Hiện có 6 người xem / 2338958 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 08/9/2018

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Hôm nay để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã có giới thiệu qua với các thành viên, việc cuốn Truyện Vui Thời @ của ông được xuất bản ở Mỹ và được nhà Amazon rao bán, rồi ông có mời các thành viên xem bìa trước và bìa sau của cuốn sách. Sau đó như thường lệ, ông đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư mà ông mới có. Đây là hai cuốn sách bằng Pháp văn được in rất đẹp và rất m ỹ thuật, một cuốn nói về cuộc đời đại danh họa Delacroix (1798-1863), một danh họa thuộc trường phái lãng mạn (Romantisme), và một cuốn nói về cuộc đời nhà soạn nhạc cổ điển người Đức Beethoven (1770-1827) là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng thế giới. Gặp hai cuốn sách tại một tiệm sách ở ngay trước c ử a nhà, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã mua vì ông thấy sách quá đẹp và quá rẻ, mỗi cuốn chỉ có 100 đô mít, và nhất là vì hai cuốn sách nói về hai con người đã được muôn thuở, sau khi ra đi đã được người đời nhớ và nhắc tới trong hai cuốn sách cực đẹp này. Sách do nhà xuất bản lừng danh Hachette in trên một loại giấy dày và vô cùng đẹp với mỗi cuốn hàng ngàn hình ảnh minh họa đẹp hết chỗ nói. Sau khi giới thiệu xong hai quý thư, Dịch giả Vũ Anh Tuấn cũng giới thiệu qua với các thành viên một cuốn sách cổ nói về đề tài tôn giáo đã được trên ba trăm tuổi mà vẫn rất rõ, rất đẹp, mà ông mới mua được cho Lm. Triết với giá tương đối rẻ, nhờ có chuyện cá cược trong giải bóng đá toàn cầu mới đây.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu mấy cuốn sách xong, anh Phước Hải lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ. Anh Phước Hải ngâm thơ xong, anh Nhựt Thanh lên nói chuyện về các mánh khóe và mưu mẹo trong cách xử thế của các vua chúa thời xưa. Sau anh Nhựt Thanh, anh Quang Bỉnh lên nói chuyện về việc Sư Vạn Hạnh làm cố vấn cho nhà Lý. Tiếp lời anh Quang Bỉnh, anh Phạm Vũ lên nói chuyện về hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Anh Phạm Vũ nói xong, Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên bài “Lưu tình” và một bài thơ khác về Huế. Tiếp lời Thùy Hương, anh Thanh Phong lên đọc tặng các thành viên vài bài thơ yết hậu và bài Tà Áo Văn Quân của Phạm Duy Nhượng. Sau anh Thanh Phong anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên bài Thiên Thai của Văn Cao. Anh Tấn Thuận hát xong, Quan Th ú y Mai lên hát tặng các thành viên bài Lòng Mẹ nhân dịp Lễ Vu Lan. Sau Quan Thúy Mai, thành viên Tuyết lên nói qua về cách uống nước và hát tặng các thành viên bài “Một cõi đi về”. Tuyết hát xong, Kim Sơn lên nói về chuyện đánh ghen và hát tặng các thành viên bài “Gửi gió cho mây ngàn bay”. Cuối cùng, anh Thanh Châu , với tiếng hát át tiếng bom lên hát tặng các thành viên bài “Bông Hồng cài áo” và cuộc họp đã kết thúc lúc 11g15 khi các thành viên vui vẻ chia tay hẹn gặp lại nhau trong kỳ họp tới.

VŨ THƯ HỮU


VÀI DÒNG VỀ MỘT CUỐN SÁCH NHỎ

ĐƯỢC COI NHƯ MỘT KHO VÀNG

CHO NHỮNG AI YÊU THÍCH

ĐẠI VĂN HÀO PHÁP VICTOR HUGO

Tối hôm kia mình bỗng nổi hứng ghé đường sách Nguyễn V ăn Bình, và gặp được cuốn quý thư tí hon này với giá rẻ mạt có đúng 10 đô mít. Cuốn sách nhỏ tí cỡ 10x18, bằng Pháp văn dày 184 trang, mang tựa đề là “Hợp tuyển thi văn của đại văn hào Victor Hugo” (Anthologie de l’oeuvre de Victor Hugo) đã như đập mạnh vào mắt người viết là một người đã yêu thích Victor Hugo từ trên 65 năm trước, khi chưa được 20 tuổi. Năm 18 tuổi và đã biết khá nhiều Pháp văn vì được học trường tây từ lớp mẫu giáo, người viết được cụ thân sinh đưa cho cuốn Những kẻ khốn cùng (Les misérables) bản rút ngắn của nhà xuất bản Fernand Nathan và khuyên nên đọc “vì rất hay”. Người viết đã đọc liên tiếp trong gần ba ngày cuốn sách gần 300 trang với khoảng 30 minh họa màu lớn bé cực đẹp, và bị hoàn toàn chinh phục và hấp dẫn bởi cốt truyện. Thế là người viết xin cụ thân sinh cho mượn bộ nguyên bản dày trên 1200 trang ở trong tủ sách quý to đùng của cụ, để đọc toàn bộ tác phẩm trong g ầ n 3 tuần lễ, và để trở thành một ngư ờ i thực sự yêu quý đại văn hào Victor Hugo. Năm nay khi đã “hết 20 tuổi lần thứ tư +4”, người viết cảm thấy mình vẫn còn có duyên nợ hay duyên may với cụ Victor Hugo khi tình cờ gặp cuốn hợp tuyển này. Trong vòng 60 năm vừa qua, người viết đã có quan tâm t ớ i đại văn hào Pháp này, và đã tìm hiểu khá nhiều về cụ, nhất là đã có một bài viết được phổ biến trên báo và được đưa lên mạng để điều chỉnh một sai lầm, ngay trong sách Pháp, chứ không phải sách Việt về bản chúc thư của nhà đại văn hào (sách Pháp đã đưa bản chúc thư của nhà đại văn hào lên mà lại để thiếu một câu cực kỳ quan trọng trong bản chúc thư rất ngắn đó). Nay gặp cuốn sách nhỏ của một nữ giáo sư, bà Colette MURCIA, được viết dưới sự chỉ dẫn và ki ể m tra của nữ giáo sư Étienne BRUNET thuộc trường Đại Học thành phố NICE. Nội dung cuốn sách là để giới thiệu một hợp tuyển thi văn của nhà đại văn hào, qua tất cả các lãnh vực mà mà ông đã tham dự và viết. Do đó, với một người yêu thích cụ Victor Hugo như người viết, cuốn sách được coi như một kho vàng nhỏ cũng không phải là một chuyện gì quá đáng.

“Yêu là hành động” Cụ viết 2 ngày trước khi qua đời

Xin trân trọng chia sẻ với những ai cũng thích cụ Victor Hugo nội dung cuốn tiểu quý thư này:

Sách được mở đầu bằng 12 trang chứa đựng một l ờ i nói đầu của tác giả Hubert Joly, T ổ ng thư ký Hội Đồng Quốc Tế Ngôn Ngữ Pháp, vài trang giới thiệu tác phẩm của chính nữ tác giả, và phần tiều sử vắn tắt nhưng khá đầ y đủ của nhà đại văn hào. Sau đó sách chứa đựng một hợp tuyển được chia ra làm 5 phần đi xuyên suốt cuộc đời và văn nghiệp của nhà đại văn hào như dưới đây:

Phần 1.- Nói về thi ca

Phần 2.- Nói về tiểu thuyết

Phần 3.- Nói về các bài viết về Chính trị và Triết học

Phần 4.- Nói về các vở Kịch

Phần 5.- Nói về các bài viết cuối đời.

Thật là tuyệt vời, vì nữ giáo sư tác giả đã thật sự đọc kỹ, thật sự suy ngẫm về cuộc đời và văn nghiệp của nhà đại văn hào, và đã giúp cho độc giả của bà một cái nhìn thật thấu đáo, thật minh mẫn, thật công bằng về cuộc đời và văn nghiệp của cụ Hugo. Trong tác phẩm của mình, nữ giáo sư - tác giả đã chọn lựa để giới thiệu các bài thơ, các tiểu thuyết, các bài viết liên quan tới chính trị và triết học, cũng như các vở kịch, và các bài v iết cuối cùng của nhà đại văn hào, mà không phải ai cũng có thể biết và nhất là không thể tìm thấy trong các tự điển văn học của Pháp.

Được có cuốn quý thư trong tay, người viết tự hứa sẽ dành thời gian để hiểu thêm về cụ Victor Hugo, một tác giả mà ông thật sự kính trọng, yêu thích trong suốt trên tám chục năm cuộc đời của mình…

Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI”

VŨ ANH TUẤN

NHỮNG SUY NGHĨ VẨN VƠ

(TẬP 1)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

Bắt đầu từ câu chuyện trong Thánh Kinh: Cain vì ghen tức đã giết em ruột là Abilê ngoài cánh đồng rồi tỉnh bơ về nhà, Đức Chúa mới hỏi: “Em ngươi đâu?”, Cain trả lời: “Con có phải là đứa giữ em đâu?”. Đức Chúa Trời phán: “Máu nó đã kêu lên tới Ta” (St 4,8-11). Cain hết đường chối quanh.

(Gian ác và bất công đã bắt đầu phát triển sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội).

§ “Đánh chết vợ vì giận con mèo”, đây là bi kịch của một gia đình: Chị N. và người chồng sau (chồng trước đã mất vì tai nạn lao động) - Anh đi nhậu về, bắt con mèo chơi, nó chạy mất, anh la lên: “Đến con mèo cũng không thèm chơi với tao”, rồi quay sang mẹ con chị N.: “Mẹ con mày cũng khinh dể tao”, thế là gây sự, vô bếp đập nồi niêu xoong chảo, chị vào ngăn cản, tiện cây anh đập chị túi bụi không nương, cho tới khi chị gục ngã, con vào can anh cũng giáng cho một đòn tét đầu… Hàng xóm láng giềng tới đưa chị đi bệnh viện Bình Dương với nhiều vết thương trên đầu, gáy, lưng và đã không qua khỏi. Kẻ thủ ác đã bị bắt giam… (Hương Cầu, Báo Phụ Nữ 21/4/09).

(Ác ơi là ác! Ai sẽ giải được nỗi oan khiên cho chị N.?)

§ “Mỹ phẩm giả, hậu quả thật” là tựa của một thông tin về mỹ phẩm giả kèm theo là tấm ảnh khuôn mặt của một phụ nữ xinh đẹp khoảng 30 tuổi với những mảng “đốm” đỏ cùng khắp. Với khuôn mặt này chắc chẳng ai dám ra đường hay gặp gỡ bạn bè. Hậu quả của một sự lường gạt trắng trợn, tiền mất tật mang (Nguyễn Cẩm - Báo Phụ Nữ ngày 21/04/2009).

(Bất công này ai sẽ phân xử? Có thể kiện không? Người ta vẫn nói “chờ vạ thì má đã sưng”, kiện tụng khoản này thì cũng chỉ là “con kiến mà kiện củ khoai”! Đáng thương thay những người dân vô tội.)

§ “Cảnh sát giao thông hiểu nhầm biển báo” - Là bài của phóng viên K.T trên báo Thanh Niên ngày 22/4/2009:

Trên quốc lộ 1A qua địa phận Bắc Ninh, biển báo tốc độ tối thiểu 60 km và tối đa 80 km đã bị CSGT hiểu là quá 60 km là vi phạm… Thế là thoải mái phạt dân! Sự thật đã được sáng tỏ và “đích thân ông phó Phòng CSGT đã đứng ra thừa nhận là sai và xin lỗi dân”. Biết bao tài xế đi đúng luật lại bị phạt oan, cụ thể anh Tuấn Anh chạy 69 km bị thổi phạt vì quá tốc độ - Trả lời báo chí, thượng tá Nguyễn Đức Tân, phó Phòng CSGT tỉnh Bắc Ninh đã lên tiếng xin lỗi người dân và cho biết những trường hợp bị phạt oan, nếu còn giữ biên lai sẽ được hoàn lại tiền, nhưng lấy được tiền không phải dễ!

Bức biếm họa của DAD ngay trang nhất vẽ một con đường vòng cung có biển báo 60 km (tối thiểu), 80 km (tối đa), một bàn tay cảnh sát chỉ gậy kiểm soát vào đầu xe du lịch, tài xế há hốc mồm la trời. Phía bên phải xe có một hố sâu những đồng tiền lăn xuống với dòng chữ: “Đã nộp về kho bạc và phân cho các đơn vị khác”. Biếm họa đã nói lên hết nỗi oan dân đen phải chịu. Phạt oan đã vậy, trả lại sao đây?

Với những người không còn giữ biên bản khoản phạt này kể như “toi”. Bây giờ họ mới thắc mắc hỏi thủ tục để đòi tiền, muốn làm thủ tục phải có biên bản, muốn xin lại biên bản thì phải làm thủ tục, phải có xác minh…

(Điều đáng nói là khi người dân đến đòi tiền bị phạt oan, trước trụ sở Phòng CSGT luôn treo biển “Bận họp, không tiếp khách”, nên không đòi được tiền và những thắc mắc của họ cũng không được ai giải đáp).

Luật sư Nguyễn Đăng Quang cho rằng nếu xảy ra sự việc nêu trên, sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy và rất phức tạp trong việc giải quyết quyền lợi người dân, vì phải điều tra thời điểm, số người bị phạt oan, ai chịu trách nhiệm, tiền chi trả lấy từ ngân sách hay từ túi người làm sai? Nếu lấy từ ngân sách chiếu theo luật phải qua nhiều thủ tục phức tạp.

Ông Nguyễn Quang Hòa, Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh Bắc Ninh cho rằng: Lấy ngân sách mà chi là không đơn giản. Cũng theo ông Hòa, thông tư 89 của Bộ Tài chánh hướng dẫn tiền phạt nộp kho bạc sẽ được phân phối cho nhiều đơn vị, trong đó lực lượng Công an được trích 70%, Thanh tra Giao thông 10%, Ban An toàn Giao thông 10%, còn lại các lực lượng khác, như vậy nếu truy thu để trả lại, thì các ngành này cũng phải nộp lại, (nhưng liệu có ai đứng ra truy thu và có cơ quan nào nộp lại không?), khó khăn nhất là số tiền này đã được dùng mua sắm phương tiện, thiết bị rồi…

Luật sư Quang còn nói thêm: Nhà nước chỉ hoàn lại khoản tiền mà người dân bị phạt, còn các thiệt hại khác do việc xử sai thì không thể lấy ngân sách ra mà trả, ấy là chưa kể trường hợp bị bấm lỗ bằng lái, tước giấy phép lái xe thì sẽ giải quyết như thế nào đây?

(Thật là “sai một ly đi một dặm”. Cứ ngồi mà tính thời gian đi lại làm thủ tục, chờ đợi cho tới khi lấy được tiền, tính thế nào về thiệt hại này? Lại còn ngưng trệ công ăn việc làm… sự mệt mỏi thể xác, căng thẳng tinh thần, ảnh hưởng tới công việc và đời sống, thiệt hại này ai bù ai trả? Oan thì có thể giải oan, nhưng bất công thì không thể bù do đó còn “nợ” mãi).

§ Cũng trên báo Thanh Niên ngày 22/04/2009, bài “Vụ chữa bách bệnh bằng… chưởng” của Vũ Phương Thảo, thuốc của “thầy” Tám có độc tính cao.

Cụ thể có dùng cây vòi voi, theo bác sĩ Lê Thân - Bệnh viện Y học Cổ truyền tỉnh Quảng Nam: nếu dùng cây vòi voi để sắc nước uống như cách “thầy” Tám thì cực kỳ nguy hiểm. Đây là loại cây mọc hoang ở nhiều nơi, có độc tính cao đối với gan, gây đau bụng tiêu chảy, xuất huyết lan tỏa và có thể gây ung thư!

(Một việc làm tổn hại tới sức khỏe con người, tệ hơn nữa nguy hiểm đến tính mạng, thì làm sao bồi thường? Oan nghiệt và bất công sẽ còn mãi).

§ Báo Thanh Niên 21/04/2009: “Một công dân đòi bồi thường 1,8 tỉ đồng” (Hoàng Tuấn):

Ông Nguyễn Văn Tuấn sinh 1967, ngụ tại Suối Cát, Xuân Lộc, Đồng Nai, làm đơn gửi TAND tỉnh Đồng Nai đòi bồi thường oan sai trong thời gian 3 năm 6 tháng với số tiền 1,8 tỉ. Trong quá trình làm ăn, có vay mượn dẫn đến tranh chấp dân sự - Ngày 21/04/2004, Công an Đồng Nai khởi tố bắt giam ông Tuấn về hành vi “lừa đảo, chiếm đoạt tài sản”, đồng thời kê biên toàn bộ cơ sở kinh doanh xe gắn máy, làm mọi việc buôn bán bị tê liệt. Ngày 20/04/2006, Tòa án Đồng Nai tuyên phạt 10 năm tù giam, nhưng trong phiên xử phúc thẩm TAND tối cao tại Tp.HCM tuyên hủy án, đến 18/2/2009 Viện KSND tỉnh Đồng Nai đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bị can vì cho rằng “chỉ là tranh chấp dân sự”. Trong hơn 1,8 tỉ đòi bồi thường, ông Tuấn cho biết có hơn 100 triệu đồng bồi thường danh dự do phải ngồi tù oan, và 1,6 tỉ do 4 năm cơ sở bị kê biên!

(Lời bàn: liệu 100 triệu có bồi thường cân xứng được danh dự một con người, với tội danh “lừa đảo, chiếm đoạt tài sản”, cùng với những thiệt hại thể xác, tinh thần trong 3 năm 6 tháng ngồi tù không? Người ta thường nói “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, vậy 3 năm 6 tháng vị chi 1.275 ngày, thì bằng 1.275.000 năm! Bạn nghĩ sao về sự công bằng?).

§ “Đâm nhầm” là một thông tin trên báo Công An 23/04/2009:

Chuyện xảy ra ở thị xã Pleiku, giữa hai nhóm thanh niên có chút mâu thuẫn với nhau rồi cự cãi, ẩu đả, một nhóm yếu thế rút lui nhưng sau đó thêm “vũ khí, quân số”, kéo lên quán Ấn Tượng gặp mấy thanh niên đang ngồi uống cà phê, thế là nhóm này kéo vào chất vấn, rồi đâm chém loạn xạ. Kết quả: 1 thanh niên gục ngã chết tại chỗ, 1 chết trên đường đi cấp cứu, nghiệt ngã thay 2 bạn trẻ này chỉ là khách cà phê, chẳng ân oán với ai, cũng không hề biết băng nhóm này - Ngay hôm đó những kẻ thủ ác đã bị bắt và đang chờ đối mặt với tòa án. Thế nhưng giả như có “tử hình” kẻ ác thì hai bạn trẻ này cũng không thể được “bồi thường” sự sống! Còn bao nỗi đau của cha mẹ, anh chị em, vợ con họ (nếu có)! Còn một tương lai đóng góp công sức xây dựng gia đình và xã hội ở phía trước…

(Oan nghiệt mãi mãi oan nghiệt không thể giải!)

§ “Mua 5 giạ gạo phải trả 9 công ruộng” - Đó là bài tường thuật vấn đề nhức nhối: vay lãi cắt cổ. Bài của Gia Bách trên báo Thanh Niên ngày 25/4/2009:

Những vụ mùa thất bát khiến nông dân ở vùng U Minh lâm cảnh khốn cùng. Lợi dụng tình thế, ông Trưởng ấp đứng ra bán chịu gạo rồi tính lãi “trên trời”. Tại ấp 12 xã Nguyễn Phích (U Minh, Cà Mau), bà Nguyễn Thị Xê kể: “Năm 1999 tôi mua chịu của ông Dư Hoàng Tuấn (Trưởng ấp 12) 5 giạ gạo và 1 bao phân giá gốc khoảng 500.000 đồng, đến năm 2005 ông Tuấn đến báo tôi đã thiếu 10,4 triệu rồi ra điều kiện: nếu không có tiền trả thì tiếp tục tính lãi, còn nếu giao 9 công đất thì không tính lãi nữa, chừng nào tôi có đủ tiền trả thì chuộc lại đất, giờ gia đình tôi không mảnh ruộng, phải chạy gạo từng bữa”.

Anh Út con bà Xê tiếp lời mẹ: “Đau đớn là khi gia đình tôi hỏi thuê lại đất của mình để làm ruộng trả nợ thì ông Tuấn nói: phải đong lúa mặt 20 giạ thì mới cho thuê”.

Không riêng bà Xê, ấp 12 còn có hai trường hợp mua gạo thiếu phải trả đất cho ông Trưởng ấp. Trường hợp ông Lê Bu Gi, ông mua thiếu của ông Tuấn 250.000 đồng tiền gạo. Sau đó ông trả 5 giạ lúa, 50 đôi đũa và đào 1,5 công đất nhưng cuối cùng vẫn còn nợ ông Tuấn 4 triệu đồng. Quá bức xúc, ông Gi nhờ Chính quyền địa phương can thiệp thì được ông Nguyễn Hoàng Rắt, Chủ tịch UBND xã thờ ơ nói: “Vợ chồng ông Tuấn có cho vay đó, nhưng cho vay làm ăn chứ có gì đâu? Vay mà không trả người ta giờ tính xù, giật hay gì?”

(Trước cảnh “người bóc lột người” này, dân nghèo chỉ còn biết kêu Trời!)

§ “70-90% đàn ông có vợ vẫn ăn vụng” - Bài của L.Anh trên báo Tuổi Trẻ ngày 18/04/2009.

“Thực tế cuộc sống mới và đa dạng khiến chuẩn mực xã hội trở thành chiếc khuôn đã chật” - nhận định của bà Khuất Thu Hồng, đồng Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội, và là người chủ trì hội thảo quốc tế “Sự trong sáng và tình dục, mâu thuẫn giữa chuẩn mực xã hội và thực tế”, diễn ra tại Hà Nội từ 16 đến 18/4/2009. Theo nghiên cứu về hành vi tính dục ở nam giới: tỷ lệ nam giới đã kết hôn có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân có thể lên đến 70-90%… bia, rượu là tác nhân “đầu mối”, có tới 90% các ông tìm đến gái mãi dâm sau khi uống rượu, bia. Liệu có bất công không khi các ông chồng không bao giờ chấp nhận vợ có hành vi “bay bướm” dù chỉ một chút thôi?

(Lại bất công, lại oan nghiệt - “Đau đớn thay phận đàn bà”).

§ “Đẫm máu ở New York”, bài của Đỗ Hùng trên báo Thanh Niên ngày 05/4/2009 - Một vụ bắn giết kinh hoàng vừa xảy ra tại thành phố Binghamton, bang New York (Mỹ).

Trưa ngày 03/4/2009, một sát thủ xuất hiện với khẩu súng trên tay, bắn loạn xạ làm nhiều người chết, nhiều người khác bị thương. 60 phút sau cảnh sát mới làm chủ hiện trường, một người đàn ông nằm chết với 2 khẩu súng, vai đeo túi đựng nhiều đạn và thêm 1 con dao trong người, có mang căn cước với tên Jiverly Voong, 42 tuổi, nạn nhân là những học viên một lớp dạy tiếng Anh cho dân nhập cư từ nhiều quốc gia. Giấc mơ được sống và làm việc trên đất Mỹ đã tan theo sau những loạt đạn chết chóc, để lại nỗi đau cho biết bao gia đình, người thân…

(Chuyện giết chóc vô cớ, hàng loạt cũng xảy ra không hiếm tại Mỹ, Đức và nhiều nước khác. Ai sẽ giải được nỗi oan này?)

§ Bài tường thuật của Vũ Toàn trên báo Tuổi Trẻ ngày 10/11/2008, về trường hợp vợ chồng anh Thái, ngụ tại thôn 4 Lý Bắc, xã Thăng Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Không ai ngờ câu chuyện buồn “Cái đêm hôm ấy là đêm gì?” của nhà văn quá cố Phùng Gia Lộc viết năm 1983, từ một làng nhỏ bên bờ sông Chu, xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa - nay tái diễn tại một làng quê cũng thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Tháng 3/2003, chị Nguyễn Thị Dương, 30 tuổi, vợ anh Mai Công Thái sinh con thứ 3, ngay sau đó họ bị phạt 200kg thóc (quy thành tiền là 500.000 đồng), theo quy định của UBND xã Thăng Bình, cộng với số thuế 4 vụ (mỗi vụ góp 17 khoản thuế tại địa phương), thì tổng cộng nợ là 2.426.440 đồng. Gia đình anh Thái thuộc hộ nghèo chỉ có 1,3 sào ruộng, vụ nào được mùa thì có 3 tạ thóc, mất mùa chỉ 1,2 tạ. Trong khi đó một vụ 6 tháng phải có 4,8 tạ mới đủ ăn, anh Thái phải vào Nam làm thợ hồ mới đủ chi dùng trong nhà, còn vợ anh Thái kể: “Cũng phải cố làm trả dần chứ để cán bộ bắc loa gọi tên nhục lắm”. Giấy xin trả nợ dần của gia đình anh Thái không được xã chấp nhận, sau nhiều lần nghe loa nhắc tên gắt quá, chị Thái lên xã nộp khoản thuế trước, còn tiền phạt sinh con thứ 3 chờ chồng đem tiền về trả, nhưng xã không chịu bắt trả đủ. Chị Dương nhớ lại: Bất ngờ sáng 01/11/2004, tôi đi chợ về thấy đoàn cán bộ 13 người do ông Nguyễn Thanh Tùng, Phó Chủ tịch xã (nay là Chủ tịch) làm Trưởng đoàn, ông Vũ Hữu Nghĩa - Trưởng ban chính sách kiêm kế toán ngân sách xã (nay bị kỷ luật do bị phát hiện chế độ thương binh giả) dẫn đầu đoàn đứng chật hai gian nhà cấp 4. Ông Tùng tuyên bố: “Hôm nay chúng tôi đến tịch thu tài sản”, chị Dương ôm con van lạy xin khất, ông Tùng gắt: “Không được, hôm nay không dây dưa nữa, không có tiền nộp thì lấy tài sản, trong nhà có gì thì thu cái đó”. Chị vội van xin rồi chạy xuống nội vay tiền, nhưng nội cũng nghèo chẳng có gì để giúp, 30 phút sau chị về nhà thấy cảnh tan hoang, TV trong buồng, con lợn nái trong chuồng không còn nữa… “Tôi vội vào buồng tìm sợi dây chuyền 3 chỉ vàng (kỷ vật duy nhất bố mẹ cho ngày cưới) và 350.000 đồng để trong hộp dưới TV, nhưng cả hai đã biến mất”.

Ngày 05/11/2008 (sau 4 năm), ông Tùng - Chủ tịch UBND xã Thăng Bình tiếp xúc với PV báo Tuổi Trẻ đã thừa nhận: “Trong quá trình cưỡng chế để thu nợ, đoàn công tác của xã có một số sai sót. Sau đó chúng tôi được ông cán bộ Ủy ban mở tủ cho xem chiếc TV 21 inch đang niêm phong trong góc tủ. Sang nhà ông bảo vệ Ủy ban thấy con lợn nái, người nhà ông bảo vệ cho biết: “Lợn nặng khoảng 60 kg, đã đẻ 8 lứa (mỗi năm 2 lứa), còn mỗi lứa lợn mẹ đẻ được bao nhiêu con thì không nhớ rõ”.

Ngày 06/11/2008, làm việc với phóng viên báo Tuổi Trẻ, ông Trần Văn Tâm, Chủ tịch UBND huyện Nông Cống thừa nhận: “Cách cưỡng chế để thu nợ của UBND xã Thăng Bình đối với vợ chồng anh Thái là rất bậy bạ. Ngay sau đó chúng tôi đã kỷ luật và cảnh cáo ông Tùng và các cán bộ liên quan… Sắp tới UBND xã Thăng Bình sẽ trả lại TV và con heo cho anh Thái, anh Thái có nghĩa vụ trả nợ thuế cho xã, chưa đủ tiền thì trả dần”.

Cũng tại xã này còn vụ các đời Chủ tịch đua nhau bán đất.

Ông Hoàng Sỹ Dần, 72 tuổi, nguyên cán bộ quân đội ở xã Thăng Bình bức xúc kể: “Thật khó hiểu nổi vì sao mỗi nhiệm kỳ làm Chủ tịch xã Thăng Bình, là các ông ấy lần lượt xẻ đất bán vô tội vạ… người dân kẻ nộp tiền vào kho bạc, người nộp cho Chủ tịch UBND xã, người nộp cho cán bộ địa chính, họ nộp đã 3 năm nay nhưng vẫn không làm bìa đỏ, chưa được cắt đất…”. Ông Đỗ Công Tiến, trú tại thôn 9, đưa giấy thu tiền nói: “Tôi mua lô đất 80m2 giá 26 triệu, nộp tiền đã 3 năm vẫn không có sổ đỏ, vì huyện khẳng định bán đất như vậy là sai quy định”. Anh Ngọc Văn Triều, thôn 13 nêu chuyện tương tự: “Tháng 7/2008, tôi nộp 52 triệu cho Phòng Địa chính xã, mua 160 m2, nay nghe nói xã gặp trục trặc phải chờ huyện về giải quyết mới cấp đất”. Ông Lê Xuân Ẩm, 70 tuổi, đau xót không kém: “Nhà tôi vay tiền nộp từ 2005 tới nay vẫn chưa biết đất mình nằm ở đâu, mới đây lên hỏi, ông Tùng nói số tiền xã tiêu mất rồi, xã sẽ thu khoản khác nộp huyện mới cho cắt đất”. Ông Tùng thừa nhận: “Ông Lê Xuân Thám trong 10 năm làm Chủ tịch xã (1993-2003) có bán 166 suất đất theo nghị quyết của Đảng ủy xã, đến nay số hộ mua đất chưa làm sổ đỏ. Sau đó ông Thám làm Bí thư, ông Mai Công Tuấn làm Chủ tịch UBND xã, bán 32 suất, số đất này chưa cấp cho dân trước khi ông Tuấn bị kỷ luật thì đã bán tiếp 73 suất đất nữa”.

(Lời bàn: Ôi những oan sai, những bất công này, những thiệt hại này ai sẽ giải đây? Chúng ta vẫn phê phán chế độ phong kiến xưa “cướp đêm là trộm, cướp ngày là quan”, những ông quan này là gì đây? Đúng là “quan quyền bách hại con vô cớ, nhưng lòng này sợ lời Chúa mà thôi” (Tv 119,161)).

(còn tiếp)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)

HÃY TRẢ LẠI CÔNG BẰNG

CHO ĐẠI THỪA

(tiếp theo số 148)

5. VỀ HÌNH THỨC TU HÀNH:

Bên Phật Giáo Nguyên Thủy thì giữ nguyên hình thức ngày xưa của Sư Tăng, nên cho là người muốn tu hành nhất định phải Xuất Gia, phải độc thân, Đắp Y, Đầu tròn, áo vuông, giữ hàng mấy trăm Giới. Thiếu những điều này thì không được gọi là Tu Sĩ. Đa phần họ chú trọng hình tướng. Không biết đến cái Tâm. Không biết Chúng Sinh để Điều phục. Họ hoàn toàn không tham gia việc đời, vì chê đời là ô trược. Họ cũng học các bài vở giống như bên Đại Thừa, cũng là Giới, Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế... Nhưng Quả Vị cao nhất của bên này là A LA HÁN. Người cho rằng Đắc Quả A La Hán là nhờ Chứng CÁC PHÁP ĐỀU KHÔNG. Họ dừng ở đó và thấy mình đã Chứng Niết Bàn rồi.

Trong khi đó, bên Đại Thừa thì cho rằng “Tu Phật là Tu Tâm” Thiện, Ác đều do cái Tâm điều khiển, nên không chú trọng đến hình tướng, nơi ở. Không phân biệt giới tính, trẻ, già, giàu, nghèo, tuổi tác. Chỉ cần biết được cái VỌNG TÂM là nguyên nhân của mọi nỗi Khổ, của Tội, Nghiệp mà điều phục để cho nó quay lại với cái Tâm thanh tịnh từ vô thỉ gọi là CHÂN TÂM thì sẽ được Giải Thoát hay Thành Phật. Thành Phật không phải là thành Thần Linh, không có quyền phép cứu độ cho ai. Bồ Tát, Phật không phải là những vị Thần Linh mà Đức Thích Ca bày ra để con người tôn thờ, cầu xin, mà nói về những hoạt động trong nội tâm của mỗi người.

Tại sao phải Điều Phục hay chuyển hóa Chúng Sinh? Đại Thừa cho rằng trong Tâm của mỗi người không bao giờ thuần thiện hoặc thuần ác, mà Thiện, Ác đan xen. Tư tưởng Ác gọi là Phàm, Thiện gọi là Thánh, nên gọi là Phàm Thánh đồng cư. Khi đối cảnh thì sẽ tùy thuận hợp với ta hay không mà khởi lên những tư tưởng. Nếu có tư tưởng độc ác, đố kỵ, toan tính hại người, gọi là Chúng Sinh hiện lên, thì trong mỗi người cái Thiện cũng xuất hiện làm nảy lên một sự thuyết phục, khuyên giải, cho Chúng Sinh nghe theo mà ngưng không để hành động ác diễn ra. Tư tưởng can thiệp, nhắc nhở để đừng làm quấy Đức Thích Ca gọi là Bồ Tát. Vì vậy Ngài đặt ra nhiều Bồ Tát như: Quán Thế Âm, là vị chuyên lắng nghe những khởi động trong Tâm để kịp thời cứu độ. Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng chuyên cứu độ Chúng Sinh. Phải “Độ” cho hết Chúng Sinh thì nhiệm vụ của Ngài mới hoàn tất nên có lời thệ nguyện: “Ngày nào còn một Chúng Sinh chưa được độ, con thề không ngồi vào ngôi Vô Thượng Chánh Giác”.

Chúng Sinh là những tư tưởng xấu trong Tâm, nên Chư Bồ Tát cũng ở trong Tâm. Mỗi lần “Độ” được một Chúng Sinh cho nó hết khổ thì nó đã được Giải Thoát hay Thành Phật, nên gọi là “Cúng Dường một vị Phật”. Khi Độ hết Chúng Sinh thì gọi là Nước Phật được hoàn thành.

Tây Phương Cực Lạc hay Đông Phương Tịnh Quốc cũng không phải để nói về các Quốc Độ của Phật nào bên ngoài, mà nói về Nước Phật trong Tâm của mỗi người. Tả Tây Phương Cực Lạc cách xa trái đất 18.000 dặm thì Lục Tổ giải thích: 10.000 dặm là Thập Thiện. Bỏ Thập Ác, hành Thập Thiện là đi được 10.000 dặm. 8.000 dặm là Bát Tà. Bỏ Bát Tà là đi được 8.000 dặm nữa tức là đến được Tây Phương Cực Lạc. Tất cả Cõi Phật, Niết Bàn, đều diễn ra nơi nội tâm của mỗi người tu, không phải ở bên ngoài.

6. VỀ QUẢ VỊ

Mục đích Tu Phật là để Thành Phật. Vì thế, Quả Vị bên Đại Thừa là Giải Thoát hay Thành Phật, vì “con cha phải nối nghiệp cha”. Lẽ nào cha là Phật mà con là A La Hán? Người đắc quả A La Hán là người thấy các Pháp là KHÔNG. Họ không nghĩ đến các Pháp nên được cái Tâm trống rỗng. Như thế họ cho là đã được Niết Bàn. Do họ không học hết Phật Pháp, dừng ở nửa chừng, nên không biết rằng sở dĩ buổi đầu Đức Thích Ca giảng về Pháp Không. Nói rằng các Pháp vốn dĩ là KHÔNG, là để đối trị với Phàm Phu cho rằng các Pháp là thật Có. Vì thấy các Pháp là Có nên tranh giành, tàn sát lẫn nhau để chiếm đoạt làm cho cuộc đời thêm rối loạn. Mục đích việc cho rằng các Pháp là Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, là để chỉ rõ các Pháp vốn không trường tồn, để con người thấy vậy mà thôi không còn đắm nhiễm vào các Pháp, sẽ không còn bị các Pháp làm Khổ nữa. Người Thoát được các Pháp sẽ ung dung sống giữa sự sanh, diệt, còn, mất của nó mà không động tâm nữa

Người có cái nhìn các Pháp như nó vốn vậy gọi là “Như Thị”. Người đối Pháp mà không bị động, các Pháp đến, đi vẫn an nhiên gọi là NHƯ LAI. Như Lai không phải là PHẬT TỔ NHƯ LAI uy quyền trùm khắp như nhiều hàng Nhị Thừa đã tạc tượng để thờ.

Sự Thoát Pháp của người tu Phật được ví như HOA SEN, sinh ra, lớn lên trong bùn mà vẫn không bị bùn làm cho ô nhiễm mà Phật lấy đó làm biểu tượng cho Đạo của Ngài. Đó cũng là lý do khi Đức Thích Ca cầm Cành Hoa Sen đưa lên mà Ngài Ca Diếp mỉm cười rồi được Truyền Y Bát, vì Ngài Ca Diếp biết rằng dù Đức Thích Ca nói đủ thứ, nào Quả Vị, nào Thánh, nào Bồ Tát, Phật, 32 Tướng Tốt của Phật, Cõi Phật A Di Đà v.v... cũng chỉ là phương tiện để người đang mê đắm trần cảnh, đang bị nó hành hạ, làm Khổ, nghe vậy ham thích rồi phát tâm tu hành để cuối cùng vươn lên khỏi phiền não được như Hoa Sen vươn lên khỏi bùn, được hoàn toàn Giải Thoát. Thế thôi. Chẳng có Quả Vị nào để Đắc, để Chứng. Chẳng có Thánh, Phật nào để thành hết! Vì thế chúng ta có nghe câu: “Tu vô Tu, Chứng vô Chứng”, hay “Đắc cái Vô Sở Đắc”. Kinh Duy Ma Cật viết: “Trong Phật Pháp, người có Chứng Đắc là kẻ Tăng Thượng Mạn” là như thế.

7. ÁP DỤNG ĐẠO PHẬT VÀO CUỘC SỐNG:

Người cho rằng CÁC PHÁP LÀ KHÔNG là không thực tế. Nếu các Pháp thật sự là KHÔNG lẽ ra không có cả Mình. Tại sao lại Có cả thế giới với mọi người mà ta cho là ô trược? Nếu Các Pháp là KHÔNG tại sao phải tu hành, phải vô Chùa, phải mặc áo, ăn cơm, giữ hàng mấy trăm Giới, có Quả Vị phải đạt tới? Có Phật để ngày mấy thời khói hương tụng niệm? Như vậy rõ ràng là Nói KHÔNG mà Hành CÓ! Đó là mâu thuẫn, vì nói khác mà hành khác.

Người tu theo Đại Thừa không sống trong Không. Không cho các Pháp là Không, mà cho rằng các Pháp “Không phải CÓ, không phải KHÔNG, mà cũng CÓ, cũng Không”. Vì sao nói như thế? Là vì dù rằng cuối cùng các Pháp sẽ về KHÔNG, nhưng nói rằng Không sao đang CÓ? Còn nếu nói CÓ sao không tồn tại mãi? Vì thế, họ chấp nhận các Pháp hiện tại đang TẠM CÓ, để SỐNG TRONG TRUNG ĐẠO, hành xử với các Pháp mà không Chấp lấy nó, nhờ vậy mà được Giải Thoát.

Họ cũng phải Xuất Gia, Cạo Tóc, Đắp Y, Cất Chùa, Tạc Tượng Phật. Nhưng không cần thực hiện những điều đó trên hình tướng, mà thực hiện theo đúng Ý nghĩa: XUẤT GIA là RA KHỎI NHÀ LỬA TAM GIỚI. CẠO TÓC là CẠO SẠCH PHIỀN NÃO. ĐẮP Y là trùm phủ lên Thân, Tâm một màu thanh tịnh của Đạo Pháp. GIỮ GIỚI là giữ Thân, Tâm ngay ngắn, và không vi phạm của người. CẤT CHÙA là biến Đất Tâm từ bất tịnh trở thành THANH TỊNH ĐỊA. TẠC TƯỢNG PHẬT bằng cách dùng những Hạnh mà Phật đã làm rồi hành theo, để hoàn thành Tượng Phật của chính mình. Phật đó là Vô Tướng, hình thành bằng những cái Hạnh, ở nơi Tâm của mỗi người, không phải là dùng xi măng để đúc, hay lấy gỗ, đá rồi chạm khắc, đục đẽo mà thành!

Đạo Phật không phải chỉ gói gọn sau cánh cửa Chùa, trái lại phải phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi người, để tất cả đều được Giải Thoát. Người tu còn được dạy sau khi hành xong cho mình thì phải đền TỨ ÂN. Gồm có: Ân Phụ mẫu. Ân Đất nước. Ân Phật, Ân Thầy và Ân Chúng sinh. Do đó chỉ những người vẫn tiếp tục sống tại thế gian như một người bình thường, chỉ tu sửa Thân, Tâm, mới có thể đền đáp đầy đủ được TỨ ÂN. Đền ÂN PHỤ MẪU bằng cách phụng dưỡng hiếu thuận với cha mẹ, ông bà. Đền Ân Phật, Ân Thầy bằng cách phổ biến Đạo Pháp để tất cả đều được Thoát Khổ gọi là “Mồi ngọn Vô tận Đăng”. Đền Ân Đất nước, Chúng sinh bằng cách đóng góp công sức của mình để xây dựng đất nước. Trả Ân Đất nước đã bảo dưỡng mình và mọi người đã cung cấp thực phẩm, vật dụng để cái Thân của mình được tồn tại, mà nếu có đọc cách tạo ra 32 Tướng Tốt của Phật ta sẽ thấy rõ từng Tướng được hình thành bằng những việc cư xử với mọi người. Người Xuất Gia, vô Chùa thì chỉ báo đền được Ân Phật, còn mấy Ân kia tính sao? Chính vì thế gian có nhiều ràng buộc, đau khổ nên nới cần Giải Thoát. Vô Chùa đâu còn gì ràng buộc thì cầu Giải Thoát làm chi? Do vậy mà Lục Tổ Huệ Năng có Kệ: “Phật Pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác. Ly thế mịch Bồ Đề. Cáp như cầm thố giác”. Phải ở tại thế gian là nơi ràng buộc mới cần Giải Thoát. Rời thế gian mà đi tìm Giải Thoát thì cũng giống như người đi tìm sừng thỏ. Giải Thoát là phải ở ngay trong cảnh Khổ mà không bị cái Khổ hành hạ. Vô Chùa, xây tường rào ngăn che với người đời. Không tiếp xúc với các Pháp là tránh Pháp, né Pháp đâu phải Thoát Pháp?

Cả Đại Thừa và Phật Giáo Nguyên Thủy đều cho rằng Phật không phải là Thần Linh, chỉ là một người bình thường như tất cả mọi người, chỉ cần đoạn trừ lậu hoặc, phiền não mà Chứng Đắc. Kinh Viên Giác cũng có Kệ:

“Những người đoạn Thương, Ghét.

Cùng với Tham, Sân, Si.

Chẳng cần tu gì khác.

Cũng đều đặng Thành Phật”.

Như vậy, Thành Phật chỉ là kết quả của việc đoạn trừ những Pháp Thương, Ghét, Tham, Sân, Si... thì làm sao có thể trở thành Thần Linh để phù hộ cho mọi người? Vậy thì ta nghĩ sao khi mọi người hô hào nhau đúc tượng Phật cho to, rồi hương khói cầu xin Ngài ban cho đất nước mưa thuận gió hòa, không phải chiến tranh, tai ách, được Hòa Bình, Thịnh Vượng? Cầu An cho ông bà, cha mẹ khi sống, và Cầu Siêu lúc qua đời? Nếu Phật là Thần Linh, sẵn sàng đáp ứng những lời cầu xin thì Ngài còn dạy NHÂN QUẢ để làm gì? Do đó, Kinh dạy những người Thờ Phật là những người theo Tà Đạo, không phải Chánh Đạo. Đó là Thần Quyền, là mê tín, không phải là Đạo Phật chân chánh.

Hiểu cho đúng thì TU là SỬA. Do vậy ở đâu, ăn mặc như thế nào mà chẳng tu được? Hơn nữa, vô Chùa, bỏ hết mọi việc đời, không đóng góp công sức cho xã hội là đã phí phạm cuộc đời rồi. Lại thọ dụng của bá tánh từ hạt gạo, chén thuốc, cho tới xây cất Chùa Chiền hoành tráng tốn kém biết bao nhiêu tiền bạc của mọi người, trong khi “Ông tu, ông đắc. Bà tu, bà đắc”? Như vậy món nợ áo cơm đó trả kiếp nào cho xong? Việc bỏ gia đình, không làm ăn, chỉ lo tu hành, mọi thứ đều do thí chủ cung cấp, là do Đức Thích Ca bày ra. Nhưng điều đó chỉ đúng vào thời buổi đầu thành lập Tăng Đoàn. Do thời xưa chữ viết chưa có. Tăng Đoàn thì còn non trẻ. Cần phải tập trung, học thuộc lòng lời Phật dạy để mai sau phổ biến, gọi là Khẩu Truyền, nên Đức Thích Ca không cho họ làm gì, chỉ chuyên tâm nghe pháp, học thuộc và ghi nhớ.

Trải qua gần 3.000 năm, Kinh sách đã in đầy đủ lời Phật, thậm chí còn nhiều đến nỗi được gọi là “Thiên Kinh Vạn Quyển”. Muốn tham khảo thì ở đâu cũng có. Cần gì phải học thuộc lòng mà phải bỏ hết việc đời? Do vậy mà việc bỏ đời để tu hành, không tham gia việc đời trở thành phí phạm tài năng, sức lực của con người lẽ ra dùng để xây dựng đất nước. Người chủ xướng và duy trì việc đó rõ ràng chưa học hết Giáo Lý của Đạo Phật. Cứ kêu gọi bá tánh Quy Y cho đông, “Y Kinh giải nghĩa” bàn sâu, tán rộng lời Phật làm cho nhiều người ngưỡng mộ Phật rồi thấy là mình đang Hoằng Dương Chánh Pháp, không biết là trong Đạo Phật chân chánh, người muốn Giảng Pháp phải là người đã Chứng Đắc. Tổ Đạt Ma dạy: “Nếu chưa Thấy Tánh mà nói Pháp thì là ma nói”! Đó là lý do trong Đạo Phật có việc Truyền Y Bát, vì không phải bất cứ ai, nếu học thuộc bài thì có quyền mang lời Phật ra giảng!

Đạo Phật đã được giảng dạy suốt từ khi Phật nhập diệt đến nay, bởi rất nhiều Giảng Sư. Ngoài Chư Tổ Chứng Đắc, Đệ tử các Ngài, thì có vô số những nhánh tu hành khác. Mỗi nhóm, mỗi người đều theo Kiến Giải của mình để khuếch trương Đạo Phật và sinh sống bằng sự Cúng Dường của bá tánh. Tất cả Tu Sĩ đều sống đời độc thân và dùng hình tướng của Đệ Tử Phật ngày xưa. Dù vậy, chúng ta cũng dễ dàng phân biệt thế nào là Đạo Phật theo Chánh Pháp. Người “Y Kinh giải nghĩa” thì cứ vọng ra ngoài. Kinh viết có bao nhiêu Phật, Bồ Tát thì theo đó mà tạc tượng cho to, Cất Chùa cho lớn rồi ngày mấy thời hương khói cầu xin, làm hao tổn tiền bạc của bá tánh, một cách vô ích. Đó là những người “hành tà đạo” mà kinh Kim Cang đã chỉ rõ. Bởi Phật đâu có phải Thần Linh để chứng giám và ban cho ta những điều ta cầu xin? Đạo Phật theo Chánh Pháp không chú trọng hình tướng, vì cho rằng “Tu Phật là Tu Tâm”. Chỉ cần tìm cho ra cái Vọng Tâm rồi Tu Sửa, Cất Chùa, Độ Sinh ở đó, để cái Tâm được thanh tịnh, an lạc. Không cầu xin, nương tựa, mà Tự Độ.

Đạo Phật sở dĩ được mở ra là vì con người, để đưa con người Thoát Khổ. Chỉ cần ai biết sợ Khổ mà tìm đến với Đạo Phật đều được độ, đâu cần phân biệt Nam, Nữ, trong Chùa hay ngoài Chùa. Độc thân hay có gia đình? Đạo Phật “Độ” mọi người bằng Giáo Pháp, tức là những gì Đức Phật đã phân tích, giảng giải, người nào tin theo đó mà hành trì thì sẽ được “Thoát Khổ”. Không phải do hương khói cầu xin rồi Chư Phật, Chư Bồ Tát sẽ cứu khổ cứu nạn cho. Đó là sự khác nhau giữa Chánh Pháp và Tà Pháp, vì Nếu Phật cứu được cho bá tánh, thì Ngài không cần dạy Nhân Quả nữa! Tu Sĩ là người tự hành trì để chuyển hóa cái Tâm của mình. Cho nên, không phải hình tướng trang nghiêm, ăn Chay, giữ mấy trăm Giới kiên cố mà đã được thanh tịnh. Không phải có gia đình là mất thanh tịnh. Có gia đình, mà không Tà Dâm, mà giữ cho cái Tâm thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật viết: “Trực Tâm là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, Chúng Sinh không dua vạy sinh sang nước đó”. Và: “Bồ Tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh nên làm cho Tâm thanh tịnh. Tùy chỗ Tâm thanh tịnh mà Cõi Phật được thanh tịnh”. Độc thân, Ăn Chay, nhưng thiếu Giới, thiếu Hạnh, Tâm bất tịnh, không học hỏi Giáo Pháp cho đúng Chánh Pháp thì liệu có ích gì cho Đạo, cho con đường tu hành? Cũng không phải Phật Giáo Nguyên Thủy do vị Tổ đầu tiên chưa Đắc Pháp, Tổ bên Đại Thừa chính thức nối truyền Chánh Pháp, nên tất cả những người theo Đại Thừa đều Chứng Đắc, vì nhiều người nói rằng tu theo Đại Thừa, nhưng không quay vào Tâm, không xem Phật là tấm gương để hành trì theo, lại hô hào bá tánh cất Chùa cho to, dựng tượng Phật cho lớn, khuyến khích mọi người Thờ Phật, cúng kiến, Cầu An, Cầu Siêu, thì đã lạc sang Thần Quyền, ngoại đạo, đâu còn là Đại Thừa chân chính nữa! Cho nên, người nào hiểu được cái Vọng Tâm rồi chuyển hóa nó, cho nó quay về với Chân Tâm, gọi là “Phản Vọng Quy Chân”. Hay chỉ cần “Chư Ác mạc tác. Chúng Thiện phụng hành” là đã đi trong quỹ đạo của Nhân Quả, đủ để sống an, chết lành, thì đó mới thật sự là người hành trì theo Chánh Pháp.

Nhiều người cố chấp, cho rằng đã là người tu hành thì phải Xuất Gia, phải độc thân, phải đầy đủ hình tướng. Họ quên rằng Đạo Phật đã được gọi là Đạo Giải Thoát. Tu Phật là tu sửa Cái Tâm, thì cần gì phải sống đời độc thân, Cạo Tóc, Đắp Y, sống ở trong Chủa thọ sự cung dưỡng của bá tánh thì mới tu được? Người tu vẫn sống cuộc sống bình thường ở tại thế gian, tự làm ăn, sinh sống để có điều kiện Đền TỨ ÂN, vì “Tu Phật là Tu Tâm”, cần gì phải lệ thuộc hình tướng?

Suy cho cùng, hình tướng bên ngoài chỉ nhằm mục đích để mọi người phân biệt, đánh giá, theo thời xa xưa, khi Đạo Phật chưa đi vào quảng đại quần chúng mà thôi. Rõ ràng đâu phải chỉ cần khoác lên người chiếc áo Ca Sa mà đã là Tu Sĩ? Người đời cũng nói: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Phật Ngôn có câu: “Nếu chiếc áo Ca Sa có mãnh lực làm cho người mặc nó giải trừ Tham Sân Si thì cha mẹ hay người thân chỉ cần khoác lên người đứa bé khi nó mới chào đời là đã được toại nguyện”. Nhưng không phải tu theo Đại Thừa, không cần hình tướng, rồi sống thế nào cũng được. Có những nguyên tắc từ ngàn xưa đến nay và mãi mãi về sau không hề thay đổi: Người muốn tu theo Đại Thừa dù ở Chùa hay Tại gia đều phải sửa Thân, Tâm cho ngay thẳng, trong sạch. Lúc nào cũng đi trong Bát Chánh Đạo, Thân Giới, Tâm Huệ. Không cần ai biết mình đang tu. Không đấu tranh với ai bên ngoài, không cầu danh, uy. Chỉ đấu tranh với những cái xấu trong Tâm. Do đó, những kẻ nói rằng “Đại Chúng Bộ là những “Ác Tỳ Khưu”, là những kẻ “thuyết phi pháp”, bị trục xuất ra khỏi Tăng Đoàn. Chư Tổ là tự phong với nhau, Kinh Đại Thừa là ngụy tạo”… cần phải Sám Hối, vì đó là một sự mạo phạm với Chư Vị Giác Ngộ chân chính được nối truyền từ Đức Thích Ca. Lỗi đó không nhỏ đối với Đạo Phật, vì làm cho nhiều người tin mà không kiểm chứng, không đến được với Chánh Pháp.

Tôi nghĩ rằng đã đến lúc trả lại cho Đại Thừa những gì do người trước cố tình tạo hiểu lầm, để Đạo Phật thật sự được đến với mọi người, làm cho tất cả mọi người đều được Thoát Khổ. Mọi người không còn thấy cuộc đời là Bể Khổ, mà thấy cuộc sống là một đặc ân, để có cơ hội mà tu sửa, mà làm những việc lợi mình, lợi người. Nếu trước đó con người bị đau khổ vì cái Tâm tìm cầu, vì để cho Lục Căn tự do chạy theo Lục Trần. Từ khi Điều Phục được Cái Tâm rồi, thì sẽ có cuộc sống thật nhẹ nhàng, an lạc, cho đến hết kiếp, gọi là “Hữu dư Y Niết Bàn”. Nếu có tái sinh cũng không rơi vào Đường Ác. Đó chính là mong mỏi của Đức Thích Ca khi lập Đạo Giải Thoát. Không phải Ngài mở ra con đường tu hành chỉ dành riêng cho các Tu Sĩ và người tu phải sống tách biệt với thế nhân không tham gia đóng góp với đời, chỉ đại diện cho Phật nhận cúng dường của bá tánh, mọi nhu cầu đã có bá tánh phục vụ, thì giờ chỉ để dành hương khói, Tụng Kinh, Niệm Phật để chờ về Tây Phương Cực Lạc, như nhiều người đến thời này vẫn còn hiểu lầm Phương Tiện của Đức Thích Ca, để rồi cứ dựa vào sắc tướng mang trên người mà cho rằng mình mới thật sự là Đệ Tử nhà Phật, không biết mình đã trở thành Nhị Thừa, xa rời Chánh Pháp mà không hay vậy.

Tháng 7/2018

TÂM NGUYỆN

NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẦU TIÊN

SOẠN TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA THƯ

Khách thập phương vãn cảnh chùa Bút Tháp (Ninh Phúc Tự) tại xã Đình Tổ huyện Thuận Thành, Bắc Ninh được chiêm ngưỡng cảnh chùa nguy nga tọa lạc giữa cánh đồng lúa bát ngát nhìn về phía Nam. Chùa Bút Tháp trở thành nơi danh thắng nổi tiếng như ngày nay là do công lớn của Hoàng Hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc xin cha là Thanh đô Cương Trịnh Tráng cho đại trùng tu chùa vào những năm giữa thế kỷ XVII.

Bà Trịnh Thị Ngọc Trúc trở thành Hoàng hậu của vua Lê Thần Tông do sự sắp xếp gượng ép của cha nên tuy sống trong cung vua Lê, bà tập trung chí hướng và nghị lực vào việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc. Pho tượng “Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay” trong chùa Bút Tháp, tác phẩm điêu khắc hoành tráng độc nhất vô nhị của nghệ nhân Trương Thọ dày công tạc khắc suốt 3 năm ròng, nay là bảo vật của dân tộc, là kết quả công đức bảo trợ của bà Trịnh Thị Ngọc Trúc. Đến năm 1644 bà rời hoàng cung, thế phát vào ở hẳn chùa Bút Tháp làm kẻ chân tu. Trong những năm ở chùa bà tập trung trí tuệ soạn bộ từ điển song ngữ Hán - Việt đầu tiên của nước ta mang tên “Chỉ Nam Ngọc Âm giải nghĩa”. Bộ từ điển gồm 2 quyển với 3394 mục từ. Điều đặc biệt là từ mỗi mục từ Hán được bà giải nghĩa và chuyển dịch sang tiếng Việt (thời ấy) bằng thể loại văn vần, giúp cho người đọc dễ nhớ, dễ lưu truyền từ người này sang người khác. Số từ ngữ tiếng Việt được dùng để giải nghĩa và đưa đẩy câu thơ lên tới ngót một vạn rưỡi từ.

Nội dung từ điển gồm những từ ngữ thuộc nhiều lĩnh vực: địa lý, thiên văn, mối quan hệ gia đình, dòng họ, các cơ quan phủ tạng trong thân thể người, các loại nhạc khí, binh khí, đồ tang tế, các loài thủy sản, chim muông, những đồ dùng hằng ngày như chiếu, bát, lụa, the, các đồ dùng bằng kim loại v.v…

Thí dụ:

Kim ô: mặt trời sáng hồng

Thiền luân: nguyệt sáng trên không làu làu

Phong thanh: gió mát bên lầu

Tổ mẫu: là bà nội nay

Nghiêm phụ: thuở này thực ấy cha sinh

Có thể nói từ điển “Chỉ Nam Ngọc Âm giải nghĩa” có giá trị như một bộ Bách Khoa Thư thời ấy. Ngày nay, đọc tác phẩm của bà, chúng ta hiểu rõ được sự phát triển về văn hóa và kinh tế tấp nập ở Đàng ngoài (thế kỷ 17). Chính trong thời gian này các tàu buôn của người Anh, người Hà Lan, người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha, người Nhật v.v…đã cập bến sông Hồng ở phố Hiến. Tại kinh thành Thăng Long, người Hà Lan đã xin đặt thương điếm để giao lưu buôn bán. Vào thời điểm ấy, giáo sỹ Alexandre de Rhodes ở Thăng Long đã được tiếp kiến bà Trịnh Thị Ngọc Trúc nhiều lần. Ông viết về bà như sau: “Bà thông chữ Hán, giỏi văn thơ… Bà giống như một thánh nữ về nhiệt tâm cũng như về đạo hạnh, về những giá trị tinh thần và sang trọng về dòng họ…”

Ngoài việc soạn từ điển, bà Trịnh Thị Ngọc Trúc còn để tâm nghiên cứu đạo Phật và là tác giả cuốn “Phật thuyết bảo phụ mẫu ân trọng kinh”. Cả hai tác phẩm của bà hiện được bảo quản tại kho tàng sách Hán Nôm Quốc Gia với bút danh Trịnh Thị Ngọc Trúc.

Ngày nay, đến chùa Bút Tháp, khách thập phương được chiêm ngưỡng pho tượng bà Trịnh Thị Ngọc Trúc (hiệu Pháp Tính) đặt trong khám thờ, nét mặt bà phúc hậu, đôi mắt mở to thông tuệ, với bộ áo tu hành mộc mạc, hai tay để xuôi vẻ siêu thoát không vướng bụi trần.

Tượng bà còn được đặt thờ tại chùa Mật (Thanh Hóa). Trong Bảo tàng Mỹ thuật (Hà Nội) cũng có pho tượng sơn son thếp vàng đặt trang trọng trong tủ kính với lời ghi: “Hoàng Hậu Diêu Viên, vợ vua Lê Thần Tông”.

Từ những thế kỷ trước, sử sách đã ghi công bà Trịnh Thị Ngọc Trúc, một bậc nữ trung anh thông tuệ và có nhiều ý tưởng sáng tạo mong muốn hướng mọi người tới Chân - Thiện - Mỹ. Bà xứng đáng là một nữ danh nhân văn hóa của nước nhà, làm vẻ vang truyền thống phụ nữ Việt Nam.

DUY ANH - HOÀNG KIM THƯ st.


Phụ bản I

VŨ THÀNH AN

“Dòng nhạc không tên”


Nhạc sĩ Vũ Thành An

VŨ THÀNH AN; Sinh năm 1943 tại Hải Hậu, Nam Định. Năm 1954 ông theo gia đình di cư vào miền Nam. Năm 1960, ông vào học trường trung học Nguyễn Trãi, có theo học nhạc sĩ Chung Quân cùng Ngô Thụy Miên, Đức Huy.

Năm 1965, ông viết Tình khúc thứ nhất, thơ Nguyễn Đình Toàn và nổi tiếng ngay từ ca khúc đầu tay đó. Những năm tiếp theo, ông viết nhiều Bài không tên khác.

Năm 1967, Vũ Thành An nhập ngũ khóa 25 Sĩ quan TBTĐ và 1969 ông lập gia đình. Năm 1969, ông phát hành tập nhạc Những bài không tên. Vũ Thành An cùng với Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương tạo thành một lớp nhạc sĩ mới đầy tài năng. Năm 1971, Vũ Thành An tốt nghiệp đại học Luật khoa Sài Gòn. Ngày 30/4/1975, Vũ Thành An là người cuối cùng rời Đài phát thanh Sài Gòn, lúc 10g30 sáng. Sau đó ông đi học tập từ 1975 đến 1985 tại miền Bắc.

Ông bắt đầu sáng tác Thánh ca, Những Bài Nhân Bản trong thời gian cải tạo từ năm 1981. Năm 1991, Vũ Thành An rời Việt Nam và định cư tại Oregon, Hoa Kỳ. Năm 2000, ông được đào tạo làm chức Phó Tế Vĩnh Viễn và phụ trách Đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại ở Portland, Oregon. Ông ngừng sáng tác tình khúc và chỉ tiếp tục soạn các bản thánh ca, và tham gia các công việc từ thiện.

Tu Hội Đời Đang Thành Lập (11/02/2016)

Phó Tế Vũ Thành An mời gọi các Ông Bà đã sống đời đạo hạnh tham gia việc thành lập Cộng Đoàn Tận Hiến Thánh Martin để dâng hiến đời mình như một Tu Sĩ, để ánh sáng của mình được rực rỡ như Mặt Trăng trên bầu trời.

TU HỘI ĐỜI CỘNG ĐOÀN TẬN HIẾN THÁNH MARTIN là hình thức mới của Đời Tận Hiến vì: Chúa đã mặc khải cho Thánh Nữ Faustina: “Sự vĩ đại thật hệ tại ở lòng Yêu Chúa và Đức Khiêm Nhượng”. Nếu có một trái tim Yêu Thương là có thể Tận Hiến cho Chúa trong Cộng Đoàn Tận Hiến Thánh Martin. Vũ Thành An xin kính mời quý vị cùng thành lập Tu Hội Đời Cộng Đoàn Tận Hiến Thánh Martin với tư cách là Người Khởi Xướng.

Một Cộng Đoàn đang chuẩn bị để xin được trở thành một Tu Hội Đời, sinh hoạt như một Cộng Đoàn của những Ẩn Sĩ sống đời Ẩn Tu trong kín cổng cao tường. Dù vậy Cộng Đoàn này cũng có một mức độ hợp pháp nhất định và có vị trí trong Giáo Hội không kém gì những Tu Hội Đời đã được công nhận.

Tác phẩm:

1. Những bài không tên

Tổng cộng có khoảng 50 “Bài không tên”, trong số đó một vài bài vẫn mang một tên khác như là “Bài không tên số 11” là “Cuối dòng sông khô”, “Bài không tên số 13” là “Tình xưa gái Huế”, “Bài không tên số 37” là “Rưng rưng lệ”, “Bài không tên số 40” là “Đời đá vàng”, “Bài không tên số 41” là “Một thời phóng đãng”... Về sau Vũ Thành An còn sáng tác tiếp một số “Bài không tên” khác như “Bài không tên cuối cùng tiếp nối”, “Không tên trở lại cuối cùng”, “Không tên trở lại số 7”, “Không tên tiếp nối số 28”

Theo một bài phỏng vấn Vũ Thành An, ông cho biết việc không đặt tên các bài hát là một dụng ý để thu hút sự chú ý của người nghe nhạc.

2. Những bài có tên

Cục Nghệ thuật Biểu diễn cấp phép cho Phương Nam Film khai thác độc quyền 21 sáng tác của Vũ Thành An tại Việt Nam. Các ca khúc được phổ biến rộng rãi gồm 10 Bài không tên và những bản nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ như: Em đến thăm anh đêm 30, Đêm say, Đời đá vàng, Một lần nào cho tôi gặp lại em...

Tự sự tuổi 72 (tháng 12/2014)

“Tôi cảm ơn trời đã cho tôi cuộc sống. Ngay cả trong đau khổ tôi cũng tìm được hướng bay lên. Tôi cảm tạ đời đã cho tôi có cơ hội phục vụ. Tôi biết ơn mọi người vì mối chân tình trao nhau...”, nhạc sĩ Vũ Thành An gửi lời cảm ơn tới người hâm mộ yêu nhạc ông suốt nhiều thập kỷ qua.

Nếu như một thời tuổi trẻ, người yêu nhạc đã thấy một nhạc sĩ Vũ Thành An thông qua ca từ, giai điệu khơi sáng không giáo điều khô khan luôn ẩn chứa tinh thần âm nhạc đa sắc màu tình cảm. Thì nay, bước vào “tuổi xế chiều”, ông lại dành nhiều hơn những chuyến đi trong cuộc sống thực tại chứ không phải âm nhạc. Nhạc sĩ Vũ Thành An chứng minh với khán giả, ông chưa từng có một ngày ngơi nghỉ khi hướng mình đến những công việc chia sẻ giúp đỡ cộng đồng với quan niệm: Có những điều đôi khi cuộc sống không cần một câu lý giải nào, đơn giản đó là hành trình mà chúng ta đi tìm một giá trị gần như vô hình.

“Năm nay tôi đã gần 72 tuổi nhưng tôi vẫn làm việc liên tục. Tôi cố gắng mỗi ngày để cho một số cụ già có cơm ăn. Hầu như trong 12 năm vừa qua kể từ khi Quỹ Từ Thiện Teresa giúp gạo cho các cụ già được thành lập tôi không có một ngày ngơi nghỉ...”, nhạc sĩ Vũ Thành An tâm sự cùng khán giả ở cái tuổi “thất thập”.

“Hầu như trí óc tôi phải hoạt động liên tục. Trời cho Quỹ Từ Thiện Teresa đến được nhiều cụ già trên nước Việt Nam và một vài nước khác cho nên tôi phải liên lạc với rất nhiều người để điều phối công việc. Hầu như ít khi tôi rời khỏi màn hình computer và điện thoại. Làm sao có thể gây được nhiều quỹ và làm sao quà đến tận tay các cụ đó là công việc hàng ngày của tôi. Năm nay tôi cũng yếu rồi, nhưng tôi nguyện sẽ làm việc đến phút cuối cùng”, người nghệ sĩ chia sẻ về đôi mắt bình dị và cái nhìn cuộc sống đầy lý trí và rõ ràng thường nhật của mình.

Những bài hát không tên tưởng chừng như có một bí mật ly kỳ để không thể định danh, nhưng ẩn đằng sau đó chính là sự giản đơn của tâm hồn nghệ sĩ chỉ viết ra từ trái tim của mình. Khi sống đã đủ để nghe và thấy, kỷ niệm thủa ban đầu và ước mong cho tương lai luôn làm con người ta khắc khoải. Nhưng với người nhạc sĩ tài hoa như Vũ Thành An, bây giờ, ước muốn lớn nhất chính là duy trì và phát triển chương trình Gạo cho các cụ già mà ông đang theo đuổi trong thời gian qua.

“Khi nhận thức rõ về thân phận của mình sau khi đã trải qua đau khổ từ nhiều phía, tôi muốn dùng thời gian còn lại để đem lại hạnh phúc cho người khác. Tôi tạ ơn trời đã cho tôi biết một việc làm nhỏ nhoi nhưng nhiều ý nghĩa là miếng cơm hàng ngày cho các cụ già không thể tự đi làm để nuôi thân. Rất may là đã có nhiều người hưởng ứng tiếp tay. Tôi đã tự nguyện ngưng hát và sáng tác 'Nhạc tình đôi lứa' từ năm 1995 để toàn tâm toàn ý dâng hiến đời mình cho việc phục vụ và giúp đỡ các cụ già.

Lúc đầu khi sáng tác tôi chỉ mong ghi lại những cảm xúc của mình để làm kỷ niệm cho những mối liên hệ tình cảm. Phải nói là vì may mắn cho nên những tác phẩm của tôi còn tồn tại sau 50 năm và hy vọng sẽ còn được ít năm nữa.

Nếu quý vị quý mến những tác phẩm của Vũ Thành An thì xin lưu tâm đến các cụ già. Chỗ nào cũng có các cụ già cô đơn đang trông chờ sự quan tâm của người khác.

“Ngày mai rồi mình cũng già, xin giúp các cụ già bây giờ vì sau này khi lớn tuổi ai trong chúng ta cũng cần người khác giúp”, nhạc sĩ Vũ Thành An tâm sự về thời gian còn lại của cuộc đời mình sau những sáng tác.

Khi nhận thức rõ về thân phận của mình sau khi đã trải qua đau khổ từ nhiều phía, Vũ Thành An muốn dùng thời gian còn lại để đem lại hạnh phúc cho người khác. Ông tạ ơn trời đã cho ông biết một việc làm nhỏ nhoi nhưng nhiều ý nghĩa là miếng cơm hàng ngày cho các cụ già không thể tự đi làm để nuôi thân…

Ngày Mai Rồi Mình Cũng Già - Vũ Thành An

Ngày mai rồi mình cũng già, không thể nào níu lại nữa.

Ngày xưa như mới hôm qua, một cánh hoa trong cơn phong ba.

Thời gian tựa cánh chim bay, tiếng cầu kinh đời đời vẫn vậy.

Từ nghìn trùng ta gặp nhau đây, rồi thiên thu mãi mãi sum vầy.

…Ngày mai rồi mình cũng già, thân thể này sẽ tàn úa.

Được thua thì cũng thế thôi, một tiếng yêu xin trao cho nhau.

Còn vài ngày nữa vui chơi, hãy nhìm xep vẻ đẹp cõi đời,

Được làm người ôi diệu kỳ thay, tạ ƠN TRÊN cho sống chốn này.

Ngày mai rồi mình cũng già, nhưng đời người không thể hết,

Hồn ta là đốm tinh hoa, về viễn phương bay xa…bay xa…

PHẠM VŨ

Tham khảo Internet

NGÔI CHÙA

TRONG TÂM TƯỞNG

Bửu Ốc Tiêu vừa đi vừa đá trái cầu thằng Đạt mới cho. Cầu vừa chưn ghê, chỉ có ba miếng vảy cá còn bao nhiêu là da cắt tròn vanh thiệt khéo, da thiệt, đá êm mà đằm vô cùng, không bao giờ xẹt bậy, mới thử có mấy cái mà thằng Bửu đã cảm thấy điều khiển cầu nầy dễ dàng, đá một ngàn cái coi như dễ ẹt. Bốn cái lông gà thuộc loại đẹp, mới, không biết thằng Đạt kiếm ở đâu mà đầy đủ lông tơ, chưa thấy chỗ nào xước ngược. Đá đâu độ chừng năm chục cái, và di chuyển khoảng đường chừng bằng một hơi u mọi nó đá hất trái cầu lên vai, lấy vai huých xẹt ngang trước mặt thằng Đạt, tuyên bố dõng dạc:

- Tao chịu cầu nầy quá, từ bây giờ trở đi thằng Đạt, thằng Oanh, thằng Nhàn được quyền chép Toán của tao, chỉ cần tụi bây chép khác khác một chút thì được, ổng không thể nào biết đâu. Bữa nào có Toán cần nộp bài tụi bây nhớ tới trường sớm, tao đưa bài và chỉ mánh lới cho chép…”

Cả bọn hoan hô nó còn hơn anh hùng thắng trận trở về sau một thời gian dài gian khổ chống ngoại xâm.

Thằng Bửu Ốc Tiêu tiếp tục đá tiếp, giữ trái cầu trên không cho đến khi tới trước nhà mình mới ngừng lại chụp trái bỏ gọn vô túi, mỉm cười tự thưởng.

Thằng Đạt nãy giờ vẫn lẽo đẽo theo sau, nói nhỏ với Bửu:

- Tao cho mầy hai chục mai ăn hủ tíu, mỗi tháng cũng đều có như vậy, nhưng mà từ nay mầy không được cho thằng nào coi bài nữa ngoài mấy đứa tụi tao. Ai cũng làm bài được thì còn ai học dở, phải có đứa đội sổ mới được, tụi tao đội nhiều rồi, bây giờ phải thế vai.

Thằng Bửu nhớ tới thằng Phan, ông già thằng nầy tháng trước năn nỉ nó cắt nghĩa bài giùm giúp vì nhà nghèo thằng con nghỉ học nhiều nên bị mất căn bản. Nếu nó học dở không lên lớp được năm nay thì bị đuổi phải ở nhà thôi. “Cháu mà giúp nhà bác thì như là cháu cất được năm bảy kiểng chùa…” Ông nói giọng tha thiết, mắt rưng rưng.

Thằng Đạt còn nhấn mạnh:

- Nếu mầy giúp nó thì mỗi tháng không có hai chục, lúc tụi tao đi chơi không cho mầy theo, tụi tao ăn gì mới cho mầy ké chút đỉnh thôi…

Thằng Bửu đắn đo một chút rồi gật đầu. Không giúp thằng nầy thì giúp thằng khác, có chuyện gì đâu. Mình nhà nghèo cần tiền. Nó chào thằng Đạt, một tay mân mê trái cầu một tay cho vào túi cảm nhận xấp tiền, vừa bước vô nhà vừa hút gió một cách vô tư.

Tôi có người bác ruột, bác Ba, tu ở cái cốc trong khuôn viên nhà vốn là một khu vườn dừa rộng rãi. Hằng ngày tôi được đánh thức dậy bằng tiếng mõ lốc cốc, tiếng kệ kinh ê a của sư bác khi trời mới vừa hừng sáng. Má tôi nói sư bác trước dạy học cũng nổi tiếng trong vùng, bỗng nhiên từ nhiệm về đây dựng cốc tu hành, chắc có tâm sự gì đó. Má còn nói kệ kinh công phu sáng của sư ít nhứt cũng đánh thức người chung quanh dậy đúng giờ, đó là chưa kể gương kiên nhẫn của sư là một bài học quý giá nên theo. Buổi chiều, trời mới chạng vạng là sư đã có thời kinh tối, chăm chỉ, không ngày nào mệt mỏi. Cái cốc của sư bác là nơi tôi thăm viếng khi thiếu lũ bạn cùng lứa để rong chơi ngoài đồng hay tắm sông, bẻ mía, lặt dừa, tát đìa, mò cá... Lần nào sư bác cũng cho trái cây cam quít, chuối, đu đủ… chín rục có những dấu tích đổi màu do chưng hơi lâu trên bàn Phật. Nhiều khi qua cốc lúc sư đương thời kinh, tôi tự nhiên ngồi ở một mép chiếu để lắng nghe cái âm thanh huyền bí có sức ru ngủ mình với tất cả sự thích thú và lòng kiên nhẫn đợi chờ được sư bác vò đầu nói vài ba câu chuyện đời rồi cho ê hề bánh trái.

Lần nào cũng vậy trong khi chờ đợi, tôi tò mò nhìn mấy tấm tứ thời treo trên vách lá vẽ hình ông Phật ngồi nhắm mắt tham thiền hay ngắm nghía hình quỷ dữ mặt xanh nanh vàng, đầu u nần năm bảy cục đang lấy chĩa ba đâm người hay kéo lưỡi cắt họng thiên hạ. Lúc rảnh rang sư bác thường cắt nghĩa về những bức tứ bình đó và thường nhấn mạnh bây giờ là đời mạt pháp quỷ sứ ma vương tràn đầy ngoài đường, Đức Phật Bồ Tát cũng xuống thế độ nhơn nhưng ít thành công hơn thời Thượng Ngươn vì con người bây giờ làm điều xấu quá nhiều.

Tôi thắc mắc là sao ngoài đường không bao giờ thấy quỷ sứ, ma vương gì hết. Sư bác cười, vò đầu tôi hỏi:

- Con có bao giờ thấy thằng ăn trộm, thằng đâm thuê giết mướn không? Nó trộm đồ mà người ta đổ biết bao nhiêu công khó mới có, nó nhận tiền người nầy để chém giết người kia… nhưng mặt mày nó ngoài đời cũng bình thường như chúng ta mà thôi. Đó là qu ỷ sứ nhập thân hay là ma vương hiện hình đó con. Thợ vẽ vẽ mặt mày ma vương có nanh vuốt là để cho dễ thấy dễ biết mà thôi, chớ thật sự qu ỷ sứ ma vương không khác gì người thường hết đâu con. Vậy nó mới sống chung lộn với người đời, mới hại người ta được.

- Còn Phật thì sao sư bác? Phật có hào quang trên đầu. Phật chỉ ngồi tham thiền thôi phải không sư bác?

- Đó là Phật ngày xưa lâu lắm rồi. Thời mạt pháp nầy Phật xuống thế gian ở mọi nơi, lúc nào chung quanh ta cũng có Phật, cũng có Bồ Tát giúp ta tranh đấu chống ma vương. Chỉ tại lòng ta không đủ tín thành để chấp nhận đó là Bồ Tát mà thôi.

- Sư bác nói khó quá con không hiểu.

- Nầy nhe! Phật không xuống thế bằng một nhân thân, mà xuống thế thành muôn vạn người vô hình hay hữu hình ở kế bên mỗi người chúng ta. Phật trợ duyên từng người để biến người đó thành Bồ Tát trong một thời khoảng ngắn. Nếu người nào thành Bồ Tát nhiều lần, thành Bồ Tát lâu dài thì sau nầy khi chết sẽ được siêu độ. Nhưng bên cạnh người đó cũng có qu ỷ sứ, ma vương hiện diện. Nó xúi giục làm bậy như trộm cắp, láo xược, ngoại tình, gian dối, ức hiếp để gi ành giựt ruộng vườn nhà cửa của kẻ cô thế… nếu người nào nghe theo chúng thì biến thành ma vương một thời gian. Biến thành ma vương nhiều lần thì khi chết sẽ bị đọa địa ngục đời đời chịu khổ hình dưới âm ty không thể đầu thai.

Tôi vùng ôm mặt khóc lớn, nức nở:

- Vậy con sẽ bị đọa địa ngục. Sư bác cứu con với. Con ăn cắp hết ba trái xoài của bà nội d ú trong khạp gạo rồi đổ thừa cho thằng em con. Lần trước nải chuối sứ cũng vậy. Con cũng lén cạy ống heo của đứa em gái nữa, mỗi ngày cạy lấy một chút, con cũng bẻ trộm mía của hàng xóm, con cũng ăn hiếp thằng Tửng nhà xóm trên vì nó nhỏ hơn con.

Sư bác tôi từ tốn giải thích:

- Những lúc làm điều xấu như vậy con đã biến thành ma vương thời gian đó. Nếu con biết mình làm xấu mà chừa đi, mà ăn năn làm lành trở lại thì ma vương không thể dụ dỗ con để làm nô lệ cho nó nữa. Lâu ngày nó chán bỏ đi kiếm người khác dễ dụ dỗ hơn. Làm điều tốt thì con đã hóa thân thành Bồ Tát lúc đó. Bồ Tát hay ma vương là những trạng thái ngắn hạn trong lòng mỗi con người, không phải là trạng thái hằng cửu. Lúc làm Bồ Tát thì người ta sung sướng thơ thới lòng, mặt mày sáng sủa rạng rỡ như có hào quang tỏa ra. Lúc làm ma vương thì lòng nóng như bị thiêu đốt, khó chịu, mặt mày đăm chiêu buồn lo. Đó là lửa dục thiêu đốt lòng, đó là những u nần mọc ngược vào trong tâm não, đâm vào phía bên trong của người con.

Tôi lý sự trả treo:

- Vậy thì con người đồng thời là Bồ Tát và ma vương?

- Đúng vậy! Khi hành động vì người khác, mình là Bồ Tát, khi hành động có hại cho người khác để lợi cho mình, ta là ma vương. Nói là nói đơn giản như vậy, chứ hành còn hạnh nữa. Hành vi Bồ Tát nhưng tâm hạnh ma vương thì cũng là ma vương thôi. Mà thôi! Con buồn ngủ rồi, ta sẽ nói chuyện hành và hạnh trong dịp khác.

Tôi buồn ngủ thiệt tình, mấy từ ngữ khó nuốt trôi như hóa thân, trạng thái ngắn hạn, trạng thái hằng cửu, lửa dục hào quang mà không thấy được, u nần mọc vào bên trong tâm não nhảy múa loạn xạ trong trí tôi… Tôi cũng ngán ngẩm khi nghe đến các khái niệm hành và hạnh. Chúng không hấp dẫn bằng nải chuối thâm kim, mấy trái quít và hai chén chè trên bàn Phật trước mặt đang cười cười mời gọi.

Sư bác tôi nhìn thấy ánh mắt ước muốn của cháu mình, nói trong nụ cười hiền từ:

- Con đương bị ma vương dụ dỗ đó. Bây giờ còn nhỏ thì chẳng sao đâu, ma vương chỉ dụ được những việc xấu nhỏ, nhưng đừng để ma vương có dịp lớn lên trong tâm hồn mình. Quan trọng là phải chống lại những cám dỗ của ma vương.

Sư bác tôi đứng dậy nhón chưn hạ dĩa trái cây xuống, hào phóng đưa cho đứa cháu trần tục của mình thiệt nhiều quà của Phật.

Chỉ đợi có vậy, tôi kéo banh vạt áo trước ra đựng, hai tay ôm chặt, chạy u ra tuốt mé mương ngoài rìa vườn nhà nơi thường có mấy thằng bạn trang lứa tụ tập trửng giỡn, phá phách…

“Xuống xe qua bac bà con cô bác ơi!” Người lơ xe vừa nhảy xuống, xe vẫn còn trờ bánh tới nhè nhẹ, đã ca bài ca xưa cũ. “Chỉ có ông bà già là được ngồi lại trên xe, còn ai thanh niên thì xuống đi bộ qua bac nhe! Tới trước kia mà nhận giấy qua bac”.

Mọi người lục tục xuống xe, người lếch thếch đi tìm chỗ tiểu tiện, kẻ xăm xăm vô quán kiếm chút gì đó dằn bụng, giáo Bửu theo đám đông bước về phía trước, chỗ xét giấy, nơi đây thằng lơ xe đã đợi sẵn chìa cho khách của xe mình tấm giấy trả tiền qua bac. Giáo Bửu nhìn đoàn xe nhà binh rồi lắc đầu ngao ngán: “Điệu nầy hai ba giờ đồng hồ nữa biết xe mình nhúc nhích được chưa. Xe nhà binh ưu tiên mà đi hành quân dài sọc như thế nầy qua tới bao giờ xe dân sự mới được qua”.

Anh bước vô đám đông để nghe điệu ca vọng cổ mùi tận mạng do một nghệ nhân lỡ thời đương xuống giọng xề. Nghệ nhân cụt hết hai tay tới cùi chỏ, chỉ còn lại lủng lẳng hai cánh trước. Anh ta mang trước ngực một cái lon sữa bò là chỗ đựng tiền do khách bộ hành mủi lòng thương hại bố thí cho. Cái micro được cột vô một cánh tay cụt, khi nghệ nhân cất giọng ca thì giơ lên, người cột đã canh vừa đủ tầm cho âm thanh có thể bắt được.

Giáo Bửu hờ hững nghe, cũng bâng quơ ngó người đàn bà già trước tuổi đi sau nghệ nhân, ôm cây đàn. Bỗng anh như nhảy nhổm lên hỏi lớn:

- Phải mầy đó không Phan?

- Phải! Bửu còn nhìn tôi sao? Tưởng giả bộ quên tôi rồi!

Giáo Bửu ứa nước mắt, hai tay choàng qua ôm bạn:

- Hơn chục năm rồi mình không gặp nhau. Cuối năm học đó mình không bao giờ gặp lại bạn nữa.

Người chung quanh tò mò nhìn sự tương phùng của hai người bạn. Người đàn bà của Phan lãnh đạm ngó bạn của chồng.

Giáo Bửu xăng xái mời hai người ghé vào quán gần đó…

Bên ly trà đá người nghệ nhân kể lại đời mình với một giọng thiệt bình thường nhưng Giáo Bửu nghe như kim đâm vô tim từng cái từng cái đau điếng hồn:

- Tôi mất căn bản về Toán và Sinh ngữ, anh chỉ giùm thì biết chút chút vậy thôi, khi anh quá bận thì tôi đành chịu. Cuối năm đó thi lên lớp rớt, phải về quê làm ruộng với ông già. Anh cũng biết vùng xôi đậu mà, ban ngày bên quốc gia, ban đêm họ về, tuyên truyền, bắt lính… Họ bắt mình theo vô bưng. Thời chiến tranh mà! Vướng vô vòng thì không chuyện nầy cũng chuyện khác. Trong một trận chống càn, tôi bị pháo trúng... tàn phế nên được tản cư ra chợ đã năm sáu năm nay. Còn sống là may. Có người vợ chịu thương chịu khó theo mình cũng là một cái may nữa. Gặp anh, anh không sợ mất thể diện mà nhìn bạn, tôi sung sướng vô hồi. Mấy năm nay tôi sống trong bi thiết chán chường lúc nào cũng muốn rũ sạch bụi trần để ra đi. Đời mình còn gì nữa đâu để ham hố níu kéo. Chưa làm được vì còn một mụn con thơ và người đàn bà tri kỷ.

Giọng Phan nhỏ dần như tiếng thở dài hiu hắt. Giáo Bửu nghẹn ngào ray rứt trong tâm, thấy dường như mình có lỗi.

Tôi đi trả nợ cho nửa quê hương thất trận hơn mười năm trở về, ngơ ngác giữa dòng đời bon chen xào xáo nhưng hiếm hoi chân tình với người chung quanh gần gũi. Cha tôi đã mất, sư bác cũng đã siêu linh tịnh độ hơn bảy tám năm nay rồi. Những buổi chiều buồn, tôi lang thang vô cái cốc đóng kín cửa hoang phế, phủ bụi từ ấy để tìm chút dư vị tuổi thơ. Một lần tôi tò mò mở một gói giấy dầu đặt ở cuối góc trang thờ Phật, ngoài có đề mấy chữ nắn nót: Kinh Phật A Di Đà. Tôi mở ra, ngoài hai gói kinh còn có một gói tiền toàn giấy nhỏ một trăm, hai trăm, năm trăm, một ngàn, hai ngàn... và một bức thơ gởi cho tôi.

Phong Điền, ngày tháng năm Duyên Lành.

Tuấn con,

Tiền nầy sư bác chắt mót kỳ khu hơn hai chục năm mới có được. Đổi đi đổi lại thì ra thế nầy, đủ để mua mười lượng vàng hay cất một kiểng chùa nho nhỏ cho Phật tử ở vùng mình có nơi tử tế đến chiêm bái đấng Từ Phụ. Đủ tiền thì sư bác thỏa mãn hạnh nguyện xây chùa đồng thời thất vọng về chính mình, té ra bao nhiêu năm nay mình lặn lội cực nhọc, mình dè xẻn khiêm cung vì một số tiền, mình cười với tín hữu nầy, vâng dạ với tín hữu kia vì ngôi chùa mơ hồ trong trí.

Ngôi chùa phác họa trong tâm tưởng hướng dẫn cái hành Bồ Tát, còn cái hạnh Bồ Tát của sư bác nằm ở đâu? Cất chùa lớn rồi thì sư bác phải dính vô chuyện duy trì chùa, săn sóc chùa, phát triển chùa, sư bác sẽ sinh hoạt chùa chớ còn đâu tâm trí để tu hành kệ kinh, trau dồi đạo hạnh, sư bác sẽ làm chuyện chùa sự chứ đâu phải làm chuyện Phật sự. Cái hạnh Bồ Tát suốt đời sư bác nhắm về coi như mỗi lúc càng chạy ra xa.

Khám phá ra điều nầy, sư bác thấy bao nhiêu năm nay tưởng rằng mình làm đúng hóa ra sai vì thật ra chẳng qua là chạy đuổi theo con đường tu tập chấp mê hình tướng chùa lớn cảnh đẹp, chấp mê ngã mạn chùa mình chùa người. Sư bác tạ lỗi với chư Phật bằng cách trở về theo đúng lối tu chú trọng cái tâm thành tuyệt đối và lòng rỗng không với những ước muốn, kể cả ước muốn thành đạo. Trong những ngày bừng sáng ý niệm nầy cho tới ngày được về chầu Phật Tổ lòng sư bác thiệt là thanh thản, vô động, vô ngã...

Số tiền nầy con có toàn quyền sử dụng theo ý muốn, có ích cho riêng con hay cho người khác đều được.

Nhưng con nên nhớ cái hạnh đáng quý gấp mấy lần cái hành.

Cầu nguyện đức Từ Phụ gia hộ cho con.

Thích Giác Nguyện.

Chỗ ký tên thế danh lâu ngày mực nhòe nhoẹt không đọc được, cố gắng lắm mới nhìn ra là Nguyễn Văn Bửu.

Số tiền đó má tôi chép miệng than rằng với thời giá đổi thay gia tốc, mua chưa đầy ba chỉ vàng, một cái chùa bình thường nho nhỏ ở vùng quê lúc nầy cũng phải tốn gấp mấy ngàn lần số đó. Ngồi nhìn gói tiền lâu ngày ẩm mốc, bốc mùi tanh tanh do những bàn tay dính đầy dầu mỡ, cát đất, cá thịt của chúng sanh nghèo khổ nhưng lòng tín thành vô bờ khi cúng dường cho sư, tôi quyết định đem đốt bỏ để giải thoát hương linh sư khỏi vướng víu với nó nữa. Nơi chốn thiêng liêng kia chắc sư không còn thắc mắc về hành / hạnh, theo tôi hai khái niệm nầy hòa quyện lẫn nhau không có lằn ranh phân biệt, càng biện biệt ta càng bị bủa vây không lối thoát…

Xếp bằng chỗ ngày xưa sư bác đặt bồ đoàn ngồi gõ mõ tụng kinh, tôi đốt từng tờ những tấm giấy bạc thiệt kia như người ta đốt giấy tiền vàng mã. Ngọn lửa xanh lân tinh từ tốn ngún cháy, liếm từ chút từ chút, mấy cái hình trên giấy bạc bỗng chốc trở nên méo mó dị dạng. Tôi chợt mơ hồ thấy nụ cười hiền từ của sư bác quanh quẩn đâu đây.

“Mong sư bác siêu thăng, hànhhạnh Bồ Tát chẳng qua là những điều dạy đạo lý giúp người đời sống từ bi vị tha, sư bác đã hành thiện, đã sống xứng đáng là một con người khi cố gắng thực hành một ước vọng phổ hóa đại đạo. Sư bác đáng được về cõi tĩnh hằng miên viễn như một Bồ Tát…”

NGUYỄN VĂN SÂM

Victorville, CA 12/09

(Kỷ niệm buổi trà đàm tại am thất Tâm Chân)

Thơ Anh THÚY TOÀN

Hà Nội 11 giờ đêm 27/9/2018

Kính gửi Anh Tuấn

Sáng mai tôi phải đi Nha Trang và ngồi vào máy để gửi bài không xong vì máy trục trặc, mà giờ đã 10g tối rồi. Đành chữa cháy ngồi chép ra máy gửi nhanh cho anh.

Vừa qua vừa bay đến Moskva tôi liền liên hệ với anh bạn Nga quen biết nhau đã gần ba chục năm qua - anh Oleg Bavưkin, trưởng ban đối ngoại Hội Nhà văn Nga. Tôi đã được anh đón tiếp năm 1993 sau khi Liên Xô tan rã. Bấy giờ các nhà văn Nga tập họp nhau lại thành lập Hội Nhà văn mới - tôi đã đề nghị Hội ta và tập họp một đoàn gồm mấy anh, ngoài tôi là Tô Đức Chiêu, Trần Nhương, Hoàng Minh Tường… là đoàn nhà văn nước ngoài đến thăm và đặt quan hệ trao đổi hữu nghị với Hội Nhà văn Nga… Lần này sang liên lạc với anh Oleg thì được biết anh đang đi dự Hội thơ “Những con thiên nga trắng” ở Đaghestăng quê hương nhà thơ dân tộc Avar Raxul Gamzatov (1923-2003). Chúng tôi đã được gặp và chuyện trò với nhà thơ Raxul Gamzatov cả một buổi trong chuyến đi thăm nối lại quan hệ hợp tác giữa hai Hội đó và sau này năm 2015 tôi cũng đã được đến thăm Đaghestăng và dự ngày Hội thơ “Những con thiên nga trắng”. Vì vậy được anh nhắc gửi bài tôi xin có vài lời nói về Raxul Gamzatov, coi như câu chuyện đầu tiên trong chuyến đi này gửi bản tin số tới.

Dân tộc Avar, một trong những dân tộc rất ít người ở vùng Bắc Kavkazơ. Ít người nhưng lại có một lịch sử anh hùng và một nền văn hóa lâu đời rất phong phú. Và nhà thơ Raxul Gamzatov (1923-2003) lại là một trong những nhà thơ hàng đầu của thế kỷ XX bước sang đầu XXI. Ông rất quý mến và kính phục cuộc đấu tranh kiên cường anh dũng bảo vệ độc lập tự do của nhân dân ta. Trong cuộc gặp gỡ với Đoàn nhà văn Việt Nam chúng tôi, cũng như khi còn Liên Xô ông đã gặp nhiều nhà văn Việt Nam, trong đó có đoàn do nhà văn Nguyên Ngọc và Phan Hồng Giang cũng đã từng thăm quê huơng ông. Ông luôn tỏ tình cảm nồng nàn thân thương đối với chúng ta. Ở cuộc mít tinh của văn nghệ sỹ Liên Xô tại sân vận động Lênin ở Lugiơnhiki Moskva ông phản đối đế quốc Mỹ ném bom Hà Nội 1960 đã có bài thơ dài “Biên giới” (trong nhà lưu niệm “Văn học Nga ở Việt Nam” tại Phù Lưu chúng tôi, tôi còn giữ được tờ báo Văn học Liên Xô với trang đầu ghi lại sự kiện cuộc mít tinh này và có hình ảnh ông đọc bài thơ “Biên giới”).

Và bạn đọc Việt Nam rất nhiều người cũng yêu quý thơ văn Raxul Gamzatov. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt.

Ngay từ năm 1962 bài thơ “Tôi yêu Người, dân tộc nhỏ bé của tôi” đã được nhà thơ Yến Lan dịch và in trong tập THƠ LIÊN XÔ do NXB Văn Học xuất bản năm 1962 mừng 45 năm Cách mạng Tháng Mười.

Tờ báo Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam số 233 ra ngày 01.01.1963, trong chùm thơ Liên Xô do tôi dịch cũng lại được đăng hai bài thơ tám câu của Raxul Gamzatov. Tiếp theo là dịch giả Thái Bá Tân cũng công bố cả một chùm thơ trên báo Nhân Dân số ra ngày 02.11.1980 kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, sau đó ra hẳn nửa tập sách tuyển các bản dịch của Thái Bá Tân ra trong một tập có tên CON NGƯỜI và NHỮNG VÌ SAO XA XĂM - Raxul Gamzatov và Eduar Megielaitis, NXB Lao Động, Hà Nội 1983. Đặc biệt dịch giả Phan Hồng Giang đã rất thành công đem đến cho bạn đọc Việt Nam bản dịch cuốn sách tùy bút ĐAGHESTĂNG CỦA TÔI của Raxul Gamzatov, được đông đảo bạn đọc Việt Nam hâm mộ, và bản dịch đã được giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam.

Những bản dịch thơ Raxul Gamzatov do tôi thực hiện cũng may mắn được nhiều lần công bố trên các báo, tạp chí và NXB Văn Hóa Dân Tộc Hà Nội xuất bản thành một sách năm 2003.

Sau đây tôi xin trích gửi anh Tuấn hai bài thơ tám câu đã đăng báo Văn Học từ 01.01.1963.

SÔNG

- Nói ta nghe, con sông hay hát nói,

Dài hàng trăm dặm dài và trăm năm

Người đã thấy gì đẹp nhất tuyệt trần

Trên trăm trăm dặm dài và trăm năm đó !

Con sông quê huơng trả lời tôi to nhỏ :

- Tôi không thấy vật gì có thể đẹp hơn

Tảng đá không hình thù, ôi tảng đá mầu đen

Ở tận ngọn nguồn, nơi tôi bắt đầu tuôn chẩy…

KHÁT

Những ngọn cỏ cao của miền quê

Mặt trời tháng sáu thiêu ra tro.

Và anh, khô, cháy, như ngọn cỏ

Dù anh không đủ ấm em cho.

Mưa rào tháng bẩy trên đồng lúa,

Lai láng bao la mặt nước hồ,

Mà sao anh khát, sao khát quá,

Anh muốn đầm trong khóe mắt xa.

THÚY TOÀN dịch

ĐÍNH CHÍNH

Bài “Tuổi hạc” trong Bản tin số 147 trang 40. Không phải của tác giả ThúyToàn st. (xin đổi là Đỗ Thiên Thư st.)

Xin chân thành cáo lỗi.

GÁC CU

Ở đời có bốn cái ngu

Làm mai, gánh nợ, gác cu, cầm chầu.

Gác cu có hai cách: gác lục và gác lưới. Cách nào cũng phải có cu mồi.

Cu mồi “bảnh” chừng nào thì gác càng trúng chừng nấy.

Cu mồi phải có hình dáng đẹp, lông cườm ở cổ có bông nhuyễn; cu mồi hay phải có giọng gáy đẹp.

Một con cu khi gáy nghe “cúc cú cu” là gáy một liều trơn, khi gáy: “cúc cú cu, cu” là gáy liều một cốt. Liều hai cốt thì gáy: “cúc cu cu, cu cu”, còn liều ba cốt thì gáy: “cúc cu cu, cu cu cu”. Các tay gác cu sành điệu gặp được con liều ba cốt mừng như bắt được vàng.

Cách gác bằng lục

Trước hết phải sắm một cái lục. Cái lục này có thể làm bằng dây kẽm cỡ lớn hay bằng tre cũng được. Nó có dáng tương tự như lồng chim, nhưng bên trong ngăn làm hai phần bằng một chắn song. Phần trong để nhốt con cu mồi, phần ngoài có nắp giương lên và ăn khớp với bộ phận chốt cò phía dưới. Khi cu bổi (cu hoang) vào đá, đụng chốt cò, nắp lục sập xuống nhốt chúng vào trong. Chiếc lục thường sơn màu xanh tiệp với màu xanh của lá cây để dễ đánh lừa cua bổi.

Khi gác ta chọn một cành cây thích hợp nhất là những cây có cành lá xum xuê, rồi dùng một cây sào cao có gắn móc nơi đầu để máng cái lục vào và dựng dựa nhánh cây sao cho đừng ngã. Cái lục trước khi treo lên phải giương nắp ra sẵn và phía sau lục nơi để con mồi nên che vải kín lại, để cu bổi không đến từ phía ấy mà chỉ đến từ phía trước để vào lục. Khi con mồi kêu, cu bổi bay lại, hai con “bo cu cu” với nhau. Có con hiếu chiến bay vào đá liền, sụp bẫy cửa đóng, không thể thoát thân được. Nhưng cũng có nhiều cu bổi rất khôn, chúng đến bo một chút rồi bay đi. Nghe cu mồi kêu, chúng lại bay trở lại và có khi chúng đậu cành cây đối diện “bo cu cu” hằng giờ rồi mới sà vào đá…

Cách gác bằng lưới

Cách này, trước hết người ta phải dọn một khoảng đất trống, nơi ấy trải sẵn hai mảnh lưới cách khoảng nhau. Phía trong đối diện giữa hai mảnh lưới, đóng vài cây cọc để gài lưới xuống khỏi xê dịch khi giựt dây chụp.

Xong cột con cu mồi ở khoảng giữa hai mảnh lưới. Con mồi này gọi là con mồi đất, vì để ngoài đất và không cần có giọng gáy tốt. Chân của con mồi được cột một sợi chỉ và khi giật sợi chỉ này, con mồi chớp cánh để các con cu lạ thấy mà đáp xuống. Đồng thời bắt một con mồi khác, có tiếng gáy tốt, để trong lồng và giấu trong một lùm cây kế bên để nó kêu dụ cu bổi.

Khi cu lạ sà xuống đá với cu mồi đất, thì người gác cu giật mạnh dây cho hai mảnh lưới úp lại, nhốt chúng vào lưới.

Gác cu bằng lục hay bằng lưới đều vất vả như nhau. Những lúc có cu bổi đến người gác không dám ho, thậm chí không dám thở mạnh, đôi lúc bị muỗi mòng cắn họ cũng không dám đập. Nhưng khi mở lục hoặc giở lưới để bắt con bổi thì họ thấy sung sướng vô cùng.

“Nghề chơi cũng lắm công phu”

LMP (Cần Thơ) - BÙI ĐẸP st.

THONG DONG

Phiền hà ghê đi! Thấy ngôi thánh đường thật đẹp mà chụp chẳng ra làm sao cả, chỉ vì cái máy chụp hình quá là bé bỏng. Thì phải lo mà kiếm cái máy kha khá một tí! Và có một cái máy mới tinh cho chắc ăn. Dè đâu, chụp còn xấu hơn là cái máy cũ! Đơn giản chỉ vì không biết xài. Lại còn bày đặt chụp lén nhà kia bán thịt chó. Cũng có cái tele để chụp từ xa cho kín đáo. Ấy vậy, mà mấy bà bán thịt cầy dọc đường cũng phát giác ra, để 1,2,3… đậy quách mấy con chó làm sẵn lại, báo hại kẻ chụp hình chạy có cờ vì biết đâu, kẻ bị chụp lén không tịch thu “đồ nghề” mà liệng xuống giòng kênh ngoài kia đang sung sũng nước!

Khó nhỉ! Vậy mới biết mấy người chụp hình chuyên nghiệp lúc nào cũng lền khên bao với bị, túi nào cũng khả dụng: túi áo, túi quần, túi trên, túi dưới, túi xách… mỗi chỗ để một thứ để đến lúc cần là có ngay khỏi kiếm. Đã vậy, các ngài ấy có khi còn đeo tòn ten trên cổ những 2, 3… máy, để tùy cơ mà ứng biến, chứ đến lúc thay xong ống kính chụp cận cảnh thì cái cảnh hiếm hoi chủ bị chó nhà... liếm giữa mặt, đã trôi qua từ tám kiếp!

Ra ngoài phố, có khi có được pô hình ưng ý, thì thằng trộm cũng quá là ý ưng, khi cuỗm được chiếc xe của anh phó nhòm lơ đễnh để ven đường. Và hình ảnh khác cũng ưng ý không kém là, cảnh anh phó nhòm ấy được một chiếc máy vô tình khác chụp anh đang lếch thếch trên đường, cổ lủng lẳng cái máy chụp hình, và đôi giày vì đường xa tuột đế!

Có bao nhiêu kiểu “máy chụp hình” như thế để trang bị cho hằng ha sa số những ai muốn thực hiện công việc riêng mình. Càng đi sâu vào nghề nghiệp, càng cần những dụng cụ trợ giúp, chưa nói đến cái đam mê đòi hỏi con người phải cố công gắng sức.

Vậy mà Đức Giê su khi sai các môn đệ lên đường loan báo Nước Trời, lại dặn dò các ông và các hậu duệ của những Vị này, là chớ mang theo thứ gì trên người: không lương thực, không y phục dự phòng, không cần đến đôi dép thứ hai, không cả tiền, vàng hay đô la...

Có lẽ, đường gian nan của các Ngài không ít lần ngủ dưới vòm trời sao, co quắp trong bộ quần áo tả tơi vì sương gió, đói khát vì có nơi người ta treo bảng “miễn vào”, khiến các ông bước ra khỏi những ngôi nhà đẹp đẽ ấy, mà lặng lẽ cởi đôi dép cùn vẹt, giũ hết mọi cọng bụi dính từ cái sân thênh thang ấy, rồi một đi không trở lại...

Vậy mà các Ngài đã đi, và vẫn đi trong cuộc trần này!

Thật ra, cây gậy các Ngài đem theo chính là Lời Chúa, là kim chỉ nam, là “vật” dò đường dẫn lối. Các Ngài bước đi với lương thực tuyệt vời là Tình Yêu, khiến họ chẳng bao giờ cảm thấy đói khát. Các bậc Thánh Nhân ấy có kim tiền dự trữ dư đầy là lòng cậy tin vào Đấng đã sai họ lên đường. Họ chẳng thiếu thốn chi! Họ chẳng lo sợ gì! Vì sự Bình An Của Chúa chan hòa trong lòng họ, đến nỗi mỗi khi đến nơi nào thì lời chào “Bình An cho nhà này!” mà Thầy của họ là Đức Giê su đã dạy, đều tuôn ra từ những đôi môi quả quyết, và từ những đôi mắt đẫm mến thương!

LAM TRẦN


Phụ bản II

MÁNH KHÓE

CỦA VUA CHÚA NGÀY XƯA

I. Đại cương

Sau khi giành độc lập được mấy năm, họ Khúc bị quân Nam Hán đánh tan. Dương Diên Nghệ đuổi quân Nam Hán một sớm một chiều thì bị Kiều Công Tiễn giết đoạt ngôi. Ngô Quyền diệt thù trong đuổi giặc ngoài lên ngôi vua. Không bao lâu thì nước nhà chia năm xẻ bảy tạo nên loạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh, vị anh hùng dân tộc dẹp 12 sứ quân thu về một mối cũng không bao lâu thì bị ám sát. Sự kiện lịch sử diễn tiến từ năm 907 tới 1010 khi Lý Công Uẩn thay nhà Tiền Lê lên ngôi vua đã cho ông một kinh nghiệm quý báu để giữ vững thế mạnh cho quấc gia.

II. Kinh nghiệm giữ hưng thịnh lâu dài

Lý Công Uẩn được tôn lên làm vua thế cho nhà Tiền Lê, kinh nghiệm từ 907 tới 1010 cho ông thấy hai vấn đề lớn:

1. Kinh đô của nước phải đặt nơi dân đông để triều đình hô một tiếng thì muôn dân nghe theo. Và ở đó, khi cần tuyển lính chống ngoại xâm cũng dễ.

2. Phải tạo cho dân có một niềm tin vững chắc vào triều đình.

III. Mánh khóe của vua chúa thời xưa

1. Lý Công Uẩn tức là Lý Thái Tổ

a. Dời kinh đô: Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư hẹp nên cần dời đô ra thành Đại La cho rộng hơn, dân cư quy tựu sanh sống đông đảo.

b. Tạo niềm tin vào triều đình: Khi dời đô về Đại La, đến thành Đại La, lấy cớ là nhà vua trông thấy Rồng vàng hiện lên nên nhà vua đổi La thành thành Thăng Long thành. Có Rồng vàng hiện lên không? Tôi cho là không. Nhà vua bịa ra thôi. Từ xưa, nhơn dân cho rằng vua là con của Trời, là Thiên tử, tướng tinh của con Rồng ở thượng giới xuống trần gian để cai trị muôn dân. La thành có Rồng hiện lên thì đó đúng là nơi vua ngự, là kinh đô của nước. Tôi cho rằng khi nói Rồng vàng hiện lên thì Ngài cũng chỉ cho quần thần coi. Nếu ai nói là không thấy thì Ngài phán rằng khanh không phải là chân mạng quan do thiên đình sai xuống nên không thấy. Những quan a dua thì đua nhau nói thấy và lúc bấy giờ có khi do trí tưởng tượng họ cũng thấy thiệt đấy. Do đó, tiếng đồn rằng La thành có Rồng xuất hiện làm cho dân tin rằng vua Lý là chân mạng Đế vương. Ngoài ra còn có những giai thoại khác về Ngài như hồi còn nhỏ, vua bị nhà sư trói thì ông ung dung nói:

“Canh khuya không dám giang chân duỗi

Vì ngại sơn hà xã tắc xiêu”

Đó là câu nói có khẩu khí của bực Đế vương. Lòng dân đã tin vua nhà Lý là con Trời, là Tiên đồng ở thượng giới giáng phàm thì không ai dám có ý chống lại. Do đó, triều Lý kéo dài từ 1010 tới 1225 ngót trên hai trăm năm.

2. Nhà Trần với Trần Quấc Tuấn

Trần Quấc Tuấn là con của Trần Liễu, là anh ruột vua Trần Thái Tôn. Khi mẹ ngài có mang thì nói chiêm bao thấy vị Tiên đồng ở thượng giới xuống đầu thai. Khi sanh ngài thì nói thấy có hào quang sáng rực cả nhà nên vua quan nhà Trần cũng như nhơn dân tin là có thần nhơn hỗ trợ nhà Trần. Do đó, triều thần cũng như nhơn dân vững tin nhà Trần và cùng nhau đoàn kết một lòng. Do đó nhà Trần kéo dài từ 1225 tới 1400, ngót 175 năm.

3. Nhà Hậu Lê: 1428-1788

a. Viết lên lá cây: Sau khi diệt nhà Hồ, quân nhà Minh cai trị rất tàn ác khiến nhơn dân ta nổi lên khắp nơi để chống lại. Lê Lợi cũng nổi lên chống quân Minh, để thu phục lòng người, Nguyễn Trãi lấy mỡ viết lên lá cây:

“Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần”

Sâu, kiến cắn mỡ nên các chữ hiện lên rõ. Khi lá rụng xuống, nhơn dân đọc và cho rằng đây là mạng trời đã định nên gom về ứng nghĩa với Lê Lợi.

b. Vụ gươm thần: Thời Lê Lợi khởi nghĩa cũng có truyền thuyết về thanh gươm thần của Lê Lợi nhưng rất tiếc là tôi không nhớ rõ về hoàn cảnh gặp nhau giữa Lê Lợi và người lượm được lưỡi gươm nhưng cũng xin làm lanh kể lại và hy vọng ai có biết chuyện nầy sẽ kể lại rõ hơn. Một đêm, trên đường đi, Lê Lợi bỗng thấy trên cây kia có một đốm sáng, Ngài leo lên coi thì ra là một cái cán gươm nên đem về nhà cất. Ít lâu sau, có người khách từ phương xa tới, gặp Ngài và hai người trò chuyện. Ngài nhìn cái vỏ gươm của người khách, ông ta khoe rằng trên đường đi ông bắt gặp lưỡi gươm nầy. Lê Lợi mời về nhà và lấy cán gươm của mình tra vô thì vừa khít và không rút ra được. Khách lạ nói rằng đây là điềm báo Ngài là chủ của tôi. Sau, Lê Lợi dùng thanh gươm đó chống lại quân Minh và giành được độc lập cho nước nhà. Vị lượm được lưỡi gươm là ai? Tôi võ đoán là Nguyễn Xí, một danh tướng của nhà Lê. Sau khi lên ngôi vua, các công thần của Lê Lợi bị giết nhiều. Đến đời vua Lê Nhân Tông, ông bị anh là Lạng Sơn Vương Nghi Dân giết cướp ngôi nhưng vì hay nghe lời gièm pha mà giết các cựu thần nên chỉ tám tháng sau, Nguyễn Xí mưu cùng Đinh Liệt giết Nghi Dân, rước Bình Nguyên Vương Tư Thành lên làm vua. Đó là vua Lê Thánh Tông, vị vua anh minh đưa được nước văn minh hơn và lừng lẫy một phương.

Sau khi thắng quân Minh, lên ngôi vua, một hôm Lê Thái Tổ ngự thuyền chơi trên hồ Tả Vọng, thấy có chỗ nước xoáy như bàn tay xòe và chụp, sợ dân hoang mang, Ngài rút gươm thần ra chém thì thanh gươm bị giựt rớt xuống hồ và bàn tay cũng không còn nữa nên hồ Tả Vọng đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Việc nầy truyền ra, dân cho rằng Ngài là chân mạng đế vương nên trời cho mượn gươm đuổi giặc xong rồi thì thâu lại. Triều Lê kéo dài từ năm 1428 tới 1788 ngót 360 năm.

4. Vua Gia Long:

Sau khi nhà Tây Sơn diệt Nguyễn và Trịnh xong, họ Nguyễn còn sót một người là Nguyễn Phúc Ánh mới 17 tuổi. Ông quy tụ các tướng cũ nổi lên chống lại Tây Sơn và lấy lại được Gia Định. Ông đưa quân ra chiếm Bình Thuận, Diên Khánh… Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ vào chiếm lại Gia Định. Ngài chiếm và bỏ Gia Định chạy đến ba lần. Trên đường bôn tẩu, khi không có nước ngọt uống, Ngài lập bàn hương án và vái rằng nếu tôi là chân mạng Đế vương thì cho đào xuống chỗ nầy có nước ngọt và có thật. Ở ven biển vùng Ba Động còn nhiều di tích giếng nước ngọt của vua Gia Long. Nhưng có phải lời vái của Ngài linh thiêng chăng? Điều đó không biết. Nhưng xưa, khi Đào Duy Từ giúp chúa Nguyễn, ông nói rằng khi cần nước ngọt, ta lấy cát nước ngọt, có lẽ là cát nhuyễn, mịn nên có sức lọc nước lớn. Bỏ cát vô bình rồi đổ nước vào lọc. Các giếng nước ngọt Nguyễn Ánh đào đều là chỗ đất cát cả. Ngài biết cát lọc được nước biển nên tìm chỗ đất cát mà đào, lại làm ra vẻ trịnh trọng khấn vái. Dân và lính… không biết, thấy Ngài khấn vái xong thì đào có nước ngọt nên tin rằng Ngài là chân mạng Đế vương. Nhân dân ủng hộ Ngài. Ngài đã diệt được nhà Tây Sơn, thống nhứt giang sơn về một mối. Năm 1816 Ngài chiếm hoang đảo Hoàng Sa, Trường Sa sáp nhập vào Việt Nam để nước ta được rộng lớn hơn.

5. Vua Tây Sơn:

Chuyện vua Tây Sơn, rất tiếc tôi không nhớ sự việc nhưng xét thấy những điều ta có nghe biết cũng cần nói cho nhiều người biết nên tôi táo bạo kể lại. Vì không nhớ rõ nên kể sự việc có phần thô thiển.

Khi ông Nguyễn Nhạc làm biện lại, vì xài hết tiền thuế nên sợ bị làm tội. Ông chiêu mộ những kẻ vong mạng và tổ chức thành đội ngũ đi cướp của nhà giàu đem chia cho dân nghèo. Muốn tạo uy thế của mình, nhơn ngày nhựt thực, Nguyễn Nhạc mật cho người lên núi, mang theo pháo nhằm tạo ra tiếng nổ lớn. Nguyễn Nhạc cùng một số người thân tín ra triền núi đứng xem nhựt thực. Bỗng nghe một tiếng nổ lớn trên núi, Nguyễn Nhạc nói để ông lên coi có việc gì. Đi xuống, Nguyễn Nhạc cầm một tờ giấy màu vàng có ghi: “Mật truyền Biện Nhạc tái lập giang san”. Nguyễn Nhạc mộ quân càng ngày càng đông, lập kế chiếm Quy Nhơn rồi tiến chiếm Quảng Nam. Thanh thế mỗi ngày một mạnh, Tây Sơn đuổi chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh lập ra nhà Tây Sơn.

Khánh Hội - Quận Tư ngày 12-7-2018

PHẠM HIẾU NGHĨA

GIẤC MƠ CỦA BẠN

Tặng bạn tôi Võ Thị Hoàng Yến

Giấc mơ của bạn quả thật là dài

Chúng đã được tích tụ, quy đúc từ bao bao ngày vật vã

Un cao… un cao bằng rất nhiều mảnh vỡ

Những mảnh vỡ hình hài sâu cứa những con tim

Chúng luôn nóng… nóng sôi cùng bao viễn cảnh

Những viễn cảnh không cao sang,

không mượt mà nhung lụa,

không lóng lánh sắc màu lộng lẫy, chỉ…

Nhẹ nhàng như một khúc ca,

bằng giai điệu của một ngày êm ả, bằng những

hợp âm như ngàn ngàn trường đoạn, cất lên giữa vòm trời văn vắt thênh thang, từ bao mảnh vỡ…

Giấc mơ của bạn chất đầy bao hữu thể

Những hữu thể rất bình thường

luôn hiển hiện trong con mắt của vòng chuyền cuộc sống

Nhưng những bình thường ấy đã không thể bình thường

Vì những vết gai đầy xây xước

Bởi những bất bằng cuộc sống tạo nên

Bởi những góc nhìn chênh, chênh từ bao vô cảm,

chênh từ những vô tình mà đời đã vốn dĩ mặc nhiên

Những cái chênh ấy làm tôi đau, bạn đau,

và nhiều nhiều ai khác đã đau

Những cái đau ấy đã khiến tôi mơ, bạn mơ,

và nhiều nhiều ai khác cũng mơ

Những giấc mơ của bạn nóng hơn, dài hơn tất cả

Bạn không chỉ ngồi mơ

mà đang chuyển động những giấc mơ

Những giấc mơ được phân đoạn theo một lộ trình

Lộ trình của những cái nắm tay

tựa như một chiếc đèn kéo quân

Bạn vận hết tất cả những khí lực của mình

Thổi vào đấy một làn hơi , Bùng lên một ngọn lửa

Ngọn lửa của một cuộc trường chinh gian khó

Ngọn lửa cho chiếc đèn kéo quân chuyển động

Quay… quay… chậm… chậm…

nhanh… nhanh… nhanh hơn nữa

Ráp dần vào nhau những đoản khúc của giấc mơ

Những vòng quay đã khiến những mảnh hình rời rạc

Biết tạo nên một vũ điệu liên hoàn

Kết nối, rủ rê, lôi cuốn

Những làn hơi cộng hưởng cùng hơi thở bạn

Một luồng khí lực tràn trề, lan tỏa

Một thứ nhiệt năng đốt cháy lên bao nỗi khát khao

Cháy… cháy…. cháy lên đi… cháy to hơn nữa…

Nào hãy bùng lên đi bao mảnh vỡ hình hài !

Hãy hát… hãy hát lên và hãy bước

Dẫu những bước kia còn vấp ngã liên hồi

Không sao cả, ngã rồi lại bước tiếp

Hãy hát lên… Hãy bước tới cùng nhau

Hãy đứng thẳng giữa vòm trời đầy sao sáng

Đừng sợ mình méo mó giữa thiên thanh

Bởi vì ta cũng “Tứ định”(*) mà thành

Hãy biết hát cùng những hợp âm muôn thuở

Bằng tiết tấu của riêng mình

Giấc mơ bạn, giấc mơ đầy hữu thể

Giấc mơ không ngừng vươn mãi đến muôn xa

Giấc mơ dài, giấc mơ không đoạn kết

Giấc mơ lung linh ánh thắp của chiếc đèn

Chiếc đèn kéo quân vẫn xoay tròn giục giã

Bằng tiếng trống hùng từ nhịp đập những trái tim

Những trái tim khát khao tìm lẽ sống

Cho thỏa một kiếp phần đã “nhỡ” sinh ra

Không sao cả. Sinh ra là để sống.

Và hãy sống như mình là cỏ

Sau những bước dẫm của đời lại mạnh mẽ xanh.

ĐÀM LAN

(*) Tứ định : Đất-Nước-Gió-Lửa

LỜI TÌNH

MONG MANH

Tình có xanh như cỏ
Lấp vũng sầu hoang vu
Trái tim hồng khô héo
Sương thu giăng mịt mù...

Tình lạc bước u mê
Lá thu vàng tái tê
Lắt lay chiều mưa lạnh
Sao nghe hồn não nề

Hay chăng thu vẫy gọi
Từ xa vắng mù khơi
Tình đời hoài lận đận
Ngổn ngang nỗi luân trầm...

Hoàng hôn mùa lá mục
Thăm thẳm một vực sầu
Vết thương tình ảo não
Lẽ nào anh không đau ?

Có nghe lời cùng tận
Gọi suốt đời ăn năn
Đất trời mênh mông quá
Tình có chắc trăm năm ?

Ngày đông buồn lảo đảo
Ngọn cỏ hồn xanh xao
Lạnh tanh hơn lòng đá
Tình mong manh... xa mù !

Phạm Thị Minh-Hưng

Tháng bảy mưa ngâu

Tháng bảy mưa ngâu
Ô thước bắc cầu
Chuyện tình cổ tích
Hai người chờ đợi
Tháng bảy chờ mong
Vượt qua cầu ô
Phút giây gặp gỡ
Một năm... một năm
Chia lìa nhung nhớ
Một ngày... một ngày
Tháng bảy mưa ngâu
Tự tình... tình tự
Chờ đợi... mưa ngâu.

Huỳnh Thiên Kim Bội

Cung đàn dang dở

Nửa mảnh trăng xanh buồn diễm ảo

Em nghiêng sầu trên phím nhạc du dương

Cung đàn ngân nức nở mộng ngàn phương

Trầm lắng xuống

Rồi chìm vào hoang lạnh

Ánh sao tắt, bản tình ca đứt đoạn

Trả lại bóng đêm

Những giây phút êm đềm

Và giấc ngủ thiên thần vừa đánh mất

Còn đây

Một mình em

Lẻ bóng, đơn côi

Giữa gió khuya hiu hắt

Vực thẳm linh hồn

Dư ảnh tím hoàng hôn

Không gian lạnh như mơ sầu bão tuyết

Em tìm nhặt những âm thanh trác tuyệt

Để dìu nhau

Vào vĩ đại cô đơn

Để cùng nhau về chung một nẻo đường

Mình sẽ sống

Với niềm tin bất diệt

Cho vườn thơ dậy men nồng tinh khiết

Rừng ái tình thơm ngát hương yêu

Vũ trụ đăm chiêu

Nhìn theo đôi cánh biếc

Của loài chim nhỏ

Mang mùa thu biền biệt

Về trên cành lệ liễu vương tơ

NGÀN PHƯƠNG

Trăng buổi sáng

Trăng mờ nhạt như tình trong mộng tưởng

Còn thẹn thùng e ấp nỗi niềm riêng

Như mơ màng chìm đắm giấc cô miên

Như dấu kín nét sầu đau lặng lẽ.

NGÀN PHƯƠNG

KÈN BI AI

Neo thuyền cửa Bến Hải

Dạo bước đỉnh Phong Nha

Cỗ lũy rày hoang phế

Cô thôn suối vắn dài

Non sông chưa biến cải

Mưa gió dục sầu lai

Mờ mịt hướng Nam Hải

Lầu trắng kèn bi ai.

LANG NGUYÊN

BÓNG TRĂNG TÀ

Cửa Bắc đứng đàng trước

Non Nam trở lại nhà

Kém tài quan chức bỏ

Đau ốm bạn bè xa

Tóc bạc mau già đến

Ngày xanh kịp tết qua

Bâng khuâng nằm không ngủ

Cửa ngỏ bóng trăng tà.

LANG NGUYÊN

MẸ TÔI

Trên trời có mấy vì sao

Dưới trần cũng có biết bao mẹ hiền

Mẹ tôi là một bà tiên

Sớm hôm tần tảo truân chuyên mỏi mòn

Quanh năm nuôi mấy đứa con

Lo cho ăn học dạy khôn với đời

Gia đình hạnh phúc đầy vơi

Gánh vác trách nhiệm tuyệt vời thế gian

Mẹ tôi gia đạo đảm đang

Công, ngôn, dung, hạnh, đàng hoàng ước mong

Giỏi tài nấu nướng chiều chồng

Món ngon vật lạ vui trong gia đình

Trau lời ngọt dịu đinh ninh

Đối nhân xử thế hòa bình dưới trên

Giúp chồng xây dựng làm nên

Gia phong xinh đẹp vững bền cơ ngơi

Con thương Mẹ lắm Mẹ ơi !

Công ơn của Mẹ đời đời khó quên !

Xin ai còn Mẹ làm nên

Sớm hôm phụng dưỡng đáp đền phận con.

Thanh Châu

LÒNG TIN

Lòng tin khó tìm nhưng lại dễ mất

Điều khó khăn nhất là không “quản lý” được

Khủng hoảng âm thầm không dự báo trước

Đến khi biết được thì quá muộn rồi

Xây dựng niềm tin bằng sự tin cậy

Không thể bằng lừa phỉnh

Nói những điều không biết

Viết những điều không hiểu

Thực trạng và nguyên nhân của nó

Là sợ mất những điều không có

Sống dối trá sẽ chết cùng dối trá

Mất niềm tin là ta mất tất cả.

LÊ MINH CHỬ

LÂU ĐÀI

XÂY TRÊN CÁT

Sự phồn vinh phù phiếm

Trên nền tảng không bền

Cái giàu từ việc làm phi pháp

Cũng chỉ là “lâu đài xây trên cát” mà thôi.

LÊ MINH CHỬ

NHỮNG NGÀY MƯA BÃO

Tặng Anh

Rồi đêm mưa bão ập về

Buồng riêng quạnh vắng lê thê phận đời

Và khi gió cuốn tả tơi

Lá khô rơi rụng bên trời buồn thiu

Từng chiều qua lại từng chiều

Mưa rơi bão tới hoang liêu cõi lòng

Em dường đón cả mùa đông

Sương băng lạnh giá muôn trùng xa khơi

Chờ nắng lên khắp nơi nơi

Người về chốn cũ một thời có nhau.

HOÀI LY

THƯƠNG HOÀI NGÀN NĂM

Sao hôm có gặp sao mai

Duyên mình đã định trời đày Sâm Thương

Ngàn năm bóng khói còn vương

Lam chiều bãng lãng mùi hương gia đình

Mây trôi bèo vạc lênh đênh

Như là định mệnh tình mình trước sau

Cả đời ôm trọn nỗi đau

Cả đời thầm gọi tên nhau ngậm ngùi

1/4/2016

HOÀI LY

LỄ HÚY KỴ

TUỒNG SAN HẬU

Tháng bảy ba mươi, cúng Thượng Công

Mừng ngày Húy Kỵ, Sắc Vua phong

Đào-thài, lễ nhạc, kèn, chiêng, trống

Hội tựu, đèn nhang, bánh, trái, bông

Bá tánh thập phương lòng kính cẩn

Chính quyền sở tại chí hòa đồng

Ba ngày Quý Tế chu toàn giỗ

Hội Trưởng xây chầu, lễ cúng Ông.

Ông về thị kiến Khách muôn phương

Chứng độ thành tâm vạn phố phường

Nhuận, Nhược, Ôn Đình… gương hiểm độc

Mẫu-Hoàng, Thị-Kiểu… hạnh yêu thương

Công Cha(1), Phàn Diện… tung hoành trận

Nghĩa Mẹ(2), Kim Lân… thắng chiến trường

Ba buổi diễn tuồng San Hậu kết

Thái bình lập quốc, tấn tôn Vương.

PHƯỚC HẢI

30/7/2003

(1) Phàn Định Công

(2) Bà Đổng Mẫu

HÁT KHÚC RONG CHƠI

Ta về hát khúc thiên thai

Giữa đêm hiu quạnh biết ai đi cùng ?

Bên trời sương khói mênh mông

Xa xa thấp thoáng một vùng cỏ hoa

Ta về hát khúc hoan ca

Có em ra đứng trước nhà trông theo

Tàn thu chiếc lá bay vèo

Rơi trên phiến đá cheo leo cuối ghềnh

Ta về hát khúc lênh đênh

Mơ về một thuở thanh bình xa xưa

Có nàng ngồi đó quay tơ

Có chàng thi sĩ làm thơ diễm tình

Ta về hát khúc vô thanh

Có con chim hót trên cành thu đông

Tay tiên nâng phím tơ đồng

Dáng thanh say mắt, sắc hồng tươi môi

Ta về hát khúc chơi vơi

Bên em ngồi ngắm mây trời bao la

Khi xưa: em của người ta

Giờ đây về dưới mái nhà cùng anh

Ta về hát khúc thanh xuân

Nắm tay em kéo lại gần bên anh

Lặng nhìn đôi mắt long lanh

Chợt nghe nuối tiếc ngày xanh qua rồi

Ta về hát khúc chung đôi

Hoàng hôn dạo gót trên đồi cỏ xanh

Dù đời ta có mong manh

Tình yêu chung thủy vẫn dành cho nhau

Ta về hát khúc ly tao

Nhớ đêm ân ái bên lầu trăng sương

Giờ đây xa cách đôi đường

Biết tìm ai gửi nỗi buồn mênh mông ?

Ta về hát khúc hương nồng

Gửi con chim nhỏ phiêu bồng chân mây

Chút tình trong trắng thơ ngây

Lên trang nhật ký hao gầy xanh xao

Ta về hát giữa chiêm bao

Bên em say đắm ngạt ngào hương hoa

Lung linh sương khói nhạt nhòa

Hỏi rằng : hư ảo hay là chân như ?

Ta về hát khúc thiên thu

Nhớ trưa thanh vắng lời ru mẹ buồn

Rằng đời dâu bể tang thương

Trăm năm : một phút vô thường mà thôi !

Ta về hát khúc rong chơi

Hân hoan đi giữa nắng trời giăng tơ

Rồi trong một thoáng tình cờ

An nhiên siêu thoát khỏi bờ tử sinh…

THANH PHONG

LƯU TÌNH

Bao năm đến với XƯA NAY

Giao lưu lĩnh hội đủ đầy Sách hay

Cha Triết nhân nghĩa tràn đầy

Sưu tầm chia sẻ ý hay hòa đồng

Anh Tuấn hoài bão trông mong

Ước tìm sách quý ruổi rong nẻo đường

Luôn đem san sẻ tỏ tường

Tuần hai thứ bảy mến thương trình bày

Mạnh Đoàn Anh chọn bài hay

Bao nhiêu tâm huyết… vui thay đúng kỳ

Thơ tình có Chị Hoài Ly

Vô cùng vất vả cả đi lẫn về

Cô Tâm Nguyện việc bộn bề

Tuy nhà xa nhưng chẳng hề ngại chi

Anh Thanh Châu mấy ai bì

Tuổi cao ! ngựa sắt ! thường kỳ giao lưu

Cô Bác - Anh Chị về hưu

Đam mê thơ phú thân yêu nghĩa tình

Trà - Gừng thay Rượu linh đình

Thùy Hương lưu dấu chân tình không phai.

Tối 07/9/2018

VŨ THÙY HƯƠNG

CÙNG EM

Lưu dấu cho Em Thùy Hương

Saigon và đêm mùa Thu không Em

Anh sẽ cùng Em ! Níu thời gian

Trao nhau ân ái giấc mơ vàng

Để quên năm tháng sầu cô lẻ

Rũ bỏ khổ đau giữa trần gian

Anh sẽ cùng Em hết cuộc đời

Cốc tình hồng mãi thắm bờ môi

Thanh Xuân như thuở ta vừa gặp

Để lại trong TIM mộng tuyệt vời

Anh sẽ cùng Em trăm năm nữa

Gom cả Trời Xuân ! Giữa Trời Xuân

Xây lầu tình ái cùng THƠ - NGUYỆT

Trải khúc hoan tình ĐỜI THANH TÂN.

HẢI ÂU

17/9/2017


THÊM MỘT

VẦNG TRĂNG

Nào ta ra biển giữa mùa trăng

Bày cỗ Trung thu đón chị Hằng

Thành bữa tiệc trăng em thấy không

Mời bạn về đây giữa biển trời

Cúc vàng náo nức dưới trăng soi

Hát lên hòa khúc ca thân ái

Nụ cười trao gửi thắm trên môi

Mời chị Hằng Nga bay xuống đây

Vui nào hơn được nối vòng tay

Có trầu cau dưới sân quấn quýt

Có đèn sao sáng ở trong mây

Có một ngày sinh trọn đêm nay

Mượn tết em thơ tiệc đã bầy

Thêm một vầng trăng tròn tháng Tám

Thêm tình bầu bạn để hồn say.

Sinh nhật Trung thu 2009

LÊ NGUYÊN

Gặp em

Phút giây đầu gặp em

Anh rất vui trong dạ

Trời xanh thật vui quá

Đưa em đến gặp anh

Mắt em sao long lanh

Có hồn anh nơi đó

Giọng em như làn gió

Thơm mát tâm hồn anh

Bầu trời thu trong xanh

Có đâu là biên giới

Anh vẫn hằng mong đợi

Em buổi sớm bình minh

Một ngày không gặp em

Anh thấy buồn man mác

Những bài thơ anh hát

Đang nẩy mầm trong anh.

PHÙNG CHÍ TÂM

TÌNH EM

Chi một phút giây được gặp em

Tim anh bừng nắng - máu say men

Tuổi trẻ dâng lên đầy khát vọng

Duyên trời anh mãi có tình em.

PHÙNG CHÍ TÂM

MƯA SÀI GÒN

Sáng lãng đãng, Sài Gòn vừa nắng ấm
Em áo dài, để trang điểm phố phường
Trời trong xanh, mặc quán hẹn chờ mong
Chẳng gì vội cho đôi chân con gái !

Những cụm mây lang thang, rồi tụ lại
Mưa dập dồn, tóc đã chải xong đâu…
Mưa ghẹo trêu con gái buổi hẹn đầu
Mưa bỏ nhỏ : áo dài mau ướt lắm…

Những cánh hoa cứ than dài thở vắn
Bọn bướm ong như tự tử cả rồi
Trời chợt tạnh, lũ lá giũ giọt rơi
Vẫn sũng ướt cái biếng lười Chúa Nhật !

Có lẽ anh vẫn đợi chờ ngằn ngặt
Vẫn bồn chồn mặc đá loãng cà phê
Vẫn ngước mắt dõi ra khắp bốn bề
Chút tức bực hẳn là không đáng kể ?

Dù em xanh, áo em màu rực lửa
Chắc là anh sẽ ngớ ngẩn mắt nhìn
Nghĩ thế, em thả những bước hồn nhiên
Lòng ôn kỹ những lời đêm vừa mộng…

Bước con gái sao nhanh bằng gió lộng
Nắng Sài Gòn chưa kịp ửng môi son
Thì ơ kìa, lại một lũ mưa điên
Lại ập đến bần bật thân dù dại !

Thân con gái bây giờ về ngủ đẫy
Mặc nắng mưa loang loáng đuổi nhau đi
Mặc ai chờ, bởi mưa nắng thế này
Guốc con gái chẳng bao giờ theo kịp…

Ừ!
Mưa Sài Gòn tuy nhập nhằng khốn kiếp
Nhưng gái Sài Gòn chẳng như thế đâu anh
Nắng Sài Gòn tuy tắt bật chông chênh
Nhưng gái Sài Gòn rất chung tình, anh nhé…

LAM TRẦN 28.08.2018

CHIỀU QUÊ

Mặt trời vấp ngã trên đồi

Cỏ cười khép lá, trâu rời ruộng xa

Nếp tranh loang khói ngây ngô

Cơm chiều đã ngả trên bờ thu sang

Tiếng xe nghiến bánh ngỡ ngàng

Nhớ thành đô quá, miên man nhớ người

Mặt trời chết khiếp sau đồi

Sợ ta tắt thở vì trời nhớ nhung...

LAM TRẦN 24.7.2014

MÙA LỄ CƯỚI

Hôm nay nhân lễ kết gia

Đôi lời thân ái gắn ghi thâm tình

Vui như mùa én đẹp xinh

Bay cao uốn lượn lung linh bầu trời

Đời sống có lúc đầy vơi

Bao năm vẫn nở nụ cười trên môi

Thông gia hai họ đón mời

Hòa trên thuận dưới đẹp đôi hợp thời

Bên nhau đi suốt cuộc đời

Vượt qua gian khó đến nơi sang giàu

Từ nay cho đến mai sau

Uyên ương hạnh phúc cùng nhau se tình

Chung tay xây dựng gia đình

Trọn đời chung thủy nghĩa tình đẹp đôi.

QUANG BỈNH 2018

ĐÓN TRI ÂM

Tôi không có đến một người bạn gái

Đành âm thầm đêm đếm giọt cô đơn

Tôi đủ sức làm bờ vai vững chãi

Cho một ai đã mệt mỏi buông đờn

Tôi đặt lại cây đờn vào tay ai tê dại

Để cất lên thêm tiếng bổng tiếng trầm

Bờ vai tôi đợi mái đầu êm ái

Tâm hồn tôi rộng mở đón tri âm…

VŨ ĐÌNH HUY

ĐÊM ẤY RỪNG THU…

Đêm ấy rừng thu, nhiều trăng quá, nhiều trăng quá

Vàng rót tràn trời

Anh muốn nắm tay em mà không dám nắm tay em

Mỗi chiếc lá là một con mắt nhìn

Đứng ở chỗ nào cũng thấy trống trải…

Đêm ấy rừng thu, nhiều gió quá, nhiều gió quá

Cây lá rì rào

Cây lá nói với nhau là chúng yêu nhau

Anh cũng muốn nói với em điều ấy nhưng anh im lặng

Chân tay chẳng biết để làm gì…

Đêm ấy rừng thu thơm lạ lùng, thơm lạ lùng

Tà áo em đầy gió

Đôi môi em đầy trăng

Đôi mắt em đầy trăng…

8-1998

TRẦN NHUẬN MINH

THAT NIGHT IN THE AUTUMNAL FOREST…

That night in the autumnal forest, there was so many moons, so many moons

Gold was poured all over heaven

I wanted to hold your hand but dared not hold your hand

Each leaf was a looking eye

Whatever the place I was staying, I found it too open…

That night in the autumnal forest, there was so much wind, so much wind

Trees and leaves rustled

Trees and leaves told one another that we loved each other

I also wanted to tell you so, but I kept silence

And didn’t know what to do with my hands and feet…

That night in the autumnal forest was strangely odorous, strangely odorous

The flap of your dress was filled with winds

Your vault-like breast was filled with winds

Your lips were full of moon

Your eyes were full of moon…

8-1998

TRẦN NHUẬN MINH - Translated by VŨ ANH TUẤN

Tiếng Việt Dễ Thương Nam, Bắc

Bắc bảo Kỳ, Nam kêu Cọ (gọi là Kỳ Cọ)

Bắc gọi lọ, Nam kêu chai

Bắc mang thai, Nam có chửa

Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi

Ôi! Bắc quở Gầy, Nam than Ốm

Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh

Bắc định muộn, Nam liền la trễ

Nam mần Sơ Sơ, Bắc làm Lấy Lệ

Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt

Nam bắc Vạc tre, Bắc kê Lều chõng

Bắc nói trổng Thế Thôi, Nam bâng quơ Vậy Đó

Bắc đan cái Rọ, Nam làm giỏ Tre

Nam không nghe Nói Dai, Bắc chẳng mê Lải Nhải

Nam Cãi bai bải, Bắc Lý Sự ào ào

Bắc vào Ô tô, Nam vô Xế hộp

Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng

Khi nắng Nam mở Dù, Bắc lại xoè Ô

Điên rồ Nam Đi trốn, nguy khốn Bắc Lánh mặt

Chưa chắc Nam nhắc Từ từ, Bắc khuyên Gượm lại

Bắc là Quá dại, Nam thì Ngu ghê

Nam Sợ Ghê, Bắc Hãi Quá

Nam thưa Tía Má, Bắc bẩm Thầy U

Nam nhủ Ưng Ghê, Bắc mê Hài Lòng

Nam chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh

Nhanh nhanh Nam bẻ Bắp, hấp tấp Bắc vặt Ngô

Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp

Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi

Nam nói: mày đi! Bắc hô: cút xéo!

Bắc bảo: cứ véo! Nam: ngắt nó đi.

Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói

Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn!

Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác

Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke

Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn

Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay

Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó

Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên

Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam

Nam: ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi!

Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội

Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui

Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp

Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo

Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy

Bắc quậy Sướng Phê, Năm rên Đã Quá!

Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc

Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu

Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng

Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu

Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo

Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm

Nam mê phiếm, Bắc thích đùa

Bắc vua Bia Bọt, Nam chúa La-De

Bắc khoe Bùi Bùi lạc rang,

Nam: Thơm Thơm đậu phọng

Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ

Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn

Nam toe toét “hổng chịu đèn”, Bắc vặn mình “em chả

Bắc giấm chua “cái ả”, Nam bặm trợn “con kia

Nam mỉa “tên cà chua”, Bắc rủa “đồ phải gió

Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ

Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt

Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô

Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm

Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan

Bắc xuýt xoa “Cái Lan xinh cực!”,

Nam trầm trồ “Con Lan đẹp hết chê!”

Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền

Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền mới lâu…

Lệ Ngọc st.


Phụ bản III

KỶ LỤC GUINNESS

VỀ CÁC VỊ TỔNG THỐNG

Tổng thống cao tuổi nhất

Tổng thống nước Cộng hòa Dominica là Jacobin Balaguet sinh ngày 1-9-1907 hiện đang là vị Tổng thống cao tuổi nhất đang đảm đương trọng trách.

Tổng thống trẻ tuổi nhất

- Cựu Tổng thống Peru, Alan Garcia sinh ngày 23-9-1949, giữ cương vị này khi mới 36 tuổi 2 tháng.

- Louis Napoléon Bonaparte sinh ngày 20-4-1808 được bầu làm Tổng thống nền cộng hòa thứ II ngày 10-12-1848 khi 40 tuổi 7 tháng. Bốn năm sau, Napoléon tuyên bố đế chế.

Những phụ nữ Tổng thống đầu tiên

- Isabelle Peron (sinh năm 1931), là người vợ thứ ba của Juan Peron đã trở thành phụ nữ đầu tiên giữ cương vị Tổng thống một nước (Arhentina ngày 01-4-1974). Bà bị nhóm đảo chính quân sự lật đổ ngày 12-3-1976.

- Vigdís Finnbogadóttir , sinh năm 1930, Nữ Tổng thống nước Cộng hòa Iceland từ ngày 30-6-1980, là đại diện phái yếu đầu tiên được bầu vào trọng trách này một cách dân chủ. Bà tiếp tục lãnh đạo đất nước tới năm 1996.

Tổng thống giữ cương vị lâu nhất

François Mitterand, vị Tổng thống đầu tiên thuộc đảng Xã hội thuộc Cộng hòa thứ V sinh tại Janaque, Sa-răng ngày 26-10-1916, là chính trị gia giữ mọi kỷ lục về phương diện này. Trên thực tế, ông đã phải trải qua một cuộc đời chính trị lâu dài, vượt tất cả các nhiệm kỳ bầu cử lập pháp tại Pháp. Ông được bầu làm Tổng thống nước cộng hòa Pháp ngày 10-5-1981. François Mitterand cũng là người giữ trọng trách tối cao trong thời gian kỷ lục 14 năm 243 ngày tại điện Elysée.

NHỮNG CÁI NHẤT CỦA CHÍNH KHÁCH

Bài diễn văn dài nhất

- Tháng 5-1957, trước những bức xúc của các vụ tai nạn công nghệ, nghị sỹ Bill Mejer (Mỹ) đã đọc và thuyết trình một bài diễn văn chỉ thiếu 5 tiếng nữa là đủ 2 ngày (43 giờ).

- Năm 33 tuổi, chủ tịch Fidel Castro với tư cách là người đại diện cho đất nước Cuba đã đọc một bài diễn văn dài nhất trong lịch sử tại Liên Hiệp Quốc ngày 26-9-1960. Ông đã nói liên tục trong 9 giờ 42 phút.

- Tổng thống thứ 9 nước Mỹ - ông Harrisson được xem là người có tác phong rề rà nhất bởi bài diễn văn trong lễ nhậm chức ngày 04-3-1841 đã kéo dài 1 giờ 40 phút.

Đọc diễn văn nhanh nhất

- Ngày 24-02-1989, René Tranomi, Thị trưởng thành phố Nice (Pháp) đã lập một kỷ lục thế giới đọc nhanh 668 từ trong 1 phút, cứ mỗi giây ông đọc được 11 từ.

- Tổng thống Mỹ J.F.Kennedy là người nói nhanh nhất trong số các ông chủ Nhà Trắng. Ông đọc một bài diễn văn cứ mỗi phút được trên 300 từ.

Nguyên thủ quốc gia nặng cân nhất

Đó là vua xứ Toga, ông cao 1,90m, nặng 209kg. Tuy nhiên, đến năm 1993 nhờ áp dụng các phương pháp “giảm béo”, ông chỉ còn 127kg.

Nguyên thủ quốc gia cao nhất

Các ông chủ Nhà Trắng thường đứng đầu thế giới về chiều cao, đa số đều cao trên 1,80m: Arthur cao 1,90m, nặng 100kg; M.Kinley cao 1,90m, nặng 90kg; Bill Clinton cao 1,90m, nặng từ 90-105kg. Kỳ phùng địch thủ về lĩnh vực này là F.D.Roosevelt cao 2,08m và Abraham Lincoln cao 2,06m, nặng 81kg. Tổng thống Benjamin Harrison được xem là người thấp nhất - chỉ cao 1,60m.

Bắt tay nhiều nhất

Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt vinh dự được nhận danh hiệu này. Ngày 01-01-1907, ông đã bắt tay 8.513 lần để chào đón các vị khách đến chúc mừng năm mới tại Nhà Trắng.

Người đứng đầu Nhà nước nhiều tuổi nhất

- Lên lão 80 đã 2 năm, Pétan (1856-1951) vẫn được “tín nhiệm” trở thành Quốc trưởng nước Pháp dưới thời Đức chiếm đóng. Và chỉ khi phát xít Đức bị đánh bại, Pétan mới thôi giữ chức vụ này vào tuổi 89.

- Thủ tướng Ấn Độ Ranchhodji Desai nhậm chức lúc tóc đã bạc phơ: 81 tuổi.

- Ông Alessandro Pertini Tổng thống Italia lúc 82 tuổi, và tới 88 tuổi mới kết thúc nhiệm kỳ.

- Reagan là Tổng thống Mỹ nhiều tuổi nhất khi nhậm chức: 69 tuổi. Ông Henry Harrison giữ chức vụ này lúc 68 tuổi.

Nguyên thủ sống lâu nhất

Thủ tướng Nhật, ông Naruhiko Higashikuni, mất ngày 20-01-1990, thọ 120 tuổi.

DIỄM HẠNH (Theo The Sun) - ĐỖ THIÊN THƯ st.

Đọc sách giùm bạn

KIỀU CA

Chúng ta đã nghe đến Truyện Kiều, Vịnh Kiều, Lẩy Kiều, Bói Kiều, Kiều đọc xuôi, Kiều đọc ngược… nhưng có lẽ ít khi nghe đến Ca Kiều hay Kiều Ca. Xin được giới thiệu đến quý bạn đọc cuốn Kiều Ca

Phổ thơ Nguyễn Du & Phạm Thiên Thư

Tác giả Trương Thìn

Do NXB Thanh Niên phát hành quý IV/2010

Tác giả Trương Thìn sinh năm 1940 tại Huế. Làm thầy chữa bệnh và dạy học Đông y hiện đại. Là người tìm thuốc trong nghệ thuật.

Cùng tác giả:

- Trường ca Mấy cõi rong vui

- Y đạo ca Lãn Ông trở về quê hương yêu dấu

- Bi tráng ca Chinh Phụ Ngâm

- Thoang thoảng hương thiền

- Thiền chơi…

Cuốn Kiều Ca khổ 14x20 dày 200 trang. Cứ 1 đến 2 trang lại có một phụ bản của chính tác giả.

Sau Lời Giới Thiệu ta có 4 Trường ca:

1. Kiều ca Một xe trong cõi hồng trần

Gồm 13 bản nhạc từ trang 15-67

Viết về một nàng Kiều yếu đuối lênh đênh trôi dạt trong biển đời nghiệt ngã.

2. Kiều ca Mai sau dù có bao giờ

Gồm 6 bản nhạc từ trang 75-95

Viết về tấm lòng của Kiều thương nhớ quê nhà, thương nhớ cha mẹ, thương nhớ nguòi yêu.

3. Kiều ca Bên bờ khát vọng

Gồm 12 bản nhạc từ trang 105-150

Lại viết về một nàng Kiều mạnh mẽ đi tìm cho thấy ai là người yêu, người đáng tin cậy nhất.

4. Kiều ca Đoạn trường vô thanh Thơ của Phạm Thiên Thư

Gồm 9 bản nhạc từ trang 159-194

Viết về một nàng Kiều đã nhẹ gánh trầm luân, lòng thanh thản như cánh hạc bay vút về trời.

Ước mong của tác giả là rất mong được nhiều người sử dụng, biết đâu có ai đó đồng cảm phối âm, mà ca hát để cho những Kiều ca âm vang đó đây.

Sách trình bày đẹp, nhiều Phụ bản đẹp của chính tác giả, nhạc kẻ rõ ràng, giấy tốt… giá bìa là 50.000đ

HÀ MẠNH ĐOÀN

MÙA XUÂN CỦA BÉ BÔNG

(tiếp theo số 148)

Sau bữa trưa, mọi người nghỉ một giây lát, đến lúc xế chiều, bà Ngọc Hương đi cùng Việt Thu đến bệnh viện N.T. tìm thăm Ánh Mai. Trong khi ấy, Ngọc Hà ở lại nhà, cũng sốt ruột đi vào ra trông ngóng tin tức từ mẹ và chồng. Mãi đến chiều tối, mới thấy hai mẹ con quay về với vẻ mặt căng thẳng, lẫn buồn rầu. Bà mẹ bước vào nhà, vừa ngồi xuống sofa, chưa kịp cởi khăn đội đầu thì Ngọc Hà đã chạy ra hỏi ngay:

- Sao mẹ, bệnh Ánh Mai như thế nào hở mẹ, tình hình em ấy có khá hơn không?

Cô con gái hỏi dồn dập làm bà Ngọc Hương chưa kịp trả lời thì Việt Thu cũng vừa vô đến phòng khách, anh vội ngăn vợ lại nói:

- Kìa em, thủng thẳng để mẹ nghỉ chút đã, mẹ đi về còn mệt mà.

Ngọc Hà giật mình, nhìn lại mẹ mình, vội nói:

- Con xin lỗi mẹ, tại con thấy lo cho em Mai quá.

Việt Thu vội đi rót tách trà mang lại cho mẹ vợ:

- Con mời mẹ uống nước.

Bà Ngọc Hương nhấp một ngụm nước rồi cất giọng:

- Con à, sức khỏe của Ánh Mai suy kiệt nhiều lắm, bệnh như càng ngày càng nặng thêm.

Ngọc Hà hỏi liền:

- Mà Ánh Mai bệnh gì hở mẹ? Em ấy lâm bệnh bao lâu rồi vậy mẹ?

Bà Ngọc Hương buồn bã đáp:

- Mai nó bị ung thư gan di căn đó con à, bác sỹ điều trị nói thế, mẹ cũng không ngờ Ánh Mai lại đến nỗi nầy. Thì ra lâu nay nó sợ dì con buồn lo nên cứ dấu diếm để đến bây giờ…

- Mẹ, rồi bác sỹ nói sao vậy mẹ?

- Thì còn nước còn tát con à, các bác sỹ đều tận tình chữa trị cho em nó mà.

Bà mẹ nói đến đây bỗng như nhớ ra điều gì, bà nhìn Ngọc Hà khẽ nói:

- Ánh Mai muốn gặp con để nói chuyện gì quan trọng lắm, vì tuy nó đang mệt, mà cũng ráng nhắc mẹ nói với con thu xếp vào bệnh viện cho nó gặp mặt, thấy Mai yếu mệt vậy, mẹ lo quá, thương cho dì con ở ngoài ấy không biết ra sao nữa.

Nghe mẹ nói thế, Ngọc Hà cảm thấy xúc động rưng rưng lệ:

- Thật vậy hả mẹ? Tôi nghiệp Ánh Mai quá. Để sáng mai con vào thăm em sớm, xem có chuyện gì nghe mẹ. À, mà em Mai không cho mẹ biết là chuyện gì sao?

Bà Ngọc Hương chậm khóe mắt đang ướt lệ, lắc đầu:

- Không con à, Mai chỉ cầm tay mẹ, nói khẽ như thế thôi, mẹ không hỏi thêm gì nữa, vì lúc ấy nó có vẻ mệt nhiều.

Ngọc Hà nhìn sang Việt Thu lúc này đang ngồi bên cạnh:

- Anh à, mai anh đưa em đi thăm Ánh Mai có được không?

Thu gật đầu:

- Được, sáng mai anh cùng đi với em, anh nghĩ là dì ấy muốn tâm sự với em rất nhiều đó Ngọc Hà.

Ngày hôm sau, hai vợ chồng cùng vào bệnh viện thăm Ánh Mai. Nhìn thấy vẻ tiều tụy, yếu mệt của cô gái, Ngọc Hà khóc nức nở thương em quá chừng, chị nắm lấy đôi tay gầy guộc của Mai vuốt ve mãi, không thốt lên được lời nào.

Đang nằm thiêm thiếp, Ánh Mai chợt mở mắt thấy Ngọc Hà - Việt Thu ở bên cạnh, người thiếu phụ khốn khổ cũng rơi hai dòng lệ nóng, nói giọng yếu ớt:

- Chị Ngọc Hà, cám ơn chị đã vào thăm em, - rồi nhìn qua Thu đang đứng gần đó - em mong anh chị thương em, giúp đỡ cho em một chuyện, em rất đội ơn.

Nghe thế, Việt Thu vội tiến lại gần giường người bệnh, giọng thương cảm:

- Ánh Mai em đừng ngại, có chuyện gì khó khăn, anh chị giúp được, thì luôn sẵn lòng hết thảy.

Ánh Mai ra hiệu cho Ngọc Hà đỡ ngồi lên. Hà liền lấy chiếc gối kê dưới lưng cho em gái ngồi dốc lên cho đỡ mệt. Ánh Mai cất giọng thì thào:

- Lâu nay chắc anh chị cũng biết qua hoàn cảnh của em là người mẹ đơn thân. Lúc còn thiếu nữ bồng bột, cả tin lại không nghe lời khuyên ngăn của mẹ cha nên đã lầm lỡ cả một đời. Vì thế ba em quá đau buồn nên qua đời, mẹ em từ đó cũng ngã bệnh do tội em bất hiếu. Rồi em sinh Mai Phương thì nhà ngày càng túng quẫn, mẹ em lại mang bệnh mãi chữa không khỏi cho đến nay.

Mặc dù dì Hai Ngọc Hương có trợ giúp gia đình em, nhưng dì cũng chỉ một phần nào thôi, chị cũng biết phải không? Vì thế, khi con bé Mai Phương lên một tuổi, em xin phép mẹ vào Sài gòn tìm việc làm và cũng để tránh tiếng đời dị nghị. Em biết bỏ mẹ ở lại một mình, cô đơn quạnh quẽ vậy thì càng mang tội lớn, nhưng chị ơi, em biết làm sao hơn được, đứa con gái như em đã làm khổ cha mẹ thì phải gánh lấy hậu quả.

Đến đây, thấy Ánh Mai thở mệt nhọc, Ngọc Hà vội nói:

- Thôi em mệt rồi, em cứ nghỉ đi, có gì sẽ nói sau.

Ánh Mai xua tay, lắc đầu:

- Chị cứ để em bày tỏ hết cho anh chị rõ, kẻo không còn dịp nào nữa chị ạ.

Ngọc Hà nghe thế, bất giác lại rơi lệ. Mai tiếp tục kể với giọng yếu ớt:

- Em mang bé Phương vào đây làm việc và gửi cháu cho một bác lớn tuổi chăm sóc dùm, giờ cháu đã gần hai tuổi, ngoan và thương mẹ lắm. Rồi thời gian gần đây, em vẫn đi may nhưng cảm thấy ngày càng yếu mệt nên đi khám, bác sỹ phát hiện em bệnh nặng đã có dấu hiệu di căn bắt nhập viện nằm đây.

Ngọc Hà hỏi khẽ:

- Làm sao dì ở Nha Trang lại biết tin em bệnh?

- Em không nhắn tin về, nhưng bệnh viện chiếu theo hồ sơ nhập viện báo về ngoài ấy, nên mẹ mới nhờ dì Hai Ngọc Hương vào thăm em. À chị Hà, để em nói về điểm chính mà em sẽ nhờ anh chị giúp để không còn cơ hội nữa nghe chị.

Ánh Mai lấy trong túi áo ra một lá thư gấp hai run run đưa cho Ngọc Hà:

- Đây là lá thư em gửi cho cô Tám Thơm, người em đang nhờ giữ bé Mai Phương đó chị.

Ánh Mai bỗng khóc òa, bệu bạo nói:

- Em xin anh chị nuôi giúp con em, vì chắc từ bây giờ em yếu quá rồi, có lẽ em không còn sống được bao lâu nữa đâu chị.

Ngọc Hà cũng nước mắt ngắn dài nói nhỏ:

- Em đừng nói gở thế Mai, em sẽ chữa lành bệnh, sống và nuôi bé Phương khôn lớn mà em.

Việt Thu tiến lại gần, an ủi:

- Chị Hà nói đúng đó em, anh chị sẽ luôn ở bên em, hỗ trợ em điều trị đến lành bệnh mà, em đừng lo.

Ánh Mai buồn bã cúi đầu:

- Không đâu anh chị, em biết sức em đã cạn kiệt rồi. Anh chị cứ mang lá thư của em đến gặp cô Tám để đem bé Phương về chị nhé. Em hết lòng cám ơn anh chị và dì Hai Hương nữa. Chị cho em nhắn lời đến dì Hai là em xin lạy dì để gởi má em lại cho dì, dì nói với mẹ em là: “Con Ánh Mai bất hiếu xin mẹ tha thứ tội”.

Vừa nói đến đây, Ánh Mai gượng ngồi thẳng lên chắp tay như xin lỗi mọi người. Hai vợ chồng Ngọc Hà vội vàng giữ tay Ánh Mai lại, không cho làm như thế.

Ngọc Hà khóc lớn:

- Ánh Mai ơi, anh chị hiểu rồi, anh chị sẽ thực hiện theo ý nguyện của em.

Ánh Mai nằm vật ra, thở mệt nhọc nhưng miệng mỉm cười thỏa nguyện. Ngọc Hà - Việt Thu nắm tay bệnh nhân từ giã ra về thuật lại cho mẹ Ngọc Hương toàn bộ câu chuyện của Ánh Mai. Bà mẹ ngồi im lặng, lắng nghe lời kể của Ngọc Hà từ đầu đến cuối, sau cùng bà nói:

- Mẹ không có ý kiến về việc nầy, mẹ để hai con tự quyền quyết định, nhất là Việt Thu có bằng lòng thì cả hai vợ chồng cùng giúp cho hoàn cảnh ngặt nghèo của con Ánh Mai và dì Ngọc Ánh của con, tùy hai con thôi.

Hai vợ chồng Thu - Hà đồng loạt nói: “Dạ, thưa mẹ”, rồi cả hai người chào mẹ và quay về phòng riêng cùng bàn bạc.

Trong phòng ngủ của Việt Thu - Ngọc Hà.

Lúc ngồi xuống chiếc ghế bành êm ái, Hà vội hỏi Thu:

- Ý kiến của anh về việc của Ánh Mai giao phó, nhờ cậy chúng mình như thế nào?

Việt Thu hơi trầm ngâm một chút, rồi mới nói:

- Chuyện của Ánh Mai thật đáng thương, hoàn cảnh thật nan giải lại lâm bệnh nặng, thì anh nghĩ chúng ta nên nhận lời nuôi giúp bé Phương, con gái dì ấy, nhưng…

Ngọc Hà hơi ngạc nhiên hỏi liền:

- Nhưng sao hở anh?

- Anh chỉ sợ sức khỏe em còn yếu, không kham nổi việc nuôi con nhỏ, cực nhọc lắm.

Ngọc Hà mỉm cười:

- Không sao đâu, hiện nay em đã khỏe lại nhiều rồi, căn bệnh trầm cảm dường như biến mất rồi anh.

Việt Thu mừng rỡ:

- Vậy thì anh tùy ý em, nếu được thì mình hỏi lại mẹ xem, mẹ ở lại nhà chơi ít hôm hay về Nha Trang liền, rồi tính sau.

Qua hôm sau, bà Ngọc Hương quyết định về xứ biển ngay vì sợ đi lâu quá bà Ngọc Ánh - mẹ Ánh Mai - lại trông. Việt Thu và Ngọc Hà đưa mẹ ra bến xe rồi quay về đi đến địa chỉ Ánh Mai đã viết trên phong thư gửi vú nuôi của Mai Phương, lại được tin bệnh viện báo bệnh của Ánh Mai có chuyển biến xấu, cả hai người trẻ lại càng quýnh quáng lên.

Sau một buổi trời tìm kiếm, cuối cùng hai vợ chồng đã gặp được cô Tám Thơm, người đang chăm sóc cho bé Mai Phương. Ngọc Hà đưa lá thư của Mai cho cô Tám và ngỏ ý đưa bé về nhà. Thoạt đầu, cô Tám đọc thư xong vẫn có vẻ do dự sau nghe Việt Thu trình bày ý nguyện cuối của Ánh Mai một cách khẩn thiết, cô Tám cũng nói ra tâm tư của mình là: Không phải không tin tưởng hai người bà con cật ruột của Ánh Mai, nhưng vì từ lâu nay chăm sóc con bé đã mến tay mến chân nên không muốn xa rời con nhỏ mà thôi. Bà đành thở dài buồn bã nhưng cũng lo đi thu xếp sửa soạn quần áo để trao lại cho Việt Thu và Ngọc Hà, bên cạnh đó trên chiếc nệm nhỏ, bé Mai Phương còn đang ngủ say sưa.

Ngồi nán lại một chút, Việt Thu trao cho cô Tám Thơm một số tiền nhỏ như để bồi dưỡng cô đã bỏ thời giờ yêu thương chăm nom bé Phương thay cho Ánh Mai. Cô Tám rất lưu luyến bé gái không nỡ rời, hết hôn tay đến nựng nịu mãi không muốn xa lìa. Cuối cùng, Ngọc Hà và Việt Thu cũng từ biệt người vú nuôi để đưa bé ra đi. Đôi mắt trẻ thơ mở lớn kinh ngạc khi phải rời ngôi nhà quen thuộc trong khi người vú nuôi rưng rưng nước mắt vẫy tay từ biệt.

Chợt có tiếng điện thoại reo từ túi áo của Việt Thu, chàng vội lấy ra bấm nghe rồi vội vàng quay sang Ngọc Hà nói nhanh:

- Em ơi, Ánh Mai không xong rồi, chúng mình vào bệnh viện ngay đi, kẻo không còn kịp.

Ngọc Hà biến sắc, không nói nên lời, lật đật bước theo chân chồng. Đến nơi, hai người trẻ gần như chạy ào vào phòng bệnh trên tay Thu bế bé Mai Phương đang khóc òa vì hoảng sợ. Đến bên giường người bệnh nằm nhắm nghiền mắt, hơi thở đứt quãng, Ngọc Hà vội gọi lớn:

- Ánh Mai ơi, con em đã đến thăm em đây! Ánh Mai ơi! Con em đây!

Ánh Mai mở mắt ra thấy mọi người thì miệng cố mỉm cười như chào hỏi:

- Anh chị mới tới hả? Có gặp con bé Phương không hả?

Ngọc Hà nghẹn ngào nói không thành tiếng, lắp bắp:

- Có, có em à. Đây, con bé Mai Phương đây!

Việt Thu vội tiến lại gần, trao bé con vào tay bà mẹ, nhưng con bé bỗng thấy lạ lẫm, hoảng sợ nên òa khóc lớn, làm Ngọc Hà phải đưa tay ra bế và dỗ dành một lúc nó mới nín khóc.

Ánh Mai vẻ mặt rất mãn nguyện:

- Em rất mang ơn anh chị, em xin gửi con của em lại cho anh chị, mong anh chị sẽ nuôi dạy bé Phương thành người hữu dụng và thành công trên đường đời. Em có về với Chúa thì cũng luôn nhớ và cầu nguyện cho anh chị và con em.

Nói đến đây thì Ánh Mai bỗng lịm dần. Ngọc Hà kêu lớn tiếng trong hoảng loạn: “Ánh Mai, Ánh Mai ơi!”, rồi gục đầu xuống giường ngất đi làm Việt Thu hoảng hốt vội kêy y tá, bác sỹ cấp cứu liên hồi.

Thời gian trôi qua nhanh. Ngoài trời, mùa xuân như sắp về, trên những cây mai tứ quý, hồng mai, bạch mai cạnh tường nhà lại trổ nụ lần lần. Ngọc Hà từ trong nhà bước ra sân ngắm cây cảnh thì có tiếng gọi: “Mẹ, mẹ” từ phía sau lưng, Hà vội quay lại bế con gái lên, gọi rất trìu mến:

- Bé Bông của mẹ nè, con tìm mẹ hả.

Bé cười phô hàm răng sún:

- Mẹ ơi, con đói!

Ngọc Hà cười, nói:

- Rồi, mẹ biết. Để mẹ đi làm cơm cho con nhé, bé yêu! Con đợi mẹ nhé.

Bé Bông nghe vậy vội tụt xuống và chạy lon ton tới trước.

Ngọc Hà nhìn theo bóng con gái chợt nhớ lại ngày xưa lúc Ánh Mai mất, rồi hai vợ chồng mang bé Mai Phương về nhà. Theo ý bà Ngọc Hương, hai vợ chồng đặt tên bé Bông để gọi ở nhà cho Mai Phương và cũng được sự đồng ý của dì Ngọc Ánh, Việt Thu đi làm khai sinh mới cho bé Bông được có cha và mẹ, để sau nầy bé lớn lên không thấy buồn và tủi thân. Có mặt con bé, cả nhà Ngọc Hà như rộn ràng, vui vẻ hẳn lên vì có tiếng khóc, tiếng nói ngọng nghịu, đả đớt của trẻ thơ. Ngọc Hà cũng có vẻ khỏe hơn, đẹp ra và vui tươi hơn làm Việt Thu phấn khởi, làm việc cũng hăng say hơn, nhiệt tình hơn.

Ngôi nhà của hai vợ chồng trẻ như đổi mới hoàn toàn. Ngọc Hà luôn bận bịu tíu tít với con gái, nàng không còn buồn bã, âu sầu và trầm cảm như xưa. Hà nghĩ đến đây thì thầm cảm tạ ơn Chúa đã mang bé Bông đến cho chị để gìn giữ hạnh phúc gia đình.

Nhớ lại lúc bấy giờ, mọi sự dường như đổi mới hết thảy, nhưng Hà không quên nhắc Việt Thu gọi điện báo tin vui cho cha H. và cám ơn cha đã có lòng giúp cho hai vợ chồng dù bận trăm công ngàn việc của giáo xứ.

Bỗng có bàn tay nhỏ xíu nắm lấy tay Hà lắc nhẹ làm nàng chợt quay về hiện thực:

- Mẹ ơi, ăn cơm!

Nàng cúi xuống nâng con gái lên tay thì thầm:

- Mẹ biết rồi, mẹ xin lỗi con gái.

Cả hai cùng đi vào bếp, Hà đặt con bé ngồi vào chiếc ghế mây cạnh bàn ăn, rồi đi lại gian bếp, bắt đầu nấu bữa ăn cho con. Nàng vừa làm vừa nghĩ đến chồng: “Phải báo cho Việt Thu một tin vui”.

Vừa đúng lúc ấy, Việt Thu đã về tới và đứng sau lưng cô vợ mà Hà không hay, như có linh tính, cô quay lại thì anh chàng đã cúi xuống hôn lên má của vợ rồi, cùng lúc bé Bông reo lên:

- A, ba về!

Ngọc Hà thoáng đỏ mặt xấu hổ, đánh khẽ lên vai chồng:

- Anh nầy, làm em giật cả mình.

Thu mỉm cười sung sướng. Ngọc Hà chợt kéo tay chồng nói khẽ vào tai Việt Thu điều gì đó làm mặt anh bừng sáng niềm hạnh phúc, anh thốt lên:

- Có thật không hở em, bao lâu rồi vậy?

Hà cười khẽ, giơ hai ngón tay lên, rồi nói thêm:

- Lần nầy, em thấy khỏe lắm anh, không bị nghén nhiều.

Bé Bông thì đang mở to mắt ra nhìn ba mẹ đang trò chuyện mà không hiểu gì hết chỉ biết kêu lên: “Ba mẹ, ăn cơm” làm cả hai phụ huynh giật mình nhớ lại sự hiện diện của con gái yêu quý và cười xòa. Rồi cả nhà cùng quây quần bên nhau dùng bữa trưa. Ngoài sân hoa lá như đang đâm chồi nảy lộc cùng với bầu trời xanh trong và nắng vàng. Hạnh phúc đã về lại với đôi vợ chồng trẻ.

HOÀI LY


ĂN KIÊNG

Ăn uống là nhu cầu thông thường của con người, nhưng nhiều khi vì lý do nào đó cần phải áp dụng ăn kiêng. Thí dụ, nước và muối ăn rất cần cho cơ thể, nhưng người phù thận lại buộc phải hạn chế. Trứng gia cầm rất bổ đối với mọi người - dùng bồi dưỡng cho người già, trẻ em, người mới ốm dậy rất tốt, nhưng người viêm đường dẫn mật, ứ mật lại không nên ăn vì trứng kích thích bài tiết mật, gây co bóp túi mật… Dưới đây là đôi điều cụ thể về một số trường hợp cần ăn kiêng.

Với người có thai

Nói chung là không nên kiêng gì. Ngược lại cần ăn tất cả mọi thứ để đủ chất nuôi mình và nuôi thai. Chỉ ba tháng cuối cùng mới cần giảm bớt muối trong khẩu phần ăn. Nếu không có tổn thương rõ rệt ở thận, không cần kiêng muối mà chỉ ăn nhạt bớt đi. Như vậy chức năng tiết niệu sẽ tốt, mô tế bào không tích tụ nước gây khó khăn khi đẻ.

Người nuôi con bú

Cần chú ý đến “khẩu vị” của con! Hạn chế ăn hành, tỏi vì dễ làm cho sữa có vị lạ, đứa trẻ bỏ bú. Rất cần kiêng rượu, cà phê, trà đặc vì các chất kích thích này xâm nhập vào sữa sẽ làm cho đứa trẻ mất ngủ.

Trẻ em nhiều mụn nhọt

Cần hạn chế ăn đường, kẹo và các sản phẩm có đường. Vì tỷ lệ đường cao trong máu và ở da sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các loại tụ cầu khuẩn vàng (Staphylococcus aureus) gây viêm nhiễm phát triển.

Người nhiều rôm

Không nên ăn nhiều “thức nóng” (vải, nhãn, mít, dứa…) mà cần ăn nhiều “chất mát” như canh rau mồng tơi, rau má, rau ngót, bột sắn dây, đậu xanh, đậu đen, v.v…

Ở tuổi dậy thì

Tuổi dậy thì còn gọi là “tuổi của khung xương” - bộ xương phát triển rất mạnh, nhưng lại chưa cố định, nếu không giữ gìn sẽ dễ dẫn đến tình trạng bộ xương phát triển không bình thường, khiến cho cơ thể xấu đi. Các em đến tuổi dậy thì không nên ăn nhiều thức ăn có hàm lượng axít oxalic cao (rau dền, lá chua me đất, khế…), vì axít này cản trở hấp thụ canxi là chất rất cần cho cơ thể cấu tạo xương.

Người hay bị dị ứng

Có một số người phản ứng lại với một số thức ăn, thể hiện qua những triệu chứng như viêm mũi, viêm da, nổi mày đay, hen phế quản… Cần tự theo dõi xem ăn loại thức ăn nào (tôm, cua, trứng…) thường bị như vậy thì kiêng không ăn những thứ đó nữa.

Ngoài ra cần giảm bớt ăn đường, vì đường làm tăng tính mẫn cảm của cơ thể. Cũng cần bớt ăn mặn vì muối có tác dụng kích thích thần kinh ngoại vi. Không nên ăn nhiều các gia vị kích thích thần kinh trung ương như ớt, hạt tiêu, cà phê, rượu… Cần ăn nhiều rau và hoa quả để tăng khẩu phần vitamin và tránh táo bón.

Người bướu cổ do ăn uống thiếu iốt

Kiêng ăn sống các loại rau củ thuộc họ Thập tự như cải bắp, cải bẹ, cải hoa, củ cải trắng… vì các loại rau này có chứa một chất kháng giáp trạng dễ gây bướu cổ. Tuy nhiên, các rau trên qua nấu chín vẫn có thể ăn được bởi nhiệt độ cao giúp phân hủy các chất đó.

Về uống: không nên uống nước có nhiều canxi (nước suối khoáng, nước vùng núi đá vôi…), vì canxi cản trở cơ thể hấp thụ iốt.

Người quá béo

Căn bản là cần hạn chế ăn đường, bánh, kẹo, nước ngọt và các sản phẩm có đường. Cần bớt ăn chất bột (gạo, mì, ngô, khoai, sắn…) và mỡ động vật trong khẩu phần ăn. Khi vào cơ thể các chất này rất dễ chuyển thành lipit gây béo mỡ.

Người sâu răng

Không ăn nhiều đường, kẹo, đặc biệt cần tránh tạo thói quen thích ngậm kẹo. Vì chất đường bám vào chân răng dễ bị một số vi khuẩn có sẵn trong miệng phân hủy tạo thành axít lactic làm mòn men răng, tạo điều kiện tốt cho một số vi khuẩn khác làm tiêu chất đạm của thân răng, gây bệnh sâu răng.

Người bị bệnh đái tháo đường

Kiêng ăn uống đường, nước giải khát có đường, kẹo, bánh ngọt, mứt chè đường; quả ngọt phơi sấy khô; thậm chí không uống thuốc dạng xirô hoặc những viên thuốc bọc đường… Lý do là tuyến tụy của người bệnh không tiết ra đủ lượng insulin cần thiết để chuyển hóa đường. Nếu ăn nhiều đường, nó sẽ đào thải mạnh qua nước tiểu và kéo theo nhiều nước, người bệnh sẽ đái nhiều và háo nước…

Người huyết áp cao

Cần giảm bớt ăn chất béo và nên ăn dầu thực vật thay mỡ động vật. Người bị bệnh huyết áp cao do xơ vữa động mạch (colesterol đọng lại nhiều ở thành mạch) cần hạn chế ăn trứng và phủ tạng động vật… vì những thức ăn này chứa nhiều colesterol. Gan, óc, bầu dục… cũng không nên ăn vì có nhiều nucleoprotein, chất này khi tiêu hóa sẽ sinh ra nhiều axít uric có hại cho gan, thận, tim mạch.

Ngoài ra cần kiêng dùng các chất kích thích như rượu, cà phê, nước trà đặc… không hút thuốc lào, thuốc lá.

Người “yếu gan”

Đó là những người mới điều trị khỏi bệnh gan; trong ăn uống dễ có những rối loạn. Cần tránh ăn thực phẩm ôi, ươn và thức ăn để lâu. Không ăn những thức ăn nấu nướng cầu kỳ khó tiêu (các món quay, rán…) cũng không ăn tôm, cua, trai, hến, ốc… vì thường gây dị ứng. Cần giảm ăn mỡ động vật. Tuyệt đối không uống rượu. Cần hạn chế ăn các gia vị: ớt, hạt tiêu, dấm, chanh…

Người bị loét dạ dày

Không nên ăn các gia vị kích thích: dấm, ớt, tỏi, hạt tiêu, và các loại quả chua như chanh, bưởi, me, sấu… Kiêng những thức ăn có nhiều dầu mỡ khó tiêu: thịt quay, các loại cá rán, thịt mỡ, thịt ngỗng, vịt… và những thức ăn xơ cứng gây cọ xát niêm mạc dạ dày: gân sụn, gạo lức (có nhiều cám), rau già, rau củ có nhiều xơ, củ cải, rau răm, măng nứa, măng tre… Kiêng uống rượu, cà phê, nước trà đặc. Tránh ăn uống quá nóng, hoặc quá lạnh.

Người viêm đại tràng

Nói chung cần hạn chế các thức ăn có nhiều xơ cũng như các thức ăn dễ gây lên men đầy hơi trong ruột. Kiêng ăn rau quả già, rau quả có nhiều xơ hoặc vỏ cứng. Không ăn rau sống. Không ăn những loại thịt có nhiều bì, gân, sụn và thịt quá mỡ. Tránh ăn thịt, cá chế biến sẵn cho nhiều gia vị (để bảo quản được lâu). Không ăn ngũ cốc có nhiều cám như gạo lức, gạo giã dối,… (cám là chất xơ cứng khó tiêu nhất). Hạn chế ăn những thức xào rán nhiều mỡ. Không uống rượu, cà phê. Nếu uống sữa, không dùng sữa tươi mà chỉ dùng sữa đã qua chế biến.

Bs. VŨ ĐỊNH - ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

KẾ HOẠCH GIÀ

Bs. ĐỖ HỒNG NGỌC

Có một “kế hoạch già” thì dĩ nhiên tốt hơn cứ để đến đâu hay đến đó. Nhưng không phải dễ làm một kế hoạch như vậy. Con cái có hiếu có thể giúp một tay! Nhớ rằng lơ là một chút thì trách sao bỏ mặc, còn quan tâm một chút thì kêu “không có gì quý hơn độc lập tự do”…! Cho nên cần một kế hoạch… lỏng lẻo và uyển chuyển để tùy cơ ứng biến.

Tuy vậy, vẫn có những nguyên tắc chung cho một “kế hoạch già”, chẳng hạn dựa trên Tháp nhu cầu của Maslow, áp dụng vào hoàn cảnh người già, ta sẽ thấy ngay cần phải chăm sóc như thế nào cho thỏa đáng, không gây phiền hà mà cũng không thiếu sót. Những nguyên tắc này cũng giúp người già tự đánh giá “Chất lượng cuộc sống” của chính mình hiện nay ra sao.

Đó là tìm cách đáp ứng 5 nhu cầu thiết yếu của người già:

1/ Nhu cầu sinh học: Gồm những vấn đề cơ bản của “tồn tại” như: cái ăn, cái mặc, cái ngủ, cái thở, vệ sinh…, nói chung “tứ khoái” mà người xưa thường nói, cả vận động thể lực, đi đứng nằm ngồi, chữa trị bệnh tật…

2/ Nhu cầu an toàn: Nhà ở an toàn để tránh té ngã, đèn đóm đủ sáng, toilet không trơn trợt, môi trường xung quanh an ninh, an toàn cho sức khỏe…, và nhất là đảm bảo tối thiểu về… tài chánh!

3/ Nhu cầu tình cảm, xã hội: Giữ các mối quan hệ thân thiết trong gia đình, với con cháu, với bạn bè, xóm giềng, cộng đồng… Có ký ức tốt về tuổi thơ và tuổi thanh niên.

4/ Nhu cầu tự khẳng định: Có nếp sống tự tại, không bị áp đặt; có được sự tôn trọng và chấp nhận của mọi người, tiếp tục đóng góp cho gia đình và xã hội tùy năng lực để vẫn thấy mình hữu ích…

5/ Nhu cầu tâm linh: Hiểu luật vô thường, từ bi với mình, hướng thượng, tin tưởng ở sự sống thiện, nhân quả, phúc đức tổ tiên ông bà…, có một tôn giáo lành mạnh, không dị đoan mê tín.

Trích trong cuốn sách “Già sao cho sướng”

QUAN THÚY MAI st.

MỘT CỦ GỪNG

CHỮA ĐƯỢC MƯỜI LOẠI BỆNH

Theo: Những phương pháp dưỡng sinh trường thọ

dành cho người cao tuổi của lương y TRẦN LƯƠNG THINH

Gừng là vị thuốc quý, chữa được mười loại bệnh trong mùa đông. Mỗi nhà nên trồng một khóm gừng trong vườn. Ở thành thị có thể trồng trong chậu, vừa làm cảnh, vừa làm gia vị trong các món ăn, vừa dùng để chữa bệnh.

Gừng sống trong y học gọi là sinh khương; tính vị ôn, cay ấm, tân (cay) thời tán được phong hàn, ôn (không lạnh) thời ấm được tỳ vị; ăn ít thì khai được vị, thông khiếu, thông thần kinh, sáng mắt; ăn nhiều thời tổn khí.

1. Người mới cảm phong hàn, chân tay giá lạnh, môi nhợt nhạt, thần kinh suy sụp: Giã nát một củ gừng, vắt nước uống; sao nóng bã gừng với rượu mà xoa ngực, bụng; rồi đắp chăn, một lát mồ hôi ra xâm xấp là khỏi.

2. Người yếu sức, cảm nhập tâm, bất tỉnh nhân sự, thần kinh suy sụp, chân tay giá lạnh, hàm răng cắn chặt: Giã nát một củ gừng, vắt lấy nước hòa với nước tiểu trẻ em cho uống; và đốt cháy một quả bồ kết tán thật nhỏ, thổi vào lỗ mũi làm cho người bệnh hắt hơi là được.

3. Người lớn bị lạnh, ho mãi không thôi: Giã nát gừng chưng (cả gừng và nước gừng) với mật hay đường, vê thành viên, thỉnh thoảng ngậm 1-2 viên; độ 3-5 hôm là bệnh sẽ khỏi.

4. Trẻ em ho gà lâu không khỏi: Dùng nước gừng chưng với mật ong, để nguội, đóng vào chai, thỉnh thoảng cho cháu uống một thìa nhỏ (cùi-dìa để uống cà-fê), mỗi ngày 5-7 lần, độ 3-5 hôm thì khỏi.

5. Người lớn khi ăn bị nôn, trẻ em ăn vào hay trớ ra, là do tỳ vị hư hàn: Mài một củ gừng già sống, với nước chín (nước đun sôi để nguội) mà cho uống, người lớn phải uống nhiều, trẻ em uống ít thôi; độ 3-5 hôm thì khỏi.

6. Tỳ vị hư hàn, hay sôi bụng, đau bụng ỉa chảy: Nướng chín một miếng gừng, ăn vài lần sẽ khỏi.

7. Tỳ vị hư hàn, do ăn uống nhiều đạm, mỡ, cá tanh và các đồ ăn sống, lạnh nên hay sôi bụng, ỉa chảy: Dùng gừng thái mỏng, phơi khô, sao vàng, tán nhỏ thành bột. Mỗi ngày 3 lần, mỗi lần uống 3 gam. Uống đều, độ 2-3 tuần sẽ khỏi.

8. Phụ nữ đau bụng, đau lưng, kinh kéo dài, nhiều khí hư, ra mãi không sạch: Dùng gừng thái mỏng, phơi khô, tẩm nước tiểu trẻ em, sao đen thẫm, tán nhỏ thành bột. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 3 gam. Độ 10-15 ngày sẽ khỏi.

9. Người yếu tim, tim đập chậm, chân tay lạnh, môi nhợt nhạt: Gừng sống gọt bỏ vỏ, ngâm rượu; hàng ngày buổi tối trước khi ngủ uống vài hớp, để kích thích tuần hoàn, ấm tay chân, tăng sức khỏe.

10. Mùa đông, trời rét, đi đường xa bị say tàu xe; hoặc đi làm hay bị cảm lạnh, nhức đầu, đau bụng, chóng mặt…: Bà con nên có vài miếng gừng tươi để ngậm, sẽ khỏi.

PHÙNG CHÍ TÂM st.

Chuyện của 3 con cá

Đọc và ngẫm, nhiều người trong chúng ta sẽ thấy ngậm ngùi. Bạn có biết 3 con cá đó là gì và chúng tượng trưng cho điều gì trong cuộc sống của chúng ta?

Tôi luôn tin rằng mỗi một người ít nhất đều có một thiên sứ bảo vệ cho mình.

Họ - có người hóa thành người thân luôn bên cạnh chúng ta, có người hóa thành bạn bè đem lại cho chúng ta những nụ cười rạng rỡ, có người lại hóa thành bạn đời mang đến cho chúng ta tình yêu chân thành, để những bầy cá đơn độc chúng ta có những điều phải vương vấn, nặng lòng chốn nhân gian.

Có thời gian, hãy kể cho con bạn nghe câu chuyện về 3 con cá dưới đây.

Con cá thứ nhất là cá hồi chó.

Cá hồi chó sống ở vùng nước sâu trong đại dương bao la. Cá hồi chó mẹ sau khi đẻ trứng sẽ đợi ở một bên, trứng sau khi nở thành cá con vẫn chưa thể tự kiếm ăn, chỉ có thể dựa vào thịt của mẹ để lớn.

Cá mẹ nhịn đau đớn không hề kêu ca. Khi cá con lớn lên, cá mẹ chỉ còn lại một đống xương, đó là minh chứng đắt giá nhất cho tình mẹ vĩ đại trên thế giới này.

Cá hồi chó là con cá tượng trưng cho tình mẹ .

Con cá thứ hai là cá lóc Tàu

Nghe nói loài cá này sau khi sinh con sẽ bị mất đi khả năng nhìn, không thể kiếm mồi mà chỉ có thể nhịn đói. Khi trứng nở thành hàng ngàn con cá con, đàn cá con không nỡ nhìn mẹ chết nên từng con, từng con một chủ động bơi vào miệng mẹ để giúp mẹ đỡ đói.

Cá mẹ sống lại, lượng cá con còn tồn tại chẳng đáng là bao, chỉ còn chưa đến 1/10, số còn lại vì mẹ mà hy sinh tấm thân non nớt của mình.

Cá lóc tàu là con cá tượng trưng cho sự hiếu thảo của người làm con.

Con cá thứ ba là cá hồi

Mỗi năm cứ đến mùa sinh sản, cá hồi lại tính trăm phương ngàn kế để từ đại dương rộng lớn trở về dòng sông trong đất liền.

Bởi lẽ loài cá này không sinh nở ở các vùng biển nước mặn mà di cư bơi về dòng suối ngọt, nơi chúng được sinh ra để tiếp tục đẻ trứng.

Cuộc hành trình di cư thật sự vất vả và gian lao khi chúng phải bơi ngược dòng chảy của tự nhiên để trở về quê hương, trên đường trở về phải đối mặt với bao hiểm nguy thách thức, nào là vượt thác, nào là lo bị gấu xám ăn thịt…

Những con cá không vượt được thác phần lớn sẽ rơi vào bụng gấu. Những con vượt thác thành công cũng sức cùng lực kiệt, vừa phải tiếp tục bơi vừa phải đề phòng loài ó cá kiếm mồi.

Chỉ có một số ít những con cá may mắn vượt qua mọi khó khăn và sự bủa vây để trở về quê hương, hoàn thành việc quan trọng nhất đời mình, đó là tìm con đực, giao hợp, đẻ trứng và cuối cùng là chết một cách yên bình ở chính nơi mình sinh ra.

Và khi mùa xuân đến, đàn cá con lại trôi theo dòng nước ra biển, bắt đầu hành trình cuộc đời mình.

Cá hồi là loài cá tượng trưng cho tình yêu quê hương xứ sở.

Lời bình

Chúng ta hãy thường xuyên nghĩ rằng, trên đời này có ít nhất 3 con cá khiến chúng ta phải cảm động.

Con cá thứ nhất là cha mẹ, người đã cho chúng ta sinh mệnh, luôn dõi theo mọi bước chân ta đi, không trách cứ oán giận, sẵn sàng hy sinh tất cả cho con cái mà không hề đòi hỏi bất cứ điều gì.

Con cá thứ hai là con cái, từ khi oa oa cất tiếng khóc chào đời, con cái đã hoàn toàn tin cậy và ở bên cha mẹ cho đến già.

Con cá thứ ba là cố hương. Bất luận là đi xa đến đâu, cũng sẽ có một ngày chúng ta tìm cách trở về quê nhà.

KIM SƠN st.

Thế Giới Động Vật & Côn Trùng

- Kiến không bao giờ ngủ. Con vật ngủ nhiều nhất là con koala (con “cù lần”), một loại gấu nhỏ. Con vật này ngủ từ 20 đến 22 giờ mỗi ngày.

- Số kiến trên thế giới nhiều gấp 1 triệu lần số người. Trọng lượng của chúng cũng hơn trọng lượng của nhân loại.

Một con kiến có thể tha một vật nặng gấp 100 lần cơ thể của nó.

- Con đom đóm cái không biết bay. Chỉ có con đực biết bay.

- Một nghiên cứu mới cho biết rằng không những con cá vàng biết nghe nhạc, chúng còn biết phân biệt nhạc của những soạn nhạc gia khác nhau.

- Con đại thử (kangaroo) mẹ nặng khoảng 90kg, những con đại thử mới sinh ra chỉ nặng không đến 1gram (khoảng bằng hạt đậu), gọi là con joey.

Con joey này tìm cách bò lên cái túi của con mẹ, nó bú sữa của mẹ trong nhiều tháng rồi mới ra ngoài, không bận tâm ra ngoài để đi vệ sinh, đã có mẹ nó lo.

- Con hươu cao cổ (giraff) khi mới sinh ra nặng khoảng 60-70kg, bị rơi từ trên cao, khoảng 1m70 xuống đất, nhưng chỉ độ một giờ sau là nó có thể đi lại được, và bú sữa mẹ.

- Con hươu cao cổ đực nặng khoảng 1,4 tấn, cao khoảng hơn 5m, con cái thì nhỏ hơn. Chúng không có sừng, nhưng 4 cái chân thì rất mạnh và có thể đá bất ngờ về tất cả mọi hướng. Cái cổ của nó rất mạnh và to nhưng ở trên cao, khó dùng để tự vệ hoặc tấn công các con vật khác. Chỉ khi nào hai con đực đánh nhau, thường vì ghen khi chúng mới dùng cái cổ.

- Hằng năm, con sứa biển giết chết nhiều người hơn là cá mập.

- Con dê và con bạch tuộc có một điểm giống nhau: Hai mắt của chúng có con ngươi hình chữ nhật, điều này giúp chúng có thể quan sát rộng về bề ngang.

- Con bọ ngựa có thể quay cái đầu một góc 360 độ.

- Với đôi mắt phức nhãn, con ruồi có thể nhìn khắp nơi, trừ phía dưới bụng của nó. Nó cũng có thể đi ngược, bốn chân chõng lên trời, lưng ở dưới mà không bị rớt. Ruồi “đại tiện” khoảng 300 lần mỗi ngày.

- Muỗi là con vật nguy hiểm nhất, hiện có khoảng 200 triệu người mang những bệnh do muỗi gây ra và khoảng 725 nghìn người chết hàng năm.

- Hải âu có thể lượn hàng nghìn cây số mà không cần nghỉ. Các khoa học gia rất khó hiểu về chuyện này, họ đã gắn những “chip” và khám phá ra những điều lạ lùng đó.

Khoảng cách mà một con chim hải âu bay trong đời nó dài tương đương với 16 chuyến khứ hồi từ trái đất lên mặt trăng.

- Con chim sâu (hummingbird) là một trong những loại chim nhỏ nhất với nhiều giống khác nhau nặng từ 2-20gr. Nó có thể bay lên, xuống, tới, lui. Nhờ đó nó có thể hút mật hoa. Nó không thể đi bằng hai chân.

- Dơi là con vật độc nhất có vú và biết bay. Có khoảng 1300 loại dơi. Loại lớn nhất có bộ cánh dài đến 2m và thân nặng chừng 1,5kg. Dơi nhỏ nhất nặng chừng 2gr. Dơi sống về đêm và ngủ ban ngày. Khi ngủ thì treo 2 chân lên trên, đầu ở dưới. Dơi không thể cất cánh từ một mặt bằng, nó phải thả mình xuống rồi bay lên.

HÀ DIỆP st.


Phụ bản IV

TINH THẦN QUÝ TỘC

MẸ DẠY CON GÁI

1. Con ạ, con nhất định phải học nấu cơm. Việc này không liên quan với chuyện hầu hạ người khác. Khi những người yêu thương con đều không ở bên cạnh, con có thể đối đãi bản thân thật tốt. (Có thể độc lập sinh tồn)

2. Con ạ, con nhất định phải học lái xe. Việc này không liên quan với thân phận địa vị. Như thế vào bất cứ lúc nào, con cũng có thể cất bước đi đến bất cứ nơi nào con muốn, không cầu cạnh bất cứ người nào. (Tự do)

3. Con ạ, con có biết không? Dấu chân có bao xa, lòng dạ có bao rộng. Tấm lòng rộng rãi, con mới vui vẻ. Ngộ nhỡ đi không xa, hãy để sách vở đưa con đi. (Mở rộng tầm nhìn của mình, nhờ vào tầm nhìn của tri thức)

4. Trời sập xuống cũng đừng khóc lóc, đừng oán trách. Như thế chỉ khiến những người yêu thương con càng đau lòng, những kẻ thù hận con thêm đắc ý. (Bình tĩnh chấp nhận số mệnh, những người yêu thương con đương nhiên sẽ quan tâm)

5. Dù ăn cơm trộn nước tương, cũng phải trải khăn ăn sạch sẽ, ngồi với tư thế trang nhã. Sống cuộc sống thô sơ theo cung cách cầu kỳ. (Phong độ không liên quan với cảnh ngộ)

6. Khi đến phương xa, ngoài máy ảnh, nhớ mang theo giấy bút. Phong cảnh giống nhau, nhưng tâm tình ngắm cảnh mãi mãi không trùng lặp. (Hình ảnh và ký ức tình cảm là khác nhau)

7. Nhất định phải có không gian thuộc về mình, dù chỉ hơn chục mét vuông. Nó có thể giúp con khi cãi nhau với người yêu giận dỗi, bỏ đi không đến nỗi lưu lạc đầu phố, đụng phải kẻ xấu. Càng quan trọng hơn là, khi con nông nổi, có một nơi để con bình tĩnh lại, cho lòng mình một góc ở yên. (Nhân cách độc lập)

8. Lúc nhỏ phải có kiến thức, lớn lên phải có từng trải, con mới có cuộc đời tinh tế đẹp đẽ! (Đọc từng trải của người khác, tìm từng trải của bản thân)

9. Bất kể lúc nào, đều phải làm một người hiền lành lương thiện. Hãy ghi nhớ, lương thiện, sẽ khiến con trở thành người được trời cao chiếu cố nhất. (Kiểu chiếu cố này không hẳn là giàu có và quyền thế. Thiện có thiện báo, thứ được báo đáp, là tình yêu thương)

10. Nụ cười, ưu nhã, tự tin là của cải tinh thần lớn nhất. Sở hữu chúng, con sẽ sở hữu tất cả.

Đây chính là tinh thần “quý tộc”.

HOÀNG CHÚC st.


VƯƠNG

QUỐC

Loài vật nào mà khả năng sinh lý được truyền tụng nhiều như dê. Tại các thành phố, quán thịt dê mọc lên như nấm và “ngọc dương” luôn được giới ăn nhậu săn lùng từng bữa.

Để chứng nghiệm cho những lời đồn đoán từng được nghe, chúng tôi về với tỉnh Ninh Thuận, nơi được xem là “vương quốc” của loài dê.

Đã thưa những cơn gió “đặc sản”, Phan Rang những ngày cuối năm nắng dịu... Mờ sáng, lũ dê kêu toáng trong chuồng, đợi chủ của chúng kéo cổng là ào lên núi kiếm ăn. Lão nông Trần Văn Thanh, nhà ở thôn Phước Khánh, xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước, chỉ tay vào đàn dê cười lém lỉnh: “Bầy dê chưa đi ăn vội đâu. Thằng xồm phải “chơi” vài chục cái đã”.

Làm tình nhiều hơn ăn

Dê là loài vật sinh sống bầy đàn nên thường thì sẽ có một con đực đầu đàn. Con đực có trách nhiệm dẫn dắt cả bầy đi ăn, dẫn về và chịu trách nhiệm cai quản các thành viên khác. Con đực đầu đàn còn có chức năng truyền giống cho các con cái sinh sản. Khi con đực đầu đàn già, yếu đi thì sẽ bị con dê đực khác mạnh hơn soán ngôi để chiếm quyền thống lĩnh và “hưởng thụ” số dê cái. Thường thì người ta chỉ nuôi một con đực cho đàn dê khoảng 50 con dê cái. Số dê đực con sẽ bị bán làm thịt, chỉ có con nào đẹp mới giữ lại làm dê giống.

Dê đực giống còn được gọi là dê xồm - một từ gọi tên thành khái niệm cho cả con người, nhất là mấy ông có tật “tay chân ưa táy máy”.

Theo cái nheo mắt của lão nông Trần Văn Thanh, chúng tôi ngỡ ngàng khi từng con dê cái ra khỏi cửa chuồng, chuẩn bị đi ăn đều quấn quýt bên “cụ xồm”. Mỗi “em dê” đi ngang, xồm đều nhảy lên ân ái. Dân địa phương gọi là... rèo cái.

“Nhìn thì cứ tưởng dê cái nào cũng được xồm ân sủng, nhưng thiệt ra không phải vậy. Dê cái con sẽ mất khoảng hai tháng để trưởng thành rồi động dục. Còn dê cái lớn sau sinh vài ngày là động dục liền. Dê cái động dục sẽ tìm dê xồm. Dê đực và dê cái đều có nhu cầu sinh lý khoảng 50 lần một ngày, nhưng dê xồm chỉ quan hệ một lần với con dê cái trong ngày. Nó cũng như đàn ông, thích “em lạ” hơn, lão nông Trần Văn Thanh giải thích vui.

Ông Thanh cho biết thêm, cả xã có hơn 3.000 dân và số dê nuôi cũng tương ứng trên đầu người. Con dê trở thành sản nghiệp quý giá cho nông dân địa phương thoát nghèo bền vững. Bởi vì hiện nay một ký dê hơi là 100 ngàn đồng. Dê lại là loài sinh sản cực nhanh, mỗi năm có thể sinh tối đa ba lứa, mỗi lứa từ hai đến ba con. Tất cả cũng là do khả năng sinh lý diệu kỳ mà không phải loài vật nào cũng có được.

Hai tinh hoàn dê xồm to, lúc nào cũng có khả năng xuất tinh và giúp dê cái thụ thai. Ngoài ra, dê cái với hai bầu vú lớn, sữa dê có hàm lượng dinh dưỡng cao nên rất tốt cho việc chăm con. Thịt dê, ngọc dương đều có giá với con người.

Gặp “ vua dê” ở vùng cát trắng

Phải mất gần 50 cây số đường bộ tính từ nhà ông Trần Văn Thanh, chúng tôi mới tới được trang trại trên núi của ông Phú Minh Tâm - “vua dê” vùng nắng gió ở xã Phước Nam, huyện Thuận Nam. Trang trại của ông Tâm nằm ven một sườn núi, đúng cái chất bán sơn địa thích hợp với loài dê. Cảnh vật đẹp mê hồn với dòng suối cạn, chen chúc giữa lô nhô đá trắng và hoang mạc kéo dài, cứ ngỡ như lạc vào sa mạc Mông Cổ với các cao thủ võ lâm trong truyện Kim Dung.

Đầu những năm 1990, ông Tâm là người Chăm, bàn với vợ người Kinh vào đây mua đất rẻ như mua kem ký. Cả xóm khuyên can, vì đất ấy không ai dám vào, làm sao nuôi dê? Ngoài ra, Ninh Thuận là tỉnh có lượng mưa ít nhất cả nước, suối thì cạn trơ lấy đâu nước uống cho dê mà chăn thả? Ông Tâm âm thầm thuyết phục khi người vợ bắt đầu lung lay ý chí.

Đó là địa hình bán sơn địa ở xã Phước Nam có nhiều tàng cây bụi. Con dê ăn lá dưới thấp, khi mùa đông, lá vàng rụng xuống lại tiếp tục là thức ăn dự trữ. Nguồn nước thì có thể khoan giếng để dê uống. Tin vào suy đoán của mình, ông Tâm đã thành công với đàn dê hiện tại của ông hơn 700 con, chia thành bốn trại lớn. Mỗi năm ông xuất chuồng khoảng 300 đến 400 con dê vì không muốn tăng số lượng đàn, khó quản lý. Số tiền thu về cho ông Tâm khoảng 400 triệu đồng.

Để tiện cho việc dê cái đẻ, ôngTâm cho xây dựng hệ thống chuồng trại cao hơn mặt đất khoảng 1,5 mét. Ông thuê luôn bốn hộ đồng bào Chăm coi sóc đàn dê vừa hưởng lương vừa hưởng các nguồn lợi nhuận khác từ dê.

Anh Phú Văn Trụ, một người làm công cho ông Tâm, cho biết: với 700 con dê thì chỉ riêng tiền bán phân dê đã là 21 triệu đồng/tháng. Phân dê được thương lái tìm đến tận nơi, tự gom vào bao, mỗi bao 20 ngàn đồng rồi chở bằng xe tải đem về Đà Lạt chế biến thành phân trồng rau sạch.

“Vì địa hình nuôi dê là sườn núi, mùa gió ở Ninh Thuận là có gió lớn nên dê bị thổi bay xuống vực chết là thường. Đó là rủi ro không tránh được, còn các cái chết khác như dê đẻ bị sót nhau thì không còn chết nữa vì chúng tôi đã có bí quyết của mình”, ông Tâm nói.

Theo ông Tâm, trước đây phương pháp trị sót nhau là bí quyết của ông, còn bây giờ nó là của chung cho người nuôi dê toàn quốc. Vì ông vào Sài Gòn dự hội thảo, đã không ngần ngại tiết lộ kinh nghiệm này. Theo đó, người nuôi dê chỉ cần dùng bàn tay thon nhỏ của phụ nữ mà thọc vào cửa mình dê thụt rửa rồi kéo nhau ra.

Đặc chiêu pín dê pêđê

Anh Xuân Hoài, chủ một lò mổ nổi tiếng ở huyện Ninh Phước, cho biết hiện nay ngọc dương tại địa phương có giá khoảng 250 ngàn đồng. Ngọc dương có nhiều công dụng bồi bổ thận, tăng cường khả năng sinh lý nên rất được quý ông và cả các bà ưa chuộng. Lò mổ của anh mỗi ngày làm thịt khoảng 50 con dê nhưng số lượng ngọc dương vẫn không đủ cung cấp cho nhu cầu khách hàng.

Để sử dụng ngọc dương tốt nhất thì lúc con dê con sống phải cắt nguyên chùm, chứ cắt tiết rồi thì mọi tinh túy sẽ tan biến theo nỗi sợ hãi của con dê. Dân gian gọi thô nhưng đúng bản chất, đó là sợ... teo dái.

Tại các thành phố, đô thị trong cả nước, quán thịt dê mọc lên ngày càng nhiều nhưng thực khách thì vẫn đông đảo. Dê núi Ninh Bình thực chất là con dê giống được đem từ Ninh Thuận ra Bắc nuôi. Vú dê cái cũng là một đặc sản luôn thiếu thốn cho thị trường, dẫn theo sự hoài nghi lớn khi nhà hàng nào cũng tuyên bố mình có món này trong thực đơn.

Ông Bá Văn Tin, Chủ tịch Hội nông dân xã Phước Nam, huyện Thuận Nam, cũng là một người nuôi dê có tiếng cho biết thêm, ngọc dương tuy quý nhưng vẫn còn có thứ khác quý hơn từ sản phẩm thịt dê mà không phải ai cũng biết, đó là pín dê pêđê.

Thấy khách tủm tỉm cười, ông Tin giải thích, con dê cũng như con người, nó có giới tính thứ 3 do bẩm sinh. Con dê đực mỗi ngày xuất tinh vài chục lần đã là một kỳ tích ghê gớm, con dê cái mỗi ngày nhu cầu giao phối cũng tương tự. Nhưng con dê pêđê thì... không xuất đi đâu được nên toàn bộ những gì tinh túy nhất được hấp thụ bên trong nó.

“Chỉ có người sành ăn mới tìm thấy pín dê pêđê. Ăn pín dê pêđê thì sinh lực dồi dào, điều này đã được kiểm chứng bởi rất nhiều người. Dê pêđê là con dê từ khi lọt lòng mẹ đã có tới hai bộ phận sinh dục của cả con đực và con cái. Có thể dùng pín dê pêđê ngâm rượu thêm một thang thuốc Bắc hoặc chế biến món ăn đều tốt. Nó là yếu tố giúp gia đình hạnh phúc đó nghen”, ông Chủ tịch Hội nông dân cười tươi.

Nắng trôi qua khỏi giàn nho thì đàn dê vừa xong cuộc ái ân bất tận để tràn đi kiếm thức ăn.

Lão nông Trần Văn Thanh lại nheo đôi mắt tuổi thất thập cổ lai hy cười giòn: “Con dê chỉ ăn lá táo, lá nho, lá rừng mà sinh lực tràn trề, còn mấy ông ăn nhậu bây giờ tìm hết thứ này đến thứ khác mà cứ xìu xìu... Suy ra, con người mình cứ thấy con dê là phải gọi bằng sư phụ nhé”..

Theo Thanh Nhã - P.C.T. st.

MỘT MAI THỨC DẬY

“Một mai thức dậy

Chợt thấy lòng mình như lá rơi

Chợt thấy lòng mình như suối reo…”

Thuận khẽ trở mình. Tia nắng loe loé qua khe cửa lấp lóa trên vành mi, tiếng chim choanh choách vọng vào tai, một cảm giác thư thái dễ chịu khi cậu mở mắt. Vẫn nằm im trong một tư thế thoải mái nhất của một giấc ngủ sâu, cậu tận hưởng bầu không khí êm mát của buổi sớm nơi thảo nguyên yên bình. Trong khoảnh khắc thanh thỏa ấy, cậu như gột rửa, bôi xóa tất cả một đoạn đường nhiều xốc xủi đã qua. Có thể tất cả hình ảnh sự kiện ấy sẽ tản mác không còn chút dấu vết nếu không có một cảm giác nhoi nhói khe khẽ nhắc nhớ phía đầu gối trái khi cậu vô tình cử động.

Mắt Thuận chợt nhắm lại, cơ mặt hơi nhăn không chỉ vì sự rêm rẩm từ vết thương, mà còn là một thực tại mà cậu đang phải đối mặt đã từ mấy tháng nay. Không chủ định, nhưng chất nước âm ấm từ khoé mắt cứ cậu ứa ra, thành một vệt dài theo triền má. Cậu nằm im nghe một nỗi tê tái lan khắp tâm can mình, cậu cảm giác nỗi đau từ vết thương râm ran cả cơ thể. Nỗi đau vô biên hạn ấy không còn như những đợt sóng cuồng muốn tung phá gào thét đập tan tất tật mọi hiện hữu như khi nó mới xuất hiện, mà giờ nó như hàng tấn dầu loang từ thân con tàu bị chìm, nó âm thầm mà tiệm cận đến mọi ngóc ngách tâm thân cậu, nó chiếm hữu toàn bộ hệ cảm quan tri giác cậu, nó như một kẻ tham lam không muốn chừa lại bất kỳ một mẩu thừa nào dù chỉ một milimet, nó nuốt chửng toàn bộ cậu vào thế giới u ám của nó. Cậu mê lịm đi trong nó, tan tác đi trong nó, phó mặc cả trong nó. Cậu bất động, chỉ còn mỗi hơi thở chứng tỏ cậu còn hiện diện trong cõi đời này. Tiếng chim vẫn lách chách trên những cành cây, tia nắng ấm vẫn mơn man trên làn da rám rám. Nhưng khoảnh khắc của một cái nhói đau đã đẩy tuột nó sang một bến bờ xa lạ nào đó, và nó như không đang hiện hữu trong không gian của một căn phòng.

Tiếng kẹt cửa thật khẽ, thật khẽ nhưng đủ vọng vào tai cậu một âm thanh của cuộc sống. Cậu vờ vươn vai dụi mắt, kỳ thực là để chùi nhanh dấu nước, và cũng là dấu hiệu tiếp nhận sự có mặt của người vừa gây ra tiếng kẹt cửa. Một thanh âm dịu dàng, ấm ấp, đầy yêu thương lan rộng trong không gian, lan rộng trong tâm thức:

- Con trai yêu của mẹ, dậy rồi hả? Mẹ đem bánh mì sữa vào cho con đây, dậy rửa mặt rồi ăn cho nóng đi con.

Thanh âm ấy cùng hơi ấm từ bàn tay đỡ nhẹ lưng, trong thoáng chốc đưa Thuận trở lại trạng thái cân bằng, trực diện thì hiện tại. Cậu nương theo đà đỡ ngồi hẳn dậy, nở một nụ cuời thật dễ thương trên gương mặt đẹp đẽ của một cậu con trai ngoan:

- Mẹ. Đêm qua con mơ thấy mẹ dắt con đi leo núi đấy, con leo lên rồi ngã xuống, ngã đến mấy lần cơ, rồi thấy mẹ dắt con chạy bay trên đồng cỏ, con chạy không kịp mẹ ngã s oài ra, mẹ chạy lại cốc vào đầu con, thế là hết mơ, tiếc quá mẹ nhỉ.

- Mơ với mộng. Để mẹ chắp cho con đôi cánh bay luôn cho nhanh nhá.

Vừa nói, người mẹ vừa cặp đôi nạng vào nách con, cậu cười rồi chống nạng vào nhà vệ sinh, chiếc ống quần bên trái phơ phất phơ phất. Mắt người mẹ đỏ hoe sau lưng con trai. Giấc mơ…? Hiện thực…? Bà không biết, đằng sau cánh cửa kia, có những giọt nước mắt đang lã chã theo bọt kem đánh răng rơi xuống bồn nước với tâm trạng đối sánh giữa mơ và thực y như bà. Bởi thường thì những giấc mơ phản ảnh nỗi khao khát tiềm ẩn, người hay ngồi một chỗ luôn mơ thấy mình đi mọi nơi, người khó khăn trong đi lại thì hay mơ thấy mình chạy nhảy, người ở nơi khô cạn cheo leo thì thường mơ thấy mình vùng vẫy bơi lội hoặc đi biển… Tóm lại, giấc mơ là một thực trạng bên kia của đời sống thật. Bà mẹ biết rằng, những giấc mơ ấy đã không xuất hiện vào khoảng thời gian trước, nhưng có lẽ nó sẽ càng xuất hiện thường xuyên hơn vào những ngày tháng về sau. Nó chỉ có thể chấm dứt khi trong lòng cậu con trai yêu quý của bà đã tan đi những cơn bão ngầm, đã lặng đi những trận cuồng phong của một thực tế khốc liệt, một thực tế trở thành cái ngáng chân của một tương lai rạng rỡ mà hai ông bà luôn vẽ trên nền toan trắng mang dòng tên Hồng Như Thuận. Nhưng những nét vẽ của ông bà cứ như dùng phải một chất màu dỏm, chất màu như bị pha loãng hơn vốn dĩ, nên nó gây ra những vệt loang trên tấm vải, những vệt loang ấy tạo thành những đường nét sần sùi đứt gãy, và trên tấm toan ấy hiện giờ không phải là một bức tranh hoàn chỉnh, mà chỉ là những vệt màu ố ẩm nhung nhoăng. Phía trước nó là một khoảng không thăm thẳm, một khoảng không mà có dõi căng mắt cũng khó mà nhìn được một dấu hiệu gì.

Tiếng nạng lộc cộc sau cánh cửa bỗng như một cái nút điện bật bàn tay người mẹ cuống quýt xóa tan dấu nước trên mi mắt, và đôi môi đã sắp sẵn một nụ cười âu yếm:

- Ngồi đây con.

Một tay kéo chiếc ghế, một tay nắm lấy cánh tay cậu con trai, và khi cậu đã nhè nhẹ ngồi xuống, thì bà cũng nhè nhẹ xếp cặp nạng qua một bên.

- Ba con đi đâu rồi hả mẹ?

- Ba con xuống khu phía Nam rồi. Chắc phải trưa mới về.

Cậu con trai không hỏi gì thêm nữa mà chăm chủ vào những miếng bánh mì thơm giòn cùng những ngụm sữa nóng ngọt. Bà mẹ cũng không nói gì, ngồi lặng lẽ nhìn con ăn. Thần sắc cậu đã khá hơn rất nhiều, cả tâm trạng cũng tốt lên trông thấy. Nhớ những ngày mới xảy ra chuyện, không ai hình dung được cậu sẽ vượt qua sự chấn thương nghiêm trọng cả thể xác lẫn tinh thần bằng cách nào. Người mẹ tội nghiệp cũng vật vã theo con từng ngày, và có lẽ, sự hốc hác, héo mòn và kiệt quệ của mẹ, sự đau khổ thẫn thờ suy sụp của cha, đã như một sợi dây giằng dẫu mỏng mảnh đã lôi dần cậu trở lại bên này bờ vực. Để rồi sau hai ngày im lìm như một sự chìm xuống rồi trồi lên, cậu con trai đã thắp lại nụ cười trên hai đôi môi khô sạm bằng thái độ ngoan ngoãn nuốt từng muỗng cháo, và nằm im khi người y tá nhè nhẹ thay băng nơi vết thương. Và dấu hiệu khả quan kế tiếp là cậu nhờ cha đỡ mình ngồi dậy, dựa vào chiếc gối kê thành giường, cậu chăm chăm nhìn vào cái chân với một màu trắng xỉn quanh đầu gối. Cái chân đã vĩnh viễn ngắn đi một đoạn, khi cái đoạn buộc phải ngắn đi ấy đã giập nát không còn một chút khả năng cứu vãn. Và cái nhếch môi dẫu có vẻ chua chát khi cha cậu ôn tồn:

- Con đừng lo, bác sĩ nói khi vết thương đã lành hẳn thì sẽ gắn cho con một cái chân giả, và con sẽ mau chóng quen với nó thôi.

Rồi cảm thấy như chưa đủ, ông nắm chặt tay cậu con trai, mắt nhìn sâu vào mắt cậu, giọng trầm nhưng đầy vẻ khích lệ:

- Con trai. Hãy mạnh mẽ lên. Một lần va vấp không phải đã là mất cả. Vẫn còn những cơ hội nếu con biết đứng dậy.

Cậu đã đáp lại lời kêu gọi của cha bằng một nắm tay siết chặt.

Trả lại không gian riêng cho con trai, bà mẹ thu dọn gọn ghẽ giường chiếu và đem cái khay ra ngoài sau khi giúp cậu đẩy chiếc ghế có bánh xe đến trước màn hình vi tính. Thuận bật công tắc chờ màn hình đang chạy những phần khởi động. Chấm đèn của ổ modem cũng bật sáng. Thuận ngả người dựa lưng vào thành ghế nhìn ra ngoài cửa sổ. Mặt trời đã lên cao, nắng đã tràn ngập không gian, toả rộng trên một màu xanh trải dài tít tắp. Màu xanh cây lá đã làm dịu nhẹ tâm hồn chàng trai chuẩn bị bước vào tuổi hai mươi. Khung cửa sổ của gian phòng cậu đang ngồi ở trên một tầm cao của hai tầng nhà phía dưới, nên nó cho phép cậu thoả thuê tầm mắt đến tận chân trời. Một hướng nhìn luôn dẫn tâm tưởng phiêu du đến ngàn xa, và cũng dễ mở rộng những viễn cảnh đầy sắc màu cho một ngày mai đang tới. Âm thanh hoàn tất khởi động kéo tia mắt chàng trai rời cảnh vật ngoài khung cửa trở lại màn hình. Như Thuận nhấp chuột vào biểu tượng chữ E. Rồi nhấp tiếp nhấp tiếp. Lướt qua tiêu đề cũng như danh tính của một loạt email, cậu chợt chú ý một email mang tên Thanh Viễn. Email của thầy Viễn. Những con chữ hiện ra, Thuận đọc nhanh, rồi đọc lại lần nữa…lần nữa…

“Thuận em. Cậu học trò thân yêu của thầy.

Thầy biết lúc này em đang cần tĩnh dưỡng cho cả thể xác lẫn tinh thần. Thầy cũng rất tiếc với những điều đã xảy ra với em. Nhưng em ạ, trên đời này không có chuyện gì xảy ra mà không có căn nguyên của nó. Thầy không nói đến những nguyên do thúc đẩy sự thể, điều mà thầy muốn nói là vấn đề từ nội tại của sự việc. Không ngã thì không biết đứng dậy. Đó mới chính là điều thầy muốn em suy nghĩ đến. Không chỉ suy nghĩ để biết cách chấp nhận thực tại, mà còn suy nghĩ để tìm cách đi qua nó. Đành rằng, không ai muốn những điều không may xảy đến với mình, nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng yên bình như ta muốn, nếu không có những rủi ro thì ta sẽ không biết trân trọng những giá trị hiện thực. Thầy không trách em. Em không thể hiểu ra mọi điều với lứa tuổi đang chập choạng trưởng thành này. Nhưng mỗi ngày đi qua, em đều có thể tự lớn lên một chút, và thầy tin, sau mọi chuyện, em đã thực sự trưởng thành một cách vững vàng hơn.

Hồng Như Thuận.

Cái tên đã gieo cho thầy một ấn tượng đầu tiên, và nó lại càng khẳng định một dấu chấm phết trong thầy hơn khi thầy được biết kết quả học tập của em. Một học sinh xuất sắc cấp phổ thông trung học và một điểm số khá tốt trong kỳ thi tuyển đại học. Những tưởng theo đà mà thẳng tiến. Không ngờ chút tự ái nông nổi của tuổi trẻ đã đẩy em đi xa thế. Nhưng thôi, không nhắc lại nữa, như thầy đã nói, điều cần thiết với em bây giờ là việc em sẽ đi tiếp con đường của mình như thế nào? Thầy đã bảo lưu kết quả học tập cho em. Em hãy tĩnh dưỡng cho tốt rồi trở lại trường nhé. Thầy nghĩ niềm tin của thầy sẽ không là vô ích, phải không em?

Thầy chúc em sức khoẻ ngày càng hồi phục.

Mong gặp lại em.

Thầy. Thanh Viễn”.

Thuận nhắm mắt nghe một thứ cảm xúc bồi hồi dâng ngập. Trong tâm tưởng dậy lên hình ảnh cao dong dỏng, gương mặt hiền dễ mến cùng đôi mắt đầy ưu tư của một người thầy. Người thầy mà Thuận đã nhiều lần tìm cách tránh mặt vì những lý do mà cả hai thầy trò đều hiểu rất rõ.

“Chút tự ái nông nổi của tuổi trẻ”.

Không có cách gọi nào khác cho nguyên nhân của sự biến chuyển các hình thái cho một tâm thế. Nhưng nó chỉ có thể được gọi lên một cách đầy đủ khi nó đã trải qua những chứng nghiệm rất cụ thể. Còn trước đó… thì khác… rất khác…

- Học giỏi ư? Thật đáng nể.

- Đẹp trai ư? Cũng không tồi.

- Nhưng bấy nhiêu chưa đủ đâu anh bạn. Cuộc sống này còn cần nhiều điều hơn thế.

- Là những gì ư? Há há… Ê tụi mày, đứa nào làm ơn giải thích giùm cho anh… anh gì nhỉ? Có Hai Lúa, có Ba Chè rồi… à, anh Tư Phê. Đúng rồi. Tư Phê. Quá chí lý. Thông minh không chịu nổi.

- Wou. Thế nào anh Tư Phê? Biệt danh kêu đấy chứ? Há há…

Một chút ngơ ngác cuối cùng trong ánh mắt chàng trai trẻ đến từ vùng cao nguyên đất đỏ nhanh chóng biến mất. Thay ngay vào đó là một ánh nhìn sắc lên mang một hàm ý “Hãy đợi đấy”.

- Ba. Ba phải giúp con. Con không nuốt nổi cái nỗi nhục này đâu. Chúng nó ỷ chúng nó được sinh ra nơi thành phố chúng nó có quyền coi khinh người tỉnh lẻ à? Chắc gì cái túi của ba mẹ chúng nó bằng một cái vảy của nhà mình. Con phải cho chúng nó biết. Ba mà không giúp con thì con bỏ học đó, con không chịu đựng được nữa đâu.

- Được rồi, con trai của ba đừng lo. Ừ thì Tư Phê. Hãy cho chúng nó mở to mắt mà nhìn xem Tư Phê này là gì. Yên tâm đi con trai.

- Sao ông lại nói với con như thế? Nó đang nổi cơn tự ái vặt, mà ông còn hùa theo nó…

- Bà thì biết gì mà nói. Chuyện động chạm đến danh dự sĩ diện của người đàn ông mà bà bảo là chuyện vặt à. Con tôi thì không ai có thể coi thường được. Tôi sẽ cho chúng nó thấy dân tỉnh lẻ này sẽ nuốt chúng nó như thế nào.

Lời nói ấy đã được hiện thực hóa một cách tốc độ. Chưa đầy tháng sau, Như Thuận lột xác hẳn từ một chàng trai hơi rụt rè ngơ ngác trước không khí ồn ào sôi động tấp nập của một thành phố lớn, trở nên một cậu công tử sành điệu sang trọng từ đầu đến chân. Chưa hết, một căn phòng thuê dài hạn với đầy đủ những vật dụng sinh hoạt cùng một số thiết bị vào hàng đắt nhất. Ngoài ra, một chiếc xe phân khối lớn có vóc dáng kềnh càng trông rất ngầu càng tôn thêm vẻ oai phong lẫm lẫm của một gã trai vừa lún phún ria mép. Công cuộc cải tổ sĩ diện không dừng lại ở đấy, mà còn kéo dài thành những cuộc ăn nhậu xả láng cùng những trò vui không giới hạn. Đương nhiên là hiệu quả một cách cấp kỳ. Những cái mặt vênh ngược lên lúc trước giờ lại vô cùng lễ phép, lễ phép đến mức Thuận như mất phương hướng, không biết mình đang ở đâu. Trong cậu xuất hiện một thứ cảm giác rất lạ. Cái thứ cảm giác chưa bao giờ cậu được cảm nhận. Như chếnh choáng trong một cơn say. Như chênh vênh lơ lửng trên mây. Như chìm ngập trong một rừng hoa của sự chiến thắng. Như một anh chàng đốn củi rừng sâu bỗng được muôn dân thần tướng tôn lên đài cao chín bệ. Chàng trai hiền lành ham học, luôn được thầy cô yêu mến tự hào chỉ còn là một cái bóng mờ xa xưa. Như Thuận không khác gì một chiếc xe được cài số tự động đang lăn ầm ầm xuống con dốc lổn nhổn đá to sỏi nhỏ. Cũng đã có những cái giật mình từ phía gia đình, thầy cô và bạn cũ. Cũng đã có những khúc căn muốn len vào vòng lăn của bánh xe mà hãm mà chận lại. Một trong những khúc căn ấy là thầy Thanh Viễn. Hơn ai hết, thầy hết sức bất ngờ trước sự thay đổi của cậu sinh viên năm nhất. Nếu không có những lần tiếp xúc trước khi xảy ra sự thể, chắc thầy sẽ khẳng định cái thành tích đã đưa một cậu học trò trở thành sinh viên kia là một thành tích ảo. Tuy rằng trong trường đại học, cách giảng dạy không như phổ thông, việc thầy cô chú ý đến một vài sinh viên là rất ít, ngoại trừ có lý do đặc biệt. Với thầy Thanh Viễn thì ngoài lý do đó là một học sinh giỏi, còn là một đồng hương thuở xa xưa của thầy. Thầy cũng đã từng sinh ra và lớn lên ở vùng đất đầy nắng đầy gió ấy. Thầy cũng đã từng chai sần đen sạm vì công việc vườn rẫy cho những cây cà phê trong nhiều năm tháng, và thầy cũng từng ngơ ngác khi bắt đầu một chặng đường mới, chỉ khác là cách thầy đi tiếp thật là chật vật. Nhưng dù có bao chật vật thì rồi thầy cũng đã đến đích. Không phải thầy không trải qua cảm xúc khó chịu của sự dằn xóc, kỳ thị vùng miền, nhưng thầy đã chứng minh bằng cách khác. Rồi bằng vào cái cách đã đưa ra hiệu quả vô cùng thuyết phục ấy, thầy đã được giữ lại trường với danh hiệu Thủ khoa. Thầy đã rất muốn rất muốn dắt cậu sinh viên Hồng Như Thuận đi theo con đường mà mình đã đi qua. Nhưng rồi thầy dần cảm thấy bất lực khi sự tác động của thầy chênh lệch quá lớn với sự lôi kéo náo nhiệt của các thứ phương tiện và quan niệm của thời đại. Đã có lúc thầy nghĩ, mình thật là may khi trưởng thành vào giai đoạn gọi là chậm tiến của xã hội, tuy thầy cũng đã từng tiếc cho tuổi trẻ của mình không được phong phú như tuổi trẻ của ngày nay. Nhưng thầy hiểu, cốt lõi của vấn đề không nằm ở các yếu tố ngoại quan, mà chính sự nhận thức từ nội tại của mỗi con người. Đáng tiếc là sự nhận thức không phải ai cũng như ai. Mà chính vì không như nhau thì mới là con người, chứ nếu tất cả như một thì chỉ là một loại robot mất rồi. Có điều là cái sự không giống nhau ấy đã đẻ ra quá nhiều hệ lụy cho cuộc đời này.

Khi nghe tin Thuận bị tai nạn trong một cuộc đua xe, thầy Thanh Viễn đã rất choáng váng. Nhưng khi biết cái giá phải trả là chân trái bị tháo khớp gối, thì thầy lại thấy mừng, không chỉ mừng vì Thuận thoát chết, mà thầy bỗng tin, rất tin rằng cậu sinh viên ấy sẽ được sống lại thật sự. Tai nạn ấy đã là một khúc căn đúng lúc, khúc căn ác nghiệt nhưng lại hết sức hiệu quả. Và thầy biết, thầy chính là người dắt tay chàng trai bước qua cái hố thẳm giữa đường đời.

Ông Hồng Lương Hòa ngồi lặng trên một mô đất, dưới những cành cà phê lòa xòa, điếu thuốc trên tay ông chập chờn đốm đỏ. Sắc diện ông biểu lộ một tâm trạng cực kỳ đau khổ. Ông già sọm hẳn đi sau tai nạn của con trai. Ông đã vô cùng hối hận khi đã gián tiếp đẩy con đến hậu quả nghiệt ngã này. Khi thấy con phẫn uất vì bị bạn bè coi thường chỉ vì sinh ra nơi tỉnh lẻ. Ông cũng đã bốc hỏa, vì chính ông cũng đã từng phải nếm trải nỗi đắng cay ấy không chỉ vài lần. Với hàng chục hecta cà phê trong tay, ông thuộc dạng đại điền chủ ở cái xứ lắm đồi nhiều núi này. Không ít người bản xứ đã quá lời mà tôn xưng ông là Vua cà. Ông vui với biệt danh hồn nhiên mà sát thực ấy. Bởi để có được một sự sản vào hàng bậc nhất ở xứ sở này, ông đã đánh đổi cả một cuộc đời với bao tâm sức. Ông thầm tự hào với những gì mình đã đạt được. Nhưng niềm tự hào đó của ông thường bị tổn thương rất nặng nề mỗi khi đến những thành phố lớn, không nói thành lời, không biểu hiện một cách rõ rệt, nhưng ông cảm nhận rất rõ sự coi thường của người đối diện khi nói rằng mình từ đâu đến. Nỗi cay nhức không thể giải tỏa ấy luôn là một thứ ung nhọt trong ông. Hừ. Họ có hơn gì ta ngoài cái mác là dân thành phố? Mà rất nhiều trong số họ không bằng cái móng tay của ta, nhưng họ cứ nghiễm nhiên tự cho phép mình có quyền coi khinh người tỉnh lẻ. Một điều hết sức vô lý, nhưng nó luôn tồn tại. Biết nó tồn tại một cách vô lý nhưng lại không có cách nào để giải quyết. Chẳng lẽ bỗng nhiên sửng cồ đòi họ phải biết phép công bằng. Họ có nói gì đâu. Nên sự nhức nhối âm ỉ ấy đã bùng cháy khi nhìn con trai mình cũng phải chịu đựng tương tự. Ông phải chịu đựng vì không thể tìm ra cách, nhưng con ông thì khác. Nó phải được đứng đúng vị trí của nó. Không ai có thể coi thường nó vô cớ như vậy được. Ông phải giúp nó rửa mối nhục này, cũng là rửa cả cho ông. Và thế là… Khi ông nhận ra mình đã sai lầm thì con trai ông đang mải miết lao xuống vực. Oái oăm ở chỗ ông không thể lấy quyền làm cha mà ngăn cản, dạy dỗ con một cách cứng rắn quyết liệt, và cũng không thể làm như những người cha mẹ khác là cắt nguồn. Ông chỉ biết van lơn con, còn cậu con trai thì nói với ông nghe có vẻ đầy tin tưởng “Ba đừng lo, con chỉ chơi một thời gian cho tụi nó biết mặt thôi, chứ chuyện học với con không có gì đáng lo cả, ba biết con học hành thế nào rồi mà”. Ông bấm bụng, ừ cũng có lý… thôi thì… Nhưng một khi con ốc vít đã tuông gai, làm sao vặn vào khớp được nữa. Để rồi… Ông đã chết ngất khi nghe hung tin. Sự lo lắng cộng nỗi ân hận dày vò, khiến ông gần như quỵ ngã. Nhưng ý thức của người cha đã vực ông dậy, và ông đã biết ông cần phải làm gì.

Người kỹ thuật chỉnh hình cài xong vành dây khóa trên cùng rồi nói:

- Xong rồi, cậu đứng dậy đi thử xem.

Như Thuận đứng dậy, cậu khẽ nhăn mặt vì sự khó chịu của những vành dây khóa thít vào đùi, cùng cảm giác đau râm ran nơi mỏm đầu gối tiếp xúc vào chất liệu cứng của chiếc chân giả. Nặng và gượng gạo khi cậu nhấc chân. Ông Lương Hòa cầm lấy cánh tay con khi cậu hơi loạng choạng, cậu bặm môi cố bước vài bước.

- Cố lên em. Rồi em sẽ nhanh quen với nó thôi.

Cùng với câu nói là một cách tay kia của Thuận được xốc lên.

- Thầy… sao thầy biết…

- Ba có báo cho thầy con mà. Thầy nói thầy muốn thấy con trong ngày này.

- Thầy nghĩ em không từ chối sự có mặt của thầy trong lúc này chứ.

Như Thuận không nói thành lời, nhưng trong ánh mắt long lanh của cậu như trào lên một niềm xúc cảm. Cậu cúi nhìn xuống, bàn chân của cái chân giả được lồng vào một chiếc giày cùng một đôi với cái chân thật. Trong khoảnh khắc, cậu cảm nhận một sự thân quen gắn bó của nó. Bắt đầu từ bây giờ, nó đã trở thành một phần của cơ thể cậu, của cả cuộc đời cậu nữa.

- Nào ta đi tiếp em.

Hai người đàn ông luống tuổi, một là cha một là thầy, đi hai bên nắm hai cánh tay của một chàng trai mặt đang hồng rựng lên bởi sự cố gắng và cũng là một cảm trạng đầy mới mẻ rộn lên lòng. Cậu đi từng bước từng bước, hai bàn tay nắm hai cánh tay cậu lỏng dần lỏng dần, rồi rời hẳn. Như Thuận ngước mặt hít một hơi thật sâu và bước tiếp. Phía sau cậu là sự giao nhau của hai đôi mắt biết cười.

ĐÀM LAN

NHƯ TIẾNG THỞ DÀI

TRONG ĐÊM

Nhà bà Tư Chuối và nhà tôi cách nhau một cái đường mương nhỏ. Nước thải của hai nhà đều trút xuống đó. Nhờ nó, hai khoảng sân luôn khô ráo, sạch sẽ. Nhưng cũng vì nó mà hai nhà trở nên thù nghịch, thường xuyên đấu khẩu. Bên nhà tôi kêu ca nhà bà Tư Chuối giả bộ đào mương để lấn đất, chứ tốt lành gì. Bên kia mắng lại nhà tôi chẳng biết nhớ ơn người đào mương cho đổ nước thối, còn gieo tiếng ác. Cái mương trở thành nạn nhân để hai bên trút cơn thịnh nộ. Họ tuôn ra hàng loạt những câu nhiếc móc đầy sức thuyết phục lũ con nít ngưng ngay những cuộc vui đùa, chạy tới hiện trường, tròn mắt, há hốc mồm lắng nghe. Thỉnh thoảng chúng cổ vũ bằng những trận cười hí hố khoái trá. Vài câu chửi của hai bên đã trở thành lời thoại của bọn trẻ khi chơi cất nhà chòi. Bọn trẻ hai nhà cũng bị phân làm hai phe, bị cấm ngặt không được chơi chung với nhau. Họ đâu biết những lệnh cấm thường có sức quyến rũ trẻ con vi phạm. Chúng tôi vẫn lén lút nhảy qua “cái đường mương ô nhục” để chơi đùa với nhau.

Một hôm, từ phía bên kia, bỗng phát ra một âm thanh nửa êm đềm nửa ngắc ngứ. “Tưng tưng… tưng từng… tưng tứng…” Lấy làm lạ, tôi xếp sách vở chạy ra ngóng nhìn. Trong chòi chứa hàng chục cái lu dùng để ươm chuối của bà Tư có một thằng nhóc lạ hoắc lạ huơ. Tóc như rễ tre bùm xùm. Mặt lấm tấm tàn hương giống như cái bánh tiêu rắc mè. Mũi hếch, mắt lờ đờ cá ươn. Thoạt nhìn tưởng nó đang ngủ gật. Nó mặc một cái áo thun cũ xì và một cái quần cụt xanh bạc phếch, phơi bày cặp giò lỗ chỗ sẹo. Thằng nhóc gan thiệt. Nó đang ngồi trên nắp lu để đánh đàn. Đúng là điếc không biết sợ súng. Bà Tư Chuối mà thấy được sẽ đổ thừa bán chuối ế là tại cái mông của nó. Chẳng những điếc mà nó còn đui nữa. Tôi đứng sờ sờ đó nãy giờ mà không thấy. Cứ gầm đầu khều từng nốt nhạc nghe phát bực. Tôi nhặt một hòn sỏi ném… xuống đường mương đánh chũm. Nước thối văng tứ tung, vài giọt bám vào người “nhạc sĩ”. Lập tức có tác dụng. Nhạc sĩ buông cây đàn, nhảy nhỏng:

- Đứa nào chơi dơ quá vậy?

Thấy tôi ngoác miệng cười, nó đỏ mặt trỏ tay:

- Còn cười nữa hả?

Tôi vênh mặt:

- Ừ đó. Có sao không?

Giơ nắm đấm lên dứ dứ về phía tôi, nó trợn mắt:

- Coi chừng tui đập vỡ trán đó!

- Dám không? Thử coi!

Nào ngờ nhạc sĩ nhảy qua mương, định tóm lấy tôi. Hoảng hồn, tôi vừa chạy vừa la chói lói:

- Ngoại ơi, nó đánh con, cứu con với!

Bà tôi tất tả đi ra:

- Cái gì… cái gì…?

Tôi chỉ tay vào thằng nhóc đang đứng tiu nghỉu:

- Nó đánh con.

Nhạc sĩ trợn mắt:

- Có đánh được cái nào đâu mà méc.

Tôi níu tay bà ngoại:

- Một tiếng hăm bằng… năm cái đánh!

Ngoại bênh tôi liền:

- Ừ, đúng! Mầy là thằng nào, ở đâu tới đây làm trời vậy hả?

- Con có làm trời gì đâu. Tại nó phá con.

Bà nhìn tôi. Tôi liền chối:

- Con đâu có phá nó. Con chỉ chọi… cá dưới mương.

Nhạc sĩ đỏ mặt cãi:

- Cá, cá… con khỉ đột! Nước đen xì thúi hoắc làm gì có cá mà chọi.

Bà thắc mắc:

- Không lẽ khi khổng khi không nó chọi mầy? Phải có lý do chứ.

- Con có chọc ghẹo gì nó đâu?

Tôi chỉ vào lỗ tai:

- Có nè! Đàn um sùm, người ta học bài không được.

- Lãng òm chưa! Ai học cứ học, ai đàn cứ đàn, mắc mớ gì…

- Nhưng mi đàn dở ẹc! Nghe như chọt vào tai, khó chịu thấy mồ.

Bà chêm thêm một câu:

- Vậy ra nãy giờ là tiếng đàn đó sao? Tao cứ tưởng ai… đập thùng thiếc.

Giận đỏ mặt, nó thét lên:

- Bênh bậy mà cũng bênh. Thấy người ta có một mình ăn hiếp!

Nhảy qua bên kia mương, nó xách cây đàn te tái vào nhà đóng sầm cửa. Bà ngượng ngùng quay sang tôi ra lệnh:

- Vô học bài!

Đó là lần đầu tiên tôi thắng thế mà cảm thấy không vui. Tôi nghĩ thầm mình vô duyên quá! Qua nhỏ Vy, cháu ngoại của bà Tư Chuối tôi được biết nhạc sĩ ấy tên Dư. Nó là con riêng của mợ Năm Hùng, mà cũng là cái gai đâm vào mắt bà Tư Chuối, đau thấu tim. Bà Tư Chuối có bốn người con ba gái một trai. Khác tính các chị, cậu Năm Hùng học giỏi, rộng lượng và lãng mạn. Ra trường, cậu tình nguyện về dạy học ở vùng nông thôn. Ở đó, cậu gặp mẹ Dư, một y tá bị chồng bỏ rơi. Cậu Năm Hùng đem lòng yêu thương người đàn bà bạc phận, dắt về ra mắt mẹ và các chị. Tất cả đều phản đối quyết liệt nhưng không nhằm nhò gì. Cậu Năm Hùng tuyên bố: “Thà chết chứ không bỏ người tình” và thông báo một tin xanh rờn là mợ Năm đã có thai. Họ đành nhắm mắt cho cậu yêu. Nhờ khéo chiều chuộng, mua chuộc, mợ Năm dần dần chiếm được cảm tình của bên chồng. Mợ cho Dư về ở với bà Tư Chuối để chăm sóc bà nội… ngang hông, vừa tiện việc học hành. Dư được chấp nhận một cách miễn cưỡng, lạnh lùng. Nó như khúc ruột thừa, đợi ngày viêm tấy. Từ ngày có Dư, cái đường mương đỡ khổ hơn. Hầu hết những cơn giận dữ của bà Tư chuối đều trút lên đầu Dư. Dư cô đơn, chỉ biết làm bạn với cây đàn. Tiếc là tay đàn còn kém, nghe càng buồn bực hơn. Chúng tôi đã trở thành bạn thân. Tôi hay cho Dư mượn sách báo, truyện cổ tích, chia đôi gói bánh, quả mận. Bù lại, Dư giải toán giúp tôi, bẻ trộm vài trái chuối cho tôi ăn và xách cặp giùm tôi khi hai đứa đến trường. Hôm nào Dư về quê thăm mẹ, tôi buồn đứt ruột. Cứ ra vào, vào ra chẳng biết làm gì. Cảm thấy thiếu một cái gì quý lắm. Có bánh tôi ăn một mình lại thấy không ngon. Chiều, trong chòi chứa lu im bặt tiếng đàn đã dần dần dìu dặt, gợi cảm. Tôi mong Dư chóng trở về. Trong giấc mơ, hình bóng Dư nhập nhòa trộn lẫn bao điều khó hiểu. Dư cũng bảo tôi làm Dư muốn quay về ngôi nhà lạnh lùng để nhìn thấy tôi chạy ùa ra đón, nhoẻn cười rồi huyên thuyên chuyện trên trời, dưới đất hoặc chê bai Dư. Dư lý sự “Chẳng biết tự bao giờ có một sợi dây vô hình đã buộc chặt Dư và Mơ”. Tôi gân cổ cãi “Sợi dây đó chỉ xỏ vào mũi Dư cho Mơ kéo”.

Một chiều, Vy qua nhà rỉ tai tôi:

- Thằng Dư dặn mầy ngày mai đi học sớm chờ nó chỗ bụi hoa trâm ổi nha.

- Xí, khùng hết chỗ nói! Ngày nào cũng cùng đến trường mà dặn.

- Ngày mai khác! Nó bảo tụi tao đi học trước, nó muốn gặp riêng mày.

- Chuyện gì mà bí mật vậy ta?

Vy mím môi gằn giọng:

- Tao nghi nó gửi cho mầy một bức thư tình. Mấy ngày nay tao thấy nó cứ cắm đầu viết viết xé xé. Tao lượm được một miếng vụn có chữ “Mơ yêu dấu ơi”.

Tôi cười ngất:

- Thôi đừng xạo!

- Thiệt mà.

Tuy ngoài miệng nói vậy chứ tôi nôn nao, hồi hộp lắm. Hồi nào tới giờ có ai gửi thư tình cho tôi đâu. Chẳng biết nó ra làm sao! Chắc là… tình tứ lắm!

Sáng. Tôi dậy sớm hơn mọi ngày. Tập thể dục xong, tôi đi tắm, gội đầu. Tôi bắt chước chị Hai vò nát mấy cánh hoa bưởi trong thau nước gội nên tóc thơm ngan ngát. Khi tôi đi ngang, chị Hai thảng thốt kêu lên:

- Quái! Con nhỏ nầy bữa nay ở sạch quá ta! Bộ cô giáo kiểm vệ sinh cá nhân hay sao mà mầy bỏ “hồm hố lại nhà”. Tôi xụ mặt:

- Ở dơ chị cũng nói mà thơm tho chị cũng nói.

Ngoại chậm rãi thoa một lớp vôi trắng lên lá trầu vàng, cuộn nó thành hình cánh phượng rồi đút vô miệng cùng với một miếng cau. Vừa nhai bà vừa nói:

- Không biết nó ở sạch được mấy bữa?

Tôi ức cành hông. Bà ngoại thật không hổ danh bà già trầu mà người trong xóm đặt cho. Thời buổi nầy chắc chỉ còn mình ngoại ăn trầu, xỉa thuốc thôi. Mà tính ngoại cũng cổ… như trầu.

Chị Hai đế thêm vào:

- Con đoán nó ở sạch cao lắm ba bữa.

Trong lúc mọi người ăn sáng, tôi lẻn vào buồng ngủ của chị Hai, lấy thỏi son thoa lên môi. Tôi còn bôi ít phấn hồng lên má. Xong tôi chụp cái nón đệm lên đầu kéo sát mí mắt để che khuôn mặt… đẹp rồi phóng như bay ra cửa. Dư đã đứng cạnh bụi hoa trâm ổi tự bao giờ. Vừa nhác thấy bóng tôi, nó đi tới. Bỗng dưng tôi hồi hộp như đang xem múa lân. Trống ngực đập nghe thình thình. Dư cũng vậy. Nó chợt cà lăm:

- Sao Mơ… Mơ… Mơ đi học sớm sớm… quá quá vậy?

Lãng nhách! Dặn người ta mà còn hỏi? Nhưng tôi lặng yên. Dư nhìn xuống chân. Tay phải đưa lên vò vò đầu làm rối bời mái tóc rễ tre. Mấy nốt tàn nhang mờ nhạt trên gò má ửng đỏ của Dư. Tôi cũng cảm thấy nhồn nhột, mặt nóng bừng. Đứng uốn éo một hồi. Dư chợt tỉnh nhìn tôi, ngập ngừng:

- Dư gửi Mơ …

Bỗng Dư ngừng bặt khi nhìn thẳng vào mặt tôi. Biết Dư đang ngắm mình, tôi mắc cỡ, kéo nón che ngang mặt. Dư bật cười:

- Ha ha… Trông Mơ lạ quá!

Tôi vênh mặt:

- Đẹp hơn mọi lần không?

Dư vẫn còn cười cười:

- Đẹp nhưng…

- Nhưng sao?

Dư nhìn xuống chân, mím môi để giấu nụ cười:

- Nhưng tèm lem quá trời!

Giận cành hông. Nếu không vì sự hấp dẫn của bức thư tình thì tôi đã ngoe nguẩy bỏ đi:

- Kêu người ta đi sớm đặng chê đó hả?

- Đâu có chê. Nhưng Mơ không đánh phấn thì… đẹp hơn. Vì nhìn giống dán hình hai miếng bánh bò lên gò má lắm.

Dư chìa lá thư ra chưa kịp nói gì tôi đã giật lấy rồi chạy như bay trên lối mòn dẫn đến trường học. Gần đến cổng, tôi dừng lại bóc thư ra đọc:

“Mơ ơi! Dư không sao quên được lần gặp gỡ đầu tiên. Nếu anh không được là… người ấy của em nữa chắc anh sẽ… đập vỡ cây đàn, giận đời!... Anh thề ở vậy thà làm hạt mưa vỡ trên tượng đá. Anh nói thiệt đó! ”

Ối trời! Sao nghe quen quen vầy nè. Giống thơ của Nguyễn Tất Nhiên trộn lẫn với ca từ. Tôi cười ngất. Chiều nay gặp Dư tôi nhéo cho bầm mình luôn. Hết chuyện rồi. Viết thư tình mà cũng đạo thơ, đạo nhạc trộn như trộn gỏi. Thiệt hết nói nổi!

Nhưng tôi chưa kịp ngắt nhéo Dư, cũng chưa kịp nói rằng tôi… thích là người ấy của… đằng ấy thì đã xảy ra sự cố. Chiều hôm đó bà Tư Chuối đã… đập vỡ cây đàn của Dư vì anh dám cãi lại khi bà nói hành nói tỏi mẹ Dư là thứ đàn bà lừa tình. Không có thai mà nói có thai để được cậu Năm Hùng yêu. Dư đã cãi rằng mẹ anh bị sẩy thai nằm viện ai cũng biết kia mà. Chính cậu Năm Hùng theo đuổi mẹ anh chứ mẹ anh có… lừa ai đâu. Bà Tư Chuối nổi trận lôi đình, bà vớ lấy cây đàn và đập mạnh vào cái lu ươm chuối. Xong, bà gọi điện cho mẹ Dư bảo lên ngay để dạy cái thằng con… mất dạy.

Trời chập choạng tối. Mợ Năm Hùng lên tới. Mặc cho bà Tư Chuối nhiếc móc, chửi bới. Mợ im lặng thu xếp quần áo, sách vở của con rồi cúi chào bà Tư. Mợ chỉ nói “Cám ơn bà vì tất cả”. Rồi lặng thầm ra cửa. Anh lầm lũi theo sau mẹ. Anh không hề hay biết rằng tôi đã đuổi theo đến khi bóng anh và mẹ khuất dần ở khúc quanh lối mòn. Từ đó, tôi không còn gặp lại anh lần nào nữa. Vì mẹ đã dắt anh đi biệt xứ. Mẹ anh chia tay mối tình cuối. Còn tôi, tôi ngậm ngùi rời xa mối tình đầu vừa chớm. Đọng lại trong tôi đến giờ tiếng đàn của anh, giai điệu vụng về, rụt rè buồn bã như tiếng thở dài trong đêm.

NGUYỄN THỊ MÂY

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 08.9.2018… ............ Vũ Thư Hữu ... 01

Vài dòng về 1 cuốn sách nhỏ được coi như một kho vàng

cho những ai yêu thích đại văn hào Victor Hugo ........ Vũ Anh Tuấn ... 04

Những suy nghĩ vẩn vơ (tập 1) ......... Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết ... 07

Hãy trả lại công bằng cho Đại Thừa (tt) .............. Tâm Nguyện ... 17

Người phụ nữ đầu tiên soạn Từ điển bách khoa thư ....... Hoàng Kim Thư st. .... 27

Vũ Thành An “Dòng nhạc không tên” ................ Phạm Vũ ... 31

Ngôi chùa trong tâm tưởng .................. Nguyễn Văn Sâm .... 36

Thơ Anh Thúy Toàn gởi Anh Tuấn ................. Thúy Toàn .... 46

Gác cu ....................... Bùi Đẹp st. .... 49

Thong dong .......................... Lam Trần .... 51

Mánh khóe của vua chúa ngày xưa ............ Phạm Hi ếu Nghĩa ... 54

Giấc mơ của bạn (thơ) ..................... Đàm Lan ... 59

Lời tình mong manh (thơ) ............ Phạm Thị Minh-Hưng .... 61

Tháng bảy mưa ngâu (thơ) ............ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 63

Cung đàn dang dở (thơ) ................... Ngàn Phương .... 63

Trăng buổi sáng (thơ) .............. Ngàn Phương .... 64

Kèn bi ai (thơ) ................ Lang Nguyên .... 65

Bóng trăng tà (thơ) ................... Lang Nguyên .... 65

Mẹ tôi (thơ) .................... Thanh Châu .... 66

Lòng tin (thơ) ............. Lê Minh Chử .... 67

Lâu đài xây trên cát (thơ) ............. Lê Minh Chử .... 67

Những ngày mưa bão (thơ) ......... Hoài Ly .... 68

Thương hoài ngàn năm (thơ) .................. Hoài Ly .... 68

Lễ Húy Kỵ tuồng San hậu (thơ) ............... Phước Hải .... 69

Khúc hát rong chơi (thơ) ............. Thanh Phong .... 70

Lưu tình (thơ) ................... Vũ Thùy Hương ... 72

Cùng em (thơ) ......................... Hải Âu ... 73

Thêm một vầng trăng (thơ) ................. Lê Nguyên ... 74

Gặp em (thơ) ...................... Phùng Chí Tâm ... 75

Tình em (thơ) ......................... Phùng Chí Tâm ... 75

Mưa Sài Gòn (thơ) .................. Lam Trần .... 76

Chiều quê (thơ) ............................ Lam Trần .... 77

Mùa lễ cưới (thơ) .................... Quang Bỉnh .... 78

Đón tri âm (thơ) ....................... Vũ Đình Huy .... 78

Đêm ấy rừng thu… (thơ) .............. Trần Nhuận Minh .... 79

That night in the autumnal forest… (thơ) ........... Vũ Anh Tuấn dịch .... 80

Tiếng Việt dễ thương Nam, Bắc (thơ) ............. Lệ Ngọc st. ... 81

Kỷ lục Guinness về các vị tổng thống ....... Đỗ Thiên Thư st. .... 85

Đọc sách giùm bạn: Kiều ca ................. Hà Mạnh Đoàn ... 88

Mùa xuân của bé Bông (tt & hết) ......................... Hoài Ly .... 90

Ăn kiêng ....................... Đào Minh Diệu Xuân st. .. 100

Kế hoạch già ................ Quan Thúy Mai st. . 104

Một củ gừng chữa được 10 loại bệnh ........... Phùng Chí Tâm st. . 106

Chuyện của ba con cá ................... Kim Sơn st. . 108

Thế giới động vật & côn trùng ................ Hà Diệp st. .. 110

Tinh thần quý tộc mẹ dạy con gái ...................... Hoàng Chúc st. .. 114

Vương quốc dê ........................... P.C.T. st. .. 116

Một mai thức dậy ............................... Đàm Lan .. 121

Như tiếng thở dài trong đêm ............. Nguyễn Thị Mây .. 133

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế