Hiện có 8 người xem / 2338960 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09 / 7 /2016

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Mở đầu phiên họp, một người bạn mới, cô Vân từ Trảng Bàng xuống được mời nói vài lời tự giới thiệu với các thành viên. Sau đó, như thường lệ Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn quý thư đều chỉ mới tương đối cổ vì một cuốn được xuất bản năm 1962 (54 năm trước) và một cuốn năm 1942 (74 năm trước). Cuốn được xuất bản 54 năm trước mang tựa đề là Nhục Bồ Đoàn (Jeou-P’ou-T’oan) là một cuốn tiểu thuyết nặng về tình dục rất nổi tiếng của một tác giả người Hoa là Li Yu viết năm 1640, và đây là bản dịch được nhà Xuất bản Jean-Jacques Pauvert cho ra đời năm 1962. Người viết được nghe nói về cuốn sách này lúc đó được coi là một “dâm thư” ghê gớm nhất của Trung Hoa nên lúc đó có để tâm tìm kiếm mà không sao tìm được, và chỉ được thấy một cuốn duy nhất trong tủ sách của cụ Vương Hồng Sển, trong lúc tới thăm ông cụ.

Tựa đề đại khái là nói về một chuyện đi tìm người đàn bà đẹp nhất thế gian bằng cách quỳ cầu nguyện trên một vuông chiếu (ảo) b ằ ng thịt (Nhục bồ đoàn), và nội dung là một nho sinh cố sức đi tìm trạng thái tinh thần tuyệt đỉnh nhất qua đủ mọi hình thức, tình huống li kỳ, hấp dẫn, vui, và cực kỳ dâm dật. Bản dịch của dịch giả Pierre Klossowski ra tiếng Pháp rất là hay và hết sức sát với nguyên bản. Sau nhiều năm để tâm tìm kiếm, tình cờ người viết mới tìm được cuốn sách ngay tại nhà sách cũ ở ngay trước cửa nhà, với giá chưa tới 100 đô mít. Cuốn thứ nhì là một tập gồm nhi ề u bài báo đóng chung lại của báo Đông Dương có m inh h ọa (Indochine Illustrée) xuất bản năm 1942, trong đó có tài liệu và cả chân dung của Gustave Dumoutier (1850-1904), một tác giả Pháp rất nổi tiếng đã viết rất nhiều sách về Việt Nam, và đã có thời là Giám Đốc Nha Học Chính Trung Kỳ và Bắc Kỳ (Directeur de l’Enseignement en Annam-Tonkin). Tập báo này rất có ích cho người viết, v ì nó đã giúp người viết chứng minh được rằng tác giả Đông Dương này đã qua đời ở Đồ Sơn vào năm 1904, để chỉnh một bài viết của một nhân vật cộm cán đã viết là tác giả nói trên mất năm 1905 (cho sống thêm một năm). Khi thấy vậy người viết đã nêu bài viết này do chính t ây nó viết ra để sai lầm trên được chỉnh sửa, không để đầm nó cười ngư ờ i mình viết ẩu nói ẩu! Sau khi được giới thiệu cuốn sách và tập báo đã được một số thành viên chuyền tay nhau xem.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, Bs. Nguyễn Lân-Đính đã lên nói về Lễ Vinh danh cụ Nguyễn Văn Vinh vừa được tổ chức, sau đó ông kể lại việc tên ông chỉ có gạch nối giữa hai chữ Lân-Đính, để không lẫn với các con của cụ Từ Ngọc Nguyễn Lân (Nguyễn-Lân-Tuất, Nguyễn-Lân-Dũng, Nguyễn-Lân-Cường…). Tiếp lời Bs. Đính, bà Tâm Nguyện lên giới thiệu và nói về những bài viết về Phật giáo của bà đã đăng trong Bản Tin trong 10 năm qua, nay được bà cho gom lại trong một bộ sách 3 tập. Bà Tâm Nguyện nói xong, anh Phạm Vũ đăng đàn nói v Đại văn hào Shakespeare, về cuộc đời và tình yêu của ông, cũng như về câu nói nổi tiếng “Tồn tại hay không tồn tại, đó chính là vấn đề” (To be or not to be, that’s the question). Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Nhựt Thanh lên nói về Việt Nam phong tục luận. Sau anh Nhựt Thanh, anh Hữu lên ngâm tặng các thành viên bài thơ nhan đề là Nhà Tôi. Anh Hữu ngâm xong, anh Bá Mạnh, với tiếng nói âm vang và hùng dũng, lên đọc tặng các thành viên một bài vè về đề tài Thể dục. Sau đó cô Hoa Phượng lên đọc tặng các thành viên một bài hò về đề tài ô nhiễm môi trường. Kế đó cô Ái Liên lên nói về chuyến đi Hà Nội dạy Yoga, và lê văn khoe là đã leo được lên đỉnh Fan Si Pan, sau đó cô phổ biến bài tập chống tiểu són và giải thích về cách đi ngang người và đưa chân theo chiều ngang cho đỡ mỏi gối. Tiếp lời cô Ái Liên, cô Doan Linh lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ Mưa chiều và Tình ca cho tôi. Sau cô Doan Linh, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom, lên hát tặng các thành viên bài Lên đàng rất ư là quen thuộc. Anh Thanh Châu hát xong, cô Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên bài thơ về Hương Giang. Sau cô Thùy Hương, cô Nguyên lên ngâm bài thơ Thầm Kín, và cuối cùng cô Hoa Phượng lên ngâm bài thơ Mẹ ơi con xin lỗi. Buổi họp kết thúc vào lúc 11g15, và các thành viên vui vẻ ra về hẹn gặp lại nhau trong kỳ họp tháng tới.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ TÁC PHẨM DỊCH THUẬT

CHÓT CHÓT CỦA TÔI

Sau ngày 30-4 năm 75, khác với mười mấy người bạn đồng nghiệp của tôi, các cựu Giảng viên Trường Sinh Ngữ Quân Đội còn ở lại, tôi là người duy nhất đã không đi dạy học, mà chỉ ở nhà dịch tài liệu ra Anh và thỉnh thoảng ra Pháp ngữ. Tôi chuyên dịch các hợp đồng và các tài liệu thương mại, quảng cáo v.v… và vì do bản dịch được các đối tác yêu thích, tôi được những tổ chức, những công ty thuê dịch đối xử rất ưu ái, và với tinh thần “phóng tài hóa thu nhân tâm”, họ trả thù lao tôi rất cao, và khi tôi hỏi, thì được họ trả lời là muốn chia sẻ với tôi một chút lợi nhuận, ngoài ra họ còn bồi dưỡng bếp dưỡng bằng cách tặng thêm sâm cao ly và cao hổ cốt, là những thứ tôi cũng chuyển được thành tiền, vì may mắn có một cô bạn là chuyên gia trong ngành này. Do đó từ năm 75 tới năm 92, tôi sống rất thoải mái không cần tiêu tiền của mấy người con của 3 quốc hội đều đã di tản qua Mỹ, và đã đều trở thành những “người Mỹ bất đắc dĩ”, cho tới một buổi sáng vào tháng 1 năm 1992, một cuộc gặp gỡ với 2 người bạn trọng tuổi đã khiến cuộc đời tôi chuyển hẳn sang một hướng khác rất là may, và cho tới giây phút đang viết bài viết này, tôi vẫn thầm cảm ơn hai vị bạn quý đó, lúc này chắc đang đi du hí ở trên Thiên Giới, vì cả hai đều là những thiện nhân thứ thiệt. Sáng hôm đó, tại số nhà 160 đường Phan Đình Phùng cũ (nay là Nguyễn Đình Chiểu) là Tòa soạn tờ báo Bách Khoa danh tiếng, tôi đã gặp bác Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu và nhà văn Trần Phong Giao. Trong lúc trò chuyện, cả hai vị đã khuyên tôi là với vốn liếng tiếng Anh, tiếng Pháp khá tốt đó, tôi không nên dịch tài liệu thương mại và hợp đồng, là những thứ chỉ một vài năm sau là “sọt rác em đi” mà nên dịch các tác phẩm văn học để để lại những tác phẩm đánh dấu chuyến du hành qua cuộc đời này. Thấy hai vị bạn trọng tuổi nói đúng quá, tôi liền lập tức bỏ việc dịch tài liệu thương mại, và bắt tay vào dịch tác phẩm đầu tiên là cuốn “Hiểu Biết Việt Nam” (Connaissance du Vietnam) của hai đồng tác giả là GS Maurice Durand và Thiếu Tướng Quân Y Pierre Huard, mà tôi dịch từ Pháp sang Anh ngữ. Bản dịch ra đời đã giúp tôi được nhiều tác giả biết tới và nhờ dịch tác phẩm của họ, phần lớn là các thi phẩm, và từ năm 1992 tới năm 2014, tôi đã dịch được tất cả là 20 tác phẩm dịch thuật trong đó có một bộ vĩ đại là bộ Kỹ Thuật của Người Annam (Introduction générale à l’étude de la Technique du Peuple Annamite) của tác giả H. Oger gồm từ 4 tới 5 cuốn khi được in ra, và trong 16 cuốn đã được in và đã bán hết, có một cuốn thơ Việt - Anh của nhà thơ Trần Nhuận Minh ở Quảng Ninh dày tới 833 trang. Vì là người không tham lam, tôi thấy rằng đóng góp như vậy đã là quá đủ nên vào năm 2012, trong khi dịch cuốn thơ Tàu Xanh Lướt Giữa Biển Trời của nhà thơ Vũ Đình Huy, tôi đã gọi tác phẩm đó là tác phẩm dịch thuật áp chót của tôi (vì tôi đã nhỡ có lời hứa với nữ sĩ Lan Hinh, ái nữ cụ Á Nam Trần Tuấn Khải, là sẽ dịch cho bà một tập thơ mà tôi gọi là tác phẩm dịch thuật chót). Tới năm 2014, cuốn thơ của nữ sĩ Lan Hinh cũng đã được xuất bản, và để giữ đúng lời hứa với chính mình tôi đã nhất định “giã từ vật dụng” là hai ngoại ngữ Anh và Pháp để, ở tuổi bát (chén) tuần chỉ còn đọc sách… và lên mạng, chờ ngày đi hành hiệp. Nào ngờ, mới cách đây mấy tuần tôi lại được Lm. Triết, Cố Vấn CLB Sách Xưa & Nay của tôi, nhờ chuyển ra Anh ngữ một cuốn sách nhỏ của ông mang tựa đề là Hơi Thở Linh Hồn do nhà Đồng Nai xuất bản. Trong hai năm nghỉ chỉ để lên mạng và đọc sách, tôi đã nhận được tổng cộng 5 lời đề nghị dịch 2 cuốn truyện ngắn và 3 cuốn thơ, nhưng tôi đã nhất loạt từ chối, nhưng bây giờ người đưa dịch lại là Lm. Triết thì tôi làm sao từ chối nổi. Thế là sau hai năm xa cách tiếng “Em”, tôi lại phải trở lại với Nàng. Được cái là xa cách là xa cách viết lách thôi, chứ còn đọc thì tôi vẫn đọc, nên kêu lại là Nàng trở lại ngay. Tuy nhiên tôi đã rất cực nhọc vì cuốn sách của Lm. Triết thuộc lãnh vực tôn giáo là một lãnh vực xa lạ với tôi. Rất may là có một số từ tôn giáo bằng tiếng Pháp mà tôi biết, nay cần thì chỉ việc vác bộ Harrap’s Pháp - Anh to đùng ra tra là được việc. Hơn nữa lúc này, ngoài những bộ tự điển hay, ta còn có thể tra cứu trên mạng, tuy nhiên khi tra cứu trên mạng thì cần phải có khả năng phân biệt thông tin nào là đúng, thông tin nào là sai, vì thật sự là rất bát nháo, mà phần lớn là bát nhào loại như ô mai được dịch là umbrella tomorrow vậy! Tôi đã cố gắng tra cứu và tìm tòi sao cho dịch cho thật sát nghĩa những gì Lm. nói trong sách. Trong lúc mệt mỏi như vậy, một điều kỳ diệu đã xảy đến, tôi đã nhận được mấy lời động viên của một người mà tôi rất quý mến gửi tới; sau khi nhận được mấy lời khuyến cáo nên cố gắng đó, tôi bỗng như có một luồng sinh khí mới, một sức mạnh vô hình, lôi kéo các từ tiếng “Em” tới, và kết quả là sau 3 tuần lễ vui vẻ làm việc, tôi đã dịch xong cuốn sách Lm. Triết đưa dịch, và hôm nay tôi rất muốn khoe với các quý bạn tác phẩm dịch thuật chót… chót của tôi.

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN


THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG”

Bản dịch của Linh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 1 22 )

III. MẦU NHIỆM CỦA VŨ TRỤ

76. Đối với truyền thống Do Thái-Kitô giáo, nói về sáng tạo còn mang nhiều ý nghĩa hơn là nói về thiên nhiên, vì nó còn có một liên hệ với dự định tình yêu của Thiên Chúa, trong đó mỗi tạo vật đều có giá trị và ý nghĩa riêng của mình. Thiên nhiên thường được hiểu như một hệ thống, mà người ta có thể phân tách, tìm hiểu và can thiệp vào, thế nhưng sáng tạo phải được hiểu như một quà tặng đến từ bàn tay rộng mở của Người Cha mọi người, như thực tại được tình yêu chiếu sáng, mời gọi chúng ta bước vào một sự hiệp thông bao trùm tất cả.

77. “Các tầng trời được tạo dựng từ một lời của Thiên Chúa” (Tv 33,6). Câu này cho chúng ta thấy, thế giới xuất hiện do một quyết định chứ không từ sự lộn xộn hay hậu quả tình cờ, và điều này mang đến cho thế giới nhiều phẩm chất. Có một quyết định tự do, nằm trong lời sáng tạo. Vũ trụ không xuất phát từ hiệu quả của một quyền lực độc đoán, một sự tỏ lộ quyền lực hay ý muốn tự xác định mình. Sáng tạo nằm trong trật tự tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa là lý do nền tảng của toàn thể sáng tạo: “Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên” (Kn 11,24). Mỗi tạo vật đều là đối tượng lòng ưu ái của Cha, Đấng ban cho nó một vị trí trong thế giới. Ngay cả đời sống chóng qua của hữu thể không ý nghĩa gì cũng là đối tượng của tình yêu, và trong một ít thời gian hiện hữu nó cũng nhận được lòng ưu ái của Người. Thánh Basilius Cả nói, “Đấng Sáng Tạo là Tình Yêu vô bờ bến”[44], và Dante Alighieri nói về “tình yêu chuyển động mặt trời và các ngôi sao”. Vì thế từ những công trình đã được tạo dựng, người ta hướng đến “lòng thương xót của Người tràn đầy tình yêu”[46].

78. Đồng thời, suy tư Do Thái - Kitô giáo cũng loại thiên nhiên ra khỏi huyền thoại. Dù không ngừng chiêm ngắm thiên nhiên vì sự huy hoàng và miên man của nó, nhưng tư tưởng trên đã không gán cho thiên nhiên một đặc tính thần thánh nào. Từ cách thức này, việc dấn thân của chúng ta với thiên nhiên lại còn được nhấn mạnh. Việc quay về với thiên nhiên không được diễn ra với cái giá phải trả là sự tự do và trách nhiệm của con người, vì con người cũng là một thành phần của thế giới với trách nhiệm canh tác theo khả năng của mình để che chở và phát triển những khả thể của nó. Nếu chúng ta biết được giá trị và sự mỏng manh của thiên nhiên và đồng thời những khả năng mà Đấng Tạo Hóa đã trao ban cho chúng, điều này cho phép chúng ta ngày nay chấm dứt với huyền thoại tân tiến về phát triển vật chất không giới hạn. Một thế giới dễ đổ vỡ với một con người mà Thiên Chúa đã trao cho việc chăm sóc, đòi hỏi lý trí của chúng ta nhận ra việc định hướng, canh tác và giới hạn quyền lực của chúng ta.

79. Trong vũ trụ này, được tạo lập do các hệ thống mở rộng để liên kết với nhau, chúng ta có thể khám phá ra không biết bao nhiêu hình thức liên hệ và chia sẻ. Điều này đưa chúng ta đến tư tưởng, toàn thể khai mở vì sự siêu vượt của Thiên Chúa, trong đó vũ trụ sẽ được triển khai. Niềm tin giúp chúng ta giải thích ý nghĩa và vẻ đẹp mầu nhiệm của những gì đang xuất hiện. Sự tự do của con người có thể đem đến một sự nâng đỡ khôn ngoan cho một sự phát triển tích cực, nhưng cũng có thể gây nên một điều xấu mới, những nguyên nhân của khổ đau và suy thoái đích thực. Điều này đã xuất hiện trong lịch sử căng thẳng và bi đát của loài người, có thể diễn ra trong việc phát triển sự tự do, trưởng thành, cứu độ và tình yêu hay trên một con đường suy thoái và hủy hoại lẫn nhau. Vì thế, trách nhiệm của Giáo Hội, không những nhắc nhớ đến trách nhiệm chăm sóc thiên nhiên, nhưng “nhất là bảo vệ con người tránh việc tự hủy hoại”[47].

80. Dù vậy, Thiên Chúa, Đấng luôn cộng tác với chúng ta và tin tưởng vào sự cộng tác của chúng ta, Người có thể rút vài điều tốt lành từ điều xấu chúng ta đã phạm, vì “Chúa Thánh Thần luôn có một sự tưởng tượng vô ngần, đặc thù cho tư tưởng của Thiên Chúa, Đấng biết giải quyết những khó khăn của số phận con người, ngay cả lúc khó khăn và không thể thâm nhập được”[48]. Người phải tự hạn hẹp chính mình khi sáng tạo ra một thế giới cần có sự phát triển, nơi nhiều sự vật mà chúng ta coi là xấu, nguy hiểm hay là nguồn khổ đau, trong thực tế chỉ là một phần của “sự chuyển dạ” thúc giục chúng ta cộng tác với Đấng Tạo Hóa[49]. Người hiện diện trong thâm sâu vạn vật, không tạo khó khăn cho sự độc lập của thụ tạo mà còn đem đến cho sự độc lập hợp lý của thụ tạo[50]. Sự hiện diện này của Thiên Chúa đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển mọi hữu thể, “đó chính là sự tiếp tục hành động sáng tạo của Người”[51]. Thần Khí Thiên Chúa bao trùm vũ trụ với quyền năng tác động, cho phép điều gì mới mẻ có thể xuất hiện. “Thiên nhiên không gì khác hơn lý trí của một nghệ thuật rõ ràng, cụ thể; nghệ thuật đó của Thiên Chúa ghi nét trong từng thụ tạo và nhờ đó mọi vật sẽ chuyển động đến cùng đích đã được xác định: cũng như người làm tàu sử dụng gỗ theo ý muốn của mình để định hình chiếc tàu”[52].

81. Cho dù con người giả thiết tiến trình phát triển, sẽ đưa ra một cái gì mới mà trong quá trình phát triển của các hệ thống khác không thể giải thích được. Mỗi người chúng ta đều có một căn cước cá nhân, có thể đối thoại với kẻ khác và với Thiên Chúa. Khả năng suy tư, lý luận, sáng tạo, chú giải và sáng tác nghệ thuật cũng như các khả năng khác, những khả năng hoàn toàn mới cho thấy tính đặc biệt, vượt trên lãnh vực thể lý và sinh học. Tính chất mới mẻ trong phẩm chất, cho thấy một hữu thể trong vũ trụ vật chất vượt trổi thành một nhân vị, cho thấy một hành động trực tiếp của Thiên Chúa đi trước, một tiếng gọi đặc biệt đưa vào cuộc sống và vào một liên hệ với một Đấng đối diện như một người đối diện (in die Beziehung eines Du zu einem anderen Du – à la relation d’un Tu avec un autre tu). Từ các trình thuật của Thánh Kinh, chúng ta nhận thấy con người là một chủ thể, không bao giờ bị đặt vào phạm trù đối tượng được.

82. Những suy nghĩ sẽ sai lầm, khi cho các hữu sinh khác như các đối tượng, phải tùng phục quyền hành tùy tiện của con người. Khi con người nhìn thiên nhiên như là đối tượng lợi dụng, sẽ đưa đến những hệ lụy quan trọng cho xã hội. Cái nhìn tùy tiện của kẻ mạnh, sẽ tạo nên không biết bao nhiêu sự bất bình đẳng, không công bằng và bạo quyền trên phần đông loài người, vì những tài nguyên sẽ dần rơi vào tay những người nắm quyền hành: kẻ chiến thắng sẽ nắm lấy tất cả: lý tưởng về hòa hợp, công bằng, tình huynh đệ và hòa bình như Đức Giêsu đòi hỏi, sẽ nghịch lại với mẫu này; người nắm quyền sẽ bốc lột con người trong thời đại của mình: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20,25-26).

83. Mục đích của chuyển động vũ trụ nằm trong sự phong phú của Thiên Chúa, đạt được qua Đấng Kitô phục sinh – điểm mấu chốt tiến trình trưởng thành của vũ trụ[53]. Chúng ta cũng đưa thêm một lý luận để phủ nhận quyền chuyên chế và vô trách của con người trên các thụ tạo khác. Mục đích cuối cùng của những tạo vật khác không phải là chúng ta. Nhưng chúng cùng đồng hành với chúng ta và qua chúng ta cùng tiến về một mục đích chung là chính Thiên Chúa, trong một sự tràn đầy siêu vượt, nơi Đấng Kitô phục sinh ôm lấy và chiếu sáng cho tất cả. Vì con người, dù được ban cho lý trí và tình yêu, cũng được lôi kéo vào sự phong phú của Đức Kitô, được kêu gọi để tất cả thụ tạo trở về với Đấng Sáng Tạo của mình.

IV. TIN MỪNG CỦA TỪNG THỤ TẠO

TRONG SỰ HÒA HỢP VỚI TOÀN THỂ SÁNG TẠO

84. Khi nhấn mạnh con người là hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta không được quên rằng mỗi thụ tạo đều có một phận vụ và không có điều gì dư thừa. Toàn bộ vũ trụ vật chất là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa, sự âu yếm vô tận của Người đối với chúng ta. Đất đai, nguồn nước, núi non – tất cả đều là sự âu yếm của Thiên Chúa. Lịch sử tình thân với Thiên Chúa đều diễn ra trong một khoảng không gian địa lý, trở thành một dấu chứng hoàn toàn cá nhân và mỗi người trong chúng ta sẽ gìn giữ trong ký ức của mình các vị trí, mà khi nhớ lại sẽ đem đến những gì tốt đẹp. Ai đã lớn lên trong vùng núi, hay khi còn bé đã có uống nước trong dòng suối, hay ai đã chơi trong một khu giữa thành phố, khi trở về chốn cũ, sẽ tìm lại được căn tính của mình.

85. Thiên Chúa đã viết quyển sách quý giá, mà “những dòng chữ được trình bày bằng những tạo vật trong vũ trụ”[54]. Các Giám Mục Canada đã phát biểu thật đúng đắn, không có thụ tạo nào lại không có những phát biểu tự nơi mình về Thiên Chúa: “Từ cái nhìn toàn cảnh rộng lớn cho đến một hình thức sống nhỏ bé nhất, thiên nhiên vẫn luôn là nguồn để con người kinh ngạc và thán phục. Thiên nhiên vẫn là mạc khải tiếp nối về thiên tính”[55]. Các Giám Mục nước Nhật cũng phát biểu những tư tưởng rất gợi cảm: “Thật vậy, mỗi thụ tạo sẽ hát lên bài thánh ca về sự hiện hữu của chúng, sẽ giúp chúng ta vui sống trong tình yêu Thiên Chúa và hy vọng”[56]. Việc chiêm ngắm thiên nhiên sẽ giúp chúng ta khám phá qua mỗi vật một lời giảng dạy mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta, vì “việc chiêm ngắm sáng tạo đối với các tín hữu cũng có nghĩa là lắng nghe một Tin vui, một tiếng nói nghịch lý và thinh lặng”[57]. Vì thế chúng ta có thể nói: “Cận kề các mạc khải đích thực chứa đựng trong Thánh Kinh, vẫn có một biểu lộ thần linh trong mặt trời chiếu sáng cũng như lúc chiều rơi”[58]. Khi con người chú tâm đến biểu lộ này, sẽ học được cách nhận ra chính mình trong liên hệ với các thụ tạo khác: “Ta diễn tả chính Ta khi đem thế giới đến như dấu ấn; Ta sẽ biểu dương thiên tính của Ta khi khai mở thiên tính của vũ trụ”[59] .

86. Toàn thể vũ trụ với những liên hệ đa dạng của nó, cho thấy sự phong phú của Thiên Chúa một cách tốt đẹp nhất. Thánh Tôma thành Aquynô với sự khôn ngoan của mình, cho thấy rằng sự phong phú và đa dạng đều “xuất phát từ ý định của Tác Nhân tiên khởi, Đấng muốn rằng “điều gì thiếu sót nơi thụ tạo để trình bày sự nhân từ thần linh, sẽ được bổ túc bằng thụ tạo khác”[60]. Chỉ vì sự tốt lành của Người “không thể do một thụ tạo có thể trình bày cách đầy đủ được”[61]. Vì thế, chúng ta phải nắm vững sự khác biệt của các thụ tạo trong liên hệ đa dạng của chúng”[62]. Người ta có thể hiểu sự quan trọng và ý nghĩa của từng thụ tạo tốt hơn, khi nhìn vào toàn thể trong chương trình của Thiên Chúa. Sách Giáo lý dạy: “Sự liên hệ lẫn nhau của các thụ tạo là do ý muốn của Thiên Chúa. Mặt trời và mặt trăng, cây sến và bông hoa ngoài đồng, phượng hoàng và chim se sẻ – cảnh thiên hình vạn trạng và không đồng đều nói lên rằng không thụ tạo nào được đầy đủ nơi bản thân mình, chúng chỉ hiện hữu trong sự lệ thuộc lẫn nhau, để bổ túc cho nhau trong việc phục vụ lẫn nhau”[63].

87. Nếu chúng ta ý thức, tất cả những gì hiện hữu đều phản ánh Thiên Chúa, chúng ta sẽ thay cho tất cả thụ tạo và cùng với chúng tôn thờ Thiên Chúa, điều này được nổi bật trong bài thánh ca tuyệt vời của thánh Phanxicô thành Assisi:

3 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
với muôn loài thọ tạo,
đặc biệt nhất Ông Anh Mặt Trời,
Anh là ánh sáng ban ngày,
nhờ Anh, Ngài soi chiếu chúng tôi,

4 Anh đẹp và tỏa ánh rạng ngời,
Anh tượng trưng Ngài, lạy Đấng Tối Cao.

5 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Trăng và muôn Sao
Chúa dựng trên nền trời:
lung linh, cao quí và diễm lệ.

6 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Gió, Không khí và Mây trời,
cảnh thanh quang và bát tiết tứ thời
nhờ Anh, Chúa bảo tồn muôn vật.

7 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Nước,
thật lợi ích và khiêm nhu,
quí hóa và trinh trong.

8 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Lửa,
nhờ Anh, Chúa sáng soi đêm,
Anh đẹp và vui tươi,
oai hùng và mạnh mẽ[64].

trích trong ofmvn.org

88. Các Giám Mục Brasil nhấn mạnh, toàn thể vạn vật không những tuyên xưng Thiên Chúa, nhưng cũng là nơi nói lên sự hiện diện của Người. Trong mỗi thụ tạo chứa chất Thần Khí sống động của Người, Đấng giúp chúng ta liên kết với Người[65]. Việc khám phá sự hiện diện này động viên chúng ta phát triển “những nhân đức thuộc môi sinh” (õkologischen Tugenden - vertus écologiques”[66]. Khi nói lên điều này, chúng ta đừng quên có một khoảng cách vô hạn giữa thiên nhiên và Đấng tạo hóa, và vạn vật không thể nào chứa đựng hết sự sung mãn của Thiên Chúa. Mặt khác, chúng ta không làm gì tốt đẹp cho thụ tạo, vì chúng ta không nhận ra vị trí đặc thù và đích thực của chúng và cuối cùng cũng là bất công khi mong chờ những gì mà trong sự nhỏ nhoi của chúng có thể đem lại cho chúng ta.

(còn tiếp)

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)

Lời giới thiệu cuốn O, Mari !

của Robert Enghibarian

Nhận được cuốn tiểu thuyết O, Mari! của tác giả Robert Enghibarian từ tay bà Raisa Vardanyan, Đại sứ Armenia mới nhận nhiệm vụ ở Việt Nam, với đề nghị tôi sớm tổ chức dịch ra tiếng Việt để có cơ hội giới thiệu với đông đảo bạn đọc chúng ta thêm hiểu về đất nước bà, tôi thấy có cảm tình ngay với cuốn sách. Sách dày dặn, in ấn chững chạc, bìa các tông cứng, mặt bìa trang nhã với gương mặt xinh đẹp hiền hậu của một cô gái phương Tây bên cạnh ngọn tháp Epphen Pari quen thuộc. Linh cảm mách bảo tôi cuốn sách hẳn nói đến một mối tình có dính líu giữa chàng trai Armenia - xứ sở thuộc châu Á, vốn là một nước Cộng hòa Xô viết nằm ở cực Nam Liên Xô trước đây, và cô gái bên trời Âu - cô gái Pari chăng?

O, Mari! Bất giác tôi nhớ ngay tới khúc hát quen hình như đã được nghe ở đâu đó chỉ một hai lần mà cứ nhớ mãi: “Ô, Mari! Đóa hoa hồng. Trên đồng nội em đi qua hoa cỏ ngả rạp mình đón chào em…”. Có lẽ trong bộ phim đạo diễn điện ảnh Liên Xô nổi tiếng Rôman Karmen quay những cảnh cuối chiến dịch Điện Biên Phủ có cảnh nhiều gương mặt sĩ quan Pháp bị bắt làm tù binh buồn rầu ngẫm nghĩ trong tiếng hát của ca sĩ giọng teno da diết: “Ô, Mari! Đóa hoa hồng…”.

Về nhà, tôi đã bắt tay vào đọc cuốn sách O, Mari! và càng đọc càng thấy hấp dẫn. Đúng là câu chuyện về một tình yêu sét đánh, say đắm giữa chàng trai người bản địa, sinh viên năm thứ hai khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Erevan Armenia và cô gái “tóc sáng màu, cao không dưới một mét bảy lăm, dáng thể thao,… gợi nhớ hình ảnh một nữ diễn viên nước ngoài… với một sự khác biệt chưa từng thấy, hoàn toàn nổi bật so với các khuôn mẫu sắc đẹp địa phương… Một thân hình được luyện tập, một bộ ngực nhỏ nhắn gần như không lộ ra, cặp chân dài, cần cổ cao, mái tóc vàng, ánh bạch kim chấm vai…”. Chàng tên là Đavid, con trai một cán bộ cao cấp - tổng biên tập phụ trách một tờ báo lớn của một nước cộng hòa, từ bé đã luyện tập thể thao, đã đạt tới danh hiệu cấp quốc gia về môn vật tự do, là một trang nam nhi tuấn tú, học giỏi, nghĩa hiệp, được bạn bè cùng trường kính nể. Còn tên nàng chính là Mari, như trong bài hát quen thuộc, sinh ra ở Pari, bố là người gốc miền tây Armenia đã phải lưu lạc sang sống ở Pari từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, mẹ là một phụ nữ Pháp. Lên chín tuổi Mari theo cha mẹ hồi cư theo lời kêu gọi chiêu hồi của chính phủ Liên Xô vào năm 1948, nay là sinh viên khoa Ngữ văn cùng một trường Đại học Tổng hợp Everan.

Một lần làm nhiệm vụ đội trưởng đội tự quản sinh viên ở cổng trường, Đavid đã tình cờ để ý thấy Mari… lập tức hình ảnh của Mari gây ấn tượng mạnh cho Đavid và chàng trai đã mê mẩn tìm cách làm quen với nàng. Chàng đã có cơ hội tự nguyện giúp nàng từ việc nhỏ nhất, mua hộ bữa trưa cho nàng đến việc giải thoát cho nàng khỏi sự quấy quả hăm dọa của bọn côn đồ đường phố. Từ những sự quan tâm và nghĩa hiệp ấy dần dần nàng có cảm tình lại với Đavid. Mặc cho sự can ngăn chân thành của người bạn “nối khố” ngay từ sau những rắc rối đầu tiên xảy ra khi Đavid bắt đầu “dính” Mari, anh chàng Rapha hơn tuổi nhưng cùng khoa Luật: “tớ không khuyên cậu lằng nhằng với con búp bê đó. Quanh nó có cả trung đoàn bọn lượn vè vè, lại thêm một số cậu nghiêm túc nữa. Cậu sẽ vất vả, sẽ nhận được là: “vĩnh biệt, chàng trai, au revoir!”. Cô ta không dành cho cậu. Cô ta cần một chàng trai trí thức chững chạc, có tương lai chứ không phải một sinh viên năm thứ hai, dù là nhất đẳng môn vật tự do…”

Bố mẹ Đavid cũng can ngăn con trai. Bố Đavid khuyên: “…Mari - không nghi ngờ gì, là một cô gái tốt, nhưng nó đã biết nó cần gì trong cuộc đời này, còn con thì chưa. Người vợ tương lai của con hiện đang học cấp một. Đấy, con xem mẹ con lấy bố trẻ hơn bố đến tám tuổi… Mari là người đồng niên với con nhưng trong cuộc sống nó già dặn và thông minh hơn con nhiều, phải đến bảy, tám năm. Con có thể là người đàn ông yêu quý nó, nhưng không bao giờ là uy tín thực sự. Con cứ đi lại với con bé, làm bạn, nếu có thể có tình bạn đơn thuần, đừng ngu ngốc, đừng làm hỏng đời của con và của nó”.

Nhưng tình yêu giữa đôi trai gái vẫn cứ một ngày một khăng khít gắn bó. Đavid và Mari quấn quýt bên nhau như hình với bóng, như đôi sam bể… Vượt biết bao trở ngại thử thách trong bối cảnh xã hội có nhiều vấn đề phức tạp của thời kỳ lịch sử “băng tan” những năm 50, 60 thế kỷ trước ở Liên Xô. Tình yêu khăng khít kéo dài suốt hơn bốn năm trời ăn học cho đến khi cả hai người cũng đã nhận được bằng tốt nghiệp, bắt đầu thu xếp công ăn việc làm… Đavid và Mari lại phải chia tay… Tình yêu không trọn vẹn mặc dù cả hai phía đều có thiện chí… Mari theo bố mẹ một lần nữa đi tái định cư ở Pari. Còn Đavid kiên quyết ở lại đất nước, quê hương với những người thân: cha me, em trai mình, bạn bè, đồng nghiệp, kể cả những người bạn cùng học không tốt đẹp gì. Đavid đã từng khẳng định suy nghĩ và quyết định đúng của mình. Phản đối lại cái nhìn của ông Varugian, chuyên gia hóa học cũng là người hồi hương, luôn thất vọng từ khi trở về nước, David khẳng định: “chú cứ yên tâm, cháu ở đất nước của mình cảm thấy mình là người chủ!”

Điều chia cắt mối tình không phải hai người cùng lứa tuổi, không phải những ghen tuông hờn giận thỉnh thoảng lại bột phát ở anh ở chị, cái thói thường của bất cứ đôi trai gái yêu nhau nào, không phải ở những hiểm nguy xã hội luôn rình rập… mà là ở cái nhìn một hiện thực xã hội khác nhau xuất phát từ môi trường văn hóa giáo dục của mỗi người, như có lần chính Đavid cũng đã nhận thức ra…

Đavid và Mari chia tay nhau một cách đau đớn đầy nước mắt: “trước khi ra máy bay cùng cha mẹ trở lại Pari, Mari òa khóc nức nở. Không e ngại những người chung quanh, nàng ôm chặt lấy tôi, ghì sát vào ngực tôi”. Và chàng trai cũng: “Mái tóc sáng của Mari vừa mất hút không còn thấy, tôi mặc cho tình cảm bùng ra. Lấy cổ áo bành tô che đi, tôi nức nở khóc tức tưởi”.

Một câu chuyện tình yêu, rất chân thật, được kể lại với những bối cảnh xã hội chân thật, được viết ra bởi tác giả, gần như tự sự cuộc tình duyên của chính mình. Những điều tác giả, một nhà khoa học dày dạn kinh nghiệm trong cuộc đời hoạt động sôi nổi của mình, trên cương vị với trách nhiệm của một nhà hoạt động sôi nổi của mình, trên cương vị với trách nhiệm của một nhà hoạt động xã hội có uy tín, hiện giữ các trọng trách trong trí thức đương đại ở Liên bang Nga, đưa ra trong cuốn tiểu thuyết đem cho người đọc nhiều hiểu biết, nhiều suy nghĩ như những bài học trong cuộc sống đang đi lên, hướng đến cái thiện, cái đẹp, hạnh phúc của con người.

Đối với riêng tôi, như một người đọc, tôi vô cùng biết ơn tác giả. Có lẽ tôi hân hạnh được là người cùng thế hệ với tác giả, tuổi đời xấp xỉ hơn kém nhau chút ít. Tôi may mắn được sống ở Liên Xô những năm tác giả miêu tả trong sách. Tôi cũng đã có lần từng được đến Erevan thủ đô của quê hương Armenia của tác giả, đến thăm ngôi trường Đại học Tổng hợp quốc gia Erevan, quảng trường Lênin, nơi nhân vật của cuốn sách đã ăn học, đã sinh sống…

Cám ơn tác giả đã cho tôi sống lại tuổi trẻ của tôi, cho tôi thấy rõ thêm quê hương của ông, cho tôi thấy rõ hơn những bước đường tôi đã đi qua và hướng đi tiếp tới tương lai trên đoạn đường đi tiếp cùng với nhân dân, đất nước quê hương của mình. Và hy vọng rằng cuốn sách cũng để lại cho không ít bạn đọc khác ở Việt Nam có được những trải nghiệm như bản thân tôi…

Dịch giả THÚY TOÀN


Phụ bản I

MỘT SỐ ĐIỂM PHI LÝ

TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐẠO PHẬT

Đạo Phật ra đời cách đây đã 3.000 năm. Nhờ những hoạt động tích cực của những nhà truyền Đạo mà Phật Tử thuộc loại đông đảo nhất nhì so với những tôn giáo khác. Những nước mà nhà cầm quyền sùng mộ Đạo Phật thì được thể hiện bằng cách dồn những gì quý giá để xây Chùa, đúc Tượng. Chùa ở Miến Điện nổi tiếng thế giới với mái đúc bằng vàng khối, nặng đến mấy tấn. Tượng Phật làm bằng những chất liệu quý như vàng, bạc, thậm chí còn cẩn lên đó Kim Cương, có tượng cẩn cả ngàn viên Hồng Ngọc! Trong đền Vua Sihanouk thì có tượng Phật bằng Ngọc. Gạch để xây đền thì được đúc bằng bạc nguyên chất, mỗi viên nặng cả hơn 2 ký lô. Thái Lan cũng có Chùa Vàng với Tượng Phật cao 3m, đúc bằng 5,5 tấn vàng khối.

Nói về Chùa, Tượng thì Việt Nam ta chưa thể so về mặt chất liệu quý giá, nhưng phần hoành tráng, đồ sộ thì không kém cạnh. Miền Bắc sắp xây một ngôi Chùa lớn nhất thế giới, nhưng người xây không phải là một tu sĩ hay cư sĩ mà là một đại gia, đã từng xây một ngôi Chùa đồ sộ trước đây. Đời sống Sư Tăng thì nhàn hạ. Nhờ oai thần của Phật mà không dính tới cơm, áo, gạo, tiền của thế gian. Thì giờ chỉ dành để Thiền Quán, Tụng Kinh, Niệm Phật, Giảng Pháp... Chùa sang thì Chư Sư ngủ phòng máy lạnh, dùng phương tiện hiện đại, di chuyển bằng xe sang với lý do là cần cho nhu cầu cấp bách của thí chủ!

Theo nhiều người, thời đại mới cần phải theo kịp trào lưu, nên người tu không buộc phải ngụ trong chùa đơn sơ, tồi tàn như xưa. Tượng Phật thì càng to càng tốt, để mọi người nhìn thấy, sinh lòng kính ngưỡng mà phát tâm! Những ngày lễ hội lớn của Đạo thì ngày càng tưng bừng với cờ xí, hoa đăng rợp trời. Qua bề nổi thì ta thấy có vẻ như là CHÁNH PHÁP đang hưng thịnh! Nhưng liệu với số đông đảo người Quy Y, Chùa Chiền hoành tráng đó có thể hiện tinh thần của Chánh Pháp? So với Đạo Phật thời Đức Thích Ca thành lập thì có gì giống hay khác? Có cần cải tổ cho theo kịp trào lưu không? Là người bỏ ra một thời gian khá dài để nghiên cứu Đạo Phật, tôi lại thấy có quá nhiều điều đã đi quá xa, thậm chí còn mâu thuẫn với tôn chỉ Đạo Phật, xin được trình bày ra đây để rộng đường dư luận.

Hình như nói đến Phật thì mọi người đều nghĩ về một vị thần linh, có toàn quyền “cứu khổ, ban vui”, nên đa phần Phật Tử Quy Y vì muốn tìm một chỗ dựa cho tinh thần để Cầu An khi sống. Cần gì thì cứ vàng hương đến Chùa mà cầu xin, từ gia đạo cho tới chuyện làm ăn, học hành, thi cử, tình duyên, bệnh hoạn… nên Chùa chiền lúc nào cũng tấp nập thí chủ, nhất là những ngày lễ, Vía. Khi có người thân qua đời thì cũng thỉnh Sư đến để Cầu Siêu, càng thỉnh được Sư có tiếng tăm thì càng yên trí là người thân của mình sẽ được Phật và Thánh Chúng đến rước để đưa thẳng về Tây Phương Cực Lạc. Đó có phải là Đạo Phật và là điều Đức Thích Ca khi thành lập đã mong mỏi, và Chư Tổ đã truyền đời nhau bỏ hết mọi việc để giảng dạy hay không? Thế nào là Chánh Pháp? Tu như thế nào mới đúng Chánh Pháp? Theo tôi, để hiểu được điều này có lẽ chúng ta cần làm một cuộc “lội ngược giòng” để xem lại bắt đầu từ lý do vì sao Đức Thích Ca đã phát tâm đi tu? Ngài đã Tu như thế nào? Đã Chứng Đắc những gì? Đã truyền dạy điều gì? Tu Phật để làm gì? Chứng Đắc sẽ được gì? Qua đó, ta mới có kết quả để so sánh thế nào mới đúng là Phật Pháp do Ngài sáng lập, vì cho đến nay trải qua mấy ngàn năm, những nhà truyền đạo mạnh ai nấy hiểu, nấy tu, nấy quảng bá. Có người do tin người đi trước, chẳng cần tìm hiểu thêm, trong khi Chư Tổ dặn dò là “Y nghĩa bất Y ngữ”. Hoặc có vị cố gắng lôi kéo thêm nhiều tín đồ, vì tưởng càng đông người tu hành, Chùa Chiền càng cất thêm nhiều, ngày càng quy mô thì Đạo Phật càng phát triển…

Nói đến Đạo Phật thì trước hết phải nói đến mục đích của Đạo Phật như Đức Thích Ca lúc ban đầu mong mỏi. Điểm lại con đường Tu hành, chứng đắc của Đạo Phật ta thấy có những điều đáng quan tâm như sau:

1. Thế nào là mục đích của Đạo Phật?

Ai cũng biết, do trông thấy cảnh SINH, LÃO, BỆNH, TỬ đè nặng lên thân xác con người mà Thái tử Sĩ Đạt Ta đã phát tâm đi tìm CON ĐƯỜNG để THOÁT. CON ĐƯỜNG, hay ĐẠO mà Đức Thích Ca “Đắc” được chỉ là TÌM RA ĐƯỢC NGUYÊN NHÂN CỦA SINH TỬ LUÂN HỒI và CÁCH THỨC ĐỂ CHẤM DỨT nó. Tất cả chỉ có thế mà thôi. Ngoài ra, những danh xưng Phật, Bồ Tát, Chúng Sinh. những cảnh giới Phật, nào Tây Phương Cực Lạc, Đông Phương Tịnh Quốc, Niết Bàn v.v… đều là phương tiện để Ngài dẫn dắt người tu, cho họ tin theo, ham thích, vọng về đó, thì được hướng dẫn cho những công việc để hành trì, kết quả là được Thoát Khổ, được an vui nơi cảnh sống hiện đời. Kiếp sau nếu có, càng tốt đẹp hơn lên mà thôi. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “TA THẤY CÁC CHÚNG SANH BỊ NHỮNG SỰ SANH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, LO BUỒN KHỔ NÃO NÓ ĐỐT CHÁY. CŨNG VÌ NĂM MÓN DỤC, TÀI LỢI MÀ BỊ CÁC ĐIỀU THỐNG KHỔ. LẠI VÌ THAM MÊ ĐEO ĐUỔI TÌM CẦU NÊN HIỆN ĐỜI THỌ CÁC ĐIỀU KHỔ, ĐỜI SAU THỌ KHỔ ĐỊA NGỤC, SÚC SANH, NGẠ QUỶ. NẾU SANH LÊN TRỜI VÀ Ở TRONG LOÀI NGƯỜI THỜI NGHÈO CÙNG KHỐN KHỔ, BỊ KHỔ VỀ NGƯỜI YÊU THƯỜNG XA LÌA, KẺ OÁN GHÉT LẠI GẶP GỠ. CÁC MÓN KHỔ NHƯ THẾ MÀ CHÚNG SANH CHÌM TRONG ĐÓ VUI VẺ DẠO CHƠI, CHẲNG HAY CHẲNG BIẾT, CHẲNG KINH CHẲNG SỢ, CHẲNG SANH LÒNG NHÀM KHÔNG CẦU GIẢI THOÁT. Ở TRONG NHÀ LỬA TAM GIỚI NÀY ĐÔNG TÂY RẢO CHẠY, DẦU BỊ KHỔ NHIỀU VẪN CHẲNG LẤY LÀM LO”(Phẩm Thí Dụ)

Kết quả tu hành được Kinh giải thích: “Các chúng sanh này nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do Đạo được hưởng vui”.

2. Thứ nữa là phải hiểu phương tiện của Đạo Phật.

Tu Phật là để thực hiện lời Thọ Ký của Đức Thích Ca: “Ta là Phật đã thành. Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. Do vậy người muốn tu Phật cần phải hiểu thế nào là PHẬT, thế nào gọi là Thành Phật? Đức Thích Ca đã làm gì để Thành Phật? Thành Phật để làm gì? Thành Phật có quyền năng gì hay không? Tu Phật nếu không Thành Phật thì tu để làm gì?

Đạo PHẬT được gọi là ĐẠO ĐỘ KHỔ. Mục đích tu Phật là để THOÁT KHỔ, THOÁT SINH TỬ. Vậy thì sự Thoát Khổ, Thoát Sinh Tử có lợi ích gì?

Đã sinh ra làm kiếp người thì không ai Thoát Khổ được. Những Tôn Giáo đặt niềm tin vào Thượng Đế, Thần Linh thì tin rằng số mạng mỗi người được an bài bởi các Đấng Bề Trên, nên hướng tín đồ đến việc tin tưởng, cầu xin được bớt rủi, thêm may, nhẹ tay trừng phạt… Nhưng riêng Đạo Phật thì có nhận định khác. Đức Thích Ca là người tìm ra được CON ĐƯỜNG THOÁT KHỔ. Ngài cho rằng mỗi người có thể tự thay đổi số phận của mình mà không cần phải có sự phù hộ, độ trì của đấng bề trên thiêng liêng nào. Theo Ngài, tất cả KHỔ, VUI của mỗi người là do tự bản thân họ đã hành động trong Vô Minh kiếp trước. Do vậy mà kiếp này phải nhận lấy cái THÂN HỮU TƯỚNG để trả. Muốn Thoát Khổ thì tự mình phải ngưng gây ÁC NGHIỆP, bởi nếu cứ tiếp tục làm Ác thì không có Thượng Đế, Thần Linh hay Phật nào có thể cứu được cho mình theo Luật Nhân Quả chí công. Vì thế, người theo ĐẠO PHẬT là người được hướng dẫn để hiểu vì sao có NGHIỆP TỐT hay XẤU xảy đến trong cuộc đời để TRÁNH cho mình. Kết quả là cuộc sống hiện tại được an ổn, và tạo Thiện Nghiệp để kiếp sau sẽ tốt đẹp hơn. Công việc TU HÀNH chính là cải tạo bản thân từ suy nghĩ đến hành động. Cho nên tu Phật không phải là làm những việc để tôn vinh Phật bằng cách xây dựng Chùa cho tráng lệ, nguy nga, dựng tượng Phật cho thật lớn, hay suốt ngày Tụng Kinh, Niệm Phật để cầu xin Ngài phù hộ, cứu độ, mà là học theo cách mà Phật và Chư Vị Giác Ngộ đã làm là tự sửa chữa chính Thân, Tâm mình để được Giải Thoát, không còn bị Phiền não nhiễu hại, được an vui, gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn.

3. Muốn đạt được kết quả Thoát Khổ thì phải qua quá trình tu hành.

Muốn tu hành thì phải biết cần Tu ở đâu? Tu như thế nào? Tổ Đạt Ma dạy:Tu Phật là Tu Tâm”. “Tức Tâm tức Phật”. “Muốn tìm Phật thà tìm Tâm”. Do đó, người tu cần phải biết TÂM là gì? Tìm ở đâu? Tu như thế nào? Nếu ta chỉ lo chăm chút phần hình tướng, y phục cho giống Phật ngày xưa. Giữ Giới cho thật kiên cố. Đi, đứng, ngồi nằm cho trang nghiêm, và công năng tu hành lại chỉ chuyên chú vào việc Tụng Kinh, Niệm Phật, Ngồi Thiền, học pháp để thuyết giảng, không biết rằng việc Tu Phật là phải Thành Phật thì chưa phải là đệ tử thật sự của Phật. Hoặc đặt niềm tin vào sự cứu độ của Chư Phật, Chư Bồ Tát rồi cầu xin được Độ thì không khác gì tín đồ của những tôn giáo Thần Quyền khác, trong khi Giáo Pháp của cả Hai Thừa đều nói rằng “Đức Thích Ca không phải là Thần Linh, mà là một con người bình thường như tất cả chúng ta, nhờ tu hành mà Đắc Đạo, và Đạo mà Ngài Đắc được chỉ là CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT BẢN THÂN KHỎI PHIỀN NÃO, SINH TỬ” mà thôi.

4. Vậy thì Đạo Phật chính thống luận về con người và cuộc sống, cách giải quyết và kết quả ra sao?

Đạo Phật cho rằng con người đã sinh ra, đã có mặt trong đời thì không thể nào tránh khỏi những nỗi KHỔ hành hạ. Để giúp cho con người THOÁT KHỔ hay HẾT PHIỀN NÃO. Đạo Phật rất là thực tế vì không đưa ra Thượng Đế hay Thần Linh cho con người nương tựa, cầu xin để phù hộ, độ trì, mà hướng dẫn cho con người biết cái KHỔ do đâu? Cách nào để THOÁT? Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Cũng giống như người MỞ GÚT, phải biết Gút ở đâu thì mới mở được”. Lý thuyết của Đạo Phật không cho rằng cái Khổ của mỗi con người là do Thượng Đế hay Thần Linh áp đặt cho, mà do chính mỗi người trong vô lượng kiếp đã hành động trong VÔ MINH, kết quả của hành động tích tụ trong CÁI THÂN của hiện kiếp. Do vậy, muốn hết Khổ thì phải hiểu rõ về CÁI THÂN và những gì liên quan đến nó thì mới mở Gút được.

Tất cả những nỗi KHỔ đều nhằm vào cái THÂN. Cả kiếp sống mỗi chúng ta đều lệ thuộc vào cái Thân. Theo người đời, có cái Thân thì mới có cuộc sống. Mọi người cho rằng cái Thân là mình, nên đã dựa vào nó mà vui, buồn, sướng, khổ, yêu thương, tranh giành, được, mất, rồi giận hờn, ghen ghét đủ thứ. Còn cái Thân là còn tất cả. Mất cái Thân là mất hết. Nhưng theo Đạo Phật, cái Thân của mỗi người gọi là Thân Nghiệp, có mặt ở kiếp sống là để Trả hoặc Nhận những gì đã làm từ kiếp trước. Nó chỉ là một tổng hợp của các chất Đất, Nước, Gió, Lửa, sẽ tàn tạ trong một thời gian nhất định, không có giá trị trường cửu. Song hành với CÁI THÂN GIẢ TẠM này là cái TÂM. Cái này trường tồn, bất biến, là cái TA THẬT của mỗi con người. Người Tu Phật cần phải tìm cho ra cái TA THẬT đó. Người tìm được gọi là THẤY TÁNH, có Thấy Tánh thì mới có thể Thành Phật hay Giải Thoát được. Nếu không Thấy Tánh thì dù hành khổ hạnh hay đày đọa cái thân đến mức nào, giữ hàng bao nhiêu Giới, Ngồi Thiền mãi không nằm cũng vô ích mà thôi.

Lợi ích của Đạo Phật rất rõ ràng: Nếu trước khi hiểu lý thuyết của Đạo Phật thì con người sinh ra từ Phiền Não, lớn lên trong Phiền Não và chết đi trong Sợ Hãi vì không biết sẽ về đâu? Nhưng từ khi được Đạo Phật phân tích cho biết mỗi người chúng ta từ đâu đến? chết rồi sẽ đi về đâu? thì mỗi người chỉ cần học hỏi, thực hành theo đó để có được cuộc sống yên ổn tại trần gian; sau khi qua đời cũng sẽ đến được những cảnh giới tốt đẹp hơn nhờ không tạo nghiệp Ác, lại tạo Thiện Nghiệp.

Như vậy tại sao Kinh viết Phật có thể “cứu độ tất cả Chúng Sinh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới” để đưa về Tây Phương Cực Lạc với Bảy Báu đầy khắp? Rồi thì nào là Quán Thế Âm, Địa Tạng Bồ Tát, Phổ Hiền, Văn Thù Sư Lợi v.v… chẳng lẽ tất cả đều là hư cấu?

Nếu biết rằng “Tu Phật là Tu Tâm”,“Tức Tâm tức Phật” và công việc tu hành là phải “Nội quang phản chiếu”, tức là soi vào trong Tâm, thì chúng ta sẽ biết rằng tất cả những cảnh giới, những danh xưng trong công việc tu Phật đều nói về những diễn biến trong CÕI TÂM mà thôi. PHẬT, là nói về những tư tưởng đã được thanh tịnh. Bồ Tát là nói về công việc giải thích, hướng dẫn, giúp đỡ cho những tư tưởng chưa hướng thiện, và Chúng Sinh là những tư tưởng còn nhiễm tính chất xấu. Chúng Sinh, theo định nghĩa của Lục Tổ Huệ Năng thì đó là những tư tưởng thấp hèn, chưa thanh tịnh: Chư Thiện Tri Thức, Chúng Sinh trong tâm tức là lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm này đều gọi là Chúng Sinh. Như vậy, nói “Độ Sinh” chỉ có nghĩa là dẹp bỏ những cái tư tưởng bất thiện trong tâm của chính mình để cái tâm được thanh tịnh, an vui mà thôi.

Tất cả những nhân vật, những Cõi Phật, là Phương tiện của Phật. Ngài biết mỗi người quá trình trôi lăn, tạo nghiệp không ai giống ai, nên đặt ra rất là nhiều phương tiện để dẫn dụ:

- Người ham vàng, bạc, châu báu thì có cõi TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC đầy Bảy Báu, muốn về đó thì phải bỏ Mười điều Ác và Tám điều Tà.

- Người ham làm Thánh thì đã có Tứ Quả Thánh cho họ hướng về mà tu tập.

- Người ham thanh tịnh thì đã có ĐÔNG PHƯƠNG TỊNH QUỐC.

- Người ham Tướng Tốt của Phật thì đã có 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp, mặc tình thực hành để có.

- Người muốn hành Hạnh Bồ Tát thì có Hạnh Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi, Địa Tạng để họ cứu độ, dẫn dắt Chúng Sinh của chính họ. Kết quả cuối cùng của người tu cũng chỉ là NGƯNG TẠO NGHIỆP, HẾT PHIỀN NÃO, ĐƯỢC GIẢI THOÁT.

Muốn Thành Phật thì phải Độ Sinh. Độ Sinh có phải là đi cứu độ mọi người? Chúng ta có phải là Chúng Sinh của Phật?

Nếu chúng ta là Chúng Sinh của Phật Thích Ca thì có 2 việc sẽ xảy ra: Một là chúng ta đã bị “diệt độ” hết rồi, vì Đức Thích Ca muốn Thành Phật thì phải Diệt Độ tất cả Chúng Sinh. Thứ hai là Đức Thích Ca chưa Thành Phật, vì chúng ta vẫn còn luân lưu trôi nổi ở cảnh trần đầy phiền não này. Cho nên nói rằng chúng ta là Chúng Sinh của Phật Thích Ca là không đúng.

Như vậy không lẽ PHẬT không có phù hộ cho những người tin theo Ngài hay sao?

Phật không hề hứa hẹn là sẽ phù hộ cho ai. Ngay cả con trai của Ngài mà Ngài còn không phù hộ được. Chính Ngài còn nói rằng “không thể giữ được mạng của mình”. Xin trích một đoạn trong Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN nói về điều này:

Trong một lần Phật giảng pháp thì La Hầu La lơ đãng không nghe. Phật bảo ông: “Gặp Phật ra đời rất khó. Nghe được Chánh Pháp rất khó. Giữ được thân người là khó và Đắc Đạo cũng rất khó, mà nay ngươi đã được thân người, lại gặp Phật ra đời, cớ sao biếng lười chẳng chịu nghe pháp?”.

La Vân bạch rằng: Pháp Phật tinh diệu, tâm trí con còn non nớt đâu nghe nổi. Trước kia đã nghe giờ quên hết, chừng nào lớn khôn may ra mới nghe được.

Phật bảo: “Muôn vật vô thường, thân người khó giữ được, vậy ngươi có thể giữ mạng cho đến lớn không?”

La Vân trả lời: “Con không thể giữ được, nhưng Phật chẳng lẽ không giữ giùm mạng cho con sao?”

Phật bảo: “Này La Vân, Ta còn không giữ được mạng cho ta, huống là giữ giùm ngươi!”.

Con của Phật mà Phật còn không phù hộ được. Ngài còn bảo không giữ được mạng cho mình, và rõ ràng nhất là Ngài đã chết, đã trà tỳ . Vì vậy, nếu chúng ta lại cầu xin Phật phù hộ cho ta được hết bệnh, được trường thọ, gia đình được an vui, hạnh phúc, thăng quan, tiến chức… thì rõ ràng là chưa hiểu gì về Phật và Đạo Phật! Thử nghĩ xem, nếu Đức Thích Ca có thể cứu độ cho người khác thì trước hết là để cho con mình tiếp tục thay mình để thừa hưởng ngai vàng, cần gì bắt La Hầu La đi tu làm gì? Nếu Ngài có phép mầu cứu độ được mọi người thì Nước Ấn Độ của Ngài sẽ được Ngài cứu đầu tiên để đền ân, vì chính Ngài còn khuyên người tu phải đền ân Đất nước. Nhưng đất nước Ấn Độ vẫn nghèo khổ, tật bệnh, tai ách. Nhiều thập kỷ trước, hàng ngàn nông dân đã tự tử vì mùa màng thất bát và bất mãn. Đầu mùa mưa năm nay cả trăm người bị sét đánh chết! Năm vừa qua là mấy trận động đất giết chết cả gần 9.000 sinh mạng, làm sụp đổ bao nhiêu Tòa Tháp cổ mà Phật có cứu được đâu? Nếu Phật có quyền phép như đồn đãi lẽ nào Ngài lại bỏ quên đất nước, dân tộc, nơi chính Ngài sinh ra, lập Đạo? Do đó, những người mang vàng bạc, châu báu cúng Chùa nghĩ rằng đó là cúng cho Phật để mong Phật phù hộ là do bị hiểu sai về quyền năng của Phật nên mất tài sản một cách vô ích. Lỗi đó do họ không chịu tự mình tìm hiểu về Phật và Đạo Phật, dựa vào nguyên văn lời Phật dạy, nhưng không biết đó là ý nghĩa của việc XẢ bỏ những cái Chấp để được thanh tịnh gọi là Cúng Dường cho Phật. Về phần người tu, nhận của ai một bát cơm, chén thuốc đều mang nợ, trước sau cũng phải trả, bởi thật sự việc tu hành của ai nấy hưởng kết quả, không thể cứu độ được người. Nguy hại hơn nữa là có những người không thật tâm tu hành, vào Chùa chiền để được ăn trên ngồi trước, được nhàn thân. Phật Tử thì dễ dàng tin tưởng qua sắc áo tu hành, họ có chồng mê cũng không hay. Vì vậy, trong Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN PHẬT dạy: “Thà cắt thịt mình dùng để nuôi miệng. Không dùng tâm tà thọ của cúng thí. Khó lắm, khó lắm. Cẩn thận, cẩn thận”. Ngài Quy Sơn trong QUY SƠN CẢNH SÁCH cũng nói về chuyện CON TRÂU DƯỚI NÚI để nhắc nhở người tu nên thận trọng.

Việc người tu hành phải bỏ tất cả việc đời chỉ để Học Đạo và Truyền Đạo chỉ đúng vào thời Phật mới thành lập Tăng Đoàn. Lúc đó chưa có chữ viết. Lời Phật giảng được Chư Tăng chia nhau ra học thuộc lòng để sau này giảng dạy lại, mở rộng Đạo pháp. Chính vì cần tập trung nên phải dẹp hết mọi việc đời, để đầu óc thanh thản mà tiếp thu lời Phật. Đa phần người Bố Thí đều mong phước báo nhận lại sẽ gấp nhiều lần. Vì thế, để cho người tu yên tâm học Phật Pháp, Phật phải phương tiện kêu gọi bá tánh cung dưỡng cho họ bằng cách nói rằng “Người tu là ruộng phước của bá tánh. Cúng dường cho họ sẽ được phước báo vô lượng” để ai muốn đầu tư phước báo thì cúng cho họ. Nhưng sau đó, Kinh DUY MA CẬT viết về Bố Thí như sau: “Nếu có thí chủ dùng tâm bình đẳng cúng dường cho một người ăn mày hèn hạ xem như tướng phước điền của Như Lai, lòng bình đẳng không phân biệt, đó mới là chân Bố Thí”. Và CÚNG DƯỜNG PHẬT có nghĩa là chuyển hóa một tư tưởng, từ đen tối, xấu xa cho nó được an ổn, thanh tịnh, thì gọi là ta đã Cúng Dường một vị Phật, không phải là mang phẩm vật đặt trước Tượng Phật để cúng, vì Phật chỉ có nghĩa là Thoát Phiền Não. Hơn nữa, từ rất nhiều năm rồi, Kinh sách, bài vở đã tràn lan. Muốn tham khảo chỉ việc mở Kinh ra, thậm chí gõ trên google cũng đầy dẫy thì việc bỏ hết việc đời để chuyên tâm học là không cần thiết nữa.

Chúng ta nên nhớ:

l. Phật chỉ là người tìm được cách thức để Thoát Khổ, không phải là thần linh để người tu có thể thay mọi người mà cầu xin cho đất nước, cho người sống cũng như người đã qua đời. Đạo Phật đã gọi là Đạo Nhân Quả tức là mỗi người tự làm, tự chịu, Phật không có quyền đưa ai lên Niết Bàn hết, mỗi người phải tự thân hành động mà thôi. Nếu Phật làm được điều đó thì Đạo Phật trở thành Độ Tha hay Tha Độ, không còn là Đạo Tự Độ, và Nhân Quả không còn giá trị tuyệt đối nữa.

2. Đạo Phật cho rằng con người sở dĩ phải KHỔ là vì Mê Lầm. Vì vậy, Tu Phật chỉ là một hành trình sửa chữa bản thân khỏi mê lầm, để được thoát khổ. Người tu xong cũng không thể “Độ” cho người khác, mỗi người tu chỉ để bản thân nhờ. “Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc”. Do vậy, nếu công năng tu hành của ta chỉ là Thờ phụng Phật, cầu xin Ngài phù hộ cho bá tánh thì rõ ràng hiểu sai về Phật, vì Ngài không có khả năng đó. Kinh viết rõ: Chỉ Phật của mỗi người, tức Tánh Giải Thoát của chính mỗi người có thể cứu độ cho chính họ mà thôi.

3. Trong BÁT CHÁNH ĐẠO có CHÁNH NGHIỆP, CHÁNH MẠNG. Nếu ta chọn con đường tu Phật làm Chánh NGHIỆP thì phải biết rõ con đường tu, cách thức hành trì, đích đến. Bản thân cũng phải Thấy Tánh, phải thành tựu mới hướng dẫn được cho người khác. Do đó, nếu không tu hành nghiêm chỉnh liệu có thể xem đó là CHÁNH MẠNG?

4. TIN PHẬT không phải là tin vào Đức THÍCH CA và Chư Phật, mà Tin vào CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT, TIN RẰNG BẢN THÂN MÌNH CŨNG CÓ KHẢ NĂNG GIẢI THOÁT ĐỂ TRỞ THÀNH PHẬT NHƯ CHƯ VỊ GIÁC NGỘ. Đó mới là Chánh Tín. Ngược lại, Tin vào Đức Thích Ca, Tin rằng Ngài sẽ cứu, sẽ độ cho mình là TÀ TÍN, biến Phật thành Tà Thần, vì cho rằng Phật nhận lễ vật, lời cầu xin để thay đổi số mạng, đổi xấu, lấy tốt, tội, nghiệp nặng bao nhiêu chỉ cần vài bài tụng là Phật sẽ đưa từ Địa Ngục lên thẳng Tây Phương Cực Lạc!

Nếu vậy thì tại sao Kinh viết là “PHẬT có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, có thể cứu độ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới”?

Kinh ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN có viết rõ về 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Phật mà nếu đọc kỹ ta sẽ thấy đó chỉ là những việc làm tốt đẹp được “cường điệu hóa” thành Tướng Tốt của Phật để cho những người ham được như vậy thì cố gắng làm theo để bản thân họ, những người chung quanh và xã hội cũng được nhờ. Nhưng nhiều người do không đọc hết Kinh sách nên cứ theo đó mà tạc rồi thờ, rồi cúng, bái, thay vì dùng công việc đó để Tạc nơi chính Thân, Tâm của mình để mình cũng được những hảo tướng đó. Tam Thiên Đại thiên Thế Giới nói về những Chúng Sinh, tức tư tưởng xu hướng Tham, Sân Si, từng sát na cứ “trùng trùng theo Duyên mà khởi”, đông như cư dân của cả thế giới. Đạo Phật dạy “Nội quang phản chiếu” mà ta cứ nhìn ra, hết chờ mong Phật cứu rồi đòi đi “độ” người thì biết bao giờ bản thân mình mới làm xong?!

Điều đáng buồn giữa xã hội văn minh ngày nay, trình độ con người đã tiến cao tột bậc mà sự hiểu biết về Đạo Phật còn dừng ở sự tôn thờ Phật để cầu xin, trao đổi, y như những con người của thời xa xưa tin, sợ Thần Linh, không chịu tìm NGHĨA để thấy rằng từ mấy ngàn năm trước Kinh đã nói rõ Đạo Phật là Nhân Quả, là Tự Tu, Tự Độ, tự Giải Thoát!

Tóm lại: Phật là người đã giải Thoát khỏi Phiền Não cho bản thân, không phải là Thần Linh, không thể phù hộ, ban ân, giáng phúc cho ai. Do đó, việc kêu gọi nhiều người tập trung vàng bạc để xây Chùa, đúc Tượng rồi ngày mấy thời mang lời Phật đã giảng ngày xưa gom lại trong những Bộ Kinh để tụng làm công phu tu tập, và tổ chức Cầu An, Cầu Siêu, để hy vọng Phật cứu độ, thay vì thực hành theo Nhân Quả thì không phải là Đạo Phật chân chính. Thay vào đó, người tu nên thực hành theo lời Phật dạy để Thành Phật như lời Ngài đã thọ Ký. Do không biết TU PHẬT chỉ là TU TÂM, mọi người, mọi hoàn cảnh, ở bất cứ đâu cũng có thể tự tu, tự sửa, nên nhiều người đang tuổi trẻ, còn sức lao động có thể đóng góp cho gia đình, xã hội, lại bỏ hết mọi trách nhiệm với cha mẹ, gia đình, với cuộc đời, để vô Chùa chuyên tâm Tụng Kinh, Niệm Phật! Việc làm đó bao thời qua đã phí phạm biết bao nhiêu tài nguyên, sức người lẽ ra là dành để xây dựng đất nước. Việc bỏ ra chi phí tốn kém để xây dựng Chùa, hàng tháng còn tốn biết bao nhiêu tiền để chi cho điện, nước, bảo trì chỉ để một vài vị tu hành và một số Tượng bằng Xi Măng, bằng Gỗ ngự, trong khi những Tượng đó không có khả năng gì để giúp cho con người thì quả là phí phạm! Đất nước ta còn nghèo. Nhiều người không có nổi một căn nhà kiên cố để che mưa, núp nắng. Cầu, đường nối liền thôn xóm để tiện đi lại, làm ăn còn chưa có. Nhiều người muốn đi học hành, làm ăn phải đu dây để qua sông rất nguy hiểm! Bệnh viện thì thiếu giường, người bệnh, người nuôi nằm la liệt ngoài hành lang, nhếch nhác, thiếu vệ sinh, mà cất Chùa hoành tráng, tổ chức những lễ lạc linh đình, thả hoa đăng tốn kém, e là không phù hợp với tinh thần “ít muốn, biết đủ” của người tu Phật, và không thể hiện được đức Từ Bi của Đạo Phật, vì thờ ơ trước những khó khăn của người khác, quên rằng mỗi người là những vị “Phật sẽ thành”. Giúp người nghèo chính là hành Hạnh “Thường Bất Khinh Bồ Tát” vậy.

Nếu xưa kia chúng ta vẫn đọc Kinh mà không hiểu, cứ bám theo văn tự, theo hình tướng, cho đó là tu hành, thì cho đến thời này ai cũng đã rõ: Tu Phật là TU TÂM, tức là làm cho cái Tâm được thanh tịnh. Hình tướng không có ảnh hưởng gì đến việc tu sửa cái Tâm. Công năng Sửa cái Tâm gọi là TU HÀNH. Vì vậy, việc bỏ đời không còn cần thiết nữa, mà mỗi người có thể vừa làm tròn trách nhiệm của một công dân, một con người của gia đình, của xã hội để đền TỨ ÂN.

Xem kỹ ý nghĩa của lời Phật dạy ta sẽ thấy: “Đời” hay “Thế Tục” mà Phật dạy mọi người cần “Bỏ”, “Gia” mà mọi người cần “Ly”, là NHÀ LỬA TAM GIỚI, tức là BA ĐỘC, là Phiền Não, không phải là nhà cửa mà ta vẫn phải trú ngụ. CHA MẸ mà người tu cần xa lìa là VÔ MINH và THAM ÁI, vì từ bao đời mỗi chúng ta đã kính sợ, vâng lời hai thứ này còn hơn là nghe lời cha mẹ! Phật dạy: “Nhân thân nan đắc” Có được tấm thân này đã khó, để được trưởng thành, nguyên vẹn, ta nợ ân biết bao nhiêu người. Từ cha mẹ sinh ra, nuôi nấng, bảo dưỡng, cho đến hạt gạo, ngọn rau, sức lao động của biết bao nhiêu người trong xã hội cho ta có được mọi thứ vật dụng hàng ngày. Lẽ ra ta phải đóng góp để đáp ân mới đúng, đâu có bảo phải đền riêng Ân Phật? Và phải chăng mọi người dù muốn dù không vẫn phải tiếp tục cuộc sống cả trăm năm ở trần gian. Vì vậy, vô lý hết sức khi có người tuy sống ở đây, hưởng dụng mọi sản phẩm của đời, nhưng lại cho cuộc đời là KHÔNG, rồi bỏ hết mọi trách nhiệm, không làm ăn để lo cho cuộc sống, giúp mình, giúp đời để mơ màng về một cõi mà chưa ai từng đến đó, chỉ mới nghe nói thôi! Theo quy luật mà hiểu: Giả sử nếu có thật, thì hẳn cũng phải đáp ứng một số điều kiện nào đó, đâu phải muốn về là về! Cho nên, trước khi thực hành pháp nào của Đạo, ta cần phân biệt rõ đâu là thật, đâu là phương tiện của chư vị Giác Ngộ, vì Đạo Phật dạy Văn-Tư-Tu, không dạy nghe là thực hành luôn không cần tìm hiểu nghĩa lý. Tu Phật là để có Trí Huệ, đâu phải để tiếp tục Mê theo cách khác!

PHẬT TÁNH là TÁNH GIẢI THOÁT. Tánh này mỗi người đều có. Khi chúng ta gây Nghiệp tức là chúng ta bôi bẩn PHẬT của mình thì người chịu Quả của việc làm đó không phải là Phật của Đức Thích Ca, mà là chính bản thân mình, nên không phải Sám Hối với Phật để xin Phật tha tội, vì Phật không có quyền tha tội cho ta, mà Sám Hối với Phật của mình, để đừng tái phạm nữa. PHẬT chỉ là danh hiệu, là khả năng của người đạt được kết quả Giải Thoát. Nếu ví việc Giải Thoát như môn bơi lội thì Phật Thích Ca là người phát hiện và thành công trong việc tự bơi để Nổi trên Biển Sinh Tử. Ngài đã để lại biết bao nhiêu tài liệu truyền kinh nghiệm đó cho hậu thế. Nếu muốn được như Ngài thì ta phải từng bước tập bơi, không phải là cầu xin Ngài cứu vớt cho ta, vì Ngài không phải là Thần Linh để ứng hiện mỗi khi ta cần cứu giúp. Do thời xa xưa ngôn ngữ chưa đủ phong phú để diễn tả nên Đức Thích Ca phải vận dụng rất nhiều cách thức, nhưng thật ra công năng tu hành chỉ là xả bỏ những thói xấu, những tính ích kỷ, độc ác, tham lam gọi là Tham Sân Si hay Ba Độc để có được một cuộc sống thanh đạm, giản dị, nhẹ nhàng, hòa đồng với mọi người, không vì lợi mình mà hại người, tùy theo sức mình mà đóng góp cho xã hội. Hiếu kính cha mẹ, yêu thương, giúp đỡ mọi người, để đền ân xã hội đã cưu mang mình. Đó là những việc làm tốt đẹp mà Phật phương tiện gọi là những Tướng Tốt của Phật để khuyến khích con người thực hiện, cho tất cả đều được hạnh phúc, an vui trong kiếp sống. Nước Phật là một nơi thanh tịnh, an lạc, đâu phải chờ chết mới về được. Cũng chẳng phải tìm ở Phương Đông hay Phương Tây xa vời. Kinh DUY MA CẬT viết: “Bồ Tát muốn được Cõi Phật Thanh Tịnh nên làm cho Tâm thanh tịnh. Tùy chỗ Tâm thanh tịnh mà Cõi Phật được thanh tịnh”. Một Cõi Tâm không còn ô nhiễm bởi Tham, Sân, Si, Thương, Ghét, là một Cõi Phật đã hình thành. Sống sao, chết vậy. Cả kiếp sống nhẹ nhàng, thư thái, không gây ác nghiệp đương nhiên khi bỏ cái thân phàm thì thần thức cũng sẽ về nơi an vui, tốt đẹp. Do đó, muốn tìm Phật, Tu Phật hay Thành Phật đều phải thực hiện nơi Tâm mới không mâu thuẫn với lời Phật dạy. Đó mới thật sự là CHÁNH PHÁP mà Phật Thích Ca và Chư Tổ đã mở ra cho tất cả chúng ta vậy.

TÂM NGUYỆN

(Tháng 6/2016)

ĐỊA DANH SÀI GÒN

So với địa danh Hà Nội, thì địa danh Sài Gòn rắc rối hơn nhiều, vì cho đến nay, các nhà khảo cứu chưa thống nhất về một giả thuyết về nguồn gốc chữ Sài Gòn.

Địa danh Sài Gòn ban đầu chỉ vùng Chợ Lớn, sau bao gồm cả vùng Sài Gòn và Chợ Lớn.

Trong hơn một thế kỷ qua, nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng giải thích ý nghĩa và nguồn gốc của địa danh Sài Gòn. Quy nhóm các ý kiến, ta thấy có 5 giả thuyết:

1. THẦY GÒN LÀ NGUỒN GỐC CỦA SÀI GON:

Giả thuyết này cho rằng có lẽ trước kia có một ông thầy (dạy học hoặc làm thuốc) tên là Gòn. Vì ông nổi tiếng ở một vùng nên người ta đã lấy chức danh và tên ông - Thầy Gòn - để gọi vùng đất ấy. Về sau, nói chệch, ‘Thầy Gòn’ biến thành Sài Gòn.

Về phương diện ngữ âm, ‘Thầy’ có thể nói chệch thành ‘Sài’ vì hai phụ âm đầu ‘Th’ và ‘S’ có quan hệ chuyển đổi: thẹo - sẹo, thẫm - sẫm,… và hai vần ‘ây’ và ‘ai’ có thể nói lẫn: con tấy - con rái. Vì vậy, khi muốn viết chữ ‘Thầy’ (từ nôm), người ta mượn chữ ‘Sài’ (từ Hán Việt) để ghi.

Tuy nhiên, giả thuyết này có nhiều nhược điểm không thể chấp nhận được. Trước hết, địa danh này đã xuất hiện rất sớm. Theo ‘Phủ biên tạp lục’ (viết năm 1776) của Lê Quý Đôn, Sài Gòn đã có trước năm 1674, lúc người Việt chưa chính thức đặt nền hành chính ở Nam Bộ (năm 1698 mới thực hiện điều này). Bởi vậy, lúc ấy nền giáo dục chắc chắn chưa phổ biến, nên sự kiện có một ông thầy đồ nổi tiếng là không thể có được. Ông thầy đó là thầy thuốc thì có thể. Nhưng thầy giáo và thầy thuốc là những người sùng chữ Hán, khó có thể để cho người ta gọi mình bằng cái tên nôm na: Gòn. Hơn nữa, cho đến nay, chưa có một tư liệu cổ nào viết bằng chữ quốc ngữ hay chữ Pháp ghi địa danh ‘Thầy Gòn’. Trong khi đó, địa danh Sài Gòn bằng chữ quốc ngữ đã xuất hiện năm 1772 trong từ điển viết tay của Pigneau de Behaine. Mặt khác, vì khinh âm rơi vào tiếng ‘Sài’ nên người Nam Bộ nói ‘Sài Gòn’ mà nghe như ‘Thầy Gòn’. Sau cùng, trong các địa danh ở Nam Bộ, chúng tôi chưa thấy một địa danh nào có từ tố ‘Thầy’ bị nói chệch thành ‘Sài’ mà hầu hết các địa danh có từ tố ‘Sài’ ở trước đều có nguồn gốc Khmer như ‘Sài Mạt’ (Cheal Meas) ‘ một tỉnh của Campuchia.

2. ĐÊ NGẠN, ĐỀ NGẠN, TÂY CỐNG

LÀ NGUỒN GỐC CỦA SAIGON:

Một giả thuyết cho rằng năm 1778, một số người Hoa ở cù lao Phố (Đồng Nai), vì ủng hộ Nguyễn Ánh, đã bị quân Tây Sơn sát hại, nên di chuyển xuống vùng Chợ Lớn, lập nên một thành phố, gọi theo âm Hán Việt là Đê Ngạn, Đề Ngạn hay Tây Cống và họ gọi theo giọng Quảng Đông và Triều Châu là ‘Tai Ngon, Thầy Ngồn, Thì Ngòn, Ti Ngan, Xi Cún hay Xây Cón,…’ Về sau, người Việt gọi trại thành Sài Gòn.

Giả thuyết này bị thực tiễn lịch sử và ngôn ngữ bác bỏ hoàn toàn. Trước hết, hiện tượng người Hoa đặt địa danh theo giọng nói của họ rồi người Việt gọi theo, hiếm thấy ở Nam Bộ nói chung và ở thành phố nói riêng.

Kế đến, thực tiễn ngôn ngữ cho thấy khi cần phiên âm một địa danh, mỗi người, mỗi dân tộc phiên một cách theo ý riêng của mình, chứ không có trường hợp ngược lại, chẳng hạn, London thì người Pháp phiên là ‘Londres’, người Việt gọi là ‘Luân đôn’; Moskva thì người Anh phiên là ‘Moscow’, người Việt gọi là ‘Mạc Tư Khoa’… Bởi vậy, chỉ có thể địa danh Sài Gòn được người Hoa phát âm theo từng địa phương của họ nên mới có nhiều hình thức ngữ âm như trên. Vả lại, các từ ngữ ‘Đê Ngạn, Đề Ngạn, Tây Cống’ không có ý nghĩa gì. Điều đó càng chứng tỏ đấy chỉ là những cách phát âm địa danh Sài Gòn mà thôi. Còn ‘Sài Côn’ là cách phiên âm Sài Gòn của người Việt trong các bản chữ Hán.

Sau cùng, lý lẽ bác bỏ giả thuyết trên một cách mạnh mẽ nhất là, năm 1776, Lê Quý Đôn viết ‘Phủ biên tạp lục’ đã nhắc tới địa danh Sài Gòn vì nó liên quan đến một sự kiện lịch sử đã xảy ra năm 1674. Vậy địa danh Sài Gòn đã có trước khi người Hoa đến Chợ Lớn (1778), lập nên thành phố này ít nhất 104 năm.

3. CỦI GÒN, CÂY GÒN, PREY KOR,

CAI NGON LÀ NGUỒN GỐC CỦA SÀI GON:

Trương Vĩnh Ký căn cứ vào mặt chữ Hán và chữ Nôm ghi âm địa danh Sài Gòn trong ‘Gia Định thành thông chí’ của Trịnh Hoài Đức để phân tích ý nghĩa từng chữ: Sài là ‘củi’, Gòn là ‘cây gòn’. Nhưng ông chỉ giải nghĩa, chứ không nhận là giả thuyết của mình. Sau này L. Malleret lại khẳng định đó là khám phá của Trương Vĩnh Ký. Báo ‘Courrier de Saigon’ ra ngày 20-1-1868 lại theo giả thuyết Kai Gon (cây gòn) cho ra Sài Gòn. Còn Lê Văn Phát cho rằng vì trước kia ở vùng Chợ Lớn có khu rừng gòn cho nên người Khmer gọi vùng này là ‘Prey Kor’ (rừng gòn). Mặt khác, người Thái Lan gọi rừng gòn là ‘Cai Ngon’. Do đó, ‘Prey Kor hoặc Cai Ngon’ đã sinh ra Sài Gòn.

Trước hết, ta thấy từ Hán Việt ‘Sài’ được người Việt dùng như một hình vị hay từ tố, nghĩa là nó chỉ xuất hiện trong các từ ghép Hán Việt (như ‘sơ sài’; ‘sài tân hay tân sài’ là ‘vựa củi’), chứ chưa bao giờ được dùng như một từ đơn, nghĩa là dùng độc lập (hay tự do) nên không thể nói ‘củi đước là sài đước’, ‘củi gòn là sài gòn’…

Kế đến, người Việt không gọi ‘cai (kai)’ mà gọi ‘cây’ và ‘cây’ không thể nói chệch thành ‘sài’.

Tiếp theo, về mặt ngữ âm, ‘Prey Kor’ có thể cho ra Sài Gòn. Nhưng tổ từ Prey Kor không hề xuất hiện trong một văn bản cổ nào và không có một cứ liệu nào chứng tỏ trước kia ở vùng Chợ Lớn có rừng gòn.

Sau cùng, từ trước đến nay chưa hề có sự kiện người Thái Lan gọi một địa danh của người Khmer hay người Việt, rồi về sau người Khmer, người Việt gọi theo.

4. GLAI NAGARA LÀ NGUỒN GỐC CỦA SAIGON:

Bùi Thế Khánh dựa vào lịch sử và đặc trưng của địa danh vùng Đông Nam Á để nêu ra giả thuyết: có thể có một địa danh gốc do một từ Nam Á “Glai” (nghĩa là ‘rừng’) kết hợp với một từ Sanskrit “Nagara” (nghĩa ‘thị trấn’) thành “Glainaghara” (nghĩa ‘thị trấn trong rừng’). Địa danh gốc này đã sinh ra các địa danh “Prey Nokor”, Sài Gòn, Đê Ngạn, Tây Cống…

Về mặt ngữ âm, “Glai” rất dễ biến thành ‘Sài’ và ‘Nagara’ chuyển thành ‘Gòn’. Tuy nhiên, đây chỉ là một giả thuyết để tiếp tục sưu tầm tư liệu, nghiên cứu - như tác giả đã nói - vì chưa có cứ liệu để làm cơ sở nên không thể kiểm chứng được.

5. PREY NOKOR, BRAI NAGARA

LÀ NGUỒN GỐC CỦA SAIGON:

Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên cho rằng “Prey Nokor” (thị trấn trong rừng) là nguồn gốc của địa danh Sài Gòn, nhưng ông không nêu xuất xứ. Năm 1974, Martine Piat đã khẳng định “Brai Nagara” (thị trấn trong rừng) là dạng gốc của Sài Gòn. Còn Launay cho biết năm 1747 ở vùng Gia Định xưa có hai địa danh “Rai-gon thong” (Sai Gòn Thượng) và Rai-gon ha (Sài Gòn Hạ). Vậy, tiền thân của Sài Gòn là “Rai-gon” và nguồn gốc của “Rai-gon” là ‘Brai Nagara’ hay ‘Prey Nokor’.

Chúng tôi thấy các ý kiến và luận cứ trên đây gần sự thật nhất, vì những lý do sau:

Thứ nhất: Địa danh Sài Gòn khá cổ, mà phần lớn các địa danh gốc Khmer đều rất cổ: Cần Giờ, Xoài Rạp…đã xuất hiện trong ‘Phủ biên tạp lục’ (1776).

Thứ hai: Địa danh Sài Gòn không có ý nghĩa gì trong tiếng Việt, nên khả năng là một địa danh phiên âm tiếng của một dân tộc khác là có cơ sở.

Thứ ba: Địa danh ‘Brai Nagara’ có trong sử liệu Khmer thế kỷ XVII. ‘Nagara’ đọc chệch thành ‘Nokor’ là có thể được, vì các âm ‘a’ và ‘ô’, ‘k’ và ‘g’ đã có những tiền lệ chuyển đổi: ná - nỗ, mả - mồ, cái - gái, cẩm - gấm,… Sự kiện một thị trấn ở Chợ Lớn trước kia nằm giữa rừng là có thật.

Thứ tư: Về mặt ngữ âm, ‘Brai Nokor’ sinh ra ‘Rai-gon’ rồi Sài Gòn là có cơ sở. Trước hết, hiện tượng rụng bớt một âm đứng trước một tổ phụ âm có âm lỏng ‘l’ hoặc ‘r’ là có thật: ở thế kỷ XVII, người Việt nói ‘blọ, blài, blúc, blắc’… ngày nay chúng ta nói ‘lọ (nồi), núi (lài), lúc lắc’. Người Pháp nói ‘drap’, người Việt nói tấm ‘ra’ (trải giường). Kế đến, âm tiết ‘kor’ cho ra âm tiết ‘gon hay gòn’ là có tiền lệ: k - g (cái - gái), -or - -on (tiếng Khmer ‘kor’ và tiếng Việt ‘gòn’ cùng có nghĩa là ‘cây gòn’). Tiếp theo, hiện tượng các địa danh có ba âm tiết bị lược bỏ âm tiết đứng giữa đã có bằng chứng cụ thể: cầu Xóm Kiệu - cầu Kiệu, sông Ông Đốc - sông Đốc (Cà Mau). Mặt khác, ‘Rai’ biến thành ‘Sài’, tức là ‘r’ biến thành ‘s’ đã có nhiều tiền lệ: rắp - sắp, rầu - sầu, rờ - sờ, sài (Hán Việt) đọc là rài. Thanh ngang chuyển thành thanh huyền cũng có bằng cớ: Tra-peng - Trà Vinh, Kanchoen - Cần Giờ,… Sau cùng, các tổ hợp phụ âm đầu có âm lỏng ‘r’ (như Kr, Br) có quan hệ nguồn gốc với phụ âm ‘s’. Chẳng hạn, tiếng Gia-rai, tiếng Chăm - có quan hệ nguồn gốc với tiếng Việt - gọi con sông là ‘krong’, còn người Việt gọi là ‘sông’. Trong tiếng Rơngao, từ tương ứng với ‘sóc’ (con sóc) của tiếng Việt là ‘brok’ (theo lời tiến sĩ Kenneth J. Gregerson). Do đó, ‘r’ có quan hệ với “s” (Brai - Sài) là có thể đúng sự thật.

Thứ năm: Các địa danh có từ tố ‘Sài’ đứng trước thường là địa danh gốc Khmer, như Sài Mạt, Sài Mẹt (một sóc ở Campuchia).

TÓM LẠI

Căn cứ trên hai mặt cứ liệu lịch sử và quy luật ngôn ngữ, chúng tôi thấy ý kiến cho rằng BRAI (hay PREY) NOKOR là nguồn gốc của địa danh SÀI GÒN là có khả năng đúng nhất.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: sách Địa danh TP/H.C.M, của Lê Trung Hoa, NXB Khoa Học - XH, 2003)

VIỆT NAM

PHONG TỤC LUẬN

I. NGUỒN GỐC DÂN VIỆT

1. Dân Việt thời lập quấc:

Trước khi bàn về Phong tục Việt Nam, tôi cho rằng cần khẳng định dân tộc Việt Nam là ai trước đã. Dân Việt Nam qua các thời đại có tên là Văn Lang, Âu Lạc, Giao Chỉ, Giao Châu, Lạc Việt… Để thông suốt toàn bài, tôi cứ gọi là dân Việt hay Việt Nam.

Chuyện Lộc Tục là tổ ba đời của vua Hùng (bắt đầu của họ Hồng Bàng) và nước Văn Lang xảy ra năm 2879 trước Tây lịch, trước vua đầu tiên của Trung Hoa là Hoàng Đế hai trăm năm (xảy ra năm 2697 trước Tây lịch), kế đến là Chuyên Húc, Cốc, Nghiêu, Nghiêu truyền cho Thuấn (thời Ngũ Đế), Thuấn truyền cho Vũ, Vũ truyền cho Ích nhưng bị dân không theo nên giao quyền lại cho con vua Vũ là Khởi. Các giáo sư trước 1975 nói về sử cổ Trung Hoa, mỗi người nói một cách, không thấy nói nhà Hạ. Sách “Việt Nam Sử lược” của Trần Trọng Kim có nói vua Vũ thời nhà Hạ rồi vua Vũ thời nhà Chu, thời nầy có tám trăm nước. Thời Hạ Vũ, vùng sông Hoàng Hà có hàng vạn nước. Như vậy mỗi nước có lẽ là một bộ tộc nhỏ thôi. Thời nầy Hán tộc tức là dân du mục phương Bắc mới vượt được sông Hoàng Hà ở vùng sông Vị để xuống phương Nam. Ở đây, họ được trời ban cho Lạc Thư tức là sách kinh điển của Lạc Việt. Đây là thời sau Ngũ Đế hàng trăm năm mà Văn Lang lập quấc trước thời Ngũ Đế hai trăm năm. Do đó nói Hán tộc đuổi giống Tam Miêu ở vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Trung Hoa. Người Tam Miêu xuống vùng sông Hồng Hà lập ra nước Việt là hoang đường vì từ vùng Hoàng Hà xuống tới Bách Việt vừa xa, vừa phải vượt sông Dương Tử lớn lắm và coi chừng phải đánh nhau nữa đấy. Vả lại vùng sông Hồng Hà còn xa Bách Việt và dân Việt đã có nước Văn Lang có kỷ cương và mạnh nữa.

Dân Hán tộc có đủ đông để tràn xuống đồng hóa hàng vạn nước vùng sông Hoàng Hà không? Tôi cho là không. Họ chỉ bắt thần phục họ và đồng hóa trong quá trình hàng ngàn năm. Khi Hán tộc hợp nhứt nước Trung Hoa, họ xóa nước nào thì họ chọn quan nước đó cai trị lại. Nước nào còn cứng cỏi chống lại, họ đặt quan cai trị và để một số quân đóng lại để trấn áp. Đọc truyện Trung Hoa, tôi không thấy việc thắng một nước là họ cho dân họ tới đuổi hay đồng hóa dân bản địa. Cụ thể trong thời Tam quấc, khi Khổng Minh bình Nam Man Mạnh Hoạch ở vùng sông Lư, nhìn bản đồ thì thấy còn xa Bắc Việt ta xa lắm mà ở đó còn rất lạc hậu. Khi Mạnh Hoạch cầu cứu nước Ô Qua, dân ở đó không có nhà, họ ở trong các khe núi. Chúa động là Ngột Đột Cốt đem quân giúp và bị Khổng Minh tiêu diệt. Sau đó, Khổng Minh trả đất, cho Mạnh Hoạch làm chúa như cũ và rút toàn quân về.

2. Dân Việt thời Bắc thuộc:

a. Bắc thuộc lần thứ nhứt (111 trước Tây lịch tới 39 sau Tây lịch):

Năm 111 trước Tây lịch, nhà Tây Hán chiếm Nam Việt, chia làm chín quận, đặt quan cai trị. Nhưng Giao Chỉ thì các Lạc hầu, Lạc tướng vẫn cai trị. Tôi cho rằng nhà Tây Hán nắm kinh đô Phiên Ngung là chính. Đó là vùng Bách Việt do nhà Tần chiếm và lập ra. Do đó, Giao Chỉ, Uất Lâm, Hợp Phố có lẽ nằm sâu vào phía Nam của nước Âu Lạc cũ, đã có kỷ cương nên họ tìm người địa phương tốt cho cai trị để họ thâu tóm và đồng hóa lần. Suốt từ 111 trước Tây lịch đến 24 Tây lịch, nhà Đông Hán vững ngôi thì không thấy sử nói gì về Giao Chỉ. Năm 01 và 02 Tây lịch có Tích Quang và Nhâm Diên sang cai trị Giao Chỉ và Cửu Chân, có lẽ họ làm quan nhà Tây Hán nên sau khi Đông Hán vững ngôi năm năm (năm 29) họ mới sang triều cống. Đọc truyện Đông Hán, tôi chỉ thấy đánh lớn ở Thục, Thành Đô rất xa Bắc Việt của ta. Thành Đô hàng Lưu Tú là hết. Tôi cho rằng nhóm quan chống nhà Hán thì huy động lính để chống Hán. Nhóm không chống Hán thì giữ yên để coi. Do đó yếu tố người phương Bắc xuống Giao Chỉ cải biến dân Giao Chỉ là không có. Khi Tích Quang thần phục rồi, năm năm sau nhà Đông Hán mới sai Tô Định sang cai trị Giao Chỉ. Và sáu năm sau Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Quân Hợp Phố ở Quảng Đông cũng ứng nghĩa. Có lẽ Uất Lâm, Hợp Phố là địa phận của Âu Lạc cũ. Tôi cho rằng hơn một trăm năm Bắc thuộc nầy, dân Âu Lạc không chịu ảnh hưởng mấy về sự đồng hóa của Trung Hoa. Quan Trung Hoa chỉ bắt theo phong tục Trung Hoa thôi chớ không đủ người tới từng địa phương cưỡng chế. Vả lại các Lạc hầu, Lạc tướng còn cai trị và lại là nơi xa xôi hẻo lánh, thủy thổ không hợp với người phương Bắc. Chỉ có việc cấm học và cấm viết chữ Việt nên chữ viết bị mất và văn chương bác học không có, chỉ thế thôi.

b. Bắc thuộc lần thứ hai từ năm 43 tới nhà Tiền Lý (544):

Đây là thời Đông Hán, quan Trung Hoa cai trị khắc nghiệt, oan ức không kêu được vào đâu nên loạn lạc khắp nơi, dân tình khổ sở. Cuối đời Đông Hán, người Giao Chỉ học rộng cũng được làm quan như người Trung Hoa. Đến thời Tam Quấc, Giao Chỉ thuộc về Đông Ngô, vì quan nhà Ngô tàn ác nên bà Triệu Thị Chinh (248) nổi lên chống lại. Giao Châu loạn lạc mãi, lại có người Lâm Ấp (Chiêm Thành) ở phía Nam lên đánh phá, quan Đông Tấn phải đem quân đánh đuổi. Kế đó Trung Hoa chia thành Nam Bắc triều. Người Lâm Ấp lại lên đánh giành quyền cai trị Giao Châu nhưng thua quân Tống. Khi Giao Châu thuộc nhà Lương, Thứ sử Tiêu Tư tàn ác nên ông Lý Bôn nổi lên đánh đuổi và lập ra nhà Tiền Lý (năm 544). Trong giai đoạn nầy, Việt Nam cũng như các bộ tộc Nam Trung Hoa đều bị triều đình Trung Hoa cai trị như nhau.

c. Bắc thuộc lần thứ ba từ năm 602 tới họ Khúc dấy nghiệp năm 906:

Thời kỳ nầy nhà Đường cai trị khắc nghiệt, năm 722 Mai Hắc Đế nổi lên ít lâu thì mất. Sau đó giặc biển vô cướp phá Giao Châu, quan nhà Đường đắp thành Đại La để giữ phủ trị. Năm 791, Phùng Hưng nổi lên mấy năm rồi cũng thua. Quân Lâm Ấp lại lên đánh phá. Cuối đời nhà Đường, quan nhà Đường cai trị tàn ác nên người Mường dụ người Nam Chiếu ở phía Tây tỉnh Vân Nam sang đánh. Quan Nhà Đường là Vương Thức dẹp yên được các nơi (năm 858). Trong mười năm quân Nam Chiếu đánh phá, họ giết hơn mười lăm vạn người Giao Châu. Năm 907 nhà Đường mất ngôi, Trung Hoa vào thời Ngũ Quý, các nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu tranh nhau làm vua, mỗi nhà được mấy năm nên Khúc Thừa Dụ vùng lên dựng nền độc lập cho Giao Châu.

Tóm lại, thời Bắc thuộc ở nước Văn Lang và Âu Lạc thì dân Việt ở bản địa cố định. Suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc từ 111 trước Tây lịch đến 907 sau Tây lịch, từ vùng Hoàng Hà tới Giao Châu đều bị Trung Hoa cai trị như nhau. Giao Châu lại loạn lạc liên miên thì không thể có bộ tộc nào ở Nam Trung Hoa sang lập nước được. Nếu có sang như người Nam Chiếu hay Lâm Ấp thì cũng bị đuổi đi. Do đó, tôi khẳng định dân Việt Nam không phải người từ Tây Tạng xuống hay người Tam Miêu hay Mông-gôn-lịch ở Nam Trung Hoa xuống đây lập nước được. Như vậy, đâu là nguồn gốc dân Việt?

3. Nguồn gốc dân Việt:

Trong giảng khóa về Khảo cổ học, dựa trên các hình chạm trổ trên trống đồng Đông Sơn (Thanh Hóa), giáo sư Vũ Khắc Khoan (trường Đại học Văn khoa Saigòn) có nói tới học giả Goloubew (Pháp) nghiên cứu giống người Dayak ở đảo Bornéo và người Mường ở thượng du Bắc Việt của Việt Nam. Cả hai cùng gốc giống Lạc Việt là Anh-đô-nê-giêng. Tới nay cảnh sanh hoạt tang lễ của người Dayak và người Mường vẫn còn giống như cảnh điêu khắc trên trống đồng. Người Dayak tới Bornéo bằng đường thủy. Giáo sư Văn chương và Ngữ học Lê Ngọc Trụ (trường Đại học Văn khoa Saigòn) thì cho rằng người Mường là người Việt. Chữ Mường là chữ Việt. Tiếng Mường và tiếng Việt giống nhau nhưng âm nặng nhẹ khác nhau. Ta nói “Gạo”, người Mường nói “Gậu” vì vùng núi âm nặng hơn ở đồng bằng. Người Mường là một bộ phận người Việt trốn sự đô hộ của Trung Hoa cả ngàn năm và mất liên lạc với người Việt ở đồng bằng. Không biết có phải khi nói về khảo cứu qua hình khắc trên trống đồng Đông Sơn mà giáo sư Khoan nói luôn đến dân Lạc Việt tới định cư ở lục địa Châu Á từ phía Nam sông Hoàng Hà trở xuống hay giáo sư giảng về Phong tục Việt Nam mà tôi không nhớ rõ tên gì. Hiện nay vết tích dân Việt trên nước Trung Hoa còn, đó là vùng Bách Việt ở Nam Trung Hoa. Hình như ông Kim Định và nhà sử học Nguyễn Phương đều cho rằng người Anh-đô-nê-giêng tới lục địa Châu Á sớm nhứt. Họ định cư vùng phía Nam sông Hoàng Hà chạy dài tới hạ lưu sông Hồng Hà mà ông Kim Định gọi là dân Viêm Việt. Tại sao gọi là dân Việt? Thành ngữ có câu:

Ngựa Hồ chim Việt nhiều điều nhớ nhau

Phải chăng có một giống chim gọi là chim Việt? Người ta thường nói đất lành chim đậu. Phải chăng người Anh-đô-nê-giêng theo hướng, theo chưn chim Việt mà tìm nơi định cư để sống no ấm nên gọi là dân Việt. Nước Việt và Bách Việt ở Trung Hoa có lẽ là nơi các bộ tộc Việt tập trung đông nhứt, sống có tổ chức và thành lập nước.

Nhưng do đâu mà có giống Anh-đô-nê-giêng để đi tới nơi nầy nơi nọ? Theo tôi thì bổn thân vùng đất đang ở, với những biến động đặc biệt của vũ trụ, bụi vô hình như ô xy, hy drô, ni trô… và bụi hữu hình như bụi, cát, nước… tự kết hợp với nhau sanh ra cây cỏ, con vật nầy, con vật kia… trong đó có con người. Người Anh-đô-nê-giêng cũng sanh ra như vậy. Trên đất nước Việt Nam nầy, xưa kia khi dân cư còn rất thưa thớt thì nơi nào cũng có người bổn địa sanh ra như vậy nên tuy là một nước nhỏ, ta cũng có trên năm mươi dân tộc thiểu số. Con người thì tiến hóa và văn minh lần. Và cũng vì biến đổi của vũ trụ, người Anh-đô-nê-giêng đã đạt đến một trình độ văn minh kha khá ở đâu đó, vì điều kiện sống trở nên quá khó khăn nên họ phải đi tìm nơi dễ sống để định cư. Họ tới lục địa Châu Á và đồng hóa với dân bổn địa mà tổ chức thành nước như Ngô Việt, Mân Việt, Bách Việt, Âu Việt, Lạc Việt…

Từ đó tôi cho rằng Việt Nam và Trung Hoa là hai dân tộc khác nhau. Người Trung Hoa là giống Hán tộc từ Tây Bắc xuống, với bản sắc du mục, họ đồng hóa các bộ tộc vùng Hoàng Hà, người Anh-đô-nê-giêng và tiến lần xuống phía Nam. Vô nhà người Trung Hoa tôi thấy họ thờ nhiều lắm: thờ ông Thần Tài, ông Địa, ông Táo, ông Quan Công… nên tôi cho rằng họ là giống đa thần, họ thờ thần sông, thần núi, thần gió, thần mưa…khác với người Việt là giống độc thần. Nhà người Trung Hoa có bàn thờ tổ tiên hay không? Có lẽ phải vô nhà người Trung Hoa ở cận sông Hoàng Hà mới nói được. Vào vùng sông Dương Tử là vào địa phận người Việt: Ngô Việt, Mân Việt, Bách Việt… nếu họ có bàn thờ tổ tiên là họ bắt chước người Việt đấy.

Người Việt Nam là giống dân Anh-đô-nê-giêng đồng hóa với các bộ tộc vùng sông Hồng Hà, vùng Bắc Việt mà thành. Đương nhiên họ cũng đồng hóa với thương nhơn các nơi ghé vô buôn bán, làm ăn sanh sống và cả người Trung Hoa sang đây đô hộ ta nữa.

II. PHONG TỤC VIỆT NAM

Bàn về Phong tục Việt Nam, có lẽ trước hết phải định nghĩa Phong tục là gì? Theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức thì:

- Phong là ban cho, là bờ cõi, là gió, thói, nếp

- Tục là lề thói đã lâu đời

- Phong tục là thói lề, tục lệ

- Tập quán là thói quen

- Tập tục là tục người ta quen theo

Đứng về mặt định nghĩa, Phong tục, Tập quán và Tập tục có vẻ gần giống nhau, ý nghĩa cũng là thói quen lâu đời của một dân tộc, một xã hội. Nhưng khi nói Phong tục, tôi nghe dường như nó lớn lao hơn, quan trọng hơn. Còn nói Tập tục hay Tập quán dường như nó chỉ là thói quen của một nhóm nhỏ nào đó thôi.

Nói về Phong tục của một dân tộc thì nó bao gồm những gì? Theo tôi, đó là cách ăn mặc, cách trang điểm bản thân, nhà cửa, cách cúng bái… Còn cách giao tiếp giữa người nầy với người nọ, theo tôi, vẫn là Phong tục. Những lễ lộc, cưới hỏi… nó cũng có những qui định phải theo. Đó cũng là Phong tục. Ngày nay, muốn tìm hiểu Phong tục của một dân tộc, ta tìm hiểu ở đâu? Có lẽ ta tìm hiểu trong ca dao, tục ngữ, văn học, lịch sử… Trong lịch sử, luật lệ do triều đình đặt ra bắt dân phải theo. Lâu dần, người dân không cần biết đó là luật mà thấy xưa nay ứng xử như vậy thì họ bắt chước mà thôi. Từ luật pháp nó trở thành Phong tục. Có bài ca dao:

Tháng giêng là tháng ăn chơi

Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà…

Đó là cách sống của dân ta ngày xưa. Thu hoạch vụ mùa xong là tới Tết. Mọi người vui vẻ nghỉ ngơi, trà rượu một thời gian rồi mới bắt đầu lao động tiếp. Đó cũng là Phong tục.

Nhà sử học Nguyễn Phương nói về Phong tục Việt Nam, ông nói dân Lạc Việt thuộc giống Anh-đô-nê-giêng tới định cư ở Việt Nam và Nam Trung Hoa trước nhứt, bằng cớ là cổ vật đào được ở Trường Sa (Nam Động Đình hồ) và Đông Sơn (Thanh Hóa) giống nhau nên họ cùng một giống dân. Họ có Phong tục thờ mặt trời và vật tổ là chim Lạc còn dân Việt Nam thì không có. Theo tôi thì không đúng như vậy. Dấu vết thờ vật tổ chim thì ở các đình thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh có thờ một cặp Hạc. Hình như dáng chim Hạc tôi thấy cũng hao hao giống với chim Việt khắc trên mặt trống đồng. Không biết con chim Việt ra sao thì người ta thờ con chim hơi giống là chim Hạc. Vả lại chim Hạc có tiếng là sống lâu nên thờ chim Hạc cũng tốt.

Sách “Thời Đại Hùng Vương” xuất bản năm 1976, trang 256 ghi: “Một đặc trưng của văn hóa Lạc Việt trong thời đại Hùng Vương là tục thờ cúng tổ tiên và sùng bái anh hùng cứu quốc”. Và, sách hay báo Bách Khoa số 376 tháng 9-12, tôi không ghi năm nào, chỉ còn lại câu trích: “Đâu đâu cũng có ghi dấu tín ngưỡng: ‘Ngoài sân thờ ông Thiên, trong nhà thờ ông Địa’. ”

Theo giáo sư Vũ Khắc Khoan, thông qua nghiên cứu của học giả Goloubew, Lạc Việt là giống dân Anh-đô-nê-giêng, cảnh sanh hoạt trên mặt trống đồng Đông Sơn là tang lễ, hình thuyền trên thân trống có người mang gươm, búa, đánh trống, bắn cung… có ý nghĩa đám tang chở linh hồn người Việt cổ về nơi cực lạc.

Phong tục Việt Nam ta ngày nay còn dáng dấp Anh-đô-nê-giêng cổ là chiếc thuyền vàng chở linh hồn người qua cố về đảo cực lạc, nó biến thành chiếc xe nhà vàng đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng. Chiếc thuyền vàng khắc trên trống đồng, đầu và đuôi thuyền có trang trí hình chim. Với sự tích Lạc Long Quân, hình chim biến thành đầu rồng cũng dễ thôi.

Sau khi Triệu Đà là người Trung Hoa, làm quan nhà Tần, giết hết các quan Tần để chiếm Quế Lâm, Tượng Quận hợp với Nam Hải lập ra nước Nam Việt. Triệu Đà độc lập với Trung Hoa, ông tự ý đem cái mà ông cho là hay, là văn minh của Trung Hoa sang dạy dân Việt; trong khi đó, nhà Tần ở Trung Hoa cấm Nho học, đốt sách, sửa đổi phong tục… Như vậy, dân Triệu Đà cai quản là ai? Dùng ai để phụ trợ? Phải nói là dân Nam Hải, sau đó là Quế Lâm và Tượng Quận. Như vậy, ông dùng người cai trị là người Bách Việt chớ không phải Trung Hoa. Do đó tôi cho là ông đem văn minh Trung Hoa sang dạy chớ không bắt dân Bách Việt đồng hóa theo Trung Hoa. Ảnh hưởng của Trung Hoa có lẽ chỉ ở vùng kinh đô Phiên Ngung (gần thành Quảng Châu) là chính, chưa chắc nó lan tới Tượng Quận chớ đừng nói tới Văn Lang. Thời nầy, Lạc Thư ở Việt Nam có lẽ chưa mất. Văn minh Việt tộc còn đó thì dễ gì nhiễm văn hóa Trung Hoa.

Nước Văn Lang lập quấc trước thời Ngũ Đế của Trung Hoa hai trăm năm nên thời Âu Lạc là một nước văn minh có kỷ cương rồi. Sau nầy, hơn một ngàn năm Bắc thuộc, việc bị Trung Hoa đồng hóa cũng hạn chế vì họ chỉ cho quan Trung Hoa sang cai trị và một số lính bảo vệ thôi. Việc dạy học họ cũng không quan tâm lắm vì ngu dân dễ trị. Học, có lẽ chỉ con quan và một số người muốn làm quan nên học thôi. Dân thường, thường là họ chống đối nên không học đâu. Có một điều chắc chắn là họ dạy học và bắt ghi chép bằng chữ Hán nên chữ Việt bị mất. Sau nầy dân ta phải mượn chữ Hán chế thành chữ Nôm để ghi âm VIệt. Nếu nhìn thời nhà Minh đô hộ, họ bắt ăn mặc theo Trung Hoa, thờ cúng, học sách Trung Hoa còn sách vở Việt chúng thâu hết về Trung Hoa. Làm căng như vậy nên chỉ hai mươi năm là dân ta đuổi chúng về nước mà thôi. Nói rằng thời Tây Hán cai trị, Tích Quang dạy lễ nghĩa. Lễ nghĩa thì thời Văn Lang, Âu Lạc đã có rồi. Chẳng qua ông là ông quan tốt, muốn đem sự bình yên cho dân tộc, ông đem lễ nghĩa ra dạy để vỗ yên dân. Dân chỉ nghe những gì dung hòa được với Việt tộc mà thôi. Còn Nhâm Diên thì dạy dân cày cấy, làm ruộng. Sách “Thời Đại Hùng Vương” xuất bản năm 1976, trang 239 ghi: “Các vua đầu tiên của nước Việt cổ đại đó đã hướng dẫn nhân dân khai phá cánh đồng Bắc Bộ và cánh đồng miền Bắc Trung Bộ, biến hai miền đó thành những vựa lúa của nước Văn Lang”. Chẳng qua vì chiến tranh, vì chống ngoại xâm, dân bỏ bê, nay các quan Trung Hoa củng cố lại thôi.

Tóm lại, người Việt Nam, Phong tục Việt Nam, Văn minh Việt Nam là của Việt Nam. Đó là văn minh Anh-đô-nê-giêng hòa đồng với những nét văn minh của các sắc dân bản địa và cả các dân tộc phương xa ghé làm ăn sanh sống. Nó cũng giống như người Trung Hoa là Hán tộc đồng hóa với các bộ tộc bản địa ở lục địa Trung Hoa và cả dân Việt gốc Anh-đô-nê-giêng mà thành vậy. Nói văn minh Anh-đô-nê-giêng, Lạc Việt là Việt Nho nhưng Trung Hoa đã nhận là của họ rồi. Chứng cớ ở đâu? Lạc Thư có còn dấu tích gì không? Vả lại người Trung Hoa tự cao tự đại, họ học xong cái hay của các dân tộc khác thì họ xóa hết vết tích để cái gì họ cũng nói là của họ. Cụ thể là Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, sử sách còn ghi. Thời Minh thuộc, họ thâu hết sách Việt Nam đem về Trung Hoa nghiên cứu. Cái nào hay thì học, sau đó đốt bỏ để nói là của họ. Trong khi ta chưa chứng minh được Việt Nho là của ta thì ta hào phóng cho Trung Hoa vậy. Với nhận định như vậy, tôi khẳng định rằng Văn minh Việt Nam, Phong tục Việt Nam là của Việt Nam với các nét chánh là:

1. Ngoài nhà thờ Trời (bàn Thiên), trong nhà thờ Đất (ông Địa)

2. Có bàn thờ ông bà tổ tiên. Ngoài ra còn có đền thờ kính anh hùng dân tộc.

3. Mỗi làng có một đình thờ thần và vật tổ là chim Hạc. Có nhiều vùng có vuông tre bao quanh.

4. Nước có biến thì vua cầu hiền trong dân để giúp nước, thể hiện tinh thần dân chủ (Thánh Gióng).

5. Trong gia đình có tôn ti trật tự. Em phải nhường cho anh. Anh em, vợ chồng thương và giúp đỡ nhau (Sự tích trầu cau).

6. Trai gái lấy nhau thì phải cưới hỏi đàng hoàng (chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh)

7. Chào thì nghiêng mình thi lễ.

8. Có tục nhuộm răng ăn trầu, tiếp khách thì mời trầu (miếng trầu là đầu câu chuyện). Tục nầy đã bỏ nhưng vết tích còn lại là mâm trầu cau trong lễ cưới.

9. Trong đám tang có kèn trống. Nay trong thành phố, nhà cửa ken nhau, lao động kiếm sống cũng vất vả hơn nên mọi người cần nghỉ ngơi, đã bỏ dần.

10. Có xe nhà vàng đưa người chết đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Khánh Hội - Quận 4 Saigòn ngày 15-6-2016

NHỰT THANH

Tài liệu tham khảo:

1. Sách “Việt Nam Sử lược” của Trần Trọng Kim - tái bản năm 2012

2. Sách “Thời Đại Hùng Vương” của Văn Tân - Nguyễn Linh - Lê Văn Lan - Nguyễn Đổng Chi - Hoàng Hưng do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội ấn hành năm 1976

3. Giảng khóa Kịch nghệ, Khảo cổ học: giáo sư Vũ Khắc Khoan

4. Giảng khóa Văn minh Việt Nam: giáo sư Thanh Lãng

5. Giảng khóa Văn chương Việt Nam và Ngữ học Việt Nam: giáo sư Lê Ngọc Trụ

6. Giảng khóa Phong tục Việt Nam: không nhớ tên giáo sư.

ẤN TƯỢNG

CƠM ÂM PHỦ

Quán cơm này ra đời vào năm 1918 mà chủ nhân ban đầu là ông Tống Phước Ký. Thuở đó quán được dựng trên một vùng đất hoang vu tiếp giáp với cánh đồng An Cựu Huế. Vùng đất này được gọi là vùng Đất Mới. Đây là vùng ngoại biên hẻo lánh nằm về phía Đông của Tòa Khâm sứ của người Pháp. Tại đây, tập trung nhiều trại lính Khố Đỏ, Khố Xanh, lính tập, lính kèn, Sở Mật thám... do đó vùng đất này sớm trở thành khu hoạt động của nhiều cô gái ăn sương.

Nhiều người lớn tuổi ở Huế kể rằng, ban đầu quán chỉ bán độc nhất món cơm chiên. Nói cơm chiên, nhưng thực chất là cơm trộn với các món ăn thừa của các hiệu cơm tây gần khách sạn Morin thải ra, đem chiên xào lại. Gọi là cơm xà bần chiên cũng được vì chuyên bán cho giới bình dân ăn khuya như phu kéo xe, gái làng chơi quanh khu đồn Tây đóng hoặc những người đi xem hát bội hay coi chiếu bóng về khuya. Lần hồi quán nổi tiếng, thu hút thêm nhiều khách vãng lai.

Về tên gọi Âm phủ, có người giải thích: giữa đêm khuya, một quán ăn bình dân đèn đuốc hiu hắt giữa một vùng không có nhiều cột đèn điện vào đầu thế kỷ làm người ta liên tưởng tới cõi âm phủ, nên từ đó phát sinh tên gọi “cơm Âm phủ” và cái tên này đã đi vào ca dao đất Thần kinh:

Kể từ ngày thất thủ kinh đô,

Tây qua giăng dây thép, họa địa đồ nước Nam

Lên Dinh, ở tớ (tức ở đợ) tòa Khâm

Chén cơm âm phủ, áo đầm mồ hôi !

Thời Huế khó khăn, quán cơm Âm phủ trở thành quán cơm xã hội. Quán bán thêm nhiều món ăn, thức nhắm bình dân. Món cơm bán chạy nhất là cơm dĩa có tên gọi riêng là cơm Âm phủ. Đó là một loại cơm thập cẩm, trộn đủ thứ được xắt nhỏ như nem, chả, thịt, nướng, tôm chấy, thịt heo, dưa gang, dưa chuột bóp... với chén nước mắm pha loãng bồng bềnh ớt dậy hương chanh để chan vào mà ăn. Đây là một sáng kiến tuyệt vời trong buôn bán để đáp lại nhu cầu tiện, rẻ, nhanh chóng của những khách ăn vội vã về khuya, thay vì làm nhiều món nóng sốt khác nhau.

Cơm Âm phủ ngon vì thực phẩm luôn tươi: con tôm rằn Phá Tam Giang thịt ngọt sắc đỏ được chấy tơi khi còn tươi rói. Miếng nem nướng giã từ thịt heo tơ ở lò mổ An Hòa trong mỗi sớm tinh mơ kết hợp với mấy thứ gia vị như: hành, tỏi, tiêu, thính, chờ ủ lên men tạo vị chua rồi mới xiên nướng trên than hồng, tỏa ra mùi thơm quyến rũ. Miếng chả lụa mặt nhẵn sắc hồng dậy vị ngọt của heo tươi. Quả dưa dòn và ngọt, mang màu xanh đẹp mắt được cắt lát mỏng rồi bóp muối. Mấy ngọn rau thơm rắc trên mặt dĩa cơm nóng hổi, khiến dĩa cơm nhiều màu sắc: sắc hồng của tôm, thịt và sắc xanh của rau và dưa. Khi ăn, khách tự múc nước mắm ngọt chua rưới vào cơm, nước mắm này được chủ quán khéo pha với tất cả sự tinh tế, làm cho món ăn có một hương vị tổng hợp hài hòa.

Dần dần, theo yêu cầu của khách và quán cũng làm ăn ngày càng phát đạt nên cơm còn được bán thêm dưới dạng cơm phần hiện nay, với những thức ăn khác ngon và rẻ như: cơm nấu với gạo de An Cựu hay Tám thơm, ăn với cá bống thệ kho khô, cá rô kho tộ, hay dưa cải với thịt phay chấm nước mắm ngon Nam Ô. Thịt phay là thứ thịt ba chỉ của con heo nuôi với cám chứ không phải với bã rượu hay thức ăn chế biến sẵn. Thịt ăn chung với dưa cải do người khéo tay làm được chấm với nước mắm Nam Ô loại đặc biệt. Tác giả Nguyễn Hữu Thứ trong cuốn nghiên cứu Huế tập 4 cho biết một giai thoại khá vui: Có mấy ông khách từ trong Nam ra thăm Huế, vì hiếu kỳ nên vào ăn tại quán cơm Âm phủ. Chủ quán giới thiệu các món ăn đặc sản của quán nên các ông gọi hơi nhiều. Các vị khách khai vị bằng nem mới luộc, rồi ăn cơm với món thịt phay ba chỉ chấm với nước mắm Nam Ô. Ai cũng khen ngon nên gọi thêm nhiều món nữa. Chủ quán vui vẻ ra trò chuyện cùng khách. Trong câu chuyện, ông đọc mấy câu ca dao để lấy lòng khách:

Nói cho hay thì cũng thịt phay dưa cải

Nói cho phải thì cũng dưa cải thịt phay.

Một ông khách nghe xong nói: “Thế à! món thịt phay dưa cải ở đây nổi tiếng đến thế à!”

Thịt phay ở Huế cũng có thể ăn với trái vả và mắm. Vả là loại trái cây chát nhưng ăn với mắm như mắm tôm mắm rò thì rất ngon.

Đặc biệt, quán còn phục vụ thêm món cháo bo bo mà mọi người gọi là Song bo. Dĩ nhiên, bo bo này không phải là loại bo bo mà chúng ta được cung cấp khi thiếu hụt lương thực trong thời bao cấp. Bo bo mà quán nấu là một loại cháo rất ngon mặc dù giá đắt nhưng khách hàng rất thích. Bo bo được nấu sẵn, lúc có khách chỉ cần bỏ thịt heo, gia vị vào và chỉ hâm lại một thời gian ngắn.

Nhưng quán thực sự nổi danh từ năm 1936, khi vua Bảo Đại khánh thành sân vận động tại khu vực này lấy tên là Sân Bảo Long để kỷ niệm ngày vị hoàng tử này mới ra đời, nhưng dân chúng quen gọi là sân Tự Do hay sân Đất Mới. Đây là một sân vận động độc nhất ở Đông Dương với vòng chảo đua xe đạp. Cũng hôm đó tại đây tổ chức trận chung kết Giải túc cầu Đông Dương nên Quán Âm phủ bấy giờ bắt đầu phát triển nhanh. Đây là nơi ăn uống, giải khát, bình luận sôi nổi của những người hâm mộ thể thao hay dân cá độ. Cùng với sự lén lút của những ổ mại dâm, cái không khí u tối tịch mịch của quán cơm Âm phủ ban đầu đã biến mất, thay vào đó là đèn điện sáng choang.

Trải qua bao thăng trầm và đổi thay của thời gian, ngày nay đến Huế, chúng ta chỉ có thể tìm về quán cơm Âm phủ ở tầng lầu ngôi nhà nằm cạnh sân Tự Do. Tại đây, ngoài món cơm âm phủ truyền thống, còn có các món ăn khác như lươn um, dồi trường, môi mép bò chấm mắm nêm… và dĩ nhiên, dĩa cơm truyền thống vẫn là một dĩa cơm thơm dẻo, cùng với các thức ăn như thịt ba rọi, chả lụa, nem nướng, trứng đổ chả được xắt sợi nhỏ cùng với tôm chấy, rau thơm, dưa leo được sắp đặt hài hòa.

Dĩa cơm Âm phủ đã tạo ra một cảm quan rất Huế, bởi từ nguyên liệu đến khâu bày biện, trang trí đều mang tính dân dã mà lại phảng phất phong cách cung đình vua chúa. Món ăn được chế biến không khó nhưng nó thể hiện sự tinh tế của những người nội trợ Huế. Đó là đôi tay khéo léo để xắt sợi “đều tay” các nguyên liệu và có một trình độ thẩm mỹ nhất định để trình bày dĩa cơm, tạo nên ấn tượng độc đáo từ cái nhìn đầu tiên dù thực khách khó tính đến đâu cũng phải hài lòng. Dĩa cơm Âm phủ cùng với chén nước mắm chua ngọt là một món ăn góp phần làm tăng thêm tính độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực vốn rất phong phú của người dân Cố đô.

BĐ st.

Tâm Nguyện

TU PHẬT GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Nhân duyên đưa đến tôi nhận được những tập sách viết về Đạo Phật: “Từ tu Thiền đến tu Phật”, “Sáu cửa vào Động Thiếu Thất của Bồ Đề Đạt Ma”, “Kinh Thủ Lăng Nghiêm”, “Góp nhặt quanh đời”, “Khơi Giòng Chánh Pháp 1,2,3”, tác giả Nhà nghiên cứu Phật Giáo Tâm Nguyện.

Đọc qua các tập sách, hiểu được chị đã có một tiền duyên, pháp duyên gặp được người Thầy, cố Cư sĩ Nguyễn Quang Lượng (pháp danh Như Pháp Thứ) hướng dẫn: “Phần tôi được cho là người có hẹn thì càng mù tịt, thậm chí còn không biết gì về Đạo Phật, cứ bình thản làm ăn, sinh sống, ăn diện, chẳng mảy may gì nhớ có hẹn ước cả. Nhưng cuối cùng rồi gặp nhau. Có lẽ do một sự sắp xếp trong huyền vị nào đó, vừa mơ hồ vừa hiện thực. Chính bản thân tôi là người trong cuộc, dù hiện kiếp không nhớ gì, nhưng tiềm thức buộc phải trở lại con đường Tu Phật, nên muốn không tin cũng không được”. (Góp Nhặt Quanh Đời, tr. 176).

Chị Tâm Nguyện đã cống hiến hơn nửa cuộc đời người cho công trình nghiên cứu về Đạo Phật và Tu Phật. Tôi rất tâm đắc với những tập sách của chị, những điều chị viết ra thể hiện được nhân sinh quan và nhân luận của chính mình, chị tìm tòi và khám phá từ những BỘ CHÍNH KINH để đúc kết, cuối cùng đưa đến kết luận là ĐẠO PHẬT KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO mà chỉ là một phương pháp để giáo dục con người. “Nhiều người đã nói rằng những gì tôi viết về ĐẠO PHẬT là quá mới mẻ. Nhưng nếu ai có chịu khó đọc CHÍNH KINH thì sẽ thấy những điều đó đã được viết từ mấy ngàn năm rồi. Có điều vì nó không giống như những gì mọi người vẫn được nghe truyền bá hiện tại, nên trở thành mới mẻ, xa lạ mà thôi”. (Kh ơi Gi ò ng Chánh Pháp) Q. 1, tr.192).

Do đó hiểu cho đúng thì Đạo Phật thật ra không phải là một tôn giáo, vì không dạy người tin theo phụng thờ, cầu xin PHẬT, mà ĐẠO LÀ CON ĐƯỜNG, PHẬT LÀ GIẢI THOÁT, tức là con đường những người muốn thoát khổ, đi trên đó bằng sự tự tin, tự chủ, tự điều khiển lấy cuộc đời mình ngay trong hiện kiếp và những kiếp về sau bằng cách gây tạo NHÂN QUẢ, không phải nương vào bất cứ ai”. Sách xưa, cái nhìn mới (Khơi Giòng Chánh Pháp 1, tr. 28-29).

“TU PHẬT là TU TÂM ”. Như vậy ai TU cái TÂM, làm theo những Hạnh mà Phật đã làm để được Giải thoát, thì đó mới là đang TU PHẬT. Ngược lại những người tạc tượng PHẬT để THỜ. Ngày đêm mấy thời ca tụng, tán thán Phật để cầu xin “được độ” thì bị cảnh báo trong Phật Ngôn: “Kẻ nào ca ngợi ta, tán thán ta mà không hành theo lời ta chỉ dạy. Kẻ đó đang phỉ báng nặng nề ta” (Tu Phật và Thờ Phật - Khơi giòng chánh pháp 2, tr.152).

Chị Tâm Nguyện lược giải được tất cả 9 bộ Kinh, chị còn nghiên cứu về Thiền, đọc rất nhiều sách về chủ đề này của các vị Thiền sư nổi tiếng trong và ngoài nước. Tập sách: “TỪ TU THIỀN ĐẾN TU PHẬT”, Nxb Tôn giáo, 2012. “Vì thế tập sách này được viết nhằm mục đích nêu lên một số ý kiến, để người đọc có dịp so sánh sự khác biệt giữa hai phương pháp TU THIỀN VÀ TU PHẬT hầu tiện cân nhắc trước khi chọn pháp môn để tụ tập” (tr.92).

Tôi là người ngoại đạo, chưa biết gì về ĐẠO PHẬT, lần đầu tiên đọc các tập sách của chị Tâm Nguyện, chị lược giải viết rất rõ ràng, dễ hiểu, mặc dù tôi đọc chỉ hiểu được năm mươi phần trăm thôi. Theo Thích Ca Mâu Ni Phật, thế gian là một biển khổ, khổ ải do sinh, lão, bệnh tử. Cuộc đời con người trầm luân bởi những dục vọng thân xác. Theo Phật Giáo cái thân xác con người, không chỉ ở kiếp hiện tại, mà phải chịu từ kiếp này đến kiếp khác như cái bánh xe quay (luân hồi) Cái khổ của ta ở kiếp này (Nghiệp) là kết quả (Quả) của ta ở kiếp trước. Việc ta làm ở kiếp này sẽ đưa đến kết quả (Nhân) cho kiếp sau. Cái Nghiệp Báo ấy còn mãi mãi nếu chưa diệt được khổ…

Điều tôi cảm nhận được qua công trình nghiên cứu ĐẠO PHẬT của NHƯ TÂM NGUYỆN:

- Chị đến với TU PHẬT bằng tất cả CHÂN TÂM - để tìm đến cái CHÂN LÝ tuyệt đối của ĐẠO PHẬT, hiểu rõ đúng sai, không nghiên cứu kỹ dễ lầm chấp. Bội phục! Bội phục!

- Tâm linh của con người, ai ai cũng mong tự giải thoát cho mình khỏi phiền não, thoát khỏi khổ đau trong cuộc đời. ĐẠO PHẬT đi vào lòng người từ tầng lớp bình dân cho đến tầng lớp trí thức là vậy.

- Tôi nghĩ ĐẠO PHẬT KINH PHẬT là một triết thuyết - Triết lý ĐẠO PHẬT gần như là môn Đạo Đức học, giúp con người TU - Sửa bản thân mình, hướng đến cái TÂM lương thiện, vị tha, bác ái, tạo cho mình một cuộc sống an nhiên tự tại.

Vài cảm nghĩ nhỏ cho một công trình nghiên cứu về ĐẠO PHẬT được lưu truyền trên 2560 năm. Có lẽ tôi còn đọc và tìm hiểu thêm. Chúc chị NHƯ TÂM NGUYỆN thành công : “Như một que diêm dù le lói nhưng vẫn cháy hết mình. Điều đó tôi xem như đền trong muôn một ân nghĩa của một vị thầy mà Chư Phật đã phái đến để khai mở cho tôi” (Góp Nhặt Quanh Đời, tr.184).

Xin giới thiệu với tất cả Thành Viên CLB.

Huỳnh Thiên Kim Bội

Tháng 8/2016


Phụ bản II

ÁNH SÁNG MẶT TRỜI

MANG ĐẾN NGUỒN SỐNG

TỐNG ĐÌNH THÁI

(Reader’s Digest)

Ngay khi mà ánh nắng mặt trời lởn vởn trên lá, sự im lặng huyền bí của Quang tổng hợp bắt đầu mang lại cho chúng ta tất cả những gì cần yếu, từ thực phẩm hàng ngày đến không khí chúng ta thở.

Nghĩ đến những sự việc phi thường xảy ra khi một luồng ánh sáng chiếu nghiêng nghiêng qua cửa sổ của nhà bạn. Những bông hoa từ từ xòe cánh. Những hạt bụi li ti vô hình bắt đầu nhảy múa một vũ điệu ma quái dị thường. Các bạn quan sát luồng ánh sáng, hãy ngắm nhìn nó, khi xuyên qua một mảnh kính, tỏa ra, làm thành một hình thể đủ màu sắc và bạn sẽ có một cái nhìn tổng quát về thế giới phức tạp của bức xạ ánh sáng (radiation).

Vượt qua 150 triệu cây số trong khoảng không gian sâu thẳm. Sứ giả của mặt trời mang đến cho chúng ta sự ấm áp và nguồn an ủi, thật ra, chứa chất những tuyệt diệu vô biên. Nếu chúng ta có đủ khả năng để hiểu thấu những kỳ tuyệt này, thì sẽ biết rõ một số bí mật thầm kín nhất của thiên nhiên.

Trong tất cả những sự kiện phi thường này, không một cái gì kỳ diệu bằng hiện tượng Quang tổng hợp (photo synthèse), sự vận chuyển này cho phép những chiếc lá xanh biến chế năng lực mặt trời thành chất dinh dưỡng cho sinh vật. Quang tổng hợp (hóa hợp được thực hiện nhờ ánh sáng) dùng năng lực của mặt trời để kết hợp những nguyên tử, rút ra từ nước và không khí thành những phần tử dinh dưỡng của chất đường. Trong công việc này, nó nhả ra một chất phụ thuộc khác, dưỡng khí (Oxygène), chất này làm đổi mới lớp khí quyển, nguồn lực của sự sống.

Chính vào năm 1771, trong những cuộc thí nghiệm về không khí, một nhà truyền giáo người Anh tên Joseph Priestley, lần đầu tiên đã nghi ngờ sự hiện hữu của công việc vận chuyển phi thường này. Ông khám phá ra nếu một con chuột được đặt vào trong cái chén bằng thủy tinh đóng thật kín. Chỉ trong giây lát, con chuột sẽ nghẹt thở, nhưng nếu người ta bỏ thêm vào cái chén ấy một lá bạc hà tươi, con chuột sẽ lần lần hồi tỉnh. Vào thời ấy Priestley không hiểu được dưỡng khí được đổi mới trong chén bởi tác dụng của những luồng ánh mặt trời trên các lá xanh. Tuy nhiên cuộc thí nghiệm đơn sơ này mở đầu cho một loạt nghiên cứu về một bí ẩn sâu xa mà, từ đó, làm say mê những nhà khảo cứu.

Chất sắc phép lạ

Trong khoảng những thập niên cuối cùng, một hình ảnh chi tiết về bộ máy của Quang tổng hợp được từ từ hình thành. Nhưng đó là một sứ mạng thật phức tạp mà sự bí mật sẽ không được phanh phui nếu ngày nào đó các nhà bác học vẫn còn chưa hiểu rõ tác dụng tiếp xúc của chất diệp lục tố (chlorophylle), thứ sắc xanh phi thường này đã được tìm thấy trong lá thảo mộc, và những phản ứng mà nó gây nơi các vi bào (chloro plastes), một loại vi thể mà giữa nơi đó chất diệp lục tố thực hiện thành các phép lạ của chúng.

Tuy vậy, chúng ta đã biết nhiều sự kiện, chẳng hạn như tất cả sự vận chuyển diễn ra ở bên trong các vi bào, những hạt này qua kính hiển vi giống như những cái chồi xanh đang bơi lội trong những tế bào của lá. Chúng ta cũng biết rằng những phân tử của chất diệp lục tố ngăn chận một phần của bức xạ dữ dội mà nơi đó chúng thâu giữ những tia sáng nóng bỏng để rút tỉa năng lực. Năng lực này làm chuyển động các vi bào, “chuyên viên chế tạo thức ăn”, nó biến chế ra những chất đường tươi, dưới hình thức phân tử.

Một phần của chất đường trên dùng để nuôi chính cái lá đó, một phần khác biến thành chất đạm (protéin) chất dầu và chất bột, những sản phẩm được dự trữ trong các hột, trái cây hoặc sẽ cho chất gỗ dầy, đặc và bóng. Sau hết, phần còn lại của chất đường này được tan thành dòng nhựa dinh dưỡng. Chính cái thặng dư của sự sản xuất thức ăn gây ra bởi hóa hợp diệp lục tố, đã cho phép cái tăng triển của sự sống. Chỉ có những thảo mộc mới có thể tự hoàn thành sự biến chế này, nhưng các thú vật cũng có phần của chúng trong khi ăn cây cỏ, hoặc ăn những con vật khác cũng sanh sống bằng chất nhựa dinh dưỡng này. Cuối cùng hầu hết những gì hiện hữu trên mặt đất, đều lệ thuộc vào thức ăn của chúng, sản phẩm của Quang tổng hợp.

Món nợ của chúng ta không ngừng ở đó. Trong thời gian sự chế tạo do sự kết hợp của ba phần tử đơn rút ra từ không khí và nước - đó là Carbonne, Hyrogène và Oxygène, các vi bào bỏ ra ngoài không khí một phần dưỡng khí thặng dư. Suốt từ mấy ngàn năm những cây cối thuộc chất diệp lục tố đã thực sự tạo ra bầu không khí hiện hữu của chúng ta và đã cho tất cả các sinh vật hô hấp được tồn tại. Như vậy là Quang tổng hợp đã biếu cho thế giới loài vật một lượt hai món quà: những thực vật mà chúng ta dùng và không khí trong lành mà chúng ta thở.

Một nhà máy thực sự

Một lá cây xanh cũng có thể hiện ra mỏng như tờ giấy, thực ra đó là một cơ xưởng sản xuất thức ăn, đã được phú cho một cái “trần” trong suốt, những ống dẫn đun nước từ dưới lên và một cái “sàn” được trang bị những ống “Sú-páp” tự mở ra và đóng vào để bảo đảm của hơi ẩm và công việc thoát ra của hơi gaz (hơi carbonic thấm vào đó còn oxygène thặng dư thoát ra). Muốn cho nhà máy này hoạt động, chiếc lá phải được ngập tràn ánh sáng mặt trời và phải được tiếp tế bằng nhựa, chất lỏng trong đó nhiều thứ khoáng chất ở tình trạng tan loãng.

Cây hòa bản (graminée) là loại cây có nhiều nhất trong tất cả các thảo mộc trên trái đất và được trang bị đầy đủ nhất để thực hiện những công tác này, cái lợi ở chỗ là các cây này gần như kết thành toàn bằng lá. Cái thích hợp tuyệt diệu cho sự thâu nhận ánh sáng mặt trời từ trên xuống dưới của mầm dài mới mọc suốt dọc theo thân nghiêng nghiêng, hầu như chúng được đặt trên nguồn nước dự trữ của chúng.

Ngoài ra, sự thon nhỏ của lá cho phép chúng sống chen chúc mà không có hại gì cho nhau. Giá trị lớn lao về thức ăn của cây hòa bản, như ngô bắp, lúa mì hoặc lúa gạo chứng minh rằng các loại cây này biết hấp thụ năng lực mặt trời.

Cây Tùng bách (conifère) cũng vậy, chúng rất khéo léo trong vấn đề này. Chúng được đền bù bằng một số lượng lớn lao các thiếu thốn về chiều rộng. Như lá của các cây hòa bản này chúng có thể đứng khít vào nhau, mà không ngăn trở ánh sáng luồn vào giữa và bao bọc từng chiếc lá. Trước mặt chúng ta là một chiếc lá riêng dù rất nhỏ bé, cây thông có thể phơi ra dưới ánh sáng mặt trời một bề mặt xanh nhiều hàng mấy trăm thước vuông.

Máy phát sinh năng lượng của thảo mộc

Nếu những cây cối trên trái đất là những máy biến chế nhiệt năng đặc biệt, tuy nhiên người ta ước lượng hiện tượng Quang tổng hợp quan trọng gấp hai lần ở biển cả. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên khi người ta nghĩ đến những số lượng lớn lao nước bao quanh quả địa cầu, phô bày những thể tích trong veo của chúng dưới ánh nắng chói chang của mặt trời, và tỏa ra lấp lánh.

Phần nhiều chính các rong rêu hoàn thành sự biến thể này. Ngay trước đây rất lâu, khi mà chưa có một đời sống nào ngoài mặt nước, những máy phát sinh năng lượng của thảo mộc đã một mình tự biến chế thành không khí có thể thở được, trừ một phần lớn các hơi độc cấu tạo thành bầu khí quyển trái đất từ trước. Sứ mạng này đòi hỏi 2 triệu rưởi năm.

Thời nay chính những loài rong rêu nhỏ bé mầu vàng đã đảm nhận một phần lớn nhiệm vụ tiếp tục sự Quang tổng hợp thủy sinh.

Qua kính hiển vi, loại rong nhỏ, có hình thể một cái hộp nấp úp bên ngoài, được bọc kín trong một lớp phún thạch. Cái vỏ trong veo này được trang hoàng bằng đủ thứ hình nổi rất đẹp. Những loại rong xanh có thể xem như loại thảo mộc quan trọng nhất trong hành tinh chúng ta, bởi vì chúng nhiều vô kể. Những cố thể nhỏ li ti của loài vật mà người ta gọi là giống phù du ở dưới nước, chúng tự dinh dưỡng bằng những loại rong xanh này để rồi đến phiên chúng lại bị ăn bởi những loài thủy tộc, từ con cá mòi nhỏ bé đến những con cá voi. Nhờ vậy mà năng lực của những đồng cỏ xanh vô hình truyền đi như thế.

Một thức ăn cần thiết

Từ năm 1900, người ta đã biết rất rõ dưới ảnh hưởng của mặt trời, những lá cây xanh chế tạo ra chất đường: l’hydrate de carbonne, món ăn thiết yếu. Tuy nhiên mãi đến năm 1950, các khoa học gia cũng chưa tìm ra sự bí mật của guồng máy đó. Cái khó đó là phải khám phá ra các lối đi, bằng ba thành phần (carbonne, hydrogène, oxygène) để biết được cách thức chúng được rút ra khỏi nước và không khí bằng cách nào, và qua sự phối hợp mới mẻ nào mà chúng tụ tập lại được trong một hạt đường. Những nhà bác học ngày nay sắp hiểu rõ sự “tiến tới” của ba thành phần này. Sự Quang tổng hợp bắt đầu từ khi ánh sáng mặt trời dọi chiếu vào lá diệp lục tố. Những vi bào có khả năng để thích nghi với cường độ của ánh sáng này. Nếu quá nóng, chúng sẽ tự rút lui vào sát bức tường chung quanh của tế bào thực vật. Nếu quá yếu, chúng sẽ phân tán dài ra cả bên dưới lẫn trên của mỗi tế bào, chìa ra ánh sáng diện tích lớn nhất để chúng có thể thu hút càng nhiều càng tốt.

Các phân tử của diệp lục tố được đặt xen vào các kiến trúc hình tròn chồng lên nhau giống như các đồng tiền ở giữa mỗi vi bào. Trọn cái cuối cùng này rất bén nhậy đối với cường độ của ánh sáng, nhưng các phân tử diệp lục tố phân biệt được sự khác biệt ngắn dài của luồng sóng, chúng thấy những mầu sắc.

Những sự kiện này được diễn ra như sau: các luồng sóng ánh sáng xuyên thật nhanh qua các “trần” trong suốt của lá rồi đâm thủng từ đầu đến cuối những chồng phân tử diệp lục tố bị ép vào. Lúc ánh sáng xuyên qua, các phân tử tức khắc chọn lựa các luồng ánh sáng có làn sóng dài nhất mầu cam và đỏ, và các luồng ánh sáng ngắn nhất: mầu lam và tím, còn các luồng sáng có làn sóng trung bình mầu xanh lá cây bị phản chiếu ra ngoài. Vì lý do đó nên các lá có mầu xanh lá cây: chúng ta chỉ thấy mầu phân ngược mà thôi, những mầu khác được giữ lại. Nếu lá cây và cỏ thu hút trọn vẹn những luồng ánh sáng đập vào chúng, chúng sẽ là mầu đen.

Sự hấp thụ năng lực ánh sáng ban một sự phấn khích dị thường cho các phần tử diệp lục tố. Chúng lăn xả vào một cuộc hoạt động náo nhiệt. Cái gì xẩy ra ở đó? Chúng ta còn thiếu hơn một chi tiết đặc biệt nữa, nhưng chúng ta đã có một ý niệm tổng quát. Chất diệp lục tố, bị kích thích, có thể có khả năng rút tỉa ra bằng sức mạnh một nguyên tử của Hydrogène hoặc là một âm điện tử của bình chứa ít oi, tỷ dụ như nước. Nó cũng có thể sát nhập một âm điện tử phụ vào chỗ không thích hợp, tóm lại chất diệp lục tố khởi phát một sự hoạt động cuồng nhiệt. Những phân tử va chạm vào nhau, tách rời ra rồi hóa hợp lại, thu thập thêm hoặc làm mất đi những âm điện tử, khi Oxygène quay cuồng để tự giải thoát. Những nguyên tử quay càng lúc càng nhanh cho đến khi nguồn năng lực quý báu của mặt trời, đến từ xa xôi, bắt buộc Carbonne, Hydrogène và Oxygène góp lại với nhau và sau hết năng lực đó được nằm yên ở giữa những thành phần vừa tụ họp lại. Chất đường, món ăn tuyệt vời đã tàng trữ những sản phẩm ánh sáng mặt trời, nó sẵn sàng nuôi sống bất cứ một cuộc sống nào.

Khi mùa xuân đến, sự hóa hợp diệp lục tố đưa thế giới về với sự sống. Ngay khi ngày dài ra, thì những bộ phận máy chế tạo đường kỳ diệu của thiên nhiên bắt đầu hoạt động một cách im lặng. Những mảnh vỏ khép kín vào nhau của các chồi non nứt ra, cùng một lúc mở ra thật to để phân phối cái kho tàng lá và bông hoa. Im lìm từ nhiều tháng, các hột giống vỡ và tung ra những mầm non mạnh đến nỗi chúng đẩy các hòn sỏi sang để vươn lên đón những tia nắng của mặt trời. Sứ mạng lớn lao của Quang tổng hợp lại bắt đầu hoạt động tích cực. Sự trở về không dời đổi cũng được bảo đảm như mặt trời mọc mỗi ngày.

ĐÀO MINH XUÂN DIỆU st.

Giông tố và Em

Thân em ngà ngọc trắng trong,

Sóng xô, biển dữ giữa lòng đại dương,

Em đi vào cõi vô thường,

Tơ trời vương vấn nhớ thương bộn bề.

Phạm Thị Minh Hưng

Đêm xuống

trên đại dương

Em ngồi ghềnh đá trời đêm,

Nhìn trăng tỏa bóng, lòng thêm ngóng chờ,

Cành hồng ai tặng bao giờ,

Nâng niu một đóa, mà mơ tình đầu,

Cuộc đời sóng gió bể dâu,

Mình em một cõi, ôm sầu đại dương.

Phạm Thị Minh Hưng

VỌNG VỀ QUÊ CŨ

Mấy ai rời xứ ra đi

Mà không tránh khỏi sầu bi não lòng

Lục bình trôi dạt giữa dòng

Ngổn ngang tâm sự trong lòng sầu bi

Có ai nghĩ đến chia ly

Có ai nghĩ đến ra đi không về ?

Luôn mang tâm trạng não nề

Luôn mang nặng nỗi ê chề tang thương

Ra đi lòng mãi vấn vương

Sông Hương, núi Ngự, Thừa Lương xa rồi !

Hoàng hôn tĩnh mịch bồi hồi

Bình minh ló dạng núi đồi mờ sương

Vào Nam nhớ quá sông Hương

Nhớ chùa Thiên Mụ mãi vương nặng tình

Nam Giao, Vĩ Dạ, Ngự Bình

Kim Long tôi đó khắc hình vào tim

Quê nhà nhiều lắm đồi sim

Cho tôi nhắn lại cầu Lim đôi lời

Xa quê mãi nhớ đời đời

Huế trong tâm khảm tuyệt vời làm sao

Dù cho xa xứ lao đao

Lòng này mang nặng biết bao nỗi niềm.

VŨ THÙY HƯƠNG

Sài Gòn 31-3-2016

VẢI THIỀU

Tháng tư tu hú xôn xao

Gọi mùa vải chín ngọt ngào đam mê

*

Bâng khuâng hồn chạnh quay về

Đau thương - vụ án Lệ Chi phũ phàng

Trung thần phải chịu án oan

Tru di tam tộc lệ tràn như mưa

*

Ngậm ngùi hồi tưởng xa xưa

Lòng dân uất hận - chưa vừa thiết tha

*

Tay nâng chùm vải Thanh Hà

Cúi đầu tưởng niệm - xót xa bồi hồi

Niềm tin - Công lý đâu rồi

Đèn trời sao chẳng sáng soi sự tình

*

Người ngay gặp cảnh điêu linh

Nhân tài lỗi lạc bỏ mình như không

Tiếc thương Nguyễn Trãi một lòng

Thờ vua giúp nước - bão giông rã rời

*

Phu nhân Thị Lộ tuyệt vời

Sa cơ thất thế biệt đời ra đi

*

Lệ Chi ơi hỡi Lệ Chi

Ngàn thu nước mắt hoen mi nghẹn ngào

Tháng tư tu hú xôn xao

Gọi mùa vải chín dạt dào bâng khuâng

NGÀN PHƯƠNG

CLB

Sách Xưa & Nay

Sách là người bạn tri âm

Những trang mở rộng thì thầm bên ta

Đường đời diệu vợi bao la

Sách cho ta được - chan hòa niềm tin

*

Mỗi trang sách chứa tâm tình

Mỗi dòng chữ chứa thông minh tuyệt vời

Sách luôn ấp ủ - đầy vơi

Sách luôn khơi gợi - biển trời mông mênh

*

Sách cho ta hướng đi lên

Sách nâng hiểu biết - thác ghềnh vượt qua

Sách luôn chở nặng thiết tha

Nâng cao trí tuệ - nở hoa tâm hồn

*

Khi ta cần sự cảm thông

Sách luôn thu nhận - chớ không phụ phàng

Sách bao giờ cũng lạc quan

Giúp ta mở lối - chứa chan nỗi niềm

*

Sách luôn hỗ trợ kiếm tìm

Nói lên tiếng nói con tim dạt dào

Sách là vườn trái ngọt ngào

Ai cần hái quả - ra vào tự do

*

Sang sông sách sẽ là đò

Đưa đường chỉ lối - hẹn hò luyến thương

Sách không giận dỗi trách hờn

Nghi ngờ, tủi hổ thiệt hơn so kè

*

Dù ta quăng ném chán chê

Hay là hờ hững - bỏ bê tháng ngày

Sách kiên nhẫn chẳng lung lay

Tìm phương - quyến rũ - đổi thay… đợi chờ

*

Hãy trao trọn những ước mơ

Những điều kỳ thú - nên thơ vô cùng

Đường xa tám hướng muôn trùng

Biết bao thắng cảnh - lạ lùng viễn du

*

Sách bôi xóa hết hận thù

Giúp ta thư giãn - chân như rạng ngời

Trái tim mở cửa đón mời

Nẩy mầm đơm nụ cuộc đời thắm tươi

*

Sách ươm xanh những nụ cười

Vần thơ hào hứng - lòng người nở hoa

Sách nâng sáng tạo mặn mà

Sách giàu nhân ái đậm đà thương yêu.

NGÀN PHƯƠNG

THAM QUAN

Xe khách Phương Trang chạy suốt ngày

Giường nằm thoải mái khỏe lên ngay

Linh thiêng Châu Đốc người cầu lạy

Chúa Xứ lịnh bà độ phước mai

Phong cảnh Hà Tiên cầu nổi mới

Con kinh Vĩnh Tế mở mang hoài

Ni cô Xuân Tự tiết danh nghĩa

Mạc Cửu khai hoang đặt tượng đài.

QUANG BỈNH

HỢI

Ông Mai dẫn mối có đầu Heo

Chồng vợ trăm năm cũng phải theo

Hợi - Lợn - Trư đích thị cũng Heo

Nằm chuồng láng trại khoái chèo queo

Ham ăn tạp uống máng khô neo

Để tiếng trên đời ăn tạp Heo

Mê gái cỡ nào anh cũng theo

Phò thầy gánh nặng đi đường đèo

QUANG BỈNH

THỂ DỤC

Nghe vẻ nghe ve nghe vè thể dục

Thật là hạnh phúc cho cả chúng ta

Mỗi sáng đi ra trường đua Phú Thọ

Người người hớn hở đi bộ mấy vòng

Rồi ghé vào trong tập bài nhịp điệu

Những người già yếu tập gậy Càn Khôn

Phấn khởi tâm hồn tinh thần sảng khoái

Có người tập nhảy khiêu vũ Âu Tây

Có kẻ hăng say đá cầu rất đạt

Có đoàn múa quạt yểu điệu nhịp nhàng

Đặc biệt có nàng lắc vòng rất điệu

Không nên đọc thiếu có nhóm Hương Công

Còn môn cầu lông từng đôi từng cặp

So tài cao thấp đánh toát mồ hôi

Tội nghiệp em tôi lượm cầu liên tục

Là môn thể dục vận động toàn thân

Còn môn rất cần Dưỡng Năng Tạo Lực

Bà con tích cực luyện tập hằng ngày

Già trẻ gái trai tham gia hưởng ứng

Nhờ công xây dựng Toàn Mỹ - Văn Hồng

Thành đội khí công mười chín chiêu pháp

Chiêu một động tác hãy thở thoát hơi

Chiêu hai tuyệt vời đó là tụ khí

Chiêu ba nhớ kỹ dao động chân tay

Chiêu bốn rất hay điều khí tạo lực

Bà con tích cực luyện khí bảy vùng

Kế nhíu hậu môn luyện khí sinh dục

Dang tay trị bệnh hướng thượng âm thanh

Luyện mắt long lanh điều khí trị bệnh

Phải cần nhắc đến hấp lực vũ trụ

Mười tám tiếp thu mát-xa xoa bóp

Trước khi xì-tốp xả khí xả hơi

Văn nghệ vui chơi cuối tuần thứ bảy

Hát ca múa nhảy kể chuyện tiếu lâm

Đừng quậy lung tung mất lòng bè bạn

Thời gian có hạn dừng lại nơi đây

Mời bạn vỗ tay thật kêu, thật lớn

Thật lớn, thật lớn, thật lớn, thật lớn.

NGÔ BÁ MẠNH

TÌNH EM

Chỉ một phút giây được gặp em

Tim anh bừng nắng - máu say men

Tuổi trẻ dâng lên đầy khát vọng

Duyên trời anh có mãi tình em.

PHÙNG CHÍ TÂM

HẠNH PHÚC

Được gần nhau là thêm hạnh phúc

Xa hôm nay để mãi mãi bên nhau

Anh và em yêu hoa hồng đỏ thắm

Xây tình yêu hạnh phúc trăm năm.

PHÙNG CHÍ TÂM

TIẾNG VE TỰ KỂ

Tiếng ve chọn miệt vườn

Chơi trốn tìm với lá

Thoắt hòa vào hương quả

Thoắt lẫn vào sắc hoa.

Bé theo má, theo ba

Đi thăm hoa, thăm quả

Bỗng bé reo gọi má

Con lượm được tiếng ve !

Cầm trên tay bé khoe

Tiếng ve thơm xoài chín

Bs. DOANLINH

HOÀI ÂM

Lần qua lối cũ ngõ xưa

Tóc dài chót ướt cơn mưa hôm nào

Dốc mòn lá hát xôn xao

Ngẩn ngơ như một thuở nào mới yêu

Để rơi từng giọt chuông chiều

Rót vào tâm tưởng trăm điều tơ vương

Áo ai trắng cả giáo đường

Bên lầu chuông cũ nghe đường phôi pha.

Bs. DOANLINH

09/7/16

ĐIÊN

Ước gì mơ lại giấc mơ

Đêm qua anh thấy… nõn nà người yêu…

*

Chính vì vậy mà em bảo anh,

ánh mắt anh hôm nay sao lạ quá

Điếng cả người đành chống chế lung tung

Rằng anh thấy cả cánh đồng

Có đồi, có núi, có rừng…và có em!

Chẳng hiểu mặt anh có đỏ lên

khi nhắc đến em trong giấc mơ thú vị

Mà em cứ thẫn thờ trố đôi mắt thật xinh

Nhìn anh như… bệnh thần kinh

May tay em vẫn tần mần tay anh.

Đừng rụt tay lại nhé để anh vẫn là mình

Để biết chắc chuyện ta yêu nhau là muôn muôn sự thật

Để biết chắc chuyện đêm qua chỉ là cơn mơ, là ảo giác

(Thật bậy ghê), lại cũng là chút tiêng tiếc riêng mình

Khổ ghê, giá chẳng bình minh

Nõn nà em hẳn làm điên anh rồi…

Hm…

LAM TRẦN

17.08.2015

GIỌT NƯỚC

Ta là giọt nước của trời

Theo mưa rơi trên vách đá

Bầu bạn họp thành giòng suối nhỏ

Ôm phù sa vượt ghềnh thác về sông

Dòng sông

Lúc sâu thẳm, lúc cạn nông

Lúc cuộn chảy thác neo ghềnh đá

Lúc mơ màng nước in bóng lá

Lung linh giọt nắng mây trời

*

Giờ đây trước mắt ta đã là biển cả

Ta gửi lại phù sa trên bờ cát nhỏ

Nhẹ nhàng xuôi về biển trong veo

Ta còn đi, đi với hải lưu

Còn trôi dạt tới vô bờ bến lạ

Mênh mông trong ta bầu trời biển cả

Giọt nước của trời trở lại với vô biên…

VÕ KIM CƯƠNG

THỜI THỊ TRƯỜNG

Nếu muốn lên voi phải có tiền

Nơi nơi thủ tục hỏi đầu tiên

Nhà trường réo nợ lo chi hết

Bệnh viện cho con phải tính liền

Huê lợi khiêm nhường xài khỏi đủ

Cái nghèo cũ kỹ vẫn y nguyên

Trời sanh có lẽ trời thương tưởng

Sức khỏe quanh năm chẳng lụy phiền...

Thanh Châu

NON TIÊN

Khí thiêng nung đúc cảnh tiên này

Non biếc chập chùng ẩn hiện mây

Góc núi tiều phu nâng củi gánh

Lưng đèo cánh nhạn lướt tầm bay

Dòng khe nước chảy ngư đùa bóng

Ngọn gió thông reo khỉ gọi bầy

Phong cảnh hữu tình say cảm hứng

Niềm vui thoát tục cõi bồng lai...

Thanh Châu

CA TRÙ

MƯỠU

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay

Tuyệt mù bể nước non mây

Bụi hồng trông thắm như ngày chưa xa.

HÁT NÓI

Mơ màng trong vũ trụ

Tâm hồn quang đãng như ngụ tại bầu trời

Cung ngân bát ngát cao vời

Là nơi ẩn của thiên thần ngôi hư thực

Lơ lửng linh hồn người cõi tục

Tồn sinh sự sống lúc trần gian

Sống gởi thác về là lẽ tự mang

Lìa tục về tiên cõi thiền bát nhã

Trạm sống trần gian là nhà trọ giả

Đến một ngày tiên phật rước lên đây

Linh hồn theo gió theo mây

Bản thân còn nợ chưa đầy túi thơ

Lòng trần mãi nhớ bờ mơ.

LANG NGUYÊN

* Thể CA TRÙ có chứa 4 câu Mưỡu sẵn

GIẬN HỜN

Một nụ cười

Thoáng nhìn nhau rất vội

Nói gì đây ? Để hài lòng

Trong nháy mắt đôi lứa thong dong

Rồi hồn nhiên đứng đó

Muốn chào nhau tỏ rõ

Trước mắt cành hoa

Đang chào một ngày mới

Gió lùa lắt lơ như cào xới

Nắng ấm làng cây xanh trước thềm

Ngày xuân chim én liệng êm êm

Chợt hồi tỉnh như qua cơn mộng

Lòng bâng khuâng vẫn còn chỗ trống

Bỗng tiếng cười dưới nắng mượt mà thương.

LANG NGUYÊN

KHÓI MÙ… KHÓI

Kìa kìa trông người ta đang đốt nhau
Bằng những làn khói phủ mờ nhân lý
Khói bốc từ những tấc lòng đen nghịt
Khói ùa từ những khối hờn căm

Khói mù… khói khói phủ tràn tất thảy
Khói ám những tâm hồn khói nghẹt những con tim
Những bóng người quờ quạng vung tay loạn xạ
Cứ ngập ngụa nhau trong vũng khói mịt mù

Đôi khi một vài tia sáng mỏng manh chập chờn chớp tắt
Những cánh tay chới với chập choạng hốt hoảng huơ tìm
Níu tóc nhau ấn cổ nhau gạt chân nhau
Cùng sặc sụa trong bùng nhùng khói… khói

Khói đã ám vàng ám đen ám thành bồ hóng
Vạn vật bỗng nhập nhòa những bóng ma trơi
Cười cười khóc khóc vật vưỡng giữa khật khừ điên đảo
Những làn khói cứ dày thêm dày thêm

đan thành chiếc võng thiên la

Ngạt
Ngạt quá
Ngạt đến thắt cả cuống tim
Khi người ta cứ thế dìm nhau trong chập chùng khói muội.

ĐÀM LAN

Bởi mưa

nhiều hơn nắng

Bởi mưa nhiều hơn nắng

Nên anh cần có em

Trái đắng không còn đắng

Chỉ còn làn hương êm

*

Có em đâu phải tìm

Như buồm căng gió lên

Như một lời ước hẹn

Giữa khuya một ánh đèn

*

Trời còn mưa còn mưa

Giọt mưa không biết nói

Mà xôn xao tiếng gọi

Da diết vọng bao lời

*

Bởi mưa nhiều hơn nắng

Nên ta cần có nhau

Trái đắng còn chút đắng

Để thương hoài nhớ lâu.

Lê Nguyên

(2001)

GÓC KHUẤT

Có những điều

chất chứa trong lòng

Có những loài

ngoài đỏ trắng bên trong

Những loài có mắt

mà không thấy

Có đấy

mà như mắt không tròng…

Cuộc sống quá phức tạp

Cũng không lời giải đáp

Và lại lắm đổi thay

Ta thấu hiểu ngày nay

Nhiều giá trị đảo lộn

Họ đánh tráo khái niệm

Giữa thật, giả, đúng, sai

Bất tài

thành thiên tài.

LÊ MINH CHỬ

TRAO NHẦM NIỀM TIN

Ngày xưa anh quý, anh yêu

Vẽ ra đủ thứ, đủ điều rất hay

Ngây thơ em mới tin ngay

Say mê như thể cơ may gặp “Rồng”

Tự hào phỉ chí tang bồng…

Giờ đây đã hiểu anh không có tài

Thức lâu mới biết đêm dài

Ở lâu mới biết lòng ai thế nào

Trứng trao cho ác, làm sao ?

Nói đằng, làm nẻo khác nào sở khanh

Đắng cay mất cả tuổi xanh

Đang tay bẻ liễu, dập cành tả tơi

Nhân quả là luật của Trời

Sớm mà sám hối, làm người có tâm

Sông mê, bến lú, lỗi lầm

Tỉnh ra mới biết trao nhầm niềm tin.

LÊ MINH CHỬ

Lý Kéo chài

CHUNG TAY KẾT ĐOÀN,

GIẢM NHẸ THIÊN TAI

Trái đất mình đang dần ô nhiễm

Khí hậu nay biến đổi quá nhanh

Hò ơi…

Nhiệt tăng, hạn hán khắp nơi

Mưa, lũ ngập tràn

Nước sông thì ô nhiễm

Dâng cao triều cường

Nơi nơi phố phường, ngập úng lan tràn

Dân buồn, dân rầu ngày ngày không yên

Cũng bởi vì con người vô ý

Rác vô tư thải chẳng nghĩ suy

Hò ơi…

Tạo ra chất khí CO2 phá hủy bầu trời

Quá tiêu xài lãng phí năng lượng tái tạo

Vô tư phá rừng, vô tư đốt rừng

Ơ hò, ơ hò… tận diệt tài nguyên thiên nhiên

Đã bao ngày dân mình chịu khổ

Bởi vì ta đã quá vô tâm

Hò ơi…

Cùng nhau hăng hái tham gia, vun đắp môi trường

Sạch, xanh, vui, khỏe… khí hậu thuận hòa

Cho trái đất này sự sống duy trì

Cho mình, cho đời chẳng còn lầm than

Chung tay kết đoàn chống ô nhiễm môi trường

Ơ hò, ơ hò… Ứng phó cùng hiện tượng thiên tai.

TRẦN THỊ CÚC

HAI ĐẦU NỖI NHỚ

Anh từ Đà Lạt xa xôi

Chỉ xin em chớ đứng, ngồi với ai !

Sương mù dâng tối, dâng mai,

Hai đầu nỗi nhớ… đêm dài bắc qua !

Đà Lạt, 28-6-2009

VŨ ĐÌNH HUY

ĐÊM HỘI CỒNG CHIÊNG

Rượu Cần chưa uống đã say

Bóng cô sơn nữ như bay chập chờn

Lung linh ánh lửa múa vờn

Cồng chiêng nổi nhạc dập dờn sóng lan…

LangBiang - Đà Lạt, 29-6-2009

VŨ ĐÌNH HUY

NẶNG NỀ

Anh là người có lỗi,

Em thiếu lòng vị tha.

Dằn vặt nhau sớm tối,

Nặng nề hơn chia xa !...

Tp. Hồ Chí Minh, 02-7-2010

VŨ ĐÌNH HUY

THE TWO ENDS OF REMEMBRANCE

Far, far away from Da Lat

I’m only asking you not to sit or stand with anybody !

Fog rises in the evening, in the morning

The long night bridged the gap…

between the two ends of remembrance !

Đà Lạt, 28-6-2009

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN

THE GONGS FESTIVAL NIGHT

With the Can wine, one turns drunk even before drinking it

The silhouette of the mountain girl seems like

flashingly flying

The sparkling firelight played and danced

Small and big gongs’ music rose,

and sound waves floatingly spread out…

LangBiang Đà Lạt, 29-6-2009

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN

MENTAL SLUGGISHNESS

I’m the one who is at fault

While you lack forgiveness.

We nag at each other morning and evening

It’s even more sluggish than parting…

Hồ Chí Minh city, 02-7-2010

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN


Dương Lêh

Thật ra, chuyến đi Nha Trang lần này không nằm trong “kế hoạch năm” của ông Tài. Đây là đơn đặt hàng của Sếp ông nhân lúc “giáp hạt” giữa hai khóa học và ấn định ngày lành tháng tốt để lên đường. Chuyến đi đã được thực hiện bằng tàu lửa. Một vấn đề nhỏ đã làm bận tâm chút xíu là cầu Gành đã sập và người ta đang ra sức sửa chữa, nghe đâu cuối tháng này sẽ được nối lại.

“Buổi mai hôm ấy” không có sương thu và gió lạnh gì cả, tuy nhiên Sếp muốn đi vào thời điểm này vì kế hoạch của Sếp cũng có phần cập rập. Đúng 8 giờ, mọi người lên tàu ở ga Saigon. Vì đây là tàu trung chuyển nên chẳng ai soát vé và mọi người ai muốn ngồi đâu cũng được. Tàu chạy rỉ rả tới ga Sóng Thần mất khoảng nửa giờ, mọi người xuống tàu gồng gánh và rồng rắn ra trước cửa ga gặp ngay một đoàn xe khách loại 5, 6 chục chỗ ngồi. Người ta hướng dẫn hành khách lên xe và và đoàn xe tiếp tục lăn bánh đến ga Biên Hòa thời gian mất hơn nửa tiếng. Đến đây khách lên tàu được soát vé hẳn hoi và được hướng dẫn đến chỗ ngồi tử tế. Nhưng ông Tài hết sức kinh ngạc về cách sắp xếp chỗ ngồi của nhà xe… lửa. Khi mua vé thấy nhân viên bán ba vé mang số 2, 3 và 4 cho ông Tài và “đoàn tùy tùng” gồm Sếp và người em gái, cô này tuổi tác cũng trên 60, ông Tài rất vui mừng biết chắc rằng ba người sẽ được ngồi gần nhau. Nhưng khi vào toa tàu được người xếp chỗ ung dung chỉ hai ghế số 3 và 4 ở sát vách đầu toa cho hai người, Sếp và người em, rồi dẫn ông Tài lên ghế số 2 ở sát vách cuối toa. Khoảng cách của ông Tài và hai người đi theo là đúng một toa xe lửa. Chịu thôi! Không có quả bồ hòn ngậm cho đỡ tức.

Một điều đáng nói là cô nhân viên bán vé cho ông không “fren-lì” (thân thiện) chút nào. Đây là từ ngữ người nước ngoài thường dùng để khen tặng người Việt Nam. Khi cô cho thông tin vào máy mà mặt mày nhăn nhó có vẻ rất khó chịu. Ông Tài hãi quá không biết có “tai biến” gì đây. Khi cô in vé và đưa cho ông Tài thì ông phát hiện tên của bà xã ông bị in sai không đủ số từ của cái tên, ông Tài phát hiện và lấy hết can đảm trình bày cho cô bán vé:

- Cô ơi cái vé này cái tên bị in sai rồi, nhờ cô đối chiếu lại chứng minh.

Cô bán vé xem chứng minh rồi nhìn vào máy:

- Không sao đâu bác, trên máy vẫn hiện đủ tên chính xác.

- Nhưng trên vé không hiện đúng tên so với chứng minh. Vậy là không được rồi.

Một cô nhân viên khác ngồi bên cạnh lớn tuổi hơn có vẻ là “sếp” không biết nghe lõm bõm câu chuyện ra làm sao mà quay sang nói như ra lệnh với cô đang “làm việc” với ông Tài:

- Trả tiền lại ổng đi, bỏ vé đó, không mua thì thôi.

Nghe nói như vậy ông Tài hoảng quá vội đính chính ngay:

- Không phải vậy đâu cô ơi, đây chỉ là sai tên trên vé tàu thôi.

Sau cùng, ông Tài hướng dẫn cô bán vé bằng cách viết tay điều chỉnh cái tên rồi đóng dấu đính chính lên đó. Xong!

Ông Tài và hai bà, phải ngồi yên tại chỗ suốt chuyến hành trình. Mỗi khi muốn liên lạc với nhau ông phải đứng hẳn lên hướng về cuối toa chỉ nhìn thấy được đầu của hai người phụ nữ nhô lên khỏi dãy người trước mặt giơ tay ra hiệu và sau đó phải đi đến tận nơi để trao đổi vài công việc ngắn như dặn dò chuẩn bị mua cơm trưa hoặc cho biết vị trí toa-lét trên tàu. Ở khoảng giữa toa có mấy người nước ngoài, dân da trắng nhưng không biết họ là người nước nào, Ông Tài chỉ quan tâm đến việc những người ngoại quốc này sẽ nghĩ sao khi phải sử dụng toa-lét ở đây. Khi bước vào trong, mùi hôi hám nồng nặc, dưới sàn nước đọng lấp xấp, trên bàn ngồi thì loang lỗ những đốm vàng, đốm xám, chỉ nhìn thôi đã không muốn sử dụng. Nếu những người nước ngoài này nhìn thấy chắc họ sẽ kết thúc ngay nhu cầu cấp bách đang phát sinh. Điều này cũng dễ gây cho khách du lịch nước ngoài hạn chế đến Việt Nam.

Nha Trang đang mưa tầm tã. Đứng dưới mái hiên ở mặt tiền nhà ga còn giữ nguyên cái dáng vẻ từ xưa cách đây hơn bốn chục năm. Phố xá trước mặt thay đổi nhiều và có phần hiện đại. Cũng dễ hiểu thôi, xa cách một nơi người ta từng sinh sống với thời gian bốn năm chục năm trời khi quay trở lại đương nhiên phải có sự đổi khác không ít thì nhiều. Tuy nhiên theo ông Tài nghĩ, so với thời gian xa cách như vậy, sự thay đổi của Nha Trang chưa có gì để gọi là phát triển nhanh chóng.

Một người có vẻ chạy xe ôm, mặc áo mưa dừng xe ngay trước mặt ông, hỏi:

- Đi xe không bác?

Ông Tài nhìn lại thì ra ông bạn ra đón. Hai người tay bắt mặt mừng. Nhưng ông Tài cho biết ông đi tới ba người và bây giờ phải về nhà người em của Sếp để nghỉ rồi đẩy người bạn quay xe ra về sau khi hẹn sáng mai sẽ gặp để đi chơi.

Buổi sáng, bầu trời khu vực Cầu Dứa có phần u ám, ba người, ông Tài, bà xã và bà em, thong dong bước ra quốc lộ. Phố xá san sát như ở trung tâm thành phố, với nhiều hàng quán bán đủ loại thức ăn, món uống. Ba người ghé vào một quán bên đường bán bún bò, bàn ghế bày ngay trên lề đường đã có lai rai vài người khách. Trời mưa lất phất, thỉnh thoảng có vài ngọn gió mát rượi. Ba tô bún bò được mang tới còn bốc hơi nóng. Ông Tài nói:

- Cái này hơi nóng bay lên thực sự chứ không phải do hóa chất đâu nghe.

Bà bán hàng nghe qua thắc mắc:

- Bác nói vậy là sao?

Ông Tài vội vàng xin lỗi và giải thích:

- Trong Saigon có những xe bán xôi đủ màu vàng, tím, xanh rất bắt mắt, bày trong những mâm để trần lúc nào cũng có hơi nóng bốc lên nghi ngút. Nhưng nhìn kỹ thì hơi nóng đó bốc lên từ phía dưới của các mâm xôi chứ không phải từ xôi đang trưng bày. Có người nói hơi nóng giả tạo đó là do hóa chất.

- Vậy sao? Bây giờ cái gì cũng giả hết.

- Đúng. Chị coi chừng nhe. Tôi ngồi đây cũng là người giả đó, tin không?

- Bác này tếu vui quá he!

Mưa bắt đầu nặng hạt. Những giọt mưa rớt lên tấm vải bố làm mái che nghe lụp bụp. Ông Tài vừa ăn vừa ngóng chừng ông bạn mà ông vừa điện thoại và được biết khi đó ông bạn đang trên đường đến gặp ông…

Để hai bà lên taxi đi lên phố Độc Lập rồi đến chợ Đầm, sau đó đi dạo tự do, ông Tài leo lên xe ông bạn chạy thẳng đến một quán cà phê nằm ngay trên bờ sông có phong cảnh rất đẹp. Hai bà bạn trẻ hơn ông Tài năm bảy tuổi được ông bạn gọi điện mời cũng vừa đến. Không khí trong quán không khác gì những quán cà phê sân vườn ở trong Saigon, nhưng ở đây đặc biệt là quán nằm sát một dòng sông. Nơi đây ông Tài nhớ lại ngày xưa khi còn làm việc ở Nha Trang, lúc đó ông Tài mới ngoài ba mươi cùng một người bạn thuê một chiếc ca-nô và mời thêm vài cô bạn gái rồi mang theo bánh mì, vịt quay, bia bọt đủ thứ, chất lên chiếc ca-nô chạy dọc theo con sông này vào tận trong xa, chung quanh chỉ còn thấy ruộng đồng bao la, không còn bóng dáng gì của thành phố nhộn nhịp. Trời gần trưa, anh bạn cho ca-nô tấp vô bờ gần một bãi đất nho nhỏ đủ để mọi người làm nơi picnic. Thức ăn đâu đó đã sẵn sàng không cần thiết phải chuẩn bị gì cả, mọi người thay đồ tắm xuống sông tung tăng bơi lội. Mấy cô bạn là dân Nha Trang chính cống, thường xuyên tắm biển, nên bơi lội quá rành sáu câu, và đặc biệt rất dạn dĩ, nói chuyện với hai người đàn ông đi chung và cũng là đồng nghiệp trong cơ quan nên nói chuyện có phần mạnh bạo không hề e dè nhút nhát. Dòng chảy của con sông này hơi đặc biệt, nước ở gần hai bên bờ rất yên tĩnh, những chiếc lá khô trôi nhè nhẹ, lừ đừ, nhưng ở chính giữa sông nước chảy nhanh hơn cuốn theo những nhánh cây khô, tàu lá dừa trôi nhanh về phía hạ lưu.

Ông Tài và người bạn lên bờ đi về phía tấm bạt trải dưới đất chuẩn bị thức ăn, các cô còn nô đùa té nước lẫn nhau. Thình lình có tiếng la:

- Anh Tài, con Yến bị nước cuốn rồi.

Ông Tài đứng lên vừa nói:

- Giỡn hoài, lội giỏi quá trời mà bị cuốn cái gì?

Nhưng ông chợt nhìn thấy cô gái đang bị trôi ở giữa dòng, cô muốn bơi vào bờ nhưng không được. Ông Tài bảo ông bạn:

- Không sao, anh lấy ca-nô ra rước cô nàng về.

Ông bạn nhảy vội xuống ca-nô, mở máy, phóng nhanh về hướng cô gái đang bì bõm đưới nước, và chỉ vài giây sau, cô gái được vớt lên ca-nô và đưa vào bờ. “Anh” Tài chọc:

- Bang ra giữa dòng làm chi cho nước cuốn?

- Em muốn bơi ra đó để nước đẩy mình bơi cho nhanh, ai ngờ quay vô không được.

- Vậy là gan cùng mình he.

- May mà em biết bơi.

- Anh cũng biết em bơi được, nếu không cho em ở nhà rồi. Thôi ăn đi rồi về các bạn…

Mới đó mà đã hơn 40 năm rồi!

Ông Tài kể đến đây, hai bà bạn bật lên cười ha ha:

- Trời ơi, anh Tài nhớ kỹ quá he.

- Nhớ chứ, vì hồi xưa ở Nha Trang này, cái chuyện mướn ca-nô đi chơi trên sông quá dễ dàng.

Chợt ông Tài như sực nhớ một điều gì, ông quay sang nói với ông bạn:

- Còn sớm, chưa tới 10 giờ, anh với tôi đi Ninh Hòa thăm bà con đi.

- Chuyện nhỏ!

Chào hai bà bạn già, hai ông già lên xe gắn máy nhắm hướng Ninh Hòa trực chỉ. Khi gần tới cầu Hà Ra, ông Tài bảo ông bạn quẹo vào một con đường nhỏ mang cùng tên với chiếc cầu. Đường Hà Ra. Đột nhiên ông Tài liên tưởng đến con đường Quang Trung ở quận Tân Bình, gần cuối con đường này có một chiếc cầu, lúc đầu không biết cái cầu này tên là gì. Bên cạnh có một ngôi chợ không lớn lắm, có tấm bảng ghi rõ ràng là Chợ Cầu. Một thời gian sau ở đầu cầu có gắn tấm bảng ghi tên chiếc cầu là Cầu Chợ Cầu. Tự nhiên người ta nghĩ ra liền một câu đố. Cây cầu và cái chợ, cái nào có trước cái nào có sau? Có thể chiếc cầu được thành lập từ thời… Tây nhưng không được cấp giấy khai sanh để có cái tên cúng cơm. Mãi đến sau này khi lập ra cái chợ rồi được khai sanh cho cái tên Chợ Cầu, người ta mới giật mình nghĩ ra cái tên trí tuệ đặt cho cây cầu là Cầu Chợ Cầu. Chuyện rất bình thường. Có người còn cắc cớ so sánh chuyện cái cầu và cái chợ giống như chuyện quả trứng và con gà cái nào có trước cái nào có sau?

Qua khỏi đèo Rù Rì, nắng bắt đầu chói chang, nắng tràn lên dãy núi phía xa. Ngồi phía sau ông Tài chỉ cho ông bạn xem cảnh biển phía bên phải với một ngọn núi bên ngoài chắn lại làm thành một cái vịnh nho nhỏ trông rất đẹp mắt. Trong lúc đang trao đổi vẻ đẹp hữu tình của một vùng biển miền trung, ông Tài phát hiện người bạn đang cầm tay lái bị chứng nghễnh ngãng lỗ tai của tuổi già, Ông Tài hỏi:

- Sao anh không mua cái trợ thính để nghe cho dễ.

- Có mua mà để ở nhà. Ít khi đeo. Mà đeo vô mệt quá đi.

- Sao vậy?

- Vì tất cả những âm thanh nhiễu loạn lọt vô tai chung với tiếng người nói làm cho lỗ tai bị ù.

- Thảo nào một ông bạn già của tôi ở Saigon, tuổi ở hàng tám, gần như bị điếc, cũng không chịu đeo máy trợ thính.

- Rồi sao?

- Ông thường xuyên đi họp tại một câu lạc bộ văn thơ và thường lên diễn đàn phát biểu ý kiến về những đề tài nho nhỏ, khi phát biểu xong, người khác tham luận hay phản biện, ông hoàn toàn để ngoài tai, vì ông không nghe được gì cả.

Vừa vào tới thị xã Ninh Hòa, ông bạn cho xe quẹo vào một con đường đất đến một căn nhà kiểu xưa ba gian hai chái có sân rộng với hàng rào bao quanh. Trước nhà có mấy chậu bonsai lớn đặt trên những hồ cá và hòn non bộ. Đúng là một nơi có đầy đủ điều kiện để những người lớn tuổi sinh sống một cách thanh nhàn nhưng không kém phần sang trọng.

Chủ nhà là một ông già đã lên hàng tám, hồi xưa làm việc ở cùng cơ quan với ông Tài nhưng chức vụ ông ta lại nhỏ hơn, nay thấy ông Tài từ Saigon ra thăm ông rất cảm động. Hồi còn làm việc, buổi tối ông phải ở lại trực cơ quan, ông thường mang theo cây đàn mandoline và chơi khoảng một tiếng đồng hồ rồi đi ngủ. Bản nhạc mà ông thường đàn là bản Granada và ông Tài nghe riết cũng thuộc lòng giai điệu bản nhạc. Theo lời ông kể ông bị đột quỵ cách đây hơn hai tháng tưởng đâu đã phải về chốn cửu tuyền không kịp từ giã bạn bè, may nhờ vô bệnh viện làm phẫu thuật lồng ngực nên tai qua nạn khỏi.

Lúc từ giã ra về, nghe ông Tài nói tối lên xe lửa về Saigon, ông chủ nhà như không dằn được cảm xúc, ôm ghì lấy ông Tài:

- Chắc là hết gặp lại anh rồi, anh Tài ơi!

Gỡ tay ông ra, ông Tài an ủi:

- Đừng lo, tôi còn ra chơi nữa. Rủi ro anh lên thiên đường sớm nhớ bảo mấy đứa nhỏ báo cho tôi biết.

Lúc trở về Nha Trang, ngồi phía sau ông bạn già có lỗ tai nghễnh ngãng, ông Tài sực nhớ tới một ông bạn già khác, và cũng nhờ ông bạn đang lái xe đây tìm được. Sau đó, ông này gửi hình ảnh vào Saigon cho ông Tài và ngược lại ông Tài cũng gửi hình ảnh cho ông kia xem để nhìn thấy con người ta thay đổi theo thời gian dài ba bốn chục năm. Sau đó chừng một tháng ông Tài nhận được một bức thư không phải do ông bạn già đó gửi mà là do một người em của ông gửi vào cho biết ông bạn già đó đã qua đời và thư hồi âm cùng hình ảnh của ông Tài gửi ra tới Nha Trang, đến nhà ông bạn đó ngay khi nhà đang tổ chức đám tang và chính người em gửi thư báo tin đã đọc bức thư đến muộn trước linh cữu ông bạn già đó. Không biết qua làn khói hương, trước tấm hình chân dung ông có đọc được những dòng chữ thăm hỏi của ông Tài không?

Xe lửa về Saigon đã khởi hành hơn nửa tiếng đồng hồ, lần này thì ba người được ngồi gần nhau, không giống như bận ra ông Tài giống như ở đầu sông Tương hai bà kia ở cuối sông Tương, chẳng được “tương cố, tương kiến” chi cả.

Lúc đưa ông Tài ra nhà ga, ông bạn nói:

- Ông ra chơi mà gấp gáp quá, phải chi có thời gian tôi đưa ông ra đảo Khỉ chơi cho biết.

- Cám ơn, để lần khác. Tôi đi chơi xa chỉ cốt thăm bạn bè chứ không hề quan tâm đến những danh lam thắng cảnh hay di tích di tiếc gì cả. Ông thấy không, bà xã tôi cũng không thích…

Dương Lêh

MIỀN QUÊ MƯỜI TÁM THÔN

HOÀI LY

(tiếp theo số 122)

Bà Bích Châu nói tiếp:

- Má nói vậy để hai đứa con gái hiểu là việc tề gia nội trợ của phụ nữ rất là quan trọng dù là xưa hay nay đó.

Mấy thứ bánh má vừa kể là do đám phụ nữ trong họ xúm lại gói và nấu từ mấy ngày trước giỗ, lý do vì đám giỗ cúng hai ngày chứ không phải một đâu, ngày trước khi chết là kiêng thường, ngày mất là giỗ chính là vậy đó. Hồi xưa phải tự tay gói bánh tại nhà chớ không được mua ngoài chợ như ngày nay đâu nghe. Bánh tét ngon nhất là do bác Ba Tường gái thức đêm, thức hôm gói, bác gái khéo tay lắm và giỏi giang nữa.

Bích Hiền nhớ lại:

- Con thích nhất là món bì cuốn cắt khoanh sắp tròn vào dĩa bát tiên coi ngon quá chừng và thịt bò gói lá cách nướng thơm lừng nữa. Hình như đó là hai món chính của đám giỗ.

- À má ơi, sao trên đó người ta không dùng lá lốt hả má - Hiền hỏi mẹ.

- Má cũng không rõ lắm, chỉ thấy mấy bà mợ, thím sử dụng lá cách thôi, hỏi bà nội bà nói lá cách ăn nên thuốc nên má biết vậy.

- Má ơi, sao con thấy đàn ông và các phụ nữ ngồi riêng biệt vậy?

- Thì cũng theo phong tục từ xưa truyền lại, chỉ có đàn ông được ngồi chiếu trên, đàn bà thì ăn cơm ở gian dưới bếp, không có được lên nhà trên.

Nhưng ở nhà ông cố ngoại tụi con, nếu có giỗ chạp thì các bác cao niên trưởng thượng, đàn ông ngồi bàn ngay trước bàn thờ chính, còn các cô, dì, mợ, thím ngồi trên hai bộ ván thấp kê hai bên và cùng ăn một lượt chứ không ăn sau như các họ khác.

Bích Lan cười vui:

- Ngộ quá má, mỗi họ tộc có tục lệ khác nhau hả má?

- Ừ, chưa kể tập quán hàng xóm phải qua lại phụ công việc giỗ chạp, tang ma, hiếu hỉ, nhất là con gái còn son rỗi như tụi con là phải đi phụ đám giỗ rồi đó.

Hai cô con gái cùng nhìn nhau, le lưỡi, lắc đầu. Bích Hiền bỗng nói với bà Bích Châu:

- Thôi má hãy kể về gia đình bà nội ở trển, một miền quê nổi tiếng của Nam Bộ đi má, cho em Lan nghe và hiểu biết vì lúc ông bà nội và ba còn sống, nó còn nhỏ quá.

Bà Bích Châu gật đầu kể tiếp:

- Bà nội con xuất thân là một cô thôn nữ của 18 thôn vườn trầu rất có tiếng trong Nam. Theo lời bà nói lại, lúc nhỏ, ông bà cố có mở một quán nhỏ ngay quốc lộ 22 bây giờ, trước là Bùi Môn bán bánh tráng thịt luộc cho khách qua lại Sài Gòn - Củ Chi - Tây Ninh, bà nội thường cưỡi ngựa từ nhà ra quán phụ bán với ông bà. Bà là con gái thứ ba tên Tư Giỏi, sau ông Hai Nghị và ông Ba Quý. Kế bà nội còn có một ông và hai bà dì nữa là bà Năm Gương, má cô Út Hạnh bây giờ đó và bà Bảy Thu má cô Hai Trang tụi con nhớ hôn.

Con cái của ông ngoại ba con cũng đông nhưng sao má thấy đều nghèo, khó khăn hết. Tuy theo lời bà nội nói thì ông cố ngoại có đất đai vườn tược nhiều nhưng sau khi ông cố mất, anh em của ông cố tranh giành sao đó má không rõ mà thấy chỉ có ông Ba Quý và hai bác Tường, Tân và Nhung ở trong ngôi nhà thờ ông cố ngoại xưa cũ muốn sập từ hồi mà má con mình về có đám giỗ chỉ thấy tổ chức ở đó.

Bích Hiền chợt nhớ gì đó, hỏi mẹ:

- Họ mình có nhà từ đường hôn má?

- Có chớ con, là ngôi nhà năm gian ba chái có hình ông cố Tám mà trước đây gia đình bà Năm Gương, Út Hạnh ở đó.

- À, trước sân có mấy cây mít rất sai trái, con nhớ rồi nhưng má à sau khi bà Năm mất, cô Út Hạnh xuống nhà mình ở một thời gian. Kế đó sao chú Ba Tính lại dọn qua Bà Điểm vậy má?

- Má nghe Út Hạnh kể là bác Hai Bờ lên tiếng tranh giành, đòi lại gì đó nên chú Ba đành qua Bà Điểm cất nhà ở chớ sao.

- Bây giờ từ đường đã bị dỡ bán hay sụp đổ không còn vết tích gì ráo trọi rồi.

Bích Lan nhắc mẹ:

- Má, trở lại chuyện về bà nội con đi má.

Bà mẹ tằng hắng kể tiếp:

- Năm bà 17, 18 tuổi, ông bà cố dẹp quán bánh tráng, chắc là tiền thân của món bánh tráng phơi sương, thịt luộc ở Trảng Bàng - Tây Ninh hiện nay. Vì lúc đó, ông cố được cử giữ chức Hương cả trong làng nên bận rộn việc công. Bà nội con đổi sang gánh trầu cau xuống chợ Sài Gòn bán hằng ngày, sáng sớm xuống chiều theo xe ngựa về.

- Chợ Sài Gòn là chợ Bến Thành hiện nay phải hôn má - Bích Lan hỏi xen.

- Đúng rồi cô nhỏ - Bà Bích Châu trả lời

- Mà má ơi, tại sao bà nội ở trên miệt đó lại được xuống ở đây từ xưa đến giờ hả má?

- Để từ từ má kể cho mà nghe.

Đây như là một chuyện cổ tích nếu các con cho là vậy. Như vầy nè, bà nội bán trầu cau ở Sài Gòn gần chỗ bà má kế của ông nội tụi con. Bà ấy thấy bà nội còn nhỏ tuổi mà rất giỏi buôn bán lanh lợi y như tên của bà nên bà ấy bắt ép ông nội tụi con phải cưới bà nội Giỏi cho bằng được, dù cho ở thành thị ông nội có rất nhiều cô gái đương thời để ý vì ông rất đẹp trai, ba tụi con thì thua xa lắc.

Thế là ông nội phải vâng theo lời mẹ kế cưới bà nội, làm đám “rước nàng về dinh”. Vậy nên, dòng họ trên quê rất mừng rỡ vì duy nhất có một mình bà nội là được gả về thành thị so với mấy chị em khác. Ông bà sống với nhau đầm ấm, trọn vẹn đến tuổi già.

Bích Lan hỏi tới:

- Rồi sao nữa má?

Bà Bích Châu cười nhẹ, đưa tay ký lên đầu Bích Lan:

- Con nhỏ này, làm gì mà nôn nóng vậy hông biết.

Thì bà nội về nhà mình làm dâu má chồng kế chớ sao nữa, mà bà nội ghẻ của ba con rất khắc nghiệt dữ dằn (bà nội tụi con kể vậy), bắt bà nội con làm công việc nhà không hở tay, thức khuya dậy sớm hầu thêm mấy cô, cậu em chồng còn nhỏ, cực quá, bà nội con than mà ông nội tụi con không dám bênh vực vì bà cố mà nghe được thì đánh hết cả hai vợ chồng. Ông nội chồng của má tức ông cố tụi con cũng xếp ve luôn biết chưa. Bà nội nói với má, có lẽ vì làm việc quần quật, cực khổ ngày này qua ngày nọ nên bà nội sinh ra mấy bác, cô, chú đều chết non hay chết trẻ hết, chỉ có ba mấy con là nuôi được tới lớn mà cũng gian nan lắm, vì ba tụi con cũng bệnh nặng suýt chầu tổ tiên mấy lần. Bà cũng nói, hồi xa xưa nhà mình còn nghèo, nhà tranh vách lá, lần lần ông nội mới gây dựng lên nhà cây và rồi mới tường gạch, sân trước, sân sau như hôm nay.

Bà nội tụi con là một phụ nữ miền quê, tuy không được học hành nhưng hiểu biết nhân nghĩa, đạo lý ở đời rất sâu xa, bà tuy hơi khó tánh nhưng rộng rãi và hay giúp đỡ mọi người xung quanh lối xóm, nên tới ngày nay ở chỗ mình nè, ai cũng nhớ tới bà Ba (kêu theo thứ tự của ông nội). Đối với má, tuy đôi lúc bà hay rầy rà, la lối nhưng nhờ bà phụ lo cho mấy đứa tụi con nên mới được như ngày nay nè.

Bích Hiền nhớ lại:

- Má, con còn nhớ bà nội nói bà nội có trồng mấy thiên trầu bên hông nhà bác Ba Tường phải không má? Sao giờ không thấy đâu hết vậy?

- Thì hồi xưa bà nội xin ông nội trồng cả mấy ngàn nọc trầu để làm vốn dưỡng già, giao cho bác Ba Tường chăm nom, tưới tắm và hái bán cho bà, mà năm này qua tháng nọ có đồng nào cho bà đâu, sau đó còn than trầu, cau xuống giá, thấy vậy ông bà nội cho bác Ba Tường luôn. Bây giờ khi bác Ba tụi con mất rồi, các lớp già theo ông bà hết nên Ba Nhung con bác đốn bỏ xây nhà gạch cho vợ chồng nó đó.

Bích Hiền thở dài:

- Ra là vậy, hèn chi con hổng thấy vườn trầu đâu hết, cả giếng nước, cây rơm sau nhà cũng không còn, thật là thành thị hóa nông thôn phát triển quá má ha.

Bà Bích Châu mỉm cười.

- Má đố Bích Hiền về trên Tân Xuân mà kiếm ra được một chiếc thổ mộ (xe ngựa) để cho Bích Lan ngồi lên đi một vòng từ ngã ba vô tới chợ Hóc Môn thì thua gì má cũng thua hết, chịu hôn?

Bích Hiền đáp liền:

- Việc đó thì con thua chớ không phải má đâu, giờ bói không ra một chiếc ở đó nữa là.

- Có, em thấy một chiếc ở trong khu vui chơi ở Sài Gòn nè - Bích Lan hí hửng nói.

- Nói là ở trên quê bây giờ chớ ai nói chi dưới này, bà nhỏ ơi - Bích Hiền la em.

Bà Bích Châu như nhớ về ngày xưa, cảm khái:

- Đâu rồi giếng nước, bờ tre

Sân đình rợp bóng, trưa hè tiếng chim

Cả hai cô gái cười rộ.

- Má mình lại cảm hứng, “xuất khẩu thành thơ” rồi.

Đến đây, Nhật Hào bước nhanh vào nhà hỏi lớn:

- Các chị em phụ nữ ta hôm nay lại họp “câu lạc bộ thơ” đấy à!

Cả ba người day lại bỗng nói gần như một lượt: “Không đâu, chỉ bàn chuyện thời sự thôi”.

Cậu trai nói vẻ tinh nghịch:

- Con đoán má và hai chị em đang nhắc đến mười tám thôn vườn trầu của bà nội phải hôn?

Đúng y chang rồi phải không? Má và chị Hai lại nhớ về dĩ vãng rồi. Theo con nghĩ thì, theo đà tiến hóa của nhân loại trên Trái Đất này thì sự phát triển đô thị hóa nông thôn mới cũng vậy, con người phải theo trào lưu văn minh hiện đại chứ cứ như ngày xửa ngày xưa, con trâu đi trước cái cày theo sau hoài sao đặng. Lẽ đương nhiên là phải thay đổi má, chị em à. Hiểu không, các vị phụ nữ thời đại.

Cả ba đồng thanh nói:

- Hiểu rồi, ông cụ non, giảng bài hay ghê.

Bà Bích Châu bật cười nói:

- Thôi đi nghỉ các con, khuya rồi. Chuyện mười tám thôn của bà nội tạm ngưng ở đây đi, mọi sự việc trong Trời Đất đều tuân theo luật tuần hoàn hết tụi con à, Nhật Hào nói đúng đó hai con gái.

(còn tiếp)

HOÀI LY


Phụ bản III

SÁCH CAO GIÁ NHẤT THẾ GIỚI

NGỌC NGÀ

Thị trường sách cổ rất phong phú và rất khó đoán. Bên cạnh những cuộc bán đấu giá công khai và sôi động, việc chuyển nhượng sách cổ cũng diễn ra lặng lẽ và ngoạn mục không kém. Thị trường đặc biệt này ngày càng có sức thu hút hơn. Giá sách tăng nhanh và hẳn sẽ tạo nên những kỷ lục mới trong những năm tới. Dưới đây là một số chuyển nhượng nổi đình đám.

Codex Leicester, tác giả Leonardo da Vinci

Tác phẩm này được Bill Gates mua với giá 30,8 triệu USD vào năm 1994. Tập sách 72 tờ này gồm những bài viết về khoa học và triết học, ra đời năm 1500, được bảo quản trong trạng thái gần như hoàn hảo. Sách có điểm đặc biệt: được viết ở mặt trái, theo kiểu viết ngược, và cần một cái gương để đọc.

Kinh Tân Ước, Heinrich der Lowe (Henry the Lion)

Quyển kinh này được công tước Heinrich der Lowe (Đức) đặt chép. 4 sách Phúc âm của kinh Tân Ước được chép tay tại tu viện Helmarsheusen vào năm 1188, với những minh họa tỉ mỉ. Một tác phẩm lộng lẫy, chứng nhân của sự phong phú về trang trí sách cổ và lòng sùng đạo thế kỷ XII. Sách được mua với số tiền 8,15 triệu bảng Anh (9,8 triệu Euro) vào năm 1983, giá ước lượng hiện nay là hơn 16 triệu Euro.

Magna Carta

Magna Carta Libertatum là một trong những văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên của nền văn minh phương Tây. Sách được người Anh soạn thảo vào năm 1215, nhân cuộc nổi dậy chống lại vua John nước Anh (John Lackland). Tập hiến chương này nêu lên một danh sách về những quyền căn bản và hạn chế quyền của nhà vua, đặc biệt là cấm bắt giam tùy tiện. Một phiên bản năm 1297 đã được mua với giá 21,3 triệu USD tại hãng Sotheby’s.

Birds of America, tác giả John James Audubon

John James Audubon, họa sĩ và nhà vạn vật học, rất yêu loài chim. Từ năm 1820, ông ngao du khắp nước Mỹ và vẽ tất cả những loài lông vũ ông gặp, cho ra đời 435 hình vẽ màu nước khổ lớn (98 x 76cm). Vào tháng 12.2010, một bộ sưu tập đầy đủ những tác phẩm gốc được bán với giá 11,5 triệu USD tại hãng Sotheby’s.

First Folio của William Shakespeare

Bộ sưu tập đầu tiên những kịch bản của William Shakespeare, với tựa chính xác là Mr William Shakespeare’s Comedies, Histories & Tragedies, gồm 36 vở kịch, được xuất bản vào năm 1623, sau khi văn hào Anh qua đời 7 năm, do hai người bạn của ông thực hiện. Một trong 40 tuyển tập này được bán với giá 5,6 triệu USD (4,3 triệu Euro) tại hãng Sotheby’s, nhưng các chuyên gia ước lượng giá trị của sách phải hơn 16 triệu Euro.

Kinh thánh của Gutenberg

Kinh thánh 42 dòng được in tại Mayenne trong khoảng 1452-1455, bởi Johannes Gutenberg và các cộng sự, có thể được xem là kỳ công về mặt công nghệ, là văn bản đầu tiên được in ở châu Âu nhờ chữ rời. Một bản gốc được mua với giá 5,4 triệu USD (4,2 triệu Euro) vào năm 1987, nhưng những bản đẹp nhất giá ước lượng đến hơn 20 triệu Euro.

The Canterbury Tales, tác giả Geoffrey Chaucer

Tác phẩm gồm 24 truyện ngắn này kể lại hành trình của một nhóm người hành hương để dâng lễ tại tu viện Thomas Becker, trong đại giáo đường Canterbury. Truyện được viết vào năm 1478, trình bày đẹp và minh họa rực rỡ. Một bản gốc được bán với giá 7 triệu USD, tại một cuộc bán đấu giá vào năm 1998.

“Les Liliacées” (Hoa huệ tây) của Pierre-Joseph Redouté

Để thực hiện tác phẩm tuyệt đẹp về hoa huệ này, tác giả đã dày công quan sát trong nhiều năm. 480 bản khắc được hoàn tất vào năm 1802 tại vườn Malmaison của hoàng hậu Joséphine. Hoàng đế Napoléon rất thích những tranh hoa duyên dáng ấy, yêu cầu thực hiện vài chục bản sao để trưng bày tại các viện bảo tàng quốc gia. Năm 1985, sách hoa ấy được mua với giá gần 5 triệu USD.

Chuyên luận về cây ăn quả, tác giả Duhamel du Monceau

Henri Louis Duhamel du Monceau, nhà sáng lập “Vườn cây rừng”, có tham vọng tập hợp kiến thức thời đại về nghề trồng cây. Tính chính xác và chất lượng cao về đồ họa của cuốn sách về cây ăn quả này ra mắt năm 1768, được các chuyên viên ngành thực vật học đánh giá cao. Tại cuộc bán đấu giá diễn ra năm 2006, một khách hàng đã trả 4,7 triệu USD để sở hữu sách chuyên đề này.

Sách địa lý của Ptolémée

Tài liệu địa lý này được soạn vào khoảng năm 150 Công nguyên, mắc nhiều lỗi quan trọng về tính chính xác. Dù vậy, đây là một tập hợp kiến thức rộng của nhà khoa học Hy Lạp, chẳng hạn trái đất hình cầu hay sự hiện diện của một lục địa ở Nam cực. Sách có ảnh hưởng lớn trên các chuyên viên bản đồ thời Phục hưng, cả trên thời giá của thị trường sách hiếm. Sách được bán với giá 3,5 triệu USD vào năm 2006.

Vita Christi

Tác phẩm này về cuộc đời Chúa Giêsu là một trong những sách đẹp nhất thế kỷ XII. 57 minh họa vẽ tay toát ra vẻ đẹp lộng lẫy hiếm thấy nơi một tác phẩm tôn giáo. Nhà sưu tập John Gunther, người Đức, mua Vita Christi với giá 3,5 triệu USD vào năm 2007.

The Tales of Beedle the Bard, tác giả J.K.Rowling

Sách dành cho trẻ em, thoạt tiên chỉ ra mắt với số lượng rất hạn chế: 7 bản được thực hiện bằng tay, do chính nữ văn sĩ minh họa, bìa được trang trí bằng đá gần với đá quý. Một trong những bản này được bán đấu giá vì mục đích từ thiện, và được Amazon.com mua với giá 1,95 triệu bản Anh (2,4 triệu Euro) vào năm 2007.

Tu chính án 13 của Hiến pháp Hao Kỳ

Điều khoản sửa đổi 13 này chính thức bãi bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ, được thông qua vào ngày 6.12.1865. Văn bản này dựa theo những nguyên tắc của Tuyên ngôn giải phóng của Tổng thống Abraham Lincoln, được xem là một trong những văn kiện nền tảng của lịch sử Hoa kỳ. Nó được bán với giá 1,9 triệu USD trong một cuộc bán đấu giá.

The First Book of Urizen, tác giả William Blake

Thi sĩ William Blake (Anh) cũng là họa sĩ nên có khả năng chuyển tải cảm hứng trữ tình của tác phẩm qua hình ảnh. The First Book of Urizen là viên ngọc quí trong văn học. Nội dung và cách dàn trang thuộc loại độc nhất vô nhị của tác phẩm không ngừng lôi cuốn các nhà sưu tập. Sách ra đời năm 1794 này được bán với giá 2,3 triệu USD vào năm 1999.

De Revolutionnibus, tác giả Nicolas Copernic

Tác phẩm khoa học De Revolutionnibus orbium coelestium (Cuộc cách mạng của những thiên cầu), được in năm 1543, làm thay đổi cách nhìn của người châu Âu khi hình dung một vũ trụ tập trung quanh mặt trời. Sách được mua với giá 2 triệu USD vào năm 2008.

Don Quichotte, tác giả Cervantès

Tiểu thuyết El ingenioso Hidalgo Don Quijote de la Mancha của Miguel de Cervantès, xuất bản năm 1605 vẫn luôn là tác phẩm văn học cổ điển lớn nhất bằng ngôn ngữ Tây Ban Nha và cũng là tiểu thuyết đắt nhất thế giới. Một bản gốc đã được mua với giá 1,5 triệu USD vào năm 1989. Giá ước lượng hiện nay là hơn 2,5 triệu USD.

Action Comics số 1

Năm 1938, Action Comics số 1 là tạp chí đầu tiên đăng tải những cuộc phiêu lưu của Siêu nhân, được bán với giá 10 cent vào thời ấy, hiện nay trở thành món hàng được săn lùng của những nhà sưu tập truyện tranh. Tháng 3.2010, truyện này được bán đấu giá 1,5 triệu USD.

Alice’s Adventures in Wonderland, tác giả Lewis Carroll

Truyện Alice tại xứ sở thần tiên được xem là tác phẩm bậc thầy của văn học thế giới, theo đánh giá của các chuyên viên về thị trường sách hiếm. Bản gốc in năm 1865 bán được với giá 1,4 triệu USD vào năm 1998. Chỉ 2.000 quyển được in trong lần xuất bản đầu tiên, vô cùng hiếm và được minh họa lộng lẫy bởi John Taniel.

Atlas của Gerardus Mercator

Nhà địa lý học và toán học Gerardus Mercator là người lập bản đồ đầu tiên nghĩ ra một hệ thống chiếu bề mặt quả đất trên một xy lanh tiếp xúc với xích đạo (hệ thống này hiện vẫn được áp dụng). Tập bản đồ của ông, in năm 1569, được mua với giá 800.000USD cách đây vài năm tại nhà Sotheby’s.

Tamerlane, tác giả Edgar Allan Poe

Tập thơ Tamerlane and others poems là tác phẩm đầu tiên của Edgar Allan Poe ra mắt bạn đọc vào năm 1827, lúc tác giả 18 tuổi. Dù Poe thừa nhận truyện xoàng, nhưng những nhà sưu tập vẫn tranh nhau mua. Người thắng cuộc đã chi 663.000USD.

(Theo Livres)

HOÀNG KIM THƯ st.

NHỮNG LỜI KHUYÊN CỦA WHO

Sức khỏe được Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) định nghĩa: “Sức khỏe là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ riêng là một tình trạng không có bệnh tật hay tàn tật”.

WHO đưa ra những lời khuyên liên quan đến sức khỏe con người như sau:

1. Bí quyết sống lâu

Hãy thực hiện 6 chữ: Chấp nhận, thích nghi, điều chỉnh.

Theo đó:

a. Hãy chấp nhận số phận của bạn

b. Hãy thích nghi theo hoàn cảnh của bạn

c. Hãy điều chỉnh để đạt được điều bạn muốn.

2. Bí quyết phòng chống bệnh tật

Hãy thực hiện 5 không:

a. Không vui quá để khỏi hại tim

b. Không buồn quá để khỏi hại phổi

c. Không giận quá để khỏi hại gan

d. Không sợ quá để khỏi hại thận

e. Không lo nghĩ quá để khỏi hại tỳ.

Ngoài ra bạn cần phải:

a. Xua tan những hoài niệm đau thương, cay đắng bằng con đường vị tha và lãng quên.

b. Tránh tranh cãi, giành phần thắng thua dễ gây tổn thương thể xác và tinh thần cho mình.

3. Bí quyết ăn uống

Mỗi ngày ăn uống như sau là tối cần thiết:

a. Một đến hai lít nước mỗi ngày

b. Một củ hành để chống ung thư

c. Một quả cà chua để chống tăng huyết áp

d. Một lát gừng để chống viêm nhiễm

e. Một củ khoai tây để chống xơ vữa động mạch

f. Một quả chuối để chống táo bón, giảm béo, giúp phấn chấn tinh thần, giảm lo âu.

4. Bí quyết sống của người hiện đại

a. Một trung tâm: sức khỏe

b. Hai tí chút: một tí chút thoải mái

c. Ba quên: quên tuổi tác, quên bệnh tật, quên hận thù

d. Bốn có: có nhà ở, có bạn tri kỷ, có bạn đời, có sổ tiết kiệm.

e. Năm phải: phải vận động, phải lịch sự hòa nhã, phải biết cười, phải biết nói chuyện, phải coi mình là con người bình thường.

KIM SƠN st.

ĐIỂM SÁCH

GIẢNG VĂN LỚP ĐỆ TỨ*

của Nguyễn Quảng Xương

NXB SỐNG MỚI 1957

THƠ MỚI

LAI LỊCH

Năm 1914, Nguyễn Văn Vĩnh đăng trong báo Đông Dương tạp chí một bài dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine “Con ve và con kiến”; bài văn được dịch sang tiếng Việt theo thể văn vần nhưng không theo đúng hẳn thể cách của lối cũ. Tiên sinh đã cố ý phá cách lối thơ cũ.

Ve sầu kêu ve ve

Suốt mùa hè

Đến kỳ gió bấc thổi

Nguồn cơn thật bối rối

Một miếng cũng chẳng còn

Ruồi bọ không một con

Vác miệng chịu khúm núm

Sang chị Kiến hàng xóm

Xin cùng chị cho vay

Dăm ba hạt qua ngày

Từ nay sang tháng hạ

Em lại xin đem trả

Trước thu, thề đất trời!

Xin đủ cả vốn lời

Tính Kiến ghét vay cậy

Thói ấy chẳng hề chi

Nắng ráo chú làm gì?

Kiến hỏi Ve như vậy

Ve rằng: Luôn đêm ngày

Tôi hát, thiệt gì bác!

Kiến rằng: Xưa chú hát

Nay thử múa coi đây .

Bản dịch này đã được Nguyễn Văn Vĩnh sửa lại và đăng trên Đông Dương tạp chí vào năm 1914, vì trước đó 7 năm, ông đã dịch bản đầu tiên sang tiếng Việt theo thể thơ lục bát đăng trên Đại Nam đăng cổ tùng báo vào năm 1907.

Con ve và con kiến - Nguyễn Văn Vĩnh

Trên cây có một con Ve

Hát hết mùa hè, mùa lạnh kiết so

Âu là đành phận đem đầu

Chạy sang chị Kiến kêu cầu lân bang

Nhờ bà hàng xóm lòng thương

Cho vay dăm hột thóc lương trợ thì

Khi nào hết lạnh sang hè

Lại xin đem nốt lãi lời phân minh

Nhược bà có bụng nghi tình

Xin thề giời, phật chứng minh việc này

Kiến bà tính ghét mượn vay

Trong nghìn thói độc thói này nhỏ nhen

Lắc đầu rồi lại còn chèn

Lúc trời nắng ráo anh em làm gì?

Ve rằng tôi ngâm phú thi

Đêm ngày nhai nhải, cái gì cũng ngâm

Kiến bà chúa tệ độc tâm

Đáp rằng xưa hát, nhảy đầm nay coi!

Mười tám năm về sau, Phan Khôi đề xướng phong trào “thơ mới” bằng bài “Tình già” đăng trong Phụ Nữ Tân Văn. Bài “Tình già” có những đặc tính sau đây: hiệp vận theo lối thơ của người Pháp, nghĩa là chỉ có cước vận và cứ hai câu một vần đi liên tiếp nhau; số chữ không nhất định: câu ngắn có 5 chữ, câu dài đến 8, 9 chữ; trừ một vài câu còn phảng phất giọng thơ hoặc giọng phú còn phần nhiều đặt như văn xuôi cả.

Tình Già - Phan Khôi

Hai mươi bốn năm xưa,

Một đêm vừa gió lại vừa mưa.

Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,

Hai cái đầu xanh kề nhau than thở:

- Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,

Mà lấy nhau hẳn là không đặng,

Để đến nỗi, tình trước phụ sau,

Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau.

- Hay! mới bạc làm sao chớ?

Buông nhau làm sao cho nỡ!

Thương được chừng nào hay chừng nấy,

Chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!

Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng.

Mà tính việc thủy chung?

Hai mươi bốn năm sau.

Tình cờ đất khách gặp nhau.

Đôi cái đầu đều bạc.

Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được.

Ôn chuyện cũ mà thôi.

Liếc đưa nhau đi rồi,

Con mắt còn có đuôi.

Nguồn thơ mới đã khai, phong trào thơ mới dần dần lan khắp; các báo chí, nhất là Phong Hóa Tuần Báo đăng những bài thơ mới để tán dương lối thơ ấy và chỉ trích lối thơ cũ.

CUỘC BÚT CHIẾN GIỮA THƠ MỚI VÀ THƠ CŨ

Các nhà thơ mới lên án thơ cũ cho rằng thơ cũ luật lệ nghiêm khắc quá*, bó buộc quá “trói voi bỏ rọ”, có phương hại đến thi tứ, vì thi gia phải theo luật mà không nói được thẳng những ý tưởng muốn diễn đạt, thành thử có khi “từ hại ý”. Ngoài ra, thơ cũ còn nói theo điển cũ, bắt chước người xưa mà không tự sáng tác, thành thử những cái rất hay thuở xưa trở nên những hình thức rất dở dưới ngòi bút vụng về của người bắt chước; những hình thức vô vị ấy gọi là “chữ xáo”, “câu xáo”. Thơ cũ đi trái luật tự nhiên trái với tôn chỉ của thơ là “tiếng kêu tự nhiên của con tim”.

Các nhà thơ cũ phản kháng lại mà cho rằng: Các nhà “thơ mới” thực ra không sáng tác được gì mới chỉ bắt chước người xưa làm theo cổ phong là thể thơ dễ dàng, vì không đủ tài nghệ để theo luật thơ Đường nghiêm khắc, khó bắt chước; và lại muốn lập dị đem lai thơ Tây mà không bắt chước được đến nơi, chỉ bắt chước hình thức bề ngoài. Thơ Tây có âm vận và dương vận, âm điệu của thơ Tây khác hẳn với âm điệu của câu thơ ta. Tiếng Tây là loại đa xuyết âm có tinh thần riêng về luật âm vận, tiếng Việt thuộc loại đơn âm có dấu thanh khác hẳn. Luật bằng trắc và 5 dấu giọng về âm vận vô cùng quan trọng trong một bài thơ; thơ Pháp chỉ có âm vận và dương vận cho nên so với điệu nhạc của vần thơ ta khác hẳn. Về thơ cũng như về âm nhạc ta chỉ có thể bắt chước được những tiếng cùng loại với tiếng ta thôi.

Kết quả: nhà “thơ mới bắt chước thơ cổ phong mà không giống được cái vẻ hồn nhiên của thơ cổ: bắt chước thơ Tây mà chỉ theo được cái vỏ ngoài, “cái ngớ ngẩn” của giọng “thơ lai”. Nhà “thơ mới” muốn làm thơ mà không chịu theo luật lệ của nghệ thuật thì sao không viết ngay văn xuôi có hơn không? Sở dĩ luật Đường có khắc khổ cho nên lời thơ, nếu biết làm được hay, mới rắn đanh; âm điệu mới du dương; thơ mới vì khuynh hướng phóng dật mà lời nôm na, non nớt, có nhiều chữ đệm thừa trùng điệp, cho nên người đọc “thơ mới” có cảm tưởng như đọc văn xuôi, một thứ văn xuôi ly kỳ thiếu căn bản, dớ dẩn, có khi thô bỉ”.

(Vô Danh)

Cuộc bút chiến của hai phái thơ mới, thơ cũ đã có một hồi rất sôi nổi; bên nào lập luận cũng có phần hợp lý. Nhưng lấy bình tĩnh mà xét thì nghề thơ cũng như mọi nghệ thuật khác, dẫu mới hay cũ, cũng phải có kỷ luật, quy tắc, dầu là dễ dàng hay khe khắt. Phóng dật không phải là tự do, vì phóng dật đưa đến chỗ lãng mạn, vô kỷ luật, tức là phá nghệ thuật. Kỷ luật, càng khắt khe thời ít người làm được; ở đời những vật quý đều là những vật hiếm có cả. Những nhà làm thơ Việt lưu danh mãi về sau như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ v.v… vẫn theo quy mô cũ mà sản xuất ra những áng văn tuyệt tác, lọ là phải tạo ra những thể văn mới. Tuy nhiên luật tiến hóa bắt phải thay cũ đổi mới: luật Đường là phản ứng của cổ phong, thơ mới của người Trung Hoa ngày nay lại là phản ứng của thơ Đường. Thơ Việt cũng không ra ngoài luật tiến hóa ấy, nhưng ta phải xác nhận rằng các nhà thơ Việt mới ngày nay chỉ là một nhóm đi tiên khu, để dò tìm con đường mới: thơ mới ngày nay chưa đáng gọi là thơ, mà chỉ là một “độ” trên con đường thơ mới, cũng như ca dao không thể gọi là thơ mà chỉ là một giai đoạn trong lịch trình thơ.

LUẬT THƠ MỚI

Các nhà thơ mới bắt chước đại khái thể thơ “tự do” của người Pháp (vers libres).

a) Số câu trong bài.

Trong một bài thơ số câu không hạn định. Những câu có khi liên tiếp nhau từ đầu đến cuối, có khi chia ra từng đoạn, những câu trong mỗi đoạn cũng không nhất định, mỗi đoạn hoặc có 4 câu, hoặc có 6 câu, hoặc có 8 câu, có khi trong một bài thơ đoạn thì dài, đoạn thì ngắn.

b) Số chữ trong câu.

Số chữ trong câu cũng không hạn định: có câu chỉ có 2 chữ, có câu dài đến 12 chữ. Trong một bài có câu dài cũng có câu ngắn, không nhất luật; cũng có khi sau một số câu 8 chữ đi liền nhau, tiếp theo những câu 4 chữ hoặc 10 chữ.

Nhưng trong phần nhiều bài thơ số chữ của mỗi câu nhất định thường thường thấy những câu toàn 5 chữ, hoặc 7, 8, 10 chữ.

c) Cách áp vận. - Thơ mới chỉ có cước vận.

Nhà thơ mới bắt chước thơ Pháp trong phép áp vận, lấy vần bằng vần trắc của thơ ta thay cho vần âm, vần dương của thơ Tây. Về cách gieo vần cũng bắt chước chia ra nhiều lối:

1. Vần liên tiếp: 2 câu vần trắc theo sau 2 câu vần bằng, hoặc 2 câu vần bằng theo sau 2 câu vần trắc (bb. tt. hoặc tt. bb.)

Thí dụ:

Chiều thu, sau rặng tre xa, mặt trời khuất bóng (t)

Ánh vàng còn rải rác trên cành đồng xanh rộng (t)

Đám mây chiều trắng xám đã nổi ở chân trời (b)

Từ xa lại gió thu làm man mác lòng người (b)

(Trên con đường về, NGUYỄN VĂN KIÊN)

2. Vần gián cách: tức là hết một câu vần bằng đến một câu vần trắc, sau một câu vần trắc lại đến một câu vần bằng (b. t. b. t. hoặc t. b. t. b.)

Thí dụ:

Tiếng ve ran trong bóng cây rậm mát (t)

Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời (b)

Gió nồng reo trên hồ sen rào rạt (t)

Mùa xuân còn, hết? Khách đa tình ơi! (b)

(Hồn Xuân, THẾ LỮ)

3. Vần ôm nhau: 2 câu vần trắc xen vào giữa 2 câu vần bằng (b. tt. b.)

Thí dụ:

Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay (b)

Như khêu gợi nỗi nhớ nhung thương tiếc (t)

Những cảnh với những người đã chết (t)

Tự bao giờ còn phảng phất nơi đây ! (b)

(Hồn xưa, VŨ ĐÌNH LIÊN)

4. Vần hỗn hợp: Trong bài các vần bằng trắc không xếp đặt theo trật tự

Thí dụ:

Tiếng địch thổi đâu đây (b)

Cớ sao nghe réo rắt ? (t)

Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt (t)

Mây bay… gió quyến, mây bay (b)

Tiếng vít vu như khuyên van, như dìu dặt (t)

Như hắt hiu cùng hơi gió heo may (b)

d) Điệu thơ.

Âm nhạc sở dĩ nghe du dương là vì thanh âm điều hòa, nhịp nhàng, có lúc thưa, có lúc mau. Thơ cũng vậy, muốn ngâm lên được êm tai tất phải theo luật điệu (điệu bởi chữ điều mà ra, điều là điều hòa). Điệu thơ tức là âm vận và tiết tấu trong câu thơ. Âm vận như ta đã rõ, tức là vần bằng, vần trắc và những chữ cùng vần đi theo nhau. Tiết tấu tức là nhịp nhàng; một câu thơ có khi đọc một hơi từ đầu đến cuối không nghỉ, nhưng thường chia ra từng đoạn dài ngắn hoặc đều nhau hoặc khác nhau; sự phân phối những đoạn trong câu thơ sinh ra một thứ nhịp nhàng, cũng như nhịp nhàng trong âm nhạc. Chỗ nghỉ hơi sau mỗi đoạn gọi là “đậu”.

Một khuyết điểm rất lớn trong thơ mới là thi sĩ phần nhiều không biết điều hòa vần bằng trắc trong câu thơ (sự điều hòa này ngay trong câu văn xuôi cũng cần phải có); cho nên thơ rất khó đọc, nhất định không ngâm được, một câu không thể ngâm được không phải là thơ.

Thí dụ:

(b) (b) (b) (b) (t) (b) (b) (b)

1) Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu !

(Nhớ rừng – THẾ LỮ)

(b) (b) (b) (t) (b) (b) (b)

2) Hào quang vây riết điềm chiêm bao.

(Xuân như ý – HÀN MẶC TỬ)

(t) (t) (t) (t) (t) (b) (b) (t)

3) Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn.

(t) (b) (b) (t) (t) (t) (b) (b)

4) Gió điên cuồng gọi sóng sấn lên bờ,

(Cùng mặt trời – HUY THÔNG)

Hai câu 1 và 2 , trừ chữ liệt và riết còn toàn thị vần bằng. Câu 3 trừ chữ đầu và chữ mơn, còn toàn thị vần trắc. Những câu ấy đọc lên không khá cgì văn xuôi, một thứ văn xuôi vụng về. Câu 4 cũng rất khó đọc vì những vần trắc: gió gọi, sóng, sấn đi sát gần nhau đọc lên trúc trắc quá.

Nếu ta đem so sánh với thơ cũ ta sẽ nhận thấy ngay câu thơ luật đọc lên êm ái hơn vì các thanh âm trong câu được điều hòa theo quy củ.

Về phương diện tiết tấu cũng vậy, các nhà thơ mới nhiều khi đặt những câu dài dằng dặc đi một hơi không theo luật lệ nào nhất định về tiết tấu. có khi bắt chước thơ Pháp ngắt một vài chữ của câu trên chưa hết ý đem vắt sang đầu câu thơ dưới để đọc giả chú ý vào những chữ ấy (rejet ou enjambe)

Thí dụ:

Không bao giờ / còn thấy bóng mây sầu

Vương vít nữa / bạn ơi ! / nào có được ?

(Bóng mây sầu – THẾ LỮ)

Vương vít nữa là chữ “vắt ngang” (enjambement)

Ánh vàng còn rải rác trên cánh đồng xanh rộng.

Đám mây chiều trắng xám đã nổi ở chân trời…

(NGUYỄN VĂN KIÊN)

Hai câu thơ trên đây đọc thẳng một hơi không chia ra từng đoạn, không thể ngâm được.

Về phương diện tiết tấu thơ cũ, nếu theo luật thơ Đường thời ít có sự thay đổi; nhưng nếu theo luật lục bát, hoặc lục bát gián thất thời ta nhận thấy vần điệu thường thay đổi luôn làm cho câu văn uyển chuyển dễ nghe hơn.

ĐỀ MỤC

Các nhà thơ mới cho những đề mục của thơ cũ là cổ hủ nghèo nàn, dùng nhiều điển trong kinh sử Tàu, không đề cập đến những cảnh vật thông thường, chỉ chuộng những xáo ngữ và giữ tính cách quý phái.

Nhà thơ mới bỏ hẳn tính cách quý phái của thơ cũ mà ngâm vịnh bất luận cái gì làm cảm xúc đến lòng người: từ sự vật tầm thường, đê hèn cho đến những cảnh tượng nguy nga, vĩ đại, thi gia đều miêu tả, ngâm vịnh. Trong bài: “Cây đàn muôn điệu” Thế Lữ, một đại biểu của phái thơ mới, đã nói rõ cái tôn chỉ của thơ; theo ý ông “thơ là cây đàn muôn điệu” là “cây bút muôn màu”. Các nhà thi sĩ phái cũ thường ngâm vịnh những gương đạo đức, nêu cao những đức tính con người như: trung, hiếu, tiết, nghĩa; về ái tình thì chú trọng đến tính tình đoan chính. Các nhà thơ mới trái lại, chọn làm đề thơ hết thẩy các mối tình cảm: vui, buồn, thương nhớ, ước mong, thất vọng, ái tình với đủ các trạng thái. Về xã hội, nhà thơ mới miêu tả cả đến những cảnh huống lầm than, cần cù của hạng người lao công mà ta ít thấy trong thơ cũ.

Về phép mô tả, các nhà thơ cũ thường dùng lối “phác họa” nói ít lời nhưng để cho người đọc tưởng tượng lấy những điều không nói ra; nhất là đối với những cảnh tượng không đẹp đẽ hoặc những tính tình xấu xa, chỉ cần nói qua một cách kín đáo, bóng bẩy hay “húy kỵ”. Trái lại nhà thơ mới chuộng lối tả chân, nghĩa là nói bộc trực ngay, không kiêng kỵ gì, miễn là tả được đúng sự thực không sợ lời thô bỉ, tiếng tục tĩu.

Về bút pháp các nhà thơ mới thường hay bắt chước cú pháp của văn Tây, phiên dịch cả những danh từ, những quán ngữ của văn Tây, cho rằng như vậy là làm giầu cho tiếng Việt; nhưng biết đâu giọng ngớ ngẩn của thứ “thơ lai” không sao thích hợp được với tâm hồn người Việt Nam. Văn thơ cũng như âm nhạc chỉ là phản ảnh của tâm hồn một dân tộc. Tâm hồn người Việt Nam có những mối liên hệ sâu kín với văn hóa nghìn xưa, không thể nhất đán, “đoạn tuyệt” để thay cũ đổi mới được, cần phải theo trật tự của lịch trình tiến hóa; chỉ nên bỏ những cái cũ nếu xét thực là dở; nhưng nếu cái cũ hay, ta cần phải bảo trì nó mới hợp lẽ phải.

HÀ MẠNH ĐOÀN st.

* Trung học Đệ Nhất cấp - Lớp Chín ngày nay (trích từ trang 21-28)

* Trước đây Bà Thùy Dương có bài “Các quy tắc về một bài thơ Đường thất ngôn bát cú” trong Bản Tin của CLB Sách Xưa & Nay số 29 tr 44.

PHÚT

CUỐI

Cơn mưa đến là tàn tệ! Những cánh phượng ngã sóng soài trên lối đi đỏ ối cũng không làm Thụy ngừng những bước chân trĩu nặng. Thỉnh thoảng, vài ba con cóc nhảy lùa xùa trong bụi cỏ cứ như trốn khỏi nỗi buồn câm lặng của Thụy. Dù mưa đã ngớt đi đôi chút và bầu trời dường như muốn sáng lên, thì cơn gió khiến tàng cây lẩy bẩy lại đổ đầy trên mái tóc ướt nhẹp của nó những hạt mưa giận dỗi, cùng những chiếc lá chẳng còn muốn sống trên cõi đời đầy bi thiết…

Thụy biết bỏ đi như thế là không phải chút nào, nhưng nó làm sao có thể chịu đựng được cái tráo trở của cuộc đời, khi ngoắt một cái mà Lan sẽ lên đường rời xa nó mà chẳng nói lấy một câu! Mà nào hai đứa có xa lạ gì cho cam: Ngày nào nó chẳng tới chở Lan đi học cơ chứ!

Thụy ngồi bừa xuống bên vệ cỏ đẫm nước mắt ông trời. Một con chẳng biết là cào cào hay châu chấu gì đó thoắt cái đã nhảy nhổm lên, rồi đậu ngay trên áo. Thụy cũng chẳng buồn đuổi nó đi, vì cơn sầu làm chân tay Thụy mềm nhũn. Trông con vật đó cũng hay hay. Nó xanh mướt với cặp mắt dài dài. Một cái chân sau dài ngoẵng hình như bị gẫy hay sao đó mà y ta chỉ còn một chân búng búng, nửa như cuốc đi khỏi cái bản mặt đưa đám của Thụy, nửa như tái tê vì đau khổ khi nay ta chỉ còn năm chân, dù số 5 xem ra cũng tròn trịa!

Thụy cười thầm vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh của mình. Rồi nó lại nhớ tới chiếc xe đạp giờ đây nằm bẹp trong góc sân nhà Lan. Mẹ nó hết sức chiều chuộng mà tậu cho chiếc xe mới cắt chỉ, để nó có cái đi học cho đàng hoàng. Mẹ thì làm gì có tiền mà mua xe mới, khi bà bán bánh mì đầu ngõ, bữa đói bữa no. Nhưng thấy nó cứ thắc thỏm khen hết cái xe của thằng Nam, lại chê cái của con Bắc, bà biết tỏng cu cậu muốn xin mẹ cái xe thật đẹp:

- Đi học thì cần gì xe đẹp?

- Ơ! Con cần xe đẹp… hồi nào?

Có vậy mà Thụy bỏ chạy với nước mắt ràn rụa. Tối hôm ấy, nó bị mẹ la một trận nên thân:

- Con phải biết rằng, học giỏi không bao giờ là điều kiện để mẹ phải chiều đâu nhé! Con xem mẹ đây này, cái áo mẹ mặc đã chục năm mà mẹ có chê đâu? Cái gì thì cũng phải từ từ…

- Chứ không phải mẹ đầy áo đẹp trong tủ à? Nhiều lúc con thấy mẹ…

Tự nhiên Thụy tắc tịt! Chẳng lẽ nó nói thật là nó thấy mẹ đẹp… thấy mồ đi!

- Mày thấy tao làm sao mà dấm dớ…

Thế là nó phá ra cười. Mẹ cậu chẳng hiểu ất giáp gì cũng cười theo với đôi mắt ngơ ngác:

- Này cậu! lên nhà bác Bích mà lấy cái xe về…

- Xe nào hả mẹ?

- Thì cứ lên đấy rồi biết!

“Lên” đây, thật ra chỉ là ra nhà bác Bích chủ nhà. Ông thấy mẹ con Thụy hiền lành nên cho thuê cái nhà này với giá rẻ mạt…

Chỉ vài phút đã thấy Thụy dắt cái xe mới tinh về. Nó luống cuống làm đổ kềnh cái xe trước cửa. Dựng xe lên, bỗng mặt nó tiu nghỉu khi thấy đôi mắt lom lom của mẹ cười cười nhìn:

- Sao, ông mãnh?

- Tiền đâu mà mẹ mua cho con vậy?

- Thắc mắc làm gì! Thôi, vô ăn cơm!

Thụy bần thần nuốt không trôi chén cơm đã ních đầy canh. Nó vui vì ngày mai đã có xe chở Lan đi học. Mà cũng buồn vì chắc là mẹ phải vay tiền của ông Bích để mua xe. Cứ mỗi lần nó định mở miệng lúc để cám ơn, lúc xin mẹ trả lại xe vì thấy thương mẹ quá, là y như mẹ lại đưa tay lên miệng, mắt rơm rớm. Mãi, nó mới rặn được:

- Mẹ… đẹp quá!

- Đồ quỷ!

Ừ! Có khi nào mẹ nó nghe lời khen ấy của ai nữa đâu kể từ khi chồng mất. Cái cục nghẹn ngào bỗng nổ thành tràng cười trong suốt, êm đềm…

Bạn nó, Lan, thì cần gì người chở! Nhà cô thiếu gì xe, nhưng cô bé thích đi bộ cho… vui ấy mà. Rồi bỗng Thụy cứ sáng sáng lại thập thò đầu ngõ để chờ cô ra cùng đi học. Rồi trời đổ mưa, khiến chuyện đi bộ xem ra chẳng có chút thi vị gì khi đến lớp với áo quần lấm nước. Cô lại chẳng muốn người nhà phải đón đưa khi ai cũng bận rộn với công việc của mình! Rồi, dĩ nhiên cũng lại một sáng đẹp trời, Thụy xuất hiện với con ngựa sắt và nụ cười như hoa nở, khiến cô chẳng còn thấy thú vị gì khi cuốc bộ nữa, trừ khi xe xẹp lốp làm cô cảm thấy có chút ân hận mà nói hoài:

- Ơ! tại chở Lan mà xe xẹp lốp đó…

Làm sao mà cãi lại ông mãnh kia:

- Ơ! Xẹp là xẹp, chứ Lan nhẹ như tơ thì làm sao làm xe xẹp được!

- Sao biết người ta nhẹ…

- Ừ…thì biết chứ sao? Thụy thấy mình ngố hẳn ra khi phải trả lời câu hỏi khó đoán trước ấy.

Hai đứa cứ líu ríu với nhau vậy mà Lan chẳng nói gì khác lạ. Cho đến hôm nay, khi trời đã đỏ au màu phượng, sân trường đã vắng lặng tiếng học trò đùa giỡn, Lan mời Thụy đến nhà để dự tiệc vui. Bà chủ nhà hắng giọng một lúc, chờ cho đám trẻ bớt huyên náo mới lên tiếng:

- Hôm nay, bác mời các cháu đến chơi, trước là ăn mừng kết quả năm học vừa qua với các cháu, sau là để từ giã các cháu, vì gia đình bác sẽ lên đường sang Mỹ…

Mắt Thụy bỗng tối sầm! Tai nó như điếc đặc trước những tiếng vỗ tay của đám bạn đang lâu nhâu. Tiếng chạm ly cứ y như tiếng súng nổ xé toang trái tim cô đơn của nó. Đôi chân lẩy bẩy của Thụy cứ như có ma lôi đi ra khỏi những tràng cười sảng khoái. Cơn mưa đổ ụp xuống dường như còn xúi cho con ma điên khùng ấy lôi Thụy đi, đi lê thê trong trời tù mù những gió và niềm đau. Có lẽ bọn quỷ cũng khéo léo cõng mọi chiếc xe Thụy gặp trên đường, chứ nếu không thì ắt đêm nay, nó đến phải trình diện Diêm Vương mất!

Có tiếng chân lao xao trên lối đi bì bõm nước. Kệ! Ai đi cứ việc đi, Thụy cứ việc ngồi đây cho chết cái thân (ơ hay, không lẽ nó lại ịn cho thân mình là cái thân… chó à?). Sao lại dừng lại trước mặt kẻ cô đơn này vậy, đồ khùng. Thụy nghĩ thế khi bước chân kia dừng lại. Rồi cái chống chân được gạt xuống, cái giọng quen quen cất lên, mềm nhũn:

- Sao Thụy lại ngồi đây?

Nó giật nẩy mình, luống cuống…

Lan ngồi xuống bên cạnh nó, cô chẳng biết làm gì khi lần đầu tiên thấy nó… thê thảm như vậy. Không gian như co lại, chỉ còn hai đứa với chiếc xe đạp vương những cánh phượng ướt nước. Thụy nghe tim mình đập liên hồi, mà dường như, nó còn nghe cả tiếng tim người bạn gái nữa. Cố gắng lắm, nó mới quay mặt được lại phía Lan, rồi lắp bắp, bâng quơ:

- Sao Lan không ăn tiệc?

Cô nhìn nó: rõ ràng là mắt anh chàng không chỉ ướt vì mưa, mà còn vì… mít ướt!

- Tự nhiên Thụy bỏ đi, thì Lan ăn với ai…

Thời gian như dài vô tận, mãi Thụy mới thốt lên:

- Bao giờ Lan đi? Thụy hỏi mà nghe lòng đắng ngắt, dường như nó khóc thì phải!

- Đi đâu?

- Nãy mẹ Lan nói là đi Mỹ mà!

- Thì gia đình Lan đi, chứ Lan đâu có đi!

Thụy như thở dốc:

- Sao… kỳ vậy?

Vì Lan không phải là con, mà là cháu gọi bằng cô ruột…

Rồi cô cười, nụ cười thật xinh:

- Mẹ ruột Lan gửi Lan lên đây ở với cô, cùng với các chị em họ khác trong gia tộc. Cô chỉ muốn tụi mình gọi cô là mẹ, nên…

Hóa ra là thế! Thụy thấy mình ngu vô kể. Nó muốn đâm đầu xuống đất mà độn thổ cho hết cái “quê” dồn lên trên khuôn mặt đỏ bừng. Đột nhiên, Lan thấy tim mình đánh còn hơn trống trận khi mấy ngón tay cô mon men, mon men… rồi nắm vào cổ tay anh chàng. Cô nói trong hơi thở:

- Yên chí chưa…

Thụy dại cả mắt nhìn cô, buột miệng:

- Lan… đẹp quá!

LAM TRẦN

21.06.2016


NGƯỜI PHÁP

QUA CÁC CON SỐ

…Nếu không kể Cộng hòa Nga, thì Pháp là quốc gia lớn nhất châu Âu về diện tích. Từ lâu, Pháp đóng vai trò quan trọng bậc nhất của lục địa cũ về nhiều mặt: văn hóa, lịch sử, chiến tranh, khoa học, nghệ thuật… mặc dù không thể so sánh với tiếng Anh về số lượng người nói, tiếng Pháp vẫn là một trong năm thứ tiếng quan trọng nhất của con người trong thời hiện đại. Trong cộng đồng châu Âu bây giờ, cùng với Đức và Anh, tiếng nói của Pháp rất có trọng lượng, ít nhất về mặt kinh tế và chính trị. Nhưng nghiên cứu về nước Pháp một cách tổng thể mãi cũng nhàm chán. Mời các bạn làm một chuyến du hành, lần này toàn là với các con số, vào đất nước xinh đẹp, thích ăn ngon của gần 60 triệu người này…

Khi được hỏi, có đến 85% dân Pháp trả lời là đời sống của họ tương đối hạnh phúc. Vô địch là phía Đông nước Pháp có đến 91% và phía Tây có đến 90% nhận định họ hài lòng về cuộc sống của họ, ít nhất là các vùng Limousin, Auvergne và phía rặng núi Vosges, con số này chỉ là 77%.

Người Pháp nghĩ là họ năng động, khỏe mạnh và thông minh. Chỉ còn thiếu… đẹp trai nữa là đủ “tứ quý”. Cũng xong, có đến 76% người Pháp (nam, nữ) cho là ngoại hình họ khá “bắt mắt”, nhưng không hiểu sao phụ nữ Pháp, vốn xinh đẹp nổi tiếng, có vẻ khiêm tốn hơn các ông, chỉ có 68% cho là họ dễ nhìn, còn có đến 85% đấng nam nhi Pháp nghĩ là họ chỉ thua… Alain Delon một tí! Người miền Bắc Pháp đặc biệt xem họ “coi được” với 80% tuyên bố hài lòng với thân thể trời cho. Có lẽ một phần người Bắc Pháp cao lớn (chiều cao trung bình là 1m74 và nặng 76,5kg). Còn ở phía Đông và Nam thì nhỏ con hơn: người dân ở Bretagne, Normandie, Pays de Loire, Poitou - Charentes chỉ cao có 1m69 và nặng 56,1kg. Các kết quả thống kê rất rõ ràng: một cán bộ quan trọng bao giờ cũng cao hơn một nông dân trung bình 9cm, cao hơn một công nhân 5cm và nặng hơn một công nhân đến 2,5kg, hơn một nông dân 4kg. Nhưng một kết quả khá bất ngờ khiến nhiều người phải suy nghĩ là những người có mức thu nhập khiêm tốn, thậm chí gọi là nghèo (dưới 600 đôla/ tháng cho mỗi đầu người) thì lại hài lòng về… thân xác mình hơn các tầng lớp khá hơn (từ 1600 đôla/ người trở lên).

Người Pháp có máu “hiệp sĩ” trong gène của họ. Chả thế mà những bộ phim về “Zorro trừ gian diệt bạo” hoặc “Con gái Ngự lâm quân” có nàng Sophie Marceau xinh đẹp đánh kiếm như ánh chớp đã làm say mê nhiều người. Có đến 11% người Pháp được hỏi đã nhìn nhận từng cứu một hay nhiều người thoát chết. Khi bạn đi xe điện ngầm ở Paris, bạn cần biết cứ 10 người dân vô danh thì có 1 người thực sự là anh hùng, có lẽ vì thế mà Pháp luôn là một trong những quốc gia hàng đầu giúp đỡ những nơi bị khốn khó (Somalie, Rwanda, Ethiopie…).

Có 21% dân Pháp… làm thơ. Hậu duệ của Lamartine và Hugo vốn nhút nhát, họ “sản xuất thơ” và “tự tiêu thụ”, chứ không dám cho ai coi hay xuất bản. Điều này cũng dễ hiểu, các chuyên gia đi hỏi han đã khám phá là có rất nhiều bài thơ họ làm là do “nhớ” lại một tác phẩm trứ tuyệt nào đó lúc còn mài đũng quần trên ghế nhà trường. Số người đọc 50 quyển sách/ năm còn khá ít, do sự xâm lăng ghê gớm của TV, vidéo và các dạng truyền thông khác. Một quyển sách khoa học, văn học hay khảo cổ nghiêm túc in được 5.000 bản đã là thành công lớn. Có đến 8% số người trên 15 tuổi đã từng có mặt trên TV, nâng số người xuất hiện trên màn ảnh nhỏ đến 3,5 triệu lượt người/ năm.

Cuộc sống của thanh niên Pháp năng động và đa dạng hơn ngày xưa rất nhiều: có đến 64% thanh niên Pháp đã thăm viếng một quốc gia châu Âu (so với 53% của lớp tuổi trên 65), 72% có chơi ski (so với 18%), 76% đã và đang sử dụng máy vi tính (so với 6%), 35% đã biết vay mượn tiền một tổ chức tài chính nào đó (so với 24%), 22% ký một ngân phiếu… không tiền bảo chứng (so với 0,5%), 25% đã nếm mùi thất nghiệp (so với 7%) và 42% đã từng xuống đường biểu tình (so với 21%). Phải nói là giới có tuổi ở Pháp rất hãnh diện về truyền thống ăn uống của dân tộc, chỉ có 6% người già là đã thử món “hamburger” trong lúc có 50% giới trung niên và 80% thanh niên đã xơi món này. Nhưng người già ở Pháp có những kỷ lục khác mà giới trẻ không sao bì kịp như họ thích tìm các “thầy ba nước lạnh” để trị bịnh hơn là đến các bác sĩ đứng đắn, họ đi xem bói nhiều hơn và hay… giận hờn cãi vã với người thân trong gia đình hơn.

Đàn bà Pháp cao trung bình 1m60 (cao hơn 5cm so với các bà cố cách đây 100 năm) nặng trung bình 60kg (ít hơn 600gr so với cách đây 30 năm) và có vòng ngực trung bình trên 90cm. Có 1/10 số phụ nữ thấp hơn 1m54 và 1/10 cao hơn 1m69. Đàn bà ở các tỉnh phía Bắc tỏ ra khỏe và nặng cân hơn phụ nữ ở miền Nam (nặng trung bình hơn 3,4kg) nhưng không cao hơn bao nhiêu. Đặc biệt đàn bà ở phía Tây có vòng ngực kém, đến 1/3 có chỉ số thấp hơn 85cm, trong lúc chỉ số này ở phía Đông là 1/5.

Phụ nữ Pháp sạch sẽ nổi tiếng, họ xài xà phòng nhiều gấp 5 lần đàn ông Pháp và sẵn sàng chấp nhận lấy chồng người nước ngoài. Hàng năm có từ 20.000 đến 25.000 đám cưới mà cô dâu hay chú rể là người nước ngoài, chiếm từ 8% đến 10% số đám cưới trên toàn quốc.

Trong tình yêu, phụ nữ tỏ ra lãng mạn và… có lý hơn nam giới. Họ thích tán gẫu, cười đùa, “nhậu” với người yêu và sau đó mới là… việc phải tới sẽ tới, còn đàn ông Pháp có nhãn quan khác hẳn, họ vồ vập đòi “việc phải tới” trước rồi mới… nhậu và tán gẫu sau. Vì vậy điều không làm ai ngạc nhiên là có đến 46% đàn ông tuyên bố đã bị “tiếng sét ái tình” đánh cho thất điên bát đảo, trong lúc chỉ có 37% đàn bà Pháp thổ lộ đã “chao đảo” ngay lần gặp gỡ ban đầu. Có 56% thanh niên Pháp bị tình trạng này quấy nhiễu nhưng điều kỳ lạ nhất trong số 100 lão từ 60 tuổi trở lên cũng có đến 28 cụ đã… biết yêu lần đầu, cái thuở nhìn nhau tha thiết ấy! Đã yêu muộn tức phải… ngoại tình sớm, có 17% đàn ông Pháp nhìn nhận họ không chung thủy với vợ, so với 11% số bà đã cắm hai sừng to tướng lên đầu chồng. Người trẻ yêu nhanh mà bỏ nhau cũng vội, có đến 10% giới trẻ đã phản bội người yêu. Chỉ số này khá khiêm tốn ở các cụ, chỉ có 9% lão ông lão bà đã đành đoạn ôm cầm sang… xe khác!

Có đến 71% số phụ nữ Pháp tự cho là mình không hấp dẫn lắm nhưng ngược đời thay, có 68% đấng mày râu tuyên bố thân hình họ rất… sexy làm “loạng choạng” nhiều phụ nữ (điều này còn phải xem lại vì nếu vòng số 1 của phái yếu trở thành vòng số 2 của phái mạnh, cũng không ai có can đảm loạng choạng va vào thân hình… sexy đến như vậy!).

Nhìn chung có 86% đàn ông và 76% phụ nữ Pháp nhìn nhận đời sống tình cảm của họ tương đối ổn định. Đặc biệt ở Paris người ta không thấy hạnh phúc nhiều trong tình yêu, chỉ có 77% là tạm hài lòng. Có phải chăng “thủ đô ánh sáng” dễ làm say đắm lòng người, và sau đó là ít nhiều dư vị cay đắng sau các chuyến phiêu lưu diễm ảo?...

HỒNG QUANG

(Tổng hợp từ Le Nouvel Observateur

và Francoscopie Ed.Larousse 92)

ĐỖ THIÊN THƯ st.

THẰNG NHÓC

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

SA THẢI

Mùa đông đã đến.

Một mùa đông khô khan và khắc nghiệt, cũng như đã từng xảy ra ở các vùng núi non… Với những tàn cây trơ trụi lá, mặt đất thì trở nên chai cứng như đá cuội, cái sân trường mới ảm đạm làm sao ấy.

Sáng ra, người ta thức dậy còn phải chong ánh sáng đèn.

Trời lạnh căm căm.

Nước đông đặc trong chậu rửa mặt.

Lũ học trò đều uể oải… Chuông kẻng phải kêu gọi nhiều lần…

“Nhanh lên đi, các em”. Mấy thầy giáo vừa hối thúc học trò, vừa đi tới đi lui trước hành lang để lấy hơi nóng.

Lũ học trò vội vã xếp hàng cẩu thả mà đi xuống cầu thang trong ánh sáng lờ mờ dưới cơn gió bấc lạnh lùng.

Thật là một mùa đông tồi tệ cho Thằng Nhóc.

Một ngày nọ, tuyết rơi quá nhiều trong đêm, lũ trẻ không thể nào ra sân chơi đùa được, nên vừa mãn tiết học sáng, người ta đã nhốt chúng lộn xộn trong một gian phòng, để cho chúng nó giải trí mà chờ đến tiết học sau. Thằng Nhóc được giao phó cái nhiệm vụ là phải canh chừng chúng nó.

Cái gian phòng này vốn là nơi tập luyện thể thao của trường Hải Quân xưa cũ, với bốn bức tường trần trụi. Có mấy cái cửa sổ chấn song sắt, và vài cái móc sắt âm tường còn sót lại. Ở trên trần nhà, còn có một cái vòng sắt to tướng treo lủng lẳng ở đầu dây.

Mấy đứa trẻ con có vẻ khoan khoái đùa giỡn ở đó. Chúng nó chạy quanh phòng một cách ồn ào náo nhiệt, làm tung bụi mù. Một vài đứa còn cố gắng nhảy lên bắt cái vòng sắt… Năm hoặc sáu đứa khác thì đứng ăn bánh mì ở cửa sổ, mà xem những phu lục lộ đang gom tuyết thành từng đống.

Nhưng mà tôi không nghe thấy gì sự huyên náo đó. Một mình, trong một góc xó tôi đang đọc một lá thư với nước mắt lưng tròng, dù cho lũ trẻ có đập phá hết cái phòng thể thao thì tôi cũng không màng. Đó là một lá thư của anh Jacques mang tem bưu điện Paris. Thượng Đế ôi. Một lá thư từ Paris… có hay không nào?

Và đây là nội dung lá thư:

Paris ngày ,….

Daniel thân mến,

Lá thư của anh đã làm cho chú mầy ngạc nhiên lắm phải không? Chú mầy có ngờ đâu, anh đã đến Paris được 15 ngày rồi. Anh đã rời khỏi Lyon. Anh đã quá chán nản cái tỉnh lỵ nầy rồi. Nó đã đem lại nhiều xui xẻo cho chúng ta, duy nhất là lúc chú mầy ra đi.

Anh đến Paris với vỏn vẹn 30 quan tiền, và 5 lá thơ giới thiệu của ông linh mục Saint Nizier. May mắn thay, cũng nhờ Trời, nên liền đó, anh gặp ngay một ông bá tước già, nhận anh làm thơ ký. Anh giúp cho ông ta điều hành trí nhớ. Anh chỉ cần ngồi viết theo giọng đọc của ông, và lãnh 100 quan tiền lương mỗi tháng. Chú mầy thấy đó. Thật là không sáng sủa gì mấy. Qua sự tính toán, anh hy vọng là thỉnh thoảng có thể gởi về cho mẹ chút ít, với số tiền dành dụm được.

A này, Daniel thân mến. Thành phố Paris mới duyên dáng làm sao ấy. Ít ra ở đây không có sương mù. Đôi khi ông Trời cũng đổ mưa vậy, nhưng mà đó là những cơn mưa nhỏ và vui, xen kẽ với ánh nắng. Anh chưa từng thấy nơi nào dễ chịu như vậy. Luôn cả bây giờ, anh cũng đã thay đổi. Chú mầy biết đấy, anh không còn khóc nhè nữa. Thật là khó tin phải không?

***

Tôi đang đọc tới đoạn nầy, thì thình lình có tiếng bánh xe lăn trên tuyết, và dừng trước cổng trường. Lũ trẻ đang la hét: “Ông Thị Trưởng đến. Ông Thị Trưởng đến”.

Dĩ nhiên, là sự thăm viếng của ông Thị Trưởng đang báo hiệu một biến cố trọng đại, vì ít khi ông ta đi đến trường Sarlande… Tuy vậy, trong giờ phút này, điều mà tôi quan tâm hơn cả ông Thị Trưởng, hơn cả tỉnh lỵ Sarlande, đó là lá thư của anh Jacques.

Trong khi lũ trẻ ồn ào, chen lấn vào cái cửa sổ để xem ông Thị Trưởng xuống xe, thì tôi trở lại cái góc nhỏ để đọc tiếp lá thư…

***

Daniel thân mến. Chú mầy cũng dư biết là cha của chúng ta đang ở Bretagne. Nơi đó ông đang bán rượu táo cho tài khoản của một công ty… Biết anh làm thơ ký cho ông bá tước, nên cha muốn anh mang vài thùng rượu táo về cho ông bá tước dùng. Rủi quá, ông bá tước chỉ thích uống rượu vang, mà phải là rượu vang d’Espagne mới được… Anh bèn viết thư kể lể sự tình cho cha nghe. Chú mầy có biết là cha trả lời làm sao không? Ổng trả lời rằng: “Jacques, mầy là con lừa mà”. Cũng như mọi khi thôi, nhưng mà, Daniel thân mến, anh tin tưởng rằng trong thâm tâm, là cha thương anh nhiều lắm.

Còn về phần mẹ, chú mầy nên biết rằng, hiện nay bà đang cô đơn. Chú mầy nên cố gắng viết thư thăm mẹ nhé. Bà đang phiền muộn về sự im lặng của chú mầy đó.

Anh sẽ nói về một việc quan trọng mà chú mầy thực sự hài lòng. Số là anh có thuê một gian phòng ở khu phố Latin. Ở khu phố Latin thật sự đấy… hãy tưởng tượng xem… một gian phòng rất nên thơ, với một cửa sổ, nhìn qua những mái nhà đến tận chân trời. Cái giường ngủ thì không rộng rãi gì mấy, nhưng mà nó có thể chứa đựng hai người chúng ta… Kế đến là một cái bàn làm việc ở góc phòng, nơi mà người ta có thể sáng tác những vần thơ hay.

Anh tin chắc rằng, nếu chú mầy nhìn thấy được cơ ngơi của anh, thì chú mầy sẽ muốn dọn về ở chung với anh ngay tức khắc. Còn anh cũng vậy, anh ước mong chú mầy về ở với anh cho vui, mà không biết bao giờ được đây?

Trong khi chờ đợi, hãy luôn luôn thương nhớ anh nhé, và đừng làm việc nhiều kẻo ngã bệnh thôi.

Chào thân ái.

Anh đây,

Jacques

A, anh Jacques dũng cảm. Lá thư của anh đã biến nỗi đau buồn của tôi trở nên thú vị. Cuộc đời của tôi, trong những ngày tháng sau cùng này, toàn là cơn ác mộng. Tôi tự nhủ: “Ôi, bây giờ ta phải ráng làm việc. Ta phải can đảm như anh Jacques”.

Ngay trong lúc đó thì chuông đổ. Lũ học trò xếp hàng vào lớp học, mà còn chỉ chỏ vào chiếc xe đang đậu trước cửa trường. Tôi bàn giao chúng nó cho các thầy đứng lớp… Xong, tôi vội chạy lên cầu thang để về phòng riêng, với lá thơ của anh Jacques.

Giữa đường thì tôi gặp ông gác cổng, đang thở hào hển, chạy đi tìm tôi.

- Thầy Daniel ơi, người ta đợi thầy ở phòng ông Hiệu Trưởng!

Phòng ông Hiệu Trưởng. Ông Hiệu Trưởng có điều gì cần nói với tôi. Người gác cổng nhìn tôi với vẻ lạ lùng. Thình lình, tôi nhớ lại hình ảnh của ông Thị Trưởng.

Tôi hỏi:

- Có phải ông Thị Trưởng ở trên đó không?

Y trả lời

- Phải, ông ấy ở trên đó.

Tim tôi nhảy nhót hy vọng. Tôi leo lên thang lầu từng bốn bậc một.

Đã nhiều ngày qua, tôi gần như hóa điên, nên vừa nghe nói ông Thị Trưởng đòi gặp tôi, thì tôi tưởng tượng rằng, ông Thị Trưởng đến cấp bách như thế này, là muốn cho tôi một chân thơ ký, vì ông đã đọc được mấy vần thơ mà tôi đã viết tặng ông Hiệu Trưởng ở buổi lễ vừa rồi. Đây là lý do có vẻ thực tế nhất. Lá thư của anh Jacques có nói đến ông bá tước già, làm cho tôi thêm náo nức.

Dầu sao đi nữa, niềm tin đã trở nên mãnh liệt khi tôi leo lên thang lầu. Thơ ký của ông Thị Trưởng. Tôi có nên vui hay không?

Khi tôi đến trước phòng Hiệu Trưởng, thì tim tôi đập rất mạnh. Thơ ký của ông Thị Trưởng đâu phải là chuyên giỡn. Tôi phải dừng lại một chút để thở, để sửa lại cái cà vạt, để vuốt lại cái mái tóc cho ngay ngắn… Rồi tôi nhẹ nhàng vặn cái núm cửa…

Chuyện gì đang chờ đợi tôi.

Ông Thị Trưởng đang đứng dựa vào góc đá cẩm thạch của lò sưởi, mỉm cười trong bộ râu mép. Ông Hiệu Trưởng, trong bộ thường phục, khiêm nhường đứng kế, cái nón nỉ cầm tay. Ông Viot cũng vừa mới đến, đứng ẩn vào một góc.

Tôi vừa bước vào, thì ông Thị Trưởng chỉ vào tôi mà nói:

- Có phải người thầy nầy chăng? Một viên chức khả kính của tôi, mà phải đem ra phán xử sao?

Tôi đỏ mặt như con gà trống.

Vị viên chức nói tiếp:

- Thầy không cần phải biện bạch làm gì. Một phường du đãng thì không xứng đáng làm việc trong ngôi trường trang trọng này.

Một phường du đãng… Thôi tiêu đời rồi. Trong cơn ngạc nhiên, tôi không nói lời nào. Thật là không thể nói,… trong cuộc đời tôi.

Ông Thị Trưởng mới xoay qua ông Hiệu Trưởng mà nói tiếp:

- Bây giờ, thì ông Hiệu Trưởng cũng biết được phải làm gì.

Rồi đó, cái xâu chìa khóa của ông Viot lại réo rắc khua động, và ông Hiệu Trưởng thì khúm núm trả lời:

- Thầy Eyssette đáng được sa thải ngay tức khắc, nhưng mà để tránh mọi sự bê bối có thể xảy ra cho nhà trường, tôi sẽ giữ người thầy này lại 8 ngày nữa để tìm một người thầy mới thay thế.

Với tiếng nói ghê gớm “sa thải” có nghĩa là đuổi việc, thì tất cả lòng nhiệt quyết của tôi đều tiêu tan mất hết. Tôi không nói năng gì, vội vã chào đi ra.

Vừa ra khỏi cửa là nước mắt của tôi tuôn chảy. Tôi chạy một hơi về phòng mà khóc trong khăn tay. Thật ra thì hoàn cảnh không vui vẻ gì. Tôi nhận thấy công việc xây dựng lại gia đình đã thất bại rồi.

Mẹ tôi phải khóc.

Cha tôi phải nổi giận.

May mắn thay, tôi còn có anh Jacques bên cạnh.

Thật tình mà nói là cái thư đã đến đúng lúc.

Đơn giản thôi, tôi chỉ có việc đi đến Paris mà tìm anh Jacques.

Không phải, anh đã bảo là cái giường có thể ngủ được 2 người sao?

Vả lại, ở Paris thì người ta còn có thể tìm được việc gì để sinh sống. (Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật


Phụ bản IV

SẠN MẬT

Lan Hương

Nếu bạn thỉnh thoảng lại đau bụng phía ngang với dạ dầy, dưới gan 1 chút, rất khó chịu nhiều khi lại buồn nôn nữa thì rất có thể là bạn bị sạn mật. Sạn mật rất thông thường cứ 12 người Mỹ thì lại một người bị sạn mật và mỗi năm có thêm 1 triệu người bị bệnh này và bạn phải đi khám bác sĩ ngay vì để lâu ngày sạn lớn ra càng nguy hiểm hơn.

Mật là gì?

Mật là một chất có mầu xanh lá cây do gan tiết ra để đánh tan chất mỡ và giúp tiêu hóa thức ăn. Túi mật hình trái lê, nằm ngay dưới là gan để chứa mật từ gan tiết ra. Khi cơ thể cần mật để tiêu hóa thì túi mật co thắt, bóp vào và tiết ra vào ruột non qua những ống dẫn mật li ti.

Khi mật trong túi có vấn đề hóa học thiếu cân bình, thì sẽ vón lại thành chất cứng, lâu ngày thành sạn có thể nhỏ bé tí như hạt cát đến lớn nhất bằng quả banh golf. Túi mật có thể chứa một viên sạn hay cả trăm viên tùy theo trường hợp. Có 2 loại sạn mật:

1. Loại sạn mật do cholesterol:

Loại này thành hình là do những cholesterol mà mật không tiêu hóa được, cô đọng lại. Khoảng 80% sạn mật tìm thấy trong người sinh sống ở Mỹ và Âu Châu là loại này.

2. Loại sạn mật có mầu sắc: do bệnh nhân có bệnh về máu và gan.

Xem hình trên người ta nhận thấy là khi túi mật bóp và tiết ra mật thì sạn mật cũng ra theo, nếu sạn mật quá lớn thì nó chặn lại tại những ống dẫn mật nên gây nên đau đớn khó chịu phải giải phẫu ngay. Khoảng 30, 40 năm trước thì người ta chỉ mổ túi mật ra để lấy viên sạn mật ra rồi khâu lại, nhưng có nhiều trường hợp chỉ vài năm sau túi mật lại có thêm sạn mật nữa, phải mổ đi mổ lại. Về sau thì y khoa kết luận là nên cắt túi mật đi luôn để trừ hậu hoạn. 15, 20 năm trước thì người ta phải giải phẫu lớn nghĩa là rạch 1 đường dài 10, 20 cm trên bụng mới lấy túi mật ra được, bệnh nhân phải nằm nhà thương cả tuần lễ và phải nghỉ dưỡng bệnh ở nhà chừng 1, 2 tháng để trị vết thương. Bây giờ họ cũng dùng kiểu giải phẫu “cũ” này nếu túi mật đã bị sưng to.

Ngày nay cứ theo hình dưới đây thì họ đục 4 cái lỗ, một lỗ để đút giây video camera chiếu hình lên màn ảnh, một lỗ để đút giây đèn vào soi, một lỗ nhìn, một lỗ xỏ kéo vào để cắt. Kỹ thuật giải phẫu tân tiến này chỉ cần hơn 1 tiếng đồng hồ và bệnh nhân có thể ra về trong ngày và đi làm trở lại trong vòng 2-3 ngày.

Tại sao có sạn mật.

Có nhiều yếu tố gây nên sạn mật. Một là có nhiều cholesterol (mỡ) trong mật vì mỡ rất khó tan và nếu trong mật lại có nhiều mỡ quá thì làm sao mật có giờ thanh toán mỡ được cho kịp vì vậy nó đóng thành sạn. Thêm vào nữa là nếu túi mật lúc nào cũng đầy mật mà không chảy vào ruột non thì nó sẽ đông lại và đóng thành sạn. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố như:

a. Phái tính: Đàn bà có cơ nguy bị sạn thân gấp đôi đàn ông vì kích thích tố nữ (estrogen) có nhiều mỡ trong mật, thêm vào nữa là những thuốc ngừa thai làm tăng số lượng mỡ trong mật.

b. Lên cân quá mức: Mập quá cũng làm tăng số lượng mỡ trong mật và làm cản trở việc co bóp túi đẩy mật ra ngoài.

c. Ăn uống: Nếu ăn uống nhiều mỡ quá và ít chất xơ cũng làm tăng mỡ trong mật.

d- Dùng thuốc chống cholesterol: Nếu dùng các loại thuốc giảm cholesterol như TRICOR hay LOPID cũng làm tăng xác suất có sạn mật vì thuốc ảnh hưởng đến mật.

e. Tuổi tác: Càng già càng có nhiều cơ hội có nhiều cholesterol trong mật.

f. Di truyền: Gia đình có người có sạn mật cũng sẽ ảnh hưởng di truyền đến người khác.

g. Sắc tộc: Người Mỹ da đỏ đứng đầu sau đó đến người gốc Mễ Tây Cơ là 2 sắc dân có nhiều sạn mật nhất tại Hoa Kỳ.

Khi nào cần chữa trị ngay

Khi túi mật co thắt để bài tiết mật vào ruột non, thì một viên sạn hay nhiều viên sạn theo nhau chạy ra không có gì trở ngại cả, trừ phi viên sạn quá lớn làm nghẽn ống chuyển mật, làm bệnh nhân đau nhói không chịu được ở phần bụng trên, lan ra cả sau lưng và bả vai kéo dài từ 15 phút đến 1 vài giờ. Sau đó đến màn nôn mửa, nóng, lạnh, mắt trắng da vàng, nước tiểu mầu đậm, phân mầu lợt lạt.

Nếu bạn có những triệu chứng như vậy thì vào nhà thương ngay. Có thể ít giờ sau, cơn đau sẽ qua đi nhưng túi mật có thể bị nhiễm trùng và bị bể ra nếu viên sạn vẫn chặn lối. Và nếu bị chặn thì lá lách cũng có thể bị sưng, có thể gây ra chết chóc.

Muốn chẩn bệnh sạn mật, thừờng phải thử máu để xem có bị nhiễm trùng không sau đó làm “ultrasound” (siêu âm) là phương pháp hữu hiệu nhất để tìm sạn mật. Một cách khác là dùng một sợi giây có gắn máy chụp hình, chuyền từ cổ họng xuống để xem có viên sạn nào chặn lối ống dẫn mật vào ruột non không, nếu có thì họ có thể lấy ra ngay. Còn một cách là MRI (magnetic resonance imaging) (chụp hình cộng hưởng từ) .

Những cách chữa trị sạn mật:

Nếu sạn mật không gây ra đau đớn hay biến chứng gì thì không cần chữa trị. Còn những viên sạn khuấy rối gây đau đớn thì cách tốt nhất là cắt túi mật đi, vì túi mật không phải là một cơ phận thiết yếu của con người, nếu không cắt đi mà chỉ lấy sạn ra thì ít lâu sau sạn sẽ trở lại. Giải phẫu lấy túi mật rất thông thường tại Hoa Kỳ.

Sau khi cắt túi mật, thì gan vẫn bài tiết mật như thường nhưng thay vì mật được dự trữ trong túi mật thì chảy thẳng vào các ống dẫn vào ruột non. Trong trạng thái “mất túi mật” này thì sẽ đi đại tiện nhiều hơn và phân sẽ lỏng hơn khi trước rồi sẽ trở lại bình thường. Nếu không trở lại bình thường và vẫn tiếp tục bị “tiêu chảy” thì phải nên khám bác sĩ để xin thuốc trợ mật và lá lách.

Bs Nguyễn Lân-Đính st .

KHÓI CHIỀU CAY

ĐÀM LAN

Ngày đang nắng trời đang giận lòng đang sốt.

Không sốt sao được, gần một tuần rồi, không tăm hơi bóng dáng, không tin nhắn điện thoại, hồi âm vẫn chỉ là điệu nhạc í e máy tắt. Người đi đâu? Người đang thế nào? Người có gặp chuyện gì không? Biết hỏi ai? Ai có thể trả lời? Không phải họ không trả lời, nhưng kèm theo câu trả lời ấy là hàng loạt câu hỏi, những câu hỏi mà mình cũng không thể trả lời. Không thể trả lời không phải vì không biết trả lời, mà là không dám trả lời. Vì thế mà không dám hỏi ai, vì thế mà đành câm lặng nghe lòng phát cháy. Cháy vì lo, cháy vì những hình ảnh kinh hoàng trong tưởng tượng. Cái kỳ lạ trong tâm thế con người ta là: khi lo lắng về một điều gì chưa rõ, thì người ta luôn nghĩ đến tình huống xấu, thậm chí là tệ hại nhất có thể, để rồi từ những suy nghĩ thái quá ấy mà người ta lâm vào tình cảnh tự mình nhát mình, tự gây thêm áp lực cho mình, tự đặt thêm gánh nặng tư tưởng cho mình, vì vậy mà đám cháy trong lòng ngày một to lên.

U u u ù… Tiếng nhạc điện thoại đột ngột, ôi có thể là… ui giời… thôi, để người gọi đến hết chuông đi, chẳng muốn nói gì cả. Tít tít. Lại tin nhắn “Em đi đâu? Sao không nghe điện anh? Em có chuyện gì không?”. Coi như đi ra ngoài bỏ quên máy ở nhà. Đời thật trớ trêu thế đấy, người mình mong đến cháy ruột cháy gan thì cứ lặng như tờ, người mình nhạt nhẽo thì lại săn đón hỏi han. Giá mà… Đấy, lại giá mà… hàng tỉ cái giá mà trong cuộc đời không có đáp số, nên cứ mãi giá mà…

Không thể ngồi một chỗ mà chờ được nữa. Phải đi thôi, phải đến tận nơi phải nhìn tận mắt, nhưng lỡ… Cố đừng để lỡ là được, chỉ cần nhìn thấy thôi mà, thấy từ xa, chỉ cần biết người ta vẫn khoẻ vẫn ổn là được, nếu không đi, nếu không nhìn thấy được, chắc mình sẽ chết chìm trong trong nỗi buồn lo này mất. Chẳng có nỗi khổ nào lớn hơn là yêu người lo cho người mà không được ở cạnh người. Trời ơi… sao lại…

“Em đang ở đâu? Em có chuyện gì không? Anh đang lo chết được, nhận được tin trả lời anh ngay nhé”. Lại tin nhắn, lại là một người không phải là người mình đang nghĩ đến, sao kỳ lạ vậy hở trời?

Chuyến xe thật dài, không chỉ độ dài được đo bằng kilomet, mà độ dài ấy như dài nhiều gấp mấy khi đo bằng sự bồn chồn. Bấm đốt tay đã nhiều nhiều con số của khoảng cách hội ngộ. Không chỉ là những trở ngại từ nhiều phía trong bối cảnh môi trường sinh hoạt cuộc sống, mà cái chính là không có tư cách để hội ngộ. Tín hiệu bình yên chỉ có thể đón nhận qua một thứ phương tiện luôn dắt theo mình. Cũng chẳng dám ngôn từ chan chứa, chỉ loay hoay vài thông tin thường nhật, niềm hạnh phúc không từ những lời nói mà nhiều khi lắm vu vơ, chỉ cần thanh âm trầm ấm ấy rót vào tai, nhẹ nhàng, thư thả, mà sao nghe dào dạt tâm can. Chỉ thế thôi, nào dám ước vọng xa xôi, đôi ba ngày mong mỏi đã thấy mình khô héo như cây thiếu nước. Vậy mà bỗng nhiên rồi lặng phắc. Không bất kỳ một tín hiệu nào cho biết hiện trạng của người. Làm sao mà đủ trấn tĩnh để ngồi chờ thêm nữa.

Dừng một chuyến xe dài, thêm một cuộc xe ngắn. Đây là vị trí có thể nhìn thấy được, cho dù có hơi xa tầm mắt một chút, nhưng không sao, cái dáng đi ấy, cái vóc người ấy sẽ không thể nhầm với ai được, một khi vẫn hiển hiện trong con mắt thứ ba của tâm cảm. Chỗ ngồi này, liệu có dễ bị phát hiện không nhỉ? Chắc là không đâu, có tán cây này, lại là một bàn nước nhỏ ven đường, lại cái mũ rộng vành, lại cái áo khoác sẫm màu sù sụ, dễ gì nhìn thấy, dễ gì nhận ra. Yên tâm, chỉ việc chờ đợi và quan sát. Có lẽ khoảng ba mươi phút nữa, nếu giờ nghỉ trưa không khác mọi ngày. Bụng hơi đói rồi, ăn tạm cái gì nhỉ? Sáng đi sớm quá, lại lo lắng đầy ruột rồi, ăn sao được. Quanh đây cũng chẳng có gì tạm bỏ bụng cả, cứ nước chè thế này thì cồn ruột lắm thôi. À, mà thôi, cố tí nữa, cho người ta một sự bất ngờ rồi bắt đền người ta một bữa trưa. Có lý quá. Hỏi xin bác bán hàng ít đường cũng được.

Đỡ heo bụng hơn rồi. Nắng thế nhỉ. May mà gặp nắng chứ mưa lại…

Kia rồi, người ta đang ra, ôi mừng quá, vẫn an bình đấy thôi, chỉ tại mình hay cả nghĩ, toàn nghĩ linh tinh vớ vẩn, tưởng tượng những chuyện không may, mình thật tệ quá. Muốn chạy ra mà úp mặt vào ngực người ta quá, sao mà tim đập như trống trận thế này. Bình tĩnh bình tĩnh, bao nhiêu người thế kia, nhỡ ra lại khổ cho anh ấy. Anh ấy đang cười với đồng nghiệp kìa, trông tươi chưa. Đợi anh ấy đi ra ngoài một tí đã. Anh ấy đang đến gần cái xe rồi. Bấm máy thử xem. Có chuông rồi. Chắc mấy hôm rồi bận họp quá nên hay tắt máy. Nói gì đây nhỉ. Anh ấy rút máy ra rồi kìa… nhưng sao lại… chuông vẫn reo nhưng cái máy thì trở lại túi quần rồi, anh ấy chỉ liếc qua rồi bỏ máy vào túi ngay. Tại sao vậy? Hết chuông. Bấm lại xem. Chiếc xe đã nổ máy. Tay sờ vào túi nhưng không lấy máy ra, chiếc xe lao đi rồi. Người mình sao rũ rượi ra thế này? Có chuyện gì đã xảy ra vậy? Bao nhiêu năm rồi, đâu có hiện tượng này, chưa bao giờ người ta không nghe máy, và nếu có lúc mình gọi không được thì một cuộc gọi lại sẽ không lâu. Vậy mà sao? Tận mắt mình thấy người ta cố tình không nghe điện mình. Tận mắt mình nhìn thấy một thái độ bỏ qua thật dứt khoát. Phải hiểu thế nào với cách xử sự ấy đây? Nếu không tận mắt mình còn có thể biện ra những lý do để tự lý giải. Nhưng bây giờ….

Không thể thế này được, đầu mình đau muốn vỡ ra rồi, phải gặp một lần để hỏi cho rõ. Một tin nhắn bay đi. Im lặng. Hai tin nhắn bay đi. Im lặng. Sự có mặt của mình ở đây đã thành vô nghĩa. Ba tin rồi bốn năm tin, như thể gào lên. Cuối cùng cũng có hồi âm. “Xin lỗi… không thể”. Vỏn vẹn thế thôi. Đơn giản thế thôi. Một cơn đau thốn lên từ đáy lòng. Cơn đau quật ngã một cơ thể mảnh khảnh. Cơn đau quật ngã một tâm hồn đa cảm. Cơn đau quật ngã một trái tim nóng bỏng. Đau… đau… ôi đau quá… đau đến tận cùng. Thế là đã đến rồi một thời khắc. Thế là đã đến rồi một kết cuộc. Cái thời khắc kết cuộc ấy mình đã lường trước đến vạn lần, đã chập chờn tê tái đến vạn lần, đã nhói buốt đến vạn lần mỗi khi tưởng chừng nó xuất hiện. Bây giờ nó đã đến thật rồi. Nó đã đến và mình thì chỉ biết ôm nỗi đau mà cào cấu, không thể làm gì, không thể làm được gì cả. Bởi nó đã diễn ra đúng như nó phải diễn ra, không lúc này thì lúc khác, không sớm thì muộn, tất nó phải diễn ra. Mình vô phương trước nó, thúc thủ trước nó, câm lặng trước nó. Câm lặng tuyệt đối không thể một lời, dù là một lời oán trách nhẹ nhàng nhất. Không thể trách oán là bởi người ta không làm gì sai cả. Ai dám bảo người biết bảo vệ hạnh phúc gia đình, biết yêu thương vợ con là sai. Người đời thường lên án những người đàn ông trăng hoa ruồng rẫy gia đình, chứ chẳng một ai làm điều ngược lại. Vậy thì lấy cớ gì để trách. Người ta lại là một người rất tử tế. Chưa từng gây cho mình một sự tổn thương nào. Chỉ có quan tâm, chỉ có nhẹ nhàng bảo ban, chỉ có sẻ chia đôi lúc. Và mình thì cũng cảm thấy thế là đã đủ, cho dù đôi khi gặng hỏi, thì cũng chỉ là một cách nói để muốn hiểu sao cũng được. Để rồi câu chuyện cứ thế mà êm đềm suốt bấy năm nay. Sao giờ đây bỗng nhiên như ngọn đèn gặp gió vậy? Chẳng lẽ… nếu không thì lý do gì mà tắt ngấm không một lời biện giải. Có thể lắm, bởi sớm muộn gì thì những ẩn nấp cũng bị phơi bày cả thôi mà. Nếu đúng vậy thì… Ôi có lẽ người ta đang phải hứng chịu những điều khắc nghiệt, đến mức độ nào? Tình thế có tệ lắm không? Có đến mức tan nát cả gia đình không? Không, mình không hề muốn điều này xảy ra. Bao năm qua cái đáng sợ nhất với mình là chuyện này. Cho dù mình không thể kềm chế hay gạt bỏ được tình cảm của mình với người, nhưng mình không hề có ý manh tâm phá hỏng hạnh phúc của người. Mình chưa hề nghĩ rằng một ngày nào đó mình có hẳn người cả trái tim lẫn thể xác. Cho dù không ít lần mình mơ, những giấc mơ đơn thuần của một người đàn bà đang yêu và khát yêu. Những giấc mơ không hề có lỗi, nhưng nó sẽ thành tội nếu hiện thực hoá. Nó sẽ là một ngọn lửa kinh hoàng thiêu rụi tất cả. Điều mà mình đã thấy nhan nhản trong cái thế gian này. Mình hoàn toàn không muốn thế, vì mình muốn người thật bình yên với hạnh phúc đang hiện hữu của người, vì nguời xứng đáng được hưởng điều đó. Và mình cũng không đủ dũng cảm để làm một kẻ thứ ba với những hậu quả có thể nhìn thấy trước. Chính vì thế mà mình luôn cố gắng để giữ một khoảng cách khá bình ổn cho người và cả cho mình. Vậy mà rồi…

Cứ vật vã mãi thế này thì làm sao chịu nổi. Nếu có một đáp án rõ ràng thì mình còn có cơ sở, có phương hướng. Mập mờ loay hoay thế này thì khổ quá. Hay cứ gọi, gọi mãi thì người cũng phải nghe, người đâu phải là sắt đá mà không biết mình hiện thế nào. Đã bao lần rồi, khi mình có gì bất ổn, người lại có những lời ẩn chứa đủ để cho mình có lại nụ cười. Có lẽ nào… cứ gọi, gọi mãi, chỉ cần được hỏi một lời, và xin lỗi một lời. Gọi mãi nhưng những hồi chuông vẫn rơi vào khoảng không, như số máy ấy chưa từng tồn tại. Có nghĩa sự thể không ngoài phán đoán, có nghĩa người muốn chấm dứt câu chuyện bằng mọi giá, có nghĩa người biết mình đủ suy nghĩ để hiểu chuyện gì đã xảy ra cho người. Và cũng có nghĩa người muốn mình phải ức hận để quên người. Người chấp nhận mình tha hồ nghĩ đến người bằng ngàn lời nguyền rủa trách móc, chỉ có thế thì mình mới dễ quên, chỉ có thế thì người mới thật sự được bình yên. Thế ư? Người muốn em quên thật ư? Dễ thôi, em sẽ quên người, sẽ quên nhanh thôi mà, có gì khó đâu chứ, con người ta ưu điểm nhất là dễ quên mà, em sẽ quên, sẽ quên người bằng mọi cách, với thời gian nhanh nhất. Người hãy xem nhé…

Nhờ cuộc điện của một người bạn, tôi tìm thấy cô ấy trong một tình trạng không thể bét nhè hơn. Vây quanh cô ấy là những cánh tay sàm sỡ kéo lôi, và cô ấy cứ như thể sẵn sàng với tất cả, cứ như thể cuộc đời này với cô ấy chỉ còn là một bãi trống tan hoang. Gạt hết những cánh tay và những lời la ó, xốc bổng cô ấy ra chiếc taxi mở rộng cửa. Cô ấy rũ rượi với những lời lẩm bẩm không rõ chỉ loáng thoáng lập lại “…hết… hết… mất… mất rồi…”. Trên băng ghế xe, cô ấy ngả hẳn vào lòng tôi trong trạng thái vô thức. Hai cánh tay cứ khua lên, gương mặt bết tóc, mái tóc xõa đã xen nhiều sợi bạc, gò má ướt không rõ có phải vì những giọt nước mắt. Tôi ôm gọn cô trong tay mà nghe đau rát lòng. Hơn tháng nay tôi đi tìm, tìm những nơi có thể tìm được, nhưng chẳng thể nào. Và tôi nghe… hình như… Tôi không ngạc nhiên với thông tin ấy, vì tôi biết nó sẽ xảy ra bất cứ lúc nào. Trong trường hợp khác, có lẽ tôi sẽ phải tung nắm đấm nếu nhìn thấy gã ấy, nhưng trong trường hợp này, dẫu có muốn tôi cũng không thể, không thể vì có đầy ghen tức thì tôi cũng phải thừa nhận, gã là người tốt. Tốt là bởi, trong nhiều tình huống tương tự thì việc lợi dụng các hình thức có thể từ người đàn bà đang yêu hết lòng hết dạ là một cơ hội đương nhiên. Nhưng quả thật với những gì tôi nghe được từ chính cô ấy thì gã không hề có một mảy may lợi dụng nào. Mà với cô ấy, gã thật sự là một bến bờ bình yên, ít nhất cũng là cảm quan của chính cô ấy. Người đàn bà, dẫu có những gì trong cuộc đời, dẫu có là gì với xã hội, thì trong sâu thẳm cõi lòng, họ vẫn cần một bến tựa bình yên. Nếu không có bến bờ ấy, cảm giác mong manh của một con thuyền trong giông bão sẽ luôn làm họ bất an. Và khi họ tìm thấy được một bóng dáng đàn ông cho họ có được cảm giác ấy, thì họ yêu hết mình. Yêu với mọi cách thức có thể phạm vi có thể, và hầu hết là chấp nhận hy sinh. Người phụ nữ khi yêu sẵn sàng dâng hiến tất tật những gì mình có cho người đàn ông đang làm chủ tình cảm và cả vận mệnh mình. Với tính chất được phôi thai bởi tạo hóa, đàn bà yêu là dâng hiến, đàn ông yêu là chiếm đoạt, thì sự thua thiệt cho người phụ nữ là điều không tránh khỏi. Để rồi người đàn bà sẽ có những hành động phá tan thân xác cũng như cuộc đời mình nếu không được hiến dâng cho người họ yêu. Khi đó, họ nghĩ rằng, làm vậy sẽ quẳng ngay được nỗi đau đang chất ngất ấy vào một xó xỉnh cuộc đời, sẽ xua tan ngay được hình bóng ai kia đang ám ảnh, sẽ là một liều thần dược chữa lành tức khắc con tim đang nhức nhối. Nhưng sau tất cả, nỗi đau ấy sẽ lớn hơn gấp nhiều lần, bởi từ nhiều nỗi đau cộng lại.

Tôi đã nhiều lúc hỏi mình, vì sao tôi lại yêu cô ấy dai dẳng đến thế? Trong khi cô ấy chỉ xem tôi là một người bạn thân hơn nhiều người bạn khác. Một người để những lúc buồn cô ấy có thể một cú alo rồi bắt tôi ngồi ngoan ngoãn nghe cô ấy khóc kể. Tôi cũng không hiểu điểm gì ở cô ấy đã khiến tôi không thể dứt bỏ. Có lẽ là tất cả những gì là cô ấy. Người đời vẫn thường cho rằng đàn ông vốn không có mối tình sâu nặng. Họ nhầm. Đàn ông có thể vui chơi bông đùa mà không phải nhiều nghĩ ngợi, nhưng một khi đã thật lòng yêu, cũng vật vã đau đớn không khác gì phụ nữ. Có chăng là khéo giấu mà thôi. Tôi biết, nếu tôi không làm tốt vai trò một người bạn thân tình, thì cô ấy cũng sẽ tránh né tôi như đã tránh né vài người khác. Trái tim con người, thật ra nó nhỏ lắm, chỉ chứa đựng được một hình bóng thôi. Bằng lòng với một vai vị, để ít nhất đôi khi như lúc này, tôi là người cô ấy cần đến.

Tiếng nhạc khua tan sự im lặng, móc máy ra, nhìn tên người gọi tôi khẽ thở dài để cho chuông reo hết hồi. Lát sau lại cuộc gọi ấy, lần này tôi tắt tiếng, và lần thứ ba tôi nghe độ rung của cái điện thoại mà thẫn thừ. Có người đang đau khổ vì tôi, tôi thì đang đau khổ vì cô ấy, cô ấy lại đang đau khổ vì người khác. Vòng tròn huyễn mộng của chiếc đèn kéo quân kỳ ảo. Những trái tim chạy vòng quanh vòng quanh. Chiếc taxi vẫn dùi dũi về phía mặt trời lặn. Bỗng thèm một điếu thuốc, để chong mắt mà nhìn ngụm khói bay lên bay lên rồi loãng dần loãng dần…

Đàm Lan

Chuyện

Nhỏ

Tôi­

Với một thanh niên như tôi, xa thành phố về cù lao này sống vài ngày cũng đã là cả một cố gắng rồi, huống chi… vài tháng.

Nội tôi đổ bệnh đúng thời gian cô Út cũng đang phờ phạc nuôi con gái sinh mổ ở bệnh viện tỉnh, nên tôi được ba má “phái” về chăm sóc nội. Thật sự nội chỉ bị cảm cúm và chứng đau nhức xương khớp của người già, nhưng vắng cô Út, nội ở một mình thì ba má tôi không yên tâm, tôi lại vừa bước vào kỳ nghỉ hè nên về quê sống với nội là quá hợp tình hợp lý.

Nội tôi chỉ có hai con là ba tôi và cô Út. Ba tôi được gửi lên Thành phố học Đại học, sau đó mở công ty riêng, rồi khi gặp má tôi thì ở lại nhập hộ khẩu thành phố luôn. Công việc quá bận rộn nên ngoài những dịp giỗ kỵ ra, ba má tôi cũng ít thu xếp được thời gian rảnh về thăm nội. Coi như mọi việc dưới quê giao vào tay cô Út. Cô Út bất hạnh góa chồng rất sớm nên đưa đứa con gái duy nhất về sống chung với nội từ lâu. Năm ngoái cô mới gả con gái theo chồng, cũng là người cùng huyện, ngôi nhà rộng lớn của nội đã vắng càng thêm vắng.

Bây giờ thấy tôi về, nội mừng lắm. Dĩ nhiên trước giờ thỉnh thoảng tôi vẫn về thăm nội chứ, khi đi một mình, có khi hứng chí còn rủ thêm đám bạn thân nữa, nhưng tôi chỉ ở từ sáng tới chiều thôi, xem như làm một cuộc dã ngoại để thay đổi không khí. Chưa bao giờ tôi ở lại lâu ngày như lần này, nên nội rất vui, khỏe hẳn ra, các bệnh ho hen, xương khớp của tuổi già chẳng cần thuốc cũng giảm đi đáng kể.

Vùng quê heo hút, thâu đêm uồm uộp tiếng cóc nhái ễnh ương càng khiến cảnh vật chung quanh tăng thêm hiu hắt. Nhất là không có đường truyền internet, điện thoại thường xuyên “ngoài vòng phủ sóng” nên giao tiếp với bạn bè bị tắc nghẽn. Tôi buồn và ngán ngẩm quá. Chẳng có báo và ngoài vài cuốn kinh, nội tôi cũng không có cuốn truyện nào để tôi đọc giải khuây. Nhiều lần, tôi cứ băn khoăn tự hỏi không hiểu đất cù lao này có gì hấp dẫn mà nội nhất quyết không rời bỏ? Vì tiếc mảnh vườn cây trái sum suê hay những ngôi mộ thân quyến bao đời níu kéo?

“Cũng may mình chưa có người yêu, nếu không, tự nhiên “mất tích” không kèn không trống thế này, dám bị người yêu đá lắm à” . Tôi nghĩ.

***

Nhưng đó là cảm giác mấy ngày đầu thôi, còn từ lúc nhìn thấy nhỏ, những ý nghĩ buồn nản ấy biến đâu mất sạch trong đầu tôi. Bây giờ thì tôi có thể vui vẻ ở lại đây thật lâu, không cần viện lý do cần chăm sóc nội nữa.

Nhà nhỏ cạnh nhà nội tôi, ngăn cách bằng một hàng rào dâm bụt dày đặc hoa đỏ. Hàng rào thấp, chỉ lưng chừng người, hình như dựng nên cho có lệ, giá tôi rướn người một chút cũng có thể bước sang được vườn bên kia. Cũng như tất cả những vùng thôn quê khác, nhà nội và nhà nhỏ đều sở hữu một chu vi đất vườn khá rộng, trồng nhiều loại cây ăn trái. Nội tôi chỉ trồng cây lấy quả thôi chứ khoảnh vườn sau nhà nhỏ còn trồng thêm những thứ linh tinh khác: bầu, mướp, cà, chanh, ớt… Cây nào cũng chắc khỏe, lá xanh mướt, trái bụ bẫm, rất bắt mắt, ngầm khoe được đôi tay đảm đang tận tụy chăm sóc hàng ngày.

Một sáng, tôi ra vườn và thấy bên hàng xóm, nhỏ đang cặm cụi xách thùng tưới nước cho từng gốc cây. Nhìn mái tóc dài gói gọn trong cái kẹp to bản hình cánh bướm đong đưa một cách tinh nghịch và khuôn mặt xinh xinh ửng hồng lấm tấm những giọt mồ hôi, tự nhiên tôi bồi hồi khó tả. Tôi đứng ngây ra, mắt như dán vào nhỏ, không rời. Bên kia, nhỏ không biết sự xuất hiện của tôi, vẫn cắm cúi với công việc. Tôi mon men đến đứng sát bờ rào từ lâu mà nhỏ cũng không hay.

Đến khi tôi thu hết can đảm để khẽ đánh tiếng gọi: “Nhỏ… ơi!…” thì nhỏ mới giật nảy người, suýt buông rơi thùng tưới xuống, ngước lên ngạc nhiên nhìn tôi. Ôi chao, đôi mắt tròn xoe sáng long lanh mới dễ thương làm sao! Tôi biết thế là từ giờ phút này, tôi đã bị đôi mắt biết nói kia hút mất hồn vía rồi…

Từ hôm ấy, hai khu vườn phía sau của hai nhà là nơi tôi và nhỏ thường gặp nhau, chuyện trò, dĩ nhiên vẫn ngăn cách bằng hàng rào hoa dâm bụt thấp. Giá nội không trồng dâm bụt mà trồng mồng tơi thì tôi đã đọc ư ử lên rằng “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn…” y như thi sĩ Nguyễn Bính ngày xưa.

Ngày mấy lượt, nhỏ có mặt ở mảnh vườn ấy, hết tưới nước thì vun gốc, tỉa lá. Chiều chiều, nhỏ hái xuống đầy một rổ cà, ớt, bầu, mướp… để tinh mơ hôm sau đem ra chợ bỏ mối cho bạn hàng bán lẻ.

Chẳng mấy lúc mà tình cảm chúng tôi trở nên thân thiết. Thân tới nỗi có lần tôi đã mạnh dạn nắm bàn tay mềm mại của nhỏ và kéo nhẹ lên môi. Từ mái tóc dài đen nhánh ấy phảng phất tỏa ra mùi thơm hoa bưởi, khiến lòng tôi dậy lên cảm giác yên ả, lưu luyến.

Tôi kể cho nhỏ nghe về chuyện học hành, về gia đình tôi, cả về những mơ ước tương lai sau này. Nhỏ hay cười nhưng ít nói và có chút gì đó bí ẩn, thường chỉ im lặng nghe một cách chăm chú chứ không kể về mình… À không, phải nhận xét cho công bằng: có lẽ tại vì tôi không hỏi nên nhỏ không kể đó thôi. Tôi nghĩ điều đó không cần thiết. Biết gia đình nhỏ là hàng xóm của nội tôi còn nhỏ là một cô gái xinh xắn, hiền hòa, đảm đang… thế là đủ!

Mỗi ngày, tôi khám phá ra một điểm cộng của nhỏ: thông minh, dịu dàng, tốt bụng, thật thà… toàn những ưu điểm xưa nay tôi vẫn dùng để đánh giá cao một cô gái. Chỉ duy nhất một điều quan trọng thì tôi lại chưa “khám phá” được: tên thật của nhỏ. Không hiểu sao nhỏ nhất định bí mật không nói cho tôi biết, chỉ một mực:

- Anh c ứ g ọ i “Nhỏ” là được rồi. Em thích vậy.

Thì tôi cũng thích vậy đấy. Bạn bè tôi đa số vẫn gọi bạn gái là “Bé”, nhưng tôi thích dùng từ “Nhỏ” hơn, dù nghĩa hai từ giống hệt nhau.

Nhỏ càng bí mật, tôi càng háo hức khám phá. Buổi chiều đó, lúc đứng nhìn nhỏ cắt xuống những trái mướp no tròn mập mạp, tôi làm mặt rầu rĩ, thông báo:

- Vài ngày n ữ a, anh ph ả i v ề thành ph ố r ồ i.

Nhỏ chưng hửng:

- Ủa, hôm trước anh nói còn ở đây đến hết hè mà?

- À, gia đình mới nhắn gọi. Với lại đã có cô Út về lo cho nội rồi.

Nhỏ tưởng thật, mặt buồn hiu. Tôi vờ vĩnh thở dài:

- Đ i kh ỏ i đ ây, anh nh ớ nh ỏ nhi ề u l ắ m… Nhất định anh sẽ thu xếp về thăm nhỏ sớm...

Nhỏ cúi mặt, tay bứt vu vơ một chiếc lá mướp. Tôi tiếp:

- S ắ p chia tay r ồ i, nh ỏ cho anh biết tên thật đi, đừng bí mật nữa. Là gì thế?

Thấy nhỏ bậm môi im lặng, tôi làm ra vẻ mặt rầu rầu:

- Nh ỏ v ẫ n không mu ố n nói à? Thôi đ ành v ậ y, ch ắ c anh và nh ỏ còn thi ế u chút duyên v ớ i nhau, cho nên…

Quả nhiên con mồi sập bẫy ngay, nhỏ ngước nhìn tôi, ấp úng:

- Tên… là… là…

Tôi hỏi dồn:

- Là gì th ế ?

Nhỏ lí nhí:

- Là… Thanh Ki ề u…

Rồi mặt nhỏ đỏ ửng lên, trong lúc tôi suýt soa:

- Tr ờ i ơ i, tên hay v ậ y mà gi ấ u hoài!

Thanh Kiều ngúng nguẩy quay mặt đi, hai tay hết bứt lại vò nát những chiếc lá, như giận dỗi điều gì. Tôi cười thầm: “Con gái ngộ thật, chuyện có gì đâu mà cũng thích làm ầm ĩ!”

***

Trong bữa cơm tối, tôi tìm cách “điều tra” thêm qua nội.

Vừa nghe đến tên Thanh Kiều, nội hóm hỉnh cười:

- Chèng ơ i, b ộ con “ch ị u” nó r ồ i h ả ?

Tôi sượng sùng quá, không biết nên chối hay nên nhận? Nhận thì kỳ mà chối cũng dở. Tôi chỉ ậm ừ nói lảng:

- Cô bé d ễ th ươ ng quá há n ộ i?

Nội lườm tôi, mắng yêu:

- Gi ố ng th ằ ng cha bay d ữ a! Gặp cô nào cũng khen dễ thương ráo trọi!

Cô Út từ nãy vẫn ngồi im mủm mỉm cười, giờ mới chen vào:

- Thôi cháu ơi, nó có chồng rồi.

Tôi suýt nhảy nhỏm lên, đánh rơi đôi đũa cầm trong tay xuống mâm:

- Cô nói ai có chồng rồi?

Cô Út đưa mắt nhìn nội. Vừa nhai cơm, nội vừa thong thả kể:

- Con Thanh Ki ề u đ ó ch ớ ai. Coi như nó có chồng rồi. Ba má nó hứa với nhà người ta từ lâu lắm, hồi hai đứa còn nhỏ xíu xiu lận. Tết năm nay là nhà trai đi cưới đó.

Tôi không biết nên cười hay nên mếu. Thất vọng một mà giận tới hai. Tôi giận chính mình sao bộp chộp quá, chưa chịu tìm hiểu kỹ đã mơ tưởng viễn vông. Tôi giận cả Thanh Kiều giấu tôi chi tiết tối quan trọng ấy. Chẳng lẽ nhỏ định lừa gạt tôi? Hay nhỏ cố tình đem tôi ra làm trò hề? Hóa ra nhỏ đâu có “thật thà, tốt bụng” như tôi đã nghĩ?

Ở miền quê này, trai gái kết hôn rất sớm, nhất là trong lúc trà dư tửu hậu, các bậc cha mẹ cao hứng giao ước hôn nhân cho những đứa con còn bồng bế trên tay cũng là điều bình thường, chẳng làm ai ngạc nhiên. Biết thế nên tôi không ngạc nhiên mà chỉ buồn và băn khoăn. Buồn vì tôi nhận ra mình đã “lỡ”cảm tình sâu đậm với Thanh Kiều. Băn khoăn vì không hiểu được nguyên nhân thật sự hành động của nhỏ. Đã “có nơi có chỗ”, là “hoa có chủ” rồi, sao nhỏ còn chịu quen tôi làm chi cho rắc rối?

Nghiền ngẫm lại tất cả mọi chuyện trong thời gian qua, tôi nhận ra nhỏ rất nghiêm túc, không thể bảo là giả dối. Như vậy, nhiều khả năng nhỏ bị ép duyên chứ không hề có chút tình cảm gì với người chồng “trà dư tửu hậu” kia. Và người nhỏ thương thật lòng chính là tôi chăng? Nghĩ thế, tôi chẳng vui chút nào, lại càng não ruột thêm. Chuyện giữa hai gia đình người lớn không thể thay đổi được, thời gian cũng gần lắm rồi, nếu thật sự nghiêng về tôi, Thanh Kiều chỉ đeo mang thêm nỗi đau khổ dai dẳng mà thôi. Tôi ngậm ngùi thương tôi, thương nhỏ.

Tôi biết mình nên làm gì lúc này. Đầu tiên là không gặp Thanh Kiều nữa, gặp nhau càng thêm chua chát. Và nên mau chóng rời khỏi nơi đây, càng sớm càng tốt. Tôi cần biết rút lui đúng lúc.

Tự dặn lòng thế, nhưng chỉ một ngày không gặp Thanh Kiều, tôi đứng ngồi không yên, bứt rứt khôn tả, lòng lúc nào cũng nóng như hơ lửa. Chỉ hai ngày là tôi đầu hàng vô điều kiện. Chiều xuống, tôi lại mon men ra sau vườn, đến bên hàng rào dâm bụt, chỗ hẹn hò quen thuộc.

Tôi tự bào chữa cho hành động yếu đuối của mình rằng, nếu tôi lẳng lặng rút lui, Thanh Kiều sẽ không hiểu nguyên nhân, biết đâu nhỏ sẽ oán trách ngược lại tôi nữa. Rằng, tôi cần nói cho nhỏ biết bí mật của nhỏ đã bị phanh phui. Rằng, tôi sẽ kết án nhỏ thật gay gắt, nặng nề trước khi tuyên bố chấm dứt. Nhất định là thế!

Thanh Kiều đang thơ thẩn dưới giàn mướp đầy hoa vàng rực. Chắc nhỏ đang mong tôi lắm vì vừa nhìn thấy tôi, mặt nhỏ tươi lên:

- Tr ờ i ơ i, em t ưở ng anh v ề thành ph ố r ồ i…

Nụ cười hồn hậu và đôi mắt sáng long lanh của Thanh Kiều làm tôi tự nhiên ngắc ngứ. Những lời kết án gay gắt dự định từ trước biến đâu mất tiêu. Tôi không sao nặng lời được, chỉ buồn rầu nói:

- N ộ i tôi đ ã k ể h ế t v ề nh ỏ cho tôi nghe r ồ i… Không ng ờ nh ỏ l ạ i l ừ a d ố i nh ư v ậ y… Tôi rất chân thành, thế mà…

Mặt Thanh Kiều tái đi rồi lại bừng đỏ. Nhưng nhỏ không nói câu nào, đột ngột quay lưng bỏ chạy mất.

Bây giờ đến lượt Thanh Kiều tránh mặt tôi. Ngày nào tôi cũng lởn vởn ra vườn ngồi chờ cả buổi mà không hề thấy nhỏ đâu. Hình như mảnh vườn cũng bị nhỏ bỏ quên, không ra hái trái đem bán nữa.

Tâm trạng tôi đầy mâu thuẫn: lúc muốn tránh mặt nhỏ, lúc lại khao khát gặp đến não lòng. Cả ngày, tôi buồn rầu uể oải như đang ốm nặng, ngẩn ngơ như mất hồn vía, chẳng tha thiết động tay đến việc gì.

Suốt mấy ngày liền như thế, tôi thất vọng đặt dấu chấm hết cho chuyện tình ngắn ngủi của mình bằng một lá thư. Trong thư, tôi thành thật thú nhận mềm yếu của mình. Tôi nói với Thanh Kiều rằng tuy biết nhỏ sắp lấy chồng, tình cảm của tôi dành cho nhỏ vẫn nguyên vẹn. Tôi muốn quên lắm mà không sao dứt bỏ hình ảnh nhỏ được. Nhưng tôi không thể tiếp tục quen nhỏ nữa, điều đó làm tôi vô cùng ray rứt, ăn năn, như phạm vào trọng tội. Ngay sáng mai tôi sẽ trở về thành phố bằng chuyến xe sớm nhất. Và tôi không quên chúc nhỏ hạnh phúc trong ngày cưới sắp tới đây v.v… và v.v…

Bỏ thư vào túi quần, tôi lững thững ra vườn, định bụng nếu vẫn không gặp Thanh Kiều, tôi sẽ mạnh dạn sang nhà bên kia tìm nhỏ để trao tận tay lá thư “vĩnh biệt”.

Nhưng may quá, Thanh Kiều đang đứng kia. Tôi mừng rỡ, suýt reo lên. Nếu không quá chủ quan thì rõ ràng tôi thấy gương mặt nhỏ cũng bừng lên niềm vui khi tôi xuất hiện.

Tôi thận trọng nhẹ bước lại gần bên rào. Mái tóc dài đen nhánh của Thanh Kiều hôm nay mới gội còn ướt, thoang thoảng mùi thơm hoa bưởi, giản dị và gợi nhớ.

- Em… xin l ỗ i…

Thanh Kiều lí nhí nói thế rồi dúi vội vào tay tôi một vật. Tôi chưa kịp hiểu gì, cũng chưa nói được câu nào thì nhỏ đã ù té quay lưng chạy mất. Tôi ngơ ngẩn nhìn theo, lòng hoang mang tột độ. Nhìn xuống bàn tay thấy một mảnh giấy được cuộn tròn như điếu thuốc, tôi hiểu ngay: là nhỏ viết cho tôi.

Lúc này trời đã sập tối, khu vườn xum xuê cây lá không đủ ánh sáng cho tôi đọc chữ. Tôi hấp tấp quay vào nhà, vội vàng mở miếng giấy, đọc ngấu nghiến:

“Đừng giận em nữa. Em thành thật xin lỗi vì những lời dối trá của mình. Nhưng mong anh thông cảm. Chẳng hiểu bắt nguồn từ một kỷ niệm sâu sắc thầm kín nào mà khi sinh em ra, ba má lại chọn cho em cái tên xấu xí, kỳ cục như vậy, làm em rất mặc cảm với nó. Lúc anh hỏi, em đã nhớ ngay đến một cái tên đẹp nhưng không phải là của mình…”

Nhỏ viết lơ lửng, không lời mở đầu, thiếu câu kết thúc khiến tôi càng mù mờ, hoang mang, không hiểu hết ý nghĩa.

Cuối cùng, tôi lại phải đi tìm nội:

- N ộ i ơ i, Thanh Ki ề u là ai?

Tưởng tôi đùa, nội bật cười nhưng vẫn trả lời:

- Thì con gái thím Sáu hàng xóm kế nhà mình đó.

- Có phải cô bé tóc dài không?

- Đâu phải. Con Kiều lúc nhỏ đau ban, má nó cạo đầu trụi lủi, từ đó nó chỉ ưng cắt tóc ngắn. Còn con nhỏ tóc dài là cháu, gọi má con Kiều bằng dì ruột.

- Sao cô ấy lại ở đây?

- Chớ còn biết ở đâu? Ba má nó bỏ nhau rồi mạnh người nào người nấy có vợ có chồng khác, bỏ nó cho má con Kiều nuôi từ bé tới nay.

Thiếu chút nữa nếu không kịp kềm chế là tôi đã nhảy tửng lên, ôm cổ nội mà reo. Chi tiết nội cung cấp thật quý giá, làm sáng tỏ mọi bí ẩn.

Tôi phóng ba bước biến khỏi nhà, ra vườn. Việc tôi cần làm ngay lúc này là lấy “lá thư vĩnh biệt” của tôi còn cất trong túi quần ra, xé vụn.

Tôi sực nhớ vẫn chưa kịp hỏi nội tên của nhỏ.

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

SÓNG ẦM ÀO QUANH ĐÂY

Tựa như cơn lốc, Trung xộc vào nhà tôi, khuấy động yên tĩnh bằng hơi thở dồn dập và câu hỏi lạ lùng:

- Giao nè, làm sao biết là mình đang yêu?

Trung kéo ghế ngồi đối diện với tôi, anh tự động xếp trang vở trước mặt tôi rồi đặt nó vào chồng tập bên góc trái bàn viết. Xong, anh trịnh trọng nhắc lại:

- Giao, tình yêu là gì? Làm sao biết mình đã yêu rồi?

Nhìn vào khuôn mặt bừng đỏ vì xúc động của anh, tôi giễu cợt:

- Dễ ợt! Khi thấy lòng mình đã chết đi một ít và một cái xương sườn của anh bỗng dưng biến mất.

Trung nhăn mặt phàn nàn:

- Đừng giỡn nữa Giao! Anh hỏi thật mà.

Từ thuở còn thơ, tôi và anh đã là đôi bạn thân thiết. Nhà anh nằm cạnh con xẽo nhỏ. Đi dọc bờ đất, đến cuối dòng là chỗ ở của gia đình tôi. Dòng nước mỏng manh, ngầu đục như gạch nối giữa hai mái lá đứng chênh vênh trong khoảng đất đồng thênh thang, vắng vẻ. Con xẽo cũng là nhịp cầu nối liền tình bạn, nơi vun đắp kỷ niệm vui buồn suốt thời thơ ấu của chúng tôi.

Vào những ngày chủ nhật hay lễ tết, cứ mỗi lần bìm bịp gọi nước về, tôi ra ngõ là bắt gặp cái bặp dừa to tướng trôi dập dềnh trên mặt xẽo. Nó mang sứ mạng là trao món quà nhỏ của Trung gởi tới cho tôi. Thường là một chùm ổi chín vàng óng hoặc vài quả bần xanh ngăn ngắt, chua phát sợ. Tôi chỉ việc chờ nó tấp vào bờ, lấy dây buộc lại rồi bắt đầu “nhận quà”. Tôi ngồi vắt vẻo trên thân một cây dừa nghiêng dáng ỏng ẹo cong mình soi bóng. Tàu dừa xòe ra bốn phía, che mát một vùng nước rộng. Như sợ cây rơi tòm xuống xẽo, rễ dừa mọc tua tủa, chằng chịt bám chặt vào lòng đất. Tôi vừa chén sạch sành sanh chùm ổi, vừa dùng hai chân khuấy nước liên hồi. Bùn đất được dịp quay vòng cuồn cuộn, làm cho nước đã đục lại càng thêm đục. Khi đã chán, tôi mở dây cho “con thuyền dừa” theo triều nước rút mà quay về chốn cũ. Tất nhiên, tôi cũng gởi cho Trung những thứ mình có như cái gương sen đầy hạt, mấy trái chuối nấu hoăc vài món đồ chơi bằng đất do tôi tự làm. Thỉnh thoảng, tôi lén mẹ lấy trộm một khứa cá lóc kho khô rồi dùng lá môn gói lại. Hôm sau, khi hai đứa đến trường, thế nào Trung cũng khen ngon đáo để nhưng… hơi mặn. Trung rất tốt bụng nhưng lí lắc không ai bằng. Anh thường ôm cặp giúp tôi nhưng mỗi lần ngang qua cây đa đầu làng, anh bỏ chạy trước để mặc tôi lót tót đuổi theo, vừa gào vừa khóc. Tôi sợ tiếng rên rỉ trên ngọn cây mà Trung thường hù dọa, anh bảo rằng: Hồi cha mẹ anh còn bé như anh và tôi thì cây đa nầy to ghê lắm. Cành lá xum xuê, xanh mườn mượt. Lá đa còn lớn hơn cả lá bàng. Mỗi chiếc lá xếp đôi vẫn có thể làm khăn trùm đầu được, dù đầu có bự như đầu tôi. Do vậy, ai đi ngang cũng hái một chiếc để che nắng. Người làng bên biết được cũng sang hái lá. Một hôm, có người đàn ông phương xa ghé lại, thấy cây đa hiếm quý muốn chiếm làm của riêng. Ông ta thuê một số người vào lúc nửa đêm lén đào gốc. Cây đa đau đớn lẫn hoảng sợ. Nó không muốn rời xa mảnh đất đầm lầy, chua mặn đã nuôi dưỡng nó bấy lâu. Một cọng rễ vừa bị chặt đứt, cây đa liền buông cành, chùng thấp rồi níu lấy mặt đất quê hương. Cứ thế, đêm tàn, trời sáng mà kẻ trộm vẫn chưa làm gì được. Dân làng đã đánh đuổi hắn đi nhưng từ đó, cây đa bị mất sức, thân ốm, lá nhỏ lại. Tuy vậy, đa vẫn tỏa bóng râm mát rượi quanh mình và cứ gặp trẻ con. Trung bảo cây đa khom xuống sờ đầu, vuốt tóc rồi thì thầm: “Xin lỗi nhé! Lá của mình bé quá, còn đầu của các em thì… ngày cứ một to ra”. Vì thế, tôi sợ lắm. Khi đi ngang gốc đa, tôi lấy hai tay ôm đầu rồi chạy vụt qua. Bao giờ cũng vậy, Trung luôn vừa cười vừa chạy trước.

Bây giờ, nhìn Trung, anh chàng sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Bách khoa TP đang ngồi thộn mặt chờ câu lý giải về tình yêu của con bé khờ ngày xưa tức cười gần chết. Con xẽo cũ đã cạn từ lâu. Người trong làng cứ đông dần hồi nào không hay. Người ta đã vùi lấp dòng nước mỏng manh ấy dưới những cái nền xây móng kiên cố. Quê tôi đã trở thành thị trấn trù phú tự lúc nào. Mọi thứ đều thay đổi, trừ cây đa đầu làng. Nó vẫn đứng yên, lặng nhìn thời gian trôi qua và khung cảnh quanh mình biến dạng dần. Từ cái thằng nhỏ lí lắc chuyển sang anh thanh niên ngờ nghệch, hiền lành. Còn tôi, con bé khờ đã trở thành cô giáo dạy trường làng. Có tới bốn chục cái đầu trẻ sẵn sàng cho tôi gõ. Cả anh chàng sinh viên tên Trung bấy lâu nay đã vượt hàng chục cây số đường lên tận thành phố học. Học miệt mài cả năm trời, rốt cuộc chẳng mang “một sàng khôn yêu” nào trở về. Anh cũng tình nguyện cho tôi điều khiển suy nghĩ của anh. Tội nghiệp, tôi nhớ đến lá thư tỏ tình của một đồng nghiệp gởi cho mình: “Giao ơi! Tình yêu có phải là ngọn lửa? Nó sắp thiêu rụi anh! Mà không! Nó là trùng dương bát ngát, là sóng bạc đầu nhồi đẩy con thuyền. Nó là cơm, là áo, là hơi thở, là… là gì Giao nhỉ?”. Tôi bật cười. Trung bực bội hỏi:

- Em cười gì vậy?

- Tình yêu!

- Đó là một thứ tình thiêng liêng, tuyệt vời. Có gì mà cười?

Tôi trêu:

- Thế à! Vậy làm sao biết mình đã yêu rồi hả anh?

Trung nổi nóng đứng lên:

- Giao cứ đùa mãi. Thôi, anh về đây!

Tôi kéo anh ngồi xuống ghế rồi vòng tay như học trò:

- Thưa anh, em xin lỗi! Hãy nghe cô giáo giải nghĩa đây. Tình yêu là ngọn lửa thắp trong tim, là sóng xô bờ. Khi yêu, ta bỗng dưng no, không sưởi mà ấm. Tình yêu là… Trung cốc một cái lên đầu tôi:

- Là cái này này!

Tôi ôm lấy đầu:

- Ui da! Lãng nhách! Người ta biết sao thì nói vậy chứ. Khi không đi biệt cả năm trời mới về rồi còn hỏi lộn xộn. Thấy ghét! Sao anh không đi luôn đi!

Trung nắm lấy tay tôi, anh run giọng:

- Anh hiểu rồi Giao ơi! Dù có đến chốn phồn hoa đô hội mà mình vẫn nhớ về chốn cũ và không sao quên được người con gái năm xưa là mình đã yêu rồi! Phải không Giao?

Như từ trên cung trăng rơi xuống, tôi ôm lấy ngực mình. Trung đang nắm chặt trái tim tôi đong đưa, tạo nên những dao động lạ lùng. Bỗng dưng, tôi thấy lửa bốc cháy. Có tiếng sóng ầm ào quanh đây. Tôi đói lã, tôi mệt nhoài, rồi rét căm căm và… tôi đã yêu!

Nguyễn Thị Mây

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 09.7.2016… .............................. Vũ Thư Hữu .... 01

Vài chi tiết về tác phẩm dịch thuật chót chót của tôi .......... Vũ Anh Tuấn .... 05

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch ... 10

Lời giới thiệu cuốn O Mari! của Robert Enghibarian ............... Thúy Toàn .... 18

Một số điểm phi lý trong việc áp dụng Đạo Phật .................. Tâm Nguyện .... 24

Địa danh Sài Gòn ............................................................................... Phạm Vũ .... 39

Việt Nam phong tục luận ............................................................. Nhựt Thanh .... 45

Ấn tượng cơm Âm Phủ ............................................................................ BĐ st. .... 57

Tâm Nguyện Tu Phật giữa đời thường .................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 61

Ánh sáng mặt trời mang đến nguồn sống ............ Đào Minh Diệu Xuân st .... 65

Giông tố và em (thơ) ................................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 72

Đêm xuống trên đại dương (thơ) ............................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 72

Vọng về quê cũ (thơ) ............................................................. Vũ Thùy Hương .... 73

Vải thiều (thơ) ............................................................................. Ngàn Phương .... 74

CLB Sách Xưa & Nay (thơ) ..................................................... Ngàn Phương .... 75

Tham quan (thơ) .......................................................................... Quang Bỉnh .... 77

Hợi (thơ) ......................................................................................... Quang Bỉnh .... 77

Vè thể dục (thơ) ........................................................................ Ngô Bá Mạnh .... 78

Tình em (thơ) .......................................................................... Phùng Chí Tâm .... 79

Hạnh phúc (thơ) .................................................................... Phùng Chí Tâm .... 79

Tiếng ve tự kể (thơ) ....................................................................... Bs.Doanlinh .... 80

Hoài âm (thơ) ............................................................................... Bs.Doanlinh .... 80

Điên (thơ) ........................................................................................... Lam Trần .... 81

Giọt nước (thơ) .......................................................................... Võ Kim Cương .... 82

Thời thị trường (thơ) .................................................................... Thanh Châu .... 83

Non tiên (thơ) ............................................................................... Thanh Châu .... 83

Ca trù ............................................................................................ Lang Nguyên .... 84

Giận hờn (thơ) ............................................................................. Lang Nguyên .... 85

Khói mù… khói (thơ) ....................................................................... Đàm Lan .... 86

Bởi mưa nhiều hơn nắng (thơ) ...................................................... Lê Nguyên .... 87

Góc khuất (thơ) .......................................................................... Lê Minh Chử .... 88

Trao nhầm niềm tin (thơ) ......................................................... Lê Minh Chử .... 89

Lý kéo chài: Chung tay kết đoàn, giảm nhẹ thiên tai ...... Trần Minh Cúc .... 89

Hai đầu nỗi nhớ (thơ) ................................................................. Vũ Đình Huy .... 91

Đêm hội cồng chiêng (thơ) ........................................................ Vũ Đình Huy .... 91

Nặng nề (thơ) ............................................................................... Vũ Đình Huy .... 91

The two ends of remembrance (thơ) .............................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 92

The Gongs festival night (thơ) ......................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 92

Mental sluggishness (thơ) ................................................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 92

Vẫn còn với Nha Trang .................................................................. Dương Lêh .... 93

Miền quê 18 thôn (tt) ........................................................................... Hoài Ly .. 101

Sách cao giá nhất thế giới ................................................ Hoàng Kim Thư st .. 109

Những lời khuyên của WHO ............................................................ Kim Sơn .. 114

Điểm sách: Giảng văn lớp đệ Tứ của Ng.Q.Xương ....... Hà Mạnh Đoàn st .. 116

Phút cuối ............................................................................................. Lam Trần .. 127

Người Pháp qua các con số ................................................. Đỗ Thiên Thư st. .. 132

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ... Thanh Châu dịch thuật .. 136

Sạn mật .................................................................... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .. 143

Khói chiều cay .................................................................................... Đàm Lan .. 147

Chuyện Nhỏ và Tôi ............................................................ Giáng Ngọc (G.Đ.) .. 155

Sóng ầm ào quanh đây ....................................................... Nguyễn Thị Mây .. 164

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế