Hiện có 11 người xem / 2339923 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 10/6/2017 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư. Lần này cả hai đều bằng tiếng Việt và chỉ mới 17 và 18 tuổi đời, nhưng ngay lúc này cũng đã tuyệt bản. Cuốn thứ nhất mang tựa đề là “T ừ Điển Từ Mới Tiếng Việt” của một nhóm tác giả của Viện Ngôn Ngữ Học, và do NXB Tp . Hồ Chí Minh in năm 2002. Cuốn sách khổ 16x24, dày 281 trang chứa đựng khoảng 3000 ngàn từ mới rất hấp dẫn những người như người viết, vì ông là người cực kỳ yêu tiếng Mẹ Âu Cơ cho dù suốt đời sống nhờ vào hai ngoại ngữ Anh và Pháp. Tuy nhiên, ông chỉ coi hai ngoại ngữ như những dụng cụ làm việc, và thứ tiếng duy nhất ông kính trọng và quý yêu nhất trong suốt chiều dài cuộc đời chính là tiếng Việt. Vì lý do đó, nên khi thấy cuốn sách là ông bị thu hút và ẵm nàng về ngay. Trong cuốn sách ông đã thích thú tìm thấy một vài từ rất đặc biệt như sau đây:

A/ Từ AIDS (Acquired Immune Deficiency Syndrome) có nghĩa là “Hội chứng suy giảm miễn dịch bị mắc phải . Nghĩa là bệnh SIDA, nay đã được phổ thông hóa và chấp nhận trong Tiếng Việt mới.

B/ Từ Bạc mặt có nghĩa là “mặt mũi nhợt nhạt, mất đi vẻ tươi tắn sinh động”.

C/ Từ Bưởng có nghĩa là “người cầm đầu một nhóm những ngư ờ i đi tìm vàng và đá quý ” .

D/ Từ Hàm ngôn có nghĩa là “Điều không được diễn đạt trực tiếp, phải suy ra mà hiểu ” .

E/ Từ Lởm khởm có nghĩa là “ở tình trạng có nhiều cái ra cái vào, cái dài cái ngắn, không đều, không đẹp. Từ này ngày trước thường được dùng là “lởm chởm” bây giờ thành “lởm khởm”…

Toàn bộ cuốn sách chứa đựng khoảng 3000 từ mới có sức hấp dẫn dịch giả Vũ Anh Tuấn vô cùng vì ông rất tò mò về sự siêu phong phú của tiếng Việt.

Cuốn thứ hai được giới thiệu cũng bằng tiếng Việt và mang tựa đề là “Danh Ngôn Thế Giới Đông Tây Kim Cổ” cũng do một nhóm tác giả và cộng tác viên khoảng trên một chục vị và do NXB Văn Hóa - Thông Tin x uất b ản năm 1999. Cuốn sách cũng khổ 16x24, dày 723 trang, chứa đựng khoảng 5000 danh ngôn thế giới tự cổ chí kim, được nhóm tác giả sưu tầm và dịch ra tiếng Việt. Là người đọc hơi bị nhiều, và thích các danh nhân cùng các tư tưởng của họ, cuốn sách được đóng bìa cứng và trình bày khá đẹp đã rất hấp dẫn người viết khiến ông mua ngay. Có Nàng trong tay, người viết đã để ngay g ầ n 2 giờ đồng hồ để “cưỡi ngựa xem hoa” và xin nêu ra dưới đây ba câu mà người viết thích làm thí dụ:

A/ “Tình yêu nâng con người vượt khỏi sự tầm thường” của Blaise Pascal.

B/ “Khi đang yêu, ai cũng là thi sĩ” của Platon.

C/ “Chia ly là chết đi một tý” của Edmond Haraucourt. Câu này bằng tiếng Pháp là “Partir, c’est mourir un peu” và thường được dịch là “Đi là chết ở trong lòng một ít”, nhưng trong cuốn này lại được dịch như ở trên.

Và điều kỳ diệu là tên tác giả được ghi là EDMOND HAUDRICOURT trong khi trên thực tế và theo các tự điển văn học Pháp, mà ai cũng có thể tra cứu và thấy, thì tên tác giả lại là EDMOND HARAUCOURT (1857-1941). Ôi một cuốn sách như cuốn này mà để một lỗi như vậy thì thật là… hơi bị buồn, n hưng lúc này “Khi buồn th ì hãy cộng thêm… chữ cười!” chứ còn làm gì được hơn hở… Sir Trời! Một điểm đáng chú ý của cuốn sách là trong số các danh ngôn Đông Tây Kim Cổ này, có một số câu của các danh nhân Việt Nam như các Cụ Bùi Huy Bích - Bùi Hành Kiệm (vần B), Cao Bá Quát (vần C), Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Du, Nguyễn Dữ, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà) trong v ầ n N, là vần có nhiều danh nhân nước Ta nhất, Phạm Trọng Yêm, Phan Huy Chú, Phan Kế Bính (v ầ n P) và cuối cùng là hai Cụ Trần Bích San và Trần Trọng Kim (vần T). Người viết đã chịu khó ngồi đếm và tìm và kết quả là như trên xin báo cáo với toàn thể người đọc bài viết này. Sau khi được giới thiệu, hai cuốn sách được một số thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú. Tiếp lời dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách, anh Phạm Vũ đã là thành viên đầu tiên xung phong lên nói về Sài Gòn ngày xưa, về vài nhạc sĩ của Sài Gòn như Y Vân, Phạm Duy… và về y phục của phụ nữ vào th ờ i kỳ đó. Sau anh Phạm Vũ, thành viên Thúy Mai lên hát tặng các thành viên bài “Tìm mãi thương yêu”. Tiếp lời thành viên Th ú y Mai, anh Phước Hải lên nói qua về đề tài thơ. Sau anh Phước Hải, anh Tấn Thuận lên hát tặng các thanh viên bài “Tình Ca” của Hoàng Việt. Anh Tấn Thuận hát xong, anh Nhựt Thanh lên nói thêm một chút về Sài Gòn cũ và sau đó nói về các cổ tục như “mở cửa m ả ”, “phóng sinh” vv… Tiếp lời anh Nhựt Thanh, anh Minh lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ của Giáng Ngọc, và hát tặng các thành viên một bài ca bằng Pháp văn. Sau anh Minh, anh Phùng Chí Tâm lên hát tặng các thành viên một bài tình ca nhan đề là “Tôi gặp cô gái ấy” do chính anh sáng tác. Tiếp lời anh Phùng Chí Tâm, anh Lê Nguyên lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Sống lại” và “Rạng rỡ môi cười”. Sau anh Lê Nguyên, thành viên Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên một bài th ơ , và hát tặng các thành viên một bài hát là bài “Nỗi lòng người mẹ”. Tiếp lời Thùy Hương, thành viên Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên hai b à i thơ do chính cô sáng tác mang tựa đề là “Tháng 6 mưa” và “Trở lại anh và tôi”. Sau khi Hoài Ly ngâm xong, thành viên Lệ Ngọc lên hát tặng mọi người bài hát mang tựa đề là “Màu kỷ niệm” là một bài thơ của Nguyên Sa được Phạm M ạ nh Cương phổ nhạc. Lệ Ngọc hát xong, Bs. Doan Linh hát tặng các thành viên bài “Này bạn ơi”. Tiếp lời Doan Linh, thành viên Bá Mạnh lên đọc tặng các thành viên bài vè thật dài mang tựa đề là “Các Loài Chim”. Anh Bá Mạnh đọc xong, Kim Sơn lên nói về chuyến đi đám cưới con trai bà Tâm Nguyện ở La Gi và hát tặng các thành viên một bài hát về tình yêu.

Cuối cùng, anh Thanh Châu, với “tiếng hát át tiếng bom” quen thuộc lên hát tặng các thành viên bài “Cô Hàng Nước” không lạ gì với mọi thành viên, và buổi họp kết thúc một cách thật vui vẻ lúc 11g20 cùng ngày.

 

VŨ THƯ HỮU


VÀI DÒNG VỀ MỘT QUÝ THƯ

75 TUỔI ĐỜI

MÀ TÔI MỚI CƠ MAY MUA ĐƯỢC

Một bà bạn, là quốc hội của một người bạn khá thân của tôi hiện đang lâm trọng bệnh, vừa nhường lại cho tôi quý thư này. Trông thấy cuốn sách, tôi thích ngay vì tôi khá yêu các tác phẩm cổ của ta như Kiều, Bần Nữ Thán, Truyền Kỳ Mạn Lục, Trinh Thử v.v… nên vừa thấy tên sách là Chinh-Phụ Ngâm-khúc dẫn giải của cụ Nguyễn Đỗ Mục là tôi thích ngay vì mấy lý do sau đây: trước nhất là cuốn sách đã 75 tuổi đời gần bằng tuổi tôi, thứ đến là cuốn sách do cụ Nguyễn Đỗ Mục, một dịch giả danh tiếng đã dịch các tác phẩm lớn như Thủy Hử, Tây Sương Ký, và cụ cũng là người có một bút hiệu mà tôi rất thích là Hi Đình Nguyễn V ăn Tôi. Nhưng điều tôi thích nhất ở cuốn sách này là sách là một bằng chứng về một bí ẩn văn học chưa được thấy ai nhắc tới và lý giải: đó là người “diễn ra quốc văn” cuốn Chinh-phụ ngâm của Đặng Trần Côn là bà Hồng Hà Nữ Sĩ tên thật là Nguyễn Thị Điểm hay Đoàn Th ị Điểm. Thực ra tôi chỉ nghe thấy tên Đoàn Thị Điểm chứ chưa nghe thấy Nguyễn Thị Điểm bao giờ. Tuy không phải là người chú tâm nghiên cứu văn học cổ điển, nhưng tôi rất tò mò và tự hứa sau khi có được cuốn sách tôi sẽ lưu tâm tìm hiểu họ Nguyễn hay họ Đoàn họ nào là họ chính xác của Hồng Hà Nữ Sĩ. Việc này rất thích thú vì tôi cũng rất kính trọng cụ Nguyễn Đỗ Mục và không nghĩ rằng cụ đã vô tư đưa ra họ Nguyễn rất lạ này cho Hồng Hà Nữ Sĩ, và chắc chắn là một dịch giả tài ba như cụ phải căn cứ vào một điều gì để viết như vậy. Mong rằng bài viết nhỏ bé này có thể được các vị chuyên gia ngâm cứu lưu tâm một chút và cho người viết một vài lý giải khi trên rất nhiều sách vở khác Hồng Hà Nữ Sĩ tên thật l à Đoàn Thị Điểm.

Còn truyện Chinh-Phụ ngâm-khúc thì tôi đã đọc qua từ nhiều năm trướcvà cũng thích chẳng kém gì các tác phẩm khác như Bần Nữ Thán, Trinh Thử v.v… n ay thấy cuốn sách mới có này ghi rõ ngay trên bìa sách: “Có nguyên văn chữ Nho, dịch âm, dịch nghĩa và chú thích rõ ràng” thì tôi rất thích. Hơn nữa, cũng trên bìa sách còn thấy có ghi chú: “Đã được Hội Đồng Duyệt Sách công nhận làm sách giáo khoa”.

Và tôi chợt nghĩ rằng nếu đã được dùng làm sách giáo khoa từ năm 1942 thì chắc cũng phải có cả trăm ngàn học sinh đã được học là Hồng Hà Nữ Sĩ tên thật là Nguyễn Thị Điểm, thay vì Đoàn Thị Điểm như trên nhiều ấn bản khác của sách này. Đâu là sự thật, đâu là tên họ chính xác của Hồng Hà Nữ Sĩ? Đây cũng là một chi tiết văn học (cổ điển) cần được làm rõ.

Để chứng minh điều tác giả ghi ở bìa sách tôi xin trích d ẫn một đoạn ngắn đầu tiên của tác phẩm như sau:

Thoạt đầu là 3 dòng chữ Hán

Dịch Âm

(1) Thiên địa phong trần - (2) Hồng nhan đa truân - (3) du du bỉ thương hề, thùy tạo nhân.

Dịch Nghĩa

Trời đất gió bụi, má hồng nhiều truân-triên, thăm-thẳm ông xanh kia, v ì ai gây dựng ra cái nguyên nhân này.

Và sau đó là phần Chú Thích cũng rất kỹ lưỡng, xin trích một đoạn ngắn làm thí dụ như dưới đây:

“Phong là gió, trần là bụi. Gió bụi nghĩa là lúc có loạn”. Bài thơ “Trong quân nghe ống địch” của ông Trương Tuần có câu rằng: “Bất biện phong-trần sắc, an tri thiên địa tâm” có nghĩa là “không nhận cái vẻ gió bụi thì sao biết được lòng trời đất”…

Người viết rất thích cách dẫn giải của cụ Nguyễn Đỗ Mục, là một trong những người hiếm hoi mà người viết yêu thích kính phục, nên đã tự hứa với mình là sẽ để tâm đọc thật kỹ tác phẩm quý giá này. Rất may, là do đã “giã từ vật dụng”, người viết có rất nhiều thì giờ để tận hưởng tác phẩm văn học này một cách hơi bị an và nhiên, tự và tại, nhất là khi đã “hết hai mươi tuổi lần thứ tư + 3”!

Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI” 

VŨ ANH TUẤN


THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG”

Bản dịch của L inh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 1 3 3 và hết )

IX. BÊN KIA ÁNH MẶT TRỜI

243. Cuối cùng, chúng ta đứng đối diện với vẻ đẹp vô tận của Thiên Chúa (x. 1Cr 13,12) và với một sự thán phục sung sướng, chúng ta có thể đọc được mầu nhiệm Người cho chúng ta chia sẻ vào sự viên mãn vô tận của Người. Vâng, chúng ta đang lữ hành đến ngày Sabát vĩnh cửu, đến Giêrusalem mới, ngôi nhà chung ở trên trời. Đức Giêsu nói với chúng ta: “Đây! Ta làm cho tất cả nên mới” (Kh 21,5). Cuộc sống vĩnh cửu sẽ là một sự kinh ngạc được chia sẻ, nơi mỗi tạo vật sẽ tìm được vị trí của mình trong việc hiển linh chói sáng và sẽ có điều gì mang đến cho kẻ nghèo được giải phóng một cách dứt khoát.

244. Giữa thời gian đó, chúng ta được kết hợp lại với nhau để đón nhận ngôi nhà này, ngôi nhà được trao cho chúng ta, vì chúng ta biết, tất cả điều gì tốt đẹp đang có, sẽ được đón nhận vào bàn tiệc thiên quốc. Chúng ta sẽ cùng tiến bước với tất cả tạo vật trên con đường của chúng ta trên thế gian này - để đi tìm Thiên Chúa, chỉ vì “khi thế gian có một nguồn gốc và được tạo dựng, nó sẽ đi tìm Đấng sáng tạo nên nó, nó tìm Đấng đã ban cho nó một khởi đầu, đó là Đấng Sáng Tạo của nó”[172]. Hãy tiến bước trong tiếng ca vang! Ước gì cuộc chiến đấu của chúng ta cho hành tinh này, sẽ không cất đi khỏi chúng ta niềm vui của hy vọng.

245. Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta dấn thân cách quảng đại, ban cho chúng ta sức mạnh và ánh sáng mà chúng ta cần thiết để tiến bước. Giữa trung tâm thế giới này, Chúa của cuộc sống, Đấng quá yêu thương chúng ta, vẫn tiếp tục hiện diện. Người sẽ không bao giờ lìa bỏ chúng ta, không bao giờ để chúng ta một mình, chỉ vì Người dứt khoát kết hợp với trái đất của chúng ta và tình yêu của Người vẫn luôn dẫn chúng ta đi tìm những con đường mới. Chúc tụng Người!

246. Sau một suy tư lâu dài vừa vui, cũng vừa đầy đau khổ, Tôi xin đề nghị hai lời kinh: một lời mà chúng ta có thể chia sẻ với tất cả mọi người tin vào một Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo đầy quyền năng, và một lời kinh khác để cho những người Kitô hữu chúng ta có thể đón nhận trách nhiệm đối với sáng tạo như Phúc Âm của Chúa Giêsu trình bày cho chúng ta.

Lời kinh cho trái đất chúng ta

Lạy Thiên Chúa toàn năng
Chúa luôn hiện diện trong vũ trụ
và ngay trong những thụ tạo nhỏ bé nhất của Chúa.
Chúa đã phủ đầy lòng ưu ái trên tất cả những gì hiện hữu,

Xin gieo vào lòng chúng con sức mạnh của tình yêu Chúa,
để chúng con bảo vệ cuộc sống và vẻ đẹp muôn loài.
Xin đổ tràn bình an của Chúa vào lòng chúng con,
để chúng con có thể sống như anh em, chị em với nhau,
không tác hại cho bất cứ người nào.

Lạy Thiên Chúa của anh chị em nghèo khổ,
xin trợ giúp chúng con
để chúng con giơ tay cứu giúp những anh em bị bỏ rơi,
những người bị lãng quên trên trái đất này,
những người này thực sự luôn có giá trị trước mặt Chúa.

Xin cứu chữa cuộc sống của chúng con,
để chúng con trở thành
những người bảo vệ cho trái đất này,
chứ không phải là những kẻ cướp bóc,
để chúng con gieo những gì tốt đẹp
chứ không phải những loại ô nhiễm và tàn phá.

Xin chạm đến tâm hồn những kẻ chỉ tìm thành công
dựa trên giá trị của kẻ nghèo và của trái đất này.
Xin chỉ dạy chúng con khám phá giá trị của vạn vật
và biết chiêm ngắm trong sự ngất ngây,
để nhận ra chính chúng con
cũng được liên kết sâu xa với tất cả thụ tạo này
trên con đường
chúng con tiến vào ánh sáng vô tận của Chúa.

Xin tạ ơn Chúa
vì Chúa hiện diện từng ngày với chúng con.
Chúng con van xin Chúa nâng đỡ chúng con
trong cuộc chiến cho công bằng, tình thương và bình an.

Lời kinh của Kitô hữu cùng với sáng tạo

Lạy Cha, cùng với muôn tạo vật xuất phát từ ban tay uy quyền của Cha,
chúng con cùng ngợi khen Cha.
Tất cả đều thuộc về Cha
và tất cả được tràn đầy sự hiện diện
và tình âu yếm của Cha.
Chúng con xin ngợi khen Cha.

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
nhờ Chúa mà tất cả được tạo thành.
Trong cung lòng Mẹ Maria,
Chúa đã nhận lấy hình dạng con người;
Chúa trở thành một thành phần của trái đất này
và đã nhìn thế giới với con mắt nhân loại.
Ngày nay Chúa vẫn sống động trong từng tạo vật
với vinh quang phục sinh của Chúa.
Chúng con xin ngợi khen Chúa.

Lạy Chúa Thánh Thần, nhờ ánh sáng của Chúa,
Chúa đã hướng thế giới này đến tình yêu của Chúa Cha;
Chúa vẫn sống trong tâm hồn chúng con,
để khuyến khích chúng con thực hành các việc thiện.
Chúng con xin ngợi khen Chúa.

Lạy Thiên Chúa, Duy nhất và Ba Ngôi,
cộng đoàn tối thượng của tình yêu vô biên,
xin dạy chúng con biết nhìn ngắm Chúa
trong vẻ đẹp của vũ trụ,
nơi tất cả nói với chúng con về Chúa.
Xin khơi dậy trong chúng con lời ca ngợi
với lòng biết ơn đối với từng hữu thể do Chúa sáng tạo.
Xin ban cho chúng con hồng ân
để chúng con cảm nhận sự gắn bó thân thiết
với tất cả vạn vật.

Lạy Thiên Chúa tình yêu,
xin cho chúng con thấy vị trí của chúng con trong thế giới này như khí cụ tình yêu của Chúa
đối với tất cả sinh vật trên trái đất này,
mà không tạo vật nào lại quên Chúa.

Xin soi sáng cho những người ôm lấy giàu sang và quyền hành, để họ lánh xa khỏi tội lỗi về sự dửng dưng,
biết yêu mến công ích, động viên kẻ yếu hèn
và chăm sóc thế giới mà chúng con đang sống,

Kẻ nghèo và trái đất đều van xin:
Lạy Chúa, xin nắm lấy chúng con
bằng quyền năng và ánh sáng của Chúa,
để chở che mọi sự sống,
để chuẩn bị một tương lai tốt đẹp,
ước gì Nước công bằng, bình an,
tình thương và vẻ đẹp mau đến.
Chúng con chúc tụng Chúa. Amen.

Ban hành tại Rôma, cạnh đền thờ Thánh Phêrô, ngày 24 tháng năm, ngày đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, vào năm thứ ba triều đại Giáo Hoàng của Tôi.

Franziskus

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)


NGƯỜI TU SĨ PHẬT GIÁO

CÓ NÊN CẢI CÁCH HÌNH THỨC

CHO HỢP VỚI THỜI ĐẠI?

Có một số tu sĩ đã có ý nghĩ rằng tới thời này rồi, vật chất thì phong phú, Chùa cũng dư giả tiền bạc, tại sao các Tu Sĩ của Đạo Phật vẫn không thay đổi nếp sinh hoạt, vẫn phải mặc những chiếc Y đã thiết kế từ 3.000 năm trước, đi bộ để khất thực, ở cốc hoặc ở hang... không theo kịp thời đại? Cho nên có Phương Trượng đã tự thay đổi: Ở phòng máy lạnh, đi khất thực bằng xe Lexus. Ngồi Thiền trên những Bồ Đoàn được may bằng Gấm đắt tiền. Có phòng tắm Sauna để các Sư thư giãn! (Chùa của Phương Trượng TVT. ở Đài Loan). Một vài nhà Sư ở Nhật còn tự thiết kế những bộ Y để biểu diễn thời trang… làm ai nhìn thấy đời sống của Sư Tăng ở đó cũng nghĩ đúng là mình thiếu Trí Huệ nên đã không chịu Xuất Gia. Do Vô Minh nên bám lấy trần tục để tiếp tục chịu khổ là đúng rồi! Có người còn ví von: “Ai bảo đi tu là khổ. Đi tu sướng lắm chứ”! (Nhạc Phạm Duy cải biên). Đúng là “Công đức tu hành Sư có lọng”!

Ý tưởng đó đúng hay sai? Người thời nay muốn tu hành thì nên theo hình thức như thế nào? Có nên cải tiến cho hợp với thời đại, và dùng những phương tiện hiện đại như xe hơi, điện thoại đời mới, đắt tiền, với lý do là “để phục vụ cho bá tánh tốt hơn”? Rõ ràng là một câu hỏi khó cho những tu sĩ chưa nắm được lý do cũng như mục đích của việc tu hành. Họ đâm ra hoang mang. Nửa muốn theo thời đại. Nửa sợ bá tánh phản đối cho rằng như thế là làm mất đi sự giản dị, thanh tịnh của người tu rồi không cúng dường thì lấy gì mà sống, vì kể từ lúc Xuất Gia thì mọi thứ đều trông vào các thí chủ cung cấp?!

Nên giữ nếp cũ hay vận động mọi người theo xu hướng mới? Thời đại mới nên tu hành như thế nào để không trái với Giới, Luật mà cũng thuận hợp với đời?

Theo tôi thì đó cũng là một vấn đề cần nêu ra cho Phật Tử thời đại này. Bởi cũng có một số người rất mến mộ Đạo Phật, cũng muốn tu hành, nhưng ngại phải mang hình tướng quá đặc biệt, ai nhìn thấy cũng biết, mà ý họ muốn tu trong thầm lặng, chỉ tự mình biết lấy mà thôi. Hoặc có người còn cha mẹ già phải phụng dưỡng, con cái còn nhỏ, chưa thể rũ bỏ trách nhiệm để Xuất Gia. Có cách nào vẹn cả đôi bề, để người tu vừa có thể hoàn thành trách nhiệm với gia đình, xã hội, mà vẫn thực hiện được chí nguyện tu hành theo Phật mà không phải thiệt thòi? Đạo Phật có đòi hỏi người tu phải độc thân để được thanh tịnh mới tu được hay không? Vì có một vị HT. rất có uy tín (TNT.) đã khẳng định: “Chỉ có người xuất gia tu hành thanh tịnh thì mới thành Thánh vị được, còn những người có gia đình mà tu hành thì chỉ thành bậc chân nhân mà thôi”. Điều đó Chính Kinh có đề cập tới hay không?

Vấn đề này đã được đặt ra trong Sáu Cửa vào Động Thiếu Thất. Để trả lời cho câu hỏi: “Hàng áo trắng (Bạch Y) có vợ con, dâm dục không trừ, bằng vào đâu mà thành Phật được?”. Tổ Đạt Ma dạy: “Tôi chỉ nói Thấy Tánh, chẳng nói dâm dục. Chỉ cần Thấy Tánh mới vỡ lẽ rằng từ vô thỉ dâm dục vẫn là không tịch, chẳng có gì phải giả dối dứt trừ mà cũng chẳng mắc vào dục lạc”.

Lục Tổ Huệ Năng thì dạy trong Pháp Bảo Đàn Kinh:

“Chư Thiện Tri Thức, muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở Chùa. Ở nhà mà thường tu hành thì cũng như người Đông Phương có lòng lành. Ở Chùa mà chẳng tu thì cũng như người Đông Phương có lòng dữ. Nếu lòng trong sạch thì Tánh mình tức là Tây Phương vậy”.

Dù rằng hai Tổ đã giải thích rõ ràng như vậy, nhưng xem ra cũng ít ai chấp nhận. Lý do là vì từ xưa đến nay mọi người đã hiểu lầm về Phật, về kết quả tu hành theo Đạo Phật. Mọi người vẫn nghĩ rằng Phật là một vị Thần Linh có thể “cứu độ cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới”, nên với tín đồ, Phật giữ một vai trò quan trọng nhất trong Đạo. Là giềng mối, là đối tượng để tôn thờ, cầu xin hộ trì. Vì thế, Các Chùa vẫn tạc tượng những vị Phật để phụng thờ, cũng như hướng dẫn cho bá tánh khi hữu sự thì nhang khói sắm lễ vật đến Chùa để cầu xin Chư Phật cứu độ cho. Sống thì Cầu An, cầu thăng quan, tiến chức. Chết thì Cầu Siêu. Chính vì vậy mà hầu hết người Xuất Gia để tu hành không ai dám phát tâm Thành Phật, chỉ mong được “nương thân nơi cửa Phật”, hoặc hiến trọn cuộc đời để phụng sự cho Phật. Trong khi đó, những Bộ Kinh được lưu hành được gọi là Chính Kinh đều giải thích rằng “Thành Phật” chỉ có nghĩa là “thành tựu công việc Giải Thoát” cho bản thân người Thành mà thôi, không phải là thành Thần Linh, cho dù đó là Đức Thích Ca hay ngàn đời sau cũng chỉ đạt được kết quả là Thoát Khổ mà thôi.

Chính vì hiểu lầm về Quả Vị của Đạo cho nên mọi người cũng quan trọng hóa việc tu hành. Cứ thấy ai Xuất Gia vô Chùa thì cho là người đó đã xa rời vòng tục lụy! Với nhận định đó, họ cho rằng tất cả những người tiếp tục sống giữa đời là phàm phu, dù cho người tu tại gia cũng giữ Giới, Hạnh không khác với những người Xuất Gia, nhưng do có gia đình, thiếu sắc phục, thiếu hình tướng nên mọi người không thể nào chấp nhận đó là một Tu Sĩ, chỉ xem đó là một Cư Sĩ mà thôi!

Theo tôi, đó là một quan niệm rất lỗi thời và cần có một đánh giá đúng hơn về công việc gọi là tu hành, để việc tu hành được mở rộng đến tất cả mọi người thay vì chỉ bó hẹp trong bộ sắc phục, trong khuôn viên Chùa. Làm sao để mọi người hiểu rõ: tu hành đúng theo Chánh Pháp là Tu Tâm, hình tướng là không quan trọng, trái lại, đôi khi chính vì đó mà cản trở bao nhiêu người muốn phát tâm tu hành, vì công năng tu tập, kể cả kết quả thì cả hai bên hoàn toàn giống nhau và không liên quan gì đến hình tướng.

Thật vậy, mọi người đều biết rằng: Sở dĩ Đạo Phật có mặt ở trần gian là nhằm giúp cho con người sống trong cõi trần đầy đau khổ nhưng không còn bị cảnh Khổ hành hạ nữa gọi là được Giải Thoát. Và phải chăng, dù có gia đình hay không, sang cũng như hèn, già cũng như trẻ, trí thức hay bình dân, có ai mà không phải Khổ? Chính vì vậy Giải Thoát không phân biệt giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ, nơi ở, sắc phục. Người độc thân có cái KHỔ của cảnh độc thân. Người có gia đình có cái Khổ của cảnh có gia đình. Người trẻ có cái Khổ của người trẻ. Người già có cái Khổ của người già. Nói chung, tuổi nào, giới tính gì, già hay trẻ, nghèo hay giàu, ai mà chẳng gặp cảnh Khổ? Ở đâu có Khổ là ở đó cần Giải Thoát. Giải Thoát là nghĩa khác của Phật chớ đâu có trở thành Thần Linh hay vị nào ghê gớm, cao siêu? Như vậy đâu nhất thiết phải độc thân mới cần giải thoát?

Dù là Xuất Gia hay Tại Gia, khi tu hành thì công năng đều là GIỚI ĐỊNH HUỆ, BÁT CHÁNH ĐẠO và một số việc khác để hỗ trợ gọi là những Phẩm Trợ Đạo. Người tu Tại Gia cũng phải Thiền Định, phải Soi Quán, phải giữ Giới. Nhưng họ không phải giữ cả mấy trăm Giới đến nỗi quay đâu cũng sợ đụng Giới, mà chỉ cần ý thức vì sao cần giữ Giới? Giữ bao nhiêu là đủ để đạt mục đích Giải Thoát của Đạo Phật đề ra? Thật ra, Giới chỉ cần thiết cho người sơ cơ, vì họ chưa vững, chưa biết điều gì nên làm, nên tránh, do đó, với họ, Giới như tường rào, bờ ngăn để họ không vi phạm. Trái lại, người đã hiểu rõ Lý Nhân Quả thì đâu cần ai áp đặt Giới cho họ, vì họ tự biết rằng nếu phá Giới thì chính bản thân họ phải bị hại, do đó, họ giữ rất nghiêm túc mà không phải vì sợ bị trừng phạt. Người tu tại gia cũng phải Ngồi Thiền, phải Soi, Quán để tìm nguyên nhân của nỗi Khổ, cũng phải QUÁN cái TA tức là Soi Cái THÂN của Mình, để xem nó gồm những gì? Sinh ra, tồn tại được bao lâu? Thời gian có mặt trên cuộc đời của nó là để làm gì? Cuối cùng đi về đâu? Cũng phải biết những gì làm nên kiếp sống? Thế nào là Sinh Tử Luân Hồi? Cũng Soi Quán về Thập Nhị Nhân Duyên, về Nhân Quả.

Tóm lại là ngoại trừ việc không cạo tóc, đắp Y, không sống đời độc thân, vẫn giữ nếp sống bình thường trong gia đình, vẫn lo cho cha mẹ, vợ, chồng, con cái như mọi người trong xã hội, nhưng người tu tại gia có thêm một đời sống nội tâm, vẫn làm mọi việc theo hướng dẫn của Đạo Phật dạy không có gì khác biệt với các Tu Sĩ ở trong Chùa nếu muốn Thoát Khổ.

Dù là tu sĩ hay cư sĩ thì cũng đều phải hiểu theo đúng CHÁNH PHÁP rằng Thành Phật chỉ có một nghĩa là thành tựu công việc Giải Thoát. Tu Phật chính là để sửa những nhận thức của mình cho đúng. Hiểu cho rõ, để biết đâu là giả, đâu là thật, rồi bỏ giả, về thật cũng gọi là “Phản Vọng, Quy Chân” để được Giải Thoát. Chính vì mọi sự chấp nhất, dính mắc đều bắt nguồn ở cái Tâm, nên nơi cần phải Sửa là Cái Tâm. Vì thế, tu theo Đạo Phật gọi là TU TÂM, hình tướng chỉ để người ngoài phân biệt mà thôi.

Nếu chỉ cần TU TÂM tại sao lại phải Ly Gia, Cắt Ái, tập trung vô Chùa, mang sắc phục mới tu được?


Phụ Bản I

Đó là một câu hỏi rất chính đáng. Thật vậy. Làm tội, gây Nghiệp là do cái VỌNG TÂM. Do vậy, công việc tu hành chỉ cần tìm thấy nó rồi buộc nó “Phản VỌNG, quy CHÂN”, đâu cần phải rời bỏ nhà cửa, bỏ việc làm, không được có gia đình, hay làm việc gì cao siêu nào khác? Nếu hiểu được rằng việc tu hành chỉ là sửa đổi cái Tâm, thì ở đâu? Mặc như thế nào? Làm nghề gì? Có gia đình hay độc thân đâu có ảnh hưởng?

Trở lại với thắc mắc: Y phục, hình tướng của tu sĩ đã quá xưa rồi, có cần thay đổi cho hợp với thời đại hay không?

Nếu có đọc Chính Kinh chúng ta sẽ thấy: Những điều Phật dạy đều có ý nghĩa sâu xa. Trước hết, sở dĩ phải có hình tướng, vì ngoài phân biệt với các Tu Sĩ của các Tôn Giáo khác còn mang một ý nghĩa: ĐẦU TRÒN là ý nghĩa của đầu óc phải ngay ngắn, tròn trịa, không xiên xẹo, góc cạnh. ÁO VUÔNG tượng trưng cho cái THÂN giữ một nếp nghiêm chỉnh. Y MÀU VÀNG, HOẠI SẮC tượng trưng cho việc không bị nhiễm bởi các sắc trần. Đó là những điều người tu cần phải thể hiện trong cuộc sống, không phải chỉ cần đắp Y Ca Sa là được xem là người tu hành. Phật Ngôn có câu: “Nếu chiếc áo Ca Sa có năng lực giải trừ Tham Sân Si thì cha mẹ hay người thân chỉ cần khoác lên mình đứa bé khi nó mới chào đời là đã được toại nguyện”.Vì vậy, nếu người tu sĩ chỉ chú ý đến hình thức, giữ Tứ Oai Nghi nghiêm chỉnh bên ngoài, mà không thực hành cho đúng ý nghĩa mà Phật muốn dạy qua hình tướng đó thì chưa thật sự là Đệ Tử đúng nghĩa của Phật.

Đọc Lịch Sử các vị Tổ ta thấy: cách đây nhiều trăm năm mà một số Tổ đã được Truyền Y Bát khi chưa Thế Phát, Quy Y, chưa kịp mặc pháp phục. Trường hợp cụ thể được ghi lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh là Lục Tổ Huệ Năng, cho ta thấy hình tướng không ảnh hưởng gì tới sự Chứng Đắc. Đồng thời, lịch sử Đạo và thực tế cũng ghi nhận rất nhiều vị tu ở Chùa rất lâu, giữ chức vụ rất cao nhưng vẫn không Thấy Tánh. Trong khi đó, cái THẤY TÁNH mới là kết quả của việc tu hành. Giải Thoát hay không là cũng nhờ đó, không phải là nhờ ở hình tướng đầy đủ, thời gian tu lâu.

Về phương tiện, nơi chốn để tu hành, Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ, trì, đọc, tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời tu hành. Hoặc là ở chỗ có quyển Kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc nhà Bạch Y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang, đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường.

Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là Đạo Tràng. Các Đức Phật ở đây mà đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Đức Phật ở đây mà Chuyển Pháp Luân. Các Đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn”.

Qua đó, ta thấy, hình tướng, sắc phục, nơi chốn để tu hành không quan trọng, mà chính là sau khi THỌ, TRÌ, ĐỌC, TỤNG, GIẢI NÓI, BIÊN CHÉP, một quyển Kinh, thấy được ý nghĩa thì Y PHÁP TU HÀNH. Như vậy, nếu ta không thực hiện đầy đủ quy trình để đưa đến việc Y Pháp Tu Hành thì làm sao đạt kết quả Giải Thoát hay Thành Phật?

Kết quả mà người tu đạt được trước tiên là phải Thấy được Bổn Thể Tâm hay Thấy Tánh mà người xưa gọi là “Kiến Tánh khởi tu”. Cái Kiến Tánh này do công năng tu hành, không hề có phân biệt Xuất Gia hay Tại Gia. Tổ Đạt Ma dạy trong Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất: “Nếu thấy Tâm mình là Phật thì không cần cắt tóc cạo râu. Hàng áo trắng (bạch Y) vẫn là Phật. Nếu không thấy Tánh, cắt tóc, cạo râu vẫn là ngoại đạo”. Ngũ Tổ cũng dạy: “Nếu không Thấy Bổn Tâm thì học pháp vô ích”.

Vì thế, theo tôi, tới thời đại này rồi, chúng ta cũng cần xem lại: Những gì Phật dặn dò phải giữ là Giới, Luật, Giáo Pháp, kết quả phải đạt được, thì đương nhiên không được thay đổi. Nhưng có những thứ không còn hợp thời và cần thiết, vì chỉ mang một ý nghĩa tượng trưng nào đó, hoặc bị những thời sau thêm thắt vô, ắt cũng nên bỏ đi, chỉ giữ lại cốt lõi mà thôi, miễn là không ảnh hưởng đến việc tu hành và đạt được kết quả mà Đạo Phật mong muốn. Có như thế thì Đạo Phật mới phổ cập cho quảng đại quần chúng được. Đó cũng chính là mong mỏi của Đức Thích Ca khi mang Đạo Phật vào đời.

Thật vậy. Trừ những vị có trách nhiệm giữ gìn giềng mối Đạo phải ở trong Chùa thì không thể thay đổi. Nhưng nếu muốn tự tu, tự độ thì phải thấy rằng: Nếu Chiếc Y VÀNG tượng trưng cho không bị sắc trần làm cho ô nhiễm thì chỉ cần thực hiện điều đó, đâu cứ phải vận chiếc Y lên người? Đầu Tròn tượng trưng cho việc cạo sạch phiền não thì nếu lúc nào ta cũng chú ý để trừ hết phiền não thì cần gì phải cạo đầu? Nếu cư xử sòng phẳng, ân nghĩa vẹn toàn, trên dưới, trước sau đều hợp đạo thì cần gì phải khoác chiếc Y cho vuông vắn? bởi vì nó chỉ có giá trị như một sự nhắc nhở người mang nó mà thôi. Hơn nữa, Giải Thoát không thể bó gọn trong khuôn viên Chùa, dành riêng cho những tu sĩ, mà tất cả mọi người đều phải đạt được. Phật dạy: “Tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành” đâu có chỗ nào nói rằng chỉ riêng các tu sĩ thanh tịnh mới thành Phật? Vì thành Phật đâu có phải là thành Thần Linh hay đạt quả vị cao siêu xuất chúng nào?

Khi chiếc Áo, Cái Đầu, nơi ở, không phải là mục đích của việc tu hành, thì mọi người đều có thể thực hiện được ngay trong cuộc sống thường ngày của mình, để được như lời Phật dạy: “Ở giữa trần gian mà không nhiễm bụi trần”. Mình tu chỉ để mình nhờ không cần ai biết ta đây đang tu hành, thì cần gì phải khoác vào người hình tướng? Hơn nữa, nếu ta đã thật tâm muốn tu hành thì tại sao phải đợi người khác cung dưỡng mới tu được? Sao không chứng minh quyết tâm của mình bằng cách tự mình lo cuộc sống, hòa nhập vào xã hội, góp phần với mọi người để xây dựng đất nước, trong đó vừa tu sửa bản thân, vừa có thể đền được Tứ Ân và không mang nợ của ai? Người không ham mê vật chất giả tạm thì chắc chắn sẽ không kiếm tiền một cách bất chính. Không chèn ép, bóc lột người khác để làm giàu, trái lại dùng hết khả năng của mình đóng góp công sức với đời và làm việc tạo ra tiền bạc để khi cần thì có thể giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Không để cuộc sống buông trôi một cách vô ích. Giúp người đang lâm vào cảnh khó khăn cũng là giúp Phật, vì tất cả mọi người đều là Phật sẽ thành.

Người xưa cũng nói: “Thứ nhất là tu tại gia. Thứ nhì tại chợ. Thứ ba tại Chùa”. Tu Tại Gia là khó nhất, vì ngoài lo cho bản thân còn phải lo cho cha mẹ, vợ chồng con cái, phải đối phó với cơm áo, gạo tiền, với mọi khó khăn của cuộc đời. Đồng tiền tự mình kiếm ra bằng công sức của mình thì muốn ở nhà đẹp, đi xe sang, dùng đồ hàng hiệu thì đâu có ai cấm, vì tu theo Đạo Phật là tu Tâm chớ đâu có tu trang phục? Nhưng người thật tâm tu hành thì trách cái Thân còn không hết, có đâu phục vụ cho nó? Chẳng phải Đạo Phật cho rằng từ nhiều đời qua, mỗi chúng ta sở dĩ phải trôi lăn trong Sinh Tử Luân Hồi, chìm nổi theo Nghiệp Quả, là vì cưng chiều cái thân mà tạo Nghiệp đó sao? Tu Phật chính là đấu tranh với chính mình, với sự tìm cầu, đòi hỏi cung cấp cho Lục Căn những gì nó ham thích. Kinh Lăng Nghiêm viết: “Chứng Thánh hay đọa phàm cũng do nơi Sáu Căn mà thôi”.

Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Phật pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác”. Có nghĩa là không thể rời thế gian mà giác ngộ. Sống giữa đời với bao nhiêu vật chất quyến rũ mà không vì quyền lợi cá nhân mà làm mất tình nghĩa và làm tổn thương, thiệt hại người khác. Biết kính trên, nhường dưới, thương yêu, chăm sóc cho ông bà, cha mẹ, con cái, và làm hết trách nhiệm của mình. Với người chung quanh thì hòa đồng, góp phần với mọi người để xây dựng xã hội, cuộc đời. Đó là những gì mà Đạo Phật mong mỏi tất cả mọi người thực hiện trong cuộc sống giữa đời. Có vậy mới phù hợp với biểu tượng Hoa Sen, nói lên ý nghĩa là sống trong đời mà không bị cuộc đời vùi dập. Chính vì vậy, Lục Tổ khẳng định: “Ly thế mịch Bồ Đề. Cáp như cầm thố giác”. Có nghĩa là “rời thế gian mà tìm Giải Thoát thì cũng như tìm sừng thỏ”. Phải ở trong thế gian đầy phiền não mà không bị thế gian làm cho điên đảo mới gọi là thoát thế gian. Xa rời thế gian, xây tường rào che chắn không cho các pháp đụng tới. Từ y phục cho tới thuốc men, cơm rau, chi phí các thứ đã được người khác cung cấp cho. Không phải phụng dưỡng cho cha mẹ, vợ cũng không có, không có trách nhiệm phải nuôi dạy con, thì có gì ràng buộc, làm cho đau khổ nữa mà cần tìm Giải Thoát? Nhưng né tránh, hay trốn thế gian đâu có nghĩa là Thoát thế gian? Né tránh pháp, trốn pháp, không có pháp nào đến gần sao gọi là Thoát Pháp? Mà nếu không thực tập, đến lúc gặp Pháp thì không Thoát nổi sao gọi là “Chiến đấu thắng Phật”?

Đạo Phật không dành riêng cho giới nào, mà phải phổ cập cho mọi tầng lớp trong xã hội, vì con người ai mà chẳng có đau khổ. Theo Đạo Phật, tất cả những nỗi Khổ đó chỉ là do CHẤP LẦM. Thủ phạm của mọi chấp lầm gây nên đau khổ là cái VỌNG TÂM. Do đó, không cần biết người nào ở địa vị nào, giai cấp nào, già hay trẻ, nam hay nữ. Chỉ cần tìm ra, và điều phục cái Vọng Tâm, thì không những kiếp này hết Khổ, mà vĩnh viễn không mất đi những gì đã đạt được, như vàng đã tách khỏi quặng thì không bao giờ trở lại thành quặng nữa.

Xét cho kỹ, ta thấy người tu Tại Gia có được mấy điểm thuận lợi:

- Thứ nhất, có thể trực tiếp Đền Tứ Ân qua việc phụng dưỡng cha mẹ, đóng góp cho xã hội bằng trí tuệ hay bằng sức lao động của bản thân. Không lợi dụng người khác cung dưỡng để được nhàn thân mà tu hành vì kết quả tu hành thì chỉ có bản thân người tu nhờ. Người biết đó là món nợ, trước sau cũng phải trả sẽ không dám ung dung vay vì biết rằng không phải Phật cho phép hay mang sắc áo nhà tu thì Nhân Quả không dám đụng đến!

- Thứ hai, trực diện với cuộc đời, điều phục cái Tâm mình khi đối pháp. Nhờ tiếp xúc với các pháp hàng ngày, người tu tại gia càng có nhiều cơ hội để thực hành hơn, do đó dễ tiến bộ hơn. Và dù cho tu hành không thành công thì cũng không mang nợ bá tánh.

- Thứ ba, người tu tại gia không Xuất Gia theo văn tự, nhưng họ Xuất gia theo đúng Chánh Pháp, là tìm cách ra Khỏi Nhà Lửa Tam Giới. Họ không cần xa lìa quyến thuộc đời, nhưng rời xa quyến thuộc thật sự, đó là 3 Nghiệp của Thân, và 4 Nghiệp của Khẩu, vì những thứ này mới thực sự là quyến thuộc, do mỗi người tạo ra và sẽ theo mỗi người đến vô lượng kiếp. Kinh viết: “Người tu xong sẽ ‘Độ’ được cho 7 đời quyến thuộc” chính là những quyến thuộc này, không phải là quyến thuộc bên ngoài, vì nếu độ cho quyến thuộc bên ngoài là độ tha, là trái với tinh thần Đạo Phật chân chính.

Đạo Phật luôn hướng con người đến một cuộc sống thực tế, không mơ màng, ảo tưởng, vì mục đích tu Phật là để đối phó với những đau khổ, phiền não của trần gian. Có đạt thành quả xong cũng đâu có về cõi khác để sống, mà vẫn tiếp tục sống trong thế gian, nhưng lúc đó không còn bị thế gian làm cho phiền não, đau khổ nữa. Chính vì vậy mà Đạo Phật dùng biểu tượng là hoa Sen để nói lên cái Thoát. Hoa Sen thì thoát bùn dù vẫn ở trong bùn. Người tu Phật thì Thoát Phiền não dù vẫn chung sống với phiền não.

Nếu trước khi tu học, chúng ta thấy cuộc đời là đau khổ, kiếp sống là BỊ SỐNG với bao nhiêu phiền não bủa vây. Nhờ Quán sát, Tư Duy theo hướng dẫn của Đạo Phật mà ta biết rằng kiếp sống đáng quý bao nhiêu. Có được một thân người đầy đủ và có duyên may gặp được Chánh Pháp là Hai trong Năm điều mà Phật cho là Khó Được. Vì vậy, khi hiểu ra, người tu thấy rằng mình ĐƯỢC SỐNG, được có cơ hội gặp Phật Pháp để tu tiến. Vì thế có biết bao nhiêu ân nghĩa phải đền đáp. Đó là Ân Phụ Mẫu, vì nhờ có cha mẹ sinh ra, bão dưỡng mà ta mới có thân người toàn vẹn để gặp được Chánh Pháp mà học hỏi. Ân Đất Nước đã cưu mang, giữ gìn an ninh, trật tự, điều hòa mọi thứ cho ta tồn tại trong an lành. Sau đó mới đến Ân Tam Bảo đã đưa ra Pháp Giải Thoát để ta học hỏi. Người làm xong cho mình có bổn phận phải truyền đạt lại gọi là “Mồi ngọn Vô Tận Đăng”. Cuối cùng là Ân Chúng Sinh, ân của bao nhiêu người trong xã hội đã cung cấp cho ta đủ mọi thứ cần dùng. Do đó, nếu ta bỏ đời, vô Chùa thì ta chỉ đền được có mỗi Ân Phật, còn ba Ân kia tính sao? Việc phải độc thân, tập trung ở Chùa, không được tham gia việc làm ăn, không được dính dáng tới cuộc đời chỉ đúng vào thời Phật mới khai Đạo, vì lúc đó chưa có chữ viết để lưu lại, tất cả đều do KHẨU TRUYỀN, tức là những gì Phật giảng, Chư Đệ Tử phải học thuộc lòng, mai kia truyền lại. Các Tu Sĩ thời đó lại là lực lượng nồng cốt, rất quan trọng, có sứ mạng phổ biến Đạo. Do vậy mà cần phải độc thân để không bị vợ con quấy nhiễu. Không được làm ăn, mua bán, kinh doanh để đầu óc không bị chi phối, dành trọn thì giờ nghe Phật giảng mà ghi nhớ, nhập tâm, sau đó truyền lại cho lớp kế thừa, đồng thời ở chung nhau là để nhắc nhở, giữ gìn lẫn nhau.

Trải qua cả mấy ngàn năm, những gì mà thời Đức Thích Ca do thiếu ngôn từ, hoặc vì mục đích chiêu dụ mọi người ham thích nên phải dùng nhiều phương tiện, nhiều ẩn dụ cũng đã được Chư Tổ lần lượt khai sáng. Hơn nữa, cho tới thời này thì tài liệu, sách vở tràn lan. Ở đâu cũng có, đâu cần phải học thuộc lòng? Tất cả đã được chư vị Giác Ngộ giảng giải rõ ràng, đâu còn bí mật gì để cần phải tư duy, quán tưởng? Tu Phật là để Thoát Sinh Tử thì thủ phạm làm ra Sinh Tử được Đức Thích Ca nhận diện và vạch mặt chỉ tên từ lâu. Người tu hiện đời chỉ cần nương theo những gì đã được giải thích rõ mà xem xét. Nếu thấy đúng và hợp ý mình thì hành theo mà thôi. Do vậy mà người Tại Gia, dù bận bịu gia đình, làm ăn, nếu thu xếp thời gian, vẫn có thể tu hành và đạt kết quả không khác với người tu ở Chùa.

Việc tu hành mới nghe qua tưởng chừng như vĩ đại, lớn lao. Thành Phật tưởng chừng như thành một vị Thần Linh, cứu độ cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, không ngờ tất cả chỉ là phương tiện của Đức Thích Ca đã dùng để khuyến tu, khi hiểu cho rõ thì chúng sanh trong Tam Thiên Đại Thiên thế giới mà người tu cứu được chỉ là những tư tưởng Tham Sân và Si của chính bản thân người tu mà thôi. Không phải là cứu cho chúng sanh nào bên ngoài, vì nếu cứu cho bên ngoài gọi là Độ Tha thì sai với tinh thần của Đạo Phật!

Một cuộc sống bình thường, trong đó, từng sát na theo dõi, điều phục, chuyển hóa cái tâm, không gây Nghiệp để không những kiếp sống hiện tại được an lành, mà có tái sanh cũng về nơi tốt đẹp. Đó là mục đích của Đạo Phật. Một người tu thì người chung quanh cũng bớt bị phiền hà. Nhân rộng ra thì cả xã hội cũng được yên ổn hơn. Mọi người cùng được sống hạnh phúc, an vui cho đến hết đời. Có như thế thì Đạo Phật mới thật sự đi vào đời sống con người một cách thực tế, phù hợp với cuộc đời, mà xã hội cũng không phí đi một lực lượng trẻ, sức lực dồi dào, lẽ ra để xây dựng cuộc đời.

Thật vậy, bao nhiêu ngàn năm qua, chính do hiểu lầm phương tiện của Đạo Phật mà biết bao lớp người đã bỏ hết mọi việc chỉ để ngồi tụng Kinh, Niệm Phật mong về Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà. Nhưng nếu có đọc kỹ Kinh sẽ thấy: Đông Phương hay Tây Phương với 7 báu đó đó đều là phương tiện của Đức Thích Ca để con người ham thích mà bớt đi tranh giành, ôm giữ của cải trần gian. Thật sự ra tất cả những cảnh giới đó đều ở nơi Tâm của mỗi người, không phải ở trên trời cao hay cõi nào đó xa xôi diệu vợi nào! Chúng ta thử nghĩ. Giả sử có cõi Tây Phương thật sự, thì cõi đó hẳn trên tầng trời cao xa nào đó, tất nhiên là bằng thanh khí, thì làm sao chứa được vàng, bạc, châu báu là vật chất hữu vi? Phật A Di Đà không phải là một vị Phật, mà nói về sự sáng suốt nơi cái tâm đã thanh tịnh, không còn bị ngăn che, chướng ngại. Bởi vậy, Lục Tổ dạy: “Người Đông Phương tạo tội thì mong về Tây Phương. Còn người Tây Phương làm tội thì cầu về xứ nào? Vì người phàm mê muội không rõ Tánh mình, không biết cõi Tịnh Độ trong thân mình nên mới nguyện Đông nguyện Tây. Người giác ngộ dầu ở chỗ nào tâm địa cũng thanh tịnh, an nhiên, nên Phật nói: “Tùy cái chỗ trụ Tâm mà thường được an lạc”. Câu nói của Lục Tổ đã được ghi lại cách đây hàng mấy trăm năm trong Pháp Bảo Đàn Kinh mà hình như ít người tu Phật nào để ý để đối chiếu với hành trì của mình coi có phù hợp hay không. Nếu coi thường lời Phật, lời Tổ thì ta sẽ tu theo hướng dẫn của ai? Kết quả sẽ về đâu?!

Phần người đã xuất gia tu hành, lẽ ra phải biết rằng chính cái Tìm cầu, chạy theo đòi hỏi của Lục Căn là nguyên nhân gây ra Nghiệp báo, lôi mỗi chúng ta vào Sáu Nẻo Luân Hồi từ vô lượng kiếp đến nay. Vì thế, khi xuất gia tu hành chính là vì muốn hết Khổ, muốn kết thúc Vòng Luân Hồi, được Giải Thoát vĩnh viễn. Hơn ai hết, người tu sĩ cần phải hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của Bộ Y mà mình đang khoác lên người để trân trọng nó và thực hiện cho đúng tính cách mà Phật muốn người mang nó thể hiện. “Hoại Sắc” tức không còn bị sắc trần lôi cuốn! Khất Thực cũng thế. Đâu có phải là đi xin vật thực tầm thường để dưỡng cái thân phàm cho khỏi đói, mà là Khất Pháp Thực để nuôi dưỡng Pháp Tánh! Người không hiểu điều đó thì dù có mang bát đi xin bao nhiêu kiếp cũng không đạt được kết quả mà Đạo Phật mong mỏi.

Đạo Phật đã được khai mở cách đây đã gần 3,000 năm rồi. Việc tu hành lẽ ra phải được đại chúng hóa từ lâu rồi, vậy mà đến giờ này vẫn còn dành riêng cho những bậc Xuất Gia. Ai muốn tu hành cũng đều phải “ly gia”, “cắt ái”. Không ngờ rằng Xuất Gia là Rời khỏi Nhà Lửa Tam Giới. Cắt Ái là cắt đi sự ái luyến, phục vụ cho cái Thân này. Nếu Xuất Gia theo đúng nghĩa như thế thì đâu cần rời bỏ gia đình? Vì cái Gia cần Ly đâu phải là cái Nhà hữu tướng? Do cứ “Y Kinh giải nghĩa” mà làm cho Đạo Phật không phổ cập được cho mọi người quả là điều đáng trách cho những ai có trách nhiệm phổ biến Đạo mà không chịu học hỏi cho hết nghĩa của lời Phật dạy!

Thật ra, chính những người cư sĩ trực diện đối mặt với cuộc sống, hàng ngày phải đối phó với các pháp, mới là người thực hiện đúng lời Phật dạy hơn. Họ tu cho bản thân nên không cần hình tướng, mà thầm lặng, trực tiếp đi thẳng vào Tâm, tu sửa ở đó, không cần ai biết để nể trọng, cũng không thọ sự cúng dường của ai, vì biết mình tu chỉ để mình nhờ, và Nhân Quả không mất. Chính họ là người chứng nghiệm sự Giải Thoát rõ ràng nhất qua thường xuyên phải đối phó với các pháp, với gia đình, với mọi thành phần trong xã hội, với cơm, áo, gạo, tiền để phục vụ cuộc sống hàng ngày. Người trang bị cho mình đầy đủ kiến thức Đạo thì sẽ tiến rất nhanh, vì quanh mình lúc nào cũng gặp Pháp!. Nhưng người đời không thể hiểu nổi nên đánh giá thấp người tu tại gia, bởi quen nhìn hình ảnh người tu qua hình tướng đầy đủ, quên rằng “Chiếc áo không làm nên thầy tu”!

Vì thế, theo tôi, chỉ những người không hiểu thế nào là tu hành mới cho rằng phải vô Chùa, phải có sắc phục, hình tướng đầy đủ thì mới tu được. Họ không biết Tu chỉ có một nghĩa là Sửa. Chức danh Tỳ Kheo đúng ra không phải do thầy đặt cho Đệ Tử sau khi học đầy đủ các lễ nghi, hoàn tất giai đoạn tu học nào đó, mà có nghĩa là Khất Sĩ, Bố Ma, phá ác. Sa Môn cũng có nghĩa là viễn ly, ly dục, ly những pháp bất thiện, Như vậy, người nào thực hành những điều trên mới thực sự là Tỳ Kheo, là Sa Môn. Chiếc áo, cái đầu, thời gian tu học, sự ấn chứng của thầy đâu có bảo đảm cho người thọ nhận có những hạnh đó?

Trang phục của Tu Sĩ dù đã được Đức Thích Ca thiết kế cả mấy ngàn năm rồi, nhưng không chỉ đơn thuần là hình ảnh, màu sắc để ai nhìn vào cũng biết đó là tu sĩ của Đạo Phật, mà mỗi hình ảnh, mỗi từ đều nói lên những điều mà người mang nó cần thực hiện. Người đã hiểu, đã hành, đã thâm nhập thì đâu cần mang hình ảnh đó trên người để lúc nào cũng được nhắc nhở nữa. Ngược lại, người mang hình tướng đầy đủ mà không hiểu, không hành thì chẳng có ích lợi gì đối với họ. Đôi khi lại sống bất xứng, thì chính họ đã bôi bác hình ảnh của Đạo Phật. Chưa dừng ở đó. Với màu áo tu hành, nhiều người hiểu chưa đúng Đạo Phật xa xưa cũng mở ra giảng dạy rồi đã truyền bá những kiến thức không phải là của Đạo Phật chân chính cho Đệ Tử, cho tín đồ. Mọi người đã tin là thật, rồi lớp này truyền cho lớp khác. Thế hệ trước truyền cho thế hệ sau. Hậu quả là cho tới thời này thì Phật không còn mang ý nghĩa Giải Thoát nữa, mà đã trở thành Thần Linh để mọi người cầu xin phù hộ, độ trì, hoàn toàn khác với Đạo Phật do Đức Thích Ca giảng dạy và Chư Tổ chính thức được truyền Y Bát tiếp nối được ghi chép trong các Bộ Chính Kinh! Nhưng biết làm sao được, khi mà con người thấy rằng việc tu hành, tự độ khó khăn hơn là chỉ cần bỏ tiền mua vài nén hương, chút lễ vật để cầu xin!

Không biết tới bao giờ những hiểu biết sai lầm như thế mới được giải tỏa, trả lại cho Đạo Phật một hình ảnh thanh tịnh, trong sáng, không nhuốm mùi mê tín, thần quyền, chỉ tin vào Nhân Quả, và mọi người ai cũng có thể tu hành được, không luận già, trẻ, nam, nữ, trong chùa hay ngoài chùa. Tôi tin rằng khi mọi người chịu khó đọc Chính Kinh thì sẽ thấy có quá nhiều điều đã bị diễn giải sai lạc, nếu cứ tiếp tục đi theo đó thì chẳng biết sẽ về đâu! Hy vọng càng đến thời điểm Chánh Pháp ra đời là thời điểm nhắc nhở mọi người để tìm về với một Đạo Phật thật sự như lời Lục Tổ Huệ Năng: “Bất ly thế gian giác”, tức không rời trần gian, vẫn thực hiện đầy đủ trách nhiệm một con người của gia đình, của xã hội mà vẫn giác ngộ như mục đích của Đức Thích Ca khi mang Đạo Phật vào đời. Có như vậy xã hội sẽ ngày càng tốt đẹp hơn bởi nhiều người ý thức sứ mạng của mình với cuộc đời. Không dối trên, lừa dưới để làm giàu bất chính, hay tư túi, đục khoét để tích lũy riêng, mà chung tay xây dựng để trả ơn đời, đúng như tinh thần Đạo Phật chân chính mong mỏi vậy.

Tháng 6/ 2017

Tâm Nguyện

“NHÀ THƠ Ở NƯỚC NGA

HƠN CẢ MỘT NHÀ THƠ”

Tại Hội thảo quốc tế Mátxcơva Văn chương Nga trong văn mạch thế giới vào trung tuần tháng Chạp 2004 vừa qua, mọi người đặc biệt quan tâm đến một cuộc bàn tròn quanh chủ đề Nhà thơ ở nước Nga hơn cả một nhà thơ. Người báo cáo đề dẫn là nhà thơ Evgheni Evtusenco, mà ở Việt Nam ta từ lâu đã rất quen biết. Báo cáo đề dẫn của ông có tên là Cho mỗi tiếng chuông thỉnh một lời cầu nguyện (Mười thế kỷ thơ Nga). Nhà thơ mở đầu báo cáo của mình từ tác phẩm khuyết danh Khúc ca về cuộc hành binh Igor, ra đời từ thế kỷ XII, khi nước Nga Kiev cổ xưa đang trên bước đường thống nhất từ các công quốc rời rạc. Nội dung Khúc ca nói về sự kiện lịch sử - cuộc hành binh của công tước Novgorod-Bắc, Igor Xviatoxlavovich, chống quân Pôlôvetx vào năm 1185, kết thúc bằng sự thất bại thảm hại - đạo quân Nga bị đánh tan tành và chủ soái Igor bị bắt làm tù binh. Tuy nhiên tình tiết cá biệt này trong chuỗi những cuộc chinh chiến liên miên giữa Nga và các bộ tộc du mục vùng Pôlôvetx, lưu vực giữa sông Volga và sông Duryi, được tác giả khuyết danh nào đó của Khúc ca đã biến thành một sự kiện có tầm cỡ toàn nước Nga: câu chuyện về cuộc hành binh và sự thất bại của Igor nhằm phục vụ cho tư tưởng chủ đạo của tác phẩm là sự cần thiết phải chấm dứt sự chém giết lẫn nhau và phải đồng nhất các công quốc Nga lại trước sự đe dọa thường xuyên từ phía các bộ tộc du mục.

Tác phẩm Khúc ca về cuộc hành binh Igor cũng như những tác phẩm nối tiếp khác sau này trong văn học Nga, như Borit Godunov của A.Puskin, Lũ quỷ ám của F.Doxtoevxki, Nghệ nhân và Margarita của Bulgacov, Hổ móng của A.Platonov, Bác sĩ Zhivago của B.Paxtemak… đó là những bài học đạo lý cảnh giác của lịch sử Nga, mách bảo cho nhân loại.

Qua những chặng đường phát triển của thơ ca Nga trong mười thế kỷ tác giả bản báo cáo đề dẫn cho thấy rõ đặc điểm nổi bật của thơ ca Nga là tính công dân của nó. Ông đã nêu lên: “Nếu như Puskin chỉ là tác giả của các câu thơ như: Tôi yêu em đến nay còn có thể…, Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu…, chúng ta hẳn chẳng bao giờ gọi ông là “Tất cả của chúng ta”. Nhưng ông đã không thoái thác việc viết những câu thơ gửi cho những người (khởi nghĩa) tháng Chạp, Borix Godunov, Kỵ sĩ đồng. Chúng ta liệu có thể hình dung ra Blok - nếu không có trường ca Mười hai? Akhomatova - nếu không có Khúc tưởng niệm? Paxtemak, người mà vẫn bị những người cực đoan mỉa mai vì tính cách phi chính trị, rơi vào trung tâm của đời sống chính trị thế giới, bất chấp cái bản tính hiền lành, không đấu tranh, vẫn không lảng tránh lương tâm của mình mà viết ra Bác sĩ Zhivago…”

Ở giữa thế kỷ XIX nhà thơ Nga danh tiếng Nekraxov đã để lại một câu thơ trở thành châm ngôn: “Anh có thể không trở thành thi sĩ nhưng anh phải trở thành một công dân”. Chính tác giả báo cáo đề dẫn, nhà thơ Evgheni Evtusenco, cũng có một câu nói được mọi người ghi nhớ đã mấy thập kỷ qua và ở Hội thảo này đã lấy làm tiền đề cho một cuộc bàn tròn: “Nhà thơ ở nước Nga hơn cả một nhà thơ”.

Bằng chính sáng tác của mình cũng như hành động thực tế trong đời sống xã hội suốt nửa thế kỷ vừa qua nhà thơ Evtusenco cũng là một tấm gương sáng tỏ nhất cho thấy cái đặc điểm ấy của thơ ca Nga. Thơ trữ tình về những đề tài cấp thiết của ông thường xuyên được in ra với số lượng, những cuộc trình diễn thơ thu hút hàng chục nghìn công chúng người nghe, còn những chuyến đi nước ngoài đều đặn đã biến ông thực sự là đại diện thường trực của chính nước Nga trong lĩnh vực văn hóa ở mọi nơi. Ông đã sáng tác những bài thơ về các đề tài chính trị kịp thời của đảng (Những người thừa kế của Stalin (1962), Nhà máy thủy điện Braxki (1965)); đề cập đến các vấn đề, xúc động dư luận xã hội (Bờ dốc Babi (1961), Bài ca về nạn đánh bắt trộm cá (1965)). Năm 1984, ông đã được giải thưởng Nhà nước Liên xô về trường ca Bà mẹ và bom nơtron. Chất thơ trữ tình của ông hòa quyện với tính thời sự của đề tài (Liệu người Nga có muốn chiến tranh không). Ngay vào đầu những năm 1950, nhà thơ trẻ Evgheni Evtusenco đã được giới trẻ tôn sùng như ngọn cờ của thời kỳ hửng nắng (tuyết tan) ở Liên xô lúc đó. Nhà thơ đã không ngần ngại bảo vệ những người tri thức văn nghệ sĩ bị xử lý bất công. Nhiều dự báo của ông về những vấn đề xã hội về sau này đã được chứng thực. Vào những năm 1990, sau khi Liên xô sụp đổ ông lại từ chối không nhận tấm huân chương Hữu nghị giữa các dân tộc do đích thân Tổng thống Yeltsin lúc đó trao tặng (khi ấy vừa nổ ra cuộc chiến tranh ở Chechnya).

Chính vì thế mà các nhà thơ thực sự ở nước Nga vào các giai đoạn khác nhau trong lịch sử thơ ca Nga cũng được công chúng mến mộ, kính trọng và ghi nhớ như những người con yêu quý nhất của nhân dân. Ở Nga, người ta có thể quên tên các vua chúa ba bốn triều đại khi Puskin sống cùng, nhưng cho đến giờ trên dưới hai trăm năm tên tuổi nhà thơ Puskin chỉ càng thêm chói lọi hơn, in sâu hơn vào tâm khảm hết thế hệ người Nga này đến thế hệ người Nga khác… Suốt nửa sau thế kỷ XX trong những tên tuổi lừng lẫy của những nhân vật kiệt xuất ở Nga có lẽ tên tuổi nhà thơ Evtusenco cũng có một vị trí đặc biệt. Có nhiều lý do, nhưng một lý do đáng kể phải nói tới là nhà thơ Evtusenco đã thực sự biểu hiện được cái đặc điểm của thơ Nga, mà ông đã từng phát biểu thành câu châm ngôn: “Nhà thơ ở nước Nga hơn cả một nhà thơ”.

Bữa ấy nghe xong bản báo cáo đề dẫn của nhà thơ tôi không kìm nổi, lập tức xin tham luận. Cám ơn bản báo cáo của nhà thơ, tôi bổ sung thêm một biểu hiện nữa làm rõ cái ý trong báo cáo, đó là cái chủ đề mà nhiều nhà thơ Nga thường đề cập: chủ đề “quốc tế”, mà họ thực sự coi cũng là những vấn đề thiết thân của mình. Ở đây tôi cảm ơn những nhà thơ Nga, những nhà thơ Xô viết trong đó có cả Evtusenco đã có những sáng tác viết về đề tài Việt Nam, ủng hộ nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ bảo vệ độc lập tự do, thống nhất đất nước. Riêng E.Evtusenco, khi đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến leo thang khắp Việt Nam, tại Đại hội V của Hội các nhà văn Liên xô 1971, đã từng phát biểu: “Nhà văn lớn trong thế giới hôm nay không thể sống chỉ bằng những điều quan tâm nhỏ hẹp của “tính thổ nhưỡng”. Dưới chân người đó là trái đất, đang rung lên dưới tiếng nổ của những trái bom ở Việt Nam, của những trận động đất ở Peru, của những phát súng ở Đallax và Xant layo de Chilê.

Hơn bao giờ hết, tất cả mọi cái trong thế giới tương hỗ gắn bó với nhau, tôi không tôn trọng những nhà văn, không muốn biết đến những tiếng nổ ở Việt Nam chỉ vì, ngày hôm qua, các bạn biết không, trên xe buýt công cộng người ta đã giẫm phải vết đau của ông ta. Đó là sự chạy trốn khỏi hiện thực… Tôi cũng không tôn trọng những nhà văn cứ giúi cho báo chí những bài thơ tồi về Việt Nam và trong khi đó lại không nghe thấy tiếng rên đau của người hàng xóm của chính mình ngay bên kia tường. Đó cũng là sự chạy trốn khỏi hiện thực, chạy trốn, giả vờ là tính công dân”.

Trong những năm ấy, cũng như nhiều nhà thơ Xô viết khác: K.Ximônov, E.Dolmatovxki, I.Fonhiacov, Nicolaev… nhà thơ E.Evtusenco đã nhiều lần sang thăm Việt Nam, thậm chí đã tình nguyện sang để sát cánh cùng nhân dân Việt Nam chiến đấu (để thực hiện việc này trước đó ông đã tham gia khóa tập huấn quân sự) và sau những ấn tượng Việt Nam ông đã cho ra đời cả một tập thơ viết về đề tài Việt Nam với những bài thơ thật độc đáo, rung động lòng người: Nỗi nghèo Việt Nam, Nỗi sợ của những người không biết sợ, con đường số Một… Đến ngày nhân dân ta chiến thắng ông không quên gửi tặng cho chúng ta bài thơ Mừng chiến thắng.

Quốc tế, số 4 từ 27/1/2005 đến 2/2/2005

Thúy Toàn

kỷ niệm 150 năm thành lập Liên bang

CANADA

Là một nền dân chủ đại nghị liên bang và quân chủ lập hiến, Nữ hoàng Elizabeth II là quốc trưởng (có toàn quyền đại diện, như nước Úc).

- Quốc hội Canada (Parliament of Canada/ Parlement du Canada) là cơ quan lập pháp của Canada , tọa lạc trên Đồi Quốc hội ở thủ đô Ottawa (tương tự Đồi Capitol của Quốc hội Hoa Kỳ). Zip code mỗi Tỉnh bang, Lãnh thổ cũng có 2 từ như Mỹ.

- “Đạo luật ngày 30/4” là một đạo luật của Canada nói về việc chọn ngày 30/4 , là “Ngày Hành trình đến Tự do” (Journey to Freedom Day) do Thượng nghị sĩ người Canada gốc Việt (đầu tiên ở hải ngoại) là Ngô Thanh Hải khởi xướng và được Quốc hội Canada thông qua ngày 22/4 / 2015 .

- Chiếu theo Đạo dụ Bắc Mỹ thuộc Anh năm 1867, Quốc hội Canada thành hình gồm ba bộ phận: Quốc vương Canada, Thượng viện (105 thượng nghị sĩ ) và Hạ viện (308 dân biểu). Quốc vương Canada nắm cương vị quốc trưởng , đại diện bởi vị Toàn quyền - chức vị này do Thủ tướng đề cử và Thượng viện bổ nhiệm. Hạ viện do dân Canada trực tiếp đầu phiếu, đại diện 308 khu vực toàn quốc. Hạ viện là đơn vị chính trong Quốc hội, có rộng quyền lập pháp cùng phối hợp với Thủ tướng điều hành chính phủ. Hạ viện cũng có đặc quyền bãi nhiệm thủ tướng và Nội các . Thượng viện ít khi bác bỏ những dự luật do Hạ viện thông qua. Trong khi đó Quốc vương (do Toàn quyền đại diện) chủ yếu đóng vai trò lễ nghi.

- Thủ tướng Canada là người đứng đầu Chính phủ Canada và lãnh tụ của đảng với nhiều ghế nhất trong Hạ nghị viện của Quốc hội . Văn phòng chính thức của Thủ tướng nằm trong Đồi Quốc hội , tại Ottawa. Từ 4/11/2015 Canada có Thủ tướng đẹp trai là Justin Trudeau (sinh 1971), con trai trưởng của cố thủ tướng Pierre Trudeau .

Canada là một thành viên của Thịnh vượng chung các quốc gia . Canada là quốc gia song ngữ chính thức ( tiếng Anh tiếng Pháp ) tại cấp Liên bang. Do tiếp nhận người nhập cư quy mô lớn từ nhiều quốc gia, Canada là một trong các quốc gia đa dạng sắc tộc và đa nguyên văn hóa nhất trên thế giới, với dân số xấp xỉ 35 triệu người vào tháng 12/2012. Canada có nền kinh tế rất phát triển và đứng vào nhóm hàng đầu thế giới, kinh tế Canada dựa chủ yếu vào nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú và hệ thống thương mại phát triển cao. Canada có quan hệ lâu dài và phức tạp với Hoa Kỳ, mối quan hệ này có tác động đáng kể đến kinh tế và văn hóa của quốc gia. Canada tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và liên chính phủ về kinh tế: G8 , G20 , Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ , Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương . Canada là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương ( NATO ). Thủ đô là Ottawa: Mặc dù Ottawa và Gatineau chính thức thuộc về hai tỉnh bang Ontario - Quebec khác nhau và có bộ máy quản lý riêng biệt nhưng hai thành phố này hợp nhất thành Vùng Thủ đô Quốc gia với tổng số cư dân hơn một triệu người. Hội đồng Thành phố của chính quyền Liên bang ( Hội đồng Thủ đô Quốc gia , National Capital Council - NCC) sở hữu các khu đất của cả hai thành phố (tương tự thủ đô Mỹ Washington, thuộc 2 tiểu bang Virginia - Maryland, hợp nhất thành District of Columbia - D.C).

Nguồn gốc tên gọi Canada: Chữ Canada có nguồn gốc từ chữ kanata trong ngôn ngữ của thổ dân Huron-Iroquois, có nghĩa là “ngôi làng”

Quốc kỳ Canada, cũng gọi là Lá phong ( tiếng Anh : Maple Leaf) hay Một lá ( tiếng Pháp : L'Unifolié) gồm một nền đỏ và một ô màu trắng tại trung tâm của nó, ở giữa ô này có đường nét một lá phong đỏ cách điệu với 11 đầu nhọn. Thiết kế này được thông qua vào năm 1965 nhằm thay thế quốc kỳ Liên hiệp. Lá phong đã được sử dụng làm một biểu tượng của Canada kể từ thập niên 1700.

Liên bang và khuếch trương

Các thuộc địa Anh còn có lý do chính đáng để lo ngại mối đe dọa quân sự từ phía nam. Nhiều người Mỹ có một niềm tin với biệt danh là “Manifest Destiny”, một định mệnh hiển nhiên, theo ý trời tất cả lãnh thổ ở tại Bắc Mỹ sau cùng sẽ thuộc hết về một mối. Nỗi lo sợ ấy càng dâng cao khi cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ chấm dứt vào năm 1865. Lực lượng Liên Bang hùng mạnh của các tiểu bang miền Bắc có thể tìm cách trả thù Anh Quốc đã ủng hộ cho lực lượng Liên minh của các tiểu bang miền nam trong lúc nội chiến của họ diễn ra. Đối với Anh Quốc, hỗ trợ cho các thuộc địa xa xôi của mình đã vô cùng tốn kém rồi, gửi binh lính đến để phòng thủ chuyện Mỹ tấn công càng khó khăn hơn. Đã đến lúc các thuộc địa phải suy nghĩ tìm cách nào để tự lo cho mình.

Chính tại Charlottetown, thủ phủ của đảo Prince Edward Island, là nơi mà ý tưởng lập quốc của Canada đã được hình thành, họ đã đặt nền móng cho một hiệp định quan trọng nhất, thay đổi vận mệnh của cả một lục địa. Các nghị quyết của họ đã trở thành hiến pháp cho một đất nước mới, và ngày 01/7/1867 đã được chọn là ngày chính thức tuyên bố thành lập Liên bang Canada. Từ đây, xuất hiện một Liên bang với diện tích lớn thứ nhì thế giới!

Liên bang Canada ban đầu gồm có bốn tỉnh bang - Ontario (zip code: ON), Quebec (QC), Nova Scotia (NS), và New Brunswick (NB), sau thêm 6 tỉnh bang: Manitoba (MB), British Columbia (BC), Prince Edward Island (PE), Saskatchewan (SK), Alberta (AB), Newfoundland and Labrador (NL) và 3 lãnh thổ: Northwest Territories (NT), Yukon (YT), Nunavut (NU). Các tỉnh bang mang tên Province để giữ truyền thống của thời họ là các tỉnh - province của Đế quốc Anh.


Về mặt lập pháp, thay vì có hai viện như Liên bang, Quốc hội của mỗi tỉnh bang chỉ có một viện với tên khác nhau tùy theo từng tỉnh bang. - Khác biệt: tại Canada, các tỉnh bang nhận được quyền lực và quyền uy trực tiếp từ Đạo luật Hiến pháp năm 1867, mỗi tỉnh do 1 phó thống đốc đại diện, trong khi các lãnh thổ không có chủ quyền, 1 ủy viên đại diện, nhận ủy nhiệm và quyền lực từ chính phủ Liên bang.

‘Một ngày không vội vã’ (No Hurry Day)

Từ xưa, chúng ta thấy ngay trong tình yêu mà người ta cũng vội vàng. Xuân Diệu đã thúc giục:

“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,

Em, em ơi, tình non đã già rồi;

Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,

Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi…”

Yêu thì cuồng, sống thì vội vã!

Rồi cuộc đời như dòng sông cuốn chúng ta trôi theo. Học hành, hôn nhân, sinh con đẻ cái, công ăn việc làm, giàu có bon chen, vội vàng đã đành, nghèo khó cũng chạy theo cuộc sống, có một giờ phút nào ngơi nghỉ đâu! So với các quốc gia ở Âu Châu, Úc, Á Châu, thì Hoa Kỳ có nhịp sống hối hả nhất!

Từ vài năm nay, mỗi năm chính phủ Canada chọn ra một ngày, thường là vào mùa hè, một ngày cuối tuần, gọi là “Một ngày không vội vã” (No Hurry Day). Việt Nam có nhiều tiếng để gọi như là: “Một ngày không hấp tấp, không hối hả, không vội vã, không khẩn trương”. Khoảng vài tuần trước đó báo chí, các cơ quan truyền thông đều loan báo và nhắc nhở để mọi người biết mà chuẩn bị. “Ngày không vội vã” bắt đầu từ 8 giờ sáng cho đến 9 giờ tối. Đó là một ngày sống với thái độ: “Chậm lại, bình tâm lại, đừng lo lắng, đừng vội vàng, hãy tin vào quy luật của tự nhiên!”

Thử tưởng tượng ra một ngày nào đó, buổi sáng không có tiếng đồng hồ báo thức, không hẹn hò với ai, không hứa với ai đó làm việc gì, có thể nằm nướng trên giường, “có việc thì lo phay pháy, không việc thì ngáy pho pho”! Một ngày không mở Internet, không “chat”, không Facebook, không đọc báo, không có tiếng điện thoại reo… Có lúc nào bạn buông ra được nửa bước cái điện thoại cầm tay, hay mắt rời cái màn ảnh truyền hình trong một ngày chưa!

Cuộc đời chúng ta, mỗi năm có được bao nhiêu ngày hạnh phúc như vậy!

Kỷ niệm 150 thành lập Liên bang

Canada phát hành mẫu tiền đặc biệt

Nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Chính phủ liên bang Canada (1/7/1867 - 1/7/2017), Ngân hàng Trung ương của nước này đã đưa vào lưu hành các loại tiền xu và tiền polymer mẫu mới được thiết kế đặc biệt và áp dụng nhiều công nghệ in đúc hiện đại.

Đúng một tháng trước ngày lễ kỷ niệm 150 năm Quốc khánh Canada, Ngân hàng Trung ương Canada (BoC) đã cho lưu hành 40 triệu tờ tiền polymer mới có mệnh giá 10 CAD. Loại tiền mới này trông bắt mắt do có in hình lá phong nổi theo công nghệ 3D và hình mái vòm có thể đổi màu từ xanh dương sang xanh lá cây khi nhìn ở các góc khác nhau, mô tả theo mái vòm trong Tháp Hòa Bình của Tòa nhà Quốc hội liên bang.

Khác với các tờ tiền thông thường chỉ in hình một nhân vật, tờ tiền mới in hình chân dung 4 nhân vật có ảnh hưởng lớn trong lịch sử Canada, gồm Thủ tướng đầu tiên Sir John A. Macdonald , người đồng sáng lập Liên bang Canada Sir George-Étienne Cartier, nữ nghị sĩ đầu tiên Agnes Macphail và nghị sĩ gốc thổ dân đầu tiên James Gladstone.

Mặt còn lại của tờ tiền in hình một số thắng cảnh nổi tiếng của Canada như núi Sư Tử, hồ Capilano ở tỉnh British Columbia, lúa mì ở vùng thảo nguyên (Prairie), vùng đá Canadian Shield ở Quebec và cực quang ánh sáng phương Bắc ở công viên quốc gia Wood Buffalo.


Thống đốc BoC Stephen S. Polozcho cho biết, tờ 10 CAD mới là tờ tiền polymer an toàn nhất ở Canada hiện nay vì được áp dụng các tính năng bảo mật mới rất dễ nhận biết và khó làm giả.

Bên cạnh phát hành tiền polymer mới, Canada cũng đã đưa vào lưu hành rộng rãi 5 loại tiền xu theo các mệnh giá khác nhau để kỷ niệm 150 năm Quốc khánh Canada. Những mẫu tiền xu mới được lựa chọn từ hàng nghìn mẫu thiết kế tham dự cuộc thi được phát động từ năm ngoái. Ban tổ chức đã quyết định chọn mẫu “truyền thống cuộc sống” cho đồng 5 xu, “cánh hoa hòa bình” cho đồng 10 xu, “hy vọng xanh” cho đồng 25 xu, “kết nối dân tộc” cho đồng 1 đôla CAD và “vũ điệu tinh thần” cho đồng 2 CAD. Đáng chú ý trong số này có một số lượng nhỏ đồng 25 cent và 2 CAD được in màu. Đây cũng là những đồng tiền xu đầu tiên trên thế giới được in lưỡng kim màu và có tính năng phát quang.

Theo lời bà Sandra Hanington, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Công ty Đúc tiền Hoàng gia Canada, những đồng xu Canada 150 sẽ trở thành món quà lưu lại kỷ niệm cho các thế hệ người Canada, hiện tại cũng như tương lai.

Đây là lần thứ tư Canada in tiền kỷ niệm sự kiện lớn. Những loại tiền kỷ niệm trước đây gồm tờ 25 CAD kỷ niệm 25 năm ngày đăng quang của Vua George V vào năm 1935, tờ 1 CAD kỷ niệm 100 năm Quốc khánh Canada vào năm 1967 và tờ 20 CAD kỷ niệm Nữ hoàng Elizabeth II trở thành Quốc vương trị vì lâu đời nhất của Canada trong thời hiện đại.

LỜI KẾT

Chân dung bà Sophie Grégoire Trudeau - người phụ nữ luôn sát cánh bên Thủ tướng Canada, Justin Trudeau.

Từ thời điểm lên nhậm chức, Thủ tướng Trudeau đã được rất nhiều người hâm mộ vì tính cách dễ mến, thái độ ôn hòa, sự quan tâm tới những người tị nạn và ủng hộ cộng đồng LGBT (đồng tính) cũng như quyền của phụ nữ.

Không chỉ vậy, ông Trudeau còn được mệnh danh là một trong những chính trị gia quyến rũ nhất hành tinh và từng góp mặt trong danh sách “những người đàn ông quyến rũ nhất” của tạp chí thời trang danh tiếng Vogue.

Sophie đã tổ chức nhiều buổi từ thiện về quyền bình đẳng giới. Bà cũng là đại sứ quốc gia cho đề án “Vì tôi là con gái” của chính phủ. Nhưng có vẻ, những điều mọi người biết về bà vẫn còn quá ít ỏi.

Canada phát tiền “tiêu vặt” cho người dân,

gần 17.000 USD/năm

Sau Phần Lan, Hà Lan và Tp. San Francisco, bang California - Mỹ, tỉnh Ontario ở Canada có kế hoạch chi trợ cấp hằng tháng cho người dân, được gọi là thu nhập cơ bản.

Hệ thống này sẽ được triển khai tại 2 khu vực của tỉnh Ontario. Hôm 25-4-2017, Thủ hiến Kathleen Wynne đã công bố các chi tiết mới trong chương trình Thu nhập Cơ bản Ontario, dự kiến bắt đầu vào cuối mùa xuân này và kéo dài trong 3 năm. Có tổng cộng 4.000 người tại 3 khu vực ở Ontario sẽ bắt đầu nhận thu nhập cơ bản dựa theo mức lương hiện tại của họ. Mỗi người có thể nhận được số tiền lên tới 16.989 USD/năm nhưng 50% của bất kỳ khoản thu nhập cá nhân nào khác đều bị trừ vào con số đó. Ví dụ, nếu một người kiếm được 10.000 USD/năm từ công việc làm của mình, họ sẽ nhận được thêm số thu nhập cơ bản là 11.989 USD, nâng tổng thu nhập lên 21.989 USD. Tiêu chuẩn để được tham gia chương trình là ứng viên phải nằm trong độ tuổi 18-64 và có thu nhập thấp. Sau đó, họ sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên.

Quan hệ giữa Canada và Hoa Kỳ

- Chính quyền Mỹ của TT Trump đang dội một gáo nước lạnh vào Canada với việc áp đặt thuế suất lên tới 24% vào lượng gỗ xẻ nhập vào Mỹ (tháng 4/2017).

- TT Mỹ Trump và Thủ tướng Canada Trudeau thất bại trong việc che giấu những khác biệt trong quan điểm về người nhập cư trong buổi gặp mặt tại Nhà Trắng. Tuy không có quan điểm chung về vấn đề nhập cư nhưng cả hai lãnh đạo đã nỗ lực để thu hẹp khoảng cách về những bất đồng trong lãnh vực thương mại.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)


Phụ Bản II

NÀNG… NÀNG

Thật là cả một thế giới tươi đẹp đóng đô ở lòng tôi, sáng nay, trời thương thánh độ hay sao? Tôi được gặp nàng ở gần nhà nàng.

Nàng… nàng! Gớm! Sao cứ nói đến chữ “Nàng” là tôi thấy tim tôi đập mạnh, thân thể tôi rung động bởi một cảm giác say sưa, mặt tôi nóng bừng và đỏ bừng lên như người say rượu. Chữ Nàng nói từ miệng tôi, viết dưới ngòi bút tôi chỉ có thể là một mình nàng. Với tôi, chữ Nàng đã thành một biệt hiệu. Mà phải, ngoài nàng ra, các con gái trên thế gian này, còn có ai đáng được tôi gọi là “nàng” nữa. Lắm lúc tôi thấy như tất cả mọi chữ tôi viết đều vô nghĩa, trừ chữ: Nàng. Tất cả các bài tôi viết, các thơ tôi làm đều nhạt nhẽo, nếu không phải để tặng nàng.

Kìa! Nàng đương đi lại gần tôi - vị thần ban hạnh phúc cho tôi đương đi lại gần tôi - Nàng đã đem một mặt trời và một vườn hoa thơm đến cho tôi?

Nàng đeo kính đen, qua mặt kính, tôi chả nhìn thấy cặp mắt liếc tuyệt đẹp là gì!

Nàng mặc chiếc áo đen, áo ấy có phải may bằng thứ lụa của Chức Nữ dệt bên bờ sông Ngâu? Nàng cầm một tờ bìa mầu hồng… Thôi phải rồi! Tôi đã từng được đọc trong một cuốn truyện nào: “Lưu thần chắp cánh hoa đào làm bìa sách đóng cho Tiên nữ học…”

Chỉ còn mươi bước nữa thì tôi gặp nàng, tôi hồi hộp quá! Tôi sung sướng quá! Mà trong phút hồi hộp, sung sướng ấy, như lại chen lẫn vào nỗi lo sợ ngập ngừng. Nên nhìn thẳng hay nên cúi xuống nhìn đường? Hay là đừng nhìn gì cả? Hay là nhắm mắt lại? Hay là quay giở về? Nên bắt tay ra sau lưng hay khoanh tay trước ngực? Hay là cứ để tự nhiên?... Biết bao nhiêu là “nên” với “hay là” rủ nhau đem một lô dấu hỏi đến đánh vào óc tôi. Tôi cuống cuồng… hình như tôi nghĩ nhiều lắm mà thành ra chẳng nghĩ gì cả.

Chân tôi vẫn bước, mắt tôi vẫn nhìn nàng để rồi cúi xuống, và để lại ngẩng lên nhìn nàng. Chợt tôi nhận thấy chung quanh nàng có một vùng hào quang tỏa ra. Trời ơi! Chả nhẽ Oanh của tôi lại là đức Phật được! Không, tôi chả muốn Oanh của tôi là đức Phật đâu! Tôi muốn Oanh là người yêu của tôi cơ! Tôi phụng thờ nàng thành kính hơn các vị tăng ni phụng thờ đức Phật, tôi tôn sùng nàng gấp mấy lần người ta tôn sùng một tôn giáo, tôi luôn luôn tụng kinh vì nàng, nhưng là tụng kinh ân ái. Đức Phật chả biết có đem được hạnh phúc cho đời tôi không? Chứ nàng, nếu nàng yêu tôi, nàng sẽ đem được hạnh phúc cho đời tôi, chắc chắn. Tôi không thể tìm thấy Thiên đường ở đâu, tôi chỉ có thể tìm thấy Thiên đường ở nàng.

Tôi được nàng yêu, thì Thiên đường và Hạnh phúc ơi! Tao đã nắm được cổ chúng mày rồi đó!

Chỉ còn một nháy mắt nữa thì nàng và tôi sẽ chạm vào nhau, nếu tôi chịu khó ngang khuỷu tay ra một chút… Trời ơi! Cả nàng biến hẳn ra ánh hào quang và huơng thơm mất rồi… Tôi nhìn nàng mà thật ra tôi chẳng nhìn gì cả.

Trong giây phút mê ly ấy, trong giây phút tán loạn tâm thần ấy, tôi cảm thấy tôi đã đi đến con số chót của con đường khoái lạc. Rồi hình như cả người tôi cũng chịu sức cám dỗ của nàng, mà biến ra ánh sáng với hương thơm. Hai khối ánh sáng ướp hoa ấy bắt lấy nhau, hút lấy nhau, hòa vào nhau làm một, tạo thành một khối tinh anh của Ái tình.

Tôi quay nhìn lại, thấy nàng đã bước vào nhà. Lúc này tôi mới buồn rầu, hối hận, tôi mắng tôi, tôi chửi tôi. Tôi tiếc rằng sao tôi không nói với nàng một câu: “Tôi yêu nàng” hay kêu lên một tiếng: “Nàng!” cũng được? Sao tôi lại ngậm miệng không chào cái người mà tôi coi như một cái đích để sống? Sao? Sao?... Ai có quyền cấm tôi nói? Ai có quyền cấm tôi ôm lấy nàng mà hôn, mà van? Không! Không ai có quyền cả, dù là ông giời, chỉ tại tôi, chỉ tại tôi hèn nhát quá mà thôi! Tôi không đủ can đảm để miệng nói một câu tôi muốn nói nhất, tôi không đủ lực lượng giang tay để thực hành cái việc mà tôi hằng mơ ước xưa nay. Dù rằng những công việc ấy rất dễ dàng, dễ như ta cho tay vào túi quần vậy.

Nói một câu với người mình yêu có phải lên đoạn đầu đài đâu? Cầu xin người mình yêu một cái gật đầu có phải chung thân biệt xứ đâu? Vậy mà tôi không dám đấy. Thì ra những thằng sống bằng mơ mộng như tôi, có bao giờ “dám” cái gì đâu!!!

Tôi đứng sững ở góc phố nhà nàng như một cái cột đèn xi măng cốt sắt. Mà trái tim tôi lúc ấy có lẽ cũng nguội như sắt mất rồi.

Được! Tôi sẵn lòng để trái tim tôi thành sắt, nếu trái tim nàng là đá nam châm.

Nguyễn Bính - Đào Minh Diệu Xuân st.

 


Cho ngày yên vui

Ngày vui tới cho bước chân xấp xới
Vạn nẻo đường phấp phới những niềm tin
Những gian ngoa lường lọc khuất chìm
Đòn cân não quyết lòng bung phá

Cõi người ta bao la chuyện lạ
Khắp đó đây thôi thúc từng ngày
Những trái tim nhiệt huyết mê say
Dầm mưa nắng truyền lan dẫn tải

Giữa mênh mông chập chùng trái phải
Nọ thực hư đen trắng bủa vây
Vẫn sinh thường tương khắc trả vay
Xây bản lĩnh đắp dày tâm đức

Đấng thiên sanh chói ngời minh định
Bất dung gian dục tánh mê sa
Thắp huyên linh soi tỏ chính tà
Hằng lương khiết hồng vinh bách khả.

ĐÀM LAN

LỜI GỬI MƯA

Kính thưa cơn mưa chiều hiu hắt,

Sao không mưa một lần cho nước mắt cạn ly?

Để ta không còn rấm rức nẻo đường về

Rằng chưa bao giờ đối ẩm cùng mưa cho đến khi dứt hạt.

*

Bao giờ cũng thế, mưa với ta là tình yêu dào dạt

Là ướt từ trong tận đáy nhất của tâm hồn

Là giãi bày cùng gió đến ngàn phương

Là chỉn chu những nét liêu xiêu trên trang giấy vội

Là những gì mà cả đời ta chưa từng đưa tay với

Là những gì ta chỉ muốn nói với riêng ta.

Âm thầm ư? Vâng, chỉ là giọng hát ngân nga

Trên ướt át của tàng cây ven đại lộ.

*

Thỉnh thoảng có chú sâu, ban đầu còn bỡ ngỡ

Ngã sóng soài sau một cú đu giây

Nhập nhòe rồi đủng đỉnh, loay hoay

Nấp đâu đó dưới chiếc lá

vừa run rẩy rời cành tươm nước mắt.

Những giòng nước lan man chảy về đâu cho hết.

Súc vào chân cho trôi đi mọi hạt cát cuộc đời.

Ta với mưa, ôi những phút thảnh thơi

Những hạt nước tinh khôi ấy làm lòng ta sạch bóng.

*

Kính thưa anh mưa, chị mưa, chiều nay trời lồng lộng.

Ta về đây, nếu muốn, xin cứ đậu trước cửa nhà.

Hồn ta mãi mãi thiết tha.

Xin mưa ở lại ngân nga đêm này...

LAM TRẦN 13.07.2013

SỢI NHỚ SỢI THƯƠNG

Tóc em dài sợi vấn vương
Sợi thương sợi nhớ bên đường lá me
Duy Tân nắng đổ trưa hè
Bên nhau tình chợt sắt se dỗi hờn

Sài Gòn mưa vẫn rơi tuôn
Tóc em vướng hạt mưa buồn lắt lay
Thương sao mà mượt tóc mây
Tay nào ve vuốt ngất ngây tình hồng

Bâng khuâng một sợi tơ chùng
Cho dài thương nhớ ngóng trông tháng ngày
Hỏi tình còn đắm mê say
Ôm tròn kỷ niệm u hoài tóc mai...

Chiều nay gió lộng tóc dài
Nhớ xưa tóc xỏa bờ vai mơ màng
Ước mơ một giấc nồng nàn
Ánh trăng mười sáu dòng Ngân ru tình...

Thu về lá úa lặng thinh
Em hong tóc, nhớ cuộc tình ngày xưa
Sợi dài sợi ngắn hững hờ
Chiều mưa lạc bước tóc tơ lỡ làng...

Phạm Thị Minh Hưng

GỞI MƯA

(Mưa và Em 3)

Mưa ơi cho ta gởi
Câu chuyện buồn tả tơi
Mưa rồi. Em chưa tới
Ngõ hồn ta chơi vơi !

Gởi mây bay gió thoảng
Gởi mưa gió chiều hoang
Lời tình hoài tha thiết
Biết còn ai ngóng trông ?

Hoàng hôn đừng xao động
Lá đã rụng rơi nhiều
Dấu tình xa vắng quá
Xóm nhỏ buồn mênh mông !

Tìm nơi đâu dấu yêu
Bóng em giờ xa khuất
Mưa giăng mây mịt mù
Mình ta chiều hoang vu !

Phạm Thị Minh Hưng

(10/12/2016)

Người trở lại trường xưa

Thầy NGÔ BẢO TÍN kính yêu

Thầy về thăm lại trường lớp cũ

Em cũng nhớ thầy... chẳng dám sang

Mấy chục năm trời mình vẫn nhớ

Những ngày lịch sử mới sang trang

Sau buổi đến trường em quảy gánh

Tiếng rao lanh lảnh ngã ba làng

Hàng dương gió lộng thầy rảo bước

Nhanh chân đi thẳng phía hành lang

Em nhớ thầy Thương cô Thu Vân

Nhớ cô Như Nguyện biết bao lần

Đêm đêm thức dậy đun nồi sữa

Tiếng Vạc kêu buồn lại bâng khuâng

Xúc động quá chừng trên fb

Thầy Tín lại nhìn được nhỏ Nguyên

Từng lời thầy nói nghe đứt ruột

Tình nghĩa thầy trò quá thiêng liêng

Mai mốt thầy về thăm trường nữa

Em chẳng ngại ngùng chẳng trốn đâu

Em sẽ nắm tay mà kể lể

Bao năm chìm nổi với bể dâu

Tháng năm phượng đỏ sân trường cũ

Dương vẫn thì thầm hóa lộng che

Tùng tùng trống giục giờ tan học

Trắng áo sân trường vọng tiếng ve.

Nguyên Lê

ĐAM MÊ

Thuyền thơ đậu bến sông thơ

TRời nghiêng tím mộng hững hờ sóng xô

NgƯu Lang say mộng hải hồ

ThưƠng về Chức Nữ bên bờ Ngân giang

XuyêN sơn tìm động hoa vàng

PhươnG trời thăm thẳm chưa tan ước thề

Qua bao bến hẹn đam mê

TUyệt vời cảm xúc - lối về chiêm bao

ThÂm sâu ý nhớ dạt dào

NgổN ngang tâm sự ngọt ngào hương thơ.

NGÀN PHƯƠNG

CHIỀU QUÊ

Tim xanh trổ nhánh hoa đời

Rạt rào cảm xúc - tuyệt vời hương mơ

Ưu tư ánh mắt mong chờ

Ơn trời - hy vọng ngập bờ bến yêu

Nương dâu vẳng tiếng sáo diều

Gặp nhau trong mộng - chuông chiều xa đưa

*

Quê nhà trải mấy nắng mưa

U hoài tiếc nuối sao vừa luyến thương

Ân tình say giấc Ngàn Phương

Ngẩn ngơ thi tứ - vấn vương chuyện lòng.

NGÀN PHƯƠNG

NGUYỄN DU

Nguyễn Du

Khi còn bé:

Đầy trí ngang tàng.

Trèo lên ngọn núi Hồng Lĩnh,

Nhìn sông Tam Giang

Mà nghe âm nhạc của trời đất.

*

Khi trưởng thành:

Yêu mến nồng nàn,

Vì ái tình mà hiến những lẽ yêu thầm của trời đất.

Sau bị tình nhân ruồng rẫy,

Ngắm trăng suông mà khóc hết canh dài.

Lại từng lăn lóc trong đám yên hoa:

Đã từng thả thuyền trên Sông Hương.

Mà nghe những điệu ca thê thảm,

Đã từng ném bạc ở hồ Giám

Mà nghe tiếng đàn một người ca kỹ phiêu lưu.

*

Lúc Thành thân:

Anh hùng ra sức, mà gió bụi tung trời,

Nguyễn Du đã từng xông pha chốn tên bay đạn lạc

*

Rồi…

Phải bôn ba Nam, Bắc,

Mấy năm trời nuốt gió ăn sương.

Sau lại phải áo xiêm đùm bọc

Lênh đênh trong đám quan trường,

Ơn vua tuy đằm thắm,

Nhưng nỗi nhục vinh cũng đến bạc đầu.

*

Trở về già:

Dưới chân núi Hồng Lĩnh

Một túp lều tranh, mấy chồng thơ cổ,

Chim hôm lác đác về rừng;

Mảnh trăng treo trước cửa;

Ngồi bên đóa trà mi

Gảy khúc cao sơn, lưu thủy.

Nhớ người xưa

mà yêu một người trong mộng: Thúy Kiều.

LỆ NGỌC st.

Họa bài

“Tình thơ”

THIÊN DUYÊN

Thiên duyên hạnh ngộ mới quen nhau

Bay bổng hồn thơ đượm sắc màu

Biển rộng bao la ân ái mộng

Sông dài vạn dặm nghĩa tình sâu

Tri âm BÁ - TỬ mừng khôn siết

Tri kỷ Long Vân mãn nguyện cầu

Xướng họa tâm giao vui bạn hữu

Tình thơ đẹp mãi tới mai sau.

LÊ MINH CHỬ

Gia đình

Từ ngàn xưa thường quan tâm tới

Gia đình

là tế bào gốc của xã hội

Gia đình

là niềm vui,

hạnh phúc

là nỗi ưu phiền của chúng ta

Hãy trân trọng và gìn giữ lấy,

Thương yêu gia đình mà tạo hóa đã ban cho

Đời người như đóa hoa

sớm nở

tối tàn

Ta tận hưởng niềm vui

và mang niềm vui đến

cho mọi người

Gia đình

Gia đình của chúng ta.

LÊ MINH CHỬ

CÂU CHUYỆN CŨ

Thuở ấy tôi và em yêu nhau

Chỉ biết hẹn hò chưa biết nói nhiều tình tứ

Cứ tay trong tay nhìn nhau bỡ ngỡ

Thế là yêu ta say đắm ngọt ngào

Em mười bảy tuổi môi hồng ngọt lịm

Nụ hôn nồng cháy trong tôi

Em cũng thích sắc hoa màu tím ?

Ta yêu nhau hạnh phúc đầu đời

Ta theo chinh chiến mời gọi

Em về với chồng mười chín đương xuân

Sắc tím sau lưng phai dần nỗi nhớ

Yêu em, tôi nhớ… nhớ… vô ngần

Những núi, những non, bạt ngàn cách trở

Tôi tìm em trong nỗi nhớ tháng ngày

Chiều ba lô nặng dần mong đợi

Và lòng vẫn tưởng một không hai

Năm sau tôi về lại phố cũ

Thăm lại mộ người tình lạnh lẽo hoang vu

Nước mắt tỏ nhỏ xuống thềm đá lạnh

Thương em khóc lệ đến bao giờ ?

T.P.

RẠNG RỠ MÔI CƯỜI *


Bởi cô hàng bán sách

Thiếu tiền thối cho tôi

Đọc tên sách đã thích

Mà không mua được rồi

Cuốn “Môi cười rạng rỡ”

Ai đặt tên sách đó

Nụ cười mua được sao ?

Tay cầm sách đã trao

Lại trả về bối rối

Chẳng có gì đáng nói

Chỉ là chuyện nhỏ thôi

Nếu không có một người

Một khách hàng mua sách

Đã chứng kiến thấy tôi

Người không mua được sách

Tôi chưa kịp bước ra

Người ấy đã thật thà:

Ông hãy cầm lấy sách

“Này cô bán hàng ơi

Tính cả tiền sách ấy

Cùng mấy cuốn của tôi”

Ngỡ ngàng quá đi thôi

Biết nói gì đáp lại

Không thể chỉ một lời

Cảm ơn người khách lạ

Rồi tôi mới nhận ra

Một “ma sœur” hiền hòa

Trong màu tro vạt áo

Mang tấm lòng thơm thảo

Giản dị đến không ngờ

Chỉ là nhận và cho

Như hoa thơm nhờ gió

Như bếp chiều có lửa

Chẳng to tát gì đâu

Mà sao đã thấm sâu

Để tâm hồn xao động

Giữa vòng đời cuộn sóng

Chia tay người tu sĩ

Bằng ánh mắt thầm trao

Lời cảm ơn lặng lẽ

Người đã ban tặng tôi

Quà “Rạng rỡ môi cười”

Sàigòn 21.8.2007

LÊ NGUYÊN


------------

(*) Tên cuốn sách “Rạng rỡ môi cười” của tác giả STEVE GOODIER, nhà xuất bản Phụ Nữ ấn hành

HƯƠNG HOA

Tặng người y tá chưa biết tên

Người y tá ấy vào thăm tôi như thường lệ

Mũi tiêm thật nhẹ xong rồi

Sau lời cảm ơn tôi mới hỏi:

Cô có biết bài thơ “Màu trắng xanh tinh khiết” của tôi

Khẽ nở nụ cười hàm tiếu trên môi

Cô không trả lời vào câu hỏi

Mà đọc câu thơ làm tôi quá ngỡ ngàng

“Ở đây không có hương hoa cúc hoa lan

Chỉ có mùi cồn đậm đặc không gian…”

Đó, câu thơ rất đỗi bình thường

Sao lại được truyền lan nhanh thế

Tôi chẳng biết nói gì với người y tá trẻ

Chỉ lặng im cho bao điều chưa kịp nói ra

Thêm một lần cảm ơn người độc giả

Người cảm thơ tôi bằng trái tim đẹp quá

Để mùi cồn cũng hóa hương hoa !

sáng 28.12.2007

LÊ NGUYÊN

NẾU CÓ EM

Nếu có em:

Trời thêm xuân, lời ca thêm quyến rũ

Lòng nở hoa, hương phấn kết thành thơ

Tay trong tay dâng hiến tuổi yêu đời

Tình trong sáng, duyên vàng trăng đôi tám

Nếu có em:

Thời gian ngừng trôi, cô đơn ảm đạm

Gió đưa vèo phiêu lãng góc trời xa

Cười thắm môi, tỏa sáng đẹp đường hoa

Lóng lánh mắt, sao khuê ngời tia sáng

Nếu có em:

Đường chiều nên thơ, nhìn mây lãng đãng

Ta nghe lòng ấm vọng, thuở đôi mươi

Ngồi bên nhau trao ánh mắt nụ cười

Ôi ! Ngây ngất, nồng nàn trang lưu ký

Nếu có em:

Nhịp cầu yêu đương, trải dài thế kỷ

Ấn tượng tim mình, hình bóng thương thương

Trần gian phiêu du, hóa cõi thiên đường

Ta choáng ngợp, cảnh lâu đài tình ái

Nếu có em:

Uyên ương hạnh ngộ, tơ lòng chuyển tải

Lá xanh gieo dìu dặt suối thiên thai

Ta gần nhau ngất lịm cả hình hài

Chung nhịp thở, chung tiếng lòng say đắm

Nếu có em:

Tình cảm thăng hoa, điệu hò duyên thắm

Lẵng hoa lòng xin dâng tặng em yêu

Môi mặt hồng son, vóc dáng diễm kiều

Ôi ! Nhan sắc mượt mà ta đắm say.

NGÔ BÁ MẠNH

TRẢI LÒNG

Đêm khuya thức giấc ngỡ ngàng

Nhớ cha nhớ mẹ hai hàng lệ rơi

Lâu lâu muốn gọi anh ơi !

Người thì Rạch Giá, kẻ thời Quận xa

Thương con đau đớn thịt da

Nhớ con nhớ lắm bao la nghĩa tình

Đêm về đơn độc một mình

Lăn qua trở lại bệnh tình nặng mang

Ước gì không có dở dang

Gia đình sum họp bình an vui vầy

Giờ đây đơn lẻ nơi nầy

Canh khuya thanh vắng đong đầy tái tê

Kéo dài kiếp sống ủ ê

Gửi người thân mến đừng chê thôi phiền.

Khuya 25-10-2015

VŨ THÙY HƯƠNG

SƯỞI ẤM CHO NHAU

Hoàng hôn tĩnh mịch bồi hồi

Mình ta thơ thẩn đứng ngồi chẳng yên

Xế chiều bệnh hoạn liên miên

Ở nhà nghĩ ngợi muốn điên cái đầu

Mặc cho mưa gió dãi dầu

Giao lưu Thơ Nhạc với sầu quên đau

Mong ai chớ mãi khích nhau

Bạn bè gặp gỡ trước sau giao hòa

Tránh đi đừng để nhạt nhòa

Chớ nên tự đắc cười xòa là hơn

Mong sao Trời Phật ban ơn

Vui cùng bè bạn cô đơn tạ từ.

VŨ THÙY HƯƠNG

KHI RỜI LAGI

Thân kính tặng anh H. Vinh Tân

Tinh mơ rời đất Lagi

Trở về thành phố ầm ì trong sương

Xe băng qua những nẻo đường

Đèn đêm soi bóng phố phường lặng yên

Quay nhìn sông rộng đầy thuyền

Chập chờn nối giấc ngủ hiền còn vương

Thôi ta tạm biệt Đồi Dương

Hẹn ngày thăm lại một phương biển rừng

HOÀI LY (15/8/2016)

Tháng Sáu mưa

Tặng bạn Kim Nguyệt

Tháng Sáu trời mưa rơi

Đường về ướt ngàn nơi

Anh có thăm xóm nhỏ

Ngày cũ cuối chân trời

Tháng Sáu như tình ca

Thuở đó chúng mình qua

Quán chiều nghe nhạc Trịnh

Đưa nhau dưới chiều tà

Tháng Sáu trời vẫn mưa

Phố buồn người lưa thưa

Em về ngang chốn ấy

Nghe nỗi nhớ sao vừa

Nơi anh mưa nhiều không

Cao nguyên mấy mùa đông

Bao giờ người trở lại

Cho em đón tình nồng.

HOÀI LY

(trích THƠ TÌNH MÙA THU)

CUỘC SỐNG GÀ

Chớm nở bình minh gà gáy rồi

Mọi người mở cửa dậy đi thôi

Trước tiên công việc cho ngày mới

Dự kiến hoàn thành dạ vẫn tươi

Đêm đến trăng soi trên mái nhà

Mẹ gà cục tác gọi mọi nơi

Bầy con lần lượt cùng về ổ

Hạnh phúc ấm no là cuộc đời.

QUANG BỈNH

NOI GƯƠNG GIÀ

Gốc lớn cây xưa cổ thụ tàng

Tuổi già mạnh khỏe được an khang

Sinh thời còn trẻ mang tâm lớn

Đến lúc về già muốn sống nhàn

Con cháu đang thời noi nghiệp cả

Chung lòng xây dựng vượt gian nan

Vợ chồng chung sức nên cơ nghiệp

Hạnh phúc gia đình mãi rỡ ràng.

QUANG BỈNH

ĐỜI NGHÈO

Chẳng ham dinh thự, ở rơm lều

Vui thú thơ ca, bạn hữu nhiều

Sáng sớm cà phê, trưa phở tái

Chiều tà bún chả, tối canh riêu

Trà sen, bánh ngọt, dăm ba cụ

Rượu nếp, nem chua, bảy tám tiều

Trưa nực quạt cau, tạm mượn gió

Tối nằm thả cẳng, muỗi không đeo.

LANG NGUYÊN

HÀ TIÊN PHONG CẢNH

Chớn chở sườn non dốc hiểm nghèo

Hà Tiên thắng cảnh đá cheo leo

Đường chiều cất gót lòng hiu quạnh

Bãi sớm dừng chân đá tịch liêu

Nhạc suối ro re vang tiếng trổi

Đàn thông thanh thoảng vọng âm reo

Chòm mây chất ngất như màu khói

Gợi hứng tình thơ trước đoạn đèo.

LANG NGUYÊN

Mừng sinh nhật mẹ (25/4)

Các con tặng Mẹ DoanLinh

Hôm nay, sinh nhật Mẹ

Chẳng biết tặng cái gì

Bèn viết thơ tặng Mẹ

Mẹ vui mừng biết bao

Sinh nhật Mẹ có gì ?

Không có quà không bánh

Chỉ có những yêu thương

Và với những nụ cười

Mẹ không cần quà bánh

Chỉ cần những yêu thương

Từ gia đình con cái

Là hạnh phúc nhất đời.

Bs. DOANLINH 10/6/2017

Ơ ! KHÔNG LỜI

Hôm qua không tiếc nuối

Ngày mai chẳng đợi mong

Chỉ biết hôm nay hãy làm những gì có thể

Đừng để nợ nần day dứt đến mai sau.

Bs. DOANLINH 12/11/2016

CHÓ SÓI và NAI CON

Le loup et L’agneau

Fables de La Fontaine

Lý lẽ kẻ mạnh thì hơn

Thói đời độc ác tiếng đồn nhân gian

Nai con uống nước cuối ghềnh

Chó sói thấy vậy tiến lên bảo rằng :

- Tại sao mầy dám cả gan

- Làm cho vẩn đục suối ngàn của ông

Nai rằng : Tôi uống dưới dòng

- Làm sao đục nước mà ông rầy rà

Sói rằng : Đừng có gian ca

- Tháng rồi ngươi quậy nước ta đục ngầu

Nai rằng :

- Tháng rồi tôi bú sữa bầu

- Tôi không có quậy được đâu ông à

Sói hùa :

- Không ngươi, thì cũng mẹ cha

- Bà con cô bác ruột rà của ngươi

- Ông sơ ông sở trước đời

- Đã từng quậy nước đục rồi biết chưa ?

Nai con cũng chẳng chịu thua

Rằng : Ông hung dữ đổ thừa người ta !

Rồi nai nhanh cẳng chạy xa

Chó sói tức tốc lấy đà rượt theo…

Thanh Châu chuyển ngữ

SÔNG HƯƠNG

Sông Hương dòng nước trong xanh

Bóng ai thấp thoáng long lanh mắt huyền

Tiếng ai thánh thót chim quyên

Cho anh nhẹ bước tới miền mộng mơ

Huế thương cảnh sắc nên thơ

Nỗi lòng khao khát em chờ đợi anh

Mênh mông sông nước mát lành

Thuyền em khỏa sóng cho anh ngọt ngào

Lao xao nhịp sóng lao xao

Để anh mộng ước biết bao tháng ngày

Rượu nồng chưa uống đã say

Đôi tay mềm mại, đôi tay lụa là

Gần nhau giây lát rồi xa

Người đi năm tháng bôn ba dặm trường

Đêm nay thuyền lướt sông Hương

Ngân vang lời hát yêu thương mặn nồng

Để rồi lại ngóng lại trông

Tình em đọng mãi giữa lòng anh say.

Huế, 1999

VŨ MÃO

THE HƯƠNG RIVER

(River of perfume)

The Hương river with its pure and bluish water

Whose silhouette appeared and disappeared

with sparkling jet-black eyes

Whose voice was clear-ringing like

the (land)rail’s voice

Causing me to softly walk to the dream land

Beloved Huế with its poetical sights

With your longing for innermost feeling

you’re awaiting for me

Immense was the river and its cool and pure water

Your boat ruffled the water surface

for me to feel sweet

Stirring, the waves were stirring

For me to dream of through so many months and days

Strong wine made me drunk even before drinking

Your pair of soft hands, of silky hands

Being together in a split second then parted

The departee bustled about in years

and months on a long way

Tonight the boat glided on the Hương river

The loving and warming song resounded aloud

Then one again has to crane his neck in watching

Your love is constantly

at a stand-still amidst my drunk heart.

Huế 1999

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN

CÁI ĐẸP VÀ NGHỆ THUẬT

Cái Đẹp thật khó giải nghĩa. Nó ở rải rác trong vũ trụ dưới những kinh sắc mà ta ưa nhìn. Nó lại còn ngụ ở trong ý tình rồi phát xuất ra bằng một hành vi hay diễn giải ra bằng một tư tưởng. Quan niệm về cái Đẹp rất rộng rãi cũng như định nghĩa cái Đẹp rất bao la. Hỏi một người đàn bà rằng thế nào là Đẹp thì người ấy nghĩ ngay đến nhan sắc của mình. Hỏi một người đàn ông thế nào là Đẹp thì người ấy nghĩ ngay đến dáng dấp yêu kiều của người yêu. Hỏi một nghệ sỹ thế nào là Đẹp thì người ấy nghĩ ngay đến bức họa, một bản đàn, hay một bài văn, một cuốn sách. Cái Đẹp đã đi qua những tầng lớp nhân loại, từ nghìn xưa đến nay, nên luôn luôn thay đổi theo sự tiến bộ của nhân loại. Nó lại thay đổi tùy theo quan niệm của từng dân tộc, từng quốc gia: mỗi nước thích một vẻ đẹp riêng, cái Đẹp của phương Tây khác cái Đẹp của phương Đông.

Tuy quan niệm về cái Đẹp có khác nhau, nhưng sức cảm hóa của cái Đẹp thì ở đâu cũng thế. Đọc một bài thơ hay, lòng ta cảm động, xem một bức họa đẹp, lòng ta thảnh thơi, nghe một khúc nhạc hùng tráng, lòng ta phấn khởi. Ta hoàn toàn bị cái hay của nghệ thuật cai quản dù chỉ trong một phút. Ở cái phút ấy, ta quên cả chính ta để hồi hộp, để bâng khuâng, để phấn khởi với một cái gì hay, một cái gì đẹp. Trong cái phút ấy ta rời khỏi vòng thực tế để tắm trong một nguồn cảm hứng mà nghệ thuật đã mang lại cho ta.

Nếu muốn tìm ở trong đời sống của ta một cái Đẹp hoàn toàn thì ta phải thất vọng. Cái Đẹp hoàn toàn chỉ ở trong tưởng tượng. Nó là lý tưởng.

Khổ sở thay kẻ nào mang ở trong đầu óc một lý tưởng. Nhưng khổ sở mà không đáng phàn nàn, không đáng thương. Chỉ đáng thương những kẻ không có lý tưởng gì. Vì ở đời, theo ý tôi, thì thà làm một kẻ bất mãn còn hơn là làm một kẻ dễ bằng lòng. Chính vì thế mà các nghệ sỹ thấy cái nhiệm vụ của họ: họ dùng nghệ thuật làm một tiêu biểu tối cao cho sự bất mãn kia.

Bạn đến thăm một người đẹp trong một căn phòng xinh xắn, một buổi chiều thu. Trăng mới mọc trên nền trời trong vắt. Tơ liễu rủ trước cửa sổ ngỏ trông ra một vườn cúc vàng hương thơm phảng phất. Một khung cảnh rất nên thơ vì đầy hoa mộng. Nàng mặc chiếc áo mầu thiên thanh, niềm nở đón bạn, đưa thuốc lá thơm mời bạn hút, mang bánh đậu thơm do tay nàng làm mời bạn nếm, pha chè mạn do tay nàng ướp sen thơm ngát mời bạn dùng. Trong khi ấy nàng ngồi nói với bạn bằng một giọng rất tình tứ nỗi nhớ nhung, tình luyến ái của nàng. Bạn sung sướng, được tắm trong hoan lạc của yêu đương, lòng bạn phơi phới, lâng lâng như muốn chắp cánh bay bổng.

Nhưng… bỗng nhiên, người đẹp thốt ra một câu sai lầm, một lời thô lỗ trong câu chuyện, hay có một cử chỉ gì biểu lộ một tâm hồn không được thanh cao. Hay vì vô ý nàng để lộ những bàn chân hơi thô kệch nãy giờ vẫn khéo giấu trong đôi văn hài xinh xắn: thôi thế là bao nhiêu hoa mộng đều tan tành cả, bạn có cảm tưởng là bạn bị lừa dối, bạn thấy như bạn vừa rơi từ lưng chừng giời xuống đất.

Ấy, thực tế chỉ là cái Đẹp luôn luôn bị tan vỡ như thế. Cho nên, ở địa hạt thực tế, những người có ở đầu óc một quan niệm về cái Đẹp hoàn toàn đều bị thất vọng cả. Họ luôn luôn bị rơi từ mây xanh xuống đất để buồn rầu mà nhận rằng cái Đẹp hoàn toàn chỉ có được ở trong phạm vi lý tưởng.

Nhận thấy thế, nghệ sỹ là những người thứ nhất muốn ngăn chúng ta khỏi bị rơi từ trên cao xuống bằng cách mang nghệ thuật làm lại giấc mộng hoa. Nghệ sỹ chữa lại câu nói sai lầm và thổ lộ của mỹ nhân cho lịch sự và văn hoa lên, nắm lại cử chỉ vô ý của mỹ nhân cho thanh thú ra và sửa lại đôi bàn chân thô kệch của mỹ nhân cho nhỏ nhắn, xinh đẹp lại. Thực tế đã được khoác một lần áo của nhà nghệ sỹ để biến thành một cái mà ta gọi là cái ĐẸP.

Hàng ngày ta mắc lo nghĩ về nhũng nhu cầu của vật chất, hay băn khoăn về những phiền muộn trong ý tình. Những cuộc vật lộn gay go về mưu sinh hay những đau khổ âm thầm trong tình cảm khiến ta vô cùng khổ sở, nếu không có nghệ thuật mang những huyền diệu của nó làm cho ta tự quên đi trong giây lát để được sống trong những nguồn cảm hứng thanh thú, nhẹ nhàng. Cho nên, dù sống ở thời đại nào, dưới một chế độ nào, cái Đẹp vẫn cần cho người ta. Mà nghệ thuật, từ nghìn xưa, vẫn là câu hát hay để ru nhân loại đau khổ.

Trúc Đường - Đỗ Thiên Thư st.

NHỮNG TẬT XẤU

CỦA DANH NHÂN

Mỗi năm, ngày 7 Juin 1939 từ nay trở đi, sẽ là ngày giỗ kỵ của một tay xuất chúng trong làng thơ: Nguyễn Khắc Hiếu từ trần. Số người thương tiếc nhà thi hào đi đưa đám khá đông. Số tiền mọi người quyên để hòng cứu chữa cảnh gia đình nheo nhóc một vợ và tám con của nhà thơ để lại, kể cũng khá nhiều, trong số ấy có 50p của Chính phủ Bắc Kỳ trợ cấp. Đối với đứa con ngông, sống không tính toán ngày mai ấy, xứ sở đã cư xử khá chu tất, tuy rằng một thi hào như Nguyễn Khắc Hiếu có quyền chờ đợi ở đồng bào nhiều hơn thế nữa.

Nhưng thôi… Số phận! Ai mà biết được Số Phận mình nó sẽ giở giáo ra sao! Cho nên thi sĩ cũng không ngờ có 50 tuổi tròn mà đã là hết cái hạn đi đầy, quay về làm trích tiên với Trời để chẳng bao giờ đánh vỡ chén ngọc lần thứ hai nữa. Cái tài đoán số Hà Lạc mà tiên sinh coi như canh bạc cuối cùng với đời đã là một sự thất bại hiển nhiên.

Thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu đã chết vì đau gan… Chỉ vì đau gan thôi? Các báo chí đều đã đăng như vậy với vài dòng cắt nghĩa lờ mờ: người chết để lại một cảnh gia đình nheo nhóc… Thì sao lại không nói phăng ngay rằng thi sĩ Hiếu đã có thể chết vì nghèo vì không tiền uống thuốc, nghĩa là chết đói cho xong? Nhưng người đã ngượng, ai cũng ngượng, cho nên không ai dám nói sự thật, vì ai cũng thấy mình có ít nhiều trách nhiệm về những sự thật chẳng tốt đẹp ấy.

Tôi nghĩ đến bản kịch Chatterton của Alfred de Viguy.

Nhưng than ôi! Cái kiếp thị nhân là sống thì để rút ruột tầm tạo ra những câu thơ bất hủ cho muôn vạn người ngâm nga ca hát mà chết thì chết khổ sở trong cảnh nghèo đói.

Thế thì Tản Đà tiên sinh thoát sao khỏi cái công lệ độc địa ấy?

Phải chi người ta săn sóc đến nhà thi sĩ sớm hơn chút nữa thì có lẽ Nguyễn Khắc Hiếu quý báu của chúng ta cũng chưa đến nỗi nào… Nhưng mà, mặc dầu tiếng có kêu thương ai oán trong bản kịch Chatterton, thói đời đen bạc xưa nay vẫn thế. Và muốn trở nên là vĩ nhân, người ta không sao vượt khỏi cái công lệ này: phải chết đi đã. Thật thế, người phải chết đi đã, rồi đời sẽ cho người làm vĩ nhân. Phải chết đi đã, rồi thiên hạ sẽ thương tiếc. Nguyễn Khắc Hiếu chết rồi, báo giới ba kỳ vang lên những tiếng khóc than. Phải chi nếu thiên hạ bảo nhau giúp tiền từ lúc thi nhân còn ốm đâu đến nỗi tác giả Còn Chơi đã phải bỏ cõi đời!

Nguyễn Khắc Hiếu chết vì bệnh trong cảnh nghèo, sự ấy nếu ta không thể kết án được đời, âu là đành phải an ủi người chết thế này: chết nghèo là một điều vinh!

Mai đây… rồi còn biết bao lời thương tiếc xót xa, biết bao nhiêu bài phê bình cái công trình văn chương mà thi nhân đã để lại.

Tú Xương đã có Trần Thanh Mại trầm mặc Trông dòng sông Vị.

Hồ Xuân Hương đã có Nguyễn Văn Hanh với cái thuyết kiềm chế dục tình theo Freud, (refoulement freudien). Nguyễn Khắc Hiếu, ngay lúc còn sống, cũng đã có Trương Tửu viết cho cuốn Uống rượu với Tản Đà. Nhưng, viết tiểu sử thi sĩ của núi Tản sông Đà, chắc rồi còn có ít hoặc nhiều người sẽ hứng lấy cái công việc khó khăn.

Tác giả bài này, một kẻ phàm trần, có thể cũng hiểu thơ Tản Đà là hay, nhưng không dám phê bình những áng thơ hay ấy. Lúc này, viết về Tản Đà là trả một cái nợ cho một người mà người đời ai cũng mắc nợ vì được hưởng cả môt sự nghiệp bồi đắp quốc văn. Nghĩ thế, tác giả bài nầy thấy không thể nào lại lẩn trốn, không viết gì về Nguyễn Khắc Hiếu cho được.

Tản Đà bây giờ đã là người của lịch sử.

Thiên hạ có quyền tò mò đến cả cái đời tư, tất cả những việc hay lẫn việc dở, của nhà thi hào.

Làm việc này, quyết không thể giữ cái lối hủ bại “tốt khoe ra xấu xa đậy lại”. Tiểu sử một cá nhân hay lịch sử một dân tộc giá trị của nó chỉ ở chỗ cái đúng hay không đúng sự thực. Không nói đến những nhược điểm cùng là những tật xấu lặt vặt của danh nhân, đó chẳng phải là cách tôn sùng danh nhân! Xưa kia cổ nhân ta quen thói hững hờ sự thực, cố làm cho danh nhân trở nên thần thánh bất khả xâm phạm, khiến cho hậu thế, mỗi khi nhớ tới danh nhân, chỉ có thể có được danh nhân cũng chỉ là người. Mà đã là người, nào ai hoàn toàn đủ mọi phương diện?

Nguyễn Khắc Hiếu cố nhiên cũng không hoàn toàn.

Nhưng may thay, những cái tật của thi hào cũng chưa đến nỗi có gì làm ghê tởm gớm ghiếc. Nói cho dễ hiểu, Tản Đà không đến nỗi có những thói xấu thí dụ như của Verlaine.

Vì những lẽ đã kể trên, tôi chẳng ngại viết ra ở đây, vì chân lý, vì muốn cung một ít tài liệu cho những ai muốn soạn một cuốn tiểu sử Nguyễn Khắc Hiếu.

Vũ Trọng Phụng - Kim Sơn st


Phụ Bản III

LAGI

- MIỀN BIỂN RỪNG

Tặng Ánh Nguyên

HOÀI LY

Năm ấy, tôi chừng 8, 9 tuổi, hình như vào khoảng 1956, 1957 và đó cũng là lần đầu tiên tôi và cả nhà được hưởng kỳ nghỉ đột xuất về miền biển Phan Thiết bằng xe lửa và cũng từ đó tôi được biết đến Lagi, một vùng biển rừng còn hoang sơ lúc bấy giờ.

Nguyên là sau Hiệp định Genève 1954, đất nước phân chia hai miền Nam Bắc thì hầu hết trong làng Thanh Dạ, Quỳnh Lưu, Nghệ An của ông nội tôi, bà con đều di cư vào Nam cả. Thời gian đó, ông tôi lại nhận được thư của ông bác ở Vinh báo tin đã vào định cư tại Vinh Phú Phan Thiết, thế là ông và cả gia đình liền thu xếp ra thăm ông bác ngay.

Tôi còn nhớ, cả nhà tôi đã tíu tít tay xách nách mang hành lý ra ga xe lửa cũ nằm trong khuôn viên công viên 23-9 hiện giờ, để kịp lên chuyến khởi hành lúc 5 giờ chiều.

Cả bầu đoàn thê tử gồm ông bà nội tôi, má tôi, tôi và em trai kế lên 5 tuổi. Vì má tôi có mang theo đứa em gái chưa đầy tuổi tôi nên ông tôi mua thêm vé giường ngủ cho mẹ và em bé. Đoàn tàu đêm rúc còi và chuyển bánh chạy về phía ngoại ô hướng về phía cánh rừng Long Khánh Trảng Bom. Tiếng bánh xe nghiến trên đường ray xình xịch làm tôi không thể ngủ được dù trời càng về khuya, lại thêm sự háo hức sẽ được đến một miền xa lạ, tôi cứ đứng mãi trên toa tàu nhìn ra bóng tối dày đặc cho đến khi tàu ngừng lại ở ga Mường Mán, chúng tôi lục đục xuống ga đi xe lô về thành phố Phan Thiết vào lúc nửa đêm. Gia đình tôi được đưa đến nghỉ tại một khách sạn nhỏ bên bờ sông Cà Ty. Sáng hôm sau thức dậy, nhìn xuống đường phố, điểm đầu tiên đập vào mắt tôi là một tháp nước cao sừng sững hình dáng rất đẹp và từng đoàn người cầm trên tay những lá cờ nhỏ để đi mít tinh kỷ niệm Quốc Khánh của chánh thể Cộng Hòa thứ nhất (ông nội tôi kể như thế).

Sau bữa ăn sáng, chúng tôi lại đi xe lô về Vinh Phú nơi ông bác tôi định cư tại một ngôi làng ven biển. Hai nhà gặp nhau tay bắt mặt mừng, nhưng điều tôi bỡ ngỡ nhất là tôi không hiểu ông bà bác và các o tôi nói gì cả, họ nói chuyện với bà nội, má tôi đều thông qua sự dịch lại của ông nội cả, còn tôi và cậu em trai chỉ đứng nhìn và cười trừ.

Trong khi hai anh em cô cậu hơn mấy mươi năm không gặp nhau mừng rỡ hàn huyên tâm sự thì hai đứa trẻ lại thấy chán liền đòi đi tắm biển ngay, mặc cho má tôi trừng mắt ngăn lại, hai ông cụ chìu cháu nhỏ vội dắt ra biển, thế là hai chị em mặc sức vùng vẫy với sóng biển, còn hai ông già thì lại tiếp tục trò chuyện rầm rì.

Điều tôi ngạc nhiên và tò mò nhất mà đã hỏi ông nội tôi ngay sau khi ở nhà ông bác là cách ăn mặc và dáng vẻ của các ông bà, bác và các o tôi có phần khác biệt với các người làng cùng ở Vinh Phú tuy đang ngụ trong một gian nhà tranh đơn sơ sau một dãy đồi cát.

Ông nội tôi kể, gia đình ông bác từ xưa đến trước Hiệp Định là dân thị thành sống ở thị trấn Cầu Giát thành phố Vinh nên cách sinh hoạt, ăn mặc khác phần nào với người làng ta, với lại ông bác là một thầy lang có tiếng ở đó nên bác và các o được học hành đàng hoàng nên khi vào đây có o Lan đi dạy học còn hai o Thuyên và Duyên làm việc cho nhà nước, bác Tường Linh thì học xong tú tài đi Nha Trang thi công chức. Do vậy nên các cô tôi thả tóc ngang vai hoặc kẹp tóc, mặc áo trắng, áo hoa, màu tươi chứ không vận áo nâu, áo đen và vấn đầu như đa số các bà, các cô trong làng.

Sau một ngày một đêm lưu lại Vinh Phú, ông nội tôi hỏi thăm đường để đi về Lagi thăm các bác của tôi, cháu gọi ông bằng cậu ruột cũng đã di cư vào Nam và định cư ở đó theo chương trình khai khẩn dinh điền của chánh phủ.

Thế là vào buổi sáng kế tiếp, chúng tôi đến bến xe Phan Thiết - Lagi đi về vùng biển rừng đó để thăm bà con bên nội.

Đoạn đường từ làng Vinh Phú đến đất Lagi lúc đó mới mở còn quá gập ghềnh, chông chênh vì vẫn còn nguyên đất đá lổm chổm và còn phải xuyên qua một cánh rừng lá buông dày đặc, chiếc xe Dodge nhún nhảy chồm lên rớt xuống trên đừng, hành khách ngồi trên xe đều muốn lên ruột theo từng cung đường còn hoang vu, em Bảo tôi lấy làm vui thích trước khung cảnh rừng rậm, những tán lá buông dài như quất ngang vào thành xe, vào lưng hành khách, làm má tôi hoảng sợ phải la em tôi ngồi sát vào trong để tránh.

Sau một hành trình thật vất vả, chúng tôi cũng đã đến nơi. Trước mặt tôi những vạt đất đỏ mới khai phá, những mái nhà tranh đơn sơ và các cô, các bác tôi ngụ ở đó để hành nghề đánh cá trên biển theo chương trình khai khẩn của chánh phủ.

(còn tiếp)

HOÀI LY


Truyện vui

Thật vô cùng may mắn, cho đến bây giờ đang ở cái lứa tuổi sắp bước tới U80, tôi vẫn chưa thấy có cái chuyện ăn không ngon, ngủ không được. Nói như vậy chắc chắn bà con sẽ “ném đá” cho bể mặt, cho rằng “nổ” rồi tặng cho một câu “danh ngôn truyền thống”: “Bẩy mươi chưa đui chưa què chớ có khoe rằng lành”. Quả thật tôi không dám khoe, nhưng vì tôi đã thấy có một số bạn bè cùng tuổi càm ràm ăn uống không thấy ngon lành gì cả. Mấy người này nhà giàu có, vợ tuy cũng cao tuổi nhưng cũng còn sức ra chợ mua món ngon vật lạ về làm cho mấy cha ăn. Nghe mấy bà kể đến bữa thức ăn dọn lên “khói hương nghi ngút”, bà vợ giới thiệu:

- Sườn xào chua ngọt nè anh, em nấu mềm lắm.

Phần giới thiệu món ăn của bà vợ mới dễ thương làm sao!

Ông chồng từ từ huơ đũa lên chọc vào đĩa, gắp một miếng thịt nho nhỏ, cho vào miệng. Điệu bộ giống y chang con mèo Lucifer đang uống sữa trong phim hoạt hình Cinderella (Cô bé lọ lem) của Walt Disney. Ông nhai nhóp nhép một chút rồi phán một câu cũng rất “dễ thương”:

- Không bằng nhà hàng!

Rồi ông ăn hơn chén cơm cho có lệ rồi đi nghỉ trưa. Bà vợ nghĩ trong bụng: “Ừ. Cho ra nhà hàng ăn. Để đây tôi xử”. Và bà tiếp tục ăn một cách ngon lành. Nói vậy chứ chừng năm bảy bữa sau bà lại làm một món khác, rồi ông lại chê “không đúng ‘gu’ nhà hàng”, và bà tiếp tục chén phần còn lại. Kết quả là ông ngày càng già khụ, lưng bắt đầu còng xuống, trong khi bà vẫn khỏe mạnh tươi tắn.

Thực ra muốn ăn ngủ ngon lành thoải mái, nếu không có bệnh hoạn gì nặng nề phải kiêng cữ gắt gao đủ thứ, thì chỉ cần tập thể dục đều đặn và đúng cách, rồi ăn những món gì mình thích và ăn có điều độ, không cần phải cao lương mỹ vị, miễn là hợp với khẩu vị của mình. Từ chỗ ăn uống ngon lành như vậy sẽ dẫn đến việc ngủ nghê thoải mái vì không có gì căng thẳng trong cuộc sống kiên trì đeo bám.

Ngày nay có một số người cao tuổi có cuộc sống tương đối sung túc thường tìm đến những nơi có món ăn ngon, những món đặc sản cầu kỳ từ những con vật khó kiếm. Trong một lần đi công tác xuống Cần Thơ, tôi được bạn bè mời ăn món dơi quạ. Ăn xong một miếng thịt tôi phải buông đũa vì cảm thấy không thể dở hơn. Lần khác đi ra Bắc, tôi cũng không thấy ngon miệng khi được chiêu đãi món chả cá, vì không thưởng thức được mùi vị của rau thì là. Rồi thêm một lần đi công tác ra Huế, được giới thiệu món cơm hến. Ăn xong người bạn hỏi:

- Sao, được không?

- Được đó anh.

Nhưng trong bụng thực khách này chỉ cho 5 điểm trên 10. Đến khi vào Đà Nẵng thưởng thức món bò tái, thực khách ăn đến toát mồ hôi. Lời giải thích của thực khách vô cùng đơn giản: vì nó giống y chang món bê thui ở trong Nam.

Đến đây tôi thấy trong điều kiện ăn ngon của bậc đại tiền bối Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu gồm: “đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn ngon và người cùng ngồi ăn ngon”. Cần phải bổ sung cho điều kiện “đồ ăn ngon” là phải đúng theo khẩu vị của những người ở những vùng miền khác nhau. Cảm giác ăn ngon sẽ khiến thực khách thấy thức ăn hết lúc nào không hay và trong khi ăn thực khách phải nhai vội vã không cần biết rủi ro có thể cắn nhầm… lưỡi.

Tôi muốn đề cập thêm về điều kiện “chỗ ngồi ăn ngon” của tác giả bài thơ “Thề non nước”:

Nước non nặng một lời thề,

Nước đi đi mãi không về cùng non… (Tản Đà)

Trên đời này không thể có ai thiểu năng trí tuệ đến nỗi mời một người bạn phương xa vào “quán chửi” để ăn uống cho dù tại quán này có nhiều người vô ra ăn uống mỗi ngày. Không biết những người ngồi ăn kia nghĩ sao mà có thể bình tĩnh ngồi ăn không hề quan tâm đến bà chủ quán đang chửi vào mặt một bà khách vì bà nay đưa tờ giấy 500 ngàn bắt bả phải thối. Có lẽ họ nghĩ bà này chửi ai đó chứ có chửi họ đâu nên cứ thoải mái bỏ ngoài tai. Cũng không biết môn học marketing cần phải thay đổi như thế nào để phù hợp với tình huống chửi khách hàng như thế này.

Có lần tôi đi ăn hủ tiếu Nam Vang ở một quán bên vỉa hè cùng với nhóm bạn trong đó có cặp vợ chồng ở nước ngoài về. Người bạn muốn dẫn đến chỗ này vì anh ta cho rằng ở đây nấu ngon, nhưng anh ta không biết có hợp với khẩu vị của những người bạn mới tới không. Nể tình bạn bè mọi người cùng vô thưởng thức cho biết. Ngồi vào bàn rồi mọi ngưới mới thấy rằng chỗ ngồi không được thoải mái. Vì là quán lề đường nên bàn ghế ở đây thuộc loại mini, thấp, nên một người có chiều cao trung bình ngồi vào phải lùi xa ra khỏi bàn vì hai đầu gối đã ngang với mặt bàn, và một người bạn có cái “bàn tiếp hậu” hay còn gọi là cái bàn tọa hơi quá khổ phải nhồi nhét vào ghế giữa hai tay vịn. Một bà phục vụ khoảng trên bốn chục bưng hai tô hủ tiếu tiến đến. Khi đến gần bà kêu lớn lên:

- Cô ơi bưng giùm con!

Bà bạn Việt kiều khó khăn đứng lên, đỡ lấy hai tô hủ tíu, lóng cóng đặt lên bàn, nhẹ nhàng đẩy một tô cho người ngồi bên cạnh. Những người khác ngồi cùng bàn bình tĩnh nói chuyện, chờ đến lượt mình nhận hủ tíu.

Tôi đã quan sát thật kỹ và thấy có một cái gì đó không hợp lý chút nào. Cái bà phục vụ này có nhiệm vụ phải bưng tô hủ tíu đó đặt lên bàn trước mặt thực khách, bà ta chỉ có thể yêu cầu khách nghiêng tránh qua một bên để đặt tô hủ tíu xuống bàn cho an toàn mới gọi là xong công việc phục vụ. Tại sao phài bắt bà Việt kiều kia bưng hai tô hủ tíu đó để lên bàn? Chẳng may bà này lóng cóng lo đứng dậy từ cái ghế chật chội rồi làm đổ nước lèo ra bàn thì sao? Nhìn đôi mắt và nghe giọng nói cùa bà phục vụ tôi nhận biết rõ ràng bà ta không có một chút thiện cảm gì với những thực khách có vẻ sang trọng này. Cái tâm lý đố kỵ khi thấy người khác sang trọng, giàu có hơn mình có sẵn trong thâm tâm của bà phục vụ. Từ cái tâm địa đố kỵ đó bà ta muốn “hành” bà khách này phải bỏ ra một chút công sức nào đó trước khi được ăn hủ tíu, cho dù bà này phải trả tiền đầy đủ.

Tình huống trên đây cho thấy điều kiện “chỗ ngồi ăn ngon” của sư tổ ẩm thực Tản Đà đã bị vi phạm, và tiếp theo là một trường hợp vi phạm về điều kiện “người ngồi ăn ngon”.

Cách đây mấy ngày tôi có rủ một người bạn trẻ, ra quán lai rai chơi. Khi tôi ra đến quán thì nhận được tin anh bạn trẻ này bận việc không đến được. Không lẽ ngồi một mình, thôi đành tìm “tri kỷ” khác vậy. Tôi lấy điện thoại gọi đến một người bạn thân trẻ hơn nửa con giáp, anh hưởng ứng liền và bảo sẽ đến ngay. Vậy là hay lắm chắc chắn sẽ có một ngày cuối tuần vui vẻ. Và anh bạn tôi đến thật, anh không chỉ đến một mình mà dắt thêm hai người bạn khác một già một trẻ.

Anh bạn này tuy già nhưng chắc chắn còn nhỏ tuổi hơn tôi. Anh bạn kia thì trẻ thật, nghe nói ở tuổi 8x. Cả hai đều là gốc ngoài Bắc. Tôi đã gặp anh bạn già này một lần cách đây khoảng 3 tháng lúc đó ngồi xa nên không có nói chuyện. Lần này thì ông ta ngồi sát sườn với tôi. Anh bạn thân ngồi đối diện đã gọi món cháo trắng hột vịt muối để “giải cảm” vì hồi trưa đã làm hết 10 chai rồi. Ai nhìn anh bạn của tôi cũng phải công nhận 10 chai đối với anh ta không nghĩa lý gì vì vòng số 2 của anh phải trên một mét. Tôi cũng có một chén cháo, rỉ rả vừa húp vừa uống bia. Anh già người Bắc cũng có một chén cháo nhưng anh không vội ăn mà chỉ nói, anh phát biểu rất hùng hồn, thực khách ở các bàn bên cạnh cũng nghe thấy, giọng nói của anh ta sang sảng, anh khoe chuyện anh đang cất nhà, bực bội về vấn đề mua vật tư nguyên liệu làm sao đó. Tôi không buồn để ý tới vì biết ngay anh già này thuộc lò “Pháo Bình Đà”, tức là “nổ”. Anh nổ thấy thương lắm. Anh nổ không văng miểng mà văng nước bọt sang cả áo của tôi.

Uống đến hết chai thứ ba anh già mới ăn được nửa chén cháo, tôi đã húp đến chén thứ hai và anh bạn thân của tôi phải đến chén thứ ba. Còn chú trẻ 8x kia tôi không để ý tới. Thấy anh già nói liên tục, cứ vài câu thì xổ ra tiếng “mẹ”, “mẹ” đây là tiếng chưởi thề không đầy đủ, chứ không phải anh đang nhớ mẹ nhớ cha gì của anh. Tôi thấy khôi hài quá nên nói ngay với anh ta:

- Này anh từ nãy giờ anh phát biểu hơi nhiều đề tài quá, để dành cho người khác với!

Anh ta hơi im lặng một tí rồi lại tiếp tục phát, chính trị không ra chính trị, xã hội cũng không ra xã hội… và vì tôi mải ngó xuống đường nên anh già cứ đập vào vai tôi, muốn tôi quay lại nghe anh ta nói, nhiều lần như vậy.

Cuối cùng tôi phải sử dụng văn chương Tàu để “chỉnh đốn” anh già này:

- Anh à, tôi biết Tàu có câu “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu”(1)

Anh ta nói liền:

- Đúng rồi, đúng quá!

Tôi “hạ độc thủ” luôn:

- Mà sao gặp anh, tôi mới uống một ly đã say rồi!

Anh ta im ngay. Tôi không buồn nhìn vào sắc mặt anh ta đổi sang xanh hay đỏ mà chỉ lo góp tiền cho anh bạn thân để thanh toán hóa đơn rồi ra về.

Một bữa nhậu cuối tuần không thể tệ hơn!

Dương Lêh

(1) Uống rượu gặp bạn tri kỷ, ngàn ly còn ít.


THƯỞNG THỨC NGHỆ THUẬT

Buổi chiều hôm nay, ra đường phố, bạn thấy một người con gái có nhan sắc mặt mũi nàng thanh tú, dáng dấp nàng uyển chuyển lắm. Nếu bạn có thể cứ hồn nhiên mà chiêm ngưỡng nhan sắc ấy, trong lòng không nổi lên một ao ước, như người ngắm một bông hoa tươi thắm mà không hề có ý muốn ngắt để cắm vào bình, nếu bạn không để cho lòng xao xuyến những ý tình phức tạp, không tính toán đến cái chỗ người con gái nhan sắc ấy có thể làm cho bạn sung sướng hoặc đau khổ, nếu bạn cứ nhìn cái nhan sắc ấy một cách vô tư, rồi hồn nhiên mà khen: Đẹp! Thì buổi chiều hôm ấy bạn đã thành một nghệ sĩ!

Nghệ sĩ là người đã nâng mình lên đến sự chiêm ngưỡng thuần túy, không để cho một ý tình phức tạp nào xen lẫn vào. Mà nghệ thuật phải làm sao khơi được cho ta nguồn vô tư, và thú chiêm ngưỡng thuần túy ấy.

Ta phải làm sao cho khi ta thưởng thức một nghệ phẩm, “Cái gì đó đột nhập vào ta không phải chính hồn ta nữa, mà là cái hồn chung của cả loài người”.

Có được nguyên tắc ấy, nghệ thuật mới tới được chỗ vô tư của nó.

*

Đọc một văn phẩm của một nghệ sĩ, kẻ biết thưởng thức không cần biết cốt truyện ra sao, không được phép luôn luôn tự hỏi: - Rồi làm sao nữa? Họ có lấy nhau không? Có bỏ nhau không? Thủ phạm có bị bắt không? Thằng ấy có bị bắt không? Vân vân… Kẻ biết thưởng thức là kẻ không được phép đặt ngay mình vào địa vị những vai chính trong chuyện để hồi hộp với họ, vui buồn với họ. Tôi đã thấy nhiều người khóc nức nở khi nghe một bản đàn, vì bản đàn ấy đã gợi cho họ một mối hận chia phôi. Tôi cũng đã thấy nhiều người đọc một quyển sách, chỉ cố tìm ở trong quyển sách ấy lấy một cái gì giống mình để rồi bâng khuâng với người trong truyện. Gây cho họ buồn vui, mừng giận theo ý mình, tài nghệ của nhà nghệ sĩ đã đạt. Nhưng kẻ thưởng thức thực tình không hiểu gì về nghệ thuật cả, mặc dầu họ vẫn ra điều quan tâm về nghệ thuật đấy.

Những chuyện kiếm hiệp rẻ tiền xuất bản gần đây, những tiểu thuyết Tầu (hay mô phỏng của Tầu) đăng trên báo, đã được một số đông người ham thích. Họ ngóng đợi các thứ ấy như một chàng si tình đợi người yêu. Không cứ những trẻ em ngây thơ mới thích những ly kỳ, huyền ảo ấy, cả đến những bậc người nhớn có đầu óc biết suy xét rồi cũng nhiều người mua báo hàng tháng chỉ có một mục đích là xem nốt cái chuyện dài đăng ở phụ trương. Thực là một triệu chứng đáng buồn cho văn học trong nước. Trình độ thấp kém của hạng độc giả ấy đã làm lùi sự tiến bộ của quốc văn.

*

Tôi ao ước rằng những người thưởng thức tác phẩm của một nghệ sĩ phải biết cách thưởng thức. Họ chỉ nên nhìn nhận để suy xét chứ không có quyền để lộn cái tính hiếu kỳ vào. Cốt truyện, cái ấy không cần lắm. Cần là xem cách tác giả diễn giải thế nào, có đúng với tình, lý không, xem tác giả đưa ta qua những trạng thái tâm lý gì để dẫn ta đến một kết luận nào. Như trên tôi đã viết, ta phải nâng mình lên đến sự chiêm ngưỡng thuần túy để thưởng thức nghệ thuật.

Cho nên, vì phương diện nghệ thuật, sáng tạo đã là khó mà biết cách thưởng thức cũng chẳng dễ gì.

BÙI ĐẸP st.

NÓNG…

Trời nóng quá thể! Chả có tí gió nào cho mát cái lưng ròm. Mặt nước im phăng phắc, thỉnh thoảng có chiếc lá chao tới chao lui rồi nhẹ nhàng đáp trên lưng con kênh lờ đờ không muốn chảy. Vậy mà mấy hôm trước người ta còn nhiếc móc ông trời sao vội đổ cơn mưa cho đám cưới thiếu điều te tua vì đường đi dầm dề ôi chao là nước. Nước mưa trộn với nước cống đùn lên từ mấy cái lỗ nắp, cứ như con quái vật gì đó đang phì phò dưới giòng nước băng băng, mang theo bao là rác rến và cả niềm vui. Rồi! Trời mưa là hết đi chơi.

Đúng là ông giời! Thích thì mưa, không thích thì nắng chơi vậy đó. Nhìn con chó thè cái lưỡi ra, mắt hướng về phía chủ như thầm than:

- Ông ơi, sao mà nóng dữ vậy.

- Sao tao biết được? Bộ mày tưởng chỉ mình mày nóng sao? Tao mới là nóng đây nè! Mày nghĩ coi. Trời như vậy mà bà vợ vĩ đại của tao còn sai tao chiên cho bả mấy cái chân gà để ăn cho nó sướng cái mồm. Ừm! Mày thì theo phe bả là cái chắc. Cái thân mập như heo của mày mà thấy xương là mày cứ làm bộ liếm chân tao nịnh nọt. Nhột thấy mồ tổ. Chưa nói tới cúm gà cúm chim gì gì đó, nghe nói hát năm en nờ một, rồi lại hát một tưởng là năm, làm tao lộn tùng phèo cả lên. Ăn gà có ngày vô nhà thương nhé con. Trời! Mày còn cười hả?

Trời nóng làm tui mát dây vậy đó. Các ngài nghĩ coi. Trời này mà ăn tô cơm với canh bí, canh bầu gì đó là bá cháy luôn. Ăn xong, ta tà tà ra bờ kênh chơi, hóng may ra có chút gió nào. Nhất là trong cái không khí nghe nói ô nhiễm tư bề đó, thỉnh thoảng phảng phất mùi nước hoa của mấy cô nàng, làm ta thấy dù sao Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi! Sài gòn ơi, làm ta thấy trời chắc có dịu cơn nóng đi khi có mỹ nhân trên đường phố.

Nghĩ vậy, chứ ý vợ là ý giời, thế là phải đem chảo ra, theo sự chỉ bảo của… xếp, mà nào đem chảo ra, bật bếp lên cho chảo nóng, rồi đổ dầu vào, rồi vân vân và vân vân, cho đến khi mồ hôi chảy lòng ròng trên cái mặt choắt của tui, thì mấy cái đùi gà đã vàng ươm và béo đáo béo để. Thế là vợ lại sai lấy mấy cục đá ra, rót vào đó lon bia sùi bọt trắng để a lê hấp: Đã bảo ngon mà anh cứ bảo thôi với chả đừng. Cúm ở đâu chứ làm gì có cúm trong nhà của đôi ta (cải lương thấy tổ luôn).Chậc! Dù gì vợ cũng là mẹ ta, mà mẹ ta thì nhất định phải hơn ta là cái chắc. Nhất là, xong lon bia, ta thấy đời cũng đáng sống lắm chớ, bất kể cái nóng đang hành hạ muôn loài, và cái chờ đợi đang hành hạ con chó nhà tôi với mấy cục xương mà nãy giờ nó cứ sốt ruột đứng lên ngồi xuống, ứ ư muốn nện cho mấy cái vì cái tội làm ta xao lãng việc ăn uống rất ư là thiêng liêng của vợ ta và của cả ta nữa.

Dĩ nhiên là tui dành phần rửa chén, đũa, ly liếc này kia để vợ tui còn sửa soạn đi tập thể dục cho bớt mập (bớt đặng còn về ăn đùi gà). Mà tui phải tháp tùng nữa chứ! Hai đứa tui, mỗi đứa một cái xe đạp tập cho mau cong… đuôi. Đường thì chật, dân ta chạy xe rất điêu luyện, chỉ gây tai nạn cho người khác thôi, chứ cái tụi cà chớn có khi nào bị thương đâu? Rồi đường đi cũng… hay lắm. Đang khổng khồng không vậy cái đè đường ra, xẻ tới đào lui, cũng có lấp đàng hoàng đó chớ, nhưng ít bữa chỗ xẻ ra đã trũng xuống làm thành một vệt dài… đã lắm. Mà đâu phải một chỗ và một lần. Làm hoài hoài và mần dài dài. Con đường cứ nhấp nhô như sóng biển cao dâng vậy. Đi xe cứ cà tực cà tực, xe không chết thì người cũng sắp chết vì mấy con đường sửa tới sửa lui vô biên như vậy. Riết rồi cũng lỳ đòn. Không lẽ cứ ở miết trong nhà vốn nóng như cái lò bành mì rồi.

Rồi buổi long rong ngoài phố cũng xong. Về nhà, tắm một phát trước khi đi vào giấc mộng là thích nhất. Nhưng cứ thấp thỏm xem đã đóng mọi cửa sổ chưa, khóa kỹ lưỡng mấy cái cửa ra vào chưa, mấy cái xe cũng… khóa chưa. Và con chó đã nằm đúng nơi đặng coi nhà cho chủ mà không sợ bị bọn bắt chó ném thuốc cho lăn quay không? Nhà ở thành phố văn minh ngủ không được mở cửa, kể cả cửa sổ. Ai đó rảnh rảnh ban đêm sẽ leo rào, leo lên lầu, đủ kiểu cách để câu đi những vật dụng be bé mà nằng nặng như chiếc bóp xinh xinh có tiền mai đi chợ, như cái điện thoại chả đắt lắm nhưng cũng để phải mua cái khác kẻo không cái mà báo cảnh sát rằng nhà tôi mới bị trộm viếng.

Thế đấy, trời đã nóng và lắm thứ nóng cũng đâu kém quý ngài ơi…

LAM TRẦN (14.05.2013)

NHÂN CÁI CHẾT

CỦA MỘT THI SĨ NGHÈO

Nghệ thuật đã nhân danh Tổ quốc mà chịu cái tang chung đau đớn ngậm ngùi này.

Toàn thể văn giới, thi giới, khắp tất cả các báo chí, tất cả các nhà văn xa gần, toàn thể nhân dân Việt Nam khắp nơi đều đã treo cờ rủ để tang bực thi hào của nước Nam, bực thi hào có địa vị, danh dự trong văn học sử, bực thi hào mà suốt một đời đã làm tròn cái phận sự giữ cái trách nhiệm tối cao, tối thiêng liêng là ru đời, ca hát cho đời nghe bằng những vần trầm bổng tha thiết.

Toàn thể dân Việt Nam ở khắp nơi đều khóc cái chết của nhà thi hào, chết một cách sơ sài như những đấng anh hùng, và đều thành kính chịu tang chung với gia đình nhà thi sĩ.

Ở đây, nhân danh nghệ thuật, chúng tôi xin nghiêng mình chào một lần cuối củng nhà thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu.

Nhân cái chết sơ sài của nhà thi sĩ, một ông bạn tôi đã phải ngậm ngùi cho cái kiếp nhà văn ở nước ta: “Bao nhiêu củi nước mới thành văn. Đem bán văn ra chết mấy lần…”

Bạn tôi bùi ngùi cũng phải. Nhưng chẳng phải gì ở ta mới có Tản Đà, có Tú Xương. Bao nhiêu những văn sĩ, thi sĩ trên văn đàn thế giới kia chả đã chịu chung một kiếp phận như nhà văn Việt Nam. Cái đời nghèo nàn của Verlaine, cái kiếp khốn đốn của Baudelaire, có hơn gì đời Tàn Đà, mà chắc chắn còn không có những phút ngông được như tác giả Giấc mộng lớnGiấc mộng con.

Trong cuốn L’Écrivain thuộc loại sách “Les caractère du temps” của nhà Hachette xuất bản (một loại sách bắt chước lối Les caractères của La Bruyère) tác giả cũng phải nhận như bao nhiêu nhà văn bên mình và phải đã than:

- Sống với nghề văn sĩ không sao sống được, thế nào cũng phải có một nghề thứ hai (second métier) cho chắc chắn đã.

Tôi cũng đã nghe câu ấy ở miệng bao nhiêu những bạn trẻ của tôi mà có lẽ, đều cùng là cái anh chàng như “anh chàng xuất bản tập văn mà về sau chỉ bán được có mỗi quyển” như Alphonse Daudet đã thuật trong cuốn “Le Petit Chose” vậy.

Nhưng mà, có ai có thể định trước rằng về sau ta sẽ làm nghề văn sĩ được. Thế mà người ta cứ viết văn. Thế mà bao nhiêu người đã đi xa tránh cái đời thầu khoán, cái đời chủ buôn, gói ghém lại những lối làm giầu theo kiểu người Mỹ mà đi… mà đi theo đuổi nghề văn.

Ở đây tôi không nói đến cái thú nhàn nhã của nhà văn: giàu sang thì kém người thực mà thảnh thơi còn thú bao nhiêu. Thì giờ mình là của mình, chẳng ai bắt buộc, chẳng ai kiềm chế được mình, trừ khi mình muốn cầu vui hay vì nghĩa vụ mà giao tiếp với bạn đồng chí thì không kể…

Ở đây tôi cũng không nói đến cái nhiệm vụ thiêng liêng của nhà văn; người có thiên chức phải làm thế nào cho cái đời mình, đời những người chung quanh mình ngày một đầy đủ thêm, dồi dào thêm, đẹp đẽ thêm, làm cho mọi người hiểu những điều họ chưa hiểu, gây cho họ những tình cảm họ không có, luyện cho họ những tình cảm họ sẵn có, giúp cho họ sống, sống một đời đầy đủ, rộng rãi và thâm trầm hơn.

Nhưng, ở đây, tôi hãy thử hỏi ai được như nhà văn Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: thác đi, nhưng “thác là thể phách, còn là tinh anh”;

Nhà thi sĩ Hiếu có bao giờ chết được. Ông Thiếu Sơn ở báo Mai đã vội hô: Muôn năm nhà thi sĩ! Bạn đồng nghiệp Lưu Trọng Lư đã cho ra đặc biệt một số Tao Đàn để đền công và ghi ơn nhà thi sĩ.

Như thế thì sao bạn còn phải bùi ngùi: hết lòng yêu mến văn chương, thành thực làm nhà văn sĩ, tuy rằng sống một cái đời nghèo nàn về vật chất đấy, nhưng mà thật cũng là một cách sung sướng ở đời.

Nhà văn sĩ Marcel Prévost cũng chỉ hằng ao ước cái đời nghèo nàn ấy thôi: một mảnh vườn ở nhà quê, cái nhà nhỏ ở ngoài tỉnh để làm chỗ làm việc, chỗ nghỉ ngơi; và khi về già không viết được nữa cũng dành được cái gia tư thường thường bực trung đủ mà dưỡng lão. Thế là nhiều rồi, may rồi.

Những người kia có óc kinh doanh, với họ nhiều cơ hội để có thể phất một cái mà lên bực phú hào. Nhưng mỗi ngày qua đi lại là mỗi cơ hội cho nhà văn giầu sự nghiệp. Mỗi ngày qua đi là đời mình già đi, nhưng mỗi ngày qua đi thời trong sự nghiệp văn chương của mình lại thêm lên được một trang hay một dòng sách nữa. Còn mạnh ngày nào, còn viết ngày ấy. Khoan khoái biết bao nhiêu! Cho nên Marcel Prévost đã phải thành thực mà nói rằng không có nghề nào ở đời mà lại được sung sướng như “nghề văn sĩ”.

Người làm ruộng kia sau mùa gieo hạt thì cái công mùa trước có còn gì nữa không? Chứ nhà văn thời ngày tháng qua đi bao nhiêu là sự nghiệp tăng lên bấy nhiêu. Cứ một cái khoái lạc đó ta tưởng cũng đủ khiến cho ta giá phải tái sinh một kiếp nữa, cũng chỉ nguyện xin làm một kẻ văn sĩ mà thôi.

Và ở đây, tôi tin rằng đó cũng là lời nguyện chung của bao nhiêu Lý Bạch, Khắc Hiếu còn đương sống.

Vương Khải, Thạch Sùng kiếp sau không còn trông thấy tiền bạc của mình nữa. Nhưng một Lý Bạch một Tản Đà, tái sinh vẫn còn được nghe người đời đọc những vần thơ bất hủ của mình làm tự kiếp trước.

Lê Tràng Kiều - Hoàng Kim Thư st.


Phụ Bản IV

VẤN ĐỀ ĐÁM TANG (tt)

9. Việc mở cửa mả

Ngày xưa, sau khi an táng người quá cố xong, ba ngày sau thì bày ra lễ mở cửa mả. Tang chủ bày nhang, đèn, một dĩa trái cây, một dĩa gạo muối, một ít giấy tiền vàng bạc, dựng một cây mía còn lá và cắt cho gọn với một cái thang làm bằng cây nhỏ, sơ sài cao độ năm tấc, tất cả để ở chưn mả. Cây mía thì dựng cho nó cao một chút hay cắm xuống đất cho nó đứng. Sau khi ông sư tụng kinh một hồi thì kéo con gà chạy quanh mả ba lần rồi thả cho nó chạy đi. Nếu không có sư, tang chủ vái là hôm nay sau ba ngày an táng, chúng tôi xin mở cửa mả và kéo con gà chạy ba vòng quanh mả rồi thả cho nó chạy đi. Cúng nước, sau đó rải gạo muối bốn phía, đốt giấy tiền vàng bạc là xong.

Tôi thấy tục lệ xưa như vậy, ta cứ thế mà làm vì nó có cái hợp lý của nó.

- Việc sau ba ngày mở cửa mả

Tôi nghe kể nhiều chuyện nhưng tôi xin kể một thôi, hư thiệt thế nào không biết. Có đám tang một người đàn bà, khi liệm tang chủ cho đeo vòng vàng nhiều nên sau khi an táng, đêm đến, có một số người tham, họ cùng nhau đào mả để cướp vàng. Khi mở nắp quan tài thì người đàn bà ngồi dậy. Bọn đào mả sợ chạy đi, bà ta đi về nhà. Như vậy là bà bị chôn sống. Do đó, việc để ba ngày mới mở cửa mả là coi như để coi người chết có chết hẳn không, sau đó mới báo cho biết là đương sự đã chết.

Việc kể đúng hay bịa đặt thì không biết nhưng trên nguyên tắc chết một vài ngày thì não chết lần nếu có sống thì cũng không còn nhớ gì. Tuy vậy, trên đời cũng có nhiều chuyện lạ lùng lắm. Trong thập niên 60 của thế kỷ trước, bà ngoại tôi ngủ một đêm tới sáng, bà nằm bất động, chỉ thoi thóp thở thôi. Đem lên nhà thuơng Chợ Rẫy, sau mấy ngày cứu chữa, bác sỹ lấy lưỡi lam rạch chữ thập ở lòng bàn chưn, không thấy chút máu nào nên cho gia đình đem về hòng lo hậu sự. Về nhà, sau một ngày, bà vẫn nằm yên, chỉ có ngực còn ấm thôi. Còn nước còn tát, ông tôi rước thầy thuốc Nam bổ thuốc cho uống. Nửa đêm, bà ú ớ nói và sau đó tỉnh dần và khỏe mạnh như thường như không có việc gì xảy ra. Đến thập niên 80 của thế kỷ trước bà mới qua đời.

- Việc con gà

Trong dân gian kể rằng người chết họ không biết mình đã chết. Sau ba ngày, gia đình thấy rằng người chết đã chết thiệt nên báo cho đương sự biết bằng cách cho gà gáy, gà kêu để vong hồn đang ở cõi âm biết cõi dương sắp đến và nhận ra họ đang ở cõi âm nghĩa là họ đã chết. Ý nghĩa của việc mở cửa mả bằng con gà là vậy. Sau khi chết, người chết có biết mình đã chết hay không? Có lẽ không ai biết. Nhưng có lần tôi đang ngồi trên ghế, thấy khó chịu, tôi định xuống đất ngồi nhưng không còn biết gì. Tỉnh lại, nghe đầu đau, tôi rờ thấy máu. Tôi nhớ lại việc trước đó. Tôi đang ngồi trên ghế chớ không phải nằm như vầy. Có lẽ người chết cũng vậy thôi. Lý giải việc mở cửa mả bằng con gà như vậy tôi cho là hợp lý.

Ngày nay, mở cửa mả, các sư bảo thả chim phóng sanh để tạo âm đức cho người chết. Tôi cho rằng làm như vậy là sai và sai cả về phong tục.

Phật dạy ai tạo nghiệp thì người đó trả nghiệp. Như vậy ai tạo đức thì người đó hưởng đức. Người sống phóng sanh thì người sống hưởng đức, không dính dáng gì tới người chết cả. Làm như vậy là vô ích.

Nói rằng mở cửa mả bằng con gà là tạo ác là sai vì kéo xong thì thả cho con gà chạy đâu thì chạy. Nếu vì có dây cột nên dễ bị bắt ăn thịt thì việc đó không do người chết hay gia đình họ gây ra.

Phóng sanh chim tôi cho là tạo ác. Chở lồng chim tới nơi mở cửa mả, vì nhiều con, chúng dẫm nhau. Thả ra có một hai con chết và vài con ngất ngư. Nếu ai muốn bắt lại thì bắt ăn thịt thôi vì nó không sống được. Phóng sanh chim là tạo hoàn cảnh cho nhiều người bắt chim nhốt để bán là cầm tù chúng, đưa một số chim không thích nghi được, yếu lần và chết là tạo ác đấy.

- Việc rải gạo muối, cây mía và cái thang

Việc nầy tôi nghe kể và nhớ đại khái thôi. Vị nào biết xin kể lại để thế hệ sau hiểu phong tục Việt Nam một cách lý thú.

Xưa có một vị có thế lực bị truy nã, gia đình giấu bằng cách nói ông đã qua đời và làm đám ma đem chôn đàng hoàng. Gần mả ông có đào một cái hầm để ông sống ở đó. Ngàn năm xưa, dân cư thưa thớt lắm, có lẽ không ai để ý tới nơi mồ mả hoang vắng.

Ông sống ở dưới hầm và hẹn rằng sau khi nghe tiếng trống đưa ma dứt, ba ngày sau là con cháu đem thức ăn là gạo muối tới tiếp tế. Nơi tiếp tế có dấu hiệu là cây mía. Để ông không ráng nhiều sức để trèo lên, con cháu để luôn một cái thang để ông bắc mà lên cho dễ. Thế là ông sống yên ở đó hay sau nhiều năm ông trở về nhà. Vì ăn uống kham khổ, tách biệt với mọi người lâu nên dáng dấp, giọng nói và cách nói năng cũng khác. Nhà có thế lực thì nô bộc nhiều có lẽ không ai để ý biết ngoài con cháu cật ruột của ông.

Tóm lại, tục mở cửa mả, theo tôi là phải giữ tục xưa. Vì cảnh sống hiện nay, có thể mở cửa mả sau khi an táng cũng được.

Khánh Hội - Quận Tư Saigòn ngày 26-12-2016

PHẠM HIẾU NGHĨA

MƯỜI ĐIỀU VỀ BỐ

Bố là người nghiêm túc nhất và cũng là người cô độc nhất trên thế giới này. Gánh nặng trên vai Bố, liệu tất cả những người làm con chúng ta đều thấu hiểu?

Nếu nhớ Bố, nếu khao khát tình yêu của Bố, hãy dành một vài phút ngắn ngủi để đọc hết 10 điều mà nhiều người làm con có thể chưa nhận ra dưới đây:

1. Trên thế giới này, người khó hiểu nhất chính là Bố. Bố vừa giáo dục chúng ta phải tiết kiệm, vừa lén cho chúng ta tiền tiêu vặt.

2. Bố trách chúng ta làm hỏng việc nhưng trong nội tâm, ông không nhẫn tâm thấy chúng ta bị trách mắng.

3. Bố chẳng bao giờ cất lời khen chúng ta giỏi nhưng trong lòng thì tự hào đến mức kiêu ngạo.

4. Có chết Bố cũng không muốn chúng ta yêu sớm. Nhưng trong lòng, ông luôn nuôi một niềm hy vọng lớn rằng sau này chúng ta có một gia đình hạnh phúc.

5. Trên thế giới này, người yêu chúng ta nhất nhưng ít khi thể hiện ra chính là Bố.

6. Có ai cam tâm tình nguyện làm ngựa cho chúng ta cưỡi? Có ai sẵn sàng lấy thân mình che chắn cho chúng ta khi gặp hiểm nguy? Có ai chấp nhận ra ngoài bươn chải lo cho chúng ta bữa ăn, giấc ngủ, lo cho ta học hành… mà không chút tính toán cho bản thân?

7. Trên thế giới này, người phải đối mặt với những áp lực lớn nhất, phải chịu đựng sự tàn khốc nhất khi cạnh tranh bên ngoài, đảm nhiệm những trọng trách nặng nề nhất chính là Bố.

8. Cũng trên thế giới này, người cô độc nhất cũng chính là Bố.

9. Trong những người quanh bạn, người trải qua sóng gió nhiều nhất là Bố, người ít được truyền tụng nhất cũng chính là Bố.

10. Bố, trong suốt những ngày sau này, con sẽ nhớ lại những ngày thơ bé khi Bố dắt bàn tay bé xíu của con, và con sẽ dắt tay Bố, cùng Bố đi đến cuối con đường!

Nếu các bạn yêu, thương và nhớ bố, khi hỏi thăm mẹ, nhớ đừng quên Bố nhé, vì Bố luôn là người chấp nhận nhiều thiệt thòi trong gia đình!

HOÀNG CHÚC st.

TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỨC PHẬT

Xuất Gia Tầm Đạo

Thái tử Tất Đạt Ta rời khỏi cung điện Vua Cha, và trở về thư phòng của mình.

Chàng đi ngang qua những căn phòng trang hoàng lộng lẫy, những hành lang tráng lệ, những dòng suối nước sơn thủy chảy róc rách, rồi mới về đến phòng mình. Chàng đi qua giữa các nhạc công tài ba, các ca sĩ xinh đẹp đang trình diễn, những nàng hầu trẻ trung ra tiếp đón nồng hậu. Những thú vui này không còn thu hút Thái Tử được nữa. Lúc này, chàng chỉ có một ý nghĩ là rời khỏi cung điện để đi tìm Chân Lý, để Tầm Đạo.

Chàng đi vào phòng Công Chúa, đến bên giường vợ con, bởi vì Công Chúa vừa mới hạ sanh còn yếu đuối không thể ra đón tiếp chàng được. Thái Tử ngồi xuống bên cạnh giường nhìn vợ tươi cười, rồi bảo:

- Nàng thấy trong mình có khỏe không, hay là để ta đi pha nước sâm cho nàng uống vậy?

Công Chúa nhìn chàng với nụ cười duyên dáng:

- Thiếp vẫn khỏe khoắn, chàng khỏi phải lo… Mọi việc điều có các a-tỳ lo lắng cả rồi.

Thái Tử vui vẻ nói tiếp:

- Khi phục hồi sức khỏe rồi, nàng sẽ tiếp tay ta mà cai cai quản sơn hà nhé, vì Vua Cha sẽ truyền ngôi cho ta. Ta còn phải trông cậy vào nàng nhiều lắm. Con của chúng ta thức chưa, ta muốn ôm ấp nó một chút.

Công Chúa tươi cười, vô tư bảo:

- Được rồi, chàng khỏi phải lo lắng điều gì cả, đã có thiếp đây, giúp đỡ chàng ở mọi nỗi khó khăn. Vâng, đợi con nó thức dậy thì chàng mặc sức mà hôn hít nó… Bây giờ, con nó đang ngủ say…

Thái Tử tươi cười cúi xuống hôn trán vợ, rồi về phòng riêng.

Đêm đó, sau bữa ăn tối, các nhạc công, vũ nữ, mấy nàng hầu và lính canh gác đều mệt mỏi ngủ say. Ngay cả Công Chúa Yasodara và đứa con trai cũng đang say sưa giấc nồng. Thái Tử cũng nhân cơ hội này để ra đi, nói cho rõ hơn là trốn đi.

Trước khi rời khỏi lâu đài, Thái Tử muốn nhìn lại một lần cuối cùng cái khuôn mặt trẻ thơ, con của chàng, cái biểu tượng tình yêu mà chàng đã đối đãi với người vợ đẹp thân mến. Nên chàng đã trở lại phòng ngủ của vợ. Nàng đang ngủ, và đứa bé cũng đang ngủ bên cạnh nàng, được đắp bằng một tấm chăn. Chàng muốn dời tấm chăn để nhìn cho rõ gương mặt trẻ thơ của bé, vì có lẽ chàng sẽ chẳng bao giờ còn quay trở lại được nữa.

Chàng định dời bức chăn, nhưng e ngại rằng sẽ lay động đến vợ chàng, làm Công Chúa Yasodara thức dậy. Nàng là bậc thông minh, thấy điều bất thường sẽ hỏi:

- Chàng làm gì ở đây, trong đêm khuya khoắc này. Dường như chàng đang chuẩn bị sẵn sàng để đi đâu đó. Bởi vì, nàng cũng nghe phong phanh là Thái Tử đã xin Vua Cha, để được xuất gia đi tu.

Rồi nàng khóc lóc nỉ non:

- Trời ơi, chàng định đi đâu? Chàng định làm gì? Tại sao hạnh phúc đang đầm ấm, mà chàng đành từ bỏ ra đi! Từ bỏ là gì? Xuất gia là gì? Giác ngộ là gì? Đắc Đạo là gì? Chơn Lý là gì? Chàng có biết hay không?

Rồi, ai sẽ biết được điều gì sẽ xảy ra, có lẽ nàng sẽ đánh thức ầm ĩ lên cả cung điện! Vua Cha sẽ đến, và rồi mọi việc sẽ hỏng bét. Thế nên chàng chỉ lặng lẽ nhìn vợ con, rồi âm thầm ra đi, bỏ trốn.

Chàng sắp sửa đi đến một chốn hành hương mà chưa bao giờ biết trước chính xác mục tiêu. Rõ ràng là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm đầy cam go, khổ hạnh.

Không thể nào biết trước được những điều gì sẽ xảy ra tới đây; chàng đánh một canh bạc hơn thua, may rủi với mọi thứ… vương quốc, vợ con, và cả bản thân mình. Chàng đánh đổi mọi thứ để đi tìm một sự giác ngộ mong manh, một điều mà chàng chỉ nghe nói như một khả năng, thế thôi; vì dường như cũng có người đã tìm được rồi. Ai đã tìm được rồi thì cũng là điều đồn đãi mơ hồ. Còn về việc làm sao cho đắc quả, làm sao được giác ngộ, làm sao Đắc Đạo, làm sao đạt được Chân Lý thì chàng cũng mù tịt, không biết gì cả. Nhưng mà Thái Tử đã cương quyết im lặng ra đi, bỏ trốn.

Chàng nhẹ nhàng đi đến chỗ Xa Nặc, người giữ ngựa đang nằm ngủ và khẽ đánh thức ông ta dậy:

- Hãy sửa soạn yên cương ngựa cho ta, nhanh lên đi Xa Nặc. Ta muốn ra đi ngay trong đêm nay.

Xa Nặc rất đỗi ngạc nhiên, không biết Thái Tử định đi đâu vào lúc đêm khuya khoắc như thế này, nên nhẹ lời dám hỏi:

- Thái Tử định đi đâu vào giờ giấc đêm khuya như thế này vậy?

- Chúng ta không có thì giờ để nhiều chuyện. Chúng ta phải đi ngay kẻo trễ. Hãy làm theo ý của Ta đi.

Xa Nặc không dám cãi chỉ âm thầm lo thắng yên cương rồi dẫn ngựa đến trình diện. Thái Tử vuốt ve con ngựa và thì thầm với nó:

- Này Kiền Trắc, người bạn thân mến của ta bấy lâu nay. Chúng ta phải ra đi hết sức im lặng trong đêm nay, để mọi người không ai hay biết gì cả. Ngươi phải ráng giúp chúng ta mà phóng qua cho được khỏi cổng thành, vì ở đó quân lính canh gác rất nghiêm nhặt. Đêm nay là một đêm rất đặc biệt, Ta phải ra đi tầm Đạo. Nhà ngươi hãy cố gắng đưa chúng ta ra khỏi thành an toàn. Về sau, ta có đắc Đạo thì nhà ngươi cũng được nhiều công đức vậy.

Tục truyền rằng, con ngựa Kiền Trắc gật đầu mấy cái như hiểu ý chàng. Nó lùi lại một đoạn đường lấy trớn, rồi chạy phóng bay qua khỏi cổng thành dễ dàng, đưa Thái Tử và Xa Nặc ra ngoài êm ái, dường như có sự trợ lực của Thiên Thần đâu đó. Bao giờ trong truyện truyền thuyết thì cũng có ít nhiều uy lực huyền bí thiêng liêng hỗ trợ cho sự thành công, chúng ta không vội vàng thắc mắc. Chúng ta chỉ biết rằng, Thái Tử được ra ngoài một cách bình an vô sự. Rồi, chuyện gì xảy ra tiếp theo?

Tất cả các câu chuyện đều tường thuật rằng Thái Tử đã từ bỏ cung điện... Thật ra, là không đúng. Chính cái cung điện đã từ bỏ Thái Tử. Nó không còn một chút ý nghĩa nào đối với chàng nữa.

Cái đêm mà chàng rời bỏ lâu đài để lên núi vượt qua biên giới là đêm trăng rằm trong sáng, người giữ ngựa Xa Nặc dừng ngựa lại nơi dốc núi, cố gắng thuyết phục chàng quay lại nhìn tòa lâu đài lần cuối. Người giữ ngựa là một lão nô bộc tận tụy, đã phục dịch cho Thái Tử từ thuở thơ ấu, nay đã ở vào tuổi cha của Thái Tử.

Ông ta mới nói rằng:

- Thái Tử ạ, Ngài đang làm gì vậy? Ngài có mất trí không? Thật là điên rồ mà từ bỏ cung điện để ra đi như vậy. Hãy nhìn lại đi. Ít nhất là Ngài hãy ngoảnh lại, nhìn một lần cái tòa lâu đài đẹp đẽ của Ngài dưới ánh trăng. Không một ai khác có được một tòa lâu đài lộng lẫy như thế. Nó đang chiếu sáng dưới ánh trăng huy hoàng, diễm lệ như thế.

Thái Tử ngoảnh lại mà nói với ông lão rằng:

- Ta chẳng thấy tòa lâu đài nào cả, ngoài một đống lửa đang cháy to, và cái chết thì đang đến gần kề từng giây phút. Cứ đưa ta đi khỏi nơi đây, để ta tìm kiếm cái Chân Lý trường tồn. Ta không còn bị đánh lừa bởi vật chất xa hoa nữa. Ta phải tìm cho được cái Chân Lý Trường Tồn để cứu khổ cho Ta và cho cả mọi người.

Họ tiếp tục phi ngựa suốt đêm. Đến lúc rạng đông, họ đã tới cánh rừng yên tịnh, nơi có rất nhiều Đạo Sĩ ẩn dật Tu Hành.

Thái Tử rất vui mừng mà nghĩ rằng:

- Bây giờ, cuộc tầm Đạo của ta bắt đầu.

Chàng xuống ngựa, rồi nói với Xa Nặc rằng:

- Xa Nặc, Ta đã đến nơi mà Ta mong muốn, Ta rất cám ơn sự giúp đỡ của ông.

Xa Nặc nắm tay Thái Tử, vừa rơi lụy mà nói rằng:

- Thái Tử ôi! Ngài nỡ lòng nào dứt bỏ tôi ở giữa rừng sâu, núi thẳm như thế này. Khi ra đi có thầy có trò, mà bây giờ tôi phải trở về một mình sao đành… Vậy, xin Thái Tử cho tôi ở lại để hầu hạ Ngài sớm tối.

Thái Tử bèn hỏi:

- Tại sao ông cũng muốn đi Tu với ta?

Xa Nặc buồn bã trả lời:

- Vì Ngài là chúa của tôi, là người mà tôi kính mến trong đời. Tôi có phận sự phải theo hầu Ngài.

Thái Tử cương quyết bảo Xa Nặc:

- Ta rất cảm tạ tấm lòng trung hậu của ông. Vậy, nếu ông thật sự có lòng thương mến ta, thì hãy mau quay trở về Hoàng Cung, mà tường thuật mọi điều để cho Phụ Vương được an lòng, rằng ta đang vui vẻ trên bước đường Tầm Đạo.

- Ông cũng trở về nói với Công Chúa rằng, nàng hãy kiên nhẫn đợi chờ ngày Đắc Thành Chánh Quả của Ta, sẽ đem lại niềm vui thật sự cho nàng.

Rồi chàng cởi áo khoác và xâu chuỗi ngọc, mà trao cho Xa Nặc đem về làm tin.

Xa Nặc biết rằng không thể yêu cầu điều gì được nữa, nên đành thi lễ cáo biệt mà trở về. Riêng, con ngựa Kiền Trắc còn lưu luyến liếm chân Ngài với hai dòng lệ nhỏ dài.

Ngay lúc đó, con ngựa Kiền Trắc nhảy chồm lên hí vang mấy tiếng, như để nói lên câu giã từ. Chàng bèn vuốt ve nó mà nói rằng:

- Này Kiền Trắc, Ta cũng cám ơn nhà ngươi đã cực khổ đưa Ta đến đây. Vậy, nhà ngươi hãy an lòng mà trở về Hoàng Cung với Xa Nặc nhé. Sau này Ta có đắc quả Bồ Đề thì nhà ngươi cũng đắc phần công đức vậy...

(còn tiếp)

Thanh Châu sưu tập kể

PHƯƠNG PHÁP TẬP LUYỆN

ĐỂ TỰ ĐIỀU TRỊ BỆNH

của TRƯỜNG SINH HỌC NHÂN ĐIỆN

gần gũi THIỀN, cũng như YOGA

Bất cứ thời gian nào.

Khi thật sự rảnh rỗi.

Ngồi hay nằm cũng được.

Miễn sao thân thể thật thoải mái .

Động tác thứ nhất:

Từ từ hít vào bằng mũi hơi ngắn. Thở ra bằng miệng hơi dài. Nhẹ nhàng 3 lần.

Động tác thứ hai:

Nhắm mắt lại, tĩnh tâm như ngủ. Thở bằng mũi bình thường tự nhiên. Tối thiểu 5 phút, tối đa 30 phút.

Để thật sự tĩnh tâm, trong thời gian này nên tập trung suy nghĩ vào luân xa 7 để tránh bị chi phối bởi ngoại cảnh hay bối cảnh. Nhắm mắt như vậy để các luân xa thông thương, dễ dàng thu hút từ trường của vũ trụ vào cơ thể mình, tạo cho cơ thể một nhân điện dồi dào, khai thông mọi bế tắc của kinh mạch.

Động tác thứ ba:

Mở mắt ra, lại hít vào bằng mũi hơi ngắn và thở ra bằng miệng hơi dài. Nhẹ nhàng 3 lần.

Y như động tác 1. Thế là xong một buổi tập.

LỆ NGỌC st.

TÁM THAO TÁC

ĐỂ MẠNH KHỎE, SỐNG LÂU

Theo Lão Nhân Thiên Địa TQ (4-1996)

Theo Người Cao Tuổi (VN) số 3 (12-1996)

1. Hàng ngày “chải đầu” 5 trăm lượt (bằng 10 ngón tay)

Đầu có 40 huyệt quan trọng, 12 kinh lạc xuất phát từ đây, 10 vùng kích thích đặc biệt của cơ thể cũng ở đây.

“Chải đầu” tức xoa bóp, kích thích các huyệt và gốc kinh lạc đem lại nhiều tác dụng như: lưu thông khí huyết, điều dưỡng thần kinh đại não, làm chậm lão hóa, tăng trí nhớ, sảng khoái, mắt sáng, tai thính, da hồng hào, giảm các chứng mệt mỏi, mất ngủ, buồn phiền.

2. Thường xuyên chà xát huyệt “Dũng Tuyền”

Chân có 19 cơ, 26 đốt xương, 33 khớp, hơn 50 dây chằng, 60 huyệt… và 40 ngàn tuyến mồ hôi, 500 ngàn huyết quản… có phản xạ với các bộ phận trong người.

Nhưng “bàn chân” ở xa tim, sức đề kháng yếu, là nơi dễ phát sinh bệnh tật.

Sau khi tắm: xoa ngay huyệt Dũng Tuyền (ở chỗ lõm gan bàn chân) để tăng thân nhiệt, ích tủy, cân bằng âm dương, bài tiết độc tố, tăng lưu thông máu ở chi dưới, giảm căng cơ bắp, bớt mệt mỏi, lợi gan, tinh mắt, giúp tiêu hóa tốt, dễ đại tiện và giúp trị các chứng: đau đầu, mất ngủ, huyết áp cao, tứ chi tê dại, sinh lý kém - là các chứng thường thấy ở người cao tuổi.

Vì vậy huyệt này được các lương y gọi là huyệt “trường thọ”.

3. Nuốt nước bọt mỗi ngày 3 trăm lần

Nước bọt có nhiều chất bổ ích như: Vitamin B, albumin, chất hữu cơ, đạm, muối, cal-xi, ma-nhê,…

Nước bọt tiết ra từ miệng, qua họng, phế quản, đến gan, thận, tập trung ở vùng rốn rồi chuyển hóa thành tinh khí, có tác dụng tốt với dạ dày, lách, thận, ngũ tạng. Nước bọt cầm máu nhanh, giúp tiêu hóa, làm mềm huyết quản, diệt vi khuẩn, làm chắc răng, tiêu độc và phòng chống ung thư rất hiệu nghiệm. Viện Y Học Hoa Kỳ đã kết luận: một số tác nhân ung thư bị tiêu hủy ngay sau khi tiếp xúc với nước bọt 30 giây nên khuyên mọi người phải nhai thật kỹ, mỗi miếng đến 30 lượt để phòng tránh ung thư.

Các nhà dưỡng sinh, từ cổ chí kim, đều coi nước bọt là “nước thần”, là nước “vàng”, nước “bạc”, là thuốc tự nhiên để chống ung thư.

4. Co nhún hậu môn mỗi ngày 1 trăm lần

Co nhún hậu môn để các cơ quanh hậu môn luôn hoạt động, tăng lưu thông máu, phòng và trị các chứng: trĩ nội, trĩ ngoại, táo bón, viêm ruột mạn tính, viêm và tổn thương da hậu môn,… rất lợi cho sức khỏe, nhất là với người cao tuổi.

Thỉnh thoảng lại co nhún hậu môn nhiều lần, độ một hai phút. Sau khi đại tiện, nên co nhún ngay trong 2,3 phút để nhanh chóng phục hồi cơ nâng hậu môn, tránh lòi dom.

Cách làm: thả lỏng toàn thân, tay sát hai bên đùi, lưỡi đặt vào vòm họng trên, phối hợp giữa hít vào với co hậu môn lên - nín thở; rồi thở ra chậm - thả lỏng toàn thân.

5. Hai hàm răng cắn vào nhau mỗi ngày 3 trăm lần

Việc làm này theo một tiết tấu lắp đi lắp lại, là phép dưỡng sinh rất tốt: cân bằng âm dương, lưu thông khí huyết và kinh lạc, bảo vệ chân răng và men răng, tăng cường cơ nhai, làm chậm quá trình móm ở người già, tăng lượng tiết nước bọt, bổ sung dinh dưỡng, nâng cao tính kháng khuẩn, làm răng chắc và đẹp.

Cách làm: miệng hơi mím, tinh thần sảng khoái, hai hàm răng cắn vào nhau, lúc mạnh, lúc yếu, theo một tiết điệu ổn định.

6. Xoa bụng hàng ngày 1 trăm 2 chục lần

Bụng là cung thành của lục phủ ngũ tạng, nơi phát nguồn khí huyết âm dương. Năng xoa bụng làm lưu thông máu, bổ dưỡng thần kinh, tăng nhu động cho ruột, dạ dày, chữa trị: táo bón, tổn thương dạ dày, viêm tuyến tiền liệt, đầy hơi, di tinh, cao huyết áp, bệnh tim, tiểu đường… Năng xoa bụng còn có tác dụng tiêu mỡ thừa, để giảm béo, giữ ngoại hình.

Xoa nhiều hay ít là tùy thể trạng mỗi người. Bắt đầu dùng tay phải xoa bụng trên theo chiều kim đồng hồ, sau lùi xuống xung quanh vùng rốn. Rồi đổi tay trái, cũng làm như vậy, theo chiều ngược lại. Không nhất thiết xoa tròn, có thể xoa lên xoa xuống, rồi xoa sang trái, sang phải.

Bụng là vị trí của ngũ tạng, có nhiều kinh lạc, khi no, lúc đói, viêm ruột, đau bụng thì nên nghỉ xoa.

7. Kéo tai hàng ngày mười bốn lần

Tai liên quan đến thận, 19 huyệt ở đây liên quan đến lục phủ, ngũ tạng và cả 12 kinh lạc - nên được coi như “hình tượng thu nhỏ của toàn thân”.

Phương pháp “kéo tai dưỡng sinh” như sau: Tay phải vòng qua đỉnh đầu, kéo tai trái lên phía đỉnh đầu 14 lần, rồi đổi tay, dùng tay trái kéo tai phải lên phía đỉnh đầu 14 lần.

Kiên trì thực hiện đều đặn một thời gian dài sẽ kích thích hoạt khí, lưu thông kinh lạc, tăng tuần hoàn máu, cân bằng âm dương, điều chỉnh lục phủ, ngũ tạng.

8. Vặn mình hàng ngày

Nếu máu không lưu thông, không cấp đủ lượng cần thiết cho các bộ phận thì sinh ra hàng trăm thứ bệnh như: suy nhược tinh thần, thần kinh bất ổn, sắc thái kém.

Khi vặn mình, hai tay giơ cao, cột sống thẳng, lồng ngực nở to, nghiêng người kéo căng cơ sườn, hít mạnh được nhiều ô-xy, sau đó thải nhiều thán khí (CO2)… không những giảm mệt mỏi, căng thẳng, làm phấn chấn tinh thần, mà còn thúc đẩy mạch máu lưu thông, điều chỉnh cột sống, cân đối ngoại hình…

LỆ NGỌC st.

Đọc sách giùm bạn

CHINH PHỤ NGÂM KHÚC


KHOẢNG TRỜI SI

Tiếp nối ‘Khoảng trời si 1’ (xuất bản 19-5-2005) là KHOẢNG TRỜI SI 2 của Phùng Chí Tâm do NXB Thanh Niên xuất bản tháng 12.2008.

Gồm 73 thơ và 7 bản nhạc của chính tác giả, một số bài đã được chính tác giả trình bày tại CLB sách Xưa & Nay. Xin được trích 1 bài thơ và nhạc của tác giả.

KÍNH DÂNG MẸ

Mẹ là mặt Trời

Mẹ là mặt Trăng

Mẹ là trái đất

Mẹ là sông dài

Mẹ là biển rộng

Mẹ là núi cao

Mẹ là hoa thơm

Mẹ là trái ngọt

Mẹ dòng sữa trào

Mẹ là Thánh Tiên

Mẹ là Chúa Trời

Mẹ là Đức Phật

Mẹ sinh các con

Hạnh phúc tự hào.

Sài Gòn – 10.2005

PHÙNG CHÍ TÂM


HÀ MẠNH ĐOÀN

XU HƯỚNG BẢN NĂNG HÓA

Thử điểm qua một số hành vi sống của đa phần con người ngày nay, những biểu hiện dục tính tràn lan, những biểu hiện dã tính đầy rẫy, những biểu hiện hưởng thụ các loại hình ăn chơi phung phí, những biểu hiện hành xử cảm tính bộc phát thiếu kềm chế… Gần như mọi thứ thoát dần khỏi sự chi phối kiểm soát của lý trí, và đó là những biểu hiện rất rõ về xu hướng bản năng hóa mà người ta thường dùng một cặp từ nhẹ nhàng hơn là “cảm tính”.

Thật ra, con người luôn muốn phục vụ mọi nhu cầu của bản thân. Mà hầu hết các nhu cầu thuộc về bản năng tồn sinh. Người ta chỉ có thể ép mình khi điều kiện vật chất và khả năng hoàn cảnh không cho phép, hoặc vì một sự bắt buộc phải ức chế một cách cần thiết. Và một khi không có bất kỳ sự hạn định nào thì không lý do gì người ta không thỏa mãn những nhu cầu. Nhưng điều đáng nói là phạm vi và tính chất. Bất kỳ điều gì vuột khỏi sự kiểm soát đều có khả năng gây nguy hại. Sự nguy hại sẽ càng nghiêm trọng hơn bởi tính lây lan và tác động trực tiếp gián tiếp gây ảnh hưởng đến số đông. Từ số đông lại nhân đến số đông hơn, trở thành cái gọi là vấn nạn. Những vấn nạn này không chỉ tác hại trong một thời đoạn, một phạm vi mà sẽ là một hệ lụy lâu dài khi ý thức con người bị lôi kéo và phụ thuộc. Cái chính là bởi sự thỏa mãn nhu cầu bản năng nào cũng đem đến cho con người những cảm giác dễ chịu thích thú. Chính vì vậy mà khi đã buông thả bản thân theo chiều hướng dễ dãi, thì sự kháng cự và cố gắng nâng dậy ý thức tích cực dần dần yếu đi, mờ nhạt và có thể là tê liệt. Như hai đội quân chiến đấu, lực lượng bên nào mỏng hơn tất bại trận, và bên thắng càng ỷ thế xông lên. Một khi con người có cuộc sống với cán cân bị lệch một cách nghiêm trọng thì không những tự tiêu hủy cả cuộc đời mà còn gieo bao điều tai ác cho xã hội.

Vì sao con người ngày càng bản năng hóa?

Đầu tiên và dễ hiểu dễ thấy nhất đó là sự hỗ trợ các phương tiện vật chất. Trong vòng mười lăm năm trở lại, đất nước ta phần lớn đã thoát dần khỏi ách đói nghèo. Một thành phần cư dân có sức phát triển mạnh về kinh tế. Tất nhiên là điều đáng mừng. Xong, cuộc sống luôn có những biến dịch cả về tâm thức lẫn bối cảnh. Khi con người đang còn phải vất vả để vật lộn với cuộc sống, đang dốc hết tâm sức để tích lũy cho mình và gia đình, đang có một mục tiêu phấn đấu cho một thành quả của ước mơ. Và sau một thời gian dài gắng gỏi, người ta tạm có được một phần cho ước muốn, có khi còn nhiều hơn mong đợi, và người ta lấy làm thỏa mãn, người ta nghĩ đến những nhu cầu hưởng thụ, người ta muốn bù lại cho mình những ăn khát nhịn thèm thuở xa xưa. Và khi đã bén mùi ăn chơi rồi thì người ta xa dần những định chuẩn trong tâm thức, những mực thước đã được cẩn trọng gìn giữ bao lâu, sẽ dần dà mờ nhạt và họ hoàn toàn bị cuốn theo những sự hấp dẫn thu hút của rất nhiều chiêu trò của các cuộc chơi. Hơn thế nữa, họ sẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi những cái nhìn dư luận, những sự đối sánh, cạnh khoé, hơn thua. Và có thể nói một cách đoan chắc rằng: người ta có thể chín chắn trầm tĩnh tỉnh táo trong những cân nhắc làm ăn tính toán, nhưng người ta lại dễ đâm ra nóng nảy vội vã và mê muội trong việc tranh giành ngôi vị đẳng cấp ở những chốn ăn chơi. Vì thế mà đã rất nhiều người làm lụng tích cóp cả đời để rồi đốt sạch trong một thời gian rất ngắn. Đó là khi bản năng vuột khỏi sự kiểm soát của lý trí vậy.

Một thành phần khác chủ yếu là lớp trẻ, được sinh ra trong một tầm mức khá ổn định về kinh tế lẫn xã hội, chưa mắc phải bất kỳ một mối lo toan nào, thì đã được chu cấp tận tình phương tiện điều kiện cho rất nhiều nhu cầu. Nên hầu như không hề có một mảy may suy ngẫm về bản thân phải đóng góp gì cho cuộc sống, nhưng lại tự cho mình cái quyền được đòi hỏi, được thụ hưởng, mà thường dễ dẫn đến sự vượt mức. Tuổi đời non nớt, lại thiếu chăm sóc giáo dục, thiếu trải nghiệm những khó khăn khắc phục, lại dễ bị lôi kéo bởi những kích động, ham muốn, những tham vọng vật chất, quyền lực, những hư danh phù phiếm. Phù phiếm nhưng lại hết sức lộng lẫy trong mắt họ. Bạn thấy những sợi dây kim tuyến rất đẹp phải không? Đẹp một cách bóng sắc hào nhoáng, đẹp một cách hấp dẫn mời gọi. Chúng đong đưa, chúng nhấp nháy, chúng lóng lánh, chúng mơ màng. Và khi đến gần… khi thoát khỏi sự cầm nắm của hư ảo, ta thấy gì? Mỏng manh, dễ đứt và cũng tầm thường thôi. Thế nhưng đáng tiếc con người luôn bị dẫn dụ bởi những mỏng manh tầm thường ấy, trong một thời, trong một lúc, trong một chênh vênh mơ hồ. Có trải nghiệm rồi, có vật vã ngã xuống đứng lên rồi, còn không thoát nổi sự mỏng manh tầm thường ấy, nói gì cái tuổi mon men ngưỡng cửa cuộc đời, với đôi chân chập chững, với đôi mắt ngơ ngác, với trái tim háo hức. Lại nhìn thấy đây kia bao hình ảnh của xa hoa, bao sức hút của sự hưởng thụ thỏa mãn. Trách gì chúng không dấn ngay vào. Trách gì chúng không mong có được ngay lập tức. Trách gì bản năng chúng không mạnh mẽ kêu đòi. Trong khi chúng chưa hề được trang bị, chưa hề được nhắc nhở, chưa hề được cảnh báo. Thế là chúng lao vào để có được điều chúng muốn bằng mọi cách. Thế là từ nhu cầu của bản năng này kéo theo sự trỗi dậy của bản năng khác. Cái phần con, mà cũng có thể gọi rõ hơn là phần thú, trong mỗi người đều có, chưa kịp được mài giũa nhưng lại có cơ hội và điều kiện bùng lên nhanh chóng. Cái bản năng cắn xé được biến hình thành hành vi thao tác của một phần tiến hóa người. Và cái phần tiến hóa lưng chừng ấy thả sức mà gây hiểm hoạ. Không những thế, với bước tiến công nghệ của nhân loại, góp phần không ít cho sự tiến triển tích cực cho nhiều mặt trong cuộc sống, nhưng lại vô hình chung cung cấp trên mức đầy đủ, trên mức tiện lợi cho những tò mò giới tính, kích hoạt dã tính, thú tính bằng những hình ảnh bất nhân tính. Những chiêu trò lố lăng, hạ tiện, rẻ tiền hòng mưu cầu những cái lợi nhất thời, đã trở thành những chén thuốc độc, và cứ thế đổ vào những lòng rỗng đầy khát khao của tuổi trẻ. Tuổi trẻ vô tư uống, vô tư nhiễm, vô tư hành động. Cái xốc nổi của tuổi trẻ, cái hiếu thắng của tuổi trẻ, cái hơn thua mất được của tuổi trẻ là những thứ xăng dầu đặc dụng, chúng đốt cháy mọi thứ giá trị căn bản của đạo đức để phục vụ cho nhu cầu bản năng dục vọng ngày càng mạnh. Một thành phần ban đầu còn nho nhỏ, nhưng vết dầu loang nhanh chóng lan rộng, khi con người luôn luôn bị hấp dẫn bởi những kêu đòi xác thịt, bởi những thỏa mãn hư vinh, bởi những tham vọng không hề tiết chế. Và như vậy, mảng tối xã hội ngày càng đậm. Những nảy sinh bất ổn ngày càng nhiều. Những thiệt hại trên nhiều lĩnh vực ngày càng lớn.

Khi con người chỉ biết sống với bản năng, sẽ sinh lòng tham lam, vì sự thỏa đáp là không bao giờ đủ, tham lam thì kéo theo ích kỷ, ích kỷ kéo theo vô tâm, vô tâm kéo theo vô cảm, vô cảm kéo theo vô lương, vô lương kéo theo tàn nhẫn man rợ. Một chuỗi kéo theo ấy đang làm con người trở nên tàn khốc. Sẵn sàng hành xử mạnh tay, vô nhân tính không chỉ với người ngoài, không chỉ với những vụ việc mâu thuẫn nghiêm trọng. Nhan nhản những câu chuyện thương tâm đau lòng xảy ra liên tiếp. Để người ta cứ ngơ ngác hỏi nhau: “Vì sao lại thế? Vì sao mạng người ngày nay rẻ vậy? Vì sao lương tâm tình cảm không còn là một cứu cánh?”. Sẽ còn phải nhiều “vì sao” như thế, khi con người ta chỉ biết dạy nhau cách kiếm tiền, chỉ biết dạy nhau chuyện tranh chấp những được thua hơn thiệt, chỉ biết tìm cách đạt được những nhu cầu bản năng mà bất chấp sự đánh đổi.

Có ai đang nói: “Làm gì mà căng thẳng thế? Đâu đã đến nỗi nghiêm trọng gì, chẳng qua cho là một con số nhỏ bé thôi mà, sao lại đưa ra một góc nhìn đen tối thế chứ?”. Xin thưa. Nhỏ hôm nay sẽ lớn ngày mai. Nếu mọi sự vẫn chỉ là nói cho vui. Nếu những giá trị vật chất hư ảo vẫn là điều đáng kể để theo đuổi. Nếu trái tim con người đang dần chết đi bởi những tham lam ích kỷ và tàn độc. Hãy nhìn hiện trạng xã hội của hai mươi ba mươi năm nữa. Từ những hôm nay…

ĐÀM LAN


TÌNH CHA

Đêm đã khuya, ánh trăng xuyên qua kẽ vách, đổ những vệt sáng hình thù quái dị lên nền đất, soi lờ mờ mọi vật trong nhà. Những thứ ban ngày đã nhỏ nhoi, tồi tàn. Giờ đây, giữa cảnh tĩnh mịch, tranh tối, tranh sáng, chúng càng bé nhỏ, tệ hại.

Mẹ Phú đang nằm trên chiếc giường “sang trọng” nhất nhà. Bảo là sang trọng vì nó còn giữ nguyên dáng vẻ của mình. Mấy cái thanh giường cũ kỹ, bị mối mọt gậm nhấm sần sùi nhưng vẫn còn là cái thanh. Bốn chân giường dù xiêu vẹo, long mộng nhưng vẫn còn được chống đỡ bộ vạt chắp vá đủ thứ tre, gỗ tạp nhạp. Tuy nhiên, ít ai biết điều đó vì ba Phú đã dùng một đôi chiếu trải lên trên. Chẳng phải kiểu cách gì mà do hai chiếc chiếu đều sờn rách. Năm thằng con nít ngủ một giường, chà lết, lăn trở, thỉnh thoảng đái dầm tạo nên một cái mùi khăm khẳm thâm căn cố đế và nhiều khe hở cho muỗi tấn công. Ba Phú bắt hai chiếc chiếu xoay hai đầu lành để đùm hai đầu rách. Do vậy, nằm hướng nào cũng được thưởng thức “mùi hương con nít”. Nhưng những điều ấy không làm cho mẹ Phú chú ý, mà căn bệnh ngặt nghèo mới từng giờ, từng phút đày đọa bà.

Người ta bảo mẹ Phú bị lao phổi. Đêm nào bà cũng ho ằng ặc từng hồi. Phú thương mẹ lắm! Phú xót cả ruột khi thấy mẹ như bộ xương khô, nằm “dán chiếu”, thở hổn hển tựa vượt dốc. Những lúc ấy, Phú tưởng mình cũng nghẹt thở, ứa nước mắt. Nó vừa sợ hãi vừa hung dữ. Phú quát lũ em, đuổi chúng vào một xó, không cho cựa quậy, nói năng. Thậm chí muỗi đốt, đứa nào gãi hay đưa tay đập cũng bị Phú tát. Hình như những đứa trẻ con nhà nghèo dễ thích nghi với hoàn cảnh. Chúng đón nhận mọi tình huống xảy ra cho mình với thái độ cam chịu đến thản nhiên, lạnh lùng. Lũ em Phú cũng thế. Chúng nín lặng, đợi phút “nguy kịch” qua đi rồi riu ríu chui vào mùng, ngủ ngon lành. Mặc bụi bám đầy nóc mùng, muỗi vo ve bên tai và tiếng rên xiết “ken két” của cái giường ọp ẹp mỗi lần chúng trở mình.

Thường ngày thì Phú cũng như các em, ngủ như chết. Những khó khăn về ăn, mặc, ở đã quá quen thuộc. Riết rồi Phú cũng chẳng thấy khó chịu, buồn bã gì nữa. Phú xem nghèo như một người bạn thân ở bên mình. Nó làm cho Phú nổi bật giữa đám bạn cũng nghèo nhưng chưa bằng Phú. Bạn Phú dù nghèo chúng cũng có ít nhất hai cái áo thay đổi khi đến trường, dăm ba quyển vở để ghi chép. Còn Phú, không có gì hết. Quanh năm đến lớp chỉ đóng bộ đồ nhếch nhác, quần đen, áo thun màu vàng xỉn. Những vệt cáu bẩn làm cho cái áo quằn quện như hoa văn. Cô chủ nhiệm tội nghiệp Phú, về nhà lấy áo cũ của em út mình cho Phú mấy cái. Rốt cuộc, Phú hóa giàu. Còn sách vở, cũng cô lo. Tụi bạn bảo:

- Cô mắc nợ Phú.

Nghèo, nghỉ học thây kệ! Đằng nầy, cô tới nhà năn nỉ ba mẹ Phú cho Phú tới trường. Mọi thứ cô hứa sẽ có cách giúp đỡ. Vì vậy, Phú thương cô như mẹ, nó ráng học để… cô vui. Tháng nào Phú cũng đứng nhất.

Tụi bạn lại bảo:

- Cái gì mầy cũng hạng nhất. Nghèo nhất mà học cũng giỏi nhất.

Cô cũng quý Phú lắm. Đó là nguyên do mà các bạn ganh ghét với Phú. Chúng hoạnh họe Phú đủ điều. Đón đường bắt nạt hoặc nói xa, nói gần v.v… Phú đã quen lao động, giúp ba mẹ mọi việc nhà nên sức vóc của Phú đâu có tệ. Nó có thể đánh ngã lũ bạn hống hách hoặc dùng lời lẽ để đối đáp với chúng. Nhưng Phú nhịn. Mẹ nó thường dặn thế. Nghèo là một cái tội. Phải nhịn hết, nhịn ăn, nhịn mặc… nhịn đủ thứ. Nghèo không được cười lớn. Không được nói to. Thấy người dữ lánh đi nơi khác là xong. Phú không đồng ý như thế. Cô chủ nhiệm lại bảo khác. Nghèo không có nghĩa là hèn, không phải để chịu nhục. Cô còn bảo nghèo là thước đo nghị lực của con người. Nghèo mà học giỏi mới hay, chứ giàu mà tài cũng chưa lạ lắm. Phú thương mẹ, thương cô, nó chẳng muốn hai người buồn nên Phú nhịn. Chúng bạn lại không hiểu, cứ lấn tới. Sáng nay, các bạn đã làm cho trái tim của Phú tan nát, đau đớn vô cùng, vô tận. Giờ chủ nhiệm, cô tuyên dương các bạn có thành tích trong tuần. Phú cũng được cô nhắc tới, cô bảo:

- Tuần qua, có hai lần em Phú nhặt của rơi mà đem trả lại. Các em nên noi theo gương tốt này. Phú nghèo như vậy mà không tham của. Em ấy xứng đáng là một đóa sen trong bùn.

Phú sung sướng giữa tràng vỗ tay tán thưởng của các bạn. Nhưng, bỗng dưng, Thái đứng lên phát biểu:

- Bạn Phú chỉ làm bộ tốt thôi ạ! Chứ bạn tham lắm!

Cô nghiêm nét mặt:

- Vì sao em nói vậy?

- Thưa cô, nhà bạn hay ăn cắp lắm.

Phú run lên vì giận, nó hét to:

- Thằng nói láo!

Thái nghinh mặt:

- Tao nói thật. Chính ba mày đã nạy gạch ở mấy cái mả đá để bán.

Phú kêu lên:

- Mầy nói láo… ba tao không bao giờ làm vậy.

Phú nghẹn ngào:

- Thưa cô, ba em là thợ hồ mà… hu… hu…

Phú òa khóc, cô giáo cũng lặng đi vì xúc động và ngỡ ngàng trước tình huống nầy. Cô ôn tồn:

- Em có thấy không mà nói?

Thái thản nhiên đáp:

- Thưa cô, em không thấy nhưng em biết rất rõ. Ba bạn Phú thất nghiệp cả tháng rồi. Túng quá phải đi ăn cắp gạch.

Cô giáo gằn giọng:

- Tại sao em biết?

- Thưa cô, vì ba bạn bán gạch cho… má em.

Cả lớp bật cười dù đang căng thẳng. Cô chủ nhiệm mím chặt môi, trở lại chỗ ngồi. Cô ném mình xuống một cách nặng nề, mệt nhọc. Tiếng cười ngừng bặt. Cả lớp chờ đợi những điều không ai muốn nghe và thấy nữa.

Giây lâu, cô đứng lên, giọng quả quyết:

- Vì có người mua đồ gian nên mới có kẻ cắp. Cô không dám phê phán ba má các em nhưng trước sự thật đau lòng này, chúng ta cần phải suy nghĩ. Chúng ta cần đoàn kết, yêu thương nhau hơn nữa. Người giàu nên giúp đỡ bạn nghèo để bạn mình không lâm vào bước đường cùng, trở thành người xấu. Các em có đồng ý với cô không?

Cả lớp hân hoan hô to:

- Đồng ý!

Cô còn cẩn thận dặn dò:

- Từ nay, chúng ta không nên nhắc lại chuyện nầy. Hãy xem như một cơn gió thoảng qua, se lạnh, rồi thôi! Điều đáng để ý là Phú học giỏi và đạo đức tốt, phải không các em?

Các bạn đồng thanh:

- Dạ phải!

Dù vậy, nỗi đau vẫn còn oằn nặng bên lòng Phú. Nó làm Phú biếng ăn, buồn nói và không ngủ được. Phú lăn qua, trở lại vẫn không sao dỗ giấc. Nước mắt cứ tuôn ướt đầm một mảng gối. Các bạn đánh Phú, Phú sẵn sàng nhịn. Các bạn mắng Phú, Phú sẵn sàng giả điếc, làm ngơ. Nhưng nói nặng ba, xúc phạm người mà Phú kính yêu, Phú không sao chịu nổi. Nó muốn đập vỡ đầu thằng bạn khốn kiếp, vả phù cái mỏ nhiều chuyện. Nhưng Phú lại chua xót hơn khi nhận ra điều Thái nói có lẽ đúng. Gần đây ba đi về thất thường. Ông ít nói, lại hay quạu quọ. Có khi ba nằm cả ngày, thở dài sườn sượt. Khi ấy, những buổi cơm thường chỉ có tương chao qua quít. Đã vậy, mấy ngày nay, mẹ Phú trở bệnh, Bà ho dữ dội. Một lần nọ, bà khạc ra một nhúm nước bọt đỏ quạch rồi ngất đi. Ba định đưa mẹ đi bệnh viện nhưng chẳng có tiền. Thêm vào, lúc tỉnh, mẹ Phú cương quyết ở nhà, chờ… chết. Cả nhà như ốm nặng vì cơn đau của mẹ. Lạ làm sao, liền đó vài ngày, ba vui vẻ đem về một con cá lóc khá to, tự tay nấu cháo cho vợ rồi hào phóng cho mỗi đứa một ngàn đồng ăn bánh.

Mẹ Phú ngạc nhiên quá, hỏi mãi, ông mới nói:

- Khổ quá, bệnh không lo, tôi mới trúng… mánh đó.

- Mánh gì vậy ông? Đừng làm bậy rồi khổ cả nhà. Nghèo cho sạch…

Ba Phú phì cười:

- Rách cho thơm phải không? Thôi đi bà ơi! Tối ngày cứ nghiền ngẫm ba cái ca dao, tục ngữ. Tôi khổ cũng vì cái hiền của bà.

Trước khi bước ra sân, ba đùa:

- Nếu có ăn cắp, tôi cũng lựa chỗ an toàn, không ai thưa gởi, bắt bớ.

Tưởng ba đùa, nào ngờ… Chẳng lẽ ba lại đi ăn cắp của người chết sao?

Trời ơi! Phú còn nhớ có lần được ba dẫn đi theo làm mả. Một người láng giềng mướn ba xây mộ cho cha. Phú và ba cặm cụi làm đến khi mặt trời đứng bóng, ba bảo vào chỗ gốc cây râm mát nghỉ trưa. Ba vừa hút thuốc vừa thả tầm mắt ra khoảng trời ngập nắng. Những nấm mồ đứng lặng, phơi mình buồn bã. Màu trắng của mộ đá xen lẫn màu nâu của mộ đất như những ngôi nhà tường bên những mái lá xiêu vẹo, ba buộc miệng:

- Cõi chết mà cũng phân biệt hèn sang nữa. Chết chưa hẳn là đã hết.

Phú hiểu ba nghĩ gì nhưng nó cũng góp chuyện:

- Nhà giàu chết cũng sướng, hả ba.

Ba cười buồn:

- Ừ, mai mốt ba chết chắc không được nằm trong mộ đá đâu.

Phú lẹ làng an ủi:

- Con sẽ xây mả đá cho ba, ba đừng lo.

Nhưng Phú chợt rùng mình, nó nhớ ra một điều quan trọng:

- Nhưng ba đừng chết. Ba chết, ai nuôi tụi con với mẹ?

Ông phì cười xoa đầu Phú:

- Ừ, thì không chết. Nói vậy chớ chết là riêng mình sung sướng, được an nghỉ. Còn bao người sống phải vật vã, khổ sở.

Phú nhìn ba thán phục. Mẹ vẫn thường bảo ngày xưa ba học giỏi lắm.

Hình như hết cấp hai, cấp ba gì đó. Nhưng vì… nghèo mà lấy vợ cũng nghèo nên mới ra nông nỗi. Mẹ còn bảo, Phú giống ba ở chỗ thông minh.

Bây giờ, chết cũng không được yên. Chính ba đã khuấy động cõi chết, nơi con người gởi nắm xương tàn và ba đã ném Phú vào bùn bằng những viên gạch lấy từ nghĩa trang để đổi lấy áo cơm hằng bữa. Chung quy cũng vì Phú, vì các em và mẹ. Ôi, Phú thương ba lắm! Nó phải làm sao đây?

Rột! Phú giật nẩy mình, nhìn ra. Ba đang rón rén mở cửa trước. Ánh trăng ập vào, soi tỏ một bên tay ba là cái bao bố và cây cuốc. Phú chợt đau nhói ở ngực. Có lẽ ba sắp… đi làm. Ông sắp dùng cái cuốc kia để đào, xới một cái mộ nào đó. Nó ôm lấy mặt. Vậy là thằng Thái nói đúng. Ba nó ăn cắp. Không. Nó không muốn như vậy. Phú tốc mùng chun ra rồi len lén mở cửa, đuổi theo.

Trăng trải một làn sáng yếu ớt lên vạn vật. Bóng ba đổ dài, chập chờn trên con đường vắng tanh. Phú chạy nhanh hơn. Nó ôm choàng lấy ba rồi vừa khóc vừa van xin:

- Ba đừng… nạy gạch nữa ba ơi. Ngày mai con sẽ nghỉ học luôn.

Thoáng ngỡ ngàng, ba Phú bỗng hiểu, ông hỏi:

- Sao lại nghỉ học?

Phú kể lại câu chuyện ban sáng ở lớp cho ba nghe rồi kết luận:

- Tại con, tại mẹ mà ba khổ. Kể từ ngày mai con sẽ nghỉ học để kiếm việc làm giúp đỡ gia đình. À, con sẽ đi bán vé số, bán báo ban ngày.

Còn ban đêm, con sẽ đi bán bánh mì như Bác Tư kế bên nhà mình. Đừng ăn cắp nữa ba ơi!

Người đàn ông ôm lấy con nghẹn ngào:

- Ờ, thì không ăn cắp nữa nhưng con phải đi học. Ráng đi con! Chẳng lẽ con muốn sau này cũng khổ như ba. Thôi để ba lo. Ừ, sao ba lại không nghĩ ra chuyện đi bán bánh mì hay bán vé số trong lúc chưa có việc làm. Con đừng lo, ba làm bất cứ việc gì để con được đi học.

Phú lật đật nói:

- Nhưng đừng ăn cắp, ăn trộm, ba ơi. Nghèo cho sạch…

Ông phì cười:

- Mẹ mầy! Đúng là mẹ nào, con nấy mà.

Ông cúi xuống hôn lên tóc con, bỗng Phú thấy ba chun mũi:

- Úi chà chà, rách cho thơm hổng nổi rồi. Cái đầu của con chua òm hà. Chắc nuôi một ổ chí trên nầy.

Phú cười bẽn lẽn. Hồi chiều, vì buồn, nó đâu có tắm táp gì. Phú nắm lấy tay ba, lòng nao một nỗi gì rất lạ!

Trăng bàng bạc trên cao, trải thảm vàng lên mặt đường cho Phú và ba quay lại.

NGUYỄN THỊ MÂY


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 10.6.2017… .............. Vũ Thư Hữu ... 01

Vài dòng về một quý thư 75 tuổi đời… ............. Vũ Anh Tuấn ... 06

Thông điệp Laudato Si’… ( tt & hết) .......... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch ... 09

Người tu sĩ Phật giáo

có nên cải cách hình thức cho hợp với thời đại? ............ Tâm Nguyện ... 14

“Nhà thơ ở nước Nga hơn cả một nhà thơ” .............. Thúy Toàn .... 32

Canada kỷ niệm 150 năm thành lập Liên bang ................ Phạm Vũ ... 37

Nàng… Nàng ..................... Đào Minh Diệu Xuân st. .... 47

Cho ngày yên vui (thơ) ........................... Đàm Lan ... 50

Lời gửi mưa (thơ) .................................. Lam Trần .... 51

Sợi nhớ sợi thương (thơ) ...................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 52

Gởi mưa (Mưa và Em 3) (thơ) .................. Phạm Thị Minh-Hưng .... 53

Người trở lại trường xưa (thơ) ......................... Nguyên Lê ... 54

Đam mê (thơ) .............................. Ngàn Phương .... 55

Chiều quê (thơ) ...................... Ngàn Phương .... 55

Nguyễn Du (thơ) ....................... Lệ Ngọc st. ... 75

Thiên duyên (thơ - Họa bài “Tình thơ”) ........... Lê Minh Chử .... 57

Gia đình (thơ) ................................... Lê Minh Chử .... 58

Câu chuyện cũ (thơ) .................................... T.P. ... 59

Rạng rỡ môi cười (thơ) .................... Lê Nguyên ... 60

Hương hoa (thơ) ............................ Lê Nguyên ... 61

Nếu có em (thơ) .......................... Ngô Bá Mạnh .... 62

Trải lòng (thơ) .............. Vũ Thùy Hương .... 63

Sưởi ấm cho nhau (thơ) .............. Vũ Thùy Hương .... 64

Khi rời Lagi (thơ) ....................... Hoài Ly .... 64

Tháng Sáu mưa (thơ) ............... Hoài Ly .... 65

Cuộc sống Gà (thơ) ............................ Quang Bỉnh .... 66

Noi gương già (thơ) .................. Quang Bỉnh .... 66

Đời nghèo (thơ) ............................... Lang Nguyên .... 67

Hà Tiên phong cảnh (thơ) ............................. Lang Nguyên .... 67

Mừng sinh nhật Mẹ (thơ) ..................... Bs.Doanlinh .... 68

Ơ! Không lời (thơ) .............................. Bs.Doanlinh .... 68

Chó Sói & Nai con (thơ) .................. Thanh Châu chuyển ngữ .... 69

Sông Hương (thơ) .................................... Vũ Mão .... 70

The Hương river (River of perfume) (thơ) ............ Vũ Anh Tuấn dịch .... 71

Cái đẹp và nghệ thuật .............................. Đỗ Thiên Thư st. .... 72

Những tật xấu của danh nhân ............... Kim Sơn st. .... 74

Lagi - miền biển rừng ....................... Hoài Ly .... 79

Tửu phùng tri kỷ… .......................... Dương Lêh ... 82

Thưởng thức nghệ thuật .......................... Bùi Đẹp st. .... 88

Nóng… ..................................... Lam Trần .... 90

Nhân cái chết của một thi sĩ nghèo ................ Hoàng Kim Thư st. ... 92

Vấn đề đám tang (tt) ................................ Phạm Hiếu Nghĩa ... 97

Mười điều về Bố .......................... Hoàng Chúc st. 100

Truyền thuyết về Đức Phật: Xuất gia tầm đạo ........ Thanh Châu sưu tập kể . 101

Phương pháp tập luyện để tự điều trị bệnh

của Trường sinh học nhân điện… ............. Lệ Ngọc st. . 107

Tám thao tác để mạnh khỏe, sống lâu .................... Lệ Ngọc st. . 108

Đọc sách dùm bạn: Chinh phụ ngâm khúc

Khoảng trời si 2 ................... Hà Mạnh Đoàn . 112

Xu hướng bản năng hóa .................. Đàm Lan .. 115

Tình Cha ........................ Nguyễn Thị Mây .. 120

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế