Hiện có 10 người xem / 2316399 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/9/2015

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách mà ông mới có. Cuốn đầu là một tác phẩm mới ra lò, mang tựa đề là “Điều Kỳ Diệu của Tình Yêu” của nữ tác giả Huỳnh Thiên Kim Bội, là một thành viên của CLB Sách Xưa & Nay. Nữ tác giả này là ái nữ của cụ Huỳnh Thiên Kim, người đã viết cuốn sách được khá nhiều người biết tới, là cuốn “Cận Đại Việt Sử Diễn Ca” dày 406 trang được xuất bản năm 1962 ở Sài Gòn cũ. Cuốn sách được giới thiệu hôm nay là một cuốn sách khổ 13x19, dày 268 trang, được in ấn và trình bày rất đẹp bởi nhà Xuất Bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh. Sách được chia làm 3 phần: Phần 1 là Tản Văn, phần 2 mang tựa đề là Một Chút Riêng Tư, và phần 3 gồm 12 Truyện Ngắn. Sách được viết bằng một văn phong trong sáng giản dị, tuy không kém phần tinh tế, lãng mạn, rất dễ đọc, và rất dễ đi vào lòng người. Tác phẩm sẽ được giới thiệu chi tiết hơn bởi một thành viên khác là Bà Tâm Nguyện trong kỳ họp tới.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách, mỗi thành viên đã được nữ tác giả Kim Bội gửi tặng một cuốn vì cô có việc bận nên không có mặt trong buổi họp. Cuốn thứ nhì là một cuốn cổ thư bằng Pháp văn mang tựa đề là Thi Thư, Thơ Trào Phúng, Truyện Ngắn, Thơ Châm Biếm của Đại Văn Hào Pháp VOLTAIRE (Épitres, SATIRES, Contes et Épigrammes), một nhà văn mà tất cả những ai đã được học các trường Pháp đều biết rất rõ ràng. Cuốn sách khổ 12x18 và dày 427 trang được xuất bản năm 1874 (141 năm trước), nhưng vẫn còn toàn vẹn. Về nội dung thì có thể nói là “không có gì để có thể chê” vì Voltaire thì quá tuyệt rồi, nhất là đối với Dịch giả Vũ Anh Tuấn là người đã được học chương trình Pháp từ lớp mẫu giáo. Cuốn sách đã được mua với một giá khá mắc, nhưng người mua vẫn cảm thấy rất thích thú khi được sở hữu một quý thư 141 tuổi đời. Sau khi được giới thiệu, một số thành viên đã chuyền tay nhau xem cuốn cổ thư một cách thích thú. Ngoài hai cuốn sách nói trên, Dịch giả Vũ Anh Tuấn cũng đưa cho các thành viên xem một cuốn truyện tranh trinh thám mang tựa đề là Nick, Kẻ Đột Kích (Nick Raider) để chứng minh với các thành viên là truyện tranh của Pháp ngày xưa vẽ đẹp như thế nào và rõ ràng nhân vật nào ra nhân vật ấy như thế nào, chứ không nhăng nhít như truyện tranh thời nay, khi đọc khó mà nhận ra nhân vật nào là nhân vật nào, thật dở ẹc!

Sau phần giới thiệu sách, anh Phạm Vũ đã lên nói về bài Quốc ca và tác giả Văn Cao. Anh nêu vấn đề là nhiều người cho rằng bài Quốc ca của chúng ta hơi giống bài Quốc ca của người Pháp, và nói qua về chuyện đã có lúc người ta muốn thay bài này bằng một bài khác. Sau khi Anh Phạm Vũ nói xong, anh Dương đã lên nói về đề tài Đông Trùng Hạ Thảo, và những điều thực hư liên quan tới chúng. Sau anh Dương, anh Vũ Đình Huy đã lên đính chính hai câu thơ mà trong lúc nói chuyện về bài Quốc Ca, diễn giả đã cho là của nhà thơ Trần Dần, nhưng thực ra chúng là của nhà thơ Lê Đạt. Anh Huy đính chính xong, anh Nhựt Thanh đã đăng đàn nói về những Chuyện Ma mà một thân nhân của anh đã cho là đã xảy ra trong nhà anh. Tiếp lời anh Nhựt Thanh, anh Chử đã lên hát tặng các thành viên một bài hát thơ do chính anh sáng tác. Sau anh Chử, anh Phùng Chí Tâm lên nói bổ sung vài lời về Đông Trùng Hạ Thảo, rối anh hát tặng các thành viên bài “Mùa Thu, Mùa Yêu” do anh Lê Nguyên (hôm nay vắng mặt) sáng tác.

Cuối cùng cô Kim Sơn cũng lên nói ít lời về đề tài Đông Trùng Hạ Thảo, và cuộc họp kết thúc lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


ĐỌC “ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU”

của HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Được tác giả quyển ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU vừa xuất bản tặng và yêu cầu đưa ra nhận xét. Thoạt đầu thì tôi cũng thấy hơi ngại ngần vì việc này tôi không quen, nhưng không nỡ phụ lòng tác giả. Sau đó, tôi nghĩ có lẽ mình cũng có thể viết năm ba câu gì đó, bởi thật ra thời trẻ ai mà chẳng từng cảm xúc với những cung bậc của tình yêu? Tình yêu là vườn hoa muôn sắc luôn có sức hấp dẫn mọi người. Ai cũng từng bước vào đó để rồi bước ra với những tâm trạng không ai giống ai: tuyệt vọng, cay đắng, tủi hờn, tiếc nuối, nhớ nhung… thậm chí là hận đời! Ai cũng có cách yêu của mình. Nhưng dù sâu, cạn, đậm, nhạt... như thế nào, tôi tin rằng tình yêu có một công thức chung mà mỗi người chúng ta khi nhìn lại quá khứ cũng thấy mình từng ở đâu đó qua những gì tác giả khơi gợi.

Qua 34 câu truyện được chia làm 3 nhóm: Tản văn, Một chút riêng tư, và Truyện ngắn được viết trong 7 năm, từ năm 2.000 cho đến năm 2.007. Trong đó, tác giả đã mô tả những đoạn đời của mình, từ chút xao động đầu đời của tuổi mới lớn, đến những lần tình yêu đến, rồi đi. Những thăng trầm của gia đình. Tình yêu thương với cha, mẹ, và những cảnh đời. Những va chạm trong cuộc sống khi ra đời. Nhưng tôi chú ý nhất là những bài viết về Tình Yêu mà qua đó, tác giả mượn để gởi gắm tâm sự của mình.

Bộc bạch lý do để viết về tình yêu của mình trong bài “Một chút tình mong manh” Kim Bội viết: “Khi tôi viết câu chuyện về tình yêu, về kỷ niệm đẹp của tôi và bạn, cũng là tôi viết cho tôi, và những kỷ niệm đó cũng là một phần đời sống của tôi”. Và cuộc sống đời thường của tác giả đã thể hiện đúng như những gì mình viết: “Nhiều năm trôi qua, cũng có cơ hội gặp gỡ nhiều người, nhưng hình như tình yêu chỉ đến một lần. Nỗi nhớ về anh, về một tình yêu đầu đời đã khép lại trong tận cùng sâu thẳm trái tim tôi và chỉ một mình tôi hiểu”. Chính vì vậy mà tác giả đã sống với những hoài niệm sâu sắc mà ta có thể đọc thấy trong từng câu chuyện.

Chính những hoài niệm đó làm cho tác giả lúc nào cũng mang một mối u hoài, chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay, để sống bằng ký ức, sáng tác và ru trái tim mình qua những trang viết, trải lòng trong đó, vui buồn cùng những nhân vật của mình.

Tình yêu trong suốt quyển truyện là những gì mong manh, không đi đến kết thúc như chính tác giả đã bộc bạch qua suy nghĩ của Bạch Dương trong truyện cuối ‘Biển Đêm Bềnh Bồng’: “Dường như tâm trí và trái tim cô có một chu trình đối nghịch. Tình yêu là món quà Thượng Đế trao cho con người. Tại sao cô phải sống cô đơn. Tại sao cô phải dằn vặt?”. Nhưng có lẽ chính cái cô đơn, cái dằn vặt đó lại là chất liệu cần thiết để tác giả viết ra những câu chuyện hết sức nhẹ nhàng, nhưng cũng không kém phần lôi cuốn, cho những nhân vật của mình đến với nhau bằng những tình cảm trong sáng, nhưng mong manh, dễ vỡ, để rồi chỉ còn là những kỷ niệm, để tác giả đắm mình trong đó, rồi tự vỗ về, an ủi, và gói ghém tâm sự riêng tư của riêng mình trong thế giới văn chương: “Đêm, tôi chong đèn đến khuya trước trang giấy và cây viết. Tôi dấn thân vào thế giới văn chương chữ nghĩa bằng sự đam mê tìm tòi, khám phá”.

Đọc hết tập truyện “ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU”, tôi thấy tác giả vô tình đã trở thành nhân vật có cuộc tình mà nhà Thơ Xuân Diệu diễn tả: “Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở”. Có lẽ thế. Bởi khi tình yêu không trọn vẹn, người ta mới còn đầy cảm xúc, mới tiếc nuối, tưởng tượng những gì kỳ ảo, lung linh, những nỗi mong nhớ da diết và những kỷ niệm không thể quên. Với Kim Bội thì “Giấc mơ tình yêu của chúng ta vẫn mãi là giấc mơ”. Nhưng cô hài lòng với những giấc mơ của mình:“Đối với tôi, tình yêu vẫn là những đóa hồng rực rỡ sắc hương để làm đẹp cho đời, cho người”. Với tất cả sự trân trọng đối với tình yêu, cô đưa ra thông điệp: “Hãy nâng niu và giữ gìn tình yêu, dù tình yêu đến cho ta sự thăng hoa, niềm hạnh phúc, hay chỉ mang đến cho ta một sự mất mát, chia lìa. Có một tình yêu trong trái tim là có một đóa hồng cho một ngày, một đời ngắn ngủi. Tình yêu có chia xa. Đóa hồng có tàn phai thì điều kỳ diệu của tình yêu vẫn còn mãi trong trái tim ta, trong trái tim người ta yêu thương”.

Trong trái tim người Kim Bội đã từng yêu thương thì không biết có còn chút vấn vương gì hay không, nhưng với Kim Bội thì tôi tin rằng tình yêu vẫn còn nồng nàn, âm ỷ, pha một chút chua chát. Dù mạnh mẽ đến thế nào thì người phụ nữ cũng rất cần một bờ vai để nương tựa. Bản thân Kim Bội cũng không ngoại lệ. Cô rất muốn gắn bó với tình yêu, nhưng định mệnh hình như hơi khắc nghiệt đối với cô, dù khi yêu cô cũng không đòi hỏi gì nhiều. Cô tâm sự: “Tôi cũng cần một tình yêu thật sự, một người biết chia sẻ khó khăn trong cuộc đời”. Tiếc thay, đối tượng cô chọn lại “bận bịu lo toan quá nhiều về sự thăng tiến, vật chất, tiền tài…” và có lẽ còn… thực dụng nữa, nên trái tim mong manh, chân chất, đặt quá nhiều kỳ vọng vào một tình yêu không tính toán của tác giả đã bị thương tổn, để rồi cũng đành chia tay. Những nhân vật trong truyện, có lẽ do ảnh hưởng phần nào từ những cuộc tình dở dang của tác giả, nên đa phần rơi vào nghịch cảnh, dù có cố gắng níu giữ, nhưng rồi cũng… “Cuối cùng là tình bơ vơ” (mượn lời của nhạc sĩ Lam Phương)!

Dù cuộc sống thường nhật là một mình đi về, và cũng không dư giả gì, nhưng người mang nghiệp văn chương không bao giờ cô đơn. Tác giả có cả một thế giới rộn ràng, những nhân vật mang nhiều màu sắc, tính cách. Qua họ, cô tha hồ sáng tạo, bay bổng, cho nhân vật của mình gặp gỡ, hẹn hò, chia tay… đủ mọi tình huống tùy theo cảm hứng: “Khi đặt viết vào trang giấy trắng, trí óc tôi bay bổng vào từng câu truyện, từng số phận của nhân vật tôi tạo ra. Tôi hoàn toàn quên hết xung quanh, quên cả chuyện cơm áo gạo tiền, những lo toan của cuộc đời nghèo khó. Tôi cảm thấy hạnh phúc và sung sướng khi thực hiện được mơ ước và đam mê của mình, cái duyên nghiệp văn chương được thừa hưởng từ ba tôi”.

Với từng đêm góp nhặt, nâng niu những mảnh tình tan vỡ để tự vỗ về mình, tôi thấy ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU vẫn chưa thật sự đến. Nhưng tác giả vẫn chưa thôi nuôi hy vọng. Bằng chứng là cô vẫn còn nói nhiều về điều đó với những lời lẽ đầy nồng ấm, trân trọng, tha thiết. Cô khẳng định: “Tôi vẫn đi tìm cái đẹp của tình yêu”. Vâng, chúng ta sẽ cùng đợi chờ với tác giả, biết đâu một ngày nào đó “ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU” sẽ xảy ra? Vì cuộc sống dẫu bộn bề lo toan, cuộc đời dẫu vô tình, con người dẫu bạc bẽo, nhưng trong âm thầm, chúng ta vẫn chờ mong một phép mầu, một kết thúc có hậu, phải không KIM BỘI?

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12/9/2015

Tâm Nguyện


CUỐN “TỰ ĐIỂN TIỂU SỬ CỦA NHÀ WEBSTER’S”

(WEBSTER’S BIOGRAPHICAL DICTIONARY )

Nhận được lời mời đi xem một tủ sách của một nhà báo, mà tôi có biết mặt, nhưng không giao tiếp, vì chỉ gặp ông ta có một lần tại nhà một người bạn làm báo Văn ngày trước, tôi vội quên hết mọi việc đang làm để đi ngay. Tuy nói đi ngay, nhưng trên thực tế tôi đã phải đợi cả gần 30 phút, để kiếm cho bằng được một chiếc taxi Mai Linh loại mới nhỏ téo, vì nhỏ như vậy thì mới vào được cái hẻm nhà anh ta ở Gò Vấp.

Tới nơi, tôi không thể nào nhận ra anh ta nữa. Con người đen đúa, khỏe mạnh như lực sĩ, với nét mặt hầm hầm cao ngạo, giờ đây gầy đét, da dẻ nhợt nhạt, đang nằm trên một cái ghế bố, và với giọng nói thều thào, anh xin lỗi tôi vì không ngồi dậy tiếp tôi được, và nhờ cô bạn đi cùng với tôi dẫn tôi lên gác xem 4 cái tủ sách của anh.

Trong 4 tủ sách có khoảng 2000 cuốn, nhưng phần lớn là tiểu thuyết vừa bằng tiếng Việt, vừa bằng ngoại ngữ, là những thứ mà chính tôi cũng đang chưa biết đem chúng đi đâu vì tôi cũng đang có gần 3000 cuốn. Nhưng sau trên một giờ lục lọi tìm kiếm, tôi vẫn kiếm được tổng cộng 32 cuốn sách và hai chúng tôi khệ nệ mang xuống. Tôi không hề nhắc gì tới chuyện đã gặp anh một lần tại nhà người bạn làm báo, nhưng chính anh lại nhắc lại việc đó, và khen tôi sao vẫn không thay đổi là bao nhiêu, ngoại trừ mớ tóc bạc phơ và phơ! Lúc này anh nói chuyện rất hòa nhã vui vẻ, chứ không hầm hầm như ngày xưa. Tôi hỏi anh tính bao nhiêu tiền cho số sách tôi lựa được, thì anh bảo tôi muốn trả bao nhiêu cũng được. Tôi đã trả một số tiền vừa phải và được anh cảm ơn lia lịa. Qua việc này tôi hiểu rằng chắc anh đã bán nhiều lần trước lần này, và chắc quý vị bán sách đã trả anh giá… hơi bị thấp. Cuốn tự điển tôi giới thiệu hôm nay là 1 trong số 32 cuốn trong lần… tầm quý thư này.

Thấy nó là tôi thích ngay vì tôi rất quý những cuốn Webster’s là những cuốn tự điển rất đáng tin cậy về đủ mọi mặt, và tôi hiện đang sử dụng trên 20 cuốn đủ loại, nhưng cuốn về tiểu sử này thì tôi chưa có. Cuốn tự điển này cỡ 18x24 và dày 1696 trang. Nó chứa đựng trên 40.000 tiểu sử vắn tắt của các nhân vật nổi tiếng tự cổ chí kim, nhưng không phải của tất cả các quốc gia lớn bé trên toàn cầu, mà chỉ của những quốc gia lớn ở Tây Phương, còn ở Á Châu thì hầu như chỉ có hai nước Trung Hoa và Nhật Bản, Tôi có đọc lướt qua thì thấy các tác giả có cho biết là trên 40 ngàn nhân vật đó là thuộc các nước lớn sau đây:

“Mỹ quốc là đầy đủ nhất và đủ các lãnh vực

Đế Quốc Anh

Ai Cập

Đế Quốc La Mã

Các Hoàng Đế La Mã (Công Giáo)

Các Giáo Hoàng

Các Quốc Gia Châu Âu

Quốc Gia Á Châu chỉ có Trung Hoa và Nhật Bản

Các Quốc Gia Châu Mỹ La Tinh”

Tuy nhiên ngoài phần trên 40 ngàn tiểu sử vắn tắt các danh nhân của các quốc gia nói trên, cuốn Tự Điển này còn có phần Phụ Lục cho biết tên tuổi tất cả các Vua, Chúa, Hoàng Đế của tất cả các Triều Đại của các quốc gia ghi ở trên, đặc biệt là Hoa Kỳ là có đầy đủ nhất.

Cuốn Tự Điển Tiểu Sử này đương nhiên là một kho tài liệu cho những ai yêu thích tra cứu về Lịch Sử Thế Giới.

Người viết giới thiệu nó với quý vị và sẵn sàng tra cứu giúp quý vị nào cần tìm hiểu về nhân vật nào liên quan tới các Quốc Gia nói trên…

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN


Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

LỜI XIN LỖI


VỀ VIỆC PHÁ HỦY ẢNH TƯỢNG

(Tiếp theo số 113)


LỜI XIN LỖI

Các bạn xa gần thân mến LỜI XIN LỖI CỦA HỘI THÁNH TIN LÀNH ĐỨC XIN LỖI VỀ VIỆC PHÁ HỦY ẢNH TƯỢNG… Đây là MỘT TIN RẤT VUI cho mọi Kitô hữu, cho thấy SỰ HIỂU BIẾT VÀ GIẢI THÍCH KINH THÁNH đã chính xác (ở điểm này), đem lại sự thống nhất trong việc HIỂU KINH THÁNH, tránh được bao hiểu lầm sinh mâu thuẫn đáng tiếc từ xưa đến nay. Trên bình diện thế giới tinh thần ĐẠI KẾT đã khởi sắc từ khi những chuyên viên thánh kinh TIN LÀNH VÀ CÔNG GIÁO ngồi lại với nhau dịch BẢN THÁNH KINH ĐẠI KẾT (TOB). Còn tại VIỆT NAM từ trước 1975 đã hình thành NHÓM ĐẠI KẾT giữa các chuyên viên Thánh Kinh TIN LÀNH VÀ CÔNG GIÁO, CÙNG LÀM VIỆC ĐỊNH KỲ TẠI ĐÀ LẠT cho tới 1975.

Cách nay khoảng 20 năm NHÓM PHIÊN DỊCH CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ đã được sự tài trợ của THÁNH KINH HỘI để phiên dịch và xuất bản KINH THÁNH. Cho tới nay, nhóm đã xuất bản trên 2.000.000 cuốn KINH THÁNH lớn nhỏ. Giờ đây lại có LỜI XIN LỖI VỀ VIỆC PHÁ HỦY ẢNH TƯỢNG… vui biết chừng nào. Chúng ta hãy nhớ lời trăng trối của CHÚA GIÊSU khi sắp lìa cõi thế: “CHỈ CÓ MỘT ĐÀN CHIÊN VÀ MỘT CHỦ CHIÊN” (Ga 10,16). Không lẽ con cùng một CHA TRÊN TRỜI, CÙNG TIN THỜ CHÚA GIÊSU, CÙNG TÔN THỜ, YÊU QUÝ, CÙNG ĐỌC, SUY NIỆM VÀ THỰC HÀNH MỘT CUỐN THÁNH KINH mà lại chia trăm bè, nghìn phái thì thật đáng buồn cho CHÚA và cho ta.

Cội rễ của VẤN ĐỀ ẢNH TƯỢNG là việc HIỂU VÀ CẮT NGHĨA KINH THÁNH. KINH THÁNH là LỜI CỦA CHÚA, điều này mọi Kitô hữu đều chấp nhận, nhưng LỜI CHÚA đến với con người mọi nơi, mọi thời đại thì lại qua ngôn ngữ của loài người cho nên dù là tiếng VIỆT, tiếng ANH, PHÁP, ĐỨC, Ý, LÀO, CAMPUCHIA… cũng phải dùng những mẹo luật ngôn ngữ để hiểu cho đúng nghĩa của câu văn thì mới hiểu đúng được LỜI CHÚA VÀ Ý CHÚA MUỐN DẬY CÁI GÌ phải lấy lương tri ngay thẳng mà hiểu, không cố chấp theo định kiến riêng mình, hoặc hùa theo số đông hay theo ý của 1 người nào đó như Thánh Phaolô đã dậy: “HÃY ĐỂ CHO LƯƠNG TÂM MỌI NGƯỜI PHÊ PHÁN TRƯỚC MẶT CHÚA” (2 Cr 4,2).

Vậy xin mời mọi người đọc và hiểu câu THÁNH KINH này: “NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC TẠC TƯỢNG, VẼ HÌNH BẤT CỨ VẬT GÌ TRÊN TRỜI CAO CŨNG NHƯ DƯỚI ĐẤT THẤP HOẶC TRONG NƯỚC DƯỚI MẶT ĐẤT ĐỂ MÀ THỜ” (Xh 20,4). (Xin lưu ý 3 chữ ĐỂ MÀ THỜ).

v Nhận định 1:

Hiểu câu Kinh Thánh Xh 20,4 như thế nào mới đúng?

Một em học lớp 2, một người quê mùa không biết chữ cũng hiểu được nội dung 3 điểm.

a/ CẤM

b/ TẠC VẼ BẤT CỨ ẢNH TƯỢNG NÀO…

c/ ĐỂ MÀ THỜ (như thờ phượng ĐỨC CHÚA TRỜI, tức là THỜ NGẪU TƯỢNG).

Nghĩa của câu văn chỉ trọn khi liên kết a,b,c. Nếu ngắt c ra thì phần cuối của câu văn là THỪA không ăn uống vào đâu cả. CÁI GÌ ĐỂ THỜ? (LỜI CHÚA không thể thừa hay thiếu dù là 1 chấm 1 phẩy Mt 5,18).

v Nhận định 2:

Như vậy có 2 cách giải thích khoản luật này:

a/ Tạc, vẽ vật gì để mà thờ thì CẤM TUYỆT ĐỐI.

b/ Tạc vẽ vật gì để với mục đích khác KHÔNG PHẢI ĐỂ THỜ như tôn thờ Chúa... thì KHÔNG CẤM (được phép làm nếu muốn mà không phạm luật) ai kết án những người làm việc này là làm 1 việc bất công, sai trái trước mặt Chúa và cả loài người, mà bất công thì phải bồi thường…

v Nhận định 3:

Chính Chúa đã thực hành mở đường khi truyền cho Môsê: “Trên NẮP HÒM BIA ngươi hãy làm HAI TƯỢNG THẦN HỘ GIÁ bằng vàng gò. Ngươi sẽ làm các tượng ấy ở hai đầu nắp… gắn liền với nắp, CÁC THẦN HỘ GIÁ có cánh giương lên phủ trên nắp. Hai tượng đối diện nhau, cùng cúi mặt xuống nắp…” (Xh 25,18-21; Xh 37,1-9).

“…Ngươi sẽ dựng NHÀ TẠM với 10 tấm thảm bằng sợi gai mịn se, vải đỏ tía, vải điều và vải đỏ thẫm… ngươi sẽ cho THÊU TRÊN ĐÓ NHỮNG THẦN HỘ GIÁ RẤT MỸ THUẬT’’ (Xh 26,1).

“…Ngươi sẽ làm một bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều và vải đỏ thẫm và sợi gai mịn se, ngươi sẽ cho thêu trên đó NHỮNG THẦN HỘ GIÁ RẤT MỸ THUẬT” (Xh 26,31).

RẮN ĐỒNG

“…Ngươi hãy LÀM MỘT CON RẮN ĐỒNG TREO LÊN CÂY CỘT, tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên CON RẮN ĐÓ, sẽ được sống… Môsê bèn làm MỘT CON RẮN ĐỒNG và treo lên cây cột…” (Ds 21,8-10).

MỌI NGƯỜI ĐỀU NHẤT TRÍ: THIÊN CHÚA KHÔNG BAO GIỜ LẠI MÂU THUẪN VỚI CHÍNH MÌNH (vừa ra lệnh cấm xong lại đã ra lệnh bắt làm cái mình vừa cấm. Nếu Chúa mà lại VỪA CÓ VỪA KHÔNG như vậy thì chẳng ai thờ Chúa nữa).

v Nhận định 4:

a/ Chủ trương phá bỏ mọi thứ ảnh tượng, không cần phân biệt gì cả… là cuồng tín (giống IS), hiểu sai THÁNH KINH. (LỜI CHÚA mà hiểu sai thì chẳng phải kẻ tôn thờ Chúa đích thực).

b/ Phê phán, chỉ trích người công giáo THỜ ẢNH TƯỢNG là oan sai, hồ đồ… chưa hiểu ĐẠO CÔNG GIÁO. Đạo Công Giáo từ xưa tới nay VẪN CHỈ THỜ MỘT ĐỨC CHÚA TRỜI còn các ảnh tượng thì chỉ TÔN KÍNH như dân Chúa xưa tôn kính các tượng THẦN HỘ GIÁ mà thôi… tội nghiệp Công Giáo bị tiếng oan bao đời nay… XIN CHÚA XÁ TỘI VÌ ANH EM CHÚNG CON CHƯA HIỂU NHAU DO CHƯA HIỂU ĐÚNG THÁNH KINH, LỜI CHA.

Truyền thống của GIÁO HỘI CÔNG GIÁO từ thời GIÁO HỘI sơ khai, đã cho phép vẽ và tôn kính ẢNH TƯỢNG. Bằng chứng là khi các tín hữu tại Roma bị bắt bớ, giết hại. Họ phải chạy tán loạn khắp nơi có những tín hữu chạy tới những miền rất xa trong đế quốc, một số thì lợi dụng luật Roma cấm săn bắt những người trốn trong các hầm mộ nghĩa trang, nơi bất khả xâm phạm nên ban ngày tín hữu báo cho nhau xuống đó sinh hoạt tôn giáo: nghe các tông đồ giảng dậy, dâng lễ… ban đêm bò về nhà làm việc… Họ đã vẽ nhiều bức bích họa tôn giáo trên vách tường hầm mộ… thời danh nhất là hình Chúa Giêsu, MỤC TỬ NHÂN LÀNH VÁC CON CHIÊN TRÊN VAI, hiện nay vẫn còn trong hang TOẠI ĐẠO ở Roma.

Khi tín hữu gặp nhau nơi này, nơi kia… họ đã có 1 mật hiệu là HÌNH CON CÁ... hoặc thêu trên nón, trên cổ áo… hoặc lấy ngón chân, ngón tay vẽ trên cát… thấy hình này họ nhận nhau là anh chị em Kitô hữu, sẵn sàng giúp đỡ tận tình.

Hình CON CÁ là hình ảnh Chúa Giêsu vì theo tiếng HiLạp = IX-TH-UYS (con cá) người ta đã ghép các chữ cái trong từ này thành các danh hiệu của CHÚA GIÊSU.

I=JESU X=KITÔ TH-UYS=CON THIÊN CHÚA S=ĐẤNG CỨU THẾ

Những hình ảnh đó luôn được các tín hữu mến yêu và tôn kính…

CÓ MỘT TIẾNG NÓI CHUNG GIỮA DO THÁI GIÁO, CÔNG GIÁO, TIN LÀNH, ANH GIÁO, HỒI GIÁO (tất cả đều có gốc rễ nơi CỰU ƯỚC cả). ĐÓ LÀ CHỈ TÔN THỜ MỘT CHÚA TRỜI DUY NHẤT MÀ THÔI (độc thần) trong khi tất cả các dân tộc trên thế giới từ xưa tới nay đều ĐA THẦN.

Với các tôn giáo ĐỘC THẦN thì ĐỐI TƯỢNG ĐỂ TÔN THỜ CHỈ CÓ CHÚA TRỜI MÀ THÔI. “Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn - thứ nhất THỜ PHƯỢNG MỘT ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ KÍNH MẾN NGƯỜI TRÊN HẾT MỌI SỰ”. Các hình tượng khác nếu không có mục đích để tôn thờ NHƯ THIÊN CHÚA mà chỉ để tôn kính, tưởng niệm, thưởng thức nghệ thuật (vẽ tranh, nắn tượng) hay để học tập (vẽ hình vạn vật, hình cơ thể, tinh tú v.v... thì Chúa nào cấm, ai cấm điều này là kẻ LẠM QUYỀN, QUÁ KHÍCH (IS) VÀ KHÔNG BÌNH THƯỜNG…

Đạo Công Giáo KHÔNG THỜ ẢNH TƯỢNG, điều này được ghi trong công thức làm phép ẢNH TƯỢNG như sau: “LẠY CHÚA, CHÚA KHÔNG NGĂN CẤM CHÚNG CON DÙNG CÁC ẢNH TƯỢNG CHÚA, ĐỨC MẸ VÀ CÁC THÁNH ĐỂ KÍNH NHỚ VÀ NOI GƯƠNG CÁC NGÀI, CHÚNG CON NÀI XIN CHÚA BAN PHÉP LÀNH VÀ THÁNH HÓA CÁC ẢNH TƯỢNG NÀY ĐỂ KÍNH NHỚ CHÚA, ĐỨC MẸ VÀ CÁC THÁNH. CHỚ GÌ NHỜ SỰ TÔN KÍNH ẢNH TƯỢNG CÁC NGÀI MÀ CHÚNG CON ĐƯỢC CHÚA BAN ƠN PHÙ HỘ ĐỜI NÀY VÀ ĐƯỢC VINH PHÚC ĐỜI SAU”.

Khi nào người ta hư đốn ngu muội dùng hình ảnh để TÔN THỜ NHƯ THỜ NGẪU TƯỢNG thì phải dẹp bỏ ngay lập tức. Trường hợp CON BÊ VÀNG nói trong sách Xuất Hành 32,1-30 hay ngay cả CON RẮN ĐỒNG ông MOSÊ đúc treo lên cây cột cứu sống bao người, con cái ISRAEL vẫn lưu giữ như bảo vật, dĩ nhiên có sự tôn kính chẳng ai dám xúc phạm… Nhưng 700 năm sau, thời vua KHIT-KI-GIA, dân ra hư đốn đem RẮN ĐỒNG ÔNG MOSÊ LÀM RA MÀ THỜ, còn gọi nó là: “NƠ-KHÚT-TAN” (chắc là tên 1 vị thần) vua KHIT-KI-GIA liền đập bỏ cùng với các trụ đá và cột thờ” (2V 18,4).

LẬP TRƯỜNG CỦA CON CÁI ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA LÀ NHƯ VẬY.

LƯU Ý: mình dẹp bỏ ngẫu tượng trong nội bộ tôn giáo mình là việc phải làm… nhưng đi đập bỏ thần tượng của các tôn giáo khác như IS thì không được phép vì phạm đến TỰ DO của anh em mình, gây ra hận thù, chiến tranh, trái với LUẬT YÊU THƯƠNG, TÔN TRỌNG ANH EM MÀ CHÚA ĐÃ DẬY, trái với mối phúc thứ bảy: “PHÚC THAY AI XÂY DỰNG HÒA BÌNH VÌ HỌ SẼ ĐƯỢC GỌI LÀ CON THIÊN CHÚA” (Mt 5,9).

Có một tiếng nói chung nữa không phải chỉ trong phạm vi mấy cộng đoàn hoặc vài ba chục nước mà cho cả nhân loại, từ ông bà nguyên tổ cho đến người sau hết trong ngày tận thế… đó là SỰ CẦN THIẾT CỦA HÌNH ẢNH VÀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TRỰC QUAN TỨC LÀ PHƯƠNG PHÁP NGHE NHÌN. Ai cũng cần, nước nào cũng cần, đời nào cũng cần… Chúa tạo ra đôi tai thì phải có âm thanh đáp ứng. Chúa tạo ra đôi mắt thì phải có hình ảnh đáp ứng, Chúa không dựng nên cái gì thừa cả… đập phá ảnh tượng khi các ảnh tượng đó không để THỜ NHƯ ĐỨC CHÚA TRỜI, là làm sai ý Chúa và gây mất đoàn kết nơi con cái Chúa và thiếu tôn trọng nhau…

CHÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI, ĐẤNG VÔ HÌNH CŨNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU NHÌN XEM CỦA LOÀI NGƯỜI.

1. Với tổ phụ APBRAHAM, Chúa đã hiện hình thành BA NGƯỜI tới gặp ông ở dưới gốc cây sồi Măm-rê, còn ăn tiệc ông đãi rồi mới hứa cho ông bà sinh con trai nối dòng trong tuổi già…(St 18,1-16).

2. Tổ phụ Giacóp đánh vật với Chúa (hiện hình người) suốt đêm… (St 32,25-32).

3. Lãnh tụ MÔSÊ cùng những hầu cận lên núi gặp Chúa, HỌ ĐÃ NHÌN THẤY THIÊN CHÚA ISRAEL (Xh 24,10)

4. Môsê nhìn thấy: “TAY CHÚA VIẾT TRÊN BIA ĐÁ” (Xh 31,18).

5. Môsê làm cho nét mặt Chúa dịu lại… (Xh 32,11)

6. Chúa đàm đạo với Môsê MẶT GIÁP MẶT NHƯ HAI NGƯỜI BẠN (Xh 33,11).

7. Còn chính Đấng CHRIST thì đã: “HÓA THÀNH XÁC THỊT VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA.” (Ga 1,14)

CÁC BẠN NGHĨ SAO?

ĐẶC TÍNH BIỂU THỊ

HAY LÀ DẤU CHỈ CỦA ẢNH TƯỢNG.

Tất cả ảnh tượng đều được làm bằng những vật liệu: đất sét, thạch cao, xi-măng, composite, đá, gang, sắt, đồng, bạc, vàng… hoặc giấy, vải, lụa v.v…

Khi còn là chất liệu thô thì chẳng có lý do nào để tôn kính cả, có khi còn có những tác động thô bạo trên những vật thô đó thí dụ đạp nhồi đất sét, đẽo gỗ, đục tượng… nhưng khi đã làm nên hình hài ảnh tượng thì đòi người ta phải có thái độ tôn kính vì lúc này tác phẩm có thêm GIÁ TRỊ BIỂU THỊ hay DẤU CHỈ.

Một miếng giấy vẽ hình bố bạn với những nét đặc thù, không thể lẫn với ai, thì ảnh đó trình bày bố của bạn hay là dấu hiệu để bạn nhận ra bố mình, bạn đạp lên hình đó thì không phải bạn đạp lên 1 tờ giấy nữa mà đạp lên bố của bạn, đó là tội bất hiếu… Một lá cờ khi đã được may đúng hình thức quy định thì không còn là mảnh vải hay miếng giẻ lau nữa mà là HÌNH ẢNH TƯỢNG TRƯNG CHO HỒN NƯỚC, CHO DÂN TỘC, cả nước phải đứng nghiêm mà chào, ai xúc phạm đến QUỐC KỲ là đi tù mọt gông… không ai thờ lá cờ như CHÚA TRỜI cả nhưng mọi người phải có thái độ tôn kính.

Vấn đề ẢNH TƯỢNG cũng vậy, không ai thờ miếng giấy, khúc gỗ, nắm đất, nắm xi măng… nhưng phải tôn kính những ảnh tượng được làm bằng những chất liệu đó vì nó chỉ và nhắc nhớ tới CHÚA, ĐỨC MẸ VÀ CÁC THÁNH để chúng ta noi gương bắt chước gương lành và xin những vị ấy cầu bầu cho chúng ta trước mặt Chúa.

NHƯ VẬY XÚC PHẠM TỚI ẢNH TƯỢNG CÔNG GIÁO MỘT CÁCH CỐ Ý LÀ PHẠM TRỌNG TỘI.

CẢM THỨC TÔN GIÁO

TRƯỚC CÁC ẢNH TƯỢNG TÔN GIÁO

Chiêm ngắm một tượng ĐỨC MẸ thật đẹp hoặc tượng ảnh các thánh cũng thế, chúng ta liên tưởng hay nhớ ngay đến ĐỨC MẸ và các thánh đang hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng và tâm tình tự nhiên thôi thúc chúng ta cầu xin với các ngài thưa chuyện với CHÚA để CHÚA ban ân phước cho chúng ta, đồng thời chúng ta cũng nhớ tới đời sống của các ngài trong cuộc hành trình theo Chúa mà noi gương bắt chước… LÒNG TÔN KÍNH CÁC ẢNH TƯỢNG ĐEM LẠI CHO CHÚNG TA LỢI ÍCH BIẾT BAO!

Trái lại nếu chúng ta trông thấy MỘT CUỐN THÁNH KINH, MỘT CÂY THÁNH GIÁ DÙ KHÔNG CÓ TƯỢNG CHÚA GIÊSU BỊ ĐÓNG ĐINH TRÊN ĐÓ (Thánh Giá nơi các nhà thờ Tin Lành) mà bị xúc phạm, đốt bỏ, các hình tượng thánh giá bị đập nát… ai là người có đạo dù là công giáo hay tin lành mà lại không đau lòng xót dạ… Chúng ta đã thấy hậu quả của những lần báng bổ tôn giáo như thế nào rồi. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16 đã nói. “Không được phép đem niềm tin tôn giáo ra làm trò cười, xúc phạm niềm tin của anh chị em mình”. Với anh em Hồi Giáo ai xúc phạm KINH KORAN và ĐẤNG TIÊN TRI MAHÔMET thì phải lãnh hậu quả khôn lường.

MỌI NGƯỜI CÓ BỔN PHẬN PHẢI TÔN TRỌNG NIỀM TIN CỦA ANH CHỊ EM MÌNH. CHUYỆN CẢI ĐẠO LÀ QUYỀN TỰ DO TUYỆT ĐỐI CỦA MỖI NGƯỜI MỌI NGƯỜI PHẢI TÔN TRỌNG.

CHÚA LÀ CHÂN THIỆN MỸ TUYỆT ĐỐI.

Không ai, không cái gì đẹp bằng Chúa, đó là chân lý.

Kinh Thánh cho chúng ta biết Chúa thích Mỹ Thuật. “Ngươi sẽ dựng NHÀ TẠM với 10 tấm vải bằng sợi gai se mịn, vải đỏ tía, vải điều và vải đỏ thẫm. Ngươi sẽ cho thêu trên đó những THẦN HỘ GIÁ RẤT MỸ THUẬT” (Xh 26,1)

“…Ngươi sẽ làm một bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều và vải đỏ thẫm với sợi gai se mịn, ngươi sẽ cho thêu trên đó những tượng THẦN HỘ GIÁ rất mỹ thuật” (Xh 26,31)

“…Ta đã gọi đích danh Bơ-xan-en con của Uri… Ta sẽ ban cho nó dồi dào Thần Khí của Ta để nó trở thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, để nó nghĩ ra những TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT làm bằng vàng, bạc hay đồng, mài ngọc đính vô áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc” (Xh 31,1-6).

Nếu ai nghĩ rằng họ hiểu đúng Kinh Thánh mà lại chủ trương dẹp bỏ tất cả tượng ảnh, mọi hình vẽ, hình tạc, hình chụp trên thế gian thì làm gì có những câu KINH THÁNH nêu trên… và thế giới sẽ vắng bóng các môn nghệ thuật hội họa, điêu khắc, chụp hình, điện ảnh… và cả môn sinh vật… vì cũng phải vẽ hình các con vật và cả con người nữa.

Có một thắc mắc là tại sao những người chủ trương dẹp bỏ ảnh tượng… lại vẫn tôn kính THÁNH GIÁ, vẫn để trang trọng, uy nghi trên nóc các nhà thờ, trên phần mộ và trang trí trong các nhà thờ? THÁNH GIÁ không phải là HÌNH, là TƯỢNG thì là cái gì?

TÓM LẠI HIỂU ĐÚNG KINH THÁNH,VÀ YÊU THƯƠNG, TÔN TRỌNG LẪN NHAU LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT. “ĐỂ HỌ NÊN MỘT NHƯ CHÚNG TA” (Ga 17,21).

(còn tiếp)


VIỆC TRUYỀN Y BÁT

LIÊN QUAN ĐẾN CÁCH HIỂU

ĐẠO PHẬT NHƯ THẾ NÀO?

(tiếp theo số 111)

Muốn TRỪ KHỔ phải biết nguyên nhân và cách thức.

Theo Đức Thích Ca, sở dĩ con người bị KHỔ là vì CHẤP LẤY CÁI THÂN GIẢ TẠM, CHO ĐÓ LÀ MÌNH, gọi là CHẤP NGÃ. Cái Chấp này theo Phật là do SI, tức là VÔ MINH, có nghĩa là thiếu sáng suốt, vì thiếu sáng suốt nên nhận cái không phải là Mình (Ta) mà cho là Mình (Ta). (Tức là cái Thân Tứ Đại). Do CHẤP NGÃ nên chấp luôn những gì đến với Nó gọi là CHẤP PHÁP. Khi Chấp Ngã, Chấp Pháp, mọi người sẽ phản ứng với những gì đến với Cái Thân, cho đó là đến với mình. Những phản ứng của mỗi người khi đối pháp không ngoài THAM, SÂN do SI. Muốn THOÁT được những thứ này thì phải hiểu rõ về nó. Vì vậy người tu theo Đạo Phật được hướng dẫn cho TƯ DUY.

Không phải suy nghĩ cái gì cũng là Tư Duy, nên Tư Duy cũng có Chánh, Tà. Muốn TƯ DUY cho hiệu quả thì phải biết cần Tư Duy Pháp nào, để đặt mục tiêu cho chân chánh, gọi là CHÁNH TƯ DUY. Đã biết Cái Thân là nguyên nhân làm cho đau khổ, và muốn Thoát Khổ thì phải Tư Duy về nó. Để có thể dừng bớt việc chạy theo sự điều động cái Thân thì GIỚI được đặt ra, như một bờ bao để người giữ được bảo vệ trong đó. Người tu không chỉ dừng những suy nghĩ vu vơ. Ngưng không làm điều Ác, mà còn phải thiện hóa từ từ, rồi còn phải Quán Sát cái Thân, xem thực chất nó là gì? Từ đâu đến? Tồn tại bao lâu?

Dựa theo căn bản đã được Đạo Phật vạch sẵn. Người tu bắt đầu tìm hiểu về cái THÂN để thấy nó chỉ là một khối thịt xương, được hình thành bằng duyên kết hợp của cha mẹ, sau đó được bồi bổ bằng thực phẩm mà lớn lên. Tồn tại nhiều lắm là 100 năm. Nhưng trong 100 năm sống đó, nó vừa phải trả Nghiệp cũ, lại vừa tạo thêm Nghiệp mới, lại phải đối đầu với biết bao nhiêu khó khăn. Do đó mà TỨ DIỆU ĐẾ được đưa ra để người tu theo đó mà nhìn lại những gì diễn ra trong kiếp sống để thấy Phật dạy không sai. Rõ ràng: “Hữu Thân, hữu Khổ”! Hết mưa gió, bệnh hoạn tấn công, rồi đến cầu mong không được. Người yêu thương phải sống xa. Kẻ oán ghét lại cứ phải gặp… Do vậy mà Đạo Phật khuyên con người không nên bám vào cái Thân. Vì có gìn giữ, yêu thương, cưng chiều nó cho mấy thì thời gian nào đó nó cũng sẽ hư hoại. Nhưng điều quan trọng là không phải khi cái Thân hư hoại thì tất cả đều kết thúc. Ngược lại, những gì đã làm trong quá khứ không mất, cho nên lại phải Luân Hồi để Trả. Tu Phật chỉ là một hành trình để dứt KHỔ trong hiện kiếp và kết thúc vòng SINH TỬ LUÂN HỒI.

Để hỗ trợ cho việc Tư Duy về các Pháp, một công thức khác cũng được đưa ra để nói về diễn tiến của chúng, là THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG, để người tu thấy rằng các Pháp đang tồn tại, có vẻ bền chắc như vậy, nhưng cuối cùng cũng sẽ hư hoại để trở về KHÔNG. Đó là bài học để người yêu thích cái THÂN, yêu thích cuộc đời học hỏi, để bớt đi những đắm nhiễm vào cái Thân và các PHÁP. Người càng Soi Quán nhiều, càng nhập tâm thì càng mau chóng thoát vòng ảnh hưởng của chúng. Bởi nếu biết rằng những thứ mà chúng ta làm quần quật, đấu tranh, giành giật, thậm chí lường gạt hay tàn sát nhau để tích lũy chỉ là những thứ GIẢ, thì liệu chúng ta còn hăng say để tiếp tục hay không? Để cưng dưỡng cái Thân, cho nó ăn ngon, mặc đẹp. Sắm cho nó đủ thứ đồ sang, cho nó đeo vàng, đeo ngọc, tẩm bổ nó bằng những thứ thực phẩm đắt nhất trên đời, ta đã phải nhọc nhằn, gian khổ, đôi khi phải dối trên, lừa dưới, tạo Nghiệp… rốt cuộc nó cũng hành hạ ta chán bằng những cơn bệnh, rồi lạnh lùng bỏ ta mà đi. Biết như vậy thì liệu ta có còn tiếp tục cưng chiều, cung phụng cho tất cả những đòi hỏi của nó hay không?

Không chỉ Quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, người tu còn nghiền ngẫm câu “PHÀM SỞ HỮU TƯỚNG GIAI THỊ HƯ VỌNG”, của Kinh Kim Cang để có thêm cái hiểu về vạn pháp. Bổ sung theo đó là một Kinh khác cũng đưa đến kết quả tương tự. Đó là BÁT NHÃ TÂM KINH. Người tu sẽ theo từng câu, từng lời trong đó mà quán sát: “Sắc bất dị Không. Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị Sắc”. Tức là mọi thứ có tướng (Sắc) mà ta đang nhìn thấy, đang tiếp xúc đây, kể cả cái Thân của ta cũng sẽ hư hoại. Như vậy thì Tướng (Sắc) đó có khác gì Không? Nó đã hư vọng thì còn đam mê, còn bám lấy nó để làm gì?

Nhờ quán sát như thế người tu mới gỡ lần được một số những dính mắc vào cuộc đời, nên những thứ trước kia làm cho con người điên đảo là Danh, Lợi, Tình, được, mất, hơn, thua… không còn làm Khổ họ được nữa, gọi là Thoát Khổ.

Qua cả một quá trình GIỮ GIỚI, sống theo BÁT CHÁNH ĐẠO và QUÁN SÁT, TƯ DUY để Xả bớt những tập khí cũ, rồi nhờ tập trung lúc THIỀN ĐỊNH, đến lúc nào đó, người tu sẽ nhận ra là ngoài phần Hữu Tướng là Cái Thân, mỗi người còn có phần Vô Tướng là những Ý Thức mà Phật đặt tên cho đó là cái TÂM. Khi nó chưa sáng suốt thì Ngài gọi đó là VỌNG TÂM. Cái Vọng Tâm này, theo Đức Thích Ca, là thủ phạm đã gây ra SINH TỬ LUÂN HỒI. Vì nó đã xui cái Thân tạo Nghiệp, để rồi theo đó mà vòng Sinh Tử Luân Hồi cứ triền miên không dứt. Nhưng cái Thân, suy cho cùng chỉ là đống thịt xương, là bộ máy hành động theo sự điều khiển của Ý thức hay còn gọi là Cái Tâm. Khi phân biệt được thế nào là VỌNG TÂM, thế nào là CHÂN TÂM, cùng với những gì đã được học, hiểu, thực hành, người tu sẽ biết được rằng mình có cái CHÂN TÂM, không ô nhiễm, không Sinh, Tử, không bị nghiệp lực lôi kéo, và Nó mới là cái TA THẬT, trong sạch, thanh tịnh, trường tồn, bất diệt. Ở trong Thân này mà không Tử theo cái Thân khi nó hết kiếp. Người thấy như vậy gọi là THẤY TÁNH hay nhận được BỔN THỂ TÂM. Đó là sự Chứng Đắc của Đạo Phật mà người tu cần đạt tới. Đó là cái mà Lục Tổ Huệ Năng gọi là “Bồ Đề bổn vô thọ”.

Việc THẤY TÁNH mới là bước đầu của người nhận được “Bổn Thể Tâm” nên chư cổ đức gọi là “Kiến Tánh khởi tu”, bởi vì sau đó là cả một hành trình chuyển hóa Thân, Tâm. Nói nôm na như một vị vương tử bị thất lạc trong dân gian từ nhỏ. Nghe có người nói loáng thoáng mình là con của Vua, nhưng không biết thực hư thế nào. Cho đến khi tìm được nhiều bằng chứng, khẳng định mình đích thực là con vua, chỉ còn chờ về lại hoàng cung để nhận lấy ngai vàng mà thôi. Đó là một sự thật vốn có, không phải là điều gì mới lạ. Chỉ vì không nhận ra. Từ khi vị vương tử khi biết mình không phải là một người nghèo khổ, mà vốn dòng dõi sang trọng, cốt cách thanh cao, hẳn nhiên sau đó phải bỏ những thói lê la, những cách ăn nói, cư xử của giới bình dân trước kia, mà tập sống đúng với địa vị mới của mình. Có Kinh diễn tả bằng thí dụ một con sư tử con, nhưng bị lạc vào bầy giả can (chacal: chó sói) từ lúc nhỏ. Nó cũng kêu tiếng, ăn thức ăn như chúng. Đến khi nhận ra mình không phải là chó sói, mà chính là Sư tử, thì rống lên tiếng oai vệ của dòng giống mình, và không ăn thức ăn dơ của loài chó sói như trước nữa.

Từ khi nhận ra mình không phải là cái Thân hữu tướng giả tạm này, mà mình thật ra là Vô Tướng, bất sinh, bất diệt, thanh tịnh, như như, tạm hiện thân trong cái Giả Tướng này và ở cùng với nó cho đến hết hạn kỳ của nó, thì bản thân người Thấy Tánh đó sẽ không còn bị Mê Lầm như trước. Họ sẽ không còn để cho Lục Căn bị ảnh hưởng bởi Lục Trần để quay cuồng, đảo điên theo các Pháp, mà điều khiển Thân, Tâm, để cho nó theo ý thức đã Giác, không còn chạy theo Tham, Sân, Si, mà lấy lại quyền làm chủ Thân, Tâm, chỉ làm những việc tốt đẹp cho mình, cho người mà thôi. Những việc làm này được tượng trưng cho 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp của Phật, mà nhiều thế hệ đã hiểu lầm, cứ lấy vàng, ngọc, đá quý, xi măng, gỗ, thạch cao… tạc thành hình tượng để Thờ!

Người Thấy Tánh chỉ là người nhận được lại Cái Thật Sự Là Mình. Không còn bám vào cái Mình Giả thì sẽ được Giải Thoát những sự ràng buộc bởi những thứ giả tạm, nên không còn bị cuộc sống khảo đả, cái tâm được an lạc, gọi là Thành Phật. Thành Phật không có phải là thành một vị Thần Linh, có quyền cứu độ cho Tam Thiên Đại Thiên hay những người khác bên ngoài, mà chỉ là thành tựu công việc Giải Thoát cho bản thân. Việc Quán Sát, Tư Duy, hành dụng chỉ nhắm vào Thân, Tâm mà hành trì. Không có so sánh với bên ngoài, nên không có cao, thấp, hơn, thua. Người tu chỉ là người tự chỉnh sửa cái Hiểu, cái Hành của mình. Trở về với Bản Thể của mình, nên cái đạt được cũng chỉ có giá trị với chính mình, không có so sánh với ai khác, nên gọi là Vô Thượng Bồ Đề. Vô Thượng Bồ Đề không có nghĩa là cao tột bực, nhưng vẫn có một số người hiểu lầm lại sinh ra kiêu mạn khi tưởng rằng mình đã Chứng Đắc! Trong khi đó, ngưởi Chứng Đắc thật sự phải qua giai đoạn Xả cái Ta. Đã không còn có TA thì sao còn có cao, thấp? Đó là căn bản để ta có thể đánh giá người Tưởng Chứng và người Thật Chứng.

Người đã THẤY TÁNH thì nhận biết giá trị của cái Tánh, nên không còn chấp vào TƯỚNG để tranh giành Danh, Lợi như những người còn Mê Lầm, bám lấy cái Thân, bám lấy cuộc đời. Người như thế Phật tạm gọi là Thánh Nhân, bởi họ ở trong đời, vẫn phải dùng những vật phẩm của đời để cho cái thân tồn tại, nhưng chỉ với một mức độ vừa phải, và không còn tranh giành những thứ danh, lợi, vật chất của đời. Cách sống đó Đạo Phật gọi là “Ở trong thế gian mà Thoát thế gian”. “Ở trong phiền não mà không bị phiền não nhấn chìm”. Đó là ý nghĩa việc Chứng Đắc của Đạo Phật. Sự Chứng Đắc đó được so sánh như Hoa Sen, sống giữa bùn nhơ mà vẫn thanh khiết.

Qua trình tự của con đường tu hành chân chính: Người Tu chỉ làm công việc chuyển hóa Thân Tâm của mình để đạt được kết quả: Thoát Khổ, không còn phiền não, như Hoa Sen, vươn lên từ bùn. Tất cả chỉ là như thế, so với bao nhiêu Phương Tiện mà Phật đã đưa ra, nào là Tứ Quả Thánh, nào là Phật Quốc, Phật, Chư Bồ Tát, Chúng Sinh v.v… Do đó mà Ngài Ca Diếp đã mỉm cười khi thấy Đức Thích Ca đưa cành Sen lên. Nhìn nụ cười đó, Phật biết là Ngài đã nắm vững con đường của mình, nên Truyền Y bát lại cho Ngài để thay mình tiếp tục giữ gìn và phổ biến Chánh Pháp cũng như cầm đầu Tăng Chúng. Theo lời Phật dặn dò, việc đó được kế tục mãi, để thời nào cũng có người đại diện cho Phật. Nhờ vậy Chánh Pháp đã không dứt diệt dù rằng Y Bát không còn trao truyền.

Việc Thấy Tánh của Đạo Phật không phải là chỉ cần học, hiểu và có thể diễn nói làu làu tất cả các pháp của Đạo Phật như vẹt, mà như một công thức nấu ăn hay làm bánh. Người học phải tự mình thực hiện các món đó ra thành phẩm, và người thầy sẽ là người nếm để cho họ biết là món đó đã thành công hay chưa. Nhìn bên ngoài thì mọi người cùng giống như nhau. Nhưng suy nghĩ, thực hành, hiểu biết thì mỗi người đều khác. Chính vì vậy mà những vị Thầy hay kêu các đệ tử làm Kệ để đánh giá trình độ của học trò. Qua diễn tả, người Thầy sẽ thấy họ chứng đắc hay chưa. Đọc Pháp Bảo Đàn Kinh, ta thấy Ngũ Tổ đã kêu các Sư Tăng trong Chùa trình Kệ, để ai Thấy Tánh thì Ngài sẽ truyền Y Pháp cho làm Tổ Thứ Sáu.

Chính Sư Thần Tú cũng biết trình độ của mình, nên không dám công khai trình Kệ, chỉ lén lút biên trên vách nhà. Hy vọng nếu Tổ Sư thấy được, khen hay thì mình sẽ ra nhận, chứng tỏ Sư đâu có đủ tự tin khi trình Kệ. Ngược lại, Lục Tổ Huệ Năng là người đã Thấy Tánh, nên chỉ cần nghe qua bài Kệ của Sư Thần Tú là biết ngay rằng bài Kệ đó chưa đạt trình độ Thấy Tánh, và chỉ cần sửa một vài chữ là ý nghĩa hoàn toàn khác. Một bên thì cho là Thân là cội Bồ Đề. Tâm là đài gương sáng, lúc nào cũng cần lau chùi để bụi trần đừng vướng vào. Chứng tỏ Sư Thần Tú còn thấy Thân, Tâm là Mình, nên cần phải tu, sửa. Ngược lại, Lục Tổ Huệ Năng đã thấy được Phật Tánh, nên Ngài cho là Giải Thoát vốn không có gốc gác. Cái Tâm tức là minh cảnh cũng không có đài. Trước sau không có vật nào thì chỗ đâu mà vướng bụi trần? Tức là một bên vẫn còn vướng Tướng, nên vướng vào Thiện, Ác, thấy cần phải tu, sửa. Một bên đã thấy mình là Vô Tướng, không có chỗ nào để cho các pháp bám vào.

Có người cho là muốn tu hành thì phải như Sư Thần Tú: “Thời thời cần phất thức”, còn nói như Lục Tổ Huệ Năng thì lý thuyết có vẻ cao siêu, nhưng thiếu phần thực hành. Theo tôi nhận định như sau: Đã đành bước đầu và cả đời tu hành thì phải tu, sửa như Sư Thần Tú là không sai. Nhưng qua hai cái Thấy của Sư Thần Tú và Lục Tổ Huệ Năng, thì một người đang trên đường đi và một người đã đến. Cái “Đến”đó chính là sự CHỨNG ĐẮC của Đạo Phật. Cũng giống như thợ hồ và Kiến Trúc Sư. Thợ hồ thì chỉ biết cắm cúi xây, không biết lúc nào mới dừng. Cũng không biết nên xây tới đâu. Trong khi đó thì Kiến Trúc Sư là người nắm được tổng thể của ngôi nhà. Biết chỗ nào xây, chỗ nào làm thứ khác. Biết lúc nào, tới đâu là kết thúc. Do đó chỉ những người không hiểu hết ý nghĩa của Đạo Phật mới bài bác việc Chứng Đắc, Thấy Tánh. Bởi vì bản thân họ chưa hiểu thế nào “Tới”, là “Đến”, nên cũng không hiểu thế nào mới là thực hành đúng Chánh Pháp, dù cùng áp dụng những Pháp mà Phật đã giảng. Họ chỉ dựa theo Chữ, không hiểu được Nghĩa, nên hiểu lầm rằng Chứng Đắc, Thấy Tánh, Thành Phật, là thành một vị Thần Linh, hay thành Phật Tổ Như Lai có quyền ban ân, giáng họa. Do đó họ sẽ ở một trong hai địa vị: Hoặc tôn thờ, phụng sự Phật. Sáng tối chuông mõ, tụng niệm, Trai Giới, Thiền Định. Cố gắng giữ Giới cho nghiêm chỉnh để được Phật phù hộ độ trì khi sống, lúc chết được rước về Tây Phương Cực Lạc. Hoặc như một số Thiền Sư thời xưa, khởi Tăng Thượng Mạn, cho rằng người Chứng Đắc còn “cao hơn cả Phật” (Vô Môn Quan). Chính những cái hiểu sai này đã đưa họ đến tranh giành quyền lực, tranh giành địa vị cao thấp trong đạo, mà quên tu sửa Thân, Tâm. Hay nói ngược lại: Chính vì không biết rằng con đường Tu chính là Sửa Thân, Tâm nên nhiều người mới tiếp tục coi trọng lợi, danh của con đường tu hành, không biết rằng mục đích tu hành là để được Giải Thoát, không phải để đạt địa vị cao trong Đạo, được mọi người tôn kính.

Chính vì không nắm vững mục đích và phương tiện của công việc tu Phật, nên nhiều đời qua, biết bao nhiêu lớp người đã viễn ly cuộc thế, nhưng không có được bao nhiêu người “đắc đạo” . Do đó, họ đã bỏ nhà cửa đời, cho rằng đã Xuất Gia. Nhưng rời nhà thế tục mà không RỜI NHÀ LỬA TAM GIỚI. Bỏ luyến ái cha mẹ, vợ chồng, con cái, quyến thuộc mà không bỏ LUYẾN ÁI cái Thân và 7 đời quyến thuộc. Đó là Ba Nghiệp của Thân và 4 Nghiệp của Khẩu! Cạo sạch tóc mà không CẠO SẠCH PHIỀN NÃO, không trừ Tham, Sân, Si, thương, ghét, đố kỵ nơi Tâm. Đắp Y mà Không đắp lên THÂN, TÂM một màu thanh tịnh của Đạo. Khất vật thực mà không Khất Pháp Thực. Vì thế mà không đạt kết quả của Đạo, chỉ là người giữ tròn đạo đức mà thôi. Có GIỚI, ĐỊNH mà thiếu HUỆ thì không thể nào đi đến đích của Con Đường Giải Thoát được.

Tu Phật là để đạt Vô Thượng Bồ Đề mà có người đã tự hù dọa mình, cho là chỉ cần KHỞI cái tâm đạt Vô Thượng Bồ Đề là Tăng Thượng Mạn! Chẳng hiểu Vô Thượng Bồ Đề là gì mà cứ tu. Tu miệt mài nhưng chẳng dám mong ước để đạt. Vậy thì đi tu để làm gì? Phải chăng tự chúng ta lừa dối mình để rồi đi trong vòng lẩn quẩn. Cứ Hành mà không biết bao giờ sẽ đạt tới! Cũng chẳng biết Hành thế nào mới đúng, mà cũng không dám tìm hiểu, vì sợ khởi tâm là “động”! Muốn qua bờ Giác mà còn chưa biết Bờ Giác đó ở đâu? Muốn lìa Mê mà không biết thế nào là MÊ thì làm sao lìa? Vậy thì chúng ta sẽ tu những gì? Tu đến bao giờ? Rồi cứ thế, chồng lên, mỗi năm một Hạ. Nhiều năm là nhiều Hạ. Tu lâu thì thành cao chăng?

Chính vì vậy mà Đạo Phật cần phải có việc Chứng Đắc và Truyền Y Bát. Bởi khi người Thầy đi rồi, thì người kế vị là người đã nắm vững mục đích cũng như phương tiện của Đạo Phật, không chỉ đủ sức tự hành trì, mà còn có thể hướng dẫn cho người khác, và có thể diễn tả con đường tu hành bằng ngôn ngữ theo từng thời đại cho mọi người dễ hiểu, vì có những điều mà thời Phật tại thế chưa đủ ngôn ngữ để diễn tả nên dễ bị hiểu lầm.

Nhiều người giải thích TAM THẾ PHẬT đó là Phật của quá khứ là A Di Đà, Phật hiện tại là Thích Ca, và Phật của tương lai là Di Lặc. Đó là lời giải thích bất hợp lý. Chẳng phải đối với thời này thì Phật Thích Ca cũng là quá khứ sao? Cách đây đã 3.000 năm mà sao cho là hiện tại được? Trong khi Kinh Đại Thừa dạy là đối với con đường tu Phật, thì dù là QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI hay VỊ LAI. Nếu người hành trì đúng theo lời Phật dạy thì đều được Giải Thoát hay còn gọi là Thành Phật như nhau, nên gọi là có Tam Thế Phật.

Nhiều người thì chỉ chấp nhận có mỗi Đức Thích Ca là Đắc Đạo thôi, nên họ không nhìn nhận cả Chư Tổ, cho rằng những Kinh nào không phải được chép lại những lời chính thức của Phật thuyết, mà được viết về sau đều là Kinh Ngụy Tạo, chứng tỏ những người đó không hiểu gì về việc Chứng Đắc của Đạo Phật, nên không hiểu luôn thế nào là Tam Thế Phật và nếu là người đã Chứng Đắc thì Phật trước, Phật sau đều hiểu giống như nhau, vì đều cùng làm những việc như nhau mà thành Đạo. Đời cũng như Đạo, người trước truyền lại cho người sau. Nếu cho rằng chỉ có mỗi Đức Thích Ca là đắc đạo thì không khác nào nói rằng Ngành Y chỉ có mỗi Hyppocrate là Bác Sĩ!

Có Hòa Thượng đã nói là “Người bênh vực Đại Thừa đã không minh chứng được nguồn gốc xuất xứ của kinh, không biết kinh được kết tập thời điểm nào, vị Thánh Tăng nào đã chứng minh cho sự ra đời của Đại Thừa”. Là người có thời gian khá dài nghiên cứu và tu tập theo Đại Thừa, tôi xin lấy tư cách cá nhân để trả lời như sau:

l/ Về Sự ra đời của Đại Thừa

Đại Thừa là do chính Đức Thích Ca thành lập. Nếu có đọc lịch sử Đạo Phật chúng ta sẽ thấy là chính Đức Thích Ca, sau hơn 40 năm giảng dạy, khi thấy mình đã già yếu, qua vụ việc đưa cành Sen lên giữa hội chúng, thấy rằng Ca Diếp đã lĩnh ngộ Giáo Pháp của mình, nên đã Truyền Y Bát lại cho Ngài để thay mình toàn thống lãnh Tăng Chúng và phổ biến Đạo Pháp. Sau đó, Ngài Ca Diếp truyền lại cho Ngài A Nan, rồi Ngài A Nan truyền cho Ngài Thương Na Hòa Tu làm Tổ Thứ Ba. Khi Ngài Thương Na Hòa Tu truyền cho Ngài Ưu Ba Cúc Đa, lúc đó 20 tuổi, mới vào tu được có 3 năm, thì nhóm Trưởng Lão không bằng lòng, tách ra lập TRƯỞNG LÃO BỘ. Phía các Sư Tăng còn lại theo Tổ Thứ 4 gọi là ĐẠI CHÚNG BỘ. Đại Chúng Bộ cũng được gọi là ĐẠI THỪA, Nhóm các Trưởng Lão Bộ được gọi là Tiểu Thừa, về sau cải thành Phật Giáo Nguyên Thủy.

Từ khi tách ra, Nhóm Trưởng Lão Bộ chỉ nhìn nhận Tổ Ca Diếp và Tổ A Nan, không nhìn nhận Tổ Tứ 3 và tất cả những Tổ còn lại. Cũng không hề nói đến việc Truyền Y Bát. Nên tín đồ của Phật Giáo Nguyên Thủy hoàn toàn không biết gì về việc Truyền Y Bát cũng như tầm quan trọng của việc này đối với Đạo Phật.

Như vậy, rõ ràng là Tiểu Thừa mới là nhóm tự tách ra khỏi Tăng Đoàn do Đức Thích Ca thành lập, tự hình thành một Giáo Phái mới, song hành với Đại Thừa suốt từ sau Phật nhập diệt khoảng 100 năm đến nay. Hai bên cùng dùng Giáo Pháp của Phật thuyết để giảng dạy, nhưng phần giải thích và thực hành có nhiều chỗ khác nhau. Đó là sự khác biệt giữa một bên do người đã Chứng Đắc nối tiếp nhau để khai triển Giáo Pháp do Phật giảng dạy, và một bên không có người Chứng Đắc hướng dẫn.

2/ Nguồn gốc, xuất xứ của Kinh Đại Thừa? Kinh được kết tập thời điểm nào? Vị Thánh Tăng nào đã chứng minh?

Xin được trả lời như sau: Sở dĩ kinh Kết Tập cần những vị Thánh Tăng chứng minh, là vì thời Phật tại thế chưa có tài liệu ghi chép lại những lời Ngài giảng. Sau khi Phật nhập diệt khoảng 4 tháng, Ngài Ca Diếp mới triệu tập tất cả các Đệ Tử của Phật để gom lại những lời Phật thuyết lúc sinh thời, sợ thời gian sẽ làm quên mất. Lúc đó Ngài A Nan là người “thuộc Pháp của Phật thuyết như nước trong bình đổ ra không thiếu một giọt” đích thân kể lại, và những người trong chúng hội đã từng nghe Phật giảng dạy, sẽ xác nhận những điều mình cũng từng nghe qua, nên gọi là chứng minh. Những Bộ Kinh đầu tiên do gom lại lời Phật giảng nên gọi là Kinh Kết Tập.

Trường hợp Kinh Đại Thừa do các Tổ được Truyền Y Bát viết hay giảng về sau thì đó là lời của chính các Ngài. Thời của các Ngài thì chữ viết đã có, các Ngài có thể tự viết hay kêu đệ tử biên tập, đâu cần chờ viên tịch thì các đệ tử mới kết tập, thì cần gì các vị Tăng khác chứng minh? Hơn nữa, những vị Tăng khác trong chùa chỉ là đệ tử làm gì đủ trình độ mà đánh giá, chứng minh những lời của Thầy? Do đó, đòi hỏi Kinh Đại Thừa cần có Thánh Tăng chứng minh là không hợp lý.

Sở dĩ vẫn dùng “Ta nghe như vầy” hay mở đầu bằng những câu y như lời Ngài A Nan kể lại, là để mượn phương tiện mà hướng dẫn chúng sinh. Vì cách đây cả ngàn năm, con người chưa ý thức được rằng Phật Đạo là con đường đưa đến Giải Thoát mà bất cứ ai hành trì đúng theo những gì Đức Thích Ca đã hướng dẫn thì cũng sẽ Giải Thoát như Ngài, và người đã Giải Thoát thì Trí Huệ như nhau vì “Phật trước Phật sau đều bình đẳng”. Nhưng ngay cả thời này mà nhiều người vẫn còn phản đối, không chấp nhận được có người đắc đạo ngoài Đức Thích Ca mà không thấy là hết sức vô lý: Đạo là Con Đường, thì ai cùng đi trên đường đó phải đến cùng một mục đích. Lý do nào cùng đi một đường mà nơi đến khác nhau? Người phản đối có giải thích được lý do vì sao Tu Phật mà không Thành Phật chăng? Nếu khẳng định như thế khác nào cho lời Thọ Ký của Phật là vô nghĩa!

Tóm lại, Kinh Đại Thừa dù không phải những lời chính thức do Đức Thích Ca giảng, nhưng trong đó là những lời của các vị đã Chứng Đắc, đã nắm vững con đường tu hành khai triển những gì ngày xưa thời Đức Thích Ca giảng nhưng do chưa đủ ngôn từ để diễn tả nên bị hiểu lầm. Người đã Chứng Đắc thời nào thì sự hiểu biết cũng giống như nhau. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên vì sao Chư Tổ nhiều thời khác nhau, như lời Tổ Long Thọ trong Kinh Hoa Nghiêm cũng không khác với những gì do Tổ Đạt Ma giảng trong Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất hay Lục Tổ Huệ Năng dạy trong Pháp Bảo Đàn Kinh. Hoặc những kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kim Cang… được nhiều Tổ viết từ nhiều thời khác nhau, nhưng tất cả đều diễn tả con đường tu hành giống nhau, vì họ cùng hiểu, cùng hành các pháp, cùng thành tựu như nhau. Cũng giống như việc học hành ngày nay. Lớp trước đào tạo lớp sau. Chỉ có thể nói lớp sau chưa đủ kinh nghiệm bằng lớp trước, không thể nói kiến thức khác nhau. Những người cho rằng chỉ mỗi Đức Thích Ca là đắc đạo nghĩ sao về những gì Ngài đã bỏ ra 49 năm để giảng dạy? Chẳng lẽ chỉ để giảng khơi khơi, không đào tạo được đệ tử nào chứng đắc? Như vậy thì có gì để cho người sau học hỏi? Đã cho rằng lời Đức Thích Ca là không hư vọng, mà lại cho rằng không có người chứng đắc ngoài Đức Thích Ca! Như vậy chẳng lẽ lời Thọ Ký: “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành” là vô giá trị?

Thời Phật giảng, có nhiều điều người chưa Chứng Đắc chưa thể hiểu hết nghĩa, nên cho là “bất khả tư nghì”! Nhưng cũng nhờ có Chư Tổ khai sáng, và hướng dẫn nên chúng ta mới biết cách hiểu Nghĩa của Kinh, mới biết rằng những cảnh giới được mô tả trong Kinh là để nói về những diễn biến trong CÕI TÂM của mỗi người. Vì thế, người tin theo Đại Thừa, khi muốn tu hành thì cố gắng quay vào “Nội quang phản chiếu” tìm chúng sinh nơi Tâm mình, chuyển hóa chúng, để hoàn thành Phật Quốc nơi đó, gọi là TU TÂM. Trong khi đó, những người Y NGỮ, cứ nhìn ra ngoài, cho rằng Nước Phật, Phật, Chư Bồ Tát là ở Tây Phương, Đông Phương. Do đó, ngày họ càng dựng Chùa cho to, cho trang nghiêm. Theo hình tượng mô tả mà tạc tượng cho lớn. Chất liệu càng quý càng tốt, để tôn thờ Phật. Rồi cả kiếp sống tu hành là cố gắng giữ tròn đạo đức để cầu được phù hộ khi sống. Lúc chết mong được Thánh Chúng rước về Tây Phương Cực Lạc, và cố gắng tuyên truyền, lôi kéo ngày càng nhiều người quy y theo Phật. Càng làm việc hăng say thì thấy mình phụng sự cho Phật, không biết rằng mỗi người chỉ cần phụng sự cho Phật của chính mình, vì Phật chỉ để nói về sự Giải Thoát nơi Tâm của mỗi người, không phải để nói đến Phật của ai bên ngoài, dù cho đó là Phật của Đức Thích Ca.

Giáo Pháp Phật đặt ra là bình đẳng cho mọi người, mọi giới. Tu PHẬT là Sửa để được Thành Phật, tức được Giải Thoát. Kinh dạy: Giải Thoát hay ràng buộc cũng chỉ ở nơi Tâm. Vì thế TU PHẬT là TU TÂM. Hình tướng không quan trọng, không cần thiết. Do vậy, Đại Thừa cho rằng không cần phân biệt. Ở đâu? Trình độ nào? Hoàn cảnh nào? Giới tính nào cũng có thể Tu được. Không cần rườm rà trang phục, vì Sen đâu có cần rửa sạch bùn, hay bứng đi, trồng vào chậu nước tinh khiết mới nở Hoa được. Trái lại, phải ở trong bùn mà vẫn nở hoa thanh khiết mới nói lên hết tính chất của Giải Thoát mà Đức Thích Ca muốn mượn Hoa Sen để diễn tả. Người tu Phật là người vẫn tiếp tục sống giữa đời. Vẫn làm tròn trách nhiệm của một công dân, một người con, người chồng, người cha, người vợ, người mẹ. Trong đó, vừa tu sửa Thân, Tâm vừa phụng sự cha mẹ, gia đình, xã hội, bởi đạo Phật dạy người tu sau khi thành tựu còn phải đền nợ TỨ ÂN. Nếu ta tách khỏi cuộc đời, không học hỏi, làm ăn, sinh sống, giúp mình, giúp người, làm sao đền được Tứ Ân?

Nếu không học hết những giai đoạn mà Phật khai mở mà dừng ở những lời Phật dạy ban đầu thì người tu sẽ đi vào một thái cực khác của cuộc đời. Trong khi phàm phu là những người cho cái Thân là Mình. Kiếp sống là thật, nên thấy các pháp là CÓ THẬT, từ đó khởi ra Tham để tranh giành nhau, làm cho cuộc sống thêm xáo trộn thì người mới nghe Phật dạy các pháp là KHÔNG đã vội chấp lấy đó, bỏ hết mọi việc, vô Chùa, sống đời sống biệt lập, tách rời khỏi cuộc đời, không dính líu tới mọi sinh hoạt của đời để trở thành mâu thuẫn với cuộc đời. Bởi nói các pháp là KHÔNG, nhưng bản thân họ vẫn đang tồn tại, tức là đang CÓ. Hàng ngày, dù không tham gia việc đời, nhưng họ vẫn phải sử dụng cơm, áo, vật dụng, nhà cửa, thuốc uống, xe cộ để đi lại… Tất cả đều CÓ! Do đó, nếu họ có học tiếp thì sẽ thấy: Giai đoạn đầu Phật nói các pháp là KHÔNG là để đối trị với những người cho các pháp là CÓ để rồi vì đó mà tranh giành, vướng mắc, gây đau khổ cho bản thân họ và những người chung quanh. Khi họ đã được chỉ cho soi, quán, thấy cuối cùng các pháp sẽ về KHÔNG, thì sẽ bỏ được cái Tham Lam, mê đắm vào vật chất, lúc đó Phật mới dạy là các Pháp thật ra KHÔNG PHẢI CÓ, KHÔNG PHẢI KHÔNG, MÀ CŨNG CÓ, CŨNG KHÔNG, gọi là con đường TRUNG ĐẠO.

Điều này có vẻ khó hiểu đối với những người mới tu học. Nhưng nếu xét cho cùng lý, ta thấy: Phải chăng nếu nói rằng các pháp là CÓ thì sao không tồn tại mãi mà đến lúc nào đó sẽ bị hư hoại? Nếu nói hoàn toàn là KHÔNG thì cái gì đang hiện diện? Do đó mà Đạo Phật dạy người tu nên hiểu rằng các pháp chỉ là TẠM CÓ, để rồi hành xử theo con đường TRUNG ĐẠO. Sống và cư xử giữa những cái CÓ, nhưng vì biết nó chỉ là TẠM CÓ, nên không chấp, không bám lấy nó, cái Tâm được như hư không. Đó gọi là hành xử theo con đường Trung Đạo. Nhờ đó mà được giải thoát, hết khổ.

Không phải chỉ vô Chùa mới được giải thoát, vì đã tách khỏi bon chen của cuộc đời. Mọi thứ đều được người khác cung phụng cho. Không còn phải lo miếng cơm, manh áo. Không phải phụng dưỡng cha mẹ. Không cần phải vất vả để mưu sinh. Không có vợ, con để phải chăm lo thì có gì phiền não nữa mà cầu Giải Thoát? Bởi Giải Thoát của Đạo Phật chỉ là Thoát Khổ, Thoát Phiền Não. Ngoài phiền não, đau khổ, còn giải thoát khỏi thứ gì khác? Do đó, chính ở ngay tại trần gian, hàng ngày phải vật lộn với cuộc sống để mưu sinh mới cần và mới thấy rõ giá trị của Giải Thoát. Cho nên Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Phật Pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác”. Mặt khác, phiền não sở dĩ có là vì phải đối đầu với cuộc đời do nhu cầu cuộc sống. Nếu ta trút gánh nặng đó cho người khác để mình thảnh thơi tu hành rồi khi chứng đắc chỉ mình mình nhờ thì liệu có công bằng không, vì ai có tu xong cũng đâu thể độ cho người khác? Phật còn không độ được cho con. Do vậy mà Lục Tổ dạy: “Ly thế mịch Bồ Đề. Cáp như cầm thố giác” có nghĩa làRời thế gian mà đi tìm Giải Thoát cũng như đi tìm sừng thỏ”

(còn tiếp)

TÂM NGUYỆN

(Tháng 6/2015)


Phụ Bản I

NHÀN ĐÀM VỀ NHỮNG SAI SÓT

TRONG BẢN DỊCH

Gần đây nhiều người đọc sách dịch có nhận xét chất lượng dịch phẩm có nhiều giảm sút. Đọc lướt qua người đọc dễ tính thường không hay để ý, cứ thấy cốt truyện hấp dẫn, văn vẻ xuôi xuôi, nghe trôi chảy một chút là cho qua, thậm chí còn khen hay, viết hẳn lên báo chí, nào là “dịch như một hiện tượng văn học”, nào là “văn phong gọn gàng và khá nhuần nhuyễn”… Song chỉ cần đọc chăm chú một chút sẽ phát hiện chỗ này ngớ ngẩn, chỗ kia không lôgic, mà đã không lôgic, có nguyên bản trong tay đem so thế nào cũng thấy lỗi sai ngay.

Kể ra thì trong việc dịch sách, cũng như ở mọi công việc khác, có ai mà không mắc ít nhiều sai sót… kể cả các bậc đàn anh có tên có tuổi. Mà sai sót thì cũng do nhiều nguyên do.

Tôi nhớ, cách đây dễ đã gần bốn chục năm, bước vào nghề biên tập xuất bản tôi đã từng gặp những lỗi sai sót trong bản thảo, kể cả bản thảo của các bậc đàn anh, thậm chí nhiều trường hợp in sâu vào tâm trí, nhớ đến tận hôm nay.

Trong một bản dịch một tác phẩm của Maiakốpki tôi chợt thấy có một câu thơ là lạ: “Hắn đứng đấy trông như tượng Gogol”, kèm theo cả một dòng bình chú phía dưới, đại ý: “Maia vốn là người gắn với thời cuộc, lúc đó người ta vừa dựng tượng Gogol ở đây, ông đã đem vào thơ thành hình tượng thơ…”. Tác phẩm này của Maiakốpki được sáng tác vào những năm 20 thế kỷ XX là lúc nước Nga Xô viết đang trải qua giai đoạn kinh tế mới (NEP), theo tôi nghĩ, không thể có chuyện dựng tượng nhà văn. Vả lại việc dựng tượng là một sự kiện chỉ có thể gắn với một cái mốc quan trọng của nhà văn. Gogol thì sinh năm 1809 và chết năm 1852. Tìm hiểu ở sách thấy đúng như vậy, ở Nga, bức tượng đầu tiên của Gogol dựng vào đầu thế kỷ XX nhân dịp 100 năm sinh của nhà văn. Xem lại nguyên bản thì thấy chữ gogol ở đây lại không mở đầu bằng chữ hoa. Hóa ra đấy chỉ là một danh từ chung chỉ một loại chim nước, họ nhà ngỗng, vịt trời, tiếng ta gọi là chim le le, còn trong thành ngữ tiếng Nga, chỉ vẻ ngang ngạnh, ương bướng. Xem ra dịch giả vốn là một người nghiên cứu tư biện thích suy đoán, cho nên ở đây mới để cái lỗi không đáng có như thế.

Lại có trường hợp khác, có lẽ do dịch giả đọc lướt qua, không nhận rõ chữ nên nhầm, dịch xong lại không có thì giờ đọc lại cẩn thận. chẳng hạn một sách đã in của Gorki đọc lại để đưa tái bản tôi bỗng thấy mấy thành ngữ liền liền nghe hơi lạ, mà trong mạch văn có vẻ không ăn nhập: “Không có một xu lại đi dựng bàn thờ”. Thực ra người dịch đã nhầm chữ altưn có nghĩa là “một hào rưỡi” tiền Nga cổ, còn altar’ mới là bàn thờ. Phải dịch “Không có xu dính túi lại vớ được hào” hay có thể thay thế một thành ngữ Việt Nam “Buồn ngủ gặp chiếu manh” chẳng hạn. Tiếp theo lại thấy: “Củ cải hiếm mà chẳng ngọt hơn”. Chữ redki dịch là hiếm, thực ra nhầm với chữ redca ở cách hai là củ cải đắng. Thành ngữ của Nga phải dịch ra là “Củ cải cũng chẳng ngọt hơn củ cải đắng” (Khơren ne xlase redki).

Chắc cũng do đọc lướt qua như thế mà đây đó luôn xuất hiện những lỗi sai sót, nhiều khi trở thành trò cười: Buồn ơi, chào nhé (tên một tác phẩm khá nổi tiếng của nữ văn sĩ Pháp Franxoa Sagăng) được dịch đưa lên báo thành Nỗi buồn muôn năm! Chỉ vì đọc nhầm một chữ từ tiếng Nga Zdraxtvui (Chào) thành zdraxtvuiet’ (Muôn năm! Sống mãi). Ở đây có thể còn do kiến thức nói chung thiếu hụt. Chẳng hạn, có người dịch tên nữ chiến sĩ cách mạng, nhà hoạt động quốc tế, bà Roza Lucxămbua thành Hoa hồng Lục Xâm Bảo, hay GrenatGơnát tên một miền đất ở Tây Ban Nha thành ra lựu đạn (nhầm với từ Granat là quả lựu, lựu đạn).

Lại có những sai sót liên quan đến những từ đại nhân xưng. Tôi nhớ ngày còn chiến tranh, có người cho đăng bản dịch một bài thơ của nhà thơ Đức nguyên là Đại sứ Cộng hòa liên bang Đức ở ta – Cơlaodiux, đại ý như sau: “Khi trăng non mới hé/ Chiếu trên ngực anh/ Chiến tranh đi qua biển lớn/ Em cầm dao cầm súng ra đi. Rồi Khi trăng non mới hé/ Chiếu trên ngực anh/ Em chiến thắng trở về. Sau đó cũng bài thơ này người dịch khác cho in ở sách thì chữ anh ở trên đổi thành em và ngược lại. Lôgic phải thế mới đúng, chứ chả nhẽ em đi đánh giặc, còn anh ở nhà đợi chiến thắng à?

Trong một tập thơ dịch của một người dịch cũng đã có quá trình in ở một nhà xuất bản vào những năm 90, có bản dịch bài thơ của V.Hugô viết nhớ thương con gái của mình mà lại hiểu như thế nào là thành ra người yêu. Sau khi sách ra có bạn đọc gửi đến nhà xuất bản nọ góp ý ngay. Vậy mà gần đây một nhà xuất bản khác ở phía Nam lại cho in bài thơ dịch đó trong tập Thơ tình thế giới với tên người dịch khác, nhưng vẫn phạm cái lỗi nhầm đại từ nhân xưng một cách thô thiển, xúc phạm đến hương hồn tác giả đến thế?

Trong tủ sách của tôi có một bộ sách dày dặn hai tập, tổng cộng gần hai nghìn trang, được in khá trang nhã. Khi nhận bộ sách tôi thực sự thầm khâm phục người dịch, trong hoàn cảnh “kinh tế thị trường” này mà bỏ công sức ra dịch một tác phẩm đồ sộ như vậy. Tuy nhiên khi đọc xong bộ sách (phải bỏ ra không ít thời gian) tôi thật thất vọng và tiếc cho người dịch đã bỏ công làm một việc lớn nhưng chủ quan, để khá nhiều sơ sót làm hỏng cả bộ sách. Người dịch đã dịch sai nhiều từ do không tra cứu đến nơi đến chốn, mà chỉ đọc thoáng qua, đoán theo nghĩa gốc một từ quen thuộc. Từ một tòa nhà pháo đài, đại ý nói là ở trong có thể nhìn ra ngoài dễ dàng nhưng nhìn từ ngoài vào thì chẳng thấy gì, vậy mà lại thấy dịch là “tự ý thì chẳng thấy gì”. Dịch từ xlovi - từ “tự do”, (từ bên ngoài) thành ra “tự ý”. Người ta chở một con cá sống khổng lồ từ sông về để làm đại tiệc mà lại thả vào vườn con. Người dịch thấy chữ xadic đoán là từ chữ xad là vườn cây mà ra nên dịch thành vườn nhỏ. Nhưng từ xadic có nghĩa của nó là cái bể con đựng nước. Tiếp theo đến một từ khác - dịch giả đã chủ quan làm hỏng cả chương sách. Từ xtatretx có nghĩa là người già, nhưng còn nhiều nghĩa khác, trong đó có nghĩa chỉ người đi tu ẩn dật, khổ hạnh, ẩn sĩ. Nhân vật đang bị khủng hoảng tinh thần nên đi tìm các ẩn sĩ trong hoang mạc để mong cứu rỗi tinh thần, tìm được niềm an ủi, lý giải sự bế tắc… Vậy mà cả chương cứ nhắc đi nhắc lại ông già thông minh thì người đọc chẳng hiểu ông già thông minh ấy là thế nào?

Mới đây tôi tới thăm một giáo sư dạy văn học Pháp, chủ trì một bộ sách Balzac ra tới mười sáu tập. Giáo sư cũng phàn nàn về tình trạng dịch sai trong nhiều bản dịch văn học tiếng Pháp in trên báo chí cũng như trong sách. Giáo sư đã có bài viết trên tạp chí Văn học nước ngoài cách đây ít lâu. Vậy mà số mới ra gần đây của tạp chí này giáo sư lại chỉ cho tôi thấy hàng loạt những lỗi sai sót của những người dịch, không phải những người dịch mới có bài in lần đầu ở đây.

Trong các tiêu chuẩn để đánh giá một bản dịch, tiêu chuẩn dịch chính xác không thể coi thường được, nó phải được coi là tiêu chuẩn hàng đầu. Chính vì thế mà ta thấy những người dịch kỳ cựu vẫn có tác phong tra cứu rất tỉ mỉ. Thói quen dùng từ điển, không phải một quyển từ điển, mà nhiều loại từ điển là một thói quen cần phải học cho thành thạo nếu muốn bản dịch của mình có giá trị lâu dài. Thực ra có hiểu đúng, hiểu chính xác, hiểu đến ngọn nguồn từng chữ từng câu mới hiểu được toàn bài, mới thấm được cái hồn, cái sâu kín của câu văn câu thơ để mà chuyển dịch.

THÚY TOÀN


CHẾ LAN VIÊN

với “Điêu tàn” thời trẻ &

“Di cảo Thơ” vào cuối đời

CHẾ LAN VIÊN tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20/10 / 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ , tỉnh Quảng Trị . Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn , đỗ bằng Thành chung thì thôi học đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn , Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.

Ông là một nhà thơ , nhà văn hiện đại nổi tiếng ở Việt Nam . Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Lan Viên từ tên của Yến Lan và ấn tượng vườn (viên) lan nhiều hoa nhà bạn. Sau Hàn Mặc Tử đặt thêm họ Chế thành Chế Lan Viên. Ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của “Trường Thơ Loạn”. Từ đây, cái tên CHẾ LAN VIÊN trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử , Yến Lan , Quách Tấn được người đương thời gọi là “ Bàn thành tứ hữu ” của Bình Định . Năm 1939 , ông ra học tại Hà Nội . Sau đó CHẾ LAN VIÊN vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942 , ông cho ra đời tập văn Vàng Sao , tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.

Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh , Lưu Trọng Lư , Đào Duy Anh . Thời kỳ này, CHẾ LAN VIÊN viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực.

Năm 1954 , CHẾ LAN VIÊN tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học . Sau 1975 , ông vào sống tại Tp. HCM . Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 tại Bệnh viện Thống Nhất , thọ 69 tuổi.

Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).

Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh , cũng là một nhà văn nổi tiếng.

Phong cách của Chế Lan Viên

Con đường thơ của CHẾ LAN VIÊN “trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ”, thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945-1958).

Trước Cách mạng tháng Tám, thơ CHẾ LAN VIÊN là một thế giới đúng nghĩa “Trường thơ Loạn”: kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm... Những tháp Chàm điêu tàn là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của ông. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ.

Sau năm 1975, thơ CHẾ LAN VIÊN dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái ‘tôi’ trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống.

Phong cách thơ CHẾ LAN VIÊN rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng triết lý. “Chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa”. Khai thác triệt để các tương quan đối lập và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng. Nhưng vượt lên trên mọi sự yêu ghét chúng tôi hiểu ông vẫn là một bộ mặt tiêu biểu của thời đại. Nếu nói đến phê bình văn học một thời phải nói đến Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Vũ Đức Phúc, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức… thì nói đến thơ một thời phải nói đến những Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh và một người đứng ở hàng đầu ở ngay bên Xuân Diệu, cũng giỏi viết tiểu luận như Xuân Diệu và tuy không công phu nhưng lại sắc sảo hơn Xuân Diệu nữa, người ấy là CHẾ LAN VIÊN!

Thơ Chế Lan Viên

Tập thơ Điêu tàn ra đời vào mùa thu 1937, trở thành một trong những hiện tượng nổi bật trong sự phát triển phong trào thơ mới (1932-1945). Về xuất xứ của tập thơ Điêu tàn tư liệu hãy còn rất mờ nhạt: Điêu tàn được viết khi CHẾ LAN VIÊN đang là học trò trường Quốc học Quy Nhơn, tham gia hai nhóm văn thi sĩ ở Quy Nhơn khi đó là Thái Dương Văn Đoàn và Trường Thơ Loạn. Một linh hồn lạ nhất trong các nhà thơ xưa nay: CHẾ LAN VIÊN trong Thái Dương ĐIÊU TÀN, thơ Chàm − thơ Ma. Một tập thơ đã sửng sốt, rung động lòng người, đã xao xuyến trong làng thơ hiện đại, đã được khen ngợi bởi: HÀN MẶC TỬ (Tràng an), KHÁI HƯNG (Ngày nay), THANH ĐỊCH (Tràng an), TRƯƠNG TỬU (Ích hữu)…

Đọc Điêu Tàn, người đọc bỡ ngỡ đến choáng ngợp. Điều “kinh hoàng” hơn: CHẾ LAN VIÊN còn dựng dậy, nhập vào những hồn ma, làm họ sống động như những con người thật, đi lại, vật vờ xung quanh đống đổ nát điêu tàn của cả triều đại, cất tiếng than khóc cho số phận nghiệt ngã của dân tộc mình. CHẾ LAN VIÊN đã “nhập hồn, hóa cốt” vào dân tộc Hời… rồi qua họ bước lên thi đàn Việt Nam như một biểu tượng rực rỡ trong giòng Thơ Mới ở nửa đầu của thế kỷ 20. Có thể đọc một bài tiêu biểu trong Điêu Tàn làm thí dụ:

TRÊN ĐƯỜNG VỀ

Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ

Quay về xem non nước giống dân Hời…

Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi

Những đền xưa đổ nát dưới thời gian,

Những sông vắng lê mình trong bóng tối,

Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than…

Đây, trong ánh ngọc lưu ly huyền ảo,

Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,

Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo,

Cùng nhịp nhàng, uyển chuyển uốn mình hoa.

Những cảnh ấy trên đường về ta đã gặp

Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi,

Và từ đáy lòng ta luôn tràn ngập,

Nỗi buồn thương, nhớ tiếc giống dân Hời !

(Điêu Tàn - 1937)

Tập thơ ra đời được 5 năm, ngay cả Hoài Thanh nhà biên khảo có uy tín trên văn đàn Việt Nam cũng viết: “Vong linh đau khổ của nòi giống Chàm đã nhập vào Chế Lan Viên, cho nên dầu không phải người họ Chế, CHẾ LAN VIÊN vẫn là một nhà thơ Chiêm Thành…” (Thi nhân VN).

Sau này nhiều người theo đó cũng phát triển, nhận định lạc hướng họa theo: “…tập thơ (Điêu Tàn) miêu tả nỗi cô đơn của một người không tìm thấy sự hòa hợp với cuộc đời…”

Nếu chúng ta đọc Điêu Tàn theo một cách khác: Mở rộng và suy tư cặn kẽ, sâu sắc hơn, nhận ra (nghĩa đen) đúng là tác giả hướng dẫn người đọc đi vào thế giới mộng ảo và cảm nhận quá khứ bi thương... Nhưng trấn tĩnh lại, ta chợt giật mình, nhận ra (nghĩa bóng), ở phía sau của Điêu Tàn: Bao thế kỷ, bao năm qua, dân tộc Việt, nòi giống Việt cũng đã bao phen chèo chống cố thoát ra khỏi cảnh bị nô lệ của phong kiến phương Bắc, nhưng vẫn bị chúng đuổi cùng giết tận dù phải bồng bế nhau xuôi giòng sông, chạy xuống sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới là Việt Nam ngày nay. Đã có kinh nghiệm của quá khứ, khi bước vào thử thách hiện thời tổ tiên ta nhận thức ra: Quyết không để “Người Phụ Mình” cho dù phải bắt buộc “Mình Thà Phụ Người” để tồn tại. Lịch sử đã ghi lại, chứng minh: Việt Nam đã từng bị vương quốc Chiêm Thành xâm chiếm… vua nhà Trần phải mang con gái cưng của mình hiến cho vua Chiêm, để đổi lại sự yên bình cho giòng tộc Việt ở phía Nam mà vẫn chưa yên. Trong thời đại thế giới hỗn mang trên nguyên tắc: Mạnh được, yếu thua.

Hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ lại bị ép từ 2 phía: Phía Bắc phương Bắc lăm le thôn tính, lợi dụng cuộc Huynh - Đệ tương tàn của 2 giòng họ Trịnh - Nguyễn, coi nhà Trịnh như một tên lính xung kích để chờ thời sẵn sàng hớt tay trên nếu Trịnh thôn tính xong Nguyễn. Phía Nam Chiêm Thành luôn luôn xâm lấn, đe dọa...

Không còn đường nào khác, thế là cuộc trường chinh: Dẹp, mở rộng phía Nam để yên một mặt, chú tâm chỉ chống một kẻ thù phía Bắc thay vì chống với cả hai. Đây là hoàn cảnh là lịch sử. Nếu lần này nữa lại hành xử như quá khứ: Bồng bế nhau rút chạy? Nhưng bây giờ: chạy đi đâu? Thế là phải thực hiện quy luật: Cùng tắc Biến (Biến tắc thông). Và, thảm cảnh giữa hai quốc gia, hai dân tộc Đại Việt – Chiêm Thành đã xẩy ra không thể nào cưỡng được…

Cao hơn, đúng hơn: CHẾ LAN VIÊN viết Điêu Tàn chỉ là cách “mượn xác hoàn hồn” lấy xưa nói nay. Tác giả đã đánh thức cả dân tộc bằng một thông điệp: Dân tộc Việt Nam hãy nhìn gương ấy: Tổ quốc, dân tộc hay là tiêu vong!

CHẾ LAN VIÊN viết Điêu Tàn là có chủ ý: Khơi dậy trong lòng dân tộc tinh thần chống ngoại xâm. Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Chúng ta phải phục hiện sự thực, cho dù quá muộn, nhưng muộn vẫn còn hơn không. Không thể để các thế hệ sau tiếp tục hiểu sai lệch ý tác giả và tập thơ Điêu Tàn, chỉ vì vài ý kiến trước đó hiểu chưa đúng do vô tình hoặc cố ý làm biến dạng nguyên tác...

Chế Lan Viên là người yêu tổ quốc, đất nước như bao người Việt Nam khác. Chỉ nói riêng phần thi ca, ông đã viết, làm nổi lên những giá trị, nối tiếp sau Điêu Tàn. Sau các tập thơ, bài thơ và chỉ ngay 4 câu thơ trong bài Tiếng Hát Con Tầu đã đủ đưa ông lên vị trí nhà thơ lớn của dân tộc:

“…Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương

Nơi ta ở - chỉ là đất ở

Nơi ta đi - đất bỗng hóa tâm hồn…”

Văn Nghệ Sĩ có thể có nhiều cách thể hiện ca ngợi tổ quốc mình bằng sáng tạo tác phẩm dài, ngắn. CHẾ LAN VIÊN chỉ cần 4 câu thơ đã nói thay cõi lòng của nhiều người. Tổ quốc - Dân tộc là Đất - Nước. Đọc lên mọi người cảm nhận ngay bởi mấy từ Đất bỗng hóa tâm hồn. Vì là tâm hồn nên Đất trở thành thiêng liêng, thân yêu. Đất chính là Mẹ hiền, là Tổ quốc Việt Nam!

Phải nghe tiếp những câu thơ hào hùng trong bài: Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng. Xâu chuỗi lại mới thấy rõ chủ ý của CHẾ LAN VIÊN từ Điêu Tàn, ngược từng cột mốc lịch sử của hôm qua rồi quay trở về hôm nay: Kêu gọi cả Dân tộc đứng lên Bảo Vệ Tổ Quốc khỏi họa xâm lăng đang ngày đêm tiềm ẩn:

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?

Chưa đâu !

Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất !

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,

Hưng Đạo diệt quân Nguyên

trên sóng Bạch Đằng...

Cành đào Nguyễn Huệ

Hẳn nhớ Thăng Long, hẳn nhớ đào ?

Mai vàng xứ Huế có khuây đâu ?

Đào phi theo ngựa về cung nhé !

Nở cạnh đài gương sắc chiến bào.

Những anh hùng dân tộc đứng đầu các cuộc chống xâm lăng phương Bắc được nhà thơ ghi lại trong từng câu thơ khiến người đọc đương thời cảm động, trỗi dậy khí thế hiện ngang nhờ oai linh của tổ tiên…

Đọc “Di cảo thơ” Chế Lan Viên

Tọa lạc tại quận Tân Phú, TpHCM – “Viên Tĩnh Viên”, Viên là vườn nhà riêng mà trong tâm thức CHẾ LAN VIÊN cứ như thể phảng phất hương hoa Phật pháp, viên âm, viên giác, viên thành…Tĩnh nơi anh CHẾ LAN VIÊN là tĩnh tâm theo dõi thế cuộc, suy ngẫm chuyện đời… Trong thời gian gần 8 năm (2/1981-10/1988) chị Vũ Thị Thường - vợ anh, cho biết: “Chính ở nơi chốn cuối cùng này, anh đã sáng tác nhiều bằng cả đời thơ anh trở về trước. Sau khi anh mất, ba tập Di cảo thơ CHẾ LAN VIÊN (gồm 534 bài) đã được in ra. Di cảo thơ tập 4 cũng đã gom được 150 bài, còn đang tập hợp tiếp…”

Tĩnh Viên mà động lòng người nghìn năm (Tố Hữu)

Di cảo thơ CHẾ LAN VIÊN không chỉ có các sáng tác vào những năm cuối đời. Tuy nhiên, nhiều bài thơ viết trong vòng gần 8 năm có vị trí đặc biệt đáng được lưu tâm. Ấy là do chúng được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt: nhà thơ tuổi cao, bệnh lại nặng. Chỉ một năm, trong cái “mùa bệnh” 1988 ấy, hơn một lần CHẾ LAN VIÊN giải bày:

Biết rồi đêm đến xóa

Tôi vẫn bôi sắc màu

(Trò chơi)

rồi:

Tôi tài năng chưa đầy nửa giọt

Sao chỉ ấy kim kia tôi vẫn phải cầm

(Xâu kim).

Nhà thơ ý thức được không phải từng giờ mà từng phút, từng giây cái “buổi mai chót, hay buổi chiều chót hay đêm khuya chót đời anh sắp “tuột” khỏi tay anh tất cả”. Là người sống có trách nhiệm với đời, anh không cho phép bản thân ngừng nghỉ:

Thời hạn đi tìm của anh đã hết rồi mà bờ bến tít mù xa

Nhưng dừng lại anh đâu còn anh nữa

(Tìm thơ)

Có thể nói, với tất cả những sai sót, cả sự nhầm lẫn nữa, CHẾ LAN VIÊN – Nhà thơ không khi nào rơi vào tuyệt vọng đến mức xuôi tay chán chường. Đây đó ta có nghe rõ những lời trấn an, mình nhủ mình để đứng vững, để tồn tại. Đừng tuyệt vọng được viết ra chủ yếu từ mục đích này:

Từ đây xuống mồ

Còn chán thì giờ

Cho anh sống

Miễn anh đừng tuyệt vọng

Nhà thơ đề dưới bài thơ: “Mùa bệnh 1988”. Cũng trong cái “mùa bệnh” ấy, bên cạnh những câu thơ rất “tỉnh” ấy, có nhiều câu thơ rất “say”. Nhà thơ triết lý về bức tranh “Lý ngư vọng nguyệt” để chúng ta có dịp phát hiện thêm chiều kích khác của con người anh:

Mê đôi mắt si dại kia trăng rơi tõm xuống hồ

Không mảy may vẩn vơ cái bóng đen của sự chết. Chỉ có sự sống, hơn thế sức sống, một sức sống tràn trề. Nhà thơ của chúng ta tự mình vượt qua mình, có nhức nhối đấy, lại trắc trở nữa, nhưng quan trọng là sự đến. Anh đã đến được điểm cao của sự sống ngay nơi giáp ranh với cái chết, rồi thăng hoa thành những vần thơ tâm huyết để lại cho đời. Đó có lẽ là cái chất ngọc quý nhất của thơ CHẾ LAN VIÊN trong hai năm cuối đời mình (Phạm Quang Trung).

LỜI KẾT

Theo Chế Lan Viên, nhà thơ là người đi tìm cái thiện, cái chân nhưng phải biểu hiện ra bằng hình thức đẹp. Viết thơ cũng giống như người phụ nữ sinh con, cả xương cả thịt một lần, cả hình ảnh lẫn ý tưởng một lúc. Ông quan niệm: “Thơ nghĩ bằng hình ảnh”. Thế giới hình ảnh trong thơ CHẾ LAN VIÊN vô cùng đặc sắc. Nó vận động và biến đổi cùng với sự vận động và biến đổi của cái tôi trữ tình. Cái tôi cô đơn siêu hình thuở Điêu tàn gắn với thế giới hình ảnh ảm đạm lạnh lẽo mà ghê rợn, đầy rẫy những sọ dừa, xương máu cùng yêu ma. Cái tôi sử thi thời kháng chiến gắn với hàng loạt những hình ảnh tươi sáng, kỳ vĩ, mỹ lệ, hoành tráng. Giai đoạn cuối đời, trong Di cảo, thế giới hình ảnh có xu hướng thu nhỏ tầm vóc, phong phú đa dạng. Hình ảnh trong thơ CHẾ LAN VIÊN thường có hai loại: hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ tượng trưng siêu thực.

Thế giới hình ảnh trong Di cảo thơ Chế Lan Viên

CHẾ LAN VIÊN là nhà thơ hình thành được phong cách khá sớm. Con đường thơ hơn nửa thế kỷ của CHẾ LAN VIÊN là một con đường có nhiều bước ngoặt, biến đổi, tự phủ định với nhiều trăn trở, tìm kiếm ráo riết không lúc nào yên ổn. Chính ý thức về việc “làm sự phi thường", “tột cùng” từ trước cách mạng đã thúc đẩy nhà thơ không ngừng tìm kiếm và chiếm lĩnh được những đỉnh cao trên hành trình thơ đầy gian khổ. Luôn luôn trăn trở với nghề, có ý thức tự giác và thường trực về nghề thơ CHẾ LAN VIÊN suy nghĩ nhiều về thơ, người làm thơ, nghệ thuật làm thơ. Những suy nghĩ ấy bắt nguồn từ một ý thức trách nhiệm rất cao của người cầm bút, từ ý hướng cách tân, nỗ lực tìm tòi đổi mới thơ.

Di cảo thơ CHẾ LAN VIÊN – di chúc về cuộc đời và nghệ thuật của ông đã gây nên những dao động về cảm xúc thẩm mỹ trong người đọc. Chúng ta vẫn nhận ra một CHẾ LAN VIÊN thông minh, hóm hỉnh nhưng ý thức nghệ thuật của ông không còn song hành, đồng nhất với ý thức công dân mà đã vượt lên, hướng về những triết lý nhân sinh sâu thẳm và sự sinh tồn của nhân loại. Nhà thơ CHẾ LAN VIÊN đã đi vào hư vô, nhưng niềm tin mãnh liệt của ông về sự tồn tại và sức mạnh của thi ca vẫn sống mãi cùng chúng ta.

PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo – Internet)


Dương Lêh

Không biết từ đời nào đã lưu truyền mãi miết cái chuyện cúng cô hồn cho đến ngày hôm nay. Ông Thìn còn nhớ hồi nhỏ xíu 7, 8 tuổi, vào thời điểm tháng bẩy âm lịch, ông thường chạy theo mấy tên bạn cùng xóm thấy nhà ai có ánh đèn cầy leo lét trước sân vội chạy u lại để được lượm tiền. Thực sự là lượm như là lượm của bố thí chứ không phải là cướp, là giật như bây giờ. Con nít lượm tiền ngày xưa có “trình độ văn hóa” cao hơn người lớn giật tiền hiện nay.

Thông lệ cúng cô hồn thường diễn ra trong lúc ông trời đổ những cơn mưa tuy không lớn lắm nhưng dai dẳng đủ tạo những giòng nước nho nhỏ chảy lăng quăng xuống con mương hẹp trước nhà. Mưa cũng vừa đủ làm ướt đầu, cổ, quần, áo của mấy đứa con nít đang chạy lúp xúp từ hẻm này qua hẻm nọ cho đến khi ông bà già chạy đi kiếm mới chịu quay về.

Ông Thìn nhớ rõ nhất lần lượm tiền cúng cô hồn ở bên nhà bà xẩm Chí, cạnh nhà ông. Bà Chí nói tên của bà có nghĩa là “châu”, nhưng cả xóm này, người Hoa cũng như người Việt đều gọi là bà Chí quen rồi, dù rằng người Việt phát âm tên của bà không được chính xác và nếu muốn viết bằng chữ Việt để phiên âm tên của bà cũng không được luôn.

Cách cúng kiếng của người Tàu cũng rất đặc biệt. Nhìn qua rất đơn giản với một khay đồ cúng gồm một dĩa trái cây đơn sơ với mấy trái quít, kế bên là một dĩa bánh, một chén gạo muối, ba bốn cây đèn cầy nhỏ đang cháy leo lét. Bà Chí cầm bó nhang kê vào một cây đèn cây để đốt. Bà Chí xá xá vài cái rồi quay vào nói với người trong nhà bằng tiếng Tàu trước khi cắm xuống đất. Đặc biệt bà không khấn lâm râm như cách cúng của người Việt. Cậu bé Thìn lúc bấy giờ đoán bà sai bảo mấy người trong nhà đem thêm đồ đạc gì đó ra cho bà. Con nít đã bu đông đen, nôn nóng chờ đợi bà Chí rải tiền. Quả đúng như cậu bé Thìn đã suy đoán. Người trong nhà đem ra một chồng giấy tiền vàng bạc. Bà Chí đỡ lấy rồi kê vào đèn cầy đốt, ngọn lửa bùng lên, bà Chí huơ huơ lên mâm đồ cúng rồi bỏ vào một thùng thiếc gần đó cho cháy tự do. Người trong nhà đem thêm ra hai hình nhân bằng giấy có quần áo lịch sự, một nam một nữ cao chừng 7 tấc. Bà Chí kê từng hình nhân vào thùng thiếc đang bốc lửa lên cao. Hai hình nhân cháy gần hết, bà Chí hốt gạo muối trong chén quăng ra ngoài, văng lên đầu lên cổ đám con nít đang nhốn nháo chờ lượm tiền. Sau đó, bà cho tay vào túi áo lấy ra một nắm tiền kẽm quăng vào đám con nít đang chen nhau lượm. Đứa này đẩy đứa kia trên nền đất còn đọng vũng nước mưa. Cậu bé Thìn thấy đám con nít chen lấn dữ quá không dám chen vô, đứng xớ rớ gần mâm đồ cúng. Bà Chí thấy tội nghiệp móc túi kia một nắm tiền kẽm quăng tiếp vào đám con nít, nhưng chừa lại năm bảy đồng tiền nhét vội vào tay cậu bé Thìn. Mấy đứa con nít thấy hết quăng tiền lần lượt bỏ đi. Một hai đứa còn lại chắc không lượm được tiền vét mấy trái quít và hốt đĩa bánh vừa đi vừa ăn cho đỡ buồn.

Sau này, khi có nhiều người nước ngoài vô Saigon làm ăn mua bán, ông Thìn đi làm việc cho một công ty kinh doanh đối ngoại, nói thẳng ra là xuất nhập khẩu cho dễ hiểu như hồi xưa tới giờ người dân Saigon vẫn hay nói. Tuy làm ăn mua bán với người nước ngoài tức là tiếp xúc với nền văn minh thế giới, nhưng cái ông giám đốc này luôn tuân thủ theo phong tục tập quán từ đời tám hoánh xa xưa. Một buổi sáng, ông ta dặn cô trợ lý:

- Hôm nay em đi đặt mua một con heo sữa với nhang đèn để cúng cô hồn.

Ông giám đốc nói chuyện với cô trợ lý này ngọt ngào lắm. Cô này không còn trẻ trung gì đâu, tuổi tác đã lên hàng 4x. Nghe đâu cô đã có chồng nhưng đã tan hàng, hiện sống với một đứa con gái, tuổi cỡ mười bốn, mười lăm. Tuy nhiên, cô cũng còn mát mẻ lắm, da trắng hồng, đeo kính cận thị trông rất trí thức. Đi làm việc cô thường mặc đầm theo “xì-tin” người trọng tuổi, toát lên vẻ quý phái của một mệnh phụ. Tiếng Anh, cô cũng thông thạo nên khi đi công tác trong thành phố, giám đốc thường dắt cô đi theo để phiên dịch, và có lẽ cũng để “khoe hàng” với khách nước ngoài.

Ông Thìn lúc bấy giờ là phụ trách kế hoạch, tuổi tác cũng gần bằng ông giám đốc này nên nói chuyện thoải mái:

- Chà! thời buổi này cô hồn xơi heo sữa. Quá dữ!

Ông giám đốc cười mỉm chi:

- Đúng vậy. Cô hồn bây giờ cũng được hiện đại hóa rồi.

Rồi quay sang cô trợ lý:

- Nhớ mua đô la âm phủ nữa nghe em!

- Dạ! mua mấy tờ vậy anh?

- Một trăm tờ đi. Giấy một trăm đô nghe.

- Dạ. Họ bán giấy một trăm đô không à. Anh khỏi phải dặn em!

Ngọt ơi là ngọt!

Ông Thìn ngứa miệng chen vô:

- Giám đốc đã làm từ thiện xuống âm phủ mười ngàn đô rồi đó. Chưa kể con heo sữa.

Ông Kế toán ngồi gần đó “phân tích tài chánh” liền:

- Bữa nay tỉ giá mười lăm ngàn. Vậy là âm phủ chuẩn bị nhận một trăm năm chục triệu đồng.

Giám đốc quay lại:

- Thôi đừng xạo. Cô hồn bắt anh bây giờ.

- Trời! Hối lộ rồi mà còn bắt sao?

Ngày hôm sau, lúc gần trưa, cô trợ lý bảo cậu giao liên bê cái bàn của cậu để ngay trước cửa ra vào của công ty. Sau đó cô sắp lên mía đã được chặt thành từng lóng dài khoảng 2 tấc được bó thành từng bó, đậu phọng, nhang đèn, giấy tiền vàng bạc, sau cùng là con heo sữa. Cậu giao liên có nhiệm vụ đứng canh giữ trật tự. Cô trợ lý ngó qua lại không thấy có ai bu lại xem cô cúng cô hồn. Yên tâm, cô đốt nhang cắm lên lư hương rồi quay qua đốt giấy tiền vàng bạc và đô-la âm phủ. Loại giấy tiền này ở Việt Nam in, trên tờ giấy có chữ “hell money” chứng tỏ ở dưới âm phủ, cô hồn cũng có trình độ Anh ngữ khá lắm. Cô bảo cậu giao liên giúp bỏ đống giấy tiền vàng bạc vào thùng thiếc gần đó và lấy cây xới lên cho cháy đều. Vừa lúc đó từ bên kia đường năm sáu thanh niên mặt mày bặm trợn, tay chân xăm vằn vện, núp sau mấy gốc cây dầu, chạy ào qua bao vây bàn cúng của cô trợ lý, trong nháy mắt họ chạy trở về bên kia đường rồi tẩu thoát. Cô trợ lý chụp mấy lóng mía còn sót lại định chọi vào bọn côn đồ cô hồn sống, nhưng không kịp nữa đành la lên:

- Ăn cướp! Ăn cướp!

Cô la giống như cho có lệ vì đám rằn ri kia đã biến mất rồi. Cô nói như muốn khóc với ông giám đốc vừa bước ra:

- Tụi nó giựt con heo sữa rồi anh ơi!

- Không sao, chiều mua con khác để liên hoan.

Ông Thìn chen vào:

- Cái đám rằn ri này là cô hồn sống. Tụi nó chia phần với cô hồn chết rồi.

Mọi người quay lại chờ ông Thìn giải thích:

- Bà con không thấy sao? Theo thông lệ tất cả những thứ gì muốn cho xuống âm ty địa phủ đều được đốt hết như giấy tiền vàng bạc, quần áo giấy, người Tàu có thêm xe hơi, xe máy đều bằng giấy. Người cúng rất yên tâm, cô hồn ở dưới âm phủ sẽ nhận được đầy đủ, bảo đảm không bao giờ thất lạc, trái lại, người trần thế thường hay bị mất mát khi gửi đồ đạc qua bưu điện. Có ai đó nói chen vào:

- Vậy cô hồn ở âm phủ bữa nay không nhận được con heo sữa rồi.

- Đúng vậy, vì con heo sữa chưa qua thủ tục hóa thân bằng lửa. Nhưng nó bằng xương bằng thịt thì làm sao đốt. Con heo còn sống chỉ mới qua giai đoạn quay trong lò có gia vị, có hương liệu thơm ngon. Con heo sữa này chỉ để phục vụ cho người sống. Nếu nó được đưa lên bàn để cúng cô hồn có nghĩa là cúng cô hồn… sống. Tụi rằn ri này là cô hồn sống, từng được dân gian công nhận, đã giựt con heo sữa tức là làm đúng thủ tục.

- Năm tới đề nghị đừng cúng heo sữa nữa.

- Không nên làm như vậy! Cứ cúng heo sữa, nhưng con heo sữa này phải được làm bằng giấy vàng mã, được sơn phết màu mè bóng láng giống như con heo sữa thật. Cô trợ lý mạnh dạn đem ra cúng rồi… đốt như đốt giấy tiền vàng bạc, mới xuống dưới âm ty được. Còn heo thật cứ mua về dấu đi để chiều liên hoan.

Tháng bẩy còn có ngày lễ Vu Lan được tổ chức vào ngày mười bốn, ngày rằm. Những người tin theo đạo Phật thường đến chùa cúng bái. Tháng bẩy còn được gọi là mùa báo hiếu, ngày của mẹ. Thanh niên phật tử ở các chùa cũng như những thanh niên tin theo đạo Phật tổ chức gắn hoa hồng trên ngực áo lẫn nhau. Người nào còn mẹ thì được gắn hoa màu hồng, người nào có mẹ đã qua đời được gắn hoa màu trắng. Vào buổi tối mười bốn, mười lăm, người đến chùa thấy những thanh niên nam nữ phật tử, và những thanh niên trẻ mặc thường phục đều có gắn một hoa hồng trước ngực và đều có màu hồng tươi thắm trông rất đẹp mắt.

Ông Thìn thấy ở Việt Nam có tổ chức một ngày để nhớ tới mẹ rất là hay. Vào ngày này tất cả những người con đang ở gần hay xa mẹ, hoặc có mẹ nhưng mẹ đã qua đời đều nghĩ về mẹ với nhiều cảm xúc. Giống như ở Mỹ có ngày của mẹ nhưng lại hơn Việt Nam là có ngày của cha. Ông Thìn chợt nghĩ đến thân phận mình. Khi nhìn những người bạn đang nghĩ về mẹ của họ với đầy đủ cảm xúc yêu thương, người làm thơ, viết văn, viết hồi ký về mẹ… ông Thìn thấy mình vẫn tỉnh rụi, không thấy có một cảm xúc gì cả. Ông vẫn như vậy từ khi mới hai mươi hai, hai mươi ba tuổi, ra trường đi làm việc xa nhà, trôi giạt đến các vùng duyên hải miền trung hay cao nguyên đất đỏ. Thực ra có một lần ông nhớ mẹ và khóc thổn thức, đó là khi ông vừa mới xa nhà khi đến làm việc tại một vùng bán đảo xa xôi. Ngày đó, một buổi chiều đi làm về bị mắc mưa ướt từ đâu đến chân. Ăn cơm xong ông bị sốt vì nhiễm lạnh. Tên bạn thuê chung nhà, moi tận đáy va-li tìm được cho ông một viên aspirin. Khi đó ông nghĩ nếu còn ở nhà chắc chắn mẹ ông làm ngay cho ông một tô cháo hột gà cho nhiều tiêu để ông ăn xong toát mồ hôi, giải cảm. Vậy mà khóc được! Nhưng từ đó về sau ông mất đi cái cảm xúc đó. Vào những ngày tháng bẩy ông không không còn nhớ ngày nào là ngày Vu Lan, ngày nào là ngày cúng cô hồn. Một phần tại các địa phương xa xôi người ta không tổ chức rầm rộ những ngày lễ đó…

Sau này, ông Thìn nhảy qua nghề dạy học. Một hôm, trong lúc ông Thìn đang đứng lớp, một cô sinh viên nữ đứng lên nói:

- Thưa thầy, hôm nay là ngày lễ Vu Lan, xin thầy cho phép em tặng hoa hồng cho lớp.

Ông Thìn sực nhớ ra hôm đó là ngày rằm tháng bẩy, ông giơ tay ra hiệu:

- Được, mời em.

- Em xin phép tặng thầy trước.

Nói rồi cô bước đến gần ông Thìn hỏi tiếp:

- Em xin lỗi, thầy còn mẹ không?

- Còn.

- Em xin tặng thầy hoa màu hồng.

Rồi cô cài hoa lên ngực áo tôi:

- Chúc mừng thầy có hạnh phúc được còn mẹ.

- Cám ơn em!

Sau đó, cô quay lại đến từng bàn để tặng hoa cho những sinh viên khác. Phụ giúp cô còn có hai cô sinh viên nữa đến hai dãy bàn phía ngoài để tặng hoa.

Ông thấy việc tặng hoa của các em sinh viên này rất có ý nghĩa. Nhưng ông chợt nghĩ, nếu gặp người không còn mẹ, cô sinh viên này sẽ nói sao. Tò mò, ông Thìn đợi đến giờ giải lao đến hỏi nhỏ cô sinh viên đã tăng hoa cho ông:

- Gặp người không còn mẹ thì em nói sao?

- Da, em nói “xin chia sẻ nỗi buồn của anh”. Rồi em tặng hoa hồng màu trắng. Trong lớp mình chỉ có anh lớp trưởng là không còn mẹ, thầy ạ.

- Thầy hiểu rồi!

Hôm đó, khi tan trường về, ông Thìn thấy trong lòng thơi thới hân hoan, ông cũng nhận ra lớp trẻ ngày nay rất dễ thương, họ thể hiện đạo đức đối với những bậc sinh thành, đối với thầy cô giáo, đối với bạn bè bằng một thứ tình cảm vô cùng ấm áp.

Đang miên man suy nghĩ, ông Thìn chợt liên tưởng đến một ngày gần cuối tháng bẩy, nhưng là tháng bẩy dương lịch, một ngày hết sức quan trọng trong đời ông. Năm nào rủi như ông phải bận nhiều việc để bà xã phải nhắc nhở, ông phải chịu đãi bà một chầu phở, bây giờ là phở ở bờ kè kênh Nhiêu Lộc, đó là kỷ niệm ngày cưới của hai người cách đây hơn bốn chục năm.

NHỮNG CHUYỆN HOANG ĐƯỜNG

NGHE & THẤY

I. MA MỜI:

Chuyện xảy ra tại nhà tôi, đường Tôn Đản, Khánh Hội, Quận 4

Khuya mùng một tết năm 1965…

Tôi đang dỗ giấc ngủ, nghe tiếng phừng phừng ở nhà dưới, xuống coi thì thấy ba tôi đang cầm một nắm lá dừa cháy rực quơ xung quanh và trên đầu của Cụ. Hỏi, Cụ nói:

- Ba nghe trên đầu lạ quá, có lẽ tà ma quấy phá nên Ba đốt cho nó tan đi. Con lên nhà trên ôm thêm lá dừa xuống đây.

Lên tới hàng tư, tôi nghe Cụ hét một tiếng và đánh từ nhà dưới lên nhà trên. Cụ la lên:

- Đưa cho tao con dao để tao chém nó!

Em tôi đưa cho Cụ con dao phay (dao bản lớn, đầu hơi thon nhọn dùng để chặt thịt, xương heo), thế là Cụ cầm dao chém ngang chém dọc, trên đầu, sau lưng… Tôi sợ quá nên kéo bàn ghế chặn ngang cửa buồng và biểu mọi người ở nhà sau. Tôi mở luôn cửa hậu để phòng hờ. Chém một hồi, Cụ lên giữa bộ ván ngồi và nói:

- Các con tưởng Ba điên sao? Ba biết ở trước nhà mình là ao nước, ngoài kia là con đường. Nhưng bây giờ Ba thấy ngoài đó là mé sông rộng lắm, lính đông lắm. Có ba tên đi tới, tên đi giữa bưng cái khay có phủ vải đỏ, hai bên là hai tên lính. Tên bưng khay tới trước mặt Ba và nói: “ Mời ông đi!”. Ba nói: “Không!”. Hai tên hai bên xông tới bắt, Ba phải đánh nó một hồi nó mới chịu dang ra.

Cụ ngồi thở một chút, con chó ngồi bên Cụ chờn vờn ra phía trước sủa om. Thế là Ba tôi lại đánh, Cụ hét lên là mười năm nữa tao mới đi. Cụ lại đánh tiếp, đánh trên ván rồi nhảy xuống đất, đánh ra tới cửa rồi trở vô, leo lên ván mà ngồi. Cụ kêu tôi và nói:

- Con thấy Ba như vầy mà không biết sao? Đi kêu cô Năm con, kể cho cô biết và nói Ba biểu cô liệu cho Ba.

Khoảng một hai giờ khuya mùng hai tết, tôi kêu cửa cô tôi và kể lại lời nói của Ba tôi. Lát sau, cô dẫn một ông thầy pháp tới rồi cô quày quả trở ra. Ông thầy pháp tới cửa sổ đứng nhìn một lát, ông bèn đọc lâm râm trong miệng, ngón tay cái ấn vào các ngón kia… Một lát sau, ông dậm chưn và hự một tiếng. ông lại lâm râm đọc tiếp rồi lại dậm chưn hự một tiếng nữa. Ba lần như vậy rồi ông bước tới nói với tôi:

- Con ma nầy lớn quá, Bác đánh không lại.

Trong khi đó, cô tôi cũng dẫn tới một ông thầy pháp thứ hai. Ông đứng im ở phía cửa sổ bên kia mà nhìn. Ông thầy pháp thứ nhứt đứng một lát rồi ra về. Bấy giờ ông thầy pháp thứ hai cũng tay bấm, miệng đọc lâm râm một hồi rồi ông cũng dậm chưn hự một tiếng. Ba lần như vậy rồi rồi ông tới nói với tôi là con ma nầy lớn quá, Bác đánh không lại. Trong khi đó, Ba tôi cứ đánh một lát rồi nghỉ, rồi lại đánh. Thấy cô tôi, Ba tôi lớn tiếng gọi:

- Cô Năm, sao cô không liệu giùm tôi?

Ông công an ở gần nhà tới đứng coi một hồi, ông nói để tôi bắn nó. Ông rút súng ra bắn bảy tám phát cũng chẳng có hiệu quả gì.

Tới gần sáng, cô tôi kêu tắc xi, cô tôi, Ba Má tôi và tôi đi lên Đức Hòa. Dọc đường, chốc chốc Ba tôi bắt dừng xe lại, xuống đường Cụ đánh một hồi rồi lại đi. Tới nhà ông thầy, cô tôi vô gặp ông thầy rồi trở ra dẫn mọi người vô. Bước vô nhà, ba tôi cầm cây đòn gánh chỉ thẳng vô mặt ông thầy và hỏi:

- Mầy là thằng thầy phải hôn? Tao đập chết cha mầy.

- Khoan đã anh, anh lên ván nằm nghỉ một chút hết mệt rồi đánh.

Ba tôi lên ván nằm và để cây đòn gánh bên cạnh. Ông thầy biểu Má tôi lấy một cái ly trên bàn Phật, ra hàng tư múc một ly nước ở lu nào cũng được, đem vô đây cho ông uống.

Ông thầy kêu Ba tôi dậy uống nước. Cụ cầm ly uống ực một hơi rồi để ly xuống ván. Ông thầy hỏi:

- Sao? Bây giờ có đánh hôn?

- Thôi!

- Không đánh thì thôi, anh tới lạy Phật đi!

Sau đó, ông thầy đưa Má tôi một gói nhỏ biểu đừng mở ra, về nhà may một cái túi nhỏ đựng nó rồi luồn dây cho ông cụ đeo ở cổ (sau nầy tôi mở ra coi, trong đó đựng mấy miếng vàng găm). Ông lại đưa một cuốn Kinh và một xâu chuỗi và biểu Ba tôi mỗi tối vừa đọc kinh vừa lần chuỗi cho tới hết cuốn Kinh rồi ngủ. Ông lại dặn Má tôi:

- Hết một tuần nếu ông cụ không tái phát thì chở lên đây. Nếu tái phát thì đừng chở lên vì tôi không trị được. Khi trở lên, ông thầy cho một tờ giấy màu vàng, chính giữa tờ giấy có một hàng chữ Nho viết thẳng đứng và biểu về nhà lồng vô một khuôn hình, chờ khi nước lớn đầy sông thì đặt lên trang thờ, mỗi tối đốt nhang.

Vậy là từ đó Ba tôi hết bịnh và sống đến năm 1975, đúng mười năm sau thì qua đời.

II. ĐÁNH LỘN VỚI MA:

Chuyện xảy ra ở xã Phước Tỉnh, Bến Lức, Long An.

Ông Tư Xuân, bác họ tôi, đi mời đám cưới của chính Bác. Cũng khăn be (khăn đống), áo dài đi mời một cách trịnh trọng. Lúc chạng vạng tối, đồng quê mông quạnh, nhiều người trong xóm dân thấy một người mặc áo dài múa may quay cuồng ở bờ đê, bên trên rặng lá dừa, người ta cho rằng đó là anh chàng say rượu. Một hồi lâu, ông ấy băng đồng chạy thẳng về nhà, lên nằm thẳng cẳng trên bộ ván giữa, không nói không rằng, mặc cho người nhà lay gọi, Bác cứ nằm im. Túng thế, người nhà đi mời thầy pháp tới để tri hồn tri vía. Sau khi tỉnh lại, Bác kể:

- Tôi đang đi trên bờ đê, bỗng nghe soạt một tiếng, chiếc khăn trên đầu đâu mất. Tôi kiếm xung quanh không thấy, đang định đi về thì chợt thấy chiếc khăn máng trên tàu lá dừa. Tôi đi xuống lấy thì có ba người xông tới đánh tôi. Tôi đánh lại một hồi, nghe hơi mệt thì bỗng có tiếng gọi: “ Bớ Xuân, theo tao mà về! ”. Lúc đó tôi không còn biết gì nữa cho tới bây giờ.

Đó là chuyện Ba tôi kể lại. Do đó, Ba tôi thường dặn con cháu là lúc chạng vạng tối không đứng dưới những cây to có tàng lá sum sê hay đi ở vùng cây lá um tùm.

(còn tiếp)

Khánh Hội-Quận 4-Sàigòn 28.01.2015

PHẠM HIẾU NGHĨA

BÍ MẬT CHUÔNG CỔ NHÀ THỜ ĐỨC BÀ

Bộ chuông cổ được lắp đặt bên trong hai tháp chuông nhà thờ Đức Bà, tọa lạc trên khuôn viên tuyệt đẹp ở Công xã Paris (Q.1, TP.HCM) được thiết kế và vận hành rất độc đáo khiến “nhiều nhà thờ ở Pháp cũng phải ghen tị”.

Bộ chuông được bố trí bên trong 4 bức tường gạch của 2 khúc tháp phía trên cùng của 2 tháp chuông. Mỗi khúc tháp có chiều ngang khoảng 6m, chiều cao khoảng 8m.

Tháp chuông khi mới khánh thành vào dịp lễ Phục sinh (11/4/1880) có mái bằng (cao 36,6m). 15 năm sau đó, kiến trúc sư Gardes thiết kế thêm phần mái nhọn lắp ghép bằng tôn và khung thép vươn lên cao như ngày nay (nâng tổng chiều cao lên hơn 60,5m). Độ cao này tương đương tòa nhà hơn 20 tầng nhưng đường dẫn từ mặt đất lên đỉnh tháp chuông chỉ có cầu thang bộ làm bằng đá, gỗ và sắt với độ dốc rất lớn. Đứng ở dưới mặt đất trong lòng tháp không nhìn thấy được bộ chuông và phần đỉnh tháp vì có một tầng bê tông ngăn cách.

Có lẽ nằm biệt lập bên trên nên ít người có thể tận mắt nhìn thấy, dù bộ chuông đã gắn liền với nhà thờ suốt 135 năm qua.

Tiếng chuông vang xa hơn 10 km

Người “quản” bộ chuông cổ này gần 30 năm qua là ông Phạm Vĩnh Nha (51 tuổi), có tên thường gọi là Chín. Ông Chín cũng là người được giao trọng trách trông nom cả nhà thờ, hằng ngày thực hiện việc đổ chuông khi có thánh lễ, mở cửa cho giáo dân đến dâng lễ và du khách vào tham quan. Ông Chín vẫn còn nhớ rõ ngày mình trở thành “ông từ giữ đền”, đó là ngày 10.01.1987, khi mới 23 tuổi. Lúc đó, ông được giao vận hành bộ chuông

vì người tiền nhiệm không còn đủ sức để đi bộ lên tháp mỗi ngày.

Theo ông Chín, bộ chuông cổ độc đáo gồm 6 quả, nặng tổng cộng gần 30 tấn do Hãng đúc chuông Bolley chế tác năm 1879 tại Pháp. Tên 6 quả chuông được gọi bằng 6 cung nhạc : sol (chuông nhất), la (chuông 2), si (chuông 3), do (chuông 4), re (chuông 5), mi (chuông 6). Nhìn trực diện nhà thờ, tháp chuông phía bên phải (phía Bưu điện TP.HCM) gắn 4 quả sol, do, re, mi; phía bên trái gắn 2 chuông la và si. Ông Chín cho biết bộ chuông đều được vận hành bằng điện từ lúc nhà thờ khánh thành, thông qua 6 motor gắn với 6 quả chuông bằng hệ thống dây xích. Khi bật công tắc điện, motor quay truyền lực qua các dây xích để lắc từng quả chuông. Do 3 quả chuông sol, la và si quá nặng nên được thiết kế bàn đạp để hỗ trợ đạp bằng chân cho chuông lắc khi mới khởi động hệ thống điện. Mỗi quả có 2 bàn đạp nằm song song hai bên cho 2 người đứng đạp. Việc vận hành cả bộ chuông rất công phu và do thiếu người nên từ nhiều năm qua chỉ vận hành chuông do (chuông 4), những dịp lễ trọng mới huy động thêm người để cùng lúc đổ cả 6 quả chuông. Âm thanh của “dàn hợp xướng” này có thể vang xa hơn 10 km.

Cũng theo ông Chín, chuông đúc bằng đồng, nhưng đầu chuông bằng gang để chống gỉ. Qua 135 năm sử dụng vẫn chưa có dấu hiệu gỉ sét. Hoa văn được chạm khắc tinh xảo và họa tiết trên mỗi quả chuông không giống nhau, rất đa dạng.

Nhiều nhà thờ ở Pháp cũng phải ghen tị

Ông Chín nói điều thú vị nhất là bộ chuông tạo ra tiếng đàn và báo giờ cho chiếc đồng hồ cổ hiện vẫn đang hoạt động, được gắn chính giữa mặt tiền nhà thờ. Chiếc đồng hồ cổ được lắp sau bộ chuông vì khi nhà thờ khánh thành, hình ảnh tư liệu còn lưu giữ lại cho thấy vị trí đồng hồ là ô văn tròn có đặt cây thánh giá. Mặt ngoài đồng hồ có đường kính 2m. Kim giờ và kim phút qua hơn 100 năm tồn tại giữa nắng mưa vẫn chưa một lần trải qua sự chỉnh sửa gì. Có một trục ngang dài khoảng 3m gắn kim giờ, kim phút và nối với bộ cơ của đồng hồ đặt bên trên mái vòm nhà thờ. Một hệ thống cần trục gắn bộ cơ đồng hồ với 6 quả chuông. Khi đồng hồ sắp báo giờ, hệ thống này được thiết kế vận hành hoàn toàn tự động, gõ nhẹ 6 búa sắt (gắn đầu mỗi cần trục) vào mặt ngoài 6 quả chuông tạo ra tiếng đàn vang lên khoảng 30 giây. Khi báo giờ thì chỉ có búa gõ từng cái vào chuông sol tạo thành âm vang lớn. Độ vang của tiếng chuông báo giờ kéo dài trong nhiều phút.

Ông Chín cho rằng chính vì có thể tạo ra tiếng đàn và tiếng chuông báo giờ nên bộ chuông cổ từ lâu được đặt tên theo các cung nhạc. Đây cũng là lý do khiến nhiều chuyên gia đưa ra nhận xét về bộ chuông nhà thờ Đức Bà: “Cả vùng Viễn Đông, không nơi nào có thể sánh được, và ngay cả ở Pháp, nhiều nhà thờ cũng phải ghen tị!”.

Năm 1978, tiếng đàn và tiếng chuông báo giờ bị ngắt "vì sợ làm phiền đến các cơ quan lân cận". Từ đó đến nay, hệ thống này không được vận hành trở lại. Có lần khởi động lắc chuông trùng với lúc đồng hồ báo giờ nên cần búa chuông đã bị gãy. Cách đây hơn 4 năm, có một chuyên gia về chuông cổ từ Hồng Kông sang xin phép được tiếp cận, nghiên cứu cách thức vận hành báo giờ tự động của đồng hồ và bộ chuông cổ. Sau đó, vị chuyên gia này cho biết có khả năng khôi phục được nhưng kinh phí lên đến cả triệu USD, vì kinh phí quá lớn nên đến nay vẫn chưa tiến hành.

(Tân Phú, báo Thanh Niên số 186 ngày 5/7/2015)

Lm. Jos. Nguyễn Hữu Triết st.

 


Phụ Bản II

NGUỒN GỐC

TẾT TRUNG THU

Tết Trung thu bắt nguồn từ việc tế vọng Mặt Trăng trong tiết thu phân dưới thời nhà Chu (TQ). Sách Dị văn lục và Khai nguyên di sự viết: Trong một đêm Trung thu, vua Đường Minh Hoàng được một đạo sĩ dẫn lên chơi cung trăng, được xem các tiên nữ mặc áo trắng, xiêm y màu cầu vồng, múa hát theo một điệu nhạc kỳ lạ. Lúc trở về hạ giới, vua nhớ lại điệu nhạc đó, và chế ra ‘Nghê thường vũ y khúc’ rất hay và hấp dẫn. Sau này, dân gian bắt chước theo vui chơi và tạo thêm các loại đèn cù diễn tả những tích cổ…

Một thuyết khác cho rằng: Đời Tống có một con cá chép vàng tu luyện thành tinh, đến Rằm tháng Tám hằng năm nó đều hóa thành người và dụ dỗ, mê hoặc đàn bà, con trẻ gây nhiều tai ương. Bao Công thấy vậy bày cho dân chúng cách làm đèn giấy hình con cá treo trước cửa để đánh lừa, con cá thành tinh thấy cùng loài sẽ không đến phá phách nữa… Người dân làm theo, mọi việc trở nên yên ổn; từ đó trở đi cứ đến rằm Trung thu, ngoài việc làm đèn cá chép, người ta còn làm ra rất nhiều thứ đèn khác và nhiều con vật bằng giấy để cho con trẻ chơi. Trong Tết Trung thu, người Trung Quốc còn tục ăn bánh Mặt trăng (bánh có hình tròn trịa, tượng trưng sum họp, đoàn viên).

Qua quá trình giao lưu văn hóa, Tết Trung thu sớm được người Việt tiếp nhận và coi là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Sau này Tết Trung thu được lấy làm Tết Thiếu nhi để tổ chức vui chơi cho các cháu nhỏ.

Theo sách Điển hay tích lạ của tác giả Nguyễn Tử Quang, sự tích Trung thu gắn liền với giai thoại về cuộc cầm cự của Lưu Tú chống lại Vương Mãng (206 TCN-23). Khi quân dân cầm cự trong thành hết lương thực, Lưu Tú lập phương án cầu trời ban cho thức ăn, rồi họ đào được một thứ khoai môn. Khi quân ăn nhiều khoai bị sình bụng, Lưu Tú lại phải cầu trời, ba ngày sau, quân lính lại tìm thấy một thứ cây bưởi có trái, ăn vào làm tiêu được chứng sình bụng. Ngày mà Lưu Tú cầu trời là nhằm ngày rằm tháng Tám, vua làm lễ tạ ơn trời đất và thưởng Trăng bằng bưởi và khoai môn. Vì ngày Rằm tháng Tám nhằm vào thời kỳ thu phân (giữa mùa thu) lại giữa tháng Tám nên gọi là Tiết Trung thu sau đọc lại là Tết Trung thu.

Có thuyết cho rằng dưới đời nhà Tần, vua Tần Mục Công sinh được một công chúa đặt tên Lộng Ngọc, lớn lên nàng đẹp tuyệt trần, và thổi ống tiêu rất hay. Khi Lộng Ngọc lên 15 tuổi, Tần Mục Công kén chồng cho nàng nhưng nàng chỉ muốn tìm người đủ tài xướng họa bằng ống tiêu với cô. Mục Công cho người đi tìm nhưng không ra. Một hôm trăng sáng như gương, Lộng Ngọc mang tiêu ra thổi, tiếng tiêu trầm bổng véo von, bỗng nhiên nghe có người họa lại. Phút chốc đã gần nửa đêm, nàng thiếp đi trong giấc ngủ say nồng bỗng thấy từ phía Tây Nam, hào quang rực sáng, một chàng trai trẻ đầu đội mũ long, áo bạc, cưỡi chim phượng từ trên trời sà xuống đứng trước Phượng Đài bảo rằng: “Ta đây là chủ núi Hoa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng, ngày rằm tháng tám này là ngày lễ thành hôn, ấy là duyên tiền định”.

Vua cho người đi tìm, quả thật ở núi Hoa Sơn có chàng Tiêu Tiên Tử, một người thổi tiêu kỳ tài, nhà vua tác hợp cho đôi trai tài gái sắc nên duyên chồng vợ và ngày rằm tháng Tám trở thành ngày Tết Trung thu.

Tết Trung thu theo người Trung Quốc đến Việt Nam, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản… Tùy theo từng nước, cách thưởng thức có khác đi ít nhiều. Vào dịp này trẻ em thắp đèn đi khắp chốn, xem múa lân, múa rồng, cùng thưởng thức những miếng bánh thơm phức.

BĐ st.

NGÔI MỘ

DƯỚI KHẢI HOÀN MÔN PARIS

Ngay dưới Khải Hoàn Môn
Mộ một người chiến sĩ*
Không dòng tên, địa chỉ
Tổ quốc còn suy tôn

Cứ mỗi buổi hoàng hôn
Nhạc trầm hùng lại nổi**
Những đoàn người tiếp nối
Đến mộ anh nghiêng mình

Ngọn lửa nhỏ lung linh**
Từ nguồn tim chiến sĩ
Truyền đời không ngưng nghỉ
Sáng mọi miền quê hương.

VŨ ĐÌNH HUY

Paris (Pháp), 21 - 07 - 2015

* Đây là mộ 01 người lính Pháp vô danh, chết trong trận Verdun, thời Chiến tranh thế giới lần I (8/1914 -11/1918). Mộ được xây xong ngày 11-11-1920. Trên mộ khắc dòng chữ: “Nơi đây yên nghỉ một người lính Pháp đã chết cho Tổ quốc”

** Từ năm 1923 đến nay, một ngọn lửa được thắp trên mộ người chiến sĩ này vào lúc 18g30 hằng ngày, kèm theo một bản nhạc trầm hùng được cất lên bởi đội quân nhạc.

Nghĩ về NAPOLÉON BONAPARTE

(15/8/1769 - 5/5/1821)

Chiến thắng Toulon mở đầu sự nghiệp.
Mười lăm năm (15) Ông đánh phá Châu Âu
Lôi tám (8) nước vào chiến tranh liên tiếp
Ba (3) triệu người bị chết bởi vì đâu?

Giá mà Ông không xâm lược Châu Âu
Thì trận Waterloo không làm Ông phải khóc
Thiên tài Ông không dành cho tang tóc
Thì nước Pháp được nhờ, nhân loại cũng nhờ theo.

VŨ ĐÌNH HUY

Paris (Pháp), 26 - 07 – 2015

MÙA HẠ Ở PHẦN LAN

Phần Lan – đất nước vạn hồ

Rừng cây thi thoảng gió xô rì rào.

Mặt trời đủng đỉnh trên cao

Hai mươi (20) giờ vẫn chưa vào hoàng hôn.

Hải âu, quạ, thỏ, sóc, chồn

Gần người không sợ, dáng còn nhởn nhơ.

Biển xanh trong phẳng lặng tờ

Tàu A rời bến, cập bờ tàu B.

Thị thành cho tới thôn quê

Ai làm việc nấy, tàu xe đúng giờ.

Phần Lan nước nhỏ, ai ngờ

Dẫn đầu giáo dục… có chờ Việt Nam?

VŨ ĐÌNH HUY

Helsinki (Phần Lan), 20-8-2015

Đề Chữ Đồng Tâm

(Bài tham khảo Hải ngoại huyết thư)

Đôi lúc sống giả vờ ngu dại

Đặt niềm tin nhưng lại nghi ngờ

Bạn bè bao kẻ thân sơ

Xưa thương mến lắm bây giờ hại nhau

*

Sợ thay kẻ qua cầu rút ván

Vừa mua xong định bán con thuyền

Nhà yên thì nước mới yên

Tấm lòng hòa hợp thì duyên mới bền

*

Nếu bụng dạ khi quên khi nhớ

Nếu tâm không cởi mở cảm thông

Làm sao kết chặt chữ đồng

Nào ai giữ vẹn một lòng thanh tâm

NGÀN PHƯƠNG

VÔ DUYÊN

Mười ngón tay bất hạnh

Không giữ được niềm vui

Nửa vành môi khô lạnh

Gói trọn nỗi ngậm ngùi.

NGÀN PHƯƠNG

Mùa  

Vàng

Hoa

Cải  

Anh hái cánh lụa vàng hoa Cải
Kết hoa thành vương miện trang đài
Cài tóc em óng mượt tơ trời
Tóc xõa bờ vai xao xuyến lòng ai

Ngát hương cánh đồng vàng mùa Cải
Nhẹ nhàng ong bướm rộn ràng bay
Tình lộng lẫy Anh ơi có thấy
Gió mây cùng ngất ngây mơ say

Những cánh bướm đa tình bóng bẩy
Lượn lờ cánh mỏng đóa hoa gầy
Sương chiều lan tỏa màu hư ảo
Đóa tình ăm ắp hái đầy tay...

Đông về chưa giữa tháng 12
Giữ cho nhau trọn giấc mơ đầy
Sáng trong mà mượt hồn thơ dại
Tuổi học trò hương ngát mộng say.

PTMinh-Hưng

TRUNG THU VẤN NGUYỆT

Hằng Nga hỡi chị, chớ làm đon

Gương mặt hờn ai cứ méo tròn

Bởi chốn Bồng Lai chưa mở cổng

Hay đường Cung Quảng có ngăn đòn

Cây đa dược phẩm thôi linh nghiệm

Chú Cuội tâm thần mãi trẻ con

Bí quyết hoàn đồng, đà cải lão

Trăng già nay đổi dáng trăng non ...

Thanh Châu

TRĂNG

Chị Nguyệt e dè núp rạng mây

Làm duyên, bẹo dáng cảnh vui vầy

Vẽ mày mùng sáu soi gương nước

Mở mắt ngày rằm chiếu lá cây

Núp cửa đài trang cười chúm chiếm

Ẩn rèm cung các má hây hây

Gió về mơn trớn, vân y bóc

Vóc ngọc nõn nà trông ngất ngây ...

Thanh Châu

LỜI CẢM ƠN GỬI ĐẾN…

Có một lời cảm ơn
Tôi rất muốn thiết tha gửi đến
Không phải là người thân
Không phải là bạn bè
Cũng không phải từ những điều ơn nghĩa
Càng không phải những gì tốt đẹp nhất trên đời
Mà tôi từng được nhận

Nhưng lời cảm ơn này
Nhất thiết tôi phải nói
Nhất thiết tôi phải ghi sâu cùng dạ
Nhất thiết tôi phải gửi đến từng địa chỉ
Cho dù không thể kể hết ra đây

Một lời cảm ơn
Thật đến tận cùng gan ruột
Một lời cảm ơn
Không hề sáo ngữ dối gian
Lời cảm ơn sau nhiều năm thẩm nghiệm
Mới thật sự hiểu rằng :
Nhất thiết mình phải nói ra

Tôi muốn cảm ơn những người đã làm tôi đau
Tôi muốn cảm ơn những người đã làm tôi khóc
Tôi muốn cảm ơn những người đã làm tôi trầy trụa
Tôi cảm ơn nhiều những vết thương xếp lớp trong tim
Tôi muốn cảm ơn cả những lúc thấy mình như tuyệt vọng
Bởi tất cả những điều đắng nghét cay xè rát buốt

Tôi cảm ơn là bởi đó chính là những viên gạch kê chân
Cho tôi bước lên bước qua và bước tới
Sự trưởng thành luôn chắc lên từ gian khổ
Chín chắn nào cũng trả giá từ những vấp va
Những mặt trái cuộc đời cho tôi nhận ra được nhiều thứ
Những gian xảo tình người cho tôi ngộ ra giá trị của sự trả vay

Đằng sau những buồn đau muộn phiền chua xót
Luôn có những chân lý mà chỉ có sự trải nghiệm mới thẩm thấu đủ đầy
Những nhận diện những đào sâu những tinh túy cốt cách nhân phẩm
Chỉ có thể hình hài qua những gập ghềnh bập bỗm hố hầm

Để một ngày tôi thấy mình thực sự nhẹ nhõm
Thực sự lớn lên thực sự vững vàng
Thực sự thấy tất thảy cũng chỉ là trò con trẻ
Được mất hơn thua những ván bạc trắng đen sòng phẳng
Ngã giá cân đong rồi cũng tròn một ngả hư vô

Nếu không có những cái ngáng chân
Nếu không có những miệng cười hình chiếc phễu
Nếu không có những khúc ru nuột nà ma mị
Nếu không có những cái nắm tay ngỡ chẳng thể buông
Và rồi tất cả…

Thì chắc tôi cũng trở thành kẻ tội đồ như muôn vạn
Thì chắc tôi cũng lậm sâu dưới những hầm hào gian hận tham lường
Thì chắc tôi cũng chỉ rốt đời làm chuột nhắt
Thì chắc lương tri tôi cũng mất hẳn một chữ : Người

Nhưng may quá dẫu có đầy thương tích
Dẫu bao lần khụy ngã lại gượng lên
Dẫu lắm kẻ cười chê sao đầy dại dột
Dẫu tự mắng mình học mãi chẳng nên hồn

Thì tôi vẫn có thể thẳng lưng mà đứng
Vẫn thẳng mắt nhìn vẫn thẳng bước chân
Vẫn tự thấy tâm mình còn điểm sáng
Thấy cuộc làm Người không lỡ buổi Mẹ Cha
Thấy mình đủ cứng đủ kiên và đủ lực
Để sống vui trong một cõi sa hà

Tôi cảm ơn cảm ơn cảm ơn thêm lần nữa

ĐÀM LAN

Khoảng trống còn lại

(Viết thay tâm sự một người vợ)

Anh xách vội va ly rời nhà cũ

Nơi bao năm ta đã gọi gia đình !

Em khóa cổng, nhìn chung quanh vắng lặng

Biết từ đây sẽ còn lại một mình !

*

Nhẩm tính lại thời gian trôi nhanh quá

23 năm làm chồng vợ cùng nhau

Từ cấp bốn, nhà giờ thành ba tấm.

Tưởng đôi mình cứ thế sẽ bền lâu

*

Rồi lần lượt, hai con trai góp mặt

Nhà thêm vui, thêm rộn rã tiếng cười

Anh xông xáo ngoài đời lo việc lớn

Em chăm con, cho chúng được nên người

*

Từ mẫu giáo, mỗi năm con mỗi lớn

Học ở trường, rồi thêm Toán, Anh Văn

Một mình em, bất cần mưa hay nắng

Đèo hai con ngày mấy buổi đến trường

*

Nay chúng đã trưởng thành đi du học

Anh leo từ chức nhỏ đến làm to

Từ Kỹ Sư, anh giờ là Tiến Sĩ

Ai cũng khen mình “bạch thủ thành gia

*

Như cánh diều, trên cao anh nhìn xuống

Trong khi em quanh quẩn với canh, cơm…

Ra xã hội không làm anh nở mặt

Giày chật rồi, “sang đổi vợ”… chuyện thường !

*

Sau lưng anh là vợ già xấu xí

Trước mắt anh là biển rộng, trời cao

Tình đã hết, buộc ràng chi thêm khổ

Tờ ly hôn ta trả lại đời nhau !

*

Anh chắc chắn tương lai đầy rạng rỡ

Đâu cần gì ngoái lại phía sau lưng !

Riêng phần em, về đâu còn chưa biết

Nên còn đây là khoảng trống mịt mùng…

Tâm Nguyện (9/2015)

Mùa Thu mùa Yêu

Ta đi trong nắng thu - đây mùa vàng nhẹ bước thênh thang

Bên nhau bước lãng du nghe lá vàng nhẹ lướt rơi trên đường

Ôi như có heo may lướt bay rất nhẹ

Hay như tiếng con tim rộn ràng lời hát

Rạo rực màu cúc tươi vàng thắm bên hồ

Màu hoa thương nhớ như còn đó mong chờ

Người ơi ! sao cách xa mấy thu qua dưới trăng tà

Tấm áo lụa thu dệt bằng sợi tơ đất trời

Ánh mắt nâu em chớp làn mây thu

Cho tôi bay lướt đi trong mùa vàng về theo

Không gian như đắm say trong tình khúc mùa yêu

Không gian như đắm say trong tình khúc mùa thu - mùa yêu

Sáng đầu Thu 2011

LÊ NGUYÊN

TỎA NGÁT HƯƠNG SEN

Thân quý tặng các bạn đồng nghiệp Đ.A. của tôi

Có một loài hoa ngát mãi với thời gian

Từ bùn đất Bưng Biền, trung du Đồi Cọ

Từ chiến hào bom rơi bão lửa

Búp hoa vươn lên không biết úa tàn

*

Đứa em út trong vườn hoa đẹp

Được sinh ra giữa độ xuân hồng

Được mang dòng máu thiêng Phù Đổng

Trong vành nôi đất Mẹ anh hùng

*

Nên dễ hiểu vì sao nở rộ

Bao đóa hoa phim từ thuở ban đầu

Không lộng lẫy sắc màu tô vẽ

Mà sắc hương còn mãi bền lâu

*

Bởi người trồng hoa cũng là chiến sỹ

Mang tình yêu hoa như tình mẹ yêu con

Biết phận nghèo nên cố công bền bỉ

Để mỗi chặng đường ghi một dấu son

*

Mái tóc xanh đã ngả màu sương tuyết

Mà trái tim vẫn thắm đỏ nồng say

Tình đồng nghiệp tri âm làm sao nói hết

Nụ cười trao nhau tay xiết chặt tay

*

Mái nhà xưa nơi hội ngộ hôm nay

Chạnh nhớ người đi xa vẫn về đây họp mặt

Hãy giữ mãi màu xanh trong mắt

Như hương sen tỏa ngát dâng đầy

*

Từ bùn đất, bông sen vàng đã hiện

Có diều bay chắp cánh cho hoa

Trên đường mới thênh thang dâng hiến

Để sắc hương sen tỏa ngát bay xa !

*

Như thế đó - Điện ảnh V.N. được Bác Hồ khai sáng

Kẻ trước người sau nối tiếp chung lo

Không giống trên khuôn hình cuối cùng ghi chữ HẾT

Sự nghiệp này còn mãi đến vô bờ

*

Dẫu mai này ngôi nhà thành lâu đài lộng lẫy

Xin đừng quên thời bỏng cháy hôm qua

Mỗi viên gạch dưới nền ta không thấy

Còn muôn đời lưu giữ những bài ca !

Tp. Hồ Chí Minh tháng 7 năm 2015

LÊ NGUYÊN

(Tham luận đọc trước Đại hội Điện Ảnh toàn quốc – 2015-2020)

Hình như…

Hình như ngay buổi ban đầu

Gặp nhau ta đã trao nhau thân tình

Hình như lửa ấm bên mình

Thoảng hương hoa ngát ngọt lành bình yên

Hình như tôi thấy trong em

Nét duyên đằm thắm dịu hiền dáng xuân

Để câu thơ chợt gieo vần

Dạt dào sóng nhạc lâng lâng tình người

Hình như có sợi tơ trời

Buộc vào hai đứa thành đôi bạn đường

Dẫu đời là chốn vô thường

Sầu nhiều vui ít biết còn bao lâu

Thôi thì ta đã có nhau

Cho đi để được thêm giàu, nhé em !

8.8.2013

LÊ NGUYÊN

NHẮN NHỦ CHÁU

Trăng thu tỏa sáng như gương

Ba thầm nghĩ đến cháu thương xa nhà

Cháu tôi đi học đường xa

Học hành để được nở hoa đời mình

Ơn thầy cô nặng nghĩa tình

Chăm nom dạy bảo giáo trình chuyên sâu

Bài vở có khó đến đâu

Chuyên cần học tập thời mau trả bài

Cháu ơi ráng học cho hay

Mai sau danh phận đổi thay xóa nghèo

Sách vở học tập mang theo

Văn ôn võ luyện như keo dính vào

Dù cho hoàn cảnh thế nào

Tình thương con cháu dạt dào trong tim

Tuổi già thao thức thâu đêm

Nhắn nhủ con cháu cho thêm chút tình

QUANG BỈNH

Trung Thu

TRĂNG sáng trung thu tỏ ánh hồng

TRĂNG tròn sáng rọi cả non sông

TRĂNG đêm bạn trẻ vui ca hát

TRĂNG tỏ lồng đèn màu pháo bông

TRĂNG soi len lỏi hoa cây cảnh

TRĂNG đẹp tình nhân ước nguyện mong

TRĂNG chiếu xuyên qua nước trong vắt

TRĂNG rọi lòng ta ấm tình nồng.

QUANG BỈNH

CÀNG “XÀI” CÀNG LÃI

Của cải

Tiền tài

Tiêu xài dần sẽ hết

Có những thứ nhân văn

và vững bền tồn tại

Phi vật chất chẳng hề bị hoại

Nó giàu lòng nhân ái

Càng cho nhiều thì càng vĩ đại

Càng “xài” nhiều thì càng có lãi

Không bao giờ vơi cạn

Nó làm bạn mê say

Đó là những vần thơ hay.

LÊ MINH CHỬ

Thiếu nắng

Xuân này trắc trở không về được

Xin gởi làng xưa nỗi nhớ thương.

Chén rượu quê người sao đắng vậy ?

Lạnh lòng, bởi thiếu nắng quê hương.

MAI VĂN TẠO (1990)

MAI THỊ THỦY HOA st.

MÀU HOA XỨ SỞ

Thuở nhỏ tôi thích mai

Bởi những ngày theo mẹ

Vào núi xa vắng vẻ

Tìm kiếm cội hoa rừng.

Buổi chợ sớm cuối năm

Những cành mai rực rỡ

Trong tay gầy của mẹ

Đượm chút buồn xa xăm.

Màu hoa như bướm vàng

Trong nắng xuân xao xuyến

Điểm trang cho thôn xóm

Hương sắc thắm mùa xuân.

Chiều ba mươi pháo Tết

Ran ran nổ khắp làng

Cành mai xa lều mẹ

Le lói mấy nén nhang.

Ra đời tôi mới hiểu

Ánh mắt mẹ bâng khuâng

Những buổi chiều giáp Tết

Những sáng đốn mai rừng.

Tôi càng yêu thắm thiết

Màu mai vàng quê hương

Những mùa xuân khói lửa

Chợt gặp giữa chiến trường.

Cái Dầu, đêm cuối năm 1982

MAI VĂN TẠO

MAI THỊ THỦY HOA st.

Vòng đời của MẸ

Sinh

Tiếng khóc oe oe, trẻ chào đời

Đêm đêm mẹ thức hát ru hời

Sinh linh bé bỏng, vòng tay mẹ

Mẹ sinh mẹ dưỡng con nên người.

Lão

Thắm thoắt thời gian mẹ đã già

Thân thể còn xương bọc với da

Lụm cụm vào ra trong nhà vắng

Mỏi mắt chờ con ở nẻo xa.

Bịnh

Tám chín, sức lực mẹ mỏi mòn

Mắt lòa, chân yếu, ăn không ngon

Mẹ nằm một chỗ, không oán thán

Còn chút hơi tàn, mẹ trối con.

Tử

Đời người chẳng có vướng bận chi

Nhắm mắt, nghiêng người mẹ ra đi

Chút dòng lệ ứa nơi khóe mắt

Từ giã con rồi phút sinh ly.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

TRỜI CHIỀU TRÊN SÔNG

Kẻ đứng làm trai giữa núi sông

Tựa như bèo nổi nước bình bồng

Đìu hiu mặt nước con thuyền vắng

Quạnh quẽ lưng trời chiếc nhạn không

Đưa đẩy lòng quê làn sóng lượn

Che trùm cõi tục thức mây lồng

Tà dương sao khéo trêu chi khách ?

Cho kẻ say đời, kẻ chạnh trông !

LANG NGUYÊN

Chén rượu tình

Chén rượu thề nguyền biết mấy chung

Đêm khuya tình tự kín hơn mùng

Chim cưu lạ ổ còn ngơi dạng

Ngựa lý quen đường tánh bớt hung

Cúc phụng nhỏ to đờn thoảng thoảng

Kê gà giục thúc trống lung tung

Trăm năm tơ tóc bền trời đất

Một giải non sông dệt khôn cùng

LANG NGUYÊN

TRAI THỜI LOẠN

Sống thời binh lửa khắp non sông

Dân Việt đau thương cảnh khốn cùng

Tổ quốc ngàn năm dân tự chủ

Giang sơn trăm họ giống Tiên Long

Thằng gian cướp của gây tan ruột

Quân ác xâm lăng quậy nát lòng

Thảm họa nhà tan người chết chóc

Nhìn xem gương ấy tội hay công ?...

LANG NGUYÊN

PHONG TRÀO THỂ DỤC

Thể thao thể dục dưỡng sinh

Luyện rèn thân thể hòa mình cùng nhau

Không phân kẻ khó người giàu

Không phân nam nữ trước sau tập đều

Dù cho tuổi tác xế chiều

Tâm hồn tươi trẻ ấy điều ước ao

Tinh thần nhựa sống dạt dào

Dưỡng sinh thể dục phong trào đi lên

BÁ MẠNH

THUẬT DƯỠNG SINH

Dưỡng sinh cho lớp tuổi già

Luyện rèn thân thể lấy đà vươn lên

Hằng ngày hãy nhớ không quên

Dưỡng sinh thể dục vững bền mở ra

Phải luôn nhận thức thân ta

Tự mình gắng sức mới qua yếu mòn

Khí công nẩy nở no tròn

Tinh thần sảng khoái mong còn sống lâu

Mấy lời nhắn nhủ ban đầu

Luôn cười cho khỏe nên cần dưỡng sinh

Nhật nguyệt chớ có nằm thinh

Thường xuyên vận động tâm linh huy hoàng

Nói năng cho phổi nở nang

Cho tâm sáng suốt lòng càng hăng say

Giải lao sinh động hằng ngày

Siêng làm việc nhỏ không cay cú đời

Không nên mặc cảm buông lơi

Gắng lên thể dục vui chơi chan hòa

Không nên ỷ lại người nhà

Dưỡng sinh thể dục điều ta phải cần

BÁ MẠNH

 THỔN

 THỨC

Mỗi lần nhớ đến Mẹ Cha

Cuối đời vẫn phải bôn ba khổ sầu

Nhà thì bom đạn còn đâu

Hai anh cải tạo ở sâu trong rừng

Thương con bạo bệnh chẳng dừng

Nhớ con da diết không ngừng đớn đau

Thế rồi chỉ mấy tháng sau

Cha lìa cõi thế trả mau nợ trần

Mẹ thời sống cảnh cơ bần

Ngày đêm thơ thẩn lâu dần yếu suy

Rồi thì bị bệnh hiểm nguy

Mẹ tôi sầu não tư duy sự tình

Bao nhiêu ai oán bất bình

Mẹ luôn dấu kín một mình lao đao

Hằng ngày ngồi tựa bờ ao

Mẹ như cảm nhận nhát dao lìa đời

Giờ đây tâm sự rối bời

Vọng về Cha Mẹ bao lời bi ai

Lệ rơi ướt đẫm đôi vai

Chấp tay tưởng niệm mà tan nát lòng

THÙY HƯƠNG

  GỞI HUẾ 

Tôi xa xứ Huế đã lâu

Bây giờ về lại vì đâu bồi hồi

Đền đài lăng tẩm núi đồi

Di tích còn đó làm mồi rêu xanh

Bao đêm thao thức thâu canh

Người thân mất - kẻ ẩn danh phương nào

Hỏi thăm tìm đến xứ Đào

Đi Ca Na Đa hay Mỹ ngọt ngào hơn đây

Xa xứ gầy dựng đắp xây

Còn hơn ở lại giả ngây giả khờ

Tưởng về quê cũ bây giờ

Trời quang mây tạnh nào ngờ chiêm bao

THÙY HƯƠNG

VÀO HẠ

Gót hồng thả bước bên bờ mộng

Phượng thắm đôi hàng rộn tiếng ve

Sen tiền lúng liếng trên ao biếc

Một bóng chim quyên vút gọi hè…

12/9/2015

Bs.DOANLINH

GẶP LẠI BẠN

THỜI CẮT CỎ CHĂN TRÂU

Ra đi là để ngày trở lại

Nơi ta về cắt rốn chôn nhau

Thời gian cổ tích màu năm tháng

Vẫn thắm tươi tóc chỏm trên đầu

Gặp lại bạn thời cắt cỏ chăn trâu

Lòng nao nao nhớ về từng kỷ niệm

Da diết quê hương mưa nguồn gió biển

Góc làng đây sao ngỡ cả giang sơn !

Bạn thời lên ông tuổi tác giàu sang

Vẫn mày tao tay bắt mặt mừng

Cái quý nhất chẳng phải là tiền bạc

Bởi nghĩa tình xứ sở thủy chung

Từng sống tháng năm tuổi trẻ hết mình

Như áo và chân đất thời chăn trâu cắt cỏ

Ôi một thời hồn nhiên - một thời quá khứ

Cho nâng niu ta được sống hai lần…

Đất quê hương cứ thơm thảo trong nguồn

Khi ra đi lúa đồng thơm gốc rạ

Thời trở về bốn mùa xanh ngọn gió

Nón bài thơ từng kiêng nắng từ đây…

12/9/2015

Bs.DOANLINH

NGUYỆN  

CẦU   

Dẫu bạc tóc con vẫn là tấm bé

Vẫn thương hoài nhớ mãi thuở ấu thơ

Lời mẹ ru âm trầm khe khẽ

Con nâng niu gìn giữ đến giờ

Tóc mẹ trắng

Một vầng mây trắng

Gội bằng tảo tần mưa nắng sớm trưa

Tóc xanh vì chưa lo lắng

Chưa biết đúng sai phải trái lọc lừa

Giọt sữa ấm dỗ dành tiếng hkóc

Củ khoai bùi xua cơn đói meo

Con tung tăng bước vào lớp học

Mẹ cười ánh mắt trong veo

Cánh võng ru trưa vỗ về giấc ngủ

Mắc qua bốn nghìn năm bao thế hệ con nằm

Đất lạnh quạt nồng nâng niu ấp ủ

Danh thành nhân đức từ tâm

Dẫu bạc tóc con vẫn là tấm bé

Mẹ của con ơi

Xin được mãi bên Người

Dù con biết đó là điều không thể

Không thể nên nguyện cầu ao ước Mẹ ơi !!...

12/9/2015

Bs.DOANLINH

Sắc hương xanh

Thôi, gác lại một phòng sang máy lạnh

Dựng sân vườn dịu mát ánh khung xanh

Thả ước mơ hòa cùng ngàn hoa lá

Đưa hồn neo vào sương sớm long lanh

Bạn bè đến em đừng lo tiệc rượu

Quá no đầy dạ dễ rỗng yêu thương

Sự đồng cảm ngát thơm dàn hoa lý

Tách trà xanh đủ soi bóng thiên đường

Bụi sa mạc đua chen mờ phố thị

Màu lá xanh là ốc đảo nghĩa tình

Ta hít thở bầu tinh hương vạn đại

Vườn xanh này là nhựa sống thủy chung

Anh đi rồi vườn xanh còn ở lại

Tách trà xanh, dàn hoa lý sẽ là anh

Như lẽ sống, ước mơ ngàn kiếp trước

Vẫn soi vào thế giới sắc hương xanh.

7/2015

VÕ KIM CƯƠNG

EM BÉ BÃI BIỂN

Mênh mông trôi dạt cõi người

Đưa con lên bờ cát vắng

Mây trắng, trời xanh, biển lặng

Mà lòng đau đót niềm thương

Dạt vào nỗi đau nhân thế

Nghiêng đầu như ngủ trong nôi

Đôi chân đôi giày nho nhỏ

Đã đi mấy bước đường đời ?

Trung Đông, Bắc Phi máu chảy

Thánh nào xui chém giết nhau ?

Lòng tham tiền, quyền khát máu

Dân chủ cờ che nát nhàu

Mây trắng, trời xanh, biển lặng

Nghiêng mình khóc phận ấu thơ

Ngàn năm, ngàn năm uất hận

Lòng tham đen cõi vô bờ

6/9/2015

VÕ KIM CƯƠNG

QUÊN

Ta đã đợi chờ suốt buổi mưa

Còn đây, là chút ánh trăng thừa

Không đủ để hâm thìa tình cũ

Đành thôi, bỏ hết những ưu tư!

Ta từng chờ đến héo nắng mai

Bặt tăm ngay cả cú phôn gầy

Hắt hiu từng lá buồn bến đợi

Cà phê mụ mẫm những giọt rơi!

Ta từng mong mỏi một trang thư

Sau bao nhung nhớ đến vật vờ

Gói cả vào trong ngàn giấy mực

Mà gửi cho người suốt giòng thu!

Ta từng đếm đủ những ngày xuân

Trôi qua mà chẳng chút vui lòng

Nói chi hạ, rồi thu, đông tới

Ngày tháng phai đi, chẳng ngại ngần!

Ta chẳng chờ thêm chút nào đâu

Này đây là tấm ảnh ban đầu

Nén lòng, cho trôi vào sóng dại

Để thôi, thôi hẳn cái chờ mong…

LAM TRẦN 12.07.2015

THƠ TÌNH

NGÀY KHÔNG EM

Nếu biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau

Anh đã chẳng buộc em bao tội lỗi

Em đứng lặng. Mặt úp vào bóng tối

Khổ thân em có nói được gì đâu

Nếu biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau

Anh đã chẳng hẹn em đêm ấy nữa

Để quá khứ chỉ còn là thương nhớ

Và tương lai ít ra cũng ngọt ngào

Nếu biết rằng sẽ chẳng gặp lại nhau

Anh đã chẳng trách em yêu người khác

Điều đơn giản bây giờ anh mới biết

Thì em xa

Em đã quá xa rồi…

1970

TRẦN NHUẬN MINH

LOVE POEM

ON A DAY WITHOUT YOU

Were we to know that we would not meet each other again

I wouldn’t have accused you of so many sins

You stood still, burying your face into darkness

Poor You, who couldn’t say anything at all

Were we to know that we would not meet each other again

I would not date you on that night

So that the past would only be much affection

While the future would at least be sugary

Were we to know that we would not meet each other again

I would not reprove you for loving someone else

That simple thing I’ve just realized

While you’re far

You’re too faraway already…

1970

TRẦN NHUẬN MINH

Translated by VŨ ANH TUẤN

CĂN NHÀ MA ÁM

Đang không vậy đó, mà chắc tại rảnh quá nên mới sinh chuyện.

Số là, nhà ông Loạn có rặt con trai. Riêng cái vụ tên Loạn của ông cũng có nguồn gốc đấy chứ: Vì được sinh ra trong thời loạn ly nên bố ổng mới gắn tên Loạn cho thằng đầu đàn là ổng. Mấy thằng em tên Lạc, Lộn, Xộn và sau cùng là Chót. Khỉ thật, ông cụ cứ tính kiếm thêm đứa con gái cho có nếp có tẻ, nhưng cũng hạ quyết tâm đây là đứa sau cùng dù trai hay gái, nên đứa em trai cuối bảng của ông tên Chót là có nguyên cớ hẳn hoi!

Ấy là chuyện xa vời. Đây chỉ là chuyện nhà ông Loạn thôi, mà nội bằng đó thôi là đủ để nhức đầu nhức óc…

Ông Loạn sống bằng nghề bán dừa. Với cái xe ba gác, ông đạp khắp hang cùng ngõ hẻm bán loại trái cây mát ngọt này. Ông kiếm ăn cũng khá, nhờ vào cái dao chặt dừa và đôi mắt dữ tợn của mình. Ông ngọt với khách lắm, chỉ trừ mấy người cứ dọ giá rồi chẳng bao giờ mua là ông không hề ưa. Nhưng ông chỉ nhìn lom lom chứ chẳng nói gì, nhưng cái nhìn của ông khiến người ta lạnh gáy! Điều chính yếu là ông không để bất cứ “thằng nào con nào” đồng nghiệp hoạt động trên những con đường có dấu chân Loạn! Và ông sẵn sàng cầm dao nói chuyện phải quấy cho nhanh gọn và có kết quả. Dĩ nhiên, là người ta phải gài số de cho an toàn. Dính vô ông là phiền lắm lắm.

Ông cho con học võ tất! Đứa nào cũng có võ : Nào không thủ đạo, nào nhu đạo… Linh tinh “đạo” như thế, nhưng chúng còn rành cả “nhị trỏ đạo” nữa cơ, nghĩa là hở ra là chôm liền tù tì, chẳng hề ngán ngại một ai! Do vậy, mà nhà ông dần dần to nhất xóm. Tuy ông không còn đẩy xe dừa đi bán nữa, nhưng cả cái mặt tiền của ông thì la liệt những dừa và dừa. Những xe dừa đi gần tới nhà ông đều quẹo lối khác kẻo bị hỏi han đến xanh mặt. Ngộ cái là, mấy đứa con ông đều không phải ế vợ gì ráo, dù chúng chẳng lấy gì làm đàng hoàng. Mỗi tội, các nàng dâu nhà ông đều có số má cả. Nàng thì tứ sắc, nàng ba lá, nàng bảo kê… Nghĩa là, nhà ông là một tổ ong. Ong cha, ong cháu, vòng vòng toàn… ong!

Riết rồi chẳng ai dám đụng tới cái đám ấy cả, trừ những người tới mượn nợ lời. Họ cũng mang cho nhà ông nhiều nguồn lợi đáng kể. Con cháu ông cứ vậy phất lên! Vậy mà chúng nào có ra ở riêng! Chúng chỉ thích ở chung một chỗ, để ông Loạn phải gồng mình chịu hết mọi chi phí trời ơi!

Giờ thì ổng già rồi! Ổng cũng sợ con ổng bỏ ổng mà đi ráo, thì sau này ai lo cho hai cái thân già. Nên ông ráng nghiến răng mà chịu đựng! (Chỉ vì hay nghiến răng như vậy mà nay răng ông rụng gần trọn, không còn… nhai dừa được nữa!). Tiền ky cóp được, ông giao cho vợ ông quản lý hết. Ổng sợ vợ lắm! Tiền của ông, bà giữ tất. Nhưng ông cũng chẳng cần tiền, vì ông có thiếu cái gì đâu. Cái quan trọng ông cần là sự kính trọng của bà con lối xóm mà ông thì chỉ làm cho họ ngán ngại mà thôi! Thậm chí, nhiều lần ông mời họ uống cà phê mà họ cứ lắc đầu cám ơn! Có mời đám giỗ thì may ra họ chìa cho cái phong bì chớ chẳng ai dám léo hánh vào bàn tiệc phủ phê của ông. Vì thế ông buồn lắm! Và buồn thì rách việc…

Ông xây nhà cho to, rồi sơn xanh lè từ trên xuống dưới, nom cứ như cây cổ thụ vậy! Vài hôm sau, đứa mắc dịch nào đó dán vào tường nhà ông hai chữ “lầu xanh” khiến ông tức lộn máu! Thế là bầu đoàn thê tử nhà ông có ý kiến với ông rằng phải cạo ra sơn lại. Lần này, thì màu đỏ chói nhìn cứ như hỏa diệm sơn! Mấy thằng con ông lấy làm đắc ý dù rằng đêm đêm, vợ tụi nó cứ nghiến ngẩm nhà gì mà đỏ chót giống… đít khỉ quá!

Thật ra, ông chỉ muốn chơi trội mà thôi! Cái gì cũng phải nhất thiên hạ mới được, trừ… ngu! Tiền lời cho vay nhé! Đồ xiết nợ nhé! Lại còn… bán dừa nữa thì tiền ông hẳn là nhiều. Ông tậu cả giàn máy to đùng. Mỗi lần nhà ông mở tiệc là y như hàng xóm phải di tản như tránh bom! Đã vậy, thằng út nhà ông còn ngông hơn cha nó nữa! Nó chơi một cái mô tô mà 4 cái pô của nó mỗi lần nẹt lên là y như con nít hàng xóm khóc thét lên vì nghe như cơn bão cấp 15 đang xé toang mái nhà của cả xóm! Thằng cả thì khuân về cái màn hình to chà bá, để hẳn ngoài hàng hiên mỗi khi anh em nhà nó rống lên những bài ca tỉ như “60 năm cuộc đời”. Nghĩa là cây lá cứ thế mà run lên bần bật, và trái tim ai đang thổn thức vì sầu muộn cũng sẽ bàng hoàng mà giật mình tỉnh cả cơn sầu vớ vẩn!

Nhưng cuộc đời đều có cái giá của nó. Oán nhiều thì cũng có lúc phải đền! Chẳng biết xiết nợ kiểu gì mà một hôm cả đám anh em nhà nó được người ta mời ra quán để năn nỉ ỉ ôi qua chầu nhậu tưng bừng. Tuy không ngu nhất, nhưng cái nhà ấy đâu biết mình vừa trúng kế điệu hổ ly sơn của kẻ giấu mặt: Trong khi cả bọn đang ngất ngư dành danh hiệu uống nhiều nhất, phá mồi nhiều nhất, hát… to nhất… thì có mấy thằng dĩ nhiên lạ mặt nhào vô chém ông Loạn loạn xạ, mà kết quả là giờ đây ông chỉ còn ngồi xe lăn vì mấy con dao cứ nhè gân ông mà xắt tới. Chẳng nghi ai được, vì ai nấy đều hiền khô, chỉ có con mắt của bá tánh là làm như muốn reo lên “đáng đời!” mà thôi! Cũng may vợ ông vắng nhà chứ không thì gân của bà cũng chẳng dai hơn của ông đâu! Mà cũng lạ, mấy đứa con khai với cảnh sát rằng mẹ chúng mất quá trời tiền, trong khi người ta lại cho rằng, mấy thằng cô hồn chỉ chém ổng thôi rồi rút êm như ma vậy. Cho nên, có người mới ngứa miệng:

- Uiz, ai mà lấy của nhà đó được. Chắc anh em nhà nó thừa nước đục bèn rinh đi mỗi đứa một mớ chứ còn gì! Đó! coi mặt mũi thằng nào thằng nấy tươi rói cứ y như bố nó mới lấy vợ hai. Chúng chẳng có vẻ gì mà u với sầu! Đó! Con vợ thằng Tư mới sắm cà rá đeo trĩu cả tay kìa, tiền đâu mà nó có trong khi cả ngày nó chỉ la cà nhậu nhẹt, chứ có làm… cái con mẹ gì đâu…

Nghe cũng có lý, nhưng ai biết cái chuyện bên trong như thế nào. Tuy vậy, rõ rành rành là cái nhà đó vẫn tỉnh như ruồi vậy! Trừ ông Loạn suốt ngày ưu sầu trên xe lăn ra, còn thì cả cái nhà ma ám ấy vẫn không bỏ cái tính dị hợm. Cái gì cũng muốn hơn thiên hạ. Họ chỉ muốn toàn thể loài người nếu không lác mắt thì cũng nổ đom đóm mà coi họ diễn tuồng. Đám cưới con thằng cả dường như là đám cưới ăn dai nhất, có nhiều quý bà mặc đồ đỏ nhất, và dĩ nhiên là chửi thề nhiều nhất mới oách chứ!

Thôi thì kệ cha chúng đi! Lên voi riết rồi có ngày xuống chó. Cái nhà sơn đỏ choét ấy từ từ phai màu với nắng mưa. Cái TV bự chảng biến đâu mất tiêu mà chẳng con cháu nào trong nhà nhận mình là thủ phạm đục khoét, dù rằng có người nhìn thấy cái TV ấy đang trong tiệm cầm đồ nọ! Giàn máy ông ổng lúc trước giờ đầy bụi! Mấy đứa cháu gỡ đứa thì cái loa, đứa thì cái thùng chỉ để làm ghế ngồi! Dừa bán chẳng ai mua. Dao chặt dừa và chặt người bây giờ xếp xó, chờ ve chai đến lượm! Bà Loạn ra tận ngoại thành chăn heo thuê! Cả nhà tứ tán, chỉ còn ông Loạn suốt ngày ư ử mà nhớ lại thời xưa oanh liệt. Và thằng cháu út ít ụt ịt đang học quản trị kinh doanh cứ ngẩn người ra nhìn ông nội. Chẳng biết khi học xong, cái nhà ma này có còn thứ gì để nó thực hành quản trị không nữa…

Bây giờ, lão Loạn mới thấy buồn. Buồn thật sự!

LAM TRẦN 02.04.2015


Phụ Bản III

AI NÓI “HÔN NHƠN LÀ MỒ CHÔN CỦA ÁI TÌNH” LÀ SAI… Bác sĩ David Mace, Tổng Thơ ký Quốc gia Hôn nhơn Hướng dẫn ở Anh khuyên bạn

HÔN NHƠN LÀ MỘT SINH VẬT

CẦN PHẢI BIẾT LÀM CHO NÓ SỐNG

VÀ LỚN LÊN ĐỂ LUÔN LUÔN ĐỔI MỚI

MẶC THÙY TRANG

(Woman’s Home Companion)

Các lớp gia đình mục vụ đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng. Không phải những điều chỉ dạy không có kết quả. Có điều đáng buồn là có những sự tan rã, xé giao kèo chung sống của những đôi vợ chồng làm nhiều người thắc mắc.

Có ai đã nghĩ là những chuyện ly thân hay ly dị chỉ là những hình ảnh nổi bật nhưng không quan trọng bằng sự thật ẩn khuất bên trong của người vợ hay người chồng phải chịu đựng nhau mà không nói ra, không tìm được lối thoát vì không dám nghĩ đến chuyện ly thân hay ly dị?

Không phải họ ngu, không biết sống cho bản thân họ nhưng họ không thể ích kỷ. Họ tương nhượng nhau vì nghĩ đến hạnh phúc, tương lai của con cái. Trước mắt họ đã từng thấy thảm cảnh: “Vợ chồng ly thân hay ly dị rồi, con cái ở với ai…”.

Để giải quyết tình trạng đó, bác sĩ David Mace đã nhắc nhở một điều là tất cả những người mới lập gia đình, những người đã có gia đình từ lâu, đã có con cái lủ khủ phải biết giữ cho sống mãi tình yêu ban đầu.

Nói hôn nhơn là mồ chôn ái tình là lầm to

Hôn nhơn cần phải được coi như là một sinh vật. Hôn nhơn chỉ có thể sống được là khi nào cả vợ lẫn chồng đều biết làm cho nó luôn luôn mới lại và lớn thêm lên. Nếu chúng ta khước từ, không dành cho nó tất cả sự chăm nom săn sóc và bảo vệ đúng mức, nó sẽ tàn tạ như cơ thể chúng ta, sẽ gầy mòn, suy yếu vì chúng ta không biết giữ gìn vệ sinh và bồi dưỡng hằng ngày để bù đắp lại những lao lực đổ ra khi mưu tìm cuộc sống.

Đối với những cuộc hôn nhơn gượng ép, không phải lấy nhau vì tình cũng có thể có hy vọng tạo được hạnh phúc nếu cả vợ lẫn chồng chịu nghĩ ngợi một cách chín chắn về trường hợp đã kết hợp với nhau thành gia đình. Nhứt là cần gạt bỏ trong đầu óc ý nghĩ hôn nhơn là thiên đường hạnh phúc của vợ chồng, không phải vướng bận những phiền toái của cuộc đời. Đành rằng chúng ta tin tưởng là khi có vợ, có chồng chúng ta sẽ được hạnh phúc thế nào đó, sẽ gặt hái được những điều ưng ý, những sự thỏa mãn nào đó nhưng chúng ta không thể không nghĩ đến những khó khăn, những điều không ưng ý có thể đến với chúng ta. Do đó, phải quan niệm là không có việc gì lại tự nhiên đến với chúng ta một cách tốt đẹp mà chúng ta không phải cố gắng xây dựng, đào tạo, dọn đường cho nó đến. Phần thưởng không phải là một sự cho không mà là kết quả của một sự cố gắng.

Hôn nhơn là một sinh vật?

Phải, hôn nhơn là một sinh vật. Khi biết như vậy rồi chúng ta phải cố gắng luôn luôn làm sao cho nó mỗi ngày một mới. Ở đời, nói sống là phải nghĩ đến chuyện lớn lên. Và nói lớn lên là phải nói đến chuyện biến đổi.

Khi chúng ta gặp lại một bạn cũ đã xa cách mười năm, nếu thấy người ấy không có gì thay đổi, chúng ta có thể nghĩ là đời người ấy đã gặp phải thất bại.

Tại sao?

Cuộc sống đã không lưu lại dấu vết gì ở thân xác người ấy. Kinh nghiệm, khắc khổ hay vinh quang cũng không làm nẩy nở và phát triển nhân dáng để chứng minh là đã được thăng tiến trong cuộc sống.

Hôn nhơn cũng có thể như người ấy, đông lạnh lại trong một tình trạng thô lậu bất di bất dịch. Sự thất bại của nhiều lứa đôi trong hôn nhơn thường thường không ngoài trạng thái không thay đổi do sự khiếm khuyết sáng kiến làm mới lại, sống lại không khí gia đình. Những sự buồn chán này tuy không đưa họ đến trước một phiên tòa xin xé giao kèo chung sống nhưng cũng triền miên đè nặng trên tâm hồn vợ lẫn chồng.

Phải thành thật khen ngợi, bái phục những đôi vợ chồng đã can đảm chịu đựng không khí nghẹt thở đó để bảo vệ hạnh phúc con cái. Quả thật là một sự hy sinh cao quí hiếm có trong thời buổi này.

Nhưng nếu họ không bị quẩn trí và thủ tiêu tinh thần tranh đấu, rút lui vào cái vỏ hy sinh, họ sẽ thấy là tình trạng không có gì đáng gọi là tuyệt vọng cả. Người ta vẫn còn cả trăm ngàn biện pháp cứu vãn kia mà!

Có cần thiết thay vợ, đổi chồng, bước đi bước nữa?

Việc ly dị của đôi vợ chồng chưa có con cái trong quan niệm sống hiện nay trong xã hội chúng ta không phải là chuyện khó. Nhưng hãy nên nghĩ kỹ là có cần thiết thay vợ đổi chồng bước đi bước nữa mới tìm được hạnh phúc thật sự? Hay là tìm cách hàn gắn, thay đổi nếp sống để làm lại cuộc đời mới như bắt đầu một sự bắt đầu với người bạn đường cũ của mình?

Vấn đề không phải là vô lý đâu. Một đôi vợ chồng đang trên bờ ly dị vẫn có thể tránh đổ vỡ và tìm được hạnh phúc nếu họ thành thật muốn.

Đành rằng không ai ăn cơm nhà nói chuyện người mãi làm gì nhưng cuộc đời trai bỏ vợ, gái bỏ chồng cũng không hay ho gì đó.

Trong tất cả mọi người đàn ông hay đàn bà đều có những năng lực tiềm ẩn mà ít có khi thể hiện toàn diện. Trong tình chồng vợ, có hàng ngàn, hàng ngàn cách yêu nhua. Cũng có vô số đề tài bàn bạc, thảo luận gây hứng khởi cho nhau thật mới mẻ mà cả vợ lẫn chồng đều không biết để khai thác làm căn bản cho nếp sống sôi động, vui tươi trong gia đình.

Nhưng điều tối quan trọng là phải có sự cố gắng và chân thành hợp tác của hai vợ chồng trong việc duy trì, hàn gắn và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Mỗi ngày một vấn đề, một khía cạnh sống mới, một ý nghĩa, một chương trình đem ra nghiên cứu, thảo luận với nhau.

Thử hỏi một nếp sinh hoạt như vậy, một không khí tương thân, tương ái để tìm đến điểm tương đồng, tương xứng với nhau như vậy làm sao có thể sanh chán nản hoặc có kẽ hở để lọt vào những chuyện bá vơ có thể gây hiểu lầm và bất hòa với nhau được?

Cái nguy hại nhứt cho các gia đình là sự thiếu sáng kiến, không chịu làm một cái gì để thay đổi không khí nặng nề, nhàm chán quen thuộc. Nếu các ông chồng, bà vợ muốn ly dị nhau chịu bỏ chút thì giờ nghĩ đến chuyện duy trì cuộc sống bên nhau như đã bỏ công tìm cách xa nhau, chắc chắn là sẽ có thể hàn gắn lại những gì mà họ tưởng đã đổ vỡ và tìm lại được hạnh phúc.

Một vị hôn phu khéo ví von

Trong hồ sơ tài liệu của National Mariage Guidance Council, một cơ quan chánh thức hướng dẫn hôn nhơn ở Anh mà bác sĩ David Mace là Tổng thư ký có bức thư của một nhà giải phẫu danh tiếng gởi cho vị hôn thê như sau:

“Không thể nào gieo mãi trên một mảnh đất một thứ hột giống duy nhứt hết năm này đến năm khác. Thay đổi và làm mới lại luôn là điều rất cần thiết. Nếu không, tất cả màu mỡ của đất sẽ tiêu tan hết một cách nhanh chóng. Điều tốt đẹp, toàn mỹ có thể có trong một giai đoạn nào là khởi điểm của cuộc phối hợp giữa chúng ta. Nhưng sau đó sẽ là tình bạn, sự trung thành rồi là sự cảm thông tư tưởng với nhau. Những chất liệu căn bản tương tợ trong cuộc chung sống lứa đôi sẽ trở thành nguồn suối vô tận năng lượng thí nghiệm mới. Nhưng sự thành công chỉ sẽ mỹ mãn khi nào chúng ta tự biết đào sâu trí óc tìm tòi đem lại những mới lạ cho nhau. Chúng ta cũng cần phải biết kiểm điểm, dự trù cứu xét những vấn đề mới, hướng dẫn những cuộc đổi thay và theo dõi, thực hiện đến nơi đến chốn.

Đừng vội thất vọng

Trong gia đình, nếu bạn thấy những triệu chứng bi thảm, tai hại có thể đưa đến sự tan rã, đổ vỡ; điều trước nhứt là khuyên bạn hãy bình tĩnh, đừng vội thất vọng. Chưa chắc là hôn nhơn của bạn không tốt đẹp đâu.

Một khi mà bạn quyết tâm, thật sự quyết tâm thì tất cả đều có thể biến đổi được. Và hôn nhơn sẽ sống lại, lớn mạnh lên y như một sinh vật tăng trưởng, phát triển hay một thân cây vươn mình cao lớn với tàng lá xum xuê đem lại bóng mát và sự yên vui cho gia đình.

Nên cũng ở bạn mà hư cũng ở bạn. Do đó, chính bạn phải là người nỗ lực vượt mọi khó khăn để tự tạo một sức mạnh tinh thần và những phương tiện làm lại nếp sống mới, ngăn chận ý nghĩ đen tối… ly dị.

HOÀNG KIM THƯ st.

ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN

VỀ HÀN QUỐC

Từ lâu tôi đã nghe tới 4 con rồng Châu Á, nhưng chưa có cơ hội thăm “Rồng” xem nó thế nào? Tại sao cũng là những nước Châu Á, điều kiện tự nhiên thậm chí còn không thuận lợi bằng nước mình, mà chỉ trong một thời gian ngắn họ lại có sự biến đổi tuyệt vời như vậy. Cội rễ để thành công của họ ở đâu?

Muốn hiểu rõ và để khám phá mình thì cần phải thoát khỏi hệ thống của mình. Cứ ở bên trong làm sao ta có thể thấy được điều gì đang xảy ra ở bên ngoài. Nay nhân đi thăm con học bên Seoul Hàn Quốc tôi mới có dịp thăm một trong 4 con rồng Châu Á. Bởi thời gian ngắn ngủi 3 tuần lễ nên tôi phải tranh thủ đi nhiều và không chỉ là người tham quan bình thường, tôi cũng khám phá ra nhiều điều thú vị. Người Hàn Quốc đã suy nghĩ và hành động ra sao để trở thành “Rồng”?

Lịch sử Hàn Quốc cũng từng trải qua bao gian khổ, mất mát, đau thương. Sau 3 năm chiến tranh Nam-Bắc triều. Hàn Quốc bị tàn phá dữ dội, nhiều thành thị chỉ còn như một đống tro tàn. Nhân dân nghèo đói đến cùng cực, mãi tới những năm 1960 Seoul còn kém thua Sài Gòn…

Người Hàn Quốc đã không cam chịu đầu hàng số phận, và luôn ấp ủ ước mong xây dựng một đất nước Hàn Quốc cường thịnh. Tuy xuất phát điểm còn thấp hơn nhiều nước khác nhưng chính phủ và nhân dân Hàn Quốc đã đồng thuận xây dựng một nền kinh tế tự chủ, bớt dần sự lệ thuộc vào viện trợ của nước ngoài, phát triển công nghiệp, kích thích tiêu dùng, cho hàng ngoại là xa xỉ, không hô khẩu hiệu. Kết hợp giữa tăng trưởng và dân chủ, giữa phát triển kinh tế và chăm sóc hiệu quả đời sống nhân dân, lấy giáo dục làm bệ phóng đưa cả dân tộc đi lên.

Thực tế đã chứng minh, quá khứ dù vĩ đại đến mấy nhưng nếu hôm nay chúng ta không có tinh thần tiến thủ, tìm tòi sáng tạo, vượt khó vươn lên thì vinh quang ngày hôm nay sẽ nhanh chóng trở thành quá khứ.

Điều gì có thể làm cho đất nước này phát triển cường thịnh còn nước khác bị bại vong? Mọi việc thành bại đều phụ thuộc vào cách suy nghĩ và hành động của mỗi người, mỗi quốc gia. Chúng ta thấy rõ có thể dùng sức mạnh (bạo lực) để giành lấy chính quyền nhưng không thể dùng sức mạnh để làm cho người dân khá lên được. Vậy cội rễ để Hàn Quốc thành công nằm ở đâu? Nó nằm ở chính những nhân vật chủ chốt của doanh nghiệp hay quốc gia đó có tinh thần tiến thủ và hành động ra sao mà thôi.

Họ nhận thức rằng: Nếu bằng lòng với hiện tại, thỏa mãn với thành quả nhỏ bé so sánh với chính mình trước đây thì tụt dốc là cái chắc. Mọi thứ đều có thời, chỉ muốn giữ mình, né tránh những việc khó thì chẳng bao giờ có việc dễ cả. Nếu tư duy lý luận bảo thủ không phù hợp với thực tiễn khách quan (luôn biến đổi), máy móc, công thức, cứng nhắc thì lúc gặp cơ hội tốt sẽ bị bỏ lỡ. Vì tư tưởng lười biếng không tìm kiếm mới không thấy đường. Với tinh thần quyết tâm tiến lên phía trước, nếu không thấy đường thì làm đường, có ý chí tiến thủ như vậy thì không khó khăn nào là không thể vượt qua. Nhiều người khi chiếm lĩnh được ghế cao rồi thì lo hưởng thụ. Nhưng tương lai đã báo trước cho họ thấy sự xa xỉ sẽ mang lại hủ bại. Nước nào có lãnh đạo xa xỉ thì nước đó tất bại vong.

Lý do mà người Hàn Quốc được hoan nghênh, nền kinh tế Hàn Quốc phát triển và trưởng thành như ngày nay là dựa vào ý chí bất khuất của chủ nghĩa sáng tạo, vào tinh thần tiến thủ, sự cống hiến hết mình của tầng lớp công nhân cần cù và ưu tú. Tất cả chỉ bằng sức người. Cũng như Singapore, Hàn Quốc không có tài nguyên, chẳng có vốn. Từ một nền kinh tế nghèo nàn mà phát triển lên được, đó là nhờ yếu tố con người, dựa vào tài nguyên con người. Thực tế cho thấy tài nguyên tự nhiên của đất nước thì có hạn, nhưng sức sáng tạo và sự nỗ lực của con người là vô hạn. Một đất nước phát triển qua sự nỗ lực của bản thân, tự lực tự cường thì sẽ vững bền và không bị suy tàn. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc và có giá trị của Hàn Quốc (mà các nước chưa phát triển có thể học tập).

Họ cũng nhận thức sâu sắc: Xã hội tiên tiến phải dựa trên tư tưởng bình đẳng. Sự ổn định không phải và không thể dựa trên sự áp đặt và khống chế mà phải dựa trên nguyên lý tự động, mang tính mềm mại của cơ chế thị trường. Luật nào làm hại cho đất nước cũng chính là luật ác, chính phủ không thể tuyên truyền khoa trương quá đáng.

Khi xây dựng chính sách nhất định phải tiếp cận lý luận và thực tiễn. Chính phủ phải tạo ra môi trường thực hiện chính sách. Tạo bầu không khí tích cực cho những doanh nghiệp và cá nhân, có thể sống làm giàu, nhờ phát huy sức sáng tạo và năng suất lao động, trong sạch và chân chính của mình. Chính sách phải thực sự được nhân dân thừa nhận và tin tưởng thì hiệu quả của chính sách mới phát huy được tối đa. Tức phải thực hiện dân chủ thực sự thông qua việc mở ra thể chế dân chủ chủ đạo.

Trong hoàn cảnh toàn cầu hóa, hội nhập với thế giới thì Hàn Quốc còn phải cạnh tranh với quốc tế nên phải có những quyết định nhanh nhạy, chính xác, đưa ra các chính sách thích ứng, phù hợp với tình hình mới (dù là doanh nghiệp hay đất nước). Mọi người từ lãnh đạo, người sản xuất đến người tiêu dùng v.v… phải hợp lý hóa công việc, tự do hóa trong trách nhiệm, giới hạn nhiệm vụ của mình sao cho đạt được năng suất cao. Doanh nghiệp tự thay đổi theo sự biến động tình hình kinh tế thế giới. Chính phủ không cần can thiệp quá sâu vào việc của doanh nghiệp vì như thế khiến doanh nghiệp mất dần tinh thần, sức sống tự chủ làm trì trệ nền kinh tế đất nước. Mặt khác đẩy mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội sâu sắc thêm. Nếu vật giá tăng, tiền thuế cao sẽ khiến cho người dân vốn là nguồn sức mạnh để phát triển nền kinh tế đất nước, sẽ mất đi niềm tin, khát vọng và ý chí.

Hàn Quốc xuất phát điểm từ một nước lạc hậu, kém phát triển, muốn đuổi kịp các nước phát triển thì trong lúc họ bước đi, chúng ta phải chạy mới kịp được họ. Muốn làm được thì trước hết phải lột bỏ lối suy nghĩ cũ kỹ (tức đổi mới tư duy thực sự), không lệ thuộc cứng nhắc vào các nguyên tắc đã lỗi thời, kiểu sách vở. Đồng thời xây dựng con người hiện đại, tức con người thích ứng, nhanh nhạy với yêu cầu của xã hội hiện tại. Phải làm cho nhân dân cả nước nghĩ rằng họ có thể làm được và làm tốt cho đất nước mình giàu mạnh, phồn thịnh.

Ví dụ: Ông tổng thống lúc đó (là Pắc Chung Hi) đã ra quyết định dũng cảm bảo lãnh vay vốn ngân hàng cho các nhà máy không có vốn, không có kinh nghiệm, cũng không có uy tín cá nhân, mà không cần thế chấp, chỉ căn cứ vào bản kế hoạch kinh doanh khả thi của họ.

Hàn Quốc đã làm cho người dân thấy sống không phải để ăn mặc cho sang trọng mà quan trọng là họ có ảnh hưởng đến người khác như thế nào? Dùng tiền để chứng tỏ mình, tự hào về tiền là sai lầm của con người. Không thể vì tiền mà làm tiền bằng mọi giá.

Nhìn thấu đáo sự việc sẽ thấy. Doanh nghiệp đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của đất nước, xem trọng vật chất hơn giá trị tinh thần thì không thể thành công được. Còn nếu chỉ nhấn mạnh phương pháp tìm kiếm lợi ích tập thể thì sức sáng tạo và năng suất lao động của doanh nghiệp sẽ có khả năng đi xuống. Ngược lại chỉ quan tâm tới lợi ích cá nhân mà không chú ý tới tính cộng đồng thì sẽ có khả năng mang đến sự rạn nứt trong xã hội và thiệt hại cho đất nước. Hàn Quốc đã lấy nguyên lý của kinh tế thị trường để tìm phương cách điều chỉnh vấn đề phức tạp này một cách đúng đắn. Vấn đề đặt ra là mâu thuẫn giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất giữa cơ cấu tổ chức và cách vận hành của nền kinh tế. Giữa chính phủ và doanh nghiệp phải có sự rạch ròi về trách nhiệm và vai trò của mình. Chính phủ làm việc theo chức năng của chính phủ, không can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Chính phủ đưa ra phương hướng phát triển kinh tế quốc dân. Chính phủ phải thực sự minh bạch và công minh chính đại, giữ vai trò đoàn kết và hợp tác với các doanh nghiệp và phải chấm dứt nền kinh tế chỉ thị.

Đồng thời cũng cần tin tưởng ở dân, vì đã là công dân của đất nước nói chung mọi người đều mong muốn đất nước mình phồn vinh nên mang sẵn trong mình một sự nhiệt tình và ước mong được đóng góp sức nhỏ bé của mình với đất nước, cho dù ở lĩnh vực nào.

Tất cả mọi người đều phải trong sạch thì xã hội mới trong sạch được. Nếu tất cả đều trong sạch thì ai cũng muốn có ích cho đất nước, chuyển mong ước thành khát vọng mãnh liệt tạo sức mạnh đoàn kết, quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh.

Nếu chính phủ không trong sạch thì tiêu cực sẽ lan rộng sang các doanh nghiệp và nhân dân trên tất cả mọi lĩnh vực và sự bất chính trở thành một phong trào. Một xã hội như vậy làm sao có thể phát huy được năng lực của toàn dân. Những khẩu hiệu hay lời kêu gọi xây dựng một xã hội trong sạch sẽ chỉ là những lời trống rỗng.

Cứ nhìn Nhật Bản, Singapore… họ phát triển phồn vinh và hùng mạnh vì ít có tiêu cực, chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân trong sạch. Tất cả các nhân viên quản lý các cấp không bao giờ làm khó để kiếm chác nên công trình chất lượng và giá rẻ. Họ hơn Hàn Quốc là chế độ chính trị và xã hội trong sạch, từ đó phát huy được hết năng lực của mình, đưa năng suất lao động lên cao, hàng hóa không gặp tổn thất không đáng có, ngân sách nhà nước không bị lãng phí nên sức cạnh tranh được nâng cao, người dân cảm thấy tự hào.

Nếu chủ doanh nghiệp và chủ đất nước lành mạnh thì doanh nghiệp cũng như đất nước đó sẽ lành mạnh và ngược lại. Có trường hợp chính phủ và quan chức lôi kéo, dụ dỗ doanh nghiệp móc nối với chính phủ để bòn rút các doanh nghiệp quốc doanh, làm giàu bằng đặc quyền đặc lợi. Trong tình hình luân lý xã hội (Hàn Quốc thời đó) chưa được thiết lập chắc chắn, các doanh nghiệp khó giữ được mình “trong sạch” cũng là điều dễ hiểu.

Mặt khác, nếu phát triển kinh tế quá nhanh tất sẽ thiếu nhân lực, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật và năng lực kinh doanh. Vì vậy để có sức cạnh tranh thì (Hàn Quốc) phải đầu tư vào nghiên cứu, đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng nhân tài và tổ chức sản xuất tốt hơn người.

Nền móng của sự phát triển kinh tế phải đảm bảo chắc chắn nguồn nguyên liệu. Muốn ổn định nguồn nguyên liệu là phải có nguồn “đa phương” và đó cũng là điều kiện cần của một nước công nghiệp.

Cũng có nhiều nước giàu tài nguyên nhưng suy nghĩ cứng nhắc, không huy động được đồng vốn trên thị trường quốc tế, không biết khai thác tiềm năng của mình nên không phát triển mạnh mẽ được.

Đồng thời với phát triển kinh tế phải kết hợp với giáo dục ý thức, nhân cách làm người, hiểu được: Tiền và địa vị không phải là mục đích, cũng không phải là hạnh phúc của con người. Giáo dục tinh thần tự lực, tự cường, không lệ thuộc ngoại bang. Chống kiêu ngạo, tham nhũng, lạm dụng quyền lực, bất bình đẳng, tự mãn, xa dân, thiếu trình độ, lãnh đạo yếu kém và suy thoái đạo đức. Xây dựng nhà nước pháp quyền, trọng dụng nhân tài thực sự, khéo léo tiếp thu tinh hoa về vật chất và tinh thần của nhân loại.

Sau cùng nếu không có nền chính trị ổn định và guồng máy điều hành nhà nước lành mạnh và hiệu quả thì sẽ không thành công.

Trên đây là vài nét tìm hiểu của tôi về những trải nghiệm muôn màu của người Hàn Quốc trong quá trình phát triển đất nước lột xác thành “Rồng”.

LÊ MINH CHỬ

Những người già hối tiếc

điều gì nhất trong đời?


Ảnh minh họa. (Nguồn: Wiki)

“Khi nhìn lại cuộc đời mình, bạn hối tiếc điều gì nhất?”

Theo Business Insider, đây là câu hỏi mà Karl Pillemer, giáo sư về phát triển con người tại trường Đại học Cornell (Mỹ), tác giả của tập sách “30 bài học của cuộc sống: Lời khuyên từ những người thông thái nhất nước Mỹ”, đã hỏi hàng trăm người cao tuổi trên 65 tuổi trong chương trình nghiên cứu Legacy Project (tạm dịch: Dự án di sản) của Đại học Cornell.

Tình yêu, sự nghiệp, con cái v.v… không phải là câu trả lời mà giáo sư Pillemer được nghe thấy thường xuyên nhất, mà thay vào đó lại là câu:

“Tôi ước rằng tôi đã không dành quá nhiều thời gian của cuộc đời mình chỉ để lo lắng”.

Nhiều năm trước, khi giáo sư Pillemer, một chuyên gia lão khoa nổi tiếng thế giới gặp bà June Driscoll, một người phụ nữ đặc biệt. Bà Driscoll lúc nào cũng vui vẻ khi ở tuổi 90 và đang sống tại một nhà dưỡng lão. Bà Driscoll nói với giáo sư: “Sống vui vẻ, hạnh phúc nhất có thể chính là trách nhiệm của tôi, ngay tại đây, ngay hôm nay”.

Câu nói đó đã truyền cảm hứng cho Pillemer đi tìm câu trả lời cho việc làm sao một thế hệ trải qua nhiều mất mát đau thương, qua các sự kiện lịch sử thảm khốc và đau ốm lại có thể là những người hạnh phúc nhất. Ông muốn truyền đạt trí tuệ này lại cho thế hệ trẻ, những người dường như quá mong manh, khi chỉ một sự việc không vừa ý nhỏ nhoi cũng khiến họ mất phương hướng đến nỗi tự kết thúc cuộc đời mình.

Năm 2004, giáo sư Pillemer khởi động dự án Legacy Project và đã hỏi hơn 1.500 người Mỹ trên 65 tuổi về những bài học quan trọng nhất mà họ học được trong suốt cuộc đời mình. Trong cuốn “30 bài học cuộc sống”, ông gọi những người mình phỏng vấn là “chuyên gia của cuộc đời” vì chính họ, qua những hạnh phúc và khổ đau, thành công và thất bại đã nắm giữ những bài học trí tuệ nhiều hơn bất cứ nội dung của cuốn sách dạy kỹ năng sống nào.

Giáo sư Pillemer đã cho rằng những câu trả lời như “ngoại tình, công việc kinh doanh tồi tệ hoặc nghiện ngập” là những điều hối tiếc nhất trong cuộc đời của những người cao tuổi này.

Do đó, ông đã sửng sốt khi nghe đi nghe lại một câu trả lời: “Tôi ước rằng mình đừng lo lắng nhiều quá” và “Tôi hối tiếc vì đã lo sợ quá mức về tất cả mọi thứ”.

Trong cuốn “30 bài học cuộc sống”, Pillemer nói rằng ông không thể không ngạc nhiên về bài học này. “Những người này đều trải qua các thời kỳ khó khăn trong lịch sử và các bi kịch của cuộc đời, tôi tưởng rằng họ được phép lo lắng ở mức độ nào đó”.

Những người hầu như đã đi đến cuối cuộc đời này giải thích rằng thời gian là tài sản quý giá nhất của con người. Việc lo lắng về những điều có thể không bao giờ xảy ra, hoặc lo sợ về những thứ chúng ta không thể kiểm soát được là một sự lãng phí tài sản này một cách xuẩn ngốc.

Hành trình trên trái đất này của mỗi chúng ta là hữu hạn. Nếu lo lắng quá nhiều, bạn không còn mấy thời gian để tận hưởng, trải nghiệm và hạnh phúc. Vậy làm thế nào để giảm bớt thời gian lo lắng trong cuộc sống này? “Những người thông thái nhất nước Mỹ” nói với giáo sư Pillemer một số cách như sau:

Hãy sống từng ngày, đừng luôn nghĩ tới tương lai quá xa

Khi bạn sống và thấy mình lo lắng quá nhiều, hãy dừng lại và tự nhẩm “Điều gì rồi cũng sẽ qua”.

Sự việc bạn đang phải đối mặt, dù khó khăn, đau khổ đến đâu rồi cũng sẽ trôi đi. Bạn không thể hủy hoại cuộc sống của mình bằng những suy nghĩ lo sợ được.

Tuy nhiên, chắc chắn có những ngày u tối mà bạn cảm thấy lo lắng khủng khiếp, không cách nào ngừng lại. Lúc đó hãy cố nghĩ rằng: lo sợ không có tác dụng gì tốt cả. Nó giống như việc tự mình uống thuốc độc mà hy vọng tên hàng xóm đáng ghét sẽ chết vì đau bụng. Hãy gạt nó ra khỏi suy nghĩ hết mức có thể.

Sống vui vẻ từng ngày, đừng nghĩ đến tương lai xa xôi ảm đạm. Việc lập kế hoạch là tốt nhưng không phải lúc nào mọi việc cũng xảy ra theo ý muốn của chúng ta. Do đó, điều quan trọng nhất là hãy sống trọn vẹn từng ngày.

Thay vì lo sợ vô cớ, hãy hành động

Nếu bạn thấy mình hay có những nỗi băn khoăn lo sợ, hãy tìm hiểu về nó. Ít nhất tìm hiểu nguyên do mà bạn lo lắng là gì, xác định nó rõ ràng. Chỉ việc ngồi lại và phân tích suy nghĩ tiêu cực của bản thân cũng giúp bạn gạt bớt được những muộn phiền vô lý. Tất nhiên, có những lo lắng hoàn toàn hợp lý. Khi đã xác định được chúng, hãy hành động, bắt tay vào làm cái gì đó thay vì ngồi yên và lo sợ.

Học cách chấp nhận một cách tích cực

Bất chợt có điều gì đó xảy ra với bạn. Ai đó làm bạn tổn thương. Bạn thấy tức giận, bạn muốn trả thù. “Cô ấy không nên làm như thế với tôi, tôi sẽ nói cho cô ta như thế này, như thế này…”. Quan hệ nhân duyên của con người vô cùng phức tạp. Bạn chẳng thể nào biết được nguyên nhân chính xác tại sao tự dưng một người lại rời bỏ bạn, làm bạn bực mình hay bẽ mặt. Trong trường hợp này, những người cao tuổi từ nhà dưỡng lão sẽ mỉm cười và nói rằng: “Không biết bao nhiêu lần tôi đã tự cảm ơn bản thân vì đã không nói lời nào”.

Ít nhất hãy dừng lại và đừng làm gì khi tức giận. Bạn có thể nói những lời nặng nề, gây thương tổn đối phương, nhưng sau đó thì sao? Hãy nhớ rằng bạn chỉ có thể điều khiển suy nghĩ của mình chứ không thể thao túng tình cảm, tư duy hay cuộc đời của người khác được.

Hãy chấp nhận những thực tế mà chúng ta không có thẩm quyền thay đổi, gạt đi những suy nghĩ tiêu cực, nhanh chóng lấy lại cân bằng và tiếp tục trải nghiệm cuộc sống.

Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao. Thù hận hay yêu thương, hạnh phúc hay thảm hại đều chỉ là những sự lựa chọn.

Minh Trí tổng hợp

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.


Phụ Bản IV

THẰNG NHÓC

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

NHỮNG NGƯỜI LẠ MẶT

Thiện cảm của tôi đối với Robinson không vì một chốc lát mà nguội lạnh được. Đúng vào lúc đó, thì cậu Baptiste đem cho tôi một con két, vì cậu đã chán ngán nuôi nó rồi. Con két nầy thay thế cho tên mọi Venderedi. Tôi nhốt nó trong một cái lồng đẹp đẽ, và đặt để nó tận trong chòi trú ẩn của tôi; và đây nầy, tôi giống ông Crusoé hơn bao giờ hết. Tôi trải qua cả ngày với con gia cầm lý thú nầy, để dạy cho nó nói chuyện:

- Robinson, Robinson, tội nghiệp cho Robinson.

Bạn có biết không, cậu Baptiste cho tôi con két nầy, là vì nó nhiều chuyện quá, làm rầy tai cả ngày. Vậy mà bây giờ, về ở với tôi thì nó câm họng như hến. Không phải chỉ có câu nói: “Tội nghiệp cho Robinson”, mà tôi còn dạy cho nó nhiều câu nói khác nữa... Tuy nhiên, nó vẫn không chịu nói tiếng nào. Mặc dù vậy, tôi quý mến nó vô cùng, và tôi chăm sóc nó rất kỹ lưỡng.

Chúng tôi sống như vậy đó, con két và tôi trong một sự cô đơn khắc nghiệt, cho đến khi, có một biến cố lạ lùng xảy ra.

Ngày hôm đó, tôi rời chòi trại rất sớm. Tôi trang bị vũ khí đến tận răng, để lên đường đi khám phá xuyên qua hải đảo của tôi.

Thình lình, tôi nhìn thấy một đoàn 3, 4 người đi lại về phía tôi. Họ vừa đi vừa nói to, và chỉ chỏ lăng xăng. Ối chao, có người lạ trong hải đảo của tôi. Tôi chỉ có kịp thời gian để nhảy núp vào một bụi rậm, mà còn phải nằm sấp xuống nữa kìa. Đoàn người lạ mặt đi qua gần mà chẳng trông thấy tôi. Tôi phân biệt được rõ ràng tiếng nói của chú gác cổng Colombe, điều nầy làm cho tôi yên tâm hơn.

Nhưng mà cũng vậy thôi.

Vừa lúc đoàn người đi qua khỏi, tôi vội bước ra khỏi nơi ẩn nấp. Tôi rón rén đi men theo họ, để xem coi có việc gì xảy ra.

Những người lạ mặt nầy ở lại rất lâu trong hải đảo của tôi. Họ đi xem từ chỗ nầy đến chỗ khác, trong mọi chi tiết. Tôi cũng thấy họ đi vào hang động của tôi, họ dùng cây gậy mà đo độ sâu đại dương của tôi, thỉnh thoảng họ lại lắc đầu. Tất cả sự lo ngại, là họ sẽ tìm ra nơi trú ẩn của tôi. Thượng Đế ôi, tôi phải làm sao đây?

May mắn thay, không có chuyện chi xảy ra, và chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ thì họ rút lui, mà không nghi ngờ tí nào rằng hải đảo có người ở.

Khi họ đã đi rồi, tôi liền chạy ẩn vào chòi trại của tôi, và trải qua suốt ngày để tự hỏi coi những người lạ nầy là ai, và họ đến đây để làm gì? Họ đến đây để làm gì à, rồi tôi cũng sẽ biết thôi.

Vào buổi cơm chiều, ông Eyssette long trọng tuyên bố rằng ông đã bán đi cái xí nghiệp rồi, và trong vòng một tháng chúng tôi sẽ di chuyển đến thành phố Lyon, nơi mà chúng tôi sẽ định cư ở luôn.

Đó là một cú đánh đau điếng.

Tôi ngỡ là trời sập xuống. Cái xí nghiệp đã bị bán đi rồi thì còn gì là hải đảo của tôi, còn gì là chòi trại của tôi.

Chao ôi, hải đảo của tôi, chòi trại của tôi, mà ông Eyssette buộc lòng phải bán hết đi. Đành phải xa lìa tất cả rồi. Tôi phải khóc biết là bao nhiêu.

Trong vòng một tháng, người ta lo thu xếp đồ đạc. Những tấm gương, những chén dĩa phải được đóng gói cẩn thận.

Tôi thì đi dạo buồn bã và lẻ loi trong khu xí nghiệp quý mến của tôi. Tôi không còn lòng dạ nào mà chơi đùa nữa. Tôi ngồi tư lự ở mọi góc vườn mà nhìn cảnh vật chung quanh tôi.

Tôi giơ tay lên chào tất cả: “Vĩnh biệt tất cả. Chào vĩnh biệt. Thôi hết rồi. Chúng ta sẽ không còn gặp nhau nữa”.

Ở tận cuối vườn, có một cây thạch lựu đang trổ hoa đỏ rực rỡ, dưới ánh mặt trời. Tôi nói với nó trong nước mắt: “Cho xin một cái bông hoa nhé”. Nó liền cho tôi một bông hoa. Tôi bèn cài vào áo ngực để làm kỷ niệm. Tôi buồn rầu quá đỗi đi thôi.

Mặc dầu vậy, giữa sự đau đớn cực kỳ nầy, có hai điều làm cho tôi nở nụ cười. Đầu tiên là cái ý tưởng được leo lên tàu. Kế đó là người ta cho tôi mang con két theo. Tôi tự nhủ rằng, ông Robinson đã lìa hải đảo, cũng ở trong một trường hợp tương tợ, và điều nầy làm cho tôi can đảm. Rốt cuộc rồi thì cái ngày khởi hành cũng đến.

Cha tôi đã lên thành phố Lyon một tuần lễ trước, với các vật dụng kềnh càng nội thất v.v… Còn tôi và anh Jacques thì tháp tùng đi sau với mẹ tôi và bà vú già Annou. Anh cả Linh Mục chỉ đến để đưa tiễn chúng tôi ra tận bến xe thồ Beaucaire. Anh không đi theo. Chú bảo vệ thì đẩy cái xe tay chở đầy giỏ xách đồ đạc, và va ly quần áo đi trước, kế đến là anh cả Linh Mục nắm tay mẹ tôi để dìu bước đi.

Ôi thôi, anh cả Linh Mục ôi. Tôi không còn gặp anh nữa rồi.

Bà vú già Annou đi nối tiếp, dưới cây dù màu xanh cùng với anh Jacques. Anh rất vui vì được đi đến Lyon, nhưng mà anh vẫn luôn luôn mít ướt. Sau chót là bé Daniel mạnh dạn xách cái lồng két mà bước đi theo thỉnh thoảng xoay người lại nhìn cái cơ xưởng thương mến.

Các cây cối trong vườn đều vươn mình lên để xem đoàn lữ hành lần cuối qua bức tường giậu. Cây bàng cây lựu đang phất phơ cành lá ra dấu chào vĩnh biệt. Bé Daniel cũng rất cảm động, bèn đưa tay lên môi mà gởi các nụ hôn gió đến chúng nó.

Tôi rời hải đảo của tôi ngày 30 tháng 9 năm 18…

(Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật 

 ĐỐ 

 VUI  


Trên cây có 10 con chim, bắn chết 1 con, hỏi trên cây còn lại mấy con? Đây là câu hỏi được thầy đặt ra và đáp án của cậu học trò có lẽ sẽ khiến bạn “ngất xỉu” .

Thầy giáo hỏi: “Trên cây có 10 con chim, người thợ săn nổ súng bắn chết 1 con, hỏi trên cây còn lại mấy con?”

Trò: “Thưa thầy, cho em hỏi đó là súng lục không tiếng động, hay là những khẩu súng nào khác không có tiếng động?” .

Thầy: “Không phải là khẩu súng lục không có tiếng động, cũng không phải là những khẩu súng nào khác không có tiếng động” .

Trò: “Âm thanh của khẩu súng là bao nhiêu?”

Thầy: “Khoảng 80 đến 100 đề-xi-ben”.

Trò: “Nói vậy là tiếng súng sẽ chấn động đến điếc cả tai, đúng không thầy?

Thầy: “Đúng”.

Trò: “Ở vùng đó, bắn chim có vi phạm pháp luật hay không?”

Thầy: “Không phạm pháp”.

Trò: “Thầy có chắc chắn rằng con chim đó đã thật sự bị bắn chết hay không?

Thầy: “Chắc chắn”.

Thầy giáo (có phần không còn kiên nhẫn nữa): “Làm ơn đi, em chỉ cần nói cho thấy biết là còn lại mấy con chim là được rồi nha”.

Trò: “Dạ! Cho em hỏi, trong số những con chim đó, có con nào bị điếc hay không?”

Thầy: “Không có”.

Trò: “Trong số đó có con nào đầu óc có vấn đề không ạ? Chính là ngốc đến nỗi khi nghe thấy tiếng súng nổ mà cũng không biết bay đó? ”.

Thầy: “Không có, chỉ số thông minh là từ 200 trở lên ! ”.

Trò: “Có con nào bị nhốt trong lồng hay không?

Thầy: “Không có”.

Trò: “Cho em hỏi thêm, là có con chim nào bị tàn tật hay là đói đến nỗi bay không được hay không?”

Thầy: “Không có, con nào con nấy thân thể đều rất mạnh khỏe”.

Trò: “Thầy ơi, có tính tổng số chim con đang nằm trong bụng mẹ hay không?”

Thầy: “Toàn bộ đều là chim trống hết”.

Trò: “Người thợ săn có bị hoa mắt gì không, thưa thầy? Mà thầy đảm bảo là 10 con chứ?”

Thầy: “10 con”.

Học trò vẫn tiếp tục truy hỏi: “Cho em hỏi, có con chim nào ngốc đến nỗi không sợ chết hay không?”

Thầy: “Toàn bộ đều sợ chết cả”.

Trò: “Trong đó có con nào là tình nhân của nhau hay không, ví như khi một bên bị bắn chết, bên kia cũng sẽ chủ động chết theo người yêu chẳng hạn”.

Thầy: “Đồ ngốc! Không phải đã nói trước với em, tất cả đều là trống cả hay sao!”.

Trò: “Cho em hỏi, có khi nào người thợ săn bắn một phát mà trúng hai con hay không?

Thầy: “Không có”.

Trò: “Một phát trúng 3 con, có không hả thầy?”

Thầy: “Không có”.

Trò: “4 con thì sao?”.

Thầy: “Càng không thể”.

Trò: “5 con?”.

Thầy giáo hoàn toàn suy sụp đầu óc: “Thầy xin nói lại một lần nữa, một phát súng chỉ có thể bắn trúng 1 con mà thôi!” .

Trò: “…Được rồi, có phải tất cả các con chim đều sẽ tự do bay lượn hay không? Ví như khi chúng bị dọa sợ quá mà bay đi, sẽ không vì hoảng hốt lo sợ mà đụng phải nhau chứ?”

Thầy: “Sẽ không như vậy đâu, mỗi con đều sẽ tự do bay lượn”.

Trò: “Nếu thật sự đúng như những gì thầy đã nói”.

Học trò tràn đầy lòng tin mà nói: “Con chim bị bắn chết nếu như vướng phải cành cây, không có rơi xuống đất, vậy thì trên cây còn lại một con; nếu như nó rơi xuống, thì cành cây sẽ chẳng còn lại con nào cả!”

Cuối cùng đã chờ được đáp án của học sinh rồi, thầy giáo bỗng dưng cảm thấy đầu óc quay cuồng, suýt nữa ngã lăn xuống đất, ông run cầm cập nói: “Thôi, con không cần phải học tiểu học nữa đâu, mà hãy trực tiếp đi thi làm thám tử điều tra đi!”.

Theo Ohay.tv

HÀ MẠNH ĐOÀN st

PHẢI CHĂNG TỪ THẾ KỶ 15

VIỆC RÁP NỐI TAY CHƠN

ĐÃ THỰC HIỆN ĐƯỢC ?

THANH PHONG (Noir et Blanc)

Không có gì là lạ dưới ánh mặt trời!

Câu nói này thêm một lần nữa đã được chứng minh một cách cụ thể qua những hình ảnh dưới đây:

Cho tới ngày nay, chúng ta vẫn đinh ninh là việc ghép tay là một thành công mới của khoa giải phẫu thời đại văn minh tân tiến của con người. Nhứt định trong những thời đại xa xưa, sự hiểu biết của con người còn thô thiển y khoa còn vụng về, không làm sao có thể thực hiện được những công trình vĩ đại, tuyệt tác vượt quyền tạo hóa như vậy được.

Nhưng trong một ngôi nhà thờ ở Palencia, một bức tranh điêu khắc do họa sư kiêm điêu khắc gia tài danh người Tây Ban Nha Berruguette chạm trổ cách đây hơn 500 năm cho thấy việc ghép chơn tay đã được thực hiện. Nhà quí phái trong tranh đang nằm trên giường đưa ra cho thấy chiếc chơn được ghép phía tên đầu gối bằng một khúc chơn khác màu đen. Chung quanh giường xúm xít một số người chứng kiến… hoặc quan sát với nét mặt trang trọng. Nối liền với bức tranh trên còn một tranh khác có hình một người da đen cụt một chơn đến trên gối. Khúc chơn cụt của người này đúng với khúc chơn ráp vào nhà quí phái da trắng kế bên.

Phải chăng việc ráp tay chơn đã được thực hiện từ hơn năm thế kỷ nay? Và thời đại đó người ta cũng không kỳ thị chủng tộc nên nhà quí phái da trắng không coi việc ráp vào thân mình một khúc chơn đen là một sự nhục nhã?

Một sự thật hay một điều… tiên đoán?

Một linh mục Tây Ban Nha, Don Asterio Moro là một chuyên viên về nghệ thuật tôn giáo đã cho biết: “Từ trước đến giờ không ai thấy có gì đặc biệt về bức tranh điêu khắc này. Tất cả đều cho đó là một phép lạ của Thánh Cosme và Thánh Damien. Một phép lạ thường được nghe nói tới trong tôn giáo. Khác hơn một chút là phép lạ này được ghi lại bằng nét chạm trổ của nghệ sĩ tài hoa Berruguette.

Nhưng từ khi khoa học đã thực hiện được việc ráp tay, nối chơn hoặc thay đổi các bộ phận trong con người, hình ảnh trên mới gây cho mọi người nhiều giả thuyết đáng kể.

Phải chăng từ năm thế kỷ trước, giới y sĩ đã thực hiện được việc ráp nối tay chơn một cách tuyệt diệu như vậy?

Hay người nghệ sĩ điêu khắc giàu tưởng tượng đã nghĩ đến việc trong tương lai khoa học sẽ làm được công việc hi hữu này? Một tiên đoán tiền khoa học nhưng rồi ngày nay được ứng nghiệm như những điều tưởng tượng của nhà văn Jules Verne?

ĐỖ THIÊN THƯ st.

HIÊN CHIỀU

TẮT NẮNG

P hương thò tay qua khe cổng mở chốt, rồi vẫn để nguyên máy xe, anh rồ nhẹ ga dắt lên thềm. Có tiếng động trong nhà vọng ra, chắc bé Yên về rồi. Quả nhiên, bé Yên ló đầu qua khung cửa bếp:

- Ba về rồi hả? Ba mua thức ăn gì vậy?

- Ừ, ba mua đậu hũ kho với thịt, còn mấy thứ rau đó, con muốn ăn gì thì làm nấy. Hòa chưa về à?

- Dạ ảnh về rồi lại đi học thêm rồi.

- À, ba quên.

Phương lấy bộ đồ mặc ở nhà rồi bước vào nhà tắm. Thoang thoảng một thứ mùi thơm làm anh đững sững lại. Đó là thứ mùi thơm của một loại nước xịt phòng mà lúc trước Nhan hay dùng. Một cái nhói khẽ lên trong lồng ngực làm Phương phải tựa người vào cánh cửa. Anh nhắm mắt tĩnh lại mình vài giây rồi thở ra nhè nhẹ.

- Yên ơi! Con xịt phòng đó hả?

- Dạ, lúc chiều dọn dẹp nhà, con thấy chai đó mẹ cất ở trong hóc tủ nên con lấy ra xịt đó.

- Ừ, lâu lâu phải xịt qua chứ không thì nó hôi.

Vừa nói, vừa vắt bộ quần áo lên dây, một nỗi buồn sâu thẳm lại cất lên trong anh. Tắm xong, Phương gom hết đồ dơ trong cái giỏ nhựa để ở góc phòng cho vào máy giặt. Một trong những thứ công việc vặt trong nhà từ hơn một năm nay đã trở nên quen thuộc với anh. Không, đúng hơn là hai năm mấy rồi, nhưng trước “cái ngày ấy” thì thi thoảng Nhan còn gượng làm khi sức khỏe tàm tạm cho phép cô ngóc ngách được một chút. Để cho cái máy chạy, Phương ra cửa lấy cái thùng tưới hứng nước rồi đi tưới những chậu hoa dọc hai bên mảnh sân nhỏ. Tưới đến chậu hoa sau cùng, Phương lại sững lại, anh đặt cái thùng tưới qua một bên rồi ngồi xuống hiên nhà. Tấm gạch còn âm ấm cái nóng của nắng chiều. Anh ngồi nhìn chậu hoa như thôi miên. Thực ra đây chỉ là một loại cây cảnh chỉ có lá xanh chứ không ra hoa. Phương như còn thấy rõ từng nét cười tươi tắn và đôi tay khéo léo của Nhan khi khẽ cắm từng nụ hoa giả điểm vào những nách lá. “Anh thấy em cũng có khiếu thẩm mỹ đấy chứ. Nhìn nó tươi tắn sinh động hẳn lên”. “Chứ sao? Bộ anh tưởng vợ anh không biết làm dáng á? Coi thường em quá nghe”. “Hổng dám coi thường đâu bà Bộ trưởng Bộ Nội Vụ của anh à”. “Xí, cái miệng giỏi nịnh chưa kìa”. “Nịnh bà xã mình chớ có nịnh ai đâu”. Một cái nguýt yêu dài đến cả thước.

Phương gục đầu xuống hai đầu gối. “Nhan ơi!” Tiếng gọi thầm não nuột quyện cũng nỗi đau buồn trong sâu thẳm đang duềnh lên khiến hai mi mắt người đàn ông rớm nóng. Đúng! đâu phải vợ anh không biết làm dáng mà là không có điều kiện để làm dáng. Hai vợ chồng hai đứa con, với một mức lương công chức khiêm tốn không ngoại tài, thì để duy trì một cuộc sống tàm tạm cũng đã khó, lấy đâu ra để quần kia áo nọ, tô son điểm phấn. Nhưng trong mắt anh, dù thế nào thì vợ anh vẫn luôn là một phụ nữ dịu dàng khả ái, sống khiêm nhường, tận tụy với chồng con, luôn mặc nhận những thua thiệt, thiếu kém về mình. Làm sao anh không biết những khi Nhan kín đáo tiếp cho chồng con những món ăn ngon, bổ dưỡng mà không nhiều nhặn gì trên mâm cơm, bóp miệng bằng câu “em không thích… mẹ ghét nhất món này, nhưng làm cho mấy cha con ăn cho có sức khỏe”. Anh đã từng bao nhiêu lần thầm xin lỗi vợ, thầm hứa với vợ rằng “sẽ một ngày…”. Nhưng trời ơi! Cái ngày để anh thực hiện được lời hứa ấy chưa kịp đến, mà lại đến một cái ngày không ai mong muốn, không ai tưởng tượng được rằng nó lại đến sớm như thế. Một căn bệnh tai ác mang theo một bóng đen lởn vởn xuất hiện trong cơ thể vợ anh. Một căn bệnh không có nhiều khả năng điều trị phục hồi kể cả với những người dồi dào kinh tế, huống chi gia cảnh anh. Nhưng không thể bó tay ngồi nhìn cái bóng đen u ám ấy kéo vợ xa dần, Phương chạy vạy vay mượn đủ mọi chỗ, kể cả những hỗ trợ ít nhiều từ những người thân, bạn bè, nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô ích. Để rồi cuối cùng, Phương nát ruột tan lòng khi nhìn người ta choàng mảnh khăn trắng lên đầu ba cha con. Một đời người như một thoáng mây qua, lắm lúc Phương vẫn ngỡ như chuyện không có thật. Nhìn hai đứa con ngơ ngác những ngày vắng mẹ mà buốt hết cả lòng. Thằng Hòa đã mười lăm tuổi, bé Yên vừa tuổi lên mười. Cái tuổi đã biết nhận thức một số vấn đề cuộc sống, nhưng chưa đủ vững để tự chủ những hành vi. Một mình cha làm sao đủ trông nom mọi vấn đề cho chúng. “Con à, vợ con ngắn số thế phải đành, giờ cũng một năm rồi, con xem coi có ai hiền lành thì lấy đi, để có người lo cho mấy đứa nhỏ”. Câu nói của mẹ vợ trong ngày giỗ đầu Nhan vọng về tâm trí Phương. Phương thở dài, nói thì dễ thế, nhưng lại là cả một vấn đề phức tạp. “Anh à, sau này anh có lấy vợ thì lấy ai họ biết thương con mình nghe anh”. Lời Nhan đầy chua xót khi biết mình không qua khỏi căn bệnh. Nhan biết rồi Phương cũng phải tiếp tục cuộc sống của anh vì những gì cần thiết của đời sống. Đàn ông không dễ dàng gì trong đời sống đơn thân, lại càng khó khăn hơn với cảnh gà trống nuôi con. Tất trước sau gì chuyện cũng phải đến. Ước mong lớn nhất của cô chỉ là ai đó hãy biết yêu thương con cô, những đứa trẻ bất hạnh phải sớm ra rời vòng tay của mẹ. Và đó cũng trở thành yêu cầu đầu tiên của người phụ nữ nào chắp nối với Phương. Phương không chỉ lấy một người vợ cho mình, mà anh phải tìm được một người mẹ cho các con. Chính điều này là sự tiên quyết cho chọn lựa của anh. Có điều, đâu phải mọi sự có thể quyết định trong tay anh được.

- Ba ơi! Gạo gần hết rồi đó ba.

- Ừ, mai ba mua.

Bé Yên ngồi xuống cạnh cha. Ánh mắt bé mênh mang một nỗi buồn nhớ mẹ. Cả hai cha con ngồi lặng im một lúc, đều hiểu tâm tư nhau đang hướng về đâu. Phương kín đáo quệt nhẹ hai mi mắt, anh đổi giọng vui vui:

- Ba sắp lãnh lương rồi, con có muốn mua gì ba mua cho.

- Thôi ba, con không cần mua gì đâu. Ba còn phải để dành trả nợ mà.

Câu nói của con gái làm Phương đau nhói. Trời ơi! Có những gì đang diễn ra trong cái đầu bé bỏng của đứa con gái lên mười này đây? Cái gì đã khiến nó phải nghĩ đến những điều mà lẽ ra…

- Ba nè. Lúc chiều cô Hạnh ghé chơi, thắp nhang cho mẹ rồi cho con với anh Hòa 100. Ba cất đi mai mua gạo nha ba.

Bất giác Phương ôm chặt con gái vào lòng. “Nhan ơi! Em có biết con mình phải già nhanh hơn tuổi của nó không?”. Bé Yên sụt sịt: “Ba ơi! Con nhớ mẹ quá ba ơi!”. Giọng người cha cũng nghẹn ngào: “Ráng đi con, mẹ vẫn ở bên cạnh cha con mình mà”. Có tiếng động ngoài cổng, Phương nhìn ra. Cậu con trai bối rối trước cảnh tượng.

- Hòa về rồi hả con. Không cho xe vào nhà còn đứng đó làm gì.

Hòa khẽ “dạ” rồi dắt chiếc xe đạp vào nhà.

- Thôi, vào coi dọn cơm đi con.

Bé Yên đứng dậy, chùi mắt vào tay áo đi vào. Phương lại cất tiếng:

- Hòa ơi! Thay đồ rồi lau nhà đi con.

Hòa lại dạ. Cậu bé nhanh nhẹn thay bộ quần áo ở nhà rồi xách xô nước ra lau nhà. Phương vào nhà tắm làm nốt phần việc với cái máy giặt. Lát sau, trên manh chiếu trải giữa nhà, ba cha con ngồi quanh mâm cơm. Bé Yên đơm một chén cơm, gác một đôi đũa lên trên, lẩm bẩm: “Con mời mẹ về ăn cơm”. Phương nói nhanh, sợ mi mắt con bé lại đỏ lên:

- Ăn đi con, ăn cho nóng, chà bữa nay bé Yên kho thịt ngon hè, không mặn chằn như hôm nọ nữa.

Bé Yên cười vì được khen. Chợt có tiếng chuông điện thoại. Phương bỏ chén cơm đứng lên.

- Alô, dạ mẹ ạ… dạ tụi con đang ăn cơm… dạ tụi nó khỏe… dạ vậy ạ, mẹ gửi lâu chưa?... À, vậy chắc tuần sau con nhận được. Dạ, mẹ giữ sức khỏe nha… dạ, con chào mẹ.

Buông máy, Phương quay nói với hai con:

- Bà ngoại bảo gửi vải khô vào cho hai đứa đó.

- A, con thích ăn vải khô lắm.

- Anh thích ăn vải tươi hơn. - Hòa nói. Phương cười:

- Ừ thì đến mùa mới có vải tươi, chứ giờ có vải khô ăn là tốt rồi.

Tiếng bé Yên lại thẫn thờ:

- Mẹ thích ăn cả vải tươi lẫn vải khô.

Một khoảng lặng rơi ngang. Phương cố nuốt khan, cầm chén cơm lên:

- Thôi ăn nhanh đi còn học bài nữa.

Ba cha con cắm cúi ăn cho xong bữa cơm. Khi dọn chén xuống bếp, Phương nghe Hòa nói nhỏ với bé Yên:

- Em cứ nhắc mẹ hoài làm ba buồn lắm đó.

- Nhưng mà… em nhớ mẹ…

Phương cắn chặt hàm răng, anh đi ra chỗ bàn thờ vợ. Đốt ba cây nhang, Phương nhìn ảnh vợ chăm chăm. “Nhan ơi! Em bỏ cha con anh mà đi sớm quá, anh phải làm sao cho các con vui lên đây? Chúng nó cứ buồn nhớ em mãi thế thì anh chịu làm sao được”. Cắm mấy nén nhang vào lư hương, Phương cúi đầu vài giây trước bàn thờ vợ rồi đi ra ngoài sân. Chợt anh nói vọng vào:

- Hai đứa coi học bài vở đi, ba đi một chút ba về nha.

Hai tiếng “dạ” đáp lại. Phương nổ máy xe đi ra đường. Những con phố vẫn lênh loang ánh đèn sáng vàng, những quán ăn vỉa hè, trong sảnh vẫn hể hả những rượu bia nói cười. Ngày trước còn vợ, thi thoảng anh cũng tụ tập cùng những bạn bè ở những nơi ấy, từ khi Nhan ngã bệnh, anh né dần rồi thôi hẳn. Những người bạn cũng hiểu cho anh mà không lôi kéo nữa. Lúc này, Phương bỗng thèm những ngụm rượu cay nồng. Anh ghé vào một quán xép bên hè. Kêu một chai rượu và mấy cái trứng vịt lộn. Bóc vỏ trứng, anh lại nhớ đây là món mà Nhan rất thích. Cứ mỗi lúc chở mấy mẹ con đi dạo phố là Nhan hay bảo anh ghé vào ăn hột vịt lộn. Phương nốc cạn một ly rượu, anh nghe cay nồng cả hai mắt. Những quãng ngắn cuộc đời chẳng khác gì một giấc chiêm bao, người ta cứ mê mải để rồi khi tỉnh giấc lại thấy cứ như mình chưa từng đi qua, chưa từng chạm đến, chưa từng vật vã ủ ê hay đờ đẫn khóc cười với nó. Người ta lắc mạnh đầu, và rồi lại nhắm mắt mà mơ tiếp. Giấc mơ kế tiếp của anh là gì? Tôi có thể nói cho anh nghe, cho bạn nghe được không? Không. Chắc chắn là không. Bởi vì nếu nói được, anh sẽ nói: trong giấc mơ ấy là một Nhan thứ hai cho các con anh, cho cả chính anh. Nhưng làm gì có một Nhan nữa y như thế. Mà là một người hoàn toàn khác, khác từ vóc dáng đến tính tình, khác từ sở thích đến quan điểm. Và rồi, cuộc sống của cha con anh sẽ phải xoay chiều đổi huớng theo những cái khác ấy. Bởi vì, dù người phụ nữ ấy có rộng dung đến thế nào, thì cô ấy cũng không thể là vật thay thế, và cha con anh cũng không thể nào nhìn người ấy như đã từng nhìn Nhan suốt bao năm qua. Chỉ cần người ấy vài điểm giống Nhan đã là tốt lắm rồi. Nhưng ai? Ai có thể có vài điểm giống Nhan được? Ai có thể để cho các con anh tựa đầu mà ngủ một giấc ngon lành? Ai có thể cho anh một cánh tay mềm mại mà không so đo với người đã khuất, và cả với bao vụn vặt thường tình? Và nếu không có được một người như thế liệu anh và các con anh có làm tốt được mọi việc không? Phương biết rõ là không thể. Từ khi Nhan mất, các con anh hơ hỏng ra sao không phải là anh không thấy. Người cha hay người mẹ đều là sự cần thiết cho con cái, nhất là khi nó chập chững vào tuổi trưởng thành. Nhưng…

Phương lắc lắc cái chai không, anh định cất lời gọi thêm chai rượu nữa, nhưng kịp dừng lại. Cái ý thức đặc biệt đã ngăn cản anh. Gọi thanh toán tiền xong, Phương liêu xiêu đi ra chỗ cái xe. Cậu bé phục vụ nhìn anh bằng tia mắt lo ngại, anh mỉm cười xoa nhẹ đầu cậu bé rồi lên xe. Quán tính đã giúp anh thăng bằng. Anh nào đã say, mặc dù anh đang rất muốn say để khỏi phải nhớ, khỏi phải loay hoay bởi bao rối rắm trong đầu. Phố đã dần khuya, sự đi lại đã thưa thớt. Phương như thả cho chiếc xe trôi theo lòng đường. Những làn gió se se phớt qua da mặt, lại gieo thêm trong lòng Phương một nỗi tê nhức, tay lái anh như buông theo một chiều sâu ký ức.

- Anh Phương!

Tiếng ai gọi nghe thoang thoảng như lá rơi trong sương ấy nhỉ?

- Anh Phương! Sao giờ này còn lang thang ngoài đường vậy?

Âm thanh đã rõ hơn, rõ hơn khi một gương mặt và một chiếc xe máy kề song song. Phương như hồi tỉnh sau một cơn mộng du. Anh nhận ra con đường anh đang đi là đường về nhà Hạnh. Con đường mà ngày trước anh thường xuyên chở vợ đến chơi nhà Hạnh, và cũng là một trong những con đường anh thường đi qua để đến sở làm.

- Ủa, Hạnh hả? Đi đâu về vậy?

- À, thằng cu Min em bị sốt, em chạy đi mua thuốc cho nó.

- Vậy á? Sốt cao không? Cháu bệnh mấy ngày rồi?

- Dạ, mới hôm qua thôi. Anh đi đâu mà lang thang vậy? Mới uống rượu à?

Phương cười ngượng nghịu như có lỗi. Hạnh khẽ thở dài, cô hiểu rõ tâm trạng Phương lúc này. Là bạn thân của Nhan nhiều năm, Hạnh gần như có mặt thường trực trong đời sống của gia đình bạn. Chuyện vui chuyện buồn gì họ cũng tỉ tê tâm sự với nhau. Trước đây ba năm, Nhan đã từng hết lời an ủi bạn khi Hạnh quyết định ly hôn, vì không thể sống với người chồng độc đoán, chuyên chế đến tai ngược. Cô nuôi con một mình và thề không dính dáng đến đàn ông nữa.

- À, cảm ơn Hạnh vì đã ghé thăm mấy đứa nhỏ nhé.

Phương nói nhanh như chợt nhớ ra, Hạnh cười:

- Anh đừng khách sáo thế. Nếu làm gì hơn nữa cho chúng được thì em cũng không từ chối, nhưng tiếc là…

Hạnh bỏ lửng câu nói, Phương mỉm một nét cười buồn, anh hiểu Hạnh muốn nói gì.

- Thôi Hạnh về cho cháu uống thuốc đi. Mai tôi rảnh sẽ ghé thăm cháu nhé.

- Vâng, anh cũng về đi nhé, đừng uống rượu nhiều, anh cần giữ sức khỏe để lo cho các cháu nữa đấy.

- Tôi biết mà, Hạnh đừng lo, thôi tôi đi nhé.

Phương nhấn tay ga, chiếc xe hút dần về góc phố, Hạnh đứng trông theo mấy giây rồi thở ra khi hướng chiều xe về cổng nhà mình.

Phương tắt máy xe từ một đoạn trước khi đến nhà. Một độ đốc nghiêng đủ cho chiếc xe trôi về đến cổng. Ngôi nhà đã chìm trong bóng đêm tịch mịch. Phương nhè nhẹ mở khóa cổng, dắt xe vào. Ghé nhìn vào phòng, cả hai anh em đã ngủ say trên hai cái giường. Anh ra ngoài hiên, ngồi xệp xuống nền gạch, móc túi lấy ra bao thuốc và cái bật lửa. Những đốm đỏ cứ lóe lên… lóe lên…

ĐÀM LAN


BÓNG RÂM

Người đàn ông mù đi sau, tay trái chống gậy, tay phải vịn vai đứa con gái, lần dò từng bước.

Vừa thấy bóng họ thấp thoáng ngoài ngõ, bà tôi đã bĩu môi:

- Kìa ông, có khách quí tới!

Gắng gượng nhỏm dậy, ông tôi ngóng nhìn, kêu lên:

- A, cha con thằng Tú!

Thường khi ông bươn bả đi ra mở cổng, nhưng sau cơn bệnh tai biến mạch máu não, nửa người ông đã bị liệt. Ông bảo tôi ra đón khách.

Ông Tú co rúm người khi bà tôi lên giọng:

- Chú đến chơi hay có chuyện gì cần?

Biết vợ bạn không ưa mình, ông Tú ít lân la, lui tới, trừ khi cần vay tiền của ông tôi. Bà giận cũng phải. Tiền đưa ra dễ dàng nhưng lấy lại rất khó. Số nợ cứ tăng dần, tình thân do vậy giảm sút đến mức lạnh lùng, tàn nhẫn. Ông tôi đứng giữa chịu trận nhưng vẫn không thay đổi cách suy nghĩ, ông tiếp tục cho bạn vay tiền và điềm tĩnh nghe vợ đay nghiến:

- Ông đã bị nó lợi dụng. Ông có mù đâu mà không thấy vợ con nó sống phè phỡn hơn nhiều người. Mẹ con tôi làm lụng, chắt mót được bao nhiêu một tay ông phá hết. Ông tiếp sức cho thằng mù nó nuôi con đàn bà trắc nết.

Ông từ tốn giải thích:

- Bà nói đúng! Vợ thằng Tú không đàng hoàng. Tôi thừa biết mấy đứa nhỏ không phải là con một cha. Nhưng biết làm sao? Thương là thương cho thằng bạn mù mà còn bất hạnh. Tội là tội cho mấy đứa trẻ gặp hoàn cảnh đau lòng. Mẹ chúng không hết lòng vì con. Còn người cha thì mù loà, không thể tự kiếm tiền, để phải đi ăn mày lòng tốt của người khác.

Ông Tú bị mù bẩm sinh. Là đứa con duy nhất trong gia đình khá giả, ông Tú cũng được yêu chiều. Khi cha mất, mẹ già yếu. Ông Tú lại biết yêu thì cuộc đời ông bắt đầu thay đổi, tuột dốc. Ông trở thành tấm bình phong cho người đàn bà hư thân mất nết ẩn núp. Chồng mù, bà ta tha hồ đi ngang về tắt, bỏ mặc chuyện nhà, thờ ơ với con cái. Ông Tú biết nhưng vì quá yêu vợ nên giả điếc, chẳng nghe. Ông tự lừa dối mình bằng cái hạnh phúc là làm chỗ dựa cho đám trẻ thơ vô tội. Ông bán nốt căn nhà hương hỏa để dọn về vùng ngoại ô, ngụ trong một mái lá tồi tàn. Chẳng bao lâu, tiền hết, ông đành vay mượn ở những người thân thuộc. Lòng tốt có hạn. Người ta cảm thấy giúp ông như nước đổ lá môn. Họ quay lưng và ông Tú ra thân ăn mày. Để vợ con không xấu hổ, ông Tú phải tới xứ lạ để xin ăn. Vài tháng ông mới về một lần. Người ông gầy như con mắm, quần áo tả tơi nhưng cái bị nhỏ lại chứa đầy bạc lẻ. Lúc vợ “nướng” hết số tiền ấy, ông lại đi. Trừ khi vợ đẻ, túng thế, ông phải tìm đến nhà tôi vay tiền. Bà tôi thường châm biếm “Quà quạ nuôi tu hú”.

Ông tôi khuyên can:

- Bà cười cợt nỗi khổ của người khác là tự mình chuốc thêm buồn bực vì sẽ bị mang tiếng là tàn nhẫn.

Bà tôi có tật hay nói. Nghĩ sao nói vậy, chẳng lựa lời. Mà lời thật thì mích lòng. Nhưng bà tôi rất tốt bụng. Bà vẫn đưa tiền khi ông cần và một mực kính yêu chồng.

Ông tôi là con cả trong một gia đình có ba anh em. Đầu óc bà cố tôi sặc mùi phong kiến, thích định đoạt chuyện hôn nhân của con cái. Bà bắt chúng tôi sống trong vòng lễ giáo của một đại gia đình. Nhờ đẹp người, đẹp nết, bà tôi lọt mắt xanh của bà cố, được bà chọn cưới cho con trai cả. May là ông bà tâm đầu ý hợp nên sống đầm ấm.

Nhưng mãi đến lúc hai người em chồng có vợ rồi sanh con đầy đàn mà bà vẫn chưa thụ thai thì cuộc sống trở nên cay nghiệt với những câu mắng mỏ, chì chiết của mẹ chồng: “Gái độc không con”. Vì không đồng ý cưới vợ lẽ, ông tôi bị mẹ giận, đuổi ra riêng. Cũng là một cái may. Vợ chồng đồng lòng lo làm ăn. Dần dần, dư ăn, dư để. Một hôm, nhân lúc đi bán hàng rong, bà tôi nhặt được một hài nhi mang về, nhận làm con. Đó là mẹ tôi. Ông bà nâng niu đứa con rơi như vàng ngọc. Hay tin này, bà cố tới nhà ra lệnh:

- Cháu ruột đầy đàn không nuôi, lại đi nuôi đồ bỏ bờ bỏ bụi. Vứt nó đi! Ngày mai, tao sẽ cho mấy đứa con của thằng ba, thằng tư tới cho mà nuôi, kẻo rỗi việc rồi lo bao đồng.

Vâng lời mẹ, ông tôi đón cháu ruột về nuôi nhưng cương quyết giữ lại đứa con rơi. Bà cố ức lắm nhưng phải chịu vì ông xử sự phân minh.

Nhà ông tôi bấy giờ biến thành nhà giữ trẻ… không công. Bà tôi trở thành vú em của bầy con nít tám đứa. Dù vậy, bà tôi vẫn vui vẻ. Bao nhiêu tiền dành dụm được, bà tuôn hết ra chi dùng. Lẽ ra, bà cố phải thương nàng dâu mới đúng. Đàng nầy, bà cố ra sức tìm cách đào sâu hố ngăn cách và rạch nát trái tim bà tôi thành những vết thương không sao lành lặn được. Nó gây đau nhức âm ỉ trong lòng bà, tàn phá tính nhân hậu, làm chai cứng cảm xúc và bà tôi trở thành một người tàn nhẫn. Bà thường đem nỗi khổ của mình ra so sánh với cái khổ của người khác để rồi tự dằn vật rằng ai cũng hạnh phúc hơn mình. Mỗi khi có dịp, bà không tiếc lời kể lể nỗi truân chuyên. Bà nhắc lại những câu lẽ ra phải để thời gian xóa nhòa trong trí nhớ. Thậm chí, khi làm giỗ bà cố, bà tôi lại cay đắng bảo:

- Mẹ ông là một người tàn độc! Xúi ông bỏ tôi, đày đọa tôi đủ cách. Không xứng đáng cho tôi thờ cúng.

Ông thở dài:

- Nhưng tôi đâu có vâng lời mẹ. Tôi vẫn chung thủy với bà. Bà nhắc lại chuyện cũ làm gì cho con cháu buồn. Nếu không muốn, bà đừng cúng. Cứ thắp hương, bày cỗ bàn mà lòng đầy thù hận, liệu có ích gì không?

Ông bỏ đi nằm, bà ngồi thẫn thờ, lau nước mắt. Bà biết lỗi. Bao giờ cũng thế, bà thả sức phê phán, kể lể rồi chịu đựng. Hôm nay cũng vậy, bà vặn vẹo ông Tú:

- Chú tới chơi hay có việc gì cần?

Tội nghiệp, ông Tú ấp úng:

- Dạ, em… nghe bầy trẻ nói anh hai bị bệnh nên… tới thăm.

Bà vẫn chưa chịu thôi, mỉa mai:

- Vậy sao! Quý hóa quá!

Thấy bà vừa quay lưng, ông tôi nắm tay ông Tú, thì thầm:

- Chú có việc gì, cứ nói!

Ông Tú lần mò tìm bàn tay ông tôi, xiết chặt. Mấy ngón tay gầy guộc run run sờ sẫm khuôn mặt rồi thả dọc xuống cánh tay bị liệt buông thỏng một bên vai của ông tôi, ông Tú khóc. Ông tôi cũng khóc. Hồi lâu, ông tôi nhắc khẽ:

- Chú có cần tiền không? Cứ nói, đừng ngại!

Ông Tú lắc đầu, giọng khàn đục:

- Hôm nay, em tới thăm anh, luôn tiện xin trả bớt một ít tiền để chị cả lo thang thuốc cho anh chóng khỏi.

Mở bị, ông Tú lôi ra một xấp tiền lẻ đã được ông xếp ngay ngắn, buộc gọn. Ông dúi nó vào tay ông tôi. Có lẽ đó là đồng tiền ăn mày từ lòng tốt của bao người nơi xứ lạ.

Đúng lúc đó, bà tôi bước vào. Ông tôi lúng túng chưa biết định liệu ra sao thì bà đã chụp lấy xấp tiền. Và, thật bất ngờ, bà dúi nó vào cái bị của ông Tú. Xong, bà vừa lau nước mắt vừa bảo:

- Chú cất để dành lo cho vợ con. Phần ông nhà tôi, đã có mẹ con tôi lo liệu, chú đừng ngại.

Ông tôi mỉm cười. Nụ cười hài lòng khiến khuôn mặt ông rạng rỡ hẳn lên. Từ ngày ngã bệnh tới nay, đây là lần đầu tiên tôi thấy ông cười, tươi tỉnh như đã khỏi bệnh. Ông bảo:

- Bà thật là một người vợ hiền, một bà mẹ tốt, một người cần thiết cho những kẻ bất hạnh. Cũng như chú Tú, chú là bóng râm của lũ trẻ.

Ngoài kia, ngày sắp tàn nhưng bầu trời vẫn trong văn vắt.

NGUYỄN THỊ MÂY


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 12.9.2015… ........................................ Vũ Thư Hữu .... 01

Đọc “Điều kỳ diệu của Tình Yêu” của H.T.Kim Bội .................. Tâm Nguyện .... 04

Cuốn “Tự điển tiểu sử của nhà Webster’s”

(Webster’s biographical dictionary) .............................. Vũ Anh Tuấn .... 08

Lời xin lỗi về việc phá hủy ảnh tượng (tt) ......... Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 11

Việc truyền Y Bát

liên quan đến cách hiểu Đạo Phật như thế nào? (tt) ............. Tâm Nguyện .... 22

Nhàn đàm về những sai sót trong bản dịch ...................................... Thúy Toàn .... 39

Chế Lan Viên với “Điêu tàn” thời trẻ

& “Di cảo Thơ” vào cuối đời .................................. Phạm Vũ .... 43

Cô hồn tháng 7 ...................................................................................... Dương Lêh .... 53

Những chuyện hoang đường NGHE & THẤY ..................... Phạm Hiếu Nghĩa .... 60

Bí mật chuông cổ Nhà thờ Đức Bà .................... Lm Jos. Nguyễn Hữu Triết st .... 64

Nguồn gốc Tềt Trung thu .............................................................................. BĐ. st .... 69

Ngôi mộ dưới Khải Hoàn Môn Pháp (thơ) .................................. Vũ Đình Huy .... 71

Nghĩ về Napoléon Bonaparte (thơ) .............................................. Vũ Đình Huy .... 72

Mùa hạ ở Phần Lan (thơ) ............................................................... Vũ Đình Huy .... 72

Đề chữ Đồng Tâm (thơ) .................................................................. Ngàn Phương .... 73

Vô duyên (thơ) .................................................................................. Ngàn Phương .... 73

Mùa vàng hoa cải (thơ) .................................................... Phạm Thị Minh Hưng .... 74

Trung thu vấn nguyệt (thơ) .............................................................. Thanh Châu .... 75

Trăng (thơ) .......................................................................................... Thanh Châu .... 75

Lời cảm ơn gửi đến… (thơ) ................................................................... Đàm Lan .... 76

Khoảng trống còn lại (thơ) .............................................................. Tâm Nguyện .... 78

Mùa thu mùa yêu (thơ) ....................................................................... Lê Nguyên .... 79

Tỏa ngát hương sen (thơ) .................................................................... Lê Nguyên .... 80

Hình như (thơ) ....................................................................................... Lê Nguyên .... 81

Nhắn nhủ cháu (thơ) ........................................................................... Quang Bỉnh ... 82

Trung thu (thơ) ..................................................................................... Quang Bỉnh .... 82

Càng “xài” càng lãi (thơ) ................................................................ Lê Minh Chử .... 83

Thiếu nắng (thơ) ................................................................. Mai Thị Thủy Hoa st .... 83

Màu hoa xứ sở (thơ) ........................................................... Mai Thị Thủy Hoa st .... 84

Vòng đời của Mẹ (thơ) ..................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 85

Trời chiều trên sông (thơ) ................................................................ Lang Nguyên .... 86

Chén rượu tình (thơ) ......................................................................... Lang Nguyên .... 86

Trai thời loạn (thơ) ............................................................................ Lang Nguyên .... 87

Phong trào thể dục (thơ) ......................................................................... Bá Mạnh .... 87

Thuật dưỡng sinh (thơ) ............................................................................ Bá Mạnh .... 88

Thổn thức (thơ) ................................................................................... Thùy Hương .... 89

Gởi Huế (thơ) ....................................................................................... Thùy Hương .... 90

Vào Hạ (thơ) ........................................................................................ Bs.Doanlinh .... 90

Gặp lại bạn thời cắt cỏ chăn trâu (thơ) ........................................... Bs.Doanlinh .... 91

Nguyện cầu (thơ) ................................................................................ Bs.Doanlinh .... 92

Sắc hương xanh (thơ) .................................................................... Võ Kim Cương .... 93

Em bé bãi biển (thơ) ...................................................................... Võ Kim Cương .... 94

Quên (thơ) ................................................................................................. Lam Trần .... 95

Thơ tình ngày không em (thơ) ............................................... Trần Nhuận Minh .... 96

Love poem on a day without you (thơ) ............................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 97

Căn nhà ma ám ..................................................................................... Lam Trần .... 98

Hôn nhơn là một sinh vật… .................................................. Hoàng Kim Thư st .. 103

Đôi điều cảm nhận về Hàn Quốc ................................................... Lê Minh Chử 108

Những người già hối tiếc điều gì nhất trong đời? ....... Đào Minh Diệu Xuân st .. 114

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ......... Thanh Châu dịch thuật .. 119

Đố vui ......................................................................................... Hà Mạnh Đoàn st .. 122

Phải chăng từ thế kỷ 15

việc ráp nối tay chơn đã thực hiện được? .................... Đỗ Thiên Thư st .. 125

Hiên chiều tắt nắng ................................................................................. Đàm Lan .. 127

Bóng râm ..................................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 135

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế