng. Tiếp đó đến chặng hai: hát quả cách gồm những bài hát chúc vua, những bài hát kể về lịch tiết, lịch sử và nghề nghiệp của cư dân lúa nước. Và cuối cùng, chặng ba là hát trao duyên giữa đào xoan và trai làng.

Ở chặng ba đa phần là ứng khẩu, cho nên người ta hát được xoan phải có giọng mượt mà và am hiểu chữ nghĩa, nếu không rất dễ bị chê cười. Khi đào xoan ném quả đùm (chiếc khăn gói mấy miếng trầu) vào quan viên nào, mà quan viên không hát được thì phải thuê tiền để người khác hát đối lại. Không giống như quan họ, phuờng xoan là một tổ chức văn nghệ nghiệp dư của những người trong làng, phần lớn là có quan hệ họ hàng bà con với nhau. Người đứng đầu phuờng xoan là ông trùm phường. Ông trùm vừa là thầy dạy nghệ thuật Hát xoan, vừa là người tổ chức các cuộc trình diễn và lưu diễn của phường xoan đi khắp các đình làng trong vùng. Theo hầu ông trùm để học xoan là các kép con và các cô đào trẻ.

Dẫn đầu cuộc đi lưu diễn là ông trùm, theo sau là 2 kép con, một người ôm trống, một người ôm tráp. Trong tráp đựng những bản lời ca xoan viết bằng chữ Hán-Nôm. Theo sau 2 kép là 8 cô đào trẻ tuổi 18-20. Hành trang của các cô đào rất gọn nhẹ, tất cả được gói ghém trong chiếc khăn đen buộc thành tay nải đeo vai. Cuộc đi lưu diễn kéo dài hơn một tháng từ Phú thọ về Vĩnh Phúc rồi sang Sơn Tây… Phường xoan khi đến làng nào đều được dân làng đón tiếp trọng thị và thành kính, vì biết rằng, những câu hát xoan sẽ mang đến may mắn cho mọi người trong năm mới.

Hát xoan theo trình tự quy định, gồm phần nghi lễ tôn giáo, phần diễn xướng các quả cách như: xuân, hạ, thu, đông, ngư, tiều, canh, mục, thuyền, chèo, tứ, dân… cơ bản là hát lối và ngâm đọc, có thêm hát hội mang tính chất trữ tình với nội dung là tình yêu đôi lứa, giao duyên. Cuối cuộc hát là giã, kết thúc quá trình trình diễn xướng.

Cuộc hát ấy diễn ra vào mùa xuân nên gọi hát xuân (chệch là xoan)

Bùi Đẹp

Bạn tôi VIII

Sáng hôm qua tôi ngồi ăn sáng với bạn tôi tại một quán bán bún cá trên đường Trần Huy Liệu. Trong khi hai chúng tôi đang ăn, tôi bỗng thấy có một người bán vé số tiến về phía bạn tôi, không lên tiếng mời chào gì cả, và chỉ chìa ra trước mặt bạn tôi một tấm vé số. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy bạn tôi bỏ đũa, thò tay vào túi rút ra 10 ngàn, lặng lẽ trao cho người bán vé số và lấy tấm vé số bỏ vô túi áo. Người bán vé số là một thiếu phụ vừa quay ra, thì lại đến lượt một cháu gái nhỏ tiến lại, trên tay cũng cầm một tấm vé số, và tôi ngạc nhiên hơn nữa khi thấy bạn tôi lại bỏ đũa, lấy 10 ngàn trao cho cháu gái và lại đút tấm vé số vào túi. Sau khi ăn xong, hai chúng tôi rủ nhau lại tiệm sách của anh Th. ở gần đó. Trên đường đi, tôi lại thấy có 2 thiếu phụ bán vé số khác cũng chặn bạn tôi lại, và tôi lại thấy anh mua của một người một vé và của người kia 2 vé, miệng nói: “Lấy mỗi đài 1 vé!”. Tôi hỏi anh: “Sao anh mua nhiều vậy? Đã có lúc nào trúng lớn chưa?” Bạn tôi lắc đầu và nói: “Mua cho mỗi người 1 vé, người ta vui mình cũng vui lây, bao giờ trúng cũng được!” Ở quán sách ra, hai chúng tôi vào một quán cà phê, tôi hỏi tiếp: “Từ khi bắt đầu chơi trò may rủi này lần anh trúng lớn nhất là được bao nhiêu? Anh cười và cho biết trong mấy chục năm trời, lần anh trúng lớn nhất là được giải nhì hay ba gì đó, và khi trúng, thì coi như anh được biếu không vé số trong 4 tháng chứ chả có gì là quan trọng. Tôi tiếp tục hỏi: “Thế sao anh chịu kiên nhẫn tiếp tục mỗi ngày mỗi mua như vậy? Anh chậm rãi nói: “Đơn giản vì tôi rất quý trọng những người bán vé số, họ đích thực là những người dầm mưa dãi nắng để kiếm sống một cách thật lương thiện” và “Tôi ghét lũ bất lương, gian dối, lưu manh bao nhiêu thì tôi quý trọng những người bán vé số bấy nhiêu! Không kể một đôi lúc tôi còn cảm thấy Ông Xanh đôi lúc hơi bất công, khi để nhiều nữ lang xinh đẹp phải đội mưa đội nắng lang thang trên đường phố kiếm sống, trong lúc đúng ra, theo lẽ công bằng, những con người đó, phải được ở nhà lầu, đi xe hơi thế vào chỗ nhiều đứa xấu còn hơn con khởi…” Thấy anh nói vậy tôi bảo anh: “Anh có vẻ thực sự quan tâm tới việc mỗi ngày mỗi mua vé số nhỉ?” Anh trả lời: “Tuấn nói đúng, việc này đã thực sự trở thành một thói quen, hơn nữa nó có công dụng rất tuyệt vời như tôi đã nói ở trên là mang lại một niềm vui nho nhỏ mỗi ngày cho những người mình quý trọng, để rồi họ vui, mình cũng vui vui lây, để bắt đầu một ngày mới…” Nghe anh trả lời như vậy, trong đầu tôi bỗng nảy ra một ý là lạ, và tôi bảo anh: “Anh chơi vé số như vậy thì anh có thể cho tôi biết vé số bắt nguồn từ đâu? Từ bao giờ và anh có biết chuyện gì hay về những người trúng số không?”

Vừa quấy tách cà phê anh vửa bảo tôi: “Tôi nhớ mang máng là vé số bắt nguồn ở Âu Châu và trong số mấy trăm bạn hữu của tôi có 2 người trúng độc đắc, và việc trúng số này đã đưa hai nhà tân tỷ phú này tới hai tình huống hoàn toàn trái ngược với nhau, nhưng thôi, hôm nay Tuấn hỏi nhiều quá rồi, chúng ta hãy uống cà phê đi đã, rồi còn phải về, tôi sẽ tra cứu lại kỹ nguồn gốc vé số rồi sáng mai sẽ cho cậu biết cho chính xác và cũng sẽ kể cho cậu nghe truyện hai nhà tỷ phú bạn của tôi!” Tôi đồng ý và cảm ơn bạn tôi trước vì tôi biết anh có ở nhà anh rất nhiều sách vở nghiên cứu, tham khảo, rất nghiêm túc vì của các tác giả đáng tin cậy, do toàn các nhà xuất bản lớn in, và tính anh rất kỹ, khi đưa ra thông tin gì đều phải kiểm tra rất kỹ độ chính xác của nó. Anh rất thích một câu của Chế Lan Viên, và anh thường nhái câu đó để nói: “Tôi chẳng có tài cán gì cả… chỉ có tài liệu!”

Sáng hôm nay, sau khi ăn sáng, chúng tôi lại ghé quán cà phê và anh bắt đẩu kể: “Vé số bắt nguồn từ nước Ý, từ triều đại Néron sau mỗi bữa tiệc và phần thưởng thường là những nô lệ hoặc một biệt thự. Ở Pháp thì xổ số được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1660 trong đám cưới của Lộ Y thứ XIV, và rồi từ năm đó kéo dài cho tới năm 1945 mới chính thức thành Xổ số quốc gia, và trong thời gian từ 1660 cho tới 1945, đã có nhiều lần bị cấm rồi lại được tổ chức trở lại. Ở ta, thì ngày mới giải phóng cũng bị cấm trong một thời gian ngắn, sau đó được tổ chức lại và tồn tại cho tới ngày nay với rất nhiều đài khác nhau, ở các địa phương khác nhau. Sau khi nói về nguồn gốc vé số, anh kể tiếp về 2 người bạn anh đã trở thành tỷ phú nhờ trúng số.

Anh cho biết vào năm 1980, ông Nh., một người bạn anh, đã trúng một lúc 10 vé độc đắc. Anh không nhớ rõ giải độc đắc vào thời điểm đó là bao nhiêu, nhưng anh tin rằng nhiều hơn 10 vé độc đắc vào lúc này. Sau khi trúng số bạn anh đã không thèm giấu giếm gì cả mà còn mời tất cả bạn bè tới dự một bữa tiệc tại một nhà hàng, và trong bữa tiệc đó ông cho biết là ông sẽ chỉ sử dụng 50% số tiền trúng số cho riêng ông ,và sẽ dành 50% còn lại để hành thiện theo cách riêng của ông, một cách mà ông gọi là “làm việc thiện trực tiếp”.Mọi người vỗ tay hoan nghênh và điều kỳ diệu là trong bữa ăn đó không hề có một ai lên tiếng xin sỏ, vay mượn gì cả. Có một ai đó đã yêu cầu ông giải thích làm trực tiếp là làm thế nào? Ông tân tỷ phú cho biết ông sẽ bỏ số 50% vào ngân hàng, và sẽ rút ra từ từ để mỗi ngày ông sẽ bỏ túi độ 1, 2 triệu để cùng một hai người bạn rong chơi phố thị để nếu bắt gặp những trường hợp, tình huống bi thương thì sẽ cho tận tay những người nghèo khổ đó, mà ông chỉ gặp một lần rồi thôi… Tóm lại là ông không hám danh, không chủ trương đưa cho tổ chức này, Hiệp Hội nọ, vì ông hơi bị ít tin họ và còn nói “không khéo làm từ thiện lại thành tư thiện thì hề quá, hi! hi! hi!” Và ông Nh. đã làm đúng như vậy và sống vui vẻ, an nhiên tự tại cho tới năm 2004 khi Chúa Trời triệu ông về ở tuổi 84… Kể đến đây bạn tôi bảo tôi: “Ông Nh. đã làm rất đúng, của từ trên Trời rớt xuống, có được mà không phải rỏ giọt mồ hôi nào, thì chỉ hưởng một nửa là hợp lý, nửa kia nên chia cho những người ít may mắn hơn mình là rất đúng và tốt. Rồi anh kể tiếp cho tôi nghe câu truyện người bạn thứ nhì của anh cũng thành tỷ phú nhờ vé số.

Anh cho biết trường hợp ông Th., bạn anh, trúng một lúc 5 vé độc đắc khoảng mười năm trước. Trước lúc trúng ông Th. thỉnh thoảng có ghé thăm anh và có đôi lúc mượn anh mỗi lần vài trăm, có lúc ông ta trả và có lúc ông ta quên trả luôn. Nhưng ngay sau khi trúng số là ông ta lặn mất tiêu, hầu hết các bạn bè đều không thấy mặt, nhưng có một vài người bắt gặp ông đi trên phố trên một cái xe Wave mới tinh, thay vì cái xe ông ta vẫn đi lúc trước là một cái Honda cũ sì của những năm 60. Tóm lại, sau khi trúng độc đắc, ông này không những giấu tất cà các bạn bè mà còn giấu cả vợ con nữa. Thấy bạn tôi kể vậy tôi hỏi anh:”Ông ta giấu bem mà sao anh biết là ông ta trúng 5 vé độc đắc?” Anh trả lời:” À, tôi biết được vì Thúy, một trong những bồ nhí đầu tiên mà ông ta đã bỏ để vồ em khác cho tôi biết!” Và anh kể tiếp: “Ông ta gửi ngân hàng và rút dần ra để chỉ làm một việc duy nhất là tiêu xài huy hoắc với các bồ nhí mà ông tìm trong giới tiếp viên và người mẫu chân dài. Với các bạn cũ ông lánh mặt hết vì sợ bị vay mượn, còn các bạn mới thì hầu như ông không có bạn nam phái, trừ một hai tên ma cạo chuyên “tầm quạt” cho ông. Toàn bộ số tiền Trời cho ông ta đã tiêu dùng vào việc liên tục thay đổi bồ nhí, em nào khoái lắm thì cũng chỉ được vài tháng, cho tới khi ông gặp một em á hậu trong một kỳ thi Hoa Hậu vớ vẩn nào đó, và em này chính là kẻ đã thành công nhất, vì giữ ông được trên một năm, và nhất là vì đã rủ được ông cùng ả đi vượt biên, tính chuyện qua Mỹ ở cho sướng! Sau khi rút hết phần tiền còn lại, một số tiền cũng khá lớn, ông Th., đã cẩn thận đổi từ Đô Mít (Annamese dollar) sang Đô Mẽo (American dollar) và vàng miếng để mang đi cho dễ, nào ngờ giấc mơ sống ở Mỹ của ông đã không thành sự thật, đơn giản vì ông đã bị em á hậu… lừa vứt ông lại để chỉ đi với gói tiền Đô của ông và tên bồ nhí của nó. Tại địa điểm để xuống tàu ông đã bị ả đánh thuốc mê, để khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm trơ trọi bên chiếc ba lô cỏn đầy đủ áo quần… nhưng gói tiền Đô và vàng miếng thì đã biến mất dạng với con á hậu đểu cáng. Ông đành nuốt lệ, cố lết thân tàn trở về để đối mặt với thực tế phũ phàng là mình đã hoàn toàn trắng tay, không phải chỉ về mặt tiền bạc của cải, mà ngay cả hạnh phúc gia đình cũng đã tan tác trong bão tố, chỉ vì vợ ông, bà giáo D. sau khi bị bỏ bê nhiều năm, và sau một số trận cãi vã đã viết đơn li dị và trở về nhà cha mẹ đẻ, còn hai người con thì đã có gia đình riêng của họ, và cả hai đều tuyệt đối không tán thành cách ông đối xử với mẫu thân họ. Tất cả những diễn biến này đã được anh S. người cháu trai của ông kể lại với chúng tôi để đi đến kết luận là xin chúng tôi tha thứ cho ông và nếu có giúp đỡ được gì thì xin ra tay tế độ. Tuy nhiên, sau ngày đó ông cũng không tìm đến với chúng tôi và bỏ đi luôn, rất có thể là dù sao đi nữa thì ông cũng còn được vài xu tự trọng, tự ái của người tri thức; không biết giờ này ông đang lưu lạc ở đâu, còn trụ thế hay đã… về Bển!

Bạn tôi kết luận: “Tuấn thấy không? Đây là một bằng chứng rất cụ thể LÀ TIỀN KHÔNG PHẢI LÀ TẤT CẢ, và nếu có trong tay thật nhiều tiền mà không biết sử dụng nó một cách hợp tình, hợp lý thì thân bại danh liệt là cái chắc!”

Vũ Anh Tuấn


34 câu nói của cụ 90 tuổi

1. Life isn't fair, but it's still good

(Cuộc đời nhiều bất công nhưng vẫn còn tốt chán)

2. When in doubt, just take the next small step

(Khi nghi ngại, hãy từ từ mà tiến)

3. Life is too short. Don't waste time hating anyone

(Cuộc đời quá ngắn ngủi.

Đừng phí thỉ giờ ghét bỏ ai làm gì)

4. Only friends and family will be present in sickness. Stay in touch

(Đau ốm, chỉ có gia đình và bạn bè bên cạnh. Nhớ gần gũi)

5. Pay off your credit cards every month

(Hãy trả hết nợ thẻ tín dụng mỗi tháng)

6. You don't need to win every argument. Agree to disagree

(Khi tranh luận, hơn thua không đáng kể.

Nên chấp nhận bất đồng)

7. Crying is good, but it's more healing crying with friends

(Khóc cũng tốt, nhất là khi khóc với bạn bè)

8. Release your children when they become adults, its their life now

(Buông tay với con cái trưởng thành.

Chúng có cuộc sống riêng)

9. Save for retirement starting with your first pay cheque

(Để dành cho tuổi về hưu ngay với số tiền lương đầu tiên)

10. When it comes to chocolate, resistance is futile

(Để ý sự cám dỗ)

11. Make peace with your past so it won't screw up the present

(Hãy làm lành với quá khứ để hiện tại được yên ổn)

12. It's OK to let your children see you cry

(Con cháu thấy mình khóc đâu có sao)

13. Don't compare your life to others. They have different journeys

(Đừng đem đời mình so với ai đó; đời mỗi người mỗi khác)

14. Never be in a secret relationship

(Đừng bao giờ dính vào một mối quan hệ bí mật)

15. Everything can change in the blink of an eye

(Mọi chuyện ở đời có thể thay đổi trong chớp mắt)

16. Take a deep breath. It calms the mind

( Hít thở sâu giúp tinh thần ổn định )

17. Get rid of anything that is neither useful, beautiful, nor joyful

( Hãy gạt bỏ những gì vô ích, xấu xa, buồn bã )

18. What doesn't kill you really makes you stronger

(Điều gì không giết ta được sẽ giúp ta mạnh hơn)

19. It's never too late to have a happy childhood

(Sống lại như trẻ con lần nữa cũng không phải là trễ quá)

20. For whatever you love in life, don't take no for an answer

(Những gì yêu quý trên đời, ta đều phải ráng đạt cho được)

21. Today is special. Enjoy it

(Ngày hôm nay là ngày đặc biệt. Phải tận hưởng nó)

22. Your belief of your being right doesn't count. Keep an open mind

(Cứ tin mình luôn luôn đúng là bậy. Phải có đầu óc cởi mở)

23. No one is in charge of your happiness but you

(Hạnh phúc của mỗi người là mối lo riêng của người đó)

24. Forgive everyone everything

(Hãy tha thứ tất cả cho mọi người)

25. What other people think of you is none of your business

( Đừng bận tâm về nhận xét của ai đó đối với mình )

26. Time heals almost everything. Give time time

( Thời gian hàn gắn gần như mọi sự.

Xin cho thời gian có thì giờ )

27. However good or bad a situation is, it will change

(Tình thế dù tốt hay xấu, rồi cũng thay đổi)

28. Don't take yourself so seriously. No one else does

(Đừng quá nghiêm khắc với bản thân. Ai cũng vậy thôi)

29. Believe in miracles

(Hãy tin vào phép lạ)

30. Your children get only one childhood

(Con cái chúng ta chỉ có một thời trẻ trung)

31. Envy is a waste of time

(Đừng ganh tị. Mất thì giờ vô ích)

32. It's OK to yield

(Làm được bao nhiêu cũng tốt)

33. Life is a gift

(Cuộc sống là một món quà)

34. Friends are the family that we choose

(Bạn bè là gia đình chính chúng ta đã chọn)

From Regina Brett, 90 years old

Hoàng Chúc st

Gạo Lức Rang Điều Trị Bệnh

Gạo lức rang điều trị bịnh thoái hóa khớp từ tây y qua thực dưỡng. Kết quả tốt đẹp không ngờ.

Bạn nên dành 5 phút để đọc bài viết nầy, có thể sẽ giúp được chút gì đó cho bạn, hay người thân của bạn.

Tháng 12/2010

Bà con ơi,

Tôi không phải là một nhà văn, nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Nhưng thấy cần phải chia sẻ những gì mình đã được chia sẻ từ người khác. Tôi mạo muội viết ra kinh nghiệm mà mình đã đúc kết được. Xin gởi đến mọi người. Trong phạm vi bài nầy, tôi chỉ nói đến chữa bịnh thoái hóa khớp và phòng chống loãng xương. Nếu văn vẻ không thông suốt, mong mọi người lượng thứ.

Tôi bị thoái hóa khớp gối chân trái và chân phải, gần 10 tháng rồi. Tôi không chạy xe đạp được, không đi lại được. Tôi tưởng đời đã khép lại với tôi. Nhưng không, đời tôi vẫn màu hồng... Sau khi uống hết 2kg bột gạo lức rang, bịnh thoái hóa 2 khớp gối của tôi gần như hết 8/10. Trước khi dùng nước gạo lức, tôi đã phải dùng băng vải dầy, to bản băng vào 2 đầu gối. Tôi đi từng bước nặng nhọc và có cảm giác đầu gối muốn sụm xuống (tôi bị sụm 1 lần khi bước chân lên xe buýt). Nhiều lúc tôi phải chống gậy để giảm áp lực của trọng lượng cơ thể đè trên 2 đầu gối, và cũng để an toàn, tránh té ngã. Đồng thời luôn phải nghe tiếng khua lịch kịch của các khớp xương nơi đầu gối. Mỗi khi có đợt đau nhức tôi phải uống thuốc kháng viêm, giảm đau và giản cơ mấy tuần liền. Trong lúc uống thuốc tây, tôi vẫn khó vận động, đi lại. Điều quan trọng nhất là tinh thần của tôi. Tôi rất buồn khi thấy mình sắp trở thành phế nhân ở tuổi chưa già.

Khi có người quen chỉ cho tôi dùng bột gạo lức rang. Tôi chỉ gật gù cho qua, vì tôi nghĩ thuốc tây còn bó tay với bịnh thoái hóa khớp thì gạo lức rang làm được gì? Thời may, chính người ấy đã tặng cho tôi 1kg bột gạo lức rang và mong tôi dùng thử. Tôi không tin, nhưng sẵn có bột thì dùng thử, đâu có hại gì? Tôi nghĩ như vậy và bắt đầu uống. Cứ 1 ly nước sôi khoảng 200cc, tôi cho vào 2 muỗng cà phê bột gạo lức rang. Mỗi ngày tôi uống 2 ly, tức là 4 muỗng cà phê bột gạo lức rang. Sau đó, tôi lên mạng lục tìm thông tin xem gạo lức rang tốt cỡ nào? Cũng như trước đây tôi đã lục tìm xem bịnh thoái hóa khớp sẽ dẫn đến đâu? Về bịnh thoái hóa khớp càng tìm hiểu, càng thêm buồn, vì kết cục thê thảm quá, nào là ngồi xe lăn, thay khớp nhân tạo, đau nhức đêm ngày... Tôi bị ám ảnh mà đêm ngày không sao ngủ được. Vì tôi còn khá trẻ, tôi còn muốn làm rất nhiều việc, đòi hỏi sự đi lại, linh hoạt chân tay như trồng rau, trồng kiểng các loại, nhổ cỏ, xới đất... Nếu phải ngồi xe lăn thì buồn biết mấy. Về nước gạo lức rang, càng đọc tôi càng thấy phấn chấn. Tôi được biết gạo lức rang có rất nhiều tác dụng tốt để chữa được nhiều bịnh. Riêng có một câu mà tôi thắc mắc là :gạo lức rang làm cho nhẹ người. Nhẹ người là sao? Tôi không thể hiểu nổi, bởi vì mỗi người cân nặng bao nhiêu là bao nhiêu làm sao làm nhẹ được?

Sau khi uống bột gạo được 10 ngày, thì tôi hiểu chữ nhẹ người là sao? Trước đây người tôi rất nặng nề, (tôi thừa tới 10 kg). Tôi đi, đứng ì ạch. Một đoạn đường ngắn mà tôi đi mãi mới tới nơi. Sau khi uống bột được 10 ngày, tôi có cảm giác mình linh hoạt, bước chân của tôi nhanh hẳn lên. Tôi không thấy nặng nề, ì ạch nữa. Lúc nầy thì tôi đã hiểu nhẹ người là sao? Và sau khi dùng hết 2kg bột, tôi không còn phải băng đầu gối nữa, tôi đi nhanh như chạy cũng được. Đầu gối của tôi không còn khua lịch kịch nữa. Không có cảm giác gì lạ ở đầu gối, giống như tôi chưa từng bị thoái hóa khớp vậy.Tôi chỉ còn cảm giác hơi khó khăn khi ngồi xuống, đứng lên. Nhưng tôi biết, tôi sẽ hết bịnh hoàn toàn sau khi uống thêm vài kg bột gạo lức nữa. Người chỉ cho tôi uống bột đã khỏi bịnh hoàn toàn, đến nay đã 3 năm rồi, bịnh vẫn không tái phát. Chị nói người khỏe khoắn, nhanh nhạy và chị đã chỉ cho nhiều người. Ai cũng hết bịnh.Thật tình, tôi mừng không thể tả vì đời tôi vẫn còn màu hồng, đời còn chưa khép lại với tôi.

Có 3 cách dùng gạo lức rang (một món thuốc tiên):

1/ Bột gạo lức rang :

Rất dễ làm (gạo lức rang lên, rồi xay nhuyển, mịn như bột mì). Bạn rang gạo như đã hướng dẫn (phần 2), rồi bạn rang tiếp thêm một lúc nữa cho đến khi một số hạt gạo nở bung lên như bắp bung, rất đẹp mắt là được rồi. (không làm nở bung hết, chỉ 1 số hạt thôi là được rồi).

- Một loại thực phẩm rẻ tiền (từ 55-70.000 đồng/kg),

- Dễ tìm (ở đâu cũng có, nếu không làm được thì mua),

- An toàn (có ai ăn gạo mà chết bao giờ),

- Dễ bảo quản, dễ cất giữ (4-5 tháng không hư)

- Làm giảm cân (ăn gạo lức không bao giờ mập)

- Không phản ứng phụ với bất cứ ai,

- Không kỵ với tất cả các loại thuốc tây y khác.

- Không giới hạn tuổi xử dụng (từ lâu đã được dùng cho trẻ nhỏ là bột gạo lức Bích Chi). Bạn có thể dùng bột Bích Chi, mua trong chợ hay các siêu thị. (tôi thấy giá rất mềm, không biết họ có độn thêm gì không?)

2/ Trà gạo lức:

Nếu bạn không tiện xay nhuyển như bột, hay bạn không thích uống bột. Bạn hãy uống trà gạo lức rang. Cách làm như sau:

Mua gạo lức huyết rồng (khoảng 25.000 đồng/kg). Bạn vo sạch, để ráo nước. Khi vừa ráo nước thì bạn rang liền (đừng để hạt gạo khô quá, không thơm). Rang nhỏ lửa, khuấy đều tay. Khi hạt gạo hơi sậm màu và có mùi thơm (như bạn rang đậu phọng vậy) là được rồi.

Bạn đổ gạo vừa rang vào một cái rổ, có lót sẳn 1 miếng vải. Bạn phủ vải kín hạt gạo. Khi gạo nguội rồi bạn đổ gạo rang vào hủ có nắp kín để bảo quản. Mỗi ngày, bạn múc vài muổng gạo lức rang ra pha như pha trà. Trà có màu cánh dán rất đẹp, rất thơm. Uống đậm hay nhạt, nhiều hay ít tùy bạn thích. Càng uống nhiều thì bịnh càng mau có kết quả. Khi uống xong nước thứ 1, bạn lại chế nước sôi vào lần 2, rồi lần 3. Hoặc bạn pha 3 lần, rồi trộn lẫn vào nhau mà uống. Cuối cùng, hạt gạo đã nở mềm. Bạn có thể vứt đi, hay ăn cho khỏi tội.

Trà gạo lức rất thơm, ngon, đẹp mắt. Trong tình cảnh trà khô vừa mắc tiền, vừa bị trộn tạp chất, vừa bị xịt thuốc trừ sâu. Bạn hãy dùng trà gạo lức, như một biện pháp phòng tránh ngộ độc thuốc sâu, an toàn, thơm ngon, rẻ tiền, chữa bịnh khớp, và phòng chống loãng xương. Dùng trà gạo lức rang bạn sẽ ghiền vị thơm ngon của chúng.

3/ Cốm gạo lức.

Gạo lức vo thật sach (vì có nhiều chất bảo quản). Nấu thành cơm. Để nguội, bóp rời ra, phơi khô, Sau đó rang lên. Bây giờ hạt gạo trở thành cốm, dòn tan, ăn rất ngon. Tuy nhiên, phải là người có sức nhai tốt, mới nên dùng cốm gạo lức.

Tôi có dến 1 tiệm bán tạp phô ở chợ Bà chiểu. Cửa hàng nầy, bán đủ thứ về gạo lức. Tôi thấy họ bán cốm gạo lức. Như vậy, rõ ràng là để chữa bịnh về khớp và phòng chống loãng xương, bắt buộc là phải rang gạo lên.

Người chỉ cho tôi dùng bột gạo lức rang ở Vũng tàu. Tôi lại mua cốm gạo lức ở chợ Bà Chiểu. Từ đó tôi suy ra việc dùng gạo lức rang để chữa bịnh khớp là phương pháp dân gian, đã truyền miệng từ lâu đời rồi. Một phương pháp trị thoái hóa khớp rất hay, nhưng không hiểu vì sao ít người biết đến, và không được phổ biến rộng rãi?

Phụ nữ chúng ta, ở độ tuổi 45 trở đi. Trên 90% dễ bị thoái hóa khớp, do cơ thể không tạo đủ chất nhờn để bôi trơn các ổ khớp. Khi bị thoái hóa là bị tất cả các khớp. Nhưng khớp đầu gối bị trước tiên, vì nó chịu sức nặng của cơ thể. Bạn sẽ cảm thấy nhức mỏi chân tay. Đứng lên, ngồi xuống không linh hoạt như trước. Dần dần các khớp sẽ kêu răng rắc khi vận động. Ở các nước tiên tiên, mỗi ngày phụ nữ trên 45 tuổi thường uống 1 viên glucosamine 1.000mg (thuốc tạo chất nhờn), cùng với 1 viên calci D. Uống suốt đời, để ngăn chận bịnh thoái hóa khớp. Vì cơ thể tạo chất nhờn thiếu, nên phải uống bổ xung mỗi ngày. Đây là thức ăn, dưới dạng thuốc, nên còn gọi là thực phẩm chức năng.

Bạn hãy xem người nhà bạn, hàng xóm bạn, họ hàng bạn, người tình cờ gặp trên đường, người có tuổi, (thỉnh thoảng có người trẻ tuổi). Thường là phụ nữ, nam giới rất ít

- Ai đau nhức mình mẩy.

- Ai bị loãng xương.

- Ai bước xuống cái bửng dắt xe máy mà sính vính, chới với.

- Ai bước đi mà mặt mày nhăn nhó vì đau đớn

- Ai sợ đi xe buýt (vì sợ chậm lên xuống, xe chạy mất)

- Ai bước đi chầm chậm (vì đi nhanh sợ bị sụm xuống do khớp gối lỏng lẻo)

- Ai ngồi thấp xuống khó khăn, đứng lên phải bò hay níu một vật gì đó.

- Ai không ngồi xổm được.

- Ai không lên cầu thang được (phải bám vào thành cầu thang để kéo mình lên, đi phải chụm 2 chân , đi từng bước một, hoặc từ chối lên cầu thang, hoặc thấy thang lầu là sợ khiếp).

- Ai bước đi mà nghe xương kêu răng rắc (tình trạng nầy là bịnh thoái hóa khớp đã nặng rồi. Chất nhờn đã khô, các đầu xương chạm vào nhau phát ra tiếng kêu). Nếu bị một thời gian thì gạo lức rang vẫn chữa được như tôi đã từng bị.

Những người có 1 trong những triệu chứng kể trên, có thể là dấu hiệu của bịnh thoái hóa khớp. Bạn nên giới thiệu cho họ uống bột gạo lức rang. Cứu 1 người còn hơn xây 9 ngôi chùa mà.

Nếu bạn nghi ngờ, xin hãy dùng thử. Như tôi đã từng nghi ngờ và đã dùng thử. Khi bạn đã dùng bột hay uống trà thì yêu cầu phải liên tục mỗi ngày. Nếu 1kg bột mà uống 2-3 tháng mới hết thì không có kết quả. Chỉ uống hết 1kg bột thôi, bạn sẽ cảm nhận được sự thay đổi tốt hơn ngay. (bạn có bịnh về khớp, thì cảm nhận được liền. Bạn không bịnh thì thử máu mới thấy kết quả tốt). Những bà con bị bịnh nặng, đã từng đau khổ vì bịnh thì sẽ cảm nhận kết quả tốt từng ngày, vì đó là niềm hy vọng cuối cùng và mong manh (tin sao nổi! Tôi đã từng ra vào khoa chấn thương chỉnh hình, BV Chợ Rẫy. Điều trị theo tây y, nhưng bịnh không có chiều hướng tốt)

Trước đây, tôi phải uống thuốc tạo chất nhờn mỗi ngày. Khi được chỉ dẫn, tôi uống bột gạo lức rang cùng với thuốc tạo chất nhờn được 1 tháng thì tôi ngưng không uống thuốc nữa. Chỉ uống bột gạo rang thôi. Bạn là phụ nữ trên 45 tuổi. Bạn phải có 1 sự lựa chọn tốt cho xương cốt của bạn đến suốt đời. Bạn phải chọn 1 trong 2 cách sau:

1/ Mỗi ngày 1 viên glucosamine 1.000mg (thuốc tạo chất nhờn cho khớp), 1 viên calci D,(thuốc chống loãng xương. Thuốc nầy phải uống vào buổi sáng, với nhiều nước. Uống xong phải đi lại, không được nằm. Làm ngược lại sẽ bị sạn thận).

2/ Mỗi ngày uống ít nhất 2 lần. Mỗi lần 2 muỗng cà phê bột gạo lức rang, chế vào 200cc nước sôi, khuấy tan bột, đậy lại 10 phút sau thì uống được. Uống loãng loãng thôi, đừng pha đặc như cháo, khó uống). Hoặc nước trà gạo lức rang (uống thoải mái, tùy thích). Sau khi uống hết 3-4 kg bột, khi cơ thể đã khỏe, nhanh nhẹn, thì uống ít đi hoặc vẫn uống như cũ. (cũng tùy thích). Bột gạo lức rang và nước trà gạo lức, dùng tốt cho mọi người. Có bịnh hay không có bịnh, dùng cho nam-phụ-lão ấu. Không kiêng kỵ với thuốc gì. Bài viết trên, tôi nhấn mạnh đến giới phụ nữ trên 45 tuổi. Vì ở độ tuổi đó người phụ nữ rất dễ bị thiếu chất nhờn ở các ổ khớp. Tỉ lệ 90 người nữ/10 người nam.

Hôm nay, tôi viết những lời nầy, gởi đến các bạn, để cùng nhau phổ biến rộng rãi cho mọi người biết. Hãy giúp đem lại nụ cười cho những ai đã từng đau khổ như tôi. Nước gạo lức rang, thần dược của mọi người

Rất đơn giản, chỉ với vài kg bột gạo lức rang, rất rẻ tiền, rất dễ làm, rất thơm ngon, rất an toàn. Cuộc đời bạn hồng tươi lên từng ngày. Sao bạn không thử?

Ngoài ra, bột gạo lức rang còn giúp chữa nhiều thứ bịnh khác nữa. Khi bạn ăn cơm gạo lức, bạn sẽ chữa được nhiều thứ bịnh. Nhưng để chữa bịnh khớp như tôi đã nói ở trên, bắt buộc bạn phải rang lên. Ăn gạo lức rang tức là bạn đã làm dương hóa cơ thể. (âm, dương trong thực phẩm, tôi chỉ biết có nhiêu đó thôi).

Tháng 10-2011

Hiện giờ, bịnh thoái hóa khớp của tôi xem như đã khỏi hết 95% rồi. Đi, đứng, chạy, nhảy bình thường. Đạp xe đạp băng băng qua cầu Bình Triệu. Đạp xe đạp rượt theo xe máy. Đầu gối không hề đau nhức, không kêu lộp cộp. Người rất khỏe, tay chân linh hoạt , nhẹ nhàng. Khi đi bộ bước chân nhanh thoăn thoắt, Nhảy tuýt ngon lành. Đi cầu thang thì chạy lên, chạy xuống không cần vịn. Khi làm vườn thì bưng chậu đất khoảng 10 kg, hay bình tưới nước 10 kg đi ào ào. Nói chung mọi thứ khỏe hơn lúc trước, trước khi tôi bị bịnh. Còn 5% còn lại chưa tốt là tôi vẫn chưa ngồi xổm được. Mà ngồi xổm lại rất có hại cho khớp gối của người lớn tuổi, vì vậy tôi cũng không bao giờ muốn ngồi xổm. Khi cần ngồi thì tìm một cái ghế hay 1 chổ để ngồi. Cũng cần lưu ý là ngồi ghế cao tốt hơn ghế thấp cho người có tuổi.

Bình Châu

26 Điều cần ghi nhớ trong cuộc sống

Đó là những điều giản dị nhưng cực kỳ hữu ích cho những ai muốn làm giàu thêm hành trang cuộc sống.

1. Nổi giận là trạng thái cái lưỡi làm việc nhanh hơn cái đầu.

2. Bạn không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể phá huỷ hiện tại bằng cách quá lo lắng cho tương lai.

3. Hãy yêu thương đi... rồi bạn chắc chắn sẽ được đáp lại.

4. Cuộc sống luôn ban tặng những điều tốt đẹp nhất cho những ai biết nhẫn nhịn.

5. Tất cả nụ cười đều có chung một ngôn ngữ.

6. Cái ôm là món quà lớn... Có thể cho đi lúc nào và dễ dàng được đáp lại.

7. Mọi người cần được yêu thương... nhất là khi họ không xứng đáng điều đó.

8. Thước đo của cải của một người là những gì anh ta đã cống hiến cho đời.

9. Tiếng cười là mặt trời của cuộc sống.

10. Ai ai cũng đẹp, có điều không phải ai cũng nhận ra nó.

11. Điều quan trọng cho cha mẹ là sống theo những gì họ dạy.

12. Cảm ơn cuộc sống về những gì bạn có, tin cuộc sống về những gì bạn cần.

13. Nếu bạn tiếc nuối ngày hôm qua và lo lắng ngày mai, bạn sẽ không có ngày hôm nay để cảm tạ.

14. Người bình thường nhìn hình thức, người thông thái nhìn nội tâm.

15. Sự lựa chọn của bạn ngày hôm nay sẽ có tác động đến ngày mai

16. Dành thời gian để cười, bởi đó chính là điệu nhạc của tâm hồn.

17. Nếu có ai nói xấu bạn, hãy sống làm sao để không ai tin điều đó.

18. Kiên nhẫn là khả năng bạn hãm phanh khi bạn có cảm giác như đang tăng tốc.

19. Tình yêu thương vững chắc sau khi trải qua những xung đột.

20. Điều tốt nhất cha mẹ có thể làm cho con cái là yêu thương nhau.

21. Những lời nói không tốt không làm gãy xương, nhưng có thể làm vỡ trái tim ta.

22. Để thoát khỏi gian nan, chỉ có cách đi xuyên qua nó.

23. Yêu thương là từ duy nhất có thể chia mà không bị giảm.

24. Hạnh phúc được tăng lên nhờ những người xung quanh, nhưng không phù thuộc vào họ.

25. Với mỗi phút bạn nổi giận, bạn mất đi 60 giây hạnh phúc mà không thể nào lấy lại được.

26. Làm bất cứ việc gì với hết khả năng, cho những ai bạn có thể, với những gì bạn có, và ở nơi nào bạn đang đứng.

Hoàng Chúc st.

NGƯỜI SONG SINH


Cô Julia, không những hai anh em tôi song sinh, mà cả cô cũng giống một người nữa. Tôi đã gặp người ấy nắm tay một chàng trai…

Vài hàng về Ambrose Bierce (1842 – 1914?)

Đối với Ambrose Gwinett Bierce, thế giới là một nơi đầy những tuyệt vọng, bị làm cho suy đồi bởi một sinh vật tiến hóa sau cùng: con người. Để trốn tránh cuộc đời, ông viết về cái chết và thế giới bên kia. Khí giới để chống lại sự tuyệt vọng của ông là óc khôi hài đen, làm thành một tính chất đặc thù cho những tác phẩm của ông.

Sự bất mãn cuộc đời của Bierce dường như đã phát sinh từ nhỏ. Ông là người con út trong một gia đình nông phu nghèo ở Ohio có 9 người con. Khi còn là một đứa trẻ ông đã tỏ ra ghét gia đình, cha mẹ cũng như tất cả mọi người trong nhà trừ một người anh tên Albert.

Suốt thời gian nội chiến Nam Bắc Mỹ, Bierce gia nhập vào quân đội miền Bắc theo học một năm tại trường quân sự Kentucky khi được 17 tuổi. Trước khi giải ngũ, Bierce mang cấp bậc trung úy. Ông rất được bạn dồng đội ngưỡng mộ, và những kinh nghiệm chiến trường giúp ông chất liệu để sáng tác một số trong những truyện thành công nhất. Nhưng cũng vì những kinh nghiệm ấy mà Bierce càng có quan niệm đen tối hơn về thế giới loài người.

Sau chiến tranh, ông đến San Francisco và sinh sống bằng một số công việc, khởi đầu là gác dan. Sau đó viết báo và trở thành chủ báo.

Năm 1872, Bierce đến Luân Đôn để lo một công việc cho tờ báo. Lúc này ông đã lập gia đình chừng 1 năm. Trở về San Francisco năm 1876 trong tình trạng sức khỏe suy giảm cùng với 2 người con nhỏ. Đứa thứ 3 được sinh ra sau khi gia đình về lại California.

Từ năm 1887 đến 1896, ông viết một vài tiết mục đặc biệt cho tờ San Francisco Sunday Examiner và về sau những bài báo này phần nhiều được in thành sách. Vào thời đó, tư tưởng của Bierce ảnh hưởng rất mạnh đặc biệt là trên vùng duyên hải miền Tây. Những năm sau ông cộng tác với một số nhật báo ở thủ đô Washington và viết truyện ngắn cho các tạp chí.

Nhưng Bierce vẫn là mẫu người của thất vọng chán chường. Ông thiếu hẳn những đặc tính cần thiết cho một gia đình êm ấm cho nên thảm kịch luôn luôn xảy ra. Năm 1889 người con trai lớn của ông bị giết chết trong một trận đấu súng với tình địch. Hai năm sau đứa kế bị chết vì rượu. Và sau nhiều năm khốn khổ, cuối cùng vợ ông ly dị vào năm 1904.

Năm 1913, Ambrose Bierce trốn chạy mọi người và những nơi chốn quen thuộc. Mệt mỏi, tuổi già, bệnh tật và không còn sáng tác nữa, ông qua Mễ Tây Cơ, lúc bấy giờ đang ở trong tình trạng rối loạn vì làn sóng cách mạng. Từ đó không còn ai gặp Ambrose Bierce đâu nữa.

Sau đây mời các bạn đọc một trong những truyện ngắn của ông:

NGƯỜI SONG SINH

Anh thường hỏi tôi về những kỷ niệm trong cuộc đời của những người anh em sinh đôi. Đặc biệt anh muốn biết rằng tôi, Henry Stevens, có bao giờ nhận thấy một chuyện gì không thể cắt nghĩa được bằng các định luật thiên nhiên mà khoa học đã vạch ra hay không. Đây tôi xin kể cho anh nghe.

Như anh biết, tôi và John trông giống nhau như hai giọt nước. Thật vậy, ngay cả ba má tôi cũng không thể nào phân biệt được một khi chúng tôi muốn đồng hóa với nhau. Thuở nhỏ, ba má thường bắt chúng tôi mặc quần áo khác nhau để dễ nhận nhưng vì chúng tôi hay thay đổi y phục lẫn nhau để đánh lừa mọi người nên ông bà cũng bỏ ý định đó. Suốt thời gian sống chung dưới một mái nhà, mọi người đành phải chấp nhận tình trạng khó xử này và gọi cả hai chúng tôi bằng một tên “Jehnry”

Sau khi dọn đến California chẳng bao lâu thì gia đình chúng tôi bị ly tán bởi cái chết của ba má tôi trong cùng một tuần lễ. Nhà cửa thì phải đem bán để có tiền trang trải nợ nần của cha tôi lúc sanh tiền. Chị tôi phải trở về miền Đông sống với người bà con ở đó. Anh em tôi, khi ấy được 22 tuổi, nhờ lòng tốt của gia đình anh, mỗi người tìm được một việc làm tại San Francisco ở hai khu phố khác nhau để kiếm sống. Vì công việc nên chúng tôi không thể ở gần nhau và rất ít khi gặp gỡ, nhiều lắm là mỗi tuần một lần. Người quen thuộc chẳng có ai nên sự giống nhau khác thuờng của chúng tôi ít được biết đến.

Một buổi chiều nọ, khi tôi đang thả bộ trên đường Market Street thì có một người đàn ông ăn mặc sang trọng đón tôi lại với vẻ thân mật và bảo:

– Stevens này, dĩ nhiên tôi biết anh ít thích đi chơi đâu lắm, nhưng tôi đã có nói chuyện về anh cho vợ tôi nghe và bà ấy hẳn rất thích nếu anh đến dùng cơm chiều với gia đình tôi vào một ngày nào đó. Hay là 6 giờ chiều mai anh đến nhé?...

Lời mời mọc rất ân cần đến nỗi tôi khó lòng từ chối. Mặc dù chưa từng gặp nguời đàn ông này bao giờ cả nhưng tôi cũng buột miệng trả lời:

– Cảm ơn lòng tốt của ông Margovan. Tôi cũng rất sung sướng nhận lời mời. Nhờ ông chuyển lời cảm ơn của tôi đến bà nhà và nói rằng tôi sẽ đến.

Sau khi từ giã, người đàn ông tiếp tục bước đi. Rõ ràng là ông ta đã lầm tôi với anh John. Đó là sự lầm lẫn mà tôi rất quen thuộc và tôi thường không muốn đính chính làm gì trừ khi sự việc có tầm quan trọng. Nhưng lạ một điều là tại sao tôi lại biết tên người đàn ông đó là Margovan? Tôi chưa từng nghe đến tên đó, cái tên cũng như người mang tên đều hoàn toàn xa lạ đối với tôi.

Sáng hôm sau tôi vội vã đến chỗ làm việc của anh John và kể lại câu chuyện gặp gỡ đó. Nghe xong, anh nói với vẻ suy tư:

– Lạ thật!... Margovan là người duy nhất làm cùng sở mà anh biết rõ và có cảm tình. Mới sáng nay, khi gặp ông ta bỗng nhiên như có một động lực vô hình nào bắt buộc anh phải nói: “Ồ, xin lỗi ông Margovan, hôm qua tôi quên hỏi địa chỉ của ông…”. Ông ta cho địa chỉ nhưng anh không biết để làm gì. Bây giờ mới hiểu. Anh sẽ đến đó để dự bữa cơm chiều…

Sau vài lần lui tới, anh ta quen cô gái lớn của ông Margovan tên Julia và hai người yêu nhau rồi đính hôn với nhau.

Vài tuần lễ sau khi tôi được báo tin về sự đính hôn này nhưng trước khi tôi có dịp đến nhà nàng thăm viếng cho biết mặt, ngày nọ tôi bỗng để ý tới một thanh niên đang đứng tại khu Union Square và dường như đang chờ đợi một ai. Một lúc sau có một cô gái ăn mặc hợp thời trang bước đến và hai người nắm tay nhau đi. Có một cái gì thúc đẩy tôi tò mò muốn biết họ làm gì nên vội kín đáo bước theo. Đến một khu phố nọ, khu phố ít được kính trọng nhất của thành phố, họ nhìn quanh quất một lát rồi vội vã bước vào một căn nhà với vẻ lén lút. Dĩ nhiên ta chỉ có thể đoán họ làm những gì trong đó mà thôi.

Một tuần lễ sau, John dẫn tôi đến nhà người vợ tương lai của anh và tôi nhận ra ngay nàng là cô gái mà tôi đã vô tình theo dõi. Dù sao thì lúc đó tôi cũng không để ý rằng nàng khá đẹp.

Chúng tôi ở lại suốt buổi chiều với gia đình Margovan và sự giống nhau của hai anh em tôi đã nên những trò vui thân mật. Lựa dịp chỉ có mình tôi với Julia, tôi nói với nàng bằng giọng nghiêm nghị nhất:

– Cô Julia, không cứ gì hai anh em tôi mà cả cô cũng rất giống với một người nữa. Tôi đã gặp người ấy chiều thứ ba trước tại khu Union Square…

– Cô ta giống em lắm sao?

Nàng hỏi, cố giữ cho giọng nói bình thường nhưng mặt thì cứ nhìn xuống mũi giầy. Tôi bảo:

– Giống lắm… Tôi đã nhìn không chớp mắt và bước theo cô ta đến khi… Julia, tôi nghĩ rằng cô đã hiểu rồi chứ?...

Gương mặt Julia tái xanh nhưng vẫn yên lặng. Sau đó nàng ngước mắt lên nhìn tôi:

– Anh muốn tôi phải làm gì? Anh nói đi, tôi sẽ vâng theo.

– Julia, tôi không muốn cho cô phải khó xử. Tôi sẵn sàng giúp cô được tự do khỏi cuộc kết ước hôn nhân này.

Nàng lắc đầu, buồn bã và tuyệt vọng. Tôi hơi cảm động:

– Vẻ xinh đẹp của cô đã làm tôi phiền muộn. Tôi kính trọng sự ngay thẳng cũng như cảm thông sự buồn khổ của cô. Nếu cô có đủ nghị lực để hành động theo lương tâm thì cứ làm những gì mà cô cho là tốt nhất. Nếu không thì chỉ có trời mới giúp được chúng ta. Dĩ nhiên tôi chống đối cuộc hôn nhân này nhưng sẽ giải thích cho mọi người hiểu bằng một cách khác.

Rồi tôi bỏ đi không nói thêm một lời nào nữa. Khi gặp lại mọi người tôi cố giữ vẻ thản nhiên nói:

– Vậy mà cũng khá tối rồi đó chứ. Tôi cũng vừa chào từ giã cô Julia xong.

John cùng ra về với tôi. Trên đường đi anh hỏi tôi có nhận thấy gì khác lạ trong cách cư xử của Julia không.

– Tôi nghĩ rằng cô ấy bị bệnh, vì vậy tôi đã xin phép ra về.

Sau đó chúng tôi yên lặng không chuyện trò gì thêm nữa cả.

Chiều hôm sau tôi về nhà khá muộn, run rẩy vì trời lạnh và sương xuống đầy, quần áo cũng như đầu tóc đều bị ẩm ướt. Việc xảy ra hôm trước làm cho tôi cảm thấy bồn chồn và muốn bệnh.

Khi ngồi sưởi ấm bên ánh lửa rực sáng, tôi lại càng cảm thấy khó chịu hơn bao giờ hết. Những cảm giác kinh hãi tràn ngập trong tư tưởng tôi mạnh mẽ đến nỗi tôi phải cố hồi tưởng những kỷ niệm buồn để xua đẩy nó đi. Tôi nghĩ đến cái chết của ba má tôi và cố hình dung lại cảnh biệt ly sau cùng ở giường bệnh và trong nghĩa trang.

Thình lình từ trong tư tưởng tôi nghe rõ ràng một tiếng kêu thét hãi hùng như tiếng kêu giờ hấp hối. Và tôi nghe đó là tiếng của người anh song sinh của tôi, dường như vang lên từ đường phố bên ngoài cửa sổ.

Tôi nhảy lại phía cửa sổ và tung mạnh hai cánh ra. Ngoài đường vắng hoe, chỉ có một người cảnh sát đang đứng tựa lưng vào một gốc cây bình thản hút thuốc.

Tôi đóng cửa, lại ngồi bên ngọn lửa và nhìn đồng hồ: đã mười một giờ rưỡi khuya. Bỗng dưng tôi lại nghe tiếng kêu hãi hùng đó một lần nữa và lần này như vang lên từ phòng bên cạnh. Nỗi sợ hãi lan tràn khắp thân thể và tôi bất động trong giây lát.

Vài phút sau tôi thấy mình đang vội vã bước trên một đường phố xa lạ. Tôi không biết tôi đang ở đâu, đang đi đâu nhưng chẳng bao lâu tôi bước lên thềm một ngôi nhà nọ, có 2 hay 3 chiếc xe đậu bên ngoài.

Chuyện gì xảy ra ở đó thì anh đã biết. Trong một căn phòng, Julia Margovan đang nằm bất động, cô ta đã uống thuốc độc tự vẫn mấy tiếng đồng hồ trước. Trong phòng khác John Stevens nằm trên vũng máu, anh ta đã tự sát bằng cách bắn vào tim. Khi tôi ào vào phòng, vẹt đám y sĩ qua một bên tiến đến đặt tay lên trán John, anh mở đôi mắt nhìn vào khoảng không rồi từ từ khép lại và không một lời trăn trối.

Tôi ở vào trạng thái như người mất hồn, suy nhược đến 6 tuần lễ cho đến khi được tỉnh trí trở lại nhờ sự săn sóc của gia đình anh. Những chuyện đó anh đều biết cả nhưng có một điều tôi vẫn giữ bí mật cho đến ngày nay:

Vào một đêm trăng sáng vài năm sau biến cố nói trên, tôi đi đến khu Union Square do một ý tưởng vô tình thúc đẩy. Vì đêm đã khuya nên khu phố vắng tanh. Những kỷ niệm năm xưa chợt hiện về trong tâm trí khi đến nơi mà tôi đã có lần chứng kiến cuộc gặp gỡ định mệnh. Tôi ngồi trên băng đá kê dưới bóng cây hồi tưởng lại cảnh tuợng đau lòng. Bỗng tôi thấy từ xa, một người đàn ông chậm rãi tiến lại và bước đi trên lối đi dẫn về phía tôi. Hai tay hắn chắp sau lưng, đầu cúi xuống, đi thơ thẩn như không có chủ định gì. Khi hắn tiến lại gần, tôi nhận ra hắn là gã thanh niên mà tôi đã nhìn thấy đi với Julia mấy năm trước cũng tại nơi đây. Nhưng y đã thay đổi kinh khủng: gầy, xanh xao và y phục xơ xác. Với một mục đích không rõ ràng nào đó hiện ra trong trí, tôi đứng dậy và nhìn và thấy mình đứng ngay trước mặt hắn. Hắn từ từ ngẩng đầu lên và nhìn tôi. Tôi không có lời nói nào để có thể mô tả được sự khủng khiếp đã làm biến đổi toàn thể gương mặt của hắn, một vẻ kinh hãi khôn cùng. Hắn nghĩ rằng đã gặp một hồn ma! Nhưng dù sao hắn cũng còn đủ can đảm để hét lên:

– Mầy… John Stevens…

Hắn giơ cánh tay run rẩy lên và như muốn đưa quả đấm vào mặt tôi nhưng rồi hắn ngã ngay xuống đất khi tôi bước đi.

Có người tìm thấy hắm nằm chết. Không ai biết thêm gì nữa, kể cả tên tuổi hắn.

Vũ Anh Tuấn st.


 

|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
 56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
 61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
 71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
 76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
 86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
 91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
|  51 |
 52 |
 53 |
 54 |
 55 |
|  56 |
 57 |
 58 |
 59 |
 60 |
|  61 |
 62 |
 63 |
 64 |
 65 |
|  66 |
 67 |
 68 |
 69 |
 70 |
|  71 |
 72 |
 73 |
 74 |
 75 |
|  76 |
 77 |
 78 |
 79 |
 80 |
|  81 |
 82 |
 83 |
 84 |
 85 |
|  86 |
 87 |
 88 |
 89 |
 90 |
|  91 |
 92 |
 93 |
 94 |
 95 |
|  96 |
 97 |
 98 |
 99 |
 100 |
 
Netadong.com thiết kế