Hiện có 10 người xem / 2334731 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 08/11/2014

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Mở đầu phiên họp, như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn quý thư mà ông mới có. Lần này một quyển chỉ tương đối cổ vì được xuất bản năm 1944 (70 năm trước), và cuốn thứ hai thì là một cuốn mới ra lò vài tuần trước. Cuốn đầu bằng Pháp văn và cuốn thứ hai bằng Việt văn. Cuốn đầu mang tựa đề là Sở Bưu Điện ở Đông Dương (Le service des P.T.T. en Indochine) của tác giả René Despierres, một Thanh tra ngành Bưu Điện, đồng thời là Tổng Thư ký của Hội Địa Dư Hà Nội. Cuốn sách khổ 17x25 phân, và dày 67 trang (kể cả mười mấy trang phụ bản), gồm một lời nói đầu của Lm. Léopold Cadière - một vị Linh mục rất nổi tiếng ở Việt Nam và rất thân thiện với người Việt chúng ta, vì ông chính là người đã viết cuốn “Những hồi ức của một người đang An Nam (Việt Nam) hóa” (Souvenirs d’un vieil annamitisant) - và được chia ra làm 5 chương:

Chương 1.- Công việc vận chuyển thư tín trong đế quốc Annam cổ.

Chương 2.- Nói về thời kỳ từ 1860 tới 1881 trong lúc các tổ chức quân sự được hình thành.

Chương 3.- Nói về thời kỳ từ 1882 tới 1901 khi Ngành Bưu Điện được chia thành hai khu vực.

Chương 4.- Nói về thời kỳ từ 1902 tới 1931 khi Ngành Bưu Điện được chia thành 5 khu vực.

Chương 5.- Nói về thời kỳ bắt đầu từ năm 1932 và nói về ngành Bưu Điện hiện thời (tức là vào năm 1944 khi cuốn sách được xuất bản).

Cuối cùng là 24 trang phụ bản có vẽ nhiều chân dung các người Pháp đầu ngành trong những ngày đầu của ngành Bưu Điện ở Đông Dương.

Tóm lại cuốn quý thư là cả một kho tài liệu về ngành Bưu Điện trong buổi sơ khai.

Cuốn thứ hai là một cuốn thơ mới ra lò, mang tựa đề là Thoáng Hương Xưa và tác giả lại chính là một thành viên của CLB Sách Xưa & Nay, nhà thơ nữ Minh Hưng, kỳ này vắng mặt tại buổi họp.

Cuốn thơ khổ 14x20 và dày 154 trang được in khá đẹp và được đề tặng cho Dịch giả Vũ Anh Tuấn vì chính ông là người viết bài giới thiệu (4 trang) in ở đầu sách. Và ngay sau đây là một trích đoạn ngắn của bài giới thiệu:

“Đọc xong tập thơ tôi thấy rất mừng cho nhà thơ vì tôi tin rằng thứ ngôn từ trong sáng, giản dị, thuần Việt, chắc chắn sẽ dễ được tiếp nhận, dễ đi vào lòng người đọc, dễ được người đọc nhớ, và nhất là sẽ có thể vượt qua được sự thử thách của thời gian, để còn lại mãi mãi trong không gian và trong trí nhớ các độc giả”.

Nhà thơ Minh Hưng có hứa là trong kỳ họp tới bà sẽ tới tham dự và sẽ tặng các thành viên mỗi người một cuốn.

Sau phần giới thiệu hai cuốn sách, và tiếp lời Dịch giả Vũ Anh Tuấn, nhà thơ Lê Nguyên đã lên nói chuyện về việc ông được tặng bằng khen và về một số kỷ niệm của ông với nhà thơ lớn Xuân Diệu đã quá cố.

Sau nhà thơ Lê Nguyên, nhà thơ Vũ Đình Huy đã lên kể qua về một địa điểm chữa bệnh già mà ông cho là hay và muốn giới thiệu với các thành viên.

Tiếp lời nhà thơ Vũ Đình Huy, anh Trần Văn Hữu đã lên nói qua về một vài kỷ niệm của anh với nhà thơ nữ Xuân Vân, một thành viên CLB vừa qua đời mấy tuần trước.

Kế đó anh Nhựt Thanh đã lên nói về đề tài ông Táo mà anh đã có một bài viết.

Vào lúc này Dịch giả Vũ Anh Tuấn trình bày với các thành viên việc ông được mời viết một bài viết về đề tài “Truyện Kiều dưới mắt người chơi sách và sưu tập sách”, do đó ông đề nghị các thành viên góp ý. Lập tức có vài thành viên đưa ra rất nhiều ý kiến về Kiều và Cụ Nguyễn Du của chúng ta rất vui, trong đó có những ý kiến như là Cụ Nguyễn Du vi phạm bản quyền cuốn Kim Vân Kiều truyện của tác giả người Hoa Thanh Tâm Tài Nhân. Dịch giả Vũ Anh Tuấn không chấp nhận ý kiến đó vì trên đời này làm gì có thứ bản quyền nào dài lâu đến cả trăm năm, vả lại về vấn đề bản quyền, thì cái Công Ước Berne, mãi tới năm 1886 mới được cho ra đời cơ mà! Lại có vị cho là Cụ Nguyễn Du đã dịch nguyên văn truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, và vị này cũng được Dịch giả Vũ Anh Tuấn chứng minh là trong hai bản Kiều của Cụ Nguyễn Du và của Thanh Tâm Tài Nhân, mặc dù có thể cho là Cụ Nguyễn Du của chúng ta vẫn có thể dịch 20 chương hồi văn xuôi truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân ra 3254 câu thơ lục bát, nhưng trên thực tế trong hai bản Kiều của Cụ Nguyễn Du của chúng ta và của tác giả người Hoa đó VẪN CÓ MỘT CHI TIẾT KHÁC HẲN NHAU, và khi hai nguyên bản đã khác nhau thì tuyệt đối không THỂ NÓI LÀ DỊCH. Và điểm khác nhau đó là: trong bản của Cụ Nguyễn Du khi xử án Hoạn Thư, KIỀU ĐÃ NHÂN ÁI THA BỔNG, trong khi trong bản của Thanh Tâm Tài Nhân thì TUY KIỀU THA CHẾT CHO HOẠN THƯ, NHƯNG PHẠT ĐÁNH 100 HÈO KHIẾN HOẠN THƯ TƠI TẢ GẦN CHẾT. Do đó chính xác nhất là Cụ Nguyễn Du của chúng ta CHỈ ĐỌC VÀ PHÓNG TÁC RA 3254 CÂU LỤC BẤT BẤT HỦ ĐỂ ĐỜI.

Với những tranh luận, bàn cãi về truyện Kiều, cuộc họp đã trở nên rất vui, rất hấp dẫn, và đã bế mạc vào lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN CỔ THƯ

“NHỮNG KÝ ỨC VỀ XỨ ANNAM”

(SOUVENIRS DU PAYS D’ANNAM)

CỦA H. L. JAMMES – TỔNG BIÊN TẬP BÁO

“THỜI SỰ SAIGON”, XB NĂM 1900

Đây là một cuốn sách tôi mua được ở trong sưu tập sách của cụ Dương Minh Thới, một người chơi sách khá nổi tiếng ở Saigon những năm 40, 50 của thế kỷ trước. Cuốn sách dày 292 trang này là cả một kho tài liệu về Saigon vì nó được viết bởi vị Tổng Biên Tập một tờ báo có tiếng ở Nam Kỳ vào thời đó.

Cuốn cổ thư 114 tuổi này được chia làm 17 chương như sau đây:

Chương I.- Nói về cuộc đánh chiếm xứ Nam Kỳ. Trong chương này tác giả cho biết lý do tại sao Pháp tới Đông Dương và có cho biết về những toan tính của Nã Phá Luân III (một điều rất ít người biết), và cũng tiết lộ rằng đã có lúc Pháp định bỏ ý định xâm chiếm Đông Dương.

Chương II.- Nói về trận đánh chiếm Chí Hòa, về những chiến lũy ở Chí Hòa, về cụ Nguyễn Tri Phương mà tác giả này gọi là “tướng” Nguyễn Tri Phương.

Chương III.- Nói về các lãnh địa của Pháp ở Á châu, về tình hình Đông Dương vào năm 1900 – về Saigon lúc đó được coi như thủ đô của Đông Dương (theo quan niệm của tác giả này) – về thiên tài chinh phục thuộc địa của Pháp, và về những nước thèm muốn và ghen tức với Pháp về những thuộc địa Pháp chiếm được.

Chương IV.- Dành riêng để nói về Chợ Lớn, thành phố của ba tầu. Trong chương này tác giả đưa ra đủ thứ chi tiết thật hấp dẫn về Chợ Lớn.

Chương V.- Dành riêng để kể về các lễ hội của người Hoa sinh sống ở Chợ Lớn. Chương này là cả một kho tài liệu về các lễ hội và phong tục của người Hoa ở Chợ Lớn thời đó.

Chương VI.- Nói về tục thờ cúng và lễ tang của người Hoa ở Chợ Lớn.

Chương VII.- Dành riêng nói về các hoạt động buôn lậu á phiện ở Đông Dương.

Chương VIII.- Công việc đồng áng và nông nghiệp của người Annam.

Chương IX.- Là một thiên nghiên cứu ngắn gọn về tính tình người Annam.

Chương X.- Dành nói rất chi tiết về việc sinh đẻ của người phụ nữ Annam. Chương này còn nói về tất cả mọi điều mê tín dị đoan liên quan tới chuyện sinh sản, như việc dùng thầy phù thủy, việc sưởi ấm bằng than, việc cưới xin, ân ái vv…

Chương XI.- Chương này dành riêng để nói về việc săn bắn, những người thợ săn và người đi săn nổi danh nhất Đông Dương.

Chương XII.- Nói về việc khai thác lông chim để làm nệm, làm quạt vv…

Chương XIII.- Dành nói về sự mê tín dị đoan và những truyền kỳ của người Annam.

Chương XIV.- Dành nói về các quan tòa và các tòa án của người Pháp ở Đông Dương.

Chương XV.- Dành nói về lý do tại sao người Annam không còn tôn trọng những người Âu châu nữa. Trong chương này tác giả kể nhiều chuyện khác nhau đưa tới tình trạng nói trên.

Chương XVI.- Dành nói về những người Annam lai Pháp. Những đứa con lai do cuộc chinh phục sản xuất ra.

Chương XVII.- Dành nói về “Sức mạnh của Uy tín”, về những điều làm mất uy tín của người Pháp, về những bài học lịch sử và về một tương lai mà vào thời điểm đó tác giả cho là… đen tối, chứ không xán lạn gì cho người Pháp thực dân.

Tóm lại, đây là một cuốn sách chứa đựng cả một kho tài liệu do một nhà báo viết, rất có ích cho việc nghiên cứu lịch sử trong những ngày cũ…

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN


ĐẠI LỄ GIÁNG SINH VÀ

VĂN HÓA THẾ GIỚI

Thuở ban đầu lễ Giáng Sinh chỉ là “Ngày Lễ Thánh” của nội bộ Giáo hội Công giáo mà thôi. Sở dĩ “Ngày Lễ Thánh” này càng ngày càng được nhiều người, nhiều nơi đón nhận là vì hai lý do này: một là Kitô giáo phát triển, lan rộng, ăn rễ sâu trong lòng châu Âu là cái nôi của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật với những khám phá, phát minh làm thay đổi bộ mặt thế giới. Nền văn minh có căn cội Kitô giáo đó tràn qua Bắc Phi ngay từ những thế kỷ đầu, qua Mỹ châu với Christophe Colomb năm 1492, rồi sang Á châu (khoảng thế kỷ 15), tiếp theo là Úc châu với James Cook 1770. Cho tới nay Kitô giáo đã có mặt trên khắp thế giới, không một nước nào mà không có tín hữu Kitô, nơi thì nhiều, nơi thì ít, mà có Kitô hữu thì có việc mừng Lễ Giáng Sinh là một trong hai lễ trọng nhất trong đạo.

Lễ Giáng Sinh thì chỉ có một với nội dung kỷ niệm Chúa Cứu Thế được Mẹ Ngài là bà Maria sinh ra trong hang đá Bethlehem (miền Giuđêa nước Do Thái, câu chuyện thật thương tâm lý do là vì ông Giuse, cha nuôi của Chúa Giêsu không tìm được chỗ trong quán trọ, xem Lc 2,7). Nhưng khi được cử hành ở nơi này, nơi kia thì lại có những nét văn hóa địa phương được thêm vào, đây là hiện tượng hội nhập văn hóa.

Tác giả Trần Thuyên trong báo Kiến Thức Ngày Nay số 625, trang 38-43 đã tổng hợp những phong tục đón Noël trên thế giới như sau:

§ Tại Đan Mạch: Từ tháng 11, người ta đã bắt đầu trang hoàng Giáng Sinh, trẻ em được phát lịch “chờ Giáng Sinh”, thiết kế như một chiếc hộp nhiều ngăn chứa chocola, mỗi ngăn là một ngày, trẻ em chỉ việc kéo ngăn ra thưởng thức kẹo để chờ Giáng Sinh, tính từ ngày 6/12 đến 25/12, dĩ nhiên không thể thiếu những đôi tất được treo đầu giường chờ quà ông già Noël. Mọi người ăn tiệc trưa Giáng Sinh, buổi tối họ sum họp, nhảy múa bên cây thông rực sáng và tặng quà cho nhau.

§ Tại Anh: Trong tiệc Noël, chủ nhà giấu hột đậu hoặc đồng xu trong một chiếc bánh Pudding, ai ăn trúng bánh này kể như được may mắn trong năm. Tại Anh cũng như tại các nước: Bûche Noël là loại bánh không thể thiếu… Trẻ em thì chờ ông già Santa Claus thay vì ông bà già Noël...

§ Tại Mỹ: Ngày thứ năm cuối tháng 11 là ngày Thanksgiving – Tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời, tạ ơn người… Sau đó là những ngày mua sắm chuẩn bị Giáng Sinh. Mở màn là “trái bom” mua sắm vào ngày “thứ sáu đen tối” tại Mỹ và những nước chịu ảnh hưởng của Mỹ.

§ Tại Hy Lạp: Giáo hội Chính Thống mừng lễ Giáng Sinh vào ngày 6/1 theo lịch Julius. Trẻ em thì chờ quà của Thánh Vassilius thay vì ông già Noël.

§ Tại Nhật: Cây thông Noël đặc biệt luôn được trang trí bằng những con thiên nga xếp bằng giấy, lồng đèn, chuông gió, quạt giấy, búp bê… Vị thần Hoteiosho thay thế ông già Noël phát quà cho trẻ… Thần Hoteiosho có mắt sau gáy, nhìn rõ hành tung của từng đứa trẻ, không ngoan là không có quà. Thần Hoteiosho có ngoại hình giống như ông Thọ.

§ Tại Lebanon: Dân có tục gieo lúa mạch trong chậu để chuẩn bị đón Giáng Sinh. Ngày Lễ Giáng Sinh họ đem những chậu lúa xanh trưng bày quanh hang đá và cây thông Noël.

§ Tại Ý: Dịp Lễ Giáng Sinh người ta có thói quen biếu bà con đậu lăng khô để nấu món xúp Giáng Sinh… Thay vì ông già Noël đi phát quà, thì có bà già Strega Buffata (còn gọi là La Befana), ngồi trên cán chổi bay tới thăm và tặng quà cho trẻ em.

§ Tại New Zealand: Noël rơi vào mùa hè nên dân chúng thường đi picnic tại bờ biển và tổ chức tiệc Giáng Sinh tại đây. Những ông già Noël tới thăm, phát quà cho trẻ em, luôn được các phụ huynh mời bia lạnh…

§ Tại Kenya: Các Nhà thờ được trang trí bằng những quả bóng nhiều màu, các tua vải, mặt nạ, ngôi sao, búp bê… Khi đi dự Lễ mỗi người mang một món quà đặt quanh bàn thờ. Sau Lễ là tiệc Noël tưng bừng…

§ Tại Đức: Thay vì đợi ông già Noël, trẻ em Đức chờ đón ông già Nikolaus cỡi xe ngựa gỗ đến phát quà, tháp tùng có chàng lùn Black Peter chuyên phạt trẻ em hư… Trong các vật trang trí hang đá, cây thông, người Đức có thói quen treo “vòng hoa mùa vọng” với 4 cây nến, thói quen này này ngày càng lan rộng khắp nơi.

§ Tại Mexico: Đêm Giáng Sinh các nhóm đồng ca lắc chuông đi ngoài phố xá hát Thánh ca trước khi vào Nhà thờ dự Lễ Giáng Sinh. Cây Noël được trang trí bằng mũ lông chim sặc sỡ, bánh kẹo, trái cây và cả… ớt nữa!

§ Tại Hà Lan: Dịp Noël từ 6/12. Thánh bổn mạng được rước đến thủ đô Amsterdam bằng thuyền rất long trọng, có cả Black Peter ăn mặc như người Moore. Đêm Noël mọi người nhảy múa, ăn tiệc, trao nhau quà. Con nít không thể quên treo vớ dài bên ống khói để chờ quà… Đêm giao thừa mọi người đem cây thông ra đốt như là cách chào mừng Năm mới.

§ Tại Thụy Điển: Người ta chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh bằng việc cử hành long trọng Lễ Thánh Lucia 13/12. Thắp nến đội trên đầu để xua tan giá lạnh, sưởi ấm tình yêu và cầu mong mùa màng bội thu. Những ngày tiếp theo mọi người chuẩn bị mua sắm, trang hoàng Noël, dự Lễ và tổ chức tiệc, những cuộc vui chơi nhảy múa như các nước khác. Có điều đặc biệt là quà tặng Noël cho người lớn là những con dê đực bện bằng rơm. Vào ngày 13/1, ngày Lễ Thánh Knut chấm dứt mùa Noël, người ta ném cây thông qua cửa sổ.

§ Tại Iran: Bữa tiệc tối Noël có món “Harasa” truyền thống, tức là thịt gà hầm. Ông già Noël thường tặng quần áo mới cho trẻ em để chúng diện suốt Lễ Giáng Sinh.

§ Tại Ukraina: Ông già Noël ngồi xe tuần lộc đến thăm trẻ em. Trên xe còn có cả nàng công Chúa tuyết đầu đội vòng hoa bông tuyết, mặc trang phục màu xanh bạc viền lông trắng…

§ Tại Pháp: Dân chúng thường lấy cây oải hương trang trí hang đá và cây thông Giáng Sinh. Sau tiệc Réveillon, trẻ em có tục đặt giày hoặc guốc “sabot” bên lò sưởi, chúng tin ông già Noël từ ống khói xuống cho quà.

§ Tại Úc: Dân chúng đón Noël ngoài trời, đi dạo biển và chơi criket, trong khi đó ông già Noël cỡi xe 8 con kangaroo kéo tới phân phát bánh kẹo, quà cho trẻ…

§ Tại Phần Lan: Trước đêm Giáng Sinh, dân có lệ tắm hơi. Sau lễ Giáng Sinh ở Nhà thờ, người ta ăn tiệc rồi đi thăm mộ người thân, thắp nến, trải hoa trên mộ. Một người có địa vị trong gia đình hóa trang thành ông già Noël phát quà cho trẻ em.

§ Tại Trung Quốc: Trung Quốc đón Giáng Sinh bằng những đèn lồng, trang trí cây ánh sáng (cây thông Noël) bằng hoa giấy, đèn giấy, tua rua nhiều mầu sắc. Trẻ em không quên treo vớ dài ở đầu giường trước khi đi ngủ...

§ Tại Nam Phi: Giáng Sinh rơi vào mùa hè, người ta tổ chức tiệc Giáng Sinh vào buổi trưa… Trang trí cây cọ thay cho cây thông. Sau đó cả nhà đi thăm bạn bè, tặng quà cho họ là những hộp đựng thức ăn ngon.

§ Tại Nga: Dân phần đông theo Chính Thống giáo đón Noël vào ngày 7/1 theo lịch Julius. Ngày nay tín hữu Nga vẫn đón Giáng Sinh vào 24-25/12, nhưng làm Lễ lớn hơn vào ngày 7/1. Cây thông Noël của Nga được gọi là “cây năm mới” hay “cây xanh mát”.

§ Tại Ireland: Tối Noël, thanh niên có tục mang mặt nạ, mặc đồ sặc sỡ hát múa trên đường phố. Người ta thắp nến bên cửa sổ để đón Thánh Joseph và Mary…

§ Tại Ấn Độ: Người ta trang trí bánh kẹo, trái cây và hoa trên cây xoài nhỏ hoặc cây chuối nhỏ thay cây thông Noël. Nhà thờ thì được trang trí bằng cây trạng nguyên, thắp đèn rực rỡ suốt mùa Giáng Sinh. Tại tư gia dân chúng thường treo đèn dầu bằng đất trên tường nhà…

§ Tại Thụy Sĩ: Từ ngày 6/12, trẻ em đã treo vớ, giầy ở cửa nhà mong ông già Santa Claus cho quà. Đêm Noël, ông già Santa Claus cho trẻ em lên xe buýt đi một vòng thành phố, ca hát, reo hò…

§ Tại Tây Ban Nha: Trẻ em có hai dịp được tặng quà – Đêm Noël nhận quà của ông già Noël, đêm 6/1 nhận quà của “Ba Vua”.

§ Tại Irak: Người ta đốt đống lửa ở sân Nhà thờ đêm Noël. Sau Thánh lễ, linh mục ra chạm tay vào một người, người này lại chạm vào người khác, cứ thế mọi người đều nhận được cú chạm tay ban phước lành. Tại nhà, trẻ em đọc chuyện Chúa Giáng Sinh, các thành viên gia đình cầm nến sáng, khi trẻ đọc xong, mọi người châm lửa đốt một bó gai rồi nhảy múa, ca hát, gai cháy thành tro là dấu năm mới may mắn. Khi lửa tàn, mọi người nhảy qua đống tro 3 lần, miệng khấn may mắn, bình an…

§ Tại Na Uy: Đêm Noël, dân chúng có tục cúng cháo yến mạch tại đền thần bảo vệ mùa màng, xin cho được bội thu… Theo tục lệ, trẻ em là người đầu tiên bước tới chiêm ngưỡng cây thông Noël, rồi mọi người nhảy múa quanh cây thông sau đó mới ăn tiệc.

§ Tại Áo: Ngày 6/12, ông già Noël đã đi phát hạt dẻ, táo và kẹo cho trẻ em. Vào ngày lễ Giáng Sinh, một trẻ em đóng vai thiên thần có cánh “Kristkindl” đến tặng quà và cây Noël cho các em…

§ Tại Ba Lan: Trước Lễ Giáng Sinh, người ta tổ chức Lễ “Kỷ niệm đầu mùa đông”. Sau Lễ chính ở Nhà thờ là Lễ “Vidual” mừng Giáng Sinh tại mỗi nhà. Mỗi nhà đều trang trí cây thông Noël bằng những hình cắt giấy màu, bánh kẹo, hoa trái và nhiều quả trứng ngộ nghĩnh.

Tóm lại, Lễ Giáng Sinh được đón nhận và cử hành từ Bắc xuống Nam, từng Đông sang Tây trên mặt đất này. Mỗi nước, mỗi miền đều có những cái chung là mừng Chúa Cứu Thế giáng trần với hang đá Bêlem, với cây thông Noël, những trái châu, dây trang kim lấp lánh… đó là phần “Lễ”, tiếp theo là những cuộc rước, diễu hành, ca hát, nhảy múa… đó là phần “Hội”; cũng không thể thiếu tiệc mừng Giáng Sinh, đó là phần “Lạt”, đặc biệt không nơi nào có thể thiếu quà Giáng Sinh đáp ứng ước mơ ngây thơ của trẻ nhỏ và những người nghèo.

Bên cạnh những nét chung chung đó, chúng ta còn thấy Lễ Giáng Sinh đã chan hòa trong sắc thái của mỗi dân, mỗi miền, đó là vấn đề hội nhập tự nhiên, làm cho Lễ Giáng Sinh thêm nhiều màu sắc tươi đẹp. Chẳng hạn ông già Noël kiểu Nhật, tức là thần “Hoteiosho” cầm cây trượng dài đứng bên gói quà giống như hình ông Thọ vậy. Đức Mẹ, Thánh Giuse và Chúa Hài Đồng trong hang đá tại châu Phi thì không thể có làn da trắng hay vàng được mà phải là da đen. Những mặt nạ trang trí Giáng Sinh ở Kenia trông thật sống động và ngộ nghĩnh…

Như vậy, vô hình trung, đại Lễ Giáng Sinh của Kitô giáo đã gây được ảnh hưởng sâu xa trên nền văn hóa các nước. Đón nhận Lễ Giáng Sinh, nền văn hóa các nước thêm phong phú, mà Lễ Giáng Sinh của Kitô giáo cũng thêm màu sắc. Lễ Giáng Sinh đã ảnh hưởng trực tiếp tới văn hóa lễ hội và ẩm thực của các nước.

Đối với nền văn hóa mua sắm và trang trí: Nhiều nước trên thế giới, nhất là Âu Mỹ, người ta nghỉ Lễ Noël kéo dài qua năm mới luôn. Đây là dịp mua sắm nhộn nhịp nhất trong năm. Nguồn hàng hóa phục vụ cho Noël và Tết dương lịch được chuẩn bị từ lâu nay được dịp tiêu thụ ồ ạt. Một đất nước ít Kitô hữu vào bậc nhất nhì ba trên thế giới như Trung Quốc, lại sản xuất hàng phục vụ Giáng Sinh nhiều nhất trên thế giới, nơi nào cũng có hàng Trung Quốc, từ những dây đèn chớp chớp cho tới những trái châu, dây kim tuyến, quần áo ông bà già Noël… không thiếu thứ gì mà giá lại rất rẻ.

Dịch vụ quảng cáo cũng rộ lên: Từ bánh kẹo, đồ chơi, điểm vui chơi Giáng Sinh cho đến những tour du lịch. Đài truyền hình VTV1, 20 giờ ngày 7/11/2014, chiếu hình ảnh và lời quảng cáo “Trang trí Giáng Sinh sớm tại Paris”. Báo Thanh Niên 29/10/2014, btv Lê Nga có bài “Đón Giáng Sinh và Năm mới muôn phương” – nói về các điểm nóng du lịch dịp Noël và Năm mới trên thế giới vào dịp cuối năm cũ sang đầu năm mới. Noël và Tết dương lịch trở thành trọng tâm trong văn hóa du lịch. Báo Thanh Niên ngày 26/11/2014, btv Hiếu Lam có bài “Tour Tết và Giáng Sinh ưu đãi”.

Travel Key tiếp tục gia hạn chương trình “Hoàn 100% phí phỏng vấn nếu bị từ chối visa Mỹ” cho tour khởi hành dịp Giáng Sinh và Tết 2015.

- Đến Mỹ dễ dàng hơn.

- Khuyến mãi tour Dubai – Pháp liên hệ Travel Key 42bis Trần Quốc Thảo, quận 3, Tp.HCM, Đt. 08.38542469, gặp phụ trách Mr. Nhân, Ms. Hằng.

Mùa Giáng Sinh và đầu Năm mới cũng là thời điểm mà người ta gửi tin nhắn, email, thư từ và thiệp Giáng Sinh và Năm mới nhiều nhất trong năm. Đó chính là nét độc đáo trong văn hóa giao tiếp.

Theo báo Phụ Nữ Chúa Nhật số 50 ngày 21/12/1997, thì tấm thiệp Giáng Sinh đầu tiên là của một họa sĩ Luân Đôn: John Horsley. Tư liệu Wikipedia cho biết: Cứ mỗi lần Giáng Sinh về mọi người lại trao nhau những cánh thiệp xinh xắn kèm theo những lời chúc thân thương, nhưng có mấy ai biết rằng thiệp Giáng Sinh đã ra đời rất lâu, khoảng gần hai thế kỷ trước.

Thiệp Giáng Sinh thay lời muốn nói: Tập tục gửi thiệp Giáng Sinh bắt nguồn từ xứ sở sương mù vào năm 1843. Trước đó mỗi dịp Giáng Sinh về người ta chỉ có thể viết thư tay chúc mừng Giáng Sinh và đích thân đem đến người nhận. Thời gian sau nhờ hệ thống bưu điện phát triển, việc trao đổi thư từ dễ dàng hơn.

Tấm thiệp Giáng Sinh đầu tiên do J. Horsley, một họa sĩ ở Luân Đôn thiết kế. Chính người bạn thân của ông là Sir Henry Cole đã nhờ ông vẽ cho mình một tấm thiệp Giáng Sinh để gửi cho bạn bè. Thế là năm 1843, J. Horsley trình làng tấm thiệp Giáng Sinh đầu tiên vẽ bằng tay với câu chúc “Merry Christmas And Happy New Year To You” với mẫu trên. Horsley cho ra lò 1.000 tấm, hiện còn lại 12 tấm.

Kể từ năm 1843 có cuộc bùng nổ thiệp Giáng Sinh. 10 năm sau ở Anh, thiệp Giáng Sinh đã rất thịnh hành, không lâu sau đó du nhập sang Đức. 30 năm sau Mỹ tiếp nhận. Năm 1875 Louis Prang, một thợ in gốc Đức sống ở Boston (Mỹ) tung ra thị trường một loạt thiệp chất lượng cao, ông nhanh chóng được gán cho danh hiệu “Cha đẻ của thiệp Giáng Sinh ở Mỹ”. Kể từ năm 1881 ông xuất ra thị trường 5 triệu thiệp Giáng Sinh mỗi năm, từ đó thiệp Giáng Sinh lan tràn khắp thế giới như những cánh nhạn đem tin vui đến cho mọi người, mọi nhà. Năm 2001, một trong những phiên bản thiệp Giáng Sinh của J. Horsley 1843, có giá tới 22.500 bảng (43.000USD) tại một phiên bán đấu giá thu hút nhiều người trong giới sưu tập Anh Mỹ (Châu Yên, theo Wikipedia.org).

Trong lãnh vực giáo dục Lễ Giáng Sinh có một ảnh hưởng lớn lao. Hình ảnh ông già Noël mặc áo đỏ viền trắng cỡi xe tuần lộc chở đầy bánh kẹo, đồ chơi là một hình ảnh đẹp nhất trong đầu trẻ nhỏ cả thế giới.

Tới Lễ Giáng Sinh không một em bé nào lại không náo nức chờ đợi ông già Noël chui qua ống khói, nhét đầy bánh kẹo và đồ chơi trong những chiếc vớ, chiếc giầy các em treo sẵn ở đầu giường ngủ, dĩ nhiên các em phải cố gắng sống thật ngoan, thật dễ thương mới có nhiều quà, nếu không ngoan sẽ bị ông lùn Peter đánh đòn.

Hàng năm cứ tới gần Giáng Sinh là dịch vụ tuyển ông bà già Noël lại nở rộ.

Báo Phụ Nữ Chủ Nhật số 45 ngày 24/11/2013, trang 13 có bài “Ai sẽ là ông già Noël” – Năm nào cũng vậy, gần đến mùa Giáng Sinh là khu rừng nhỏ của xứ sở thần tiên lại nhộn nhịp với việc bầu chọn ông già Noël (Bs Trương Hữu Khánh).

Báo Thanh Niên ngày 28/11/2011: Tuyển 30 ông già Noël – Bắt đầu từ ngày 1/12, Trung tâm hỗ trợ sinh viên Tp.HCM sẽ tuyển 30 ông già Noël làm công việc chuyển quà cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu tặng quả cho thiếu nhi và người thân, nhân mùa Giáng Sinh. Công việc bắt đầu từ 20-25/12 (mức thù lao từ 25 đến 30.000 đồng/địa chỉ, tùy xa hay gần). Liên hệ trực tiếp và nộp hồ sơ tại 33 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.1 (Lê Thanh).

Báo Tuổi Trẻ ngày 7/12/2011: Trẻ em bệnh viện Ung Bướu đón Giáng Sinh sớm - Chiều ngày 5/12 tại Bệnh viện Ung Bướu Tp.HCM, các ông bà Noël đến thăm và tặng quà cho các trẻ em đang điều trị tại khoa nội 3. Đây là chương trình của Công ty Lửa Việt. Các ông bà Noël đã tặng 170 phần quà, mỗi phần quà gồm truyện, bánh kẹo và mũ Noël. Chị Phương Anh - nhân viên phòng điều hành Công ty Lửa Việt - bày tỏ: “Mong các em có thêm sức mạnh để vượt qua bệnh tật”. Sắp tới, chương trình Noël sẽ đến làng Hòa Bình - Bệnh viện Từ Dũ (Quang Định).

Đội ngũ ông bà già Noël có mặt khắp nơi càng khiến tâm hồn trẻ thơ rộn rã vui mừng và tràn trề hy vọng.

Các em còn được khuyến khích viết thơ cho ông già Noël, nói lên những tâm tình đơn sơ những ước mơ hồn nhiên trong trắng và những lời hứa, những quyết tâm tốt lành thánh thiện. Hàng năm địa chỉ được cho là nhà của ông già Noël ở Phần Lan nhận được nhiều chục tấn thiệp, thư của trẻ em trên toàn thế giới và người ta kể rằng phải có ê kíp cả 100 thư ký của ông già Noël đọc và trả lời thư cho các em. Nhiều em không biết địa chỉ của ông già Noël cũng viết thư và để ở bên lò sưởi hoặc ở đầu giường chỗ treo các vớ, giầy, các em tin đêm ông ghé qua sẽ nhận thư. Có những bức thư gây xúc động cho cả thế giới “người lớn” nữa.

Báo Tuổi Trẻ ngày 18/12/2010: Những lá thư đêm Giáng Sinh – Lá thư thứ nhất của em Hồng Hạnh, học sinh lớp 3 (Q.9, Tp.HCM) viết: “Kính thưa ông già Noël, năm vừa rồi con là học sinh giỏi, …Năm nào ông cũng cho con bánh kẹo, con vui lắm! Năm nay con xin ông đừng gửi bánh kẹo cho con nữa mà ông đừng cho mẹ con lấy chồng. Vì con biết mẹ lấy chồng con sẽ về nhà ông bà ngoại ở, con biết con của dì Hai không thương con, cứ đánh con hoài. Con xin ông…”. Được biết ba em bỏ đi khi em chưa đầy năm. Người mẹ trẻ muốn bước thêm bước nữa với một đồng nghiệp cùng nhà máy trước tết năm nay.

Lá thư thứ hai của em Thanh Tuấn, học sinh lớp 4 (Q. Bình Thạnh, Tp.HCM) thì ghi: “Ông già Noël ơi, năm nào các chị cũng mang quà của ông đến cho con. Khuya ông còn ghé cho con thêm chiếc bánh kem đặt ở đầu giường khi con ngủ. Con không xin ông cũng cho. Năm nay ông cho con xin ông nhé! Ông cho con có ba nhe ông. Bạn bè con có ba, sao con không có ? Con chỉ xin ông lần này thôi! Con hứa từ nay ông không cần gửi quà cho con nữa. Con chỉ xin ba cho con thôi…”. Ba của Thanh Tuấn đã qua đời vì bị điện giật khi em còn nằm trong bụng mẹ… Chúng tôi phải làm sao với 2 lá thư này? (Nguyễn Ngọc Hà).

Mùa Giáng Sinh cũng là cơ hội khơi dậy nét văn hóa vô cùng tốt đẹp của mọi dân, mọi nước, mọi người bất kể già trẻ, lớn bé, đó là văn hóa sẻ chia, cả tinh thần lẫn vật chất. Việc chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau, lá lành đùm lá rách dạy con người lòng nhân ái, đức từ bi. Dịch vụ đem quà tới tận nhà càng gần Noël càng tấp nập…

§ Báo Tuổi Trẻ ngày 27/11/2010: Bé Hoàng Ngân 9 tuổi ở Bình Định bị ung thư: “Con muốn được sống” – 11g20 ngày 26/11, “Én nhỏ” Hoàng Ngân với cánh én tuổi thơ đã lặng lẽ vút lên trời. Hôm trước khi mất, giữa những cơn đau quằn quại, Hoàng Ngân còn thảng thốt: “Tại sao con phải chết, con muốn được sống. Sắp lễ Giáng Sinh rồi, con muốn nội dẫn vào Sàigòn để con tặng quà cho các bạn bị bệnh như con”, bà nội Ngân nức nở (B.Trung).

§ Báo Tuổi Trẻ ngày 12/12/2011: Món quà ấm áp mùa Giáng Sinh: Cậu bé 7 tuổi Bradley Thomas, sống ở TP Canton, bang Mississippi (Mỹ), vừa có được đai vàng ở môn taekwondo. Bradley được giao thực hiện một dự án dịch vụ cộng đồng ở lớp học taekwondo và ngay lập tức cậu bé nghĩ đến gia đình nhà Moody. Họ đã mất đi ngôi nhà trong một trận hỏa hoạn hồi tháng 4 rồi, hiện gia đình họ gồm hai vợ chồng, cậu con trai 12 tuổi, hai cô con gái song sinh đang phải tá túc trong một căn phòng thuê chật chội. Gia đình Moody không có bảo hiểm thuê nhà và cũng không còn nơi nào khác để đi. Bà Moody cho biết sống được qua ngày đã là một điều khó khăn đối với gia đình bà, nên “Giáng Sinh như chỉ còn trong ký ức. Thậm chí không biết mình sẽ phải làm gì!”. Kể từ đầu tháng 10, Bradley đã dành trọn thời gian rỗi làm những công việc lặt vặt để kiếm một ít tiền giúp gia đình bà Moody. Chỉ sau vài tuần, Bradley đã có được 300 USD và cậu bé dành trọn số tiền đó mua quà cho những đứa trẻ nhà Moody. Bradley muốn tiếp tục gây quỹ giúp ông già Noël đem những món quà Giáng Sinh đến cho những người đang gặp bất hạnh trong cuộc sống (Hữu Công, theo Huffingtonpost).

§ Báo Tuổi Trẻ ngày 24/12/2011: “Những món quà lúc nửa đêm” – Đêm Giáng Sinh từ lâu đã trở thành ký ức khó quên của nhiều người khi được nhận quà và biết tặng quà. Anh Ngọc Sơn 45 tuổi và chị Tuyết Mai 57 tuổi (kể về niềm vui Noël hồi còn nhỏ như thế nào) (Rừng Thông).

§ Báo Thanh Niên ngày 30/11/2011: Giáng Sinh 5 xu – Là tên của một chương trình do nhóm tình nguyện Những ước mơ xanh (Hội LHTN Tp.HCM) tổ chức, nhằm giúp học sinh nghèo vùng cao ở tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông có một mùa Giáng Sinh ấm áp. Theo đó, bạn mua một chiếc áo thun giá 130 ngàn đồng, có nghĩa là bạn đã quyên góp 40 ngàn đồng để cùng chung tay mua 2.000 chiếc áo ấm tặng cho trẻ em vùng cao nhân dịp Giáng Sinh và năm mới (Lê Thanh).

Tại nhiều nơi, cụ thể là Giáo xứ Tân Sa Châu quận Tân Bình, cứ đêm Noël có khoảng 40-60 bạn trẻ nam nữ, chia làm nhiều tốp, mỗi tốp một ông hay bà già Noël dẫn đầu, chạy xe Honda đem quà Noël phát cho tất cả những người lang thang ngủ ngoài đường phố ở các quận, huyện nội thành và ven đô. Món quà không có lớn nhưng gói gọn những tấm lòng yêu thương chia sẻ.

Lễ Giáng Sinh còn là nguồn cảm hứng cho nhiều ngành văn hóa nghệ thuật cao quý của nhân loại:

1. Ngành kiến trúc: Hàng triệu Nhà thờ, Nhà nguyện, Tu viện trên thế giới được xây dựng ra để có nơi cử hành các mầu nhiệm Giáng Sinh và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu không có Chúa Giêsu ra đời thì không thể có các Nhà thờ Công giáo. Nhiều Thánh đường, Tu viện được xây dựng trực tiếp mang danh hiệu Giáng Sinh: Đặc biệt có ngôi Thánh đường đồ sộ, cổ kính nhất còn đứng vững tới nay đó là Nhà thờ Giáng Sinh tại Bethlehem, chính nơi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Nhà thờ được xây dựng vào đầu thế kỷ 4 do lệnh của Hoàng thái hậu của vua La Mã Constantin, đồng thời là nữ Thánh Helena. Bà là một tín hữu thánh thiện và hết lòng giúp đỡ Giáo hội. Thời của bà nhiều Thánh đường đồ sộ đã được xây dựng trên Đất Thánh. Khi người Hồi giáo chiếm Đất Thánh họ đã phá hết các Nhà thờ Công giáo khác trừ Nhà thờ Giáng Sinh nhờ có một bức họa trên tường vẽ cảnh ba nhà đạo sĩ Đông phương tới thờ lạy Chúa Cứu Thế mặc trang phục giống trang phục quê hương họ nên họ để lại, trang trí thêm bằng những chữ Ả Rập và biến thành Đền Thờ Hồi giáo. Ngày nay khách hành hương tới Đất Thánh không thể nào không ghé tham quan công trình kiến trúc đồ sộ cổ kính này. Nhà thờ Giáng Sinh vừa được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào cuối tháng 6/2012. Hiện Nhà thờ này được UNESCO đặt trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, cần sửa chữa gấp. Đây là di sản đầu tiên của Palestin được công nhận là di sản thế giới (Đ.T, theo Daily Star, báo Thanh Niên ngày 4/7/2012).

2. Ngành hội họa: Rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, nhất là vào thời Phục Hưng lấy đề tài Giáng Sinh:

+ Tranh Giáng Sinh của Pisanello đầu thế kỷ 15 tại Ý.

+ Bức tranh Ba nhà Đạo sĩ (Ba Vua) thờ lạy Ấu Chúa: 1423.

+ Bức tranh Trốn Sang Ai Cập: Fra-Angelicô, thế kỷ 15 (sách Art của Andrew Graham – Dixon in tại Anh 2008, trang 89).

+ Bức tranh Gia Đình Thánh với con Chiên của Raphael 1507 (sách Art, trang 92).

+ Bức Truyền Tin: Fra-Angelicô 1430-1432 (sách Art, trang 99).

+ Bức Ba Vua thờ lạy Ấu Chúa của Sandro Botticeli 1478-82 trưng bày tại National Gallery of Art, Washington DC-US.

+ Bức “The rest on the flight to Egypt” (Nghỉ ngơi trên đường trốn sang Ai Cập) của Tiziano Vecellio (khoảng 1473-1490), bị mất cắp năm 1995 tại tư dinh một quý tộc Anh tại Wiltshire, trị giá 5 triệu bảng Anh (Lư Trung – Báo KTNN số 872, ngày 1/5/2012, trang 55).

Còn rất nhiều họa phẩm Giáng Sinh ngoại quốc khác không thể liệt kê ở đây nhất là các nước Âu Mỹ thấm nhuần văn hóa Kitô giáo từ rất lâu rồi như Ý, Pháp, Đức, Bổ Đào Nha, Tây Ban Nha… Riêng tại Việt Nam, không chỉ những họa sĩ Công giáo vẽ tranh đạo, mà cả những tác giả ngoài Công giáo cũng tham gia cách nhiệt tình. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí đứng hàng đầu về sơn mài, xuất thân từ trường Mỹ thuật Đông Dương, trong cuốn sách: “Họa sĩ Nguyễn Gia Trí nói về sáng tạo” của họa sĩ Nguyễn Xuân Việt, NXB Văn Nghệ Tp.HCM 2009, dầy 450 trang có 5 hình mầu tiêu biểu nhất, thì đề tài Công giáo đã chiếm hai. Một ở trang 17, bức tranh sơn mài Ba Vua (0,65m x 1,04m vẽ năm 1960), trên bức họa có những hàng chữ Latinh viết theo kiểu “bút rông”: “Gloria in excelsis Deo – Et in terra Pax hominibus bonae voluntatis” (Vinh danh Thiên Chúa trên trời – Bình an dưới thế cho người thiện tâm).

Trang 97, bức tranh sơn mài Đêm Giáng Sinh (1,20m x 3,70m, vẽ năm 1941), trên bức họa có hàng chữ Latinh: “Hodie nobis de caelo Pax vera descendit” (Hôm nay bình an thật từ trời giáng thế). Tranh hiện treo ở cung thánh Nhà nguyện Dòng Đaminh – 44 Tú Xương, Tp.HCM. Bức sơn mài này được đánh giá rất cao và thuộc loại “hàng cấm”, không được xuất khỏi nước nếu không có phép của Nhà nước. Có lần báo Kiến Thức Ngày Nay đã đăng một bài viết về bức họa quý giá này và xác định có người sẵn sàng “thỉnh” với giá 1 triệu USD.

Cũng thời điểm từ 1941-1943, hai họa sĩ danh tiếng trường Mỹ thuật Đông Dương, đồng môn với Nguyễn Gia Trí, đó là Nguyễn Tiến Chung và Hoàng Tích Chù đã thực hiện một bức sơn mài đề tài Giáng Sinh (số đo khoảng 1,4mx2,4m), hiện đang treo ở cung thánh Nhà nguyện Đại Chủng viện Huế. Hai bên bức tranh này có 2 hàng chữ Nho như sau:

Hậu ngô chi sinh, giáng thế cánh thành ngô thánh lữ.

Bão ngã dĩ đức, tuẫn thân hoàn tác ngã thần lương

Nghĩa là:

Làm phong phú đời Con Người giáng thế làm bạn đồng hành thánh thiện.

Con no nê ơn đức, Người hy sinh mình nên Thánh Thể nhiệm mầu

Điều đặc biệt nhất là cả 3 bức sơn mài quý giá này đều được thể hiện bằng tinh thần hội nhập văn hóa. Các nhân vật đều được Việt Nam hóa, y phục Việt Nam, khung cảnh miền quê Việt Nam với cây khoai môn, tầu lá chuối, với con trâu, con bò, cả các Thiên thần gảy đàn cũng mặc áo dài như các thiếu nữ miền quê Việt Nam.

Riêng bức tranh Giáng Sinh của Nguyễn Tiến Chung và Hoàng Tích Chù, còn một nét độc đáo và rất sâu sắc nữa, đó là hình Hài Nhi Ấu Chúa với dáng nằm như một con ếch, phải chăng tác giả có ý áp dụng câu Thánh vịnh:

Thân sâu bọ chứ người đâu phải,

Con bị đời mắng chửi dể duôi ” (Tv 21,7)

Ngoài những tác giả nổi tiếng với những tác phẩm thời danh kể trên, các họa sĩ ngoài Công giáo khác cũng tham gia rất nhiệt tình. Sau đây là danh sách các tác giả và tác phẩm mà người viết sưu tầm được:

- Đức Mẹ Bồng Con – tác giả Tạ Tỵ, chất liệu bột màu, kích thước 25x35cm, sáng tác năm 1962.

- Truyền Tin – Tác giả Nguyễn Phước, chất liệu sơn mài (laque, lacquer) kích thước 60x80cm, sáng tác năm 1990.

- Giáng Sinh – Tác giả Văn Thọ, chất liệu lụa (soie, silk) kích thước 88x65cm, sáng tác năm 1981.

- Giáng Sinh – Tác giả Nguyễn Văn Anh (Giám đốc trường Mỹ thuật Gia Định), kích thước 67x92cm, sáng tác năm 1971.

- Mục Đồng Thờ Lạy – Tác giả Nguyễn Văn Anh, chất liệu sơn dầu (huile, oil) kích thước 81x120cm, sáng tác năm 1961.

- Ba Vua Thờ Lạy – Tác giả Nguyễn Văn Anh, chất liệu sơn dầu (huile, oil) kích thước 100x80cm, sáng tác năm 1975.

- Mục Đồng Thờ Lạy – Tác giả Nguyễn Văn Anh, chất liệu sơn dầu (huile, oil) kích thước 66x50cm, sáng tác năm 1971.

- Giáng Sinh – Tác giả Nguyễn Siên, chất liệu sơn dầu (huile, oil) kích thước 80x100cm, sáng tác năm 1971.

- Hiển Linh – Tác giả Nguyễn Phước, chất liệu sơn dầu (huile, oil) kích thước 120x150cm, sáng tác năm 1988.

- Sứ Thần và Trinh Nữ - Tác giả Nguyễn Phước, chất liệu sơn dầu (huile, oil) kích thước 53x33cm, sáng tác năm 1990.

- Truyền Tin – Tác giả Nguyễn Phước, chất liệu sơn dầu (huile, oil) kích thước 30x40cm, sáng tác năm 1990.

- Trốn sang Ai Cập – Tác giả Trọng Nội, chất liệu sơn dầu (huile, oil) kích thước 1,4x3m, sáng tác năm 1973.

Chắc chắn còn nhiều tác phẩm khác của những tác giả ngoài Công giáo mà chúng tôi chưa có dịp tiếp cận.

3. Ngành âm nhạc: Bắt đầu cuối tháng 11, nhạc Giáng Sinh đã vang lên đó đây, càng về gần Lễ Giáng Sinh, càng rộn ràng, những ngày Giáng Sinh có thể nói nhạc Giáng Sinh vang lên khắp thế giới, đi tới đâu, ở đâu cũng nghe được nhạc Giáng Sinh. Ngoài những bài ca mà hơn 100 năm nay không mùa Giáng Sinh nào lại thiếu như Silent Night, Jingle Bell, còn vô số những bài Giáng Sinh thời danh khác nữa, như bài Adeste Fideles do nhạc sĩ Frederick Oakeley chuyển âm, Hector Berlioz với nhạc kịch Chúa Hài Nhi, Camille Saint Saens với nhạc kịch Giáng Sinh 1863 và nhiều tác phẩm của các tác giả khác nữa.

Tại Việt Nam, hàng trăm nhạc sĩ Công giáo đã sáng tác cả ngàn bài thánh ca Giáng Sinh. Ở đây người viết đặc biệt lưu ý các tác giả ngoài Công giáo cũng tham gia sáng tác nhạc Giáng Sinh:

+ Nhạc sĩ Hoài Linh có tác phẩm “Lá thư trần thế” (BTT/NT/NHK/QN ngày 20/11/1968): “Đêm nay Ngôi Hai trời xuống, ánh sao lung linh muôn mầu… Đêm nay Người xuống đời, xin đem nguồn vui tới, những đôi môi cằn cỗi lâu không cười…”.

+ Nhạc sĩ Trần Quý có tác phẩm “Mùa sao trần thế” (xuất bản trước 1975): “Đêm mùa sao sáng, đêm hội trần gian, đêm Người giáng thế ra đời cứu nhân… Đêm Noël đem mùa sao thắp sáng hơn đèn… Noël đêm Chúa giáng nhiệm mầu, con khấn hứa nguyện cầu cho người thôi ghét nhau. Con tin nơi Đức Chúa đời đời…”.

+ Nhạc sĩ Tuấn Hải – Lê Kim Khanh có tác phẩm: “Đôi lòng cầu nguyện” (xuất bản trước 1975): “Cũng Noël này mùa đông năm ấy tình đã xa bay… Lòng quá bơ vơ… Chỉ mong ơn Chúa ban một tình thương… Trên ngôi cao hào quang sáng soi trần gian sướng vui mừng Chúa ra đời, và riêng tôi đã nở hoa, cùng với người yêu quỳ tạ ơn Chúa… Niềm tin dâng Chúa thành kính kêu van cầu xin phép mầu, xin Ngài ban ơn phước cho Mẹ Việt Nam”.

+ Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ có tác phẩm “Giáo đường im bóng”, (Tinh Hoa ấn bản 1951, Huế): “Nhớ tới đêm đầy ánh sáng… giây phút như ngừng trôi, tiếng kinh muôn đời… Dáng xinh xinh như tiên kiều, quỳ ngân thánh kinh ban chiều, trong giáo đường đêm Noël ấy, ngàn đời tôi mến yêu. Tiếng amen đều âm u… Thánh giá xa vời lắm, với chuông chiều ngân… Nơi giáo đường im bóng, tôi thầm mong ngóng, đắm đuối trên làn sóng mắt nàng huyền mơ”.

+ Nhạc sĩ Mai Khoa có tác phẩm “Đêm hạnh ngộ” (BTT/NHK/PHTT ngày 10/12/1968): “Chúa sẽ đến trong đêm nay bởi loài người còn đọa đày … Chúa sẽ đến trong đôi tay chắp cánh với lời nguyện cầu: Xin thương nhau trọn tình đầu … Khi Mẹ nhìn Con, Chúa về trong đôi mắt, khi anh gặp em, Chúa ngự trên đôi môi, Chúa trong lời ngọt ngào, Chúa trong tình trìu mến…”.

+ Nhạc sĩ Xuân Điềm có tác phẩm “Mùa hoa tuyết” (xuất bản trước 1975): “Mùa hoa tuyết năm xưa đã về. Ngày lễ Noël… chạnh khơi thương nhớ em anh giữa Giáng Sinh… chắc em anh đang cầu xin: Lạy Chúa, Chúa Cứu Thế… Lạy Chúa thương con … dẫu xa nhau nhưng niềm tin Chúa càng thấm sâu, tình chung hai đứa như hoa tuyết mùa Giáng Sinh…”.

+ Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông có tác phẩm “Đêm thánh huy hoàng” (BTT 14/12/1972): “Một trời sao sáng ngời, Thiên Chúa sinh ra đời… muôn lời ca ngợi Chúa Giáng Sinh trần gian. Con quỳ xin Chúa trên trời, bình an khắp nơi nhân loài... Nguyện cầu xin Chúa Trời vinh hiển trên muôn loài, xua màn đêm tăm tối khắp nơi trần thế. Niềm tin nơi Chúa đời đời … nhân loại đầy ơn phước Chúa trên tầng cao…”. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cũng rất yêu thích mùa Giáng Sinh: “Một mùa đông giá hang Bêlem Chúa sinh ra đời… Lạy Mẹ Sầu bi ban ơn, người người cùng thương nhau hơn, đất nước này đây sáng đức tin Chúa trên trời cao”.

+ Tác phẩm “Đêm thánh vô cùng”, nhạc của Franz Grubert (BTT 11/12/72): “Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng, khắp thế gian hát kính mừng đêm đông Chúa sinh ra chốn hang lừa. Đêm đông giá Chúa sinh ra cứu nhân loại. Ôi đêm thánh bao tình thương mến, tấu khúc nhạc dâng đêm vô cùng. Ôi đêm thánh bao đàn chiên Chúa, xướng khúc nhạc dâng đêm vô cùng”.

Bao nhiêu triệu băng đĩa đã bán ra thì chưa thể và cũng không thể thống kê được trên 200 quốc gia trong thế giới. Chỉ biết mỗi mùa Giáng Sinh về, nhạc Giáng Sinh đầy ắp không gian, khắp hang cùng ngõ hẻm, cả trên TV, radio… đâu đâu cũng nghe nhạc Giáng Sinh:

- Jingle Bell

- Silent Night

- Mùa Đông Năm Ấy

- Hang Bêlem

- Bài Thánh Ca Buồn với những lời thở than tha thiết: “Bài thánh ca đó còn nhớ không em? Noël năm nào chúng mình có nhau… Cùng nhau quỳ dưới chân Chúa cao sang, xin cho đôi mình suốt đời có nhau … Bao nhiêu năm Chúa xuống dương gian, bấy nhiêu lần con nhớ người yêu” (Album Hơi Thở Giáng Sinh, nhạc sĩ Nguyễn Vũ).

Cùng với nhạc Giáng Sinh là hình ảnh các ông già Noël và các bà già Noël, xe tuyết, ngôi sao, cây thông và những hàng chữ Merry Christmas and Happy New Year trang trí cùng khắp nơi. Hàng tỷ thiệp Giáng Sinh được gửi qua gửi lại, trao tặng nhau những lời chúc tốt đẹp…

Và mới đây, một album thánh ca được vinh danh, nói lên sức sống của Thánh Kinh luôn mãnh liệt và bền vững giữa lòng thế giới: “Một album mang tên Mùa Vọng ở Êphêxô của Tu viện Đức Bà thành Êphêxô là một cộng đoàn nhỏ của 22 nữ tu dòng Biển Đức ở bang Missouri, Hoa Kỳ đã đứng hàng đầu trong bảng xếp hạng các album cổ điển trong suốt 6 tuần và các nữ tu được vinh danh là 'Những nghệ sĩ truyền thống cổ điển số một năm 2012'. Album được sản xuất bởi nhà sản xuất từng đoạt giải Grammy, là Christopher Alder. Các nữ tu Biển Đức nhấn mạnh rằng họ không phải là chuyên nghiệp, nhưng họ tập ít nhất 3 giờ mỗi ngày. Họ nói rằng ca hát là hình thức cầu nguyện ưa thích của họ” (Tuần báo CG&DT số 1911 tuần lễ từ 14-20/6/2013, trang 23).

4. Ngành sân khấu kịch trường: Các nơi trên thế giới chúng ta không có số liệu thống kê, nhưng tại Việt Nam không một lễ Giáng Sinh nào mà không có những hoạt cảnh về sự kiện Thánh Giuse và Đức Mẹ tới Bethlehem và Đức Mẹ đã sinh Chúa Giêsu tại đó trong một hang đá nơi dành cho súc vật ngoài cánh đồng.

Trong cuốn sách “Sơ thảo thư mục Công giáo” do linh mục Trần Anh Dũng xuất bản tại Paris năm 1992, có những vở tuồng Giáng Sinh đã được ghi nhận:

+ Số 2113 “Chúa Hài Đồng” (kịch thơ 3 màn) Vị Thủy, Sàigòn (nguyệt san Đức Mẹ HCG số 80 tháng 1/1956).

+ Số 2114 “Chúa Hài Đồng gọi” (kịch) – Jacque Lê Văn Đức, Eugène Đinh Văn Sắt, Quy Nhơn – Impr de la Mission, 1924 – 31 tr.

+ Số 2154, tuồng Sinh Nhật: “Mục đồng đi tìm Chúa Giêsu”. Kotum, trường Á Thánh Xitêphanô Thể - 1912, 76 tr.

Còn màn diễn “Thiên thần Bảo” thì tất cả các Nhà thờ miền Nam Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 cho đến khoảng 1960, đều trình diễn trước Lễ nửa đêm.

Tuồng kịch Giáng Sinh không những hấp dẫn các tín hữu Công giáo mà cả bà con lương dân nhất là trẻ em cũng say sưa tham dự.

5. Ngành điêu khắc: Tới mùa Giáng Sinh, tượng Sinh Nhật: gồm Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ, Thánh Giuse, các mục đồng, các thiên thần, ba nhà Đạo sĩ phương Đông và đoàn tùy tùng, những con lạc đà, bò, lừa, chiên… được bày bán tràn ngập nơi các cửa tiệm bán ảnh tượng trên toàn thế giới… đủ mọi kích cỡ, chất liệu, giá cả…

6. Ngành điện ảnh – Nghệ thuật thứ 7: Khoảng năm 1960, nước Ái Nhĩ Lan sản xuất bộ phim “Mầu nhiệm Mân Côi”, trong đó dành 5 tập diễn lại Mầu nhiệm Chúa Cứu Thế giáng trần (Năm Sự Vui), phim đã được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới và rất phổ biến tại miền Nam Việt Nam từ 1960-1970.

+ Phim hoạt hình 7 phút: “Cô gái bán diêm made in VN”, bối cảnh của câu chuyện cô gái bán diêm là một thành phố của xứ Đan Mạch lạnh giá nhưng thực chất nhóm True D đã chụp lại hình ảnh Nhà thờ Đức Bà Tp.HCM và nhà hát thành phố ở nhiều góc khác nhau để khai thác làm chất liệu (Cát Khuê, báo Tuổi Trẻ 27/11/2011).

+ Phim L'assassinat du Père Noël: phim bi hài của Christian Jaque, phim dàn trải trong bối cảnh Lễ Giáng Sinh … phim Pháp 1g45', sản xuất 1941.

+ Phim Mỹ: Who Killed The Santa Claus ? 1948.

+ Phim L'Etrange Noël de M. Jack (The Nightmare before Christmas) của Henry Selick – phim Mỹ dài 1g15', sản xuất năm 1993.

+ Phim L'Evangile Selon Matheu, phim lịch sử của Per Paolo Pasolini, phim Pháp – Ý dài 2g20', sản xuất năm 1964 (Prix spécial du Jury Vines 1964) [Phần đầu Tin Mừng là trình thuật Giáng Sinh].

+ Phim Jesus de Nazareth: phim lịch sử của Franco Zefforelli, phim màu Anh – Ý dài 2g15', sản xuất 1976.

+ Phim Joyeux Noël: phim màu của Christian Carion (Pháp) dài 1g55', sản xuất năm 2005.

+ Phim Le Père Noël est Une Ordure: phim hài của Jean Marie Poiré, phim màu, Pháp, dài 1g30', sản xuất năm 1982.

+ Phim Un Conte de Noël, phim bi hài của Arnaud Desplechin, phim màu, Pháp, dài 2g23', sản xuất năm 2008 (giải thưởng Liên hoan phim Cannes).

+ Quà Giáng Sinh từ 2 phim mới: “Dối trá ngọt ngào” và “Giữ lấy niềm tin tuổi thơ” – Với Giáng Sinh phiêu lưu ký (Arthur Christmas), sẽ là rất bình thường nếu như trong phim chỉ có những bông tuyết trắng xóa, có ông già Noël, có những cây thông lấp lánh đèn màu, có những chiếc bít tất được cột ở chân giường trẻ nhỏ… Nhưng câu chuyện lần này lại mang đến nhiều điều “bất thường” hơn thế. Rằng ông già Noël cưỡi… phi thuyền khổng lồ đến trao quà Giáng Sinh cho cô bé Gwen ở một thị trấn xa xôi của nước Anh trước khi trời sáng, trước khi cô bé tỉnh dậy. Bởi Gwen là em bé duy nhất trong 2 tỉ em bé trên Trái đất bị bỏ quên do sơ sót kỹ thuật của “tập đoàn” ông già Noël (Cát Khuê – Hoàng Oanh).

7. Về phương diện văn học: Bạn chỉ cần gõ vào Google: “Truyện Giáng Sinh”, bạn sẽ thấy hàng loạt những câu chuyện về Giáng Sinh:

- Những câu chuyện Giáng Sinh nên đọc (Philipphê Trần).

- Món quà Giáng Sinh (truyện ngắn).

- Những câu chuyện đêm Giáng Sinh.

- Những câu chuyện cảm động về Giáng Sinh.

- Những câu chuyện Giáng Sinh.

- Những câu chuyện Giáng Sinh cảm động

- Truyện cười ngày Giáng Sinh Noël – ông già Noël.

- Truyền thuyết về bộ quần áo Giáng Sinh.

- Câu chuyện đêm Giáng Sinh.

- Truyện Giáng Sinh 2010…

Truyện Giáng Sinh thật phong phú, truyện nào cũng có cái hay của nó nhưng với người viết thì hai câu chuyện sau đây gây nhiều xúc động nhất. Chắc đối với rất nhiều người cũng vậy.

Câu chuyện số 1: Người viết nghe được qua radio vào đêm Giáng Sinh khoảng năm 1973 có nội dung như sau: Một bác sĩ Công giáo rất tốt có vợ và hai con. 8 giờ tối Giáng Sinh có điện thoại gọi vào bệnh viện gấp vì một ca mổ khẩn cấp. bác sĩ lái xe đi ngay nhưng không quên dặn vợ con cứ lo trang trí hang đá, cây thông và bữa Réveillon… Đi được một đoạn đường, bác sĩ gặp một chị ăn mày gầy ốm, ôm đứa con nhỏ khẳng khiu vì không có sữa cho con bú, cũng chẳng có tiền mua đồ ăn… Bác sĩ dừng xe lại vội vàng lấy bóp 20.000 đồng đưa cho chị mua bánh cho hai mẹ con và dặn thêm: “Xin lỗi tôi phải vào bệnh viện gấp. Chị cứ đi thẳng xuống kia, rẽ trái tới số nhà 80 chờ tôi quay lại ngay khi xong việc”. Thế rồi bác sĩ vào bệnh viện thực hiện ngay ca mổ, 2 tiếng đồng hồ sau bác sĩ về nhà thì đã gần nửa đêm, mọi người chuẩn bị đi Lễ Nhà thờ, nhưng trước khi đi hai đứa nhỏ đòi ba kể chuyện Chúa sinh trong hang đá. Bác sĩ ôm con vào lòng, kể cho các con nghe câu chuyện Đức Mẹ và Thánh Giuse nghèo đói đi lang thang ở Bethlehem, tìm nhà trọ nhưng chẳng nơi nào tiếp, Đức Mẹ lại sắp sanh, cuối cùng Thánh Giuse đã phải đưa Đức Mẹ ra tạm trú tại cái hang đá ngoài cánh đồng, các con đồng thanh kêu: “Mấy ông chủ quán ác quá he ba. Họ đuổi cả Chúa!”… Nói tới đây, bác sĩ chợt nhớ ra hai mẹ con ăn mày, mới hỏi vợ: “Em ơi, buổi tối khi đi anh có gặp hai mẹ con người ăn mày, anh bảo chị ta đợi anh ở cổng, em có thấy không?” – “Có đấy, nhưng người gì mà không biết điều, đêm Giáng Sinh còn đến gõ cửa quấy rầy, em bực mình quá đã đuổi cổ đi rồi!”. Ông bác sĩ xìu mặt xuống thở dài: “Chúa ơi! Chúa ơi!”, người vợ vội hỏi: “Anh làm sao vậy ?” - “Nhà mình xua đuổi Chúa rồi em ạ!”.

Câu chuyện số 2: Chính là truyện “Cô bé bán diêm” của nhà văn Đan Mạch chuyên viết cho tuổi thơ, Hans Christian Andersen (1805-1875). Hầu như không một em bé nào thuộc các nước phát triển và đang phát triển lại không đọc truyện này, đọc rồi thì sẽ nhớ tới chết không thể quên được. Ôi cô gái bán diêm thật đáng thương và thật dễ thương!

8. Những kỷ lục Giáng Sinh đã được tổ chức Guinness xác nhận:

Cây Noël có giá hơn 11 triệu USD – Cây Noël của khách sạn Emirates Palace ở Abu Dhabi, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, được xem là đắt nhất thế giới vì các vật quý trang trí cho nó có giá trị tới hơn 11 triệu USD. Ông Hans Olbertz, tổng giám đốc khách sạn 7 sao này cho biết cây Noël cao 13m có giá khoảng 10.000USD, nhưng các vật quý trang trí cho nó có giá tới hơn 11 triệu USD. Ông Khalifa Khouri, chủ các vật kim hoàn trang trí, cho biết có tổng cộng 181 vật quý bằng kim cương, ngọc trai, ngọc lục bảo, ngọc lam và nhiều đá quý khác (N.T.Đa theo AFP, báo Tuổi Trẻ 18/12/2010).

+ Báo Tuổi Trẻ ngày 2/12/2011: Bánh kem Giáng Sinh dài… hơn cây số – Các đầu bếp Trung Quốc đã phá kỷ lục thế giới khi cho ra lò chiếc bánh kem Giáng Sinh có chiều dài 1.068m tại khách sạn Shangri La, thành phố Thượng Hải hôm 1/12. 80 đầu bếp đã làm việc cật lực trong nhiều ngày để tạo ra chiếc bánh kem nặng 526kg với 333kg sôcôla, 752 quả trứng gà, 169kg đường và 869kg bột mì. Chiếc bánh đã vượt xa 5 lần so với kỷ lục thế giới cũ (Hoàng Ngọc, theo Chinanews).

+ Chương trình HTV9 12g30 ngày 29/11/2014 giới thiệu “Bữa tiệc ánh sáng”, màn trình diễn ánh sáng kỷ lục với hàng triệu bóng đèn đủ màu. Bữa tiệc ánh sáng sẽ được trình diễn miễn phí mỗi tối cho tới 31/12/2014.

+ Chương trình HTV1 12g ngày 30/11/2014 giới thiệu: Cây thông nổi cao nhất thế giới hiện nay (85m) với 3,1 triệu bóng đèn mini và 100 đèn led. Lễ nghi thắp sáng hôm nay là lần thứ 19 tại vùng biển Rodrigo de Freitas thuộc Rio de Janeiro, thủ đô Brazil với 200.000 người tham dự.

9. Có một lãnh vực mà Lễ Giáng Sinh gây ảnh hưởng sâu đậm nhất và rộng rãi nhất trên cả nhân loại, đó là lãnh vực Biên Niên. Ngày nay hầu hết các nhà sử học của thế giới khi ghi nhận thời điểm của một biến cố thì đều dùng một con số theo dương lịch. Thí dụ ngày 2 tháng 9 năm 1945, hay ngày 7 tháng 5 năm 1954.

Đại Từ Điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, Nxb. Văn Hóa Thông Tin năm 1999 định nghĩa:

- Dương lịch: dt.: Hệ lịch lấy cơ sở là năm xuân phân. Có cách tính thuận tiện đơn giản được dùng rộng rãi trên thế giới và được dùng ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, nay trở thành lịch chính thức.

- Dương lịch cũng được gọi là Công lịch – dt: Một loại lịch (dương lịch Gregory) hiện được quốc tế dùng làm lịch chính thức.

- Công nguyên: dt: Mốc tính thời gian theo Công lịch, được tính bắt đầu từ năm Đức Chúa Giêsu (Jesus) ra đời theo truyền thuyết.

Tự Điển Việt – Pháp:

Công lịch: Calendrier Officiel – Calendrier Grégorien (lịch chính thức, lịch Grégory).

Tự Điển tiếng Việt: Công lịch – dt – lịch được quốc tế dùng làm lịch chính thức, hiện nay là dương lịch Gregory (dương lịch do Giáo Hoàng Gregory ra lệnh sửa năm 1582).

Cũng theo tài liệu trên Google: Công Nguyên là kỷ nguyên bắt đầu bằng năm theo truyền thống được cho là năm sinh của Chúa Giêsu. Các năm trước đó được gọi là trước Công Nguyên (TCN), các năm sau gọi là Công Nguyên (CN), có khi dùng sau Công Nguyên (SCN) [không chính xác lắm].

Khái niệm Công Nguyên được tu sĩ Dionysius Exigurus đặt ra vào thế kỷ 6 khi ông tính lịch cho các ngày Lễ Phục Sinh và được dùng với lịch Julius và lịch Gregory. Không có năm 0 cho các lịch này. Năm 1 (TCN) được theo sau bằng năm 1 CN. Các nhà làm sử áp dụng thông lệ này vì nó được dùng lần đầu bởi tu sĩ Bede trong tác phẩm Historia Ecclesiastica Gentis Angiorum (lịch sử Giáo hội nước Anh năm 731), ông không dùng số 0 mặc dù ông đã biết số 0 vào lúc này.

Năm 1 trước Công Nguyên được viết -1 hoặc 1BC (năm 1 before Christ). Năm 1 sau Công Nguyên được viết 1AD (năm 1 Anno Domini – nghĩa là năm thứ nhất trong năm của Chúa).

Như vậy chữ tương đương với Công Nguyên là Anno Domini (năm của Chúa) hay kỷ nguyên Kitô. Hiện nay thỉnh thoảng người ta cũng dùng chữ tắt CE (Common Era – Kỷ nguyên dùng lịch chung) thay thế cho AD đặt sau số năm. Thí dụ 128CE tức là năm 128 theo dương lịch.

Tóm lại dương lịch lấy năm Chúa Giêsu Giáng Sinh là trung tâm lịch sử, từ mốc thời gian đó tính ngược về trước hay xuôi về sau.

Những chữ BC (before Christ) hay AD (Anno Domini) đều nói lên rằng Chúa Kitô là trọng tâm của lịch sử nhân loại.

Thế giới đón nhận dương lịch thì một cách nào đó cũng làm cho Lễ Giáng Sinh hội nhập vào nền văn hóa của mình nếu chẳng coi là “Ngày Lễ Thánh” như các tín hữu Kitô thì cũng coi như một Lễ hội dân gian đầy ý nghĩa và thi vị.

Thay lời muốn kết:

Thư cho người đêm Giáng Sinh: Ngọc gửi cho Nghi.

Đêm nay, Giáng Sinh, St. Louis mưa đầy trời những bông tuyết trắng. Em nhớ câu thơ của anh…

Đêm nay đêm Giáng Sinh

Chúa của người ta

Không phải Chúa của mình.

Đêm em cùng anh đi xem Lễ, đi xem hang đá Chúa Hài Đồng, những lúc đó anh thường cười bảo em: Chúa của người nhưng cũng là Chúa của mình…

Những hồi chuông nửa đêm đang đổ dồn, những chiếc xe hơi lao trong đêm, họ đang tìm đến Thiên đường và niềm tin của họ. Chúa của người hay là Chúa của ta – em tin là của tất cả mọi người ” (Bích Ngọc, từ Missouri St. Louis – USA, báo Thanh Niên, diễn đàn của Hội Liên hiệp Thanh Niên VN, số 53 ngày 27/12/2012 – 3/1/2013).

Tân Sa Châu, ngày 03 tháng 12 năm 2014

TRƯỞNG BAN VĂN HÓA GIÁO PHẬN

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT

CỖ XE TAM MÃ

Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy cỗ xe tam mã Nga ngay tại Moskva ở ngày Hội Mùa đông Nga vừa được phục hồi lúc bấy giờ, vào giữa những năm 50. Cỗ xe ba ngựa được trang điểm những dải lụa mầu, những búp hoa rực rỡ. Ngựa là những con tuấn mã mượt mà to khỏe, chân cao thon thả, cổ dài duyên dáng như cổ thiên nga. Đóng vào xe, một con ở giữa hai càng, vòm cung đầu càng xe cong trên đầu nó treo hai ba chiếc chuông đồng to nhỏ vàng rợi, hai con ngựa phụ ghép hai bên ngoài càng xe, cổ mỗi con đeo một vòng lục lạc.

Trước đó tôi mới chỉ thấy cỗ xe tam mã Nga trên phim ảnh. Những cỗ xe tam mã ở một đám cưới nông thôn chở các chàng trai các cô gái trong trang phục dân tộc Xlavơ cổ xưa, ngồi chen chúc bên nhau, tưng bừng ca hát theo tiếng đệm của cây phong cầm Nga rộn rã. Cỗ xe băng đi, phóng như bay qua cánh đồng Nga mênh mông nở đầy hoa cúc trắng. Anh chàng xà ích đứng hẳn người lên cầm căng giây cương, tay vung cao roi da vun vút trên không trung phát ra những tiếng xé gió thúc ngựa, kèm theo những hồi sáo miệng huýt dài lanh lảnh nghịch ngợm. Lại có lần tôi được thấy hình ảnh một cỗ xe tam mã đơn độc chạy trên đường thiên lý phủ đầy tuyết, kéo dài tít tắp mút chân trời. Cỗ xe chở ai đó có mui kín, ba con ngựa gõ móng đều đều hòa với tiếng chuông, tiếng lục lạc lảnh lót. Và người xà ích ngồi thu lu cầm cương ở đầu xe cất tiếng hát ngân nga, lúc như thủ thỉ tâm tình, lúc lại như nỉ non than vãn. Buồn vui ray rứt cuốn theo bóng xe xa dần, xa dần…

Xe tam mã bay, xe tam mã phóng.

Vó ngựa cầy tung bốc bụi mịt mù.

Lảnh lót chuông đồng khóc than sầu thảm,

Lại như rộ cười, lại như ngân nga.

Xe tôi đi, xe tôi đi đến với nàng,

Xe tôi đi, xe tôi đi đến với tình lang!...

Ai thế nhỉ, lữ hành trong đêm tối?

Chàng từ đâu, đường còn có xa không.

Ai buộc chàng đi, hay lòng chàng run rủi?

Mà canh khuya xe mải miết dặm trường?

Lời những bài dân ca Nga cứ vang vọng mãi trong ký ức tôi. Cả lời thơ Puskin nữa:

..Trên đường mùa đông vắng vẻ

Chiếc xe tam mã băng đi.

Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ,

Đều đều khắc khoải vọng xa…

Và tôi hình dung ra cảnh tượng nước Nga. Nước Nga và cỗ xe tam mã Nga. Có cảm giác tất cả chỉ là một. Cỗ xe tam mã Nga cũng chính là nước Nga đấy. Và nó đã có từ bao đời nay rồi nhỉ?

Thực ra cỗ xe tam mã Nga chỉ xuất hiện vào khoảng đầu nửa sau thế kỷ 18 cùng với việc xuất hiện dịch vụ thư tín nhà nước Nga. Trước đó, cũng như ở các nước châu Âu, ở Nga người ta thường dùng xe một ngựa kéo, còn cần thiết nhiều ngựa, thì người ta đóng con nọ nối đuôi con kia thành một giây. Đến thế kỷ 18, ở Nga đường xá được mở rộng, nhất là hai quốc lộ: quốc lộ thủ đô, Moskva – Peterburg và quốc lộ Xibiri: Moskva – Tambovsk. Lúc này có thể đóng vào xe ba con ngựa thong dong bên nhau: ở giữa con ngựa chủ công kéo càng, hai bên ngoài càng xe hai con ngựa phụ trợ. Khởi thủy từ “trôika” – tam mã – được thấy lần đầu trong lịch trình của dịch vụ thư tín Nga năm 1770. Tài liệu này còn quy định chỉ đóng ba ngựa vào xe khi trên xe có ba hoặc nhiều người hơn nữa ngồi. Nếu số người có ít chỉ cần đóng một ngựa.

Trên hai quốc lộ thư tín người ta đặt các trạm đổi ngựa và các đồn canh. Theo gương phương Tây xà ích có nghĩa vụ dùng tù và báo hiệu khi xe đến và khi rời trạm. Nhưng ở Nga chiếc tù và không được mấy ai sử dụng mà xà ích Nga thường đưa hai ngón tay lên miệng và huýt gió tạo ra một tiếng sáo rất to, lanh lảnh để báo hiệu. Thoạt đầu người ta phạt vì tội làm sai thể thức. Nhưng đám dân xà ích bào chữa rằng, nghe tiếng sáo huýt dài, lanh lảnh lũ ngựa chạy hăng hơn, hơn thế nữa tiếng sáo huýt nghe rõ hơn tiếng tù và. Bởi thế người ta chuyển sang dùng chuông thay thế, và được dân chúng chấp nhận.

Những chiếc chuông to nhỏ có kích thước đường kính từ bốn đến mười sáu phân, được đúc bằng đồng, giống như những chiếc chuông lớn trên các tháp chuông nhà thờ. Chuông được treo dưới vòm cung nối đầu hai càng xe vòng trên đầu con ngựa chủ công, phát ra những âm thanh khác nhau lảnh lót, thanh mảnh, hòa với tiếng lục lạc đeo ở vòng cổ hai con ngựa phụ trợ, tạo thành một hòa âm đặc sắc, một thứ âm nhạc “phong cầm xà ích” có âm trầm, âm bổng, te-nô, en-tô. Những cái chuông nổi tiếng nhất được đúc tại làng Valdai, nằm quãng giữa quốc lộ thủ đô Moskva – Peterburg.

Trên mặt vỏ chuông xe tam mã thường có ghi những dòng đề từ khác nhau: “Âm thanh nhiều – đường vui hơn”, “Tiếng chuông vang – dồn bước ngựa”,…Đường xa nhạc chuông giúp cho khách lữ hành xua tan những nỗi ưu tư sầu não. Theo quy định thì chỉ có các xe tam mã thư tín nhà nước mới được treo chuông. Nhưng nhiều chủ nhân xe tư cũng cứ thích thú lén treo chuông lên xe của riêng mình. Hội đồng nhà vua Nga năm 1836 phải ra quyết định đặc biệt cấm những ai đi xe riêng dùng chuông. Cấm thì cấm những vẫn luôn bị vi phạm, bởi ngồi lên cỗ xe tam mã Nga giữa bao la đất trời ai mà lại không thích thú phóng bay đi trong tiếng nhạc chuông đồng, đặc biệt là trai gái trong các đám rước hội lễ, cưới xin…

Từ lâu đã nhiều thay đổi. Các phương tiện giao thông hiện đại xuất hiện thay thế cho cỗ xe ngựa cổ xưa. Cỗ xe tam mã Nga nay chỉ còn gặp lại như một kỷ vật trên đất nước Nga. Tuy nhiên nghĩ đến hình ảnh cỗ xe tam mã bất giác nhiều người lại nhớ ngay đến đất nước Nga, đất nước Nga xa xôi nhưng vẫn có cái gì đó rất gần gụi thân thiết với tâm hồn không ít người ở các xứ sở khác. Có thể một phần cũng vì những hình ảnh đó đã quện vào nhau in sâu trong tâm trí những ai đã một lần xúc động khi nghe khúc dân ca Nga hay đọc những câu thơ, câu văn bất hủ của các nhà văn Nga vĩ đại, như trong tiểu thuyết trường ca “Những linh hồn chết” của N.Gogol – nhà văn Nga thế kỷ 19.

“…Ôi! Trôika! Con chim – trôika, ai đã phát minh ra ngươi? Người chỉ có thể sinh ra giữa một dân tộc dũng cảm, trên đất nước không làm gì nửa vời này, mà đã lan ra như một vết dầu trên một nửa thế gian, chưa kịp đếm hết trên bao nhiêu verxta, là đã mỏi mắt rồi!... Cỗ xe không có gì phức tạp, người ta sẽ nói như thế: nó không được đóng bằng đinh ốc sắt, mà chỉ được dựng lên và lắp vào một cách đại khái, bằng rìu và dao gọt; do bàn tay khéo léo của người mujik ở Iarôxlap. Người đánh xe không đi ủng to kiểu Đức; với bộ râu rậm và đôi bao tay, hắn ngồi lên xe, có quỷ biết là như thế nào; nhưng khi hắn vừa khẽ nhướn người lên, hoa cây roi và cất tiếng hát, thì mấy con ngựa hùng dũng lồng lên; các nan hoa bánh xe chỉ còn là một mặt phẳng liền; dặm trường phải rung chuyển, khách bộ hành hoảng hốt thốt lên một tiếng kêu; và cỗ xe trôika vút lên, vút lên, vút lên trước… Và từ xa, chỉ còn thấy như một vệt lao xuyên qua không trung”

“Và ngươi, nước Nga, chẳng phải ngươi cũng bay vút như một chiếc trôika mãnh liệt, không ai có thể vượt được? Ngươi đi qua, dặm trường bụi cuốn mịt mù; những chiếc cầu kêu răng rắc; mọi vật bị bỏ lại, nằm lại đằng sau ngươi. Kẻ nhìn ngươi phải dừng chân, sửng sốt vì sự thần diệu phi thường ấy. Phải chăng là sét trên trời giáng xuống. Cuộc chạy không gì kìm hãm nổi, làm người ta khiếp sợ ấy có ý nghĩa gì? Có sức mạnh bí ẩn nào tiềm tàng trong các con ngựa mà thế gian chưa từng thấy bao giờ ấy? Ôi, tuấn mã, tuấn mã, tuấn mã tuyệt vời! Nhưng cơn gió lốc nào thổi tung bay bờm của các con ngựa? Cái tai rất thính nào ẩn trong mỗi mạch máu li ti của các ngươi; vừa nghe trên đầu cất lên bài hát quen thuộc, các tuấn mã ưỡn đều bộ ngực đồng đen cùng một lúc, và vó ngựa chỉ còn hơi lướt qua trên mặt đất, chúng vươn mình thành một đường căng thẳng duy nhất, lao vút qua không khí được cuốn theo một linh cảm thánh thần… Nước Nga, ngươi bay đi đâu?(*)

Thúy Toàn

(Trích trong “Chuyện kể về văn hóa Nga” viết theo tư liệu báo chí cũ)

*Theo bản dịch của Hoàng Thiếu Sơn, NXB Văn Học, Hà Nội 1993 T.2, tr.139-140


CHÚNG TA HIỂU GÌ

về PHƯƠNG TIỆN

của ĐẠO PHẬT

(Tiếp theo và hết)

Tóm lại, GIỚI chỉ là bờ ngăn cho con người đừng chạy theo tội ác. Với người ý thức được thì tự biết cách để xử sự cho đúng. Phật dạy: Sở dĩ Ngài nói Giới là vì người không có trí huệ, không biết thời nghi, không phải với người hiểu biết.

Sau Giới là Định, Huệ, là BÁT CHÁNH ĐẠO, có nghĩa là người tu Phật luôn phải đi trên 8 con đường Chánh. Từ cái suy nghĩ đến lời nói, phương tiện sinh sống đều phải Chân Chánh. Tức là giữ cho THÂN, KHẨU Ý luôn thanh tịnh, và chịu khó Quán Sát, Tư Duy, tìm hiểu những gì Đạo Phật dạy nên làm. Việc Tư Duy để tìm Trí Huệ, tức là sự sáng suốt để phá tan Mê Lầm. Chính Mê Lầm gọi là Vô Minh đã nhiều kiếp làm cho mỗi người chúng ta điên đảo, tạo Nghiệp, rồi xoay vòng để Trả. Cứ như thế mà triền miên trong vòng Luân Hồi. Có Trí Huệ để phá tan vòng Luân Hồi thì sẽ được Giải Thoát.

Con đường tu Phật bàn rộng ra thì đến Thiên Kinh, vạn Quyển, vì người tu hành nào sau khi thấy, biết, đều viết lại theo cách của mình. Nhưng tóm lại: Mục đích của Đạo Phật chỉ là để ĐỘ KHỔ cho con người mà thôi. Hết Khổ gọi là đạt NIẾT BÀN. Tất cả những gì còn lại là để ngăn ngừa cái Ác, để hướng tới nếp sống THIỆN mà chúng ta hay nghe chư Cổ Đức nói là “CHƯ ÁC MẠC TÁC. CHÚNG THIỆN PHỤNG HÀNH”. Do không tạo Ác Nghiệp nên có tái sinh thì cũng về nơi tốt đẹp. Mục đích Đạo Phật chỉ có thế mà thôi. Tây Phương Cực Lạc hay Đông Phương Tịnh Quốc cũng chỉ là Phương Tiện để con người ham thích mà buông bỏ những thứ giả tạm đang tranh dành gây nên cảnh xáo trộn, bất ổn cho cuộc sống. Không phải là cảnh giới ở nơi xa xôi nào đó để mọi người bỏ hết việc trần gian mà vọng về.

Đạo Phật cho rằng, tất cả những điều Xấu hay Tốt đều do một cái TÂM con người làm ra. Vì thế, tu hành theo Đạo Phật là phải nhắm vào cái TÂM mà tu sửa. Bởi nó chính là chủ nhân ông, xúi cái Thân làm những điều ác. Cái Thân vốn dĩ chỉ là nhóm Tứ Đại, vô chủ. Cái Tâm mới là bộ máy điều hành. Khi chưa nhận ra, chưa điều phục được nó thì nó là cái TÂM MÊ LẦM. Vì thế, người tu cần phải tìm cho ra nó để CHUYỂN HÓA hay ĐIỀU PHỤC nó, để nó từ TÂM MÊ biến thành TÂM GIÁC hay còn gọi là từ VỌNG TÂM biến thành CHÂN TÂM. Kinh dạy là PHẢN VỌNG QUY CHÂN. Hình tướng không cần thiết, vì tất cả những điều còn lại, nào là sắc phục, đầu tròn, áo vuông, giữ mấy trăm Giới, Tứ Oai Nghi, Bát Chánh Đạo, 37 Phẩm Trợ Đạo vv… cũng chỉ nhằm hỗ trợ cho công việc Tìm Tâm, Thấy Tâm, Điều phục Vọng Tâm mà thôi.

Người đã hiểu rõ thế nào là TU HÀNH. Biết rằng Tu Phật chính là Tu Tâm, thì ở Chùa hay ở nhà. Có gia đình hay độc thân. Mặc pháp phục hay không cũng không thành vấn đề nữa.

Có người vẫn cho rằng tu hành nhất định không thể thiếu hình tướng. Cũng không thể thiếu những cảnh Chùa trang nghiêm, thanh tịnh để cho bá tánh hướng về. Người tu theo Phật dạy là không được làm ăn, kinh doanh, dính dáng đến việc đời. Đó là họ cứ vin theo hình ảnh Đạo Phật từ lúc ban sơ mới thành lập Tăng Đoàn, trong khi Đạo Phật cần đại chúng hóa, để tất cả mọi người đều có thể tu hành để được Giải Thoát. Như vậy mới đúng như mong mỏi của Đức Thích Ca.

Chúng ta đều biết: Đạo Phật đã được thành lâp từ 3.000 năm rồi. Buổi đầu đương nhiên phải có hình tướng để phân biệt với những nhóm tu khác. Thứ nữa là phải tập trung thành nhóm để nghe Phật giảng, rồi ghi nhớ, tương lai làm nồng cốt, giữ gìn và phát huy Đạo Pháp. Cũng do cần tập trung, nên không được kinh doanh, làm ăn, để có thể toàn tâm, toàn ý mà học hỏi, ghi nhớ, nên cần có sự hỗ trợ, cung dưỡng của những Cư sĩ hay những Phật Tử không có điều kiện để Xuất Gia. Vì vậy mà Đức Thích Ca phải phương tiện nói rằng những ai “cúng dường cho bậc tu hành thì phước báo vô lượng”.

Thời sau, khi sự hiểu biết của người tu đã khá vững, thì Đạo Phật cũng được trở về đúng với thực chất, là phổ cập hóa cho mọi tầng lớp. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì đọc tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời tu hành. Hoặc là chỗ có quyển Kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc Tăng Phường, hoặc nhà Bạch Y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường. Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là Đạo Tràng, các Đức Phật ở đây mà đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Đức Phật ở đây mà Chuyển Pháp Luân. Các Đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn” (Phẩm Như Lai Thần Lực). Tức là không phân biệt nơi chốn, thứ hạng tu hành. Miễn là “Thọ trì, đọc, tụng, giải nói biên chép Kinh và đúng như lời tu hành”. Quan trọng hơn hết là ĐÚNG NHƯ LỜI TU HÀNH, vì có hành trì theo lời Phật dạy thì mới đưa đến kết quả Giải Thoát được.

Đọc Kinh DUY MA CẬT, ta sẽ thấy Ngài là một Trưởng Giả. Vợ con thê thiếp đầy đủ. Buôn bán giao thương rất lớn. Nhưng nói về Trí Huệ thì ngay cả những Đại đệ Tử của Phật cũng phải kính nể, bởi vì Ngài hiểu rõ, nắm vững Mục đích và Phương Tiện của Đạo Phật. Kinh viết: Ngài đã thị hiện bệnh để thuyết pháp cho tất cả những người đến thăm bệnh, làm cho họ đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Có nơi Kinh nói rằng nếu trong Chánh Pháp của Phật mà có phụ nữ vào thì sẽ suy đồi làm cho nhiều người hiểu lầm, cho là phụ nữ không tu được. Nhưng nếu có đọc Kinh, ta sẽ thấy: Mạt Lợi phu nhân là vợ Vua. Thắng Man là nữ nhân, thậm chí con gái của Long Vương mới có 8 tuổi, vẫn tu hành thành tựu được. Bởi Kinh Đại Bát Niết Bàn viết: “Gọi là nữ nhân chính là những người KHÔNG THẤY TÁNH, chớ không phải người mang hình tướng nữ”.

Thời gian đầu thì việc tu hành bắt buộc phải đóng khung trong Chùa, hình tướng phải đầy đủ. Phải giữ Tứ Oai Nghi. Nhưng từ Lục Tổ Huệ Năng, ta đã thấy Ngài được Truyền Y Bát khi chưa Thế Phát, Xuất Gia. Mãi sau 15 năm sống với đám thợ săn, khi bắt đầu ra hoằng dương Chánh Pháp mới được Ấn Tông xuống tóc và thọ Cụ Túc Giới.

Qua đó, chúng ta thấy: Đầu Tròn, Áo Vuông thật ra để nói về cái Hạnh mà người đang mang hình ảnh đó cần thực hiện nơi Thân, nơi Tâm của họ. Chùa mà mỗi người cần xây dựng, là CẢNH THANH TỊNH TRONG TÂM CỦA CHÍNH MỖI NGƯỜI. TƯỢNG PHẬT mà mỗi người cần tạc, không phải là lấy búa, lấy đục, rồi đẽo vô đá, vô cây, hay làm khuôn rồi đổ vàng, đồng cho ra hình tượng, càng to càng tốt để Thờ! Trái lại, mỗi người cần bắt chước theo những Hạnh của Phật, Tổ, để thực hiện nơi chính bản Thân, nơi Tâm của mình. Càng tinh tấn thì càng chóng hoàn thành. Như vậy mới đúng là TẠC TƯỢNG PHẬT. CHÙA có nghĩa là THANH TỊNH ĐỊA. Người biến cái Tâm đầy Phiền Não của mình thành thanh tịnh, thì gọi là CẤT CHÙA NƠI TÂM. Tượng đó, Chùa đó mới không bị thời gian làm cho hao mòn, hư hoại. Đó mới là Chân Phật, Chân Chùa. Còn tạc tượng Phật bằng gỗ, xi măng, đá. Xây Chùa bằng gạch, đá, cát, xi măng hữu vi, dù hoành tráng, đồ sộ cỡ nào thì Kinh dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”.

Tóm lại, sở dĩ Đạo Phật có mặt ở trần gian là vì thấy kiếp người ngắn ngủi, không quá trăm năm mà con người phải gánh chịu quá nhiều nỗi Khổ. Ngoài nỗi Khổ do bệnh hoạn nơi tự thân, còn do ngoại cảnh tác động. Thêm vào đó là thời tiết, nắng, mưa, bão lụt, thiên tai cũng góp phần tấn công làm cho con người phải gồng mình đối phó, không được an ổn. Lại nữa, cảnh sống còn quá nhiều bất trắc. Ông, bà, cha mẹ, người thân, vợ, chồng, con cái, bạn bè không phải lúc nào cũng xuôi thuận, bình an, trên thuận, dưới hòa. Đã vậy, đang sống yên lành thì người thân đột ngột chia lìa. Phải chịu đau khổ, mất mát, ngoài ý muốn. Nỗi đau này chưa dứt thì cái Khổ khác ập đến. Đối phó với những nghịch pháp chưa yên thì cái Già, cái Bệnh xộc tới. Vất vả cả đời, mới gom được chút tiền của, chưa kịp hưởng thụ cuộc sống thì lại phải tức tưởi ra đi.

Đức Thích Ca đã khám phá ra rằng: Con người cả kiếp sống đã phải lao tâm khổ trí vì cái THÂN GIẢ một cách vô ích. Chỉ cần suy nghĩ, tìm tòi cho tận cùng, sẽ thấy hóa ra bấy lâu nay Kẻ mà ta hết mực cưng chiều, tìm đủ cách để cung phụng cho nó lại là một tên GIẢ DANH, KHÔNG PHẢI LÀ TA, KHÔNG THẬT, KHÔNG TỒN TẠI LÂU DÀI. Khi khám phá ra được thì nó, thì khống chế nó để nó không còn lộng hành được nữa. Đó là lúc ta tìm lại được cái MÌNH THẬT hay còn gọi là BỔN THỂ TÂM. Từ đó ta khỏi mất công sức, thì giờ đi phục vụ cho hắn ta nữa, ngược lại, còn bắt hắn phải phục vụ cho ta.

Nhưng không phải nói hết Mê là Ngộ ngay. Để làm được hành trình CHUYỂN MÊ THÀNH NGỘ, Đạo Phật yêu cầu phải giữ một số GIỚI. Mục đích để người tu tạm dừng, thôi chạy theo cái Giả, rồi Quán Sát, Tư Duy để từ từ khám phá ra nó. Trên con đường hướng dẫn, Đức Thích Ca phải đưa ra vô số phương tiện, nào là Quả Vị, nào là Nước Phật, nào là Niết Bàn, Tây Phương Cực Lạc, để kẻ đang ham mê vàng bạc châu báu cõi trần tạm buông bỏ để hy vọng có được nhiều hơn. Quả Vị thì cũng như đường xa, còn rất lâu mới đến, nên Ngài tạm đạt ra một số trạm, khi người tu hoàn thành một số công việc nào đó, để khích lệ cho họ đừng nản lòng. Rốt cuộc lại, khi nào chúng ta BỎ ÁC, Xả bớt Tham, Sân Si đi, không còn tranh giành danh, lợi, để phục vụ cho cái Thân, mọi người sẽ thấy cuộc sống nhẹ nhàng hơn.

Thật vậy. Phải chăng cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè, hàng xóm đôi khi tàn sát với nhau chỉ vì chút của cải, chút đất cát, chút quyền lợi nhỏ nhoi nào đó? Nhưng ngay cả cái Thân chúng ta còn không giữ cho nó sống mãi được, thì chút đất, cát, của cải đó liệu có giữ được mãi không để gây cảnh cốt nhục tương tàn? Núi cũng lở, Biển cũng cạn, con người rồi cũng tàn tạ theo thời gian. Do vậy mà Đạo Phật cho rằng tất cả những gì CÓ TƯỚNG đều là hư vọng, không thật, không bền. Vậy thì ta bám vào đó làm gì để cuộc sống thêm phiền não? Cái Thân là nơi chứa các thứ rác rưởi là Tham, Sân, Si thì cố mà loại nó ra, để được thanh thản, nhẹ nhàng. Khi ta chuyển hóa được một ý nghĩ xấu thành tốt đẹp thì Phật khích lệ, gọi là “Đưa được một Chúng Sinh về Phật Quốc”. Thay vì chứa chất hận thù, ghen ghét, đố kỵ thì chứa lòng Từ, lòng Bi, thì Tâm của ta đã trở thành nơi cho Phật ngự, vì Phật thật ra không phải là một vị Thần Linh nào bên ngoài, chỉ là những tư tưởng được Giải Thoát. Do đó, “Thành Phật” chỉ là thành tựu Con Đường Giải Thoát cho bản thân mà thôi. Không phải thành Thần Linh, mà cũng không có cứu độ được ai khác. Do vậy mà đừng cầu xin Phật phù hộ cho uổng công, nhọc sức, tạo điều kiện cho những lẻ lợi dụng Đạo khai thác.

Tất cả những Danh Xưng, từ các Vị Phật, Bồ Tát, Chúng Sinh, đến Ba Cõi, Sáu Đường, Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, Phật Quốc, Niết Bàn… cũng chỉ để nói về tình trạng Xấu, Tốt, Khởi, Diệt trong Tâm của mỗi người. Còn lại là những Phương Tiện để thực hành cho đạt kết quả. Tam thiên Đại thiên Thế Giới, mà Phật “độ” để Thành Phật chính là THAM, SÂN, SI lúc nào cũng “trùng trùng duyên khởi” của mỗi chúng ta. Chỉ cần hóa giải chúng là cái tâm sẽ được an ổn, thanh tịnh.

Việc THOÁT SNH TỬ của người tu ta có thể hiểu như sau: Người thấy THÂN LÀ MÌNH thì đương nhiên sẽ SỐNG, CHẾT với nó. Người tu Phật được dạy rằng CÁI THÂN là THÂN NGHIỆP CỦA MÌNH, mỗi người chỉ ở cùng với nó cho đến lúc nó hết Nghiệp mà thôi. Việc tu hành là đi tìm cho được cái CHÂN TÂM hay BỔN THỂ TÂM, để từ đó, sống theo sự điều động của CÁI TA THẬT này. Như vậy, lúc SỐNG đã không có chiều theo những đòi hỏi bất chính của Cái Thân, nên gọi là KHÔNG SINH với nó. Vì vậy, khi nó hết Nghiêp mà TỬ thì cũng đâu có TỬ theo nó, gọi là THOÁT SINH TỬ.

Vì vậy, đến thời này, sau gần 3.000 năm giáo hóa của Đạo Phật, nếu người nào chưa biết Tâm là gì? Chưa biết cách thức để Tu Tâm, chỉ khư khư ôm lấy, lập lại theo hình tướng mà Phật và Chư Đại Đệ Tử đã thể hiện khi xưa, chứng tỏ họ chưa hiểu được Phương Tiện của Đạo Phật, thì không thể nói khác hơn: Đó là những người Y NGỮ, Y NHÂN, Y THỨC, Y KINH VỊ LIỄU NGHĨA, bởi chắc chắn họ không thể đạt được mục đích của việc tu hành.

Qua lời Phật dạy, ta hiểu rằng mỗi người đều có thể TỰ TU để TỰ ĐỘ, không thể Độ giùm cho ai khác. Như vậy ta đâu cần phải cúng dường cho ai, nhờ họ tu giùm cho ta để đôi khi thấy lòng thành của mình bị lợi dụng, bởi bậc chân tu thì ẩn dật, hiếm hoi. Kẻ giả danh mượn của Chùa để kiếm sống làm ô uế của Chùa thì xuất hiện càng lúc càng nhiều, làm xấu đi hình ảnh người tu Phật!

Phần những người tu, nếu có đọc kỹ lời Phật dạy để biết rằng con đường tu hành chỉ là Tự Độ. Không thể cứu độ được cho ai. Ngay cả Phật Thích Ca còn không đưa được người khác lên Cõi Phật, vì cõi đó ở nơi Tâm của mỗi người, nói về tình trạng thanh tịnh, tốt đẹp, mà Ngài tạm đặt ra để dẫn dụ con người cải Ác, hành Thiện. Khi hết kiếp thì tùy theo Nhân đã gây tạo mà mỗi người sẽ về cảnh giới tương ưng, mà các vị dám khẳng định với các thí chủ có thân nhân qua đời, làm cho họ tin chắc chắn là chỉ cần vài bài Tụng, vong linh thân nhân của họ sẽ được Chư Phật rước về Tây Phương Cực Lạc, để hưởng dụng những đồng tiền cúng lễ! Đó là tội Vọng Ngữ.

Ngoài ra, nếu thật sự các vị biết rằng “Ông tu, ông đắc, bà tu, bà đắc” Không ai có thể tu giùm cho người khác, hẳn không dám ngang nhiên nhận sự tôn trọng, cúng dường của người khác, mà lúc nào cũng phải tự xét, tự giữ gìn Thân, Khẩu, Ý, tu hành miên mật, để xứng đáng với bộ Pháp Phục mình đang khoác trên người, bởi ta đang đại diện cho hình ảnh của Phật và Chư Tăng ngày xưa, làm cho người trông thấy sinh lòng ngưỡng mộ rồi phát tâm. Có tu hành nghiêm chỉnh thì mới có quyền hưởng dụng - một cách vừa đủ - những phẩm vật thành quả lao động của người khác. Phật dạy: “Thà cắt thịt mình dung để nuôi miệng, không dùng tâm tà thọ của cúng thí. Khó lắm, khó lắm. Cẩn thận, cẩn thận” Bởi nếu là người thật sự tu hành hẳn phải có GIỚI, có HẠNH. Phải rõ Lý Nhân Quả, để không lạm dụng của Thường Trụ, vì không phải chỉ cần khoác lên người hình tướng tu hành mà được miễn trả Quả.

Theo tôi, những người sống thuần thiện là người đã có nhiều kiếp tu hành, bởi vì Đạo Phật hay bất cứ tôn giáo chân chính nào cũng chỉ nhằm giáo hóa cho con người cải Ác, hành Thiện mà thôi. Nếu có thể duy trì nếp sống đạo đức thì không cần phải nghĩ đến việc tu hành theo Đạo Phật làm gì, bởi “chiếc áo không làm nên thầy tu”. Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Lòng bình đẳng đâu cần giữ Giới. Làm việc ngay há đợi Tu Thiền”. Tổ Đạt Ma cũng dạy: “Bao giờ học Tâm thôi. Viên thành tướng chân thật. Chợt rõ bỏ ý Tu”. Giữ cuộc sống an bình, trong gia đình trên thuận, dưới hòa. Ngoài xã hội thì không bon chen, lừa lọc. Không lợi dụng người khác. Sống đúng trách nhiệm của mình. Đó có thể là thành quả bao nhiêu kiếp mà mỗi người đã tự rèn luyện thân, tâm, thì tự nhiên cũng đã đi trên Phật Đạo, chẳng cần phải màu mè hình tướng thêm vào đó, vì hình tướng chẳng liên quan hay giúp ích gì trong việc Tu sửa cái Tâm vậy.

Tâm Nguyện

(Tháng 10-2014)

TỪ LÁY VÀ NHÂN VẬT

Phạm Đan Quế

(Tiếp theo)

III. TỪ LÁY VỚI HÀNH ĐỘNG CỦA NHÂN VẬT.

1. Từ láy là một lớp từ vừa có khả năng miêu tả, vừa có khả năng thể hiện sự đánh giá, nên khi tham gia vào hệ thống ngôn ngữ người kể chuyện, từ láy làm cho lời kể mang màu sắc biểu cảm. Do chứa đựng dấu ấn cảm thụ chủ quan của người nói, từ láy trong câu thơ thường mang màu sắc đánh giá rất rõ, đến nỗi chúng ta khó phân biệt chức năng nào quan trọng hơn giữa miêu tả và đánh giá.

a. Bằng cách sử dụng từ láy, Nguyễn Du đã làm cho sự vật mang màu sắc của cái cá biệt, đồng thời dựng được những bức tranh thiên nhiên sinh động, góp phần đắc lực vào việc thể hiện các trạng thái đời sống nội tâm nhân vật.

Từ láy đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc tả cảnh, tả tình, nó cũng tham gia đắc lực vào việc khắc hoạ hình tượng nhân vật. Và khi ấ y , Nguyễn Du sử dụng từ láy bao giờ cũng chịu sự chi phối của nội dung hình tượng, nên mỗi từ đều được ông dùng đúng lúc, đúng cảnh, đúng người.

Khi xây dựng Kiều với tư cách là hình tượng cảm nghĩ, Nguyễn Du đã dùng nhiều từ láy miêu tả trạng thái tâm lý, đó cũng là do quan niệm nghệ thuật về con người của ông. Qua hệ thống từ láy, Nguyễn Du đã mô tả Thúy Kiều là hiện thân của kiếp người tài hoa bạc mệnh. Người kể chuyện trong Truyện Kiều mang một dáng dấp, một tầm vóc mới, thể hiện ở chỗ người kể chuyện tham gia vào câu chuyện, đánh giá, mách bảo cho bạn đọc về tâm lý, tính cách của từng nhân vật.

Truyện Kiều được viết ra với nỗi đau đớn của kẻ có tài bị cuộc đời xô đẩy, thậm chí bị đày đọa, nên tràn đầy xúc cảm, khi đau đớn xót thương, khi căm phẫn giận dữ. Người kể chuyện ở đây không khách quan đến lạnh lùng như một số tác giả truyện Nôm… Một khía cạnh quan trọng trong nội dung tư tưởng Truyện Kiều là nhận xét và đánh giá hiện thực, thể hiện ở khuynh hướng gia tăng vai trò cá nhân nhà thơ trong tác phẩm. Giáo sư Phan Ngọc đã nêu một nhận xét: “Đối với Nguyễn Du bản thân sự việc không có giá trị. Giá trị nghệ thuật là ở cách đánh giá sự việc”.

Kim Vân Kiều Truyện là một quyển tiểu thuyết chương hồi thiên về miêu tả các sự kiện, thường chỉ có các biến cố tập trung vào các mâu thuẫn, mô tả các chi tiết... Nguyễn Du đã viết lại thành Truyện Kiều với cái nhìn khác hẳn. Ông chỉ kể lại một cách vắn tắt các hành động đủ để người đọc lĩnh hội được tinh thần câu chuyện bởi Truyện Kiều là một quyển tiểu thuyết bằng thơ mà ở đó tác giả xây dựng hình tượng con người cảm nghĩ. Nguyễn Du kể lướt qua sự việc bằng một lối viết đặc biệt để không bỏ qua những gì cần thiết bằng cách dùng một thứ ngôn ngữ phù hợp. Đối với ông, hành động là một phương diện thể hiện tính chất, tâm lý nhân vật đồng thời cũng là một hình thức trực tiếp của đời sống tâm lý nhân vật.

b. Trong lớp từ láy có những từ miêu tả trạng thái hành động mà ta có thể kể với một vài nhân vật:

Với Thúy Kiều là: rụt rè, ngại ngùng, thoăn thoắt, xăm xăm, ngập ngừng, tần ngần... Với Kim Trọng là: xăm xăm, ngao ngán, ngơ ngẩn, thẫn thờ, rầu rĩ... Với Từ Hải là: nghênh ngang, ngơ ngác, trễ tràng, hờ hững, dạn dày, nhơn nhơn, trơ trơ...

Với Thúc Sinh là: miệt mài, lân la, xăm xăm... Với Hoạn Thư là: thong dong, thảnh thơi, ngẩn ngơ (chút tình), thủng thỉnh, tấp tểnh (mừng thầm)...

Với Tú Bà là: mơn man, nằn nì, gạn gùng, nồng nàn...

Lại có những từ láy có chức năng định danh hành động mà ta có thể kể với một vài nhân vật: Với Thúy Kiều là: căn vặn, kể lể, đày đọa, ngổn ngang, bời bời, âm thầm, đăm đăm, thong dong...

Với Kim Trọng là: vội vàng, tìm tòi, ngắm nghía, đeo đuổi, thiu thiu, xiêu xiêu, lả lơi, rụng rời… Rồi tìm tòi, nhắn nhe...

Với Từ Hải là: vẫy vùng, (nổi giận) đùng đùng...

Với Thúc Sinh là: dan díu, căn vặn, vật vã, sụt sùi, thở than, tầm tã, kể lể…

Với Hoạn Thư là: (nổi giận) đùng đùng, thơn thớt (nói cười), kêu ca, đày đọa, cười cười nói nói ngọt ngào...

Với Tú Bà là: lầm rầm (khấn vái), cầm cập, dặn dò...

c. Xin nhắc lại một nhân vật chỉ được Nguyễn Du đề cập đến rất ít chỉ trong một lần trong truyện nhưng cũng có tới 4 từ láy trong 6 dòng thơ miêu tả trạng thái hành động là Bạc Hạnh. Đó là: sắm sanh, dọn dẹp, linh đình, và (quỳ xuống) vội vàng:

2127. Được lời mụ mới ra đi,

Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.

2129. Một nhà dọn dẹp linh đình,

Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.

2131. Bạc sinh quỳ xuống vội vàng,

Quá lời, nguyện hết Thành hoàng Thổ công.

Từ láy sắm sanh đi sau chữ tức thì và từ láy vội vàng cũng đủ cho thấy Bạc Hạnh mừng quýnh khi được tin của Bạc Bà, nó tố cáo cái cẩu thả, dối trá trong hành động của hắn. Rồi 4 động từ liên tiếp trong một câu thơ cũng cho thấy thêm điều đó: quét sân, bàn (Đặt trác), rửa bình hoa, thắp hương để làm lễ thành hôn.

2. Ta hãy thử xét với một vài từ láy, trước hết là cùng xem thử từ xăm xăm đã được Nguyễn Du sử dụng như thế nào. Xăm xăm được dùng 4 lần, một lần với Kim Trọng, một lần với Thúc Sinh và 2 lần với Thúy Kiều. Xăm xăm là từ gợi tả dáng đi nhanh và liền một mạch nhằm thẳng tới nơi đã định (Trong Từ điển Truyện Kiều: Hình dung cái tư thái nhắm một chỗ mà một mạch đi đến). Quả thật, khi Kim Trọng nghĩ đến Kiều là một mạch nhắm tới:

0265. Tình riêng nhớ ít tưởng nhiều,

Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang.

Còn Thúc Sinh nhân lúc Hoạn Thư về vấn an mẹ cũng vội vàng không kém:

1941. Thừa cơ sinh mới lẻn ra,

Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.

Với Thúy Kiều lần đầu nàng băng lối vườn khuya sang gặp Kim Trọng trong câu thơ sau đã gây không ít những ý kiến trái ngược trước phụ từ xăm xăm:

0431. Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

Người ta cho rằng đây là vấn đề về đạo đức và tình yêu. Nhà nghiên cứu tác giả “Truyện Kiều chú giải”, ông Lê Văn Hoè tuy không nói đến từ xăm xăm nhưng giải thích chữ băng là đi tới một cách mau lẹ và bình: Táo bạo đến thế thì thôi! Nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng: Gót chân nàng giờ đây vẫn còn có thể làm cho một số người ngơ ngác.

Ta có thể xét thêm ở đoạn trước bước chân Kiều cũng nhanh nhẹn không kém:

0377. Thì trân thức thức sẵn bày,

Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường.

Thoăn thoắt là từ gợi tả cử động của bước chân nhanh nhẹn, nhịp nhàng và liên tục cho thấy Kiều rất mong nhanh được gặp Kim Trọng. Về câu này, ông Lê Văn Hoè cũng tỏ ý mỉa mai khi viết: Hai chữ thoăn thoắt tả cái vẻ mừng rỡ, nhí nhảnh, nhanh nhảu và liều lĩnh.

Kiều còn một lần nữa có bước chân xăm xăm đến gõ cửa Chiêu Ẩn Am, mong tìm nơi nương thân khi trốn khỏi Quan Âm Các:

2037. Xăm xăm gõ mé cửa ngoài,

Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong.

Cả 4 lần từ láy xăm xăm đều đứng ở đầu câu, 3 lần ở đầu câu bát và một lần ở đầu câu lục cho thấy cả 4 lần bước chân của ba nhân vật của chúng ta đều có phần quyết liệt vội vàng.

3. Và đây là từ vội vàng. Từ, tự bản thân không có chuyện hay, dở mà cái hay hay dở của từ được xác định chủ yếu trên một nền cú pháp nhất định.

Ta hãy xét trường hợp sau khi Kim Trọng đề nghị được nghe đàn và được Kiều chấp nhận “Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng” là cảnh:

0467. Hiên sau treo sẵn cầm trăng,

Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày.

Ở đây từ láy “vội vàng” và cấu trúc ngữ pháp câu thơ cho phép Nguyễn Du lược bỏ việc kể lại chuyện Kim Trọng đi lấy đàn như thế nào. Như vậy với một hiện tượng ngôn từ ít ỏi chỉ qua một từ láy mà câu thơ đưa lại được một lượng tin lớn. Với vị trí đảo của từ láy vội vàng này, tác giả vừa nhấn mạnh được động tác vừa khắc họa được đặc điểm tính cách nhân vật của mình.

Cũng từ láy vội vàng được dùng ở đầu câu bát như trên ta còn thấy Nguyễn Du dùng cho Thúc Sinh trong trận đòn ghen của Hoạn Thư khi Hoạn thét mắng Thúy Kiều:

1863. Sinh càng thảm thiết bồi hồi,

Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.

Thúy Kiều tưởng đã tránh được nạn ở Chiêu Ẩn Am, nhưng lúc bị phát hiện, nàng phải thú thật việc đã lấy trộm chuông vàng khánh bạc ở Quan Âm Các. Nghe Giác Duyên nói có thể lánh sang nhà họ Bạc thì nàng đã:

2085. Những mừng được chốn an thân.

Vội vàng nào kịp tính gần tính xa…

Từ láy vội vàng được sử dụng 17 lần nhưng lần nào cũng được đặt đúng vị trí trong văn cảnh của từng câu, nay chúng tôi xin liệt kê thêm sau đây:

+ Ngoài 3 trường hợp trên vội vàng đứng ở đầu câu bát còn có 2 lần ở cuối câu bát:

2145. Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,

Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.

0883. Khi về bỏ vắng trong nhà,

Khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng.

+ Còn 3 lần nữa đều ở vị trí vần ứng của câu bát:

0867. Lầu mai vừa rúc còi sương,

Mã sinh giục giã vội vàng ra đi.

2771. Đánh liều lên tiếng ngoài tường,

Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.

2297. Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,

Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.

+ Với câu lục là 4 lần ở đầu câu như đã nêu ở mục trước còn 5 lần ở cuối câu như:

0563. Buộc yên quẩy gánh vội vàng,

Mối sầu sẻ nửa, bước đường chia hai.

2131. Bạc sinh quỳ xuống vội vàng,

Quá lời, nguyện hết Thành hoàng Thổ công.

2501. Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,

Hẹn kỳ thúc giáp, quyết đường giải binh.

2637. Thổ quan theo vớt vội vàng,

Thì đà đắm ngọc chìm hương mất rồi.

2951. Sắm sanh xe ngựa vội vàng,

Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.

Như vậy cả 17 từ láy vội vàng trên đều ở đúng vị trí của mình không thay thế được.

(Còn tiếp)


Phụ Bản I

NHÂN 177 NĂM TEM THƯ RA ĐỜI

TEM & SƯU TẬP TEM

NHƯ QUỲNH

Sưu tập là một công việc vừa mang tính nghệ thuật, vừa mang tính khoa học, nó vừa có tác dụng giải trí cho người sưu tập, vừa giúp cho họ có thêm kiến thức và tác phong làm việc tỉ mỉ, khoa học. Có rất nhiều đối tượng để sưu tập: tranh ảnh, sách vở, đá, khoáng vật, hóa thạch, côn trùng, cây cỏ… Trong tất cả các dạng sưu tầm ấy, sưu tập tem là một dạng đơn giản và bổ ích mà em nào cũng làm được.

Vào khoảng 3.000 năm trước công nguyên, ở Trung Quốc đã có hệ thống bưu vụ. Sau đó, người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã thành lập các bưu trạm dọc theo những tuyến đường chính, tại đó người đưa thư có thể dừng lại thay ngựa. Nhưng vào thời cổ đại, bưu vụ chỉ phục vụ cho nhà nước. Còn dân thường muốn gửi thư thì phải thuê người mang đến tận nơi.

Mãi tới đầu thế kỷ 16, hoàng tử Phranxix mới thiết lập hệ thống bưu vụ công cộng đầu tiên ở nước Đức. Nhưng giá cước gửi thư quá đắt, chỉ những kẻ giàu lắm mới sử dụng được.

Năm 1818, vua nước Xacđinia chọn một hệ thống bưu vụ mới. Mỗi tờ giấy viết thư đều phải đóng con dấu có hình vẽ đặc biệt. Mỗi con dấu này phải trả giá khác nhau, phụ thuộc vào khoảng cách giữa nơi gửi và nơi nhận. Hình vẽ là một chú bé thổi tù và, cưỡi trên lưng một con ngựa đang phi. Vì vậy, những con dấu này có tên là “những con ngựa Xacđinia”. Và cũng vào thời kỳ đầu cũa lịch sử bưu điện ấy, người nhận thư phải trả giá cước phí chứ không phải là người gửi trả.

Năm 1837, cách đây vừa chẵn 177 năm, một người Anh tên là Râulen Hin đề xuất một sáng kiến mới. Ông chứng minh rằng có thể đặt ra một giá cước chung vừa phải cho mọi khoảng cách làm cho cước phí nói chung hạ xuống để cho mọi người đều có thể sử dụng mạng lưới bưu điện, mà nhà nước vẫn không bị thất thu. Trong đó, điểm quan trọng nhất mà ông đề xuất là người gửi thư có thể trả bưu phí bằng cách mua một mẩu giấy in sẵn để dán vào phong bì. Ý kiến đó của Hin được chính phủ Anh chấp nhận. Và từ đấy, những con tem đầu tiên ra đời.

Ngay từ năm 1839, ở Anh đã có 50 triệu lá thư được gửi theo cách này.

Công việc sưu tập tem đã được bắt đầu ngay từ sau khi những con tem đầu tiên được phát hành. Đội ngũ những người chơi tem trên thế giới, trong đó có rất nhiều bạn trẻ, lên tới hàng triệu người.

Người chơi tem có thể phân loại tem ra các bộ khác nhau, chia theo từng nước hoặc theo chủ đề (như thực vật, động vật, danh nhân, lịch sử, thể thao, v.v.).

Trước đây người ta in tem bằng rất nhiều cách khác nhau. Ngày nay mỗi mẫu tem thường được in hoặc khắc thành hàng triệu con. Đôi khi có những con tem được in lên lần thứ hai, gọi là in chồng. Đó là trường hợp khi người ta thay đổi giá cước hoặc khi có một chính phủ mới lên thay nhưng vẫn dùng lại con tem đã phát hành trước đó.

Ngoài những hình vẽ in trên mặt giấy, đôi khi còn có loại tem có hình vẽ mờ ở ngay trong giấy. Những hình vẽ này không màu, không thể nhìn thấy được nếu không soi qua ánh sáng. Hình được tạo chìm trong giấy để ngăn ngừa nạn làm tem giả.

Ban đầu người ta in tem lên cả tờ giấy không có các lề châm lỗ, khi muốn dùng phải lấy kéo cắt ra. Làm như thế rất phiền toái. Đến năm 1856, ở nước Anh người ta chế tạo được máy đột lỗ in tem. Nhờ có những hàng lỗ châm kim ngăn cách các con tem, ta chỉ việc dùng tay nhẹ nhàng xé ra dễ dàng. Và như thế, từ đấy rìa tem mới có dạng răng cưa.

Kích thước và hình dạng tem rất đa dạng. Có loại tem hình tam giác, hình chữ nhật, hình vuông, hình tròn, hình bầu dục,… Những con tem in để kỷ niệm một sự kiện đặc biệt thường có hình dạng và kích thước rất độc đáo.

Chơi tem, sưu tập tem tuy rất đơn giản, nhưng cũng phải sắm một số vật dụng tối thiểu. Cần có một chiếc kẹp (panh) để kẹp giữ tem một cách cẩn thận, một cái khay đựng xăng để nghiên cứu hình vẽ mờ, một kính lúp và quan trọng nhất là tập anbom. Mỗi tập anbom cần có bảng kê danh mục tem có trong tập. Trong danh mục này cần nêu tóm tắt những thông tin như: mô tả nội dung con tem, lý do phát hành, giá tem khi mới và giá tem chơi sau khi đã dùng. Những bộ sưu tập tem có giá trị không phải là những con tem mới, nhưng nhất thiết các con tem ấy phải còn nguyên vẹn. Cho dù một con tem quý hiếm đến đâu, nếu bị rách nát, mất góc,… cũng không còn giá trị nữa. Giá trị của một con tem không phụ thuộc vào vẻ đẹp cũng như thời gian phát hành, mà phụ thuộc vào mức độ hiếm có của nó.

Muốn có tem chơi, bạn có thể mua ở các quầy bưu điện hoặc trao đổi với các bạn chơi tem khác ở trong nước cũng như trên thế giới. Hoặc bạn cũng có thể bóc trực tiếp từ những tem dán trên phong bì.

Muốn sử dụng con tem ấy, bạn cần thực hiện theo những thao tác sau:

- Lấy kéo cắt góc phong bì có dán tem.

- Ngâm mẩu phong bì ấy vào một cốc nước cho đến khi tem bị bong ra.

- Dùng kẹp lấy tem ra, đặt áp vào giữa hai tờ giấy thấm và hong khô.

Không nên dán tem trực tiếp vào anbom. Nếu có trong tay loại anbom chuyên dùng cho người chơi tem, bạn chỉ cần lồng tem vào các ngăn giấy bóng. Còn với những tập anbom thường, bạn có thể gắn tem vào lề một mẩu giấy lót có phết keo sẵn. Sau đó bạn dán tờ giấy lót này vào anbom (xem hình). Bằng cách này, khi cần bạn có thể bóc ra mà tem không bị hư hại.

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st


TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

& Văn học hiện đại

Việt Nam

Từ trái sang phải : Xuân Diệu, Thế Lữ, Nhất Linh, Khái Hưng

BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Trong thời kỳ từ nửa sau thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20, những thành phố như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng chẳng hạn, ở trong quá trình hiện đại hóa và cho thấy quang cảnh của một thành phố hiện đại. Dân người ở những thành phố này có lối sống hiện đại, làm nảy sinh phong tục thành thị. Họ đi đến rạp hát để nghe hòa nhạc tây, hoặc đi xem phim. Ở Hà Nội mọc lên những cửa hiệu chuyên tô điểm sắc đẹp cho phụ nữ. Những cô thiếu nữ tân tiến thì đường ngôi rẽ lệch, quần trắng, áo màu, giày cao gót và chơi quần vợt.

Hiện đại hóa lối sống như thế này làm biến đổi ý thức của người dân thành thị.

Về văn học Việt Nam, những tạp chí đóng vai quan trọng cho sự hình thành văn học hiện đại trong thời kỳ đầu thế kỷ 20 là “Đông Dương tạp chí” (1913-1919) do Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) làm chủ bút và tạp chí “Nam Phong” của chủ bút Phạm Quỳnh (1892-1945). Nguyễn Văn Vĩnh dịch nhiều tiểu thuyết hiện đại Pháp để đăng “Đông Dương tạp chí”. Còn Phạm Quỳnh thì ngoài tác phẩm văn học Pháp ra, cũng viết nhiều bài khảo cứu về những lĩnh vực như triết học, lịch sử và chính trị của Pháp. Một trong nhiều khảo cứu về văn học của Phạm Quỳnh có bản Bàn về tiểu thuyết viết vào năm 1921, và bản này đọc dễ hiểu, đầy sức thuyết phục, góp ích để cho người Việt Nam lúc bấy giờ suy nghĩ về cách kết cấu tác phẩm và quan niệm về văn học. Có thể nói luận thuyết này rất quan trọng trong những luận thuyết bàn về văn học lúc bấy giờ.

“Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách ra đời vào năm 1925. Tiểu thuyết Tố Tâm là tác phẩm báo hiệu sự xuất hiện tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ở Việt Nam. Quyển này với chủ đề ý thức về cái tôi và chống lại lễ giáo phong kiến đã mở ra phương hướng mới cho những tiểu thuyết truyền thống Việt Nam như tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu thuyết lịch sử chương hồi vv... Nhưng tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách này chưa thoát khỏi phạm vi phỏng tác tác phẩm văn học Pháp, chưa vững bền về hai mặt lối kết cấu và cách xây dựng nhân vật.

NHÓM TỰ LỰC VĂN ĐOÀN.

Nhà văn NHẤT LINH Nguyễn Tường Tam đứng đầu Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, thành lập năm 1933. Tuyên ngôn và tôn chỉ của nhóm này đăng trên Phong Hóa số 87 (2/3/1934). Phần đầu Tuyên ngôn là như sau:

Tự Lực Văn Đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương.

Tôn chỉ gồm có 10 điều như sau:

Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài, nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích để làm giầu thêm văn sản trong nước.

Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội chú ý làm cho Người và cho Xã hội ngày một hay hơn lên.

Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.

Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách Annam.

Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.

Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quý phái.

Trọng tự do cá nhân.

Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.

Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Annam.

Theo một điều trong chín điều này cũng được, miễn là đừng trái ngược với những điều khác.

Những nhà văn đóng góp công lao lớn nhất cho sự hình thành văn học hiện đại Việt Nam là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, trong đó có thành viên là những nhà văn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, sau có thêm hai nhà văn Xuân Diệu và Trần Tiêu tham gia, và cũng có những cộng tác viên như Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, vv... Riêng về bìa, minh họa, ngoài Đông Sơn ra, cũng có những họa sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Bình Lộc phụ trách.

Ở đây chúng ta xin giới thiệu ba nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng và Thạch Lam để suy nghĩ về những tác phẩm thời kỳ đầu của Nhất Linh, Khái Hưng và về quan niệm văn học của Thạch Lam trong quá trình hình thành văn học hiện đại Việt Nam.

Báo ngôn luận của Tự Lực Văn Đoàn là báo Phong Hóa và báo Ngày Nay. Phong Hóa, số 1 được ấn hành vào ngày 16 tháng 6 năm 1932 do Phạm Hữu Ninh chủ trì. Sau đó, Nhất Linh thay thế Phạm Hữu Ninh, chủ trì từ số 14 (ngày 22/9/1932) của báo này.

1/-Khái Hưng - Trần Khánh Giư (1896-1947).

Trên Phong Hóa Khái Hưng viết cho đăng truyện ngắn đầu tiên, Kong Ko Dai Jin. Trong truyện này có hai nhân vật đi mua sơn, một là người Việt và một khác là người Nhật tên là Độ Bộ Thất Lang xuất hiện. Truyện này kể một chuyện quái lạ xảy ra trong đêm tại nhà hai người ngủ trọ. Đọc truyện này chúng ta mới biết được rằng tác giả Khái Hưng có quan tâm đến văn hóa Nhật Bản thí dụ như Võ sĩ đạo.

Sau truyện này Khái Hưng tiếp tục viết mấy thiên truyện ngắn để đăng Phong Hóa, rồi từ số 20 cho đến số 29 Khái Hưng liên tiếp cho đăng tiểu thuyết Hồn Bướm Mơ Tiên. Chính quyển tiểu thuyết này là tác phẩm đánh dấu đây chính là tác phẩm đầu tay mở ra con đường chính thức đến với văn chương của ông và đồng thời Hồn Bướm Mơ Tiên là tiểu thuyết đầu tiên cho Tự Lực Văn Đoàn.

Trong quyển tiểu thuyết này, Khái Hưng miêu tả hai nhân vật Ngọc và Lan, Ngọc là sinh viên trường Canh nông ở Hà Nội và Lan là chú tiểu tu hành ở một ngôi chùa ở Bắc Ninh. Nhân dịp nghỉ hè, Ngọc đến thăm ngôi chùa này. Lan thật ra là con gái. Hai cha mẹ của Lan đã mất, và theo lời hứa với mẹ, Lan ghé thân vào cửa Phật để tu hành. Đến phần cuối truyện, Ngọc phát hiện chú tiểu Lan là cô gái cải trang thành con trai, và yêu Lan nhưng Lan không thay đổi quyết tâm để tiếp tục tu hành ở ngôi chùa, không chấp nhận tình yêu của Ngọc. Cuối cùng, hai người chia tay nhau, và Ngọc trở về Hà Nội.

Quyển tiểu thuyết này có đặc trưng về lối cấu tạo là chuyện kể ở chùa. Người thanh niên sống ở tục trần, đến thăm ngôi chùa, nơi linh thiêng, và yêu sư cô cải trang thành chú tiểu. Sau khi hai người nói chuyện với nhau về lý tưởng của đời người, hiểu được nhau để rồi chia tay nhau với ý niệm lý tưởng của sự yêu đương, và người thanh niên trở về với cõi đời thường. Quyển tiểu thuyết này kết thúc không sầu thảm. Tác giả miêu tả khéo léo hai nhân vật cố gắng sống một cuộc đời có lý tưởng. Có thể nói tác phẩm này là một tác phẩm rất quan trọng vì nó báo hiệu sự xuất hiện của nhà văn Khái Hưng, và là tác phẩm xứng đáng có tên tuổi trong lịch sử văn học Việt Nam với tư cách là tác phẩm đã đóng vai quan trọng cho sự hình thành văn học hiện đại Việt Nam.

Tiểu thuyết Nửa chừng xuân là tác phẩm tiêu biểu nhất cho nhà văn Khái Hưng.

Trong tác phẩm này Khái Hưng miêu tả lối sống đáng quý của phụ nữ là giữ gìn được cái tôi trong xã hôi phong kiến. Tiểu thuyết này là một tác phẩm có ý nghĩa lớn và giá trị nghệ thuật cao trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam.

Giữa lúc mới, cũ đang tranh luận sôi nổi thì quyển Nửa Chừng Xuân ra đời.

Cô Mai, vai chính trong truyện là người đã hy sinh cho cái xã hội khắt khe nửa cũ, nửa mới này; cô Mai là hình ảnh trăm nghìn cô con gái khác đã suốt đời chịu một vết đau thương vì sự trái ngược của hai nền luân lý: mới, cũ, của hai quan niệm: gia đình và cá nhân.

Thanh niên, nhất là về phái yếu, đương ở vào thời kỳ náo nức ham sống, sống một cách hoàn toàn sung sướng, nếu gặp sự cản trở về đường tình ái, tất nhiên là thất vọng, chán nản. Chán nản rồi quyên sinh. Cảnh ngộ này đã dùng làm luận đề cho biết bao tiểu thuyết.

Cô Mai trong Nửa Chừng Xuân cũng thất vọng, nhưng cô khẳng khái không chịu khuất phục bằng cách quyên sinh, cũng không chịu khuất phục bằng cách trở về với cái cũ – việc mà cô có thể làm được – cô cứ cứng cỏi mà sống yên lặng không than vãn, vui lòng hy sinh hạnh phúc ở đời. Tuy đã vì đời chịu mang một vết thương không bao giờ mất, tuy đã thấy hạnh phúc mình tan tác như cánh hoa tơi bời trước gió, Mai vẫn tỏ ra là một người yêu đời, yêu đời một cách tha thiết.

Vì thế nên cô Mai trong Nửa Chừng Xuân là một người bạn nhẫn nại đời đời an ủi những người cùng một cảnh ngộ như Mai, cùng chịu những nỗi đau thương của mối tình thất vọng. Mai lại vừa là một người bạn cứng cỏi để cấm đoán những người đã chịu đau khổ về cái cũ, đừng vì muốn tránh sự đau khổ, lại hèn nhát trở về với cái cũ đó.

Mai đã nhủ bảo cho người khác biết trọng sự hy sinh, cho rằng đời có hy sinh mới là đời đáng sống, rồi biết lấy cái thú vị chua chát của sự hy sinh để an ủi, dỗ dành mình trong những ngày thất vọng và để khuyến khích mình dẫu sao cũng vui vẻ, mạnh mẽ mà sống.

Thiết nghĩ rằng nguyên do khiến tác giả viết hai quyển tiểu thuyết này là có sự tương quan đến tình huống văn học lúc bấy giờ và vấn đề xã hội phụ nữ.

2/-Thạch Lam - Nguyễn Tường Lân (1910-1942):

Ông là nhà văn được độc giả đặc biệt quan tâm, nhất là đối với phong cách và thế giới tác phẩm của ông.

Trong tập phê bình văn học “Theo giòng” (1941) có một thiên ‘Tiểu thuyết để làm gì?’ Thạch Lam nói về ý nghĩa độc giả đọc tiểu thuyết như sau:

Ấy chính tiểu thuyết sẽ đem sự phong phú dồi dào đến cho tâm hồn chúng ta. Ta sẽ được biết nhiều trạng thái và thay đổi của tâm hồn mà nhà văn diễn tả, nhận xét được những mầu sắc mong manh của tâm lý, chúng ta sẽ tập cảm xúc sâu xa và mãnh liệt, biết rung động hơn, trước những vẻ đẹp của trời đất, trước những hành vi cao quý của người trong truyện. Và khi biết phân tách và suy xét ngay chính tâm hồn của mình: chúng ta sẽ sống đầy đủ hơn.

Và, trong lời tựa cho tập truyện ngắn đầu tay “Gió đầu mùa” (1937), Thạch Lam nói về văn học, văn chương như sau:

…văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn.

Thạch Lam nghĩ tác động của văn học gây ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của con người như thế này. Quan niệm văn học này vừa là của Thạch Lam đồng thời vừa là quan niệm liên quan đến tôn chỉ của Tự LựcVăn Đoàn.

Thạch Lam thể hiện quan niệm về văn học của ông trong phần lớn là truyện ngắn.

Thạch Lam viết tác phẩm theo phong cách khác với hai nhà văn anh ruột Nhất Linh và Hoàng Đạo. Các thiên truyện ngắn có đặc điểm phong cách thiên về cảm giác, mở ra lĩnh vực mới về phong cách viết văn trước đó chưa từng có trong văn học Việt Nam. Dù theo hình thức tiểu thuyết nhưng lối viết văn đó gần với lĩnh vực của lối kể chuyện theo thể thơ hơn là theo thể văn xuôi cốt để kể chuyện. Cảm xúc nảy sinh trong lòng độc giả sau khi đọc tác phẩm của ông không phải thứ tình cảm như sự cảm động mà hơn thế nữa nó là thứ tình cảm rất thơ mộng.

Về nhà văn Thạch Lam, chúng ta đánh giá cao nhất là ở chỗ thông qua các tác phẩm cụ thể ông đã chỉ ra khả năng mới mẻ về lối viết văn bằng tiếng Việt. Trong văn học Việt Nam thời kỳ từ những năm 1930 cho đến đầu những năm 1940, Thạch Lam chọn những đối tượng vô hình như tâm hồn con người, tâm lý con người, rồi dưới ngòi bút của mình ông làm chúng trở thành những hình hài cụ thể khiến cho độc giả cảm nhận được, về điểm này ông đã đạt được những thành quả có giá trị văn chương rất cao, có thể nói rằng chính nhà văn Thạch Lam là nhà văn của tâm hồn.

3/-Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam (1905-1963):

Tiểu thuyết tiêu biểu nhất của nhà văn Nhất Linh là tiểu thuyết Đoạn tuyệt (1935). Trong quyển này tác giả dùng hai nhân vật Dũng và Loan miêu tả sự đối lập, xung đột tư tưởng mới cũ. Dũng và Loan cũng xuất hiện trong tiểu thuyết Đôi bạn (1938). Thêm nữa, nhân vật chính trong truyện ngắn Thế rồi một buổi chiều cũng là Dũng. Hai nhân vật này trùng lặp với nhau trong những truyện này.

Xin lấy hai tác phẩm Thế rồi một buổi chiều và Đoạn tuyệt để xem xét.

Truyện ngắn Thế rồi một buổi chiều, câu chuyện tiến triển ở một ngôi chùa ni cô. Trong truyện này nhân vật Dũng xuất hiện với hình tượng là một thanh niên bị truy đuổi, chạy trốn vào chùa ni cô, và được một ni cô trẻ tuổi xinh đẹp che chở. Qua những cuộc trò chuyện với Dũng, người ni cô nảy sinh tình yêu với Dũng, thấy cảm kích trước cuộc đời dám hành động của Dũng. Chuyện kết thúc với cảnh ni cô cùng Dũng rời bỏ chùa chạy trốn. Trong truyện này Nhất Linh xây dựng nhân vật Dũng với hình tượng một thanh niên vì dấn thân vào cuộc đời hoạt động, cuộc đời sống vì người khác nên bị truy đuổi. Nhân vật này lại xuất hiện trong tiểu thuyết Đoạn tuyệt, tiểu thuyết đầu tiên của Nhất Linh. Và lại, trong tiểu thuyết này Nhất Linh lại xây dựng nữ nhân vật Loan.

Trong Đoạn tuyệt, Dũng và Loan là bạn bè từ thuở nhỏ, và thầm yêu nhau. Dũng vì có tư tưởng mới nên bị gia đình từ bỏ, bỏ nhà ra đi. Cũng như Dũng, Loan là người tân học có cách suy nghĩ mới. Cha mẹ vì món nợ ép gả Loan cho Thân, con trai của một nhà giàu có nhưng giữ lại gia phong cổ hủ phong kiến. Truyện này bắt đầu với khung cảnh như thế này. Nhất Linh miêu tả chủ đề xung đột mới cũ và ‘đoạn tuyệt’ với cái cũ qua hai nhân vật Dũng và Loan, Dũng là người xung đột với cha mẹ, bỏ nhà ra đi, Loan là người về làm dâu nhà nặng nề tư tưởng lễ giáo phong kiến rồi xung đột với gia đình chồng, do vụ giết chồng mà thoát khỏi nhà chồng.

Đoạn tuyệt được kết cấu rất khéo léo làm cho độc giả cảm thấy rất hay. Nhất Linh viết để cho độc giả suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời theo lối mới.

Nhất Linh với chế độ Ngô Đình Diệm

Năm 1958 rời Đà Lạt về Sài Gòn, Nhất Linh xuất bản giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay, số ra mắt đề ngày 17/6/1958: Ông chọn ngày ra báo 17/6 là ngày giỗ của đảng trưởng VN Quốc dân đảng Nguyễn Thái Học, cũng như ông chọn ngày chết 7/7 là ngày chấp chánh của họ Ngô để phản đối chế độ này. Báo phát hành được 11 số tự đình bản (vì bị Bộ Thông tin o ép).

Năm 1960 ông thành lập Mặt Trận Quốc Dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, ông bị chính quyền họ Ngô giam lỏng tại nhà riêng.

Ông bị chính quyền gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Đêm 7 tháng 7, tại nhà riêng, nghe tin sẽ bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc quyên sinh để phản đối chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm.

TÓM TẮT

Hương văn còn mãi với thời gian:

Các thành viên của Tự Lực Văn Đoàn đã sáng tác rất nhiều thơ ca, tiểu thuyết dài, ngắn với cách hành văn cũng như cấu trúc tác phẩm vô cùng mới mẻ, phong phú đã thay đổi bộ mặt của văn học lúc bấy giờ… Ngoài vai trò là nhà văn, nhà thơ, các thành viên của Tự Lực Văn Đoàn còn là những nhà báo. Ngòi bút của họ hài hước và diễu cợt thói xấu trưởng giả, quan lại một cách chua cay và thâm thúy trên hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay - thể hiện tinh thần dân chủ và bình đẳng trong tư tưởng, văn chương, báo chí.

Văn chương của Tự Lực Văn Đoàn đến nay vẫn có “ma lực hấp dẫn” bạn đọc:

Đặc biệt sức hút với những người trẻ. Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình yêu” và được xem là “nhà thơ mới nhất trong tất cả nhà thơ mới”. Cái hay, cái tài tình trong thơ Xuân Diệu là đã lột tả được những rung động đầu đời của con người và “nói hộ được lòng mình”. Chính vì vậy khi bàn về tình yêu hoặc khi cần bày tỏ với ai đó, người ta không cần nói nhiều chỉ cần mượn thơ Xuân Diệu là ai đọc thấy, nghe thấy cũng bổi hổi bồi hồi.

Tinh thần tự học của Tự Lực Văn Đoàn đáng để nhiều bạn trẻ noi theo

Các thành viên Tự Lực Văn Đoàn chỉ duy nhất có Nhất Linh tốt nghiệp cử nhân, còn lại đều học hết lớp 8 – 11. Họ đã tự học tiếng Anh, chữ Hán tự trau dồi bản thân trong quá trình hoạt động trong nghiệp đoàn sáng tác và làm báo. Điển hình là nhà thơ Thế Lữ có thể dịch cả tác phẩm tiếng Anh, dịch kịch Nga, kịch Trung Quốc… Điều này cho thấy việc tự học rất quan trọng và chúng ta hy vọng các bạn sinh viên, thanh niên ngày nay cần ý thức được tầm quan trọng của việc tự học

(Nhà văn Vu Gia)

Tự Lực Văn đoàn đã có ảnh hưởng về đường xã hội và đường văn học.

Về đường xã hội, cái biệt tài trào phúng của phái ấy, cả trong thơ văn và trong các bức hí họa, đã làm rõ cái dở, cái rởm, cái buồn cười, cái giả dối trong các hủ tục, thiên kiến của ta. Tuy nhiên, phái ấy không khỏi có những điều thiên lệch. Có những tục không đáng công kích mà cũng công kích... Về đường văn học, phái ấy đã gây nên cái phong trào “thơ mới” và làm cho thể văn tiểu thuyết được đắc thắng. Phái ấy lại có công trong việc làm cho văn quốc ngữ trở nên sáng sủa, bình giản, khiến cho nhiều người thích đọc. (GS. Dương Quảng Hàm )

“Tự Lực Văn Đoàn là nhóm văn học đặc sắc đa dạng đã có những đóng góp hết sức quan trọng trong quá trình hình thành văn học hiện đại Việt Nam” (Kawaguchi Kenichi - Giáo sư danh dự Đại học Ngoại ngữ Tokyo)

Nhà văn NHẤT LINH tự tử vào ngày 07/7/1963 để chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm, với lời di chúc: “Đời tôi để lại Lịch sử xét xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả…”, chúng ta cùng đốt nén hương thơm để tưởng nhớ đến nhà văn NHẤT LINH và nhóm TỰ LỰC VĂN ĐOÀN lừng danh trong nền văn học Dân tộc Tiên Rồng…

PHẠM VŨ

Tham khảo: Tài liệu trong Sách báo & Internet

VÀI CẢM TƯỞNG SAU KHI THAM DỰ

Năm 1963, tôi bị động viên vào khóa 16 Trường Thủ Đức, và khi ra trường tôi được điều về dạy học ở trường Sinh Ngữ, để trở thành một thành viên của Làng Sinh Ngữ, đồng thời cũng thành một đồng nghiệp của anh Phạm Tất Hanh, người mà vài khóa sau cũng được đưa về trường Sinh Ngữ như tôi. Chính vì lẽ đó mà trong thời gian anh Hanh trở về sinh sống ở quê nhà (hình như là 1 năm 10 tháng) tôi chỉ được gặp anh hai lần trong hai bữa tiệc hàng năm của các cựu Giảng viên trường Sinh Ngữ còn ở lại Việt Nam. Quen biết anh trong 2 bữa tiệc tất niên, nhưng tôi hoàn toàn không biết thêm gì về anh, cho tới ngày anh mất, tôi mới nhận được một số thông tin về anh do anh em trong làng Sinh Ngữ gửi về, và vào lúc đó tôi mới biết là anh đã có một cuộc sống thật đẹp và đáng trân trọng, vì anh đã tận tụy một đời vì tha nhân không màng danh lợi (PSM) – vì anh đã làm được rất nhiều công đức cho Đời, cho Đạo, đã sống rất nhân từ thanh bạch, nhưng lại rất giàu lòng bác ái (NVS) – đồng thời anh cũng đã vừa dạy Anh ngữ, vừa hướng dẫn về sinh hoạt đạo đức lành mạnh cho hàng ngàn trẻ em trong lứa tuổi 13 - 19, và vì anh sống độc thân không vướng bận gia đình nên đã có thể dành toàn thể thời gian cho sự nghiệp giáo dục của mình, không kể việc anh còn có nhiều hoạt động tích cực khác trong nhiều lãnh vực như trong các hiệp hội, các tổ chức từ thiện vv…

Đi dự đám giỗ 100 ngày mất của anh về, được thấy tận mắt sự thương tiếc, quý yêu, của thân nhân và bạn bè, tôi đã thức gần 2 tiếng đồng hồ trong đêm để có một số cảm tưởng như dưới đây:

A. Tôi thấy không hiểu sao tôi và anh Hanh giống nhau quá. Tôi rất thích những người sống an nhiên tự tại, không hể nghĩ tới bon chen, luồn lách, quỵ lụy, chẳng hề có một giây nào lại không sống hiên ngang, đầy nam nhi chí khí, lúc nào cũng được sống như mình muốn, chẳng hề phải chịu đựng bất cứ dạng ảnh hưởng nào trong đời.

B. Tôi rất thích những người, sau khi biết sống cho chính bản thân mình, lại rất biết sống cho tha nhân, mà không thèm tính tới chuyện lợi hại gì hết, vì chỉ những người sống như vậy mới có thề có được sự yêu mến kính trọng “không tính toán” của tha nhân. Với những người giúp đỡ người đồng loại mà không thèm tính toán gì hết thì, trong phần lớn các trường hợp, đồng tiền chẳng là cái gì hết, và những con người đó cũng chẳng bao giờ phải lụy đồng tiền như hằng hà sa số những tên trọc phú ở trên đời!

Tất cả những gì anh Hanh đã cống hiến cho Đời, cho Đạo đã khiến anh đi qua cuộc đời này một cách thật đẹp, để lại sau lưng những thương tiếc chân thành, không giả tạo.

Tôi cũng cảm thấy là anh đã có một quyết định đúng và hay khi trở lại nơi quê cha đất tổ để được sống những ngày cuối đời giữa thân nhân, bạn bè, thực lòng yêu thương mình, và nhất là được gửi nắm xương tàn trên ngay quê hương đất nước mình.

Anh Hanh ạ, tôi tin chắc rằng những điều tốt đẹp anh đã làm được cho Đời, cho Đạo đủ để đảm bảo là anh đã có một “giấy thông hành” to đùng để giờ này anh đang ở ngay dưới chân Chúa!

Nhân đây tôi xin có lời cảm ơn thân nhân anh Hanh như L.M.Thanh, các Sơ Vân và Hà và mọi người khác trong gia đình đã mấy lần đón tiếp anh em làng Sinh Ngữ chúng tôi rất thắm thiết nồng hậu trong những lần thăm viếng.

VŨ ANH TUẤN, Cựu Giảng viên trường SNQĐ

(Hình chân dung bên cạnh tựa đề là hình tác giả bài viết)

ĐỌC SÁCH BÁO

CÓ NĂNG SUẤT

LÊ TÂM

Sách báo như món ăn hàng ngày của người trí thức. Trong tình hình sách báo được xuất bản tới tấp như ngày nay (người ta dùng đến từ bùng nổ thông tin) thì việc đọc sách báo như thế nào để tốn sức ít mà thu lợi ích nhiều là một vấn đề thời sự.

Theo tôi, sách báo cần đọc mỗi ngày, mỗi lúc, được chia thành hai loại: loại giúp ta giải một vấn đề gì đó, chúng ta tạm gọi là loại I, và loại II là loại ta đọc mà chưa biết trước chúng sẽ gợi ý cho ta những gì.

Về sách, cũng cần sắp theo sách đã đọc giở, và sách chưa đọc đến.

Về báo, ta cố gắng giải quyết ngày nào xong ngày nấy. Về tạp chí hàng tuần, hàng tháng, cần đọc xong tất cả trong tuần đầu sau khi nhận được.

Đối với mỗi cuốn sách, trước hết cần biết tên sách, tên họ tác giả (hoặc các tác giả), ảnh bìa nếu có. Tìm cho được năm xuất bản, năm viết sách, xuất bản lần thứ mấy, xem đây là sách dịch hay sách viết, loại công trình hay loại phổ biến khoa học.

Mục lục (nếu có) cho ta tóm tắt nội dung của sách: đọc trên mục lục tên các chương lớn, nếu cần thì đọc thêm tên các mục trong chương.

Lời nói đầu và kết luận của sách là những trang rất quan trọng, ta cố gắng đọc. Nếu tác giả viết tốt thì thường ở mỗi chương mục, những đoạn đầu và đoạn cuối có thể coi như lời nói đầu và kết luận của chương mục đó. Và nếu sách in tốt, thì trong bài viết, những ý tứ quan trọng trong mỗi chương mục thường có thể được in to hơn, rõ hơn (chữ nghiêng hoặc gạch dưới thân chữ). Nếu diễn tả bằng công thức thì công thức quan trọng đều có đánh số hoặc có thể đóng khung.

Bây giờ, sau khi đọc lướt qua như vậy, ta hãy tập trung trí tuệ đọc lướt nhanh (thực sự là liếc qua) các trang của những chương hay mục mà ta cho là ít quan trọng, bổ ích.

Việc này đòi hỏi một sự tập trung trí óc khá căng thẳng. Tay ta cầm cây bút chì để đánh dấu (nếu được phép đánh dấu) những chỗ quan trọng trong các trang, để sau này có dịp cần xem lại.

Như vậy, mỗi cuốn sách cần khoảng một tiếng là đã nắm khá kỹ những ý chính của tác giả. Còn nếu không phải đọc nhanh tất cả các trang mà chỉ một số trang thì cần khoảng 15 – 20 phút. Nhưng xin nhắc lại: đấy là những phút khá căng thẳng, sau đó cần giải lao chút ít.

Đối với một tạp chí hay một tờ báo chỉ cần xem những đầu đề để chọn những bài cần cho ta. Đọc bài cũng như đọc sách, đọc vài câu đầu, vài câu cuối, và nếu bài báo đã được chia ra từng khúc có đầu đề thì ta hãy đọc đầu đề và vài hàng đầu và cuối của khúc đó. Còn nếu bài báo không chia ra thành khúc, thì ta tự chia ra 4 – 5 khúc để đọc những câu vào, câu ra của mỗi khúc.

Mỗi bài báo đọc kiểu như vậy cần khoảng vài phút. Như vậy, tóm lại mỗi cuốn sách cần vài mươi phút, mỗi bài báo cần vài phút.

Năng suất đọc đánh giá bằng kết quả ta thu lượm được và khả năng nhớ kết quả đó sau một thời gian. Nói kết quả là nói đến một sự hiểu biết mới so với trước khi đọc, một khả năng giải quyết mới các thắc mắc trong khoa học – kỹ thuật và đời sống trước đó là chưa có.

Cố nhiên, khi nhận thấy kết quả rất to lớn thì không ai cấm ta đọc đi đọc lại cuốn sách hay bài báo bổ ích đó. Đấy là một chuyện khác.

Cũng khỏi cần nói là muốn có năng suất cao lúc đọc sách báo thì ta phải tự trang bị một trình độ khoa học cơ bản nào đó (được cập nhật), phải thường xuyên theo dõi thời sự, phải luôn luôn trau dồi ngoại ngữ và… phải có một cặp kính (cận hay lão) thật tốt.

ĐỖ THIÊN THƯ st.


Phụ Bản II

CÚNG ĐƯA,

RƯỚC ÔNG TÁO DỊP TẾT

Mọi người cho rằng ông Táo là vua bếp, người coi về việc ăn uống tức là việc sanh sống trong nhà. Có truyền thuyết cho rằng vua bếp gồm hai ông một bà tức là ba vật để ba góc để đặt nồi, chảo… lên đó mà nấu nướng nhưng tôi không biết chuyện nầy.

Ông Táo thờ ở đâu? Khi ông nội tôi còn sống, tôi thấy ngay khoảng vách ngăn, chỗ khoảng trống từ nhà trên đi xuống nhà dưới có một cái trang ở trên cao, ở vách lưng của trang có dán mấy hàng chữ Hán mà ông tôi nói là bài vị thờ ông tổ thầy thuốc và ông Táo. Khi đưa, rước ông Táo thì để vật cúng lên trang mà cúng. Tới nhà người Việt gốc Hoa, họ cúng đưa rước ông Táo ở khuôn bếp. Có nhà lại làm một cái trang ở khu bếp và mỗi tối đốt nhang.

Ông Táo là ai? Ông có nhiệm vụ gì mà mỗi năm phải đưa và rước? Có lẽ người Việt Nam ai cũng cho rằng trong nhà có một vị thần Táo, ông quan sát mọi việc để mỗi năm về chầu Ngọc Hoàng thượng đế mà báo cáo. Ngày nay, không mấy nhà thờ ông Táo ở trên trang giữa nhà. Có thờ là thờ ở bếp. Việc thờ ở bếp là họ bắt chước người Việt gốc Hoa đấy. Vậy việc thờ cúng ông Táo là phong tục của dân tộc nào? Có người nói Việt tộc thuộc nhóm độc thần, chỉ thờ thần mặt trời mà thôi. Nguồn gốc của Việt tộc, nếu tôi nhớ không lầm, học giả Goloubew nói ở vùng đảo nào đó tới định cư ở lục địa Châu Á từ phía nam sông Hoàng Hà trở xuống. Bị người Hoa xâm lấn, họ vừa bị đồng hóa, vừa lùi dần về phương Nam và một nhóm còn lại đó là nước Việt Nam ngày nay. Chứng cớ là nhà người Việt Nam nào ở trước sân cũng có bàn Thiên để thờ Trời (nhưng người Trung Hoa cũng có bàn Thiên). Trong nhà người Việt, ở dưới đất có bàn thờ ông Địa. Tôi cho rằng ông Địa mang dáng dấp của người Việt Nam: Trên đầu quấn khăn, phía sau nhô lên một chút như đầu tóc. Đó là hình dáng chiếc khăn đống của các cụ già Việt Nam. Còn Hoa tộc thuộc giống đa thần của dân du mục phương Bắc. Họ thờ thần sông, thần núi, thần gió, thần mưa, thần lửa… Vậy thờ thần Táo nầy tôi cho là của Trung Hoa. Nhưng Hoa Việt đã bị lẫn lộn vì ta bị Trung Hoa cai trị một ngàn năm.

Nay tôi ghi lại những gì người Việt đang hành xử. Nó có thể là thứ phong tục lai đấy. Sau khi có nghiên cứu rõ về Việt tộc và văn minh Việt tộc thì thức giả sau này viết lại tốt hơn, thể hiện rõ bản sắc của Việt tộc hơn.

Cúng đưa rước ông Táo thì:

- Nhang, đèn (2 cây), nước

- Một bình bông

- Ba dĩa mứt và thèo lèo. Thèo lèo là kẹo đậu phộng, kẹo mè trắng, kẹo mè đen. Nó là những thỏi khối hình chữ nhựt lớn bằng ngón tay, dài độ năm phân. Nhiều hột trứng chim màu trắng…

- Một xấp giấy một mặt đỏ một mặt trắng. Mặt trắng có vẽ hình cò đang bay, ngựa đang cất vó chạy…

- Một xấp giấy tiền vàng bạc.

Khấn vái thì đại để: Hôm nay 23 tháng Chạp, tôi đưa ông Táo về trời để tâu việc trong nhà trong cửa năm qua và cầu Ngọc Hoàng thượng đế cho năm tới thì Phước, Lộc tới còn tai ách thì tiêu tan. Còn rước ông Táo thì kính thỉnh ông Táo về coi sóc việc trong nhà trong cửa.

Để độ hơn nửa cây nhang thì cúng nước, đốt hình cò bay ngựa chạy và đốt giấy tiền vàng bạc là xong.

Hễ cúng thì kiến, ở bàn Thiên và bàn ông Địa cũng để một dĩa mứt, rót nước và đốt nhang, đèn. Có lẽ ở đây không cần cúng nước để báo lễ cúng chấm dứt. Chờ đến tàn cây nhang coi như cúng xong. Đèn thì đốt một lát thì tắt để lâu rủi quên nó cháy lan ra thì phiền.

Việc cúng đưa rước ông Táo có lẽ nên giữ vì nó phổ quát trong toàn dân, nó thể hiện sự chấm dứt năm cũ để sang năm mới một cách tròn trịa cũng hay hay.

Quận Tư, Khánh Hội ngày 04.8.2014

NHỰT THANH

(Phạm Hiếu Nghĩa)

HÁT THƠ

Từ xưa tới nay, người yêu thơ nước ta đã từng có nhiều cách thưởng thức thơ như đọc thơ diễn cảm, ngâm thơ, thơ phổ nhạc và còn hát thơ nữa. Tôi thích và hay hát thơ của tôi nên tôi muốn nói đôi điều về hát thơ. Vậy “hát thơ” với bài hát giống và khác nhau như thế nào?

Một bài thơ giàu cảm xúc, giàu nhạc tính sẽ gợi cho người nhạc sĩ cảm hứng mà sáng tác, phổ nhạc cho bài thơ mình đồng cảm. Để diễn tả được hồn thơ người nhạc sĩ sẽ chọn nhịp điệu phù hợp như 2/4 hay 4/4 vv… Với giai điệu, cường độ, trường độ, thăng giáng… theo quy luật người nhạc sĩ quy định. Khi người ca sĩ hát lên thì người nghe có thể biết đúng, sai so với bản nhạc. Còn người “hát thơ” cũng giống như ca sĩ hát bài thơ nhưng không có “đúng”, “sai” mà chỉ có “hay” hoặc “dở”. “Hát thơ” nặng về cảm xúc, ngẫu hứng, nó tự do hơn bài hát nên cùng một bài thơ người thể hiện theo làn điệu này, người lại thể hiện theo kiểu khác, hoặc có thể “nhái” theo bản nhạc nào đó mình thấy hay, thích hợp mà không sợ vi phạm bản quyền.

Vào khoảng thế kỷ 15 ở nước ta đã xuất hiện lối “hát thơ”. Các bài thơ do nho sĩ sáng tác, thường là thơ truyền thống Việt Nam như: Lục bát, Song thất lục bát, hay thơ làm theo luật vận ca trù… để hát ca trù. Những ai nặng lòng với các loại hình nghệ thuật truyền thống đều nhận thấy ca trù, hát bội, bài chòi vv… dần dần mai một. Lớp trẻ ngày nay ít người hiểu và yêu thích nên vấn đề đặt ra là làm sao để bảo tồn được? Rất mong các nhà quản lý văn hóa và mọi người chung tay góp sức xây dựng bảo tồn.

Tiếp thu và phát triển lối “hát thơ” truyền thống vào thời đại ngày nay như thế nào? Ngày nay mọi sự đều thay đổi nên thơ cũng phải đổi mới theo, ngoài thơ truyền thống còn có thơ tự do… vì thế người “hát thơ” phải bắt kịp hơi thở của thời đại để có những giai điệu phong phú, sinh động hơn. Tôi nghĩ “hát thơ” với ý tưởng mới khác lối truyền thống nên nhiều khi người ta nhầm lẫn giữa “hát thơ” với bài thơ được phổ thành bài hát. “Hát thơ” vì tự do nên nhiều đất diễn cho người hát sáng tạo. Hay nói cách khác, người “hát thơ” là người sáng tạo thứ hai sau “người thơ”, thậm chí còn nâng cao bài thơ lên khiến bài thơ càng hay, càng có giá trị. Tất nhiên nó đơn giản hơn người nhạc sĩ phổ nhạc bài thơ. Nhưng “hát thơ” cũng có yêu cầu của nó mà không phải ai cũng có được. Trước hết bài thơ phải có ý tưởng hay, giàu cảm xúc, nhạc tính và người “hát thơ” cảm nhận đồng cảm, đồng điệu mới lột tả tình cảm hay hồn thơ. Chính vì thế người “hát thơ” bị cảm xúc lôi cuốn mãnh liệt, có khi xuất thần như “lên đồng”, bị chìm vào cảm xúc của bài thơ nên rất dễ xúc động, vui, buồn như người trong cuộc. Không khác nào người diễn viên nhập vai vào nhân vật mà diễn xuất như thật. Nếu người “hát thơ” có giọng hát “Trời phú” thì hiệu quả sẽ cao hơn, đẹp hơn, và đọng lại sâu hơn trong lòng người nghe.

Vậy ai yêu thơ, làm thơ, thích “hát thơ” hãy thử hát lên, dĩ nhiên không nhất thiết phải là nhạc sĩ hay ca sĩ. Bước đầu bạn có thể dựa theo làn điệu nào đó bạn thích, miễn là phù hợp với tình cảm, ý tưởng bài thơ, sau dần dần sẽ sáng tạo ra giai điệu riêng của mình. Khi chìm đắm trong cảm xúc và dạt dào ý tưởng sáng tạo thì tự nhiên giai điệu nó sẽ bật ra. Nếu bạn cảm thấy tâm đắc, lại biết nhạc, thì dùng ngay nhạc cụ nào bạn biết viết ra nốt nhạc, chỉnh nhạc và lời vừa ý rồi viết thành bản nhạc để người khác cùng hát thì càng tốt. Bạn yêu thơ hãy thử, tôi tin chắc bạn sẽ làm được và lúc đó bạn sẽ thấy lý thú hơn nhiều.

Chân thành chúc bạn thành công.

LÊ MINH CHỬ

QUYỀN ĐƯỢC YÊU...

Tổ quốc chẳng của riêng ai

Cũng đâu phải của một vài người thôi

Yêu tổ quốc là quyền của tôi

Vì tổ quốc với tôi là một

Yêu tổ quốc tất nhiên là việc tốt

Quyền được yêu vốn cũng rất tự do

Không phải xin và cũng chẳng thể cho

LÊ MINH CHỬ

Xuân nay

Xuân nay tươi

Và còn tươi mãi mãi

Đời thật đẹp

Ta phải sống hết mình

Còn tồn tại

Thì hãy vui vẻ sống

Lòng tĩnh yên

Như nước sông lặng sóng

Dòng xanh trong

Mới soi bóng con đò

Nhà trống rỗng

Tâm hồn ai bỏ ngỏ

Thơ thẩn chiều

Gió biết trốn vào đâu

Buông bỏ hết

Lòng si, tham, sân, hận

Đời vui tươi

Chẳng vướng bận bi sầu

LÊ MINH CHỬ

TA CỨ LẤT LÂY

Trôi nổi thuyền neo tình dang dở

Nhấp nhô sông nước lỡ phút giây

Vui cùng cây cỏ thường ngày

Rừng hoa đua nở sáo bầy vui ca

Nỗi nhớ tựa phong ba dào dạt

Niềm mong như bão táp xô cây

Tháng năm nén đợi một ngày

Được đem thương nhớ phủ đầy nhớ thương

Nào những lúc tơ vương sáng chói

Đến một ngày sương khói bập bồng

Tựa hồ trong cõi hư không

Tình thương để lỡ sắc hồng bay cao

Lòng nghĩ lại nao nao ấm ức

Chuyện trăm năm xin dứt một câu

Cuộc đời ta muốn sống lâu

Đứt dây lại nối nhiệm mầu trời cho

Người giàu có của kho của để

Kẻ bần hàn đâu dễ gì xin

Việc đời ta cứ đứng nhìn

Trời cao ngó xuống ngược tình khó lên

Ngoài xã hội mông mênh đường rộng

Cứ lần mò không chóng thì chầy

Cuộc đời ta cứ lất lây

Tình thương nỗi nhớ một ngày sẽ vui

LANG NGUYÊN

LỜI SAO TRỜI

Những cánh sao lung linh tụm đầu nhau bối rối
Ở dưới kia trần thế định làm gì
Mà đường hoa trải những ánh li ti
Xòe muôn sắc xanh tím vàng nhí nhảnh
Có phải trời vừa vào đông chớm lạnh
Cho nam thanh nữ tú ấm môi hồng
Cho hẹn hò bằng tiếng hát cao ngân
Vang đâu đó chờ Giáng Sinh sắp đến?
Có phải tháp chuông kia choàng thêm vương miện
Chảy xuống đường những lưỡi sáng lung linh
Mân mê theo tiếng gọi rất ân cần
Lời chuông nguyện, chuông giục người đi lễ.
Có phải chăng sao trời không cần nữa
Khi thị thành lấp lánh những giòng xe
Khi người yêu mắt nở nến đêm khuya
Vừa ấm áp vừa thanh tao đến lạ.
Có phải Noel là mùa rạng rỡ
Không chỉ cho người đeo thập giá khoen tai
Mà cho khắp cùng mọi nẻo không thôi
Ai vun tưới cho bình an nhân loại.


Có phải trời sao hoan ca mãi mãi
Cùng miệng môi tín hữu khắp năm châu
Cùng trái tim ai dâng hết ngọt ngào
Không chỉ cho người mình yêu tha thiết.

Có phải chăng sao là loài mải miết
Rọi trời đêm và rọi sáng tim hồng
Nên sao trời, hay sao nến, ne-on
Luôn luôn mãi cùng thắp niềm hy vọng.
Chị em ta, sao miền cao thiên thượng
Chỉ một niềm ao ước xuống trần gian
Để con người thêm một chút hân hoan
Cùng đèn nến vui vầy thêm hang đá.
Có phải chăng trần nhân cũng nghĩ thế
Mà reo vui những nhạc khúc viền sao
Mà nhìn lên xa thẳm, hát thật cao
Muôn dạ khúc chờ Vua Trời giáng hạ...

LAM TRẦN (07.12.2013)


MƯA THÁNG 10

Em đứng nhìn mưa - mưa miên man
Buốt giá tâm can gió ngút ngàn
Thương chiếc lá buồn trên cỏ lạnh
Hoàng hôn chìm khuất, bóng chiều tan...

Thu về rồi nhỉ phai màu lá
Se lòng mây xám phía trời xa
Anh hỡi tình ta giờ đã muộn
Em phương này mắt ướt nhạt nhòa

Mưa mãi tháng 10 buồn hắt hiu
Âm thầm quạnh vắng nỗi cô liêu
Hồn em thổn thức tình hoang vắng
Hơi thở nghẹn ngào... đâu dấu yêu !

Nhớ mãi một lần em tiễn đưa
Anh về nơi ấy giữa cơn mưa
Bóng anh xa khuất tình rơi rụng
...Ngập kín hồn em nuối tiếc xưa

Từ đó nỗi buồn dấu trong tim
Tháng 10 xa cách nát tơ duyên
Em giữ trong lòng bao kỷ niệm
...Sóng biển xôn xao giữa lặng im...

Phạm Thị Minh-Hưng

MƠ VẠT NẮNG HỒNG

Mượn nhé, ai ơi, vạt nắng hồng,
Hong nồng hơi ấm tháng ngày đông,
Chiều nay bão rớt tình hoang lạnh
Xám ngắt trời mây buổi gió giông.

Gió bão đầy trời, mưa ướt sũng,
Buồn thương, bé bỏng đóa hồng nhung,
Run trong gió bão, lòng hiu quạnh,
Nắng ấm đâu rồi, chỉ ước mong!

Mong chờ vạt nắng ấm bên song
Gió nhẹ mơn man ánh nắng hồng,
Chẳng nhớ nhung chi lời gió lạnh
Quên đi giá buốt hạt mưa giông,

Làm sao giữ mãi tình thơ mộng
Vạt nắng hồng thay ngọn gió đông,
Dệt mối tình xanh thêu gối lụa,
Bên nhau, ước mộng ngát hương nồng...

Phạm Thị Minh-Hưng

NỖI KHÓ KHĂN

Cuộc sống ngày nay rất khó khăn

Bao nhiêu hiểm họa cứ gia tăng

Thuốc sâu tồn tại trên rau cải

Hóa chất nhiễm vào các thức ăn

Địa ách lo sau khôn trốn tránh

Thiên tai biết trước khó can ngăn

Vô thường vật chất càng bày tỏ

Cuộc sống ngày nay rất khó khăn

Thanh Châu

HOA SA MẠC

Bụi hoa sa mạc đượm hương trời

Ngạo nghễ vươn gai giữ thế côi

Lạnh lẽo đêm sương gom nhựa sống

Nồng nàn ngày nắng tạo duyên đời

Từng phen bão cát thân luôn vững

Suốt tiết khô mưa lá chẳng rơi

Sống giữa phong trần xanh tốt cội

Hoang vu hoa nở đẹp trong ngời...

Thanh Châu

CẢM NGHĨ VU VƠ

Đời ảo tưởng

Vầng trăng không có thật

Giấc chiêm bao

Chan chứa nỗi đam mê

Tình yêu là

Sương khói – tiếng giao thề

Đầy viễn ảnh

Con tim hồng khắc khoải

Trời xanh biếc

Mây trôi – dòng suối chảy

Thời gian ơi

Sao cướp mất niềm tin

Ta nguyện cầu

Rất thành khẩn van xin

Lòng sống lại

Vòng tay thơm ý nhớ

Xin Thuợng đế

Tháp ngà thôi đổ vỡ

Cánh lưu ly

Gục chết ở ven đường

Tiếng họa mi

Hòa khúc hát thân thương

Trên khắp nẻo

Thơ ca tràn nắng ấm

NGÀN PHƯƠNG

MỘT CHIỀU THƯƠNG NHỚ

Khung trời tím bồng bềnh mây viễn xứ

Lòng bâng khuâng thầm tiếc quãng ngày xưa

Mình hò hẹn thủy chung bên núi Ngự

Thả thuyền thơ lãng mạn những chiều mưa

*

Lặng lẽ thời gian qua

Màu mắt nhung ngấn lệ

Nhìn nhau vời vợi nét thu ba

Thương mái tóc xanh xanh

Cô nữ sinh Đồng Khánh

*

Cố đô xưa nuối tiếc mộng chưa thành

Nghe hồi chuông Thiên Mụ

Ngân nga đổ thâu canh

Con tim yêu – cảm xúc trong lành

*

Mãi tha thiết tương tư màu tím Huế

Vẫn chờ đợi

Bến sông quê

Lời thề

Hò hẹn

Hoàng hôn rơi dào dạt một niềm thương

NGÀN PHƯƠNG

Ghé thăm trường cũ một chiều mưa,

Nao nao, quay quắt nhớ ngày xưa

Lung linh áo trắng sân trường nắng,

Hồn thắm chao nghiêng tuổi mộng vừa !

Nghịch ngợm nô đùa tuổi ô mai,

Hết giận rồi vui, vai bá vai,

Bước chân chim sẻ đi nhặt nắng,

Long lanh bướm trắng trong mắt nai.

Văng vẳng đâu đây tiếng nói cười,

Mắt ai lấp lánh nắng hè tươi,

Phượng hồng thắm đỏ giòng lưu bút,

Bịn rịn chia tay, nước mắt rơi !

Đây rồi lớp học, chỗ mình ngồi,

Đứng bên cửa sổ thoáng bồi hồi,

Vẫn khung trời cũ, hàng dương thắm.

Hồn đã bao lần... lãng đãng trôi.

Hôm nay chủ nhật, trường vắng tanh,

Bước đi, ta vẫn bước loanh quanh,

Sục sạo ta tìm... ta thuở ấy,

Chỉ nghe mưa khóc, thoáng mong manh !

Mới đó đã qua mấy mươi năm,

Tiếng vọng hư vô... vẫn bặt tăm,

Thày cô bạn cũ giờ đâu cả,

Ngậm ngùi ta nhớ... thuở xa xăm !

NGUYỄN THỊ NGỌC VÂN

MÁ ƠI !

Nghiêng người nhắm mắt ngủ yên

Ra đi thanh thản hữu duyên đất trời

Tám chín tuổi – một cuộc đời

Nguyện ba má phiêu diêu nơi cực lạc

KHÓI NHANG

Khói nhang mờ ảo bay cao

Sao lòng tôi mãi đớn đau u sầu

Đêm đêm nguyện tiếng kinh cầu

Cho người đã khuất nơi đâu thiên đường ?

NGUYỆN CẦU

Nhang thơm hòa huyện bay bay

Vòng tròn nhân ảnh đêm ngày hư vô

Nguyện cầu hai tiếng Nam Mô

Cho người khuất bóng mơ hồ chiêm bao

BUỒN

Giăng giăng con nhện giăng tơ

Sợi buồn sợi nhớ ơ hờ ru ta

Ru buồn ru nhớ ru xa

Đầm đìa nước mắt lòng ta u sầu

TÍM

Hoa tím rưng rưng hoa tím

Một màu hoa tím im lìm tang thương

Chiều tím hoàng hôn mù sương

Tiễn người về cõi thiên đường trên cao

Huỳnh Thiên Kim Bội

CHIẾC XE CỔ

Bảy chục năm qua cỡi xế Thân

Đằng vân, giá vũ, khắp xa gần

Khi vù sang Mỹ, xem Ăn Tết,

Lúc vút qua Sing, nghía Thưởng Xuân

Yên Tử, Đường Tùng, leo phới phới

Chùa Hương, bậc đá, bước lâng lâng

Giờ như xe cổ, lười lăn bánh

Muốn tới thăm ai cũng ngại ngần !

Tâm Nguyện (11/2014)

ĐỢI NÀNG BÂN

Những ngày tháng tư vào Hè nóng nhất

Sàigòn không có rét nàng Bân

Em nhắn tin đêm qua tràn gió bấc

Nên Hà thành lại mặc áo mùa đông

*

Nóng lạnh, nắng mưa là chuyện của trời

Thương nhớ theo mùa - chuyện của lứa đôi

Ngóng đợi nàng Bân mang vào chút lạnh

Để được thấy cần hơi lửa ấm - người ơi !

LÊ NGUYÊN (4.2006)

EM CHO

Em cho tôi nắng vàng mùa thu

Em cho tôi gương soi mặt hồ

Em cho tôi hương lan trong gió

Đôi mắt xanh nhìn cũng bởi em cho

*

Em cho tôi dạt dào sóng vỗ

Ngồi bên sông ta bỗng hóa thuyền

Em cho tôi một vầng trăng tỏ

Nên ngày thường cũng hóa Trung thu

*

Em cho tôi nguồn thơ dâng đầy

Em cho tôi sóng nhạc hồn say

Em cho tôi những chiều xanh lắm

Sắc cầu vồng lấp lánh trong mây

*

Em cho tôi những gì không thấy

Không thể tìm nơi mua bán trên đời

Đừng hỏi vì sao hoa thơm lửa cháy

Sao chẳng hẹn hò ta đã có đôi !

LÊ NGUYÊN

VỀ THĂM QUÊ

Về đi, thăm lại quê hương.

Cánh cò chở nắng chiều nương sau đồi.

Đò chiều chở trái tim tôi

Lênh đênh sóng nước, chơi vơi nỗi sầu.

À ơi tiếng mẹ khơi sâu

Tiếng quê xa, tiếng dãi dầu ngày xưa.

Bây giờ đã trải gió mưa

Chợt nghe lắng đọng câu hò mẹ ru.

Vẳng nghe trong tiếng chim gù,

Tiếng yêu tha thiết mùa thu năm nào,

Trở về cho thỏa khát khao,

Tình quê, tình đất ngọt ngào thấm sâu.

ĐINH XUÂN HẢO


Tôi lớn lên bên dòng sông quê nội

Màu phù sa sánh đặc bước chân thon

Tiếng bình bịch những con tàu trên sóng

Vang vọng hoài vang vọng mãi trong hồn.

Những buổi chiều rong ruổi đi tắm sông

Nước êm êm man mát gió xuôi dòng

Nghe dịu ngọt như nhịp ru, tiếng võng

Tiếng à ơi… nhè nhẹ đến nao lòng.

Tôi vẫn nhớ những buổi trưa nắng nóng

Cùng rủ nhau tắm bè chuối trong ao.

Cây mía ngọt thắm lòng tôi ngọt lịm

Chuối bói rồi, ăn đến độ nôn nao.

Tôi vẫn nhớ những buổi chiều mát dịu

Hai trái dừa cột chặt lại làm phao

Tôi lặn hụp trong lòng ao ngầu đục

Vẫn hồn nhiên, vẫn sung sướng dạt dào.

Ôi quê hương tôi, quê hương tuổi mộng

Quê hương dạt dào tình lúa tình khoai

Dòng sông Hậu mênh mông như ẩn chứa

Bao dấu yêu thầm lặng bấy nhiêu ngày.

ĐINH XUÂN HẢO

Phân vân

Thì cũng mang theo tiếng khóc đầu

Ra đời xương máu cũng như nhau

Trăm nghìn năm trước người đi trước

Cũng giống nghìn sau kẻ đến sau

Nhưng bỗng hoang mang đến sững sờ

Một lần nào đó ngỡ bâng quơ

Trong đêm thăm thẳm nghe chồn dậy

Nỗi nhớ vô cùng nhớ ngẩn ngơ

Như một loài chim một loại rong

Mang trên thân phận dấu phiêu bồng

Từ sơ sinh đã đi tìm kiếm

Nhớ một phương trời một núi sông

Chưa thỏa bao giờ những cuộc vui

Lẫn trong từng rãnh máu trong người

Vẫn nhen nhúm một quê hương cũ

Một điệu tình ca rất ngậm ngùi

Ôi rất lạ lùng ta biết đâu

Miền quê hương đó ở nơi nào

Dấu chân bằn bặt thiên thu trước

Giờ đã nhạt nhòa trong bể dâu

Ta vẫn miệt mài cơn sóng xô

Niềm phân vân chợt đến không ngờ

Nghĩ thương bằng hữu đi ngơ ngác

Có mặt trong đời như cỏ khô.

Thiếu Khanh

(Trong Cơn Thao Thức)

BIỂN ĐẢO VIỆT NAM

Biển đảo thân yêu của chúng ta

Từ Trường Sa đến đảo Hoàng Sa

Cha Ông thuở trước xây nền móng

Con cháu hôm nay giữ vững đà

Biển cả mênh mông sóng dạt dào

Gương người lính đảo thật thanh cao

Ngày đêm canh giữ trời non nước

Súng chắc trong tay mãi tự hào

Anh là lính đảo giữa trùng khơi

Tổ quốc phân công gác biển trời

Nước uống như pha mùi biển mặn

Cơm ăn còn thiếu vị rau tươi

Biển đảo Việt Nam quyết giữ gìn

Dù trong bão tố vẫn trung trinh

Hiên ngang giữa biển trời mây nước

Lính đảo yêu thương trọn nghĩa tình

Đất nước thanh bình rạng núi sông

Toàn dân ghi nhớ mãi trong lòng

Biên cương hải đảo luôn bền vững

Xứng đáng là con cháu Lạc Hồng

Tp.HCM, ngày 31.8.2011

VÕ THỊ TÂN VIỆT

TÂM TÌNH

NGƯỜI LÍNH ĐẢO

Bao người chiến sĩ đảo Trường Sa

Súng chắc trong tay giữ nước nhà

Như cánh chim trời không biết mỏi

Ngại gì bão táp với phong ba

*

Phong ba bão táp vẫn kiên trung

Hải đảo Trường Sa giữa điệp trùng

Biển hát tình ca lời Tổ quốc

Dạt dào tiếng gọi của Quê hương

*

Quê hương tiếng gọi giữa bình minh

Thuở trước Ông Cha đã định hình

Biển đảo Việt Nam không thể đổi

Đêm ngày gìn giữ trọn niềm tin

*

Niềm tin giữ trọn Mẹ hiền ơi!

Con vẫn kiên trung gác biển trời

Tâm nguyện một lòng yêu Tổ quốc

Trường Sa hải đảo quyết không rời

VÕ THỊ TÂN VIỆT


GIÀN KHOAN CHIỀU BÃO

Gió thổi bạc mặt biển,

Vần mây che kín trời,

Xé đàn âu tơi bời,

Đập trạm dầu lảo đảo.

Giàn khoan như rùa lão

Nhô lên từ thẳm sâu,

Phun lửa vào dông bão

Làm đuốc soi dẫn dầu.

Trời biển đang chuyển màu,

Dầu vẫn tuôn ào ạt.

Ngọn lửa dài tiếng hát

Át sóng gầm đuổi nhau…

Giàn khoan số 2 – Mỏ Bạch Hổ, 11.11.1998

VŨ ĐÌNH HUY

THE DRILLING-RIG IN A STORMY EVENING

The blowing wind made the sea surface silvery

Flying clouds covered the whole sky

Scattering the flocks of gulls to a pulp

Smashing the oil station and making it staggering.

The drilling-rig, was like an old turtle

Justing out from the abyss

Belching forth fire into the storm

Serving as a torch guiding the oil trajectory.

The sky and the sun are changing colours

Oil constantly streamed out impetuously

Fire lengthened its song

Drowning out the roaring waves that pursued one another…

Drilling-rig No.2 – Bach Ho (White Tiger) mine, 11.11.1998

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

NGÔI NHÀ VÀ NGỌN CỎ

Gày gò vài sợi cỏ

Bẹp gí dưới tòa nhà

Tầng tầng cao đồ sộ.

Nhà : nhìn rõ từ xa,

Cỏ : gần còn không thấy

Năm, tháng vèo đi qua.

Gió táp và mưa sa,

Nhà đổ tường, nứt móng,

Cỏ xanh rờn hiện ra…

Vũng Tàu, 25.01.1999

VŨ ĐÌNH HUY

THE HOUSE AND THE BLADE OF GRASS

A few thin blades of grass

Flattened out under the house

Imposingly high with so many storeys.

The house : can be seen from afar

The blade of grass : cannot be seen even real close

Years and months passed by like a shot.

High wind and heavy rain

The walls collaped and the foundation cracked

The lushingly green blade of grass appeared…

Vung Tau, 25.01.1999

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

TRƯƠNG CHI & MỴ NƯƠNG

Ngày xưa có anh Trương Chi

Người thì thật xấu hát thì lại hay

Mỵ Nương vốn ở lầu tây

Con quan Thừa tướng đêm ngày cấm cung

Trương Chi sống ở ngoài sông

Thuyền bè ngang dọc đêm đông dãi dầu

Đêm thanh chàng hát một câu

Gió đưa phảng phất tới lầu Mỵ Nương

Mỵ Nương nghe hát thầm thương

Hễ trông thấy mặt anh chàng lại chê

Trương Chi khi trở ra về

Cắm sào đợi nước hát thề một câu

Kiếp này đã dở dang nhau

Đành trông kiếp khác duyên sau lại lành

Mỵ Nương tư lự thất tình

Kém nhan sắc trước kém mình thuở xưa

Kém sắc điểm kém cơm trưa

Đêm ngày kém ngủ thẫn thờ chẳng yên

Thất tình nổi bệnh liên miên

Ông bà Thừa tướng lo điên đêm ngày

Mấy chuyến đi kiếm ông thầy

Thầy lang bắt mạch đoán ngay bệnh tình

Chắc là duyên nợ ba sinh

Tương tư ắt có căn tình gần đây

Bệnh này có muốn khỏi ngay

Cho người xuống bến gọi ngay lái đò

Để chàng sắc thuốc dùm cho

Chàng mà sắc thuốc tựa hồ thuốc tiên

Từ khi anh lái đò lên

Sắc một chén thuốc ở trên cạnh lầu

Ngồi bên chàng hát một câu

Mỵ Nương nghe thấy cất sầu như không

Mười phần bệnh đổ xuống sông

Lấy vàng hai nén đền công ông thầy

Trương Chi lui trở về ngay

Cắm sào cho chặt trẫm mình xuống sông

Xác liền trôi dạt bên sông

Hồn thì lại nhập vào cây bạch đàn *

Tới khi Thừa tướng làm dinh

Cha con mang gỗ si tình về ngay

Đem về để đã lâu ngày

Đi mướn thợ tiện, tiện ngay chén chè

Xong rồi ngồi trước màn the

Cha con đem bộ chén chè uống chơi

Hễ không sử dụng thì thôi

Động mó đến chén thấy người hò khoan

Mỵ Nương đau đớn can tràng

Hạt châu rơi xuống vỡ tan mối tình

Cho hay là thói hữu sinh

Đố ai gỡ được mối mành ra sao

Đây là câu chuyện thanh tao

Làm gương cho khách má đào soi chung.

KHÁNH HÀ

* Có nhiều nguồn khác nhau sau cái chết của Trương Chi:

- Mỵ Nương lại nhớ tiếng hát, hỏi ra mới biết anh dân chài đã chết. Mỵ Nương sai đắp cho chàng một nấm mộ cao. Nhưng lạ thay, khi đào mộ lên, thịt xương Trương Chi đã tan rữa, duy chỉ có trái tim biến thành một khối ngọc sáng long lanh. Mỵ Nương sai người mang khối ngọc đẽo thành một cái ly nước.

- Trương Chi không được yêu lại, đau khổ rồi chết, hồn nhập vào cây gỗ bạch đàn. Thừa Tướng mua gỗ về tiện làm bộ chén trà (Sách Ngữ văn 7, Trang 85)…

Nữ sĩ TUỆ MAI

(1923 - 1982)


Tiểu sử:

Nữ sĩ có tên là Trần Thị Gia Minh. Bà là ái nữ của chí sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Khuê dòng dõi khoa bảng.

Đặt tên con, mẹ bảo rằng Nhật Nguyệt

Chắp thành Minh ánh sáng đẹp cho nhà

Giờ con đó – cõi đêm mờ trùng điệp

Gọi tên mình rồi xấu hổ không thưa.

(Tuệ Mai – Trên nhánh sông mưa 18)

Quê nội của Tuệ Mai là miền non Côi sông Vị. Quê ngoại là Sơn Tây. Nhưng Tuệ Mai lại được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội để rồi duyên nợ khiến cô chọn Sài Gòn làm nơi neo đậu cho sự nghiệp.

Sự nghiệp:

Mẹ mất sớm khi cô lên 9 tuổi, nên Gia Minh đến với thơ rất sớm, cô thuộc nhiều thơ của cha mình nhất là ca dao có nội dung yêu giống nòi, yêu tổ quốc. Năm 12 tuổi cô đã có thơ đăng báo ở Hà Nội nhưng mãi đến năm 1962 mới xuất bản tập thơ đầu tiên với tựa đề Thơ Tuệ Mai.

Bút danh lúc bấy giờ là Kiều Oanh, Kiều Minh, sau năm 1940 bà lấy tên là Trần Thị Tuệ Mai và thường được gọi tắt là Tuệ Mai.

Tuệ Mai thường xuyên cộng tác với các tạp chí Phổ Thông, Bách Khoa, Liên Hoa, Giác Ngộ… thường nói chuyện chủ đề thi ca tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Vào thập niên 60 của thế kỷ XX khách yêu thơ, giới làm văn học, và báo chí tại Sài gòn đã tôn vinh bà bằng cụm từ “Nữ hoàng thơ ca trẻ”. Bà được Giải thưởng Văn chương toàn Quốc năm 1966.

Theo nhà thơ Ninh Giang Thu Cúc: “Thơ Tuệ Mai trong trẻo mượt mà như nắng lụa đầu xuân, khi hồn nhiên như cô bé nũng nịu đòi quà, khi trầm thống như đại ngàn hùng vỹ, khi sâu lắng cho một niềm đau thân phận riêng chung… khi tự hào làm con dân của một đất nước có bốn nghìn năm văn hiến”.

NIỀM TIN DÂN TỘC

Ngày hôm nay thêm chứng minh hùng dũng

Bốn Ngàn Năm Lịch Sử đẹp làm sao !

ngày hôm nay thêm vững tin truyền thống

chúng mình đi… bước thẳng, ngửng đầu cao

*

Trời lại sáng, như vẫn từng lại sáng

Khi bao lần u tối quyết bao vây

mở trang sử, chúng ta cười xán lạn

“Yếu là đây mà Mạnh cũng là đây”.

01.11.1963 (Không bờ bến 12)

“Thơ Tuệ Mai là tiếng kêu thảng thốt của đứa con mất mẹ, là tiếng gọi bầy đàn tha thiết cho người với người xích lại bên nhau, là tiếng thơ từ những lương tri tâm huyết luôn nguyện cầu và bảo vệ cho sự bình yên của từng ngõ từng nhà, thôn xóm, phố phường… là áo ấm cơm no đến với từng em bé đánh giày, bán báo, đến với từng phụ nữ tất tả ngược xuôi…”.

(Nữ sĩ Tuệ Mai Thân thế & Sự nghiệp)

Trong thơ Tuệ Mai luôn có những câu ca dao, những câu hát ru của mẹ qua khúc Tình ca, qua lời Quốc sử…

Con ngủ đi con

Tay này mẹ quạt lời này mẹ ru

Mẹ ru con bài ca dao

“Đêm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên cái áo ở cành hoa sen…”

Mẹ ru con bài ca dao

“Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân”…

…Mẹ ru con bằng lời Quốc sử

“Bà Trưng quê ở Châu Phong”

Mẹ ru con bằng khúc Tình ca

“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…

Tiếng nước tôi mấy ngàn năm ròng rã buồn vui…”

(Như nước trong nguồn 59)

Hay bài “Tiếng hát vào đời”

…Tiếng hát mẹ cha tôi yêu nòi giống

Tiếng hát lịch sử tôi yêu đất đai

Tiếng hát thiên nhiên tôi yêu nhân loại

Tiếng hát trái tim tôi yêu người tình *

(Như nước trong nguồn 17)

Tóm lại chúng ta có thể tìm hiểu kỹ hơn trong 7 tập thơ đã xuất bản:

Thơ Tuệ Mai - 1962

Không bờ bến - 1964

Như nước trong nguồn - 1969

Trên nhánh sông mưa - 1970

Bay nghiêng vòng đời - 1971

Về phía trời xanh - 1973

Suối mây hồng - 1974

Trích dẫn một vài tác phẩm:

Là hội viên của Quỳnh Dao Thi Hội và tiêu chuẩn để gia nhập hội phải là người chuyên sáng tác thơ Đường nhưng trong 7 tập thơ đã xuất bản chỉ có một bài thơ Đường luật “Biết có tròn duyên”:

Duyên thơ lưu luyến biết bao ngày

Dù đẹp hay là chẳng đẹp đây

Óc trắng sôi theo tình đất nước

Tim hồng nhịp với tiết trời mây

Ly cay chua… nhắp hoài chưa cạn

Túi mộng mơ… vung mãi cứ đầy

Bước ngăn đường dài nhưng vẫn bước

Ngày xanh, ý trẻ mộng còn say.

(Không bờ bến - trang 92)

Đặc biệt có 1 bài thơ Tuệ Mai gửi người em gái kế (Lan Hinh) của mình:

Lá thư thân thiết đã về,

Lan ơi, nước mắt chị nhòe thư Lan !

*

Nhớ hồi Em nhỏ Em ngoan

nhớ hồi chị tập nhận đan áo người

chị đan khuya sớm miệt mài

Em theo bên chị đùa vui tối ngày

Em bé bỏng, chị thơ ngây

căn nhà Phố Thụy ấm đầy Tình Thương

*

Rồi theo năm tháng lớn khôn

dòng đời xô đẩy, đôi đường dần xa

rồi Em dời bỏ nước nhà

(trong cơn thảng thốt, ai mà trách Em).

*

Thư mang về hết nỗi niềm

Đọc Em, chị lại thương Em thêm nhiều.

*

Xứ người hứa hẹn bao nhiêu

Lòng Em vẫn nặng một điều Nhớ Quê

Vẫn mong ngóng có ngày về

Sớm hôm nước mắt thường khi lưng tròng

Bên Em: nào con nào chồng

Ăn ngon mặc đẹp… mà lòng chẳng yên.

*

Vì Em có óc có tim

có giòng máu Việt tiếp truyền Mẹ Cha

Chim còn biết nhớ tổ xưa

lá rơi về cội – huống hồ là Em.

*

Quê hương vượt khổ triền miên

Đấu tranh tiếp nối – vươn lên với đời

*

Thêm trang sử mới tuyệt vời

cho ta thấy đẹp : ta người Việt – Nam

nỗi mừng thống nhất giang san

lá hoa cũng trổ muôn ngàn sắc tươi

đất âu yếm đón bước vui đi về

*

Nhưng mình đóng góp được chi ?

Suốt trong cuộc chiến trường kỳ gian lao

Giờ nghe trời đất xôn xao

Tiếng vui thoát động chiêm bao – tỉnh sầu

Hồi sinh, chị thoát niềm đau

(Cánh thơ bay sẽ đẹp bầu trời Thơ ?)

*

Chim rừng bồi đắp tổ xưa

Lá rơi về cội – huống hồ chúng ta.

Trần Thị Gia Minh (1975)

Năm 1982, Bà qua đời vì căn bệnh ung thư quái ác, Nữ sĩ Lan Hinh đã viết cho chị mình những giòng sau:

ĐẰNG ẤY…

Chị về đằng ấy hẳn vui

Vội đi quên cả gọi em theo cùng

Nước non mây sóng trùng trùng

Cảnh nhà mưa nắng, mấy lần bên nhau

*

Chị về đằng ấy là đâu…?

Cánh thơ thế sự bể dâu nghiêng đời

Mở vào bát ngát chị ơi !

Ngẫm duyên chị - Em cũng thời phận em

Chị về chị có nhớ em ?

Xứ người khuya lạnh nỗi em đằng đằng…

Chị ơi ! Bấy nhẽ ngàn năm

LAN HINH (1982)

Thơ phổ nhạc.

Bài thơ “Vu Quy” được Duy Quang phổ nhạc (1974) và July Quang hát rất tuyệt vời. Nhiều người đều lầm tưởng thơ của Duy Quang. Nhưng chính là thơ của Tuệ Mai:


Một lần khép nép

Chào biệt mẹ cha

Phận con là gái

Như hạt mưa sa

*

Một lần e lệ

Bước lên xe hoa

Khép trang nhật ký

Thôi giòng viễn mơ

*

Thôi chăn gối lẻ

Gửi lại giường xưa

Ủ giùm cho nhé

Hương đào ngây thơ

*

Thôi bàn học cũ

Sách vở từng năm

Nhớ người tóc xõa

Ôn bài dưới trăng

*

Gửi khu vườn nhỏ

Ngày tháng nô đùa

Chân chim khuyên nhẩy

Dưới tàng lá thưa.

*

Gửi khu vườn nhỏ

Những dáng thường qua

Dấu chân lưu luyến

Giòng mắt mong chờ

*

Gửi khu vườn nhỏ

Những thoáng say mơ

Của mùa e ấp

Sen ngó đào tơ.

*

Long lanh ngấn lệ

Điểm má xuân thì

Hương trinh rờn rợn

Tà áo vu quy

*

Một lần khép nép

Chào biệt mẹ cha

Một lần e lệ

Bước lên xe hoa

*

Là thôi là tắt

Tiếng hát ngây thơ

Từ lòng sen ngó

Từ nụ đào tơ

*

Gót hài hôn lễ

Đưa bước xa nhà

Theo câu phận gái

Như hạt mưa sa…


(Trích trong Bay nghiêng vòng đời 13)

HÀ MẠNH ĐOÀN

* Trong bài ca sinh hoạt trước 75 câu cuối đổi là:

“Tiếng hát trái tim tôi yêu hòa bình”

TIẾNG MÕ,

PHÈNG LA,

TRỐNG CHẦU

TRONG NÔNG THÔN NGÀY XƯA

1. MÕ THUẬN YÊN

Làng Thuận Yên (Đức Sơn - Mộ Đức - Quảng Ngãi) ba bề tiếp giáp với núi rừng trùng điệp, cảnh Thuận Yên thật là hẻo lánh.

Phía Nam giáp với núi Dàng, cao 800 mét. Phía Bắc giáp một dãy đồi núi sừng sững, phía Tây giáp động lá (một động toàn cây đại thọ, lá phủ um tùm), chỉ còn phía Đông là tiếp giáp với cánh đồng thuộc Vĩnh Đức.

Thuận Yên có địa thế như vậy, song cũng là một vùng đất đai màu mỡ, nên một số dân tộc các vùng lân cận rủ nhau đến lập nghiệp. Họ đem sức người chống chọi với hổ báo, với cảnh hãi hùng, để tranh lấy sự sống.

Năm 1901, dân Thuận Yên đã lên tới 1.000 người. Ở đây, họ kiến trúc nhà ở giống như những cái chòi cao và muốn vào nhà, phải leo lên một cái thang nhiều bậc (làm như vậy để phòng thú dữ). Cánh đồng Thuận Yên hình thuẫn và nhà cửa xây dựng theo chu vi của cánh đồng, làm như vậy cốt lập thành một bờ lũy bảo vệ hoa màu. Các loại thú phá hoại mùa màng, nhất là heo rừng kế đến là voi và dê. Loài thú dữ nhất là con cọp tàu cau. Tính từ ngày 17.6.1897 đến 30.5.1959, số dân làng thiệt mạng do bị cọp ăn và heo rừng húc, cũng như voi chà, lên đến 614 người.

Giữa cánh đồng Thuận Yên, người ta lập miếu oan hồn (1913) để thờ những người chết oan uổng nói trên.

Dân trong làng, nhà nào cũng có một cái mõ gỗ để đuổi thú dữ, họ muốn đuổi thú dữ thì miệng la hét (nộ mầy) tay họ vừa đánh mõ.

Năm 1922, vì số nguòi bị thú dữ giết hại mỗi ngày một tăng lên, nên dân làng mở Đại hội bầu ra một Hội đồng hương sắc gồm 15 người, để nghiên cứu cách chống thú dữ và cầu cứu quan trên tiếp sức. Nhưng dưới cái thời bấy giờ, quan trên thường lệ “sống chết mặc bay”, nên sự cầu xin quan trên tiếp sức không thành, chỉ có dân làng tự lo liệu lấy kế hoạch chống thú dữ. Hội đồng hương sắc sau một tháng nghiên cứu và cho người đi hỏi thăm kinh nghiệm của các vùng cận sơn, họ họp lại đề ra kế hoạch phòng thú dữ, kế hoạch này lấy tên là “Địa võng luân thanh” (dùng mõ gỗ và đồng thanh đuổi thú dữ). Để thực hiện kế hoạch trên được chu đáo, Hội đồng hương sắc bắt buộc mỗi nhà phải có tối thiểu một cái mõ bộng (bằng gỗ) theo kích thước và tiếng kêu đã ấn định và phải la (hô) dõng dạc. Tại Miếu oan hồn dựng lên một đài quan sát, có đèn rọi (đèn dầu lửa) có ống kiếng rọi về một hướng. Bốn góc làng lập bốn vọng gác đế quan sát. Vọng gác này chỉ làm cao 5 mét, như vậy mới thấy rõ loại thú nào xuất hiện mà điểm mõ báo động về Đài quan sát.

Hiệu lệnh báo cáo của Vọng quan sát:

- 3 tiếng mõ, heo rừng xuất hiện ngoài làng

- 5 tiếng mõ điểm nhặt là heo rừng đã vào làng

- 2 tiếng mõ đánh liên hồi

là heo rừng đã vào làng đông lắm

- 1 tiếng mõ, dê rừng xuất hiện ngoài làng

- 9 tiếng mõ là heo rừng đã vào làng

- 1 hồi mõ, lại 3 tiếng là cọp xuất hiện ngoài làng

- Những hồi trống giục liên miên là cọp vào làng

- 4 tiếng mõ và 1 tiếng hú là voi xuất hiện ven làng

- Tiếng hú nhịp nhàng với tiếng mõ là voi đã vào làng

Thú dữ xuất hiện phía nào thì Vọng quan sát gần đó mới đánh mõ. Khi được tin báo từ các Vọng quan sát, Đài quan sát kiểm tra lại nguồn tin, nếu quả thật đúng thì báo cho dân làng áp dụng kế “Địa võng luân thanh”. Thú dữ vào gần vùng nào thì “Địa võng luân thanh” vùng đó áp dụng. Nếu thú dữ ngoan cố không chịu ra khỏi làng, thì toàn thể dân làng áp dụng “Địa võng luân thanh”.

Nếu bạn có dịp đến thăm Thuận Yên và ở lại xem phép “Địa võng luân thanh” của làng này: giữa cảnh núi non hùng vĩ, làng xóm giữa lòng chảo của núi rừng, những tiếng mõ, hàng ngàn tiếng mõ vang lên, cộng vào những tiếng la dõng dạc, đanh thép, tưởng hồ như núi lở, trời rền, dù bạn có cứng bóng vía đến đâu, quả tim bạn ắt cũng phải rung động, hồi hộp, vì cái “Bát quái trận đồ” nhân tạo ấy.

Vì cái oai lực tiềm tàng của mõ Thuận Yên lập nên thế trận “Địa võng luân thanh”, nên từ năm 1923 trở đi, thú dữ như heo rừng, voi, cọp… không còn dám bén mảng đến vùng này.

Cái tác dụng của mõ gỗ Thuận Yên phác họa trong câu phong dao:

Ông mõ lẫm liệt oai phong

Ông kêu, thú dữ tìm đường cút xa

Ai về thăm xứ Thuận Yên

Vang vang tiếng mõ, là kiêng dân làng

2. PHÈNG LA XÓM BẦU

Có dịp về xóm Bầu (Đức Thạnh, Mộ Đức) cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 21km về phía Nam vào một buổi tối tháng 2 âm lịch sẽ được nghe những hồi phèng la nổi lên liên hồi, càng về khuya tiếng phèng la càng inh ỏi. Những hồi phèng la kỳ cục ấy sẽ làm bạn phân vân, lo lắng: Có chuyện gì sẽ xảy ra?

Không đâu, bạn cứ yên tâm. Đó là tiếng phèng la nhắc nhở dân làng sáng ngày dậy sớm (không nên vắng mặt) hãy vác cuốc, xẻng đi vét mương bà Hê

Xóm Bầu là một vùng thôn dã phì nhiêu, nằm giữa những cánh đồng lúa mênh mông. Con mương bà Hê là mạch sống của xóm Bầu, vì nó dẫn nước từ sông Thoa vào tưới những cánh đồng quanh xóm. Hàng năm, đến mùa lụt, đất phù sa tràn đến, làm cho con mương nông (cạn) đi. Do đó, qua giữa mùa Xuân ruộng lúa cần có nước vào, tiếng phèng la nổi lên để thúc giục dân làng đi vét mương bà Hê.

Phèng la là một loại giống như cái chuông, song mặt lại phẳng lì, không có gù lên ở giữa, khi đánh vào thì kêu phèng phèng, chứ không trong và ngân dài như tiếng chuông.

Phèng la là một loại rất thông dụng ở nông thôn Quảng Ngãi. Người ta dùng nó vào việc vét mương, đắp đập, đào lạch. Nhưng phèng la xóm Bầu được truyền tụng trong tục ngữ, bởi vì nó có những điểm đặc biệt hơn những cái phèng la khác, nó có đường kính tới 1 mét, đúc bằng loại đồng đỏ, tiếng phèng phèng của nó hơi ngân ra, cách xa xóm Bầu 3km vẫn nghe và nhận định được tiếng của nó. Lại nữa, điền hộ xóm Bầu sử dụng phèng la rất đúng lúc dân xóm Bầu tuân theo tiếng phèng la và tôn trọng tiếng phèng la như một vị thần vậy.

Phèng la lúc nhặt lúc khoan

Nửa khuyên, nửa giục dân làng vét mương

Dù ai làm lụng gần xa

Nghe phèng la giục, nhắc ta mau về

Ngày vét mương bà Hê, tất cả nông dân trong làng: hàng trăm lưỡi cuốc, xuổng đều vào việc vét mương. Những lúc trời nắng gắt, tiếng phèng la lại nổi lên phụ họa nhịp nhàng với tiếng hò Ba Lý (tiếng hò địa phương)

Ra công này ới nông gia

Nước về lúa tốt, nhà nhà ấm no

Tiếng phèng la xóm Bầu có từ năm 1852. Trải qua bao năm tháng, chiếc phèng la còn đó và càng thâm niên hình dáng nó càng bóng loáng, tiếng phèng phèng càng thanh tao.

Nhưng những người Hộ trưởng (thủ la) đã kế tiếp 5 đời.

Người Hộ trưởng được dân địa phương kính nể như là một người anh cả vậy.

3. TRỐNG CHẦU THI PHỔ

Vào khoảng giữa tiết Thu, khi mà những trận mưa rào bắt đầu đổ và bầu trời đã âm u bởi mây mù thường che phủ, lúc bấy giờ nếu bạn đến Thi Phổ, tất bạn sẽ được nghe những hồi trống giục giòn giã. Tiếng trống đổ liên hồi vang động một góc trời Thi Phổ sẽ làm cho bạn phân vân: Chuyện gì sắp xảy ra?

Xin bạn cứ bình tĩnh, đó là tiếng trống chầu Thi Phổ đương giục giã cổ động nông dân tiếp tay phòng giữ đập.

Trống chầu rất thông dụng khắp nơi. Người ta thường dùng trống chầu vào việc họp làng, nhóm họ, tang, tế, thu thuế, tựu trường, cúng đình…

Ấp Thi Phổ (thuộc Đức Minh, Mộ Đức) cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 29km về phía Nam, có tiếng trống chầu mang nhiều đặc điểm nhất, và khi tiếng trống vang lên, mọi người trong vùng đều nhận ra đây là Trống chầu Thi Phổ.

Người địa phương truyền rằng: trống này căng bằng da ngựa ô (đen), vỏ trống làm bằng một khúc gỗ thiêng, quý lắm. Năm 1871, có một trận lụt lớn, nước lụt màu đen như mực tàu, lụt nhà cửa, gỗ quý từ núi lớn tấp về rất nhiều, song khi nước rút, gỗ lại biến mất, tại nhà Hội ấp Thi Phổ chỉ còn lại một ống gỗ tồng phổng, đường kính 0,86 mét, bề dài 1 mét, vừa đủ căng một cái trống chầu.

Dân địa phương lấy làm lạ và cho rằng vỏ trống của Trời cho. Năm 1872, dân địa phương lập miếu thờ vỏ trống ấy, người ta gọi là miếu thờ Ông Trống. Năm 1785, nhân dịp trong làng có giết một con ngựa ô để tế oan hồn, da ngựa được căng vào vỏ trống, làm thành chiếc trống chầu của Thi Phổ. Khi căng trống xong, dân làng gặp vụ được mùa, ai nấy đều mừng vui, họ cho rằng trống của nhà Trời ban cho nhà nông của làng này. (Khi đánh, tiếng trống ngân dài ra và vọng lại à… ông…). Năm 1876, trống này được dành riêng cho việc nông tang và đánh vào dịp cổ động dân đi đắp đập, giữ đập Thi Phổ.

Đập Thi Phổ là cái cản lớn, ngăn giữa con sông Thoa và nhánh sông con, gọi là sông Hội. nước giữ lại được các con kênh vá các mương dẫn thủy, tưới ngót 10.000 mẫu ruộng, thuộc vùng An Phong, Bàu Súng, Đồng Bắc, Đồng Nam, Đồng Tam Tinh, Bồ Đề, Long Phụng, Năng An. Đập ngăn nước lại, không cho nước chảy vào sông Hội, để các cánh đồng hai bên bờ sông Hội canh tác được, khỏi bị ngập nước. Số ruộng hai bên bờ sông Hội có đến trên 6.000 mẫu.

Vậy việc đắp đập Thi Phổ thành ra hưởng lợi vì những lẽ đó, cho nên nông dân khắp các làng liên hệ coi việc đắp đập như việc nhà. Tiếng trống chầu Thi Phổ rất tốn kém, vì hành năm, sau mùa lụt, đập sẽ bị vỡ thành bình địa. Mùa lụt qua rồi, nông dân lo đắp lại. Hằng chục năm, việc đắp đập cứ đều đều chừng mực như vậy. Công việc đắp đập cần đến hàng ngàn nhân công, hàng ngàn bó rạ, hàng trăm thước khối đất.

Khi mùa Đông gần tàn cũng là ngày khai trương đắp đập, thường thường thời gian đắp đập là một tháng. Đập đắp xong rồi, công tác giữ đập cũng quan trọng không kém. Từ đầu mùa Xuân đến cuối mùa Hạ, công việc bảo vệ ở mức bình thường.

Từ mùa Thu, nhất là khoảng giữa mùa Thu, khi có những trận mưa lũ, nước từ các nguồn đổ về, khiến cho việc giữ đập thật là vất vả. hơn nữa, khoảng giữa mùa Thu là khoảng thời gian lúa mùa tháng 8 đương tươi tốt, sắp thu hoạch. Nếu việc phòng giữ lơ là, đập vỡ rồi sẽ gây ra hậu quả vô cùng nguy hiểm: 6.000 mẫu ruộng đương đơm bông hai bên bờ sông Hội sẽ chìm trong biển nước mênh mông và hoa lợi coi như tan tành, và 10.000 mẫu ruộng thuộc sông Thoa sẽ bị nạn thiếu nước.

Vì vậy, trống chầu Thi Phổ rất rõ ràng, minh bạch:

· 1 hồi trống lại 3 tiếng: chuẩn bị đắp đập

· 1 hồi trống lại 5 tiếng: góp vật liệu (số vật liệu đóng góp do Ban Quản trị ấn định theo diện tích canh tác của mỗi nông gia).

· 1 hồi lại 9 tiếng: khởi công đắp đập

· 2 hồi trống suông: công việc đắp đập hoàn thành

· 2 hồi lại 9 tiếng: phòng vệ đập

· 3 tiếng trống điểm thong thả (ngày 3 lần điểm): việc phòng đập không có gì trở ngại.

· Trống đánh 2 tiếng hơi nhặt lưu ý nông phu trong vùng: đập bị mội, ruỗng (coi chừng nguy hiểm)

· Trống ngũ liên (giục giòn giã 5 tiếng 1 nhịp luân phiên không dứt): đập sắp vỡ, khẩn cấp cầu cứu nông dân tiếp tay. Vì vậy trống giục ngũ liên là tất cả dân làng đổ xô ra phòng vệ đập. Những làng liên hệ tới đập, cũng tiếp sức giữ đập.

Những câu phong dao truyền khẩu, nói lên tác dụng của tiếng trống chầu Thi Phổ:

Dù ai tế lễ nơi đâu

Ngũ liên Thi Phổ mau mau trở về

Âm thanh tiếng mõ, phèng la, trống chầu lùi dần về quá khứ theo thời gian đối với người quê Mộ Đức, Quảng Ngãi.

BÙI ĐẸP (st)

ANH EM

Mấy bữa nay nhà bà Ba kín cửa. Chẳng là cả nhà bả được thằng Kiếp bao trọn gói đi chơi mãi đâu ngoài Hạ Long. Cũng lạ! Nhà bà Ba và nhà ông Hai cãi nhau suốt, cả xóm ai cũng biết, mà chẳng ai dám dính vào vì họ ngán ngẩm hai cái ổ nhiều chuyện đó. Nhà ông Hai thì hách xì xằng, còn nhà bà Ba thì cũng nhơn nhơn không kém, dù nhà bả nghèo xác nghèo xơ. Vậy mà, thằng Kiếp lại rủ được cả nhà bả đi chơi mới là chuyện trời sập. Một phần, vì thằng Kiếp có cái mặt tí ta tí tởn, gặp ai cũng toét cái miệng bá láp ra mà nổ. Nó chưa từng gây gỗ với ai trong nhà bà Ba như mấy thằng anh con chị nó, nên thỉnh thoảng nó cũng qua nhà bả chơi, hát hò inh ỏi, cho dù cái dàn máy của bà Ba cùi ơi là cùi và giọng ca của nó của nó thì tồ tồ còn hơn con gà trống chạy lót tót ngoài sân mỗi khi thấy mụ gà mái nào xuất hiện.

Bữa nay, cả đoàn du lịch đã về tới nhà. Thằng Kiếp còn điệu nghệ thuê taxi đưa bà cô mình và đám con cháu của bả về tận cửa nhà. Ô hay! Cái cổng bằng tole xiêu vẹo của nhà bà Ba biến đâu mất, mà thay vào đó là cái cổng bằng sắt mới tinh, máng vào hai cái cột gạch cũng vừa mới làm xong. Hèn nào, mấy bữa nay, người ta thấy nhà bà Ba tuy cửa đóng, mà có thợ thuyền chi đó vào tráng lại cái sân, rồi dựng cái cổng sơn màu đỏ chót! Bà Ba đưa tay dụi mắt vì chẳng tin nổi cái chuyện lạ lùng kia.

Cả nhà mở cửa để vào trong. Trong nhà thì y xì như cũ. Cái cửa ngạch để vòng ra phía sau cũng vẫn là tấm tôn sóng xiêu vẹo như mọi khi. Tuy vậy, có hai chậu cây lại chìa lìa trong sân nhà bả, ngay cái cổng hông của nhà ông Hai, anh bả.

Đến bây giờ thì bà Ba hiểu rõ mọi ngọn nguồn, từ cái việc đi chơi dị thường nọ, tới chuyện cái sân, cái cổng của nhà bà…

Có gì đâu! Bả là em gái của ông Hai. Ông bà cụ Tơn là thân sinh anh em nhà bả, khi sắp lìa cõi trần đời ô trọc này, đã chia đều cái miếng đất tổ cho 2 người con, trừ ra cái nhà ngói lè tè, bán chẳng ai thèm mua dạo đó thì cho “thêm” cô con gái vì cô chịu khó chăm sóc ông bà già lúc héo hắt cuộc đời. Anh Hai cũng chẳng buồn phiền chi về chuyện đó, vì dù gì cô Ba là em ruột ảnh cơ mà. Với lại, sau này ảnh lấy vợ nhà cũng khá giả nên ảnh lại càng thấy thương em mình khi thằng em rể nghèo rớt mùng tơi!

Vậy là, ông Hai cất cái nhà to đùng. Chẳng biết nhà ổng làm cái gì mà tiền vô quá xá! Kẻ thì nói nhờ bà xã ổng làm chi chi đó có liên quan tới nhà đất, kẻ thì nói do ổng có đứa con khai thác gỗ ở tận bên Lèo… Nhà ông Hai có đủ thứ mà người ta phải thèm. Trong số đó có con cẩu to chừng ba chục ký, mà mấy đứa cháu ruột con cô Ba cứ chép miệng nói, con này mà vô nồi nhậu thì bá phát… làm bà Hai tức cành hông mà không tiện nói ra.

Nhà bà Ba thì cứ xài đỡ cái nhà cụ Tơn để lại. Cái nhà ngói xưa ơi là xưa, được cái ở mát lắm, chẳng cần máy lạnh, máy phun sương gì ráo, một phần vì cửa nẻo trống huơ nên gió tha hồ luồn tới luồn lui. Chỉ sợ trời mưa thì chết lạnh.

Ông Hai trổ cái cửa ngang, chạy qua sân trước nhà em mình, để hai nhà qua lại với nhau cho thêm phần hủ hỉ. Mấy đứa Phong, Lưu, Trọn, Kiếp con ổng với mấy đứa Phiêu, Bạt, Giang, Hồ con cô Ba tối ngày rượt nhau chơi ầm ầm qua cái cửa khẩu đó nhức cả óc. Thậm chí, khi ông Hai giã từ cuộc đời thì cái vuông sân cũ kỹ của nhà bà Ba cũng được làm hậu cần cho cái đám tang của ổng.

Ông Hai đi ngủ với giun thì cũng là lúc bắt đầu cho chuyện dài nhiều tập của 2 nhà. Nhà bà Hai thì tối ngày karaoke nghe muốn rụng tim, nhất là lúc thằng Phong hát là y như bà Ba phải lấy bông gòn nút cái lỗ nhĩ lại. Thằng Phiêu cũng chẳng kém cạnh gì, nó làm nghề sửa xe. Có khi giữa trưa người ta đang ngáy chút đỉnh thì nó mang xe ra ỉn ỉn, pin pin, inh ỏi. Dĩ nhiên, nó còn vác xe ra cái hẻm trước nhà mà phóng như ma đuổi. Có bữa, nó nhè ngay con Phốc nhà bác nó mà lủi. Con chó ăng ẳng cả xóm! Rồi cái miệng bà Hai cũng lẳng nhẳng không kém. Vậy là cãi nhau chả ra cái sự gì! Vậy là cái sự karaoke và sự sửa xe đã trở thành vấn đề chẳng làm sao mà hiểu nổi cho cả hai bên.

Từ đó, mỗi sáng con Phốc có bậy như hồi nào tới giờ ở sân nhà bà Ba là y như bà tru tréo như lợn cắt tiết. Hay đám gà chiêm chiếp của thằng Bạt em thằng Phiêu, con bà Ba mà có lỡ chạy qua nhà bà Hai là y như bị ăn chổi, dép hoặc bất cứ thứ gì có thể ném được ở trong tầm tay. Đám gà chạy qua đó chỉ để… chơi thôi, vì làm gì có thóc mà mổ, có giun mà xơi trong cái sân gạch trơn như xà bông vậy! Nghĩ cũng điên: Có bữa, con Lưu nhà bà Hai cháu bà Ba - chị họ của lũ Trọn Kiếp Phong Lưu hay Lưu Trọn Kiếp Phong cũng được - vớ ngay cây búa thằng Trọn đang để trước mặt mà ném con gà mái to ụ, “chẳng may” búa bay không có sự hướng dẫn của tia la de bèn “bủm” một phát vào cái hồ cá lung linh của thằng anh nó vỡ tan, cá làm mồi cho con gà, kiếng thì bể tè le. Làm anh em nó nội bộ chửi nhau ra trò, nhưng chửi nhấm nhẳn thôi, kẻo “người ta” nghe thấy! Bọn Hồ Bạt Phiêu Giang thì rúc rich cười… thú vị! Mà cười cũng bé thôi! Vì cười nín “đã” hơn các bác ạ!

Thế là, để bảo vệ chủ quyền của mình, một sáng, bà Hai bít thêm cái cửa lưới bên trong cái cửa thông 2 nhà, để gà khỏi bay sang. Đêm hôm đó, bà Ba sai con Giang đóng kín cái cửa khẩu đó lại, thằng Hồ “chơi” luôn mấy cái đinh để bế quan tỏa cảng, để chó nhà mày khỏi có chỗ mà…, thằng Bạt thì khệ nệ khiêng hai cái thùng rác nhìn phát ớn, chặn 2 bên cửa, để lỡ phe bên kia có xô cửa ra thì ít nhiều cũng biết rõ thái độ phe ta…

Ấy, rồi đã đến đám giỗ ông Hai. Cực chẳng đã, bà Hai cũng phải thân hành đi cổng chính, cái cổng ve chai của nhà bà Ba em dâu bả mà vô mời cô chú qua “dùng bữa cơm đạm bạc”. Ông Sặc xì ke, chồng cô Ba lầm lì là vậy mà cũng cất cái giọng nhựa đường ra nói với chị dâu vợ:

- Úy trời! vậy mà ảnh đã một năm hả chị! Dạ được, tụi em sẽ qua!

- Cho mấy đứa qua nữa nhé cô Ba. Cô Ba đa đỏn í quên đon đả:

- Phải qua chớ chị. Con cháu mà!

Vậy là, cả nhà cô em kéo đại quân qua nhà bà chị. Bà Ba ra lịnh quẳng hai cái thùng rác ra đường. Thằng Phiêu thì nhổ mấy cái đinh để mở lại cánh cửa giao thương quốc tế. Mà nhớ bỏ đinh vô thùng rác nha mậy, kẻo mấy đứa chạy qua đây chơi nó dẵm phải. Trời! Nghe bả nói mà muốn rớt nước mắt cho mối liên hệ vừa hàng xóm, vừa chị em tối lửa tắt đèn. Môi mà hở thì răng ắt lạnh. Thằng út nhà bả lầm bầm như thế.

Cũng chẳng lấy gì làm lạ khi bà Ba và đại quân đi cửa hậu mà qua nhà bà chị, đã thấy cái cửa lưới đã được tháo ra không còn dấu vết. Hai bà hỉ hả thi nhau nói. Bù lại nhiều tháng ngày nghiến ngẩm làm mòn cả răng nhai trầu. Ấy vậy, mới biết rằng đôi khi trong cuộc đời ô trọc này, đi cửa hậu lại vô cùng là hữu nghị nhé!

…Bây giờ bà Ba mới biết cái vụ đi chơi mà thằng Kiếp rủ rê nhà bà đi chính là kế điệu hổ ly sơn của bà chị dâu. Chẳng là sau cái ngày tái bang giao, bà Hai có ý kiến rằng, thay vì cứ phải xách cái thùng rác qua sân nhà em mình để đi nhờ ra cổng mà đổ, hay chạy “đỡ” cái xe máy qua cái sân cũ kỹ ấy mà về cửa hậu, khỏi mất công mở cái cổng nhà bà (chắc là sợ… trầy cổng); Thì bà năn nỉ cô em chồng bán bớt lại cho ít đất sát tường nhà bà để bà làm cái lối đi riêng cho tiện. Bà Ba ù ù cạc cạc chưa biết quyết định sao. Chồng bà - cái thứ xì ke - xúi bán kiếm chút tiền còm. Con con bà, vì sợ mẹ bán đất, mai kia mốt nọ tụi nó lấy vợ lấy chồng muốn cơi nới cái nhà thì lấy đất đâu mà nới với chẳng cơi. Có lẽ vậy mà bà chị mình mới cho cả nhà mình đi phép để bả ở nhà làm đẹp chút đỉnh hòng lấy lòng.

Bà Ba nhức cái đầu về vụ này lắm. Chồng bà - một thằng cha ăn hại - thì có bao giờ quan tâm tới gia đình. Lão chỉ biết chĩa tiền của bả và mấy đứa con để có cái mà lụi vào cơ thể giẻ rách của mình. Bà nghĩ mà lòng buồn như đưa đám. Nhìn lên bàn thờ, thấy hình cha mẹ mà bà đau lòng. Hai cụ ngồi đó nhìn xuống cái đám con cháu bầy hầy, có lẽ các cụ cũng chẳng ngậm cười nơi suối vàng đâu! Còn anh bà! Bà còn đâu người anh biết thương yêu em mình nữa. Cái nhà ấy, bây giờ họ chỉ lo cho họ! Mà chính giữa họ cũng lục đục hoài về cái chuyện tiền của. Bà Hai còn đó mà con bà cũng cứ nhắc nhở mẹ hoài về chuyện làm di chúc. Đứa nào cũng muốn dành phần hơn…

Nhà bà nào có khác gì. Đến ăn chúng còn không thèm ngồi chung mâm, nói chi việc nhà. Tới giờ cơm, mạnh đứa nào đứa nấy ăn. Ăn sau mất phần ráng chịu! Mỗi đứa ôm cái cột nhà, cứ như lũ chó gằm ghè nhau cục xương…

Bởi vậy, bà oải về cái đề nghị của bà chị lắm. Bán cho bả thì chắc gì bả đã sòng phẳng! Ai chớ bà Hai thì cả xóm biết! Có điều người ta không nói ra mà thôi! Không chừng, cắt cho bả miếng này xong, bả lại đòi miếng nữa thì mệt. Ấy! chỉ mới làm cho mình cái cổng, tráng cái sân lèo bèo xi măng, mà bả đã ca cẩm với con mụ Toẹt - thông gia với bả - rằng thì là bà em chồng nhờ làm… thiếu đó chớ! Mẹ cha ơi! Ai mà nhờ cậy bả hồi nào, mà hóa ra còn mang tiếng là thiếu nợ.

Nghĩ tới đó, bà Ba mớt giật mình về cái sự thâm độc của con người. Biết tìm đâu ra được người đáng tin bây giờ. Mà bà cũng chẳng nhỏ to được với ai mà biện minh cho cái tấm lòng “trong trắng” của bà. Vì có ai tin nổi bà đâu. Đám con bà cũng vậy. Nghèo chớ ai đụng tới là có ngày ôm mặt máu chạy dài. Bà nhận ra, dù gì thì bà chị bà còn có bạn bè hơn. Vì có tiền cho người ta vay, dù là vay cắt cổ, ai dám nói xấu? Vì nhà cửa hoành tráng hơn thì nom cũng dễ tin hơn, dù chỉ vì cái túi tiền. Chớ người ta biết tỏng tòng tong trong lồng ngực của cả hai cái nhà anh em ruột thịt đó làm gì có trái tim!

Vậy nên, mặc sức hai bà và cái đám lâu la, tha hồ mà bêu xấu nhau; tha hồ mà mua chuộc hàng xóm dù mỗi lần họ khua môi múa mỏ, mọi người đầu quay lưng lại rồi lén nhìn nhau cười mỉm. Rõ đểu!

Ức quá, bọn Trọn Phong Lưu Kiếp hè nhau phá đổ cái cổng mới làm. Tụi nó cũng băm nát cái sân mới tráng xi măng. Cái cửa ngang nối hai nhà cũng được mẹ con Lưu Phong Kiếp Trọn đóng kín. Hai chậu cây thì ném vào sân nhà Bà Hai, để khỏi mang tiếng ăn cướp. Bên kia, Phiêu Giang Hồ Bạt, len lén từng đêm, đứng trên ban công nhà mình mà chĩa… vòi sang cái sân ngổn ngang xà bần nhà bà Ba mà… tè. Có khi bị bắt quả tang, chúng cũng cứ ông ổng, già mồm là, làm người ai lại làm thế…

Trên bàn thờ, dường như ông bà cụ Tơn đang khóc cho cái đám con cháu mồm loa mép giải kia. Đôi mắt trong di ảnh của ông Hai hôm nay như người sắp chết. Lão Sặc chồng bà Ba thì đang gục mặt xuống cái bàn con, có lẽ lão đang phê. Trước mặt lão là tô cơm vừa được con mèo xơi sạch. Lão cần gì ngoài chút lơ mơ trên đời?

LAM TRẦN (07.10.2014)

TỔ TIÊN LƯU LẠI 27 BÍ QUYẾT

HỮU ÍCH CHO SỨC KHỎE

Bạn có biết tổ tiên chúng ta đời xưa lưu lại bảo bối dưỡng sinh gì không?

1. Ăn no không gội đầu, đói không tắm. Rửa mặt nước lạnh, vừa đẹp vừa khỏe. Mồ hôi chưa khô, đừng tắm nước lạnh. Đánh răng nước ấm, chống ê chắc răng.

2. Ăn gạo có cám, thức ăn có chất xơ. Nam không thể thiếu rau hẹ, nữ không thể thiếu ngó sen. Củ cải trắng, sống không tốt nhưng chín thì bổ. Ăn không quá no, no không nên nằm.

3. Dưỡng sinh là động, dưỡng tâm là tĩnh. Tâm không thanh tịnh, ưu tư vọng tưởng dễ nảy sinh. Tâm thần an bình, bệnh sao đến được. Nhắm mắt dưỡng thần, tĩnh tâm ích trí.

4. Dược bổ thực bổ, đừng quên tâm bổ. Coi tiền như cỏ, coi thân như bảo. Khói hun cháy lửa, tốt nhất không ăn. Chiên dầu ngâm ướp, ít ăn thì tốt.

5. Cá thối tôm rữa, lấy mạng oan gia. Ăn mặc giữ ấm, nhất thân là xuân. Lạnh chớ chạm răng, nóng chớ chạm môi. Đồ chín mới ăn, nước chín mới uống.

6. Ăn nhiều rau quả, ít ăn đồ thịt. Ăn uống chừng mực, ngủ dậy đúng giờ. Đầu nên để lạnh, chân nên giữ ấm. Vui chơi biết đủ, không cầu an dật.

7. Dưỡng sinh là cần cù, dưỡng tâm là tĩnh tại.

8. Người đến tuổi già, thì phải rèn luyện, đi bộ chạy chậm, luyện công múa kiếm; đừng sợ giá lạnh, quét sạch sân nhà, hội họa thêm vui, tấm lòng rộng mở.

9. Nghe tiếng gà gáy, đừng cố nằm thêm, trồng hoa nuôi chim, đọc sách ngâm thơ; chơi cờ hát kịch, không ham phòng the, việc tư không nhớ, không chiếm lợi riêng.

10. Ẩm thực không tham, bữa tối ăn ít, khi ăn không nói, không nên hút thuốc; ít muối ít đường, không ăn quá mặn, ít ăn chất béo, cơm không quá nhiều.

11. Mỗi ngày ba bữa, thức ăn phù hợp, rau xanh hoa quả, ăn nhiều không sợ; đúng giờ đi ngủ, đến giờ thì dậy, nằm dậy nhẹ nhàng, không gấp không vội.

12. Uống rượu có độ, danh lợi chớ tham, chuyện thường không giận, tấm lòng phải rộng.

13. Tâm không bệnh, nên phòng trước, tâm lý tốt thân thể khỏe mạnh; tâm cân bằng, phải hiểu biết, cảm xúc ổn định bệnh tật ít.

14. Luyện thân thể, động cùng tĩnh, cuộc sống hài hòa tâm khỏe mạnh; phải thực dưỡng, no tám phần, tạng phủ nhẹ nhõm tự khai thông.

15. Người nóng giận, dễ già yếu, thổ lộ thích hợp người người vui; thưởng thức thư họa, bên suối tọa thiền, lựa chọn sở thích tự do chơi.

16. Dùng đầu óc, không mệt nhọc, bớt lo dưỡng tâm ít náo nhiệt; có quy luật, sức khỏe tốt, cuộc sống thường ngày phải hài hòa.

17. Tay vận động, tốt cho não, phòng ngừa bị lạnh và cảm cúm.

18. Mùa hè không ngủ trên đá, mùa thu không ngủ trên phản. Mùa xuân không hở rốn, mùa đông không che đầu. Ban ngày hoạt động, tối ngủ ít mơ.

19. Tối ngủ rửa chân, hơn uống thuốc bổ. Buổi tối mở cửa, hễ ngủ là say. Tham mát không chăn, không bệnh mới lạ.

20. Ngủ sớm dậy sớm, tinh thần sảng khoái.Tham ngủ tham lạc, thêm bệnh giảm thọ. Tranh cãi buổi tối, ruột như xát muối.

21. Một ngày ăn một đầu heo, không bằng nằm ngủ ngáy trên giường.

22. Ba ngày ăn một con dê, không bằng rửa chân rồi mới lên giường.

23. Gối đầu chọn không đúng, càng ngủ người càng mệt. Tâm ngủ trước, người ngủ sau, ngủ vậy sẽ thành mỹ nhân.

24. Đầu hướng gió thổi, ấm áp dễ chịu. Chân hướng gió thổi, hãy mời thầy lang.

25. Không ngủ nơi ngõ hẻm, độc nhất khi gió lùa.

26. Đi ngủ không thắp đèn, sáng dậy không chóng mặt.

27. Muốn ngủ để tấm thân nhẹ nhõm, chân không hướng tây đầu không hướng đông.

HOÀNG KIM THƯ st


Phụ Bản III


DƯƠNG LÊH

Ông Thứ hết sức ngạc nhiên và có phần tức bực không hiểu vì sao ông… chết nhanh quá vậy? Ông thấy như mới chiều hôm qua đây thôi. Ông còn nhớ rõ ràng. Ông ra quán số 1 uống với hai ông bạn già. Một ông là kỹ sư về hưu, bây giờ làm tổ trưởng trong khu vực ông Thứ đang ở. Một ông là chủ vựa trái cây. Ông sau này giàu sụ. Hồi xưa ông ta theo học khoa kinh doanh ở đại học Đà Lạt, nửa chừng bỏ ngang để chạy theo một tà áo dài màu tím đang học năm cuối một trường trung học gần đó. Ông theo nàng về Quy Nhơn trong lúc nàng đang về quê nghỉ hè… Và vì mải miết theo đuổi nàng đến khi không đạt được ý nguyện anh chàng không muốn quay về Đà Lạt mà lại lên xe đò chạy tuốt về Saigon, bỏ học luôn. Nhưng rồi thời cuộc biến đổi, ông ta buôn bán trái cây và trở nên giàu nứt vách. Tại buổi nhậu ông Thứ nói giá mà ngày xưa ông bạn tiếp tục học hết chương trình đại học, lấy cử nhân thì cũng chỉ là một thầy giáo lương ba cọc chỉ có… hai đồng như ông Thứ bây giờ.

Nhưng bây giờ thì ông Thứ chết rồi, chết trước cái ông kỹ sư hơn ông ba bốn tuổi và có phần lụm khụm hơn ông Thứ nhiều. Tức quá! Ông nhớ sau khi đi nhậu về nhà, ông để nguyên quần sọt áo thun trên mình leo lên giường đánh liền một giấc thẳng cẳng, cho đến khi ông tỉnh dậy, mà tỉnh dậy hồi nào ông cũng không nhớ, chỉ biết rằng giờ này ông đang ngồi đây. Nhưng nhìn kỹ lại ông không đang ngồi ở đâu hết, ông thấy ông đang lơ lửng trên nóc một căn phòng và phía dưới kia là một chiếc giường giống như loại giường trong bệnh viện. Trên giường, một người đàn ông nằm ngay ngắn, im lặng, mắt nhắm nghiền như đang… chết. Đặc biệt gương mặt người nằm đó y chang như gương mặt ông Thứ, không sai trật một nét nào cả. Ngay cả cái mụn ruồi dưới cằm người chết cũng giống hệt mụt ruồi dưới cằm ông Thứ. Bất giác ông Thứ giơ tay lên sờ cằm và dùng ngón tay trỏ sờ kiếm cái mụn ruồi. Nhưng quái là ông thấy bàn tay mình như chạm vào khoảng không, Ông không có cảm giác sờ dụng vào cằm của mình như ngày thường ông xoa cằm nhổ những sợi râu mọc mất trật tự.

Đột nhiên cánh cửa mở ra có hai người phụ nữ bước vào, một người là y tá vì dễ nhận biết nhờ ở chiếc áo bờ-lu trắng tinh và người phụ nữ kia chính là bà xã ông, là bà Thứ. Ông Thứ nghe léng phéng cô y tá nói gì đó với bà Thứ, ông nghe tiếng được tiếng mất:

- Lát… y công… nhà xác.

Đúng rồi, Cô y tá vừa nói câu “Lát nữa có y công đưa xuống nhà xác”. Ông hoảng hốt, la lên:

- Cô ơi, tôi chưa chết mà! tôi chưa chết mà!

Hai người phụ nữ hoàn toàn không nghe thấy gì cả. Chính ông cũng không nghe thấy âm thanh mình phát ra. Ông chờn vờn định “bay” xuống nhưng ông cứ loay hoay không tới cũng không lui được.

Ông thấy bà Thứ gật gật đầu rồi cùng cô y tá bước ra ngoài. Cánh cửa tự động khép lại. Cô y tá đã nói một câu giống hệt như ông đã nghe hồi mẹ ông qua đời cách đây hơn mười năm tại một bệnh viện trong Chợ lớn, và trong vòng một giờ đồng hồ sau có người đẩy xe băng-ca đưa mẹ ông vào nhà xác.

Chết thật rồi! Ông Thứ nghĩ như vậy. Nhưng mà vô lý quá! Chiều hôm đó ông về đến nhà bình tĩnh leo lên giường và ngủ không hề cảm thấy choáng chiếc gì cả. Ông có bị cao huyết áp và một chút xíu về bệnh tim. Cái gì hè. À! Bác sĩ nói là thiếu máu cơ tim, nên thường hay làm mệt, thiếu hơi, khó thở. Nhưng cái bệnh này nhẹ quá đâu đến nỗi “thăng” dễ dàng như vậy. Theo một ông bác sĩ nói bệnh này mà nặng sẽ làm đau ngực dữ dội. Giống như trưởng hợp một ông thầy hồi xưa dạy ông Thứ. Sau này tình cờ gặp lại trong lúc ông Thứ đang thất nghiệp te tua. Ông thầy lúc đó là Phó Giám đốc một ngân hàng đang chuẩn bị mở cửa. Nhìn bản lý lịch của ông Thứ, thầy khen:

- Tốt! Em sẽ là phụ tá đối ngoại cho thầy!

Về nhà ông Thứ mừng hết lớn. Ông bi bô khoe với bà xã:

- Kỳ này anh có việc làm đúng với nghề của mình.

Bà xã khen để khích lệ:

- Hu-ra ông xã!

- “Thanh-kiu”. Bây giờ là phải xài tiếng Anh, he he.

Ông Thứ cảm thấy yêu đời đi tới đi lui trong nhà, huýt sáo nhưng không thành bài hát nào vì ông huýt sáo rất tệ. Ông mơ mộng, không bao lâu nữa ông sẽ là một chuyên viên ngân hàng và được thầy cho tiếp xúc với khách nước ngoài, ông còn được nói tiếng nước ngoài líu lo mà ông từng mơ ước.

Ba ngày sau đó, buổi sáng nắng đẹp, bầu trời trong xanh báo hiệu sắp bước vào mùa thu. Gọi như vậy để mơ mộng chơi chứ cái đất Saigon này, mưa nắng thất thường. Khi nắng cháy da, khi thì mưa xối xả, mưa tối đất tối trời, mưa ngập đường ngập sá. Nhân cái ngày đẹp trời này ông Thứ, lúc đó còn sồn sồn, đẹp trai, lên xe đạp đi làm photo thêm mấy bản sơ yếu lý lịch, đột nhiên một tên bạn cũ chạy trờ tới. Ông nhớ anh chàng này cũng đang chạy xin việc ở ngân hàng đây. Nó réo lên:

- Thứ! Thứ!

- Cái gì? Bình tĩnh!

- Bình tĩnh không nổi đâu. Thầy Quân chết rồi!

- Cái gì?

- Thầy Quân chết rồi! Mầy nghe rõ chưa?

- Trời ơi sao ổng chết ngang xương quá vậy?

- Shock tim. Nghe người ta nói ổng đi đâu vừa về đến nhà ổng kêu đau ngực quá rồi ngả xuống. Vào đến nhà thương thì vừa kịp cho ổng “thăng”.

Ông Thứ trầm ngâm một lát. Ông bạn hỏi:

- Mầy tính sao? Kiếm việc khác làm đi mầy ơi!

Rồi anh ta ra về. Nghe đâu sau này anh ta sang Mỹ định cư.

Đó là cái chứng đau ngực vì bệnh tim mà ông Thứ cứ canh cánh lo ngày lo đêm mong sao đừng bao giờ bị cái chứng đau ngực như ông thầy Quân. Thầy chết đi còn làm cho cả chục thằng đệ tử bị thất nghiệp. Danh sách của thầy trong đó có tên ông Thứ đã bị người ta bỏ vào thùng rác ngay sau khi thầy lên đường đi vào cõi xa xăm.

Ông Thứ không tin mình đã chết, nhưng sao giờ này ông cứ như đang lơ lửng trên không. Ông rờ đâu cũng không có cảm giác đụng chạm vào vật gì. Ông giống như đang bơi, nhưng khi bơi ông còn cái cảm giác chạm vào nước, chạm vào thành hồ bơi, ở đây ông không chạm vào đâu hết kể cả không khí. Ông Thứ thấy mình giống như anh chàng diễn viên nào đó trong phim Con Ma. Nhân vật này bị xe tông chết rồi xuất hồn trở về nhà. Anh ta đi xuyên tường, xuyên qua tủ giường, bàn ghế. Nghĩa là anh ta không thể đụng vào một vật thể gì cả, muốn ôm vợ cũng như ôm vào khoảng không. Muốn nói đôi lời với vợ nhưng vợ anh cũng không nghe được. Trong phim này người ta có lồng vô bài hát Unchained melody do nhóm Righteous Brothers hát nghe hay đến nỗi rụng rời tay chân.

Ông Thứ nhìn vào xác chết. Đúng ra ông đang nhìn vào cái xác của ông đang chết. Ông thấy ông còn bảnh bao quá! Ông chết thật vô lý. Mới hôm thứ ba tuần trước ông đến uống cà phê với mấy bạn cũ hồi xưa học ở Pétrus Ký. Mấy bạn đó cũng xàng xàng bằng tuổi ông Thứ tức là vừa trên bẩy mươi. Người nào người nấy còn khỏe mạnh, ngon lành. Chưa thấy ông nào có vẻ gì lụm khụm. Ông nào cũng vui vẻ, lạc quan, yêu đời, đúng như lời khuyên của các bác sĩ dành cho những người cao tuổi. Trong số đó có một ông bạn chuyên môn lắp ráp máy bay vô tuyến để chiều chiều ông chở vợ qua quận 7 hợp cùng với những người bạn có chung sở thích thả máy bay lên tận trời xanh đến gần tối mới về. Ở nhà ông này còn bỏ công sức chạy vô Tân Thành mua các cơ phận, vật liệu đem về rị mọ lắp ráp thành chiếc máy bay rồi bán cho bạn bè theo đơn đặt hàng, kiếm tiền cà phê hay bia bọt một cách thoải mái. Anh ta thường là chủ xướng cho những lần họp mặt họp mặt bạn bè lai rai nhậu nhẹt. Trong lần uống cà phê đó ông có nói với các bạn rằng hiện nay ông còn nhiều đam mê. Thời gian mỗi ngày thật sự không đủ để phục vụ cho sở thích của ông. Ông hết làm việc này đến việc nọ. Nhưng tất cả những công việc của ông làm đều không đem lại tiền bạc gì cả, không được như ông bạn sản xuất máy bay đã nói ở trên, ngoại trừ hai buổi dạy kèm cho một học sinh trường quốc tế vào tối thứ ba và thứ bẩy. Mấy ông bạn cũ hỏi thử để coi ông Thứ trả lời ra sao:

- Vậy chớ ông làm cái gì cho hết thời gian?

- Mấy ông có thể cho những công việc làm hằng ngày của tôi mang tính cách “ruồi bu” vì không đem lại lợi ích gì...

Rồi ông kể tiếp, buổi sáng ông đi bộ đúng một tiếng đồng hồ. Khi về đến nhà ông đã có sẵn trong tay hai hộp thức ăn cho buổi điểm tâm. Ăn sáng xong ông rửa đống chén bát còn lại sau bữa ăn tối hôm trước, còn bà xã ông lên lớp dạy tại nhà. Thời gian còn lại ông ngồi miết trên máy vi tính. Đây là lúc ông phải động não nhiều. Ông viết truyện ngắn, làm thơ để nộp cho một Câu lạc bộ Văn thơ mà ông đã sinh hoạt bẩy tám năm nay. Bài được đăng trên nguyệt san của câu lạc bộ tuy không có nhuận bút nhưng ông Thứ thấy vui và cứ tiếp tục sáng tác. Tính tới nay ông đã viết được sáu, bảy chục bài viết. Ông định xuất bản một tập truyện bao gồm những bài viết từ trước đến giờ nhưng chi phí nặng quá ông chưa dám quyết định. Ông mong trúng số sẽ thực hiện mơ ước này coi như có được một tác phẩm văn chương để lại cho con cháu sau này làm vật kỷ niệm. Ông cũng đang soạn dở dang một cuốn từ điển những từ ngữ thông dụng bằng tiếng Bắc kinh nhưng từ khi có chuyện lùm xùm về vụ thực phẩm có độc tố xuất xứ từ Trung Quốc, ông Thứ mất hứng tạm thời ngưng công tác biên soạn bộ từ điển này. Ông cũng bắt đầu chợi lại đàn ghi-ta, môn sở thích này ông đã phải bỏ dở hơn hai chục năm nay hồi thời kỳ gạo châu củi quế. Lúc đó ông phải chạy sô hết nơi này đến nơi khác. Có khi ông phải chạy từ công viên phần mềm Quang Trung đến khu Chợ Thủ Đức dưới cơn mưa tầm tã để lên lớp. Nói tóm lại hiện giờ ông không thể làm gì ra tiền nhiều, nhưng ông cũng có rất nhiều việc để theo đuổi. Thời gian biểu của ông coi như đầy kín. Ông từng nói với bạn bè:

- Thực ra hiện giờ tôi còn nhiều công việc dở dang, bỏ đi rất tiếc, vì vậy nếu như tui đột ngột thăng đường chắc chắn là tôi vô cùng “bức xúc”.

- Bạn có quyền khiếu nại!

- Được thôi! Bạn cho tôi xin địa chỉ hai ông Nam Tào Bắc Đẩu, tôi sẽ gửi đơn khiếu nại liền.

Mọi người cùng cười thoải mái.

Ông Thứ tự nhiên thấy đau nhức ở ngón chân út ở bàn chân phải. Ông lấy làm lạ là hiện giờ ông đã “lìa khỏi xác” rồi thì làm sao có đau đớn được. Thực ra chỗ đau này đã có hơn một tháng trước khi ông đột ngột từ giã cõi đời. Cơn đau cứ dai dẳng và thêm phần nhức nhối mỗi khi ông phải mang giày thể thao để đi bộ vào buổi sáng và đi giày chuyên dùng để khiêu vũ vào mỗi thứ năm hằng tuần. Mỗi lần như vậy ông phải thả lỏng dây một chút để da giày không cọ xát nhiều vào chỗ đau, thành ra bước đi có phần khập khiểng và bước nhảy của ông cũng mất đi vẻ tự nhiên. Đây cũng được coi là một sân chơi rất thoải mái dành cho người cao tuổi. Ít có ai nghĩ rằng thời buổi này còn có nhiều người ở tuổi 60, 70 cũng có người ở tuổi 80 mà còn “say mê theo điệu vũ và nhạc tứ lung linh…”(1)

Ông cúi đầu xuống một chút như để tránh lớp xi măng trên trần nhà. Thật ra từ nãy đến giờ cái đầu của ông đã ngập sâu vào lớp xi măng nhưng ông không hề thấy có sự va chạm nào hết. Ông thử mọp đầu xuống một chút giống như anh chàng người nhện trong một phim trên TV. Anh chàng có cú mọp người xuống giống như con… nhện. Anh ta nhảy một cú từ nóc nhà cao tầng này đến nóc nhà cao tầng khác. Ông Thứ dợm nhảy thử nhưng không nhúc nhích đi đâu hết. Ông giống như đang bị nhốt trên trần nhà này.

Vừa rồi bà xã ông vô nói chuyện gì đó với cô y tá rồi hai người quay trở ra. Không hiểu bà xã ông đi đâu. Ông Thứ chợt nhớ ra, hay là bà ra ngoài gọi điện thoại cho trường Đại học Y dược để đến lấy xác ông về làm phương tiện giảng dạy. Ông đã từng nói với bà xã là ông chưa đăng ký, ông định để vài năm nữa khi nào thấy sức khỏe mình trên đà xuống dốc, ông sẽ đăng ký cũng còn kịp. Đồng ý là ông có nói với bà xã sau này nếu ông qua đời ông sẽ hiến xác lấy lý do là để gia đình không phải tốn kém, chớ đừng nói là mình đóng góp thể xác của ông cho khoa học để giúp đời. Người ta sẽ nói là “úi cha! Cao cả quá!”. Không ai tin đâu. Nhưng kệ họ ai muốn nghĩ sao thì nghĩ. Vấn đề là hiện giờ ông thấy còn khỏe quá, còn đang muốn sống để làm nhiều công việc cho sở thích của ông. Thực sự ông chưa muốn chết một chút xíu nào cả. Ông nghĩ, như vậy nếu ông chưa đăng ký thì Đại học Y dược chắc sẽ không tới cho dù bà xã ông có điện thoại gọi mời.

Ông Thứ chợt nghĩ đến bà xã. Nếu ông thực sự “đi” rồi thì bà xã ông ở lại xoay trở làm sao đây. Cả đời không đi được xe gắn máy. Mỗi khi bà có việc đi đâu đều có ông đưa đón đến nơi đến chốn. Ông rất lo cho bà phải đón xe ôm để đến trường dạy học. Mấy ông thần xe ôm này chạy rất ẩu, thường chạy lạng lách, lấn tuyến, lại thêm quần áo dơ bẩn mồ hôi mồ kê xông lên nồng nặc…

Nghĩ đấn đây ông chợt thấy cửa mở, có người đầy chiếc xe băng-ca vào theo sau là bà xã ông. Ông giật mình cuống cuồng:

- Thôi chết! người ta đến đưa ông xuống nhà xác…

Ông quýnh quáng muốn xuống yêu cầu gọi bác sĩ đến xem ông chết thật chưa. Sợ nhầm lẫn vì biết đâu ông có thể hồi sinh. Ông khó khăn lấy thế để bay xuống. Sau cùng, ông ráng hết sức hét một tiếng thật to, tống hai chân thật mạnh theo kiểu ông đang phóng xuống hồ bơi…

Căn phòng bệnh viện đột nhiên biến mất. Ông có cảm giác bà xã đập nhẹ nhẹ vào chân ông:

- Dậy đi ông! Sáng rồi! Ác mộng phải không? Ú ớ dữ quá!

Dương Lêh

(1) Thơ Phạm Mạnh Cương

VẬN ĐỘNG THẾ NÀO

ĐỂ GIẢM MỠ TRONG MÁU

BS. Lê Văn Vĩnh

Trong cuộc sống văn minh và đầy đủ dinh dưỡng như hiện nay, bệnh lý tim mạch và đột quỵ cũng như béo phì chiếm một tỷ lệ tử vong hoặc tàn phế rất cao không chỉ xảy đến cho người già mà còn cho người trẻ nữa nếu không biết cách hạn chế dinh dưỡng và tập luyện một cách hợp lý trong sự thu nhập đường và mỡ vào cơ thể chúng ta.

Có rất nhiều người nghĩ rằng chơi thể dục thể thao với cường độ mạnh là hoặc thể dục qua loa sơ sơ là có thể làm tiêu mỡ, đường nhưng sự thật là không phải thế… Rốt cuộc theo với thời gian năm tháng bệnh tật kéo đến rất sớm như gan nhiễm mỡ, cao huyết áp, tiểu đường, xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim và đột quỵ… Do đó bài viết này nhằm giúp quý bạn hiểu rõ và nắm vững sự vận động hợp lý trong mục tiêu ngừa và trị liệu các rối loạn chuyển hóa mỡ bằng phương thức vận động.

TỪ MỘT LÁ THƯ THẮC MẮC…

Tôi năm nay 55 tuổi, thử máu thấy cholesterol cao, mỡ máu tăng (triglycerid), gan nhiễm mỡ, vợ tôi 50 tuổi người gầy ốm cũng bị cao như tôi. Tôi đánh tennis, vợ tôi chơi vũ cầu liên tục 2 giờ mỗi ngày. Sáu tháng sau, thử lại cả 2 người thì vẫn thấy mỡ và cholesterol cao không giảm cùng với sự tồn tại gan nhiễm mỡ. Tôi thắc mắc là tại sao có vận động cơ thể tối đa đều đặn như thế mà không giảm mỡ trong máu và vợ tôi gầy ốm mà tại sao vẫn bị mỡ cao?

ĐỐI TƯỢNG BỊ MỠ CAO TRONG MÁU .

Thông thường là những người ăn uống nhiều chất mỡ, tinh bột, đường và lười vận động . Không có nghĩa là mập mới bị mỡ cao trong máu, vì khi cơ thể đến lứa tuổi trên 50, chuyển hóa đã bắt đầu kém không chuyển hóa hết mỡ hằng ngày do thức ăn đưa vào trong cơ thế, do đó dù ăn ít mỡ hoặc gầy ốm cũng có thể bị mỡ cao trong máu gọi là rối loạn chuyển hóa mỡ do tuổi già.

VẬN ĐỘNG THẾ NÀO?

Thường thường người ta đều tưởng rằng vận động thể thao thể dục với cường độ mạnh như chạy marathon, tennis, vũ cầu kéo dài, bơi đua, tập tạ, đánh võ, chạy xe đạp nhanh vv... cho đến khi thở mệt hổn hển, mồ hôi ra như tắm tức là có tác dụng giảm mỡ trong máu (cholesterol, triglycerid). Rồi khi đi thử máu thấy mỡ vẫn còn cao như cũ hoặc siêu âm thấy gan vẫn còn bị nhiễm mỡ, không bớt gì hết. Tại sao? Ta hãy phân tích sự chuyển hóa của mỡ trong sự vận động sau đây:

Cường độ vận động gồm 2 loại, đó là vận động có oxy và vận động không có oxy:

- Vận động có oxy: là loại vận động có cường độ nhẹ và vừa như đi bộ, chạy chậm, nhảy dây, đi xe đạp chậm, tập dưỡng sinh… cơ thể có đủ oxy, cơ bắp chủ yếu sử dụng năng lượng thu được từ sự oxy hóa acid béo, mỡ được tiêu hao nhanh. Nếu vận động nhẹ mà thời gian dài thì sự giảm mỡ sẽ trên 80%, nếu vận động với cường độ vừa thì tỷ lệ tiêu hao mỡ và đường bằng nhau tức là 50/50%. Nếu vận động có cường độ lớn mạnh mẽ thì sự tiêu hao mỡ chỉ chiếm 15 – 20 % mà thôi.

Chỉ sau 20 phút vận động, cơ thể mới bắt đầu dùng mỡ để tạo năng lượng, trong 20 phút này chỉ có đường glucose được tiêu thụ mà thôi do đó muốn tiêu hao mỡ thì phải vận động trên 30 phút khi đó mỡ và glycogen (là loại đường từ glucose được dự trữ ở gan và cơ) mới được chuyển hóa thành năng lượng. Cùng với sự kéo dài thời gian vận động thì sẽ tiêu hao được mỡ từ 70 – 90%. Do đó vận động dưới 30 phút là không có tác dụng giảm mỡ gì cả dù cường độ lớn hay nhỏ.

Thời gian vận động phải liên tục không gián đoạn ví dụ đi bộ nên đi bộ nhanh hơn là đi bộ chậm trên 30 phút liên tục không nghỉ nửa chừng chứ không phải đi một đoạn rồi nghỉ rồi đi lại. Như vậy là không có tác dụng tiêu mỡ và nên nhớ lúc vận động phải có thở hít sâu, đều đặn bằng mũi hít vào và bằng miệng thở ra. Tóm lại vận động trung bình từ 45 – 60 phút là tốt nhất, nếu ít quá thì tác dụng chẳng là bao .

Trong sự vận động như đi bộ thì theo nghiên cứu nếu đi nhanh vào buổi sáng 1-2 giờ, lượng chất béo tiêu hao không đáng là bao nhưng trái lại buổi tối dù chỉ đi bộ nửa giờ lượng chất béo tiêu hao lại tăng rõ rệt. Sở dĩ như thế là do đồng hồ sinh học của cơ thể quyết định. Thống kê cho thấy 2 giờ sau ăn tối đi bộ khoảng 40 – 60 phút thì lượng chất béo tiêu hao nhiều nhất, có thể làm giảm sự thèm ăn, rất có lợi cho sự giảm cholesterol và triglycerid máu

Khoảng cách đi bộ càng dài thì mỡ máu càng giảm.

Tốc độ đi khoảng 10km/giờ tức là đi nhanh mới đạt mục tiêu giảm mỡ nhiều.

- Vận động không có oxy: là loại vận động có cường độ mạnh mẽ như chạy, đá bóng, bóng rổ, nhảy cao, nhảy xa, bơi đua, tập tạ, tennis… Vận động này đòi hỏi oxy thật cao, trong lúc cơ thể không cung cấp đủ oxy, năng lượng có được là từ chuyển hóa đường glucose theo con đường vô khí (không có oxy), cuối cùng sẽ tạo acid lactic tăng cao sẽ ức chế sự phóng thích acid béo tự do, giảm sự chuyển hóa mỡ lipid. Do đó đối với cường độ vận động quá lớn sẽ không có tác dụng giảm mỡ trong cơ thể chỉ tiêu hao chất đường mà thôi.

Hơn nữa, khi vận động mạnh mẽ, ta phải thở nhanh và gấp để bù oxygen thiếu hụt thì sẽ đưa đến sự gia tăng thông khí phổi tức là thở hổn hển, thở cạn làm tăng sự thải CO2 nhanh, cuối cùng nồng độ CO2 giảm trong máu và sự bù đắp lượng oxy thu vào không cao. Kết quả là sẽ làm co thắt mạch máu não và cơ tim đồng thời ức chế sự di chuyển oxygen từ huyết sắc tố sang các tế bào. Mức độ CO2 quá thấp có thể đưa đến thiếu máu não và thiếu máu cơ tim cục bộ. Chính điều này gây ra những tai biến như đột quỵ, nhồi máu cơ tim, cao huyết áp nhất là ở lứa tuổi 50 trở lên khi vận động mạnh. Ngay cả tuổi trẻ cũng có thể bị nếu sự vận động mạnh mẽ này kéo dài như ở các cầu thủ bóng đá, tuy họ còn trẻ nhưng vẫn bị đột quỵ trong lúc đá bóng mà thỉnh thoảng chúng ta thường thấy,

Làm thế nào biết được vận động có oxy hoặc không có oxy?

Lượng tiêu hao oxy tỷ lệ thuận với nhịp tim nên chỉ cần đo mạch đập của mình trong lúc luyện tập là biết được sự vận động có thích hợp hay không.

Muốn cho mỡ được đốt cháy thì phải vận động nhẹ và vừa. Thời gian vận động càng dài, tốc độ càng chậm thì lượng mỡ tiêu hao càng nhiều. Ta có thể theo công thức sau đây để giảm mỡ một cách lý tưởng:

Nhịp tim : (220 - số tuổi) x (60% hoặc70%)

Ví dụ: Người 50 tuổi thì phải có nhịp tim tối đa trong lúc vận động là:

220 - 50 x 70% = 119 lần/phút

Như thế ta phải kiểm tra nhịp tim bằng cách đo mạch đập ở cổ tay phải nhỏ hơn hoặc bằng 119 lần /phút thì mới có tác dụng giảm mỡ. Nếu trên số ấy thì là vận động mạnh chỉ có đường và protein tiêu hao mà thôi

Từ đó ta thấy những máy đi bộ ở nhà của các nước Tây phương luôn luôn có một cái hộp nhỏ gắn ở trên và trước mặt máy để đo nhịp tim của người tập rất tiện lợi cho ta điều chỉnh cường độ đi bộ của chính mình có oxy hay là không có oxy.

VÀI ĐIỂM CẦN LƯU Ý :

- Lẽ dĩ nhiên tập luyện vận động phải kèm theo chế độ dinh dưỡng hạn chế tinh bột đường và mỡ .

- Ăn vừa phải trái cây vì đường của trái cây là fructose, nếu dư thì sẽ biến thành mỡ trong cơ thể .

- Nước ngọt bánh kẹo cũng phải hạn chế .

- Nếu vận động mỗi ngày trên 30 phút thôi cho dù không thay đổi chế độ ăn uống cũng có thể làm thể trọng giảm dần trong nửa năm. Nhưng nếu tiết thực mà không vận động thì sẽ không giảm mỡ và không giảm thể trọng .

- Nếu thời gian vận động trong 20 phút thì chỉ có thể khống chế tăng thể trọng mà không thể giảm thể trọng .

- Phải vận động đều đặn, tối thiểu 3 lần/tuần, nếu hằng ngày thì càng tốt. Sau khi vận động thì hiệu ứng miễn dịch, giảm mỡ có lợi cho sức khỏe chỉ tồn tại 48 giờ mà thôi nếu không vận động trở lại thì hiệu ứng đó không còn nữa .

- Sự vận động hợp lý như đi bộ nhanh 60 phút/ngày sẽ cho ta nhiều tác dụng ích lợi như: giảm cholesterol và triglycerid máu, HDL tỷ trọng cao (high density lipoprotein) có lợi gia tăng trong việc huy động mỡ từ ngoại biên như thành mạch máu trở về gan giúp cho mạch máu không bị xơ vữa tránh đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Và LDL tỷ trọng thấp (low density lipoprotein) có hại giảm (LDL có nhiệm vụ chuyển mỡ ra ngoại biên ứ đọng ở thành mạch máu rất nguy hiểm).

- Vận động hợp lý cũng làm giảm huyết áp, ngừa bệnh tiểu đường type 2 và bệnh béo phì .

Dưỡng sinh khí công có tác dụng giảm mỡ không?

Chỉ có khí công động là có thể giảm mỡ được với điều kiện phải luyện tập liên tục trên 30 phút hằng ngày kèm theo chế đô ăn kiêng hợp lý.

Tóm lại, muốn giảm mỡ hoặc chống béo phì thì nên vận động nhẹ vừa, kéo dài liên tục trên 30 phút, lý tưởng là 1 giờ kết hợp với tiết thực giảm mỡ, đường, và đơn giản nhất là đi bộ nhanh mà ai ai cũng có thể thực hiện được.

LÊ THỊ ÁI LIÊN st

MÈO YÊU !

Có thể nghĩ hai từ này là lời nói của những chàng thanh niên âu yếm gọi người yêu bé nhỏ tuổi con mèo của mình. Cũng là lời âu yếm của những cô bé cậu bé thích nuôi mèo âu yếm nựng nịu con mèo nhỏ xíu. Nhưng không phải thế! Hai chữ “mèo yêu” tôi muốn viết trong câu chuyện này có ý nghĩa thực tế trần trụi: “Tình yêu của loài mèo”. Mèo yêu như thế nào nhỉ? Chắc bạn đọc đến đây sẽ cười khì… vớ vẩn… Khi ý nghĩ này lởn vởn trong đầu, tôi cũng cười thầm mình vớ vẩn, mãi khi quan sát cô nàng mèo cái nuôi trong nhà “động đực”, tôi phát hiện ra nhiều điều thú vị…

Lúc con mèo nhỏ xíu lượm ở ngoài đường về nuôi, được đặt tên là Mimi, nó là con mèo tam thể lông ba màu trắng, vàng, đen với đôi mắt màu xanh ngọc bích rất dễ thương, khi vuốt ve nó, nó chỉ rù rù chưa thành tiếng. Một thời gian ngắn Mimi đã quen với ngôi nhà mới, nó đi ra đi vào, tập nhảy lên các bậc thang lầu, leo trèo lên các chân bàn chân ghế. Có điều là thấy con chuột chạy ngang trước mặt nó giương mắt ngó, không biết đó là loài vật gớm ghiếc. Chuột! Đó là lý do để chủ nhà lượm Mimi về nuôi.

Thực không uổng công nuôi, Mimi đã biết thực hiện cái bản năng Trời sinh ra là bắt chuột. Khi bắt được chuột nó vờn qua vờn lại, quật con chuột nhừ tử, cắn chết đem bỏ ở xó nhà chứ không ăn. Và đến thời điểm này mèo Mimi “động đực”, nó kêu gào một cách thảm thiết suốt ngày đêm. Quằn quại lăn lộn dưới đất, cọ cọ cái mông dưới đất, cắn xé giày dép, gặm chân bàn ghế… kêu gào đã đời rồi nằm lịm đi ở một góc nhà. Cái chu kỳ đó lặp lại lần thứ hai sau vài ngày, lôi kéo các con mèo hoang chầu chực trên mái nhà, cũng meo meo đáp lại làm ầm ĩ cả đêm khiến chủ nhà bực mình mà không làm gì được. Kỳ lạ thay cho bản năng gợi tình của mèo cái, cụ thể là con mèo Mimi trong câu chuyện này. Nhà chủ nuôi nó có một căn phòng nhỏ chứa đồ cũ. Không biết tự lúc nào nó lôi kéo được con mèo đực vào nhà. Hơn bảy giờ tối hai con mèo kêu gào gầm gừ nhau nghe thật ghê rợn… chuyện phòng the ân ái của nàng mèo sao mà huyên náo thế! Chủ nhà đuổi được con mèo đực ra khỏi nhà. Vài ngày sau mèo Mimi lại kêu gào và dụ được một con mèo đực vào nhà. Tái diễn cảnh ái ân trong bóng tối ồn ào ầm ĩ… Sau hai lần động đực, nhìn bộ dạng nàng mèo dường như trải qua sự đau đớn tột cùng, lông lá xác xơ. Mèo càng ngày càng đòi ăn nhiều hơn. Khi chủ nhà nhìn thấy mèo mập tròn, lông mượt mà trở lại, với cái bụng to tròn xệ xuống. Thế đấy, sau khi gặp gỡ mèo đực Mimi đã mang thai. Một buổi sáng, mèo có vẻ bực bội chạy qua chạy lại kêu meo meo, rồi nằm lăn lộn dưới đất thở mệt nhọc. Chủ nhà cho mèo ăn trưa xong đi ngủ. Mèo cũng biến mất biệt tăm hơi, đến xế chiều gần giờ cơm vẫn không thấy mèo đòi ăn. Chủ nhà sục sạo đi tìm, thấy Mimi ngồi trong một góc tối, dưới bụng là ba con mèo con nằm cuộn tròn bên nhau. Chủ nhà dọn cho mèo một cái thùng lót quần áo cũ, bỏ đàn mèo con vào ổ. Mèo mẹ tức thì nhảy vào nằm cạnh con, nghe hơi mẹ đàn con hất đẩy đạp nhau tứ tung giành vú mẹ, miệng mèo con bú chùn chụt, bàn chân thì xoa đẩy rờ rẫm vú mẹ. Nhìn mèo con bú ngon lành, quan sát kỹ toàn thân mèo mẹ như rung lên theo từng nhịp bú của đàn con, nét mặt mèo tràn đầy cảm xúc của tình mẫu tử. Khi người chủ đến nhìn rõ vào ổ, mèo mẹ dang rộng bốn chân ôm chầm các con vỗ nhè nhẹ. Mèo có một trực giác nhạy bén là sợ con người bắt con mình. Lần đầu Mimi tha con giấu dưới sàn giường, lần nhì giấu vào kẹt cửa, lần thứ ba giấu trong căn phòng chứa đồ nơi ghi dấu ân ái của nàng… Khi đàn mèo con đã cứng cáp bước đi được, chạy nhảy leo trèo vui đùa với nhau, mèo mẹ nằm xa xa dõi mắt nhìn hoặc bốn mẹ con nằm khoanh tròn bên nhau, mèo mẹ liếm láp mặt tay chân cho mèo con. Mèo con cũng rất thích liếm láp mặt mèo mẹ. Đó là những nụ hôn nồng nàn của tình mẹ con mèo. Ta cũng không thấy lạ bởi mèo giao hoan với nhiều bạn tình, nên bầy mèo con sinh ra có nhiều chủng loại. Mèo Mimi sinh ra một con mèo tam thể giống nó như đúc, con mèo này trông nhanh nhẹn và khỏe mạnh hơn con nhị thể trắng đen và một con thuần chủng đen. Ba con mèo con cùng mẹ khác họp vui vẻ bên nhau trông thật dễ thương.

Cũng là lẽ thường tình khi chủ nhà đem cho ba con mèo nhỏ. Bị mất con mèo Mimi nằm ủ rũ buồn bã đi tới đi lui ngửi ngửi tìm hơi con. Hàng vú còn căng đầy sữa thòng xuống, nó cúi xuống liếm láp. Phải chăng mèo cũng cảm nhận được sự mất mát trong tình cảm yêu thương?

Dường như tạo hóa sắp xếp cho mèo cái bản năng sinh tồn giống loài theo tuần tự tự nhiên như thế. Mèo cái được ân sủng trong chuyện yêu đương, nàng mèo chủ động đi tìm tình yêu và được quyền yêu đôi ba chàng tùy ý, ân ái xong là chấm hết! Nghĩ thật buồn cười khi những con mèo đực sinh ra chỉ để phục vụ thỏa mãn nhu cầu yêu đương của mèo cái. Mèo cái sau khi hưởng hoan lạc tiếp tục làm nhiệm vụ sinh sản nuôi con để trường tồn giống loài.

Mèo là loài vật nuôi sống chung với con người, được chủ nuôi yêu thương, đặc biệt là mèo cái hiếm khi bỏ nhà chủ nuôi ra đi, nếu nó bị bỏ rơi xa nhà chủ, mèo có khả năng tìm về chỗ cũ là chuyện đã xảy ra ở nhiều nơi. Mèo là loài vật có tình nghĩa quyến luyến với chủ nuôi.

Mèo yêu bí ẩn và hấp dẫn phải không các bạn? Bạn nghĩ như thế nào về chuyện mèo yêu, nếu bạn yêu mèo? Có phải tạo hóa sinh ra con mèo là sinh vật sung sướng nhất, sống chỉ để hưởng thụ?

HUỲNH THIÊN KIM BỘI


Đường Đồng Khởi trên bưu thiếp cổ khoảng 100 năm trước

   

    

Phụ Bản IV

NĂM TUẦN LỄ

(Cinq Semaines En Ballon)

của Jules Verne

BẦY CHIM ĐẠI BÀNG

(Sáng hôm sau, ngọn gió dông đã đưa ba thầy trò họ đến trên biển hồ Tchad, mênh mông mây nước)

Trong lúc đó thì bạn Joe đang nhìn ra chân trời, và bảo Kennedy:

- Nói thật nghe bạn Dick! Bạn thường hay mơ ước săn bắn, giờ đây mới chính thức là công việc của bạn.

- Cái gì vậy Joe?

- Và lần nầy, thì ông thầy của tôi không ngăn cản bạn khai hỏa đâu!

- Mà cái gì vậy?

- Bạn có thấy bầy chim to xác đang bay đến chúng ta không?

- Bầy chim à? - Bác sĩ vội nắm cái viễn vọng kính.

Kennedy trả lời:

- Tôi thấy chúng nó có khoảng mười hai con.

Joe xác nhận:

- Mười bốn con đó bạn.

- Nhờ trời, chúng nó là một giống chim khá dữ, để ông bác sĩ tốt bụng không cản trở tôi.

Bác sĩ trả lời:

- Tôi không có điều gì để nói. Nhưng mà tôi vẫn thích chúng nó bay dang xa ra.

- Ông thầy sợ loài chim nầy sao?

- Đó là loài chim đại bàng hung dữ đó Joe, và nếu mà chúng nó tấn công chúng ta, thì phải làm sau đây?

- Được rồi, chúng ta sẽ tự vệ, bác sĩ Samuel ạ! Chúng ta có cả một kho đạn để tiếp đãi chúng nó. Theo tôi nghĩ, mấy con chim đó không có gì đáng lo ngại đâu!

Bác sĩ trả lời:

- Ai biết được?

Mười phút sau, bầy chim đã đến gần tầm súng. Mười bốn con chim gây ồn bằng tiếng kêu khô khan. Chúng nó đến gần con tàu vì giận dữ hơn là e ngại.

Joe bảo:

- Coi chúng nó kêu la kìa! Sao mà rầy tai quá! Có lẽ chúng nó không muốn cho ai xâm phạm vùng trời của chúng.

Gã thợ săn Kennedy bảo:

- Thật ra chúng nó có vẻ khá dữ, và tôi cam đoan chúng nó sẽ đáng sợ, nếu chúng có cả cây súng.

Bác sĩ trả lời nghiêm túc:

- Chúng nó không cần gì đến súng ống đâu.

Bầy chim đại bàng bay lượn những vòng rộng lớn, mà qũy đạo thâu nhỏ dần dần quanh con tàu. Chúng nó vẽ trên bầu trời những đường bay nhanh ngoạn mục, có khi nhanh tới tốc độ của một quả pháo đại bác, và bẻ góc gắt một cách bạo dạn.

Vị bác sĩ tỏ ra lo ngại, nên quyết định bay lên cao tầng khí quyển để tránh cái môi trường độc hại nầy. Ông nung nóng khí hydro trong khinh khí cầu. Nó bay vọt lên ngay.

Bầy chim đại bàng bám sát theo, mà chưa có dấu hiệu bỏ cuộc.

Gã thợ săn bảo:

- Chúng nó kiếm chuyện với chúng ta thật sự rồi.

Quả nhiên, bầy chim đã đến gần lắm rồi, có con chỉ còn cách vài mét, như thách thức với cây súng của Kennedy.

Gã nầy nói:

- Tôi nóng lòng muốn bắn tụi nó quá chừng!

- Không nên đâu Dick. Chúng ta đừng làm cho chúng nó nổi giận một cách vô lý. Đó là xúi chúng tấn công.

- Nhưng mà tôi sẽ hạ sạch chúng nó dễ dàng.

- Bạn lầm rồi bạn Dick ạ.

- Chúng ta cho mỗi con một viên đạn.

- Và chúng nó tấn công phần trên của khinh khí cầu, thì bạn phải làm sao? Bạn hãy hình dung là bạn đang chạm trán với một bầy sư tử ở mặt đất, hoặc là một bầy cá mập ở dưới biển. Đối với khinh khí cầu, thì tình cảnh hiện giờ cũng nguy hiểm như vậy.

- Ông nói nghiêm túc chớ, bác sĩ Samuel?

- Rất nghiêm túc!

- Chúng ta hãy đợi vậy!

- Khoan đã, bạn cứ chuẩn bị cho trường hợp bị tấn công, nhưng đừng khai hỏa trước khi có lệnh tôi.

Bây giờ, bầy chim tựu lại rất gần. Người ta phân biệt được cái cổ trụi lông, vươn ra la ó. Cái mồng đỏ của nó dựng lên một cách hung dữ. Chúng nó có thân hình mạnh mẽ, dài cả thước. Cánh trắng phản chiếu ánh nắng mặt trời. Người ta có thể nói, chúng nó là bầy cá mập mọc cánh.

Bác sĩ thấy bầy chim bám theo nên nói:

- Chúng nó bay theo. Chúng ta lên cao cũng vô ích, vì tầm bay của chúng nó còn cao hơn nhiều.

Kennedy hỏi :

- Vậy thì phải làm sao?

Bác sĩ không trả lời. Kennedy nói tiếp:

- Nghe tôi đi, bác sĩ Samuel. Bầy chim có 14 con. Chúng ta có 7 phát đạn sẵn sàng... Không có cách nào để tiêu diệt chúng nó sao? Tôi sẽ đảm nhiệm một số bọn chúng!

- Tôi rất tin tưởng vào tài thiện xạ của bạn, Dick ạ! Cứ coi như con nào lọt vào tầm súng của bạn, thì phải chết. Nhưng mà tôi xin nhắc lại rằng, nếu chúng nó tấn công ở phía trên mà bạn không nhìn thấy được. Chúng nó xé toạc vỏ khinh khí cầu ra, thì chúng ta ở độ cao cả ngàn mét nầy, phải làm sao đây?

Ngay lúc đó, một con chim hung dữ nhất, bay đâm thẳng mỏ nhọn vào con tàu với móng vuốt giương ra để tấn công.

Bác sĩ vội la lên:

- Bắn! Bắn!

Tiếng nói vừa dứt, thì con chim đã trúng đạn, xoay tròn rơi trong không gian.

Hoảng sợ vì tiếng nổ, bấy chim dang xa ra được một lúc. Nhưng rồi chúng trở lại ngay sau đó với sự đột kích hung hăng.

Với viên đạn đầu tiên, Kennedy bắn gãy cổ một con. Joe bắn gãy cánh một con khác. Gã nói:

- Chỉ còn 11 con thôi.

Nhưng mà bầy chim thay đổi chiến thuật. Chúng nó đồng lòng bay lên trên khinh khí cầu.

Kennedy nhìn bác sĩ Fergusson. Mặc dầu có khí phách và điềm tĩnh, vị bác sĩ cũng xanh mặt.

Một phút im lặng khủng hoảng. Kế đó là tiếng xé lụa vang lên, và khinh khí cầu rơi tuột xuống, làm hổng chân các vị khách du hành.

Bác sĩ nhìn vào phong vũ biểu đang lên kim mau lẹ, vội la lên:

- Thôi chết rồi, hãy quăng các bao bì ra ngoài.

Trong vài giây, cái kho vàng bị liệng ra ngoài hết sạch.

- Chúng ta còn rơi mãi. Đổ thùng nước Joe. Có nghe không? Chúng ta đang rơi xuống biển.

Joe vâng lời, đổ hết thùng nước.

Bác sĩ nghiêng mình ra ngoài xem. Mặt nước biển hồ đã đến gần lắm rồi. Những vật trôi nổi trên mặt hồ hiện rõ trước mắt. Con tàu chỉ còn cách mặt nước hồ Tchad khoảng chừng 5-6 chục mét. Bác sĩ la lên:

- Thức ăn dự trữ.

Và thùng thức ăn lại được quăng ra ngoài.

Sự rơi không còn mau nữa, nhưng mà nó cứ rơi mãi.

Bác sĩ la lên cầu may:

- Hãy quăng thêm đi.

Kennedy bảo:

- Không còn chi.

Bạn Joe trả lời ngắn gọn:

- Còn mà.

Gã đưa tay lên ngực đánh dấu Thánh, rồi lẹ làng nhảy ra khỏi con tàu.

- Vị bác sĩ la thất thanh:

- Joe! Joe! Joe!...

Nhưng mà Joe không thể nào nghe thấy gì nữa.

Con tàu Khải Hoàn đã nhẹ gánh, nên vọt thẳng lên không gian, mà cơn gió thổi lồng vào cái vỏ xẹp, đưa nó vào bờ phương bắc của biển hồ Tchad.

Gã thợ săn nói với bộ điệu chán nản:

- Thôi tiêu tùng rồi.

Bác sĩ trả lời:

- Tiêu tùng để cứu chúng ta.

Và hai người đầy gan dạ, cũng cảm nhận đôi hàng lệ chảy xuống má.

Họ nghiêng ra ngoài để tìm kiếm dấu vết của bạn Joe. Nhưng mà con tàu đã bay xa rồi.

Gã thợ săn hỏi:

- Làm sao đây?

- Tìm nơi tiếp đất và đợi...

Thanh Châu dịch thuật

SỰ NHẦM LẪN

ĐÀM LAN

“Không có người con gái xấu. Chỉ có người con gái không biết làm đẹp”

Thực tế không hoàn toàn đúng với câu nói trên, hay chỉ có thể xem nó như một lời động viên, an ủi với những ai không có được một dung nhan tàm tạm vào hàng coi được. Có những người con gái không may, ngay khi lọt lòng mẹ đã phải chịu một sự bất công của tạo hóa. Xấu, xấu thê xấu thảm, xấu như một chiều tàn ảm đạm, xấu đến ma không buồn ngó, cú vọ chẳng buồn nhìn, với những nét xấu tận cùng, mà không có cách gì làm cho khá lên tí chút được. Xấu đến tội nghiệp, xấu đến khó tin. Tôi là một người như thế. Không biết xưa Chung Vô Diệm xấu đến thế nào, mà đến nỗi mặc nhiên đi vào giai thoại như thế. Nếu ngày đó bà là người xấu nhất thế gian, thì đích thị ngày nay tôi là con cháu duy nhất của bà. Điều khó hiểu là nhà có bốn chị em gái, thì ba người kia lại rất đẹp, da trắng, mắt xinh, môi tròn, mũi thẳng. Nói chung là họ có một ngoại hình tương đối, đủ để giao thoa với cuộc đời. Riêng tôi, cứ như một chuyến đi buôn hết vốn, đành gom góp chút rơi rớt khi chợ tàn cho đỡ xót lòng túi rỗng, cứ như là một biểu vật mà ông trời trớ trêu nghịch ngợm ném xuống cõi trần trong một lần ác ý. Cái biểu vật ấy gần như hội đủ những gì có thể cho là xấu nhất thế gian với hình thể một con người. Cằm vẹo, trán dô, miệng hô, mắt hí, da nhọ nồi, mặt đồi mồi khô ba nắng, thân hình gầy ngẵng, khẳng khiu, ốm nhõng. Như vẫn chưa đủ, một trận đậu mùa góp thêm vào khuôn mặt những nốt rỗ chằng rỗ chịt. Tóm lại, tôi là một thứ hình thù mà ai lỡ chạm mắt phải e đêm về ngủ phải giật mình đôi ba bận, là một mạ lỵ, hổ thẹn cho cả gia đình. Lúc còn bé, chỉ được mặc quần áo thừa của chị, lủi thủi làm bạn với đất đá, họa hoằn lắm nhặt được dăm mẩu đồ chơi vứt đi đã là vui sướng. Thường xuyên dè dặt, tôi nép vào một góc xó nào đó mỗi khi mẹ đi chợ về, trong khi các chị em thì tíu tít bánh quà. Đôi mắt tôi thèm khát, nhưng đôi chân sợ sệt chẳng dám đến gần, e những lời quát nạt, mắng mỏ, sau cùng còn được chút sứt thẹo ném cho thì mừng rỡ, tôi vội vàng nhặt lấy, cũng chẳng hiếm khi bị bỏ quên. Lớn dần lên, hiểu dần thêm, ý thức được sự khác biệt của thân phận, tôi càng rút mình vào lặng lẽ, chí ít thì cũng để tránh sự khó chịu cho người khác. Mỗi lúc có khách đến chơi nhà, nỗi lo lắng nhất của mẹ tôi là tôi vô tình hay cố ý xuất hiện trước mặt khách. Nếu lỡ ló mặt ra thì ngay lập tức nhận một cái lườm cháy da, đến tái người phải nhanh chóng vụt biến mất trong nỗi phập phồng một trận đòn lơ lửng. Những trận đòn đôi khi không có lý do, và không phải lúc nào cũng do lỗi của tôi.

- Kiếp trước tao đã làm gì nên tội, mà bây giờ bị trừng phạt bằng một con quỷ trong nhà thế này hả? Ông trời ơi! Ông nhầm lẫn thế nào mà lại bắt tôi sinh ra quỷ thế hở ông? Nhục ơi là nhục, khốn nạn cho cái thân tôi.

- Thôi em, có thế nào nó cũng là con của mình, ông trời bắt tội nó thế nó đã khổ lắm rồi, em còn chì chiết nó mãi thế làm sao nó sống nổi.

- Không sống nổi thì chết đi, chết đi cho tôi nhờ. Cũng tại ông, ông làm chuyện thất đức với ai mà đem tội nợ về bắt tôi phải gánh đây hở? Biết trước thế này tôi bóp mũi nó ngay lúc mới đẻ ra cho xong.

- Ăn nói kiểu gì vậy hả? Có im ngay đi không?

Kết thúc cuộc cãi vã của bố mẹ là những giọt nước mắt lặng thầm của con bé trong một góc khuất. Rồi mặc nhiên tôi trở thành người giúp việc tận tụy trong gia đình. Mặc nhiên những công việc dơ bẩn, nặng nhọc, khó khổ trong nhà thuộc về tôi. Mặc nhiên tôi trở thành một cái bóng ma lầm lũi, không hay nói, chẳng thích cười, để có lần tôi nghe em gái mình nói với bạn nó:

- Tao mà sống như chị ấy tao sống không được đâu, cứ giả câm giả điếc suốt ngày vậy đó”.

Giả câm giả điếc để cầu hai chữ yên thân. Lần hồi cái sự cùng dòng máu cũng rơi vào quên lãng, lần hồi những người quen biết với gia đình cũng quen một cách nhìn “Ô sin còn khá hơn”. Chỉ có bố tôi là còn nhớ, và cái sự nhớ ấy cũng chỉ có thể biểu hiện một cách âm thầm, vụng trộm. Một cái áo mới, một cái kẹp tóc cũng gây sự bất bình cho ai đó. Nếu như có thể có một lý do nào khả dĩ biện minh được thì có lẽ tôi cũng chẳng có đến cả niềm vui sách vở. Không chỉ là niềm vui, mà còn là một cứu cánh nữa, tôi âm thầm bấu víu vào nó, trong âm thầm khích lệ của bố tôi. Trong lớp cũng chẳng có ai muốn chơi với tôi, thậm chí ngồi cùng bàn cũng không thể, vì thế mà cái bàn cuối lớp, nghiễm nhiên dành cho mỗi một người. Thế giới sách vở là mối bận tâm duy nhất của tôi, tôi dành hết cả những thời gian, tâm sức mà mình có thể cho nó. Điểm số của tôi đã leo dần lên vị trí cao nhất lớp, nhưng điều này chỉ đem đến cho tôi những đố kỵ, ghen ghét. Không sao, tôi đã quá quen, và đã hiểu được những gì là cần thiết cho mình. Những tấm bằng khen, những gói phần thưởng là niềm vui của cả bố tôi, một chầu kem, một chén chè, một món ăn ngon ở một cửa hàng nào đó là tình yêu của bố dành cho tôi. Chỉ thế cũng là quá đủ cho nguồn động viên tinh thần, để khi đặt chân về tới nhà thì những niềm vui ấy lại được cất kín vào ngăn cặp, lại lầm lụi với bao công việc đang chờ.

Con người ta sinh ra là đã có sẵn một lập trình, một quy luật bất biến của thời gian, buồn vui, hay dở, đẹp xấu gì cũng phải tuân thủ theo sự chuyển động của chiếc kim đồng hồ. Tôi cũng như bao nhiêu người con gái khác, đến tuổi, đến thì cũng phát triển tâm sinh lý tự nhiên. Cũng ươm mầm bao ước vọng, cũng mỏi mong chuyện sớm chiều, cũng dạt dào cảm xúc. Tình cảm luôn là một nguồn lực dồi dào cho cuộc sống, nhất là tình cảm lứa đôi. Nó chi phối và tác động rất cụ thể đến mọi ngóc ngách của tư tưởng và hành động của con người. Người ta sẽ thấy yêu đời hơn, phấn chấn hơn, sống tốt hơn khi được sự đắp bồi trọn vẹn của nó. Ngược lại, sẽ dẫn con người ta đến sự đau buồn, tủi hổ, chán nản, bế tắc, tuyệt vọng. Tôi bị sinh ra trong một hình thể bất đắc, nhưng tâm hồn, tình cảm, mỹ cảm của tôi lại không phụ thuộc vào nó. Con người không hề sai, và cũng không hề vô lý khi biết yêu và tôn vinh cái đẹp. Nếu không thế thì cuộc đời này sẽ hoang tàn, trơ trụi đến đâu. Vì thế, tôi đã quên mất mình khi hướng về một hình ảnh đẹp, một hình ảnh rất cụ thể, rất sinh động, rất hiện hữu bên tôi hàng ngày, vì hình ảnh ấy có chung với tôi một mái trường, chỉ cách mấy bức tường, thế nhưng lại quá xa xôi, xa đến hàng vạn dặm, xa đến ngút ngàn mưa nắng, thậm chí còn tỏ vẻ khó chịu, như bị xúc phạm và xấu hổ khi biết ánh mắt đầy yêu thương của tôi gửi đến. Tâm trạng không tốt, đương nhiên sinh thái độ không vui. Từ né tránh đến hằn học, từ lạnh nhạt đến ghê tởm, nhìn thấy tôi cứ như nhìn thấy một loại khuẩn trùng truyền nhiễm tệ hại nào đấy. Những tiếng cười chế giễu, mỉa mai, châm chọc nổi lên quanh tôi. Tuy tôi đã quen với những đối xử khác biệt, nhưng trong trường hợp này thì sự tổn thương lên đến đỉnh điểm. Hơn lúc nào hết tôi thực sự đau đớn với nỗi bất hạnh của bản thân mình.

Một chiều, cả nhà đi vắng, một mình tôi trước một tấm gương lớn, tấm gương phản chiếu trung thực đến nỗi đưa tôi đến một quyết định. Thực ra, ý định đã từng manh nha trong tôi, nhưng nó vẫn chưa đủ cơ sở để dẫn đến hành động. Cú sốc tình cảm đầu đời đã trở thành một cú đẩy mạnh tay. Thế nhưng vận mạng tôi vẫn chưa cho phép tôi rời bỏ nó. Tỉnh dậy trong bệnh viện với gương mặt đầy lo âu và thương cảm của bố tôi, tôi hối hận vô vàn, khóc nức nở trong lòng bố. Bố ôm chặt tôi, vỗ về tôi, giọng nói êm đềm, nhẹ nhàng, thân thương:

- Con gái của bố. Bố biết con buồn và khổ tâm thế nào khi phải chịu sự bất công của tạo hóa và xã hội. Nhưng chạy trốn khỏi cuộc đời như thế này thì thật là hèn nhát. Ông trời luôn có một lý do để thảy xuống cõi nhân gian này một sinh linh, và con người không có quyền chối bỏ lý do đó. Con yêu, có thể trước mắt con đang là một đám mây mù tăm tối, nhưng con hãy cố xông vào nó mà tìm ra một điểm sáng hãy dũng cảm chặt cây phát cỏ để tìm lấy lối cho mình. Không phải ai sinh ra cũng có thể được hưởng sự ưu đãi, con dù xấu xí ngoại hình, nhưng con có một tâm hồn đẹp đẽ, con hãy tin rằng trong cõi đời hỗn tạp này, sẽ có một cái gì đó dành cho con thực sự giá trị, thực sự xứng đáng. Vấn đề là không phải con ngồi chờ nó đến, mà con phải đi tìm, phải đi cho trọn một chữ “NGƯỜI “con ạ. Con hiểu không?

Con hiểu. Con đã rất hiểu rồi bố ạ. Con càng hiểu hơn khi bước vào sự chín chắn của tuổi trưởng thành. Mẹ con có thể không thương yêu con. Chị em con có thể không thích con. Bạn bè con có thể xa lánh con, người con yêu có thể không chấp nhận con, vì con có thể là sự tổn thương cho niềm kiêu hãnh nào đó, là một vết đau cho sự ám ảnh mơ hồ nào đó, không ai có lỗi khi khước từ cái xấu. Cuộc đời luôn hướng đến sự hoàn mỹ, con người hoàn toàn tự do trong tình cảm của mình, thứ tình cảm thật tự nhiên giữa bao lung linh, lấp lánh của cuộc đời. Mọi xử sự có thể là quá đáng, nhưng thật sự cần thiết, cho con và cho cả mọi người. Bởi không thế, con sẽ chìm đắm trong mê muội, trong ảo tưởng, trong một thế giới không phải là của mình. Như thế thì sẽ tệ hại biết bao, vì không những con khổ sở cái thân con, mà còn gây bao phiền toái cho nhiều người nữa. Bố nói đúng, tất cả có thể khước từ con, nhưng con thì không thể khước từ chính mình. Cho dù, cách lý giải bằng hai chữ “Ông trời” chỉ mang tính trìu tượng, nhưng đã sinh ra trong một phận người, thì hãy đi cho hết con đường của nó, dù con đường ấy có gập ghềnh, khúc khuỷu đến thế nào.

Không thay đổi được mọi người thì phải tự thay đổi mình. Nếu không tìm cho mình một con đường khác, một cách thức khác, thì sẽ không có gì bảo đảm rằng tôi sẽ không làm điều cùng quẫn lần thứ hai. Âm thầm vạch ra cho mình một kế họach, âm thầm một sự chuẩn bị, để rồi một đêm, sau khi để lại cho bố mẹ một lời tạ tội, tôi lặng lẽ rời khỏi nhà khi mọi người đang say giấc. Tôi ngoan ngoãn theo bước chân định mệnh khi bước đại lên một chuyến xe khách ngoại tỉnh. Chuyến xe đã đem tôi đến một nơi cách xa hơn ngàn cây số. Một khoảng cách đủ để an toàn thoát khỏi cuộc truy tìm, nếu có. Thật lạ, đứng ở một nơi hoàn toàn xa lạ, chung quanh không có lấy một bóng người quen, người thân, tôi lại có cảm giác thật nhẹ nhõm, cảm giác như được thoát khỏi một sợi dây thừng đã siết chặt tôi trong suốt bao nhiêu năm, thoát khỏi sự khống chế, lệ thuộc, đồng thời mang đến cho tôi chút gì mới mẻ, cả một chút hy vọng, đương nhiên rồi.

Vấn đề đầu tiên phải nghĩ đến và bắt tay ngay vào là tìm một việc làm, cũng là kế sinh nhai cho những tháng ngày sắp tới, khi chút lưng vốn ít ỏi của tôi chỉ có thể kiệm tặn trong một thời gian ngắn. Đây là một sự khó khăn và cũng đầy gian truân đầu tiên mà tôi phải đối mặt. Liên tục những cái lắc đầu, cho dù là với những loại hình công việc thấp kém nhất là làm người giúp việc gia đình, hoặc thu rửa chén dĩa trong một quán ăn. Nguyên nhân thì đã rõ, cùng với những bước chân rã rời sau mỗi ngày và ổ bánh mì không bên ly nước lọc, là cảm giác tận cùng thấm thía nỗi bất hạnh của mình, nhưng tôi vẫn cố, vẫn tiếp tục hy vọng. Cho đến một ngày, lưng túi hết nhẵn, và chủ trọ cũng không còn đủ kiên nhẫn thì tôi ra đường với một bộ quần áo trên người. Màn đêm buông xuống, tôi vẫn thẫn thờ trên hè phố nườm nượp người xe qua lại dưới những ánh đèn. Tôi thầm kêu lên: “Bố ơi! Liệu con có còn đủ sức để tìm cho mình được một cái gì không? Khi cuộc đời này cứ mãi khước từ con. Con sẽ phải làm sao đây? Sẽ tồn tại thế nào đây? Khi trước mắt con vẫn chỉ là một tấm màn đen u ám, con đã cố để không tuyệt vọng, đã cố để không phụ tình thương và lời răn dạy của bố, nhưng trong lúc này, con không còn chút gì để bám víu. Đêm nay con là một kẻ vất vưởng bị đời bỏ quên, không có nơi đến, không có chốn về, liệu con có còn ngày gặp bố nữa không hở bố ơi?”. Tâm trạng đầy tuyệt vọng, tủi thân và đau đớn, tôi bỗng muốn lao mình ra giữa đường trước một cái xe nào đó, thế là xong, những người xa lạ này chẳng biết tôi là ai, lòng nhân đạo của họ đủ cho tôi một nấm đất hoang lạnh đâu đó. Tôi sẽ tan vào cát bụi, sẽ hư vô không còn biết đau thương là gì. Có lẽ đó là cách tốt nhất. Nước mắt tôi cứ trào ra không ngớt. Ông trời ơi! Sao ông lại muốn có mặt tôi trên cõi đời này chứ, một nơi không hề muốn tiếp nhận tôi, ông muốn thử nghiệm điều gì đây? Hay kiếp trước tôi đã phạm phải quá nhiều tội lỗi, để kiếp này phải chịu sự trừng phạt? Tôi vốn không tin vào chuyện có kiếp trước kiếp sau của người đời, chẳng qua đó chỉ là một cách lý giải cho một sự việc nào đó mà người ta không thể tìm ra những lý lẽ thuyết phục nhất đó thôi. Tôi đã cố thực hiện câu “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” hoặc “gương mặt đẹp chỉ là một thời đoạn, tâm hồn đẹp mới là mãi mãi” vv… Đại loại là những thể nghiệm của sự mất này thì lại được kia. Nhưng khốn nỗi, người đời đâu có cho tôi cơ hội, họ chỉ nhìn thấy ngay cái xấu trước mắt, đã xua đuổi tôi đi rồi, làm sao họ đủ thời gian để tôi chứng minh rằng, tôi tuy xấu xí con người, nhưng tôi có một nhân cách hoàn chỉnh. Tôi luôn sống vì người khác, tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện hại ai, cũng không bao giờ mưu lợi bất chính của bất kỳ ai, không điêu ngoa, không giả trá, không lọc lừa, không đen bạc. Nhưng không một ai nhìn thấy những điều đó cả, trong khi họ phải mất rất nhiều thứ đáng tiếc cho một gương mặt đẹp nào đó. Còn tôi, chẳng may trong một bộ dạng khó coi, thì coi như vứt đi tất cả. Tôi không có quyền oán trách cuộc đời, cũng chẳng oán trách số mệnh, tôi mặc nhận tất cả những gì thuộc về tôi, nhưng xin hãy cho tôi một con đường sống chứ. Cho dù ai rồi cũng đến lúc phải chết, nhưng ít ra không phải là cái chết tự chọn, vì nếu thế thì bố tôi sẽ đau lòng lắm lắm.

Bất chợt một tiếng thét dứt tôi ra khỏi tâm trạng, một chị công nhân vệ sinh đường phố ngã lăn ra đường khi một chiếc xe máy thản nhiên rú ga vọt vào đám đông mất hút. Tôi chạy vội ra đỡ chị dậy. Cũng may là chị không bị thương tích gì nặng ngoài một mảng da trầy trụa và tay áo rách bươm. Tôi lấy chai nước chị đeo bên thành xe, đổ ra rửa sơ vết thương cho chị. Những lời thăm hỏi, và sự trợ giúp của tôi khiến chị tỏ ra rất thân tình, cởi mở. Một phần có lẽ trong ánh sáng nhập nhoạng, chị không nhìn rõ mặt tôi, nhưng dẫu sao lòng tôi đã lại dậy lên một niềm vui. Thấy chị nhăn mặt vì đau khi cầm cái chổi để tiếp tục công việc của mình, tôi đề nghị được làm hộ chị. Chị nhìn tôi rất ngạc nhiên, nhưng cái gật đầu của tôi đã khiến chị vừa cảm ơn vừa tháo cái khẩu trang đưa cho tôi đeo. Miệng đeo khẩu trang, tay cầm cái chổi, tôi một thoáng sững người “Nó đây rồi”. Việc đời vốn thế, khi ta cố công cố sức đi tìm thì chẳng thấy, rồi bỗng nhiên nó xuất hiện và cứ như ấn vào tay ta vậy. Kể ra cũng hơi một chút cay đắng, nhưng tôi nhận ngay ra ý nghĩ sai lầm của mình. “Không có công việc xấu, chỉ có hành vi tồi”.

Đi vào công việc này ít lâu, tôi ngộ ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong loại hình công việc mà phần lớn người đời chê khinh này. Mỗi khi nhìn đường phố sạch bong, sáng sủa dưới những nhát chổi của mình, tôi nghe lâng lâng một niềm cảm xúc, ngầm tự hào là mình cũng đã góp vào cuộc sống chung này một chút gì đẹp đẽ. Mặc dù hàng ngày, hàng vạn hàng vạn người đi qua, chẳng ai bận tâm chú ý đến, có chăng là họ chỉ tỏ ra khó chịu trước một đống rác bẩn chưa kịp dọn đi, gây trở ngại cho giao thông và nhăn mũi vì thứ mùi khó chịu. Công việc đem lại cho tôi một đời sống tương đối ổn, mức lương tương đối cùng tiền phụ cấp và bồi dưỡng độc hại cũng tạm gọi là dư dả với tôi. Sau mấy năm dành dụm, tôi mua được một nếp nhà, chưa đầy 10m vuông và lụp xụp tôn ván thôi, nhưng tôi sướng lắm, vì nó là của mình, do chính tay mình làm ra, là một khoảng tự do riêng biệt, không phải e dè, ngần ngại, không phải o ép, bức bối như khi đi ở nhà thuê nữa. Những gì thuộc về mình, thì có nhỏ bé, xấu xí đến thế nào thì cũng thực sự là giá trị đối với mình. Tôi nghiệm ra thế, lòng tin lại được tăng thêm nhờ sự kiện này, một cái gì đó manh nha, mơ hồ thôi, tôi không cảm nhận rõ rệt được, nhưng hình như có cái gì đó đang mở ra với tôi.

Lúc rảnh rỗi, tôi thường đọc sách xem báo, một thú vui không thay đổi từ ngày còn đi học. Đôi khi buồn buồn, tôi nguệch ngoạc vài nét vẽ, những nét vẽ vô tình đầy ngẫu hứng. Bỗng một ngày, tôi chợt nhận ra, hình như mình có khả năng vẽ. Phát hiện này khiến tôi rất vui. Bắt đầu là tranh minh họa gửi cho các báo, những phản hồi tích cực dã tăng thêm niềm phấn khích và sự say mê trong tôi. Dần dần là những bức tranh. “Tác phẩm là sự gửi gắm khát vọng của người nghệ sĩ”. Đúng vậy, nỗi khát khao lớn nhất của tôi là được trở thành một cô gái đẹp, điều mà không bao giờ có thể thành hiện thực. Nên tôi vẽ nỗi khao khát của mình, những cô gái trong tranh của tôi rất đẹp, chí ít là với cảm nhận của tôi. Họ xuất hiện trong mọi thứ trang phục, sắc tộc, kiểu dáng. Đánh bạo thử dư luận xã hội, tôi mang một ít gửi bán ở một cửa hàng mỹ nghệ, trong tư cách là người giúp việc cho tác giả. Những bức tranh đã mang đến cơ hội cho tôi.

Chủ cửa hàng chuyển thái độ thờ ơ miễn cưỡng sang hối thúc đón đợi rất nhanh. Có những lúc tôi thẫn thờ, mất cả cảm giác vì không tin sự thật đang đến với mình. Chưa thể gọi là thành công, nhưng đã có thể cho là một chút kết quả. Phải chăng cái lý do của ông trời là đây? Tôi không muốn biện giải theo cách ấy, đó chỉ là một cái phao cần thiết trong lúc con người chênh chao mà thôi. Chỉ biết, tôi cũng đôi chút hài lòng với những gì mình đã đạt được. Thế rồi xuất hiện những bài báo xôn xao tên tuổi của một họa sĩ. Căn cứ vào bút hiệu và tính đặc trưng của những bức tranh là những cô gái, người ta cho rằng họa sĩ phải là một nam nhân. Tôi bật cười khi đọc được những lời bình luận ấy. Cũng tốt thôi, tôi chẳng cần người ta phải biết đến tôi, vì sẽ có thể làm mất đi chút cảm tình mến mộ ấy, tôi chỉ cần người ta chấp nhận tác phẩm của tôi, thế cũng là quá đủ cho một niềm mong ước rồi. Tôi chợt nghĩ nếu bố tôi biết được bây giờ tôi đang sống thế nào, chắc ông vui lắm. Trong dạt dào cảm xúc, tôi bật khóc khi thốt tiếng gọi “Bố ơi!”. Đã bấy nhiêu năm rồi, chắc bố vẫn luôn khắc khoải về con, và hẳn bố cũng tin rằng con đã tìm được một lối đi thích hợp cho mình, phải không bố? Con sẽ về thăm bố, con sẽ về thăm cả nhà, nhưng chưa phải lúc này, bố ạ. Bố hãy cho con thêm ít thời gian nữa bố nhé. Tôi hình dung đến một cuộc diện, không biết tất cả sẽ như thế nào sau một thời gian cách xa lâu thế. Có lẽ mọi sự cũng đã khác đi, bởi cuộc sống luôn là những chuyển dịch không ngừng, thời gian chuyển dịch, hoàn cảnh chuyển dịch, thì tâm tư con người cũng vô hình trung mà chuyển dịch theo.

Tôi giận đến run người khi người chủ cửa hàng mỹ nghệ gọi điện bảo tác giả ra gấp vì có sự kiện cáo bản quyền, một số tranh của tôi bị cho là sao chép. Hừ, ai mà ngang ngược thế, cho dù ý tưởng có trùng nhau thì cách thể hiện cũng khác nhau chứ. Xưa nay tôi chết thì chịu chứ không thèm làm cái trò đốn mạt ấy đâu. Trong trạng thái phừng phừng lửa giận, tôi đi ngay không kịp chuẩn bị gì thêm. Trong trí óc chỉ chăm chăm những lập luận để bảo vệ danh dự mình. Đến cửa hàng, thì người chủ đã đợi sẵn, anh ta chỉ vào cái xe con đang đậu, bảo tôi:

- Chị lên xe đi, đang ầm ĩ ngoài Nhà văn hóa đấy.

- Sao lại ở Nhà văn hóa?

Câu trả lời là cái đẩy để tôi tọt vào trong xe nhanh hơn, và anh ta thì nhanh nhẹn lên cái ghế bên cạnh tài xế ngồi. Dọc đường tôi hỏi han anh ta vài câu, thì chỉ nhận được câu trả lời lấp lửng:

- Chị cứ ra đấy rồi sẽ biết.

Tôi cũng không hỏi gì thêm, chỉ mong cho mau đến nơi. Chiếc xe lướt êm vào trong sân rồi dừng lại trước thềm nhà. Bên trong đúng là có những tiếng nói lao xao, thế này thì đúng là có chuyện thật rồi. Tôi mở cửa xe, đi nhanh lên những bậc thềm. Bỗng tôi đứng sững, trước mắt tôi là những bức tranh của tôi treo gần kín hết bốn bức tường. À, thì ra có người đem tranh của tôi ra triển lãm nhưng lại nhận là tranh của họ chứ gì. Tôi hướng về phía bục phát biểu, thì chợt nghe:

- Xin trân trọng giới thiệu cùng quý quan khách: nữ họa sĩ Ai Nhân đang hiện diện trước mắt quý vị đây ạ.

Tôi hốt hoảng khi những ống kính phóng viên chĩa vào, những ánh đèn flash nháy liên tục. Phản xạ tự nhiên tôi vụt ôm mặt quay người bỏ chạy. Bất ngờ tôi va phải một người, không phải là một cái va bình thường, mà gần như tôi ụp hẳn vào ngực người ấy, một vòng tay quành ngang người tôi, tôi hốt hoảng xô ra và ngước lên:

- Bố!

Một lần nữa tôi đứng chết sững, bất ngờ đến đứng tim, nghẹn cứng cổ. Bố tôi ôm lấy tôi, vỗ nhẹ vào lưng mấy cái rồi né người qua một bên:

- Con xem, ai kia?

- Mẹ!

Mẹ tôi trong chiếc áo dài nhung, dang rộng đôi tay, tôi vô thức ào vào vòng tay mẹ, bàng hoàng như đang một giấc mơ. Mẹ tôi nghèn nghẹn:

- Con! Con gái của mẹ.

Tiếng gọi thân thương cùng đôi tay ôm chặt lấy tôi, tôi bật khóc, khóc như mưa như gió, khóc như chưa bao giờ khóc. Mà cũng đã lâu lắm rồi tôi mới lại khóc. Mỗi lúc có điều gì thương tâm, tôi lại tự nhắc nhở mình: Không được khóc, khóc chẳng giải quyết được gì, chỉ làm con người ta thêm hèn yếu đi thôi. Vậy mà bây giờ tôi đang khóc, nhưng không phải là những giọt nước mắt khổ đau. Mãi một lúc sau cả hai mẹ con mới trấn tĩnh lại được, nhiều người đang đứng quanh chúng tôi, tôi nhìn thấy cả hai chị tôi. Ba chị em ôm chầm lấy nhau. Một cuộc đoàn viên mà tôi không bao giờ tưởng tượng ra được. Tôi nghe người chủ cửa hàng đang nói:

- Thực ra tôi biết chính chị ấy là tác giả lâu rồi, đến lúc bác tìm đến hỏi thì lại càng chắc hơn.

Tôi đưa đôi mắt đỏ mọng nhìn bố trong cái nhìn đầy thắc mắc. Bố tôi cười cầm lấy tay tôi và nói:

- Bố tự hào về con, con gái ạ.

Chúng tôi phải tạm rời niềm vui đoàn tụ, vì những phóng viên đang chờ đợi tôi. Tôi phải trả lời họ một chút về quá trình. Sau đó, bố tôi gọi điện đến một nhà hàng, đặt một số món ăn và nói địa chỉ để họ mang đến. Tôi kinh ngạc vô cùng khi bố đọc đúng địa chỉ nhà tôi. Ngôi nhà lụp xụp tôn ván khi xưa đã kịp khang trang tươm tất trong năm trước. Hóa ra bố đã biết khá nhiều về tôi, nhưng từ bao giờ? Sao đến bây giờ mới…? Bố tôi vẫn mỉm cười bí ẩn trước ánh nhìn của tôi. Nhưng ông chưa có thời gian để giải đáp cho tôi, vì mẹ tôi và hai chị tôi đang thay nhau hỏi chuyện suốt dọc đường về. Đến nhà, bố tôi bảo:

- Vợ chồng Khánh nó đến sau, bố chỉ chỗ cho nó rồi.

Khánh là em gái tôi, thì ra đã có chồng, ừ mà cũng bao năm rồi còn gì. Nhưng con số thời gian lúc này đã trở nên vô nghĩa, khi cảnh cuộc đời người chỉ như hôm qua và hôm nay. Bây giờ thì tôi mới rõ ngọn ngành. Đúng là khi tôi mới đi khỏi nhà thì chẳng ai đoán được là tôi sẽ đi đâu cả. Cũng đi tìm hỏi một số nơi nhưng không có kết quả gì. Cả một thời gian dài, bố khắc khoải về tôi. Mẹ tôi và các chị em tôi cũng trăn trở, lo lắng. Cuối cùng thì mọi người chỉ biết cầu mong cho tôi gặp được những điều may mắn. Tuy không có chút tin tức nào về tôi, nhưng bố tôi vẫn tin rằng tôi sẽ đứng vững trước những thử thách của cuộc đời, và ông cũng tin sẽ có một ngày gặp lại. Bố tôi cũng là một người thích xem tranh, khi dòng tranh của tôi xuất hiện, những bức tranh mang dáng nét mẹ tôi và các chị em tôi, thì ông linh cảm tác giả chính là tôi. Thế là ông âm thầm cất công tìm hiểu, cuối cùng thì ông đã lần ra chỗ tôi ở, nhưng thấy chưa phải là lúc để đưa tôi về lại gia đình. Ông yên tâm theo dõi cuộc sống của tôi, nhưng vẫn không cho cả nhà biết. Khi chọn được thời điểm thích hợp, ông đã bắt tay vào một việc, cũng là dịp tốt nhất cho gia đình vui niềm vui sum họp. Tôi chợt hoài nghi một điều, nhưng bố tôi hiểu ngay, ông khẽ lắc đầu:

- Không đâu, bố không mua tranh của con, trong số tranh triển lãm ấy có rất nhiều bức bố phải tìm mượn của người mua đấy. Thành công của con là có thật, bố chỉ làm giúp con cái điều mà con không dám làm thôi

Tôi ngượng ngùng, đúng là chẳng bao giờ tôi có ý định chường mặt ra công chúng cả, tôi sẽ chỉ mãi âm thầm với những gì mình có thể thôi. Bây giờ thì khắp nơi đã thấy mặt tôi rồi, bỗng nhiên tôi như cởi thoát được khỏi mình một sự gông xiềng nào đó. Nỗi tự ti trong tôi đã tan biến, tôi cảm giác từ mai tôi bước đi bằng những bước chân đĩnh đạc, đàng hoàng, cho dù đúng là tôi vẫn xấu thế thôi, nhưng tôi đã sống được đúng nghĩa một con người, thì việc gì tôi phải xấu hổ chứ. Tôi nhìn bố bằng tia mắt biết ơn. Bố ơi! Bố có biết rằng chính bố đã cho con một điều quý giá như thế nào không? Bố mẹ không những sinh ra thân xác con, mà còn sinh ra cho con cả một chữ NGƯỜI đích thực nữa. Tôi còn đang ngồn ngộn cảm xúc trong mình, thì ngoài cửa nhân viên nhà hàng đưa thức ăn đến. Chúng tôi sắp dọn ra vừa xong thì có tiếng gọi:

- Họa sĩ Ai Nhân ơi!

- Vợ chồng con Khánh đến rồi đấy.

Tôi bước vội ra cửa, lại thêm một lần nữa sững sờ, lần này không chỉ có tôi mà còn một người nữa. Sao lại có sự ngẫu nhiên đến khó tin vậy chứ? Không lẽ trái đất này quá chật vậy sao? Em rể tôi, cũng chính là nỗi đau đầu đời của tôi ngày nào. Em gái tôi vui mừng ôm lấy tôi nên không nhận ra thái độ của hai người. Nhưng tôi định thần lại nhanh, vừa ôm em gái vừa gật đầu cười nói:

- Mời hai em vào nhà.

Cậu em rể cũng sực tỉnh, mỉm cười rồi xách cái va li theo vào. Khi cả nhà đã ngồi vào bàn, bố tôi cười:

- Sâm banh chứ hả?

Những tiếng vỗ tay, những tiếng cười hoan hỉ ran theo tiếng bọt phụt tung lên từ chai rượu. Tôi cầm ly giơ lên cụng mà nghe mắt mình nóng ran, giàn giụa. Khổ, bỗng nhiên mà sinh ra cái chứng hay khóc thế không biết.

ĐÀM LAN

XAO ĐỘNG

XUÂN THÌ

Đặt thùng tưới xuống đất, tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là xong. Mấy chục gốc mai trong vườn vừa được tắm mát, chúng hân hoan chìa những chiếc nụ bum búp, be bé ra đón nắng. Đó là niềm hy vọng của ba tôi, giấc mơ làm giàu của ba sắp trở thành hiện thực.

Mấy hôm trước, ba bảo tôi vặt lá mai. Theo dự tính của ba thì đây là thời điểm thích hợp nhất. Hái lá sớm quá, chưa tết, mai đã ra hoa. Còn chậm, tết xong, mai mới từ từ nở thì... xuân muộn. Chắc hẳn không ai thèm chọn mua những cây mai như thế. Và, ba sẽ bán ế, giấc mộng vàng tan vỡ. Gia đình lại được dịp xào xáo. Ba mẹ thay phiên trách móc nhau. Tết sẽ buồn như... chết. Vì thế, tôi phải ra tay nghĩa hiệp, giúp ba ép mai nở đúng giờ giấc. Tôi ngắt lia, ngắt lịa, từng chiếc lá thi nhau lìa cành. Chúng bay tản mạn quanh tôi nửa như luyến tiếc nguồn cội, nửa như chế giễu: “Chưa hết đâu, còn phải quét lá nữa, bé ạ!”. Thấy vẻ mặt ủ rũ của tôi, ba an ủi: “Bao nhiêu lá là bấy nhiêu tiền đó con!”. Tôi chẳng phấn khởi chút nào. Những điều ba nói thường ít có sức thuyết phục đối với mẹ và tôi. Bởi lẽ, kế hoạch nào của ba cũng vĩ đại nhưng thành quả đạt được luôn... hạn chế. Làm việc gì ba cũng phô trương ầm ĩ nhưng thu hoạch thì lặng lẽ, im lìm.

Sau mấy lần đi buôn chuyến bị lỗ đến cụt vốn, ba chuyển sang nghề trồng cây cảnh. Ông đoán trước một tương lai xán lạn chưa từng thấy. Một vốn, chín mười lời! Theo ba, xã hội ngày càng đổi mới, phát triển. Đời sống nhân dân thoải mái, sung túc nên nhu cầu giải trí cũng được nâng bậc. Ngoài những phương tiện hiện đại như truyền hình màu, cát-xét, xe máy,... Phong trào chơi hoa kiểng, cây cảnh cũng rầm rộ. Thú vui tao nhã này được rất nhiều người ủng hộ. Từ nhà nghèo đến nhà giàu đều yêu thích. Không có một biệt thự nào vắng bóng cây cảnh trong nội thất. Thiếu màu xanh cây lá như thiếu khí trời và không có cây cảnh, chủ nhân ngôi nhà trở nên kém thẩm mỹ, trình độ văn hóa xem như còn thấp. Người ta đua nhau bỏ tiền ra mua tiếng lịch lãm, tao nhã. Ba tôi lý luận:

- Cái gì nhà giàu thích thì chẳng mấy chốc trở nên quý báu và lên giá.

Để minh họa, ba kể rằng:

“Ngày xưa, có hai vợ chồng nhà kia đã nghèo còn đông con. Họ làm lụng quanh năm suốt tháng vẫn không đủ sống. Một hôm, chịu hết nổi cảnh bữa no bữa đói, hai vợ chồng bàn nhau tìm cách tự tử cho rảnh nợ. Họ dắt đàn con vào rừng sâu tìm trái độc. Ở đó, họ bắt gặp một loại trái kỳ lạ, vỏ vàng xanh, ruột màu cam và hột lại đen bóng, mọng nước. Đoán chắc là trái độc, họ chia nhau ăn rồi chờ... chết. Nhưng, một lúc sau, họ chỉ thấy... no và còn có cảm giác khỏe khoắn như vừa được tẩm bổ. Hai vợ chồng chợt tỉnh ngộ. Họ thấy chết là ngu ngốc. Quanh họ còn biết bao điều bí ẩn, hay ho trời sinh ra để cho con người hưởng. Chưa chi đã vội đầu hàng hoàn cảnh. Hai vợ chồng liền dắt đàn con... về nhà. Hằng ngày, họ thay phiên trở vào rừng hái trái cho gia đình đỡ dạ. Nhưng, ăn hoài, họ phát ngán, bèn đem trái ra chợ bán. Lúc đầu, người nghèo mua ăn vì giá rẻ. Số tiền bán trái rừng vừa đủ để đổi gạo sống qua ngày nên hai vợ chồng gọi nó là Đu Đủ. Lâu dần, những người giàu cũng “thèm trái lạ”. Từ khi họ bắt đầu để ý tới đu đủ thì nó trở thành mặt hàng cao cấp, quý báu và giá bán tăng gấp mấy lần. Ba tôi kết luận: “Cây cảnh cũng thế. Loại nào, cây nào nhà giàu để ý có thể bán một hai chỉ vàng như không. Đây là cách làm ăn hợp thời, vừa mau phát đạt vừa được xem là nghệ nhân”.

Để thực hiện ý định, ông vào rừng truy tìm cây quý. Ngày nào cũng vậy, sáng sớm, ba đã ra đi và đến mặt trời chếch bóng, ông mới quay về. Cái sọt cột sau poọc-ba-ga đầy nhóc cây là cây. Khi thì mai già, lúc lại toàn bồ đề con hay cây xanh. Ba giải thích, loại này quý lắm, chỉ cần nhìn mấy cái gốc, nó ngoằn ngoèo cong queo tựa như những chú rắn bé tí cuộn vào nhau dưới vòm lá xanh um. Những nhánh bằng thăng nho nhỏ trông hao hao mấy cụm mây màu lục trôi là đà trên mặt đất.

Tôi thắc mắc:

- Sao chỉ toàn là lá, chẳng có hoa làm sao đẹp?

Ba nạt ngang:

- Đâu phải cứ phải hồng, đỏ, tím, vàng mới đẹp. Màu xanh là màu... hy vọng. Con nít mà biết gì?

Thấy sắp có “chiến tranh”, mẹ vội kéo tôi vào nhà, để ba mặc tình trồng trọt, tỉa tót.

Chỉ trong vòng mấy tháng, khoảng sân nhỏ nhà tôi rợn ngợp màu xanh cây cảnh. Chỗ này toàn mai, chỗ kia cau kiểng, chỗ nọ bồ đề. Ba tôi chỉ chừa một lối đi hẹp ơi là hẹp. Vậy mà ông vẫn chưa hài lòng, cứ tiếp tục vào rừng. Mẹ tôi thường rầu rĩ than thở:

- Ôi, chắc ba con định lập một khu rừng tại trung tâm thị xã đây mà!

Nhưng, chiều nọ, ba tôi trở về với dáng vẻ “thân tàn ma dại”, mặt mày hốc hác, kinh hoảng như vừa gặp yêu quái trong rừng. Cái sọt trên poọc-ba-ga biến mất. Cả cây cuốc và dao phay cũng chẳng thấy. Sau một hồi thở dốc, lấy lại bình tĩnh, ba thều thào:

- Đúng là đồ... ăn cướp mà!

Mẹ tôi hết hồn, kêu lên:

- Trời, ông gặp cướp à?

Ba khua tay, múa chân:

- Bà coi, cây mai đó là của tôi. Tôi đã “xí phần” lâu rồi. Tôi làm một cái rào để bảo vệ nó. Vậy mà sáng nay có mấy thằng ôn hoàng tới đào.

Mẹ tôi nổi nóng:

- Sao ông không đòi lại?

- Đòi chứ sao không? Tôi đâu có sợ tụi nó.

- Rồi sao? Mẹ tôi hỏi.

Ba tiu nghỉu:

- Tụi nó không trả còn vây đánh tôi. May là tôi... có võ, không thì làm sao chạy thoát về đây.

Trong lúc tôi che miệng cười khúc khích thì mẹ tôi ấm ức:

- Tức chết đi được. Còn cái sọt đâu?

- Tôi bỏ luôn rồi. Tụi nó tới bốn thằng. Vả lại cái cuốc của tụi nó dài và bén lắm. May là chiếc xe đạp gởi ngoài bìa rừng...

Ba lý luận:

- Bà với con phải biết “Mãnh hổ nan địch quần hồ”.

Từ đó, ba tôi không vào rừng nữa mà bắt đầu giai đoạn tỉa tót, uốn nắn. Ba mua hàng kí lô dây chì để tạo dáng cho cây cảnh. Ông quấn quanh thân cây, bắt nó ưỡn ẹo đủ cách. Cây vươn cao, cây khom khom, lùn xuống, trông chúng co rúm thấy mà tội nghiệp. Thoạt nhìn như những tên tử tội bị trói, chờ giờ xử trảm. Mấy gốc bồ đề được ươm trồng trong những cái chậu tuyệt đẹp nhưng phải kèm cặp, chống chỏi đủ thứ vì hai phần ba rễ khoe mình trên mặt chậu, phần còn lại chỉ cắm hờ hững xuống lớp đất. Đau khổ nhất là mấy chục cây mai. Chẳng biết ai bày cách mà ba chặt ngang thân chúng. Ba cho rằng làm như vậy mai sẽ đẹp hơn. Khi mọc nhành mới, cành lá sẽ xum xuê. Tất nhiên hoa sẽ nhiều. Nhưng lúc bấy giờ, nhìn chúng, tôi muốn khóc, tưởng mình đang đứng giữa một nơi hoang phế, chết chóc với hàng mai cụt ngọn.

Chưa hết, ba tôi còn bỏ ra hai chỉ vàng để mua về mấy cây si già cỗi. Ông chọn chỗ tốt gần nhà để dễ trông chừng. Nhưng, cây chưa kịp bén rễ thì “không cánh mà bay”. Sau một đêm mưa dông, sáng, ra vườn, ba kinh hoảng gào lên “Trời ơi là trời”. Tôi và mẹ chạy tới cũng hoảng hồn vì chẳng thấy mấy cây si. Tại đó, còn lại những cái lỗ sâu hóm, lưng lửng nước. Chưa bao giờ tôi thấy ba đau khổ như vậy. Ông không ăn, không ngủ mà chỉ... nhậu và nhậu. Ông say lúy túy. Hết chửi đời đến chửi trời, chửi đất. Ông tự làm khổ mình cho đến khi... ngã bệnh. Đã vậy, năm đó, tết đến, mấy cây mai cụt ngọn không chịu ra nhánh nhanh chóng. Chúng nhú vài ba cụm lá non xèo. Báo hại ba tôi thêm chán nản. Ông ủ rũ suốt ngày như cây nhớ rừng, xơ xác.

Mẹ và tôi yêu ba lắm. Vì thế, cả hai âm thầm góp sức chuyển biến khu vườn này. Mẹ về ngoại xin mấy chậu Thiên Tuế. Tôi học hỏi các bạn cách trồng hoa hồng, hoa cúc, mãn đình hồng... rồi ươm cây vào chỗ trồng cây si dạo nọ. Mấy chục gốc mai dường như thấu hiểu lòng tôi cũng vội vàng đâm chồi nẩy lộc, cành lá xum xuê, báo trước một mùa xuân tươi đẹp. Cây cối trong vườn thi nhau xanh tốt, nhẫy nhượt. Ngoài việc chăm bón, tôi còn bảo vệ cây trồng bằng cách treo trước cổng một cái bảng to tổ bố với hàng chữ: “Coi chừng chó dữ và điện 220”. Kết quả, mùa đông sắp tàn, xuân sắp đến, toàn bộ cây cảnh không bị tên trộm nào để ý. Có lẽ những mặt hàng này chỉ thông dụng nhưng không quý lắm. Dù sao, nó cũng giúp tôi nuôi dưỡng niềm tin. Tôi chẳng có tham vọng làm giàu mà mơ ước được sống hạnh phúc với ba mẹ trong mái ấm gia đình.

- Cô bé... ơi cô bé!

Giật nẩy mình, nhìn ra cổng, tôi trông thấy hai người lạ ăn mặc sang trọng, một già, một trẻ đến bên rào. Tôi lễ phép hỏi:

- Dạ thưa, hai ông định tìm ai?

- Có phải đây là vườn hoa kiểng của ông Hai Phi không cô?

- Dạ phải! Tôi đáp.

- Tôi là người quen cũ của ông Hai, muốn gặp để hỏi mua ít
cây cảnh. Người đàn ông lớn tuổi bảo.

Tôi mừng quýnh:

- Dạ, mời hai ông vào.

Người đàn ông còn trẻ trêu chọc:

- Không mở cổng làm sao vào, cô bé?

- Dạ, xin lỗi, tại mừng quá nên cháu quên.

Gã con trai nói với người cùng đi:

- Chú thấy chưa, người ta chờ mình từ lâu lắm.

Tôi nguýt dài và nghĩ thầm: “Người đâu mà nhiều chuyện thấy bắt ghét”. Tôi liền hù:

- Coi chừng chó dữ đó, ông kia.

Hắn quay lại cười, nhe hàm răng trắng như... răng chó!

- Hổng dám sợ đâu mà hù. Làm như người ta là con nít không bằng.

- Chó dữ thiệt đó, coi chừng...

Hắn lại cười:

- Người dữ thì có!

Tôi đỏ mặt, định cãi thì người đàn ông cao tuổi lên tiếng:

- Trà, không được trêu chọc người ta.

Trà làm bộ le lưỡi rồi tủm tỉm cười, thấy phát ghét. Mời hai chú cháu vào nhà gặp ba, tôi trở ra vườn ngồi chống cằm bên hàng cúc đại đóa, lòng bỗng dưng buồn bã khác thường. Rồi đây những hàng cây, những đóa hoa đẹp sẽ rời bỏ nơi này về nhà khác. Chúng góp phần trang trí, tô điểm mùa xuân của một chỗ nào, không phải nhà tôi. Rồi đây, khi nhà nhà rực rỡ, lộng lẫy để đón giao thừa thì nơi này sẽ chỉ còn trơ khoảng sân cằn cỗi, bạc màu. Thảng hoặc sót lại vài loại cây hay hoa kém hương sắc. Cuối cùng, nỗi buồn cũng thấp thoáng quanh tôi.

- Người đẹp hay hoa đẹp?

Tôi giật mình quay lại. Gã “nhiều chuyện” lại làm tôi bực mình.

- Vô duyên!

Tự động ngồi xuống bên tôi, gã... bắt đầu nhiều chuyện:

- Hình như trên trán tôi có hai chữ “vô duyên” thì phải?

- Vô... duyên! Tôi buột miệng.

Trà bật cười:

- Thấy chưa? Lại vô duyên. Có lẽ hai đứa mình “vô duyên nên đối diện cứ... cãi liền”.

Tôi che miệng cười khúc khích. Tưởng tôi hài lòng, Trà liền tấn công:

- Bé cười, tôi mừng như chết đi được sống lại.

- Xạo.

- Hai đứa mình hợp nhau lắm chứ bộ. Cùng xạo có cỡ. Nhà không có nuôi chó mà dám treo bảng hù dọa.

Trà bước đến bên rào, ngắt một cọng dây tơ hồng đưa ra trước mắt tôi:

- Bé nè, dây điện 220 đây phải không?

- Ừ đó, rồi sao?

- Tốt, sẽ có người trèo rào vào hái trộm hoa.

Trời! Liệu gã này có phải là kẻ gian không đây. Tôi liền đề cao cảnh giác. Chỉ vào cây cuốc đặt gần đó, tôi thản nhiên bảo:

- Thử xem rồi sẽ biết.

- Hãy đợi đấy, cô bé!

Đêm nào tôi cũng thức rình đến khuya lơ khuya lắc. Không có ai lẻn vào vườn. Ngày Tết càng gần, cây cảnh trong vườn càng xanh tốt, ngào ngạt hương thơm, tôi càng lo lắng, sợ kẻ gian cướp mất công lao động khó nhọc bao ngày và mang theo cả niềm hy vọng của ba. Bây giờ, tôi lại mong bán được cây càng sớm càng tốt.

Không uổng công chờ đợi, số mai trong vườn được người săn cây cảnh và cả những người yêu hoa thật sự tới mua gần hết. Các loại hoa cũng đem lại lợi nhuận đến cho gia đình tôi khá cao. Đúng lúc ấy, Trà và chú anh quay lại. Người đàn ông cao tuổi chọn mua mấy chậu thiên tuế. Còn Trà, anh ra vườn, sau một hồi ngắm nhìn, Trà chọn cả chục chậu hồng với giá một trăm ngàn đồng. Trao tiền cho tôi xong, trước khi ra về, Trà dặn dò:

- Giữ giùm tôi nghe, cô bé. Hôm sau tôi cho người tới chở.

Những đóa hồng nở rộ, tươi vui. Ong bướm dập dìu trongvườn hoa. Ai đi ngang cũng trầm trồ, khen ngợi. Vậy mà Trà đâu chẳng thấy. Anh đã trễ hẹn hai ngày. Ba mươi tết rồi còn gì nữa. Mặt trời chếch bóng đằng Tây. Đêm sắp về. Giao thừa gần kề. Không lẽ anh quên mấy chậu hoa ở đây. Thấy tôi nóng ruột, đi ra đi vào, ngồi đứng không yên, ba tôi bảo:

- Ối, hơi đâu con lo. Họ là người quen cũ của ba. Hai chú cháu giàu lắm. Một trăm ngàn đối với họ có đáng là bao.

Mẹ tôi cũng an ủi:

- Ừ, kệ nó. Ai biểu mua mà không nhớ, ráng chịu. Đâu phải lỗi tại mình.

Tôi thở dài:

- Dù biết thế nhưng con vẫn thấy không ổn đâu ba mẹ. Chẳng lẽ tốn tiền mà không mua được gì. Làm sao đây ba?

Ba nổi nóng:

- Ai mà biết. Khi không họ đem tiền tới đây chớ ba có ép buộc gì đâu!

Bỗng nhiên mẹ tôi tròn mắt, đưa một ngón tay lên môi:

- Mẹ nghi quá! Hay là thằng này... khùng!

Tôi bật cười nhưng sau đó cảm thấy mẹ nhận xét có phần hơi tàn nhẫn. Xem ra, Trà cũng... dễ thương chứ bộ.

- Không phải vậy đâu, ảnh khôn thí mồ!

- Vậy con ở đó đoán già, đoán non một mình đi. Để mẹ lo nấu nướng, rước ông bà.

Thời gian như ngừng lại trước thềm năm mới. Đêm trừ tịch len lỏi vào khu vườn tĩnh mịch của tôi. Mùi khói nhang từ trong nhà lan tỏa, quyện lẫn hương hoa ngọt lựng, thanh thoát. Tôi bồi hồi đón giao thừa và chờ đợi những điều mới lạ đến với mình, dù vui hay buồn.

- Chào cô bé! Chúc cô bé một năm vui vẻ, hạnh phúc.

Trà đã đến, tuy có hơi muộn nhưng dù sao cũng còn kịp nhận hoa, không phải chờ sang năm mới, tôi mừng quýnh, reo to:

- Anh Trà! Tới nhận hoa phải không?

Trà mỉm cười vui vẻ:

- Không, anh tới để chúc tết hai bác và tặng hoa cho bé.

- Tặng hoa cho em! Hoa gì?

Trà chỉ những chậu hoa hồng:

- Tất cả những chậu hoa này, anh xin tặng cho bé.

Quá sức tưởng tượng của tôi. Cả chục chậu hồng, lẽ nào anh... khùng thật. Tôi cảm thấy bứt rứt không yên:

- Mua hoa để tặng người bán hoa à? Em không dám nhận đâu!

- Sao vậy?

- Như thế chẳng khác nào khi không mà nhận tiền người lạ.

Trà đưa hai tay lên trời như cầu cứu:

- Trời ơi là trời! Còn khách khí nữa, rõ khổ! Mình có phải là người lạ đâu. Chú anh quen ba em thì hai đứa cũng... quen luôn.

Trà bỏ hai tay vào túi quần, đi tới đi lui một hồi rồi ngừng lại, nghiêm chỉnh hỏi:

- Bây giờ chịu nhận chưa?

Tôi thản nhiên:

- Chưa.

Trà phì cười, anh cú nhẹ vào đầu tôi một cái:

- Ngu quá! Thôi thì cho anh gởi lại đây, qua tết anh mang đi.

Tôi thắc mắc:

- Qua tết còn mang đi tặng ai được nữa?

- Chờ rằm tháng giêng, anh đem vào chùa để cầu... duyên. Còn em, nếu em không thích hoa thì anh sẽ tặng “quả” vậy.

Trà đứng thẳng người, tay phải đưa lên ngực, giọng trang nghiêm như đang tuyên thệ:

- Anh xin tặng “quả tim” của anh cho em. Chịu chưa?

Vừa thích thú vừa thẹn thùng, chẳng biết làm sao, tôi nguýt Trà một cái rồi bỏ chạy vào nhà. Trà và tiếng cười đuổi theo.

Tôi bắt gặp ba mẹ đứng bên hiên tự lúc nào. Cả hai nhìn chúng tôi rồi bảo nhau:

- Mùa xuân thật tuyệt vời!

Nguyễn Thị Mây (Trà Vinh)

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 08.11.2014… ........... Vũ Thư Hữu .. 01

Vài chi tiết về cuốn cổ thư “Những ký ức về xứ Annam”

(Souvenirs du Pays d’Annam) của H. L. Jammes Vũ Anh Tuấn . 07

Đại lễ Giáng Sinh & văn hóa thế giới Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết .. 10

Cỗ xe tam mã .............................................................. Thúy Toàn .. 32

Chúng ta hiểu gì

về Phương tiện của Đạo Phật (tt & hết) .......... Tâm Nguyện .. 37

Từ láy và nhân vật (tt – kỳ 3) .............................. Phạm Đan Quế .. 45

Tem và sưu tập tem ................................. Đào Minh Diệu Xuân st .. 52

Tự Lực Văn Đoàn & Văn học hiện đại Việt Nam .......... Phạm Vũ .. 55

Vài cảm tưởng sau khi tham dự

lễ giỗ 100 ngày của anh PHẠM TẤT HANH,

người bạn đồng nghiệp ................................. Vũ Anh Tuấn .. 65

Đọc sách báo có năng suất ................................. Đỗ Thiên Thư st .. 67

Cúng đưa, rước ông Táo dịp Tết ................................ Nhựt Thanh .. 71

Hát thơ .................................................................... Lê Minh Chử .. 73

Quyền được yêu… (thơ) ........................................ Lê Minh Chử .. 75

Xuân nay (thơ) ....................................................... Lê Minh Chử .. 76

Ta cứ lất lây (thơ) ................................................... Lang Nguyên .. 7 7

Lời sao trời (thơ) ......................................................... Lam Trần .. 78

Mưa tháng 10 (thơ) ................................... Phạm Thị Minh-Hưng .. 80

Mơ vạt nắng hồng (thơ) .............................. Phạm Thị Minh-Hưng .. 81

Nỗi khó khăn (thơ) .................................................. Thanh Châu .. 82

Hoa sa mạc (thơ) ..................................................... Thanh Châu .. 82

Cảm nghĩ vu vơ (thơ) ............................................. Ngàn Phương .. 83

Một chiều thương nhớ (thơ) .................................... Ngàn Phương .. 84

Thăm lại trường xưa (thơ) ....................... Nguyễn Thị Ngọc Vân .. 85

Má ơi ! (thơ) ............................................. Huỳnh Thiên Kim Bội .. 86

Chiếc xe cổ (thơ) ................................................... Tâm Nguyện .. 87

Đợi nàng Bân (thơ) ..................................................... Lê Nguyên .. 87

Em cho (thơ) ............................................................... Lê Nguyên .. 88

Vế thăm quê (thơ) ............................................. Đinh Xuân Hảo .. 89

Sông Hậu quê tôi (thơ) ...................................... Đinh Xuân Hảo .. 90

Phân vân (thơ) ......................................................... Thiếu Khanh .. 91

Biển đảo Việt Nam (thơ) .................................... Võ Thị Tân Việt .. 92

Tâm tình người lính đảo (thơ) ............................ Võ Thị Tân Việt .. 93

Giàn khoan chiều bão (thơ) ................................... Vũ Đình Huy .. 94

The drilling-rig in a stormy evening (thơ) ........ Vũ Anh Tuấn dịch .. 94

Ngôi nhà và ngọn cỏ (thơ) .................................... Vũ Đình Huy .. 95

The house and the blade of grass (thơ) ........... Vũ Anh Tuấn dịch .. 95

Trương Chi & Mỵ Nương (thơ) ..................................... Khánh Hà .. 96

Nữ sĩ Tuệ Mai (1923-1982) ................................ Hà Mạnh Đoàn .. 98

Tiếng mõ, phèng la, trống chầu

trong nông thôn ngày xưa ..................... Bùi Đẹp st 105

Anh em ......................................................................... Lam Trần 112

Tổ tiên lưu lại 27 bí quyết hữu ích cho sức khỏe ..........................

Hoàng Kim Thư st ......................................................................... 117

Trong bóng… mơ hồ .................................................. Dương Lêh 121

Vận động thế nào để giảm mỡ trong máu .......... Lê Thị Ái Liên st 127

Mèo yêu ! ................................................. Huỳnh Thiên Kim Bội 132

Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (tt – kỳ 6) Thanh Châu dịch thuật 136

Sự nhầm lẫn .................................................................. Đàm Lan 140

Xao động xuân thì ............................................ Nguyễn Thị Mây 152

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế