Hiện có 6 người xem / 2339637 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09/01/2016

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Có một điểm đặc biệt trong kỳ họp này là hai thành viên của CLB Thơ Bình Thạnh Trảng Bàng Tây Ninh, đã chẳng ngại xa xôi, đi lại gần trăm cây số tới dự họp, đồng thời cũng có một người khách mới, và vị này đã được dành cho vài phút để tự giới thiệu về mình. Sau đó, như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn quý thư. Lần này cả hai cuốn đều tương đối mới vì được xuất bản chỉ mới khoảng 5, 6 chục năm trước. Cuốn đầu là một cuốn của tác giả Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội mang tựa đề là “Nàng Ái Cơ trong chậu úp”, được nhà Xuất Bản Bốn Phương in năm 1960. Đây là một cuốn tiểu thuyết được coi như “Thiên tình sử của Tổng Trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tích (còn có tên là Mạc Thiên Tứ)”. Viên quan này có một ái cơ rất đẹp. Một hôm ông ta có việc phải đi ra ngoài, bà vợ cả, vì ghen, mang nàng ái cơ của ông nhốt trong cái chậu to đùng cho ngộp thở mà chết. May thay trời đổ mưa, ông ta quay trở về, thấy cái chậu úp liền hỏi “Trời mưa sao không để hứng nước mà lại úp chậu?”. Và cho lật lên cứu được ái cơ của ông gần chết ngộp. Sau khi sống sót, vì sợ, nàng ái cơ đó đã xin đi quy y cửa Phật và viên quan này đã xây cho ái cơ của mình một ngôi chùa. Nội dung truyện đại khái là như vậy, nhưng theo lời giới thiệu của phu quân của bà là nhà thơ Đông Hồ, thì ai đọc truyện này sẽ hiểu biết được rất nhiều về đất Hà Tiên. Người viết cũng biết tác giả và đã có ghé thăm bà một lần trong một chuyến đi Hà Tiên nhiều năm về trước. Cuốn sách hấp dẫn người viết về cốt truyện thì ít nhưng về chữ ký, thủ bút và triện son của cố nữ sĩ Mộng Tuyết thì nhiều nên đã mua. Cuốn thứ nhì thì người viết thích hơn nhiều vì là hai số báo Văn đặc biệt về Cụ Nguyễn Du được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 200 năm Nguyễn Du (1765-1965). Hai số báo Văn được viết thật hay và có hai hình bìa tuyệt đẹp, một hình do một họa sĩ người Nhật vẽ, hình kia do một danh họa người Việt vẽ. Người viết luôn luôn thích báo Văn vì là do nhà văn Trần Phong Giao làm, và chính vì nhờ nhà văn này đề nghị và khuyên mà từ năm 1992, người viết chuyển sang dịch văn học để nay có được 20 tác phẩm dịch thuật ra hai ngoại ngữ Anh và Pháp, để ngày đi hành hiệp kể công với Mẹ Âu Cơ. Sau khi được giới thiệu, hai cuốn sách được đóng rất đẹp đã được vài thành viên chuyền tay nhau xem.

Sau phần giới thiệu sách Bs Nguyễn Lân-Đính, cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh, năm nay đã 85 tuổi đã lên nói chuyện với các thành viên về một số vụ việc và kinh nghiệm ông đã trải qua trong 85 năm sống ở trên đời của ông.

Tiếp lời Bs Đính, anh Nhựt Thanh lên nói chuyện về việc cúng bái trong dịp Tết và về mấy mục Vía Trời, Vía Đất. Sau anh Nhựt Thanh, Cô Ái Liên, Giáo viên Chủ nhiệm Lớp Yoga Nguyễn Khắc Viện, đăng đàn nói về một số phương pháp trị bịnh rất hữu hiệu mà ai cũng có thể làm được.

Cô Ái Liên nói xong, anh Bá Mạnh lên đọc tặng các thành viên hai bài Sớ tâu lên Ngọc Hoàng trong dịp Tết rất hùng hồn và vui. Tiếp lời anh Bá Mạnh, anh Dương Lêh lên nói về chuyện đau mắt và những chuyện đi khám mắt bị vẽ bịnh cườm nọ cườm kia để cuối cùng được đề nghị đi mổ, trong khi trên thực tế bệnh tình không đến nỗi cần mổ.

Sau anh Dương Lêh, anh Phùng Chí Tâm lên nói qua về bệnh tim mạch và công dụng chữa bệnh của ô mai. Sau đó anh ngâm tặng các thành viên bài thơ Tôi Yêu Sách chỉ có 4 câu, và cùng với anh Lê Nguyên, hai anh hát tặng các thành viên bài Thắm Mãi Hoa Người. Hai anh hát xong, thành viên Kim Sơn hát tặng các thành viên bài Xuân và Tuổi Trẻ của La Hối.

Tiếp lời Kim Sơn anh Trần Văn Hữu lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ Xuân. Sau anh Hữu, anh Chử lên hát thơ và hát bài chúc Tết các thành viên là bài Tết Việt Nam. Sau anh Chử, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom của anh, đã lên hát tặng các thành viên bài Ly Rượu Mừng.

Sau cùng, anh Dương Lêh trở lên hát tặng các thành viên bài “Anh cho em mùa Xuân”. Buổi họp kết thúc thật vui, và các thành viên cùng nhau tham dự bữa tiệc Tất Niên… thậm và chí còn vui và rộn ràng hơn nữa, để tiễn đưa năm cũ và chào mừng Năm Mới Bính Thân…

VŨ THƯ HỮU


MÙA XUÂN NÓI CHUYỆN BÁO XUÂN

VÀI CHI TIẾT VỀ SỐ BÁO XUÂN ĐẦU TIÊN

SỐ XUÂN NĂM 1918 CỦA BÁO NAM PHONG

Trong đời chơi sách của tôi, tôi đã gặp và có số Xuân Nam Phong năm 1918 này hai lần, nhưng không có cơ duyên giữ được nó cho tới bây giờ. Tôi mua được số thứ nhất vào năm 63 tại một tiệm sách cũ và cho nó vào trong sưu tập gần 100 số báo Xuân, vừa trước năm 1944, vừa sau năm 44. Nhưng vào năm 72, một ông bạn tôi, chủ một nhà sách danh tiếng, đã mang một số sách Pháp của những năm 1800 đổi cho tôi lấy sưu tập báo Xuân đó. Cuốn thứ nhì tôi mua được năm 1976 ở một vựa ve chai, thì lại bị nhà giáo N.V.Y một người bạn chơi sách năn nỉ xin mua lại, và vào lúc đó, vì không còn sưu tập báo Xuân nữa, nên tôi đã nhường lại cho ông. Sau ngày ông Y mất, tủ sách của ông Y về tay ông KT, nhưng ông KT lại nhường lại cho một Linh Mục chơi sách đã có cơ may mua lại được nguyên tủ sách của nhà giáo N.V.Y vài năm trước khi ông KT qua đời.

Đã có lúc nhiều người, kể cả vài nhà nghiên cứu cho rằng báo Xuân bắt đầu có từ năm 1932 với các số Xuân của Phong Hóa, Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhưng rồi sau người ta đã từ bỏ quan niệm này khi được biết và thấy tận mắt rằng, ngay từ đầu thế kỷ thứ 20, vào năm Mậu Ngọ (1918) người ta đã thấy có một số báo Tết trên bìa ghi rõ: “Số Tết Mậu Ngọ 1918” và ở dưới là hai chữ Nam Phong, tên tờ báo. Trang bìa này có vẽ hai người, mặc trang phục cổ, một người cầm một cành đào trụi hoa, trụi lá, còn người kia cũng cầm một cành đào thì lại đang nở hoa. Hình ảnh này được giải thích là hình vị Hành Khiển Phán Quan của năm Đinh Tỵ (1917) cầm cành đào trụi lá đang buồn bã chia tay với vị Hành Khiển Phán Quan năm Mậu Ngọ (1918), nét mặt tươi tỉnh, trên tay cũng là một cành đào nhưng đang nở rộ hoa (theo tác giả Phạm Tôn). Nhưng cũng có người giải thích rằng đó là hình hai ông Thọ. Và ở dưới cùng bìa báo có thấy ghi rõ: In tại Đông Kinh Ấn Quán (Imprimerie Tonkinoise) 14 Rue du Coton (Phố Hàng Bông) Hà Nội. Sự việc này đủ để minh chứng là số báo Tết Mậu Ngọ (1918) của báo Nam Phong chính là thủy tổ báo Xuân của chúng ta. Một điều đáng lưu ý là số báo Tết này không ghi số để cho biết là số bao nhiêu trong toàn bộ báo Nam Phong, đồng thời cũng không ghi giá bán. Tuy nhiên số báo Tết này cũng chỉ là một trong những số đầu tiên của tờ báo Văn Học danh tiếng của nhà báo danh tiếng Phạm Quỳnh vì số này được in 6 tháng sau khi báo Nam Phong ra đời. Toàn bộ báo Nam Phong gồm 210 số và số Tết không ghi số này thành ra là 211 số tất cả.

Toàn bộ số Tết này là 126 trang cả bìa, gồm phần Quốc ngữ 70 trang và phần chữ Hán 52 trang cộng 4 trang bìa. Có người cho rằng số báo Nam Phong Tết Mậu Ngọ này tuy không ghi số thứ tự nhưng có thể nằm giữa số Nam Phong số 8 (tháng 2, 1918) và số 9 (tháng 3,1918). Nhưng giả thuyết này lại cũng không phù hợp với việc tờ báo Xuân này ra đời khi báo Nam Phong mới được 6 tháng tuổi.

Nội dung gồm vài bài trần tình còn phần lớn là những bài thơ văn cổ, câu đối v.v… nên tôi không thích lắm, để rồi, khi tình cờ đọc thấy dưới một bài mấy dòng chữ:

- Đại Nam Khải Định Hoàng đế vạn tuế !

- Toàn-quyền Xa-lộ (A. Sarraut) đại-nhân vạn tuế !

- Đại Nam cố quốc vạn vạn tuế !

- Đại Pháp ân-quốc vạn vạn tuế !

Tôi lập tức gấp ngay tờ báo lại, và nhét vội nó vào ngăn tủ… đơn giản là vì, ngoài Đại Nam cố quốc ra, tôi chả muốn vạn tuế với vạn vạn tuế gì những đơn vị còn lại mà ngược lại chỉ muốn… thiểu tuế họ thôi!

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN


NĂM 2015

VỚI CLB SÁCH XƯA & NAY

Phải nói rằng năm 2015 với CLB SÁCH XƯA & NAY không có nỗi buồn, chỉ có toàn niềm vui. Họ vẫn đều đặn họp, đều đặn ra được Bản Tin mỗi tháng 1 lần, đúng hẹn. Tất cả đều giữ nếp sinh hoạt bình thường. Vẫn là Chủ Nhiệm khoe sách mới sưu tập được. Thành viên đi du lịch nước ngoài trở về kể lại những cái lạ, cái hay khi được “mở rộng tầm nhìn”. Các thành viên còn lại vẫn tiếp tục phát huy sở trường của mình.

Năm vừa qua, thành viên Lê Minh Chử đã làm một chuyến HÀN DU, cả hai ông bà đi thăm con gái và rể đang học ở Hàn Quốc, các thành viên ở nhà được nghe kể lại về sự phát triển, văn minh của xứ người, để thấy nước ta muốn vươn lên chắc còn phải học hỏi rất nhiều. Ngoài ra, con số truy cập trang web của Bản Tin cũng tăng cao. Có ngày có cả ngàn lượt truy cập, chứng tỏ Bản Tin cũng có sự hấp dẫn riêng, và mọi thành viên đều tiếp tục hăng say đóng góp cho sân chơi chung ngày càng khởi sắc hơn. Bản Tin cũng được sự cộng tác của những nhà thơ mới gia nhập làm cho trang Thơ ngày càng phong phú hơn. Cuối năm là chuyến viếng thăm bất ngờ của CLB Thơ BÌNH THẠNH, Trảng Bàng, Tây Ninh. Chín thành viên CLB Thơ Bình Thạnh đã không ngại đường xa, đến dự một buổi họp mặt thường kỳ của CLB Sách XƯA & NAY để giao lưu, tặng sách và hát tặng các thành viên. Trước tình cảm của CLB bạn dành cho mình, mọi người và đáp lễ bằng cách tặng lại mỗi vị khách một Bản Tin mới và một quyển thơ Mây Bạc mà các thành viên in ra trước đó.

Càng ngày càng thấy CLB quả là sân chơi hữu ích cho những người lớn tuổi. Thay vì bỏ thì giờ trôi qua vô ích, hoặc nhậu nhẹt bù khú, thì họ có thể tập trung, sưu tầm tài liệu để kết hợp, hoặc hồi ức quá khứ, hoặc cho trí tưởng tượng thăng hoa để viết ra những đề tài, những câu chuyện hấp dẫn. Điều đó không chỉ bản thân họ được nhờ, vì làm chậm tiến trình lão hóa của bộ óc, mà còn làm cho người đọc cũng thấy thích thú, có được một số thời gian thư giãn qua những gì họ chia sẻ. Cuối năm, các thành viên CLB lại cùng tham gia Tất Niên với nhau bằng một chầu ăn uống hoành tráng, sau khi đã đàn, hát, ngâm thơ, để mừng một năm trôi qua trong an lành.

Mọi người ăn mừng cũng rất đúng, vì họ là người cũng đọc nhiều sách, để biết rằng sau Hạ Thọ là những năm tháng được cuộc đời ân thưởng. Vì thế, mỗi thành viên luôn cố gắng duy trì nếp sống tốt đẹp mà họ đang may mắn có được. Họ cảm ơn cuộc đời theo cách của mình. Đa phần họ thuộc lứa về hưu, tiền bạc không còn làm ra được, nhưng những gì họ trải nghiệm trong suốt nhiều chục năm qua là những vốn quý, được họ ghi nhận, kể lại bằng ngòi bút không chuyên của mình. Tuy lời văn không được trau chuốt như những nhà văn chuyên nghiệp, nhưng trong đó là tấm lòng của họ để tri ân cuộc đời. Vì chỉ sống tốt không thôi thì chưa đủ, làm sao cố gắng phổ biến cái hay, cái đẹp để nhiều người cùng thưởng thức, góp phần đưa cuộc sống tốt đẹp thêm lên. Đó là điều thời trẻ mọi người vì bận bịu kiếm sống nên không quan tâm, giờ ý thức hơn nên cố gắng, dẫu muộn màng còn hơn không. Điều đó cũng làm cho tuổi già của họ thêm ý nghĩa.

Tất cả đều nâng ly chúc nhau một năm mới an lành, và sau chầu tự thưởng, họ đã chia tay trong quyến luyến, hẹn gặp nhau kỳ họp tới vào cuối tháng, vì sau đó là Tết Nguyên Đán.

Nhân dịp năm mới 2016, CLB SÁCH XƯA & NAY xin chúc tất cả thành viên luôn dồi dào sức khỏe, gia đình an khang, sáng tác hăng say. Cũng xin kính chúc tất cả những thân hữu gần xa đã yêu mến CLB những lời chúc tốt đẹp nhất. Xin các thân hữu cùng tiếp tục đồng hành với chúng tôi, đóng góp bài vở, ý kiến, để sân chơi chung của chúng ta ngày càng là người bạn không thể thiếu cho nhiều người, góp phần vực dậy “văn hóa đọc” đang mất dần ảnh hưởng bởi cuộc sống hối hả như hiện nay.

CLB SÁCH XƯA & NAY

NƠI BẮT ĐẦU

của XUÂN DI LẶC

Có lẽ nhiều người vẫn chưa quên con số hơn 6.000 người đã nhập viện trong mấy ngày Tết Xuân Ất Mùi vừa qua vì đánh nhau. Ngày cao nhất là 900 người! Một hiện tượng khủng khiếp lần đầu tiên xảy ra trên một đất nước được mệnh danh là hiền hòa, yêu hòa bình, và nơi diễn ra nhiều nhất là miền Nam, ở các vùng Đồng Nai, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang, nơi mà người dân đa phần là nông dân chất phác, cho ta thấy tác hại của rượu đã nguy hiểm tới mức báo động! Người bình thường lúc nóng lên đã khó mà kiềm chế, nếu cộng thêm ảnh hưởng của rượu thì vô phương cứu chữa, vì lúc đó cái nắm quyền điều khiển toàn bộ, từ thần kinh đến thể xác của con người là rượu! Chính vì vậy mà Đạo Phật đã thấy xa, nên đưa rượu vào Ngũ Giới Cấm mà Phật Tử nào khi Quy Y cũng phải chấp nhận giữ gìn. Đó là: Sát, Đạo, Dâm, Vọng Ngữ, Tửu.

Với số người nhập viện như thế thì tiền bạc, thuốc men, sức khỏe bị tổn thất biết là bao nhiêu. Một số còn chấn thương sọ não không biết sau đó thì có hồi phục được hay không, cuộc sống gia đình họ sau đó sẽ như thế nào? Chắc chắn có rất nhiều người sau đó hối hận cũng đã muộn, vì ngồi chung bàn nhậu không thể nào là những người xa lạ hay mới quen, mà là anh em trong gia đình ruột thịt với nhau, hoặc đồng nghiệp, bè bạn thân tình, láng giềng thân thiết, hai bên suôi gia... Nhưng sau độ nhậu rồi thì tan nát hết. Tình thân, tình bạn, tình láng giềng không còn nữa, mà hệ lụy kéo dài rất lâu sau đó, vì người đi bệnh viện, kẻ lại vào tù, bỏ lại vợ dại, con thơ nheo nhóc... Rồi thì đâu phải chỉ riêng bản thân hay gia đình người nhậu mới bị hậu quả. Những người say rồi điều khiển các phương tiện giao thông đã gây biết bao nhiêu tai họa cho nhiều gia đình vô tội khác, mà vào những ngày Tết năm nào, tai nạn giao thông cũng tăng lên phần lớn cũng do đó!

Nước ta thì sữa cần cho trẻ con thì mắc, thuốc để trị bệnh cũng mắc, mà rượu lại rất rẻ. Lại không quy định nơi chốn, giờ giấc nên mọi người có thể uống bất cứ ở đâu, bất cứ giờ nào, rất thuận tiện cho mấy tay bợm dễ dàng gầy độ. Vui thì uống để mừng. Buồn thì uống cho quên sầu! Không vui, không buồn thì lai rai tiêu khiển. Ngày Tết rảnh rỗi lại càng xả láng. Tới nhà ai cũng sẵn rượu thịt. “Nam vô tửu như kỳ vô phong”. Gặp nhau mà thiếu rượu thì câu chuyện trở thành nhạt nhẽo... Liệu đó có phải là tình trạng đáng báo động không, nhưng chắc chắn không phải là điều bình thường và cũng không nên để cho tiếp tục. Nhưng ngăn chặn cách nào khi nó đã thành nếp? Chờ mọi người tự ý thức để bảo vệ lấy mình và gia đình thì chắc cần một thời gian với cả một kế sách vận động, tuyên truyền e không phải một sớm một chiều mà thành công, vì đã trở thành thói quen khó bỏ của dân ta mà hàng ngày đi ngang mấy quán nhậu ta thấy xe cộ xếp lớp lớp thì biết rằng nhậu đã trở thành nếp sinh hoạt của nhiều người rồi. Và cũng không biết từ bao giờ mà nhiều người tạo ra cái thói quen khi muốn bàn luận, thương thảo hay ký hợp đồng đều phải đến quán nhậu. Người không biết uống rượu mà muốn làm ăn cũng phải tập, thậm chí có cơ quan phải cử một nhân viên chuyên đi nhậu thay cho sếp, trách sao hợp đồng phải đội giá lên trời, cuối cùng là người dân lãnh đủ, ráng còng lưng mà trả nợ. Đời mình không hết thì đời con, đời cháu lại tiếp tục! Người dân Việt Nam thuộc thành phần có thu nhập không cao so với mặt bằng thế giới, còn đang nợ đầm đìa, vậy mà theo báo cáo của Hiệp Hội Bia Rượu Nước Giải khát, trong năm 2015 người Việt đã uống 3,4 tỷ lít bia và 70 triệu lít rượu, quy ra tiền thì hơn 66.000 tỷ đồng, so với ngành văn hóa thu được 2.000 tỷ! Nhưng thiệt hại không dừng ở thế hệ đương thời. Những đứa con được hoài thai trong men rượu của người cha sẽ là những đứa trẻ kém trí tuệ. Đó là điều các bậc nam nhi cần suy nghĩ nếu không muốn tương lai đất nước ta ngày càng suy yếu đi. Làm sao sản sinh được những nhân tài cho đất nước khi thế hệ cha anh chìm trong men rượu? Rồi thì Việt Nam đứng chót ở nhiều hạng mục, nhưng lại đứng đầu về tai nạn giao thông trong Khu Vực Đông Nam Á đa phần cũng do rượu! Có lẽ người có chút suy nghĩ không khỏi đau lòng. Nhưng vực dậy cách nào đây!

Cuộc sống đã rối ren như vậy nên ta mới thấy giá trị và sự cần thiết của các Tôn Giáo. Ở nơi nào có nhiều gia đình sinh hoạt theo các tôn giáo chân chính thì cũng ít xảy ra tệ nạn hơn, bởi con người được sự hướng dẫn để phân biệt thiện, ác và biết yêu thương, tôn trọng nhau hơn. Như thế, Tôn Giáo đã trở thành rào chắn kiên cố để bảo vệ cho con người, giúp con người giữ được chuẩn mực cho cuộc sống đạo đức. Ở một gia đình ngoan đạo thì ít có tệ nạn rượu chè, cờ bạc, vợ bé vợ mọn làm tan nát gia đình. Nhờ tin vào Chúa, vào Phật, tin vào sự thưởng phạt của kiếp sau mà con người trở nên thánh thiện hơn, cũng như nhờ ý thức Nhân Quả, người Phật Tử sẽ không xâm phạm của người khác, nhờ vậy mà gia đình và những người chung quanh họ cũng được bình an, xã hội cũng đỡ chi phí cho việc giữ gìn an ninh, trật tự.

Hằng năm, người Thiên Chúa Giáo đều mừng lễ Giáng Sinh, mọi người đều mong cầu Chúa Hài Đồng giáng trần sẽ mang lại hòa bình, hạnh phúc đến cho toàn thể nhân loại. Người Phật Tử cũng không khác. Ngoài lễ Phật Đản, lễ mừng ngày Đức Thích Ca thành đạo, họ còn kỳ vọng vào sự giáng thế của Đức Di Lặc, mà theo huyền ký là vào thời kỳ cuối của năm thứ 3.000. Thời kỳ đó gọi là Hội Long Hoa sẽ diễn ra, và Đức Di Lặc sẽ giáng trần để trị vì thế giới, nên không chỉ tín đồ của Đạo Phật, mà của một số Giáo Phái khác cũng có niềm tin tương tự. Tất cả đều hướng về, đều tin tưởng ngày đó sẽ xảy ra, vì đã là con người, dù sang hay hèn, giàu hay nghèo, ai lại không muốn được sống trong hòa bình, hạnh phúc, an vui? Trần gian đã quá nhiều đau khổ, biến động. Có một thánh nhân xuất hiện để ổn định trật tự cho cả thế giới ai lại chẳng mừng. Thế nhưng sự thật theo đúng Chính Kinh thì điều đó sẽ diễn ra như thế nào? Có lẽ chúng ta cần làm một việc là tìm xem sự khác biệt giữa hiểu lời Phật dạy theo NGỮ và NGHĨA mà trong TỨ Y đã dặn dò “Y NGHĨA BẤT Y NGỮ”.

Chúng ta biết rằng sở dĩ mọi người đều mong chờ, hy vọng, đặt hết niềm tin vào PHẬT, BỒ TÁT là vì họ thấy Kinh viết là PHẬT sẽ cứu độ cho “Tam Thiên Đại Thiên thế giới”. Họ hoàn toàn không biết rằng có một sự khác biệt giữa NGỮ và NGHĨA đối với những lời của Phật dạy mà nếu người tu Phật chưa phân rõ thì không thể nào tu hành thành công được.

Thật vậy. Điểm quan trọng nhất bắt đầu bằng sự hiểu biết về PHẬT, bởi vì khi hiểu không đúng từ này sẽ kéo theo đó hàng loạt sai lầm đưa đến kết quả hoàn toàn khác với Đạo Phật chân chính xuất phát từ Đức Thích Ca.

Cũng do hiểu sai về PHẬT nên sinh ra sự khác biệt về cách Tin Phật mà hình thành hai hạng người trong Kinh gọi là NHẤT THỪA và NHỊ THỪA. Phân tích ra ta thấy như sau:

Người NHỊ THỪA là người tin rằng Phật là Thần Linh, có quyền năng như Thượng Đế tối cao, cầm nắm sinh mạng của tất cả. Có toàn quyền ban ân, giáng phúc cho mọi người. Tất cả đều là Chúng Sinh của Ngài. Do đó, ai cần gì thì cứ lễ vật, hương khói Cầu Xin thì sẽ được chấp nhận. Lúc sống thì Cầu An, xin đổi xấu, lấy tốt, xin ban cho phúc lộc, tiêu tai, tăng ích. Lúc chết thì Cầu Siêu, Chư Sư sẽ tụng Kinh siêu độ để người chết được Thánh Chúng rước về Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà. Thậm chí có người đang sống cũng bỏ hết công việc, nhất tâm hướng về Tây Phương Cực Lạc.

Người NHẤT THỪA thì tin theo đúng những gì được Chư Vị Giác Ngộ giải thích trong Kinh. Họ tin rằng Phật chỉ là tình trạng, là khả năng Giải Thoát mà mỗi người đều có và đều có thể làm được cho mình. Đức Thích Ca đã hoàn thành cho Ngài nên Ngài được gọi là Phật Thích Ca. Chư Vị Giác Ngộ và người tu bất cứ thời nào cũng có thể làm được cho mình. Chính vì vậy mà Đạo Phật gọi là có TAM THẾ PHẬT. Đó là PHẬT QUÁ KHỨ, PHẬT HIỆN TẠI và PHẬT VỊ LAI. Bồ Tát, Chúng Sinh đều là những trạng thái tư tưởng của mỗi người. Phật, Bồ Tát không phải là Thần Linh có quyền phù hộ cho ai mà mỗi người phải tự hành trì để đạt được nên gọi là TỰ ĐỘ.

Cách thức tu hành được giải thích chi tiết như sau: Trong Tâm của mỗi người có cả tốt lẫn xấu gọi là PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ. Tư tưởng tốt đẹp, thánh thiện, không còn khởi những cái xấu, những điều ác thì gọi là PHẬT, BỒ TÁT. Tư tưởng còn đắm nhiễm, đam mê những thứ tiền tài, danh vọng, vật chất, cứ muốn thỏa mãn mọi thứ cho vừa ý gọi là CHÚNG SINH. Phật, Bồ Tát trong mỗi người có nhiệm vụ phải cứu những Chúng Sinh của mình, đưa nó về nơi an ổn, hết lao xao, phiền não. Do vậy, việc mà mỗi người tu cần phải làm, là Điều Phục những Chúng Sinh, cho tất cả đều được Giải Thoát. Kết quả Giải Thoát gọi là Thành Phật.

Nhiều người vẫn không tin rằng trong Tâm mình tự có PHẬT, và PHẬT của mình sẽ cứu độ cho mình, vì họ cho rằng Phật là Thần Linh, do thấy Kinh viết là Phật cứu độ cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Họ không biết rằng do cách đây đã gần 3.000 năm, ngôn ngữ chưa đủ phong phú để diễn tả, thì làm sao nói được chuyện diễn ra bên trong, làm sao diễn tả được tư tưởng của con người? Chính vì vậy mà Đức Thích Ca phải tả một cảnh giới khác mà ai có đọc Kinh Diệu Pháp Liên Hoa sẽ thấy Ngài diễn tả một nơi mà “mặt trời mặt trăng không soi tới được”. Vì thế, “Tam thiên đại thiên thế giới” chỉ để nói về những tư tưởng thuộc Ba chủng loại THAM, SÂN, SI cứ “trùng trùng duyên khởi” trong mỗi chúng ta khi đối pháp. PHẬT, BỒ TÁT của mỗi người có nhiệm vụ cứu độ cho Ba món THAM, SÂN, SI gọi là Tam Thiên Đại Thiên thế giới của chính mình, đưa nó về nơi an ổn, gọi là Phật Quốc - cũng chính ở nơi Tâm của mỗi người mà thôi - Chính vì vậy mà Đạo Phật gọi là Đạo TỰ ĐỘ. Nếu Phật ngoài mà độ được cho người khác thì Đạo Phật phải gọi là Đạo Độ Tha mới đúng.

Việc quay vô Tâm để Tự Độ mới có thể phù hợp với câu Kinh: “Ta đã diệt độ vô lượng vô số Chúng Sinh, nhưng thật ra không có Chúng Sinh nào được diệt độ cả”, vì Chúng Sinh không phải là con người hay sinh vật có thật, chỉ là tư tưởng của Phật hay của người tu mà thôi. Và vì đó chính là sản phẩm của mỗi người, nên Đức Thích Ca đã diệt độ hết Chúng Sinh của Ngài và Ngài đã Thành Phật. Chúng ta không phải là Chúng Sinh của Ngài, nên vẫn còn phải luân lưu phiền não nơi đây. Một bằng chứng cụ thể là Phật không có cứu độ cho thế giới hay cho hoàn cảnh nào bên ngoài rõ rệt nhất cho ta thấy là 2 trận động đất nặng nề trong năm vừa qua đã diễn ra ngay tại Népal là nơi Đức Thích Ca đã đản sinh, làm chết gần 9.000 người, làm sụp đổ bao nhiêu Tháp Cổ, nhà cửa khiến người dân ở đó điêu đứng. Ngay sát cạnh Népal, có ngôi làng Hokse nổi tiếng, mệnh danh là “ngôi làng bán thận”, vì hầu hết những người khỏe mạnh trong làng chỉ còn 1 quả thận. Họ phải bán đi một quả với giá rẻ mạt để lấy tiền xây nhà! Ấn Độ còn được gọi là “cường quốc người nghèo số 1 thế giới” với 1USD mỗi ngày, tương đương 10.000 VNĐ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi tử vong cao nhất thế giới. Nếu Phật đã linh thiêng thì Ngài phải phù hộ cho dân bản xứ của Ngài mới đúng. Nước Ngài mà ngài không quan tâm, lo đi phù hộ cho dân xứ nào? Một bằng chứng hùng hồn hơn hết là nếu Phật quyền phép như vậy sao lại để cho chết vì ngộ độc thực phẩm, cuối cùng là trà tỳ? Không cứu được mình mà cho rằng cứu cả tam thiên đại thiên thế giới có phải là vô lý lắm không?

Cho nên, có hiểu thể nào là Phật, thế nào là Chúng Sinh, thế nào là công việc “Độ Sinh”? Nước Phật ở đâu? Chúng ta mới hiểu được thế nào là Phật Quốc được thành lập, cũng như hiểu thế nào là Đức Di Lặc giáng trần. Bởi người tu Phật đâu có làm điều gì lớn lao. Không phải phụng thờ Phật nào. Chỉ cần quay về với cái CHÂN TÂM, là cái Tâm chưa ô nhiễm từ khởi thủy, bằng cách gạn lọc những chất nhơ bẩn đã bám vào đó từ nhiều kiếp trôi lăn. Công việc tu hành chỉ là chuyển hóa Lục Căn, không cho bắt tay với Lục Trần. Gạn lọc những chất nhơ được gọi là BA ĐỘC, tức là THAM, SÂN và SI từ vô lượng kiếp đã bám vào cái Tâm của mình. Chính cái Tham, Sân Si này làm căn bản, nên khi Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý tiếp xúc với Pháp nào bên ngoài thì lập tức Ba Độc theo đó mà dấy lên. Phiền não theo đó mà khởi động. Loại bỏ được BA ĐỘC ra khỏi cái TÂM rồi, thì cái Tâm trở thành thanh tịnh. Lục Căn cũng trở thành Lục Hộ Pháp. Cõi Tâm bây giờ tĩnh lặng, gọi là PHẬT QUỐC được thành lập. Lúc đó gọi là ĐỨC DI LẶC đã hạ sinh và chủ trì cho thế giới đó. Cho nên chúng ta khỏi cần nhìn ra bên ngoài để chờ, mà nên quay vào tự sửa lấy cái tâm của mình để chờ đón Ngài, vì Phật đâu có phải là Thần Linh mà từ trên trời giáng xuống để trừng trị kẻ ác, ban thưởng cho kẻ lành, hay dùng thần thông, phép mầu làm cho những kẻ ác phải sám hối ăn năn? Nếu làm được hẳn mấy ngàn năm nay các Ngài đã làm, đâu có để cho thế giới lầm than, đau khổ lâu đến như thế.

Thử kiểm tra thực tế, ta thấy: Phải chăng có ai đi thi mà không cần học hành, chỉ dựa vào cầu xin? Có ai không làm ăn mà tiền bạc tự chạy vô nhà? Người nghèo muốn vươn lên. Người muốn cai rượu, cai thuốc, cai nghiện... thành công hay không là do ý chí, đâu phải do cầu xin? Đó chính là Nhân Quả mà Đạo Phật đã nhắc nhở chúng ta. Gieo Nhân nào thì gặt Quả đó, không thể do cầu xin mà thay đổi. Đừng nghĩ rằng cúng nhiều thì sẽ được chứng. Kẻ nào khuyến khích điều đó chứng tỏ họ xem Phật, Bồ Tát là những vị Thần Linh, nhưng hạ giá các vị ngang với tà thần, vì nhận của đút lót để giảm án cho người khác. Như vậy còn đâu là luật chí công của chân lý? Cũng vì con người không biết có Luật Nhân Quả, không biết có Sinh Tử Luân hồi nên cuộc sống quá gian ác, bất chấp thủ đoạn hại người để được lợi về phần mình mà Đạo Phật đã ra đời để cảnh báo, cho con người sợ mà Cải Ác, Hành Thiện. Vì thế, những người cho rằng việc cúng kiến, cầu xin có thể đổi xấu, lấy tốt, thay đổi Nhân Quả chính là những người làm cho Phật Pháp biến thành Thế Gian Pháp, mà còn tệ hại hơn, vì làm cho con người tin vào sự chở che của thế lực linh thiêng để không ngưng làm Ác, hại người. Không biết họ có thấy như thế là đi ngược với Đạo Phật chân chính hay không?

Kinh dạy: “Nếu có 100 hay 1.000 vị A La Hán, thì từ vị đầu tiên cho đến vị cuối cùng đều nhân Giới mà được đạo” cho ta thấy tầm quan trọng của Giới. Người đã có Giới thì không những bản thân, gia đình sẽ tốt đẹp mà hoàn cảnh chung quanh cũng an ổn, vì không những không xâm phạm những gì không phải của mình mà ngay cả lời nói cũng phải chân thật, vì nói sai đi là phạm Giới. Tuy nhiên, dù cùng giữ GIỚI, cùng hành BÁT CHÁNH ĐẠO mà theo CHÁNH PHÁP và theo Tà Pháp là hai hướng hoàn toàn trái ngược nhau: Một bên hướng về Phật ngoài. Làm mọi điều tốt, Giữ Giới, hành thiện, ăn chay, niệm Phật để cầu PHẬT ĐỘ cho. Chờ mong Phật bên ngoài sẽ xuất hiện để cứu mình. Một bên hướng nội, biết rằng Phật là tình trạng thanh tịnh, an ổn trong nội tâm, nên chỉ cần làm công việc XẢ BỎ những cái Chấp lầm, những mê đắm vào các tướng hữu vi hư dối, hành trì các pháp mà Đạo Phật hướng dẫn để TỰ ĐỘ lấy bản thân. Không chờ mong sự cứu độ của Phật nào, mà biết rằng Phật quá khứ cũng hành GIỚI ĐỊNH HUỆ, Bát Chánh Đạo, Lục Độ, Vạn Hạnh, Tứ Nhiếp để Tự Độ. Ta cũng sẽ theo cách mà các Ngài, cũng làm những việc như thế để Tự Độ lấy. Không cầu xin, không nương tựa, vì không có ai ban cho ai. Cứ kiên trì mà làm, cho đến lúc cái Tâm được thanh tịnh thì Phật sẽ giáng sinh ở đó. Vì vậy, nơi bắt đầu của Xuân Di Lặc không phải ở trên hư không, hay ở cõi Phật xa xôi diệu vợi nào đó, mà chính là ở nơi cái Tâm của chính mỗi chúng ta. Mọi người không thể cứ tiếp tục sống buông thả, không lo làm ăn, học hành, phấn đấu, cải tà quy chánh mà Đức Di Lặc sẽ giáng trần rồi sắp xếp, ổn định mọi thứ lại cho ta. Trái lại, mọi người, mọi giới đều cần nhìn lại để thấy bao lâu nay mình đã sống xứng đáng chưa? Chỉ cần sống tốt, thực hiện đúng trách nhiệm của mình thì dù ở cương vị nào, từ kẻ làm con cho đến bậc cha mẹ, hay chỉ là một công dân bình thường, thì gia đình sẽ êm ấm, suy rộng ra thì xã hội, đất nước cũng sẽ bớt nhiễu nhương. Những điều đó ai cũng làm được, đâu cần phải Phật, Thánh nào giáng trần ban cho? Hơn nữa, chẳng lẽ cả mấy ngàn năm qua chúng ta cầu xin mãi không được mà vẫn không nản chí? Vì vậy, theo tôi, nếu không muốn tiếp tục tin trong mê mờ, cứ để cho người khác dắt đi, không cần biết về đâu, thì hãy thực tế hơn, thử nhìn ra thế giới mà xem. Những quốc gia mà con người chịu khó học hỏi khoa học kỹ thuật từ các trường danh tiếng, họ đâu có nhang khói cầu xin ai, chỉ bằng đầu óc của họ, vận dụng những gì đã được học, mà nước họ, bản thân họ vẫn giàu vượt bậc. Rõ ràng họ không cần học Nhân Quả nhưng thực hành đúng Nhân Quả. Trong khi nước ta vàng mã đốt một năm cả 400 tỷ đồng, Chùa chiền ngày một hoành tráng hơn, tượng càng lúc càng to, mà lạc hậu vẫn hoàn lạc hậu! Do vậy, theo tôi, đã đến lúc người Phật Tử nên kiểm tra lại toàn bộ cuộc đời của Đức Thích Ca, con đường tu hành, đắc đạo của Ngài và lịch sử phát triển Đạo Phật để thấy chúng ta đã bị dắt đi quá xa. Phật đã được tôn lên thành Thần Linh, người Phật Tử không còn biết Nhân Quả, không hiểu thế nào là Tự Độ, chỉ biết đặt niềm tin vào sự hộ trì của Phật, nên không lo giữ Giới, Hạnh, không lo cải Ác, hành Thiện, chỉ cầu xin, chờ được cứu độ, vô tình biến Đạo Phật từ Chánh Pháp, trở thành Tà Pháp mà hoàn toàn không hay biết vậy.

Tâm Nguyện

(tháng 1/2016)


THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG”

Bản dịch của linh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

1- Thánh Phanxicô thành Assisi đã hát lên: “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con”. Trong bài thánh ca tươi đẹp này, Ngài nhắc cho chúng ta nhớ, ngôi nhà chung của chúng ta phải được xem như người chị của chúng ta, mà chúng ta được chia sẻ cuộc sống, và như người mẹ ôm lấy chúng ta. “Con xin chúc tụng Chúa, lạy Chúa của con! Vì người chị của chúng con, người mẹ trái đất của chúng con, mẹ nâng đỡ chúng con và mang lại nhiều hoa trái, những bông hoa tươi đẹp, những cây cỏ xanh tươi”[1] .

2- Người chị này đang kêu gào vì sự hủy hoại do chúng ta, vì việc sử dụng vô trách nhiệm và bóc lột các tài nguyên. Vì cứ đinh ninh rằng, chúng ta chính là chủ nhân và sở hữu chủ, nên được quyền tận dụng. Bạo lực nằm trong trái tim bị tội lỗi gây thương tích của con người, xuất hiện rõ ràng qua các hiện tượng bệnh lý, mà chúng ta có thể ghi nhận trong đất đai, trong không khí và nơi các sinh vật. Vì thế, giữa những người nghèo bị bỏ rơi và bị đối xử tàn tệ nhất, chúng ta sẽ thấy trái đất của chúng ta bị bóc lột và bị tàn phá, “đang rên siết và quằn quại trong cơn sinh nở” (Rm 8,22). Chúng ta quên rằng, chính chúng ta cũng là tro bụi (St 2,7). Thân xác của chúng ta cũng được tạo nên từ những yếu tố của vũ trụ; không khí của nó giúp chúng ta thở và nước của nó giúp chúng ta sống và được bồi dưỡng.

Chúng ta không thể dửng dưng trước bất cứ điều gì của trái đất

3- Khoảng độ năm mươi năm trước đây, lúc thế giới bị rơi vào cơn khủng hoảng của chiến tranh hạt nhân, vị thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã viết một Thông Điệp, trong đó không những Ngài muốn ngăn chận chiến tranh, nhưng còn truyền đạt một đề nghị hòa bình. Ngài viết sứ điệp Pacem in terris – Hòa bình trên thế giới không những cho toàn thể Kitô hữu và còn thêm: “gởi cho tất cả những người thiện chí”. Hiện tại, khi phải đối mặt với những tác hại về môi trường trên khắp thế giới, Tôi muốn nói với tất cả mọi người đang sống trên hành tinh này. Trong Tông Huấn Evangelii gaudium – Niềm vui Tin Mừng, Tôi viết cho mọi thành phần trong Giáo Hội, để dấn thân vào một cuộc canh tân truyền giáo đang tiến triển. Trong Thông điệp này, Tôi đặc biệt kêu mời tất cả mọi người chú tâm vào ngôi nhà chung của chúng ta.

4- Tám năm sau thông điệp Pacem in terris – Hòa bình trên thế giới, vị chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI vào năm 1971 đã nói về đề tài sinh thái, khi trình bày cơn khủng hoảng như là “hậu quả bi thảm” của hoạt động không kiểm soát của con người. “Qua việc khai thác vô tội vạ thiên nhiên, con người phải đối mặt với một nguy hiểm là sẽ tàn phá thiên nhiên và trở thành tế vật cho việc tàn phá của mình”[2]. Cũng như trước diễn đàn Tổ chức lương nông quốc tế (FAO), Ngài đã nói về mối “tai họa sinh thái như hậu quả của xã hội công nghiệp” và Ngài nhấn mạnh về “một sự khẩn cấp thật cần thiết cho sự chuyển đổi triệt để trong thái độ của nhân loại”, chỉ vì, “những tiến triển siêu đẳng về mặt khoa học, những kỹ thuật đầy kinh ngạc, sự phát triển diệu kỳ của nền kinh tế, nếu như chúng không đi kèm theo sự phát triển xã hội và luân lý đích thực, sẽ chống lại loài người”[3].

5- Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II cũng đưa ra đề tài này, nhưng với một chú tâm đáng kinh ngạc. Trong Thông điệp đầu tiên, Ngài cảnh báo: “Con người đã không nhìn vũ trụ với một ý nghĩa nào khác, ngoài mục đích sử dụng trực tiếp và lạm dụng”[4]. Tiếp đến, Ngài kêu gọi toàn thế giới phải có một sự chuyển đổi về mặt sinh thái[5]. Đồng thời, Ngài cho thấy người ta dấn thân quá ít để “gìn giữ những điều kiện luân lý cho một sinh thái thật nhân bản (Humanõkilogie – écologie humaine)” [6]. Sự tàn phá môi trường sinh thái của con người đã rất trầm trọng, vì Thiên Chúa không những trao cho con người trái đất này, nhưng chính sự sống cũng là một quà tặng của Thiên Chúa, con người cần phải bảo vệ nó trước mọi tình trạng sa sút. Mọi cố gắng bảo vệ và kiện toàn trái đất nằm trong điều kiện phải có những thay đổi sâu xa trong “cách sống, các mẫu sản xuất, tiêu thụ và cơ cấu quyền lực, là những thứ đang thống trị xã hội”[7]. Việc phát triển mang tính nhân bản thực sự phải có một đặc tính luân lý và phải đưa đến một sự tôn trọng trọn vẹn đối với con người, nhưng còn phải chú tâm đến thế giới vạn vật, đến “bản chất của từng sinh vật và liên hệ trao đổi của nó trong hệ thống xác định”[8]. Vì thế khả năng con người để chuyển đổi thực tại, phải được triển khai dựa trên nền tảng của quà tặng vạn vật như Thiên Chúa đã dựng nên chúng từ thuở ban đầu[9].

6- Vị tiền nhiệm của Tôi là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI lập lại lời đòi buộc “phải loại bỏ những nguyên nhân cơ cấu của các phận vụ lệch lạc về kinh tế thế giới và sửa lại các mẫu phát triển, xem ra không còn khả năng tôn trọng môi trường”[10]. Ngài nhắc lại rằng, con người không thể phân tích vũ trụ khi tách từng phương diện một, vì “quyển sách vạn vật chỉ có một và không thể chia cắt được”, nối kết môi trường, sự sống, tính dục, gia đình và các liên hệ xã hội lại làm một. Vì thế, “việc hủy hoại vạn vật liên kết với văn hóa, là thứ tạo nên cuộc sống chung của nhân loại”[11]. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI giúp chúng ta nhận thức, môi trường tự nhiên mang đầy vết thương do thái độ vô trách nhiệm của chúng ta gây nên. Ngay cả môi trường xã hội cũng mang đầy thương tật. Chỉ vì tất cả cùng rơi vào một điều xấu, đó là ý tưởng cho rằng không có những chân lý cố định không thể tranh luận, những chân lý hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, và vì thế sự tự do của con người không bị đặt trong một giới hạn nào cả. Người ta quên rằng, “con người không tự tạo tự do cho riêng mình. Con người không thể tự tạo ra mình. Con người là tinh thần và ý chí, nhưng cũng là vật chất”[12]. Với sự âu lo của một người cha, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta nhận thức, “sáng tạo đang bị hư hoại, đây là nơi chúng ta hiện diện, nơi toàn thể không thuộc về chúng ta mà chúng ta lại hưởng thụ cho riêng mình. Việc lạm dụng các tài nguyên của sáng tạo đã khởi sự ngay từ đó, chúng ta không còn nhận ra một khoảnh khắc nào trên chúng ta, nhưng chỉ còn nhìn thấy mỗi chúng ta”[13].

Hiệp nhất trong cùng một âu lo

7- Những tham luận của các vị Giáo Hoàng này đã gợi lên suy tư của không biết bao nhiêu nhà khoa học, triết gia, thần học và các tổ chức xã hội; các vị này đã đưa ra nhiều ý tưởng phong phú cho vấn đề này. Chúng ta không được bỏ qua, ngoài Giáo Hội Công Giáo, còn có nhiều Giáo Hội và cộng đoàn kitô hữu khác – cũng như các tôn giáo khác – cùng triển khai những lo âu lớn lao và nhiều suy tư có giá trị cho đề tài gây bất an cho chúng ta. Chỉ cần nêu lên một tỉ dụ đáng chú ý, Tôi chỉ gợi lên một phần ngắn bài tham luận của vị Thượng Phụ đáng kính Bartholomêô, người mà chúng ta hy vọng được chia sẻ vào sự Hiệp nhất trọn vẹn trong Giáo Hội.

8- Thượng Phụ giáo chủ Bartholomêô đặt biệt nói về sự cần thiết phải sám hối, vì mỗi người theo cách của mình đã hủy hoại hành tinh, “trong mức độ chúng ta đã gây nên những thiệt hại nhỏ bé cho sinh thái”; chúng ta cũng phải nhận ra “những cộng tác dù nhỏ bé hay lớn lao tạo nên sự hủy hoại hay tàn phá sáng tạo”[14]. Về điểm này, ngài đã lập đi lập lại với những lời mạnh mẽ và kích động, đòi buộc chúng ta phải nhận ra lỗi lầm đã chống lại sáng tạo: “Con người đã tàn phá sáng tạo của Thiên Chúa với nhiều phương cách sinh học; con người đã phá hoại sự toàn vẹn của trái đất, gây nên sự biến đổi khí hậu, bóc lột trái đất từ những cánh rừng tự nhiên hay tàn phá những vùng ẩm ướt; con người đem đến những tai họa cho kẻ khác, gây bệnh hoạn vì làm nhơ bẩn nguồn nước, đất đai và không khí bằng những chất độc hại – đó là tội lỗi”[15]. Vì “một tội lỗi chống lại tự nhiên, cũng là tội lỗi chống lại chính chúng ta và là một tội lỗi chống lại Thiên Chúa”[16].

9- Đồng thời, Đức Thượng Phụ Bartholomêô gây chú ý đến nguồn gốc đạo đức và tinh thần về vấn đề môi trường, đòi buộc chúng ta tìm cách giải quyết, không những về mặt kỹ thuật, nhưng còn ngay trong việc thay đổi con người, vì thật ra, chúng ta chỉ đối mặt với các hiện tượng. Ngài đề nghị với chúng ta từ việc tiêu thụ sang hy sinh, từ sự tham lam sang quảng đại, từ phung phí sang khả năng chia sẻ, bước vào sự khổ hạnh, điều đó có nghĩa là, học hỏi để ban phát, chứ không phải chỉ biết từ chối. Đó là một cách yêu thương, từng bước từ vượt qua điều chúng ta ham muốn đến việc trao ban điều mà vũ trụ của Thiên Chúa cần thiết. Đó là việc giải thoát khỏi lo âu, ham hố và ràng buộc”[17]. Ngoài ra chúng ta là Kitô hữu, còn được mời gọi, đón nhận “vũ trụ như một bí tích của cộng đoàn, như một phương tiện chia sẻ với Thiên Chúa và tha nhân trong chiều kích vũ trụ. Đó là một xác quyết khiêm tốn, gặp gỡ với điều của Thiên Chúa và nhân loại trong những thành phần nhỏ nhất của trang phục không viền mối sáng tạo của Thiên Chúa, ngay cả trong hạt bụi nhỏ bé nhất của hành tinh chúng ta”[18].

Thánh Phanxicô thành Assisi

10- Tôi không muốn tiếp tục Thông điệp này mà không gợi lên một ảnh hình tốt đẹp có thể động viên chúng ta. Tôi coi danh hiệu này như một hình ảnh hướng dẫn và như một thứ gợi hứng cho Tôi ngay lúc được chọn làm Giám Mục thành Rôma. Tôi tin rằng, thánh Phanxicô là mẫu gương tuyệt vời cho việc tôn trọng những gì yếu đuối và cho một sinh thái được sống cách trọn vẹn đầy niềm vui đích thực. Ngài chính là vị Thánh cho tất cả những ai tìm hiểu và làm việc trong lãnh vực sinh thái; Ngài được nhiều người không phải là Kitô hữu yêu mến. Ngài cho thấy một sự chú tâm đối với sáng tạo của Thiên Chúa và đối những kẻ nghèo hèn và cô đơn nhất. Ngài yêu thích niềm vui với một tâm hồn thanh thản, Ngài đã sống sự tận hiến quảng đại với tâm hồn rộng mở. Ngài là một vị huyền nhiệm và là một lữ khách sống trong sự đơn sơ và hòa hợp với Thiên Chúa, với kẻ khác, với vạn vật và với chính bản thân. Trong Ngài, chúng ta thấy rõ mức độ Ngài liên kết tất cả việc chăm sóc thiên nhiên, sự công bằng với kẻ nghèo, việc dấn thân cho xã hội và bình an nội tâm vào một điểm gắn kết chung với nhau, không thể phân ly.

11- Chứng cứ của Ngài cho chúng ta thấy, một sinh thái trọn vẹn đòi hỏi phải có một sự rộng mở đến các yếu tố vượt trên ngôn ngữ toán học hay sinh học, và hướng chúng ta đến bản chất nhân bản. Tất cả những gì xảy ra khi chúng ta yêu thương một người, mỗi lần như thế, người đó sẽ chiêm ngắm mặt trời, mặt trăng hay là một sinh vật bé nhỏ nhất, phản ứng của anh là ca hát lên và lôi kéo tất cả tạo vật vào bài ca của mình. Anh ta bước vào sự hiệp thông trọn vẹn với cả sáng tạo và sẽ giảng thuyết cho cả loài hoa “và mời gọi chúng cùng ca tụng Chúa, nếu như chúng là một loài có lý trí”[19]. Phản ứng của anh sẽ vươn xa hơn mọi thứ đánh giá dựa theo tri thức hay kinh tế, vì đối với anh mỗi tạo vật là một anh em, một chị em, nối kết với anh bằng liên hệ tình yêu thật êm dịu. Đệ tử của Ngài là thánh Bonaventura , thuật lại như sau: “Khi nghiệm thấy rằng tất cả thụ tạo đều có chung một nguồn gốc cuối cùng nơi Thiên Chúa, Ngài cảm thấy tràn đầy sự âu yếm với tất cả. Vì thế, Ngài đã gọi các tạo vật bé nhỏ nhất là anh em, là chị em”[20]. Đừng hạ thấp xác tín này thành một thứ lãng mạn siêu thực, vì chúng đưa đến những hệ luận các định kiến xác định thái độ của chúng ta. Nếu chúng ta đến gần thiên nhiên và môi trường chung quanh, mà không có chút rộng mở để kinh ngạc và trầm trồ, nếu chúng ta không nói với thế giới chung quanh bằng ngôn ngữ huynh đệ và đẹp đẽ, thì thái độ của chúng ta sẽ trở thành thái độ của sở hữu chủ, của người tiêu thụ hay chỉ là của những người bốc lột tài nguyên, không có khả năng thiết đặt ranh giới cho chú tâm trực tiếp của mình. Nhưng nếu chúng ta cảm nghiệm được liên kết với tất cả những gì đang hiện hữu, thì sự điều độ và chăm sóc sẽ tự đến. Sự nghèo khó và đơn sơ của thánh Phanxicô không phải là sự khổ hạnh ở bên ngoài, nhưng là một điều gì triệt để: một sự từ chối biến thực tại trở thành đối tượng sử dụng và thống trị.

12- Mặt khác, thánh Phanxicô rất trung thành với Thánh Kinh, đề nghị chúng ta nhận ra thiên nhiên là quyển sách sáng ngời, trong đó, Thiên Chúa nói với chúng ta và cho chúng ta thấy một ánh quang đẹp đẽ và nhân từ của Người: “Vì các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng tạo thành” (Kn 13,5) và “quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua công trình của Người” (Rm 1, 20). Vì thế, thánh Phanxicô muốn đan viện phải để ra một mảnh đất không canh tác, để cho cỏ dại có thể mọc lên, để những ai chiêm ngắm chúng có thể nâng tâm hồn lên với Chúa, Đấng là tác giả các vẻ đẹp này[21]. Vũ trụ còn hơn là một vấn đề phải giải quyết, chúng là một mầu nhiệm thật thân thương, để chúng ta chiêm ngắm trong niềm vui và ca tụng.

Lời kêu gọi của Tôi

13- Việc đòi hỏi khẩn thiết để bảo vệ cho ngôi nhà chung của chúng ta, cũng đưa đến việc cả gia đình nhân loại phải kết hợp với nhau, tìm cách phát triển lâu dài và trọn vẹn, vì chúng ta biết, mọi vật đều có thể thay đổi. Đấng Sáng Tạo không bỏ rơi chúng ta, không bao giờ Người rút lại chương trình tình yêu của Người, Người cũng không hối hận khi sáng tạo nên chúng ta. Nhân loại có khả năng cộng tác với nhau để xây dựng ngôi nhà chung của chúng ta. Tôi muốn chào đón, động viên và cảm ơn tất cả mọi người hoạt động trong nhiều lãnh vực khác nhau, bảo vệ ngôi nhà chung mà chúng ta cùng chia sẻ. Tôi đặc biệt cám ơn những người can đảm giải quyết các hậu quả bi đát về vấn đề tàn phá môi trường ảnh hưởng trên đời sống những người nghèo nhất trên thế giới. Giới trẻ đòi buộc chúng ta phải thay đổi. Họ tự hỏi, có khả năng nào xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, mà không nghĩ đến cơn khủng hoảng môi trường và đau khổ của những người bị loại ra bên ngoài xã hội.

14- Tôi khẩn khoản kêu gọi một cuộc đối thoại mới về cách thức chúng ta xây dựng một tương lai mới cho hành tinh của chúng ta. Chúng ta cần một cuộc trao đổi kết hợp chúng ta lại với nhau, vì sự thách đố của hoàn cảnh môi trường mà chúng ta đang sống, chú tâm và tiếp cận các căn cơ thuộc con người của môi trường này. Phong trào sinh thái trên toàn thế giới đã có một quá trình lâu dài với nhiều thành công, đưa đến các liên hệ xã hội gây nhiều ý thức. Tiếc thay, nhiều cố gắng để tìm cách giải đáp cụ thể cho khủng hoảng môi trường, thường thất bại, không phải chỉ vì chống đối với những người có quyền lực, nhưng còn vì vô cảm với những kẻ khác. Những thái độ – ngay cả giữa các tín hữu – xơ cứng trên những con đường giải quyết, đưa đến việc phủ nhận các vấn đề với thái độ dửng dưng, chống đối cách hời hợt hay tin tưởng cách mù quáng vào các giải quyết dựa trên kỹ thuật. Chúng ta cần một sự liên đới toàn cầu cách mới mẻ. Như các vị Giám Mục Phi Châu nói “cần đến các tài năng và dấn thân của tất cả mọi người, để làm tốt lại những gì con người lạm dụng, gây tổn thất cho sáng tạo của Thiên Chúa”[22]. Tất cả chúng ta, có thể cộng tác như những khí cụ của Thiên Chúa để cứu giúp sáng tạo, mỗi người theo văn hóa, kinh nghiệm, dấn thân và khả năng của mình.

15- Tôi hy vọng Thông Điệp này được nối kết vào Giáo Huấn xã hội của Giáo Hội, giúp chúng ta nhận ra sự lớn lao, khẩn thiết và tốt đẹp của việc đòi buộc đang đối mặt chúng ta. Trước tiên, Tôi muốn rảo qua những phương diện xác định về cuộc khủng hoảng môi sinh hiện tại, với mục đích nhìn các thành quả tốt đẹp của việc tìm tòi khoa học, để nhìn sâu và nêu lên một nền tảng cụ thể đường hướng đạo đức và tinh thần. Từ nhãn giới này, Tôi sẽ nêu lên những lý lẽ chắc chắn, dựa theo truyền thống Do Thái-Kitô giáo, với ước muốn có một sự liên kết trong việc dấn thân cho môi sinh của chúng ta. Tiếp đến, Tôi cố gắng đi đến các nguyên nhân hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, không phải chỉ nhìn như hiện tượng, nhưng là những nguyên nhân sâu xa. Với cách thức này, chúng ta có thể đề nghị một khoa sinh thái, trong tất cả chiều kích khác nhau của nó, có một vị trí đặc biệt cho con người trong vũ trụ và những liên hệ của nó với thực tại bao quanh con người. Dựa theo ánh sáng của lập luận này, Tôi muốn tiếp bước những nét chính yếu của cuộc đối thoại và hoạt động, gắn kết với mỗi người chúng ta cũng như với nền chính trị quốc tế. Và Tôi tin rằng, mỗi sự thay đổi cần thiết cho sự chuyển đổi và con đường giáo dục; cuối cùng, Tôi đề nghị vài nét cho việc trưởng thành nhân bản, được cảm nghiệm từ kho tàng kinh nghiệm tinh thần Kitô giáo.

16- Dù mỗi chương đều có đề tài riêng và phương pháp đặc thù, nhưng cũng đưa ra một cái nhìn mới cho các vấn đề của mình, mà những chương trước cũng đã được đề cập đến. Điều này đụng đến vài đề tài căn bản, được triển khai xuyên suốt cả Thông điệp. Tỉ như: liên hệ mật thiết giữa những người nghèo và sự mỏng manh của hành tinh, xác tín rằng: trong thế giới này tất cả đều liên kết với nhau; sự phê bình các dự phóng mới và các hình thức của quyền lực do kỹ thuật đem đến; mời gọi tìm cách hiểu biết về kinh tế và phát triển; giá trị riêng biệt của từng tạo vật; ý nghĩa nhân sinh của sinh thái; sự cần thiết cho những đề nghị đúng đắn và đích thực, trách nhiệm nặng nề của chính trị toàn cầu và địa phương; loại bỏ văn hóa và đề nghị một lối sống mới. Những đề tài này chưa kết thúc và cũng không thể bỏ qua được, nhưng phải luôn lấy lại một cách mới mẻ và phong phú.

(còn tiếp)

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)


Phụ Bản I

Mừng Xuân BÍNH THÂN

So sánh QUANG TRUNG – NAPOLEON I


Vua Quang Trung đại thắng quân Thanh

Đống Đa mở hội lớn kỷ niệm 225 năm chiến thắng N ăm Kỷ Dậu (1789) - Mồng 5 Tết, một ngày oanh liệt nhất của lịch sử ta.

Lễ hội Gò Đống Đa (Hà Nội) năm nay hoành tráng và rộn ràng hơn mọi năm, để kỷ niệm 225 năm Quang Trung đánh tan giặc Thanh.

Mỗi năm, ngày mùng 5 tháng giêng, dân Hà Thành lại đổ xô xuống gò Đống Đa kỷ niệm giỗ Trận. Đó là cái tục đặc biệt của dân Bắc Hà. Mà cứ trông cái gò xương lù lù như núi kia, tài nào quốc dân không cảm phục cái võ công đệ nhất của Napoleon Việt Nam cho được!

Người ta đều biết vua Quang Trung chỉ đánh có một trận ở Đông Quan (tức Đông Kinh - Hà Nội) mà giết tan sạch hai mươi vạn quân Tôn Sĩ Nghị hôm mồng 4 Tết, rồi ngày mồng 5 mới nhặt hết xác quân Tàu, chất vào một hố lớn, phủ đất lên trên, tạo thành cái gò Đống Đa bây giờ đó.

Quang Trung và Napoleon Bonaparte

Hoàng đế Quang Trung (1753 - 1792), tên thật Nguyễn Huệ, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn, ở ngôi từ 1788 - 1792. Cùng thời với ông là Napoleon Bonaparte (1769 – 1821), người giữ ngôi Hoàng đế của nước Pháp từ năm 1804 - 1815 với đế hiệu là Napoleon I.


Tạo hình nghệ thuật rất giống nhau của Quang Trung (trái) và Napoleon (phải)

Điểm tương đồng lớn nhất của Quang Trung và Napoleon là cả hai đều là những nhà quân sự kiệt xuất với những chiến công lẫy lừng trong sự nghiệp của mình, trước cũng như sau khi lên ngôi.

- Quang Trung-Nguyễn Huệ là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía Bắc, Nguyễn ở phía Nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê và đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía Nam, Đại Thanh từ phía Bắc. Lịch sử ghi nhận ông chưa từng nếm trải một thất bại quân sự nào trong sự nghiệp.

- Bonaparte nổi tiếng từ khi là một viên chỉ huy trong các chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất và thứ hai chống Pháp và cuộc chinh phạt bán đảo Italy. Sau khi lên ngôi, ông đã tham gia vào một loạt xung đột, lôi kéo mọi cường quốc chính ở châu Âu tham gia và giành thắng lợi trong đa số các trận đánh của mình.

Quang Trung-Nguyễn Huệ vị hoàng đế của tình yêu

Quang Trung-Nguyễn Huệ là một người anh hùng dân tộc bách chiến bách thắng, sự nghiệp quân sự của ông chói lọi trong sử sách. Bên cạnh cuộc đời xông pha tên đạn ở chốn trận mạc. Quang Trung-Nguyễn Huệ còn có một đời sống tình cảm nồng nàn, cháy bỏng hiếm thấy trong tiểu sử của các anh hùng dân tộc khác ở Việt Nam. Căn cứ trên tài liệu hiện có, chúng ta biết được Quang Trung-Nguyễn Huệ có ba người vợ:

- Người thứ nhất (chưa biết họ tên) đã ở lại Quy Nhơn khi Nguyễn Huệ cầm quân ra giải phóng Phú Xuân (1786), nhưng có lẽ con bà là Nguyễn Quang Thùy đã theo cha trong chuyến đi lịch sử ấy.

- Người thứ hai họ Phạm đã bồng con là Quang Toản theo chồng ra Phú Xuân. Khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế bà được phong là Vũ Hoàng Chính hậu. Khi Quang Trung mất (1792) con bà được kế vị lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh.

- Người thứ ba là công chúa Ngọc Hân con gái vua Lê Hiển Tông. Nguyễn Huệ cưới công chúa sau khi ông đã hoàn thành nhiệm vụ diệt Trịnh phù Lê (mùa thu năm 1786). Sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, Ngọc Hân được phong làm Bắc cung Vũ Hoàng hậu.

Trong ba người vợ ấy, bà Ngọc Hân là người hoàng tộc, trẻ, (lúc lấy Nguyễn Huệ bà mới 16 tuổi), đẹp, đức hạnh, giỏi thơ văn và cũng là người vợ có mặt bên cạnh Quang Trung-Nguyễn Huệ vào lúc lâm chung.

Ở đời người ta thường hay nói: “Có mới nới cũ” Quang Trung-Nguyễn Huệ không thế. Tuy sống bên cạnh bà Ngọc Hân nhưng tình cảm của Nguyễn Huệ đối với hai bà trước vẫn nồng nàn thủy chung.

Đối với bà họ Phạm, Nguyễn Huệ rất quý mến. Vào khoảng tháng 3 bà Chính hậu vĩnh biệt ông. Nguyễn Huệ đau đớn hết sức. Ông nổi giận với tử thần, trách móc số phận. Lời lẽ của ông nổi sóng nổi gió giữa triều đình Phú Xuân.

Đối với công chúa Ngọc Hân, một trang tài sắc tuyệt vời - Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Nguyễn Huệ đã yêu bà trước khi vua Lê có ý định chọn ông làm phò mã. Từ khi kết duyên với Quang Trung-Nguyễn Huệ cho đến lúc nhà vua mất, bà đã được sống trong niềm hạnh phúc vô bờ, bà được nhà vua rất mực thương yêu quý mến.

Chính vì tình yêu của Quang Trung-Nguyễn Huệ đã làm cho cuộc đời của Ngọc Hân có ý nghĩa lớn lao. Bởi thế, khi Qang Trung-Nguyễn Huệ đột ngột qua đời làm cho bà Ngọc Hân đau đớn muốn quyên sinh theo chồng:

“Quyết liều mong vẹn chữ tòng

Trên rường nào ngại, giữa giòng nào e”

Và, quả thật nếu không vì hai người con còn quá nhỏ thì bà cũng đã chết với Quang Trung-Nguyễn Huệ.

So sánh đời sống tình cảm của Quang Trung với Bonaparte

Trong lịch sử thế giới. Cuối thế kỷ thứ XVIII ở Pháp cũng có một danh tướng có nhiều chiến công hiển hách và cũng có một đời sống tình cảm được sử sách đề cập đến nhiều. Vị tướng ấy là Napoléon Bonaparte. So sánh đời sống tình cảm của Quang Trung-Nguyễn Huệ với Bonaparte ta thấy có những điểm đáng chú ý:

Quang Trung-Nguyễn Huệ có ba người vợ, một bà vì hoàn cảnh đặc biệt không được sống gần ông, còn hai bà họ Phạm và họ Lê luôn ở bên ông. Bà nào ông cũng thương như nhau. Napoléon thì khác. Ông yêu Joséphine rồi tôn nàng lên làm Hoàng Hậu. Đức Giáo hoàng phản đối, ông bắt giam Giáo hoàng. Sau ông ly dị Joséphine để lấy con vua nước Áo là Marie Louise. Khi Napoléon thất thế, Marie đã làm nhiều chuyện đồi bại không xứng đáng là một Hoàng hậu nước Pháp. Marie còn bị người đời chê trách là một kẻ cướp chồng, Napoléon là một kẻ bạc tình.

Sau khi vua Quang Trung mất, bà Ngọc Hân đã sống hết sức chung thủy với chồng. Hai tác phẩm văn học của bà đã giúp cho hậu thế hiểu sâu tài năng và đức độ của Quang Trung hơn. Bà đã sống vì sự nghiệp Quang Trung và cuối cùng bà đã mất với nguyện vọng được chôn bên cạnh lăng mộ Quang Trung-Nguyễn Huệ.

Xem thế mới thấy tư cách đạo đức của hai bà công chúa hoàn toàn khác nhau. Tư cách đạo đức của hai bà do sự giáo dục của hoàng gia Việt Nam và hoàng gia Áo, nhưng chắc chắn không thể bỏ qua yếu tố xác lập bởi tình cảm của hai ông chồng Quang Trung và Bonaparte.

Chúng ta tự hào Việt Nam có một ông vua anh hùng bách chiến bách thắng, riêng tuổi trẻ Việt Nam cũng tự hào chính ông vua anh hùng trên trận mạc ấy lại là một hoàng đế của tình yêu (Nguyễn Đắc Xuân) .

NGUYỄN HUỆ và NAPOLEON

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng

Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”

Người ta thường nói “Thời thế tạo Anh hùng” chứ hiếm khi nói “Anh hùng tạo Thời thế”. Trường hợp Quang Trung-Nguyễn Huệ (1753-1792) của Việt nam và Napoleon Bonaparte (1769-1821) của Pháp, cả hai cách nói trên đều đúng. Sau đây là một cái nhìn đối chiếu về cuộc đời và sự nghiệp của hai ông:

Hai người sinh cùng thời, kẻ Ðông người Tây, cách nhau 16 năm và đều đi vào lịch sử như những thiên tài về quân sự và chính trị. Nguyễn Huệ lớn lên trong bối cảnh của cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh, năm 21 tuổi đã cùng anh Nguyễn Nhạc và em Nguyễn Lữ đứng lên dựng cờ khởi nghĩa tại Tây Sơn, Bình Định. Napoleon trưởng thành trong cuộc cách mạng Pháp 1789, năm 26 tuổi đã được thăng Ðại tướng cầm quân tung hoành các nước châu Âu. Sau những thành quả lẫy lừng về quân sự, họ bước sang lãnh vực chính trị và đều tự xưng mình làm vua. Có điều, Nguyễn Huệ chỉ tiếp nối một triều đại đã suy tàn của vua Lê, còn Napoleon lại tái lập đế chế sau khi nền Cộng hòa còn non trẻ mới lật đổ ngai vàng của vua Louis XVI.

Triều đại họ lập nên đều ngắn ngủi:

- Nguyễn Huệ làm vua được 4 năm, từ lúc xưng Quang Trung Hoàng Ðế tháng 12/1788, trước khi khởi binh diệt Thanh, đến khi đột ngột băng hà năm 1792.

- Napoleon tại vị được 11 năm, từ lúc xưng Hoàng đế Pháp quốc, cũng vào tháng 12/1804, trước khi đối đầu với liên quân Anh-Nga-Áo, đến khi bị buộc phải lưu đày lần thứ hai tại đảo St. Helena năm 1815 (và chết tại đây 6 năm sau).

NGUYỄN HUỆ và NAPOLEON với chiến công hiển hách và những cải cách về kinh tế, văn hóa & luật học còn có ảnh hưởng đến ngày nay:

- Nguyễn Huệ đã 2 lần đánh đuổi ngoại xâm: năm 1784, tiêu diệt 20 ngàn liên quân Nguyễn Ánh - Xiêm La tại trận Rạch Gầm - Xoài Mút (gần Mỹ Tho ngày nay) và năm 1789, đánh đuổi hơn 200 ngàn quân Thanh ra khỏi bờ cõi sau một chiến dịch dài vỏn vẹn 42 ngày (gồm 35 ngày chuẩn bị và 7 ngày tác chiến). Ngoài ra, ông đã từng ra Bắc “diệt Trịnh phò Lê”, vào Nam đẩy lui chúa Nguyễn đến tận Phú Quốc.

- Napoleon năm 1793, lúc đó mới là Thiếu tá, đã phá hủy 10 tàu chiến Anh tại hải cảng Toulon. Những năm sau đó, vó ngựa viễn chinh của ông đã vẽ lại bản đồ Âu châu và đặt hơn 70 triệu người dưới ách thống trị. Những trận thư hùng nổi tiếng như Austerlitz, Waterloo... đã được quay thành phim và đưa vào chương trình giảng dạy tại những trường đại học quân sự trên thế giới.

Khi tại vị, nếu Napoleon nổi tiếng với bộ Dân luật Napoleon và những cải cách về hành chánh, giáo dục thì Nguyễn Huệ đã có công quy hoạch lại ruộng đất, thống nhất việc sử dụng chữ Nôm, phiên dịch nhiều tác phẩm bằng chữ Hán, đặc biệt chú ý đến thương mại và khôn khéo ngoại giao với nước ngoài...

Sau lưng họ là những người đàn bà lừng danh trong lịch sử và tạo nên nhiều huyền thoại:

- Ngọc Hân Công chúa (1770-1799) làu thông kinh sử, thạo âm luật và sành văn thơ với hai bài “Ai Tư Vãn” và “Văn Tế vua Quang Trung”. Trong khi đó, hoàng hậu Josephine (1763-1814) lại nổi tiếng với cuộc đời tình ái ly kỳ của bà.

Ta hãy nghe hai trích đoạn thơ của Ngọc Hân như sau:

…“Mà nay áo vải cờ đào/ Giúp dân dựng nước biết bao công trình”

…“Gót lân chỉ mấy hàng lấm chấm/ Ðầu mũ mao, mình tấm áo gai

U ơ ra trước hương đài/ Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này”

- Napoleon viết cho Josephine

Ta cũng nghe trích đoạn một bức thư tình lừng danh trong lịch sử của Napoleon viết cho Josephine khi ông đang chinh chiến tại Ai Cập. Người ta đồn, Napoleon có biệt tài vừa đọc cho thư ký viết cùng một lúc cả thư tình lẫn thư tuyên chiến:

…“Nếu chiến thắng không chỉ để làm em vui thì anh đã về phủ phục dưới chân em rồi...”

- Huyền thoại về cành hoa đàoNguyễn Huệ mang từ Hà Nội về Phú Xuân để tặng nàng Ngọc Hân Công chúa sau chiến thắng Ðống Ða đã nói lên tính cách lãng mạn của mối tình vương giả.

- Cũng tương tự, sở thích yêu hoa violet của Josephine và sự kiện Napoleon hái hoa violet từ vườn nhà nàng để mang theo bên mình suốt bước đường lưu đày cho đến khi ông nhắm mắt tại đảo St. Helena, đã nói lên nỗi niềm thơ mộng và cay đắng của một cuộc tình...

Về ngoại hình và cá tính của NGUYỄN HUỆ và NAPOLEON

- Tương truyền, Nguyễn Huệ có thân hình cân đối, tóc quăn, nước da bánh mật và có đôi mắt cực kỳ sáng (nhìn trong bóng đêm như hai ngọn nến!). Tiếng nói của ông như lệnh vỡ và thu hút người nghe. Trong số ba anh em, Nguyễn Huệ là người dũng mãnh, can đảm và có tài chỉ huy nhất.

Ông đặc biệt biết dùng người, kể cả nữ tướng (Bùi Thị Xuân) và các văn nhân (La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp, Phan Huy Ích...). Cách hành quân của Ông hết sức thần tốc, tập trung và liên tục, không để kẻ thù có thì giờ tái phối trí... Ông cũng sở trường dùng tượng binh và các loài cầm thú khác trong chiến đấu, gây khiếp đảm tinh thần đối phương.

- Napoleon thường bị xem là thấp. Thật ra, Ông cao khoảng 1m72 nghĩa là trung bình đối với khổ người Âu châu. Có lẽ vì ông thường xuất hiện với đám lính hầu cao lớn nên trông ông nhỏ thó đi chăng?! (Người ta thuật lại, đã có lần ông nói với một vị tướng cao hơn ông một cái đầu: “Nếu khanh không tuân lệnh, thì Trẫm sẽ cho khanh cao bằng Trẫm”).

Ông có tài nhớ tên thuộc cấp và luôn sát cánh cùng binh sĩ khi đi thị sát hoặc trên chiến địa. Ông thiện nghệ về pháo binh và là người đã dùng hiệu kỳ một cách hữu hiệu trong việc phối hợp các binh chủng. Ông cũng là bậc thày về tâm lý chiến, một lãnh vực khá mới mẻ vào thế kỷ thứ 19.

Cái chết của hoàng đế Quang Trung và Napoleon đều gây ra nhiều nghi vấn.

Có giả thuyết cho rằng, Quang Trung bị chết do chiếc áo có yểm bùa mà vua Càn Long của nhà Thanh ban tặng, trong khi một số học giả cho rằng, Napoleon là nạn nhân của một vụ đầu độc bằng thạch tín.

LỜI KẾT

Quang Trung - Nguyễn Huệ và Napoleon Bonaparte

Hai vị vua này ai cũng là anh hùng dân tộc của quê hương mình nhưng theo nhận xét khách quan của Bernd thì Quang Trung là người được đánh giá cao hơn:

- Thứ nhất Quang Trung xuất thân từ một địa vị khó khăn hơn Napoleon và Quang Trung là người đứng về nhân dân.

- Thứ hai Quang Trung phải đối đầu với đội quân mạnh hơn mình.

- Thứ ba Quang Trung có lòng nhân đức hơn Napoleon, ông chỉ tự vệ chứ không có tham vọng xâm chiếm các nước khác như Napoleon.

- Thứ tư Quang Trung dựa vào nền học thức để xây dựng quốc gia còn Napoleon thì dựa vào quân sự.

- Cuối cùng Quang Trung chưa thua trận nào trong suốt cuộc đời mình còn Napoleon thì có trận thua tủi hổ ở Waterloo.

Trong sự nghiệp của mình, cả hai vị Hoàng đế đều đưa đất nước đạt đến vị thế đỉnh cao của một cường quốc quân sự, khiến các quốc gia trong khu vực kiêng nể.

Dưới thời của Hoàng đế Quang Trung, nước Việt không những không có địch thủ ở khu vực Đông Nam Á mà còn tự tin đưa ra các yêu sách lãnh thổ đối với người láng giềng khổng lồ Trung Hoa ở phương Bắc. Trong khi đó, nước Pháp của Napoleon đã đạt được vị trí thống trị ở châu Âu sau hàng loạt thắng lợi quân sự.

Không chỉ là thiên tài quân sự, cả Quang Trung và Napoleon đều là những vị hoàng đế có tầm nhìn chính trị sáng suốt. Cả hai ông đều đã thực hiện nhiều cải cách tiến bộ nhằm xây dựng đất nước trong thời gian nắm quyền của mình.

Mùng 5 Tết hàng năm, cứ trông cái gò xương lù lù như núi kia, tài nào quốc dân không cảm phục cái võ công đệ nhất của Napoleon Việt Nam cho được!

Gò Đống Đa là biểu hiện quét sạch quân Tàu, khôi phục nền độc lập cho Tổ quốc.

Chúng ta cùng nhau hát vang bài Gò Đống Đa của Văn Cao để nhắc nhở…

Từng đoàn dân chúng trên đế đô tưng bừng đi

Tìm về thăm chốn non nước thiêng trang hùng ghi

Cố bước bước bước bước trên đường thơm gió mát

Ta đi đi đi đi thăm Gò xưa chất thây

Đống Đa còn chốn đây

Nhắc xương đầy máu xây

Ngàn tiếng khóc tiếng rít lên, còn vướng vất giáo, mác, tên

Mấy ai qua mà lòng không nguôi…

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)

Tết đến nghĩ đến người khác

Không dịp nào tôi nghĩ tới người khác bằng dịp Tết.

Dọn dẹp trang trí nhà cửa, để làm vui lòng người khác hơn là cho mình.

Ăn mặc gọn gàng sạch sẽ để kính trọng người khác chứ không phải để khoe mình.

Làm thức ăn uống để đãi người khác hơn là để mình dùng.

Đi thăm, viết thư, gửi thiệp, tặng quà để mừng chúc người khác chứ đâu phải để nhắc họ nhớ tới mình.

Đúng thực, ngày Tết là ngày nghĩ đến người khác.

Người khác là ai?

Tất nhiên là người mình có liên hệ. Hoặc do tình cốt nhục, hoặc do ân nghĩa, do quen thuộc, hoặc do những bổn phận khác của công bằng, bác ái. Tôi biết họ. Và cũng có thể mình không biết họ. Do liên lạc nối kết họ và mình trở thành một nhịp cầu. Dù hai chiều hay một chiều, nhịp cầu ấy đã đưa tôi sang đời họ và đưa họ qua đời tôi.

Họ là những ai đang chờ đợi trong cảnh cô đơn túng nghèo: nghèo của, nghèo tình, nghèo bạn, nghèo sức khỏe, nghèo khả năng, nghèo ơn Đấng tối cao… Tóm lại, người của tôi đây là những ai tôi đã chọn hoặc Người đã chọn cho tôi. Tất cả đều là anh chị em của mình, nên mình yêu thương họ.

Chính vì thế mà tôi nghĩ tới họ trong dịp tết đến cách đặc biệt hơn. Vì hạnh phúc là khát vọng lớn nhất cũng là điều chúc nguyện tha thiết của mình.

Nhìn chung quanh mãi đến bảy mươi năm hơn cũng chưa thấy ai, nên tôi cần phải liên lạc thẳng với Đấng chính là hạnh phúc. Đấng ấy là ai?

Là Thượng Đế. Ngài là “đường đi” là hạnh phúc và là sự sống… Ngài là nguồn sống chứa đựng hạnh phúc toàn diện.

Trong đó tôi đã làm theo Ngài đến đất Cà Mau mà tôi đến 3 ngày 11-13 tháng 12 vừa rồi hàng năm. Ngài vô hình, nhưng ở bên tôi, tôi liên lạc với Ngài bằng tâm trí, bằng tâm tình, bằng lời nguyện. Tôi tin ở Ngài. Tôi đặt hy vọng nơi Ngài. Để gởi gấm họ, để cầu xin cho họ.

Hy vọng nhờ đó lời chúc Tết của tôi rất chân thành và hữu hiệu của chuyến đi Cà Mau vừa rồi vân vân và vân vân…

Bs. Doanlinh

09.01.2016

CHÚ BÉ PUSKIN

BƯỚC SANG THẾ KỶ MỚI – THẾ KỶ XIX

Như ở nhiều gia đình, bố mẹ thường hay nhắc lại những câu chuyện thuở nhỏ của con cái mình. Bố mẹ Puskin cũng vậy. Thuở nhỏ của nhà thơ được lưu truyền lại trong những câu chuyện với những tình tiết khá lý thú. Một trong những câu chuyện đó xảy ra khi Xasa (cách gọi thân mật, ngắn gọn tên Alecxandr của Puskin) mới được một tuổi rưỡi đã cùng người lớn đón chào năm mới 1801 – năm đầu của thế kỷ mới – thế kỷ XIX ra sao.

Đêm giao thừa ấy, tại nhà của bố mẹ Puskin, khách khứa đến khá đông. Mọi người vui vẻ ăn uống chuyện trò, nâng cốc chúc mừng năm mới. Đề tài chủ yếu được mọi người sôi nổi bàn luận là thế kỷ mới, thế kỷ XIX vừa bắt đầu, sẽ ra sao? Sẽ mang lại những thay đổi gì – sẽ xuất hiện những phát minh gì mới, thể chế nhà nước có gì thay đổi không? Mọi người điểm lại các nhân vật kiệt xuất của thế kỷ vừa qua và băn khoăn không hiểu ai sẽ là nhân vật nổi tiếng, nhân vật kiệt xuất nhất trong thế kỷ mới này?

Và đúng lúc cuộc vui huyên náo nhất, thì chú bé Xasa, bị tiếng chạm cốc chúc mừng giao thừa và tiếng bàn luận sôi nổi đánh thức, trên mình mặc có mỗi chiếc áo ngủ lụng thụng, mới bắt đầu biết đi chưa được bao lâu, lẫm chẫm bước qua ngưỡng cửa và đứng sựng lại vì ánh sáng chói lọi của đèn nến quá nhiều trong phòng thắp đón giao thừa làm lóa mắt. Có người nào đó nhận ra chú bé. Lập tức mọi người quay lại đổ dồn nhìn chú. Còn mẹ Puskin, bà Nadegioda Oxipovna, khi đó còn trẻ và xinh đẹp, vừa hơi bối rối, vừa hoan hỉ, và trong thâm tâm có chút giận bà bảo mẫu đã để xảy ra chuyện này. Bà đứng bật dậy chạy ào tới chú bé. Nhưng thay vì đưa tay bế chú bé lên, bà lại ngồi thụp xuống cầm lấy bàn tay nhỏ xíu của Xasa.

- Đây, chính đây là con người đã bước qua ngưỡng cửa của thế kỷ mới! Đây, đây là người sẽ sống ở thế kỷ mới này – mẹ Puskin thốt lên với một niềm xúc động hứng khởi bộc phát.

Sau này, bố của Puskin, ông Xerghei Lvovitr Puskin, nhắc lại sự việc đầy kỷ niệm này, thường không quên thêm: “Mà vào giây phút ấy bà mới xinh đẹp làm sao!”. Xasa lúc này đã là Alecxandr trưởng thành nên ông Xerghei Lvovitr không còn để làm nhân vật trung tâm câu chuyện nữa. Nhưng Puskin lại nhớ rất kỹ câu chuyện về bản thân mình.

Thúy Toàn (kể chuyện)

NGÀY XUÂN NHỚ LẠI

HƯƠNG VỊ NGÀY TẾT

QUA PHONG TỤC TẬP QUÁN

PHƯƠNG HỒNG QUẾ

Tết về có bánh chưng xanh

Nhớ tràng pháo chuột nhớ tranh lợn gà

Nhớ cành đào thắm đầy hoa

Nhớ giây phút đợi giao thừa nghiêm trang

Nhớ ngũ vị nhớ chè lam

Nhớ cây nêu, nhớ khánh vang tiếng sành

Nhớ tam cúc tẹt, nhớ… mình

Nhớ cân mứt lạc, nhớ khoanh giò bì

(thơ Bàng Bá Lân)

Những câu thơ đã gợi lại biết bao hình ảnh về ngày Tết Nguyên Đán, người Việt Nam ta ở đâu thì cũng vẫn giữ những phong tục ấy, nhất là những phong tục về những ngày Tết ngày Xuân.

Tết này, Quế xin sưu tập một ít phong tục tập quán về ngày Tết Việt Nam, dù còn hay đã bị làn sóng văn minh làm mất hẳn đi. Mong rằng những sưu tập ngăn ngắn sau đây xin làm quà các em Họa Mi của Quế đấy.

TRANH TẾT

Nói đến Tết, từ lúc đưa ông Táo về trời, mọi nhà (thường là ở miền quê) đều có chơi tranh Tết. Người lớn chơi tranh Tết và trẻ em cũng chơi tranh Tết, nhưng có những điểm khác nhau.

Như tranh Tết của người lớn, là những bức tranh nhắc lại những điển tích trong chuyện cổ, chuyện nhà Phật đề cao tinh thần độc lập cũng như đạo đức; có nơi chơi tranh hoa quả để đem sự tinh khiết đón xuân về.

Tranh của trẻ em là những bức tranh đặc biệt Việt Nam, nhắc lại những sinh hoạt hàng ngày của dân quê, như mục đồng dắt trâu, cảnh đồng áng bao la v.v… như nhắc với chúng rằng, hãy nhớ nếp sống hồn nhiên của công việc làm, chớ vì ham chơi Tết mà quên đi v.v… Trẻ em thành phố thì chắc ít có lắm, nếu có chỉ toàn là những bức tranh Tây phương ngộ nghĩnh mà thôi.

Tranh Tết bây giờ văn minh hơn, người ta đã thu nhỏ lại, gọn gàng bỏ vào bao thư để gởi tặng nhau kèm với những lời chúc tụng nhân dịp xuân về. Đó là thiệp chúc Tết vậy.

ĐÓN XUÂN

Giao thừa là giờ phút giao tiếp giữa hai năm cũ và mới. Đêm 30 Tết người ta không đi ngủ sớm, vì phải thức chờ đợi giờ phút thiêng liêng của một năm: giờ phút giao thừa.

Giờ phút ấy cũng là dịp để người ta tống cựu nghinh tân, tức tiễn cũ và đón mới.

Cũ đây, ngoài những điều xấu dở cũ kỹ, người ta còn tiễn đưa vị đương niên hành khiển đại vương của năm cũ, và mới đây, ngoài những điều mới mẻ tốt đẹp người ta còn đón rước vị tân đại vương hành khiển của năm mới (Hành khiển đại vương là câu ám chỉ con giáp của một năm, như năm nay ta tống gà rước chó vậy).

Tại tư gia làm lễ giao thừa người ta bày hương án cúng ở giữa sân. Đồ lễ gồm bánh trái, gà hay vịt, bánh chưng, trầu rượu, vàng hương và người đứng cúng là gia chủ. Nếu mọi năm cho đốt pháo, người ta cúng xong sẽ đốt một phong pháo để mang sự vui mừng lại tăng sự hân hoan cho ngày Tết, có người còn cho rằng tiếng pháo cũng trừ được ma quỷ.

Nói về tập quán trừ ma quỷ, Quế cũng xin kể sơ về sự tích dựng nêu ăn Tết cho các em được biết nhé.

Vào chiều 30 Tết, thường có nhiều nhà trồng cây nêu trên có treo cành phướn đỏ, ở giữa sân người ta còn rắc vôi bột trắng vẽ thành hình cung tên. Nguyên ngày xưa, có một thời quỷ sứ quấy nhiễu nhân gian nhiều quá Đức Phật mới giáng lâm bắt lũ quỷ sứ. Bọn quỷ van lạy và xin chừa không dám quấy nhiễu đất của Phất nữa. quỷ hỏi dấu hiệu của nhà Phật để biết đường tránh. Đức Phật bảo nơi nào có cột phướn cây nêu và rắc vôi trắng đó là đất của Phật.

ĐI LỄ ĐÊM

Sau khi cúng giao thừa ở nhà xong, người dân ta có tục đi dự lễ giao thừa ở tại các lăng miễu chùa, mong Phật, Thần, phù hộ cho một năm may mắn cho bản thân và cả gia đình.

Khi đi lễ ở tại các lăng, chùa miễu trở về, người ta có tục hái một cành cây hay một cành hoa đem về cài vào cửa, gọi là hái lộc.

Về lộc, còn có hương lộc, tức đến các lăng chùa, miễu họ đốt một cây nhang thật to, hay nguyên một nắm nhang nhỏ mang về cắm tại bàn thờ gia tiên hoặc bàn thờ thổ công. Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa ở các nơi linh thiêng tức là xin lộc của Phật Thánh để Phật, Thánh phù hộ làm ăn cho hưng vượng suốt năm.

MỪNG TUỔI HOẶC LÌ XÌ

Với Tết với xuân, người ta được thêm một tuổi. Thêm tuổi tức thêm thọ và đấy là một điều mừng. Và ngày Tết từ người lớn đến trẻ em ai cũng thường nhắc tới tuổi của mình.

Các trẻ em thêm tuổi là thêm lớn, chính vì vậy nên lúc chúc Tết có tục mừng tuổi và người ta mừng tuổi bằng tiền; tiền mừng tuổi để trong phong bao điều thường là tiền lẻ vì người ta có ý tiền đó sẽ sinh sôi nẩy nở thêm nhiều và đem lại may mắn cho con cháu. Tiền mừng tuổi hay tiền lì xì đều là một nghĩa.

CÁC ĐIỀU KIÊNG DỊP TẾT

Vào dịp Tết, các em thường nghe người ta nói đến câu “Dông cả năm”. “Dông” có nghĩa là gặp sự không may mắn.

Ngày đầu năm người ta cố tránh mọi sự có thể gặp dông. Một đứa trẻ không ngoan trong 3 ngày Tết, phải bị mắng hoặc phải đòn, là dông quanh năm sẽ bị đòn bị mắng luôn. Đầu năm cãi nhau, quanh năm sẽ cãi nhau. Vì thế mọi người đều giữ gìn trong mọi cử chỉ, luôn luôn vui vẻ với mọi người, tránh mọi sự cau có, tránh những lời gắt gỏng, tránh những tiếng tục tằn và tránh tất cả những gì có thể là một điềm gở báo trước một sự không may.

Người ta kiêng tiếng khỉ, tiếng chết. Mặc quần áo trắng như tang, đội khăn trắng (trừ người có tang - và những người này ngày mùng 1 Tết ít khi đi thăm ai vì giữ gìn cho chủ nhà những sự không may).

Trong ngày Tết Nguyên Đán người ta kiêng quét nhà. Nếu nhà quá dơ, người ta chỉ quét sơ, vun rác vào một xó, đợi mùng 4 mới đem đi đổ.

Quét nhà đổ rác ngày mùng 1 Tết, người ta sợ quét và đổ đi mất Thần Tài.

HOÀNG CHÚC st.

Bắt gặp mùa Xuân

Ba năm trước, bi kịch của gia đình Bách Hợp, tưởng chừng không thể nào quên, nó như vết dao ghim vào tim cô và má cô. Trái tim Bách Hợp băng giá không còn xúc cảm trước tình yêu, không khí gia đình cô buồn thảm như có đám ma. Chị Bách Hương tìm cho mình một lối thoát, làm đám cưới với anh Việt kiều, từ giã gia đình về nơi xứ lạ. Một thời gian sau, ba Bách Hợp hiểu được tấm lòng sắt đá của má, không chấp nhận chia sẻ tình yêu, ông tự viết đơn xin ly hôn, không chia tài sản, xách vali đi khỏi nhà.

Má Bách Hợp về quê thăm bà nội, má khóc một trận như mưa, xin bà nội tha lỗi cho má, má không làm tròn bổn phận làm dâu, không sinh con trai, xin bà nội cho phép ly hôn. Bà nội buồn rười rượi, không nói nổi lời gì, bà nội gật đầu. Bách Hợp thưa với bà nội:

- Ba má không còn sống chung, nhưng ba vẫn là ba, cháu sẽ về thăm bà nội.

- Ờ, thôi hai má con về đi, sống cho tốt, gắng lo cho mấy đứa nhỏ nghe Hai.

- Con cảm ơn má.

Hai má con trở về nhà, căn nhà rộng lớn vắng lặng. Má sống bình thản lặng lẽ, năm đó má cũng đến tuổi về hưu. Chị Bạch Đàn thay đổi hẳn, chị trở lại là đứa con ngoan của má, chị lo cho má, chị không để má phải buồn phiền lo lắng điều gì về cuộc sống của chị. Một năm sau, chị đưa anh Đường về ra mắt, xin phép má tổ chức đám cưới. Anh Đường hơn chị năm tuổi, là một doanh nhân thành đạt, ba má ở nước ngoài, chị Bạch Đàn không phải sống cảnh làm dâu. Má ôm chị Bạch Đàn khóc một trận như mưa, hình như bao nhiêu ức chế dồn nén trong tim tuôn rơi theo dòng nước mắt. Chị Bạch Đàn cười trêu:

- Má tên Bạch Lệ, nên cuộc đời má toàn nước mắt rơi, rơi nước mắt. Thôi cười lên dự đám cưới con gái.

Má lau nước mắt, ngập ngừng, nhìn chị Bạch Đàn:

- Đám cưới của con… con có cho ba…

Má bỏ lửng câu nói, chị Bạch Đàn vẻ mặt nghiêm trang, giọng nói âu yếm:

- Con để má quyết định, má muốn bà nội, ba dự, má về quê báo tin, mời luôn. Con không đi.

- Con không còn giận ba con à

- Dạ, con giận ba, tại ba làm khổ má. Ba đã viết đơn ly hôn, còn lý do gì để giận. Sống phải biết lễ nghĩa đạo đức làm con.

Đám cưới chị Bạch Đàn tổ chức trọng thể linh đình, lễ vật nhà trai đem sang nhà gái đầy đủ sáu mâm quả. Bà nội dáng vẻ phúc hậu, tóc trắng bạc phơ, mỉm cười trao tặng cho cháu nội món nữ trang vàng quý giá. Ba má đứng bên nhau trang trọng lịch sự. Má tươi cười đáp lễ khách khứa bà con, ánh mắt má nhìn chị Bạch Đàn thật âu yếm. Đôi lần Bách Hợp thấy ba cô nắm tay má, kéo đứng sát vào ông để chụp hình với ông bà sui, cô dâu chú rể.

Bách Hợp nghĩ, chị Bạch Đàn hay thật, có lẽ nhìn bề ngoài tính tình ương bướng nhưng ẩn sâu bên trong là trái tim hiền dịu của má. Má đã rơi bao nhiêu giọt nước mắt để có ngày vui này, cô con gái đã mở cửa trái tim đón nhận tình yêu, tha thứ cho ba cô, đem lại cho bà nội và má cô một niềm vui trọn vẹn. Tình yêu như cơn mưa trong lành ngọt mát, cơn mưa xua tan tất cả phiền muộn mất mát trong gia đình Bách Hợp.

Sau đám cưới, ba và Bách Hợp có một cuộc trò chuyện thân tình. Bách Hợp noi gương chị Bạch Đàn, cô mở lòng ra với ba cô. Từ trong ý nghĩ cô cảm thấy mình là đứa con bất hiếu, sống vô cảm trước nỗi đau của gia đình. Nhận lỗi và sửa chữa, cô muốn như thế !

- Con gắng chăm sóc má trong lúc tuổi già nghe Bách Hợp.

- Má con mới năm mươi sáu tuổi, đâu có già.

- Ờ, thì ba nói vậy thôi, xem hình đám cưới, trông má còn trẻ đẹp hơn mấy năm trước.

- Nhờ chị Bạch Đàn khuyên lơn an ủi, mua cho má dàn karaokê, má thích lắm, hát hoài, hát hay.

- Vậy à, từ xưa đến giờ, ba đâu biết má con thích hát hò…

Bách Hợp cười hi hi:

- Bởi thế mới xa nhau vĩnh viễn.

Ba cười chua chát, than thở:

- Cũng tại ông trời.

- Con nghĩ, nguyên do từ quan niệm trọng nam khinh nữ, ba không thương ba cô con gái.

- Thôi không nhắc chuyện cũ, buồn lắm! Con nói với chị Bạch Đàn, ba cảm ơn. Ba mong sẽ sớm dự đám cưới của con nghe Bách Hợp, sắp đến tuổi ba mươi… đừng để ế…

Ba cười thoải mái, Bách Hợp nhìn thấy ánh mắt ba nhìn cô đầy thương yêu. Bách Hợp chớp mắt, cúi mặt cố giấu đi giọt nước mắt hạnh phúc.

Một năm sau, Bạch Đàn sinh được đứa con trai. Bà Bạch Lệ bảo con gái đưa cháu ngoại về bà chăm sóc dùm, tối đón về. Đứa trẻ là niềm vui cho hai má con bà Bạch Lệ. Dì Bách Hợp nhìn em bé ngủ, như một thiên thần nhỏ, hai má hồng hồng, môi đỏ, lâu lâu cái miệng nhỏ xíu cười cười, lúc thì mếu mếu như khóc, bà ngoại nói trong tuổi sơ sinh, em bé được bà mụ bảo vệ, bà mụ dạy em bé cười, em bé khóc. Bách Hợp có đọc một số sách của Tây phương nghiên cứu về linh hồn con người, giải thích tại sao trẻ nhỏ có bạn vô hình chơi với chúng mà người lớn không thấy, không biết. Đó là điều hết sức tự nhiên. Có lẽ điều này Tây phương và Đông phương trùng hợp nhau về sự hình thành và phát triển của con người. Bằng tình yêu giữa người nam và người nữ, người mẹ kết tinh bào thai, tạo ra một sinh linh bé bỏng nằm trong bụng mẹ cho đến ngày chào đời. Đứa bé là hạnh phúc, là niềm vui của gia đình ông bà cha mẹ. Nuôi dưỡng đứa trẻ lớn lên cần những vòng tay âu yếm, trái tim nồng nàn yêu thương, người mẹ cho bú mớm đứa bé lớn dần lên, đầy tháng, thôi nôi, biết lật, biết bò, tập đi, tập nói, trí tuệ phát triển, những tiếng nói đầu tiên a…a…ba…bà… Bách Hợp quan sát đứa cháu bé bỏng của mình, cô thích nắm bàn tay nhỏ nhắn, ngón tay tròn thon như nải chuối tiêu nhỏ, làn da mát mịn. Khi bà ngoại tắm xong, thay đồ mới, nó chạy đến bên dì nhõng nhẽo:

- Dì thơm bé Bi đi, thơm lắm!

Nó chìa má sát vào môi Bách Hợp, cô làm bộ chọc nó:

- Con của ai, hông phải con của dì, hông thơm đâu.

Bé Bi xịu mặt chạy mét bà ngoại:

- Dì hông chịu thơm Bi, bà ngoại ơi!

Từ việc giúp má chăm sóc bé Bi, Bách Hợp dần dần tìm lại sự bình yên trong trái tim băng giá của mình. Nỗi buồn âm thầm day dứt về việc đổ vỡ của ba má cũng được giải tỏa, cô đã tìm lại con người đích thực của mình, cô muốn sống với chính con người thực của mình, với trái tim đầy bao dung và khao khát được yêu thương.

Từ bé Bi, Bách Hợp nhận ra, bất cứ nỗi đau nào cũng có thể quên đi, lắng dịu bởi thời gian và tình yêu thương. Bách Hợp đã trút bỏ những gánh nặng bao trùm cuộc sống của cô, cô không biết trước điều gì sẽ xảy đến vào ngày mai, nhưng cô tin mình đã chọn thái độ đúng, thay thái độ để thay đổi cuộc đời. Bách Hợp thường xuyên tham gia các chương trình giao lưu, gặp gỡ tác giả giới thiệu sách. Cô chọn mua nhiều sách văn học, sách nuôi dạy trẻ em, cũng không quên mua cho má những tiểu thuyết của những nhà văn thời tiền chiến vừa mới tái bản, những dĩa nhạc CD một thời vang bóng. Má nhận quà từ cô, với một vẻ ngạc nhiên vui mừng. Hai má con không nói ra lời, nhưng từ trong sâu thẳm trái tim họ hiểu rằng, thời gian có thể xoa dịu chữa lành mọi vết thương. Cuộc sống của bà Bạch Lệ và Bách Hợp tràn đầy niềm vui, cùng đứa cháu trai có đôi mắt tròn xoe và cái miệng suốt ngày gọi: bà ơi! dì ơi!

Chiều hai mươi chín Tết, chợ hoa rộn rịp, người đông đúc đi xem hoa chụp hình, người chọn hoa trả giá. Không gian vui tươi rộn ràng giũa trời chiều nhạt nắng, gió lao xao chạm vào từng chùm lá, từng cánh hoa, muôn sắc hoa tỏa hương khoe sắc. Bách Hợp bước chậm ngắm hoa, những chậu hoa mai, hoa đào, cúc đại đóa vàng rực bung xòe mời gọi, cô muốn mua vài chậu hoa chưng Tết, dừng lại một gian hàng có nhiều chậu cúc, người bán hàng đon đả mời chào:

- Cô chọn chậu hoa nào, chậu lớn hay nhỏ?

- Bao nhiêu một chậu cúc này vậy ông?

- Bảy mươi ngàn một chậu.

- Tôi mua bốn chậu, ông có giao hàng tận nhà tôi được không?

Một thanh niên đi đến, đứng cạnh Bách Hợp, cô ngó sang người thanh niên, anh ta kêu lên mừng rỡ:

- A! chào cô, đây là lần thứ ba chúng ta gặp nhau. Tôi là Tân.

- Vâng, chào anh, tôi là Bách Hợp.

Người chủ gian hàng hoa nói:

- Tân à, cô đây mua bốn chậu hoa cúc, nhờ mình chở hoa về tận nhà.

Một người đàn ông tuổi lục tuần, tóc bạc hoa râm, vừa đi ngang, thấy Bách Hợp và Tân đứng cạnh nhau, dừng lại vui vẻ chào:

- À, gặp hai người bạn trẻ tại đây, hai bạn mua hoa Tết…

Tân giơ tay cho người đàn ông, hai người bắt tay nhau.

- Dạ, cháu là Tân, còn cô Bách Hợp đang chọn mua hoa.

- Ờ, tôi nhớ đã gặp mấy lần ở buổi giao lưu giới thiệu sách. Tôi là Nghiêm.

Bách Hợp mỉm cười, hơi cúi chào:

- Dạ, chào bác.

Bách Hợp mở ví cầm tay, lấy tờ danh thiếp đưa cho Tân:

- Nhờ anh chở hoa đến địa chỉ này nhé. Tiền xe bao nhiêu tôi gởi luôn.

- Cô gởi tiền mấy chậu hoa cho anh tôi, không phải trả tiền xe. Tôi rất vui khi gặp bác Nghiêm và cô. Hình như chúng ta có một chút duyên, duyên sách, duyên hoa.

Bách Hợp về đến nhà, bà Bạch Lệ đang ngồi ở cửa chờ.

- Hôm nay con về muộn, thôi đẩy xe vào, đi thay quần áo rồi ăn cơm.

- Hôm nay ăn trễ một chút má à, con chờ người chở hoa Tết tới.

Đúng lúc đó, ông Nghiêm và Tân chạy xe honda đến trước cửa nhà. Hai người dừng xe, lui cui gỡ dây ràng, đặt chậu hoa xuống đất. Ông Nghiêm đứng thẳng người lên, chợt nhìn sững bà Bạch Lệ, vẻ mặt có vẻ ngạc nhiên, hình như ông cố nhớ đến một điều gì xa xưa còn đọng lại trong trí nhớ. Bà Bạch Lệ cùng tâm trạng với ông, nhìn ông đăm đăm, ánh mắt hai người gặp nhau. Ông Nghiêm lên tiếng:

- Xin lỗi, tôi nhớ không nhầm, bà là Bạch Lệ

- Còn ông là Nghiêm

- Cô Bách Hợp là con gái nhỏ ngày trước bà bồng cháu đi thăm ông nhà, phải không?

Bà Bạch Lệ mời hai người khách vào nhà. Câu chuyện ba mươi mấy năm trước được kể lại, lúc ba Bách Hợp đi học tập cải tạo, ông Nghiêm là cán bộ làm việc ở đó, ông giúp đỡ ba má cô rất nhiều, ba cô được tự do sum họp gia đình sau hai năm học tập. Ông Nghiêm vui vẻ hỏi:

- Ông nhà lúc này có khỏe không, đang làm gì?

Bách Hợp trả lời thay má cô:

- Dạ, ba cháu vẫn khỏe, ba làm ngành xây dựng. Nhưng ba má cháu đã ly hôn.

- Xin lỗi. Bác không biết.

Bà Bạch Lệ tiếp lời:

- Không sao. Còn gia đình ông, bà nhà và con gái đều khỏe chứ, chắc ông đã có sui gia.

- Bà nhà tôi bịnh mất đã ba năm. Con gái tôi có chồng, theo gia đình chồng định cư ở nước ngoài. Tôi nghỉ hưu về thành phố sống.

Bà Bạch Lệ quay sang hỏi Tân:

- Cậu Tân sống ở thành phố Hồ Chí Minh à, ở quận nào?

- Dạ không, cháu chỉ còn má sống ở quê. Cháu một mình lên đây học, ra trường làm việc luôn ở đây.

- Cậu còn độc thân à.

- Dạ.

- Cậu quen Bách Hợp bao lâu rồi?

- Dạ, biết nhau gần một năm, bác Nghiêm cũng quen…

Hai người khách ra về, bà Bạch Lệ ngó Bách Hợp trêu con gái:

- Trời ơi! Có đến hai người bạn, một già một trẻ, vậy mà giấu má.

- Con có giấu gì đâu, tự nhiên hai người đến nhà một lượt, té ra là người quen cũ của má.

- Ờ, đúng là trái đất tròn.

Mùng hai Tết. Bách Hợp thức dậy mà còn nằm nướng trên giường. Reng… reng… reng… Cô bấm máy nghe.

- Chào Bách Hợp. Tân nè… Chúc mừng năm mới.

- Chào anh Tân. Chúc Tân niên tân phúc tân phú quý

- Cám ơn Bách Hợp. Tôi không mơ tân phú quý, chỉ mơ ý nguyện duyên lòng đẹp ước mong.

Bách Hợp im lặng. Tân nói tiếp:

- Bách Hợp đi dạo đường hoa Tết chưa, nếu đi cho tôi hẹn cùng đi nhé! Mùa Xuân đi một mình buồn.

- Được. Hẹn mấy giờ?

- 9 giờ sáng hôm nay. Tôi đến chúc Tết bác, rồi cùng đi nhé!

Hoa xuân, gió xuân, nắng xuân. Bách Hợp duyên dáng trong áo dài hồng thướt tha, hai má ửng hồng, mỉm cười dịu dàng, cô để yên bàn tay mình trong tay Tân. Niềm vui mới, chính là điều cô cảm nhận được khi bắt gặp mùa xuân, trên con đường mùa xuân. Niềm vui sẽ là hạt mầm yêu thương đơm hoa kết trái cho tình yêu lứa đôi? Anh có phải là người bạn đường đi bên cô suốt cuộc đời? Bách Hợp đang ở điểm bắt đầu của một hành trình khám phá ra điều tuyệt vời của trái tim mình.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Tháng 01 năm 2016


LAN MAN VỀ TỪ KỴ HÚY

VÀ NGÔN NGỮ

CỦA NGƯỜI NAM BỘ

T iếng nói không những là phương tiện giao tiếp mà còn là một thứ “căn cước” cho biết mình là người miền nào. Nghe tiếng nói người ta phân biệt được người Bình Định với người Phú Yên, người Gò Công cũng nói không giống người Rạch Giá.

Tuy vậy, không cần phải là một nhà nghiên cứu, ai cũng có thể thấy người Việt, nói chung, có chung một đặc tính kỳ diệu: từ Bắc xuống Nam cùng nói một thứ tiếng Việt phổ thông; sách vở cũng dùng chung một thứ chữ Việt phổ thông. Nếu trong 9 thôn bản của người Mông, Lô Lô, Tày, Pu Péo ở xã Lũng Cú, một xã cực bắc Việt Nam, thuộc huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang, mà có người Việt sinh sống, thì người Việt ở đó, cho đến những người Việt ở Xã Đất Mũi, một xã cực Nam, thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, cùng đọc hiểu chung một thứ chữ viết, nói chung một thứ tiếng Việt.

Nhưng người ở mỗi địa phương, mỗi miền có cách nói khác nhau, thậm chí có cả từ vựng khác nhau. Thứ tiếng khác nhau đó được coi là phương ngữ: ngôn ngữ “đặc sản” của một địa phương. Chính cái khác nhau của ngữ âm và từ vựng “đặc sản” làm nên tính chất đặc biệt của con người ở vùng miền đó.

Phương ngữ của một địa phương được thể hiện ở hai mặt: ngữ âm (phonectic sounds), và từ đặc trưng của địa phương (local words/phrases).

Về mặt ngữ âm, ngoài sự biến âm tự nhiên (natural change) mang đặc tính vùng miền còn có sự biến âm cưỡng bức (forced change) một cách giả tạo.

Nói một cách sơ lược, sự biến âm tự nhiên của người miền Nam [1] nói chung được thấy rõ trong cách phát âm của một số phụ âm đầu, chủ yếu là hoạt động của âm đệm (hay cũng gọi là âm phụ) /-w-/ (mà chữ viết là o, u như trong các từ ngoan ngoãn, quán quân…).

1. Âm đệm biến phụ âm [Kh-] thành [Ph-]:

“ăn khoai” thành ra “ăn phai,”

“khoan khoái” thành “phan phái

“khuây khỏa” thành “phây phả

“Ông ấy phứt núi rồi” (khuất núi).

2. Âm đệm thay thế phụ âm đầu:

“hoàn toàn” được phát âm “wàn tàn(g)”,

“Ngoan ngoãn” thành ‘wan wãn

“Nguyễn” thành “wĩễn

“Hoa quả” thành “wa wả,”v.v…

Mà “qua” cũng thành “wa”.

(“Hoa” và “qua” cùng được phát âm “wa” nhưng được hiểu theo ngữ cảnh: “Mua một ít “wa wả” (hoa quả) về cúng,” và “Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra / Bậu ra cho khỏi tay “wa”)

3. Âm đệm biến đổi phụ âm xát hữu thanh G /g/ thành phụ âm tắc xát Gi- /j/:

“ở góa” thành ra “ở giá,”

(nhưng “guồng máy” thì vẫn là “guồng máy”)

4. Âm đệm biến mất sau phụ âm [Nh-]:

“Nhuyễn” được phát âm thành “nhiễn

Ngoài ra, người miền Nam nói chung không phân biệt được các phụ âm cuối “-n” và “-ng”, “-t” và “-c”:

than lửa” và “cái thang”, “mặt mũi” và “mặc kệ”.

Và người ở một số địa phương ở Nam bộ [2] không phát âm được những từ có phụ âm đầu là R /r/, một âm rung đầu lưỡi. Trong khi vài địa phương ở miền Trung nói rõ âm /r/, một số địa phương ở Nam Trung Phần [3] phát âm âm /r/ thành âm tắc xát /j/ (Rõ ràng = jõ jàng), người miền Bắc phát âm âm /r/ thành âm hữu thanh /z/ (Rõ ràng = zõ zàng), thì nhiều người ở một địa phương Nam bộ có khuynh hướng biến âm rung đầu lưỡi /r/ thành một âm xát hữu thanh G /g/. Đó là nguyên nhân đưa đến câu nói đùa phổ biến:

“Con cá bỏ trong gổ quậy gột gột!”

Nói thì nói vậy, nhưng khi viết thì ai cũng viết: Con cá bỏ trong rổ quậy rột rột.

Người miền Nam chỉ phát âm được 4 trong 5 dấu giọng: sắc, huyền, nặng, và hỏi/ngã. Các từ ngả (trong ngả nghiêng) và ngã (trong ngã lòng) được phát âm giống nhau.

Nếu quá trình biến đổi ngữ âm tự nhiên, rất phức tạp, trong suốt lịch sử phát triển của ngôn ngữ mà chỉ các nhà ngôn ngữ học, tức người có chuyên môn, mới có thể xác định được, thì sự biến âm cưỡng bức xuất hiện một cách đơn giản và dễ được nhận thấy hơn. Đó là những từ kỵ húy phát sinh trong ngôn ngữ Việt, ít nhất là từ thời người Việt tiếp thu văn hóa Tàu và bắt chước thói “kỵ húy” của họ, tức là tránh viết và nói những từ là tên của vua chúa.

Thời xưa chữ Hán được viết theo hàng dọc từ trên xuống dưới, từ phải qua trái. Khi gặp một chữ tên húy, người viết “đài” chữ đó lên đầu dòng, tức là một cách “xuống hàng” thình lình bất kể văn mạch, và đưa chữ đó lên đầu hàng (dọc) mới, và cao hơn các hàng khác một chữ, và điều quan trọng là chữ đó phải được viết thiếu đi một nét. Quên các điều này là phạm húy, có thể là tội chết, hoặc nhẹ nhất là bị đánh hỏng và cấm thi, nếu là sĩ tử.

Còn trong lời nói thì để tránh từ tên húy, người ta phát âm trại đi một chút, hoặc thay bằng một từ khác, hay tránh hẳn nói tiếng đó.

Có phải chính vì cái tập quán kỵ húy tai hại của người xưa mà chúng ta đánh mất tên một ông vua quan trọng trong lịch sử? Ngay các sử gia cũng không biết tên thật của Tiên hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh là gì. Bộ Lĩnh chỉ là một chức quan mà sứ quân Trần Minh công (Trần Lãm) phong cho ông, để ông nắm giữ binh quyền chớ không phải tên thật [4].

Khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam gầy dựng xứ Đàng Trong, ông mang theo tập quán kỵ húy từ miền ngoài vào. Nhưng ở xứ Đàng Ngoài, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, với nhiều biến cố lên xuống của các triều đại, lòng người tan hợp thăng trầm theo mệnh nước, nhiều tiếng kỵ húy của triều đại trước bị triều đại sau xóa bỏ, và chúng đã mai một đi trong trí nhớ người dân, còn để lại rất ít dấu vết trong ngôn ngữ những lưu dân theo chân Nguyễn Hoàng vào Nam. Mà đã vào vùng đất mới này tức thoát khỏi vòng cương tỏa của triều đình, họ chẳng thèm sợ húy gì của vua chúa cũ nữa. Bản thân vị Chúa Tiên cũng chỉ áp đặt tập quán đó cho thần dân của mình ở vùng đất mới chớ chẳng bận tâm đến những từ húy kỵ nơi “cố quốc”. Có lẽ vì thế mà trong ngôn ngữ người dân miền Nam chỉ có những từ húy từ tên các vua chúa nhà Nguyễn.

Trong khi người dân Xứ Đàng Trong tha hồ gọi tên húy của các vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, thì họ bị quy định hết sức ngặt nghèo trong viết hay nói các từ trọng húy của vua chúa nhà Nguyễn. Vì vậy trong ngôn ngữ xuất hiện những từ rất oái oăm: Kỷ ngươn, Rằm thượng ngươn, thay vì kỷ nguyên, rằm thượng nguyên (để kiêng tên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên); can đởm, thay vì can đảm, đởm lược thay vì đảm lược (kiêng tên vua Minh Mạng Nguyễn Phúc Đảm), Thới Bình, tên một huyện ở Cà Mau, thay vì Thái Bình (kiêng tên chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái); các tên thôn (hiện nay là xã) như Thới Tam, Thới Tứ, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Nhì, Xuân Thới Đông, Xuân Thới Sơn… thuộc khu vực Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh, là tuân theo sự kỵ húy đó. Làng Tân Kiểng xưa (Bây giờ còn Đình Tân Kiểng và chợ Tân Kiểng ở Phường 2, quận 5, Sài Gòn) vốn có tên là Tân Cảnh (trùng tên húy Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, con cả vua Gia Long). Từ Hoàng được đổi thành Huỳnh vì kỵ tên của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Gọi màu hồng thành màu hường, nói nhiệm chức thay vì nhậm chức để tránh tên Nguyễn Phúc Hồng Nhậm của vua Tự Đức. (Ngô Thời Nhiệm thay cho Ngô Thì Nhậm, Ngô Tòng Châu thay cho Ngô Tùng Chu cũng vì vậy. (Chu là tên Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu). Người miền Nam quen nói Tôn giáo, thay vì tông giáo để kiêng tên vua Thiệu Trị Nguyễn Phúc Miên Tông. Cũng vì tránh tên ông vua thứ ba của nhà Nguyễn này mà tất cả các chữ Tông trong các đế hiệu như Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Trung Tông v.v… đều được đổi thành Tôn: Lý Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn, Lê Trung Tôn

Có thời người miền Nam nói cúng kiếng thay vì cúng kính, kiếng lễ, thay vì kính lễ, để kiêng tránh tên Nguyễn Hữu Kính, tên húy của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, một danh tướng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, có nhiều công lao hiển hách trên gần suốt cả đất nước xứ Đàng Trong. Tên ông là Nguyễn Hữu Kính, nhưng do kiêng húy, người ta nói trại ra là Cảnh. Khoảng một trăm năm sau, vì kiêng tên hoàng tử Cảnh, người ta lại gọi trại một lần nữa từ Kính thành Kiếng. Vì vậy, Nguyễn Hữu Cảnh chỉ là tên kỵ húy chớ không đúng tên thật [5]. Nguyễn Hữu Kính từng thành lập Trấn Thuận Thành, hiện nay là vùng đất từ tỉnh Bình Thuận đến Ninh Thuận và trấn giữ Dinh Bình Khang, nay là vùng đất từ tỉnh Ninh Thuận ra đến Khánh Hòa; vào năm 1698 ông được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào miền Nam củng cố và mở rộng đất Sài Gòn Gia Định. Tuy không phải là một vị chúa, nhưng ông từng làm quan trấn nhậm, được nhân dân ngưỡng mộ suốt từ miền Trung vào đến miền Nam, nên họ tự kiêng tránh tên húy của ông.

Người miền Nam nói Sơn là núi mà không nói San, vì đó là tên vua Duy Tân Nguyễn Phúc Vĩnh San. Sau năm 1975, nhiều người miền Nam bắt chước người miền Bắc nói phản ánh thay vì trước đó họ nói phản ảnh (ảnh dấu hỏi) để tránh tên vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Ngay chữ Phúc trong tên các vua chúa nhà Nguyễn cũng phải nói trại đi là Phước. Trước kia, miền Nam có các tỉnh Phước Long, và Phước Tuy (được chánh phủ VNCH thành lập năm 1956) mà theo sách Phương Đình Dư Địa Chí vốn là Phúc-Long- phủ và Phúc-Tuy- phủ thuộc tỉnh Biên Hòa.

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có một bài hát Lên Đàng. Đàng là từ người miền Nam nói trại từ Đường (tên vua Đồng Khánh Nguyễn Phúc Ưng Đường). Tuy nhiên Đàng không phải là một từ mới đặt mà người ta lấy một từ cũ có sẵn. Từ Đàng đã có ghi trong An Nam Dịch Ngữ, một loại “tự điển” Tàu Việt do người Tàu soạn từ Thế kỷ 15, với nghĩa tương đương là Đường (đi).

Sự kỵ húy của nhà Nguyễn không chỉ giới hạn trong tên các vua chúa mà mở rộng đến tên hoặc thậm chí cung điện của các bà vương hậu (tức hoàng hậu, vì các vua nhà Nguyễn không đặt hoàng hậu, trừ ông vua cuối cùng là Bảo Đại). Người miền Nam nói nhơn ngãi thay cho nhân nghĩa, chắc vì kiêng tên của các bà vợ vua nào chăng? Tuy sách Phương Đình Dư Địa Chí viết tỉnh Quảng Nghĩa ( 廣義 ) nhưng người dân đều vì kỵ húy mà nói trại thành Quảng Ngãi. Những người dịch sách Đại Nam Nhất Thống Chí [6] cũng viết Quảng Ngãi, dù chữ nho trong sách là Quảng Nghĩa.

Nhiều người miền Nam tầm tuổi sáu, bảy mươi từng biết tên nữ tướng Phàn Lê Huê (Fan Lihua, mà chữ Tàu viết là 樊梨花 – Phàn Lê Hoa), vợ của Tiết Đinh San (Xue Dinhshan), cũng có chỗ giữ húy gọi là Tiết Đinh Sơn, trong tiểu thuyết dã sử Tàu về thời nhà Đường chinh phục nước Tây Lương (Xi Liang). Huê là một từ nói trại để kiêng húy từ Hoa, vì đó là tên bà Hồ Thị Hoa, chánh hậu của vua Minh Mạng[7]. Từ Hoa không chỉ được nói trại là Huê mà còn được thay bằng một từ khác là Bông. Theo cụ Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa, cái Cầu Bông trên đường Đinh Tiên Hoàng bắc qua Kênh Nhiêu Lộc ở quận 1 Sài Gòn vốn có tên là Cầu Hoa.

Các từ tên húy khác chỉ cần tránh bằng cách nói trại đi, nhưng từ Hoa này thì lôi thôi hơn. Cầu Hoa thành Cầu Bông, tỉnh Thanh Hoa bị đổi thành tỉnh Thanh Hóa, nhưng chợ Đông Hoa ở đất thần kinh thì lại được đổi thành chợ Đông Ba! Người Quảng Nam đến nay vẫn còn nhớ câu ca dao: “Thủng thỉnh lượm bông ba rơi / Lượm cho có cách hơn người trèo cao” (ba = hoa).

Trong bộ Bài Chòi của người Quảng Nam có con Bạch Huê; không biết Bạch Huê này có phải là nói trại tên nàng công chúa Bạch Hoa, con vua Hùng Vương thứ 18, kết hôn với chàng Sơn Tinh khiến Thủy Tinh oán giận gây lụt lội hàng năm, hay bà Bạch Hoa, vợ của danh tướng Đinh Lễ (cháu ngoại vua Lê Lợi), là bà tổ của nghề đàn hát (cô đầu) mà vì kỵ húy người ta nói trại đi, như được kể trong Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế.

Cũng như từ đàng, huê là một từ cũ trong số 716 từ tiếng Việt được ghi trong An Nam Dịch Ngữ (từ thế kỷ 15), chớ không phải từ mới đặt như những ngươn, ngãi, kiểng, huỳnh… trên kia.

Những từ nói trại vì kỵ húy còn nhiều nữa. thay cho , Đờm thay cho Đàm, Thời thay cho Thì, Tùng thay cho Tòng, Nguyệt Quới thay cho Nguyệt Quế, Quới nhơn thay cho quý nhân v.v… Chúng là một dạng từ biến âm cưỡng bức được dùng phổ biến, chủ yếu trong Miền Nam, tức xứ Đàng Trong, từ Quảng Trị, nhưng rõ nhất là từ Huế, trở vào. Sở dĩ người miền Bắc “miễn nhiễm” với sự kỵ húy này là do hoàn cảnh lịch sử: “Nước” Đàng Ngoài chẳng việc gì phải nghe theo luật lệ của “Nước” Đàng Trong. Sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, những tên húy kiêng cử của nhà Nguyễn đem áp dụng cho dân miền Bắc mà đa số còn hoài vọng nhà Lê thì sự tuân phục cũng chẳng được bao nhiêu. Tiếp đó miền Bắc được đặt dưới sự bảo hộ của người Pháp, nên người ta chẳng thấy cần thiết phải sợ phạm húy với vương triều nhà Nguyễn nữa.

Ferdinand von Humboldt (1767–1835), triết gia, nhà ngôn ngữ học người Phổ (Prussa) cho rằng ngôn ngữ là linh hồn của một dân tộc. “Linh hồn” của dân tộc Việt chịu những ràng buộc ngôn ngữ quái đản như thế, bảo sao đất nước chẳng lận đận mãi không ngẩng đầu lên được.

Người dân Nam bộ là tổng hợp của con cháu những người từng theo chân chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) vào Thuận Hóa từ năm 1558, và các đợt di dân về sau, hợp cùng với hậu duệ của người dân bản địa của các quốc gia cổ Chiêm Thành, Chân Lạp, và một số người Cao Miên ở lại. Trong cuộc sống chung hòa bình, họ tiếp xúc và ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau, trong đó có tiếng nói, từ đó, cùng với bối cảnh sinh hoạt thực tiễn và đặc thù, tiếng nói của người dân Nam bộ có nét đặc trưng, cả về ngữ âm lẫn từ vựng, không giống với miền nào khác trong cả nước. Mà vùng đất Nam bộ của ba tỉnh Miền Tây trong “Nam kỳ Lục tỉnh” [8] khá rộng lớn, cho nên không phải tất cả người dân Nam bộ đều nói như nhau về mặt ngữ âm, nhưng người Nam bộ có một “kho” từ vựng riêng rất phong phú phản ảnh cuộc sống vật chất mà trong đó cái ăn tương đối dễ tìm, và phản ảnh tinh thần phóng khoáng của khối di dân trên vùng đất mới “làm chơi ăn thiệt”. Cái chất dân dã kiểu “Hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua; hôm nay qua hống nói qua qua mà qua qua” cứ lừng lững đi vào văn học qua các nhà văn “đặc sản” Nam bộ như Hồ Biểu Chánh[9], Lê Xuyên [10], Bình Nguyên Lộc [11], học giả Vương Hồng Sển [12], và hiện nay với Nguyễn Ngọc Tư [13]…

Với Hồ Biểu Chánh (1884–1958), nhà văn tiên phong và tiêu biểu của tính chất Nam bộ từ đầu thế kỷ 20, ngôn ngữ còn mang đậm tính mộc mạc dân dã, hầu như nguyên chất văn nói. Với một bút lực rất “ghê gớm,” ông để lại hơn một trăm tác phẩm gồm nhiều thể loại mà gần một nửa là tiểu thuyết (64 cuốn).

Đây là một đoạn văn ngắn trong tiểu thuyết Ngọn Cỏ Gió Đùa của Hồ Biểu Chánh phóng tác tác phẩm Les Miserables của văn hào Pháp Victor Hugo:

“Lê-văn-Ðó thấy nhà giàu cơm ăn không hết lại mời khách mà đãi thâm tới ban đêm, rồi nhớ tới nhà mình nghèo khổ, đèn không dầu nên tối mò, mẹ đau không thuốc nằm chờ ngày chết, sắp cháu đói bụng rên khóc van-vầy, thì tức- tủi trong lòng, quyết bước vô mà cậy chủ nhà giàu nầy một vài giạ lúa đen về cho gia quyến ăn, đợi năm tới thuận mùa rồi làm mà trả lại.

Nhà nầy là nhà ông Bá-hộ Cao ở Vồng-Nâu. Bữa ấy là bữa ông nhóm họ đặng cưới vợ cho con, nên mới dọn cỗ bàn mà đãi thân bằng quyến thích. Lê-văn-Ðó ở ngoài xăm xăm đi vô, đứng ngay cửa cái mà ngó. Khách trong nhà mắc ăn thịt uống rượu, mắc nói nói cười cười, không ai để ý tới ngoài sân, nên không ai thấy nó. Cách một hồi lâu, ông Bá- hộ dòm ra, thấy có người lạ mặt đứng trước cửa, bèn sai gia- dịch ra hỏi coi đi đâu. Lê-văn-Ðó thuở nay không từng nói chuyện với ai, mà cũng không hiểu lễ phép chi hết, nên nghe người ta hỏi đi đâu, không lấy lời dịu ngọt thê thảm mà động lòng nhơn từ của người, lại nói xẳn-xớn rằng: “Nhà tôi nghèo quá, tôi đi làm mướn mà không ai chịu mướn tôi làm. Bây giờ nào là mẹ, nào là chị, nào là sắp cháu nhỏ của tôi chết đói hết thảy, tôi đi đến đây, thấy nhà nầy giàu có nên tôi ghé lại mượn một ít giạ lúa về ăn đỡ” .

Sắp gia- dịch nghe rồi trở vô nhà nói làm sao với ông Bá- hộ không biết, mà khách trong nhà cười rộ, rồi ông Bá- hộ sai người ra đuổi Lê-văn-Ðó biểu phải đi ra khỏi cửa cho mau” .

Đến các nhà văn Lê Xuyên, Bình Nguyên Lộc, ngôn ngữ Nam bộ trong tác phẩm đã bớt phần mộc mạc, và có âm hưởng của ngôn ngữ văn học hơn. Một đoạn trong tiểu thuyết Chú Tư Cầu nổi tiếng của nhà văn Lê Xuyên:

“Tư Cầu chẳng nói chẳng rằng gì nữa hết, xốc thúng lúa lên nách bưng đi. Anh ta ghé qua mái nước múc một gáo uống ừng ực. Rồi như để trút nỗi bực tức, anh ta hắt tẹt nước còn dư vào đám rau om, móc gáo vào cây đinh nghe một cái cộp, lấy tay quẹt miệng rồi bưng thúng lúa thẳng ra bờ xẻo trước nhà.

Để thúng lúa xuống xuồng vững vàng rồi Tư Cầu vừa nhổ cây sào vừa đưa chơn tống xuồng ra và chống sào cho xuồng đi vèo vèo trên mặt nước. (…) Đôi lúc lườn xuồng, be xuồng cọ rào rào vào những đám rau muống, những đám lục bình, những nhánh điên điển. (…) Ra giữa khoảng đồng trống, gió thổi mát rượi. Tư Cầu cũng thấy thơi thới trong lòng chớ không còn bực bội như hồi nãy nữa. Và như cảm hứng, anh ta vừa chống vừa ca vài câu vọng cổ, cái bài vọng cổ “văng vẳng tiếng chuông chùa...” mà anh ta nghe ở cái máy hát của ông Xã Tám. Có mấy cái dĩa hát đi hát lại hoài anh ta nghe riết rồi cũng thuộc lòng hết. Thuộc lòng rồi anh ta sang qua bắt chước cho đúng cái giọng ngân ư ử... của Năm Nghĩa, cái giọng mà anh ta cho là “mùi bạt mạng”.

Một đoạn văn của Bình Nguyên Lộc trong tiểu thuyết Cuống Rún Chưa Lìa:

Chợt một bữa kia không biết nhờ gì gợi ý bà nhà tôi đi mua chậu, đi tìm đất, ra đặt mấy cái chậu đất ấy ở sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp. Bà nhà tôi trồng rau răm, rau tần dài, hành hương, ớt, không mấy tháng mà sân trong không còn chỗ để chơn nữa vì chậu cứ được sắm thêm hoài, thật là bất tiện. Thuở ấy rau cỏ có bao nhiêu tiền đâu, đi chợ mua hai xu, cả nhà ăn cả ngày không hết mà hai xu chỉ bằng hai đồng bạc ngày nay. Bà ấy lại không còn thì giờ nghỉ ngơi nữa, hễ sáng, vừa bét mắt thì lo săn sóc ba chậu rau không đáng giá đó, trưa cũng vậy, chiều cũng vậy. Vậy, mà kể từ ngày ấy, bà nhà tôi vui vẻ trở lại như hồi vợ chồng tôi mới cưới nhau và không bao giờ tính chuyện đi đâu nữa hết, mãi cho tới bây giờ mà tôi đã có cháu ngoại rồi”.

Còn đây là giọng khề khà của cụ Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa:

“Tiện đây tôi yêu cầu các học giả nên thận trọng lời diễn luận chẳng khá làm tàng bịa đặt tên “nhà thương Đầm Đất” (như trong một tờ tạp chí kia), trong lúc dưỡng đường Grall được cất xây trên một đồn đất thật sự, ai ai cũng rõ biết, và cũng không nên vì thấy gần Sài Gòn có những chợ: “Ông Lãnh”, “Bà Chiểu”, “Bà Điểm”, “Bà Hom”, “Bà Rịa”, “Bà Đen” rồi đề quyết Năm Bà vốn là thê thiếp của ông Lãnh binh nọ. Tội chết đa! Tuy người mất rồi không nói được, chớ còn người cố cựu nữa chi? Bạn thân tôi, ông Sơn Nam có kể cho tôi nghe gần Cái Bè, trên con đường đi về Hậu Giang, có một khúc quanh gọi “Khúc quanh ông Cọp”. Nhiều học giả chưa gì vội nói hớt, cắt nghĩa: “Xưa ở vùng ấy, cọp rất nhiều, nên dân bản xứ lấy đó đặt tên”. Theo ông Sơn Nam chịu khó điều tra kỹ càng; rõ lại mấy chục năm về trước hãng bán tủ sắt hiệu “BAUCHE” có quảng cáo cho thứ tủ này bằng một bảng lớn dựng tại khúc quanh đó; trên bảng vẽ hình một con hổ to ngồi chồm hổm trên đầu tủ, một tay thò xuống cố cạy nắm tủ “BAUCHE” (nhãn hiệu “con cọp”) cạy hoài mà không sao cạy được, đủ biết tủ sắt kiên cố bực nào. Dân quê trong vùng qua lại thấy bảng vẽ cọp nhan nhản tại khúc quanh, trong khi nói chuyện bèn gọi tắt chỗ ấy là “khúc quanh ông Cọp”. Chuyện chỉ có bấy nhiêu, không nên lắm sự!”


Phụ Bản II

Khoảng gần hai mươi năm trước, khi tái bản cuốn Sài Gòn Năm Xưa này, một nhà xuất bản trong nước đã “làm ơn cho tác giả” bằng cách “biên tập” gọt đẽo nhẵn nhụi văn phong trong sách – thực sự là “viết lại” – theo một “chuẩn” ngôn ngữ văn học chung áp dụng trong cả nước, khiến tác giả phẫn nộ và người đọc cũng hết sức thất vọng.

Trước năm 1975, không một nhà xuất bản nào ở Miền Nam có biên tập viên (editor), hoặc có ghi tên biên tập viên vào sách như cách làm của tất cả các nhà xuất bản trong nước hiện nay. Phần lớn tác phẩm thời đó chỉ ghi tên người sửa lỗi morasse mà từ quen dùng lúc bấy giờ là “Thầy cò” (correcteur).

Do không phải qua tay biên tập viên như hiện nay mà các tác phẩm văn học từ Hồ Biểu Chánh tới Lê Xuyên, và Bình Nguyên Lộc còn giữ được nguyên chất ngôn ngữ Nam bộ.

Biên tập là một công việc văn học được nhiều nước thực hiện từ lâu đời chớ không phải chỉ ở Việt Nam mới có. Ở một số quốc gia Âu – Mỹ tên người biên tập tác phẩm đôi khi quan trọng hơn và “bảo chứng” cho tên tác giả và giá trị tác phẩm, nếu tác giả là người mới. Trong nước hiện chưa có một biên tập viên nào đạt được trình độ như thế.

Nhưng không có người biên tập không có nghĩa là tác phẩm được in bừa bãi mà người xuất bản chẳng cần biết nó là gì. Thật ra, bản thảo nào cũng được nhà xuất bản đọc kỹ trước khi đưa in; tác phẩm có thể được hiệu đính hoặc nhuận sắc (revised) nếu cần phải thế, có sự thảo luận với tác giả, chớ không được “biên tập” (edited) theo cách hiểu và làm ngày nay là gọt sửa cấu trúc câu và sửa đổi chữ dùng của tác giả theo một “chuẩn” nào đó không rõ ràng, nếu không phải theo ý chủ quan của người biên tập. Vì tôn trọng sự tự do tư tưởng của tác giả, tôn trọng cách hành văn đặc trưng phản ảnh cá tính, và ngôn ngữ mang tính vùng miền của tác giả nên các nhà xuất bản trước kia không bao giờ tự ý “thò tay ngọc, thọc tay vàng” vào đứa con tinh thần của người viết để sửa chữa theo ý mình, buộc tác phẩm khoác một “đồng phục” ngôn ngữ chung nào đó. Người Pháp nói văn phong thế nào phản ảnh con người thế ấy, “le style, c’est l’homme - The style reflects the man himself” – Đẽo gọt trơn tru cho hết những cái rề rà trong văn phong của Vương Hồng Sển thì còn gì cụ Vương Hồng Sển nữa! Tục ngữ Pháp cũng nói: “Ce n’est pas ce qu’il a dit, mais la façon il l’a dit”. Vấn đề đâu phải là điều họ nói mà là cách họ nói thế nào kia. Điều họ nói thì ai nói ra cũng vậy thôi, chỉ cái cách họ nói mới cho thấy họ là ai, tính cách của họ thế nào.

Tuy cho đến nay chưa có một chỉ thị hay quy định lấy ngôn ngữ của một địa phương nào làm chuẩn cho ngôn ngữ văn học, nhưng hầu như tất cả các nhà xuất bản trong nước mặc nhiên biên tập tác phẩm theo ngôn ngữ miền Bắc, cụ thể là ngôn ngữ Hà Nội. Trong sách vở nhan nhản những từ miền Bắc, bất kể tác giả là người miền nào [14].

Hà Nội là thủ đô của đất nước, lấy tiếng nói của thủ đô làm chuẩn cho ngôn ngữ văn học cả nước cũng phải thôi. Nhưng tiếng Hà Nội có nhiều điểm không chuẩn: không phân biệt các âm “iu” và “ưu”, “iêu” và “ươu”, chẳng hạn, như trong câu nói: “Về hiu rồi tha hồ uống ziệu”. Ngôn ngữ của người Hà Nội cũng không phân biệt các cặp phụ âm CH và TR, S và X, R và D / Gi. Cái “bánh Trưng” từng xuất hiện trên biểu ngữ và trên mặt báo. Các phụ âm CH và TR lẫn lộn nhau là chuyện hà rầm. Một lần đọc thấy trong một bài báo viết “Vậy mà Hải Phòng mưa rầm rề…” tôi ngạc nhiên, gõ thử vào google hai chữ “rầm rề” (trong ngoặc kép). Và thật là trên mức kinh ngạc: hàng loạt kết quả cho thấy hầu như người ra đã “chính thức” dùng hai từ này thay cho “dầm dề”! Thậm chí trên một tờ báo ở Hà Nội từng xuất hiện một tiêu đề in chữ lớn: “DOANH NGHIỆP NÓNG NÒNG CHỜ HỖ TRỢ”.

Sự lẫn lộn giữa các phụ âm L và N dĩ nhiên không phải là “đặc trưng” trong tiếng nói người Hà Nội. Nhưng điều này cho thấy hiện tượng “nước chảy vào chỗ trũng” trong ngôn ngữ của thủ đô. Tiếng Hà Nội không những không “chuẩn” mà cũng không mang đủ nội lực để “cảm hóa” và đồng hóa những cá nhân bên ngoài thâm nhập vào thế giới chữ nghĩa của thủ đô, để đến nỗi tiếng nói ngọng nghịu của một địa phương choán vào chỗ trũng đó. Lấy tiếng Hà Nội làm “chuẩn ngữ văn học” cho cả nước liệu có an toàn không? Vậy mà trên thực tế tiếng miền Bắc / tiếng Hà Nội giành được ưu thế trong hầu hết tác phẩm văn học và báo chí cả nước; ngay đến một nhà văn Nam bộ như Nguyễn Ngọc Tư, những tưởng ngôn ngữ Nam bộ phải trở thành hơi thở, máu thịt trong chị, nhưng không phải, Nguyễn Ngọc Tư hồn nhiên sử dụng ngôn ngữ miền Bắc trên những trang văn tài hoa và rất xúc động của chị về con người và cuộc sống đất Nam Bộ nơi chị sinh ra và lớn lên. Những con người Nam bộ nói tiếng Bắc nghe lấn cấn thế nào ấy. Ví dụ Nguyễn Ngọc Tư dùng từ “bảo” thay cho từ “biểu” của người miền Nam. “Rồi dì bảo, mai mốt chế Ba về, anh Tư à. Thiệt, mai mốt này…”, “Con Điềm thường bảo, người ta lấy thơ để thay lời thề hẹn đó”. “Rồi họ và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi”. Thật ra Nguyễn Ngọc Tư có dùng cả biểu lẫn bảo. Có lẽ 50/50.

Tỷ lệ của chứ thay vì chớ có lẽ cao hơn. “Má cãi: hỏng tới đâu ông ơi, chừng nửa ký là cùng, cá lóc táp nghe hờm vậy chứ”. “Bây giờ Nhà nước cho nuôi tôm thì mừng chứ”. “Rồi mấy đứa con gái đểnh đoảng như tôi vất vả biết chừng nào, đôi khi không lấy được chồng chứ chẳng phải chuyện chơi”.

Nhưng hạt thay hột, và chân thay chơn/chưn thì có lẽ 100%. “Tôi lấy dao phay băm cho đất tơi ra để kịp lúc ba về gieo hạt cải”. “Tôi học từ má rằng gạo Một Bụ dài, óng ả, gạo Tiên Lùn hạt ngắn, đục như nếp…”. “Tôi ăn hạt gạo má tôi làm ra mà không giúp gì cho má tôi”.

“…một đám người chen nhau đứng đàng sau cánh cửa, quà trên tay chất vượt mặt, gõ cửa bằng chân”. “Con Tư mầy phải sống trên ghe thím vài năm mới được, sống trên chiếc ghe dài bảy thước ngang hai thước mới thấy buồn chân”. “…mỗi lần ghé bến tụi nó lại chạy te te lên bờ, cuống quýt rượt đuổi nhau, những đôi chân trần trụi thoăn thoắt nhảy trên cái bến gồ ghề đất”.

Rồi còn đĩa thay dĩa, nhặt thay vì lượm, thóc thay lúa, hoa thay cho bông nữa: “Tôi mua cho em cái đĩa người ta dạy chăm sóc trẻ sơ sinh”. “… rồi nó đem ra mấy cái đĩa nhạc thu âm từ hồi năm một ngàn chín trăm mấy mươi gì đó. Gương mặt của Thái Thanh, Hà Thanh… trên bìa đĩa coi trẻ măng…”. “Bữa qua ngồi quán chiều vắng ngắt, ông đồ cổ lại mở cái đĩa hát cổ…”.

“Đó là lúc tôi thấy má tôi tội nghiệp như nàng Tấm bị mẹ con mụ dì ghẻ cay nghiệt bắt nhặt thóc trong gạo khi làng đang vào hội..”. “Lượm nhớ quay quắt cái xóm cũ, nhà cũ, lau sậy cũ, nhớ ông ngoại lúc giận quá nhặt cây sậy gãy đánh cháu”. “… tôi chưa làm được việc gì coi được một chút, một chuyện mang hơi hướng vĩ đại, như nhặt của rơi trên đường trả lại người bị mất chẳng hạn”.

“…đằng trước chỉ một khoảng sân nhỏ trồng mấy chậu hoa nhỏ”. “Như có người mua hoa bằng tay này rồi tặng tay kia”. “Trên những con đường chi chít hoa dại hiếm hoi mới thấy vài trẻ con chơi”.

Chị nói đấy thay vì đó. “…hồi nhỏ nó bị vỏ ốc cắt đứt chân hoài mà nó vẫn chân không ngạo nghễ đấy thôi”. “… cái rễ cây đấy mà cũng làm chân nó đau đâu”. “Dù đây về đấy chưa tới một tiếng đi xe chợ, người muốn về trước giao thừa thì đã bán thốc tháo để về”.

Chị gọi cái mền của người Nam bộ là chăn, gọi cái bánh trángbánh đa. “…nhà này không thấy nhà kia, thị trấn này sẽ trùm chăn nằm ngủ?”. “… lúc nào mới được ngã lưng trên chiếc giường chăn nệm ấm”. “Qua một con dốc nhỏ, gặp một cụ già kèm nhèm ngồi nướng bánh đa…”

Chị nói nhạt thay vì lạt, và nhợt nhạt thay vì lợt lạt. “…cùng những cánh đồng, mảnh vườn xanh xanh đậm nhạt bọc quanh”. “Bông cũng không níu kéo bất cứ cái nhìn nào. Lơ thơ. Nhợt nhạt”. “Cái nắng kỳ lạ không nhàn nhạt như nắng chiều hè…”

Chị nói cái rốn thay vì rún. “không còn kịp nữa như một cái rốn nước sâu hoáy, điên cuồng hút tôi vào”. “…có cái rốn to nhăn rúm, như cái mặt người, cái rốn 21 ngày mới rụng…”.

Chị nói gửi thay vì gởi. “Hạt gửi mùa sau”. “Bảy năm trước, lúc ông Mười gom hết thảy bốn chín cái thư của Nguyễn Thọ gửi dì Thắm đốt hết”. “Người ta gửi tới nhà Tư Lai một lá thư”.

Chị nói “đảm đang” thay vì “đảm đương”. “…má vén khéo đảm đang chèo chống gia đình nuôi nấng mấy chị em tôi khôn lớn…”. Và khi Nguyễn Ngọc Tư nói “…lại làm con mệt mỏi đến nhường này”, thì người đọc nếu không biết chị sẽ nghĩ chắc mười mươi chị là người Bắc!

Đúng là ngôn ngữ miền Bắc đã “tìm được chỗ đứng” và rất phổ biến trong tiếng nói của người miền Nam, không chỉ từ sau đợt di cư vĩ đại năm 1954, mà lâu trước đó nữa, chớ không phải mới theo chân cán bộ và bộ đội miền Bắc trong đợt “người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng” bốn mươi năm trước đây. Chẳng vậy mà từ thời thủ tướng Nguyễn Văn Thinh của Nam Kỳ Quốc người ta đã xua đuổi những người nói “Tân Sơn Nhất” về Bắc, chỉ những người nói “Tân Sơn Nhứt” mới là công dân của Nước “Cộng hòa Nam kỳ Tự trị”. Nhưng hiện nay ngay cả người ở cạnh cái phi trường sắp hết đát này cũng đã nói Tân Sơn Nhất chớ hầu như không còn ai nói Tân Sơn Nhứt nữa. Thế cho nên nếu một anh hay chị nông dân Nam bộ mà nói mấy tiếng “Sầu riêng hạt lép,” nghe cũng không buồn cười cho lắm. Sầu riêng là sản vật của miền Nam, hạt là một từ miền Bắc. Và cụm từ “sầu riêng hạt lép” Nam Bắc đề huề đã phổ biến khắp miền Nam rồi đó. Nhưng một nhà văn Nam bộ mà cả tâm hồn và văn nghiệp đều thấm đẫm chất Nam bộ mà lại nói, viết về cuộc sống nơi quê hương Nam bộ của mình bằng ngôn ngữ miền Bắc thì… nghe chẳng ra sao cả. Thật tiếc.

Đọc tập thơ “Gọi Khan Giọng Tình” của thi sĩ Trần Phù Thế, người Thạnh Lộc tỉnh Sóc Trăng xưa, tôi cảm động khi bắt gặp đoạn thơ này trong đó có từ “nhửng” mà gần năm mươi năm trước tôi đã từng nghe:

Ta ghét mười năm ở xứ này

Mười năm đủng đỉnh lục bình quay

Như con nước nhửng dòng sông Hậu

Thương cả lần đi ứa máu đầy

Ngày trước, vào giữa những năm 1960, trong bước “giang hồ” ở vùng sông chia chín nhánh tôi từng nghe người địa phương nói từ “nhửng” này, cũng trong ngữ cảnh về sông nước như trong câu thơ trên. Tôi hiểu nước nhửng là con nước “đứng”, lờ đờ trên dòng sông không lên không xuống – nhưng không chắc lắm. Triết gia người Anh gốc Áo Ludwig Wittgenstein cho rằng ý nghĩa của một từ là cách dùng của từ đó. Nói như thế cũng quá mơ hồ. Nhưng một người Nam Bộ tha hương mang theo mình hình ảnh con nước nhửng trên dòng sông quê nhà chắc phải làm cho những người xa quê như mình cảm động lắm. Tôi đã cảm động như gặp lại người quen cũ.

Tập thơ của thi sĩ Trần Phù Thế được in ở nước ngoài. Nghĩa là nó không phải qua tay một “biên tập viên” nào, nên những từ như thế còn “sống sót” được, như các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Lê Xuyên, Bình Nguyên Lộc, và của học giả Vương Hồng Sển nữa, còn “truyền lại” ngôn ngữ tinh ròng Nam bộ trong đó đến nay.

Muốn thấy lại tiếng nói Nam bộ rặc ri chắc phải đọc lại Lê Xuyên hay Bình Nguyên Lộc, nếu không phải là đọc lại lối văn đậm chất văn nói dân dã mộc mạc thuở ban đầu phát triển văn học miền Nam của Hồ Biểu Chánh.

Thiếu Khanh .

_____________

[1] Từ “Miền Nam” vừa mang khái niệm một trong ba miền trên đất nước: Miền Bắc, Miền Trung, và Miền Nam, vừa để chỉ miền đất nửa nước từ Vĩ tuyến 17 trở vào trong thời kỳ đất nước bị chia cắt. Trong bài viết này, từ “Miền Nam” được dùng uyển chuyển với nghĩa thứ nhất, hoặc với nghĩa thứ hai, tùy theo ngữ cảnh.

[2] Để thay cho các tên gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thời Pháp thuộc, chánh phủ VNCH đặt ra các từ tương ứng: Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần, còn chánh phủ VNDCCH thì gọi Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, mà Nam Bộ này gồm Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, tương ứng với ba tỉnh miền Đông và ba tỉnh miền Tây của Nam Kỳ Lục Tỉnh xưa. Tuy nhiên với nhiều người Miền Nam từ “Nam Bộ” (hoặc “Nam bộ”) được dùng chỉ khu vực “Miền Tây Nam bộ,” tức vùng Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay. Từ “Nam bộ” ở đây được dùng theo nghĩa đó.

[3] Vào đầu thời Đệ Nhất Cộng Hòa của VNCH, người ta sáng tạo khái niệm “Phần”, Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần, thay cho các khái niệm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ thời Pháp thuộc, trong đó Trung Phần từ Thanh Hóa tới Bình Thuận, Nam Phần từ tỉnh Bình Tuy trở vào.

[4] Ở một chú thích trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim viết: “Có sách chép rằng Đinh Tiên-Hoàng tên là Hoàn 桓 , chứ không phải là Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh là một tước quan của Trần Lãm phong cho Đinh Hoàn. Nhưng xét trong « Khâm-định Việt-sử » và các sách khác thì thấy chép Đinh Bộ Lĩnh chứ không thấy Đinh Hoàn. Vậy nay cứ theo sách Khâm-định mà chép”. (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Tân Việt Sai Gòn, cuối trang 88)

[5] Sách Đại Nam Thực Lục (tiền biên), và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim đều viết tên Nguyễn Hữu Kính, với chữ Kính ( 鏡 ). Sách Đại Nam Thực Lục cũng ghi phẩm tước của ông là Lễ Tài hầu.

[6] Viện Sử học, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1969. Tôi không có bản dịch của cụ Cử nhân Hán học Tu Trai Nguyễn Tạo xuất bản trong miền Nam, nên không biết cụ có kiêng húy như thế không.

[7] Bà là con gái của Phước Quốc Công Hồ Văn Bôi, quê ở Thủ Đức, tỉnh Gia Định, nay là thành phố HCM. Bà vào cung làm vương phi của thái tử Nguyễn Phúc Đảm năm bà mới 15 tuổi. Vua Gia Long băng, thái tử Đảm nối ngôi tức Vua Minh Mạng. Về sau bà là mẹ của vua Thiệu Trị.

[8] Sau khi khai phá xong miền Nam, năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu lập Gia Định Phủ. Vua Gia Long thống nhất xong đất nước, đổi Gia Định Phủ thành Gia Định Trấn, rồi lại đổi thành Gia Định Thành. Năm 1832, Vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định Thành, và chia thành sáu tỉnh, gồm ba tỉnh miền Đông: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, và ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, và Hà Tiên. Năm 1834, cả sáu tỉnh này được gộp lại thành Nam Kỳ, (người Pháp gọi là Basse-Cochinchine), từ đó xuất hiện danh từ “Nam Kỳ Lục Tỉnh”. Ba tỉnh miền Đông lúc đó nay trở thành các tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu, và Thành phố Hồ Chí Minh. Ba tỉnh miền Tây xưa nay phát triển thành các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, và Thành phố Cần Thơ.

[9] Hồ Biểu Chánh, (1884–1958) người làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).

[10] Nhà văn Lê Xuyên (1927 – 2004), tên thật là Lê Bình Tăng, người huyện Phong Điền - Tỉnh Cần Thơ.

[11] Bình Nguyên Lộc, (1914 - 1987), nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử dân tộc, người làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (tức tỉnh Biên Hòa xưa trong ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ), nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Ngoài bút hiệu Bình Nguyên Lộc ông còn ký nhiều bút hiệu khác. Tuy quê quán của ông không nằm trong vùng Nam bộ (theo nghĩa hẹp, tức trong ba tỉnh Miền Tây Nam kỳ), nhưng tác phẩm của ông mang phong cách và ngôn ngữ của người Nam bộ.

[12] Vương Hồng Sển (1902-1996), sinh tại Sóc Trăng, mang ba dòng máu Việt, Hoa, Khmer.

[13] Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Là một nhà văn Nam bộ tài hoa, đau đáu tình người trên từng trang tác phẩm, nhưng Nguyễn Ngọc Tư không dùng ngôn ngữ Nam bộ tinh ròng như các nhà văn kia. Trong các tác phẩm rất cảm động về con người và cuộc sống ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long chị dùng nhiều từ ngữ của ngôn ngữ Bắc bộ, đọc rất lấn cấn, khó chịu.

[14] Sau năm 1975, chánh quyền mới ở thành phố Huế đổi ngay tên cầu Trường Tiền quen thuộc của người miền Nam thành cầu Tràng Tiền.

NIỀM TIN

Trời buồn thả sợi tơ bay

Tơ không cuộn mãi tháng ngày yêu thương

Ôm con tay dắt tới trường

Học đi con gái tình thương loài người

Gian nan con hãy mỉm cười

Dù cho khổ sở gấp mười lần hơn

Sống vui không oán không hờn

Cũng đừng cúi xuống van lơn người đời

Ngẩng đầu đôi mắt sáng ngời

Niềm tin còn giữ cuộc đời còn xanh.

Lê Thị Nguyên

(Trảng Bàng)

Lửa hương

Tháng chạp mưa còn lất phất bay

Mưa không ướt hết đoạn đường dài

Buâng khuâng thương nhớ, trời se gió

Lạnh lạnh buồn buồn với heo may

*

Không biết vì sao mai trụi lá

Đâm chồi nảy lộc đón xuân qua

Không biết gì sao tôi cứ đợi

Một người vời vợi phía trời xa

*

Anh có vì em nhuốm lửa hương

Lều tranh xây ấm tổ uyên ương

Tựa vai anh hát ru em ngủ

Trăng ở trên cao cũng lạc đường

*

Mình đã yêu nhau tự kiếp nào

Như trăng ngàn kiếp vẫn yêu sao

Mộng ước vì đâu thành mộng ảo

Chỉ còn gặp lại lúc chiêm bao.

Lê Thị Nguyên

(Trảng Bàng)

Cầm tinh con Khỉ

Đã trót “cầm tinh Khỉ Đột” rồi.

Gặp ai, quen thói, cứ trêu thôi.

Tát cho mấy cái, nhăn nhăn khóc.

Vuốt tặng đôi câu, khọt khẹt cười !

Cũng tính dấu bài, nghiêm ra mặt,

Nào ngờ lộ tẩy, xạo lòi đuôi !

Mang râu, đội mũ, ra... trò Khỉ.

Cố gắng bao nhiêu cũng thế thôi !

Tâm Nguyện

Bóng ngựa

Khuya chìm

Trăng quạnh

Đèo xa

Lung linh bóng ngựa nhạt nhòa nẻo sương

Cõi xưa lạ dấu quên đường

Trong chiêm bao ngỡ y thường thoảng bay

Đêm dằng dặc

Ngồi khoanh tay

Con trăng côi cút nhập bầy vơi ai

Lời nào mơn trớn bên tai

Nghe ra lau lách mọc dài châu thân

Ngựa về bóng ngã theo trăng

Chìm sau đuôi mắt tình nhân hững hờ,

Thiếu Khanh

Quên

Nhớ lâu e mỏi lòng rồi

Xa lâu e dẫu nửa lời cũng quên

Huống hồ đường đã thay tên…

Đau

Hỏi sông – sông đã cạn dòng

Hỏi em – em đã lấy chồng từ lâu

Hỏi lòng –

Bấm chẳng nghe đau

Thiếu

Một năm tháng thiếu mấy lần

Mà đêm Rằm vẫn tròn trăng rành rành

Thiếu em

anh chẳng tròn anh…

Cấm pháo

Cưới em thì có gì vui

Người dưng cũng thấy ngậm ngùi đây thôi

Cho nên

pháo

đã cấm rồi.

Thơ tình Thiếu Khanh

MỪNG XUÂN BÍNH THÂN

Phất phới nhẹ nhàng ngọn gió đông

Xuân về rạng rỡ cả non sông

Nhặt thưa én dệt vòng mây trắng

Đầy đặn hoa chen ánh nắng hồng

Xướng họa tao nhân thi cũng hứng

Tạc thù tri kỷ rượu thêm nồng

Chào nhau thân ái bao sở thích

Già trẻ mỉm cười thỏa ý lòng.

LANG NGUYÊN

MỘT SÁNG MÙA XUÂN

Giấc Xuân chợt sáng chưa hay

Líu lo bốn phía vang đầy tiếng chim

Ầm ầm mưa gió khi đêm

Ít nhiều hoa rụng đầy thềm tả tơi

Gượng ngồi mặt hẳn chưa tươi

Bước chân khập khễnh nặng tình cố hương

LANG NGUYÊN

ĐÓN XUÂN

Năm nào cũng đón mừng ngày TẾT

Chạy ngược, lo xuôi, mua sắm mệt

Nào rượu, nào trà, tích trữ ngon

Còn hoa, còn trái, gom xách lết

Thịt kho, thịt chả, nấu cho dư

Bánh tét, bánh chưng, làm tới bết

Yến tiệc vui Xuân ba bốn ngày

Thức ăn mãi, tới Rằm chưa hết...

Thanh Châu

TẾT VỀ

Tết về mai nở khắp thôn làng

Phố thị, cơ dinh được chỉnh trang

Vạn sắc ăn mừng nơi thế tục

Trăm hoa đua nở cảnh thiên đàng

Bầu trời, rạng rỡ, ban hồng lộc

Mặt đất huy hoàng, hiện phúc khang

Cung chúc Tân Xuân nhiều thắng lợi

Quanh năm kết quả hái bạc vàng.

Thanh Châu

HOA ĐÀO

MÙA XUÂN

Xuân về trên quê hương Việt Nam

Miền Nam nắng ấm với mai vàng

Xứ Bắc giá rét hồng thắm hoa đào

Cành hoa đào đi vào lịch sử

Ngày mồng năm tháng giêng

Năm Kỷ Dậu một bảy tám chín

Nguyễn Huệ chiến thắng trận Đống Đa

Báo tin vui cho đất phương Nam

Người và ngựa vượt muôn dặm đường trường

Chỉ một cành đào xứ Bắc

Trao về cho nàng công chúa xa quê

Một tình yêu thủy chung của anh hùng áo vải

Từ xa xưa ấy

Một trăm năm, hai trăm năm, hay là bất tận

Mùa Xuân lại về

Hoa đào hoa mai vẫn nở

Khoe sắc thắm điểm tô cho đời

Nhớ vua Quang Trung, công chúa Ngọc Hân

Tình sử đẹp tỏa hương hoa đào mùa Xuân

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

GỞI MỘT NGƯỜI

LÌA BỎ QUÊ HƯƠNG

MAI VĂN TẠO

Buổi chiều xuân lìa quê xa nước

Có bồi hồi nhớ Tết không Em ?

Chiều Tất Niên khi đường phố sáng đèn

Xem chợ Tết bỗng nhớ Em, một người lìa xứ

Cúc tím, mai vàng, dưa hấu đỏ

Nhìn cái gì cũng nhớ dáng hình Em

Dù hôm nay anh muốn kiếm tiền

Không thấy nữa ! Bởi trùng dương vời vợi

*

Đất nước ba mươi năm chìm nổi

Trong khói súng lửa bom

Em vẫn đợi, vẫn mong

Ngày gặp lại

Vui trùng phùng mấy buổi

Em nỡ ra đi !

Chẳng giận hờn nhau, chưa cãi vã câu gì

Em lẳng lặng bỏ nhà, xuống thuyền vượt biển

Bất kể bão giông, không lường nguy hiểm

*

Đã đến rồi, đất nước xa xôi

Xa lạ nắng mưa, lạ bến, lạ người

“Phải làm lại từ đầu tất cả

Ở đây mưa buồn, cảnh ở đây buồn quá…”

Dòng thư Em nổi gió trong Anh

Lặng ngắm tấm hình thành phố nửa đêm

Đồng hồ chợ chỉ 1 giờ 30 phút

Đường không bóng người đi - có phải em

muốn nói - đêm đêm vật vờ - thao thức

Trăn trở thâu canh, thầm gọi quê hương

Gởi gắm nỗi niềm qua tấm hình thành phố

Britan lạnh lẽo, nửa đêm vắng vẻ

Trên vách phòng, Em ghi dòng chữ nhỏ

“Đến đây chỗ rẽ của lòng

Gặp nhau còn biết trên sông bến nào”

Dòng thư, bức ảnh, nỗi đau

Hay niềm hối hận…

*

Ai đưa đẩy Em đi vào cuộc đời lận đận

Mẹ nghèo - nghèo lắm - nhưng rất thương Em

Anh sơ sót - vụng về

- nhưng nào phải hờ hững trái tim

Kén cá, chọn canh, bỏ mẹ, bỏ Anh Em tìm xứ lạ

Nơi ấy - vẫn là mưa - sao Em viết

“Mưa ở đây buồn quá”

Chắc mưa xứ người có khác mưa quê ?

Nhớ buổi mưa giăng trắng mịt bốn bề

Núp tàng vú sữa Em tỉ tê “Mưa nầy lúa trúng”

Tội quá - Hôm nay ở phương trời xa thăm thẳm

Em sợ mưa

Em nhắc buổi sáng sang đò

Chiếc xuồng nhỏ đưa ta về thăm quê ngoại

Em lại viết “Lỡ đò một phút xa nhau mãi”

Một phút nhỡ nhàng mãi mãi cách chia

Lỡ chuyến đò ngang đôi lứa xa lìa

Đâu phải lỗi con đò, ông lái…

Anh ngẫm nghĩ từng chữ trong lá thư tê tái

Lạc bước xứ người đâu có Tết phải không Em ?

Thôi, gửi làm gì tấm hình thành phố nửa đêm

Buồn lắm, Anh đã hiểu cuộc đời lữ thứ

Như cành hoa - dù là hoa rực rỡ - giữa rừng hoang

Không ai hay khi nở - không ai tiếc lúc hoa tàn

Sống gửi quê người - dù cuộc sống giàu sang

Vẫn thân phận sống nhờ, đất khách

Anh xếp lại lá thư, theo dòng người đi hái lộc

Hái cho Anh rồi, Anh vẫn hái phần Em

Đêm giao thừa 1980

MAI THỊ THỦY HOA st.

CÂU CHUYỆN MÙA XUÂN

Năm ấy Canh Tuất xuân(1)

Anh tặng tôi bài thơ

Một bài thơ Đường luật(2)

Buổi tất niên cơ quan(3)

Tôi trao bài thơ họa(4)

*

Ta quen nhau từ đấy

Để hướng về tương lai

Tôi và anh lo học

Chưa tính chuyện hôn nhân

*

Rồi tôi vào Đại học

Anh đang theo Cao học

Ngày giải phóng miền Nam

Là sĩ quan ngụy quyền

Anh đi học cải tạo

Em vẫn là giáo viên

Quanh năm cùng giáo án

Và đàn trẻ thân thương

*

Năm một chín tám mươi

Anh trở về đoàn tụ

Một đám cưới gọn bề

Cũng rước dâu đề huề

Bằng tắc-xi tư nhân

Trong cuộc sống gia đình

Hạnh phúc cũng êm đềm

Vì biết nhường nhịn nhau

*

Nay mùa xuân sắp sang

Ất Mùi nhường Bính Thân

Ôn chuyện cũ ngày xuân

Tôi kể chuyện đời tôi

18.12.2015 (Ất Mùi)

QUAN THÚY MAI

Ghi chú:

(1) Canh Tuất: năm 1970

(2) Bài thơ Anh Trần Đình Hy tặng Quan Thúy Mai:

Canh Tuất xuân về rục rỡ hoa

Đăng khoa nhị khóa đậu gồm hai

Tây Thi tái thế còn thua sắc

Thị Điểm hồi sinh cũng kém tài

Tứ đức ghi lòng không có bỏ

Tam tòng tạc dạ chẳng hề phai

Cầu mong Canh Tuất xuân muôn thuở

Nguyệt Lão se duyên sợi chỉ hồng

Đình Hy

(3) Cơ quan: Nha Tiếp vận thuốc và y cụ thuộc Bộ Y tế của chế độ cũ

(4) Bài thơ họa lại:

Trước sau trong trắng như hoa mai

Cũng ước khoa này đậu cả hai

Đức Trượng phu tựa Mạnh Thường Quân

Tài quân tử dường như ẩn sĩ

Phận nữ trau dồi câu tứ đức

Tô điểm cho chồng chẳng dám phai

Cầu mong Canh Tuất xuân kỷ niệm

Hạnh phúc tràn đầy trong tương lai

Quan Thúy Mai

Tháng 01.1970

MÀU ÁO TÍM

Chiều cuối năm Xuân về trước ngõ

Mưa ngừng rơi em lặng lẽ bước ra

Màu áo tím thoáng góc nhà dịu nắng

Linh thầm yêu màu áo ấy vô cùng

*

Ôi giá được làm cơn mưa bất chợt

Ướt đẫm tà áo mỏng nồng say

Ôi giá được làm mặt trời cháy rực

Nắng mơn man trên vạt áo đêm ngày

09.01.2016

Bs. Doanlinh

Chân ơi !

Một cú trượt chân sao nên nỗi,

Sống lưng, chân cẳng bỗng lôi thôi.

Giận mình rồi lại thương mình quá,

Giờ này bó gối ngắm mây trôi !

***

Chân đau, lòng ta cũng nhói đau,

Ngày nào ta cùng chân bước mau,

Băng rừng, lội suối chân hăm hở,

Biển xanh, chân nghịch sóng bạc đầu.

***

Cát trắng mịn màng hát dưới chân,

Sóng vuốt ve chân như tẩy trần,

Mọi điều với ta bình thường quá,

Giờ thì trân quý quá, Đôi Chân !

***

Ngày nào chân khỏe, bước chân vui,

Phố xá thênh thang, chân ngược xuôi,

Giờ chân nặng trĩu… ta muốn khóc,

Ngàn lần xin lỗi nhé, chân ơi !

Nguyễn Thị Ngọc Vân


Tết thiên niên kỷ

Chẳng sống trọn trăm năm

Ta vẫn có Tết mừng thiên niên kỷ

Xuân Tết này hơn ngàn lần hoan hỷ

Giọt nắng Xuân ngàn năm nữa chắc sẽ khác bây giờ

Liệu sóng đại dương còn mê mải vỗ bờ

Để những trái tim yêu còn dám chờ nhau qua năm tháng rộng

Và thời gian có co ngắn lại không

Mà không gian nghe chừng đang hẹp lại

Mặt đất, đại dương

Liệu còn mênh mông mãi

Nam Cực còn không, băng trải diệu kỳ

Sa mạc Savan, đất lạ Châu Phi

Có còn không những giống loài hoang dã

Những rừng mưa từng có nhiều phép lạ

Còn đủ không dưỡng khí cho mọi loài.

Và cháu con ta trong ngàn năm đang tới

Những đứa nào sẽ thay bà Nữ Oa diệu vợi

vá kín lỗ thủng tầng ôzôn

Những đứa nào sẽ phủ kín đất mầm xanh

Và “nhà kính” hiểm nguy những đứa nào sẽ phá được

Trái đất này ba phần tư là nước

Những đứa nào sẽ trồng cấy giữa đại dương

Những đứa nào co giãn được thời gian

Trải trí tuệ lên ngân hà xa thẳm

Nắng Xuân ba ngàn chắc vẫn còn tươi thắm

Nụ hoa Xuân còn óng ánh sương đêm

Vui sướng thay được ăn Tết ngàn năm

Ta trọn hưởng chút thời gian giãn nở…

VÕ KIM CƯƠNG

Khói pháo hoa

Nàng Xuân về trên dòng kênh

Miên man nước ròng nước nổi

Dãy nhà mái tôn mờ tối

Rách rưới soi bóng dòng đen

*

Nhà cắm trên sông bao năm

Dập dềnh biểu trưng nghèo khổ

Ráo hoảnh nhìn qua cửa sổ

Mắt ai bình thản trong veo

*

Mừng Xuân pháo hoa rộn phố

Mấy phút rực rỡ đất trời

Phút giây nhập nhòa sướng khổ

Nàng Xuân theo khói lả lơi

*

Tạm quên áo cơm tần tảo

Nụ cười theo bóng khói bay

Pháo hoa tung trời hoan lạc

Nàng Xuân vương khói mắt cay

VÕ KIM CƯƠNG

Xuân Thắm Tươi...

Kìa đóa hoa cười, đón gió Xuân,

Nhẹ bay bay, tà áo giai nhân,

Rạng ngời trong nắng, khoe hương sắc,

Lòng vui chan chứa, tiếng chuông ngân.

*

Nàng Xuân Tuyệt Sắc sẽ qua đây,

Gieo rắc ngàn hoa, mạch sống đầy,

Cành biếc, lá xanh, mơn mởn nụ,

Tình Xuân ngây ngất, thoáng men say.

*

Chợ Hoa bầy bán, rộn ràng vui,

Muôn màu sắc thắm, lá xanh tươi,

Nắng Xuân ấm áp, tô ngày mới,

Bừng lên sức sống, Xuân nơi nơi...

*

Đây những cành Mai ,Cúc rực vàng,

Bên màu hồng nhạt, nụ Đào Phai,

Ô kìa, Lan tỏa hương thơm ngát,

Xanh, vàng, đỏ, tím, thắm lòng Ai!

*

Trời trong gió nhẹ, lá đong đưa,

Hoa ngát hương tình, thỏa ước mơ,

Thanh tân thiếu nữ khoe mầu áo,

Em nhỏ vui mừng: “...Tết đến chưa…?”

Phạm Thị Minh-Hưng

Đón chào Xuân

Rộn ràng hớn hở đón chào xuân
Đào Lan Cúc Trúc đẹp vô ngần
Hái lộc Giao thừa thêm tuổi mới
Mong cầu hạnh ngộ mối tình thân
Chào Xuân náo nức ngàn hoa nở
Lạnh giá tan rồi, nắng trước sân
Đón Tết Bình An nhiều Phước Lộc
Muôn nhà Hạnh Phúc, thắm tình Xuân...

Phạm Thị Minh-Hưng

TIN XUÂN

Đã thấy năm tàn qua khóm cúc

Trên nhành gầy guộc mấy mầm mai

Cô gái nhà kia tròn bốn chục

Nghe báo tin Xuân, chợt thở dài…

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

DÁNG XUÂN

Bài thơ cho em

Anh không thể viết

Bởi một lẽ đơn giản

Chỉ mình anh biết

Ôi sắc mai vàng trong dáng xuân

Hoa cỏ nép mình trong mỗi bước chân

Bài thơ cho em - cứ mãi ngập ngừng

Như hoa không nói - chỉ lặng im thôi

08.3.2015

LÊ NGUYÊN

Hoa Tuyết

Gửi T.

Có bông tuyết rơi trong nắng

Dịu dàng tựa cánh nhài thơm

Tuyết vẫn mang hương sắc trắng

Mà say đậm tiệc tâm hồn

*

Ngỡ ngàng nụ nhài hé nở

Như hoa tuyết rơi thật gần

Tuyết chưa thôi bay trong gió

Làm chiếc áo xuân trắng ngần

LÊ NGUYÊN

EM CÓ MANG NẮNG

VÀO NHÀ ANH KHÔNG ?

Em có mang nắng vào nhà anh không ?

Trong chiều xuân họp bạn

Mà căn phòng chợt bừng lên tươi sáng

Mà làn gió nào bỗng dịu dàng hương

Sao tôi còn mãi ngỡ ngàng

Còn đắm chìm trong không gian như thế

Thật ra nào có gì đâu

Em vẫn là em chẳng cần tô điểm sắc màu

Anh chỉ là anh mang tấm tình chân thật

Quà đầu năm ta trao cho nhau ánh mắt

Là ngọn lửa ấm nồng đẹp nhất

Là giây phút bên nhau

và cả khi xa khuất nhớ mong

Là tiếng nói thầm ấp ủ trong lòng

*

Em có mang nắng vào nhà anh không ?

Câu trả lời đã ở trong câu hỏi

Bởi chính em là tia nắng mới

Mang lửa hương cả năm là bốn mùa xuân

LÊ NGUYÊN

Yêu sách

Tôi yêu sách – sách là người bạn tốt

Tôi đi tìm sách tốt tôi yêu

Sách được tôi trìu mến rất nhiều

Tôi với sách là tình yêu vô tận

PHÙNG CHÍ TÂM

HẠNH PHÚC

Hương lúa bay về đất lạ

Trĩu sai những trái dừa tươi

Đón em dòng sông xanh biếc

Bình yên nước phẳng lặng trôi

Lục bình ghi bao kỷ niệm

Say trong hạnh phúc tuyệt vời

Đấy là mùa xuân vĩnh cửu

Thiên địa người cho niềm vui

Tạ ơn đất trời tiên tổ

Xin người phù hộ yên vui

Dù ở hai miền Nam bắc

Nghĩa tình khăng khít một đời

Ngược xuôi trăm sông ngàn suối

Nơi này thắm mãi tình đời

Sài Gòn ngọc hoa diễm lệ

Bình Quới thiên duyên ngọt bùi

Hãy nhớ trở về nơi ấy

Diễm tình hạnh phúc sinh sôi.

PHÙNG CHÍ TÂM

Ngắm Xuân qua

Mỗi mùa lại mỗi hoàng hoa nở

Lại những muôn xanh rộn sắc mê

Người ta nao nức… kìa như tết

Thao thức tình xuân rộn tứ bề

*

Một vuông chiếu trải bên hiên lặng

Mà ngắm vô vàn thanh sắc qua

Một thoáng hương xuân vừa phảng phất

Bay bay sợi nắng óng tơ ngà

*

Chú gà trống dạo vầng mai sáng

Cất tiếng o o gọi biếc say

Hồng xuân mộng trải triền mây thỏa

Tay ấp vào tay ấm ngọt đầy

*

Vẫn mùa đi đến vẫn mùa qua

Lần khân câu hẹn những xuân xa

Trăng kê gối mộng còn in bóng

Hoen nắng hồn xuân những lượt là

ĐÀM LAN

MÙA SAY

Ngạt ngào hương tỏa nồng tê đắm
Cả một miền say đẫm vào mùa
Hoa nghiêng trong gió mà rung cánh
Chú bướm vàng duyên dáng lượn quanh

Xuân trải mộng nắng mềm đưa lối
Trắng tinh tươm bối rối hồn mê
Đắng hương đòng rồi ngọt đến tê
Ai xa rốt vẫn thương về xứ sở

Sắc nâu thanh đẫm màu duyên nợ
Giọt tan lòng vẫn đậm đầu môi
Sớm mai bừng hương khí tinh khôi
Xanh lộng những triền đồi hoa trắng

Bước cao nguyên ngát trời thanh lắng
Giấc yên sinh thỏa mộng hải hồ
Hương mùa đẫm một miền thơ
Nghiêng nghiêng nắng tỏa đôi bờ biếc say

ĐÀM LAN

ĐỢI CHỜ

Anh vẫn chờ xuân mỗi tháng ngày

Dẫu buồn nhoi nhói ánh trăng phai

Dẫu bóng hình em nơm nớp mất

Trong mỗi đêm về mộng còn lay…

*

Anh vẫn mong xuân đội lốt người

Bên anh, để trí vẫn sục sôi:

Xuân làm sao sánh được em đó

Xuân chẳng gieo nơi miệng ánh cười…

*

Anh mãi mong xuân cứ… chết đi

Chỉ cần em đến, đứng bên hè

Là mai nở, là hồng xác pháo

Là mênh mông xanh suối hẹn thề…

*

Em về đi là xuân nở rộ

Em về đi là bỡ ngỡ, bồi hồi

Là anh nhặt lại tim rơi

Tụm vào lồng ngực, xuân ngời ngợi vui!

LAM TRẦN

GIAO LƯU

Quê tôi cũng có giòng sông

Cửu Long chín ngả nước trong về nguồn

Phù sa bồi bổ sông Tiền

Quanh năm nước ngọt nối liền ruộng xanh

Vườn cây bông trái trĩu cành

Đất lành chim đậu duyên lành bạn thân

Tiền Giang thành phố cũng gần

Chim bay cao tốc tinh thần thiết tha

Bạn bè thân hữu gần xa

Tề tựu ngâm hát lời ca nghĩa tình

Lạc Bộ là chỗ kết thành

Thơ ca xướng họa duyên lành vui tươi

Đời này có bao năm hơi

Giữ sao cho khỏe thảnh thơi tuổi già

QUANG BỈNH (Tiền Giang)

CHÚC TẾT BÍNH THÂN 2016

Mùi đi chuẩn bị đón Thân về

Đại Hội Đảng bàn tới cả quê

Khỉ lẹ chưn tay mau nắm bắt

Cơ trời suy thạnh cứ ư ê

Niềm vui phấn đấu, ừ vui đến

Cất bước leo lên, cứ bước lê

Khí thế xuân về, nhơn sự mới

Chúc sang năm mới rạng tên đề

NHỰT THANH (01.10.2015)

NHỚ QUẢNG NGÃI

Ai về Quảng Ngãi quê tôi

Nhớ sông Trà Khúc sóng dồi lăn tăn

Nhìn dòng nước chảy phăng phăng

Đôi bờ xe nước quay lăn bánh tròn

*

Xa xa Cổ Lũy Cô Thôn

Nhớ thương cá bống ngọt dòn có nhau

Quên đi bao nỗi thương đau

Mỹ Khê chiều xuống bên nhau chuyện trò

*

Người đi cách trở sông đò

PATANGAN gió biển hẹn hò tỉ tê(1)

Ra đi quên hẹn ngày về

Nhớ lên Thiên Ấn nằm kề Trà Giang

*

Chiều chiều khi ánh nắng tàn

Chuông chùa chậm đổ ngân vang trên đồi

Bên kia Thiên Bút mồ côi(2)

Một mình hùng vĩ giữa trời Phê Vân

*

Bể dâu thay đổi mấy lần

La Hà Thạch Trận phong trần nắng mưa(3)

Thương nhau thương mấy cho vừa

Nhớ nhau xin nhớ buổi trưa Sa Huỳnh

*

Gửi theo đó một tâm tình

Tình yêu tha thiết là mình với ta

Bền lâu như món Mạch Nha

Ngọt như Đường Phổi thanh như Đường Phèn.

*

Kẹo gương dòn dã thích ăn

Đường Bông trắng dẻo nhớ lên Suối Bùn

Thương nhau tặng miếng trầu nguồn

Nhớ em anh gởi chai lùn mật ong

*

Những chiều mây nước thong dong

Nghiêng nghiêng chiếc nón bên dòng sông Kinh

Ai về nhắn tới Tịnh Bình

Em chằm nón lá tặng tình đôi ta

*

Để cho duyên thắm mặn mà

Cau buồng trầu liễng La Hà Minh Long

Thương nhau lòng những dặn lòng

Nhớ về Quảng Ngãi xuôi dòng Trà Giang

*

Hẹn nhau xây nước dựng làng

Hẹn nhau bồi đắp giang san cơ đồ (1958)

Ai người xuôi ngược nhớ cho (1976)

Về thăm Quảng Ngãi thỏa mơ ước lòng

*

Xem dòng nước chảy đục trong

Công trường nhà máy nhà hàng mọc lên

Quê hương cuộc sống êm đềm

Nhớ rằng Quảng Ngãi có tên trong sử vàng(4)

Thỏa tình mơ ước dọc ngang.

TRẦN ĐIỀM BÁ MẠNH

(1) PATANGAN: Mũi Ba Làng A của cửa Cổ Lũy

(2) Núi Thiên Bút

(3) Trận đá ở La Hà

(4) Đội du kích Patơ

Gửi Con

Gửi con lưu giữ bài thơ

Mai này vắng mẹ bơ vơ giữa đời

Rồi con phải sống đơn côi

Không người che chở, trong ngoài sao đây ?

Buồn đau sẽ mãi bủa vây

Chạnh lòng nghĩ đến bóng mây lững lờ

Thương con thương quá vô bờ

Mẹ lo lắng lắm biết nhờ cậy ai

Đêm khuya thao thức canh dài

Lệ rơi, rơi mãi ướt vai mẹ rồi

Thương con lòng dạ bồi hồi

Để con ở lại đứng ngồi không yên

Cầu xin Phật Tổ linh thiêng

Độ trì phù hộ bình yên trọn đời

Mong con mãi sống tuyệt vời

Tương lai con cháu rạng ngời vẻ vang

VŨ THÙY HƯƠNG

MỪNG XUÂN MỚI

Mừng xuân đất nước, con người

Tương lai rạng rỡ, cuộc đời nở hoa

Chúc câu lạc bộ chúng ta

Mạnh khỏe, hạnh phúc, mọi nhà an vui

LÊ MINH CHỬ

MONG MANH KIẾP NGƯỜI

Tạo hóa đã sinh ra

Con người thật tuyệt vời

Như pha lê sáng ngời

Nhưng mong manh dễ vỡ

LÊ MINH CHỬ

   Xuân thiếu nữ

Riêng tặng Hạnh Nguyên

        Lại mùa xuân nữa đến rồi

Sáng nay hoa lá đâm chồi trước sân

         Báo tin xuân lại đến gần

Mai vàng, cúc thắm đã dần đơm hoa

          Đỏ tươi áo lụa bên nhà

Tháng giêng thiếu nữ lượt là tóc mây

       Sương mai rơi xuống vai đầy

Xinh xinh tuổi mộng mừng ngày xuân sang

        Giấc mơ tìm thấy tình lang

Trăm năm kết mối tơ vàng cùng ai

        Em thề hẹn với sông dài

Gặp người thương ấy xuân này nên đôi

HOÀI LY

CHỜ ANH

MÙA XUÂN

Tặng anh Hoàng Thanh

Mùa xuân về đó anh

Hoa mai nở rợp cành

Đào thủy tiên khoe sắc

Vườn em vẫn tươi xanh

*

Nắng mai đầy rực rỡ

Áo em màu hoa mơ

Sương rơi đầy cỏ biếc

Bướm bay rợp trời thơ

*

Mùa xuân về đó anh

Em hái nụ tầm xuân

Mưa xuân bay lất phất

Chờ ai chốn kinh thành

*

Mong nhau suốt mùa xuân

Anh xa em nghìn trùng

Về đi anh về nhé

Đừng nỡ để tàn xuân

HOÀI LY

MỪNG XUÂN BÍNH THÂN

TÂN xuân rực rỡ sắc hoa đào

NIÊN đáo hương thơ thắm ngọt ngào

NHƯ khúc nhạc vàng ngân rộn rã

Ý trang quốc sử dậy xôn xao

PHÚ cường sông núi ru hoài vọng

QUÝ phái trời mây đọng ước ao

AN thịnh toàn gia tràn phước lộc

KHANG ninh trường thọ đẹp ngàn sao

NGÀN PHƯƠNG

CHIỀU XUÂN NGOẠI Ô

Xuân lại đến anh mơ về chốn cũ

Nhớ người em gái nhỏ tóc buông dài

Lòng xao xuyến thời gian trôi lặng lẽ

Nụ cười tươi như ánh nắng ban mai

*

Bao kỷ niệm bừng lên xua bóng tối

Lời hẹn hò chung thủy bến sông quê

Đời chỉ đẹp khi đường chung một lối

Bầu trời xanh mây trắng kéo nhau về

*

Vùng ngoại ô khang trang từ thuở ấy

Mái trường xưa đầm ấm rộn âm vang

Từng dãy phố vươn cao thêm lộng lẫy

Mộng đoàn viên tô đẹp ánh trăng vàng

*

Đời đổi mới rạng ngời lên cuộc sống

Tương lai hồng nhuộm thắm dáng xuân tươi

Cầu chữ Y chan hòa xanh ước vọng

Chào ngày vui rực rỡ đến muôn người

*

Cả bốn mùa Xuân tuyệt vời hơn hết

Vạn ý thơ tô thắm cảnh thanh bình

Khắp thôn xóm cùng nhau chào đón tết

Lúa trĩu bông ngây ngất thắm men tình

NGÀN PHƯƠNG

Ý XUÂN

Cánh én mừng xuân đọng tiếng tơ

Nắng hồng rực rỡ đẹp mùa thơ

Người xưa - cảnh cũ tràn nhung nhớ

Kỷ niệm êm đềm - chạnh ngẩn ngơ

*

Mai đào khoe sắc thắm muôn nơi

Đàn bướm xôn xao đẹp tuyệt vời

Khúc nhạc vang ngân tràn nhựa sống

Không gian e ấp nhắn bao lời

*

Hò hẹn trăm năm tràn ước vọng

Thủy chung son sắt ngát hương hoa

Đường về nắng ấm - soi đôi bóng

Hạnh phúc an vui cảnh thái hòa

*

Xuân vượt thời gian - Xuân quyến luyến

Hương duyên lắng đọng ngập đôi bờ

Dòng sông gợn sóng chừng xao xuyến

Mai khoác hoàng bào gợi ước mơ

*

Thuyền cũ bến xưa vẫn thiết tha

Vườn lòng ngào ngạt thắm muôn hoa

Tình thơ ngàn kiếp không phai sắc

Bão tố phong sương vẫn mặn mà

NGÀN PHƯƠNG

THƠ XUÂN

VIẾT TRÊN NÚI BÀI THƠ

Câu thơ như mảnh hồn người

Chắt chiu sương nắng một thời cho nhau

T.N.M.

Nhà ở dốc Bồ Hòn

Có ngại gì tiền hết

Ngày dưng và tháng tết

Bữa cơm thường như nhau

Bạn trước cùng bạn sau

Đều ngồi chung một chiếu

Chỉ cần lưng chén rượu

Đủ vui suốt một ngày

Bạn say mình cũng say

Thơ bỗng bừng ý lạ

*

Giọt mưa xuân, xanh quá

Bay ngang trời Hạ Long

Mặc giá rét mùa đông

Còn thoảng trong mây nước

Ngày mai chẳng có được

Nỗi vui ngày hôm nay

*

Đọc câu thơ thật say

Nghe hồn mình thật tỉnh

Biết bao là ấm lạnh

Trong một chén rượu vơi…

*

Đồng lương vẫn thấp thôi

Giá chợ cao chóng mặt

Vợ mình không cáu gắt

Ấy là điều rất hay

Bạn thơ cứ qua đây

Vào giờ nào cũng tốt

*

Có thơ vui năm trước

Giờ đọc lại thêm buồn

Không viết được hay hơn

Uống rượu gì cũng nhạt…

*

Bạn thường thăm đột ngột

Câu thơ chờ giữa trang…

Bồ Hòn 01.1982

TRẦN NHUẬN MINH

A SPRINGTIME POEM

WRITTEN BESIDE

THE “BÀI THƠ” (POEM) MOUNTAIN

The verse is like the soul of a man

At a time when we saved everything for each other

T.N.M.

We lived at the Bồ Hòn slope

And were not afraid of being moneyless

In ordinary days and at the “Tết”

(Lunar New Year) month

Our meal is ordinary as usual

One after the other our friends came

Sitting on a same carpet

Only a half-filled cup of wine was needed

To make us happy throughout the day

You’re drunk and so was I

The poem was suddenly blazing with new and strange ideas

*

So bluish was the springtime raindrop

That flew across the Hạ Long sky

Not caring for the winter cold

That lightly remained in waters and clouds

Tomorrow wouldn’t have

The joy of today

*

Excitingly reciting the verse

One realized that one’s soul was quite awaken

There were so many coldness and warmth

In a half-filled cup of wine…

*

Always low was the salary

While the market price was deadly high

My wife didn’t lose her temper

And that was something quite interesting

Our fellow poets were quite free to come

As at any moment they would be welcome

*

We’ve had happy poems in the last year

Now we feel sad when reading them

As we cannot write better poems

We feel that whatever wine we drink is weak…

*

You often drop by unexpectedly

Amid the page the verse is awaiting…

Bồ Hòn 01-1982

TRẦN NHUẬN MINH - Translated by VŨ ANH TUẤN


Phụ Bản III


Dương Lêh

Bà Phấn đặt giỏ đi chợ xuống sàn nhà. Thức ăn các loại chất đầy lên đến miệng giỏ, rất nặng! Bà không còn đủ sức để xách từ chợ về nhà dù chợ chỉ cách nhà bà chừng một trăm mét. Bà phải dùng càng kéo có gắn bánh xe giống như càng kéo va-li người ta dùng để đi du lịch.

Chợ Tết ngày hăm bẩy đông nghẹt, chật cứng. Số lượng người đi chợ chắc không hơn ngày thường bao nhiêu nhưng vì người bán bày hàng ra khỏi phạm vi cho phép làm cho lối đi trở nên chật chội, có chỗ còn uốn khúc vì gặp phải một sạp kê hàng quá khổ. Anh chàng trật tự viên của ban quản lý chợ hò hét bảo chỗ này “đẩy vô” chỗ kia “đẩy vô”, nhưng khi anh đi qua rồi, chiếc áo xanh kiểu công nhân của anh có in chữ “Ban Quản Lý” khuất sau đám đông, bà con nhẹ nhàng đẩy bục kê hàng ra chỗ cũ. Công việc của ông trật tự viên này như vậy là xong, có lẽ ông về Ban Quản lý làm chuyện khác hay về nhà ngủ, hay nữa lang thang đâu đó cũng không chừng.

Bà Phấn để hũ dưa món, hũ củ kiệu, và hũ dưa hành lên kệ trên bếp. Bà quyết định năm nay mua về ăn chứ không tự làm như Tết năm ngoái. Lý do là cô em út đã báo cho bà biết năm nay sẽ không về vì tình hình an ninh lộn xộn quá. Tụi khủng bố hăm he tùm lum. Cô em út nói sợ quá không dám ngồi máy bay vì sợ nó biến mất như chiếc máy bay nào đó của Mã Lai hồi năm ngoái tới bây giờ vẫn chưa tìm ra. Thà rằng có tai nạn để biết chắc chắn rằng nạn nhân đã chết để thân nhân khỏi phải trông đợi mỏi mòn cho đến bây giờ và không biết còn trông đợi đến bao giờ nữa. Người ta vẫn hy vọng phép mầu biết đâu có thể xảy ra!

Cô em út của bà Phấn có chồng ba con sống ở Mỹ. Trước đây năm nào vợ chồng con cái kéo nhau về ăn Tết với ba chị em của bà ở đây thật vui và náo nhiệt. Mấy đứa nhỏ quậy thấy… oải luôn. Đứa lớn nhứt con trai, mười lăm, trầm lặng, cả ngày ôm laptop, xoa xoa quẹt quẹt. Mẹ nó nói thằng này đang học công nghệ thông tin, chuyên trị về lập trình, hai đứa sau đều là con gái, đứa mười, đứa mười một nhưng chơi giỡn hơn cả con trai. Hết nhảy dây đến chơi đá banh rồi qua bóng rổ. Banh tung vào tường rớt trúng ly, chén, đồ đạc ngã đổ tùm lum. Mẹ chúng thấy được la um sùm:

- Hây, Nina, Lisa, yu tu năm-bờ then hả, xi mi ai hít yu. (Ê, Nina, Lisa, hai đứa bây hư [số mười] hả, coi chừng tao đánh tụi bây).

Có lẽ mẹ chúng nói tiếng Anh theo kiểu này với chúng từ nhỏ, nên chúng hiểu ngay và tỏ ra sợ sệt chạy vô góc phòng khép nép ngồi xuống sàn, im thin thít. Nhưng khi mẹ chúng bỏ ra ngoài sau bếp, chúng nhảy bật lên lấy banh ra đá tiếp. Có buổi tối chúng vô phòng chơi đánh nhau bằng gối, một lát sau gối đứt chỉ rách toang ra, bông gòn bay tứ tung khắp phòng.

Bà Phấn còn hai cô em kế hôm nay phải đi lên chùa ở Gò Vấp để phụ làm mứt bán. Chùa này dành cho nữ tu sĩ. Từ bà sư cô trụ trì cho đến cấp chức nhỏ nhứt cuối cùng đều là nữ. Năm nào chùa cũng làm mứt để bán gây quỹ từ thiện. Đủ loại mứt từ mứt bí, mứt dừa đến mứt me, mứt hạt sen… Các bà sư và ni cô đều tập trung sản xuất, các bà nữ tín đồ có thời gian rảnh rỗi cũng đến tham gia tạo nên một bầu không khí rất vui tươi sinh động.

Ba chị em ở nhà này cũng là những thành viên tích cực trong công việc kinh doanh mang tính từ thiện này. Nhưng hôm nay bà Phấn phải ở nhà để đi chợ và làm một số công việc chuẩn bị cho ba ngày tết. Năm nay chắc là buồn lắm đây. Không có mấy đứa nhỏ phá phách để la rầy. Không có cô em út để bốn chị em quây quần tâm sự. Cô em út cũng có gửi tiền và một số bánh kẹo để tạo niềm vui cho mấy bà chị của mình trong những ngày xuân.

Đối với bà Phấn năm nay Tết cũng như ngày thường. Sau khi đi chùa vào sáng mồng một, mấy chị em cũng sẽ lẩn quẩn trong nhà ăn hột dưa xem hết phim này đến phim khác. Ba chị em đều có cùng sở thích, đó là xem phim Tàu. Bây giờ có thêm phim Đài Loan. Phim nào cũng có nhiều tập. Coi đến khi nào mệt mạnh ai nấy về phòng đánh một giấc thẳng cẳng.

Ở cái tuổi về chiều này, bà Phấn thấy cuộc đời mình sao mà vô duyên quá. Gần bảy chục tuổi rồi vẫn cô đơn chiếc bóng. Rồi đến hai cô em kế, người này cách người kia ba tuổi, cũng không khá gì hơn. Duyên số người nào người nấy đều lận đận lao đao. Nhiều đêm bà nằm suy nghĩ, không lẽ tại ông bà già? Hồi hai ông bà còn sống và lúc những người con gái vừa trưởng thành, hai ông bà già khó “trần ai”. Khi các cô về thưa lại có anh bạn này anh bạn nọ xin đến nhà thăm các cô, ông bà già, và nhứt là ông già đã từ chối phăng phăng. Ông bà còn cấm các cô không được hẹn hò đi chơi riêng với các bạn trai. Trong khi đó bạn gái của các cô thường được cha mẹ cho mở tiệc tùng tưng bừng náo nhiệt vào không quên nói riêng bảo mời cho nhiều bạn trai đến để các ông bà xem mặt. Các cô bạn đó cũng có mời mấy chị em nhà này đến dự nhưng rồi không thấy “hợp nhãn” với một anh bạn trai nào hết. Cơ hội hiếm hoi đến rồi lần lượt trôi qua để lại cho ba chị em cảnh phòng không chiếc bóng.

Hôm qua, bà Phấn phải nhờ một thanh niên chạy xe ba gác cùng xóm đến để quét màng nhện trên trần nhà ở dưới đất cũng như trên lầu, lau cửa lớn và cửa sổ, chùi bóng bộ lư và chân đèn dù là cỡ nhỏ nhưng mấy chị em làm sao biết cách chùi bóng? Giá mà có một người đàn ông trong nhà thì mấy công việc lặt vặt này coi như bỏ túi. Nghĩ đến đây bà Phấn liên tưởng đến ngoài xã hội hiện nay có cái dịch vụ làm chồng thuê. Nghe một bà bạn tập thể dục chung cho biết:

- Nói là làm chồng thuê nhưng không được làm nhiệm vụ một ông chồng đúng nghĩa mà là làm việc nhà, hay nói đúng hơn là mướn người đàn ông về làm “ô-shin”. Người đàn ông được thuê còn phải kiêm nhiệm việc đưa rước con cái của bà chủ nhà đi học ở các nơi như trường học, học thêm ở nhà thầy cô giáo, học nhạc, tập thể thao v.v…

Bà Phấn tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Chà cái này coi bộ mới à nha. Nhưng mà làm như vậy coi kỳ quá. Ai đời đi nói là mướn chồng nhưng lại bắt người ta làm chuyện ô-shin, đầy tớ trong nhà. Sao không nói thẳng mướn đầy tớ đàn ông cho rồi?

- Không phải thuần túy là đầy tớ đâu. Người chồng thuê này có khi phải đưa bà chủ đến chỗ này chỗ nọ để dự tiệc cưới, tân gia, sinh nhật, dạ hội, tiếp tân, hội thảo giới thiệu sản phẩm chức năng… Nhà giàu họ có nhiều tiệc tùng, nhiều chỗ để đi lắm.

- Chồng thuê phải làm nhiều việc như vậy rồi tiền bạc làm sao?

- Phải có hợp đồng chứ. Trong hợp đồng phải ghi rõ người chồng thuê phải làm những gì theo yêu cầu của bên A tức là bên bà chủ nhà, tiền thù lao cho người chồng thuê phải ghi rõ bao nhiêu một giờ, một ngày làm mấy giờ, ban ngày hay ban đêm…

- Rủi như trong thời gian làm chồng thuê, hai người có cảm tình với nhau muốn sống chung với nhau thì sao?

- Dễ ợt, hai người thỏa thuận riêng rồi ra tòa làm hợp đồng chồng thiệt suốt đời, hà hà!

- Có thuê chồng rồi, vậy chứ có ai thuê vợ không?

- Bộ bà muốn làm vợ thuê hả?

- Nói bậy. Hỏi cho biết thôi.

- Thật tình, vợ thuê thì chưa nghe ai nói chứ “bạn gái thuê” thì có rồi. Nghe đâu ở Saigon cũng có vài công ty làm dịch vụ này.

- Ai đi thuê bạn gái để làm gì?

- Thiếu gì già trẻ bé lớn ai cũng có thể thuê bạn gái được.

- Rủi họ làm bộ thuê rồi dẫn người con gái đó đi mất thì làm sao?

Bà kia cười lớn:

- Trời ơi, không làm được chuyện đó đâu. Thuê bạn gái thường là một hợp đồng ngắn hạn cho một buổi đi chơi của người đàn ông được xác định trong một thời lượng cố định nào đó. Ví dụ một ông đại gia cần một cô bạn gái đi dự một buổi tiếp tân tại khách sạn “de luxe” nào đó thì ông ta chỉ việc đến khách sạn đó đúng giờ hẹn gặp ngay cô bạn gái rồi đi vào dự buổi tiếp tân.

- Vô trong kia rủi như đại gia đó sàm sỡ với cô gái thì sao?

- Ông ta không dám đâu, vì ngay sát cửa ra vào có một cận vệ riêng của cô gái đó do công ty quản lý cô gái đó bố trí sẵn sàng ứng phó khi cô gái báo động. Bởi vậy tiền thuê cô bạn gái này rất đắt vì còn phải trả lương cho người cận vệ.

Trở lại chuyện thuê chồng ở trên đây, bà Phấn có cái cảm nhận hiện nay ngoài xã hội có rất nhiều nhà lâm vào hoàn cảnh thiếu vắng đàn ông. Ông Trời sắp xếp có vẻ không được công bằng. Như nhà bà Tám Biếu ở xóm trên. Bà cao tuổi lắm rồi, nghe đâu gần chín chục. Ông Tám đã về trời cách đây gần hai chục năm sau khi gả chồng cho đứa con gái có cái tên gọi ở nhà là Út Thiệt. Cái tên này có nghĩa là sau khi sanh cô gái này bà Tám sẽ “chốt” lại, chắc chắn không sanh nữa. Có người cắc cớ hỏi:

- Ủa! ngưng “thiệt” ha?

- Chứ ông nghĩ coi nhà có sơ sơ tám đứa con, hết bảy đứa là con gái. Đàn ông làm sao có đủ để sau này tui gả chồng cho tụi nó.

Vậy mà khi các cô gái lớn lên, trưởng thành, lần lượt cách nhau một vài năm, từng cô đường hoàng bước lên xe hoa, trong khi ông bà Tám hết lo tới mừng cho đến khi cô gái Út bước lên xe hoa rồi chuyển sang phi cơ bay tuốt về Mỹ. Sau đó, ông Tám thoải mái khăn gói lên thiên đường.

Nhà người ta như vậy nhưng đối với nhà bà Phấn chữ “duyên” xuất hiện hiếm hoi quá! Mãi đến khi cô em út trưởng thành mới xuất hiện và cũng giống như nhà bà Tám, cô em út cũng lên được xe hoa rồi lên Air Canada bay về đất nước băng tuyết của Bắc Mỹ.

Thật ra hồi còn là sinh viên sư phạm, bà Phấn lúc bấy giờ cũng là một cô sinh viên xinh xắn trong chiếc áo dài trắng, ngày hai buổi chen chúc với đám nam sinh viên trên giảng đường. Sự thân mật qua những lần sinh hoạt dã ngoại, đi lạc quyên từ thiện… cũng chỉ dừng lại ở giới hạn bạn bè cho đến khi ra trường mỗi người một ngả, về những địa phương gắn chặt cuộc đời vào bục giảng.

Đến bây giờ bà Phấn kiểm tra lại thấy trong ngành sư phạm có nhiều “ca” giống bà quá. Chữ “duyên” không chịu ghé vào cuộc đời những người phụ nữ cô độc này. Hoàn toàn không ghé chứ không phải có lần lên xe hoa rồi sau đó tan vỡ. “Ca” sau này được bà Phấn xếp vào một diện khác và đây cũng là một nỗi ám ảnh để cho bà vin vào đó để an ủi cho hoàn cảnh cô đơn của mình. Đúng! Bà Phấn cho rằng thà “ở vậy” còn hơn là phải chịu đựng đau khổ sống bên cạnh một ông chồng, mà bà phát hiện những tính xấu sau ngày cưới, cho đến cuối đời nếu không muốn sớm chia tay vì sợ con cái buồn.

Không chỉ những người phụ nữ ở trong ngành sư phạm mới có nhiều người chịu cảnh “ở vậy” mà ở trong ngành y tế cũng rứa. Bà chợt nghĩ đến cô em kế của mình. Cô là một cán sự điều dưỡng, làm việc ở bệnh viện tới ngày nghỉ hưu không thấy có ông bác sĩ, hay yếu hơn là một đồng nghiệp ngang cơ rước về dinh. Cô này cũng thường xuyên tự an ủi:

- Kệ! Không có “duyên” thì không có “nợ”. Cứ thoải mái sống cuộc đời tự do. Không bị ràng buộc với ai. Biết đâu đang sướng hơn nhiều người khác.

Cô Ba nghĩ cũng đúng thôi. Hiện nay ở các nước như Hàn Quốc, Nhật rồi Pháp, Mỹ, phụ nữ sống độc thân rất nhiều. Rất nhiều phụ nữ lấy chồng nhưng cả hai vợ chồng đều không muốn có con. Họ bình tĩnh sống chung thoải mái, nếu có lục đục thì chia tay. Đơn giản! Tình hình này đã đem đến rối rắm ở Nhật. Số lượng nhi đồng ra đời để… “tiếp bước cha, anh, mẹ, chị” sụt giảm nhiều quá trong khi ông già bà cả bình tĩnh sống thọ vì an sinh xã hội của Nhật tốt quá. Các ông bà già không chịu… “chết cho rồi”, nhà nước Nhật đành phải khuyến khích ai còn gân cốt khỏe mạnh cứ tiếp tục làm việc. Có bà 92 tuổi rồi nhưng tay chân vẫn còn nhanh nhẹn được mời làm cố vấn kinh doanh cho một công ty.

Bà Phấn nghĩ nếu ở Việt Nam làm được như vậy để mấy chị em bà đi làm cho vui. Rồi bà nghĩ đến cô Tư, cô em kế tiếp. Cô này vừa nghỉ hưu. Cô này ngày xưa tốt nghiệp một trường kinh doanh thương mại, ra trường làm việc tại một công ty nước ngoài. Cô lanh lợi hoạt bát, lương cao, bổng tốt cho nên cô bao sân cho vấn đề kinh tế gia đình gồm cả ba chị em một cách thoải mái. Nhưng rồi cô vẫn cứ… “phất phơ” chưa có dịp nâng khăn sửa túi cho một anh chàng nào cả. Ngày xưa lúc mới đi làm việc được vài năm cô Tư có quen một anh bạn từ một công ty khác có quan hệ kinh doanh với công ty cô đang làm việc. Anh chàng có mời cô đi ăn vài lần, lúc đầu nể nang vì mối quan hệ giữa hai công ty, dần dần tình cảm của cô đối với anh chàng này ngày càng phai lạt cho đến lần sau cùng cô từ chối không đi ăn với anh ấy. Về nhà cô kể cho bà Phấn nghe, bà chị cả ngạc nhiên hỏi:

- Sao vậy? Mầy với nó có gì trục trặc?

- Không có gì.

- Sao mầy “kết thúc” với nó?

- Dân xứ “nẫu” không chơi!

- Người ta là người Huế mà mầy nói xứ nẫu cái gì?

- Huế cũng same same bà ơi!

- Mầy “cục bộ địa phương” vô lý quá!

- Kệ tui, không thích là không thích!

Bà Phấn ráng đeo bám:

- Để rồi coi. Ghét của nào trời trao của ấy, mầy ơi!

Nhưng không biết ông trời có thấy được dưới trần gian đầy rắc rối này không, mà thời gian đã trôi mãi cho đến nay, không thấy ông Trời trao cho cô Tư “của” nào hết.

Dương Lêh


Ý NGHĨA TẾT NGUYÊN ĐÁN

Tết Nguyên Đán là một lễ lớn nhất trong năm cái Tết chính của Việt Nam là: Tết Thanh Minh (3.3), Đoan Ngọ (5.5), Trung Nguyên (15.7), Trung Thu (15.8), và Nguyên Đán (1.1 âm lịch).

Tết Nguyên Đán từ mồng 1 đến mồng 3 tháng 1 âm lịch, được mọi người Việt Nam coi là những ngày thiêng liêng nhất đối với con người và vạn vật.

Trong những ngày này con người cảm thông với tổ tiên, với các người trong gia đình và với trời đất. Theo quan niệm này dân chúng đã quy định công việc cho mỗi ngày như sau: từ 12 giờ đêm ngày 30 tháng Chạp đến sáng ngày mồng một là thời gian con người cảm thông với đất trời.

Trong thời gian này, mọi nhà đều lễ Giao Thừa, là lễ tiễn ông thần cai quản năm cũ và đón ông thần cai quản năm mới. Hai vị thần này bàn giao công việc đúng vào nửa đêm ngày 30 rạng ngày mồng một. Sau đó mọi người rủ nhau đi lễ đình chùa hoặc nhà thờ.

Cũng trong ngày mồng một để cảm thông với tổ tiên và các người trong gia đình, các con cháu, bà con trong họ phải đến nhà con trai trưởng họ để lễ tổ tiên và chúc Tết các bậc bề trên rồi chúc Tết lẫn nhau.

Ngày mồng hai Tết là ngày cảm thông với người ngoài xã hội. Trong ngày này các bạn bè đi chúc tết nhau, các nhân viên cấp dưới đi chúc các cấp trên, học trò chúc tết thầy v.v…

Ngày mồng ba Tết dành riêng để mọi người có thể đi thăm bà con họ hàng hoặc bạn bè ở xa.

Ngoài ra chiều ngày mồng ba Tết nhiều gia đình còn làm cỗ cúng tổ tiên để tiễn vong hồn ông bà về cõi âm, chấm dứt ba ngày Tết.

Tết là ngày trọng đại nhất của người Việt Nam và là một lễ nghi mang nhiều tính chất dân tộc nhất.

Tết Nguyên Đán thể hiện quan niệm triết lý đông phương

Dân tộc Việt Nam tin theo Khổng Giáo từ hàng ngàn năm nay. Theo sự tin tưởng này thì Trời, Đất và Người chỉ là một thể. Trời sinh ra người và vạn vật, Đất nuôi sống người và vạn vật. Khi con người và vạn vật chết đi, thân xác lại trở về với Trời Đất. Như vậy con người tin Trời là cha, Đất là mẹ và có bổn phận phải kính trọng Trời Đất.

Sự kính trọng này biểu hiện vào ngày Tết vì ngày Tết được chọn vào ngày bắt đầu mùa Xuân của âm lịch, là mùa cây cối đâm chồi nẩy lộc hoặc trổ bông và thời tiết cũng trở nên tươi mát. Ngoài ra ngày đầu mùa xuân còn là ngày bàn giao công việc giữa các vị thần của trời có nhiệm vụ xuống cõi trần cai quản nhân gian.

Theo tục lệ Việt Nam, khi muốn tỏ lòng kính trọng một người nào thì phải ăn mặc chỉnh tề, nói năng lễ phép và có thứ vật gì ngon nhất và quý nhất đem dâng cho người đó, vì vậy trong ngày Tết mọi người mới nghỉ việc và làm cỗ cúng Trời Đất.

Tết Nguyên Đán là ngày báo ơn

Theo quan niệm của Việt Nam, đại gia đình là đơn vị chính và gồm ba thế hệ. Thế hệ đã qua gồm có các người đã chết. Thế hệ đương thời gồm có ông bà cha mẹ, chú bác cô dì, và thế hệ tương lai gồm con cái và cháu chắt.

Ngày Tết là ngày sum họp của đại gia đình để tỏ lòng biết ơn đối với các người chết. Người trong gia đình có nhiệm vụ đi sửa sang phần mộ các người chết, quét dọn bàn thờ, làm cỗ cúng các người chết. Nhiều người mê tín lại cúng các nhà cửa, trâu bò, vợ lẽ nàng hầu làm bằng giấy cho các người đã chết.

Về phía các người sống thì người dưới báo ơn người trên bằng cách đi thăm viếng, chúc Tết, hoặc mua các của ngon vật lạ biếu các người bề trên như ông bà cha mẹ, chú bác v.v…

Việc tỏ lòng báo ơn quan trọng như vậy nên nhiều người, dù phải đi làm ở xa, cũng cố tìm cách trở về ăn Tết với đại gia đình tại quê quán hoặc nơi có người trưởng tộc cư ngụ.

Xã hội Việt Nam là một xã hội nông nghiệp. Dân chúng sống bằng nghề nông và chăn nuôi, nên phải làm việc quanh năm, ít có thì giờ rảnh rang để nghỉ ngơi.

Chỉ có thì giờ vào khoảng tháng giêng các công việc đồng áng mới nhẹ bớt vì lúa đã cấy xong, chỉ cần phải làm cỏ và chờ cho lúa chín vào tháng tư. Ngoài ra thời tiết trong thời gian này cũng không thuận lợi cho việc trồng trọt.

Vì vậy nhà nông có ba tháng tương đối ít công việc. Trong thời gian nầy dân chúng thường tổ chức các buổi hội hè đình đám, rước lách để vui chơi thỏa chí cho bõ những ngày làm việc vất vả trong năm. Ngày Tết Nguyên Đán mở đầu cho các ngày hội này, nên ca dao Việt Nam mới có câu:

Tháng giêng là tháng ăn chơi

Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.

Về phần trai gái, có những luật lệ cấm đoán nghiêm nhặt con trai con gái đến tuổi trưởng thành không được tự do giao du với nhau dù chỉ là một cuộc nói chuyện rất thường.

Các bà mẹ các cô gái sợ con gái hư hỏng, gây tiếng xấu cho gia đình nên giao rất nhiều công việc cho các cô gái lớn, để các cô không có thì giờ nghĩ đến các chàng trai trong làng.

Sự cấm đoán đã gây ra nhiều sự thiệt thòi cho trai gái tìm hiểu lẫn nhau, nên Tết là ngày vui vẻ nhất của trai gái, và dịp này họ được gia đình cho phép gặp nhau và sự gặp gỡ đôi khi rất cởi mở và đầy hứa hẹn không bị dư luận dị nghị.

Dân tộc Việt Nam rất tôn trọng sự hòa thuận trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Các nhà luân lý học cũng như các bực già cả luôn luôn khuyên mọi người nên sống hòa thuận và nhường nhịn nhau.

Ca dao Việt Nam có câu: “Dĩ hòa vi quý” nghĩa là sự hòa thuận là quý nhất hoặc “Chữ nhẫn là vàng” ngụ ý sự nhường nhịn nhau quý như vàng.

Sự hòa thuận không những thể hiện trong gia đình mà còn thể hiện trong cuộc sống xã hội qua câu ca dao: “Bán anh em xa mua láng giềng gần” hoặc “Tứ hải giai huynh đệ” nghĩa là bốn bể đều là anh em v.v…

Ngày Tết Nguyên Đán là ngày thể hiện và nhắc lại đức tính hòa thuận đối với mọi người bằng cách không ai nói to, nói tục, chọc phá người khác, không chửi rủa người khác, trong bất kỳ trường hợp nào.

Mọi người đều tin rằng nếu mình gặp được mọi sự tốt lành trong ngày Tết thì suốt năm sẽ gặp được nhiều may mắn, nên mọi người đã cố gắng giữ cho ba ngày Tết được thật êm đẹp, đã tạo được sự bình tĩnh trong tâm hồn, để cố tránh các sự việc mất hòa khí sau này và vì vậy ca dao mới có câu “Vui như Tết”.

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

Mai

Mới đó mà đã gần hết năm. Yến chợt nhớ ra điều ấy khi thấy đứa con gái lững thững định bước ra đường:

- Đi vào đi bé Nhi, kẻo xe đụng bây giờ…

Con bé phụng phịu xà vào lòng chị. Mùi tóc thơm thơm của nó làm chị tươi tỉnh lên. Nói thế vì trong quán bán bánh cuốn của chị có thằng cha gớm ghiếc nào đó ngồi đồng mãi mà chưa chịu về. Chậc! Đây có phải là quán nhậu hay cà phê gì đâu mà hắn ngồi rít rịt suốt cả từ nửa tiếng qua. Đã vậy, nhìn cái mặt hắn mà phát khiếp! Đôi lông mày rậm rì phủ trên hai con mắt lom lom khiến chị tảng hồn mà không dám nhìn vào. Cái cằm bạnh như xe xúc đất khiến dung nhan của hắn càng thêm bụi bặm. Dù sao, thì chồng chị lúc sinh thời vẫn còn đẹp hơn nhiều. Chị chợt thấy buồn cười vì khi khổng khi không lại so sánh chồng mình với thằng cha chết dẫm ngoài đường…

Ầm…

Tiếng va chạm, rồi tiếng xe đổ xuống đường khiến chị tỉnh hồn! Thì ra, thằng nhóc nào đó vừa tông chiếc xe đạp của nó vào chiếc xe máy của một người khách hàng khác của chị, khiến chiếc xe nhào khỏi lề mà nằm sóng soài dưới đường. Một chiếc đèn signal vỡ nát, cùng chiếc bửng rằn ri những vết nứt làm chủ nó, một thanh niên, lao ra:

- Thằng kia, sao mày tông vào xe tao?

Cậu bé cuống cuồng đứng dậy, khuôn mặt thanh tú của cậu bỗng tái xanh vì tiếng quát long óc ấy. Cậu lẩy bẩy run không chỉ vì sợ sệt, mà còn vì đau đớn sau cú va chạm ấy. Cánh tay cậu trầy một mảng dài và ri rỉ máu. Chân cậu như muốn khuỵu xuống khi cố bám vào cái bàn để nhón lên.

Chị vùng đứng lên đón lấy tay cậu, rồi dúi cậu vào chiếc ghế cạnh đấy. Mặc cho lời gầm gừ của người thanh niên, chị nhẹ nhàng lau sạch vết thương cho nó bằng miếng gòn tẩm nước muối mà chị luôn sẵn có trong tủ. Lúc này, người thanh niên mới véo tai thằng bé:

- Nhà mày ở đâu…

Cậu bé sợ sệt cụp mắt lại, rồi cậu đưa cặp mắt lo âu ấy về phía Yến. Chị khá bối rối vì chưa nghĩ được gì…

- Thôi, anh tha cho nó đi, vì nó bé quá mà!

- Tha cái gì mà tha…Rồi xe hư, ai đền?

Một chút ngẫm nghĩ cùng lúc với lời thốt ra trên môi chị:

- Vậy, nếu phải đền thì… bao nhiêu?

Chàng ngẩn người ra:

- Mà ai trả chứ?

- Cùng lắm thì tôi trả chứ làm sao bây giờ…

Gã đàn ông rậm rịt bỗng lên tiếng:

- Thôi, để tôi…

Rồi gã bước ra ngoài, dựng cả hai chiếc xe lên. Gã ráp lại sợi sên đã tuột ra ở chiếc xe đạp. Đoạn vỗ vỗ vào yên chiếc xe máy trông đã cũ:

- Này nhé! Cái chụp đèn “cho là” 50 nghìn đi! Cái bửng này chừng 200 là hết cỡ chứ gì! Vậy tôi gửi bạn 250 ngàn là… êm phải không?

- Ơ!...

Chàng “Ơ” ấy chẳng ơ sao được, khi có người sẵn sàng thế mạng cho thằng bé. Chợt chàng nhìn vào khuôn mặt người đàn ông ấy rồi tá hỏa vì diện mạo hầm hố của gã. Chàng chỉ muốn rời khỏi chỗ này chỉ vì sợ con mắt kia biết đâu sẽ trợn ngược lên!

- Dạ, dạ được rồi anh…

- Được thì tiền đây nè!

Gã mau chóng đưa tiền cho chàng. Còn chàng thì lẩy bẩy vì… sợ.

- Uống cà phê nhé? Gã trầm giọng hỏi.

- Dạ… thôi!

Xe của chàng làm như cũng run như chủ nó, khiến chàng phải “đề” đến lần thứ ba, chiếc xe mới loạng choạng lao đi.

Gã trở lại bàn:

- Cô cho tôi một đĩa nữa nhé… Và cháu lại đây, trông bác dữ như vậy, nhưng chỉ… ăn cướp thôi!

Thật là câu khôi hài hảo hạng, khiến chị và cậu bé cứ nhìn chòng chọc vào đôi mắt cú vọ nọ mà không còn chút e dè.

Gã bắt thằng bé phải ăn hết đĩa bánh cuốn, rồi bắt chị phải tính tiền kể cả đã bánh cuốn của chàng kia, chẳng hiểu vì sợ hay vì quên mà… chạy mất.

Cậu bé, sau khi bị gã bắt hoa tay hoa chân đến chục lần để “kiểm tra sức khỏe” mới được lệnh phải ra về:

- Cẩn thận nhé bé con! Và nhớ về đến nhà nghe chưa!

Còn gã, tự nhiên hôm nay thấy thú vị ghê gớm, vì lần đầu tiên trong đời, gã đã móc ví của mình mà làm chuyện ruồi bu. Vì vậy, gã chẳng ngại ngùng mà vào nhà trong theo lời năn nỉ của Yến, để rửa cái tay còn dính nhớt đen sì từ sợi sên xe đạp. Đã vậy, gã còn hết sức bất ngờ với chính mình khi một lúc sau, gã vòng lại, mua cho con bé Nhi bịch kẹo mà gã cũng chẳng biết nó có thích ăn hay không nữa… thậm chí, khi quay xe đi thẳng, gã còn lầu bầu:

- Thật là vớ vẩn…

Sau hôm ăn sáng ấy, gã bỗng thành khách hàng thường xuyên của chị cũng như rất nhiều người khác. Chỉ có điều, gã bỗng mày râu nhẵn nhụi! Quán hàng đông khách khiến chị cũng chẳng niềm nở với hắn hơn so với nụ cười chị có khi gã cho con chị bịch kẹo. Mà hắn cũng chỉ đến rồi đi như bao người khác. Thỉnh thoảng, khi quán lưa thưa, đôi bên nói chuyện trời mây trăng gió. Nói đến gió, thì đúng là có cơn gió nhẹ thổi qua hay sao mà từ trên lan can nhà chị, mấy cánh hoa lả tả rơi xuống, cái thì bám vào tóc chị, cái thì rơi trên mặt bàn.

- Nhà cô trồng mai à!

- Nào có trồng đâu anh! Chỉ là ông xã em mua về mấy năm rồi. Mà vì tiếc, nên để trên ban công chờ tết. Nhưng năm nào cũng như năm nào, cứ gần tết là nó ra hoa sạch, đến mồng một chỉ còn lại loe ngoe… Ối! Hơi đâu mà để ý tới nó…

- Vậy, ảnh đâu mà tôi không thấy…

- Chậc! Ảnh mất mấy năm rồi…

- Tôi… vô duyên quá… Mà sao ảnh lại…

- Cũng chẳng có gì đáng nói anh à…

Không khí bỗng trầm hẳn lại, khiến chị tự nhiên thở ra khỏi lòng:

- Chẳng may là ảnh chết vì chích… quá liều…

Rồi có giọt lệ ứa ra nơi khóe mắt chị. Gã im thin thít, vì gã biết, chỉ một câu nói nữa thôi, là chị sẽ òa khóc như đứa trẻ con.

Rồi chính chị, lại nối lại mạch nước ngầm:

- Còn anh thì làm… cái gì?

Câu trả lời khiến chị phải lắng tai lắm mới nghe thấy cái giọng rất chậm và rất chùng:

- Tôi… đòi nợ thuê…

Im lặng! Lại im lặng…

Rồi gã như đẩy được cục nghẹn vào không gian mơ hồ:

- Nhưng tôi bỏ nghề rồi!

Đôi mắt tròn vo của chị làm hắn thêm can đảm:

- Tôi bỏ cái nghề gian ác ấy, ngay sau hôm thằng bé tông đổ xe của người kia ở đây…

Thật ngạc nhiên vì cái tiết lộ khó tin như thế. Nhưng gã như chiếc xe đã mất thắng, tuồn tuột:

- Vì tôi thấy cô, tuy là phụ nữ mà dám đứng ra lo chuyện ngoài đường như vậy….

Gã bỗng tịt ngòi, khi chị nhìn thẳng vào đôi mắt rậm rì ấy. Rồi gã lúng túng đứng lên, rời khỏi quán mà quên cả trả tiền…

Ông Táo vừa về trời xong, thì gã lại lù lù xuất hiện khi trời đã tối. Chị mở cửa mà không khỏi ngạc nhiên:

Gã lúng túng không kém chị, khi giải thích nguyên nhân:

- Ơ… Thấy cây mai đẹp đẹp thì thích… Rồi đem lại đây biếu cô chủ quán ấy mà…

Lúc này cô mới phát giác ra, ở yên xe gã là một chậu mai với đầy những nụ là nụ. Gã hý hoáy cởi mấy sợi dây buộc ra, còn chị thì lúng ta lúng túng, để rồi hai con cù lần ấy cùng khệ nệ khiêng vào nhà. Chẳng biết câu chuyện hôm ấy ra sao, nhưng mở đầu là:

- Anh ơi! Vậy anh tên gì nhỉ?

- À, tôi tên Ba, Ba “trợn”

Chị phì cười vì người sao tên thế:

- Em tên Yến, anh!

- Yến “anh” à? Tên đẹp quá…

Lam Trần

MÙA XUÂN: MÙA TRĂM HOA ĐUA NỞ, NÓI VỀ HOA…

TÌNH Ý VÀ NGÔN NGỮ

CỦA MỖI THỨ HOA

VÀ TỪNG SẮC HOA

Bài của NGÔ YÊN

Hoa Huệ tâm sự gì?

Hoa Lài thỏ thẻ điều chi?

Và hoa Mai, hoa Mẫu Đơn?

Mùa Xuân là mùa trăm hoa đua nở.

Trong những ngày đầu xuân, nhiều nhà chưng hoa, nhiều người chơi hoa và nhiều hoa cũng được dùng làm một món quà trang nhã, vừa chứa đựng ý nghĩa để ai nấy đem tặng nhau.

Nhân dịp này tưởng chúng ta cũng nên tìm hiểu về một số những thứ hoa thường thấy qua 2 điểm:

1. Ngôn ngữ của từng thứ Hoa

2. Tình ý của Hoa hiểu theo màu sắc

Đây là 10 thứ Hoa tượng trưng cho 10 lời tâm sự

Phàm tặng một bó hoa, trao một cành hoa cho ai, nếu người tặng chỉ biết rằng mình “có tặng hoa là đủ rồi”, thì… “xoàng’ quá, e rằng uổng phí đi một phần quan trọng mà hoa đã sẵn ngôn ngữ của hoa.

Nói rõ hơn, khi tặng hoa, ta nên chọn lựa thứ hoa nào coi như thay cho ta, để nói với người được tặng hoa một đôi lời tâm sự của ta, như vậy, sự sử dụng hoa mới thú vị.

Thì đây, 10 thứ hoa sau đây, có thể “nói” những gì?

1. HOA MAI: Tình của tôi chưa được đáp ứng cụ thể, tôi đang mong đợi sự cảm thông và đáp ứng ấy…

2. HOA HUỆ: Tinh khiết, trong sạch. Tính tôi không hề vẩn đục do bất cứ ảnh hưởng nào.

3. HOA THƯỢC DƯỢC: Tỏ lòng biết ơn.

a. Nếu thược dược màu trắng thì: Xin đa tạ sự ưu ái của ông (hoặc bà, cô, anh, chị…)

b. Thược dược hường: Tôi rất sung sướng được hiểu chắc rằng em (hoặc anh) đã yêu

c. Thược dược đỏ: Tôi vô vàn hạnh phúc vì tình yêu của anh (hay em)…

4. HOA MẪU ĐƠN: Bền chí, một lòng.

a. Mẫu đơn đỏ: Tôi tự tin và cũng trọn tin ở tình đôi ta.

b. Mẫu đơn xanh: Xin đoan chắc một niềm chung thủy (với ông, bà, anh, em…)

c. Mẫu đơn vàng: Thượng Đế sẽ ban thưởng xứng đáng cho lòng son sắt của tôi.

5. HOA MỒNG GÀ: Bồng bột nhứt thời: vội vàng, hiện sinh… Hãy yêu nhau, hay trao hiến tất cả cho nhau đi, kẻo lỡ dịp rồi hối tiếc về sau!

6. HOA LÀI: Xúc động, thiết tha.

a. Lài trắng: Hãy yêu tôi!

b. Lài vàng: Em muốn hiến dâng trọn vẹn cho anh.

7. HOA TRÀ (Camélia): Kiêu căng, hãnh diện

a. Trà đỏ: Em xinh tươi diễm lệ nhứt

b. Trà hường: Tôi lấy làm hãnh diện vô cùng về mối tình đôi ta

c. Trà trắng: Sao nỡ đành phụ tình tôi

8. HOA SƠN TRÀ (Aubépine): Biết dự liệu, thận trọng và lo xa

a. Sơn trà hường: Đừng để lộ liễu, mà nên giữ kín đáo mới tình

b. Sơn trà trắng: Cần thận trọng, nên có ý tứ.

9. HOA LAI DƠN (Glaieul): Hẹn hò gặp gỡ. Nhìn vào số hoa ở những cành được đặt chính giữa bó hoa để biết giờ hò hẹn.

10. HOA TRINH NỮ (Mimosa): Sự thâm trầm, kín đáo. Chúng ta yêu nhau, chỉ riêng đôi ta biết mà thôi, chớ chẳng ai hay cả.

Màu sắc của hoa mang tình ý gì?

Trước hết, hãy chia thành hai loại tổng quát:

a. Các thứ hoa “màu rực rỡ”, “chói lọi” và “hương thơm sực nức”: bày tỏ tình ý nồng nhiệt, bồng bột, mãnh liệt…

b. Các thứ hoa “màu nhẹ nhàng”, “bình dị” và “hương thơm dịu dàng”: biểu lộ tình ý chân thành, tương kính, thắm thiết…

Và về từng thứ màu sắc thì:

1. XANH DA TRỜI: Tình thương yêu

a. XANH LỢT: Kín đáo, thắm thiết

b. XANH CHÓI: Yêu tột độ và bộc lộ

c. XANH SẬM: Bi quan, đau khổ, chán nản

2. MÀU NÂU: Phân vân, hoài nghi

a. NÂU LỢT: Mơ hồ, không dứt khoát

b. NÂU CHÓI: Ráo riết, bồng bột

c. NÂU SẬM: Bi ai, xót xa

3. XANH LÁ CÂY: Hy vọng, tin yêu

a. XANH LÁ CÂY LỢT: Mới nhen nhúm, mỏng manh

b. XANH LÁ CÂY SẬM: Thất vọng, âm thầm

c. XANH LÁ CÂY CHÓI: Tin tưởng, đã ngã ngũ

4. MÀU TÍM: Đau xót, bi thương

a. TÍM LỢT: Phai nhạt đi rồi sầu khôn nguôi

b. TÍM SẬM: Ray rứt, tái tê

c. TÍM CHÓI: Ám ảnh, đau thương triền miên

5. MÀU ĐỎ: Nồng nhiệt, gắn bó

a. ĐỎ LỢT: Bất định, không mãnh liệt

b. ĐỎ SẬM: Ghen uất ức

c. ĐỎ CHÓI: Nóng bỏng, mật thiết

6. MÀU VÀNG: Tươi tắn, vui vẻ

a. VÀNG LỢT: Chừng mực, bình tĩnh, tế nhị

b. VÀNG CHÓI: Trọn vẹn, sôi nổi

c. VÀNG SẬM: Hoang mang, e ngại đổi thay, có ẩn tình

Xem đó, chúng ta thấy tạo hóa sinh ra hoa nhiều loại; đủ màu sắc, hương… không phải là không có lý do, tác dụng.

Đáng lẽ thì các chi tiết còn phức tạp, rườm rà hơn nữa, nhưng trên đây là chúng tôi cố gắng tóm lược, cho dễ nhớ và thích hạp với những loại hoa mà tại Miền Nam đang có.

Đối với người Tây phương nghệ thuật sử dụng hoa được chú trọng đặc biệt và còn rắc rối hơn những điều kể trên nhiều vì xứ họ vốn có rất nhiều loại hoa.

HOÀNG KIM THƯ st.


NHỮNG ĐIỀU TRÁI NGƯỢC

GIỮA TRUNG QUỐC & PHƯƠNG TÂY

Là con một gia đình sĩ phu Trung Quốc nổi tiếng, Yuan Zuzhi (1827-1898) đã sang thăm Châu Âu năm 1883 cùng với một số chính khách.

Đoạn trích dưới đây rút ra từ một bài nghiên cứu khá dài, trong đó ông so sánh 2 nền văn hóa Trung Quốc và Tây Âu và cố nêu bật những ưu điểm của văn hóa Trung Quốc, với một giọng điệu không ít trào lộng. Được giới thiệu cùng các bạn tham khảo:

Con người, nhà ở, giao thiệp:

Vị trí danh dự ở Trung Quốc là bên trái, còn ở phương Tây là bên phải. Ở Trung Quốc, đàn ông được coi trọng, còn phương Tây thì ngược lại. Người phụ nữ Trung Quốc là phục vụ, săn sóc người chồng, phương Tây người vợ lại ra lệnh và điều khiển người chồng phải vâng theo. Nhà ở cửa ra vào và cửa sổ của Trung Quốc luôn luôn rộng mở, còn phương Tây lại thường xuyên đóng kín.

Ở Trung Quốc, các tầng cao là nơi tôn nghiêm, còn phương Tây thì ngược lại, con hầu, người ở thường ở tầng 4 hoặc tầng 5.

Ở Trung Quốc, chỗ ở của người đàn ông là nhà ngoài, còn đàn bà ở trong nhà. Điều gì nói ra ở trong nhà thì không ra khỏi phòng trong. Điều gì nói ra ở bên ngoài thì không len vào trong nhà. Vì thế, người đàn bà không ra khỏi cửa nhà mình, lại được coi là người nết na, đức hạnh.

Ngược lại, ở Tây phương người đàn bà chỉ nghĩ đến chuyện đi ra ngoài. Phố phường thấy nhan nhản những váy áo với những đồ trang sức của các bà, các cô. Họ chen vai, sát cánh với người qua đường, với khách du lịch. Chồng họ không có quyền ngăn cấm, nếu ngăn cấm thì có thể sẽ bị truy tố trước pháp luật.

Nam nữ Trung Quốc không được phép trực tiếp trao tay các đồ vật, còn Tây phương, đàn ông đàn bà bắt tay nhau chỉ là một biểu hiện của sự kính trọng.

Ở Trung Quốc, hôn hít là một trò dâm uế, phương Tây ôm nhau hôn vào miệng nhau là một cử chỉ lịch thiệp và tôn trọng nhau.

Ở Trung Quốc, khi gặp nhau, người ta thường trao đổi họ tên trước khi nói đến chuyện khác, ở phương Tây người ta lại trò chuyện ngay, không cần chú ý đến cái điều tế nhị ấy và chỉ trao đổi danh thiếp lúc tiện dịp.

Ăn, mặc:

Ở Trung Quốc người ta khuyên không nên uống nước lạnh vì sợ đau bụng, còn người Tây phương uống nước để lạnh là một cách chống nóng. Trung Quốc, rượu được hâm nóng trước khi uống, Tây phương, người ta uống rượu ướp lạnh. Ở Trung Quốc, món ăn chính được ăn trước, sau đó mới ăn súp, còn Tây phương, món súp lại đưa ra ăn trước.

Trung Quốc, người ta không ăn thịt bò, vì con bò được dùng vào công việc đồng áng, ở phương Tây người ta lại dùng ngựa trong công việc đồng áng, con bò nuôi chỉ để ăn thịt và lấy sữa.

Ở Trung Quốc, khi chủ nhà mời khách dùng bữa, vợ chủ nhà không ngồi tiếp, còn Tây phương, người vợ không những ngồi ăn mà còn bắt tay người khách danh dự, khoác tay người ấy khi ngồi vào bàn ăn.

Ở Trung Quốc, người ta không nói chuyện khi đang ăn, trò chuyện ba hoa trong bữa ăn là một điều lố bịch. Ngược lại, Tây phương là phải trò chuyện, nếu không người ta tưởng là anh bị ốm.

Ở Trung Quốc, người ta rửa mặt và tay sau bữa ăn, phương Tây người ta rửa tay rồi mới ăn.

Ở Trung Quốc, người ta thấy thoải mái hơn khi cởi bộ lễ phục ra để ngồi vào bàn tiệc, phương Tây không thể nào dự một bữa tiệc nếu không mặc lễ phục. Phụ nữ Trung Quốc mặc quần áo để bảo vệ thân thể, họ sẽ cảm thấy hết sức hổ thẹn nếu để lộ một phần nào đó của thân thể. Ở Tây phương, phụ nữ để hở vai, hở ngực, nhưng không ai thấy được đồ lót của mình.

Ở Trung Quốc, thật là bất nhã nếu để đầu trần, và người ta đội các loại khăn, mũ khác nhau tùy theo hoàn cảnh và trường hợp. Ở Tây phương, bỏ mũ ra mới là lịch sự lễ phép.

Râu, tóc:

Ngưởi trẻ tuổi ở Trung Quốc không được để râu, chỉ khi nào ở tuổi già dặn mới được để râu, còn phương Tây thì ngược lại.

Phụ nữ Trung Quốc không được để tóc xõa trước mặt, còn phụ nữ phương Tây xung quanh mặt đầy những búp tóc. Ở Trung Quốc người ta thích tóc phụ nữ óng mượt, búi lại một cách tinh tế và đen. Tây phương, người ta thích tóc phụ nữ cuộn thành búp, uốn sóng hoặc để xõa và màu vàng đậm.

Móng tay:

Các bà, quý cô Trung Quốc lấy làm hãnh diện có móng tay dài và nhọn, phụ nữ Tây phương lại cắt ngắn móng tay để tròn, thế là đẹp.

Con dao và ngón tay:

Gọt vỏ trái cây, rau củ, người Trung Quốc đưa lưỡi dao ra phía ngoài, còn người phương Tây thì quay lưỡi dao về phía mình. Việc tính toán trên đầu ngón tay, người Trung Quốc thì bẻ gập các ngón tay lại, còn phương Tây thì lại duỗi các ngón tay ra.

Tiền bạc:

Triều đình Trung Quốc lấy làm hãnh diện vì đã cố gắng giảm nhẹ thuế khóa, trong khi đó người Tây phương chấp nhận không ngần ngại việc tăng thuế. Ở Trung Quốc gia đình khá giả tích trữ lúa thóc, hàng hóa đầy kho, cửa hiệu; còn phương Tây, các nhà giàu có lại đua nhau gửi tiền ở ngoài (ngân hàng).

Màu sắc:

Màu trắng đối với người Trung Quốc là màu tang tóc, màu đỏ của cưới xin, vui mừng. Ở phương Tây, màu trắng là màu cưới xin, còn màu đen là màu tang tóc. Ở Trung Quốc, màu đen là màu y phục khi làm những công việc bẩn thỉu, ở phương Tây đó là màu lễ phục. Người phụ nữ Trung Quốc cảm thấy bất bình, tủi nhục khi bị ngắm nghía, bình phẩm về nhan sắc; còn người phụ nữ phương Tây lại lấy làm thích thú khi được bất cứ ai ngắm nghía, quan sát tỉ mỉ, cho đó là một vinh dự cho bản thân họ.

Bảng liệt kê những sự khác biệt này còn kéo dài mãi không hết…

Ngày nay Trung Quốc đã có nhiều thay đổi so với hơn 100 năm trước đây, mà ông Yuan Zuzhi đã nhận thấy.

Theo UNESCO, 4.1987

Bùi Đẹp st.


Phụ Bản IV

VÍA TRỜI – VÍA ĐẤT

Vía là gì?

Tra tự điển Hán Việt thì không có.

Tra Việt Nam tự điển thì ghi: Vía là phần linh hoạt phụ vào hình thể làm người ta sống được.

Vía Trời vía Đất nầy nhiều gia đình đã bỏ rồi nên hỏi cũng khó vì ít người biết. Hỏi được người có cúng, họ chỉ nói thấy Ba, Má cúng, khi các Người đã khuất thì em cúng và vái đại là cầu Trời Đất phò hộ để sống bình yên thôi. Hỏi về lễ vật cúng thì nói là xưa hỏi Ba Má thì Người nói cúng theo tục lệ xưa chớ Trời Đất có ăn uống gì nên lễ vật đại khái cho có thôi.

Thường thường lễ cúng thì có một dĩa gạo với muối để chung trong một dĩa, cúng xong thì bốc rải bốn phía. Nhưng vía Đất thì người ta bỏ ở ngã ba đường, tới coi, tôi không thấy dấu vết của gạo muối. Có lẽ Trời Đất không cần bỏ lưng gạo muối để ăn.

Vía Trời vía Đất nầy là phong tục của Việt Nam hay Trung Hoa? Nếu nói Việt tộc thuộc nhóm độc thần, chỉ thờ thần Mặt Trời hay thờ Trời thôi, khác với Trung Hoa là nhóm đa thần. Họ thờ đủ thứ thần như Thần Sông, Thần Núi, Thần Gió, Thần Mưa… Thêm vào đó, từ Vía thì tiếng Trung Hoa không có nên tôi võ đoán rằng Vía Trời Vía Đất nầy là phong tục của Việt Nam. Là phong tục của Việt Nam, có lẽ ta cần giữ. Nhưng từ đời ông nội tôi, tôi thấy đã bỏ rồi.

VÍA TRỜI, cúng vào ngày mùng chín Tết.

Tối mùng chín Tết tức là mùng chín tháng giêng âm lịch, người Việt Nam có lễ Vía Trời. Người ta bày lễ vật gồm:

- Nhang, đèn, nước và một bình bông

- Một dĩa trái cây

Tất cả để trên bàn Thiên trước nhà. Nếu không có bàn Thiên thì dọn trên một chiếc ghế để trước nhà.

Đúng 12 giờ khuya ngày mùng chín Tết hay không giờ ngày mùng mười, người đại diện cho gia đình đốt đèn, nhang và vái Trời phò hộ mọi người trong nhà và xóm làng được sống yên vui và làm ăn phát đạt. Sau đó lạy bốn lạy là xong. Nếu cúng trên bàn Thiên thì lễ vật để đó. Nếu để trên ghế thì chờ đến khi nhang tàn thì dọn vô nhà.

Câu nói mùng chín Vía Trời, mùng mười vía Đất, nếu 12 giờ khuya mùng chín Vía Trời thì có lẽ cũng vía Đất vào ngày mùng mười. Dân ta vẫn còn nhập nhằng về hai ngày mùng chín và mùng mười trong đêm. Có người cứ nghĩ ba giờ khuya vẫn coi là mùng chín nhưng thật sự nó đã qua mùng mười rồi. Tôi xét thấy cúng sai đi mấy giờ không có gì quan trọng. Ta cứ coi Vía Trời là mùng chín Tết vậy

VÍA ĐẤT:

Vía Đất thì cúng vào lúc sáng sớm ngày mùng mười tháng giêng. Lễ vật gồm:

- Nhang, đèn, nước

- Một ly rượu

- Một ly trà khô

- Vài lá trầu và vài miếng cau. Có lẽ cũng phải có một miếng vôi quệt trên 1 lá trầu và một nhúm thuốc mới phải cho.

- Một con cá lóc nướng trui nghĩa là con cá còn nguyên vảy, lấy cây ghim vào miệng con cá tới bụng rồi để lên lửa nướng cho cháy hết vảy cho tới chín, nhìn con cá đen thui.

- Ba vắt cơm

- Một dĩa mắm nêm

- Một ít rau muống luộc

Tất cả để trên một cái mâm để trên bàn ở giữa nhà. Người đại diện cho gia đình cúng và vái đại khái:

“Hôm nay là mùng mười Tết, tôi là… cúng vợ chồng ông chủ thổ”. Thế là đủ. Cũng có người vái thêm: “Cầu xin vợ chồng ông chủ thổ phò hộ cho mọi người trong nhà khỏe mạnh, sống yên ổn và làm ăn phát đạt”.

Có lẽ cũng lạy bốn lạy đấy. Để độ năm hay mười phút thì gom hết đem tới ngã ba đường mà để. Rượu và trà thì đổ hết và đem ly vô. Như vậy là xong.

Khánh Hội-Quận Tư Saigòn ngày 10.5.2015

NHỰT THANH

Đầu Xuân đi vòng khắp nơi

CÁC NƯỚC Á CHÂU THƯỞNG XUÂN

TỤC LẠ VỀ XUÂN CÁC NƠI

ẤN VÀ HỒI: ĂN TẾT ÔM NHAU KHÓC

Các nước Ấn Độ và Hồi giáo theo Phật lịch nên ăn Tết vào lối trung tuần tháng 3 dương lịch. Dân tộc ở đây rất phức tạp nên những tập tục về thưởng Xuân cũng không giống nhau.

Ở vài nơi, ngày Tết người ta đã không vui mừng mà lại còn ôm nhau khóc thảm thiết vì cho rằng mỗi lần tết đến là đời sống của họ thâu ngắn lại và họ càng gần đất xa trời. Họ sợ chết mà khóc vậy! Thật là một tập tục lạ kỳ!

Cũng may tập tục ấy không phải phổ biến sâu rộng lắm. Đa số người Ấn và Hồi cũng biết vui vẻ mừng Xuân đón Tết.

Ngày Xuân họ cầm một bao phấn đỏ ra đường. Gặp bạn bè thân quyến, họ lấy phấn đó bôi lên trán nhau. Các người trẻ tuổi thì tinh quái hơn, họ lấy súng đựng phấn đỏ bắn vào quần áo những người quen thuộc để chúc Xuân.

TÂY TẠNG: RƯỚC THẦN CẦU AN NGÀY TẾT

Ở xứ Phật sống, vào ngày đầu năm người ta rất chú trọng đến việc đuổi tà ma, quỷ quái để cầu an cho cả năm.

Các vị Thích Ma được dân chúng hóa trang thành những ông thần rất xấu xa kỳ dị: mang đầu trâu hay đầu chim thú, mặc áo bào màu đỏ, vàng hay xanh. Họ được cộ đi khắp các nẻo đường. Vừa đi họ vừa tụng kinh nhảy múa để xua đuổi những xui xẻo trong năm sắp tới.

NGƯỜI MIẾN ĐIỆN:

TẠT NƯỚC TÌM VỢ TÌM CHỒNG

Người Miến Điện ăn tết vào khoảng đầu tháng Tư. Đêm trừ tịch, kinh đô Miến Điện đốt pháo vang dội báo hiệu cho mọi người biết năm mới đã đến để “lấy tuổi”.

Để mừng Xuân, người Miến Điện có tục lệ tạt nước vào nhau, bằng một thứ nước đặc biệt có ngâm lá “cụ”, một thứ lá ngày xưa Phật gia dùng để sao kinh. Họ cho rằng nước này có hiệu lực trừ tà trị quỷ.

Trong lễ tạt nước, trai gái tha hồ đùa nghịch. Họ không bị câu thúc, họ được tự do nhân dịp này để tìm bạn trăm năm.

PHI LUẬT TÂN: NGÀY XUÂN LÀ NGÀY KỶ NIỆM ANH HÙNG DÂN TỘC

Tết ở Phi vào ngày 30 tháng Chạp dương lịch (theo Âu Châu).

Vì vậy, đối với các dân tộc Á Châu, người Phi ăn Tết sớm hơn hết.

Ngày Tết của Phi cũng là “ngày anh hùng”, ngày mà nhà Chí sĩ ái quốc Phi “Lê Nhĩ Thái” đã hy sinh cho Tổ Quốc. Cái chết của ông đã nhóm lên ngọn lửa độc lập cho dân tộc Phi.

Vào ngày này, dân chúng tự động tổ chức những đoàn âm nhạc, đi diễn hành qua các phố phường, vừa tấu nhạc vừa ca vũ, gây nên một khung cảnh thật vui tươi náo nhiệt.

Trên những con đường đoàn vũ nhạc đi qua, những khải hoàn môn, những lầu, những tháp được dựng lên, treo đèn kết hoa trông thật sặc sỡ. Trẻ con lại được dịp đốt những ống tre có đổ dầu lửa nổ đến chát tai.

Trong những ngày đầu Xuân, người Phi còn cử hành những cuộc tuyển chọn hoa hậu. không khí sôi nổi vui nhộn lắm. Họ kéo dài đến cả tuần mới dứt.

NGƯỜI HỒI GIÁO: NHẢY LỬA TRƯỚC NHÀ

Tết của những người Islam, đúng vào ngày 21 tháng dl. Đó là ngày sinh nhựt của vị thần Quan Minh, tức Zoroastria.

Đúng vào đêm trừ tịch trước cửa mỗi nhà người Islam đều chất cỏ khô để đốt lên, họ gọi là “lửa chúc Tết”. Thế rồi mọi người trong nhà đều lần lượt ra nhảy ngang đống lửa để tiêu trừ bịnh tật và cầu may mắn cho năm mới.

Bs. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st.

Những câu thành ngữ, tục ngữ,

ca dao quen dùng

nhưng thường bị sai

Thành ngữ , tục ngữ , ca dao vốn là những câu nói rất quen thuộc được nhiều người trong chúng ta sử dụng hàng ngày. Tuy nhiên, rất nhiều câu đã bị “tam sao thất bản” qua thời gian, và lâu dần chúng ta đã quen miệng dùng khiến nhiều người nhầm lẫn mà không hề hay biết.

Chúng ta cùng xem qua chùm tranh vui dưới đây:

1. Ướt như chuột lột

Làm gì có con chuột nào “lột” được nhỉ? Chỉ có “rắn lột” được thôi chứ?

“Lột” chỉ một người bị ướt lướt thướt, quần áo dính chặt vào người, giống hình ảnh một con chuột lội từ dưới nước lên.

Nguyên bản câu này là “Ướt như chuột lội”


2. Dùi đục chấm mắm cáy

Dùi đục là dụng cụ nghề mộc, không ăn được. Thế nên câu “Dùi đục chấm mắm cáy” không có ý nghĩa.

Bầu dục (trái cật) là món ngon, nhưng lại chấm mắm cáy – thứ nước chấm “xoàng”, chỉ sự kết hợp không hài hòa, mất cân xứng.

Câu đúng là “Bầu dục chấm mắm cáy”


3. Chân nam đá chân chiêu

Thành ngữ này sử dụng thủ pháp đối, nhưng “chiêu” có nghĩa là trái, còn “nam” không có nghĩa là bên phải.

Đối với “chiêu” là “đăm” (phải), chỉ dáng điệu say xỉn, tất tưởi, đi đứng không ngay ngắn, vững vàng.

Câu chuẩn phải là “chân đăm đá chân chiêu”

4. Râu ông nọ cắm cằm bà kia

Câu này hàm ý chỉ sự nhầm lẫn, không hợp lý. Nghĩa này không sai, nhưng so với nghĩa gốc thì hoàn toàn khác nhau.

Ý chỉ việc lợi dụng những thứ thuộc về người khác để làm lợi cho mình.

Gốc của câu này là “Dâu ông nọ chăn tằm bà kia” 

 


5. Ra ngô ra khoai

Câu này vốn dùng để phân biệt những thứ gần giống nhau. Nhưng “ngô” với “khoai” thì hoàn toàn khác biệt không thể nhầm lẫn. Nghĩa là làm cho rõ ràng, không lẫn lộn, giống như phải làm rõ khoai môn (ăn dễ bị ngứa mồm) với khoai sọ.

Câu đúng là “Ra môn ra khoai”.

6. Chủ vắng nhà gà mọc râu tôm (hay mọc đuôi tôm)

Gà đến tuổi thì mọc lông cánh, chứ không thể “mọc đuôi” khi “chủ vắng nhà” được.

Ý rằng không có ai quản dễ sinh mấy trò phá phách, hư hỏng.

Câu đúng phải là “Chủ vắng nhà gà vọc niêu tôm”

7. Cao chạy xa bay

Đây là thành ngữ sử dụng sai rất nhiều. “Bay xa” thì có lý chứ ai có thể “chạy cao”?

Hàm ý của câu này chỉ sự biệt tăm, trốn kỹ khó có thể tìm thấy ngay lập tức. Ngày nay có thêm từ chỉ việc này là đi “mũi né” (trốn nợ).

Câu đúng ở đây là “Xa chạy cao bay”


8. Đầu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon


Sau Giải Phóng nhiều gia đình chỉ được mua đầu tôm đã là tốt lắm rồi vì phần còn lại giành cho xuất khẩu, chỉ những gia đình có người làm trong ngành này mới được mua đây nhé! Đầu tôm cũng rất ngon vì gạch và thịt cũng còn nhiều nhưng còn ruột bầu thì đó là phần bỏ đi. Vậy thì phải là râu tôm vì râu tôm cũng là phần bỏ đi chẳng có gì trong râu tôm hết. Hàm ý những thứ bỏ đi cả nhưng gia đình nghèo mà hạnh phúc “chồng chan vợ húp” thì bất kể những thứ bỏ đi đều trở thành ngon lành. Vậy câu đúng phải là:

“Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”

Thực ra câu ca dao trên sử dụng biện pháp phóng đại để làm tăng cái nghèo chứ chẳng có ai lấy râu tôm nấu với ruột bầu cả.

Cũng xin minh oan cho câu “Họ nhà tôm cứt lộn lên đầu” chỉ tính cách xấu của một người là một câu nói không đúng. Đây quả là một sự hiểu sai về môn sinh học. Đít tôm nằm ở đuôi, đầu nó chứa bộ máy tiêu hóa, nội tạng và ruột tôm (còn gọi là gạch tôm, cũng na ná như gạch cua ). Nhiều nhà hàng thịt tôm tại chỗ, lấy cái “cục phân” trên đầu để vào chén con, thêm sa tế, muối, chanh quậy đều lên, đấy là thứ nước chấm đặc trưng cho món gỏi tôm. Cục “dinh dưỡng” đó có hàm lượng đạm và can xi khá cao. Do vậy, đem dùng để nấu canh không chỉ làm tăng thêm phần béo ngậy của nồi canh, mà còn tăng thêm dinh dưỡng cơ đấy (nhớ mở nắp vung cho bớt mùi).

Hy vọng sau khi đọc bài này khi ăn tôm xin đừng bẻ đầu tôm vứt đi thật là uổng phí! Cũng như chúng ta sẽ dùng các câu tục ngữ, thành ngữ và ca dao nói trên một cách thật chính xác.

HÀ MẠNH ĐOÀN

N Ụ C ƯỜ I XU Â N

Xin số điện thoại

- Alô! Con chim nhỏ của anh đấy à?

- Không! Chim bố đây.

- Ấy chết! Cháu xin lỗi bác! Bác có khỏe không ạ?

- Khỏe để đánh nhau với ai?

- Dạ... cho cháu hỏi Trang có nhà không ạ?

- Nó không có nhà thì là dân vô gia cư à?

- Dạ, dạ... ý cháu là Trang có ở nhà không ạ?

- Nếu không thì sao?

- Thế... Trang đi đâu ạ?

- Ðến cơ quan rồi.

- Bác cho cháu số điện thoại của Trang được không ạ?

- Nó có nhiều số lắm!

- Bác cho cháu xin một số thôi ạ!

- 9...

- 9 rồi... mấy nữa ạ?

- Thì cậu bảo chỉ cần một số thôi mà...

- Dạ bác cho cháu xin nốt mấy số còn lại luôn ạ

- 5 7 3 6 8 2, còn sắp xếp sao thì tùy cậu !!!

NGÀY TÀN

Vì phải đi làm cả ngày nên cô vợ dặn người thợ đến sửa máy giặt, vốn là chỗ quen biết, nơi để chìa khóa để anh tự mở cửa vào:

- Tôi sẽ để chìa khóa dưới thảm chùi chân. Anh sửa máy xong để hóa đơn lên kệ bếp giúp tôi. À, anh đừng ngại con chó béc-giê. Nó sẽ không làm phiền anh đâu. Nhưng anh đừng nói bất cứ chuyện gì với con vẹt. Nhớ nhé, không nói với con vẹt!

Hôm sau, người thợ tới và thấy một con chó rất to. Nhưng như bà chủ đã nói, con chó chỉ nằm xem anh ta làm việc. Còn con vẹt lại liên tục chửi rủa la hét khiến anh ta phát điên. Cuối cùng, không chịu được nữa, anh ta hét lên:

- Câm mồm đi, con vẹt ngu ngốc kia!

Con vẹt bèn nói:

- Xử nó đi, chó!

KHUYẾN MÃI

Một vị khách rất tức giận gọi điện đến hãng nước ngọt mắng vốn:

- Alo, tôi là người tiêu dùng. Tôi đang có trong tay chai nước giải khát của các ông, trong đó có 1 con gián. Tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi sẽ kiện hãng các ông để không người tiêu dùng nào bị lừa nữa, công ty các ông sẽ phá sản.

- Thế à? Xin chúc mừng quý khách đã trúng giải đặc biệt của công ty chúng tôi. Phần thưởng của quý khách là chiếc xe hơi 4 chỗ ngồi. Xin quý khách đến nhận quà sớm.

HÀ MẠNH ĐOÀN st

Thằng nhóc

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

Chia tay

Năm đó, Thằng Nhóc đã tốt nghiệp bằng Triết Học.

Nếu tôi có ký ức tốt, thì đó là một gã trai tráng rất kiêu kỳ, tự tạo cho mình một phong cách sống nghiêm nghị của một nhà hiền triết và luôn cả là một nhà thơ; ngoài ra gã không cao hơn đôi giày ống của viên cảnh sát, và gã cũng chưa có cọng râu nào trên cằm!

Vậy mà, vào một buổi sáng, khi mà nhà hiền triết đang sửa soạn đến trường, thì ông Eyssette cha gọi nó vào cơ xưởng, và khi nhìn thấy mặt nó, ông liền nói bằng một giọng phũ phàng:

- Này Daniel, hãy quăng hết sách vở vào bếp lửa đi, mầy không phải đi đến trường học nữa.

Nói xong, ông Eyssette cha bắt đầu bước dài, đi qua, đi lại trong cơ xưởng, mà không phát biểu gì thêm nữa. Ông có vẻ thật là cảm động, và Thằng Nhóc cũng thế. Rồi, sau giây phút, ông Eyssette cha mới nói:

- Này, Daniel con, cha có một nỗi buồn phải cho con hay. Ôi! Một nỗi buồn thật là buồn. Chúng ta bắt buộc phải rời xa nhau tất cả rồi. Và đây là lý do tại sao.

Đến đây, thì có một tiếng khóc to, một tiếng nấc đau lòng vang lên từ phía sau cánh cửa xưởng đang hé mở. Ông Eyssette bèn quát tháo, mà không cần quay lại nhìn:

- Jacques, mầy là đồ lừa mà!

Rồi ông nói tiếp:

- Khi mà chúng ta đến thành phố Lyon, đã sáu năm qua thì cha hy vọng, với sức làm việc cật lực, chúng ta có thể tạo dựng lại được gia tài, nhưng mà vận đen cứ đến quấy nhiễu. Cha chỉ nhận chìm gia đình vào cảnh nghèo đói, nợ nần. Hiện tại thì hết rồi, chúng ta đã mắc lầy rồi. Để thoát ra khỏi hoàn cảnh này, chúng ta chỉ còn một con đường lựa chọn. Nay, con cũng đã lớn khôn rồi. Chúng ta đem bán đi những gì quý báu còn sót lại, để chia cho nhau, mà tìm kế sinh nhai, mỗi người đi mỗi ngã.

Một tiếng khóc não nùng của anh Jacques vô tình xen vào. Nhưng mà ông Eyssette không giận, có lẽ vì quá cảm động. Ông chỉ ra hiệu cho Daniel đóng cửa lại. Và khi cánh cửa được đóng rồi, ông mới nói tiếp: “Đây là điều mà cha đã quyết định. Đợi có lúc nào thuận tiện, mẹ của con sẽ trở về Miền Tây để sinh sống cùng với anh của mẹ là cậu Baptiste. Thằng Jacques thì ở lại thành phố Lyon để làm việc cho một tiệm Cầm Đồ. Còn cha thì làm tiếp thị cho một Hãng Rượu… Còn phần của con, đứa con tội nghiệp của cha! Con cũng phải tự đi tìm kế sinh nhai. Mới rồi đây, cha có nhận được một lá thơ của ông Viện Trưởng của trường Đại Học. Ông ấy hứa là sẽ để dành cho con một chỗ làm giám thị. Nầy cầm lấy mà xem…”

Thằng Nhóc cầm lá thơ vừa đọc vừa nói:

- Theo như con thấy trong thơ, thì chúng ta không có thì giờ để lãng phí.

- Phải lên đường vào ngày mai thôi.

- Dạ vâng, ngày mai con sẽ ra đi.

Rồi đó Thằng Nhóc xếp lá thơ lại, và mạnh dạn trao trả lại cho cha nó mà không run. Đó là một nhà hiền triết vĩ đại, như bạn thấy đó. Ngay lúc ấy, thì bà Eyssette bước vào cơ xưởng, kế đến là anh Jacques rụt rè theo sau. Hai người đến gần Thằng Nhóc, và lặng lẽ ôm nó vào lòng…

Ông Eyssette bảo ngay:

- Bà lo chuẩn bị va-ly hành trang cho con nó. Sáng sớm mai, nó phải lên đường, bằng tàu thủy.

Bà Eyssette thở dài não nuột.

Anh Jacques thì quay mặt che dấu mấy giọt nước mắt.

Như vậy là mọi điều đã được an bài.

Người ta bắt đầu phải chấp nhận một sự vô phước cho cả gia đình.

Ngày mai là cái ngày đáng ghi nhớ, cả gia đình đều tiễn đưa Thằng Nhóc ra bến tàu.

Bởi một sự trùng hợp ngẫu nhiên đến lạ lùng. Đó là con tàu đã đưa gia đình Eyssette sáu năm trước với ông thuyền trưởng Géniès và ông thuyền phó Montilimart. Dĩ nhiên, là người ta đều nhớ lại cây dù của bà vú già Annou, con két Robison, và những tiểu tiết khác lúc rời tàu. Những tiểu tiết này làm vui lòng phần nào sự chia tay buồn tẻ, và mang lại nụ cười trên môi khô héo của bà Eyssette.

Thình lình chuông tàu đổ. Phải đi thôi. Thằng Nhóc cố tình thoát khỏi sự lưu luyến của cha mẹ, và anh Jacques người bạn duy nhất, mà bước lên tàu.

Ông khuyên bảo:

- Hãy nghiêm túc.

Bà dặn dò:

- Hãy bảo trọng sức khỏe.

Anh Jacques cũng muốn nói, mà anh không thể, vì cứ mãi lo khóc sướt mướt.

Còn Thằng Nhóc thì không khóc. Cũng như tôi đã hân hạnh giới thiệu với bạn. Đó là một nhà hiền triết vĩ đại, và đúng nghĩa một nhà hiền triết thì không nên bi lụy.

Tuy nhiên, Thượng Đế cũng biết rõ là nó thương họ, những nhân vật thân mến mà nó để lại phía sau trong sương mù. Thượng Đế cũng hiểu rằng, nó luôn luôn sẵn lòng dâng hiến máu xương của nó cho họ nếu cần. Nhưng mà phải nói gì đây? Nỗi vui mừng đã rời bỏ được thành phố Lyon – Sự chuyển động của con tàu – Sự say mê của chuyến đi – Sự tự hào đã trở nên người lớn – Một người lớn được tự do – Một người trưởng thành, đi đứng một mình mà mưu sinh. Những điều này làm say mê Thằng Nhóc, và hạn chế bấy nhiêu nỗi suy tư của nó về ba người thân đang đứng khóc ở đằng kia, đứng trên cầu tàu sông Rhône. Ô hay! Họ không phải là nhà hiền triết, ba người nầy. Với đôi mắt buồn bã, và đầy trìu mến, họ nhìn theo dáng đi lắc lư của con tàu, những cụm khói bay lên, như đàn én đang bay liệng ở chân trời, và họ còn cố la lên: “Hẹn gặp lại. Hẹn gặp lại”. Vừa vẫy tay ra dấu.

Trong khi đó, nhà hiền triết đi tới, đi lui trên boong tàu, hai tay trong túi quần, đầu phơi gió. Nó huýt sáo. Nó quan sát tàu vận hành, Nó đi ưỡn ngực như người lớn, và nó cảm thấy hài lòng…

Việc lo lắng đầu tiên của Thằng Nhóc, khi về đến quê nhà, là đi ngay đến Học Viện, để gặp ông Viện Trưởng. Ông Viện Trưởng này là bạn thân của ông Eyssette cha; một ông lão đẹp già, lanh lẹ, không có vẻ gì phô trương. Ông đón tiếp Eyssette con rất nồng hậu.

Tuy vậy, khi người ta dẫn Thằng Nhóc vào văn phòng, thì người nhân hậu này không khỏi thốt ra lời ngạc nhiên:

- Thượng Đế ôi! Sao mà nó nhỏ con đến thế này!

Thật ra, thì Thằng Nhóc nhỏ con đến buồn cười, với dáng vẻ choi choi ẻo lả.

Lời than của ông Viện Trưởng đánh vào nó một cú tát kinh hoàng. Nó chợt nghĩ ra rằng: “Thôi, người ta không thâu nhận mình rồi”, và nó bắt đầu run rẩy toàn thân.

May mắn thay, dường như ông Viện Trưởng đã đoán được sự gì xảy ra trong đầu óc nhỏ nhoi của nó, nên bảo ngay:

- Lại đây con, Ta sẽ cho con làm chức giám thị… Với cái tuổi và dáng vóc của con, thì làm việc khác rất là cực khổ. Vì rằng, con cần tìm sinh kế, nên Ta sắp xếp cho con một chỗ tốt đẹp. Con mới vô tập sự, thì không thể nào làm việc ở một trường Cao Đẳng lớn được. Ta sẽ gởi con vào trường làng, cách đây mấy cây số. Đó là thị xã Sarlande ở giữa núi đồi. Ở đó, con học làm người lớn, con phấn đấu với nghề nghiệp, rồi con sẽ lớn lên, con sẽ có râu, chừng đó chúng ta sẽ tính tiếp.

Nói xong, ông Viện Trưởng thảo một lá thơ giới thiệu, gởi gấm đến ông Giám Hiệu trường Cao đẳng Sarlande. Viết thơ xong, ông Viện Trưởng trao cho Thằng Nhóc, và bảo nó phải đi ngay trong ngày. Rồi đó ông Viện Trưởng còn dặn dò nó vài điều cần thiết, và tiễn nó đi bằng cái tát thân mến vào má, và hứa là sẽ theo dõi công việc của nó.

Lúc đó, Thằng Nhóc rất đỗi mãn nguyện. Nó chạy xuống cầu thang thế kỷ của Học Viện, từng bốn bậc một, và đi một hơi đến bến xe, để mua vé về thị xã Sarlande…

(Còn nữa)

Thanh Châu dịch thuật

Truyện xưa tích cũ

BÁNH CHƯNG BÁNH DÀY

Về đời vua Hùng Vương thứ sáu, sau khi bình được giặc nhà Ân rồi, trong nước thật là thái bình vô sự. Vua Hùng Vương muốn truyền ngôi cho con, liền hội họp 22 người con trai của nhà vua là những người đã được phong làm quan lang các quận và truyền phán:

- Ta sẽ truyền ngôi cho người con nào có thể làm được vừa ý muốn của ta là từ nay đến cuối năm, giữa ngày 30 tháng Chạp, ai làm được những món trân cam mỹ vị khác thường để ta cúng tế tổ tiên.

Nghe lời phán truyền của phụ hoàng, các con cùng đua nhau đi tìm những thứ sơn hào hải vị thiệt quý giá, chế ra nhiều món ăn tinh khiết ngon lành, không ngoài mục đích làm vui lòng phụ vương cùng gấm ghé ngôi báu.

Tuy nhiên, vua Hùng Vương có người con thứ 18 tên gọi Lang Lèo là một người con trai, tánh tình chất phác, thuần hậu mà gia tư lại rất mực thanh bạch không có của cải gì cả.

Người mẹ của Lang Lèo mất sớm từ lâu. Trong gia đình không mấy sung túc cho nên kẻ hầu người hạ không có bao nhiêu. Vì lẽ ấy, Lang Lèo không biết xoay trở cách nào để tìm kiếm ra những món ăn khác lạ có thể so sánh được với các món của anh em để làm thỏa mãn ý muốn của phụ hoàng được.

Trong tình trạng rối bời ấy, Lang Lèo ngày đêm suy nghĩ lung lắm mà vẫn không tìm thấy một lối thoát. Là người con chí hiếu, chàng muốn làm vừa lòng cha nên càng thêm lo lắng, ăn ngủ không yên.

Một đêm kia, Lang Lèo nằm ngủ và chiêm bao thấy một vị thần đến bảo chàng rằng:

- Trời đất sanh ra các loài thực dụng ở đời, duy có thóc gạo là đáng quý hơn cả. Mà thứ gạo nếp là tốt hơn cả, không có thứ ngũ cốc nào sánh bằng. Bây giờ ta nên lấy gạo nếp đồ thành xôi rồi chế ra một thứ bánh hình tròn không có nhân, biểu hiện sự tinh khiết, thanh bạch để tượng trưng hình trời. Sau đó, lại nên lấy gạo nếp gói vào lá chế ra thứ bánh hình vuông, giữa có nhân biểu hiện cho sự tạp bác hỗn trọc để tượng trưng cho hình đất. Hai thứ bánh ấy có ý nghĩa tượng trưng trời đất gồm thâu, muôn vật phải nhờ đó mà phát sanh trưởng thành. Hơn thế nữa, hai thứ bánh ấy lại còn ngụ ý công ơn cha mẹ sánh tầy với trời đất. Thứ bánh vuông nên đặt tên là “Bánh chưng” còn thứ bánh tròn đặt tên là “Bánh dầy”. Con làm được như vậy, ắt vua cha sẽ phải vừa ý mà truyền ngôi cho.

Lang Lèo tỉnh dậy mừng rỡ vô cùng tự nghĩ:

- Thật là thần nhơn giúp ta đây, vậy, ta phải tuân lời làm theo, nhứt định sẽ có kết quả tốt.

Sau đó, chàng liền sai người kiếm cho được thứ gạo nếp tốt và chia ra làm hai phần. Một phần chàng liền đem cho đồ thành xôi rồi giã thành bánh dầy, nặn hình tròn để tượng hình trời. Phần kia thì đem gói vào thứ lá xanh đặt các thứ nhân đậu và mỡ vào giữa rồi gói lại thành hình vuông để tượng hình đất, đoạn đem nấu thiệt kỹ và gọi là bánh chưng.

Đến ngày 30 tháng Chạp, các vị hoàng tử con vua Hùng Vương thứ sáu đều tề tựu trước sân rồng. Người nào người ấy đều mang đủ cả các thứ bánh ăn và mọi thứ thực phẩm ngon và lạ, thật không thiếu một thứ gì.

Đến lượt Lang Lèo lên trình bày các thứ thực phẩm của mình, chàng chỉ đưa ra hai thứ bánh xem ra hình dạng chất phác và chẳng có hoa mỹ gì cả. Vua cha trông thấy lấy làm lạ liền hỏi:

- Tại sao con làm có hai thứ bánh bề ngoài có vẻ tầm thường như thế?

Lang Lèo cứ thực lòng trình bày câu chuyện thần nhân có mách bảo ở trong mộng cho vua cha nghe.

Vua gật đầu tin là phải.

Đoạn, vua nếm đủ các món cao lương mỹ vị của các con cái đã dâng lên, cuối cùng mới nếm đến hai thứ bánh của Lang Lèo. Nhà vua nhận thấy bánh dầy khí vị thật thanh đạm, thơm ngon lạ hơn các thứ bánh chay khác.

Còn bánh chưng, nhà vua nhận thấy rất dừ và mềm mại, lại có đủ các vị ngon lành, béo bổ thơm tho của các thứ nhân, ăn rất ngon miệng khác hẳn các thứ bánh đường, bánh hấp của các người con khác.

Ngoài ra nhà vua còn nhận thấy hai thứ bánh trên đây còn có một ý nghĩa tôn trọng cao xa khác hơn nữa.

Đức vua khen ngợi hồi lâu rồi truyền phán, hai thứ bánh của Lang Lèo được xếp vào bực nhứt.

Sang đầu năm mới, vua lại còn sai Lang Lèo làm lại hai thứ bánh ấy để nhà vua cúng tế tổ tiên.

Lang Lèo được nhà vua truyền ngôi cho, sau đó. Và cũng từ đấy, khắp trong nước nhân dân đều bắt chước làm hai thứ bánh ấy để cúng tổ tiên trong dịp Tết Nguyên Đán và những khi cưới gả v.v…

Đến nay, ta vẫn còn giữ tục làm bánh dầy bánh chưng là do tích trên.

ĐỖ THIÊN THƯ st.

Chiếc bánh chưng

ĐÀM LAN

Mùng bốn tết, cả nhà đang ngồi quanh chiếc bàn ăn. Bà mẹ gắp vào chén con gái một miếng bánh chưng, cô bé vùng vằng:

- Con đã ớn quá rồi mà mẹ cứ bắt con ăn mãi.

- Này, lớn thêm một tuổi nữa rồi đấy nhá, nhõng nhẽo không sợ người ta cười cho à?

Nhìn miếng bánh với vẻ chán chường, cô bé còn đang lưỡng lự thì ngoài cửa chợt xuất hiện một bà già ăn xin, tay dắt theo một đứa bé khoảng 4,5 tuổi lò dò bước vào, cất giọng van xin:

- Xin các ông các bà làm phúc cho bà cháu tôi đồng lẻ sống qua ngày… xin các ông các bà…

- Thôi đi đi, gớm, mới đầu năm đã vào quấy rồi.

Ông chủ nhà xua tay nói. Đứa con trai ngồi gần đấy, thấy đứa trẻ tội nghiệp thì móc túi lấy ra tờ tiền lẻ bỏ vào cái nón rách của bà già. Bà già cúi đầu cảm ơn, nhưng đáng lẽ bà đi ra ngay thì bà lại đứng lại nhìn sựng lên bàn ăn. Miếng bánh chưng đập vào mắt bà. Đôi mắt hấp hem lộ rõ vẻ thèm muốn. Bà già ngập ngừng, do dự, nhìn lại đứa cháu đang bấu vào gấu áo, bà thu hết can đảm nói:

- Cho tôi… xin một miếng bánh chưng, có được không ạ?

Bà mẹ gắt toáng lên:

- Cái bà này hay quá nhỉ, đã cho tiền rồi còn lải nhải gì nữa.

Bà già cúi mặt, lủi thủi bước đi, nắm tay đứa cháu đang cố ngoái lại nhìn miếng bánh chưng với vẻ thèm thuồng, nó nhệu nhạo:

- Bà ơi! Cháu đói…

Bà nó đưa tay quệt nước mắt, khẽ nói:

- Ráng đi con, xin thêm được vài đồng nữa rồi bà mua bánh cho con ăn nhá.

Thằng bé lẽo đẽo đi theo, tay vẫn bíu lấy cái gấu áo vá víu của bà nó.

Trong bàn ăn, cô bé buông đôi đũa xuống đứng dậy. Bà mẹ sửng sốt:

- Sao chưa ăn đã đứng dậy rồi?

Cô bé trả lời gọn lỏn:

- Con không muốn ăn nữa.

Bà mẹ bực tức:

- Người ta còn không có mà ăn, đây thừa mứa thế này thì không ăn

Cô bé nhìn vào mắt mẹ, hỏi gặng:

- Mình thừa mứa thế sao mẹ không cho người ta được một miếng?

- Mày….

Cô bé cầm chiếc bánh chưng đi vòng hết phố nọ qua phố kia, đôi mắt dõi vào từng ngóc ngách các vỉa hè, cố tìm cho ra bà cụ già bà đứa trẻ hôm qua. Mồ hôi tuôn dài trên gương mặt ửng hồng vì nắng. Lần đầu tiên trong đời, cô bé mới thấy hết được ý nghĩa của chiếc bánh chưng trong ngày tết. Trước đây cô bé từng nghe người lớn nói:

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ

Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh

Và năm nào mẹ cũng gói bánh chưng, vừa gói vừa nói với các con đang quây quần chung quanh:

- Tết mà không có cái bánh chưng thì không ra ngày tết.

Vậy mà có những người không có thịt mỡ, cũng chẳng dưa hành. Cây nêu tràng pháo lại càng xa vời hơn nữa, và không có cả đến một miếng bánh chưng, thế thì còn đâu là ngày tết. Hình ảnh còm cõi, nhẫn nhục và thiểu não của hai bà cháu ăn mày, khiến cô bé cảm thấy như chính mình có tội. Cái tội bất công của cộng đồng nhân lọai. Và chính điều đó đã thôi thúc cô bé, buộc mình phải tìm cho được họ, để được đặt vào tay bà lão ấy chiếc bánh chưng với một lời xin lỗi. Nhưng chân thì đã mỏi rã ra rồi, sức nóng của trời nắng chang chang khiến cô bé cảm thấy rất mệt và khát khô cổ. Nhưng cô bé vẫn đi, cô vẫn hy vọng là sẽ tìm thấy. Đến một ngã tư, vừa quẹo qua đầu phố, cô bé thấy ngay một đám đông vây quanh sự việc gì đó. Tò mò, cô bé cũng ghé vào xem. Bỗng cô bé kêu lên một tiếng:

- Trời…

Trên nền đất, trước hiên của một ngôi nhà đóng kín cửa, bà lão ăn mày nằm co quắp, hai tay ôm bụng trong tư thế gập người. Bên cạnh bà là đứa trẻ đang lê lết với tiếng khóc kêu khàn đục:

- Bà ơi…ch..áu…đ…ói…

Như vô thức, cô bé quỳ xuống trước mặt bà lão đã lìa cõi thế ấy, đặt trước bà cái bánh chưng, và vẫn như vô thức, cô cầm một nén nhang đốt sẵn ở đó cắm vào chiếc bánh, đôi môi run rẩy mấp máy, cô bé bỗng bật khóc và vụt bỏ chạy như bị ma đuổi. Nén nhang trên chiếc bánh vẫn đều đều nhả từng sợi khói mỏng…

ĐÀM LAN

Kịch

CUỘC GẶP ĐÊM TRỪ TỊCH

NHÂN VẬT :

-CÔ GÁI

-CHÀNG TRAI

-NGƯỜI BẠN

THỜI GIAN & KHÔNG GIAN : Đêm Giao Thừa tại một bờ sông vùng quê. Có chiếc cầu nhỏ nối liền hai bờ sông.

Cảnh duy nhất : Cô gái từ bờ sông bên kia bước từng bước chầm chậm qua cầu, màu áo trắng nổi bật trong màn đêm. Thỉnh thoảng cô cất tiếng ngâm ngợi, giọng buồn não nuột lan xa theo tiếng gió. Từ trong vườn cây xa xa, thỉnh thoảng vọng lại tiếng của hai người đàn ông đang ăn uống và tán gẫu.

Cô gái : “Sông dài cá lội bặt tăm / phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ…” (Ngừng một lát)Đi đâu cho thiếp theo cùng / đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam…” (1)

Tiếng vọng :

-Này ông, tiếng ai ngân nga nghe não nùng nhỉ?

-Ồ, ông để ý làm gì? Uống đi, uống đi!… Chắc nhà nào ru con ấy mà…

Cô gái : “Đôi khi lỗi hẹn một giờ / lần sau gặp lại phải chờ trăm năm” (2)

Tiếng vọng :

-Ôi, giọng ngọt như mật ong! Tôi đoán phải là một cô gái trẻ và rất đẹp, ông ạ! Chẳng biết cô ấy đang ở đâu?

-Ông này lảm nhảm gì vậy? Thôi, trăm phần trăm nào… Dzô!

(Im lặng một lúc)

Cô gái : “Chờ nhau chưa hết vòng đời / bóng chim tăm cá quên lời mà chi?...” (3)

Tiếng vọng :

-Ô hay, ông định đi đâu thế?

-Tôi đi tìm cô gái đang hát đó.

-Làm gì có cô gái nào đang hát? Tôi có nghe thấy gì đâu?

-Thế thì rượu làm tai ông điếc đặc rồi!

-Cứ cho là thế đi. Thôi, ngồi xuống! Chúng ta có nhiệm vụ phải thanh toán hết mâm này trước Giao Thừa đấy.

Cô gái : “Câu thơ đau xé ruột tằm / quả tim héo suốt trăm năm đợi chờ” (4)

Tiếng vọng :

-Không, ông cứ uống đi. Tôi phải tìm bằng được cô ấy.

-Thôi nào, đừng có điên!

-Điên kệ tôi! Cho mượn cái đèn bão này nhé. Trời tối quá! Ờ, đêm trừ tịch mà lại!

Cô gái : “Một lần rồi chẳng quên đâu / như là biển rộng sông sâu đã từng…” (5)

(Từ xa xa, chàng trai tay cầm cây đèn bão bước thấp bước cao, theo tiếng hát tìm đến bờ sông. Lúc đó cô gái tóc xõa dài, đang ngồi mặt hướng ra sông nên chưa phát hiện).

Cô gái : “Tôi về thăm lại sông xưa / vớt trăng thất lạc thuở chưa mất người…” (6)

Chàng trai (đã đến sau lưng cô gái, tay soi cao ngọn đèn, ngây người đờ đẫn ngắm, hồi lâu khẽ gọi): Này cô!... Cô ơi!...

Cô gái (như vẫn chìm trong mộng mị): “Tình yêu có gì? / Có hai người bên cửa sổ / Một người đứng yên, một người đổi chỗ” (7)

Chàng trai (gọi to hơn): Cô gái ơi!

Cô gái (giật mình quay phắt lại, thảng thốt): Là… anh! Anh về phải không? (Chàng trai còn đang lúng túng ậm ừ thì cô gái đã đứng phắt dậy, nhào đến nắm ngực áo chàng trai giằng xé, nghẹn ngào tức tưởi) Đúng là anh… Bây giờ anh mới trở về!... Anh bỏ em mấy năm nay, anh có biết em tuyệt vọng thế nào không?... Em đã không muốn sống nữa… (Chàng trai bị bất ngờ đứng đờ ra, mặc cô gái vừa la khóc vừa đấm thùm thụp. Một lúc, cô gái buông tay, ngồi xuống, ôm mặt nức nở): Anh ác lắm, anh biết không?... Em ngày nào cũng nhớ anh…

Chàng trai (treo cây đèn bão lên thành cầu, ngồi xuống bên cạnh): Cô bình tĩnh đi… Chúng ta chưa gặp nhau lần nào mà.

Cô gái (giật mình, quay nhìn kỹ mặt chàng trai): Thế ra anh… không phải là… anh ấy?

Chàng trai (gật đầu). Đúng, tôi không phải là… anh ấy đâu.

Cô gái (sau phút bàng hoàng, càng tỏ ra tuyệt vọng hơn, lẩm bẩm một mình): Không phải anh ấy… Tết lại đến rồi mà anh ấy vẫn chưa về… Biết bao giờ anh ấy mới về?... (hỏi lớn) Anh ấy không bao giờ quay lại bờ sông này tìm tôi nữa, đúng không?

Chàng trai (bối rối): Ơ… Làm sao tôi biết được!

Cô gái : Anh phải biết vì anh cũng là đàn ông như anh ấy. Đàn ông nào cũng hay thay đổi, cũng dễ dàng lãng quên người yêu cũ… (gào lên) Đúng không?

Chàng trai : Cô vừa làm tôi giật mình, sợ quá!...

Cô gái (mắt long lên nhìn chàng trai trừng trừng. Một lúc sau mới từ từ dịu xuống, lại buồn thiu, lẩm bẩm): Sao anh lặng lẽ bỏ đi? Sao không quay về tìm em một lần? Em vẫn khắc khoải đợi anh từng ngày từng phút… “Dù cho sông cạn đá mòn / Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ…” (1)

Chàng trai (bùi ngùi): Thế anh ấy đi từ khi nào?

Cô gái : Lâu lắm rồi, không nhớ nổi. Là 3 năm, 5 năm hay 10 năm không chừng…

Chàng trai (cười): Cô đùa! Cô chỉ chừng 20 tuổi, sao có thể chia tay người yêu 5, 10 năm?

Cô gái : Tôi mất ý niệm về thời gian rồi. Anh ấy bỏ đi không từ giã lời nào, cũng không một tin nhắn về nên tôi không nguôi ngoai được đau khổ vì không hiểu tại sao?

Chàng trai : Có phải cô đã làm gì cho anh ấy thất vọng?

Cô gái : Không có.

Chàng trai : Hay anh ấy bị gia đình ngăn cấm?

Cô gái : Không đúng.

Chàng trai : Chẳng lẽ vì một cô gái khác chen vào?

Cô gái : Cũng không phải.

Chàng trai : Thế thì… biết đâu anh ấy gặp sự cố gì rồi… (liếc cô gái) Một tai nạn bất ngờ nào đó chẳng hạn, nên anh ấy không còn…

Cô gái (ngắt lời): Không, nhất định không phải thế.

Chàng trai : Cô tin vậy sao?

Cô gái : Không phải tin mà tôi biết chắc như thế. Anh ấy vẫn tồn tại trên thế gian này. Vì thế, thỉnh thoảng tôi lại sang bờ sông này chờ anh ấy.

Chàng trai (gật đầu): Tôi hiểu rồi. Vì chỗ này là nơi hò hẹn quen thuộc của hai người, chứ gì?

Cô gái : Phải. Chúng tôi quen nhau lần đầu ở đây, lần cuối gặp nhau cũng ở đây.

Chàng trai : Cô ơi, đã giao thừa, sang năm mới rồi. Cô về đi, đừng chờ nữa, không gặp anh ấy đâu.

Cô gái : Sao anh biết?

Chàng trai : Tôi đoán thế. (Nói một mình) Giờ này chắc thằng cha ấy đang đón giao thừa với vợ con rồi, mò về đây làm quái gì chứ?

Cô gái (thở dài não nuột): Đã khuya, tôi phải về nhà thôi…

Chàng trai : Phải đấy, cô về đi. À, cô tên gì nhỉ? Nhà cô có xa không, để tôi đưa cô về nhé? Trời tối đen như mực mà cô lại đi một mình…

Cô gái (ngắt lời): Tôi không cần ai đưa đón… (Chỉ tay qua bên kia sông) nhà tôi ở bên kia bờ, chỗ 3 gốc phượng… (Chợt ôm hai vai, rùng mình kêu lên) Ôi, lạnh quá!

Chàng trai : Áo cô thì mỏng quá! Mặc áo của tôi này (toan cởi áo nhưng cô gái đã quay ngoắt đi. Chàng trai đuổi theo nắm tay kéo lại) Ôi chao, tay cô cũng lạnh quá (hai tay xoa mạnh lên bàn tay cô gái) Hãy để tôi ủ ấm bàn tay buốt giá này… (Cô gái im lặng, nhìn sâu vào mắt khiến chàng trai bồi hồi rung động, buột kêu lên) Cô… Ơ… Em! Mắt em đẹp quá!... Em đẹp quá! Thật diễm phúc cho chàng trai nào lọt vào trái tim em…

Cô gái (thì thào): Anh… đang nói gì thế?

Chàng trai (như chìm trong mộng mị): Anh nói em có một sức hút thật lạ kỳ, anh không sao chống trả nổi… Anh yêu em!… Em hãy quên người cũ đi, anh ta không bao giờ quay lại đây tìm em nữa đâu… Hãy yêu anh!… Chúng ta bắt đầu tình yêu mới từ giờ khắc Giao Thừa này… Em bằng lòng không?

Cô gái : Anh nói thật chứ? Anh có định đùa giỡn không?

Chàng trai : Anh không đùa giỡn cũng không giả dối. Anh rất chân thành nói rằng anh yêu em ngay từ phút đầu tiên… Yêu dáng mỏng manh như sương khói của em, yêu đôi mắt long lanh của em, yêu đôi môi nhất định rất ngọt ngào kia của em… Em đang lạnh lắm phải không? Tội nghiệp em quá! (Choàng ôm cô gái) Để anh ôm em thật chặt nhé…

Cô gái (vùng mạnh ra): Anh không phải người vùng này. Nhìn anh lạ lắm.

Chàng trai : Em nói đúng, anh ở thành phố vừa xuống đây hôm qua, ở lại ăn tết với một người bạn. Nhà bạn anh sau vườn cây kia kìa (chỉ tay)… Anh cũng đang rất cô đơn, giống em. Từ nay chúng ta sẽ là của nhau, sẽ sống bên nhau mãi mãi, em nhé?

Cô gái (quay lưng chầm chậm đi) : “Nghĩa ân người để bên người / chắc gì đã hóa nợ đời với nhau…” (8)

Chàng trai (gọi với theo): Kìa em ơi… Chờ anh với!

Cô gái (đứng lại): Anh có dám theo về nhà em không?

Chàng trai (gật đầu): Có, anh sẽ theo em về nhà, chào cha mẹ em ngay bây giờ.

Cô gái : Cha mẹ em ở xa lắm. Em ở nhà có một mình thôi.

Chàng trai (nói một mình): Một cô nàng xinh đẹp lại ở nhà một mình! Ôi, hên quá! Cơ hội vàng không thể bỏ qua… (Nói với cô gái) Em cô độc thật đáng thương.

Cô gái : Anh còn đáng thương hơn em đấy (nhoẻn cười. Chàng trai ôm chầm cô gái, hôn, liền bị cô đẩy mạnh, mất đà ngã chúi xuống đất)Có thì có tự mảy may / không thì cả thế gian này đều không…” (9)

(Chàng trai chưa đứng dậy được thì cô gái đã phăng phăng bước qua cầu, mau chóng chìm vào màn đêm. Thấp thoáng người bạn từ xa đi tới, tay cầm đuốc lá dừa soi sáng chàng trai còn lóp ngóp dưới đất).

Người bạn (kêu lên): Ô kìa, chuyện gì thế này? (Đỡ chàng trai dậy) Ông bỏ ra đây làm gì thế? Tôi chờ lâu quá nên phải đốt đuốc đi tìm…

Chàng trai (gọi to): Em đâu rồi? (Ngơ ngác nhìn quanh) Cô ấy đi rồi à?

Người bạn : Ông tìm ai?

Chàng trai : Một cô gái rất đẹp vừa ở đây, đã đi đâu rồi?

Người bạn : Tôi không thấy cô gái nào cả.

Chàng trai : Tôi nói chuyện với cô ấy nãy giờ. Cô ấy còn hỏi tôi có dám theo về nhà cô ấy không nhưng chưa nói cho tôi biết tên. Này ông, ông là thổ địa vùng này, chắc ông phải biết ai chứ? Một cô gái dáng mong manh như sương khói, rất đẹp và thích ngâm ngợi thi ca…

Người bạn : Có phải tóc cô ấy xõa dài không?

Chàng trai : Phải, phải.

Người bạn : Và mặc áo trắng?

Chàng trai : Đúng thế, áo lụa trắng. Tội nghiệp quá, gió sông lồng lộng thế này mà cô ấy chỉ mặc cái áo lụa mỏng tang nên lạnh lắm, cứ run lên. Tay cô ấy lạnh, môi cô ấy cũng lạnh… Tôi đã hôn cô ấy…

Người bạn : Trời ơi, ông to gan quá! Ông có biết làm thế là…

Chàng trai (ngắt lời): Tôi biết! Làm thế là rất sỗ sàng, có lỗi với cô ấy… Nhưng ông ạ, tôi không cưỡng lại được đôi môi quyến rũ của cô ấy… Môi cô ấy rất lạnh, nhưng tôi lại thấy đó là nụ hôn nóng bỏng, ngọt ngào nhất. Ông biết cô ấy là ai chứ?

Người bạn : Tôi có thể đoán ra. Cô ấy thỉnh thoảng vẫn sang bờ sông bên này khóc than vì người yêu bỏ đi biền biệt…

Chàng trai (mừng rỡ): Đúng rồi, đúng rồi. Cô ấy cũng kể thế. Hừm, thằng cha Sở Khanh đó không mắc bệnh tâm thần thì cũng bị mù! Nên mới bỏ rơi một cô gái xinh đẹp, chung thủy, đáng thương như vậy.

Người bạn (thở dài): Đúng là một cô gái đáng thương! Bao nhiêu năm vẫn không nguôi ngoai hận tình… Dạo sau này không thấy cô ấy sang đây ngồi khóc nữa, ai cũng nghĩ cô ấy đã tìm được an bình rồi. Không ngờ đêm nay lại…

Chàng trai : Ông dẫn tôi đến nhà cô ấy đi. Tôi sẽ thay thế thằng cha Sở Khanh kia để yêu và sống với cô ấy mãi mãi.

Người bạn (kêu lên): Ông điên rồi! Nghiêm túc lại đi!

Chàng trai : Tôi đang nghiêm túc và rất tỉnh táo. Những chuyện này đâu thể giỡn chơi chứ? Đi nào, dẫn tôi đi tìm cô ấy ngay bây giờ…

Người bạn : Không thể được.

Chàng trai : Tại sao?

Người bạn : Tại cô ấy chết đã 6 năm rồi. Mộ ở bên kia sông, chỗ 3 gốc phượng…

(Chàng trai lăn đùng xuống đất, mắt trợn trắng. Người bạn hốt hoảng kéo dậy, kêu réo om sòm).

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

1)- Ca dao

2)- Khuyết danh

3)- Thơ Trần Vạn Giả

4)- Thơ Dương Trọng Dật

5)- Thơ Trần Thế Tuyển

6)- Thơ Nguyễn Văn Trang

7)- Thơ Nguyễn Nhật Ánh

8)- Thơ Konstantin Simonov (dịch)

9)- Thơ thiền sư Vạn Hạnh

NGƯỜI BẠN BỐN MÀU

NGUYỄN THỊ MÂY

Anh Khoa đến đúng lúc tôi định chuồn khỏi nhà. Tay phải anh ôm ngang cây đàn, nét mặt rạng rỡ. Tôi chạy ra:

- Anh mới đến hả anh Khoa? Chị em đang chờ anh trong nhà. Chào anh, em đi chơi đây.

Không đợi cho anh có phản ứng, tôi phóng ra sân, chạy biến vào con đường mòn dẫn đến chòm dầu. Đó là “khu du lịch xanh của tôi”. Băng dọc dãy mộ cổ xám xịt, cảm giác rờn rợn chạy dọc sống lưng tôi. Vẫn những cây thánh giá trầm mặc đứng lặng nhìn thời gian bào mòn những nấm mồ phủ đầy cỏ úa quanh đó. Nửa như thương hại, nửa kiêu hãnh với chỗ yên nghỉ của những người nghèo. Chúng chìm trong buồn bã nhớ nhung những sợi khói nhang từ lâu vắng bóng. Tôi bỗng sợ toát mồ hôi, co giò phóng như bay tới trước.

Chòm dầu kia rồi. Những hàng cây đứng ngay hàng, thẳng lối như những người lính canh giữ bầu trời. Chúng căng những chiếc ô thiên nhiên nối tiếp nhau, thành một vòm cao xanh sắc lá. Nắng bực tức nhảy múa trên tán cây. Vài tia hiếm hoi len lỏi qua khe hở rót một dòng sáng trong vắt, dọi lỗ chỗ lên những chiếc lá vàng rơi, trải đầy mặt đất. Tôi hít đầy buồng phổi làn không khí trong lành, buột miệng “Khỏe quá!”.

- Đồ khùng!

Quay phắt lại, tôi bắt gặp một thằng nhóc đen bóng, đang nhăn hàm răng trắng ởn ra cười. Hất hàm, tôi cao giọng:

- Ê nhóc, mi nói ai khùng đó?

Có vẻ sợ, nó lùi lại, lọt ngay vào dòng sáng cho thấy cái áo thun đỏ cũ rích, nhưng chiếc quần cụt xanh có hai mảnh vá màu trắng thì tươi tắn hẳn lên.

- Ê, Bốn Màu, sao không trả lời.

Nó trợn mắt trắng dã:

- Này, cái đuôi gà mái, mi gọi ai là Bốn Màu hả? Bốn Màu đâu?

Chỉ tay vào nó, tôi cười cười:

- Dám so sánh chùm tóc buộc nhỏng của người ta như vậy hả? Vậy chứ áo đỏ, quần xanh, hai mảnh vá trắng và cái mặt đen xì của mi nữa, không bốn màu thì là mấy màu?

Nó há mồm định cãi. Nhưng chẳng hiểu sao nó lại dịu giọng, thân thiện:

- Nè bạn, bộ tui đen lắm hả?

Đưa tay che miệng cười, tôi gật đầu:

- Ừ, không đen gì cho lắm, chỉ giống cột nhà cháy. Đi đêm không ai nhìn thấy đâu!

Bốn Màu ngồi bệt lên trên xác lá vàng, hai bàn tay bưng lấy mặt, cặp mắt mơ màng:

- Mẹ tui bảo tui giống ba tui lắm!

Ngồi xuống cạnh nó, hai tay tôi vòng quanh gối:

- Ba bạn cũng… đen thui như vậy sao?

Bốn Màu lại nhoẻn cười hồn nhiên:

- Ừ, mẹ tui bảo ba tui hiền và học giỏi lắm.

Tựa lưng vào gốc cây, cũng vòng hai tay quanh gối như tôi, nó nhìn đâu đâu. Tôi cười:

- Còn bạn thì… học dở phải không?

- Mình có đi học đâu mà dở. Ba mình chết rồi. Mẹ mình hay bệnh, cơm không đủ ăn, tiền đâu lo chuyện học hành?

- Đi học đâu có tốn nhiều tiền. Ở trường mình, học sinh nghèo còn được cấp tập vở, sách bút nữa kìa. Bạn đi học đi!

- Nhưng ai sẽ kiếm tiền phụ với mẹ nuôi hai đứa em tui?

Như chợt nhớ, nó đứng dậy, đi thẳng đến chỗ có một đống lá dầu khô đã được gom thành một “ngọn đồi” nhỏ. Khom người nhặt lên một cái bao đặt cạnh đó tự bao giờ. Vạch rộng miệng bao, nó quơ lá khô vào bao. Tôi đến bên cạnh:

- Bạn đem bán hả?

- Đem về chụm thay củi, đỡ tiền dữ lắm đó. Hốt xong, mình đi bán vé số.

- Vậy là buổi tối bạn rảnh phải không? Bạn đi học lớp đêm đi. Đó là lớp dành cho những người bạn nghèo như bạn đó.

- Chi vậy, lợi lộc gì đâu?

- Có chứ, đặng giỏi như ba bạn, đặng có thể kiếm được một nghề gì đó khi ra trường. Hổng lẽ bạn đi bán vé số suốt đời?

Thấy nó có vẻ nghĩ ngợi, tôi liền trổ tài thuyết phục:

- Đi học vui lắm. Biết nhiều điều hay lắm kìa.

- Không tin. Đâu, kể thử một chuyện coi!

- Nhưng nếu hay thì bạn phải hứa là đi học nghe.

Bốn Màu gật đầu, đưa tay ra ngoéo tay tôi. Tôi liền kể:

- Ngày xưa, ở một vùng đất bên Hy Lạp có tục lệ rất kỳ cục. Họ hay đãi ăn. Nhưng nếu buổi tiệc nào có vua dự thì không được phép lật con cá lên để ăn. Ai trái lệnh sẽ bị chém đầu vì họ cho rằng đây là biểu hiện của người định tạo phản. Một hôm, vua nước Pháp là Charlemagne cử một vị đại sứ sang Hy Lạp để thương lượng chuyện ban giao hai nước. Vua Hy Lạp cho mở tiệc chiêu đãi sứ thần. Thức ăn dọn lên ê hề trong đó có một con cá hấp to tướng với nhiều gia vị thơm lừng. Sứ thần thích quá, liền lật con cá lên định xắn một miếng thì… tất cả quan triều liền đứng bật dậy, giận dữ xin nhà vua chiếu theo phép nước mà trừng trị. Đức vua nở môt nụ cười nham hiểm. Ngài phán:

- Này, sứ thần, ta biết làm sao hơn. Ta muốn cứu đại sứ nhưng không thể làm ngược lại luật lệ nước ta. Thôi thì trước khi ngài chết, ta ban cho một ân huệ. Ta sẽ làm cho ngài hài lòng, dù khó đến đâu, ta cũng chiều, trừ việc xin được sống.

Ngừng kể, quay sang Bốn Màu, tôi hỏi:

- Theo bạn, vị đại sứ kia có chết không?

- Không.

- Ồ, bạn thông minh lắm. Tại sao bạn đoán như vậy?

- Nếu ông ta chết thì còn đố làm chi. Bạn kể tiếp đi, chuyện tới lúc hồi hộp quá.

Sứ thần không hề run sợ. Ông ta nghĩ ngợi một hồi rồi tâu:

- Tâu bệ hạ! Thần không dám trái ý bệ hạ và các triều thần. Thần chỉ xin một điều “Hãy móc mắt những ai trông thấy thần lật con cá!”

Bốn Màu vỗ tay reo lên:

- Vậy là các quan lẫn ông vua đều bị móc mắt!

- Trật lất! Mấy ông đều chối là không nhìn thấy vị đại sứ lật con cá. Buồn cười nhất là vua chối kịch liệt hơn cả các quan. Và, bấy giờ con người thông minh ấy đưa ra kết luận “Không ai nhìn thấy thần lật con cá. Vậy là thần vô tội!”. Vua nước Hy Lạp đành để sứ thần an toàn trở về nước.

Tôi cũng đưa ra kết luận:

- Hồi nãy bạn bảo chuyện này hay, vậy bạn phải đi học.

Bốn Màu bật cười, gật đầu:

- Ừ, mình sẽ đi! Chắc mẹ mình vui lắm khi mình chịu đi học. Trước đây, mẹ mình cũng bảo dù nghèo cũng phải đi học cho biết chữ, cho ba vui lòng nơi suối vàng. Nhưng mình… làm biếng. Cảm ơn bạn nghe, bạn… “Cái đuôi gà mái”.

Tôi bật cười:

- Không có chi, bạn Bốn Màu. Tạm biệt bạn. Hẹn hôm khác sẽ gặp lại nhá.

Bốn Màu còn đang ngơ ngác thì tôi đã phóng đi. Con đường về nhà bỗng dưng đẹp lạ.

NGUYỄN THỊ MÂY

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 09.01.2016… ..................................... Vũ Thư Hữu .... 01

Vài chi tiết về số báo Xuân đầu tiên:

Số Xuân năm 1918 của báo Nam Phong ............. Vũ Anh Tuấn .... 05

Năm 2015 với CLB Sách Xưa & Nay .......................... CLB Sách Xưa & Nay .... 10

Nơi bắt đầu của Xuân Di Lặc .......................................................... Tâm Nguyện .... 12

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô

về “Chăm sóc ngôi nhà chung” ......... Lm.Aug. Nguyễn Văn Trinh dịch .... 22

Mừng Xuân Bính Thân: So sánh Quang Trung - Napoléon I .......... Phạm Vũ .... 33

Tết nghĩ đến người khác .................................................................... Bs.Doanlinh .... 43

Chú bé Puskin bước sang thế kỷ mới - thế kỷ 19 ............................ Thúy Toàn .... 44

Hương vị ngày Tết qua phong tục tập quán ............................ Hoàng Chúc st. .... 46

Bắt gặp mùa xuân ............................................................ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 50

Lan man về từ kỵ húy & ngôn ngữ của người Nam Bộ ............. Thiếu Khanh .... 58

Niềm tin (thơ) .................................................................................. Lê Thị Nguyên .... 78

Lửa hương (thơ) ............................................................................. Lê Thị Nguyên .... 79

Cầm tinh con khỉ (thơ) .................................................................... Tâm Nguyện .... 80

Bóng ngựa (thơ) ................................................................................ Thiếu Khanh .... 80

Quên - Đau - Thiếu - Cấm pháo (thơ) ........................................... Thiếu Khanh .... 81

Mừng Xuân Bính Thân (thơ) .......................................................... Lang Nguyên .... 82

Một sáng mùa Xuân (thơ) .............................................................. Lang Nguyên .... 82

Đón Xuân (thơ) .................................................................................. Thanh Châu .... 83

Tết về (thơ) ......................................................................................... Thanh Châu .... 83

Hoa đào mùa Xuân (thơ) ............................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 84

Gởi một người lìa bỏ quê hương (thơ) ............................. Mai Thị Thủy Hoa st .... 85

Câu chuyện mùa Xuân (thơ) .................................................... Quan Thúy Mai .... 87

Màu áo tím (thơ) ................................................................................ Bs.Doanlinh .... 89

Chân ơi ! (thơ) .................................................................... Nguyễn Thị Ngọc Vân .... 90

Chân ơi ! (nhạc) ....................................................................................... Cung Đàn .... 91

Tết thiên niên kỷ (thơ) .................................................................. Võ Kim Cương .... 92

Khói pháo hoa (thơ) ...................................................................... Võ Kim Cương .... 93

Xuân thắm tươi… (thơ) .................................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 94

Đón chào xuân (thơ) ........................................................ Phạm Thị Minh-Hưng .... 95

Tin xuân (thơ) ....................................................................................... Giáng Ngọc .... 95

Dáng Xuân (thơ) .................................................................................... Lê Nguyên .... 96

Hoa Tuyết (thơ) ..................................................................................... Lê Nguyên .... 96

Em có mang nắng vào nhà anh không ? (thơ) ................................. Lê Nguyên .... 97

Yêu sách (thơ) ............................................................................... Phùng Chí Tâm .... 98

Hạnh phúc (thơ) ............................................................................ Phùng Chí Tâm .... 98

Ngắm Xuân qua (thơ) ............................................................................. Đàm Lan .... 99

Mùa say (thơ) .......................................................................................... Đam Lan .. 100

Đợi chờ (thơ) ............................................................................................ Lam Trần .. 101

Giao lưu (thơ) ...................................................................................... Quang Bỉnh .. 102

Chúc Tết Bính thân 2016 (thơ) ........................................................ Nhựt Thanh .. 102

Nhớ Quảng Ngãi (thơ) ......................................................... Trần Điềm Bá Mạnh .. 103

Gửi con (thơ) ................................................................................. Vũ Thùy Hương .. 105

Mừng Xuân mới (thơ) ....................................................................... Lê Minh Chử .. 106

Mong manh kiếp người (thơ) ........................................................... Lê Minh Chử .. 106

Xuân thiếu nữ (thơ) .................................................................................... Hoài Ly .. 107

Chờ anh mùa Xuân (thơ) .......................................................................... Hoài Ly .. 107

Mừng Xuân Bính Thân (thơ) .......................................................... Ngàn Phương .. 108

Chiều Xuân ngoại ô (thơ) ................................................................ Ngàn Phương .. 108

Ý Xuân (thơ) ..................................................................................... Ngàn Phương .. 109

Thơ Xuân viết trên núi Bài Thơ (thơ) .................................... Trần Nhuận Minh .. 110

A springtime poem written

beside the “Bài Thơ” (Poem) mountain (thơ) .......... Vũ Anh Tuấn dịch .. 112

Tết ở nhà vắng đàn ông ....................................................................... Dương Lêh .. 115

Ý nghĩa Tết Nguyên Đán ............................................... Đào Minh Diệu Xuân st .. 123

Mai ....................................................................................................... Lam Trần .. 127

Tình ý & ngôn ngữ của mỗi thứ hoa & từng sắc hoa… .... Hoàng Kim Thư st .. 132

Những điều trái ngược giữa Trung Quốc & Phương Tây ................. Bùi Đẹp st. 136

Vía Trời - Vía Đất ................................................................................ Nhựt Thanh .. 141

Tục lạ về xuân các nơi ................................................ Bs. Nguyễn Lân-Đính st. .. 143

Những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao quen dùng

nhưng thường bị sai ...................... Hà Mạnh Đoàn .. 146

Nụ cười Xuân ............................................................................ Hà Mạnh Đoàn st. .. 151

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ......... Thanh Châu dịch thuật .. 153

Truyện xưa tích cũ: Bánh chưng bánh dày ............................ Đỗ Thiên Thư st .. 158

Chiếc bánh chưng ................................................................................... Đàm Lan .. 161

Cuộc gặp đêm trừ tịch (kịch) .................................................. Giáng Ngọc (G.Đ.) .. 164

Người bạn bốn màu ................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 171

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế