Hiện có 4 người xem / 2316467 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 14/10/2017

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Phiên họp hôm nay có một sự kiện đặc biệt là nhà thơ Thanh Phong, một thành viên cũ đã từng tham dự nhiều phiên họp trong quá khứ, sau đó ông vắng mặt trong một thời gian dài, nay lại tái xuất hiện với một tập thơ được in khá đẹp mà ông đã mang lại tặng các thành viên mỗi người một cuốn.

Sau đó, như thường lệ, để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai quý thư mà ông mới có. Lần này cả hai cuốn đều bằng Pháp văn. Cuốn đầu mang tựa đề là “Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Đông Dương” (L’École Française en Indochine ) và là một cuốn sách nói về Trường Viễn Đông Bác Cổ một Trung Tâm Nghiên Cứu của Pháp về Đông Phương học, chủ yếu là ở các thuộc địa. Cuốn sách này hấp dẫn người viết vì nó cung cấp một số thông tin về một số học giả Pháp như Paul Pelliot, Henri Maspéro, Paul Demiéville về Hán Học, Henri Parmentier và Louis Malleret về Khảo cổ học, Paul Mus về lịch sử Việt Nam, và đặc biệt là về học giả Việt Nam Nguyễn Văn Huyên (1908-1975), tác giả nhiều công trình nghiên cứu giá trị về Văn hóa và Tín ngưỡng Việt Nam. Hơn nữa, tài liệu về Trường Viễn Đông Bác Cổ cực kỳ hiếm hoi ở Việt Nam, và nếu có thì chỉ có bằng Pháp văn, chứ bằng Việt và Anh văn thì rất ít, đồng thời người viết cũng rất thích mấy hình minh họa trong sách.

Cuốn thứ nhì cũng bằng Pháp văn mang tựa đề là “Faits étranges et récits extraordinaires” (Những điều kỳ lạ và những chuyện dị thường). Đây là một cuốn sách khổ 20x26, dày 450 trang, với hàng ngàn hình ảnh minh họa, vừa bằng hình đen trắng vừa bằng hình màu. Sách do nhóm nguyệt san “Sélection du Readers Digest”, một trong những tờ báo tuyệt vời nhất của thế giới, nên đương nhiên là nội dung rất đáng tin tưởng. Mua được cuốn sách, người viết thích vô cùng và tự hứa sẽ để thì giờ đọc bằng hết những điều kỳ lạ và những chuyện dị thường từ cổ chí kim này. Sau khi được giới thiệu hai cuốn quý thư đã được một số thành viên chuy ề n tay nhau xem một cách thích thú.

Sau khi dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, anh Phạm Vũ đã có một bài nói chuyện ngắn về Nhà Mạc và Hồ Quý Ly. Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Phước Hải đã lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Ước mơ”. Sau anh Phước Hải, anh Nhựt Thanh lên kể về 5 con ngựa kỳ lạ ở Việt Nam, Trung Quốc, và Cao Ly. Tiếp lời anh Nhựt Thanh, thành viên Thùy Mai hát tặng các thành viên bài “Tìm mãi thương yêu”. Sau thành viên Thùy Mai, anh Lê Nguyên lên đọc tặng các thành viên bài thơ “Trong lòng Hà Nội”. Tiếp lời anh Lê Nguyên, anh Phùng Chí Tâm cũng hát tặng các thành viên bài “Em cho” do anh Lê Nguyên sáng tác, và bài “Lên thăm Tượng Chúa” ở Vũng Tàu do chính anh sáng tác. Anh Phùng Chí Tâm hát xong, Kim Sơn lên kể về chuyến Bắc du cô vừa đi qua nhiều tỉnh ở miền Bắc. Kim Sơn kể xong, anh Tấn Thuận lên ca tặng các thành viên bài “Bên lăng Bác”. Anh Tấn Thuận hát xong, anh Thanh Phong đọc tặng các thành viên bài thơ vui “Phiên khúc ái ân”. Tiếp lời anh Thanh Phong, anh Hải Âu lên ngâm tặng các thành viên bài thơ tình mang tựa đề là “Đồng cảm”. Sau anh Hải Âu, anh Minh lên hát tặng các thành viên bài hát bằng tiếng Pháp nhan đề là “Oh! mon Amour”. Anh Minh hát xong, Thùy Hương ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Tai nạn sẻ chia” và “Vọng về quê cũ”. Sau Thùy Hương, cô Trần Hoàng Cúc lên ngâm tặng các thành viên ba bài thơ “Công cha nghĩa mẹ”, “Xuân và thơ ca”, và “Cảm xúc chiều”. Tiếp lời cô Hoàng Cúc, Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Đợi chờ”. Sau Hoài Ly, thành viên Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên bài “Em và tôi” của An Thuyên. Lệ Ngọc hát xong, cô Ánh Xuân ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Cố nhân tri kỷ” và “Tình si”. Sau cô Ánh Xuân, cô Hương Mai cũng ngâm tặng các thành viên bài “Chi lạ rứa”. Cuối cùng, anh Thanh Châu với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc đã tặng các thành viên bài “Giọt mưa thu” và buổi họp kết thúc thật vui vẻ lúc 11g40 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


CUỐN “TINTIN NƠI XỨ SỞ CHỮ NGHĨA”

(TINTIN AU PAYS DES MOTS)

MỘT CUỐN TỰ ĐIỂN ANH-PHÁP PHÁP-ANH

CÓ MINH HỌA ĐẸP TUYỆT

Việc gặp cuốn sách tuyệt vời này khiến tôi vững tin hơn ở điểm “mình là một người có thiên duyên với sách ” . Đây là một cuốn tự điển Anh-Pháp Pháp-Anh của nhà Harrap’s lừng danh. Tại sao một cuốn tự điển song ngữ lại có dính líu gì tới truyện tranh Tintin mà tôi yêu thích từ khi còn trẻ? Câu trả lời là cuốn tự điển Anh-Pháp Pháp-Anh tuyệt vời này, dùng những hình tranh trong bộ truyện tranh Tintin lừng danh, có liên quan tới những từ được định nghĩa, như những hình minh họa. Cuốn tự điển này khổ 24x26, dày 438 trang, trong số đó 214 trang dành cho ph ầ n Anh-Pháp và 214 trang dành cho phần Pháp-Anh, và ở giữa là 5 trang về Văn phạm Pháp và 5 trang về Văn phạm Anh. Cuốn sách được in đi in lại đã mấy lần, và cuốn này là cuốn được in lần thứ ba năm 1992 (25 năm trước).

Với những người đã từng say mê truyện Tintin từ hồi niên thiếu như tôi khi mới 15 tuổi, tôi đã có cơ duyên gặp Tintin được đăng từng kỳ trên một tờ họa báo thời danh là tờ Hùng Tâm (Coeurs vaillants), vào những năm 50, sau đó tôi đã mua và sưu tập được đủ 24 cuốn truyện tranh Tintin được coi là truyện tranh hay nhất thế kỷ 20, từ cuốn “Tintin ở xứ người Sô Viết” là cuốn đầu tiên in đen trắng, cho tới những cuốn sau này. Bây giờ khi “đã hết 20 tuổi lần thứ tư cộng 2” tôi chỉ còn nhớ được những cuốn tôi thích nhất như “Kho tàng của Rackham Đỏ”, “Tintin sang Mỹ”, “Tintin sang Tây Tạng”, “Chuyến bay 714 tới Sydney”, “Tintin và ngôi Đền Mặt Trời”, “Tintin sang Congo”. “Tintin lên Cung Trăng” v.v… Tác giả cha đẻ của Tintin là một họa sĩ người Bỉ tên thật là Georges Prosper Rémi (1907-1983), bút hiệu là Hergé, là một trong những người hiếm hoi trong đời mà tôi thật sự ái mộ và kính trọng tài năng, Trong vụ chơi truyện tranh Tintin này tôi đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng để trở thành tỉ phú khi, vào năm 1971, tôi tình cờ mua được của ông Liễu, một tên tuổi lớn trong làng sách cũ Saigon một cuốn TinTin ở xứ sở người Sô Viết, ấn bản in đen trắng đầu tiên vào năm 1930. Tôi giữ cuốn truyện tranh này trong nhà cho tới năm 1982 thì tôi tặng cho một mẫu hậu mang sang Pháp khi bà ta sang Pháp định cư. Cả tôi và bà ta không hề biết rằng, về mặt chơi sách, cuốn sách đó được trị giá cả trăm ngàn Euros, và khi biết được thì bà đã “đi xa” và con cháu bà chả có ai quan tâm tới cuốn sách đó và do đó nó đã tan biến vào hư vô luôn, không để lại một dấu vết gì. Tôi cũng không tiếc, vì một giây cũng là quá khứ, và việc mình biết quá muộn cũng là chuyện đã rồi, có tiếc cũng chẳng còn làm được gì, nên tôi tỉnh queo chấp nhận sự phí phạm này. Là người yêu thích các loại tự điển của nhà Harrap’s lừng danh, gặp được cuốn tự điển dính tới Tintin này tôi thích quá và tự hứa sẽ mỗi ngày chỉ lật xem một vài trang và khi thấy những hình ảnh minh họa thì sẽ hồi tưởng lại những giây phút tôi đã được hưởng với những cuốn truyện tranh cực hay của Hergé, một họa sĩ, nhờ Tintin, đứa con tinh thần của mình, mà đã vào được… cõi bất tử!

Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI”

VŨ ANH TUẤN

CÓ TẬN THẾ KHÔNG?

(Tiếp theo số 138)

Hồi chuông báo tử số 2 :

THỰC PHẨM BẨN

Ngày xưa, thời thập niên 50 của thế kỷ trước, ở làng quê nông nghiệp chân chất tôi nghe câu nói “cửa miệng” nhiều người: “Ăn bẩn sống lâu”. Câu nói nghịch lý và nghịch nhĩ nữa. Bây giờ tôi nghiệm ra câu nói trên không có ý xúi người ta ăn bẩn, ăn của dơ… mà chỉ cổ võ một nếp sống tự nhiên, không quá cầu kỳ, không đòi hỏi điều kiện vệ sinh kiểu tỉnh thành kênh kiệu.

Thí dụ đám trẻ chăn trâu móc mấy củ khoai lang ngoài ruộng, đem xuống sông rửa đất cát đi rồi cho vào miệng ăn rau ráu, chẳng gọt vỏ, chẳng kịp luộc hay nướng. Hoặc đám học trò hái mấy quả dưa chuột ở giàn, chỉ lấy vạt áo lau qua là ăn liền, chẳng bao giờ gọt vỏ cả, quả ổi, quả cóc vặt ở vườn cũng vậy. Nước uống thường xuyên chẳng mấy nhà đun sôi, cứ ra vại, ra bể mà uống, còn ở ngoài đồng thì uống nước sông… Mớ rau mua ở chợ về thì đem xuống ao rửa, vẩy sạch nước cho vào nồi xào, nấu hay ăn sống… Sở dĩ ăn uống có vẻ “mất vệ sinh” như vậy mà người nông thôn vẫn khỏe mạnh, ít bệnh tật là vì nguồn nước sông, ao không ô nhiễm do thuốc trừ sâu, phân hóa học nhất là nước thải của các nhà máy công nghiệp, cặn dầu của tàu bè… Dưa chuột, ổi, cóc ăn cả vỏ là vì hồi đó chưa có thuốc trừ sâu, thuốc tăng trưởng, ép chín, thuốc ngâm tươi lâu…

Ngày nay người ta tự giết mình, giết nhau, triệt nòi giống mình và nòi giống của nhau bằng nguồn thực phẩm bẩn. Ngày nay ăn sạch cũng chóng chết, ăn bẩn càng chóng chết hơn chỉ còn nước không ăn gì lại càng mau chết nữa! Ôi thực phẩm ngày nay!

1. Lật tẩy công nghệ “tẩm” hóa chất cho rau muống, đầu độc người dân. Báo Đời Sống & Pháp Luật số 74 ngày 22/6/2015, trang 7 (btv Thơ Trịnh, Hoàng Minh): Ai hô rau muống bẩn thành rau muống sạch? Rau để cả tuần vẫn tươi? Tại chợ đầu mối Thủ Đức, người bán nói với phóng viên (đóng vai người mua): “Yên tâm đi, hàng này có khi để cả tuần không hư vì trước khi giao chúng tôi đã xịt thuốc bảo quản rồi”.

Nói về việc lượng lớn rau muống “tẩm hóa chất” được “phù phép” thành rau sạch khi có mặt tại các siêu thị, bà H. (ngụ tại phường Thạnh Xuân, Q.12) cho hay: “Bấy lâu nay, người dân luôn nghĩ rau muống tại các siêu thị đều là rau sạch. Thế nhưng, trên thực tế không phải thế, nguồn rau muống cung cấp khá lớn cho thị trường ở Tp.HCM xuất phát từ các vựa rau muống trên địa bàn huyện Hóc Môn, quận 12, Củ Chi. Mà tất cả các vựa rau ở đây đều được người sản xuất ‘tẩm’ một lượng hóa chất rất lớn, đủ các loại trước khi tung ra thị trường. Vậy cơ sở nào đảm bảo rau muống ‘án ngữ’ trong hệ thống siêu thị là rau sạch được” - (Những chuyên canh rau muống còn thường xuyên dùng nhớt phế thải xịt trên ruộng rau để trừ những con “rệp” rau muống).

2. Bí ẩn đằng sau vụ triệt phá đường dây sản xuất gia vị giả xuyên Việt.

Báo Đời Sống & Pháp Luật số 74 ngày 22/6/2015, trang 8 (btv Thơ Trịnh, Hoàng Minh): Công an xã Hương Thủy (Thừa Thiên, Huế) vừa bắt quả tang một cơ sở sản xuất, tiêu thụ gia vị giả quy mô lớn. Bằng nhiều chiêu trò tinh vi, các đối tượng đã thu mua gia vị “đểu” rẻ tiền rồi đóng gói thành các thương hiệu nổi tiếng nhằm trục lợi, hàng tấn nguyên liệu lẫn thành phẩm bị lực lượng chức năng tịch thu khiến dư luận một phen lo ngại.

Đẳng cấp vòi bạch tuộc: Chủ nhân thu mua các loại gia vị có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc, giá rẻ, sau đó đặt mua bao bì, nhãn mác về đóng gói, chuyển đi tiêu thụ. Hàng hóa giả không chỉ tràn lan ở nội địa mà xuất sang cả Lào. Người dân chưa kịp vui mừng vì cơ sở hàng giả bị phanh phui thì đã bàng hoàng lo lắng vì biết bao nhiêu người đã ăn phải hàng giả đó, sức khỏe của họ rồi sẽ ra sao đây?

3. Trung Quốc truy quét thực phẩm bẩn. Cơn ác mộng sản phẩm nguy hại vừa trở lại với Trung Quốc sau vụ phát hiện thịt đông lạnh hơn 40 năm và sữa bột trẻ em chứa chất độc melamine. An toàn thực phẩm ở Trung Quốc “là điều xa xỉ” mọi người phải sống chung với các loại thực phẩm dơ bẩn và độc hại.

Thịt thời Mao Trạch Đông: Theo China Daily, hải quan TQ mới tịch thu hơn 100.000 tấn thịt bẩn do 21 băng nhóm buôn lậu lưu hành, phân phối. Một phần số thịt được phát hiện có tuổi từ thời Mao Trạch Đông, số khác đã thối rữa, đang trong tình trạng phân hủy. Các chuyến hàng được chuyển qua Hồng Kông và chuẩn bị xuất qua Việt Nam.

Báo Thanh Niên ngày 25/6/2015 (btv Trùng Quang): Tờ Russia China Morning Post dẫn lời ông Lương Gia Thanh, Phó giáo sư sinh học ứng dụng và công nghệ hóa học tại Đại học Bách khoa Hồng Kông cho biết chúng có thể được ướp một số lượng lớn hóa chất có nguy cơ gây ung thư nhằm mục đích bảo quản lâu dài, hoặc chứa những vi khuẩn có khả năng gây ngộ độc thực phẩm.

Sữa chứa dư lượng Nitrat: Cũng trong ngày hôm qua, cơ quan phụ trách an toàn thực phẩm của Trung Quốc vừa yêu cầu 3 nhà sản xuất sữa ở tỉnh Thiểm Tây thu hồi sữa bột dành cho trẻ sơ sinh không đạt chuẩn và kêu gọi chính quyền địa phương áp dụng các hình thức trừng phạt thật nghiêm đối với các công ty này nếu họ vi phạm luật. Trong một tuyên bố đưa ra trên website, Ủy ban Thực phẩm và Dược phẩm Trung Quốc (CFDA) cho biết hàm lượng nitrat quá mức đã được phát hiện. Mức selen cao hơn cho phép. Sữa bẩn là một vấn đề nhạy cảm ở Trung Quốc sau vụ bê bối sữa nhiễm melamine hồi năm 2008 khiến ít nhất 6 trẻ em thiệt mạng và khoảng 300.000 người nhiễm bệnh.

4. Làm giả thực phẩm chức năng quy mô lớn. Báo Thanh Niên ngày 25/6/2015 (btv Đàm Huy): Ngày 24/6, Bộ Công an kiểm tra 4 địa điểm tại phường 10, quận Gò Vấp Tp.HCM, phát hiện dấu hiệu kinh doanh thực phẩm chức năng giả, nhái nhãn hiệu quy mô lớn, tịch thu 60 thùng chứa bao bì, nhãn hiệu giả, thuốc dạng viên nén, thực phẩm chức năng thành phẩm, trong đó có nhiều vật liệu được nhập từ Trung Quốc.

Báo Đời Sống & Pháp Luật số 76 ngày 26/6/2015 - (btv Hương Sen, Dương Hạnh): Thực phẩm chức năng làm từ… bột mì: Theo lời khai của giám đốc NDB tại cơ quan điều tra, mọi quy trình “hô biến” các thực phẩm chức năng giả nhập từ Trung Quốc thành các thương hiệu thực phẩm chức năng nổi tiếng của Mỹ, đều được làm từ bột mì. Theo đó, quy trình được công ty làm một cách khép kín, mà không người lạ nào có thể hay biết. Nhân viên công ty cũng đều là người quen thân. Hàng hóa sản phẩm mang mác thương hiệu nổi tiếng, sẽ được nhân viên của công ty giao hàng ở nhiều khu chợ đầu mối và một số cửa hàng thuốc lớn có tiếng trên địa bàn Tp.HCM.

5. 80% thực phẩm bán ngoài chợ chưa được kiểm soát an toàn thực phẩm.

Báo Đời Sống & Pháp Luật số 76 ngày 26/6/2015 (theo TTXVN): Chiều 24/6, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã có buổi làm việc với đại diện các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế về vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở Việt Nam. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết hiện còn tới 80% thực phẩm được mua bán tại các chợ nhỏ lẻ chưa được kiểm soát đầy đủ về vệ sinh an toàn thực phẩm. Đáng chú ý nguồn cung cấp nông sản, thực phẩm hiện đến từ khoảng 9 triệu hộ nông dân sản xuất chủ yếu theo kinh nghiệm, thiếu kiến thức và ý thức trong việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích tăng trưởng.

6. Rùng mình công nghệ chế nước béo từ mỡ bò thối ở Tp.HCM.

Báo Đời Sống & Pháp Luật số 77, trang 5 ngày 29/6/2015 (btv Bùi Thị Xuân, Thơ Trịnh): Để kiếm được khoản lợi nhuận siêu khủng, cơ sở chế biến của bà Ch. thu mua mỡ bò thối, đổi màu về sơ chế thành nước béo. Sau khi được “tái” chế biến, sản phẩm được bán cho vô số quán ăn, xe hủ tiếu… với giá bèo.

- Kinh hoàng “công nghệ phù phép” : Điều khiến người tiêu dùng hãi hùng, là nguyên liệu tạo ra sản phẩm nước béo tại cơ sở chế biến của bà Ch. lại chính là mỡ bò thối trôi nổi trên thị trường.

- Khi nước béo “lên ngôi” : “Hằng ngày, mặc dù cửa cơ sở chế biến của bà Ch. luôn đóng kín nhưng mùi hôi thối vẫn bốc ra nồng nặc… Vậy mà, mỗi ngày người ra vào lấy hàng nơi đây vô cùng tấp nập. Có tới hàng tạ nước béo, tóp mỡ trộn lẫn nhiều tạp chất của cơ sở chế biến này được đem giao cho các các quán ăn, xe hủ tiếu, bánh tráng trộn mỗi ngày… Thiết nghĩ, với việc sử dụng những sản phẩm không rõ nguồn gốc này thì nguy cơ ngộ độc thực phẩm là rất cao”. Không chỉ vậy, nhiều cơ sở chế biến nước béo còn sử dụng nhiều loại hóa chất bảo quản, khử mùi nhằm giúp cho nước béo để cả tháng trời mà không bị bốc mùi hay hư hỏng. Thực tế này khiến không ít người dân hoang mang, nếu chẳng may ăn phải sản phẩm này trong một thời gian dài, thì khả năng đối diện với nguy cơ bệnh tật là rất lớn.

Đừng vì lợi nhuận mà bất chấp sức khỏe của con người: Ông Nguyễn Hồng Triệu (Trưởng trạm thú y huyện Bình Chánh) cho biết: “Vì lợi nhuận, họ bất chấp pháp luật, sức khỏe của người tiêu dùng để sản xuất ra những sản phẩm rẻ tiền. Để tránh những hậu quả đáng tiếc ảnh hưởng đến sức khỏe, người tiêu dùng cần hết sức tỉnh táo khi lựa chọn các sản phẩm thực phẩm trên thị trường hiện nay, đừng ham giá rẻ mà mua những sản phẩm hết đát, trôi nổi, không nhãn mác trên thị trường”.

(còn tiếp)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)

DẤU ẤN CỦA ĐẠO PHẬT

Trải qua gần 3.000 năm, từ cái nôi Ấn Độ, Đạo Phật đã được các nhà truyền giáo mang đi khắp nơi trên thế giới. Thành tựu là đến nay, mọi giới dù tin hay không tin Đạo Phật, ngay cả những người nhiều hoài nghi nhất là những bậc trí thức cũng không thể phủ nhận những lý thuyết của Đạo Phật được gọi là Chân Lý, như: “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”. “Thành, Trụ, Hoại, Không” hay “Gieo Nhân nào thì gặt Quả đó”, dù đó là sự nhận định về những gì hữu tướng của Đức Thích Ca - một người của thời xa xưa cách đây đến mấy ngàn năm - nhưng tính chính xác không bị đảo lộn, vì vạn vật không thể có con đường nào khác để đi ngoài lộ trình này. Qua thời gian và qua sự truyền đạo của rất nhiều thế hệ, nói về Phật, đa số Phật Tử đều cho rằng: Đó là Phật Tổ Như Lai, quyền phép vô biên, “cứu độ Tam thiên Đại thiên Thế giới”. Dưới quyền Ngài là Chư Bồ Tát, lúc nào cũng “tầm thinh cứu nạn”. Đức tính của Phật thì Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỉ, Đại Xả v.v…

Bề nổi của Đạo Phật được ghi nhận bằng sự thành công nổi bật như ngoài số Phật Tử toàn cầu ngày càng gia tăng, còn phải được kể bằng các Chùa lộng lẫy, hoành tráng ở nhiều nước trên thế giới mà dù cho bậc vua chúa mọi thời giàu sang cỡ nào cũng không thể xây được những dinh cơ to lớn, đẹp đẽ, giá trị hơn! Campuchia thì có Angko Wat, Chùa Vàng, Chùa Bạc. Thái Lan có Chùa Phật Vàng tên Wat Traimit hay còn gọi là Chùa Trái Mít, có tượng Phật đúc bằng vàng khối, cao 3m, nặng 5,5 tấn! Chùa Wat Pra Dhammakaya thì thờ 1 triệu tượng Phật vàng - 300 nghìn tượng đồng, 700 nghìn bức tượng khác trong khuôn viên rộng 4km. Đền Taj Maha của Ấn Độ được một vị vua đương thời rất giàu, xây rất nhiều năm, cũng chỉ bằng đá cẩm thạch trắng và đá bán quý, trong khi Miến Điện chưa phải là nước giàu có, phồn thịnh, nhưng Chùa thì mái được đúc bằng cả mấy mươi tấn vàng. Hàng trăm quần thể Chùa chung quanh cũng dát vàng, tượng Phật cũng bằng vàng, cẩn ngọc, kim cương lên, sáng rực cả một vùng trời, và ngôi Chùa Đá có cục đá dát vàng nằm cheo leo trên đỉnh núi không bị rớt, mà đến thời này cả hai vẫn là công trình giá trị, và độc đáo của Đạo Phật so với cả thế giới mà ai cũng mơ ước được một lần chiêm ngưỡng tận mắt!

Nơi nào Đạo Phật đặt chân tới thì Chùa Chiền mọc lên ồ ạt. Nhiều nước tuy không xây được bằng vàng hay dát vàng, nhưng về mặt hoành tráng, kiến trúc cầu kỳ, nổi bật thì không thắng cảnh thiên nhiên hay do con người xây dựng của quốc gia nào có thể sánh nổi. Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Hàn Quốc, ngay cả Việt Nam ta gần đây cũng đều có những Chùa Chiền đồ sộ được liệt vào hàng lớn nhất Đông Nam Á.

Trung Quốc cũng có hàng chục Tượng Phật to lớn nổi tiếng, như:

- Tượng Phật ở Núi Nghiêu, Hà Nam, có tên là Trung Nguyên Đại Phật, cao 208m, Thân cao 108m, bệ đỡ cao 80m.

- Linh Sơn Đại Phật phía Nam núi Mã Sơn tỉnh Giang Tô, cao 88m. Thân 79m, đài sen 9m.

- Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt ở Hồ Nam bằng đồng mạ vàng, cao 99m.

- Tam Á Quan Âm cao 108m. Bảo tọa Hoa Sen cao 10m với 4 tầng.

- Lạc Sơn Đại Phật là tượng đá lớn nhất thế giới cao 77m nằm trong núi Lãng Vân.

Việt Nam ta cũng có tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông cao 12,6m trên đỉnh núi Yên Tử được đúc bằng đồng nguyên khối đạt kỷ lục Châu Á.

Nhưng nổi bật nhất là 2 tượng Phật cao 55m và 37m ở Afganistan, được tạc thẳng vào núi sa thạch, chiếm cả quả núi từ kỷ thứ 6, năm 2011 đã bị Phiến Quân Hồi Giáo cực đoan dùng mọi cách để phá hủy cho bằng được mà về sau Unesco định khôi phục, nhưng không thể kham nổi vì mức tốn kém.

Thời đại ngày ngày nay, mọi thứ đã có máy móc, phương tiện hỗ trợ mà còn không sửa chữa nổi, thì thời xa xưa, để tạc được 2 tượng Phật vĩ đại như thế tốn biết bao nhiêu là công sức, tiền bạc!

Chúng ta không thể phủ nhận những tấm lòng mến mộ Phật đã chung nhau để làm thành những công trình đồ sộ để đời. Hình ảnh Phật được tôn vinh đến mức tối đa. Nhưng liệu những công trình như thế đã phù hợp với Chánh Pháp. Có làm cho thêm nhiều người Phát Tâm? Có phát huy được Đạo Pháp? Với cái nhìn của người thời này chúng ta sẽ nhận ra được điều gì? Học hỏi được gì trong đó?

Thật sự, nếu chỉ nhìn một cách phiến diện thì chúng ta sẽ thấy rằng Đạo Phật thời đó được phát huy một cách rực rỡ nhất, huy hoàng nhất với những dấu ấn để lại hoành tráng như thế, mà cho dù thời này con người có giàu lên hơn, phương tiện tối tân hơn, nhưng muốn thực hiện được như thế e rằng không dễ chút nào. Nhưng cũng có một câu hỏi được đặt ra: Phải chăng điều đó đáp ứng được mục đích của Đạo Phật do Đức Thích Ca đề ra? Ngài có muốn được vinh danh bằng những hình ảnh chạm khắc vào núi, hay được đúc bằng vàng khối, càng to càng tốt, tốn kém bao nhiêu cũng không sao, vì Ngài xứng đáng như thế, để mọi người chiêm ngưỡng, tôn thờ? Nếu đúng, thì những hình ảnh đó mang lại lợi ích gì cho con người? Nếu không, thì nên làm gì mới phải?

Ai có đọc lịch sử của Đạo Phật thì đều thấy rằng: Nguyên do Đức Thích Ca phát tâm đi tu là vì thấy CẢNH KHỔ đeo đẳng cái Thân của con người. Sau 6 năm học nhiều pháp sai lầm, giờ chót, nhờ Thiền Định, tức là 49 ngày đêm trải tòa cỏ ngồi Tư Duy mà Gặp được Con Đường Thoát Khổ gọi là Đắc Đạo. Những gì Ngài nghiên cứu, thực hành, kết quả, sau đó truyền lại, đều nhắm vào Giải Khổ cho kiếp sống của con người mà thôi. Không có thần thông, phép mầu, cứu độ cho bá tánh nào hết.

Thế nhưng nhiều người đọc kinh mà không hiểu Nghĩa, cứ “Y Ngữ” để hiểu lầm về Phật, Bồ Tát và việc “Cứu độ chúng sinh”, tưởng là Đức Phật cứu độ cho bá tánh, trong khi Đức Thích Ca diễn tả điều đó trong Nội Tâm của mỗi người, không phải là ở cảnh bên ngoài. Đọc lại lịch sử tu hành của Ngài thì chúng ta thấy, Ngài cũng là một con người bình thường như mọi người, cũng từng có vợ, có con. Khác chăng là ngài được Sinh ra trong Cung vàng, điện ngọc, nhưng ngài vẫn sẵn sàng từ bỏ để đi tìm câu trả lời cho trăn trở của mình về kiếp sống con người. Cuối cùng thì Ngài đã tìm ra, và con đường tu hành của Ngài chỉ là để Giải Thoát cho bản thân khỏi Khổ vì các Pháp, vì Sinh, Lão, Bệnh, Tử mà thôi. Đạo Phật còn gọi là Đạo Nhân Quả. Theo luật này, ai làm nấy chịu, gieo gì thì gặt đó, không ai có quyền thay đổi, gánh vác thế cho người khác. Ngay cả con Phật mà Ngài cũng không cứu được nữa là!

Tu Phật cũng không phải để trở thành Thần Linh, mà chỉ là hành trình chuyển đổi cái Tâm của chính người tu, từ dính mắc đau khổ, phiền muộn, trở thành thanh tịnh, an lạc gọi là Niết Bàn. Về những danh xưng Phật, Bồ Tát, Chúng Sinh được giải thích như sau: Chúng Sinh là những tư tưởng đen tối, xấu xa, ganh tỵ, ghét hờn, thâm độc trong Tâm mỗi con người Chúng ta. Đồng thời trong đó cũng có những tư tưởng hướng thiện, tốt đẹp gọi là PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ. Bồ Tát là những tư tưởng thanh tịnh, có nhiệm vụ giải thích, hướng dẫn gạn lọc, để loại bỏ đi những tư tưởng xấu trong tâm, gọi là chuyển hóa chúng sinh, hay Độ Sinh. Kết quả khi Cái Tâm trở nên thanh tịnh, hết đau khổ, phiền muộn thì gọi là Niết Bàn hay Phật Quốc được thành lập.

Cũng theo Đạo Phật, khi mỗi người hết kiếp, qua đời thì Thần Thức sẽ theo Nhân Quả mà về với cảnh giới tương ứng. Cả đời làm ác thì sẽ đến với cảnh giới xấu, chịu đọa. Nếu sống lương thiện, đạo đức thì đương nhiên sẽ về nơi tốt đẹp. Không có sự can thiệp của Phật nào, cũng không có Phật nào có quyền xóa tội cho người khác để đưa họ về nước của mình. Đó mới thật sự là Nhân Quả mà Đức Thích Ca khám phá và truyền lại cho tất cả chúng ta. Ngài không cứu độ được cho ai, chỉ cứu độ bằng cách đưa ra Giáo Pháp để người muốn có được kết quả như Ngài thì tự phải hành trì để đạt được mà thôi.

Nhưng thấy rằng để giảng nói cho người khác hiểu và chấp nhận những gì Ngài đã hiểu, đã hành và đạt kết quả không phải là điều dễ dàng. Bởi đầu óc con người thời đó còn chưa hiểu biết nhiều. Còn tin, còn sợ, còn nương tựa vào những vị Thần Linh khuất mày, khuất mặt. Ngôn ngữ cũng chưa đủ phong phú để diễn tả những gì không có hình ảnh để minh họa. Chính vì vậy mà Phương Tiện được Ngài đặt ra, nương theo những gì mà các Tôn Giáo đương thời đang phổ biến. Do bên họ có những vị Thần Linh quyền phép cao siêu làm cho tín đồ tin tưởng vào sự hộ trì, nên muốn dẫn dụ người theo mình thì Đức Thích Ca cũng phải đặt ra những vị Thần Linh, những Cảnh Giới tương tự. Muốn cho con người cư xử tốt với nhau, Ngài tả Phật có 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp v.v... Nhưng những Tướng Tốt, Vẻ đẹp đó thật ra được khắc họa bằng những việc làm tốt đối với ông bà, cha mẹ, thầy, bạn và mọi người chung quanh ở trong cuộc sống thôi. Phật cũng tự xưng Ngài là Như Lai, tức là người không còn bị động tâm vì các pháp, dù có đến, có đi, vì thấy các pháp đều NHƯ. Như Lai không phải là một vị Phật Tổ quyền năng bao trùm như những người hiểu sai đã diễn giải.

Chính do những người truyền Đạo ngày xưa đã không hiểu rõ Phương Tiện của Phật, đọc Kinh, thấy rõ ràng Kinh viết có vị Phật Tổ Như Lai quyền phép vô biên, có thể “cứu độ cho Tam Thiên Đại thiên Thế Giới”, rồi “Y Ngữ”, hô hào mọi người đóng góp để tạc tượng rồi tôn thờ, cầu xin! Không biết Phật tả những Tướng Tốt đó là để người tu muốn có được thì bắt chước theo đó để tạc cho Phật trong Tâm của mình, không phải để tạc bên ngoài bằng vàng, bạc, hay đá quý! Kể cả Tây Phương Cực Lạc được trang hoàng bằng 7 món châu báu thật ra để nói về kết quả Xả 3 Nghiệp của Thân là Tham Sân Si, và 4 Nghiệp của Khẩu. “Ao nước chứa tám công đức” chính là tích tụ của việc hành theo Bát Chánh Đạo mà thôi, không phải là một quốc độ có thật ở Phương Đông Phương Tây mà trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ đã giảng giải rất rõ.

Công thức tu hành để Thành Phật được Kinh Viên Giác ghi rõ trong Kệ:

“NHỮNG NGƯỜI ĐOẠN THƯƠNG, GHÉT

CÙNG VỚI THAM, SÂN, SI

CHẲNG CẦN TU GÌ KHÁC

CŨNG ĐỀU ĐẶNG THÀNH PHẬT”

Và chúng ta nghĩ sao khi một người chỉ cần bỏ Tham, Sân, Si, Thương, Ghét lại có thể trở thành Thần Linh, có thể phù hộ, độ trì, “cứu vớt chúng sinh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới”, nếu Tam thiên Đại thiên Thế Giới đó không thuộc về chính người đó? Nhưng do bị tuyên truyền nhiều đời, Phật Tử vẫn không chấp nhận được Phật chỉ có nghĩa là Giải Thoát, không phải là Thần Linh, nên bao đời cho đến nay, Chùa Chiền lúc nào cũng không ngớt khói hương và tiếng nguyện cầu! Rõ ràng Phật Tử đã bị dắt đi vảo Thần Quyền, cầu xin, nương tựa, khác hẳn với Đạo Phật Giải Thoát, chỉ tin vào Nhân Quả, không nương tựa, cầu xin, do Đức Thích Ca và Chư Tổ được Truyền Y Bát giảng dạy.

Sự thật đã chứng minh: Trong năm 2016, thiên tai diễn ra ngay tại Népal, quê hương của Phật, cướp đi gần 9.000 sinh mạng! Nếu Phật thật sự linh thiêng, Ngài nỡ nào nhìn đồng bào của mình phải chết thảm mà không cứu? Ngay cạnh Népal còn có một ngôi làng gọi là “Ngôi làng bán thận”, vì làng đó rất nghèo, nên tất cả thanh niên mạnh khỏe đều bán đi một chiếc thận để lấy tiền trang trải cuộc sống hoặc cất nhà, rồi phần lớn những ngôi nhà đó cũng bị cũng bị chôn vùi trong trận động đất! Còn cảnh nào thê thảm hơn! Cảnh nghèo khó vẫn diễn ra trên nước Ấn Độ mà có lúc mấy mươi ngàn nông dân đã làm đơn xin được tự tử tập thể vì mất mùa và không nhận được tiền đền bù của chính phủ! Gần đây nhất, ngày 20 tháng 7 vừa qua, một ngôi chùa dát vàng xây dựng năm 2009 tên Thiri Yadana Pylone Chantha bên bờ sông Ayeyarwa của Miến Điện cũng bị cuốn xuống sông trong nuối tiếc của biết bao nhiêu người! Nếu Phật thật sự là Thần Linh như mọi người vẫn tin tưởng sao không ra oai thần?

Mấy ngàn năm qua rồi, khói hương cúng Phật nếu gom lại chắc còn nhiều hơn mây trời, nhưng thế giới vẫn hỗn loạn, thiên tai, tật ách vẫn diễn ra, dù nhân loại cầu xin đã mỏi mòn! Không phải là Phật vô tâm hay con người cầu xin chưa đủ thành khẩn, mà là Phật Tử đã bị tuyên truyền sai lạc, Phật không phải là Thần Linh, có quyền phép vô biên, mà nhiều người đã gán cho Ngài những đức tính đó hoặc vì thiếu hiểu biết, hoặc cố tình để trục lợi! Phật Tử do bị nhồi sọ nhiều đời nên quá tin tưởng, bất cứ chuyện gì cũng cầu xin Phật độ. Nào là cầu cho gia đạo an lành, cho công việc làm ăn hanh thông, khỏi bệnh, khỏi chết, mà quên rằng ngay khi còn sống, Phật cũng đã không can ngăn được cuộc chiến, để giòng họ Thích của Ngài cùng lúc phải chết mấy trăm người. Chính Phật Thích Ca cũng đã chết vì ngộ độc thực phẩm do Thuần Đà cúng dường. Vua cha, di mẫu, vợ, con của Phật, kể cả các Đệ Tử bao đời nay có ai thoát chết đâu? Nếu Phật bất tử thì thuyết “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” đâu còn giá trị nữa! Sư Tăng dù kêu gọi mọi người hữu sự thì đến Chùa cầu xin, nhưng khi bệnh cũng phải vào Bệnh viện nhờ bác sĩ, nhờ khoa học, thuốc men cứu chữa chớ đâu có ngồi chờ Phật cứu. Nói rằng Phật quyền phép vô biên mà có Chùa nào được Phật hóa phép cho hoàn thành đâu, toàn là tiền của bá tánh góp lại. Lẽ nào tới thời này mọi người chưa nhận ra điều đó?

Biểu tượng hay Dấu Ấn thật sự của Đạo Phật là HOA SEN, một loài hoa thanh khiết, nhẹ nhàng, nói lên sự thoát tục, không nhuốm mùi trần, trong khi đó Chùa Chiền dát vàng, cẩn kim cương, ngọc, là biểu tượng của sự phí phạm vật chất, tiền tài của bá tánh. Phật đâu có ham vàng bạc, châu báu? Nếu ham, Ngài đã không bỏ ngai vàng mà đi tu! Do người đời xem vàng bạc là thứ quý giá nên muốn cúng Phật bằng những gì giá trị nhất, để rồi khối vàng ngọc vô giá lẽ ra dùng để xây dựng đất nước, để dành cho nghiên cứu khoa học, kỹ thuật phục vụ cho đời sống con người thì biến thành Chùa, Tượng vô tri, sừng sững nhìn bá tánh bất lực chống chọi với thiên nhiên, với bệnh tật, thiếu thuốc men, thiếu phương tiện đi lại, thiếu trường học, Bệnh Viện, khi bệnh không có tiền để chữa trị!

Phật dạy: “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. Như vậy, rõ ràng những người chủ trương xây thêm Chùa, đúc thêm Tượng đã làm sai tôn chỉ của Phật, chỉ lo phục vụ Phật đã nhập diệt, bỏ mặc Phật vị lai trong hoàn cảnh khổn khổ! Phật dạy người tu phải: “Ít muốn, biết đủ”, xem ra ít có người tu nào thực hiện. Phục vụ cho chúng sinh có cần nhiều Chùa, chiêu mộ thêm nhiều tu sĩ, mở nhiều chi nhánh đến như thế không? Đạo Phật kêu gọi tất cả mọi người nên từ bỏ tham vọng, đâu có riêng kêu gọi người đời! Người tu Phật tự xem như mình được ưu tiên, không tham gia việc đời, mặc cho đất nước có khó khăn thế nào, điển hình là Chùa Triramula, trong lúc chính phủ Ấn phải loay hoay đối phó với nạn động đất, người dân khốn đốn, thì thông tin trên báo là Chùa mang gởi 4,5 tấn vàng vào Ngân Hàng để mỗi năm sẽ nhận lãi khoảng 80 kg vàng, tương đương với 2.000 lượng! Chùa còn tích lũy khoảng 1 tấn vàng nữa, mà không hề nghe nói trích phần nhỏ nào chia sẻ với chính phủ để giúp đất nước trong lúc khó khăn chồng chất! Trong khi đó, người tu Phật được dạy phải đền Tứ Ân, bởi vì có đi tu hay không, thì mọi người đều cũng là con dân của dất nước, cùng sống trong xã hội với bao nhiêu người khác, được gìn giữ an ninh, trật tự, được hưởng dụng của cải, vật chất, cơm áo, thuốc men do công sức của bao nhiêu người. Do đó, mỗi người có nhiệm vụ chia sẻ, đóng góp, không có quyền đứng bên lề cuộc đời mặc ai xây dựng hay tàn phá! Như vậy, liệu những tu sĩ đó có thực hành đúng đắn lời Phật dạy hay chưa? Chẳng lẽ tu hành là để trở thành vô cảm với nỗi đau của người khác?

Chùa tượng hoành tráng, thật ra không có giá trị gì hơn là thắng cảnh để tham quan, không nói lên được điều gì lợi lạc cho người tu học. Trái lại, còn làm cớ cho những người khác đạo nhìn vào đó để mỉa mai rằng trong khi chính các vị hướng dẫn Đạo khuyên mọi người nên Xả, không ôm của cải vật chất, thì Chùa lại là nơi tích lũy hầu hết của quý trong thiên hạ với danh nghĩa để dâng cúng Phật! Chư Tăng cũng không còn theo hạnh thanh tịnh nữa mà nhờ oai đức của Phật nên họ cũng phòng ốc thênh thang, xe cộ đời mới, phương tiện hiện đại! Nhìn ra thế giới, đến giờ này chúng ta thấy nạn đói, khổ vẫn còn hoành hành. Có nơi nước còn không đủ để uống, dân tình rất khốn khổ. Ở nước ta thì trường học không có đủ để trẻ em học. Nhiều nơi không có cầu qua sông, người dân, kể cả học sinh muốn qua sông phải đu giây, nguy hiểm đến tính mạng, trong khi nhiều Sư còn có cả ngai vàng để ngồi, đi đâu thì tiền hô, hậu ủng, tổ chức nhiều lễ hội, tiêu tốn biết bao nhiêu tiền của Phật Tử! Nếu Phật xem chúng sinh “Bình đẳng như La Hầu La” thì nỡ nào cha thì ở nhà vàng, xa hoa, lộng lẫy, bỏ mặc con cái đói khổ ngoài kia? Liệu Phật có thấy đó là Đạo của mình đang phát triển, vì “con hơn cha là nhà có phúc” không?

Đã có người nêu thắc mắc: “Tại sao những nước mà Đạo Phật là quốc giáo đều nghèo?”. Thật ra câu trả lời rất đơn giản. Những nước Châu Âu, Châu Mỹ đâu có sùng Đạo Phật, đâu có ngồi chờ Phật cứu độ. Họ tin vào khoa học kỹ thuật, họ chuyên tâm học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo, sản xuất, để đưa đất nước đi lên. Ngược lại, những nước mà dân trí thấp thì tin vào sự hộ trì, cứu độ của Phật nên cứ cúng bái, cầu xin và chờ đợi. Tất nhiên là chờ trong vô vọng, vì thật ra Phật đâu có phép mầu? Do không gieo Nhân thì làm gì có Quả? Rốt cuộc là những nước không bị Đạo Phật ảnh hưởng vô tình đi đúng quỹ đạo của Đạo Phật chân chánh là gây NHÂN thiện thì đương nhiên sẽ được hưởng QUẢ lành.

Theo tôi, sở dĩ mọi người không tiếc công, của để dựng tượng, xây Chùa, vì tin rằng việc làm đó là phục vụ cho Phật, sẽ được “phước báo vô lượng trả lại”. Bản thân, gia đình họ sẽ bình an, tai qua nạn khỏi, làm ăn khấm khá hơn, lộc đến dồi dào hơn, trong khi Đạo Phật theo đúng Chánh Pháp không bao giờ hứa hẹn điều đó. Vì vậy, theo tôi, đã đến lúc những vị có trách nhiệm với Đạo Pháp nên xem lại Chính Kinh, kiểm tra lại thế nào mới là Đạo Phật chân chính, để chấn chỉnh, lập lại kỷ cương, trả về cho Đạo Phật hình ảnh của Đức Phật thanh tịnh, từ bi, không rườm rà đeo vàng, dát ngọc. Của cải trần gian xin để cho người trần sử dụng vào những việc ích nước lợi dân. Nếu muốn tu hành theo Phật thì xin hãy là những Chân Tỳ Kheo đạo hạnh với những mái chùa đơn sơ của người chê chán thế gian, không màng danh vọng giàu sang, chọn cuộc sống thanh bần rau dưa qua ngày, để chuyên tâm thực hành theo hạnh của Phật. Sống một nếp sống thanh cao, không vương mùi tục lụy như lời Phật dạy, thể hiện hình ảnh Hoa Sen nở giữa bùn nhơ, làm gương cho bá tánh, trong đó cũng không quên đóng góp cho quê hương, cho dân tộc theo khả năng của mình. Góp phần giáo hóa cho con người Cải Ác, Hành Thiện là mục đích của Đạo Phật, để tiếp tay với đất nước làm cho mọi nơi không còn cảnh tranh giành, sát phạt lẫn nhau, được thái bình, an lạc. Thay vì hướng dẫn mọi người xây Chùa, đúc tượng hữu Tướng tốn kém vô ích, thì hướng dẫn họ quay vào Tâm, tìm Phật ở đó. Xây Chùa, Đúc Tượng nơi đó, vừa khế hợp với Chánh Pháp, vừa để Đạo Phật trực tiếp đi vào lòng người, đi vào cuộc đời, mọi người cùng được Thoát Khổ trong kiếp sống như mong ước của Đức Thích Ca khi mang đạo Phật rao giảng giữa đời, là “Cứu độ cho chúng sinh hết Khổ. Mọi người đều được Giải Thoát, được sống một cuộc sống tạm trăm năm trong an lành, hạnh phúc”. Đó là chúng ta cũng góp phần để Chánh Pháp thật sự được hiển lộ giữa trần gian trong kỷ nguyên mới vậy.

Tháng 10/2017

Tâm Nguyện


Phụ bản I

Ivan Sergeevich Turghenhev

(1818-1883)


Một trong những cây đại thụ của văn học Nga kinh điển thế kỷ XIX vàng son Ivan Sergeevich Turghenhev (1818-1883) sớm được biết đến ở Việt Nam chúng ta. Ngay từ giữa thế kỷ trước tác phẩm của ông đã sớm được dịch và quảng bá cả ở hai miền Bắc-Nam Việt Nam, lúc đó còn chia cắt: tại Hà Nội, năm 1962 tiểu thuyết nổi tiếng Cha và con của Ivan Turghenhev do Nhị Ca dịch đã được xuất bản và phát hành rộng rãi. Tiếp đó đến tác phẩm thứ hai Một tổ quý tộc do nữ dịch giả Trương Thị Tĩnh dịch xuất bản năm 1963 và rồi các bản dịch của Phạm Mạnh Hùng: Bút ký người đi săn, Đêm trướcCha và con do Hà Ngọc dịch (cả ba tác phẩm này đều được dịch trực tiếp từ nguyên bản tiếng Nga lần lượt được xuất bản vào năm 1974 và năm 1988, tập truyện ngắn Mối tình đầu của Ivan Turghenhev do ba dịch giả Mộng Quỳnh, Lê Văn Viện, Anh Trúc đóng góp công sức cùng ra chung sách vào năm 1981...

Tại Sài Gòn, cũng vào thời điểm đó, từ năm 1966 các dịch giả Vũ Minh Thiều và Vũ Đăng Quý... đã cho xuất bản các bản dịch sang tiếng Việt của mình tác phẩm của Ivan Turghenhev: Mối tình đầu, truyện ngắn Khúc ca tình ái chiến thắng, Cơn nấc.

Bạn đọc ở ta đã nhận ra tầm vóc sáng tạo, văn xuôi của Ivan Turghenhev đúng như nhận định hết sức chính xác của các nhà phê bình văn học đồng hương đương thời của nhà văn: V.Belinski (1811-1841): đó là người con “của thời đại mình, mang trong lồng ngực tất cả những đau đớn và các vấn đề của thời đại ấy”. Và N.A.Dobroliutov (1836-1861): “Trong thời gian nhiều năm trời các tác phẩm của Ivan Sergeevits Turghenhev đã là âm hưởng của mỗi vấn đề đứng phía trước và đã mơ hồ bắt đầu rung động xã hội” (Người đương thời).

Turghenhev bắt đầu con đường sáng tạo của mình như một nhà thơ, tiếp thu và tiếp tục các truyền thống của Puskin, Lermontov và Gogol. Nhưng rồi tài năng của ông đặc biệt tỏa sáng trong văn xuôi. Tác phẩm đã khẳng định số phận nhà văn và mang đến cho Turghenhev vinh quang rộng rãi ở Nga, rồi tiếp đến ở các nước Tây Âu là tập bút ký và truyện ngắn về người nông dân Nga “Bút ký người đi săn”.

...Cuối đời nhà văn lại trở lại với thơ, nhưng lần này ông viết thơ văn xuôi. Ông cho tập họp lại thành một chùm 50 tác phẩm trữ tình và triết lý - chính luận trên tạp chí “Thông tin châu Âu” (số 12 năm 1882). Còn lại 33 tác phẩm khác sau khi nhà văn qua đời được bổ sung trọn vẹn thành phần thứ hai của Thơ văn xuôi (dưới tên chung Senilia - vốn là từ La tinh có nghĩa là “Người già”, được tác giả giải thích thêm trong thư từ để lại “đó là cái gì đó chẳng khác những hơi thở nặng nề cuối cùng (giải thích một cách lịch sự) của một ông già”.

Chúng tôi bước đầu xin trích giới thiệu một số ít trong tập tuyển cuối cùng của tác giả.

TƯỞNG NHỚ HƯƠNG HỒN

IU.P.VREVSKAYA

Nơi nằm bẩn thỉu, trên cái ổ rơm ẩm ướt hôi hám, dưới mái che của căn nhà kho cũ kỹ được sửa sang vội vàng để biến thành cái trạm xá dã chiến trong một làng nhỏ Bungari đã bị tàn phá - cô ấy đang chết dần chết mòn vì căn bệnh sốt thương hàn [1] .

Cô ấy mê man không còn hay biết gì - và không một thầy thuốc nào thậm chí còn ngó nhìn đến cô ấy; những người lính bệnh binh, mà khi cô ấy còn có thể đứng vững trên đôi chân, đã từng chăm sóc họ, nay họ lần lượt thay nhau gượng dậy từ những cái ổ rơm lây nhiễm của mình, để đem đến bón vào cặp môi khô nứt của cô ấy vài giọt nước đựng trong cái mảnh hũ vỡ.

Cô ấy đã từng trẻ trung, xinh đẹp, giới thượng lưu biết rõ cô ấy, thậm chí cả các quan đại thần trong triều cũng từng biết tiếng cô. Các mệnh phụ, các tiểu thư ghen tỵ với cô ấy, cánh đàn ông bám theo cô... hai ba vị còn thầm yêu trộm nhớ cô. Cuộc sống mỉm cười với cô ấy, nhưng có những nụ cười còn tồi tệ hơn nước mắt.

Một trái tim dịu dàng, thùy mị... và một sức lực mạnh mẽ, một niềm khao khát được hy sinh! Cứu giúp cho những ai đang cần được cứu giúp... cô ấy không hề biết đến một hạnh phúc khác... không hề biết và chửa từng biết đến. Mọi thứ hạnh phúc khác đều trôi qua bên cạnh. Nhưng cô ấy đã từ lâu an phận với điều đó - và tất cả bừng bừng một ngọn lửa không hề tắt của một niềm tin, cô ấy cống hiến tất cả cho sự nghiệp phục vụ mọi người thân thiết gần gụi.

Cô ấy đã chôn sâu tận đáy tâm hồn mình những kho báu thiêng liêng nào đó, cất kỹ trong tủ kín bí mật, không một ai chưa bao giờ hay biết - còn bây giờ, kết thúc rồi, sẽ không còn hay biết được nữa.

Mà điều đó còn để làm gì? Tế vật đã được dâng hiến... mọi việc làm xong!

Nhưng nghĩ mà đau xót, rằng không ai lên tiếng cám ơn thậm chí với cái xác người của cô ấy - cho dù chính bản thân cô ấy cũng thẹn thùng và xa lạ đối với mọi sự cám ơn.

Mong rằng hình bóng đáng yêu của cô ấy không phật lòng vì bông hoa muộn mằn này mà tôi đánh bạo đem đặt lên nấm mộ của cô ấy!

Tháng Chín năm 1878

Thúy Toàn


NGUYỄN TRIỆU LUẬT

Người viết Tiểu thuyết Lịch sử bị quên lãng


( 1903 - 1946 )

Tiểu sử:

Nguyễn Triệu Luật có bút hiệu: Dật Lang, Phất Văn Nữ Sĩ; là nhà giáo, nhà văn , nhà báo và là thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng vào năm 1927 tại Việt Nam .

Ông là người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Vĩnh Yên (hiện nay là Đông Anh , Hà Nội ). Ông sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng truyền thống; là cháu nội của Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản ( 1823 - 1890 ) cũng là cháu 5 đời của danh sĩ Nguyễn Án, tác giả tập “Tang thương ngẫu lục” (cùng soạn với Phạm Đình Hổ), thuộc một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và nhiều người làm quan lớn.

Thuở trai trẻ, Nguyễn Triệu Luật học tại Trường nam Sư phạm Hà Nội, đến khi tốt nghiệp, lần lượt đến dạy tại một số trường công ở Tuyên Quang , Hà Nội , Hải Phòng .

Năm 1927 , ông cùng Nguyễn Thái Học , Phạm Tuấn Tài tham gia thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng ... Sau khi cuộc tổng khởi nghĩa thất bại, mười ba đồng chí của ông, trong đó có lãnh tụ Nguyễn Thái Học, bị thực dân Pháp xử chém ở Yên Bái năm 1930 ; thì ông cũng bị thực dân cầm tù cùng với hai nhà văn khác là Nhượng Tống Trúc Khê .

Một thời gian sau ông được tha, nhưng bị buộc thôi dạy học tại các trường công. Để kiếm sống, ông chọn con đường trở thành nhà văn, nhà viết tiểu thuyết lịch sử ký thác tình cảm và ý chí yêu nước của mình.

Và cũng kể từ đó, ông quay sang làm báo, viết cho nhiều tờ như: Nam Phong , Trung Bắc Tân văn, Ích hữu, Tao đàn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Nhật Tân... Trong những năm 1937 - 1939 , ông được mời vào giảng dạy tại trường tư thục Lễ Văn ở Vinh . Chính thời gian này, ông viết nhiều tác phẩm nhất.

Năm 1940 , ông bị thực dân Pháp đưa đi an trí, và qua đời năm 1946 , lúc 43 tuổi.

Hiện nay, quận Bình Tân , Tp.HCM có con đường mang tên Nguyễn Triệu Luật.

Tác phẩm chính:

Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, vào năm 1935 , nhân đọc cuốn Vua Hàm Nghi của Phan Trần Chúc , Nguyễn Triệu Luật viết cuốn Ông Phan Trần Chúc bôi nhọ quốc sử, rồi sau đó ông soạn một loạt sách truyện ký lịch sử bao gồm:

- Hòm đựng người (1937)

- Bà Chúa Chè (1938)

- Loạn kiêu binh (1939)

- Ngược đường Trường thi (1939)

- Chúa Trịnh Khải (1940)

- Rắn báo oán (1941)

- Thiếp chàng đôi ngã (1941)

- Bốn con yêu và hai ông đồ (1943).

Ngoài ra, ông còn có nhiều tiểu luận, tạp luận đây đó trên nhiều báo và tạp chí đương thời, kể từ tờ Nam Phong tạp chí ( 1923 ), tờ Phụ nữ thời đàm mà ông là Chủ bút kế nghiệp nhà văn Phan Khôi trong 4 số cuối cùng, các tạp chí Tri tân, Tao đàn... Cho đến nay vẫn chưa sưu tập được đầy đủ.

Năm 2011 , các tiểu thuyết lịch sử của ông đã được in lại trong cuốn Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành.

Đóng góp cho văn học Việt

Nguyễn Triệu Luật nhờ có vốn hiểu biết sâu về lịch sử , cộng với tài tạo dựng, nên những tác phẩm của ông đều thể hiện được màu sắc, không khí của thời xưa và một tinh thần nhân bản dồi dào, sâu sắc.

Ngay từ tiểu thuyết lịch sử đầu tiên là ‘Hòm đựng người’, Nguyễn Triệu Luật đã được người đương thời chú ý và yêu thích. Đến bộ ba tác phẩm: Bà Chúa Chè, Loạn kiêu binh và Chúa Trịnh Khải, thì nghệ thuật tiểu thuyết của ông càng được nâng cao hơn và phạm vi đề tài cũng mở rộng hơn. Trong bộ ba này, hay hơn cả là cuốn ‘Bà Chúa Chè’. Qua cuốn sách này, tác giả đã dựng lại khá sinh động hình tượng một Bà Chúa Chè (tức Đặng Thị Huệ , nhân vật chính) thông minh, bản lĩnh và biết thương cảm (khác với hình ảnh một vương phi lắm mưu mô, đầy tham vọng trong sách Hoàng Lê nhất thống chí ). So với những tiểu thuyết lịch sử đương thời thì Bà Chúa Chè có sự mới mẻ trong hư cấu, khéo léo trong bố cục, hấp dẫn của tình tiết, chân xác của lịch sử và có cả cái nhìn cấp tiến trong cách đánh giá nhân vật chính.

Nhìn chung, Nguyễn Triệu Luật đã tự mình mở ra một dòng sáng tác tiểu thuyết lịch sử rất đáng trân trọng. Ông đã có ý thức tái hiện lịch sử bằng hư cấu trên cơ sở hiện thực đáng tin cậy, và miêu tả cụ thể chi tiết gây rung động nơi người đọc. Đương thời ông là nhà văn được nhiều độc giả yêu thích. Các nhà văn tài danh như Nguyễn Tuân , Đái Đức Tuấn , Vũ Ngọc Phan , Trúc Khê ... đều có những bài viết ca ngợi ông. Cho nên, dù tác phẩm của ông phần lớn còn dừng lại ở những nét tâm lý, tính cách biểu hiện ở bên ngoài mà chưa khai thác sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, nhưng đó cũng là đặc điểm chung của các sáng tác tiểu thuyết lịch sử ở những năm 30-40 của thế kỷ 20 . Ngày nay, truyện của ông vẫn rất đáng được đọc để hiểu về lịch sử Thăng Long một thời xa xưa, cũng như kỹ thuật viết văn của tiểu thuyết gia Việt Nam lúc bấy giờ...

Hội thảo “Nguyễn Triệu Luật - con người và tác phẩm”

Nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh ( 1903 - 2013 ) của nhà văn Nguyễn Triệu Luật, sáng 23/8 / 2012 , tại Thư viện Hà Nội, Hội Nhà văn Hà Nội đã tổ chức Hội thảo mang tên “Nguyễn Triệu Luật - con người và tác phẩm”. Đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, gia đình và bạn đọc yêu văn chương của Nguyễn Triệu Luật đã tới dự. Nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội và ông Nguyễn Triệu Căn, con trai nhà văn Nguyễn Triệu Luật chủ trì hội thảo.

Hội thảo “Nguyễn Triệu Luật - con người và tác phẩm” do Hội nhà văn Hà Nội tổ chức hôm 23/8 như một buổi cấp lại giấy khai sinh cho một con người, một nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử gần như bị quên lãng. Sự kiện giúp nhiều người biết được Nguyễn Triệu Luật là ai và giá trị những tác phẩm văn chương của ông. Là một nhân vật nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam những năm 1930 của thế kỷ trước nhưng tên tuổi Nguyễn Triệu Luật không được nhắc tới suốt thời gian dài sau đó. Hội thảo chứng thực một con người đã sống - viết, đồng thời ghi nhận những đóng góp của ông trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử qua những tác phẩm có giá trị như: Bà Chúa Chè, Ngược đường Trường thi, Loạn kiêu binh, Chúa Trịnh Khải…(Hà An). Ngoài ra hội thảo còn khai mở những câu chuyện thú vị về một con người mà đến cả cái chết cũng chưa được làm rõ và còn rất nhiều khoảng trống bị bỏ ngỏ về cuộc đời sáng tác của ông.

Với hơn 10 tham luận, hội thảo làm rõ về nhà văn Nguyễn Triệu Luật lần lượt ở hai góc độ con người và tác phẩm. Phần con người, hội thảo đặt vấn đề khai mở những góc khuất, những khúc quanh trong cuộc đời nhà văn mà đến cả vợ con trong gia đình đều không biết rõ. Thông tin về Nguyễn Triệu Luật ở góc độ văn học sử rất ít. Ông tham gia sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng nhưng không rõ vai trò, quá trình hoạt động, bị bắt và kết án ra sao? Nguyễn Triệu Luật đi dạy học ở nhiều nơi nhưng không cụ thể địa chỉ, ngày tháng năm nào. Năm 1945, Nguyễn Triệu Luật được cho là bị bắt giam và đưa đi an trí. Năm 1946, ông qua đời ở tuổi 43 nhưng không rõ ở đâu, vì lý do gì và như thế nào. Cái chết của ông cho đến hiện tại vẫn nằm trong bóng tối như trường hợp của Lan Khai và Khái Hưng (Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội Phạm Xuân Nguyên).

Các tham luận hé mở những thông tin thú vị trong cuộc đời nhà văn Nguyễn Triệu Luật. Nhà nghiên cứu Hữu Ngọc nhớ lại người anh, đồng nghiệp từng dạy học cùng ông tại trường tư thục ở Vinh: “Đó là một người tầm thước, đi nghiêng trái, hay nháy mắt phải, đứng đắn, diện comple tím và cà vạt đen, luôn đúng giờ, không sai một phút”. Hữu Ngọc đánh giá Nguyễn Triệu Luật ở hai khía cạnh: Một nhà Nho yêu nước hiện đại và một nhà sử học viết tiểu thuyết. Theo Hữu Ngọc, Nguyễn Triệu Luật là hậu duệ của nhà Lý 1000 năm, bén rễ gốc Nho gia và mang trong mình cái tích cực của Nho học, đó là Đạo làm người. Chính vì thế, Nguyễn Triệu Luật sống có lý tưởng rõ ràng: yêu nước một cách chân chính và nghiêm túc. Tuy nhiên, khuynh hướng của Nguyễn Triệu Luật không như các nhà Nho cũ mà ông mang ánh sáng của phương Tây soi sáng văn hóa cũ. Hữu Ngọc cho rằng, đó là những tác phẩm tốt cho thanh niên ngày nay đọc để hiểu, yêu và tự hào về lịch sử dân tộc.

Nguyễn Chí Tình, con của Nguyễn Đức Bính, hiệu trưởng trường Lễ Văn năm xưa có bài tưởng nhớ xúc động về Nguyễn Triệu Luật. Hình ảnh người thầy “mặc bộ comple màu tím thẫm, chiếc áo khoác dài màu cà phê sữa quen thuộc và đôi mắt sâu, hiền và đượm buồn”, vẽ thêm một nét chân dung của nhà văn. Nguyễn Chí Tình kể, khi bố ông, Nguyễn Đức Bính, hỏi: “Tại sao anh lại chọn những giai đoạn đất nước đầy những chuyện đau thương, hỗn loạn, rối ren mà viết”, Nguyễn Triệu Luật trả lời: “Tôi cứ thấy mình bị cuốn hút về những chuyện u ám trong lịch sử. Mà nói cho cùng, chính trong những thời kỳ lắm cái đau, cái khổ ấy, lịch sử và dân tộc mới để lộ hết thực chất, hết muôn mặt có thực của nó, và chúng ta cũng rút ra được nhiều bài học hơn”.

Con trai nhà văn Nguyễn Triệu Luật, ông Nguyễn Triệu Căn, xúc động khi tưởng nhớ về cha mình. Nguyễn Triệu Căn cho biết, ông đã quên đi để mà sống - quên nỗi đau cha mất mà không biết cả ngày để làm giỗ, nhưng lúc cần nhớ thì lại được nhiều người giúp nhớ nhanh hơn. Gia đình cũng không khỏi xúc động khi biết trong Tp.HCM có một con đường mang tên Nguyễn Triệu Luật.

Một phần quan trọng của hội thảo là nói về tác phẩm và bút pháp viết tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật. Ông để lại 8 cuốn tiểu thuyết lịch sử hoàn thiện, lấy bối cảnh chính là giai đoạn vua Lê chúa Trịnh. Nhà giáo Phạm Toàn cho biết, tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật giúp ông nhìn ra một định nghĩa về tiểu thuyết lịch sử: “…viết tiểu thuyết lịch sử không cần theo phép Sử học. Tác giả chỉ phải tưởng tượng ra một ‘truyện có thể có’ ở một thời đại, rồi đem chuyện ấy lồng vào khung thời đại ấy. Mục đích là lấy một chuyện không đâu mà làm sống một thời đại” (Tựa ‘Hòm đựng người’).

Theo Phạm Toàn, lịch sử là một dòng chảy, sử gia chỉ là những người câm và nhà văn viết lịch sử là người góp phần gợi nỗi niềm cho người đời về những sự thật của lịch sử. Khác với các sử gia, người viết tiểu thuyết lịch sử tham gia vào tâm lý của nhân vật. Nguyễn Triệu Luật đã viết tiểu thuyết lịch sử với tinh thần như thế chứ không phải một sử gia chép sử.

Nguyễn Tuân bình luận về Nguyễn Triệu Luật

…Một hôm, giáo sư Nguyễn Triệu Luật đến trễ, vẫn com-lê và cà vạt đen, nhưng trước ngực còn đính một mẩu băng tang đen nhỏ. Để tang cho ai? Một lúc sau, giáo sư ngậm ngùi nói: “Hôm nay, đúng vào ngày đồng chí của tôi, Nguyễn Thái Học, lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng bị đưa lên máy chém, khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại”. Giáo sư muốn tả thái độ hiên ngang của ông Nguyễn Thái Học trước lúc lên đoạn đầu đài.

…Hôm đó, chúng tôi không được nghe giảng theo chương trình mà đã được học bài lịch sử yêu nước mà nhân chứng là người bằng xương bằng thịt đang đứng trước mặt chúng tôi.

Chắc chắn Nguyễn Triệu Luật viết tiểu thuyết lịch sử để khơi mạch lòng yêu nước, bảo vệ những giá trị nhân văn của cha ông.

Tiểu thuyết lịch sử hiện đại của ta xuất hiện từ giữa những năm 1930 trong dòng tư duy trở về dân tộc, chống lại khuynh hướng Tây hóa khinh thị giống nòi. Nói chung, nó chịu ảnh hưởng tiểu thuyết lịch sử Pháp, tuy còn vương vấn tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Tiểu thuyết lịch sử Pháp thời lãng mạn (thế kỷ 19) với Vygni, Hugo, Dumas mở đầu cho tiểu thuyết lịch sử ở Pháp và chịu ảnh hưởng của nhà văn lãng mạn Anh Walter Scott, bậc thầy tiểu thuyết lịch sử của phương Tây.

Tiểu thuyết lịch sử của ta trước 1945 khai thác những khía cạnh của tiểu thuyết lịch sử lãng mạn Pháp, phù hợp với tâm lý người đương thời: tìm thoát ly trong thời gian và không gian, hư cấu để dựng lại không khí xưa như thật với những chuyện ly kỳ và nhân vật đặc biệt.

Các nhà phê bình và nhà văn đương thời xếp Nguyễn Triệu Luật vào bậc đàn anh trong thể loại này.

Phê bình Bà Chúa Chè, 1938, một người khó tính như Nguyễn Tuân, ký tên là Nguyễn Nhất Lang đã không ngớt khen “cái học và cái tài” của Nguyễn Triệu Luật: “Viết đến chính sử, người ta thường kể đến cái học - khảo cứu của sử gia. Viết về tiểu thuyết, người ta thường bàn tới nghệ thuật của tác giả. Nói về lịch sử tiểu thuyết, ngoài cái học kê cứu, sở cứu vào tài liệu, người ta còn phải điểm đến cả cái tài của bố cục, của tưởng tượng. Cuốn Bà Chúa Chè toàn thể được cả… Cái công tìm kiếm tài liệu theo phương pháp khoa học của tác giả nói cho ta nhiều lắm... (theo Hữu Ngọc).

Nguyễn Triệu Căn, con trai nhớ lại về Cha mình:

Chúng tôi trong cả gia đình và họ tộc, mọi người đều lấy tấm gương tu thân như tầm cỡ Nguyễn Triệu Luật làm mục tiêu noi theo.

Nhưng… Vâng, đúng là có chuyện khi cha chúng tôi đi dạy học ở Vinh, thì người có sống chung với một người đàn bà khác không phải là chính thất. Người thiếp này sinh cho gia đình Nguyễn Triệu Luật thêm hai người con, và chúng tôi có thêm hai người em. Mẹ chúng tôi, chính thất của Nguyễn Triệu Luật, đã chủ động tổ chức cho bà thiếp này có vị trí đàng hoàng, chính thức trong gia đình. Ngay ở đây tôi không coi hành động đó là sự cao thượng của một người chính thất, mà tôi nhìn thấy ở đây một đôi mắt nhìn đầy thán phục của bà với người bạn đời Nguyễn Triệu Luật và cũng còn có cả một trái tim người con gái họ Trịnh đã bị thuyết phục vì tấm lòng và tài năng của người đàn ông họ Nguyễn khi đối đãi với những diễn biến của vương triều họ Trịnh thời Lê-Trịnh.

Thật vậy, tôi chưa hề thấy ở tác giả tiểu thuyết lịch sử nào của nước Việt Nam mà lại canh cánh một tâm sự với những vấn đề Lê-Trịnh như Nguyễn Triệu Luật. Người đọc gần như mang cảm giác rằng hầu như toàn bộ bối cảnh các cuốn tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật đều gắn bó xa gần với thời đại Lê-Trịnh. Ngay cả với những bối cảnh xa (như trong Rắn báo oán) thì cũng có chút gì đó dấu ấn của bi kịch được thấu cảm từ thời đại Lê-Trịnh. Thời đại như thế nào? Nguyễn Triệu Luật viết trong lời nói đầu Bà Chúa Chè:

Câu chuyện Bà Chúa Chè tôi thuật đây là khởi mào vận suy của nhà Trịnh. Nhà Trịnh, theo câu nói của nhà phong thủy là một họ: không vương không bá, quyền nghiêng thiên hạ; được hơn hai trăm năm, vạ xảy ngay chốn sát cạnh mình (Phi vương phi bá, quyền khuynh thiên hạ, nhị bách dư niên, tiêu tường nãi họa).

Những dòng trên cho thấy một Nguyễn Triệu Luật ngơ ngác đau lòng trước một sự thật lịch sử ông không hiểu hết, thậm chí không hiểu nổi. Vì thế mà, trong khi viết tiểu luận này, rất nhiều lần tôi dừng tay nghĩ đến cha mình, và tôi phân vân đặt câu hỏi: những dòng thác văn chương nhà tiểu thuyết viết ra hình như có chứa đựng cả tấm tình u uẩn của cha chúng tôi đối với mẹ chúng tôi - một người đàn bà họ Trịnh!

Quả có thế! Nguyễn Triệu Luật thông kim bác cổ, người có thể chọn bất kỳ đề tài nào để ngọn bút ông thỏa chí tung hoành. Nhưng tâm trí người nghệ sĩ Nguyễn Triệu Luật luôn luôn vương vấn chốn quê Du Lâm nơi mẹ họ Trịnh của chúng tôi đã gá nghĩa cùng người. Lịch sử không biết nói nên lời. Nhà tiểu thuyết lịch sử cũng có tâm sự khó nói nên lời. Nhà tiểu thuyết đó là cha của năm anh em chúng tôi. Nhà tiểu thuyết đó là người chồng đầy ân tình kín đáo với người mẹ chung của chúng tôi. Chúng tôi tịnh không tìm thấy thói xấu đến độ khó chịu của người cha mang tên Nguyễn Triệu Luật.

Người cha của gia đình đã để lại cho chúng tôi không phải là quyền lực và tiền bạc. Người để lại cho chúng tôi một lý tưởng nằm trong một đề tài nhất quán. Người để lại cho chúng tôi tấm gương sống và chiến đấu. Đó là sản phẩm tu thân của người. Trong cuộc đời mẹ chúng tôi cùng anh chị em chúng tôi, Nguyễn Triệu Luật lóe sáng như ngôi sao băng, quá sáng và bay vút qua quá nhanh.

LỜI KẾT

Người phổ biến quan niệm tiểu thuyết lịch sử phương Tây vào Việt Nam

Nguyễn Xuân Khánh - một “hậu duệ” của Nguyễn Triệu Luật trong dòng tiểu thuyết lịch sử nhắc tới ba bài tựa “Hòm đựng người” (1937), “Bà Chúa Chè” (1938) và “Ngược đường Trường thi” (1939), nêu rõ 3 quan điểm của Nguyễn Triệu Luật về tiểu thuyết lịch sử: có thể hư cấu hoàn toàn, có thể dựa trên sự kiện có thật 100% nhưng phải bằng đánh giá khách quan và có thể trộn lẫn giữa cái hư, cái thực.

Theo Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Triệu Luật là người phổ biến quan niệm tiểu thuyết lịch sử phương Tây vào Việt Nam, khác với Nguyễn Huy Tưởng - một người gần thời và cũng viết tiểu thuyết lịch sử - không trực tiếp đưa ra quan niệm. Nguyễn Xuân Khánh cho rằng, ông đã học được nhiều điều trong cách viết tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật mà điều quan trọng nhất là hư cấu - hư cấu là một đặc quyền của tiểu thuyết và không ngoại lệ với tiểu thuyết lịch sử.

Đánh giá về hệ thống tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật, nhiều tham luận cho rằng, không chỉ dừng lại ở phạm vi 8 cuốn tiểu thuyết lịch sử. Theo nhà nghiên cứu Lại Nguyễn Ân, còn nhiều khoảng trống hoặc không có thông tin, hoặc thiếu tư liệu về Nguyễn Triệu Luật, cần được tìm lại và bổ sung. Ông đề xuất tìm lại trong mọi ấn phẩm in từ năm 1920 đến 1946 để thấy được sự đa dạng trong thể tài sáng tác của Nguyễn Triệu Luật. Lại Nguyên Ân viện dẫn, Nguyễn Triệu Luật từng có loạt bài khoa học xã hội, phổ biến tâm lý học cổ điển của phương Tây trên tạp chí Nam Phong, các tác phẩm dịch thuật, ngôn ngữ học… trên tạp chí Tao Đàn (1939)… Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh góp bài tham luận đề cập tới những bài viết về văn hóa, giáo dục của Nguyễn Triệu Luật.

Dù những góc ẩn khuất trong cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật chưa thể được khai phá, hội thảo làm sống lại một con người, ghi nhận những đóng góp không thể phủ nhận của Nguyễn Triệu Luật đối với dòng tiểu thuyết lịch sử và văn học Việt Nam những năm 1930 của thế kỷ 20.

Nói đến tính chân xác lịch sử trong những tác phẩm của mình, Nguyễn Triệu Luật tuyên bố:

“Tôi chỉ là người thợ vụng, có thế nào làm nên thế, gốc tre già cứ để là gốc tre già, chứ không thể hun khói lấy màu, vẽ vân cho thành gốc trúc hóa long”.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)


TẢN ĐÀ VỚI NGÔ TẤT TỐ

Ngô Tất Tố sinh năm 1892, chỉ kém Tản Đà có ba tuổi cho nên có thể là bạn cùng lứa với Tản Đà, khác với Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Tuân kém Tản Đà tới hai chục tuổi nên là bạn vong niên. Ngô Tất Tố cũng lại là nhà nho, mang quốc phục như Tản Đà và hơn nữa còn không biết tiếng Pháp trong khi Tản Đà đã thu góp cho mình được một chút vốn Pháp văn nho nhỏ.

Nhưng đối với Tản Đà, Ngô Tất Tố vẫn là lứa sau, người đi bước sau tìm đến với mình mà mình quý mến và hết lòng dìu dắt.

Ngô Tất Tố đỗ đầu xứ tỉnh Bắc Ninh nên thường được gọi là ông đầu xứ Tố còn trong đời văn cũng có nhiều bút danh: Thục Điểu, Phó Chi, Thôn Dân, Hy Cừ, Tuệ Nhơn v.v… Ông thân sinh đỗ tam trường, ông nội là chân tú tài, truyền thống gia đình ấy cũng làm Tản Đà thêm quý ông đầu xứ Tố.

Ngô Tất Tố bước vào đời văn với bản dịch vở kịch cổ Trung Quốc Cẩm Hương Đình và cũng từ Cẩm Hương Đình mà đến với Tản Đà. Danh tiếng Tản Đà đang vang dội, ông đầu xứ Tố cũng e ngại không dám tự đường đột đến gặp, mới nhờ Ngô Thế Phổ, nhà nho làm báo, bạn Tản Đà, giới thiệu, đưa bản thảo Cẩm Hương Đình nhờ Tản Đà sửa hộ, đó là vào năm 1922, Tản Đà đã là chủ nhân Tản Đà tu thư cục, trụ sở phố Hàng Gai, Hà Nội. Tản Đà đọc, rất khen ngợi và sửa giúp nhưng cũng có bài Tản Đà dịch lại như:

Năm năm mỗi tiết đến xuân xanh

Phong cảnh Trường An tựa bức tranh.

Mưa thấm vườn đào, hoa rải gấm

Gió lùa ngõ hạnh, liễu buông mành.

Áo xiêm phất phới người du lịch

Xe ngựa đua chen khách lợi danh.

Trăng xế lầu mai trời tịch mịch

Trúc ty réo rắt, suốt năm canh.

Cẩm Hương Đình có đoạn Hoắc Quốc phu nhân ngủ với Cảnh Kỳ, Tản đã bỏ phần dịch của đầu xứ Tố mà đưa thành xẩm xoan:

Hương (thì) phòng, hương (thì) phòng

Bức trướng hoa thấp thoáng hương (thì) phòng

Đêm xuân loan phượng cùng chung ngọn đèn.

Tấm lòng xuân đã ấp cái hơi men

Sóng tình khi ấy mới nổi lên (coi) đùng đùng.

Trên đài dương một giấc mơ mòng

Mây mưa Vu Giáp cạm lòng ông Sở vương

Đôi gối loan chiếc dọc chiếc ngang

Thôn quê gà gáy, chốn am mây chiêng hồi

Mối tình dường một thêm vui

Mắt hoa ngực thở mồ hôi ướt đầm

Yêu nhau ta sẽ hỏi thầm…

Ngô Tất Tố đọc lại bản thảo rất kinh ngạc và phục Tản Đà. Rồi năm sau, Tản Đà tu thư cục xuất bản Cẩm Hương Đình.

Đó là bước thứ nhất vào đời văn, Ngô Tất Tố lên đường theo Tản Đà.

Bước thứ hai, Ngô Tất Tố làm báo, Tản Đà ra báo An Nam tạp chí lần thứ nhất ở phố Hàng Lọng - Hà Nội, nghĩ ngay đến thầy đồ Ngô và đón Ngô Tất Tố về làm thư ký tòa soạn. Gọi là ra báo nhưng nhà thi sỹ ngông quả thực không có đồng nào trong túi. Tản Đà chiêu tập mấy anh cháu thất nghiệp đặt dưới quyền Tố rồi đưa cả vào làng Văn Quán, thị xã Hà Đông, chuẩn bị bài vở, còn Tản Đà thì đi vay tiền. Vay không được, Tản Đà chỉ còn biết thở dài. Ngô Tất Tố nhận đi vay hộ, Tản Đà nói với Tố: “Dù cho lãi bốn mươi phân cũng cứ vay”, nhưng Tố cũng thất bại.

Ấy vậy mà rồi báo vẫn ra được và lại rất đường hoàng với lá cờ vàng có hai chữ “An Nam” to tướng buông từ gác xuống giữa một phố vào loại đông đúc ở Hà Nội, gần ga, bàn và ghế chủ báo phủ vải vàng. Tản Đà tự sánh với “vua” và hạ bút:

Năm xưa tết nhất đã suông suồng

Tết nhất năm nay lại quá tuồng !

Tiếng pháo nghe nhờ thiên hạ đốt

Cờ vàng dấu đỏ, đế vương suông !

Báo An Nam tạp chí ra tới số 10 thì đình bản, Tản Đà chia tay với Ngô Tất Tố. Lúc này Ngô Tất Tố chưa có hoạt động độc lập về văn, báo nên sau khi chia tay với Tản Đà là về quê, đó cũng là thời gian chuẩn bị cho các tác phẩm sau này.

Bước đường văn nghiệp thứ ba, Ngô Tất Tố lại theo Tản Đà vào Nam và vẫn làm báo.

Tản Đà vào Sài Gòn nhận cộng tác với Diệp Văn Kỳ làm trợ bút Đông Pháp thời báo, phụ trách phụ trương “văn chương”. Nhớ đến Ngô Tất Tố, Tản Đà viết thư ra Bắc nhắn Ngô Tất Tố vào Sài Gòn với mình, gửi cả thẻ căn cước làm bằng và còn nhờ luôn Tố đưa cả vợ con mình vào nữa.

Từ đó, Ngô Tất Tố ở chung nhà với gia đình Tản Đà và làm biên tập phụ trương Văn chương. Khi thôi cộng tác với Đông Pháp thời báo, trở ra Bắc để lo liệu cho tờ An Nam tạp chí sống lại, Tản Đà giao phụ trương Văn chương cho họ Ngô và gửi cả vợ con cho họ Ngô trông nom hộ và sau cũng lại chính thày đồ Ngô đưa gia đình Tản Đà về Bắc.

Trợ bút đã xin từ bác Diệp

Phụ trương để lại cậy thày Ngô.

Dám quên Đông Pháp người tri kỷ

Riêng nhớ An Nam bức địa đồ…

(Sài Gòn tới Nha Trang hữu cảm)

Hai câu trên là nói về công việc, hai câu dưới là tâm sự của nhà thơ.

Sau này, trong hồi ký Tản Đà ở Nam Kỳ (Tao Đàn, số Tản Đà) Ngô Tất Tố cũng nói về bước thứ hai và bước thứ ba mình vào đời làm báo viết văn:

“Khi ấy, An Nam tạp chí ở Hàng Lọng, trong tòa soạn có ông và tôi, cái tài viết báo của ông thế nào chắc ai cũng đều rõ cả, còn tôi thì mới bắt đầu bước vào làng báo, sức lực hãy còn non nớt, nhiều bài đến nay nhớ lại mà xấu hổ mướt mồ hôi”.

… “Lần này, ông có ý muốn “đóng đô” ở Nam cho nên tới nơi ít lâu thì ông có thư ra gọi gia quyến và bảo tôi vào để viết An Nam tạp chí.

Chẳng ngờ khi tôi vào đến Sài Gòn, ty kiểm duyệt trong ấy không nhận duyệt bài của một tờ báo ngoài Bắc, An Nam tạp chí không thể ngụ cư ở đó. Ông Tản Đà nói giới thiệu tôi vào viết với ông cái trang văn chương trong Đông Pháp thời báo của ông Diệp Văn Kỳ”.

Tản Đà và Ngô Tất Tố cũng có lúc “mâu thuẫn” và “lý sự cùn” với nhau. Chẳng hạn trong bài Ngô Tất Tố như tôi đã biết, Nguyễn Đức Bính thuật lại:

“Quan hệ giữa Ngô Tất Tố với Tản Đà cũng có những lúc sóng gió, (sóng gió trong chiếu rượu mà thôi). Một lần hồi ấy, tác giả Khối tình con mới tái bản An Nam tạp chí ở Hàng Bông, uống rượu với Ngô Tất Tố, nói:

- Báo An Nam tạp chí lần này tái bản, mong nhờ ông giúp cho một tay.

Ngô Tất Tố trả lời: - Tôi sẽ xin viết giúp.

Tản Đà vui vẻ nói: - Ông cứ viết giúp, tiền nhuận bút sẽ xin đưa lại tử tế.

Ngô Tất Tố khiêm tốn từ chối: -Tôi viết giúp ông chứ chỗ chúng mình, tiền nong làm gì.

Tản Đà lúc này đã ngà ngà say: - Ông không lấy, tôi cũng cứ giả, đó là quyền của tôi.

Ngô Tất Tố (cũng hơi chếnh choáng): - Ông có giả, tôi cũng không lấy, đó là quyền của tôi.

Thế là hai ông cãi lộn nhau và cuộc rượu giải tán”. (Văn nghệ tháng 6-1962). Chuyện trên và còn bao nhiêu truyện trong một thời gian dài sẽ là những kỷ niệm êm đẹp trong quan hệ giữa hai người cùng chung tính cách.

Ngô Tất Tố đưa tiễn Tản Đà về nơi an nghỉ cuối cùng hay nói theo cách khác, tiễn Tản Đà trích tiên “gánh văn lên bán chợ Trời”. Khi hạ huyệt, có nhiều điếu văn. Đứng cạnh Nguyễn Tuân, đầu xứ Tố thấy KĐ, một tay cơ hội trong làng văn cũng sụt sịt đọc điếu văn, ông bực dọc nói với Nguyễn Tuân: “Cái thằng ấy mà cũng dám đọc điếu văn khóc Tản Đà à? Tôi chỉ muốn cho nó một cái tát!”.

Cả hai, Ngô Tất Tố và Tản Đà, cùng là nhà nho nhưng Tản Đà là nhà nho tài tử, một lãng tử, có khác nhiều với cái chất Thục Điểu, nhưng hai người cứ gắn bó với nhau, cứ trọng nhau, có lẽ bởi cái chất nho quân tử như Nguyễn Đức Bính có lần đã nhận thấy:

“Nhưng một lần, cả hai người uống rượu say rồi cùng nhau cất giọng bình lại đoạn văn của Mạnh Tử nói về người đại trượng phu (…). Lúc ấy, tôi phảng phất cảm thấy sống lại cái linh hồn thiên cổ của đạo Nho” (đd).

ĐỖ THIÊN THƯ st.

Để ai nấy đều đọc được dễ dàng

BÁO CHÍ HÃY DÙNG TIẾNG VIỆT NAM

THAY THẾ CHO CÁC TIẾNG NGOẠI QUỐC

Nước Việt-Nam chúng ta vốn có một nền Văn-hóa tinh-túy và chân-chánh.

Tuy-nhiên, chúng ta vẫn còn phải vun xới thêm, xây đắp thêm mãi, mà công cuộc này mỗi người dân Việt-Nam phải góp vào một phần tùy theo tài-lực.

Trong phạm vi bài này, chúng tôi góp bàn đến vấn-đề tiếng nói; các bạn hãy giở các tờ báo và sách vở của ta ra coi: các bạn sẽ thấy những tiếng Pháp, tiếng Anh, mà dùng những tiếng đó trên mặt báo, cái hại trước nhất là một số đông độc giả dân chúng không đọc được vì không học tiếng Pháp hay tiếng Anh.

Báo chí cần được phổ-thông cho dân chúng, cần phải có một “cái gì” đặc-biệt Việt-Nam, nên ta cần phải thay thế những chữ ngoại-quốc bằng chữ Việt.

Chưa cần nói đến những vấn-đề lớn lao nào khác, như về khoa-học. Hãy nói đến những chữ thông thường, như tên người và những tên thuộc về địa-dư (tên tỉnh, tên nước).

Ngày nay, Chính-Phủ Quốc-Gia Việt-Nam đã trịnh-trọng tuyên-bố dùng Việt văn trong các cơ-quan chính-quyền, đã xác-nhận trong các hiệp-ước lấy Việt-ngữ là chuyển-ngữ chính-thức, trong một số gần đây, chúng tôi sẽ có dịp trở lại vấn-đề dùng Việt văn trong các văn-kiện hành-chánh.

Ở đây, chúng ta hãy trở lại vấn-đề dùng chữ Việt thay thế những chữ ngoại-quốc trên các báo chí.

HÃY PHIÊN ÂM

Sao ta cứ phải viết Foster Dulles mà không viết Phốt-tơ Đơn cho ai nấy đều đọc được?

Sao ta không phiên âm các chữ ngoại-quốc?

Chỉ cần để ý và chịu khó một chút trong khi viết mà thôi! Một khi người viết cũng như người đọc đều quen, có phải ta gây thêm cho nền văn-hóa nước nhà một chút đặc-điểm không.

PHIÊN ÂM THẾ NÀO?

1. Về tên người : Ta chỉ việc phiên âm thẳng như tiếng đọc (tên người nước nào thì đọc theo giọng người nước đó)

Laniel: La-ni-en,

Marshall: Mạc-san,

Nehru: Nê-ru,

Gandhi: Găng-đi,

Không nên phiên-âm theo Tàu (trừ những tên Tàu).

Tỷ-dụ: Rousseau là Ru-xô, không nên viết Lư Thoa.

2. Về tên địa-dư : Tên tỉnh, núi, sông ở đất nước nào, thì theo tiếng người dân ở đó đọc mà phiên-âm qua tiếng Việt-Nam.

Paris, người Pháp đọc là Pa-ri, thì ta viết Pa-ri hơn là Ba-lê.

Londres ở Anh, phải lấy tiếng Anh là London phiên-âm ra (Luân đôn)

LÚC ĐẦU, CẦN ĐỂ Ý

1. Lúc đầu, vì rằng người Việt cũng như một số người đọc, có lẽ chưa quen, nên ta có thể sau một chữ nào còn lạ, chua thêm chữ ngoại-quốc ở đằng sau:

Tỷ-dụ: Mu Ba-Tơn (Mountbatten) tiếp Gi-na (Ginnah).

Như vậy, người biết chữ Việt-Nam cũng như người có học các tiếng khác, đều hiểu và đọc được.

2. Khi nào quen rồi thì không làm như vậy nữa. Những chữ quen có sẵn cũng vậy:

Tỷ-dụ: Luân-đôn là thủ-đô Anh-cát-lợi.

3. Những chữ có sẵn và đã quen với ta lắm rồi thì để vậy, mặc dầu phiên-âm không đúng.

Tỷ-dụ: Pháp, Huê-kỳ, Anh, Miến-điện, Ấn-độ, Nga…

4. Thói quen trong tiếng nói của cả dân-tộc sẽ lựa chọn những chữ thích-hợp nhất. Có như vậy, Việt-Nam ta mới lần lần tránh được các tiếng ngoại-quốc, và có hẳn những tiếng riêng để phổ-thông khắp dân-chúng.

HOÀNG KIM THƯ st.


Phụ bản II

GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ TỜ

“TIỂU THUYẾT NAM KỲ”

NGUYỄN TRỌNG NHÂN

Lịch sử hình thành, quá trình phát triển và tình hình nhân sự

- Thống kê 13 số báo Tiểu thuyết Nam Kỳ (TTNK) và căn cứ tình hình xuất bản báo chí thời kỳ trước năm 1945, nhất là báo, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, chuyên đăng tiểu thuyết, có thể nói TTNK ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đọc tiểu thuyết rất lớn của độc giả Nam Bộ đương thời nói riêng và độc giả cả nước nói chung.

- TTNK, năm thứ nhất, số 1, xuất bản vào tháng 6 năm 1935. Ra được 13 số, đến tháng 9 năm 1935 bị đình bản. Theo Nguyễn Khuê trong Chân dung Hồ Biểu Chánh, khi đề cập đến tờ TTNK, có cho biết sau khi ra được 13 tập buộc phải đình bản vì đơn xin phép bị chính quyền bác (3, 54).

Như vậy, TTNK có tuổi thọ thật ngắn ngủi: chỉ sống vỏn vẹn có ba tháng, từ tháng 6.1935 đến tháng 9.1935, xuất bản được 13 số.

- Quản lý TTNK là Nguyễn Văn Quới. Trên TTNK xuất hiện nhiều nhà văn danh tiếng đương thời như: Hồ Biểu Chánh, Phú Đức. Ngoài ra còn có một số cây bút đáng chú ý khác như: Ngô Long Phụng, Đặng Ngọc Anh, Đào Thanh Phước, Đồng Tâm…

Về hình thức

1. Măng-sét

Thống kê 13 số TTNK thì măng-sét thay đổi chỉ một lần. Măng-sét số 1 (ảnh bên trái)

Đến số 2, TTNK lại thay đổi măng-sét (ảnh giữa)

Hình thức măng-sét này ổn định cho đến số cuối cùng, số 13/1935 (ảnh bên phải)


2. Khổ giấy, số trang, cách đánh số trang

TTNK được in trên khổ 245mm x 160mm.

Khảo sát TTNK từ số 1 đến số 13, số trang ổn định ở mức 40, đúng như TTNK thông báo ở đầu mỗi số báo, “sách dày 40 trương”.

TTNK đánh số trang theo tập và theo từng số báo. Số trang đánh ngay chính giữa phía trên trang báo trừ trang có măng-sét không đánh số trang. Từ số 1 đến số 12, số trang đánh theo tập. Bắt đầu từ số 13, bổ sung thêm cách đánh số trang theo số. Với cách đánh mới này, số chẵn đánh phía trên, góc trái trang báo; số lẻ đánh phía trên góc phải trang báo.

3. Giá tiền, ngày và địa điểm phát hành

Giá tiền: Giá in ngoài bìa mỗi số báo, từ số 1 đến số 13/1935 “chỉ bán có 10 xu (0$10)”. TTNK, số 2/1935, trang 40 có đăng một mẩu thông báo của nhà xuất bản Quang Minh, đơn vị giữ bản quyền TTNK, về giá bán TTNK trọn bộ từ số 1 đến số 50 là 4$00; nửa bộ từ số 1 đến số 25 là 2$30.

Từ bảng giá tổng hợp này cho thấy, mua TTNK nửa bộ hoặc trọn bộ rẻ hơn mua từng số riêng lẻ. So với mặt bằng giá bán báo đương thời thì giá TTNK không cao lắm, bằng với giá báo Sống (1935) (Đông Hồ chủ bút), 10 xu/số.

Ngày phát hành: TTNK không đề ngày phát hành cụ thể trên từng số báo như cách làm của báo Sống. Song, căn cứ vào nội dung thông báo ở trang mục lục tờ báo, có thể thấy TTNK “ra 3, 4 quyển mỗi tháng”.

Địa điểm phát hành: Trong Thư tịch báo chí Việt Nam Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam ghi rằng tòa soạn TTNK đặt ở số 172, phố Lagrăngđie. Chính xác thì địa chỉ tòa soạn TTNK, từ số 1 - số 7/1935 đặt tại số 175, Rue Lagrandière, Sài gòn; từ số 7 - số 13/1935 dời về số 18 Rue Heurteaux, Sài gòn. Trên TTNK số 7/1935 có đăng một mẩu thông báo nhỏ như sau:

TIỂU THUYẾT NAM KỲ Kể từ đầu tháng Août 1935 (tức tháng 8) tòa soạn T.T.N.K. sẽ dọn về số 18 Rue Heurteaux (Khánh Hội), vậy có mấy lời thanh minh cùng chư quý vị độc giả. T.T.N.K.”.

Như vậy, mới ra đời chỉ có 2 tháng, TTNK đã phải dời địa chỉ tòa soạn. Sau khi dời đến địa điểm mới được một tháng, đến tháng 9 năm 1935 thì TTNK đã phải đình bản!

Về nội dung

1. Tôn chỉ

Không thấy TTNK đăng tôn chỉ của mình trên các số báo đã xuất bản. Nhưng căn cứ vào tính chất đặc thù của tờ báo, chúng ta biết được đây là một tờ báo chuyên về tiểu thuyết, phổ thông tiểu thuyết.

2. Các chuyên mục trên “Tiểu thuyết Nam Kỳ”

TTNK có hai chuyên mục chính: Mục văn học và mục quảng cáo.

Mục văn học gồm có trang truyện ngắn, trang tiểu thuyết và một vài bài phóng sự. Truyện ngắn trên TTNK khá hay. Đa số các tác phẩm được viết với cảm hứng đạo lý và cảm hứng phê phán. Có thể kể vài cây bút quen thuộc như: Hồ Biểu Chánh, Đặng Ngọc Anh, Thân Văn, Đồng Tâm, Tuyết Vân… Tiểu thuyết là thể loại chủ lực, hấp dẫn nhất trên TTNK. “Có nhiều tiểu thuyết rất có giá trị của hai nhà đại tiểu thuyết trứ danh là ông Hồ Biểu Chánh và ông Phú Đức” (TTNK, số 2/1935) với các tác phẩm như: Ở theo thời (Hồ Biểu Chánh), Tôi có tội (Phú Đức). Ngoài ra còn có tiểu thuyết Lê Vĩnh Thạnh của Ngô Long Phụng cũng khá đặc sắc. Các tiểu thuyết này chủ yếu được sáng tác bằng cảm hứng tình yêu, cảm hứng phê phán và cảm hứng đạo lý… Tiểu thuyết dịch trên TTNK có quyển “lịch sử tiểu thuyết” Mẹ hại con của dịch giả Đào Thanh Phước. Ngoài ra trên TTNK còn có vài bài phóng sự của Luck Tack.

Mục quảng cáo: TTNK quảng cáo cho hình ảnh tờ báo của mình và quảng cáo vì mục đích kinh doanh. Nội dung quảng cáo kinh doanh rất phong phú, đủ các lĩnh vực, như: quảng cáo cho phòng mạch bác sỹ, hiệu thuốc đông y, tiệm may quần áo, dạy làm bánh mứt… đều có trên trang này.

Vai trò và đóng góp của TTNK trong lịch sử phát triển báo chí Việt Nam

Sự hiện diện của TTNK làm cho lịch sử báo chí Nam Bộ thời kỳ trước 1945 nói riêng, báo chí cả nước nói chung thêm phong phú, đa dạng. TTNK tuy không sống lâu nhưng đóng góp của nó ở lĩnh vực văn học rất đáng ghi nhận: phổ thông văn học, thúc đẩy sáng tác, góp phần hiện đại hóa nền văn học Nam Bộ nói riêng và văn học hiện đại Việt Nam nói chung, nhất là ở thể loại tiểu thuyết.

---------------------

Tài liệu tham khảo:

1. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ mới (1865-1932), Nxb. TPHCM.

2. Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb. TPHCM.

3. Nguyễn Khuê (1974), Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn.

4. Nguyễn Công Khanh (2006), Lịch sử báo chí Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1865-1995), Nxb. TPHCM.

5. Nguiễn Ngu Í (1966), Báo chí hôm qua 1865-1954 - Thử nhìn 100 năm báo chí, Bách Khoa, số 25.

6. Nguyễn Thành (2002), Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam, Nxb. Văn hóa - thông tin.

7. Đỗ Quang Hưng (chủ biên), Nguyễn Thành, Dương Trung Quốc (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1965, Nxb. ĐHQG, Hà Nội.

8. Phan Khoang (1974), Việt Nam Pháp thuộc sử, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bàn, Sài Gòn.

9. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên) (1988), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (II. Văn học), Nxb. TPHCM.

HÀ MẠNH ĐOÀN st.

Khoảng trời xa

Phía xa kia là khoảng trời cao rộng
Vẫn có mây và có nắng thường ngày
Một thoáng nồng cho gió thêm say
Loài chim hát toang trời vút cánh

Phiến lá nghiêng giữa lòng chao lượn
Sóng nhịp nhàng hương gió linh lang
Nắng thênh thang giãi óng tơ vàng
Trong chấp chới dường nghe ẩn hiện

Cánh bướm xanh ảo huyền vũ quyện
Có chút gì dáng nét hiền nguyên
Suối mắt xanh mướt cả một miền
Trong ngan ngát mà nghe đắm đuối

Bóng mơ qua ngỡ mùa không tuổi
Khắc ngập ngòa mộng khoảng trời xa
Nắng biếc hương xõa trước hiên ngà
Câu bối rối mà vui thầm thỉ.

ĐÀM LAN

TRÁCH THẦM

Anh vẫn nhớ ngày thần tiên tuổi nhỏ
Trong lớp nhìn theo gió, cánh phượng bay
Đùa trong nắng phượng thướt tha lơi lả
Phượng mơ màng vương vấn bước chân ai !

Nắng ban mai lung linh đôi tà áo
Mái tóc buông dài em thả theo mây
Dáng tiểu thư gót ngọc bước trang đài
Anh vội vã viết vần thơ mộng ảo...

Em đâu biết những canh dài thao thức
Ấp ủ trong tim những tha thiết ân cần
Chỉ là mơ lúc nhớ lúc bâng khuâng
Bên cửa lớp anh ngượng ngùng lóng ngóng

Những bài thơ ép trong trang vở mỏng
Những lời yêu sao ấp úng ngập ngừng
Anh khờ khạo... một câu dù muốn nói
Đã nhiều lần chẳng nói được nên lời...

Anh chôn dấu những lời yêu vụng dại
Tự trách mình sao nhút nhát vì đâu
Để bây giờ vạn dặm cách xa nhau
Nhớ thương mãi dáng phượng xưa yêu dấu.

Phạm Thị Minh-Hưng

HƯ VÔ NƠI ĐÂU

Bài thơ này viết gởi hư vô

Gởi gió gởi mây cõi mơ hồ

Biển bồng bềnh miên man sóng vỗ

Đêm buồn vời vợi ánh trăng mơ

*

Gởi chút tình gió thoảng mây bay

Chút hương cỏ dại thoáng men say

Gởi hư vô giấc mơ huyền ảo

Chiều thu vàng - lá úa sầu mây

*

Chút tình không gởi đến hư vô

Hững hờ ảo ảnh chẳng mong chờ

Lá rụng xạc xào bên ngõ vắng

Hiu hắt tình thu sầu bơ vơ

*

Hư vô ở chốn nào biết chăng

Bâng khuâng hiu quạnh giấc mong manh

Biển sóng chập chùng mây bay mỏi

Ý thơ sầu lắng mộng tàn canh...

Phạm Thị Minh-Hưng

NGƯỜI BẠN THÂN

Tặng bạn Nguyễn Thị Mạc

Bạn tôi ở nước ngoài

Nhớ quê cha đất tổ

Nhớ họ hàng thân thương

Nhớ hàng cây bên đường

Nhớ bánh đa bánh đúc

Chưa có lúc về thăm

Vì còn bận chăm trẻ

Đó là niềm hạnh phúc

Của người bạn tôi thân

Tôi và bạn gặp nhau

Ngày đi thi Tú tài

Bạn vào ngành Sư phạm

Tôi cũng là giáo viên

Bạn tốt nghiệp Đại học

Tôi chưa đạt Cử nhân

Ngày tôi gặp phu quân

Tôi đưa thiệp báo tin

Cùng trầu cau, trà bánh

Bạn lại đến mừng tôi

Ngày nhà Mạc xa rời

Lên máy bay xuất ngoại

Sân bay, tôi nắm mãi

Tay bạn không muốn rời

Mỗi năm bạn nhớ tôi

Gửi chúc Tết, Noel

Hằng năm dăm lá thư

Đôi khi qua điện thoại

Nhắn hỏi một đôi câu

Chúc sức khỏe cho nhau

Chúc bền lâu tình bạn

Bền vững cùng thời gian.

Ngày 03/9/2015

THÚY MAI

TIẾNG CHUÔNG

Không phải nặn ra nỗi buồn giả, khóc vờ

Vì ai biết điều hy vọng mong chờ

Có gì chắc chắn

Bước chân thì ngắn

Đường đời thì xa…

Suy tư về cõi thế sâu hơn

Lắng đọng trong cô đơn

Trước đường đời trắc trở

Cô đơn trong nghiêng ngả yêu thương

Bao bi kịch, tai ương đang tồn tại

Xã hội mất cân bằng sinh thái

Tình người bị xâm hại ngang nhiên

Cái cao cả, tinh anh, sáng tạo

Bị bủa vây bởi cái thấp hèn hung bạo

Mây đen che lấp nghĩa nhân

Lũ quét mòn đi những giá trị tinh thần

Cảm xúc đớn đau, xót xa thường trực

Đắng cay trước sự thực phũ phàng

Lịch sử đã sang trang

Bao truân chuyên

Bao nỗi đau

ai đó nhìn nhau ngơ ngác

Khi coi miếng cơm, manh áo quá to tát

Lòng tham quyền lực, danh lợi, tiền tài…

Đã trượt quá dài

Che lấp cả lương tâm

Nếu kiếp sống chỉ là tranh giành, xâu xé

Thì con người có lẽ

Chẳng khác gì loài thú hoang

Mạnh được yếu thua

ăn sống nuốt tươi

Nguy cơ phần con lấn át phần người

Sự việc cứ diễn ra từng ngày

Nỗi nhức nhối kết thành niềm tê tái

Lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau đồng loại

Tiếng chuông bỗng từ đâu vọng lại

Mách bảo ta điều gì

như suy thoái giá trị nhân sinh.

…..

Cảm nhận riêng một trái tim đa cảm

và tin yêu vẻ đẹp cao cả của con người.

LÊ MINH CHỬ

NHÀ GIÁO

Trân trọng Thầy Cô, toàn trí thức

Phụ huynh thương mến, đâu nề cực

Trau dồi lớp trẻ, nghiệp nghề chuyên

Dạy dỗ mầm non, khoa học thực

Củng cố ngày mai phát trí tài

Dựng xây hiện tại thành công lực

Thế hệ đang lên khỏe bấy nhiêu

Tổ quấc trông nhờ vào giáo chức…

Thanh Châu

CHÂN VÀ GIẢ

Thế giới có chân thì có giả

Làm người phải biết phân chân giả

Linh hồn rèn luyện tốt là chân

Thể xác trau dồi hay cũng giả

Cái ẩn thâm tâm mới phải chân

Đồ bày trước mắt toàn là giả

Thánh nhân thường luận cõi hằng chân

Thiên hạ thích nghi đời vốn giả.

Thanh Châu

Biển tình

Ngàn tinh tú sắp tan vào ảo ảnh

Mảnh trăng xanh cúi mặt khóc rưng rưng

Sương long lanh - giọt nước mắt ngập ngừng

Làn gió lạ chuyển cung sầu cách biệt

Bước chinh nhân - mộng sông hồ mải miết

Bụi phong trần vương nếp trán suy tư

Đêm rã rời trong tiếng hát nhân ngư

Bầy hải điểu chập chờn đôi cánh mỏi.

Sóng trùng dương thì thấm câu nhắn gọi

Những con thuyền mơ ước gió ngàn phương

Mau sớm quay về ghé bến yêu đương

Dòng tâm sự dâng tràn chưa trút cạn

Không gian rộng nhưng thời gian hữu hạn

Đợi chờ nhau tàn úa tuổi thanh xuân

Vạn nẻo đường đời ghềnh thác gian truân

Nhung nhớ sẽ phai nhòa đôi má thắm

Ánh mắt người xưa ân tình say đắm

Nụ cười xưa trìu mến thoáng chiêm bao

Giọng nói xưa thân ái rụng muôn sao

Đã giết chết hồn ta bằng mật ngọt

Ta cúi mặt tim bồi hồi đau xót

Chuyện ngày xưa chôn kín dưới mồ sâu

Ta cố quên vùi lấp mối duyên đầu

Mà dĩ vãng u hoài vương vấn mãi.

NGÀN PHƯƠNG

Bơ vơ

Trời xanh diễm tuyệt

Chim hót ra thơ

Đẹp như truyền thuyết

Đời là giấc mơ

Tâm hồn băng tuyết

Dĩ vãng xa mờ

Ngời ngời ánh nguyệt

Tương lai mong chờ

Tình yêu bất diệt

Nhạc lắng đường tơ

Tiếng lòng tha thiết

Thế mà bơ vơ.

NGÀN PHƯƠNG

NẾU MỘT NGÀY

Ngày mai tôi chết nhắn ai sang

Nhặt hộ dùm tôi những lá vàng

Vuốt mắt cho tôi giờ vĩnh biệt

Để hồn chín suối khỏi buồn hoang

Thơ TẤT TUẤN

Nếu một ngày kia em chết đi

Ai người đưa tiễn lúc phân kỳ

Lặng lẽ theo sau vào mộ tối

Hai hàng nước mắt ngập tràn mi

Nếu một ngày kia em nghỉ yên

Bên hàng dương liễu dưới trăng êm

Cỏ cây ru giấc sầu thiên cổ

Ai sẽ gọi thầm tên mỗi đêm

Nếu một ngày kia bỏ cuộc đời

Trả thời hoa mộng tuổi đôi mươi

Ước mơ tàn héo dần năm tháng

Hết những mong chờ bao thắm tươi

Nếu một ngày kia hoa chớm phai

Em nằm trong đất phủ linh hài

Dế giun rên rỉ lời than khóc

Thương mối u tình trao gửi ai

Có còn ai yêu em nữa không ?

Nếu mai rời bỏ chốn bụi hồng

Hồn hoang nuối tiếc gì xa mãi

Em về yên nghỉ chốn mênh mông.

HOÀI LY

ĐỢI CHỜ

Chờ nhau đến thuở bạc đầu

Bóng chim tăm cá dãi dầu chốn nao

Đời như biển sóng dạt dào

Gió mưa giông tố làm nao lòng người

Tìm nhau ngơ ngác một đời

Quên nhau thì đã ngậm ngùi lãng quên.

HOÀI LY

An lạc với đời

Dư vị
Của cà phê là đắng
Của hoa hồng là thơm
Của nụ hôn là chìm đắm
Của hạnh phúc là niềm vui
Của buồn rầu là thất vọng
Của đời người: nụ cười hay nước mắt
Nụ cười làm tươi hồng cuộc sống
Nước mắt làm khổ đau trái tim ta
Nụ cười - nước mắt - hạnh phúc - khổ đau
Đời người là một vòng quay không ngừng nghỉ
Như vũ trụ có mặt trời mặt trăng
Như thời gian có ngày và đêm
Như thiên nhiên có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông
Hãy mang đến mùa Xuân nụ cười siêu nhiên An lạc
Hãy mang đến mùa Hạ bài tình ca ướt át
Hãy mang đến mùa Thu vần thơ quyến rũ
Hãy mang đến mùa Đông tấm lòng sẻ chia
Hãy làm đẹp đời mình bằng trái tim thánh thiện.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

CÁNH HOA NGÀY ẤY

Tìm bạn nhiều năm, tin chẳng có

Hẹn ngày tái ngộ, khó lòng mong

Yêu nhau trong cảnh mịt mùng

Chiến tranh khói lửa não lòng lìa nhau

Chờ kết thúc đôi đầu gắn bó

Nhưng thời gian đâu có chờ ta

Mỗi ngày là ánh dương qua

Sông sâu cá lội, người xa mất rồi

Nhớ những buổi lưng đồi trăng chiếu

Mái nhà tranh bận bịu chờ nhau

Sống vui sống khỏe thế nào

Miễn là đôi lứa trầu cau lễ mừng

Đến bây giờ bỗng dưng mất hút

Khiến lòng đây côi cút một mình

Ôi sao bụng dạ đinh ninh

Hay là nàng đã đưa tình cho ai ?

LANG NGUYÊN

NỔI NIỀM

Lỡ nhịp cầu ô một cảnh đời

Rủi thay số phận đến chơi vơi

Ngày sau tái ngộ cùng non nước

Chắc hẳn tình người khó lẻ loi.

LANG NGUYÊN

CÔNG CHA NGHĨA MẸ

Công cha, nghĩa mẹ cao vời

Nói sao cho hết những lời yêu thương

Tình cha sáng tựa thái dương

Tình mẹ ấm áp khi sương lạnh về

Cha, mẹ chăm con mọi bề

Miếng ăn giấc ngủ, lo về tương lai

Mẹ là sao sáng ban mai

Cha là tất cả tâm, tài cho con

Cha là nước, mẹ là non

Là niềm vui sống cho con suốt đời.

HOÀNG CÚC

NHỚ MÙA THU ẤY

Thu về rạng rỡ khắp non sông

Thu đến tung bay ngọn cờ hồng

Thu đem sao sáng soi đất nước

Thu đón tự do độc lập hồng

Thu của nhân dân hằng mong đợi

Thu của cuộc đời thỏa ước mong

Thu cần lao vùng lên giải phóng

Thu Việt Nam hát khải hoàn ca.

HOÀNG CÚC

PHIÊN KHÚC ÁI ÂN

Anh ưa… tái, em thèm… gân

Trở thành phiên khúc ái ân đời đời

Xơi phở, em thường thích món gân

Anh mua, anh sớt để riêng phần

Nửa phần còn lại, anh xơi tái

Này, hỡi em yêu ! Xích lại gần !

Anh biết em thường thích món gân

Nên anh âu yếm để riêng phần

Lòng anh xao xuyến như cơn gió

Khi bóng giai nhân bước lại gần !

Đã mấy ngày qua, thiếu… tái, gân

Lòng anh chi xiết mối phân vân

Chờ mong em đến từng giây phút

Để mối tình sâu mãi mãi gần !

Em đến cùng xơi món tái, gân

Đông đi, xuân lại biết bao lần

Dù cho muôn sự đều thay đổi

Vẫn hát triền miên khúc ái-ân !

THANH PHONG

MỪNG XUÂN KHÔNG TUỔI

Mãi mãi là Xuân đẹp thắm tươi

Vô tư chẳng nghĩ cái chuyện đời

Sáng tác thơ ca vui sôi nổi

Mọi thứ lăng nhăng hại chẳng chơi

Giấy rách giữ lề vui hạnh phúc

Dòng tộc ánh dương sáng trang đời

Mừng Xuân không tuổi luôn đẹp mới

Phúc lộc đầy dâng rộn tiếng cười.

PHÙNG CHÍ TÂM

TRONG LÒNG HÀ NỘI

Thân tặng các bạn trong nhóm tâm giao HÀNỘI

Tôi không biết nhà em ở phố nào

Có gần hàng Ngang, hàng Đào, Cầu Gỗ

Có đi qua Cửa Nam ra ga Hàng Cỏ

Có gần Hồ Gươm xanh xanh liễu rủ những ngày xưa

Ôi những con đường phố quê in dấu tuổi thơ

In dấu bước chân ta một thời gian khó

Thời chiến tranh bầu trời Thăng Long rực lửa

Hoa Ngọc Hà vươn trên xác máy bay

Tiếng hát át tiếng bom vẫn cứ ngân đầy

Hương hoa sữa nồng say chiều hò hẹn

Có ánh trăng vàng đêm mất điện

Có mũ rơm theo em nhỏ đến trường

Có hạt cốm Vòng trong lá sen thơm

Tuổi đôi mươi - em là hương là hoa Hà Nội

Cho tôi hình dung em một thời xa vời vợi

Trong bão giông nắng lửa mưa dầm

Em vẫn là em - bốn mùa xuân

Để hôm nay em còn xuân mãi

Cái nắng Sàigòn gắt gay có phải

Đã dịu bớt đi bởi có bóng em

Bông hồng ngày Tình nhân như thắm hồng thêm

Bởi có bàn tay em đón nhận

Còn đây mãi chất thanh lịch Tràng An sâu đậm

Nên vẫn xanh tươi trong ánh mắt xanh

Tôi không biết nhà em ở phố nào Hà Nội

Chỉ nghe giọng em nói tiếng em cười

Đủ thấy chất Hà thành không dấu được trên môi

Như được gặp lại chính mình giữa lòng Hà Nội

Như được trở về giữa lòng Hà Nội ơi !

Sàigòn 14.2.2006 Valentine Day

LÊ NGUYÊN

KHÔNG NƯỚC KHÔNG TRĂNG

(Theo truyện kể của Thiền sư OSHO)

Cô gái quảy nước dưới trăng

Trăng sóng sánh trong thùng nước đầy

Chiếc đòn gánh trên vai chợt gãy

Nước đổ ào, tay rỗng không

Lòng rỗng không chẳng còn gì

Không nước, không trăng.

LÊ NGUYÊN

TAI NẠN SẺ CHIA

(Để nhớ ơn những tấm lòng giúp đỡ khi bị tai nạn

gần phi trường Tân Sơn Nhất thứ bảy 23/9/2017)

Ra đi kính cẩn vái van

Ơn trên phò hộ bình an hành trình

Than ôi ! bất chợt thình lình

Xe hơi lao đến hai mình nằm lăn

Thất thần chẳng biết trời trăng

Đến khi tỉnh lại nằm văng lề đường

Bà con cô bác thấy thương

Nhìn hai khuôn mặt thê lương não nề

Trang sức - Apad… bộn bề…

Người ta xa lạ nhặt về trao tay

Ôi sao tình nghĩa quý thay

Mừng vì người tốt việc hay còn nhiều

Đôi ta đi đứng liêu xiêu

Đến phòng cấp cứu bao nhiêu hãi hùng

Vật dụng nhìn thấy ngại ngùng

Nào dao - nào kéo - nào thùng bông băng…

Kháng sinh tiêm vội phòng ngăn

Nhiễm trùng do bị nằm lăn ra đường

Nào ngờ ra ngõ tai ương

Vài giòng ghi vội tỏ lòng tri ơn

Bà con cô bác nghĩa nhơn

Chung tay giúp đỡ thiệt hơn chẳng màng.

VŨ THÙY HƯƠNG

NHỚ

Rời nhau chỉ một tiếng thôi

Sao mà Em mãi bồi hồi nhớ nhung

Lặng thầm suy nghĩ mông lung

Anh ơi đừng để lạnh lùng cô thân

Bao năm Em nợ hồng trần

Đợi Trăng trang điểm xóa thân hồng trần

Ước mong duyên thắm tình nồng

Để quên năm tháng sầu đông phận người

Tình yêu ơi! Tình yêu ơi!

Cùng nhau nguyện ước trọn đời trăm năm.

VŨ THÙY HƯƠNG

SAY TÌNH 1

Giờ đây chợt nhớ người dưng

Do đâu ngu thế tưởng chừng u mê

Tại vì đêm ấy ta phê…

Chẳng còn nhớ nữa… lối về trần gian

Mặc cho nhân thế trái ngang

Mặc cho Trời Đất ngỡ ngàng tỉnh say

Ta và Em vẫn mộng đầy

Cốc tình chưa cạn… đâu hay đường về

Thôi thì ta cứ u mê

Rằng trăm năm nữa vẫn thề bên nhau.

HẢI ÂU

SAY TÌNH 2

Sàigon và những ngày tháng Hạ

Hoàng hôn rũ mộng nuông chiều

Dáng thu say khướt liêu xiêu gốc đời

Nhặt gom từng giọt mưa rơi

Trải hồn tấu khúc bên trời tương tư

Gặp em cứ ngỡ hình như

Trăm năm trên đỉnh sương mù nhân sinh

Ta nợ em: một bóng hình

Ta nợ em: một cuộc tình còn vay

Trái tim ngốc nghếch lưu đày

Cốc tình quên cạn - môi gầy quên yêu

Thu ơi ! Ta gởi những chiều

Ôm trăng để mộng dáng Kiều trinh nguyên

Nửa đời lưu giữ ước nguyền

Cùng em trọn kiếp nên duyên sắc cầm.

HẢI ÂU

PHÚT MONG MANH

Tái ngộ, cùng… vui, em với anh

Dẫu rằng, quả thật, rất mong manh

Mà sao vẫn thấy say nồng thế

Má phấn kề môi với mắt xanh !

THANH PHONG

TẠ TỪ

Đưa chiếc máy lên cao
Ngắm rồi lại nghĩ sao
Chụp làm chi cảnh khóc
Nhớ làm chi chuyện sầu.

Rồi chân bước chập chùng
Dưới trời tím băn khoăn
Người đi, sao chóng thế
Lời cũ cất đầy ngăn...

Di ảnh ngó nghiêng ta
Miệng chúm chím đóa hoa
Lâu rồi mà vẫn mới
Như vừa chỉ hôm qua!

Cười mà chẳng dám cười
Sợ sợi nước mắt rơi
Nửa chừng nhòe trên má
Bao kẻ khóc một người

Ta sẽ chụp nỗi lòng
Rồi đêm đến, trong chăn
Mở ra xem, để thấy
Tim ngơ, lạnh vô cùng...

24.07.2014

LAM TRẦN

CỐ NHÂN TRI KỶ

Cố nhân ơi ! Hỡi cố nhân !

Thế là trúc đã lìa mai xa vời

Yến oanh đang hót vang trời

Bỗng đâu im bặt vắng lời hoan ca

Lệ dâng tràn mí thắm nhòa

Mưa tình ly biệt xót xa chia lìa

Mai này lúc sớm, lúc khuya

Vui buồn, an ủi, biết nhờ cậy ai ?

Cố nhân là giọt sương mai

Tưới tình tri kỷ đâm chồi nẩy hoa

Giờ đây chan chứa lệ nhòa

Thương ai một kiếp hào hoa phong trần

Biết làm sao hỡi cố nhân ?

Dang tay ôm chặt tấm thân mặn nồng

Tri kỷ một kiếp má hồng

Tặng cố nhân mãi an lòng ra đi.

THANH XUÂN

“CHI LẠ RỨA”

“Chi lạ rứa” chiều ni tôi muốn khóc

Nhìn chi tôi loài cỏ dại hoa hèn

Ngày lại ngày bước chân quen lầm lũi

Tự vỗ về an ủi một thân đơn

“Chi lạ rứa” chiều ni sao nhớ quá

Nhớ con thơ khờ dại ở chốn nào

Mỗi chiều về lòng lại thấy nao nao

Nước mắt tràn sau hoàng hôn tắt lịm

Nghiệp chướng nào đưa tôi vào đau khổ

Tôi hồn nhiên nhận chịu những thương đau

Không than van vì đau đớn khổ sầu

Nghiệt ngã này âu chỉ là mệnh số

“Chi lạ rứa” chiều ni tôi muốn khóc.

THÙY QUÂN HƯƠNG MAI

Bâng khuâng

Rụng rơi lá về cội

Bốc hơi nước về nguồn

Hỏi :

- Còn Ta

Ba vạn sáu ngàn ngày về đâu ?

Đáp :

- Xưa kia tôi ở trên trời

Đứt dây rớt xuống làm người trần gian

Trần gian phá hoại mùa màng

Rồi tôi trở lại áo quan: nhị tỳ.

PHƯỚC HẢI

ĐÊM MỘNG ĐI LẠC

Có một đêm tôi nằm mộng thấy mình đi lạc, vào một cánh đồng, bên tay phải có một con Kinh. Không lớn, độ chừng 5, 6m. Gần bên có đường tráng nhựa Xe qua lại, tôi biết đó có đường về khổ nỗi Kinh không có cầu.

Tôi nhìn bốn hướng, bỗng thấy anh cán bộ từ trong xóm đi ra - tôi liền gọi:

Anh anh cán bộ

làm ơn chỉ hộ

giùm tôi xa lộ

anh chỉ cho tôi nơi con Kinh có một cái cây ngã ngang qua Kinh, gốc bên nầy ngọn bên kia, tôi mới lần theo thân cây qua Kinh cái cây đó giúp hộ,

cho tôi ra con lộ,

cảm ơn anh cán bộ.

Ra con lộ chạy bộ về nhà.

PHƯỚC HẢI - Trung thu 2017

ĐỈNH KHOA HỌC

Đỉnh khoa học như đỉnh non cao ngất

Tua tủa gai, lởm chởm đá tai mèo.

Hãy mạnh bước, đừng nhìn lâu chóng mặt,

Những hành trang cần chuẩn bị mang theo:

Lòng dũng cảm, tim nồng, đầu sáng suốt

Như hải đăng trên biển sóng sáng ngời.

Tính kiên nhẫn như con ong làm mật,

Hút nhụy từ nghìn vạn đóa hoa tươi.

Thẳng phía trước, đặt cho mình từng mốc,

Đạt mốc gần, đặt mốc tiếp xa hơn.

Như chim chuyền cây này lên cây khác.

Dần dần bay đến đỉnh núi chon von.

Hà Nội, 02-01-1964

VŨ ĐÌNH HUY

THE SUMMIT OF SCIENCE

The summit of science is like the sky high mountain top

Bristling with thorns and cragged with rugger rocks

Walk strongly and don’t look too long to feel dizzy

Carefully preparing the following luggages to carry along:

Bravery, an ardent heart, and a lucid mind

Like a lighthouse over the bright sea waves

With a patience like the one of the bee producing honey

And sucking nector from thousands of really fresh flowers.

Straight forward,

and fixing each one of one’s own landmarks

A near landmark, then a farther one

Like a bird hovering from one tree to another

Then gradually flying to the high and steep mountain top.

Hà Nội, 02-01-1964

VŨ ĐÌNH HUY- Translated by VŨ ANH TUẤN

Truyện ngắn giả tưởng Giáng Sinh

BA THÁNH LỄ NỬA ĐÊM

(Les trois messes basses)

ALPHONSE DAUDET

I

- Hai con gà tây mái nhồi nấm hả Garrigou.

- Vâng, thưa cha khả kính, hai con gà tây mái nhồi đầy nấm tuyệt vời. Con biết rõ vì con đã giúp nhà bếp nhồi đầy nấm mà cha. Da gà chiên sẽ dòm rụm và thật căng phồng…

- Giêsu, Ma…! Ta rất thích ăn nấm!... Garrigou, đưa cho ta áo lễ trắng nhanh đi nào… Con còn thấy gì ở nhà bếp nữa nào, ngoài các con gà tây mái hả?

- Ồ, tất cả những thức ăn ngon cha à. Kể từ buổi trưa là chúng con chỉ phải nhổ lông các con gà lôi, chim đầu rìu, chim trĩ, gà gô đen. Lông vũ, lông tơ tung bay khắp chốn. Rồi các đầu bếp lại mang những con cá chình, cá chép vàng óng, cá hương… từ đầm nước lên đó cha.

- Nè Garrigou, những con cá hương to cỡ nào vậy?

- Thưa cha đáng kính, chúng nó to như vầy nè, khủng luôn đó.

- Ôi, Chúa ơi, dường như ta đã thấy chúng rồi vậy. Con đã rót đầy rượu vào nhạo chưa?

- Vâng, con đã rót rồi, thưa cha đáng kính. Nhưng có thế chứ! Nó không có giá trị như loại mà chút nữa cha sẽ uống sau khi tan lễ nửa đêm đó. Nếu cha nhìn thấy thứ rượu nầy trong phòng ăn của lâu đài, tất cả các bình rượu đầy tràn đều ánh lên đủ màu sắc hết. Còn các chén dĩa, bát chủ yếu đều được chạm khắc và bằng bạc, bông hoa, các chân nến nhiều ngọn!... Chưa bao giờ con nhìn thấy một bữa tiệc đêm Giáng Sinh như vậy cả. Ngài hầu tước đã cho mời tất cả các lãnh chúa vùng lân cận. Cha sẽ cùng dự tiệc với ít nhất là bốn mươi người, chưa kể ngài pháp quan, viên lục sự… A, cha thật quá hạnh phúc được có mặt ở đó nhé, thưa cha khả kính. Con thì có thể đánh hơi những con gà tây mái, mùi nấm theo con khắp nơi… um…

- Kìa, kìa con ơi, chúng ta hãy giữ gìn đừng phạm tội mê ăn uống, nhất là trong đêm Giáng Sinh chứ… Hãy đi đốt đèn nhanh lên và rung chuông đầu lễ đi nào; bởi vì gần đến nửa đêm rồi, chúng ta không nên để trễ…

Cuộc trò chuyện nầy xảy ra vào một đêm Giáng Sinh vào năm ơn phúc 1600 và hơn nữa chăng… giữa Đức ngài khả kính, Balaguère, cựu Tu viện trưởng dòng thánh Barnabé, hiện phụ trách nhà nguyện do các lãnh chúa miền Trinquelage lập ra, và tên thầy tu nhỏ bé Garrigou, hay ít là cái người mà ông ta nghĩ là Garrigou, bởi vì các độc giả sẽ biết là ma quỷ đã hiện hình bằng gương mặt tròn trĩnh và những nét mơ hồ của tên trẻ tuổi giữ các đồ thánh để dễ xúi giục vị linh mục khả kính vào sự cám dỗ làm ngài phạm tội mê ăn uống khủng khiếp. Cho nên, trong lúc người gọi là Garrigou đó kéo từng hồi chuông nguyện đường rung lên inh ỏi bằng tay, thuộc trên đất của lãnh chúa, Đức ngài đã mặc xong áo lễ trong phòng thánh của lâu đài; tâm trí đã bối rối bởi tất cả những sự mô tả về nghệ thuật ăn ngon, ngài tự nhủ một mình khi mặc áo:

- Những gà tây mái quay, cá chép vàng óng ánh, những con cá hương to lớn như vậy ư!...

Bên ngoài, gió đêm thổi tản mác nhạc chuông đi, và những ánh sáng cứ càng xuất hiện từ bóng tối trên sườn núi Ventoux, mà ở trên đó, các ngọn tháp cũ kỹ ở Trinquelage vươn cao. Đó là những gia đình các người làm rẽ đi lễ nửa đêm ở lâu đài. Họ vừa leo lên đường dốc vừa hát, từng nhóm năm hoặc sáu người. Người cha cầm lồng đèn trên tay đi trước. Các bà mẹ thì trùm những chiếc áo rộng không tay màu nâu có những đứa trẻ nép sát và ẩn náu ở trong đó.

Mặc cho giờ giấc khuya khoắc và giá lạnh, đoàn người dũng cảm nầy vẫn hăng hái bước đi vì được xác định ý nghĩ là sau khi tan lễ họ sẽ được dự tiệc ở gian dưới bếp như mọi năm. Thỉnh thoảng trên con đường dốc gồ ghề, xe tứ mã của một vị lãnh chúa, có những người cầm các bó đuốc đi trước làm lấp lánh cửa kính xe ngựa dưới ánh trăng sáng, hoặc là một con la cái vừa đi nước kiệu vừa lúc lắc những cái lục lạc và qua ánh sáng lờ mờ của những chiếc lồng đèn lớn bị sương mù che phủ, các người làm rẽ nhận biết và cúi chào vị pháp quan trên đường đi:

- Xin chào, xin chào ông chủ Arnoton!

- Chào, chào các anh chị!

Đêm tối trong vắt lên các vì sao trong giá lạnh. Gió bấc rét buốt, và một cơn mưa đá mỏng nhẹ rơi xuống không đủ làm ướt quần áo, vẫn giữ được một cách trung thành tập tục các lễ Giáng Sinh trắng đầy tuyết rơi.

Tòa lâu đài như tiêu điểm trên tận đỉnh cao của sườn đồi với khối lượng khổng lồ các ngọn tháp, các đầu hồi nhà, tháp chuông nguyện đường vươn lên trên nền trời xanh đen, và một loạt ánh sáng yếu ớt nhấp nháy, qua lại, lung lay trong tất cả các cửa sổ giống như những đốm lửa tàn tro trên nền sẫm tối của ngôi nhà.

Để đi đến nguyện đường, những cỗ xe tứ mã, các gia nhân, những chiếc kiệu phải đi qua cầu treo, cửa tường thành, băng qua sân ngoài, tất cả đều sáng rõ dưới ánh đuốc và ngọn lửa của dãy nhà bếp. Mọi người đều nghe tiếng leng keng của các cây xiên nướng thịt, tiếng lách cách của soong nồi, tiếng va chạm của pha lê và bát dĩa bằng bạc gây ồn ào náo động trong việc sửa soạn các bữa tiệc, thêm vào đó, một làn hơi ấm tỏa hương thơm thịt quay, các loại rau thơm, nước sốt hỗn hợp đã khiến cho những người làm rẽ, linh mục phụ trách nguyện đường, vị phán quan đều liên tưởng:

“Bữa tiệc nửa đêm mà chúng ta sẽ tham dự ngon lành làm sao!”

II

Reng, reng… reng, reng…!

Thánh lễ nửa đêm bắt đầu. Trong ngôi nguyện đường của lâu đài, một vương cung thánh đường thu nhỏ với những vòm cung đan chéo nhau, gỗ sồi được lát lên hết chiều cao của các bức tường, thảm thêu trải dài, đèn bạch lạp lớn đều được thắp lên. Ôi, đông người quá! Ôi đầy đủ các trang phục! Đây trước hết là vị lãnh chúa miền Trinquelage, trang phục áo lụa trơn lễ hội có đuôi và ve áo màu hồng ngồi trong hàng ghế gỗ chạm khắc chung quanh cung thánh và bên cạnh ngài là tất cả các lãnh chúa khách mời hàng quý tộc vương tôn.

Trước mặt, bà cụ hầu tước quý phái ngồi ở ghế quỳ phủ nhung mặc chiếc áo dài gấm màu đỏ lửa, và bà phu nhân trẻ hầu tước miền Trinquelage đội chiếc mũ tháp viền ren cao ngất in các hình vẽ theo mốt mới nhất của triều đình nước Pháp.

Hiện diện đằng sau là vị pháp quan Thomas Arnoton và viên lục sự chủ nhân Ambroy, hai tiêu điểm quan trọng giữa những tơ lụa chói chang lòe loẹt và gấm vóc dệt hoa, các ngài mặc áo đen với những bộ tóc giả rộng lớn nhọn hoắc với gương mặt cạo râu nhẵn nhụi. Rồi những tên quản nô béo tốt, thị đồng, thợ may, quản lý viên phu nhân Barbe đều đến, các xâu chìa khóa đeo lủng lẳng cạnh sườn, được móc vào một bàn phím bạc mỏng. Trên những hàng ghế ở trong cùng, gian ngoài, các đầy tớ gái, gia đinh các người làm rẽ, và cuối cùng, đằng xa kia, sát với cánh cửa mà các anh phụ bếp đóng mở một cách kín đáo, đi vào tham dự một chút không khí thánh lễ giữa hai món sốt và đã mang hương vị bữa tiệc nửa đêm vào thánh đường như tất cả đang mở hội và ấm áp nhờ những đèn bạch lạp lớn được thắp lên bên trong.

Có phải vì nhìn thấy những dải băng trang trí mà vị chủ tế bị đãng trí, lo ra không? Có phải trước đó cái chuông nhỏ nổi giận của Garrigou rung lên dưới chân bàn thờ với sự vội vã khó chịu hết sức, dường như kêu lên liên tục:

“Chúng ta hãy nhanh lên, chúng ta hãy nhanh lên nào!… Chúng ta sẽ xong thánh lễ sớm hơn, sẽ dự tiệc sớm hơn!”.

Sự việc là mỗi lần chiếc chuông nhỏ của ma quỷ đó rung lên, vị linh mục quên hết thánh lễ và chỉ nghĩ đến bữa tiệc nửa đêm thôi. Ông ta tưởng nghĩ đến những đầu bếp đang làm náo động ồn ào, những bếp lò nổi lửa như lò rèn, hơi nước tỏa ra từ những nắp nồi hé mở, từ hơi nước ấy hai con gà tây mái nhồi đầy nấm, da căng phồng, có vân nhũ chạy lên trên thật tuyệt đẹp…

Hoặc hơn thế nữa, ông ta thấy từng đoàn thị đồng mang các chiếc mâm phủ những hương thơm quyến rũ và ông theo họ đi vào căn đại sảnh đã sẵn sàng cho bữa đại tiệc. Ôi! Niềm hoan lạc! Kìa, chiếc bàn rộng mênh mông đầy ắp và sáng rực, những con chim công phủ bộ lông đẹp đẽ, gà lôi giương cánh nâu đậm vàng óng ánh, những chiếc bình màu hồng ngọc, những kim tự tháp hoa quả chói sáng giữa những cành lá xanh tươi, những con cá kỳ lạ được bày trên một lớp lá thìa là, vảy cá lấp lánh như xa cừ như vừa mới vớt lên khỏi mặt nước, với một bó rau thơm phức cài trong lỗ mũi của loài thủy quái nầy như Garrigou đã kể (A, vâng là Garrigou). Ảo giác thật sống động đối với những kỳ quan đó nên dường như với Đức ngài Balaguère thì tất cả các món ăn kỳ diệu ấy đã được dọn ra trên tấm khăn thêu trải bàn thờ, và hai hoặc ba lần thay vì đọc Dominus vobiscum (Chúa ở cùng anh chị em) ông ta làm nên bất ngờ khi đọc Benedicite (Chúc tụng Chúa).

Ngoại trừ những sự khinh suất nhẹ đó, quý ngài đã cử hành thánh lễ rất chu đáo, không bỏ qua một dòng kinh sách, không bỏ sót một sự bái gối nào; và tất cả đều tiến hành khá hoàn hảo đến khi kết thúc thánh lễ thứ nhất; bởi vì các độc giả cũng biết là trong ngày Giáng Sinh thì cùng một linh mục phải cử hành liên tiếp ba thánh lễ. “Rồi, xong một lễ”, vị linh mục phụ trách nguyện đường tự nhủ với tiếng thở dài nhẹ nhõm, rồi không để mất một giây phút nào, ông ta ra dấu cho tên thầy tu hay là người mà ngài nghĩ là tên thầy tu của mình… và…

Reng… reng… reng…

Thánh lễ thứ hai bắt đầu và cũng bắt đầu tội lỗi của quý ngài linh mục Balaguère.

“Nhanh lên, nhanh lên. Chúng ta hãy nhanh lên”. Chiếc chuông nhỏ của Garrigou cất giọng chua chát hét vang bên tai ngài và lần này vị chủ tế khốn khổ đã hoàn toàn bị lôi cuốn bởi con quỷ tham ăn, ông nhảy xổ trên sách lễ, đọc ngấu nghiến các trang kinh nguyện với ham muốn quá thể về sự thèm ăn kích thích quá mức. Ông cúi mình, đứng lên, làm dấu thánh giá, bái gối một cách mãnh liệt, rút ngắn các động tác để kết thúc thánh lễ sớm hơn. Ngài vừa mới dang hai tay trên sách Phúc Âm liền đấm ngực đọc kinh Confiteor (Kinh Cáo Mình). Giữa tên thầy tu và ông ta, chính Ngài lại lắp bắp nhanh hơn, các đoạn kinh và các bài đáp ca nhảy từ hàng trên xuống hàng dưới rất khẩn trương. Các câu kinh chỉ đọc nửa chừng mà không hề mở miệng, điều đó sẽ làm mất nhiều thì giờ, ông hoàn tất buổi lễ bằng những câu thì thầm không ai hiểu được:

Oremus ps… ps… ps… (Chúng ta hãy cầu nguyện)

Mea culpa… pa… pa… (Lỗi tại tôi… lỗi tại… lỗi tại…)

Giống như những người hái nho gấp gáp ép nho trong thùng gỗ, cả hai người vừa vùng vẫy bơi trong tiếng La tinh của thánh lễ vừa làm vấy bẩn khắp nơi chốn. Balaguère đọc lên:

Dom… scum! (Chúa… cùng anh chị em)

… Stutuo!… (…cùng cha…) Garrigou đáp lại, và chiếc chuông nhỏ bị nguyền rủa ở kia liên tục rung từng tiếng vào tai họ, như những chiếc lục lạc cột ở cổ ngựa chạy trạm để chạy nước rút hết vận tốc. Các bạn độc giả hãy nghĩ xem với chuyến hành trình kia thì thánh lễ nửa đêm sẽ được giải quyết nhanh chóng thôi.

“Xong lễ thứ hai!”, vị linh mục thở dốc, rồi không kịp thở, mặt đỏ gay, đầy mồ hôi, ông bước thật nhanh xuống tam cấp bàn thờ, và…

Reng… reng… reng…

Đó là thánh lễ thứ ba bắt đầu. Chỉ còn vài bước chân nữa là dẫn đến phòng tiệc; nhưng than ôi, bữa tiệc nửa đêm càng đến gần thì ngài Balaguère bất hạnh ấy càng cảm thấy bị vây bởi sự thiếu kiên nhẫn và tham ăn đến điên rồ. Sự nhìn thấy những con cá chép vàng óng, những con gà tây mái quay đều ở kia càng được củng cố. Ông sờ vào chúng, ông… chúng. Ôi Chúa ơi!... Các món ăn bốc khói, rượu tỏa hương thơm; còn chiếc chuông nhỏ nổi giận vừa lắc những cái lục lạc vừa hét lên với ông ta:

“Nhanh lên, nhanh lên, nhanh hơn nữa đi!”

Nhưng làm thế nào mà ông ấy có thể cử hành thánh lễ nhanh hơn được? Đôi môi của ông ta động đậy điều không thể hiểu được. Ông ta không phát âm ra tiếng nữa… Riêng trường hợp nầy là gần như gian lận với Đức Chúa Trời và ăn cắp thánh lễ của Người rồi… Chính ông ấy đã làm thế, hỡi người khốn khổ kia! Từ cám dỗ đến cám dỗ, ông ta bắt đầu bỏ qua một chương, rồi hai chương sách kinh, rồi Thư các Tông Đồ dài quá, ông không đọc hết, đọc lướt qua Phúc Âm, không bắt Kinh Tin Kính, bỏ sót Kinh Lạy Cha, đọc sơ sài Kinh Tiền Tụng bởi những nhảy vọt lướt nhanh như vậy thật đáng đày xuống hỏa ngục đời đời, luôn có tên Garrigou hèn hạ là người thứ hai với sự thỏa hiệp tuyệt vời theo sau (vade retro Satanas: Satan, hay cút đi) hắn nâng vạt áo lễ, lật các trang sách lễ cứ mỗi lần hai tờ, xô đẩy giá để sách thánh, làm ngã các nhạo đựng rượu lễ và không ngừng rung cái chuông nhỏ càng lúc càng lớn hơn, càng lúc càng nhanh hơn.

Các độc giả phải chi nhìn thấy gương mặt hoảng sợ mà tất cả các người đang dự lễ bắt buộc phải dõi theo điệu bộ của vị chủ tế thánh lễ mà họ không nghe được một tiếng nào cả, những người nầy thì đứng lên, trong khi người khác thì đang quỳ gối, người ngồi kẻ đứng; tất cả các giai đoạn cử hành thánh lễ kỳ lạ này đang hòa vào nhau lẫn lộn trên các băng ghế nhà thờ với các tư thế khác nhau. Ngôi sao Giáng Sinh đang trên đường đi từ trời đến hang bò lừa tái mặt ghê sợ vì trông thấy sự bối rối, lẫn lộn nầy.

“Tu viện trưởng làm lễ nhanh quá đi, ta không thể theo kịp”. Bà quả phụ già lắc lắc chiếc mũ trên đầu như việc sai quấy.

Ông chủ lâu đài Arnoton mang đôi kính mắt lớn gọng thép trên mũi, tìm thấy giáo dân của mình đang xô bồ, lộn xộn như thế, thật quái lạ! Nhưng tận sâu thẳm, tất cả những người tử tế nầy cũng đều nghĩ đến sẽ dự bữa tiệc nửa đêm nên chả nổi giận khi thánh lễ cử hành nhanh như chớp; nên khi Đức ngài Balaguère, gương mặt rạng rỡ, quay xuống cộng đoàn, đọc hết sức lớn tiếng rằng: Ite, missa est (Thánh lễ đã xong, anh em hãy đi!) chỉ có một giọng đồng loạt đáp lời trong ngôi nguyện đường “Deo gracias” (Tạ ơn Chúa) rất vô cùng sung sướng vui vẻ, mọi người tự tin rằng đã được nâng cốc đầu tiên trong bữa tiệc nửa đêm.

III

Năm phút sau, các vị lãnh chúa đều ngồi tại đại sảnh và vị linh mục nguyện đường cùng ở giữa họ. Tòa lâu đài được thắp sáng thì trên xuống dưới, vang lên những bài ca, tiếng la, cười, nói ồn ào, còn Đức ngài đáng kính Balaguère đang cắm cây nỉa vào cánh con chim trĩ, dìm mình trong cơn sóng của rượu lễ và nước ép thịt rất ngon tuyệt và cũng đắm mình trong nỗi ân hận tội lỗi của mình.

Người khả kính tội nghiệp nầy vì ăn uống quá độ, đã qua đời trong đêm do cơn bệnh đột ngột khủng khiếp, không có thì giờ nào để ăn năn tội, và buổi sáng ông ta lên trời mà vẫn còn mang vướng mắc về tai tiếng của những cuộc lễ hội trong đêm trước và tôi (tác giả) để cho các bạn độc giả suy ngẫm về những gì mà ông ta đã nhận lãnh:

“Hãy đi khuất mắt ta, hỡi tên tín hữu xấu xa! - Vị Quân Vương Phán Xử, chúa tể của muôn loài - Lỗi của nhà ngươi khá nặng nề để xóa hết một đời đạo đức… A, ngươi đã đánh cắp của Ta một đêm thánh lễ… Vậy thì nhà ngươi sẽ trả lại cho Ta ba trăm lễ tại chỗ, và nhà ngươi chỉ vào được Thiên Đàng khi nào nhà ngươi đã cử hành xong ba trăm lễ Giáng Sinh trong chính nguyện đường của nhà ngươi có sự hiện diện các người đã phạm tội vì lỗi của nhà ngươi và với nhà ngươi…”

…Và đây là câu chuyện truyền thuyết thật của Đức ngài Balaguère mà người ta thường kể ở xứ sở ô liu. Ngày nay, lâu đài miền Trinquelage không còn nữa, nhưng ngôi nguyện đường vẫn còn đứng sừng sững trên đỉnh cao nhất của ngọn núi Ventoux, trong lùm những cây sồi xanh tươi. Gió đánh vào làm lay động cánh cửa đã long ra, cỏ mọc nghẽn lối ngưỡng cửa ra vào, chim xây tổ ở những góc bàn thờ và trong khuôn cửa sổ trên cao mà các kính ghép màu đã biến mất từ lâu. Tuy vậy, hình như là hàng năm vào dịp lễ Giáng Sinh, có một ánh sáng kỳ diệu lang thang qua giữa sự đổ nát ấy và đi từ các thánh lễ đến các bữa tiệc nửa đêm, những người nông dân bắt gặp ở ngôi nguyện đường ma nầy, những ngọn bạch lạp lớn vô hình được thắp cháy lên trong không khí trọng thể, dù tuyết rơi hay gió thổi. Nếu các độc giả muốn thì cứ cười nhạo về việc nầy, nhưng có một người trồng nho trong vùng tên Garrigue có thể là hậu duệ của Garrigou đã xác nhận với tôi là vào một đêm lễ Giáng Sinh nọ, anh ta có hơi say xỉn nên đi lạc trong núi về phía Trinquelage và đây là những gì anh ta đã thấy…

Không có gì cả cho đến mười một giờ khuya. Tất cả đều im vắng, tối đen, không có sự sống nào. Bất thình lình, vào lúc nửa đêm, một tiếng chuông đổ trên gác chuông cao, tiếng chuông già nua, cũ kỹ, có vẻ như đang ở cách hàng mười dặm. Trong thời gian ngắn ngủi, ở con đường lên dốc, Garrigue thấy những ánh lửa run rẩy, những bóng người mờ ảo. Dưới cánh cửa lớn của nguyện đường người qua lại, thì thầm:

- Xin chào chủ nhân Arnoton!

- Chào, chào các anh chị!

Khi mọi người đều đi vào, người trồng nho rất dũng cảm, nhẹ nhàng tiến đến gần cửa, nhìn qua cánh cửa vỡ thấy một quang cảnh kỳ lạ. Anh ta thấy mọi người xếp hàng đi qua chung quanh cung thánh, ở gian giữa trong nguyện đường đổ nát như là các hàng ghế xưa kia vẫn còn. Những vị phu nhân đẹp đẽ ăn mặc gấm vóc với những chiếc mũ viền đăng ten, các lãnh chúa đeo trang sức nặng nề từ trên xuống dưới, những nông dân mặc áo đại lễ vạt rộng thêu hoa, như vậy có những bậc tiền bối, tất cả đều có vẻ già nua, khô héo, bụi bậm, mệt mỏi. Thỉnh thoảng, các loài chim đêm, khách thường xuyên của nguyện đường, bị đánh thức bởi ánh sáng của các đèn bạch lạp lớn, bay lên lượn vòng chung quanh ngọn đèn lửa cháy thẳng đứng và mơ hồ như bị đốt lên sau một bức màn nhẹ, trong suốt và điều làm Garrigue thích thú nhiều là một nhân vật nào đó mang đôi kính lớn gọng thép chốc chốc lại động đậy bộ tóc giả cao đen, lại có con chim đang đứng ngay trên ấy làm vướng víu tóc, lặng lẽ đập cánh.

Nơi cung thánh, một cụ già nhỏ bé mang vóc dáng trẻ thơ, quỳ gối ở chính giữa rung chiếc chuông nhỏ không lục lạc một cách tuyệt vọng, nó không phát ra một tiếng nào trong khi vị linh mục mặc bộ áo lễ bằng vàng cũ kỹ, đi qua lại trước bàn thờ, đọc những lời kinh mà không ai nghe được tiếng nào…

…Chắc chắn đó là Đức ngài Balaguère đang cử hành thánh lễ nửa đêm thứ ba của ông ta.

HOÀI LY phỏng dịch


Phụ bản III

MỘT VÀI MÁNH-KHÓE GIAN-XẢO

CỦA GIỚI IN VÀ BÁN SÁCH

MÀ NGƯỜI CHƠI SÁCH

CẦN PHẢI COI CHỪNG

Chơi tranh, chơi đồ chạm, ngày nay nhiều người thưởng-thức. Đến như chơi sách, lại là một nghệ thuật và một thú vui khác nữa. Kẻ khoe mình sành sỏi, người tự phụ “chỉ có ta đây là thông-thạo”, mỗi người có một ý-định không giống nhau, chỉ giống nhau chăng là cả ba đều là vật hy-sinh nạp mạng cho bọn gian-thương, lái sách, hằng ngày gọt đầu khách hàng bằng những lá sách, khi còn ở nhà buôn thì đẹp đẽ như “thiếp Lan-Đình”, bằng những tranh xinh như “đồ chánh hiệu Con Nai”, bằng những phiến ngà “mua mau kẻo hết” nhưng trời ôi, khi trả tiền rồi về nhà coi lại: không phải thiếp Lan-Đình mà là giấy có bôi lọ, không phải tranh thiệt mà là tranh mạo-tể, còn nói gì, những phiến ngà, đó là mấy cục xương cá voi hay sừng nai, chạm chạm trổ trổ để lòe đời. Quăng đi thì tiếc tiền, để lại thì mỗi lần đi ngang món vật, phải học ôn lại những danh-từ vừa nghe lóm được của chị bán cá mới dọn về bên phố!

Trong ba hạng khách phong lưu, anh chơi sách là một nhơn vật hãn hữu. Anh tự hào quyển sách, trên đời, chỉ có quyển sách trên đời là ngoạn hảo tuyệt trần. Tranh thì “yên lặng như tờ”, đá cổ thì câm. Không như quyển sách, “nỉ non giấy vắn tình dài”, khi thống thiết đến làm rơi giọt lệ trên má mỹ nhơn, khi ai oán hùng hồn đến khách nhu nhược cũng muốn “đất bằng sấm dậy”, tay vỗ ngực, miệng than: “ta đây há dễ thấy sự bất bình làm ngơ?”.

Người chơi sách thêm được dễ tánh, không mấy chú trọng đến màu mè sặc sỡ. Tranh thường phải nhiều màu lòe loẹt mới vui mắt; đá cũng phải “ngọc ảnh Diêu Đài” mới quý. Người chơi sách không kén: “giấy trắng mực đen” là đủ, miễn sao giấy ấy phải là giấy in, và màu đen ấy là màu mực nhà in thứ tốt. Kể về gàn thì không ai kém ai, nhưng đối với người chơi sách thì luôn luôn kỳ vọng chẳng bao giờ được thỏa: Viện sách, tủ sách đã đầy ứ, mà vẫn chưa bằng bụng: “Tôi chưa có bản Kiều năm ấy”, “Những quyển của nhà văn Mỗ, tôi góp chưa đủ bộ”. “Anh nhắc tôi mới nhớ: Quyển Ba tháng ở Paris của Thượng Chi, trước ở trong tủ tôi, bị chạy giặc mà mất tiêu, kiếm cuốn khác chưa ra”, vân vân và vân vân… Nói ra thì nhảm nhí, người ta cho mình là mềm môi. Không nói thì “chơi sách” là một “thú câm” còn gì?

Bất luận đó là “bibliophile” (người chơi sách tinh luyện) hay “bibliomaniaque” (người chơi sách hổ lốn), cả hai đều si mê tàng tịch(1) đồng cảnh trạng những người chơi đồ họa (gravures), tế họa (miniatures), ngà chạm (ivoire), cổ đồng (bronze) hoặc tranh sơn dầu (toiles peintes)…

Người chơi sách có khi ngồi hàng giờ nầy qua giờ nọ, tê-lê-mê trước một bản in đặc-biệt, và hả-hê thích-thú khi gặp một bản chép tay hay sách cổ-bản incunables(2).

V.H.S.

LỆ NGỌC st.

---------------------

(1) Si-mê tàng-tịch: say mê tiếng đờn tích-tịch tình-tang.

(2) Những sách bên Âu-Châu, phải in trước năm 1500 mới được mang danh “incunables”.

NHỮNG CON NGỰA LẠ

1. Ngựa Song Vĩ Hùng của Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt là vị tướng lừng danh của Việt Nam dưới triều Lý Nhân Tông (1072-1127). Năm 1075 vua nhà Lý sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem mười vạn quân sang vây đánh và hạ được thành Khâm Châu, Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông và Ung Châu thuộc tỉnh Quảng Tây rồi rút về. Trong lịch sử Việt Nam, Lý Thường Kiệt là vị tướng duy nhứt đem quân đánh dấn sang Trung Quấc chiếm và phá được thành lũy của Trung Quấc. Tướng tài danh thì cỡi con ngựa chiến cũng đặc biệt đó là con Song Vĩ Hùng. Con ngựa có hai cái đuôi và lông cứng. Ra trận, khi thấy chủ tướng núng thế, nó quay lại dùng đuôi lông cứng của nó đập vô mắt ngựa địch làm ngựa địch nhảy càn. Tướng trên lưng ngựa té và bị giết.

2. Ngựa Hô Lôi Báo của Thượng Tư Đồ

Thượng Tư Đồ là tướng nhà Tùy, bấy giờ Tùy Dạng Đế giết anh và cha để lên ngôi (Thuyết Đường tập 1 trang 144)

Lý Mật được tôn lên làm vua và xưng là Tây Ngụy vương đem quân tới Giang Đô bắt hôn quân. Đến ải Lâm Dương do Thượng Tư Đồ giữ. Hắn cỡi ngựa Hô Lôi Báo ra đối địch. Khâu Thụy nói:

“Chúa thượng vô loài, giết cha hại anh làm điều vô luân vô đạo, phải đâu là minh chúa để tôi trung dốc lòng thờ…”

Thượng Tư Đồ xông tới đánh và giựt bờm Hô Lôi Báo, nó rống lên phun khói đen làm ngựa Khâu Thụy lăn ra vật ngã Khâu Thụy, Tư Đồ đâm Khâu Thụy chết. Sau Tần Thúc Bảo lừa bắt Hô Lôi Báo và Trình Giảo Kim nhổ hết lông bờm nên mất tác dụng.

3. Ngựa Mộc Vĩ Câu của tướng Cao Ly là Tả Hùng

(Thuyết Đường tập 2 trang 97-98)

Vương Thế Sung bị tội trốn lên Dương Châu, đi chơi đến một ngôi chùa trên núi, nằm ngủ trên gác tam quan. Sáng mở cửa ra, nghe một tiếng nổ lớn, có một cây hoa lạ đẹp mọc lên. Sung vẽ hoa dâng cho Tùy Dạng Đế và cho biết cây hoa đó ở Dương Châu. Dạng Đế và đoàn tùy tùng lên Dương Châu xem hoa. Tới Thái Nguyên, Dạng Đế để tam cung lục viện ở Tấn Dương cung, giao cho cha con Nguyên Bá trấn giữ. Lý Uyên cướp ngôi nhà Tùy, sai Nguyên Bá đánh chiếm Tràng An và lên ngôi hoàng đế. Dương Lâm thấy quá nửa thiên hạ đã mất về tay các phản vương nên nói với Dạng Đế viết 18 đạo chỉ vời họ đến thí võ, ai đứng đầu thì thay ngôi thiên tử, Dạng Đế xin nhường. Đó là kế để phản vương giết lẫn nhau hòng tiêu diệt. Từng phản vương lên đài thách đánh. Ngũ Vân Thiệu đâm chết Mộc Kim. Tướng nước Cao Ly là Tả Hùng lên đánh Thiệu. Tả Hùng cỡi con ngựa Mộc Vĩ Câu không đuôi. Đánh vài hiệp, Tả Hùng vỗ vào mông Mộc Vĩ Câu ba cái, nó thét lên một tiếng, vươn cái đuôi dài đánh vỡ đầu Vân Thiệu. Nhưng vì Hô Lôi Báo phun khói đen, Vĩ Câu ngã lăn, Tần Thúc Bảo đâm chết Vĩ Câu và Tả Hùng.

4. Ngựa Đích Lư của Lưu Bị (Tam quấc diễn nghĩa tập 3 - mục Lưu Hoàng Thúc nhảy ngựa Đàn Khê - Hồi 34)

Đối trận, Huyền Đức nói ngựa Trương Vũ cỡi là ngựa thiên lý. Triệu Vân xông ra đánh và giết được Trương Vũ bắt ngựa dâng cho Huyền Đức. Lưu Biểu khen ngựa tốt, Huyền Đức tặng ngay. Khoái Việt nói đó là ngựa sát chủ, Biểu trả ngựa. Y Tịch đón Huyền Đức kể là Khoái Việt nói ngựa sát chủ ông còn cỡi làm gì. Huyền Đức nói người có số, con ngựa hại sao được. Tịch phục lắm. Đan Phúc (tên khác của Từ Thứ) nói rằng: “Ngài hãy đem con ngựa này tặng cho người nào mà ngài thù ghét nhứt. Đợi khi nào nó hại người ấy rối, ngài sẽ cỡi, tất không việc gì nữa”. Huyền Đức nói ông chưa dạy ta điều gì chính đạo đã vội khuyên ta ngay một việc ích kỷ hại nhân, Bị đây không thể nào theo được. Phúc nói tôi vẫn nghe tiếng sứ quân là người nhân đức nhưng chưa dám tin nên mới đem lời ấy ra thưa. Từ đó, Đan Phúc kính trọng Lưu Bị.

Sái Mạo mưu giết Huyền Đức, hắn mời tới dự tiệc Lưu Biểu bịnh nên nhờ Lưu Bị tiếp khách. Sái Mạo cho hai trăm quân phục trong thành. Ngoài thì cho vây kín ba mặt thành chỉ chừa cửa phía Tây vì có suối Đàn Khê khó vượt qua.

Mạo lại đặt một tiệc bên ngoài để mời các quan võ và Triệu Vân được mời vô đó. Y Tịch mời rượu tới Huyền Đức thì đưa mắt nói khẽ: “Xin ông thay áo”. Huyền Đức ra nhà tiêu, Y Tịch theo báo là Sái Mạo định giết ông, ba cửa thành vây kín còn chừa cửa phía Tây thôi.

Huyền Đức vội vàng lên ngựa nhắm cửa phía Tây chạy miết. Tới suối Đàn Khê, ông quất ngựa xuống suối. Ngựa quỵ hai chưn trước. Huyền Đức giơ roi hô lớn: “Đích Lư! Đích Lư! Nay mi hại ta rồi!”. Con ngựa rún mình vọt qua khỏi suối.

Sái Mạo tới, kêu Huyền Đức trở lại và sửa soạn cung tên chực bắn, Huyền Đức vội chạy đi. Lúc nầy Triệu Vân mới đuổi tới.

5. Ngựa Ô Truy của Hạng Võ

Là ngựa hoang hung dữ bị Hạng Võ chinh phục được. Hạng Lương đặt tên là Ô Truy.

Khi xung trận, ngựa Ô Truy vùn vụt chạy như bay. Về hướng núi Cửu Ly, quân Hán bốn mặt bổ vây, các đạo binh trấn tám hướng đánh ập vào một lượt, Hạng Vương tới lui hùng hổ, trong một ngày đánh lui hơn 60 viên tướng Hán. Ngu Cơ khuyên nghỉ ngơi, Hạng Vương nói: “Ngày trước ta đi đánh Chương Hàm, chín ngày chưa được một bữa ăn no, thế mà ta còn thắng huống chi chỉ một ngày”. Hạng Vương bị vây, Trương Lương thổi tiêu, quân Sở trốn. Chu Lan và Hoàn Sở thu góp được 800 quân vào giục Hạng Vương phá vòng vây thoát nạn. Ngu Cơ liều thân nơi Cai Hạ (trang 504, Hán Sở tranh hùng), Hạng Vương cỡi ngựa Ô Truy, gặp tướng đánh tướng gặp quân chém quân thoát ra được tám vòng vây. Đường bị nghẽn, ngựa sa xuống một vũng lầy rất lớn, Ô Truy phi mình nhảy thoát và vào rừng ẩn náu. Tang tảng sáng, quân Hán đánh bọc vào. Quán Anh, Dương Võ, La Thắng, Sài Võ, Ngân Hấp đồng xông vào vây Hạng Vương và mười tùy tốt. Ngài vung đao vun vút dẹp cả quân Hán không tướng nào dám đến gần. Quân Hán lại ồ ạt kéo đến vây. Hạng Vương lui tới chém luôn ba tướng, quân Hán phải lùi lại. Hôm ấy Hạng Vương đánh cả thảy chín trận, giết chín tướng và cả ngàn quân Hán thoát khỏi vòng vây tới bờ bắc sông Ô Giang, người đình trưởng cắm thuyền đợi đó và mời Hạng Vương sang sông tìm kế hưng binh. Hạng Vương lắc đầu và tặng ngựa Ô Truy, sai tùy tốt dắt xuống thuyền. Ngựa hí lên mấy tiếng đưa mắt nhìn Hạng Vương rồi nhảy ùm xuống sông mất dạng. Hạng Vương tự tử.

Ngựa là con vật mà các tướng cỡi đi đánh giặc như nhau nhưng:

- Hạng Võ và Lưu Bị tận dụng được sức mạnh và tài thiên lý của nó để thắng giặc và thoát hiểm.

- Tả Hùng và Mộc Vĩ Câu không đuôi, có phải Tả Hùng biết cái đuôi ẩn của nó mà huấn luyện để thủ thắng trong thế bất ngờ?

- Song Vĩ Hùng có lông đuôi cứng, phải chăng Lý Thường Kiệt huấn luyện để nó trợ lực với ngài mà thắng giặc?

- Cuối cùng Hô Lôi Báo có đặc điểm phun khói đen làm ngựa khác phải rúm vó ngã lăn, Thượng Tư Đồ biết tận dụng đặc điểm đó và huấn luyện để dùng được mà thủ thắng?

Tóm lại, chiến phẩm như nhau nhưng ai khéo tạo được nét riêng không ai ngờ tới thì thủ thắng vậy.

Khánh Hội - Quận 4 Saigòn ngày 21-7-2017

PHẠM HIẾU NGHĨA


NHÀ THỜ ĐÁ PHÁT DIỆM

Từ thị xã Ninh Bình, theo Quốc lộ số 10 đi về phía biển khoảng 28km thì đến thị trấn Phát Diệm. Nơi đây có nhà thờ đá là một công trình kiến trúc nghệ thuật phương Đông nổi tiếng không những trong nước mà cả ở nước ngoài.

Quần thể kiến trúc nhà thờ Phát Diệm tọa lạc trên diện tích hàng chục hec-ta (243 x 117m), 6 nhà thờ, 1 tòa Phương Ðình (gác chuông), 3 hang núi đá nhân tạo, 1 nhà hát, các tượng thánh, hệ thống trụ cổng, hàng rào… bố cục hài hòa với cảnh quan xung quanh. Kiến trúc tinh tế kiểu đình chùa làng quê Việt Nam nhưng lại uy nghi bề thế.

Từ ngoài đường giữa đi vào, khách thấy một cái hồ rộng lớn, hình chữ nhật rộng chừng hơn một hecta có tường xây bao quanh. Chính giữa hồ có một đảo nhỏ hình vuông, trên có tượng Chúa Giêsu đứng dang tay cao 3 mét. Đằng sau thấp thoáng những mái cong trùng điệp lớp lớp soi bóng xuống ao hồ. Theo đường vòng quanh hồ tới một cổng đá lớn với ba lối vào, gọi là cổng đá đông có khắc chữ Hán: “Đông Dịch”. Tương tự phía tây là cổng “Tây Dịch”

Qua cổng, khách đi theo những con đường lát đá phiến và những hàng nhãn rợp bóng mát. Trước tiên khách đi thăm Phương Đình (đình hình vuông). Đây là một cái đình làng đồ sộ và rộng lớn, đứng sừng sững soi bóng xuống mặt hồ. Phương Đình rộng 21m, sâu 17m, cao 25m, có 3 tầng (1899). Tầng dưới xây bằng đá xanh, chia thành ba lòng, trong mỗi lòng có một sập đá. Sập đá giữa dài 4,2m, rộng 3,2m, dày 0,3m, tương truyền là sập rồng của vua thời nhà Hồ ở thành Tây Giai (Thanh Hóa) ngày xưa. Trên các vách có vòm cong là những chấn song đá hình cây tre, trúc. Mặt chính của Phương Đình có khắc chữ: Thánh Cung Bảo Tòa.

Tầng giữa bằng đá có mái, đặt một trống cái lớn. Bốn góc tầng này có 4 tháp nhỏ mái cong. Tầng trên cùng bằng gỗ lim, mái cong, đặt quả chuông Nam, cao 1,9m, đường kính 1,1m, nặng 2 tấn. Tương truyền chuông được đúc bằng 87 nén vàng. Tiếng chuông ngân vang vọng xa đến 10km. Đứng ở Phương Đình, có thể nhìn toàn cảnh vùng sông nước Kim Sơn với hơn 20 nhà thờ lớn nhỏ.

Đằng sau Phương Đình là Nhà thờ Lớn. Đây là nhà thờ chính của toàn khu với mặt trước bằng đá, chạm khắc tinh vi hoa hồng và các vị thiên thần. Dưới ba tháp vuông mái cong là năm lối vào bằng đá.

Phía trong bàn thờ bằng đá ở trong nhà thờ là bức vách bằng gỗ sơn son thếp vàng, chạm khắc hoa lá theo kiểu phương Đông và 12 thiên thần. Trải qua hơn 100 năm, đến nay, các tấm chạm gỗ vẫn còn rực rỡ như mới.

Hai bên nhà thờ chính là 4 nhà thờ nhỏ hơn: nhà thờ thánh Giuse, nhà thờ thánh Phêrô (1896), nhà thờ thánh Rôcô (1895), nhà thờ Trái tim Chúa Giêsu (1889). Mỗi nhà thờ đều có kiểu kiến trúc chạm khắc trên đá, trên gỗ tinh xảo, tuyệt vời, theo đúng truyền thống phương Đông. Đáng chú ý nhất là nhà thờ Trái tim Đức Mẹ nằm ở phía tây bắc nhà thờ thành Phêrô. Nhà thờ này được xây dựng vào năm 1883, dài 15,3m, rộng 8,5m, cao 6m. Toàn bộ nền, cột, xà tường, chấn song, tháp, bàn thờ đều bằng đá. Phía trước có một gác chuông nhỏ hai tầng, giống như lầu trong cung vua. Mặt tiền nhà thờ gồm một tòa Đức Mẹ ở giữa, với hai tháp hai bên. Hai tháp này hình vuông, cao 5 tầng, có nét giống Tháp Bút ở hồ Hoàn Kiếm Hà Nội. Mặt trước nhà thờ có khắc 4 thứ tiếng, trên cùng là chữ Việt: “Trái tim rất thánh Đức Bà chẳng hề mắc tội tổ tông truyền, cầu cho chúng tôi”. Đây là một kiệt tác, một viên ngọc chói sáng trong tòa lâu đài bằng ngọc của nhà thờ đá Phát Diệm.

Phía sau nhà thờ chính có 3 hòn núi lớn, cây cối um tùm. Núi giữa gọi là hang Bêlem, cao 12m. Khách đi qua cổng đá nhỏ, qua một hồ hình bán nguyệt có bắc cây cầu xây cong cong để vào hang. Trong hang núi có nhiều ngóc ngách với những thạch nhũ, những đường lên lối xuống. Ở núi Sọ thì đặt một tượng Chúa chịu hình đóng đinh có Đức Mẹ và thánh Gioan hai bên. Phía dưới núi Lộ Đức (phía đông) là vườn hoa với vòi phun nước, trên núi có cây cổ thụ xòe tán. Tượng Đức Mẹ Lộ Đức được đặt tại đây. Ba ngọn núi nhân tạo bề thế này khiến du khách lầm tưởng là núi thật, tác hợp với ao hồ phía trước nhà thờ tạo thế “sơn thủy” hữu tình.

Khu nhà thờ đá và toàn vùng Kim Sơn trước kia chỉ là vùng đất bồi với bùn lầy và cỏ sậy. Năm 1828 ông Nguyễn Công Trứ được triều đình Huế cử ra khai phá lập ra huyện Kim Sơn và Tiền Hải (Thái Bình). Tháng 10.1890 linh mục Trần Lục (Cụ Sáu) xây dựng nhà thờ trên nền đất phù sa bồi này trong 34 năm, mua sắm nguyên vật liệu hết 10 năm. Gỗ lấy ở Bến Thủy (Nghệ An) cách 200km đem về làm cột, trong đó có 16 cây cột cao 11 mét nặng 7 tấn. Đá lấy ở Thiện Dưỡng (cách 30km) có phiến nặng hàng chục tấn, chất lên bè mảng kéo về. Các phiến đá nặng mấy chục tấn sau khi chạm khắc công phu được đưa lên bằng cách đắp đất ụ cao, rồi kéo đá lên ráp vào. Xong đâu đấy thì moi hết đất ra làm nền luôn. Chính vì vậy khu vực nhà thờ có nền cao hơn xung quanh 1 mét. Các phiến đá đều lắp ghép kín khít đến độ tinh xảo. Các vì kèo gỗ lim nặng 25 tấn được kéo lên qua điểm tựa là các đồi đất thoai thoải. Tới nay, trải qua 110 năm xây dựng, chịu đựng bao mưa nắng, bão táp nhà thờ vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Lăng mộ của cha Trần Lục được giáo dân xây ngay sau Phương Đình để tưởng nhớ ông. Năm 1953, đại bác của Pháp bắn trúng gian cuối phía đông nhà thờ chính, năm 1972 Mỹ thả 8 quả bom rải từ Nhà Chung ra tới ao hồ, nhà thờ vẫn đứng vững không nứt rạn.

Đứng trước ngôi thánh đường hùng vĩ này mới thấy được ý chí, tài năng của những người thợ đã sáng tạo ra nó. Họ đã để ra bao nhiêu công lao khó nhọc để tạo nên một ngôi nhà thờ hùng vĩ, uy nghi và đầy tính nghệ thuật phương Đông. Quần thể kiến trúc Nhà thờ đá Phát Diệm đã được Bộ văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 18.01.1988. Năm kỷ niệm 100 năm xây dựng Nhà Thờ Lớn đã được cử hành trọng thể. Vào dịp bế mạc Năm kỷ niệm. Nhà Thờ đã long trọng cử hành lễ Cung hiến Nhà thờ. Tấm bia ở phía cực tây của mặt tiền, tức là ở vị trí tương ứng với bia thành lập, ghi lại sự kiện này vào ngày 6 tháng 10 năm 1991.

BÙI ĐẸP st.


Tự nhiên

Tự nhiên, anh đến nhà tôi chơi. Từ hồi nào có khi nào anh ghé đâu. Nhà tôi còn bừa bộn lắm sau ca bán hàng. Tôi kéo cái ghế con con cho anh ngồi. Tôi cười với anh. Anh cũng thế. Rồi anh chia sẻ về những buổi học hỏi gì đó về kinh thánh tại DCCT. Chúng tôi bàn luận trong không khí vừa ân cần vừa hướng tâm. Rồi anh ra về sau nụ cười hiền lành. Hai hôm sau, tôi được tin anh mất. Việc anh đến nhà bất ngờ quả là một ấn tượng sâu sắc cho tôi mãi đến bây giờ.

Chị không lập gia đình. Mang khối u trong ngực mà chị như mang niềm vui. Đi đâu cũng Halleluia, Tạ ơn Chúa. Trên đường đi lấy thuốc nam về “uống thêm”, chị vô ý tông xe vào người khác. Đôi bên chào nhau vui vẻ vì chẳng ai làm sao cả. Rồi chị phát giác ra bàn chân chảy máu dầm dề. Về đến bệnh viện, chị quăng xe và vào phòng cấp cứu. Bác sĩ xem vết thương và nói rằng chị mất 2 ngón chân. Chị nhe răng cười và tự đặt cho mình biệt danh “tám ngón”. Rồi chị phẫu thuật 1 bên vú. Chị cập nhật biệt danh thành “tám ngón một núi”. Chị vẫn yêu đời. Vẫn Halleluia, Tạ ơn Chúa. Đi đâu cũng đi. Trên chuyến xe ra Vũng Tàu, chị ngồi rũ mà vẫn mỉm cười khi có ai hỏi han chi đó. Rồi chị không còn đi đâu được nữa. Đến thăm chị, chị ngồi đó, ôm cái bàn nhỏ chống chọi với cơn đau. Bọn chúng tôi thì thầm với chị mấy câu kinh, hát qua kẽ răng những bài ngợi ca Đấng Toàn Năng. Đêm đến, chị ngồi đó, mấy đứa em nằm chung quanh. Khi cần điều gì, chị lấy cái que nhỏ chọc chọc vào em nào đó giúp chị chút việc cần. Rồi chị cũng ra đi về bên kia thế giới. Kẻ ở lại có thật nhiều điều để nói về người đã khuất.

Tòa giải tội của ngài khá đặc biệt. Ngài ngồi ở giữa tòa có màn che kín, 2 bên là 2 bàn quỳ cho kẻ đến xưng. Khi giải tội cho ai xong, giọng ngài lớn và rõ: Việc đền tội, con đọc năm chục một lần! Ai cũng vậy! Và ngài kéo cái cơ phận gì không biết, nghe “rột” một cái: đến phiên người bên kia xưng. Tối đến, Ngài đi tuần chung quanh nhà thờ, có lần, biết lũ trẻ cứ trượt patin trên thềm cửa trước nhà thờ. Ngài lặng lẽ đi bộ đến, tay cầm cái roi mây. Khỉ thật! Mấy đứa nhỏ nghịch ngợm chỉ còn có nước ôm mấy cái cột mà ăn roi, chẳng chạy đâu khỏi. Có khi, mấy chàng thanh niên mấy cô thiếu nữ trong xóm tụ tập cạnh nhà thờ hát hò ồn ào khi đêm đã khuya. Ngài nhẹ nhàng như con mèo lẻn đến, tịch thu của lũ gái trai kia cây guitar khi bài ca đang còn dang dở. Đem về cất trong phòng vừa xong, thì cái lũ ấy mò đến đập cổng ầm ầm, réo tên của ngài inh ỏi. Ngài ra mở cổng; chúng chạy mất. Ngài rượt theo. Và chiến thuật dương đông kích tây của lũ ấy thành công mỹ mãn. Có đứa vòng lối ngược lại, vào phòng ngài, lấy lại cây đàn cũ để mai còn có cái mà hát, mà nhảy nhót trêu ngài, khi ngài đứng trên lan can rọi ánh đèn pin, xua qua xua lại như nhắc nhở, khuya rồi, về đi nhé. Rồi Ngài cũng theo bước tiền nhân mà về cõi vĩnh hằng. Có một cha xứ như thế đó. Có một cha xứ giỏi võ tay xách thùng nước nhảy băng qua các mái nhà để chữa cháy cho cái xóm gần đó...

Ba chàng chơi với nhau khá thân. Hắn bự con nhất. Có lẽ cũng ăn chơi nhiều nhất. Mà cũng tốt bụng như cả gia đình cha mẹ, anh em hắn. Có lần họ rủ nhau đi chụp hình. Lên sân thượng của tiệm chụp để có không gian rộng lớn. Đẩy qua, đẩy lại, anh chàng bé con nhất đứng giữa vì hắn không tin dị đoan; Anh chàng cận thị một bên, bên kia là hắn. Kiêng với chả cữ sao đó mà rốt cục người đứng giữa vẫn nhăn răng sống, anh chàng cận thị bệnh tật đầy mình, ba chìm bảy nổi, hàng tỉ cái lênh đênh vẫn nhìn đời dù phải qua cặp đít chai. Còn hắn - kẻ bự con nhất - lại nằm đó. Các em hắn sẵn sàng giúp anh mình dù phải tốn rất nhiều tiền. Bác sĩ mời vợ anh đến. Khi biết 2 đứa con còn rất nhỏ mà kết quả cuộc giải phẫu không lấy gì làm phấn khởi, bác sĩ khuyên nên dành số tiền ấy cho các cháu bé thơ ngây. Thế là anh ra đi như phải thế...

Dường như ai đó chết đi cũng để lại ít nhiều kỷ niệm không bao giờ quên được. Còn ta thì sao nhỉ? Lát nữa, ta phải đến nhà cậu em lai rai với cậu, sau mấy lần từ chối vì bận việc. Liệu mai ta còn sống không đây nữa...

LAM TRẦN

Một vấn-đề đặc-biệt của các bà: GHEN

GHEN CŨNG CÓ MỘT NGHỆ-THUẬT

- Không nên GHEN mà làm đổ vỡ hạnh-phúc

- Nên GHEN, nhưng phải biết kiến-tạo hạnh-phúc gia-đình.

Khi các bà ghen, các ông chồng cần phải làm gì ?

Bài của VIỆT-ANH

Đã là con người, có lấy vợ lấy chồng, thì phải ghen. Có thể nói ghen là bản chất của con người. Người ta còn biện bạch thêm cho cái ghen, vì ghen tức là yêu. Hay là có yêu mới ghen, thì cũng vậy.

Cái ghen của phụ nữ

Có thể nói: chị em phụ-nữ, đi lấy chồng, đều đã có ghen, hay là phải ghen. Khi thấy chồng san sẻ tình yêu với một người khác, người đàn-bà thấy uất-ức, đau-khổ, vì chồng đã không chân thành với mình. Hầu hết những bà ghen, là vì tình yêu. Phải nhận rõ điều ấy,

Tuy nhiên, ngoài cớ đó, còn phải kể những cớ phụ thuộc khác: trong cái ghen, cũng có một chút lòng tự-ái bị thương-tổn (sợ chị em chê cười), và cũng có một ý-chí muốn bảo-vệ quyền lợi của mình và con mình (sợ chồng vung phí tiền tất gia-đình sẽ thiếu thốn).

Các bà nên ghen không

Đặt một câu hỏi như vậy, cũng bằng thừa. Vì ghen đã là một cái thiên tính “Trời” phú cho, thì ai mà không ghen…

Sở dĩ chúng tôi đặt câu hỏi đó ra, là để được cơ hội trả lời rằng “ta cũng nên ghen” dù rằng ta có thể không ghen.

Ta cũng nên ghen, vì 2 cớ chính:

- Cái ghen điểm thêm một chút mãnh-lực cho tình-yêu. Không ghen tức là lòng yêu đã chết.

- Không ghen, thì người chồng sẽ được tự-do và lợi dụng tự-do đó để đi chơi-bời mèo chuột. Thói thường, những người chồng được vợ nể, sợ, lại tự nghĩ có thể đi chơi tự-do, chứ không nghĩ rằng phải nể, phải thương vợ mình.

Bởi 2 cớ đó, người vợ cũng nên ghen.

Nhưng phải biết cách ghen ! Vì ghen là một nghệ-thuật

Nhưng, ngay cả trong cái ghen hành-động của người vợ cũng phải rất thận-trọng.

Có cái ghen làm cho hạnh-phúc gia-đình đương có, mà giảm đi, mất đi.

Có cái ghen làm cho gia-đình tan vỡ.

Và có cái ghen làm cho hạnh-phúc gia-đình thêm chặt-chẽ, mối tình vợ chồng thêm đằm thắm.

Cũng như có cái ghen giải quyết các mối khổ-tâm, hàn-gắn lại hạnh-phúc gia-đình đã rạn nứt.

Thế nào là ghen làm giảm hạnh-phúc gia-đình

Vợ chồng yêu nhau khắng-khít.

Nhưng vì người vợ bao giờ cũng có tiên kiến rằng “đã là đàn-ông thì phải hay đi chơi gái, hay chọc-rỡn đàn-bà” nên người vợ bao giờ cũng nhìn các hành-động của chồng bằng con mắt đa-nghi. Do đấy, nhiều khi người vợ hiểu lầm chồng.

Chồng đi làm, mắc nhiều công-chuyện, phải về chậm: vợ tưởng là chồng đi chơi với gái.

Chồng cần bận quần-áo đứng-đắn để giao thiệp, vợ tưởng chừng chồng đã có nhân-tình.

Ra ngoài đường, chồng có thể ngó mọi người, kể cả các đàn-bà khác: vợ tưởng rằng chồng có ý thèm muốn người khác.

Có nhiều bà ra cửa đón chồng về bằng những cái nhìn soi-bói: coi có cái tóc dài nào trên vai chồng, có mùi nước thơm lạ nào trên áo chồng, có vết son nào trên má chồng, v.v…

Vì đa-nghi, các bà có những hành-động cật-vấn chồng về mọi chuyện, làm cho chồng buồn-bực. Hạnh-phúc đương đầy đủ, do đấy phải sứt mẻ đi.

Ấy là cái ghen vô lý, cái ghen không duyên cớ làm giảm hạnh-phúc gia-đình. Người vợ phải biết tin ở chồng. Đa-nghi quá, ghen hão huyền không duyên cớ, chỉ khổ cho mình và hại cho mối tình chung.

Thế nào là ghen để cho mối tình thêm đằm thắm

Không có chứng cớ rõ-rệt, chỉ vì đa-nghi, mà ghen, cái đó, người vợ không có lỗi. Người vợ chỉ có lỗi khi nào vì ghen vô-lý mà rầy la, làm khổ chồng như trong trường hợp trên.

Nhưng người vợ có thể có những cử-chỉ nhã-nhặn hơn trong việc ghen ấy. Thí dụ: thấy chồng đi làm về chậm, đừng nên rầy la chồng “Đi với con điếm nào”, mà nên vui vẻ nói: “Mình đi làm về chậm, em lo lắm. Mà em cũng ghen lắm, em tưởng chừng như mình đi với cô nào đẹp… Nhưng mình chẳng nỡ lừa dối em nên em cũng lại bớt ghen”. Thiết tưởng trước những lời như vậy, làm chi mà chồng chẳng phải thương yêu vợ thêm, và giải-thích hoặc xin lỗi vì chỗ mình về chậm?

Ghen đổ vỡ ái-tình hạnh-phúc

Trở lên trên là nói về những trường hợp ghen không có lý-do, ghen vì đa-nghi. Nhưng nếu người vợ biết chắc chắn là chồng đã có nhân-tình rồi, người vợ sẽ làm gì?

Phần lớn các bà thấy chồng có ngoại-tình, bèn quá giận dữ mà không thể nào kiềm chế được những hành-động của mình.

Vì thế mà người ta thường được thấy, những cảnh đánh ghen dữ-dội: có bà chửi mắng chồng, cáu, ngắt, đánh xé chồng; có bà sỉ-nhục chồng ở giữa công-chúng; có bà tới nhà tình địch chửi mắng rêu rao ngoài đường lộ hàng mấy giờ đồng hồ.

Ghen như thế, có lợi không ?

Xin thưa ngay: không lợi. Người chồng bao giờ cũng có chút tự-ái. Nếu sỉ-nhục chồng, chạm lòng tự-ái của chồng quá, thì chồng có thể vì cáu mà đi hẳn với “mèo”. Lúc đó, nếu “mèo” khéo mơn trớn lòng tự-ái của chồng mình, thì thật là nguy cho tình vợ-chồng lắm đó.

Một khi chồng còn có lương-tâm, còn có thể trở về với vợ và con, thì đừng bao giờ nên có những hành-động gạt cho chồng đi xa ra. Phải bỏ hẳn cái lối ghen tầm thường, cái lối ghen làm đổ bể hẳn hạnh-phúc.

Phải có nghệ-thuật ghen, để hàn gắn lại hạnh-phúc đương rạn nứt

Nếu gặp cảnh ngộ có chồng hư đốn, bỏ gia-đình đặng tìm những thú vui khác, thì phải coi như chồng mình mắc một thứ bệnh phải chữa. Hạnh-phúc gia-đình rạn nứt, phải tìm cách hàn gắn lại đừng tức giận điên cuồng mà đập cho đổ nát.

Phải làm thế nào, để hàn gắn lại?

Ngồi yên, nhẫn-nại chịu cảnh đau-thương, tin tưởng rằng chồng mình sẽ không thể bỏ được vợ con, và thế nào cũng phải bỏ các mèo, nhân-tình, để hoàn-toàn trở lại với vợ con chăng?

Chúng tôi không dám nghĩ như vậy. “Mèo” phần nhiều chỉ cốt đục khoét chồng mình, và khi nào chồng mình hết tiền, “mèo” sẽ đi. Cái đó đúng nhưng nếu để cho chồng mình thong thả đi chơi, lỡ ra việc ăn sâu, sẽ khó gỡ.

Cho nên người vợ sẽ phải khôn khéo, rất khôn khéo; phải hành-động thế nào cho hạnh-phúc đừng tan vỡ, mà cũng phải tích-cực hoạt-động để cắt đứt những mối tình lạc loài, tới phá hoại hạnh-phúc gia-đình.

Người vợ sẽ phải làm 2 loại công việc:

1. Xem xét lại cử chỉ của mình, để thay đổi cho hợp với ý chồng. Nhiều khi vì chồng chán ngán đời sống trong gia-đình, nên mới đi chơi ngoài. Phải làm cho đời sống gia-đình vui tươi lại, cho chồng thấy rằng sống với vợ con là một sự sung sướng.

2. Tích-cực hoạt-động một cách khôn khéo để gỡ ra cho chồng. Phải biết gợi sự hiểu biết của chồng. Phải khuyên giải, nhưng từ tốn, nhẹ nhàng. Lời lẽ đôi khi có quyết-liệt, có sự hăm dọa, nhưng lại dịu đi ngay. Làm thế nào mà khơi lại tất cả mối tình thương vợ, thương con trong đầu óc chồng, những kỷ-niệm cũ làm cho chồng cảm thấy sự vô lý và đê hèn của kẻ có vợ mà còn có mèo. Có thể tìm đến người đàn-bà lạ kia để nói chuyện thẳng, nhẹ nhàng mà quả quyết, để cho họ hiểu rằng không thể nào phá nổi mối tình vợ chồng này.

Kết luận

Ghen: được lắm. Nhưng nếu biết trấn tĩnh, kiềm chế được lòng mình, thì bao giờ cũng tìm được phương pháp hay để giải-quyết, để hàn gắn hạnh-phúc gia-đình.

V.A.

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.


Phụ bản IV

Đọc sách giùm bạn

ĐÓA HOA TÌNH VẪN NỞ:

Gồm 42 bài vừa nhạc vừa thơ của anh Lê Nguyên (8/2017), trong đó có một số bài song ngữ Việt-Pháp với nhiều đề tài: Phật, Chúa, tình yêu, hoa lá cỏ cây…

GIẤC MỘNG CHÂN TRỜI

Anh Thanh Phong đã trở lại và lợi hại hơn xưa với tập thơ GIẤC MỘNG CHÂN TRỜI do N xb. Hội Nhà Văn phát hành 5/2015.

Cuốn sách khổ 14x20 dày 300 trang viết về nhiều đề tài, nhiều nhân vật nổi tiếng…

Với lời tâm sự “Tôi bước vào làng thơ khi tuổi đời đã quá 50, nay đã bước qua 75 cũng có được mấy trăm bài thơ. Hay dở tùy người đọc, chần chừ mãi mới đủ duyên cho đứa con chào đời”. Xin mọi người đón nhận và chắc chắn chúng ta sẽ có tập thứ hai và những tập kế tiếp.

Cuộc đời và tác phẩm của linh mục ĐẶNG ĐỨC TUẤN

Sách khổ 14x20 dày 300 trang của Giáo sư Hán Nôm Nguyễn Văn Thoa (Đại học Cửu Long) sau gần hai mươi năm biên soạn và chỉnh lý để mọi người có thể nghiên cứu…

Sách này do Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.Hồ Chí Minh xuất bản 8/2017. Đặc biệt từ trang 224 là tập sách cổ của linh mục Joseph Nguyễn Hữu Triết.

Như lời giới thiệu của Linh mục JB. Huỳnh Công Minh: “Người ta chỉ nghe đến tên tuổi người tín hữu Công giáo yêu nước Nguyễn Trường Tộ, mấy ai biết linh mục yêu nước Đặng Đức Tuấn đã dâng các bản điều trần trước cả Nguyễn Trường Tộ. Nhà nước ta đã xác minh được điều này và đã tôn vinh ngài bằng cách đặt tên cho một con đường ở thành phố Huế: Đường Đặng Đức Tuấn”.

Và chính tác giả Gs. Nguyễn Văn Thoa đã tóm lại: “Cuộc đời và sự nghiệp của linh mục Đặng Đức Tuấn đã thể hiện trọn vẹn bản sắc đa diện của một sĩ phu yêu nước nồng nàn, một tông đồ trung kiên dũng cảm, một danh sĩ tài hoa uyên bác mà nội dung tập sách này chưa thể diễn tả đầy đủ, còn chờ vào những luận văn của các nhà nghiên cứu sau này tiếp tục tìm kiếm, phát huy để cống hiến cho học giới trong và ngoài nước một cái nhìn toàn diện về linh mục Đặng Đức Tuấn. Đó là điều chúng tôi mong mỏi trông chờ”.

HÀ MẠNH ĐOÀN

“ÔNG INTERNET”

JOHN T.CHAMBERS…

ANH LĨNH

Ngày 26/8/1999 Cisco Systems Inc., công ty khổng lồ về hệ thống nối mạng đồng ý mua Cerent Corp. với giá 6,9 tỷ USD dù nhà sản xuất thiết bị điện thoại này mới chỉ được thành lập có hai năm và doanh số chỉ có 10 triệu USD.

Nhân vật chính đằng sau thương vụ này là ông John T.Chambers, tổng giám đốc chấp hành (CEO) của Cisco Systems Inc. kể từ năm năm trở lại đây. Báo giới Mỹ gọi John T.Chambers là “Ông Internet” vì ông có tham vọng biến Cisco trở thành nhà cung ứng thiết bị điện tử số một trong một trật tự thế giới mới, ở đó cái xương sườn cho mọi hoạt động viễn thông, thương mại chính là Internet.

“Nếu chúng tôi làm đúng những gì cần làm thì chúng tôi có cơ may trở nên một trong những công ty có ảnh hưởng lớn nhất thế giới”, John T.Chambers nhận xét. Dưới sự lãnh đạo của ông, Cisco Systems Inc. đã đạt những kết quả rất đáng nể: doanh thu từ 1,3 tỷ USD năm 1994 đã tăng lên 12,2 tỷ USD trong năm tài chánh 1998-1999 (kết thúc vào 31/7 qua). Theo các nhà phân tích thì doanh thu của Cisco sẽ tiếp tục tăng 37% trong năm nay và đạt 16,6 tỷ USD.

Cuối tháng 8 qua gã khổng lồ Mỹ IBM cho biết họ sẽ ngưng sản xuất sản phẩm nối mạng để xoay sang bán thiết bị cho Cisco. Như vậy có nghĩa là Cisco sẽ rảnh tay để tung sản phẩm mới với hy vọng đạt thêm khoảng 7 tỷ USD trong thời gian ba năm tới. Doanh thu tăng cao, lợi nhuận cao đã giúp giá cổ phiếu của công ty tăng hơn… 2300% trong vòng năm năm qua. Trị giá thị trường của Cisco nhờ vậy đã đạt 220 tỷ USD, xếp thứ năm thế giới.

Mục tiêu mà John T.Chambers đặt ra cho Cisco là đẩy doanh thu tăng lên gấp ba lần trong thập niên tới. Để thực hiện được điều này, Cisco phải cố len chân vào thị trường thiết bị điện thoại trị giá 225 tỷ USD, nơi mà thị phần của Cisco chưa được 1%. Trong khi đó các đối thủ của Cisco đều là những tên tuổi lớn, chẳng hạn Nortel Networks Corp (Canada) và Lucent Technologies Inc. (trước đây không lâu còn là nhánh chuyên cung ứng thiết bị cho chàng khổng lồ viễn thông AT&T, Mỹ).

Người ta tin rằng John T.Chambers sẽ đạt được mục tiêu vì ông ta chưa bao giờ thất bại. Là con trai của hai bác sỹ hành nghề tại Charleston, bang West Virginia, lúc còn trẻ, Chambers mắc bệnh dyslexia nên khả năng đọc rất kém và đã có hai năm phải miệt mài học thêm với thầy riêng mới đuổi kịp được các bạn cùng trang lứa. Các khiếm khuyết này đã là động lực khiến Chambers luôn muốn vươn lên.

Bù lại cho khiếm khuyết khả năng đọc, anh ta lại có trí nhớ rất tốt. Sau khi tốt nghiệp khoa luật Đại học West Virginia và bằng MBC Đại học Indiana, Chambers được nhận vào ban bán hàng của IBM. Người phỏng vấn tuyển dụng anh vào làm ở IBM nói với anh rằng: “Anh đến đây không phải để bán kỹ thuật cho khách hàng mà là bán cho họ giấc mơ”. Chambers nhớ mãi điều đó.

Sau sáu năm làm việc rất thành công, John T.Chambers chuyển sang làm cho Wang Laboratories Inc.. Lúc ấy công ty này đang rất thành công trong việc thiết kế và kinh doanh các mini computer đe dọa đến chính sự tồn tại của chàng khổng lồ IBM. Tám năm làm việc cho Wang Laboratories, John T.Chambers đã leo đến chức giám đốc bán hàng. Nhưng rồi công ty gặp khó khăn, bản thân ông bị sốc mạnh sau khi phải đi đến quyết định sa thải cả ngàn công nhân.

Năm 1991 John T.Chambers chia tay với Wang Lab. để đến Cisco Systems Inc., lúc ấy còn là một công ty cỡ vừa với doanh thu 70 triệu USD/năm. Không chỉ là một chuyên gia bán hàng kỹ thuật, John T.Chambers còn tỏ ra mình là một chuyên gia tâm lý khi khéo léo thuyết phục các thành viên trong hội đồng quản trị rằng để phát triển rộng hơn thay vì chỉ là một công ty chuyên về kỹ thuật, Cisco cần phải có chính sách tiếp cận và thỏa mãn khách hàng tốt hơn.

Hiện nay tiền thưởng dành cho các viên chức cấp cao của Cisco đều tính trên mức độ thành công của các vị ấy trong việc làm vừa lòng khách hàng. Cũng do nghe theo ý kiến khách hàng mà John T.Chambers đã mua hai công ty Crescendo Communications Inc. (năm 1993 với giá 89 triệu USD) và NetSpeed. “Ông ta đã rất thành công khi làm cho mọi người trong công ty nghĩ rằng họ cũng là người bán hàng”, Tam Dell’Oro, chủ tịch của công ty nghiên cứu thị trường Dell’Oro Group, nhận xét.

Khả năng bán hàng và thuyết phục của Chambers còn được minh chứng qua việc từ năm 1993 đến nay, dưới sự lãnh đạo của ông, Cisco đã chi ra khoảng 20 tỷ USD để mua lại 40 công ty viễn thông, kỹ thuật điện toán, Internet. Tất cả các công ty này đều còn trẻ tuổi đời nhưng lại chứng tỏ khả năng sáng tạo kỹ thuật cao và được quản lý rất hiệu quả.

Với lực lượng này, Cisco, từ một thị trường thiết bị nối mạng trị giá 28 tỷ USD với mức tăng trưởng 15% mỗi năm tiến vào thế kỷ 21 với tham vọng chiếm ngôi vị số một trong thị trường cung ứng thiết bị và giải pháp mạng, Internet, computer, viễn thông. Thị trường này hiện có giá trị 225 tỷ USD, trong đó có những thị khúc đạt mức tăng trưởng cao đến 50%/năm.

Trong khi dẫn dắt Cisco đi lên, John T.Chambers không bỏ qua cơ hội nào để tiếp cận các nhà lãnh đạo, chuyên gia, đồng nghiệp… Ông đã từng nhiều lần vào Nhà trắng trò chuyện với Tổng thống Bill Clinton và riêng trong năm 1998 đã gặp gỡ nói chuyện với hơn 30 vị nguyên thủ quốc gia trong đó có cả Chủ tịch Trung quốc Giang Trạch Dân, Thủ tướng Anh Tony Blair, Thủ tướng Úc John Howard…

John T.Chambers là một nhà quản trị rất trung thành với nền tảng đạo đức gia đình. Ông thủy chung với Elaine Prater, người là vợ ông từ 25 năm qua và không bao giờ thất hẹn với hai con. Không có ngày chủ nhật nào ông vắng mặt ở gia đình riêng. Để có sức khỏe tốt, mỗi tuần ông chạy bộ ba buổi sáng và mỗi năm cùng cha và con trai đi câu cá trên sông, trên biển suốt một tuần.

(Theo Business Week 13/9/1999)

Trần Ngọc Minh st


THỜI GIAN

Có một ngân hàng, mỗi buổi sáng, cung cấp vào tài khoản của bạn 86.400 USD.

Số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua ngày khác.

Mỗi buổi chiều, ngân hàng sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã không dùng hết trong ngày.

Như vậy, bạn sẽ phải làm gì?

Sử dụng hết số tiền đó, dĩ nhiên!

Mỗi người trong chúng ta đều có một ngân hàng như vậy.

Tên ngân hàng đó là THỜI GIAN.

Mỗi buổi sáng, ngân hàng này cung cấp cho bạn 86.400 giây.

Vào mỗi buổi tối, ngân hàng sẽ xóa bỏ, coi như bạn mất thời gian mà bạn không đầu tư được vào các mục đích tốt.

Ngân hàng không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản.

Cũng không cho phép bạn bội chi.

Mỗi ngày, ngân hàng lại mở một tài khoản mới cho bạn.

Mỗi tối nó lại hủy hết những gì còn lại trong ngày.

Nếu bạn không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày, người bị mất chính là bạn.

Không có chuyện quay lại ngày hôm qua.

Không có chuyện tiêu trước cho “ngày mai”

Bạn phải sống bằng những gì bạn có trong tài khoản ngày hôm nay.

Hãy đầu tư vào đấy bằng cách nào đó, để bạn có thể nhận được nhiều sức khỏe, hạnh phúc, và thành công nhất!

Đồng hồ vẫn đang chạy.

Hãy cố thực hiện thật nhiều trong ngày hôm nay.

Để biết được giá trị của MỘT NĂM,

hãy hỏi một học sinh bị ở lại một lớp.

Để biết được giá trị của MỘT THÁNG,

hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.

Để biết được giá trị của MỘT TUẦN,

hãy hỏi biên tập viên của một tuần báo.

Để biết được giá trị của MỘT GIỜ,

hãy hỏi những người yêu nhau đang mong

chờ được gặp nhau.

Để biết được giá trị của MỘT PHÚT,

hãy hỏi một người bị lỡ chuyến tàu.

Để biết được giá trị của MỘT GIÂY,

hãy hỏi một người vừa thoát khỏi một tai nạn.

Để biết được giá trị của MỘT PHẦN NGÀN GIÂY,

hãy hỏi người vừa nhận được huy chương bạc

trong kỳ thi Olympic.

Hãy quý trọng từng giây phút mà bạn có!

Và hãy nên quý thời gian hơn nữa bởi vì bạn đang chia sẻ thời gian đó với ai đấy thật đặc biệt đối với bạn, đủ đặc biệt để có thể chia sẻ thời gian của bạn. Và hãy nhớ rằng thời gian chẳng chờ đợi ai cả.

Ngày hôm qua đã là lịch sử. Ngày mai là một bí ẩn. Hôm nay là quà tặng. Cũng vì vậy mà nó được gọi là PRESENT! (có nghĩa là HIỆN TẠI, mà cũng có nghĩa là QUÀ TẶNG).

KIM SƠN st . từ I nternet

NHỮNG CÂU CHÂM NGÔN

& THÀNH NGỮ ANH MỸ

* East or West

Home is best.

· Ta về ta tắm ao ta

Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.

* There is no place better than home.

· Không nơi nào đẹp bằng quê hương.

* When in Rome do as the Romans do.

(When you find yourself among strangers,

imitate their behaviour and so avoid trouble)

· Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc.

Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.

* The highest tree has the greatest fall.

· Càng cao danh vọng càng nhiều gian nan.

(Trèo cao té nặng).

* Pride goes before a fall.

· Tự cao tự đại làm hại thân mình.

* Good wine needs no bush.

· Hữu xạ tự nhiên hương.

* Empty barrels make much noise.

(Thùng rỗng kêu to).

· Xấu hay làm tốt - dốt hay nói chữ.

* Don’t put off till tomorrow what you can do today.

· Hỏi vợ thì cưới liền tay

Chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha.

(Việc gì có thể làm được hôm nay đừng để đến ngày mai).

* Don’t burn the bridges behind you.

· Chớ nên qua cầu rút ván.

* Diamond cuts diamond.

· Vỏ quýt dày có móng tay nhọn.

Bưởi chua có muối mặn.

* Small rain lays great dust.

· Nhu thắng cương , nhược thắng cường.

(Cơn mưa nhỏ quét sạch đám bụi lớn).

* Better bend than break.

· Một câu nhịn chín câu lành.

(Thà chịu cong còn hơn bị gãy).

* Eaten bread is soon forgotten.

· Oán thù nhớ dai, ân tình quên chóng.

(Bánh mì ăn xong rồi là quên ngay).

* When the cat is away the mice will play.

· Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm.

* When candles are away all cats are grey.

· Tắt đèn nhà ngói như nhà tranh.

* Nothing stings like the truth.

· Trung ngôn nghịch nhĩ.

(Không gì nhức nhối bằng sự thật).

* Most flies are caught by honey than by vinegar.

· Mật ngọt chết ruồi.

(Đa số những con ruồi chết vì mật ngọt hơn là vì giấm).

* To cure the like with like.

· Lấy độc trị độc.

* Wash one’s dirty linen in public.

· Vạch áo cho người xem lưng.

(Đem quần áo dơ ra giặt trước công chúng).

* Still waters run deep.

(Beneath a quiet manner there may be unexpected emotion, knowledge, cunning etc…).

· Dò sông dò biển dễ dò

Nào ai lấy thước mà đo lòng người.

(Họa hổ họa bì nan họa cốt

Tri nhân tri diện bất tri tâm).

* Laugh on the wrong side of one’s mouth.

(Change from joy or triumph to sorrow, or regret).

· Cười người chớ vội cười lâu,

Cười người hôm trước hôm sau người cười.

* He laughs best who laughs last.

(A warning against expressing the triumph too soon).

· Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng.

* Don’t halloo till you are out of the wood.

· Đừng vội lạc quan quá sớm.

(Khi chưa ra khỏi rừng thì chớ vội reo vui).

* So many men so many minds.

· Nhiều thầy thối ma,

nhiều cha con khó lấy chồng.

* A jack of all trades is master of none.

(One who does many things fairly well,

but is not an expert at anything).

· Ngày lắm mối tối nằm không.

* What is everybody’s business is nobody’s business.

· Cha chung không ai khóc.

(Việc gì của tập thể thì không ai chịu trách nhiệm).

* It is one thing to promise and another to perform.

· Nói một đàng làm một nẻo.

* To run with the hare and to hunt with the hounds.

(Try to keep the favour of both parties in a dispute etc…, play a double game).

· Đi với Phật mặc áo cà sa,

Đi với ma mặc áo giấy.

* To measure other’s feet by one’s feet own last.

· Suy bụng ta ra bụng người.

(Đo chân người khác bằng chính chân của mình).

* King in name rather than in fact.

(To have nothing but one’s name and sword).

· Hữu danh vô thực.

(Có tiếng mà không có miếng).

* A fair name is better than riches.

· Tốt danh hơn lành áo.

Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.

* To give a sprat to catch a herring.

(Something small offered in the hope that something big will be obtained in return).

· Thả con săn sắt bắt con cá rô.

Hòn đất ném đi hòn chì ném lại.

* People give nothing for nothing.

· Trao tay mặt bắt chặt tay trái.

* Fine feathers make fine birds.

(Smart clothes make the wearers look handsome).

· Nhà sạch thì mát bát sạch ngon cơm.

(Người đẹp nhờ lụa).

* Return good for evil.

· Lấy ân đức giải oán thù.

Hoàng Chúc st.

TRONG CÔ, TRÒ NHỎ...

- Lan! Lan ơi…

Đang cắm cúi giữa những người và người trong một khu chợ đông. Tôi nghe loáng thoáng như có ai gọi tên mình. Dừng lại ngơ ngác nhìn quanh, không thấy có ai là người đang gọi mình cả. Chắc là ai gọi trùng tên đó thôi. Tôi quay lưng bước tiếp. “Lan… Lan”. Hình như đúng là ai đó đang gọi tôi rồi, lần này tôi quay hẳn người lại nhìn về phía phát ra tiếng gọi. Một bàn tay đang giơ cao vẫy rối rít. Tôi chăm chú nhìn: “A, cô Hòa”, cùng với tiếng thốt lên reo vui, tôi sải bước.

- Trời ơi! Cô. Lâu quá rồi em mới được gặp lại cô.

- Đi vào đây ăn bún với cô, cô đãi em.

- Trời ơi! Bất ngờ quá.

Tôi vui như muốn bật trào cảm xúc ra hết đầu lưỡi vậy. Cô Hòa là cô giáo đã dạy tôi cả hai năm lớp bốn và lớp năm. Tính ra phải đến cả ba chục năm rồi tôi mới gặp lại cô.

- Cô đang ngồi ăn, tự nhiên thấy ai đi qua giống em quá, cô nhìn theo thì đúng rồi, nên chạy ra gọi em đó.

- Ba chục năm rồi, từ một con bé lếch thếch, mà bây giờ cô vẫn nhận ra em.

- Sao không nhận ra, học trò cưng của cô mà.

Tôi vui sướng. Quả đúng khi xưa tôi là học trò cưng của cô thật. Tôi ngay mặt ngắm cô một chút rồi kêu lên:

- Cô vẫn vậy, không khác nhiều.

- Khác nhiều rồi chứ, cô già rồi mà.

- Ba chục năm, cả một nửa đời người, đương nhiên là phải già hơn rồi, nhưng dáng nét cô vẫn như ngày ấy. Mái tóc cô vẫn nguyên kiểu cũ nên không làm gương mặt cô khác đi. Bây giờ cô làm gì ạ?

- Cô vẫn đi dạy thôi. Vẫn là chủ nhiệm lớp năm thôi.

- Vậy là cái mái chèo của cô vẫn bền bỉ khoát nước khai dòng cho những chồi xanh vươn tới.

- Đúng là học sinh giỏi văn của cô ngày xưa. Bây giờ em làm gì? Mấy con rồi?

- Dạ, em vẫn hai con mắt thôi cô.

- Sao thế? Kén kỹ vậy à?

- Em đâu dám kén, mà chỉ là thấy mình không hợp với cuộc sống hôn nhân thôi cô ạ.

- À, Mai Sơn giờ thế nào? Em có hay gặp không?

- Dạ Mai Sơn giờ là trung úy công an tỉnh cô ạ. Vợ cùng ngành, cũng hai con rồi cô. Bây giờ nhìn anh chàng bệ vệ lắm.

- Ừ thỉnh thoảng cô cũng có gặp mấy đứa, ra vẻ thành đạt hết rồi. Nhà em ở đâu?

- A, bữa nào chủ nhật, em đón cô vào chơi nhé. Em có một khu vườn cây ăn quả, một hồ cá, cô vào câu cá nướng ăn cô nha.

- Ui trời, thích thế. Ừ, vậy chủ nhật tới nha. Địa chỉ nhà cô nè.

Cô Hòa mở túi xách lấy ra một cuốn sổ, một cây bút, hý hoáy dòng địa chỉ rồi xé đưa cho tôi. Rồi cô quay bảo người bán hàng:

- Tính tiền đi em, à gói thêm cho chị cây chả quế này nữa nhé.

Khi người bán hàng đưa gói chả, cô đưa cho tôi:

- Em cầm về ăn này.

- Thôi cô…

- Thôi cái gì mà thôi. Vậy nha, chủ nhật lên đón cô nha.

- Dạ, giờ cô về ạ?

- Ừ cô về, còn kịp cơm cho em nó đi học nữa.

Cô trò chia tay, tôi còn đứng ngẩn ra mà nhìn theo dáng cô mãi. Tâm trạng xôn xang, một miền ký ức như cơn gió mùa hạ ùa về, tôi như thấy lại cả những lá vàng, hoa đỏ, ve râm ran, và cả bao gương mặt ngốc nghếch của một thời thơ dại.

Cái lũ học trò chúng tôi ngày ấy mà đem so với học trò cùng lứa bây giờ thì thật là vô cùng khập khiễng. Lớp bốn, lớp năm mà vẫn còn những bạn tè dầm, giận nhau đánh nhau là bù lu khóc mách cô, có đứa đi chân đất, mặc quần cụt đến trường. Các trò chơi thì con trai bắn bi, đánh đáo, con gái hái lá mì buộc túm để đá cầu, nữa thì nhặt lá chơi đồ hàng, nhặt đá chơi ô quan, đứa nào có trái banh da nho nhỏ mà chơi trò banh thẻ thì đã là giàu có. Quà vặt là những củ khoai, quả chuối luộc, hột mít luộc, cái bánh tráng nướng, bắp rang, bắp luộc… cứ có được thứ gì thì đùm dúm cất vào cặp, lên trường bỏ ra cho các bạn cùng ăn. Thì đó là những ngày vừa im tiếng súng, người lớn còn ngổn ngang bề bộn chuyện cái ăn, tấm áo. Trường học một phần cũng là nơi để cột chân mà tránh bớt những sơ sảy của lũ trẻ con hiếu động. Thầy cô lên lớp, một nửa tâm trí còn bận rộn với cái máng lợn, với cái cuốc trật trầy trên mảnh đất tăng gia. Không hiếm những giờ học thầy cô đi vắng, giao lớp cho “Ban cán sự” trông coi. Hồi đó có một bạn lớp trưởng là nữ, nhưng to con, và hình như hơn chúng tôi vài tuổi thì phải. Mỗi lần được giao nhiệm vụ quản lý, thì nàng mặc sức ra oai. Cây thước trong tay cứ veo véo vào mông các bạn, lại còn kiếm vỏ mít bắt bạn quỳ đến sưng cả đầu gối. Cùng là học sinh giỏi với tôi là Mai Sơn, hai đứa thường rinh về những giải thưởng nên luôn được đặc cách trong những lao động trường. Còn nhớ một lần cắm trại. Tôi và Mai Sơn bận rộn với các đề thi trong lớp, ngoài kia các bạn lăng xăng với xoong nồi chén bát. Khi ra khỏi phòng thi, tôi đói đến rủn người, cô Hòa phải bảo Sơn chạy đi mua cho tôi một ổ bánh mì. Đến giờ cơm, thầy trò túm vào, thì mới hay nồi cơm bự chảng đã thành hai lớp, trên sống dưới khê. Nhóm nhà bếp ngẩn tò te, một bạn nhanh ý bảo, đổ thêm nước vào cho thành cháo luôn. Thế là một lúc sau, một nồi cháo nâu nâu nóng hổi được bốn cậu khiêng ra. Thế mà hết sạch. Nghĩ cũng lạ cho cái thời trẻ con nhỉ. Sao cái gì cũng có thể ngon được, cái gì cũng có thể vui được. Lớn dần lên, xa dần đi, giờ nghĩ lại mới thấy những ngày tháng ấy thật thần tiên. Gặp lại cô, tôi như sống lại từng phân ly ký ức. Lũ bạn ngây ngô ngày ấy, giờ thi thoảng gặp lại đôi ba đứa. Chắc sẽ liên lạc rủ tụi nó để đi thăm cô mới được. Nhưng trước mắt là một ngày chủ nhật đầy ắp niềm vui đang đến kia.

- Cô đợi em lâu chưa cô? A, em chào thầy ạ.

- Ừ, chào em. Đến đón cô đi chơi đó hả?

- Dạ. Thầy đi luôn cho vui ạ.

- Thôi, hôm nay thầy bận, cô trò đi chơi vui vẻ nha.

- Dạ, em chào thầy.

Cô trò lên xe đi một đoạn, tôi nói:

- Nhìn thầy hiền quá cô ha. Chắc cô sống hạnh phúc lắm.

- Ừ, cũng tương đối, ngó hiền hiền vậy chứ cũng khó tính lắm đó em.

- Nhưng dù sao cũng yên ả hơn những người có tính gia trưởng, độc đoán, phải không cô? Khó nhưng hiểu tính rồi cũng dễ sống thôi.

- Thì cũng có lúc nọ lúc kia. Nhưng nói chung là ổn.

- Cô lập gia đình năm nào vậy cô? Em nhớ hồi còn dạy em, cô chưa mà.

- Ừ, hình như sau em một khóa đó. Em biết không? Hồi đám cưới cô tụi học trò khóc quá trời, cứ sợ cô lấy chồng rồi không dạy tụi nó nữa. À, còn chuyện này nữa, mỗi lần nghĩ đến là cô lại tức cười. Em biết không? Có một cậu bé đi mừng đám cưới cô là một ổ bánh mì thịt.

- Ui trời! Vui vậy a cô. Đúng là trẻ con mà.

- Thì hồi đó bánh mì thịt là một món ăn cao cấp mà.

- Chắc cậu ấy rất thèm ăn món đó, nên nghĩ cô cũng thèm như vậy.

- Tình cảm trẻ con ngày ấy đơn giản mà đáng yêu đến vậy. Hôm lâu rồi, cô có gặp lại cậu học trò đó. Giờ là giám đốc một công ty rồi, nhắc lại chuyện xưa. Cô trò cười nôn ruột. Cậu ấy bảo bây giờ mà em mang đến một ổ bánh mì thịt như vậy chắc cô cười em khùng quá.

- Em lại nghĩ, nếu cậu ấy mang đến, cô cười nhưng vẫn thấy tình cảm thầy trò sâu sắc, không dễ gì quên.

- Ừ, em nói đúng đó. Thà một món quà như vậy, nhưng cô lại thấy rất ấm áp, rất quý trọng. Không như các em học sinh bây giờ, mỗi năm vào ngày 20-11, cô chỉ muốn đi đâu đó để lánh mặt. Vì những món quà đắt giá mà vô cảm đến buồn không chịu nổi.

- Cái gì cũng có hai mặt. Ngày xã hội tôn vinh thì cũng đáng trân trọng, nhưng không phải ai cũng có một thái độ tôn vinh thực sự. Thời buổi vật chất hóa, cứ quy ra giá là xong tất. Đời bây giờ hầu như tất cả chỉ còn là những bán mua thôi cô ạ.

- Thế nên học trò bây giờ khó dạy lắm em ạ. Nhất là những đứa con nhà giàu, không hiểu cha mẹ chúng tiêm nhiễm cho chúng những ý nghĩ như thế nào, mà nhiều đứa rất hỗn láo khi thầy cô trách mắng răn dạy. Nhiều lúc cô buồn quá muốn nghỉ dạy luôn cho rồi.

Cô thở dài, tôi cũng buồn theo. Những lệch lạc cuộc sống ngày càng nhiều. Những người thuộc thế hệ trước như tôi và cô, chịu ảnh hưởng của một nền giáo dục căn bản, nên không tránh khỏi sốc khi chạm phải những luông tuồng sống xử của một thành phần trong xã hội hiện nay.

- Nhà em kia rồi cô.

- Đâu?

- Chỗ có cái cây to và cao nhất ấy.

- À, cô thấy rồi, mải chuyện, chẳng mấy chốc mà đã đến nơi rồi.

- Gần mười lăm cây số, nhưng được cái đường nhựa không nên đi xe máy cũng nhanh cô ạ.

Tôi dừng xe trước cổng. Cô Hòa bước xuống nhìn qua lại.

- Khu này có vẻ vắng người ở quá hả em?

- Dạ, vì đất ai cũng rộng, nhà nọ cách nhà kia cỡ trăm mét không à. Được cái an ninh khá tốt cô ạ.

Mở cổng xong, tôi chạy xe lên thềm. Cô đi vào sau.

- Ôi chà, cây mít sai quá hả?

- Dạ, mít Tố Lai đó cô, ăn ngon lắm, chừng nào có mít chín em đem ra cô ăn thử. Cô ra thăm hồ cá em đã cô.

Cô Hòa reo lên thích thú khi nhìn thấy cái hồ cá với những chú cá đang bơi lượn.

- Trời ơi, vầy thì có khác chi khu du lịch đâu.

- Để em vô lấy cần lấy mồi ra cô câu nha. Câu cá vui lắm cô.

- Thôi, ngắm thế cũng vui rồi, câu nó chi tội.

- Hổng sao đâu cô, câu vài con thôi, em nướng làm nước mắm gừng cô ăn mê luôn.

- Nghe em nói đã thấy mê rồi.

Tôi quày quả vào nhà đem mấy thứ vật dụng ra.

- Cá là món phụ thôi, với lại để cô vui, chứ em mua đồ nấu bún riêu rồi. Chừng nào ăn thì nấu, cô nha.

- Á, em muốn cô lại nấu bún riêu cho em ăn như ngày xưa đó hả?

Cả hai cô trò cùng cười. Ngày xưa, gia đình cô cũng tàm tạm không đến nỗi quá vất vả, thương đám hoc trò nhỏ bé, lâu lâu cô lại nấu cho một nồi bút riêu, rồi nhìn lũ trẻ xì xà xì xụp mà cười. Kỷ niệm nhỏ xa xưa nhắc lại như vẫn hiện rõ hình ảnh trước mắt. Bộ nhớ con người là một kho lưu trữ tuyệt vời thật. Móc mồi vào lưỡi câu, tôi đưa cho cô cầm.

- Lần đầu tiên cô câu cá đó.

- Chứ thầy chưa đưa cô đi bao giờ ạ?

- Thời gian đâu mà đi em. Thầy cũng bận mà cô cũng bận. Lo cho mấy đứa ăn học đủ mệt phờ rồi.

Tôi chợt nhớ đến một chuyện.

- Cô ơi, có phải giáo trình bây giờ khác trước nhiều lắm phải không cô?

- Ừ, khác nhiều. Vì thế hệ trẻ bây giờ chỉ số IQ cao hơn trước, lại xã hội đang phát triển, nên giáo dục phải theo cho kịp chứ đâu thể tụt hậu được.

- Đành rằng phải nâng cao cho phù hợp với thời đại, nhưng em nghe bạn em than là có nhiều điều bất cập. Ví dụ, mới lớp năm mà đã đưa giáo dục giới tính vào rồi.

- Ừ, chuyện đó đang là một vấn đề đấy. Các em nó còn bé quá, đã nhồi nhét những điều của người lớn vào, quả là rất khó. Nhiều lúc, cô không biết phải giảng bài như thế nào để vừa với giáo trình mà các em lại dễ hiểu.

- Cô biết không? Có lần một người bạn gọi điện cho em, bảo là điên cái đầu vì chuyện học của con cái. Con gái cô ấy cũng đang học lớp năm, một hôm hỏi mẹ: “Mẹ ơi! Xuất tinh là gì?” Em nghe cũng choáng. Bộ giáo dục nghĩ sao mà bắt trẻ con phải biết đến những chuyện như thế? Bảo sao mà mới mười mấy tuổi đã phá thai ầm ầm rồi.

- Khổ lắm em ạ. Không dạy theo giáo trình thì không được, mà dạy theo thì… nhiều lúc cô cũng rất lúng túng không biết phải làm sao.

- Học sinh lớp mười trở đi biết đến vấn đề đó thì vừa, ai lại bắt đứa trẻ lớp năm đã…

- Có lẽ họ cho rằng, không biết thì chúng sẽ tò mò vì thông tin mạng đầy ra, nên phải giải thích cho chúng rõ thì chúng không thắc mắc nữa.

- Đó là họ chỉ nghĩ ở một góc hẹp. Vì chúng nó còn bé quá, phải giảng như thế nào thì chúng mới hiểu. Vì tế nhị, các thầy cô làm sao mà giải thích một cách tường tận được, chỉ có thể lướt qua, mà như vậy thì còn bất cập hơn nữa.

Cô Hòa thở ra một hơi dài:

- Chuyện giáo dục bây giờ nhiều cái đau đầu lắm em ạ. Nhiều đêm cô thức trắng, loay hoay soạn giáo án thế nào để có thể truyền đạt kiến thức cho các em mà không bị phản cảm.

Tôi bất giác nhìn mái đầu đã lơ phơ màu hoa mơ của cô, mường tượng những đêm dài cô trăn trở với bao khúc mắc chuyện đời, chuyện nghề.

- Chán quá cô nhỉ. Cuộc sống bây giờ quá đặt nặng những vấn đề vật chất, nên cứ dồn thúc rằng “nhanh lên, nhanh lên, nhanh lên nữa”. Để những đứa trẻ chưa kịp sống với những hồn nhiên thì đã phải làm người lớn.

- Còn người lớn thì cũng phải nhanh lên để thấy mình mau già.

- Em cảm giác con người bây giờ như một chiếc máy ủi. Cứ cắm đầu ủi ủi xúc xúc, tâm cảm chỉ còn là một chiếc máy tính với bao chu trình toán học.

- Vì thế mà con người ngày nay sống khắc nghiệt với nhau hơn, người ta luôn phải phòng bị những nguy ngại, và tấm lòng thì không còn là một manh chiếu trải giữa sân đình nữa.

Tôi vừa định nối theo câu của cô thì…

- Á, phao động rồi kìa, cô giật đi cô…

Nghe tôi la lên, cô Hòa giật mình, giật nhanh cái cần câu, một chú cá toòng teng.

- A, cô câu được cá rồi. Trời ơi, thích quá.

Nhìn cô cười vui như đứa trẻ. Tôi gỡ con cá bỏ vào cái xô, móc thêm mồi khác vào. Lần này cô vung mạnh cái cần cho lưỡi câu phóng ra xa một cách nhanh nhẹ.

- Cô đã như một tay câu lành nghề rồi đó.

- Thì phải học nhanh vậy mới làm thầy em được chứ. Em có cái vườn này từ bao giờ?

- Cũng gần mười năm rồi cô. Hồi em mới mua, bao nhiêu người bảo em khùng, đang ở giữa phố lại chui vô rừng.

- Thì họ có phải là mình đâu mà họ biết mình muốn gì, cần gì.

- Dạ đúng đó cô, nên em mặc kệ ai nói gì nói. Mình cứ làm những gì mình thích, miễn không ảnh hưởng tai hại đến ai là được.

Hai cô trò cứ thế mà lan man mãi. Đến khi nắng đã khá gắt, tôi và cô mới trở vào nhà để lo cho cái dạ dày. Bún riêu và cá nướng là một bữa đại tiệc cho những tiếng cười giòn giã. Ăn trưa xong, nghỉ ngơi một lúc, tôi đưa cô đi dạo trong vườn. Cây xanh, gió mát, hoa thơm, trái lành, một không gian yên ả, thanh bình. Cô Hòa thả một ánh mắt lên cao thốt:

- Thiên đường quá em nhỉ. Ước gì cô cũng có một nơi thế này để được xả giãn mình mỗi khi mỏi mệt.

- Thiên đường nào có đâu xa. Nhàn tâm là thấy trong ta mỗi ngày mà cô. Lúc nào cô muốn, gọi cho em, em sẽ đón cô vào.

Cô nắm chặt tay tôi, mỉm cười. Chiều xê xế, tôi chuẩn bị đưa cô về. Lúc này tôi mới nhỏ nhẻ đưa cô một tập sách đã ghi sẵn lời đề tặng. Cô cầm, nhìn thấy tên tôi, cô trợn mắt nhìn tôi:

- Đây là sách của em hả?

Tôi cười gật đầu.

- Em phải giữ bí mật cho cô bất ngờ chứ.

- Chu choa, vậy là cô học trò giỏi văn của tôi đã đi đúng đường rồi. Cô chúc mừng em.

- Thì em đã dẫm những bước chân đầu tiên lên con đường này từ những ngày tháng mà cô dắt dìu em đó.

Cô chợt ôm choàng lấy tôi. Trong vòng tay ấm áp của cô, tôi bỗng như trở lại một con bé ngây ngô ngốc nghếch của những ngày…

ĐÀM LAN

Những Cánh Chim Dễ Thương

“Chiếc áo màu lá úa của Thục đã làm cho tôi yêu những hàng cây cằn cỗi, từng vạt cỏ úa tàn. Và tôi cứ ngỡ mình đang sống giữa mùa thu. Mùa lá rụng!”

Cũng như những lần trước, Thục nhận được một lá thư lạ lùng, ngộ nghĩnh. Người lạ mặt nào đó đã lấy bức tranh có rừng cây trụi lá, đổ bóng hắt hiu để xếp thành một phong bì tuyệt đẹp. Tên và địa chỉ của Thục nằm trên tầng mây trắng bồng bềnh. Bên trong chỉ có tờ giấy nhỏ với nét chữ nghiêng nghiêng, tim tím.

Vậy mà lòng Thục nghe nôn nao xao đông. Như phù thủy, người lạ đã dùng lá thư phù phép, điều khiển niềm vui, nỗi buồn của Thục. Không phải mình Thục, mấy cô bạn giao dịch viên cùng phục vụ chung với Thục trong bưu điện tỉnh nầy cũng xôn xao, hồi hộp và ao ước. Họ biết có một đôi mắt đang dõi theo từng cử động của Thục để ca ngợi hoặc là trách móc. Thục như người say, chếch choáng, lâng lâng. Bây giờ, mỗi ngày đến nơi làm việc là Thục đến với những bất ngờ thú vị. Thục tưởng như mình đang đi trong ánh mắt ai và Thục đợi chờ lá thư của một người không quen biết, dù nội dung của nó làm cho Thục đớn đau như lời lẽ của bức thư đầu.

Hôm đó, ba mẹ Thục giận nhau.

Khi Thục đến bưu điện thì mẹ còn nằm khóc trong phòng riêng. Đã vậy, người đầu tiên Thục phải giao tiếp là một bà già lẩm cẩm. Thục chỉ chỗ nầy, bà ký tên chỗ khác. Lãnh có năm mươi ngàn đồng mà bà đếm gần nửa giờ đồng hồ mới xong. Bà còn yêu cầu Thục cho đổi những tờ giấy bạc cũ rách. Bà đi rồi, Thục giận dỗi ném cây bút bi vào ngăn tủ nhưng nó lại rơi xuống đất và viết không ra mực nữa. Thục nóng nảy quăng bút ra sân rồi đóng sầm ngăn tủ. Chắc hẳn đã có nhiều người trông thấy và cả cái người lạ mặt ấy. Hôm sau, Thục và các bạn phải sửng sốt trước chiếc phong bì xám ngắt gởi cho Thục. Bên trong là câu ví von cay độc:

“Cô là con bồ câu có đôi cánh cụt và tiếng gù y hệt… giọng ngỗng kêu!”

Thục khóc nức nở khi nhớ đến chuồng chim bồ câu của ba. Đó là một căn nhà lợp tôn khá rộng ở trong vườn. Ba Thục đã dùng để nuôi đủ loại bồ câu: Bồ câu Xiêm, Hà Lan, Romain, Mondain… Con nào con nấy xinh xắn, dễ thương vô cùng. Nhưng để bồ câu không bay mất và nhận ra khi chúng lạc sang nhà hàng xóm, ba Thục đã cắt ngắn đôi cánh chim. Mẹ và Thục cứ buồn ngơ, buồn ngẩn mỗi lần trông thấy ánh mắt của chúng. Những chú chim cánh cụt chỉ biết ngước nhìn bầu trời cao vút, rộng thênh thang mà nhớ tiếc những phút giây bay bổng tuyệt vời. Chim lẩn quẩn dưới đất, quanh chân ba. Chúng trở nên nhỏ nhoi, tội nghiệp. Ba rất quý bồ câu nên thường mua đậu xanh về cho chúng ăn. Khi vãi những nắm thức ăn béo bổ này ra sân, ba luôn ăn mặc chỉnh tề, lịch sự: Áo sơ mi bỏ vào quần, giầy có quai hậu như đang tiếp khách nước ngoài. Ông bắt chước tiếng bồ câu gù “cú cụ, cú cụ…”. Rồi tung những hạt đậu lên cao. Chúng rơi rào rào xuống đầu những con chim cánh cụt đang co ro buồn bã. Hình như bồ câu chẳng chú ý gì đến tình cảm của ba Thục dành cho chúng nên đã lần lượt gục chết. Nhìn thấy ba đứng lặng bên chuồng chim, mẹ nói với Thục:

- Bồ câu thích sống từng cặp trong những ngăn chuồng nhỏ, ấm cúng và xinh đẹp như tổ ấm của đôi vợ chồng mới cưới. Đằng nầy, ba con bắt chúng sống tập thể trong căn phòng rộng mênh mông. Mặc sức gió lùa, mưa tạt. Đã vậy, ba còn cắt trụi đôi cánh, biến chúng thành những con vật xấu xí, dị hình thì làm sao chúng chịu nổi!

Thế mà người nào đó đã gởi một lá thư nặc danh, so sánh Thục với những con chim câu ấy. Và, còn chê giọng nói của Thục giống y hệt giọng ngỗng kêu nữa chứ. Thục căm thù cái người độc ác đó quá. Đúng là anh ta có đi ngang qua nhà Thục nên đã trông thấy chuồng bồ câu mà hiện giờ ba dùng để chứa củi. Anh ta muốn ngạo Thục chứ gì.

Nhưng rồi ngày thứ bảy cuối tuần đó, Thục lại nhận được lá thư kế tiếp tuyệt đẹp với dòng chữ:

“Em đã trở thành một giao dịch viên đáng yêu!”.

Những lá thư cứ đều đều bay đến như để ru Thục vào cõi mộng xa xôi, không ngừng nghỉ.

- Thục ơi!

Thục nhìn ra, Anh Khoa đang cười với Thục. Cái mũ nhựa màu vàng to tướng chỉ làm cho đầu anh bự thêm chứ không làm ngắn lại cái cổ dài đặc biệt của anh. Mẹ Thục hay đùa:

- Bưu điện giao cho cháu phát thư là phải! Cháu y hệt chim bồ câu đưa thư ngày xưa.

- Bác nói đúng ghê! Cái túi đựng thư nặng nề nầy cứ ghì hai vai cháu xuống, bảo sao cái cổ cháu chẳng dài ra!

Thục chen vào:

- Vậy thì anh đừng đeo túi nữa mà cột nó vào ba-ga xe đạp là xong.

Rồi cổ Khoa cũng vẫn không ngắn lại được chút nào!

Anh đang đứng trước hàng hiên gọi tiếp:

- Thục! Ra đây anh đưa về. Hôm nay hai bác bận đi dự đám cưới. Thấy anh đi ngang nhà, bác dặn anh tới rước Thục giùm.

Nghe Thục kể lại chuyện những bức thư lạ, ba mẹ Thục bỗng dưng lo lắng. Mẹ sợ người gửi thư là một gã đẹp trai. Ngày nào đó, gã sẽ xuất đầu lộ diện và cướp mất con gái của bà. Còn ba, ba nghi người gửi thư là một cô gái xinh đẹp, đầy mưu mô. Biết đâu, cô ta sẽ tìm gặp Thục mà chỉ dẫn những trò tinh quái, khác thường làm điên đảo bọn đàn ông, con trai. Ông quyết định đích thân đưa đón con gái. Thục không còn được một mình nhởn nhơ đến sở làm nữa. Cô thấy mình đã biến thành con bồ câu cánh cụt của ba.

Chiều nay, ba giao việc đón Thục cho anh Khoa. Cái anh chàng phát thư gàn bướng nầy. Tội nghiệp ba! Cái đáng lo ba không lo. Có bao giờ Khoa đưa Thục về thẳng nhà đâu! Anh có hàng tá lý do hợp lệ để hai người vòng vo nơi nầy, nơi nọ tới tối mịt. Khi thì: “Hôm nay, thư nhiều quá! Anh phải tranh thủ để bà con mừng. Ai mà chẳng đợi thư phải không Thục? Mệt gần chết! Ghé quán uống miếng nước mới được”. Bữa khác thì: “Lúc nầy ốm quá! Anh phải đãi Thục một chầu phở anh mới yên lòng”. Chiều nay, chẳng biết đến tiết mục gì nữa đây?

Như đoán được ý nghĩ của Thục, Khoa hỏi:

- Thục muốn đi chơi hay về nhà?

- Về nhà!

Anh ngẩn ra một lúc rồi đổ quạu:

- Về thì về!

Thục ngồi chưa yên thì anh đã đạp xe vù vù. Hoảng hồn, Thục ôm chặt lưng Khoa. Hình như bàn tay của Thục làm cho anh lên cơn sốt cấp tính, anh càng lạng lách liên hồi. Thục la lên:

- Chạy chậm chậm! Té Thục rồi làm sao?

Khoa vẫn lầm lì đạp tới. Thục lúng túng đánh rơi chiếc giày cao gót xuống mặt đường. Cô đấm đùi đụi vào lưng Khoa một hồi. Anh hoảng hồn ngừng xe, ngơ ngác hỏi:

- Gì vậy Thục?

- Rớt mất chiếc giày rồi!

- Thục coi chừng xe nha! Để anh đi kiếm cho!

Trước mắt Thục, cái túi Khoa dùng đựng thư đem phát đã bị bung nút tự hồi nào. Có một lá thư lạ nổi bật giữa những trang vở với mấy hàng chữ nghiêng nghiêng viết bằng mực tím. Thục rút phong bì ra xem, tên và địa chỉ của Thục nằm trên những đóa hồng nhung rực rỡ…

Thục chợt hiểu. Cô thẹn thùng nhìn Khoa. Người lạ mặt! Thật bất ngờ! Người lạ mặt đã hiện ra như trong cổ tích. Hoàng tử Khoa đã nhặt được chiếc giày của cô bé lọ lem tên Thục!

Con bồ câu đưa thư đang âu yếm nhìn con bồ câu cánh cụt!

NGUYỄN THỊ MÂY


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 14.10.2017… .......... Vũ Thư Hữu ... 01

Cuốn “Tintin nơi xứ sở chữ nghĩa” (Tintin au pays des mots)

Một cuốn tự điển Anh-Pháp Pháp-Anh

có minh họa đẹp tuyệt ................... Vũ Anh Tuấn ... 05

Có tận thế không? (tt) ................ Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết ... 07

Dấu ấn của đạo Phật .................... Tâm Nguyện ... 13

Ivan Sergeevich Turghenhev .................. Thúy Toàn .... 25

Nguyễn Triệu Luật, người viết tiểu thuyết Lịch sử bị quên lãng ..... Phạm Vũ ... 29

Tản Đà v ới Ngô Tất Tố ........... Đỗ Thiên Thư st. .... 41

Đ ể ai nấy đều đọc được dễ dàng: Báo chí hãy dùng tiếng VN

thay thế cho các tiếng ngoại quốc ........... Hoàng Kim Thư st. ... 46

Gi ới thiệu đôi nét về tờ “Tiểu thuyết Nam Kỳ” ........ Hà Mạnh Đoàn st .... 50

Kh oảng trời xa (thơ) .............................. Đàm Lan ... 55

Trách th ầm (thơ) ............. Phạm Thị Minh-Hưng .... 56

Hư vô nơi đâu (thơ) ................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 57

Người bạn thân (thơ) ................... Thúy Mai ... 58

Ti ếng chuông (thơ) ............... Lê Minh Chử .... 59

Nhà giáo (thơ) ............................ Thanh Châu .... 61

Chân và giả (thơ) ...................... Thanh Châu .... 61

Biển tình (thơ) .................... Ngàn Phương .... 62

Bơ vơ (thơ) ......................... Ngàn Phương .... 63

N ếu một ngày (thơ) ................... Hoài Ly .... 64

Đ ợi chờ (thơ) .............................. Hoài Ly .... 65

An lạc v ới đời (thơ) .............. Huỳnh Thiên Kim Bội .... 66

Cánh hoa ngày ấy (thơ) .................. Lang Nguyên .... 67

N ỗi niềm (thơ) ........................ Lang Nguyên .... 67

Công cha nghĩa mẹ (thơ) ..................... Hoàng Cúc .... 68

Nh ớ mùa thu ấy (thơ) ........... H oàng Cúc .... 68

Phiên khúc ái ân (thơ) ............... Thanh Phong .... 69

M ừng xuân không tuổi (thơ) ................ Phùng Chí Tâm ... 70

Trong lòng Hà Nộ i (thơ) .......... Lê Nguyên .... 70

Không nước không trăng (thơ) ................. Lê Nguyên ... 71

Tai nạn s ẻ chia (thơ) ..................... Vũ Thùy Hương .... 72

Nhớ (thơ) ................................ Vũ Thùy Hương .... 73

Say tình 1 (thơ) ......................... Hải Âu ... 73

Say tình 2 (thơ) .......................... Hải Âu ... 74

Phút mong manh (thơ) .................... Thanh Phong .... 74

Tạ từ (thơ) .................... Lam Trần .... 75

C ố nhân tri kỷ (thơ) .................... Thanh Xuân .... 76

“Chi lạ r ứa ” (thơ) ..................... Thùy Quân Hương Mai .... 77

Bâng khuâng (thơ) ............................... Phước Hải .... 78

Đêm m ộng đi lạc ................. Phước Hải .... 78

Đỉnh khoa học (thơ) ....................... Vũ Đình Huy .... 79

The summit of science (thơ) .................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 80

Ba thánh l ễ nửa đêm (Les trois messe basses) ....... Hoài Ly phỏng dịch .... 81

M ột vài mánh khóe gian xảo của giới in & bán sách

mà người chơi sách cần phải coi chừng ................ Lệ Ngọc st. ... 93

Nh ững con ngựa lạ ....................... Phạm Hi ếu Nghĩa ... 95

Nhà th ờ đá Phát Diệm ................ Bùi Đẹp st. .. 100

Tự nhiên ................................. Lam Trần .. 104

Ghen cũng có m ột nghệ thuật ......... Đào Minh Diệu Xuân st. .. 106

Đọc sách giùm bạn: Đóa hoa tình vẫn nở - Giấc mộng chân trời -

Cuộc đời & Tác phẩm linh mục Đặng Đức Tuấn ...... Hà Mạnh Đoàn . 113

“Ông Internet” John T.Chambers… ................ Tr ần Ngọc Minh st. . 115

Th ời gian ..................... Kim Sơn st. . 119

Nh ững câu châm ngôn & thành ngữ Anh Mỹ ........ Hoàng Chúc st. . 121

Trong cô, trò nhỏ… ............... Đàm Lan .. 125

Nh ững cánh chim dễ thương .............. Nguyễn Thị Mây .. 135

Thông báo:

Kỳ họp tiếp theo của CLB sách Xưa & Nay sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 09/12/2017 tại nhà thờ Tân Sa Châu, số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình.

Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về:

hamanhdoan69@yahoo.com 

hoặc liên hệ với Hà Mạnh Đoàn - 0937 108489

Các bản tin trước có thể xem tại:

www.diendan.songhuong.com.vn

www.giaimakinhphat.com

www.sachvatranh.com

www.newvietart.com

www.vandanviet.net

www.hoamai-aus.org.au



[1] Nói về một chi tiết trong cuộc chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ 4/1877-3/1878, kết quả khẳng định chủ quyền độc lập của Rumani, Serbia... và giải phóng Bungari khỏi quân Thổ Nhĩ Kỳ

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế