Hiện có 4 người xem / 2317747 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/4/2015

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn quý thư mà ông có. Cuốn thứ nhất là một cuốn bằng tiếng Việt mang tựa đề là Anh Hùng Náo của dịch giả Tô Chẩn, do nhà xuất bản thời danh Tín Đức Thư Xã xuất bản năm 1951 (64 năm trước). Đây là một tác phẩm cổ điển của Trung Quốc nói về cuộc chiến thầm lặng xảy ra dưới thời v ua Chánh Đức giữa tên hoạn quan Lưu Cẩn chuyên quyền, kết bè đảng với tên Hữu Thừa tướng Sử Hồng Cơ để chung tay bức hại các kẻ trung lương, và Thừa tướng Phạm Kỳ Loan là một nhân vật trung lương. Đây là một cuốn truyện cực kỳ li kì đã khiến Dịch giả Vũ Anh Tuấn thời son trẻ đã bỏ ra hai tuần lễ liền để đọc miên man từ trang đầu tới trang chót. Lúc này, tuy đã hết “hai mươi tuổi lần thứ tư”, nhưng ông vẫn chưa hề quên các nhân vật chính như Lý Quảng, Sở Vân trong tác phẩm kinh điển của người Tàu này. Cuốn thứ nhì là một cuốn bằng Pháp ngữ, tình cờ cũng được xuất bản năm 1951, và mang tựa đề là “Tôi chọn các tác giả tôi ưa thích” (Je choisis mes auteurs) của nhà xuất bản Odilis, một nhà xuất bản nổi danh là chỉ xuất bản những tác phẩm đã được chọn lọc rất kỹ. Cuốn sách dày 366 trang này nói tới khoảng 1000 tác giả các tiểu thuyết danh tiếng của Pháp và một số nhỏ độ vài chục tác giả Anh, Mỹ. Mỗi tác giả đều được giới thiệu kỹ càng về nhân thân cũng như về các tác phẩm của họ, và những đặc điểm nổi bật trong văn nghiệp của họ. Đối với những người yêu văn học Pháp như Dịch giả Vũ Anh Tuấn thì cuốn sách này là cả một kho báu giúp cho ông được ngồi mơ màng nhớ lại những cuốn tiểu thuyết đã hấp dẫn ông trong suốt tuổi trẻ mê sách của ông. Cuốn sách có một đặc điểm cực quý là nó ghi rõ:

1. Sao là sách cho tất cả mọi người,

2. Sao là sách cho các độc giả đã có đầy đủ kiến thức, đã thành nhân,

3. Sao là sách cho những độc giả đã đọc thật nhiều, đã dày kinh nghiệm trong chuyện đọc sách,

4. Sao cho những cuốn mà mọi người được khuyến cáo là không nên đọc.

Ngoài ra ở cuối sách còn có một danh sách đầy đủ các tác giả đã nhận được các giải thưởng văn học như: Giải Femina, Giải Théophraste-Renaudot, Giải Goncourt, Giải Interallié, Giải Renouveau Français, và Giải dành cho tiểu thuyết của Hàn Lâm Viện Pháp, kể từ khi có các Giải Thưởng đó cho tới những năm 50 của thế kỷ trước (thế kỷ 20). Cuốn sách quả là một siêu quý thư với những người mê văn học Pháp.

Tiếp lời Dịch giả Vũ Anh Tuấn, Lm. Nguyễn Hữu Triết, Cố vấn của CLB đã giới thiệu với các thành viên cuốn Ngược Dòng, một cuốn sách nói về các vấn đề rất mới như thụ tinh nhân tạo, đẻ mướn, hoặc thụ tinh với tinh trùng của những người đã qua đời vv… nhưng với người đời thì được còn với tinh thần Đạo Công Giáo thì không chấp nhận được.

Sau khi Lm. Triết giới thiệu cuốn sách xong, anh Đoàn thông báo với các thành viên là anh Hữu bị tai nạn giao thông nên kỳ này vắng mặt, nhưng rất may là anh chỉ bị thương nhẹ. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã tỏ ý muốn tổ chức một cuộc đi thăm, phối hợp với việc tới thăm luôn bà Thùy Dương và bác Bùi Đẹp.

Tiếp lời anh Đoàn, bà Bs. Doan Linh cũng lên chia sẻ với các thành viên việc bà cũng đã bị tai nạn và được coi như đã trở về từ cõi chết.

Sau khi bà Bs. Doan Linh nói xong, anh Dương Leh đã lên nói chuyện về Thần Giáo Nhật Bản thờ Thần Linga.

Tiếp lời anh Dương Leh, anh Nhựt Thanh đã lên nói về một tác phẩm của tác giả La Giang.

Sau anh Nhựt Thanh, Lm. Lý đã lên giới thiệu và nói về cuốn “Người nông dân châu thổ Bắc kỳ” (Les Paysans du delta tonkinois) của một tác giả người Pháp rất nổi tiếng thời Pháp thuộc là Pierre Gourou.

Tiếp lời Lm. Lý, anh Chử đã lên hát thơ tặng các thành viên một bài thơ của Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải do chính anh đặt nhạc.

Sau anh Chử, anh Dương Leh lên hát tặng các thành viên bài ca “Rừng vắng chiều Xuân” theo điệu Boléro, và đưa đề nghị mỗi phiên họp ai thích ca những bài ca điệu Boléro thì cứ việc lên ca.

Tiếp lời anh Dương Leh, anh Lê Nguyên lên ngâm một bài thơ nói về một lần anh phải nằm nhà thương dưỡng bệnh rất ư là truyền cảm.

Cuối cùng anh Phạm Vũ lên nói chuyện về đề tài Saigon năm Xưa và buổi họp kết thúc lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU

VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN SÁCH MANG TỰA ĐỀ LÀ

“CUỐN SỔ TAY CỦA NGƯỜI LÀM BÁO”

CỦA TÁC GIẢ KIM FLETCHER

Người viết tình cờ gặp cuốn quý thư này tại một quán sách cũ trên đường Trần Huy Liệu – Phú Nhuận. Người viết biết khá nhiều về tác giả Kim Fletcher, thoạt đầu là một phóng viên của mấy tờ báo danh tiếng như Sunday Times và tờ Daily Telegraph. Sau trở thành Tổng biên tập của tờ Daily Telegraph và hiện còn là Giám Đốc Trung Tâm Quốc Gia Huấn Luyện các Nhà Báo. Hơn nữa tên cuốn sách lại là “Cuốn sổ tay của người làm báo”, một đề tài quá hấp dẫn với người viết hiện đang được bạn bè phong cho là “nhà báo tốc hành”, khi mỗi tháng đưa ra được một tờ Bản Tin dày trên 130 trang, đều đặn trong 107 tháng liên tục, nghĩa là hiện đang làm số 108 để kỷ niệm 9 năm góp mặt với đời. Hấp dẫn vì đây là một cuốn sách dạy làm báo, do một nhà báo đứng đắn, đáng tin cậy viết. Có cuốn sách trong tay, người viết dành ngay cho nó trọn một ngày để đọc lướt qua nội dung, và thấy nó thật thích hợp với mình vì nó cho những chỉ dẫn và những khuyến cáo thật chính xác, thật hợp tình hợp lý, và nhất là thật chân thật, chả dính dấp gì tới cụm từ “nhà báo nói láo ăn tiền” đã có ở trên đời từ khá lâu rồi.

Cuốn sách khổ 15x21 được xuất bản 10 năm trước (2005), dày 278 trang được chia làm 3 phần:

· Phần 1 mang tựa đề là “Kỹ nghệ làm báo” gồm 6 chương, từ 1 tới 6.

· Phần 2 mang tựa đề là “Một số vấn đề” gồm 7 chương, từ 7 tới 13.

· Phần 3 mang tựa đề là “Các mối quan hệ” bàn về nhiều đề tài khác nhau.

Sáu chương của phần 1: “Kỹ nghệ làm báo” nói về các đề tài sau đây:

Chương 1: Thế là bạn muốn thành nhà báo à?

Chương 2: Nhập cuộc

Chương 3: Bắt tay vào việc

Chương 4: Làm thế nào để bán một truyện ngắn

Chương 5: Thu thập các dữ kiện, sự kiện.

Chương 6: Thực hành viết

Bảy chương của phần 2: “Một số vấn đề” nói về các đề tài sau đây:

Chương 7: Con đường thẳng và hẹp

Chương 8: Bạn sẽ làm gì, viết gì khi bạn đã bốn mươi tuổi?

Chương 9: Tại sao các báo nhỏ lại là vấn đề lớn?

Chương 10: Báo chí có tính năng luân lý không?

Chương 11: Ai cần báo?

Chương 12: Đọc những ý nghĩ nội tâm của các độc giả

Chương 13: Điều phải nên nhớ

Phần 3: “Các mối quan hệ” nói về các đề tài sau đây:

Các báo thuộc cấp quốc gia

Các báo địa phương

Các báo xuất bản định kỳ (tuần báo hay nguyệt san)

Các hãng Thông tấn

Các hãng nhặt tin

Các học bổng (nghiên cứu sinh), trợ cấp và các hiệp hội

Các trang mạng cần thiết

Các Hiệp hội chuyên nghiệp

Các Giải thưởng về báo chí

Thư mục

Cuốn sách thật là cả một giáo trình tuyệt vời dạy nghề làm báo. Ngoài ra tân quý thư này (2005) còn cho người đọc những thông tin và địa chỉ các hãng Thông tấn lớn, các trang mạng cần thiết liên quan tới báo chí, các Hiệp hội chuyên nghiệp, và nhất là nó cho người đọc mọi thông tin cần thiết về 13 giải Báo chí khác nhau, trong khi người mình có thể chỉ biết mỗi một giải duy nhất là Giải Pulitzer của Đại Học Columbia của Mỹ nơi Bang Nữu Ước…

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

NGƯỢC DÒNG

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tiếp theo số 107)

3. VẤN ĐỀ HIẾN TẠNG, AN TỬ
VÀ TẾ BÀO GỐC

3.1 Vấn đề hiến tạng:

Chuyện hiến tặng một phần thân thể vì đức bác ái hay hiến xác cho mục đích nghiên cứu khoa học là việc thiện, đáng khuyến khích, nhưng động tới mua bán thì nó trở thành tội ác: tội hủy hoại thân thể. Ví dụ: bán máu, bán thận... Theo báo chí nhiều trường hợp người nghèo đã bán thận thật tội nghiệp!

Năm 1941, trong trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã tại Ba Lan, cha Maximilianô Kolbê đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù. Tấm lòng hy sinh bác ái cao cả này đã được Giáo hội ghi nhận và đã tôn phong Linh mục Kolbê lên hàng Hiển Thánh.

3.2 Vấn đề an tử:

Một số nước trên thế giới có luật cho phép an tử, đó là trường hợp những bệnh nhân mắc bệnh nan y, các bác sĩ bó tay không cứu chữa được nữa, bệnh nhân đau đớn, người thân vất vả, tốn kém tiền bạc của gia đình và xã hội... Bệnh nhân có thể tự nguyện yêu cầu được an tử. Các bác sĩ theo đúng luật đã ra sẽ đáp ứng nguyện vọng của bệnh nhân bằng một mũi thuốc độc để được ra đi êm ái!

Vụ an tử của cô Brittany Maynard khiến dư luận ở Mỹ và thế giới đặc biệt chú ý. Cô Brittany Maynard 29 tuổi ở bang California mới lập gia đình chưa được 1 năm, bị ung thư não... sau khi giải phẫu lại tái phát, cô quyết định không chữa trị thêm và đã cùng chồng là Dan Diaz dọn sang bang Oregan (bang cho phép an tử) để thành cư dân hợp pháp, có đủ thẩm quyền được an tử.

Ngày 1/11/2014 như đã định, cô Brittany Maynard sử dụng liều thuốc bác sĩ cho để kết liễu đời mình bên cạnh những người thân.

Điều đáng nói là trước khi chết, cô đã được Đức cha Alexander Sample, Tổng giám mục Giáo phận Portland sở tại an ủi, kêu gọi cô và những người khác ở trong tình cảnh tương tự đừng từ bỏ hy vọng: “Thay vì làm cho cái chết đến sớm, chúng tôi khuyến khích tất cả mọi người đón nhận những khó khăn nhưng quý giá vào cuối đời. Vì nhiều khi chính trong lúc ấy, chúng ta hiểu được đâu là điều quan trọng nhất đối với cuộc sống. Những ngày cuối cùng chuẩn bị cho chúng ta bước vào vận mệnh vĩnh cửu”.

Trong thông báo công bố ngày 2/11/2014, bà Janet A. Morana, giám đốc điều hành tổ chức Linh mục ủng hộ sự sống (Priests for Life) ở Mỹ nói rằng: “Chúng tôi đau buồn vì sự kiện người phụ nữ trẻ này từ bỏ hy vọng và nay chúng tôi quan tâm đến những người khác bị bệnh ở giai đoạn cuối vì họ có thể theo gương của cô Maynard. Chúng tôi cầu nguyện để những người ấy tìm được can đảm sống mỗi ngày một cách sung mãn nhất cho đến khi Chúa gọi về. Cái chết của cô Brittany Maynard không phải là chiến thắng, nhưng đó là một thảm kịch được sự hỗ trợ của nền văn minh sự chết đang lan tràn tại đất nước Hoa Kỳ”.

Tại Vatican, Đức cha Carasco De Paula, người Tây Ban Nha, vốn là một bác sĩ y khoa thuộc giáo hạt tòng nhân Opus Dei, Chủ tịch Hàn lâm viện Tòa Thánh về sự sống, tuyên bố rằng: “Chúng ta không xét đoán con người, nhưng phẩm giá là điều khác với việc tự kết liễu mạng sống của mình”. Theo Đức cha Carasca De Paula, sự kiện cô Maynard tự tử khiến mọi người suy tư về điều này, đó là nếu một ngày kia người ta thi hành dự án cho tất cả các bệnh nhân tự kết liễu mạng sống của họ, thì những bệnh nhân sẽ hoàn toàn bị bỏ rơi. Nguy cơ này thật là viễn tượng có thể xảy ra, vì xã hội không muốn trả phí tổn chữa trị bệnh tật. Việc để cho các bệnh nhân tự tử có nguy cơ trở thành giải pháp.

Đức cha Carasco De Paula nói thêm: “Theo kinh nghiệm của tôi như một bác sĩ, nhiều bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời có ý định tự tử. Nhưng ở Ý hay Tây Ban Nha chẳng hạn, không ai thi hành ý định đó. Dẫu sao đi nữa trong đời tôi, không bao giờ tôi khuyên ai tự tử. Tôi không nghĩ cô Maynard tự tử vì hèn nhát, hay vì một suy nghĩ nào đó. Những người chung quanh cô không giúp cô làm như thế, nhưng là do một nhóm ủng hộ cái chết êm dịu”.

Đức Tổng giám mục Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình được giới báo chí phỏng vấn khi đến Tây Ban Nha để tham dự một hội nghị, nhận định: “Vụ cô Maynard tự tử là một điều đau buồn và là một thất bại lớn cho tất cả chúng ta. Điều hiển nhiên, đau đớn làm cho mọi người sợ hãi. Đúng là chúng ta phải tìm mọi cách để đẩy xa sự đau đớn, chiến thắng và đánh bại nó. Nhưng chúng ta biết rằng không một tí đau khổ nào của chúng ta bị mất đi. Đứng trước cử chỉ tuyệt vọng của cô Maynard, tất cả chúng ta hãy suy sư về mầu nhiệm sự chết và sự sống”. (Khánh Thi, Báo CG & DT tuần lễ từ 14-20/11/2014, trang 19).

Đối với người Công giáo chân chính, đây là hình thức tự tử và là một tội ác. Người Công giáo không được thực hiện cũng không tham gia với bất kỳ danh nghĩa nào. Ví dụ bác sĩ tiêm thuốc, y tá giúp bác sĩ, người cung cấp thuốc độc... tất cả đều bị cấm.

3.3 Vấn đề tế bào gốc:

Vấn đề này có hai cách hiểu, một là dùng những tế bào gốc nơi người, tức là một phần chất liệu người rồi nhờ khoa học nuôi dưỡng, phát triển để có thể cấy ghép cho những bộ phận hư hỏng của bệnh nhân.

Ví dụ lấy tế bào da rồi nuôi dưỡng, phát triển tới tầm cỡ có thể ghép những nơi bị phỏng, hoặc lấy tế bào giác mạc nuôi dưỡng, phát triển để ghép giác mạc cho bệnh nhân cần ghép. Trường hợp này không có gì trái đạo đức, luân lý của Công giáo vì chỉ dùng một phần thể xác với lý do chính đáng chứ không đụng tới mạng sống con người (tức là một ngôi vị có cả xác lẫn hồn).

Lưu trữ dây rốn điều trị bệnh ác tính: Lần đầu tiên tại VN đã có ngân hàng tế bào gốc máu cuống (dây) rốn cộng đồng. Tại đây tiếp nhận và lưu giữ miễn phí nguồn tế bào gốc cho việc điều trị bệnh ác tính hệ tạo máu. “Máu dây rốn là nguyên liệu ban đầu để tách lấy tế bào gốc máu cuống rốn. Tế bào gốc này được sử dụng cho các trường hợp bị bệnh ác tính hệ tạo máu có chỉ định ghép tế bào gốc”, Viện trưởng Viện Huyết Học cho biết, “Theo chuyên gia, dây rốn tốt sẽ thu được nhiều máu, từ đó tách chiết lấy tế bào gốc để dành cho điều trị bệnh nhân bị ung thư máu có chỉ định ghép tế bào gốc”. (Nam Sơn, báo Thanh Niên ngày 26/9/2014).

Trường hợp thứ hai là cho trứng thụ tinh trong ống nghiệm rồi khi phôi phát triển thì dùng thủ thuật y học tách những cơ phận riêng ra để nuôi dưỡng. Ví dụ lấy những tế bào tạo thành gan, phổi, thận, tim... phần còn lại hủy đi, như vậy là tạo thành bào thai rồi tách lấy những gì cần lấy để đi ghép cho bệnh nhân có nhu cầu... làm như thế là giết đi một người để lấy các bộ phận của nó mà ghép cho các bệnh nhân cần đến. Đó chính là tội ác giết người lại được ngụy trang bằng một thuật ngữ khoa học rất đẹp: “phát triển tế bào gốc”.

Người Công giáo không được phép yêu cầu cấy ghép bộ phận này và cũng không được tham gia với tư cách là nhà khoa học, bác sĩ, y tá, người giới thiệu, môi giới...

3.4 Cái bao cao su:

Trong đời sống gia đình, muốn kế hoạch hóa, người Công giáo phải áp dụng nhưng phương pháp tự nhiên. Sử dụng bao cao su hay những gì là nhân tạo để tránh thai, hủy thai là vi phạm luật Chúa và Hội Thánh. Ngay cả việc sử dụng bao cao su như là phương pháp phòng chống HIV-AIDS cũng không thích hợp. (Ở một khía cạnh nào đó bao cao su trở thành cơn cám dỗ thúc dục người ta tìm thỏa mãn tình dục cách vô trách nhiệm).

Báo Người Công Giáo Việt Nam số 682 ngày 3/1/2004 có bài: Tòa Thánh Vatican tuyên bố chống dịch bệnh HIV-AIDS nhưng không ủng hộ sử dụng bao cao su (như phương thế chính) phòng bệnh. Theo Đức Hồng Y Barragan, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về chăm sóc sức khỏe, y tế đối với Giáo hội Công giáo, thực hành đạo đức duy trì nếp sống trong sạch (nghiêm túc một vợ một chồng) là biện pháp chính để có thể đề phòng căn bệnh nguy hiểm này. Người Công giáo năm châu được mời gọi tích cực chống HIV-AIDS bằng cách thực thi giáo huấn của Giáo hội và tận tình giúp đỡ bệnh nhân AIDS. (T.C)

Nhận định chung về những gì liên quan tới đời sống và gia đình:

Có một độ vênh lớn không thể san bằng được trong vấn đề luân lý giữa người Công giáo và những người ngoài Công giáo nói chung là những người đời. Người Công giáo tin và chấp nhận Thiên Chúa là Đấng dựng nên trời, đất, muôn vật, làm chủ sự sống và sự chết, chính Ngài thiết lập hôn nhân và gia đình để vợ chồng thương yêu giúp đỡ nhau và để sinh sản con cái, duy trì nòi giống. Con người có hồn, có xác nhưng không phải là chủ nhân của thân xác (muốn làm gì thì làm), xác hồn đều thuộc về Chúa, bổn phận con người là sống theo quy luật của Chúa trong việc sinh sản con cái cũng như trong cách cư xử với thân xác mình và đồng loại.

Cha mẹ cộng tác với Chúa sinh con, có trách nhiệm, có bổn phận với con nhưng không có quyền trên thân xác và linh hồn nó từ khi nó thành hình trong lòng mẹ cho đến chết.

Người không tin Chúa thì không chấp nhận, tuân thủ những định luật này.

Báo Chuyện Đời số 72 ngày 6/9/2014, trang 12, btv Nguyễn Luật đưa tin: Chị Trần Thị Hương Mai (sinh 1987), trú tại Bến Gót, thành phố Việt Trì, đã cột đứa con trai 2 tuổi vào người (và chính chị cũng đang có thai 3 tháng), rồi ra trụ cầu nhảy xuống sông Lô đang chảy xiết, vào lúc 12g trưa ngày 01/9/2014, ngày 3/9 mới tìm thấy xác cách đó 20km. Lý do tự tử là vì mâu thuẫn gia đình.

Dư luận bà con cho rằng chị Mai thật đáng thương nhưng cũng thật đáng trách, vì đã tự giết mình và bắt cả hai đứa con vô tội phải chết!

§ Báo chí cũng đã đăng tải một số trường hợp vợ chồng giận nhau rồi một trong hai cho các con uống thuốc độc với mình để cùng chết.

§ Báo Thanh Niên ngày 20/9/2014, trang 19: Don Charles Spirit, 51 tuổi, ở thị trấn Bell bang Florida (Mỹ), đã bắn chết con gái và 6 cháu ngoại trước khi tự sát. Cảnh sát chưa cho biết nguyên do gây án (Thụy Miên).

§ Còn ở Trung Đông hoặc Ấn Độ, với những hủ tục chưa bị đẩy lùi, chính cha mẹ và anh chị em giết đứa con trong gia đình “vì danh dự”, trong trường hợp đứa con gái tự ý lấy người mà gia đình không đồng ý hoặc có bầu trước hôn nhân...

§ Tin Pakistan: Các tổ chức nhân quyền chống lại luật Hồi giáo “Giết người vì danh dự” – Cảnh sát đã thản nhiên đứng nhìn một phụ nữ đang mang thai bị đánh đập và ném đá đến chết bởi gia đình mình trước một tòa án tối cao Pakistan tại Lahore mới đây vì tội đã dám kết hôn với người đàn ông mà cô yêu thương, không theo sự dàn xếp của gia đình, đã gây bất bình trong dư luận. Các tổ chức nhân quyền tại đây đã lên tiếng tố cáo những nội dung luật pháp vô nhân đạo và hành động ác độc của dân chúng một số nước, ngay cả với người thân của mình. Quan chức cảnh sát Naseem Butt cho biết gần 20 thành viên trong gia đình của Farzana Parveen, 25 tuổi, trong đó có cha và các anh em của cô, đã tấn công cô và chồng cô bằng gậy gộc và gạch đá giữa ban ngày trước một đám đông ngay trước cửa của Tòa án tối cao Lahore (Báo Người Công Giáo VN số 25-26/2014, trang 46).

Các cơ quan lập pháp thì dựa trên số đông để ban hành những luật lệ cho phép người ta hủy diệt sự sống như luật phá thai, luật “an tử”... Sở dĩ có tình trạng này là do xã hội loài người không tin Thiên Chúa nên không thấy có bổn phận chấp hành luật chính đáng, thánh thiện, cố định và vĩnh viễn của Thiên Chúa. Xã hội tự lập ra luật (cơ quan lập pháp) theo quan điểm thực dụng của mình, “mục đích biện minh cho phương tiện”. Trong khi người Công giáo chấp hành mọi luật lệ vĩnh cửu của Chúa cho nên mỗi khi có xung khắc giữa luật Chúa và luật xã hội, người Công giáo phải chọn luật Chúa. Chính vì thế mà phải sống ngược đời!

Người Công giáo chân chính phải ghi tâm khắc cốt luật của Chúa: “Mạng sống nào cũng thuộc về Ta, mạng sống của cha mẹ cũng như mạng sống của con cháu đều thuộc về Ta. Ai vi phạm, kẻ ấy phải chết” (Ed 18,4).

Bất cứ trường hợp nào trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới mạng sống con người thì người Công giáo phải căn cứ vào luật trên để ứng xử.

Báo Công Giáo & Dân Tộc tuần lễ từ 21-27/11/2014: Đức Thánh Cha kêu gọi các bác sĩ Công giáo chống lại quan niệm “thương xót giả tạo” – Sáng 15/11/2014, ĐTC Phanxicô đã dành một buổi tiếp kiến khoảng 5.000 tham dự viên trong cuộc gặp gỡ của Hội Bác sĩ Công giáo Ý nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Hội. Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có Đức Hồng Y Fiorenzo Angelini, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Mục vụ y tế; bà Beatrice Lorenzin, Bộ trưởng sức khỏe của Ý; và nhiều trẻ em, bệnh nhân và thân nhân của họ. ĐTC Phanxicô mời gọi các bác sĩ Công giáo chống lại quan niệm “thương xót giả tạo” ngày nay khiến người ta giúp phá thai, làm cho chết êm dịu và “sản xuất con cái”. ĐTC khẳng định rằng: “Tư tưởng thịnh hành ngày nay nhiều lần đề nghị một thứ “thương xót giả tạo”, cho rằng phá thai là giúp đỡ phụ nữ, làm cho chết êm dịu là một hành vi hợp với phẩm giá con người, coi như một chinh phục khoa học khi “sản xuất” một đứa con mà người ta coi là một quyền thay vì đón nhận người con như một món quà, hoặc dùng sinh mạng con người như con vật trong phòng thí nghiệm, gọi là để cứu vớt những sinh mạng khác.

Nền văn minh chết chóc đang lan tràn, tại nhiều quốc gia hiện nay đang có những tổ chức yêu cầu chính quyền ban hành luật trợ tử. Chẳng hạn tại Đức đã có nhiều tranh luận về vấn đề này. Ở Đức, việc kết liễu sinh mạng người bệnh và những người bị chế độ coi là không đáng sống đã từng được thực hành rất nhiều dưới thời Đức quốc xã và hơn 150.000 người đã chết dưới hình thức này, trong đó có 6.000 trẻ em. Nay dân Đức đang tranh luận về vấn đề gọi là trợ tử. Giáo hội Công giáo Đức chống lại chủ trương này và kêu gọi tăng cường y khoa chống đau và tháp tùng người bệnh trong giai đoạn cuối đời. (Quốc Việt)

(Còn tiếp)

XUẤT GIA và TẠI GIA

Sau khi gởi bài phản biện của tôi cho đề tài “TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT ĐỂ PHỤNG SỰ NHÂN SINH”, tôi đã nhận được mail của H.T. Thích Nhật Từ trả lời chung cho chư tôn đức, Phật Tử, Tăng, Ni… rằng bài viết đó không phải là của H.T. mà là của Lotus Production. Đồng thời kèm theo nguyên văn bài trả lời vấn đáp trong Mùa An Cư tại Tịnh Xá Trung Tâm ngày 27/5/2014. Trong đó ngoài đề cập một số vấn đề, có chiếu Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA nói về Bồ Tát và cũng khẳng định một số điều.

Lời của một H.T. tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật Học ở nước ngoài hẳn sẽ là “khuôn vàng thước ngọc” cho Tăng, Ni, Phật Tử. Nhưng theo tôi trong đó có một số vấn đề cần xem lại, vì theo hiểu biết của tôi khi đối chiếu với Kinh Đại Thừa thì không khế hợp. Do vậy, tôi cũng xin được nêu ra nhận định của mình, không nhằm mục đích tranh cãi, chỉ để rộng đường dư luận. Vì chưa cần nói đến việc tu hành, cái hiểu đúng Đạo Phật là rất là quan trọng, cần thiết, vì là một bước ngoặc lớn, có thể thay đổi cả suy nghĩ, nhận thức của người Phật Tử mà nhiều người, do không tự tìm hiểu, nên hoang mang không biết sẽ phải tu như thế nào? Kết quả về đâu? Trong khi đó, mỗi Thừa đều nói mình mới hành đúng Chánh Pháp, thực hiện đúng lời Phật dạy, nhưng mỗi bên đều có cách hiểu, cách hành khác nhau.

H.T. khẳng định: “Người tu tại gia chỉ có thể trở thành chân nhân, chỉ có người Xuất Gia là có thể thành thánh, vì hai con đường hoàn toàn khác nhau. Cho rằng quan niệm cả hai bên cùng tu một kiểu, đọc cùng một nghi thức, thực tập chung một con đường đều được giải thoát như nhau là không đúng”. Nhưng lý do vì sao không đúng? Điều đó được nói rõ nơi Kinh nào thì không thấy nêu lên? Vì thế, tôi tin rằng đã đến lúc người muốn tu Phật cần hiểu rõ để biết con đường mình chọn lựa có khế hợp với lời Phật dạy hay không? Muốn tu Phật mà không đủ điều kiện để Xuất Gia thì có được kết quả như đi tu ở Chùa hay không? Kinh nói về những điều này ra sao?

Theo tôi, trước khi nêu ra nhận định về con đường tu Phật, chúng ta cần biết thế nào là MỤC ĐÍCH thật sự của Đạo Phật, cũng như nắm sơ tiến trình tu hành, giáo hóa của Vị sáng lập thì mới có cơ sở vững chắc để lấy đó làm thước đo mọi đánh giá đúng, sai về sau. Bởi vì Đạo Phật cho đến nay đã bị chia chẻ ra thành rất nhiều Tông, Phái. Mỗi nhóm đều xuất phát từ Đạo Phật, nhưng đã bị cải biên, thêm thắt ít nhiều đến nỗi hiện tại các vị có trách nhiệm hướng dẫn cũng kêu gọi “TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT NGUYÊN CHẤT”. Thế nhưng, từ Nguyên Chất đó có khi cũng trở thành một đề tài để tranh luận tiếp, vì hình như từ đó không phải để nói đến Đạo Phật từ ban đầu do Đức Thích Ca thành lập, mà lại muốn nói về Đạo Phật Nguyên Thủy, xuất hiện sau Phật Nhập diệt khoảng 100 năm. Do đó, lại cần xác định thêm về điều này, để người Phật Tử có thêm sự hiểu biết để chọn lựa, vì Thừa nào cũng lấy Giáo Pháp của Phật để tu hành, nhưng phần lý giải, thực hành, kết quả tu hành lại không giống nhau.

Không biết phía PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY có nhìn nhận việc TRUYỀN Y BÁT là việc hết sức quan trọng trong Đạo Phật theo lời dặn dò trước lúc nhập diệt của Đức Thích Ca hay không? Bởi vì việc Truyền Y Bát đó có liên quan tới việc Chứng Đắc của Đạo Phật. Nếu có nhìn nhận thì tại sao chỉ chấp nhận Tổ Ca Diếp và Tổ Thứ 2 là Ngài A Nan rồi ngưng ở đó? Trong khi Ngài A Nan vẫn tiếp tục truyền cho Tổ Thứ Ba, rồi tiếp theo, mãi cho đến đời Lục Tổ Huệ Năng là Tổ Thứ 33 mới kết thúc?

Những người không chấp nhận việc Truyền Y Bát thì như vậy có được xem là coi trọng Di Ngôn của Đức Thích Ca hay không? Nếu cố tình loại bỏ việc Truyền Y Bát của Đức Thích Ca, thì việc tự cho là mình mới giữ đúng truyền thống của Đạo Phật, là “Đạo Phật nguyên chất”, là “Bảo Thủ” e rằng cần xét lại, vì lịch sử Truyền Y Bát của Đạo Phật vẫn tiếp tục trong khi nhóm mình tách ra, đứng riêng, phát triển song song. Phía Phật Giáo Nguyên Thủy thì vẫn cho rằng việc nhóm các vị Đại Chúng Bộ tách ra là vì các vị đã đòi cải tiến một số Giáo Pháp, nhưng các Trưởng Lão Bảo Thủ không chấp nhận, nên từ đó Tăng Đoàn chia thành hai khối. Trong khi đó, đọc trong lịch sử Truyền Thừa của 33 Vị Tổ thì thấy rằng sự thật không phải như thế, mà theo tôi, đó là do Tổ Thứ 3 Truyền Y Bát cho Tổ Thứ 4, Ngài Ưu Ba Cúc Đa là một thanh niên mới có 20 tuổi và chỉ mới gia nhập Tăng Đoàn có 3 năm nên các vị Trưởng Lão không chấp nhận nên đã tách ra, vì các vị không biết rằng theo Di Ngôn của Phật thì Y Bát chỉ trao cho người đã Thấy Tánh, không luận tu lâu hay mới, già hay trẻ, đã Quy Y hay chưa.

Mấy trăm năm sau, lịch sử một lần nữa lại tái diễn: Do Ngũ Tổ đã Truyền Y Bát cho Lục Tổ Huệ Năng là một chàng thanh niên nghèo khổ, dốt nát, chưa thế phát, Quy Y, mới vô Chùa có 8 tháng, chưa được lên Chánh Điện để lễ Phật, nghe Pháp, chỉ biết chẻ củi, giã gạo sau Chùa, làm cho tất cả Sư Tăng trong Chùa không chấp nhận được. Họ chỉ chấp nhận Giáo Thọ là Sư Thần Tú! Sự tranh chấp kéo dài đến sau khi Lục Tổ nhập diệt cũng chưa dứt. Điều này ai có đọc PHÁP BẢO ĐÀN KINH sẽ thấy ghi trong đó, và tôi tin rằng những ai có nghiên cứu lịch sử phát triển Đạo Phật cũng như đọc kỹ Giáo Pháp sẽ có đánh giá một cách công tâm hơn.

Nhưng dù chấp nhận Đại Thừa hay không, nói đến Đại Thừa thì lịch sử phát triển của Đạo Phật đã chứng minh cho thấy: Đó là những người vẫn gìn giữ đúng Di Ngôn của Đức Thích Ca, tiếp tục truyền Y Bát xuống cho tới Lục Tổ Huệ Năng, và dù chấp nhận các TỔ Trung Quốc hay không, thì chúng ta vẫn phải ghi nhận là nhờ có các vị mà rất nhiều Kinh điển Đại Thừa được truyền bá và được quý Hòa Thượng nhiều đời nối nhau để dịch ra tiếng Việt. Vì thế từ rất nhiều năm rồi, những người muốn tu học, muốn tìm hiểu Đạo Phật, muốn nghiên cứu đều không phải bỏ công sức, thì giờ đi học tiếng Tàu mới có thể đọc được Kinh Phật theo Đại Thừa, và tiếng Pali nếu muốn tìm hiểu Kinh của Phật Giáo Nguyên Thủy. Đó là một việc làm vô cùng ích lợi mà chúng ta không thể quên ân.

Theo những gì tôi đọc được, thì dù Kinh Đại Thừa có khá nhiều, được viết bởi nhiều Tổ được Truyền Y Bát, cách nhau nhiều thế kỷ, nhưng thời trước hay thời sau, đều cùng giải thích công việc tu hành cũng như kết quả giống nhau. Sở dĩ được như vậy, theo tôi, là nhờ ở việc TRUYỀN Y BÁT, tức là mỗi đời có một vị đã Chứng Đắc, đó là Tổ, thay Phật, để cầm nắm và truyền bá Chánh Pháp như một đường truyền không bị gián đoạn bởi không gian, thời gian, nên những gì các vị đó nói đều không mâu thuẫn với nhau, và lời của các vị Tổ phải được xem là lời của Phật.

Những gì các Tổ viết trong Kinh, dù diễn tả cách này, cách khác. Dù nói về Chư Bồ Tát, Phật ở cõi nọ, cõi kia, nhưng đó chỉ là phương tiện, vì cuối cùng cũng chỉ hướng dẫn người tu nhắm vào THÂN, TÂM mà hành trì. Vì thế, tu theo Đại Thừa được gọi là TU TÂM, hình tướng không quan trọng, vì hình tướng đầy đủ mà không sửa chữa, không loại bỏ những cái nhơ, đục, chấp nhất nơi Tâm thì không ích lợi gì. Người đời cũng cho rằng: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”, thực tế cũng đã chứng minh: không ai chấp nhận một người đầy đủ hình tướng, giữ đúng Tứ oai nghi, mà cái Tâm vẫn còn buông lung. Cạo tóc mà không chịu cạo sạch phiền não, và Đắp Y mà không phủ lên Thân, Tâm một màu thanh tịnh của Đạo Giải Thoát như lời dạy trong Kinh Đại Bát Niết Bàn.

Ai cũng đã biết nguyên nhân Phát Tâm Xuất Gia của Thái Tử Sĩ Đạt Ta là do cảnh KHỔ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử của kiếp người. Những cảnh Khổ này không phải chỉ diễn ra trong một kiếp, mà do Nhân Quả, nên xoay vòng, hết kiếp này đến kiếp khác gọi là Sinh Tử Luân Hồi. Mục đích của Đạo Phật là để kết thúc vòng Sinh Tử Luân Hồi đó, được ghi rõ trong Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA, Phẩm Thí Dụ: “Ta thấy các chúng sanh bị những sự Sanh, Già, Bệnh, Chết, lo buồn, khổ não nó đốt cháy. Cũng vì năm món dục, tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ Địa Ngục, Súc Sanh, Ngạ Quỷ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ. Bị khổ về người yêu thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế mà chúng sanh chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay, chẳng biết, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng sanh lòng nhàm, không cầu giải thoát, ở trong nhà lửa Tam Giới này đông tây rảo chạy, dầu bị Khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo”. Đó là nguyên do Đạo Phật có mặt ở trần gian. Vì thế, Đạo Phật cũng được gọi là Đạo ĐỘ KHỔ.

Không biết người phía PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY sắp xếp trình tự tu hành và lý giải các pháp thế nào. Riêng con đường Tu Phật theo ĐẠI THỪA mà tôi đã bỏ khá nhiều năm để đúc kết lại cho mình, đối chiếu với những gì được Kinh mô tả về công việc TU TÂM, ĐỘ SINH, THÀNH PHẬT theo như Đại Thừa hướng dẫn, trước, sau không bị mâu thuẫn với nhau, xin được trình bày sau đây:

Muốn tu theo Đạo Phật thì phải biết mục đích của Đạo Phật là Độ Khổ. Muốn Thoát KHỔ thì không phải cầu xin Phật Độ cho, mà phải biết nguyên do, và cách thức để TRỪ.

Kinh LĂNG NGHIÊM viết: “Như quốc vương bị giặc đến vây thành, mang quân đi dẹp trừ. Nếu không biết giặc trú ngụ ở đâu thì không bao giờ dẹp được”. Những tôn giáo khác thì có Thượng Đế, Thần Linh để nương tựa. Đạo Phật thì dạy là phải nương tựa nơi chính bản thân mình. Theo Đạo Phật thì CÁI KHỔ đó do con người CHẤP LẤY CÁI THÂN TỨ ĐẠI GIẢ HỢP LÀ MÌNH, gọi tắt là CHẤP NGÃ. Do CHẤP NGÃ mà chấp luôn những gì xảy đến với nó gọi là CHẤP PHÁP. Muốn TRỪ KHỔ thì phải Trừ hai cái CHẤP ĐÓ. Nhưng thủ phạm của cái CHẤP đó Đại Thừa gọi là TÂM. Vì thế, tu PHẬT theo Đại Thừa là phải TU TÂM. Con đường Tu Tâm theo Đại Thừa cũng gọi là ĐỐN GIÁO. Mỗi người phải tự làm lấy nên gọi là TỰ ĐỘ.

Tổ Đạt Ma dạy: “Tu Phật là Tu Tâm”, “Tức Tâm tức Phật”, “Muốn tìm Phật thà tìm Tâm”. Tất cả những gì diễn tả sau đó, dù là Chúng Sinh, Bồ Tát, Phật, Niết Bàn hay Phật Quốc cũng để nói về tình trạng nơi Cõi Tâm.

Khi “Nội quang phản chiếu”, mỗi người sẽ thấy trong tâm có đầy đủ cảnh mà kinh mô tả. Và PHẬT mà Đại Thừa nói đến, không phải là thần linh hay là một vị Phật có thể cứu khổ Tam Thiên Đại thiên thế giới bên ngoài, mà là nói về tình trạng Thanh Tịnh trong Tâm, khi thanh lọc hết những tư tưởng đen tối, xấu xa gọi là BA ĐỘC. Cái Ba Độc tức là THAM, SÂN và SI, lúc nào cũng “trùng trùng duyên khởi”, được Phật gọi là CHÚNG SINH, nên Đức Thích Ca gọi đó là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Người tu phải “Độ” cho hết Chúng Sinh đó, thì mới được Giải Thoát hay là Thành Phật.

Hiểu được từ PHẬT, Chúng Sinh, thì cũng hiểu được công dụng của BỒ TÁT. Đó chỉ là những ý thức đã thanh tịnh, nhưng không ngưng nghỉ, mà làm công việc tác động để dẫn dắt những ý thức còn mê muội, cho chúng nó bỏ đi khuynh hướng xấu. Việc tác động, nhắc nhở đó gọi là BỒ TÁT. Hành vi chuyển hóa được một tư tưởng xấu gọi là “Độ được một Chúng Sinh thành Phật”, cũng gọi là Cúng Dường một vị Phật”. Cho nên một đời tu hành, người tu sẽ Cúng Dường vô lượng vô số ức Đức Phật” hay là “Độ” được vô lượng vô số chúng sinh” . Nhưng, như lời Kinh Kim Cang: “Ta đã diệt độ vô lượng vô số chúng sinh, nhưng thật ra không có chúng sinh nào bị diệt độ cả”, vì Chúng Sinh đó chỉ là những ý tưởng của người tu Phật mà thôi, không phải là bà con giòng họ của người tu hay là những chúng sinh, thế giới bên ngoài. Bởi trên thật tế, ngay cả Phật còn không “Độ” được con cho là La Hầu La, và Ngài đã thành Phật từ mấy ngàn năm mà chúng ta vẫn còn nguyên đây, đâu có bị diệt độ? Chứng tỏ chúng ta cũng không phải là Chúng Sinh của Ngài.

Đa phần tội ác khởi đầu do THAM, SÂN và SI. Ba thứ này gọi là BA ĐỘC, trú ngụ ở trong Tâm, nên việc tu sửa cũng diễn ra trong Nội Tâm của người tu, và tùy theo công việc đảm nhiệm mà Phật đặt cho những danh xưng: Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Đại Huệ Bồ Tát vv… Quán Thế Âm Bồ Tát là sự lắng nghe âm thanh khởi lên trong tư tưởng của chính mình để kịp thời hướng dẫn. Nếu chịu khó suy nghĩ, chúng ta thấy: Phải chăng trong ta, mỗi lúc đối pháp đều có những tư tưởng khởi lên? Khi gặp một tình huống xấu thì đầu tiên là tư tưởng đối kháng hiện đến. Cứ muốn có hành động gì đó để đáp trả. Nhẹ là la mắng. Nặng là tấn công, gây thiệt hại cho đối phương. Lúc đó, nếu kịp suy nghĩ thì có lẽ ta sẽ giảm cường độ. Cái suy nghĩ để bớt đi phản ứng để hóa giải một tình huống xấu, lẽ ra phải nặng nề, cho nó được nhẹ đi, hoặc “bình thường hóa” trở lại, Phật gọi đó là BỒ TÁT. Khi cõi Tâm đã được thanh lọc, Chúng Sinh không còn Khởi nữa thì gọi là một Phật Quốc được thành lập.

TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC được mô tả bằng Bảy Báu: Vàng, bạc, pha lê, xà cừ, mã não. Dây vàng giăng khắp. Ao nước chứa Tám Công Đức vv… Người không hiểu thì cứ nghĩ rằng cõi đó có thật, và ở Phương Tây nên ngày đêm tụng kinh, niệm Phật để mong về đó. Không biết rằng A Di Đà để nói về sự sáng suốt, không còn ngăn che, tức là cái Tâm đã thanh tịnh, trong sạch. Gọi Cõi này chứa đầy BẢY BÁU là vì mỗi người đều có BA Nghiệp của THÂN là THAM, SÂN và SI. BỐN Nghiệp của KHẨU là Nói láo, nói lưỡi đôi chiều, nói để khen mình, chê người. “Ao nước chứa Tám công đức” là nói về kết quả của việc thực hành theo BÁT CHÁNH ĐẠO.

BA NGHIỆP của THÂN và BỐN NGHIỆP CỦA KHẤU, cộng là thành Bảy. BẢY thứ này mỗi người chúng ta ôm giữ từ vô lượng kiếp không chịu rời bỏ không khác nào người ôm giữ của báu. Vì thế, XẢ đi một món thì Phật gọi là BỐ THÍ MỘT MÓN BÁU. Xả hết 7 Nghiệp nơi Thân và Tâm gọi là BỐ THÍ BẢY BÁU, cũng gọi là “Cứu độ cho Bảy đời quyến thuộc”. Vì quyến thuộc bên ngoài mỗi người tạo Nghiệp riêng cho mình, sau khi bỏ thân xác thì ai nấy theo Nghiệp của mình. Chỉ có 7 Nghiệp của Thân và Khẩu của mỗi người sẽ theo nhau hết kiếp này sang kiếp khác. Vì thế, đó mới thật sự là quyến thuộc của mỗi người.

CÚNG DƯỜNG PHẬT, là XẢ những thứ chấp nhất, xấu xa trong THÂN, TÂM... để được Giải Thoát. Đó cũng là ý nghĩa “Nàng LONG NỮ dâng cho Phật Viên Châu có giá trị bằng cõi Tam Thiên Đại Thiên, Phật nhận và nàng lập tức Thành Phật” trong Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA. Viên Châu có giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên tức là cái Vọng Tâm chứa đầy THAM, SÂN và SI, nên Long Nữ Xả hết thì liền được giải thoát. Thế nhưng nhiều người đã Y KINH GIẢI NGHĨA, cho rằng Kinh viết muốn Thành Phật chỉ việc Cúng nhiều vàng bạc, châu báu, cung điện, nhà cửa… cho Phật, để trở thành báng Phật, nhạo Pháp!

Rộng sắm đồ Cúng Dường. Bố thí thành quách, lâu đài, kiệu cán, xe cộ, vợ, con, tài sản, cung điện, chuỗi Anh Lạc có giá trị trăm ngàn lạng vàng… cũng trong ý nghĩa XẢ hết những thứ mỗi người ôm giữ, chấp nhất trong Tâm từ vô lượng đời qua.

(Còn tiếp)

Tâm Nguyện

(Tháng 3/2015)

Phụ Bản I

Nhân ngày GIỖ TỔ - tự hào về

Tục THỜ CÚNG TỔ TIÊN

của người Việt

Ngày Giỗ tổ Hùng Vương hay Lễ hội Đền Hùng là một ngày lễ của Việt Nam . Đây là ngày hội truyền thống của dân tộc Kinh tưởng nhớ công lao dựng nước của Hùng Vương . Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào mồng 10 tháng 3 Âl tại Đền Hùng , thành phố Việt Trì , tỉnh Phú Thọ nhưng được dân Việt trong cũng như ngoài nước đều kỷ niệm.

Giỗ Tổ Hùng Vương năm Ất Mùi 2015 :

Ngày 15/1/2015, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 142/KH-UBND về tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng năm Ất Mùi – 2015. Theo đó, các hoạt động phần Lễ và phần Hội trong giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng năm Ất Mùi - 2015 được tổ chức trong 06 ngày, từ ngày 23 đến ngày 28 tháng 4 năm 2015 (tức ngày 05 đến ngày 10 tháng 3 năm Ất Mùi).

Năm Ất Mùi - 2015 là năm lẻ 5, giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng do UBND tỉnh Phú Thọ chủ trì và có sự tham gia của 5 tỉnh: Sơn La, Phú Yên, Đắc Nông, Tiền Giang và Bạc Liêu theo Đề án Tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm đã được Thủ tướng phê duyệt.

Lịch sử:

Ngày giỗ Hùng Vương từ lâu đã được công nhận là một trong những ngày quốc lễ của Việt Nam. Từ thời xưa, các triều đại quân chủ và phong kiến Việt Nam đã quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ vào ngày 10 tháng 3 âl; đổi lại dân địa phương được triều đình miễn cho những khoản thuế ruộng cùng sưu dịch và sung vào lính.

Sang thế kỷ 20, năm 1917 triều vua Khải Định , Bộ Lễ chính thức gửi công văn ghi ngày 25 tháng 7 phái quan hàng tỉnh của tỉnh Phú Thọ lấy ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch thì cử hành “quốc tế” hàng năm, tức là sức cho các quan phải mặc phẩm phục lên đền Hùng thay mặt triều đình Huế cúng tế.

Ngày 10 tháng 3 từ đó được dùng cho toàn quốc . Khi nền quân chủ cáo chung thì ngày Giỗ Tổ Hùng Vương vẫn được Việt Nam Cộng hòa công nhận là ngày nghỉ lễ chính thức cho đến năm 1975. Đối với nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì năm 2007 mới chính thức quy định ngày nghỉ lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.

UNESCO đã công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng” là “ kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại đại diện của nhân loại”.

Giỗ tổ Hùng Vương - Tôn vinh giá trị truyền thống:

Giỗ Tổ Hùng Vương từ rất lâu đã trở thành ngày trọng đại của cả dân tộc; đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đất cội nguồn - xã Hy Cương - Lâm Thao - Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam. Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.

Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng. Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng 10 tháng 3:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Cây có gốc. Nước có nguồn. Chim tìm tổ. Người tìm tông. Trở về Đền Hùng, chúng ta như giọt máu trở về tim. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam, và có một đặc thù riêng là: Phần Lễ nặng hơn phần Hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Ẩm hà tư nguyên - Uống nước nhớ nguồn). 41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ.

Hát Xoan Ở Phú ThỌ

Hát xoan là loại hình dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần, thành hoàng với hình thức nghệ thuật đ a y ếu tố: có nhạc, hát, múa; thường được biểu diễn vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất tổ Hùng Vương - Phú Thọ , một tỉnh thuộc vùng trung du Việt Nam . Ngày 24/11/2011, tại Hội nghị lần thứ 6 của Ủy ban liên chính phủ về Bảo tồn Di sản vă n hóa phi v ật thể của UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia , Hồ sơ Hát Xoan - Phú Thọ của Việt Nam đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại .

Hát Xoan là một di sản văn hóa phi vật thể quý giá của vùng đất Tổ Hùng Vương . Hát Xoan Phú Thọ thuộc loại hình dân ca lễ nghi phong tục, là hát cửa đình, hội tụ đa yếu tố nghệ thuật như nhạc, hát, múa... Nguồn gốc của Hát Xoan gắn với những giai thoại của thời đại Vua Hùng dựng nước. Các làng xoan gốc đều là những ngôi làng cổ nằm trên địa bàn trung tâm nước Văn Lang , vì vậy Hát Xoan còn bảo lưu được nhiều yếu tố văn hóa cổ của thời đại bình minh dựng nước...

Hát Xoan được vinh danh góp phần tôn vinh các giá trị, đạo lý của Việt Nam , khẳng định vị thế dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Ngày 24/11/2011, Hát Xoan được chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể là một thành công rất lớn.

Hát Xoan thường được biểu diễn vào các dịp:

Vào mùa xuân: các phường Xoan ở tỉnh Phú Thọ lần lượt khai xuân ở đình, miếu ngay từ mùng một Tết đầu năm. Buổi sáng các ngày Tết, phường Xoan làng nào hát ở đình làng ấy, tới chiều tối, các phường Xoan lại họp lại với nhau lần lượt hát ở đình, miếu như sau:

- Mùng một, hát ở đình Cả và miếu Cấm, làng An Thái

(xã Phượng Lâu, Tp. Việt Trì);

- Mùng hai, hát ở đình Đơi, làng Kim Đới;

- Mùng ba, hát ở miếu Lãi Lèn, làng Phù Đức;

- Mùng bốn, hát ở đình Thét, làng Thét

(xã Kim Đức, Tp. Việt Trì).

- Vào ngày mùng 5, thường hát ở đền Hùng

(xã Hy Cương, Tp. Việt Trì).

Thời điểm hát được quy định tại một điểm hát nhất định, mỗi “phường” chọn một vị trí cửa đình.

Tín ngưỡng thờ vua Hùng trở thành di sản nhân loại.

Đúng 12g10 (giờ Paris) ngày 06/12/2012, tại kỳ họp lần thứ 7 Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra ở Paris (Pháp), UNESCO đã chính thức thông qua quyết định công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không phải một tôn giáo mà chính là biểu trưng của lòng thành kính, sự biết ơn - tri ân công đức các Vua Hùng là những người có công dựng nước Văn Lang. Hiện tại theo kiểm kê của Sở VHTT&DL Phú Thọ , trên địa bàn tỉnh có 326 di tích thờ Hùng Vương và các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương trải rộng khắp các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được phủ rộng với mật độ dày đặc ở tất cả các làng xã, song Đền Hùng là trung tâm thực hành Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lớn nhất và lâu đời nhất trong tiến trình phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Niềm vui này đối với tỉnh Phú Thọ còn tăng lên gấp đôi, bởi năm ngoái hồ sơ Hát Xoan của tỉnh này cũng đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.

Việc Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ được UNESCO công nhận, cho thấy thế giới đánh giá rất cao, đồng thời cũng thừa nhận đời sống tâm linh của người Việt Nam, vốn đã có từ hàng nghìn năm nay.

Vua Hùng trong tín ngưỡng nguồn cội của người Việt.

Vua Hùng - vị Vua đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, “Thánh Vương ngàn đời của Cổ Việt”. Các thế hệ người Việt Nam đương đại mặc nhiên thừa nhận và tự hào là con Lạc Hồng, dòng giống Rồng Tiên. Hàng năm ngày 10/3Âl. đồng bào cả nước lại nô nức hành hương về miền đất Tổ để viếng mộ thăm đền, thắp hương thờ cúng Tổ tiên.

Với ý thức tìm lại những dòng lạc khoản đầu tiên của các sứ thần Việt Nam ghi chép về Hùng Vương và chính thức hóa đưa Vua Hùng vào “tòa Chính sử” Việt Nam để dựng lại ý nghĩa của việc đồng bào Việt Nam trăm cành một gốc, trăm họ một nhà, cùng tôn vinh Vua Tổ.

- Sách “Việt Sử Lược” (biên soạn năm 1377) đã chép về Hùng Vương dựng nước Văn Lang nhưng Vua với tư cách là một pháp sư tài giỏi thâu tóm được quyền lực các bộ tộc để trở thành một vị thủ lĩnh tối cao của bộ lạc.

- Năm 1372, Hàn Lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc với sách “Việt Nam Thế Chí” đã là người đầu tiên đưa vào chính sử các vị Hùng Vương vừa như một nhân vật lịch sử, lại vừa như là tinh thần dân tộc để nhắc nhở, răn dạy con cháu theo quan niệm Trung hiếu của Nho giáo với những người có công mở nước.

- Năm 1435 trong sách “Dư Đại Chí” Nguyễn Trãi đã nhắc đến Hùng Vương theo thư tịch thời Trần như một niềm tự hào dân tộc.

- Năm 1470 Vua Lê Thánh Tông - niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) đã cho Hàn Lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố lập Ngọc phả Hùng Vương với tên gọi đầy đủ là: “Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng” (Hùng đồ thập bát diệp thánh vương Ngọc phả cổ truyền). Với sự ra đời của bản Ngọc phả này Hùng Vương đã được chính thức hóa trong tòa Chính sử Việt Nam và từ đây Vua Hùng đã có tông phả ở giữa thế gian. Cũng nhờ có tông phả đó mà triều đình Hậu Lê mới có đủ điều kiện để làm lễ “Tế Giao” như các Vua phương Bắc, để xác nhận quyền độc lập quốc gia và quyền lực chuyên chế của ông vua nước Đại Việt:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

(Nguyễn Trãi - Bình Ngô Đại Cáo)

Năm 1497 trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã có đầy đủ yếu tố thuận lợi để đưa họ Hồng Bàng vào chính sử Việt Nam. Đó là bước phát triển vượt bậc trong ý thức hệ và tư duy của Nho giáo phong kiến Việt Nam xưa luôn hạ mình là “hàng phiên Thần” trong sự mặc cảm tự ti, chia sẻ văn hóa theo thứ bậc để vượt lên ý thức tự tôn dân tộc, văn hóa bác học ngang hàng với nước lớn Bắc phương.

Từ đây về sau, vua Hùng được gọi Thánh Tổ và được chính quyền Trung ương công nhận; nhân dân ta trên khắp mọi miền đất nước xây đền thờ phụng. Đền Hùng thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì được lưu giữ Ngọc phả Hùng Vương và dân xã Hy Cương được vinh danh là dân tạo lệ hương hảo ngàn thu.

Trải qua hàng trăm năm, từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV từ ngữ danh xưng Hùng Vương đã được tích tụ dần trở thành chính thống. Bằng việc soạn dựng “Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng” năm 1470 triều đại Hậu Lê đã khẳng định vị trí độc tôn dựng nước, sinh dân thuộc về các Vua Hùng. Vấn đề “Quốc Tổ” đã được gắn với “Hùng Vương” thay vì chữ nghĩa “Lạc Vương” trong tâm thức vương quyền vay mượn của một dân tộc chưa khẳng định nền quốc gia độc lập. Từ đây trong ảnh xạ văn hóa tâm linh của người Việt - Vua Hùng hiển diện như bình diện của ý thức tự cường của một quốc gia hùng mạnh:

Hùng Vương - Thục - Trưng - Tiền (Hậu) Lý – Ngô -

Đinh - Tiền Lê – Lý - Trần - Hồ -

Lê Sơ - Mạc - Lê (Trung hưng) - Tây Sơn - Nguyễn.

Lịch sử Tiên Rồng!

(Lời mới bài London Bridge)

Trong ký ức văn hóa của nhân dân, hình ảnh Vua Hùng được khắc họa là ông vua mở nước, dựng làng; để rồi ở các thế kỷ sau chính ông vua ấy lại trở thành ông Tổ của người Việt, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai - hình thành nên nghĩa “đồng bào”- tạo thành 15 Vương triều (như bài hát trên) của Non nước Lạc Hồng.

“Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng” đã viết “Đến giờ Ngọ ngày 28 tháng Chạp, hương lạ đầy nhà, hào quang khắp phòng, bà Âu Cơ sinh một bọc... đến giờ Ngọ ngày Rằm tháng Giêng, trăm trứng vỡ ra đều thành điềm trăm người con trai”.

Các sách: “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” (năm 1840): “Việt Nam sử học” (1919); “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938); “Thần linh Đất Việt” (2002); “Truyền thuyết Hùng Vương” (1971-2003)... đều ghi chép lại việc bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở thành một trăm người con trai, hình thành nên hai tiếng “đồng bào”.

Nhiều thế kỷ nay với người Việt Nam, “đồng bào” đã trở thành bình diện của ý thức dân tộc, niềm tự hào dân tộc; điểm hội tụ của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Điểm hội tụ ấy đã trở thành động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam.

Vua là Tổ của dân. Dân là gốc của nước. Nước muốn vững bền nhờ dân luôn thịnh trị. Dân được thịnh trị trông ơn mưa móc Tổ Tiên.

Trong sự thăng tiến phẩm trật của thần linh, Vua Hùng từ quan niệm ban đầu là thần núi với các mỹ tự: “Đột Ngột Cao Sơn; Viễn Sơn; Ất Sơn” dần trở thành tín niệm trong tâm thức dân gian. Tín niệm ấy được lan tỏa rộng ra và trở thành niềm tin thiêng liêng của mỗi người dân đất Việt - niềm tin vào Tổ Tiên và sức mạnh thiêng liêng tiềm ẩn của các thế lực siêu nhiên tuy không cùng sống, cùng sinh hoạt song đang đồng hành trong đời sống văn hóa tín ngưỡng của nhân dân: Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng - thờ cúng Tổ tiên.

Trong tâm thức của nhân dân ta từ bao đời nay Vua Hùng là vị Vua Thủy Tổ dựng nước, là Tổ tiên của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Ghi nhớ và tôn vinh công lao dựng nước của Tổ tiên là một hành vi văn hóa, ý thức đạo đức và bổn phận của mỗi người. Dân tôn thờ Vua là Thánh: Thánh Tổ Hùng Vương. Dựa vào uy linh của Thánh, ý thức cộng đồng đã được hình thành và phát triển, từ trong gia đình đến gia tộc, hàng xóm láng giềng rồi mở rộng ra cả nước theo quan hệ huyết thống: Dòng máu Lạc Hồng, con cháu Lạc Hồng...

Người Việt Nam luôn sống với nhau có nghĩa có tình, có thủy có chung, có trên có dưới, có xóm có làng, có sau có trước, có nước có nhà, có tổ có tông... Sống có văn hóa - văn hóa cộng đồng. Văn hóa ấy là tấm gương phản chiếu sự hiểu biết, những niềm tin và phong tục cổ truyền của một dân tộc. Trong sâu thẳm tâm hồn người Việt Nam ai cũng luôn quan niệm rằng: Chúng ta là người được sinh ra cùng một bọc (đồng bào) là con cháu Lạc Hồng - dân cả nước đều là anh em một nhà.

Con người có Tổ có tông

Như cây có gốc, như sông có nguồn

Ngày nay quan niệm đó càng được nhân lên gấp bội. Con cháu ở đâu, Ông bà - Tổ tiên ở đó. Quan niệm đó dần trở thành ý thức hệ được hun đúc trong từng người và trong cả cộng đồng. Vua Hùng đã hiển nhiên tồn tại và ngự trị trên bình diện ý thức tâm linh của người Việt. Tín ngưỡng thờ Tổ phát triển không chỉ trên vùng Đất Tổ mà xuyên cả quốc gia, vươn tới các cộng đồng người Việt đang sống xa Tổ quốc ở các quốc gia khác. Người Việt lập làng ở đâu sẽ xây đền thờ Tổ Hùng ở đó; cúng giỗ Tổ ở đó để cùng nhau “Uống nước nhớ nguồn” tri ân công đức Tổ tiên.

Vua Hùng trong tín ngưỡng nguồn cội của nhân dân đã trở thành niềm tin thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Vật chất có thể sẽ thay đổi, thậm chí sẽ mất đi song niềm tin thiêng liêng sẽ còn lại mãi mãi với thời gian, trường tồn cùng lịch sử, trong ký ức của mỗi con người.

LỜI KẾT

- Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vươ ng ở Phú Thọ được UNESCO công nhận cho thấy thế giới thừa nhận và đánh giá rất cao đời sống tâm linh của người Việt hàng nghìn nă m nay .

- Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ thể hiện nền tảng tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam, luôn vượt qua khó khăn, thách thức trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, chống giặc ngoại xâm.

- Thờ cúng Tổ tiên - Một mỹ tục từ ngàn xưa: Từ ngàn đời xưa, thờ cúng ông bà, tổ tiên là một mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Chính trong việc thờ cúng tổ tiên mà ông cha ta đã gửi vào đó rất nhiều nét đạo nhằm giáo dục con cháu.

Trước tiên, mỹ tục này được thể hiện ở việc lập Bàn thờ cúng Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ… những người thân đã quá cố trong gia đình. Vào những ngày cúng giỗ này, con cháu thường quy tụ về một nhà để cùng nhau làm mâm cúng, rồi anh em, con cháu cùng nhau ngồi nhớ về người xưa, nhắc nhở con cháu hôm nay phải hiếu nghĩa với người thân, cố gắng trở thành con ngoan, trò giỏi. Sau đó cùng bàn chuyện làm ăn, tâm sự, san sẻ cùng nhau. Vào những ngày Giỗ, các con cháu hãy nghĩ thiện, làm lành nhiều hơn các ngày khác, hãy chia sẻ chút đỉnh cho người nghèo, hãy gom quần áo dư để dành cho các hội từ thiện. Nếu anh chị em nhân ngày Giỗ mà về họp mặt một nơi thì thật là tốt vì tình thân gia đình sẽ nhờ đó mà tăng lên.

Có lẽ ngoài ngày Tết Nguyên Đán ra thì dịp duy nhất để anh em, con cháu ở xa quy tụ về chính là ngày Giỗ Tổ. Đó là một hình thức sinh hoạt gia đình mang nhiều nét văn hóa tốt đẹp.

Tín ngưỡng thờ Hùng Vương khác với 7 Di sản văn hóa - phi vật thể đã được công nhận trước đó. Tính độc đáo của tín ngưỡng này thể hiện rất rõ ở yếu tố thờ Hùng Vương chính là thờ Quốc tổ. Đây là hiện tượng không phải dân tộc nào cũng có. Trải qua thời kỳ lịch sử hết sức lâu dài, Việt Nam đã xây dựng được một biểu tượng, cố kết cộng đồng dân tộc tạo nên sức mạnh hết sức to lớn trong quá trình lịch sử. Nền tảng của việc thờ Quốc tổ chính là tục thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam có từ xa xưa, từ đó phát triển thành việc thờ Quốc tổ của toàn dân tộc.

Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng dù trong lúc đất nước thái bình hay trong những khi vận mệnh cam go nhất, Vua Hùng vẫn hiển hiện như một nguồn lực vô tận xuyên suốt cả thời gian lẫn không gian đến với từng người dân Việt Nam, từng gia đình người Việt Nam ở bất cứ nơi đâu trong nước hay ngoài biên giới Tổ quốc, như một động lực tinh thần cổ vũ niềm tin và sức mạnh cho toàn dân tộc tiến lên phía trước, phát triển và hội nhập toàn cầu.

Để tưởng nhớ công lao cùa Quốc Tổ, chúng ta cùng nhau hát vang:

Ca khúc HÙNG VƯƠNG - Thẩm Oánh

Bốn nghìn năm văn hiến nước non khang cường là nhờ công đức Hùng Vương.

Hoa gấm giang sơn này cùng chung đắp xây bao thời hùng uy vẻ vang.

Đời đời nhớ Hùng Vương đã vì quốc dân lập non nước này.

Cho cháu con quây quần vẽ nên cơ đồ bền vững tới nay.

Việt Nam bao sáng tươi, thề cùng bền gan cương quyết xây Nhà Nam.

Đây cháu con Lạc Hồng từ Bắc chí Nam, xin đoàn kết tâm đồng.

Non nước Việt Nam nhờ Hùng Vương quyết thắng muôn năm giòng giống Lạc Hồng.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)

TRUYỆN KIỀU

ĐƯỢC DỊCH NGƯỢC TRỞ LẠI HÁN TỰ

Tôi vừa đọc tuần báo Văn nghệ số 39 ra ngày 26 tháng 9, 2009 thì liền nhận được chuông điện thoại hỏi lại thông tin được đưa ra trong Hội thảo văn học Trung Quốc ở Việt Nam mới được tổ chức tại Hội Nhà văn Việt Nam mà tác giả Đàm Ngọc Xuyến nhắc lại trong bài tường thuật của mình: “Dịch giả Thúy Toàn báo cáo hiện đã có đến 10 bản dịch Truyện Kiều từ tiếng Việt ngược sang tiếng Trung Quốc, trong đó có 3 bản dịch dưới dạng lục bát tiếng Hán”. Vâng tôi đã đưa ra thông báo ấy. Nhân tiện, tôi xin thông báo lại chi tiết hơn để không chỉ cho những bạn gọi điện hỏi tôi mà có thể cho nhiều bạn khác cũng quan tâm tới Truyện Kiều, được biết.

Từ lâu tôi đã tiến hành công việc thu thập tư liệu về những người dịch văn học Việt Nam, để bổ sung hoàn chỉnh cuốn sách Những người dịch văn học Việt Nam mà chúng tôi (Hoàng Thúy Toàn và Đoàn Tử Huyến đồng chủ biên) đã đưa xuất bản vào năm 2002 và trước mắt tập trung vào hai chuyên đề: “Những người dịch Truyện Kiều” và “Những người dịch Nhật ký trong tù” (chuyên đề sau đã ra thử lần 1 tại NXB Nghệ An năm 2007 với số lượng nhỏ 300 bản), tôi sơ bộ thống kê lại thì đúng: Truyện Kiều của Nguyễn Du (1766-1820) bằng chữ Nôm tiếng Việt xuất phát từ cốt truyện trong tác phẩm văn học Trung Quốc Kim Vân Kiều truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân, thực sự là một sáng tạo văn học có giá trị nên nhiều lần đã dịch ra các thứ ngữ trên thế giới, đặc biệt là được dịch ngược trở lại Hán văn.

Hiện trong tay tôi đã có bốn bản sách in các bản dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du sang Hán văn:

1) Truyện Kiều của GS. Hoàng Dật Cầu, nguyên công tác tại Học viện Sư phạm Hoa Nam, nghiên cứu và dịch sang Hán văn và được Văn nghệ nhân dân xã Bắc Kinh xuất bản năm 1959.

2) Bản dịch Kim Vân Kiều Nam âm thi tập của dịch giả Trương Cam Vũ, in tại Ấn quán Vĩ Hưng, tổng phát hành tại N.467 Hòa Hảo, Chợ Lớn năm 1961 (bản dịch này được NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh in lại năm 1996).

3) Kim Kiều Hán Việt truyện của Thái Hanh nguyên tác Nguyễn Du (Tố Như tiên sinh), dịch giả Nguyễn Khắc Nhân (Thái Hanh), bản in lần thứ nhất năm 2004 tại Australia (Printers at Văn Lương Printers Pty. Ltd. 8 Futura road, Keysborough Vitoria 3173 Australia).

4) Truyện Kiều song ngữ Việt – Hoa do La Trường Sơn (1938-2003) dịch, NXB Văn Nghệ và Công ty Văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện năm 2006.

Qua tư liệu của các nhà nghiên cứu Kiều như Trần Văn Chánh, Thế Anh… chúng ta còn được biết: trước đó, năm 1955, giáo sư người Hoa Lý Văn Hùng đã cho ấn hành tại Công ty ấn loát Gia Hòa Chợ Lớn cuốn Kim Vân Kiều truyện bình giảng trong đó có bản dịch Truyện Kiều của ông sang Hán văn. Trở lại lịch sử xa hơn nữa, chúng ta được biết các bậc túc nho của ta đã từng bỏ nhiều công phu, tài trí dịch nhiều lần Truyện Kiều sang Hán văn: Kim Vân Kiều lục (Nhà nho khuyết danh) dịch vào thời Tự Đức (1848-1883), được khắc in vào năm Đồng Khánh thứ 3, Mậu Tý (1888); Vương Kim tự truyện của Nguyễn Kiều, được Lê Doãn Khôi chép tay năm 1915; Kim Vân Kiều Hán tự lục bát ca của Lê Dụ dịch năm 1946; Việt Nam Đoạn Trường Tân Thanh tục xưng Kim Vân Kiều ca khúc dịch thành Hán tự cổ thi thất ngôn luật của Từ Nguyên Mạc – bản chép tay của tác giả tặng trường Viễn Đông bác cổ năm 1950; Thúy Kiều âm dịch xuất Hán tự của Lê Mạnh Điềm… Những tài liệu này còn lưu giữ tại Viện Hán Nôm của ta và trường Viễn Đông bác cổ của Pháp. Ngoài ra, nghe nói cụ Bùi Kỷ (1887-1960) cũng có một bản dịch Truyện Kiều sang Hán tự, đáng tiếc là đã bị thất lạc.

Ba lần Truyện Kiều của Nguyễn Du được dịch sang Hán tự dưới dạng thể thơ lục bát của ta là các bản dịch của Nguyễn Kiều, Lê Dụ và Thái Hanh. Chẳng hạn, có thể lấy bản dịch của Thái Hanh tôi có trong tay làm ví dụ:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Phiên âm Hán tự:

Bách niên trần thế chi gian

Mạnh tài lưỡng tự đã hoàn tương sai

Tang thương biến cải ta tai

Sự kinh mục kích súc ai ai hoài

Hay:

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai

Phiên âm Hán tự:

Thu thủy mục xuân sơn mi

Liễu hàm si bích họa bi hàm hồng

Quốc thành tác tiễu khuynh không

Tài khả nhất kỹ sắc đồng vô song

Hay:

Chàng Kim trở lại thư song

Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây

Sầu đong càng khắc càng đầy

Ba thu dồn lại một ngày dài ghê

Phiên âm Hán tự:

Kim lang tự phản thư song

Tư nương thiết thiết bất vong thốn hoài

Đầu lương sầu mãn nan khai

Tam thu nhật nhật tương tai cánh tường

Trong khuôn khổ một bài báo ngắn, chúng tôi không thể trình bày đầy đủ nổi những điều chúng tôi đã học hỏi được, mong chia sẻ cùng các bạn trẻ. Nhân đây cũng để hy vọng được các bậc học giả uyên thâm chỉ bảo thêm cho chúng tôi cùng những thế hệ nối tiếp mong mỗi ngày vỡ vạc hiểu biết được hơn lên.

THÚY TOÀN


***

VƯƠNG THÚY KIỀU

CHƯA THOÁT KHỎI KỸ VIỆN

Mùa cuối xuân khí trời oi bức, ngồi trong phòng, nhìn lên bàn thấy tập sách Xưa & Nay “tập 105” xuất bản tháng 02/2015 mở ra xem, vô tình lật ngay trang 18 “viết về người chơi sách và đại thi hào Nguyễn Du của Vũ Anh Tuấn” lại ghé mắt vào đúng ngay mấy chữ ông viết (ông không phải là nhà nghiên cứu và phê bình, hơn nữa về việc nghiên cứu và phê bình, thì trong thiên hạ đã có hằng vạn hằng triệu người đã làm cả trăm năm qua, hiện đang làm và còn làm dài dài cho tới ngày…), vậy là: Vương Thúy Kiều còn phải ở “Kỹ Viện” dài dài, không thoát ra được vì hai ông khách quý và một số nhà bất đồng! “Kiều ta hiền lành hơn Kiều Tàu quá dữ” nên họ chưa chịu buông tha cho Kiều ra đi một cách êm thắm (mặc dù chủ nhiệm phân tích trả lời dẫn chứng rất rõ ràng, cởi mở, để cho Kiều được tự do, nhưng có vài người không đồng ý).

Tôi xin kể lại một chuyện mới đây, trên đài truyền hình, chiếu hai bộ phim Tiếu Ngạo Giang Hồ và Tân Tiếu Ngạo Giang Hồ phỏng tác theo tiểu thuyết của Kim Dung bị báo chí nước ta phê bình (quá dở), đài truyền hình vội vã dẹp bỏ, nếu hai phim nầy hay hơn tiểu thuyết của Kim Dung thì chưa chắc đã bỏ đi một cách dễ dàng, trái lại tập thơ Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Nguyễn Du viết lại hiền hòa hơn, sáng tạo hơn, nó lại hay hơn cốt truyện của Tàu, cho nên Kiều vẫn bị ở “Kỹ Viện” dài dài để cho người đời bươi ra phê bình là cái chắc (một số ít thôi).

Khen chê là chuyện thường tình của người đời, nhưng tập thơ của cụ Nguyễn Du sáng tác đã lôi cuốn người đọc, từ hàng vương giả tới hạng trí thức cho đến bình dân ai ai cũng thuộc vài câu Kiều để trong bụng, khi vui, đọc vài câu góp vui: “Dập dìu tài tử giai nhân. Ngựa xe như nước, áo quần như nêm”; khi buồn, ngâm nga vài câu cho đỡ buồn: “Buồn trông cửa bể chiều hôm”; đến khi tức giận ai, than thở vài câu “Kiều” cho bớt giận: “Tha ra thì cũng may đời. Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Khó ai viết được như cụ, nhiều nhà học giả trên thế giới, họ đã dịch tập thơ Đoạn Trường Tân Thanh ra tiếng nước họ, ít khi họ nhắc đến Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân hoặc những tác giả Kiều Trung Quốc khác, viết về Truyện Kiều hoặc cuộc đời Kiều, đến nỗi các nhà viết truyện của Trung Quốc phải ganh tỵ với cụ Nguyễn Du. Nói về dịch sách hay soạn kịch, ở Âu Châu nhà soạn kịch tài danh của Pháp Corneille lấy cốt truyện Las Mocedades del Cid của Guillen de Castro người Tây Ban Nha để viết nên tuồng Le Cid rất nổi tiếng hơn cả bản gốc.

Theo sách sử đời nhà Minh, viết về Vương Thúy Kiều là người có thật, sau nầy nó thành trung tâm nhân vật chính của nhiều tiểu thuyết, và một số vở kịch, tuồng như Tứ Thanh Viên của Từ Văn Trường (Từ Vị), Hổ phách thỉ của Diệp Trĩ Phỉ, Song Thúy Viên của Hạ Bỉnh Hoành… rồi trở thành nhân vật chính trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du.

Tên tập thơ Đoạn Trường Tân Thanh có phải cụ Nguyễn Du đặt tên tập thơ không? Theo sưu tầm xưa nay có tới sáu thứ tên như:

1. Kim Vân Kiều truyện

2. Kim Vân Kiều tân truyện

3. Vương Thúy Kiều tân truyện

4. Truyện Thúy Kiều

5. Truyện Kiều

6. Đoạn Trường Tân Thanh

(Truyện Thúy Kiều hay Truyện Kiều) chỉ là tên gọi tục trong nhân dân. Về sau bốn chữ “Đoạn Trường Tân Thanh” thì dùng cho bản kinh ở Huế do nhà vua thi sĩ Tự Đức ra lệnh ấn loát, hơn nữa trong bài tựa vua Minh Mệnh năm Mậu Tý (1828) có nhắc tên ấy như Thúy Kiều phong tình lục. Bài tựa vua Minh Mệnh viết:

“Trung bất thuyết dã, phong tình chi hữu lục,

“Cựu hỹ Hồng Sơn Tố Như tử ngoạn kỷ lục kỳ ký sự

“Liên mẫn kỳ tài chi bất ngộ ư thị hồ dịch

“Chi dĩ quốc âm nhan chi viết Đoạn Trường Tân Thanh lục,

“Tắc cựu nhi đoạn trường chi thanh tắc tân dã.

Dịch: Truyện Thúy Kiều chép ở trong lục “Phong Tình” ta không cần bàn làm gì tục “phong tình” cũng đã cũ rồi, Hồng Sơn Tố Như tử xem truyện thấy việc lạ lại thương tiếc đến nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn Trường Tân Thanh, thành ra cái “lục” (phong tình) vẫn là cái lục cũ, mà tiếng Đoạn Trường vẫn là tiếng mới vậy.

Như thế “Đoạn Trường Tân Thanh” có lẽ thật là tên mà cụ Tiên Điền đã đặt một truyện xưa dùng cả tâm huyết riêng của mình, vì lẽ ấy sách tân khảo lấy tên đầy ý nghĩa của quan niệm để làm rõ ra cái quý giá không chối cãi được của một truyện ái tình rất tầm thường, nhưng nhờ tài lỗi lạc của cụ Nguyễn Du tiên sinh mà trở thành một kiệt tác nghìn năm bất hủ trong văn chương nước Việt.

Mấy mươi năm trước, nói đến nguồn gốc Truyện Kiều, nhiều sách - kể cả sách giáo khoa trong nhà trường của hai miền Nam Bắc - thường chỉ nhắc đến Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà bỏ qua nhiều tác phẩm khác thời nhà Minh đã viết về cuộc đời của Vương Thúy Kiều. Trước tiên cần nói đến bộ sách Trù Hải Đồ Biên, do quan Tổng đốc đời Minh là Hồ Tôn Hiến soạn gồm 13 quyển, ở quyển 9 có bài Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt (ghi chép ngọn ngành việc đánh dẹp Từ Hải) kể lại chuyện quân Minh đánh nhau với quân Oa*, vào năm Bính Thìn (1556) đời Gia Tĩnh. Lúc này Từ Hải, một tướng cướp biển, mang hơn một vạn quân từ sào huyệt ở Sạ Phố xuống Hàng Châu càn quét các vùng Tô Châu, Hồ Châu, uy hiếp vùng Kim Lăng. Thế giặc rất mạnh, Hồ Tôn Hiến phải dùng mưu xảo quyệt dụ hàng, rồi trở mặt, cho quân phục kích bao vây ra lệnh đánh bằng hỏa công. Bị bất ngờ, Từ Hải thua trận nhảy xuống sông. Quân Hồ Tôn Hiến bắt được hai thị nữ, một người tên Vương Thúy Kiều, một người tên Lục Châu, vốn xuất thân từ ca kỹ. Hai thị nữ khóc và chỉ chỗ Từ Hải trầm mình, quân sĩ vớt Từ Hải lên chém lấy thủ cấp mang về…

Kim Vân Kiều truyện còn có tên là Song Kỳ Mộng, Song Hợp Hoan. Về sau lại có thêm nhiều tác phẩm nữa kể chuyện Vương Thúy Kiều là Hồ Thiếu Bảo bình Oa chiến công của Chu Tiếp, Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài, Lý Thúy Kiều truyện của Đới Sỹ Lâm, Sinh báo Hoa Ngạc Ân, Tử tạ Từ Hải nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân Vương Thúy Kiều truyện của Hồ Khoáng. Trong truyện, Từ Hải đã được miêu tả là một đấng anh hùng bên cạnh phu nhân là Vương Thúy Kiều. Các truyện càng về sau càng hư cấu thêm nhiều nhân vật, nhiều tình tiết, biến chuyện có thật của lịch sử thành tiểu thuyết kỳ tình; riêng truyện của Mộng Giác Đạo Nhân và Dư Hoài đã là tiểu thuyết luận đề, tập trung vào chủ đề tư tưởng rất hợp với mọi người: nói một người phụ nữ tầm thường trong xã hội mà lại trọng nghĩa, khí tiết hơn hẳn các bậc trượng phu, hơn cả những đại nhân, quan lại như Hồ Tôn Hiến . Trong tất cả các sách viết về Vương Thúy Kiều của Trung Hoa thì Sinh báo Hoa Ngạc Ân, Tử tạ Từ Hải nghĩa của Mộng Giác Đạo Nhân và Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài là đã bắt đầu đậm chất tiểu thuyết và đã kể về cuộc đời Kiều khá tỉ mỉ:

Dầu sao đó chỉ là lịch sử thê thảm của một thiếu nữ bạc phận, đưa đẩy vào một cuộc đời sóng gió. Trước hết Kim Vân Kiều truyện chính là tên tiểu thuyết Tàu, thuộc loại phong tình lục mà tác giả đặt tên Thanh Tâm Tài Nhân, còn tên thật không biết là ai? ở đây chúng tôi chỉ nhắc nguồn gốc của truyện là tạp chí “Ngu sơ tân chí” của Dư Hoài biệt hiệu Đạm Tâm.

Vương Thúy Kiều là người Lâm Tri, thuở nhỏ bị bán vào kỹ viện, lấy họ Mã, thường gọi là Mã Kiều nhi . Tuy còn nhỏ nhưng đẹp và thông minh, lại hát hay, đàn giỏi, thổi sáo cũng hay nên được nhiều người mến chuộng; trái lại cô không thích chiều chuộng ai nên bị giả mẫu thường hay đánh đập. May được một chàng thiếu niên giàu có cảm tình chuộc ra, thuê nhà cho ở, đổi tên là Vương Thúy Kiều. Về sau lại gặp La Long Văn, một hào phú có cảm tình thường chu cấp, đi lại với Kiều và nuôi thêm cho một hầu gái là Lục Châu. Lúc này lại xuất hiện có một tướng cướp tên là Từ Hải, đang quẫn bách lẻn trốn vào ở nhờ nhà Thúy Kiều.

Từ Hải, nguyên là Minh Sơn Hòa Thượng , tu tại chùa Hổ Bào ở Hàng Châu. Long Văn gặp Từ Hải, đánh giá Hải là tráng sĩ nên cùng giao tiếp, lại đem cho Lục Châu làm hầu gái. Sống cùng La Long Văn một thời gian, Từ Hải từ biệt lên đường quyết lập chí dựng cơ đồ, chiêu tập bọn thảo khấu quay về xâm chiếm Giang Nam, vây đánh Tuần phủ Nguyễn Ngạc. Thật bất ngờ, trong một trận đánh, quân sĩ lại bắt được Thúy Kiều và Lục Châu. Từ Hải lập Thúy Kiều làm phu nhân, thường cùng cho bàn quân cơ. Lúc này thế lực Từ Hải rất mạnh; triều đình phải cử Tổng đốc Hồ Tôn Hiến ở Triết Giang đi đánh dẹp. Thấy thế lực của Từ Hải hùng mạnh, Hồ Tôn Hiến bèn cho Hoa lão nhân đến dụ hàng, Từ Hải nổi giận bắt trói Hoa lão nhân. May cho Hoa gặp lúc Thúy Kiều có mặt, bèn bàn với Từ tha chết cho Hoa. Hoa trở về báo với Tôn Hiến là thế giặc đang mạnh, chưa thể đánh được nhưng xem ra Vương phu nhân có vẻ có ngoại tâm, ta có thể nhân đây mà thắng giặc. Tôn Hiến biết La Long Văn là ân nhân cũ của Từ Hải và Vương Thúy Kiều bèn gọi La Long Văn đến để dùng chước dụ hàng. Long Văn chấp nhận lời Hồ Tôn Hiến đến dinh được Từ Hải ân cần tiếp đãi lại cho gọi phu nhân và Lục Châu ra chào hỏi. Trở về, Long Văn bàn với Hồ Tôn Hiến dùng kế đem châu báu lo lót Thúy Kiều, vận động Từ quy hàng. Đúng như ý nguyện, Kiều ra sức khuyên Từ Hải quy phục triều đình. Nghe lời Thúy Kiều, Từ Hải ước hàng cùng Tôn Hiến, không phòng bị gì. Tôn Hiến dùng hỏa công đánh tan quân Từ Hải. Từ Hải nhảy xuống sông tự trầm, nhờ Thúy Kiều và Lục Châu chỉ chỗ Từ Hải trầm mình, quan quân biết được vớt lên chém đầu mang thủ cấp về trình cho Hồ Tôn Hiến.

Trong tiệc khao binh, Tôn Hiến bắt Thúy Kiều hát và chuốc rượu. Trong lúc quá chén, Tôn Hiến cũng giở trò đùa cợt; hôm sau tỉnh rượu, sợ mất thể diện trọng thần, Tôn Hiến đem Thúy Kiều gả cho tù trưởng Vĩnh Thuận. Lúc sang sông, Kiều khóc lớn rồi đâm đầu xuống nước tự trầm. Còn truyện Kiều của Dư Hoài tuy rất gần với Truyện Kiều của nước ta nhưng không xây dựng đoạn Kim Kiều tái hợp , chỉ viết tới Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường là hết chuyện. Cuộc đời Kiều chưa chứng minh cho tư tưởng Thiên mệnh Nhân quả . Phải đợi đến đời Thanh, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mới thực sự có cốt truyện gần giống với truyện Kiều của nước ta.

Nguyên bộ tiểu thuyết Tàu mà cụ Nguyễn Du phỏng theo , để viết ra truyện Kiều , chỉ biết tên là “Thanh Tâm Tài Nhân Lục”, không biết rõ tác giả là ai, soạn vào đời nào, nhưng truyện viết lời văn rất tầm thường, ngoài mấy bài từ có vẻ thanh tao hơn, không có đặc sắc gì. Nhưng bộ tiểu thuyết ấy cũng không phải là truyện đặt ra, có thể căn cứ ở sự thực (của các bộ truyện trước) mà đặt ra… Vậy là Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh chưa thể xác định được Thanh Tâm Tài Nhân là ai!? Và Kim Vân Kiều truyện viết ra khi nào, riêng cụ Dương Quảng Hàm thì cho rằng tuy là không biết tác giả tên thực là ai và sống về đời nào, nhưng các việc kể trong cuốn tiểu thuyết đều thuộc về đời Gia Tĩnh nhà Minh tức là từ năm 1522 đến năm 1566, trái lại sách ấy lại do Kim Thánh Thán sống từ năm 1627 đến năm 1662 mới phê bình, vậy theo đấy ta có thể biết được rằng sách ấy làm vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVI hoặc đầu thế kỷ thứ XVII . Đến nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết về Thanh Tâm Tài Nhân, chưa ai khẳng định được đích xác. Như vậy qua khoảng thời gian dài, một câu chuyện có thật trong lịch sử Trung Hoa, đã trở thành một tiểu thuyết kỳ tình sau khi trải qua cả một quá trình sửa đổi thêm thắt nhiều tình tiết, nhân vật. Từ một con hát nơi kỹ viện, thường bị giả mẫu chửi đánh vì không chịu chiều đãi khách, Mã Kiều nhi trước là một tiểu thư xuất thân từ nơi khuê các, có cuộc tình đầy thơ mộng với văn nhân Kim Trọng (một nhân vật không hề có trong đời thực của Vương Thúy Kiều), rồi cuộc đoàn viên sau 15 năm lưu lạc (đến đời Thanh lại được thêm vào nhằm phục vụ chủ đề “ở hiền gặp lành”). Qua hơn 200 năm sau khi đến Việt Nam, nhân vật Vương Thúy Kiều lại được khoác lên một diện mạo hoàn toàn mới: lược bớt một số đoạn, thay đổi nhiều tình tiết, truyện đã trở nên ý vị hơn, đậm tình người hơn, tính cách nhân vật trở nên nhất quán hơn, cách ứng xử cân phân hơn, nhân hậu hơn… Nếu ai có dịp đọc lại Truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân đoạn Thúy Kiều xử án, thành thật mà nói, người viết truyện không có tình người chút nào, xin trích ra đây một đoạn khi Kiều đăng đàn xử án.

Phu nhân (Kiều) nói Bạc bà đẩy người xuống giếng, Bạc Hạnh bán người lương thiện vào nhà xướng ca. Nay đúng lời thề trước của Bạc Hạnh, lấy dao vằm nát thân thể rồi cho ngựa ăn, còn Bạc bà thì đem chặt đầu bêu lên cây. Đao phủ nghe lệnh dạ ran một tiếng, tức thì lôi Bạc bà ra chặt đầu, còn Bạc Hạnh thì dùng chiếu cỏ bó như bó củi, ngoài quấn dây thừng thật chặt, cho hai người giữ, một người cầm dao, chặt từ chân lên đầu thành hơn trăm đoạn. Ghê thay một con người mới đó mà trong giây lát biến thành đống thịt, những người đứng nhìn ai cũng hoảng hồn chết ngất. Bọn đao phủ vào bẩm đã thi hành xong, phu nhân truyền đem đống thịt trộn lẫn với cỏ để cho ngựa ăn . Khi quân đưa “mẹ Hoạn Thư” và Hoạn Thư vào, Kiều ra lệnh trói Hoạn Thư, trói chân lên trần nhà động đầu xuống đất đánh một trăm roi (thật tàn ác, đúng là một ả giang hồ, chứ không phải là một phu nhân của Từ Hải). Đó là truyện Tàu viết, ta thử xem qua một đoạn thơ của cụ Nguyễn Du viết:

Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,

Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.

Thoạt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?

Đàn bà dễ có mấy tay?

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều!”

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.

Rằng tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,

Nghĩ cho khi các viết kinh,

Với khi khỏi cửa đứt tình chẳng theo.

Lòng riêng, riêng những kính yêu;

Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.

Trót đà gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?

Khen cho thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,

Tha ra thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

Đã lòng tri quá thì nên,

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.

Ta đọc mấy câu thơ Kiều của cụ Nguyễn Du và đọc lại tất cả Truyện Kiều của Tàu mới thấy được cái ác của họ, họ thấy cái gì có lợi thì họ trở mặt ngay, ví dụ như La Long Văn. Có hai giáo sư, Phan Thanh Tâm và Đàm Quang Hưng (ông là giáo sư toán ở trường đại học cộng đồng từ năm 1989, và đã hoàn thành việc chuyển ngữ bản gốc Hán văn của Thanh Tâm Tài Nhân sang tiếng Việt tại Houston Texas vào ngày 21/12/2012 ), hai ông bảo: Kiều Việt Nam nhân hậu hơn, Kiều Tàu ác hiểm quá (hai ông hiện cư trú ở Hoa Kỳ). Cũng xin nhắc lại là tập thơ Kiều của cụ Nguyễn Du được dịch ra nhiều thứ tiếng và được thế giới công nhận là di sản, thế mà cũng bị người ta đố kỵ, người Tàu chê bai đủ điều (chê lấy truyện của họ chớ không phải chê thơ dở) vì họ là người Tàu. Cụ Phan Thạch Cơ viết:

Hữu minh nhất đại vô song kỷ

Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ

Tôi xin kể lại một câu chuyện đăng trong tác phẩm “The Smaller Dragon” (tác giả Joseph Buttinger) về truyền thuyết có thực khá lý thú, đáng được ghi lại: Cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) thành công, sau khi nhượng chức Tổng thống cho Viên Thế Khải, ông Tôn Văn (tức Tôn Trung Sơn) sang viếng thăm Nhật Bản (vì có bàn tay giúp đỡ của Nhật) với tư cách là đảng trưởng Quốc Dân Đảng Trung Hoa, và được thủ tướng Khuyển Dương Nghi (Inukai Tsuyoshi) đảng trưởng Quốc Dân Đảng Nhật Bản thết tiệc khoản đãi; giữa bữa tiệc, ông Khuyển Dương Nghi bất chợt hỏi: “Tôi được biết tiên sinh đã có dịp qua Hà Nội, xin tiên sinh cho biết tôn ý về dân tộc Việt Nam”. Ông Tôn Văn đáp: “Người Việt vốn nô lệ căn tín, ngày xưa họ bị chúng tôi đô hộ, ngày nay họ lại bị người Pháp đô hộ, dân tộc ấy không có tương lai”. Được dịp ông Khuyển Dương Nghi nối lời: “Về điểm này tôi xin phép không đồng ý với tiên sinh; ngày nay họ thua người Pháp vì họ thiếu khí giới tối tân, nhưng cứ xét lịch sử thì trong số dân Bách Việt chỉ có họ là thoát khỏi không bị Hán hóa. Tôi tin rằng một dân tộc đã biết tự bảo vệ một cách bền bỉ như vậy, thì sớm muộn gì họ cũng lấy lại quyền tự chủ trong tay người Pháp”.

Ông Tôn Trung Sơn mặt tái xanh vì câu tự cao của mình nên ông ngồi bất động mà không trả lời được. Ông Tôn Trung Sơn đã hiểu được ý lời của ông Khuyển Dương Nghi nói chọt mình, vì ông là người Quảng Đông tổ tiên cũng là người Việt, nhưng kém xa dân tộc Việt Nam, vì đã bị người Hán đồng hóa hoàn toàn, không còn chút gì là Việt nữa.

Trong buổi tiệc nầy có cụ Lê Dư, chính cụ Lê Dư đã kể lại cho các ký giả nghe, rồi họ kiểm tra lại, cho đăng lên báo.

TRẦN VĂN HỮU

Sưu tầm một số tài liệu trong thư viện Tp.HCM

và báo chí hải ngoại: ngày 15.4.2015.

* Quân Oa: là quân Nhật Bản thấp bé nên người Tàu gọi là Oa nhân (người lùn), nước Nhật gọi là Oa quốc, cướp biển từ Nhật sang gọi là Oa khấu (giặc lùn).

NHÀ VĂN MAI VĂN TẠO

ĐƯA CUỘC SỐNG VÀO TRANG VIẾT


1924 – 2002

Như người ta thường nói “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”, đối với tôi một người đam mê đọc sách, đam mê viết, hữu duyên với sách là duyên kỳ ngộ.

Năm 2006 tham gia Hội sách Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IV, tham gia dự cuộc thi Những quyển sách vàng. Quyển sách Form d’Ecriture Antique inspireé de caratere Chinois Introduction (giới thiệu Triệu ấn ) P. Daudin đư ợc giải khuyến khích. Tôi nghĩ là hữu duyên thứ nhất. Đồng thời được quen biết với Linh mục Nguyễn Hữu Triết và D ịch giả Vũ Anh Tuấn . Nay là cố vấn và chủ nhiệm CLB Sách Xưa & Nay, mà tôi là một thành viên, thật là hữu duyên thứ nhì vui vẻ may mắn.

Trong số sách tặng của NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Mi nh, tôi thích nhất quyển sách “ Lịch sử SÀI GÒN – C HỢ LỚN – GIA ĐỊNH KHÁNG CHIẾN (1945 - 1975)” . Tôi đọc và nảy sinh ý tưởng dựa vào tư liệu này viết một quyển sách lịch sử bằng thơ lục bát. Một sự hữu duyên thứ ba – đáng giá ngàn vàng.

Năm 2008 tham gia Hội sách Thành P hố Hồ Chí Minh lần V, trong số sách tôi chọ n mua về, đặc biệt quyển sách “ TUYỂN TẬP KÝ MAI VĂN TẠO, NXB Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2002”. Sách dày 475 trang. Tôi đọc say sưa và tìm được nhiều tư liệu hay, hữu ích cho việc viết sách. Quyển sách là hữu duyên thứ tư đầy lý thú. Từ quyển sách này tôi viết được ba bài thơ “Đôi bờ cát nóng sông Gianh”, “ Chuyện kể về Phạm Văn Cội và Tô Văn Dục”, “ Chiến dịch U Minh”.

Cũng vào tháng 7 năm 2008, tôi dự họp CLB Truyền thống ngành Lao đ ộng Thương binh và Xã hội, tôi gặp chị Mai Thị Thủy Hoa là ái nữ nhà văn Mai Văn Tạo. Tôi trình bày có đọc quyển sách “TUYỂN TẬP KÝ MAI VĂN TẠO” có sử dụng làm tư liệu viết, gửi tặng chị Thủy Hoa ba bài thơ kỷ niệm. Chị rất vui, biết tôi thích sưu tầm sách, chị Thủy Hoa tặng cho tôi rất nhiều sách, thơ đặc biệt là những sách của nhà văn MAI VĂN TẠO:

· Tản văn MAI VĂN TẠO, NXB Hội nhà văn, 1999

· Trong vòng vây hãm, NXB Công An Nhân Dân, 2000

· Đất quê hương, NXB Văn Nghệ An Giang , 2001

· MAI VĂN TẠO Người con của núi, NXB Văn Nghệ An Giang, 2002

Hữu duyên thứ năm này, giúp cho tủ sách của tôi thêm phong phú. Tôi dành nhiều thời gian đọc thật kỹ, tìm hiểu thêm về cuộc đời hoạt động cách mạng và hoạt động văn học của nhà văn MAI VĂN TẠO.

TÓM TẮT TIỂU SỬ

“…Nhà văn MAI VĂN TẠO tên khai sinh là Nguyễn Thanh Tân , sinh ngày 15-03-1924 tại làng Vĩnh Tế – Núi Sam, vùng Thất Sơn – Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang) một miền đất “sáu tháng đạp đất đồng khô nứt nẻ, nửa năm lênh đênh trong biển nước mênh mông”.

Nhà nghèo, cha làm thợ đá, mẹ là người đồng quê lam lũ, không ruộng đất, con cá, bó rau đồng, tần tảo nuôi con. Ông vào đời rất sớm, tuổi thiếu niên đã sinh sống nhiều nghề: làm ruộng, phụ nề, cẩn đá bờ đường. Chưa thi tiểu học (Certificat d’ Etude primaire) đã phải rời ghế nhà trường, phiêu bạt lên Cao Miên kiếm sống …

Tháng 3-1945, Nhật đảo chính Pháp, ông cùng một số bạn đồng nghiệp, đồng hương, bỏ sở về H à Tiên bằng cách quá giang ghe biển .

Tháng 6-1945, ông tham gia cách mạng ở quê nhà, cách mạng tháng 8 nổ ra, ông tham gia cướp chánh quyền tại tỉnh Châu Đốc rồi gia nhập Cộng Hòa Vệ binh.

Tháng 10-1954, ông tập kết ra Bắc với chức vụ đại đội phó. Thá ng 5-1956 ông chuyển ngành ra đài Tiếng nói Việt Nam.

Tháng 4-1968 ông được chuyển về công tác ở Hội nhà văn Việt Nam.

Năm 1973 ông vượt Trường Sơn về đến Tây Nam Bộ và hoạt động văn nghệ miền Tây.

Sau Giải phóng miền Nam, ông về Văn Nghệ giải phóng miền Nam.

Tháng 12-1977 về Hội Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh.

Nhà văn MAI VĂN TẠO lâm bệnh và mất ngày 03-7-2002.

SỰ NGHIỆP VĂN HỌC :

“… Những tác phẩm đầu tiên, ký sự “Chết trong cảnh đói” (1947) viết về lụt ngập, truyện ngắn “Non nước Lam Sơn” viết về Nguyễn Trãi, kịch thơ “ Vì non nước” viết về Huyền Trân Công Chúa và nhiều bài thơ khác được in trên các báo Tiếng Dội, Việt Bút, Tương Lai … xuất b ản ở Sài Gòn dưới bút danh Chí L inh, Thanh Tân, Thệ Thủy gần đây thêm những bút danh báo chí : Bảy Núi, Trương Thế Sự, Hàn Vi.

“… Tháng 10-1954 ông tập kết ra Bắc với phù hiệu Vệ Quốc Đoàn. Năm 1958 ông chuyển ngành ra đài Tiếng nói Việt Nam. Hơn 10 năm làm biên tập , phóng viên văn nghệ, sáng lập các buổi phát thanh quân đội thanh niên , p hụ nữ, Việt kiều … Rồi sang Hội Nhà Văn ở tổ sáng tác.

Thời gian này, theo ông là thời gian sung sức đi thực tế nhiều nhất Tây Bắc, Trung Du, Đông Bắc, đồng bằng, giới tuyến Vĩnh Linh đều in dấu chân ông và có những bút k ý của ông viết về những miền đất đã đi qua.

Hầu hết, các tác phẩm của ông, gần 30 đầu sách đã in, phần lớn tuyển chọn trong hàng nghìn bút ký, truyện ngắn đã phát trên làn sóng Văn Nghệ và đăng trên các báo miền Bắc lúc bấy giờ.

Năm 1973 ông lại hăm hở vượt Trường Sơn về tậ n Cà Mau. Ở mảnh đất cuối trời này ông làm được tập ký “Quê hương cây đước cây tràm” , “ Nơi hội tụ những dòng sông” và trường ca “Đường về quê mẹ” .

Sau ngày miền Nam gi ải phóng, ông làm ngay tập ký “ Lại về quê lụa Tân Châu” và tập thơ “Bến Châu Giang” ( ghi lại những biến đổi cuộc sống và con người những năm đầu giải phóng ).

CẢM NGHĨ CỦA BẠN BÈ ĐỒNG NGHIỆP :

· Thy Ngọc trong bài “Những trang ký thắm thiết tình người” :

- … Những dòng, những trang Mai Văn Tạ o viết về quê hương anh vẫn là những dòng, những trang viết thiết tha hơn cả, bởi vì “ …Quê hương vừa là nơi khởi hành vừa là bến đậu” . Anh gọi núi Sam là “NGƯỜI” và giữa những trang văn xuôi, anh đã gởi gắm những câu thơ, cũng là những lời tự bạch.

- “ Đến bây giờ tóc ngả màu tro tôi mới biết thịt xương tôi – nước mắt của “ NGƯỜI” lọc qua trăm nỗi khổ đau. Trái tim tôi hằng cất lên tiếng yêu thương tha thiết. Chính bà n tay NGƯỜI nhào nặn tự bao giờ:

· NGUYỄN QUANG SÁNG - bài Đất quê hương của MAI VĂN TẠO:

“… anh viết với nỗi đau khi cơn nước lũ cuốn trôi nhà cửa, đồng ruộng, anh viết với nỗi bất bình trước những tệ nạn xã hội, nỗi bất bình như sôi lên trên ngòi bút của anh, anh viết thẳng, có thể nói anh viết chẳng ngán ai ! Anh viết vì tình y êu và trách nhiệm với quê hương , tôi không muốn đọc thay bạn đọc, nên không trích văn của anh, xin h ãy đọc của anh …” .

· TRẦN MẠNH HẢO - Ở ẩn trong con người của mình :

“… Có lẽ hiếm có một nhà văn nào gắn bó máu thịt với nơi chôn rau cắt rốn như nhà văn Mai Văn Tạo. Hầu hết những truyện ký của ông đều viết về quê nhà Châu Đốc, An Giang như: “ Lại về quê lụa Tân Châu”, “ Làng quê ngày ấy”, “ Quê hương cây đước cây tràm”, “Lời ru của mẹ”, “ Làng quê ” và tập truyện ngắn “ Phút cuối cùng của khỉ mẹ”. Qua những trang viết của Mai Văn Tạo, diện tích tâm hồn chúng ta, không gian, trí tưởng tượng của chúng ta như được nới rộng ra, khơi sâu thêm bởi cảm xúc sinh ra từ ngòi bút dung dị và chân tình này. Với Mai Văn Tạo, văn học nói cho cùng chính là chữ tâm, là tấm lòng nhân hậu sống và viết hết mình với quê hương ” .

· TRỊNH BỬU HOÀI – MAI VĂN TẠO người con của núi:

“… Quê hương là tâm hồn, là vẻ đẹp vô biên, là khao khát bao la của ngòi bút Mai Văn Tạo . Các bút ký, tùy bút của ông đã tạo cho người đọc cái cảm giác khi ông đặt bút xuống là tuôn chảy, tr àn trề, lai láng những ý tưởng , những tình, những âm thanh màu sắc, dù ông là người viết kỹ, viết chậm, từng câu từng chữ. Quê hương núi Sam là một làng nhỏ với trái núi nhỏ, nhưng qua ngòi bút của ông nó như vô cùng tận làm cho người ta cảm thấy yêu mến và khát khao thêm một quê hương như thế! Quả thật quê hương là máu thịt trong tim ông, chẳng bao giờ cạn, chẳng bao giờ cùng…” .

(Sách đã dẫn “ MAI VĂN TẠO người con của núi”

NXB Văn Nghệ An Giang, 2003)

TRÍCH DẪN MỘT VÀI BÀI KÝ

“ …Chiếc đò ngang sông Gianh vẫn qua lại đôi bờ. Người lái đò tay đưa đẩy chèo, vai mang súng, chốc chốc nhìn ra cửa biển. Chiều sông Gianh phơn phớt nắng. Hàng dương trên bãi cát vẫn khẽ hát rì rào. Trên cánh đồng từng tốp năm tốp ba người súng tréo ngang lưng, cặm cúi cấy từng giẻ mạ xuống bùn non. Hoa dừa trắng và hoa cỏ dại cánh nhỏ màu xanh nhạt lác đác trên trận địa pháo …”

(Đôi bờ cát nóng sông Gianh)

“… Một buổi rạng đông, vừa chỗi dậy, chợt ngó ra đồng, một cảnh tưởng lạ lùng hiện ra trước mắt, quá đỗi ngạc nhiên. Mới hôm qua đây cánh đồng lúa “sạ” mênh mông, giờ đây biến mất để lại một biển nước mù mù khói sóng như thể đại dương. Tôi ngơ ngác nghe tiếng mẹ kêu: “ Sóng gió đã bưng lúa hết rồi”! Hỏi mẹ, mới biết không chịu nổi sóng xô gió dập, từng ngày, lúa bật gốc, nước cuốn, nước đẩy về tận cánh đồng phía rất xa. Hiện tượng này dân làng gọi là lúa phựt.

Tôi ngồi im bâng khuâng nhìn biển nước và màn mưa trắng túi trắng đồng

(Miền lũ lụt)

Hai tuy ển tập thơ của Mai Văn Tạo là “Lời ru của mẹ ” và “G iọt lệ”

“… Nghìn xưa

Người đã lạc người

Đốt nến thành tro chưa hết khô

Người với người

Lạc nhau nữa người ơi ”

(Lạc)

Những trang viết của nhà văn Mai Văn Tao là tản văn, ký hay thơ đều được ông viết bằng chính trái tim, bằng lòng yêu quê hương, yêu đất nước, yêu con người. Những dòng chữ từ ngọn bút tuôn chảy theo cảm xúc, theo tấm chân tình, mượt mà, ấm áp đưa cảnh vật thiên nhiên, sông núi, đồng ruộng, con người, những sự kiện lịch sử, hiển hiện thật sinh động rõ nét đi vào lòng người đọc.

Đọc và v iết về nhà văn Mai Văn Tạo đọng lại trong lòng tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Theo từng trang giấy từng câu, từng chữ là những trang viết thắm thiết tình người, tình yêu quê hương. Nhà văn Mai Văn Tạo viết về cuộc sống, chia sẻ với chúng ta về cuộc sống, về quê hương của chính ông. Có lẽ đó cũng là cái đích đến khi ông viết thể loại bút ký. Là tổng kết của cả một đời người, một sự nghiệp văn chương có giá trị lâu dài trong lòng độc giả.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Phụ Bản II

Chiều nay Thứ Bẩy phòng mạch của bác sĩ Phí vắng hơn những ngày thường. Cuối tuần người ta đi chơi chỗ này chỗ nọ, thư giãn, đổi gió. Có bệnh gì đó chút đỉnh người ta cũng ráng chịu cho qua mấy ngày nghỉ xả hơi, đợi đến qua đầu tuần rồi bệnh muốn phát tới đâu thì phát. Ngoại trừ trường hợp có người nào bị bệnh phải đi cấp cứu thì đành phải hy sinh ngày nghỉ weekend để đi thẳng vô nhà thương cho bác sĩ quyết định sự sống còn.

Bác sĩ Phí tiếp quản phòng mạch này từ tay vợ ông sau khi bà lên đường sang Mỹ định cư sống chung với người con gái đã đi du học trước đây. Bà vợ ông cũng là bác sĩ chuyên về phụ khoa. Bà sử dụng phần trước của căn nhà do cha mẹ bà để lại để làm phòng khám ngoài giờ sau khi ở bệnh viện về. Lúc bấy giờ ông kiên trì dũng cảm bám miết cái bệnh viện trung tâm ròng rã mấy chục năm trời. Ông không hề đá hai chân bằng cách mở một phòng mạch cho riêng ông để kiếm thêm sau khi làm việc ở bệnh viện như bạn bè của ông đang làm. Ông nói:

- Bệnh nhân ở đây còn nghèo quá, họ làm gì có tiền để chạy thêm bác sĩ ngoài?

Nghĩ vậy rồi ông cứ bám lấy bệnh viện trung tâm này và hết lòng phục vụ bệnh nhân nghèo trong bệnh viện. Ông không lo vấn đề kinh tế cho gia đình vì vợ ông kiếm tiền hơn ông nhiều lần. Bà tự lo cho con gái đi du học. Bà thường chê ông là gàn dở không thích nghi với thời cuộc đổi mới mà khả năng làm giàu coi như trong tầm tay của một bác sĩ. Bà kể cho ông nghe mấy ông bạn của bà, người nào cũng giàu có, phòng mạch lúc nào cũng đông. Ông chồng thì khám bệnh cho toa để bà vợ bán thuốc. Vòng tròn khép kín, bệnh nhân không có ngõ nào chui thoát đi đâu được. Có ông nổi tiếng, phòng mạch không đủ chỗ chứa, bệnh nhân phải đứng ngồi tràn lan ra ngoài lề đường. Có ông tổ chức phát thẻ mang số thứ tự. Người nào đến trễ lãnh được những con số sau cùng sẽ được khám vào lúc 9, 10 giờ tối. Bà hỏi ông:

- Ông tính coi một ngày năm bảy chục người khám, tiền thu được bao nhiêu?

- Tôi biết chứ, tính dễ ợt, nhưng mà tôi không thích như vậy. Tôi làm ở đây đủ sống rồi.

Đúng vậy, ông biết có nhiều đồng nghiệp, đồng môn với ông hiện nay đang giàu sụ, nhiều người tậu villa ở quận 7, đi xe con hồi xưa gọi là xế hộp.

Khi gần đến tuổi về hưu bạn bè ông khuyên nên tìm một bệnh viện có đầu tư nước ngoài để làm việc cho qua thời gian tuổi già, ông trả lời dứt khoát:

- Tôi có đường “binh” rồi mấy ông ơi!

Người ta, ai cũng hiểu ông đã chuẩn bị cho thời gian hưu trí rồi.

Trong bệnh viện ông luôn cho toa với những loại thuốc của các nhà sản xuất trong nước có khả năng trị bệnh, cố gắng tránh cho người bệnh không phải mua những loại thuốc ngoại mới nhập về rất đắt tiền đã được mấy ông bà trình dược viên giới thiệu tỉ mỉ. Ông biết, qua báo chí, có những bác sĩ cố ý biên toa bắt bệnh nhân mua nhiều thứ thuốc không cần thiết cho việc trị bệnh hoặc những thứ thuốc vô thưởng vô phạt, uống vô trôi mất tiêu không gây một phản ứng gì trong cơ thể. Người nghèo khó, rủi ro mắc phải bệnh tật đi khám bác sĩ bị bóc lột sạch túi. Quả đúng với cái câu thành ngữ “chó cắn áo rách”.

Bao nhiêu năm qua, làm việc ở đây, ông thấy tội nghiệp cho những người đã đến khám bệnh với ông, đa số là người dân chung quanh và những khu lân cận. Hầu hết họ là những người nghèo khó, làm lao động phổ thông, cũng có người thuộc thành phần trung lưu, giáo viên cấp hai, nhân viên văn phòng, cơ quan hành chánh sự nghiệp. Bất cứ bệnh gì họ cũng đi đến ông mặc dù ngoài bảng hiệu ông để điều trị nội khoa. Ông nhận thấy những bệnh nhân đến với ông thường không biết cách giữ gìn sức khỏe, không biết cách giữ vệ sinh. Khi có bệnh thường “lướt” qua, ráng chịu đựng được ngày nào hay ngày ấy đến khi không còn đi được nữa mới đến cầu cứu bác sĩ. Có người đến khám bác sĩ thấy huyết áp cao, ông hỏi:

- Hồi nào tới giờ có đi khám bác sĩ chưa?

- Dạ chưa.

- Sao vậy?

- Sợ bác sĩ tìm thấy bệnh hoạn tùm lum.

- !!

Với cách suy nghĩ như vậy, nếu còn đi đứng được họ không hề tìm đến bác sĩ hay bệnh viện làm gì. Do đó, khi họ tìm đến bác sĩ đều ở trong tình trạng trầm trọng rồi. Rõ ràng, khi đến bất cứ một bệnh viện nào ai cũng nhận thấy, chiếm tỉ lệ phần trăm rất lớn là thành phần lao động, nghèo, văn hóa kém.

Điều hấp dẫn nhất đối với người dân đến khám bệnh ở phòng mạch bác sĩ Phí là bác sĩ không lấy tiền. Nói rằng ông bác sĩ này không lấy tiền thì không đúng. Ông cho đóng một thùng phước sương bằng gỗ, giống như ở trong chùa, làm “két” thu tiền của ông để bệnh nhân bỏ tiền vô đó “bi nhiêu thì bi, tùy hỉ”, ông thường nói vui với bệnh nhân như vậy. Những người lớn tuổi nhất là các bà cao tuổi cứ nhắm chừng giá khám bệnh của các bác sĩ khác mà họ biết, rồi giảm bớt chút đỉnh bỏ vào thùng phước sương. Không ai ra về mà không ghé lại thùng phước sương. Nhiều lần có những ông già bà lão, dáng dấp nghèo khó, khám xong đi chầm chậm đến thùng phước sương, bác sĩ kêu lại:

- Được rồi, về đi, để tiền đi mua thuốc.

Có người hỏi ông tiền khám do bệnh nhân đưa ông để làm gì. Ông trả lời nhanh chóng.

- Tiền thuế nè, điện nước, sửa chữa phòng mạch.

- Ông có làm từ thiện không?

- Có chứ, tôi thường đem về cho những nhà nghèo ở dưới quê tôi.

- Sao ông không đưa vào chùa để tạo công đức?

- Không. Làm từ thiện ở đâu cũng tạo công đức. Việc khám bệnh của tôi cho người nghèo cũng đủ tạo công đức rồi, nếu như thực sự có cái chuyện này.

Vậy là đến nay bác sĩ Phí đã đạt được ý nguyện của mình. Khi mới tốt nghiệp trường y, đọc xong lời thề Hippocrates, ông đã mơ ước mở một phòng khám bệnh hoàn toàn miễn phí cho người nghèo. Mẹ ông đã khuyên hãy đợi đến khi nào ông học hỏi kinh nghiệm thực tế và hành xử nghề nghiệp của một lương y hoàn hảo thì mới đủ tư cách phát nguyện tạo công đức, và thời điểm vàng đó chỉ có thể đến với ông sau khi ông đã về hưu.

Mỗi ngày ông dành nguyên buổi sáng để tập thể dục, đi chợ chuẩn bị cho các bữa ăn trong ngày, đi giao dịch tại các cơ quan như phòng Thuế, Sở Y tế… nếu không phải đi chỗ này chỗ nọ thì ông ở nhà đọc báo, đọc sách, nghe nhạc xưa. Buổi chiều ông khám bệnh từ l ú c bốn giờ đến chín giờ có khi kéo đến mười giờ, ông khám đến người cuối cùng không bao giờ để ai phải ra về mà không được khám với ông. Ông biết có nhiều ông bác sĩ trẻ hơn ông bây giờ, khám bệnh thường làm ra vẻ trầm trọng, hà tiện lời nói hoặc hỏi theo kiểu nhát gừng: “Thấy sao?”, “Ăn được không?”. “Rồi. Về đi!”. Bệnh nhân đứng dậy ra về nhanh chóng vì nán ở lại nhìn mặt ông bác sĩ này chắc bệnh sẽ nặng thêm. Ông biết khi mấy ông bác sĩ này còn ở trường Y đều có học cách hỏi bệnh rất đàng hoàng, đầy đủ chi tiết không những thế họ còn học thêm những câu nói lịch sự an ủi bệnh nhân, xoa dịu nỗi lo lắng của bệnh nhân để họ an tâm điều trị. Ra khỏi trường chắc là mấy ổng trả lại thầy hết rồi.

Có lần ông đi “vi hành” đến một phòng khám, ông nhìn thấy có một nữ nhân viên tuổi tầm trung trung ở khu tiếp nhận bệnh, mặc áo “blu”, đang nạt nộ bệnh nhân lớn tuổi vì bệnh nhân này đã không biết đến bấm vào máy lấy số thứ tự. Nghe tiếng nói ông biết nhân viên này là người xứ khác, không phải xuất thân từ thành phố này và có lẽ đã quen kiểu ăn to nói lớn. Đúng ra nhân viên này chỉ cần nói nhỏ nhẹ:

- Chị ra kia lấy số rồi chờ đến lượt quay lại đây.

Đơn giản vô củng, cần gì phải la lối. Có một bệnh nhân kể cho ông biết ông ta đã có lần đến một phòng khám tư nhân, ở đây tất cả nhân viên y tá rất lịch sự lễ phép, hình như có chỉ đạo từ cấp trên, câu nói nào cũng gắn vào hai tiếng “giùm con”, hay “giùm em”… ví dụ như “Bác ký vào giấy này giùm con”, “Chú đóng giùm con hai chục ngàn”, đến khi ông ta vào phòng đo điện tim, cô y tá bảo:

- Chú cởi áo giùm con!

Ông ta cười thầm và tự cởi áo ra, dĩ nhiên không phải cởi áo cô y tá, và nằm xuống để cô thao tác công việc chuyên môn.

Nhiều khi bác sĩ Phí cũng cảm thấy đau đầu khi thấy rất nhiều bệnh nhân rất sính cái môn cạo gió và giác hơi. Bà kia có thằng con trai mười lăm, mười sáu tuổi đá banh bị trặc chân, đau đầu gối, người nhà dẫn đến một bà nào đó nhờ cạo gió chỗ đùi và đầu gối. Qua ngày hôm sau cậu nhỏ không thấy thuyên giảm, không đi học được người nhà sốt ruột dẫn đến bác sĩ, và không ai ngoài bác sĩ Phí, ông này cũng chỉ còn nước chỉ lên bệnh viện chấn thương chỉnh hỉnh để nơi đây chụp X quang và chẩn bệnh. Nhiều cô gái đẹp mặc áo dây đeo, đưa vai trần với những lằn đỏ mang hình dáng cái xương cá trông thật phản cảm, hoặc một anh thanh niên đưa nguyên lưng trần phô bày chi chít những dấu tròn bằng miệng chén trà màu tím thẫm. Người ta còn nói giác hơi như vậy mới mau hết bệnh.

Cách đây gần mười năm bác sĩ Phí có lần đi ngang một con đường nho nhỏ ở khu Tân Định, ông thấy có một bà chuyên môn cắt lể. Khi có một bệnh nhân đến khai bệnh nhức đầu, bà dùng một cái mảnh chén kiểu cắt lên trán người bệnh năm sáu khía mỗi khía chừng vài milimét từ thái dương bên này qua thái dương bên kia, sau đó bà lấy những ống tre bằng ngón tay đang luộc trong một cái siêu gần đó chụp lên những vết cắt đang rỉ máu. Lúc này người bệnh giống hệt Nữ thần tự do với những gai nhọn tua tủa chung quanh trán. Những ống tre này sẽ hút máu từ những vết cắt rên trán bệnh nhân. Bà nói như vậy bệnh nhân sẽ khỏi bệnh nhức đầu. Bác sĩ Phí kinh hãi quá quay xe chạy một mạch về nhà lật vở ra ghi chép vào đề tài nghiên cứu vể cách trị bệnh dân gian của người Việt Nam.

Nhiều năm gần đây, bác sĩ Phí thấy người ta quảng cáo rất nhiều thứ thuốc liên quan đến nhiều thứ bệnh nặng có, nhẹ cũng có. Bài quảng cáo viết rất công phu chứng tỏ người viết rất am tường về y học, phải là người trong nghề mới viết được như vậy nhưng không hề có ghi tên tác giả. Dưới bài viết người ta giới thiệu một loại thuốc thường mang tên giống như một loại thuốc đông y, uống vào là hết bệnh, nhưng khôi hài là cuối bài viết ghi hàng chữ: “Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh”. Trên TV cũng thường có những quảng cáo tương tự và câu này được đọc rất nhanh, nhanh đến nỗi khiến cho người ta thấy cái gì đó bất thường, giống như không muốn cho người ta nghe thấy. Nếu không muốn người xem đài nghe thì đừng đọc, nhưng khổ nỗi có lẽ bị bắt phải đọc. Do đó nhà sản xuất phải “lách” bằng cách cho nhân viên quảng cáo đọc thật nhanh, không muốn cho người xem đài nghe để họ nhập nhằng đây cũng là thuốc trị bệnh.

Thực ra, cái chiêu qua mặt cơ quan y tế như thế này không phải là mới mà bắt chước theo kiểu quảng cáo sữa trước đây. Lúc bấy giờ mỗi chương trình quảng cáo sữa trên TV đều đọc câu: “Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho sức khỏe và sự phát triển toàn diện của trẻ nhỏ”. Câu này cũng đã được đọc với độ nhanh của một con tàu siêu tốc, khiến người ta tưởng cô MC này bị líu lưỡi và người nghe không thể nào nghe kịp.

Ông bác sĩ già này ngẫm nghĩ. Câu này chắc chắn là của cơ quan y tế bắt buộc nhà sản xuất phải ghi vào khi quảng cáo. Xét về mặt ngôn ngữ học thì câu nói của quảng cáo thứ sản phẩm “không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh” nghe thật kỹ thì thấy không “xuôi chèo mát máy” như câu trong quảng cáo sữa. Đã “không phải là thuốc” thì dĩ nhiên không có “tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh”, nhưng sao lại “tác dụng” mà không phải là “công dụng” hay nói khác đi là “không dùng để thay thế thuốc chữa bệnh” hay nói dứt khoát hơn là “không dùng để trị bệnh”. Không được, nói như vậy sẽ đụng chạm đến các nhà sản xuất. Một điều nữa cũng khá ngộ nghĩnh, đó là những sản phẩm không phải là thuốc chữa bệnh nhưng lại được phép bày bán trong tất cả các nhà thuốc tây. Nếu không phải là thuốc mà người tiêu dùng sử dụng qua đường miệng vậy đó là thực phẩm. Mà thực phẩm chỉ được bán trong các tiệm tạp hóa, siêu thị, hoặc ngoài chợ mà thôi.

Bác sĩ Phí nghĩ đi nghĩ lại hoài nhưng sau cùng ông cho rằng chuyện làm ăn của người ta, ông không nên nghị luận làm gì, miễn là họ không làm gì vi phạm luật pháp. Nhà nước cho phép họ sản xuất thì họ sản xuất, cho phép họ bán trong nhà thuốc tây, họ bán trong nhà thuốc tây, nhà nước cho phép họ quảng cáo theo cách nào đó họ đều răm rắp tuân theo. Vấn đề là người bệnh phải biết nhận định đúng đắn cái nào là thuốc trị bệnh thì mua và phải thông qua bác sĩ, thứ gì không phải là thuốc, hay nói một cách tránh né “không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh” thì xin dứt khoát đừng mua về kẻo tiền mất tật mang. Vậy là được rồi.

Hiện nay, bác sĩ Phí đang theo đuổi mục đích là thực hiện tấm lòng của một lương y như từ mẫu theo kiểu cách mà ông đã mong ước từ khi còn trẻ. Ông còn nhiều việc phải làm hơn là tìm hiểu những công việc của người khác mà ông không cần thiết phải quan tâm…

Dương Lêh

60 NĂM TRƯỚC

TÔI XEM KỊCH VÀ ĐỌC TIỂU THUYẾT

NỬA CHỪNG XUÂN

Vào khoảng năm 1938-1939, tỉnh lỵ Thái Bình nay gọi là thị xã - hô hào cứu trợ đồng bào nghèo trong tỉnh. Các thầy cô giáo dạy ở các trường tiểu học của tỉnh và phủ, huyện sốt sắng hưởng ứng bằng cách diễn kịch lấy tiền làm việc từ thiện. Nhà giáo, nhà văn Nguyễn Công Hoan năm ấy dạy lớp Nhất trường Mông-guy-ô của tỉnh (tương đương lớp Năm bây giờ nhưng học toàn tiếng Pháp) chọn vở “Nửa chừng xuân” dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Khái Hưng và đạo diễn luôn. Sau mấy buổi cổ động rầm rộ, vào một buổi tối thứ bảy, vở kịch được công diễn tại trụ sở Hội Trí thể dục Thái Bình ở đầu tỉnh.

Đêm diễn bắt đầu. Ba tiếng gõ xuống mặt sàn “Chát! Chát! Chát!” nổi lên. Thày Hoan, comlê, càvạt chững chạc hơn mọi ngày, lách màn nhung màu đỏ sẫm, bước ra nói đôi lời khai mạc ngắn (thời ấy chưa có micrô). Lát sau, ba tiếng gõ lại vang lên. Hai cánh màn nhung mở ra, các diễn viên xếp thành hàng ngang cúi đầu chào khán giả ngồi chật kín căn nhà lớn. Tiếng vỗ tay ran lên. Khán giả thời ấy hầu hết là quan lại, vợ con họ, công chức, thương gia, thầu khoán, tiểu thư nhà khuê các. Cánh học sinh trung học chúng tôi nghèo, mua vé hạng bét, đứng ở bao lơn trên gác nhìn xuống, thấy các thầy cô thường ngày mô phạm, giờ bỗng trở thành diễn viên, thì rất khoái, vỗ tay to theo nhịp, miệng hét: “Bravo” (Hoan hô).

Thời xưa, sân khấu còn đơn giản. Tiếng nói của diễn viên chưa có dàn âm thanh điện tử khuếch đại nên nhiều lúc nghe không rõ. Nhưng điều không ngờ các thầy cô dù chỉ là nghiệp dư diễn rất đạt, chiếm được tình cảm của khán giả.

Đêm ấy, trên đường về, cánh học sinh chúng tôi cứ khen hoài:

- Khái Hưng tuyệt quá, vở “Nửa chừng xuân” không chê được, chống lễ giáo phong kiến và bảo vệ tư do hôn nhân rất mạnh, khán giả vỗ tay lia lịa.

Và chúng tôi chuyền tay nhau đọc tiểu thuyết “Nửa chừng xuân” của Khái Hưng (1896-1947) mới biết ông tên thật Trần Khánh Giư, xuất thân trong gia đình quan lại ở Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, là một trong những cây bút chủ chốt của Tự Lực Văn Đoàn, cũng là cây bút viết đều cho các báo Phong Hóa, Ngày Nay.

Ông có một kho tiểu thuyết: Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Tiêu sơn tráng sĩ (1934), Đời mưa gió (1934, viết chung với Nhất Linh), Trống mái (1935), Gia đình (1936), Thoát ly (1937), Thừa tự (1938), Đẹp (1939), Thanh Đức (1943). Và một kho truyện ngắn, có thể kể các tập: Anh phải sống (1934, viết chung với Nhất Linh), Tiếng suối reo (1935), Dọc đường gió bụi (1936), Đợi chờ (1938), Hạnh (1939). Ông cũng là tác giả của mấy tập kịch: Tục lụy (1937), Đồng bệnh (1942).

Trong bước phát triển của văn xuôi vào những năm 30 đầu thế kỷ, Tự Lực Văn Đoàn có một vị trí nổi bật. Ở thời kỳ này, trong dòng văn học lãng mạn nổi lên hai thể loại quan trọng: phong trào thơ mới và văn chương Tự Lực Văn Đoàn. Văn chương lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn ra đời từ “sau cơn khủng bố trắng 1930*-1931”. Và trong cái văn đoàn Tự lực này, mặc dầu không phải là một tổ chức thuần nhất, có nhiều thành viên khác nhau về chính kiến và quan điểm nghệ thuật, Khái Hưng vẫn là cây bút tiểu thuyết tiêu biểu hơn cả. Còn Nửa Chừng Xuân là tác phẩm chống lễ giáo phong kiến khá mạnh và bảo vệ tự do hôn nhân, cũng là tác phẩm có giá trị được độc giả hoan nghênh hơn cả.

Nửa chừng xuân mô tả Mai, người con gái nền nếp, đẹp dịu dàng, cha mẹ mất sớm, nuôi em trai ăn học. Cô yêu Lộc làm tham tá, sau thăng tri huyện, con cụ Án, gia đình này trước đây cụ Tú Lãm (bố Mai) từng sống và dạy học. Tình yêu giữa hai người là tình yêu tự do lựa chọn nhưng bị lễ giáo của đại gia đình phong kiến ngăn chặn. Lộc phải nhờ một bà cụ già làm giả bà Án để hợp pháp hóa việc hôn lễ. Yêu Lộc, Mai chấp nhận việc làm đó, nhưng bà Án nhất định phá bằng nhiều kế xảo quyệt. Mai có mang phải ra đi cùng người em, sau này sống ổn định cùng với người em và con trai ở một tỉnh trung du. Bị bà Án đánh lừa, Lộc nghi ngờ Mai, lấy vợ là con gái ông Tuần nhưng không có hạnh phúc. Thèm đứa cháu trai nối dõi sau này, bà Án tìm gặp Mai, đòi lại cháu nhỏ và cho phép Mai được làm lẽ. Hiểu rõ người yêu, Lộc cũng tới tạ tội cùng Mai, xin được đoàn tụ. Vẫn yêu Lộc nhưng Mai khuyên chàng chôn chặt mối tình đó trong lòng và khước từ sống chung giữa tuổi đời đang ở độ nửa chừng xuân. Câu chuyện kết thúc khiến người đọc thấy rõ sự tấn công và cổ hủ đến mức tàn nhẫn của một bà quan hách dịch, một bà mẹ phong kiến, cũng gieo vào lòng người đọc những suy nghĩ bâng khuâng về một tình yêu lý tưởng, có nhiều tình huống éo le, vượt lên nhiều đau khổ. Tác phẩm còn có những nhân vật phụ như ông Hạnh, người lão bộc trung thành, bà Cán, cô Diên, người lao động nghèo sẵn lòng giúp đỡ, cháu Ái thông minh… đọng lại rất lâu trong lòng khán giả và độc giả.

Sau này, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan nhận xét về hai tác phẩm Hồn Bướm Mơ Tiên và Nửa Chừng Xuân, cho rằng cả hai tiểu thuyết đều được rất nhiều phụ nữ trí thức Việt Nam hoan nghênh bởi cảnh vật, cử chỉ, ngôn ngữ đầy thơ mộng, hợp với tâm hồn nữ giới. Qua hai cuốn sách đó, tình yêu của các nhân vật đều có tính lý tưởng, văn chương giàu chất gợi cảm, song lại có nhiều điểm khác nhau về cơ bản. Hồn Bướm Mơ Tiên chỉ là truyện tình thơ mộng, hạn chế nhiều về ý nghĩa xã hội. Còn Nửa Chừng Xuân là cuộc tuyên chiến với lễ giáo phong kiến, đấu tranh cho quyền tự do hôn nhân của tuổi trẻ có học vấn đang phát triển lúc ấy.

Già nửa thế kỷ trôi qua. Giờ đây, khi mái đầu đã bạc, nhớ về đêm kịch Nửa Chừng Xuân ở thị xã Thái Bình chúng tôi vẫn còn như văng vẳng bên tai những tràng pháo tay dạt dào, khi có cuộc đối thoại giữa Huy, Mai với bà Án trong mấy lần giáp mặt, những cuộc tranh luận gay gắt, nẩy lửa giữa những tư tưởng mới đối lập với nền luân lý cũ không thể dung hòa. Còn nhớ lần bà Án quyết định sẽ lấy vợ cho Lộc và lần bà Án khéo dụ dỗ Mai về làm lẽ Lộc để đòi đứa cháu trai nối dõi tông đường. Căm giận, đau khổ, nhưng cứng rắn, Mai phải nói cho ra nhẽ với giọng xúc động. Những đoạn văn tranh luận hùng hồn, lý lẽ tuyệt hay, làm hả lòng những thanh niên, trí thức đương thời ngồi ở dưới, không thể không tỏ thái độ bằng những tràng vỗ tay dài.

Nửa Chừng Xuân vẫn đứng vững với thời gian, vẫn là tiểu thuyết hiện thực tiến bộ, văn chương vẫn hiện đại. Tác phẩm được đưa lên sân khấu, được các nhà xuất bản in lại nhiều lần, cũng là sách học của sinh viên trường đại học hôm nay.

Đó là thành công của Khái Hưng, đóng góp vào sự phát triển của nghệ thuật tiểu thuyết.

KIÊN PHONG - DUY TUẤN

HOÀNG KIM THƯ st

THANH TÂM CUỘC ĐỜI

Cuộc đời đâu luận trẻ già

Nếu không sức khỏe ắt là thiệt thân

Thể thao luyện tập chuyên cần

Siêng năng đi bộ cứng chân mới tài

Thở cho nở rộng đôi vai

Thiền cho đạt được Như Lai mới mầu

Cao niên chớ có câu mâu

Giữ cho tâm trí nơi đâu cũng hòa

Phong lưu vui với kiểng hoa

Được nhiều thi hữu gần xa phúc lời

Thơ ca xướng họa đầy vơi

Đô thành cảm tác đến nơi bưng biền

Giao lưu cùng với bạn hiền

Tầm nhìn mở rộng là tiên hồng trần

Làm người có đức có nhân

Trời ban hạnh phúc muôn phần vinh quang

Trăm năm an hưởng thanh nhàn

Chữ TÂM rực rỡ như vàng không phai ...

Thanh Châu

RU KHÚC TÌNH CA

Bên tai bất chợt nhè nhẹ bản tình ca

Như lời thủ thỉ da diết của đôi tình nhân nồng thắm

Nghe mình lâng lâng một cảm xúc dìu dịu

Tình yêu man mác như chút men rượu vang đầu lưỡi

*

Cuộc đời mãi mãi không thể thiếu những bản tình ca

Tâm hồn mãi mãi không thể thiếu những hương hoa

Dù phía sau những đóa hồng tình yêu có là gì đi nữa

Thì trái tim vẫn bồi hồi dào dạt tiếng yêu thương

*

Giữa sa mạc giữa bão giông giữa gông xiềng khốc liệt

Chỉ cần trái tim được sưởi ấm bằng ánh mắt thiết tha

Người ta sẽ đủ sức đi qua

đủ sức vực mình giữa than hồng rực cháy

Người ta sẽ luôn mong mỏi

tìm về nơi người ta được tình yêu đón đợi

Và cứ thế những bản tình ca luôn cất lên da diết

Là khúc ru mềm mại

cho những tâm hồn ngỡ đã thành đá sỏi

Những trái tim dẫu đã bao lần sạn chai chắp vá

Vẫn nghe như con suối ngọt ngào

len qua giữa những khúc tình ca

Và người ta vẫn mãi dạt dào trước những đóa hoa

ĐÀM LAN

THÁNG TƯ

Rỉ rả vậy mà, tháng tư đã vơi đi một nửa

Bóc đời ta chẳng mấy chốc trơ xương

Nhìn cây xanh ngút ngát dốc đồi nương

Thèm thuồng quá thảm cỏ nhung thời niên thiếu…

*

Dẫu mặt trời hấp háy qua ngọn tre cao nghệu

Thì thật ra, đàng sau nó là mây đụn đăm chiêu

Chỉ một chút giận thôi, mây sẽ xúi mưa trèo

qua tầng gió rồi tràn về muôn nẻo.

*

Kể cả lối ta đi vốn bắt đầu thất thểu

Mưa cũng làm nhòa tan mọi dấu tích thời gian

Để sáng mai dẫu nắng có chói chang

Thì mọi sự trong hồn ta chỉ còn là trống rỗng…

*

Ừ! Mưa nắng, xuân thu vốn là dao cắt ngắn

Đoạn đường mênh mang, trơ lại chút trầm tư

Chân dẫu có chậm thì trí vẫn nghi ngờ

Rằng thật ra, chân đang mau chóng đưa ta về cõi khác…

*

Ừ! Cứ mưa đi, vì dù mưa hay nắng

Cũng thế mà thôi, những lát cắt vô hồn

Xua dần của ta ngày cũ, để rêu phong

Chật cả hồn, rủ đời vào quên lãng…

LAM TRẦN

15.04.2015

MỘT CHUYẾN BAY

Nếu có cánh, chắc là ta rơi tõm

Xuống biển xa, trước lúc đến những nơi ta mến yêu.

Vì chỉ tại một điều:

Rằng ta cố bay nhanh

mà cánh ta không còn number one nữa !

*

Sao thế ư ? Vì tim ta òa vỡ

Với niềm vui sẽ hội ngộ bạn bè.

Sau bao tháng năm ngóng đợi lê thê

Sau bao phút giây đoán non đoán già, bạn ta ra sao nhỉ ?

*

Cũng có khi ta sẽ như người mất trí

Đâm vào đồi cao vì nghĩ tưởng mông lung

Nghĩ về ngày xưa, nghĩ đến cuộc trùng phùng

Thế là mất lái, cánh bay rơi lả tả !

*

Nhưng dẫu thế nào, dẫu qua bao phúc họa

Ta chẳng bao giờ quên được những bạn thân

Dẫu có xuội lơ dưới đáy biển âm thầm

Ta sẽ réo cho biển sôi lên sùng sục.

Rằng bạn ơi, cõi đời dù được mất

Thì bạn chưa bao giờ rơi mất khỏi lòng ta…

LAM TRAN

RƠI VÀO QUÊN LÃNG

Trưa Hè nắng gay gắt

Ghé quán nhỏ ven đường

Tao đàn bạn bốn phương

Vui câu thơ đồng điệu

(ngẫu hứng bốn câu thơ)

“Lý Bạch”:

*

Chàng như cỏ Nữ La

Thiếp như Thố Ty hoa

Cành mềm không tự chuyển

Nghiêng ngả gió xuân qua

*

Khách tao nhã

Bạn văn chương

Bóng chiều ngã

Đường về xa

Chìa tay vài câu ngắn ngủn

Hẹn nhau gặp lại nơi nầy

*

“Rồi một hôm”

Âm thầm chia tay

Tiếc lời giã biệt

Đối diện chẳng nhìn

Ngoảnh mặt làm thinh

Câu thơ viết dở

Đoạn kết vu vơ

Chạnh lòng người ở

Buồn khách ra đi

Lủi thủi ta về

Màn đêm buông xuống

Vòm trời lơ lửng

Treo nửa vầng trăng

chú Cuội ơi?

Sao nỡ để chị Hằng

Ném nửa mảnh “trăng”

ra nơi hoang đảo

*

Ta không phải Tú Uyên

Nàng không là Giáng Kiều

Duyên Bích Câu Kỳ Ngộ

Chờ đợi người trong tranh

*

Vần thơ ta viết biết trao ai

Mấy nhịp cầu qua bước lạc loài

Đèn hắt bóng đường về quạnh quẽ

Khúc tương tư khép kín đêm dài.

Trần Văn Hữu

Đoản khúc thu

Chuông thu ư, tiếng giáo đường

Kinh thu gõ, phố thêm thương tư chiều

Tình thu gõ, khúc thương yêu

Xin ngôn ngữ chút hương nhiều nét môi

Chiều thu vấp phải tiếng cười.

Bs.Đoanlinh

CHÚT SÁNG THẦM

Ngọn đèn nguyện cầu nguyên đêm

Chênh một góc nhà thân thương tối

Chúa là nén hương tỏa thơm

Con chỉ tàn hương rơi vụn vội

Tiếng thạch thùng xé rách đêm hoang

Dẫn dụ lòng con về đoạn kinh vừa đọc

Chúa vẫn xanh

Xanh hơn biển của nền trời xanh con ước…

Con chậm nửa bàn chân

Ngỡ chỉ trễ một thời

Nào hay một đời khóc muộn

Hạnh phúc thơm lên

Nỗi đau nhẩy mầm xanh xuống

Mặc tháng ngày tàn úa rêu phong

Thực hay ảo. Chúa có hay không

Lại bắt đầu trong con nói rõ

Nguyện cầu nghiêng đêm

Dù lẻ loi như vì sao nhỏ

Chút sáng thầm

Con gửi Chúa đêm đêm

11.4.2015

Bs. ĐOANLINH

CON NHỀN NHỆN

Tằm kéo tơ nhện cũng kéo tơ

Tằm làm ra kén, nhện không ngơ

Thêu thùa nào thấy hình sô gấm

Đương đát sao ra mặt đó lờ

Bắt bướm giữa nhà toan thả lưới

Treo dù trên trính cũng đề thơ

Vẽ bùa mà dọa đoàn ruồi muỗi

Mắt thánh che bằng mảnh vải thưa

LANG NGUYÊN

ĐỔNG TRÁC LÚC THỌ HÌNH

Diễn lớp tuồng hay kép lại ngu

Đóng vai Đổng Trác mập ù ù

Cậy quyền hốt của kho đầy dẫy

Đâm kích lòi phèo miệng tréo tru

Mắc kế Tư Đồ nên nát xác

Lầm mưu Lý Túc nhảy tung dù

Ngày đền nợ máu cho dân chúng

Soi bụng khêu đèn cháy tận khu

LANG NGUYÊN

HOA ĐỒNG NỘI

· Bông súng

Một mình một cõi

Bao la

Sóng nước mịt mù

Giông tố

Nở hoa

· Bông biếc

Hiên nhà ai

Lẻ loi giây bông biếc

Lác đác lá hoa

Mảnh mai tím ngát

Như người đứng đợi

Người xa.

Bình yên nơi điền dã

Bên thềm mái lá

Lặng im

Bông biếc.

· Phù dung

Ban mai trắng muốt trưa hồng

Nét hoa kiều diễm cho lòng lung lay

Sớm chiều hai sắc đổi thay

Cho đời thêm thắm cho say tình người

· Bông điên điển

Trời mang hoa trải xuống đồng

Gieo vàng sóng nước mênh mông bạt ngàn

Mặc giông tố, mặc lũ tràn

Càng mưa gió lớn sắc càng thắm tươi

Trọn tình kiếp kiếp với người

Phong ba bão táp không rời đồng quê

MAI VĂN TẠO (Xuân 1996)

H.T.KIM BỘI St

TÔI ĐÃ VỀ ĐÂY SAPA ƠI !

Tôi đã về đây SA-PA ơi !

Lại được ngắm nhìn Phăng Si Păng

đỉnh cao mây trắng vắt ngang trời

Lại được lang thang trên đường phố núi

Xuống chợ lên đồi

Xin chào mỗi ngọn thông

Mỗi nhành hoa

Mặt tường nhà thờ rêu đỏ

*

Chào em gái Hơmông

Em bằng tuổi tôi những ngày xa xưa đó

Anh lính biên cương chân đất áo chàm

Hát vang bài ca chính khí

Tiếng hát bay lên thành vũ khí

Qua Ô Quý Hồ, Bình Lư một giải biên thùy

Hơn nửa thế kỷ đã qua đi

Tóc bạc rồi mà trái tim còn nồng nàn sức trẻ

Để được góp thêm vào ngọn lửa niềm tin

Về một thiên đường SA-PA có thật

Nơi mái nhà tổ tiên đã cất

Chót vót hiên ngang miền đất địa đầu

*

Tôi đã về đây SA-PA lặng lẽ

Như đứa con ngả vào lòng mẹ

Dưới bóng cây rừng nghĩa nặng tình sâu…

SAPA – 5.1947-12.2000

LÊ NGUYÊN

SỐNG LẠI

Kính tặng ân nhân và đồng đội của tôi

Tôi đã biết thế nào là cái chết

Thấy người nhẹ tênh bay bổng lên cao

Giữa bốn bề lấp lánh trăng sao

*

Tôi đã nghe bên tai lời đồng đội

“Thôi đi nhé, Nguyên ơi !”

Hôn mê rồi nên đâu kịp trả lời

*

Bà con xúm vào cứu anh bộ đội

Nhưng muộn rồi, nhang thắp trên đầu

Đặt tạm anh nằm, ai cũng xót đau

*

Ôi bàng hoàng tôi thấy mình tỉnh lại

Bên vòng tay em gái mẹ già

Như trở về sau một chuyến đi xa

*

Nghe kể lại phút giây tuyệt vọng

Có một lão nông trong núi đi ra

Ông rút nén nhang châm trên ổ bụng

*

Rồi bất ngờ sự sống xảy ra

Hồi tỉnh lại ông già đã đi vào núi

Chẳng để lại lời dặn nào cho tôi

như là cổ tích giữa đời thường

Anh bộ đội chết rồi

Lại tiếp tục lên đường vào chiến dịch

LÊ NGUYÊN

9.1960

ANH BỘ ĐỘI

ĐIỆN BIÊN

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Đẹp mãi tuổi thanh niên

Mang sức xuân vào trận

Suốt 55 ngày đêm

*

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Có một người ANH CẢ

Trí Dũng lại TÀI BA

Làm theo lời Bác dặn

Chắc thắng khải hoàn ca

*

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Chân đạp rào gai lạnh

Đầu rát bỏng lửa bom

Tiến chắc vào trận đánh

*

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Tay súng tay cuốc xẻng

Đào trận địa nối liền

Xiết vòng vây quyết chiến

*

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Kéo pháo nặng nghìn cân

Qua dốc cao vực thẳm

Bằng chân sắt vai đồng

*

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Ngách hầm hào là nhà

Cây rừng là mái lá

Gió rừng thay lời ca

*

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Đọc chung lá thư nhà

Nhường nhau nắm cơm vắt

Có hương vừng quê xa

*

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Trong giờ Tổng công kích

Ngã trước làn đạn địch

Thành chiến sỹ không tên

*

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Về thăm chiến trường xưa

Đứng trên hầm Đờ Cát

Nối vòng tay em thơ

*

Anh bộ đội ĐIỆN BIÊN

Lên thăm đồi A1

Chỉ còn lời chim hót

Giữa đất trời bình yên

Lên thăm chiến trường xưa

1904-2014

LÊ NGUYÊN

Cựu chiến binh Sư Đoàn 312

MÙA LŨ

ĐỒNG BẰNG

SÔNG CỬU LONG

Bông sen chết đuối giữa hồ

Nước dâng phủ kín nấm mồ thân yêu

Cha nằm đây giữa cô liêu

Lục bình tím lịm liêu xiêu trôi về

*

Mẹ buồn tóc nhạt hương quê

Bông điên điển nở vỗ về lũy tre

Chim kêu vàng vọt nắng hè

Đất đau đom đóm lập lòe xót thương

*

Lúa mùa rưng ngấn lệ vương

Phù sa sao nỡ phũ phàng thế kia

Niềm đau dâu bể sớt chia

Sông chờn vờn vỗ xa lìa bến sông !

NGÀN PHƯƠNG

NGƯỜI - THƠ

Như Trang Tử mơ thấy mình hóa bướm

Bay vẩn vơ lạc bước đến vườn tiên

Tìm nguồn thơ ở tận chốn đào nguyên

Quên cuộc thế không màng danh lợi hão

*

Trái tim rộng bao la đầy vũ bão

Tình yêu thương bát ngát vượt trùng dương

Chẳng so đo tính toán – cõi vô thường

Hồn chắp cánh bay về phương gió cát

*

Có những lúc đêm về cao giọng hát

Gom trăng sao xây đắp cảnh thiên thai

Nguồn thơ xanh òa vỡ thoáng u hoài

Tâm lảng đảng quên mình đang hiện hữu

*

Quan niệm sống – chẳng có chi trường cửu

Tất cả đều hủy diệt với thời gian

Riêng tình thơ như những nhánh phong lan

Khi rừng cháy vẫn nở bừng hương sắc

*

Dù đông lạnh gió thu vàng hiu hắt

Dù bão giông sương tuyết ngất trùng khơi

Dù khổ đau chắn lối ngập khung trời

Thơ vẫn ngự trên ngôi cao tuyệt đỉnh

*

Những người thơ – trái tim hồng chân chính

Trao yêu thương về khắp nẻo quê hương

Gởi linh hồn theo gió cuốn ngàn phương

Lòng nhân ái chan hòa xuyên thế hệ

NGÀN PHƯƠNG

LỠ MỘT NHỊP CẦU

Sao anh vội bước qua cầu

Cơn mê vàng võ tình sầu em mang

Con đò xa khuất bàng hoàng

Mắt môi sầu úa ngỡ ngàng mưa bay

*

Hương xưa nhung nhớ đêm ngày

Hư không anh nỡ, lắt lay cõi lòng

Còn đâu yêu dấu tình hồng

Canh khuya đơn chiếc giấc nồng-không anh

*

Tình ơi phai nhạt tan tành

Tìm đâu cho thấy lời anh hẹn thề

Giờ đây tình đã chia lìa

Đôi lòng xa cách mưa về phương nao

*

Tên người gọi mãi hư hao

Đơn côi như tiếng thì thào gió khuya

Mưa bay thấm ướt lối về

Anh đi lạc bước cơn mê lỡ làng

*

Anh đi tình bỗng dở dang

Bước chân lỡ nhịp muộn màng tình em.

Vì đâu lỡ một nhịp cầu...

Tình em thôi thế, chôn sâu vũng buồn.


Phạm Thị Minh-Hưng

06/3/2013

NHỚ CÁNH HOA XƯA

Vắng xa nhau cõi trầm luân

Có ai hò hẹn, âm thầm đợi mong,

Ngại ngần cách núi ngăn sông,

Lững lờ kỷ niệm, nhớ nhung ngập lòng...

*

Lá me thoáng nhẹ chiều đông,

Pasteur nẻo cũ, tình hồng xanh xao,

Nhạt nhòa áo lụa phai nhàu,

Duy Tân bóng lẻ mây sầu về đâu !

*

Phương trời chôn kín tình sâu,

Tìm đâu cánh phượng ngày nào dấu yêu,

Sân trường ghế đá ban chiều

Mình em chốn cũ quạnh hiu lệ nhòa

*

Tìm đâu trắng một màu hoa,

Cài lên tóc mượt chiều xưa, má đào

Ngát xanh ngọn cỏ dạt dào

Tình thơ mộng, biết lúc nào bể dâu

*

Ai ngờ mộng đã dãi dầu

Bỗng dưng héo úa, nông sâu thay màu

Chốn xưa gió hắt hiu sầu,

Cánh hoa nay biết về đâu... Nắng tàn...

Phạm Thị Minh-Hưng

VÙNG ĐẤT MỚI

Nông thôn thân thiết nghĩa tình

Ở xa đâu biết nước mình đổi thay

Cùng nhau hướng tới tương lai

Đầm lầy cải tạo nay mai đổi đời

Cao tầng đường rộng đón mời

Đầu tư phát triển nước ngoài tham gia

Từng ngày đổi thịt thay da

Vùng nông thôn mới dân ta chung lòng

Cùng nhau xây dựng công nông

Ngành nghề phát triển cộng đồng an sinh

Quyết tâm chung sức nghĩa tình

Đô thị đổi mới quy trình văn minh

Đường Nam-Bắc NGUYỄN VĂN LINH

Với những cầu mới đẹp xinh nối liền

Xưa vùng đất trũng triền miên

Công trình xây lắp khắp miền hoang sơ

Lộ VÕ VĂN KIỆT ngoại ô

Mở rộng vòng đai thành phố-tỉnh thành

Xe cộ lưu thông thêm nhanh

Vui cùng đất nước hoàn thành ước mơ

QUANG BỈNH

VẦN -AI

Chào các bạn gái trai

Đang ở cùng với ai

Cùng lao động miệt mài

Để có một ngày mai

Tình yêu trong sáng mãi

Không thương ai ngây dại

Vùng tôi nhiều hoa trái

Bưởi, ổi cùng chuối nải

Nhãn, cam, quýt, dừa, xoài

Và có cả cây mai

Bánh tét đậu, củ cải

Ngon miệng người nước ngoài

Với sức khỏe thời trai

Theo bước các danh tài

Mình cũng thường xuất ngoại

Cũng muốn nhiều tiền tài

Để hậu vận ngày mai

Sung sướng ở tương lai

Buổi sáng ánh dương mai

Không được ngồi đánh bài

Tối ngày uống lai rai

Tuyệt vời không tán gái

Vướng vào thấy bải hoải

Bỏ đồng tiền em mãi

Vào nhà trọ làm bãi

Mệt mỏi cả hai vai

Lén lút hẹn nhau hoài

Ôi thật là mệt nhoài

Sẽ mất nửa gia tài

Có vậy mới sợ hãi

Cha mẹ chết cả hai

Vợ đang hồi xinh gái

Con nhỏ còn thơ dại

Giờ biết để cho ai

Nếu không có vợ hai

Quyết tâm không ngần ngại

Người mình sẽ thoải mái

Sức khỏe thêm dẻo dai

Gia đình có tương lai

QUANG BỈNH

MÔI TRƯỜNG

VĂN HÓA VIỆT

“Tháng giêng là tháng ăn chơi

Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè”

Hội gì mà lại đem “khoe”

“Cướp lễ”, “bạo lực”, mới nghe ghê người

Đâm trâu, chém lợn chết tươi…

“Tàn ác” là người văn hóa đẹp sao ?

Môi trường giáo dục nâng cao

Nên chọn cái nào văn hóa, văn minh

Cái gì suy thoái nhân sinh

Hủ tục lạc hậu thì mình dẹp đi

Các ‘ông văn hóa” nghĩ gì ?

LÊ MINH CHỬ

ĐÔI CÁNH TAY EM

Dịu dàng đôi cánh tay em

Dìu con đi bước đầu tiên trong đời.

*

Tiếng chân con tận cuối trời

Mà rung động mãi tim người làm cha !

*

Sau này con biết bay xa

Đôi tay em có phải là cánh con ?

Matxcơva, Ngày con Nam tròn 1 tuổi, 18.7.1980

VŨ ĐÌNH HUY

YOUR PAIR OF ARMS, OH DEAREST

So gentle are your pair of arms, oh dearest

Guiding our son’s first step in life.

*

The sound of our son’s footsteps at the end of the near horizon

Constantly shakes my heart as I’m his father !

*

Later on, when he knows how to fly far away

Will your pair of arms be his pair of wings ?

Moskow, the day Nam was one year old, 18.7.1980

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

MUỘN MÀNG CẢM TẠ

Kính viếng hương hồn giáo sư Nga I.L. Rozenfeld

Lần đầu được gặp Giáo sư

Mắt Thầy đã khép, giã từ trời mây !

Đeo băng tang đứng bên Thầy,

Thầy đâu có biết trò này là ai.

*

Sách Thầy: dòng suối ban mai,

Đưa con đến với sông dài, biển sâu.

Trước Thầy, kính cẩn cúi đầu,

Nghẹn ngào cảm tạ một câu muộn màng !

Matxcơva, 04.9.1980

VŨ ĐÌNH HUY

LATE THANKS

Paying my last respects to the soul of late Russian Professor I.L. Rozenfeld

The first time I got the chance to meet You, Professor

Your eyes were closed,

as You’ve said goodbye to heaven and clouds !

Wearing the mourning band and standing beside You

*

How could You know who this student is

Your book: a stream in the early morning,

Taking me to the long river and the deep sea.

Respectfully bowing my head in front of you

Choked by tears, I would like to offer You my late thanks !

Moskow, 04.9.1980

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

MỊT MÙNG MƯA GIÓ

Bốn mùa trái đất vần xoay

Chia tay, biết có còn ngày gặp nhau ?

Muốn tìm em, biết về đâu ?

Mịt mùng mưa gió khắp bầu trời giăng !...

Matxcơva, 12.1980

VŨ ĐÌNH HUY

DIM AND HARD RAIN AND WIND

Through four seasons, the earth turns around

Parting, will we have a day to meet each other again ?

When wanting to find you, where should I go ?

Dim and hard rain and wind spread all over the sky !...

Moskow, 12.1980

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

ĐÁM CƯỚI NHÀ VĂN

VŨ TRỌNG PHỤNG

(1912-1939)

Vũ Trọng Phụng - bút danh khác: Thiên Hư - quê gốc ở làng Hào (Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, sinh ngày 20.10.1912 ở phố Hàng Vôi, mất ngày 13.10.1939 đường Cầu Mới Ngã Tư Sở Hà Nội vì bệnh lao. Cha mất sớm, nhà nghèo, nên học hết bậc tiểu học, ông phải đi làm để giúp mẹ, 27 tuổi đời, 9 năm tuổi nghề, nhưng ông đã để lại một di sản đồ sộ: 9 truyện dài và vừa, 24 truyện ngắn, 6 vở kịch, 2 tác phẩm dịch, nhiều bài phê bình bút chiến, 7 phóng sự, ký sự và hàng trăm bài báo. Giông tố, Số đỏ là những tiểu thuyết xuất sắc, tiêu biểu của ông. Vũ Trọng Phụng được văn hữu tôn vinh là “ông vua phóng sự đất Bắc”.

Chủ nhật 23.11.1938, tức 22 tháng chạp năm Đinh Sửu. Chỉ còn 8 ngày nữa là đến Tết.

Trong nhà bà Cửu Tích bỗng nhộn nhịp khác thường. Chả là hôm nay bà cho cô Vũ Mỹ Lương, con gái út đi ở riêng, lấy nhà văn Vũ Trọng Phụng, do ông Tiến, anh bà Cửu Tích làm mối. Ở cùng phố Hàng Bạc lại là bạn thân nên ông biết rất rõ hoàn cảnh gia đình Phụng.

Bố Phụng, ông Vũ Văn Lân, người huyện Mỹ Văn, Hải Hưng làm thợ điện ở xưởng sửa chữa ô tô Boillot, phố Ngô Quyền bây giờ. Mẹ Phụng, bà Phạm Thị Khánh, quê ở Chèm, làm nghề khâu vá thuê. Năm 21 tuổi, bà đã góa bụa, ở vậy nuôi con ăn học đến khi vào đời. Còn Phụng, bà đẻ ở phố Hàng Vôi, lúc bố mất vì bệnh lao, ông mới được 7 tháng. Khi còn bé gia đình vẫn gọi là Túy. Chỉ học được năm thứ nhất trường Bưởi, Phụng đã phải rẽ ngang, đi làm đỡ mẹ. Vào những năm đầu thập kỷ 30, cũng như Ngô Tất Tố, Lan Khai… ông Phụng là một thanh niên còn đội khăn xếp, mặc áo the đen, đi giày hạ. Sau này, vào một mùa hè, được anh em làng văn khuyến khích, ông mới thắng bộ quần áo tây vải trắng ít tiền. Ông đi làm thư ký ở nhà Gôđa, rồi nhà in Viễn Đông (IDEO) sau đi hẳn vào con đường văn nghiệp. Truyện ngắn đầu tay “Chống nạng lên đường” của ông đăng ở Ngọ Báo của Bùi Xuân Học. Đến năm 1938, không kể truyện ngắn, ông Phụng in được 18 cuốn tiểu thuyết, phóng sự và kịch, tiếng tăm lừng lẫy, ông tuy nghèo nhưng anh em văn hữu rất mến ông. Mối tình đầu của nhà văn cũng rất tiểu thuyết. Yêu mãnh liệt, mỗi tuần ông viết cho người tình một lá thư, tình cảm tuôn trào lai láng bằng một cái… truyện ngắn. Khi mối tình đã khắng khít keo sơn, Phụng ngỏ ý xin cưới Lương vào dịp cuối năm, được hai bên gia đình đều chấp thuận. Nửa tháng trước nhà trai đã làm lễ ăn hỏi, dẫn đến nhà gái đầy đủ lễ vật. Hôm sau, nhiều nhà trong làng Giáp Nhất được chia bánh chưng, bánh dày, gói nem, kèm với quả cau và lá trầu.

Cách đây vài ngày, bà con trong họ, trong làng kéo đến để giúp kê bàn ghế, làm cỗ… khách khứa ăn uống ở năm gian nhà chính và ba gian nhà ngang còn phải làm thêm rạp ở sân mới đủ chỗ ngồi.

Cỗ cưới ăn đãi hai ngày, mỗi ngày ngả một lợn, xếp vài chục mâm. Hôm nay đưa dâu về nhà chồng, ít ra cũng phải hạ một ỉn nữa.

Người được mời đến ăn, mang đến mừng bao chè, chai rượu hay đồng bạc hoa xòe, phong bao vào giấy hồng điều.

Mới sáng ra, trẻ con trong làng đã tụ tập bên ao đình, nhìn sang con đường Láng, chờ xem ô tô đám cưới. Đến gần trưa, một đoàn 10 chiếc ô-tô đen đi theo hàng một, vượt qua cầu Mọc, rẽ bên trái, về làng Giáp Nhất. Gần tới cổng làng, đoàn xe đi từ từ, rồi dừng lại.

Họ nhà trai xuống xe, người mặc âu phục, người mặc quốc phục, chú rể đội khăn, mặc áo đoạn, đi giày hạ. Người lớn, trẻ con trong làng ùa ra xem. Vũ Trọng Phụng người xương xương, mỏng manh, mắt nhỏ, trán nở và cao, miệng có quai ở hai đầu mép, vai hơi ngang. Ông có cái nhìn tinh anh, cười hóm hỉnh. Trong số người đi cùng với chú rể có nhiều nhà văn già, trẻ.

Mọi đám cưới, trẻ con thường kéo đến chăng dây, nhà trai muốn đi qua phải nộp một phong bao, gói năm, sáu đồng xu bằng đồng. Nhưng ở đám cưới này, chúng nghe rõ có các ông nhà báo về dự nên bảo nhau bỏ cái tục không hay ấy đi. Lần đầu, đám cưới Vũ Trọng Phụng được hưởng nếp sống mới.

Tiếng pháo nổ giòn, xác hồng bắn cả lên giàn phong lan và những cây địa lan trồng trong chậu. Đôi bên tay bắt mặt mừng, chào hỏi, nói cười hoan hỉ.

Chú rể đi tới bàn thờ gia tiên, vừa lúc cô dâu ở trong buồng ra. Chồng bước lên sập lễ đủ bốn lễ, hai vái. Đến lượt vợ lên sập, lễ tiếp. Hôm nay, cô dâu chít khăn vành dây màu lam, đeo hoa tai đầm, kiềng vàng, mặc áo dài màu hồng, đi giày nhung đen thêu hạt cườm. Cách đây mấy năm, làng mở hội có đánh cờ người, cô được chọn làm quân sĩ.

Giờ hoàng đạo giữa trưa sắp đến. Nhà trai xin phép đón dâu.

Mở đường là cụ già râu tóc bạc phơ, đạo mạo, mặc áo sa màu lam, tay cầm ba nén hương khói nghi ngút. Tiếp theo là chú rể Vũ Trọng Phụng và hai phù rể. Cô dâu đi phía trước, hai tay nâng chiếc quạt che mặt. Hai cô phù dâu mặc áo đẹp chẳng kém, dáng e lệ, đi hai bên. Hai gia nhân mang quả và tráp đựng trầu đi sau. Thêm hai người nữa, mỗi người đội một chiếc hòm son then, trên đặt cái chăn bông bọc vải hoa màu hồng, đôi gối trắng thêu cành hồng, con bướm.

Hai họ đi bộ tới cổng làng, mới lên ô tô. Hơn nửa giờ sau, đoàn xe dừng bánh ở bên số chẵn phố Hàng Bạc, trong tiếng pháo nổ ran. Dân hàng phố kéo đến xem đông nghịt, đứng kín cả vỉa hè.

Hai họ phải nhường nhau mới lên nổi căn gác hẹp. Nhìn lên ba bức tường, thấy treo bức trướng và câu đối bằng vóc hồng thêu kim tuyến bức sa tanh đỏ thêu con trĩ bên hoa phù dung.

Cô dâu lễ gia tiên với chú rể xong, rút vào buồng.

Chuyện trò hồi lâu, nhà gái xin cáo lui. Riêng các văn hữu còn uống rượu, trò chuyện đến gần khuya mới chịu ra về.

Trong “sổ ghi ơn” của Vũ Trọng Phụng để lại ghi rõ những người mừng cưới hoặc giúp công việc cưới!

- Nguyễn Tuân đi thuê ô tô ở Hàng Bông.

- Ngô Tất Tố và Phạm Cao Củng mừng bức trướng có bốn chữ vàng “Hồng điệp thi thanh”

(Lá thắm tiếng thơ).

- Ông Nguyễn Văn Đa, chủ nhiệm báo Phụ nữ thời đàm mừng đôi câu đối: Lan thất vinh khan hào phượng vĩ - Hương đường chính hỷ dẫn quy linh.

- Nhà xuất bản Mai Lĩnh in tặng 110 giấy báo hỉ và mừng đôi câu đối thêu: Ngoài bể sóng vang, mây tới ngán thay đời thiết huyết - Trước vườn hoa nổi ánh đuốc hồng có bạn quần thoa.

- Nhà thơ Tchya (Đái Đức Tuấn) mừng một bài thơ lồng kính.

- Nhà thuốc Lê Huy Phách mừng bốn chữ đại tự “Quân tử hảo cầu” (Trích bốn chữ trong câu kinh thư “Yểu điệu thục nữ, quân tử đến tìm”).

- Hai anh em nhà thơ Nguyễn Giang và Nguyễn Nhược Pháp mừng hai giò hoa thủy tiên đặt trong cốc thủy tinh.

- Ngọc Giao, Vũ Bằng, Phùng Bảo Thạch, mừng ba chai vang Emer của Pháp.

- Vũ Đình Liên mừng một hộp thuốc lá Lucky.

- Ông giáo Pha mừng cây đàn nguyệt và ba đồng Đông Dương.

- Bà Cả Viên, chị ruột cô dâu mừng nhiều nhất (bảy đồng Đông Dương) để nộp tiền cheo cho làng…

Sau lễ cưới bà Phụng mở một hiệu sách nhỏ ở đầu phố Hàng Nón.

Rồi ông Phụng bỏ cái gác hẹp, chuyển về ở căn nhà số 73 Cầu Mới gần Ngã Tư Sở. Nhưng bệnh lao đã ở cuối thời kỳ thứ ba. Về nơi ở mới được nửa tháng, nhà văn lớn của chúng ta đã ra đi vào ngày 13.10.1939, ở tuổi 27 với tác phẩm cuối cùng “Trúng số độc đắc”…

THỌ CAO

ĐỖ THIÊN THƯ st

BÀI THƠ

CHIM HỌA MI TRONG LỒNG

CỦA TẢN ĐÀ

“Chim họa mi trong lồng” là bài thơ đả kích Hoàng Cao Khải, do Tản Đà sáng tác năm 1921, khi ông làm báo Hữu Thanh. Để tránh phiền phức, khi đăng báo, bài thơ xuất hiện dưới hình thức sưu tầm. Vì vậy, khi lưu truyền đi, bài thơ được gán ghép cho nhiều tác giả khác nhau. Mà chuyện nào cũng có lý cả. Mãi đến năm 1932, Tản Đà mới chính thức nhận mình là tác giả, khi thi sĩ cho in lại bài thơ “Chim họa mi trong lồng” trong tập Khối tình con III.

Theo ông Ngô Thế Quang (con trai cụ Ngô Thế Phổ, cử nhân năm Ất Mão – 1915, bạn của Tản Đà) thì bài thơ có xuất xứ như sau:

Hoàng Cao Khải chơi chim họa mi, nuôi rất nhiều ở Thái Hà ấp. Thợ may riêng của Hoàng Cao Khải là ông phó Trẹt cùng làng với Ngô Thế Phổ có khoe là lấy được của Hoàng Cao Khải mấy con. Năm 1921 Hoàng Cao Khải tổ chức một cuộc thi thơ vịnh chim họa mi ở Thái Hà ấp, có trưng bày chim. Ngô Thế Phổ rủ Tản Đà đến nghe thơ. Thơ của những người dự thi được đọc tại chỗ và đều một giọng tán dương xu nịnh. Tản Đà và Thế Phổ chỉ cười. Sau Thế Phổ bảo Tản Đà làm một bài. Tản Đà nghĩ một lúc rồi xin vào đọc, còn Thế Phổ ra ngoài gọi xe tay đợi sẵn.

Tản Đà vào giữa hội thi thơ, đọc:

Họa mi, ai vẽ nên mi ?

Sắc thì mi đẹp, hót thì mi hay

Ai đưa mi đến chốn này ?

Nước trong gạo trắng, mi ngày ăn chơi

Lồng sơn cửa đỏ thảnh thơi

Mi bay mi nhảy sướng đời nhà mi

Nghĩ cho mi cũng gặp thì

Rừng xanh mi có nhớ gì nữa không ?

Đọc xong Tản Đà và Ngô Thế Phổ ra xe đi luôn. Ông phó Trẹt nói thêm chi tiết: Lặng đi một lúc, cả đám đông xôn xao, Hoàng Cao Khải quát lính tìm bắt người đọc thơ, nhưng tìm sao thấy. Ông phó Trẹt còn nhớ khi đọc đến từ “mi”, Tản Đà thường nhấn giọng. (Hoàng Cao Khải là người Nghệ Tĩnh, tiếng Nghệ Tĩnh “mi” tức là “mày” ở ngoài Bắc).

Đương thời, mặc dù được đăng báo dưới hình thức một bài sưu tầm, nhưng lập tức bài thơ được truyền tụng rộng rãi ngay, và ai cũng hiểu là ám chỉ Hoàng Cao Khải.

Bùi Đăng Sinh

Bùi Đẹp (st)

NHÌN NGƯỜI ĐỂ HIỂU MÌNH

Ngày nay, nhiều người Việt Nam đều biết có một nước trong khối ASEAN nằm không xa chúng ta lắm. Tuy là một quốc đảo nhỏ chỉ bằng 1/3 thành phố Hồ Chí Minh, dân số khoảng 5,4 triệu người thế mà thế giới đều biết và ngưỡng mộ; đó là nước Singapore.

Điều tự nhiên khiến người ta suy nghĩ: Tại sao cái nước chỉ bằng cái chấm trên bản đồ thế giới ấy lại có danh giá trên toàn cầu như vậy? Tôi cũng bị cái “Tại sao?” ấy lăn tăn, rồi tò mò tìm hiểu thêm thì thấy. Họ có nhiều thiệt thòi thua kém hơn ta. Đất nước họ rất nhỏ, lại ít dân và không được tự nhiên ưu đãi gì, thậm chí đến nước ngọt dùng để ăn uống cũng còn phải nhập khẩu… Vậy mà chỉ 30 năm sau khi được độc lập họ đã vươn lên trở thành một trong bốn con rồng của Châu Á. Họ có được thành công tuyệt vời ấy là nhờ có một con người huyền thoại đó là ông Lý Quang Diệu. Nhân dân Singapore tôn vinh ông và thế giới cũng hết lời ca ngợi ông vì ông Lý Quang Diệu đã ghi được dấu ấn trong lòng dân và lịch sử phát triển của quốc đảo này.

Ông thấy rõ đất nước ông không được tự nhiên ưu đãi như nhiều nước khác nên ông đã tìm ra con đường riêng, đặc biệt là phát huy con người của cộng đồng. Chính bản thân ông đã là một tấm gương về tài đức vẹn toàn. Ông ý thức được trách nhiệm của mình trước sự phán xét của lịch sử. Ông quyết đoán và cũng biết lắng nghe, biết chọn lọc cái hay của mọi người. Ông thực sự chiêu hiền đãi sĩ, vì theo ông “Singapore chỉ có thể duy trì sự thành công khi được lãnh đạo bởi những người giỏi nhất”. Ở nơi đây mọi người đều có cơ hội bình đẳng. Song người tài cũng phải được thanh lọc qua thử thách, tức phải tranh cử thực sự và giành chiến thắng. Mặt khác những công chức cũng phải được chọn lọc kỹ lưỡng chứ không để cho bọn bất tài, thất đức vào chiếm ghế mà mưu cầu danh lợi. Chỉ có người tài mới phát hiện được người tài và dám sử dụng nhân tài. Bản thân ông chỉ có một mục đích duy nhất là vì lợi ích tương lai của đảo quốc và nhân dân Singapore chứ không có tư lợi. Chính vì vậy mà ông đã làm được nhiều việc mà nhiều nước trên thế giới chưa làm được là: người Singapore không muốn tham nhũng, không thể tham nhũng và không dám tham nhũng… Nhiều người Việt Nam đã đi du lịch Singapore về đều mơ ước nước mình được như thế. Vậy không cần đi đâu xa mà hãy học tập những cái hay của người lãnh đạo cũng như người dân ở đảo quốc này. Bây giờ ta hãy thử xem khoảng cách của ta với họ ra sao? Có người đã so sánh năng suất lao động của người Singapore bằng 15 người Việt Nam, thu nhập bình quân của người dân đứng thứ 3 thế giới… Như vậy Việt Nam phải mất 50 đến 60 năm nữa mới có thể đuổi kịp Singapore ngày nay. Tất nhiên lúc đó họ đã tiến lên đến đâu rồi… Đặc biệt là nước họ không hô khẩu hiệu và chạy theo thành tích. Nhìn người để hiểu mình. Ta có cái giống họ là có ước mơ cao đẹp nhưng khác nhau ở chỗ họ biết biến ước mơ thành hiện thực trong thời gian ngắn nhất. Còn ta bây giờ trước hết phải phát huy nhân tố con người….

“Ở nhà nhất mẹ nhì con

Ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta”.

Ai ơi ! Trông rộng, thấy xa

Nhìn người mà để hiểu ra nước mình

Muốn cho dân tộc hiển vinh

Phải nâng giáo dục nhân sinh lâu dài

Quan mà thất đức, bất tài

Thì dân còn biết lấy ai cậy nhờ ?

…………

Đời tôi chỉ một ước mơ

Mong sao con cháu tới bờ vinh quang

LÊ MINH CHỬ

Phụ Bản III

NGƯỜI CHÉP SỬ ĐẦU TIÊN

CỦA NƯỚC TA

Truyện kể rằng, thầy đồ họ Nguyễn ở làng Cổ Bôn rất đông học trò, trong số đó có một trò hằng ngày đi học thường dừng chân bên quán thợ rèn ở đầu làng xem bác phó rèn làm việc. Một hôm cậu lân la hỏi bác:

- Bác ơi! Ông tổ nghề rèn của ta là ai đó?

Thấy thằng bé mới tí tuổi mà đã biết hỏi han, bác thợ rèn ra câu đối và giao hẹn đối được thì được thưởng, không đối được thì phải ở lại quai búa…

Chỉ vào lò rèn, bác thợ rèn ra đối: “Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò, rèn nên dùi sắc”.

Nghĩ một lát, cậu trò nhỏ đối lại: “Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi, giật lấy khôi nguyên”.

Bác thợ rèn chỉ còn biết khen cậu trò nhỏ, rồi hỏi tên biết cậu là Lê Văn Hưu ở làng Dị (Thiệu Hóa, Thanh Hóa). Bác thưởng cho cậu 30 đồng tiền để mua giấy bút.

Quả nhiên, vốn sẵn trí thông minh lại chăm chỉ dùi mài kinh sử, năm Đinh Mùi (1247) Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn vào đúng lúc 17 tuổi đời. Triều đình phong cho ông chức Hàn lâm viện học sĩ, lại được vua Trần Thái Tông ủy thác cho việc dạy dỗ hoàng tử Trần Quang Khải người mà sau này trở thành một danh tướng của nhà Trần, có công lớn trong cuộc đánh tan quân Nguyên Mông năm 1285.

Năm 1262 Lê Văn Hưu được Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông hạ chỉ giao cho biên soạn bộ quốc sử đầu tiên của đất nước ta. Dành trọn 10 năm vừa đi nơi này, nơi khác tìm hiểu dã sử và khảo sát thực địa, vừa ghi chép tài liệu, vừa viết, đến tháng giêng năm Nhâm Thân (1272) dưới triều vua Trần Thánh Tông, sử quan Lê Văn Hưu đã dâng bộ quốc sử đầu tiên lấy tên là Đại Việt sử ký, gồm 30 quyển. Vua Trần Thánh Tông xem, đã ban thưởng công lao Lê Văn Hưu. Ông được phong chức Binh Bộ Thượng thư kiêm Chưởng Quốc sử viện. Rất tiếc, bộ Đại Việt sử ký này đã thất truyền. Những phần còn giữ lại được đến ngày nay được ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư” do Ngô Sĩ Liên soạn.

Đại Việt sử ký được công nhận là bộ quốc sử đầu tiên, nhờ phương pháp mạch lạc, sáng sủa và tiến bộ. Ông viết một cách đầy tự hào về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành đều hưởng ứng, việc dựng nước, xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thể đất Việt ta, đủ được nghiệp bá vương”.

Viết về chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền (938), ông nhận định: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta, mà phá tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi. Tuy chỉ xưng vương chưa lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu mà danh chính thống của nước Việt ta, người hiền đã nối lại được”.

Nói thật công bằng, ra đời sát hoặc sau bộ sử của Lê Văn Hưu còn có các bộ Việt sử lược còn gọi là Việt Chí của Trần Chu Phổ, người cùng triều với Lê Văn Hưu; Việt sử Cương mục của Hồ Tông Thốc đời Trần Duệ Tông; Sử ký lục biên của Phan Phu Tiên đời Lê Thái Tổ, chép tiếp Đại Việt sử ký từ đời Trần Cảnh tức Trần Thái Tông đến khi quân Minh rút quân về nước.

Do nạn binh lửa các bộ sử kể trên đến nay coi như đã mất, riêng Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu còn lại những đoạn trích dẫn trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên (triều Lê Thánh Tông) bộ sử lớn của nước ta. Các đoạn dẫn ấy đều nằm trong tiêu đề “Lê Văn Hưu bàn rằng” nằm rải rác trong các chương Ngoại Kỷ, Bản Kỷ.

Sách cũ còn chép: Lê Văn Hưu tài cao học rộng, khi đã nhiều tuổi, ít khi chịu dưỡng nhàn ngồi yên một chỗ. Ông hay đi đây đó để khảo sát, xem kiểu đất, nên ông sành môn địa lý (xưa gọi là phong thủy). Nói theo ngôn ngữ địa lý du lịch ông là nhà “du lịch học”.

Ông ghi lại trong những tập địa cảo của mình các thế đất, kiểu đất với những hình thể đa dạng mà dân ta gán cho Cao Biền đời Đường và Hoàng Phúc đời Minh soạn ra.

Nhờ “đi thực tế” như vậy nên văn viết sử của Lê Văn Hưu không gò bó, công thức, đọc không chán.

Người ta đã ví ông với Tư Mã Thiên sử gia lớn đời Hán, đã đi từ sông Giang đến sông Hoài, đặt chân tới các nước Tề, Lỗ, Sở… Khắp Bắc Nam, đến tận nơi, nhìn tận mắt nhiều chỗ xưa đã diễn ra các trận đánh, các sự kiện lịch sử, hỏi han ghi chép. Tư Mã Thiên đã để lại bộ Sử ký vĩ đại, sống động. Học Tư Mã Thiên, Lê Văn Hưu không ngồi trong thư phòng để viết, nên bộ sử ký đồ sộ của ông ảnh hưởng lớn đến sử nước nhà, cũng như Sử ký của Tư Mã Thiên ảnh hưởng không nhỏ tới sử Trung Quốc vậy.

Rất đúng khi nói rằng Lê Văn Hưu đã đặt viên gạch đầu tiên cho khoa học lịch sử nước nhà.

Theo gia phả họ Lê và Lịch sử Việt Nam tập 1 (NXB Khoa học xã hội) thì ông tổ Lê Văn Hưu là một hào trưởng được dân tin yêu, có công mở huyện Đông Sơn. Trong nhà có hơn 110 kho thóc, thực khách ba ngàn người. Gặp năm mất mùa đói kém, vị hào trưởng tốt bụng bèn chia thóc gạo cho dân nghèo. Triều đình biết việc ấy, cấp thêm đất đai cho ông, đời đời hưởng lộc.

Khi Lê Văn Hưu qua đời (1322) được táng ở Mả Dòm, phu nhân thọ 82 tuổi cũng được táng ở đấy. Con cháu mươi lăm đời sau, soạn văn bia, có bài minh răn mình: “Tích đức nhiều Công/ Sáng bừng đời nối/ Lý học chỉ đường/ Khoa danh rực nổi vv…”.

PHẠM PHẤN

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st

CÚNG ĐẦY THÁNG,

CÚNG TÔI TÔI

I. Cúng đầy tháng.

Người Việt Nam có tục lệ là trẻ sơ sanh đến đầy tháng thì bày lễ cúng và xin phép đặt tên cho con. Cũng là người Việt Nam mà theo đạo Thiên Chúa thì không cúng gì cả. Sau khi sanh, người mẹ tùy nghi tới nhà thờ xin rửa tội. Như vậy, việc cúng đầy tháng có cần lắm không? Theo tôi thì không cần. Nhưng tục lệ xưa nay thì cứ cúng cũng không sao. Xưa mọi người đều coi trọng việc có con để nối dõi tông đường nên cúng đầy tháng thiết tưởng chỉ có mục đích là mừng và khoe với họ hàng chòm xóm thôi. Sau khi cúng xong, gia đình đem cho những nhà lân cận mỗi nhà một chén chè với một dĩa xôi.

Cúng đầy tháng có cúng đất đai không? Tôi nhớ lờ mờ là khi cúng đầy tháng cho các em tôi thì không cúng đất đai. Sau nầy, có lẽ người ta cho rằng cúng đất đai là cúng chỗ ăn chỗ ở nên người ta cúng. Việc cúng đất đai sẽ bàn sau. Cúng đầy tháng thì vái, mời mười hai mụ bà, mười ba đức thầy. Các vị nầy, tôi cho là các vị thần nên khi mời đến, các vị đất đai phải ra nghinh rước chớ không phải họ có quyền cho hay không cho đến. Cúng đầy tháng có lẽ không nên cúng đất đai.

Bày ở bàn cúng thì gồm: Nhang, đèn, nước, rượu và một bình bông.

Các món cúng gồm:

1. Một bộ tam sên gồm:

- 1 con cua hay tôm

- 1 miếng thịt ba rọi

- 1 hột vịt.

Tất cả đều luộc chín để cùng trong một dĩa.

2. Một bộ đồ thế: là giấy hình Nam hay Nữ, có lẽ để các đấng biết là trai hay gái nên không có việc ghi tên đứa bé ở đây. Vả lại tên chưa có mà ghi cái gì?

3. Một dĩa trái cây, các loại trái có tên tốt. Trái ô ma hay lê-ki-ma thì không chưng vì cho rằng đó là đồ ma. Không cần ngũ quả.

4. Mười hai chén chè.

5. Mười ba dĩa xôi.

6. Một con vịt có đủ đồ lòng. Cũng có người cúng một con gà. Nếu trong tình trạng có cúm gia cầm, có lẽ ta thay bằng một miếng thịt heo ở vai và lòng heo mỗi thứ một chút cho đủ lễ.

Về giấy tiền vàng bạc, đó là việc mê tín. Vả lại giấy tiền vàng bạc là do con người bày ra thì không đem cho các vị thần được nên theo tôi thì ngoài bộ đồ thế để các vị nhận diện là trai hay gái, ta không cần đốt bất cứ giấy gì nữa.

Các món bày cúng ở đâu? Xưa thì bày ở bộ ván nhà trên. Nay thì không nhà nào đặt bộ ván ở nhà trên cả thì ta thay bằng một cái bàn đặt về phía trước bàn thờ vì lễ mừng thì phải có gia tiên chứng kiến. Mời thần linh tới thì mời đến nơi trang trọng mới phải cho. Có người lại bày một mâm để cúng tại phòng ngủ của mẹ con cháu bé. Theo tôi thì chỉ cúng một chỗ trước bàn thờ thôi vì mời nhiều vị khách tới, không ai mời vô phòng ngủ của mình.

Bày lễ vật xong, đặt đứa bé nằm một góc chỗ lễ vật rồi lên nhang đèn và vái đại khái: “Hôm nay ngày… là ngày đầy một tháng của con (cháu) tôi, cầu xin mười hai mụ bà, mười ba đức thầy về chứng giám và phò hộ cho mẹ tròn con vuông”.

Tôi đặt tên cho cháu là….. xin quý vị và ông bà chứng giám, sau đó thì xin keo: lấy hai đồng tiền để trong lòng bàn tay hất lên cho rớt xuống. Nếu một đồng sấp một đồng ngửa là được. Nếu không được thì xin tiếp đến lần thứ ba.

Sau lần thứ ba mà không được thì thôi. Gia đình tự gọi tên đứa bé bằng một tên khác tùy ý dù tên trong khai sanh vẫn không đổi. Sau đó cúng nước và đốt bộ đồ thế là xong.

II. Cúng Tôi Tôi

Vì sao trẻ con khi tròn một tuổi thì bày ra lễ cúng gọi là cúng Tôi Tôi? Sau nầy, được gọi là cúng Thôi Nôi. Thật ra con nít tròn một tuổi vẫn còn nằm nôi. Nhưng tròn một tuổi, đứa bé bước qua một giai đoạn mới: Bé biết bò, biết ngồi, biết đứng và có đứa bước đi được vài bước nữa.

Tra tự điển Hán Việt thì chữ “TÔI” không có mà có chữ “TỐI” là đầy năm, tròn một tuổi và còn gọi là “Chu Tối”.

Người Việt có tục cúng TÔI TÔI không? Nếu có thì gọi là cúng gì? Không ai biết. Có lẽ lễ cúng nầy ta bắt chước Trung Hoa cũng nên. Nếu bắt chước Trung Hoa thì khởi đầu có lẽ là các quan, ông đồ, anh khóa cúng nên có lẽ họ gọi là cúng CHU TỐI. Khi tục cúng nầy lan rộng ra nhân dân mà người có học thì ít, họ nghe các anh khóa nói thì họ bắt chước mà nói cúng Chu Tối. Nhưng nói thế, họ thấy khó nghe mà không biết rõ nghĩa nên sửa thành cúng TUỔI TÔI. Đi mời anh, chị, em, bà con lối xóm tới dự lễ cúng tròn năm mà nói: “Cúng Tuổi Tôi cho con tôi” thì nghe hơi chướng nên họ sửa thành cúng TÔI TÔI vậy. Tới thập niên 1950 tôi vẫn nghe nói là cúng TÔI TÔI. Nhưng những người giàu có và học khá thì họ gọi là cúng THÔI NÔI cho có nghĩa. Con nhà nghèo thì đâu có nằm NÔI, chúng nằm võng là chính.

Theo tôi, tiếng nói là một ký hiệu để chỉ một sự việc nào đó. Ngày xưa cúng tròn một tuổi gọi là cúng TÔI TÔI, nay giải thích được nguyên nhân sanh ra chữ TÔI TÔI thì xin cứ giữ tiếng TÔI TÔI để thể hiện phong tục cổ của Việt tộc vậy.

Vật dụng, lễ vật cúng như ở cúng đầy tháng.

Bày ở bàn cúng gồm: Nhang, đèn, rượu, nước, 1 bình bông.

Các món cúng gồm:

1. Một bộ tam sên để chung trong một dĩa:

- 1 con cua hay tôm

- 1 miếng thịt ba rọi

- 1 hột vịt.

Tất cả đều luộc chín.

2. Một bộ đồ thế: (hình Nam hay Nữ không viết gì)

3. Một dĩa trái cây có tên gọi không xấu.

4. Mười hai chén chè.

5. Mười ba dĩa xôi.

6. Một con vịt (có người cúng gà) với đủ đồ lòng.

7. Một mâm có để: Sách, thước, viết, đất, xôi, kiếng, lược, kéo… tùy nghi thêm vô nếu thấy cần.

Lễ vật được bày trên bàn đặt phía trước bàn thờ (xưa bày tên bộ ván phía trái bàn thờ). Sau khi lên nhang đèn thì vái đại khái: “Hôm nay là ngày tròn một tuổi của con (hay cháu) tôi là… (nếu xin keo không được thì không đọc tên), cầu xin mười hai mụ bà, mười ba đức thầy phò hộ cho con (cháu) tôi ngon ăn chóng lớn”.

Sau đó, đặt đứa bé ngồi cạnh mâm đồ vật cho cháu bốc. Tùy món bốc mà gia đình đoán tương lai của cháu để cho cháu học ngành phù hợp. Tuy vậy, thường thì cha mẹ cho con nối nghiệp nghề của gia đình là chính.

Sau khi đứa bé bốc xong thì cúng nước và đốt bộ đồ thế là xong.

Sau cúng TÔI TÔI thì ba tuổi, sáu tuổi, chín tuổi, mười hai tuổi có cúng ĐỔI ĐỐT. Lần cúng 12 tuổi xong thì không còn cúng gì nữa cả. Có lẽ bỏ cúng đổi đốt vì từ hai đứa em út của tôi, tôi không thấy ba má tôi cúng. Hình như tôi không còn thấy gia đình nào cúng đổi đốt nữa cả.

Khánh Hội Quận 4 Saigòn ngày 02.7.2014

NHỰT THANH

PHẠM HIẾU NGHĨA

QUÊ TÔI NAM ĐỊNH

- Chúng tôi thật nà thung thướng được ông bà ra đây, nại còn quà bánh nữa…

Bà cụ hơn 80 tuổi nhảy vèo từ cái xe đạp cà tịch cà tàng đến chỗ ghế đá trước cửa nhà, nơi chúng tôi đang ngồi nghỉ mát trong cơn oi nồng mùa hạ. Bà đủn cái xe nằm sóng xoài giữa sân phơi lúa, rồi hàm răng đen nhai trầu lõm bõm nói với chúng tôi như thế. Tay vấn lại cái khăn trên đầu, bà lại bỏm bẻm:

- Mời ông bà thơi nước, nước chè cháu mới nấu đấy ạ!

Lạ thật! Dường như toàn bộ dân ở đây đều xưng “cháu” khi nói chuyện với chúng tôi, những kẻ vượt non 2000 km về thăm quê xưa. Và cả cái làng thôn này đều có cái thân thiện hết chỗ chê. Bất cứ nơi nào chúng tôi gặp họ, dù là đôi bên chả hề quen biết, họ cũng nở nụ cười vừa thân thiện vừa đầy mến trọng, Đến cả lũ trẻ dăm bảy tuổi, cũng làm như các bậc cha chú là cúi chào và không quên nở nụ cười đầy thân mến.

Bà cụ mở cái nút phích nước sôi cũ xì, cẩn thận rót vào cái ấm con con cũ cũng không kém. Bà đặt phích xuống, rồi chắt nước sôi mới đổ từ cái ấm con vào cái thùng cáu ghét vì màu trà lâu ngày. Sau đó, bà lại đổ nước sôi trở lại vào ấm. Chờ 1 chút, có lẽ cho ngấm trà, bà khẽ rót vào 3 cái tách bé xíu thứ nước chè xanh xanh thật đẹp.

- Mời ông bà thơi nước ạ!

Tôi nhấp ngụm chè thơm mùi đồng quê yên ả, có vị chan chát dễ chịu như bầu trời chiều lãng đãng những lọn mây, nơi mấy chú diều đang tung tăng trong tiếng hò reo dễ thương của mấy đứa trẻ. Rồi có mấy người hàng xóm thấy chúng tôi ngồi ngoài sân, lẩm rẩm đến ngồi chung quanh chuyện trò rôm rả, và ai cũng có tách trà be bé trước mặt, mà bà cụ chủ nhà luôn chăm chút rót thêm vào mỗi khi ai đó vừa đưa lên môi và đặt xuống. Đến khi chúng tôi trở về nhà trai, nơi chúng tôi được mời ra dự đám báo hỷ theo lời mời của nhà gái; thì tất cả những người trong sân nhà bà cụ nãy giờ đều nhất loạt đứng lên, thi nhau chào thật lễ phép, mặc cho người nghe chẳng thật sự nghe thấy gì, chỉ biết rằng cái mớ hỗn độn ấy là những gì thân thiết nhất mà họ gửi trao cho chúng tôi, những người từ thành đô về chơi ít bữa.

Vừa bước vào sân, ông Viễn - chủ nhà - đã săng sái mời chúng tôi vào bàn ăn, nơi đã sẵn mâm cơm, đã sẵn những vị vai vế trong họ ngồi chờ. Chủ nhà đon đả mời mọi người ngồi, rồi ân cần giới thiệu mọi người với nhau. Suốt bữa ăn cũng thế, hễ cứ có ai mới tới, hoặc ai cáo từ ra về là ông Viễn lại như cái máy cassette, nếu không giới thiệu lại, thì cũng tạo cơ hội cho mọi người cáo từ ra về một cách lịch sự, nếu không nói là lễ phép.

Họ ăn mừng suốt 3 ngày liên tục. Con cháu trong nhà, chả cần phải mời chào, sai khiến, đều tề tựu về nhà để ông Viễn cắt đặt mọi việc. Chẳng có một lời phàn nàn, họ răm rắp làm cứ y như là việc đám tiệc của họ là cái gì đó rất tự nhiên, rất chuyên nghiệp, rất bài bản. Mai mới là ngày chính lễ, mà sáng sớm hôm nay, họ đã dựng rạp, kéo 1 cái màn làm sân khấu lộ thiên, mượn sẵn của ai đó cái máy bơm nước, phòng khi mưa sân ngập là a lê hấp, bơm nước ra đường, những con đường đã tráng xi măng cùng khắp. Trưa ăn, tối ăn. Hôm nay thì đơn giản hơn, nhưng cũng có cả mười mấy chiếc bàn bày trên cái sân chung và mọi người quây quần ăn uống ồn ào, vui vẻ. Khách đến, lại tận bàn gia chủ chào, chủ nhà lại giới thiệu thật trang trọng; khách về cũng lại đến tận bàn lúc nãy, lại ồn ào người nói mà không có kẻ nghe, đại ý vẫn là, kính chúc ông bà ăn uống no thay nhé! Gớm, ông bà có đứa con gái thinh ghê! Ông bà còn đứa con nào gả cho con tôi với! Chúng tôi thật nấy nàm vinh hạnh và thung thướng được gặp quý ông, quý bà ở đây… Rồi tất cả đều cười tươi, rồi bắt tay bắt chân, đủ cả! Rồi lại người khác vào, rồi lại kẻ khác ra. Thật là quý hóa quá thể!

Hôm đầu là thế đấy, các con cháu, kể cả những ông bà cụ mà tuổi đời đã vượt qua hàng 8, cũng chạy lại xem có gì làm không, cứ y như chủ nhà là 1 vị đại tướng vậy.

Tối đến, có chương trình văn nghệ. Từ trưa, khi chúng tôi đang ngồi bên nhà bà cụ nọ, thì đã lền khên loa với thùng chở đến. Sau bữa cơm tối, văn nghệ bắt đầu. Đám con cháu cử ai đó ra làm em xi cho đúng điệu. Anh chàng cũng có nghề lắm. Dĩ nhiên, chàng phải phét lác giới thiệu các ca sĩ đồng quê cứ y như họ là minh tinh thứ thiệt từ Pa di, từ Ca li phoóc ni a, từ tất tần tật mọi nơi trên thế giới về, thậm chí còn xin lỗi xin phải rằng thì là ca sĩ nọ mới xuống máy bay nên chưa thể cống hiến như “nòng mong ước” được. Biết rằng ca sĩ ấy thật ra là cái thằng sửa máy cày ở đầu lộ, nhưng khán giả địa phương vẫn rần rần vỗ tay cứ y như là thật vậy. Cũng đàn, cũng hát, pop có, rock có. Vui và náo nhiệt. Còn người nghe ư? Mẹ ơi! Tưởng chỉ có lũ thanh niên lằng nhằng đến coi, chứ ai ngờ, cả làng kéo đến: 3, 4 tuổi có, thanh niên có, mà cụ ông cụ bà 70, 80 cũng tới, cứ y như là xem hát chèo ngày xưa của các cụ vậy.

Đang chơi, thì tắt điện. MC gào khan cổ “Xin nỗi quý vị, vì tuy đã thửa thoạn hết thức chu đáo cho chương trình đặc biệt đêm nay, nhưng vì ný do điện không chịu nổi thự cuồng nhiệt của quý vị, lên đã tạm thời tắt tong giây nát. Rồi anh ta, cùng mọi người nháo nhào ra cái cột đèn gần đó, xì xà xì xụt một hồi, bóng đèn lại thắp lên niềm vui, âm thanh lại gào lên hết cỡ, cứ như chưa bao giờ được như vậy!

10 giờ đêm, chương trình văn nghệ tạm chấm dứt, để các cụ ông cụ bà, trên các chiếu bạc, ngồi xòe với nhau đến sáng mà chả lo cảnh sát, công an gì ráo trọi, vì ngày vui mà.

Trước đó, sợ chúng tôi không chịu được cái ồn ào thái quá của đêm vui, ông Viễn đích thân đưa chúng tôi vào nhà người quen ở sâu trong thôn. Đường tối mò, muỗi mòng vo ve chung quanh. Trên lối đi bằng xi măng đủ để chúng tôi, trên 2 chiếc xe máy ì à vòng vẹo một hồi, đến căn nhà lớn nọ. Ông Viễn bàn giao chúng tôi cho ông bà Phương, chủ nhà mới đến, rồi ông trở về nhà, nơi cuộc vui chỉ mới vừa bắt đầu vào cao điểm.

Cả đêm, chiếc xe máy vẫn vất ngoài sân rộng thênh thang, ông Phương đưa chúng tôi lên lầu, chỉ cho 2 phòng mà 3 người chúng tôi sẽ ngủ qua đêm. Ông căn dặn không cần phải đóng cửa, vì ở đây không sợ trộm.

Cả đêm, tiếng ếch nhái oàm oạp, tiếng côn trùng nỉ non, tiếng ve sầu rỉ rả đưa chúng tôi vào giấc điệp, thỉnh thoảng có cơn gió thoảng qua, lùa ngang các ô cửa mở, ôi mát ơi là mát, chả quạt kiếc gì cả, dù mỗi phòng đã sẵn những chiếc quạt máy mới tinh.

5g sáng, tiếng loa phóng thanh của xã đã líu nhíu gì đó, làm tôi mở mắt, đã thấy ánh sáng mờ mờ choán cả khung cửa sổ. Ông chủ nhà đang lẹp xẹp quét cái sân rộng rinh; vợ ông đang lúi húi gì đó trong cái nhà gạch xưa, có lẽ bà đang đun ấm nước cho 1 ngày uống trà như bao người trong thôn. Khi chúng tôi xuống sân, bà đã làm sẵn không chỉ trà mà cả cà phê nữa. Lại ngồi tụ lại chuyện trò rôm rả về mọi sự trên đời. Hỏi thăm, họ cho biết họ chỉ còn hai người trong căn nhà rộng lớn này, vì con cái họ đi làm ăn xa nhà; Cũng như nhiều gia đình khác trong làng, chỉ còn lại người già, còn thanh niên, phần lớn vào Hà Nội và các tỉnh thành phía nam làm việc. Việc đồng áng chỉ vất vả lúc vào mùa, còn mọi người khá nhàn hạ. Nhiều gia đình có con thành đạt, muốn mẹ cha về ở cùng nơi đô hội, nhưng họ thường muốn ở quê nhà vì quen làm việc và vì làng quê là nơi họ không bao giờ muốn lìa xa.

Hôm nay, ngày chính lễ. Như ông Viễn đã báo trước: Khách đến dự tiệc đã đến từ 9g sáng. Bàn nào bàn nấy chật kín. Mỗi bàn 6 người. Chúng tôi được mời sang sân nhà kề cạnh, vì rộng rãi hơn. Cũng như các bàn khác, bàn chúng tôi có 1 người cháu ruột chịu trách nhiệm tiếp đãi. Rượu nếp tự làm, mà theo họ, rất đặc biệt và rất ngon. Thức ăn cũng tự biên tự diễn, cứ hạ 1 con heo, ít gà là xong. Còn giò lụa, giò thủ xắt thật dầy làm 6 miếng to mỗi đĩa. Các món ăn rất đơn điệu, nhưng mọi người đều rất vui, vì ngày mai nếu đến lượt nhà khác cũng y như thế, chả có gì thay đổi. No nê và phấn khích. Ai không ăn, có thể gói mang về. Không có chuyện mời người về nấu đám, vì người ta nói chết. Khổ cho các con cháu phải trầy trật làm mấy ngày, nhưng ô hay! Chẳng ai than vãn, vì luật là vậy mà!

Cô dâu chú rể cũng lòng vòng mời chào các bàn tiệc. Những bàn tiệc ovan đầy thịt heo luộc, dồi, giò, thịt heo nấu sen và lá ngải, tô canh bí nấu chẳng thịt heo thì cũng lòng gà. Ăn xong, khách ồn ào chào hỏi, bắt tay bắt chân rồi ra về. Lại dọn sạch bàn cho lớp khách đến sau. Riêng chúng tôi là thượng khách, khi ăn xong được người cháu mời sang bàn vừa dọn trống kề bên, uống trà và đàm đạo tùy thích. Người cháu liên tục rót trà vào mấy cái tách xinh xinh, chỉ sợ khách thiếu cái chất màu xanh tuy ít mà trịnh trọng đó.

Chiều tới, tôi và anh bạn đi lòng vòng quanh thôn xóm. Lại những nụ cười. Lại những lời mời mọc chân tình, hai ông vào chơi đã, mấy khi ra đây mà! Lại cả đống phích nước mang ra, lại nước trà pha pha chế chế, lại đầy đủ con cái chồng vợ ra tiếp, lại ồn ào chào mời, lại lăng xăng từ giã, chả ai nghe thấy gì, chỉ biết họ mời lúc nào rảnh, 2 ông cứ lại đây, người nhà cả mà!

Xa xa, có tiếng trống gõ. À! Thì ra có cái đám ma. Hèn nào, lại có lũ lượt người đến phúng viếng. Dân làng giải thích, cả làng họ đến viếng đấy. Khách của anh cả thì anh cả phải lo cho họ ăn; của chú Ba thì chú ba phải mời ăn, kẻo “họ” nói đấy! Trời đất!

Đi lăng quăng mãi, đến lúc chủ nhà a lô lại về cơm nước. Cũng lại mấy món “cơ bản”: Thịt heo luộc, dồi heo luộc, thịt gà rán, đậu đũa xào lòng gà, canh bí mà mỗi trái bí có khi nặng cả 5, 6 kg. Ngán quá. Nhưng tiệc to đã mãn, tiểu tiệc buổi tối cũng có bia uống thoải mái. Dĩ nhiên, chúng tôi ráng nuốt những món ăn lập đi lập lại vì chủ nhà và họ hàng quá ư ân cần, săn sóc.

Lại một đêm ngủ lang. Lại vợ chồng ông Phương dễ mến. Lại tiếng quét sân lúc 5 giờ sáng. Lại mấy ly cà phê sữa pha sẵn, ngồi nơi ghế đá trước sân, nơi có đàn vịt lúi húi gì đó trong mảnh vườn nào bí, nào ngô… Có con rắn trườn ngang sân rồi biến mất sau bụi chuối. Tôi hỏi:

- Vậy có rắn độc không anh?

Chủ nhà cười toe:

- Làm gì mà còn, chúng bắt tất!

Phải rồi, tôi nhớ ra hằng hà sa số những hũ rượu ngâm rắn ngự đầy trong các quán xá. Chả biết sự tuyệt diệt loài rắn có làm ai đau sầu?

Hôm sau cũng thế, nhưng nhẹ hơn. Ca nhạc cũng lìu xìu cho đến 2, 3 giờ trưa là loa với thùng bái bai chờ đám khác. Khách chỉ còn lại con cháu thật gần, được mời ở lại ăn miếng cơm nào thịt heo luộc, nào gà chiên, nào… (ôi mệt quá!), như lời cám ơn của chủ nhà.

Tối đến, mới thực là buổi cơm gia đình, chỉ gồm đôi trẻ và cha mẹ đôi bên. Bà mẹ cô dâu từ chiều đã xin phép ông bà chủ nhà được phụ nấu cơm với gia chủ. Bà thêm thắt tí gia vị trên nào heo, nào gà… Tôi ăn thấy ngon hơn, nhưng chả biết chủ nhà có thấy ngon như thế không chẳng biết. Chỉ biết là mọi người vui ơi là vui. Vì bây giờ mới thật là người nhà. Ông Viễn chả ăn miếng nào, trừ ra mấy miếng thịt heo ram bà sui gia gắp cho, và ông vừa nói vừa liên tục rót bia, thứ bia ông chỉ dành cho tối nay, và chỉ cho những người mà ông, cả bà nữa, coi vừa là thượng khách, vừa là người nhà; và tôi được hưởng lây niềm vui đó.

Chúng tôi ngủ lại nhà ông Viễn, vì cháu chắt đã về nhà mình, vì cuộc vui đã xong. Nhà ông đầy muỗi nhưng chúng tôi vẫn ngồi hàn huyên trên cái sân xém mưa hôm qua. Ngôi nhà ngói cũ xưa nhưng đầy mến thương qua bao thế hệ.

Hôm sau, chúng tôi trở về Sài gòn. Ông Viễn huy động các cháu chở hành lý chúng tôi ra tận bến xe. Cả ông lẫn bà lẽo đẽo theo chúng tôi và bịn rịn không muốn về nhà. Ông bắt chặt tay chúng tôi dễ đến 7, 8 lần, còn bà, tôi thấy mắt bà đỏ hoe…

LAM TRẦN 21.06.2013

***

NHỮNG ÔNG BỐ ĐƠN THÂN

Chạy ào chiếc xe vào sân nhà Hải, Thuận đã nhìn thấy ba cái xe khác, “mấy cha đến sớm dữ ta”. Dựng cái xe xong, anh bưng thùng bia vào trong nhà, không thấy ai ngoài mấy cái mũ bảo hiểm, nhưng có tiếng nói cười vọng lên từ nhà sau. Thuận đi xuống.

- A, tới rồi hả? Phụ một tay đi.

- Mấy ông làm món gì đó?

- Vịt nấu chao. Lươn xào xả ớt. Cá rô chiên xù.

- Ui cha quá đã. Đâu làm gì đưa tui làm.

- Ông lột mấy tép tỏi làm chén nước chấm đi.

- Xong ngay.

Thuận nhanh tay vào việc. Gian bếp chộn rộn tiếng khua khoắng chén bát dao thớt. Mùi thực phẩm cuộn vào nhau ngàn ngạt.

- Ông không mang thằng nhỏ tới à?

- Bữa nay bên ngoại nó đón về chơi rồi. Mấy nhóc đâu?

- Tụi nó đang chơi trên lầu. Lát nữa đến đủ rồi cho một chầu lên đó.

Có tiếng xe máy chạy vào sân.

- Hiển tới, nghe tiếng xe là biết mà.

Hiển thường đi chiếc xe Nova nên tiếng nổ hơi khác biệt. Nghe vài lần là rành thôi. Đúng là Hiển, theo sau là một bé gái độ sáu tuổi, mặc một chiếc đầm vàng rất dễ thương.

- Con chào bác Minh. Con chào chú Hải. Con chào chú Thuận. Con chào chú Nam. Con chào chú Chánh.

- Ui trời ơi. Mỏi miệng chưa con.

Tiếng cười rộ lên sau màn chào hỏi của cháu bé. Hiển cũng cười rồi dắt tay con bé đi lên lầu. Khi xuống anh trở ra xe lấy mấy túi đồ, đó là một ít trái cây, mấy xâu nem chua, và hai chai vodka Hà Nội. Bỏ mấy thứ lên bàn, một cách quen thuộc, Hiển đi vào một góc phòng lấy ra một cái chiếu đôi trải ra giữa căn phòng giáp bếp. Vừa trải xong thì lại nghe tiếng xe ngoài cổng, không phải một mà là hai, Quân và Mạnh, mỗi người kèm theo một chú nhóc, chú nhóc của Quân lớn hơn chú nhóc của Mạnh ba tuổi, tám và mười một, cả hai nhanh nhẹn tụt xuống xe, rồi phụ hai ông bố xách mấy cái túi xốp đi vào.

- Con đem bánh với rau câu lên lầu cho các em ăn với nha.

- Dạ. Bánh mì để đâu đây ba?

- Đưa chú. Chà bữa nay nhìn cu cậu ngon lành quá ta. Bữa hổm nhìn ẹ quá.

- Bữa đó con bị bịnh chứ bộ.

Nhóc Hiếu của bố Quân nhanh nhảu nói rồi chạy ào lên cầu thang. Mấy ông bố nhìn nhau cười. Thế rồi mỗi người một tay, lúc sau họ đã xoay quanh trên chiếc chiếu. Trên lầu, chí choé tiếng những đứa trẻ, chúng cũng tròn một mâm với những thứ thức ăn thích hợp.

- Dô một cái cho khí thế đi. Chúc một chiều chủ nhật hoành tráng nghe.

- Hoành tráng chi nghe to tát quá, chúc mừng mấy cái mặt mốc cả già lẫn trẻ một tháng bình an là tốt rồi.

- Ê, còn thiếu thằng Huy nữa chứ, sáng nó có gọi nói phải đưa hai đứa nhóc đi về nội.

- Cái thằng vất vả quá.

- Tụi mình thì thằng nào chả vất.

Sau câu nói ấy, một khoảng lặng chùng xuống. Hải vội khua đũa, hối:

- Ăn cá chiên đi cho nóng nè. Giòn rụm nha.

Những cái cười nhanh chóng như để khoả lấp một cảm trạng.

CÂU LẠC BỘ NHỮNG ÔNG BỐ ĐƠN THÂN.

Đó là cụm từ được đặt ra cho một nhóm đàn ông là lạ này đã ngẫu nhiên mọc ra trong một chiếu nhậu. Ban đầu mới chỉ là ba người Hải, Thuận, Nam thỉnh thoảng đi uống cà phê, thỉnh thoảng gọi nhau để hỏi chuyện làm sao cho con bớt sốt, làm sao để nấu một món ăn, làm sao để giải thích một câu hỏi hóc búa của trẻ… sau, sau nữa thêm vào hai cái tên Minh và Hiển thì coi như hình thành một cụm từ. Từ cụm từ ấy mà rồi kéo thêm dăm mạng nữa. Và khả năng con số sẽ ngày càng tăng một khi tình trạng những quả bóng hôn nhân liên tục bị đập vỡ như hiện nay. Có quá nhiều nguyên nhân để dẫn đến các cuộc ly dị.

- Ăn nhậu gái gú như mình vợ bỏ đã đành, hiền lành một cục như thằng Huy mà cũng không xong.

Quân nói sau một ngụm bia. Là một phó phòng của một công ty kinh doanh bất động sản, với vai trò đối ngoại giao dịch, những cuộc nhậu hầu như triền miên với Quân. Một tuần giỏi lắm được một hôm về sớm với tình trạng khá tỉnh táo, còn thì luôn là giấc khuya với hơi men cùng bộ dạng tã tượi. Có người vợ nào đủ kiên nhẫn để hết ngày này sang tháng khác với một ông chồng gần như không còn thuộc về mình ngoài cái tài khoản. Nên rồi dù đã hai đứa con, họ cùng đành thoả thuận chia đôi. Từ sau phiên tòa ly dị, trong tình trạng một ông bố đơn thân, buộc lòng công ty phải bố trí một công việc khác. Nhiều khi nghĩ lại Quân cũng rất tiếc, nhưng biết làm sao được, có những lối rẽ trong đời không ai có thể biết trước.

- Hồi xưa thì nói đàn ông nhiều tham vọng, nhưng bây giờ đàn bà còn tham vọng gấp mấy đàn ông nữa.

Họ đang nói về Huy. Một trung niên mới hơn ngoài ba mươi, hai vợ chồng cưới nhau khi còn khá trẻ, lúc ấy cả hai đều có một công việc khá ổn định. Nhưng rồi ngày tiếp ngày, những biến chuyển của ngoại quan kéo theo cả sự biến chuyển tâm sinh lý. Cô vợ năng động trẻ trung nhanh nhạy luôn biết nắm bắt những cơ hội tốt cho mình, nên chẳng bao lâu đã có một số điều kiện nổi trội hơn chồng. Huy cũng không phải là không có tham vọng, nhưng không phải tham vọng nào cũng được hiện thực trong thời gian ngắn nhất với những tương hỗ thuận hợp nhất. Và rồi, một khi người ta luôn hướng đến những mục tiêu cao hơn và xa hơn, thì tất nhiên người ta không thể bằng lòng với những hiện tại. Có úp mở gì rồi cũng đến lúc phải huỵch toẹt. Huy tái tê trước đôi môi xinh mới ngày nào còn thốt lên những lời tình yêu nồng cháy, giờ thì buông ra một sự chọn lựa đến bình thản. Tuy tòa xử hai đứa con chia đôi, nhưng Huy thỏa thuận với vợ để cho mình nuôi cả. Cũng không quá khó khăn với một người phụ nữ còn quá nhiều cơ hội đang giăng phía trước. Thế là Huy với tất tật mọi việc chung riêng, bà nội đã già nên cũng chẳng giúp gì được cho hai cháu, và Huy thì cũng không muốn phiền hà cho mọi người. Có vài người bạn thân thiết, thi thoảng hỗ trợ.

- Thì thời đại nam nữ bình quyền mà.

- Bình thì cũng tùy từng vấn đề thôi chứ. Tui hỏi mấy ông, vợ mà cứ thích nhảy lên đầu mình ngồi thì ai mà chịu nổi. Nhiều bữa đi làm về trễ mệt bở hơi tai ra, không thăm hỏi được một câu lại còn chì chiết “con nào con nào…”, cứ làm như đàn ông ngoài chuyện đó ra thì không còn chuyện gì khác nữa, hết con nào thì lại tiền tiền… nhiều khi ra đường xấu hổ với mọi người, móc ví ra không còn một đồng lẻ.

Chánh bực bõ trong cơn giận. Đúng là chẳng ai biết được những gì sẽ diễn ra với mình. Một công việc ổn định với mức thu nhập khả quan cả chính lẫn phụ, một cô vợ xem cũng được được với một cô con gái bé bé xinh xinh. Những tưởng rồi cứ thế mà rủng rinh tháng ngày. Nhưng cái nòi ở không hay bồng lắm chuyện. Cô vợ khá nhàn nhã công việc nhà, lại không phải lo toan kinh tế, thế là rảnh rang đi hóng hớt, rảnh rang mà nghiêng ngó chuyện lá lai. “Sợ mất chồng” luôn là cái mầm bệnh trong mỗi người đàn bà. Cái mầm bệnh ấy sẽ phát nặng nếu các bà cứ túm tụm vào nhau là bàn khôn tán ngoan những mánh những mẹo. Lại giỏi trò soi mói đơm đặt chuyện thiên hạ, vui cho thỏa cái tính đố kỵ của mình thì chớ lại còn tự vận vào cảnh nhà, tự ám ảnh, tự suy diễn, tự áp đặt những hiện tượng về người chồng. Thế là tra gạn, căn vặn, đón đầu đón đuôi. Đàn ông ra ngoài xa hội là phải giao tiếp, đương nhiên với đặc tính của tạo hóa, họ cũng không mấy khi có thể nghiêm túc hết được, chỉ là tùy theo từng giới hạn, và dù thế nào thì họ vẫn coi trọng gia đình của mình. Nhưng với những người vợ lắm sợ nhiều lo, thì sự ám ảnh không dễ gì gột bỏ, không chỉ sợ mất chồng mà có khi sợ mất tiền nhiều hơn.

- Mấy bả truyền tai nhau chiêu giữ tiền chứ không giữ chân, không có tiền đố có đi đâu được. Nhưng mà mấy bả có biết đâu làm thế là làm nhục chồng mình trước.

- Trong mắt của mấy bà thì đàn ông tụi mình toàn những thằng lừa đảo, vô tích sự, có khi còn là ngu dốt nữa. Nhiều lúc dạy mình như dạy con vậy. Nổi điên lên thì lại bảo mình là gia trưởng. Mệt mỏi quá, không chịu nổi nữa, thôi chia tay cho xong. Chỉ tội tụi nhỏ.

Thuận nói, giọng pha chút cay đắng. Cho đến bây giờ, sau hai năm ly dị, Thuận vẫn như còn váng vất bởi những gây gỗ, bực dọc, phân trần thậm chí cả đập phá mỗi lúc thân kinh căng thẳng đến không thể kềm chế. Sau gần mười năm chung sống, thống kê lại thì những ngày được gọi là hạnh phúc chỉ vào khoảng một phần năm thời gian. Còn lại là những tháng ngày nặng nề mệt mỏi. Cuối cùng, hai đứa con chia đôi, tài sản chia đôi. Một cái thở phào khi chấm dứt một cuộc hôn nhân.

- Thì cũng vì con mà cứ gắng gỏi mãi, mà gắng gỏi bao nhiêu thì mợ lại càng được thể làm nư làm lừng bấy nhiêu. Hơi một chút là khăn gói về nhà mẹ, hơi một chút là cơm không nấu con không chăm. Đàn bà như thế thì lấy chồng làm gì. Hồi xưa cũng vì tí cái sắc, mà thành ra…

Mạnh tiếp lời Thuận. Hai người có một cảnh ngộ khá tương đồng. Nhưng cô vợ của Mạnh thì đỏng đảnh hơn một chút, vốn là con gái út được cưng chìu, nên cứ hơi có chuyện là cô ta làm lừng làm lẫy, vài lần đầu, Mạnh còn nén tự ái, đến nhà vợ nhận lỗi lệch rồi xin đón vợ về, sau khi nhận một tràng giáo huấn nhiếc móc của bà mẹ vợ. Nhưng rồi không thể kéo dài mãi cảnh trạng như vậy, nhất là khi nhìn thằng cu con bò lê bò la khóc vì đói, đó là cách mà cô vợ thường xuyên dùng làm chiêu để tra tấn chồng. Để rồi, cũng một lần cô nàng lại khăn gói về nhà mẹ, nhưng sẽ không bao giờ còn cảnh chồng phải đến đón về nữa, mà chỉ có giấy gọi của một phiên tòa.

- Thì đã có câu rồi đấy thôi “Chỉ vì một làn môi một khóe mắt mà bê về cả một con người”.

- Đành rằng mình thì cũng không phải là hay hớm gì, ai cũng có mặt xấu mặt tốt. Buớc vào hôn nhân là để tìm hạnh phúc, chứ đâu phải để đọa đày dằn vặt nhau.

Hiển nói với một vẻ mặt ủ dột, vợ Hiển trước hết là một cô gái đẹp, và cô cũng khá suôn sẻ may mắn trên con đường sự nghiệp, Hiển luôn chìu vợ, sẵn sàng tạo điều kiện để vợ phấn đấu, mặc dù trong thâm tâm anh cũng không thích thú gì cảnh vợ chưng diện để đi hết buổi tiệc này đến chiêu đãi khác. Nhưng với một tầm mức cũng khá tương đồng về mặt xã hội, anh hiểu phụ nữ có chút tài năng và nhan sắc luôn phải đối phó với rất nhiều áp lực. Việc nhà cũng vì thế mà anh dần phải cáng đáng nhiều hơn. Thi thoảng anh nhắc nhở đôi câu thì cảm nhận được cái cau mày của vợ. Thế rồi sau một chuyến công tác khá dài ở nước ngoài về, vợ anh lạnh lùng đưa ra trước mặt anh một lá đơn. Khá bàng hoàng và sững sờ, nhưng ngay lập tức anh biết, không thể có cơ hội cứu vãn khi nhìn vào ánh mắt đầy cương quyết của vợ. Đứa trẻ năm tuổi đi theo cái dắt tay của bố ra khỏi phòng xứ án.

- Phụ nữ bây giờ được tự do thì lại tự do quá trớn, người đi làm công sở thì ra đều ta đây cũng chức vị cũng tiền bạc, về nhà thì ra giọng coi thường chồng, người không đi làm mà buôn bán thì có khi tiền kiếm được còn gấp mấy lương chồng, nên quyền hành trong nhà coi như nắm hết trong tay, người không làm gì mà được chồng chìu một chút thì tự coi mình như bà hoàng, chỉ chăm chăm ăn diện, bữa cơm nấu không nên hồn, cứ như mình là cu li phải phục vụ bà lớn vậy.

- Cái gì cũng có tính hai mặt, vấn đề là người ta phải biết vận dụng thế nào cho phù hợp và có định lượng. Xã hội thì vẫn cái nhìn thiên kiến rằng cứ vợ chồng ly hôn là lỗi thuộc về đàn ông, họ đâu nghĩ rằng phụ nữ ngày nay cũng đủ trò ma mãnh. Ừ thì họ có xử tệ với mình thế nào thì cũng coi như chuyện vặt, mình cũng chẳng chấp, có bực bõ giận dữ rồi cũng thôi, nhưng còn con cái, chúng bé như thế mà bỏ bê, có khi còn sử dụng chúng như một thứ công cụ trong việc mè nheo hay tra tấn mình, thì chẳng có thằng đàn ông nào kiên nhẫn được hết.

- Hình tượng người mẹ luôn là một ánh lung linh huyền diệu với con trẻ, nhưng có những người mẹ thời nay thì thật là…

- Ba ơi! Em khóc đòi ba kìa.

Tiếng một cậu trai đứng giữa cầu thang la lớn khiến Nam bật dậy. Cuộc hội thảo bất kỳ bị gián đoạn. Một sự im lặng bao trùm, ai cũng lắng vào suy tưởng riêng mình, bất chừng một tiếng thở dài não nuột:

- Đàn bà. Không có họ thì cuộc đời cũng mất thi vị đi một nửa, nhưng có họ thì nhiều khi cũng chẳng sung sướng gì. Họ hành hạ ta, họ cấu nhéo ta, họ băm bổ ta, họ chì chiết ta… nhưng ta thì vẫn không tách rời khỏi họ được, sao ông trời làm khổ ta thế nhỉ?

- Trời sinh ra hai phái để mà tương quan hỗ trợ nhau, để mà đem vui đổ buồn cho nhau. Họ thì cũng kêu ca than vãn là đàn ông chúng ta làm khổ họ. Suy cho cùng đó là cái nghiệt oan cơn cớ từ con tạo xoay vần mà ra vậy.

- Nhiều lúc con khóc đòi mẹ, mình đứt ruột ra, mình có thương con chăm con mấy thì cũng không bằng mẹ nó, hỏi mấy ông chứ, đàn ông mà phải cầm cây kim sợi chỉ khâu cái nút áo cho con thì đau lòng đến thế nào. Đàn bà họ có sẵn chức năng làm mẹ, họ chăm sóc con cái không đến nỗi khó khăn, còn mình, việc cơ quan đã bù đầu tối mắt, còn phải đưa đón cơm nước cho con, hàng lô làng lốc việc nhà, nhiều lúc chán đời quá mệt mỏi quá, muốn chết cho xong.

- Thôi dô cái đi, nghe hồi nữa chắc tự tử thiệt quá. Mà nghĩ cũng kỳ ha, gà trống nuôi con thì cực vậy đó, nhưng cha nào ly dị là cũng muốn giữ con. Là sao?

- Thì bỏ vợ dễ chứ bỏ con sao được. Hỏi ông, vợ mình rồi nó cũng lấy thằng khác, thử tưởng tượng lúc thằng bố dượng dang tay tát con mình, chịu nổi hông? Đàn bà chịu thương con chồng đã khó, đàn ông mà thương con vợ còn khó hơn. Làm sao mà giao con đi được, ngoại trừ bất khả kháng, mà phần lớn phụ nữ bây giờ ly hôn là trả con cho chồng không à, để rộng cẳng mà.

- Có lần tui đi trên một chuyến xe, thằng tài xế cũng còn trẻ thôi, nghe một cuộc điện thoại của nó như dzầy “Con hả con, bố nè, em đâu… vậy hả… mẹ đâu… đi đâu rồi à… bà ngoại cũng đi rồi à… hai anh em ăn sáng chưa… ăn gì… lại bánh mì… ờ mẹ về kêu mẹ nói chuyện với bố đi… em à, em coi con giùm tui đi… đi hoài chứ coi ngó gì tụi nó đâu… bà ngoại bà ngoại… hổm mới đưa mấy triệu rồi… tiêu tiền như xả rác dzậy ai chịu cho nổi… tao nói thiệt mày tao kẹt quá mới phải để tụi nhỏ ở đó… mày… mày là cái thứ bần cùng xã hội”. Cụp một phát. Xong phim. Mấy ông nghe có thấy nẫu người ra không? Tui nghe xong nghĩ mình vẫn còn khá hơn, có vất vả một tí nhưng hàng ngày chăm nom con cái mình cũng đỡ tội cho tụi nó.

- Xã hội vẫn có cái nhìn ưu ái và cảm thông với những bà mẹ đơn thân, còn những ông bố đơn thân như tụi mình có ai hiểu giùm cho chút hông ta?

- Kiếm đại bà nào tàm tạm về lo cho tụi nhỏ đi mấy ông à.

- Nói nghe dễ thế, thứ nhất là để cho nguôi nỗi ám ảnh đã, thứ hai là phụ nữ bây giờ không có mấy ai chịu để trái tim lên đầu đâu, họ cũng nhắm nhe lắm à, anh nào tầm tầm, tiền hổng bao nhiêu, địa vị hổng bao nhiêu, lại còn đeo một hai cái rờ moọc nữa thì chả mợ nào dám gánh đâu.

- Ngày xưa thời thế tạo anh hùng. Ngày nay thời thế… lại khốn cùng… bó tay.

- Cũng không đến nỗi bó tay đâu, cũng còn những người phụ nữ nhân hậu, chỉ là ta có đủ duyên để gặp không thôi. Nhưng mà đợi tụi nhỏ lớn lớn tí đã. Vội vàng lỡ tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa hết hơi.

Minh là người lớn tuổi nhất hội, anh lập gia đình khá trễ, gần bốn mươi mới rước về một cô vợ trẻ. Ban đầu ai cũng bảo “chồng già vợ trẻ là tiên”. Tiên đâu không thấy, một đằng thì trầm tĩnh chín chắn, lại quen sống tự lo liệu suốt bao năm, một đằng còn tung tăng bay nhảy, nhiều khi đỏng đảnh trò trẻ con, ham chơi hơn ham làm, anh cứ ráng nhịn ráng nhịn, nghĩ vợ trẻ người non dạ thì mình dạy dần vậy. Nhưng bất ngờ một ngày, anh phát hiện vợ đi cùng một tay trẻ trai, thì anh cay đắng mà ôm con. Đứa trẻ chỉ mới hai tuổi. Không còn cách nào khác, cho dù…

- Ông một đứa lại có bà nội hỗ trợ còn đỡ, tui hai đứa, ăn chơi học hành bình thường là may, còn đứa hu hi đứa hắt xì, vắt chân lên cổ không biết trời là đâu đất là đâu. Nhưng mà nói thiệt, kiếm vợ cho mình thì không khó, kiếm mẹ cho con mình thì cả một vấn đề. Có tụi nó rồi, mình không thể chỉ theo ý riêng của mình được, làm gì cũng nghĩ cho tụi nó trước.

Nam vừa bước trở lại chỗ ngồi nói luôn. Chuyện của Nam có hơi khác một chút. Nam lấy vợ không do tình yêu. Mà vì một một mục đích thăng tiến. Vợ Nam là một phụ nữ trung bình, nhưng cha cô là tổng giám đốc công ty Nam làm. Cô yêu Nam, dù biết Nam đã có người yêu. Và cách duy nhất để có được Nam là phải nhờ cha cô lo liệu. Nam nghĩ khá đơn giản khi quyết định nhận lời. “Với đàn ông sự nghiệp là quan trọng nhất”. Nhưng khi về sống chung, mới lộ dần ra những điều không thể lường trước. Đã phải đánh đổi nhiều thứ, nhưng cuối cùng thì lòng tự trọng tối thiểu của một thằng đàn ông đã không cho phép Nam đánh đổi thêm được nữa. Nam rời khỏi nhà vợ, đồng nghĩa gần như với hai bàn tay trắng, nhiều người khuyên tạm để hai đứa trẻ ở với mẹ nó, khi nào tạm ổn sẽ đón về, nhưng một khi lòng đã quyết và không muốn hai con nhiễm phải lối sống trịch thượng trưởng giả vô lối, anh tìm một căn nhà trọ rẻ tiền và bắt đầu một chặng đường vật vã.

- Thôi thì trước mắt có cái câu lạc bộ đặc biệt này chạy lui chạy tới cho nhau là tạm ổn rồi. Chuyện gì nữa tính sau. Dô cái nào.

Hải đệm một câu cho bầu không khí giãn ra.

- Uống vừa thôi, còn lo cho tụi nhỏ. Ờ mà xem ra trong mọi hoàn cảnh, ông Hải có vẻ hạnh phúc nhất ha.

- Nói chi kỳ dzậy ông, dzợ người ta chết mà ông kêu là hạnh phúc?

- Hổng sao, tui hiểu mà. Bởi mấy ông nghĩ rằng tui không phải chịu nỗi đau bức ách từ những góc độ khác, những nỗi đau của sự mất mát vĩnh viễn có khi là dai dẳng nhất. Nhưng nói là hạnh phúc cũng có phần đúng, vì bả chết khi tình cảm tụi tui vẫn đang khá ổn. Nên buồn thì vẫn buồn nhưng nghĩ đến kỷ niệm cũng vui vui. Cũng may mà thằng nhỏ tui nó cũng lớn lên khỏe mạnh. Thôi thì má nó ngắn duyên chịu vậy. Mỗi người mỗi phận mà.

Vợ Hải khá ốm yếu, nhưng thương nhau thì cứ lấy. Ngờ đâu sau khi sinh đứa con đầu lòng, cô đau ốm triền miên rồi mất khi con mới gần sáu tháng tuổi. Hải xất bất xang bang trong thời kỳ ấy. Rồi những hỗ trợ từ phía người thân bạn bè cũng giúp anh qua được. Giờ cháu bé đã gần năm tuổi, nhưng hình bóng người vợ vẫn lẩn quất trong tim, nên anh chưa mặn mà gì chuyện tiếp nối. Đàn ông, tuy có thể đa cảm, nhưng tình yêu cũng không phải là thứ để có thể dễ dãi phân chia.

Tiếng trẻ nô đùa trên tầng vọng xuống, những ông bố lóng tai nghe, khoé miệng hơi nhếch lên, nhưng ánh mắt thì đăm chiêu với vẻ buồn man mác. Những chiếc ly trống không. Giáp tường vẫn còn non nửa thùng bia. Chúng sẽ nằm im đấy trong một tháng tới.

Tiếng xe máy chạy ùa vào sân một cách gấp gáp. Những cái đầu ló ra, Đức như nhảy khỏi xe, tay ôm một đứa trẻ bé xíu gói trong cái khăn bông, cậu nói như khóc:

- Các anh ơi! Cứu em với. Hóa ra con vợ em nó có thai với người khác trước khi lấy em, giờ em phát hiện ra thế là nó bỏ đi để lại con nhỏ đây, em phải làm sao bây giờ…???

Mấy cái mồm há mà không phát ra được tiếng nào. Đức mới đám cưới năm ngoái. Bất chợt…

- Trời ơi trời! Thời buổi này là thời buổi gì dzậy trời???

ĐÀM LAN

Phụ Bản IV

THƯƠNG NHỚ Ô-SIN

- Hả? Cái gì?

- Không tin được!

- Trời! Có chuyện ấy thật sao?

- Cha này trông đạo mạo hiền khô mà kinh khủng thật!

- …

Người ta xôn xao bàn tán khi nghe chuyện xảy ra còn nóng hổi trong gia đình vợ chồng Bảo.

Người thộn mặt vì tưởng nghe lầm. Người trợn mắt bởi bất ngờ. Người nhún vai lắc đầu, ý khinh thị... thôi thì mỗi người mỗi kiểu, mười phân vẹn mười. Sửng sốt. Nghi hoặc. Chế giễu. Kết án… mà thông thường tâm lý người đời khi đón nhận loại tin này, số chế giễu và kết án bao giờ chẳng chiếm đông nhất? Có chế giễu, có kết án người khác thì mới tỏ ra mình đạo đức hơn chán vạn kẻ chứ!

(Nhưng thôi, kệ người đời! Phải viết nốt truyện, kẻo lạc đề!)

Phải, không ai ngờ Bảo có thể “đổ đốn” ra thế? Lần này nhất định to chuyện thật rồi. Cứ nhìn Thu - vợ Bảo - đang lên cơn cuồng ghen, lăn lộn gào thét kia thì biết.

Thu vừa bắt quả tang Bảo… “ăn vụng”, mà phải chi “ăn vụng” với ai cũng còn có thể tha thứ đôi phần, ai đời lại “lăng nhăng” với bà già đáng tuổi mẹ Bảo, cũng chính là người giúp việc trong nhà, mà theo ngôn ngữ ngày nay quen gọi Ô-sin. Rõ động trời chưa?

Công bằng mà nói, Thu vốn mắc chứng hoang tưởng khá nặng, chuyện gì cũng khiến chị suy diễn ra những điều tệ hại, tiêu cực, chứ nhiều khi chẳng có bằng cớ hiển nhiên gì. Thu ghen khủng khiếp, mỗi khi máu Hoạn Thư bốc lên, chị như người mất trí. Chị túm áo chồng, cào xé, đập phá, gào khóc, cho đến khi mệt lả thì nằm sóng soài, lịm đi, tay chân lạnh ngắt.

Mỗi lần chứng kiến cảnh ấy, hàng xóm lại nghĩ có lẽ họ bỏ nhau đến nơi. Vậy mà chỉ sáng hôm sau, lại thấy chị âu yếm quàng tay ôm lưng chồng ra đường, mặt tươi hơn hớn.

Trả lời cho những ánh mắt hiếu kỳ soi mói, chị ngỏn ngoẻn cười:

- Mình bậy quá. Nghi oan anh ấy…

Một tháng, chị “bậy quá” tới mấy lần. Riết rồi hàng xóm quen đi, nghe xô xát trong nhà chị, chẳng ai ngạc nhiên nữa.

Nhưng công bằng mà nói, cũng phần nào thông cảm với Thu. Bảo giỏi giang, thành đạt, đẹp trai ngời ngời thế kia, lại trẻ hơn chị mấy tuổi, bảo sao chị yên tâm cho được? Chị vốn kém nhan sắc, dù đã nhờ thẩm mỹ viện can thiệp nhiều, vẫn khó cân bằng chênh lệch với chồng. Người lạ thoạt gặp ai cũng nhầm Bảo là em chị. Thế mới… hoàn cảnh! Từ sau ngày sinh bé Xuân, Thu phát tướng, tăng cân vùn vụt, da mặt đầy tàn nhang và vết nám mà lớp mỹ phẩm có trát dày tới đâu cũng không lấp hết được. Vốn coi trọng ngoại hình (mà nói chung, đã là phụ nữ thì ai chẳng… thế?). Thu thấy chẳng còn gì bi đát hơn. Chị bứt rứt đau khổ thấy chồng chẳng chịu già, chẳng chịu xấu xí đi cùng chị. Dường như mỗi năm càng thành đạt anh càng trẻ trung, càng tăng sức hút, khiến chị thêm bất an. Chị ngấm ngầm ghen với các nữ đồng nghiệp trong công ty và với các đối tác của anh, với cô hàng xóm độc thân, với cả… Ô-sin của chị nữa.

Thu đặt Ô-sin là nguy hiểm lớn nhất, vì họ cùng sống chung trong nhà và gặp mặt nhau hàng ngày. Chỉ hai năm, chị thay gần chục người giúp việc, dù chẳng với lý do gì, chỉ là cẩn thận đề phòng… lửa táp vào rơm! Cô Tư chải chuốt thế kia, chắc có âm mưu “chài” ông chủ trẻ đây! Chị Ba sao tự nhiên “cá mè một lứa” thế? Con Út chăm chút giặt ủi từng cái khăn tay, cà vạt của Bảo luôn thẳng thớm thơm tho, là có dụng ý gì? Còn với cô Sáu nấu ăn cực ngon lại là mối đe dọa khác: lỡ ra vì những món ngon của cô ta mà…

Nhưng khổ nỗi, trong nhà không thể không có Ô-sin. Đứa con nhỏ nay ốm mai đau bào mòn sức lực khiến Thu không còn thời gian chu tất công việc nội trợ, buộc chị phải tìm người giúp việc mà phập phồng như… rước cọp! Chị để mắt tới từng hành động nhỏ nhặt của họ. Buổi tối, chị bóp ổ khóa ngoài buồng ngủ Ô-sin, đến nỗi có một đêm, cô ta chột bụng, đập cửa ầm ầm. May Thu còn thức nghe được, mở khóa kịp lúc.

Ngoài mặc cảm thua kém ra, Thu còn một linh cảm: Bảo chưa bao giờ yêu chị được như chị yêu anh. Chị nghi ngờ anh bằng lòng lấy chị vì lý do gì khác hơn tình yêu.

Ngày đó, Bảo là một sinh viên năm cuối Đại học, đến thực tập tại công ty do ba Thu - ông Hạ - làm Tổng giám đốc. Anh sinh viên hiền lành, ít nói, đẹp trai như diễn viên điện ảnh (là các nhân viên nữ trong công ty nhận xét thế) và nhất là còn độc thân, nhanh chóng chiếm hữu trái tim ái nữ Sếp Tổng. Chị chủ động tấn công, liên tục mời anh đi ăn, đi xem kịch, xem phim. Chị bủa vây anh bằng nhiều món quà thiết thực nhưng đắt tiền mà tuy rất cần, đời sinh viên nghèo như anh chẳng bao giờ nghĩ đến. Không cần phải nói ra thì ai ai cũng ngầm hiểu, một chức vụ cao trong công ty (chưa nói đến tiếp quản cái công ty ấy trong tương lai) sẽ rơi vào tay Bảo, nếu hai người cưới nhau.

Nghe Bảo kể hoàn cảnh khó khăn, học hết cấp Hai một mình vào Thành phố bươn chải đủ nghề để tiếp tục học lên cao, Thu càng khâm phục ý chí mạnh mẽ của anh.

Ông Hạ thoạt đầu không bằng lòng nhưng rồi trước lòng si mê đến ngây dại và sự quyết tâm của con gái - vốn được ông yêu chiều từ bé mà trở nên quá bướng bỉnh - ông cũng chấp thuận. Nói chuyện với ai, ông chỉ biết tặc lưỡi buông hai tiếng “duyên số” như giải thích, như bào chữa.

Một đám cưới - mà bên nhà trai không có được một người thân tham dự - linh đình diễn ra. Đôi vợ chồng mới dọn về căn hộ riêng đầy đủ tiện nghi. Sau đó, Bảo trở thành trợ lý đắc lực cho Tổng Giám đốc…

Nhưng nếu nhìn vào sự việc như vậy mà kết luận Bảo dùng hôn nhân để mưu toan vụ lợi thì cũng không xác đáng. Chính tình cảm say đắm và chân thành của Thu đã làm anh thật sự xúc động.

Trước kia, Bảo đã qua hai mối tình có thể gọi là sâu nặng với hai bạn gái Diễm và Uyên.

Gặp rồi yêu Diễm từ ngày học chung cấp Ba, có thể gọi là tình “thanh mai trúc mã”, Bảo đặt rất nhiều hy vọng vào cô, bạn bè ai cũng đinh ninh rồi họ sẽ đi đến hôn nhân. Đột ngột, trong một sinh nhật người bạn chung, Diễm được xếp ngồi cạnh một Việt kiều và chỉ tuần sau, cô đã công khai tuyên bố mình là hôn thê của anh ta. Mất Diễm chớp nhoáng, nhanh như tiếng sét đánh ngang trời khiến Bảo không kịp tin, chưa kịp hiểu. Anh bị sốc nặng, tâm trạng buồn tiếc xót xa hơn một năm sau mới nguôi ngoai, khi quen Uyên. Nhưng cuộc tình này chẳng bao lâu cũng chia tay. Uyên không úp mở mà nói thẳng đuột cho Bảo hiểu cô chỉ yêu suông chứ quyết không bao giờ lấy một người chồng… nghèo. Một lần nữa, sự thật sống sượng phũ phàng khiến Bảo vừa đau vừa hận. Anh đâm ra hoài nghi tất cả, chán chường tất cả…

Vì vậy, tình yêu của Thu đến đã làm sống dậy tâm hồn tuyệt vọng, thay đổi cái nhìn u ám về tình đời, về lòng người trong Bảo. Thì ra trên cuộc đời này, đến với anh không chỉ có những người vụ lợi như Diễm hay Uyên. Vẫn còn người biết nhận ra giá trị thực sự của anh, yêu anh vì chính con người anh, không tính toán và vô điều kiện. Và anh đón nhận Thu với tất cả sự trân trọng xen lẫn hàm ơn.

***

Thu hay bắt gặp Bảo có những lúc buồn bã vô can cớ. Anh hay ngồi một mình đăm chiêu nghĩ ngợi, mắt lơ đãng hướng về một phương trời xa xôi nào đó, rồi âm thầm thở dài.

Nhưng dù vợ gặn hỏi, Bảo chưa một lần hé răng tâm sự. Điều đó làm Thu nghi kỵ. Chị hình dung ra đủ lý do: Anh tiếc nuối? Anh mặc cảm? Hay lòng anh đang còn vướng bận một hình bóng phụ nữ nào khác? Thu không thể thể biết được. Ý nghĩ tiêu cực nung nấu khiến chị khóc thầm nhiều đêm.

Thai nghén rồi chăm sóc đứa con nhỏ yếu đuối, Thu bị níu giữ trong nhà, tách xa khỏi chồng hơn nữa. Mỗi sáng nhìn Bảo xách cặp đi làm, chị không tránh khỏi những tưởng tượng bi quan, để rồi khổ sở vì bị chính suy diễn bi quan ấy dằn vặt. Chị ao ước được ngồi kề bên chồng trong những cuộc hội họp, được sánh vai chồng trong những chuyến công tác dài ngày, được tối tối tay trong tay hớn hở vào rạp xem kịch xem phim. Chị lo sợ có cô gái trẻ trung nào đó xuất hiện, cướp Bảo khỏi tay chị. Trĩu nặng buồn phiền, ăn không ngon, ngủ không yên và những vết nhăn không mời vẫn đến, ngày càng hằn rõ trên trán, đuôi mắt và khóe miệng chị. Chị mắc kẹt trong vòng lẩn quẩn, không lối thoát.

Rồi chị lại mang bầu lần hai. Cái thai hành chị điêu đứng, nôn ói tới mật xanh mật vàng. Bếp núc thường để lạnh tanh. Con bé Xuân thiếu người chăm sóc, gầy ruộc như mảnh giẻ. Thu vẫn không kiếm được một Ô-sin ưng ý. Trung tâm giới thiệu việc làm gửi đến người nào, chẳng chóng thì chầy cũng bị chị gửi trả lại. Bạn bè gần xa biết tính chị, cũng ngại, chẳng dám tiến cử người quen.

Đến một chiều kia, Bảo đưa về nhà một người đàn bà xấu xí cục mịch, tuổi chưa sáu mươi mà trông hom hem già nua như bà lão. Thu vừa nhìn, ưng ý ngay. Với người như bà Dự, chị tan biến nỗi lo canh cánh.

Chỉ một thời gian ngắn, bà Dự gây cảm tình đặc biệt với Thu. Bà siêng năng, tận tụy lại mát tay chăm trẻ. Từ ngày có bà chăm sóc, bé Xuân ăn ngon ngủ yên, không ốm đau lặt vặt nữa. Nó lên cân vùn vụt, da dẻ hồng hào.

Không chỉ riêng với bé Xuân, bà Dự chăm sóc mọi thành viên chu đáo. Bà chú ý từng sở thích nhỏ nhặt của cả nhà. Biết Bảo thích món cá bống trứng kho khô, bà thường làm cho anh ăn. Lạ một điều, dường như bà nấu món nào cũng hợp khẩu vị anh cả. Điều đó làm Thu rất hài lòng.

Bà Dự còn tỉ tê chia sẻ buồn vui chân tình với cô chủ. Biết được những lo lắng vô hình trong lòng Thu, bà luôn trấn an, nhắc nhở, xua đi những ý nghĩ tiêu cực ám ảnh chị. Trong lòng, Thu thầm cám ơn bà nhiều lắm. Chị mất mẹ từ nhỏ, chưa ai chia sẻ cùng chị những điều riêng tư ấy, nên chị quý bà như mẹ. Chị ngày một tự tin hơn, dịu dàng hơn, chứng hoang tưởng giảm rõ rệt. Và chị nhận ra rằng, khi tháo gỡ được những nghi ngờ, lòng chị nhẹ nhàng, bình an lắm.

Thu sinh thằng Bằng, một tay bà Dự chăm sóc hai mẹ con chu đáo. Bà yêu thằng bé lắm, rảnh việc là vào bồng ẵm, nựng nịu nó. Mỗi khi tắm cho nó, bà hôn trơ trất lên rốn, lên mông, lên giữa hai đùi nó một cách yêu thương và tự hào. Mấy tháng đầu, bà xin được ngủ chung phòng ban đêm để tiện chăm sóc thằng bé. Nhờ vậy sức khỏe Thu mau chóng phục hồi, đứa bé cũng lớn nhanh, không ốm đau quặt quẹo như con bé Xuân ngày trước. Có lần, Thu đã nắm tay bà, tha thiết nói:

- Dì ơi, dì ở với chúng con luôn, đừng đi đâu nữa nhé.

Bà Dự xúc động cúi gằm mặt, giấu hai hàng nước mắt rưng rưng. Cả năm ở nhà Bảo, chưa lần nào bà xin nghỉ về thăm quê. Trận lũ lụt năm ngoái đã cuốn trôi toàn bộ nhà cửa và chút vốn liếng ít ỏi, biến bà thành tứ cố vô thân, bơ vơ cô độc trên cuộc đời này, còn gì đâu mà quay về? Bà đã có lần ca cẩm với Thu như thế. Chị bùi ngùi bảo bà cứ yên tâm ở đây đến hết đời.

***

Cánh cửa thình lình mở toang. Mớ quần áo bị hất mạnh ra ngoài, rơi lả tả.

Tiếng Thu hét lên lanh lảnh:

- Cút đi, mụ phù thủy!... Già chưa trót đời!

Bà Dự tóc xổ tung, lảo đảo hai tay ôm đầu chạy ra như người say rượu, suýt đâm sầm vào mấy người hàng xóm nghe ồn ào, đang xúm xít ngó nghiêng trước cổng.

Từ trong nhà, Bảo cuống quýt chạy theo, thảng thốt kêu:

- Dì Dự, dì định đi đâu? Dì đang ốm mà…

Thu giận dữ lao theo túm áo chồng lôi lại. Chị gào lên như người điên. Hai vợ chồng giằng co, xô đẩy nhau suýt ngã, người ta lại phải can ra.

Sau lúc hỗn loạn, Bảo sực nhớ, hỏi to:

- Dì Dự đâu rồi?

- Bà ấy đi rồi.

Ai đó trả lời.

Bà Dự như đã tan biến vào dòng người tự bao giờ. Bảo chạy tìm khắp các nơi mà anh nghĩ bà có thể đến: bến xe, công viên, cả bệnh viện lẫn trụ sở công an… Nhưng hoài công suốt buổi chiều cũng không gặp. “Dì Dự, dì đang ở đâu?” Anh đau khổ kêu thầm.

Mãi đến trời tối mịt, Bảo mới phờ phạc trở về. Anh thầm hy vọng có ai đó gặp bà Dự lang thang trên đường, đã đưa hộ bà về nhà anh rồi. Nhưng anh lại ngao ngán nghĩ: bà có quay lại thì từ nay cũng chẳng thể sống yên lành với người ghen bệnh hoạn như Thu.

Đẩy cửa vào nhà, Bảo hơi khựng lại khi thấy cha vợ đang ngồi ở ghế, vẻ bồn chồn nôn nóng, ánh mắt đầy trách móc. Thu ngồi cạnh, mặt nặng trịch, đầu tóc rối bù, cặp mắt đỏ ngầu và sưng húp.

- Anh lại đây, kể đầu đuôi cho tôi nghe…

Ông Hạ vẫy tay bảo con rể:

- Con Thu bảo nó bắt quả tang anh và mụ… À không… bà giúp việc… đang ôm nhau trong phòng bà ấy…

Sao lại có chuyện ôm nhau? Làm gì có! Đúng ra là chỉ mình Bảo ôm bà Dự thôi. Có gì đâu, bà Dự bị sốt từ sáng, nhưng mặc cho cơn nóng lạnh hành, bà vẫn gượng dậy làm các công việc quen thuộc: giặt giũ, đi chợ, nấu bữa cơm trưa cho cả nhà như thường ngày. Bà không ăn, vào giường nằm vùi.

Lúc Thu đưa hai con về phòng nghỉ trưa rồi, Bảo ái ngại, lấy viên thuốc và ly nước đem vào cho bà Dự. Thấy bà mệt mỏi nằm nhắm nghiền mắt, anh luồn tay dưới lưng nâng bà dậy để dễ uống thuốc. Đúng lúc đó, cửa buồng bị bàn tay giận dữ của Thu đẩy bật tung…

Ông Hạ nhìn thẳng vào mắt Bảo, hỏi gặn:

- Anh nói sự thật chứ?

- Vâng, con nói thật.

Giọng Thu sũng ướt, uất nghẹn:

- Ba đừng tin… Mụ già ghê gớm lắm, bấy lâu nay vờ vĩnh mua chuộc con… Nhất định có âm mưu kế nên anh ấy mới đem mụ già về sống chung nhà… Đúng là già không bỏ nhỏ không tha…

Bảo rít khẽ qua kẽ răng:

- Im đi! Cô ngu lắm!

Lập tức Thu gào lên:

- Phải rồi, tôi ngu mới bị anh qua mặt... Lần này tôi nhất định ly dị…

Nhìn vợ bù lu bù loa, Bảo ngán ngẩm thở dài. Anh thấy đã đến lúc không thể không phơi bày toàn bộ câu chuyện.

Vì mặc cảm thấp kém, e ngại không xứng với gia đình cao sang của ông Tổng giám đốc Hạ nên Bảo đã phủ nhận một tình thâm. Cái sự thật anh che giấu từ khi gặp Thu, nhiều lần khiến lương tâm cắn rứt, làm anh ngập tràn ân hận. Hai vết thương do Diễm và Uyên để lại ngày nào vẫn còn hằn dấu trong lòng anh. Anh lo sợ rằng, dù Thu vì quá yêu anh mà chấp nhận đi nữa, thì hậu quả đáng buồn tương tự vẫn rất có thể lặp lại, nếu ông Hạ biết rõ gia thế của anh.

Nếu trong đời, có lần nào Bảo yếu đuối rồi đi đến một chọn lựa sai lầm thì chính là lần này đây. Anh thật lòng không muốn giấu giếm nhưng anh thiếu can đảm. Ngày đêm, anh ray rứt rất nhiều. Anh đã tự trấn an chính mình rằng, sẽ kể thật với vợ một ngày gần nhất. Nhưng cái “ngày gần nhất” ấy sao mà vẫn xa xôi tận đâu đâu. Thật rất khó để mở miệng.

Ngày ấy, ở vùng quê nghèo miền Trung, trận lũ kinh hoàng đã cuốn trôi một cặp vợ chồng, biến một đứa trẻ chưa tròn tuổi thành mồ côi. Người thân duy nhất còn lại của nó là dì ruột nó, một cô gái ngoài đôi mươi. Từ biến cố ấy, cô tình nguyện không lấy chồng, lam lũ vất vả nắng sương nuôi nấng đứa cháu côi cút trong bao thiếu thốn, khó khăn. Đứa trẻ lớn dần, học hết cấp Hai thì rời quê vào thành phố, tự kiếm việc mưu sinh và có cơ hội tiếp tục học lên cao. Cần cù và thông minh, nó không khó để thi đậu Đại học.

Cái ngày được cháu báo tin sắp thành hôn với con gái của Tổng giám đốc một công ty lớn, người dì đã nghẹn ngào để rơi những giọt nước mắt hạnh phúc. Trong ý nghĩ giản đơn mộc mạc của người đàn bà quê mùa mộc mạc, bà chấp nhận ẩn mặt chỉ vì nỗi lo nhà gái biết rõ gia cảnh thấp kém của Bảo thì cuộc hôn nhân cũng như cơ hội may mắn của cháu có nguy cơ rơi mất. Bà không bao giờ muốn thế. Chẳng phải một đời bà đã hy sinh tất cả cho nó, vì nó đó sao?

Năm ngoái, làng quê lại bị bão lũ, chút tài sản bé nhỏ chắt chiu một đời của bà bị cuốn sạch theo dòng nước hung dữ. Người cháu hay tin đã về đón bà vào sống với anh. Anh bảo gia đình nhỏ bé của anh đang rất cần bàn tay đảm đang quán xuyến. Chẳng cần anh nhiều lời thuyết phục, bà bằng lòng ngay. Bà tự nguyện làm một người giúp việc để được sống cạnh những người ruột thịt, hạnh phúc duy nhất cuối đời bà.

Thật lòng, Bảo không muốn bà Dự đóng vai trò người dưng, hơn thế, một Ô-sin trong nhà anh. Nhưng bà cương quyết ngăn cản, không cho anh nói ra. Bà sợ vì không lường trước được phản ứng của ông Tổng Giám đốc, sợ Thu khinh thường chồng, sợ gia đình anh đổ vỡ, sợ cả những phê phán của các nhân viên trong công ty. Nhất là, cái ý nghĩ không xứng đứng ngang vai với ông Hạ, càng làm bà thấy mình thấp bé, mặc cảm nhiều hơn…

Hàng xóm cứ tưởng phen này Thu sẽ đưa đơn ra tòa xin ly dị thật, như chị đã hùng hồn tuyên bố, nhưng chỉ hôm sau, hai vợ chồng đã thuận hòa vui vẻ lại.

Với những kẻ hiếu kỳ tọc mạch muốn dò la tình hình, Thu chỉ nói gọn:

- Anh Bảo đang đi tìm bà Dự, đón bà về với chúng tôi.

Thấy người ta trố mắt không tin, chị ngỏn ngoẻn cười:

- Mình bậy quá, nghi oan anh ấy…

Nhưng tuần này rồi tuần khác, tháng nọ sang tháng kia, vẫn chẳng ai gặp bà Dự ở đâu.

Từ khi vắng bà, con bé Xuân lại biếng ăn, người gầy nhẳng trở lại. Nó ngây ngô hỏi mãi: “Bà đi đâu rồi? Bao giờ bà về?” mà mặt buồn thiu, đầy tâm trạng. Cũng chẳng còn ai âu yếm hôn trơ trất lên rốn, lên mông, lên giữa hai đùi thằng Bằng một cách đầy yêu thương và tự hào nữa.

Người ta thấy chiều chiều, Thu bế con ngồi trước cửa, ngóng ra đường mà nước mắt rưng rưng. Nếu nghe Thu bảo rằng chị đang thương nhớ một Ô-sin vô cùng đặc biệt của gia đình chị, thì liệu người ta có tin không?

Nhưng chắc chắn Bảo tin. Mà chị cũng chỉ cần một mình anh tin là đủ.

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

NĂM TUẦN LỄ

(Cinq Semaines En Ballon)

của Jules Verne

VƯỢT QUA ĐỈNH NÚI

Qua sáng hôm sau, vùng địa phương có bộ mặt mới...

Bình nguyên chạy dài, được thay thế dần bằng gò nổng. Nó báo hiệu, một vùng núi non sắp tới. Người ta phải bay vượt qua một dãi núi cao, chia hai lưu vực sông Niger và sông Sénégal, mà dòng nước này thì đổ vào vịnh Guiné và dòng nước kia thì chảy ra vũng Cap Vert.

Cái vùng đất nầy, từ đây đến con sông Sénégal, được báo cáo là nguy hiểm nhất. Bác sĩ biết được là do những thông tin, những câu chuyện của các nhà thám hiểm đi trước.

Họ đã khổ sở bởi muôn ngàn thiếu thốn, và gặp gỡ không biết bao nhiêu sự nguy hiểm ở giữa các bọn mọi rợ hung dữ. Cái khí hậu khắc nghiệt địa phương đã cướp đi sinh mệnh của nhiều thành viên của CLB.Munko-Park. Do đó, vị bác sĩ không bao giờ có ý định tiếp đất ở khu vực không thân thiện nầy.

Vả lại, ông cũng không có một chút thời gian ở không.

Con tàu Khải Hoàn thì cứ hạ thấp dần mãi. Người ta cần bỏ bớt các vật dụng vô ích, nhất là lúc phải bay vượt qua dãy núi cao. Cái khinh khí cầu đang có khuynh hướng tuột xuống mãi. Hình dạng nó cũng xẹp bớt, và dài ra. Ngọn gió thì cứ thổi lõm vào, đến đ ỗ i Kennedy phải chú ý:

- Có phải cái balong bị lủng lỗ không vậy?

Bác sĩ trả lời :

- Không phải đâu, cái vỏ bọc của nó bị nhão rồi, bởi sức nắng nóng, nên khí hơi cứ thoát qua làn vải.

- Vậy làm sao ngăn chận sự thoát hơi đây?

- Vô phương. Chúng ta chỉ còn có một cách là làm nhẹ đi thôi. Phải quăng bỏ mọi thứ gì có thể.

Gã thợ săn nhìn quanh cái vỏ tàu đã trống trơn:

- Nhưng mà bỏ cái gì đây?

- Hãy bỏ đi miếng vải bạt, vì nó nặng lắm!

Joe làm theo lệnh, vội leo lên khung trên mà tháo gỡ miếng vải dầy để che nắng mưa rồi ném ra ngoài, và nói:

- Đây là ân huệ cho bọn mọi rợ, để có cái gì che thân.

Cái balong có nhích lên được một chút, nhưng chẳng bao lâu, nó lại tuột xuống.

Gã thợ săn bảo:

- Chúng ta tiếp đất đi, để xem coi có sửa chữa được gì cho cái balong không?

- Tôi đã nói với bạn rồi Dick ạ. Không có cách nào khác để sửa chữa đâu!

- Vậy, phải làm sao đây?

- Chúng ta phải hy sinh những đồ dùng không cần thiết. Bằng mọi giá, chúng ta không thể nào dừng chân ở đây được. Khu rừng nầy không bao giờ có an ninh.

- Cái gì vậy? Sư tử hay là cọp beo?

- Dữ dằn hơn nhiều. Đó là con người. Những con người tàn bạo nhất ở Phi Châu.

- Làm sao mà biết được?

- Bởi những nhà thám hiểm trước kia, và những người Pháp chiếm giữ thuộc địa, đã lập báo cáo về các vùng lân cận. Chúng ta còn không xa con sông Sénégal, nhưng mà tôi vẫn e ngai cái balong không thể đưa chúng ta đến được nơi đó.

- Chúng ta sẽ đến được bờ sông mà.

Vị bác sĩ nói tiếp:

- Đó là điều mà chúng ta cố gắng làm. Có một điều khác là cho tôi e ngại.

- Còn điều nào nữa vậy?

- Chúng ta có một dãy núi cần phải vượt qua. Tôi thấy có vẻ khó khăn quá, bởi vì chúng ta không còn có thể tạo lực thăng thiên được nữa.

Kennedy bàn :

- Đợi vậy, chúng ta tính kế.

Joe than thở :

- Con tàu Khải Hoàn thật là tội nghiệp. Tôi quyến luyến nó như người thủy thủ trung thành với con tàu của họ. Bây giờ nó không còn tốt như lúc mới khởi hành nữa. Vâng, đừng nói dở hơi với nó. Nó đã phục vụ cho chúng ta rất đắc lực, và tôi rất đau lòng khi mà phải xa lìa nó.

- Yên tâm đi Joe, nó sẽ phục vụ cho chúng ta tới bến luôn. Tôi chỉ yêu cầu nó ráng chịu đựng thêm 24 giờ nữa thôi.

- Nó có vẻ tàn tạ, teo tóp.

Kennedy nói :

- Nếu tôi không lầm, thì dãy núi đang hiện ra ở chân trời kìa.

- Đúng rồi, - Bác sĩ nói, sau khi đã ngắm xem kỹ lưỡng qua viễn vọng kính - nó có vẻ cao quá.

- Chúng ta không tránh né nó được sao?

- Tôi thấy vô phương sách. Dãy núi thì dài thăm thẳm, đang trải rộng ra khắp nửa chân trời. Chúng ta phải bay vượt lên trên thôi.

- Cái chướng ngại đến gần với tốc độ, hay là nói cho rõ hơn, sức gió đã đẩy con tàu bay đến ngọn núi.

Bác sĩ bảo:

- Bằng mọi cách, phải lên cao, nếu không muốn bị va chạm vào núi đá, hãy đổ hết nước đi, chỉ giữ lại đủ một ngày dùng.

- Xong rồi. - Joe nói.

- Cái balong lên chưa? - Kennedy hỏi.

Bác sĩ bảo tiếp:

- Được một chút nhưng chưa đủ, quăng luôn các thùng không.

- Xong. - Joe nói - Thật là buồn, phải thấy vứt bỏ đi từng miếng từng miếng một.

- Nầy Joe.- Bác sĩ bảo - Hãy hứa với chúng ta, là mầy không được lập lại sự hy sinh của ngày hôm trước nữa nhé. Dầu gì đi nữa thì mầy không được rời chúng ta.

- Dạ, Thầy hãy yên tâm, chúng ta sẽ không rời nhau đâu.

Con tàu Khải Hoàn đã vọt lên mấy chục mét, nhưng mà ngọn núi vẫn còn cao hơn.

Bác sĩ bảo:

- Trong mười phút nữa, con tàu sẽ bể tan tành, nếu chúng ta không bay lên khỏi núi.

- Làm sao bây giờ?

- Chừa thức ăn đủ trong ngày, còn bao nhiêu thì quăng bỏ hết.

- Xong rồi.

Cái balong bay vọt lên cao, nhưng mà vẫn chưa lên khỏi núi. Tình hình thật là đáng sợ, con tàu có thể va chạm vào núi đá mà bể tan tành.

Bác sĩ nhìn quanh rồi bảo Dick:

- Nầy bạn Dick, bạn phải hy sinh vũ khí của bạn thôi.

Dick tiếc rẻ :

- Bỏ vũ khí của tôi sao?

- Bạn ạ, tôi yêu cầu bạn là điều quá cần thiết. Tất cả vũ khí của bạn sẽ trả giá cho cuộc sống của chúng ta.

Joe cuộn nhanh cái mền, mà trong đó có nhiều túi đạn chì, rồi quăng ra ngoài.

Cái balong đã vượt lên khỏi ngọn núi, nhưng mà cái giỏ tàu vẫn còn ở dưới mức đá, mà có sự va chạm thì nhứt định phải bể.

- Quăng bỏ súng đi Dick, nếu không thì chúng ta chết mất .

Joe bảo :

- Đợi đã bạn Dick.

Khi Kennedy quay lại, thì Joe đã nắm lấy cái thang dây mà nhảy ra ngoải mất rồi.

- Joe! Joe...

Bác Sĩ la hoảng:

- Cơ khổ cho tôi.

Ngọn núi có chỗ nầy rộng trên 20 mét. Con tàu Khải Hoàn may mắn bay tọt vào rãnh núi nầy. Con đường khá bằng phẳng, gồm toàn đá cuội.

- Chúng ta qua núi được rồi, chúng ta qua núi được rồi.- Một tiếng nói vang lên, làm se lòng vị bác sĩ.

Gã trai trẻ gan dạ bám vào cái thang dây, mà chạy bộ theo con tàu, trên đỉnh núi, làm nhẹ toàn bộ sức nặng của gã cho cái balong, giờ cái giỏ tàu đã vọt lên khỏi ngọn núi. Gã phải cố gắng nắm chặt cái thang dây mà chạy bộ theo con tàu cho đến bên kia bờ vực thẳm. Rồi với đôi tay khỏe mạnh, gã vươn mình leo lên thang dây mà lên tàu cùng với các bạn đồng hành.

- Nào có khó khăn gì đâu. - Joe nói.

- Bạn Joe thật là dũng cảm.- Bác sĩ nồng nhiệt khen ngợi.

- Làm như vậy là tôi muốn trả ơn cho khẩu súng đã cứu mạng tôi thuở trước.

Kennedy ôm Joe vào lòng một cách thân ái, mà không biết phải nói năng gì. Trong khi ông bác sĩ vừa ghi dấu thánh vừa cầu nguyện:

- Cảm ơn Thượng Đế đã an bài cho chúng con. Amen.

Thanh Châu dịch thuật

KẺ ĐÁNH MẤT LINH HỒN

- Đây là anh ruột của các con. Ngày xưa, mẹ lầm lỡ...

Tôi bàng hoàng, chết lặng. Trước mắt chúng tôi là một gã Mỹ lai da đen. Cặp mắt trắng dã, lồ lộ, trâng tráo. Cái mũi to bè, cao nghệu.

Cặp môi dầy, vêu ra. Mỗi khi hắn nhếch mép, vẻ đểu cáng trùm lên khuôn mặt. Hắn đứng sát bên mẹ. Một tay đút vào túi quần, tay kia điệu nghệ kẹp điếu thuốc lá. Hắn kênh kiệu ném tầm mắt quan sát ngôi nhà, đồ đạc và chúng tôi. Hắn thản nhiên đánh giá:

- Mẹ giàu quá chứ!

Mẹ mỉm cười hãnh diện. Ba cười đồng tình. Cơn uất nghẹn dâng lên tận cổ, tôi gào thét:

- Không! Không thể như thế được!

Bỏ chạy về phòng, tôi đóng sầm cửa, lăn ra giường, nức nở. Một điều gì vừa sụp đổ trong lòng tôi? Hụt hẫng. Mất mát.

Tôi không muốn tin. Tôi mong mỏi đây chỉ là một giấc mơ. Giấc mơ tồi tệ, đầy hình ảnh gớm ghiếc đan xen vào nhau. Trong đó, mẹ bị chà đạp. Một người vợ hiền bị oan ức về sự trinh bạch của mình. Trong mơ, mẹ bị xếp ngang hàng với bọn gái lang tâm, trắc nết. Mẹ bán rẻ nhân phẩm, chuộng thú vui xác thịt, chẳng biết đâu là bạn, đâu là thù, không phân biệt tốt xấu. Trong mơ, mẹ chỉ là một “giống cái” mang dáng người xinh đẹp. Trong mơ...

Tôi giật mình thức giấc. Đầu nặng trĩu, nhức như búa bổ. Bóng tối dầy đặc, không còn trông thấy mọi vật trong phòng. Tôi mừng rỡ khi biết mình vừa chợp mắt. Chắc là tôi đã nằm mơ. Ôi một giấc mơ kinh hoàng.

- Ha ha... Nè, cạn ly. Ha ha... Ly nầy mừng vợ tôi gặp lại đứa con bấy lâu xa cách.

Tôi òa khóc. Tôi không mơ. Sự thật hiển nhiên rồi. Dù ánh mặt trời đã khuất, bóng đêm lan tỏa, sự thật vẫn được phô bày trắng trợn, cay nghiệt.

Ngoài kia, ở phòng khách, họ đang mở tiệc mừng. Rượu tràn ly. Những tiếng cười đặc sánh, đùng đục. Ba tôi đang mừng? Ông mừng vì người đàn bà trước khi lấy ông đã ngủ với một thằng Mỹ đen??? Ông mừng cho “sự đoàn tụ mẹ con” giữa lúc hạnh phúc gia đình mình tràn trề? Hay là ba tôi vừa làm lễ cáo chung đạo đức, tôn vinh quá khứ u tối, giảo quyệt?

Ông đang tự đày đọa mình bằng men rượu.

Bật dậy, tôi xô cửa chạy ào ra. Tiếng cười ngừng bặt. Những ánh mắt đổ dồn về phía tôi. Chẳng thèm để ý xem ai ngồi trong bàn tiệc. Tôi đảo mắt tìm hắn. Kia rồi. Hắn đứng cạnh mẹ, một bàn tay cầm ly rượu nâng ngang mũi, một tay cầm bàn tay mẹ. Miệng há rộng:

- Ô! Cô em gái thân yêu! Lại đây, Thu Liễu.

Quắc mắt, chỉ tay ra cửa, tôi thét to:

- Im! Cút khỏi đây ngay.

Hắn sa sầm nét mặt, đặt mạnh ly bia xuống bàn, bọt sùi ra trắng xóa.

Mẹ kinh hoảng, kéo tay hắn:

- Thới! Đừng giận em nghe con, nó còn nhỏ dại.

Ba chạy đến, choàng tay qua vai tôi:

- Thu Liễu, con làm sao vậy? Ai lại đuổi anh ruột của mình.

- Không! Con chỉ có một đứa em mà thôi! Con chỉ biết có thằng Đông. Còn gã da đen kia, đừng hòng là người của nhà này.

Từ một chỗ ngồi trên bàn tiệc, Đông bước ra, mặt đỏ nhừ, mắt tê dại, giọng lè nhè của người say:

- Chị ơi! Có gì đâu mà ầm ĩ vậy? Có thêm một người trong nhà càng đông vui. Chết ai đâu? Da ảnh đen thì đã sao? Cũng máu đỏ chứ bộ… Sao chị khinh người quá vậy?

“Bốp!” Tôi tát mạnh vào má Đông - Thằng em hiền hậu của tôi bấy lâu.

Nó đang tập tành sa đọa, bắt đầu từ ngày đoàn tụ này. Tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế đặt cạnh chậu cúc, ôm mặt khóc. Những người khách nhao nhao:

- Hung dữ quá! Cậu Đông nói đúng đó. Da đen cũng là người, cũng là anh em ruột thịt với nhau cả.

Một người khách trẻ chế giễu:

- Hay Thu Liễu đòi một người anh lai Mỹ da trắng?

Đứng bật dậy, tôi quát:

- Im ngay! Đúng là da đen hay trắng gì cũng là con người, đều đáng trọng như nhau. Nhưng khi họ là người lạ kìa. Hoặc khi họ bước vô nhà này trong một hoàn cảnh khác.

- Cho mày ăn học để bây giờ khinh người như vậy hả, con khốn?

- Chính mẹ, mẹ đã biến con thành một người như thế!

“Bốp! Bốp!” Tôi ôm lấy mặt lảo đảo. Mẹ đánh tôi. Bà đứng đó, mặt tái nhợt. Có lẽ mẹ đã dùng hết sức để đánh nên tay bị đau. Bà cứ xoa hai lòng bàn tay vào nhau. Còn tôi, cảm giác bỏng rát, sưng phù đến ngay tức khắc. Đau đớn lẫn buồn tủi, tôi bỏ chạy ra ngoài trời đêm. Mặc tiếng gọi giật giọng phía sau.

Dù tôi cực lực phản đối, Thới vẫn được ba mẹ rước về nhà. Hắn ung dung chiếm một căn phòng lớn, tiện nghi nhất để làm chỗ ngủ. Hắn đi lại, nghênh ngó như chủ gia đình. Hắn được tự do tiếp đãi bạn bè trong phòng khách, nơi mà trước đây, chúng tôi còn chưa dám mời bạn về vui đùa. Hắn tha hồ đãi đằng, nhậu nhẹt rồi bày trò nhảy nhót suốt đêm. Thậm chí, Thới còn cả gan đưa bạn gái vào phòng riêng. Ba mẹ không giận mà còn bào chữa giúp hắn:

- Nó lai Mỹ, đương nhiên nó sống theo kiểu Mỹ.

Một lần, trong cơn say rượu, thấy tôi vừa bước vào nhà, Thới chạy ra, ôm chầm lấy tôi, hôn vào má, giữa tiếng cười rộ của lũ bạn hắn. Trong lúc tôi chới với, chưa biết xử lý thế nào thì hắn đến ngồi cạnh mẹ, hôn đánh “chụt” vào má bà rồi cất giọng trơ trẽn:

- Ôi, em gái và mẹ đều xinh đẹp!

Tôi đỏ mặt vì giận. Mẹ lại cười híp mắt vì thích thú. Hai gò má ửng hồng, e thẹn:

- Thu Liễu là bản sao của mẹ thời con gái đấy.

Bỏ vào phòng, khóa chặt cửa, tôi bật khóc. Không. Tôi không muốn là bản sao của mẹ. Có một bức tường kiên cố bỗng nhiên hiện ra ngăn cách hai mẹ con tôi. Gần đây, tôi và mẹ thường lánh mặt nhau. Bây giờ, không còn những ngày chủ nhật đầm ấm. Tôi không còn hí hửng xách giỏ, cặp tay mẹ đi chợ, cùng mẹ chọn rau quả, thịt cá rồi cùng nấu nướng, bày biện bàn ăn lịch sự. Tôi trốn khỏi ngôi nhà bằng cách lang thang đâu đó hoặc vào thư viện ngồi lì đến hết giờ mở cửa.

Theo lời giải thích của ba thì Thới không phải là con của mẹ tôi. Hắn ta chỉ được mẹ dùng như một con cờ để xuất cảnh. Mẹ tôi muốn ra nước ngoài lập nghiệp. Bà chưa hài lòng với địa vị hiện thời. Vợ của một giám đốc xí nghiệp chế biến thực phẩm. Giàu thì cũng chưa thật giàu. Sang cũng chưa hẳn là sang. Những điều chưa đủ ấy, theo mẹ có dư thừa ở nước ngoài. Mẹ muốn đến đó. New York là thiên đường trần thế. Tôi van xin ba nghĩ lại, ngăn cản mẹ.

Ở đây mẹ có thiếu gì đâu? Biệt thự, xe hơi, vườn hoa và một gia đình hạnh phúc. Tại sao phải đánh đổi giá trị đạo đức để đạt được những điều hoang tưởng. Có nơi nào không làm mà có ăn? Chẳng lẽ ở Nữu Ước, mẹ có thể ngồi không mà hái ra bạc? Mà dẫu mẹ làm được điều đó thì để được gì? Phải xa quê hương, nơi mẹ sinh ra, lớn lên và có cuộc sống vật chất, tinh thần thoải mái, hạnh phúc. Mẹ tìm gì ở bên kia bờ đại dương? Một hạnh phúc khác thường ư? Mẹ không cần biết đến tâm tư của chúng tôi, những đứa con ruột do mẹ đẻ ra. Tôi và thằng Đông đều không muốn rời xa Việt Nam. Chúng tôi có mơ ước và hy vọng tương lai xán lạn. Nhưng không phải ở một nơi nào khác đất nước này.

Từ thuở bé, tôi đã gắn bó với cây đa, giếng nước, mái đình ở quê ngoại. Và tôi yêu dòng sông hiền hòa lặng thầm dâng hiến phù sa, bồi đắp ruộng vườn quê nội thân thương. Những độ cuối xuân, vườn sầu riêng của nội ngợp hương hoa đầu vụ. Trời sang thu, nắng vàng ươm mật ngọt, trái chín rộ, thơm lừng. Làng quê hẻo lánh như chợt thức, say ngây men trời đất. Tôi và Đông say... trái. Chúng tôi thi nhau ăn sầu riêng. Để rồi, ngủ một đêm, sáng dậy mở mắt không được vì ghèn đóng, bịt kín hai bờ mắt. Bà nội lại phải đi tìm rau má ruộng, giã nhỏ, pha đường phèn cho hai đứa uống để giải nhiệt sầu riêng.

Mẹ không quý bà nội nên mỗi lần bà gởi sầu riêng lên cho chúng tôi, mẹ hay bình phẩm:

- Loại trái gì mà xấu quá trời! Vỏ gai gốc, xù xì như da cóc.

Thằng Đông cãi:

- Da cóc mà bọc trứng tiên.

Mở ra thơm nức cả nhà muốn ăn.

Chẳng hiểu sao, nó lại hứng khẩu xì ra mấy câu:

“Da tiên, trứng cóc mới ghê!

Mổ ra tanh tưởi, mật thì... độc chiêu”

Ba phì cười, mẹ sa sầm nét mặt. Tôi cũng xen vào mấy lời:

- Con thấy sầu riêng là loại trái quý hiếm của quê ta. Sao mẹ lại ghét dữ vậy? Cũng nhờ vườn sầu riêng mà nội có tiền cho ba gỡ rối mỗi khi xí nghiệp lỗ lã.

Mẹ bĩu môi:

- Được bấy lăm hơi!

Tôi cãi:

- Mẹ nói kỳ cục vậy? Tiền nội cho mình, dù ít hoặc nhiều cũng quý. Mẹ không nhớ ơn nội thì thôi, sao mẹ cứ...

- Câm ngay. Con khốn. Cho mày ăn học để dạy đời tao đó hả?

Bao giờ cũng vậy, ba nhỏ nhẹ kết thúc cuộc tranh cãi bằng câu:

- Thu Liễu, con không được hỗn với mẹ.

Ba đã phải trả một giá đắt cho sự nhu nhược cố hữu. Ông có khả năng kinh doanh, có tài quản lý nhân viên nhưng lại luôn thất bại trong cách cư xử với vợ. Ba yêu mẹ một cách mù quáng nên chịu thiệt thòi nhiều mặt. Mẹ nắm được yếu điểm này. Bà thản nhiên lấn lướt ba và cuối cùng mẹ cắm một chiếc sừng lên trán ba. Mẹ tôi đã “thật sự” phản bội chồng. Bà tom góp tiền bạc, vòng vàng để trốn đi với người tình. Chính là hắn: “Thới”. Gã da đen, đứa con mà mẹ tự xưng đã một thời lầm lỡ sinh ra. Hắn đã chuyển từ danh nghĩa đứa con thất lạc sang một địa vị mới “Người tình lý tưởng”.

Chuyện cũng chưa vỡ lỡ nếu ba làm ăn suông sẻ. Do bị một đại lý ở tỉnh cuỗm hết tiền hàng rồi bỏ trốn. Ba bảo mẹ vào ngân hàng rút tiền để bù vào. Ổn định lại cơ cấu tổ chức xí nghiệp trong cơn nguy ngập.

Mẹ vâng lời, đi ngay. Nhưng đến tối mịt vẫn chưa thấy về. Ba chạy ra ngân hàng, được nhân viên trực cho biết số tiền ba gởi lại do mẹ đứng tên, đăng ký chữ ký đã được rút sạch từ tháng trước. Ba kinh hoảng chạy về nhà. Ông gục xuống như một thân cây mục khi thằng Đông thảng thốt kêu lên từ trong phòng mẹ:

- Ba ơi! Quần áo mẹ đâu mất cả rồi?

Sinh nghi, tôi chạy qua phòng bên, chỗ của tên Mỹ đen. Tôi bàng hoàng muốn xỉu khi biết trong phòng chẳng còn thứ gì, ngoài chiếc giường hộp và mấy cái tủ trống rỗng.

Thoạt đầu, chúng tôi tưởng hắn có hiếu, thương quý mẹ nên đi theo phụng dưỡng. Chừng trông thấy chiếc áo lót và cái quần xì của mẹ bị ném ở một góc khuất trong phòng hắn, ba gào lên:

- Đồ ... đĩ!

Ba ngất xỉu. Tôi và Đông kinh hoảng, vội đưa ba vào bệnh viện. Khi tỉnh lại, ba đã bị liệt nửa người. Một mạch máu não bị đứt. Sự sống tách khỏi người ba một nửa. Ông nằm liệt giường, ngơ ngơ, ngẩn ngẩn đến tội nghiệp.

Xí nghiệp vỡ nợ. Nhà cửa bị tịch biên. Chúng tôi đi ra với mấy túi xách quần áo cũ và trái tim đầy dẫy những vết thương mới. Ba cha con dắt díu nhau về quê nội. Nhằm mùa cây thay lá, vườn sầu riêng tiêu điều, trơ trụi. Những cành khô khẳng khiu như lũ tử tội đứng giăng tay chờ lãnh án. Thằng Đông khóc òa khi thấy bóng nội lưng còng ra đón trước hiên. Tóc nội bạc phơ. Gió lay bồng bềnh sắc trắng. Nội chậm nước mắt, mắng yêu:

- Tổ cha bây. Nhờ có vậy mới chịu về quê sống với bà.

Cả nhà quây quần bên mâm cơm bốc khói, thơm lựng. Thế mà chẳng ai vội cầm đũa. Bà nói với ba tôi:

- Thôi, con đừng buồn. Đây cũng là cái may của mẹ. Cuối đời, mẹ lại được sống hạnh phúc với con cháu dưới một mái nhà. Bấy giờ có chết, mẹ cũng mãn nguyện rồi.

Những giọt nước mắt tuôn đầm đìa trên khuôn mặt tưởng vô cảm của ba.

Thằng Đông chạy ra sau nhà. Còn tôi ôm lấy bà, gọi khẽ: “Bà ơi!”.

Những đóa hoa tím ngát mở rộ, lung linh trong nắng xuân muộn màng.

Vườn sầu riêng sực nức hương hoa quen thuộc. Nỗi nôn nao, rạo rực, khát sống chỗi dậy trong ngôi nhà lặng lẽ bấy lâu. Tiếng cười vỡ ra, tíu tít như chim hót buổi sớm mai. Tiếng nói lảnh lót rộn ràng như tiếng chuông ngân từ trên vòm cao nhà thờ đổ đồn xuống làng quê yên tĩnh mỗi sáng mờ sương. Cả nhà như thấy lại mùa xuân, dù đầu ngõ đã thấp thoáng vài nụ hoa phượng đầu mùa thắp lửa nhàn nhạt.

Hết giờ làm việc ở trạm Y tế xã, Đông vội vã trở về nhà. Nó ra vườn sầu riêng, đảo một vòng quanh đó hoặc tưới nước, bắt sâu. Đông nâng niu những cánh hoa rơi như người ta hứng lấy quả trứng mỏng manh, dễ vỡ. Cậu ta ép đầy quyển vở cũ, thỉnh thoảng mang ra, hít một cái. Đông còn nũng nịu với bà:

- Nội ơi! Mùa này mình trúng lớn rồi. Có công của con nữa nha. Thu hoạch xong, nội cưới vợ cho con nghen nội.

Bà móm mém cười, vò mái tóc rễ tre của Đông:

- Ừ. Tụi bây phải đẻ liền một đứa cháu cố để cho bà bồng.

Còn tôi, tôi thường dìu ba ra chiếc ghế tựa trước hiên rồi bày tập vở của học sinh lên chiếc bàn con gần đó để chấm bài. Ba ngắm mặt trời lướt qua vòm cây, đi dần xuống chân trời. Thỉnh thoảng, ông cầm lấy một quyển vở, xem xét hoặc đọc thầm những dòng chữ trong đó. Ông đùa:

- Cô giáo vùng sâu giỏi thiệt. Dạy chưa tròn năm mà học sinh tiến bộ thấy rõ.

Tôi mắc cỡ, nũng nịu:

- Ứ ừ ..., ba chọc con hoài.

Ba bật cười:

- Lớn tồng ngồng rồi mà còn nhõng nhẽo. Mai mốt, ba méc học trò con cho xem.

Giữa lúc hạnh phúc thấp thoáng đâu đây thì được tin của mẹ.

Mẹ đã chết! Bên trời Tây.

Sau khi được xuất cảnh, ra nước ngoài, mẹ và Thới sống với nhau. Được vài tháng, hắn có tình nhân mới. Một cô Mỹ chính hiệu. Họ ngang nhiên ăn ngủ trong nhà, trước mắt mẹ tôi. Thới bảo:

- Tôi là Mỹ, tôi sống theo kiểu Mỹ.

Mẹ phản đối. Hắn ném vào mặt mẹ những câu phô bày sự thật trắng trợn:

- Bà có quyền gì với tôi? Mụ già kia. Bà bỏ tiền ra mua tôi về làm con để được lọt vào “Diện xuất cảnh”. Bây giờ, toại nguyện rồi, còn đòi hỏi gì nữa?

- Sao mầy bảo mầy... yêu tao?

- Đó là những lời nói dối. Tao chỉ yêu tiền của chồng mầy. Mầy chỉ là một con cờ. Một con cờ, không hơn, không kém. Cút khỏi đây ngay! Mụ già trắc nết.

Mẹ phải ra đi. Bà không nơi nương tựa. Không có việc làm. Nhiều người Việt Nam sống bên đó đã trông thấy mẹ tôi lê lết ăn xin ở những quán phở, ở cửa khách sạn. Bà không ngần ngại, không xấu hổ húp cạn chút nước súp thừa còn đọng lại ở đáy tô khi khách vừa đứng lên, rời bàn.

Và, mẹ tôi đã đánh vật với một con chó để giành lấy một mẩu bánh mì của một đứa bé no hơi, ném qua cửa sổ. Mẹ ăn hết mẩu bánh mì ấy. Con chó nổi điên, cắn vào gò má của mẹ. Mấy ngày sau, người ta phát hiện xác chết của mẹ dưới gầm cầu. Trong người bà không có gì ngoài một quyển nhật ký nhỏ bằng lòng bàn tay. Người ta gửi nó về đây cho chúng tôi.

Biết chuyện, chỉ có mình nội khóc mùi mẫn. Bà đặt thêm một chiếc bình hương lên bàn thờ giòng họ, ở gian nhà chính. Nội ân cần đốt một nén nhang, thì thầm:

- Con ơi! Con sống khôn, thác thiêng con hãy về đây với mẹ, với quê hương.

Đông bỏ việc một ngày. Nó lén ra sau vườn sầu riêng, đắp một nắm mộ con con rồi cắm chiếc mộ bia có hàng chữ:

“Nơi an nghỉ của một người đánh mất linh hồn!”

Buổi chiều, khi tôi đưa ba ra trước hiên hóng gió, ba hỏi:

- Con ơi! Mặt trời sắp rụng xuống đọt sầu riêng, phải không?

Tôi mím môi, rắn giọng:

- Không. Ngày cũ đã tàn. Ngày mới đang đến. Mặt trời sẽ lên. Sẽ lên.

Ở phương đông. Trời bình minh rực rỡ lắm, ba ơi!

NGUYỄN THỊ MÂY

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 11.4.2015… ..................................... Vũ Thư Hữu .... 01

Vài chi tiết về cuốn sách mang tựa đề là

“Cuốn sổ tay của người làm báo” của tác giả Kim Fletcher . Vũ Anh Tuấn .... 06

Ngược dòng (tt – kỳ 3) .......................................... Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 09

Xuất gia & Tại gia ............................................................................. Tâm Nguyện .... 17

Nhân ngày Giỗ Tổ - tự hào về

Tục Thờ Cúng Tổ Tiên của người Việt ....................... Phạm Vũ .... 26

Truyện Kiều được dịch ngược trở lại Hán tự .................................... Thúy Toàn .... 37

Vương Thúy Kiều chưa thoát khỏi Kỹ Viện ............................... Trần Văn Hữu .... 41

Nhà văn Mai Văn Tạo đưa cuộc sống vào trang viết Huỳnh Thiên Kim Bội .... 50

Chuyện ông thầy thuốc ........................................................................ Dương Lêh .... 58

60 năm trước tôi xem kịch

& đọc tiểu thuyết Nửa Chừng Xuân .............. Hoàng Kim Thư st .... 65

Thanh tâm cuộc đời (thơ) ................................................................ Thanh Châu .... 69

Ru khúc tình ca (thơ) ............................................................................. Đàm Lan .... 70

Tháng Tư (thơ) ........................................................................................ Lam Trần ... 7 1

Một chuyến bay (thơ) ........................................................................... Lam Trần .... 72

Rơi vào quên lãng (thơ) ................................................................ Trần Văn Hữu .... 73

Đoản khúc thu (thơ) .......................................................................... Bs. Doanlinh .... 74

Chút sáng thầm (thơ) ....................................................................... Bs. Doanlinh .... 75

Con nhền nhện (thơ) ........................................................................ Lang Nguyên .... 7 6

Đổng Trác lúc thọ hình (thơ) .......................................................... Lang Nguyên .... 76

Hoa đồng nội ..................................................................................... Mai Văn Tạo .... 77

Tôi đã về đây SAPA ơi ! (thơ) ............................................................. Lê Nguyên .... 78

Sống lại (thơ) .......................................................................................... Lê Nguyên .... 79

Anh bộ đội Điện Biên (thơ) .................................................................. Lê Nguyên ... 80

Mùa lũ đồng bằng sông Cửu Long (thơ) ....................................... Ngàn Phương .... 82

Người - Thơ (thơ) .............................................................................. Ngàn Phương .... 83

Lỡ một nhịp cầu (thơ) ...................................................... Phạm Thị Minh Hưng .... 84

Nhớ cánh hoa xưa (thơ) .................................................... Phạm Thị Minh Hưng .... 85

Vùng đất mới (thơ) ............................................................................. Quang Bỉnh .... 86

Vần -AI (thơ) ....................................................................................... Quang Bỉnh .... 87

Môi trường văn hóa Việt (thơ) ........................................................ Lê Minh Chử .... 88

Đôi cánh tay em (thơ) ...................................................................... Vũ Đình Huy .... 89

Your pair of arms, oh dearest (thơ) ....................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 89

Muộn màng cảm tạ (thơ) ................................................................ Vũ Đình Huy .... 90

Late thanks (thơ) ...................................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 90

Mịt mùng mưa gió (thơ) ................................................................... Vũ Đình Huy .... 91

Dim anh hard rain and wind (thơ) ......................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 91

Đám cưới nhà văn Vũ Trọng Phụng ......................................... Đỗ Thiên Thư st .... 92

Bài thơ Chim họa mi trong lồng của Tản Đà .................................... Bùi Đẹp st .... 96

Nhìn người để hiểu mình .................................................................. Lê Minh Chử .... 98

Người chép sử đầu tiên của nước ta ........................... Đào Minh Diệu Xuân st .. 101

Cúng đầy tháng, Cúng tôi tôi ........................... Nhựt Thanh Phạm Hiếu Nghĩa .. 104

Quê tôi Nam Định ................................................................................... Lam Trần .. 108

Những ông bố đơn thân .......................................................................... Đàm Lan .. 114

Thương nhớ Ô-sin ..................................................................... Giáng Ngọc (G.Đ.) .. 125

Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (tt – kỳ 11) ............... Thanh Châu dịch thuật .. 134

Kẻ đánh mất linh hồn ............................................................... Nguyễn Thị Mây .. 139

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế