Hiện có 1 người xem / 2336102 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/11/2016

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên, thay vì 2 cuốn quý thư như mọi khi, bữa nay ông giới thiệu có một cuốn to đùng mang tựa đề là “Tự Điển Sài Gòn Thành Phố Hồ Chí Minh”. Cuốn sách khổ 19x26 phân, dày 1148 trang, được xuất bản vào năm 2008, để kỷ niệm 310 năm lịch sử Sài Gòn. Khi nó mới được xuất bản, hồi 8 năm trước, ông đã không chú ý tới lắm, nhưng gần đây ông được một mẫu hậu chơi sách cho biết là cuốn sách khá hấp dẫn, nên đã tìm mua và đã có được cuốn quý thư.

Cuốn sách khá to, được trình bày khá đẹp, và các đề tài dưới đây đã được trình bày khá hấp dẫn qua 1148 trang sách:

Đầu tiên là Địa Lý - kế đến là Sự Kiện gồm Nhân Vật, Địa D anh, Đường Phố - Văn Hóa Nghệ Thuật - Giáo Dục Khoa Học - Báo Chí Xuất Bản - Thể Thao - Y Tế - và cuối cùng là Các Điểm Đ áng Chú Ý Ghi Nhớ. Ôi thật là cả một kho tư liệu về thành phố mà chúng ta đang sinh sống.

Có được cuốn quý thư trong tay, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã dành luôn trên 4 giờ đồng hồ để cưỡi ngựa xem hoa, và ông đặc biệt yêu thích các phần tên đường phố từ năm 1954 trở về trước (khi ấy mang toàn tên bằng tiếng phan-sa) trong đó có một tên mà ông rất thích là tên chỉ con đường nay gọi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Nguyễn Văn Trỗi, tức là đường đi vào phi trường Tân Sơn Nhất, lúc đó mang tên một Thống Chế Pháp là Mac Mahon - người mình bèn âm thành đường Bạc Má Hồng, nghe dễ thương ơi là dễ thương, cho tới năm 1955, cụ Diệm mới đổi thành Công Lý. Sau đó tới danh sách tên đường trước năm 1975, và sau cùng là tên đường hiện tại. Ông cũng đặc biệt chú ý tới phần Báo Chí có gần 700 tên các báo mới cũ và phần Nhân Vật trong có nhiều nhân vật mà ông biết, thậm và chí có một cụ đã là cụ thân sinh ra một trong những mẫu hậu của ông. Tóm lại đây là một cuốn sách quý có công dụng rất thiết thực mỗi khi người có cần một chi tiết chi về thành phố anh ta đang sống. Được giới thiệu xong, cuốn quý thư đã được một số thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách quý xong, thành viên Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Bâng Khuâng Bụi Phấn”. Sở dĩ cô đăng đàn sớm như vậy vì hôm nay có có việc phải ra về sớm. Tiếp lời cô Thùy Hương, anh Phạm Vũ lên nói về những người Việt đầu tiên đặt chân lên nước Mỹ. Anh nói tiếp về việc Bùi Viện gặp Tổng Thống Lincoln, và nói về một người Việt khác là Lê Kim, đồng thời có nói qua về chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc của Mỹ vào thời điểm đó. Sau anh Phạm Vũ, anh Lê Minh Chử lên báo tin là một bài hát do anh sáng tác đoạt giải Nhất trong cuộc thi “Tiếng Hát của các Chiến Binh Q. Tân Bình”. Tiếp lời anh Lê Minh Chử, anh Nhựt Thanh lên nói chuyện về tục Tảo Mộ của người Việt chúng ta. Sau anh Nhựt Thanh, anh Thanh Châu, với “tiếng hát át tiếng bom” quen thuộc lên hát tặng các thành viên bài “Lúa Mùa Duyên Thắm”.

Anh Thanh Châu hát xong, thành viên Hoài Ly lên hát tặng các thành viên bài hát nhan đề là “Mong Chờ”. Tiếp lời thành viên Hoài Ly, cặp song ca nổi danh Lê Nguyên và Phùng Chí Tâm lên ca tặng các thành viên luôn hai bài “Bài Ca Thân Ái” và “Bài Ca Tạm Biệt” do chính anh Lê Nguyên sáng tác. Đôi song ca hát xong, anh Phùng Chí Tâm ở lại kể qua cho các thành viên nghe về chuyến Nga du mà anh vừa đi về, và hát tặng thêm các thành viên bài hát Nga nhan đề là Kachiusa. Sau anh Phùng Chí Tâm, thành viên mới, nữ ca sĩ Thu Hà lên ca tặng các thành viên bài “Quê Mẹ” của Thu Hồ.

Tiếp lời ca sĩ Thu Hà, thành viên mới Lệ Ngọc cũng lên hát tặng các thành viên bài “Khi Mình Xa Nhau” của nhạc sĩ thời danh Anh Bằng. Sau khi thành viên Lệ Ngọc hát xong, Lm. Triết có lên giải thích qua một vài lý do khiến cho một số cử tri Tin Lành bỏ phiếu cho ông Trum Vại, Tổng Thống mới đắc cử của Mỹ.

Buổi họp kết thúc trong niềm hân hoan lúc 11g15, khi các thành viên vui vẻ ra về, hẹn sẽ gặp lại nhau trong tháng tới.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ

MỘT QUÝ THƯ 121 NĂM TUỔI

Đây là một cuốn sách khá đẹp, thuộc loại sách thường được dùng làm sách phần thưởng nên bìa thường là những hình vẽ chạm trổ rất đẹp, và ba cạnh thì được mạ vàng óng ánh. Cuốn sách này khổ 14x22cm, dày 192 trang, mang tựa đề là Trong Rừng Rậm - Hồi Ức về xứ Bắc Kỳ (Dans la Brousse - Souvenirs du Tonkin) của tác giả H. Méhier de Mathuisieulx, một quý tộc Pháp vừa là nhà báo, nhà du hành, và nhà thám hiểm. Cuốn sách được nhà xuất bản thời danh Alfred Mame et Fils in năm 1895. Tác giả, đồng thời là nhà thám hiểm này, đã tới Bắc Kỳ, đã ở lại Bắc Kỳ một thời gian khá dài để đi lung tung, sống chung với dân Bắc Kỳ, và sau ngày trở về đã viết lại những hồi ức, những kỷ niệm ông ta đã trải qua, đã quan sát tận mắt.

Tác giả cho biết, với cuốn sách này, ông không muốn nhắc gì tới khoa học hoặc lý thuyết chính trị thuộc địa, mà ông chỉ muốn cùng người đọc xem lại một cuốn an bum ảnh đủ mọi thứ quang cảnh Bắc Kỳ như ruộng nương, đường phố, chùa chiền, làng mạc, rừng rậm v.v… và những gì ông kể lại, nhớ lại đều là những sự thật được nhìn tận mắt, rờ tận tay…

Cuốn sách dày 192 trang gồm: một lời Tựa, một Thông báo và được chia thành 9 chương:

Chương 1: Mang tiểu tựa là “Những bước đầu của một du khách” nói về thành phố Hải Phòng, về khí hậu vùng nhiệt đới, về một ngôi nhà của người Pháp ở thành phố này, về món ăn đồ uống, về một ổ hút á phiện, về một chuyến đi chơi đêm bằng xe kéo, về đồn binh Taco (Tà Cú?), về những chuyện khiến các du khách sợ toát vía…

Chương 2: Mang tiểu tựa là “Tính lì lợm của một người Annam” nói về một ngôi làng trong đồng ruộng, về cuộc đời từ bé của một cậu bé Annam, có mối thù với một bọn cướp, và khi lớn lên thành một quan huyện đã kiên trì lì lợm đánh nhau với kẻ thù và lấy được đầu hắn…

Chương 3: Mang tiểu tựa là “Đi săn hổ” nói về tác giả đi từ Hải Dương lên Hà Nội, về Quảng Yên, về đồn binh Van-Meou (Vạn miếu hay mười ngàn miếu), dự một cuộc săn hổ với lính đồn…

Chương 4: Mang tiểu tựa là “Thầy đội Couque (Quế) trả thù” nói về thầy đội Quế, về một ca nữ Bắc Kỳ, về một lễ hội tôn giáo, về ngày lễ 14 tháng 7 (cắt chó thui dê) của Tây, về hỏa hoạn ở Hưng Yên và sự trốn chạy của cặp tình nhân, về một đám cưới của giặc cướp, về đồn binh tên Tình, về sự bắt giữ một phụ nữ nổi loạn, về đồn binh Kam-Ching, về một sĩ quan Pháp, về sự đe dọa của đội Quế, về cuộc trả thù ghê rợn…

Chương 5: Mang tiểu tựa là “Một hạm đội nơi đồng ruộng” nói về đời sống trên những cái ghe, về chi tiết các cách nấu nướng đồ ăn, về sự hèn nhát của một anh quan nhà binh bản xứ, về việc tấn công một ngôi chùa, về một cơn bão xảy đến trong đêm, về một minh để (bài viết) trên một mộ phần, về một cuộc báo động khủng khiếp, về cuộc trốn chạy, về một buổi chiều trong một đồn binh, và về việc trở lại Hưng Yên…

Chương 6: Mang tiểu tựa là “Điều bí mật của một viên quan bản xứ” nói về phần phía trước một chiếc xà lúp lưu thông trên sông, về máu lạnh và sự gan dạ của lũ giặc cướp, về sự đồng lõa của một viên quan bản xứ, những gian khổ của viên tham quan đó, lòng thật thà của một tên cướp, về sự nóng giận có thể đưa đến những tình huống khủng khiếp biết chừng nào…

Chương 7: Mang tiểu tựa là “Cuộc phục kích” nói về Vịnh Hạ Long, về chiến thuyền Nagotna, về đồn lũy Akoy, về một ngôi làng của ba tàu, về một đạo binh nơi núi non hiểm trở, về cuộc phục kích, về chuyện một đôi khi con chó có giá trị hơn con người, về được giải thoát!...

Chương 8: Mang tiểu tựa là “Truy sát Đội Quế” nói về một cuộc du hành thanh lịch của tác giả ở Hà Nội, về việc tác giả chuyện trò trong một quán cà phê bản xứ lạ lẫm, sau đó đi một mình vào rừng rậm, về lợi điểm không đoán trước được của việc chụp ảnh, về một chuyện kẻ cắp gặp bà già, về một đạo lộ hiểm nghèo, về một sự thất vọng khó giải thích, về việc bị đánh nơi đồng lầy, về một nơi trú ẩn mới, về việc mua trẻ con…

Chương 9: Mang tiểu tựa là “Bé Nam” nói về chuyện đôi khi sự mát mẻ lại không bằng sự nóng nực miền nhiệt đới, về Bé Nam, về một giáo đường công giáo và vị giáo sĩ, về những sự tài tình trong quá khứ của một em bé người Annam - về việc em bé được Âu hóa nhanh lạ thường, về con tàu trở về nước, về niềm vui nỗi buồn, về hiệu quả của nền văn minh trên một người man di. Và cuối cùng là phần Kết luận.

Đây là một cuốn sách rất đẹp, chứa đựng cơ man nào là chi tiết, là mô tả, là những tình huống, những cảnh đời ở Bắc Kỳ trên 100 năm trước, được một tác giả nhớ lại và kể lại một cách khách quan chân thành, rất đáng được trân trọng bởi những ai nghiên cứu về lịch sử Bắc Kỳ vào thời điểm đó…

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG”

Bản dịch của Linh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 126 )

140. Dựa vào số lượng lớn và đa dạng các yếu tố phải quan sát, ngay khi nhìn tác động của một dự phóng cụ thể về môi trường, cần phải trao cho những người tìm hiểu một vai trò tương xứng và tạo điều kiện dễ dàng cho việc cộng tác với một sự tự do thuộc cấp đại học. Việc tìm hiểu lâu dài này cần đưa đến những kiến thức, để hiểu những sự khác biệt của sinh vật liên kết với nhau và tạo sự thống nhất lớn lao mà ngày nay chúng ta gọi là “hệ thống môi sinh”. Chúng ta đón nhận chúng, không phải để xác định ích lợi của chúng, cách hợp lý, nhưng vì chúng có những giá trị độc lập khỏi việc sử dụng. Mỗi sinh vật đều tốt đẹp và đáng kinh ngạc, vì đó là một sáng tạo của Thiên Chúa, cũng thế, toàn thể sự hòa hợp các sinh vật trong một không gian xác định sẽ hoạt động như một hệ thống. Cho dù chúng ta không ý thức, chúng ta cũng lệ thuộc vào tổng thể này cho sự sống của chúng ta. Chúng ta phải nhớ rằng, hệ thống sinh thái sẽ tác động trên việc chuyển đổi thán khí điôxít, vào việc tẩy sạch nước, trên việc kiểm soát bệnh tật và dịch bệnh, cho việc tạo đất đai, phân hóa các rác thải và tác động trên nhiều bình diện khác mà chúng ta quên hay chưa suy nghĩ tới. Nhiều người, một khi hiểu biết được điều này, ý thức rằng chúng ta sống và hoạt động dựa trên nền tảng một thực tại đã được ban cho chúng ta trước, trước cả khả năng và hiện sinh của chúng ta. Vì thế khi người ta nói về “việc sử dụng lâu dài”, phải luôn ý thức đến khả năng tái tạo mỗi một hệ thống môi sinh trong nhiều lãnh vực và phương diện khác nhau.

141. Mặt khác, việc phát triển kinh tế hướng về việc tạo những máy móc tự động và “đồng nhất hóa - homogenisieren” với mục đích, giảm bớt chuyển động và giảm bớt giá thành. Vì thế cần đến một sinh thái học kinh tế, có khả năng nhìn một cách tổng quát thực tại. Vì “việc bảo vệ môi trường cũng phải được hội nhập vào tiến trình phát tri ể n và không được nhìn một cách đơn độc”[114]. Nhưng đồng thời, hiện tại cần phải có một thuyết nhân bản, bao gồm nhiều lãnh vực kiến thức khác nhau - trong đó có cả kinh tế - để có được một cái nhìn trọn vẹn và bao quát. Ngày nay, việc phân tích vấn đề môi trường không thể tách rời một sự khảo sát môi trường sống của con người, liên hệ gia đình, các điều kiện lao động và liên hệ trong thành phố cũng như liên hệ con người với chính mình, qua đó xác định người đó liên hệ với kẻ khác và với môi trường. Có một liên hệ hỗ tương giữa hệ thống môi sinh và những thế giới khác trong xã hội và theo cách này cho thấy một lần nữa “toàn thể đứng trên từng phần”[115] .

142. Nếu tất cả vạn vật đều liên kết với nhau, tình trạng các cơ chế của một xã hội cũng đều có những hệ luận về môi trường và về phẩm chất đời sống con người: “Mọi việc làm thương tổn sự liên đới và tình thân xã hội đều gây nên những tổn thất cho môi trường”[116]. Theo nghĩa này, khoa môi sinh xã hội cần thiết phải có cơ chế và dần dần đến những chiều kích khác nhau bắt đầu từ những yếu tố xã hội cơ bản của gia đình, tiến đến cộng đồng địa phương và đất nước, cho đến đời sống quốc tế. Ngay chính trên mỗi bình diện xã hội và giữa nhau, hình thành các cơ chế, quy định các liên hệ giữa con người. Tất cả những gì làm tổn hại các cơ chế này, đều đưa đến những hậu quả tai hại: tỉ như đánh mất sự tự do hay xảy ra những điều bất công và bạo lực. Nhiều quốc gia đều dựa vào nền tảng các cơ chế được thiết lập, từ giá trị của quần chúng khổ đau và do lợi ích của những người lợi dụng tình trạng của vật chất. Dù ngay trong quản lý nhà nước, cũng như trên nhiều bình diện khác nhau của cộng đoàn xã hội hay giữa những liên lạc của dân chúng, người ta cũng thu thập được nhiều thái độ khác xa lề luật. Những lề luật này được viết rất đúng, nhưng thường là những chữ chết. Người ta có thể hy vọng rằng những quy định và các luật lệ tương đối cho môi trường thực sự có hiệu quả hay không? Tỉ như chúng ta biết nhiều quốc gia, có những lề luật rõ ràng để bảo vệ các cánh rừng, nhưng rồi cũng có những nhân chứng câm lặng cho việc thường xuyên vi phạm các lề luật đó. Ngoài ra, điều diễn ra trong miền khác, trực tiếp hay gián tiếp, tạo ảnh hưởng đến các vùng khác. Tỉ như, việc tiêu thụ ma túy trong các xã hội giàu sang, sẽ đưa đến câu hỏi rõ ràng và cấp thiết về vấn đề sản xuất đến từ các vùng nghèo đói, nơi các cách liên hệ đã sa đọa, tàn phá đời sống con người và cuối cùng hủy hoại cả môi trường chung quanh.

145. Biết bao hình thức tập trung để bốc lột và tàn phá môi trường, không những làm cạn kiệt tài nguyên để sống tại địa phương, nhưng còn làm kiệt quệ những khả năng xã hội để giúp có được một cách sống, mà trong một thời gian dài, đã đem lại một căn tính văn hóa cũng như một ý nghĩa cho hiện sinh và sự sống chung. Việc làm biến đi một thứ văn hóa cũng nặng nề như làm biến đi một loài thú hay một loài cây cối. Việc thiết đặt một kiểu sống đơn nhất liên kết với một cách sản xuất có thể còn hại hơn là ảnh hưởng trên hệ thống môi sinh.

146. Theo nghĩa này, cần phải chú ý đến cộng đồng của dân nguyên thủy với văn hóa truyền thống của họ. Họ không phải là số ít giữa nhóm người khác, nhưng họ phải là những người đối thoại căn bản, nhất là khi người ta đưa ra những dự phóng lớn lao đụng chạm đến không gian của họ. Vì đối với họ, mảnh đất không phải là tài sản cho kinh tế, nhưng là hồng ân của Thiên Chúa và của tổ tiên họ đang an nghỉ tại đây; một không gian thánh, với không gian này họ cùng hoạt động để gìn giữ căn tính và giá trị của họ. Khi họ sống trên mảnh đất của họ, thì chính họ là người gìn giữ nó tốt nhất. Trong nhiều phần trên trái đất, họ là đối tượng bị áp bức để lìa bỏ quê hương để cho mảnh đất này trống trải cho các dự án nông nghiệp và đánh cá, không chú tâm đến những tai hại trên thiên nhiên và văn hóa.

III. MÔI SINH HỌC CỦA ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

147. Để nói về một sự phát triển đích thực, phải bảo đảm cho có một sự làm tốt trọn vẹn phẩm chất sống của con người, và điều này có nghĩa, người ta phải phân tích không gian, nơi con người đang sống. Khung trời bao quanh ảnh hưởng trên chúng ta trong cách nhìn cuộc sống, cảm nghiệm và hoạt động. Đồng thời, trong căn phòng của chúng ta, trong nhà, ngay nơi làm việc và trong khu phố, chúng ta sử dụng môi trường để diễn tả căn tính của mình. Chúng ta cố gắng thích ứng với môi trường chung quanh và khi chung quanh mất trật tự, xáo trộn hay bị lệnh lạc trong cái nhìn, trong tiếng ồn ào, đòi buộc chúng ta phải tìm ra nguyên nhân sự quá độ này để xây dựng lại căn tính trọn vẹn và hạnh phúc.

148. Thật đáng kinh ngạc cho sức sáng tạo và lòng quảng đại của một số người và một số nhóm, có khả năng nâng các ranh giới của môi trường, bằng cách thay đổi các hậu quả không thích hợp của các điều kiện và học hỏi để định hướng cuộc sống giữa những sự sái trật tự và không bảo đảm. Tỉ như có nhiều nơi, mặt tiền các ngôi nhà bị sa sút, có những người với nhiều phẩm chất, đã chăm sóc nội thất của họ, hay họ cảm thấy hạnh phúc vì sự thân mật và tình thân hữu của dân chúng chung quanh. Cuộc sống tích cực và hạnh phúc của dân chúng sẽ lan tỏa ánh sáng ra chung quanh chưa được thỏa đáng. Đôi khi môi sinh học nhân bản cũng đáng khen khi những người nghèo có thể phát triển giữa biết bao hạn hẹp. Cảm nghiệm nghẹt thở, do việc chất đống mọi thứ trong các căn phòng và các nơi đông nghẹt dân chúng tạo ra, có thể giải tỏa được, khi liên hệ giữa con người được phát triển nhờ sự gần gũi và nhiệt tâm thân thiện, khi các cộng đoàn được tạo nên, khi các ranh giới hạn hẹp môi trường trong thâm tâm mỗi người được giải tỏa vì cảm thấy mình được đón nhận vào trong mạng lưới một cộng đoàn và thuộc về nhau. Với cách thức này, không còn nơi nào là hỏa ngục cả và sẽ trở thành khung cho một cuộc sống xứng đáng.

149. Thật sự cũng rõ ràng, sự hủy hoại cực độ được cảm nghiệm trong nhiều hoàn cảnh, nơi không có sự hòa hợp, không gian và khả năng hội nhập, gây nên sự xuất hiện những thái độ bất nhân và thao tác trên con người qua các tổ chức tội phạm. Đối với dân chúng trong các phường khóm có vấn đề như thế, mỗi ngày bị ép vào một sự vô danh trong xã hội, mà người ta cảm nghiệm trong các thành phố lớn, một mặc cảm mất gốc đưa đến những thái độ chống đối xã hội và bạo lực. Nhưng Tôi xin nhấn mạnh, Tình Yêu mạnh hơn. Trong các điều kiện này, nhiều người liên kết với những nhóm và chung sống với nhau, có thể thay đổi những đè nén trong cảm nghiệm của cộng đoàn, nơi giải tỏa được vách ngăn của cái tôi và chiến thắng được sự ích kỷ. Cảm nghiệm cứu độ dựa vào cộng đoàn là điều gây nên sự sáng tạo để làm tốt một ngôi nhà hay một khu phố.

150. Khi người ta xuất phát từ hiệu quả hỗ tương giữa không gian và thái độ của con người, những người vạch chương trình để xây dựng các cao ốc, những khu đô thị, các không gian rộng mở và thành phố, phải liên hệ với nhiều điều khác nhau, giúp hiểu được các tiến trình, biểu trưng và những thái độ của con người. Nếu chỉ lo làm đẹp không thôi thì chưa đủ, nhưng còn có giá trị nhiều hơn nữa để phục vụ cho nhiều cách làm đẹp hơn nữa: phẩm chất đời sống con người, cách thích nghi của họ với môi trường, việc gặp gỡ và phụ giúp giữa nhau. Từ lý do đó, điều quan trọng, các viễn cảnh của dân chúng phải được luôn bổ túc cho sự phân tích quy hoạch thành phố.

(còn tiếp)

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)

THIÊN CHÚA GIÁNG SINH

LÀ MỘT BIẾN CỐ LỊCH SỬ

Người ta thường gọi lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu là lễ Noël. Đây là kiểu viết tắt của lời tiên báo trong Sấm Ký tiên tri Isaia: “Này một cô trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel - nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7,14). 800 năm sau lời tiên báo này đã thành hiện thực khi Đức Giêsu Giáng Sinh trong một hang đá tại cánh đồng làng Bêlem, miền Giudea, nước Do Thái (phía nam thủ đô Giêrusalem chừng 8 km).

Thánh sử Matthêu đã ghi: “Tất cả việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ (Isaia): Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,22-24). Bêlem, nơi Chúa sinh ra vào thời vua Hêrôđê trị vì xứ Palestin cũng đã được tiên báo và được Thánh sử Matthêu ghi lại như sau: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2,1-6).

Thánh sử Luca trong phần lời tựa của Tin Mừng thứ ba về Chúa Giêsu đã viết như sau: “Thưa ngài Thêôphilô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc”

(Lc 1,1-5)

Văn phong và lối viết như một sử gia chuyên môn đích thực. Về biến cố Chúa Giêsu Giáng Sinh thì thánh Luca đã viết: “Thời ấy, hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết. Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ” (Lc 2,1-21).

Phân tích đoạn trên, chúng ta thấy rõ văn phong lịch sử chuyên nghiệp: Thánh sử Luca đã đặt biến cố Chúa Giáng Sinh trong mối tương quan với những sự kiện đương thời:

a. Thời trị vì của hoàng đế La Mã Augustô.

b. Biến cố lịch sử: Thời điểm ra chiếu chỉ kiểm tra dân số.

c. Không gian: Khắp thiên hạ (trong đế quốc bao la của La Mã thống trị).

d. Xác định lịch sử của cuộc kiểm tra: Đây là lần đầu tiên thực hiện thời ông Quiriniô đang làm Tổng trấn xứ Xyri (thuộc địa La Mã).

e. Hiệu lực của lệnh kiểm tra: Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.

f. Trong biến cố này, Thánh sử Luca xác định địa danh: Từ Nazareth miền Galilê lên thành của vua David (nguyên quán của vua David) là Bêlem, miền Giuđê.

g. Lý do phải bỏ Nazareth (miền Bắc) lên Bêlem (miền Nam) là vì ông Giuse thuộc dòng tộc vua David, nên phải đem vợ về khai sổ nhân danh đang khi bà mang thai sắp tới ngày sinh.

h. Đúng thời điểm này bà sinh con trai, lấy tã bọc con đặt nằm trong máng cỏ (tại một hang cho bò lừa trú nắng mưa) vì không tìm được chỗ trong quán trọ.

i. Hoàn cảnh xung quanh ở thời điểm đó: Có những mục đồng thức đêm canh giữ đàn vật… họ được sứ thần báo Tin Mừng trọng đại theo như lời sấm của các tiên tri.

j. Họ bảo nhau tới đúng địa chỉ, vào hang đá và đã gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ (đúng như lời sứ thần nói), và họ đã tôn vinh Thiên Chúa.

Thánh sử Marcô thì cho rằng biến cố Thiên Chúa Giáng Sinh đã được ghi nhận chi tiết rõ ràng và đầy đủ rồi nên ngài mở đầu Tin Mừng bằng việc trưng dẫn một vị ngôn sứ thế giá làm chứng cho Đức Giêsu, đó là ông Gioan Tẩy Giả: “Tôi đây làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8).

Thánh sử Gioan chép Tin Mừng thứ tư (sau 3 Tin Mừng kia) chỉ nhấn mạnh Thần Tính của Chúa Giêsu và sứ mạng của Ngài nên tóm kết biến cố Giáng Sinh bằng lời chứng: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ông cũng trưng lời ngôn sứ Gioan Tẩy Giả làm chứng về Chúa Giêsu đang có mặt giữa dân chúng: “Tôi đây làm phép rửa trong nước nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,26-27). Các Tông Đồ khác cũng đã để lại bút tích về Đức Giêsu là Thầy của mình đã sống, đã đi đây đó, đã giảng dạy, làm các phép lạ và sau cùng đã chết và sống lại, lên trời vào thời quan Tổng trấn Philatô đang cai quản vùng Palestin. Đó là các ông Phaolô, Phêrô, Giacôbê, Giuđa (Tađêô), họ là những chứng nhân đích thực “mắt thấy, tai nghe” sống đồng thời với Chúa Giêsu.

Nhận định:

1. Một biến cố được gọi là lịch sử thì phải xảy ra thực sự và được xác định bởi một thời điểm (thời gian) và địa điểm (không gian). Thiếu một trong ba yếu tố này thì không có giá trị lịch sử, đó là thần thoại, huyền thoại, hư cấu cùng lắm là dã sử mà thôi (không phải chính sử).

2. Biến cố Chúa Giêsu Giáng Sinh là chính sử, gồm đủ ba yếu tố kể trên được ghi nhận bởi nhiều người, và được nhiều người chứng thực. Cần lưu ý đặc biệt: Con người lịch sử của Chúa Giêsu là nền tảng quan trọng nhất trong đức tin của mọi tín hữu. Nếu Đức Giêsu không phải nhân vật lịch sử mà chỉ là nhân vật thần thoại như thần Giớt, nhân vật tiểu thuyết như Tôn Ngộ Không, nhân vật dã sử như bà Âu Cơ hay Thánh Gióng… thì toàn bộ giáo lý của Ngài vứt đi hết, chẳng có giá trị gì, và kẻ tin theo sẽ là những người ngu dại và khốn khổ nhất trần gian

(1Cr 15,19)

3. Nói tới lịch sử thì phải nói tới sự thật, biến cố lịch sử phải là cái gì có thật, đúng như sự thật (chính xác là những gì đã xảy ra) “sai một ly, sẽ đi một dặm”. Lịch sử bị bóp méo sẽ trở thành một sự lừa dối bỉ ổi. Nước nào cũng có sách sử nhưng thử hỏi đó có phải là chính sử 100% hay không? (người viết luôn nghi ngờ).

Có sử gia nào viết về một vua đương thời, một lãnh tụ đương thời mà không nằm lòng nguyên tắc “tốt khoe, xấu che”. Thời Tần Thủy Hoàng, Mao Trạch Đông đến Kim Yung Un hay các vua chúa Việt Nam đố sử gia nào mà dám viết sự thật như mình biết. Thách sử gia nào dám ghi lỗi lầm, những điều sỉ nhục họ chịu trong cuốn sách của mình? Nếu để đời sau hay đời sau nữa mới viết lại thì thế nào cũng bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố này: Một là thiếu bằng chứng, nhân chứng đồng thời, đương thời, nhiều chi tiết cũng chỉ viết lại theo điều tác giả đã được nghe nói mà thôi, chưa chắc đã là sự thật, kể cả căn cứ vào báo chí, các phương tiện truyền thông. Hai là bị những xu hướng chính trị, tâm lý yêu ghét “bẻ cong ngòi bút”. Sau Cách mạng tháng 10 Nga ai dám nói tốt về Sa Hoàng? Sau biến cố 1975 nhiều sách báo đã viết về một đường hầm từ dinh Gia Long tới Nhà thờ Cha Tam, rất nhiều người đã tin như thế. Sự thật thế nào? Ai cũng biết tới bây giờ mà công trình Mêtrô từ Sàigòn tới Suối Tiên vẫn còn ì ạch, chưa biết đến bao giờ xong. Đây là sự thật (41 năm sau 1975) cũng như cả một quãng thời gian dài báo chí nói tới 18 tấn vàng ông Thiệu “cuỗm” đi sự thật mới được phanh phui. Toàn dân, toàn thế giới bị lừa, những “sử gia” đã viết những thông tin sai lạc “sờ sờ trước mắt” không biết có xấu hổ không? Đấy “chính sử” của thế gian như thế đó.

Chỉ có Thánh Kinh nói chung và Phúc Âm nói riêng, mới là sách “sự thật 100%” vì đã dám tố cáo cả tội ngoại tình, tội giết chồng đoạt vợ người ta của vua Thánh David, dám nói những điều sỉ nhục cho Thầy mình “đồ quỷ ám”, tên “ăn nhậu với phường tội lỗi”, người “mất trí - điên khùng”, bao nhiêu khổ nhục trong cuộc khổ nạn và cái chết trần truồng trên Thập giá… Chỉ có sử gia chính hiệu mới dám viết về một Giuđa bán thầy, một Phêrô - lãnh tụ của nhóm anh em - chối thầy ba lần… Sử gia thế gian có dám viết về lãnh tụ đương thời của mình như vậy không?

Sở dĩ mà sự thật được tôn trọng tuyệt đối trong Thánh Kinh là vì Thánh Kinh là lịch sử Ơn Cứu Độ (không hẳn là chính sử ngoài đời nhưng có tính lịch sử), được viết dưới sự Linh Hứng của Chúa Thánh Thần. Các tác giả đã thấm nhuần đạo lý của Chúa Giêsu: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm bớt là do ác quỷ” (Mt 5,37). Các tác giả đã tôn thờ và viết chủ yếu về Đức Giêsu và những gì liên quan tới Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình: “Là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Đối với hơn 3 tỉ người Thiên Chúa giáo hiện nay, bộ Kinh Thánh này được gọi là “Thánh”, nghĩa là sách của Đức Chúa Trời, sách chứa đựng Lời Đức Chúa Trời chứ không phải như các sách khác ở trần gian hoàn toàn do con người sáng tác.

Trong bức thư của Đức Hồng Y J. Villot, Quốc vụ khanh Tòa thánh Vatican, đại diện Đức Giáo hoàng Phaolô VI, gửi cho Linh mục dịch giả Trần Đức Huân, có đoạn viết: “Đức Thánh Cha rất hài lòng về tặng phẩm này và ủy tôi gửi đến cha lời tri ân nồng nhiệt… Ngài mong ước đồng bào của cha hưởng ứng tìm hiểu cách dễ dàng ánh sáng cùng sự ủy lạo tiềm tàng trong Lời Chúa rất cần thiết cho họ trong cơn thử thách này” - Vatican ngày 16/6/1970, Hồng Y J. Villot.

Chính Chúa Giêsu và các Tông Đồ khi rao giảng những chân lý trong Thánh Kinh thì cũng tuyên xưng đó là Lời Thiên Chúa:

Thánh Phaolô nói với người Do Thái: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố Lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh Lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy” (Cv 13,46-49)

“Trong khi ấy Lời Chúa vẫn lan tràn và phát triển”

(Cv 12,24)

“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn phải nhờ Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra(Mt 4,4)

“Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ, vậy phàm ai nghe và đón nhận Lời Giáo Huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với tôi”

(Ga 6,45)

Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống

(Ga 6,63)

“Ông Phêrô thưa: Lạy Thầy ! Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời(Ga 6,68)

“Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi để Lời Chúa được phổ biến mau chóng” (2Tx 3,1)

“Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là Lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin” (Rm 10,8 - thánh Phaolô nói với giáo đoàn Rôma)

Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy(Ga 14,24)

“Thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục đưa các ông ra mà nói: Các ông hãy đi, vào đứng trong đền thờ mà nói cho dân những Lời ban sự sống(Cv 5,20)

Lời của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu:Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14)

Kinh Thánh dùng cụm từ Ngôi Lời Nhập Thể để chỉ Chúa Giêsu, điều này có nghĩa là Chúa Giêsu là phát ngôn viên chính thức của Thiên Chúa Cha. Tất cả những ý nghĩ, lời nói, việc làm của Chúa Giêsu đều là lời giáo huấn của Chúa Cha:

“Đây là Con Chí Ái của Ta, hãy vâng nghe Lời Người(Lc 9,35)

“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Chúa Giêsu)” (Dt 1,1-2)

Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống: Chúa Giêsu(1Ga 1,1)

Hàng ngàn, hàng vạn lần cụm từ Lời Chúa hay Lời Thiên Chúa được nhắc đi nhắc lại trong toàn bộ Kinh Thánh.

Truyền thống phụng vụ của Giáo Hội, mỗi khi công bố xong một đoạn Thánh Kinh trong nghi lễ, dù là Cựu Ước hay Tân Ước, thừa tác viên đều xướng lên: Đó là Lời Chúa và toàn thể cộng đoàn đáp lại: Tạ ơn Chúa cho các bài sách Thánh hoặc Thánh thư, và Lạy Đức Kitô! Ngợi khen Chúa cho các bài Tin Mừng.

Theo Hiến chế về Mặc khải (Dei Verbum) của Công đồng Vaticanô II, Lời Chúa phải được tôn thờ, cung kính ngang với Mình Máu Thánh Chúa, và mỗi khi cộng đoàn phụng vụ nghe công bố Lời Chúa, tức là họ đã được nghe chính Chúa phán dạy qua những lời Thánh Kinh vừa được nghe.

Trong truyền thống tôn giáo của đạo Do Thái và đạo Kitô, chỉ những sách nào tự bản thân có chất “Lời Chúa” mới được thẩm quyền giáo huấn tối cao của Giáo Hội nhận là Thánh Kinh. Những sách được công nhận, thì xếp vào danh sách gọi là Kinh bộ hay Quy điển (Bộ kinh hay từ điển các quy luật, nguyên tắc tối thượng của đức tin và luân lý).

4. Một nguyên tắc căn bản của lịch sử nữa là: Những ghi nhận càng gần biến cố xảy ra càng có giá trị sự thật cao, càng xa biến cố xảy ra càng có giá trị sự thật thấp.

Chúng ta cứ lấy lịch sử Việt Nam làm thí dụ. Con dân đất Việt luôn tự hào về 4.000 năm văn hiến. Hơn 3.000 năm là thời dã sử, mọi giá trị văn học đều truyền khẩu, thế hệ này tới thế hệ kia mãi tới đời Trần (thế kỷ 13) mới có bộ chính sử đầu tiên là Đại Việt Sử Ký, gồm 30 quyển của Lê Văn Hưu (1272), nhưng cuốn này hiện nay cũng chẳng còn, chỉ được nhắc tới tên trong bài tựa bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sỹ Liên đời nhà Lê (1479) gồm 15 quyển chép sử từ thời Hồng Bàng đến thời Lê Thái Tổ lên ngôi. Bản gốc Đại Việt Sử Ký Toàn Thư hiện nay cũng không còn. Bản duy nhất, xưa nhất còn lại là bản khắc gỗ in lại năm 1697 (hiện lưu trữ ở Pháp). Thời Nguyễn có một lần tái bản, hiện mang mã số A.3/1-4 có tăng cường nội dung do một số tác giả khác soạn thêm. Một chút sử liệu được nêu lên như vậy để bạn đọc có mốc so sánh và dễ nhận ra tính xác thực của Thánh Kinh là rất cao, rất đáng tin cậy.

Đối với Cựu Ước, nếu coi tổ phụ Abraham (thế kỷ 19 trước CN) là gốc gác của dân Do Thái, thì tới thế kỷ 11 trước Công nguyên những gì lưu truyền lại (thánh truyền) đã được ghi chép bằng chữ viết để từng bước hình thành bộ Thánh Kinh Cựu Ước. Còn bộ Thánh Kinh Tân Ước, chỉ 20 năm sau khi Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, những lời giảng dạy cũng như những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu đã được các môn đệ và học trò của các ông ghi chép lại đầy đủ và rõ ràng, thì tính xác thực kể như tuyệt đối. Chúng ta cần ghi nhớ một nguyên tắc sử học căn bản: “Những biến cố lịch sử được ghi chép lại càng gần nơi, gần lúc sự kiện xảy ra bao nhiêu thì tính xác thực càng cao bấy nhiêu, ngược lại, thời gian và không gian sự kiện xảy ra càng xa bao nhiêu thì tính xác thực càng thấp bấy nhiêu”.

Một thí dụ khác là trường hợp tác giả Homère, nhà thơ lớn mở đầu cho lịch sử văn học cổ đại Hy Lạp được Bielinski coi là “cha đẻ của thơ Hy Lạp”. Tác phẩm của ông gồm hai trường ca ILIADE và ODYSSEUS.

Về tiểu sử của Homère, chỉ có những truyền thuyết, những ý kiến phỏng đoán của các học giả với những cứ liệu mâu thuẫn nhau, thiếu chính xác. Theo ý kiến của nhiều nhà Hy Lạp học hiện nay thì Homère là một nghệ sĩ dân gian, một người đã có công sưu tầm, chỉnh đốn những bài ca dân gian ngắn về truyền thuyết cuộc chiến tranh thành Troy “để xây dựng thành hai tác phẩm hoàn chỉnh, hai bản anh hùng ca đồ sộ…”. Tác phẩm của Homère trước hết là sáng tác dân gian, sáng tác tập thể truyền miệng. Việc dùng văn tự ghi lại hai bản trường ca của Homère theo các nhà nghiên cứu thuộc về thời kỳ muộn hơn. Người ta dự đoán Homère sống vào thế kỷ 9 hoặc 8 trước CN, có ý kiến cho Homère sống vào thế kỷ 7 (theo người viết, bản văn Iliade và Odysseus cổ nhất hiện còn giữ được tối đa chỉ 200 năm; như vậy nội dung được ghi chép lại cách tác giả gần 3.000 năm).

(Nguyễn Văn Khoa – Từ điển Văn Học,

NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1983, trang 309-310)

5. Đặc biệt quý hiếm và vững chắc đó là những xác nhận của các sử gia La Mã (không Công giáo) đã làm chứng về Chúa Giêsu: Bên cạnh những bằng chứng từ lĩnh vực khảo cổ học, một số tác giả không liên quan đến Kitô giáo cũng đã ghi nhận vụ xử tử Chúa Giêsu trên thập tự giá. Vào năm 115, sử gia La Ma Cornelius Tacitus ghi lại: “Christus, nhà sáng lập (Kitô giáo), đã bị Pontius Pilate xử tử hình dưới triều đại Teberius”. Trước đó, vào năm 95, học giả Flavius Josephus cũng đề cập trong một tài liệu: “Vào thời này, có một người thông thái tên Giêsu, với đạo đức vô cùng tốt… Nhiều người trong cộng đồng Do Thái và những nước khác đã trở thành môn đệ của Ngài. Pilate kết tội và đóng đinh Ngài trên cậy thập tự và Giêsu đã qua đời” (CG&DT số 2051 ngày 8-14/4/2016).

[Suétone (56-117) trong sách “Niên Giám” (The Annals) 15,49 - Pline de Jeune (61-112) trong “Thơ gởi cho Hoàng đế Trajan” 10-96. Hai sử gia này đều xác nhận Đức Kitô bị Philatô kết án tử hình, được người tin theo coi như lãnh tụ, được ca tụng như một vì Thiên Chúa]. Không một vị giáo tổ nào được các sử gia uy tín của quốc gia chứng thực cho như trường hợp của Chúa Giêsu.

6. Sự giáng trần của Ngài đã dựng nên một cột mốc phân chia thời gian lịch sử nhân loại làm hai giai đoạn:

- Trước Ngài: tính từ Ngài lùi về trước (trước Công nguyên).

- Sau Ngài: tính từ Ngài đến nay (sau Công nguyên).

Nguyên việc cả thế giới công nhận cột mốc phân chia này cũng xác nhận Chúa Giêsu là nhân vật lịch sử chứ không phải thần thoại hay huyền thoại.

Cũng từ ngày Đức Giêsu Kitô đi vào lịch sử nhân loại, Đạo Đức Chúa Trời được sáng tỏ và mang thêm một tên mới là Thiên Chúa giáo, hay đúng hơn là: Kitô giáo.

7. Từ thời Giáo Hội sơ khai giữa thế kỷ 1 Công nguyên tới nay, hằng triệu người đã hy sinh tính mạng vì tin Chúa Giêsu và làm chứng cho Ngài. Không ai lại ngu đần, dại dột chấp nhận chết để làm chứng cho một nhân vật tiểu thuyết hư cấu, hay một nhân vật thần thoại, huyền thoại hay dã sử. Chỉ có Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người thực sự (nhân vật lịch sử) mới xứng đáng với những hy sinh lớn lao như vậy.

Tân Sa Châu, ngày 27 tháng 11 năm 2016

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết


Phụ Bản I

GIẢI OAN

CHO KINH ĐẠI THỪA

Sau khi Phật nhập diệt khoảng 100 năm, Tăng Đoàn tách ra làm hai nhóm, TRƯỞNG LÃO BỘ hay TIỂU THỪA và ĐẠI CHÚNG BỘ cũng gọi là ĐẠI THỪA. Sau đó TIỂU THỪA đổi thành PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY, cả hai bên cùng song song rao giảng Đạo Phật cho đến nay.

Không biết bên Đại Thừa giải thích lý do tách ra như thế nào, nhưng khi tra cứu lịch sử của Đạo Phật trên Internet, tôi thấy viết: “Sau khi Phật nhập diệt khoảng 100 năm, do có nhiều người muốn thay đổi một số chi tiết trong Giới Luật, và nhằm mục đích ngăn chặn không để các tư tưởng của các đạo khác thâm nhập vào giáo lý Phật Giáo nên kỳ KẾT TẬP LẦN THỨ 2 được mở ra gồm có 700 vị Tỳ Kheo. Diễn biến xảy ra là có những người không đồng ý với việc giữ nguyên Giới Luật ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị kết tập riêng và thành lập ĐẠI CHÚNG BỘ. Số người còn lại vẫn tiếp tục kết tập kinh điển, hình thành THƯỢNG TỌA BỘ”. (Nguồn Wikipedia)

Đọc qua ai cũng hiểu là “ĐẠI CHÚNG BỘ được hình thành bởi những người không đồng ý với việc giữ nguyên Giới Luật ban đầu khi Phật còn hiện diện đã dạy”. Việc đó được nhấn mạnh thêm qua danh xưng TIỂU THỪA đặt ra cho mình là PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY nhằm để cho bá tánh biết rằng chính nhóm THƯỢNG TỌA BỘ mới là nhóm giữ nguyên Giới Luật và G iáo P háp của Đức Thích Ca.

Thấy rằng điều đó nếu không đúng sự thật thì rõ ràng là một sự xúc phạm đối với Đại Thừa. Hơn nữa, là người học theo Giáo Lý Đại Thừa, tôi thấy mình có trách nhiệm làm rõ. Trước hết là cho bản thân để khỏi bị hoang mang trước những lời cảnh báo: “Có thể trở thành trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử, trở thành nô lệ tâm linh, góp phần tàn phá Đạo Phật vì xiển dương Giáo Pháp không phải của Đức Thích Ca”…(TT. Thích Nhật Từ), là những tội được coi là đại nghịch mà người tu hành cần phải tránh. Sau đó là để sự thật được làm rõ. Nếu có oan tình thì cần được giải tỏa để người theo Đại Thừa cũng đỡ mặc cảm là ông cha mình là những người ngại giữ Giới, muốn tiết chế. Vì thế tôi đã bỏ thì giờ để tìm hiểu thực hư.

Thật ra thì không riêng Kinh ĐẠI THỪA được viết ra sau khi Phật nhập diệt , mà kể cả lần Kết Tập đầu tiên 4 tháng sau khi Phật nhập diệt, được chủ trì bởi Đức CA DIẾP, được chính Ngài ANAN - người đương thời được xem là người “Có thể thuật lại lời Phật như nước trong bình đổ ra, không thiếu một giọt” - kể lại, và được những Đệ Tử đã từng nghe chính kim khẩu của Phật thuyết xác minh. Nhưng tất cả vẫn chưa được viết thành văn bản mà còn nằm ở dạng KHẤU TRUYỀN. Mãi đến 218 năm sau Phật nhập diệt mới có Kinh được ghi lại bằng văn bản. Lúc đó thì ĐẠI CHÚNG BỘ và THƯỢNG TỌA BỘ đã chia thành 2 nhóm riêng lẻ từ hơn 100 năm rồi! Như vậy ngay từ những Bộ Kinh đầu tiên của mỗi bên đều xuất hiện sau khi Phật nhập diệt hàng 200 năm.

Nhưng theo tôi thì phía Đại Thừa có độ chính xác cao hơn, vì không chỉ là ghi nhớ, mà phía Đại Thừa mỗi thời đều có người Chứng Đắc đào tạo cho lớp kế thừa. Họ có đường truyền không gián đoạn đảm bảo cho việc lưu truyền không bị mất gốc, xin được tóm lược diễn tiến như sau:

Điều mà rất ít người thời nay biết, là việc Truyền Y Bát của Đại Thừa không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên, mà có sự sắp xếp. Ngay từ người đầu tiên kế thừa cho Đức Thích Ca cho đến người cuối, tất cả đều tuân thủ một nguyên tắc bất di bất dịch: Người thay Phật để điều khiển Tăng Chúng, giữ gìn và phổ biến Đạo Pháp phải là người Chứng Đắc hay Thấy Tánh.

Lần theo lịch sử Đạo Phật ta thấy: Trong một lần giữa đại chúng, Đức Thích Ca đưa cành Sen lên, trong khi mọi người đều ngơ ngác duy chỉ có Ngài Ca Diếp mỉm cười nên Đức Thích Ca đã TRUYỀN Y BÁT lại cho Ngài và dặn dò việc đó sẽ tiếp tục mãi để thời nào cũng có người thay Phật cai quản Tăng Chúng và cằm nắm Chánh Pháp. (Nụ cười đó nói lên sự Chứng Đắc của Ngài Ca Diếp như thế nào, xin được phân tích trong bài kế tiếp. Nơi đây nói về sự chia rẽ của Tăng Đoàn ảnh hưởng tới Giáo Pháp của Đạo Phật và con đường tu Phật theo Đại Thừa so với những cáo buộc của phía PGNT mà thôi).

Nhưng lời Phật dặn dò chỉ được tuân giữ đến đời Tổ Thứ 3. Khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt thì đã có một biến cố đã diễn ra: Trong lần KẾT TẬP THỨ II - Thời điểm này trùng khớp với những gì bên TIỂU THỪA cho rằng “nhóm chống đối không muốn giữ nguyên Giới Luật ban đầu đã bỏ ra để Kết Tập riêng làm thành ĐẠI CHÚNG BỘ”.

Sự thật có đúng như thế không? Ai mới là người chống đối, bỏ ra? Nguyên nhân có phải như bên Phật Giáo Nguyên Thủy đề cập? Tôi cho rằng mình đã tìm được câu trả lời tương đối hợp lý khi đối chiếu với lịch sử Truyền Thừa vì thấy nổi lên một lý do đáng ngờ nhất là: Khi Tổ thứ 3 là THƯƠNG NA HÒA TU Truyền Y Bát cho Ngài ƯU BA CÚC ĐA lên làm Tổ thứ 4. Người này là một thanh niên mới 20 tuổi, mới gia nhập Tăng Đoàn có 3 năm!

Đa phần ai cũng nghĩ tu lâu là sẽ cao. Vì thế, nhiều người không thể chấp nhận được một chàng trai trẻ mới 20 tuổi đầu, mới vào tu học có 3 năm, lại có thể lên nắm quyền điều khiển Tăng Chúng, trong đó có những vị tu rất lâu năm. Vì thế, các vị TRƯỞNG LÃO bất mãn tách ra để lập TRƯỞNG LÃO BỘ. Mối nghi càng có cơ sở hơn khi tôi thấy PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY chỉ nhìn nhận có Tổ A DIẾP và Tổ A NAN, không nhắc gì đến Tổ thứ 3 và các Tổ về sau. Do đó tôi nghĩ rằng hẳn mâu thuẫn đã xảy ra bắt đầu từ lý do đó!

Dù vậy, trừ việc các TRƯỞNG LÃO BỘ tách ra, Giáo Lý Đạo Phật không có gì bị đảo lộn, mọi thứ vẫn theo đúng trình tự, những người còn lại bên ĐẠI CHÚNG BỘ vẫn tiếp tục chấp nhận Tổ ƯU BA CÚC ĐA do Tổ trước Truyền Thừa. Đường Truyền Y BÁT vẫn được các vị tuân thủ lời dặn dò của Đức Thích Ca tiếp tục từ Đức Ca Diếp, Đức A Nan, Đức Thương Na Hòa Tu rồi Đức Ưu Ba Cúc Đa, sau đó lần xuống mãi đến Tổ Huệ Năng thứ 33, không hề bị gián đoạn. Trong khi đó, chính Trưởng Lão Bộ mới là nhóm tách ra để bắt đầu một trình tự mới. Cho rằng bên Đại Thừa bỏ ra, trong khi bên mình lúc đó mới bắt đầu có Tổ đầu tiên. Như vậy không cần giải thích, người có chút tinh ý sẽ biết nhóm nào mới là nhóm chống đối, bỏ ra để Kết Tập riêng!

Dù biến cố xảy ra từ rất lâu, nhưng ảnh hưởng vẫn kéo dài đến hiện tại và vô lượng đời sau nếu sự thật không được phô bày, vì qua những gì được cố ý viết về nguyên nhân tách ra của Tăng Đoàn làm người có suy nghĩ muốn tìm tín hướng để tu học cũng thấy ái ngại. Bên Đại Thừa cũng không lên tiếng đính chính, càng làm cho mọi người tin tưởng những gì được công khai trên mạng đúng là thật. Nhất là những đệ tử đời sau bên PGNT càng vin vào đó để gán ghép thêm một số sai phạm làm cho nhiều Phật Tử hiểu lầm mà xa lánh Đại Thừa. Vì tu hành theo đó để trở thành những người “nô lệ tâm linh”, “góp phần làm Đạo Phật suy tàn” thì ai mà chẳng sợ?! Bản thân tôi cũng không muốn quy trách nhiệm cho các vị tiền bối trong quá khứ, vì mọi việc đã qua hàng mấy ngàn năm rồi. Nhưng bởi tác hại không dừng ở đó, vì việc mỗi bên có Giáo Pháp riêng, cách thức tu hành và Quả Vị cũng khác nhau.

So sánh hai Giáo Pháp, tôi thấy:

A. Sự Chứng Đắc phía Phật Giáo Nguyên Thủy theo tôi tìm hiểu là Quả Vị A LA HÁN, tức là Ngộ được cái TÁNH KHÔNG. Quả Vị này là một giai đoạn trong Đạo Phật, chưa phải là rốt ráo. Bởi lúc ban đầu Đức Thích Ca thấy rằng con người sở dĩ KHỔ vì cho rằng “Tất cả các Pháp là THẬT CÓ. Cuộc đời là Thật. Cái Thân Tứ Đại là Thật”, nên mọi người đã vì cái Thân mà tranh giành, đấu đá với nhau làm cho cuộc sống không yên ổn. Chính vì vậy mà Ngài phải đưa ra cái GỐC của Vạn Pháp. Nói rằng bản chất nó là KHÔNG. Thấy đó, nhưng sẽ hư hoại, sẽ mất đi, gọi là VÔ THƯỜNG, và dạy các đệ tử quán sát. Sau khi quán sát, thấy đúng Vạn Pháp là KHÔNG, không trường tồn, người tu sẽ gỡ được cái CHẤP CÓ. Không còn đau khổ bởi các Pháp nữa. Người thấy CÁC PHÁP là KHÔNG sẽ dừng ở đó.

Nhưng cái Lý của Đạo Phật không kết thúc ở đó, mà sau khi gỡ được cái CHẤP CÓ, không còn bị nó vùi dập, làm khổ nữa, thì người tu lại quay sang CHẤP KHÔNG. Cho rằng mọi thứ đều là KHÔNG. Lúc đó Đức Phật mới đưa ra cái nhìn thực tế rằng: “Các Pháp dù không thật có, không tồn tại mãi, nhưng đang TẠM CÓ”. Vì vậy, người tu Phật phải gỡ cả cái CHẤP CÓ lẫn CHẤP KHÔNG, để giải quyết cái TẠM CÓ cho cuộc sống được an vui. Chính nhờ thấy được tính chất các Pháp là TẠM CÓ, nhưng Nhân Quả không mất, con người sẽ sống thực tế và bớt Tham, Sân, Si vô tình cũng ngưng tạo Nghiệp, nên kiếp sống hiện tại họ và những người chung quanh cũng được an, và kiếp sau, nếu có, càng tốt đẹp hơn.

B. Theo Đại Thừa, tất cả cái CHẤP CÓ, CHẤP KHÔNG đều do cái Tâm chủ động, nên họ tập trung để Sửa ở đó, gọi là Tu Tâm. Hình tướng, nơi ở, giới tính, độc thân hay có gia đình, trong Chùa hay ngoài Chùa, làm bất cứ ngành nghề gì cũng có thể tu được. Chứng Đắc của Đại Thừa là Đắc cái BẢN THỂ TÂM hay gọi là THẤY TÁNH, tức là nhận ra được BẢN TÁNH CHÂN THẬT CỦA MÌNH. Biết mình không phải là cái Thân Tứ Đại Giả Hợp này, mà là cái CHÂN TÁNH HIỆN THÂN TRONG ĐÓ. Nhờ ý thức như vậy mà người Chứng Đắc sống giữa trần gian mà không bị trần gian vùi dập. Chính vì vậy, con đường của ĐẠI THỪA gọi là CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO. Vừa thuận đời. Vừa hợp Đạo. Người tu vẫn sống trong đời. Chấp nhận cảnh đời với những Pháp đối đãi: Xấu, tốt, nghèo, giàu, thọ, yểu, sướng, khổ, vui, buồn, được, mất, hơn, thua, thương, ghét, sống, chết... Đối xử với nó mà cái Tâm mà không xao động, giống như hình ảnh mà Hoa Sen mà Đạo Phật dùng làm biểu tượng: Sinh ra, lớn lên, tàn rụi trong bùn mà không bị bùn làm cho ô nhiễm. Người tu không cần tách khỏi đời. Không trốn đời. Không khinh chê cuộc đời là ô trược, trái lại ở trong đó, tự thanh lọc cái Tâm và làm đầy đủ bổn phận một con người để trả nợ cuộc đời và đền TỨ ÂN.

Người thấy các Pháp là KHÔNG thì cho rằng phải xa rời nhà cửa thế tục, lìa xa cha mẹ. Phải ở trong Chùa, đầu tròn, áo vuông, không được tham gia việc đời, phải sống đời độc thân thì mới thanh tịnh, mới tu được. Nhưng lý thuyết là KHÔNG, mà mở mắt ra đã phải dùng toàn các Pháp CÓ: Có Phật để phụng sự. Có ta để tu hành. Có Chùa để trú ngụ. Có y phục, thực phẩm, thuốc men để dùng. Có phương tiện để di chuyển. Có bá tánh để thuyết pháp... thậm chí Có “Đắc Quả”! Chê cõi đời là ô trược, đứng bên lề, không tham gia vào bất cứ việc gì của đời, nhưng vẫn hưởng dụng thành quả của cuộc đời! Cho rằng mình tu hành, không tham gia vào việc đời, không tính toán, mua bán, lời, lỗ, hơn, thua, dùng tiền của thí chủ Cúng Dường gọi là Tịnh Tài để nuôi thân mà tu hành rồi thấy mình “Thoát thế gian”!

Nhưng chúng ta thử nghĩ: Đâu phải người Cúng Dường nào cũng dùng đồng tiền sạch sẽ được làm ra bằng chính công sức lương thiện để cúng Phật, cúng Tăng? Xét cho cùng, những người sống lương thiện, chân chính như những nhà giáo, những công nhân viên, những nhà nông, những người lao động… thì đâu có dư giả để cúng tiền một cách rộng rãi, mà người kiếm ra nhiều tiền, tài sản dư thừa có thể là những người cho vay nặng lãi, những kẻ bóc lột người khác, những người làm ăn bất chính, buôn gian bán lận… kiếm tiền một cách dễ dàng, rồi muốn nhẹ Nghiêp nên mang tiền đến Chùa cúng. Liệu những đồng tiền đó có thể gọi là Tịnh Tài, và người tu hành dùng đó để nuôi thân có khỏi chia Nghiệp? Ngay cả nhận đồng tiền cung dưỡng bằng công sức lương thiện của bá tánh trong khi mình tu chỉ để mình nhờ thì cũng đâu chỉ vì cho rằng CÁC PHÁP LÀ KHÔNG mà Thoát Nhân Quả! Hơn nữa, người cho rằng các Pháp là KHÔNG thì làm gì thấy được Nhân Quả để sợ? Mối nguy hại nằm ở đó!

Chính vì cuộc sống phải đối đầu với những khó khăn, vất vả, phải gặp gỡ, tiếp xúc với đủ thứ hạng người nên con người mới cần trang bị cho mình kiến thức của Đạo Phật để không bị phiền não nhấn chìm. Có như thế mới chứng minh sự hữu hiệu của Phật Pháp, nói lên tính cách của Hoa Sen mà Đạo Phật dùng làm biểu tượng. Do đó, người tu theo Đại Thừa thì chỉ tu sửa cái Tâm. Ai thấy rằng mình cần hình tướng để thuận lợi quảng bá Đạo Phật, vì mọi người dễ tin tưởng hơn thì cứ ở trong Chùa. Ai thấy rằng mình cần hòa mình vào xã hội, sống cuộc sống bình thường thì không cần Chùa chiền, không cần ai chu cấp, tự làm ra tiền để nuôi cái Thân mà tu hành để khỏi mắc nợ bá tánh. Như thế chẳng lẽ vì thiếu hình tướng, vì có gia đình mà họ không thể thanh lọc cái Tâm, không đạt kết quả Giải Thoát? Trong khi đó, nếu có người đầy đủ hình tướng, độc thân, ở trong Chùa, mà cái Tâm còn đầy Tham Ái thì liệu có đạt kết quả? Hơn nữa đã nấp sau cửa Chùa, mọi việc đã có người đối phó, không có gì phải phiền não thì cần gì cầu Giải Thoát? Như vậy thì phải chăng trong hoàn cảnh đó Đạo Phật đâu còn cần thiết nữa!

Về Kinh NGỤY TẠO xin được giải thích như sau: Nếu đã chấp nhận việc CHỨNG ĐẮC, TRUYỀN Y BÁT của Đạo Phật thì cũng hiểu rằng người CHỨNG ĐẮC sau cũng có sự hiểu biết ngang với người trước, vì “PHẬT TRƯỚC PHẬT SAU ĐỀU BÌNH ĐẲNG”. Đức Thích Ca là người Chứng Đắc đầu tiên. Các Tổ lần lượt là người Chứng Đắc sau. Sự hiểu biết của Tổ sau chẳng những không khác với Đức Thích Ca, mà dần dà, theo đà tiến hóa của xã hội, vị Chứng Đắc thời sau có thể sử dụng ngôn ngữ của thời đại của mình để làm cho mọi người hiểu Phật Pháp được rõ ràng hơn. Đức Thích Ca không phải là Thần Linh mà cũng không phải là người Chứng Đắc duy nhất. Con đường Ngài truyền lại, bất cứ ai hiểu, hành đúng thì cũng đều có kết quả như Ngài, vì thế gọi là có TAM THẾ PHẬT. Tức là QUÁ KHỨ đã có, HIỆN TẠI cũng có, mà TƯƠNG LAI cũng có người chứng được. Và như thế, khi người đã hành xong cho mình, đã CHỨNG ĐẮC, đã được ấn chứng bởi TỔ TRƯỚC, thì đó là PHẬT HIỆN ĐỜI, đương nhiên các Ngài có quyền giảng dạy, viết Kinh để truyền lại kinh nghiệm, hướng dẫn cho lớp người sau, đâu có gì là sai? Như vậy, dù cho Kinh được viết ra nhiều trăm năm sau khi Phật nhập diệt cũng đâu thể nói là NGỤY KINH, vì đa phần Kinh ĐẠI THỪA do các vị Tổ được Truyền Y Bát giảng rồi chư Đệ Tử viết lại như Tổ Long Thọ, Tổ Đạt Ma, Tổ Huệ Năng. Chỉ nên gọi là Ngụy Kinh đối với Kinh do những người không phải là các Tổ được Truyền Y Bát viết, vì không riêng các Tổ được Truyền Y Bát, người mọi thời tu hành thấy được ít nhiều gì cũng viết để phổ biến, nên Kinh trở thành “Thiên Kinh vạn quyển”, không thể phân biệt thật giả.

Với những người chỉ biết và chấp nhận có mỗi Đức Thích Ca là Phật thì rõ ràng không hiểu lời Thọ Ký: “Ta là Phật đã thành. Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành!”. Việc giác ngộ không dành riêng cho ai, thì tại sao chỉ Phật trước có quyền Giác Ngộ, người đời sau thì không? Chính các vị bên PGNT cũng cho rằng “Đức Thích Ca không phải là Thần Linh, mà cũng là con người bình thường như tất cả mọi người. Nhờ tu hành mà Chứng Ngộ”. Vậy tại sao không chấp nhận các Tổ và những người như chúng ta cũng có thể Chứng Ngộ, vì “Tất cả Chúng Sinh đều có Phật Tánh”? Mà đã có Phật Tánh thì tu hành chỉ là làm công việc khơi gợi cho cái Phật Tánh đó hiển lộ ra mà thôi. Cũng như mọi người đều có tri thức, chỉ cần đi học là biết, đâu có gì huyền bí hay kinh thiên động địa? Vấn đề là cần gặp đúng người có Chánh Pháp, đã Chứng Đắc hướng dẫn cho mà thôi, vì không phải bất cứ ai khoác áo tu sĩ là Có Chánh Pháp, cũng Chứng Đắc!

Giáo Lý của Phật Giáo Nguyên Thủy đưa người hành trì đến cái KHÔNG, làm cho người tu tự mâu thuẫn khi áp dụng mà chúng ta có dịp suy nghĩ khi đọc “GÓP NHẶT CÁT ĐÁ” qua câu chuyện:

Có một Thiền Sinh tên là Yamaoka tới báo cáo với Thầy Dokuan: “Bạch thầy, Tâm, Phật, loài hữu tình rốt ráo chẳng có. Bổn tánh chân thật của mọi hiện tướng là cái Không. Không cả cái CÓ. Không có huyền ảo, không có thánh, không có phàm, không có cho và không có cái gì để thọ nhận…”. Dokuan đang hút thuốc, bèn vác cái điếu đập cho anh ta một phát đau điếng. Anh ta nổi cáu: “Tại sao thầy lại đánh tôi?”, Thiền Sư Dokuan trả lời: “Nếu mọi thứ đều là KHÔNG thì cái gì đang nổi Sân đó?”.

Tương tự như thế. Nếu mọi thứ đã là KHÔNG lẽ ra không có Phật, không có Giáo Pháp, không cả ta, mọi người và vạn pháp, không xuất gia, không tại gia, không thiện, không ác, không cả Nhân Quả… sao còn phải xây Chùa, đúc Tượng, giảng Pháp, kêu gọi mọi người Quy Y theo Phật, làm phước, tin tưởng, chờ mong vào sự hộ trì của Phật? Mọi người đều nhìn thấy, thậm chí có người đã nêu lên thắc mắc: “Tại sao những nước mà Đạo Phật là Quốc Giáo đều nghèo?”. Thật ra câu trả lời cũng không có gì khó, là bởi vì họ không biết gì đến Nhân Quả để phấn đấu, học hành, làm ăn, đưa bản thân và đất nước đi lên, mà hoàn toàn tin tưởng vào sự hộ trì của Phật. Có gì quý thì mang cúng Chùa, tôn tạo Tượng Phật để cầu xin “Được Độ”! Những quốc gia đó hình thành một giai cấp tu hành chuyên rao giảng Đạo Phật và lớp tín đồ là thí chủ, có nhiệm vụ chu cấp mọi thứ cho họ yên tâm tu hành! Tín đồ không hề được biết là việc tu hành là TỰ ĐỘ. Người tu có làm xong cho bản thân cũng không “Độ” được cho ai, vì “ai tu nấy đắc”! Một điều không thể chối cãi là những nước đó đều theo Tiểu Thừa. Theo tôi, đó cũng là điều mà các nhà lãnh đạo PGNT nên nhìn lại Giáo Pháp của mình, trong khi chính Giáo Pháp của mình cũng cho rằng “Phật không phải là Thần Linh, mà cũng là con người bình thường như tất cả chúng ta, nhờ tu hành mà Giác Ngộ”. Như vậy tại sao không hướng dẫn cho bá tánh học theo gương Phật để bản thân cũng được Giác Ngộ, Thoát Khổ, mà lại dạy cho họ tôn thờ Phật, mang vàng, bạc tôn tạo chùa chiền để cầu xin “Được Độ”? Phải chăng lý thuyết một đàng mà áp dụng một nẻo?

Đạo Phật sở dĩ có mặt ở trần gian là vì con người. Mục đích của Đạo Phật là mang lại giải pháp cho con người, trang bị cho con người kiến thức để có thể tiếp tục sống giữa dòng đời đầy phiền não mà không bị phiền não làm hại. Người tu Phật đâu có trốn đời, đâu có né pháp, mà trực diện với nó, làm tròn trách nhiệm của mình, như Sen không rời bùn mà vẫn nở hoa thanh khiết. Nhưng nhiều người đã hiểu lầm, chê cuộc đời là ô trược rồi bỏ hết, vô Chùa cho thanh tịnh. Trong khi bản thân họ có chuyên môn cao, có thể giúp xã hội, giúp cuộc đời. Tất cả chỉ vì nghe giảng về Phật quá cao siêu, có toàn quyền ban ân, giáng phúc. Nước Phật huy hoàng, tráng lệ! Họ không sáng suốt để xét: Nếu Phật là Đức Thích Ca, và Ngài đã Độ được cho bên ngoài thì trước hết là ĐỘ THA, là sai với tinh thần của Đạo Phật. Thứ nữa là nếu Phật Độ được cho thế giới thì thế giới đã không còn hỗn loạn, chiến tranh, chết chóc, tai ương nữa mà đã biến thành Niết Bàn thanh tịnh từ lâu rồi! Đàng này như ai cũng biết thế giới vẫn chiến tranh, tai ách tràn lan! Ngay cả Nước Ấn Độ nơi Phật sinh ra mà Ngài còn không “độ” được! Lỗi đó do những người chưa Chứng Đắc, không hiểu hết lý của Đạo Phật, nên đã Y NGỮ mà giảng, biến Đạo Phật từ Chánh Pháp trở thành Tà Pháp. Biến Phật trở thành Thần Linh để con người nương tựa, làm cho tín đồ sống cuộc đời rất là mâu thuẫn mà không hay. Thay vì có thể hoàn thành sứ mạng của mình, đóng góp công sức để trả ân cha mẹ, ân cuộc đời thì lại bỏ hết, vô Chùa, chỉ để ngày ngày Tụng Kinh, Niệm Phật chờ về Tây Phương Cực Lạc, làm phí phạm cả kiếp sống của biết bao nhiêu thế hệ, còn làm gánh nặng cho xã hội, vì bắt người khác phải cung phụng cho mình tu hành, trong khi lý thuyết của Đạo Phật đã nói rõ: Người tu có xong cũng đâu có độ được cho bá tánh!

Trong khi đó, Giáo Lý của Đại Thừa mang Đạo Phật vào cuộc đời. Xuất Gia hay Tại Gia đều có thể tu hành và đạt kết quả như nhau, bởi hoàn cảnh nào cũng Giải Thoát được. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế. Người tu được hướng dẫn chấp nhận cuộc sống là Tạm Có với mọi Pháp diễn ra. Đạo Phật đơn giản chỉ là ĐẠO ĐỘ KHỔ. Mục đích tu Phật chỉ là để THOÁT KHỔ, muốn thành tựu thì chỉ cần NHÌN RÕ NGUYÊN NHÂN GÂY RA NỖI KHỔ VÀ HÓA GIẢI NÓ. Chỉ có thế mà thôi. Và mỗi người phải TỰ ĐỘ, không nương tựa vào bất cứ ai, kể cả Đức Thích Ca, chỉ nương theo Giáo pháp của Ngài đã để lại mà thôi. Mỗi người tự ý thức NHÂN QUẢ để không làm điều xấu, và nhờ ý thức Nhân Quả nên hoàn toàn không có mê tín, thần quyền, không tôn thờ Chư Phật, Chư Bồ Tát để cầu xin, mà tự gây Nhân Thiện để hưởng Quả Lành.

Kết luận: Người cho Kinh ĐẠI THỪA là KINH NGỤY TẠO chứng tỏ họ không hiểu gì về việc CHỨNG ĐẮC, TRUYỀN Y BÁT của Đạo Phật. Cho rằng ĐẠI THỪA bịa ra thêm nhiều Phật để mê hoặc tín đồ lại càng sai. Vì Phật - mà Đại Thừa gọi - là để nói về cái TÁNH GIẢI THOÁT của người đã hành trì xong, không phải là Thần Linh có quyền năng cứu khổ ban vui cho ai. Phật A Di Đà cũng không phải là một Vị Phật, mà nói về “Hào Quang soi suốt không ngăn ngại”, tượng trưng cho một cái Tâm thanh tịnh, sáng suốt. Tả Tây Phương Cực Lạc có “Ao nước chứa Tám Công Đức” là dụ cho kết quả của việc hành theo Bát Chánh Đạo. Cõi Tây Phương Cực Lạc “trang hoàng bằng Bảy Báu” là nói về công đức Thí Xả Ba Nghiệp của Thân là Tham, Sân, Si và Bốn Nghiệp của Khẩu. Nói “từ đây cách Tây Phương Cực lạc 18 ngàn dặm” tượng trưng cho Thập Ác, và Bát Tà. Xả được l8 món đó gọi là về đến Tây Phương Cực Lạc. Nước Phật A Di Đà được hình thành nơi Tâm của người hành trì. Như thế làm sao chỉ cần NIỆM DANH HIỆU PHẬT A DI ĐÀ mà về đó được? Bởi đó là phương tiện được Chư Vị Giác Ngộ bày ra mục đích là để người ham thích cõi nước tốt đẹp, mong được về đó mà Cải Ác, Hành Thiện để kiếp sống được an vui mà thôi. Lời Phật dạy được ghi chép lại thành Kinh, sao không mang ra mà áp dụng, lại lấy đó để Tụng nhịp nhàng theo chuông, mõ thì ích gì? Làm gì có việc chỉ cần nhất tâm tụng Kinh, Niệm Phật rồi có ngày “Thánh Chúng” sẽ rước về Tây Phương Cực Lạc!

PHẬT chỉ có nghĩa là Giải Thoát. “Ràng buộc hay Giải Thoát cũng ở nơi cái Tâm” (Kinh Lăng Nghiêm). Tổ Đạt Ma cũng cho rằng: “Phật tại Tâm”, “Tâm chính là Phật”, “Tu Phật là tu Tâm”, “Muốn Thành Phật thì phải Độ Sinh” rồi dạy mọi người phải có Trí Huệ, phải phân biệt Chánh, Tà, Thiện, Ác, Phàm, Thánh, Phật, Chúng Sinh… rồi làm công việc giáo hóa cho những Chúng Sinh, tức tư tưởng của mình để được Giải Thoát. Bên PGNT do thấy tất cả là KHÔNG nên không cần biết đến điều gì khác, vì thế họ cũng không hiểu thế nào là Thành Phật. Họ cũng không biết rằng CHÚNG SINH mà người tu theo Đại Thừa phải “ĐỘ” để Thành Phật chỉ là những TƯ TƯỞNG chưa được thanh tịnh của chính họ. Hóa giải cho một tư tưởng xấu trở thành tốt, giải thoát cho nó, gọi là “Độ” được một Chúng Sinh Thành Phật. Do đó mà có “hằng hà sa số Phật”, vì mỗi ngày mỗi người chúng ta khởi ra biết bao nhiêu tư tưởng? Điều phục hay hóa giải cho nó được thanh tịnh thì gọi là “Cúng Dường Phật”, tức là biến một Chúng Sinh Thành Phật, vì thế, “Cúng Dường vô số ức Đức Phật rốt sau sẽ thành Phật” là mỗi người tự “Độ” cho hết những tư tưởng bất thiện cho nó được thanh tịnh. Cuối cùng người “Độ” sẽ được “Giải Thoát”, gọi là “Thành Phật”, không phải là mang hương hoa đến trước vô số tượng Phật để cúng rồi sẽ Thành Phật!

Cho nên, theo tôi, chính vì bị những đời trước ém nhẹm, không được biết ĐẠI THỪA có việc TRUYỀN Y BÁT, và người được TRUYỀN chính là PHẬT HIỆN ĐỜI, nên người theo PGNT đã cực lực phản đối Kinh ĐẠI THỪA, cho rằng Kinh Đại Thừa không phải lời của PHẬT. Trong khi đó, Lý thuyết của PGNT cũng không làm sao giải thích được tính chất tu hành theo Đạo Phật giống như HOA SEN, phù hợp với mục đích của Đạo Phật mà cũng không cần xa lánh cuộc đời như bên Đại Thừa diễn giải. Thật vậy, cuộc đời vốn dĩ đầy dẫy những đối đãi. Mọi người vẫn ở trong đó mà làm được biết bao nhiêu điều tốt đẹp. Ngay cả 32 Tướng Tốt của Phật cũng được thực hiện ở giữa cuộc đời. Hơn nữa, nếu ta chê cuộc đời là ô trược, rồi bỏ hết mọi việc, không tham gia vào việc đời làm sao đền được TỨ ÂN? PHẬT đâu có phải là Thần Linh để cho ta cầu xin gia hộ mà đền đáp ân Cha Mẹ, ân Đất Nước, ân Phật, ân Chúng Sinh? Cho rằng tu hành để phụng sự cho Phật, thì càng không đúng, vì Phật đã nhập diệt từ mấy ngàn năm rồi, chúng ta sẽ phụng sự cách nào? Kêu gọi mọi người Quy Y cho đông mà không chỉ cho họ được CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT thì ích gì cho họ, ích gì cho Đạo Phật? “Phật là Vô Tướng, do vô lượng công đức mà thành”. Ngay cả Đức Thích Ca cũng không phù hộ được cho ai, chỉ để lại Giáo Pháp cho ai tin theo thì tự hành trì để được lợi ích. Như vậy thay vì cất Chùa cho to, đúc tượng cho lớn làm tổn hao tiền bạc của bá tánh, sao không triển khai Giáo Pháp của Ngài để bá tánh được lợi lạc, vì Phật là Giải Thoát, đâu có tướng mà cần Chùa, Tượng cho hoành tráng? Cho rằng nhìn thấy đó để phát tâm. Nhưng phát tâm mà không gặp được người hiểu đúng Chánh Pháp để hướng dẫn cho thì rốt cuộc sẽ rơi vào Nhị Thừa, mê tín mà thôi.

Nói rằng những Kinh viết về sau không phải lời của Đức Thích Ca là đúng. Nhưng nói rằng không phải lời của PHẬT là sai, vì PHẬT không phải là danh xưng dành riêng cho Đức Thích Ca, mà là nói về người đã hoàn thành công việc Giải Thoát cho bản thân. Đức Thích Ca làm xong cho Ngài, nên Ngài là Phật Thích Ca. Chư Tổ về sau đã Chứng Đắc tức là cũng đã Thành Phật, nhưng vì biết rằng việc Giải Thoát hay Thành Phật đâu có gì ghê gớm, mọi người phải ngưỡng mộ, nên các ngài đâu cần quảng bá hay xưng danh hiệu? Còn nếu cho rằng ngoài Đức Thích Ca không ai có thể Thành Phật thì không khác nào phỉ báng Phật, cho rằng Giáo Pháp của Đạo Phật không hữu hiệu!

Không phải ai tu theo Đại Thừa - kể cả tu theo PGNT - đều là bậc chân tu, nắm vững mục đích, phương tiện của Đạo Phật. Trong số những người khoác áo tu sĩ không hiếm những vị tu hành chân chính mà cũng không thiếu những kẻ lợi dụng cửa Chùa. Cho nên ta không thể nhìn vào hành vi của một số để đánh giá chung cho tất cả. Nhưng việc cho rằng Đại Thừa “xiển dương Giáo Pháp không phải của Đức Thích Ca”, là có lỗi với Đấng Đạo Sư, vì họ nằm trong ĐƯỜNG TRUYỀN Y BÁT do chính Ngài thiết lập. Cho rằng Đại Thừa đưa bá tánh đến “nô lệ tâm linh” là hoàn toàn hiểu sai về đường lối của Đại Thừa. Đại Thừa không hề cổ xúy việc Thờ Phật, mà dạy TỰ ĐỘ để tự mình Thành Phật. Dạy tín đồ tin sâu NHÂN QUẢ. Bởi thế, theo tôi: không cần biết ai đó theo Thừa nào, trong Chùa hay ngoài Chùa. Chỉ cần họ Cải Ác, Hành Thiện, đi trong Bát Chánh Đạo, sống đúng theo Nhân Thừa thì không ra ngoài Phật Đạo. Trái lại, người dạy cho bá tánh tôn sùng Phật như một vị Thần Linh, Cầu An, Cầu Siêu, cúng sao, giải hạn, đổi xấu lấy tốt, không dám Tự Chủ, Tự Tin mình có khả năng Thành Phật rồi nương theo Giáo Pháp của Đạo Phật mà hành theo để được như chư vị Giác Ngộ… thì những người đó đang “chồng mê” cho bá tánh, đưa Thần Quyền xâm nhập vào Đạo Phật chân chính. Đó mới chính là “Những con trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử, góp phần làm cho Đạo Phật suy tàn”, dù cho họ có tu theo bất cứ Thừa nào, cũng vẫn là ngoại đạo, tà giáo vậy.

Tâm Nguyện

Tháng 11/2016

VỀ MỘT TÁC PHẨM

VĂN HỌC NGA ĐƯƠNG ĐẠI

Tên tuổi tác giả cuốn tiểu thuyết Cứu tinh từ vũ trụ - Vichtor Slipentruc - cuốn sách mà bạn đọc đang cầm trên tay, quả thực cho đến nay đối với chúng ta còn lạ lẫm. Tuy nhiên tại quê hương mình, nhà thơ, nhà văn, nhà báo Vichtor Slipentruc đối với công chúng bạn đọc đương đại Nga lại là một trong những cái tên được nể trọng, thường xuyên được nhắc tới trên báo chí, trên các phương tiện truyền thông, luôn được hoan nghênh trong các cuộc gặp gỡ với bạn đọc, những cuộc giao lưu văn hóa - nghệ thuật. Năm thập kỷ qua các tác phẩm của Vichtor Slipentruc - thơ, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, bút ký hành trình, kịch, tiểu phẩm luôn đến với công chúng. Những năm gần đây sáng tác của ông được dịch, quảng bá ở nhiều nước, châu Âu, cũng như châu Á. Chẳng hạn: truyện vừa Cái rốn tí hon biết cười của Vichtor Slipentruc đã được dịch sang tiếng Nhật và xuất bản ở Tokyo năm 2007. Trong một năm 2009, hai tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Trung Quốc, cuốn Cái rốn tí hon biết cười xuất bản ở Bắc Kinh, tiểu thuyết Zinzever xuất bản ở Thượng Hải. Tiếp theo 27 tháng 4 năm 2011 bản dịch sang tiếng Trung Quốc tiểu thuyết Cứu tinh từ vũ trụ của Vichtor Slipentruc lại được in thành sách và ra mắt tại Bắc Kinh trước một công chúng đông đảo, trong đó có nhiều nhân vật nổi tiếng trong giới tri thức Trung Quốc, các giáo sư, sinh viên, các nhà văn hóa, các văn nghệ sĩ. Sách của ông được dịch và xuất bản ở Mông Cổ, Ukraina,…Và tham gia giới thiệu ở các salon sách quốc tế, Hội chợ sách quốc tế. Ở đâu gian bầy sách của tác giả Vichtor Slipentruc giữa các gian sách của các nhà xuất bản đến từ Liên bang Nga bao giờ cũng thu hút rất đông khách từ nhiều nước đến tham quan, tìm hiểu, thương lượng bản quyền. Tại Hội chợ sách quốc tế sách Frankfuốc tháng 10 năm 2011, hay salon quốc tế sách Paris tháng 3 năm 2012, Hội chợ quốc tế sách Luân Đôn tháng 4 năm 2012 chẳng hạn, đại diện Nhà xuất bản Hàn Quốc, rồi Nhà xuất bản từ Hà Lan rất quan tâm đến các tiểu thuyết của Vichtor Slipentruc, như các cuốn ZinzeverCứu tinh từ vũ trụ…

Vichtor Trifonovich Slipentruc - nhà thơ, nhà văn, nhà báo Nga, sinh tại làng Tserigovko vùng Primorski. Ông đã ở tuổi ngoài bẩy mươi (ông sinh ngày 22 tháng 9 năm 1941). Chàng thiếu niên Vichtor sớm say mê văn chương và mười bốn tuổi đã có thơ được đăng báo địa phương quê nhà. Nhưng gần đây trả lời phỏng vấn trên Đài tiếng nói Moskva, Vichtor Slipentruc lại cho ta thấy con đường trở thành một nhà văn tên tuổi của ông lại không đơn giản chút nào: “Tôi thuộc thời đại của chuyến bay Gagarin vào vũ trụ, của những khẩu hiệu to tát “Trả tự do cho Monoles Glezes” (chiến sỹ đấu tranh cho tự do ở Hy Lạp bị chính quyền Hy Lạp thuở ấy bắt giam), “Nhà văn tốt - tiểu sử phải tốt”…Và nhiều, nhiều khẩu hiệu tương tự. Suốt đời tôi đã theo đuổi những khẩu hiệu như thế, coi đó là những chuẩn mực hành vi ứng xử”. Chính vì thế mà, tốt nghiệp Đại học Kinh tế Nông nghiệp Ômsk năm 1964, Vichtor đã nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ quân sự ba năm, sau đó mới ra làm cán bộ kỹ thuật sinh học, thanh tra viên và nhà tổ chức, rồi kỹ sư chuyên chăm sóc cừu ở Altai, tình nguyện đi làm thủy thủ tàu đánh bắt cá, trưởng thành thành phó thuyền trưởng, chuyển sang làm công nhân xây dựng, thợ đổ bô tông và làm báo, phóng viên, phụ trách chuyên mục “Đất mẹ quê hương” và “Tuổi trẻ”. Ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Liên xô năm 1982, sau khi đã có hàng chục tác phẩm được xuất bản. Vichtor Slipentruc thường nhắc đi nhắc lại là mình đã trở thành hội viên Hội Nhà văn thời Xô viết.

Và cũng dưới thời Xô viết, trong hai năm 1983-1985, nhà văn Xô viết Vichtor Slipentruc đã bị Viện công tố vùng Altai nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Nga buộc an trú tại chỗ. Sau này tác phẩm Ngọn lửa của im lặng của ông đã lên tiếng bảo vệ và giữ trọn nhân phẩm và tự do, bác bỏ lời buộc tội của Viện công tố Altai. Nhưng trong hai năm 1983-1985 đó, nhà văn Vichtor Slipentruc vẫn tranh thủ theo học xong khóa cao học của trường Đại học Văn chương Matxcơva mang tên M.Gorki. Học tại chức từ xa.

Là người cầm bút Vichtor Slipentruc luôn luôn tâm niệm một tín điều: Nhà văn là sản phẩm của đơn chiếc: Puskin, Dostoevski, Esenin, mãi mãi là Puskin, Dostoevski, Esenin… cho dù số lượng người đọc có khi nhiều, khi ít. Với nhà văn sáng tác của mình chính là danh dự của mình. Ông ghi nhớ lời di huấn của Puskin trong những câu thơ ở đoạn kết bài thơ Đài kỷ niệm:

Nàng thơ hỡi, hãy tuân lời thượng đế,

Vinh quang không màng, nhọc nhằn sá kể,

Chẳng bận tâm với kẻ trách, người chê,

Chẳng hoài công cãi với đứa ngu si.

Ông còn nhớ một điều nữa mà Puskin tâm sự trong bài thơ Chuyện trò với người buôn bán sách:

Tôi chỉ bán bản thảo mà thôi,

Không bán nguồn cảm hứng!

Chính vì thế mà trong sáng tác của bản thân ông, Vichtor Slipentruc từng không nhân nhượng một đạo diễn có tiếng đã nhiều lần nài nỉ ông cho phép chuyển thể tiểu thuyết Zinzever thành phim truyền hình nhiều tập. Có thể chuyển thì chỉ trong phạm vi hai tập mà thôi! - Còn mười lăm - hai mươi tập sẽ biến tác phẩm của ông thành cái thùng rỗng tuếch. Đã mấy năm rồi mà việc thương lượng mặc cả giữa nhà đạo diễn và nhà văn vẫn cứ giậm chân tại chỗ.

Nhà văn Vichtor Slipentruc được bạn đọc yêu mến và bạn bè đồng nghiệp nể trọng, tin cậy. Từ giữa những năm 1990, sau khi nghỉ hưu, Vichtor Slipentruc về Moskva, tham gia sinh hoạt tại Chi hội Nhà văn Novgorod. Ông được tổ chức nhà văn Novgorod tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Quỹ Văn học, giao phó chức vụ Tổng biên tập tờ báo “Vetse” và tạp chí truyền thông “Novgorod văn chương”.

Trung thành với hướng đi mà ngòi bút của ông đã chọn và với lẽ sống con người phấn đấu làm “nhà văn tốt”, Vichtor Slipentruc luôn gắn bó với cuộc sống xã hội, với đất nước với thời cuộc. Sáng tác của ông phong phú về thể loại và phương thức thể hiện, nhưng luôn phản ánh được những suy tư của thời đại. Lúc này đây nhà văn Vichtor Slipentruc đặc biệt quan tâm đến một vấn đề can hệ đến cả tương lai của nhân loại: vấn đề toàn cầu hóa. Ông nói: “Toàn cầu hóa. Sự thấu hiểu các quy luật của nó. Không phân biệt - toàn cầu hóa về chính trị, toàn cầu hóa về văn hóa, toàn cầu hóa về kinh tế. Đâu là khởi đầu, đâu là kết thúc? Tôi quan tâm đến con người trong thế giới và trong thời gian. Bởi vì, có ngày hôm qua các quy luật của toàn cầu hóa (có mà ta không thấy. Chỉ các triết gia và một số người ở chóp bu thấy). Ngày nay thì ai cũng thấy. Các diễn biến ở Bắc Phi hiển hiện trước mắt mọi người. Con người thế kỷ XXI khác thế kỷ XX. Hình thế vẫn vậy nhưng nhận biết thế giới khác xa rồi”. Trong tiểu thuyết Cứu tinh từ vũ trụ tác giả của nó đề cập đến một câu chuyện làm mọi người khắp trái đất băn khoăn suy nghĩ, thậm chí lo lắng nghi hoặc chờ đợi từ lâu: một sự tan vỡ của hành tinh chúng ta, ngày tận thế của nhân loại…

Lịch của người Maya từng đã cho biết rõ cả ngày tháng cụ thể: 21 tháng 12, 2012; cho rằng đó là ngày tận thế. Nhiều người tin là vậy, mặc dù các nhà khoa học đã giải thích đó là cái mốc chấm hết một chu kỳ lịch học của bộ tộc Maya mà thôi…

Trong Cứu tinh từ vũ trụ của Vichtor Slipentruc đề cập đến vấn đề những thảm họa toàn cầu, đang đe dọa sự tồn tại của nền văn minh nhân loại, cụ thể một thiên thạch đang tiến về phía trái đất, thiên thạch được mã số 2004 VD17, người ta còn gọi là hành tinh Fantom - con ma. Sở dĩ gọi nó là Fantom - con ma, bởi vì sau khi va chạm với trái đất lần thứ nhất, thiên thạch kia dường như bị tiêu diệt, nhưng không hiểu bằng cách nào nó lại xuất hiện trở lại trên bầu trời tương lai, vào năm 2012, nghĩa là gần tám mươi năm sau vụ va chạm mà trái đất sắp phải đương đầu, vậy nên nó khác gì một bóng ma, một Fantom.

Trái đất thường được xem là một vật thể vũ trụ vô tri vô giác, tồn tại hoàn toàn thụ động. Bởi vậy, con người đã và đang tàn phá hành tinh của chúng ta hết sức thô bạo, nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất thời. Thực ra trái đất là một cơ thể sống. “Nhịp sống” của trái đất có vai trò quan trọng đối với sự sống trên bề mặt hành tinh. Trái đất đang phát triển, có thân vật lý (nhìn thấy) và thân mảnh (không nhìn thấy), có tri giác và ý chí tự do, có khả năng tự hoàn thiện trên con đường tiến hóa do các định luật tự nhiên chi phối.

Trên trái đất từng đã có mấy nền văn minh tồn tại, biến mất, rồi lại xuất hiện, tiếp đến, một sự bắt đầu lại từ đầu… Liệu lần này trái đất có tránh được thảm họa. Thảm họa một khi xẩy ra liệu trái đất còn giữ lại được bao nhiêu phần trăm sinh vật? Phải cứu lấy trái đất. Đây đó các nhà khoa học đang tìm cách nghiên cứu để giúp cho qua cơn thảm họa.

Trong Cứu tinh từ vũ trụ, người đọc được biết đến hoạt động của Phòng nghiên cứu các hiện tượng siêu nhiên, Dịch vụ bảo vệ sở hữu trí tuệ thuộc Đại học Tổng hợp Moskva… là những cơ quan khoa học đang tiến hành nghiên cứu các biện pháp để làm sao cho trái đất tránh được thảm họa đang đến gần kia. Lại có quán cà phê “Stalket” là cái hang ổ của những kẻ “phản động sẵn sàng hy sinh cả thế giới vì những tham vọng của mình”.

Rồi đây trái đất có được thoát nạn chăng và ai sẽ là người có khả năng làm việc đó?

Tác giả Cứu tinh từ vũ trụ Vichtor Slipentruc nhận ra một điều là, “trong xã hội đang cảm thấy có sự thiếu hụt các ý tưởng tương lai của nhân loại”. Theo ông, chính trong một ý tưởng mới nào đó cấp thiết đối với tất cả mọi người, sẽ được thể hiện vào cuộc sống như bản thân nó tự có. Nhân vật chính của tiểu thuyết Kesha Intotin, người có nhiều khả năng siêu việt, người mà được coi là một Indigo, một Hài nhi tinh cầu, chính là Đấng cứu thế tinh cầu nói ra cái ý tưởng kia: “Tương lai của nhân loại - trong ý tưởng: “Một người vì mọi người và mọi người vì một người”.

Theo tác giả Vichtor Slipentruc thì “tất nhiên chúng ta từng nghe khẩu hiệu đó. Nhưng, tạm thời nhân loại mới nhận thức phần đầu của nó mà thôi: một người vì mọi người. Và giai đoạn này đã qua đi thể hiện ở Đức Chúa Giêsu Kritxtô. Còn bây giờ là giai đoạn hai, khi mọi người vì một người. Nhân loại phải trải qua cả giai đoạn này. Tạm thời còn chưa thành phương châm mà mới chỉ là lời hiệu triệu đi đến điểm ấy. Nhiều người cho đây là chuyện không tưởng. Nhưng cuộc sống hôm nay, theo tác giả, đã đưa chúng ta tới ý tưởng này. Cần phải học sống theo nguyên tắc mới, cho dù những nguyên tắc chưa có trong Hiến pháp, tạm thời cứ để chúng tồn tại như những quy luật trong tim. Mọi người sẽ nhìn thấy xã hội đang thay đổi. Chỉ cần mọi người đưa vào thực hành cái nguyên tắc: “Một người vì mọi người, mọi người vì một người”. Tác giả cho rằng, tất cả chúng ta như thể các tế bào trong cơ thể, sự làm việc và thể chất của mỗi tế bào ảnh hưởng đến toàn cơ thể.

Cứu tinh từ vũ trụ viết theo thể loại khoa học viễn tưởng, nhưng đọc tác phẩm này người đọc vẫn thấy lại một chặng đường lịch sử của nước Nga, thấy được những vấn đề sinh tử đối với dân tộc Nga, những suy tư trăn trở của con người Nga như một tế bào không chỉ đất nước Nga của mình mà của cả trái đất này. Đọc Cứu tinh từ vũ trụ chúng ta có dịp kiểm nghiệm lại cái giá trị truyền thống của văn học Nga từ cái thế kỷ vàng của thời phục hưng văn hóa Nga - thế kỷ XIX với những tên tuổi như Puskin, Dostoevski, Tolstoi.

Thúy Toàn


TÌNH VIỆT NGHĨA HÀN

PHAN TÚ TRỊNH

Ngày 23-5-2015, ông Ban Ki-moon (đọc theo âm Hán - Việt là Phan Cơ Văn 潘基文 ) đến viếng nhà thờ họ Phan Huy ở thôn Thụy Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Mãi năm tháng sau, tin trên mới được tiết lộ. Ngay sau đó, sự kiện này đã thu hút sự chú ý của dư luận thế giới, vì ông Ban đang giữ chức Tổng thư ký Tổ chức Liên hiệp quốc.

Thật ra, vấn đề quan hệ dòng họ giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Hàn Quốc(1) đã được đề cập từ nhiều năm trước. Trong bài viết này, chúng tôi tổng hợp một số thông tin đã công bố ở hai nước. Đặc biệt, xin cảm ơn Ts. Ku Su Jeong đã cung cấp nhiều tài liệu quý báu về quan hệ Việt - Hàn.

Việt Nam và Hàn Quốc nằm ở hai hướng của vùng Viễn Đông: một nước thuộc Đông Nam Á, nước kia ở Đông Bắc Á.

Ngày xưa, phương tiện giao thông trên bộ cũng như trên biển còn thô sơ, nên nhân dân nước này ít có cơ hội đặt chân lên nước kia, trừ những trường hợp ngoài ý định. Chẳng hạn, tháng 10-1687, 24 người dân đảo Tế Châu (Jeju) ở phía nam Hàn Quốc gặp bão, lênh đênh trên biển 31 ngày, cuối cùng trôi dạt đến Hội An (tỉnh Quảng Nam). Họ được chính quyền và nhân dân địa phương giúp nơi ăn chốn ở. Một thời gian sau, họ cử 5 người đại diện ra Huế xin triều đình giúp họ hồi hương. Chúa Nguyễn Phúc Tần cấp cho họ 600 lượng và thuê tàu buôn Trung Hoa chở họ về quê, gửi quốc thư cho vua Túc Tông của Hàn Quốc (tháng 8-1688).

Có lẽ lúc đó chúa Nguyễn không biết chuyện hai hoàng tử họ Lý hơn 5 thế kỷ trước được triều đình và nhân dân Hàn Quốc cưu mang. Các bộ sử chính thức của Việt Nam không ghi chép chuyện đó, nhưng gia phả các dòng họ Lý ở Hàn Quốc (như Tinh Thiện Lý thị tộc phổ, Hoa Sơn Lý thị thế bộ…) xác nhận các sự kiện này có thật.

Vua Lý Nhân Tông không có con trai. Năm 1117, vua nhận các cháu (như Lý Dương Hoán, Lý Dương Côn…) làm con nuôi. Năm 1128, vua qua đời, Lý Dương Hoán nối ngôi, tức Lý Thần Tông. Phải chăng có sự tranh chấp trong việc thừa kế ngai vàng khiến Lý Dương Côn phải rời nước ra đi? Chúng ta chưa tìm ra tài liệu để trả lời dứt khoát câu hỏi đó, song có nhiều hậu duệ của Lý Dương Côn ở Hàn Quốc đã lưu danh sử sách, như Lý Nghĩa Mẫn (Yi Ui-man) từng làm Tể tướng trong 14 năm (1183-1196) dưới triều vua Minh Tông (Myeongjong), Lý Ngộ Nguyên làm Thượng thư tả bộc xạ… Ông này di cư đến Tinh Thiện (trên đảo Giang Nguyên) nên dòng họ Lý của Lý Dương Côn được gọi là dòng họ Lý Tinh Thiện.

Dòng họ Lý thứ hai - Lý Hoa Sơn - do hoàng tử Lý Long Tường khai sáng. Ông sinh năm 1174, con thứ bảy của vua Lý Anh Tông.

Cuối năm 1224, vua Lý Huệ Tông (cháu gọi Lý Long Tường bằng chú) không có con trai nên truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Đầu năm sau, Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh rồi nhường ngôi cho chồng (tức vua Trần Thái Tông).

Năm 1126, hay tin thái sư nhà Trần là Trần Thủ Độ hãm hại cựu hoàng Lý Huệ Tông, Lý Long Tường (đang giữ chức Đại đô đốc) sợ nguy cho tính mạng, cùng gia quyến và quan quân dưới quyền lên thuyền ở cửa Thần Phù (Thanh Hóa). Gặp bão lớn, đoàn thuyền phải tấp vào đảo Đài Loan. Con của ông là Lý Long Hiền bệnh nặng, phải ở lại đảo này cùng một số người tùy tùng.

Đoàn thuyền của ông tiếp tục ra khơi, cập bến Trấn Sơn (Chensan) thuộc Hoàng Hải (Hwanghae). Theo truyền thuyết, vua Cao Tông (Kojong) của Hàn Quốc nằm mơ thấy một con phượng hoàng bay từ phương nam tới. Thức dậy, vua ra lệnh chính quyền Trấn Sơn phải tiếp đón đoàn thuyền của vị khách quý nước Nam.

Sau khi định cư, Lý Long Tường tổ chức cho lưu dân Việt Nam sản xuất, đồng thời mở Độc Thư Đường để dạy văn chương lễ nghĩa và Giảng Võ Đường để luyện võ nghệ binh pháp. Ngoài thanh thiếu niên Việt Nam, còn có học sinh Hàn Quốc theo học.

Cuộc sống của lưu dân dần được ổn định. Ngày ngày Lý Long Tường lên núi Quảng Đại (Kwangdea) nhìn về phương nam, mắt đẫm lệ vì nhớ quê hương. Về sau, nơi ấy được gọi là Vọng Quốc Đàn (Peak of Nostalgia).

Năm 1232, quân Mông Cổ xâm lược Hàn Quốc. Một đạo quân tấn công Hoàng Hải. Lý Long Tường thành lập một đội dân quân gồm người Việt và người Hàn, chiến đấu anh dũng, đẩy lui quân Mông Cổ. Ông thường cưỡi con ngựa trắng nên mọi người gọi ông là Bạch Mã Tướng quân (White Horse General).

Năm 1253, quân Mông Cổ - do Đường Cơ (Tang Ji) chỉ huy - tấn công Hoàng Hải một lần nữa. Dù đã 80 tuổi, Lý Long Tường vẫn chỉ huy đội dân quân Việt - Hàn chiến đấu ròng rã 5 tháng trời và giành thắng lợi vẻ vang.

Vua Cao Tông đổi tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn (Hwasan), phong Lý Long Tường làm Hoa Sơn Tướng quân (Hwasan Sanggun), cấp cho ông 30 dặm đất và 2.000 người. Chỗ quân Mông Cổ chấp nhận đầu hàng được đặt tên là Thụ Hàng Môn (Soojiangmun). Tại đó, vua cho dựng một tấm bia để ghi công trạng của Lý Long Tường.

Lý Long Tường luôn dặn dò con cháu không được quên quê cha đất tổ và nếu có cơ hội thì tìm về cội nguồn. Con cháu dòng họ Lý Hoa Sơn có nhiều người đỗ đạt cao, làm quan to như Lý Cán (làm Nghệ văn đại đề học), Lý Huyền Lương (làm Tham nghị Bộ Lễ)…

Một hậu duệ nổi tiếng khác là Lý Thừa Vãn (Li Sung-man hay Syngman Rhee, 1875-1965), tiến sĩ Đại học Princeton, Mỹ, 1910 - tổng thống đầu tiên của Nam Hàn (1948-1960). Ngày 6-11-1958, khi công du sang Sài Gòn, Lý Thừa Vãn cho biết ông là cháu đời thứ 25 của Lý Long Tường.

Trước năm 1975, người họ Lý từ Nam Hàn sang Sài Gòn tìm cội nguồn tổ tông. Tuy nhiên, lúc đó Việt Nam còn tạm thời chia cắt nên ý định nói trên không đạt kết quả. Mãi đến sau ngày Việt Nam thống nhất, hai chính phủ Việt Nam và Nam Hàn thiết lập quan hệ ngoại giao (22-12-1992), hậu duệ hai dòng họ Lý ở Hàn Quốc mới có điều kiện cúng bái tổ tiên ở đền Lý Bát Đế tại xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Lịch sử họ Lý ở Hàn Quốc bắt đầu từ những biến cố chính trị, trong khi câu chuyện họ Mạc ở Hàn Quốc lại là kết quả của một mối tình!

Cách nay 90 năm, tháng 8-1926, trên tờ An Nam Tạp Chí, nhà báo Lê Khắc Hòa kể chuyện gặp một người Hàn Quốc sang Việt Nam tìm tổ tông. Người này cho biết ông là hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi (1272-1346).

Nổi tiếng là người thông minh mẫn tiệp, Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên năm 1304, làm quan trải qua ba triều vua, đến chức Tả bộc xạ (tức Tể tướng), nhiều lần được cử đi sứ Trung Hoa(2).

Thuở đó, Trung Hoa là nước lớn nhất trong khu vực Viễn Đông. Vì vậy, mỗi lần hoàng đế Trung Hoa lên ngôi, các nước lân bang (như Việt Nam, Hàn Quốc…) cử sứ bộ sang Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) chúc mừng. Các năm 1308, 1321 và 1324 là năm lên ngôi của các vua Vũ Tông, Anh Tông và Thái Định Đế nhà Nguyên. Do đó, Mạc Đĩnh Chi có cơ hội gặp sứ thần Hàn Quốc. Hai ông thường làm thơ xướng họa, quý mến nhau, trở thành đôi bạn vong niên (họ Mạc mới 36 tuổi, trong khi sứ thần Hàn Quốc đã ngoài 60 tuổi).

Theo Lee Keun-yeup trên trang web của Koreatimes, sứ thần Hàn Quốc mời Mạc Đĩnh Chi về quê ở Gaegyeong (nay là Gaeseong, nằm ngay phía Bắc vùng phi quân sự giữa Bắc Hàn và Nam Hàn). Tại đây, sứ thần Hàn Quốc có nhã ý gả cháu gái của mình cho vị trạng nguyên Việt Nam mà ông rất mến mộ.

Từ cuộc hôn nhân Việt-Hàn này, đứa con trai họ Mạc đầu tiên ra đời trên xứ sở kim chi. Trong những lần đi sứ sau đó, Mạc Đĩnh Chi đều ghé lại Hàn Quốc và có thêm hai đứa con nữa (theo Lee Keun-yeup, cả hai đều là con trai).

Cũng như hậu duệ họ Lý, năm 2012 có 7 người Hàn Quốc tìm tới thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương để thắp hương tại đền thờ Mạc Đĩnh Chi.

Trở lại chuyện ông Ban Ki-moon (Phan Cơ Văn). Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam theo lời mời của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, sau khi hội đàm với các nhà lãnh đạo nước ta, ông cùng phu nhân đến dâng hương tại nhà thờ họ Phan Huy, chụp ảnh lưu niệm với những người trong họ và viết lưu bút bằng tiếng Anh, dịch ra như sau:

Tôi rất xúc động khi viếng thăm và tỏ lòng thành kính sâu sắc trước ngôi nhà thờ Phan Huy Chú và các thành viên của họ Phan.

Cảm ơn quý vị đã giữ gìn ngôi nhà thờ này.

Là một người của họ Phan, giờ đang giữ chức Tổng thư ký của Liên hiệp quốc, tôi tự hứa sẽ cố gắng làm theo lời dạy của tổ tiên.

Ban Ki-moon

(Phan Cơ Văn)

Tổng thư ký Liên hiệp quốc”

Ông chỉ nói một cách mơ hồ rằng ông là người họ 潘 (ông viết bằng chữ Hán), không cho biết họ Ban của ông có quan hệ gì với họ Phan ở Việt Nam hay không. Tuy nhiên, việc ông đến viếng nhà thờ họ Phan Huy, nhắc đến tên Phan Huy Chú, đến lời dạy của tổ tiên… làm dấy lên lời đồn đoán: ông là hậu duệ của Phan Huy Chú, và như thế ông là người gốc Việt Nam.

Giả thiết lời đồn đoán ấy là chính xác, thì họ Phan Huy có di duệ ở Hàn Quốc trong trường hợp nào?

Từ giữa thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, dòng họ này có 5 người đi sứ sang Trung Hoa: Phan Huy Cẩn, Phan Huy Ích, Phan Huy Thực, Phan Huy Chú và Phan Huy Vịnh, có người đi sứ nhiều lần. Chúng ta đề cập kỹ hơn về Phan Huy Chú, người mà ông Ban Ki-moon nhắc đến trong lưu bút.

Phan Huy Chú là:

- Cháu nội của tiến sĩ Phan Huy Cẩn (hay Cận)

- Cháu ngoại của hoàng giáp Ngô Thì Sĩ

- Con của tiến sĩ Phan Huy Ích

- Cháu (gọi bằng chú) của tiến sĩ Phan Huy Ôn

- Cháu (gọi bằng cậu) của tiến sĩ Ngô Thì Nhậm

(hay Ngô Thời Nhiệm)

- Rể của tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch

- Em của thượng thư Phan Huy Thực

- Chú của thượng thư Phan Huy Vịnh

Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm và Nguyễn Thế Lịch là những công thần của triều Tây Sơn.

Khi Phan Huy Chú vừa 20 tuổi, triều Tây Sơn sụp đổ. Cha, cậu và cha vợ của ông bị quan lại của Gia Long nọc giữa Văn Miếu để lính đánh. Anh của ông, Phan Huy Quýnh, ở nhà dạy học, viết sách. Một người anh khác, Phan Huy Thực, mãi đến năm 34 tuổi mới được gọi vào Huế để làm việc ở Hàn Lâm Viện. Phan Huy Chú còn muộn màng hơn, năm 39 tuổi mới vào Huế, cũng làm ở Hàn Lâm Viện.

Ông biến cái rủi thành cái may. Từ 1809 đến 1819, ông vào núi làm nhà, đóng cửa không tiếp khách(3), tập trung trí tuệ, biên soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí gồm 49 quyển, được hậu thế đánh giá là bộ bách khoa toàn thư đồ sộ của Việt Nam.

Dưới triều Nguyễn, ông hai lần đi sứ Trung Hoa (1825 và 1831). Sau lần thứ hai, cả sứ bộ đều bị giáng chức về tội lộng quyền, riêng ông là phó sứ (tức phó trưởng phái đoàn) bị cách chức, năm sau bị bắt đi “hiệu lực” (đi phục dịch để lập công chuộc tội) ở Giang Lưu Ba (Batavia, tức Jakarta, thủ đô Indonesia ngày nay).

“Tội lộng quyền” là tội gì, sử sách triều Nguyễn không nói rõ. Nhưng lời kể sau đây của ông Phan Huy Thanh, trưởng chi thứ hai của dòng họ Phan Huy, với phóng viên báo điện tử Người Đưa Tin khiến chúng ta nhớ lại chuyện Mạc Đĩnh Chi đi sứ Trung Hoa.

Ông Phan Huy Thanh kể: “Tôi được các cụ kể lại rằng: xưa cụ Phan Huy Chú thời còn làm quan đã có hai lần đi sứ bên Trung Quốc. Một lần đi đấy, ông đã để lại một người con trai bên đó (…). Vài năm sau, khi người con đã lớn, thì ở Trung Quốc xảy ra cuộc nội chiến. Người mẹ đã đưa người con của cụ Phan Huy Chú sang bên Triều Tiên (…) để sinh sống và làm ăn. Sau bao biến cố trong lịch sử Triều Tiên, dòng họ người con ấy đang sống ở đất nước Hàn Quốc bây giờ”(4).

Vấn đề “hậu duệ dòng họ Phan Huy ở Hàn Quốc” mới dừng lại ở dạng một câu chuyện kể. Phải chờ các nhà sử học và gia phả học Hàn Quốc vào cuộc mới rõ thực hư như thế nào. Chắc họ cũng đang quan tâm đến vấn đề này, vì ông Ban Ki-moon là công dân của Hàn Quốc.

______________

(1) Cũng như Việt Nam, nước này có nhiều quốc hiệu. Để độc giả dễ theo dõi, chúng tôi dùng tên Hàn Quốc. Khi cần phân biệt về mặt địa lý, chúng tôi viết Bắc Hàn hay Nam Hàn (thay cho tên chính thức Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên hay Đại Hàn Dân quốc).

(2) Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Trung Hoa các năm 1308, 1324 (theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú) và 1321 (theo An Nam chí lược của Lê Trắc).

(3) “Bế môn tạ khách” (Đóng cửa không tiếp khách), thành ngữ Phan Huy Chú dùng trong bài tựa bộ Lịch triều hiến chương loại chí.

(4) www.nguoiduatin.vn, 3-11-2015.

T.Đ.T. - B.Đ st

Giáo sư, Văn sĩ, Nhạc sĩ CUNG TIẾN

Những Tình khúc Lãng mạn về Cố nhân


CUNG TIẾN là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng theo dòng nhạc tiền chiến . Ông được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có sáng tác được phổ biến rộng với bài “Hoài cảm” năm 14 tuổi. Mặc dù Cung Tiến chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng ông đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị như “Hương xưa”, “Hoài cảm”.

Ông tên thật là Cung Thúc Tiến sinh ngày 27/11 / 1938 tại Hà Nội . Thời kỳ trung học, Cung Tiến học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng Chung Quân Thẩm Oánh . Trong khoảng thời gian 1957 đến 1963 , Cung Tiến du học ở Úc ngành kinh tế và ông có theo tham dự các khóa về dương cầm , hòa âm , đối điểm, và phối cụ tại Âm nhạc viện Sydney .

Trong những năm 1970 đến 1973 , với một học bổng cao học của Hội đồng Anh (British Council) để nghiên cứu kinh tế học phát triển tại Cambridge , Anh , ông đã dự các lớp nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại tại đó. Ông định cư ở Mỹ và từ năm 1975, ông sống ở bang Minnesota.

Về ca khúc, Cung Tiến sáng tác rất ít và phần lớn các tác phẩm của ông đều sau 1954 , trừ bài “Thu vàng”, “Hoài cảm”, nhưng chúng thường được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi cùng phong cách trữ tình lãng mạn. Tự nhận mình là một người nghiệp dư trong âm nhạc, viết nhạc như một thú tiêu khiển, Cung Tiến không chú ý tác quyền và lăng xê tên tuổi mình trong lĩnh vực âm nhạc. Các nhạc phẩm “Hoài cảm”, “Hương xưa” của ông được xếp vào những ca khúc bất hủ của tân nhạc Việt Nam . Ông biên soạn góp nhiều khảo luận và nhận định về nhạc dân gian Việt Nam cũng như nhạc Hiện đại Tây phương.

Vào đầu thập niên 1980 Cung Tiến phổ nhạc từ 12 bài thơ trong tù cải tạo của Thanh Tâm Tuyền mang tên “Vang Vang Trời Vào Xuân”, tập nhạc này được viết cho giọng hát và Piano và được trình bày lần đầu tiên tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào năm 1985.

Ra hải ngoại Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm năm 1987 , soạn cho 21 nhạc khí , được trình diễn lần đầu vào ngày 27/3 / 1988 tại San Jose , California với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học nghệ thuật quốc khánh 1988.

Năm 1992 , Cung Tiến hoàn thành tập Ta Về, thơ Tô Thùy Yên , cho giọng hát, dẫn đọc, ngâm thơ và một đội nhạc cụ thính phòng. Năm 1993 , với tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc quan họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác, ông đã soạn Tổ khúc Bắc Ninh cho dàn nhạc giao hưởng . Năm 1997 , ca đoàn Dale Warland Singers, đã đặt ông một bản hợp ca nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập ca đoàn nổi tiếng quốc tế này. Năm 2003 , Cung Tiến đã trình làng một sáng tác nhạc đương đại “Lơ thơ tơ liễu buông mành” dựa trên một điệu dân ca Quan họ . Ông là hội viên của hội nhạc sĩ sáng tác ở Minneapolis , Minnesota , Hoa Kỳ (tác giả Nguyễn Quang Học).

Nhạc sĩ Cung Tiến - của Hương Xưa, của Hoài Cảm - khiến con tim rung động với biết bao ý nghĩa xao xuyến nơi cố nhân Sài Gòn xưa, rồi cố nhân sang Paris. Mọi người thầm nghĩ Giáo sư Cung Thúc Tiến tài thật. Ông đã trao cho đàn em những lý thuyết kinh tế dù khó khăn, và hơi khô khan. Nhưng trái lại âm nhạc của Nhạc sĩ Cung Tiến không chê vào đâu. Khi cố nhân ở gần hình như nhạc của ông ít thấm thía, ít dày vò, ít len lén tâm tư như khi cố nhân ở xa ta.

Bài Dạ khúc của Schubert do Cung Tiến đặt lời (Hương xưa)

Dạ khúc (Serenade) là một thể loại ca khúc để hát vào buổi tối, đặc biệt cho giọng nữ. Ở phương Tây thể loại ca khúc này gọi là “Serenade” và nó rất được nhiều nhạc sĩ ưa chuộng, sáng tác... cho nên Dạ khúc không chỉ riêng một tác phẩm riêng biệt của một nhạc sĩ nào cả. Nhiều nhạc sĩ đã sáng tác trên chủ đề này, nhưng có lẽ được biết đến và ưa chuộng nhiều nhất vẫn là Serenade của Franz Schubert - nhạc sĩ thiên tài người Áo.

Bài Dạ Khúc bất hủ của Franz Schubert là để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Ở châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường có lối tỏ tình bằng cách mượn âm nhạc, ban đêm đến đứng dưới cửa lầu “người đẹp” tự thể hiện bằng tiếng đàn và giọng hát của chính mình. Những bài nhạc lãng mạn này gọi là “serenade”. Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ một bạn thân là ca sĩ , trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, “Schubert lại quên không đến”. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert!

Ca khúc Hương Xưa - Cung Tiến, 1955

Người ơi, một chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa

Người ơi, đường xa lắm con đường về làng dìu mấy thuyền đò.

Còn đó tiếng tre êm ru, còn đó bóng đa hẹn hò,

Còn đó những đêm sao mờ hồn ta mênh mông nghe sáo vi vu

Người ơi, còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm bên ao

Người ơi, còn nghe mãi tiếng ru êm êm buồn trong ca dao

Còn đó tiếng khung quay tơ, còn đó con diều vật vờ

Còn đó, nói bao nhiêu lời thương yêu đến kiếp nào cho vừa...

“Hương Xưa” nhạc hay đã đành, gắn liền với tên tuổi Franz Schubert, lời lại rất hay, ăn khớp với nhạc, ý nghĩa, trữ tình gột tả nội tâm sâu lắng đã tạo nên những cảm xúc nồng nàn nhất khi một người nhớ một người. Đây là một sáng tác nổi tiếng của nhạc sĩ Cung Tiến, viết năm 1955, với lời đề tặng ca sĩ Duy Trác. Có thể nói đó là một cách thể hiện sự chọn lọc ca sĩ trình bày của nhạc sĩ Cung Tiến cho ca khúc này. Vì nhạc phẩm Hương Xưa rất kén chọn người hát cũng như người nghe, bởi nó đòi hỏi một trình độ nhạc lý và kỹ thuật trình diễn ở người ca sĩ…

Tác phẩm numero uno khác của Cung Tiến

Hoài Cảm là ca khúc đầu tiên của Cung Tiến, viết từ năm 14 tuổi, nó là ca khúc hoàn toàn trữ tình của một học sinh ảnh hưởng thơ mới lãng mạn của Huy Cận, Xuân Diệu. Ông tâm sự “Riêng với tôi nó là đứa con đầu lòng vẫn còn được thính giả yêu thích tôi vẫn thích vì nó giản dị và là một thời học trò của mình”…

Ca khúc Hoài Cảm - Cung Tiến, 1953

Chiều buồn len lén tâm tư/ Mơ hồ nghe lá thu mưa/

Dạt dào tựa những âm xưa

Thiết tha ngân lên lời xưa/ Quạnh hiu về thấm không gian/

Âm thầm như lẫn vào hồn

Buổi chiều chợt nhớ cố nhân/ Sương buồn lắng qua hoàng hôn

Lòng cuồng điên vì nhớ/ Ôi đâu người, đâu ân tình cũ?

Chờ hoài nhau trong mơ/ Nhưng có bao giờ, thấy nhau lần nữa

Một mùa thu xa vắng/ Như mơ hồ về trong đêm tối/

Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa?

Chờ nhau hoài cố nhân ơi! Sương buồn che kín nguồn đời

Hẹn nhau một kiếp xa xôi/ Nhớ nhau muôn đời mà thôi!

Thời gian tựa cánh chim bay, qua dần những tháng cùng ngày

Còn đâu mùa cũ êm vui? Nhớ thương biết bao giờ nguôi?

Một “Hoài Cảm” chưa thể nói hết về Cung Tiến, song rõ ràng đây là một ca khúc thành công nhất trong cuộc đời sáng tác của ông. Trước năm 1975 đã có rất nhiều ca sĩ thể hiện “Hoài Cảm” nhưng có lẽ chưa có ai thể hiện “Hoài Cảm” lại “Hoài Cảm” bằng Lệ Thu. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện Lệ Thu xử lý từng nốt nhạc, từng lời hát một cách chuẩn mực và chín chắn đến mức tuyệt đỉnh. Tiết tấu của Hoài Cảm khá chậm, song chẳng thể khác bởi nó miêu tả một nỗi nhớ rưng rức, một nỗi nhớ bâng khuâng lâng lâng len lén nhen lên từ sâu thẳm tâm hồn trong cảnh chiều tà hiu quạnh vốn chỉ chuốc tâm tư cho những kẻ lãng tử nghệ sĩ. Cung Tiến viết “Hoài Cảm” ở giọng đô thứ cung đô thường nên bài ca mang tính dân tộc rất cao. “Hoài Cảm” của Cung Tiến cùng một số bản nhạc, ca khúc viết ở những thang âm dân tộc của một số nhạc sĩ cùng thời ông và sau này càng trở nên có giá trị, được trân trọng trong số những ca khúc buổi ban đầu của bình minh âm nhạc Việt Nam. Ở đoạn B cao trào Cung Tiến đã viết ở cung đô trưởng. Chuyển điệu làm cho bài hát khỏe khoắn hẳn lên, nỗi nhớ dâng trào tới đỉnh điểm chứ không còn man mác miên man như đoạn A. Phải có kỹ thuật và kiến thức âm nhạc tương đối khá mới có thể viết được như thế, khẳng định sự tài hoa của Cung Tiến, người nghệ sỹ với nỗi nhớ cố nhân mênh mông bao phủ những hoàng hôn của dân tộc.

Thấy chưa nhạc Cung Tiến da diết, ngậm ngùi cho thính giả cảm nghĩ thực lòng đấy nhé!? Như vậy thì nhạc Cung Tiến lại thêm bảnh hơn nữa với tình khúc Hoài Cảm hay yêu hoài, tâm tư cứ mãi bị người yêu hành hạ, bị cố nhân dày vò ray rứt tâm tư như muốn khóc. Được yêu, được buồn, được khóc, chao ôi, nhất cõi đời rồi, còn gì sung sướng bằng nhể? Hỡi những bạn tôi khi tương tư lòng, khi cố nhân bước xa xa bạn rồi... cơn nhung nhớ cố nhân dằn vặt dâng cao tràn ngập hồn già ở tuổi biết yêu, xin bạn hãy vô tư cho lệ rơi đi nhe, nghe thanh âm Cung Tiến thỏ thẻ, nho nhỏ khi chiều buồn len lén tâm tư, cố nhân đã đi xa xa ta rồi, hmm... cho hồn này khôn nguôi, hmm... cho lòng này không vui... Một hồn cô liêu, buồn chi lạ, biết nói chi nhỉ?

Lòng cuồng điên vì nhớ... cố nhân ơi. Nghe hết bài nhạc sẽ đưa ta về sự mộng mơ của tuổi biết yêu đương, biết nhớ thương, biết ngóng trông, biết rung động con tim xanh trót trao cho cố nhân; Vâng, Hoài Cảm chính là một cung khúc “giết người trong mộng”.

*Về tác phẩm âm nhạc:

- Tác phẩm

Tổ khúc Bắc Ninh - Nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm - Ta Về - Lơ thơ tơ liễu buông mành

- Ca khúc

Đêm (thơ Thanh Tâm Tuyền) - Đêm hoa đăng - Đôi bờ (thơ Quang Dũng) - Hoài Cảm - Hoàng hạc lâu (thơ Thôi Hiệu - Vũ Hoàng Chương dịch) - Hương xuân - Hương xưa (viết tặng Duy Trác) - Kẻ ở (Mai chị về) (thơ Nguyễn Đình Tiên, thường bị nhầm là của Quang Dũng) - Khói hồ bay (thơ Nguyễn Tường Giang) - Lệ đá xanh (thơ Thanh Tâm Tuyền, viết tặng Phạm Đình Chương) - Mắt biếc (khác bài Mắt Biếc của Ngô Thụy Miên) - Mùa hoa nở - Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu) - Thu vàng - Thuở làm thơ yêu em (lời Trần Dạ Từ) - Vang vang trời vào xuân (thơ Thanh Tâm Tuyền) - Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư).

*Về tác phẩm văn chương:

Trong lãnh vực văn học, những thập niên 1950 1960 , với bút hiệu Thạch Chương, Cung Tiến cũng đã từng đóng góp những sáng tác, nhận định và phê bình văn học, cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo , Quan điểm, và Văn.

Nhóm Sáng Tạo là nhóm nổi tiếng nhất xuất phát từ phong trào di cư từ miền Bắc 1954. Hoạt động của họ là mở một con đường mới về ngôn ngữ hình ảnh cũng như về lý tưởng tự do, ông hợp tác với họ bằng những bài viết về triết học cũng như những nhận định âm nhạc (lúc đó ông đã đi du học). Thế hệ trẻ về sau là lớp học trò của Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền chắc chắn chịu nhiều ảnh hưởng của Nhóm. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông có viết cho một số báo với bút danh là Đăng Hoàng.

Ông có dịch hai đại tác phẩm của hai văn hào Nga là Fyodor Mikhailovich Dostoievski và Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn ra Việt Ngữ.

- Hồi ký viết dưới hầm của M. Dostoievski (bản dịch 1969).

Vào năm 1864 Dostoevski cho xuất bản cuốn Hồi ký viết dưới hầm là tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh hay nhất từng được viết trong nền văn học của thế giới.

- Một ngày của Ivan Denisovitch (dịch từ A. Solzhenitsyn, 1969).

Một ngày của Ivan Denisovitch kể về những gì xẩy đến cho một người tù cải tạo tên Ivan Denisovitch trong một ngày dưới chế độ bạo ngược cộng sản Stalin.

Giữa âm nhạc và kinh tế có hòa hợp với nhau hay không?

Trước những năm 1975, Giáo sư Cung Thúc Tiến giảng dạy học tại trường đại học Kinh Thương (Economics & Business). Trái ngược với môn Kinh tế, Tài chánh gồm nhiều số liệu, dữ kiện đo lường, những lý thuyết mang nhiều thống kê, toán học, những thực tế của đời sống thường nhật, dù giảng dạy và làm việc với nghề nghiệp xét ra chẳng có tí ti lãng mạn, nhưng tâm hồn của Nhạc sĩ Cung Tiến phải nói là lãng mạn vô song, nhạc dâng nỗi niềm nhớ thương biết bao giờ nguôi, buổi chiều nhung nhớ cố nhân len lén trở về với tâm tư cô đơn...

Nhạc sĩ Cung Tiến cho biết: “Tôi được học bổng kinh tế học ở Úc và Anh. Sự thực thì âm nhạc và kinh tế không phải là khó hòa hợp vì cả hai đều là nghệ thuật cả. Kinh tế học không phải là một khoa học mà là một nghệ thuật giữa kẻ mua người bán, giữa người sản xuất và người tiêu dùng, cho nên nếu không hòa hợp được thì cũng không thể xung khắc lẫn nhau”.

Sau cùng, Cung Tiến quả thực là một người đa tài, ông mang nhiều vai trò xã hội, ông là một chuyên viên cũng như giáo sư đại học về kinh tế, tài chánh, một nhà văn, nhà phê bình văn học và dịch thuật đóng góp cho văn học Việt Nam. Và đáng lưu tâm hơn cả, ông là một nhạc sĩ của khuynh hướng nhạc lãng mạn trữ tình trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam.

Cung Tiến cũng tài hoa như: Phạm Duy ( nhạc sĩ , nhạc công , ca sĩ , nhà nghiên cứu âm nhạc lớn), Văn Cao và Trịnh Công Sơn (cả hai đều là nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ).

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)



Phụ Bản II


Vừa đi theo băng-ca đưa ông Tiến Lâm lên xe cứu thương để về trường đại học Y Dược, cô Bình Phương trở về căn hộ trước đã trống vắng nay thêm vẻ đìu hiu vì ông Tiến Lâm đã đi về cõi vĩnh hằng. Cô Bình Phương cảm thấy cô độc hơn bao giờ hết. Từ nay cho đến ngày đến lượt cô về với ông anh ruột thịt ở bên kia thế giới, cô sẽ phải sống một thân một mình không ai chăm sóc trong khi tuổi cô đang tiến dần đến hàng bẩy rồi. Dù rằng ông Tiến Lâm đã ra đi đột ngột, nhưng cô cũng thấy được đã đến thời điểm ông phải lên đường, và việc lên đường của ông vô cùng thoải mái. Giống như ông đã biết trước nên ông thảo di nguyện cho cô chi tiết tất cả những công việc cô phải làm. Cô thấy ông anh của cô rất chu đáo, trù liệu mọi công việc như một nhà kinh tế kế hoạch vĩ mô. So sánh như vậy nhưng thực ra cô cũng không rành cái kinh tế vĩ mô là gì nhưng cô thấy di nguyện anh cô viết rất rõ ràng, đanh thép bắt buộc cô phải làm đúng theo lời ông căn dặn. Ông muốn hiến xác không chỉ hy vọng được cống hiến tấm thân 55 kí lô của mình cho khoa học, cho việc nghiên cứu tìm ra cách chữa bệnh cho mọi người, mà là ông còn muốn, ông nói như thật, kéo dài thêm khoảng thời gian ở lại trên trần thế này dù ông đang là một xác chết, vô tri vô giác, bất động thay vì phải biến thành tro bụi sau khi ông qua đời vài hôm.

Lúc sinh thời ông rất ghét cái việc tổ chức ma chay ở những nhà có người chết. Ông hay nói người chết sao lại tiếp tục làm phiền người sống khi ông thấy đám tang ở gần nhà ông. Con đường chật hẹp ngày xưa là con đường xe lửa, nay sửa sang lại, tráng nhựa làm thành con đường phẳng phiu cho xe cộ lưu thông, nhưng vì mặt đường được mở hết đến cửa nhà người dân nên không có lề đường và có nhiều nhà người dân có chiều sâu khoảng một mét tới hai mét và bề rộng cũng chừng hai mét. Sau này một số người dân làm ăn khấm khá, bỏ tiền xây dựng lại nhưng vẫn giữ chừng đó mặt bằng. Căn nhà được xây lên hai tấm có sân thượng đàng hoàng. Sách kỷ lục Guiness có lẽ phải đưa những căn nhà này vô hàng “siêu dẹp” trên thế giới. Trong thời gian làm ma chay cho người chết, người ta che rạp ra tận giữa đường, vì chỉ cái hòm thôi cũng đã chiếm hết chiều sâu căn nhà rồi. “Nghĩa tử nghĩa tận”, bà con hàng xóm không ai phiền hà gì vì đời người ai cũng chỉ có một lần, lúc chết rồi gây phiền hà chút đỉnh có sao đâu. Thậm chí suốt ngày suốt đêm giàn nhạc cổ, karaoke đua nhau khoe âm thanh nhức óc. Bây giờ tiếng tụng kinh của mấy ông sư cũng được đưa qua micro để phát ra âm thanh chát chúa vang vọng tới thiên đình. Vào giờ cao điểm, xe kẹt nối đuôi vì cái rạp đám ma này đã cản trở lưu thông, xe hơi xe máy bóp còi inh ỏi, mấy ông dân phòng ra điều khiển cho qua chốt chặn này đến toát mồ hôi trong khi mấy người trong nhà mặc đồ tang cười cười nói nói. Ước gì người chết linh thiêng hóa ra trận cuồng phong thổi bay cái rạp để xe cộ lưu thông thoải mái. Nhưng rồi mấy ông dân phòng cũng điều khiển được xe cộ qua lại thông thoáng. Đến ngày cuối cùng, nếu cảm nhận được chắc là người chết cũng cảm thấy mệt mỏi sau ba ngày trời làm khổ bà con lối xóm.

Nhưng trên đường đi lên nghĩa trang hay tới lò thiêu cũng còn có chuyện khó coi hoặc làm phiền người ta không ít. Đầu tiên là việc khiêng cái hòm ra khỏi nhà. Những đòn ngang đỡ cái hòm bên trên vừa kê lên vai mấy ông đạo tỳ tự nhiên có một âm thanh chói tai như có cái gì đổ vỡ xuống đất. Sau này hỏi ra mới biết là người ta đập một cái siêu bằng đất, thứ dùng để nấu thuốc bắc, gọi là để tiễn người chết lên đường và cũng để hù dọa ma quỷ không được bu theo quậy phá người chết. Rồi cái hòm vừa ra khỏi cửa, các đạo tỳ quay đầu hòm hướng vào nhà hạ đầu hòm xuống ba lần gọi là “bái bai” cái tổ ấm của người chết. Cái thủ tục này của dân nhà đòn sáng chế từ lâu để câu khách. Lúc này thì cái rạp che lấn ra tới giữa đường vừa dẹp xong. Xe cộ qua lại cũng biết cất tiếng thở phào nhẹ nhõm.

Rồi cái hòm cũng được đặt lên xe rồng. Đây là loại xe đặc chế chỉ dùng riêng cho tang sự. Nói là đặc chế nhưng không phải toàn bộ được “ma-ze in Việt Nam” mà người ta lấy cái đầu, “sác-xi” gồm cả giàn bánh của một xe tải cỡ trung bình, rồi đóng lên một cái chuồng sơn son thếp vàng, hai bên gắn hai con rồng bằng gỗ cũng sơn lên màu vàng rực dài ngoằng kéo từ mũi xe tải đến tận sau đít cái chuồng. Không hiểu ngành giao thông vận tải nghĩ sao về loại xe làm công việc vận chuyển theo kiểu này. Một phương tiện vận chuyển hoàn toàn được sáng chế tự do làm mất hẳn hình dáng một chiếc xe tải không còn bảo đảm được an toàn giao thông. Hình như trong luật giao thông vận tải có quy định những phương tiện vận tải bị chế biến thành dị dạng không bảo đảm an toàn giao thông sẽ không được lưu hành như các loại xe công nông chế biến từ máy cày, máy xới…

Những nhà giàu có thường thuê thêm một chiếc xe tải loại “pick-up”(1) chỉ để chở một cái bàn để di ảnh và cái giá triệu, làm mất đi cái hình ảnh câu ca dao đã phân công phân nhiệm cho con cái khi cha mẹ qua đời được kể trong cuốn “Hương rừng Cà mau” của tác giả Sơn Nam xuất bản trong thế kỷ trước:

“Một mai ai đứng bên kinh(2),

Ai phò giá triệu ai rinh quan tài.

Bên kinh đã có con trai,

Giá triệu con gái, quan tài nàng dâu…

Hỏi rằng chàng rể ở đâu?

Chàng rể uống rượu đi sau nói xàm”.

Sau khi cái hòm được đặt lên trên xe rồng người ta lục tục đi bộ theo chiếc xe rồng vài trăm thước rồi tất cả mọi người kéo lên chiếc xe buýt rồi cùng với xe rồng tăng tốc nhắm hướng lò thiêu hay nghĩa trang trực chỉ. Trên đường đi xe buýt và xe rồng đua nhau về đích cho kịp giờ hoàng đạo, người ta không quên tung xuống mặt đường vô số các loại giấy tiền vàng bạc bay phất phơ trong gió gây mất vệ sinh công cộng…

Cô Bình Phương thấy việc thực hiện di nguyện của ông anh vô cùng đơn giản. Công việc kế tiếp của cô là quét dọn cái tủ “côm-mốt”, trải lên một tấm vải hoa màu xanh nhạt rồi đặt di ảnh của ông Tiến Lâm cô đã cho tiệm hình làm từ trước, sau đó cô để bát hương trước tấm ảnh, nơi đây hằng ngày cô cắm lên một nén hương cho ấm lại gian phòng. Một công việc nữa mà cô không thể nào dám quên đó là cái hộp nhạc nho nhỏ hình tròn đã cắm sẵn cái USB, trong đó ông Tiến Lâm đã thu âm tất cả các bài nói chuyện của ông tại diễn đàn văn nghệ ông thường đến sinh hoạt. Nội dung các bài nói chuyện của ông thường xoay quanh các vấn đề về tâm lý xã hội. Ông dặn dò cô chỉ phát ra khi nào có khách hay bà con thân thuộc đến thăm. Sau này khi có khách đến thăm cô mở hộp nhạc cho nghe các bài nói chuyện của ông, khách đâm ra sợ sệt:

- Sao mà giống như ông ấy đang ngồi bên cạnh trò chuyện!

- Em cũng nhát lắm. Ở nhà một mình em không bao giờ dám mở máy ra nghe anh ấy nói chuyện.

- Hay là thu mấy bộ kinh Phật về mở cho ông ấy nghe.

- Ô, không được anh ạ. Anh ấy dặn đừng cho anh ấy nghe kinh hay nghe nhạc. Đến ngày giỗ mở cho anh ấy nghe mấy bản nhạc tiền chiến của thời xa xưa. Anh nói nghe nhạc bây giờ anh bị lên tăng-xông.

- Chết rồi còn gì nữa mà lên với xuống tăng-xông?

- Anh nói nếu còn nằm ở trường đại học Y Dược anh ấy sẽ biết.

- Trời! Anh ấy là chúa tưởng tượng. Thế cô tin à?

- Dạ, em biết anh ấy nói đùa.

Khách vừa đứng lên định ra về cô Bình Phương vội với tay tắt ngay hộp nhạc. Khách về rồi cô thả lưng xuống ghế xa-lông nghĩ vơ nghĩ vẩn. Hết nghĩ đến ông anh cuối đời sống cô đơn quạnh quẽ rồi nghĩ đến cô với nỗi niềm đìu hiu, đơn chiếc. Cô nghĩ ông Trời bất công quá, sao lại vận cho cả hai anh em cô cái nỗi buồn da diết cuối đời. Đáng lý ra ông Trời cũng nên dành cho một người có được cuộc sống gia đình đầm ấm đến ngày con cái thành đạt để rồi tạo ra những thế hệ tiếp theo, người ta gọi là nối dòng, nối giống. Với ông anh cô còn có được một thằng con trai nhưng nó lại theo mẹ nó về bên kia trời tây. Giờ này nó đã lớn khôn chắc không còn biết gì đến đất nước, cũng như ông bố già nua lụm khụm này nữa rồi. Như vậy cuối cùng thì giòng dõi nhà cô và ông anh Tiến Lâm coi như tắc tị. Nghĩ đến đây thì cô Bình Phương tặc lưỡi:

- Ừ thì có kéo dài thêm nữa cũng chẳng được gì!

Thực ra, hồi còn trẻ, cô Bình Phương không phải là một thiếu nữ không có nhan sắc, cô cũng có dáng vẻ ưa nhìn, nét mặt cân đối, điềm đạm, nghiêm trang. Nhìn phía sau cô cũng có dáng vẻ của người con gái “em tan trường về” lắm nhưng lại không được một anh chàng tưng tửng nào theo sau.

Rồi đến khi cô tốt nghiệp ra trường đi dạy học. Suốt cuộc đời cầm phấn, đi lòng vòng nhiều trường trung học trong thành phố, đâu đâu cô cũng thấy có nhiều cô giáo còn phòng không chiếc bóng. Không lẽ ông Trời “kỵ tuổi” những bông hoa của ngành nghề cao quý này, mà sao số lượng những cô chậm có đức lang quân hơi bị nhiều.

Cơ hội cũng có lần đến với cô Bình Phương, đó là lần một bà cô họ, tại một tiệc sinh nhật đã giới thiệu cho cô một ông Việt kiều Pháp. Bà cô cho biết ông này là một kỹ sư cơ khí làm việc tại một hãng tàu gì đó ở Mạc-Xây, U60, gốc gác từ thuở “di cư” độc thân chăm phần chăm, đang muốn tìm vợ ở Việt Nam đặc biệt thuộc hàng ngũ giáo chức. Trong suốt bữa tiệc, có lẽ đã có sự sắp xếp trước của bà cô nên hai người được ngồi cạnh nhau trò chuyện thoải mái. Trong suốt buổi nói chuyện, cô Bình Phương thấy anh chàng này kiến thức tổng quát rất rộng. Mọi vấn đề liên quan đến kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội anh ta có vẻ khá thông thạo. Với cung cách nói chuyện, điềm đạm và lưu loát anh ta có phần gây được cảm tình của cô Bình Phương, trong khi phía đối diện có một anh chàng khác cũng xàng xàng tuổi tác và cùng gốc gác với anh chàng Mít-Mạc-Xây này. Hai ông này có vẻ đã quen biết nhau nên ông kia nói chuyện như bắp rang và “nổ” chát chúa. Khi ông này nói chuyện về văn chương thì ông kia “nổ” liền một phát là ông ta có tài làm thơ không cần suy nghĩ. Thấy cảnh nào đẹp ông ta ứng khẩu làm thơ liền, về nhà nhớ lại ghi vào vở.

Về phần ông Mít-Mạc-Xây, cô Bình Phương thấy đây là một người đàn ông tốt và là một người chồng tốt mà cô có thể trao thân gửi phận. Tuy nhiên cô đã nhờ bà cô từ chối bữa hẹn đi ăn đồ hải sản với anh ấy tại nhà hàng “Marino”. Cô thấy phải dứt khoát thôi. Ngoài cái con người trí thức khi nói chuyện làm cho cô ngưỡng mộ đôi chút, còn lại thì rất yếu. Anh ta gầy giơ xương dù rằng anh có dáng dẻo dai cho nên mới còn có thể làm việc ở bên đó. Thứ hai, anh ta hút thuốc như ống khói tàu Titanic, phun khói mù mịt đến nỗi bà cô phải để cây quạt ngay bên cạnh anh để thổi bay làn khói thuốc mỗi khi anh nhả ra. Việc ăn mặc anh ấy không được tươm tất, giống như một nghệ sĩ đường phố. Vấn đề vệ sinh cá nhân của anh chắc không được chú ý nhiều. Cô Bình Phương nghĩ, lấy nhau về chính cô lại là người phải chăm sóc cho anh ấy và nếu như anh ấy đột nhiên ngã bệnh cô sẽ rối lên như cái bòng bong. Có thể lắm chứ. Với một mớ kiến thức có sẵn cô thấy một con người gầy nhom như vậy lại hút thuốc hết điếu này đến điếu khác có ngày dính phải bệnh lao phổi. Quả đúng như vậy vài năm sau đó bà cô cho biết anh ta qua đời vì chứng bệnh ung thư phổi, hũ tro cốt để vào một cái chùa nào đó ở bên Pháp.

Rồi duyên phận lại đến với cô Bình Phương. Một người bạn nào đó giới thiệu cho cô một ông thầy giáo ở một trường đại học. Thực tình mà nói, cô chưa thấy một người đàn ông nào hiền lành như ông này. Cô tự an ủi, đến tuổi này cô có được một người chồng tốt như vậy cũng là hạnh phúc không phải ai cũng có thể có dễ dàng. Một đám cưới đơn sơ đã diễn ra nhanh chóng. Cuộc sống êm đềm đã đến với hai vợ chồng ở vào tuổi trên dưới năm mươi. Buổi sáng chồng chở vợ đến trường xong ông chạy thẳng lên trường đại học để làm nhiệm vụ của mình.

Sau khi về sống chung cô Bình Phương mới tìm ra được cái “bí ẩn” vì sao ông chồng cô sống độc thân từ thời trai trẻ cho đến bây giờ. Theo ông kể, đến nay bạn bè hàng xóm, bà con hối thúc quá nên ông cắn răng thuê một chiếc xe hoa để ngồi chung với cô đến cuối cuộc đời. Thêm vào cái tính hiền lành lại có phần nhút nhát, ông lại còn thiếu cả cái sự “dạn dĩ” trong những giờ phút riêng tư của hai vợ chồng. Cô không hình dung được niềm hạnh phúc của một người phụ nữ ở mức độ nào khi người chồng làm nhiệm vụ của một người đàn ông. Cô cũng không ước lượng được “trách nhiệm” của người đàn ông phải được thực hiện ở một chừng mực nào để đạt tới giới hạn nhứt định.

Tuy nhiên cô Bình Phương cũng phải công nhận việc ông muốn đi với cô đến cuối cuộc đời là chính xác, cho nên cảm tình của cô đối với ông cũng tăng dần theo thời gian, và cô cố gắng vun đắp niềm hạnh phúc chung của hai người. Nhưng một bất hạnh lại đến với cô Bình Phương, cuộc đời của ông chồng cô kết thúc sớm sau một cơn tai biến mạch máu não nhanh chóng đưa ông đi trước cô lên thiên đường…

Dương Lêh (12-2016)

(1) Một loại xe tải cỡ trung bình không có mui phía sau.

(2) Người viết đã có hỏi tác giả nhà văn Sơn Nam và chính tác giả trả lời “cũng không rõ luôn”. Người viết đoán “kinh” là cái bàn để di ảnh thường được hai người khiêng đi sau tấm giá triệu (Rất mong chư vị cao nhân chỉ giáo thêm).

TẾT & TẢO MỘ

Trời đất có bốn mùa cứ luân chuyển mãi. Nếu coi mùa Xuân là mùa bắt đầu của năm thì chọn ngày mùng một tháng giêng âm lịch là ngày bắt đầu của mùa xuân để bắt đầu năm mới cũng tốt, không chờ đến ngày Lập Xuân cho phiền. Nước Việt Nam ta, mùa xuân khí trời tương đối mát mẻ dễ chịu, cây trái cũng xanh tươi.

Ngày 01.01 dương lịch, ở miền Nam, tôi thấy khí trời còn lạnh. Nghe đâu ngày Tết ở miền Bắc cũng còn lạnh lắm. Thiết tưởng lấy nét lớn của cả nước thì tính mùa xuân vào tháng giêng âm lịch cũng ổn đấy. Nhiều nước không ăn Tết vào tháng giêng âm lịch hay dương lịch. Họ ăn Tết vào ngày tháng có sự tốt cho nước họ, ví dụ người Campuchia ăn Tết vào khoảng 18, 19 tháng ba âm lịch chẳng hạn.

Ăn Tết vào 01.01 âm lịch hay dương lịch, theo tôi, đều ổn cả vì có cách tính ổn định và hợp lý. Với nước có nhiều sông như Việt Nam ta thì trăng có ảnh hưởng tới nước lớn, nước ròng, nên có ảnh hưởng khá lớn trong cuộc sống. Sáng mùng một Tết thì sông, nước tràn đầy kéo dài tới khoảng mùng bốn hay mùng năm. Ăn Tết vào ngày nầy thiết tưởng là tốt nhứt. Khi chưa có dẫn thủy nhập điền, đặt cống ngăn mặn, tôi làm ruộng mỗi năm chỉ một vụ. Tới gần tết, thu hoạch lúa xong, từ đó trở đi thì rảnh việc. Tôi cho rằng dân tộc Việt Nam nên giữ cách ăn tết cổ truyền vào ngày 01.01 âm lịch. Biết đâu Tết nầy người Trung Hoa bắt chước Việt tộc ta. Đời vua Hạ Vũ thời cổ Trung Hoa được Trời ban cho Lạc Thư ở khoảng hẹp của sông Hoàng Hà, vùng sông Vị, từ đó họ bắt đầu học văn minh của Việt tộc đấy.

Tảo mộ hay giẫy mả

Ngày xưa, Ba tôi nói chỉ giẫy mả sau khi xả tang. Trong tang không được động đến. Ngày nay tôi thấy nhiều người vì thương nên Tết cũng sửa sang mồ mả cho người thân ăn Tết.

Ăn Tết vào ngày 01.01 âm lịch thì ngày 25 tháng chạp là ngày nước kém nhứt, người Việt đi tảo mộ là sửa sang mồ mả, sơn phết hay đắp thêm cho mả được cao, đẹp để ông bà ăn tết. Đắp xong, ngày 26 nước bắt đầu lớn lần thì còn gì tốt cho bằng. Việc làm nầy hợp với tục thờ kính tổ tiên của người Việt ta.

Người Trung Hoa thì tảo mộ vào dịp thanh minh. Nguyễn Du viết:

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Có lẽ ở Trung Hoa đến tháng ba âm lịch thì việc trồng trọt hái lượm… không được tốt, rảnh nên họ đi tảo mộ cũng nên. Do đó, ta cần giữ ngày tảo mộ của ta với ý nghĩa của nó.

Để con cháu tiện việc tảo mộ ông bà ở nơi cách xa nhau, người ta lại quy định từ 15 tới 30 tháng chạp, khi nào rảnh thì đi tảo mộ cũng được. Thế cũng hay. Trong gia tộc, có lẽ nên quy định một ngày nào đó là ngày tảo mộ hội. Tảo mộ ông tổ để lại sự nghiệp vẻ vang cho con cháu để tạo tình đoàn kết trong gia tộc tưởng cũng nên lắm.

Trong xu thế dân mỗi ngày một đông, việc khuyên thiêu cũng tốt. Trong tình hình nầy, ta nên tìm lập một khu đài mộ để tro cốt trong họ quy về đó mà tảo mộ cho tiện.

Cúng mộ

Hễ tảo mộ thì cúng mộ. Việc cúng mộ nầy thì tùy nghi sau khi sửa sang mộ xong. Lễ vật thì:

- Nhang, đèn, trà rượu (có thể chỉ một ly nước trắng, không rượu, không nước trà cũng được).

- Thịt, bánh, trái hay chỉ một dĩa bánh hay một dĩa trái cây hay một phong bánh in cũng được.

- Giấy tiền vàng bạc.

Tất cả đặt ở phần chưn mộ hay trên núm mộ. Ngày nay có khuynh hướng làm mộ bia ở đầu mộ, ở đó có cả bàn thờ, lư hương thì lễ vật bày ở đấy.

Một người đại diện cho gia đình hay gia tộc lên đèn, thắp nhang và cúng trước. Lời vái thì tùy nghi, có thể là cầu chư vị đất đai viên trạch phò hộ cho vong linh ông, bà… tôi được yên ổn. Mời quý vị và mời ông, bà… về ăn uống, xá xá và cắm nhang là xong. Theo tôi thì không cần lạy.

Lấy một tờ giấy tiền, một tờ vàng bạc đặt trên núm mộ, lấy đất dằn lên cho khỏi bay và cũng để làm dấu mộ đã được sửa sang rồi, không ai được làm gì nữa theo tục lệ xưa. Thông thường thì cắm nhang ở mộ ông bà mình thì cũng cắm nhang những ngôi mộ xung quanh gần đó. Độ năm hay mười phút sau, cúng nước và đốt giấy tiền vàng bạc là xong. Sau đó, dọn ra, con cháu ngồi quanh đó ăn uống để tạo tình đoàn kết. Có thể về nhà một người nào gần đó hay rủ nhau ra nhà hàng gần đó ăn uống cho vui.

Nếu con cháu vì bận mà không tới được trong ngày giẫy mả hội thì một ngày nào đó trước 30 tháng chạp tới thăm và cúng mả cũng được nhưng không làm thêm gì cả. Không đắp đất, không quét mộ, lau chùi…

Khánh Hội Quận Tư Saigòn 29-10-2016

NHỰT THANH PHẠM HIẾU NGHĨA

BÀI HỌC TRƯỜNG ĐỜI

Có những người thầy không bao giờ đứng trên bục giảng
Nhưng cho ta những bài học thật sâu cay
Cõi trần gian khập khễnh vơi đầy
Học học mãi vẫn chẳng thể nào khôn được

Có những ngôi trường không cần khang trang hay bề thế
Mà vẫn luôn đầy rẫy những giáo trình
Những giáo trình không đóng khung mặc định
Những giáo trình biên soạn rất tùy nhiên

Từ vạn vật đều đóng vai trò luân lý
Mỗi mỗi li ti đều có những song hành
Cuộc sống này minh định những vàng xanh
Bao phải trái vẫn toan đầy hỉ nộ

Có thể hoa có thể là nước mắt
Khi ta đong những thẩm nghiệm riêng mình
Bài học đời rộng khắp những sinh linh
Soi mê mải cõi nhân tình thế thái

ĐÀM LAN

Đính chính

Trang 92 bài Không bỏ cuộc chơi

Dòng 4 “Nguyễn Bính” xin sửa lại “Hàn Mặc Tử”.

Cám ơn.


GÓC NHỎ

Sao đã khuất xa rồi em còn nhớ

Nhớ một dáng hình, nhớ cả năm sinh

Em vô tư thế như phượng hồng nắng hạ

Để tôi ngỡ ngàng lạc bước bên hoa

*

Dẫu biết chỉ là hoa trôi nước chảy

Hãy cho nhau quà tặng môi cười

Đường thì dài phút vui được mấy

Bận lòng chi - tâm tịnh thảnh thơi

*

Đời có biết bao điều để nhớ

Mà trái tim mang nhịp đập chân tình

Cảm ơn em - vẫn dành riêng góc nhỏ

Cho một tiếng thơ, cho một bóng hình.

Sài Gòn 7.6.2008

LÊ NGUYÊN

CON ĐƯỜNG

Ia.P.Polonski (1819-1898)

Thảo nguyên hoang vắng - đường còn dài.

Ruộng lúa gần xa gió lắt lay,

Sương giăng trước mặt - lòng trĩu nặng.

Nỗi sầu thầm kín choán hồn tôi

Ngựa tung vó ruổi, - dường vẫn nhác,

Bốn bề nào thấy cảnh đổi thay

Thảo nguyên, thảo nguyên - đồng lại ruộng…

- Xà ích, sao không hát một bài.

- Bài hát để dành cho ngày xấu, -

Xà ích râu ria đáp lời tôi ?

- Mà chẳng vui sao - quê đã tới:

Ngọn sào quen đã ló sau đồi.

Và tôi đã thấy: một ấp nhỏ,

Mái rơm khuất sau mảnh sân phơi,

Mấy đụm cỏ khô, lều quen đó…

Bà lão yên lành, vẫn dẻo dai ?...

Sân nhà đã tới. Và xà ích

Thấy lại bình yên, bữa đón mời

Từ lâu… tôi đã cần ngơi nghỉ

Nhưng… kìa, ngựa đã kịp thay rồi [1]

Nhanh nhanh lên! Đường tôi còn dài,

Đêm ẩm - không bóng nhà, đốm lửa, -

Xà ích hát, lòng tôi thấp thỏm,

Tìm đâu ra khúc hát cho ngày mai !

(1842)

Thúy Toàn dịch

[1] Trên đường thiên lý Nga ngày xưa, xe ngựa đi từng chặng lại thay ngựa mới sung sức đi tiếp.

NHÀ MỚI

Bạn hữu lời mời đến chúc mừng

Tân gia nhà mới đẹp cao sang

Chung quanh cây cảnh nhìn vui mắt

Rào chắn vườn hoa nở thảo trang

Bè bạn xa gần đồng đến dự

Họ hàng nội ngoại cùng tham quan

Hân hoan ly rượu xin cầu chúc

Gia đạo bình an tài lộc khang.

QUANG BỈNH

ĐI MÁY BAY

Cất cánh đường bay lượn nắng ngày

Mênh mông mây trắng nở thêm dầy

Tiếng rền thân lướt trên không phận

Lên đến tầm cao giữ luống cày

Mặt biển thẫn thờ nhìn thiết điểu

Bầu trời tỏ sáng thẳng đường bay

Đài Loan chân đến lòng hoan hỉ

Phi đạo đèn pha rợp sáng nay.

QUANG BỈNH

SÁCH XƯA & NAY

Ngày Xưa là quá khứ

Ngày Nay là hiện tại

Ngày Mai là tương lai

Xưa Nay tiếp kế thừa

Có những cái mất đi

Không bao giờ gặp lại

Có những điều còn mãi

Di cảo của con người

Di cảo người xưa cũ

Sách bám bụi thời gian

Tri thức ngàn con chữ

Như vòng xoay lịch sử

Xưa đã từng là Nay

Nay sẽ trở thành Xưa

Nghìn năm trang sử Việt

Cảm hoài nhớ Thuật hoài*.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

* Thuật hoài: bài thi vịnh của vua Thành Thái.

Bắt chước Cao Bá Quát:

NGÚT NGÀN XA

“Chiều lên từ thuở lìa tan

Nắng ơi lạnh lẽo muôn vàn đuốc hoa

Hôm hôm cánh rụng lầu ngà

Một mùa ly biệt đã già nhớ thương”

Hoàng hôn nhuộm bãi cát buồn

Chạnh thương thác lũ mưa nguồn chơi vơi

Dù cho phiêu bạt muôn nơi

Vẫn yêu sao thuở tuyệt vời bướm hoa

Cuộc đời như hạt mưa sa

Còn đâu tóc xõa đậm đà duyên thơ

Đường dài chiếc bóng bơ vơ

Em chìm trong một giấc mơ bẽ bàng

Đò xưa đã lỡ chuyến sang

Còn vương vấn chút ngỡ ngàng bâng khuâng

Xa xôi vẫn ngỡ như gần

Nét môi dịu ngọt ân cần thuở xưa

Tiếc thương biết mấy cho vừa

Thoát cơn ảo mộng đong đưa dáng sầu

Cõi trần vạn dặm về đâu

Con tim chua xót tình đầu dở dang

Sông dài biển rộng mênh mang

Tình thơ dại quá đa đoan vô thường

Dù sao đời vẫn dễ thương

Bước chân lạc lối - nẻo đường chiêm bao

Bỗng dưng xúc cảm dạt dào

Cánh bèo tan họp - ba đào nổi trôi

Mới hay duyên kiếp luân hồi

Niềm tin nẩy lộc đâm chồi xanh tươi.

NGÀN PHƯƠNG

THIẾT THA

Hái sao, nhặt gió, gom mây

Đi mua ảo ảnh về xây lầu vàng

Cách nhau một dải Ngân Giang

Cầu Ô đã gãy

vỡ tan mộng tình

Chùng chân mỏi bước đăng trình

Nhịp cầu chưa nối

nên mình còn xa

Mắt em lóng lánh trăng ngà

Còn yêu nên vẫn còn tha thiết hoài

Tình xưa vượt quá tầm tay

Choàng ôm kỷ niệm đắng cay vào hồn.

NGÀN PHƯƠNG

TÌNH GỞI GIÓ MÂY

Xin gởi chút tình theo gió bay

Chút hương chất chứa nỗi mơ say

Mây ơi nhớ nhé đưa người ấy,

Và nhắn rằng mộng vẫn ngất ngây

Xin viết vần thơ gởi gió mây

Lời yêu còn đó những hao gầy

Những chiều nhạt nắng đi tìm mộng

Con đường xưa vắng bước chân ai !

Ảo ảnh vơi đầy nỗi nhớ mong

Người xa nơi ấy có thay lòng ?

Trông ngóng cánh chim đà khuất nẻo

Chiếc lá bay theo gió lạnh lùng

Tình ơi sao như gió cuốn bay

Ánh trăng chứng tích, nhớ nhung đầy

Lời hẹn ước xưa buồn tuyết đổ,

Trời cao mây xám, khóc tình phai.

Phạm Thị Minh-Hưng

TÔI MUỐN LÀ TRĂNG

Tôi muốn là trăng hôn tóc em,

Là trăng ve vuốt tấm vai mềm,

Này em, sàng sẩy tình trăng ấy,

Em có mơ gì trong giấc đêm ?

Tôi muốn là trăng, là gió êm,

Mơ màng sa xuống, đứng bên thềm,

Nơi có em đưa tôi vào mộng,

Giấc mộng trăng vàng bên Giáng Tiên !

Em là trăng, tôi mơ tình trăng ?

Nhìn trăng lòng xuyến xao, bâng khuâng,

Cao Nguyên vằng vặc vầng trăng cũ,

Soi sáng một đời... mơ giấc Tiên...

Phạm Thị Minh-Hưng

QUEN

Đã từ lâu

Tôi ngồi lặng lẽ

Bên tách càfê

Rồi một hôm em đến

Nhẹ như áng mây chiều

Lòng anh sao lãng đãng

Bối rối làn khói bay

Thơ anh viết vội trên hoa cải

Riêng tặng mùa thu mây biết chăng ?

Gió cười gió bảo rằng không biết,

Mà đã rơi rồi, ướt áo ai ?

Bs. DOANLINH

AN ACQUAINTANCE

For a long time

I was sitting silently

By a cup of coffee

Then one day you came

As light as a cluster of afternoon clouds

Making my heart so indistinct

So embarrassed to make smoke fly up

My poem was hurriedly written on the cabbage

Privately offered to the Autumn, did clouds know ?

The wind smiled and said not to know

It was raining, whose dress was wet ?

Bs. DOANLINH 12/11/2016

MONG CHỜ

“Thiếp tâm chính tợ Trường Giang thủy

Nhật dạ tùy lang đáo Phúc Châu”

Cổ Thi

Vẫn mong anh về trong sớm mai

Nắng lên tràn khắp ngả sông đầu

Thuyền trôi lướt nhẹ xuôi bờ bến

Ai đó chờ ai nẻo dặm dài

Có biết tình em như nước sông

Mãi ngóng người xa mỏi mắt trông

Anh như lữ khách phương trời lạ

Say kiếp sông hồ theo gió đông

Em từ khép cửa vườn thu lại

Đã nhuốm xanh rêu một góc đời

Mây cũng lang thang hoài tám hướng

Biết đâu mà nhắn gửi người ơi

Đêm dường vô tận nỗi buồn riêng

Lá trút lao xao xuống mái hiên

Trăng mờ nên xót xa tìm đến

Bao giờ nguyệt tỏ mới đoàn viên.

HOÀI LY

10/2016

KIẾP HOA

Họa thơ “Hoa sứ rụng” Hữu Tuấn

Quỳnh hoa chỉ nở giữa trời đêm

Vườn khuya trăng chiếu rọi bên thềm

Ban mai ngàn cánh xa đài rụng

Thương tiếc đời hoa mãi tiếc thêm.

HOÀI LY

HOA SỨ RỤNG

Hoa sứ xông trời, bát ngát đêm

Sáng ra hoa trắng rải đầy thềm

Gót ai vô cảm, bầm thương cảm

Tơi tả, hoa tàn, tơi tả thêm.

HỮU TUẤN

PHÚT BAN ĐẦU

Ngỡ ngàng mình đến bên nhau

Gặp anh trong cảnh đớn đau bệnh tình

Ôi sao anh đến thình lình

Bàn tay nắm chặt làm mình nao nao

Anh này kỳ cục làm sao

Mấy mươi ánh mắt nhìn vào lạ chưa

Anh tay nắm, mắt đong đưa

Ngại ngùng em nói trời mưa anh về

Hờn em anh bước nặng nề…!!!

VŨ THÙY HƯƠNG

NỖI NIỀM

Bá Mạnh tặng Thùy Hương

Nhớ buổi ban đầu mới gặp em

Hoa xuân khoe sắc rộ bên thềm

Nỗi niềm phấn khởi khi gặp gỡ

Ấp ủ trong lòng thương nhớ thêm

Sau phút hàn huyên ngắn ngủi về

Tâm hồn như dại lại như mê

Đường đi lắm lối xe lăn bánh

Phố cũ sao mà cảnh đẹp ghê.

NGÔ BÁ MẠNH

KHẮC GHI

Thùy Hương thùy mỵ đoan trang

Tiếng cười giọng nói dịu dàng dễ thương

Bá Mạnh tình cảm vấn vương

Thật thà giản dị chung đường bên nhau.

NGÔ BÁ MẠNH

ƯỚC AO

Bên em đi giữa Sài Gòn

Dường như dồn cả trăm con mắt nhìn

Chẳng vì em đẹp em xinh

Mà thầm ao ước như mình tuyệt sao.

NGÔ BÁ MẠNH

KÍN MIỆNG

Đời này phải ráng tập làm thinh

Có vậy mới mong tránh bất bình

Kín miệng khỏi lo hao trí óc

Hở môi có thể hại thần kinh

Người không người khéo riêng phần họ

Ta dốt ta ngu mặc phận mình

Khua lưỡi lộ ra bao tật xấu

Làm thinh khó nổi biết chân tình.

LANG NGUYÊN

ĐIẾC VÀ CÂM

Ráng làm một kẻ điếc và câm

Mới tránh phần nào cảnh khổ tâm

Điếc để không nghe điều tác hại

Câm hầu tránh khỏi việc sai lầm

Càng nghe càng dễ sanh hờn giận

Cố nói cố làm tạo tội ham

Lanh miệng tỏ tai thêm ác nghiệp

Tu hành sáng trí dạ như rằm.

LANG NGUYÊN

TỊNH, ĐỘNG

Đã có chút gió se se buổi sớm

Làm mắt ta co lại điểm giữa trời

Một tháp chuông sừng sững mải buông lơi

Lời ngân nga gọi lòng về an tịnh…

Ồ! Buổi sáng, sao không là vĩnh viễn

Với bình yên, với cánh bướm chập chờn

Chút gió qua, thanh thản lá chao nghiêng

Rồi đáp xuống trên lối ta vừa tới ?

Ồ ! Buổi sáng, đừng bao giờ là chờ đợi

Để mỏi mòn những tích tắc nhàn du !

Ta thèm lắm không gian ngọt sương mù

Cho mờ nhạt bao điều ngong ngóng vội.

Ồ ! Buổi sáng, ta cần chi cái mới ?

Hãy để cho giấc mộng của đêm rồi

Hiện thực ngay khi ánh nắng đầu ngày

Chưa đủ nóng chảy tan lời mê mải.

Ồ ! Buổi sáng, chỉ cần làn mây trải

Tít trên kia mà nghĩ dưới gót trần.

Để êm êm là đôi gót chân son

Tha thướt lội, rồi khuấy lòng gợn sóng…

Đã thấy ánh mắt em sau lá động

Làm giọt sương rơi xuống chút dỗi hờn

Không sao đâu, đêm rồi đến rất nhanh

Nhanh đến độ bình minh kia sắp chết !

Sương ơi sương, đừng vội về lòng đất

Hãy bốc hơi, níu trên áng mây trời

Đợi đêm về, đêm sẽ đến nhanh thôi

Mai sớm sẽ cùng ta mà an tịnh…

LAM TRẦN 02.12.2014

Tình thơ

Ta nghĩ mãi bởi hai người mới lạ

Chưa quen nhau mà cứ ngỡ quen lâu

Ai khiến xui ta bắt được nhịp cầu

Cho vương vấn, cho tình thơ gặp gỡ

Vẫn hồi hộp muốn làm quen cũng ngỡ

Cậy nhờ thơ làm sứ giả đổi trao

Dẫu xa chăng, Bắc Đẩu với Nam Tào

Nương theo gió thả hồn bay cảm luyến

Khó khăn mấy cũng vượt qua trận tuyến

Vì yêu thơ nên khổ lụy vì thơ

Ngày lẫn đêm ta cứ mãi trông chờ

Gieo tình cảm cho tình thơ kết lại

Tuổi về già làm ta lo sợ mãi

Cầu sông Ngân xin chuyển mấy vần thơ

Nghe lòng như rộn rã những mộng mơ

Sao bỗng thấy, mến yêu đời gượng sống

Ta lặng ngắm ánh trăng vàng gió lộng

Ngẩn ngơ buồn, lệ đổ nhớ thương thương

Thầm yêu thơ ta nào thấy sầu vương

Ai nỡ để, duyên tình thơ ốm nặng…

PHƯỚC HẢI

(22.4.1993)

CHỮA BỆNH

Đau bụng thày chữa ngoài da

Không tìm nguồn gốc sâu xa thế nào ?

Hiệu quả thực tế ra sao ?

Tiền tốn nhiều vào, bệnh lại xấu đi.

Lang băm lại tưởng thần y

Nếu chậm càng nặng cũng vì ngu lâu

Thuốc “Tây” rồi lại thuốc “Tàu”

“Ngụy biện, dối trá” đau đầu khổ thân.

Ông thày học chẳng tới đâu

“Giáo điều, sáo rỗng” là câu thường dùng

Lý thuyết bất nhất lung tung

Thày mà như vậy không khùng cũng điên.

Thày lang băm tưởng thần tiên

Mau thay bài thuốc mới yên bệnh này

Cảnh xưa tất khác cảnh nay

Chủ động thay đổi kẻo ngày thêm nguy.

Dùng sai thuốc bệnh càng thêm vượng

Khỏe chỉ là ảo tưởng mà thôi

Mau mau chuyển đổi kịp thời

Tương lai, hy vọng sáng ngời… chớ quên.

LÊ MINH CHỬ

THẾ GIỚI CHƠI CỜ

Bàn cờ thế giới bày ra

Bao nhiêu chước quỷ, mưu ma đang chờ

Mấy anh nước lớn bây giờ

Tung hoành ngang dọc tỉnh bơ “luật trời”

Xem ra đại loạn mất rồi

Thế sự rắc rối như chơi ván cờ

Mấy anh yếu thế lơ ngơ

Đi sai một nước sa cơ có ngày ?

LÊ MINH CHỬ

CÀ FÊ ĐẬM ĐÀ

Tọa trên thành phố đông vui

Xe cộ qua lại nhiều người đi qua

Càfê giải khát mở ra

Hiệu Bùi Văn Ngọ thiết tha kính mời

Bà con cô bác khắp nơi

Ghé vào thưởng thức vui chơi lúc nhàn

Nhìn qua phong cảnh khang trang

Tiếp viên vui vẻ lắm nàng đẹp xinh

Trang trí nên thơ hữu tình

Giao lưu bè bạn nơi nầy gặp nhau

Vài ba câu chuyện đổi trao

Thời sự thương mại kẻ vào người ra

Tương lai danh hiệu vươn xa

Càfê Bùi Ngọ đậm đà hương thơm.

QUANG BỈNH 2016

*Càfê Bùi Văn Ngọ Đường Bình Phú, Q.6, Tp.HCM.

Cây Đàn Tiên III

Tây Đô nối thớt, lực king kong

Mấy nhịp cầu duyên, vững móng rồng

Một thoáng quê hương đang đổi mới

Hai bờ đất nước được hanh thông

Văn minh tiến bộ luôn tầm cỡ

Kinh tế giao liên mãi thuận dòng

Dây võ, dây văn, căng thẳng tấp

Đàn tiên ngoạn mục gác ngang sông.

Thanh Châu

Cây Đàn Tiên IV

Cầu vòng ngũ sắc hiện Mekong

Thấp thoáng chơn mây vũ điệu rồng

Nhịp khúc tưng bừng nơi lộ giới

Âm vang rộn rịp bến xe thông

Từ nay vượt suối êm trên ngựa

Chẳng phải qua truông cực xuống dòng

Mới biết đàn tiên linh ứng nghiệm

Cần Thơ kết nối, đất liền sông.

Thanh Châu

NHỚ MÙA THU

Tuyết đã tan rồi

Uất Kim Hương đã nở

Bài thơ về mùa thu gặp gỡ

Anh còn chưa kịp viết cho em

Sao nỡ quên đi chiều ấy êm đềm

Rực rỡ rừng dương vàng tươi sắc lá

Em thủ thỉ: Mùa thu Nga đẹp quá

Gió vương hoài sợi tóc thoảng hương bay ?

Sao nỡ quên đi con đường sang đây

Giữa hai hàng cây đậu dày hoa tuyết

Đêm lạnh giá, tay tìm tay tha thiết

Nghe bồi hồi hơi ấm chuyển qua nhau ?

Khi chồi bạch dương dồn thắm lên đầu

Và mầm cỏ non bừng xanh mặt đất

Anh vẫn nhớ mùa thu vàng đã mất

Mưa vào xuân thấm lạnh mãi lòng anh !

Matxcơva, 4-1982

VŨ ĐÌNH HUY

RECALLING THE FALL

Snow has melted

Tulip has bloomed

The poem about our meeting in the Fall

I haven’t got time to write for you yet

How could you have the heart

to forget that so serene evening

So radiant was the poplar forest

and its freshly yellow leaves

You whispered: so beautiful is the Russian’s Fall

The wind kept on cumbering itself

with a flying hair that had a flashing scent

How could you have the heart

to forget the way that led us here

Between two rows of bean trees

under dense snow flowers

In the dead cool night, our hands looked for one another

Frettily feeling the warmth that was passed on to us ?

When white poplar shoots stuffed

reddish colours over our heads

While green grass shoots turned

the ground glaring green

I keep on recalling that gone by yellow Fall

And springtime rain always sinks in my heart !

Moscow, 4-1982

VŨ ĐÌNH HUY- Translated by VŨ ANH TUẤN

THA THỨ CHO ANH

(tiếp theo số 126)

Sáng Chúa Nhật sau đó, Tịnh Lan dìu bà Huyền Tâm bước ra cổng nguyện đường, cô gái vừa đi vừa ngoái lại nhìn phía sau lưng hướng con đường Tú Xương, cô cứ xoay qua xoay lại khiến bà mẹ đi bên cạnh phải chú ý, bà quay sang hỏi con:

- Con làm sao vậy, con cứ nhìn đi đâu vậy? Sao không gọi xe để mẹ con về nhà cho xong, trễ rồi con gái.

Tịnh Lan lại liếc nhìn phía sau, thoáng thấy bóng ông Trọng Thu đứng cạnh chiếc xe gắn máy dưới bóng cây bên kia đường, Tịnh Lan vội đáp lời mẹ: “Vâng!” và vội tiến ra ven đường đón taxi đến đưa mẹ về nhà.

Xe đến, cô gái vội vàng đưa mẹ trở về căn phòng - nơi mà bà Huyền Tâm đã gắn bó trên mười năm nay. Người thiếu nữ không quay nhìn phía sau nữa, nhưng cô thầm biết có một chiếc xe đang theo sau xe của hai mẹ con.

Khi về đến nhà, cả hai người phụ nữ đều thở phào vì đã dự xong buổi Thánh lễ ngày Chúa nhật và đã dâng lời cầu nguyện chân thành lên Thiên Chúa cao cả mong được luôn bình yên trong cuộc sống.

Khi bà Huyền Tâm đã yên vị trong chiếc ghế bành quen thuộc, Tịnh Lan vội rót ly nước lọc mang đến cho bà:

- Mẹ, mẹ uống nước đi. À, mẹ có dùng điểm tâm không, con đi nấu mẹ nhé?

Bà me uống nước xong, thong thả trả lời con:

- Mẹ không ăn đâu, mẹ không thấy đói con à.

Cô con gái kêu lên:

- Mẹ ơi, từ tối qua mẹ đã không dùng bữa rồi, sáng nay mẹ lại không ăn chút gì thì sao được hở mẹ. Mẹ còn giận con sao?

- Mẹ, mẹ đừng giận, đừng buồn con mà mẹ, con xin mẹ đó.

Bà mẹ nhẹ nhàng nói

- Mẹ không giận con đâu Tịnh Lan, mẹ chỉ thấy buồn thôi. Ông ta lại đến làm xáo trộn sự yên bình của mẹ và con nữa.

Cô gái tiến gần mẹ, quỳ xuống tựa đầu vào lòng bà Huyền Tâm, thổn thức:

- Mẹ của con, mẹ đừng buồn con, và cả ba nữa, à không ông ấy mẹ nhé.

- Mẹ mà buồn thì không tốt cho sức khỏe đâu, như thế con sẽ lo lắng lắm mẹ ơi.

- Mẹ phải mạnh khỏe nghe mẹ.

Bà Huyền Tâm nhẹ ôm lấy con.

- Mẹ vẫn khỏe, con lo gì chứ, nhưng mà con không được nhắc đến ông ấy ở đây nhé.

Tịnh Lan vừa định tiếp lời, nhưng nghe mẹ nói thế nên im lặng, khe khẽ thở dài.

Hai người phụ nữ chợt nín lặng, mỗi người có những ý nghĩ riêng tư.

Chợt có tiếng gõ cửa phòng vang lên. Tịnh Lan đứng lên ra mở cửa, bóng ông Trọng Thu đang đứng ngây người bên ngoài. Cô gái nói khe khẽ

- Mẹ đang ở trong phòng đấy ba.

Ông Trọng Thu gật đầu và Tịnh Lan lùi ra sau để ông bước nhẹ vào phòng, đến nơi bà Huyền Tâm ngồi trầm ngâm xa vắng. Ông nhẹ giọng tha thiết gọi tên người xưa

- Huyền Tâm, em…

Người phụ nữ có gương mặt buồn buồn và đôi mắt có những vết chân chim theo thời gian ấy giật bắn người như chợt tỉnh cơn mơ quay lại, hét lên:

- Ông lại đến gây phiền phức cho tôi nữa sao?

- Không đâu em, anh rất nhớ em và con.

Bà Huyền Tâm hắng giọng

- Nhớ, nhớ cái gì chứ, sao ông cứ lặp đi lặp lại điều đó hoài, không chán sao hở?

- Tôi xin ông đấy, ông Trọng Thu, ông đừng đến đây nữa nhé, tôi van xin ông mà, tha cho tôi đi có được không?

Ông Trọng Thu cất tiếng run run như muốn khóc

- Em ơi, hãy tha thứ cho anh, hãy nghĩ đến tình yêu của chúng mình ngày xưa và vì con mà quên đi lỗi lầm của anh em nhé.

- Làm sao mà tôi quên được đây hở ông?

- Nỗi đau của tôi đã quá sâu như vực thẳm, mạ ông và ông đã phá tan tác mộng đẹp một thời thiếu nữ của tôi, có biết không?

Bà Huyền Tâm ôm mặt khóc nức nở. Tịnh Lan đang đứng lặng lẽ ở góc phòng thấy thế vội lao đến ôm lấy mẹ và cùng òa khóc khiến người cha cũng nghẹn lời lặng thinh, rút khăn chậm nước mắt trước tình cảnh thương tâm của hai mẹ con.

Tịnh Lan vừa khóc mếu máo vừa gọi:

- Mẹ, mẹ ơi, con thương mẹ quá!

Người mẹ ghì đầu con gái vào lòng mình, nấc nghẹn nói không thành lời.

- Con yêu của mẹ, chỉ có mẹ mà thôi.

Một lúc sau, Tịnh Lan như bừng tỉnh nhớ đến cha, ông Trọng Thu vẫn còn ngồi ủ rũ trong góc phòng, cô thiếu nữ khẽ nói với mẹ mình

- Mẹ ơi, mẹ đừng buồn, đừng khóc nữa,con khổ lắm. Mẹ hãy nghe con, mẹ hãy tha thứ cho ba đi mẹ, ba cũng đau buồn không kém mẹ và con đâu, con thương ba mẹ ạ. Chỉ cần mẹ thôi không giận hờn ba nữa, để ba được đến thăm mẹ, thăm con thì con vui biết bao. Mẹ ơi, từ bé con đã mong mỏi có ba, biết mặt ba mình biết bao nhiêu mẹ ơi. Bây giờ ba con đã đến gặp mẹ con mình, xin mẹ tha thứ lỗi lầm cho ba, mẹ thương con hãy bỏ qua sự sai lầm đã qua của ba nghe mẹ, cả bà nội nữa mẹ nhé.

- Mẹ, mẹ thương con hãy xóa lỗi cho ba nha mẹ, con xin mẹ đó.

Bà mẹ nghe những lời con gái nói liền ngưng tiếng khóc, lấy khăn lau mặt rồi xô ngay Tịnh Lan ra, giận dữ lên tiếng

- Hừ, cô hay quá nhỉ? Ai khiến cô bênh vực xin tha, xin lỗi cho ông ấy thế hở? Tôi không quên được, không tha thứ được thì sao?

Bà Huyền Tâm vừa nói vừa liếc ngang cô con gái và ông Trọng Thu ra điều giận dỗi, rồi quay mặt sang hướng khác.

Người cha đứng lên buồn bã.

- Thôi, anh về nghe Huyền Tâm, ba về nghe con.

Tịnh Lan vội chạy đến nắm tay cha giữ lại, gọi lớn:

- Ba ơi, đừng đi.

Và quay lại phía mẹ, khóc: “Mẹ ơi, thương con, thương ba với…”

Bà Huyền Tâm nhìn sững đứa con gái không thốt nên lời, như không hề ngờ phản ứng của Tịnh Lan lại như thế, bà nghiêm giọng bảo:

- Sao con lại thế hả? Con không vâng lời mẹ hở?

Tịnh Lan cúi đầu, những giọt lệ tràn đầy trên má, nấc nghẹn, không thể đáp lời mẹ được.

Tịnh Lan quỳ sụp xuống trước mặt mẹ

- Mẹ đừng buồn, con sẽ vâng lời mẹ, nhưng mẹ ơi, ba cũng đáng thương lắm và niềm mong ước lớn nhất của con là có ba, có mẹ, mẹ biết mà.

Bà Huyền Tâm lặng yên, khẽ vuốt tóc con gái trầm ngâm suy nghĩ, như quên đi thực tại đã và đang xảy ra trong căn phòng này. Bà như đang ôn lại quãng đời đau khổ, cơ cực đã qua của hai mẹ con, nhớ đến đâu nước mắt bà tuôn chảy đến đó, rồi bà lại liên tưởng đến buổi thánh lễ ban sáng tại nguyện đường, đến bài giảng của cha chủ tế, vẳng bên tai bà lời Kinh Thánh: “Người có lòng hoán cải thì phải tha thứ cho người ấy…”(Lc17,4). Bà chợt như sực tỉnh, thở dài nhìn con gái rồi quay nhìn người xưa đang ngồi ở góc phòng.

Ông Trọng Thu đứng lên, nhìn bà nói những lời như cuối cùng.

- Anh biết mãi mãi em cũng không quên những tội lỗi mà anh đã gây ra cho em. Anh xin lỗi, anh hứa từ nay anh sẽ không đến để làm phiền em và con nữa đâu Huyền Tâm, anh về nhé!

Bà Huyền Tâm chưa kịp nói lời nào thì Tịnh Lan đã lao vào lòng người cha, ôm lấy ông khóc nứa nở và kêu lên:”Ba ơi!”, làm ông Trọng Thu lúng túng chỉ biết đưa tay đỡ lấy con gái vỗ về.

- Con gái của ba, đừng khóc con. Con hãy săn sóc mẹ và sống tốt con nhé!

Tịnh Lan nghe thế càng khóc lớn hơn, miệng bệu bạo: “Mẹ, mẹ tha thứ cho ba nghe mẹ, con xin mẹ đó”.

Hai người cha mẹ chợt cùng nhìn vào mắt nhau khoảnh khắc và quay đi. Một thoáng tình yêu xa xưa bỗng hiện về trong họ.

Ông Trọng Thu buông con gái ra, bước ra cửa với lời tạm biệt: “Anh chào em nhé”.

Bà Huyền Tâm đang ngồi, đứng bật dậy, bước đi một bước bỗng ngã sóng soài trên sàn, ngất đi làm Tịnh Lan hoảng hốt kêu lên: “Ba ơi, mẹ…”

Ông Trọng Thu giật mình quay lại, vội bế bà Huyền Tâm lên giường, ông thấy bà mắt nhắm nghiền, tay chân lạnh ngắt như đồng, ông vội xoa tay chân cho bà ấm lại. Tịnh Lan thì khóc tỉ tê và lay gọi mẹ liên hồi.

Lúc sau bà tỉnh lại, mở mắt ra thấy con gái lẫn ông Trọng Thu đang ngồi bên cạnh, bà chợt nói khẽ.

- Anh đừng đi, hãy ở lại với con, tôi chỉ thấy tội nghiệp cho con tôi thôi, anh biết không? Từ bao lâu nay, nó cảm thấy thiếu vắng tình cảm gia đình mà tôi không thể đem lại đầy đủ cho con.

Hai cha con cùng nhìn nhau, vui mừng hiện rõ trên gương mặt, Tịnh Lan reo khẽ

- Mẹ đã tha thứ cho ba hở mẹ?

Rồi quay sang nắm chặt tay cha

Ông Trọng Thu nhẹ đưa tay đỡ bà Huyền Tâm ngồi lên, kê chiếc gối để bà dựa vào thành giường, cất giọng run run xúc động

- Cám ơn em, Huyền Tâm.

- Tôi tha thứ cho anh vì Chúa và vì con thôi đó nghe.

Bà Huyền Tâm thốt lời với vẻ mặt còn hờn giận và quay nhìn lên tượng Chúa chịu nạn trên tường.

Ông Trọng Thu cầm lấy bàn tay gầy guộc của người yêu, hôn lên từng ngón tay của bà, “người ấy” của ông chợt rút vội tay lại, mặt đỏ bừng xấu hổ.

Tịnh Lan vội vàng nhìn sang hướng khác mỉm cười sung sướng. Còn ông Trọng Thu thì vui mừng kéo con gái vào lòng kêu lên nho nhỏ

- Anh yêu cả hai mẹ con, Huyền Tâm và My .

Cô con gái ngồi trong vòng tay ba mẹ đang sum họp, thầm cám tạ ơn Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của cô.

Từ nay cô có được cả cha lẫn mẹ như cô hằng mong ước.

HOÀI LY

Tìm giây phút lạc quan

trong tuổi già

Ngày xưa, có ông lão (*) cứ vui cười ca hát suốt ngày. Thấy lạ, có người hỏi:

- Tại sao ông vui tươi mãi như thế?

Ông lão đáp:

- Trời sinh ra muôn loài muôn vật, trâu chó dê ngựa… Người là sinh vật cao nhất, “Tối linh ư vạn vật”. Ta được làm người. Ấy là điều sướng thứ nhất.

- Trời sinh có người tàn tật, đui què. Ta được lành lặn, ấy là điều sướng thứ hai.

- Người đời thường vì sự giàu có, danh vọng mà phải gian khổ. Ta có ăn đủ một ngày ba bữa, không lo lắng gì cả. Ấy là điều sướng thứ ba.

- Còn như sinh lão bệnh tử là điều không ai tránh được. Ta cũng như mọi người, việc gì phải buồn.

- Nghĩ tới ba điều sướng ta có được, ta vui ca cũng là chuyện thường tình, mắc mớ chi phải hỏi.

***

Tuổi già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, vì biết mình còn sống. Đại ý viết như vậy, trong một cuốn sách mà ông Hai đọc được, làm ông thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi vừa tỉnh giấc. Bạn bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đã về với Diêm Vương khi còn trẻ măng, vì cuộc tương tàn khốc liệt dài ngày trên quê hương. Nhiều người khác gục ngã trong trại tù vì đói khát, bệnh tật, mồ hoang vùi cạn. Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà chôn thân dưới đáy biển, hoặc chết khô giữa rừng sâu. Không ít người còn lại, tử thần cũng đã đón mời vì bạo bệnh, khi tuổi năm sáu mươi. Phần ông vẫn còn dai dẳng sống sót cũng là ân huệ trời ban, không vui hưởng tháng ngày, cũng uổng lắm sao!

Ý nghĩ đó làm ông mỉm cười sung sướng. Ông vẫn trùm thân trong chăn ấm. Tội chi mà dậy sớm cho mệt. Mỗi khi nghe tiếng khởi động máy xe từ hàng xóm vọng qua trong buổi tinh sương, ông càng vui sướng hơn, vì không còn phải vùng dậy giữa đêm đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng ngày như mấy gã trẻ tuổi ở cạnh nhà. Về hưu rồi, mỗi tuần hưởng bảy ngày chủ nhật, bảy ngày thảnh thơi. Hết áp lực của công việc hàng ngày, không phải lo lắng bị thất nghiệp khi kinh tế khủng hoảng xuống dốc. Khoẻ re.

Cứ nằm trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru đưa, phát ra từ cái radio nhỏ, có khi ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon lành. Ngủ chán thì dậy. Bước xuống giường, dù khớp xương sưng đau, đi khập khễnh ông cũng thầm cám ơn cái chân chưa liệt, còn lê lết được. Chưa phải nằm dán lưng vào giường như một số người bất hạnh khác. Những kẻ này mà nhích được vài bước cà thọt như ông, thì chắc họ cũng sướng rân người. Ông thầm bảo, có thêm được một ngày để sống, để vui, để yêu đời. Bệnh hoạn chút chút, thì phải mừng, chứ đừng có nhăn nhó than vãn ỉ ôi.

Mỗi khi đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: “Mình sướng như vua rồi, có nước máy tinh khiết để dùng. Giờ nầy, cả thế giới, có hơn một tỉ người thiếu nước để nấu ăn, để tắm giặt và nhiều tỉ người khác không có nước sạch, phải uống nước dơ bẩn” .

Dù cái bàn chải đánh răng đang ngọ ngoạy trong hàm, ông cũng ư ử hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy nước lên mặt, ông cảm được cái mát lạnh và niềm sung sướng chứa chan đang lan tỏa chạy khắp người. Ông biết đang được ân sủng của trời đất ban cho trong tuổi già.

Ngồi lên cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ, trắng toát, thơm tho, không vướng một chút mùi vị hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng, có nhạc văng vẳng từ radio, ông cầm cuốn sách thưởng thức chữ nghĩa của “thánh hiền”, tư tưởng của Đông Tây. Không bao giờ ông quên cùng giờ phút nầy, có hơn ba tỉ nhân loại không có cầu tiêu để làm cái chuyện khoái lạc thứ tư. Có người phải ra đồng lồng lộng gió, mà làm chuyện “nhất quận công, nhì ị đồng”. Phải gấp gấp cho xong chuyện, không nhẩn nha được, vì hai tay phải múa lia lịa hất ra đàng sau, để xua đuồi lũ ruồi đồng đang vo ve “oanh tạc”. Xong việc, may mắn lắm thì có lá chuối khô mà lau chùi, còn không thì dùng đất cày, đá cục, nắm cỏ, que nhánh cây tươi, khô. Ông cứ nhớ thời làm việc ở quận lỵ, chỉ có nhà tiêu lộ thiên, hai tấm ván bắt ngang qua một hầm cầu lộ thiên, nắng xông hơi phân người lên nóng hừng hực rát cả mặt, bên dưới giòi bọ lúc nhúc lổm nhổm làm thành một tấm màn trắng - ngà chuyển động. Có con gà ở đáy hầm, nó đang thưởng thức ngon lành món giòi bọ, thấy ông xuất hiện bất thần, sợ hãi hoảng hốt đập cánh bay lên kêu quang quác và vung vãi “ ám khí ” khắp trong không gian, làm ông cũng khiếp vía, ôm đầu phóng chạy dài. Nghĩ đến chừng đó thôi là ông đủ cảm được cái sung sướng đang có ngay bây giờ. Ngồi thật lâu, đọc cho xong mấy trang sách, mới nhởn nhơ rời phòng.

Ông Hai tự đãi một bình trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi cháo gạo tẻ đặc rền ăn với cá kho mặn. Dọn ra bàn, đèn vàng soi một khoảng ấm cúng. Ông thong thả vừa hớp nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng cháo, chất gạo béo tạo vị giác đi qua trong cổ họng. Ông lầm thầm:

“Ngon, cao lương mỹ vị cũng không bằng”.

Ông thường ngâm nga hai câu thơ:

“Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng.

Ba nguồn thân thiết dạt dào thương”.

Mắt ông dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ý lời hoa gấm. Ông trầm mình vào những giòng thơ, tim xao xuyến xúc động mênh mang. Thỉnh thoảng ông dừng lại, và nói nhỏ cho chính ông nghe:

“Tiên trên trời cũng chỉ sướng và thong dong như thế này là cùng”.

Ông nhớ đến cái thời buổi sáng bụng đói meo, vác cuốc đi làm lao động tay chân nặng nhọc, ráng uống một bát nước lã để cầm hơi và đánh lừa cái bụng đang sôi sồn sột. Bây giờ được như thế nầy, phải biết cám ơn ân sủng của trời ban cho. Biết bao nhiêu tỉ người trên thế giới này mơ ước được có một buổi sáng thảnh thơi và no ấm như ông mà không được nhỉ?

Nhìn xuyên qua cửa phòng ngủ, ông thấy bà vợ nằm ngủ giấc yên bình, lòng ông dạt dào niềm thương. Bà đã cùng ông mấy mươi năm dắt dìu nhau trong phong ba bão táp của giòng đời nghiệt ngã. Đã chia sẻ ngọt ngào cũng như đắng cay của một thời khói lửa điên đảo. Giờ này, may mắn vẫn còn có nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm thiết, nhường nhịn nâng đỡ chăm sóc ngày đêm. Không như những cặp vợ chồng già khác, cứ lục đục gây g ỗ nhau, tranh thắng thua từng li từng tí, làm mất hạnh phúc gia đình. Ông thương bà biết an phận thủ thường, không đứng núi nầy trông qua núi nọ. Ông thấy bà hiền lành và có trái tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào phòng, hôn bà lên trán, nhưng ngại làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng. Ông lại cám ơn trời đã đem bà buộc vào đời ông. Ông cười và nhớ câu nói của một nhà văn nào đó: “Đời sống không thể thiếu đàn bà, nhưng sống được với một người đàn bà không phải dễ” .

Ông Hai ra vườn , một mảnh đất nhỏ trồng vài cây hoa, hương thơm thoang thoảng, có tiếng chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy đóa hoa sặc sỡ còn đọng sương đêm lóng lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt ông, tạo thành một cảm giác dịu dàng, êm ái. Ông vươn vai, xoay người trong thế thể dục chậm, xương sống được thư giãn kêu răng rắc, đã đời. Hít thở và phất tay chừng mười lăm phút cho máu huyết lưu thông. Loại thể dục nầy đã giúp ông bớt được những cảm mạo thông thường, ông tin vậy.

Ông Hai đi ra đường, xe cộ vùn vụt qua lại liên miên. Lề đường rộng, phẳng phiu, sạch sẽ. Bên kia là giao điểm của hai xa lộ, các nhánh cầu cao đan uốn éo chồng chất lên nhau, vòng vèo trên không, như những nùi rối. Ông Hai thầm cám ơn tiền nhân đã đổ sức lực, mồ hôi, tài nguyên khai phá và xây dựng nên những tiện nghi nầy cho ông nhảy xổm vào hưởng dụng, mà không ai có một lời ganh ghét, tị hiềm. Ông Hai vừa đi bộ vừa ca hát nho nhỏ...

Một người cảnh sát đi ngược đường chào ông, ông chào lại bằng lời cám ơn đã giữ gìn an ninh cho dân chúng sinh sống. Người cảnh sát cười và nói đó là bổn phận, vì lương bổng của ông ấy được trả bằng thuế của dân chúng, trong đó có ông. Ông Hai thấy trong lòng bình an, ông không làm điều gì phạm pháp, thì không sợ ai cả.

Nắng chiếu hoe vàng cả dãy phố của một ngày thu, ông Hai bước đi mà lòng rộn rã. Gặp ai cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi nồng nhiệt, mọi người đều vui theo. Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu rĩ đi ngược đường, ông Hai lớn tiếng:

- Chào cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời nắng đẹp quá!

Ông cụ trả lời qua loa:

- Tàm tạm, chưa chết! Chán cái mớ đời.

Ông Hai nói to:

- Việc chi mà chán đời cho mệt cụ ơi. Chưa chết là vui lắm rồi. Cụ có biết là chúng ta đang sung sướng phước hạnh, tội chi phí phạm thời gian để buồn nản?

Ông cụ thở dài:

- Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời đâu có giản dị! À, nầy, mà hình như ông đau chân, bước đi không được bình thường? Thế thì vui nỗi gì?

Ông Hai cười lớn:

- Vâng, tôi đau chân, nhờ đau chân mà tôi thấy được niềm vui hôm nay lớn hơn, vì còn đi được, bước được, chứ chưa phải nằm nhà. Cụ ơi, nếu lo âu mà giải quyết được những khó khăn, thì nên lo. Nhưng nếu lo âu, mà không giải quyết chi được, thì hãy vui lên, cho đỡ phí phạm ngày tháng trời cho.

Ông cụ già lắc đầu bỏ đi.

Ông Hai xà vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công viên dưới tàng cây có bóng nắng lung linh. Nhìn bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn lộn trên bãi cát, ông vui lây với cái hồn nhiên của chúng. Bên kia đồi cỏ, có đôi nam nữ nằm dưới gốc cây, kê đầu lên tay nhau, tóc đổ dài óng ánh, thỉnh thoảng vang tiếng cười rúc rích. Đất nước nầy ấm no và thanh bình quá, sao có nhiều người còn kêu ca đời sống khó khăn? Phải chăng những kẻ này chưa biết an phận, muốn được nhiều hơn điều đang có, đang đủ. Không thấy được phước hạnh là lỗi tại họ. Ông dong tay bắt vài tấm lá rơi đang quay cuồng trong gió và lấy bút ghi lên mặt lá mấy giòng thơ vừa thoáng qua trong trí để ca ngợi cuộc đời. Thấy bãi cỏ êm mát, ông nằm dài, những vòng tròn sáng màu vàng rải rắc trên mgười ông. Gió hiu hiu mát từ hồ nước vờn qua làm mơn trớn thịt da. Ông Hai rút từ túi quần một cuốn sách nhỏ có nhan đề “14 ngàn điều làm nên hạnh phúc”. Tác giả tập sách nhỏ nầy, thấy đâu đâu cũng là hạnh phúc tràn đầy. Vấn đề là cảm nhận được cái sung sướng, cái hạnh phúc đang có. Từ việc đặt chân lên một tấm thảm mềm êm ái, đến việc cắn một trái ngọt chín mọng trong miệng, đến mơ mộng được hát trên bục một hộp đêm, nghe một lời nói dịu dàng yêu thương…

Hạnh phúc và sung sướng cảm nhận được từ những điều rất nhỏ nhặt, đơn sơ, tầm thường nhất trong sinh hoạt hàng ngày.

Không cần phải là ôm chặt người yêu trong vòng tay, cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn trên giường, cũng không cần đến việc cầm trong tay cái vé số trúng độc đắc, hoặc làm chủ được một tòa lâu đài sang trọng…

Ông nghĩ, chắc sẽ có người cho tác giả tập sách nầy là kẻ “lạc quan tếu”. Nhưng thà lạc quan tếu hơn là bi quan. Đời nầy, có nhiều người đắm mình trong hạnh phúc, mà cứ tưởng đang ngụp lặn trong bể khổ. Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và xem thường, chỉ khi mất đi, hay đã trôi qua, mới biết, thì đã quá muộn màng.

Nắng đã xông hơi nồng nóng, ông Hai đón chuyến xe buýt ra về. Cái vé xe cho người già rẻ rề, chỉ bằng một phần ba vé bình thường. Ông nói lời cám ơn tài xế, và thấy mang ơn những người cùng đi xe công cộng nầy, vì xem như họ đã gián tiếp gánh một phần tiền vé cho ông.

Về nhà, bà Hai đã dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa ráy cho sạch sẽ mà ra ăn. Thấy ly nước chanh muối, ông cầm uống, chất nước ngọt ngào mằn mặn chua chua, ngon lành đi qua cổ họng. Ông nhìn vợ với ánh mắt thương yêu và nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn, mà thấy bát canh bông bí nấu tôm đã biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với ông, còn ngon hơn sơn hào hải vị.

Ăn xong, còn chút cơm thừa, bà Hai bỏ vào chén, cất vô tủ lạnh, không dám đổ đi, vì sợ phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của ông:

“Ngay giờ khắc nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói rã, không có một miếng gì đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng, và nhiều tỉ người khác quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà thôi” .

Đã từng đói, nên ông bà không dám phí phạm thức ăn.

Ông Hai mừng vì ăn còn thấy ngon miệng, không như một số người khác, ăn gì cũng như nhai đất sét, không muốn nuốt, vì lạt miệng, mất vị giác. Một số người khác còn tệ hại hơn nữa, họ không còn ăn bằng miệng được, mà ăn bằng bụng, nhờ ống dẫn thức ăn nối với dạ dày, như đổ xăng cho xe hơi.

Ông Hai ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin tức thế giới biến động. Đôi khi thấy giá thị trường chứng khoán tụt dốc xuống thấp, làm nhiều nhà bình luận lo ngại. Nhưng ông cười, ông chẳng thèm để ý, không cần quan ngại chi cả. Chứng khoán lên hay xuống, cũng thế thôi. Ông có lo ngại hay quan tâm cũng chẳng thay đổi được gì. Với số tiền hưu khiêm tốn, và cách ăn tiêu trong khả năng tài chánh, ông bà Hai chưa bao giờ thấy thiếu thốn cái gì. Có một ông bạn khoe rằng nay đã thành triệu phú. Bà Hai đùa và hỏi : “T riệu phú thì khác người không là triệu phú cái gì? ”. Ông bạn lúng túng ấp úng không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông bà Hai chắc chắn rằng, họ ít tiền, nhưng được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều người giàu triệu phú khác.

Ông Hai rà mắt qua các tin tức và các biến cố mới nhất. Thật là tuyệt diệu và thần kỳ. Chuyện vừa xảy trong giờ trước, đã được tường thuật ngay. Dạo một vòng tin tức xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè. Có những người bạn xa cách hàng ngàn dặm, mấy chục năm nay chưa gặp lại nhau, mà thư từ qua lại liên miên, tưởng như gần gũi trong gang tấc. Tha hồ hàn huyên tâm sự. Tình cảm qua lại thân thiết chứa chan. Nhờ máy vi-tính, khi viết, tha hồ bôi x óa tẩy sửa lung tung, mà không cần phải xé tờ nầy, viết lại tờ kia, vô cùng tiện lợi. Thư viết xong, chỉ cần một cái nhấp con chuột, bạn ông nhận được ngay tức thì. Không cần phải nhờ bưu điện chuyển đi có khi cả tuần mới đến. Hàng chục lá thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới chuyển đến ông đủ điều hay, lạ, nhiều bài thuốc hiệu nghiệm, trăm bản nhạc du dương, ngàn hình ảnh tuyệt vời của các thắng cảnh thiên nhiên, các đoạn phim ngắn đủ thể loại của nhiều vấn đề khác nhau. Ông cám ơn khoa học kỹ thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông lại gần gũi trong không gian và cả thời gian.

Mỗi khi nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời, ông Hai mừng cho họ thoát được thời gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều người nằm liệt vài ba năm, không sống, không chết. Còn có những kẻ phải cưa tay cưa chân. Ông vẫn thường mong sau này, nếu được chết, thì chết mau chóng, yên lành, khỏi qua thời gian bệnh hoạn lâu ngày.

Có một bạn già mỉa mai, cho ông Hai là “kẻ tự sướng” ông chỉ cười và nói: “Thà tự sướng hơn là tự khổ”

Ông Hai thường nghĩ rằng, ông đã và đang được quá nhiều phước hạnh của trời ban, nhiều ân nghĩa của nhân loại, xã hội, nhiều tình thương của gia đình, bạn bè, người quen và cả chưa quen.

Ông thấy sung sướng hạnh phúc.

Ông tội nghiệp cho những người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa không chịu, và tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất mãn, khổ đau ./.

HOÀNG KIM THƯ st.

-----------------

(*) Đâu phải chỉ có ngày xưa, mà ngày nay, ngay lúc này, cũng có một “anh lão” (phải gọi hắn là anh lão vì hắn luôn khai là hắn mới hết 20 tuổi lần thứ 4 cộng 2) đã do một sự tình cờ, một chuyện những tư tưởng trung bình tình cờ giống nhau, mà NGHĨ VÀ SỐNG Y CHANG như nhân vật ông Hai này. Anh lão này cũng có một câu để đời là: “Khi buồn thì hãy cộng ngay chữ cười - Đời sẽ lại tươi!”, mà vì muốn để cho người ở khắp nơi đọc, anh lão này còn dịch ra tiếng “Em” nữa như sau: “When sad, add the word smile - Then life will re-become bright!”…


Phụ Bản III

SAU TRẬN LỤT

Cơn mưa quá dữ. Nó kéo dài cầu cả tuần mới ngưng. Khi đường sá còn ngập ngụa thì bọn chúng không hiểu cách nào đã bò lên tới đỉnh đồi trọc, nơi chỉ có loe ngoe ít cây rừng. Nhưng xem kìa, những tán lá xanh mơn mởn làm bọn chúng thi nhau trèo lên vội vã. Con to nhất có cặp răng to đùng lòi ra khỏi cái bản họng nhìn thấy đã khiếp vía, mặc sức hô hoán thần dân của nó phải trật tự kẻo lại rơi tòm xuống dòng bùn đặc quánh dưới chân. Nhưng lũ sâu đói ấy vẫn lao nhao bò lên, bộ chân của chúng cứ như dãy mái chèo trong các chiến thuyền đẩy những bộ răng tiến tới. Đi đến đâu là lá trụi sạch đến đấy, bù cho cả tuần qua chúng chỉ no bụng nhờ vào đất cát tọng vào mồm khi cơn lũ ào đến.

Oách - thằng sâu vua - sau khi làm một bụng đẫy lá non, hắng giọng:

“Hỡi lũ mọt dân! Thế là từ nay ta lấy nơi đây làm căn cứ, vì không lo nước ngập. Gió có hơi to, nhưng các ngươi nhiều chân thì chẳng đến nỗi chết vì… rơi! Nhưng chớ có để phải đói mà rơi thật đấy. Vậy, “cơ bản” là các ngươi phải lo ăn cho nhiều vào, vì cây này xem ra bự lắm lắm, chẳng hết lá được đâu! Vả lại, vì ta là vua của các ngươi, nên các ngươi cứ việc ăn, nếu có việc gì thì ta giải quyết hết! Tuy vậy, ta báo cho mà biết, kể từ chỗ ta đậu trở lên… trời! Nghĩa là từ chỗ có trái, là phần riêng của ta, cấm kẻ nào bén mảng đến. Bất tuân thượng lệnh là ta cho một nhát đi đời; và đây là ví dụ”. Vừa nói với cái giọng sỗ sàng, nó vừa lôi ngay một thằng sâu vạm vỡ gần đấy. Ngoắt một cái, hai cái răng khổng lồ của nó đã tiện đứt đầu con sâu khốn khổ ấy. Cái miệng kinh khiếp của nó phun cái đầu đứt lìa ra. Con mắt của nó trợn ngược lên khiến lũ dân của nó mắt mũi cụp cả lại.

Được cái, thần dân của nó chẳng đến nỗi chết đói. Vì cái cây ấy quả là cây tiên, cành lá xum xuê khiến chúng ăn mệt nghỉ. Thậm chí có đứa trúng thực nằm lăn quay ra như chết rồi vậy! Bụng nó căng lên, đồng bọn của nó thấy rõ cái bao tử của đứa trúng thực thậm chí chẳng co bóp được nữa, vì còn chỗ nào mà co với bóp. Thế là nhà vua Oách mới sai thần dân khiêng thằng này sang cái cây gần đấy.

Số là, vua Oách ở trên cao nên thấy được nhiều thứ mà dân của nó chỉ có mù tịt. Nó thấy cây bên cạnh có thằng cha bác sĩ chữa bệnh cho dân nó. Dĩ nhiên cũng là sâu thôi, nhưng sâu này… thối hơn! Bằng cớ là vua Oách ngửi thấy mùi xú uế từ bên kia bay sang hàng ngày.

Đúng vậy. Bệnh nhân sâu của chúng ta đã đến đúng chỗ. Lão bác sĩ Băm bên ấy chẳng nói chẳng rằng. Lão chỉ quay đít lão lại và chích cho bệnh nhân một phát đau thấu trời xanh, bằng cái sừng trên mông lão mà lão hằng ngày ra sức mài cho thật bén nhọn phòng có dịp xài. Cái sừng xuyên qua bao tử thằng tham ăn, làm dịch vị chảy ra xanh lè xanh lét. Thế là hết cả bệnh.

Còn tiền công thì lão chém đẹp vô cùng. Lũ thân nhân thắc mắc thì lão xì xà xì xồ:

“Này! Tụi tham ăn, tao nói cho mà biết nhé. Tao không ăn cả đâu, vua của chúng mày dặn tao là phải chia cho nó một phần ba đấy. Tin hay không thì tùy hỉ?”.

Bọn kia chẳng thể tin vào cái tai vốn hay điếc của chúng. Vì chúng chỉ quan trọng là ăn thôi, nên tai thì có cho… vui vậy mà! Ừ! Chúng thèo lẻo gì đó mà đến tai vua Oách. Tai vua rõ ràng là tốt hơn tai dân rồi. Nên vua mới gọi cái đứa ngứa mồm đến. Và một lần nữa, hai cái răng ba trợn của vua thể hiện oai quyền khiến lũ sâu lại im như thóc. Từ đấy, chúng chỉ lo ăn chứ chẳng lo chuyện gì khác cho nhọc lòng, có khi còn nguy đến tính mạng nữa là khác.

Câu chuyện này có lẽ sẽ dài lắm. Nhưng xem ra chỉ có phần này là đáng chép lại trong sử sách loài sâu. Số là vua Oách và bác sĩ Băm ấy ngày càng béo ra. Tình bạn của họ ngày càng thắm thiết đến nỗi một hôm, vua Oách mới tử tế nói với bác Băm:

- Hay tôi sang chiếm mẹ nó cái cây bên cạnh, rồi tôi chia cho anh một phần ba. Cả đời chúng ta ăn chắc chẳng hết nổi đâu à!

Bác Băm “băm” lại:

- Ấy! Ai lại chia không đều vậy! Chia có đều thì ăn mới lâu! Ăn nhiều là “chích” nghe nhà vua!

Vua nghe không hài lòng là mấy. Nhưng bác Băm lại “tư vấn” thêm một phát ngon ơ:

- Mà tội gì chúng ta phải mất công vậy! Nhà vua cứ xúi dân sang bên ấy, rồi xúi cho chúng ăn đến bội thực thì bác sĩ ta ra tay, có phải là mọi “thành phần” đều hài lòng cả không nào!

Vua Oách khoái chí đến nỗi cười lăn ra, ngọ nguậy mãi mới bật mình lại được. Rõ là dân cứ tha hồ ăn, bác sĩ tha hồ chữa bệnh, còn vua tha hồ mà được chia phần mà chẳng phải làm gì cả. Còn cây muốn chết thì cứ chết, tính sau.

Nhưng nghe nói lũ sâu ấy dần dần lại mạt kiếp, vì ăn nhiều thì chẳng đẻ đái gì ráo trọi. Lắm lúc lão bác sĩ nọ còn chích lộn chỗ khiến sự đái và đẻ của chúng ngày càng thêm tệ…

LAM TRẦN

04.08.2015

TÌNH YÊU

của PHÙNG CHÍ TÂM

Chương trình Tạp chí Văn nghệ phát sóng trên HTV9

- Đài TH Tp.HCM. Lúc 9giờ30 - Tháng 12/2011

Mãi mãi là xuân đẹp thắm tươi

Đam mê thêm sức sống yêu đời

Vui xuân không tuổi, luôn đổi mới

Phúc Lộc đầy dâng rộn tiếng cười.

PCT.

Bước vào tuổi bảy mươi với mái tóc bạc trắng nhưng dường như rào cản thời gian ấy đã trở thành vô nghĩa với ông, một người luôn tràn đầy nhựa sống, một người trót chọn thơ ca làm nguồn vui sống, để rồi dù ở bất cứ đâu hay hoàn cảnh nào ông cũng có thể làm thơ viết nhạc cứ như chuyện vốn dĩ phải thế. Ông chính là nhà thơ, nhạc sĩ Phùng Chí Tâm.

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hà thành, không biết tự bao giờ thơ ca đã thấm đậm trong ông. Khi còn ngồi ghế nhà trường tên tuổi Phùng Chí Tâm luôn đi đầu trong các phong trào văn nghệ của trường, bởi ông không chỉ may mắn được sở hữu một giọng hát Trời phú, mà ông còn tham gia sáng tác thơ.

Cũng như bao chàng trai thời ấy, Phùng Chí Tâm mang sức trẻ đi bảo vệ quê hương đất nước trở thành người lính thông tin của sư đoàn 308, không chỉ thế Phùng Chí Tâm còn góp phần mang niềm vui đến cho đồng đội, bằng lời ca tiếng hát trong những ngày gian khổ nơi chiến trường khốc liệt, bài hát “Vinh quang người chiến sĩ cơ công” đã được ông sáng tác từ năm tháng ấy, và trở thành bản nhạc được nhiều đồng đội ngân nga lúc bấy giờ. Giờ đây khi nhắc lại những kỷ niệm xưa, tất cả như vẫn còn đong đầy qua lời ca tiếng hát của nhà thơ - nhạc sĩ Phùng Chí Tâm.

So với nhiều đồng nghiệp ông chỉ mới ra mắt một tập thơ mang tên “Khoảng trời si” dài 3 tập, nhưng thơ của ông cũng đã để lại nhiều ấn tượng bởi sự duy trì của những vần thơ ấm áp tình người, tình đời. Trng từng bài thơ đã thể hiện sự chắt chiu với một tình cảm chân thành và sâu lắng.

Ông làm thơ với sự giải bày, sự trải lòng mình với mọi người. Một điều thú vị là thơ của Phùng Chí Tâm có ưu thế giàu nhạc điệu, nên những vần thơ ấy cũng được ông ngẫu hứng thành những giai điệu nồng nàn và dễ dàng thuyết phục người nghe bằng giọng hát của chính tác giả.

Dù không qua trường lớp đào tạo bài bản và là nghiệp dư trong làng thơ nhạc nhưng bằng sự tự học hỏi cùng với niềm đam mê, tình yêu mãnh liệt đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận giúp Phùng Chí Tâm sáng tác và sự thể hiện những sáng tác của mình một cách say sưa, không chỉ thế ông còn truyền tình yêu ấy đến bạn bè và đồng nghiệp, trong bất cứ cuộc vui nào ông cũng đều hát một cách say sưa cứ như thuở còn đôi mươi.

Có thể nói với những người đầu tiên tiếp xúc với nhà thơ - nhạc sĩ Phùng Chí Tâm được nghe ông truyền tải những tình cảm của mình trong từng lời ca tiếng hát cứ như có sự lan tỏa của một tinh thần lạc quan với cuộc sống. Để có được điều đó là bởi ông đã chọn cho mình lẽ sống:

“Gian khó vẫn vui vẫn hát cười

Vẫn còn tranh đấu mãi không thôi

Tổ quốc chỉ ta đường chân lý

Lẽ đâu ta chịu bí trên đời”.

Lẽ sống ấy đã trở thanh niềm tin và hơn hết đã còn lại một tình yêu mà ông theo đuổi cả cuộc đời.

Tình yêu thơ nhạc luôn đong đầy trong lòng nhà thơ, nhạc sĩ Phùng Chí Tâm.

PV. Ngọc Thảo

CHUYỆN VUI VĂN NGHỆ

MÔ-DA LÀ GÌ?

Một lần An-tô-nhin, giáo sư âm nhạc (Liên Xô) đang dạy sinh viên tại nhạc viện, bỗng nhiên ông đặt một câu hỏi rất lạ lùng: “Các anh, chị biết Mô-da là cái gì?”.

Ông đều lắc đầu, không hài lòng với những câu trả lời của sinh viên. Bất thần ông lôi một anh sinh viên ra cửa sổ chỉ tay lên trời rồi hỏi:

- Anh thấy cái gì chứ?

Anh sinh viên nọ ngắm mãi chẳng thấy gì, thật thà trả lời:

- Thưa giáo sư tôi không thấy gì cả.

An-tô-nhin hỏi tiếp luôn với vẻ bực dọc:

- Lẽ nào anh không thấy Mặt trời à?

Nói xong câu đó ông quay lại phía sinh viên đang ngồi trên ghế rất nghiêm trang và cảm động nói:

- Các anh, chị hãy ghi nhớ mãi: Mô-da là Mặt trời.

ANH TÔN st.

VA-LI CỦA GAI-ĐA

Gai-đa (nhà văn Liên Xô) có rất nhiều bạn, nhưng những người bạn thân nhất đối với ông có lẽ lại là các em nhỏ. Ông thường lui tới vườn trẻ gần ngoại ô Ma-xcơ-va vui chơi với các em. Một hôm các em tiễn Gai-đa ra ga. Đồ đạc của ông tất cả trong va-li, các em không cho Gai-đa cầm. Khi tới ga, các em trả lại va-li cho ông rồi hỏi:

- Thưa bác, sao bác là người rất nổi tiếng mà va-li của bác thì nhẹ và rỗng thế?

Thực ra va-li của ông chỉ có xà phòng, khăn mặt, bàn chải, không còn cái gì hết. Gai-đa suy nghĩ rồi trả lời:

- Ồ, không sao! Bác chỉ sợ va-li của bác nổi tiếng mà bác thì lại rỗng thôi.

T.A.st.

GOÓC-KI… GIẢ!

Vào đầu thế kỷ 20, văn hào Liên Xô M.Goóc-ki (1868-1936) sang thăm nước Mỹ nhằm mục đích tuyên truyền cho cách mạng Nga.

Một lần, ông đến ở tại thành phố Gio-giơ. Ông thấy đài phát thanh, báo chí và các áp-phích lớn quảng cáo trình diễn một vở kịch của ông. Ông rất ngạc nhiên vì thấy trên các tấm áp-phích có ghi dòng chữ sau: “Sau buổi biểu diễn, tác giả vở kịch sẽ lên sân khấu chào khán giả”. Ông bèn mua vé đến xem và thấy buổi biểu diễn rất đông vì nhiều khán giả muốn xem mặt tác giả. Sau khi hạ màn, ông thấy tác giả Goóc-ki lên sân khấu chào khán giả, nhận hoa tặng giữa tiếng hoan hô ầm ĩ. Và ông lại càng ngạc nhiên hơn vì thấy người đó giống ông một cách đặc biệt. Sau đó, Goóc-ki thật đến gặp Goóc-ki giả, Goóc-ki giả khẩn khoản nói:

- Xin ông đừng nói ra. Mong ông thương tôi, tôi là chủ gia đình, tôi bị thất nghiệp. Ông chủ rạp lấy tôi vào để chuyên đóng vai các tác giả. Cách kiếm ăn duy nhất của tôi là như vậy, mong ông thương tôi.

NGỌC LÊ st.

THÓI QUEN LÀM VIỆC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN

+ An-đec-xen (Đan Mạch), nhà văn viết truyện thiếu nhi có một không hai trên thế giới rất thích sáng tác truyện cổ tích trong rừng. Là nhà ứng tác kỳ diệu, ông viết truyện rất nhanh. A.Tôn-xtôi (Nga) cũng là nhà văn có tài viết nhanh. Ngòi bút nhiều khi không ghi kịp dòng suy nghĩ của ông.

Ngược lại Flô-be, nhà văn Pháp lỗi lạc, trong suốt cuộc đời mình luôn phấn đấu để đạt đến sự hoàn mỹ của phong cách. Ông viết chậm đến nỗi nhiều khi trở nên bực dọc với chính mình!

+ Có nhà văn chỉ viết vào buổi sáng như Rút-xô (Pháp), Đíc-kenx (Anh). Trong khi đó có nhà văn lại viết vào ban đêm. Đốt-xtôi-ép-xki có thể viết thâu đêm, vừa viết vừa uống nước chè. Còn Flô-be, thì ngọn đèn làm việc ban đêm của ông chỉ tắt khi trời sáng. Lép Tôn-xtôi chuyên môn viết về ban ngày, ông thường nói: “Trong người viết có hai con người, nhà sáng tác và nhà phê bình. Vậy mà nhà phê bình lại ngủ vào ban đêm”. Sê-khốp (Nga) không làm việc buổi tối mà thường viết vào buổi sớm mai trước khi ăn điểm tâm. Nhà phê bình trong nhà sáng tác Sê-khốp không bao giờ ngủ cả.

+ Thời trẻ, Sê-khốp có thể viết ngay ở bậc cửa sổ của một gian phòng chập hẹp và ồn ào ở Ma-xcơ-va. Có truyện ông viết trong buồng tắm. Gô-gôn (Nga) thì lại quen đứng viết ở bàn giấy nơi công sở. Bê-răng-giê (Pháp) làm thơ ở ngay trong những quán cà-phê tồi tàn. Gai-đa (Liên Xô) vừa đi vừa nghĩ văn. Suốt ngày ông hết ở trong nhà lại ra vườn và “viết văn ở trong đầu, có thể thuộc lòng cả cuốn truyện dài trước khi ghi ra giấy”. Còn nhà văn Anh Trô-lốp (người đồng thời với Đíc-kenx), tác giả của 47 tiểu thuyết, 5 bộ nhật ký du lịch và vô số bài báo, thì trong suốt 33 năm viết văn ông đã làm việc theo những nguyên tắc hết sức nghiêm khắc, có thể coi là máy móc: từ 5giờ đến 6giờ đọc và sửa những cái viết hôm trước; từ 6giờ đến 9giờ30 viết với nhịp độ 250 từ trong 15 phút, nhờ sự “theo dõi” của một chiếc đồng hồ chính xác.

N.VŨ st.

KỶ LỤC VỀ SÁNG TÁC (1)

Nữ văn sĩ Anh Bác-ba-ra Cốt-len hiện nay đã 82 tuổi. Trong cuộc đời viết văn kéo dài hơn 50 năm, bà đã viết tới 395 cuốn sách. Đó thật là kỷ lục thế giới của các nhà văn.

Đáng chú ý là trong 7 năm gần đây bà viết càng sung sức, mỗi năm trung bình xuất bản khoảng 20 tiểu thuyết. Cuốn tiểu thuyết viết nhanh nhất là trong 14 ngày.

Bà thường cùng một lúc viết ba cuốn sách khác nhau bằng cách đọc cho bà thư ký chép bằng tốc ký. Ngoài ra, bà còn thuê ba nhân viên chuyên môn sưu tầm các tư liệu cần thiết ở các thư viện.

CUỐN TIỂU THUYẾT ĐẦU TAY

CỦA VÍCH-TO HUY-GÔ (2)

Anh ruột Vích-to Huy-gô có nhiều bạn là nhà văn trẻ. Một hôm các nhà văn trẻ tụ tập trong nhà Vích-to Huy-gô và bàn với nhau cùng viết chung một cuốn truyện. Họ dự định trong vòng nửa năm sẽ xong. Vích-to Huy-gô nghe vậy liền bảo:

- Làm gì mà lâu thế. Một mình em viết, em cũng chỉ cần một tháng là xong.

Các ông anh liền cười:

- Thằng nhóc chỉ được cái nói khoác!

Vích-to Huy-gô quả quyết:

- Em đánh cuộc với các anh đấy. Nếu thua cuộc, em sẽ thết các anh một bữa tại khách sạn.

Một tháng sau, Vích-to Huy-gô mời các anh tới khách sạn và đọc cuốn tiểu thuyết của mình.

Mọi người lúc đầu còn cười đùa, sau rồi chăm chú nghe. Cuốn sách đã hấp dẫn các ông anh thật sự.

Ai cũng tưởng Vích-to Huy-gô thua cuộc nên không mang tiền đi. Thế là đành nhịn đói trở về.

Năm ấy, Vích-to Huy-gô vừa tròn 15 tuổi.

LỜI KHUYÊN CHÍ LÝ (3)

Một ông nọ cứ hễ có khách đến chơi là y như đem tranh của con mình ra khoe. Một lần, một ông khách xem tranh rồi hỏi:

- Cháu học vẽ đã lâu chưa?

Ông chủ đáp:

- Đằng đẵng bốn năm rồi đấy. Cháu nó sắp ra trường làm họa sỹ!

Khách lắc đầu:

- Tôi khuyên cháu nên đi học viết văn thì hơn.

Chủ ngơ ngác:

- Sao vậy?

Khách mỉm cười:

- Tại vì làm hỏng giấy còn rẻ hơn làm hỏng vải!

THỜI GIAN VẼ MỘT BỨC TRANH (4)

Một nhà triệu phú Mỹ mua bức tranh của một họa sĩ nổi tiếng giá 2.000 đô-la. Khi được người ta mách rằng để vẽ bức tranh ấy, họa sĩ nọ chỉ dùng mất có hai tiếng đồng hồ, nhà triệu phú bực lắm, cho là mình bị lừa đảo, bèn phát đơn kiện.

Quan tòa hỏi họa sĩ:

- Ông khai thiệt đi, ông đã vẽ bức tranh này mất bao nhiêu thì giờ?

Họa sĩ ung dung trả lời:

- Mất cả cuộc đời tôi cộng với hai tiếng đồng hồ nữa!

BÀ ĐỒNG NÁT MUA TRANH (5)

Một họa sĩ khi Tết đến túng quá đã phải gọi bà hàng đồng nát vào để gạ bán bức tranh ế ẩm của mình. Xem xong bà ta trả có ba đồng. Họa sĩ bực lắm, gắt:

- Bà nên biết rằng ba đồng không đủ tiền để tôi mua tấm vải này!

Bà đồng nát cũng bực không kém:

- Nhưng ông nhớ cho rằng lúc ấy là tấm vải còn sạch nguyên. Còn bây giờ tôi lại phải tốn công giặt những màu loang lổ đã dây bẩn vào đây chứ!

LÀM THƠ ĐỂ SỐNG (6)

Một nhà thơ ở Anh sau bữa ăn bực dọc gắt người giúp việc:

- Chị cho tôi ăn uống thế này thì chả mấy nỗi mà tôi nhắm mắt xuôi tay. Chị phải biết tôi cần phải sống để làm thơ chứ!

Chị giúp việc thật thà trả lời:

- Xin lỗi ông, thế mà lâu nay tôi vẫn tưởng ông làm thơ để sống!

LIÊN TIẾP CHÀO (7)

Một nhạc sĩ trẻ mời một giáo sư âm nhạc nổi tiếng tới nhà để nghe một tác phẩm mới của mình.

Trong lúc lắng nghe nhạc sĩ trẻ trình diễn, vị giáo sư nọ cứ liên tiếp nhấc mũ lên rồi lại đội xuống đầu. Nhạc sĩ trẻ hỏi:

- Giáo sư thấy trời nóng quá hay sao?

Ông ta trả lời:

- Tôi có thói quen bao giờ cũng nhấc mũ chào khi gặp một người quen cũ. Trong bản nhạc của anh có nhiều người quen cũ quá nên tôi cứ phải liên tiếp chào họ.

KINH DOANH NGÒI BÚT (8)

Một lần nhà văn Pháp Víc-to Huy-gô có việc phải ra nước ngoài.

Ở sân bay, nhân viên hải quan hỏi ông để ghi vào tờ khai: Ông làm nghề gì?

- Tôi viết !

Tôi muốn hỏi: Ông dùng phương tiện gì để sinh sống?

- Ngòi bút !

Và nhân viên hải quan điềm nhiên ghi: “Huy-gô, nhà kinh doanh ngòi bút!”.

BÌNH MINH HAY HOÀNG HÔN ? (9)

Trong phòng triển lãm tranh, hai người đi xem nói chuyện với nhau. Một người hỏi:

- Ông thử đoán xem bức tranh này vẽ cảnh hoàng hôn hay bình minh?

Người kia không cần nghĩ ngợi:

- Tất nhiên là cảnh hoàng hôn rồi.

- Ông hãy giảng giải giúp tôi, tại sao đó lại là cảnh hoàng hôn.

- Không, tôi có sành hội họa đâu. Chả là vì tôi ở cạnh nhà ông họa sĩ này nên tôi biết. Ông ta không bao giờ thức dậy trước lúc bình minh cả!

DẤU CHẤM VÀ DẤU PHẨY (10)

Một nhà văn mới vào nghề gửi tác phẩm đầu tay tới một nhà xuất bản, kèm theo một lá thư như sau:

“Tôi chỉ quan tâm tới lời văn, còn các dấu chấm và dấu phẩy thì các ông cứ tùy ý điền vào!”.

Mấy ngày sau anh ta nhận được lá thư trả lời của nhà xuất bản:

“Nhà xuất bản chúng tôi chỉ quan tâm tới dấu chấm và dấu phẩy. Vậy đề nghị ông hãy gửi một bản thảo có đầy đủ các dấu chấm và dấu phẩy cần thiết, còn lời văn thì chúng tôi tự điền vào cũng được!”.

ĐÀN BÒ TRÊN ĐỒNG CỎ (11)

Một họa sĩ phái trừu tượng giới thiệu bức tranh Đàn bò trên đồng cỏ mà ông vừa sáng tác với người bạn. Sau khi ngắm nhìn tác phẩm của họa sĩ, người bạn ngạc nhiên hỏi:

- Sao tôi chẳng thấy cỏ đâu cả?

Họa sĩ đáp:

- Cỏ thì đàn bò đã gặm hết rồi còn đâu!

Người bạn lại hỏi:

- Thế còn đàn bò, sao tôi chẳng thấy bóng dáng một con nào?

Họa sĩ ung dung trả lời:

- Ồ, gặm hết cỏ rồi thì tất nhiên đàn bò bỏ đi chỗ khác chứ còn đứng đây làm gì!

Từ (1) đến (11) do Q.H. st.

X.T. & ĐỖ THIÊN THƯ st.

TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỨC PHẬT

Trưởng thành

Qua bảy ngày sau khi sanh Thái Tử, thì Hoàng Hậu Mada thăng hà. Kinh Sấm truyền dạy rằng, đây là luật tự nhiên của một vị Phật Mẫu vậy, chớ không phải vì sanh Thái Tử mà chết. Sau khi sanh ra một đấng giác ngộ cho sau này, là Hoàng Hậu đã hết nhiệm vụ ở trần gian, nên phải lìa trần, để trở về thiên cảnh. Khi ấy, Nhà Vua truyền lệnh, giao Thái Tử cho bà Gotami là người em ruột của Hoàng Hậu Mada, để nuôi dưỡng…

Năm nọ, Thái Tử đã lên bảy tuổi. Nhân dịp lễ hạ-điền, Nhà Vua đi dự lễ, có dẫn Thái Tử đi theo để xem lễ hội cho vui. Lúc ấy, Ngài thấy đất mới cày lên, thì có sâu bọ trùn dế bò ra, rồi có nhiều giống chim bay đến, giành ăn, cấu xé lẫn nhau, thật là đáng thương tâm. Ngài mới suy nghiệm ra rằng, đời sống là trường đấu tranh mạnh được yếu thua, gian nan không siết. Con trâu đi cày ruộng cực khổ trăm bề, mà còn phải chịu đòn roi đau đớn. Thái Tử không vui. Ngài động lòng thương xót cho chúng sanh đa mang nhiều nghiệp chướng.

Đến mùa lúa chín vàng đầy đồng, hương thơm ngào ngạt, Nhà Vua lại đưa Thái Tử đi thăm đồng, để cố ý phô trương sự phì nhiêu, giàu sang của đất nước, mà cám dỗ Thái Tử. Nhà Vua mới bảo Thái Tử rằng:

- Này con yêu quý, đây là cánh đồng ruộng mênh mông, phì nhiêu đem huê lợi cho quê hương ta rất nhiều, và còn nhiều cánh đồng như vậy nữa. Tất cả đều là của con.

Thái Tử nghe nói như vậy mà lòng vẫn không vui, vì Ngài nghĩ rằng: “Cái bên ngoài hào nhoáng che đậy biết bao nhiêu là mồ hôi nước mắt của dân chúng, bao nhiêu là oan trái cho sanh linh, nên Thái Tử có vẻ không vui.

Nhà Vua để ý thấy vậy, cũng lấy làm lo lắng.

Đến năm Thái Tử lên mười tuổi, Nhà vua cho rước một vị Thiện Tri Thức, văn võ song toàn, về kinh đô để làm Quốc Sư dạy học cho Thái Tử.

Thái Tử vốn thông minh đĩnh ngộ, nên ông thầy dạy tới đâu, thì học trò hiểu biết tới đó. Chẳng bao lâu, Thái Tử đã tiếp thu được tất cả sở năng kiến thức của ông thầy, nên vị Sư Phụ này đành phải trình tấu lên Đức Vua rằng:

- Muôn tâu Thánh Thượng, hạ thần đã truyền thụ cho Thái Tử tất cả sở năng, văn võ thao lược của hạ thần. Bây giờ thì hạ thần không còn điều chi để giảng dạy thêm cho Thái Tử nữa, vì Ngài đã tinh thông kinh quyền, khó có ai sánh nổi.

Đức Vua lấy làm đẹp dạ.

Vào một mùa xuân ấm áp, cây cối đơm hoa, kết trái đẹp đẻ. Chim trời bay lượn trông thật là vui mắt…

Đang lúc ấy Thái Tử ngắm cảnh ở huê viên, bỗng dưng có một con phượng bị trúng tên, rơi xuống trước mặt Ngài. Thái Tử trông thấy cánh phượng bị ghim tên, máu chảy ròng ròng. Ngài lấy làm thương cảm, vội ôm con phượng vào lòng, để nhổ mũi tên ra, và sai người đi hái lá thuốc đến đắp vào vết thương của chim để cầm máu. Trong lúc nhổ mũi tên ra, vì bất cẩn nên mũi tên chạm vào tay, Thái Tử cảm thấy đau đớn. Ngài mới nghĩ ra rằng: “Chỉ mới chạm phải chừng này, mà ta còn thấy đau đớn thay! Huống chi mũi tên cắm phập vào xương thịt thì còn phải đau đớn biết là dường nào”. Ngài bèn ôm con phượng vào lòng mà vuốt ve an ủi.

Trong khi ấy, có một quan hầu lạ của một Hoàng Tử tên Dedatda ở nước láng giềng đi săn ngang qua, vào thưa với Thái Tử Sĩ Đạt Ta rằng: “Vừa rồi, chủ tôi có bắn trúng một con phượng rơi vào huê viên này. Cầu mong Thái Tử cho tôi xin lại con phượng.”

Thái Tử đáp lời:

- Không thể được. Nếu con phượng ấy đã chết, thì ta trao lại cho ngươi. Nhưng may, con phượng vẫn còn sống. Nó cần đến sự bảo dưỡng của ta.

Ngay lúc đó, có hoàng tử Dedatda đến bảo:

- Chim trời cá nước, thì sống chết không cần nói. Nó chỉ thuộc quyền sở hữu của người bắn trúng thôi. Vậy xin Sĩ Đạt Ta hãy trao trả lại con phượng cho ta.

Thái Tử Sĩ Đạt Ta ôm chặt con phượng vào lòng, mà nghiêm trang trả lời rằng:

- Ta đã bảo, là ta không thể trao trả con phượng này cho ai cả, vì đây là con thú bị thương mà ta bắt được. Nó cần có một tấm lòng tốt để cứu chữa cho nó. Chừng nào nó chết thì ta sẽ trả cho ngươi. Ngươi hãy hoan hỷ cho. Hiện giờ đây, là bài học mà ta dạy cho chúng sanh phải có lòng từ bi, thương xót lẫn nhau. Ta đang dạy cho người đời bớt u mê, mà không làm điều tội lỗi, đau khổ nữa. Ngươi hãy bằng lòng cho ta giữ lại con phượng này vậy.

Nhưng mà hoàng tử Dedatda không bằng lòng, và đi kiện sự việc. Đức Vua cho vời các quan thẩm phán ra tòa xét xử.

Vì Dedatda cũng là một hoàng tử, nên không có quan tòa nào xử được. Trong lúc còn đang luận án, thì có một vị Đạo Sĩ xin vào giải quyết vấn đề. Vị Đạo Sĩ dạy rằng: “Ta là Thiên Sứ, Trời sai xuống để tiếp tục định án. Chúng ta nên biết rằng, sinh mệnh của muôn loài đều rất quý, nên không ai có quyền gì để cướp lấy đi. Do đó, người nào đã cứu sống chúng sinh, thì làm chủ sinh vật mà mình đã cứu được. Người nào cứu được sinh vật thì được thưởng. Còn người nào sát hại sinh vật thì bị trừng phạt”.

Các vị thẩm phán nghe xong lời nói ấy cho là có lý, nên dành lẽ phải cho thái tử Sĩ Đạt Ta. Còn vị Đạo Sĩ đi ra ngoài một đỗi thì biến mất. Dân chúng, ai nấy đều hoan nghênh vị Thiên Tướng anh minh đến xử kiện hợp tình, hợp lý. Còn hoàng tử Dedatda thì tỏ ra oán ghét Thái Tử Sĩ Đạt Ta, mà không biết làm sao.

Về phần Thái Tử Sĩ Đạt Ta, thì không quan tâm đến điều ân oán ấy. Ngài chỉ lo chữa trị vết thương cho con phượng mau lành mạnh mà thôi.

Chẳng bao lâu, vết thương nơi cánh của con phượng lành lặn như xưa. Thái Tử mới ôm con phượng ra giữa khoảng trời trống mà nói với nó rằng:

- Này phượng, hôm nay ngươi đã lành mạnh rồi, ta trả lại tự do cho người về vùng trời rộng mà gặp lại gia đình. Ngươi đừng có khá trở lại lại đây nữa mà làm gì, ắt mang tai họa đó, vì loài người độc ác lắm. Nghe chưa, nghe chưa.

Nói xong, Thái Tử thả con phượng cho nó bay đi, với nụ cười sung sướng.

Con phượng chập chững bay ba vòng trên bầu trời, rồi hạ cánh, đáp trên vai Thái Tử mà kêu lên ba tiếng cám ơn, rồi nó vỗ cánh bay đi, về phương trời vô định. Thái Tử trông theo rất đỗi vui lòng.

(Còn tiếp)

Thanh Châu sưu tập kể.

DANH NGÔN VĂN HỌC

1. Chúng ta cần đến người nghệ sỹ ngay trong những phút hạnh phúc lớn lao nhất, cũng như đau khổ lớn lao nhất.

V.GỚT (Nhà thơ Đức)

2. Một nghệ sĩ chân chính không thể nào háo danh được, vì anh ta rất hiểu rằng nghệ thuật là vô giới hạn. Anh ta cảm thấy lờ mờ cái khoảng cách hãy còn ngăn cách anh ta với đích phải tới; và, có thể, ngay trong giây phút mà mọi người đang thán phục, anh ta lại khổ sở vì hãy còn chưa đạt được tới đỉnh, nơi tỏa ra ánh lấp lánh của thiên tài vĩ đại nhất, như ánh Mặt trời xa lắc.

L.BÉT-TÔ-VEN (Nhạc sỹ thiên tài người Đức)

3. Cải thiện những tập tục của thời đại mình - đó là mục đích mà mỗi nhà văn cần phải vươn tới, nếu anh ta không muốn chỉ làm “người giải trí” đơn thuần của công chúng.

Ô. BAN-DẮC (Nhà văn Pháp)

4. Nếu không sống nhập vào thời đại mình thì đừng có viết làm gì.

A. BLỐC (Nhà thơ Nga)

5. Có thể đánh giá được tình trạng một xã hội thông qua văn học, cũng giống như đánh giá sức vóc của một con người khỏe hay yếu, qua dáng đi của họ.

V. KÔ-RÔ-LEN-KÔ (Nhà văn Nga)

6. Quy luật đầu tiên của nghệ thuật: nếu anh không có gì nói cả thì nên im đi. Nếu anh có điều cần phải nói thì nên nói đi, nhưng đừng nói dối.

RÔ-MANH RÔ-LĂNG (Nhà văn Pháp)

7. Có nhiều nhà thơ nghĩ rằng họ có công với Tổ quốc, khi ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, lòng quên mình và sự hy sinh. Nhưng nếu họ chỉ tin vào những điều đó bằng mồm, mà không phải bằng trái tim; nếu họ chỉ nhìn thấy trong đó những vần điệu vang lên sang sảng, chứ không phải hiện thực khắc nghiệt và khó nhọc; nếu họ chỉ tìm trong đó chút thành công cá nhân chứ không phải vì lợi ích của những người khác - thì như thế là họ đã bôi nhọ chủ nghĩa anh hùng, lòng quên mình và sự hy sinh, chứ phải đâu là phục vụ cho nó.

RÔ-MANH RÔ-LĂNG (Nhà văn Pháp 1866-1944)

8. Tình nghĩa làm chủ thì lời ít mà văn rõ ràng; hình thể sự việc làm chủ thì lời lẽ không thông mà văn rối loạn. Tưởng tượng quá xa thì xa sự thực, lời quá ẩn ước thì trái sự thực, biện thuyết quá lý thì mất ý nghĩa, quá bóng bẩy hào nhoáng thì trái với tình.

CHỈ NGU (Nhà thơ đời Tấn)

9. Thơ phải làm sao cho: nghĩ thì thấy sâu xa, mà nghe thì thấy xúc động.

CHUNG VINH (Đời Tấn) “Thi phẩm”

10. Tìm cái sâu sắc chớ sa vào viển vông, tìm cái mới lạ thì đừng thành kỳ cục (“thư”)

TÔ ĐÔNG PHA (đời Tống 1037-1101)

11. Chỉ có nhà thơ lớn mới có thể hiểu thấu chất thơ của thời đại mình, vì thơ của mọi thời trước đó bao giờ cũng dễ hiểu hơn.

H. HAI-NƠ (Nhà thơ Đức)

12. Để tạo nên thơ, anh hãy tạo nên mình. Khi hoàn thiện con người trí tuệ trong mình, chính là anh đang hoàn thiện phong cách thơ.

W. UÝT-MAN (Nhà thơ Mỹ)

13. Tôi coi thơ không phải là một phòng khách quý tộc, nơi chỉ có những người bôi dầu thơm, đánh phấn và đi ủng bóng lộn… bước vào. Thơ là ngôi đền, mà những người áo rách và đi chân đất đều có thể vào được.

S. PÊ-TÔ-PHI (Nhà thơ Hung-ga-ri)

14. Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật.

V. BI-Ê-LIN-XKY (Nhà phê bình Nga)

15. Muốn thơ cổ kính, thanh đạm sẽ gần dung tục, muốn thơ giàu đẹp sẽ gần hoa hòe. Hào phóng sẽ đi đến quá trớn, mộc mạc sẽ tới chỗ quê mùa. Cho nên lời ý phải giản dị rõ ràng, mạch lạc, thông suốt. Thật thà mà không dung tục, kỳ lạ mà không ngoắt ngoéo, lời trung hậu mà thoát tục, khí cao thoát mà ôn hòa, khó lắm mới được vậy. Do đó không thể lấy một lệ luật để hạn chế, cũng không thể lấy một thể cách để giữ lại.

LÝ TỬ TẤN

16. Nói tâm là nói về cái chỗ mà chí đạt tới vậy, mà thơ lại là để nói chí.

NGUYỄN BỈNH KHIÊM

17. Mây gió cỏ hoa xinh tươi kỳ diệu đến đâu, hết thảy đều trong lòng nảy ra, gửi vào sự vật mà hiện lên ngôn ngữ. Còn như vì sao khiến phải gửi gắm vào sự vật, phải biểu hiện ra bằng lời, thì cũng giống như cái lý do làm cho cá phải nhảy, diều phải bay; chỉ biết nói cái gì đáng nói mà không nói cái gì không đáng nói… Hãy xúc động hồn thơ để cho ngọn bút có thần.

NGÔ THÌ NHẬM

18. Thơ của người xưa, lấy hùng hồn làm gốc, bình đạm làm khéo, câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy gần nhưng nghĩa lại xa.

NGUYỄN DỮ

19. Dù là người có tài hơn mọi người trong một thời, cũng không cắt đứt được truyền thống người trước. Nếu chỉ biết khoe khoang, khinh bạc, chê bai không thôi thì thật quái gở. Văn chương là của chung của thiên hạ, ý kiến mỗi người mỗi khác, phân tích thì được, chứ không nên chê mắng.

LÊ QUÝ ĐÔN

20. Để trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ. Người có sâu cạn, cho nên thơ có mờ có tỏ, rộng hẹp khác nhau… Người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị.

NGUYỄN CƯ TRINH

21. Người quân tử đời sau biết chăm chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chương, ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy được nghĩa lý trong đó, là bậc thứ hai. Còn hạng bét thì chỉ biết có văn chương mà thôi.

BÙI HUY BÍCH

22. Thành được nhà văn là một việc nhỏ, một nhà văn mà đời nọ nối đời kia, chí này truyền chí khác, lại là một việc rất hiếm và quý trong giới văn chương. Trên đời những người rong ruổi trong rừng văn, cầm bút viết nên văn không phải là ít, nhưng nói về việc tâm tư linh hoạt, cốt cách cao kỳ hơn hẳn người thường, tất phải ý khí như vàng ngọc, thanh điệu như nhạc cụ, sóng từ kết lại, phát ra thành văn, mới xứng là danh giá.

PHAN HUY CHÚ

23. Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa thơ mới hay, không phải bất cứ điều gì cũng phải nói ra bằng thơ. Như thế mới là thơ có giá trị.

LÊ HỮU TRÁC

24. Nếu như trong khi sáng tạo, người nghệ sỹ không làm chủ được đối tượng, không vượt cao hơn nó thì kết quả chỉ là một việc giống như chụp ảnh các sự kiện. Không thể nói là hình ảnh được khúc xạ trong tâm hồn nghệ sỹ và chúng ta không có thơ.

RA-BIN-ĐRA-NÁT TA-GO (Ấn Độ)

25. …Theo tôi nghĩ, một cái nhìn giàu chất thơ càng cụ thể càng đưa người ta tới lối phân tích sự vật phức tạp hơn mà vẫn không phải là cái nhìn trừu tượng. Tôi muốn nói là trước kia thơ tôi, đi từ cụ thể tới trừu tượng, ngày nay, nó từ trừu tượng tới cụ thể.

Y-A-NIT RIT-XỚT (Hy Lạp)

26. Nhà thơ không có con mắt của một nhà hiện thực sẽ vất vưởng, dở sống dở chết. Nhưng chỉ thấy những chuyện có thực thôi thì cũng chẳng hay ho gì hơn. Thơ phi lý chỉ dễ hiểu với chính nhà thơ và bè bạn thân tín của anh ta, đấy là một điều đáng buồn. Nhưng thơ duy lý quá đến mức mọi con lừa đều hiểu được thì còn đáng buồn hơn nữa.

PA-BLÔ NÊ-RU-DA (Chi-lê)

27. …Loại thơ giàu nhạc điệu thường có điều kiện dễ dàng để trở thành bài hát và do đó sống mãi trong tâm trí của mọi người. Những thứ thơ rườm rà dài lời không bao giờ có được sức sống lâu bền như vậy. Tôi hy vọng nhiều ở thứ thơ ngắn gọn, súc tích và trực tiếp như sự bùng cháy của ngọn lửa.

RA-PHA-EN AN-BEC-TI (Tây Ban Nha)

28. Nên quan tâm cụ thể đến khía cạnh này của thơ - không được lãng quên rằng: mỗi cái hỏng về ngôn ngữ cũng hỏng trong tư tưởng, điều này đặc biệt rõ trong thơ.

I-Ô-HA-MÉT BÊ-SƠ (Công hòa dân chủ Đức)

29. Không bao giờ tôi coi một bài thơ như đã kết thúc ngay khi nó đã được đăng trên sách báo. Có khi tôi thay đổi vài đoạn dài dòng, đôi khi tôi trau chuốt và đôi khi tôi dứt nó ra khỏi những gì đã viết. Tôi yêu nhịp điệu, tôi luôn luôn muốn tìm từ ngữ cho chính xác, đến mức, không thể không quẳng nó đi, nếu không muốn làm mất chất thơ của bài thơ. Nhưng tôi cũng là kẻ thù kiên quyết của lối nói hoa mỹ sáo rỗng và hiếu danh…

NI-CÔ-LÁT GHI-DEN (Cu-ba)

30. Một trường hợp cá biệt trở nên phổ biến và nên thơ chính nhờ có nhà thơ biết sử dụng nó.

Sự thử thách của một nhà thơ là ở chỗ biết phát hiện ra khía cạnh hay ho trong một đề tài tầm thường. Thực tế chỉ có thể cung cấp một cái khởi điểm, một cái cớ, một cái lõi, công việc của nhà thơ là phải từ đó làm nên một cơ chế tổng hợp vừa đẹp, vừa sinh động.

V. GỚT (Đức)

31. Một nhà thơ cách mạng là một người hành động, ở anh ta không phải chỉ phản ánh tâm hồn của nhân dân anh mà còn phải đem lại cho nhân dân một phương hướng.

NA-DIM HÍT-MÉT (Thổ Nhĩ Kỳ)

32. Nhịp, đó là sức mạnh cơ bản, năng lực cơ bản của câu thơ. Không giải thích được nó đâu, chỉ có thể nói về nhịp như nói về lực hoặc điện.

Công việc bắt đầu từ lâu, trước khi nhận được, ý thức được đơn đặt hàng của xã hội. Lao động chuẩn bị làm thơ diễn ra liên tục. Chỉ có thể làm một bài thơ hay, kịp thời nếu sẵn có một vốn dự trữ lớn những thứ chuẩn bị trước cho việc làm thơ.

VƠ-LA-ĐI-MIA MAI-A-CỐP-XKI (Liên Xô)

33. Người hạ bút làm thơ mà không am hiểu ngôn ngữ chẳng khác gì anh chàng mất trí lao xuống dòng sông cuồn cuộn mà không biết bơi.

Thơ không phải là hoa trong chậu cảnh. Ở đó tất cả đều hiện ra trước mắt anh, anh không cần phải tìm đâu thêm. Thơ giống như hoa trên đồng nội, trên rặng núi An-pơ, nơi mỗi bước đi lại hứa hẹn thêm một bông hoa mới, kỳ diệu hơn.

RA-XUN GAM-DA-TỐP (Liên Xô)

H.Đ - ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.


Phụ Bản IV

THỂ DỤC TẠI BÀN LÀM VIỆC

Sau một ngày làm việc văn phòng thường chúng ta có trạng thái mệt mỏi, tay chân rã rời, nặng đầu hoa mắt. Do đó cứ khoảng một giờ bù đầu với nhiều con số, dòng chữ, các bạn nên thư giãn một chút bằng những bài tập thể dục. Đây là biện pháp hợp lý để cơ bắp các bạn duỗi ra giúp máu trong cơ thể được lưu thông tốt. Dòng máu mang các chất cặn bã về gan, thận và những độc tố trong quá trình chuyển hóa sẽ được đào thải ra ngoài.

Những bài tập thể dục đơn giản sau đây có thể áp dụng giữa giờ làm việc giúp các bạn chống lại tình trạng mỏi mệt.

Khi tập, các bạn nên vừa thực hiện các động tác với tốc độ chậm, vừa theo dõi cảm giác của cơ thể và nên dừng lại khi các bạn cảm thấy có một tình trạng căng giãn dễ chịu nhất.

Bạn có thể tập tất cả những động tác, nhưng nếu không có thời gian nhiều thì nên chọn vài động tác trong bài tập sau:

Căng giãn toàn bộ vùng mặt

Nhướng hai lông mày lên và mở đôi mắt thật to, cùng lúc đó, há miệng và le lưỡi ra ngoài. Giữ yên tư thế này 5 giây. Lặp lại 5 lần.

Cổ 1

Ngồi hay đứng thẳng.

Di chuyển đầu ra sau trên mặt phẳng ngang (sau đó giữ yên 5 giây), rồi di chuyển ra trước (sau đó giữ yên 5 giây). Lặp lại 5 lần.

Cổ 2

Ngồi thẳng. Đầu và cổ thẳng.

Chầm chậm nghiêng đầu sang trái, cố gắng đưa tai trái càng gần vai trái càng tốt, giữ yên 5 giây. Sau đó trở về vị trí ban đầu. Rồi nghiêng đầu sang phải, giữ yên 5 giây.

Trong khi tập động tác này thân và 2 vai phải bất động. Lặp lại 5 lần.

Cổ 3

Ngồi thẳng.

Chầm chậm quay đầu sang phải, giữ yên 5 giây. Sau đó quay đầu sang trái, giữ yên 5 giây. Lặp lại 5 lần.

Vai, khuỷu tay, cổ tay

Ngồi hay đứng. Đặt 2 tay ngửa lên đầu và đan lại với nhau. Sau đó đẩy thẳng 2 cánh tay thẳng lên cao. Giữ yên ở vị trí này 5 giây. Trở về tư thế ban đầu. Lặp lại 2 lần.

Vai 1

Ngồi hay đứng thẳng.

Nâng dần 2 vai lên cao và hướng về 2 tai, giữ yên 5 giây. Trở lại tư thế ban đầu. Lặp lại 5 lần.

Vai 2

Ngồi thẳng. Hai tay duỗi ở 2 bên hông.

Xoay vai theo hình tròn (xoay vai ra trước, lên trên, ra sau, xuống dưới) 5 lần. Sau đó xoay 2 vai theo vòng tròn ngược lại 5 lần.

Khớp vai, khuỷu tay, cổ tay

Đan các ngón tay lại với nhau ngoài sau lưng, 2 lòng bàn tay đối nhau.

Chầm chậm xoay khuỷu tay vào trong đồng thời duỗi 2 cánh tay thẳng ra, giữ yên 5 giây. Lặp lại 2 lần.

Khớp ngón tay, khuỷu tay và khớp vai

Đan các ngón tay lại với nhau ở trước mặt, 2 lòng bàn tay hướng ra trước.

Đẩy thẳng 2 cánh tay về phía trước. Giữ yên tư thế này 5 giây. Co 2 tay lại trở về tư thế cũ. Lặp lại 2 lần.

Xương bả vai và các cơ bắp quanh vai

Ngồi hay đứng. Đan các ngón tay sau gáy. Giữ 2 khuỷu tay ở 2 bên, 2 cánh tay song song với mặt đất.

Kéo 2 khuỷu tay ra sau để 2 xương bả vai gần với nhau. Giữ yên 5 giây. Lặp lại 2 lần.

Khớp vai và hai bên sườn

Ngồi hay đứng.

Đưa tay trái ra sau lưng, bàn tay phải nắm lấy khuỷu tay trái kéo sang phải đến khi cảm thấy căng giãn tốt khớp vai trái và hông trái. Giữ yên 5 giây. Lặp lại 2 lần. Đổi tay.

Các khớp ngón tay

Bàn tay ở tư thế xòe các ngón.

Bắt đầu co nhẹ nhàng từng khớp của các ngón lại và cuối cùng thành quả đấm. Sau đó xòe thẳng các ngón như tư thế ban đầu. Lặp lại 5 lần.

Khớp cổ tay

Đưa tay trái ra phía trước, song song với mặt đất, lòng bàn tay hướng xuống đất.

Dùng tay phải nắm lấy bàn tay trái chầm chậm cong cổ tay trái xuống thẳng góc với cẳng tay, đồng thời dùng tay phải bẻ nhẹ bàn tay trái xuống đến khi cổ tay trái có một sự căng giãn tốt. Giữ yên 5 giây. Lặp lại 2 lần. Đổi tay.

Khớp cổ tay 2

Đưa tay trái ra phía trước, song song với mặt đất, lòng bàn tay hướng xuống đất.

Dùng tay phải nắm lấy bàn tay trái giữ khuỷu tay trái thẳng, chầm chậm cong cổ tay trái lên, đồng thời dùng tay phải bẻ nhẹ bàn tay trái lên đến khi cổ tay trái có một sự căng giãn tốt. Giữ yên 5 giây. Lặp lại 2 lần. Đổi tay.

Giãn các khớp cổ tay và thân trên

Ngồi hay đứng thẳng, đan các ngón tay lại, lòng bàn tay ngửa lên trên, đẩy 2 tay thẳng lên.

Chầm chậm nghiêng 2 tay và người về bên trái đến khi có sự căng giãn tốt. Giữ yên 5 giây. Rồi chầm chậm nghiêng 2 tay và người về bên phải đến khi có sự căng giãn tốt. Giữ yên 5 giây. Lặp lại 2 lần.

Cột sống lưng

Ngồi thẳng, 2 chân đặt trên mặt đất.

Tay trái nắm lấy cẳng chân trái, nâng chân trái lên khỏi sàn. Cong người về phía trước, đem mũi về hướng đầu gối trái. Giữ yên 5 giây. Lặp lại 2 lần. Đổi chân.

Quay cột sống

Ngồi, chân trái bắt chéo chân phải.

Tựa cẳng tay phải trên phía ngoài của đầu gối trái nhẹ nhàng ép cẳng tay phải về phía phải, đồng thời quay đầu nhìn về vai trái. Giữ yên 5 giây. Lặp lại 2 lần. Đổi bên.

Uốn cột sống

Đứng thẳng, chống tay sau thắt lưng.

Từ từ ưỡn ngực ra trước, ngửa đầu nhìn lên trần nhà đến khi có sự căng giãn tốt ở vùng thắt lưng và cổ. Sau đó trở lại tư thế đứng thẳng. Lặp lại 5 lần.

Cổ chân và khuỷu chân

Ngồi trên ghế.

Đưa chân phải thẳng ra trước, chân trái đặt trên đất. Bàn chân phải thẳng góc với cẳng chân, đồng thời đẩy gót chân phải ra trước. Giữ yên 5 giây. Rồi cong cổ chân phải xuống. Giữ yên 5 giây. Lặp lại 2 lần. Đổi chân.

BS. HUỲNH HẢI

ĐIỂM SÁCH

Thơ tình Mùa Thu

(2012) của Hoài Ly

Đây là tác phẩm đầu tay của nhà thơ nữ Hoài Ly gồm 40 bài thơ nói về mùa thu buồn với những cơn mưa dài mang theo nhiều nhớ nhung, những cơn mưa giăng mắc giọt sầu, rơi rơi mãi, để trở thành cơn lũ dang dở của tình yêu tràn về:

Sao giết tình yêu thế hở anh

Hờ hững chi nhau nỡ đoạn đành

Em biết mình mang nhiều thua thiệt

Sao phụ tình nhau thế hở anh

(Lời cuối cho tình yêu)

Những đợi chờ muốn quên đi nhưng không thể nào quên được:

Em vẫn chờ anh, anh của em

Hồn em trăm cánh hướng dương êm

Trông về một phía vầng dương mọc

Trao cả cho ai vạn nỗi niềm

(Đợi chờ)

Nhìn lại cảnh cũ tưởng nhớ đến người yêu và xin hẹn nhau, chờ nhau trong kiếp khác:

Em không thể quên người

Xin hãy chờ nhau trong kiếp khác

Dù đến trăm năm nhé anh!

(Với người)

Em xin làm cô phụ

Dù người đã xa xôi

(Mãi mãi)

Anh đi rồi em hóa đá trên non

(Viết cho người đi xa)

Đặc biệt với hai bài thơ “Lời rao hàng giữa chợ 1 &2” làm ta chợt nhớ đến HMT khi rao bán hàng “ảo”:

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò

Và Hoài Ly cũng bán hàng:

Ai có mua không một trái tim

Ai có mua không một tình yêu

Ai có mua không những xót xa

Ai có mua không những tiếc thương…

Đọc thơ Hoài Ly ta thấy có nhiều nét bi thương, nỗi sầu, niềm đau, nhưng có lẽ nỗi buồn mang dấu ấn đậm nhất trong 22 câu thơ của mùa thu buồn(số trang bên cạnh):

Heo may buồn trên ngọn sầu đông 6

Pensée tím buồn trong nắng 7

Dạ lan tím buồn trong gió 8

Mong manh một cõi tình buồn 8

Ngậm buồn nghe mặn đắng 9

Ai có mua không một nỗi buồn 10

Khúc buồn thiếu nữ tháng ngày qua 11

Buồn cũ đau xưa cũng xóa nhòa 12

Chỉ còn lặng lẽ chút chơ vơ buồn 14

Nghe buồn nặng trĩu xuống đôi vai 23

Ta buồn trời cũng quạnh hiu 25

Cho sầu nét ngọc phai dung nhan buồn 29

Lòng em chợt buồn tênh như bóng nắng 30

Giây chia xa ôi mấy vạn thu buồn 30

Con hẻm buồn trơ mặt đứng âm thầm 31

Đêm xuống thấp không gian buồn lạnh lẽo 34

Tiếng nhạc buồn những tình khúc xa xăm 34

Em về lại phố thị buồn 36

Đừng buồn chị ơi dẫu cuộc đời 38

Đời người cô phụ buồn thê thiết 38

Giữa đời rối rắm những buồn tênh 44

Giọt buồn đêm mãi đầy vơi 45

Tuy nhiên với những lời thơ thật chân tình trong những chủ đề khác có lẽ những người yêu nhà văn, nhà thơ Hoài Ly sẽ nhận được những cảm hứng tươi trẻ, sôi động mang đầy tình thương yêu, tích cực… để chia sẻ với mọi người.

HÀ MẠNH ĐOÀN

ĐẸP ???

Mộng Xinh vòng tay ôm cổ chồng nũng nịu:

- Anh, mai mình đi chơi xa anh nha?

Vĩnh Giang khẽ đặt lên trán vợ một cái hôn âu yếm:

- Em thích đi đâu nè? Lên núi hay xuống biển? Vào rừng hay ra sông? Em có muốn đi tít tận chân trời nào anh cũng đưa em đi được hết.

Dí ngón tay vào trán chồng, Mộng Xinh dài giọng:

- Xem kìa, xem cái đồ khéo nịnh chưa kìa. Đáng ghét.

- Ừ thì cứ ghét đi, anh nịnh vợ anh chứ anh có nịnh vợ hàng xóm đâu mà…

Môt cái nhéo kèm theo tiếng rít:

- Anh dám…

- Ui da… bà trời của tui ơi, có cho thêm tiền tui cũng hổng dám đâu. Mà tui cần gì đi nịnh ai nữa cho mệt, có ai đẹp bằng bà trời của tui đâu?

Nói dứt câu Vĩnh Giang ôm ghì vợ vào lòng, Mộng Xinh chỉ còn hấm hứ trong vòng tay nồng nhiệt của chồng. Cô cảm thấy một niềm hạnh phúc dâng lên ào ạt trong lòng. Bỏ dở câu chuyện, cả hai vùi vào nhau trong hơi thở nồng nàn của một đêm xuân.

Dòng thác cứ như một cuộc viễn chinh ồ ạt. Hăm hở và dũng mãnh lao ầm ầm từ trên thượng nguồn xuống suốt năm này qua tháng khác. Một sức mạnh tổng hợp khiến cho những hạt nước trong tạo thành một sải rộng màu trắng đục, hắt lên những tia lấp lánh dưới ánh nắng rực rỡ, hiên ngang phô bày một vóc dáng căng tràn, lực lưỡng, kiêu mạn giữa vòm trời một sức sống kiên cường bất thoái. Địa hình cao nguyên vốn là vùng sản sinh ra bao dòng thác lớn nhỏ. Một ưu đãi cảnh quan của thiên nhiên ban tặng cho con người. Đặt chân đến những nơi thế này, con người như bị cuốn hút theo sự hoành tráng của cảnh vật, để thấy một luồng sinh khí tràn trề tỏa khắp thân tâm. Không chỉ hấp lực của cảnh quan mà còn là một bầu không khí trong lành, mát rượi từ những tán cây xanh, gió lồng từ nhiều phía bắn tung bao bụi nước li ti vào làn da. Sảng khoái vô cùng, thanh thoát vô cùng, tâm hồn bỗng chốc rũ sạch bao lo toan phiền muộn, thân thể bỗng chốc cảm giác như được tưới tắm bằng một làn nước tinh khiết trong lành, cõi lòng bỗng chốc thấy như được rộng mở, muốn ôm tất tật bao yêu thương đẹp đẽ của cái thế giới người này. Cuộc sống! Ôi cuộc sống vẫn luôn tiềm ẩn những diệu kỳ, mà bất chợt một khỏanh khắc phát hiện ra, bỗng thấy mọi sự quanh ta giá trị lên gấp nhiều lần.

Vĩnh Giang đứng ưỡn ngực hít hà mãi luồng khí mát cho căng buồng phổi. Đằng sau anh, Mộng Xinh đang tháo bớt áo lạnh, khăn len cho cậu con trai mới hơn bốn tuổi đang háo hấc muốn tung tăng đôi chân. Sức tri cảm của con người đã có sẵn từ khi mới sinh ra. Nó cho phép những cánh cửa của sự khai phá mở ra dần dần, để con người tự mình tiếp xúc và khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Với những đứa trẻ thì những cánh cửa cứ như muốn tung cả bản lề để xông thẳng vào những gì đang thách đố trí tò mò của chúng.

- Ba! Ba ơi!

Nghe con gọi, Vĩnh Giang quay lại nhấc bổng con lên, hôn đánh chụt vào cái má sữa của con rồi hỏi:

- Con có thích không?

- Dạ thích. Ba ơi! Sao nước chảy nhiều vậy ba?

- Ừ thì… tại nước có nhiều thì chảy nhiều.

- Ở đâu mà nước có nhiều vậy ba?

- Thì… ở trên trời chứ ở đâu nữa.

Thằng bé nhìn lên trời ngơ ngác:

- Con có nhìn thấy nước ở trên trời đâu? Ở chỗ nào vậy ba?

- Con mà quay một hồi như vậy chắc ba con té xỉu luôn quá.

Mộng Xinh cười nói. Vĩnh Giang cũng cười xòa:

- Mấy chú nhóc này ấy mà, cái gì cũng hỏi, hỏi là hỏi cho tới nơi luôn. Hỏi riết rồi hổng biết trả lời bằng cách nào nữa.

- Thì nó có ham hiểu biết nó mới hỏi. Mà nhiều câu nó hỏi đúng đó chứ. Nhiều lúc em cũng nghĩ, không biết nước ở đâu mà cứ đổ ào ào suốt năm này sang tháng khác vậy?

- Thì đó là sự tuần hoàn của thiên nhiên mà. Cứ từ trên cao đổ xuống thấp, thấp bốc hơi thành mưa, mưa lại rơi từ trên cao xuống, cứ thế mà chu chuyển mãi những luồng lạch thôi.

Thằng bé nhìn chăm bẳm vào miệng Vĩnh Giang, sự tiếp nhận thông tin của trẻ con cực nhanh mà cũng cực nhạy. Có nhiều lúc người lớn nói chuyện với nhau, không biết chúng chú ý, như một bản photocopy, chúng ghi nhận những thông tin, để rồi vào một tình huống cần thiết nào đó, chúng áp dụng rất chính xác. Cái hay là ở chỗ, bộ óc non nớt ấy đã biết nhận dạng ý nghĩa của thông tin. Những điều mà người lớn rất nhiều khi chưa kịp để mà truyền thụ cho chúng. Trẻ con ngày nay lại rất thông minh, nhất là những đứa trẻ được sống ở môi trường thành thị. Do chúng được chăm sóc tốt ngay từ khi mới là thai nhi. Từ dinh dưỡng đến tiếp cận tri thức, càng ngày khoa học đời sống càng phát triển, thì những thế hệ tiếp nối càng có nhiều điều kiện để thông minh hơn.

- Lâu lắm rồi mình mới lại đến đây anh nhỉ?

- Ừ, hồi xưa hay đi nên nhàm, lâu lâu trở lại, lại có cảm giác thích thú, dễ chịu. Cảm ơn ý kiến của bà xã nhé.

Một cái nguýt yêu dài cả thước. Sáng nay vừa mở mắt, Mộng Xinh đã lay gọi chồng:

- Anh, anh dậy đi em nói nghe nè.

Mở choàng mắt, Vĩnh Giang hơ hãi:

- Có chuyện gì vậy em?

Mộng Xinh cười:

- Coi anh kìa, cứ hay hoảng. Em mơ thấy tụi mình đi chơi thác, có cả mấy người bạn nữa. Lâu rồi mình không đi, bữa nay đi anh nha.

- Ừ. Để anh gọi coi có ai rảnh rủ đi cho vui.

Rất tiếc là kế họach đột xuất nên không rủ rê được nhiều, vì đa phần ai cũng đã có kế họach trước cho một kỳ nghỉ. Chỉ có thêm một bầy đàn nhà Quế Hải đi cùng.

- Ê, hai ông bà tâm tình gì đó? Lại làm ly bia cho mát đi.

Nghe Quế Hải gọi, Giang và Xinh quay lại:

- Hay là tụi mình bày ra ăn luôn đi rồi chơi cho thoải mái?

- Tụi này cũng đang tính vậy. Sáng giờ lụp chụp đã ăn gì đâu. Ăn rồi mới có sức leo trèo chớ.

Một bữa ăn thinh sọan được dọn ra trên mấy tờ báo. Câu chuyện và những tiếng cười cũng râm ran. Những người lớn ăn uống, trò chuyện vừa lo trông chừng những đứa trẻ. Những đứa trẻ trông cũng khỏe mạnh khí sắc hơn khi được chạy nhảy nô đùa giữa thiên nhiên trong lành.

- Lâu lâu đến mấy chỗ này thấy người khỏe hẳn ra nhỉ? Cứ phòng ốc với máy điều hòa miết chắc thành robot quá.

- Robot còn đỡ, như cây thiếu nắng mới là vấn đề.

- Ừ, có ăn uống tẩm bổ cao cấp mấy mà thiếu bổ sung dinh dưỡng thiên nhiên thì cũng chi là rước bệnh vào thân thôi.

- Thế nên ngành công nghiệp không khói ngày càng phát triển mạnh đó.

- Mà đúng ra, con người ta nên biết vừa làm vừa chơi, vừa cống hiến vừa hưởng thụ, nếu chỉ biết cắm đầu mà làm thì phí cả nửa đời.

- Dô, mừng câu nói hay nhất trong ngày.

Tiếng ly chạm nhau tạo nên một âm thanh vui tai. Những bọt bia bám lại trên những vành môi, những ráng hồng lan rộng trên những gương mặt đang tươi tắn nét cười. Sự sống trông ra mới hể hả làm sao.

Ăn xong, nghỉ ngơi một chút, mọi người bắt đầu cuộc dạo chơi. Chiếc máy ảnh họat động tích cực. Từ bao giờ chiếc máy ảnh có mặt trong đời sống con người nhỉ? Để rồi theo đà tiến triển của nền khoa học công nghệ, nó càng ngày càng được cách tân, tiện dụng. Nó có mặt trong hầu hết những hoạt động mang tính sự kiện của con người. Nó đã góp một tác dụng không nhỏ khi ghi lại những khoảnh khắc đẹp, đáng nhớ của cuộc sống. Có những khoảnh khắc mà bao lâu sau khi nhìn lại vẫn dậy lên trong lòng người một xúc cảm dạt dào, làm sống lại những ký ức tưởng chừng đã bị vùi quên theo năm tháng, nhắc lại những thời đoạn buồn vui của mỗi bóng hình. Để rồi, bất chợt lòng người nôn nao, hoài niệm, nuối tiếc. Để rồi, bất chợt người ta cảm thấy yêu hơn những gì mình đã sống, trân trọng hơn những gì mình đã có, và khắc ghi hơn những bóng dáng của yêu thương.

Mộng Xinh chỉ lên một mỏm đá nhìn có vẻ chênh vênh, nằm ở một vị trí khá cân đối so với toàn cảnh của dòng thác, nói:

- Anh chụp cho em một kiểu ở kia nhé. Lấy toàn cảnh rất đẹp đó.

Vĩnh Giang nhìn bao quát, có vẻ hơi ngần ngại:

- Đẹp thì đúng là rất đẹp, nhưng hơi nguy hiểm.

- Không sao đâu, em đâu có đứng sát mép mà sợ.

- Thôi em, tìm chỗ khác chụp cho an toàn.

- Nhưng em thích chỗ này cơ.

Nói xong Mộng Xinh trèo lên tìm một chỗ đứng thuận tiện. Vĩnh Giang lo lắng nhìn theo, nhưng rồi anh yên tâm khi thấy vợ đã đứng vững. Quả thật cảnh Mộng Xinh xõa tóc bay bay trong gió, mắt hơi nhìn ngước lên, đằng sau là một dòng thác đổ tràn trắng xóa, lại thêm những tán cây xanh la đà thì thật là một bức ảnh đẹp. Nếu có nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp, hẳn đây sẽ là một bức ảnh nghệ thuật tuyệt vời chứ chẳng không. Vĩnh Giang bấm đến mấy kiểu ở những góc độ khác nhau. Mộng Xinh lại nói:

- Anh lên đây chụp với em một kiểu luôn.

Vĩnh Giang chưa kịp lên tiếng thì Quế Hải tán đồng:

- Ừ, đúng dó, ông đưa máy tôi bấm cho. Rồi vợ chồng tôi cũng phải làm một kiểu chứ. Cảnh đẹp quá mà.

Không có gì phải bàn cãi thêm, Vĩnh Giang đưa máy cho bạn rồi trèo lên. Mộng Xinh dọn chân để chừa chỗ đứng cho anh. Quế Hải đã canh sẵn máy. Diện tích chỗ đứng tạm thong thả cho hai bàn chân, nhưng thật hạn hẹp cho cả bốn bàn chân. Mộng Xinh cố nhích thêm một để Vĩnh Giang có thể thoải mái hơn, bất chừng cô mất thăng bằng, chới với, một phản xạ tức thì, Vĩnh Giang giơ tay đẩy mạnh vợ về phía trước, nhưng anh không ngờ chính lực đẩy đó lại tống anh về phía sau. Phải mất đến mấy giây sững sờ, mọi người mới kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra. Mộng Xinh ngơ ngác ngồi dậy sau khi bị đẩy ngã, kinh hoàng nhìn vào khoảng không nơi chồng cô vừa mới đứng. Một tiếng thét đến rách cả trời xanh:

- KH..Ô..N..G…

Cô như lao về phía mỏm đá, may sao Quế Hải vừa kịp lên tới, vội nắm tay cô rít lại, rồi anh nhoài người nhìn xuống phía sau mỏm đá. Phía dưới chỉ là một mặt nước với vành sóng cuộn vào nhau. Quế Hải thốt lên rụng rời:

- Chết rồi! Vực xoáy…

Rơi xuống vực xoáy, gần như đồng nghĩa với khả năng sống sót của nạn nhân là rất thấp. Vì khi rơi theo chiều thẳng đứng, vực xoáy như miệng một con quái vật nuốt chửng, nạn nhân như bị trói chặt chân tay, đồng thời bị quay tròn trong sức xoáy của nước, sức người không lại với sức nước, sự mất bình tĩnh khi bất lực trong khả năng xoay trở, khiến nỗi sợ ập đến làm nạn nhân co thắt cơ tim, dẫn đến đột quỵ và tử vong rất nhanh, có thể chỉ từ một đến hai phút là nhiều. Vậy nên khi vừa nghe Quế Hải kêu lên thế, Mộng Xinh ôm đầu từ từ ngã gục xuống. Vợ Quế Hải thì mặt tái mét, tay chân run bần bật, cố ôm giữ hai đứa trẻ vào lòng. Lúc này, việc mà Quế Hải có thể làm là rút cái điện thoại ra.

Mộng Xinh nằm rũ dưới gốc cây. Mộng Đài, em gái cô cầm ly nước cam ngồi bên, giọng ngàn ngạt:

- Chị ráng uống vô một chút đi chị. Chị như vầy làm sao chịu nổi.

Mộng Xinh vẫn im lặng. Đôi mắt cô cứ đau đáu dõi ra vùng nước xoáy, nơi mà chỉ tích tắc đã cướp mất người chồng yêu thương của cô. Nếu những người thân không cố sức cản, và nếu không có tiếng khóc thét của đứa con trai, chắc cô đã lao xuống nơi vực xoáy ấy để tìm Vĩnh Giang. Đã hai ngày nay rồi, những người thợ lặn miệt mài dốc hết hơi sức để tim cho được thi thể người xấu số. Nhưng dòng chảy mênh mông với những con sóng ngầm đã cuốn vào đâu một xác thân đã trở nên quá bé nhỏ và yếu ớt. Quế Hải ôm về một đống củi, để chuẩn bị cho một đêm nữa nơi thăm thẳm sự chờ trông và đắng đót. Một nơi mà chỉ vừa mới đó tạo cho con người sự vui sướng, sảng khoái, thanh thỏa, nay đã trở thành một niềm đau chất ngất trong nỗi đoạn trường của tử biệt sinh ly. Âm thanh ầm ào của dòng thác đã trở thành nỗi đe dọa ám ảnh khủng khiếp cho tâm tưởng, những bụi nước li ti bây giờ lại gieo một cảm giác lạnh lẽo đến tột cùng cho cả thể xác lẫn tinh thần. Để người còn trên bờ đất xót xa hơn khi như cảm thấy cái lạnh giá đến từng tận mỗi tế bào cơ thể của người đang còn ngơ ngác dưới mặt nước âm u kia. Vĩnh Giang ơi! Cậu có biết bây giờ cậu đã rời xa cái thế giới ấm áp những ngọn lửa mà trôi về một vùng băng giá xa xôi mù mịt nào đó không? Quế Hải đã âm thầm giấu đi một kiểu ảnh mà do một cái giật mình ngón tay anh đã bấm vào cái nút ghi hình, kiểu ảnh mà cả người cầm máy lẫn người đứng hình đều không tưởng tượng nổi. Kiểu ảnh ghi lại cái tích tắc cuối cùng của một đời người, cái tích tắc âm dương định mệnh, nếu Mộng Xinh nhìn thấy cảnh mình đang đổ về phía sự sống và chồng thì đang ngả về phía cái chết, thì chắc cô cũng sẽ không còn lần lữa gì một làn hơi thở hắt. Cho dù không nhìn thấy kiểu ảnh oan nghiệt ấy thì cô cũng đã ân hận đến suốt đời vì một ý thích ngớ ngẩn của mình. Vốn quen được chồng yêu chiều từ khi mới quen nhau, Mộng Xinh thường có những vòi vĩnh, nũng nịu, đôi khi rất trẻ con. Chỉ vì cô ý thức được rằng mình là một phụ nữ đẹp, là một báu vật của người đàn ông, là một sự chiến thắng đáng kiêu ngạo trong một cuộc chiến âm thầm dai dẳng. Một cuộc chiến luôn tiềm ẩn những nguy cơ mà người trong cuộc không hề cố ý tạo ra. Nhưng khi nó xảy ra, thì người ta lại thấy rõ ràng nó xuất phát từ chính những chủ quan của người trong cuộc, và hệ quả trực tiếp của nó cũng nhằm vào chính người trong cuộc vậy. Ước mong lớn nhất của người phụ nữ là được nhận một tình cảm tốt nhất của người chồng, Vì người chồng không chỉ là người phối ngẫu, người bạn đời, bạn đường, mà còn là người gần như nắm toàn bộ vận mệnh của cả cuộc đời mình. Buồn vui, sướng khổ, dở hay, hạnh phúc hay bất hạnh, đều phụ thuộc vào cách hành xử và mức độ tình cảm của người đàn ông. Không ít, không, phải nói là quá nhiều mới đúng, những người đàn bà phải chịu đựng những sự đau khổ mà người chồng vừa trực tiếp vừa gián tiếp mang lại. Khi đã ký vào một bản hôn ước, người ta không còn tự quyết định được vận mạng của chính mình. Tất tần tật những hành vi từ đơn giản đến phức tạp, từ vụn vặt đến quan trọng, đều liên quan mật thiết đến người phối ngẫu. Người đàn ông nào mang lại cho người phụ nữ của mình nhiều tiếng cười thì đó là người đàn ông thực sự tuyệt vời, thực sự đáng mặt đàn ông, thực sự được tôn xưng là một “đấng trượng phu”. Còn người đàn ông nào chỉ đem lại cho người phụ nữ của mình toàn là nước mắt, thì đó thật sự là người đàn ông tồi tệ nhất, vô lương tâm nhất, và có thể nói là hạ đẳng nhất. Tạo hóa sinh ra hai giới loại, hai chức phận, hai thuộc tính, là để tương quan, hỗ trợ và nâng đỡ nhau, để tạo nên một cuộc sống đa sắc, sinh động và duy trì sự tồn tại của giống nòi. Bản thân giới tính không có sự phân cấp, mà sự phân cấp chỉ nảy ra trong tư tưởng và quan điểm sống của mỗi người. Quan điểm phân cấp trong giới tính xuất phát từ những người đàn ông có chức sắc, quyền lực, ưu thế trong một phạm vi xã hội từ thuở xa xưa, vì muốn tạo cho mình những thụ hưởng đặc biệt, tự ban cho mình những ưu đãi của sự chiếm hữu, nên mới đề ra những thứ luật lệ để chăm lo, bảo vệ cho quyền lợi của mình, và đẩy vai trò người phụ nữ xuống hàng thấp hơn. Từ đó sự truyền tiếp qua các thế hệ tạo thành một nếp tư tưởng ăn sâu vào ý thức, trở thành một vấn nạn đáng buồn. Để rồi không biết bao kiếp phận những người đàn bà đu đeo mảnh đời mình vào sợi chỉ mỏng manh của số phận. Một số ít khác may mắn hơn thì phải nhờ trước hết vào một nhan sắc nổi trội. Bởi thế mà có một thành phần những người đàn ông thuộc chiều ngược lại. Đàn ông tham sắc vốn là một đặc tính của bản năng. Trước một người phụ nữ đẹp, họ chỉ có một ước muốn duy nhất là làm mọi cách để người phụ nữ ấy thuộc về mình. Không một người đàn ông nào từ chối nổi sự quyến rũ của một nhan sắc, cho dù sau đó họ phải chịu bao khổ lụy, phiền toái. Cho dù họ phải luôn đối mặt với câu “Vợ đẹp là vợ người ta”, thì trước tiên cứ phải là vợ mình cái đã. Không ít những cuộc hôn nhân gãy đổ, không biết bao “đấng anh tài” phải thân bại danh liệt, đẻ ra bao hệ lụy chỉ vì sắc đẹp của người phụ nữ, nhưng mãi mãi vẫn không là lời cảnh tỉnh cho cánh mày râu, và họ cứ tự nguyên đánh đổi những giá trị đích thực nhất của cuộc sống cho một nhan sắc. Họ sẵn sàng bằng mọi cách để có thể sở hữu được một người phụ nữ đẹp. Nhưng cách nào để hiệu quả nhất thì lại tùy thuộc vào quan điểm sống của người phụ nữ ấy. Nhưng cho dù với quan điểm thế nào, thì có ba đường dẫn chính vốn là cẩm nang của sự chinh phục. Đó là: Sự chìu chuộng, quà tặng và những lời khen. Phần còn lại thuộc về những ưu thế của bản thân và xã hội mà anh ta có được. Cái yếu tố then chốt nhất, quan trọng nhất, và cần thiết nhất là tiếng nói của trái tim thì lại là cái cán cân sau cùng. Nhưng dẫu sao, Mộng Xinh cũng không có gì phải hối tiếc khi cô nhận lời phối ngẫu cùng Vĩnh Giang. Cô thuộc vào cái số ít những người phụ nữ may mắn. Những người mà chỉ vừa cất tiếng khóc oe oe đã có sẵn một con đường trải thảm. Cô cùng từng nghe hồng nhan thì bạc phận. Nhưng đâu cứ hồng nhan nào cũng phải bạc phận. Cuộc đời cô từ vòng tay cha mẹ cho đến vòng tay người chồng là một chuỗi dài êm ả. Cứ như cô sinh ra là để được hưởng sự yêu chiều mà không phải một mảy may nghĩ ngợi. Ừ thì trời cho cứ nhận, biết thế nào mà cân nhắc. Vĩnh Giang lại thuộc dạng “hàng hiệu”, có được đa số ưu thế đáng kể của một người đàn ông, để có thể đánh bạt được những đối thủ cũng nặng ký không kém cho dù khá chật vật một chút. Chỉ có một điều không được ổn thỏa và suôn sẻ lắm cho Mộng Xinh khi anh là con trai duy nhất trong gia đình. Chính điều này đã tạo cho cô một tâm lý bất ổn ngay từ lần đầu về ra mắt bố mẹ anh. Sự nhạy cảm của phụ nữ khiến cô bắt ngay được vẻ thiếu thiện cảm của mẹ anh. Sự đố kỵ giữa những người phụ nữ là một trạng thái luôn tiềm ẩn. Nó sẽ được bộc lộ thật rõ nét khi người ta phải ganh ghen hay tranh giành một thứ gì đó. Điều này lại càng khốc liệt giữa mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu. Đặc biệt là gia đình hiếm con trai. Đa phần trong những trường hợp này, người đàn ông thường nghiêng về người phụ nữ thứ hai. Đơn giản là tình yêu đôi lứa mạnh hơn tình mẫu tử, và cũng còn là bởi vì mẹ thì không thể bỏ con, nhưng vợ thì có thể bỏ chồng. Không phải người đàn ông nào cũng đủ khéo léo để dung hợp được vấn đề. Sự lựa chọn này như một kết quả tất yếu cho hai phía thắng bại.

Vĩnh Giang đã tuột khỏi bàn tay mẹ khi đưa vợ ra ở riêng. Gây nên một hố sâu ngăn cách và sự tổn thương trong lòng người mẹ. Ngay từ lần đầu tiên gặp Mộng Xinh, mẹ Vĩnh Giang đã thấy mình đang dần mất con. Người đàn bà đẹp thường tiềm ẩn mối hiểm họa cho chồng. Bà vẫn nghe người xưa nói thế. Nhưng bà biết Vĩnh Giang sẽ cho bà lẩm cẩm, hẹp hòi nếu bà nói ra điều đó để ngăn cản cuộc hôn nhân. Mà cũng chẳng thể nào ngăn cản được khi niềm hạnh phúc phơi phới lộ rõ trên gương mặt con trai. Không quá xét nét, soi mói, nhưng sự dè chừng và như có phần tranh chấp của bà cũng làm Mộng Xinh cảm thấy khó chịu. Để rồi lòng bà càng thêm chất chứa, phẫn uất khi không giữ nổi con trai trong tay mình, cho dù Vĩnh Giang cũng đã cố hết sức để chu toàn, hiếu thảo. Khi tin dữ bay về, người mẹ như muốn nổ tung cả trái tim. Bà đã la hét, vật vã, rồi như điên loạn bà cứ gào thét mãi một câu “Nó… nó đã giết con tôi…”. Trong con mắt của bao người chung quanh, Mộng Xinh bây giờ mặc tình mang một bản án là thủ phạm. Dù có biện minh đến thế nào đi nữa, thì nguyên do đầu tiên dẫn đến cái chết của Vĩnh Giang cũng là từ cô. Hàng loạt những “giá như” được đặt ra. Người ta vốn không quen cân nhắc trước khi hành động, để rồi lại “giá như” khi phải tiếp nhận một hệ quả không mong muốn.

Ngày thứ ba thường là ngày kỳ vọng tìm ra xác người chết đuối. Nếu vào ngày thứ ba này mà không thấy xác nổi lên, thì khả năng tìm kiếm gần như vô vọng. Vì nếu không thể nổi lên, có nghĩa con nước ngầm đã đẩy cái xác kẹt vào một khe đá nào đó, và khi đã bị trương lên thi mắc cứng vào khe đá ấy mà không trồi lên được. Những người thợ lặn đã mở rộng phạm vi tìm kiếm đến cuối luồng nước. Nếu phán đoán đúng thì đoạn sông tương đối phẳng lặng này sẽ là nơi nổi xác, khi nó đã thoát khỏi sự cuốn xiết của những xoáy ngầm. Gần đến trưa thì có tiếng reo:

- Thấy rồi.

Nguời ta bừng lên một thoáng mừng vui, nhưng lại rơi tõm ngay vào một nỗi đau khủng khiếp khi nhìn thấy sự biến dạng đến tang thương của người xấu số. Cơ thể Vĩnh Giang gần như to gấp đôi bình thường, quần áo rách tươm lộ ra những mảng da trầy trụa, bầm tím. Khuôn mặt vuông vức đẹp đẽ của anh giờ bầm đen lỗ rỗ những vết cá rỉa. Mộng Xinh cố nhoai người để nhìn cho thấy được mặt chồng, và cô chết lịm sau một tiếng hét. Người ta không dám để lâu hơn tình trạng khó coi và đã bốc mùi khăn khẳn của nạn nhân. Cái hòm đã chờ sẵn với những vật dụng cần thiết cho sự tẩn liệm. Và rồi một đám tang như muôn ngàn đám tang. Nó đem đi một kiếp người và để lại những điều hệ lụy. Nó gieo cho những người đang còn một hơi thở những bâng khuâng chiêm nghiệm chuyện rủi may, được mất của cuộc đời. Khóc người ra đi, thương người ở lại. Một chút giật mình khi nghĩ rồi… để mai kia trong những sống xử có chút gì nương nhẹ hơn, đằm thắm hơn, biết giữ lấy nhau hơn.

Đêm đã rất khuya, Mộng Xinh vẫn quỳ phục trước bàn thờ chồng. Từ bây giờ Vĩnh Giang chỉ còn nhìn được cô qua ánh mắt buồn trên bức ảnh thờ, ánh mắt lúc nào cũng như đong đầy bao nuối tiếc, và có một phần như trách móc, có thể đó chỉ là nỗi ám ảnh trong tâm tưởng cô mà thấy vậy. Những chất vấn, những ân hận, những nuối tiếc, những cơn đau rát ruột sau cái chết của chồng đã làm Mộng Xinh tiều tụy hẳn. Cô không còn là một người đàn bà trẻ trung xinh đẹp, lúc nào cũng rạng ngời nụ cười hạnh phúc. Cô bây giờ là một tang phụ, tự khép kín đời mình trong ray rứt khôn nguôi. Cô đã từng tự hỏi: Cô đã có tội gì khi được tạo hóa ban cho một nhan sắc nổi trội? Cô đã có tội gì khi đón nhận sự yêu chìều rất mực của người chồng yêu quý? Cô đã có tội gì khi tạo hóa đã ban cho cô một đặc ân hơn nhiều người phụ nữ khác? Không! Đúng là cô không có tội gì trong những điều ấy, nhưng cô tự thấy cái tội lớn nhất của cô là cô yêu bản thân mình nhiều quá. Cô tận dụng những ưu đãi trời cho để phục vụ cho ý thích của mình, mà nhìều khi không kịp nghĩ đến những ảnh hưởng cho người chung quanh. Nếu cô không chiếm trọn Vĩnh Giang, thì chắc bây giờ mẹ anh không đến nỗi điên dại như thế. Nếu cô không lạm dụng tình yêu thương của chồng trong cả những ý muốn vụn vặt ngớ ngẩn thì chắc ngày nay không xảy ra thảm cảnh. Câu người xưa nói không hẳn là không có lý, một người đàn bà quá đẹp không chỉ là sự khổ lụy cho người mà còn cho cả chính mình. Không có nỗi đau nào được cảm nhận rõ bằng chính bản thân trải nghiệm. Chỉ có điều khi người ta có được hai chữ kinh nghiệm thì cũng là lúc người ta phải trả một cái giá quá lớn. Phần lớn con người ta thường có những ý nghĩ không vượt quá bản thân. Nếu có nghe những câu chuyện mang tính cảnh báo hay kinh nghiệm lại cứ cho đó là chuyện của ai kia, chứ không thể đến với chính mình. Và chẳng bận tâm xem thử mình có chút dáng dấp gì trong đôi ba sự vụ ấy không. Để rồi phải dằn vặt trong xót xa, phải gánh chịu những hậu quả tồi tệ. Thế nên những điều đáng tiếc vẫn luôn lập lại ở đây đó.

Mộng Xinh lờ mờ nhìn màu trắng chập chờn. Giây lát cô mới nhận ra là mình đang nằm trên chiếc giường bệnh viện. Những ngày đau khổ tự hành xác vừa qua đã làm cô kiệt sức. Nhưng cô kinh ngạc đến ngẩn người khi nhìn thấy người phụ nữ đang ngồi bên cạnh, gương mặt cũng bơ phờ tiều tụy không khác gì cô. Nhưng lộ vẻ mừng rỡ khi thấy cô tỉnh lại:

- Ơn Trời Phật phù hộ, con đã tỉnh lại rồi.

Đó là tiếng reo của một người mẹ, một người mẹ vừa phải chịu một cơn đau xé lòng vì mất con. Mộng Xinh trào nước mắt:

- Mẹ!…

Cổ họng cô như tắc nghẹn trước ánh mắt buồn đau thống thiết của người mẹ đã mang nặng đẻ đau, đã dày công chăm chút nên một con người, để rồi đã tan nát cả trái tim, chết cả một cuộc đời khi trắng toát một màu tang phủ lên hình hài người con yêu quý. Nhưng rồi, bằng vào sức mạnh tuyệt cùng của tình mẫu tử, bằng vào cõi bao la thiêng liêng của tấm lòng người mẹ, bà lại gượng đứng lên, gượng bước qua nối thống khổ, gượng bước qua cái hố sâu của sự tị hiềm, để lại có thể chìa bàn tay gày guộc, run run mà đón đỡ những gì còn lại của con trai mình. Trog một khoảnh khắc, Mông Xinh như cảm nhận một cách rõ ràng những cảm xúc trong lòng người mẹ ấy, cô cất lên một lời từ tận đáy lòng:

- Con xin lỗi mẹ.

Người mẹ thở một hơi dài, mắt cũng mờ lệ, nhưng cầm tay cô ôn tồn:

- Thôi con, số phần nó đã thế rồi, biết làm sao được. Con hãy cố gắng gượng để còn lo cho hai đứa con con nữa. Mẹ không muốn đã mất con lại mất thêm cả cháu.

Mộng Xinh ngạc nhiên:

- Hai đứa? Con mới có một cu Tin thôi mà.

Đến lượt bà mẹ ngạc nhiên:

- Trời! Con không biết mình đang mang thai sao?

- Con đang mang thai?

- Bệnh viện họ vừa cho mẹ biết, con mang thai đã được hơn ba tuần rồi. À mà Vĩnh Giang nó cũng mất gần một tháng. Vậy ra….

Mộng Xinh thờ thẫn như người đang mơ. Anh ơi! Vậy là anh đã kịp để lại cho em thêm một giọt máu của anh. Ơn trời! Em mong sao nó sẽ là một đứa con trai, một đứa con trai giống anh như đúc. Để em được xem như anh đã tái sinh trên cõi đời này. Đừng là một đứa con gái như em, một đứa con gái chỉ biết sống vì sắc đẹp, để rồi phải chịu kiếp hồng nhan bạc phận mà thôi. Từ bây giờ em không còn là một người đàn bà đẹp. Mà em sẽ cố gắng để làm một người mẹ tốt cho các con anh. Anh ơi! Em cảm ơn anh nhiều lắm. Anh đã để lại cho em một ý nghĩa sống thực sự trên đời này.

Nước mắt lăn dài, Mộng Xinh cầm lấy bàn tay người mẹ đầy lòng khoan dung, nghẹn ngào:

- Mẹ! Con cảm ơn mẹ!

Hai người phụ nữ nhìn nhau trong nước mắt. Giữa họ là bóng hình của một người đàn ông đang nhẹ nhõm nụ cười.

ĐÀM LAN

Biến Chứng

Từ bé đến giờ, trong các loại bệnh “đi qua thân thể tôi”, có lẽ bị nhức răng là ghê gớm nhất.

Cả tuần nay, con sâu cư trú trong cây răng đã trổ tài quậy quạng. Nó hành hạ tôi đủ cách. Ngoài trạng thái ê ẩm dai dẳng dẫn tới nhức đầu. Tôi ăn không được, ngủ chẳng yên. Suốt ngày tôi trùm mềm... nằm khóc.

Chiều, ba mẹ tôi vừa đi làm thì Đỗ Quyên và Đông Âu kéo đến.

Thấy tôi, hai đứa che miệng cười khúc khích.

Đông Âu kêu lên:

- Ngâu ơi, vì sao “mặt lớn, mặt nhỏ” vậy em?

Đỗ Quyên nhận xét:

- Đúng là mặt lồi, mặt lõm. Mô - đen hết ý!

Chạy tới trước gương, tôi mới hay bên má phải bị sưng lên như ngậm kẹo. Khuôn mặt đã sẵn không xinh đẹp của tôi bấy giờ càng “quái chiêu” hơn. Đau khổ quá, tôi trở về giường, nằm vật xuống, tiếp tục... khóc.

Đỗ Quyên đến ngồi bên cạnh, nó vừa vuốt tóc tôi vừa an ủi như đang thay thế mẹ tôi:

- Thôi, nín đi cưng, ráng chịu... vài bữa sẽ hết.

Đông Âu lên mặt chị:

- Bậy bạ! Ráng chịu sao được. Bệnh thì phải trị chứ.

Tôi ngồi bật dậy:

- Làm sao bây giờ, Âu?

- Ngậm muối!

- Tao ngậm rồi, gần hết một lít, vẫn nhức như thường.

Đỗ Quyên chỉ dẫn:

- Mầy lấy ba trái chuối già, lột bỏ vỏ, để vào tô, nêm ít muối rồi đem chưng cách thủy.

- Chi vậy? Đông Âu thắc mắc.

- Hỏi ngu dễ sợ! Ăn chớ chi. Ăn xong, bảo đảm hết nhức.

Tôi gạt ngang:

- Thôi đi, tao ăn rồi, chỉ thấy... hết chuối. Mẹ tao chưng gần một nải, ăn vào, nhức thêm.

Không biết con sâu răng có nghe lõm câu chuyện không mà nó liền ra tay trước. Tự nhiên tôi đau điếng hồn, ôm lấy mặt, tôi kêu lên:

- Đau quá, hu hu... Quyên, Âu, cứu tao với!

Hai nhỏ bạn luýnh quýnh, chạy tới chạy lui. Đỗ Quyên thấy tôi khóc dữ quá, nó vừa bóp chân tôi vừa... khóc theo. Đông Âu cầm cây quạt giấy phe phẩy trên mỏ ác tôi lia lịa. Nổi cáu, tôi nhe răng rồi chỉ vào chỗ đau:

- Nhức đây nè, hai bà. Đau Đông mà trị Tây.

Đỗ Quyên giận dỗi:

- Biết làm sao bi giờ, người gì dữ như bà chằn.

Đông Âu ngồi xuống bên tôi, nó dịu dàng nói:

- Quyên, mày phải thông cảm cho nó chứ. Đau răng khổ nhất trên đời. Bà tao có kể rằng:

Ngày xưa, ở một vương quốc nọ, có cô công chúa đẹp tuyệt trần. Nhưng, tính tình cộc cằn, thô lỗ lắm. Nàng lại là chúa hà tiện, chẳng bao giờ cho ai thứ gì. Một hôm, công chúa bị... đau răng. Nàng kêu khóc rùm trời. Bao nhiêu ngự y trong triều cũng đều bó tay.

Tôi bĩu môi:

- Ngự y dở quá trời. Chỉ có đau răng mà trị cũng không được.

Đông Âu giải thích:

- Đúng ra họ có thể trị được dễ dàng nhưng vì công chúa dữ như chằn, dính vào chỉ tổ mang họa. Trị hết, nàng có ban thưởng gì đâu. Còn ngược lại, mất đầu như chơi. Họ sợ không có đầu để đội mũ mầy biết không?

- Rồi sao nữa? Tôi hỏi.

Nhà vua thương đứa con gái duy nhất nên liền ban lệnh: “Ai cứu được công chúa sẽ chia cho nửa giang sơn”. Ba ngày trôi qua, công chúa tiếp tục nhức răng. Chẳng có ai muốn cứu người đẹp.

Quên cả đau nhức, tôi bị cuốn vào câu chuyện hoang đường của bạn:

- Kể tiếp đi Âu!

- Sang ngày thứ tư, một chàng trai từ xứ sở xa xôi phi ngựa đến.

Hai tay ôm lấy ngực, Đỗ Quyên nhắm mắt thì thầm:

- Chàng có đẹp trai không, Âu?

- Dĩ nhiên là đẹp rồi. Chàng khôi ngô, tuấn tú không ai bằng.

Chàng xin vào cung để cứu công chúa mà không chịu nhận một nửa giang sơn.

Tôi kêu lên:

- Trời, sao chàng ngu quá vậy?

- Chàng khôn đó chứ. Chàng ra điều kiện là nhà vua phải gả công chúa cho chàng.

Đỗ Quyên đập tay đánh rầm xuống giường:

- Ngốc ơi là ngốc! Cưới làm chi của nợ ấy không biết. Gặp tao, tao chọn điều kiện của vua ban.

Đông Âu tươi cười:

- Lầm rồi, các em ơi! Chàng thông minh nhất xứ. Cưới được công chúa thì cả vương quốc ấy sẽ thuộc về chàng, chứ đâu chỉ một phần hai.

- Nhưng sống với người như thế đâu có hạnh phúc, tao không ham.

- Không đâu, họ rất hạnh phúc. Chàng là tay bản lĩnh nên sau khi trị cái răng, chàng xoay qua “giáo dục” vợ. Kết quả, nàng trở thành hiền phụ.

Tôi thắc mắc:

- Nhưng chàng trị đau răng bằng cách nào chứ?

- Chàng đưa nàng vào một phòng kín, bảo nàng nhắm mắt lại...

Tôi và Đỗ Quyên đều rùng mình, hồi hộp:

- Chi vậy?

- Chàng bảo nàng nhắm mắt, hả miệng rồi nhanh như chớp, chàng rút kềm ra... nhổ răng.

Như tiếng sét nổ giữa trời quang, tôi kinh hoàng ôm lấy Đỗ Quyên:

- Chúa ơi! Khiếp quá!

Đỗ Quyên hỏi dồn:

- Kết cuộc ra sao?

- Đau quá, công chúa ôm chầm lấy chàng. Chàng “phê quá”, liền ôm lại. Hết.

- Lãng òm. A, à... Có phải mày muốn bảo con Ngâu đi nhổ răng phải không?

Tôi vội nằm xuống giường, kéo mền trùm kín mít nhưng Đông Âu tuyên bố:

- Bây giờ, hai đứa tao về, sáng mai tao với Đỗ Quyên sẽ đưa mầy vào bệnh viện để... nhổ răng!

Phòng nha hôm nay rất đông bệnh nhân. Chúng tôi đến sớm, bắt được thẻ số 6. Nhìn những người vào trước khi trở ra đều có vẻ đau khổ tôi phát hoảng đòi về. Đông Âu phải năn nỉ:

- Ráng đi, mai tao dắt đi ăn bún bò Huế.

Tới lượt mình, tôi... liền nhường cho người khác vào. Cứ hết người này đến người nọ, tới khi trong phòng chỉ còn lại bọn tôi. Đông Âu ra lệnh:

- Vô đi!

Tôi níu lấy tay Đỗ Quyên. Nhưng, đúng lúc đó, “một cái đầu lú ra” từ trong phòng nhổ răng:

- Ai nhổ răng? Vô đi!

Đành phải liều, tôi bấm bụng lê bước vào trong.

Chỉ có hai nha sĩ trong ấy. Một ông già, còn một người còn rất trẻ. Hắn chính là “cái đầu lú ra” khi nãy. Vừa sắp xếp lại dụng cụ, anh vừa bảo:

- Ngồi lên ghế đó đi, bé!

Tôi riu ríu vâng lời. Anh đến bên, ra lệnh:

- Hả miệng ra!

Nhớ câu chuyện kể, tôi hỏi:

- Có cần nhắm mắt không, nha sĩ?

Cả hai ông cười vang:

- Không cần lắm!

“Cái đầu lú ra” đến bên tôi, anh đưa tay nâng cằm, khiến tôi run lên bần bật. Thấy vậy, anh trấn an:

- Đừng sợ, tôi chỉ khám xem cái răng đau có nhổ được không?

Chưa bao giờ tôi xấu hổ như lúc nầy, tôi há miệng to hết cỡ.

Tất nhiên, bao nhiêu cây răng đều khoe ra trước mắt anh ta.

- Đây rồi, tốt! Nhổ được!

Nhìn họ chuẩn bị ống chích, kềm, kéo, tôi bật khóc:

- Để mai nhổ được không? Hu, hu...

Cả hai nha sĩ lại nhìn nhau cười. Người lớn tuổi bảo:

- Không sao đâu! Cứ yên tâm. Bây giờ, bé hả miệng rồi… nhắm mắt lại!

Chắc chắn, họ sẽ rút kềm ra và ... nhổ. Tôi khóc. “Cái đầu lú ra” ban nãy dịu dàng bảo:

- Không đau đâu bé. Ráng lên. Nào, hả miệng... nhắm mắt lại!

Có một vật gì đâm mạnh vào chân răng, tôi nhói đau nhưng cảm giác ấy tan biến ngay. Rồi lại có tiếng chân xê dịch, lại nhói lên một tí. Tôi hốt hoảng mở choàng mắt, anh mỉm cười với tôi:

- Sao, bây giờ nhổ nha?

Một tay anh cầm cây kềm xốc xốc tạo nên âm thanh ken két rợn người. Tay kia, anh cầm miếng bông gòn chậm nhè nhẹ vào bên môi phải của tôi. Tôi xiết mạnh... tay ghế! Anh bật cười, nheo mắt:

- Nói đùa chứ nhổ rồi. Cây răng kìa!

Nhìn theo tay anh, quả thật, cây răng sâu nằm chễm chệ trên miếng gòn đặt trên cái mâm dụng cụ. Sờ vào miệng, có tí máu dính ở đầu ngón tay, tôi kêu lên:

- Ôi, hay quá trời! Không đau gì hết!

Tôi quên cả cám ơn, phóng ra cửa khoe với hai nhỏ bạn:

- Xong, thoát nợ, không đau gì hết. Nhổ cả hàm tao cũng cóc sợ!

Nha sĩ bước ra, anh trao cho tôi toa thuốc, dặn dò:

- Ngâu về uống thuốc theo toa, nếu có gì khó khăn, hãy quay vào đây!

Tôi le lưỡi:

- Chắc không có gì đâu. Thôi, xin “vĩnh biệt” nha sĩ!

Cây răng sâu không còn nhưng chỗ nhổ vẫn còn đau đau, cái ê ẩm nhẹ nhàng không đến nỗi khó chịu như trước. Tôi ra thăm vườn hoa của mẹ. Mấy ngày nay, không ai chăm sóc, hoa lá héo rũ đi. Mấy nhánh hoàng anh già cỗi như khoác chiếc áo màu cỏ úa. Khóm hồng nhung chỉ còn vài nụ tí ti. Mấy chậu xương rồng, gai dài tua tủa. Tôi lấy kéo hớt bớt rồi bật cười khi nhớ tới Đỗ Quyên, con bé thường bảo:

- Xương rồng chứ bộ xương sườn sao mà chẳng có gai. Mầy toàn làm chuyện vớ vẩn.

- Bé ơi, bé... có phải đây là nhà của Hương Ngâu không?

Nghe hỏi, tôi quay ra và kinh ngạc kêu lên:

- Ủa... “cái đầu...!” Anh Nha sĩ!

Nhoẻn miệng cười, anh khoe hàm răng đẹp dễ sợ, đều tăm tắp:

- Hương Ngâu!

Tôi chạy ra mở cổng:

- Nha sĩ tìm ai?

- Tìm Hương Ngâu chớ tìm ai nữa?

- Nhưng, Ngâu... đâu có định nhổ răng tại nhà? Mà sao nha sĩ biết địa chỉ hay vậy?

- Tôi tìm trong quyển sổ ghi tên bệnh nhân của phòng nha.

- Tìm Ngâu làm chi?

Anh ấp úng:

- Xem... chỗ nhổ có bị biến chứng không?

Tôi đưa tay lên miệng, lắc đầu:

- Không!

- Vậy thì tốt!

- Sau khi nhổ răng, nha sĩ phải tới nhà bệnh nhân theo dõi biến chứng vậy sao?

- Ồ, không! Ngoại trừ trường hợp đặc biệt.

- Đặc biệt là sao?

Anh nhìn tôi, ánh mắt vừa dịu dàng vừa tinh nghịch:

- Là khi nha sĩ bị bệnh nhân... hớp hồn. Anh ta bị triệu chứng ngơ ngơ, ngẩn ngẩn suốt ngày, thấy ai cũng muốn... nhổ răng.

Tôi cười khúc khích, đưa cây kéo làm vườn ra trước mặt anh:

- Hổng dám nhổ đâu! Hãy xem cây kéo của Ngâu đây!

Anh mỉm cười:

- Không cần của quỉ đó đâu, cô bé. Ánh mắt của Hương Ngâu đủ làm chết người rồi.

Tôi cảm thấy chỗ răng bị nhổ không còn đau nhức nữa nhưng tim lại có “vấn đề”. Hình như tôi đã bị “biến chứng” rồi!

Nguyễn Thị Mây


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 12.11.2016… ...............Vũ Thư Hữu ... 01

Vài chi tiết về một quý thư 121 năm tuổi ...............Vũ Anh Tuấn ... 04

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) .... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch ... 08

Thiên Chúa giáng sinh là một biến cố lịch sử .........Lm. Giuse N. H. Triết ... 14

Giải oan cho Kinh Đại Thừa .................................Tâm Nguyện ... 27

Về một tác phẩm Văn học Nga đương đại .............Thúy Toàn ... 42

Tình Việt nghĩa Hàn ...........................................TĐT - BĐ st. ... 49

Giáo sư, Văn sĩ, Nhạc sĩ Cung Tiến:

Những tình khúc lãng mạn về cố nhân ..............Phạm Vũ ... 57

Duyên phận trời cho .......................................Dương Lêh ... 67

Tết & Tảo mộ .................................. Nhựt Thanh Phạm Hiếu Nghĩa ... 75

Bài học trường đời (thơ) .................................................... Đàm Lan ... 78

Cỏ mềm cho em (nhạc) .................................................. Lê Nguyên ... 79

Góc nhỏ (thơ) ................................................................... Lê Nguyên ... 80

Con đường (thơ) ......................................................... Thúy Toàn dịch ... 80

Nhà mới (thơ) ................................................................ Quang Bỉnh .... 82

Đi máy bay (thơ) .................................................... Quang Bỉnh .... 82

Sách Xưa & Nay (thơ) ............................ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 83

Ngút ngàn xa (thơ) ........................................... Ngàn Phương .... 83

Thiết tha (thơ) ...................................................... Ngàn Phương .... 85

Tình gởi gió mây (thơ) ........................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 85

Tôi muốn là trăng (thơ) ........................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 86

Quen (thơ) ....................................................... Bs.Doanlinh .... 87

An acquaintance (thơ) .......................................... Bs.Doanlinh .... 87

Mong chờ (thơ) ........................................................... Hoài Ly .... 88

Kiếp hoa (thơ) ........................................................ Hoài Ly .... 89

Hoa sứ rụng (thơ) .................................................... Hữu Tuấn ... 89

Phút ban đầu (thơ) ....................................... Vũ Thùy Hương .... 89

Nỗi niềm (thơ) .................................................. Ngô Bá Mạnh .... 90

Khắc ghi (thơ) .................................................... Ngô Bá Mạnh .... 90

Ước ao (thơ) ....................................................... Ngô Bá Mạnh .... 90

Kín miệng (thơ) ................................................. Lang Nguyên .... 91

Điếc & câm (thơ) ............................................ Lang Nguyên .... 91

Tịnh, động (thơ) ............................................. Lam Trần .... 92

Tình thơ (thơ) ......................................................... Phước Hải ... 93

Chữa bệnh (thơ) .............................................. Lê Minh Chử .... 94

Thế giới chơi cờ (thơ) ....................................................................... Lê Minh Chử .... 95

Cà fê đậm đà (thơ) ............................................................................. Quang Bỉnh .... 95

Cây đàn tiên III (thơ) ........................................................................ Thanh Châu .... 96

Cây đàn tiên IV (thơ) ........................................................................ Thanh Châu .... 96

Nhớ mùa thu (thơ) ............................................................................ Vũ Đình Huy .... 97

Recalling the fall (thơ) ............................................................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 98

Tha thứ cho anh (tt) .................................................. Hoài Ly .... 99

Tìm giây phút lạc quan trong tuổi già ................................. Hoàng Kim Thư st .. 105

Sau trận lụt ........................................................ Lam Trần .. 115

Tình yêu của Phùng Chí Tâm ........................ PV. Ngọc Thảo . 118

Chuyện vui văn nghệ ..................................... XT & Đỗ Thiên Thư st. . 120

Truyền thuyết về Đức Phật: Trưởng thành ............... Thanh Châu sưu tập kể . 127

Danh ngôn văn học .................. HĐ - Đào Minh Diệu Xuân st. . 131

Thể dục tại bàn làm việc ................................ Bs. Huỳnh Hải . 139

Điểm sách: Thơ Tình Mùa Thu của Hoài Ly ......................... Hà Mạnh Đoàn . 143

Đẹp ??? ..................................................... Đàm Lan .. 145

Biến chứng .............................................. Nguyễn Thị Mây .. 160

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế