Hiện có 9 người xem / 2339596 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 30/01/2016

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Phiên họp hôm nay đặc biệt họp sớm hơn 2 tuần so với những phiên họp bình thường vào ngày thứ bảy thứ hai trong tháng, lý do là vì nếu giữ đúng ngày họp như vậy, thì sẽ chỉ mới là sau Tết ta có mấy ngày và ai nấy còn đang bận ăn Tết. Trong phiên họp hôm nay có một khách mời là chị Võ Ngọc Vân một nữ ca sĩ tài tử, nên chị Vân đã được mời lên nói đôi lời tự giới thiệu với các thành viên. Sau đó, như thường lệ Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên một cuốn sách và một bộ cổ thư. Cuốn sách được giới thiệu là một dạng truyện cho thanh thiếu niên mang tựa đề là “Chú Thủy Thủ Nhỏ Dũng Cảm” (Un Vaillant Petit Mousse). Cuốn truyện mạo hiểm này do nhà xuất bản lừng danh Hachette của Pháp ấn hành vào năm 1925 (91 năm trước), và tuy chỉ dày có 33 trang, nhưng có một bìa mềm được minh họa ở trong, mà bên ngoài còn có thêm một bìa cứng mang tên cuốn truyện và nhà xuất bản, trông thật trang trọng. Đây là một cuốn trong bộ “Những truyện ngắn hay nhất” của nhà xuất bản Hachette. Ngoài việc được trình bày trang trọng với hai lần bìa, cuốn truyện mạo hiểm li kỳ này còn được minh họa bởi những minh họa rất đẹp.

Bộ sách 2 tập được giới thiệu sau đó là một bộ sách về “Cuộc Chiến ở Bắc Kỳ” (La Guerre du Tonkin), cả hai tập dày 1.022 trang và có trên 200 minh họa bằng bút sắt, nhiều bức chiếm nguyên một trang, và một số bức chiếm luôn hai trang liền nhau. Bộ sách kể lại khá chi tiết mọi nguyên nhân, diễn tiến của cuộc chiến, mọi cuộc đánh phá và tiến chiếm các thành trì, như thành Huế, thành Nam Định, thành Hải Dương vv… Điểm đặc biệt thích thú là những minh họa cho biết dung nhan tất cả các nhân vật dính líu tới cuộc chiến này, các quân nhân cao cấp, các chính trị gia, các Toàn Quyền, các tướng lãnh Giặc Cờ Đen, Cờ Vàng, các binh lính Việt Nam thời đó, các quan chức lớn triều đình Huế, chân dung Minh Mạng v.v… Và điểm độc đáo nhất mà chắc chắn chưa có sử gia nào người mình, cũng như phần lớn các sử gia Pháp đã biết là “chân dung, ngày mất, nơi mất của 21 liệt sĩ Pháp đã bỏ mình vì tổ quốc trong Cuộc Chiến ở Bắc Kỳ này. Người viết là kẻ suốt đời “chỉ có Chính Em” cực ghét cô Chị (Chính Trị)… ít thơm, nhưng lại thích bộ sách này vì những tư liệu và hình ảnh quý giá mà nó cung cấp cho các nhà nghiên cứu lịch sử. Sau phần giới thiệu, cuốn sách và bộ sách được một số thành viên chuyền tay nhau xem.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách, chị Tâm Nguyện đã lên đính chính về việc bài Xuân và Tuổi Trẻ là do nhạc sĩ La Hối viết nhạc, và lời Việt là của nhà văn Thế Lữ, chứ không phải nhạc do một người Hoa nào đặt. Tiếp lời chị Tâm Nguyện, anh Bá Mạnh đã lên nói và phân tích về các loài hoa một cách rất hấp dẫn người nghe. Sau anh Bá Mạnh, anh Dương Lêh lên nói về một số kỷ niệm với một nhóm bạn mang tên là nhóm Dã Quỳ, và kể lại vài kỷ niệm về ngày anh gặp chị Dương Lêh. Sau anh Dương Lêh, anh Chử lên hát thơ tặng các thành viên bài Đất Nước vào Xuân. Tiếp lời anh Chử, chị Ngọc Vân, vị khách mời, lên kể chuyện chị phổ nhạc một bài thơ và hát tặng các thành viên bài Buồn Tàn Thu của cố nhạc sĩ Văn Cao. Sau chị Ngọc Vân, chị Hoài Ly lên hát tặng các thành viên một bài hát về mùa Xuân. Tiếp theo là chị Kim Sơn lên chúc Tết và hát tặng các thành viên bài Đón Xuân của Phạm Đình Chương trong Ban Hợp Ca Thăng Long. Tiếp lời chị Kim Sơn, anh Bá Mạnh lên nói qua về bài thơ Nhớ Quảng Ngãi. Sau anh Bá Mạnh, anh Quang Bỉnh lên ngâm tặng các thành viên bài thơ Sống Vui, Sống Khỏe, Sống Đời.

Cuộc họp kết thúc trong niềm vui chung của các thành viên lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ CUỐN QUÝ THƯ

VIẾT BẰNG PHÁP VĂN VÀ XUẤT BẢN NĂM 1942

CỦA TÁC GIẢ LA GIANG VŨ NGỌC LIỄN

Tôi có được cuốn quý thư này trong một chuyến đi xa, hình như đi Long An thì phải, và giá phải trả chỉ là vài trăm đô mít, nhưng tính cả tiền thuê bao taxi đi về trong ngày, thì lại thành cả trăm đô mẽo, tuy nhiên tôi vẫn rất thích cuốn sách và cho là mình rất hên nên mới gặp “nàng”. Người đời chỉ thường biết tác giả La Giang Vũ Ngọc Liễn (1924-2013) như một nhà nghiên cứu hàng đầu về sân khấu truyền thống, và ông còn được biết dưới danh hiệu nhà Đào Tấn học. Tuy nhiên, rất ít người biết là, vào năm 1941 , ông còn viết được bằng Pháp văn, một thứ Pháp văn rất chuẩn và trong sáng, cuốn Phong Tục và Tập Quán Việt Nam (M œ urs et Coutumes du Viet Nam) này. Hồi mới có, tôi có lướt qua và rất thích, nhưng vì bận rộn nên mới đây tôi mới có thì giờ đọc hết, và vì đọc cuốn này, tôi mới biết là người Việt mình rất giàu có về phong tục tập quán, rất hay, rất thâm thúy, không thua một dân tộc nào trên hoàn vũ về mặt này. Thấy cuốn sách quá hay, hôm nay tôi xin giới thiệu qua và chia sẻ cuốn quý thư với quý bạn.

Cuốn sách này được xuất bản năm 1942, do Phạm-Huy-Nghiên và Công Ty Xuất Bản, và được in ở Nhà In Hà Nội, số 85 phố Hàng Bông. Sách khổ 14x22 và dày 220 trang. Nội dung gồm một Lời nói đầu của chính tác giả và bốn chương và phần Phụ Lục nơi cuối sách.

Chương 1 .- Nói về sự sinh đẻ gồm nhiều tiểu mục:

- Sự mắn đẻ và sự hiếm muộn.

- Nghi lễ cầu tự.

- Việc mang thai.

- Việc sinh nở.

- Các phương cách chăm sóc đứa nhỏ mới chào đời.

- Lễ đày cữ.

- Việc đặt tên cho đứa nhỏ sơ sinh.

- Thói tục “kiêng tên”.

Chương 2 .- Nói về ấu thời và thiếu thời gồm các tiểu mục:

- Việc bảo vệ đứa trẻ sơ sinh.

- Việc dâng đứa nhỏ cho thần thánh hay cho Phật.

- Thói tục “bỏ chợ”.

- Việc nuôi con nuôi.

- Việc giáo dục sơ khởi dành cho đứa nhỏ.

- Lễ “khai tâm”.

- Các điều cậu học trò nhỏ cần làm.

- Các ông đồ hay thầy đồ.

- Các em đồng môn.

- Các trình độ khác nhau của nền giáo dục truyền thống.

- Các cuộc thi cử chính thức.

- Hương - thi.

- Hội - thi.

- Đình - thi.

- Hương - thi hay Thi Hương được tổ chức như thế nào?

- Thành phần Giám khảo.

- Trường thi.

- Việc loan báo danh tánh các tân khoa.

- Lễ “bái mạng” và bữa tiệc mừng các tân khoa.

- Thi Hội hay Thi Đình được tổ chức ra sao?

- Lễ Vinh Quy Bái Tổ.

- Việc Thi Võ.

Chương 3 .- Nói tiếp về ấu thời và thiếu thời gồm các tiểu mục dưới đây:

- Việc cưới hỏi.

- Tuổi trẻ Việt Nam (lúc đó gọi là Annam) và chuyện cưới xin.

- Những bức tình thư và những lời thề thốt.

- Các Nghi Lễ Hôn Phối.

- Lễ “Chạm ngõ”.

- Lễ “Ăn giạm” hay “Vấn danh”.

- Lễ “Ăn hỏi” hay “Nạp thái”.

- Lễ “Đón dâu” hay “Nghinh hôn”.

- Lễ “Nhị hỷ” hay “Tứ hỷ”.

- Chuyện thê thiếp và con riêng.

- Chuyện “Đa thê”.

- Việc lấy vợ hay lấy chồng ngoại.

Chương 4 .- Nói về Tuổi già và Tử biệt gồm các tiểu mục:

- Sự “trường thọ”

- Lễ “Thượng thọ”.

- Lễ “Yến lão”.

- Việc săn sóc các người trọng tuổi ở Việt Nam.

- Quan niệm về cái chết của người Việt Nam (lúc đó viết là Annam).

Và nói về Các Nghi lễ tống táng gồm các tiểu mục:

- Việc liệm xác.

- Các tang phục.

- Lễ “Thành phục”.

- Tang lễ.

- Việc chọn lựa nơi chôn cất.

- Tục “Quàn thần”.

- Các cách phúng điếu.

- Bữa ăn trong lễ tang.

- Các lễ “Chuyển cữu” và “Yết tổ”.

- Đoàn xe tang và chuyện chôn cất.

- Nhà trạm và Đề chủ.

- Lễ “hạ huyệt”.

- Lễ “ngu tế”.

- Lễ “tứ cửu”.

- Lễ “làm chay”

- Lễ “trừ phục”.

- Lễ “đốt mã”

- Lễ “cải táng”.

Cuối cùng là Phần Phụ Lục gồm các tiểu mục:

- Bài viết về “Nguyệt lão”.

- Bài Văn tế Tơ hồng.

- Huyền thoại về nhai trầu.

- Văn tế đám ma.

- Văn chúc thọ.

Đây quả là một quý thư nhắc lại và chỉ dẫn cho chúng ta biết rất nhiều phong tục tập quán của người mình mà ngày nay, nhất là giới trẻ ngày nay, còn rất ít người nhớ tới. Cuốn sách viết bằng Pháp văn rất trong sáng này, theo người viết, rất là có ích cho các nhà nghiên cứu… biết tiếng Lang Sa vậy…

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chươngVI

VŨ ANH TUẤN


THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG

Bản dịch của Linh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 117)

CHƯƠNG MỘT

TẤT CẢ NHỮNG GÌ ĐANG DIỄN RA TRONG NGÔI NHÀ CỦA CHÚNG TA

17. Những suy tư thần học hay triết học về tình trạng con người và vũ trụ xem ra chỉ có thể là những sứ điệp lập lại và trừu tượng, nếu như chúng không đối mặt một cách mới mẻ với liên hệ hiện hành, khi nhìn vào những gì chưa hiện diện nhưng cần thiết cho lịch sử nhân loại. Vì thế, trước khi nhìn xem niềm tin mang đến cho chúng ta những động lực và những đòi hỏi mới mẻ khi đối diện với thế giới mà chúng ta đang sống, Tôi xin đề nghị dừng lại một chút để nhận ra những gì đang diễn ra trong ngôi nhà chung của chúng ta.

18. Việc gia tăng liên tục làm thay đổi nhân loại và hành tinh, ngày nay liên kết với sự căng thẳng chu kỳ sống và làm việc, trở thành một hiện tượng được gọi là “rapidación”. Khi việc thay đổi này là một phần động năng của hệ thống phức tạp, thì vận tốc đòi buộc hoạt động của con người cũng gia tăng, sẽ đi ngược với sự chậm chạp tự nhiên của sự phát triển sinh học. Thêm nữa, vấn đề, mục đích sự thay đổi thật nhanh và kiên vững không bắt buộc phải nhắm vào lợi ích chung và vào sự phát triển lâu dài và trọn vẹn toàn thể nhân loại. Sự thay đổi có thể là một điều đáng ước muốn, nhưng lại gây bất ổn, nếu như nó tạo sự suy thoái cho vũ trụ và phẩm chất sống của một phần lớn nhân loại.

19. Sau một thời gian tin tưởng thật phi lý vào sự phát triển và khả năng của con người, hiện tại một phần xã hội đã bước vào giai đoạn ý thức mạnh mẽ. Đó là một cảm nghiệm tăng dần đối với môi trường và việc chăm sóc thiên nhiên, một sự chăm sóc đích thực và khổ đau về những gì đang diễn ra cho hành tinh của chúng ta. Chúng ta nên có một cái nhìn – cho dù không đầy đủ – về những vấn nạn hiện tại làm cho chúng ta bất an và chúng ta không thể dửng dưng bỏ qua. Mục đích không phải để tổng hợp các hướng dẫn hay thỏa mãn sự hiếu kỳ của chúng ta, nhưng đón nhận một ý thức đau khổ, để dám xem những gì đang diễn ra trong thế giới thành nỗi lo âu của cá nhân và nhận thức sự đóng góp của chúng ta có thể mang đến.

I. SỰ Ô NHIỄM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Sự ô nhiễm, rác rưởi và văn hóa loại trừ

20. Có nhiều hình thức ô nhiễm gây tai hại từng ngày cho con người. Những chất gây nguy hại được tung vào không khí, minh chứng một loạt tác hại trên sức khỏe – đặc biệt cho những người nghèo nhất – đưa đến hàng triệu trường hợp chết chóc rất sớm. Những con người này bị bệnh, tỉ như vì phải thở bụi khói ở mức độ cao của những chất liệu bị đốt cháy, được sử dụng để nấu nướng hay sưởi ấm. Thêm nữa, sự ô nhiễm gây tai hại cho tất cả do các phương tiện giao thông hay do khí thải công nghiệp, do chôn cất những chất liệu gây axít hóa đất đai cũng như nguồn nước, do phân bón, tiêu diệt côn trùng, diệt nấm, diệt cỏ và nói chung là các hóa chất nông nghiệp độc hại. Một thứ kỹ thuật gắn liền với tài chính, cho rằng đây là cách giải quyết duy nhất, trong thực tế, không có khả năng nhìn thấy điều thâm sâu của các liên hệ đa dạng, giữa mọi thứ, và vì thế đôi khi một vấn đề lại tạo nên vấn đề khác.

21. Chúng ta phải nhìn vào sự ô nhiễm do rác thải gây nên, gồm cả các chất cặn bã nguy hiểm có mặt trong nhiều vùng khác nhau. Mỗi năm có hằng trăm triệu tấn rác thải được tung ra, mà phần đông không phải do rác sinh học: rác thải trong gia đình và chợ búa, rác thải do xây dựng, do bệnh viện, điện khí, kỹ nghệ, nhất là những rác thải độc hại và phóng xạ. Ngôi nhà trái đất của chúng ta, càng ngày càng trở nên một bãi rác khổng lồ. Trong nhiều vùng trên trái đất, những người già thường nhớ đến những cách đồng như thuở xưa, nay thì tràn đầy rác rưởi. Cũng như rác thải công nghiệp do những sản phẩm hóa chất được sử dụng trong làng mạc hay nơi đồng áng có thể gây nên hậu quả gia tăng chất hóa học trong cơ thể của người dân chung quanh, cũng như đưa đến những yếu tố độc hại cho một nơi thấp hơn. Thường người ta cũng phải đo lường mức độ hậu quả trên sức khỏe con người không còn có thể đảo ngược lại được.

22. Những vấn đề này kết chặt với thứ văn hóa đào thải (Wegwerfkultur – la culture du déchet) ảnh hưởng đến những con người bị loại thành rác rưởi. Tỉ như chúng ta ý thức một phần lớn giấy tờ được sản xuất, bị phung phí và không còn giá trị gì nữa. Thật cũng khó cho chúng ta khi phải suy nghĩ các phận vụ của hệ thống sinh thái như mô mẫu: cây cỏ tổng hợp những chất lương thực cho loài ăn cỏ; loài này đến phiên mình cũng làm như thế cho loài ăn thịt, loài này sản xuất ra một số cặn bã hữu cơ, giúp cho cây cỏ lớn lên. Ngược lại hệ thống công nghiệp vào cuối chu kỳ sản xuất và tiêu thụ không có khả năng hòa nhập và tạo lại giá trị cho cặn bã và rác thải. Người ta cũng không thể bảo đảm trong chu kỳ sản xuất đảm bảo được tài nguyên cho mọi người và cho những thế hệ tương lai và giả thiết phải ngăn chận tối đa việc sử dụng tài nguyên, gia tăng tính hữu dụng các khám phá, tái sử dụng và quay vòng chu kỳ. Đối mặt với vấn nạn này sẽ là con đường đối mặt với thứ văn hóa đào thải, cuối cùng gây tai họa cho cả hành tinh chung. Chúng ta xác định, phát triển theo nghĩa này sẽ rất thấp.

Khí hậu là tài sản chung

23. Khí hậu là tài sản chung của mọi người và cho mọi người. Trên bình diện toàn cầu, đó là một hệ thống phức tạp, liên hệ thật cơ bản đến cuộc sống con người. Có một sự nhất trí cao dựa theo khoa học, để xác nhận rằng hệ thống khí hậu của chúng ta đang bị đun nóng gây nhiều lo lắng. Trong những thập niên cuối cùng, việc đun nóng này làm mặt nước biển liên tục dâng cao cũng liên kết việc gia tăng sự biến động khí hậu cực đoan, ngoài ra, người ta không thể gán nguyên nhân khoa học cho từng hiện tượng xác định. Nhân loại được kêu gọi phải ý thức, cần thực hiện sự thay đổi lối sống, sản xuất và tiêu thụ, để chống lại việc đun nóng hay những nguyên nhân do con người đã gây nên hay làm gia tăng. Thật vậy, còn nhiều động lực khác (như núi lửa, sự thay đổi quy trình chuyển động của trái đất và trục trái đất, chu kỳ mặt trời), nhiều tham luận khoa học cho thấy, phần lớn việc đun nóng toàn cầu trong thập niên cuối, đều dẫn đến sự tập trung các khí thải (thán khí, m ê-tan, ôxít nitrogen và nhiều loại khí khác) do hoạt động của con người thải ra... Nếu chúng cứ tập trung vào bầu khí quyển, sẽ ngăn chận sức nóng của các tia mặt trời phản chiếu trên mặt đất, không đi vào không gian được. Điều này còn do việc gia tăng cách thức phát triển dựa trên việc sử dụng tối đa các tài nguyên trong lòng đất, để gia tăng hệ thống năng lượng toàn cầu. Việc sử dụng đất đai, nhất là nạn phá rừng vì mục đích nông nghiệp, cũng tạo nên sự thay đổi này.

24. Đến lượt mình, việc đun nóng ảnh hưởng đến chu kỳ của thán khí. Do đó tạo nên một vòng ma quái, tiếp tục làm cho hoàn cảnh trầm trọng thêm, gây ảnh hưởng trên việc sử dụng tài nguyên tất yếu như nước uống, năng lượng và sản phẩm nông nghiệp trong những vùng thật nóng và làm mất đi một phần lớn sự đa dạng sinh học của hành tinh. Qua việc tan chảy các tảng băng ở các cực và ở những vùng núi cao gây việc thải khí mêtan ở mức độ cao, và tan rã các chất liệu cơ học đông lạnh có thể nâng cao việc dâng trào thán khí điôxít. Việc biến mất các rừng nguyên sinh nhiệt đới đến phiên mình cũng làm xấu đi tình trạng này, vì chúng giúp điều độ việc biến đổi khí hậu. Việc ô nhiễm do thán khí điôxít sẽ làm thêm độ axít hóa các đại dương, gây nguy hại cho chuỗi lương thực trên biển. Nếu xu hướng hiện tại vẫn tiếp tục, thế kỷ này sẽ chứng kiến không những sự biến đổi khí hậu và sự tàn phá vô tiền khoáng hậu hệ thống môi sinh, đưa đến nhiều hậu quả năng nề cho chúng ta. Tỉ như việc mặt nước biển dâng cao, có thể tạo những hoàn cảnh nặng nề nhất, nếu người ta suy nghĩ đến một phần tư dân chúng sống trực tiếp hay gần biển và một số đông các thành phố lớn ven biển.

25. Việc thay đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu với phương diện môi trường trầm trọng về những chiều kích xã hội, kinh tế, phân phối và chính trị; nó đưa ra một thách đố quan trọng nhất trong hiện tại cho nhân loại. Những hậu quả xấu nhất có thể xảy ra trong những thập niên tới nơi những nước phát triển. Nhiều người nghèo sống trong những vùng mà những hiện tượng này xảy đến, liên kết với việc biến đổi khí hậu và các phương tiện để bảo đảm cuộc sống của họ gắn chặt vào những tài nguyên tự nhiên và những chuyển biến sinh thái như nông nghiệp, ngư nghiệp và nguồn lợi từ rừng. Họ không có những hoạt động tài chính và những tài nguyên khác, giúp họ vượt qua ảnh hưởng của khí hậu hay tai họa, họ cũng khó tiếp cận đến chương trình xã hội và bảo vệ. Những thay đổi khí hậu cũng tạo nên, tỉ như, việc di tản thú vật và cây cối, không còn khả năng thích ứng và như thế cũng gây tác hại cho nguồn sản xuất của người nghèo nhất là những người cũng cần đến di tản, thật bất định khi nhìn đến tương lai và con cái của họ. Việc gia tăng người di tản thật thương đau, họ phải trốn chạy trước khốn khổ, do việc tàn phá môi trường càng ngày càng tệ hại hơn, và những người chạy trốn này không được công nhận là người di tản, họ phải gánh cuộc sống trong sự bị bỏ rơi không có chút che chở nào theo pháp lý. Buồn thay, có một sự dửng dưng trước sự bi đát này đang diễn ra trên những phần xác định của thế giới. Sự thiếu sót về mặt phản ứng trước bi kịch này của anh em, chị em của chúng ta là một dấu chỉ đánh mất cảm nghiệm về trách nhiệm với tha nhân, mà xã hội phải được xây dựng dựa vào đó.

26. Rất đông người nắm nhiều tài nguyên, quyền lực tài chính và chính trị, xem ra chỉ muốn tập trung vào việc che đậy vấn đề hay giấu nhẹm các hiện tượng, họ cố tìm cách đúc kết vào vài hậu quả tiêu cực của việc biến đổi khí hậu. Nhiều hiện tượng cho thấy, các hậu quả càng ngày càng xấu hơn, nếu chúng ta cứ chạy theo cách sản xuất và thói quen tiêu thụ. Vì thế điều khẩn cấp là phải triển khai chương trình chính trị, để trong các năm tới giảm bớt việc thải chất thán khí điôxít và những khí thải độc hại, tỉ như thay thế việc đốt các chất liệu năng lượng và phát triển nguồn năng lực có thể tái chế. Trong thế giới, năng lượng sạch và có thể tái chế còn rất ít. Cần phải phát triển kỹ thuật tương xứng để cung cấp. Dù vậy, một số nước đã bắt đầu có những tiến bộ, nhưng vẫn còn xa khi muốn đạt tới trình độ đầy đủ. Cũng có vài đầu tư trong cách sản xuất và chuyên chở, sử dụng ít năng lượng và chất liệu thô, như trong việc xây dựng hay tu bổ nhà cửa để tạo hiệu quả cho việc sử dụng năng lượng. Nhưng những thực hành tốt đẹp này vẫn chưa được phổ biến.

(còn tiếp)

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)

CUỘC ĐỜI VẪN ĐẸP

Thời gian gần đây, bên cạnh những thông tin đánh nhau, cướp của, giết người, nơi nào cũng có, từ nông thôn hẻo lánh cho đến ngay giữa phố đông người ngày nào cũng giật tít to đùng trên báo chí làm cho chúng ta hoang mang, thấy cuộc sống sao mà bất ổn, thì cũng có những thông tin đáng yêu về cách sống được để trong ngoặc kép “chỉ có thể là người Saigon”, làm tôi, một người con của Miền Tây đã chọn Saigon làm nơi định cư từ cách nay hơn nửa thế kỷ cũng thấy tự hào lây.

Không tự hào sao được, vì chịu khó gom lại từ nhiều nguồn mà xem. Có rất nhiều nơi, không ai bảo ai mà cùng làm giống nhau. Lúc đầu thì thưa thớt, nhưng dần dà thấy xuất hiện ngày càng nhiều hơn: Đó là những bình trà đá mát rượi với hai chữ “MIỄN PHÍ” nằm ở ngay ngã tư hay một con phố nào đó đông người qua lại, rất dễ thấy, mà bất cứ ai đi ngang qua cũng có quyền dừng lại rồi tự lấy chiếc ca để sẵn đó, uống thỏa thích cho mát lòng để tiếp tục cuộc hành trình mưu sinh có thể kéo dài đến tối mịt mới quay về nhà. Với nhiều người thì ly trà đá chẳng đáng là bao, nhưng với những người lao động, bán hàng rong, mua ve chai, chạy xe ôm, bán vé số... cả ngày quanh quẩn ngoài đường dưới sức nóng của những con đường nhựa như thiêu, thì nếu phải bỏ tiền ra để chế ngự cơn khát bằng một ly trà đá, tối thiểu là 1 ngàn đồng cho mỗi lần, thì ngày đó họ đã dành được một con số kha khá đối với họ, cho những chi tiêu cần thiết khác cho gia đình.

Nói rằng “Người Saigon”, thực tế hình như người sinh trưởng ở Saigon không đông bằng những người dân tứ xứ đến đây, rồi “đất lành chim đậu”, chọn Saigon làm nơi để sinh sống. Có một chi tiết khá buồn cười khi nói về người Saigon, là cách đây gần 50 năm, khi tôi là nhân viên Ngân h àng BFC của Pháp, làm ở trụ sở chính nằm ở đường Hàm Nghi. Lúc đó, riêng nhân viên nữ ở đây chắc cũng phải hơn 40 người. Trong đó có 3 người chính gốc, sinh đẻ tại Saigon, là chị Dung, chị Ngàn, và chị Huệ. Tất cả đều nói tiếng Tây như gió, nhưng đều bới tóc và ăn mặc rất giản dị. Áo dài thường là trắng trơn, hoặc màu nhạt, trang nhã. Nếu có hoa thì cũng nho nhỏ. Trang điểm thì cũng rất ít. Chỉ là chút son trên môi mà thôi, không kẻ lông mày, không đánh phấn và tô phấn hồng, trong khi bọn từ tỉnh xa đến như tụi tôi thì tất cả đều uốn tóc, son phấn đậm hơn và mặc áo dài hoa hòe hơn. Có người còn diện cả áo đầm! Chính bọn tôi phát hiện điều đó và cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao!

Có người bảo, không cần có nghề nghiệp gì, chỉ cần 1 cái bọc và chịu khó dậy sớm, lục lọi trong những thùng rác loanh quanh trên những con phố ở Saigon cũng kiếm được bữa cơm đủ no lòng cho một gia đình nghèo. Vài lon bia, dăm cái chai không, một số mủ bể, vài cái thùng giấy thì thùng rác nào cũng có. Người đi lượm ve chai thường phối hợp với một cái cân và chỉ cần một chiếc xe đạp cùi, chạy vòng quanh các khu phố. Nếu gặp khu nào không có những nhà khá giả mang những thứ đó đi vất, mà gom lại, khi được số kha khá mới bán, thì họ mua. Tranh thủ vừa nhặt, vừa mua, khi cột đầy sau xe thì mang tới các vựa thu mua ve chai bán lại, cũng kiếm được một số, trở thành một nghề cho đội quân nhặt ve chai từ nhiều tỉnh dạt về.

Saigon đông dân cư, dễ tìm việc, dễ sống, nên dung chứa đủ mọi hạng người. Từ các bậc trí thức dạy ở các Trường học, Công, Tư chức, cho đến công nhân, người lao động, người bán hàng dạo. Vì thế, ngày cũng như đêm, ra đường lúc nào ta cũng thấy xe cộ dập dìu. Nhạc sĩ Y Vân đã viết: “Saigon đẹp lắm, Saigon ơi, Saigon ơi” và cách đây hơn 60 năm tôi đã được nghe cha tôi hát, không biết tác giả là ai, và chắc giờ này cũng ít người còn nhớ, nhưng nói về đường phố Saigon: “Ai đâu xa đến Thành Saigon thế nào cũng tưởng sướng nhất. Có đâu dè phải lo. Ngó ra đường phải ghê. Đường đi thêm quanh co. Còn phải ngó tránh xe”. Và ca tụng phụ nữ Saigon: “Thành Saigon chứa nghìn nghìn điều, nào là jupe cùng là bùng rền. Người đàn bà ở xứ này mới nhìn tưởng đâu là tiên giáng trần”. Người Saigon không cần ra khỏi nhà cũng có thể mua được thực phẩm, vì từ sáng sớm, những người bán hàng đã gánh đến từng khu phố. Người có xe thì thồ hàng hóa chạy vòng vòng các con hẻm. Từ thịt, cá, tôm tép, rau, quả cho đến vật dụng dép nhựa, bàn chải, khăn lông, bánh quà vặt, nên từ sáng đến tối lúc nào cũng nghe tiếng rao. Rồi những hàng ăn bán tới khuya cho người ăn muộn chưa kịp dọn về thì những hàng bán sớm đã đẩy ra, nên Saigon như một Thành Phố không ngủ.

Nói về tấm lòng hào hiệp của Người Saigon thì khó mà kể cho hết. Nhiều năm trước đã có những quán cơm 2.000đ mỗi tuần mấy ngày, mở nhiều điểm trong Thành Phố làm nức lòng những người tha phương cầu thực. Họ mừng biết mấy vì đỡ tốn bữa cơm nào là số tiền chắt chiu của họ được dôi ra thêm chút đó. Tính hết các quán cơm Từ Thiện cả Chay l ẫ n mặn thì con số đã trên 20 điểm. Tín hiệu vui là lòng tốt đó làm cho một người nước ngoài cảm kích. Một ông người Mỹ về hưu đã bỏ ra mấy tháng để đến làm phục vụ, bưng cơm cho một quán cơm Từ Thiện. Ở Hẻm 96 đường Phan Đình Phùng Phú Nhuận thì có Tủ Thuốc Từ Thiện nằm ở đó nhiều năm mà người nghèo chung quanh đều biết.


Đầu năm 2016 Saigon lại có thêm “Bánh Mì miễn phí”. Mỗi người được lấy 1 ổ để trong cái thùng kính trong vắt, có khoét lỗ đủ để cho tay vào lấy ra 1 ổ bánh mì vàng rượm, thơm phức! Gần cuối năm mọi người lại thấy được thông tin vô cùng xúc động: Những chồng túi gạo, chắc cỡ 5 ký, chất trên một chiếc bàn để ở ngoài đường của Giám Đốc một bệnh Viện Đa Khoa nào không cho biết danh tính, cho Bảo Vệ đứng để phát cho người đến xin để ăn Tết. Có người sợ không cho nên còn dè dặt hỏi là họ có thể xin được không? Gần Tết mà thấy những thông tin như vậy thật là ấm lòng, còn hơn là chính mình được ai tặng cho một phần quà thật ý nghĩa để Ăn Tết!

Nhưng theo tôi, đó mới chỉ là một số bề nổi của những việc tốt mà báo chí khám phá rồi đăng lên, còn một số khác, âm thầm kết hợp với nhau thành những nhóm nhỏ nên chúng ta không được biết và thấy rằng đa số họ chẳng phải giàu tiền giàu bạc. Bản thân họ có thể vẫn còn đang làm việc, dạy học, dạy kèm, lãnh lương hàng tháng, không phải là đại gia. Họ chỉ giàu từ tâm, muốn san sẻ bớt cho những hoàn cảnh kém may hơn họ mà thôi. Có người cũng nghèo, làm nghề vá giày cũ, nhưng để thêm tấm bảng “vá giày, dép miễn phí cho người nghèo”. Có người âm thầm tổ chức nấu những bữa cơm, cháo từ thiện để mang đến cho những Bệnh Viện, vì nơi đó rất đông thân nhân nghèo đến ăn chực nằm chờ để nuôi bệnh. Họ là người nghèo tứ xứ, nên những phần cơm, cháo đó làm cho họ ấm lòng biết bao nhiêu. Đỡ một phần chi phí cho những gia đình vốn đã xác xơ, phải tằn tiện từng đồng, vì phải chi trả bao nhiêu tiền thuốc men, viện phí trong một thời gian dài. Các Tỉnh Thành Phố khác cũng không kém cạnh: Hà Nội có 4 quán cơm Từ Thiện, Phở Gà miễn phí ngày Chủ Nhật. Bún Bò Huế 1.000đ “Ngày Thứ Sáu sẻ chia” của chàng trai 8X. Nghệ An, Đà Nẵng, Cần Thơ, Đồng Nai cũng có những quán cơm như thế. Số khác không làm điều đó thì hùn nhau xây cầu, sửa đường, cất trường học cho những xã nghèo. Họ vui với cái vui của người nghèo khi bớt được một phần cơ cực trong cuộc sống cho họ.

Nhiều năm rồi, tôi có quen với một giáo viên Anh Văn trong nhóm Hiểu và Thương. Nhóm này gồm nhiều thành phần, trong đó có cả những giáo viên, công nhân viên, sinh viên, kết hợp với một số bạn bè, thân hữu ở nước ngoài. Họ thường xuyên làm Từ Thiện, nên hết năm này sang năm khác, cứ vài tháng một lần tôi được cho xem những clip, những hình ảnh khánh thành Cầu, Đường. Những buổi phát gạo, quần áo cũ, mền, áo lạnh, nước tương, mì gói, có khi còn kết hợp tặng xe lăn... Cứ thế, họ cứ đi hết Xã này đến Xã khác. Hết miền Tây lại lên Cao Nguyên, vào những xóm làng heo hút, mang những thứ thiết yếu đến với người nghèo. Tôi còn một người bạn khác là một giáo viên đã về hưu thì chuyên đi xây cầu cho những xã nhỏ thuộc Tỉnh Bến Tre. Gia đình cô bỏ ra một số, bạn bè góp vô, rồi người dân địa phương góp công sức. Cứ làm xong chiếc nào, cô lại chụp hình gởi cho những người đã đóng góp. Cách đây hơn 1 năm, gặp cô, tôi hỏi thăm thì được biết con số đã hơn 100. Trên facebook cũng có một thanh niên rất trẻ thường xuyên đưa những hình ảnh người bệnh nặng cần được giúp đỡ và nhóm của anh chàng thường xuyên đến với họ trong các Bệnh Viện. Nhóm cũng kêu gọi ai có muốn tham gia thì đóng góp, hoặc cùng đi với họ. Những nhóm này làm từ thiện một cách say mê, không cần ai biết tới, không cần ai chụp ảnh, quay phim, đăng báo, xuất phát từ tấm lòng yêu thương, muốn chia sẻ những đau khổ, khó khăn của người khác, thật là đáng ngưỡng mộ.

Nói về người tốt thì tôi thấy không riêng gì người Saigon. TV, báo chí cả báo mạng cũng viết về rất nhiều nơi. Có nhiều vị Thầy mở các lớp dạy học miễn phí cho các trẻ em nghèo. Có đôi vợ chồng nhận nuôi những người điên. Đôi vợ chồng khác lập nghĩa trang cho các thai nhi và còn mang về cưu mang một số các thiếu nữ nhẹ dạ bị bỏ rơi. Có người đã từng đi tù, nay trở về, lập nghiệp và thành công, mở lớp đào tạo tay nghề cho những thanh niên lỡ lầm như mình, đã cứu vớt biết bao nhiêu mảnh đời, vì nhiều trường hợp trên báo chí đã đăng thấy rất thương tâm. Lỡ sai phạm, bị vô tù, khi ra thì không ai dám thuê. Thất nghiệp, đói khổ, cái vòng lẩn quẩn lại kéo họ trở về con đường cũ vì xã hội không thể cưu mang xiết. Có những tấm lòng như thế thật là cần thiết cho đời biết bao nhiêu. Việc làm đó mang ý nghĩa rất lớn, không chỉ giúp cho bản thân những con người lầm lỡ mà xã hội cũng được nhờ, vì cải tạo một con người không chỉ bằng án tù, bằng nhà giam cho họ sợ, mà còn cần những bàn tay chìa ra, cho họ nắm lấy mà vươn lên thoát khỏi vũng bùn đã nhấn chìm họ lâu nay.

Rất nhiều, nhiều lắm, những việc làm tốt đẹp của nhiều người trên mọi miền đất nước mà ai biết được cũng vô vàn cảm phục. Có một số mà nếu nói theo kiểu lớp trẻ bây giờ thì phải gọi đó là những “Thánh Từ Thiện” mới đúng, vì bản thân họ một mình mà làm những việc to tát, như Ô. Đặng Hữu Nghĩa ở Tây Ninh, xây trường cả 8 tỷ, sửa đường, còn dự định mở Phòng Khám hàng chục tỷ nữa. Ở An Giang, có 2 người sắm xe Cứu Thương để chở người đi Cấp Cứu miễn phí mà khi cần thì bất cứ ai cũng được giúp, không phân biệt người địa phương hay khác vùng. Một trong 2 người, là ông Ngộ còn xây nhà, làm đường, xây cầu, xây nghĩa trang. Thu hoạch từ vụ lúa hàng năm của ông cũng bỏ vô cho việc Từ Thiện, trong khi bản thân chỉ ở nhà cấp 4. Ô. Đại ở Hà Tĩnh, vợ chồng dành dụm được hơn hai trăm triệu, dự định cất nhà, nhưng sau đó bàn nhau dùng số tiền đó để xây cầu cho bà con qua lại cho tiện lợi. Những người khác thì âm thầm hiến máu để giúp người, không cần biết người nhận thuộc thành phần nào trong xã hội. Rồi những Phòng Thuốc Từ Thiện mở ra khắp nơi, từ Bắc chí Nam chỗ nào cũng có. Bác Sĩ có, Đông Y Sĩ, Thuốc Gia truyền cũng có. Người không có tay nghề để hốt thuốc thì âm thầm đi thu gom và cung cấp cây thuốc cho các phòng Thuốc Từ Thiện. Rồi thì nhóm hiệp sĩ ở Bình Dương tự nguyện ngày ngày rong ruổi trên các tuyến đường để truy bắt những tên giật dọc, âm thầm bảo vệ cho người lưu thông trên đường phố dù không nhận được sự hỗ trợ nào. Một ông cụ ngày ngày đi lượm đá để đắp những ổ gà, ổ voi trên đường cho xe cộ đi qua không bị tai nạn... Tôi không thể nắm hết thông tin để kể ra cho đầy đủ, nhưng rõ ràng họ là những con người bình thường, nhưng hành động của họ đã vượt khỏi những ích kỷ, nhỏ nhen, thụ hưởng tầm thường của con người.

Ngoài những danh sách đóng góp cho những trường hợp được báo kêu gọi lúc nào đầy ắp, những nhóm Từ Thiện nhỏ tự tổ chức với nhau, như vào mùa thi thì các lớp đàn anh chia nhau trực ở những bến xe để đón các sĩ tử từ các nơi đổ về những Trung Tâm để giúp cho họ, đưa đến những nơi có chỗ trọ hoặc miễn phí, hoặc tử tế, không chặt chém. Một số người hào hiệp còn thu xếp, chừa phòng trống trong nhà để nhận một số em, còn cho ăn uống miễn phí trong những ngày ở để thi. Những tổ chức tặng Bánh Chưng, tiền lì xì cho người vô gia cư ăn Tết. Có Công Ty thì tặng vé xe cho người nghèo về quê ăn Tết. Còn có những chương trình lớn như Chắp Cánh Ước Mơ, Lục Lạc Vàng, Thần Tài Gõ Cửa, Chuyến Xe Nhân Ái v.v... do những Công Ty lớn kết hợp với nhau hàng tuần đều đặn đến với những bà con nghèo ở những vùng quê, làm những việc to tát hơn: tặng Nhà, tặng Bò để cho người nghèo khởi nghiệp. Đó là những hành động thiết thực làm tôi thấy lạc quan tin vào cuộc sống. Thấy rằng chính vì cuộc đời còn nhiều khó khăn, mà nổi bật lên nét đẹp của tình người, và mong ước ngày càng thêm nhiều người tiền của dư thừa không bỏ vào những cuộc vui xa xỉ tốn kém, mà bớt đi một chút trong đó để giúp cho một vài cảnh đời bất hạnh thì tốt biết mấy.

Trong khi cuộc đời vẫn còn đầy dẫy những bất công, nhiều người tham lam chỉ muốn vơ vét cho đầy túi, và thường thì mọi người vẫn thờ ơ với cuộc sống, chỉ lo cho bản thân, lo cho gia đình, thì cũng có những người không ngại bỏ thì giờ, công sức, tiền bạc của bản thân để đích thân đến tận nơi thăm hỏi, giúp đỡ, người đang cần, đồng thời tải lên những hình ảnh, địa chỉ cho những ai muốn chia sẻ. Nhờ đó ta mới biết là giữa thời buổi nhiều người ăn không hết, mà ở những nơi xa có những mâm cơm mấy bố con mà trong nồi chỉ có lưng chén cơm và vài cọng rau lèo tèo. Những đứa trẻ đầu đội khăn tang, đứa lớn nhất mới học lớp 8, trong căn nhà trống trước, trống sau. Cha mẹ không còn, lối xóm cũng nghèo thì biết nương tựa vào đâu?! Một người cha, bản thân đã lớn tuổi, còn mang nhiều bệnh lại phải nuôi ba đứa con bị điên. Một đứa điên, đi lang thang rồi chết đuối ở tận Miền Nam, ông được tin phải vào nhận xác. Hai đứa còn lại phải xích nó mỗi đứa l buồng, mỗi lần muốn làm vệ sinh cho chúng phải trộn thuốc ngủ vào cơm cho chúng ăn! Xót lòng hơn nữa là hình ảnh một bà mẹ già ngồi trước mâm cơm để dưới đất với năm hay sáu cái tô, trên tô gác mấy đôi đũa, nhưng trống trơn, không có món gì trong đó! Ai nhìn hình ảnh đó mà không động tâm! Tôi tin rằng sẽ có nhiều người đến với họ. Bản thân tôi chỉ đủ sức thỉnh thoảng gói ghém chút xíu để gởi cho hoàn cảnh nào tôi thấy là bi đát nhất, và lòng thấy rộn vui khi nghĩ đến lúc họ nhận được chút quà bất ngờ.

Với tôi, Thượng Đế, Phật, Bồ Tát quá xa vời, nên những ai biết yêu thương cuộc đời, yêu thương con người bằng những tấm lòng nhân hậu, vô điều kiện, vô vụ lợi thì chính là hóa thân, mang hình ảnh, tình thương của Thượng Đế, của Ông Bụt, Bà Tiên. Họ đang âm thầm viết thêm những câu chuyện Cổ Tích giữa đời thường, mang lại những tia hy vọng, những vòng tay ấm áp cho những người đang tuyệt vọng, đang bất lực nhìn bóng tối bao phủ cuộc đời họ tưởng chừng như không bao giờ thoát ra được. Dù không thể giúp cho tất cả mọi hoàn cảnh, nhưng những người làm điều tốt cũng góp phần xoa dịu nỗi đau cho cuộc đời, để sau đó, những người gượng đứng lên được sẽ trả ơn cuộc đời như cách mà họ đã nhận được. Đọc trên báo tôi thấy có nhiều trường hợp như thế. Những cơ sở mà chủ nhân được giúp đỡ, dạy nghề cho trước đó, lại tiếp tục mở rộng vòng tay. Những học sinh nghèo nhận được học bổng ngày xưa, sau này thành đạt cũng lại tiếp tục trợ giúp cho những hoàn cảnh khó khăn khác.

Có những địa phương xa xôi, do thiếu cầu, thiếu đường mà mọi cố gắng của họ như trồng dưa hấu, trồng hành tím, dự định bán Tết phải bỏ cho úng ngoài đồng, hoặc cho bò ăn, bởi vì xe không vào tới nơi để thu mua được. Công sức cả mấy tháng trời của cả gia đình được đổi bằng những giọt nước mắt xót xa, tủi buồn, kêu Trời không thấu, cũng không thấy Phật cứu cho!

Có một nguồn tài trợ khủng khiếp đã không được sử dụng đúng chỗ là các Phật Tử mà ai cũng giàu lòng từ tâm, giàu đức Bố Thí. Thật vậy, thay vì ngó ra các nước trong khu vực rồi kêu gọi, dùng tiền đó để cạnh tranh. Cất Chùa, dựng tượng cho lớn hơn họ chỉ để lấy tiếng, trong khi mục đích của Đạo Phật ra đời là để “Cứu Khổ” cho chúng sinh! Nếu những tu sĩ cho phép mình đứng bên lề cuộc sống mà không tiếp tay với xã hội để cứu khổ một cách thiết thực hơn bằng những hộ nghèo được giúp cho thoát nghèo, hoặc cấp học bổng cho những học sinh giỏi, tiếp tay với xã hội trong việc đào tạo nhân tài, tương lai giúp nước, thì làm sao thể hiện lòng TỪ, lòng BI của Đạo Phật?

“Có thực mới vực được Đạo”. Người đi tu đa phần đều cho rằng là để “Phụng sự cho Phật”. Nhưng Phật đã nhập diệt từ mấy ngàn năm rồi, ta sẽ phụng sự cách nào? Chỉ cất Chùa cho to, dựng tượng cho lớn trong khi nhiều người đói ăn, thiếu mặc thì liệu Phật có hài lòng? Đức Thích Ca đã Thọ Ký: “Tất cả Chúng Sinh là Phật sẽ thành” chẳng phải là để chúng ta giúp đỡ, cúng dường những vị “Phật sẽ thành” đó sao? Ông bà ta đã nhắc: “Dẫu xây chín bậc phù đồ. Không bằng làm phúc cứu cho một người”. Vậy mà đến nay phù đồ thì ngày một nhiều, một hoành tráng mà người nghèo thì chưa giảm! Theo tôi, có lẽ những nhà lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo cần xem lại coi mình đã áp dụng lời Phật dạy đến đâu. Phật dạy người tu phải đền TỨ ÂN. Như thế, nếu ta chỉ lo Báo Ân Phật, không lo báo hiếu cho Phụ Mẫu, không tiếp tay với Đất Nước, không báo Ân Chúng Sinh thì rõ ràng là chúng ta chưa báo đền Tứ Ân. Như thế làm sao xứng đáng xưng danh là đệ tử của Phật?

Phần người muốn Bố Thí để cầu phúc thì rõ ràng những hoàn cảnh nghèo khổ, neo đơn phải ưu tiên, vì liên quan đến số phận của con người, của cả một gia đình. Nhiều người đã vì khó khăn, không biết kêu cứu ai mà quẫn trí. Thiếu quan tâm đến họ, bỏ mặc họ rơi vào hoàn cảnh đó thì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm, không phải là xã hội. Kinh Duy Ma Cật viết: “Nếu có người thí chủ dùng tâm bình đẳng thí cho một người ăn xin rất hèn hạ, xem cũng như tướng phước điền của Như Lai, không phân biệt, lòng đại bi bình đẳng không cầu quả báo, đó gọi là đầy đủ pháp thí vậy”. Ta đã thực hành ra sao để khoe mình là Chân Phật Tử, ngày Mồng Một, Ngày Rằm đều ăn chay, đi Chùa?

Một tín hiệu đáng mừng là càng về sau này càng thấy nhiều người khá giả đã có suy nghĩ thực tế hơn. Họ không cần “phước báo trả lại gấp trăm, gấp ngàn lần”, sẵn sàng cho đi mà không cần nhận lại, với những ý tưởng giúp đỡ cho người nghèo bằng đủ thứ cách, xuất phát từ mọi miền đất nước. Chưa bao giờ tôi thấy câu nói: “Lá lành đùm là rách” được chuyển thành “Lá rách đùm lá nát” dễ thương đến như vậy! Cần gì phải giàu mới Bố Thí được? Một ly nước, một ổ bánh mì, vài ký gạo, một nắm xôi giúp ai đó qua cơn đói. Mua giúp người tàn tật, người già, người nghèo vài tờ vé số, vài bó rau, ít trái cây để họ kiếm chút tiền lẻ nuôi gia đình sống qua ngày... cũng đủ làm cho niềm vui lan tỏa. Không chỉ người cho, người nhận, mà cả người biết được thông tin đó đều thấy vui lây. Với những tấm lòng nhân ái ngày càng nhân lên thì tôi tin rằng một ngày không xa lắm đất nước chúng ta sẽ thoát cảnh đói nghèo. Người nhiều tiền của thì bỏ ra giúp xây Cầu, làm Đường, mở thêm trường học để tất cả trẻ con đều được đến trường. Biết đâu trong đó còn tiềm ẩn nhiều bậc nhân tài làm rạng danh cho đất nước, mà do hoàn cảnh thiếu thốn của gia đình nên không có cơ hội phát triển? Tôi tin vào tương lai đất nước, dân tộc mình sẽ lại hùng mạnh hơn qua những con người từ tâm nơi nào cũng có, việc thiện ngày càng nở rộ, để Saigon xưa nổi tiếng là “Hòn Ngọc Viễn Đông” để nói về nét đẹp rạng rỡ bên ngoài, nay trở nên sâu sắc hơn với cụm từ “chỉ có thể là người Saigon” nói lên lòng nhân hậu, hào hiệp, trượng nghĩa, nghe sao mà giản dị, mộc mạc, thân thương…

Vừa mới đây, một thanh niên trẻ đã thử lòng một bác sửa xe đạp bằng cách dắt đến một chiếc xe đạp bị đứt xích và bánh xe bị xẹp. Anh thanh niên nói với bác sửa xe là xe bị hỏng nhưng lại không mang tiền theo, bác có thể giúp sửa được không? Sau khi biết về tình trạng xe, bác sửa xe nói là có thể giúp, rồi tiến hành gắn lại cái xích bị đứt, bơm lại bánh xe, xong bảo chàng thanh niên cứ đi. Chàng thanh niên đã cảm ơn lòng tốt của bác sửa xe bằng cách biếu bác một tờ 500 nghìn đồng. Lúc đầu bác đã từ chối, nhưng chàng thanh niên ép bác nhận, rồi dắt xe đi. Ai nhìn hình ảnh bác thợ sửa xe quẹt nước mắt cũng thấy xúc động. Bác cũng lên xe đạp về. Có lẽ để khoe với vợ về món quà bất ngờ. Cuối clip là nhóm thanh niên trẻ đã thực hiện đã đưa ra thông điệp “Hãy làm việc tốt nếu có thể”. Giữa bao nhiêu kẻ chỉ biết thu vén cho bản thân thì đã xuất hiện một thế hệ trẻ biết nghĩ đến người khác làm cho chúng ta càng lạc quan, tin yêu cuộc đời hơn, thấy chỉ cần thay đổi cách sống chút xíu thì cuộc đời sẽ đẹp thêm biết bao nhiêu.

Thời này thái bình đã trở về với quê hương, với dân tộc, nên bước ra ngõ không cần gặp anh hùng nữa, mà cần gặp những tấm lòng nhân, những con người biết yêu thương, đùm bọc nhau, không để cho bất cứ ai phải rơi vào cảnh khốn cùng. Tôi mong ước rằng trong tương lai, cụm từ “Chỉ có thể là người Saigon” sẽ được thay bằng “Chỉ có thể là người Việt Nam”. Lúc đó hẳn mỗi lần du lịch, hay công tác, chúng ta không phải cúi mặt, mà hãnh diện làm công dân của một đất nước tuy còn nghèo, nhưng tình người không nghèo chút nào vậy.

Tâm Nguyện

(Tháng 2/2016)


Phụ Bản I

CLB SÁCH XƯA VÀ NAY

THAM DỰ LỄ GIỖ

CỤ Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI

Sau khi nhận được thiệp mời mấy hôm trước, sáng thứ bảy, mùng 5 tháng Ba 2016, Dịch giả Vũ Anh Tuấn, Chủ nhiệm, và hai cô Ái Liên và Tuyết đã dùng taxi để lên Á Nam Lưu Niệm Đường ở Đường 27, Kp 5, P. Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức. Dù mỗi năm mỗi đi, nhưng khi tới đúng chỗ rẽ, vì mải trò chuyện, người viết đã quên để taxi chạy qua cầu Gò Dưa, thế là được cơ hội chạy vòng trở lại và được tốn thêm hơn 100 ngàn đô mít khi phải trả tổng cộng 350 ngàn đô mít taxi phí. Và vì phải đi lòng vòng nên khi tới nơi thì lễ giỗ đã khai mạc, nhưng cũng đã may mắn gặp ngay nữ sĩ Lan Hinh, ái nữ cụ Á Nam, và sau đó vào ngồi chung với thêm 3 thành viên khác của CLB là quý anh Hừng, Đoàn và Động.

Cũng như mọi năm, lễ giỗ diễn ra rất long trọng với cả trăm bạn bè tham dự và một chương trình rất hoành tráng, có diễn văn, có ca nhạc, cả tân nhạc lẫn quan họ, đồng thời những quan khách cũng vẫn là những khuôn mặt quen thuộc, tuy năm nay hơi buồn là thiếu mất Gs. Trần Văn Khê và nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý.

Điều đáng ghi nhớ là năm nay, nhà lưu niệm đã được cải tổ hoàn toàn, với một căn nhà Rường năm gian thật hoành tráng, phía trước là một Hồ Bán Nguyệt mini trông rất bắt mắt, và bên cạnh ngôi nhà là một nhà bia rất đẹp, mà theo gia chủ, chỉ mới được tải đến và dựng xong vào 2 giờ khuya ngày mùng 4, tức là chỉ vài giờ đồng hồ trước khi cắt băng khánh thành.

Thăm các nhà lưu niệm và tham dự các lễ Giỗ, như lễ Giỗ nhà thơ Nguyễn Bính mấy ngày trước, người viết, vốn là một kẻ chả bao giờ biết viết ca và tụng ai, bỗng thấy mình cũng phải biết khen các Hiếu Nữ mà các nhà thơ, nhà văn đã được Hoàng Thiên ban tặng, như Nữ sĩ Lan Hinh (ái nữ cụ Á Nam Trần Tuấn Khải), nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu, (ái nữ nhà thơ Nguyễn Bính), nhà thơ Lê Thị Giáng Vân (ái nữ nhà văn Lê Văn Trương) một tí, vì họ đã làm được những việc thật đáng kể, đáng ghi nhớ cho các cụ thân sinh ra họ. Ở tuổi “đã hết 20 tuổi lần thứ tư” cộng hai, người viết chưa hề gặp được trong suốt cuộc đời một “Hiếu Nam” nào làm được cái gì lớn lao cho người thân của họ, mà chỉ thấy toàn “Hiếu Nữ” mà thôi, cho nên phá lệ viết khen các Hiếu Nữ nói trên vài dòng cũng chẳng sao.

Trong lễ Giỗ, Nữ sĩ Lan Hinh đã có nhã ý đặt một bàn nhỏ cho một nhà Thư pháp viết tặng các bạn bè tham dự mỗi người một tờ Thư tây rất xinh để lưu giữ làm kỷ niệm, người viết cũng được tặng và ẵm về một bức rất dễ thương. Lễ Giỗ cụ Á Nam năm nay quả là một kỷ niệm đẹp và đáng nhớ đối với người viết…

VŨ ANH TUẤN


LỜI MỞ ĐẦU CHO THƯ MỤC

TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯỢC DỊCH RA TIẾNG NƯỚC NGOÀI

Vốn ít nhiều đi sâu về văn học Nga, mở rộng ra đôi chút về mối quan hệ văn hóa văn học các nước, chúng tôi đã dần có được một thư mục sách văn học được dịch ra ngôn ngữ các nước. Tất nhiên còn xa mới gọi là đầy đủ. Nhưng nhìn vào danh mục này bạn đọc cũng có thể được gợi ra các vấn đề để suy nghĩ, đi sâu vào tìm hiểu thêm và chắc chắn có thể có nhiều điều lý thú.

Để phục vụ cho Hội nghị Giao lưu văn học Việt Nam với thế giới chúng tôi được giao làm một thư mục tác phẩm văn học được dịch ra các thứ ngữ. Tưởng công việc cũng không lấy gì làm khó khăn lắm, qua kinh nghiệm làm thư mục sách trong mối quan hệ Việt Nga. Bắt tay vào thực hiện mới thấy không đơn giản chút nào.

Trước hết chúng tôi tìm đến lưu trữ ở các thư viện lớn của ta. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các chuyên gia thư viện, chúng tôi nhanh chóng có được thư mục sách văn học Việt Nam được dịch ra các ngữ lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện Khoa học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh và một vài thư viện khác. Ở các thư mục này (Chúng tôi xin phép được in lại thư mục của hai thư viện lớn ở phần sau để bạn đọc tham khảo), chúng ta chỉ biết được trên dưới 130 tên tác phẩm văn học Việt Nam đã được dịch ra, chủ yếu các ngữ Anh, Pháp, Hán,…

Đành phải từ kinh nghiệm làm thư mục sách dịch Việt-Nga, Nga-Việt, dựa vào các chuyên gia gắn bó với từng nền văn học khác mà hình thành ra sơ bộ tổng mục lục. Vì thời gian quá ngắn, tất cả trong vòng vài ba tháng, nên chúng tôi chỉ có thể trình với bạn đọc một bản sơ bộ tổng mục lục sách văn học Việt Nam ta đã được dịch và xuất bản bằng các ngữ khác nhau, hiện có các bằng cứ chắc chắn, như sách có trong tay hoặc những thông tin sơ lược trên báo chí. Như vậy là còn thiếu sót nhiều lắm. Nhưng thiết nghĩ có còn hơn không. Và đây là bước khởi đầu để các nhà chuyên môn sẽ bổ sung, tiến tới có một công trình hoàn chỉnh.

Tổng mục lục được xếp theo các ngữ, thứ tự ABC, cố gắng theo thứ tự năm tháng được xuất bản, và chỉ đưa ra một số thông tin thật đơn giản, bằng tiếng Việt, chưa chua tiếng nước ngoài: Thứ tự, tên sách, tác giả, dịch giả, nhà xuất bản, năm xuất bản, vài ghi chú, nếu có. Mà các thông tin này cũng chỉ đầy đủ trong trường hợp có sách trong tay, còn những trường hợp chỉ dựa vào những thông tin trên sách báo được cung cấp không đủ đành bỏ trống.

Như trên đã nói, ngoài phần bản tổng kết danh mục nhóm biên soạn chúng tôi, xin phép in lại ở phần sau danh mục của Thư viện Quốc gia Hà Nội và Thư viện Khoa học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra cũng cho in ở Phụ lục một số bài giới thiệu sách văn học Việt Nam của các tác giả người nước ngoài, để bạn đọc có được phần nào thông tin liên quan đến nhận xét của người nước ngoài về văn học nước ta.

Xin chân thành cảm ơn Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện Khoa học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học xã hội Việt Nam, Thư viện Trung tâm văn hóa Pháp, Trung tâm giao lưu văn hóa Nhật-Việt, các chuyên gia văn học Đức - Trần Đương, văn học Czech - Dương Tất Từ, Ba Lan - Lê Bá Thự, văn học Trung Quốc - Đào Nguyên và một số đơn vị và cá nhân khác đã nhiệt tình cung cấp tư liệu và góp ý kiến hình thành bản tổng mục lục này. Xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo Hội nghị Giao lưu văn học Việt Nam với thế giới và BCH Hội nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội.

Hà Nội, tháng 12 năm 2009

TM Nhóm thực hiện

THÚY TOÀN

Thiếu Khanh

Ông ngoại tôi là một nhà nho. Và ông khiếm thị sau một cơn bệnh nặng hồi còn trẻ nên chưa kịp đỗ đạt gì về Nho học. Tuy vậy, ông ngoại tôi không những được tất cả các con trai gái và các cháu nội ngoại tôn kính, mà cả làng xóm ai cũng kính trọng ông.

Mẹ tôi là con gái đầu của ông ngoại tôi, nên tôi là đứa cháu lớn nhất trong đám cháu nội ngoại; vì vậy, hồi nhỏ tôi được ông ngoại sai bảo chép lại các bài thơ, phú, câu đối của ông. Đến nay, tập thơ đó vẫn còn trên bàn thờ ông ngoại.

Vì ông ngoại tôi chỉ làm thơ Đường luật thất ngôn bát cú và làm văn biền ngẫu, nên tôi sớm quen với các dạng văn thơ này từ nhỏ. Và từ hồi học tiểu học, tôi bắt chước ông ngoại, cũng làm thơ Đường luật và làm câu đối nữa! Tôi cũng chép tất cả tác phẩm của mình, nhiều lắm, vào một cuốn vở học trò 200 trang. Sau nhiều biến cố trong cuộc sống với nhiều vật đổi sao dời, tập thơ đầu đời của tôi - toàn thơ Đường luật và câu đối - lưu lạc phương nào từ bao giờ rồi. Đến nay, trong số hàng trăm bài thơ Đường luật làm từ hồi nhỏ đến năm 1975, tôi chỉ còn nhớ được hai bài: Qua Đèo Hải Vân Cảm Tác (khoảng năm 1964), và Tân Xuân Cảm Khái, đăng trên số Báo Xuân Đại Từ Bi của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, năm Mậu Thân 1968. Dưới bài thơ này, ông Nguyễn Khánh Vân, Thư Ký Tòa Soạn “phê” hai câu lục bát:

Thiếu Khanh tuổi trẻ tài cao (!)

Bảng vàng treo đó, cô nào giật không? (!)

(Sở dĩ có lời khen “phổng mũi” này là vì trước đó ở Tòa soạn báo Đại Từ Bi ai cũng tưởng TK, tác giả của những bài thơ Đường luật “già ngắt” là một... ông già, hoặc ít nhất cũng là một người trung niên hoặc “có tuổi”. Sau khi tôi đến thăm và nhận tiền nhuận bút (truyện ngắn chớ không có nhuận bút thơ), thì ai cũng... bật ngửa cười ha hả: TK trẻ quá, dưới tuổi 30 rất xa!).

Sau năm 1975, thỉnh thoảng tôi cũng có làm hoặc xướng họa với bằng hữu một ít bài thơ Thất ngôn bát cú, nhưng không giữ được bài nào.

Vào cái Tết đầu tiên của Thiên niên kỷ mới này, Tết năm Tân Tỵ, 2001, tôi làm một bài thơ Khai bút bằng thơ Đường luật.

Thế là trong ba bài thơ Đường luật còn nhớ, có hai bài thơ liên quan đến mùa Xuân và Tết.

Để thay lời khai bút năm nay, tôi chép lại hai bài thơ Xuân này, kẻo lại quên mất:

TÂN XUÂN CẢM KHÁI

Năm mới mà chi thêm thẹn lòng

Bốn nghìn năm cũ có còn không?

Dấu chân phá thạch, chân Giao Chỉ

Dòng máu khai nguyên, máu Lạc Hồng.

Gan ruột hai miền đành cắt ruột

Núi sông một dải đã chia sông

Đau lòng son phấn ai bôi vẽ

Lạ mặt thành Long, nước Cửu Long!

TK

(Báo Xuân Đại Từ Bi, 1968)

KHAI BÚT NĂM TÂN TỴ 2001

Chào mới Thiên niên kỷ thứ ba!

Năm lần con giáp sắp đi qua

Rong chơi dở cuộc ngày toan xế

Học vấn chưa đâu chữ đã nhòa

Ước vọng nuôi hoài càng ngắn lại

Tuổi đời sống nhín cứ dài ra

Cành mai từ cuối thiên niên trước

Nụ mãi bây giờ mới nở hoa!

TK

(Sông Thu, CLB Thơ Đất Quảng, 2003)

Bộ Khỉ Tam Không

& Ca khúc “Ly rượu mừng”


Hình tượng ba con khỉ: con thì dùng tay che hai mắt, con thì dùng tay bịt hai tai và con thì dùng tay bịt miệng lại…đã nói lên sự khôn ngoan của người biết giữ lễ. Đây là một phương châm xử thế: Không nhìn những việc gì xấu, không nghe những lời nói xấu, không nói điều xấu xa đê tiện.

See no evil, hear no evil, s peak no evil”

Người ta nghi rằng nguồn gốc của triết lý tam không nói trên có lẽ đã được một nhà sư Phật giáo thuộc tông phái Thiên Thai(?) đề cập đến trong tác phẩm : “Không thấy, không nghe và không nói” vào k h oảng thế kỷ thứ VIII.

Sau đó thì tư tưởng nầy được du nhập vào Nhật Bản với sự ra đời của hình tượng điêu khắc ba con khỉ. Ngày nay hình tượng bộ khỉ T am Không xưa nhứt là tác phẩm của nhà điêu khắc Hidari Jingoro (1594-1634) đ ược thấy thờ tại đền Toshogu ở Nikko, Nhật Bản.

Người Nhật còn có thâm ý sâu xa hơn nhiều, họ muốn:

· Bịt mắt để dùng TÂM mà nhìn.

· Bịt tai để dùng TÂM mà nghe.

· Bịt miệng để dùng TÂM mà nói.


Hình điêu khắc ba con khỉ do Hidari Jingoro tạc ra được khắc trên vách đền Toshogu ở Nikko, Nhật Bản

Đó là triết lý của Đức Khổng Tử ( trong Luận Ngữ ) :

Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn.

(Không nhìn không thấy những điều trái lễ, không nghe những điều trái lễ, và không nói những điều gì trái lễ).

Tư tưởng trên được thánh Mahatma Gandhi (1869 -1948) đem áp dụng làm phương châm trong đời sống và trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ... Lúc nào ông cũng mang theo bên mình hình tượng bộ khỉ tam không ...

Bộ khỉ Tam Không trong xã hội ngày nay

Xã hội vật chất ngày nay đã tạo nên con người ích kỷ qua phương châm: Muốn sống bình an phải giả đui, điếc và câm. Ai chết mặc ai (MAKENO = mặc kệ nó → vô cảm).

Thật vậy, trong đời sống hằng ngày có khi triết lý Tam Không (không thấy, không nghe, không nói ) đã giúp chúng ta có được sự an ổn trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Khi TÂM ở trạng thái “Tịnh”, không bị quấy rầy bởi những điều xấu, thì từ TÂM mới phát sinh những điều “Thiện”, “dùng cái TÂM thiện, TÂM đẹp... mà nói”.

Ngăn ngừa: những lời nói không tốt, làm đau khổ người khác, những lời nói làm chết người.

Đây là một sản phẩm vừa mang tính nghệ thuật, lại ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Mong rằng những ai đang có món quà này trên bàn làm việc sẽ càng yêu quý và trân trọng nó hơn.

Bộ khỉ Tứ Không ” ở Việt Nam

Trong chùa Sắc Tứ Tịnh Quang thuộc thị trấn Ái Tử (Triệu Phong, Quảng Trị), có 4 con Khỉ đá ngồi lặng yên trong 1 góc khu vườn: một con Khỉ dùng hai tay bịt miệng mình lại, một con lấy tay bịt mắt, một con nữa hai tay bưng kín hai tai. Sư trụ trì chùa giải thích: Đó là lời khuyên con người ta đừng nên làm điều gì vô ích. Chẳng hạn như khi mở miệng nói điều gì thì phải cân nhắc, vì “họa tùng khẩu xuất” (họa theo lời nói từ miệng mà ra).

Một điều lạ hơn nữa là ta có thể thấy thêm một con Khỉ thứ tư nữa đang chắp tay tụng niệm : nhắc nhở người ta biết cách im lặng để Tĩnh tâm và để chiêm nghiệm sự đời, làm những điều có ích cho đạo và đời.

Tóm lại hình ảnh “Bộ khỉ tam không” nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của “Tâm viên ý mã” trong phép thiền: Trong mỗi người đều có một con Khỉ, không phải là con Khỉ theo lý thuyết tiến hóa của Darwin cho rằng Tổ tiên loài người từ một loài Khỉ (vượn người) mà chính là con Khỉ trong Tâm thức - chính là “Tâm viên ý mã” (tâm như con khỉ, ý như con ngựa). Loài khỉ thường hay nhảy nhót, khọt khẹt, đứng ngồi không yên, thường chuyền hết từ cành này sang cành cây khác, lại hay phá phách, bắt chước nên người đời có câu “liếng khỉ”.

Tâm người ta cũng thế, không khi nào được yên, cứ lăng xăng, lộn xộn, suy nghĩ, nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác, từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, đó là tâm viên. Tâm này sẽ đưa con người đến loạn động, phát sinh ra đủ thứ phiền não… Bởi vậy tâm chúng sinh bị vô minh che lấp nên phần nhiều hướng ác nhiều hơn thiện.

Trong xã hội hiện nay bức tượng Ba con khỉ càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Bởi ta thấy mỗi người đều đang tự làm khổ chính mình. Khổ vì nghe chuyện thiên hạ, khổ vì nói chuyện thế gian và khổ vì nhìn lỗi người khác.

Bởi vậy, nếu biết tu sửa thân tâm, nhìn lỗi của người khác như lời nhắc nhở để ta không phạm phải những sai lầm đó. Lúc nào cũng phải nhắc nhở bản thân, chỉ có ta là kẻ phàm phu nên còn rất nhiều lỗi cần phải sửa chữa. Cũng như vậy, tai nghe thấy những việc phiền não cũng đừng giữ trong lòng. Nên nghĩ đó là lúc ta học chữ “Nhẫn”, không được sân hận trước những lời nói của người khác, lúc nào cũng giữ cho mình tâm bình lặng trước mọi việc - từng bước, từng bước như vậy chúng ta sẽ dần hoàn thiện được con người của mình:

“Nhẫn một chút sóng yên gió lặng

Lùi một bước biển rộng trời cao”

Ca khúc “Ly rượu mừng”

của nhạc sĩ Phạm Đình Chương

Ban hợp ca Thăng Long: Thái Hằng - Hoài Trung - Thái Thanh - Hoài Bắc ở dưới cùng

Phạm Đình Chương (1929 1991) là một nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến và là một tên tuổi lớn của tân nhạc VN, sinh tại Bạch Mai, Hà Nội . Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây . Xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc . Năm 1951 ông và gia đình chuyển vào miền Nam . Với nghệ danh Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung , Thái Thanh , Thái Hằng lập Ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Thời kỳ này các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình: Khúc giao duyên, Được mùa, Tiếng dân chài... Thời gian sau đó, ông viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và vui tươi hơn: Xóm đêm, Đợi chờ, Ly rượu mừng, Đón xuân...

Có thể nói ông là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, có một sức sống riêng như: Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê)... Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc một bản trường ca bất hủ Hội trùng dương viết về ba con sông Việt Nam: sông Hồng , sông Hương sông Cửu Long .

Sau 1975 , Phạm Đình Chương định cư tại California , Mỹ và mất ngày 22 / 8 / 1991 tại đây .

Ly rượu mừng của Phạm Đình Chương được phép rót trở lại sau 41 năm…

Đây là ca khúc mừng xuân được sáng tác vào năm 1952. Bài hát với những ca từ và nhạc điệu valse nhẹ nhàng, vui tươi, hòa ái, chúc muôn nhà một mùa xuân hạnh phúc ấm no trong cảnh đất nước thanh bình.

Nhà thơ Du Tử Lê từng viết: “Tôi muốn gọi ‘Ly rượu mừng’ là xuân khúc kinh điển nhất của nền tân nhạc Việt Nam. Tính chất ‘kinh điển’ hiểu theo nghĩa không một thành phần nào của xã hội bị bỏ quên. Và, một cách ý thức, tác giả, đã sắp lại bậc thang giá trị của các thành phần xã hội, với lòng trân trọng, biết ơn của mình”.

Ca khúc này vừa được Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ VH-TT&DL cấp phép cho Phương Nam Phim (PNF) phổ biến trên toàn quốc. Thông tin về Ly rượu mừng được người Sài Gòn hoan hỉ đón mừng. Trong những câu chuyện trà bánh, chuẩn bị tết, đi du lịch xa, những người yêu thích nhạc phẩm Phạm Đình Chương nói với nhau: “dù lâu nay vẫn nghe Ly rượu mừng từ CD, DVD hải ngoại hoặc băng dĩa cũ trước giải phóng, nhưng tết này sẽ mừng hơn, vui hơn khi mở vang Ly rượu mừng bên cạnh những bài nhạc xuân khác” (từ Phương Nam Phim sản xuất).

Chúng ta vừa bước qua những thời khắc đầu tiên của Năm mới Dương lịch 2016. Chắc hẳn giai điệu quen thuộc của bản ‘Happy New Year’ của ban ABBA vẫn còn văng vẳng đâu đó. Một sự thật mà chắc quý vị nào cũng sẽ đồng ý với chúng tôi là ‘Happy New Year’ đã trở thành một món ăn tinh thần không thể nào thiếu được trong dịp năm mới. Thế nhưng để chọn một bài nhạc xuân đặc trưng nhất cho người Việt chúng ta thì đa số không ngần ngại chọn bản ‘Ly rượu mừng’ của Phạm Đình Chương. Với thể điệu valse dìu dặt, cùng nét nhạc tài tình và ca từ đặc sắc, ‘Ly rượu mừng’ của Phạm Đình Chương xứng đáng được xưng tụng là bản nhạc xuân tuyệt vời nhất của dòng nhạc Việt.

BÌNH PHẨM VỀ CA KHÚC “LY RƯỢU MỪNG” :

- Ca khúc “Ly Rượu Mừng” là bài hát thịnh hành trong dịp Tết. Bài hát mời mọi người cùng uống rượu mừng Xuân và nói những lời chúc Tết đến toàn dân và đất nước. Tuy bài hát không mô tả những cảnh tượng và sinh hoạt Tết như pháo nổ, hoa tươi sặc sỡ, bánh kẹo, bài hát tiêu biểu cho Tết Việt Nam vì chúc Tết là một tục lệ quan trọng trong Tết Việt Nam. Cộng với điệu nhạc vui tươi, giai điệu tiết tấu sống động, và lối diễn tả bình dị với vài điểm đặc sắc, “Ly Rượu Mừng” là một bài hát bất hủ trong dịp Xuân về.

- “Ly Rượu Mừng” tiêu biểu cho nhạc Xuân vì bài hát chú trọng vào lời chúc Tết và có điệu nhạc vui tươi sống động.

- “Ly Rượu Mừng” có nội dung đơn giản, là ca khúc mừng xuân với những lời chúc Tết tới mọi người được hạnh phúc ấm no trong cảnh đất nước thanh bình tự do; bài hát được viết với điệu nhạc Valse, đem lại nét vui tươi sống động trong mùa Xuân. Giai điệu và tiết tấu có nhiều khía cạnh linh hoạt theo nội dung, rất thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.

- Tổng kết Bài hát, mọi người mơ ước hạnh phúc ở khắp mọi nơi và hương thơm thanh bình đang dâng cao “phơi phới” hàm ý một khí thế đang lên. Lời chúc “thanh bình” gồm cả “hòa bình” lẫn yên tĩnh, và do đó có ý nghĩa mạnh mẽ hơn “hòa bình”.

- “Ly Rượu Mừng” là một ca khúc đơn giản, gồm những lời chúc Tết cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc và đất nước hưởng thanh bình tự do. Bài hát có nhiều khía cạnh khác biệt với những bài hát khác về Xuân.

- Ca khúc “Ly Rượu Mừng” thuần túy là những lời chúc Xuân cho mọi người và đất nước. Thực ra, cả toàn bài “Ly Rượu Mừng,” chỉ có một chữ “Xuân” duy nhất trong câu đầu. Nếu bỏ chữ “Xuân” này và thay bằng một chữ khác như “vui,” cả toàn bài chỉ hoàn toàn nói về chúc tụng mọi người và đất nước, và không có một chút xíu gì về Xuân hoặc Tết cả. Nhưng có thật là vậy không?

Tại sao “Ly Rượu Mừng” được coi là bài hát tượng trưng cho dịp Xuân về, Tết đến?

Câu trả lời thật đơn giản nhưng cũng có thể gây ngạc nhiên: Chính lời chúc tụng là đặc tính độc đáo của Tết Việt Nam.

Tết Việt Nam có thể không có cảnh tượng thiên nhiên như chim hót, nắng vàng, gió mát, hoặc những hoạt động nhân tạo như pháo nổ, múa rồng, múa lân, hoa mai, hoa đào, bánh chưng, kẹo mứt, quần áo mới, tiếng hát Xuân, phong bì đỏ lì xì.

Nhưng Tết Việt Nam không thể nào không có lời chúc Tết.

Chúc tụng hoặc chúc mừng nhau gần như là căn bản sinh hoạt ở xã hội Việt Nam. Người Việt hình như bị ám ảnh với chúc tụng. Người ta chúc nhau trong bất kỳ dịp nào: sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi, sinh đẻ, thi cử… Người Việt có lẽ tin tưởng vào các lời chúc tụng sẽ quả thật đem lại may mắn, sức khỏe, tiền bạc, thành công, tình yêu. Trong các dịp lễ long trọng như ngày Tết, lời chúc còn có ý nghĩa “thiêng liêng” hơn các dịp khác vì có sự tin tưởng vào thần thánh, tổ tiên ông bà hoặc những người đã khuất trong gia đình, hội họp trong dịp Tết và sẽ giúp những lời cầu chúc thành sự thật. Phong tục cổ truyền Việt Nam trong dịp Tết có nhiều tục lệ như cúng kiến, xông đất, xuất hành, chúc Tết, hái lộc, biếu quà, kiêng cữ, v.v… nhưng có lẽ chúc Tết là tục lệ quan trọng nhất. Trong những ngày đầu năm, câu đầu tiên người ta nói với nhau khi gặp nhau là l ờ i chúc Tết. Ngay cả ngày nào đi chúc Tết ai cũng được quy định rõ rệt:

“Mồng một chúc Tết mẹ cha

Mồng hai tết vợ, mồng ba tết thầy ”

Do đó, tuy không có những mô tả thiên nhiên, cảnh tượng, nhà cửa, đường phố, thiên hạ, và các hoạt động Tết, ca khúc “Ly Rượu Mừng” biểu hiện một đặc tính quan trọng nhất trong Tết Việt Nam. Đó là những lời chúc Tết trong các ngày đầu năm. Tết Việt Nam sẽ mất ý nghĩa nếu không có những lời chúc Tết và do đó “Ly Rượu Mừng” luôn luôn là một ca khúc được hát trong dịp Tết hàng năm.

Trong “Ly Rượu Mừng,” Phạm Đình Chương dùng những lời chúc chính xác, ̣đánh đúng vào nguyện vọng của mọi người. Với người nông phu, còn gì sung sướng hơn là ruộng lúa được mùa; thương gia buôn bán có lời nhiều; người lao động không còn nghèo khó; người chiến sĩ thành công nhiệm vụ, giúp dân lành; bà mẹ già gặp lại con trở về, hết cơn u buồn; cặp tình nhân xây tổ ấm; người nghệ sĩ tô điểm đời thêm tươi đẹp; non sông hòa bình và đất nước hưởng thanh bình tự do. Ta không thấy những lời chúc mơ hồ, sáo rỗng, máy móc, như “sức khỏe sung túc,” “sống lâu trăm tuổi,” “tài lộc dồi dào,” “con hiền dâu thảo,” “thăng quan tiến chức,” v.v… Không rõ tại sao ông bỏ “sĩ” (người trí thức, lao động trí óc). Trong đoạn sau, ông có nhắc đến “sĩ” nhưng đó là “nghệ sĩ” là những người sinh sống qua nghệ thuật như chính tác giả là nhạc sĩ; chứ không phải là những người sinh sống qua học hành hoặc hành nghề chuyên môn như giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, luật sư. Nếu bản nhạc có thêm “trí thức’ thì trọn vẹn các giới: sĩ, công, nông, binh.

Một chuỗi tác động rót rượu

Tuy bài hát có lối diễn tả bình dị và đơn giản, cũng có vài điểm đặc sắc đáng ghi. Trước hết, Phạm Đình Chương trình bày cuộc uống rượu mừng là một chuỗi tác động rót rượu, nâng chén hoặc nhấc cao ly, nhấp nháp rượu, uống cạn ly, và rót thêm rượu. Mỗi tác động kèm theo lời chúc mọi người. Cách mô tả đó tạo ra cảnh tượng linh hoạt sống động của một bữa tiệc khi mọi người cùng giơ cao ly rượu và chúc lẫn nhau. Thứ nhì, bài hát có vài chỗ dùng “cho thấy, đừng kể” chi tiết rõ rệt, và ẩn dụ nhẹ nhàng. Thí dụ như “mắt vương lệ nhòa”, “máu xương thôi tuôn rơi”, “chén tình”, “thoát ly đời gian lao”. Cộng với điệu nhạc vui tươi và giai điệu tiết tấu sống động, các diễn tả này đem lại những nét chấm phá rải rác trên khắp bài hát, giúp khán giả có tâm trạng lâng lâng sảng khoái (Cao Đắc Tuấn).

LỜI KẾT

Ca khúc “Ly Rượu Mừng” là một bài hát bất hủ cho Tết. Bài hát không có những mô tả thông thường về Tết như pháo nổ, hoa mai hoa đào nở, bánh kẹo trái cây, nhưng đánh đúng vào sắc thái quan trọng trong dịp Tết là chúc Tết. Ngoài ra, với điệu nhạc Valse vui tươi, giai điệu trầm bổng, tiết tấu sống động, và lời ca đơn giản, bài hát thích hợp cho hợp ca hoặc phối hợp giữa hợp ca và đơn ca.

Cảm xúc mùa xuân có lẽ mỗi năm một khác biệt, nhưng những ký ức, hình ảnh và hương vị tết quê hương thì không có gì khác biệt, bởi Ly rượu mừng lại được cất lên, “rót đầy” những khoảng trống bằng giai điệu valse tươi vui, sống động, dù ai có đi ngược về xuôi...

Ca khúc: Ly Rượu Mừng – Phạm Đình Chương

Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi / Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi. Người thương gia lợi tức/ Người công nhân ấm no, thoát ly đời gian lao nghèo khó

Á…a… a… a… Nhấp chén đầy vơi / Chúc người người vui

Á…a… a… a… Muôn lòng xao xuyến duyên đời .

Rót thêm tràn đầy chén quan san

Chúc người binh sĩ lên đàng / Chiến đấu công thành

Sáng cuộc đời lành / Mừng người vì nước quên thân mình

Kìa nơi xa xa có bà mẹ già / Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa

Chúc bà một sớm quê hương / Bước con về hòa nỗi yêu thương

Á…a… a… a…Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính

Á…a… a… a…Chúc mẹ hiền dứt u tình .

Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương / Xây tổ ấm trên cành yêu đương. Nào cạn ly, mừng người nghệ sĩ/ Tiếng thi ca nét chấm phá tô thêm đời mới. Bạn hỡi, vang lên/ Lời ước thiêng liêng

Chúc non sông hòa bình, hòa bình / Ngày máu xương thôi tuôn rơi. Ngày ấy quê hương yên vui/ đợi anh về trong chén tình đầy vơi.

Nhấc cao ly này / Hãy chúc ngày mai sáng trời Tự do

Nước non thanh bình / Muôn người hạnh phúc chan hòa

Ước mơ hạnh phúc nơi nơi / Hương thanh bình đang phơi phới…

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)

MÓN ĂN MIỀN TRUNG

QUA CA DAO, TỤC NGỮ

Nhân dịp Xuân về, Tết đến, xin mượn mấy dòng ca dao, tục ngữ để giới thiệu cùng bạn đọc bốn phương các loại đặc sản của miền Trung đã được ông bà ta chọn lựa và truyền tụng qua nhiều năm tháng.

Nghệ An xưa nay nổi tiếng với cam xã Đoài, nhút Thanh Chương…

Ra đi anh nhớ Nghệ An,

Nhớ Thanh Chương ngon nhút,

nhớ Nam Đàn thơm tương.

Ở vùng đầu nguồn Lam Giang, còn có những đặc sản của vùng cao như:

Tiếng đồn cá mát sông Găng,

Dẻo thơm ba lá, ngon măng chợ Cồn.

Vào đến Quảng Bình thì có các loại sơn hào hải vị, là những món “thượng thừa” trong khoa ẩm thực:

Yến sào Vinh Sơn

Cửa Khổng cửa Ròn

Nam sâm Bố Trạch

Cua gạch Quảng Khê

Sò nghêu quán Hàn...

Rượu dâu Thuận Lý …

Đến Thừa Thiên - Huế, sẽ được dịp thưởng thức các loại trái cây ngọt ngào, thơm ngon:

Quýt giấy Hương Cần

Cam đường Mỹ Lợi

Vải trắng Cung Diên

Nhãn lồng Phụng Tiêu

Đào tiên Thế Miếu

Thanh trà Nguyệt Biều

Dâu da làng Truồi

Hạt sen hồ Tịnh...

Khi vào xứ Quảng thì được dịp thưởng thức tiếp các món:

Nem chả Hòa Vang

Bánh tổ Hội An

Khoai lang Trà Kiệu

Thơm rượu Tam Kỳ...

Trái bòn bon hay còn gọi là trái Nam Trân rất quý hiếm, ngày xưa thuộc loại “tiến kinh”, nay thì được nhắc nhở qua câu hò tâm tình mà ý nhị:

Trái bòn bon trong tròn ngoài méo

Trái sầu đâu trong héo ngoài tươi

Em thương anh ít nói ít cười

Ôm duyên ngồi đợi chín mười con trăng...

Trong khi có cô nàng ôm duyên ngồi đợi thì các bạn đã lặn lội vào đất Quảng Ngãi nổi tiếng với món “don”, ngon nhất là “don Vạn Tượng”.

Cô gái làng Son,

không bằng tô don Vạn Tượng!

Xứ Quảng nổi tiếng là đất mía đường, các bạn sẽ được người đẹp ở đây mời đón hết sức ngọt ngào như mật:

Ai về Quảng Ngãi quê ta,

Mía ngon, đường ngọt trắng ngà dễ ăn

Mạch nha, đường phổi, đường phèn

Kẹo gương thơm ngọt ăn quen lại ghiền!

Bình Định là quê hương của xứ dừa. Dừa Tam Quan mọc như rừng, với câu ca truyền tụng từ bao đời nay:

Công đâu công uổng công thừa

Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan

Từ Bình Định vượt đèo Cù Mông vào đất Phú Yên - nơi nổi tiếng có xoài ngon Đá Trắng - được nhắc nhở qua câu:

Xoài Đá Trắng, Sắn Phương Lụa

Phú Yên cũng là xứ mía đường nhiều chẳng thua gì Quảng Ngãi - nhất là vùng La Hai, Đồng Bò.

Tiếng đồn chợ Xẩm nhiều khoai,

Đất đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đường.

Nổi tiếng nhất phải kể đến sò huyết ở đầm Ô Loan, huyện Tuy An và cước cá Phú Câu ở thị xã Tuy Hòa, đã được thi sĩ Tản Đà ca tụng:

Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu

Vào Khánh Hòa, nơi có nhiều di tích danh lam, phảng phất những nét kiến trúc của nền văn minh Chămpa, có thành phố Nha Trang thơ mộng... cũng có lắm hải vị sơn hào, như:

Yến sào Hòn Nội

Vịt lội Ninh Hòa

Tôm hùm Bình Ba (Cam Ranh)

Nai khô Diên Khánh

Cá tràu Võ Cạnh

Sò huyết Thủy Triều (Cam Ranh)

Vào đến Phan Rí, Phan Thiết là quê hương của cá mắm ngon được cả nước truyền tụng. Nhờ cá mắm nhiều mà có lắm cuộc tình duyên mặn mà và dí dỏm:

Cô kia bới tóc cánh tiên

Ghe bầu đi cưới một thiên cá mòi

Chẳng tin giở thử ra coi

Rau răm ở dưới cá mòi ở trên...

Đất đai miền Trung khô cằn, đồng bằng thì nhỏ hẹp nhưng biển cả mênh mông, núi rừng trùng điệp, có lắm miếng ngon vật lạ, sản vật khắp miền. Các bạn còn chần chờ gì nữa! Hãy làm một chuyến du lịch đầu năm qua các tỉnh miền Trung…

BÙI ĐẸP st.

NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ

TRONG ĐỜI CỦA JACK LONDON

Có lẽ người tình đầu tiên của Jack London là một cô gái mà ông gặp trong Đội quân từ thiện. Nàng đội một cái mũ bêrê. Tên nàng là Haydee hay Heidi, ông cũng không nhớ rõ. Bởi vì lúc đó, vào cái tuổi 17, sau một thời gian bỏ học, ông cũng không đánh vần được chính xác một cái tên. Chỉ có một điều mới gặp là ông yêu ngay. Hai người hẹn hò nhau hơn một chục lần và có lẽ cũng trao nhau hơn chục nụ hôn. Có điều, đây là một mối tình “câm”. Hai người không hề nói với nhau điều gì và cũng chẳng hứa hẹn điều gì. Vì cả hai đều không có đủ ngôn ngữ để diễn đạt tình cảm của mình. Và cuối cùng thì chia tay, nhẹ nhàng, thoải mái.

Đó chỉ là một mối tình thoáng qua của tuổi mới lớn. Mối tình đầu thực sự chỉ đến với Jack mấy năm sau. Lúc đó, năm 1895, Jack 19 tuổi. Ông trở về đi học lại, nghiền ngẫm đọc sách triết lý và kinh tế của Herbert Spencer, Fourier, Fiske, Nietzsche, Karl Marx… ông gia nhập Hội của những người theo chủ nghĩa xã hội Henry Clay. Người bạn thân nhất của Jack trong hội là Edward Applegarth. Qua Edward, Jack quen với người chị của Edward là Mabel Applegarth, lớn hơn Jack 3 tuổi. Gia đình Mabel rất giàu có. Nhà của nàng là cả một biệt thự. Trong nhà treo đầy tranh và có rất nhiều sách. Mabel là một thiếu nữ đẹp và tài hoa. Nàng có mái tóc vàng, mắt xanh, ăn nói nhu mì, duyên dáng. Nàng chơi đàn piano, hát hay và biết cả ngâm thơ. Nàng học 3 năm về văn chương Anh tại Đại học Berkeley. Mới gặp Mabel lần đầu, Jack si mê nàng ngay. Khi chào ra về, nàng hỏi Jack có còn trở lại gặp nàng nữa không. Jack lúng túng không biết trả lời sao vì cũng không rõ ý nàng như thế nào cả. Jack đến ngay thư viện, tìm cuốn sách bàn về sinh hoạt trong các gia đình trưởng giả để học cách sử dụng muỗng, nĩa, dao…

Mabel Applegarth dáng người mảnh khảnh, thanh nhã, lịch lãm. Nàng rất thích mẫu thanh niên vạm vỡ, đẹp trai như Jack. Nàng tập cho Jack cách ăn nói lịch sự, bày cho Jack biết ngôn ngữ của giới thượng lưu, dạy Jack văn phạm và phát âm cho đúng, thậm chí nhắc nhở Jack cắt móng tay cho sạch và đẹp. Jack mê nàng đến nỗi, dù nàng có phê bình hoặc chỉ dẫn điều gì, Jack cũng răm rắp làm theo, không hề phật ý hay mặc cảm. Đối với Jack, Mabel là một “bà lớn” thuộc thế giới thượng lưu, sang cả khác hẳn với những người đàn bà mà Jack đã từng biết đến.

Trong thời gian này, Jack vẫn tiếp tục viết. Truyện của ông mang đầy tính hiện thực. Ông viết về những số phận khắc nghiệt, những mảnh đời rách nát, tàn tạ, đau khổ. Viết xong, ông đưa Mabel đọc và nhờ nàng sửa những lỗi văn phạm và từ ngữ. Có điều, Mabel lại không thích các loại truyện hiện thực này. Theo nàng, thế giới này thiếu gì những điều đẹp đẽ, sao Jack cứ viết về những cái xấu xa, bất hạnh. Jack giảng giải với nàng rằng ông cố đi tìm ý nghĩa của đời sống như ông đã từng sống và nỗ lực đi tìm đó sẽ làm cho đời sống trở nên tốt đẹp hơn. Mabel lắc đầu, không hiểu. Đó không phải là cái mà nàng đã học được từ Đại học Berkeley!

Trong thời gian quan hệ với Mabel, Jack cũng tiếp tục sống trong nghèo túng. Ông xoay xở làm đủ nghề, và vẫn tiếp tục viết, dù truyện của ông không được đăng. Mabel khuyên ông nhiều lần là nên thay đổi cách viết, nhưng Jack không chịu. Văn của ông cô đọng, sắc sảo, nhưng khô khan. Mỗi câu như một cú đấm vào thực tại. Mabel lại thích thứ văn chương ngọt ngào, mơn trớn. Nhưng dù không đồng tình với nhau họ vẫn yêu nhau. Thỉnh thoảng, không có tiền, Jack phải đi cầm quần áo, đồng hồ của mình để chở Mabel đi chơi. Ước ao lớn nhất của Jack là có đủ tiền để cưới Mabel.

Nhưng điều trớ trêu là năm 1899, khi Jack bắt đầu có tiền, thì hoàn cảnh đẩy hai người xa nhau. Cha Mabel mất, gia đình Mabel sa sút, Edward đi xa, hai mẹ con Mabel phải về quê. Khi Jack xin cưới Mabel thì mẹ Mabel muốn Jack phải về quê ở với họ, còn Jack thì cương quyết không chịu.

Đến tháng 2/1900, mọi chuyện đều bế tắc. Jack và Mabel đành phải xa nhau.

Hai tháng sau, (4/1900) Jack cưới vợ.

Vợ ông, Bessie Maddern, vốn là hôn thê của Fred Jacobs, bạn của Jack. Khi Jacobs chết ở Philippines, Mabel dục Jack đến an ủi nàng. Bessie đẹp, ít nói và thông minh. Nàng dạy toán cho sinh viên và cả cho Jack. Cả Bessie và Jack đều rất yêu Jacobs. Họ thường nói chuyện với nhau về Jacobs. Quyết định lấy nhau của họ thật bất ngờ, khiến bạn bè sửng sốt. Riêng Jack, ông cho rằng nói đến tình yêu ở trong hôn nhân là một điều vô nghĩa. Jack không hề yêu Bessie. Bessie cũng chẳng yêu Jack. Họ cưới nhau vì họ cần có nhau, trong lúc cả hai đều như hụt hẫng trong đời sống vì mất người yêu.

Sau khi cưới, họ đi hưởng tuần trăng mật 3 ngày rồi trở về nhà, ai lo việc nấy. Họ muốn sống như những người văn minh thế kỷ 20, không quan tâm đến những chuyện vụn vặt như tình yêu, hận thù, ghen tuông. Nhưng bất hạnh thay, mẹ của Jack, bà Flors, lại không chấp nhận quan điểm đó. Chỉ một thời gian ngắn ở với nhau là 2 người đàn bà bắt đầu xung đột. Các cuộc cãi vã xảy ra thường xuyên và càng ngày càng gay gắt. Và rồi chính Jack và Bessie cũng xung khắc nhau. Jack thích gặp bạn bè để thù tạc và bàn chuyện chính trị, văn chương. Các cuộc gặp gỡ thường diễn ra ở nhà Jack. Bessie thì thích yên tĩnh. Jack thích Bessie ăn mặc sang trọng, còn nàng thì lại thích giản dị - hơn nữa, nàng lại ăn mặc theo kiểu mà Jacobs thích. Cuộc sống gia đình trở nên như một địa ngục, vì cả hai đều sống theo cá tính của mình.

Hai đứa con lần lượt ra đời. Đáng lẽ con cái giúp hai người hòa hợp với nhau, nhưng trường hợp Jack và Bessie thì ngược lại. Từ khi có con, Bessie càng xa rời Jack. Càng thương yêu, săn sóc con, Bessie lại càng lãnh đạm với chồng. Ba năm sau ngày cưới, trong lúc tiếng tăm Jack càng ngày càng vang dội, nhất là sau khi tác phẩm The call of the wild (Tiếng gọi miền hoang dã) ra đời, Jack hoàn toàn thất bại trong đời sống gia đình. Jack trở nên giàu có, nhưng buồn bã tuyệt vọng. Chính trong lúc này, một người đàn bà khác xuất hiện. Đó là Charmian Kittredge.

Charmian là cháu của Roscoe Eames, quản lý tờ báo Overland Monthly. Thực ra, Jack quen Charmian từ khi chưa cưới vợ. Charmian đã từng giúp Jack sửa bản thảo cuốn Son of the wolf (Đứa con chó sói). Jack vốn đã bị cuốn hút cô gái này ngay từ buổi đầu tiên (năm 1900). Nàng đẹp, dễ thương và rất tận tụy trong công việc. Nàng rất ngưỡng mộ Jack và luôn luôn chia sẻ với Jack những nỗi buồn vui. Suốt mùa hè năm 1903, tình cảm giữa Jack và Charmian sâu đậm dần. Charmian thẳng thắn nói cuộc hôn nhân giữa Jack và Bessie là một sai lầm ghê gớm và cách duy nhất để Jack tìm lại hạnh phúc trong đời sống là ly dị với Bessie và cưới nàng. Jack bị dằn vặt giữa một bên là tình yêu đối với con cái và sự chung thủy của Bessie, một bên là tình yêu đối với Charmian.

Khi biết chuyện giữa Jack và Charmian, Bessie không buồn gì cả. Nàng cho biết là nàng sẵn sàng ly dị với điều kiện Jack phải xây cho nàng một ngôi nhà và trợ cấp cho nàng một số tiền lớn để nuôi con. Jack đồng ý. Cuối cùng, ngày 19/11/1905, hơn hai năm sau khi ly thân với Bessie, Jack và Charmian chính thức cưới nhau. Charmian hoàn toàn làm Jack thỏa mãn trong đời sống gia đình. Họ đã sống những năm tháng hạnh phúc tràn trề. Nhưng, tuy yêu Charmian vô cùng, Jack vẫn buồn vì cuối cùng Charmian không có con. Thực ra, nàng đã sinh hai lần, nhưng một đứa chỉ sống có ba ngày và một đứa sống không quá một tháng. Vì thế, lâu lâu, Jack lại trở về thăm Bessie và hai đứa con gái, Joan và Bess. Một lần Bessie cùng hai đứa con về trại chăn nuôi của Jack để tham dự một buổi cắm trại ngoài trời. Khi họ bày biện áo quần và thức ăn ra, thì Charmian cưỡi ngựa đi ngang. Chân ngựa đá đất cát bay vào thức ăn của ba mẹ con. Có lẽ đó là một sự vô tình, nhưng hai bà vợ không ưa nhau, càng trở nên thù ghét nhau hơn. Và từ đó, ba mẹ con không bao giờ đến trại của Jack nữa.

Một lần, Jack đến nhà Bessie đề nghị nàng để hai con đến trại ở. Ông sẽ làm di chúc để tài sản lại cho hai con - đồng thời xây cho Bessie một căn nhà ở gần đó để ba mẹ con vẫn sống với nhau mà không có sự can thiệp của Charmian. Bessie khước từ. Ít ngày sau, Jack trực tiếp viết thư cho Joan, cô con gái lớn. Bức thư có đoạn: “Con sẽ lầm lẫn vì đã làm một người bé nhỏ trong một thế giới bé nhỏ. Con sẽ lầm lẫn bởi vì con đã nghe lời mẹ con, vốn là một con người nhỏ bé sống ở một nơi nhỏ bé trong một phần nhỏ bé của thế giới và là người hy sinh tương lai của con vì cái lòng ghen tuông nhỏ mọn của bà đối với một người đàn bà khác. Ba sẽ dành cho con những điều lớn lao của thế giới, những điều lớn lao mà chỉ có những người vĩ đại mới sống, biết, suy nghĩ và hành động”.

Bức thư này của Jack cho thấy tinh thần của ông đã trở nên lệch lạc như thế nào khi ông bị ám ảnh bởi “những điều lớn” và “những điều nhỏ bé”. Joan không trả lời lá thư này và mấy lá sau nữa. Nhưng cuối cùng, để dứt khoát thái độ, cô viết cho ba cô là cô luôn luôn chỉ muốn ở với mẹ, cô rất phiền lòng khi ông đã nói không đúng về Bessie và Bessie là một người mẹ vô cùng tốt, và cô hy vọng ông sẽ không bao giờ bắt buộc cô phải viết một bức thư nào nữa. Thái độ đó của Joan làm cho Jack, con người đang được hàng triệu người trên thế giới ngưỡng mộ, hoàn toàn cô đơn trong cuộc đời.

Ngày 21/11/1916, Jack làm việc suốt buổi sáng. Buổi chiều, ông rủ Charmian đi chơi, nhưng Charmian không đi vì mệt. Hôm sau, ông chỉ viết được ít trang và ngủ suốt buổi chiều. Buổi tối, Charmian rủ ông đi dạo, nhưng ông từ chối rồi đi vào phòng ngủ. Nàng đi dạo một mình. Trở về nhà lúc 9 giờ, nàng rón rén đi vào phòng Jack thấy đèn còn sáng, Jack thì đã ngủ, đầu gục nơi ngực. Nàng không hôn Jack như thường lệ, sợ Jack thức dậy. Nàng về phòng, đọc sách một lát, rồi ngủ một giấc ngon lành đến sáng.

7 giờ chiều hôm sau, ngày 23/11/1916, Jack vĩnh viễn từ giã Charmian, từ giã cõi đời. Lúc đó, Jack London mới 40 tuổi.

TRẦN THẾ QUÂN

HOÀNG KIM THƯ st

BÃI ĐÁ BÊN NHÀ

MAI VĂN TẠO

Phía sau nhà tôi, sát con đường làng bao quanh chân núi, có một bãi đá không cao, nó lài lài như quả đồi nhỏ đứng riêng. Ven bãi một vài cây me đại thọ, gốc bám dưới đường, tỏa bóng trùm lên đá và vô số cây sống đời lá tròn, lá dài lưỡi kiếm, mùa xuân rực rỡ hoa đỏ, hoa lồng đèn tím hồng rất đẹp.

Bãi đá xám trắng thật hấp dẫn bọn nhóc chúng tôi. Sáng và chiều lộng gió, bọn tôi thường rủ nhau lên bãi đá chạy nhảy tung tăng. Bày trò chơi hái hoa lồng đèn làm lọng, bẻ bông “mục trụ” giắt quanh đầu giả làm những ông tướng trong tuồng hát bội chúng tôi từng xem diễn trong miếu bà chúa Xứ vào dịp “vía bà”.

Lúc thấm mệt và chán trò làm tướng làm vua, bọn tôi ngồi dạng chân ngồi nhìn thung lũng mờ mờ khói núi, lô nhô những bãi đá chen giữa chòm cây. Bóng cây bóng đá xa xa làm bọn tôi rạo rực, rủ nhau chạy sang bên ấy: “Chỗ đó đẹp quá, qua bên đó chơi thích hơn, hái trái rừng ăn cho đã”. Bọn tôi đều nghĩ như nhau và bảo nhau như vậy.

Quả thật, bên hố Cần Sen, cóc rừng mọc dày hai bên mép hố. Bãi đá gần nhà mát ông Nu nho rừng chín mọng chùm chùm. Leo lên vỗ Hang Yến, ngắm đồng bãi xanh biếc bao la, chim cò bay liệng dập dìu. Mát trời chim kết từng đàn, giăng giăng hàng ngang, hình cánh én bay về núi. Có đàn rất dài và uyển chuyển như dải lụa đen.

Thoạt đầu thích thật. Bọn tôi đua nhau hái trái cóc, trái nho, trái cơm nguội… ăn thỏa thuê. Lại hái bông nho quấn vào đầu vào người làm vua làm hoàng tử.

Lạ thay, mỗi nơi bọn tôi đùa chơi một lát, lại đon đả kéo sang nơi khác. Không nơi nào chơi được lâu. Từ xa nhìn những nơi kia thật đẹp, đến chơi cũng thích. Nhưng nhìn qua bãi đá khác thấy đẹp hơn, lại háo hức kéo nhau đi. Lần nào cũng vậy, đến bãi sau cùng gần như không còn hứng thú, bọn tôi lẽo đẽo quay về bãi đá bên nhà.

Ở đây bọn tôi chơi đùa ngày này sang ngày khác, vẫn cái trò hái hoa lồng đèn làm lọng, bẻ bông “mục trụ” giắt quanh đầu giả làm tướng nhưng lạ thay, sao đứa nào cũng cảm thấy hào hứng, vui thích hơn những bãi đá xa nhà.

MAI THỊ THỦY HOA st.


Phụ Bản II

TÂM NGUYỆN MỘT ĐỜI THƠ

Cuốn sổ tay nhỏ cũ, giấy ố vàng của má tôi, má ghi:

Kim Bội sinh ngày mùng 8 tháng 2 Âm lịch năm Tân Mão 1951.

Bà ngoại mất ngày mùng 8 tháng 2 Âm lịch năm Mậu Thân 1968.

Ba Kim Bội mất ngày mùng 8 tháng 2 Âm lịch năm Tân Hợi 1971.

Những con số và thời gian đó khắc ghi trong lòng tôi, cứ mỗi năm đến ngày giỗ, nhìn má còm cõi liêu xiêu trong tuổi già với những hồi tưởng của người già cô độc, má nhớ chuyện này, chuyện kia, nhớ hết mọi người, có lúc kể chuyện vui, có lúc buồn, oán trách. Mãi đến năm 89 tuổi, những tháng cuối đời, má nói: “Má quên hết, không nhớ gì hết”. Má cho tôi tất cả số tiền dành dụm, để lo hậu sự cho má. Tôi nhận, nói với má: “Con sẽ làm đúng di nguyện của má, số tiền còn lại con sẽ in sách của ba con”. Má gật đầu, má ra đi nhẹ nhàng thanh thản, ngủ một giấc bình yên trong căn nhà của ba má tạo dựng nên.

In sách của ba, là tâm nguyện của tôi hứa trước linh hồn ba, ngày tôi hai mươi tuổi. Cuộc sống với những biến thiên của thời cuộc, cuộc đời tôi xuôi theo dòng đời. Đã 45 năm trôi qua, tôi không thực hiện được lời hứa của mình. Từ di nguyện của má, với sự nỗ lực và sự giúp đỡ của rất nhiều người. Tháng 2 năm 2016, cuốn sách CẬN ĐẠI VIỆT SỬ DIỄN CA Quyển Nhì được in xong.

Bằng tất cả tấm lòng tri ân, tôi chân thành cảm ơn:

- Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Giám đốc, Ban Biên tập đã giúp hoàn chỉnh bản thảo, cấp giấy phép xuất bản.

- Xí nghiệp FAHASA, in ấn quyển sách rất đẹp

- Cảm ơn:

· Chú Lê Đình Nhơn, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (từ trần năm 2012)

· Chú Vũ Hạnh, nhà văn

Hai chú đã đọc bản thảo, chấp bút viết Lời Bạt, Lời cảm nhận giới thiệu sách rất chân thành, quý mến.

- Cảm ơn chú Vũ Anh Tuấn, Dịch giả, Chủ nhiệm CLB Sách Xưa & Nay. Trong quá trình hoàn chỉnh bản thảo, có những câu Pháp văn bị mờ không đọc được, chú Tuấn đã đọc giúp, dịch một cách chính xác, rõ ràng.

- Cảm ơn anh Hà Mạnh Đoàn, Thư ký CLB Sách Xưa & Nay, anh đã giúp đánh máy bản thảo, để đưa đến Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

Tâm nguyện của ba tôi, tác giả CẬN ĐẠI VIỆT SỬ DIỄN CA, ông viết: “Tôi càng nung nấu với tâm huyết dùng ngòi bút để ghi lại những trang lịch sử của nước nhà” (Trang 300, Quyển Nhì).

Sách được viết xong cuối năm 1970; đầu năm 1971, ba tôi từ trần. Nội dung sách viết bằng thơ lục bát, về lịch sử Việt Nam từ năm 1918 đến năm 1945. Giai đoạn lịch sử thời kỳ này có nhiều biến động, nhiều sự kiện nổi bật, nhiều nhân vật v.v…, do đó nội dung tác phẩm không thể nào tránh được những thiếu sót. Là người kế thừa, trình độ có nhiều hạn chế, chỉ với một tấm lòng yêu lịch sử nước nhà, yêu thơ ca, tôi mạnh dạn phổ biến tác phẩm của ba tôi. Tôi xin phép ba tôi, được viết bài này để cảm ơn tất cả, mong nhận được những ý kiến đóng góp thêm. Một lần nữa trân trọng cảm ơn.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Tháng 3 năm 2016


Đôi điều về cuốn

CẬN ĐẠI VIỆT SỬ DIỄN CA

Quyển Nhì của Huỳnh Thiên Kim

Nhận lời đánh máy và dàn trang cuốn “CẬN ĐẠI VIỆT SỬ DIỄN CA QUYỂN II” để xin giấy phép, theo đúng như mẫu là Cận Đại Việt Sử Diễn Ca quyển I, tôi đã thực hiện tốt yêu cầu ấy. Tuy nhiên trong quá trình đánh máy - dàn trang, có nhiều vấn nạn như: cột mốc lịch sử chưa rõ ràng, tên của nhân vật chưa thống nhất và nhiều từ tiếng Pháp mờ, những chữ viết tay khó đọc… tôi đã phải tra cứu lại những tài liệu để lại của tác giả, và lên cả trên internet để tìm lại những tài liệu cũ từ thời Pháp thuộc,… Ấy thế mà cũng không thể bổ sung đủ những chỗ còn thiếu, cuối cùng phải nhờ đến Dịch giả Vũ Anh Tuấn (người đã tuyên bố gác bút với các ngoại ngữ chỉ để dành cho mẹ Âu Cơ), ông đã giúp cho tên nhân vật, và những chữ bằng tiếng Pháp thêm phần chính xác.

Và vì đây là một cuốn tóm lại những sự việc lịch sử nên sự chính xác phải thật rõ ràng, không làm cho qua được; nên sau khi ra được cuốn mẫu, cô Huỳnh Thiên Kim Bội - con gái cụ Huỳnh Thiên Kim - đã xem và chỉnh sửa lại nhiều lần trước khi đến với Nhà xuất bản Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.

Thấm thoát gần một năm trôi qua chờ “Duyệt”, tôi tiếp tục đánh máy và dàn trang cuốn “Điều kỳ diệu của tình yêu” của Huỳnh Thiên Kim Bội. May thay cuốn này lại được ra đời trước (NXB Tổng hợp Tp. HCM, quý III 2015). Cũng nhờ cuốn này cô Kim Bội đã gặp gỡ và giao lưu với nhà văn Nguyễn Long Trảo - tác giả cuốn hồi ký “Khi tổ quốc gọi tên mình” (NXB Trẻ, Quý II 2015), cô cũng được giới thiệu với nhà văn Vũ Hạnh và ông đã nhận lời viết bài “Vài cảm nghĩ nhỏ về một tác phẩm lớn” sau “Lời giới thiệu” của Nhà xuất bản để rồi cuốn Cận Đại Việt Sử Diễn Ca II, như trên một dòng sông bị tắc nay được khơi thông mà ra đời vào Quý I/2016.

Thời điểm sách “về” là những ngày cuối năm đang chuẩn bị đón xuân (28 tết). Niềm vui tăng thêm niềm vui vì người ta chơi mai chơi đào còn mình chơi… sách.

Cuốn I nằm cận kề cuốn II sau 54 năm lẻ loi, cô độc. Cuốn I đóng bìa cứng đỏ mạ chữ vàng, còn cuốn II vì ra đời sau - hiện đại hơn - nhưng vẫn giữ được tính cách của lịch sử nên mang màu vàng ấm, chữ nhũ màu đỏ và tấm hình bìa in Sự nổi dậy của nông dân chống lại thực dân Pháp do NXB Tổng Hợp Tp. HCM phát hành quý I/2016.

Cuốn sách này khổ 16x24 cm và dày 464 trang được viết theo thể thơ lục bát, nêu những sự kiện lịch sử từ Đệ Nhất thế giới hậu chiến (1918) trải qua Cách mạng mùa thu Ất Dậu đến Nam bộ kháng chiến mở màn (1945). Các diễn tiến của lịch sử được đúc kết thành 4.290 câu thơ dễ đọc và dễ thuộc, không khô khan như nhiều người lầm tưởng về lịch sử.

Cũng như quyển I, sau mỗi đoạn lại có một vài thi vịnh.

Có tất cả 34 thi vịnh, đa số viết về các nhân vật: Phạm Hồng Thái, Phan Bội Châu, Nguyễn Thế Truyền, Dương Văn Giáo, Phan Châu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Cao Văn Chánh, Hà Trì Bửu Đình, Thi sĩ Tagore, Cô Bắc, Cô Giang, Đào Năm Phỉ, Tổng trưởng Reynaud, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Văn Vĩnh, Nam Phương Hoàng Hậu, Nguyễn An Ninh, Lê Văn Kim, Đức thầy Huỳnh Phú Sổ, Phạm Quỳnh, Tạ Thu Thâu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Sâm, Phạm Văn Bạch, Bảo Đại, Bs. Nguyễn Thị Ngọc Sương, Phan Văn Hùm, Nguyễn Phan Long, Huỳnh Thiện Lộc, Ca Văn Thỉnh.

Ngoài ra còn có các thi vịnh nói về các vấn đề như:

Phong trào tẩy chay khách trú

Viếng cụ Phan nghe lời dạy dỗ

Việt Nam Quốc Dân Đảng

Kinh tế khủng hoảng

Xin trích dẫn ít câu trong thi vịnh:

- Ca tụng Hoàng hậu Nguyễn Thị Lan xinh tươi, học giỏi, đàn hay…

Thiếu nữ nhà ai sắc mỹ miều

Thoạt trông kim thượng động lòng yêu

Thướt tha bóng liễu thành Đà Lạt

Mê mẩn hồn vua chốn đế triều…

Thi vịnh Mariette Nguyễn Thị Lan

Nam Phương Hoàng Hậu (t.262)

- Ca tụng Nữ Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Sương

Yểu điệu thanh tân vẻ mặn mà

Tâm hồn ái quốc chí cao xa

Y khoa bác sĩ vin cành quế

Phụ nữ Tiền Phong bén gốc hoa…

Thi vịnh Nữ Bs. Nguyễn Thị Ngọc Sương (t.430)

- Hai chị em Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang được ví như Trưng Trắc và Trưng Nhị

Đánh Tàu Trắc Nhị chí hào hùng

Diệt Pháp Bắc Giang hận nấu nung…

Thi vịnh Cô Bắc Cô Giang (t.180)

- Lời chửi cũng được đưa vào thơ khi tẩy chay khách trú ở Nam kỳ

Á xẩm pha thêm chút sữa bò

Tiểu na ná nị!(1) Ngộ không cho…

Thi vịnh Phong trào tẩy chay khách trú (t.30)

- Nói về cuộc đời Cụ Phan Bội Châu:

Dìu dắt thanh niên vượt bể khơi

Gây triều cách mạng tiến theo đời

Thơ vang Bến Ngự, hồn vong quốc

Thúc giục luyện trui đá vá trời.

Thi vịnh Phan Bội Châu (t.60)

- Cuộc đời Cụ Phan Châu Trinh

Quyết gánh giang san lúc đảo điên

Duy Tân Cách Mạng chí tuyên truyền

Giảng văn Nghĩa thục dân hưng khởi

Gây loạn đồng bào giặc ngửa nghiêng…

Thi vịnh Phan Châu Trinh (t.89)

- Nói về Nguyễn An Ninh:

Cử nhân khoa luật mảnh bằng cao(2)

Nếu muốn vinh thân dễ biết bao

Thương xót dân đen vùi lửa nóng

Phải liều máu đỏ tưới mưa đào…

Thi vịnh Nguyễn An Ninh (t.304)

- Nhắc về người bạn Ca Văn Thỉnh luôn tận tụy với chức vụ

Học đường sơ đẳng chức thanh tra

Thương trẻ yêu nghề óc quốc gia

Truyện cổ gắng công tìm sử liệu

Văn kia ra sức trổ tài hoa…

Thi vịnh Ca Văn Thỉnh (t.448)

Nói chung các thi vịnh trên tóm tắt tiểu sử và cuộc đời hoạt động của từng nhân vật, điểm nào hay điểm nào dở, tác giả đều nói đúng sự thật (chú thích t.447) mỗi người mỗi vẻ chỉ trong một thi vịnh thất ngôn bát cú.

Ngoài những nét son nêu trên thì có một vài “hạt sạn” như:

- Không giữ những tiêu đề phía trên ở trang bên phải như ở tập I để người xem dễ dàng theo dõi các chương, các phần (mà ghi tên cuốn sách!).

- Và một thiếu sót mà hầu như mọi nhà xuất bản đều bị rớt vào khâu này là những tiêu đề dài thường bị xuống hàng một cách máy móc (tùy thuộc vào máy tính) khiến cho người xem khó chịu trong khi quyển I lại không bị rớt vào khâu này.

Ví dụ:

Trang 66:

NGUYỄN AN NINH SÁNG LẬP BÁO LA CLOCHE

FÊLÉE

Trang 117:

TRỊNH HƯNG NGẪU SO TÀI VỚI BLANCHARD

DE LA BROSSE

Trang 191:

VIỆT NAM THANH NIÊN CÁCH MẠNG ĐỒNG

CHÍ HỘI

Các trang 137, 248, 307, 338, 411 cũng vậy. Đúng ra khi tiêu đề rớt xuống thành 2 dòng thì phải ngắt câu cho phù hợp chứ ai lại để tên riêng một nửa trên một nửa dưới.

Nhưng thôi, đấy cũng chỉ là một vài hạt sạn, vài nét chưa đẹp; điều quan trọng và đáng nói nhất là giờ đây cô Huỳnh Thiên Kim Bội đã hoàn thành tâm nguyện của mình và cũng là ước nguyện dở dang của ông cụ thân sinh. Cuốn sách được đặt trang trọng dưới di ảnh của Cụ Huỳnh Thiên Kim. Chắc hẳn Cụ rất vui khi có người con tiếp bước những dở dang của Cụ và biết đâu một ngày nào đó chúng ta sẽ được đọc Quyển Ba do chính tay ái nữ của Cụ viết.

Hà Mạnh Đoàn

(1) Tiếng chửi của người Tàu

(2) Mạn phép thêm chữ “cao” trong văn bản thiếu chữ thứ 7.

Tình Xuân

Nàng băng tuyết ấy đã đi rồi

Mang theo giá lạnh với đơn côi

Cỏ cây xanh mướt, chùm non lộc

Đón Xuân tươi mới, Xuân rạng ngời

*

Gió nhẹ nhàng mơn man cỏ hoa

Ánh hồng ấm áp nắng chan hòa

Không gian bừng dậy, trời xanh biếc

Hân hoan chan chứa khúc tình ca.

*

Nàng Xuân diễm tuyệt, áo đan hoa

Thanh tân xinh xắn dáng kiêu sa

Xanh đỏ tím vàng, cành mơn mởn

Tưng bừng hoa nở ngát hương xa.

*

Tình Xuân ngây ngất nắng Xuân mơ

Bên nhau cùng mong ước đợi chờ

Tương lai hạnh phúc lòng son sắt

Bên Xuân phơi phới dệt tình thơ.

Phạm Thị Minh-Hưng

THƠ VÀ BIỂN SÓNG

Lời thơ gió thoảng mây bay
Cho hồn vương vấn ngất ngây giấc tình
Ngân Hà lấp lánh lung linh
Ngàn sao huyền ảo diễm tình xa khơi

*

Thơ bay bổng - Thơ chơi vơi
Vườn thơ hoa bướm rong chơi đợi chờ
Biển xanh sóng vỗ xô bờ
Sóng tan bọt trắng ngẩn ngơ cát vàng

*

Thơ như biển sóng mênh mang
Như hoa như mộng thênh thang đất trời
Thơ hờ hững - Thơ nửa vời
Thả bay theo gió một đời nợ vay...

*

Ý thơ khờ dại đắm say
Tình như sợi tóc buông dài bơ vơ
Xôn xao sóng ngả nghiêng bờ
Thơ và biển sóng cõi mơ ngọt ngào...

Phạm Thị Minh-Hưng

LỤC BÁT THÁNG GIÊNG

Xuân còn say sắc uyên nguyên

Mơn man gió thoảng một miền hương xanh

Lao xao bóng nước vờn quanh

Dăm con cá quẫy liễu mành rung rinh

*

Mùa giêng nghiêng bóng nghiêng tình

Vương trong mắt nhỏ chút hình mơ phiêu

Hoa bay rủ nắng lưng chiều

Lơ phơ cánh mỏng dáng kiều thướt tha

*

Thềm trăng soãi bóng la đà

Câu thơ thiết thỏa hớp trà nồng môi

Ánh giêng thấp thoải ngang trời

Chung chiêng huyền mộng nét cười lênh loang

*

Nhặt thưa một khúc tình tang

Êm êm phím nhả tơ đàn êm êm

Giêng say với mắt môi mềm

Bờ mây óng ả giấc hiền giêng say

ĐÀM LAN

SAU NGÀY TẾT

Có em sau ngày Tết

Năm mới lại bắt đầu

Vần thơ xuân đậm nét

Viết vào trái tim nhau

*

Đào lại thêm trồi nụ

Mai lại thắm vàng hơn

Tờ lịch không còn đỏ

Mà nắng cứ như son

*

Ly rượu mừng đã cạn

Lại sóng sánh dâng đầy

Cho tình người tình bạn

Cùng ý xuân nồng say

*

Có em sau ngày Tết

Tháng giêng bừng sắc hoa

Hương lửa xuân chưa hết

Sưởi ấm mãi lòng ta.

LÊ NGUYÊN

XUÂN ĐẠO PHÁP

Ngày Xuân rực rỡ ánh hoàng mai

Cung chúc nhân sinh đắc Phật Đài

Hai tiếng Minh Tâm trong thức tỉnh

Một thời Kiến Tánh được minh khai

Công phu Đạo Pháp ngày đâu ngắn

Chánh quả Tiên Thiên tháng chẳng dài

Chân lý tinh thông thuyền Bát Nhã

Vững niềm Giác Ngộ hạnh Như Lai.

Thanh Châu

VUI XUÂN

Đầu năm, bạn hữu được tương phùng

Tay bắt, mặt mừng, hỏi kiết hung

Trước rượu nghĩa tình, ba bốn chén

Sau trà thân ái, một hai chung

Lời hay đạo đức, trao nhau hiểu

Ý đẹp văn chương, luận cách dùng

Năm mới vui vầy, tri kỷ hội

Mừng nhau hạnh phúc, suốt niên cung...

Thanh Châu

CẢNH XUÂN GỢI TÌNH

Cỏ yên mướt thể tơ xanh

Dâu tằm bên bãi rủ cành lê thê

Bâng khuâng chàng nghĩ ngày về

Chính ra lúc thiếp tái tê dạ sầu

Gió xuân quen biết gì nhau

Cớ sao đường đột dám vào buồng ta.

LANG NGUYÊN

LÊN NÚI THIÊN THAI

Đưa nhau lên núi Thiên Thai

Cõi tiên trở lại một ngày nữa thôi

Chén trà vội uống cho vui

Sách tiên vô sự đừng coi làm gì

Hoa rơi cửa động trôi đi

Xuống trần một bước còn về được đâu

Đầu khe bịn rịn từ nhau

Rêu xanh nước biếc giải màu trăng trong.

LANG NGUYÊN

ĐÓN XUÂN SANG

Chúc mừng năm mới đón Xuân sang

Đào thắm hoa tươi rộn xóm làng

Cúc, huệ nghiêng mình chào phố mới

Mai, hồng hé nụ tới thôn trang.

BS. DOANLINH

XUÂN BẤT TẬN

Ngày Xuân là của đất cùng trời

Bất tận mùa Xuân đẹp rạng ngời

Muôn thuở nàng Xuân luôn trẻ mãi

Ngàn năm Xuân vẫn hiến cho đời…

BS. DOANLINH

Đính chính số 117

* Thơ: Gởi một người lìa bỏ quê hương

Trang 85, Dòng 10

Dù hôm nay anh muốn kiếm tiền

Sửa lại:

Dù hôm nay anh muốn kiếm tìm

* Lan man về…

Trang 65 dòng 7 (Prussa)

Sửa lại: (Prussia)

ĐỐI MẶT VỚI ĐỜI

- “Thân nam tử đứng trong trần thế

Cuộc trăm năm có dễ ru mà

Có đời mà đã có ta

Sao cho thân thế không là cỏ cây”(*)

*

- Kìa bao kẻ dở say dở tỉnh

Chưa tìm ra nẻo tịnh đường thanh

Gió vàng trăng bạc non xanh

Trời cao biển rộng sẵn dành cho ai

*

- Còn hoang tưởng phí hoài cuộc sống

Cơn mê dài xao động tâm tư

Buông xuôi quên lối chân như

Chẳng lo phấn đấu thực hư tỏ tường

*

- Đừng để bóng tà dương che khuất

Hướng tương lai còn rất thênh thang

Công thành danh toại dễ dàng

Nếu ta vững bước vượt ngàn khó khăn

*

- Phải bản lĩnh bền gan ý chí

Phải kiên cường tài trí thông minh

Vươn lên - chiến thắng chính mình

Đừng nên hèn yếu - nhục vinh sá gì

*

- Dù gặp cảnh cực kỳ nguy hiểm

Chí làm trai lấp biển vá trời

Hiên ngang đối mặt với đời

Dù cho vật đổi sao dời lắm phen

NGÀN PHƯƠNG

(*) Bắt chước Cao Bá Quát

Làm bài Song thất lục bát có chứa 4 câu:

“Thân nam tử… cỏ cây”

HỘI VÕ ĐƯỜNG

Trong gió đầu xuân ánh nắng vàng

Võ đường rộn rã tiếng reo vang

Môn sinh tụ họp về đông đủ

Mừng lễ chu niên Hội Võ Đường

*

Võ sinh tươi trẻ vẻ mến thương

Đây những sư huynh đó võ thầy

Tất cả vui cười như hoa nụ

Không khí ngày vui tất cả vui

*

Đây lời thân ái của lòng tôi

Gởi tặng môn sinh tặng Võ Đường

Võ Đường năm mới thêm uy tín

Dạy võ tài cao dạy đạo hiền

*

Môn sinh thọ giáo theo đạo lý

Nhớ tổ trọng thầy quý đồng môn

Kính già yêu trẻ lòng nhân ái

Luyện rèn thân thể xứng đời trai

*

Sư huynh sư phụ là gương sáng

Kết hợp cùng nhau tiến bước lên

NGÔ BÁ MẠNH

30.01.2016

THỂ DỤC DƯỠNG SINH

Dưỡng sinh cho lớp tuổi già

Luyện rèn thân thể lấy đà tiến lên

Thường ngày hãy nhớ không quên

Dưỡng sinh thể dục vững bền mở ra

*

Phải luôn nhận thức thân ta

Tự mình gắng sức mới qua yếu mòn

Khí công nẩy nở no tròn

Tinh thần sảng khoái mong còn sống lâu

*

Mấy lời nhắn nhủ ban đầu

Luôn cười cho khỏe nên cầu dưỡng sinh

Nhật nguyệt chớ có nằm thinh

Thường xuyên vận động tâm linh huy hoàng

*

Nói năng cho phổi nở nang

Cho tâm sáng suốt lòng càng hăng say

Giải lao sinh động thường ngày

Siêng làm việc nhỏ không cay cú đời

*

Không nên mặc cảm buông lơi

Gắng lên thể dục vui chơi chan hòa

Không nên ỷ lại người nhà

Gắng lên thể dục điều ta phải cần

Dưỡng sinh thể dục điều ta rất cần

NGÔ BÁ MẠNH

30.01.2016

VƠI SẦU

Người ta khi trẻ yêu đời

Vạn điều mong muốn tuyệt vời làm sao

Trong lòng hồ hởi biết bao

Tối ngày ăn nhậu tiêu hao không màng

*

Hàng cây rơi rụng lá vàng

Tuổi già sức yếu bẽ bàng tháng năm

Ngày đêm suy nghĩ băn khoăn

Mong sao khỏe mạnh lâm râm, nguyện cầu

*

Cầu xin có phép nhiệm mầu

Làm tăng nghị lực bước đầu an vui

Thể dục thì bệnh đẩy lui

Thơ ca làm bạn rủi xui đi rồi

*

Gặp nhau trong dạ bồi hồi

Lâu chừng không gặp đứng ngồi chẳng yên

Tuổi già vui vẻ là tiên

Khi thì con cháu động viên bạn bè

*

Đôi khi tổ chức hội hè

Cùng chung dã ngoạn đi về bên nhau

Bắt tay xóa hết lo âu

Tuổi cao sống khỏe, buồn rầu cao bay.

VŨ THÙY HƯƠNG

HỒI TƯỞNG

Sài Gòn không có mùa Đông

Khí trời dịu mát nước sông bạt ngàn

Bỗng dưng tôi thấy mơ màng

Nhớ về xứ Huế với hàng tre xanh

Mùa hè mặc áo mong manh

Nóng như thiêu đốt phát sanh bệnh tình

Hoa rơi lả tả Trường Đình

Tay thì nhặt phượng kết hình quạt mo

Rồi mùa Đông đến thấy lo

Nước sông tràn ngập bởi lo lụt về

Bao nhà dự trữ nặng nề

Nào mì nào gạo bộn bề sắn khoai

Biển gào sóng mạnh giương oai

Bao giờ mới hết nguôi ngoai lo sầu

Cầu xin có phép nhiệm mầu

Dân lành hết khổ, hết sầu thiên tai

Tối 3.2.2015

(rằm tháng Chạp Giáp Ngọ)

VŨ THÙY HƯƠNG

TẾT XUÂN

Mai Đào hoa kiểng sắc màu Xuân

Bánh mứt rượu trà câu đối Xuân

Thanh niên vai rộng dáng hình ngọc

Mỹ nữ yêu kiều lả lướt Xuân

Chúc khỏe ông bà truyền thống Tết

Lì xì con cháu vui hưởng Xuân

Kẻ xa người gần cùng hội tụ

Gia đình hạnh phúc rước mừng Xuân.

QUANG BỈNH

ĐÓN XUÂN

Vườn mai rực rỡ nở ngoài sân

Nắng ấm sang Xuân tỏa sáng ngần

Ngày Xuân hòa điệu cùng ca hát

Phú quý vinh hoa chúc quý nhân

Rót tràn ly rượu mừng vui khách

Châm trà chén lửng mời bạn thân

Vui Xuân phấn khởi đầy trao đổi

Cùng nhau háo hức đợi nghênh tân.

QUANG BỈNH

NHỚ MỘT CHIỀU XUÂN

Tặng T.T.

Chiều xuân nay có một người

Nhớ tình khúc cũ của thời xa xưa

Nhớ chiều xuân ấy anh đưa

Em tan lớp học khi mưa bất ngờ

Ngày ấy tình đẹp như thơ

Em như đang sống trong mơ nhẹ nhàng

Nhưng rồi duyên kiếp dở dang

Em đành rẽ lối sang ngang hững hờ

Muòi năm lặng lẽ thờ ơ

Từng chiều xuân nhớ trăng mờ năm nao.

HOÀI LY

27.01.2016

TRĂNG XƯA

Tặng T. Thành

Trăng xưa kia ở bên trời

Trăng nay đã khuất xa vời nơi đâu

Em giờ đã bước qua cầu

Người xưa có biết trăng sầu muôn năm.

HOÀI LY

Đời như mây bay

Họa bài “Tuổi Già” của tác giả Thanh Vĩnh

Cuộc đời nhanh chóng tựa mây bay

Mộng ước một thời ai biết hay

Đôi khi ngày tháng buồn qua ấy

Ta ngỡ ngàng sao, thế nào đây

Hãy chờ tương lai rồi sẽ đến

Mượn bài thơ cổ chuốc men say

Người có chung vui thì cũng vậy

Cần chi lưu luyến mãi đêm này.

HOÀI LY

17.10.2013

ĐỀU LÀ DIỄN VIÊN

Thế gian này là một sân khấu lớn

Và mỗi người chính là một diễn viên

Nhập vai nào cũng còn phải tùy duyên

Mà “đạo diễn thiên tài” chọn ta giao phó

Là diễn viên chẳng chấp vai “lớn, nhỏ”

Miễn làm sao thể hiện hết mình

“Khán giả” công tâm bình xét phân minh

Vai phụ giỏi còn hơn vai chính dở.

LÊ MINH CHỬ

Cái đầu mà bệnh

Cơ thể chia ba phần

Đầu, mình và chân tay

Mọi công việc hàng ngày

Đều do não điều khiển

Cơ thể càng phát triển

Bộ máy càng hoàn thiện

Hiệu quả mới nâng cao

Nếu có bộ phận nào

Trục trặc (…) đầu liền biết

Não minh mẫn điều tiết

Dưới nghiêm chỉnh chấp hành

Muốn xử lý được nhanh

Trên, dưới phải ăn ý

Nếu chẳng may đầu bị

Có vấn đề làm sao

Thì ảnh hưởng tất cả

Não thật là vất vả

Và quan trọng vô cùng

*

Rõ ràng vì sự nghiệp chung

Đầu não hư hỏng… lùng bùng tư duy

Trăm sự nhờ tổng chỉ huy

Cái đầu mà bệnh… thì nguy mất rồi !

LÊ MINH CHỬ

CẦU ĐƯỢC, ƯỚC THẤY !

Thời trẻ, như ai, ta cố cầu

Xin Danh, xin Lợi, thật nhiều vào !

Ơn trên chấp thuận, ban phân nửa

Nên giờ toàn Lợi, trách ai nào !

Tâm Nguyện (01/2016)

HÔN NHÂN

Hôn nhân cũng giống thể khui thùng

Bao nhiêu hàng tốt để trên cùng

Hợp Đồng đã ký, không cho đổi,

Nên đành cay đắng, ngậm ngùi dùng !

Tâm Nguyện (01/2016)

ÁO QUAN

Sống, Áo Dân, còn rách,

Chết, ai cũng Áo Quan

Được một lần mặc đẹp !

Sang !

Tâm Nguyện

Giá trị mới

Giá trị bây giờ đã chuyển trang

Xưa rồi “thước ngọc” với “khuôn vàng”

Giáo Sư uyên bác, gom tiền lẻ ! (VNđ)

MC hài nhảm, hốt bạc ngàn (đô) !

Sở học bao la, đi xế điếc !

Chân dài, não ngắn, ngự xe sang !

“Xướng ca vô loại”, nhà trăm tỷ !

Thanh cao, đạo đức, chái tồi tàn !

“Hồng nhan” trước phán là “bạc phận” !

Giờ là “bạc tỷ”, sống huy hoàng !

Tâm Nguyện (tháng 3/2016)

MỪNG XUÂN BÍNH THÂN 2016

Họa bài thơ của Ngàn Phương

Tết đến xuân sang nhiều đổi mới

Nước non bền vững thật là vui

Dự án giao thông nhiều tiến bộ

Kế hoạch du xuân tăng trưởng hơn

Đầu năm trong nhà đầy bánh mứt

Tết đến ngoài vườn hoa cảnh tươi

Bạn bè gặp mặt đầu xuân mới

Chúc nhau hạnh phúc tới muôn nhà.

QUAN THÚY MAI (05.01.2016)

Đêm Xuân

Rón rén, chân ai nhẹ nhàng lắm
Như làn sương mỏng bước bên hiên
Lào xào như áo mê muội vướng
Vào nhành mai góc nhỏ thẹn thùng…

Có tiếng lìa cành khe khẽ khóc
Chiếc lá chiều qua chắc rụng rời ?
Phải chăng lá dành cho nụ ngọc
Tắm chút lệ đêm tự mắt trời ?

Có tiếng ngạc nhiên như chợt thấy
Giữa những im lìm đêm ba mươi
Bầu trời ăm ắp sao đựng tuổi
Sáng mai sa xuống mỗi phận người…

Có tiếng dây rung trên đàn ngủ
Phải chăng là lũ gió lẻn vào
Mơm man cho thanh âm thấp thoáng
Đánh thức kẻ chong mắt đêm sâu…

Kẻ mộng du khẽ khàng mở cửa
Ô kìa, ai chải tóc cho mai !
Gói sẵn nụ sao vừa trọn tuổi
Có phải nàng xuân đã đến rồi ?

Có phải nàng xuân đã đến rồi
Ngồi bên mai ngắt lá thu phai
Thổi gió cho đàn rung đêm lặng
Thổi hồn cho ý tứ chơi vơi ?

LAM TRẦN 28.01.2016

VƯỜN XUÂN

Lâu rồi không còn trái chín

Mặc ai trông đợi mỏi mòn

Bỗng một ngày kia em đến

Cây vườn lộc nẩy, hoa đơm

Trời cả bốn mùa thắm lại

Đất cả bốn mùa tươi xanh

Vườn cây bốn mùa hoa trái

Bốn mùa rộn tiếng thơ anh

Rồi bỗng một ngày em đi

Chân son bén đường mộng ảo

Vườn cây chìm vào giông bão

Trăm năm dồn nén một ngày

Sẽ có một ngày em trở lại

Như hương xuân về với vườn cây

Sẽ có một ngày anh có lại

Trọn vòng xanh ngào ngạt hương say…

VÕ KIM CƯƠNG

TRONG VƯỜN QUÊ NGOẠI

Con trở về thăm ngoại chiều nay

Vườn trái chín vẫy tay chào đón

Rạng rỡ trên môi nụ cười móm mém

Ngoại mừng con mà nước mắt vòng quanh.

*

Con se lòng - trong một thoáng rất nhanh

Chợt ân hận thấy mình vô tâm quá !

Ngoại yếu ớt, mỏng manh như chiếc lá

(Chút gió lay cũng có thể làm rơi !)

Lụm cụm ra vào quạnh quẽ đơn côi

Khi con cháu mải tìm vui thành phố

Có về thăm cũng chỉ đôi ba bữa

Lúc quay đi, thoắt nhớ lại quên liền

(Quên dễ dàng, quên rất đỗi hồn nhiên)

Vườn cũ quê nghèo buồn tênh lá cỏ…

*

Nhưng con biết, ngoại mãi là bến đỗ

Đón thuyền qua sau trôi nổi dòng đời

Con nhức đầu: ngoại hái lá xông hơi

Con khát đói: sẵn dừa tươi, khoai mật…

Nên con biết có một điều rất thật:

Quê thì nghèo mà hiền hậu, bao dung

Vườn còn nghèo mà ngọt trái, thơm hương

Ngoại vẫn nghèo nhưng giàu lắm: tình thương !..

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

Tiếng hát ơi !

Trong mênh mông đêm lặng,

Giọng trầm ấm xa khơi,

Như thì thầm tiếc nuối,

Giấc mơ đã xa rồi !

*

Thiết tha câu vọng cổ,

Thổn thức điệu Nam Ai,

Sương mù mông lung nhớ,

Lay lắt lá vàng phai !

*

Năm tháng mãi đi qua,

Người xưa đã thật xa,

Bến nhân gian hiu hắt,

Một đời ta ru ta !

*

Sao đêm, nước mắt rơi,

Tiếng hát, nồng nàn ơi,

Hoài niệm xưa bất chợt,

Lòng có đau tả tơi?

*

Tiếng ai hát tinh khôi,

Như dòng sông chơi vơi,

Chắt chiu lòng đôn hậu,

Thôi nhé, hãy thảnh thơi !

Ngọc Vân

THỦY TINH

Lấp lánh thủy tinh

Mượt óng lung linh

Đan tình trong nắng

Khát khao thanh bình

*

Sắc màu rực rõ

Quyện hòa trăng thanh

Nồng nàn hơi thở

Mắt huyền long lanh

*

Vội vàng sa lỡ

Trót sẩy đôi tay

Thủy tinh vụn vỡ

Nỗi niềm đắng cay

*

Thủy tinh là thế

Của bền tại người

Cuộc đời là thế

Thác ghềnh đầy vơi.

Hà Nội, Năm 2003

VŨ MÃO

CHRYSTAL

Gleaming chrystal

Velvet-like and sparkling

Intertwining love and chastity

And thirsty for peace

*

Brilliant colours

Clasping and blending with the bright moon

Passionate breathing

Gleaming jet-black eyes

*

Hastening and failing

Following a hand slip

Chrystal broke to pieces

Bitter feelings

*

Chrystal is so

Good use makes things last long

Such is life

Falls and rapids here and there.

Hà Nội, 2003

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN

HOÀNG HÔN TRÊN SÔNG ĐỒNG NAI

Thuyền lướt êm êm lan tím chiều

Đôi bờ nhịp sóng gợi cô liêu

Mặt trời vương trải nghiêng triền nắng

Nhạc khúc nhẹ buông soi dáng Kiều

*

Thấp thoáng ngàn xanh thời mở cõi

Trấn Biên đồn trú bước tiền tiêu

Làng quê yên ả Cù Lao Phố

Hoài vọng xa xăm thuở Quốc triều.

Biên Hòa, Năm 2001

VŨ MÃO

TWILIGHT ON THE ĐỒNG NAI RIVER

Softly, softly glided the boat in the purplish evening

On both shores the waves aroused loneliness

The sun inclinedly spread over the sunlit slope

The softly let gone piece of music reflected Kiều’s silhouette

*

Alternatively appearing and disappearing were the early days when we built our nation

Trấn Biên where our outward position encamped

At Cù Lao Phố the countryside was calm and peaceful

We thought of the old days at the Dynastic time.

Biên Hòa 2001

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN


Dương Lêh

Năm ngày Tết trôi qua một cách nhanh chóng, Còn bốn ngày nữa thôi. Tân mong sao cho mau tới ngày đi làm việc trở lại. Còn bốn ngày nữa! Tân cảm thấy bồn chồn xao xuyến chi lạ, anh thầm mơ ước cho thời gian qua mau. Anh đi tới đi lui trong nhà, bê mấy bình hoa đã được chưng bày trên bàn salon, trên tủ lạnh và trên bàn lớn thường xuyên dành để Xuân, vợ anh, làm nơi dạy học, để đem đi dẹp. Nàng dạy cấp ba ở một trường trung học trong thành phố này và thường mở lớp ở nhà để dạy thêm môn ngoại ngữ. Một sự trùng hợp hết sức lý thú là lúc làm quen Xuân, Tân như quên hẳn cái tên của mình. Cứ mải miết cúc cung chiều chuộng, mai đưa chiều đón. Khi đó nàng đã tốt nghiệp trường đại học sư phạm về dạy tại một trường trung học ở Tân Bình, còn Tân đã ổn định với công tác chuyên môn marketing tại một công ty sản xuất mỹ phẩm. Mãi đến khi Tân ba mươi tuổi hai người mới chịu làm đám cưới. Đơn giản thôi. Hai người cũng biết thời buổi này người ta đua nhau làm đám cưới một cách “hoành tráng”. Từ ngữ này rất được người ta, nhất là những đôi trai gái sắp làm đám cưới, ưa chuộng. Cho nên có rất nhiều đám cưới có số thực khách được mời từ năm sáu trăm người trở lên. Riêng Tân và Xuân cùng có một trình độ hiểu biết để rồi cùng tổ chức một đám cưới đơn giản với bữa tiệc mừng chỉ mời hơn một trăm thực khách. Có người phê bình cho Tân và Xuân không thực tế:

- Mời nhiều vào sẽ có nhiều quà mừng, để dành cho con cái sau này!!

Thực ra, bên phía Tân có thể mời hết ba phân xưởng kể cả lao công, bảo vệ chắc cũng thêm lên được vài trăm người. Về phần Xuân, cô cũng có thể mời thêm toàn bộ ban giám hiệu, các thầy cô buổi sáng và buổi chiều, nhân viên phòng giáo dục quận, nhân viên phường nơi cô có đăng ký dạy một lớp học tình thương. Vậy thì khách mời sẽ nhiều lắm. Nhưng Tân và Xuân thực sự có thân thiết gì với những người này đâu và cũng không biết rằng nếu họ có đến dự vì miễn cưỡng và vất vào trong bì thư một hai tờ giấy một trăm ngàn coi như “thí cô hồn”, để nếu sau này có dịp gặp mặt họ có thể nói lấy lòng “có dự đám cưới của anh, của chị”.

Cũng ở thời điểm hai người cưới nhau, cả hai người khi nhìn vào thiệp cưới mới thấy tên của hai người nếu ghép lại với nhau mang một ý nghĩa vô cùng thích thú, nhất là vào dịp Tết, tên của hai người được hằng triệu người nhắc đến. Nào là “cung chúc tân xuân”, “tân xuân vạn phúc”, “tân xuân” v.v... Ai ai cũng muốn dành cảm tình đẹp nhất cho năm mới, cho tân xuân. Bây giờ Tân và Xuân, hai vợ chồng cảm thấy vui lây và cảm nhận như ai cũng muốn dành cảm tình đẹp nhất cho mình. Hai người cho rằng chỉ có ông Trời mới sắp xếp hợp lý như vậy, tạo ra mối tơ duyên cho hai người tìm nhau và sống với nhau hạnh phúc chắc chắn sẽ kéo dài mãi mãi. Trong những đêm khó ngủ, hai người cũng hay cam kết đời đời sống tốt với nhau.

Cũng vì có sự trùng hợp mang nhiều ý nghĩa trong việc ghép tên người con trai và người con gái với nhau để trao tặng cho nhau, nên các công ty điện thoại làm ra những chương trình ghép tên hai người rồi gửi cho nhau qua hình thức nhắn tin. Nghe nói mấy công ty đó vô mánh quá trời. Trên TV thường quảng cáo “bạn hãy cho tên người ấy, chúng tôi sẽ gửi tên bạn và tên người ấy được ghép vào trong hình trái tim….”. Mấy cô cậu choai choai làm gì mà không mê, suốt ngày mải miết bấm điện thoại. Sau đó chạy ra hê toáng lên với nhau:

- Tao ghép tên được với mười hai em.

- Tao ghép được mười tám em.

- Nhỡ mấy em biết được mày có nhiều em như vậy. Các nàng chửi cha mầy!

- Chời! mày thuộc dòng họ Đại Ngu! Mỗi em mình phải cho một tên khác nhau.

- Nhỡ mấy em cũng chơi cái chiêu như mày thì hai đứa không biết tên thật của nhau.

- Ù! Biết đâu đó cũng là cách hay.

Rồi nó lên giọng “đạo đức”:

- Đời là “vô thường” mà mậy! Không ai biết ai càng khỏe!

Thằng kia cúi đầu xoè một bàn tay trước ngực:

- Thiện tai, thiện tai!

Nhớ lại hồi hai người mới quen nhau, chàng và nàng dần dần chiếm được cảm tình lẫn nhau qua những lần gặp gỡ, tiếp xúc với sự tôn trọng của người này đối với người kia. Xuân có cách ăn nói dịu dàng, chững chạc như một cô giáo và có lẽ đó là bản chất bẩm sinh nên khi ra trường Xuân thành cô giáo thật. Giống như ba mẹ của cô đã từng nói khi cô còn là một cô bé mười lăm, mười sáu tuổi: “Cô này có lẽ sau này sẽ thành một cô giáo khó tính”. Khi hai người đã yêu nhau, những cô bạn chơi trong nhóm thường bày những đòn phép để làm cho người con trai phải chết mê chết mệt. Có cô “dùi” cho Xuân:

- Mày không nên lúc nào cũng tỏ ra hiền lành ngoan ngoãn. Thỉnh thoảng cần phải tỏ ra bướng bỉnh cho chàng thấy cái mạnh mẽ của người con gái.

- Bướng như thế nào?

- Đó! Chuyện cái tóc của mày. Chàng khen tóc mày để dài như thế là đẹp. Hôm nào mày cắt ngắn xem sao?

- Ơ! Tóc tao đang được chàng khen đẹp sao lại cắt ngắn đi là làm sao?

- Đó là cái bướng bỉnh đáng yêu của người con gái.

- Thế mà là bướng bỉnh đáng yêu à?

- Đúng. Đàn ông con trai đều thích người yêu hay vợ mình có lúc phải bướng bỉnh. Chứ mày hiền lành quá, có ngày nó bỏ mày theo con khác.

- Không được đâu. Cái gì chàng nói đúng thì tao phải nghe chứ. Nếu có gì sai tao cãi lại nhẹ nhàng.

- Ừ, ngoan quá đi! Coi chừng lãnh ngọn cước của chàng vào mông.

Có cô bày cho Xuân những trò vặt:

- Khi nào chàng tới đón mày đi chơi, mày để chàng chờ lâu lâu một chút. Mười lăm, hai chục phút, hay nửa tiếng cũng được. Càng chờ lâu chàng càng yêu mày.

- Thôi. Kiểu này xưa rồi. Thời nay tình yêu cũng phải có tác phong công nghiệp, nghĩa là phải đúng giờ.

Có cô còn bày:

- Hôm nào đi chơi, mầy làm bộ nói có anh chàng nào đó ở xóm trên để ý đến mày, ngày nào cũng lạng xe trước nhà mày rồi quay lui trở ra đường cái.

- Nói dóc như vậy để làm gì?

- Để nếu anh chàng yêu mày thì mau mau hỏi cưới mày cho lẹ.

- Không dám đâu. Con trai bây giờ khôn lắm. Nó để cho một tháng không thèm đếm thăm. Mày ngồi đó khóc bằng tiếng… Ấn Độ.

- Chứ mày để nó à ới, năm này qua năm khác, không chịu cưới, làm mất duyên con gái người ta.

- Không sao. Tụi tao thương nhau thật tình. Anh ấy dự kiến sẽ làm đám cưới vào cuối năm.

- Làm đám cưới với ai?

- Với tao chứ còn ai? Lãng nhách!

Đúng như lời của Xuân đã nói với bạn. Cuối năm đó hai người làm đám cưới. Cuộc sống hạnh phúc của hai người kéo dài theo năm tháng mải đến ngày hôm nay. Hai người đã có với nhau một đứa con gái mười ba tuổi và một anh nhóc tì vừa lên tám tuổi. “Trời sinh” cũng lạ đứa con gái giống mẹ từ nét mặt đến dáng đi. Đặc biệt tính tình nghiêm nghị y chang “cô giáo khó tính” của ông ba Tân. Còn anh nhóc tì hồi nhỏ quậy hết biết, càng lớn anh càng trở nên đằm thắm, dần dần thấy giống ông bố, tương lai sẽ cao hơn cô chị. Ai cũng khen hai vợ chồng có hai đứa con như vậy thật tuyệt vời. Nhìn hai đứa con, vợ chồng thấy vô vàn hạnh phúc và tự cảm thấy có bàn tay của đấng tối cao gia hộ cho hai người có được hai đứa con khỏe mạnh, xinh xắn. Nhìn những người bạn cùng trang lứa cũng có vợ chồng nhưng lại chậm có con cái. Có người sinh con nhưng đứa bé không được khỏe mạnh. Ít có cặp vợ chồng có được con cái xinh xắn và khỏe mạnh như vợ chồng Tân và Xuân. Thỉnh thoảng hai người đến chùa cúng tạ ơn và cầu nguyện cho gia đình luôn được mạnh khỏe và thành công trong cuộc sống. Đây là tập tục truyền thống của người miền Nam, có chuyện may mắn, niềm hạnh phúc to lớn vừa nhận được, người ta thường vô chùa đốt cây nhang trên bàn thờ ông Phật để tạ ơn, không cần biết niềm hạnh phúc, hay điều may mắn đó có do ông Phật mang tới hay không? Anh chị thấy nhiều người khác khi có bệnh hoạn chi đó thường cầu xin Trời Phật phù hộ cho mau hết bệnh rồi hứa tự nguyện ăn chay một tháng. Thực sự nếu ăn chay mà hết bệnh ung thư gan thì người ta sẽ ăn chay suốt đời cũng được chứ nói chi một hoặc hai tháng. Dầu sao đi nữa, người ta ai có được đức tin như vợ chồng Tân và Xuân là tốt lắm rồi….

Thời gian nghỉ Tết càng đi dần đến ngày cuối cùng, tâm trạng của Tân càng xốn xang bứt rứt. Anh thấy thời gian đi chậm quá. Chiều hôm qua, Tân chở vợ con đi vòng qua quận 7 hóng mát. Chiếc xe tay ga “to đùng” do xứ Đài sản xuất đủ sức cho chất lên bốn người. Tân chạy từ từ, vượt qua cầu Nguyễn Văn Cừ, rồi chạy ngang qua “rừng” cọ xanh mát. Ở đây người ta trồng cọ trên khắp con lươn rộng rãi ngay giữa đường trên thảm cỏ xanh tạo ra một khoảng không gian u tịch chạy dài đến tận đường Nguyễn Văn Linh. Ở Saigon này khó mà tìm được một nơi nào khác có khung cảnh êm đềm như vậy, nhưng trong tâm hồn Tân, anh cảm thấy dửng dưng và muốn cho mau tối để trở về nhà, nghỉ ngơi rồi đi ngủ cho nhanh chóng qua đi một ngày chờ đợi.

Tâm hồn Tân đã bị tràn ngập một hình bóng và dĩ nhiên đó là hình bóng một người phụ nữ mới vào làm việc trong cùng công ty có tên là Loan, trẻ trung, xinh xắn. Thực ra, nếu so với những người vừa trưởng thành hay ở tuổi vừa tốt nghiệp một trường đại học thì cô Loan này không còn gọi là trẻ vì cô vừa qua khỏi tuổi “băm”, nhưng vẫn nhỏ hơn Tân đến hơn một chục tuổi. Đối với Tân anh thấy cô này tuy không sắc sảo nhưng có một nét duyên dáng kỳ lạ. Không phải ở khuôn mặt với làn môi tươi thắm hoặc đôi mắt tinh anh, mà cô có dáng dấp thanh tú lạ thường. Dáng điệu, cử chỉ khi cô chạy vào nhà xe, tắt máy, lấy ba lô máng vào vai rồi khoan thai bước vào văn phòng, Tân thấy hao hao giống một cô gái Hong Kong hay Singapore mà anh đã từng xem phim. Đó là cái sức sống mạnh mẽ của một người con gái năng động với tinh thần tự lập, tự tạo cho mình một cuộc sống theo ý muốn. Phải nói rằng trong dáng điệu, cử chỉ của cô có nhiều nét giống người tây phương và đặc biệt giống nhiều người con gái xứ sở Hoa Kỳ. Có lẽ vì phong cách của cô như vậy mà những người con trai cùng trang lứa dù có trình độ đại học như cô thấy cô có cái gì đó không thích hợp, không thùy mị theo kiểu cách của người con gái Việt Nam truyền thống. Cũng hợp lý thôi khi mọi người chung quanh nghe cô tiết lộ cô chưa từng có bạn trai.

Vì lớn tuổi hơn cô gái này khá nhiều và với bề dày kinh nghiệm sống, Tân thấy cô gái này quả là tuyệt vời, ngược lại cô cũng có vẻ thích nói chuyện với Tân qua kiến thức rộng rãi của chàng trai hơi lớn tuổi và đã có vợ con này. Thỉnh thoảng Tân mời cô đi ăn mấy món đặc sản Nha Trang ở đường Kỳ Đồng. Vì sống ở Saigon từ nhỏ nên cô rất thích những món ăn vùng sông nước biển khơi. Cô thích nhất cái món gỏi cá mai. Cô ăn rất thiệt tình, nghĩa là bình tĩnh dùng bánh tráng cuốn từng cuốn ăn một cách thích thú. Cô nàng không hề có kiểu làm điệu như một số nàng con gái khác thường bảo anh bạn trai cuốn giùm. Cô luôn luôn bảo:

- Để em ăn tự nhiên.

Trong lúc ăn cô thường kể về những cuốn sách mà cô đã đọc. Điều này làm Tân thích cô một cách mê mệt, có lần anh hỏi:

- Sách cũ ở đâu mà em có đọc vậy?

- Của ba em. Ổng có một tủ sách chừng vài trăm cuốn. Em rỉ rả mượn đọc hết cuốn này đến cuốn khác.

- Em thích cuốn nào nhứt.

- Em thích nhiều lắm anh à. Sách hồi xưa hay quá. Em thích đọc Paul Gallico.

- Em đọc cuốn nào rồi?

- Hai, ba cuốn gì đó. Nhưng em thích nhất là cuốn “Tình nghệ sĩ”.

Nghe tới đây Tân thích quá giống như người xưa tìm được một người bạn tri kỷ. Ở đây còn hơn nữa, người bạn tri kỷ này lại là một cô bạn gái trẻ đẹp hết biết.

- Em còn thích tác giả nào nữa không?

- Còn chứ. Chẳng hạn như John Steinbeck nè. Anh đọc “Của chuột và người” chưa?

- Rồi. Coi bộ em thích nhà văn Mỹ không vậy?

Rồi Tân hỏi tiếp:

- Em có xem phim “Của chuột và người” chưa?

- Có rồi!

- Tài tử xịn không đó nghe, Tân nói.

- Đúng! Gary Sinise vai Trung úy Dan trong phim Forrest Gump, còn John Malkovich từng trong vai thủ lãnh đám không tặc trong phim “Con Air”.

Và cũng đến đây Tân chịu hết nổi phải giơ tay lên theo kiểu đầu hàng:

- Wa! Tâm phục khẩu phục!

Đó, kiến thức đọc sách và phim ảnh của cô đồng nghiệp này như thế thì làm sao mà anh chàng Tân này không… chết ngắt. Và cũng rõ ràng thôi, khó mà có anh con trai cùng trang lứa nào theo kịp được cô. Từ đó suy ra cái “duyên kỳ ngộ” của cô chắc chắn phải đến chậm rồi.

Cứ mỗi lần đi uống cà phê hay đi ăn vài món đặc sản về đến nhà, Tân như rớt vào một thực tế vô cùng khác lạ nhưng đầy tình thương yêu. Xuân nhanh nhẩu làm món uống hoặc cắt một món trái cây đem đến bàn, Tân nhón ngay một miếng cho ngay vào miệng:

- Chà! Cam ở đâu mà ngọt quá vậy em.

- Nghe nói ở Cái Bè đem lên.

- Hèn gì, ngon quá.

Tân bước vào văn phòng làm việc vừa đúng tám giờ sáng của ngày đầu năm mới. Mọi người hân hoan chúc tụng nhau, cùng nhau trao đổi những kỷ niệm vui trong những ngày nghỉ Tết. Người mà Tân chờ đợi miết cho đến bây giờ vẫn chưa tới. Tân hỏi chị phụ trách nhân sự:

- Ủa, Loan chưa tới sao?

- Xong rồi anh Tân ơi! Nàng đã gửi email cho Giám Đốc xin nghỉ và cho biết có người bạn học cũ ở Mỹ về ăn Tết gặp lại cô và… cầu hôn. Cô đã ưng thuận rồi…


Phụ Bản III

VÀI NÉT VỀ

BÁO CHÍ NHẬT BẢN

Quy mô:

Nhật Bản là một trong những nước có phương tiện thông tin đại chúng lớn nhất thế giới với khoảng 90 tờ báo (chỉ tính báo cỡ vừa và cỡ lớn) và 35 hãng thông tấn, phát thanh và truyền hình. Tuy số đầu báo không nhiều, nhưng số lượng lên đến gần 52 triệu số/ngày, tỷ lệ 587 tờ cho mỗi 1.000 người/ngày.

Về tạp chí, mỗi năm xuất bản khoảng 4,7 tỷ số gồm 1,9 tỷ tạp chí hàng tuần và 2,8 tỷ tạp chí hàng tháng.

Phân loại:

Thông thường tất cả các báo cỡ vừa và cỡ lớn đều phát hành 2 lần trong một ngày: buổi sáng và buổi chiều và được xem là một bộ (set newspapers)

Báo chí Nhật Bản chia làm 3 loại:

Báo toàn quốc gồm 5 tờ với số phát hành buổi sáng và buổi chiều là:

- Yomiuri Shimbun: 9,764 triệu và 4,521 triệu số

- Asahi Shimbun: 8,218 triệu và 4,609 triệu số

- Mainichi Shimbun: 4,006 triệu và 1,989 triệu số

- Nihon Keizai Shimbun: 2,910 triệu và 1,718 triệu số

- Sankei Shimbun: 1,901 triệu và 989 ngàn số

Báo blốc (block newspapers): cũng phát hành mỗi ngày 2 lần trong từng khu vực gồm một số tỉnh và thành phố.

- Hokkaido Shimbun: trụ sở đặt tại thành phố Sapporo, phát hành toàn đảo Hokkaido: 1,170 triệu (sáng) và 783 ngàn số (chiều).

- Chunichi Shimbun: trụ sở tại Tokyo, phát hành tại một số tỉnh trung bộ Nhật Bản: 2,231 triệu (sáng) và 823 ngàn số (chiều).

- Nishinihon Shimbun: trụ sở tại thành phố Fukuoka, phát hành ở miền Tây Nhật Bản: 806 ngàn (sáng) và 200 ngàn số (chiều).

Báo địa phương: Mỗi tỉnh, thành phố đều có một tờ báo chủ chốt phát hành từ 100 đến 500 ngàn số/ngày và vài tờ báo nhỏ khác.

Hệ thống phân phối:

Có đến khoảng 93% số báo được đặt mua dài hạn và được đưa đến tận nhà người đọc; bình quân mỗi hộ đặt mua 1,22 tờ báo mỗi ngày. Chỉ có 7% số báo bày bán tại các ki-ốt ở các sân ga hoặc trên đường phố; không có người đi bán dạo. Đây là một đặc điểm của hệ thống phân phối báo chí Nhật Bản.

Mỗi tờ báo xây dựng một mạng lưới đại lý bán báo riêng. Trên khắp nước Nhật có 23.663 đại lý, tuyển dụng khoảng 473 ngàn người để mang báo đến tận nhà người mua; trong đó, 23% là thanh thiếu niên tuổi từ 12 đến 18.

Cạnh tranh giữa các đại lý rất gay gắt. Để giành được nhiều hơn hợp đồng đặt mua báo dài hạn, ngoài việc cải tiến phương thức phục vụ, các đại lý còn tranh thủ người mua bằng nhiều thứ quà cáp từ giấy vệ sinh, xà bông, đến đồng hồ, máy tính điện tử…

Chủ trương:

Báo chí Nhật chủ trương không thiên vị trong việc đưa tin. Không thiên vị cũng có nghĩa là trung lập, đứng giữa các bên chống đối nhau, đưa tin một cách độc lập và theo từng sự kiện một. Chính chủ trương này làm cho báo chí Nhật đồng dạng và nội dung tương tự nhau. Cho nên, chỉ cần đọc qua hàng tít, bạn có thể đoán được nội dung của bài báo rồi. Gần đây, một vài tờ báo bắt đầu bộc lộ cá tính, thể hiện rõ quan điểm riêng của mình. Tuy nhiên, nhìn chung báo chí Nhật Bản vẫn còn khá giống nhau. Do đó, để cạnh tranh tăng thêm số lượng phát hành, mỗi tờ báo phải đầu tư thật nhiều vào mạng lưới đại lý.

Hệ thống câu lạc bộ báo chí:

Nhật Bản có một hệ thống câu lạc bộ báo chí độc đáo trực thuộc Hiệp hội các nhà xuất bản báo chí và chủ bút Nhật Bản, gọi tắt là Hiệp hội báo chí Nhật Bản (Nihon Shimbun Kyokai = NSK).

Có khoảng 700 câu lạc bộ báo chí trên khắp nước Nhật. Hàng ngày, tại các câu lạc bộ này đều có thông báo tin tức, họp báo hay thuyết trình chuyên đề. Phóng viên chỉ cần ngồi tại câu lạc bộ cũng có thể nắm được hầu hết các tin tức quan trọng. Hệ thống câu lạc bộ này rất hữu hiệu trong việc loan truyền tin tức. Tuy nhiên, nó lại dẫn đến sự giống nhau trong nội dung các báo.

Trước đây, phóng viên nước ngoài không được phép tham gia sinh hoạt tại các câu lạc bộ báo chí Nhật Bản. Cho đến tháng 6 năm 93, NSK mở cửa đón nhận đồng nghiệp nước ngoài làm thành viên chính thức.

NGUYỄN VĂN NIÊM

ĐỖ THIÊN THƯ st

CHIỀU CUỐI NĂM

Đẹp trai như Sang mà ế vợ quả là điều khó tin, vì thật ra, anh chỉ vừa bước vào tuổi 35 được ít ngày. Nhất là chẳng ít mỹ nhân… ngấp nghé anh mà anh chưa bao giờ trả lời bằng hơn một nụ cười mỉm! Anh cũng thừa biết rằng đến tuổi này mà chưa có gia đình thì cũng được kể là khá muộn. Nhưng biết làm sao hơn vì lòng anh bây giờ vốn đầy nghi hoặc về một tình yêu êm đềm! Chuyện anh và Nữ không êm đềm sao trước mặt những người cùng dạy trong ngôi trường ấy? Tất cả đồng nghiệp đều so sánh anh và cô ấy với thậm chí hai vì sao sáng nhất trên trời cơ mà! Chính anh cũng thế, anh từng run rẩy khi lần đầu nắm tay cô. Chính anh đã tưởng có thể chết cả cuộc đời mình trong ánh mắt giai nhân ấy. Chính cả ông hiệu trưởng cũng chuẩn bị cho một ngày đôi uyên ương này làm đám cưới. Anh dạy toán, cô dạy văn. Hai nhà giáo lấy nhau thì hẳn gia đình này sẽ thành một ngôi trường ấm cúng. Trong nghĩ suy, trong ánh mắt, và trong cả mặt trời, thì họ quả là đôi hoàng tử-công chúa đã dành cho sẵn cho nhau từ thuở nào rồi kìa…

Một lần anh đến nhà cô, nơi cha mẹ cô dành cho cô một gian phòng rộng rãi để cô dạy thêm cho mấy đứa học trò. Hôm ấy là cuối tháng, ngày mà cô được các phụ huynh trả học phí sau một tháng cô vất vả kèm con em mình. Đã hết giờ dạy, và hai người đã hẹn nhau sẽ đi ăn tối như thói quen mỗi tuần. Nhất là hôm nay, anh sẽ bàn bạc với cô về những chi tiết của ngày cưới sẽ đến. Trong phòng, ngoài anh ra, chỉ còn một cô bé học trò. Nhìn mặt nó tiu nghỉu, anh biết cô đang rầy la nó chuyện gì đó. Dù đang xem tờ báo, nhưng anh nghe rõ mồn một lời cô nói với nó qua kẽ răng:

- Em phải biết rằng, cô không có dạy… chùa nghe chưa…

Nó thu mình trên ghế, mắt cụp lại, nghe thêm những lời mà anh chưa hề nghe cô nói bao giờ trong những lần gặp nhau:

- Nếu không có tiền, thì bảo với bố mẹ em rằng, cô không dạy nữa! Sao mà lỳ quá vậy?

Anh liếc nhìn đôi mắt đẹp của cô đang nảy lửa. Anh thấy cô hoa tay, hoa chân khi nói với con bé với những ngôn từ không phải của một cô giáo, mà là của một bà bán cá xấu nết nào đó ngoài chợ.

Cả buổi đi chơi tối hôm đó, tự nhiên cả hai ít nói hẳn. Cái bực bội trong cô, làm như lây cả vào không khí giữa hai người! Một chút suy nghĩ vớ vẩn của anh cũng khiến anh cảm thấy tốt hơn là chưa vội nói đến chuyện cưới xin. Họ nắm tay tạm biệt mà thấy tay bạn mình lạnh lẽo, cho dù cả hai đều cố ghì lại bàn tay ấy trong tay mình. Lần đầu sau nhiều buổi đi chơi, họ chẳng hề hôn nhau đắm đuối!

Anh nhờ người đưa tiền cho cô bé, để nó có thể trả tiền học cho Nữ cho suốt cả năm học, vì thật ra, Nữ là giáo viên rất giỏi môn này.

Chuyện chỉ có vậy, mà anh xin chuyển trường để khỏi phải trả lời những câu hỏi của cô về việc anh chẳng còn muốn đi chơi với cô, về việc cưới xin giữa hai người mà anh chẳng còn nhắc đến nữa. Nghĩa là, tình yêu đã chết yểu trong trái tim anh!

Rồi mẹ anh qua đời! Mọi người đều đến với anh, trừ Nữ! Có lẽ, cô mong đợi một chút gì đó thiết tha từ phía anh, để tình yêu lại nối dòng dang dở! Và giả như cô cứ đến với anh, như ít ra phải đến vì nghĩa tử là nghĩa tận, thì có lẽ trái tim anh biết đâu lại bồi hồi mà đôi bờ lại gặp nhau…

Thế là họ vĩnh viễn mất nhau. Và niềm tin vào tình yêu đã dần khô khốc đi trong tim người giáo viên dạy toán ấy! Rồi cuộc sống tuy khô khốc ấy vẫn tiếp diễn trong ngôi nhà cô đơn của anh. Lũ học trò là niềm vui duy nhất mà anh có được qua suốt bao tháng ngày. Có lần, anh mua vé số chỉ vì tự nhiên muốn mua thế thôi. Ai ngờ, tấm vé số ấy lại thành một bữa đãi đằng cho lũ học trò với nào chè, nào cháo inh ỏi cả gian nhà vốn chỉ nghe tiếng loạt soạt của giấy, và tiếng anh ồn ã giảng bài cho những đôi mắt tròn xoe. Mua một lần là mua hoài, vì anh bị mời hoài. Và cũng vì lần trúng số tuy nhỏ nhỏ ấy, anh cũng không quên dúi vào tay cô bán vé số “chút đỉnh gọi là”, chỉ vì anh nghĩ người ta nghèo mới đi bán vé số…

Xui cho anh, là chẳng bao giờ anh trúng số nữa! Mà học trò anh lại cứ mè nheo xin thầy cho ăn chè, khiến thầy giáo Sang chẳng cách nào hơn là phải chiều lũ học trò dễ thương ấy.

Chiều nay cũng thế, chẳng những là cuối tháng mà còn là ngày cuối năm nữa kìa. Mấy đứa học trò ra sức làm bài cho xong rồi hô hoán:

- Thầy ơi! Cho tụi em ăn chè đi…

- Thầy ơi! Tối nay thầy dắt tụi em đi coi bắn pháo bông đi…

Những cái “Thầy ơi” loạn xị ấy cũng chẳng lấp đi được tiếng lao xao ngoài ngõ. Anh hé cổng nhìn ra: Một gã mặt mũi bặm trợn đang đánh dập dụi một cô gái. Miệng hắn la bai bải:

- Đánh chết mẹ cái thứ giật chồng…

Anh chưa kịp hiểu chuyện gì, thì bất ngờ, lại có tiếng thét… kinh hoàng:

- Ê! Đm thằng kia… Sao mày đánh người ta như vậy!

Vừa chửi thề cùng cái giọng như sấm sét, vẻ mặt vốn đã rất xấu xí của cô bán vé số lại ánh lên nét dữ tợn khi cô quăng cả tập vé số xuống đất, rồi hùng hổ như muốn lao vào…

Lạ thay, gã kia lên xe của thằng nào đó, chạy mất…

Anh mở cổng ra, gọi cả hai vào nhà. Cô bán vé số sau khi hốt hết những tờ vé số tung tóe trên hẻm, cũng bước vào nhà anh. Giọng cô mềm hẳn:

- Em có bị sao không…

Rồi cô đón lọ dầu anh đưa để vừa thoa cho cô gái, vừa phân trần:

- Em thấy thằng kia giật điện thoại của cô bé này. Mà nó còn đổ vấy con người ta cái tội giật chồng nữa…

Tự nhiên mặt cô đỏ bừng, chắc cô nhớ lại câu chửi thề lúc nãy. Anh chợt mỉm cười:

- Vậy cô không sợ bọn nó à?

- Sợ chứ anh, nhưng chẳng hiểu sao cứ hét ầm lên được như vậy nữa…

Rồi cô lẩm bẩm:

- Ăn nói tầm bậy quá…

Như cái máy, anh thốt lên:

- Cô chửi… hay lắm!

Rồi đột nhiên, anh thấy cô bán vé số đẹp lạ lùng! Anh thấy cô đúng là con người có trái tim! Anh thấy hành động của cô chẳng khác gì hành động của con gà mẹ khi bảo vệ con mình trước gã diều hâu quái ác. Thậm chí, anh lại còn đồng tình rằng, lúc ấy, chính tiếng chửi thề của cô làm bọn kia khiếp vía mà trả lại sự an bình cho cô gái.

Cô bẽn lẽn nhìn anh, có phần ân hận vì đã để những lời bẩn tai lọt vào tâm trí anh. Nhưng anh đã quyết tâm rằng, tối nay giao thừa, anh sẽ chở cô đi xem bắn pháo bông, mặc xác mớ vé số kia, vì anh sẽ mua không sót lại một tờ nào…

Lam Trần

VỀ CA KHÚC

“XUÂN VÀ TUỔI TRẺ”

LƯU ANH RÔ(*)

Hằng năm, cứ mỗi độ xuân về, khắp nơi trên đất nước ta, đặc biệt là những hội đồng hương đất Quảng bất kể từ Bắc hay Nam, từ Pháp hay Mỹ… khi gặp nhau đều hát cho nhau nghe một ca khúc đã trở nên bất hủ cùng mùa xuân, đó là bài “Xuân và Tuổi trẻ” của nhạc sĩ La Hối, quê gốc Hội An. “Ngày thắm tươi bên đời xuân mới. Lòng đắm say bao nguồn vui sống. Xuân về với ngàn hoa tươi sáng, ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng…” ít ai biết rằng: đằng sau những ca từ và tiết tấu vui nhộn đó, lại ấn chứa số phận đau buồn của người viết ra nó - một nhạc sĩ tài hoa mà bạc mệnh. Nhân dịp Tết đến xuân về, xin giới thiệu một số điều ít biết về tác giả của ca khúc này.

1. NGƯỜI LẬP “HỘI YÊU ÂM NHẠC” ĐẦU TIÊN TẠI HỘI AN

Nhạc sĩ La Hối tên thật là La Doãn Chánh, sinh năm 1920 tại Hội An (Quảng Nam) trong một gia đình phong lưu mà phần đông con cái đều có ít nhiều năng khiếu về nghệ thuật. Theo ông La Gia Quảng (hiện sống tại 91 Nguyễn Thái Học - Hội An) cho biết: “Từ nhỏ, chú tôi (tức La Hối) đã tỏ ra là một học sinh xuất sắc ở các môn học và đặc biệt rất có năng khiếu về âm nhạc. Ông tự học và nghiên cứu âm nhạc Đông-Tây, nhất là âm nhạc Tây Âu. Năm lên 14 tuổi, La Hối đã tập tành sáng tác những giai điệu vui tươi, sôi nổi... Từ năm 1936-1938, chú vào Sài Gòn để hoàn chỉnh chương trình học vấn đồng thời cũng học hỏi các giáo sư, nhạc sĩ về nhạc cổ điển Tây phương. Sau đó, ông trở về Hội An dạy đàn và vận động những người cùng sở thích thành lập Hội yêu âm nhạc (Société philharmonique) đầu tiên tại đây. Ông được anh em tín nhiệm bầu làm hội trưởng và ông cũng là người đầu tiên đưa các hành khúc cách mạng Việt Nam vào chương trình hòa tấu (trước đó chỉ sử dụng nhạc ngoại quốc). Một số nhạc sĩ trẻ thời đó đã từng được La Hối hướng dẫn như: Dương Minh Ninh (tác giả ca khúc Gấm vàng), Lê Trọng Nguyễn (tác giả Nắng chiều), Lan Đài (tác giả Chiều tưởng nhớ)...”. Theo nhạc sĩ Trương Đình Quang - một trong những học trò của La Hối hiện sống tại Đà Nẵng cho biết: “La Hối là người cực kỳ kín đáo, trong dạy học ông khá nghiêm nghị, dù dựng vở hay dạy nhạc ông luôn buộc anh em chúng tôi tập tành thật thuần thục mới được lên sân khấu biểu diễn. Có một cô học trò được La Hối dạy và sau đó là người yêu của ông, nhiều ca khúc ông sáng tác trong thời gian từ năm 1943-1945 đều tặng cho cô này giữ, nên sau này thất lạc khá nhiều!”.

2. CHẤP NHẬN CHẾT LÀ VÌ MẸ

Khi phát xít Nhật xâm chiếm nước ta, quân Nhật triển khai đóng dày đặc tại Đà Nẵng và Hội An, cũng như bao thanh niên yêu nước thời bấy giờ tại Hội An, La Hối nhanh chóng tham gia vào các phong trào chống Nhật. Ông đã gia nhập một tổ chức chống phát xít với tất cả bầu nhiệt huyết và mau chóng trở thành lãnh đạo nòng cốt của tổ chức này. Ông tham gia in truyền đơn, viết biểu ngữ hô hào chống Nhật nên bị hiến binh Nhật theo dõi ráo riết. Năm 1944, hiến binh Nhật phát lệnh truy nã La Hối nên ông phải tránh qua Lào nhưng vì nhiệm vụ thiết yếu nên ông lại quay về Hội An. Một ngày vào trung tuần tháng 5.1945, bọn hiến binh Nhật quyết định bắt thủ tiêu La Hối và 10 đồng chí của ông tại Hội An.

Theo nhạc sĩ Trương Đình Quang cho biết: “Chiều hôm ấy, Mặt trận Việt Minh Hội An mà cụ thể là anh Huỳnh Đắc Hương (sau này là Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam) báo cho biết bọn Nhật sẽ bắt và thủ tiêu La Hối, song ông lại nói: “Nếu mình trốn đi, bọn Nhật chắc chắn sẽ bắt giết mẹ mình mất!”. Vì thế, La Hối đã bị Nhật bắt giữ. Sau nhiều ngày giam giữ và tra tấn vô cùng dã man, Nhật đã đem tất cả 11 người ra xử bắn và vùi lấp chung một huyệt tại chân núi Phước Tường (phía tây nam TP Đà Nẵng). Những ngày cuối năm 2007, tôi may mắn gặp được một nhân chứng đã chứng kiến cuộc hành hình La Hối năm nào. Ông Ngô Văn Lại, cựu sinh viên Văn khoa Huế hiện ở tại phường Hòa Thọ Tây nhớ lại: “Năm 1945 tôi chừng mươi tuổi, một buổi sáng nọ tôi cùng cha đi lên đám thuốc lá tại làng Cẩm Khê gần chân núi Phước Tường để bắt sâu hại thuốc. Đang làm, bỗng tôi thấy 1 chiếc xe nhà binh của quân Nhật từ Đà Nẵng lên đỗ xịch cách chỗ mình độ vài trăm mét. Bọn Nhật đẩy trên xe xuống chừng chục người rồi nhanh chóng cột họ lần lượt vào các cây cọc đã trồng sẵn. Lập tức, một tên lính Nhật cởi trần bước tới từng nạn nhân vừa vung kiếm lên thét lớn rồi chém đứt đầu từng nạn nhân một. Đó là cuộc hành hình duy nhất của bọn Nhật tại Đà Nẵng mà tôi thấy, mà cũng không nghe thêm một vụ hành hình nào khác! Từ năm 1948 ca khúc Xuân và Tuổi trẻ đã được phổ biến khắp nơi, tôi rất thích nó song mãi năm 1953, nhân đọc bản Xuân và Tuổi trẻ và tiểu sử của La Hối tôi liền liên tưởng đến cuộc hành hình mà mình tình cờ chứng kiến năm nào”.

Ông La Gia Quảng còn cho biết thêm: “Sau ngày Nhật đầu hàng phe Đồng Minh, nhiều người dân Hội An đã tác động với quân Tưởng để buộc Nhật chỉ nơi hành quyết 11 người con của Hội An. Quân Nhật đã chấp nhận điều kiện và đưa cả đoàn đi chỉ, lúc này tôi đã 18 tuổi và cũng được đi. Đến nơi hành hình tại chân núi Phước Tường, khi khai quật 11 xác người, đến xác thứ 9 tôi nhận ra đó là La Hối, vì ông mặc một chiếc áo vét carô màu đỏ, một chiếc đầu lâu tôi nhận ra ông nhờ có chiếc răng vàng. Tuy nhiên, do xác đã phân hủy lại vùi chung một hố nên lẫn lộn nhau, chúng tôi đành đưa họ về và an táng cùng một mộ như chúng ta thấy hiện nay. Khi đưa 11 thi hài về, xe chở quanh Hội An bà con thương khóc, phúng viếng nhiều lắm!”.

3. VỀ CA KHÚC “XUÂN VÀ TUỔI TRẺ”

Theo ông La Gia Quảng cho biết: “La Hối sáng tác rất nhiều nhưng chỉ còn lại khoảng 20 tác phẩm. Số lớn tác phẩm của ông đã bị hiến binh Nhật thu giữ, một phần khác do… người yêu của ông cất giữ (gia đình thường gọi là “Cô giáo dạy dương cầm”). Sau khi ông chết, người này đi đâu không rõ nên gia đình không xin lại được. Riêng ca khúc “Xuân và Tuổi trẻ” được sáng tác trong thời kỳ La Hối bị hiến binh Nhật theo dõi, hoàn cảnh sống rất khó khăn, thế nhưng giai điệu của tác phẩm lại rất hào hứng, phấn chấn yêu đời. Cũng như đa số các ca khúc khác, La Hối viết nhạc phẩm này không có lời. Sau khi ông chết, thì Diệp Truyền Hoa mới đặt lời Hoa. Năm 1946, nhà thơ kiêm đạo diễn kịch Thế Lữ cùng nhóm nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Văn Chung... trong đoàn ca vũ nhạc Anh Vũ đến Hội An trình diễn. Thế Lữ đã rất yêu thích giai điệu bài hát này. Qua tìm hiểu và xúc động trước cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy tài hoa của chàng nhạc sĩ - liệt sĩ này, Thế Lữ đã xin phép gia đình La Hối để đặt lời Việt cho nhạc phẩm này. Từ đó, “Xuân và Tuổi trẻ” (nhạc La Hối, lời Thế Lữ) luôn vang lên trong mỗi độ xuân về.

Trong kháng chiến, “Xuân và Tuổi trẻ” theo đoàn quân vào tận chiến khu, lên Việt Bắc, vào miền Nam và vang xa tận hải ngoại... Ông La Gia Quảng đưa cho tôi xem 2 bản “Xuân và Tuổi trẻ” do Nhà xuất bản Đón Gió ấn phẩm hè 1954 (Duy Liêm vẽ bìa), bản này có in cả lời Việt (của Thế Lữ) và lời Hoa (của Diệp Truyền Hoa), bìa 4 có in hình nhạc sĩ La Hối đang chơi đàn accordéon. Ở bản khác cũng ghi: Xuân và tuổi trẻ, chính xác và đầy đủ, đặc biệt ấn hành lần thứ tư (ấn phẩm 1956) nhưng không có lời Hoa. Chỉ trong 2 năm mà đã tái bản đến 4 lần, đủ thấy sức cuốn hút và lan tỏa của “Xuân và Tuổi trẻ”. Nhạc sĩ Trương Đình Quang thì cho tôi một bản in “Xuân và Tuổi trẻ” của nhà in Trùng Dương ấn hành năm 1957, được trình bày rất đẹp và trang trọng! Ông Quảng thì đưa cho tôi xem 4 bản nhạc ông vừa sưu tầm được của La Hối gồm: “Xuân sắc quê hương”, “Thanh niên lên đường” (Lê Chương), “Gió thiêng liêng” (lời Duy Liễu).

Nói đến nhạc Xuân không ai không biết “Xuân và Tuổi trẻ” song biết sâu hơn về số phận buồn đau của tác giả La Hối, một người chỉ dành những sáng tác của mình cho mùa Xuân và Tuổi trẻ lại mất ở tuổi đời quá trẻ, điều đó còn làm cho ca khúc này trở nên bất hủ mỗi khi đất trời chuyển mùa vào Xuân!

(*) ThS, Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Đà Nẵng.

THẰNG NHÓC

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

XIN VIỆC LÀM

 

Sarlande là một tỉnh nhỏ của vùng Cévennes, nằm gọn trong một thung lũng chật hẹp, mà núi non vây quanh như một bức trường thành. Khi mặt trời lên, thì nóng như một hỏa lò, và khi gió bấc thổi đến, thì lạnh như băng giá.

Buổi chiều ngày tôi đến, ngọn gió bấc thổi mạnh từ sáng, và mặc dầu vào mùa xuân, Thằng Nhóc đang ngồi trong xe lúc vào phố, cảm thấy cái lạnh thẩm thấu tận tâm can.

Con đường thì đen tối và vắng vẻ… Trên quảng trường Vũ Trang, có vài người đi tới đi lui để đợi xe, trước một cơ sở âm u.

Vừa xuống xe, tôi vội hỏi thăm đường đến trường Cao Đẳng. Tôi nôn nóng để được bước vào việc làm.

Trường Cao Đẳng thì không xa cái quảng trường là mấy. Sau khi băng qua ba con đường rộng rãi và yên tịnh, người phu mang hành lý dừng lại trước một ngôi nhà to lớn, mà im lìm, như đã bỏ hoang từ nhiều năm.

“Đây rồi!”. Y vừa nói vừa cầm cái chày to để gõ cửa một cách nặng nề. Cánh cửa mở ra. Chúng tôi bước vào. Tôi đứng im lặng trong bóng tối. Người phu đặt cái va-ly xuống đất. Tôi trả tiền xong thì y rời ngay. Cánh cửa đóng lại một cách nặng nề. Một đỗi sau, có một người gác cổng say ngủ, cầm đèn đến gần tôi mà hỏi:

- Em là học trò mới phải không?

Ông ta nói với giọng lè nhè như người vừa mới thức giấc, cứ tưởng tôi là học trò mới đến. Tôi bèn ưỡn ngực lên mà trả lời:

- Tôi đâu phải là học trò. Tôi là thầy giáo đến đây để dạy học. Hãy đưa tôi đến gặp ông Hiệu Trưởng.

Người gác cổng có vẻ ngạc nhiên. Ông ta nhích cái nón lên chào, và bảo tôi vào trong chờ đợi, vì lẽ vào giờ này ông Hiệu Trưởng đang xem lễ cầu kinh với học trò, nơi thánh đường.

Trong phòng, người ta vừa ăn cơm xong. Một gã to lớn có râu mép đang nhâm nhi ly rượu, bên cạnh một người đàn bà ốm yếu, bệnh hoạn, quấn khăn choàng hầu.

Gã râu mép hỏi:

- Chuyện gì vậy, ông Cassagne?

Người gác cổng vừa trả lời, vừa chỉ tôi:

- Đây là ông thầy giáo mới, ông thầy nhỏ con đến đỗi tôi phải lầm là học trò mới.

- Thật ra, - gã râu mép vừa nói, vừa nhìn tôi qua ly rượu - chúng ta ở đây, có nhiều học trò còn to con hơn, và nhiều tuổi hơn ông thầy đây, như thằng Veillon chẳng hạn.

Người gác cổng nói:

- Và thằng Crouzat.

Người đàn bà nói:

- Và thằng Soubeyrol.

Rồi đó, họ bắt đầu thì thầm, nói chuyện với nhau, chúi mũi trong ly rượu tồi tàn, mà quan sát tôi qua khóe mắt.

Ở ngoài, người ta nghe ngọn gió bấc thổi xào xạc, và tiếng ồn ào của trẻ con cầu kinh trong thánh đường.

Thình lình, chuông đổ. Có những tiếng chân bước.

Ông Cassagne nói với tôi:

- Lễ cầu kinh đã chấm dứt. Chúng ta lên phòng ông Hiệu Trưởng đi.

Ông ta cầm cái đèn lồng mà dẫn đường, tôi đi theo sau.

Nhà trường có vẻ rộng mênh mông. Những hành lang thì dài thườn thượt. Những cánh cổng to. Những cầu thang rộng rãi, với tay vịn bằng sắt cũ kỹ, đen đúa, ám khói. Người gác cổng cho biết, trường này thuở xưa là trường Hải Quân, có cả 800 học sinh, toàn là con của nhà quý tộc.

Như ông ta vừa cho tôi biết những thông tin quý báu này, thì chúng tôi đã đến trước phòng của ông Hiệu Trưởng. Ông Cassagne gõ cửa. Có tiếng nói vọng ra: “Vào đi”. Chúng tôi bước vào.

Đó là một căn phòng làm việc rộng rãi, có trải thảm xanh. Trong cùng, trước một bàn dài, ông Hiệu Trưởng đang ngồi viết lách dưới ánh đèn có chụp che.

Người gác cổng vừa nói vừa đẩy tôi tới:

- Thưa ông Hiệu Trưởng, đây là ông thầy mới đến, để thay thế cho ông Serrières.

- Tốt. Ông Hiệu Trưởng nói, mà không ngẩng đầu lên nhìn.

Người gác cổng nghiêng mình chào rồi đi ra. Tôi đứng sừng sựng ở giữa phòng, hai tay nâng niu cái nón.

Sau khi viết lách xong, ông Hiệu Trưởng mới day qua tôi, và tôi có thể nhìn thấy một gương mặt xanh xao đến lạnh lùng. Còn ông Hiệu Trưởng thì phải mang kính vào, để nhìn tôi cho kỹ. Rồi ông nẩy ngược trên ghế mà la:

- Nhưng mà, đây là một đứa con nít. Người ta muốn tôi làm gì với một đứa con nít đây.

Với miếng đòn này, Thằng Nhóc thật sợ hãi. Nó cảm thấy chắc chắn là bị đuổi ra ngoài đường rồi, còn gì hy vọng nữa. Nó chỉ còn vừa đủ sức để bập bẹ vài tiếng, mà trình bày cái thơ giới thiệu cho ông Hiệu Trưởng.

Ông Hiệu Trưởng cầm lá thơ, rồi đọc tới đọc lui, rồi xếp lại, rồi mở ra đọc, rồi sau cùng ông mới bảo tôi: là nhờ lời giới thiệu đặc biệt của ông Viện Trưởng, và gia đình danh giá của tôi, ông đành chấp nhận cho tôi vào làm việc ở học đường, mặc dầu dáng vóc trẻ con của tôi, làm cho ông sợ, và sau đó, ông dặn dò một loạt chỉ dẫn về tầm quan trọng trong công việc mới của tôi, nhưng mà tôi không còn nghe thấy gì nữa. Điều cốt yếu là người ta không đuổi tôi đi. Người ta không đuổi tôi. Tôi rất đỗi hạnh phúc. Hạnh phúc như điên.

Một tiếng khua rổn rẻng của kim khí làm cho tôi giựt mình. Tôi liền quay lại, thì chạm mặt ngay một nhơn vật cao nhồng, có râu mép đỏ, vừa bước vào phòng. Đó là ông Tổng Giám Thị. Ông nhìn tôi với nụ cười dịu dàng, vừa lúc lắc cái xâu chìa khóa đủ cỡ đeo ở ngón tay giữa. Nụ cười thì cho tôi ân huệ, nhưng mà tiếng rít của xâu chìa khóa thì làm cho tôi sợ: “Cà-reng ! Cà-reng ! Cà-reng !”.

Ông Hiệu Trưởng nói:

- Này, ông Viot. Đây là người thay thế cho thầy Serrières.

Ông Viot nghiêng mình, và cười nhẹ nhàng nhất thế giới. Trái lại, cái xâu chìa khóa cứ vang lên một cách quái gở, như muốn nói:

- Cái thằng bé kia mà thay thế cho thầy Serrières à. Thôi đi. Thôi đi.

Ông Hiệu Trưởng cũng dư biết cái xâu chìa khóa đang nói gì, nên ông buồn bã bảo:

- Tôi biết, vắng thầy Serrières, chúng ta bị thiệt thòi nhiều. Nhưng mà tôi chắc rằng nếu ông Viot chịu khó bảo lãnh đặc biệt người thầy mới nầy, và hướng dẫn kỹ thuật đứng lớp, thì chúng ta không còn nuối tiếc sự ra đi của thầy Serrières nữa.

Luôn luôn tươi cười và dịu dàng, ông Viot trả lời rằng, ông sẽ quan tâm đến tôi, và vui lòng chỉ bảo, nhưng mà cái xâu chìa khóa thì không nhân từ chút nào, và phải biết nó đang đay nghiến mãnh liệt làm sao:

- Cà-reng. Cà-reng. Ê, thằng ranh con, nếu mầy mà quậy hả, thì liệu hồn mầy đấy.

Ông Hiệu Trưởng bèn kết luận:

- Này thầy Eyssette, thầy về được rồi đó. Còn chiều nay, thì thầy phải ở khách sạn. Ngày mai, tám giờ sáng thì thầy hãy đến đây. Thôi, xin mời.

Ông Hiệu Trưởng tiễn tôi, bằng một cử chỉ rất là lịch sự.

Còn ông Viot, thì vẫn tươi cười hơn, vẫn dịu dàng hơn, tiễn đưa tôi ra tận cửa, và trao cho tôi một mảnh giấy. Ông ta nói:

- Đây là luật lệ của nhà trường, thầy hãy đọc đi và nghiên cứu kỹ lưỡng…

(Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật


CÁC KỶ LỤC

CỦA VĂN ĐÀN THẾ GIỚI

TÁC PHẨM HOÀN THIỆN NHẤT CỦA MỌI THỜI

Kỷ lục này thuộc về bộ Bách khoa toàn thư Yung-Lotatien (Vĩnh Lạc Đại Điển - Bộ sách lớn của triều Vĩnh Lạc - Nhà Minh) của Trung Quốc: Chứa đựng 22.937 cương bản thảo viết tay (370 chương vẫn còn lưu được cho đến nay), bao gồm 11.095 tập. Để hoàn thiện bộ sách khổng lồ này, hai nhà khoa học đã làm việc ròng rã suốt sáu năm trời: từ năm 1403 đến năm 1408.

CUỐN SÁCH NHỎ NHẤT

Đó là một đầu sách thiếu nhi, có tựa đề Old King Cole (Ông vua già nua) ra mắt độc giả năm 1985 ở Paisley và chỉ có 85 ấn bản (Scotland), với kích thước một milimet nhân một milimet, nhà xuất bản lưu ý độc giả nên dùng đầu kim khâu để lật giở các trang của cuốn sách siêu mi-ni này.

CUỐN TIỂU THUYẾT DÀI NHẤT

Kỷ lục thuộc về thiên tiểu thuyết Les hommes de bonne volonté (Những người thiện chí) của Jules Romains (1885-1972), bao gồm 27 tập, được viết trong 13 năm ròng (từ 1932-1944) và phải mất 14 năm mới in xong.

TẬP THƯ DÀY NHẤT

Là của ông Uichi Noda, cựu thứ trưởng tài chính Nhật Bản. Những cuộc công cán triền miên của ông Noda ra nước ngoài bắt đầu từ năm 1961, mỗi lần xa nhà, ông đều ghi thư đều đặn cho bà vợ Mitsu. Tới năm 1985, khi bà Mitsu mất, số thư lên tới 1.307 lá, được in thành 25 tập với tổng số 12.404 trang.

BỨC THƯ NGẮN NHẤT

Đến nay vẫn chưa ai phá được kỷ lục này của Victor Hugo và nhà xuất bản Hurst and Blackett. Tuy đang đi nghỉ, nhưng Hugo nóng lòng muốn biết kết quả công việc phát hành cuốn tiểu thuyết Những người khốn khổ. Ông cầm bút ghi: “?”. Nhà xuất bản trả lời: “!”. Vụ này xảy ra năm 1862.

CUỐN NHẬT KÝ DÀI NHẤT

Tác giả là đại tá Ernest Loftus, người Zimbabwe. Ông bắt đầu ghi nhật ký ngày 4-5-1896 khi mới 12 tuổi. Loftus viết đều đặn hàng ngày cho tới khi mất vào ngày 7-7-1987, thọ 103 tuổi 178 ngày.

THIÊN TRƯỜNG CA DÀI NHẤT

Đó là thiên trường ca dân gian Manas của người Kirghizia (Trung Á, thuộc Liên Xô cũ). Được in vào năm 1958 gồm hơn 500 câu thơ.

CUỐN SÁCH ĐƯỢC IN BÁN NHIỀU NHẤT

Đó là cuốn Thánh Kinh với số lượng hơn ba tỷ bản và cũng là cuốn sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất - hơn hai ngàn thứ tiếng, trong đó một phần tư là các ngôn ngữ của “Lục địa Đen” Phi châu. Tác giả của cuốn sách kỷ lục này vẫn còn nằm trong vòng tranh cãi: Chỉ có Chúa mới biết rõ ai là người viết ra Thánh Kinh, nhưng số nhà xuất bản từng in Thánh Kinh thì không thể liệt kê hết được.

Xếp thứ hai là tuyển tập Trích dẫn từ các tác phẩm của Mao Trạch Đông với 800 triệu cuốn tính từ 1966 đến 1971. Được bán hay phát không? Ngay cả sách kỷ lục GUINNESS cũng không xác định nổi.

Đứng thứ ba là cuốn The truth that leads to Eternal life (Sự thật dẫn đến cuộc sống vĩnh hằng) do nhà xuất bản Watchtower Bible and Tract Society ở New York ấn hành. Từ năm 1968 đến năm 1991, trong 23 năm nhà xuất bản này đã in cả thảy 107.073.279 bản.

Bản thân GUINNESS cũng là một cuốn sách kỷ lục được xếp thứ tư với 63 triệu bản tính đến 1990 đã bán ra và được coi là cuốn best-seller của mọi thời.

SÁCH ĐẮT GIÁ NHẤT

Kỷ lục không thể vượt qua nổi thuộc về một bản thảo gồm 226 tờ có tựa là: The Gospel Book of Henry the Lion, Duke of Saxony, được bán đấu giá ở London năm 1983 với 8.140.000 bảng Anh.

CUỐN SÁCH ĐƯỢC IN BẰNG MÁY ĐẦU TIÊN

Đó không phải là cuốn Thánh Kinh do Gutenberg in năm 1454 ở Đức như xưa nay người ta vẫn tưởng, mà là cuốn sách chỉ có 28 trang in những bài thơ Đường, hiện được bảo quản tại Đại học Yonsei ở Hàn Quốc. Cuốn sách này được in năm 1160 bằng chữ in kim loại. Theo những nghiên cứu mới nhất, xếp thứ hai là một cuốn ngữ pháp La-tinh “Donatus” và được in trong năm 1450.

NHÀ VĂN ĐƯỢC TRẢ THÙ LAO CAO NHẤT

Kỷ lục thuộc về văn sĩ Stephen King, chuyên viết về thể loại tiểu thuyết kinh dị. Năm 1989, S.King được ứng trước 26 triệu bảng Anh cho bốn đầu sách sắp viết. Tuy người ta có nói đến cuốn “Thiếu tình thương” của Tom Clancy, rằng tháng 8/1992 nhà xuất bản “Berkley Putnam” đồng ý trả 14 triệu USD để được quyền phổ biến quyển sách này ở Mỹ. Điều đó có nghĩa là số tiền đặt cọc cao nhất cho một cuốn sách từ trước đến nay. Nhưng đồng thời S.King cũng không chịu thua, ông kiếm thêm gấp bội nhờ các tác quyền chuyển thể sang kịch bản điện ảnh cho các sáng tác của mình.

NHÀ XUẤT BẢN LỚN NHẤT THẾ GIỚI

Đứng đầu là Nhà xuất bản Time Warner ở New York với 9.600 nhân viên cùng nguồn kinh phí cỡ 3 tỷ USD chuyên dành cho sách báo và tạp chí. Nhưng nhà xuất bản Progress (Tiến bộ) của Moscow vẫn dẫn đầu về số đầu sách phát hành, kể từ khi thành lập năm 1931, cho tới năm 1989, Progress đã in mỗi năm khoảng 750 đầu sách bằng 50 thứ tiếng khác nhau.

THƯ VIỆN LỚN NHẤT THẾ GIỚI

Kỷ lục là thư viện Quốc hội Mỹ ở Washington với 88 triệu bản tàng thư và đầu sách (trong đó có 26 triệu bản in), chứa trong 856 cây số ngăn kệ trên một diện tích 26 ha.

NƠI CÓ MẬT ĐỘ CÁC HIỆU SÁCH DẦY ĐẶC NHẤT

Đó là Reođio, một ngôi làng hẻo lánh ở vùng Ardeni của nước Bỉ: 24 hiệu sách trên tổng số 300 người dân.

KỶ LỤC VỀ SÁCH TỰ THUẬT

Đứng đầu là Georges Simenon (1903-1989) với 22 cuốn sách tiểu sử tự thuật. Nhưng kỷ lục về sách tiểu sử dài nhất thuộc về Winston Churchill (do Randolph ghi) dài 4.832 trang).

ĐẤT NƯỚC CÓ NHIỀU VĂN SĨ ĐƯỢC GIẢI NOBEL NHẤT

Dẫn đầu là Pháp với 12 giải Nobel văn học: từ Réne Prudhomme (1901), nhà văn đầu tiên được Hàn lâm viện Thụy Điển trao giải, tới Claude Simon (1985); cũng như Jean Paul Sartre người đã từ chối giải năm 1964.

Kế đến là Hoa Kỳ với 9 văn sĩ được giải. Tiếp tục là Anh, Thụy Điển và Đức.

VĂN SĨ CÓ SÁCH ĐƯỢC DỊCH NHIỀU NHẤT

Đúng ra là nữ văn sĩ - bà Agatha Christie. Một ví dụ đặc trưng: Trong “Niên giám thống kê 1992” của UNESCO cho thấy, chỉ riêng một năm 1986, đã có 269 dịch giả của 23 nước dịch các tác phẩm của bà.

TÁC GIẢ ĐƯỢC ĐĂNG VÀ TRÍCH DẪN NHIỀU NHẤT

Kỷ lục thuộc về tác giả Augustin - người được giáo hội Thiên Chúa phong thánh. Hầu như giờ nào cũng có người trích dẫn (nói hoặc viết) những câu từ của Augustin Blazeni (353-430) bất hủ.

NHÀ VĂN VIẾT NHIỀU NHẤT

Đó không phải là nhà hài kịch Lopez de Vega người Tây Ban Nha (1562-1635) với 2.200 vở kịch và truyện văn; mà là Frank Richards, “người cha” của Billy Bunter - Một nhân vật “người hùng” thiếu nhi. Toàn bộ sáng tác của ông bao gồm từ 72-75 triệu âm tiết, với sức viết trung bình 80.000 từ/ tuần.

CUỐN TIỂU THUYẾT ĐƯỢC BÁN NHIỀU NHẤT

Lại một nữ văn sĩ: Jacqueline Susann, người Mỹ (1921-1974) với Valley of the Dolls (Thung lũng búp bê) pha tạp giữa bạo lực, sex và thuốc phiện, được in lần đầu năm 1966 và đã bán được 28.712.000 bản, vượt cả “Cuốn theo chiều gió” của Margaret Michell (độ 28 triệu bản).

NHÀ VĂN VIẾT NHANH NHẤT

Kỷ lục này thuộc về văn sĩ người Mỹ: Erle Stanley Gardner (1889-1970), một chuyên gia về các tiểu thuyết hình sự. Ông có khả năng viết bảy cuốn tiểu thuyết cùng một lúc với 10 ngàn âm tiết/ ngày.

TÁC GIẢ CÓ SÁCH ĐƯỢC DỰNG PHIM NHIỀU NHẤT

Kỷ lục của mọi thời vẫn thuộc về Đại văn hào William Shakespeare. Đã có 304 bộ phim dựa theo sáng tác của ông, chưa kể những tác phẩm điện ảnh cải biên khác.

NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT ĐƯỢC ĐƯA LÊN MÀN BẠC NHIỀU NHẤT

Nhà vô địch tuyệt đối là Sherlock Holmes. Trong 30 năm (1960-1990) hình ảnh nhân vật thám tử nổi tiếng do Conan Doyle hư cấu đã 197 lần lên phim do 72 diễn viên khác nhau thủ vai.

NHÀ VĂN CỦA THẬP NIÊN GẦN ĐÂY

Đó là Umberto Eco, “Nhà văn bác học” người Ý. Tác phẩm “Tên của hoa hồng” của ông luôn đứng đầu danh sách best-seller (sách bán chạy nhất với trên trăm ngàn bản) trong suốt hơn mười năm nay.

HỒNG THU (Theo Express)

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.


Phụ Bản IV

Những món ăn nguy hiểm khi dùng chung

Với nhiều người, một bữa ăn lớn với đủ loại hương vị rất khoái khẩu. Nhưng một số thức ăn không kèm được với các loại khác, do vậy khi dùng chung sai lầm, người ta có thể không hấp thụ được dưỡng chất trong đó, thậm chí có tác dụng phụ nghiêm trọng.

Li Hongyan, một chuyên gia dinh dưỡng cao cấp tại Tập đoàn thực phẩm Tongmai (Thượng Hải) giới thiệu một số lưu ý về các món ăn:

Đậu phụ và cải bó xôi

Khi ăn chung, chúng ảnh hưởng đến việc hấp thụ canxi và có thể dẫn tới lắng đọng trong ruột. Cải bó xôi chứa axit oxalic, có thể phản ứng với canxi trong đậu phụ ở ruột và hình thành các kết tủa canxi oxalate không tan.

Sữa và chocolate

Bạn có thể không tin điều này, nhưng sữa và chocolate không hợp nhau. Trong khi sữa giàu protein và canxi, thì chocolate chứa axit oxalic. Khi ăn chung với nhau, chúng cũng tạo thành chất kết tủa canxi oxalate, không tiêu hóa được và có thể gây tiêu chảy.

Sữa và bưởi

Protein trong sữa có thể phản ứng với axit tươi trong bưởi và khiến cho bụng chướng lên. Nếu quá nhiều có thể gây tiêu chảy.

Sữa chua với jăm-bông và thịt hun khói

Nhiều người thích ăn bánh sandwich với sữa chua. Tuy nhiên, jăm-bông và thịt hun khói trong bánh sandwich khi tương tác với sữa chua có thể gây ung thư. Để tăng thời hạn bảo quản thịt, nhà sản xuất bổ sung nitrate để ngăn ngừa sự phân hủy. Nhưng khi nitrate gặp axit hữu cơ, nó có thể chuyển thành nitrosamine, một chất sinh ung thư.

Sữa đậu nành và trứng

Sữa đậu nành chứa các dưỡng chất như protein thực vật, chất béo, carbonhydrat, vitamin và khoáng chất. Uống một mình nó sẽ rất giàu dinh dưỡng. Nhưng nếu ăn chung với sữa, nó thể tạo ra phản ứng khiến cơ thể không hấp thụ được protein. Dĩ nhiên, trứng ăn một mình cũng rất bổ.

Thịt bò và hạt dẻ

Cả hai loại thức ăn này đều tốt cho dạ dày. Tuy nhiên hạt dẻ giàu vitamin C, có thể tương tác với các nguyên tố vi lượng trong thịt bò và làm giảm dưỡng chất của hạt dẻ. Nó cũng không tốt cho tiêu hóa và có thể gây khó tiêu.

Cua và quả hồng

Khi ăn cùng nhau chúng gây tiêu chảy.

Cua và nước chè

Chè chứa nhiều axit tannic như quả hồng, vì thế phản ứng không tốt khi gặp protein trong cua.

Tôm và vitamin C

Nếu bạn ăn tôm và đồng thời ăn nhiều vitamin C trong cùng ngày, bạn có thể gặp nguy hiểm. Tôm chứa hợp chất phản ứng với vitamin C để tạo ra asen độc hại.

Củ cải trắng và cà rốt

Men trong cà rốt có thể phá hủy vitamin C trong củ cải trắng. Để hấp thu dưỡng chất tốt nhất, bạn hãy ăn chúng riêng ra.

Bs. Nguyễn Lân-Đính st 

RƠI TỰ DO

Còn đang nuôi nuối giấc say trong tiết se se lạnh buổi sớm. Quang Nhật bỗng giật mình khi nghe tiếng đập cửa và tiếng gọi ơi ới. Tỉnh hẳn, anh ngồi bật dậy, càng hoảng hơn khi nghe tiếng đập cửa dồn dập, và tiếng la ó thì không phải chỉ một người, có vẻ bất thường hơn là lẫn trong đó là những tiếng chửi thề đầy giận dữ. Vài giây lần chần để phán đoán, nhưng không thể nắm bắt được chút gì ngoài sự hỗn độn, anh mở cửa. Lập tức một đám người xông vào la lối:

- Con Thi đâu? Đ.m ôm tiền tao bỏ trốn hả? Trốn không thoát được đâu? Coi có gì đáng giá cứ lấy hết đi bà con… mẹ nó, tưởng làm ăn đàng hoàng hóa ra quân lừa đảo…

Quang Nhật ngẩn người ra trước những gì đang quát hét bên tai anh:

- Ai bỏ trốn? Vợ tôi làm sao mà phải bỏ trốn?

- Đừng giả bộ ngây ngô, vợ chồng mày bàn tính với nhau rồi chứ gì?

- Ẵm cả mấy chục tỉ mà còn làm bộ không biết hả? Đừng qua mặt tụi tao, không dễ đâu, khôn hồn thì nôn tiền ngay ra đây, không thì cái nhà này thành tro ngay bây giờ đó nghe chưa???

Quang Nhật đổ sụp xuống sàn nhà, hai đứa trẻ ngơ ngác còn nguyên vẻ ngái ngủ đứng ở cầu thang nhìn xuống, Bé Hiền khóc váng lên khi nhìn thấy sự hung dữ đập phá của đám người. Cậu bé Minh An hơn mười hai tuổi bỗng quay phắt chạy ngược lên lầu. Con số mấy chục tỉ khiến Quang Nhật như mất cảm nhận, như tê liệt mọi phản ứng, anh ngồi ôm đầu gục xuống.

- Yên cầu ổn định trật tự. Tất cả đứng yên, bỏ các thứ đang cầm trên tay xuống.

Cùng tiếng quát là những chiếc dùi cui vung tứ tung. Đám đông xẹp ngay cơn hung nộ khi những người công an 113 xuất hiện. Hóa ra cậu bé Minh An đã nhanh trí.

- Nó cướp nợ tụi tui rồi bỏ trốn, tụi tui mới đến đây xiết nợ chứ.

Một giọng nói tức tưởi vang lên sau mấy phút trấn tĩnh.

- Có chuyện gì cũng còn có pháp luật, có chính quyền, mấy ông bà làm như vầy cũng chẳng giải quyết được gì mà còn mang thêm tội.

- Pháp luật…

Tiếng nói vừa cất lên vụt tắt, rồi những giọng thì thào:

- Thôi về đi. Cứ làm đơn kiện xem sao đã.

- Tui hổng chờ đơn từ gì ráo, tui đi tìm lôi cổ nó về đây.

- Ông Nhật à, ông biết vợ ông trốn đâu thì khôn hồn kêu nó về giải quyết, đừng tưởng trốn thoát là yên đâu.

- Mấy anh chị cứ về, để tôi tìm vợ tôi hỏi chuyện xem thế nào, tôi nói thật, tôi chẳng biết gì cả. Nếu cần thiết, tôi sẽ bán nhà để trả, mấy anh chị cứ yên tâm đi.

- Bán nhà. Cái nhà này làm sao đủ trả mấy chục tỉ bạc.

Quang Nhật vẻ mặt khổ sở và căng thẳng cố van nài những chủ nợ bất thần rơi xuống kia. Từ lúc có công an đến, Nhật đã lấy lại phần nào tinh thần. Anh biết trước mắt phải làm cho tạm giảm bớt tình trạng rồi sẽ tìm cách liệu sau, cho dù mọi thứ đang rối tung lên trong đầu.

Những cuộc điện cho cùng một số liên tục nhận được cùng một tín hiệu. Những cuộc điện cho nhiều số khác cũng liên tục nhận được cùng một câu trả lời “không nghe không thấy không biết”. Quang Nhật như rơi vào một bát quái trận đồ, anh không biết mình cần phải làm gì. Như một tòa nhà cao tầng bỗng dưng đổ sập vào anh, vô phương chống đỡ. Quả thật, anh không hề biết vợ anh đã làm những gì trong suốt thời gian qua. Anh chỉ thấy cuộc sống gia đình thoải mái, các con đầy đủ tiện nghi, vợ anh năng nổ hoạt bát, lanh lợi trong làm ăn. Anh thấy mừng vì mình đã có phúc nhờ vợ, tuy công việc của anh thu nhập cũng kha khá, nhưng so với kinh doanh thì chẳng đến đâu. Đôi khi hỏi han vài câu thì vợ anh bĩu môi “gớm, ông cứ lo cho được cái thân ông đi đã, tôi mà ngồi trông vào đồng lương của ông thì có mà…” hoặc nhẹ nhàng hơn một chút “anh yên tâm đi, cứ biết cha con anh ra đường không xấu hổ với người ta là được rồi”. Vậy là anh yên tâm. Không những yên tâm mà nhiều khi còn phổng mũi bởi “thằng cha này sao nó tốt số thế nhỉ, có con vợ ngon lành cả sắc lẫn tài, mày tu mấy kiếp đấy hử?”. Mà thật, anh thấy vợ anh giỏi không chê vào đâu được, nay cô ấy đi Nam, mai cô ấy ra Bắc, lại còn cả những hợp đồng liên kết xuất khẩu, nhiều khi nghe những cuộc điện thoại trao đổi, anh cứ nghệt ra, và cũng đôi lần nhắc nhở “em cẩn thận…”, “anh không phải lo, chẳng ai lừa được em đâu”. Đúng là không ai lừa được cô ấy thật, nhưng mấy chục tỉ… trời ạ, một con số khổng lồ với tưởng tượng của anh, nó đi đâu… vì sao lại đến mức này? Và bây giờ thì cô ấy ở đâu? Anh lạnh toát người khi nghĩ đến một khả năng…

Trong khi đó…

- Em ơi, cho bọn anh lấy phòng nào cao nhất ấy nhá. Anh thích ở trên cao cho thoáng.

- Dạ vâng, anh chị cho em cái chứng minh.

- Thôi chết, em để quên ở nhà rồi, anh có mang theo không?

- Không, nghĩ là em mang rồi nên anh không… thế có chết không, giờ làm thế nào đây?

- Em ơi, thông cảm hộ anh chị nhé, anh chị chỉ nghỉ lại đây một đêm thôi mà, em giúp anh chị được không?

- Ư… để em hỏi anh quản lý…

- Chuyện con tép thế này cần gì em phải hỏi, đây cái này riêng cho em ăn quà, thế được chưa?

- Dạ, cảm ơn anh chị ạ, mời anh chị theo em. Cầu thang máy vọt lên tầng mười tám. Tầng áp mái, có một mảnh sân thật rộng rãi với những cây hoa chậu cảnh mát mắt.

- Em thấy không? Lên cao thế này sướng thật nhỉ. Chỉ có mỗi chúng ta với đất trời, xem kìa, nhân gian đang chen chúc nhau khổ sở chưa kìa.

- Thôi đi ông tướng, ở đó mà dóc phét mãi. Đi tắm đi, em gọi gì đó ăn rồi ngủ một giấc rồi còn lo công chuyện.

- Có gì mà phải lo nữa đâu, vé máy bay đặt rồi, giờ chỉ còn ăn no ngủ kỹ để mai vi vu trên miền đất mới thôi em yêu ạ.

- Anh đừng có chủ quan, cứ phải tính cho kỹ mọi đường đi đã, lỡ hỏng đường này mình còn xoay ngay ra đường khác. Đừng có mà lơ là rồi hối không kịp đó.

- Đúng là bà Yến Thi tháo vát của tui mà. Thôi được rồi, để anh soát lại lần nữa kế hoạch. Giờ anh tắm đã, em gọi đồ ăn đi, nhớ một chai vang trắng nữa đấy nhá.

Người đàn bà nguýt yêu người đàn ông dài cả thước khi người đàn ông nháy mắt trước khi khuất sau cánh cửa nhà tắm. Người đàn bà bỗng ngưng ngang cái cười, mắt ngước về một khoảng không xa xa. Trên gương mặt gợn lên một nỗi ưu tư. Nhưng chỉ một thoáng, và với một cái quay đầu vẻ dứt khoát, cô ta đi nhanh vào phòng nhấc chiếc điện thoại bàn gọi lễ tân. Lát sau, cả hai thoáng mát trong những bộ đồ trễ nải, gắp cho nhau, rót cho nhau, môi kề má áp như một cặp tình nhân hạnh phúc nhất trên đời.

Cái sức dẫn dụ của một người đàn ông sành sỏi với một người đàn bà đang độ hồi xuân là một thứ mãnh liệt nhất trong các cuộc tình đang độ. Chỉ vài lần gặp qua những cuộc giao dịch, họ nhận ra trong mắt của nhau không chỉ lấp lánh ánh sắc của đồng tiền. Người đàn bà khi đã có một hay vài thứ quyền năng, một hay vài thứ lợi thế thì họ cũng biết cho phép mình làm nhiều chuyện lắm. Chỉ tội cho anh chồng hiền lành yên tâm đến mức mất cảnh giác về vợ. Đôi tình nhân từ khi kết hợp một cách gắn bó thì lại càng nảy ra nhiều phương thức chinh phục đỉnh cao của các con số. Có nhiều lúc, Yến Thi thấy mình như mất trọng lượng, ngỡ ngàng trước những con số tăng một cách cấp kỳ trong tài khoản. Cứ tưởng là khó lắm, hóa ra lại dễ thế. Chỉ cần những lời hứa và những món lợi tức đáng kể cho một số người tham gia góp vốn, những lời hứa ấy như được bảo đảm một cách chắc chắn nhất bởi các thứ trang sức đắt tiền trên người cô, ngay cả chiếc xe bốn bánh sang trọng trị giá hơn cả tỉ bạc, có tài xế ôm vô lăng đưa đi đón về ngày ngày, thêm vào đó là những cuộc từ thiện nho nhỏ với các vùng sâu vùng xa, cộng những thông tin đồn thổi về giá trị các hợp đồng trong ngoài nước thì uy tín của cô ngày càng lan rộng, để rồi không ít người cố tìm cách để đẩy tiền của họ vào tay cô, và cô thì không hiếm lần làm ra vẻ khó xử, rồi tặc lưỡi… thôi thì. Đã có giao thương với nước ngoài thì việc mở tài khoản ở nước ngoài là chuyện đương nhiên, còn nó có đến mấy và ở những đâu thì có trời mà biết. Và đến một ngày, chiếc xe con trị giá hơn tỉ bạc thực hiện dịch vụ cuối cùng của nó là đưa hai người một đàn ông một đàn bà ra sân bay một cách nhẹ nhàng êm ả như cơn gió thoảng mùa thu. Để khi thông tin chiếc xe bắt đầu ký một hợp đồng mới với một chủ doanh nghiệp cũng có cỡ không kém được loang ra ngoài thì bật lên những cái giật mình dây chuyền, và có nhanh hơn tên bắn thì cũng đã…

Người đàn ông hết đập phá đồ đạc lại quay ra đấm ngực mà kêu lên:

- Trời ơi là trời ! Ngu ơi là ngu. Có ai lấy phải con vợ ngu hết chỗ ngu như tui hông nè trời. Bao nhiều tiền của tui khổ sở mấy chục năm trời, nó âm thầm đem cúng hết cho thiên hạ như vầy thì tui còn sống làm gì nữa đây… trời ơi…

- Thì tui cũng nghĩ kiếm thêm chút tiền lời cho con cái chứ có… mà xa lạ gì đâu chứ, chị em thân thiết hồi giờ tui mới tin tưởng…

- Phải mà… thân thiết, bởi có thân thiết nó mới lừa được dzậy chứ thấy nó nay cho cái này mai tặng cái khác là nhắm tít mắt lại rồi, còn biết cái gì nữa tao thấy lời lãi quà cáp hậu hĩnh là tao nghi rồi, làm ăn gì mà mau giàu thế, cứ như đi hốt được của thiên hạ ấy, nói thì không nghe, mày… mày mà không đem được mấy trăm triệu về trả tao thì cút khỏi nhà tao nghe chưa…

- Thì tui chết… tui chết cho ông dzừa lòng… hu hu

Tiếng khóc um của người đàn bà tuyệt vọng khiến người đàn ông ngồi sụp gục đầu xuống bàn. Ngoài cửa những cái đầu trẻ nhỏ thò thụt, rồi chúng bảo nhau “thôi đi, qua mấy nhà kia coi đi”.

Không chỉ gần như cả một xóm, mà tình trạng tương tự cũng đang diễn ra ở một vài xóm khác. Những khu xóm như rơi vào một cảnh tang tóc, nhà nhà ủ dột, lối ngõ vắng tanh, lúc lúc lại vọng ra từ một cái mái nhà nào đó tiếng la khóc chửi mắng, rồi lại rơi vào một sự lặng im đến não nuột. Chẳng còn ai nhớ cách đấy chưa lâu, chưa lâu lắm, các bà hồ hởi chợ búa, râm ran nói cười, khoe nhau những con số tháng này, cùng nhau gục gặc, trẻ con thì vui cùng áo mới bánh quà. Cứ như sẽ chẳng bao giờ còn phải lo đến chuyện đói no hôm sớm vậy. Mà lo làm gì nữa cho bận đầu mệt óc, số tiền lãi hàng tháng đủ chi dùng hầu hết mọi khoản sinh hoạt gia đình, ai có số vốn cho vay nhiều lại càng rủng rỉnh may sắm, chẳng công lên việc xuống, chẳng sáng nắng tối mưa mà vẫn có tiền xài thoải mái, ai mà không sướng ai mà không ham. Thế nên mới rỉ tai người này, thẽ thọt người khác, mắt lớn mắt bé như bí mật quốc gia, có bao nhiều tiền gửi ngân hàng lôi ra hết, bán được lứa gà lứa heo, cóp từng đồng gạo đồng tấm, cắc cắc củm củm… có vài giây lần chần lại nhanh chóng gạt đi, người ta làm ăn lớn thế ai lại… nhìn bảnh bao nhà cửa, sáng láng áo quần thế ai lại… ăn nói khôn ngoan hoạt bát nồng nhiệt thế ai lại… người ta biết thương trẻ em cơ nhỡ và người nghèo thế ai lại… người này người nọ người kia còn gấp mấy mình chả lo thì… Và chiếc xe bóng lộn sang trọng ngày ngày vẫn diễu quanh, và những gương mặt trên chiếc xe ấy ngày ngày vẫn tươi rói, thi thoảng lại thấy cả những gương mặt khác màu da trong những bộ comple đứng đắn vào ra một ngôi nhà, và cuộc sống cứ bình yên bình yên…

Quang Nhật thẫn thờ bên bàn làm việc, gương mặt già sọm hốc hác sau những xáo trộn. Một cái vỗ vai làm anh giật mình:

- Sếp nói anh tạm nghỉ ít lâu để giải quyết việc nhà.

- Tôi… tôi bị sa thải sao?

- À… là ý sếp muốn tạo điều kiện cho anh đỡ áp lực ấy mà. Anh xem bàn giao lại cho cô Phấn đi nhé.

Người nói xong câu ấy vội xoay lưng đi ngay, họ sợ phải nhìn thấy một nét mặt. Quang Nhật gục đầu xuống bàn, một tấm màn vừa buông xuống trước mắt anh, như một diễn viên hết vai nhưng lại không có tràng vỗ tay đưa tiễn của khán giả, mà chỉ có…

- Anh khai báo đúng sự thật chứ?

- Dạ, tôi đã nói đúng những gì tôi biết.

- Nhưng những thông tin hoàn toàn không đủ cơ sở cho cơ quan điều tra. Chẳng lẽ là người cùng nhà mà anh không quan tâm gì đến những việc làm của vợ anh sao? Hiện giờ vợ anh ở đâu? Vợ anh có mấy tài khoản? Những ngân hàng nào, trong và ngoài nước?

Quang Nhật cúi đầu im lặng. Anh biết nói gì đây? Những câu hỏi ấy anh không thể trả lời. Niềm tin, sự tôn trọng lẫn lòng tự ái đàn ông khiến anh không nhiều thắc mắc, mà có đi nữa thì chắc anh cũng không nhận được những lời giải đáp thỏa đáng ngoài những câu lưng chừng và hàm ý xem thường. Từ lâu anh cũng đã nhận thấy vợ anh có những thay đổi, cả trong tình cảm vợ chồng, nhưng vốn cho rằng, đồng tiền luôn có một mãnh lực chi phối lối sống, cư xử con người, nên chẳng có gì lạ khi nó tạo ra những khoảng cách. Cũng phải thôi, khi người ta có chút tài, và cái tài ấy lại được thể hiện một cách xuất sắc, thì phải đáng nể chứ, nhất người ấy lại là vợ mình, thì lại càng phải nể trọng, suy cho cùng, cô ấy có kiêu ngạo một chút, có tự thị một chút, có ra vẻ một chút thì cuối cùng cũng là cha con anh hưởng chứ cho ai. Nên chả mất gì ngoài chuyện chịu khó nhường nhịn đôi chút cho êm nhà. Nào ngờ…

Sau cuộc ái ân nồng nhiệt, Yến Thi nằm dài gối đầu lên cánh tay người đàn ông, cô bất giác nhoi nhói khi nghĩ đến chuyện gì đang xảy ra với chồng con ở nhà. Sau mấy ngày dạo vòng vòng để tạo cách nghi binh và thăm chừng tình hình. Họ đã về thành phố đông đúc chộn rộn này để hoàn thành bước sau cùng của kế hoạch. Tuy hớn hở và phấn chấn với những gì đang hứa hẹn, Yến Thi cùng vẫn lăn tăn đôi chút khi nghĩ đến tình cảnh mấy cha con ở nhà. Cô thầm xin lỗi các con, và một ngày không xa lắm, các con sẽ hiểu cho cô. Vòng tay người đàn ông lại siết chặt cô, cơn khát đàn bà của cô được thỏa mãn đến tận cùng, điều mà cô chưa từng có trong vòng tay của chồng. Vòng tay săn chắc và đầy ma lực đã cuốn cô đi tự bao giờ. Chỉ biết cuộc đời cô sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa nếu không có vòng tay ấy. Những cái siết chặt và sự sành sỏi của một người đàn ông từng trải đã như choán hết tâm tư tình cảm, lý trí của một người đàn bà còn quá nhiều mộng ước. Bởi thế mà cô hầu như chưa khước từ bất kỳ một ý kiến hay cách thức làm ăn nào do người đàn ông này đề ra. Mà cũng không có lý do để khước từ cơ, khi tiền thi nhau chảy vào như nước, khi tình tràn trề như nắng mùa xuân, khi một viễn cảnh tương lai hết sức huy hoàng, sáng sủa, thì việc gì phải nhiều suy nghĩ. Không chỉ mê đắm ái tình, cô lại còn hết sức khâm phục tài trí anh ta, cô dần nhìn chồng bằng con mắt xem thường rõ rệt. Chồng cô rõ là nhu nhược, rõ là kém cỏi, rõ là vụng về, ngày ngày chỉ biết mỗi cánh cổng cơ quan ấy, về nhà thì chuyện trò nhạt nhẽo, lâu dần thì sự tồn tại của anh trong căn nhà ấy chỉ còn danh nghĩa là bố của các con cô, cô cũng chẳng quan tâm xem anh có phương hướng thăng tiến gì không? Bởi điều đó chẳng còn tác dụng gì với cô, cô chỉ lo lắng một chút về hai đứa con, thì cũng là cái đầu thông minh bên cô đây đưa ra một giải pháp hết sức hợp lý: “Em lo gì chứ, mình sang đó một thời gian ổn định rồi bảo lãnh cho chúng nó sang, cho chúng nó ăn học bên đó còn tốt bằng mấy”. Thế là quá ổn, cô đành lòng để các con phải chịu đựng một thời gian, tương lai chúng sẽ được đền bù thỏa đáng. Vấn đề trước mắt là mọi sự phải trót lọt như kế hoạch đã.

- Em nghĩ ngợi gì thế? Vẫn lo à?

- Lo chứ anh, bao giờ suôn sẻ cả thì mới an tâm được, anh…

- Được rồi mà, anh sắp xếp đâu vào đó rồi. Em cứ ngủ một giấc cho ngon đi để mà có sức ngồi mười mấy tiếng đồng hồ trên máy bay. À đợi anh một chút. Người đàn ông trở dậy ra bàn hý hoáy rồi đem lại cho cô ly rượu.

- Em uống đi cho dễ ngủ.

Yến Thi ngoan ngoãn cầm ly uống cạn, rồi hai người lại cuộn vào nhau, vòng tay ân ái lại siết chặt tấm thân cô, lát sau thì cô ngủ được thật.

Hai cái túi xách lớn, hai cái túi xách nhỏ, cộng một con gấu bông mà bé Hiền đang sụt sùi ôm theo, là tất cả gia tài mà bố con Quang Nhật tom góp khi bước ra khỏi cánh cửa, một tấm giấy có con dấu niêm phong chờ sẵn dán ngang, ba bố con lầm lũi đi giữa đám đông chòm xóm, với rất nhiều câu phát ngôn thiếu thiện cảm, mỹ cảm, tuy cũng xen lẫn nho nhỏ “tội nghiệp”. Quang Nhật nghe cay nóng mi mắt, anh cố cắn răng để ghìm lại, những ngày qua với anh là một trận bão lớn, nó đã cuốn phăng đi tất cả những gì anh có, ngoài hai đứa trẻ này đây. Bé Hiền ôm cổ ba gục đầu vào vai ba khóc, Minh An thì cúi đầu đi lặng lẽ, hai tay kéo lê hai cái túi xách. Cậu đã có chút nhận thức về câu chuyện của gia đình. Bỗng hai chiếc xe máy trờ tới, Quang Nhật giật mình nhìn lên, anh rơi giọt nước mắt đã cố kìm giữ, đó là hai người bạn thân của anh, cả hai không nói không rằng, tóm lấy mấy cái túi xách chất lên xe, rồi chụp hai cái mũ bảo hiểm lên đầu hai cha con. Đám đông hơi khựng lại một chút khi hai cái xe xuất hiện, những tiếng ồn ào hỗn độn lắng xuống, và họ nhường đường khi hai chiếc xe rồ ga nhích tới. Dừng lại trước một ngôi nhà đóng cửa. Thanh Nguyễn xuống xe lấy chìa khóa mở rồi nói:

- Cha con ông cứ ở tạm đây ít lâu đi. Chuyện gì thì từ từ rồi tính.

- Ông đừng lo quá mà đổ bịnh, có tụi tui đây, không được gì nhiều nhưng cũng không đến nỗi vô phương, ông phải đủ sức để mà lo cho tụi nhỏ.

Quang Nhật nghèn nghẹn, anh xách mấy cái túi vào nhà, bé Hiền đã thôi khóc, ôm con gấu ngơ ngác nhìn. Trước khi bước vô ngôi nhà này, Quang Nhật chỉ nghĩ đến một gian phòng trọ rẻ tiền, gọi là tạm một chỗ trú chân. Nhưng… anh thầm hàm ơn những người bạn thân này, thường ngày chỉ cà phê tán dóc, thi thoảng là dăm cuộc nhậu, anh không nghĩ sẽ có lúc đó là những bờ vai anh có thể dựa vào. Chỉ chừng đó cũng đã tạo cho anh một cảm giác yên tâm, rồi mọi sự sẽ qua cả thôi. Chỉ thắt lòng khi nhìn hai con đã sớm phải xa rời vòng tay của mẹ. Nhưng có lẽ cô ấy sẽ trở về khi mọi sự đã lắng đi.

Yến Thi lờ đờ mở mắt, một cảm giác váng vất nặng đầu làm cô bải hoải, giấc ngủ mê mệt mộng mị không biết đã bao lâu khiến cô mất nhận thức về thời gian. Chung quanh bao trùm một màn tối mù mịt, có một chút hốt hoảng khiến cô bật lên tiếng kêu. Sự vắng lặng cho nỗi hốt hoảng tăng thêm, tiếng kêu thứ hai bật ra lớn hơn, vẫn không có tiếng trả lời, Yến Thi mở to mắt để ra khỏi cơn mê mị, cô quờ tay sang trái sang phải, chỉ có khoảng trống của chăn nệm, cô chống tay ngồi dậy, bóp trán mấy cái tìm về hiện thực, cô đã nhớ ra mình đang ở đâu. Cô cất tiếng gọi tên người đàn ông, vẫn là sự lặng im, cô với tay tìm công tắc đèn bật lên. Căn phòng chỉ mỗi mình cô. Nhìn đồng hồ, đã hơn 3 giờ sáng, giờ này mà anh ta đi đâu nhỉ? Hay là không ngủ được nên dậy sớm ra ngoài sân kia rồi. Với cái áo khoác vào người. Yến Thi xỏ dép rồi mở cửa phòng ra sân thượng. Một làn khí se se khiến cô rùng mình, cô lại cất tiếng gọi, không gian vọng lại một cảm giác mơ hồ u u rờn rợn. Một ý nghĩ thoáng qua khiến cô lạnh toát cả người, vội vã quay trở lại phòng, mở mấy ngăn tủ, chỉ còn cái túi xách và bộ đồ treo của cô. Yến Thi cuống quýt mở túi lục tìm, những thứ đồ đạc trong chiếc túi vứt tung ra sàn nhà, và cô bủn rủn ngồi phịch xuống sàn. Những thứ quan trọng nhất với cô đã không còn. Yến Thi như tê liệt trong cơn tức thở trồi căng. Khi cô ý thức được cảnh trạng của mình thì cô ngã vật ra. Tất cả các giấy tờ vay nợ đứng tên cô, tất cả các tài khoản ở nước ngoài theo lời người đàn ông là lo xa cho chắc ăn nên đã chuyển tên. Bất thần cô vùng dậy, chạy đến chiếc điện thoại gọi xuống quầy lễ tân. Giọng nhừa nhựa ngái ngủ của nhân viên lễ tân cho cô biết, người đàn ông đã rời khỏi khách sạn từ tối hôm trước. Cô chợt nhớ ra, sau ly rượu vang một lúc… Yến Thi thả tấm thân rơi xuống chiếc giường và bất động. Đầu óc cô quay cuồng, xộn xạo những hình ảnh, thanh âm, chúng như một bầy ác quỷ nhe nanh chực cắn xé cô, vươn những cánh tay dài ngoằng lôi tuột cô xuống một hố thẳm đen ngòm. Một lát sau, như một chiếc xe mất thắng, cô lao nhanh ra ngoài sân thượng, và từ tầng cao thứ mười tám… Yến Thi buông mình cho một cú… rơi tự do…

Giời ơi là giời. Một nghìn người thì đến một nghìn lẻ một nói được câu “Đồng tiền không mua được hạnh phúc”, những lại có đến chín trăm chín mươi chín người đánh mất hạnh phúc chỉ vì đồng tiền.

ĐÀM LAN 

VAI DIỄN SAU CÙNG

NGUYỄN THỊ MÂY

Lạ quá! Sao giữa chốn đồng chua nước mặn lại có một ngôi nhà lớn và đẹp như thế? Nó không giống một biệt thự. Có lẽ, nó mang dáng dấp một lâu đài trong truyện cổ tích. Mái vòm tròn, đỉnh nhọn như tháp, mầu trắng toát, nổi bật giữa màu trời và sắc lá. Những cánh cửa sổ nâu bóng đóng im ỉm, cao quá đầu người như gìn giữ bí mật, ngăn tầm nhìn từ ngoài vào trong. Con đường tráng xi măng láng lẩy nằm giữa hai hàng cây lặng lẽ tỏa bóng.

Phương ngửa mặt, hít thật sâu làn không khí trong lành:

- Đẹp quá hả anh!

Quốc gật đầu giọng chua chát:

- Không đẹp sao được. Biết bao mồ hôi, nước mắt của dân làng đổ xuống để xây dựng nó.

- Anh có vẻ không vui?

Phương đứng lại, nhìn chằm chằm vào mắt Quốc. Không lẩn tránh, anh nhìn thẳng vào mắt Phương. Nắm lấy hai bàn tay người yêu, anh thấp giọng:

- Phương! Bây giờ, mình quay lại vẫn còn kịp. Anh sẽ xin ông bầu cho ghe lui ngay. Nước lớn, thuận buồm xuôi gió, mình thoát khỏi đây dễ dàng.

Phương ngúng nguẩy:

- Trời ơi! Anh làm sao vậy? Có gì đâu mà sợ, mình là đào hát, người ta biết tiếng, mời đến tận nhà biểu diễn, sao lại trốn. Họ giàu thì trả tiền nhiều. Biết đâu, bữa nay em kiếm gấp mười lần ngày khác.

- Nhưng anh không muốn em gặp rắc rối. Tại sao họ không mời cả đoàn mà chỉ gọi có mình em? Em có biết tên Ba Nhơn nầy nổi tiếng ác ôn không? Biết bao người đàn bà, con gái bị hắn hại…

- Em không thể làm ngơ khi anh em trong đoàn gặp khó khăn. Cơn bão vừa qua đã ngốn hết số tiền để dành của đoàn hát. Ngày mai, anh em sẽ ăn gì? Em cũng không muốn bị đói. Anh có cách gì khác không?

Quốc lắc đầu, tuyệt vọng khiến anh không còn đủ sức đứng nữa. Anh ngồi bệt xuống mặt đường, hai tay ôm lấy đầu, anh muốn kể cho Thủy Phương nghe câu chuyện ngày xưa:

Bấy giờ, gia đình anh hạnh phúc lắm, dù chỉ là hạng bần nông ở Cửu Long. Từ lúc gà chưa gáy sáng, ba anh đã trở dậy, ra đồng. Suốt ngày, ông cắm mặt xuống đất, chỉ ngước lên khi đến bữa ăn.Còn mẹ anh vừa làm việc nhà, vừa lãnh cấy thuê, gặt mướn. Ai mướn gì, bà làm nấy. Vậy mà vẫn không đủ no. Trong nhà, sung sướng nhất là Quốc. Anh được cha mẹ cho đi học. Cả xã nầy, chỉ có mấy đứa được đi học, nhất là lên trên trường huyện. Quốc học giỏi nhất lớp, cộng với thói kiêu hãnh đã làm thằng con địa chủ ghét thêm. Có lẽ đó là nguyên nhân của sự bất hạnh phủ lên đầu ba má Quốc.

Một hôm, trên đường đến trường, Quốc bị chị Ba Bảnh, người hầu của cậu Hai Quới chặn đường:

- Hí hí… Quốc đây hả cưng…! Chèn ơi, bữa nay đi thi phải không?

Vốn không ưa chị từ lâu, Quốc nguýt ngang:

- Ừ, rồi sao?

Xáp lại gần, chị vỗ vai Quốc:

- Nghe nói em ngồi gần cậu Hai Quới phải không? Chị vâng lệnh bà Hội đồng Lê đến gặp em để…

- Cho nó copy chứ gì?

Trợn mắt, chị kêu lên như ngồi phải lửa:

- Trời đất! Sao dám kêu cậu Hai là nó. Bà Hội đồng nghe được là chết đó!

- Làm sao nghe được? Ở đây chỉ có mình tôi với chị, trừ khi chị nói lại cho bả nghe.

- Ờ, ờ…, mà cũng phải cung kính bề trên chứ. Em dại quá!

- Dại cái khỉ mốc! Nó học dở bẹt hạng, lười biếng còn hơn trâu. Gần mọc râu mà bắt chị cõng vô lớp. Thấy phát ghét. Vậy mà chị cũng vâng lời.

Thẹn quá, chị sinh quạu:

- Ừ, tao vậy đó! Làm cho chủ thì phải trung thành với chủ . Mầy thấy vùng nầy có ai được như tao không? Má mầy tu mười đời còn chưa được rờ gót chân người ta nữa là.

Bĩu môi, Quốc nghênh mặt:

- Ai thèm làm thân…

Nó kịp nén nhưng chị Ba Bảnh hiểu rõ Quốc muốn mắng: “Làm thân trâu ngựa”. Tức giận, chị buông lời đe dọa:

- Nếu mày không cho cậu Hai coi bài thì đừng trách!

Không phải sợ oai nhà giàu, nhưng Quốc nghĩ lại cũng tội nghiệp một thằng bạn học. Thầy thường dặn phải giúp đỡ lẫn nhau. Nó định bụng chút nữa cho Quới chép quách đi. Đúng lúc đó, Quới xuất hiện, nó vênh khuôn mặt bự thịt:

- Nè, một lát đọc cho tao chép nghe chưa!

Tính kiêu ngạo cũng trổi dậy trong lòng Quốc:

- Nếu không?

- Mầy sẽ biết tay ông của mầy.

Câu nói khiến Quốc nổi nóng, nó cương quyết không cho Quới coi bài. Mặc cho Quới ngồi cạnh cứ lấy bút chọt vào hông, gõ lên đầu. Quốc nhích ra phía trước, cắm cúi làm bài. Tiếng kẻng báo hết giờ thi vang lên. Giám thị đến thu bài mà Quới chưa ghi được chữ nào. Ra khỏi cổng trường, nó đuổi theo Quốc, giơ nắm đấm:

- Thằng chó đẻ, rồi mầy sẽ biết tay ông. Ông không làm bài được ông vẫn đậu như thường. Má tao bảo có tiền mua tiên còn được.

Chưa có kết quả kỳ thi, gia đình của Quốc đã tan nát. Ông Hội đồng cho gọi ba má Quốc tới nhà đòi lúa ruộng còn thiếu. Ba Quốc hẹn đến mùa sau nhưng ông không chịu, cho người đánh ba Quốc tàn nhẫn rồi tuyên bố đòi ruộng lại, không cho thuê nữa. Còn mẹ Quốc có chút nhan sắc nên bà lọt vào mắt xanh của tên Hội đồng dâm ác. Sau khi cưỡng hiếp người đàn bà cô thế, hắn cho bộ hạ thay phiên làm nhục bà cho tới chết. Quốc thì bị lùng kiếm, may là nó trốn thoát. Nửa đêm, ông Hội đồng cho người mang xác mẹ Quốc về nhà, giao cho ba Quốc bảo bà bị trúng gió. Khôn hồn thì mau đem chôn và câm miệng.

Ba Quốc chết đi sống lại mấy phen. Chú Ba Ngươn, em ruột của ba Quốc thấy tình thế không an. Chú lật đật thu dọn quần áo, ít đồ đạc xuống chiếc xuồng ba lá rồi cùng ba và Quốc mang xác mẹ Quốc ra đi khi đêm chưa tàn.

Lúc chôn cất vợ trên cánh đồng hoang, ba Quốc cắt tay lấy máu nhỏ giọt xuống bia mộ thề sẽ trả thù. Nhưng chưa đầy tháng sau, ông chết vì quá đau buồn. Quốc chỉ còn biết bám vào người chú thân thiết. Hai chú cháu lưu lạc khắp nơi. Cuộc sống tha hương cầu thực ném hai chú cháu xuống tận cùng nỗi khổ. Có đêm, trời mưa dông, họ phải neo ghe, chạy tìm mái hiên hoặc miếu hoang để ngủ qua đêm. Nhờ đó mà họ gặp được đoàn hát: “Phong Lan”. Anh em trong đoàn cũng chạy “Bão”. Họ túm tụm quanh mâm cơm. Thấy hai chú cháu ùa vào miếu, sẵn bữa, họ mời. Đang đói gặp may, hai chú cháu không từ chối, Khi biết tình cảnh của Quốc, họ động lòng thương, cho gia nhập đoàn hát dù hai chú cháu chẳng biết chút gì về đờn ca.

Từ đó, họ sống trôi nổi trên sông. Chiếc ghe bầu cũng là phương tiện di chuyển của gánh hát. Trong đoàn, mọi người yêu thương hầu như ruột thịt. Hột muối còn cắn đôi. Người giỏi dạy người dở. Lâu dần, Quốc cũng hát được. Anh diễn khá, nhưng chất giọng thô nên chỉ đóng vai già hoặc ác. Ông bầu rất trọng dụng Quốc vì anh biết tính toán, giữ tiền kỹ lưỡng còn hơn… bà bầu.

Cách đây không lâu, trong đoàn có thêm một thành viên. Đó là Thủy Phương. Một cô gái quê mồ côi cha mẹ, cô bé rất xinh, lại có chất giọng ngọt ngào. Nhờ anh em trong đoàn hướng dẫn, Phương tiến bộ vượt bậc, trở thành đào chánh. Thủy Phương đẹp người còn đẹp nết nên ai cũng mến. Chưa bao giờ Phương cau có với ai. Những hôm gặp bão, không hát được, đoàn gặp khó khăn. Người ta cứ thấy Phương rầu rầu. Mấy hôm rày lại bão. Cơn giông bất ngờ đã lôi chiếc thuyền lướt như bay trên mặt nước. May là có chú Ba Ngươn. Chú là một tay chèo chống, uốn lái nên ghe không lật. Tan gió, ghe tấp vào bến lạ. Nhưng khi vào xóm, chú Ba Ngươn mới bật ngửa. Thì ra đây là làng cũ của mình. Hàng dừa vẫn đứng nghiêng nghiêng soi bóng bên dòng. Phía xa, cuối lối mòn là mảnh đất có ngôi nhà thân thương thuở nào. Chú không muốn đến đó. Chú sợ nhìn lại cảnh cũ. Biết đâu, nơi ấy đã thành một chốn hoang lạnh, tiêu điều. Chú Ba Ngươn ghé vào chợ, hỏi thăm vài điều rồi rảo chân về chỗ neo ghe. Nghe chú bảo đây là quê cũ, Quốc chưng hửng, lòng bàng hoàng xúc động. Nỗi căm giận trào dâng trong lòng anh. Quốc thét lên:

- Con sẽ trả thù cho cha mẹ con!

Chú Ba ôm đầu rên rỉ:

- Không được đâu con. Mình cô thế. Còn họ ngày càng có thế lực hơn. Chú nghe nói bây giờ họ giàu hơn nữa. Họ mới xây một dinh cơ đồ sộ. Thằng Hai Quới chết rồi. Nó bị Cách mạng kêu án “Tử hình”. Họ chưa kịp bắn thì nó trốn lên thành phố. Quen thói hống hách, nó bị anh chị trong Chợ Lớn thanh toán. Bây giờ, thằng Ba Nhơn, em nó còn ác hơn. Nghe nói nó cấu kết với bọn sĩ quan và bọn Mỹ để hà hiếp dân lành. Chưa ai làm gì được nó. Vì thằng nầy có súng, lại xảo quyệt. Thôi, bỏ đi con nó ở ác sẽ có ngày bị đền tội.

Ông bầu biết được chuyện cũng phát sợ. Lỡ dựng rạp rồi, ông thở dài:

- Thôi, hát một đêm kiếm chút đỉnh rồi nhổ neo cho xong.

Nhưng, trời cao, chạy sao cho khỏi nắng? Khi hay có gánh hát dựng trại, chuẩn bị diễn dân làng mừng rỡ, họ bàn tán xôn xao, rủ ren nhau đi xem. Làng quê bỗng bừng lên niềm vui lạ. Như Tết trái mùa. Mọi người chờ tối để đi xem. Sự náo động của những người vốn rụt rè, câm lặng đã khiến người trong dinh để ý. Ba Nhơn cho người dò la. Biết được đoàn có cô đào hát hay và đẹp, Ba Nhơn liền cho người mời cô tới dinh, bảo là nhân tiệc mừng thượng thọ của mẹ, cần một người hát phục vụ quan khách trong đem tiệc. Quốc kinh hoảng ngăn cản nhưng Thủy Phương không chịu nghe theo. Cô gái cứ đòi đi hát. Cô muốn kiếm một số tiền lớn cho đoàn hát. Phương bảo rằng phông màn đã cũ, sắp rệu rã. Y phục lại sờn rách khá nhiều, không thừa cơ hội nầy kiếm tiền sắm sửa còn chờ đến bao giờ? Quốc đành phải chìu theo. Để an lòng, anh đi theo Phương vào Dinh.

Cả hai không ngờ bên trong lại sang trọng đến thế. Người ra kẻ vào tấp nập. Bà Hội đồng già khụ, béo múp míp đến ngạt thở... Cặp mắt ti hí như đang ngủ gật. Toàn bộ khuôn mặt như một bị thịt nhăn nheo trùm lơ thơ những sợi tóc bạc xoăn tít. Bà ngồi bật ngửa trên chiếc ghế bành. Chiếc áo dài nhung đỏ quạch khiến bà vừa mang vẻ nặng nề vừa kệch cỡm, lố bịch hơn. Bà đặt hai bàn tay óng ánh vì mớ nhẫn vàng đeo gần kín một lóng mỗi ngón tay. Thấy Quốc nhìn, bà cất giọng trầm đục:

- Bọn bây là ai vậy? Ngồi đó chờ đi. Cậu Ba Nhơn sắp ra rồi.

Vừa lúc đó, một gã đàn ông bước ra. Quốc đoán là Ba Nhơn vì hắn xấu “Ma ghen, quỉ hờn”. Nhờ ăn mặc bảnh tỏn nên cũng ra vẻ quý phái . Để thị oai, hắn làm bộ rút cây súng lục ra ngắm nghía:

- Hừ, chỉ còn năm viên đạn. Chẳng biết bắn ai đây để thay băng mới vào?

Lắc lắc cái đầu nặng nề, bà Hội đồng bật cười:

- Hè… hè… thằng này thiệt. Ngày vui của tao mày lấy súng ống ra làm chi vậy hả? Tính hù mụ già này hả con?

Nhướng mắt nhìn về phía mẹ, bắt gặp Phương, hắn lặng đi giây lâu. Bỏ cây súng vào túi. Ba Nhơn nhìn từ đầu xuống chân Thủy Phương. Hắn cười khoái trá khi ngắm những đường cong tuyệt mỹ trên người cô gái. Quốc giật nẩy mình. Anh rên thầm: “Vậy là chết!”. Phương cũng nhận ra điều đó, mặt tái mét và sợ hãi hiện rõ trong ánh mắt nàng.

Quay lại Quốc, hắn hất hàm:

- Ủa, thằng nầy là thằng nào? Tao đâu có gọi mầy tới. Ở đây chỉ thích… đào mà thôi.

Sợ sinh chuyện, Phương chen vào:

- Dạ, bài em định hát là bài phải hát đôi. Có nam lẫn nữ.

- Hì hì… lo gì, để anh hát cặp với em cũng được mà. Cần gì nó.

Quốc đứng lên, kéo tay Thủy Phương:

- Mình về em!

Ba Nhơn bật dậy, rút súng ra và quát:

- Đứng lại…!

Thủy Phương chợt nhoẻn cười, nụ cười rất kịch khiến Quốc liên tưởng đến một vai diễn:

- Nếu anh muốn về thì về trước. Em ở lại hầu cậu Ba.

Khoái trá, Ba Nhơn cười hềnh hệch. Hắn bật ngửa ra ghế, đút súng vào túi, gác tay lên thành ghế:

- Khá lắm! Cô em này ngoan! Xong việc, ta thưởng cho.

Thản nhiên đến ngồi đối diện cậu Ba, Phương nghiêng đầu làm dáng:

- Cậu nói thì phải giữ lời đó nghen!

Quốc thét lên:

- Phương! Em sao vậy?

- Trời ơi! Anh nầy kỳ quá, cản đản hoài. Cậu Ba đuổi ảnh về cho rồi đi, bực quá!

Ba Nhơn thích thú ra lệnh cho bọn tay chân đuổi Quốc ra sân. Như bị ma đuổi, Quốc lao ra đường. Thấy Quốc, anh em trong đoàn túa ra hỏi dồn:

- Ủa, sao về giờ nầy. Còn Thủy Phương đâu?

Mãi một lúc lâu, anh mới kể lại câu chuyện. Người nào cũng ngỡ ngàng, trách móc: “Dò sông dò biển dễ dò, mấy ai lấy thước mà đo lòng người”. Anh em xúm lại khuyên lơn Quốc. Anh bỏ đi nằm sớm. Đêm đã khuya mà anh không sao chợp mắt được. Giờ nầy chắc Phương đang nằm trong vòng tay của gã dâm ác. Quốc muốn gào khóc nhưng rồi anh chỉ thở dài não nuột.

- Mầy còn thức hả Quốc? Ra đây coi!

Nghe chú Ba Ngươn gọi, Quốc đi ra. Hai người ngồi trước mũi thuyền, nhìn trăng đầu tháng nhạt nhòa, bàng bạc trên mặt sông. Đưa cho Quốc điếu thuốc giồng vấn, chú thì thầm:

- Tao nghi chắc có uẩn khúc gì đây. Lẽ nào tao nhìn lầm người. Nó đâu phải hạng gái dó.

- Có lẽ cảnh sang giàu trong dinh đã làm cho nó thay đổi. Nó muốn làm mợ Ba chứ gì.

- Mầy nói vậy chứ thằng đó xấu xí, gian ác, ai mà thèm.

- Nhưng thằng đó có tiền, có thế lực.

Chú Ba vỗ đùi đánh bốp:

- Phải rồi. Tao dám chắc nó muốn cứu mầy khỏi họng súng của thằng quỉ sống ấy. Nó giả bộ chứ gì. Trời ơi, tội nghiệp…

Quốc giật thót người. Đúng rồi. Ánh mắt đăm đắm của nàng lúc đó. Vậy mà… Anh tát vào mặt mình, gào lên:

- Trời ơi! Sao mà con ngu quá trời. Chú ơi. Con phải cứu Phương .

- Í, không được đâu. Phải bàn kế, họa may. Lớ quớ chết cả đám. Uổng công con nhỏ hy sinh.

- Dù chết, con cũng phải cứu Thủy Phương.

Quốc nhảy lên bờ, Anh chạy ào trong bóng đêm. Chú Ba hoảng hồn, chẳng biết tính sao, chú cũng đuổi theo.

- Chờ tao với Quốc.

Đã trễ. Đúng lúc đó, tiếng nổ long trời lở đất vọng lại, từ phía ngôi nhà lớn. Hai chú cháu giật mình, đứng lại. Họ kinh hoàng khi thấy lửa bốc cao ở một góc nhà. Những ánh đuốc rực đỏ di động liên tục rồi tiếng reo hò ầm ĩ vang lên: “Thành công rồi, bà con ơi!”. Chú Ba lầm bầm: “Gì vậy kìa?”. Ánh đuốc di chuyển lần ra ngã chợ xã, tiếng hô dậy đất: “Cách mạng muôn năm…!”. Dân chúng từ các ngõ ngách túa ra, nhập cuộc. Một cuộc biểu tình, biểu dương thành tích trong đêm trăng. Hai chú cháu cũng chạy tới mới hay người dân xã lợi dụng đêm tiệc mừng thượng thọ của bà Hội đồng mà ra tay. Du kích đã trà trộn trong đám thực khách để gài mìn. Kết quả như ý là giết chết hai tên Mỹ ác ôn, mấy gã sĩ quan và một số cường hào ác bá. Một thắng lợi lớn. Chỉ tiếc phe ta hy sinh hai người: Một là nữ anh hùng du kích dũng cảm gài mìn và một cô đào xinh đẹp. Đó là Thủy Phương. Người ta kể rằng cô du kích đã được Thủy Phương tiếp sức nên mang được mìn vào đúng chỗ trọng yếu và để chúng không nghi ngờ, hai người không một phút rời bàn tiệc, lo chuốc rượu và đã hy sinh.

…Mọi người bồi hồi, xúc động. Có ai đó nấc nghẹn. Một nữ nghệ sĩ bật khóc, cô chỉ tay vào nấm mồ kế bên:

- Còn đây là mộ của anh Trần Minh Quốc nào vậy chú Ba Ngươn.

Người kể chuyện lấy khăn lau mặt, để che dấu dòng nước mắt:

- Đó là nơi yên nghỉ của thằng Quốc, người yêu của Thủy Phương mà cũng là thằng cháu của tôi. Sau khi Thủy Phương chết, Quốc rời đoàn hát xung vào du kích Cái Ngang. Nhưng sau đó ít lâu, nó đã hy sinh. Người làng biết chuyện mới an táng Quốc cạnh mộ Thủy Phương. Đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng, người ta mang cả ba người liệt sĩ về đây, một nghĩa trang dành cho những người vì nước quên mình.

Trầm ngâm giây lâu, chú Ba tiếp:

- Vì vậy, các cháu mới thấy hằng năm chú tới nghĩa trang nầy. Chú chỉ lo là chú già rồi, chẳng biết ai sẽ nhang khói cho ba đứa nó.

Mọi người nhao nhao:

- Có chúng cháu nè chú. Chú đừng lo. Còn biết bao người chăm lo, giữ gìn nét đẹp truyền thống dân tộc. Chú thấy không, kia là hàng chữ “Đời đời tổ quốc ghi công” dưới tượng đài liệt sĩ.

Chú Ba Ngươn nheo nheo mắt nhìn về phía ngọn cờ đỏ sao vàng phất phới. Nắng chiều tô đậm màu cờ, hắt những tia vàng óng ánh lên dãy mộ yên lặng. Những sợi khói hương mỏng mảnh bay lên, hòa quyện hương hoa ngọc lan đây đó, lan tỏa khắp không gian. Chú lại rút khăn lau nước mắt, nói một mình: “Phải rồi, ba đứa nó không cô đơn!” .

NGUYỄN THỊ MÂY

(HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TRÀ VINH) 

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 30.01.2016…....... Vũ Thư Hữu .... 01

Vài điều nên biết về cuốn quý thư viết bằng Pháp văn &

xuất bản năm 1942 của tác giả La Giang Vũ Ngọc Liễn .... Vũ Anh Tuấn .... 04

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) .... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch .... 10

Cuộc đời vẫn đẹp .............................Tâm Nguyện .... 17

CLB Sách Xưa & Nay dự lễ giỗ Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải .. Vũ Anh Tuấn .... 30

Lời mở đầu thư mục Tác phẩm Văn học Việt Nam......... Thúy Toàn .... 32

Khai bút................................................. Thiếu Khanh .... 34

Bộ Khỉ Tam Không & Ca khúc “Ly rượu mừng” ........ Phạm Vũ .... 37

Món ăn miền Trung qua ca dao, tục ngữ ............. Bùi Đẹp st. .... 48

Những người đàn bà trong đời của Jack London......... Hoàng Kim Thư st .... 51

Bãi đá bên nhà.............. Mai Thị Thủy Hoa st .... 57

Tâm nguyện một đời thơ..................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 60

Đôi điều về cuốn Cận Đại Việt Sử Diễn Ca quyển Nhì ......... Hà Mạnh Đoàn .... 62

Sinh nhật (thơ)............................ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 68

Tình xuân (thơ).......................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 69

Thơ và biển sóng (thơ).................. Phạm Thị Minh-Hưng .... 70

Lục bát tháng Giêng (thơ)................................... Đàm Lan .... 71

Sau ngày tết (thơ)..................................... Lê Nguyên .... 72

Xuân đạo pháp (thơ).................................... Thanh Châu .... 73

Vui Xuân (thơ)..................................... Thanh Châu .... 73

Cảnh Xuân gợi tình (thơ)............................... Lang Nguyên .... 74

Lên núi Thiên Thai (thơ).................... Lang Nguyên .... 74

Đón Xuân sang (thơ)....................... Bs.Doanlinh .... 75

Xuân bất tận (thơ)............................... Bs.Doanlinh .... 75

Đối mặt với đời (thơ)............................. Ngàn Phương .... 76

Hội Võ đường (thơ)............................ Ngô Bá Mạnh .... 77

Thể dục dưỡng sinh (thơ).................... Ngô Bá Mạnh .... 78

Vơi sầu (nhạc)........................... Vũ Thùy Hương .... 79

Hồi tưởng (thơ)............................ Vũ Thùy Hương .... 80

Tết xuân (thơ).................................... Quang Bỉnh .... 81

Đón xuân (thơ)....................................... Quang Bỉnh .... 81

Nhớ một chiều xuân (thơ)..................... Hoài Ly .... 82

Trăng xưa (thơ)................................... Hoài Ly .... 82

Đời như mây bay (thơ)................................... Hoài Ly .... 83

Đều là diễn viên (thơ) ......................... Lê Minh Chử .... 83

Cái đầu mà bệnh… (thơ) ............ Lê Minh Chử .... 84

Cầu được, ước thấy (thơ).................... Tâm Nguyện .... 85

Hôn nhân (thơ)....................... Tâm Nguyện .... 85

Áo quan (thơ) ............................... Tâm Nguyện .... 85

Giá trị mới (thơ) ......................Tâm Nguyện .... 86

Mừng Xuân Bính Thân (thơ) .............................. Quan Thúy Mai .... 86

Đêm xuân (thơ) ........................................... Lam Trần .... 87

Vườn xuân (thơ) ............................ Võ Kim Cương .... 88

Trong vườn quê ngoại (thơ) ..................... Giáng Ngọc (G.Đ.) .... 89

Tiếng hát ơi ! (thơ) ............................................ Ngọc Vân .... 90

Thủy tinh (thơ) .................................... Vũ Mão .... 91

Chrystal (thơ) .............................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 92

Hoàng hôn trên sông Đồng Nai (thơ).......................... Vũ Mão .... 93

Twilight on the Đồng Nai river (thơ).................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 93

Bóng hình thoáng qua............................................ Dương Lêh .... 94

Vài nét về báo chí Nhật Bản ................................... Đỗ Thiên Thư st .. 103

Chiều cuối năm ......................................................... Lam Trần .. 106

Về ca khúc “Xuân và Tuổi trẻ”................................ Lưu Anh Rô .. 110

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ...... Thanh Châu dịch thuật .. 115

Các kỷ lục của văn đàn thế giới ........................ Đào Minh Diệu Xuân st .. 120

Những món ăn nguy hiểm khi dùng chung....... Bs. Nguyễn Lân-Đính st. .. 127

Rơi tự do ......................................................... Đàm Lan .. 129

Vai diễn sau cùng ................................................. Nguyễn Thị Mây .. 141

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế