Hiện có 7 người xem / 2336080 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 14/4/2018

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách quý mà ông mới sở hữu. Cuốn đầu là một cuốn sách mới mang tựa đề là S à i Gò n Hòn Ngọc Viễn Đông được in bằng ba thứ tiếng Việt-Anh-Pháp của ba tác giả PGS.TS Nguyễn Mạnh Hùng, Phan Mỹ Tuyệt, và Nguyễn Phan Sơn Trúc. Cuốn sách khổ 19x25 dày 68 trang mới được in năm 2017. Cuốn thứ nhì là một cuốn sách bằng Pháp văn mang tựa đ ề là “ Thành ngữ và các câu nói bóng gió ” (Locutions et Allusions) của tác giả Félix Perrissoud, khổ 12x19, dày 412 trang, được xuất bản khoảng trên 80 năm trước.


Cuốn đầu là một cuốn sách mà người giới thiệu được tác giả PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hùng đề tặng, và trên 68 trang sách toàn là những hình ảnh Sài Gòn cũ, phần lớn là những hình ảnh đã được dùng làm bưu thiếp rất đẹp, được in chung với những bài viết liên quan tới những hình ảnh đó bằng ba thứ tiếng kể lại những chuyện cũ khi Sài Gòn được phong là Hòn Ngọc Viễn Đông. Đây là một cuốn sách thật hấp dẫn, duy có điều giá tiền tới 200 ngàn nên chắc cũng khó đến được tay giới bình dân. Được tặng, người viết có đọc qua, và rất thích những hình ảnh cũ rất đẹp, cũng như các bài viết. Và, theo người giới thiệu, cuốn sách này có một điểm đặc biệt là nó đã mang lại một điều mới lạ: đó là nó là cuốn sách đầu tiên có thể ký là “gia đ ì nh tác giả”, thay vì “tác giả” như mọi cuốn sách khác. Số là, sau khi thấy hình PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hùng, rồi lại thấy hình một phụ nữ và một thanh niên, người giới thiệu đã hỏi ông Hùng, và được ông cho biết quý bà đó chính là Quốc Hội của chính ông, còn người thanh niên thì chính là con trai ông. Trên sách cũng có mang hình cả ba tác giả, do đó cuốn sách được ký là “Gia đình tác giả” là quá chính xác rồi!

Cuốn thứ nhì bằ ng Pháp văn là một cuốn sách chứa đựng kho ả ng 5000 thành ngữ và những câu nói bóng gió trong tiếng Pháp. Đây chính là cả một kho tàng chữ nghĩa cho một người yêu thích tiếng Pháp, và được học tiếng Pháp từ bé như người giới thiệu. Ngoài ra nó còn mang tính quý thư hơn nữa khi nó mang ngay trên trang đầu cuốn sách chữ Sển to đùng, cho biết nó là một cuốn sách thuộc tủ sách của một người chơi sách nổi tiếng ở Sài Gòn cũ là ông cụ Vương Hồng Sển. Người giới thiệu cũng không lạ gì ông cụ Sển, nên khi gặp một cuốn sách trong cái tủ sách đã bị tan tác sau khi ông cụ mất, thì ông thích quá, nhất là nó lại chứa đựng c ả một kho thành ngữ và từ bóng gió trong Pháp ngữ.

Sau khi được giới thiệu, hai quý thư đã được một số thành viên chuyền tay nhau thưởng lãm.

Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, anh Phạm Vũ đăng đàn và có một bài nói chuyện ngắn về nhà soạn nhạc danh tiếng Hoàng Quý và bài Tô Vũ chăn dê. Anh Phạm Vũ nói xong, anh Phước Hải lên ngâm tặng các thành viên ba bài thơ. Anh Phước Hải ngâm thơ xong, Anh Nhựt Thanh lên nói về Tây y và về vấn đề đ ột quỵ , và các cách trị liệu. Sau anh Nhựt Thanh, anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên một bài của Lưu Hữu Phước. Tiếp lời anh Tấn Thuận, thành viên Kim Mai lên hát tặng các thành viên bài Chiều lên Bản Thượng . Kim Mai hát xong, anh Lê Nguyên lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ về Sài Gòn cũ, và hát tặng các thành viên bài “Lại về với biển”. Sau anh Lê Nguyên, nhà thơ Hải Âu lên nói về bài “Chúng ta có tận thế hay không?” và ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Tiếp lời anh Hải Âu, Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên bài “Thời gian”. Hoài Ly ngâm xong, anh Phùng Chí Tâm lên nói bổ s ung về chuyện đột quỵ và cách trị bệnh bằng châm kim vào mười đ ầu ngón tay, và anh giới thiệu bài viết của anh nhan đề là “Chỉ cần 1 cây kim” đăng trên tờ “Tài Hoa Trẻ”. Sau anh Phùng Chí Tâm, Thùy Hương lên nói lời cảm ơn mọi người chia sẻ hôn lễ của cô và ngâm bài thơ khóc một người anh mới mất. Tiếp lời Thùy Hương, anh Thanh Phong lên ngâm tặng các thành viên bài thơ vui “Yêu muộn”. Sau anh Thanh Phong, Kim Sơn lên ngâm tặng các thành viên bài “T ì nh yêu của U60”. Kim Sơn ngâm xong, Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên bài “Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi”. Lệ Ngọc hát xong, anh Phan Minh Hùng lên kể chuyện anh mới đi Singapore về, và nói về cách đứng 1 chân để phòng đột quỵ. Cuối cùng anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom, lên hát tặng các thành viên bài “Hoa cài mái tóc” và buổi họp kết thúc lúc 11g20. Các thành viên vui vẻ ra về hẹn gặp lại nhau trong kỳ họp tới.

VŨ THƯ HỮU


VÀI DÒNG VỀ MỘT CUỐN QUÝ THƯ

GỢI LẠI TRONG TÔI NHIỀU KỶ NIỆM ĐẸP

Chiều hôm qua khi đi qua tiệm sách của một người bạn ở gần nhà tôi, tôi bỗng bắt gặp trong một chồng sách để ngay ở ngoài cửa có cuốn quý thư này. Chữ “Time” như đập mạnh vào mắt tôi, khiến tôi quay lại, và cầm cuốn Time Almanach này ra khỏi chồng sách và hỏi giá chủ nhân. Tôi hơi thất vọng vì năm lại là năm 2002, hơi quá lâu, tới 16 năm trước, tuy nhiên tôi vẫn muốn lấy vì tôi rất quý trọng nhóm báo Time của Mỹ. Hơn nữa, vì năm quá xưa nên giá cuốn sách rất nhẹ, chỉ bằng 1/4 giá bên Mỹ, chưa kể tiền vận chuyển. Cuốn sách khổ 16x24, dày 1038 trang, với một số hình ảnh minh họa và chân dung các nhân vật trong đủ mọi lãnh vực khiến tôi rất thích vì nó chứa đựng các thông tin về hơn 1 triệu các sự việc trên đủ các lãnh vực của nước Mỹ. Mấy từ Niên Giám Time (Time Almanach) đủ bảo đảm cho sự chính xác tuyệt đối của các thông tin, vì tờ Time là một tờ báo mà tôi tin tưởng vô cùng. Trong số trên 1 triệu sự việc được nói tới trong sách, tôi đặc biệt yêu thích gần 300 trang nói về toàn bộ các quốc gia trên thế giới, riêng Việt Nam của chúng ta cũng được dành gần 2 trang.


Mang cuốn sách về nhà, cầm nó trên tay và ngắm nghía, cuốn sách khiến tôi nhớ tới một cuốn sách khác cùng loại, nghĩa là cùng thuộc loại “bách khoa phổ thông” cực kỳ chính xác và hay, nhưng là của Pháp chứ không phải của Mỹ, và đó là cuốn QUID, cũng là một dạng “tự điển bách khoa phổ thông” của hai vợ chồng đồng tác giả người Pháp là Dominique và Michèle Frémy. Cuốn QUID ra đời năm 1963 và tồn tại tới năm 2007 thì ra cuốn chót của năm 2007, mà tôi có cơ may có được do được cô em ruột tôi sống ở Pháp gửi về cho. Năm 1970, nghĩa là bảy năm sau khi cuốn bách khoa phổ thông QUID này ra đời, một người bạn tôi là một GS dạy Anh văn ở Pháp đã gửi về cho tôi một cuốn của năm 1970. Thấy cuốn bách khoa phổ thông quá hay, tôi đã mang nó tới và giới thiệu nó cho một người viết văn mà tôi thật quý trọng vì, sau ngày ông qua đời 14 năm sau, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học , ngôn ngữ học , triết học , tiểu luận phê bình, giáo dục , chính trị , kinh tế , gương danh nhân, du ký, dịch tiểu thuyết, học làm người... Và đó là bác Nguyễn Hiến Lê, và tôi gọi bác là bác vì bác hơn tôi tới 23 tuổi. Nhớ lại cuốn QUID tôi rất vui, vì tôi là một trong những người hiếm hoi biết dùng QUID cho tới năm chót là năm 2007 và lại còn có cơ may có được cuốn QUID cuối cùng đó. Và rồi sau khi nhớ tới bác Lê trước ở đường Kỳ Dồng, tôi lại lan man nhớ tới nơi bác Lê thường lui tới là Tòa Soạn báo Bách Khoa ở số 160 đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), và đây cũng chính là nơi tôi cũng hay lui tới và được gặp gỡ những vị như bác Lê, ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, cụ Vương Hồng Sển và các nhà văn nhà thơ như bà Minh Quân, Lê Thanh Thái, Tr ầ n Phong Giao, Nguyễn Minh Hoàng, Nguyễn Quốc Thắng vv… và bác Lê Ngộ Châu, vị chủ nhiệm của tờ báo Bách Khoa danh tiếng. Nhớ tới đây, tôi lại mơ màng nhớ lại nét mặt tươi tỉnh của bác Châu, người được coi như Lưu Bị trong làng văn Sài Gòn cũ, và nét mặt đăm chiêu của nhà văn Trần Phong Giao, người cũng có công vì làm báo Văn cũng rất đáng chú ý. Tôi đặc biệt nhớ tới hai vị này vì họ đã từng là một dạng ân nhân của tôi khi khuyên tôi, thay vì chuyên dịch các hợp đồng thương mại cho các đại công ty, thì nên chuyển sang dịch văn học để những tác phẩm dịch thuật được còn lại với đời, đánh dấu chuyến du hành qua cuộc đời này của tôi. Hai vị đó đã khuyên tôi như vậy vào năm 1992 và từ đó tới nay, trong vòng 26 năm tôi đã, nhờ lời khuyên tốt đẹp của bác Châu và nhà văn Trần Phong Giao, tôi đã có được một chút công để ngày đi hành hiệp sẽ kể công với Mẹ Âu Cơ…

Tóm lại việc gặp cuốn Niên Giám Time đã là một cơ duyên giúp tôi nhớ tới cuốn QUID, và vì nhớ tới cuốn QUID, tôi đã lan man nhớ tiếp những kỷ niệm đẹp với những con người thật sự đáng kính như bác Lê, bác Châu, và nhà văn Trần Phong Giao…

Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI”

VŨ ANH TUẤN

CÓ TẬN THẾ KHÔNG

THỰC PHẨM BÂN

(tiếp theo số 143)

45 Chặn thực phẩm bẩn:

Báo Thanh Niên ngày 15/4/2016 (btv Đồng Nhân): Chưa khi nào vấn đề ATVSTP trở nên nhức nhối như hiện nay với hàng loạt vi phạm về sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, phun thuốc độc hại cho rau, củ, kinh doanh hàng quá đát, mất vệ sinh. Trong khi quản lý nhà nước thì lúng túng, chạy theo sự vụ, thiếu chủ động. Khi phát hiện ra những vấn đề mất ATVSTP, ví dụ như lượng tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong rau quả cao, người ta có xu hướng “ém” thông tin, để bảo vệ ngành.

46. Báo Thanh Niên ngày 28/4/2016:

Bí thư, Chủ tịch phải chịu trách nhiệm về thực phẩm bẩn: Chính quyền nơi nào để xảy ra thực phẩm bẩn thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đưa ra Thông điệp cứng rắn khi chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc về tăng cường công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm (VSA T TP) hôm qua (27/4). “Chính quyền của dân, do dân, vì dân mà việc liên quan đến sinh mạng của dân không chịu trách nhiệm thì không chấp nhận được” (Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc). Thủ tướng lưu ý, VSATTP không chỉ ảnh hưởng đến giống nòi mà còn cả uy tín quốc tế của đất nước. Do đó cần biện pháp mạnh, kiên quyết, toàn diện, để công tác này đạt kết quả tốt hơn, đáp ứng sự mong đợi của nhân dân. Thủ tướng yêu cầu xử lý hành chính ở mức cao nhất (btv A.V . ).

80 con heo nhiễm chất cấm suýt vào Vissan: Ông Huỳnh Tấn Phát, Phó chi cục trưởng Chi cục Thú y Tp.HCM, cho biết ngày 20/4, Giám đốc doanh nghiệp Nguyễn Trà (LA) nhập vào Công ty Vissan lô heo 80 con từ trại heo Vy Hướng Mạnh (H.Thống Nhất, Đồng Nai) để giết mổ. Lô heo này có giấy chứng nhận kiểm dịch của Chi cục Chăn nuôi và thú y Đồng Nai cấp. Khi kiểm tra, Trạm kiểm soát giết mổ Vissan (Chi cục Thú y Tp.HCM) phát hiện 3 con heo có dấu hiệu mệt mỏi, đùi nở, đứng không vững và nổi mạch máu; nghi có chất cấm nên cách ly và lấy mẫu xét nghiệm. Qua xét nghiệm cho thấy đàn heo dương tính với chất cấm salbutamol (tạo nạc, tăng trọng) với hàm lượng chất cấm gấp 5 lần mức cho phép (btv Công Nguyên, Đàm Huy).

Phát hiện 2 cơ sở kinh doanh thịt, mỡ bẩn: Ngày 27/4, PC49 - Công an tỉnh Bình Phước bất ngờ kiểm tra hộ kinh doanh do bà LTN (H.Phú Riềng) làm chủ. Tại đây PC49 phát hiện bà N. đang tàng trữ 308kg thịt heo được bảo quản trong 3 tủ đông lạnh loại lớn nhưng không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc. Số thịt và sản phẩm động vật do bà này thu mua trôi nổi tại chợ Đồng Xoài và chợ Phú Riềng để bán lại kiếm lời. Cùng ngày, tại hộ kinh doanh của ông VĐL (cùng ngụ xã Phú Riềng), PC49 kiểm tra phát hiện 580kg thịt, mỡ động vật được bảo quản trong các tủ lạnh lớn, trong đó có hơn 400kg mỡ động vật đã chuyển màu, bốc mùi hôi thối. PC49 đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với 2 cơ sở này, đồng thời phối hợp tiêu hủy toàn bộ số thịt và mỡ bẩn (btv Phước Hiệp).

Hai vụ ngộ độc thực phẩm, hàng chục công nhân nh p viện: Khoảng 13 giờ ngày 27/4, tại Công ty TNHH Sung Ju Vina (Bình Phước) xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm khiến 56 công nhân nhập viện trong tình trạng mệt mỏi, nôn ói, tiêu chảy và khó thở. Điều đáng nói, công ty này vừa xảy ra vụ ngộ độc tập thể vào ngày 21/4 vừa qua. Chiều cùng ngày, tại Công ty Choi & Shin’s Vina (Tiền Giang) xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm làm 16 công nhân phải nhập viện. Sau khi ăn cơm trưa, khoảng 1 giờ sau một số công nhân bị choáng, đau đầu, nôn và được đưa đến cấp cứu tại Trung tâm Y tế T p .Mỹ Tho. Hiện sức khỏe các công nhân nói trên đã ổn định (btv Phước Hiệp, Phương Hà).

47. Bắt container chở hơn 3 tấn nội tạng heo.

Báo Thanh Niên ngày 0 2/5/2016 (btv Bạch Long): Công an H.Trảng Bom (Đồng Nai) hôm qua cho biết đã lập biên bản tạm giữ, chờ xử lý hơn 3 tấn nội tạng heo không rõ nguồn gốc.

48. Điểm mặt 3 sở thờ ơ trước thực phẩm bẩn.

Báo Thanh Niên ngày 0 5/3/2016 (btv Liên Châu): “Một quán bán nước chè tự phát, hay một ngôi nhà xây dựng, sửa chữa có vài viên gạch rơi ra... đã thấy lực lượng địa phương đến xử lý. Thế mà cả xe thịt thối, cả xưởng làm nước giải khát bẩn, lò giết mổ không phép tồn tại thời gian dài mà lại lọt được qua mắt chính quyền địa phương?” - Thấy anh em rất bỡ ngỡ, lúng túng về phương thức triển khai. Thậm chí, có cán bộ còn nói rất thật là : “Không hiểu gì” . Chi cục trưởng Chi cục ATTP Tp.HCM cũng cho biết là suốt 4 tháng qua chưa hề trực tiếp đi thanh, kiểm tra buổi nào với anh em cơ sở.

Có cán bộ kiểm dịch chỉ đếm đầu heo để thu phí! - Đó là nhìn nhận của ông Trần Văn Quang, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi - Thú y Đồng Nai khi trả lời PV Thanh Niên. Trả lời câu hỏi của PV Thanh Niên về việc dư luận cho rằng có một số cán bộ thú y giao luôn con dấu kiểm dịch cho cơ sở chăn nuôi, thậm chí “cấp đại” giấy kiểm dịch, sau đó kiểm đếm đầu heo để thu phí, ông Quang nói: “Không ai chỉ đạo cấp đại vì người cấp giấy phải chịu trách nhiệm. Nhưng tôi nghĩ chuyện này cũng có thể xảy ra chứ không phải không”.

49. Vô tư đưa chất độc vào người.

Báo Thanh Niên ngày 0 5/5/2016 (btv Nguyên Nga): Rất nhiều hóa chất độc hại, cấm sử dụng trong sản xuất thực phẩm, vẫn được các nhà sản xuất “hồn nhiên” trộn vào nguyên liệu để cho ra những sản phẩm “ngon” đúng thị hiếu người tiêu dùng.

Đếm hóa chất trong cây chả: Chủ cửa hàng hóa chất công nghiệp và thực phẩm T.H - khi nghe chúng tôi cần mua nguyên liệu làm chả đã đưa gói borax pentahydrate (gọi tắt là borax) và giới thiệu đây là “hàn the thế hệ mới” của Mỹ. “Loại này chị bán cả mấy tạ mỗi ngày, dùng cả trong công nghiệp lẫn thực phẩm đều tốt. Làm chả thì loại này là nhất, dai ngon và không đắng dù có lỡ tay bỏ nhiều”… Không chỉ thế, người bán còn giới thiệu thêm gần chục loại phụ gia “không thể thiếu” để làm chả lụa như hương liệu tỏi tươi, hương liệu bò để “biến” chả heo thành chả bò giá 260.000 đồng/lít; hương liệu thịt heo để gia tăng độ thơm, tăng độ hấp dẫn cho cây chả giá 240.000 đồng/lít; phụ gia để sản xuất chả lụa bằng thịt đông lạnh nhằm tạo độ dẻo dai cho thịt sau khi xả đông. Đặc biệt, chất chống thiu, chống nhớt. Người bán tại sạp Y bên hông chợ Kim Biên giải thích: “Cái này gọi là bột chì, bỏ vài muỗng trộn vào khi xay thịt, chả làm ra 10 ngày vẫn không bị thiu ôi” và lắc đầu không biết tên thật của loại “bột chì” này”, người bán “thách thức”.

Thịt thối+chất chống mối mọt = chả lụa: Liên quan đến chất borax, cuối tháng 4 vừa qua, tại Bình Thuận, các cơ quan quản lý đã kiểm tra và bắt quả tang 2 cơ sở chuyên sản xuất chả lụa ở đây dùng bột borax với số lượng lớn để biến thịt nạc thối thành những cây chả thơm ngất bỏ mối cho các điểm bán hàng ăn trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, cứ 1 kg thịt nạc ôi thối trộn với 0,5 kg mỡ, chủ cơ sở cho 1,5 muỗng bột borax, xay nhuyễn, đưa vào khuôn đúc thành những đòn chả lụa có trọng lượng 0,5 kg, hoặc gói những cây chả nhỏ, luộc mang bỏ mối. Cũng theo ông N., “tỷ lệ lý thuyết” của 1 kg chả là 90% thịt, 10% còn lại là mỡ, tiêu hành tỏi... Nhưng tỷ lệ thực tế là 50% thịt, 50% còn lại là mỡ, bột năn g , đường, bột ngọt, hàn the, bột nở, hương nước mắm, muối đỏ tạo màu. Trong đó, hương thịt và hàn the đóng vai trò quan trọng để cây chả thơm, dai và để lâu được.

Tổn thương não, gan, thận ...: Ở các nước phương Tây, borax hay hàn the là hóa chất nằm trong danh sách hàng ngàn hóa chất nghiêm cấm dùng trong thức ăn và uống. Thông tin từ trang web của Bộ Y tế cũng nêu rõ borax là hóa chất nghiêm cấm dùng trong chế biến thực phẩm. Bởi chất này có thể gây tổn thương gan, ruột, não, thận, ảnh hưởng đến đường tiêu hóa và thậm chí gây thoái hóa cơ quan sinh dục. Thế nhưng hóa chất độc hại này vẫn hiện hữu trong rất nhiều món ăn quen thuộc của người Việt như chả lụa, giò chả, nem, bún, bánh phở, bánh đúc... Một “kẻ giết người giấu mặt” khác liên quan đến cây chả cũng từng được nhiều nhà khoa học cảnh báo. Đó là thay vì buộc chả bằng sợi lạt tre truyền thống, ngày nay người làm chả chỉ dùng những sợi ni lông màu xanh đỏ để buộc chả. Khi nấu ở nhiệt độ cao, chất BPA dùng làm mềm dây ni lông này sẽ tan trong nước, thấm vào chả... Đây cũng được coi là một trong những thủ phạm gây ảnh hưởng lớn đến hormone sinh dục con người.

50. Trái cây Thái Lan chứa chất độc hại.

Báo Thanh Niên ngày 0 6/5/2016 (btv Chí Nhân, Lam Yên): Mới đây, Thai-PAN, tên viết tắt của Hệ thống cảnh báo thuốc trừ sâu Thái Lan, cho biết có đến 57,1% các loại rau quả được Văn phòng Quốc gia về sản phẩm nông nghiệp và tiêu chuẩn thực phẩm dán nhãn ‘Q’ công nhận sản phẩm đạt chất lượng bị phát hiện chứa chất độc hại vượt mức an toàn. Người Việt “chuộng” trái cây Thái hãy nhớ trên 57% chứa chất độc hại vượt mức an toàn.

Các mặt hàng rau, quả không an toàn: Theo Thai - PAN, các mẫu rau quả không an toàn cụ thể là: 100% mẫu ớt đỏ có dư lượng độc hại vượt tiêu chuẩn; 66,7% mẫu húng quế và đậu đũa; cải ngọt có 55,6%; cải thảo 33,3%; rau muống 22,2%; cà chua và dưa leo 11,1% vượt tiêu chuẩn. Các mẫu trái cây bị nhiễm dư lượng độc hại quá tiêu chuẩn gồm: 100% mẫu cam, ổi; thanh long 71,4%; đu đủ 66,7% và xoài Nam Dok Mai 44,4%.

(còn tiếp)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)

M.Gorki

trong lòng người Việt

Gần một trăm năm qua, tên tuổi của văn hào Nga vĩ đại Macxim Gorki (1868-1936) đã trở nên thân quen với nhiều thế hệ bạn đọc nước ta. Lần đầu tiên cái tên Macxim Gorki công khai xuất hiện trên báo chí Việt Nam ngay khi đất nước chúng ta đang còn bị thực dân Pháp đô hộ vào những ngày văn hào vừa qua đời, 18-6-1936. Trên tờ Thế giới của Mặt trận Dân chủ Đông Dương, xuất hiện lời cáo phó và bài giới thiệu thân thế, sự nghiệp của Macxim Gorki do Hải Triều ký tên, mở đầu bằng những lời thống thiết: “Làn sóng vô tuyến điện phát đi từ Moscow, dồn dập trên khắp thế giới, báo tin đại văn hào đã mất, anh thợ tiên phong của nền văn hóa mới, ông thầy tinh thần nhân loại tương lai, đã qua đời”.

Trước đó, và đặc biệt từ đấy, công chúng bạn đọc, nhất là giới thanh niên trí thức yêu nước đã tìm đọc các tác phẩm của Macxim Gorki, những vở kịch: Dưới đáy, Những người tiểu tư sản; truyện Bà lão Izergil…, đặc biệt là tiểu thuyết Người mẹ in bằng tiếng Pháp có ở ngay trong thư viện, đôi khi cả ngoài hiệu sách. Sau này nhà văn Như Phong (1917-1985) đã nhớ lại thuở trai trẻ của mình: “Chúng tôi đã thấy ở Gorki một cái gì mới lạ, khác thường, vì những tác phẩm kể trên đưa người đọc vào một thế giới rất đặc biệt của những người bị xã hội vứt ra rìa cuộc sống… Ông lại biết phát hiện ra nhiều cái tốt đẹp, yêu tự do, trọng nhân phẩm, ước mơ một cuộc sống công bằng ở những con người không được coi là người đó… Tất cả chúng tôi hồi ấy đều thống nhất với nhau là cùng thích Paven Vlaxop - nhân vật chính trong truyện Người mẹ, người thanh niên từ chỗ quằn quại, giày vò trong một cuộc sống tối tăm đã tìm được đường đi và trở thành một người cách mạng kiên cường, một chiến sĩ cộng sản, một người chân chính…”. Như Phong viết tiếp: “Đọc Người mẹ, chúng tôi hồi ấy như đã tìm được cách giải quyết nhiều vấn đề trong sáng tác văn học mà chúng tôi đang tìm tòi… Gặp được nhân vật Paven Vlaxop, chúng tôi mừng rơn, chúng tôi có một mẫu mực vĩ đại để học tập…”.

Thế hệ thanh niên yêu nước tìm đường cứu nước như nhà văn Như Phong đã không chỉ tự mình tìm đọc các tác phẩm của Macxim Gorki và các nhà văn Nga Xô viết khác mà nhiều người còn truyền bá những tác phẩm ấy cho công chúng rộng rãi. Đã có người bắt tay vào dịch Người mẹ của Gorki, nhưng không được in ra thành sách. Thế là xuất hiện cách xuất bản “bằng miệng”, người ta học thuộc bản dịch và kể lại cho người khác nghe.

Và phong trào một phần nào đó nhờ thế mà phát triển mạnh lên, lực lượng cách mạng Việt Nam lớn lên và chỉ chưa đầy một thập kỷ sau, nhân dân ta đã giành được độc lập. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nhiều bản dịch tác phẩm Người Mẹ của các dịch giả được xuất bản thành sách. Cũng vào thời điểm này, trên tờ Tiên Phong (số 2, ngày 01-12-1945) của Hội Văn hóa cứu quốc, tác giả Hải Triều đã dịch và dẫn giải tác phẩm “Trả lời một nhà báo Mỹ” của Macxim Gorki, viết từ năm 1931. Bài báo đã hai lần nhắc đến Việt Nam, bấy giờ vẫn bị thực dân Pháp đàn áp dã man, triệt hạ làng mạc, ném bom, giết hàng nghìn đồng bào ta tham gia cuộc xây dựng Xô viết tại Nghệ An-Hà Tĩnh. Dịch giả có lẽ muốn nhắc lại để mọi người nhớ ơn người đã khuất - văn hào Nga Macxim Gorki đã sớm có tiếng nói ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta và một lần nữa lên án thực dân Pháp lúc này đang gây tội ác dã man với đồng bào ta ở Nam Bộ vừa giành được quyền độc lập, tự do cho đất nước…

Trong bài này, Macxim Gorki đã viết: “Văn hóa tham bạo của tư bản vừa đào huyệt ở các lục địa Phi châu và Á châu hàng ngàn bọn tham bạo khác, đồng thời họ đã bóc lột tận xương tủy hàng trăm triệu người trở nên đói khổ vô cùng... Và các dân tộc ấy đã bắt đầu hiểu một nền văn hóa mới cả hình thức lẫn tinh thần hiện nay đang xây dựng ở Liên bang Xô viết”. Ở một đoạn dưới, ông viết tiếp: “…Trái lại, họ lại ra mặt công kích Liên Xô khi chính quyền Xô viết bắt một tên giáo sư bảo hoàng phản động. Nhưng họ lại ra mặt lãnh đạm khi bọn tư bản nước họ bắn vào dân chúng Đông Dương, vào Ấn Độ, vào Phi châu. Khi ở Liên Xô bắn năm mươi tên phản bội hèn mạt thì họ la rầm lên là độc ác, nhưng ở Ấn Độ, ở Việt Nam hàng ngàn người vô tội bị tàn sát bằng súng liên thanh, bằng đại bác, thời các ông trí thức “nhân đạo” của tôi lại im lặng một cách nhũn nhặn vô cùng…”.

Rõ ràng Hải Triều trong thời điểm thắng lợi của cách mạng dân tộc, đồng thời trước những thử thách ở chặng đường đi tới đích của dân tộc ta phải tiếp tục hy sinh gian khổ đấu tranh, đã thay mặt đông đảo nhân dân cảm ơn văn hào Nga Macxim Gorki, đồng thời nhắc nhở mọi người tiếp tục tìm hiểu những bài học của văn hào.

Và từ đây, Macxim Gorki lần lượt được nhân dân ta tìm hiểu sâu hơn và phổ biến mỗi ngày một sâu rộng các tác phẩm bất hủ của ông. Hàng chục tác phẩm của Macxim Gorki được các thế hệ người dịch Việt Nam dịch sang tiếng Việt và in đi in lại, các nhà nghiên cứu phân tích và các nhà giáo giảng dạy cho các thế hệ học sinh trong trường đại học cũng như các lớp học phổ thông cơ sở.

Năm 1968, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Macxim Gorki, đất nước ta đang có chiến tranh ác liệt, cả nước phải đương đầu với bom đạn tàn bạo để bảo vệ nền độc lập tự do đã giành được và thống nhất đất nước còn bị chia cắt. Không lễ kỷ niệm, nhưng xuất hiện hàng loạt công trình nghiên cứu, cũng như những bài viết thể hiện tấm lòng biết ơn của nhân dân ta đối với Macxim Gorki và niềm yêu kính, cảm phục đối với ông.

Đã 50 năm kể từ đấy. Năm nay, tròn 150 năm ngày sinh của người mà chúng ta đã từng biết ơn và cảm phục. Qua bao nhiêu thay đổi của thời cuộc, xuất hiện những suy nghĩ, nhìn nhận trái chiều về mọi sự vật. Đối với cả văn hào Macxim Gorki cũng vậy. Nhưng, dù thế nào đi nữa vẫn không ai phủ nhận được thiên tài nghệ thuật của ông. Tuy nhiên, các ngóc ngách cuộc đời của ông không khỏi còn những điều bị che khuất và nhiều tư liệu có thể giúp ta hiểu rõ, hiểu đúng hơn bản chất con người vĩ đại cũng như sự nghiệp của ông. Với lòng cảm phục và biết ơn sẵn có của nhiều thế hệ người Việt Nam, cần tiếp tục tìm hiểu về ông, dịch và phổ biến đầy đủ di sản văn học ông để lại và khách quan đánh giá những tư liệu mới liên quan tới động thái trong cuộc đời phong phú, đầy ắp sự kiện và nhiều cay đắng của đại văn hào Macxim Gorki.

HOÀNG THÚY TOÀN

KINH CÓ PHẢI ĐỂ TỤNG?

Một trong những công phu của các tu sĩ ở Chùa là ngày mấy thời tụng Kinh mà ta thường nghe nói “Kinh nhật tụng” để nói về bộ Kinh quan trọng nào đó mà các vị dùng để tụng mỗi ngày. Các tu sĩ có giọng tốt thường tụng Kinh rồi thu băng để các Phật Tử thỉnh về nghe, và có người còn nói là “nghe Kinh sẽ nhẹ nghiệp”. Phải công nhận là các tu sĩ có giọng hay, hơi dài, tụng Kinh mà lên bổng xuống trầm, có tiếng mõ phụ họa nghe như hát, nên các Thầy có giọng tụng hay cũng được Phật Tử mến mộ không khác gì ca sĩ. Kinh có phải để tụng? Tụng Kinh có lợi ích gì không?

Nói về Kinh thì chúng ta có khởi đầu như sau: Sau khi Phật nhập diệt, sợ rằng mọi người sẽ quên lời Phật dạy, ngài Ca Diếp đã quy tụ tất cả những Đệ Tử Phật lại, yêu cầu họ kể lại những gì chính tai họ đã nghe Phật đã thuyết lúc sinh thời để tất cả cùng ghi nhận, lấy đó làm căn bản tu học, gọi là Kết Tập. Ngài Ca Diếp là người được Phật Truyền Y Bát, thay thế cho Phật để cầm nắm Tăng Đoàn, làm chủ trì. Ngài A Nan là người “thuộc lời Phật giảng như nước trong bình đổ ra, không thiếu một giọt” xác nhận. Ngài Ưu Ba Ly được mệnh danh là “Đệ Nhất trì Giới” thì thuyết Giới. Lúc đó gom lại tất cả chỉ có 4 Bộ Kinh. Đó cũng là lý do mà phía bên Phật Giáo Nguyên Thủy không chấp nhận Kinh Đại Thừa, cho đó là do các Tổ về sau giảng là ngụy tạo, không phải lời của Phật thuyết, vì họ đinh ninh việc Truyền Y Bát đơn giản là Đức Thích Ca giao lại cái Y và chiếc Bát Ngài vẫn sử dụng, không có giá trị nào khác!

Họ hoàn toàn không biết rằng việc Truyền Y Bát cũng giống như Lễ Tốt Nghiệp, trao Bằng Cấp của người đời, chứng tỏ người nhận Bằng Cấp đó có đủ trình độ do các bậc Thầy đánh giá. Thời Đức Thích Ca thì giấy chưa có, chữ viết cũng chưa. Chỉ có cái Y và cái Bát là hai thứ mà Đức Phật lúc nào cũng mang theo bên người. Thấy hai món đó là thấy Phật, nên Ngài truyền lại cho Tổ Ca Diếp để các Đệ Tử khác biết rằng đây là người mà Phật tín nhiệm để giao toàn quyền cai quản Tăng Chúng cũng như truyền bá Giáo Pháp của Ngài. Sở dĩ Đức Thích Ca truyền cho Ngài Ca Diếp là vì thời điểm đó, trong nhóm Đệ Tử chỉ có Ngài Ca Diếp là nắm vững về Giáo Pháp cũng như Hạnh không tỳ vết. Ngài A Nan lúc đó dù thuộc giáo pháp của Phật như “nước trong bình đổ ra không thiếu một giọt”, nhưng Hạnh của Ngài còn khiếm khuyết, nên Phật không truyền cho, mà dặn Đức Ca Diếp sau đó khi A Nan đầy đủ Đạo, Hạnh mới truyền lại.

Tại sao nhất định phải có việc Truyền Y Bát? Điều đó cũng dễ hiểu. Cũng như việc học hành ngoài đời. Không phải ai đến lớp nghe giảng bài đều hiểu, đều thuộc. Không phải tất cả học sinh đều tốt nghiệp! Trong Đạo Phật cũng thế. Không phải ai nghe Pháp cũng hiểu, cũng Hành theo. Không phải ai đi tu cũng đắc Đạo. Vì thế, Đạo Phật hoàn toàn có lý khi bắt buộc chỉ người Chứng Đắc mới được phép giảng Pháp, vì người giảng Đạo Phật không đơn giản chỉ cần học thuộc bài, rồi giảng, mà vị đó phải có đầy đủ cả LÝ và HẠNH. Bởi cái Lý mới nói lên là người có nó chỉ thuộc hay ghi nhớ những gì được nghe. Nhưng chính sự áp dụng cái Lý, gọi là HẠNH mới thật sự chứng minh người đó hoàn toàn chấp nhận lý thuyết của Đạo và được hưởng lợi ích của cái Lý. Điều đó được Lục Tổ Huệ Năng ví: Người thuộc Lý như người NÓI ĂN, nên không NO và người thực hành gọi là có HẠNH, là người thật sự ĂN, thật sự NO, có thể mô tả cảm giác khi Ăn cũng như lúc No, cũng như cơ thể được bồi bổ nhờ cái Ăn đó.

Người được Truyền Y Bát là người đã Chứng Đắc, có thể thay người đi trước để cầm nắm vận mạng của Đạo, chắc chắn là sẽ hướng dẫn người sau đi đúng đường lối Đạo, nên thời nào Đạo Phật cũng rất cần có người như thế. Vì thế, khi Truyền cho Ngài Ca Diếp. Đức Thích Ca có dặn dò là “việc này nên được tiếp tục để Phật Pháp được mãi trường tồn”. Về sau, Tổ Ca Diếp truyền lại cho Ngài A Nan theo lời Phật dặn, và Ngài A Nan tiếp tục truyền xuống cho đến Tổ thứ 33 là Lục Tổ Huệ Năng mới kết thúc. Sở dĩ không tiếp tục nữa là vì thời đó người tu Phật nào cũng hiểu giá trị của Y, Bát. Biết rằng người có nó là đại diện cho Phật, được mọi người tin tưởng, vì thế, những kẻ không thật tâm tu hành, mà có mưu cầu trong Đạo đã tranh chấp một cách quyết liệt để chiếm đoạt. Người giữ Y Bát bị truy sát đến có thể mất mạng. Bản thân Lục Tổ cũng mấy lần suýt chết. Lần thì bị đốt Chùa, trốn trong núi thì họ đốt luôn núi, Ngài phải trốn trong kẹt đá mới thoát chết. Lần khác thì bị chém đến 3 dao mà không đứt cổ. Tên thích khách - cũng là một Thầy Tăng - mới buông dao sám hối! Lục Tổ nói rằng ngài chỉ nợ hắn vàng, chớ không nợ mạng, nên lấy vàng đưa cho hắn ta và bảo đi đi, sau quay lại Tổ sẽ nhận làm đệ tử. Thời gian khá lâu sau hắn ta trở lại xin tu học với Lục Tổ!

Người tu Phật được dạy giữ gìn Thân, Khẩu, Ý tịnh Ba Nghiệp. Ngay ý nghĩ, hay lời nói xúc phạm người khác còn không dám làm. Vậy mà đã tu hành, làm Tăng, mà dám mang dao đi chém người để giành Y, Bát thì ta biết đạo hạnh của những người đó ra sao rồi! Nếu chẳng may mà phe đó cướp được Y, Bát, thì Đạo Phật sau đó sẽ về đâu? Nhìn hành vi họ để thấy rằng những gì Đức Phật dự liệu quả không sai!

Lý do vì sao Kinh của các Tổ giảng cũng được xem như của Phật là vì ai cũng biết Đức Thích Ca không phải là người duy nhất thành Phật, mà Ngài cho rằng: “Ta là Phật đã thành. Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. Quá khứ Đức Thích Ca và Chư Tổ đã Chứng Đắc, Thành Phật. Hiện tại cũng có người Chứng Đắc, thành Phật, và tương lai cũng sẽ có. Đó là nghĩa của TAM THẾ PHẬT, và khi đã Chứng Đắc, Thành Phật rồi, thì trình độ ngang nhau, vì “Phật trước Phật sau đều bình đẳng”. Thành Phật chỉ là “thành tựu công việc Giải Thoát cho bản thân hết Khổ”, không phải như nhiều người đã hiểu sai là Thành một vị Thần Linh, có quyền phép, có thể cứu độ “Tam thiên Đại thiên Thế Giới”, nên nghĩ rằng phải có điều kiện nọ kia thì mới tu hành thành công được!

Do Thành Phật không phải là thành một Vị Thần Linh, mà là hoàn thành công việc Tự Độ cho bản thân hết Khổ qua một quá trình Quán, Soi, tu học, rèn, giũa... Vì thế, người Chứng Đắc sau hoàn toàn có quyền giảng, hay viết lại những hiểu biết, những cách thức mà mình đã hành trì và chứng nghiệm theo ngôn ngữ đương thời cho mọi người dễ tiếp thu, dễ hiểu. Và cũng nhờ các vị Tổ lần lượt khai sáng nên đến thời của chúng ta con đường tu hành được chỉ dẫn rạch ròi trong Kinh, không còn là ẩn dụ khó hiểu như thời Đức Thích Ca giảng dạy, do lúc đó ngôn ngữ chưa đủ phong phú để diễn tả, khó thể nói được phần Vô Tướng, nên phải mượn hình ảnh Có Tướng, vì vậy mà dễ sinh hiểu lầm. Thí dụ thay vì nói Cõi Phật ở trong Tâm, thì Ngài phải nói là ở Hư Không, hoặc tả cảnh ở Phương Đông, Phương Tây. Nói là nước đó cách thế giới này đến 18 ngàn dặm, làm nhiều người tưởng đó là con số thật, mà không suy nghĩ: Thời đó ai bay vào không gian được? Dùng thước nào đo để biết chính xác khoảng cách là 18 ngàn dặm?

Đạo Phật dạy người tu phải: “Nội quang phản chiếu”, tất cả những gì Phật dùng phương tiện đều để nói về Thân, Tâm của người tu. Bởi vì tu hành chỉ là để Sửa những nơi đó. Phiền não, Khổ đau, Niết Bàn, Phật Quốc cũng ở nơi đó. Do đó, Lục Tổ giải thích: 10 ngàn dặm là Thập Ác. Tám ngàn dặm là Bát Tà. Bỏ Thập Ác mà hành Thập Thiện thì sẽ vượt qua 10 ngàn dặm, và bỏ Bát Tà, hành Bát Chánh Đạo là vượt qua 8 ngàn dặm nữa. Thời đó làm sao diễn tả tư tưởng con người, nên không thể gọi Chúng Sinh là Tư Tưởng xấu, ác của mỗi người, chỉ nói rằng đó là những phần tử chưa hướng Thiện, cần giáo hóa, vì việc tu hành theo Đạo Phật thì mỗi người chỉ quay vô để Độ cho chính mình, gọi là TỰ ĐỘ.

Từ khi Y Bát không còn truyền, chúng ta không thể nào phân biệt trong số những người giảng Pháp hiện đời ai là người giảng đúng Chánh Pháp, vì cũng mặc pháp phục, cũng tu ở trong Chùa, cũng mang lời Phật ra thuyết giảng như nhau. Vì vậy, Chính Kinh rất cần thiết cho người muốn tu hành theo Đạo Phật, vì đó là lời của những vị Giác Ngộ giảng. Chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng mà không sợ bị nhầm lẫn, bởi Chư Vị giác ngộ không bao giờ vì mưu cầu danh, lợi mà thuyết giảng, các Ngài chỉ thực hiện sứ mạng “mồi ngọn đuốc pháp” để Đạo Phật được trường tồn vì lợi ích cho mọi người mà thôi. Và để làm được điều đó, các Ngài phải vừa có Đạo, vừa có Hạnh, “Tự Chánh” rồi mới “Chánh Tha”.

Có đọc Chính Kinh chúng ta sẽ thấy, dù được viết từ cách đây hàng ngàn năm, nhưng đa phần đều có trình tự rất rõ ràng, trình bày mạch lạc. Phần mở đầu của Quyển Kinh thường là một cuộc vân tập, có Phật, Chư Bồ Tát, Sa Di, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Cận sự Nam, Cận sự Nữ cho đến rồng, thần, Càn Thát Bà v.v… Rồi thì một số câu hỏi được một Bồ Tát nào đó đại diện thính chúng đặt ra xin Phật giải thích những chỗ chúng hội chưa hiểu rõ. Qua đó, người đọc Kinh cũng có thể nương theo để mở mang sự hiểu biết cho bản thân. Mỗi Bộ Kinh giải thích về một hay nhiều khía cạnh, cách thức tu hành, mà người chịu khó đọc rồi tìm hiểu và thực hành theo sẽ thấy lợi lạc rất nhiều. Tất nhiên không phải chỉ đọc suông, hay đọc qua một lần rồi kính cẩn đặt trên bàn thờ, hoặc ê a tụng theo chuông mõ, mà cần thực hiện theo một chuỗi công việc được dặn dò chi tiết trong đó.

Kinh là sách để nghiên cứu, thực hành, không gi᳑ng như tiểu thuyết hay truyện của đời, chỉ cần mở ra đọc là đã hiểu ngay, mà đòi hỏi người đọc phải suy nghĩ, nghiền ngẫm, vì trong đó gói ghém những công việc cần phải thực hành mới có thể hiểu. Đọc Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ta thấy cả một chuỗi công việc phải làm với quyển Kinh. Đó là:“Thọ, trì, đọc, tụng, giải nói biên chép, y pháp tu hành”. Có nghĩa là người có quyển Kinh sẽ đọc tới đọc lui, biên chép giải nghĩa cho rõ, rồi mới y theo đó mà thực hành.

Thế nhưng, trên thực tế thì ta thấy hầu hết người tu đã không làm hết quy trình này, chỉ dừng ở phần đầu là đọc tụng, hoặc biên chép Kinh, rồi cứ thế mang ra giảng rộng ra mà thôi. Có người còn không đọc hết quyển Kinh, mà chỉ chọn Phẩm nào đó liên quan đến điều mình đang ngưỡng mộ để giảng rộng ra cho mọi người. Thí dụ như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì chỉ đọc PHẨM PHỔ MÔN, tức là phẩm nói về sự cứu độ của Ngài Quán Thế Âm tầm thinh cứu nạn. Theo Kinh viết thì “Chỉ cần niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát thì quỷ dữ cũng không hại được, bị gông, cùm, xích mà xưng danh hiệu Ngài thì thảy đều đứt, rã. Cầu sinh con trai, con gái đều được như ý. Quán Thế Âm Bồ Tát cũng ban sự vô úy cho thế gian…”.

Người nắm vững căn bản của Đạo Phật thì biết Đạo Phật dạy phải Tự Độ thì hẳn không khỏi thắc mắc: Tại sao không phải là Đức Thích Ca cứu độ mọi người, mà lại có một Ngài Quán Thế Âm vừa cứu độ cho mọi người, vừa ban cho mọi người những điều như mong muốn? Ngài ở đâu ra? Tu hạnh gì mà có uy lực lớn như thế? Nếu Ngài làm được những việc như vậy cho mọi người thì rõ ràng là Độ Tha, mâu thuẫn với Đạo Phật vốn là Đạo Tự Độ, Đạo Nhân Quả? Vậy thì nên hiểu Quán Thế Âm như thế nào mới đúng? Đạo Phật dặn dò phải VĂN-TƯ-TU, nếu ta Nghe giảng pháp, hay đọc Kinh mà không tư duy, cứ dựa vào từ ngữ mà hiểu, mà hành thì sẽ đưa đến Thần Quyền, Nhị Thừa, không còn là Đạo Phật chân chính nữa.

Về người chọn một Phẩm trong Kinh để đọc, ta thấy như sau: Giống như người cần đổ khuôn hay chạm khắc theo một hình tượng hay mẫu vật dụng nào đó. Mẫu đó gồm nhiều bộ phận ráp lại. Nếu ta chỉ lấy một bộ phận, rồi chăm chút làm bộ phận đó thật là hoàn hảo, mà không quan tâm đến những bộ phận khác thì làm sao làm ra được vật dụng đó? Muốn làm Phật hay gọi là Tạc một Tượng Phật, thì phải có đầy đủ các món: Giới, Định, Huệ, Bát Chánh Đạo, Từ, Bi, Hỉ, Xả, mà chúng ta chỉ thực hiện đầy đủ mỗi HÌNH TƯỚNG thì sao thành công? Bởi nó chỉ giống cái khuôn rỗng mà thôi!

Về cách đọc Kinh, thì Kinh dạy: “Thọ, trì, đọc, tụng, giải, nói biên chép, y pháp tu hành”, mà ta chỉ làm có mỗi việc TỤNG thì Chư Tổ còn dặn giải nói biên chép, y pháp tu hành làm chi?! Và nếu Kinh có thể hiểu một cách dễ dàng thì Đạo Phật đã không dặn dò “Y NGHĨA BẤT Y NGỮ”! Không chỉ phải hiểu Nghĩa, mà còn không được rời Kinh dù là một chữ thôi, vì: “Ly Kinh nhất tự đồng ma thuyết”, có nghĩa là nếu rời Kinh dù là một chữ, thì đồng với lời của ma, không còn là lời Phật dạy nữa. Không thể Y KINH, mà cũng không được LY KINH! Đó là điều mà người đọc Kinh cần phải lưu ý, nếu không muốn sự diễn giải của mình làm OAN CHO BA ĐỜI PHẬT!

Xin được tạm trích phần đầu trong Kinh Lăng Nghiêm để chúng ta có một khái niệm về Kinh Phật như sau:

Kinh viết, “Một lần nọ nhằm ngày Rằm tháng Bảy, là ngày mãn hạ, Chư tăng cùng nhau Tự Tứ để rửa sạch những hành vi lỗi lầm, những tư tưởng không tốt, cho giới thể được thanh tịnh.

Ngày đó các Phật Tử, cư sĩ đều đua nhau thỉnh chư Tăng đến để cúng dường, cầu phúc. Vua Ba Tư Nặc cũng thết tiệc, rước Phật và chư Tăng đến để cúng dường. Các Tăng chia nhau đến đến từng nhà thọ cúng. Ngài A Nan về không kịp nên đi riêng, bưng bát vào thành khất thực một mình. Không may ông gặp ngoại đạo là Ma Đăng Già dùng phép thuật dụ dỗ.

A Nan bị nạn, buồn rầu, niệm Phật cầu cứu. Phật nói Chú Lăng Nghiêm để trừ tà, cứu A Nan thoát nạn.

Về đến chỗ Phật, ông buồn tủi, khóc than, bạch Phật là từ trước đến giờ chỉ học rộng, nghe nhiều, không tu niệm, vì ỷ là em Phật, được Phật thương, chắc chắn sẽ được Phật ban cho thần thông, trí tuệ hay Đạo Quả Bồ Đề. Không ngờ ai tu nấy đắc, dù làm em Phật, nhưng nếu không tu thì cũng đọa như ai. Ngài xin Phật từ bi chỉ cho phương pháp mà Mười Phương các Đức Phật tu hành đều được thành đạo, chứng quả.

Phật hỏi A Nan: Ông đối trong giáo pháp của ta, do ngưỡng mộ cái gì mà Phát tâm Xuất Gia?

A Nan thưa: Vì con thấy Phật có 32 tướng tốt đẹp lạ thường, nên sinh lòng hâm mộ mà phát tâm xuất gia.

Phật hỏi: Ông lấy cái gì xem thấy và cái gì hâm mộ?

A Nan thưa: Con lấy con mắt xem và lấy cái Tâm hâm mộ.

Phật hỏi: Ông nói lấy con mắt xem và cái tâm hâm mộ, vậy ông có biết cái Tâm và con Mắt ở chỗ nào không?

“Ông từ nào đến giờ, nhiều kiếp sanh tử, luân hồi cũng vì Tâm và Mắt. Nếu ông không biết nó ở chỗ nào thì không bao giờ hàng phục được phiền não trần lao. Cũng như vị Quốc Vương bị giặc đến xâm lăng đem binh dẹp trừ. Nếu không biết giặc trú ngụ phương nào thì không bao giờ dẹp được” .

Lý lẽ không thể chối cãi vào đâu: Vua bị giặc xâm lăng, mang binh đi dẹp mà không biết giặc trú ngụ ở đâu thì làm sao dẹp được? Đối chiếu với công việc tu hành, ta thấy: Tu Phật mà không biết làm thế nào mới gọi là Tu? Tu thế nào mới đúng Chánh Pháp? Không biết những việc mình đang hành trì có đúng với những điều ngày xưa Đức Thích Ca dạy cho các Đệ Tử hay không, thì làm sao tu? “Tu Phật là Tu Tâm” mà không biết Tâm là gì? Ở đâu thì Tu cách nào?

Lý do để giảng Kinh Lăng Nghiêm được đưa ra một cách hết sức thuyết phục: Lẽ ra người tu hành thì Con Mắt đã được điều phục, không bị Cái Tâm lôi kéo để Phạm Giới. Nhưng Ngài A Nan, dù tu hành đã lâu mà khi đi một mình còn bị Ma Đăng Già ép duyên. Điều đó chứng tỏ Ngài đã tu sai. Cái sai đó bắt đầu ngay từ cái Phát Tâm. Do đó, Phật hỏi nguyên do phát tâm xuất gia của Ngài A Nan, và Ngài đã trả lời: “Do Thấy tướng tốt của Phật rồi hâm mộ mà Phát tâm xuất gia”. Phật hỏi Tâm và Mắt ở đâu? Và Phật cho rằng: “Ông nhiều kiếp sinh tử luân hồi cũng do hai thứ đó. Nếu không biết nó ở chỗ nào thì không thể hàng phục được phiền não trần lao”.

Quay lại với mục đích của Đạo Phật. Đạo Phật được cho là Đạo Độ Khổ. Người tu Phật chân chính phải là người thấy Khổ nên tìm đến với Đạo Phật để học cách Thoát Khổ. Như vậy, nếu ai phát tâm vì nguyên do nào khác mà vào Đạo Phật thì đâu phải là phát tâm chân chánh?

Muốn Tu Phật thì phải biết mục đích, phải nắm vững phương tiện. Tu Phật là để được Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Kinh Lăng Nghiêm viết:

“Ông nay muốn đặng Đạo Vô Thượng Bồ Đề, thì điều cần nhứt là phải hiểu rõ hai món căn bản:

1. Căn bản của Sanh Tử là Vọng Tâm.

2. Căn bản của Bồ Đề Niết Bàn là Chơn Tâm.

“Nếu ông nhận lầm căn bản của Sanh Tử (Vọng Tâm) làm nhơn tu hành, thì không bao giờ giải thoát được. Cũng như người nhận giặc làm con, thì chỉ thêm phá hại gia sản của mình mà thôi. Và cũng như người nấu cát làm cơm, dầu trải lâu bao nhiêu cũng chẳng thành cơm được”.

Ngài A Nan không những đã phát tâm sai, mà qua lời thú nhận của Ngài, bản thân đã không lo tinh tấn tu hành: “Chỉ lo học rộng, nghe nhiều, chẳng lo tu niệm. Lại nghĩ mình là em của Phật, được Phật thương yêu, chắc chắn sẽ ban cho thần thông, trí tuệ hay Đạo Quả Bồ Đề. Không ngờ ai tu nấy chứng. Dù là em của Phật mà không tu thì cũng đọa như thường”. Nhân đó, Ngài A Nan xin Phật chỉ dạy phương pháp mà Mười Phương các Đức Phật tu hành thành Đạo, Chứng Quả.

Mới vô đề thôi là chúng ta thấy Kinh chỉ cho chúng ta Ba việc cần làm:

1. Muốn tu Phật thành công thì phải có cái Phát Tâm Chơn Chánh.

2. Ngài A Nan Phạm Giới là do Tâm và Mắt, Vì thế, muốn tu hành đạt được kết quả thì phải tìm hai thứ đó để sửa đổi. Vậy nếu ta không đọc Kinh, rồi để thì giờ Quán sát, Tư Duy để tìm Tâm và Mắt như Phật dạy, chỉ mang Kinh ra tụng với chuông, mõ thì kết quả sẽ như thế nào?

3. Ai tu nấy chứng: “Dù là em của Phật mà không tu thì cũng đọa như thường”.

Những gì diễn giải trong Kinh rất thực tế. Có gút, có cách giải quyết. Tu hành chính là thấy được Gút và tìm cách tháo gỡ. Vậy mà bao nhiêu thời qua, nhiều người không làm điều đó, không ĐỌC KINH rồi tìm những lời Chư Tổ hướng dẫn trong đó để làm theo, lại mang Kinh ra để Tụng, cho rằng Tụng Kinh là một trong những công năng tu hành. Kinh Pháp Bảo Đàn nói về Pháp Đạt, người đã có công tụng ba ngàn Bộ Kinh Pháp Hoa, đã lấy số lần tụng nhiều cho rằng mình có công đức lớn. Tổ Huệ Năng giải thích về việc Tụng Kinh cho Pháp Đạt như sau:

Ngươi tên là Pháp Đạt

Siêng tụng hoài không dứt

Tụng khống theo âm thinh

Minh Tâm mới gọi Phật .

Tức là Tổ dạy rằng cần MINH TÂM thì mới gọi là Phật chớ tụng khống theo âm thinh chẳng có ích lợi gì. Ngài giải thích: “Miệng tụng, mà tâm làm theo nghĩa Kinh tức là mình chuyển Kinh. Miệng tụng mà tâm chẳng làm theo nghĩa là mình bị Kinh chuyển”. Có nghĩa là việc Tụng Kinh chỉ có ích lợi khi người tụng hiểu ý Kinh rồi thực hành theo đó, để chuyển sự hiểu biết nơi Kinh thành sự hiểu biết của mình rồi thực hành theo đó. Do đó, nếu ta không biên, chép, giải nói thì làm sao hiểu được Kinh dạy những gì để mà thực hành theo đó để gọi là “Y Pháp tu hành”?

Nói về “Tụng Kinh, Niệm Phật”, Tổ Đạt Ma dạy: “Phàm nói Niệm Phật, cốt cần niệm Chánh. Rõ nghĩa là Chánh. Không rõ nghĩa là Tà. Niệm Chánh ắt được vãng sanh. Còn Niệm tà thì sao qua đó được?

Nói “Phật” là nói “Giác”, tức Tỉnh Biết vậy. Tỉnh để Biết, để Thấy rõ Thân, Tâm mình, đừng khiến niệm dữ lừng lên vậy.

Nói “Niệm” là nói “ức”, tức gìn nhớ vậy. Gìn nhớ giữ Giới Hạnh, chẳng quên tinh tiến. Có hiểu như vậy mới gọi là Niệm. Cho nên Niệm cốt ở Tâm, chẳng ở lời nói.

Tụng với Niệm, nghĩa lý khác nhau xa.

Tại miệng gọi là Tụng

Tại tâm gọi là Niệm

Thế mới biết

Niệm theo Tâm mà khởi, đó là Giác Hạnh - cửa huyền

Tụng theo miệng mà ra, đó là âm thanh - tướng dối.

Nên biết Chư Thánh ngày xưa tu Niệm Phật phải đâu nói ngoài miệng, chính là tìm xét trong Tâm” (trích Phá Tướng Luận, SÁU CỬA VÀO ĐỘNG THIẾU THẤT).

Muốn tu theo Đạo Phật thì phải nương Kinh sách của Chư Tổ. Cả hai Tổ đều nói về sự không cần thiết của việc Tụng Kinh. Điều người tu cần là Niệm. Niệm Phật không phải là đọc thầm hay thành tiếng câu Nam Mô A Di Đà Phật, hay các danh hiệu Phật khác, mà Nam Mô A Di Đà Phật, là hướng về hào quang không ngăn ngại soi suốt cả Mười Phương, bằng cách ghi nhớ lời Phật dạy rồi áp dụng tẩy rửa cho Thân Tâm của mình để trên dưới, trong ngoài đều trở thành thanh tịnh, trong sạch. Có như vậy thì mới đưa đến kết quả Giải Thoát được.

Kết luận: Tụng Kinh chỉ có ích lợi nếu người tu hành hàng ngày đọc đi đọc lại để thấm nhuần lời Kinh, theo đó mà tìm hiểu ý nghĩa, rồi thực hành để đạt kết quả. Nếu không làm như thế thì việc Tụng Kinh chỉ là đọc Kinh bằng những âm thanh trầm bổng nghe cho vui tai, chỉ làm mất thì giờ của người tụng mà thôi. Bởi vì Kinh dạy những việc phải làm, mà chúng ta chỉ đọc như người đọc sớ, thì công việc vẫn còn nguyên đó, không có gì thay đổi. Khác nào cha mẹ đi vắng, viết giấy để lại, dặn con ở nhà mỗi ngày quét dọn nhà cho sạch sẽ, và nấu cơm để ăn, mà thay vì mỗi ngày quét dọn nhà và lấy nồi nấu cơm để ăn, thì ngày nào đứa con cũng chỉ mang tờ giấy đó ra đọc, ngày đọc mấy lần! Không thực hiện theo lời dặn cha mẹ ghi lại trong giấy, thì làm sao có cơm mà ăn, nhà cửa làm sao sạch cho được? Cũng như CHÚ ĐẠI BI, được tuyên truyền là rất linh ứng, mọi người nên tụng hàng ngày để cầu Chư Phật phù hộ. Trong khi đó, khi được dịch ra tiếng Việt thì bài Chú nói về công việc phải làm của người tu là “phát đại bi tâm, đại tự tại tâm, hăng hái thường tạo các thiện nghiệp, lâu dần dẫn đến sự giải thoát vô nhiễm, nương theo đó mà thực hiện hoằng pháp hỡi vị pháp vương Tử chủ của hòa bình. Tiếp tục tu hành, tiếp tục làm sạch Thân và làm sạch Tâm, thanh tẩy Thân, Tâm. Kiên cố lên, dũng mãnh lên hỡi người có căn cơ chứng giác. Với Tâm Đại Từ Đại Bi khi người đã thành tựu có được danh tiếng cũng do tâm từ bi đó. Thành tựu do Tâm đại từ đại bi phát ra. Thành tựu trong công việc giải thoát tương ứng với vạn pháp. Thành tựu trong đức hạnh. Thành tựu trong diệu nghĩa vô cấu. Thành tựu không ai có thể sánh khi nói ra có sức thuyết phục. Thành tựu không ai có thể sánh trong tất cả ý nghĩa sâu sắc. Thành tựu không ai sánh trong Chuyển Pháp Luân. Thành tựu không ai sánh trong đóa Sen Đỏ tượng trưng cho Diệu Tịnh Nghiệp. Thành tựu trong việc trở thành Đức Thế Tôn. Thành tựu trong việc đem uy đức của mình tạo ra tín nhiệm cho mọi người…

Với những công việc được nhắc nhở LÀM, để hoàn thành công việc tu hành, thì nếu chúng ta không Làm, mà chỉ đọc, tụng hàng ngày thì làm sao mang lại kết quả? Cho nên, thì giờ dùng để Tụng Kinh đó cũng giống như người Ngồi Thiền không mục đích. Nhờ tập trung, nên không có suy nghĩ vẩn vơ, không làm việc ác, nhưng không giúp cho người tập trung đó sinh được Trí Huệ, không sinh thêm sự hiểu biết gì liên quan đến công việc tu hành, vì vậy không có giá trị gì đối với con đường tu hành hết vậy.

Tháng 02/2018

Tâm Nguyện


Phụ Bản I

CHỮ QUỐC NGỮ

VÀ HỘI CHỨNG NHẢY CỪU

Những con cừu chỉ hành động theo con đầu đàn. Thấy con đầu đàn nhảy lên ở chỗ nào thì khi đi đến chỗ đó chúng cũng nhảy lên mà không cần biết tại sao. Nhiều người Việt viết sai tiếng Việt với cùng “hội chứng” như thế.

Trừ những người vì hoàn cảnh xã hội nhất định, không được học hành nhiều, ít chữ nghĩa, nên vô tình họ viết sai chính tả tiếng Việt, bài viết này, đề cập thói quen của những người có học hành, thậm chí những trí thức khoa bảng đã hồn nhiên và cố ý viết sai tiếng Việt - như những con cừu nhảy lên ở chỗ con đầu đàn đã nhảy trước đó.

Đùi heo xông khói Đi-ôu-cơ

Trong một chuyến đi xuyên Việt từ Sài Gòn ra Hà Nội, theo chương trình định trước, con rể tôi lái xe, từ Nha Trang ra sẽ chạy lên Đèo Cả để được ngắm phong cảnh hùng vĩ của một trong những con đèo “trên núi dưới biển” đẹp một cách “hữu tình” này và ngắm bãi biển Đại Lãnh. Thế nhưng khi gần tới đèo thì trời cũng sắp tối. Vì hầu hết xe cộ đều chạy qua Hầm chui Đèo Cả vừa an toàn và nhanh chóng, nên đường đèo rất vắng. Nghe nói xe chạy lẻ loi lên đèo ban đêm rất dễ bị “kẻ xấu” trấn lột hoặc xin đểu. Xin đểu cũng là một dạng trấn lột, hay cướp. Thế nên chúng tôi chạy vào Hầm chui Đèo Cả.

Trước khi vào tới Hầm Đèo Cả chúng tôi phải qua một trạm thu phí. Nhìn những chữ lớn HAM DEO CA phía trên trạm BOT này tôi bật cười nhớ lại câu chuyện một người bạn đã kể trước đó.

Anh bạn người Trung di cư vào Sài Gòn sống từ thời chiến tranh. Bạn vừa đón vợ chồng người anh ruột cùng với đứa con trai 14 tuổi của họ từ Mỹ về thăm. Sau đó họ đi du lịch ra Huế bằng xe đò. Khi xe dừng lại ở trạm thu phí này để mua vé qua trạm, cháu bé 14 tuổi sinh ở Mỹ, không biết tiếng Việt, nói với ba cháu bằng tiếng Anh: “Người Việt viết sai ngữ pháp tiếng Anh ba nhỉ?”

“Con thấy họ viết sai ở đâu?” người cha hỏi.

Cậu bé chỉ 3 chữ HAM DEO CA nói: “Đáng lẽ phải viết DEO CA HAM mới đúng” (cậu phát âm là “Đi-ôu-cơ ham”). Do cậu tưởng ba chữ ấy quảng cáo món... Đùi heo xông khói hiệu Đi-ôu-cơ, vì trong tiếng Mỹ, Ham là đùi heo, hoặc thịt đùi heo được ướp muối hay xông khói.

Sau khi được ba cậu giải thích đó là chữ Việt, chớ không phải chữ Mỹ, có nghĩa là Hầm chui qua Đèo Cả, cậu tỏ ra hiểu biết và lẩm bẩm với vẻ thích thú: American ham is Vietnamese tunnel! (Thịt đùi heo xông khói ở Mỹ là hầm chui ở Việt Nam).

Vỡ đê

Trong cuốn Chơi Chữ (Nam Chi Tùng Thư xb (?) Sài Gòn, 1960) của cụ Lãng Nhân, kể một câu chuyện xảy ra dưới thời Pháp thuộc, vào khoảng đầu thế kỷ 20. Lúc bấy giờ nền giáo dục và thi cử của ta còn dùng chữ Hán. Một nho sinh từ nhà quê lên Hà Nội trọ học để đi thi mong kiếm một chức quan. Một hôm chàng nhận được dây thép từ nhà đánh lên. Thời bấy giờ việc gởi một điện tín người ta nói là “đánh dây thép”.

Phải có một biến cố gì lớn lắm người dân quê mới phải dùng đến cách “đánh dây thép” để thông tin nhanh. Và để tiết kiệm tiền, người ta phải viết thông tin rất cô đọng, càng ít chữ càng tốt.

Mở tờ giấy điện tin đọc thấy vỏn vẹn 2 chữ “Vo de” mặt chàng nho sinh biến sắc rồi tái ngắt. Chàng run rẩy suýt ngã quỵ. “Vo de” là vỡ đê. Thời bấy giờ vỡ đê là chuyện sinh tử, cả một tai họa giáng xuống làng xóm như cảnh thủy điện xả nước theo lũ ngày nay, tất cả người và vật chìm trong nước lũ, người chết, nhà cửa tài sản trôi theo dòng nước cuồn cuộn, ruộng đồng chìm ngập trong nước, hoa màu mất trắng.

Hình dung tai họa kinh hoàng như thế đã xảy ra ở quê nhà, chàng nho sinh vội vã gác lại việc học, tất tả về quê. Nhưng về đến nơi chàng thấy làng mạc vẫn yên ổn, cảnh vật vẫn thanh bình, chàng nhẹ nhõm trong lòng nhưng vẫn hoang mang. Chỉ khi về đến nhà chàng mới vỡ lẽ: Vợ chàng vừa sinh con trai đầu lòng, một chuyện vui vẻ tốt lành khiến cả gia đình mừng rỡ, đánh dây thép lên Hà Nội cho chàng biết tin vui. Tuy đang còn đi học, đa số (hoặc hầu hết) các vị học trò lúc bấy giờ đều đã trưởng thành và đã có vợ con. Và 2 chữ “vo de” trong cái điện tín chỉ có nghĩa là... vợ đẻ!

Chữ Quốc ngữ đội mũ mang giầy

Trong một bài viết, “Sao lại nói chữ Quốc ngữ Việt Nam ‘rất nực cười’?” đăng trên trang mạng Nghiên Cứu Quốc Tế, tiến sĩ Nguyễn Hải Hoành dẫn lời một học giả rất nổi tiếng của Trung Quốc hiện đại là “Quý Tiễn Lâm ( 季羡林 Ji Xian-lin, 1911-2009), người được dư luận chính thống nước này tôn vinh là “Quốc học đại sư”, “Học giới Thái đẩu” (Siêu sao trong giới học thuật), “Quốc bảo” (Báu vật của nước nhà)” v.v… viết rằng “chữ viết của người Việt Nam sau khi được La tinh hóa, đầu đội mũ, chân đi giầy, rất nực cười,” ( 越 南 文 字 拼 音 化 之 后, 头戴帽子,脚穿鞋子,很滑稽 . [Việt Nam văn tự bính âm hóa chi hậu, đầu đái mạo tử, cước xuyên hài tử, ngận hoạt kê]) 1

Ts Nguyễn Hải Hoành nhận thấy cái ông “đại sư” “quốc bảo” của Tàu nói năng hồ đồ và chứng tỏ chẳng biết gì cả về chữ quốc ngữ của người Việt. Dù vậy, hình tượng “đội mũ mang giầy” mà Quý Tiễn Lâm gán cho chữ quốc ngữ của chúng ta, cũng ngộ nghĩnh đó chớ. “Mũ” và “giầy” theo con mắt Quý Tiễn Lâm chính là các dấu phụ nguyên âm (diacritical marks) và dấu giọng (accent marks) chúng ta “gắn” vào chữ viết của mình.

Chuyện là như vầy: Những ngày đầu tiên đặt chân đến Việt Nam (xứ Đàng Trong), các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa Tây phương đã rất ngỡ ngàng khi tiếp xúc với tiếng nói của người bản xứ: Lúc bấy giờ họ chưa có khái niệm gì về các ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatic languages) và họ nghe một thứ ngôn ngữ không những hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, mà còn không giống chút gì với các ngôn ngữ trong hệ Ấn Âu quen thuộc của người phương Tây. Giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), tác giả quyển từ điển “Dictionarium Annamiticum, lusitanum, et latinum”, thường được gọi là “Từ điển Việt - Bồ - La”, đã từng viết: “Riêng tôi xin thú nhận rằng, khi vừa tới Đàng Trong nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng không bao giờ có thể học được tiếng Việt”. [...]“Linh mục Joseph Tissanier ở Đàng Ngoài từ 1658 - 1663 cũng ghi lại như sau: Tôi xin thú nhận rằng lúc đầu tiếng Việt làm tôi phát sợ, vì thấy nó khác với các ngôn ngữ Âu châu quá, nên hầu như tôi thất vọng trong việc học tiếng này” 2

Giáo sĩ Đắc Lộ kể mấy ví dụ về sự khó khăn phân biệt âmthanh của tiếng Việt trong tai người phương Tây. “Một hôm Linh mục bạn với Đắc Lộ muốn bảo người giúp việc đi chợ mua . Khi người giúp việc ở chợ về bảo cho ông hay là đã mua như ý Lm. muốn. Ông liền xuống nhà bếp coi xem đã mua loại cá nào, thì ông bỡ ngỡ vì người đi chợ mua một thúng đầy . Lm. biết ngay vì ông đã đọc trại tiếng thành , nên ông xin lỗi người giúp việc. Một Lm. khác bảo người nhà đi chém tre 3, Đoàn trẻ em người Việt trong nhà Lm. nghe vậy sợ quá, bỏ chạy tán loạn. Thì ra ông phát âm lầm là chém trẻ, nên làm cho đoàn trẻ em khiếp sợ. Phải giải thích mãi trẻ em mới yên tâm trở về nhà với Linh mục”4.

Những ký hiệu ghi âm tiếng nói của người Việt để phân biệt ca, cá, và , phân biệt tretrẻ, cũng như phân biệt hamhầm, vợ đẻvỡ đê... chính là cái mà ông “Quốc học đại sư” Quý Tiễn Lâm của Tàu gọi là tiếng Việt “đầu đội mũ, chân đi giầy”!

Đội mũ mang giầy: chuyện không đơn giản .

Cái ông “siêu sao học thuật” (Học giới Thái đẩu) của Tàu này không hề... rê đuốc vào chân mình, chỉ nói lấy được. Trong bài viết dẫn trên, Ts Nguyễn Hải Hoành cho biết: “ Tiếng phổ thông TQ có 4 thanh điệu, vì thế chữ Latin trong phương án Hán ngữ Pinyin do Nhà nước TQ ban hành sử dụng từ năm 1958 cũng phải kèm theo 4 dấu giọng, ví dụ [lī], [lí], [lǐ], [lì], ngoài ra các phụ âm kép như zh, ch, sh có thể viết tắt là ẑ, ĉ, ŝ. Như vậy chữ Hán ngữ Pinyin (Bính âm)5 cũng ‘đội mũ’, vì sao cụ Quý Tiễn Lâm lại chỉ chê chữ Quốc ngữ Việt Nam ‘rất nực cười’? ”

Ts Nguyễn Hải Hoành nhắc lại lời học giả Hồ Thích từ 100 năm trước “phán” về chữ quốc ngữ của người Việt: “ Chữ viết Việt Nam hiện nay xem ra giống như chữ Pháp bị nước mưa xối tan ra, giống như phiên bản Latin của chữ hình vuông, vừa không thanh thoát cũng chẳng mỹ quan”. Hồ Thích cho rằng chữ quốc ngữ của người Việt Nam vừa không giống chữ Hán, không giống chữ Nôm (đã đành!) lại không giống chữ Pháp, mà cũng không giống cả chữ La tinh, “nghĩa là không đâu vào đâu, chẳng ra cái giống gì”6. Lời phán ấy có lẽ khiến một số nhà nho Việt Nam thủ cựu bài bác chữ Quốc ngữ thời đó khoái lắm.

Xem ra các tay học phiệt Tàu không biết gì về chữ quốc ngữ của Việt Nam, chỉ phán bừa vì họ rất hậm hực về việc Việt Nam “thoát Trung” thành công về mặt văn tự . Với thứ chữ viết La tinh hóa này chỉ trong khoảng 60 - 70 năm người Việt Nam đã hoàn toàn thoát ra khỏi hệ thống văn tự Hán, điều mà người Nhật và người Hàn đã không làm được, dù họ cũng sáng tạo được văn tự riêng cho mình.

Tiếng Việt có 6 thanh (Phù bình thanh - không dấu, Phù khứ thanh - dấu sắc, Phù thượng thanh - dấu ngã, Trầm bình thanh - dấu huyền, Trầm thượng thanh - dấu hỏi, và Trầm nhập thanh - dấu nặng), nên phải dùng 5 ký hiệu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng để phân biệt thanh điệu. Tiếng Trung quốc (chỉ có 4 thanh: âm bình thanh, dương bình thanh, thướng thanh, và khứ thanh) không có thanh “trầm nhập” như tiếng Việt nên chữ “bính âm” (pinyin) của họ không mang dấu “nặng”, tức là họ có đội mũ mà không mang giầy, giống như anh chàng nhà quê đội mão mà không mang hia, hoặc như Táo quân mặc áo mà không mặc quần chớ gì mà cười tiếng Việt!

Mặt khác, một chữ tiếng Việt dài nhất, chữ “nghiêng” chỉ gồm 7 ký tự, trong khi một chữ Hán thường có đến hàng chục nét “vẽ” rất rối rắm, khó học, khó nhớ. Ví dụ chữ “Hối” 匯 trong (Hối đoái - ) có 13 nét; chữ “Tê” 虀 (một món dưa chua) có 23 nét; chữ “T hô” 麤 (thô sơ) có 33 nét. Một chữ có âm đọc là [piang], là tên gọi 1 loại mì sợi đặc sản của tỉnh Phúc Kiến, có đến... 54 nét! Đó là một trong những lý do khiến người Trung quốc muốn La tinh hóa chữ viết của họ cho dễ học dễ viết. Chuyện không dễ chút nào. Vậy mà họ lại chê chữ quốc ngữ của người Việt “đội mũ mang giầy”!

Việt Nam là một trong số 124 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới dùng hệ chữ viết La tinh, và là một trong số rất ít các quốc gia châu Á dùng loại chữ viết này. Với hệ thống chữ viết quốc gia bằng chữ cái La tinh, người ta có thể học một ngoại ngữ có tính phổ biến quốc tế như tiếng Anh, tiếng Pháp... và tiếp xúc thẳng với mạng Internet rất thuận tiện mà không phải học thêm một hệ thống chữ viết nào khác. Người Tàu với hơn 1,3 tỷ dân, cũng muốn dân họ có được sự thuận tiện đó để dễ thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Họ đã nhiều lần nỗ lực La tinh hóa chữ viết, nhưng không thành công. Rốt cuộc người Tàu đã phải tuyên bố bỏ cuộc. Họ có thể dùng chữ pinyin như một giải pháp phụ để phiên âm cho từng mặt chữ Hán, giúp người học/đọc đọc được từng chữ ô vuông đó chớ không thể dùng nó thay cho chữ Hán để viết lách gì được, trong khi người Việt đã hoàn toàn bỏ hẳn chữ Hán, và phát triển chữ quốc ngữ hoàn chỉnh đến mức có thể diễn đạt mọi lãnh vực tri thức - tư tưởng, văn học, và khoa học, mỹ thuật... một cách phong phú và chính xác.

Việc các học giả Trung quốc chê bai chữ quốc ngữ của người Việt gợi mình nhớ chuyện chùm nho còn xanh của con... cáo!

Chữ Hán 54 nét dưới đây, do Tiến sĩ Nguyễn Hải Hoành phát hiện, là tên gọi 1 loại mì sợi đặc sản của tỉnh Phúc Kiến.

Người Việt nói như hát

Tiếng Việt có 6 thanh điệu nên chữ quốc ngữ phải dùng 5 ký hiệu (trừ một thanh không dấu) sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng tương ứng. Nhưng các dấu thanh này không phải tự nhiên mà có. Các nhà truyền giáo thuộc Dòng Tên La Mã sáng tạo chữ quốc ngữ vốn là người Bồ Đào Nha. Họ dùng các ký tự La tinh trong bảng chữ cái Bồ Đào Nha để ghi âm tiếng Việt. Nhưng bảng chữ cái Bồ Đào Nha, cũng như nhiều bảng chữ cái của các ngôn ngữ Tây phương dùng chữ La tinh khác, không có dấu giọng hay dấu thanh điệu. Vì vậy những chữ Việt sơ khai được viết liền nhau như ngôn ngữ đa âm của phương Tây và không có dấu, ví dụ:

Sinoa, Sinuua (Xứ Hóa /tức Thuận Hóa),

Cacham, Cacciam

(Ca Chàm /tức Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm),

Unsai (ông sãi),

Ungue , (ông nghè),

Oundelin (ông đề lĩnh),

Nuocman (Nước Mặn),

Ainam (Hải Nam),

Quanghia , Quamnguya (Quảng Nghĩa),

Quignhin (Qui Nhơn),

Bafu (Bà Phủ /tức vợ quan phủ)

v.v…

Giáo sĩ Đắc Lộ đã nói tiếng Việt nghe líu lo như tiếng chim, hoặc người Việt nói như hát. Ngay đến người Tàu vốn rất tự phụ với tiếng Hán của họ và miệt thị các ngôn ngữ khác, nhưng vẫn nhận tiếng Việt như tiếng chim hót. Có giai thoại kể ông Mạc Đĩnh Chi đi sứ bên Tàu, bị một viên quan Tàu ra một vế đối:

Quých thiệt chi đầu đàm Lỗ luận: Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri”. Nghĩa là Miệng lưỡi chim chích trên đầu cành bàn sách Luận ngữ: “Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, đó mới là biết”.

Ông Mạc Đĩnh Chi đối lại: “Oa âm trì thượng độc Chu thư: lạc dữ thiểu nhạc lạc, lạc dữ chúng nhạc lạc, thục lạc?” (Tiếng ếch nhái đọc sách nhà Chu trên bờ ao: vui nhạc với ít người, vui với nhạc nhiều người, đằng nào vui hơn?)

Vì đối phương trích sách Luận ngữ của Khổng Tử dùng các âm “tri chi tri chi” để diễu tiếng Việt như tiếng chim hót, nên ông Mạc Đĩnh Chi trích sách Mạnh Tử, với những âm “lạc nhạc lạc nhạc” để chê tiếng Tàu như tiếng ếch nhái.

Nếu tiếng Việt mà viết bằng phẳng thiếu dấu giọng trầm bổng lên xuống thì đâu còn ra tiếng chim nữa. Các nhà truyền giáo đã phải mượn một số ký hiệu trong bảng chữ cái Hy Lạp cổ để ghi âm các thanh, và dần dần tách riêng từng từ theo tính đơn âm của tiếng Việt.

Nhưng như thế chưa đủ. Tiếng Việt là một ngôn ngữ không những giàu thanh điệu (tiếng Việt có 6 thanh, trong khi tiếng Hán chỉ có 4 thanh thôi) mà còn có tính chất độc đáo: sự biến đổi độ dài ngắn cao thấp của âm thanh cũng làm cho từ biến đổi, và theo đó ý nghĩa cũng biến đổi hẳn. Đó là điều các ngôn ngữ khác không có. Trong tiếng Anh, chẳng hạn, ý nghĩa của từ là cố định; thay đổi ngữ điệu chỉ làm thay đổi ý người nói, chớ không thay đổi nghĩa của từ.

Ví dụ câu nói thông thường và phổ biến “I love you” - Tôi yêu em. Ngữ điệu của câu nói có thể được diễn đạt theo một trong 3 cách:

1. Khi nói nhấn mạnh vào từ đầu, “I”: “I love you” hàm ý: Tôi yêu em. Chính tôi đây yêu em, chớ không phải nó. Nó chỉ nói xạo thôi. Tôi mới chính là người yêu em.

2. Nhấn mạnh vào từ thứ nhì, LOVE: “I LOVE you” hàm ý: Tôi yêu em mà. Tôi thực sự yêu em, chớ tôi đâu có hận ghét gì em.

3. Nhấn mạnh vào từ cuối, YOU: “I love YOU” hàm ý: Tôi yêu em. Tôi yêu chỉ mình em thôi. Cô bé kia tôi không quan tâm.

Trong cả 3 trường hợp, ý nghĩa của ba từ “I love you” vẫn là ‘Tôi yêu em’, chỉ có ý người nói đổi khác.

Tiếng Việt thì không như thế. Sự thay đổi thanh điệu sẽ làm thay đổi ý nghĩa của từ. Ví dụ một câu nói gồm các từ: “Bà Ba bả bỏ bã bà Bá” (Bà Ba bả bỏ thuốc độc cho bà Bá).

&dt;p>Nếu bỏ hết các dấu thanh điệu, các chữ còn lại, trừ từ “bỏ,” chỉ là một âm “ba”

Ba Ba ba (bỏ) ba ba Ba: không có nghĩa gì hết.

Về mặt nguyên âm cũng vậy, Đối với người Việt, AnAn, và ĂnĂn - hai từ khác nhau. Khi viết ra, chúng khác nhau về chữ và khác nhau về nghĩa. Đối với tai của nhà ngôn ngữ học, hai từ đó chỉ là một mà do nguyên âm chính của nó được phát âm dài ngắn khác nhau, Các nhà truyền giáo dòng Tên sáng tạo chữ viết cho tiếng Việt là những nhà ngôn ngữ học lỗi lạc. Họ nhận ra nguyên âm chính của từ thứ nhì (Ăn) chỉ là nguyên âm A được phát âm ngắn. Tức là chỉ thay đổi độ dài ngắn, ngậm hay mở của nguyên âm, ta có ngay một từ khác, mang nghĩa khác.

Thế là họ tìm cách đánh dấu âm A ngắn này bằng một hình trăng khuyết nhỏ trên đầu chữ A. Đó là chữ Ă. Tương tự như thế, các vị thừa sai Thiên Chúa giáo ấy đã sáng tạo ra các chữ nguyên âm a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ư cho một hệ thống chữ viết mới cho ngư᳝i Việt mà sau này sẽ được gọi là chữ Quốc ngữ - thứ chữ chúng ta đang dùng ngày nay. Đây là một công cụ tuyệt vời ghi âm tiếng Việt chính xác 100 phần trăm: tiếng nói thế nào được viết ra như thế. Và viết thế nào được đọc đúng như thế.

Công cụ tuyệt vời này trong một thời gian dài từ giữa thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19 chỉ được sử dụng trong nội bộ các nhà truyền giáo và con chiên người Việt của các giáo đoàn Công giáo. Ngoài cộng đồng giáo dân Thiên Chúa giáo ra, người Việt trong cả nước vẫn tiếp tục dùng chữ Hán và chữ Nôm trong tất cả các hoạt động tri thức. Triều đình dùng chữ Hán như văn tự chính thức của quốc gia. Giới trí thức bên ngoài triều đình, ngoài việc dùng chữ Hán để sáng tác văn học, còn sử dụng chữ Nôm để ghi âm tiếng nói của dân tộc. Nhưng cả hai thứ chữ viết này rất khó học, khó nhớ. Riêng chữ Nôm được nhiều người cho là khó gấp 5 lần chữ Hán. Phải thật giỏi chữ Hán mới có thể dùng được chữ Nôm. Vì thế số người Việt trong nước mù chữ là rất lớn. Người ta ước lượng đến 90% dân số mù chữ.

(còn tiếp)

THIẾU KHANH


-----------------

1. http://nghiencuuquocte.org/2017/12/11/sao-lai-noi-chu-quoc-ngu-vn-rat-nuc-cuoi/

2. Đỗ Quang Chính, “Lịch sử chữ Quốc Ngữ 1620 - 1659,” Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn, 1972, trang 12-13

3. Thời đó, thay vì nói chặt tre hay đốn tre, người ta nói chém tre.

4. Đỗ Quang Chính, Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, như trên, trang 17

5. Tức chữ La tinh phiên âm âm đọc của mỗi chữ Hán.

6. T heo Ts . Nguyễn Hải Hoành, đã dẫn

SƠN ĐÔNG MÃI VÕ

(tiếp theo số 143 và hết)

Tư Thẹo nghe câu được câu chăng nhưng anh cũng khoái trong bụng, không dè mấy ngón đòn học lóm của đám anh chị xe đò lục tỉnh lại được đánh giá cao như vậy. Anh nói lớn:

- Bây giờ tui cần một anh thanh niên nhổ cây kích rồi giúp tui chuyện này.

Đám đông chung quanh yên lặng hoàn toàn. Người này ngó người kia. Ai cũng muốn có một người bước ra nhưng người đó không phải là mình. Họ không biết Tư Thẹo muốn gì. Họ sợ phải đứng trước đám đông, trăm mắt dòm vô “giữa thập mục sở thị” mà mình làm gì sơ suất hay thua sút thì sẽ bị làm trò cười. Mất mặt bầu cua chết. Ở đây đâu chỉ toàn ông già bà cả với mấy đứa nhỏ thôi, còn mấy cô nữa chi?

Tư Thẹo hiểu tâm lý e ngại đó của mấy cậu thanh niên nên cố gắng thuyết phục, anh ngó ngay một thanh niên chải đầu tém kiểu kép hát Út Trà Ôn, giải thích:

- Tui không dám nhờ anh em làm chuyện gì khó. Anh em cứ mạnh dạn bước vô chỉ làm điều gì tui nhờ mà thôi. Không có chuyện tỷ thí đâu. Rừng nào cọp nấy. Tui đâu dám làm chuyện thất sách.

Mọi người vẫn yên lặng. Người này thúc cùi chỏ chỗ người kia, nhưng không một ai bước ra khỏi vòng tròn.

Bỗng có tiếng nói lớn:

- Có thằng Tây với ba thằng mặt gạch đây. Nếu anh có giỏi thì kêu tụi nó làm. Tụi tui mới phục.

Những người khác phụ họa nhao nhao:

- Phải phải. Giỏi thì bắt mấy thằng Tây làm coi thử.

Tư Thẹo dòm chung quanh. Mấy anh thanh niên nầy bún thiêu quá. Chắc mẩm là họ nhát rồi. Nhưng mà mình cũng không muốn lộn xộn với mấy thằng Tây làm gì. Tây u khó lòng lắm. Tư Thẹo bối rối còn chưa biết tính sao. Anh đưa mắt hỏi ý kiến vợ. Cô Hai Hỏn nhìn anh nhưng cũng không nói gì. Anh thấy mình phải quyết định mau. Chỉ ngại ngôn ngữ bất đồng, chớ còn sức lực thì không có gì phải lo ngại. Anh liếc mắt về chỗ mấy thằng Tây đang bá vai, cọ vế mấy ả tân thời. Một thằng trắng. Ba thằng đen. Thằng trắng có vẻ hiền từ nhất và nhỏ con nhất. Có thể đối phó được. Anh bước tới trước mặt nó, đưa tay làm dấu mời nó ra nhổ cây kích lên. Thằng Tây trố mắt nhìn anh. Nó ngạc nhiên hết cỡ nên quay lại hỏi cô bạn đứng kế bên. Cô này hất mái tóc quăn của mình ra sau ót rồi xí xô một tràng. Thằng Tây rẽ ra khỏi đám đông ra ngoài. Nó ơ hờ đưa một tay nhổ cây kích lên. Chắc trong bụng nó nghĩ rằng không cần phải dùng hết sức. Nhưng nó đã lầm, cây kích gắn chặt xuống đất làm cho nó phải lấy thêm tay kia phụ sức mới nhổ lên được. Nó cầm cây kích thủ theo thế võ cận chiến của súng gắn lưỡi lê chỉa lia lịa vô bụng Tư Thẹo.

Ngoài kia có những tiếng kêu trời nho nhỏ. Một vài người nhát gan đưa tay lên ngực như sắp bị đứng tim. Trong nầy Tư Thẹo điếng hồn, anh ta thụt lùi lại mấy bước.

Thấy ông bà ông vải hông? Thằng nầy nó khùng lên giở cận chiến để đánh với Việt Minh ra ở đây thì mệt cầm canh. Tiếng Tây tiếng u mình ù ù cạc cạc làm sao cho nó hiểu được. Tư Thẹo thấy tức mình, tức luôn anh thanh niên đã đưa đề nghị xỏ lá nầy. Tuy vậy anh vẫn làm tỉnh, vừa cười vừa khoát tay vừa xổ cái vốn liếng tiếng Tây không bằng lá mít của anh:

- Nông. Nông. Mông xừ!

Thằng Tây hiểu ý dừng bộ lại. Cô Hai Hỏn đã đứng bên nó lúc nào, mỉm cười tay đưa ra đỡ lấy cây kích rồi ra dấu cho nó biết những gì nó phải làm.

Cô xuống tấn, cấp cán kích vô nách hướng về Tư Thẹo. Tư Thẹo tới gần, xuống trụ, hai tay gồng lên để lộ ra những bắp thịt cuồn cuộn, đồng thời anh nín hơi, vận nội công, bạnh cầm ra để chuyển hết sức mạnh vô cần cổ. Bây giờ người chung quanh mới chú ý thấy chỗ yết hầu anh có vài dấu lủng cạn, đen đen. Cô Hai Hỏn đưa đầu nhọn của cây kích vô đó và ra bộ đẩy tới. Tư Thẹo bấu mấy ngón chân chặt xuống đất sẵn sàng cuộc biểu diễn. Thằng Tây bây giờ đã hiểu nó phải làm gì. Nó lấy cây kích từ tay cô Hai Hỏn, nó cũng cặp cán kích vô nách chịu thế để đẩy vô yết hầu của anh Tư Thẹo. Tư Thẹo lượng sức địch thủ: “Thằng nầy coi vóc vạc vậy mà chắc không bền, chưa gì hơi thở đã không điều hòa rồi. Nó đi chung với mấy cô tân thời ra đây quá sớm. Thế nào nó cũng tiêu tán sức lực nhập trận hồi tối hôm qua. Chắc chắn không còn bao nhiêu xí quách nữa đâu. Không cần hạ nó ngay. Cần phải làm cho nó không cảm thấy mất mặt mà người coi thích thú mới được”.

Nghĩ vậy cho nên Tư Thẹo không dùng hết sức mình. Anh chỉ giữ tấn chịu đựng để khỏi bị đẩy lui chớ không lấn tới. Thằng Tây dùng hết sức. Nó phùng mang trợn mắt. Hai cằm bành ra, môi mím chặt, cố hết sức để đẩy lui đối thủ. Chân mặt của nó cong lại, chiếc giày trận bấu chặt vô đất, chân trái duỗi thẳng ra, gót ấn mạnh xuống để làm điểm tựa. Nó hy vọng hạ đối thủ bằng cách dùng hết sức mạnh của mình ngay từ lúc đầu.

Cái vòng tròn người trước đây xôn xao, nhúc nhích bây giờ như được làm bằng một khối kim khí, bất động, lặng trang. Có người nín thở, có người mím môi làm như là mình đương đấu sức với thằng Tây ngoài đó chớ không phải là Tư Thẹo.

Cô Hai Hỏn nãy giờ vẫn đánh trống và gõ phèng la đều đều. Nhạc trống Sơn Đông giờ đây có vẻ như nhịp trống trận, có tác dụng như thúc hối cổ võ hai bên ráng đem phần thắng về mình.

Tư Thẹo thấy biểu diễn bao nhiêu đó đã đủ. Mười phút rồi còn gì. Chắc bà con đã thỏa mãn, không cần kéo dài thêm nữa. Anh ngó ngay mặt đối thủ tên này hít hơi vô buồng phổi anh thụt một bước dài ra sau. Thằng Tây khoái chí quên chuyện thở, nhón cẳng bước tới… Lẹ như chớp, Tư Thẹo nương lúc địch thủ đứng một cẳng, cẳng kia chưa kịp để xuống đất đẩy mạnh tới. Thằng Tây bị phản công bất ngờ xiểng niểng, gượng không được, phải bước lùi năm sáu bước. Tư Thẹo lẹ làng đưa tay nắm đầu kích, dằn mạnh một cái tuột khỏi tay thằng Tây. Anh cầm ngang đưa lên trời để làm dấu chiến thắng rồi đưa tay ra bắt tay đối thủ tỏ ý thân thiện. Thằng Tây ngạc nhiên trước sức mạnh của Tư Thẹo, nó phục ra mặt nên lẹ làng đưa tay ra vừa bắt vừa nói một tràng tiếng Tây, Tư Thẹo không hiểu gì nên chỉ nhe hàm răng ra cười cầu tài.

Có tiếng một cô gái son phấn đâu đây nói lớn:

- Nó nói nó phục anh lắm đó. Nó nói nếu anh ở bên Tây thì anh làm giàu bởi vì người ta sẽ mướn anh đóng phim, anh sẽ nổi tiếng.

Tư Thẹo “mẹt xi” lia lịa.

Vừa lúc đó Tư Thẹo bỗng nghe tiếng xôn xao rồi tiếng gió rít sau lưng, với phản ứng tự nhiên của người từng đụng độ dao búa nhiều lần anh tràn mình tránh khỏi. Thằng mặt gạch đánh lén anh mất đà chới với, anh đưa tay đẩy nhẹ vô lưng nó. Nó chúi nhủi tới trước. Tư Thẹo còn đương chưa biết chuyện gì xảy ra thì hai thằng mặt gạch khác đã lách đám đông ào ào nhảy vô.

Có tiếng đàn bà la hét bằng một thứ tiếng Tây ba rọi. Nhưng tình thế đã tới lúc không còn thể cứu chữa nổi. Tư Thẹo thấy cần phải cho tụi nó sợ nên anh nhảy tới đá vô mặt một thằng khi tên này xông tới định bóp cổ anh. Nó nhào lộn hai ba vòng, chổng bốn vó lên trời rồi nằm yên không nhúc nhích. Hai tên còn lại thấy vậy nên khựng lại thủ thế. Tư Thẹo hét lớn về phía mấy cô tân thời đã cặp kè với mấy thằng trời đánh nầy hồi nãy:

- Mấy cô nên lôi mấy ông trời con nầy đi không thôi tụi nó chết hết mất công lắm à!

Rồi anh cúi xuống đỡ tên bị đá ngồi dậy, mắt vẫn lom lom ngó chừng hai thằng kia. Mấy cô bạn của tụi nó thừa dịp nầy ào ra vừa xỉa xói vừa vả lia lịa vô mặt hay đấm thùm thụp vô lưng chúng rồi kéo chúng ra về. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Một vài người vỗ tay rồi đám đông vỗ tay rần rần. Họ hoan hô vang trời dậy đất. Một vài người buột miệng:

- Vậy mới phải là người làm nghề Sơn Đông mãi võ. Vậy mới đáng mặt anh hùng: tài nghệ, bình tĩnh, độ lượng, biết tấn công đúng lúc.

- Cái đá của anh ta cao quá. Tui thấy bộ dạng mấy thằng lính “săn đá” đó là tui ớn rồi, mà anh ta hạ thằng lớn con nhứt như chơi. Tụi nó coi hùm hổ, thằng nào thằng nấy mạnh như con trâu cui mà phải xếp vó chịu thua, vậy mới biết nghề của anh này khá tới mức nào.

Có tiếng khác gắn liền với thời sự:

- Có vậy tụi nó mới nể người Việt Nam. Việt Nam mình có thua ai?

Vợ chồng Tư Thẹo trao đổi ánh mắt lo ngại với nhau. Qua cơn biến động bây giờ họ mới thấy sự rắc rối của câu chuyện. Nếu mấy thằng đó nuốt giận chịu thua thì dễ. Nếu tụi nó tức khí về trại ở đường Hui-Bon-Hoa kéo cả lũ tới thì mệt cầm canh. Mà bây giờ thế đã cỡi cọp không thể leo xuống được. Phải tiếp tục chuyện bán thuốc. Sớm mơi tới giờ có bán được cắc nào đâu. Không lẽ dọn đồ nghề ra về?

Cô Hai Hỏn lanh trí không cần hỏi ý chồng, cô cầm lên cả chục hộp thuốc bắt đầu giọng quảng cáo kích động:

- Kính thưa bà con cô bác. Chắc bà con cô bác đã biết nhờ đâu anh này có thể hạ mấy thằng “săn đá”? Nhờ đâu anh ấy có sức mạnh như vậy? Đó là nhờ thuốc “Sơn Đông trường lực hoàn”. Sơn Đông trường lực hoàn là thứ…

Bữa đó vợ chồng Tư Thẹo bán không còn một viên thuốc giả để… làm thuốc.

Chú Tư với tay lấy cái bình tích chế nước nóng pha lợt ly cà phê trước mặt, đưa muỗng quậy liên tu bất tận như để che dấu một sự bối rối gì đó, nói một câu không ăn nhậu gì hết với câu chuyện vừa kể:

- Cà phê bắp rang coi vậy mà cũng tới quá chớ. Hết cà phê Ban Mê Thuộc, mậu cà phê Martin thì mình xài cà phê bắp rang cũng được. Chết ai? Đâu cũng vô đó.

Chú xòe bàn tay đưa ra trước mặt làm một cử chỉ mời rồi hớp từng ngụm nhỏ, thưởng thức:

- Chú ám chỉ cái gì con nít còn bồng cũng còn biết đâu cần phụ họa. Ngồi cho vui chớ tui chạy tét ba cái nước đen đen khét khét mùi vị không ra đám ôn gì mà còn tốn tiền.

- Mà sao chú Tư với thím Tư giải nghệ đi?

Chú Tư xoay xoay cái ly, cặp mắt xa xăm, giọng trầm ngâm:

- Phải giải nghệ, chơi trò xí gạt thiên hạ hoài bụng dạ không yên. Nhiều khi tôi tức mình sao cứ làm những chuyện chúng rủa không. Nhỏ thì đi theo tụi đá cá lăn dưa giựt đồ của bạn hàng trong chợ, lớn lên một chút thì theo mấy tay anh chị đứng bến xe đò hún hiếp người cô thế. Lúc mê bả thì đi làm Sơn Đông Mãi Võ, gạt bán thuốc cơm nguội cho chúng, không có lúc nào làm ăn lương thiện hết.

Tôi thấy mình cần phải nói câu gì đó để làm nhẹ đi lương tâm của chú.

- Bề gì chú cũng đã ray rứt mấy chục năm nay rồi.

Tôi muốn nói chú như ông ăn cướp có lòng thành sau đó được thành Phật, trong chuyện đời xưa “Sự tích con chim bìm bịp” nhưng nín kịp, sợ mích lòng, chỉ nói ầu ơ ví dầu:

- Mà cả chục năm nay từ ngày chú thím tới mở tiệm tạp hóa ở xóm nầy tới giờ, tôi đâu có thấy chú bị tai tiếng gì đâu nà. Có thể nói chú là một trong số ít người tốt nhứt ở xóm chợ Bà Chiểu này nữa là khác.

Chú Tư cười hề hà:

- Thì vậy chớ sao, bỏ nghề đạo tặc rồi. Tu. Tu nhà, tu chợ.

Rồi chú tâm sự:

- Hồi đó, đâu một ngàn chín trăm năm mốt, năm hai gì đó, tui giải nghệ nghề Sơn Đông vì tức mấy thằng Biện Chà đá đít liệng đồ. Tụi nó vui thì thôi, mình đánh trống múa lân nó cũng làm thinh, chừng buồn buồn lựa lúc mình đang bán thuốc đuổi thiên hạ đi lại còn liệng đồ đạc của mình. Tức cành hông mà phải dằn: đời dân nô lệ nó chó đẻ vậy đó, không có tự do.

Chú bóc gói thuốc “Ba con Năm” nội hóa vấn bằng lá cờ, bập bập tiếp:

- Thét rồi tui chán, giải nghệ, mua một căn nhà lá ọp ẹp ở đường Hai Mươi gần vườn Bà Lớn. Tui làm thuê vác mướn, bả vá may bậy bạ cũng đấp đổi qua ngày.

Mấy đứa nhỏ con ai không biết, rủ nhau tới tiệm dòm lom lom vô tô hủ tiếu của một hai người thực khách hiếm hoi đương ngồi xa xa đầu kia. Chúng chỉ trỏ xí phần rồi cãi nhau om sòm. Chú Tư theo dõi không xót một cử chỉ nào cái hoạt cảnh đáng buồn trước mặt.

- Lúc đó tui chưa có xấp nhỏ, để dành cũng dễ. Chắt mót đâu được một thời gian thì mua được căn nhà cũng khá khá ở chợ Bàu Sen...

Nói tới đây mặt chú buồn buồn, chú thở dài sườn sượt:

- Bôn ba không qua thời vận, chắt mót rồi cũng đú t cho bà hỏa hết. Tui đi làm, bả ra chợ, nhà cháy không còn một tấm giẻ rách để bận, ôm hai đứa con tụi tui thiếu điều tự vận.

Tôi hỏi để làm loãng không khí u ám của câu chuyện:

- Phải trận cháy lớn quá mạng khoảng một ngàn chín trăm năm mươi ba đó không? Hồi thiên hạ đồn vợ nhỏ Hùm Xám Cai Lậy đốt nhà đồng bào để bán tôn chớ gì?

Chú Tư nhích mép như mỉm cười xác nhận, chú nói giọng nhân đức của người có thiện tâm:

- Thì lúc đó đó, nhưng mà mình cũng không biết ai đốt, đốt để làm gì. Nghe đồn bậy bạ đề án tử người ta, không có thiệt thì tội chết.

Chú xuống giọng như ông già bảy mươi:

- Ở đời kỵ nhứt là kết tội người ta mà mình không biết hư thiệt như thế nào. Ghét ai phao phản người đó là này là nọ, tui thù tận mạng mà cũng không bao giờ tui làm. Oan cho người ta tội nghiệp. Bây giờ nè...

Tôi thấy cần tốp chú Tư lại, bẻ đề tài câu chuyện qua một góc nhìn chín chục độ:

- Chú Tư biết không, lúc nhỏ tôi mê coi Sơn Đông Mãi Võ số một. Tôi đâu có biết thuốc của họ hay dở thế nào. Hồi đó tôi nhỏ hí với lại có thử lúc nào đâu mà biết nhưng mà tôi ưa coi họ múa võ lắm. Nhiều khi đợi họ mấy tiếng đồng hồ, bực mình thấy mồ, họ cứ quảng cáo thuốc lia chia, lập đi lập lại hoài mà không làm trò. Kiên nhẫn lắm mới coi được một trò thì vừa coi vừa hồi hộp sợ về bị đòn... Chú biết không, có bữa chờ hoài không được coi biểu diễn, tôi liều mạng ngồi đợi tới cùng, tối quá mà họ vẫn không diễn cái trò đã quảng cáo, báo hại về bị ông già chộp cổ...

- Vậy đó, mấy chú nhỏ thì muốn coi múa võ, coi cho đã mắt trò nầy trò kia. Người bán Sơn Đông thì muốn bán thuốc, võ chỉ là mánh khóe vừa để tụ họp thiên hạ lại vừa xí gạt thiên hạ rằng họ có nghề là nhờ uống thuốc Sơn Đông.

Tôi vẫn không kềm chế được ý muốn kể cho chú nghe kỷ niệm của mình:

- Hồi đó tôi được coi cả chục đoàn Sơn Đông biểu diễn lận. Không kể đoàn của ông Lê Văn Quý chuyên môn diễn và hát thuật. Có một đoàn người Tàu rất đông, trò đặc biệt của họ là trò “Tam anh đại chiến Lữ Bố” ba người cầm khí giới của Lưu, Quan, Trương đánh với một người cầm cây “Phương thiên họa kích” đóng vai Lữ Bố. Coi cũng mát con mắt lắm. Có một đoàn của một cặp vợ chồng Việt Nam, anh chồng biểu diễn như chú hồi đó vậy, cũng lấy cây kích cho người ta đẩy vô giữa yết hầu. Tôi khoái ông ta nhứt vì ông ta là Việt Nam. Tôi còn nhớ ông ta có một cái thẹo dài ở ngang lưng. Cái thẹo đó cắt con cọp xâm trên lưng ông ta ra làm hai khúc. Coi thiệt là đẹp, thiệt là lạ. Nó như một tấm hình vẽ bị xé ra làm hai. Mà là hình vẽ trên một cái lưng bề ngang bự như một tấm thớt bự, bắp thịt cuồn cuộn, lấm tấm mồ hôi, lóng lánh như sao đêm.

Chú Tư cười rạng rỡ nhưng bí hiểm. Chú ngó xuống ngực mình, cái áo sơ mi dài tay lòng thòng không che giấu được mình mẩy ốm nhom ốm nhách của chú. Chú tính nói gì, nhưng rồi lại làm thinh, mân mê điếu thuốc bằng mấy ngón tay xương xẩu, da thịt nứt nẻ, đóng khói vàng.

- Tôi còn nhớ hồi đó, đâu tôi chừng bảy tám tuổi có một cái răng cửa bị xiết ăn lung lay quá cỡ. Ngồi trong lớp tôi cứ lấy lưỡi đẩy đẩy nó ra hoài. Hy vọng nó rớt ra. Mà đâu có được. Đẩy mạnh thì đau, lưỡi thụt lại. Nó hành hạ tôi cả tuần. Bữa đó đoàn Sơn Đông của cặp vợ chồng này quảng cáo thuốc sâu răng gia truyền và có nhổ răng thí. Tôi lấy hết can đảm bước ra cho ông ta nhổ răng. Chú biết sao không?

Chú Tư đưa tay chận tôi lại:

- Thầy Hai để tôi nói coi trúng không?

Tôi ngạc nhiên nhưng cũng ngưng nói, đưa ly cà phê lên nhấm nháp từng hớp thiệt nhỏ rồi mở gói ny-lông trong túi vấn một điếu thuốc bằng giấy báo cũ.

Chú Tư ngó châm bẩm vô mặt tôi, cười hề hề:

- Chắc anh ta một tay bợ cằm thầy Hai, một tay hờm sẵn, anh ta hỏi đâu đâu, chờ khi thầy Hai mở miệng trả lời là anh ta đẩy bật cái răng ra chớ gì? Có khó gì đâu? Đâu cần học tới bằng cấp bác sĩ mới biết nhổ mấy cái răng cơm sườn đó.

Tôi cười theo, vui thiệt là vui.

- Vậy mà lúc đó tôi đâu có ngờ. Bây giờ chuyện gạt con nít đó quá tầm thường. Tôi cũng thường hay nhổ ba cái răng sữa của các con tôi kiểu đó. Nhưng mà phải phục ông ta sáng trí, biết cách làm cho mình chú ý tới một cái gì khác để quên thực tại và ông ta đã thành công.

Chú Tư ngắt lời tôi:

- Như mình bây giờ “thiên hạ” biểu chống nầy chống kia, chống đông chống tây, chống tam hoàng xích đế, để mình quên dòm lại mình chỉ còn cái quần xà lỏn rách, cơm cũng không có mà ăn .

Tôi trở về đề tài kỷ niệm của mình, không muốn chết chùm vì lời phát ngôn của người đối diện:

- Chú Tư biết không, lúc ông ta bẻ cái răng, đau thiếu điều xón đái trong quần, tôi nhón người lên, đưa hai tay gỡ tay của ông ta, buông cái cặp bàng xuống đất. Cặp đã rách ra làm hai sẵn nên sách vở văng tùm lum tà la, bình mực bỏ trong cái lon sữa bò tôi thường xách tòn teng cũng lăn long lóc, đổ mực ướt dài trên mấy cuốn tập. Bữa sau vô lớp bị ông thầy già quất roi mây một trận muốn quíu đít luôn.

Chú Tư cười ha hả:

- Vậy là vô tình tôi hại thầy Hai rồi.

Rồi không để tôi ngạc nhiên lõ mắt dò hỏi lâu hơn. Chú trật áo đưa hình con cọp xé hai trên cái lưng da nhăn nhó. Con cọp không còn hùng dũng nữa, trái lại như mếu máo xệu xạo. Tuy vậy nó vẫn có một cái vẻ gì đó khiến tôi nhận liền ra được như một người quen sau mấy chục năm xa cách.

Chú nói chậm rãi, mắt đăm đăm theo dõi cái bóng nắng đang từ từ liếm một cái lỗ bự trên nền xi măng trước cửa:

- Tôi nhổ răng cho quá nhiều người, họ nhớ tôi, chớ tôi không nhớ họ. Như thầy Hai dạy học trò vậy mà. Học trò nhớ thầy chớ thầy làm sao nhớ hết học trò.

Tôi nói để lấp liếm sự mắc cỡ về cử chỉ của mình hồi nhỏ:

- Vậy là tôi mang ơn chú rồi. Mang ơn mấy chục năm nay mà hổng biết. Nhờ chú tôi được bài học dương đông kích tây . Tôi nói thêm, bắt chước giọng của mấy ông già bảy tám mươi gần kề miệng lỗ: Nhiều khi ngồi không buồn buồn nhớ lại chuyện Sài Gòn mấy chục năm về trước thấy cũng hay hay ngồ ngộ. Tiếng xe thổ mộ lọc cọc đánh nhạc buổi sáng, âm thanh đều đều trong trẻo có cái gì đó mát mát vui vui khó tả vô cùng. Buổi chiều đi học về nghe tiếng phèng la của đoàn Sơn Đông Mãi Võ thì không còn gì hấp dẫn hơn, biết cây roi mây chờ sẵn ở nhà cũng tấp vô. Mấy bữa nghỉ học, trời xế xế, vừa ngủ dậy nghe tiếng kèn tây của đoàn nhạc sĩ mù thổi mấy bản ái quốc thì nức lòng nức dạ không sao nói nổi, chém chết cũng đi theo họ, lòng vòng có khi xa thiệt xa nhà mà không hay. Mấy thứ đó là những kỷ niệm khó quên của thời thơ ấu, nhớ lại mà tiếc hùi hụi.

Chú Tư gật gù nhưng vẫn không bỏ được tánh trời cho:

- Bây giờ những thứ đó cũng có nhưng dưới hình thức khác hơn một chút: Nè nghe! Tiếng nhạc xe ngựa lọc cọc buổi sáng được thay bằng mấy cái loa phóng thanh lè nhè “ tiến nhanh, tiến mạnh ” ... Tiếng phèng la của đoàn Sơn Đông mãi võ với những khẩu hiệu trời ơi đất hỡi có khác gì đâu nà, cũng mời gọi quyến rũ, cùng gạt người ta bằng nguyên tắc đưa ra một thực tế để tuyên truyền cho một thực tế khác, xa lắc xa lơ không ăn nhậu gì với nhau hết, suy nghĩ nát óc cũng không thấy chúng liên quan ở chỗ nào! Tôi nói ít chắc thầy Hai hiểu nhiều, còn mấy bản kèn ái quốc của đoàn nhạc sĩ mù hả, được thế bằng diễn văn tràng giang đại hải của mấy cha nội chóp bu mù tịt về cách xây dựng đất nước nhưng luôn luôn xô đẩy người ta đi theo con đường của mình.

Tôi rùng mình ê càng trước lời phát ngôn oang oang của chú Tư. Cha nội nầy già mà còn hăng máu ngà quá, may mà quán quen, chung quanh không có mặt lạ. Đời bây giờ đâu cần nói hết ý…

Tôi dòm quanh quất một lần nữa chắc bụng không có tai vách mạch dừng rồi mới gật đầu biểu đồng tình vừa đốt cho pháo nổ thêm:

- Chú nói không trật vô đâu được. Có sự thay đổi nhưng mà những thay thế đó chắc không được mấy người ưa.

Chú Tư phản đối quyết liệt, cùn quằng như đuôi thằn lằn bị đứt:

- Sao lại không? Ít nhứt là tụi theo đóm ăn tàn, là bọn đâm cha giết chú lấy chị dâu. Đời thiếu giống gì bọn theo gió trở cờ. Nhưng mà những kỷ niệm thời thơ ấu của thầy Hai nó đẹp, nó điểm tô cho cuộc đời của thầy Hai. Còn kỷ niệm của tuổi trẻ bây giờ hả? Ác mộng! Dòm mà tội nghiệp!

Hai đứa con gái nhỏ đâu độ bảy, tám tuổi, quần ống thấp ống cao, ý chừng là em của đứa nào đó trong bọn trước, ở đâu chạy tới đứng ngó thèm thuồng, mấy đứa con trai giành nhau húp một chút nước lèo cặn sót lại của một thực khách vừa đứng dậy.

Chú Tư bắt gặp tôi theo dõi cảnh tượng từ đầu đến cuối, hất hàm như hỏi đố về người trách nhiệm cho hoạt cảnh đau lòng nầy.

Tôi ngó đi chỗ khác. Mấy câu nói thẳng như ruột ngựa của chú: Tiếng phèng la của đoàn Sơn Đông mãi võ với những khẩu hiệu trời ơi đất hỡi có khác gì đâu nà . Kỷ niệm của tuổi trẻ bây giờ hả? Ác mộng! xoáy mòn tim tôi, quậy lên các chất chua trong bao tử. Tôi nghe mình chóng mặt muốn mửa vì một nỗi buồn mênh mông bao vây...

Chúng tôi ngồi đó, làm thinh ngó nhau một lúc thiệt lâu, hàng thế kỷ có lẽ, ai chìm trong sóng ý tưởng nấy, nhưng tôi biết cả hai đương có một sự tương thông kỳ lạ.

Tự nhiên tôi thấy thương chú Tư quá, thương một người đã già mà vẫn còn dằn vặt vì chuyện “ làm bậy ” để sinh tồn của mình từ cái thuở xa xưa nào đâu, thương một người biết đau về nỗi bất hạnh của thiên hạ, của tuổi trẻ bị bỏ quên…

NGUYỄN VĂN SÂM

San Antonio, TX., 1980

(Viết cho nỗi buồn mới vừa xa xứ)


Phụ Bản II

Người Việt sử dụng

“HÁN NGỮ HIỆN ĐẠI” của Nhật

Giải Nobel Văn học 2017 thuộc về văn sĩ Anh gốc Nhật.

Quốc khánh Nhật Bản ngày 11/2

Thời Minh Trị, chính phủ Nhật Bản đã ấn định ngày để kỷ niệm ngày trọng đại này của đất nước. Thời điểm đó cũng trùng với thời điểm Nhật Bản chuyển từ lịch Âm sang dùng lịch Dương (Tây lịch) vào năm 1873, chính phủ đổi ngày lập quốc sang ngày 11/2/1873 sau khi cho rằng mình tính toán “chính xác” ngày Thiên hoàng Jimmu ra đời, và kể từ đó, ngày 11/2 hằng năm trở thành ngày Quốc khánh Nhật.

Thực chất ngày lập quốc được dùng để kỷ niệm Thiên hoàng và được đặt tên là Ngày Kigensetsu - được tổ chức rất long trọng với nhiều lễ hội và các đoàn diễu hành, và nó nghiễm nhiên trở thành 1 trong 4 ngày lễ lớn nhất tại Nhật Bản.

Tuy nhiên, đến khi Nhật Bản thua trận ở Thế chiến thứ II, kéo theo sự phế truất quyền lực của Thiên hoàng (từ sau chiến tranh, người ta gọi các đời Thiên hoàng về sau là Nhật hoàng), ngày Kigensetsu cũng bị bãi bỏ. Mỉa mai thay khi ngày 11/2 cũng là ngày tướng Mac Arthur phê chuẩn bản sơ thảo của Nghị viện Nhật Bản năm 1946, đưa Nhật Bản đi theo con đường dân chủ tư sản và cũng là người đóng góp rất lớn trong công cuộc tái thiết và phát triển Nhật Bản sau này để trở thành “nước Mỹ của châu Á”. Cùng năm 1946, Ngày lập quốc được tái thiết lập, vẫn giữ nguyên là ngày 11/2 hằng năm.

Người Việt sử dụng “Hán Ngữ hiện đại”

về khoa học kỹ thuật của Nhật mà vẫn tưởng là của Tầu

Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên chịu ảnh hưởng rất lớn của văn hóa Trung Quốc (TQ), thời xưa đều từng mượn chữ Hán của người TQ làm chữ viết cho nước mình trong nhiều nghìn năm, làm nên Vành đai văn hóa Hán ngữ . Nhưng người Nhật không chỉ vay mượn một chiều mà từ cuối thế kỷ 19 còn dùng chữ Hán để sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới tương ứng với các khái niệm khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội-nhân văn hiện đại trong văn minh phương Tây. Những từ ngữ chưa từng có trong Hán ngữ ấy lại du nhập về TQ, trở thành một phần quan trọng trong Hán ngữ hiện đại của người TQ, được người TQ, Việt, Triều sử dụng một cách phổ biến và quen thuộc tới mức rất nhiều người không biết đó là những từ ngữ đến từ Nhật mà vẫn tưởng là của TQ.

Cũng mượn dùng chữ Hán như người Việt, Triều, nhưng người Nhật đã có những sáng tạo đáng khâm phục như vậy, đó là do họ đặc biệt có năng lực học tập và tiếp thu văn hóa nước ngoài, có tinh thần mạnh dạn đổi mới. Một số học giả TQ ước tính các từ ngữ do người Nhật sáng tạo chiếm khoảng 70% tổng số từ ngữ hiện dùng trong Hán ngữ ngày nay. Nói cách khác, trong các khái niệm người TQ và Việt, Triều dùng để suy nghĩ, nói và viết, có 70% là do người Nhật tạo ra. Điều đó cho thấy trong 100 năm qua, người Nhật đã có ảnh hưởng lớn tới tư duy của người TQ. Họ đã làm phong phú Hán ngữ, góp phần rất quan trọng giúp TQ và các nước trong vành đai văn hóa Hán ngữ nhanh chóng tiếp thu văn minh phương Tây, đẩy mạnh tiến trình lịch sử về cải cách xã hội và văn hóa, chính trị, tiến lên con đường hội nhập quốc tế. Trở thành nước xuất khẩu Hán ngữ hiện đại, Nhật đã đóng vai trò cầu nối TQ và Việt, Triều với văn minh phương Tây. Những sáng tạo ngôn ngữ của họ rất đáng để chúng ta nghiên cứu học tập.

Dân tộc Nhật thời cổ không có chữ viết

Thời Chiến Quốc, chữ Hán truyền vào Nhật. Năm 600, Nhật Hoàng lần đầu tiên cử sứ giả triều đình sang thăm TQ thời nhà Tùy, kèm theo nhiều học sinh sang tìm hiểu, học tập về thể chế chính trị xã hội, giáo dục, văn hóa TQ. Thời Đường, từ năm 630 - 894 đã có gần 20 đoàn sứ giả Nhật sang TQ học tập. Họ học lấy học để mọi cái hay cái tốt của văn hóa Hán và mang về nước nhiều thứ, như kỹ thuật xây dựng, chế tạo vật liệu, luyện kim… rất nhiều thư tịch chữ Hán, nhất là thư tịch Phật giáo. Từ đó người Nhật bắt đầu mượn chữ Hán làm chữ viết cho nước mình, nhưng đọc theo âm tiếng Nhật và viết theo trật tự từ tiếng Nhật. Họ làm thế được vì chữ Hán là chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideograph), có thể đọc theo những âm khác nhau. Nhưng vì thứ chữ này không ghi âm được tiếng mẹ đẻ nên lúc đầu người Nhật chỉ dùng chữ Hán để viết, coi là thứ chữ của tầng lớp quan lại, quý tộc, trí thức, chủ yếu dùng trong công việc hành chính và văn học.

Thế kỷ 10, người Nhật sáng tạo ra chữ viết riêng của họ, gọi là chữ Kana (chữ Hán-Việt là Giả danh ), là những ký tự ghi âm tiếng Nhật, một loại chữ cái biểu âm bản thân không có ý nghĩa gì, được tạo ra từ một phần của chữ Hán, đơn giản hơn chữ Hán. Mới đầu chữ Kana được dùng để phiên âm chữ Hán, về sau phát triển hình thức kết hợp cả hai thứ chữ.

Cuối thế kỷ 19, trong quá trình giao lưu với phương Tây, người Nhật thấy việc dùng các từ ngữ văn ngôn của Hán ngữ TQ khó có thể biểu đạt được các khái niệm mới của văn hóa phương Tây. Vì thế một số học giả Nhật đã vận dụng vốn hiểu biết sâu sắc chữ Hán, tiến hành cải tạo từ ngũ cũ và tạo ra nhiều từ ngữ mới không có trong Hán ngữ, hoặc có nhưng với ý nghĩa khác, để thể hiện các khái niệm mới, sự vật mới chưa từng có trong văn hóa TQ . Ví dụ các từ hy vọng, trường hợp, phương châm, quyền uy, chi bộ, tôn giáo, dẫn độ, thủ tục … tổng cộng ngót nghìn từ ngữ ngày nay người TQ quen dùng đều là do người Nhật tạo ra.

Người Nhật còn đi đầu trong việc đơn giản hóa (bớt nét) những chữ Hán nhiều nét . Về sau người TQ đã tiếp thu cải tiến này và tiến hành đơn giản hóa chữ Hán với quy mô lớn, tạo ra hàng nghìn chữ giản thể (simplified character). Đại lục TQ hiện chỉ dùng chữ giản thể, không dùng chữ phồn thể (chữ đủ nét, complex character) như Hong Kong, Đài Loan.

Các sáng tạo của người Nhật đã góp phần không nhỏ phát triển, hoàn thiện Hán ngữ và được TQ (sau đó là Triều, Việt) tiếp thu, sử dụng nhuần nhuyễn tới mức ít ai biết đó là thành tựu của người Nhật. Không rõ vì sao các từ điển chữ Hán do TQ xuất bản đều không ghi xuất xứ Nhật của những từ đó. Gần đây các học giả TQ xới lại vấn đề này, nhưng một số người TQ có ý hạ thấp hoặc phủ nhận cống hiến của người Nhật.

Không thể phủ nhận, Nhật đã có ảnh hưởng tới TQ trên nhiều mặt, quan trọng nhất là đã có tác dụng mở ra cánh cửa giúp TQ tiếp xúc với văn minh phương Tây.

Thời Minh Trị (1868-1912), Nhật đẩy mạnh mở cửa tiếp thu văn minh phương Tây chứ không đóng cửa “bế quan tỏa quốc” như TQ, Việt Nam. Khi thấy được tính ưu việt của văn minh phương Tây, người Nhật bèn dứt khoát bỏ ngay ông thầy Tàu mà họ đã học mấy nghìn năm để học ông thầy Tây, ồ ạt cử thanh niên sang Âu Mỹ học tập, giới trí thức Nhật say sưa đọc và dịch hầu như toàn bộ các sách có tính khai sáng của Âu Mỹ. Rất nhiều khái niệm mới, phần lớn là khái niệm trừu tượng, được họ dịch ra chữ Hán, qua đó phát huy được tác dụng biểu ý thâm sâu vốn có của chữ Hán (trong khi bán đảo Triều, Việt bắt đầu loại bỏ chữ Hán). Giới học giả Nhật đã chuyển ngữ sang chữ Hán một cách rất hiệu quả những từ ngữ phương Tây thể hiện các khái niệm mới người châu Á chưa từng biết, chủ yếu về y học, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội-nhân văn.

Năm 1898, hai học giả lớn đại biểu phái Duy Tân TQ là Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu đến Nhật. Trong thời gian ở đây, Khang Hữu Vi đã dịch sách Nhật và ra một tờ báo chữ Hán phát hành về TQ, trong đó ông đã dùng các từ chữ Hán do người Nhật sáng tạo.

Nước Nhật sau chiến thắng tiêu diệt hạm đội Nga tại eo biển Tsushima (1904) đã trở thành tấm gương sáng của châu Á. Giới tinh hoa TQ đua nhau sang Nhật học tập, hoạt động: Tôn Trung Sơn, Chu Ân Lai, Lỗ Tấn, Tưởng Giới Thạch, Quách Mạt Nhược… hầu hết các nhân vật chủ chốt của phong trào Tân Văn hóa TQ đều từng học ở Nhật. Họ đã mang về nước những từ ngữ chữ Hán được người Nhật chuyển ngữ từ ngôn ngữ phương Tây. Ví dụ chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Marx, triết học,… Từ ngoại lai nguồn gốc Nhật ồ ạt tràn vào TQ. Người TQ tiếp thu gần như toàn bộ số từ này và lâu ngày biến thành từ Hán ngữ 100%. Các thế hệ người TQ về sau hầu như không thể biết các từ ngữ đó là do người Nhật sáng tạo.

Thời ấy TQ cũng bắt đầu dịch sách của phương Tây. Hồi đó các học giả TQ có ba quan điểm về vấn đề này:

1. Người TQ nên cố hết sức tự phiên dịch, không nên du nhập vô điều kiện các từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật.

2. TQ nên mượn dùng từ ngữ người Nhật đã dịch.

3. Nên dịch âm, tức phiên âm tiếng nước ngoài mà không dịch nghĩa.

Tiêu biểu cho quan điểm thứ nhất là Nghiêm Phục (Yan Fu, 1853-1921), nhà tư tưởng, nhà phiên dịch nổi tiếng từng học ở Anh, người đề xuất lý luận Tín, Nhã, Đạt có ảnh hưởng lớn trong giới phiên dịch ở TQ. Ông đã dịch cuốn Evolution and Ethics (Tiến hóa và Đạo đức, của Thomas Huxley), lấy tên sách là Thiên diễn luận , lần đầu tiên giới thiệu cho người TQ biết một lý thuyết khoa học tiên tiến: thuyết Tiến hóa. Trong quá trình dịch, do quá chú trọng Nhã (là yêu cầu khó nhất), nhiều từ do ông dịch tỏ ra tối nghĩa khó hiểu, không được dư luận TQ chấp nhận sử dụng.

Học giả nổi tiếng Vương Quốc Duy (Wang Guo-wei, 1877-1927) đại diện quan điểm nên dùng từ ngoại lai gốc Nhật, nhằm tiết kiệm công sức cho người TQ. Theo ông, người Nhật dịch quá hay, trong khi người TQ dịch thiếu sáng tạo. Quan điểm trên được thực tế chứng minh là đúng: người TQ (và cả VN, Triều Tiên) đều dùng các từ Nhật dịch.

Trương Sĩ Chiêu (Zhang Shi-zhao, 1881-1973, từng học ở Nhật và Anh) đại diện cho chủ trương phiên âm từ ngữ tiếng nước ngoài, nhưng vì những từ phiên âm đó đọc không thuận miệng nên về sau cũng đều bị đào thải. Ví dụ telephone TQ dịch âm là 德律 风 [de lu feng], sau phải nhường chỗ cho từ điện thoại do Nhật dịch. Người Nhật cũng có chủ trương dịch âm, ví dụ từ club họ dịch sang Hán ngữ là câu lạc bộ , rất đạt cả về âm, hình, ý. Nhưng cũng có những từ Nhật dịch không được TQ chấp nhận, như cholera (dịch tả), Nhật dịch âm là 虎列拉 [hu lie la], được TQ dùng khá lâu nhưng về sau thay bằng từ 霍乱 [hu luan] do TQ dịch. Hoặc logic Nhật dịch là luân lý , xem ra không đạt; về sau Nghiêm Phục dịch là 逻辑 [luo ji], đạt cả về âm, hình, ý. Từ này về sau đã truyền vào Nhật.

Giới học giả Nhật chủ yếu dùng hai cách sau để dịch từ ngữ phương Tây:

1. Gán thêm hàm nghĩa mới vào những từ ngữ có sẵn trong Hán ngữ, dần dần làm các từ ngữ đó mất ý nghĩa cũ. Ví dụ Nhật dùng xã hội dịch từ society; trong Hán ngữ cổ, xã hội là nói việc tụ tập cúng tế vào mùa, mùa thu. Nhật cũng dùng từ dân chủ trong từ ngữ thứ dân chi chủ tể 庶民之主宰 để dịch khái niệm democracy hoàn toàn ngược lại.

2. Sáng tạo từ ngữ chữ Hán hoàn toàn mới, cách này dùng nhiều nhất. Khi từ ngữ phương Tây không có khái niệm tương ứng trong Hán ngữ, người Nhật bèn tự đặt ra từ chữ Hán mới. Ví dụ nổi tiếng nhất là từ điện thoại đã thay cho từ 德律 风 . Các danh từ trừu tượng lại càng nhiều, như dân tộc, cá nhân, khoa học, triết học

Có thể thấy người Nhật có xu hướng ưa dùng từ kép ( song tự từ ) gồm hai chữ, có ưu điểm ngắn gọn, dễ nhớ, ví dụ: nhân dân, phục vụ, chính phủ, cán bộ

Thực ra khi tiếp xúc với các nguyên tác của phương Tây, người TQ cũng đã dùng tư duy của mình để sáng tạo một số khái niệm. Điển hình là Nghiêm Phục. Ví dụ economy , người Nhật dịch là kinh tế , ông dịch là kế học ( 计学 ) . Evolution Nhật dịch là tiến hóa , ông dịch là thiên diễn ( 天演 ). Philosophy Nhật dịch là triết học , ông dịch là lý học ( 理 ). Capital Nhật dịch tư bản , ông dịch mẫu tài ( 母材 ). Metaphysics Nhật dịch hình nhi thượng học ( 形而上学 ), ông dịch huyền học ( 玄学 )… Nghiêm Phục từ chối dùng từ xã hội (Nhật dịch từ society ), mà ông dịch là quần ( 群 ), xã hội học quần học ( 群学 ) . Người TQ cho rằng cách dịch nói trên của Nghiêm Phục chưa hợp lý. Có lẽ người Việt chúng ta cũng nghĩ như vậy.

Rốt cuộc các từ dịch của Nhật giản đơn dễ hiểu nên được người TQ ưa dùng hơn. Từ đó các từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật biến thành từ TQ. Vương Quốc Duy cho rằng cách dịch của Nghiêm Phục sở dĩ không được dư luận chấp nhận, chủ yếu do ông quá chú trọng nhã , chú trọng văn dịch phải đẹp, dùng những từ Hán cổ khó hiểu. Tuy vậy, Nghiêm Phục vẫn chấp nhận một số từ Nhật dịch, ví dụ tự do (dịch từ liberty freedom ).

Có học giả TQ đặt vấn đề: Cùng một thuật ngữ phương Tây khi đến TQ và Nhật được dịch thành hai loại từ có mùi vị khác xa nhau, cuối cùng kết thúc bằng việc từ TQ dịch ( Trung dịch ) thua, từ Nhật dịch ( Nhật dịch ) thắng. Tại sao lại như vậy, điều này rất đáng suy ngẫm!

Năm 1898, Lương Khải Siêu dịch tiểu thuyết Nhật “Giai nhân chi kỳ ngộ” ra Hán ngữ, đánh dấu sự bắt đầu du nhập TQ của các từ ngoại lai đến từ Nhật. Năm 1998, nhân kỷ niệm 100 năm sự kiện này, một số học giả TQ đặt câu hỏi: Trong thời gian ấy nếu không sử dụng các từ ngoại lai gốc Nhật mà chỉ dùng những từ do Nghiêm Phục dịch, thì người TQ hiểu và suy nghĩ như thế nào về các khái niệm du nhập từ văn minh phương Tây? Và điều đó có ảnh hưởng ra sao tới tiến trình lịch sử của TQ? Cụ thể, nếu các khái niệm chính trị, kinh tế, văn hóa, cách mạng, giai cấp, xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa … đổi sang một phương thức khác xuất hiện trước mắt người TQ, phải chăng sự hiểu biết, cảm thụ của người TQ đối với các khái niệm đó sẽ có biến đổi?

Chữ Hán là của người TQ, người Nhật chỉ mượn dùng. Nhưng khi tiếp xúc với văn minh phương Tây, người Nhật dám mạnh dạn dịch từ ngữ chữ Tây ra chữ Hán-Nhật, còn người TQ thì ngại làm điều đó, chủ yếu do người TQ có tâm lý không dám động đến chữ Thánh hiền của tổ tiên mình. Mặt khác vì nhà nước Nhật đối ngoại thi hành chính sách mở cửa hòa nhập, học cái hay cái tốt của thế giới, đối nội đẩy mạnh giáo dục quốc dân. Trái lại phong kiến TQ vốn cho mình là trung tâm tinh hoa thế giới, coi thường người nước ngoài, đối ngoại thi hành chính sách đóng cửa, đối nội thi hành đường lối ngu dân, dĩ nhiên không khuyến khích học phương Tây, vì thế tất nhiên TQ đi sau Nhật về mặt dịch ngôn ngữ Âu Mỹ.

Ban đầu các học giả Nhật cũng chưa thống nhất cách dịch từ ngữ phương Tây. Ví dụ từ literature họ dịch là văn chương học văn học , sau cùng văn chương học bị đào thải. Từ art mới đầu dịch là nghệ thuật/ mỹ thuật/ văn học kỹ nghệ , mãi cho tới đầu thế kỷ 20 từ nghệ thuật mới chiếm vị trí thống lĩnh. Từ individual vất vả hơn cả, mới đầu dịch là nhất cá nhân , sau dịch là độc nhất giả/ nhân/ độc nhất cá nhân/ tư nhân … mấy từ này đồng thời được dùng trong một thời gian dài, cuối cùng từ cá nhân thắng.

Nhưng từ nửa cuối thế kỷ 20 trở đi, khi cần chuyển ngữ các từ ngữ phương Tây, người Nhật lại ngại chuyển sang chữ Hán (là loại chữ biểu ý khó học khó nhớ) mà dùng cách dịch âm và thể hiện bằng chữ Katakana, một loại chữ biểu âm (chữ ghi âm, phonography). Ví dụ: máy tính họ dùng computer , nhà báo dùng journalist , thịt cừu dùng lamb , và rất nhiều từ khác như bus, taxi, sex, fax, pizza, goods … Người nước ngoài biết tiếng Anh chỉ cần biết các chữ cái Katakana là có thể đọc hiểu khá nhiều từ tiếng Nhật. Một số học giả TQ cũng tán thành cách chuyển ngữ như vậy, vì đỡ mất công suy nghĩ chọn từ chữ Hán; vả lại tiếng Anh đã quốc tế hóa trên toàn cầu.

Từ thập niên 70 thế kỷ 20 tới nay là thời kỳ từ ngoại lai nguồn gốc Nhật lần thứ hai du nhập vào TQ. Sau khi TQ lập quan hệ ngoại giao với Nhật (1972) và bắt đầu cải cách mở cửa, nhiều từ tiếng Nhật, cách dùng từ, phương thức biểu đạt của người Nhật bắt đầu xuất hiện trong tiếng TQ, như 卡拉 OK (Karaoke: không có ban nhạc/ orchestra), 料理 (món ăn), 写真 (tả thật, vẽ chân dung), 欧巴桑 (obasan, từ chỉ phụ nữ trung niên trở lên), 卡哇伊 (kawayi, đáng yêu) v.v…

Sự du nhập ấy ban đầu qua Hong Kong, Đài Loan, hiện nay trực tiếp vào TQ qua mạng Internet. Hầu hết các từ ngoại lai nguồn gốc Nhật gần đây du nhập vào TQ đều có liên quan với ACG (Animation, Comic, Game: phim hoạt hình, tranh hoạt họa, trò chơi máy tính), chủ yếu do giới trẻ TQ chủ động tiếp thu. Qua đó đã làm giàu vốn từ và sức biểu đạt của Hán ngữ, đồng thời các khái niệm và tư tưởng mới cũng du nhập vào TQ.

Một số học giả TQ khẳng định sự ồ ạt du nhập các từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật đã ảnh hưởng tới tiến trình lịch sử hơn 100 năm qua của TQ. Họ cũng tranh luận về mức độ ảnh hưởng của nguồn từ ngoại lai đó. Bài Vấn đề “Từ ngoại lai” Nhật ngữ trong Hán ngữ hiện đại của GS Vương Bân Bân (Wang Bin-bin) ở Khoa Trung văn ĐH Nam Kinh đăng trên tạp chí Văn học Thượng Hải số 8/1998 khẳng định 70% danh từ, thuật ngữ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn hiện nay TQ dùng là nhập từ Nhật. “Trên thực tế, nếu rời khỏi các từ ngoại lai Nhật ngữ thì ngày nay chúng ta gần như không thể nói chuyện được” - ông viết.

Hiện tượng các từ ngữ chữ Hán do người Nhật sáng tạo ồ ạt du nhập TQ và được người TQ dễ dàng tiếp nhận cho thấy văn hóa Nhật có sức đồng hóa rất mạnh. Có học giả TQ cho rằng nếu trong Thế chiến II Nhật chiếm được toàn bộ TQ thì có lẽ người TQ đã biến thành người Nhật.

Một số dân mạng TQ cho rằng nói từ ngữ ngoại lai gốc Nhật chiếm tỷ lệ 70% là nịnh bợ Nhật, là hủy hoại nền văn minh Trung Hoa 5.000 năm; họ khó chấp nhận kết luận “ Trung dịch thua, Nhật dịch thắng”. Ngược lại, nhiều học giả TQ cho rằng chẳng có gì đáng xấu hổ khi thừa nhận đóng góp của người Nhật đối với sự phát triển Hán ngữ.

Giải Nobel Văn học 2017 thuộc về nhà văn Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro

Vào ngày 5/10, Hội đồng giải thưởng Nobel của Thụy Điển đã công bố giải Nobel Văn học 2017 thuộc về nhà văn Kazuo Ishiguro mang quốc tịch Anh.

Kazuo Ishiguro là “người trong những cuốn tiểu thuyết vũ bão cảm xúc, đã mở ra vực sâu bên dưới cảm xúc mơ hồ về sự liên kết với thế giới của chúng ta”.

Kazuo Ishiguro sinh ngày 8/11/1954 tại Nagasaki, Nhật Bản. Gia đình ông chuyển tới Anh khi ông lên năm tuổi và ông chỉ trở về thăm nơi chôn rau cắt rốn của mình khi đã trưởng thành.

Vào cuối những năm 1970, ông tốt nghiệp ngành Tiếng Anh và Triết học tại Đại học Kent, và sau đó tiếp tục theo học ngành Sáng tác tại Đại học Đông Anglia. Kazuo Ishiguro chính thức chuyển hẳn sang nghiệp viết lách từ sau khi ra mắt cuốn sách đầu tiên A Pale View of Hills (1982). Cả cuốn tiểu thuyết và cuốn tiếp theo An Artist of the Floating World (1986) lấy bối cảnh ở Nagasaki vài năm sau Thế chiến II. Và tác phẩm nổi tiếng The Remains of the Day (Điều còn lại trong ngày).

Các chủ đề trong sách của Ishuguro hầu hết đều là về: ký ức, thời gian và ảo tưởng. Điều này đặc biệt thấy rõ trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông The Remains of the Day (1989), tác phẩm sau đó đã được chuyển thể thành phim với Anthony Hopkins đóng vai người quản gia Stevens.

Ngoài 7 cuốn tiểu thuyết, Ishiguro đã xuất bản 5 truyện dài, 4 kịch bản phim và 7 lời bài hát. Tại Việt Nam, có thể đọc tác giả Nobel 2017 qua những bản dịch Never let me go ( Mãi đừng xa tôi), Dạ khúc: Năm câu chuyện về âm nhạc và đêm buôngNgười khổng lồ ngủ quên.

Năm ngoái, giải Nobel Văn học đã thuộc về nhà biên kịch, ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng người Mỹ Bob Dylan vì đã tạo ra “những biểu đạt thi ca mới trong âm nhạc truyền thống của Mỹ”. Dylan, 75 tuổi, là một trong những nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất tới nền âm nhạc nói riêng và văn hóa thế giới nói chung trong nhiều thập kỷ gần đây. Phần thưởng cho các giải Nobel năm nay là 9 triệu krona Thụy Điển (1,1 triệu USD). Lễ trao các giải Nobel 2017 sẽ được tổ chức tại thủ đô Stockholm của Thụy Điển vào ngày 10/12 để tưởng nhớ ngày mất của Alfred Nobel. Riêng giải Nobel Hòa bình sẽ do Na Uy trao tặng.

Đã có tới 3 nhà văn gốc Nhật Bản từng vinh dự nhận giải Nobel văn học.

Chỉ vừa mới hôm qua, Kazuo Ishiguro đã được vinh danh giải thưởng Nobel văn học năm 2017. Đây là nhà văn thứ 3 có dòng máu Nhật Bản được vinh danh giải thưởng cao quý này. Trước đó, hai nhà văn Kawabata Yasunari và Kenzaburō Ōe nhận được giải Nobel Văn học, lần lượt vào năm 1968 và năm 1994.

LỜI KẾT

NHẬT BẢN hãnh diện vì sáng tạo ra Từ ngữ về Khoa học kỹ thuật để chúng ta sử dụng. Người Nhật không chỉ vay mượn một chiều mà từ cuối thế kỷ 19 còn dùng chữ Hán để sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới tương ứng với các khái niệm khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội-nhân văn hiện đại trong văn minh phương Tây . Những từ ngữ chưa từng có trong Hán ngữ ấy lại du nhập về TQ, trở thành một phần quan trọng trong Hán ngữ hiện đại của người TQ, được người TQ, Việt, Triều sử dụng một cách phổ biến và quen thuộc tới mức rất nhiều người không biết đó là những từ ngữ đến từ Nhật mà vẫn tưởng là của TQ. Người Việt chúng ta cũng ngộ nhận biết bao từ ngữ Hán Việt về khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội - nhân văn hiện đại là từ Hán Văn (Trung Văn) chứ không biết sự thật là những từ ngữ đó do Nhật Bản sáng tạo thông minh từ Hán Ngữ hiện đại - mà chính Tàu cũng phải sử dụng gần 70% từ ngữ này.

Nhiều năm nay, mỗi khi đến mùa giải Nobel lại có vô số người TQ hồi hộp phấp phỏng dự đoán… Thực ra đã có một số người sinh ra ở TQ, như Lý Chính Đạo và Cao Côn sinh ở Thượng Hải v.v... được trao giải Nobel, chỉ có điều họ đều mang quốc tịch nước ngoài - điều này lại càng khó hiểu.

Trước mùa giải Nobel năm nay, TQ lại nẫu lòng nẫu ruột thấy một lần nữa giải Nobel vẫn không đến với đất nước 1,3 tỷ dân, có nền văn minh 5000 năm này. Họ ngạc nhiên, buồn bã và chua xót khi thấy 3 người Nhật soán giải Nobel Vật lý. Một nước Nhật “đồng văn đồng chủng” có số dân chỉ bằng 1/10 TQ, thời xưa từng tôn nền văn minh của người Hán làm thày, nay đã có 19 người được trao giải Nobel Khoa học, trong khi TQ chưa có lấy một. Mạng Tân Hoa 8/10 viết: Nếu chỉ nói Nhật đoạt nhiều giải Nobel là do họ chú trọng nghiên cứu cơ bản, bảo đảm đủ kinh phí nghiên cứu khoa học và có truyền thống coi trọng giáo dục thì chưa đủ, vì như thế đã bỏ qua nhân tố con người, chế độ và môi trường văn hóa.

Hơn nữa, Kazuo Ishiguro cũng được vinh danh giải Nobel văn học năm 2017.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)


CON NGƯỜI
ĐÃ SINH RA LÀ PHẢI SỐNG

Chỉ có một nguyên do duy nhất
Từ chu trình tạo hóa
Ta đã có mặt trong cuộc đời
Hiện thể hình hài mang dáng dấp
Một kiếp người
Mặc nhiên bị hoặc được ném vào dòng hư huyễn

Thăng trầm xoay trượt hố hầm bồi lở
Luôn hiện hữu trên những chặng đường ta qua
Không hiếm khi ngã tưởng chừng như chấm hết
Nhưng còn hơi thở ta còn phải đứng dậy
Vịn tay chống gối bám vào bất cứ gì có thể
Dù phải lê từng chút dù phải nhích từng phân
Thì rồi cưối cùng ta vẫn bước tiếp

Không một ai được chọn lựa
Bất kể những gì có thể nắm trong tay
Ngẫu nhiên đến ngẫu nhiên đi
Ngẫu nhiên còn ngẫu nhiên mất
Đôi lúc ngỡ đã chạm đến tận cùng
Nhưng chỉ cần qua một hẻm nhỏ
Là kia rồi con đường lớn thênh thang

Có thế nào thì một khi đã được sinh ra
Dẫu bản thân rẫy đầy tròn khuyết
Thì nên biết
Vạn vạn người cũng tương tự vậy thôi
Những hơn kém những mạnh yếu những thuận nghịch
Tạo hóa chia đều thành những phần nhỏ
Cấp phát tùy nghi làm vốn liếng

cho cả một chặng trình

Để người ta lại mải miết đi tìm
Những gì mình khao khát

Cứ để ý mà xem
Mỗi mỗi người luôn có những cái được trong giới hạn
Mỗi mỗi người luôn có những cái mất vừa phải
Đó là lý do cho con người ta tồn tại
Để vận hành để trật trầy lăn lóc
Để bươi móc cấu cào
Tìm cho được thứ gì mà mình xem là lóng lánh
Có thể mãn nguyện có thể chưa
Nhưng chẳng bao giờ là dừng lại

Để rồi bỗng một khi bất kỳ dài ngắn
Duyên cùng nghiệp tận
Chấm dứt một làn hơi
Ngay duỗi một thân hình
May chăng còn chút gì hay dở cho cuộc đời nhắc nhớ

Vậy nên
Dù đẹp dù xấu
Dù hay dù dở
Dù lành dù khuyết
Con người
Đã sinh ra là phải sống.

ĐÀM LAN

GỌI MÃI TÊN NHAU

Thương quá vầng trăng sáng rạng ngời

Lẻ loi sướt mướt giữa trùng khơi

Ai biết tình trăng sầu muôn lối

Một vầng trăng lạc, gió chơi vơi…

*

Lặng im tỏa sáng khắp trời trong

Tròn khuyết hư hao bóng chị Hằng

Đan mây đùa gió tình như mộng

Trăng hỡi ! Tình trăng có mặn nồng ?

*

Đêm thu trăng lạnh lẽo bơ vơ

Cửa sổ nhà ai cài song thưa

Hồng hoa rơi rụng ngoài hiên vắng

Cơn gió nào qua rất hững hờ…

*

Tìm nửa vầng trăng lạc lõng đâu

Tháng ngày mòn mỏi bạc phai màu

Canh khuya vò võ sầu hiu quạnh

Âm thầm còn gọi mãi tên nhau…

Phạm Thị Minh-Hưng

23-4-2018

TÌM AI

Tình như thác đổ cuồng lưu

Trắng trong dòng nước lưng đèo suối reo

Đá sừng sững cây cheo leo

Tìm ai ẩn khuất hắt hiu mịt mù

Có ai không - mãi đợi chờ ?

Thời gian lẫn với hững hờ không gian

Tìm ai trong buổi chiều tàn

Cho lòng hoang dại ngút ngàn nhớ nhung !

Tìm ai thơ thẩn chiều buông

Tìm ai lối cũ cỏ mòn dấu chân

Rừng chiều lạc bước bâng khuâng

Ơ thờ mây tím hoàng hôn rũ buồn

Rong rêu mòn mỏi nhớ mong

Cánh chim biền biệt biết trông phương nào ?

Tìm ai biển nhớ dạt dào

Chiều buồn hiu hắt tình nào có hay !

Phạm Thị Minh-Hưng

Nhạc dế

Lá vàng cũ nẩy mầm xanh ngọc bích

Vườn hân hoan đón đợi ánh bình minh

Phút chuyển mình, vũ trụ quá anh linh

Tia nắng ấm chan hòa - Ngày tuyệt mỹ

*

Ôi tiếng nhạc ngân tự thời nguyên thủy

Thật u huyền, lắng đọng - Khúc giao duyên

Tán thưởng cuộc đời - Ca ngợi thiên nhiên

Vui réo rắt thổi căng phồng nhựa sống

*

Nhạc văng vẳng tung mình trong gió lộng

Nhạc tưng bừng mơ ước mộng đoàn viên

Tiếng nhạc dìu hạnh phúc tuổi hoa niên

Nhạc rộn rã say sưa bừng ý lạ.

*

Thảm cỏ nhung dịu mềm chân thật quá

Đã chở che chàng nhạc sĩ tài hoa

Cung nhạc lòng trầm bổng mượt trăng ngà

Êm như mộng ngọt ngào như sữa mẹ

*

Nhạc bất diệt trải qua bao thế hệ

Khung trời tình hợp tấu, trổi du dương

Cõi trần gian hay lạc chốn thiên đường

Mà tuyệt diệu, vút cao, ngân rạng rỡ

*

Lúc e ấp lắng chùng như bỡ ngỡ

Lúc hân hoan vời vợi xé không gian

Lúc trầm tư, u ẩn, lúc mơ màng

Ôi tiếng nhạc thanh bình khơi mạch sống.

NGÀN PHƯƠNG

Cám ơn

từng cánh Phượng hồng

Sân trường rực lửa - Phượng đơm hoa

Gợi quãng thời gian đẹp mặn mà

Lắng đọng niềm tin thầy với bạn

Đong đầy nỗi nhớ mẹ cùng cha

Tri âm lưu luyến tràn tâm sự

Tri kỷ hàn huyên thật thiết tha

Mơ ước, thân thương trăn trở mãi

Nghẹn ngào rưng lệ lúc chia xa.

NGÀN PHƯƠNG

CẢM XÚC BẤT CHỢT

Nhân đọc bài thơ

Chiều Ly Hương Nhớ Núi và Tiếng Lục Lạc

của nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm

Ngóng mãi quê nhà xa ngút ngút

Chiều sương bóng núi ngã bên kia

Haha! Tráng khí trao cho gió

Nhạc ngựa reo hoài giữa giấc khuya !

*

Bằng hữu bao nhiêu thằng tuổi ngựa

Bờm rung vó sải mãi bên trời

Tóc xanh môi thắm không còn nữa

Mà vẫn miệt mài với cuộc chơi

*

Đất nước giá chừng còn chỗ đậu

Thì đâu phải nhắc mãi quê hương

Ly hương ngay giữa lòng quê quán

Khuôn mặt nào cười cũng thấy thương

*

Haha! Thôi nhắc làm chi nữa

Kiếm gỗ khăn bông giả áo bào

Quất ngựa tàu cau hò khản tiếng

Giật mình tỉnh thức ngỡ chiêm bao

*

Vốn biết đời không còn tráng sĩ

Sao nghe ngựa hí mãi trong lòng

Câu thơ không giúp người cô thế

Chỉ dỗ gạt người mộng viễn vông

*

Ta về lần đó nghiêng đầu bạc

Mồ mả cha ông đã đổi dời

Giếng xưa đã lấp dòng long mạch

Ngoảnh đầu bóng núi cũng xa xôi

*

Giá như lên được trên đầu núi

Thì ngó phương nào chẳng thấy quê

Hỡi ơi khuất bóng nàng Tô Thị

Ai đứng đầu non đón kẻ về ?

Thiếu Khanh

(Sàigòn 10.4.2018)

EM CÓ BIẾT

Em có biết vườn hoa đang nở rộ
Những bông hoa muôn sắc thỏa thuê cười
Những cánh lá hờ hững giả vờ rơi
Và chúm chím nụ hồng môi chưa tỏ…

Em có biết chàng chim trời bỡ ngõ
Khi lạc vào rồi quên cả lối ra
Chàng những tưởng chỉ là chút ngẩn ngơ
Nhưng khờ dại đã lẻn vào trong mắt…

Em có biết lũ sâu đi biền biệt
Vì bướm ong từ sớm đã dặt dìu
Và rình rập khi đêm đến đìu hiu
Tiếng của gió hay bướm ong thoảng cánh ?

Em có biết dù mùa đông hoang lạnh
Chị em hoa vẫn ấm áp quây quần
Hay hạ về rừng rực lối trên sân
Hoa chen lá vẽ cho trời dìu dịu…

Em có biết khi xuân cười ngặt nghẽo
Thì thật ra là làm nũng mà thôi
Chẳng khác chi thu làm lá vàng rơi
Là lộ liễu những hàm răng hoa nhớ…

Em có biết tà áo dài nhung nhớ
Còn phấn son bằng e lệ nụ, hoa
Huống cuộc đời sẽ nhiều ít phôi pha
Lại không muốn nhuốm hoa cài trên áo ?

Em có biết dưới chân rừng thơm thảo
Của nào hoa, nào bướm, của chim trời
Có một nhánh, một nhánh thật bé thôi
Đang ăm ắp vươn lên, ngun ngút thở…

Em có biết bé nhìn trời sặc sỡ
Là áo dài hương sắc lẫn mộng mơ
Là ngàn hoa, là nhành lá phởn phơ
Là mai mốt đây, bé tự hào rồi sẽ là như thế…

LAM TRẦN

GIỄU ĐỜI

Nực cười chân khỉ đá chân voi

Đá mãi lòi ra mấy ổ vòi

Anh Rớm tức mình sờ chị Rợm

Thế là cả bọn hể ha thôi

*

Trâu nghé cụng đầu với đực già

Một bên lõ trán, bên trầy da

Xỏ xiên tréo cẳng đôi sừng trợt

Mệt mỏi thằng chăng đập chổi chà.

LANG NGUYÊN

MONG TRỞ LẠI

Sức khỏe nhiều năm đã kém xa

Dầm mưa dãi nắng, mãi lo nhà

Quên đi bản nhạc ta cùng hát

Nhớ lại lời bình với bạn ca

Bước tới năm mươi ai bảo trẻ

Thụt lùi mười tám mới chưa già

Mênh mang trước mắt đời tươi đẹp

Dừng bước giang hồ ngắm bướm hoa.

LANG NGUYÊN

NẮNG XUÂN

Nắng xuân chiếu sáng hương quê

Lượn quanh cánh bướm, tóc thề mượt nhung

Thướt tha yểu điệu chân dung

Nụ cười thân ái, trẻ trung ban đầu…

*

Nắng xuân đẹp đẽ từ lâu

Bao nhiêu kỷ niệm nối cầu mến thương

Hoa kia tỏa sắc, thơm hương

Vì ai duyên dáng, mà vương tơ lòng

*

Nắng xuân âu yếm mênh mông

Duyên từng câu nói, ấm lòng vị tha

Cùng nhau gắn bó ngày qua

Dõi theo như ánh hằng nga trên trời

*

Nắng xuân gởi ấm về nơi

Cho thơ lưu luyến, cho đời thêm vui

Trao nhau những phút ngọt bùi

Dù cho cách trở tới lui mặc tình.

Thanh Châu

CẢM XUÂN

MẬU TUẤT (2018)

Mừng đón xuân về chó sủa rân

Trời quê tươi đẹp sáng trong ngần

Ru hồn thơ cũ gieo vần mới

Cụng chén men nồng kết bạn thân

Chí cả không sờn khi quốc biến

Lòng son chẳng thẹn lúc gia bần

Lập trường nhân bản lòng kiên định

*

Phớt tỉnh tuồng đời cảnh giả chân

Phớt tỉnh tuồng đời cảnh giả chân

Lạc quan cuộc sống tiến lên dần

Diệt trừ tham nhũng bền tâm chí

Thanh lọc chính quyền toại ý dân

Quốc tế bang giao hòa hội nhập

Quê hương kiến tạo quyết canh tân

Tương lai thắp sáng mừng năm mới

Thực hiện ước mơ chẳng ngại ngần.

THANH VĨNH

BUỒN CHÚT THÔI

Hôm nay cửa tiệm ngắm mưa rơi

Lốp đốp mái tôn trời tối rồi

Vắng khách mua đồ do mưa gió

Một mình trông hàng nhìn mưa ôi !

*

Đường vắng thưa người phải chịu thôi

Bán buôn đắt ế do ông trời

Khách hàng không đến để ngày mai

Chẳng lo chi nhiều cứ triển khai

*

Mở cửa bình thường cho cô bác

Cơn mưa nào cũng dần tàn thôi

Có nước cây cỏ tốt xanh tươi

Cám cảnh cuộc đời mình đơn côi

*

Buồn mà chi nên vui sống khỏe

Cuộc đời tạm đủ không thích khoe

Cửa nhà có được cũng nhờ quán

Đất trời mưa nắng chẳng bận gì.

QUANG BỈNH 2017

MỘT CÕI ĐI VỀ

Một mình lặng lẽ bước lang thang

Như lá thu rơi - rất nhẹ nhàng

Xao xác cành cao chim gọi bạn

Chập chùng sương khói tỏa mênh mang

*

Ta thấy ta làm mây trên cao

Vươn mình len lỏi giữa trăng sao

Hóa thân làm suối khoe muôn sắc

Và biến thành sông chảy dạt dào

*

Ta thả hồn theo những cánh chim

Ngàn năm thương nhớ mãi đi tìm

Tìm trong kỷ niệm xa xưa ấy

Một thoáng hương yêu đã lắng chìm

*

Ta lạc đường đi giữa bến mê

Gió trăng lơi lả bóng hoa kề

Chập chờn liễu rủ, sương giăng mắc

Như bóng hoa thiêng bỗng hiện về

*

Đất, trời, mây, nước ở trong ta

Sâu, kiến, chim muông cũng ruột rà

Máu trở về tim, sông nhớ biển

Sương trên lá cỏ nhớ giang hà

*

Người chết làm phân bón cỏ cây

Cỏ cây nuôi dưỡng cái thân này

Thân này hoại diệt sanh thân khác

Qua lại trầm luân kiếp trả vay

*

Trả vay, vay trả đã bao đời

Biết đến bao giờ được thảnh thơi

Chắp cánh tung bay về đất hứa

Thả hồn trên bến mộng chơi vơi…

THANH PHONG

THƯƠNG

NHỮNG CON CHIM

Cái ác lòe loẹt son phấn

Sự trống rỗng khoác bộ cánh mỹ miều

Không gian vang lời ngon ngọt

Dối gian, nịnh hót, lọc lừa

*

Chỉ thương kẻ nghĩa tình chân thật

Như những con chim cả tin, ngây thơ

Sẽ bị chết bởi cái bẫy sẵn chờ

Được phủ kín bằng những lời đường mật.

LÊ MINH CHỬ

ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN

CHÁY CHUNG CƯ CARINA

Giữa thực tế tiêu cực không mong đợi

Mà chúng ta phải đối mặt hàng ngày

Vẫn lấp lánh những tấm lòng nghĩa hiệp

Xả thân vì đồng bào lẩn khuất đâu đây

*

Trong lúc mọi người ở chung cư

Tìm mọi cách thoát khói lửa ngút trời

Thì có những con người, ngược lại

Họ lao vào đám cháy cứu người

*

Trong hoạn nạn mới biết ở đời

Còn có những con người âm thầm

Tự nguyện chăm sóc và chia sẻ tấm lòng

Xoa dịu bớt nỗi mất mát thương tâm

*

Hiểu sâu hơn thế thái nhân tình

Cái cao cả phải trả giá bằng mất mát hy sinh

Thêm bất bình vì bao người chết oan

Bởi lòng tham và tắc trách ai đó liên quan

*

Mọi người có quy᳁n được đảm bảo an toàn

Có lẽ nào cứ phải sống dài lâu

Trong nỗi bất an thấp thỏm lo âu

Những vấn đề chúng ta có thể hạn chế được.

LÊ MINH CHỬ

ĐIỆP KHÚC

TÌNH YÊU

Chiều trên phố yêu htương

Nhớ gì sao nhớ thế

Yêu em - em yêu ơi

Thành phố vui hạnh phúc

Sài Gòn đầy sao đêm

Em yêu thương dạ khúc

Tình yêu của em tôi

Nồng thắm suốt cuộc đời

Em bông hồng tình ái

Thơm ngào ngạt hương say

Em tình yêu bất tử

Bằng Lăng tím đong đầy

Rộn ràng hương hoa Sữa

Hoa Phát Tài đua nở*

Tình yêu đẹp say sưa

Có em yêu rực rỡ

Mãi yêu xuân ngẩn ngơ

Tình ta thêm điệp khúc

Duyên dáng thắm tình thơ.

PHÙNG CHÍ TÂM

* Năm 1998 - Đông Xuân cả nước hoa Phát Tài đua nở

ĐÊM TÌNH NHÂN

Nào có hẹn đâu có chờ đâu

Mà như là đã hiện phép màu

Giữa trời băng tuyết Hoàng Liên đó

Ngày Tình nhân đến ta có nhau

*

Vườn đào chịu rét ngoài khung cửa

Sương nặng hạt rồi lất phất mưa

Bếp sưởi ai quên chưa chụm lửa

Lửa nào bằng lửa ấm em cho

*

Ai khéo đặt tên gọi DARLING(1)

Để tối nay về họp chợ tình

Dưới phố vòng xòe đang say khướt

Trên này rượu mới nhấp môi mềm

*

Mà sao đã lâng lâng say thế

Say tình say mây núi SAPA

Bông tuyết rơi vào đêm lặng lẽ

Chỉ còn thao thiết tiếng khèn xa…

LÊ NGUYÊN

Sapa 14.02.2008

(1) Người tình

LẠI VỀ VỚI BIỂN

Tôi lại về nơi biển cả

Sóng từ khơi xa hối hả vỗ về

Biển chiều nay vẫn một màu xanh quá

Như hôm nào gặp vội lại chia xa

*

Ôi những dòng sông vẫn về với biển

Mà thuyền đi phiêu dạt bến phương nào

Biển vẫn bao dung dẫu không hò hẹn

Vẫn mặn nồng như nụ tình em trao

*

Trên biển chiều nay ta làm cánh én

Gọi gió xuân về giữa Hạ nồng say

Tôi viết lời thơ tự tình trên cát mịn

Gửi bạn hiền tri kỷ nối vòng tay

*

Ta sẽ lại trở về dù đi đâu xa

Cát níu bàn chân ngực căng gió lộng

Tạm biệt nhé ! dẫu có ngày biển động

Giông bão tan rồi, biển lại hát tình ca.

LÊ NGUYÊN

Vũng Tàu Hè 2005

Đi tìm hạnh phúc

Khi ta ở tuổi thanh xuân
Mê mải kiếm tìm hạnh phúc
Hy vọng ở ngày mai
Bởi hiện tại qua nhanh
Ta chưa kịp hiểu
Thế nào là hạnh phúc ?
Ta chưa gặp được tình yêu đích thực
Hạnh phúc như gió thoảng
Trôi mãi theo thời gian ..
Khi ta về già
Hồi tưởng về quá khứ
Lo lắng về ngày mai
Hạnh phúc
Vẫn như cơn gió vô tình
Cho một con người đơn độc
Ta kịp nhận ra
Hạnh phúc là một món quà quý
Không phải ai cũng giữ được
Trong tay mình.

HUỲNH THỊ KIM BỘI

THỜI GIAN

Tặng T.

Thời gian làm bạc mái đầu

Nửa đời dầu dãi phai màu đó thôi

Từ em mộng đẹp buông xuôi

Mây bay gió cuốn rã rời ước mơ

Anh đã đi từ bao giờ

Để ai thương nhớ chờ mong ngậm ngùi.

HOÀI LY

MỪNG ĐÔI BẠN

Tặng Thùy Hương và Hải Âu

Bạn ta về với nhau rồi

Chung tay xây mộng nên đôi ngàn đời

Xa rồi thân phận lẻ loi

Một đời cô phụ buồn ơi một mình

Giờ đây đã trọn cuộc tình

Chia bùi sẻ ngọt có mình có ta

Những ngày trăng mật vừa qua

Biển xanh cát trắng đậm đà ái ân

Mừng cho đôi bạn ngày xuân

Hoa hồng tiệc cưới muôn phần xinh tươi

Nhìn bạn ta mãi vui cười

Tay nâng ly rượu chúc người trăm năm.

HOÀI LY

CHÚC MỪNG

THƯỢNG THỌ

Họa thơ: Thanh Vĩnh 84 tuổi.

Thanh Vĩnh năm nay tám lẻ

Tâm lành huệ tánh, đức nhân từ

Thơ văn nối nghiệp, ngài Trang Tử

Hán tự Đường thi “thể Lộc

Bốn biển giao lưu, người thích dự

Tao đàn xướng họa, sống nhàn

Trăm năm cổ thụ - thân cây bự

Hòe quế tuổi cao - thể mỏi đừ.

PHƯỚC HẢI

Bài 2 Khoán thủ

Chúc bạn trăm năm đẹp cửa nhà

Mừng anh thượng thọ lắm tài hoa

Thanh bình bách tuế, vui tươi trẻ

Vĩnh phúc niên tồn, khỏe tuổi già

Tám tiết giáo viên, lưu thế hệ

Mười thu lãnh đạo, hạnh tề gia

nguồn hạt giống - truyền con cháu

Tuổi lão nêu gương - hiếu mẹ cha…

PHƯỚC HẢI

18-3-2018

SẮC XUÂN

Ước gì ta sống bên nhau

Để quên năm tháng giăng sầu tương tư

Để quên mưa Hạ hát ru

Để quên giây phút tạ từ chia tay

Bên nhau nồng ấm mê say

Bên nhau đồng cảm từ nay thôi sầu

Chẳng cần vàng bạc trân châu

Chẳng cần chức tước nhà lầu xe hơi

Hai ta chung sống tuyệt vời

Thương yêu trân trọng rạng ngời SẮC XUÂN.

Saigon đêm mưa cuối Hạ 26/7

HẢI ÂU - THÙY HƯƠNG

ĐÍNH CHÍNH

- Bài thơ “Hội Ngộ” của Quan Thúy Mai

(Bản Tin 141)

Câu: “Cùng yêu thơ văn hay của nước ngoài

xin chỉnh lại:

Cùng yêu văn thơ của nước Việt

Và những áng văn chương của nước ngoài

- Bản tin 143 trang 50 dòng 8 từ dưới lên

xin chỉnh lại: Nam Kha

Xin cám ơn.

LẺ BÓNG

Thu ơi ! Sao nỡ vô tình

Để Em lẻ bóng một mình nhớ ai

Nhớ ai ! Ai có… nhớ ai

Sao Thu giăng mộng nhớ hoài mình Em

Còn Anh có nhớ hay quên

Hay đang thơ thẩn bên thềm hoa trăng

Cùng thơ thầm mộng giai nhân

Bỏ Em gom nhặt mây tầng với Thu

Dấu tình trong những trang thư

Gởi mưa ngày tháng tương tư đợi chờ

Thùy Hương ơi ! Thùy Hương ơi !

Có hay ! Ta vẫn nửa đời mộng du

Từng đêm gom nhặt mưa Thu

Lưu trang tình sử hát ru giữa đời.

THÙY HƯƠNG-HẢI ÂU

TÌNH CA

Giờ em ủy mỵ quá rồi

Tối ngày sao mãi bồi hồi nhớ thương

Bao nhiêu kỷ niệm vấn vương

Ai kia có nhớ Thùy Hương không nào ?

Nhớ em ! nhớ cả chiêm bao

Nụ hôn say đăm ngọt ngào em trao

Dẫu cho đời có lao đao

Hai ta hạnh phúc tự hào sánh đôi

Nguyện cùng nhau hết cuộc đời

Để quên năm tháng kiếp người khổ đau.

THÙY HƯƠNG - HẢI ÂU

MỘNG TÌNH

Tinh mơ chợt nhớ ai đâu

Mới chia tay đó ngỡ lâu lắm rồi

Sương mai giá lạnh bồi hồi

Cô đơn ngự trị đôi môi đợi chờ

Kìa sao Anh mãi ngây ngô

Chờ Trăng tìm hỏi Nàng Thơ bên Trời

Anh có hay lệ Thu rơi ?

Vẫn giăng khắp cả bóng đời Em không ?

Có hay Em phận má hồng

Nửa đời lẻ bóng đêm không đồng hành

Nhớ nhung vương vấn thôi đành

Âu Hương chờ đợi mộng thành ngày mai.

THÙY HƯƠNG - HẢI ÂU

SỐNG VÀ CHẾT

Bài 1:

Sống: xanh biếc lá nhựa đầy

Chết: vàng sắc lá rời cây nhẹ nhàng.

Lá rơi… hóa đất mịn màng

Nuôi cây đời lớn, cây càng xanh tươi.

Bài 2:

Sống: xanh biếc lá reo trong gió

Chết: lá vàng hươm nhẹ nhẹ rơi

Rời khỏi cành cao… thành đất đỏ

Cây đời đất dưỡng mãi xanh tươi

Bệnh viện Thống Nhất - Tp. HCM, 18-12-2005

(Sau 6 ngày mổ, cắt 2/3 dạ dày bị ung thư)

VŨ ĐÌNH HUY

LIVING AND DYING

Poem 1:

Living: greenish leaves are full of gum

Dying: golden leaves from trees softly fell.

Falling leaves… turned into silky earth

Rearing the tree of life

that turned greener and fresher.

Poem 2:

Living: greenish trees whistle in the wind

Dying: pale golden leaves softly softly fell

Leaving the high branch to turn into alluvium

Fed by the earth,

the tree of life will eternally be green.

Thong Nhat hospital - HochiMinh city, 18-12-2005

(Six days after undergoing an operation to cut off 2/3 of cancerous stomach)

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN

ĐỜI THƠ

NGUYỄN BÍNH

Lỡ bước sang ngang”* - còn trở lại ?

Mười hai bến nước”* - vẫn long đong !

Năm cùng tháng tận Người đi mãi**

Để những đời sau lệ chảy dòng !...

Tp. Hồ Chí Minh, 20-01-2006

VŨ ĐÌNH HUY

* Tên 2 tác phẩm thơ của nhà thơ Nguyễn Bính

** Nhà thơ Nguyễn Bính (1917-1966) qua đời đột ngột tại tỉnh Nam Định, vào buổi chiều cuối cùng của năm Ất Tỵ (20/01/1966)

NGUYEN BINH’S

POETICAL LIFE

(1917-1966)

To be the sport of every wind”*

- Will one come back ?

On the twelve water harbours”*

- One is still unlucky !

The year is drawing to a close, He left for ever**

For the tears of posterior generation to ooze out !...

HochiMinh city, 20-01-2006

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN

* Titles of two works by poet Nguyen Binh (1917-1966)

** Poet Nguyen Binh suddenly passed away at Nam Đinh at the age of 49, on the last day of Lunar New Year At Ty (20-01-1966)


Phụ Bản III

YÊN TỬ (QUẢNG NINH)

CỘI NGUỒN

PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Yên Tử là một danh lam, còn có tên núi Voi, Tượng Sơn, Bạch Vân Sơn. Núi cao 1.068 mét, tại đây từ thời Lý đã có người đến tu hành. Đến năm 1237, vua Trần Nhân Tông trốn khỏi kinh thành lên Yên Tử nhưng 62 năm sau (1299) vua Trần Nhân Tông mới chính thức lên tu, sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm, thiền phái Phật giáo mang đậm màu sắc riêng của Việt Nam.

Nối tiếp Trần Nhân Tông là Đồng Kiên Cương (Pháp Loa), Lý Đa Tái (Huyền Quang). Các ông đã duy trì, phát triển phái Trúc Lâm tam tổ thịnh đạt ở Việt Nam. Ngô Thì Nhậm đã viết “Tam tổ lấy từ bi làm thể, lấy quảng đại làm dụng, đồng đức với trời đất, hội mình với Nhật Nguyệt, chưa làm điều gì quái gở truyền lại đời sau”.

Ở Vân Tử có hệ thống di tích gồm chùa, lăng, am, tháp. Từ ngoài là chùa Trình, chùa Cẩm Thực, chùa Lân. Ở chân núi là chùa Giải Oan, cạnh đó là suối Giải Oan, qua suối là am Lò Rèn, dốc Dây Diều, dốc Voi Quỳ, đến vườn tháp Hòn Ngọc (còn có tên là núi Hạ Kiệu). Tại đây có hàng chục hòn tháp, mộ của chư tăng tu hành ở Yên Tử. Qua đường tùng với những cây Thanh Tùng, Xích Tùng có tuổi đời từ 700 đến 800 năm là khu tháp tổ. Tại đây có 45 ngọn tháp với nhiều quy mô kiểu dáng khác nhau nhưng tháp Tổ là lớn nhất bề thế và cổ nhất. Giữa khu tháp có lăng Quy Đức, giữa lăng có Huệ Quang kim tháp. Huệ Quang kim tháp có tượng và xá lị (tro xương) Trần Nhân Tông, phía trên là chùa Cả.

Chùa Cả còn có tên là Vân Yên Tử, sau đó vua Lê Thánh Tông đổi thành Hoa Yên Tự, ngày nay ta thường gọi là chùa Hoa Yên. Từ chùa Hoa Yên đi lên chùa Phổ Đà, chùa một mái, am Ngọa Vân, chùa Bảo Sái, chùa Vân Tiêu, tháp vọng Tiên Cung và tận cùng là chùa Đồng.

Yên Tử có rừng trúc đặc sắc, tượng trưng cho sự trường tồn của danh thắng. Kỳ thú hơn là ở độ cao 1068 mét so với mặt biển, vùng Yên Tử còn có được một rừng sú nguyên sinh, những cây sú gốc to, tròn, ngọn thắt cong queo, cành lá sần sùi cổ thụ.

Cùng với rừng sú là ngăn nước ở những khối đá vuông vắn, xếp cạnh nhau, những dấu tích của quá trình biển tiến, biển lùi trong quá khứ.

Di tích lịch sử văn hóa Yên Tử đã được Nhà nước xếp hạng và được nhân dân địa phương mở hội vào ngày 10 tháng Giêng hàng năm, được khách du lịch trong và ngoài nước tới thăm và vãn cảnh. Năm nay, Yên Tử vừa tròn 700 năm. Danh sơn Yên Tử được xem như chiếc nôi của Phật tượng trưng cho triết lý phương Đông.

Thiền phái Trúc Lâm đã đóng góp lớn lao vào việc chấn hưng văn hóa dân tộc, trải bao họa xâm lăng vẫn giữ được bản sắc và cốt cách của dân tộc. Bởi trước đó đã có lúc đạo Phật rơi vào hai thái cực, hoặc xa lánh cõi đời rơi vào yếm thế, hoặc thần bí ma thuật siêu hình. Thiền phái Trúc Lâm chủ trương nhập thế, hòa lẫn với đời, tu tâm là căn bản nên đã khắc phục được cả hai thái cực đó. Mặt khác, việc vua Trần Nhân Tông chọn Yên Tử làm nơi tu hành còn thể hiện sự gắn kết với cội rễ Phật giáo và kế thừa phát triển đến một tầm cao mới.

Tuy nhiên, cũng như số phận của một số thắng tích, Yên Tử cũng trải qua những thăng trầm. Một thời gian dài thắng tích thành phế tích, bị lãng quên trong gió bụi thời gian. Mười năm trở lại đây kể từ khi được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa, danh thắng Yên Tử mới được tôn tạo, phục hồi một cách căn bản. Con đường dẫn đến núi gần 20km được lát bê tông, các chùa, tháp được khôi phục lại… Từ năm 1998, một dự án táo bạo là vận chuyển khách hành hương bằng cáp treo ở danh thắng Yên Tử.

* Đầu tư vào văn hóa - cần có điều gì?

Phải nói ngay rằng, mọi sự đầu tư vào danh thắng Yên Tử đều nhằm mục đích tôn tạo, giữ gìn các di sản văn hóa trong quá khứ, làm tăng thêm cảnh quan thiêng liêng này cho dù có mang cấu trúc hiện đại. Bản chất của Thiền phái Trúc Lâm là nhập thế, hướng vào hành động và hòa với cuộc đời, đó là cách ứng xử mềm dẻo, hợp quy luật. Phải chăng việc đầu tư tôn tạo di tích cũng phải đi theo hướng đó?

Chủ đầu tư dự án cáp treo Yên Tử cho biết: Qua tham khảo, lựa chọn giải pháp tối ưu, công trình này sẽ khᲯc phục được nhiều yếu điểm của các công trình cáp treo khác như ở Tây Ninh chẳng hạn. Đó là giảm tối đa hàng cột đỡ và cabin phải kín, người đi bộ và đi bằng cabin đều không nhìn thấy nhau, nhà ga có kiến trúc mang đậm nét văn hóa phương Đông và đặc biệt là tốc độ vừa phải, không gây tiếng động… Sau khi công trình đi vào hoạt động, chúng tôi sẽ tiếp tục đầu tư tự nghiên cứu về triết lý của Thiền phái Trúc Lâm, trước mắt là xây dựng tượng đài các vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm đặt ở những vị trí phù hợp.

Theo thuật phong thủy, đất nước ta có hai rốn rồng cũng là nơi tụ khí thiêng sông núi là Thăng Long - Hà Nội và Hạ Long - Yên Tử, nhờ khí thiêng ấy mà đất nước này mãi trường tồn và phát triển. Còn theo triết lý của Thiền phái Trúc Lâm thì Phật tự tâm sinh ra, ở đâu có tâm thì ở đó có Phật vậy. Cứ từ đó mà suy ngẫm, đầu tư vào văn hóa càng cần có chữ tâm và không nhất thiết phải giữ nguyên lối cổ hay sao chép máy móc, cái cần có là đảm bảo tín ngưỡng tâm linh và thích nghi thời đại. Dự án cáp treo Yên Tử đã đi theo hướng đó và đem lại những kinh nghiệm quý giá trong việc đầu tư vào lĩnh vực này.

Tạm biệt danh thắng Yên Tử, tôi bỗng nhớ tới câu thơ trong bài “Hoàng Hạc Lâu” của nhà thơ Đường Thôi Hiệu:

“Hạc vàng bay mất từ xưa

Nghìn năm mây trắng bay giờ vẫn bay”

Thì ra mọi công trình dù to lớn đến đâu cũng không thoát khỏi quy luật đào thải của thời gian, nhưng điều quan trọng còn đọng lại chính là lòng hoài niệm và tâm linh muôn đời vẫn như mây trắng kia là mãi mãi… Tin rằng dự án cáp treo sẽ góp phần tôn tạo nên một danh thắng Yên Tử vừa kết hợp với truyền thống hiện đại, vừa giúp cho lễ hội Yên Tử tránh được tình trạng “quá tải” như lâu nay.

BÙI ĐẸP st.


Cuộc sống của nữ bác sĩ đầu tiên

của Việt Nam & C uộc ly hôn

làm rung động Sài Gòn cũ

Người phụ nữ đã du học tại Pháp. Bà là một hiện tượng lạ của Pháp và, tất nhiên là cả Việt Nam. Bởi bà đã theo học nghề bác sĩ. Ngày 27/4/2012, một đám tang lặng lẽ được diễn ra tại thủ đô Paris của nước Pháp. Khi chiếc nắp quan tài được đóng lại, nhiều người có mặt đã không cầm được nước mắt tiễn biệt người quá cố, bác sĩ Henriette Bùi - vị nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam, và bà được coi như là một “hiện tượng lạ ” của ngành Y Khoa nước Pháp.

Bác sĩ Henriette Bùi hưởng thọ 106 tuổi và theo di nguyện của bà thi hài sẽ được hỏa táng tại đài hỏa táng nghĩa trang Père-Lachaise (Paris 20). Tro cốt chia ra làm 2 đưa về Việt Nam. Một phần được dòng tộc họ Bùi ở huyện Mỏ Cày Bắc lưu giữ. Phần còn lại được an táng bên cạnh mộ kỹ sư bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích - chồng sau của bà - trong khuôn viên thánh thất Cao Đ ài Bến Tre...

Bà Henriette Bùi sinh ngày 8 tháng 9 năm 1906 tại Hà Nội. Cha bà là một nhân vật có thế lực và nổi tiếng ở Nam kỳ, nghị viên Bùi Quang Chiêu. Ông mang quốc tịch Pháp, là kỹ sư canh nông và cũng là chủ báo “La Tribune Indochinoise”. Mẹ bà, một phụ nữ Việt gốc Hoa là con của một đông y sĩ và cũng là một trong những người buôn bán địa ốc giàu có nhất vào thời bấy giờ. Bà lớn lên ở Sài Gòn. Con đường học vấn bắt đầu từ trường St Paul de Chartres, tức trường Nhà Trắng tại Sài Gòn. Năm 9 tuổi, bà thi vượt cấp và đậu bằng C ertificat sớm 2 năm. Sau đó, bà vào học trường Collège des Jeunes Filles. Trường này bây giờ là trung học Nguyễn Thị Minh Khai. Bà tiếp tục học lên Lycée Marie Curie. Bà đỗ bằng Certificat d’Études với thứ hạng cao.

Anh bà là Louis Bùi Quang Chiêu - một bác sĩ chuyên về bệnh ho lao nổi tiếng tại Sài Gòn - luôn là tấm gương sáng để bà noi theo. Ước mơ được làm thầy thuốc chữa bệnh cho mọi người của bà cũng bắt nguồn từ ông anh này.

Đến năm 15 tuổi, bà nằng nặc đòi cha cho xuất ngoại, sang Pháp du học. Thương con, ông Bùi Quang Chiêu đành phải thuê một thầy giáo đi cùng để chăm lo cho bà sinh hoạt và học tập trên đất Pháp. Vốn là một học sinh xuất sắc và rất thông minh, không bao lâu ngoài tiếng Việt, tiếng Pháp và Trung Hoa, bà còn thông thạo nhiều ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Tây Ban Nha, Ý và cả những cổ ngữ như La Tinh và Hy Lạp.

Một năm sau từ ngày rời xa gia đình, bà đón nhận hung tin. Mẹ bà mất vì bệnh lao phổi. Sự kiện này khiến bà càng thôi thúc việc học hơn. Bốn năm sau bà tốt nghiệp bậc trung học tại Lycée d’Agen và Bordeau và chỉ cần thêm 1 năm nữa, năm 1926 bà lấy được mảnh bằng Tú tài trong tay…

Con đường vào đại học đã rộng mở, bà nghiễm nhiên trở thành sinh viên của trường đại học Y khoa Paris.

Việc bà Henriette Bùi trở thành sinh viên y khoa là một hiện tượng lạ vào thời bấy giờ. Sự có mặt một phụ nữ Việt tại một trường đại học danh tiếng của Pháp là bước đột phá trong hệ thống giáo dục của nước này.

Năm 1932, bà tốt nghiệp đại học. Sau 2 năm thực tập, bà là người phụ nữ Việt Nam lấy bằng bác sĩ y khoa đầu tiên ở Pháp chuyên chữa trị các bệnh phụ nữ và trẻ em.

Sống trong xã hội người phụ nữ không được xem trọng thì dù có bằng cấp cao, người phụ nữ vẫn bị coi là “bình thường” không hơn không kém. Bà Henriette Bùi mặc dù đã là vị nữ bác sĩ đầu tiên ở VN nhưng cũng không ngoại lệ. Thậm chí ngay cả trên đất Pháp, rất ít phụ nữ theo học ngành y. Nếu có học thì sau khi ra trường họ sẽ lấy chồng rồi sinh con đẻ cái chẳng mấy chốc bỏ nghề.

Trong những câu chuyện viết về bà có ghi lại, vừa tốt nghiệp xong, cha bà - ông Bùi Quang Chiêu - gọi bà về nước ngay để gả chồng. Bà trở về nước vào đầu năm 1935 và nhận ngay chức vụ trưởng khoa hộ sinh của bệnh viện Sài Gòn. Cũng trong thời gian này, bà buộc phải lấy luật sư Vương Quang Nhường người từng du học Pháp. Ông tốt nghiệp tiến sĩ Luật khoa trở về nước với tư cách là tiến sĩ Luật khoa đầu tiên của nước ta. Cuộc hôn nhân giữa bà và luật sư Nhường được hình thành sau những ép buộc có tính quyết liệt của cha bà. Đám cưới được diễn ra chỉ vài tháng sau đó và trở thành đám cưới môn đăng hộ đối nhất vào thời điểm bấy giờ. Là người có học vấn cao, kiến thức rộng, luật sư tại tòa thượng thẩm Vương Quang Nhường được giới thượng lưu Việt, Pháp lúc bấy giờ kính nể.. Vợ là một bác sĩ y khoa con của một gia đình danh giá bậc nhất Nam Kỳ. Thế nhưng, cuộc hôn nhân này chỉ kéo dài một cách miễn cưỡng trong 2 năm rồi cả hai người ly dị nhau. Trong xã hội phong kiến việc ly hôn, vợ chồng bỏ nhau là việc không tưởng...

Khi kể lại nguyên nhân đổ vỡ này, bác sĩ Henriette Bùi xác nhận luật sư Nhường là một người chồng rất mẫu mực và hết lòng thương vợ. Tuy nhiên, ông không cảm thông, không chia sẻ được những khó khăn về nghề y, những đêm vắng nhà vì bệnh nhân, những trường hợp cấp cứu giữa đêm khuya. Một vài lần thì có thể chấp nhận được nhưng nghề y không đơn giản thế. Bà luôn bận rộn nên ông không thể chấp nhận khiến cuộc sống vợ chồng nặng nề hơn. Điểm hay nhất trong cuộc hôn nhân này là sau khi tan rã, họ vẫn đến với nhau và đối xử với nhau như những người bạn tốt.

Vụ ly dị của luật sư Nhường và bác sĩ Henriette Bùi đã gây ra một tiếng vang khá lớn. Cả xứ Nam K ỳ, đi đâu cũng nghe những lời bàn tán. Khen th ì ít mà lên án thì nhiều. Dư luận không thể ngờ một phụ nữ trí thức của một gia đình quyền quý lại có thể làm cái việc... “tày đình” như thế!!!

Tuy nhiên, hành động của bà Henriette Bùi đến nay đã được nhiều người đồng tình bởi bà xem sức khỏe, mạng sống của mọi người quý hơn hạnh phúc riêng tư. Bà chấp nhận hy sinh để đến với những mảnh đời bất hạnh, những nỗi đau của người cùng khổ...

HOÀNG KIM THƯ st.

Ngẫm nghĩ

Tháng ngày rồi lại qua đi như làn gió, có khi gấp rút đến độ ta chẳng kịp nói lời chia tay với ai đó thân tình đã một ngày đi chưa biết bao giờ trở lại. Lắm khi thời gian cũng nhàn nhã trôi như thể chẳng có gì phải vội vã. Nhưng chính cái lầm bầm ấy của thời gian cũng làm cho ta đủ giật mình khi khơi gợi lại một biến cố nào đó, tưởng chừng như mới đây, ai ngờ đã trôi qua có khi với cả chiều dài phần mấy của cuộc đời. Giật mình mà nghĩ đến ngày nào mình còn trẻ dại, sách vở đến trường để gây dựng tương lai như ước mong của mọi bậc mẹ cha. Rồi giòng đời và lòng người có khi chẳng hề thuận lòng nhau. Thành công và thất bại cũng chỉ là gang tấc. Yêu thương và hờn giận luôn là 2 mặt phải trái của mỗi người. Ta vẫn luôn là kẻ bị lôi kéo đi trong thế giới thực tại và thế giới tâm hồn. Ta có thực yêu mến ai cả cuộc đời, bất kể người ấy có đem lại cho ta niềm vui hay nỗi buồn? Ta có thực bằng lòng với cái mình đang có, dẫu rằng cái mình đang sở hữu hẳn đáng giá gấp nhiều lần của bao người chung quanh? Ta có thực vui với cái hạnh phúc mà bề ngoài ai cũng nghĩ rằng ta thụ hưởng? Ta có thực muốn sẻ chia cái khốn khổ của ai đó đang gánh nặng trên vai? Ta có vui vì kẻ mình ghen ghét vừa mới lãnh một “đòn” nào đó của cuộc đời?...

Thời gian dường như chẳng quan tâm tới những nghĩ suy rối rắm của ta hay của bất cứ ai. Nó vẫn cứ vậy; dĩ nhiên nó là chiếc đồng hồ đẹp, chính xác mà lạnh lùng. Nó là quyển lịch hàng ngày treo hờ hững trên bức tường, nơi rõ nhất có thể, để mỗi người phải lệ thuộc vào nó mà tiêu bớt đi vốn sống của mình. Chúng nhắc rằng: Trời ơi! Sao mà lâu lãnh lương thế! Ồ, bữa nay mới 25 thôi mà, mấy ngày nữa thôi, cha nội! Sic! Ta mong lãnh lương có khác gì ta mong cho mau về với cát bụi! Có điều, dẫu ta biết đời sống có là bao mà sao ta cứ rề rề rà rà cho những chuyện cần làm cho sớm. Ta cứ mãi chờ có thời gian mới đến chơi với ai đó cô đơn, vì ta còn bận phải đi… nhậu cho vui cuộc đời. Ấy mà cũng có lúc ta nhanh nhẩu không thể tả. Thử ai chọc giận mình coi, cứ là a lê hấp, mắt ta trợn trừng lên và gài số de cái cụp! Khỏi thanh minh thanh nga chi cho mất thời gian.

Đó, con người kỳ khôi vậy đó! Thử nhẩm xem “lẽ ra”, mình còn sống bao lâu nữa? Và thử chia nhỏ phần đời còn lại xem chuyện gì cần làm hơn? Và thử nghĩ thêm về bước chân của Thần Chết đang lảng vảng nơi đâu đó, có khi gần ta mà ta chẳng hay, khiến chương trình của ta thành bèo dạt mây trôi, làm trò cười cho chính ta khi ta về nơi chín suối.

Nghĩ mà mệt! Thôi đi ngủ quách đi ta ơi. Mai tính! Ây da, nè Thần Chết, đêm nay chớ có mò đến nhà ta nhé. Ta hứa, mai ta sẽ sống tốt hơn mà…

LAM TRẦN


LOAN PHƯỢNG

- LONG PHƯỢNG

Trong đám cưới có việc lên cặp đèn cặp đèn thường có chạm hai con chim Phượng hay một con Rồng và một con Phượng. Như vậy, cách chạm nào đúng?

Trong Việt Nam Tự điển thì Phượng là loài linh điểu, Loan là chim Phượng mái. Tự điển cũng ghi “Loan ôm lấy Phượng, Phượng bồng lấy Loan”. Vậy Loan Phượng là biểu tượng hai vợ chồng đầm ấm sống hạnh phúc với nhau. Còn Long Phượng?

Trong tác phẩm “Đông Châu Liệt quấc” tập 3, mục Lộng Ngọc có ghi là nàng Lộng Ngọc là con vua Tần Mục Công lấy chồng là Tiêu Sử, một người chỉ có tài thổi ống tiêu thôi. Một đêm nhân khi ánh trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra cùng thổi. Bỗng một con Phượng bay xuống đậu ở bên tả, một con Rồng xuống phục bên hữu.

Tiêu Sử nói ta là Tiên trên trời, nay Rồng cùng Phượng đến đón đây, chúng ta nên cùng đi. Lộng Ngọc toan vào từ biệt cha, Tiêu Sử can rằng đã là Thần Tiên thì chớ nên vì chút tình riêng mà quyến luyến.

Tiêu Sử cỡi Rồng, Lộng Ngọc cỡi Phượng cùng bay lên trời.

Như vậy, Long Phượng chỉ đôi vợ chồng Thần Tiên, cùng thanh khí sống hạnh phúc bên nhau.

Vậy cặp đèn là Loan Phượng hay Long Phượng đều đúng cả.

Khánh Hội - Quận 4 Saigòn 18-9-2017

PHẠM HIẾU NGHĨA

THU DỌN

CÓ NGHĨA LÀ VỨT BỎ

VŨ HẰNG

Người Mỹ nói rằng “Declutter is de-own”, nghĩa là muốn giải thoát mình khỏi sự trói buộc của những đồ vật lộn xộn, bề xề... thì trước hết phải sẵn sàng từ bỏ quyền sở hữu (de-own). Thu dọn chính là Declutter! Thu dọn làm cho cửa nhà gọn gàng, rộng rãi, sáng sủa hơn. Nếu biết thu dọn thì một căn nhà nhỏ đến đâu cũng vẫn còn rộng rãi; ngược lại, không biết thu dọn thì nhà cửa có rộng mấy cũng không tìm thấy chỗ len chân. Đối với Hằng, thu dọn là cách “trang trí” nhà cửa đẹp hơn cả, vì thế chúng ta phải tìm ra bí quyết của nó. Dễ lắm, bí quyết thu dọn nằm ở chỗ này: thứ nhất là phải liệng bỏ (declutter is de-own); thứ hai, đừng quên mỗi ngày 15 phút làm như vậy. Sau đây là một vài điều tâm niệm giúp bạn liệng bỏ thành công:

1. Liệng bỏ mỗi ngày ít nhất một thứ:

Trong 15 phút bỏ ra mỗi ngày, bạn phải tìm được ít nhất 1 thứ để liệng bỏ. Không nhất thiết phải “lên cơn điên” lục soạn, liệng bỏ tùm lum, để rồi hôm sau thấy thiếu rồi lại phải chạy ra cửa hàng tìm mua thứ khác. Nếu mỗi ngày bạn kiên trì vất đi một thứ thì sau 1 năm, bạn đã thanh tẩy được hơn… 300 món, và nhà cửa của bạn sẽ có thêm 300 khoảng trống. Điều quan trọng là bạn sẽ tạo được một lối sống mới, đơn giản và thanh thoát hơn.

2. Chặn bớt đầu vào:

Liệng bỏ là ở đầu ra, nhưng đồng thời phải chặn bớt đầu vào. Thu dọn sẽ hoàn toàn vô ích, nếu chúng ta không bỏ được thói quen mua đồ mới thế chỗ đồ cũ. Cương quyết mỗi ngày mỗi bớt mua. Các bạn tin em đi: Bạn sẽ không bao giờ hối tiếc vì bỏ lỡ dịp mua hàng. Trái lại, bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát hơn khi được giải thoát khỏi tâm lý chiếm hữu, vơ vào…

3. Đừng sợ buông bỏ:

Một trong những lý do khiến bạn khó buông bỏ là vì sợ rằng có ngày mình sẽ cần tới đồ vật đó. Nhưng chúng ta nên hiểu rõ “cần” là gì. Nhiều món đồ có thể là hữu dụng, đúng ra, thứ gì cũng đều hữu dụng, nhưng không có nghĩa là bạn sẽ “cần” tới nó trong nhà bạn. Thí dụ: Một cái máy trộn hồ chắc chắn là rất có ích, nhưng nếu bạn không làm nghề thợ xây thì bạn giữ nó làm gì. Một thí dụ khác: Hoa thì đẹp thật, nhưng không phải cứ thấy hoa đẹp là phải cố hái khi mà vườn nhà mình đã có sẵn một bông rồi. Em nói vậy thôi, chứ vẫn biết thực hành là chuyện khác: Bảo “người ta” đừng mua thêm máy trộn hồ thì được, nhưng khuyên đừng cố hái thêm hoa chắc là khó lắm!

4. Chỉ sắm những gì mình cần, hoặc thực sự thích:

Đừng chạy theo trào lưu, hoặc đua đòi với người khác. Ở nhà riêng, chúng ta chỉ cần đồ dùng tiện ích, vừa tầm tay, chứ không cần những thứ hào nhoáng như khách sạn, tiệm ăn. Hãy thực tế về nhu cầu của gia đình.

5. Tặng quà “tinh thần”:

Khi muốn tỏ lòng quý mến ai, chúng ta thường nghĩ tới một món quà gì đó. Nhưng quà cáp không nhất thiết phải là vật chất, rốt cuộc cũng trở thành một món chiếm chỗ vướng chân, sớm muộn cũng rơi vào sọt rác. Chẳng hạn, bạn có thể tặng một món quà ăn được (như kẹo bánh, rượu ngon, trà quý…) tặng gift certificate (vé đi ăn, vé đi chơi, đi coi ca nhạc, vé mua hàng…), tặng thời giờ (giúp người ta làm một việc gì đó…), tặng hoa tươi.

6. Đừng mất giờ vì những gì không cần thiết:

Các bạn có để ý là những thứ lòa xòa làm vướng bận chân tay… chiếm mất rất nhiều thời giờ của chúng ta hay không? Nào là giờ mua sắm nó về, giờ săn sóc giữ gìn, giờ lau dọn chùi rửa… chưa kể đến đồng tiền bỏ ra để tậu nó cũng là giờ trích ra từ đời sống chúng ta. Đời sống rất quý giá, nhưng nghĩ lại thì chúng ta đã bỏ phí quá nhiều trong những thứ lòa xòa, vướng chân, vướng tay, không cần thiết đó.

Những ý tưởng trên đây chỉ là một vài gợi ý. Nếu bạn biết quý trọng “khoảng trống”, những khoảng không gian thoáng đãng làm cho tâm hồn thư giãn, bạn sẽ còn tìm được nhiều lý do mạnh mẽ hơn, thúc bách chúng ta “declutter” mạnh tay hơn nữa. Nhưng làm gì làm, bạn đừng quên rằng mỗi ngày 15 phút thu dọn là mỗi ngày tạo được một khoảng trống cho tâm hồn thêm thư thái.

Lệ Ngọc st.


Ly cà phê trên tường

Tôi ngồi cùng người bạn trong một quán cà phê nổi tiếng tại một thị trấn lân cận của Venice, Ý, thành phố của ánh sáng và nước. Khi chúng tôi thưởng thức cà phê, một người đàn ông bước vào và ngồi xuống chiếc bàn trống bên cạnh chúng tôi.

Anh gọi người phục vụ và nói:

- Hai ly cà phê, một ly trên bức tường kia.

Chúng tôi khá quan tâm khi nghe gọi thức uống như thế và quan sát thấy người đàn ông được phục vụ một ly cà phê nhưng trả tiền cho 2 ly. Khi anh đi khỏi, người phục vụ dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”.

Trong lúc chúng tôi còn ngồi đó, hai người đàn ông khác vào quán và gọi 3 ly cà phê, 2 ly trên bàn và 1 ly trên tường. Họ uống 2 ly cà phê nhưng trả tiền cho 3 ly và rời đi. Lần này cũng vậy, người phục vụ làm tương tự, anh dán một mảnh giấy lên tường, trên mảnh giấy ấy có ghi hàng chữ “Một Ly Cà Phê”.

Có điều gì đó làm chúng tôi thấy lạ và khó hiểu. Chúng tôi uống hết cà phê, trả tiền rồi rời đi.Vài ngày sau, chúng tôi có dịp quay lại quán cà phê này. Trong lúc chúng tôi đang thưởng thức cà phê, một người đàn ông ăn mặc tồi tàn bước vào. Khi anh ngồi xuống ghế, anh nhìn lên tường và nói:

- Một ly cà phê trên tường.

Người phục vụ mang cà phê đến cho anh với sự tôn trọng như thường lệ. Người đàn ông uống cà phê và đi khỏi mà không trả tiền. Chúng tôi ngạc nhiên chứng kiến tất cả sự việc, lúc người phục vụ tháo một mảnh giấy trên tường và bỏ nó vào thùng rác.

Giờ thì chúng tôi không còn ngạc nhiên nữa - sự việc đã rất rõ ràng. Sự tôn trọng tuyệt vời dành cho người nghèo được thể hiện bởi các cư dân ở thị trấn này đã làm đôi mắt chúng tôi đẫm lệ. Hãy suy ngẫm những điều người đàn ông này mong muốn. Anh bước vào quán cà phê mà không phải hạ thấp lòng tự trọng… Anh không cần xin một ly cà phê miễn phí… không cần hỏi hay biết về người đang cho anh ly cà phê này… anh chỉ nhìn vào bức tường, gọi thức uống, thưởng thức ly cà phê của mình và rời khỏi quán. Một ý nghĩ thật sự đẹp. Có lẽ đây là bức tường đẹp nhất mà bạn từng nhìn thấy.

KIM SƠN st.


CHIẾC ÁO LỄ

Thánh lễ mở tay của Cha mới vừa chấm dứt, mọi người vui vẻ kéo nhau xuống hội trường để dự tiệc mừng Tân Linh Mục.

Vừa bước ra khỏi nhà thờ, tôi nghe tiếng chị bạn kêu nói:

- Ê! Phương có xuống dự tiệc không?

Tôi cười trả lời:

- Có chứ, xuống ủng hộ tinh thần Cha mới.

Chị bạn ra vẻ sốt sắng:

- Nè bồ, bồ biết không, chiếc áo lễ màu trắng Cha mới mặc hôm nay đặt may 800 đô, đó bồ! Vải tốt, kiểu đẹp ghê, lúc nãy trước lễ Bà Cố nói cho mình biết đó.

Tôi trả lời cho qua:

- Ừ!

Khi nghe chị bạn nhắc đến áo lễ, lòng tôi chợt nhớ về quê nhà, nơi mà thời gian xưa, Bà Ngoại, các cậu, dì của tôi sinh sống, cách đây năm năm, nơi đó mà cả giòng họ tôi cũng đón mừng một Tân Linh Mục. Đó là con trai út của Bác Cả tôi.

Gia đình bác tôi vượt biên sang Mỹ đã lâu, bác có năm người con, ba chị gái lớn, và hai cậu con trai, riêng cậu con trai út của Bác tôi vừa cao ráo, học giỏi, nhìn anh đẹp trai và rất hào hoa, biết bao gia đình có con gái ngắm nghé để gả cho anh, nhưng anh đã chọn con đường tu trì. Dĩ nhiên là cả giòng họ chúng tôi đều hãnh diện mừng vui, nhất là Bà Ngoại tôi, vì từ nhỏ khi anh họ tôi còn ở Việt Nam, Bà Ngoại thương anh nhất, có miếng gì ngon là Bà để dành cho anh. Còn chúng tôi, chỉ được ăn khi nào anh không thèm ăn tới nữa, và mỗi bước đi của anh cũng được Bà Ngoại chăm sóc kỹ lưỡng.

Sau ngày anh họ tôi chịu chức Linh Mục, gia đình bác tôi và ba mẹ tôi cũng chuẩn bị một chuyến về Việt Nam, trước là để thăm Bà Ngoại, sau là về quê “vinh quy bái tổ”, vì giòng họ lần đầu tiên có người làm Linh Mục. Chuyện đó là lẽ thường tình thôi, như tôi biết có rất nhiều gia đình có con làm linh mục, họ đều về lại Việt Nam ăn mừng và ra mắt bà con họ hàng.

Ngày về của gia đình Cha, anh họ tôi, vào giữa tháng sáu, nhà Bà Ngoại ở tận ngoài Huế, tháng sáu trời mưa dầm, khí hậu nắng gắt. Bà Ngoại khi nghe tin cháu sắp về, ngày nào Bà cũng ra đứng trước cổng trông chờ, có hôm Bà cứ đứng mãi ngoài sân dưới trời mưa lâm râm. Dì Út tôi chạy ra nói:

- Mạ đứng hoài ngoài mưa như ri, đổ bịnh ra thì làm sao tiếp Cha!

Nghe nói không được tiếp Cha, Bà Ngoại lục đục đi vô nhà, bà thở dài hỏi:

- Còn mấy ngày nữa Cha về tới đây?

Dì Út cười chọc Bà:

- Còn hai ngày nữa thôi, nhưng nếu có chuyện gì trục trặc là Cha không về được mô!

Rồi ngày chờ đợi đó cũng đến. Mọi người vui mừng đón Cha, dĩ nhiên người mong gặp Cha và vui nhất là Bà Ngoại, Bà đi ra, đi vô, nói chuyện huyên thuyên cả ngày, gặp ai Bà cũng khoe “Cha cháu” của Bà! Nào là Cha ngoan, nào là Cha giỏi, Cha là đứa cháu hiếu thảo và thương Bà nhất. Ôi! thật là một niềm vui vô tận mà Chúa đã ân thưởng cho gia đình, giòng họ của tôi.

Những ngày tiếp sau đó, giáo xứ nơi Bà Ngoại ở, tổ chức những buổi lễ long trọng, nhiều hội đoàn đưa rước trọng thể như đón chào một vị quan lớn về làng. Các giáo xứ ở miền lân cận cũng sang mời Cha về dâng thánh lễ. Còn nhà Bà Ngoại, bà con, làng xóm đến thăm hỏi hằng ngày, có người đến để xin lễ Cha mới, có người thì đến để xem Cha bên Mỹ có khác Cha bên Việt Nam không…

Niềm vui nào rồi cũng có lúc tàn, sau ba tuần lễ ở Việt Nam, gia đình Bác Cả tôi từ giã mọi người để trở lại Mỹ.

Ngày chia tay ai nhìn Bà Ngoại cũng thấy thương hết, mới cách đây mấy ngày Ngoại còn nói cười cả ngày, nhưng hôm nay ngày tiễn chân Cha cháu, Bà buồn thấy rõ, chẳng nói chẳng rằng với ai lời nào.

Lúc tiễn chân Cha lên đường, Bà Ngoại ôm chặt lấy Cha rồi khóc, Bà nói:

- Bà mãn nguyện lắm rồi, Chúa có cất Bà về Bà cũng vui lòng, Bà sẽ cầu nguyện cho Cha hằng ngày, nhớ giữ lấy thân và sống đời sống khó nghèo cho nên thánh, đừng lo gì cho Bà, nhớ cầu nguyện cho Bà là được rồi.

Khi Cha cháu đã đi rồi, mọi người ai cũng nghĩ Bà Ngoại sẽ vui và sống khỏe với con cháu còn ở quê nhà, nhưng khác với dự đoán của mọi người, Bà tôi ít nói hơn, tối ngày chỉ thấy Bà ngồi lần hạt, đọc kinh. Mắt Ngoại khi đó đã mờ, nhưng mọi người trong nhà đều nhìn thấy một nỗi buồn xa xăm ẩn hiện trong mắt Ngoại.

Các cậu, dì xúm nhau lại khuyên lơn, an ủi Bà, ai cũng nghĩ Bà nhớ và thương cháu rời xa Bà nên Bà buồn. Được một tháng sau Bà Ngoại ngã bịnh nặng, Dì Út lo lắng nói với Bà:

- Để con gọi sang Mỹ cho Cha hay.

Bà giơ bàn tay gầy guộc yếu ớt lên ngăn Dì Út.

- Thôi con! Không cần phải gọi, Cha còn nhiều việc phải làm, hãy để cho Ngài yên, với lại ở đây, cũng có nhiều Cha, đâu cần gọi đến Cha bên Mỹ.

Lời của Ngoại như có chút dỗi hờn, làm mọi người nhìn nhau thầm nghĩ: “Người Ngoại thương nhất là Cha cháu, mà sao giờ phút cuối Ngoại lại từ chối không muốn nghe tiếng nói của Cha”.

Chỉ riêng Cậu Năm lặng lẽ đứng dậy bỏ ra ngoài!

Sau gần năm tuần lễ trên giường bịnh, Ngoại tôi đã từ giã trần thế và về cùng Chúa. Mọi người thương tiếc Bà, các dì tôi họp nhau lại để chọn cho Bà một bộ đồ đẹp nhất mặc cho Bà. Dì Út biết Bà có bộ áo dài nhung đỏ mà khi còn sống Bà chỉ mặc để đi lễ trọng hay trong dịp đám cưới, đám tiệc thôi. Mặc xong là Bà giặt ủi hẳn hòi rồi cẩn thận xếp vào rương.

Dì Út liền vào mở rương lấy bộ áo dài nhung đỏ, bỗng Dì Út giật mình, chiếc áo dài nhung được Bà bọc cẩn thận bằng một bọc ni-lông, bên ngoài Bà quấn bằng ba, bốn sợi dây dù nhỏ.

Khi Dì Út mở bọc ra thì một chiếc áo lễ màu vàng rớt ra theo, Dì Út cầm chiếc áo lễ lên ngạc nhiên nói:

- Chiếc áo lễ ni không phải mạ đã gởi tặng Cha, sao lại còn nằm ở trong rương của mạ.

Mọi người đang thắc mắc, lẽ ra chiếc áo lễ này phải được mang theo Cha sang Mỹ cớ sao lại còn ở trong rương của Bà Ngoại.

Chỉ có Cậu Năm từ từ đứng lên đi lại phía Dì Út, cậu cầm chiếc áo lễ lên rũ thẳng xuống, cậu nói:

- Xin mọi người ngồi xuống để tôi kể cho nghe một câu chuyện.

***

Từ khi nghe tin đứa cháu mà Bà yêu thương nhất sẽ được chịu chức Linh Mục, Bà đã gom hết số tiền dành dụm được đem ra ngồi đếm, rồi Bà kêu gọi con trai, con gái mỗi đứa một ít tùy theo hoàn cảnh đóng góp chung vô với Bà, để Bà tự ra chợ chọn mua vải và đi đặt may cho cháu Bà một chiếc áo lễ. Bà chọn màu vàng, vì theo Bà, các Cha mới chịu chức, màu vàng là màu tự hiến, màu của một vị vua, một người con mà Thiên Chúa đã chọn và người con đó hoàn toàn thuộc về Chúa. Bà còn muốn người thợ may thêu hình Thánh Thể ở phía trên tà trước, tà sau thêu hình Chim Bồ Câu tượng trưng cho Chúa Thánh Linh.

Khi áo may xong, Bà đem về nhà ngày nào cũng mang ra ngắm nghía, Bà nói:

- Nhất định Cha cháu của Bà sẽ thích chiếc áo lễ này lắm.

Bà còn tưởng tượng ra ngày Cha cháu của Bà nhận được chiếc áo lễ, Cha sẽ vui sẽ ôm Bà, rồi Bà nói với Cha:

- Cháu ơi! Đây là chiếc áo lễ được gói trọn tình yêu thương mà Bà và bà con trong giòng họ gởi tặng cho Cha.

Nhưng mọi việc lại xảy ra hoàn toàn trái ngược với ý Bà muốn. Cha cháu về Việt Nam trong vali của Ngài có đầy đủ áo lễ, màu trắng có, màu xanh có… Khi Bà trịnh trọng mang chiếc áo lễ do Bà thực hiện với bao nhiêu tình thương mến để trao cho Cha cháu, thì Ngài nhận lấy một cách ơ hờ và cuộn lại xếp vô vali.

Bà thấy vậy, vội nói:

- Cha à! Chiếc áo lễ này Cha phải treo lên và mặc làm lễ tạ ơn cho gia tiên, nào Cha hãy lấy ra đi để Bà máng lên cho ngay thẳng.

Cha cười nói:

- Bà ơi! Con có mang nhiều áo lễ về, Bà coi nè, áo lễ con đặt may bên Mỹ đẹp lắm.

Khi đó Bà cố, mẹ Cha cũng nói:

- Mạ thấy cái áo lễ màu trắng ni đẹp không? Cha đặt may đến 800 đô đó mạ!

Nhưng Bà cố cũng bảo Cha:

- Thôi ngày mai Cha mặc áo lễ Bà tặng cho Bà vui.

Cha cháu trả lời:

- Dạ sao cũng được.

Suốt ba tuần lễ về Việt Nam Cha mặc chiếc áo lễ của Bà Ngoại tặng Cha đúng hai lần: một lần tại giáo xứ nơi Bà Ngoại ở, lần khác tại nhà thờ họ của Bác Ba.

Nhưng mọi chuyện không phải Cha mặc áo Bà tặng ít hơn những chiếc áo Cha mang về mà Bà buồn đâu.

Đến đây, Cậu Năm thở dài, kể tiếp:

- Chuyện Bà buồn là đến ngày cuối khi Cha và gia đình sắp xếp hành lý để trở lại Mỹ, Bà thấy Cha bỏ tất cả quần áo của Cha vào vali, chỉ còn lại chiếc áo lễ của Bà, Cha máng trở lại trên mắc áo. Thật ra, lúc đó Bà nghĩ có thể Cha để áo đó ở ngoài ngày mai có làm lễ thì mặc chăng? Nhưng thật bất ngờ Cha quay lại nói với Bà cố mẹ Cha:

- Chắc con để áo Bà Ngoại cho lại đây, con đã mặc nó hai lần hôm trước rồi!

Cậu Năm có mặt ngay lúc đó, cậu thấy Bà Ngoại cúi mặt lặng thinh và đôi mắt với những làn da nhăn nheo run lên từng nhịp thấy rõ, cậu đi lại đỡ Ngoại ra nhà ngoài, cậu an ủi:

- Mạ đừng buồn, có thể loại vải đó đem qua Mỹ mặc không hợp, nghe đâu có những loại vải bên mình mặc, mùa đông ở bên Mỹ mặc bị dính vào người.

Bà Ngoại gỡ tay cậu ra, cười nhẹ:

- Con đừng lo, Mạ có buồn chi mô, nhưng dẫu sao chiếc áo lễ đó cũng là tấm lòng yêu thương của họ hàng mình, nếu Cha không mặc thì cũng đem theo làm kỷ niệm chứ, hay Cha chê áo may tầm thường, vải xấu mặc không xứng!

Rồi cậu thấy nước mắt Ngoại chảy ra trên hai gò má nhăn nheo thật tội nghiệp.

Khi gia đình Cha rời khỏi Việt Nam, được mấy ngày sau Bà kêu cậu vào và dặn:

- Chiếc áo lễ mạ xếp trong rương, khi mạ chết con đem bỏ vào trong hòm chôn theo mạ!

Cậu ngạc nhiên nói:

- Sao mạ làm thế!

Bà Ngoại cười:

- Đem theo để làm kỷ niệm thôi con.

***

Ngày tẩn liệm Bà Ngoại, Cậu Năm thay mặt họ hàng trân trọng cầm chiếc áo lễ màu vàng bỏ vào hòm để chôn theo Ngoại.

Tôi biết Ngoại sẽ không hề giận hay buồn Cha cháu. Ngoại chỉ mong cháu cưng của Bà luôn nhớ lời Bà dặn:

- Hãy cố gắng sống Đức Khó Nghèo, nghe con.

HÀ MẠNH ĐOÀN st


Phụ bản IV

THÀNH QUẢ VỀ ĐÂU ?

Một con sư tử bao ngày đói khát đang muốn kiếm miếng mồi ăn. Chuyện đó bình thường thôi, nhưng nó lại không bình thường nên mới kể lại, bạn chú ý lắng nghe nhé.

Trong lúc lang thang trên thảo nguyên bỗng nó phát hiện có bầy ngựa đang ăn cỏ. Sư tử nhẹ nhàng tiếp cận, càng gần nó càng bò thấp để con mồi không phát hiện được và thời cơ đã đến nó vọt ra từ lùm cây, rồi lao như tên bắn về phía bầy ngựa. Bầy ngựa hoảng loạn chạy tán ra tứ phía. Sư tử với sức mạnh và nhanh nhạy của loài thú săn mồi, liền chạy cắt đường một con ngựa, nó chồm lên bám vào mông. Cả hai rượt đuổi nhau đều đã mệt nhoài. Nhưng với bản năng sinh tồn con ngựa tung vó dốc sức chạy trốn. Hai chân sau đá tung về phía sau. Cú đá hậu là món võ sở trường và vô cùng hiệu quả của họ nhà ngựa đã bất ngờ giáng một đòn như trời giáng vào con sư tử đang cố bám theo. Sư tử bị trúng thương nó vô cùng tức tối vì đánh mất một con mồi mà nó tưởng chừng đã nằm trong tầm tay. Nó nhanh chóng trấn tĩnh lại và quyết không bỏ cuộc. Nó tự hào dòng họ chúa sơn lâm của nó, lại vùng dậy truy đuổi…

Cả ngựa và sư tử quần nhau đã mệt, thừa cơ một chú ngựa đuối sức chậm chân rớt lại phía sau. Sư tử liền dồn hết sức quyết giành chiến thắng, nó đã ôm và cắn vào cổ con ngựa. Con ngựa dù cố lao lên nhưng dần đuối sức rồi ngã quỵ và bị chúa sơn lâm kết liễu nằm cựa quậy bất lực. Sư tử ta hân hoan trong đại thắng. Sau nhiều vất vả, thậm chí nguy hiểm trong cuộc đấu sinh tử cuối cùng cũng giành được chiến lợi phẩm. Nó hy vọng sẽ được no nê mấy ngày.

Trong lúc hắn đang say sưa với chiến thắng, thành quả chưa được tận hưởng thì kẻ thù mới lại xuất hiện. Một đàn linh cẩu từ đâu đã bám theo và chỉ chờ có cơ hội. Vâng chúng chính là bọn cơ hội, chẳng tham gia chiến đấu gì, chẳng phải hy sinh gian khổ gì bỗng nhảy xổ ra tranh lấy quyền lợi. Sư tử từng uy danh lừng lẫy, nhưng “đơn thuơng độc mã”, lại trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài đã mệt lử, không chống lại được bầy chó hoang dại, hung dữ, đoàn kết đồng lòng đánh lại nên đành “bỏ của chạy lấy người”.

Giờ này sư tử chẳng còn say sưa, tự hào với chiến thắng nữa vì thành quả mình giành được lại thuộc về bọn chó cơ hội. Cuộc chiến đấu hy sinh của nó chẳng là vô nghĩa sao?

Nếu nó biết làm thơ chắc nó sẽ làm bài: “Thành quả về đâu?” - bài học lịch sử truyền lại cho con cháu và họ hàng nhà nó…

LÊ MINH CHỬ

Cười chút chơi

KẺ CẮP GẶP BÀ GIÀ

Loan Phan Huy Nguyên

Có ông Bác sĩ kia ế khách, bèn nghĩ ra một kế. Ông ta trưng tấm biển trước phòng mạch, nói rằng: trị dứt bịnh thì tính 20 Mỹ-kim, còn không dứt bịnh thì bồi thường cho bệnh nhơn 100 Mỹ-kim. Bên cạnh phòng mạch có một ông luật sư ế khách đói dài, thấy vậy bèn tới phòng mạch Bác sĩ đó định kiếm 100 bạc xài chơi.

Luật sư : Tôi bị mất khứu giác, ông trị giùm tôi.

Đốc tưa: Y tá, lấy lọ thuốc số 9 và nhỏ vô lỗ mũi ông này ba giọt.

Luật sư : Ê, cái này là nước mắm mà.

Đốc tưa: Xin chúc mừng ông đã lấy lại được khứu giác. Trả tui 20 đô.

Luật sư cả giận, ba ngày sau trở lại phục hận.

Luật sư : Tui mất trí nhớ, ông trị giùm tui.

Đốc tưa: Y tá, lấy lọ thuốc số 9 và nhỏ vô mồm ông này ba giọt.

Luật sư : Đừng, đừng. Cái này là nước mắm, tôi nhớ mà.

Đốc tưa: Ông đã lấy lại được trí nhớ. Trả tui 20 đô tiền trị bịnh.

Tuần sau, luật sư tới phục hận một lần nữa.

Luật sư : Tui bị giảm thị giác, ông trị giùm tui.

Đốc tưa: Cái này thì tui chịu thua. Đây là tờ 100 đô tui bồi thường cho ông.

Luật sư nhìn tờ giấy bạc rồi nói: Đây là tờ 10 đô mà, đâu phải 100 đô ?

Đào Minh Diệu Xuân st.


TRUYỆN VUI THỜI @

Những cái tên Lào “dễ-thương”

Việt, Lào: 2 xứ láng-giềng, cùng loại ngôn-ngữ “Có Dấu”. Nhưng nếu tiếng Việt có đủ các Dấu (Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng) thì tiếng Lào chỉ toàn Dấu Hỏi.

Việt Nam từ khá lâu có 1 thói-quen rất “phản Khoa-học”, “phản Ngoại-Ngữ” là cứ khi gặp 1 chữ nước ngoài nào, kể cả tên người ta... là bèn phiên-âm sang tiếng Việt. Như vậy khi cần tra-cứu thêm, không biết được chữ gốc viết như thế nào, làm sao tra? Và chính cái người có tên được phiên-âm khi nhìn vào chưa chắc đã nhận ra đó là tên của mình!!

Thậm-chí nhiều khi những danh-từ riêng về địa-danh mà cũng dịch nữa, thí-dụ như tên của 1 sân đá banh rất nổi-tiếng ở Pháp là Parc Des Princes, báo-chí Việt Nam dịch chính-thức là sân banh Công-Viên Các Hoàng-Tử thì kỳ-cục quá! Mà nếu có phiên-âm là Pác Đề Pơ Ranh Xơ cũng chẳng ra làm sao; nếu Bạn tới Paris hỏi thăm đường đi Parc Des Princes mà phát-âm y như vậy, ngay cả viết ra giấy “Pác Đề Pơ Ranh Xơ”, thì “Ông Cố Nội” thằng Tây cũng không biết mà chỉ cho Bạn được, chớ đừng nói là hỏi “Công Viên Các Hoàng Tử”!!

Sau đây, mời xem 1 đoạn trên báo Việt Nam nói về những cái tên rất “dễ-thương” của những người bạn Lào “anh em” của chúng ta:

Đoàn đại biểu cao cấp của nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào anh em sang thăm Việt Nam. Thành phần gồm có các Đồng Chí:

- Vay Hẳn Xin Xin Hẳn, Săm Thủng Kêu Van Hỏng, Ôm Phản Lao Ra B iển, Say Xỉn Xông Vô Hẻm, Teo Hẳn Mông Bên Phải, Tay Xỏ Mông Thum Thủm, Xà Lỏn Dây Thun Lỏng, Y Hẳn Tay Xin Đểu.

Trong đoàn cấp cao này còn có các nhà báo nổi tiếng như:

- Đang Ỉa Lăn Ra Ngủ, Leo Tủ Ăn Đu Đủ, Ăn Tỏi Xong Bum Bủm.

Và một nữ ký giả lão thành là:

- Cai Hẳn Thôi Không Đẻ.

Không thể không cười

với những cái tên được dịch ra tiếng Việt

Tên Nhật Bản dịch sang tiếng Việt có:

Cutataxoa

XaKuTara

TaChoKuRa

Lào:

Lông Chim Xoăn Tít

Vay Vay Hẳn Xin Xin Hẳn

Hắc Lào Mông Chi Chít

Đang Ị Lăn Ra Ngủ

Xăm Thủng Kêu Van Hỏng

Ôm Phản Lao Ra Biển

Say Xỉn Xông Dzô Hẻm

Cu Dẻo Thôi Xong Hẳn

Cai Hẳn Thôi Không Đẻ

Xà Lỏn Luôn Luôn Lỏng

Ngồi Xổm To Hơn Hẳn

Teo Hẳn Mông Bên Phải

Xà Lỏn Dây Thun Lỏng

Hàn Cuốc Hàn Xẻng: (Korea)

Chim Đang Sun

Chim Sun Sun

Chim Sưng U

Chim Can Cook

Choi Suk Ku

Nâng Su Chieng

Kim Đâm Chim

Pắt Song Híp

Chơi Xong Dông

Soi Giun Kim

Hiếp Xong Dông

Eo Chang Hy (Y Chang Heo)

Liên Xô:

Cu Nhét Xốp

Cu Dơ Nhét Xốp

Nicolai Nhai Quai Dep

Ivan Cu To Nhu Phich

Trai Cop Xờ Ti

Mooc Cu Ra Đốp

Ivan Xach Xô Vôi

Gruzia:

Xuyên Phát Nát Đe

Ukraine:

Nâng Cu Lên Cô

Hungary:

Kukelop

Rumany:

Lo Nhet Cu

Lôi Cu Ra Đốp

Trung Quốc:

Bành Tử Cung

Đại Cường Dương

Tây Ban Nha:

Rờ Mông Mu Tê

Pháp:

Mecci Bố Cu

Mông To Đít Cũng To

Phăng Phăng Xi Lip

Bồ Đào Nha:

Fecnando Cuto

Mông Cổ:

Giao Hợp Phát Một

Cấp Tốc Thoát Nước

Lạc Mốc Hột Lép

Thái Lan:

Ki A Ti Suck

Campuchia:

Su Va Đu Mông

Ấn Độ:

Xì Líp Văng Đi

ĐỖ THIÊN THƯ st.


TÀI XẾ XE TANG

T ôi đã ngoài năm mươi, nói như ngôn ngữ thời thượng, U 60. Một thời đoạn của tuổi tác bắt đầu cho sự nghỉ ngơi. Nhưng nghỉ ngơi vào tuổi này thì thật còn quá sớm. Bởi còn lắm nhu cầu cần được đáp ứng, còn lắm tâm tư cần được giãi bày, còn lắm ngõ ngách cần được săm soi. Tóm lại còn rất muốn sống. SỐNG với đầy đủ ý nghĩa của nó. Mà điều quan trọng nhất của SỐNG là làm việc. Một công việc không chỉ đáp ứng nguồn chi tiêu, mà còn được thấy mình tồn tại, được giao thoa, giao hảo, giao hữu, giao lưu, giao tất tật những gì có thể giao được. Không phải sao? Cái sự giao chuyển giữa mình và cuộc đời, nó luôn hiện hữu như mắt mình đang mở, tim mình đang đập và hơi mình đang thở. Tuy những gì thuộc về khát vọng đã hao mòn đi dần so với chừng dăm mươi năm về trước, cũng không lắm thôi thúc xốc xáo tham cầu, nhưng vẫn còn tạm đủ để làm một cái đích cho cuộc sống, một cái neo cho hồn người, và cho cả một vùng huyễn ảo để không cảm thấy nhàm chán khi đoạn đường mình đang đi đã dần hẹp lại.

Nhưng biết phải làm sao đây? Khi đã mấy chục năm ròng rã trên những tuyến đường xuôi ngược cùng chiếc vô lăng quen thuộc. Quen thuộc như một phần cơ thể vậy, quen thuộc đến nỗi không cần phải chủ tâm quyền lệnh, nó cứ mặc nhiên mà vận hành theo một sự quán tính ăn sâu đến tận cùng mọi thao tác. Mỗi một tế bào cơ thể, mỗi một nơ ron thần kinh, mỗi một phản xạ trực giác, và đến cả hệ thống sinh học ăn uống ngủ nghỉ đã được hình thành như một lập trình mặc định. Có nghĩa là nếu tôi một vài ngày không được ngồi vào cái ghế trong ca bin, không được làm những động tác nhuẫn nhuyễn, không được đón làn gió ngược qua cửa xe, không được nghe tiếng động cơ rù rù, không được nhìn thấy những con đường trải dài trước mắt, thì một góc mê mải của lòng tôi lịm tắt, thì cả một khối cơ hoành cơ dọc trong tôi buông chùng, thì hết đến hai phần ba cõi hồn tôi vật vờ vô định. Có nghĩa tôi không còn thấy mình tồn tại, có nghĩa tôi không còn đang sống, có nghĩa hình như tôi đang chết đi rồi.

Nhưng vào cái tuổi của tôi bây giờ, không chỉ những nhà lập pháp tràn đầy kinh nghiệm, không chỉ những nhà tuyển dụng tràn đầy yêu cầu, không chỉ trong con mắt người thân của tôi tràn đầy âu lo, mà chính trong cái bản thể dẫu đã dọc dài dãi dầu tôi luyện cũng đã rụt rè phản kháng. Nó rụt rè là bởi nó còn phải chống đỡ cái sự giằng giật từ phía bên kia, phía của cái gọi là sức bền độ dẻo. Chống đỡ lại một tâm thế không muốn thừa nhận những bước lùi của phong độ. Nhưng mà có cố chống đỡ đến thế nào thì con mắt thực tế vẫn trợn trừng đòi hỏi người ta phải nhìn thẳng vào nó, không thể tránh né, không thể làm ngơ. Mà có muốn tránh né, có muốn làm ngơ cũng không hề dễ dàng trước những cái lắc đầu, dù lắc rất nhẹ và rất lịch sự. Một khoảng thời gian đủ ngấm đòn của sự phản kháng. Những thườn thượt ngắn dài, những hậm hực cau có, những chập chờn mong mỏi đã được chấm dứt sau một thông tin. Một thông tin không có một chút hấp dẫn, một thông tin mà mới nghe qua đã muốn lắc đầu. Một thông tin báo hiệu trước những cảm giác khó nuốt. Giá như có một lựa chọn khác. Người ta cứ luôn phải giá như khi không thể. Đã biết không thể thì thôi đừng giá như đi. Chấp nhận hoặc không chấp nhận cứ việc thẳng thừng cho rõ ra, giá như làm gì cho thêm nặng nhọc. “Có còn hơn không… có còn hơn không…”. Câu hát trong bài Thà như giọt mưa luôn là một câu khuyến nghị hợp thời khi người ta còn đang phân vân trước một quyết định. Ừ thì đúng là có dù chỉ một ít thôi vẫn hơn là không có rất nhiều. Vậy đừng nghĩ ngợi gì cho thêm mệt óc nữa, cứ dấn đi một bước thứ nhất thì sẽ biết bước thứ hai là thế nào.

“Không biết anh sẽ trụ nổi bao lâu trong công việc này? Tôi cứ phải tuyển người liên tục, có người chỉ một ngày đã phải bỏ chạy. Ui trời, một công việc chẳng có gì khó nhọc mà sao…?”

Quả đúng là chẳng có gì khó nhọc cả. Này nhé, không phải căng mắt mà điều khiển vô lăng một cách điệu nghệ trên một con phố đông người, không phải phập phồng mắt trước mắt sau với tiếng còi toét cùng một màu áo vì lý do bị bắn tốc độ hay kiểm tra đột xuất, không chập chờn nỗi lo âu xảy ra tai nạn bất kỳ cho dù tay lái đã thuộc hàng lụa thượng đẳng. Quá nhẹ nhàng chứ còn gì nữa. Vậy sao lại phải chạy?

Trời ơi! Nếu bạn đã phải nghe ai than vãn kêu khóc một lúc chắc cũng váng hết cả đầu, ù hết cả tai, gai chối hết cả người rồi, huống chi không chỉ một tiếng kêu khóc, mà có khi râm ri cả một dàn đồng âm, chưa hết, tiếng ỉ o của phường kèn bát âm, tiếng ề a kinh kệ của những nhà sư, tiếng thùng… thùng đệm nhịp cứ ong ong bên tai, cùng với những hình thái ảm đạm thê lương của một đám tang, cả cái cảm giác rờn rợn của chiếc quan tài sau lưng mình… Ôi trời, cái ngày đầu tiên ấy tôi như có cảm giác mình đang bị chìm xuống đáy cùng của địa ngục. Không vì cái trách nhiệm đang khoác vào mình, tôi đã tông cửa xe mà bỏ chạy cho xa. Chạy một mạch không ngoái đầu lại nữa. Đúng như ông chủ dịch vụ đã nói “…chẳng khó nhọc gì mà sao…”. Ông ta không hiểu nổi vì có lẽ ông ta chưa từng ngồi vào vị trí này, chưa từng bị nhấn chìm trong cái thứ cảm giác kinh khủng này, cho dù với nghề nghiệp, ông ta đã có thể chai đi một phần cảm xúc trước những chiếc quan tài chồng cao trong gian nhà. Thì đúng là cái sự quen mắt lâu ngày, người ta sẽ không còn sự lợn cợn của một vật biểu trưng cho cái chết nữa. Nhưng dẫu sao thì nó cũng chỉ là một thứ tĩnh vật. Còn đây là cả một chuỗi âm thanh hình sắc bủa vây. Tuy tôi cũng đã thuộc vào loại gan lỳ, tôi không có cảm giác sợ trước xác chết. Tôi thấy thật vô lý khi con người kia nếu còn sống, có thể đánh mình, gây hại cho mình thì lại không sợ, vậy mà khi họ nằm ngay đơ ra rồi, muốn làm sao thì làm chả biết trời trăng mây gió gì nữa thì lại lắm người rúm lại vì sợ, thậm chí tái ngắt mặt mày đến cả mấy hôm. Thật ra, ngoài cái lý do là yếu bóng vía thì còn một thứ ám ảnh khác khiến người ta sợ, đó là hình ảnh tương lai của họ. Và nếu đã sợ chết thì người ta luôn phải sợ rất nhiều thứ. Tất nhiên là chết là điều đáng sợ rồi. Bởi con người ta được mấy lần sống mà không sợ chết. Nhưng nếu quá nhiều cái sợ thì có vẻ như con người ấy đã chết đi mất mấy phần rồi.

“Khi không còn cách nào khác thì chỉ còn mỗi một cách là bắt buộc mình phải thích ứng với hoàn cảnh”.

Cái câu be sườn này thật là một phương thuốc đặc hiệu. Không tin thì cứ thử mà xem. Tôi đã thử nó bằng cách kín đáo nhét hai cục bông gòn vào tai khi bắt đầu ngồi vào cái ghế ấy. Tất nhiên là bất tiện, nhưng ít nhất cũng phải tạo cho mình một cơ hội để làm quen. Khi đã quen rồi hẳn sẽ dễ dàng hơn thôi. Đúng là thế, chỉ một tuần, tôi đã giảm dần cảm giác bức bối ong ong đó. Mắt đã quen, tai cũng hơi quen, vì tuy đã có bông gòn, nhưng âm thanh vẫn thẩm thấu phần nào. Bởi không thể dùng mãi phương pháp không lấy gì làm tối ưu ấy, nên tôi tăng dần cường độ âm thanh bằng cách giảm dần kích thước hai cục bông. Cuối cùng thì nó được bỏ hẳn ra. Nói thật, cũng không dễ chịu hoàn toàn đâu, làm sao mà dễ chịu trước sự đau khổ mất mát của người đời chứ. Nhìn người ta khóc lóc vật vã đau đớn thế mà mình lại dễ chịu thì… Nhưng cái sự chai lỳ cảm giác thì dần hiện rõ. Là thế, với một vật gớm ghiếc nhìn vào một lần thì thật đáng sợ, hai lần bớt đi một ít, ba bốn năm sáu bảy tám lần thì nó thật quá bình thường. Cũng như thế với tất tật các hình thái khác, đẹp lắm lắm thì nhìn mãi cũng không còn đẹp nữa, xấu lắm lắm thì cũng nhìn mãi cũng không còn xấu nữa, hay lắm lắm thì nghe mãi cũng không còn hay nữa, dở lắm lắm mà đã lậm sâu vào rồi thì cũng không còn dở nữa, khổ lắm lắm nhưng khổ mãi quen rồi không thấy khổ nữa, một câu chuyện cười nghe một lần thì buồn cười, nghe thêm vài lần nữa thì cười hổng nổi. Thế mới có câu đúc kết từ bao đời “ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt”. Khi cái sự “quen” đã đủ tầm mức bão hòa cảm xúc, làm nhòa đi sự phân ranh của cảm trạng thì “bình thường hóa” được hết những bất cập. Nhờ đó mà xã hội mới có những người làm được những loại hình công việc mà mới nghe qua thật không dễ nuốt như: bốc mộ, khám nghiệm tử thi, thông ống cống, vệ sinh đường phố, công nhân cầu đường, hầm mỏ, nghiên cứu khoa học… và cả những loại tội phạm.

Chao ôi! Cái chết! Nó là sự kết thúc của một đời người, nhưng không phải đã kết thúc được tất cả. Nói cho chính xác thì chỉ kết thúc sự sống của một thân xác, hoài bão ước vọng của một cá nhân, làm gián đoạn một số liên quan hoạt động. Phần còn lại thì thuộc về những người đang còn sống. Nhưng ý nghĩa rốt cùng của nó thì cũng là khép lại những bi hài kịch mang chung một cái tên. Có quá nhiều lý do để dẫn đến cái chết. Nhiều nhất vẫn là bệnh hoạn và tai nạn, một ít thì do sự chủ động tìm đến. Có cái bất ngờ, có cái được báo trước. Không thể nói, cái chết nào dễ tiếp nhận hơn. Có người ngày mai cưới, hôm nay quếnh quáng thế nào đâm vào gầm xe ô tô, có người mới trước đó vài phút còn nói cười ha há, bất chợt tái sám mặt mày lăn đùng ra bất động, có người đang còn hứa hẹn một tương lai rực rỡ với bao thành công đang trên đà phấn phát, bỗng nhiên thấy mình bị hất ra ngoài khoảng không mất trọng lượng rồi đâm sầm vào một tảng đá khi chiếc máy bay cũng đang cùng một số phận. Có người đang huênh hoác những kỳ tích, đang hăm hở với ước mơ, đang cháy bỏng những thành tựu, thì một cái phiếu xét nghiệm chìa ra trước mặt một căn bệnh nan y, con đường phía trước cứ như một sợi dây thun bị buông tay ngắn chùn lại. Nếu xốc nổi mất cân bằng thì khóc than vật vã, cuống cuồng quay đầu nọ trở đầu kia, túm vội chút mong manh dài thêm một ngày một phút. Nếu trầm tĩnh minh triết thì lựa chọn vài ba việc thiết yếu nhất để có thể hoàn thành, và tận dụng chút thời gian ít ỏi còn lại cho tình yêu thương và những niềm vui nho nhỏ. Tóm lại, cái chết luôn là điều phải đến với tất cả mọi người, khác nhau là độ ngắn dài ánh sáng với mặt trời, là cái cách khi nó tiếp cận, là dư âm còn lại trong thế giới con người.

Đám tang có thể xem như một bản tổng kết về công trạng, nhân cách và sự rộng hẹp trong quan hệ xã hội của mỗi người. Cả sự phân hóa giàu nghèo cũng được hiển hiện rất rõ ở đây. Có những đám với hàng xe đẹp sang trọng kéo dài đến mấy ngã tư, cùng bao nhiêu là vòng hoa, trướng liễn đến không đủ chỗ treo. Người đi đưa thì rõ là những tai mặt đình đám. Người bàng quan nhìn vào cũng có thể biết ngay người đã mất thuộc tầng lớp nào trong xã hội. Ngược lại thì có những đám lèo tèo người đưa, ngoài chiếc xe đòn thì cùng lắm là vài ba chiếc xe khách hoặc xe tải, nhiều khi là do người nhà thuê cho người mất đỡ tủi, cũng là gỡ gạc chút sĩ diện cho người còn. Đa phần thì thuộc hàng trung trung, không nhiều không ít, hơn chục cái ô tô vài ba kiểu loại, dăm chục xe máy chở đôi, loe hoe những cành huệ trắng. Nghĩa trang cũng là nơi phân tầng. Người giàu có quyền thế thường được tự chọn những lô mặt tiền, thoáng đãng đường đi lối lại, người trung trung hơi ngặt nghèo đường nước một chút nhưng cũng tạm coi là ổn, người nghèo thì chịu khó lặn lội xó xỉnh xa tít cuối hàng, khổ nhất cho đội khênh quan phải len lỏi trong những dãy hàng phần mộ. Không ít khi người thân phải thót tim khi chiếc quan tài chao đảo trên những đôi vai. Kỳ lạ, khi còn sống, người ta rất nhiều khi chẳng tiếc lời mắng nhiếc nhau, không hiếm những người là thân thuộc bạn bè tỏ ra ghẻ lạnh, nhưng khi đã chết thì người ta lại lo lắng từng chút động chạm, sợ ngôi mộ lệch, sợ đằng đầu có đá, sợ quan tài bị kênh nghiêng. Thực ra, những cái sợ ấy chẳng phải sợ cho người đã mất, mà sợ cho những người còn lại, sợ bị ảnh hưởng đến chuyện tài lộc gia cang, sợ bị nạn tai bất chừng do những tín nghi bất chứng. Mà phần lớn, người ta tự sợ những gì do chính mình tưởng tượng, và căn cơ của những sự tưởng tượng ấy bắt nguồn từ những bất bằng khi con người đối đãi với nhau. Người ta vốn quan niệm người chết sẽ có một thứ quyền năng tác động cao hơn đến mọi sinh hoạt đời sống của họ. Bởi thế nên họ thường van vái cầu xin, phủ phục lạy lục, bày biện lễ nghi to tát mà cầu cho linh hồn người mất siêu thăng. Đã siêu thăng rồi thì sẽ không quay về trả oán. Nhất là những người gián tiếp hay trực tiếp gây ra cái chết cho người mất thì lại càng lo lắng, lại càng tỏ ra thân tình hiếu nghĩa. Thật là cả một trường đoạn của nỗi bi ai. Nhưng chính thực của những nỗi sợ ấy, mấy ai tự hiểu, tự nhận thức được rằng “họ đang sợ sự hệ lụy hệ quả từ chính những hành vi sống xử của bản thân họ”.

“Nghĩa tử là nghĩa tận”.

Con người ta cũng thật lạ. Khi còn sống luôn tranh chấp gây thù chuốc oán, đối xử với nhau thật tệ bạc. Những câu kia chuyện nọ nhỏ nhặt thôi có khi cũng thành một vấn đề nan giải, để đến nỗi phải lôi nhau ra tòa, không tiếc lời mạt sát nhục mạ nhau, hùng hùng hổ hổ như muốn ăn tươi nuốt sống nhau, mưu toan ám muội bao thủ đoạn tàn hại nhau, hơn kém nhau từng phân vai ni tấc, thiệt một chút cũng bất bình, hơn một ly cũng bảnh bao mày mặt, vị lợi mà mang đến cho nhau những chiếc mặt nạ rất tinh vi, nhìn nhau như những miếng mồi, như những quân cờ, như những bức tường thành lông chông gai góc. Nhưng bất chừng nghe tin… Thôi thế là hết. Bao sân hận bon chen bỗng chốc tiêu tan. Lại một chút ăn năn, một chút hơ hỏng, một chút tiếc nuối. Và rồi nén hương ngọn nến, thầm thì đôi lời từ tạ, rằng người đi xin hãy nhẹ nhàng, bao nghiệt ngã nhân gian đã thành mây gió. Chuyện lỗi nghì đã hóa vô vi. Hư huyền một kiếp phận. Đến đi có ngờ.

Tôi là người thuộc chủ nghĩa hiện sinh. Tôi không tin có cái gọi là thế giới bên kia. Mọi vấn vụ chỉ thực sự tồn tại trong hơi thở. Tất cả những mơ hồ đằng sau sự chết đều do chứng tưởng tượng ân oán của con người mà ra. Khi người ta bất lực trong sự chế phục những bất toàn, những hiểm ác của đời sống, thì người ta phải dựng lên, phải vin vào một thứ quyền năng huyễn ảo để khắc chế. Bởi thông thường, con người luôn sợ những gì không hoặc chưa nhìn thấy, chứ khi đã rõ ràng hình hài thì người không còn thấy sợ nữa. Và hay nhất vẫn là một thanh kiếm vô hình lơ lửng trên đầu mang tính năng huấn giáo. Thực ra, đó cũng là một cách hay, bởi nếu không có những mơ mơ hồ hồ ấy thì thế giới này hẳn còn xảy ra lắm điều nghiệt oan khốc liệt, khi con người không còn biết sợ. Và ngày càng xảy ra những hình thái tương tàn bất nhẫn, thì những mãnh lực vô hình của các giáo chúng càng được khai thác và phục hiện. Ngay cả những cảnh trạng của con người khi đi vào cõi chết, vẫn được tận dụng làm cách huấn thị. Người đau lâu ốm dài, chết không chết được, sống thì không ra sống, người ta bảo đó là nặng nợ trần không trả được. Người chết vì tai nạn không toàn thây, máu me lênh láng, thân thể dập nát, chết đường chết chợ, người ta bảo đó là nghiệp chướng phải mang vì chắc đã từng gieo thù chuốc oán, đã từng bị nguyền rủa mắng nhiếc. Người chết vì bị sát hại hay bị kết án, nếu đã từng gây khổ nạn cho người khác, thì người ta bảo thật đáng đời đáng kiếp, chết không ai thương, chết cho rộng đất, nếu bị bức hại thì người ta không tiếc lời xót xa tội nghiệp, có chút tài hoa hay đóng góp công ích lại càng được tiếc thương và gây lên sự phẫn uất với kẻ vô lương nào đó, và phần nhiều người ta bảo đó là chết oan. Người tự tìm đến cái chết vì bất kỳ một nguyên nhân nghiệt ngã nào đó, thì hầu hết người ta bảo là ngu, chuyện gì cũng có thể tìm được cách giải quyết, việc gì phải hủy cái thân mình, sống mới khó chứ chết thì dễ không, một số khác thì cho đó là cách giải thoát nếu thật sự bế tắc. Người chết thật nhẹ nhàng thanh thản sau một giấc ngủ, hay một cơn bệnh ngắn mà êm đềm nhắm mắt sau khi chào vĩnh biệt người thân, sau khi nhắn gửi được đôi lời trăn trối, người ta bảo đó là người có phúc, trọn nghiệp trần rồi thì thong thả bay cao. Sống đã luôn lắm điều nọ tiếng kia, chín người mười ý, chết cũng vẫn nóng giảo môi người. Thật đúng là bể dâu cuộc đời. Vì vậy nên cái chết chưa hẳn đã hết bởi tất cả những tương quan trong quá trình sống của mỗi người. Nhưng dẫu sao, đối với mỗi bản thể, cái chết là sự chấm dứt cuộc sống. Có nói gì làm gì thì cũng đã trở thành vô nghĩa với một xác thân lạnh giá, vùi sâu ba tấc đất hay một nhúm tro tàn trơ khốc. Sự tổn thất nặng hay nhẹ, nỗi tiếc thương dài hay ngắn thuộc về người còn sống.

Một công việc ngỡ thật đơn giản, không ngờ lại cho tôi có thêm nhiều góc nhìn về sự mất còn của cuộc đời này. Và rồi qua những ngẫm nghiệm ấy, tôi tự bảo mình “Hãy cứ sống một cách tự nhiên và ngay thẳng. Làm được việc gì tốt cho mình và cho người thì cứ làm. Hãy góp nhặt những yêu thương và những niềm vui nho nhỏ quanh mình hàng ngày vẫn có mà làm lẽ sống, đừng hoài hơi mà sợ cái chết. Nó cứ đến lúc nó phải đến. Điều quan trọng là khi nó đến thì mình để lại gì giữa chốn nhân trần nhiều mê mải và cũng lắm vênh vao. Ta được sinh ra từ chuỗi liên hoàn của tạo hóa. Rồi ta cũng sẽ mất đi bởi chu trình của tạo hóa. Cái đáng kể của một đời người là còn đọng lại gì trên môi người khi khuất bóng. Còn thì tất cả đều hư vô. Mỗi người khi được sinh ra từ trong khởi thủy đã có một mục đích cho đường đời. Cứ mặc nhiên mà đi theo sự dẫn dắt của nó. Hòa chung vào dòng lưu chuyển của trả vay được mất, những điều mà khi đã đặt chân vào cõi hư vô, thì “bản tổng kết” mới điểm ra được những đậm nhạt phết phẩy. Còn bây giờ, với tôi, một công việc đủ để sinh tồn, một gia đình đủ để ấm áp, một vài người bạn đủ để chung chia, thế là đủ. Mai kia mốt nọ… chỉ mong nhẹ nhàng cất gót$ đừng hệ lụy gì cho cháu con, đừng bia miệng nhân gian dè bỉu, cũng đừng vương vất “phải chăng còn có kiếp sau?”. Hãy cứ tròn một kiếp thiện an đi đã.

ĐÀM LAN

NHỮNG ĐÓA TƯỜNG VI

Hắn bất ngờ thò đầu vào phòng làm tôi và Phượng rú lên kinh hãi. Hai đứa nhảy xuống giường. Nhỏ Phượng cắp theo cái gối bên hông, tay trái chặn ngực, trợn mắt trắng dã:

- Ê, cái ông này…!

Tôi tròn mắt:

- Sao vô duyên quá dzậy trời à. Vô phòng không gõ cửa!

Mặt hắn đỏ lừ, giọng nhát gừng:

- Nhưng cửa mở sẵn, làm sao tui… gõ?

Hai đứa phì cười:

- Cũng phải.

Hắn có vẻ khoái trá, tiếp luôn:

- Vả lại tui chưa bước vô phòng đâu. Chỉ mới… lú cái đầu vô thôi mà.

Gã này lém thật! Tôi hất hàm:

- Tụi tui đâu có quen ông, vô đây làm chi?

Mặt hắn càng đỏ hơn, hai cánh mũi phập phồng, cặp môi dầy run run:

- Tui muốn tặng hoa cho hai cô.

Hắn đưa bó hoa mà nãy giờ giấu sau lưng ra trước mặt tôi. Hai đứa vừa ngạc nhiên vừa tức cười. Vụ này mới nha! Tôi làm bộ khó nghĩ:

- Nhưng ngày 8/3 qua lâu rồi mà! Với lại tụi tui đâu có quen với ông.

Hắn cười thật tươi. Hàm răng trắng bóng đều tăm tắp khiến cho tôi bỗng hồi hộp. Hắn thản nhiên bảo:

- Xem như tôi mới làm quen với hai bạn đó.

Nhỏ Phượng bĩu môi:

- Đâu có dễ dàng như vậy được! Tui không chịu đâu.

Hắn trở nên lúng ta lúng túng, đặt bó hoa lên bàn viết:

- Vậy xin chào hai cô, hôm khác tôi lại đến.

Không hẹn mà hai bỗng cùng kêu lên:

- Còn hôm khác nữa sao!

Hắn thật lì! Từ đó, mỗi ngày ghé qua phòng tụi tui một lần. Nhưng khác trước ở chỗ hắn đứng bên ngoài, đưa một bó hoa tường vi hoặc một gói mận hay ổi, cóc… và câu: “Tui đến rồi nè hai bạn”. Liên tiếp một tuần. Thành ý của hắn làm động lòng Phượng và tôi. Nhỏ Phượng tấm tắc khen:

- Cóc, mận của hắn ngon ơi là ngon!

Còn tôi tuyên bố tôi yêu những đóa tường vi. Nó khiến cho căn phòng trong ký túc xá bỗng trở nên sang trọng. Chúng tôi trở thành bộ ba dù hắn học ở trường khác. Giảng đường của hắn cách nơi chúng tôi tập trung để học Đại học tại chức khoảng chừng hai trăm mét. Khi tan học, hắn ghé qua thăm bọn tôi một lúc. Sự có mặt của hắn làm cho những ngày xa nhà không còn buồn tẻ, thiếu thốn. Thỉnh thoảng, hắn đưa bọn tôi dạo phố, ngắm những dãy nhà lô xô chen chúc hai bên đường. Ba đứa dừng lại ở một cửa hàng sách, mỗi đứa chúi đầu vào một quyển sách, đọc ngấu nghiến rồi… trả về chỗ cũ. Hắn rủ tôi và Phượng truy tìm những quán ăn bình dân mà ngon và rẻ. Chúng tôi còn viếng thăm những ngôi chùa Khmer huyền bí, thâm nghiêm để lòng thanh thản lạ lùng. Hắn nhặt những chiếc lá dầu kết thành hai cái vương miện cho Phượng và tôi. Hắn kể chuyện cổ tích quen thuộc như Tấm Cám, Cô bé Lọ Lem… Vậy mà hai đứa cũng há hốc mồm lắng nghe. Hắn đã chi phối sinh hoạt của hai đứa tôi tự lúc nào chẳng rõ, Cho đến một hôm, Phượng thảng thốt kêu lên:

- Sao dạo này mày diện quá vậy Quyên?

Tôi xấu hổ giấu cây son ra sau lưng:

- Ờ thì lâu lâu tao cũng phải làm đẹp một chút chứ.

Phượng trề môi:

- Thôi, đừng chối! Ngày nào mày không soi gương ngắm vuốt.

Ngượng quá, tôi bảo:

- Mầy cũng vậy thôi. Ngày nào mầy cũng làm tình làm tội mớ tóc dài. Sáng bỏ xõa, chiều kẹp nơ, tối vấn bím. Em ơi, có phải em đã yêu rồi!

Phượng nhảy tới nhéo vào tay tôi:

- Mày yêu thì có. Hồi nào tới giờ tao vẫn diện mà. Có mầy mới phát thôi.

Tôi giật mình, Đúng là tôi đã thay đổi. Trước đây tôi chúa ghét tô lục chuốt hồng, mắt xanh, mỏ đỏ. Vậy mà… hình như giữa hai đứa tình thân đã giảm sút. Tôi và Phượng ít tán chuyện, đùa giỡn như trước. Nó lấy cớ học bài để quay mặt vào vách. Tay cầm quyển vở nhưng chắc chắn không học chút nào vì nó cầm chỏng ngược đầu quyển sách mà còn không hay. Tôi vịn vào cớ để yên cho nó học mà ngồi thừ người hàng giờ bên cửa sổ, phóng tầm mắt nhìn những mái nhà lô xô phía xa, dõi theo những bóng chim hối hả vỗ cánh trong chiều. Làn nắng mỏng tan tuôn vội vàng lên đồng cỏ xanh ngắt, trải dài tận cuối chân trời.

Mấy ngày nay, anh không đến. Phượng và tôi sốt ruột chẳng làm gì được. Phượng đánh rơi lọ hoa vỡ tan. Đi tắm, nó quên mang theo khăn lau. Đêm cứ trằn trọc, lăn trở mãi. Tôi cảm thấy xốn xang làm sao. Tôi bỏ mất chìa khóa xe đạp. Tệ hại nhất là vào căn tin mua bánh mì rồi quên trả tiền. Lên tới tầng hai mới nhớ ra phải chạy sầm sầm xuống. Mò túi mới nhớ tiền để trong tủ.

Phượng có vẻ chịu hết nổi, nó hỏi:

- Sao hắn không đến vậy Quyên?

Tôi ngồi bó gối, nhìn xuống hai bàn chân:

- Chắc hắn giận mầy

Phượng leo lên giường tôi, tựa lưng vào vách:

- Tao đâu có làm gì đâu mà giận. Chỉ còn mấy ngày nữa là hết đợt học rồi. Lỡ hắn…

Còn vài ngày nữa là xong một đợt học. Tôi và Phượng về trường công tác. Năm sau chúng tôi trở lại học đợt 6 rồi thi tốt nghiệp. Không biết anh có quay lại không hay là biến mất như lúc bất ngờ tìm đến.

Tôi chặc lưỡi:

- Sao hai đứa mình không hỏi địa chỉ của hắn.

Phượng nằm úp mặt vào hai bàn tay, nó kêu lên:

- Ừ. Sao tụi mình ngốc nghếch quá vậy trời a.

Anh chợt hiện ra với nụ cười thân thiện:

- Chào! Hai bạn đang làm gì đó?

Phượng bật dậy reo lên:

- Hắn tới rồi!

Tôi cũng mừng quýnh mà nén kịp.

- Mấy ngày nay anh biến đi đâu vậy?

Hắn ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn viết, giọng buồn hiu:

- Mẹ tôi trở bệnh, nhà đơn chiếc. Tôi không nỡ để mẹ một mình.

Phượng nhanh nhẩu đòi đến thăm bác gái. Anh gật đầu, ánh mắt lóe sáng niềm vui.

Thật bất ngờ, nhà hắn ở cách trường tôi một đoạn đường rất ngắn, nằm lọt thỏm giữa khu vườn thênh thang hoa trái. Những khóm tường vi lung linh tím dọc lối đi. Hương hoa hoàng lan dịu dàng len vào nếp áo. Bộ bàn ghế đá đặt dưới tán cây hoàng điệp. Hoa rụng vàng một khoảnh sân, điểm những nét vàng lên lớp bụi phủ mờ mờ trên mặt bàn tròn vành vạnh.

Tôi bàng hoàng trước vẻ đẹp của ngôi nhà cổ. Nó đứng trầm tư, lặng thầm giữa sự đổi thay sôi động bên ngoài bức tường rào cao hơn đầu người. Mái ngói phủ rêu, trông như một tấm nhung úa màu thời gian, trải nhấp nhô lưng chừng không gian dịu mát.

Hắn mở cửa phòng khách. Nắng và gió tràn vào theo bước chúng tôi. Bộ xa lông gỗ nâu đặt ở góc nhà như sáng bóng hẳn lên. Ba cái tủ cẩn xa cừ đặt liền nhau, tựa vách song môn tô thêm vẻ quý phái cho ngôi nhà cổ kính. Tủ sách đặt cạnh bàn viết và chiếc ghế bành lưng tựa bọc nhung đen tuyền khiến tôi thích mê. Phượng đứng thẫn thờ nhìn cây cột tròn to nửa vòng tay ôm. Chẳng biết nó nghĩ đến sự kiên cố của ngôi nhà hay vẻ giàu có của hắn. Tôi bỗng lúng ta lúng túng chẳng biết hai bàn tay mình phải đặt ở đâu. Tôi cho chúng nắm lấy nhau vậy mà cái run nhè nhẹ cũng chưa chịu dứt. Tôi nhớ về ngôi nhà bé nhỏ của mình ở vùng quê. Khoảnh sân sau ba tôi trồng toàn rau thơm, ớt và đậu xanh. Mùi hăng hăng, nồng nồng lan tỏa. Cuối sân chỉ có một bụi hoa trâm ổi. Nó cũng đưa mùi nồng nàn dễ chịu mà tôi rất thích. Tôi yêu hoa này lắm. Tôi thường ngắt vài đóa cắm vào cái cốc bé xíu đặt lên bàn viết. Hôm nay, nó gợi cho tôi nhớ thân phận mình. Nó nhắc nhở có một khoảng cách vô hình nhưng chắc chắn giữa tôi và anh. Có lẽ Phượng mang tâm trạng như tôi. Nó trở nên nhu mì, nắm chặt tay tôi khi anh đưa hai đứa vào phòng ngủ của mẹ. Chúng tôi giật mình khi trông thấy người đàn bà mặc đồ toàn trắng nằm mỏng dính như tờ giấy đặt trên tấm nệm dầy cộm. Ẩn trong nét tiều tuỵ vẫn còn phảng phất vẻ đẹp cao quý thời xuân sắc. Anh trở nên linh hoạt hẳn:

- Mẹ, hai bạn con đến thăm mẹ nè.

Bà gượng ngồi dậy. Anh nhanh nhẩu bước đến đỡ lưng mẹ rồi kéo gối kê lưng bà. Người mẹ mỉm cười tươi tắn. Nụ cười đẹp đến ngạc nhiên.

Sao bà lại có thể cười tươi trong hoàn cảnh như thế! Bà lại mỉm cười:

- Con tôi thường kể chuyện về hai cháu. Mãi đến hôm nay mới gặp.

Phượng lẹ làng thưa:

- Thưa bác, anh ấy thường kể về bọn con lắm hở?

Bà gật đầu, thú nhận:

- Mỗi ngày, trước khi đi ngủ, con tôi thường kể cho tôi nghe một chuyện vui. Những điều làm con tôi hạnh phúc, vui vẻ cũng giống như lời ru ngọt ngào làm tôi an lòng, ngủ ngon hơn.

Bà dừng lại để thở rồi tiếp:

- Từ ngày tôi bệnh, ba nó bỏ đi nước ngoài, con tôi sống cô đơn lắm. Nó thiếu tình thương.

Anh vội cắt ngang lời mẹ:

- Con còn có mẹ, có bạn bè… con đâu có cô đơn. Ba cũng có quan tâm đến mình. Ba thường gửi quà, gửi tiền về cho mẹ con mình.

Nước mắt bà ràn rụa tuôn xuống má. Tôi biết bà đang nghĩ tiền không mua được hạnh phúc. Anh lau nước mắt cho mẹ, dìu bà nằm xuống và dịu dàng bảo:

- Mẹ đừng buồn! Mẹ buồn thì con buồn theo đó. Mẹ vui thì con mới vui, mới yêu đời được chứ.

Câu nói quả có tác dụng. Người mẹ lại mỉm cười. Nụ cười gượng nhưng cũng đủ vuốt ve lòng người nhận.

Tôi quay đi, len lén lau nước mắt. Lòng phân vân chẳng hiểu anh đến với bọn tôi vì cô đơn hay để ban phát hạnh phúc?

xxx

Khi tôi và Phượng trở lại trường học đợt cuối và thi tốt nghiệp thì nhà anh đã thay đổi chủ. Anh biến mất không lời từ giã. Tôi hốt hoảng nhìn ngôi nhà như vừa khoác một chiếc áo mới. Tất cả sáng loáng, trong trẻo bởi những tấm kính cửa hoành tráng. Thấp thoáng bên trong là những tấm màn màu hồng nhạt dịu dàng buông rủ, buộc gọn bằng một sợi đăng ten trắng thắt nơ xinh đẹp. Người ta đã tô lên tường lớp vôi trắng tinh khôi khiến nó trở nên sạch sẽ, tinh tươm. Lớp rêu ảm đạm trên mái nhà xưa ngày nào đã biến mất. Thay vào đó là những tấm tôn có dáng những tấm ngói đỏ au nằm liền kề, đều tăm tắp. Ngôi biệt thự thật sự trẻ trung, tràn đầy sức sống. Thế nhưng, nó khiến cho tôi ứa nước mắt. Những người xưa bây giờ về đâu? Tôi nói với Phượng ý nghĩ ấy. Nó có vẻ không ngạc nhiên chút nào. Phượng kéo tay tôi bảo về phòng rồi sẽ kể cho nghe. Tôi kinh ngạc nhìn bạn rồi quay nhìn khoảnh sân đã vắng bóng mấy cây tường vi trổ hoa tím nhạt mỏng mảnh. Chỗ đó bây giờ là một tiểu cảnh có hòn non bộ mới toanh. Những cái núi xinh xắn, bé tẹo ấy vẫn đủ sức đè nặng trái tim tôi đến nhói đau, nghẹn thở. Có gì đó quý giá lắm vừa bị đánh mất trong tôi. Tôi thật sự đau đớn khi người bạn thân nhất của mình kể về anh và ngôi nhà cổ.

Vì yêu, vì nhớ, Phượng đã trở lại thăm anh cách nay khá lâu. Nó bắt gặp cảnh tượng anh dọn về nhà mới. Mẹ anh mất. Cha anh về nước không phải vì lo lắng, nhớ thương thằng con trai mồ côi mẹ mà để năn nỉ anh bán nhà chia tài sản làm đôi. Ba anh cần tiền để mua một căn nhà nhỏ bên Mỹ. Ba anh đã có vợ con khác bên ấy từ lâu. Ông kể ơn là đã gửi tiền nuôi mẹ con anh. Giúp anh học xong Đại học. Anh đã có việc làm ổn định. Bây giờ ông cần tiền để nuôi những đứa con mới. Tuy biết nhà bên này là của riêng mẹ anh, bà đã để lại cho đứa con trai duy nhất nhưng ông thương lượng rằng sẽ bảo lãnh để anh sang bên ấy sống cùng với vợ chồng và các con của ông, nếu anh muốn. Còn không thì ở lại đây sống tự lập. Nếu ông làm ăn khấm khá ông sẽ gửi tiền về cho.

Anh đã chọn cách sống tự lập. Anh muốn sống cuộc đời của anh không cần cái mái che mục rã. Anh đồng ý bán nhà mẹ để lại cho anh dù từng góc khuất, từng khoảnh sân êm đềm vắng lặng ươm đầy hình bóng người mẹ anh quý yêu. Anh bán nhà tựa như anh cầm cây kéo cắt ngang sợi dây ràng buộc cha con. Anh sẽ giữ hình bóng mẹ trong tim. Nơi ấm áp nhất, nơi đẹp đẽ và tràn ngập hương hoa tình yêu thương anh dành cho mẹ. Anh đã mua một căn nhà nhỏ. Tiền còn dư anh gửi hết vào ngân hàng. Và tiền lãi anh gửi Hội khuyến học tỉnh đầu tư cho học sinh nghèo hiếu học. Anh thầm đặt tên cái học bổng ấy là Tường Vi, tên của mẹ anh. Anh muốn thay mẹ vun đắp cuộc sống tốt đẹp trên quê hương mình.

Kể đến đây Phượng òa khóc vì thấy tôi không còn chịu đựng nổi, đã nằm mẹp trên giường, úp mặt vào gối rấm rức khóc. Nó đến ngồi bên, cầm lấy tay tôi, nghẹn ngào:

- Bạn à, nhưng rồi anh ấy cũng đã ra đi. Anh ấy được cấp học bổng du học ở Nhật. Trước khi đi, anh ấy đã nói thẳng với mình là rất cảm kích sự quan tâm của mình bấy lâu. Anh cũng quý mến mình lắm. Anh nhắc lại nhiều lần rằng chúng ta mãi mãi là bạn tốt của nhau nghen Phượng. Vậy đó. Tình yêu đã khép c ử a ngay trên môi người. Mình chẳng còn chút hy vọng nào nữa bạn à.

Phượng nằm xuống cạnh tôi:

- Mình xin lỗi Quyên vì mình biết bạn cũng yêu anh ấy lắm. Vậy mà mình đã toan tranh đoạt với bạn. Thật đáng đời mình!

Tôi đau điếng hồn nhưng vẫn cố gắng choàng tay ôm bạn vào lòng, vỗ về:

- Đừng khóc nữa Phượng. Tụi mình hãy cố quên hắn đi. Như quên một giấc mơ đẹp.

…Phượng đã thành công. Nó quên được anh. Sau khi tốt nghiệp Đại học sư phạm tại chức, tôi và Phượng về trường lao vào công tác. Trong lúc tôi vẫn đi về một mình một bóng, vật vã thương nhớ khôn nguôi thì Phượng đã nhận lời kết hôn với một anh chàng đẹp trai, giỏi giang chuyên quản lý Hợp tác xã. Nó sống rất hạnh phúc vì người chồng cứ ngày một thăng tiến cùng lúc với quê hương đã trở thành một nông thôn mới điển hình tiên tiến. Chồng Phượng là một thành viên trong Ban quản trị Hợp tác xã có tới gần 500 người. Anh đã giúp các thành viên trong Hợp tác xã tổ chức mua về các sản phẩm chất lượng với giá cả hợp lý để chia lại cho nhân dân trong xã canh tác. Anh vận động được các thành viên hợp tác tổ chức phối hợp các dịch vụ tiên tiến để phục vụ sản xuất như máy cắt cỏ, máy xới, máy cày, máy gặt, máy tuốt lúa… thậm chí có cả đội vận chuyển riêng của hợp tác xã, vừa giúp thanh niên trong xã có việc làm vừa giúp bà con nông dân chuyên chở với giá rẻ hơn nơi khác rất nhiều. Đã vậy, anh tổ chức được cả việc lo cho đầu ra. Năm nào xã anh bán lúa hay nông sản khác luôn có giá hơn các xã khác. Bà con phấn khởi vô cùng. Đời sống nông dân từ đó cũng nâng cao chất lượng hơn. Có hộ đã xây nhà mới khang trang. Chuyện nhà nhà có điện để thắp sáng và sử dụng trong sản xuất như chuyện bình thường ở huyện Tiểu Cần. Riêng xã này vượt trội nhất là đã biết sử dụng internet để tiếp thu kỹ thuật sản xuất tiên tiến thông qua mạng. Phượng đắm chìm trong hạnh phúc gia đình khi sinh đứa con trai đầu lòng kháu khỉnh.

Còn tôi như một người sống trên mây. Tôi cũng tích cực giảng dạy, góp phần xây dựng trường THPT quê tôi dần dần đạt các tiêu chuẩn Quốc gia. Nhưng tôi như người mộng du tình yêu. Trông vời bóng hạnh phúc cứ bay vèo qua khung cửa. Tôi từ chối lời tỏ tình của vài anh đồng nghiệp, dăm ba anh công chức cùng huyện. Tôi làm ngơ với những cái đuôi dễ thương lẽo đẽo phía sau lưng mỗi chiều tan trường. Mặc cho tuổi xuân dần phai. Mặc cho ba mẹ và Phượng hối thúc chuyện chồng con. Phượng vẫn hay bảo “quay đầu là bờ bạn ơi!”. Tôi cũng gật gù cười cười cho nó vui. Nhưng rồi tôi vẫn không thể tìm thấy bến bờ nào.

Chiều nay, cả trường nhốn nháo chuẩn bị đón đoàn của Sở Giáo Dục đến khảo sát để tiến hành xây dựng cơ sở vật chất. Nếu mọi việc thuận lợi, trường tôi sẽ có thêm các phòng chức năng. Theo ông hiệu trưởng thì các tiêu chuẩn khác trường đã đạt cả rồi, giờ thêm cơ sở vật chất nữa là trở thành trường đạt cấp Quốc gia. Ai cũng phấn khởi vì mình sẽ được phục vụ ở một ngôi trường không thua gì ở thành phố Trà Vinh.

Quan trọng hơn nữa là con em, học sinh mình được đào tạo, giáo dục trong môi trường văn minh mà không kém phần thân thiện ở tại quê nhà.

Tôi suýt ngất khi trông thấy anh trong phái đoàn của Sở Giáo Dục tỉnh. Anh được giới thiệu là một thạc sĩ Giáo dục học vừa về nước nhận nhiệm vụ trưởng phòng Kế hoạch của Sở. Anh có trách nhiệm trực tiếp khảo sát và lập kế hoạch xây dựng phù hợp tình hình thực tế địa phương. Anh cũng đã phát biểu rằng nơi nầy thoạt nhìn đã thấy thuận lợi về diện tích đất, địa điểm và cả… con người. Anh rất thích nơi đây. Biết đâu sau này sẽ trở thành quê hương thứ hai của anh. Rồi anh nhìn về phía tôi, hỏi: “Có đúng vậy không cô Quyên” cả phòng họp vỡ ra bởi tiếng cười vui vẻ trong lúc tôi xấu hổ chẳng biết dấu mặt mình vào đâu để mọi người không thấy sắc hồng bừng lên đôi má bấy lâu xám ngắt.

Anh thật là kỳ cục khi oang oang cái miệng giữa cuộc họp:

- Lần này trở về thành phố Trà Vinh anh sẽ mua vài chậu hoa Tường Vi tặng Quyên, luôn tiện ghé thăm hai bác cho biết nhà.

Mọi người có vẻ kinh ngạc nhưng họ nhanh chóng nhận ra điều gì đó khiến họ thích thú nên cười rộ vui vẻ. Tôi mắc cỡ bậm môi, trừng mắt với anh:

- Thấy ghét!

NGUYỄN THỊ MÂY


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 14.4.2018… ............ Vũ Thư Hữu ... 01

Vài dòng về một cuốn quý thư gợi lại trong tôi nhiều kỷ niệm đẹp .... Vũ Anh Tuấn ... 05

Có tận thế không? (tt) ............ Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết ... 08

M. Gorki trong lòng người Việt .......... Hoàng Thúy Toàn .... 14

Kinh có phải để tụng? .................... Tâm Nguyện ... 18

Chữ Quốc Ngữ & hội chứng nhảy cừu ............ Thiếu Khanh ... 33

Sơn Đông mãi võ (tt & hết) .............. Nguyễn Văn Sâm .... 45

Người Việt sử dụng “Hán ngữ hiện đại” của Nhật ........... Phạm Vũ ... 60

Con người đã sinh ra là phải sống (thơ) ........... Đàm Lan ... 74

Gọi mãi tên nhau (thơ) ............... Phạm Thị Minh-Hưng .... 76

Tìm ai (thơ) ................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 77

Nhạc dế (thơ) ......................... Ngàn Phương .... 78

Cám ơn từng cánh phượng hồng (thơ) ............ Ngàn Phương .... 79

Cảm xúc bất chợt (thơ) ............... Thiếu Khanh ... 80

Em có biết (thơ) ................. Lam Trần .... 81

Giễu đời (thơ) ...................... Lang Nguyên .... 83

Mong trở lại (thơ) ................. Lang Nguyên .... 83

Nắng Xuân (thơ) ................... Thanh Châu .... 84

Cảm Xuân Mậu Tuất 2018 (thơ) .............. Thanh Vĩnh .... 85

Buồn chút thôi (thơ) ................... Quang Bỉnh .... 86

Một cõi đi về (thơ) ............. Thanh Phong .... 87

Thương những con chim (thơ) .............. Lê Minh Chử .... 88

Đôi điều cảm nhận cháy chung cư Carina (thơ) ....... Lê Minh Chử .... 89

Điệp khúc tình yêu (thơ) ................. Phùng Chí Tâm ... 90

Đêm tình nhân (thơ) ................. Lê Nguyên ... 91

Lại về với biển (thơ) ....................... Lê Nguyên ... 92

Đi tìm hạnh phúc (thơ) .................. Huỳnh Thiên Kim Bội .... 93

Thời gian (thơ) ........................... Hoài Ly .... 94

Mừng đôi bạn (thơ) ........................ Hoài Ly .... 94

Chúc mừng thượng thọ (thơ) ................ Phước Hải .... 95

Bài 2 Khoán thủ (thơ) ..................... Phước Hải .... 95

Sắc Xuân (thơ) ............ Hải Âu-Thùy Hương ... 96

Lẻ bóng (thơ) ..................... Thùy Hương-Hải Âu ... 97

Tình ca (thơ) ............. Thùy Hương-Hải Âu ... 98

Mộng tình (thơ) .............. Thùy Hương-Hải Âu ... 98

Sống và chết (thơ) ......................... Vũ Đình Huy .... 99

Living and Dying (thơ) ................. Vũ Anh Tuấn dịch .. 100

Đời thơ Nguyễn Bính (thơ) ........... Vũ Đình Huy .. 101

Nguyen Binh’s poetical life (thơ) ............ Vũ Anh Tuấn dịch .. 102

Yên Tử (Quảng Ninh) cội nguồn Phật giáo Việt Nam ................ Bùi Đẹp st. .. 104

Cuộc sống của nữ bác sỹ đầu tiên của Việt Nam

& Cuộc ly hôn làm rung động Sài Gòn cũ ........ Hoàng Kim Thư st. .. 108

Ngẫm nghĩ ....................... Lam Trần .. 112

Loan Phượng - Long Phượng .................... Phạm Hiếu Nghĩa . 114

Thu Dọn có nghĩa là Vứt Bỏ ..................... Lệ Ngọc st. .. 115

Ly cà phê trên tường .............. Kim Sơn st. . 118

Chiếc áo lễ .......................... Hà Mạnh Đoàn st. . 120

Thành quả về đâu? .......................... Lê Minh Chử .. 128

Cười chút chơi: Kẻ cắp gặp bà già ............. Đào Minh Diệu Xuân st. .. 129

Truyện vui thời @ .......................... Đỗ Thiên Thư st. .. 131

Tài xế xe tang .................... Đàm Lan .. 135

Những đóa tường vi ....................... Nguyễn Thị Mây .. 145

Thông báo:

Kỳ họp tiếp theo của CLB Sách Xưa & Nay sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 09/6/2018 tại Nhà thờ Tân Sa Châu, số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình.

Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về:

hamanhdoan69@yahoo.com

hoặc liên hệ với Hà Mạnh Đoàn - 0937 108489

Các bản tin trước có thể xem tại:

www.diendan.songhuong.com.vn

www.giaimakinhphat.com

www.sachvatranh.com

www.newvietart.com

www.vandanviet.net

www.hoamai-aus.org.au

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế