Hiện có 7 người xem / 2336131 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 10/10/2015

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách quý: cả hai đều bằng Pháp văn và đều tương đối cổ thôi, vì một cuốn được xu ấ t bản năm 1923 (92 năm trước), và một cuốn được xuất bản năm 1926 (89 năm trước). Cuốn đầu mang tựa đề là “Aphrodite” và là một cuốn tiểu thuyết nói về phong tục cổ xưa, nhưng đã được tác giả Pierre Louys viết với ý tưởng chính là “trên đời không có cái gì quý hơn là tình yêu nhục dục và cái đẹp nơi thân xác người phụ nữ”, và chính vì lý do này, mà vào thời đó cuốn sách được rất nhiều độc giả yêu thích, trước nhất vì cốt truyện ướt át, sau là vì cuốn sách chứa đựng rất nhiều minh họa các thiếu nữ khỏa thân rất đẹp. Cuốn này được in lần đầu tiên vào năm 1896, và được in đi in lại nhiều lần, bản được giới thiệu hôm nay là bản in năm 1923. Cuốn sách khổ12x 18cm, dày 338 trang, có chứa đựng khoảng gần 100 minh họa các phụ nữ khỏa thân cực đẹp, khiến nó trở nên vô cùng hấp dẫn. Cuốn thứ hai được giới thiệu cũng bằng Pháp văn và mang tựa đề là “Thư tín của các nhà hiền triết” (Lettres des Maitres de la Sagesse). Các nhà hiền triết đây là các nhà hiền triết Ấn Độ với những cái tên lạ hoắc như Serapis, Maha Sahib, Rama B. Yogi v.v… và chủ yếu là nói về vấn đề tâm linh, về khoa học huyền bí. Tuy nhiên nó đặc biệt ở chỗ ngoài những lá thơ còn có một số hình thủ bút của người viết thơ, thành ra đây cũng là một cuốn sách khá đặc biệt nên có. Sau khi được giới thiệu, hai cuốn sách được các thành viên chuyền tay nhau nghía qua cho biết.

Sau phần giới thiệu sách, bà Tâm Nguyện đã lên giới thiệu một phương thuốc gia truyền trị ghẻ lở rất hữu hiệu. Giới thiệu thuốc xong, bà đã có bài nói giới thiệu và cho biết những cảm nghĩ của bà về tác phẩm mới của một thành viên khác là tác giả Huỳnh Thiên Kim Bội, và tác phẩm mới ra lò “Điều kỳ diệu của tình yêu” của cô.

Bà Tâm Nguyện nói xong, anh Dương Lêh đã lên nói về vấn đề chính tả và ngữ nghĩa của những cụm từ như khuyết danh, bổ khuyết, khuyết tật v.v…

Tiếp lời anh Dương Lêh, anh Nhựt Thanh đã lên nói tiếp về những chuyện hoang đường, ma quái.

Anh Nhựt Thanh nói xong, anh Dương Lêh lên, vừa đàn vừa song ca với cô Th ùy Hương một bài ca về Huế, rồi cô T hùy Hương ngâm tặng các thành viên bài thơ “Nhớ Mẹ”.

Sau đó, anh Lang Nguyên lên nói bổ sung về vấn đề chuyện ma. Tiếp lời anh Lang Nguyên, anh Chử lên hát thơ tặng các thành viên bài “Trung Thu khu phố em” do chính anh sáng tác.

Anh Chử hát xong, anh Phạm Vũ lên nói chuyện về nhà thơ Chế Lan Viên và về Di Cảo I và Di Cảo II của ông.

Buổi họp kết thúc trong niềm vui chung của tất cả các thành viên vào lúc 11 giờ 14 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


CUỐN CỔ THƯ “THUYỀN TRƯỞNG RIVIÈRE

VÀ CUỘC VIỄN CHINH Ở BẮC KỲ”

(LE COMMANDANT RIVIÈRE

ET L’EXPÉDITION DU TONKIN)

CỦA CHARLES BAUDE DE MAURCELEY

Tôi có được cuốn này là do anh bạn “trung thương gia” mang từ Pháp về và đổi cho tôi lấy một bức tranh mà anh thích. Tôi thì tôi thích nó vì hai lý do: lý do thứ nhất là vì nó nói về người mà tên được đặt cho ngôi trường Tiểu và Trung học mà tôi đã học 75 năm trước: Trưởng Henri Rivière nằm ngay cạnh nhà Bưu Điện Hải Phòng. Lý do thứ hai là vì nó đã được 131 tuổi đời (1884), và đương nhiên là đã chả còn dính dáng gì tới vấn đề bản quyền, ai muốn khai thác thì cứ tự nhiên khai thác, không còn phải xin phép ai cả.

Cuốn sách dày 222 trang được mở đầu bằng một bài tựa do con trai đại văn hào Alexandre Dumas (tác giả Ba Người Ngự Lâm Pháo Thủ) viết, và được chia thành 3 phần:

Phần 1: Nói về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp

Phần 2: Nói về Henri Rivière ở Nam Kỳ.

Phần 3: Nói về cuộc viễn chinh ở Bắc Kỳ và cái chết của Henri Rivière.

Người viết đã đọc rất kỹ phần 1 nói về thân thế và cuộc đời cũng như sự nghiệp của Henri Rivière, và được biết các chi tiết sau đây:

Henri Rivière mà tên đầy đủ là Henri Laurent Rivière sinh ở Ba Lê (Paris) ngày 12/7/1827 và qua đời ở Hà Nội ngày 19/5/1883, hưởng thọ 55 tuổi.

Ngoài việc là một sĩ quan Hải Quân cao cấp, ông còn là một nhà báo và một văn nhân có nhiều tác phẩm. Trong cuộc đời một sĩ quan Hải Quân ông đã tham gia cuộc Chiến ở Crimée, đã trải qua một cuộc viễn chinh ở Mễ Tây Cơ, đã phục vụ trong cuộc chiến năm 1870, và cuối cùng đã tham gia cuộc chiến tranh Pháp Hoa và được coi như một chiến sĩ anh hùng trong cuộc đánh chiếm Bắc Kỳ.

Trong cuộc chiến tranh Pháp-Hoa, Henri Rivière đã cầm quân đánh chiếm thành Hà Nội bắt đầu từ ngày 25/4/1882. Vào ngày 27/3/1883, ông mang quân đánh chiếm thành Nam Định. Vào tháng 5 năm 1883, quân Cờ Đen bao vây thành Hà Nội, Henri Rivière đã giao chiến với quân Cờ Đen vào ngày 16/5/1883.

Ba ngày sau (19/5/1883), ông giao chiến với quân Cờ Đen một lần thứ nhì và bị tử trận. Thi thể ông được mang về Pháp và chôn ở nghĩa trang Montmartre.

Sau khi Henri Rivière tử trận, tên ông được đặt cho 5 chiến thuyền của Hải quân Pháp, đồng thời tên ông cũng được đặt cho một phố ở Ba Lê (Paris) và 9 phố ở 9 tỉnh thành khác ở Pháp cũng như cho vài phố ở Hà Nội và Sài Gòn ở Việt Nam. Về ngành báo chí, ông từng là Thông tín viên của tờ Tự Do (Liberté) và là cộng tác viên của một tờ Nguyệt san rất nổi tiếng, tờ Nguyệt san Hai Thế Giới (Revue des Deux Mondes). Về văn nghiệp ông có tất cả 20 tác phẩm văn học, phần lớn là về lãnh vực tình cảm và quân sự như “Những ngày cuối cùng của Don Juan” (Les derniers jours de Don Juan), Hải Quân Pháp ở Mễ Tây Cơ (La Marine française au Mexique), Thú du hành (Loisirs de voyages) v.v… Tất cả những tác phẩm này đều hoàn toàn xa lạ với người Việt mình, vì ngay chính bản thân Henri Rivière cũng không được người mình chú ý gì tới lắm.

Về tác giả cuốn sách, Charles Baude de Maurceley (1852-1930), thì ông chỉ là một nhà báo và tiểu thuyết gia loại bình thường bậc trung, không có tiếng tăm gì lắm.

Phần 2.- Nói về các hoạt động của ông trong thời gian ở Nam Kỳ trước lúc ra Bắc giao chiến với quân Cờ Đen.

Phần 3.- Phần này cung cấp khá nhiều chi tiết lịch sử về cuộc viễn chinh ở Bắc kỳ và về cái chết của Henri Rivière. Tóm lại đây cũng là một cuốn cổ thư không có gì đặc biệt lắm nhưng cũng nên giữ vì dù sao đi nữa thì nó cũng đã được 131 tuổi đời…

Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

LỜI XIN LỖI


VỀ VIỆC PHÁ HỦY ẢNH TƯỢNG 

(Tiếp theo số 113)

VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG NHẤT

BẠN CÓ THÁNH KINH, ĐÓ LÀ ĐIỀU TUYỆT VỜI.

BẠN YÊU QUÝ, TÔN THỜ, CHĂM CHỈ ĐỌC, GHI NHỚ TỪNG CÂU THÁNH KINH: QUÁ TUYỆT VỜI!

NHƯNG NẾU BẠN HIỂU SAI THÁNH KINH THÌ ÔI THÔI: CÔNG DÃ TRÀNG! MÀ CÒN NGUY HIỂM NỮA VÌ CÓ THỂ LÀM PHÁT SINH MỘT BÈ RỐI (tức là 1 nhóm lạc đạo).

CHO NÊN ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT KHÔNG PHẢI LÀ CÓ KINH THÁNH, CHĂM ĐỌC, GHI NHỚ TỪNG CÂU KINH THÁNH… MÀ LÀ HI Ể U ĐÚNG LỜI CHÚA, Ý CHÚA, BÀI HỌC CHÚA D Ạ Y QUA CÂU HAY ĐOẠN KINH THÁNH NÀO ĐÓ… ĐẤY MỚI LÀ: TRÊN CẢ TUYỆT VỜI!

Chúng ta biết KINH THÁNH LÀ BỘ SÁCH TUYỆT VỜI, LÀ LỜI CỦA CHÚA GỞI CHO LOÀI NGƯỜI nhưng được trình bày qua NGÔN NGỮ LOÀI NGƯỜI, mà chúng ta biết ngôn ngữ loài người thì có nhiều lắm, hàng chục ngàn ngôn ngữ, KINH THÁNH mới chỉ được dịch ra 2445 thứ tiếng, đó là kỷ lục không một cuốn sách nào có thể vượt qua được (theo nguyệt san DÂN CHÚA ÂU CHÂU).

Đừng lẫn lộn LỜI CHÚA với những con chữ viết trong THÁNH KINH thí dụ câu: “Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, con gái với mẹ, nàng dâu với mẹ chồng…” (Mt 10,35). Chúa Giêsu là vua bình an mà lại gây chia rẽ à? Đâu là LỜI CHÚA, đâu là lời của loài người? Hoặc câu: “Ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa…”, thế sao khi một tên lính vả mặt Chúa, không thấy Chúa giơ má bên kia ra nữa? (Ga 18,22-24).

HIỂU BIẾT THÁNH KINH.

THÁNH KINH LÀ BỘ SÁCH DUY NHẤT TRÊN TRẦN GIAN ĐƯỢC VIẾT RA DO SỰ THÚC ĐẨY, SOI SÁNG, BẢO VỆ CỦA CHÚA THÁNH THẦN (ƠN LINH HỨNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN). TÁC GIẢ CHÍNH LÀ CHÚA THÁNH THẦN, TÁC GIẢ PHỤ (NHƯ LÀ DỤNG CỤ SỐNG CHÚA DÙNG MÀ THÔI) LÀ CÁC THÁNH KÝ.

CÁC THÁNH KÝ CÓ HƠN 40 TÁC GIẢ, Ở NHIỀU NƠI KHÁC NHAU, TRONG NHIỀU THỜI KHÁC NHAU, TRÌNH ĐỘ KHÁC NHAU, CHỊU ẢNH HƯỞNG BỞI NHIỀU LUỒNG VĂN HÓA KHÁC NHAU… KHÔNG BAO GIỜ CÓ SỰ BÀN BẠC VỚI NHAU VỀ ĐỀ TÀI VIẾT… MỖI NGƯỜI TỰ MÌNH VIẾT RA DƯỚI SỰ SOI SÁNG, THÚC ĐẨY VÀ GÌN GIỮ CỦA CHÚA THÁNH THẦN, BẢO ĐẢM KHÔNG CÓ GÌ SAI LẠC VỀ ĐỨC TIN VÀ LUÂN LÝ HAY PHONG HÓA. CÁC THÁNH KÝ ĐÃ VIẾT TRONG HƠN 1000 NĂM ÍT NHẤT TỪ THỜI VUA ĐAVID THẾ KỶ THỨ 10 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN TỚI THẾ KỶ THỨ 2 SAU CÔNG NGUYÊN.

CÔNG VIỆC VIẾT BỘ KINH THÁNH VÍ NHƯ 40 NHÀ ĐIÊU KHẮC Ở NHIỀU MIỀN, HỌC NHIỀU TRƯỜNG PHÁI, SỐNG Ở NHIỀU THỜI ĐẠI KHÁC NHAU… CÙNG HÌ HỤC SÁNG TẠO 1 MÓN ĐỒ XONG RỒI BỎ ĐÓ, SAU HƠN 1.000 NĂM TẤT CẢ ĐƯỢC TẬP TRUNG LẠI VÀ ĐƯỢC RÁP VỚI NHAU THÀNH MỘT BỨC TƯỢNG VĨ ĐẠI, CÁC BỘ PHẬN KHỚP VỚI NHAU KHÔNG THỪA 1 LY, KHÔNG THIẾU 1 LY, CHẤT LIỆU, MẦU SẮC ĐỒNG NHẤT, HÀI HÒA KHÔNG CHÊ VÀO ĐÂU ĐƯỢC… THÁNH KINH LÀ NHƯ VẬY ĐÓ…

PHÉP LẠ THÁNH KINH

Chuyện biên tập THÁNH KINH là một phép lạ vì thời gian hình thành lâu như thế (hơn 1.000 năm) nhiều người viết, ở nhiều nơi, ở nhiều thời điểm, chịu ảnh hưởng bởi nhiều nền văn hóa như vậy, chẳng bao giờ gặp gỡ, bàn bạc với nhau mà lại THỐNG NHẤT VỚI NHAU TRONG MỘT CHỦ ĐỀ DUY NHẤT, XUYÊN SUỐT THÁNH KINH LÀ LOAN BÁO CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ ĐẦY TRÀN LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.

Như thế chẳng là phép lạ hay sao? Chẳng do 1 ý chí chủ biên của CHÚA THÁNH THẦN đó sao?

Một cuốn sách kỳ diệu như vậy, cổ xưa như vậy (cuốn đầu cách ta hơn 3.000 năm, cuốn chót cách ta 2.000 năm). Chắc chắn không phải là cuốn sách dễ đọc, đọc tới đâu hiểu tới đó, đọc tới câu nào hiểu đúng nghĩa câu đó. Cho nên điều cần thiết là phải có một thẩm quyền chính thức hướng dẫn, giải thích cho ta mới bảo đảm không hiểu sai những câu chữ mình đọc. Sách CÔNG VỤ TÔNG ĐỒ kể: “Hồi ấy một viên quan thái giám của hoàng hậu nước Ethiop, trên đường về nước, ngồi trên xe ngựa ĐỌC SÁCH THÁNH… Thầy phó tế Philiphê theo kịp xe, thấy ông đang đọc sách tiên tri Isaia… thì hỏi rằng quan có hiểu không, quan trả lời rằng làm sao tôi hiểu được nếu không có người dẫn giải” (Cv 8,26-40).

Thẩm quyền giải thích KINH THÁNH chính là HUẤN QUYỀN TỐI CAO CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO.

CHÚA GIÊSU TIÊN LIỆU (báo trước nguy cơ nhiều kẻ mạo danh NGÀI, giải thích sai KINH THÁNH, lừa gạt nhiều người).

“Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng CHÍNH TA ĐÂY LÀ ĐẤNG KITÔ và họ sẽ lừa gạt được nhiều người” (Mt 24,4-5).

“Sẽ có nhiều NGÔN SỨ GIẢ xuất hiện và lừa gạt được nhiều người” (Mt 24,11).

Thánh Phaolô cũng cảnh báo: “Đừng có đi ra ngoài NHỮNG GÌ ĐÃ VIẾT kẻo sinh ra kiêu ngạo theo người này mà chống người khác…” (1Cr 4,6). Ngài cũng đã thấy trước hậu quả của việc giải thích sai LỜI CHÚA nên đã kêu lên: “Có chuyện bè phái giữa anh em” (1Cr 1,11). “Thế ra ĐỨC KITÔ bị chia năm xẻ bẩy rồi ư!” (1Cr 1,13). “Khi người này nói: tôi thuộc về ông Phaolô và người khác nói: tôi thuộc về ông Appôlô thì anh em chẳng phải là kẻ phàm tục sao?” (1Cr 3,4).

Chúa GIÊSU là ĐẤNG KHÔN NGOAN, SÁNG SUỐT VÔ CÙNG, hơn ai hết Ngài đã thấy trước cảnh tượng này nên đã thiết lập HỘI THÁNH CÓ PHẨM TRẬT, trao quyền cho thánh Phêrô đứng đầu cùng với 11 tông đồ cốt cán khác: “ANH LÀ PHÊRÔ NGHĨA LÀ TẢNG ĐÁ, TRÊN TẢNG ĐÁ NÀY THẦY SẼ XÂY HỘI THÁNH CỦA THẦY VÀ QUYỀN LỰC TỬ THẦN SẼ KHÔNG THẮNG NỔI. THẦY SẼ TRAO CHO ANH CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI, DƯỚI ĐẤT ANH CẦM BUỘC ĐIỀU GÌ, TRÊN TRỜI CŨNG CẦM BUỘC, DƯỚI ĐẤT ANH THÁO CỞI ĐIỀU GÌ, TRÊN TRỜI CŨNG THÁO CỞI” (Mt 16,18-20).

Quyền hành cũng được trao chung cho các tông đồ khác (nhưng chỉ Phêrô được trao riêng và nói rõ ông là NỀN TẢNG HỘI THÁNH) khi Chúa hiện ra và thổi hơi trên các tông đồ: “Các con hãy nhận lấy THÁNH THẦN, CÁC CON THA TỘI CHO AI THÌ NGƯỜI ẤY ĐƯỢC THA, CÁC CON CẦM GIỮ AI THÌ NGƯỜI ẤY BỊ CẦM GIỮ” (Ga 20,22).

Cuối cùng trước khi lên trời Chúa phán: “MỌI QUYỀN NĂNG TRÊN TRỜI DƯỚI ĐẤT ĐÃ ĐƯỢC BAN CHO THẦY, VẬY CÁC CON HÃY ĐI...” (Thầy trao quyền lại cho các con).

RÕ RÀNG CHÚA TRAO QUYỀN TỐI THƯỢNG CHO THÁNH PHÊRÔ VÀ CÁC TÔNG ĐỒ MÀ THÔI, DĨ NHIÊN GIÁO HỘI PHẢI TỒN TẠI CHO ĐẾN TẬN THẾ NÊN AI KẾ VỊ PHÊRÔ VÀ CÁC TÔNG ĐỒ MỚI CÓ QUYỀN NÀY.

THÁNH PHÊRÔ LÊN TIẾNG CẢNH BÁO

“Như vậy chúng tôi càng thêm tin tưởng vào LỜI CÁC NGÔN SỨ. Anh em chú tâm vào đó là phải vì LỜI ĐÓ như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm… Nhất là anh em phải biết điều này: KHÔNG AI ĐƯỢC TỰ TIỆN GIẢI THÍCH MỘT LỜI NÀO TRONG SÁCH THÁNH. Quả vậy LỜI NGÔN SỨ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ THÁNH THẦN THÚC ĐẨY mà có những người đã nói theo lệnh của THIÊN CHÚA” (2Pr 1,19-21).

Thánh Phêrô cảnh cáo NHỮNG NGƯỜI GIẢI THÍCH KINH THÁNH XUYÊN TẠC: “Như ông Phaolô, người anh em thân mến của chúng ta, đã viết cho anh em, theo ơn khôn ngoan THIÊN CHÚA đã ban cho ông. Ông cũng nói như vậy trong tất cả các thư của ông, khi bàn đến các vấn đề này. TRONG CÁC THƯ ẤY, CÓ NHỮNG CHỖ KHÓ HIỂU; NHỮNG CHỖ ẤY CŨNG NHƯ NHỮNG CHỖ KHÁC TRONG KINH THÁNH, BỊ NHỮNG KẺ NÔNG NỔI, VÔ HỌC XUYÊN TẠC KHIẾN CHÚNG PHẢI CHUỐC LẤY HỌA DIỆT VONG” (2Pr 3,15-17).

Cảm tạ ơn Chúa muôn ngàn trùng đã ban cho GIÁO HỘI CÔNG GIÁO HUẤN QUYỀN TỐI CAO GIẢI THÍCH ĐÚNG KINH THÁNH, BẢO VỆ GIÁO LÝ TRUYỀN THỐNG SUỐT 2.000 NĂM QUA, GIỮ ĐƯỢC LÝ TƯỞNG CỦA HỘI THÁNH CHÚA KITÔ LÀ: DUY NHẤT, THÁNH THIỆN, CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀN. Nếu không có HUẤN QUYỀN TỐI CAO NÀY, mỗi miền, mỗi nhóm thậm chí mỗi người tự do HIỂU VÀ GIẢI THÍCH KINH THÁNH THEO Ý RIÊNG MÌNH, thì ngày nay cũng có trăm phe, nghìn phái chẳng thể nào DUY NHẤT TRONG MỘT ĐỨC TIN, MỘT NỀN LUÂN LÝ, MỘT NỀN PHỤNG VỤ VÀ MỘT PHẨM TRẬT NHƯ HIỆN NAY ĐƯỢC.

Các anh em CẢI CÁCH không biết như thế nào nhưng cứ nhìn hiện tượng cả trăm, cả nghìn phái độc lập với nhau, thì chắc chắn một điều là các phái KHÔNG HIỂU KINH THÁNH GIỐNG NHAU.

CHÚA GIÊSU CHỈ MUỐN VÀ CHỈ LẬP: “MỘT ĐÀN CHIÊN VÀ MỘT CHỦ CHIÊN” (Ga 10,16).

QUYỀN GIÁO HUẤN ĐƯỢC THI HÀNH

TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO.

1/ Những người có trách nhiệm rao giảng và giải thích LỜI CHÚA ở cấp thấp nhất là các phó tế và các linh mục. Họ phải được đào tạo kỹ lưỡng: sau khi tốt nghiệp đại học (một vài nơi còn nhận tú tài) đương sự phải qua ít là 4 năm tìm hiểu rồi mới thi vào lớp dự bị 1 năm, sau đó vô lớp tu đức 1 năm, lên học triết học 2 năm, đi giúp xứ thực tập 1 năm, học thần học 4 năm, nếu đậu hết các kỳ thi, tư cách, đạo đức tốt có thể được phong PHÓ TẾ. Sau đó đi thực tập 1 năm nữa trước khi có thể được phong chức LINH MỤC (vị chi 14 năm nếu suôn sẻ).

Nếu ai giải thích điều gì lạc ra ngoài truyền thống Giáo Hội sẽ được nhắc nhở, sửa sai. Nếu cố chấp sẽ bị cất chức vĩnh viễn.

Trong khi đó một số bộ phận nào đó của một phái Tin Lành ở Mỹ đã phong cho 1 cậu bé 11 tuổi được làm Mục sư, giảng dạy quần chúng, giải thích Kinh Thánh - Tôi thực sự nghi ngờ khả năng của vị Mục sư “con nít” này. Ai tôn vinh, tán dương thì cứ tự do, tùy ý.

Tối 28/8/2015 trên Facebook của một bạn trẻ có nick name Ước mơ cuối đã đăng tin tên và hình ảnh như sau:

“Em bé 11 tuổi được phong Mục sư.

Cậu Ezekiel Stoddard 11 tuổi đã được phong Mục sư tại nhà thờ Fullness of Time ở tiểu bang Maryland (Hoa Kỳ). Một cậu bé trình độ lớp Năm làm sao đứng trên tòa giảng mà giảng Kinh Thánh cho mọi người được? Trong thời buổi văn minh hiện đại này nữa chứ?”

2/ Cấp cao hơn là các giám mục, hồng y được tuyển chọn trong hàng ngũ linh mục nếu giảng dạy không theo truyền thống của HỘI THÁNH cũng bị huyền chức ngay.

3/ Các sách đạo xuất bản phải có phép của giáo quyền địa phương tức là giám mục giáo phận với ký hiệu IMPRIMATUR (chuẩn ấn) mới có giá trị bảo đảm không có gì sai đức tin và luân lý.

4/ Các kinh đọc chung, các bài thánh ca, các mẫu ảnh tượng cũng phải có phép như vậy.

5/ Những vấn đề lớn hơn và đặc biệt nghiêm trọng thì phải có PHÁN QUYẾT LONG TRỌNG NHÂN DANH CHÚA BA NGÔI VÀ TOÀN THỂ GIÁO HỘI CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG LẤY QUYỀN THÁNH PHÊRÔ MÀ XÁC ĐỊNH. THƯỜNG THÌ NGÀI TRIỆU TẬP CÔNG ĐỒNG CHUNG GỒM CÁC GIÁM MỤC TOÀN THẾ GIỚI ĐỂ CÙNG NGÀI CÓ QUYẾT ĐỊNH CHUNG.

Từ thời các thánh tông đồ đến nay đã có 22 công đồng được triệu tập.

Công đồng đầu tiên ở Jerusalem vào năm 45 giải quyết vấn đề quan trọng là không bắt dân ngoại trở lại đạo công giáo phải chịu cắt bì…

Công đồng NICEA năm 325 có 306 nghị phụ họp theo chỉ thị của đức GIÁO HOÀNG SYLVESTER I xác định CON THIÊN CHÚA ĐỒNG BẢN THỂ VỚI ĐỨC CHÚA CHA.

Công đồng lớn nhất là VATICAN II khai mạc ngày 11/10/1962 triều đức thánh giáo hoàng GIOAN 23, kết thúc ngày 08/12/1965 triều chân phước giáo hoàng PHAOLÔ 6. Có 2860 nghị phụ không kể các chuyên viên và quan sát viên.

Công đồng đã công bố 4 hiến chế, 9 sắc lệnh, 3 tuyên ngôn hướng dẫn đời sống của toàn thể HỘI THÁNH.

VÀI ĐIỀU SƠ LƯỢC ĐỂ MỌI NGƯỜI BIẾT HUẤN QUYỀN TỐI CAO CỦA GIÁO HỘI NHƯ THẾ NÀO.

GIÁ TRỊ CỦA CÁC BẢN DỊCH KINH THÁNH.

Văn hóa Pháp vẫn nói: “TRADUIRE C’EST TRAHIR” (dịch là phản bội), còn văn chương Việt Nam thì nói: “TAM SAO THẤT BẢN” (ba lần sao chép lại thì bẩy lần sai với bản chính).

Ngày nay chúng ta đọc Kinh Thánh là đọc qua các bản dịch sang tiếng Việt từ tiếng Pháp, Anh, Hoa v.v… chứ mấy ai đọc được những cổ bản tiếng Do Thái và Hy Lạp được chấp nhận như bản gốc. Họa chăng một vài nhà chuyên môn khảo cứu Kinh Thánh…

Không biết đối với các nhóm CẢI CÁCH, các bản dịch KINH THÁNH như thế nào? Chỉ biết theo báo chí tại Việt Nam hồi 1925 lúc đó các phái TIN LÀNH mới vào Việt Nam, các mục sư đã nhờ cụ Phan Khôi, một nhà văn, nhà thơ, nhà báo thạo tiếng Pháp dịch KINH THÁNH ra tiếng Việt, phổ biến rộng rãi khắp nơi. Người viết không dám nghi ngờ khả năng tiếng Pháp của cụ Phan Khôi, chỉ ngại một điều là cụ không phải là giáo sư hay nhà chuyên môn nghiên cứu KINH THÁNH, hơn nữa cụ lại là người lương, không theo đạo Công Giáo hay Tin Lành… Một người không có niềm tin KITÔ GIÁO thì nguyên đọc THÁNH KINH cũng không thể hiểu được TRUYỀN THỐNG THÁNH KINH huống hồ là dịch… cùng lắm chỉ là “CHỮ SANG CHỮ” mà thôi… Bản dịch mà không đúng với bản gốc thì thật nguy hiểm vì có khi diễn dịch sai LỜI CHÚA.

Còn về phía Công Giáo, các bản dịch KINH THÁNH, phải do những nhà chuyên môn KINH THÁNH hoặc những nhóm chuyên môn đảm trách… bản dịch còn phải qua đấng bản quyền duyệt cho IMPRIMATUR mới được xuất bản và phổ biến… không phải chỉ giỏi ngoại ngữ là dịch được KINH THÁNH. Ai dám làm chuyện này phải được xem là “TO GAN” vì bản dịch của họ chẳng ai đọc…

(còn tiếp)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết


VIỆC TRUYỀN Y BÁT

LIÊN QUAN ĐẾN CÁCH HIỂU

ĐẠO PHẬT NHƯ THẾ NÀO?

(tiếp theo số 113)

Muốn Thấy Tánh thì Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Nếu biết Chúng Sanh ở Tâm mình, thì thấy Phật Tánh ở Tâm mình. Muốn cầu thấy Phật thì phải biết cái Tâm Chúng Sanh…”. Nếu chúng ta chưa hiểu giống như Ngài. Chưa biết rằng: “Tâm ta tự có Phật. Phật ở Tâm mình mới thiệt là chơn Phật”, để đi tìm Phật của Đức Thích Ca. Tạo dựng hình tượng của Ngài để hương khói tôn thờ, thì phải chăng ta cũng đọc, tụng Kinh Kim Cang mà không thấy lời cảnh báo: “Nhược dĩ Sắc kiến Ngã. Dĩ âm thanh cầu ngã”sẽ đưa đến kết quả mà Kinh khẳng định: “Thị nhân hành tà đạo. Bất năng kiến Như Lai”! Phật có nghĩa là Giải Thoát. NHƯ LAI không phải là PHẬT TỔ NHƯ LAI, quyền uy trùm khắp, mà nói về tình trạng “Đến, đi không động”. Không động đây không có nghĩa là dùng thần thông để bay, mà là KHÔNG KHỞI TÂM. Phật của Đức Thích Ca là sự Giải thoát của Ngài. Phật của ta ở nơi Tâm của mình. Giải Thoát của mình cũng ở nơi đó. Ta không tìm ở đó lại quay ra tìm Phật của người khác thì sao gọi là Chánh Đạo? Phật dạy Tự Độ, ta lại cầu xin để được độ thì sao gọi là đệ tử của Ngài?

Giáo Pháp Đại Thừa hay Phật Giáo Nguyên Thủy đều nói rằng Đức Thích Ca cũng chỉ là một con người bình thường như tất cả mọi người, nhờ tu hành mà được Giải Thoát. Tất cả mọi người đều có thể làm được như Ngài, tại sao không nương Giáo Pháp của Phật để lại mà Tự Độ, lại phải cầu xin Phật Độ cho? Nói rằng Phật dạy TỰ ĐỘ, mà Chùa nào cũng khuyến khích Phật Tử Cầu An, Cầu Siêu. Cầu cho Hòa Bình thế giới. Cầu cho Quốc Thái, Dân An. Cầu cho mưa thuận, gió hòa. Cầu cho gia đình bình yên, chồng thăng quan tiến chức, con cái học hành tấn tới. Thậm chí có người còn bỏ hết mọi việc, cả ngày chỉ niệm Phật để chờ về Tây Phương Cực Lạc, khác nào sống chỉ để chờ chết! Vậy thì đó có phải là Đạo Phật chân chính, hay do thiếu sự dẫn dắt của các vị Chứng Đắc thật sự nên nhiều thời qua Giáo Pháp của Đạo Phật đã bị pha trộn nhiều nghi thức của các thần giáo khác và tự mâu thuẫn mà không hay?

Trong khi Phật dạy TỰ ĐỘ, thì nhiều người chỉ nhất tâm chờ mong Phật Độ. Rõ ràng họ đã không đối chiếu với thực tế để thấy: Nếu Đức Thích Ca làm được việc đó thì hẳn đất nước của Ngài và những nước tôn thờ Ngài phải phồn thịnh hơn những nước khác trên thế giới, và nhân loại ngày nay không còn chiến tranh, đau khổ, nghèo đói nữa! Ngược lại, nước Ấn Độ của Ngài vẫn đầy dẫy bất công, thiên tai, tật ách. Người dân vẫn nghèo khổ. Hàng ngàn nông dân đã tự sát trong vài thập kỷ qua vì hạn hán cũng như các vấn đề với chính phủ, và mới đây, ngày 15/8, Vnexpress đưa tin theo Times of India, khoảng 25.000 nông dân ở thị trấn Mathura, bang Ultar Pradesh viết thư gởi Tống Thống xin phép được tự tử trong ngày Quốc Khánh của nước này, sau 17 năm đấu tranh đòi bồi thường do việc xây dựng cầu làm cho đất nông nghiệp bị ngập mà không được giải quyết. Trước áp lực đó, chính phủ đang hứa sẽ giải quyết sớm. Cuối tháng Tư vừa qua là mấy trận động đất kinh hồn đã xảy ra ngay Nepal là chính nơi Phật đã ra đời, làm sụp đổ bao nhiêu Tháp Cổ, giết chết cả 8.800 sinh mạng người dân vô tội! Thêm 1 trận động đất tiếp theo ngày 29/7 đã làm cho 20 người chết và 42 người mất tích, chôn vùi cả 2 ngôi làng ở miền Tây Nepal! Phải chăng đó là điều thương tâm, không ai muốn diễn ra, nhưng cũng là một hồi chuông cảnh tỉnh mạnh mẽ cho những ai còn mê tín, còn trông mong vào sự hộ trì của Phật sớm thức tỉnh, thấy rằng mình đã bị chồng mê, hiểu lầm về quyền năng tuyệt đối của Phật, để quay lại với Chánh Pháp, theo đúng con đường mà Đức Thích Ca đã dạy: Tự Tin, Tự Độ, Tự Giải Thoát.

Phật không thể độ được cho ai, kể cả con ruột của Ngài cũng phải Tự Tu hành để Tự Độ. Ý nghĩa này cũng được viết rất rõ trong Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN. Kinh viết: Trong một lần khi Phật giảng pháp, thì Ngài La Hầu La lơ đãng, không nghe.

Phật bảo: “Này La Vân con ơi! Gặp Phật ra đời rất khó. Nghe được Chánh Pháp rất khó. Giữ được thân người là khó và đắc đạo cũng khó, mà nay con đã được thân người, lại gặp Phật ra đời cớ sao biếng lười chẳng chịu nghe pháp vậy?”.

La Vân bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, Pháp Phật tinh diệu, tâm trí con còn non nớt đâu đặng nghe nổi pháp mầu của Đức Thế Tôn. Trước con từng nghe, nay lại quên hết, luống nhọc tinh thần, không đặng chút nào, và nay con tuổi còn nhỏ, tình ý hay buông lung, đợi đến chừng nào con lớn khôn may ra có khác chút nào mới nghe pháp được”.

Phật bảo: “Muôn vật vô thường, thân người khó giữ được. Vậy ngươi có thể giữ được mạng ngươi đến lớn không?”.

“Dạ thưa Thế Tôn! La Vân con đây không thể giữ được, nhưng Phật há chẳng giữ giùm mạng con ư?”.

Phật bảo: “Này La Vân! Ta còn không giữ được cho ta, huống chi là giữ giùm cho ngươi”!

Phật còn không giữ được mạng cho mình, cũng không giữ được mạng cho con ruột. Chính Ngài cũng đã chết, cũng đã Trà Tỳ, vậy mà ta cầu xin Phật cho ta được tai qua, nạn khỏi, sức khỏe, sống lâu, thăng quan, tiến chức… mà không thấy là mâu thuẫn với lời Phật dạy sao?

Nhìn những người tu Phật, ai cũng đầu tròn, áo vuông, cũng mang lời Phật để thuyết giảng. Cũng nói về Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo thì chúng ta khó phân biệt ai là người giảng đúng Chánh Pháp, ai không. Nhưng cũng không khó để phân biệt ai hành không đúng Chánh Pháp. Đó là những người cũng mang lời Phật để giảng nói, nhưng lại hướng tín đồ đến tôn thờ, cầu xin Phật mà không tự mình xây dựng cuộc sống, trong đó, góp phần giúp ích cho đời. Bởi nếu mọi người chỉ tâm tâm, niệm niệm nghĩ đến Phật, cho rằng nghĩ gì khác là thất niệm thì còn làm sao lo được cho bản thân, huống là giúp ích cho xã hội để trả nợ TỨ ÂN? Chính vì vậy mà đã có dư luận thắc mắc và tôi đã từng đọc thấy có một người đã chất vấn một vị Sư rằng: “Nhiều người cho rằng những nước mà số đông người dân theo Đạo Phật đều nghèo”! Vị Sư đã trả lời là: “Nước Nhật cũng theo Đạo Phật, nhưng vẫn là một trong những nước văn minh, tiến bộ nhất”! Theo tôi, người trả lời đã “vơ đũa cả nắm”, để nhận lấy cái hay, công sức của người khác về cho Đạo Phật. Bởi có lẽ mọi người đều thấy: Những người làm nên sự tiến bộ của đất nước Nhật là những nhà kinh tế, những nhà khoa học, những người công dân bình thường của nước họ, không phải là những người tu Phật! Bởi những người tu Phật ở nước nào thì cũng chỉ chuyên tâm thờ phụng Phật, thậm chí trước khi vô tu, có ngành nghề chuyên môn nào đều phải bỏ hết, để rồi cả đời chỉ tụng Kinh, niệm Phật mà thôi. Vì thế, nơi nào Đạo Phật thịnh hành thì cái phát triển mạnh nhất chỉ là Chùa Chiền, chẳng phải là khoa học, kinh tế và đời sống người dân! Như Miến Điện chẳng hạn, 90% dân số nước này theo Đạo Phật, cho nên Chùa ở đó thuộc hàng đẹp, sang nhất thế giới với những mái Chùa lộng lẫy, đúc bằng cả mấy tấn vàng. Vương miện của tượng Phật thì dát cả mấy ngàn viên ngọc, trong khi đất nước thì nhiều nơi còn lạc hậu, phương tiện giao thông thì cũ kỹ, thô sơ, cuộc sống còn khó khăn, không xứng tầm với những ngôi chùa mà xứ họ nhờ đó mà được cả thế giới ngưỡng mộ, nếu không nói là một hình ảnh tương phản quá rõ nét. Liệu đó có phải là điều Phật mong mỏi khi mang Đạo Phật vào đời?

Từ bao đời nay, chúng ta chưa từng thấy công trình khoa học hay sáng kiến nào giúp cho cuộc sống của con người đỡ khó khăn hơn xuất phát từ các vị tu hành. Người Xuất Gia tu hành là mặc nhiên từ bỏ tất cả những việc có liên quan đến thế gian để chỉ nghĩ đến việc tôn vinh, thờ phụng Phật, trong khi phần đông đều đang sức trẻ, có thể làm nhiều việc cho đất nước, quê hương. Theo tôi, nếu tới thời này rồi mà vẫn tồn tại những suy nghĩ và cách làm đó thì quả là oan cho Đạo Phật chân chính, vì Đạo Phật là Đạo Nhân Quả dạy con người dẹp hết Nhân Xấu để không phải chịu Quả xấu trả lại. Nhưng nếu Nhân Tốt cũng dẹp hết thì làm sao có Quả lành? Khác nào người làm nông được dạy cho phân biệt giữa lúa mạ và cỏ dại phá hại ruộng lúa, để nhổ bỏ cỏ đi, giữ lại lúa mạ. Nhưng do không phân biệt, nên lúa hay cỏ dại nhổ hết thì lấy đâu ra lúa để có gạo mà dùng! Vì thế, nếu ai tu hành cũng chỉ để phụng sự Phật, chê bỏ cuộc sống, không tham gia sản xuất, hay hoạt động trong các ngành nghề để tiếp tay với xã hội giúp nâng cao cho cuộc sống con người, thì Đạo Phật phụng sự nhân sinh chỗ nào? Nếu bản thân mỗi người không làm ra tiền bạc, của cải, thì giúp đỡ người khác cách nào? Khuyên họ giữ tròn đạo đức, đừng tham lam, trong khi gia đình họ cái ăn còn chưa có thì e rằng hơi khó, bởi ông bà ta có nói: “Có thực mới vực được đạo”!

Thật vậy, cuộc đời cần biết bao nhiêu người chung tay xây dựng, vì cuộc sống dù nói là giả tạm nhưng cũng kéo dài cả 100 năm. Người tu hay không cũng phải hưởng dụng mọi thứ của đời, sao không mang sức, tài để đóng góp cho xã hội, vì đó là một trong Tứ Ân mà Phật dặn dò người tu phải đáp đền. Chẳng lẽ ta lại đền ân đất nước bằng cách Cầu Xin Phật gia hộ, trong khi giáo pháp của Thừa nào cũng cho rằng Phật không phải là thần linh, không phù hộ được cho ai, vậy thì lời cầu xin mang ý nghĩa gì?

Bao nhiêu thời qua, nếu không có những người đang tuổi thanh xuân mà bỏ hết để vô chùa chỉ để phụng sự cho Phật, thì chúng ta có biết bao nhiêu Bác Sĩ, Kỹ Sư, Kiến Trúc Sư, những nhà Kinh Tế, những nhà Khoa Học, những nhà hoạt động trong mọi lãnh vực cho xã hội được nhờ? Nếu họ đã chê chán cuộc đời, coi thường danh vọng, vật chất, thì với cái Tâm không ham, không tranh giành của đời, lại xem mọi người như là những “vị Phật sẽ thành”, họ sẽ làm biết bao nhiêu việc để đóng góp xây dựng cho đời? Tùy theo lĩnh vực chuyên môn, thí dụ như Bác Sĩ, Dược Sĩ sẽ nghiên cứu, tìm tòi, phát minh thêm để ngày càng trị dứt bệnh cho con người mà không nghĩ đến việc dùng kiến thức đó để vơ vét, làm giàu cho bản thân. Là nhà chính trị thì họ sẽ hết lòng vì nước, vì dân, không đục khoét đất nước. Trong lãnh vực Giáo Dục thì họ sẽ tìm mọi cách để nâng cao dân trí, để đất nước thoát lạc hậu, đói nghèo. Nếu là nhà Khoa Học họ sẽ học hỏi nơi các nước văn minh để làm sao đưa khoa học, kỹ thuật về phục vụ đất nước. Là nhà văn, nhà báo thì họ sẽ dùng ngòi bút của mình để hướng con người đến nếp sống nhân văn hơn, đạo đức hơn, yêu thương, đùm bọc nhau hơn, góp phần lành mạnh hóa xã hội… Với tất cả mọi ngành nghề mà có người không nghĩ đến bản thân thì sức đóng góp về trí tuệ, tài năng, sức lực, tài chánh… sẽ hữu hiệu biết bao nhiêu cho cộng đồng, góp phần đưa đất nước đến hùng cường, giàu mạnh hơn.

Đạo Phật ra đời là vì con người, để phục vụ con người, mong mỏi mang đến cho con người những điều an vui, tốt đẹp, nhưng mỗi người phải tự thanh lọc thân, tâm để đạt được, không phải do Phật ban cho. Những người tu hành chân chính thì đều hiểu là dù mai kia có chứng đắc cũng không thể độ được cho ai. Chính vì vậy, Mã Tổ Bách Trượng ngày xưa, dù cai quản cả một Thiền Viện đã “Nhất Nhật bất tác. Nhất nhật bất thực”! Bởi nếu ai có biết Mục Đích của Đạo Phật thì sẽ thấy là: Chỉ vì con người chấp cái Thân là Mình, để rồi trong khi kiếp sống chỉ kéo dài chừng trăm năm, mà thời gian đó lại tạo biết bao nhiêu Ác Nghiệp, nên Đức Thích Ca đã dùng rất nhiều phương tiện, nhưng mục đích chỉ là để giáo hóa con người cái Ác, hành Thiện để kiếp hiện tại được an vui mà những kiếp về sau cũng khỏi bị đọa vào đường ác. Mục đích chỉ có vậy, chẳng phải để thành Phật, thành thánh hay thành thần linh phổ độ cho ai. Tu hành miên mật, giữ bao nhiêu Giới, sớm chiều chuông mõ, hành Lục Độ, Vạn Hạnh, nhưng kết quả chỉ là để “Tứ đại giai không”, “Lục Căn thanh tịnh”, cái Tâm không còn Vô Minh, vọng động, được thanh tịnh, thì có nhất định phải bỏ hết tất cả việc đời, thiếu bộ Y, thiếu hình tướng là không làm được không. Có Kinh nào khẳng định điều đó không?

Đã đành thời nào cũng cần giữ gìn Chùa chiền, Sư Tăng làm nơi để cho bá tánh hướng về, để học hỏi. Nhưng thiết nghĩ chỉ nên ở một số vừa phải. Tự lo liệu cuộc sống để không ảnh hưởng đến người khác và khỏi mang nợ Nhân Quả, bởi “ai tu nấy đắc”, có đắc đạo cũng đâu có “độ” được cho ai. Lại nên ở vào độ tuổi đã hoàn thành trách nhiệm với cuộc đời, và phải là bậc chân tu, không màng danh lợi, lại phải có đủ kiến thức về Đạo, có thể phổ biến Đạo Phật theo đúng Chánh Pháp, để không phung phí tuổi trẻ, sức lực và tiền bạc của xã hội, lại tạo điều kiện cho một số không nhỏ những phần tử lười nhác núp bóng chùa chiền để được nhàn thân. Ngay khi Phật nhập diệt một thời gian ngắn, vào kỳ kết tập thứ 2, Giáo Hội đã phải loại ra đến mấy mươi ngàn tu sĩ giả trà trộn trong hàng ngũ Tăng Chúng, và thời Phật Giáo cực thịnh, nước ta cũng đã tổ chức những kỳ sát hạch để loại những phần tử núp bóng chùa chiền. Có như vậy thì Đạo Phật mới thoát được mê tín, thật sự hướng con người đi về nẻo chánh.

Vì vậy, theo tôi, đến thời này rồi, mọi người nên sáng suốt để dẹp bỏ việc cầu xin, chờ ơn trên ban phát, hoặc cúng bái, ăn chay với mục đích trao đổi, mà chỉ nên gieo Nhân Thiện để hưởng Quả Lành. Mọi người sau khi loại bỏ Tham, Sân, Si thì không còn tranh giành, sâu xé, tàn sát nhau trong cảnh sống giả tạm, trái lại kính trọng và yêu thương, giúp đỡ nhau. Một mặt tích cực học hỏi, làm việc, để đưa bản thân và gia đình đi lên, qua đó góp phần dân tộc, đất nước thoát lạc hậu, đói nghèo. Đó mới là cái hiểu và thực hành Đạo Phật theo đúng Chánh Pháp. Thật vậy, “độ khổ” cụ thể nào hơn mở mang dân trí cho con người, chỉ cách cho họ làm ăn, sinh sống. Thuyết phục cho người giàu bớt ích kỷ, chỉ biết thu vén cho bản thân mà biết san sẻ cho người nghèo. Mọi người tích cực học hỏi khoa học, kỹ thuật, ngành nghề để ứng dụng vào đời sống, thay vì lợi dụng, bóc lột nhau thì tận tình nâng đỡ nhau để cùng sống trên trái đất màu mỡ cho đến hết kiếp. Khi không còn cảnh chiến tranh, giết chóc, tàn sát lẫn nhau thì cảnh đời với thiên nhiên hữu tình, non xanh, nước biếc, hoa trái bốn mùa sẽ tốt đẹp biết mấy.

Cách đây vài năm, nhiều Chùa và Phật Tử trên nhiều nước đã rầm rộ cung nghinh tượng PHẬT NGỌC, có danh hiệu là “Phật Ngọc vì hòa bình thế giới”. Mỉa may thay, dù Phật Ngọc được cho là uy lực lớn như vậy mà không tự bảo vệ nổi cho mình! Chùa muốn thỉnh về cho bá tánh chiêm ngưỡng, ngoài trả chi phí cho chủ nhân còn phải đóng một số tiền khá lớn để bảo hiểm cho tượng, lại phải thuê một lực lượng để bảo vệ! Và rồi, trong một tai nạn giao thông ở Đức, tượng Phật Ngọc đã bị tổn thương nghiêm trọng, nhưng không được công bố nghiêm trọng cỡ nào! Không biết sau đó mọi người được giải thích thế nào, và lòng tin của những Phật Tử có vì đó bị suy giảm, vì thấy sự thật phũ phàng không? Phải chăng việc đó khẳng định thêm lời Phật đúng là chân lý, dù có làm bằng vật liệu quý giá cỡ nảo. Gán ghép vô đó bao nhiêu danh hiệu, mỹ từ lớn lao, cao quý thì “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” không thể khác được.

Trong khi Đại Thừa dạy Tu Phật là để thực hiện lời Thọ Ký của Phật, để Thành Phật, vì: “Chúng sinh là Phật sẽ thành”. Cho rằng cái Vọng Tâm là thủ phạm của mọi phiền não, đau khổ, nên tất cả mọi người, không phân biệt giới tính, trình độ, không cần vô chùa hay ở thế tục, miễn là thấy được nó, Điều Phục nó rồi dùng lại. Mọi người vừa có thể tu hành mà vẫn tiếp tục ngành nghề, công việc cũ. Vẫn làm tròn trách nhiệm của một con người, một công dân trong đất nước, để đất nước không phí đi tài năng, sức người. “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Nước nào được nhiều hiền tài phò trợ thì kinh tế phát triển, đời sống con người cũng được nâng lên. Người tu vẫn sinh sống bình thường giữa cuộc đời, chỉ cần tu sửa cái Tâm, bỏ Ác, hành thiện, thì có những người vẫn khăng khăng cho rằng ai muốn tu hành đều phải bỏ hết tất cả, chỉ nghĩ tưởng đến Phật, làm cho bao thời qua, biết bao nhiêu lớp người phí hoài cả kiếp sống, không đóng góp gì được cho cuộc đời! Và một nghịch lý rất lớn, là dù buông trôi cuộc đời, bỏ cả cha mẹ già không phụng dưỡng, không được có gia đình, không được nghĩ gì ngoài Phật mà cũng không được mơ mộng Thành Phật!

Rồi sự thật là mấy ngàn năm rồi, bao nhiêu lớp người đã Ly Thế Gian, mà được bao nhiêu người Thành Phật? Nhiều người tưởng rằng vào chùa là đã “Thoát vòng tục lụy”, nhưng thực tế đã chứng minh là vài năm gần đây, báo chí đưa tin một số thầy tu ở Hàn Quốc cờ bạc, nhậu nhẹt trong khách sạn, trong một đêm đã tiêu hết mười mấy tỷ Won. Một trụ trì ở Thái Lan xài toàn hàng hiệu, có cả mấy mươi chiếc xe đắt tiền và có đến mấy bà vợ. Một trụ trì của Thiếu Lâm Tự bị tố cáo cặp với nhiều minh tinh, có cả con riêng với sư nữ, đang bị báo chí rầm rộ đưa tin và chính quyền cũng đang vào cuộc để làm rõ. Rõ ràng đến thời này thỉ mọi người đều phải công nhận Đức Thích Ca nói đúng, và người đời cũng nói không sai: “chiếc áo không làm nên thầy tu”!

Việc tu hành diễn ra trong nội tâm, nên người ngoài không thể biết là hành giả hành trì đến đâu. Nhưng nếu tu hành mà không Điều Phục cái Tâm, thì dù có ở trong Đạo bao lâu, lên đến địa vị nào cũng không khác với phàm phu. Bằng chứng là thời Tổ Đạt Ma sang Trung Quốc để giảng dạy, Quốc Sư Bồ Đề Lưu Chi phải là người đạo cao đức dày nổi bật như thế nào mới được vua tin dùng. Nhưng ông vẫn ôm giữ cái tâm đố kỵ, nên đã nhiều lần cho người bỏ thuốc vào cơm để đầu độc Tổ Đạt Ma. Lần cuối, Tổ đã không tự trị để viên tịch! Không hiểu Quốc Sư tu hành như thế nào mà ngay cả Giới Sát là Đại Giới của Đạo Phật cũng không biết để giữ, để lập đi lập lại hành vi đầu độc Tổ Đạt Ma, tức là cố ý phạm Giới Sát đến mấy lần! Đệ Tử của Sư Thần Tú cũng rất nhiều lần đi truy sát Lục Tổ Huệ Năng. Đốt chùa, đốt rừng, thậm chí cử Sư Chí Triệt đến chém Ngài. Qua đó, chúng ta thấy, rõ ràng: hình tướng dù trang nghiêm tới đâu, nhưng thiếu ĐIỀU TÂM thì có nghĩa là chưa tu hành theo đúng Chánh Pháp, vì đâu phải chỉ cần xa lìa cuộc đời, xa lìa thế gian, khoác lên người bộ Y mà trở thành thanh tịnh? Do vậy, theo Đại Thừa, cái cần xa lìa, cần phải Tu sửa, là Ba Độc, là cái dơ bẩn, thấp hèn, đố kỵ... trong Tâm của chính mình gọi là TU TÂM. Người có Tu Tâm mới thật sự là tu hành, vì mới đưa đến Giải Thoát được.

Dù cùng lấy Kinh sách để tu hành, nhưng cách hiểu, cách hành trì của người Y NGHĨA và người Y NGỮ khác nhau rất xa:

- Phật dạy VÔ NIỆM có nghĩa là bỏ Tạp Niệm, Vọng Niệm, là những tư tưởng độc ác, xấu xa, đen tối, thì người Y NGỮ bỏ hết tất cả, kể những tư tưởng tốt! Đạo Phật dạy VĂN-TƯ-TU. Nếu để đầu óc trống rỗng, không dám nghĩ tưởng gì hết. Không Tư Duy để hiểu cho rõ việc cần làm, cần xả, thì làm sao biết đúng để theo, biết sai để tránh?

- Phật dạy TRỪ TAM TÂM, tức trừ đi Tâm Tham, Tâm Sân, Tâm Si thì người Y NGỮ trừ Tâm Quá Khứ, Tâm Hiện Tại, Tâm Vị Lai để trở thành VÔ TÂM, trong khi Phật dạy phải phát vô số tâm lành. Đó là Tâm Từ, Tâm Bi, Tâm Hỉ, Tâm Xả gọi là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM.

- Phật dạy Xả những cái Chấp đã ôm giữ để được Giải Thoát, gọi là “Cúng Dường cho Phật”. Việc làm này cũng được gọi là Bố Thí 7 Báu. Bảy món Báu đó là: 3 Nghiệp Tham, Sân và Si của Thân. Bốn nghiệp của Khẩu là Nói láo, Nói lưỡi đôi chiều, Nói để khen mình, Nói để chê người, gọi là “Nội tài thí”, thì những người Y Ngữ lại “Ngoại tài thí”, mang nhà cửa, dinh thự, vàng, bạc, châu báu cúng Chùa cho là cúng Phật.

- Hình ảnh CẠO TÓC tượng trưng cho Cạo sạch Phiền Não. ĐẮP Y là phủ lên thân tâm một màu hoại Sắc, tức là không để cho Thân, Tâm dính tới Sắc tướng để được Giải Thoát… thì người Y Ngữ chỉ thực hiện phần hình tướng!

- Nghĩa của Tỳ Kheo là Bố Ma, Phá Ác, Phá Phiền Não. Như vậy người không làm việc đó, dù mang Bát, mặc Y vàng đâu thể là Tỳ Kheo!

- KHẤT THỰC tức là xin PHÁP THỰC. Có nghĩa là học hỏi Phật Pháp để tiến bộ, thì người Y NGỮ chỉ mang bát đi xin cơm trần tục.

- Phật dạy đời là VÔ THƯỜNG là để chúng ta biết rằng những sự sum họp giữa cha mẹ, vợ chồng, con cái… bên nhau không lâu dài, mọi người nên nhận ra điều đó để biết yêu thương, trân trọng những giây phút còn ở bên nhau, mai kia phải xa nhau không hối tiếc, không phải khóc lóc, hối hận vì khi còn sống bên nhau đã không xứ tốt với nhau. Nhưng Người Y Ngữ lấy đó để chê chán, yếm thế, bỏ hết tất cả, đứng bên lề cuộc đời làm phí hoài kiếp sống.

- Thuở sinh tiền Phật đã chê bỏ cung vàng, điện ngọc để đi tìm Chân Lý Giải Thoát. Chùa được Tổ Đạt Ma giải nghĩa là Thanh Tịnh Địa, tức là đất Tâm được loại bỏ những ý tưởng xấu, để trở thành thanh tịnh. Chùa đó Vô Tướng, được hình thành nơi Tâm, vì Phật là sự Giải Thoát cũng ở nơi Tâm, thì người Y Ngữ cất chùa cho hoành tráng, mang vàng, ngọc điểm tô lên tượng Phật làm bằng xi măng, gỗ, đá.

- Phật dạy “Chúng sinh là Phật sẽ thành” để mọi người kính trọng nhau, yêu thương, giúp đỡ nhau. 32 Tướng Tốt là phương tiện Phật dạy mọi người bắt chước theo để Tạc tượng Phật cho bản thân mình. Kinh viết: Mỗi Tướng Tốt đều là kết quả của sự tu diệu hạnh của Bồ Tát từ lúc mới phát tâm Bồ Đề kiên cố cho đến khi thành đạo Vô Thượng Bồ Đề: “Như Lai từng vô lượng A Tăng Kỳ Kiết dốc lòng tu trì tịnh Giới, cho nên này được cái tướng bàn chân bằng phẳng. Nhờ sự cúng dường cha mẹ và bậc có đức cho nên được tướng nghìn xoáy ốc dưới bàn chân. Đối với chúng sinh không mang lòng làm hại, không có ý tưởng cướp đoạt, hễ thấy cha mẹ hoặc những bậc có đức thì ra xa đón chào, sửa đặt tòa ngồi, cung kính lễ bái, dẹp bỏ lòng kiêu mạn, nhờ thế mà được tướng ngón tay dài và nhỏ v.v… Tướng như thế mà người Y NGỮ lại lấy vàng, bạc, thạch cao, xi măng đúc, hay lấy ngọc, đá quý để tạc lấy rồi thắp hương để thờ!

- Việc tu hành phải độc thân, phải rời bỏ gia đình, không dính dấp đến việc đời chỉ đúng vào thời điểm Đức Thích Ca bắt đầu khai đạo. Vì lúc đó chưa có chữ viết, chỉ dùng Khẩu Truyền. Tức là Đức Thích Ca giảng và chư Đệ Tử phải tập trung lắng nghe, ghi nhớ để tự mình thực hành, tương lai giảng lại, nên phải cần dẹp bỏ tất cả mọi thứ cho đỡ vướng bận. Cho tới nay đã qua gần 3.000 năm. Những gì cần học, cần hành đã được ghi chép lại đầy đủ trong Kinh sách, lại được dịch ra đủ thứ tiếng. Ai cần đều có thể thỉnh về tham khảo. Như vậy cần gì phải bỏ hết việc đời mới có thể tập trung, lắng nghe, ghi chép, học, hiểu?

- Đạo Phật dạy phải VĂN-TƯ-TU. Do đó người tu học theo Đạo Phật thì phải biết lý do mà Phật mang Đạo Phật ra giảng dạy. Phương Tiện mà Ngài đã dùng. Kết quả sẽ về đâu? Qua đó ta sẽ thấy: Giai đoạn đầu khi Đạo Phật mới thành lập thì những Đệ Tử của Ngài là nhân tố chính để tương lai phát triển ĐẠO. Do vậy, phải cần từ bỏ tất cả việc đời để có thể tập trung mà học Đạo, nên rất cần có một sự hỗ trợ từ những người thí chủ. Vì thế, Phật phương tiện nói là “Cúng dường cho người tu hành được phước báo vô lượng”, để người bố thí mà muốn trao đổi, kiếm lời nhắm vào chùa chiền Sư Tăng để cúng, cho các vị yên tâm mà tu học. Về sau, mục đích tu hành ngày càng được Chư Tổ khai triển rõ ràng thêm. Cho đến nay thì người tu có chịu khó đọc Kinh sách sẽ thấy rõ là mỗi người chỉ “Độ” được những Chúng Sinh là Tham, Sân, Si trong nội tâm của chính mình, không có cứu độ được cho chúng sinh nào bên ngoài. Ngay cả Đức Thích Ca cũng chỉ độ cho mọi người bằng Giáo Pháp, Ngài không có cầm tay dắt ai lên được Niết Bàn. Do đó, việc nhờ người khác cung dưỡng để yên tâm tu hành là không cần thiết, vì Đạo Phật đã được phổ cập trong mọi tầng lớp, qua biết bao nhiêu thời với biết bao kinh sách giảng, luận, giáo pháp của Đạo Phật một cách chi tiết, rõ ràng, không có gì bí mật nữa. Vì thế, với Pháp Bố Thí, Kinh Duy Ma Cật viết: “Nếu người thí chủ dùng tâm bình đẳng, thí cho một người ăn xin rất hèn hạ xem cũng như tướng phước điền của Như Lai, lòng đại bi bình đẳng, không cầu quả báo. Đó gọi là đầy đủ pháp thí vậy”.

- Pháp Bố Thí đầy đủ thì phải đủ “Tam luân không”, tức không có của cho, không có người cho, không có người nhận. Đó là hành Vô Tác, trong Vô Tướng, là việc thí xả nơi tâm của người làm. Còn bố thí, cúng dường cho người ngoài, dù là Sư Tăng hay người nghèo đều có đầy đủ ba thứ: Của cho, người cho, người nhận. Như vậy đâu có đúng là Pháp Thí?

- Ai cũng biết “Tu Phật là tu Tâm”, vậy thì tại sao phải vòng vo cất chùa cho thật hoành tráng, đúc tạc tượng Phật cho thật to chỉ để bá tánh nhìn vào đó mà ngưỡng mộ rồi mới quay vô Tâm gọi là Tiệm Giáo, mà không theo Đốn Giáo “Trực chỉ Chân Tâm Kiến Tánh thành Phật”?

- Người Y Ngữ cho rằng có Phật A Di Đà và TÂY PHƯƠNG CƯC LẠC và, nên cả đời sống thuần thiện, ăn chay, niệm Phật, tụng Kinh, gỏ mõ để chờ khi chết được Thánh Chúng rước về đó. Lục Tổ dạy: “Muốn đến Tây Phương Cực Lạc chỉ cần Trừ 10 điều Ác, dứt Tám Điều Tà, niệm niệm Thấy Tánh, thường làm việc công bình, chánh trực thì đến cõi ấy mau như khảy móng tay, liền thấy Phật A Di Đà”.

(còn tiếp)

TÂM NGUYỆN

(Tháng 6/2015)


Hưởng muộn

Hồi mới tập tành chơi sách, một lần vào tiệm Minh Ngọc của anh Cầu béo, hồi ấy còn trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, thấy một cuốn của Trương Vĩnh Ký in năm 1868. Khỏi phải nói mừng như thế nào. Sách của Trương Vĩnh Ký thuộc loại hiếm, đa số xuất hiện trên thị trường đều thuộc giai đoạn 188x chứ 186x là thời kỳ ông mới bước vào nghiệp cầm bút thì vô cùng hiếm. Hỏi giá, anh Cầu phát một cái giá cũng khá hữu nghị, ngặt một nỗi trong ví lại không sẵn tiền. Bỏ cuốn sách trên mặt b àn, chạy về nhà lấy tiền, quay lại thì anh Cầu thông báo: “Em vừa ra khỏi cửa là có ông khách cầm lên mua liền, sao không dặn anh giữ lại cho”. Anh Cầu còn tỏ vẻ tiếc rẻ vì cứ ngỡ nó in 1898 chứ biết 1868 đã bán giá khác. Một cảm giác thất vọng não nề suốt mấy ngày hôm sau. Đúng là con cá trượt là con cá to. Sau này sưu tầm được thêm khá nhiều sách của Trương Vĩnh Ký nhưng chưa bao giờ gặp lại cuốn xưa như thế. Cứ tưởng vô duyên với nó rồi, thì một ngày đẹp trời nó lại xuất hiện. Cái số mình chắc đúng như tử vi nói, được hưởng muộn chứ không phải không được hưởng hihi.

NGUYỄN HOÀNG MINH


Phụ Bản I

THƠ CA NGA XÔ VIẾT

GIAI ĐOẠN CHIẾN TRANH

GIỮ NƯỚC VĨ ĐẠI Ở VIỆT NAM

Thúy Toàn

Vào đầu những năm 1990, sau khi Liên Xô sụp đổ, cái điều phủ nhận nền văn học Xô viết, mà trước đó chừng ba bốn năm, nhà văn Vichto Erofeev đưa ra trong bài báo “Lễ cầu hồn cho văn học Xô viết”, đang thắng thế, thì tôi lại tìm thấy sự khẳng định ngược lại trong bài trả lời phỏng vấn của A.Zinôviev, đăng trên tờ “Bình luận sách”. A.Zinôviev, lúc đó đã ở tuổi 70, là một tri thức Nga sống ở Paris. Ông đã nói: “Văn học Xô viết, đặc biệt văn học trước chiến tranh, một phần văn học giai đoạn chiến tranh và những năm đầu sau chiến tranh, đó là một nền văn học vĩ đại. Trong lịch sử văn học, tôi không biết ở đâu trong một thời gian ngắn như vậy mà làm được nhiều đến như thế. Một nền thơ vô tiền khoáng hậu… Một nền thơ như thế trên thế giới không đâu có”.

Ấy là ông A.Zinôviev nói về nền thơ Xô viết giai đoạn Chiến tranh Giữ nước vĩ đại. Quả thực như vậy, những bài thơ của các nhà thơ Xô viết trong giai đoạn này, kể từ bài đầu tiên Cuộc chiến tranh thần thánh của V.Lebedev- Kumats được nhạc sĩ A.V.Alekxandrov phổ nhạc, lập tức vang lên khắp cả nước ngay ngày hôm sau khi phát xít tấn công Liên xô, cũng như hàng nghìn bài thơ xuất sắc khác được các nhà thơ đã cùng bước đi trong hàng ngũ các chiến sĩ Xô viết, vượt qua suốt con đường bốn năm, trực tiếp sáng tác ở ngoài chiến trường, hay suốt bốn năm luôn dõi theo bước đi của các chiến sĩ ngoài mặt trận, dốc hết tâm lực, tình cảm thương yêu đằm thắm viết ra ở hậu phương, như Lời thề của Anna Akhơmatova, Đêm đen của Vlađimir Agatov, “…Con nói với Người trong tiếng rít của đạn đại bác” của Olga Bergoltx, “Đợi anh về”, “Aliôsa nhớ chăng, những con đường Xmolensina”…của K.Ximônôp, Chỉ một lần em nhìn thấy trận giáp lá cà của Iulia Đrunhina, Đặt anh vào lòng đất của M.Ixacôpxki, Tôi đã bị giết chết ở Rgievô và trường ca Vaxili Chiôrkin của A.Tvardopxki, trường ca Đứa con trai của Paven Antôkôlxki…

Thể hiện tình cảm yêu thương tổ quốc, quê hương, yêu thương nước Nga nồng thắm, tình đồng chí, đồng đội sâu sa, thể hiện lòng mong muốn một cuộc sống bình yên vui tươi quện với chí căm thù đối với tội ác dã man, niềm quyết tâm không thể chung sống với thế lực phát xít đen tối,… Những bài thơ ấy đã động viên toàn nhân dân Liên xô, nhân dân Nga đứng lên bảo vệ Tổ quốc, chiến thắng quân thù. Những bài thơ ấy cũng đem đến cho nhân dân ở nhiều đất nước khác những sức mạnh đáng kể.

Dù xa xôi cách trở, ở Việt Nam đông đảo nhân dân đã sớm có cảm tình và đón nhận thơ ca Xô viết giai đoạn ấy. Bài ca Cachiusa, thơ của M.Ixacôpxki được M.Blanter phổ nhạc, đã theo những người thủy thủ Pháp đến cảng Hải Phòng Việt Nam ngay từ đầu những năm 1940. Năm 1947, bài thơ Đợi anh về của K.Ximônôp đã được nhà thơ Việt Nam Tố Hữu dịch ra tiếng Việt. Nhà thơ Tố Hữu đã kể lại cho nhà văn – đạo diễn điện ảnh Xô viết R.Karmen nghe: “Giặc Pháp nhảy dù và chiếm thành phố Bắc Kạn. Quân đội chính quy và du kích của chúng tôi đã chiến đấu ác liệt ở vùng Sông Lô và trên núi đèo, nhân dân rời bỏ làng xóm và thành phố thân yêu, bị kẻ thù biến thành những đống tro tàn. Một tối nọ, tôi đã tìm được cuốn sách Những cô gái Xô viết và trong đó có thấy bài thơ “Đợi anh về” của Konxtantin Ximônôp được Luykette dịch sang tiếng Pháp. Bài thơ đã làm tôi xúc động mạnh. Tôi đã nhìn thấy những người chị gái, em gái của tôi phải trải qua những đau thương mất mát khôn lường. Tôi muốn đem đến cho những người chị gái, em gái Việt Nam anh hùng của tôi những lời an ủi và hy vọng. Suốt đêm, cho đến sáng tôi đã dịch xong bài thơ…” [1]

Bản dịch của Tố Hữu bài thơ của K.Ximônôp có thể coi là bản dịch thơ Nga đầu tiên mở đầu cho việc dịch và phổ biến thơ ca Nga ở Việt Nam. Từ đấy thơ ca Xô viết, thơ ca Nga thực sự đã chiếm lĩnh tâm hồn tình cảm của bạn đọc Việt Nam.

Trong vòng hơn nửa thế kỷ, thơ ca Nga đã được mấy thế hệ người dịch ở Việt Nam dịch và phổ biến rộng rãi. Trước đó, thơ ca các nước khác có quan hệ hàng thế kỷ với Việt Nam, như thơ ca Trung Quốc, thơ ca Pháp… cũng mới chỉ được dịch lẻ tẻ đăng trên báo chí, tập họp trong vài ba tập sách, trong khi chỉ từ giữa thế kỷ XX đến nay, thơ ca Nga ở Việt Nam đã được dịch, xuất bản có tới hàng trăm tập, không kể còn bao bản dịch khác in trên báo chí, in trong các hợp tuyển khác [2] .

Các thế hệ dịch giả Việt Nam yêu quý thơ ca Nga trong khi dịch đã chú ý nhiều đến thơ ca Nga trong giai đoạn Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Điều này dễ hiểu bởi đất nước Việt Nam đã phải trải qua mấy cuộc chiến tranh kéo dài liên tiếp hàng hơn ba chục năm trời. Các dịch giả nhà thơ Việt Nam đã tìm thấy sự đồng cảm trong thơ của các nhà thơ Nga Xô viết trong giai đoạn này. Xuân Diệu, vị hoàng tử của thơ tình Việt Nam, đã dành tâm huyết để dịch những trích đoạn hay nhất trong trường ca Đứa con trai của Paven Antôkôlxki, sáng tác sau khi nghe tin con trai mình, một sĩ quan Xô viết, hy sinh anh dũng ngoài mặt trận. Nhà thơ Tế Hanh, bấy giờ đang canh cánh nỗi lòng vì quê hương ở miền Nam Việt Nam đang bị chia cắt sau vĩ tuyến 17, đã dịch bài thơ Trước ngày lễ lớn cũng của P. Antôkôlxki, rồi bài thơ vô đề “Gió gào thét trong rừng” sáng tác năm 1942 của Xtepan Tsipatsev, với tình cảm yêu thương và niềm tin chắc chắn vào ngày chiến thắng cuối cùng của dân tộc. Dịch những bài thơ Trong chiến hào của A. Xurcôp, Em ơi, đừng tin của Muxtai Djalin, nhà thơ Việt Nam Đào Xuân Quý cũng gửi gắm những tình cảm tương tự của mình…

Đặc biệt các dịch giả Việt Nam các thế hệ tiếp theo, sống và sát cánh cùng nhân dân chiến đấu chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ những năm 1960, 1970, đã tìm thấy nhiều đồng cảm trong thơ ca Nga giai đoạn Chiến tranh giữ nước vĩ đại, để biểu đạt tình cảm của mình. Dịch giả Thái Bá Tân đã dịch cả một tuyển thơ hàng chục bài của giai đoạn này: Đêm đen của V.Agatôv, Tuyết đang bay ngoài cửa sổ của Ia.Benlinxki, Bắt đầu mát của Iu.Drunhina, Ngọn lửa nhỏ của M.Ixakôpxki, Cảm ơn em, em yêu, Tổ quốc bắt đầu từ đâu của M.Matuxôpxki, Thật không ngờ của G.Platkhôp, Chiều hải cảng của A.Surkin, Có một bờ khe nơi ngày xưa và một chùm hàng chục bài khác của A.Tvardôpxki, Những người lính của K.Vansenki… Đăng Bảy dịch Con tim của M. Lơvôp, Vô đề (Đặt anh vào lòng đất) của X.Orlov, Giờ bạn nơi đâu, bạn cùng trong đoàn hỡi của A.Phatrianop, Gửi người đời sau của X.Tsipatsev… Bằng Việt dịch thơ của Olga Bergoltx, Thúy Toàn dịch thơ của A.Xurcôp, A.Tvardôpxki, A.Akhơmatôva, R.Kazacôva, Anh Ngọc dịch thơ của V.Kaperô, Ev.Eptusencô, Hồng Thanh Quang dịch thơ của K.Ximônôp, Đoàn Minh Tuấn, Lưu Đức Thụ cũng dành nhiều công sức và tình cảm cho việc dịch các nhà thơ Xô viết về Chiến tranh giữ quốc.

Cùng với các dịch giả, các nhạc sĩ Việt Nam đồng thời cũng là những tâm hồn thơ đã chuyển thành lời Việt, hầu hết các bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ Xô viết sáng tác trong Chiến tranh giữ nước vĩ đại được phổ nhạc, trở thành các khúc hát phổ biến tựa như dân ca. Những ca khúc Nga ấy cũng được phổ biến rộng rãi cả ở Việt Nam suốt nửa thế kỷ qua.

Cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên xô, nhân dân Nga đã giành được thắng lợi, kết thúc chủ nghĩa phát xít Đức đã được hơn 60 năm. Ở Việt Nam, thơ ca Xô viết, thơ ca Nga giai đoạn cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại này vẫn tiếp tục được yêu quý, giữ gìn trong lòng bạn đọc Việt Nam.

NHỚ HỒ GƯƠM:

Vua LÊ & Vua ARTHUR

cùng trả gươm cho Thần linh

1. Vua Lê Thái Tổ trả kiếm Thuận Thiên tại Hồ Hoàn Kiếm

Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để họ giết giặc. Thanh kiếm không đến thẳng với Lê Lợi mà nó được chia làm hai phần: một lưỡi kiếm và một chuôi kiếm.

Hồi ấy, ở Thanh Hóa có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận, bắt gặp một lưỡi Gươm! Về sau Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực lên ở xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi cầm lấy xem và thấy có hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm. Song tất cả mọi người vẫn không biết đó là báu vật.

Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi người một ngả. Lúc đi qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy một ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi rút lấy chuôi giắt vào lưng. Ba ngày sau, Lê Lợi gặp lại tất cả các bạn trong đó có Lê Thận. Lê Lợi mới đem chuyện bắt được chuôi gươm kể lại cho mọi người nghe. Khi đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in.

Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu nói với Lê Lợi:

Ðây là Trời có ý phó thác cho Minh Công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo Minh Công, cùng với thanh Gươm thần này để báo đền Tổ quốc.

Từ đó nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng tiến. Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoành khắp các trận địa, làm cho quân Minh bạt vía.

Một năm sau khi đuổi giặc Minh, một hôm Lê Thái Tổ cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long Quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền rồng tiến ra giữa hồ, tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước. Theo lệnh vua, thuyền đi chậm lại. Ðứng ở mạn thuyền, vua thấy lưỡi gươm thần đeo bên người tự nhiên động đậy. Con rùa vàng không sợ người, nhô đầu lên cao nữa và tiến về phía thuyền vua. Nó đứng nổi trên mặt nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”.

Vua rút gươm quẳng về phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước. Gươm và rùa đã chìm đáy nước, người ta vẫn còn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh. Từ đó hồ Tả Vọng bắt đầu mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.

2. Vua Arthur – vua nước Anh thời Trung cổ

Là người bảo vệ nước Anh chống lại sự xâm lăng của người Saxon thời đầu thế kỷ thứ 6. Chi tiết câu chuyện về vua Arthur phần lớn được tổng hợp từ văn học dân gian , và việc ông có thực sự tồn tại trong lịch sử hay không vẫn là một vấn đề gây tranh cãi bởi các sử gia hiện đại.

Truyền thuyết

Một số tài liệu cho rằng vua Arthur sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, truyền thuyết kể rằng sau khi vua Uther Pendragon mất, toàn bộ nước Anh trở nên loạn lạc, các hiệp sĩ trong vương quốc cấu xé lẫn nhau tranh giành quyền lực do nhà vua không có con nối dõi, rồi pháp sư Merlin xuất hiện và bàn bạc với các giám mục vùng Canterbury xem ai rút được thanh gươm mà vị thần ban tặng trên phiến đá trước nhà thờ thì người đó sẽ là vua nước Anh... Tất cả các hiệp sĩ được mời đến đều không rút được thanh gươm trên phiến đá ra. Arthur lúc bấy giờ chỉ là một chàng trai trẻ được Hầu tước Ector nhận làm con nuôi. Trước đó khi chưa ai rút được thanh gươm báu ra khỏi đá thì các hiệp sĩ đã nhất trí rằng vào ngày đầu năm họ sẽ tổ chức một cuộc tranh tài và hiệp sĩ nào cũng có quyền được đăng ký dự thi. Kay - con đẻ của hầu tước Ector cũng đến dự và anh nhận ra là mình đã bỏ quên kiếm ở nhà. Anh nhờ Arthur về nhà lấy thanh kiếm cho mình, do cửa nhà đã bị khóa nên Arthur đành “mượn tạm” thanh kiếm cắm ở tảng đá nhà thờ để đưa cho Kay và tình cờ Arthur đã trở thành vua, khi lên ngôi vua, ông đã thống nhất nước Anh. Sau khi chiến tranh kết thúc, ông quyết định trả lại cây kiếm bằng cách ném xuống hồ, nhưng được Thần hồ ban tặng cây kiếm khác.

Trị vì

Sau khi lên nắm quyền, để chứng tỏ mình là một đế vương hùng mạnh vua Arthur đã phải tranh đấu và hàng phục rất nhiều đế vương trong đó có vua Leodegrance . Sau đó Vua đã cưới con gái của ông vua này làm Hoàng hậu Guinevere và thành lập Hội Bàn tròn gồm 128 người trong đó 100 người là quan quân trong triều còn 28 người còn lại là các hiệp sĩ, hầu tước , trong 28 người hiệp sĩ thì trong đó nổi trội nhất là Hầu Tước Lancelot , Gawaine , Glahad, Percivale , Bors .

Phim “Camelot” về vua Arthur và hoàng hậu Guinevere

Nội dung về vua Arthur cao thượng và tôn trọng luật pháp. Dù biết Hoàng hậu yêu một Hiệp sĩ Bàn tròn tên là Lancelot, ngài vẫn tha thứ. Khi Vua đi săn, Triều thần bắt gặp Hoàng hậu nói chuyện thân mật với Lancelot, họ bèn mang Hoàng hậu ra Tòa án Dân sự đầu tiên của Anh để xét xử (Hiệp sĩ trốn thoát) và tuyên án Bà bị thiêu sống. Vua có thể khoan hồng, nhưng vì tôn trọng Tòa án do mình đặt ra, nên Vua cứ để Bà bị thiêu - dù rằng rất yêu Bà. Lancelot cùng 80 Hiệp sĩ tới cứu và mang Bà tới một Tu viện. Sau đó, Lancelot nhắn Vua đến một khu rừng để Vua gặp Hoàng hậu và Lancelot. Hiệp sĩ muốn trả Hoàng hậu về với Vua, nhưng tôn trọng luật pháp, Vua chào từ biệt Bà để Bà trở về Tu viện. Trong sự nhớ thương vợ, Vua trở về Kinh đô và hãnh diện về các Hiệp sĩ Bàn tròn nổi tiếng của nước Anh đã được lưu truyền trong dân chúng khắp nơi - dù rằng các Hiệp sĩ Bàn tròn đã tan rã trước đó một thời gian.

Truyền thuyết về Vua Arthur và những Hiệp sĩ Bàn tròn

- Sự ra đời của đứa bé bất hợp pháp Artorigus

Câu chuyện bắt đầu vào những năm cuối của Thế kỷ thứ 12. Uther Pendragon, vua của nước Anh, yêu say đắm Igrayne, vợ của công tước Gorlois xứ Cornwall. Nhưng nàng đã từ chối tình cảm này do lo sợ tới vận sự của hai nước. Uther thẫn thờ khi bị từ chối đâm đổ bệnh một thời gian dài...

Trong vương quốc Anh chỉ có một người có thể giải trừ được điều này! Đó chính là Merlin, bậc thầy phù thủy với quyền năng phép thuật siêu phàm không ai có thể sánh được lúc đó. Ngài đã được triệu tập tới lâu đài nơi trị vì của Uther để giúp chữa bệnh cho nhà vua...

Merlin giúp Uther hóa thân thành chính Gorlois (chồng của Igrayne) và ăn nằm với nàng. Chẳng bao lâu sau Igrayne sinh hạ ra một đứa con vua “bất hợp pháp”. Lo sợ trước sự việc này sẽ gây mối thù hằn giữa các vương quốc và đứa con không chính thức của mình sẽ bị sát hại, Uther đã lệnh cho phù thủy Merlin đưa đứa bé vừa hạ sinh và giao cho vợ chồng Ector chăm sóc. Đứa bé đó mang tên Artorigus (Arthur)...

- Thanh kiếm trong đá và kẻ kế vị ngôi vua

Thời gian trôi đi, vị vua Uther đầy quyền lực của nước Anh bắt đầu già yếu và bệnh tật. Đã đến lúc vương quốc Anh cần một vị vua trẻ hơn, tài giỏi hơn và có tâm huyết hơn! Trước khi ngài băng hà, Uther để lại di chỉ với các nam tước đang tề tựu xung quanh mình rằng Arthur, con trai của người sẽ kẻ kế vị ngôi vua. Artorigus là ai? Sao chưa từng ai biết hay nghe thấy cái tên đó bao giờ? Rất nhiều câu hỏi ngổn ngang trong đầu mọi người thế mà khi chỉ vừa kịp nói xong cái tên kẻ kế vị, Uther buông thõng hai tay xuống. Ngài đã về với Chúa...

Một ngày kia, người ta phát hiện thấy có một thanh kiếm bí ẩn xuất hiện ở ngay gần nhà thờ, cắm sâu trên một tảng đá khắc dòng chữ: “Whoso pulleth this sword out of this stone and wedge of steel is rightwise born King of all Britain” (tạm dịch: Bất cứ ai có thể rút được thanh kiếm này ra khỏi tảng đá, người đó sẽ chắc chắn là vua của thần dân nước Anh).

Thanh kiếm kỳ lạ này đã làm dấy lên lòng tham về quyền lực của rất nhiều người. Nhưng không một ai có thể khiến thanh kiếm di chuyển dù chỉ một tấc... Rồi chàng trẻ đó xuất hiện! Một con người bình dị, sống dưới sự che chở yêu thương của Ector. Artorigus trẻ tuổi của chúng ta. Chàng cũng đến thử “vận may” như bao người bình dị khác. Và, ô kìa! Artorigus đã rút được thanh kiếm ra khỏi tảng đá trong sự bàng hoàng, nghi ngờ và đố kị của tất cả mọi người xung quanh!!!

Bầu không khí trở nên căng thẳng tột độ. Bỗng từ giữa khoảng không bước ra, ngài phù thủy Merlin! Xuất hiện giữa đám đông, Merlin - con người được tin tưởng bậc nhất bấy lâu nay tại nước Anh, liền trấn an mọi người và tiết lộ thân phận thật sự của chàng trai trẻ: “Đây là Artorigus - giọt máu duy nhất của vua Uther Pendragon, là người kế vị chính thống của nước Anh theo di chỉ trước lúc băng hà của Ngài. Nay thanh kiếm này cũng đã chứng tỏ rằng Artorigus đã đủ trưởng thành và xứng đáng kế vị ngôi vua từ cha mình”.

Chỉ khi nghe được những lời nói khẳng định của Merlin, mọi thần dân mới thở phào nhẹ nhõm và mừng rỡ an tâm vì nước Anh đã tìm được một vị vua trẻ tuổi xứng đáng. Tiếc thay vẫn còn đó 11 vị vua vì đố kị thù ghét mà không can tâm chấp nhận. Họ lên kế hoạch tạo phản nhằm lật đổ ngài. Biết được tin này, Artorigus gửi lời mời giúp đỡ tới King Ban và King Bors the Elder, hợp sức cùng Artorigus đánh bại được bọn tạo phản. Kể từ lúc đó, Arthur trở thành vị vua chính thức của nước Anh.

- Vua ARTHUR trả thanh kiếm Excaliburn cho Lady of the Lake

Sau cuộc chiến quyết liệt với Sir Pellynore, Artorigus đã thua và đánh gãy “thanh kiếm trong đá” đó. Chàng vô cùng đau khổ và thất vọng. Một lần nữa, Merlin lại ra tay cứu giúp chàng.

Merlin dẫn Artorigus đi đến một khu rừng, càng đi quang cảnh càng tĩnh lặng và đầy sương mù. Artorigus không biết rằng mình được dẫn đi đâu, chỉ cảm giác được rằng mình đang đi dần xuống “Hồ nước vô tận”. Arthur nhìn theo tay Merlin và thấy một bàn tay, mặc gấm trắng, giữ một thanh kiếm đẹp rực rỡ đang trôi nổi giữa mặt hồ.

Bỗng có một thiếu nữ, với khuôn mặt đáng yêu nhưng lộ vẻ bi sầu, nàng đứng trong chiếc bè xuất hiện từ lúc nào không biết. Merlin nói rằng đó là Lady of the Lake, hãy hỏi thẳng thắn, cô ta sẽ trao cho ngài thanh kiếm kia. Arthur thật thà hỏi cô gái liệu anh ta có thể lấy thanh kiếm kia được không. Cô gái trả lời:


Thanh Kiếm Excalibur, 1902 mô tả việc Arthur nhận Excalibur từ Tiên nữ của Hồ nước.

“Thưa đức vua, thanh kiếm đó là của tôi, người có thể giữ nó nếu người đồng ý giúp tôi một thỉnh cầu, và phải hứa là trả lại nó khi người chết”.

Arthur đồng ý và đón nhận lấy nó. “Tên của thanh kiếm là Excalibur”, nói xong cô gái bí ẩn đó khuất dần sau làn sương.

Nguồn gốc của chiếc Bàn Tròn

Khi di hành tới vùng Camylard, Artorigus lần đầu tiên gặp Gwenhwyfar - con gái của King Lodegrean. Gwenhwyfar là cô công chúa có sắc đẹp tuyệt trần ví như một nữ thần. Ở cô toát lên vẻ quyền quý nhưng không mất đi vẻ đẹp thục nữ của một người con gái danh giá...

Artorigus và Gwen yêu nhau say đắm ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nhưng, lại một lần nữa, Merlin nhìn thấy những điểm tối xung quanh cuộc đời của chàng trai Artorigus và ngài cảnh báo rằng sau này chính Gwen là nguyên nhân gây nên sự sụp đổ của vương quốc, cũng như cô ta sẽ phản bội chàng. Nhưng tình yêu của họ quá sâu đậm và mù quáng, Arthur lần này đã bỏ ngoài tai những lời răn đe đó của Merlin, quyết định cưới Gwen làm vợ và trở thành Hoàng Hậu của vương quốc Anh.

Không còn cách nào khác, Merlin đành chấp thuận và sắp xếp đám cưới cho họ. Trong cái ngày trọng đại này, Lodegrean tặng quà cưới cho vị vua Artorigus và hoàng hậu Gwen là chiếc bàn tròn có 150 chỗ và thêm 100 hiệp sĩ để trợ giúp nhà vua. Chiếc bàn tròn đó được xem là biểu tượng cho sự đoàn kết, toàn vẹn và trường cửu của Artorigus cùng các hiệp sĩ của mình.

Điều phụ nữ thật sự mong muốn là gì?

Câu chuyện về sự thoát chết thần kỳ của vua Arthur qua việc giải được câu đố hiểm.

Vua Arthur khi còn trẻ từng bị nước láng giềng mai phục và bắt làm tù binh. Vua nước láng giềng vô cùng nể phục trước tinh thần lạc quan và sức trẻ của Arthur. Vì vậy, ông hứa sẽ để Arthur được bảo toàn mạng sống với điều kiện trả lời được câu hỏi hóc búa mà ông ta đưa ra. Vua Arthur có thời hạn một năm để suy nghĩ. Câu hỏi đặt ra là: “Điều phụ nữ thực sự mong muốn là gì?”. Câu hỏi này đã gây khó khăn cho cả những nhà thông thái bậc nhất. Ngày cuối cùng của kỳ hạn một năm đã đến, Arthur không còn lựa chọn nào khác nên đành đi tìm mụ phù thủy và phải tiếp nhận điều kiện trao đổi của mụ ta. Đó là cho mụ ta được kết hôn với Gawain, hiệp sĩ cao quý nhất trong số những hiệp sĩ Hội Bàn Tròn và cũng là người bạn thân thiết nhất của nhà vua.

Khi hay tin, Gawain đã nói với Arthur: “Tôi đồng ý cưới mụ phù thủy, bởi vì việc cứu tính mạng của Đức vua và bảo vệ Hội Bàn Tròn là việc quan trọng hơn cả”. Thế là hôn lễ được tuyên bố rộng rãi trong thiên hạ và mụ phù thủy đã trả lời câu hỏi cho vua Arthur: “Điều phụ nữ thực sự mong muốn là được tự quyết định cuộc đời của mình”.

Câu trả lời của mụ phù thủy là vô cùng chính xác và Arthur được tự do.

Lại nói đến đám cưới của Gawain và mụ phù thủy. Ngày cử hành hôn lễ, vua Arthur không ngừng hối hận mà khóc lóc thống khổ. Trong khi đó, Gawain từ đầu đến cuối đều vô cùng khiêm tốn và nhã nhặn, còn mụ phù thủy thì thể hiện ra những hành vi vô duyên và tồi tệ nhất.

Đêm tân hôn, Gawain vẫn kiên cường mà đối diện với nỗi kinh hoàng này, chàng đi vào phòng tân hôn và thật bất ngờ… một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần xuất hiện trên chiếc giường cưới. Gawain kinh ngạc đến ngây người, hỏi nàng rốt cuộc đây là chuyện gì? - Người đẹp trả lời: “Trong một ngày, ta có nửa ngày trong hình hài mụ phù thủy xấu xí và nửa ngày còn lại là ở trong hình hài mỹ nữ”. Nàng hỏi Gawain: “Chàng muốn ta ban ngày biến thành mỹ nữ hay ban đêm biến thành mỹ nữ?”. Vậy lựa chọn của chàng hiệp sĩ Gawain:

Chàng chỉ nói với vợ rằng: “Điều phụ nữ mong muốn nhất là được tự quyết định cuộc đời của mình, vậy thì nàng hãy tự quyết định đi”.

Thế là mụ phù thủy lựa chọn sẽ là mỹ nữ xinh đẹp cả ban ngày lẫn ban đêm.

Kết cục có hậu của câu chuyện đáng để suy ngẫm một chút. Phải chăng khi chúng ta tôn trọng và thấu hiểu người khác, thì thường có xu hướng sẽ nhận được nhiều hơn.

LỜI KẾT

Thật là thú vị vì Đông Tây gặp nhau trong truyền thuyết vua Việt và vua Anh cùng hoàn trả cho Thần linh thanh Gươm thần: vua Lê Thái Tổ trả Gươm thần Thuận Thiên cho Rùa Vàng trên hồ Tả Vọng – từ đó hồ mang tên là hồ Hoàn kiếm (hồ Gươm). Còn vua Arthur trả Gươm thần Excalibur cho Tiên nữ của Hồ nước (Lady of the Lake).

Chúng ta cùng nhớ về Gươm thần trả lại cho Rùa vàng trên Hồ Gươm qua hai bản nhạc:

Thăng Long Hành Khúc Ca - tác giả: Văn Cao

Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng

Trông khói sương chiều ám trên dòng sông

Nhị Hà (Hồng Hà) còn kia, Nhị Hà còn đó!

Lũ quân chàng Tôn sập cầu trôi đầy sông.

Tháp đây! Gươm Thần đâu dưới nước biếc

Có chăng! Bao ngươì bao nhiêu luyến tiếc

Này phường này phố cũ/ Này đường về Ô xưa!

Bóng xưa ngàn năm hồ phai khi tàn mơ…

Truyền thuyết Hồ Gươm - tác giả: Hoàng Phúc Thắng

Truyền rằng nơi đây Hồ Gươm nước biếc xanh vì trời xanh

Truyền rằng nơi đây Vua Lê đã trả lại gươm báu để giã từ chiến tranh

Truyền rằng nơi đây đêm đêm cây Bút đá (Tháp Bút) vẫn viết lên trời cao những khát vọng ngàn đời của người dân Hà Nội

Truyền rằng cầu Thê Húc rực đỏ nối đất với trời, cho Rùa thiêng mỉm cười, xua tan bao nếp nhăn cuộc đời…

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)

Những kỷ niệm về

NHÀ THỜ ĐỨC BÀ SÀI GÒN

1. Tượng Đức Mẹ Hòa Bình

Đến Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn trước hết sẽ nhìn thấy bức tượng Đức Mẹ Hòa Bình đặt ở trung tâm vườn hoa phía trước Nhà thờ. Tượng Đức Mẹ đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, đôi mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên bầu trời như đang nguyện cầu… do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959 tại Ý.


Năm 1903, chính quyền Pháp cho xây dựng bức tượng đồng Pigneau de Béhaine (Giám mục Bá Đa Lộc) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp. Tới năm 1945, bức tượng đồng này bị phá bỏ, nhưng phần bệ tượng hình trụ bằng đá hoa cương màu đỏ vẫn còn. Năm 1959, Lm. Giuse Phạm Văn Thiên, cai quản Giáo xứ Sài Gòn bấy giờ, đi dự đại hội Thánh Mẫu ở Vatican, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm. Tượng được gửi từ Roma về Sài Gòn bằng đường thủy. Ngày 16/02/1959, Lm. Giuse Phạm Văn Thiên đã làm lễ dựng tượng trên bệ đài vẫn còn để trống (từ năm 1945) và dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Sau đó 1 ngày, Hồng y Aganianian từ Roma tới Sài Gòn để chủ tọa lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép cho bức tượng. Và từ đó Nhà thờ có tên là Nhà thờ Đức Bà.

Lúc bấy giờ tôi được chú Nghiêm kiệu lên vai đứng tại khu nhà xứ bây giờ dự lễ bế mạc Đại hội. Nhìn ra xa xa người không là người chen chúc nhau đông lắm. Tôi không ngờ lúc ấy được chứng kiến một buổi lễ long trọng như vậy.

Đức Mẹ Khóc

Ngày 29/10 / 2005 , loan truyền về việc tượng Đức Bà Hòa Bình trước Nhà thờ Đức Bà chảy nước mắt. Theo một nguồn tin không chính thức, câu chuyện bắt đầu từ một em bé bán vé số quanh khu vực tượng đài. Khoảng 2g chiều hôm đó, như thường lệ, em vẫn hay ngồi nghỉ trưa tại đây. Mặc dù “không có đạo” nhưng em rất thích nhìn ngắm gương mặt đẹp của người phụ nữ được tạc tượng này. Và chính em đã phát hiện những dòng nước từ mắt, chảy dài trên má và đọng lại nơi cằm của tượng Đức Mẹ. Tin này nhanh chóng truyền đi khiến cho hàng nghìn người kéo đến xem.

Đến sáng ngày 30/10 thì lực lượng công an đã dựng hàng rào phong tỏa toàn bộ các ngả đường dẫn vào khu vực Nhà thờ Đức Bà, ngăn không cho ô tô xe gắn máy vào để bảo đảm trật tự cho dòng người tham quan tượng Đức Mẹ. Nhiều ngày sau đó, khu vực này vẫn còn tụ họp rất nhiều người đến xem vì hiếu kỳ hoặc đọc kinh cầu nguyện vì mộ đạo.

Đến ngày 4/11 / 2005 , Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn của Tổng giáo phận Tp Hồ Chí Minh gửi thư chung nói về hiện tượng này. Trong lá thư, Đức Hồng Y không nêu lên quan điểm bác bỏ hoặc công nhận hiện tượng, nhưng theo Đức Hồng Y, những dữ liệu thu thập được cho đến thời điểm đó chưa phải là bằng chứng khách quan để có thể khẳng định rằng tượng Ðức Mẹ đã khóc, và Đức Hồng Y đang hình thành một ban có trách nhiệm tìm hiểu, nghiên cứu thấu đáo về hiện tượng trên và những hệ lụy của hiện tượng.

Bao nhiêu người từ khắp nơi chen chúc để được tận mắt nhìn những dòng lệ của Mẹ. Nhiều dịch vụ ăn theo của các tay thợ hình và con buôn bán bộ ảnh Đức Mẹ khóc đủ các góc cạnh. Ca đoàn của chúng tôi tập hát tại nhà xứ thì tha hồ xem (vì ở trên lầu cao) toàn cảnh và sau khi tập hát xong cũng cố chen chân vào để ngắm nhìn dung nhan Mẹ. Quả thật dòng nước lăn xuống có vệt và chuyển xuống cằm trông rất rõ.

- Người thì cho rằng do lâu năm tượng ở ngoài trời nên có hiện tượng như vậy? Cho dù như vậy đâu phải lúc nào cũng có hiện tượng này.

- Người thì cho rằng Đức Mẹ khóc chỉ một biến cố nào đó. Như vậy sắp có điều gì sẽ xẩy đến…

- Có người còn cho rằng có đường dẫn trong ruột tượng để làm ra việc đó!...

Dù sao chăng nữa nhìn những khuôn mặt mọi người khi ngước nhìn lên Mẹ đều toát ra niềm tin tưởng thành kính, niềm tin sâu xa mãnh liệt…

Hiện tại hàng đêm vẫn có từng nhóm người thắp nến cầu nguyện và đọc kinh rất sốt sắng có cả những người nước ngoài cùng tham gia rất sinh động.

2. Cầu thang bằng đá

Băng qua vườn hoa là con đường cắt ngang trên quảng trường rồi mới đến cổng nhà thờ.

Trước hết phải vào phòng áo nhờ người có trách nhiệm mở cánh cửa nhỏ bên cánh phải cổng chính nhà thờ. Đó là cầu thang làm bằng đá xanh. Lối duy nhất để lên sàn hát và tháp chuông, gồm có 44 bậc, bề rộng của mỗi bậc là 40cm được xếp xoáy theo kiểu trôn ốc, hẹp đến nỗi chỉ đi một chiều nghĩa là không thể có 2 chiều nhất là đối với những người to con. Người muốn xuống phải chờ người đi lên cho hết đã rồi mới xuống được. Nhờ đến Bác Google cũng không thấy nói về cầu thang này.

Lần đầu tiên tôi được bước lên cầu thang đó là ngày 11/08 / 1974 : 3 Đức cha được tấn phong cùng lúc trong đó có Đức cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi, Đức cha Phaolô Huỳnh Đông Các, và Đức cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng. Các cha được tấn phong Giám mục tại Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn do Đức Hồng Y Angelo Rossi chủ phong. Vì quá đông một số người được lên gác đàn và tỏa ra hai bên cánh. Mừng lắm vì lần đầu tiên tôi được tham dự buổi lễ long trọng. Cứ cuộn theo dòng người mà lên, đường hẹp, ánh sáng vàng lờ mờ tối thui cứ dắt tay nhau bước lên. Tại gác đàn các thầy Đại Chủng Viện Sài Gòn đang nghiêm trang hát bằng tiếng Latinh. Chúng tôi được dẫn qua hai bên cánh. Thật sung sướng biết bao vì lên đây quan sát thật là rõ, cứ lựa chỗ ưng ý nhất mà đứng. Đến giờ cuối lễ tôi và anh bạn Xuyên bước qua lan can ngồi luôn coi như là chỗ thượng hạng.

Tôi nhớ nhất Đức cha Lãng vì Ngài đã ngước nhìn lên trên vừa tủm tỉm cười vừa ban phép lành có lẽ Ngài sợ đám người trên đó rớt xuống chăng (nguy hiểm quá vì ngồi cả ra ngoài lan can). Bề rộng của lan can khoảng 6, 7 tấc - cũng không đến nỗi nào - tuy nhiên từ phía dưới nhìn lên thì… ghê thật !

3. Gác đàn:

Sau Giải Phóng (1975) tôi sinh hoạt tại 1 trong 8 ca đoàn tại Vương Cung Thánh Đường và được hát trên gác đàn . Các ca đoàn lúc bấy giờ được hát trên gác đàn.

Trên đó có 1 bục gỗ 3 tầng dành cho các ca viên trên đầu có mái vòm như muốn úp âm thanh xuống phía dưới (sau này được dỡ bỏ).

Các nhà thờ cổ hình như thiết kế để không cần dùng âm thanh điện tử chỉ có 1 cây đàn điện tử cũ kỹ nhưng chắc là hiện đại nhất lúc bấy giờ. Trên dàn phím có những nút kéo dài ra nhiều nấc, khi kéo như vậy âm thanh cũng thay đổi theo tùy người sử dụng. Sau này tôi được dịp nghịch ngợm một chút với cây đàn tương tự như vậy tại nhà thờ giáo xứ Đồng Tiến, trước khi sử dụng phải khởi động trước rồi mới bật ON được. Giờ này chắc chỉ còn một số ít người nhớ đến sự hiện diện của chúng sau một thời gian dài phục vụ. Ai muốn biết chi tiết hơn hãy hỏi nhạc sỹ Trung Chính, chuyên gia và là người phụ trách bao nhiêu năm nay về âm thanh và đánh đàn phục vụ cho các ca đoàn tại Nhà thờ Chính Tòa Sài Gòn và nhiều nhà thờ khác.

Ở một góc khác là cây đàn ống to, cổ kính bây giờ cũng bỏ vì không ai chăm sóc bụi bặm và mối mọt hết trơn rồi!

Sau lưng là những bông gió có nhiệm vụ thông gió và ánh sáng nên khi hát cũng không nóng lắm.

Ở một góc khác là một cầu thang bằng gỗ dẫn lên Đồng hồ và Tháp chuông (tôi chưa lên bao giờ).

Ít năm sau đó các ca đoàn không hát ở trên gác đàn nữa mà hát sau lưng bàn thờ và khi bàn thờ dời ra giữa thì ca đoàn được đưa lên cung thánh chỗ hiện tại các ca đoàn đang phục vụ.

Một dịp đặc biệt khác tôi lại được lên gác đàn: Đó là vào năm 1992. Thầy dạy Latinh của tôi, Sư huynh Giuse Nguyễn Thế Mạnh (Tu viện Nguyễn Duy Khang), 54 tuổi được gọi làm linh mục. Thầy là người lớn tuổi nhất lúc bấy giờ nên được dẫn đầu đoàn rước các tiến chức bước lên làm linh mục (đây là lần truyền chức đông nhất sau 1975) . Tôi được vinh dự chụp hình cho thầy nên cố chọn lựa góc hình đẹp nhất để có những tấm hình đẹp. Vì đã quen khi hát trên gác đàn lúc trước nên tôi mượn được chìa khóa để lên và chụp hình. Hai tấm mà tôi nhớ nhất là một đoàn rước mấy chục thầy và tấm thầy tôi nằm sấp (với góc cạnh từ trên cao, quả thật là tuyệt vời). Sau này đã có những tuần báo lấy làm hình bìa rất đẹp tôi chẳng được xu nào nhưng rất vui.

Ngay khi bấm xong tấm hình đoàn rước bỗng mắt tôi chú ý vào một vật kỷ niệm mà đã bao nhiêu lâu tôi không biết thất lạc ở đâu? Thì ra nó rơi ở gầm sàn hát dưới vị trí tôi đứng năm xưa. Mừng mừng vui vui khi thấy lại vật mà tưởng chừng như xa rời mãi.

Cửa kính màu

Đi dọc cánh hành lang tôi chợt thấy những tấm tranh kính đã bị hư và được thay bằng các bông gió. Tôi rất mê các tấm tranh kính màu trên các ô cửa sổ của các nhà thờ diễn tả các nhân vật thánh và sự kiện trong thánh kinh. Cách pha trộn màu không làm chói mắt, những nét vẽ đơn sơ nhẹ nhàng tạo nên bầu khí trang nghiêm dễ đưa người xem cùng nâng tâm hồn lên tới Chúa.

Trong thành phố có nhiều nhà thờ có cửa kính màu, những nhà thờ cổ như nhà thở Tân Định, nhà thờ Hạnh Thông Tây-Gò Vấp, nhà thờ Huyện Sĩ-Chợ Đũi… Nhà thờ mới xây như: Nhà thờ Phú Hạnh, nhà thờ Phú Thọ Hòa, nhà thờ Đồng Tiến ở gian thánh hoặc hai bên đều có những tấm tranh kính màu. Nhưng đặc biệt là Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn… những tranh kính ở đây rất đẹp tạo nên ánh sáng tuyệt vời do hãng Lorin (Pháp) sản xuất. Hiện nay đã hư nhiều, có khung được thay hoàn toàn bằng bông gió xi măng, có khung thay bằng kính mờ… Phục hồi các tấm kính này như cũ chắc cũng mất kha khá đây.

4. Tháp chuông và Đồng hồ

Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57m.

Nhìn từ đàng trước tháp bên trái 2 quả La và Si bên phải 4 quả Mi, Re, Do, Sol. Độ vang xa của 6 quả chuông này có thể lên đến 10km “khiến nhiều nhà thờ tại Pháp phải ghen tị”.

Ở mặt trước công trình, giữa hai tháp chuông, dưới đỉnh mái có một đồng hồ. Nhìn trên mặt đứng công trình, mặt của chiếc đồng hồ này như một ô cửa sổ, nhưng bên trong nó là một bộ máy khá đồ sộ, nặng tới hơn 1 tấn. Chiếc đồng hồ này được sản xuất tại Thụy Sỹ năm 1887, và dù cũ kỹ và thô sơ, nó vẫn hoạt động khá chính xác. Được chăm sóc bởi ông Chín bao nhiêu năm qua. Với thời gian đồng hồ cũng có hỏng hóc không biết khi tu sửa lần này nó có trong danh sách sửa tu không?

ĐẠI TU NHÀ THỜ ĐỨC BÀ

Nhà thờ đã bị dột nhiều nơi nhiều cơn mưa lớn đã hủy hoại phần nóc khiến nhiều giáo dân phải di chuyển trong khi tham dự thánh lễ. Ông bà ta có câu: “Nước mưa cưa trời” nên phải cứu ngay kẻo có lúc gây tai họa cho nhiều người khi tham dự thánh lễ.

Mọi người đều mong khi tu sửa càng giống bản gốc càng tốt, vì đó là giữ lại những gì xa xưa, cái hồn của Sài Gòn, một nơi tâm linh mọi người yêu mến. Không nhiều thì ít ai cũng có những tấm hình lưu niệm với nhà thờ. Nhiều cặp uyên ương thi nhau có những tấm hình đẹp mặc dù không theo đạo Công giáo. Khách du lịch chọn nơi đây là một trong những điểm tham quan trong cuộc hành trình. Chắc chắn khi trùng tu là tốn kém rất nhiều vì nguyên vật liệu trước kia đa số chở từ Pháp sang nay phục hồi cho đúng và giống cũ sẽ tốn nhiều công của lắm.

Mỗi chủ nhật Nhà thờ Đức Bà đều quyên tiền cho các nhà thờ lớn nhỏ từ Bắc chí Nam: Vì quá nhiều nhà thờ xin nên phải theo thứ tự có nhà thờ phải chờ tới phiên gần… 3 năm. Các giáo xứ thuộc giáo phận Sài Gòn cũng phải tuân theo thứ tự này. Có những giáo xứ cao nguyên lên từ hôm trước mặc y phục dân tộc cầm thúng xin tiền rất dễ thương… hay các dì phước từ vùng sâu vùng xa về xin cho các trẻ em nghèo không có nơi học hành…

Nay Nhà thờ Đức Bà tu sửa thì xin ở đâu nhỉ? Chắc chắn phải nhờ đến hết thảy giáo dân và những người yêu mến Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn, mẹ của các nhà thờ. Mỗi người một tay chung nhau đóng góp từng viên gạch, từng viên ngói. Những ân nhân, mạnh thường quân ra tay ủng hộ để nhà thờ được mau chóng trả lại vẻ đẹp vốn có. Vì đây là một trong hai biểu tượng của hòn ngọc viễn đông - Chợ Bến Thành và Nhà thờ Đức Bà - những hình ảnh đặc trưng của miền đất phương Nam thân yêu của chúng ta.

Rất mong sự đóng góp của nhiều cá nhân, của nhiều đoàn thể trong và ngoài nước.

Hà Mạnh Đoàn


Dương Lêh

Sáng sớm, anh Dưng đưa bà già ra bến xe về quê, rồi trở về nhà xách ba-lô ra tiệm may sửa quần áo ở góc hẻm đường Bàn Cờ làm việc. Công việc của anh là sửa và may gia công quần áo cho khách. Trong tiệm có tất cả sáu người thợ, hết năm người là phụ nữ ngấp nghé tuổi ba mươi, người cao nhất cũng gần bốn mươi. Chỉ riêng mình anh Dưng là khác phái, và tu ổ i tác cũng lưng chừng ba lăm, cho nên mấy bà thường chọc anh là “gươm lạc giữa rừng hoa”. Các bà đều có chồng con nên nói chuyện rất bạo:

- Hoa này dữ lắm à nha, gươm của anh bị cùn rồi cắt không được cái hoa nào hết.

Rồi mấy bà vừa ôm máy may làm việc vừa cười khúc khích:

- Gươm bị rối loạn rồi ông ơi.

Thực ra, mấy bà thợ này đều có c ả m tình với anh Dưng, họ cũng rất cảm kích khi biết anh còn độc thân và đã bị tan vỡ mối tình đầu khi còn ở quê nhà.

Anh Dưng đã kể cho mấy bà thợ may trong tiệm này nghe cái thời quá khứ của mình hồi năm xưa ở một thị trấn xa xôi của tỉnh Long An. Anh là một giáo viên tiểu học vừa yêu nghề lại vừa yêu một cô đồng nghiệp. Nhà cô cách nhà anh chừng hai cây số. Cô có hai em còn nhỏ , cha mẹ cô còn phải bám vào một mẫu ruộng và cái trại heo chừng bốn năm chục con. Với mức sống như vậy, nhà cô không thuộc diện khó khăn. Hai người dự định tạo dựng một gia đình nho nhỏ đầm ấm với hai khoản lương giáo viên gom lại đủ sức sau này nuôi dưỡng hai đứa con theo kế hoạch cho tới khi khôn lớn.

Tính toán là như vậy, nhưng khi anh bàn với mẹ anh thì bà bảo phải lấy tuổi hai người đi coi thầy vì bà nghe nói cô bạn gái của anh tuổi Dần. Không phải đơn giản. Ở cái miệt đồng quê rẫy bái, ánh sáng văn minh chưa kịp lan tỏa, cho nên mẹ anh Dưng nhứt quyết đi kiếm thầy. Thầy ở đây là ông thầy cúng ở gần cầu Voi nằm trên đất của xã này. Không biết ông ta học cái nghề bói toán, cúng sao, cúng hạn, cúng lễ thần hoàng, thổ địa, ông này bà nọ, ở đâu mà trong xã ai cũng phải tìm tới ổng để ổng cho bùa, cho phép, hoặc cúng giải trừ nạn kiếp, hoặc nhờ ông coi tuổi đám cưới, đám ma, giờ chôn, giờ liệm, người dân ai ai đều răm rắp nghe ông.

Cách cầu Voi chừng 500 mét có một cái lò chén, sát bên tường bao của lò chén là cái chòi lá ọp ẹp của ông Ba thầy giáo. Ông Ba về hưu được vài năm nay, ông sống với đứa con gái có chồng lên Saigon ở nhà trọ, làm nghề xây dựng. Lúc này ở Saigon người ta xây cất nhiều lắm, việc làm không thiếu, có thể sống tới già tới chết cũng không sợ thất nghiệp. Bởi vậy ông nghe người ta nói dân ở tận miền ngoài xa xôi đổ vô Saigon trùng trùng điệp điệp để kiếm sống. Những thanh niên thiếu nữ đi làm công nhân ở các khu chế xuất, khu công nghiệp. Những người có tuổi hơn làm đủ thứ nghề tự do. Họ buôn bán hàng rong đầy rẫy. Họ đi xe đạp hoặc xe gắn máy có gắn loa rao hàng vang dội từ các con đường lớn đến những con hẻm nhỏ hẹp: “Bánh chưng, bánh giò đây”, “Hột vịt lộn, hột vịt giữa, bắp xào đây”, “Bánh mì đặc ruột đây”…

Cầu Voi và nhóm từ “ông thầy cúng” gom lại thành cái tên riêng “ông Thầy cúng cầu Voi” để người dân trong xã gọi cho dễ, nhưng ông Ba thầy giáo thì không ưa gì cái “thằng cha” thầy cúng này. “Thằng chả” là nhóm từ khinh miệt mà ông Ba thầy giáo khi đề cập đến nhân vật mê tín dị đoan này. Mỗi khi có học trò, bây giờ đã học lên những năm cuối của bậc trung học ở tỉnh về thăm, ông thường nói:

- Bây ráng học giỏi lên nữa đi. Khi nào có danh phận, nói với ủy ban “bứng” giùm cái thằng cha thầy cúng đó giùm tao.

- Nghe nói ổng quen lớn lắm đó, thầy.

- Xã làm không được bây đưa ổng lên mấy ông trên huyện.

- Nhưng mà ổng có làm gì đâu, thầy? Ổng giúp bà con ba cái chuyện ma chay, cúng kiếng mấy ông sao trên trời chứ có đụng chạm gì tới bà con lối xóm đâu.

- Đúng rồi, không đụng chạm tới ai, nhưng ba cái chuyện ổng làm đều là mê tín dị đoan, cần phải bỏ.

- Sao vậy, thầy? Chắc là ổng cũng từng theo học mấy ông tổ sư bồ đề nào đó trên núi này núi nọ chứ không lẽ…

- Học cái gì đâu! Nghe nói hồi xưa ổng lên Saigon tới cái chùa gì đó miệt Chợ Lớn, ở trong chùa đó lại tổ chức đoán xăm, hướng dẫn bá tánh cúng sao giải hạn, trừ khử bệnh tật (?).

- Chùa mà cũng làm cái chuyện đó sao thầy?

- Thầy cũng hết biết luôn. Thằng cha này làm bộ vô xin xăm đem ra nhờ mấy ông sư đó coi giùm, rồi la cà ở chùa, làm quen mấy ông sư để học nghề. Sau đó ổng mua mấy cuốn sách in lậu có hình bàn tay, hình ông Phật, bán đầy ngoài cổng chùa, bày cách coi bói, cúng sao. Vậy là về quê lên chức thầy cúng ngang xương.

- Coi vậy chớ ổng cũng giúp đỡ bà con chòm xóm những việc quan, hôn, tang, tế, cúng quảy, ám quỉ trừ ma, trừ luôn bệnh tật cho con nít, người lớn.

Thầy Ba cười ha hả:

- Trừ bệnh hả? Ổng “tiêu diệt” người bệnh thì có. Ai đời con nít tiêu chảy đem tới, ổng cho lá bùa đem về đốt rồi quậy tro vô nước cho đứa nhỏ uống. May có người bảo đưa lên Saigon trị không thì thằng nhỏ về chầu tiên tổ. Còn vụ con gái thằng cha Chín Quắn hồi năm kia, nó thất tình cái thằng khỉ nào đó ở ngoài Sông Cái, cả ngày thơ thẩn như người mất hồn. Vậy mà ổng nói con nhỏ bị ma nhập, rồi bắt cả nhà làm gà làm vịt cho ổng đăng đàn cúng trừ tà. Ổng bảo người nhà đi hái nhánh dâu tằm ăn bó lại như cái chổi, đập liên hồi lên đầu, cổ, mình mẩy con nhỏ. May nhờ thằng cha tía nó nháy mắt với thằng tiểu đồng phụ lễ đánh nhè nhẹ, giơ cao đánh khẽ, và nhánh dâu tằm ăn vẫn còn lá nên con nhỏ không sao. Con nhỏ có hết bệnh đâu. Sau đó cũng phải đưa nó lên Saigon trị bệnh tâm thần.

Một câu học trò thắc mắc:

- Thầy ơi, chắc tại đánh nhẹ quá con ma không chịu xuất nên chị đó không hết bệnh.

- Hứ! Làm gì có ma mà xuất với hổng xuất. Bữa đó nếu tuốt lá dâu hết để cành trơ trụi đánh con nhỏ, công an vô còng đầu thằng cha thầy cúng đó rồi.

- Không có ma sao thầy?

- Làm gì có hả con?

- Sao chú con kể nhiều chuyện ma ghê lắm.

- Hà hà, Chú con cũng là đệ nhứt xạo.

- Chú con nói có lần thấy tận mắt luôn.

- Lúc đó mắt của chú con có vấn đề hoặc đầu óc chú con hơi lộn xộn.

- Sao vậy thầy?

- Để thầy giải thích cho con nghe, lớn lên con giải thích cho những người còn tin ma, tin quỉ. Chắc chắn là không có ma quỉ đâu con. Suốt đời thầy chưa từng thấy ma bao giờ. Những chuyện ma mà người ta đem kể cho con đều được người khác kể lại có khi họ thêm mắm thêm muối cho tăng phần rùng rợn và hấp dẫn. Người nào nói rằng chính mắt họ thấy ma thì con cứ tin chắc rằng họ bị ảo giác. Thấy vậy mà không phải vậy. Ví dụ như ở dưới quê mình đây, nửa đêm đi trên đường đất một mình xè bàn tay không thấy, tự nhiên con thấy trong một bụi cây có một chùm ánh sáng chớp tắt liên hồi. Nếu lúc đó con đang sợ ma thì chùm sáng đó giống hình cái mặt con quỉ mắt xanh nanh vàng, con phải cắm đầu chạy, còn nếu như con tỉnh bơ, biết đó là một bầy đom đóm đang núp trong lùm cây, hoặc tâm trạng con đang vui vẻ con sẽ thấy cái chùm sáng đó giống cái mặt thằng cha ba xạo hay kể cho con nghe cái chuyện ma đó. Những hình ảnh mà con thấy như cái mặt quỉ trong bụi cây là ảo giác, người ta còn nói là ảo ảnh thị giác. Đây là một bài học trong môn Tâm lý học, sau này lớn lên con sẽ học. Hồi xưa, đời ông nội của thầy cũng có kể chuyện ma. Mấy ổng bắt chước những chuyện ma quỷ trong truyện Liêu Trai Chí Dị của ông Bồ Tùng Linh bên Tàu. Ở bên đó hồi xưa mấy ông già thường hút á phiện để cho trí tưởng tượng bay bổng lên mây rồi viết thành truyện phổ biến trong dân gian. Nhưng truyện ma của ông tác giả này rất ăn khách. Truyện của ông thường lẩn quẩn trong các trường hợp những thư sinh thức khuya học bài đột nhiên có người con gái đẹp bằng xương bằng thịt đàng hoàng xuất hiện nói rằng người ở xóm trên, đi ngang thấy chàng đang gạo bài nên muốn vào hàn huyên tâm sự. Anh chàng thư sinh này khoái quá, quăng sách ngồi sát bên nói chuyện. Một lát sau thấy tâm đầu ý hợp, chàng đưa nàng đến đống rơm gần đó gầy “chuyện mây mưa” rồi ngủ quên. Sáng hôm sau người ta thấy anh chàng nằm chết thẳng cẳng bên đống rơm xung quanh còn thoang thoảng mùi hương của phụ nữ ngày xưa thường dùng. Mấy bô lão cho là anh chàng này bị ma bắt hồn… Trong truyện này còn nói đến nhiều thứ nữa. Cái gì cũng có thể biến thành ma. Cọp, beo, rắn, rít, cây, cối, gạch, đá cũng là ma,về ban đêm biến ra thành các cô gái đẹp chọc ghẹo người đi đường …

- Chuyện mây mưa là sao, thầy?

- Là chuyện bá láp. Đọc sách nhiều thêm rồi sẽ hiểu con à.

- Còn cái chuyện ổng dạy người ta cúng mấy ngôi sao trên trời là sao, thưa thầy?

- À, cái này cũng có nguồn gốc ở bên Tàu, đầu đời nhà Tống, có ông Hi Di Trần Đoàn nào đó nghĩ ra cái mối quan hệ giữa các ngôi sao trên trời và đời sống con người ở dưới mặt đất này. Rồi ổng đặt tên cho những ngôi sao đó, như, Sao La Hầu, sao Kế Đ ô, sao Thái Bạch “sạch tay” như dân gian thường nói, vân vân. Con người ta mỗi năm khi ở vào tuổi nào thì gặp hạn của sao đó. Ví dụ người ta ở tuổi 27, 28 đàn ông gặp hạn sao La Hầu, đàn bà gặp hạn sao Kế Đô. Khi gặp hạn như vậy tức là báo cho biết sẽ gặp rủi ro, bệnh tật, hay tai nạn gì đó. Ai muốn được an toàn thì đến mấy ông thầy bày cho cách cúng giải hạn. Cái này cũng là do cái thói mê tín dị đoan của Ba Tàu truyền sang Việt Nam mình từ hồi xưa tới giờ và cũng không khỏi có phần pha chế, thêm mắm, thêm muối cho thủ tục càng rườm rà rắc rối thì mấy thầy cúng mới có thêm tiền, quà cáp.

Thầy Ba giảng tiếp:

- Làm gì có cái mối quan hệ giữa con người ta với mấy ngôi sao trên trời. Hỏi thử ông thầy cúng đó mấy ngôi sao mà ổng bảo người ta cúng giải hạn đó nằm ở đâu trên trời. Vậy thì khi cúng có ai vô chứng giám. Ai chế ra cái hạn kỳ rủi ro, tật ách mà con người phải gánh chịu. Nếu không cúng, mấy cái ngôi sao đó làm gì với con người ta ở dưới đất này? Làm sao điều khiển để con người bị tai nạn, tật ách? Trên trời có hàng tỉ tỉ ngôi sao mà sao chỉ lèo tèo có gần chục ngôi sao ảnh hưởng đến đời sống con người ở dưới đất này thôi? Nhưng nếu như cả tỉ ngôi sao trên trời đều ảnh hưởng đời sống con người ở đây thì cúng làm sao cho xuể. Cái chùa ở trên Saigon mà Thầy nói lúc nãy là một ngôi chùa rất lớn, lâu đời nhứt, không hiểu sao lại bày ra cái cách cúng sao giải hạn. Mấy ông sư trong chùa đó không lẽ không biết rằng xem sao giải hạn không hề có trong giáo lý nhà Phật mà là một hình thức mê tín dị đoan đã được một bộ phận người dân tin tưởng từ lâu đời…

Anh Dưng kể chuyện về ông thầy cúng đó mất mấy ngày trời. Trong lúc kể chuyện anh vẫn phải làm công việc. Mấy bà thợ kia cũng phải chăm chú vào đường kim mối chỉ, thỉnh thoảng sốt ruột, khi anh Dưng dừng lại thay cái suốt chỉ trong ổ máy may, quay lại hỏi:

- Rồi sao nữa anh?

- Rồi bả không chịu đi hỏi vợ cho tôi, chứ sao nữa. Bả kể lại lời ông thầy cúng phán. Cô ấy tuổi Dần, còn tôi tuổi Tí, so sánh hai cái mạng thì mạng của tôi chỉ là con chuột nhắt nhỏ xíu, cưới cô ấy vể sẽ làm … “ bà nội” tôi , và tôi, chỉ vài năm sau, sẽ về chầu tiên tổ, vì cô còn có tướng “sát thủ ” … chồng. Mấy ông thầy bói thường gọ i là “ sát phu”.

- Ông thầy cúng có gặp chị đó chưa mà nói chị có tướng sát chồng?

- Bà già nói ông thầy chỉ cần coi tuổi, coi ngày giờ sinh sẽ suy ra tướng người không trật đi đâu hết. Bả còn đòi cắn lưỡi tự tử nếu tôi không nghe lời. Tôi chịu thua luôn.

- Còn chị bạn gái của anh làm sao?

- Tội nghiệp cô bạn gái của tôi khóc quá trời, Nhưng tôi an ủi cô ấy bằng cách thề độc sẽ không bao giờ cưới một người phụ nữ nào khác. Rồi tôi từ gi ã cô ấy, bỏ nhà, bỏ luôn cái nghề thầy giáo, đi lên Saigon tự kiếm sống sau khi để lại bức thư từ biệt tất cả mọi người trong gia đình...

Tính tới nay hơn bảy năm rồi, anh Dưng không hề trở về quê thăm nhà, thăm bà mẹ khó tánh. Thỉnh thoảng anh Dưng có viết thư cho bà cụ đỡ nhớ, trong thư anh thường bảo mẹ anh cứ yên tâm ở nhà, đừng lên Saigon kiếm anh làm gì. Anh nói đã “một đi không trở lại” và quyết ở lại Saigon tới già tới chết.

Lần này bà già lên Saigon tìm được cậu con trai mà ngày xưa ở nhà bà cưng chìu hết cỡ. Ở một quận lẻ xa xôi, có đứa con trai chịu lo học hành rồi lớn lên làm thầy giáo, bà thương lắm chứ. Bà cũng hãnh diện với chòm xóm, nhưng khổ nỗi nó lại đòi cưới vợ tuổi Dần, bà nhứt quyết không chịu.

Cái tin mà bà già báo cho anh trước khi ra về là cô bạn gái tuổi Dần ngày xưa đã có chồng hồi năm ngoái, một bạn học cũ, và đã theo chồng ra nước ngoài sinh sống. Anh Dưng thấy vui và mừng cho cái tuổi Dần của cô. Khi kể cho anh nghe chuyện này bà già nghĩ sẽ giúp anh quên ngườ i con gái đó và bà có lý do bảo anh trở về quê rồi bà tìm người mai mối cho anh một người vợ. Đến lượt anh, anh nhứt quyết từ chối.

Trên đường đưa bà già ra bến xe về lại quê nhà, anh Dưng nói nới mẹ:

- Tuổi Dần là như vậy đó má. Má không chịu cho con cưới vợ tuổi Dần thật là đúng với cái số mạng ông Trời đã định cho cô ấy. Cô ấy phải lấy ông chồng ngon lành hơn con chứ lấy chi cái tên mạt rệp này, vậy mà hồi xưa má đi chê người ta…

Dương Lêh

VUA THÀNH THÁI

VỚI BÀI THƠ YÊU NƯỚC

Kỷ niệm 120 năm lễ đăng quang của vua Thành Thái,

Kỷ Sửu 1889 - Kỷ Sửu 2009

1. Vua Thánh Thái đăng quang

Tại điện Thái Hòa, ngày mùng 2 tháng giêng năm Kỷ Sửu (02.02.1889), triều đình Huế chính thức làm lễ tấn phong hoàng tử Bửu Lân lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Thành Thái.

Hoàng tử Bửu Lân là con của vua Dục Đức và bà hoàng hậu Từ Minh. Khi vua Dục Đức bị giết thì hoàng tử về sống với mẹ ở quê ngoại. lúc triều đình đưa kiệu võng tới rước về cung, thì ông mới có 10 tuổi, nhưng đã già dặn hơn các đứa trẻ cùng lứa rất nhiều.

Sáng sớm ngày mùng 2 Tết Kỷ Sửu, điện Thái Hòa rực rỡ đèn hoa. Các quan văn võ triều phục chỉnh tề, tùy theo phẩm trật đứng thành hai hàng nghiêm chỉnh trước sân điện.

Đúng 6 giờ, Khâm sứ Rheinart dẫn đầu các viên chức Pháp từ tòa Khâm đến. vua Thành Thái tuy mới 10 tuổi, nhưng dáng điệu rất chững chạc, mình mặc hoàng bào, đầu đội mũ cửu long, mang đai ngọc, tay cầm ngọc Khuê, ngồi uy nghi trên ngai vàng. Khi viên Khâm sứ tiến vào thềm điện, vua mới từ ngai vàng đứng dậy, bước lại phía Rheinart, bắt tay viên Khâm sứ. Rheinart thay mặt chính phủ Pháp đọc chúc từ. Vua đọc lại lời đáp từ, giọng nói sang sảng vang lên giữa khung cảnh trang nghiêm. Vua trở lại ngự trên ngai vàng để đón sự chúc tụng của bá quan. Chúc tụng xong, các quan đều quỳ xuống để nghe một viên đại thần đọc tuyên sách, kể lại công nghiệp của tiên triều và lý do chọn vua Thành thái lên kế vị, mong vua nối nghiệp lớn để đem lại hạnh phúc cho muôn dân và giữ mối giao hảo tốt với nước Pháp. Lễ bộ tâu xin vua ban ân chiếu và dùng Ngọc Tỷ. Vua làm theo y lời tâu. Lễ đăng quang kết thúc. Rheinart và phái đoàn Pháp ra về, các quan bãi chầu, vua lên kiệu về điện Cần Chánh.

2. Thành Thái bị truất ngôi và bị đày

Thành Thái là một ông vua yêu nước, đã làm những việc mà đương thời cho là kỳ quái, là thành lập đoàn nữ binh ngay trong Tử cấm thành.

Vua đã bí mật huấn luyện võ nghệ cho các bà phi ở trong cung điện thành đội nữ binh. Sau khi đã thuần thục thì cho trở về gia đình, rồi bí mật tuyển vào người mới, luân phiên tập luyện để chờ cơ hội. Việc bại lộ, đoàn nữ binh bị cấm, Khâm sứ Levécque bắt đầu để ý tới thái độ của nhà vua.

Năm 1902, trong chuyến bắc tuần, thấy cảnh non nước điêu tàn, lòng dân oán hận quân xâm lược, vua đã xúc cảm làm bài thơ “Cầm hồ đoạt sáo”, có hàm ý kêu gọi quốc dân nuôi ý phục thù.

Bài thơ của vua Thành Thái như sau:

Kỷ độ tang thương kỷ độ kinh

Nhất phiên hồi thủ nhất phiên tình

Ngưu hồ dĩ biến tam triều cục

Hổ động không dư bách chiến thành

Nùng Lĩnh phù vân kim cổ sắc

Nhị Hà lưu thủy khốc ca thanh

Cầm Hồ đoạt sáo nhân hà tại

Thùy vị giang san tẩy bất bình.

THÀNH THÁI

DỊCH THƠ: 1902

Dâu biển bao phen đến thất kinh

Ngoảnh đầu nhìn lại chứa chan tình

Hồ Trâu đã đổi ba triều đại

Động Hổ còn trơ vạn trận thành

Mây phủ núi Nùng thê thảm sắc

Nước trôi sông Nhị khóc sầu thanh

Bắt thù cướp giáo kìa ai đó

Vì nước ra tay xóa bất bình !

SƠN BÌNH dịch

Khâm sứ Trung Kỳ Levécque nắm được bài thơ này, đã gây áp lực với triều đình Huế, buộc nhà vua phải thoái vị và đưa vào quản thúc tại Vũng Tàu (1907). Đến năm 1916, sau cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân bị thất bại, nhà vua và con trai ngài là vua Duy Tân bị chúng đày sang đảo Réunion thuộc Châu Phi. Sau nhiều năm sống lưu đày, tháng 5 năm 1947, thực dân Pháp mới cho vua Thành Thái về Việt Nam, quản thúc tại Sài Gòn. Vua tạ thế tháng 3.1954.

Nhân dịp đầu xuân 2009, hồi tưởng lại lễ đăng quang của vua Thành Thái vào ngày mùng 2 Tết Kỷ Sửu, cách nay đúng 120 năm, ta vô cùng kính phục các vị vua yêu nước. Từ vua Hàm Nghi, vua Thành Thái đến vua Duy Tân đều đã lên ngôi báu khi tuổi còn rất trẻ(1), trong cảnh đất nước bị ngoại bang đô hộ. vua tuy đầy nhiệt tình yêu nước, thù giặc xâm lăng, nhưng chưa gặp thòi cơ, nên đành ngậm hờn sống cảnh đày ải xa quê hương suốt 40 năm trời.

TRẦN ĐÌNH THÂN

(Ninh Thuận)

B.Đ. st

-------------

(1) Vua Hàm Nghi lên ngôi 1884 (lúc 14 tuổi), vua Duy Tân lên ngôi 1907 (lúc 8 tuổi)

Sách tham khảo : Việt Nam sử lược, Quốc triều chính biên, Nguyễn Phúc tộc thế phả.


Phụ Bản II

ĐIỀU BẤT NGỜ

NGÀY NHÀ GIÁO

Thảo thả từng cái chén, cái dĩa vào thau. Màu đỏ của ớt, màu xanh của cuống rau và màu vàng của vụn bánh nổi lềnh bềnh trên lớp bọt xà bông váng mỡ lờ lờ đục. Mùi chua khó tả bốc lên làm Thảo chun mũi lại.

Nó vừa rửa chén dĩa vừa ngóng cổ nhìn về ngôi trường Mẫu giáo phía xa xa, vẻ nôn nóng. Nó đoán giờ này cô giáo bắt đầu dạy các bé bài hát mới rồi.

Thảo chỉ muốn bỏ hết công việc để chạy ngay sang trường. Nhưng hôm nay hàng bánh xèo của má nó đông khách quá, hai mẹ con làm việc không ngơi tay, nó làm sao đi đâu được. Thêm người khách mới nào bước vào là Thảo lại thấy bực mình. Nghĩ cũng lạ, khách đông, má nó mau hết hàng, tối nay lại không phải là ngày phải đi học, Thảo sẽ rảnh rang sớm để sang nhà hàng xóm xem Tivi, chứ sao lại bực?

Thảo thích xem Tivi lắm nhưng nó cũng thích nghe cô giáo dạy hát nữa. Những bài hát thật hay, rất dễ nhớ. Từ hôm phát hiện ra giờ học lý thú này, Thảo hay kiếm cớ trốn mẹ chạy sang trường Mẫu giáo, đứng bên ngoài hàng rào dỏng tai nghe lóm.

Ở ngôi trường Mẫu giáo này, cô giáo nào cũng hiền, cũng dễ thương cả, nhưng Thảo dặc biệt có cảm tình với cô Yến và cô Phượng. Nó cho rằng trên đời này chẳng còn ai hát hay như hai cô cả. Giọ ng cô Yến thật ấm còn giọng cô Phượng thật ngọt. Nó ước phải chi được làm học trò của hai cô thì hạnh phúc biết chừng nào. Nhìn các em bé giờ chơi tranh nhau leo cầu tuột, xích đu ở sân trường, Thảo thèm thuồng lắm. Theo trí óc trẻ con của nó, phải vào học trong một trường Mẫu giáo như thế kia thì mới gọi là học chứ!

Ba má Thảo rời quê lên thành phố từ khi nó còn nhỏ xíu. Gia đình ở nhà thuê, khi chỗ này lúc chỗ khác, nên mãi đến năm 9 tuổi, nó mới bắt đầu đi học ở lớp tình thương buổi tối. Cô giáo Loan của nó cũng hiền, cũng dễ thương lắm nhưng chỉ dạy đọc chữ và tập viết, không dạy hát như các cô trường Mẫu giáo kia.

- Chèng ơi, có một thau nước nãy giờ mà mày dồn cục chừng đó chén dĩa thì làm sao sạch nổi, hả?

Tiếng má bất chợt vang lên lanh lảnh làm Thảo giật mình, sực nhớ. Nó vội vàng bưng thau nước dơ đem đổ, thay nước sạch khác.

- Làm ăn ẩu tả vậy đó! Nói hoài cũng không nhớ hà! Khách người ta ngó thấy, ông nội ai dám ghé vào ăn nữa chớ? Bộ mày muốn tao dẹp hàng đặng ở nhà ôm nhau chết đói luôn mới vừa lòng, hả?

Má nó dai dẳng chì chiết. Nhưng Thảo không buồn cũng không giận. Nó quen rồi, tính má nó vốn thế, nóng nảy nhưng tốt bụng và rất yêu thương nó.

Ba Thảo chết sau một cơn bệnh dai dẳng, đã bốn năm nay. Cũng có vài người đàn ông để bụng thương nhưng má nó nhất quyết không lấy ai nữa, vất vả bán buôn nuôi con. Có ai hỏi lý do, má nó cũng nín thinh không nói. Chỉ với bác Bảy là chỗ ân nghĩa thì một lần, má nó mới thở dài, lấp lửng:

- Buồn lắm chứ bác, nhiều đêm con khóc hoài… Mà thôi, ráng chịu đựng cũng qua… Sợ sau này người ta không thương con Thảo, nó khổ…

Bên trường Mẫu giáo đã đến giờ tan học, các em bé như đàn ong vỡ tổ ùa ra cổng, ríu rít bên người thân.

Thảo tiếc rẻ thở dài vì bỏ mất hài hát chiều nay. Chẳng biết cô giáo ôn lại bài cũ hay tập qua bài mới nhỉ?

Chỉ đứng bên ngoài rào lắng tai nghe lóm thôi vậy mà Thảo thuộc nhiều bài hát lắm. Lúc phụ mẹ bán hàng, thỉnh thoảng nó cao hứng lại ư ử hát vài câu: “Con cò be bé, nó đậu cành tre, đi không hỏi mẹ biết đi đường nào? Khi đi em hỏi, khi về em chào…”

Hôm đầu tiên Thảo học được của cô Phượng bài này thì ngay chiều hôm sau, lần đầu tiên, nó rụt rè nói với má:

- Cho con qua trường Mẫu giáo chút xíu, nghen má!

Má nó ngạc nhiên quá đỗi, nhìn nó lom lom:

- Qua làm giống gì mà ngày nào cũng qua hoài vậy? Ờ thì đi lẹ lẹ lên rồi về liền, để khách vô đông không ai phụ tao đó!

Lúc quay về, Thảo lại gần má, lỏn lẻn cười:

- Má, con về rồi nè!

Làm má nó phì cười:

- Bữa nay sao ngoan quá, hén? Bộ mát dây hả con?

Thảo không buồn mà lại thấy vui vui trong bụng nữa. Làm sao má nó hiểu được, vì ngay nó cũng còn không hiểu kia mà! Từ hôm đó, dường như má nó dễ dãi hơn, không cấm đoán hay mắng mỏ mỗi khi nó trốn việc chạy sang trường học nữa.

Thảo như “ghiền” những bài hát mà các cô dạy cho các bé mẫu giáo, bài nào nó cũng thuộc như cháo. Lúc ngồi rửa hàng núi chén dĩa dơ, nó không còn thấy ngán ngẩm công việc chán òm ấy nữa. Nó vừa rửa vừa khe khẽ hát: “Ai hỏi cháu cháu học trường nào đây?...”

Buổi tối nằm ôm má, Thảo rủ rỉ:

- Má ơi, mai má xin cho con vô học trường Mẫu giáo nghe má!

- Trời đất, con nhỏ này ngộ chưa! Trường Mẫu giáo của các em bé, mày lớn bộn rồi làm sao mà xin được?

Thảo ấm ức trách:

- Vậy chứ hồi con còn bé má cũng đâu có xin?

- Hồi đó nhà mình khó khăn quá, ba mày bệnh rề rề rồi mất… Bởi vậy…

Giọng má nó nghèn nghẹn như vừa bị ai chận một cái nút ngang cổ họng, khiến Thảo mủi lòng, nín thinh luôn.

Tiếng cô Yến êm ái:

- Các con ơi, các con có biết tuần sau có ngày gì không?

- Dạ… không!

- Tuần sau có ngày 20 tháng 11 là ngày Nhà Giáo Việt Nam đó. Bây giờ lớp mình tập vài bài hát để hôm đó tham gia trình diễn văn nghệ nha. Bạn nào muốn hát thì giơ tay lên!

- Con!

- Con!

- Con nữa, cô ơi!

Thảo ngây mặt ra. 20 tháng 11, ngày Nhà Giáo? A, nó nhớ rồi. Ngày 20 tháng 11 năm ngoái, má nó có đổ một bịch bánh xèo thật ngon để tối đó nó đem đến lớp học làm quà tặng cô Loan. Cuối giờ học, cô Loan đem bánh ra chiêu đãi học trò. Cả lớp được một bữa ngấu nghiến nhai và xì xụp húp nước mắm rồi vừa cười hí hí vừa hít hà vì ớt cay mãi. Cả tháng sau, tụi nó vẫn còn nhắc lại hương vị thơm ngon của những chiếc bánh xèo béo ngậy ấy.

Ngày Nhà Giáo năm nay, không biết má nó định tặng cô Loan quà gì? Lần đó, cô đã dặn Thảo đừng bày đặt như thế nữa, từ nay cô nhất quyết không nhận quà đâu. Với cô, chỉ cần nó chăm chỉ học hành tiến bộ thì đã là món quà ý nghĩa làm cô vui nhất rồi.

Đã đến 20 tháng 11. Khác với mọi ngày, sáng nay Thảo ra chợ thật sớm.

Mua đầy đủ những món má dặn rồi, Thảo chưa về liền mà cứ lảng vảng chỗ dì Bảy bán hoa tươi. Hôm nay hàng hoa của dì Bảy đông khách quá, đa số là học trò cổ đeo khăn quàng đỏ. Họ mua hoa chúc mừng thầy cô. Chẳng bao lâu, mấy cái xô đựng hoa hồng của dì Bảy đã trống trơn, chỉ còn lại ít hoa cúc và đồng tiền.

Ngước lên thấy Thảo đứng xớ rớ nhìn vào, dì Bảy cười tươi, ngoắc nó:

- Thả o c ũ ng mu ố n mua hoa t ặ ng cô giáo h ả ? Vô đ ây, dì “khuy ế n mãi” cho m ộ t bó nè. Ráng h ọ c gi ỏ i sau này cho má mày nh ờ , nghen con!

Thảo mừng rỡ đón lấy bó hoa còn ướt nước, lí nhí mấy tiếng cám ơn rồi quày quả trở về. Tim đập rộn ràng trong ngực, nó hồi hộp quá sức.

Về đến nhà, Thảo thấy má đang lui hui nhóm lửa trong bếp. Mấy cây củi không được khô nên khó bén lửa, tỏa khói mù mịt, làm má nó vừa thổi lửa vừa ho lại vừa phải kéo vạt áo quẹt mắt hoài.

Ôm bó hoa trong tay, Thảo từ từ đến sau lưng má, rón rén như ăn trộm.

Nghe tiếng động, má nó quay lại, sửng sốt hỏi:

- Hoa ở đâu nhiều vậy, Thảo?

Thảo ngượng ngập nín thinh, mặt đỏ ửng. Hai mẹ con bỡ ngỡ nhìn nhau.

Bất ngờ, Thảo ấn bó hoa vào tay má:

- Con… chúc mừ ng… má…

Rồi nó xấu hổ cắm đầu ù té chạy mất như bị ma đuổi, trong lúc má nó ngây mặt ra, không hiểu.

Nấp bên ngoài nhìn lén vào thấy má ngơ ngác với bó hoa trong tay, Thảo khoái chí nhe răng cười một mình. Đúng rồi, làm sao má nó hiểu được chứ? Vì chưa lần nào qua trường Mẫu giáo nghe các cô giáo dạy hát nên má nó đâu biết có một bài hát rất hay: “Lúc ở nhà, mẹ cũng là cô giáo…”

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

CHIẾC LÁ THU MƠ

Thu ơi ai dấu vạt nắng hồng

Đâu ánh bình minh lấp lánh trong

Mình em thơ thẩn đôi vần lạc

Hoàng hôn mộng mị nát tơ lòng

*

Em ngồi đong đếm những xanh xao

Tình xưa xa vắng tự thu nào

Nhặt bao chiếc lá phai màu úa

Ấp ủ tình thu đã hư hao

*

Em mơ những giọt nắng ngọt ngào

Đóa hồng đỏ thắm nở trên cao

Chan chứa tình yêu xuân lơi lả

Vườn hoa ong bướm mấy xôn xao

*

Vẫn biết chỉ là mơ thế thôi

Cho lòng thêm một chút ngọt bùi

Để bước chân buồn thôi tơi tả

Mặc gió sương chiều ướt lạnh môi !

*

Mơ về nơi ấy rất xa xôi

Chiều nay bão rớt ở phương trời

Hồn em đắm đuối tình mê hoặc

Lòng tiếc thương hoài - Tình khôn nguôi !

Phạm Thị Minh-Hưng

TÌNH CHỚM THU

Trời đã thu rồi anh hỡi anh,
Sương mù giá lạnh nắng mong manh
Em ngồi buồn bã bên song cửa
Anh ở đâu rồi, xa sao đành ?

Thu về màu lá cũng thôi xanh
Vàng thu hiu hắt úa trên cành
Heo may vi vút âm thầm quá
Tình xanh nào thấy sầu vây quanh...

Sương lạnh tràn về, ôi giá băng
Tìm đâu chim sáo hót vang vang
Bình minh ủ rũ sương huyền ảo,
Tình ta xa vắng đã bao lần ?

Anh có về không, trời gió giông
Mình Em vàng võ sắt se lòng
Thu về, ai nỡ chia tình mộng

Bàng hoàng tiếng gió rít ngoài song...

Phạm Thị Minh-Hưng

LỜI CỦA TRÁI TIM

Khi cất lên lời của trái tim
Lòng bỗng dưng quá đỗi yếu mềm
Như tất cả những gì sâu lắng nhất
Thêm một lần thao thiết niềm riêng

Bao xúc cảm cứ dạt dào như thể
Tuôn trào theo ánh mắt làn môi
Cứ ngỡ là thoang thoảng thế thôi
Mà đắm đuối cuồng si riết róng

Con tim yêu đã bao lần thức ngủ
Hết đắng cay rồi lại hóa ngọt ngào
Lặng đi rồi khoảnh khắc bỗng lao xao
Lời da diết chẳng thể nào ngăn nổi

Là vậy đấy mỏng manh vậy đấy
Trái tim yêu vẫn cứ thập thình
Lời yêu dấu gửi về nơi yêu dấu
Đắm say cùng mộng ước phiêu linh

ĐÀM LAN

GA CUỐI

Tàu dập dồn lăn bánh

Thời gian như vội vàng

Biết đây là Ga Cuối

Chặng hành trình trăm năm

*

Sao chừng nghe lưu luyến

Chút gì như xót xa

Đời còn chưa kịp sống

Sao đã vội phôi pha !

*

Nhưng dù bịn rịn mấy

Cũng không thể vấn vương

Biết đâu mai thức dậy

Thấy mình… trên Thiên Đường !

*

Thì còn ngày tháng cuối

Hãy yêu cho hết mình

Hãy vì đời dâng hiến

Bằng tất cả nhiệt tình

*

Biết đời là huyễn mộng

Một ngày rồi sẽ tàn

Sống sao cho khỏi hối

Khi rời xa trần gian

*

Giận hờn xin rủ bỏ

Yêu đương chớ bận lòng

Ruổi rong mãi cũng chán

Mai rồi về hư không.

Tâm Nguyện

Tròn trăng

Sợi mây lãng đãng trôi

Ngang chỗ em mỉm cười

Với đôi chim lích rích

Rỉa cánh một ngày vui…

*

Sợi tóc hớt hải bay

Nũng nịu xuống lá cười

Như chờ ai nhặt lại

Vì vừa lỡ đánh rơi…

*

Sợi gió tẩm hương thầm

Làm ngẩn ngơ nụ nhỏ

Chưa vội nở thành xuân

Hít hà mà bỡ ngỡ…

*

Sợi nhớ làm đôi mi

Phiêu du hồn ngơ ngẩn

Chuyện mộng mị đêm qua

Bỗng nhiên như gần lắm…

*

Sợi gì như sợi yêu

Vướng vào chân quýnh quáng

Vướng vào hồn nghễnh ngãng

Lẫm chẫm chút son thêu…

*

Chờ ai gõ cửa mời

Vào vườn lạ rong chơi

Rụt rè, tay vẫn nắm

Em…

      …mười sáu tuổi rồi!

LAM TR N 16.08.2015

Ngẫm

Hôm nay có gã trăng già

Men men xuống núi ngỡ hoa của mình

Ngỡ đêm là mộng cùng tiên

Ngỡ ngày cưỡi ngựa hân hoan trên đồng.

*

Trăng nằm bẹp trong giòng sông cạn nước

Khò khè nghe rệu rạo bước chân chồn

Của ôi, chú khỉ hom hem

Múc trăng mà tưởng cô tiên ghẹo mình

Trăng mếu máo, dập dềnh sông thở

Ngóng lên trời vụn vỡ ánh dương

Chờ đêm, đêm có đến chăng

Cho trăng trèo lại mộ phần dành riêng?

*

Trời mênh mang, mà mặt trời yên giấc

Nghiến đôi hàm trở gót đến đỉnh cao

Trăng treo mình lên tảng đá bèo nhèo

Bên giòng sông cạn, gã khỉ già lẩm bẩm:

- Chỗ của ngươi, là xa xôi vô tận

Là làm vui cho lũ trẻ đêm thu

Là làm cho đôi lứa suốt đêm hè

Bên cối giã cho nhuyễn nhừ tình quyến luyến

Chỗ của ta không là nơi hò hẹn

Mà chỉ là châm biếm lũ buồn cười

Như ngươi đó, lão trăng khú đế ơi

Già thì nhớ rằng đời đang quên vội !

LAM TR N 16.08.2015

ĐẠO CẢ

Chân lý tiên thiêng nhận định mau

Cuộc đời ngắn ngủi tự thuở nào

Vô thường vật chất rồi tan biến

Vạn thọ linh hồn phải chuốt trau

Đức Phật thành công tu luyện trước

Chúng sinh nối gót tiếp thu sau

Chơn Tâm vốn pháp điều muôn vật

Thức tỉnh nơi đây Đạo Đức cao.

Thanh Châu

THẾ SỰ

Có có, không không, chẳng vãn hồi

Khôn khôn, dại dại, thế mà thôi

Cười cười, nói nói, cho qua buổi

Khóc khóc, than than, cũng đã rồi

Nhớ nhớ, thương thương, đành để mặc

Ân ân, oán oán, bỏ ngoài thôi

Còn còn, mất mất, do thiên định

Uống uống, ăn ăn, khỏe tốt rồi.

Thanh Châu

ĐÁ GỌI TÌNH

Tích xưa còn đó ngàn năm cũ

Chờ chồng hóa đá, đá vọng phu

Núi cao cao ngất, người mệnh bạc

Mãi mãi muôn đời vọng chinh phu

*

Chinh phu biền biệt khuất nẻo xa

Chinh phụ ôm con giữa chiều tà

Núi đồi tiếp núi vương mây trắng

Bi kịch anh em sống chung nhà

*

Người anh uất nghẹn đành ly hận

Em gái khóc thầm không hiểu chi

Tại sao người dứt áo ra đi ?

Duyên tình đành đoạn tuyệt chia ly

*

Mỏi mòn chờ đợi chưa nguôi nhớ

Cạn lệ tim khô cứ đứng chờ

Để rồi hóa đá, tim hóa đá

Đá mãi ngóng chờ, ngóng đợi ai ?

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

LỜI RU

Bà đi trước, mẹ khuất rồi

Gia tài để lại mấy đời… ca dao

Lời bà, giọng mẹ ngọt ngào

Mà nghe “sóng bủa xôn xao” bên lòng

Mà nghe cá lội ngoài sông

“Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ”

Mà nghe “phận gái còn thơ”

“Lấy chồng xa xứ bơ vơ một mình”

Mà nghe “mái đổ xiêu đình”(1)

Bởi ai hờ hững để mình đảo điên

Đời bà lắm nỗi truân chuyên

Thân mẹ như thể con thuyền trôi sông

Đói no lòng vẫn dặn lòng

“Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai”.

Đời bà lận đận đắng cay

Kiếp mẹ chưa nếm một ngày thảnh thơi !

Bây giờ còn một mình tôi

Thương cây tróc gốc “ai ngồi chợ trưa”.

*

Cõi đời trăm nắng ngàn mưa

Còn nghe giọng mẹ mới vừa ru con.

1.1993

Mai Văn Tạo

Mai Thị Thủy Hoa st

----------------

(1) Câu hát ru nói về tình yêu mãnh liệt:

“Chiều nay có kẻ thất tình

Dựa mai mai ngã dựa đình đình xiêu”

ANH TÔI

Anh tôi gia trưởng trong nhà

Quyền huynh thế phụ như là song thân

Ký ức hoài niệm trào dâng

Mỗi lần nhớ lại bâng khuâng cảm hoài

Anh tôi chẳng chút đua đòi

Học cao hiểu rộng trong ngoài phân minh

Bà con ai cũng hoan nghinh

Bạn bè quý trọng thâm tình làm sao

Dù cho số phận lao đao

Bỏ bao ấp ủ ước ao riêng mình

Giờ đây Ba Mẹ thờ hình

Anh thì già yếu thình lình rủi ro

Tuổi già xế bóng còn lo

Hai em còn lại đói no thế nào ?!

Bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào

Anh luôn tỏa sáng tự hào trong tôi

VŨ THÙY HƯƠNG

Mùa Thu 2015

HOÀI NIỆM

Bao năm sống cảnh lạc loài

Tha phương cầu thực nhớ hoài quê hương

Dân tình sống cảnh hiền lương

Thật thà đôn hậu vấn vương nghĩa tình

Mỗi lần tế Giỗ Trường Đình

Dài đen khăn đóng in hình Ông Cha

Thướt tha yểu điệu in hình Ông Cha

Áo dài nón lá ngân nga câu hò

Đi mô cũng nhớ con đò

Sông Hương thơ mộng dặn dò tỉ tê

Nơi sinh bao đấng si mê

Gợi niềm cảm hứng đam mê yêu chiều

“Kim Long có gái mĩ miều

Trẫm thương Trẫm nhớ Trẫm liều Trẫm đi”

Giò đây cách trở sầu bi

Sài Gòn náo nhiệt chia ly kinh thành

Xa quê van vái điều lành

Mong sao Huế mãi bao ngành hạnh thông

Mùa Xuân Mai Cúc trổ bông

Trời se se lạnh khăn lông áo choàng

Nhà nhà sắm sửa đàng hoàng

Áo quần tề chỉnh kết đoàn se duyên

Hạ về bè bạn huyên thuyên

Luyến lưu giã biệt một niên học rồi

Nhớ Thu mà dạ bồi hồi

Lá vàng rơi rụng núi đồi cảnh quang

Vân Lâu đò dọc đò ngang

Phượng Hồng đỏ rực thành hàng xuyến xao

Đông về dân chúng lao đao

Dự phòng bão lũ thiên tai hoành hành

Đêm khuya thao thức dỗ dành

Vọng về quê cũ thôi đành CẦU AN

VŨ THÙY HƯƠNG

Mùa Thu 2015

PHIÊN LỄ KHUYA

Phiên lễ khuya chập chùng sương gió

Mưa rả rích từng hồi từ độ đầu hôm

Một bình minh thấp thoáng triền sông ngời ngời

Mấy nàng vén đôi tà áo trắng

Ngập ngừng con nước chảy xuôi

Bước đi lặng lẽ về phía chân trời lao xao

Thấp thoáng nhà nguyện

                   cắt màn đêm sừng sững vươn cao

Thánh ca nhập lễ:

Bắt đầu lảnh lót như mãi ngàn sao vọng về

Nào vội vàng trơn sình lầy lội những nẻo đường quê

Vì cõi lòng bằng an sá chi tràn trề mưa gió bão dâng

Và xin Ba Ngôi một mảnh núi sông Vĩnh Hằng

10/10/2015

BS. DOANLINH

TÂM SỰ CON TÀU

Những con tàu mải miết vượt thời gian

Những sân ga lặng thầm đưa đón

Những cung đường nhiều ngăn lắm cản

Hỏi ngã tùm lum phải lách phải luồn

*

Băng vào gió mưa sấm nổ bão cuồng

Lũng thấp đèo cao trần thân dầu dãi

Sắt thép cũng đau cũng buồn han rỉ

Ngao ngán đường đời chưa kịp thắng đã cong

*

Khách lên tàu trăm việc một công

Mạnh mẽ tranh giành chen nhau hối hả

Kẻ bán người mua mời chào xối xả

Rổ rá nong nia cũng giành giật chỗ ngồi

*

Đích tàu dừng khách đâu đã nghỉ ngơi

Cần đi tiếp thản nhiên lên chuyến khác

Mặc con tàu nằm dài thở dốc

Chỉ có nỗi buồn mới lưu luyến sân ga.

10/10/2015

BS. DOANLINH

Ngoảnh Lại

Đã có lúc, khi còn non trẻ

Ta từng mong ước thế gian

Không có người mù, người điếc, người câm

Những người cụt què, cùi hủi

Và cả những người điên…

*

Ta đã từng mong ước thế gian

Không có những khuôn mặt xấu xí yếu hèn

Những kẻ chỉ biết khom lưng quỳ gối

Và những người ngông cuồng tội lỗi

Chuyên kiếm ăn trên xương máu của giống loài

*

Ta đã từng mong ước thế gian

Không có những muỗi, ruồi, chuột, bọ, chồn hôi

Những con rắn có nọc độc giết người

Những vi trùng dịch bệnh,

Từng gieo rắc kinh hoàng,

Như chiến tranh định mệnh

*

Rồi chợt một ngày.

Ta ngoảnh lại ngắm thế gian

Ôi, nếu thiếu vắng đi tất cả những gì ta không ưa, không thích

Thì thử hỏi

Cuộc đời này

Ta từng được sống qua chăng?

VÕ KIM CƯƠNG

BỨC TRANH

Dường như ai đó hiểu mình

Chút hồn lãng tử, chút tình nước non

Phù du một kiếp sống mòn

Nửa nên vàng đá, nửa còn cỏ cây

Núi cao mây phủ càng dày

Biển sâu sông cả gió hay lật thuyền

Chi mong tĩnh lặng dịu hiền

Xanh xanh bóng nước một miền gương soi

Trên cao vần vũ mây trời

Ven hồ huơu nhỏ thảnh thơi vô tình…

VÕ KIM CƯƠNG

MƯA ĐÊM

Ngoài hiên lách tách giọt rơi

Nhìn ra cửa sổ nhớ người thuở xưa

Màn sương gió lạnh chuyển mùa

Có người ước lũ mà mua thêm sầu

Mưa rơi ướt má thấm đầu

Nước sa nhỏ giọt lạnh sâu nỗi lòng

Tí tách nổi phồng bòng bong

Chim bay về tổ tìm lồng cho nhau

Yêu thương đã lỡ nhịp đầu

Mưa bay gió thổi phai mầu tuổi xanh

Năm xưa đã lỡ bạn tình

Bao mùa cô quạnh tâm linh bồn chồn

Gieo chi cảm xúc tâm hồn

Cho lòng ray rứt nỗi buồn đêm mưa

QUANG BỈNH

XA NHÀ

Đêm về nghe hạt mưa rơi

Mưa bao nhiêu hạt lòng tôi chạnh buồn

Con nay ở đảo Đài Loan

Đón xuân đất khách lo toan quê nhà

Anh em cha mẹ ông bà

Bao năm xa cách ai là người chăm

Còn cha tóc bạc hoa râm

Lúc xưa vất vả bao năm thuở nào

Xuân về rộn rã mai đào

Đón tết đất khách làm sao không buồn

Mong sao con cháu mạnh luôn

Học mau tiến bộ mãi luôn nên người

Mẹ con thuận thảo vui cười

Chăm nom học hỏi cuộc đời tiến thân .

QUANG BỈNH

4 KHÔNG (Nên dừng)

1. Không chơi hút ma túy xì ke

Con người yếu đuối ghẻ lở ghê

2. Đánh bài đề số cũng không ngó

Lỡ thua gia tài đi với xe

3. Rượu vào câu móc người say quậy

Lời ra ói mửa chó ăn chè

4. Khói thuốc gây ra bao bệnh tật

Thói ghiền hại mình cũng nên de

QUANG BỈNH

TÂM SỰ NGUYỄN DU

Máu ứa ra thơ đầu ngọn bút

Mắt tràn ngấn lệ ngút ngàn khơi

Vầng trăng thu đẹp tuyệt vời

Tình Kim Kiều hẹn một đời thủy chung

*

Lòng nhân hậu hòa cùng cuộc sống

Hồn lẫn vào ước vọng xa xăm

Nhiệm mầu - thi vị - thăng trầm

Lênh đênh dâu bể chữ Tâm vững bền

*

Đời có lúc thác ghềnh chớn chở

Lúc sa cơ khổ sở lầm than

Gia đình vướng mối hàm oan

Tình hai lối rẽ trái ngang chất chồng

*

Khi hoạn nạn tìm không lối thoát

Nỗi nghẹn ngào chua chát đắng cay

Qua nhiều lưu lạc đổi thay

Gia đình sum họp tháng ngày thong dong

*

Thề nguyện chẳng thay lòng đổi dạ

Dù rừng sâu biển cả mông mênh

Kiên trì can đảm chớ quên

Luôn luôn phấn đấu vượt lên chính mình

NGÀN PHƯƠNG

AI TRI ÂM ĐÓ…

VUI chưa trọn khúc tình ca

LÀ vì nghịch cảnh cách xa muôn trùng

VUI nào xóa nỗi nhớ nhung

GƯỢNG quên khi trót lỡ cung nhạc lòng

KẺO mai đời lắm bão giông

LÀ đôi ta phải ngược dòng thời gian

*

AI mang sầu nhớ dịu dàng

TRI âm kỷ niệm – võ vàng giấc mơ

ÂM thanh ngày cũ lững lờ

ĐÓ đây ngăn cách đợi chờ thiên thu

MẶN như nước mắt tạ từ

MÀ sao cánh nhạn mịt mù xa khơi

VỚI nhau chẳng nói nên lời

AI trao tâm sự chơi vơi ngậm ngùi

NGÀN PHƯƠNG

· Những chữ in đậm đầu câu

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai

BỤI PHẤN THỜI GIAN

Đôi ta cùng chí hướng

Cùng yêu nghề giáo đến si mê

Anh và em chung lý tưởng

Chung bước đường thơ ngọt dịu ánh trăng thề

*

Thời gian trôi

Không xóa mờ tình yêu dành cho lớp trẻ

Bụi phấn rơi rơi trên tóc nhung huyền

Mình suốt kiếp nguyện theo nghề dạy học

Cô nữ sinh ngoan ngoãn ngày nào

Vẫn mãi yêu anh – thầy giáo cũ

*

Tháng ngày trôi – kỷ niệm nồng nàn

Vẫn gắn bó với tương lai lớp trẻ

Vẫn hết mình vì thế hệ mai sau

*

Anh xúc động ngập tràn

Dưới đèn đêm em ngồi bên trang giáo án

Vẫn yêu nghề như đã mến yêu anh

Em tươi thắm hồn nhiên như thuở học trò bé bỏng

Nhân hậu hiền hòa như màu phấn trắng bảng đen

Vì yêu anh – Em đảm đang vững bước

Đem nắng xuân hồng hạnh phúc ngập đời anh

Và vun quén vườn lòng đơm trái ngọt

Nở đầy hoa cho mái ấm mãi yên vui

*

Búp măng non sẽ vươn lên cao vút

Cho niềm tin – hy vọng sáng muôn đời.

NGÀN PHƯƠNG

M

Ư

A

Mưa ! Mưa! Mưa !

Mưa lợi lộc sinh sôi nảy nở

Mưa quay quắt đã đổ ngập cánh đồng

Mưa xối xả, phố phường hóa thành sông

*

Mưa xa xa, mịt mờ bãi cát

Mưa hiền hòa, man mát ruộng vườn

Mưa êm êm, dìu dịu những tâm hồn

Mưa mênh mang u uẩn chốn thiền môn

*

Mưa trên trời, sấm sét rền vang

Mưa hung hãn, tất tan hoang nhà cửa

Mưa hân hoan nỗi niềm vui muôn thuở

Mưa đẹp đều tươi tốt những mùa vàng

*

Mưa đẹp, mưa vui, mưa lời, mưa lộc

Mưa dầm, mưa dai, mưa thảm, mưa sầu

Mưa đè nặng lên cảm xúc lo âu

Mưa là thế với muôn màu phúc – họa.

LÊ MINH CHỬ

BỆNH XÃ HỘI

Nếm mùi quyền lực, giàu sang

Tham danh, hám lợi… sẵn mang trong lòng

Ưa nịnh hót, thích tô hồng

Luồn lọt, đút lót, cướp không của người

Tệ thay cái bệnh ở đời

“Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu”*

LÊ MINH CHỬ

· Nguyễn Du

LÀNG GỐM BÁT TRÀNG

Bát Tràng đất sét tạo nên hình

Thế đứng làng nghề mãi vững tin

Khi trước nghệ nhơn đem nghiệp cả

Lúc sau đồng sự vẫn ưu tình

Chậu bình chén dĩa màu tinh tắn

Án tích chung bầu sắc đẹp xinh

Trình độ nâng cao càng nẩy nở

Dân gian mến mộ tiếng muôn nghìn.

LANG NGUYÊN

LÀNG NGHỀ

TRỒNG BÀNG ĐAN ĐỆM

Ai qua đến xứ Kiến Vàng

Thấy cô giã bàng nẩy tới nẩy lui

Nghề nầy nắng đốt mưa thui

Ra đồng cắt xén bó vùi lọn to

Mang về trải rộng phơi cho

Lửa trời nung héo cuốn vô quết chày

Ạch đùng tiếng giã liền tay

Đừng chê cô gái với tài lao công

Xong rồi đan nốp, đệm nông

Nốp anh bộ đội để dùng ngủ đêm

Đệm nông phơi lúa, gạo đồng

Lấy tiền xoay vốn cấy trồng giống thêm

Cây bàng nghĩ cũng lắm tiền

Chỗ nào không lúa trồng liền tốt thay

Đất sâu vùng trũng khó cày

Ta đem thay thế cây nầy đỡ lo

Làng nghề đan đệm vòng do

Giây chuyền nông nghiệp trời cho dân nghèo

Không giàu nhưng đủ lúc keo

No cơm ấm áo khỏi trèo xa quê.

LANG NGUYÊN

BẠN MỘT BÊN

VÀ EM MỘT BÊN

Bạn và tôi

         cùng dãy phố hàng Thùng cầu Gỗ

Có đình Thọ Nam lối rẽ bờ hồ

Có trường Hàng Vôi bên phố cổ

Còn dấu chân nào trên hè phố ngày xưa

*

“Xếp bút nghiên” ra đi từ thuở ấy

Đầu còn xanh chưa bạc áo hào hoa

Trí càng bền tôi rèn trong lửa cháy

Khúc quân hành theo nhịp bước hùng ca

*

Hơn một vòng đời ta lại trở về phố cũ

Đánh giặc xong rồi – dựng lại mái nhà xưa

Cuộc tình sau cũng là tình thứ nhất

Chặng cuối dừng chân hạnh phúc em cho

*

Còn gì trên đời đẹp hơn thế nữa

Được yêu thương và có bạn hiền

Chưa cạn ly mà lâng lâng rồi té

Bạn một bên và em một bên !

17.02.2012

LÊ NGUYÊN


BONG BÓNG

Trời xầm xì hạt mưa lã chã

Mái hiên gầy trong khuya lạnh ánh đêm

Gió bồng lên mơn man đan làn tóc

Lãng hoang vu nhẹ vuốt mảnh vai mềm

*

Tuổi ấu thơ chẳng nguôi ngoai nhung nhớ

Đường mòn quê cổ tích mái nhà xưa

Cõi hư vô xanh niệm hoài muôn thuở

Phủ rêu phong mấy độ trải nắng mưa

*

Chồi non biếc lá gieo tình phiêu lãng

Bóng tan dần còn đâu nữa ái ân

Đôi má thơm giọt lăn tròn thi thoảng

Cội nguồn hoang đôi bờ lạnh chân trần

*

Bong bóng tan chạnh lòng đau nuối tiếc

Cứ tràn về thầm lặng nỗi đầy vơi

Thời gian trôi thinh không buồn thao thức

Nhân quả vô vi trải khúc dòng đời.

Tp. Hồ Chí Minh, Tháng 10.2008

VŨ MÃO

BUBBLE

The somber sky whispered and raindrops fell copiously

The small veranda was so quiet in the nightshade

The wind pulled and lightly knitted the hairs

The deserted valley lightly fondled the little shoulder

*

I’ve never ceased to remember and regret my infancy

The legendary countryside trails

and the old house in days past

The bluish nihilistic world I eternally remember and think of

Was covered with green moss

while undergoing so much sun and rain

*

The young bud and greenish leaves sowed drifting love

The shade vanished and no conjugal affection was left

At times tears dropped on the perfumed cheeks

At the deserted source,

there were cold bare feet on both shores

*

The bubble melted and one’s regretful mind was painful

Pains constantly flowed back causing silent sufferings

Time passed by and the firmament was restlessly sad

The non-acting and quiet causality spread over our life line

Hồ Chí Minh City October 2008

VŨ MÃO

Translated by VŨ ANH TUẤN

HOÀI NIỆM XƯA

Tôi có thói quen, cứ lâu lâu rà soát lại giấy tờ xem cái nào còn “xài” được thì lưu, thứ nào đã hoàn thành “sứ mệnh” rồi thì bỏ đi cho kho sách đỡ quá tải. Trong lúc rà soát, bất ngờ mấy tờ sách cũ rơi ra, tôi cầm lên đọc, đó là những bài thơ… Bất giác nó đưa tôi về thời xa xưa êm đềm của tuổi trẻ tinh khôi, những tình cảm tuổi học trò.

Câu chuyện là thế này. Lúc đó tôi đang học ở cấp 3 thị xã Hưng Yên, theo chương trình 10 năm chứ không phải 12 năm như bây giờ. Sau khi tốt nghiệp cấp 3 thì mọi người chia tay nhà trường thân yêu, chia tay thày, cô và bạn bè rồi mỗi người đi theo hướng riêng. Tôi được du học ở Trung Quốc, còn cô bạn cùng tổ lại du học ở Triều Tiên. Không gian cách trở như vậy mà không biết bằng cách nào cô bạn lại có địa chỉ của tôi. Bỗng một hôm tôi nhận được bức thư… và kết thúc bằng bài thơ:

XA CÁCH

Trong tình ta – nỗi cách xa

Như cơn gió tràn qua ánh lửa

Gió thổi bùng, ngọn lửa to cháy đỏ

Hay dập vùi tia lửa nhỏ mong manh

(Ngọc)

Đang ở xa quê hương, xa tổ quốc lại nhận được thư nhất là thư cô bạn gái thì rất vui và cũng rất ngạc nhiên. Có lẽ cô bạn có ý cảm tình với tôi từ thời cùng tổ, cùng trường nên đã tìm địa chỉ của tôi và thế hiện tình cảm thầm kín. Còn tôi như “chú nai tơ ngơ ngác đạp trên lá vàng khô” nên chưa hiểu khái niệm yêu là gì? Tất nhiên ở tuổi thanh niên mới lớn ai mà không có cảm tình với người bạn khác giới nào đó, nhưng tình cảm đó còn mơ hồ chưa rõ rệt. Thời đó chuyện yêu đương nam nữ không thể hiện mạnh mẽ, công khai như bây giờ, thậm chí ngày nay còn có đôi sống thử trước khi có quyết định cuối cùng… Thời xưa chuyện này rất kín đáo, nếu lộ ra ngoài dễ bị người ta đánh giá là yếu đuối, tư tưởng lãng mạn tiểu tư sản, trẻ con mà đã yêu đương là tư tưởng không lành mạnh, nhất là đoàn viên thanh niên càng phải thể hiện cái gì đó mạnh mẽ, phải trang bị cho mình tình cảm gì lớn lao hơn, cách mạng hơn để có thể cống hiến cho đất nước, phải hy sinh cái cá nhân chủ nghĩa thì mới cao thượng. Lúc đó tôi cũng như nhiều thanh niên cùng thế hệ thể hiện tư tưởng tiến bộ, mạnh mẽ, không yếu đuối, không lo vun quén cá nhân… Tất nhiên phải biết kìm hãm cảm xúc của mình. Bởi sự phát triển sinh lý theo qui luật thường tình của tạo hóa, muốn duy trì nòi giống, đến tuổi phát dục thì con vật cũng như con người đương nhiên phải có những đòi hỏi về như cầu về tâm sinh lý… Nhưng vì lý tưởng thanh niên muốn hy sinh cống hiến tuổi trẻ để giành độc lập, tự do cho dân tộc, có biết bao những thanh niên thông minh trẻ đẹp đã ra mặt trận và nhiều người đã không biết “yêu là gì?” vì họ không bao giờ trở về. Cái thời ấy nó thế, nếu ai suy nghĩ khác đi thì cho là lạc nhịp, không được dư luận hoan nghênh… Thử tưởng tượng xem, cảm xúc của bạn sẽ như thế nào khi có người bạn khác giới hâm mộ mình, thích mình? Ngày nay các bạn trẻ đọc rồi chắc sẽ cho tôi là một thanh niên “không bình thường”. Thời nào cũng có tiêu chí cụ thể cho tình yêu “bình thường” hay “lành mạnh”, “nên đồng cảm” hay “lên án”?

Tôi vốn nhút nhát về chuyện “chính em” nên chỉ gửi bức thư “giao lưu”, không dám thể hiện tư tưởng “cá nhân chủ nghĩa” của mình và thế là nàng tưởng tôi giận, nàng liền gửi tiếp bức thư. Không biết nàng thích văn thơ từ bao giờ mà đã gửi cho tôi một bài thơ dài:

TẶNG ANH THƯƠNG YÊU

Em muốn giờ này anh hiểu hơn

Thông cảm cho em chớ rỗi hờn

Sống lại tình thương mười năm trước

Vun tưới bây giờ đẹp tươi hơn

*

Em muốn thả mình khắp giang sơn

Vượt núi băng sông đạp sóng cồn

Cùng anh không mỏi lòng đất nước

Chung một con đường bước xa hơn

*

Anh trách giận em quên anh ư ?

Việc chung choán hết cả việc tư

En vẫn thương anh, không viết được

Lòng oán trách nhiều việc chuyển thư

*

Giận mãi em ư ! anh C ơi !

Đêm tối mênh mông vắng mặt trời

Chỉ một thân em xa cách đó

Không được bên anh tỏ mọi lời

*

Em ước ngày mai sáng mặt trời

Sương mờ rồi tan hết anh ơi

Không gian tất cả ngời ánh sáng

Anh hiểu sâu hơn một bạn đời

(Ngọc)

Nàng yêu tôi thật sự và vì cách xa nhau nên nàng mới chịu chứ ở gần thì chắc nàng đã đến “tóm” tôi rồi. Nàng vẫn âm thầm thương tôi và không biết chia sẻ nỗi lòng với ai nên nàng đã ghi vào sổ nhật ký. Thời ấy thanh niên hay có sở thích viết nhật ký. Rồi cũng không biết bằng cách nào nàng đã biết tôi nhập ngũ và đi vào Nam chiến đấu. Nằm sâu trong rừng núi Đắc Lắc, bỗng một hôm tôi lại nhận được bức thư của nàng, bức thư là một bài thơ:

MẤY DÒNG NHẬT KÝ

Ngọc(1) vẫn nhớ Hoa(2) đếm từng ngày

Trên quê Thanh niên tóc xòa bay

Nhớ người bạn áo quần bộ đội

Đường ra tiền tuyến ấm men say

*

Hoa ở phương xa có tính ngày

Phút giờ, ngày tháng mãi chuyển xoay

Đừng buồn Hoa nhé dù xa cách

Chúc Hoa của Ngọc vững đôi tay

*

Ngọc gửi tặng Hoa cả tuổi xuân

Trái tim người bạn má bồ quân

Cho dù năm tháng xa cách mãi

Tiếng hát thủy chung mãi mãi ngân

(Ngọc)

Đặc biệt lần này cuối thư nàng lại ghi thêm mấy lời cũng bằng thơ:

Chúc Hoa vui mạnh khỏe

Vạn sự như ước mơ

Nhớ biên thư về nhé

Ngọc ngày đêm đợi chờ

Bây giờ đọc lại những vần thơ của nàng tôi mơ màng như đang xem bộ phim tư liệu… Trước đây tôi ít làm thơ nhưng những bài thơ vừa tình cảm vừa chân tình và nồng nhiệt của nàng tôi vẫn lưu giữ mãi. Thế mới biết thơ ca chân thực, ngắn gọn, súc tích vượt qua cả không gian và thời gian.

Sau này chiến tranh kết thúc, có lần tôi về thăm quê, qua người chị họ, tôi biết nàng đã là một bác sĩ công tác ở bệnh viện và nàng đã đi lấy chồng… Nàng yêu thơ từ thời trẻ, bây giờ nghỉ hưu rồi có lẽ còn yêu thơ hơn, biết đâu do cơ duyên nào đó, nàng vô tình đọc được bài “Hoài niệm xưa” này, thì mong nàng cũng đừng trách tôi đưa chuyện của chúng mình trưng ra cho thiên hạ biết. Xin nàng hãy xem như đã góp những vần thơ nồng cháy vào tập san của Câu Lạc Bộ Sách Xưa và Nay, không thích cô “chị” mà chỉ thích chính “em” thôi.

Tôi luôn trân trọng những vần thơ hay, cùng với tình cảm thật tuyệt vời của nàng dành cho tôi. Tôi mong rằng nàng thông cảm. Nếu có duyên biết đâu kiếp sau…

LÊ MINH CHỬ

08/10/2015

---------

(1)&(2): Ngọc và Hoa là biệt danh của hai chúng tôi.


Phụ Bản III

NHỮNG CHUYỆN HOANG ĐƯỜNG

NGHE & THẤY

(tiếp theo)

III. ĐẤT ĐAI DẬY:

Chuyện xảy ra ở ấp 1 xã Tân Kiên-Bình Chánh tỉnh Chợ Lớn.

Đây là chuyện do mẹ tôi kể. Chuyện xảy ra ở nhà ông Hội Đồng là chú của mẹ tôi. Nhà ông ở cách nhà ông ngoại tôi một con rạch nhỏ. Vì nhà giàu, ở quê nên ông có mua súng giữ nhà. Một đêm ăn cướp kéo tới, chúng dùng chày giã gạo của gia đình bổ vô cửa cái để phá cửa. Không xong, chúng đốn cây độ ba gang tay bể tròn rồi cùng nhau dọng vô cửa để phá cửa. Ông tôi bắn mấy phát súng, một tên chết, chúng ngưng và điệu xác tên chết đi.

Ít lâu sau, bà tôi thấy những bó nhang để trên trang thờ cứ mất đi và lại thấy nó bị bỏ ở ngoài vườn. Nhiều lần như vậy nên hai ông bà thay phiên nhau canh cái trang coi nhang đi ra vườn bằng cách nào. Một buổi trưa, bà tôi thấy con mèo nuôi ở nhà nó bò lên trang, hai chưn trước kẹp bó nhang mà đi xuống bằng hai chưn sau. Đi sâu vô vườn, tới một gốc cây nó bỏ xuống và nằm một lát rồi đi vô nhà. Thấy vậy, ông tôi cho mấy anh bạn cày làm thịt nhậu chơi. Và ít lâu sau, đất phía sau nhà, bên hông và trước cửa ném vô nhà. Ở nhà trước có cửa thì đất văng vô nhà, và thường thì nó rớt trước mặt ông tôi. Đất ném càng ngày càng nhiều nên cả xóm tới coi. Chốc chốc rớt một cục nhưng có điều là nó rớt bên cạnh người hay ở trước mặt chớ không trúng ai. Ông ngoại tôi lượm một cục đất rớt trước mặt, lấy một tờ giấy viết một chữ rồi cột chặt miếng giấy vô cục đất, ông bước ra ngoài và nói có giỏi thì liệng cục đất này vô trước mặt tôi. ông tiến tới mé rạch, liệng ùm xuống rạch rồi đi vô nhà. Mới ngồi xuống ghế thì chính cục đất đó rớt trước mặt ông tôi, ở trên bàn nhưng lạ là cục đất và miếng giấy vẫn khô. Thấy vậy, ông tôi rước thầy chùa tới tụng kinh. Ông thầy tụng thế nào thì ngoài sân cũng có tiếng tụng y như vậy. Ông thầy sợ quá, cuốn tượng Phật đi về. Ông tôi rước thầy pháp tới trấn ếm nhưng nó vẫn trơ trơ.

Một đêm, ông tôi nằm chiêm bao thấy một tên đứng ngoài vườn giương cung bắn ông một phát trúng ở hông. Ông nghe đau nhói và uống thuốc gì cũng không hết đau. Lại rước thầy pháp tới. Ông thầy đưa cho ông tôi một cây cung và một mũi tên và biểu hễ ông thấy nó giương cung thì ông giương cung bắn lại nó. Nhưng liên tiếp mấy đêm liền, ông không thấy gì và đau vẫn đau. Lại mời thầy pháp tới, thầy biểu nửa đêm nay, vào giờ nó bắn ông, ông mở cửa ra và hướng thẳng về chỗ nó đứng bắn ông mà bắn lại để trả mũi tên cho nó thì hết đau. Làm như vậy thì bớt đau nhiều nhưng ông cứ yếu dần và ít lâu sau thì qua đời.

Vì hai vợ chồng không con nên ngôi nhà đang ở và ruộng vườn ông cho ông Bảy tôi là cháu kêu bằng chú ruột. Bà tôi, ông cho hai mẫu ruộng ở gần quê của bà để bà sống.

Ông Bảy tôi về ở thì bình lặng như thường nên người ta nói rằng: “Đức trọng quỷ thần kinh”.

Việc đất đai dậy này, năm 1970 có xảy ra ở gần nhà tôi. Cứ chạng vạng tối thì phía sau nhà ông nọ, đất cứ ném lên mái tôn của ông ta đùng đùng, tới đỏ đèn một lát thì hết. Phía sau nhà ông ta là một khoảng đất trống, cách cả trăm mét mới có một căn nhà khác. Những người trong xóm và cả tôi tới đứng sau nhà ông ta xem, không thấy ai ném cả nhưng đất cứ rớt lên mái nhà ông ta đùng đùng. Sự việc xảy ra khoảng mười ngày thì tự nhiên hết.

IV. THẤY MA:

Chuyện xảy ra ở Quận 4 Sài Gòn, khoảng năm 1986.

Cháu tôi khoảng ba, bốn tuổi, một buổi sáng nó đi xuống chợ 200 ăn sáng rồi đi mẫu giáo. Đang ăn sáng, bỗng nó nẩy người ra, mắt trợn trắng và bất tỉnh. Ba nó kêu, nhổ tóc mai, lay động một hồi không thấy tỉnh, nó bèn la lớn: “Trời ơi! Sao vầy?”

Có người gần bên nói là lấy muỗng đưa thằng Thiên tiểu vào và cho cháu uống. sau khi cạy miệng đổ nước tiểu vô thì nó tỉnh lại. Người xung quanh nói may mà có thằng Thiên ở đây. Thiên là Trời nên tà ma sợ phải dang ra. Đem vô nhà thương, bác sĩ nói không thấy bịnh gì. Vài hôm sau, ngồi dưới nhà dưới, nó chỉ lên nhà trên và nói:

- Thằng nhỏ kìa!

Thế rồi nó cũng trợn trắng và bất tỉnh. Anh em tôi đưa nó vô nhà thương, bác sĩ khám kỹ và nói viêm tai giữa, cho thuốc nhỏ và uống. Năm ba bữa sau, nó chỉ ở góc sân và nói:

- Thằng nhỏ kìa!

Và nó cũng trợn trắng và bất tỉnh. Đem vô nhà thương, bác sĩ cũng nói không thấy bịnh gì. Việc tái đi tái lại nhiều lần, có người chỉ tới tiệm thuốc Nam mà ông thầy gọi là ông Tiên Dược. Tới, bắt mạch xong, ông liền bán cho một tể thuốc bằng nắm tay người lớn và biểu ngắt ra, vo thành viên nhỏ hơn viên bi con nít chơi một chút, mỗi tối cho nó ăn một viên. Ăn được năm bảy bữa, mủ trong hai lỗ tai chảy ra nhiều lắm. Sáng ra thì thấy ướt cả gối. Lần lần mủ bớt và hết chảy và thằng bé bình thường cho tới ngày nay.

Sự việc nầy, tôi cho rằng bác sĩ đoán viêm tai giữa là đúng bịnh nhưng thuốc trụ sinh tiêu mủ không được nên không hết bịnh. Thuốc Nam thì không tiêu mà xổ ra, xổ hết mủ thì tai lại bình thường và hết bịnh.

Nhưng việc thằng bé chỉ và nói thằng nhỏ kìa thì thế nào? Tôi cho rằng điện từ trong vũ trụ quanh ta tự sanh hoạt và kết hợp thành khối lớn mà tôi gọi là cầu điện tức là linh hồn. Các cầu điện hay linh hồn lững lờ khắp nơi xung quanh ta. Ta nhìn thấy người và vạn vật quanh ta là do sự kích động được vào cầu điện của ta tức là kích động được vào điểm sanh hoạt trong não bộ của ta để nhận biết. Cầu điện kết hợp với bụi hữu cơ tạo thành vật thể, tạo thành sanh vật… Nhưng cầu điện chưa kết hợp được với bụi hữu cơ nó cũng có dáng dấp riêng tư của nó. Viêm ở tai giữa, nó gần bên não bộ với các hệ thần kinh chằng chịt, do một sự kích động nào đó vào một bộ phận của hệ thần kinh, tác động vào tuyến Tùng, tuyến Yên trong não bộ tức là tác động vào cầu điện của cơ thể, vào linh hồn của con người nên người đó nhận biết được trong khi những người khác bên cạnh không nhận biết được nên gọi người nhận biết được là thấy ma. Việc thằng bé thấy ma là như vậy.

Người không bịnh, không bị viêm tai giữa như thằng bé mà thấy ma thì thế nào? Tôi cho rằng vật chất cấu tạo thành vỏ não là vô số tế bào nghĩa là có vô số vi điện và đặc điểm. Ở một số tế bào của vỏ não của một người có khả năng tiếp cận được cầu điện ở bên cạnh thì người đó thấy dáng dấp của cầu điện bên cạnh đó tức là thấy ma vậy.

Tôi cũng có thấy ma. Trong thập niên 1960, một buổi tối độ tám chín giờ, sau khi từ tiệm đo may quần áo Tết ra về, đi trên đường Tôn Đản, còn cách hẻm 243 độ vài trăm thước, tôi thấy giữa đường có một người cao hơn người thường nhiều, to lớn, đứng hơi rùn vai xuống nhìn về phía chúng tôi. Tôi chỉ và hỏi Ba tôi có thấy gì không? Ba tôi nói không! Chúng tôi cứ đi tới, còn cách hơn trăm thước thì từ bàn chưn tới khỏi mắt cá mờ đi. Càng đi tới, vệt mờ càng lên cao. Cách độ hai mươi thước, vệt mờ quá bụng. Cách độ mười thước, dáng dấp người vẫn còn nhưng đó là một vùng khói trắng mờ mà thôi. Như vậy là tôi thấy gì? Đang đi trên đường với Ba tôi thì phải nói là trí óc rất tỉnh táo. Thấy như vậy, có lẽ phải nói là thấy ma thôi.

Tóm lại, thấy ma là một hiện tượng của cuộc sống, tôi chưa thấy ai giảỉ thích khoa học mà thuyết phục cả. Nếu nói vì hoa mắt mà thấy, tôi nhứt định cho rằng không phải. Có lẽ ta chỉ chờ xem thôi.

Khánh Hội, Quận Tư Sài Gòn ngày 26.02.2015

PHẠM HIẾU NGHĨA

(NHỰT THANH)

PHẢI NGỦ MẤY GIỜ

Tố Lan – Sélection

Dù có đặc biệt đến bao nhiêu, con người, bộ máy làm việc kỳ diệu cũng cần phải nghỉ ngơi. Trong giờ phút nghỉ ngơi đó có ngủ. Nhưng…

Đây là bài phỏng vấn của tạp chí Sélection với Bác sĩ Julius Segal.

H.- Thưa ông Segal, thời gian ngủ cần thiết cho một người bình thường là bao nhiêu?

Đ.- Một cách bình thường cho người bình thường thì trung bình mỗi ngày phải ngủ 8 giờ. Nhưng mới đây theo sự nghiên cứu của các Bác sĩ thì sự cần thiết cho giấc ngủ cho mỗi cá nhân thay đổi quan trọng hơn là người ta tưởng. Trong một báo cáo từ Anh Quốc cho biết dân Écosse đều có giấc ngủ khác nhau mà kết quả tạm cho chúng ta thấy sau:

- 8% đồng ý mỗi ngày ngủ 5 giờ

- 15% đồng ý mỗi ngày ngủ từ 5 – 6 giờ

- 13% đồng ý mỗi ngày ngủ từ 9 – 10 giờ

- 69% đồng ý mỗi ngày ngủ từ 7 – 8 giờ

Bạn có thấy sự khác biệt lớn lao giữa sở thích người này và người kia về giấc ngủ?

H.- Có trường hợp ngoại lệ nào cho đứa trẻ mắc bệnh ngủ không, thưa Bác sĩ?

Đ.- Không có trường hợp nào cả. Những đứa trẻ chúng cũng biết rõ trạng thái bồn chồn, lo âu, khổ sở, uể oải, mệt mỏi như người lớn. Cũng như chúng không ngừng khám phá ra những cảm giác mới về đời sống và làm thí nghiệm, chúng thường mơ trong giấc ngủ hơn những kẻ đã trưởng thành, và giấc mơ của chúng thường dữ dội.

Người ta đã nghiên cứu kỹ và khuyên nên để cho trẻ ngủ càng nhiều càng tốt.

H.- Thưa Bác sĩ tại sao?

Đ.- Nói theo ngôn ngữ triết học, giấc ngủ có thể là một phương tiện để trốn thoát. Chúng ta có quá nhiều điều buồn phiền trong cuộc sống khi thức dậy. Vậy thì chúng ta chỉ có những giây phút an lành khi đã nhắm mắt và thở đều dưới lớp chăn.

H.- Thưa Bác sĩ làm sao để định giá giấc ngủ bình thường cho riêng từng người một?

Đ.- Theo ý của tôi thì phải trắc nghiệm một thời gian mới lấy được giấc ngủ trung bình. Tỉ dụ như chúng ta tính số giờ ngủ trong suốt ba tuần theo từng ngày. Tối nào cũng vậy bạn vào giường đúng giờ đã định, và đến sáng mai, khi thức dậy bạn ghi giờ thức. Sau ba tuần bạn làm con tính số giờ ngủ và chia cho 21 thì số chia là số được coi là chính xác cần thiết cho giấc ngủ của bạn kéo dài trong mấy giờ.

H.- Thưa Bác sĩ tuổi tác có ảnh hưởng đến giấc ngủ chăng?

Đ.- Chắc chắn tuổi tác có ảnh hưởng đến giấc ngủ nhưng rất ít trong số lượng giờ cần ngủ. Giấc ngủ say của đứa trẻ thường quan trọng hơn thanh niên nam nữ, còn người già thì quá khác xa. Lại phải có những giấc ngủ ngắn nữa. Nói tóm lại người già ngủ nhiều là một trạng thái không mấy hài lòng.

H.- Thưa Bác sĩ, chúng ta có thể chọn giấc ngủ một mạch chăng?

Đ.- Thường thì người ta có những lý luận tốt trong tư tưởng. Điều đó dễ hơn thực hành đối với bất cứ một người nào. Người ta đã kiểm chứng được từ những thì giờ bất thường về sự nghỉ ngơi của từng cá nhân. Sau một công việc ngắn ngủi, những người này thường nghỉ ngơi, chính những sự nghỉ ngơi ngắn ngủi làm tăng sự mệt mỏi của con người thêm. Nhưng sự nghỉ ngơi có điều độ sẽ làm tăng năng suất làm việc, tỉ như nghỉ trưa sẽ mang lại giấc ngủ. Thủ Tướng Anh Churchill đã từng nói rằng sau giấc ngủ trưa ngon lành, con người có thể làm việc hai ngày cùng một lúc.

Do vậy ngoài giấc ngủ về đêm, trong ngày ta không thể ngủ một mạch hay ngủ lắc nhắc được.

H.- Có vật gì làm con người ngủ đúng giờ được chăng, thưa Bác sĩ?

Đ.- Không có vật gì chắc chắn làm ta ngủ đúng giờ cả ngoài sự cố gắng của chúng ta. Đấy là thói quen tốt sau này. Những khuôn thước mà bác sĩ thân yêu của bạn khuyên bạn đáng để ý nhất. Nếu chúng ta không dùng đến trí năng thì phải dùng đến những dược phẩm đặc chế. Thường thì tùy theo thời tiết, giấc ngủ của chúng ta có thể thay đổi trong 24 tiếng đồng hồ. Nhưng nếu muốn ngủ đúng, có người đã dùng đến những chất kích thích tố. Điều này quả thật tai hại, vì số lượng kích thích tố cần thiết vào máu để làm cho chúng ta ngủ càng ngày càng tăng thêm đến số lượng đáng sợ.

Vậy thì, mỗi một chúng ta, có thể để mất một giờ để dỗ giấc ngủ chẳng hạn, nhưng giấc ngủ này lý thú vô cùng.

Có kẻ lại không thể nào ngủ ở ngoài trời được cũng như có kẻ không thể nào ngủ chung với bạn bè mà chỉ thích ngủ một mình trên giường. Dĩ nhiên đó là thói quen riêng của từng người.

Có kẻ làm việc suốt cả buổi trưa không ngủ, có kẻ buổi tối ngủ rất muộn.

Tuy không có gì, vì hoàn cảnh làm ta không ngủ yên đúng giờ nhưng chúng ta không nên ngủ thiếu giờ. “Ngủ là liều thuốc bổ làm mới lại sức hoạt động của chúng ta”. Ngủ là một sự cần thiết. Và tôi nhắc lại là phải cố gắng ngủ cho đủ giờ.

H.- Thưa Bác sĩ có những điều kiện gì để làm cho người ta ngủ được?

Đ.- Điều đó tùy theo từng người. Có người cần đọc sách trước khi ngủ; kẻ khác thì xem vô tuyến truyền hình; một số người không thể nào ngủ được khi còn ánh đèn trong phòng trong khi đó thì có người lại đắm chìm trong tiếng nhạc của Radio mới ngủ được. Như thế mỗi người có một phương tiện để ru ngủ mình khác nhau, nhưng cần phải có.

H.- Thưa Bác sĩ, Bác sĩ nghĩ gì về lời khuyên của các cụ già là nên uống một tách sữa nóng trước khi đi ngủ?

Đ.- Kinh nghiệm của các cụ già là muốn ngủ dễ, trước khi đi ngủ phải uống một tách sữa nóng. Bây giờ theo khoa học thì đó là cái bệnh ngủ nhờ sữa. thực ra lời khuyên đó có nguyên do vì người ta tìm ra trong sữa có chất Aminoacid và chất Tryptophane với một lượng khá mạnh có tác dụng làm dịu bớt sự căng thẳng. Vì thế người dùng sữa dễ ngủ hơn.

H.- Còn rượu, thưa Bác sĩ?

Đ.- Vâng, rượu làm tê liệt bớt thần kinh căng thẳng và nó cũng kích thích cái sự dã dượi bần thần ở nhiều lãnh vực. Đối với lãnh vực này nó có thể làm cho con người tăng sức mạnh, nhanh nhẹn hơn lên. Nhưng ở lãnh vực khác thì nó có hiệu quả kích thích. Khi dùng nhiều rượu, giấc ngủ bình thường chắc chắn không có. Nghĩa là sau khi uống quá nhiều người dùng rượu ngủ trong nhiều trạng thái khác nhau và họ phải nghỉ ngơi sau giấc ngủ nhiều hơn là người có giấc ngủ bình thường.

H.- Thưa Bác sĩ, phải khuyên sao đối với những người dễ ngủ nhưng dậy sớm và sau đó khó tìm lại giấc ngủ?

Đ.- Chính đây là một điều không mấy rõ ràng và suông sẻ lắm. Một cách tổng quát, phần lớn những người lớn tuổi thường có những ưu tư băn khoăn hoặc một điều gì đó không hợp với ý mình làm họ ngủ một lát rồi dậy ngay và sau đó họ khó tìm lại giấc ngủ. Riêng tôi, tôi sẽ làm những công việc nếu giấc ngủ tiếp không đến như sau:

Để chiến thắng cơn thức và ngủ tiếp dễ dàng tôi dậy làm việc ngay, dĩ nhiên làm việc không hăng hái và làm cho qua thì giờ. Có thể tôi viết thư, tôi đọc sách báo, ghi những điểm chính cần làm cho ngày mai… nghĩa là làm những việc để giết khoảng 1 tiếng đồng hồ hoặc hơn nữa. Sau đó thì lên giường để tìm giấc ngủ. Và bạn nên nhớ không có phương cách nào có kết quả nếu không có ý chí!

H.- Thưa, xin Bác sĩ cho biết nguy hiểm của bệnh dùng thuốc ngủ?

Đ.- Đừng tin rằng bệnh dùng thuốc ngủ chỉ ảnh hưởng đến giấc ngủ mà thôi. Nó còn ảnh hưởng nhiều đến các cơ quan khác trong thân thể. Một thời gian khá lâu sau khi cơn dịu dàng chấm dứt, người dùng thuốc lại tiếp tục xúc động về tâm thần. Tỉ dụ như chất Bạc-bi-tuya-rích chẳng hạn là một chất có tính cách thôi miên có thể làm cho sự suy nhược càng ngày càng rõ ràng, càng tăng thêm. Một cách nguy hiểm hơn nữa là sự kiện người dùng sau khi dứt thuốc lại phải dùng thêm với số lượng càng lúc càng tăng lên để có kết quả cho giấc ngủ. Đến độ đó những buồn phiền chán nản sẽ tăng lên tột cùng và người dùng thuốc đang đi vào sự lầm lẫn lớn lao đang dùng thuốc độc.

H.- Thưa Bác sĩ, ông nghĩ gì khi thuốc ngủ được bán tự do?

Đ.- Khi người ta dùng thuốc theo toa bác sĩ thì đó là một điểm quan trọng, bởi toa thuốc chỉ có tính cách làm dịu thần kinh trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi. Rồi sau đó vì lười đi bác sĩ, người bệnh cứ dùng hoài, tự do mua thuốc dùng thì đó là điều tai hại nhất. Có lẽ cần nên ấn định lại cách thức bán những loại thuốc này.

H.- Thưa Bác sĩ, làm thế nào để được ngủ nhiều hơn?

Đ.- Việc đầu tiên là phải tập cho có thói quen. Muốn thế hằng ngày ta phải thực hành một ít bài tập. Cùng lúc chúng ta phải tránh những thứ có thể làm căng thẳng thần kinh làm cho ta không ngủ được như thuốc lá, cà phê. Cuối cùng nếu bị bệnh mất ngủ ta phải tìm hiểu nguyên do. Bệnh mất ngủ nguy hiểm. Có thể làm suy nhược và mỏi mòn trí thông minh của con người. Tìm hiểu nguyên do được không phải là ta trị được bệnh mất ngủ ngay, có một giấc ngủ ngon lành ngay mà phải có những mực thước chắc chắn cho đời sống.

Nói tóm lại ta phải tập cho có thói quen, cố gắng đánh bạt cái ám tượng rằng ta bị bệnh mất ngủ cứ như thế một thời gian sau ta sẽ có một giấc ngủ ngon lành trong ngày.

Bs. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st.


KHOA HỌC HIỆN ĐẠI

TRẢ LỜI RA SAO VỀ

DĨA BAY & NGƯỜI NGOÀI HÀNH TINH

Phong trào người ngoài trái đất đang sống dậy. Ít nhất là ở… Hollywood! 11 bộ phim đang chuẩn bị ra đời trước cuối năm 1996. Các nhà thiên văn cũng nhập cuộc. Chắc chắn vũ trụ có rất nhiều hành tinh, trong đó phải có sự sống. Thế là những điều tưởng tượng mới lại xuất hiện: những cuộc gặp gỡ, các tai nạn… bởi vì, trước khi đến được chúng ta, người ngoài địa cầu đã phải vượt qua một khoảng cách khủng khiếp. Khoa học hiện đại có khả năng “giúp” được họ không? Bằng nguyên lý nào để đi nhanh hơn ánh sáng? Đĩa bay hoạt động ra sao?

Ngày 12/6/1996 hãng thông tấn AFP đã vội vã đưa tin “Phát hiện một hành tinh mới cách Thái dương hệ 8 năm ánh sáng!”. Sau nhiều thập niên tìm kiếm không kết quả, bầu trời năm 1995 lại “mở cửa”! Nhờ kỹ thuật quan sát hiện đại, các hành tinh bị che lấp bởi các ngôi sao xa tít tắp đã lần lượt xuất hiện.

Không thể để cho trí tưởng tượng bị “cụt hứng” lần nữa! Giống như cách nay 100 năm, khi viễn vọng kính phát hiện các “kênh đào” của các “kỹ sư người Hỏa tinh”, các hành tinh mới này lại sơn phết cho giả thuyết người ngoài địa cầu đã từng thăm viếng trái đất! Dù sao, phong trào này cũng đang “tái xuất giang hồ” tại… Hollywood! 11 bộ phim về người ngoài tái đất đang dàn dựng. Từ tháng 7/1996 sẽ ra mắt phim đầu tiên “Ngày độc lập” (Independence Day).

“Hãy cứ làm phim đi, để còn lại một cái gì chứ!”. Nếu trí tưởng tượng chấp nhận điều đó, lý trí lại phản kháng. Khoa học trả lời ra sao về người ngoài trái đất? Họ có thực sự đến địa cầu không?

Hiện nay đã phát hiện các hành tinh “có thể” làm nơi trú ẩn cho họ, với các phương tiện kỹ thuật du hành không quá xa vời với những phân tích nghiêm túc! Theo nhà thiên văn học Jean-Claude Ribes, “cơ may cho sự sống phát sinh tại một nơi khác không phải là trái đất không phải là… không có!”.

Trong điều kiện đó, tại sao họ không đến viếng chúng ta?

Để nắm được tầm vóc của câu hỏi này, phải biết qua về môi trường của vũ trụ. Vũ trụ nhìn thấy được có đường kính khoảng 30 tỉ năm ánh sáng. Dãy Ngân hà của ta là 100.000 năm ánh sáng. Ngôi sao gần ta nhất là Alpha trong chòm Nhân mã, cách địa cầu 4,4 năm ánh sáng, nghĩa là… 40.000 tỉ kilômét!

Trong điều kiện đó, có thể nói mọi di chuyển trong vũ trụ đều phải thực sự vượt qua vực thẳm không - thời gian. Có kỹ thuật nào cho phép con người hoặc người ngoài trái đất thực hiện những cuộc du hành như thế không? Giả sử người ngoài trái đất có thể thọ được 100 - 200 tuổi, họ cũng khó lòng vượt qua khoảng cách đó!

Có một giới hạn tuyệt đối mà Einstein đã đặt ra và có sự đồng tình của thiên nhiên! Thuyết tương đối hẹp, phát biểu năm 1905 không cho phép vật mang thông tin (hạt vật chất, ánh sáng, sóng điện từ) vượt qua giới hạn vận tốc ánh sáng, gọi là “c” tương ứng với 299.792 km/giây. Nhiều sự kiện cho thấy ước đoán này có thể phổ biến cả vũ trụ.

Điều đó có nghĩa là muốn đến tận biên giới của dãy Ngân hà - còn khá ngắn ngủi - vẫn là điều bất khả? Không! Ít nhất là trên lý thuyết! Bởi vì nếu thuyết tương đối hẹp đã giới hạn mọi tốc độ ở “c”, thì nó lại kéo dài được thời gian! Nói nôm na, khi đạt tốc độ ánh sáng, thời gian sẽ ngưng lại!

Khi đó, vấn đề khoảng cách sẽ kéo theo vấn đề thời gian… Hãy tưởng tượng một hành tinh quay quanh sao Rigel cách địa cầu 540 năm ánh sáng có người ở. Họ phát hiện trái đất và quyết định thám hiểm. Khi tăng tốc độ phi thuyền lên 10 mét/giây trong vòng 1 giây liên tục trong 345 ngày, họ sẽ đạt 99,99% vận tốc ánh sáng. Với tốc độ này, 1 giây trên phi thuyền của họ sẽ tương đương 8 phút 20 giây tại quê hương (và cả trên trái đất). Cuộc hành trình đi và về của họ kéo dài 5 năm. Khổ thay, lúc trở lại quê nhà, thời gian đã đi qua đến… 700 năm! Một “chi tiết” sẽ làm họ “đông máu”, dù là… máu xanh!

Nhiên liệu cho chiếc phi thuyền này cũng là một vấn đề! Hiện nay nhiên liệu tốt nhất là… phản vật chất (anti-matière). Quả vậy, phản ứng hủy biến giữa vật chất và phản vật chất biến tất cả thành năng lượng. Không có cặn thừa, theo công thức của Einstein E=mc2. Phản ứng này mạnh gấp 35 lần bom khinh khí và 7 lần bom nguyên tử. Dĩ nhiên người ngoài trái đất đã biết cách khai thác năng lượng của phản vật chất. Dù vậy rắc rối lớn cũng xảy ra. Bởi vì chân không cũng còn có một số vật chất lơ lửng: trong vòng bán kính 40km, chứa không quá 1g hydrogène. Nhưng với tốc độ ánh sáng, việc va chạm thực sự là tai họa. So với phi thuyền, tốc độ của chúng cũng là 0,9999 c và trở thành tia vũ trụ tấn công con tàu! Không thể nào chịu nổi!

Nếu vô phúc chạm vào một hòn đá nhỏ, phi thuyền sẽ nổ tung! Ở tốc độ 0,9999 c, một hòn đá 100g biến thành quả bom 400 tấn TNT! Hơn nữa với tốc độ này,không thể nào quan sát được “đá ngầm”, bởi vì hình ảnh viên đá đến với phi thuyền cùng lúc… với chính nó! Như vậy phi hành gia bay trong tình trạng gần như mù!

Người ngoài trái đất làm sao chịu nổi với những va chạm đó? Họ có đủ vật liệu bền để đương đầu không? Thật đáng ngờ!

Không thể đi nhanh, vậy có thể đổi chiến thuật: đi chậm. Nghĩa là đi… không trở lại! Họ có thể leo lên một phi thuyền khổng lồ, chứa vài trăm người, có hệ sinh thái tự lập, có đầy đủ thức ăn và nhiên liệu. Đây là một ốc đảo mi-ni, thay vì quay quanh một vì sao, nó sẽ đi sâu vào vũ trụ. Khi đó, nếu giải quyết được vấn đề không gian, lại bế tắc về vấn đề thời gian...

Giả sử phi thuyền bay với tốc độ 3000km/giây, họ phải mất đến 54.000 năm! Dài hơn giai đoạn Homosapiens! Làm sao một cuộc du hành dài như thế thực hiện được? Họ sẽ hết nhiên liệu dọc đường! Hydrogène chẳng phải là phổ biến nhất trong vũ trụ sao? Dù rằng chỉ bằng 1/35 năng lượng của phản vật chất, có thể thu lượm “chùa” hydrogène trên đường đi! Ngoài ra, người ta có thể tưởng tượng ra cánh buồm vũ trụ, đi bằng “gió” của các vì sao, hoặc phi thuyền vận chuyển bằng hấp lực…

Dù thế nào, trở ngại lớn nhất vẫn là thời gian. Một giải pháp khả thi: kỹ thuật kéo dài sự sống bằng đông lạnh! Robot sẽ đảm trách công việc ướp lạnh!

Nhưng, ít ra trên lý thuyết còn có một biện pháp để nối các điểm trong vũ trụ mà không cần phải đi theo con đường vô tận như đã nói.

Các nhà phù thủy của vũ trụ

Để vượt qua các khoảng cách khủng khiếp trong vũ trụ, người ngoài trái đất hoặc phải cực kỳ kiên nhẫn, hoặc hết sức tài tình. Thiên nhiên đã ban cho sinh vật một cơ may: có thể dựa theo thuyết tương đối rộng để giải quyết vấn đề. Được Einstein phát biểu năm 1915, nó là một phương tiện để tưởng tượng…phong phú chưa từng có! Các nhà vật lý học gọi khả năng kỳ lạ này là “vật lý học ngoại”! (physique exotique).

Khái niệm cơ bản là sử dụng hình dáng của vũ trụ với tên gọi “đường cong không thời gian”. Sau Einstein người ta nhìn không gian như một tấm tôn dợn sóng hơn là một tấm ván phẳng! Để đi từ điểm này đến điểm kia trong vũ trụ, ánh sáng buộc phải theo chiều dợn sóng. Người ngoài trái đất có phải đã tìm ra một con đường hầm để xuyên qua tấm tôn giống như một chiếc xe lửa đi trong đường hầm vượt qua núi? Ngay cả con người cũng đang thích thú với ý nghĩ mới lạ này!

Trong không gian có những “lỗ sâu” (trous de ver) - tên gọi chính thức của các nhà khoa học - đáp ứng được điều vừa nói. Những lỗ này chỉ có đường kính 10-13cm và tồn tại trong 10-20 giây. Cực kỳ phù du! Bởi vì giống như một đường hầm đào bên dưới mỏ vàng, nó luôn bị áp lực (của hấp lực) lấp kín. Phải chăng người ngoài trái đất đã biết cách chống đỡ cho hầm khỏi sập?

“Lỗ sâu” thành hình do năng lượng co rút của một ngôi sao khổng lồ biến thành lỗ đen. Quả vậy, theo thuyết tương đối rộng, tỉ trọng của một vật làm cong không gian. Ngôi sao càng nặng càng khoét lỗ sâu trong không gian 3 chiều, giống như một trái billard làm chùng một tấm vải căng thẳng. Đến một sức nặng nào đó, trái banh sẽ làm thủng vải, khoét một lỗ. Đó là “lỗ sâu”. Thực ra lỗ đen trong không gian là cửa vào của lỗ sâu!

Lập “dàn” chống đỡ bên trong lỗ sâu là bọc lót trong ruột nó bằng “năng lượng âm” để tạo lực đẩy chống lại hấp lực. Đó là kháng hấp lực. Nếu nó có thật trên đời, sẽ tạo lực đẩy giữa hai khối lượng và triệt tiêu hấp lực.

Các nhà bác học trên địa cầu đã nhìn thấy được “năng lượng âm” này ở cấp bậc cực nhỏ và gọi là “hiệu ứng Casimir”. Nhưng chưa ai biết ở tầm vĩ mô nó có hay không!

Nên nhớ rằng cửa đường hầm phải to hơn chiếc phi thuyền! Khổ thay kiến thức của con người chưa đạt tới điều đó vì nó phải phối hợp được thuyết tương đối rộng (nghiên cứu về hấp lực) và vật lý lượng tử (nghiên cứu thế giới vi cấp) vốn đang… không có “bà con” với nhau!

Lợi dụng sự giãn nở của vũ trụ

Để vượt nhanh các khoảng cách lớn, người ngoài địa cầu còn có một phương tiện khác: lợi dụng sự giãn nở của vũ trụ. Hai vùng trong vũ trụ tách rời nhau theo tốc độ “tỉ lệ với khoảng cách”, dù rằng ở tại đó nó vẫn đứng yên. Do đó không gian bao quanh Ngân hà chuyển động với tốc đô ánh sáng so với một chỗ khác cách nó 15 tỉ năm ánh sáng. Bản thân sự giãn nở chính là chuyển động. Không phải là vật chất hay ánh sáng chuyển động, mà chính cái khung không - thời gian đã di chuyển.

Kết quả kỳ lạ là trên chiếc khung này, tốc độ c đã bị qua mặt. Chỉ cần hai vùng trong vũ trụ cách nhau hơn 15 tỉ năm ánh sáng là chúng chuyển động đối với nhau… nhanh hơn ánh sáng! Nếu người ngoài địa cầu biết cách khống chế không - thời gian, họ có thể tạo ra một sự giãn nở “nhân tạo” quanh chiếc phi thuyền của mình? Giống như tấm ván trượt nước, phi thuyền sẽ bị sóng giãn nở của vũ trụ kéo đi với tốc độ… nhanh hơn ánh sáng, mà vẫn “đứng yên” so với vật chất và ánh sáng xung quanh mình! Dĩ nhiên, họ phải biết cách chế tạo… chòm tia hấp lực (giống như tia laser) để bẻ cong không gian quanh chiếc phi thuyền của mình!

“Vô tuyến vận tải” bằng tốc độ ánh sáng

Một phương cách khác để “xuất ngoại” là “vô tuyến vận tải” (téléporté) theo cách thức của bộ phim “Star Trek”. Đó là biến các nguyên tử tạo thành cơ thể ra… ánh sáng. Sau đó gởi đi vào không gian. Lúc đến nơi, chỉ cần phối trí lại hình thể ban đầu!

Rắc rối khủng khiếp là riêng dữ kiện của một nguyên tử cũng đủ để ghi trên 1 trang giấy! Không biết hình dáng con người ngoài địa cầu, ta tạm dùng con người để tính.

Mỗi cá nhân có khoảng 1028 nguyên tử, tức là 1028 trang giấy! Đó là tổng số giấy của loài người kể từ khi… biết viết chữ! Dù chứa trong dĩa CD-ROM cũng phải mất 10 triệu năm để ghi lại, và đọc trong thời hạn cũng… tương đương! Tóm lại, phải mất 20 triệu năm mới “vô tuyến vận tải” được 1 con người! Và để biến một nguyên tử thành ánh sáng, phải dùng một năng lượng tương đương 1.500 quả bom khinh khí, mỗi quả công suất 1 triệu tấn TNT!

Sau cùng, trí nhớ và tinh thần của con người được vận tải đi có còn giữ nguyên hay không? Có được tái tạo cùng lúc không?

Rõ ràng trên lý thuyết là khả dĩ, và thực tế lại vượt xa tầm tay kỹ thuật của ta. Nhưng đối với một nền văn minh “cao cơ” hơn ta thập bội, chuyện đó dễ như trò trẻ con!

Từ đó đẻ ra câu hỏi sau cùng: họ đã đến chưa? Nếu đã đến rồi, thì bằng kỹ thuật gì mà âm thầm bí mật đến như thế? Ngay trên đầu của ta? Mời bạn xem tiếp, để lý giải bí ẩn này!

Họ đã đến rồi ư?

Dù cho may mắn đến được gần hành tinh của chúng ta, người ngoài địa cầu còn phải đối phó với một vấn đề nghiêm trọng: từ chân không vũ trụ biến sang trạng thái hàng tỉ nguyên tử và phân tử của bầu khí quyển. Giống như buộc một con chim phải bay… trong nước biển! Họ phải thay đổi hệ thống sức đẩy để đối phó với trọng lực và các lớp không khí dày đặc.

Hãy cho họ mượn sự hiểu biết của ta: đổi phi thuyền để sang máy bay hay trực thăng! Thế thì tệ quá! Hơn nữa theo những người chứng kiến các hiện tượng dĩa bay kể lại thì dĩa bay của họ im lặng và cực nhanh, giống như thách thức các định luật cơ bản của hấp lực.

Hãy lấy một trường hợp điển hình và giải thích dưới quan điểm khoa học. Ngày 8/1/1981, lúc 17 giờ, một cai thầu về hưu đang làm vườn tại Trans-en-Provence, nhìn thấy có một động cơ “có hình hai cái dĩa úp lại”. Nó đáp trên ngọn cây, cách ông ta vài mét, với “tiếng động nặng nề của kim loại”. Không chút sợ hãi, ông đến gần, nó cất mình lên khỏi mặt đất, “phát ra một tiếng gió rít nhẹ” và bay nhanh về hướng Đông Bắc.

Cảnh sát tức tốc đến nơi. Họ nhìn thấy một vòng tròn trên mặt đất. Phân tích những cây linh lăng rừng trong vòng tròn, người ta thấy hệ thống tổng hợp quang của nó đã thay đổi. Cây đã bị trọng thương.

Hình dáng, cách di chuyển không tiếng động của máy là đặc trưng của “dĩa bay”. Nhiều nhân chứng còn nói họ bị chấn thương (khi họ đứng gần), động cơ xe tắt, và vào ban đêm có một vầng hào quang bao quanh dĩa bay.

Jean-Pierre Petit, một chuyên gia về từ thủy lực (Megnétohydrodynamique) là người đầu tiên giải thích được mọi đặc tính này. Ra đời trong thập niên 60, từ thủy lực là một kỹ thuật đẩy dựa vào từ trường và cơ học chất lỏng. Sức đẩy cổ điển của máy bay và tàu là đẩy phía trên lưu chất (khí, nước). Hệ thống từ thủy lực ngược lại, chính lưu chất đẩy động cơ đi!

Khi máy bay di chuyển trong không khí, nó chạm vào phân tử khí nằm trên đường đi và nhờ tuốc-bin, sẽ đẩy nó ra phía sau. Ở trước mũi máy bay có sự tập trung phân tử, gọi là “mặt năng lượng” có khuynh hướng chận chiếc máy bay lại. Sự đàn hồi của không khí cho phép khuếch tán năng lượng tập trung này. Nhưng khi đạt tốc độ âm thanh (331m/giây), mặt năng lượng không có thời gian để khuếch tán. Để vượt qua tốc độ này, máy bay phải vượt “bức tường âm thanh” tạo ra một tiếng nổ “bùm” đặc trưng.

Trong hệ thống từ thủy lực, không khí bao quanh động cơ bị lực từ tính ném ra phía sau, tạo thành một loại gió. Các phân tử tập trung ở phía sau đẩy con tàu về phía trước. Sự khan hiếm không khí phía trước đã tạo ra một chân không thu hút. Sẽ không còn bức tường năng lượng ngăn chặn động cơ đi tới. Dĩa bay có thể vượt qua bức tường ăm thanh nhẹ nhàng mà không cần nổ “bùm”! Hơn nữa hiện tượng này không thuộc cơ học, mà là từ tính. Nó chỉ phát ra một âm thanh, đó là tiếng rít nhẹ do các phân tử chạy về phía sau.

Như vậy từ trường trên bề mặt động cơ là nguyên nhân cho không khí di chuyển. Quả vậy, từ trường có khả năng làm cho các hạt có điện tích di chuyển (electron và ion). Bởi vậy, khi đưa cục nam châm đến gần màn hình của chiếc TV, bạn sẽ thấy ảnh bị biến dạng, bởi vì ảnh do các hạt electron tạo thành.

Không khí không nhạy cảm với từ trường, bởi vì các phân tử O2, N2… không có điện tích. Muốn không khí di chuyển, trước hết phải ion-hóa chúng (lấy bớt electron), sao cho các phân tử đều có điện tích dương. Ngoài bộ máy tạo từ trường, hệ thống từ thủy lực còn có bộ phận ion-hóa hệ thống âm cực tạo điện trường hay hệ thống đẩy vi sóng. Đó là cho máy bay. Với tàu thủy, trong nước biển đã có ion chlorure và sodium tự nhiên nên không cần bộ phận ion-hóa.

Thế mà khi không khí quanh động cơ bị ion-hóa, nó phát sáng! Đúng như lời kể của các nhân chứng: “dĩa bay phát sáng”. Từ tường mạnh của động cơ từ thủy lực còn tạo ra nhiều hiện tượng khác: xe hơi chết máy, người cảm thấy khó chịu, tế bào thảo mộc biến đổi.

Người ta bảo dĩa bay là động cơ thí nghiệm bí mật của quân đội. Rất có thể quân đội Pháp, Mỹ, Nga đang thử nghiệm sức đẩy từ thủy lực nhưng phải biết họ ở trong giai đoạn nào… Bởi vì muốn tạo ra một từ trường khổng lồ như thế, phải có một máy phát điện… chỉ có thể đặt trên mặt đất!

Một bí ẩn khác là sức nâng lên của dĩa bay, rất thường được kể lại. Hiện tượng này khoa học cổ điển không giải thích được. Vậy phải nhờ đến “vật lý-ngoại” như chất kháng-hấp lực! Khi ra khỏi lỗ đen, phi thuyền phải đứng yên để chống lại hấp lực của trái đất. Phải chăng nó đã dùng “kháng hấp lực” để bay lên? Sau cùng chỉ có những người ngoài trái đất biết khống chế các định luật thiên nhiên mới có ý định xâm nhập địa cầu. Với người địa cầu ở thế kỷ 21, các cuộc xâm nhập đó vẫn còn khó giải thích…

ĐINH CÔNG THÀNH

(Science &Vie, 8/96)

HOÀNG KIM THƯ st.

XÁC TÀU TITANIC

TRỞ THÀNH DI SẢN UNESCO

TTO - Trong một thông cáo ra ngày 5-4, Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) tuyên bố đống đổ nát của tàu Titanic sẽ trở thành di sản văn hóa dưới nước nhân kỷ niệm 100 năm tàu bị chìm.

“Vào ngày 14-4-1912, tàu Titanic va phải một tảng băng ở Bắc Đại Tây dương và bị chìm. Năm nay đánh dấu 100 năm ngày xảy ra thảm kịch này, điều đó có nghĩa từ nay trở đi thân tàu sẽ được bảo vệ bởi Công ước 2011 về việc bảo vệ di sản văn hóa dưới nước”, thông báo của UNESCO cho hay.

Công ước bảo vệ di sản văn hóa dưới nước đã được 41 quốc gia trên toàn thế giới thông qua, chỉ áp dụng cho những đối tượng đã bị chìm từ 100 năm trở lên. Do Titanic, con tàu lớn nhất và sang trọng nhất thời bấy giờ, gặp nạn trong vùng biển quốc tế nên không một quốc gia nào có thẩm quyền đặc biệt với di sản này.

Kể từ bây giờ, tất cả 41 quốc gia trên đều có nhiệm vụ ngăn chặn sự tàn phá, cướp bóc, buôn bán và phân phối trái phép những đồ vật được tìm thấy trong khu vực con tàu bị chìm. Các nước cũng có quyền thực hiện những biện pháp được cho là cần thiết để bảo vệ con tàu chìm hoặc đảm bảo những người còn sống sót trong thảm kịch trên được đối xử tử tế.

Chính phủ các nước còn có thể bắt giữ những đồ vật mà họ cho rằng đã được trục vớt bất hợp pháp từ đáy đại dương nơi Titanic bị chìm và đóng cửa cảng biển, không cho phép bất kỳ tàu nào được thực hiện công việc nghiên cứu nếu không tuân thủ đúng những điều khoản của công ước.

Tàu Titanic với 2.200 hành khách khởi hành từ cảng biển Southampton của Anh ngày 10-4-1912 để bắt đầu chuyến hành trình đầu tiên, và cũng là cuối cùng, từ châu Âu tới Mỹ. Ngày 14-4 tàu va phải một tảng băng và chìm chỉ ít giờ sau đó. Ít nhất 1.496 người đã thiệt mạng trong thảm họa lớn nhất trong lịch sử hàng hải thế giới này. Cho đến nay 306 thi thể được tìm thấy và 706 người được cứu sống.

NGUYÊN PHẠM (Theo RIA)

Xác tàu Titanic được Liên hợp quốc bảo vệ

Xác tàu Titanic sẽ được đặt dưới sự bảo vệ của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc.

BBC dẫn lời UNESCO cho biết, xác tàu Titanic sẽ được đưa vào Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa dưới nước sau ngày 15/4, đúng dịp kỷ niệm 100 năm ngày nó chìm xuống ĐạiTây Dương.

Mục đích của Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa dưới nước, ra đời vào năm 2001, là ngăn chặn những hoạt động thám hiểm phi khoa học hoặc phi đạo đức.

UNESCO thông báo hơn 700 người đã lặn xuống vị trí đắm của Titanic - nơi nằm cách bờ biển Canada khoảng 4 km.

Irina Bokova, tổng giám đốc UNESCO, nhận xét rằng vụ đắm tàu Titanic là một sự kiện hằn sâu vào ký ức của nhân loại. Vì thế bảo vệ xác Titanic, nơi hơn 1.500 người mất mạng, là việc quan trọng.

“Hàng nghìn xác tàu khác cũng cần được bảo vệ. Chúng ta không chấp nhận hành vi cướp đoạt các di sản văn hóa trên mặt đất và cũng sẽ không dung thứ hành vi cướp đoạt di sản văn hóa dưới nước”, bà Bokova nói thêm.

Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa dưới nước 2001 chỉ bảo vệ những tàu chìm cách đây hơn một thế kỷ. Tàu Titanic - được đóng tại Belfast, Anh - chìm ngay trong chuyến đầu tiên sau khi khởi hành từ cảng Southampton của Anh để tới thành phố New York, Mỹ. Nó đâm trúng một tảng băng gần đảo Newfoundland của Canada.

MINH LONG

BĐ st


NHỮNG CHIẾC XE

ĐỊNH MỆNH

Ngọc Kim

Có những chiếc xe nổi tiếng ngoài ý muốn khi người ngồi trên xe vốn là một nhân vật nổi tiếng, bị thiệt mạng do tai nạn hoặc sự cố.

Xe Fiat Croma của thẩm phán Giovanni Falcone

Giovanni Falcone, thẩm phán người Ý, dấn thân trong cuộc đấu tranh chống mafia. Ngày 23.5.1992, ông đến Palermo trên chiếc máy bay riêng của Cơ quan mật vụ Ý. Ông rời phi trường trên một chiếc xe bọc thép cùng với vợ (cũng là một thẩm phán) và vệ sĩ, với sự hộ vệ của hai chiếc Fiat Croma khác. Đoàn xe nối đuôi nhau lăn bánh trên xa lộ hướng về Palermo. Hành trình của đoàn được giữ bí mật, nhưng không hiểu sao bọn Cosa Nostra lại biết được.

Lúc 17g59, một tiếng nổ long trời vang lên trên xa lộ ở Capaci, làm mặt đường bị xé ra hơn 100 mét và bị khoét sâu 8 mét. Giovanni Falcone bị thiệt mạng cùng với vợ.

Xe Fiat Campagnola của Đức Giáo hoàng John Paul II

Ngày 13.5.1981, Đức Giáo hoàng John Paul II đứng trên chiếc xe Fiat Campagnola, vẫy chào 20.000 giáo dân chào đón Ngài trên quảng trường Saint Peter ở Rome. Tiếng súng bất ngờ vang lên. Kẻ bắn vào Ngài là Mehmet Ali Agca, 23 tuổi, người Thổ Nhĩ Kỳ. Đức Giáo hoàng bình an vô sự một cách kỳ diệu, vẫn tiếp tục chuyến đi. Tuy vậy, chiếc Fiat Campagnola là chiếc xe cuối cùng không có hệ thống bảo vệ an ninh. Sau đó, Đức Giáo hoàng sử dụng loại xe bọc thép, được gọi là “xe của Đức Giáo hoàng”.

Xe Lincoln Continental của Tổng thống J.F.Kennedy

Vào ngày 22.11.1963, lúc 12g30, Tổng thống Kennedy bị bắn ba phát đạn khi ngồi trong xe Lincoln Continental X-100 ở Dallas, bang Texas. Thủ phạm là Lee Harvey Oswald. Chiếc limousine đời 1961 này có mui bằng vinyl hay plexiglas. Kỳ lạ thay, xe lại mở mui chắn đạn vào lúc xảy ra vụ ám sát. Hiện nay chiếc xe này được trưng bày tại Ford Museum, thành phố Dearorn, bang Michigan.

Xe Rover V8 3 500S của bà hoàng Monaco

Ngày 14.9.1982, bà hoàng Grace Kelly cầm lái chiếc xe Rover cùng con gái Stéphanie rời dinh thự ở Roc Angel. Dường như Grace Kelly lâm vào trạng thái bất ổn, có thể là do tai biến mạch máu não nên xe mất kiểm soát, trượt trên sườn dốc, lao xuống và dừng lại ở độ sâu 50m. Grace Kelly qua đời vì thương tích trầm trọng, còn Stéphanie cũng bị thương nặng.

Xe Mercedes-Benz chở Công nương Diana

Ngày 31.8.1997, vào khoảng nửa đêm, chiếc Mercedes-Benz S280 (W 140) cố thoát khỏi sự đeo bám của các paparazzi. Trên xe có mặt Công nương Diana, bạn trai Dodi Al-Fayed, vệ sĩ Trevor Ree-Jones cùng tài xế Henri Paul.

Tài xế đang say rượu, chạy với tốc độ rất cao (trong khoảng 117km/giờ và 152km/giờ, theo biên bản). Chiếc xe va phải trụ thứ 13 của đường hầm gần cầu Alma, Paris. Công nương Diana thiệt mạng. Theo biên bản, các túi khí hoạt động tốt, nhưng những người trên xe không thắt dây an toàn. Vệ sĩ Trevor Ree-Jones là người duy nhất sống sót.

Xe Facal Vega FV3B của nhà văn Albert Camus

Xe Facal Vega là loại xe hơi thể thao sang trọng kiểu Pháp. Nhà văn Albert Camus cùng giám đốc nhà xuất bản Michel Gallimard bị thiệt mạng trong chiếc xe này, trong khi vợ và con dâu của Michel cùng ở trên xe lại bình an vô sự.

Ngày 04.01.1960, chiếc xe trên phóng như bay trên quốc lộ 5 giữa Sens và Fontainebleau. Xe lao vào một cây trên lề đường rồi nẩy trên một cây khác. Xe bị nát và khung xe bẹp dúm. Một bánh xe bị nổ đã gây ra tai nạn. Thật là một kết thúc bi thảm đối với nhà văn đoạt giải Nobel văn học 1957, cũng là nhà báo và kịch tác gia tên tuổi của Pháp. Ông ngồi phía trước và không thắt dây an toàn.

Xe Williams FW16 của tay đua Ayrton Senna

Ayrton Senna da Silva, tay đua xe hơi nổi tiếng người Brazil, là thần tượng của người dân quốc gia này. Anh là một trong những tay đua lỗi lạc trong lịch sử đua xe thể thức I. Anh đã 3 lần đoạt danh hiệu vô địch thế giới trong những năm 1988, 1990, 1991 và thắng 41 giải Grand Prix.

Ngày 01.5.1994, Ayrton Senna quyết tâm ghi những điểm đầu tiên trên đường đua Imola ở Ý, sau khi bị tay đua người Đức Michael Schmacher qua mặt ở hai giải trước đó ở mùa F1. Nhưng ở vòng thứ sáu tại Tamburello, tai nạn xảy ra. Xe của anh trệch khỏi đường đua, lao vào một bức tường. Ayrton Senna không qua khỏi, dù được cấp cứu tại chỗ. Anh qua đời ở tuổi 34.

Xe Porsche 550 Spyder của diễn viên James Dean

Ngày 30.9.1955, James Dean cùng thợ cơ khí Rolf Wutherich đến miền Bắc California để dự một cuộc đua xe. Xe chạy quá tốc độ và bị thổi phạt hai lần. Để kịp thời gian, James Dean càng phóng nhanh và va phải xe của một sinh viên. Chàng diễn viên chết tại chỗ, còn người thợ cơ khí và chàng sinh viên sống sót. Cái chết sớm (lúc 24 tuổi) và bi thảm khiến James Dean đi vào huyền thoại điện ảnh, được coi là biểu tượng của giới trẻ nổi loạn ở Mỹ trong thập niên 50.

Xe Buick Electra của diễn viên Jayne Mansfield

Jayne Mansfield cùng với Marilyn Monroe là những nữ diễn viên Mỹ gợi cảm, được xem là biểu tượng tình dục trong thập niên 50.

Vào ngày 29.6.1967, vào khoảng 2g25 sáng, trên xa lộ U.S. Highway 90, hướng về New Orleans, một xe Buick Electra đời 1966 đụng mạnh vào đuôi một xe rờ moóc chạy chậm lại do một xe tải phun thuốc diệt côn trùng phía trước. Đầu xe Buick lọt dưới gầm rờ moóc. Trên xe Buick, ngoài tài xế còn có nữ diễn viên Jayne Mansfield, diễn viên Samuel Brody (bạn đời của cô), 3 đứa con nhỏ và 4 con chó chihuahua. Ba người lớn chết tại chỗ, các trẻ em chỉ bị thương nhẹ.

Xe BMW 750iL của diễn viên Tupac

Tupac Amaru Shakur là ca sĩ nhạc rap và diễn viên Mỹ thiệt mạng trong chiếc xe BMW Série 7 do những biến chứng từ thương tích do loạt đạn của kẻ thù. Theo lời khai của các nhân chứng, hai gã đàn ông bước ra từ chiếc Cadillac Fleedwood đã nã 13 phát đạn vào xe của Tupac từ khoảng cách chưa đầy 2 mét. Sự cố xảy ra ở Las Vegas. Hình ảnh chiếc xe lỗ chỗ đạn được truyền đi khắp thế giới. Một kiểu “quảng cáo” mà nhà sản xuất xe BMW hẳn không mong muốn!

Xe Renault 10 của nữ diễn viên Françoise Dorléac

Françoise Dorléac là chị của diễn viên kỳ cựu Catherine Deneuve. Vào ngày 27.6.1967, bà lái xe đến phi trường Nice để lên máy bay sang London dự buổi chiếu phim do bà thủ vai chính. Do bị muộn, xe chạy hết tốc lực trên xa lộ A 8, khi mặt đường trơn trợt, Françoise Dorléac lạc tay lái, va phải một loạt thùng ở Villeneuve và bị chết cháy trong chiếc Renault 10.

Xe Ariel Atom của diễn viên Jocelyn Quivrin

Ngày 15.11.2009, diễn viên Pháp Jocelyn Quivrin bị thiệt mạng trong xe Ariel Atom trên xa lộ A 13 ở Saint Cloud. Chiếc xe hai chỗ ngồi được trang bị động cơ mạnh, trọng lượng chỉ có 500 kg, gây cảm giác mạnh, nhưng cũng có nhiều nguy cơ, không cho phép phạm một sai lầm nhỏ nào. Chiếc xe đặc biệt này thích hợp với đường đua hơn, chỉ mất 2,8 giây để chuyển vận tốc từ 0 lên 100km/giờ.

Xe Honda VFC 1 100 của diễn viên hài Coluche

Vào ngày 19.6.1986, diễn viên người Pháp Coluche thiệt mạng trong một tai nạn giao thông. Khi từ Cannes trở về cùng với hai người bạn trên chiếc mô tô Honda VFC 1.100cm3, mô tô của Coluche đụng một xe tải tại một khúc quanh giữa Grasse và Opio, tỉnh Alpes Maritimes. Tai hại thay, lúc ấy ông không đội mũ bảo hiểm.

Xe Ford Bronco của vận động viên O.J. Simpson

Orenthal James Simpson là cựu cầu thủ chuyên nghiệp người Mỹ và cũng là diễn viên điện ảnh. Bị kết tội đâm chết vợ, Nicole, và người tình của bà này vào năm 1994, O.J. Simpson có thể bị án tử hình. Ngày 18.6.1994, cuộc rượt đuổi O.J. Simpson trên chiếc xe Ford Bronco màu trắng trên gần 100km trên xa lộ Los Angeles được truyền hình trực tiếp trên TV Mỹ. Nhưng biến cố này cũng kết thúc “triều đại” của dòng xe “Bronco” do sự chế nhạo của nhiều diễn viên Mỹ. Xe này sau đó được thay thế bằng Ford Expedition.

Riêng O.J. Simpson được xử trắng án vào năm 1995 sau một hành trình kiện tụng gây nhiều tranh cãi (trắng án về mặt hình sự, nhưng lại có tội về mặt dân sự). Năm 2008, O.J. Simpson bị kết án 33 năm tù giam vì tội bắt cóc và trộm có vũ trang trong một vụ khác.

Xe BMW M3 Cabriolet của cầu thủ Patrick Kluivert

Vào ngày 09.9.1995, cầu thủ Patrick Kluivert, lúc ấy đang chơi cho đội Ajax Amsterdam, lái xe BMW M3 Cabriolet với vận tốc gần 104km/giờ ở một địa điểm thuộc thành phố Amsterdam, mà tốc độ bị hạn chế còn 50km/giờ. Điều phải đến đã đến, tiền đạo Kluivert (lúc ấy mới 19 tuổi) va phải một xe khác, làm thiệt mạng hai người trên xe. Kluivert không bị giam, nhưng bị phạt 240 giờ lao động công ích và bị rút giấy phép lái xe 18 tháng.

Xe Volkswagen Coccinelle của tên sát nhân Ted Bundy

Theodore (Ted) Robert Bundy (1946-1989) là sát thủ hàng loạt người Mỹ, mà số nạn nhân chính thức được biết là 36 người, đa số là phụ nữ trẻ đẹp thuộc giới sinh viên, trên khắp nước Mỹ. Gã đã gỡ bỏ ghế sau của chiếc xe để dành chỗ chất xác. Vài năm sau đó, hai viên cảnh sát thuộc văn phòng cảnh sát trưởng Utah đã mua chiếc xe Coccinelle này với giá 25.000 USD vào năm 1997 ở New York. Chiếc xe ấy hiện vẫn mang dấu tích bạo lực, được trưng bày ở Bảo tàng Tội ác và Hình phạt ở Washington. Ted Bundy từng học luật và từng làm việc cho Bộ Tư pháp Mỹ.

Xe BMW Série 5 của tên sát nhân Mesrine

Jacques René Mesrine, tên tội phạm người Pháp, hành động chủ yếu ở Pháp và cả ở Québec, Tây Ban Nha, Ý, Thụy Sĩ, Bỉ. Hắn có biệt danh “Người muôn mặt”. Kẻ thù số 1 của công chúng này bị hạ sát bằng 19 viên đạn ở Paris. Chiếc xe BMW của hắn nằm im lìm suốt 28 năm trong kho tang vật của cảnh sát trước khi bị hủy vào tháng 5.2007. Chiếc xe này thu hút sự chú ý lần nữa khi phim Mesrine ra mắt năm 2008.

(Theo Savoir)

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.


Phụ Bản IV

THẰNG NHÓC

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

CHUYẾN TÀU VỀ THÀNH PHỐ LYON

Ôi! Kỷ niệm của tuổi thơ đã đem lại cho tôi biết bao nhiêu là ấn tượng. Dường như mới là ngày hôm qua, tôi đã du ngoạn trên dòng sông Rhône. Tôi vẫn còn thấy rõ ràng con tàu thủy, những hành khách, đoàn thủy thủ; tôi vẫn còn nghe tiếng đạp nước của bánh xe guồng, tiếng còi của máy. Ông thuyền trưởng tên là Géniès, ông thuyền phó tên là Montélimart. Người ta khó lòng mà quên những sự kiện như vậy.

Chuyến tàu nầy kéo dài ba ngày. Trong ba ngày đó, tôi ở luôn trên boong tàu, chỉ xuống dưới phòng khách lúc ăn cơm và để ngủ nghê. Trong thời gian rảnh rổi, tôi đến ngồi trước mũi tàu, gần cái mỏ neo. Ở đó có một cái chuông to, mà người ta đánh lên, khi tàu vào thành phố; tôi ngồi gần đó, trên đống dây đỏi. Đặt cái lồng chim vào giữa hai chân, tôi bắt đầu quan sát… Con sông Rhône khá rộng lớn, đến đỗi người ta khó lòng mà nhìn thấy bờ bến. Còn tôi, thì tôi ao ước cho nó rộng lớn hơn, mà người ta có thể gọi là biển cả.

Trời trong quang đãng, nước xanh biêng biếc. Những chiếc ghe to xuôi ngược trên dòng sông… Nhiều người dân băng qua sông trên lưng những con lừa; họ ca hát nghêu ngao gần chúng tôi. Đôi khi, con tàu chạy dọc theo một vài cù lao hoang vắng, mọc đầy lao sậy... Tôi nhìn chằm chập vào và tự nhủ: “Ô, một hòn đảo hoang vu”.

Vào cuối ngày thứ ba, tôi cứ tưởng là sẽ có một cơn dông tố nổi lên. Trời bỗng nhiên tối sầm lại; một màn sương dầy đặc hạ xuống mặt sông... Trước mũi tàu người ta phải thắp lên một ngọn đèn lồng to, và nói cho thật ra, trước những cảnh tượng nầy, tôi mới bắt đầu cảm động. Ngay vào lúc đó, có ai nói bên tai tôi: “Thành phố Lyon kìa”. Đồng thời, chuông tàu cũng vang vọng lên. Thành phố Lyon đây rồi.

Mờ mờ ảo ảo trong sương mù, tôi thấy ánh đèn chập chờn trên hai bờ sông. Chúng tôi chui qua một gầm cầu, rồi lại một gầm cầu khác… Mỗi lần qua gầm cầu như vậy, thì cái ống khói tàu phải được hạ xuống, và nó khạc ra từng luồng khói đen nồng nặc đến nhảy mũi. Trên tàu là một sự xôn xao kinh khủng. Hành khách thi nhau tìm kiếm hành lý... Bọn thủy thủ thì vừa lăn những thùng gỗ to, vừa càu nhàu trong bóng tối. Trời đang mưa to.

Tôi lật đật chạy về với mẹ tôi, anh Jacques và bà vú già Annou đang ở phía sau tàu, và đây rồi, chúng tôi quấn quýt bên nhau dưới cây dù của bà Annou, trong khi con tàu cập bến, và sự xuống tàu bắt đầu...

Thật ra mà nói, nếu ông Eyssette không đến để dẫn dắt chúng tôi ra, thì chúng tôi không bao giờ có thể đi đâu được nữa. Cha tôi vừa len lỏi, vừa la khẩu hiệu: “Ai đó. Ai đó”. Nghe mật khẩu quen thuộc “Ai đó”, chúng tôi đồng thanh trả lời: “Bạn đây. Bạn đây”, với một niềm sung sướng nhẹ nhõm khó tả. Ông Eyssette dịu dàng ôm chúng tôi. Một tay nắm lấy anh Jacques, một tay nắm lấy tôi, cha tôi bảo hai người đàn bà: “Theo tôi mà đi”. A, cha tôi là một người đàn ông tuyệt vời.

Chúng tôi bước đi rất đỗi khó nhọc; trời thì tối, cầu tàu thì trơn trợt… Mỗi bước chân, người ta đều đụng phải một kiện hàng nào đó. Thình lình, ở mũi tàu có tiếng kêu rít lên buồn bã vang vọng đến chúng tôi: “Robinson, Robinson...”.

“Ôi! Trời ôi”, tôi la lên, và cố gắng tháo tay cha tôi ra…; còn cha tôi thì cứ tưởng tôi bị trợt chân, càng nắm lấy tôi chặt hơn nữa. Tiếng nói lại vang lên to hơn, buồn bã hơn: “Robinson, tội nghiệp cho Robinson!”. Tôi lại cố gắng gỡ tay ra một lần nữa vừa la lên: “Con két của tôi, con két của tôi”.

Anh Jacques lên tiếng: “Bây giờ, con két nói được rồi đó”.

Khi mà con két chịu nói, thì tôi tưởng chừng như người ta có thể nghe từ cả cây số. Trong lúc bối rối, tôi đã quên nó ở đàng kia, đầu mũi tàu, bên cạnh cái mỏ neo, và ở đó nó đã ráng sức gọi tôi: “Robinson! Robinson. Tội nghiệp cho Robinson”.

Rủi quá, chúng tôi đã đi xa rồi.

Ông thuyền trưởng Géniès thì thúc hối: “Nhanh lên bà con. Nhanh lên”.

Cha tôi mới bảo: “Chúng ta sẽ đến tìm nó vào ngày mai, trên tàu không có gì bị thất lạc cả”, và thế rồi, mặc dù tôi có khóc lóc, cha tôi cũng cứ lôi tôi đi.

Tệ thật, ngày mai người ta có đi tìm nó, nhưng mà người ta không làm sao bắt gặp được nó nữa rồi.

Ôi! Sự thất vọng của tôi biết là dường nào. Không còn con két, thì không có mọi Vendredi, cũng không còn Robinson nữa. Dù cho có thiện chí tới đâu, thì cũng không thể tạo thành một hải đảo hoang ở trên tầng lầu thứ tư, trong một gian nhà dơ bẩn và ẩm ướt, tại khu phố Lanterne.

Ôi chao, căn nhà ghê tởm mà tôi chưa từng thấy trong cuộc đời tôi. Sân thì ngập nước… Cầu thang thì lầy lụa bùn đất. Người gác cổng là một thợ đóng giày, có cửa hiệu ở kế bên cái máy nước. Thật là tồi tàn, xấu xí.

Buổi tối khi mà chúng tôi mới đến, bà vú già Annou vừa bước chân vào bếp thì đã la hoảng: “Con gián. Con gián”. Chúng tôi chạy đến. Một cảnh tượng hãi hùng làm sao.Nhà bếp đầy dẫy những con gián gớm ghiếc trên tường, trên bếp, trên kệ, trong hộc tủ… khắp mọi nơi. Mặc dầu không muốn, người ta vẫn phải chà đạp chúng. Bà vú già Annou giết gián không biết là bao nhiêu; nhưng mà người ta càng giết bao nhiêu, thì chúng nó càng xuất hiện bấy nhiêu. Chúng nó chui ra từ lỗ thoát nước của bồn rửa chén bát. Người ta phải bịt cái lỗ thoát nước lại, nhưng mà chúng nó cũng cứ chui ra, mà người ta không biết là từ đâu.

Những con gián đó làm cho tôi có ác cảm đối với thành phố Lyon, ngay từ buổi chiều đầu tiên.

(Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật


CỎ DẠI

CÓ ÍCH CHO ĐỜI

Nhân vật:

- Ông Năm Môn 50 tuổi , chồng bà Bảy

- Bà Bảy Lang 48 tuổi , vợ ông Năm

- Ông Sáu Sửu 50 tuổi , bạn ông Năm

- Bé Ba 18 tuổi , con ông Sáu

- Từ 26 tuổi , con ông Năm

(Nhạc)

Ông Sáu

Bé Ba à, đi hết cánh đồng này là đến nhà bác Năm Môn đó con

Bé Ba

Con không nhớ gì hết tía à, từ ngoài đường cái cũng lạ, đi vô trong này cũng lạ hoắc lạ quơ…

Ông Sáu

Con thấy lạ là vì nhiều nhà mới xây, nhiều nhà lập vườn cây ăn trái, đồng ruộng thì lúa đầy đồng. Coi bộ bà con ở đây sống sung túc hơn hồi trước nhiều.

Bé Ba

Bác Năm Môn giờ đây cũng khá giả thoát nghèo phải không ba?

Ông Sáu

Ờ, tía nghe nói vậy, hôm nay mới lên thăm cho biết sự tình, hỏi thăm cách làm ăn của bác Năm cho biết.

(Nhạc)

Ông Sáu

Anh Năm ơi, có nhà không?

Ông Năm

Ủa, anh Sáu, mới lên tới hả.

Ông Sáu

Ừ, tôi lên thăm anh chị và sắp nhỏ. Chị Bảy có ở nhà hôn anh Năm.

Ông Năm

Có, để tôi kêu. Bà nó ơi, có anh Sáu lên chơi nè. Ngồi đi anh Sáu.

Bà Bảy

(mừng rỡ) Lâu dữ mới gặp anh Sáu. A! con nhỏ này là đứa nào đây?

Ông Sáu

Nó là con Bé Ba.

Bé Ba

Thưa hai bác, con mới lên.

Bà Bảy

Ờ, bây giờ lớn bộn, trổ mã đẹp gái quá ha. Bao nhiêu tuổi rồi cháu?

Bé Ba

Dạ, cháu mười tám tuổi.

Bà Bảy

Lên chơi ở lại vài ngày nghe anh Sáu.

Ông Sáu

Cha con tôi ở chơi, ngày mai về sớm chị Bảy à. Tui mới đi đám giỗ gặp anh Tư, nghe ảnh nói anh chị thoát nghèo, làm ăn khấm khá lắm phải không?

Ông Năm

Cảnh nhà tôi anh cũng biết đó, có 1 mẫu đất làm ruộng nuôi bốn miệng ăn, còn lo cho hai đứa con ăn học, không lẽ để nó dốt như đời tụi mình.

Bà Bảy

Chuyện là vầy, nhờ mấy năm trước vay được một số tiền quỹ “Xóa đói giảm nghèo”. Lúc đó Hội nông dân khuyến khích bà con nông dân chuyển đổi cây trồng vật nuôi. Ở xã này nhiều nhà mở trang nuôi bò sữa.

Ông Sáu

(hỏi dồn) Nhà anh nuôi bao nhiêu con?

Ông Năm

Tui nuôi có một con, tui để ý thấy người ta đi mua cỏ ở nơi khác về cho bò ăn. Tìm hiểu mới biết có cái chợ cỏ…

Bé Ba

(ngạc nhiên) Chợ chỉ bán toàn cỏ hả bác?

Ông Năm

Ừ, họ bó thành từng bó chừng một tay ôm bán 1000 đồng. Những người lao động họ đi khắp nơi ở các đầm lầy, dọc theo kênh rạch hái cỏ về bó lại đem bán.

Ông Sáu

Ngộ há, đủ kiểu làm ăn hái ra tiền.

Ông Năm

Ờ, ở đây là vùng ngoại thành, có nhiều người nghèo, không có việc làm, làm nghề cắt cỏ cũng sống được. Suy nghĩ hoài tui mới quyết định thử chuyển sang trồng cỏ.

Bé Ba

Bác làm liền việc trồng cỏ, bác liều thật đó.

Ông Năm

Không dám làm liều đâu cháu, bác quyết tâm trồng cỏ nhờ có các anh ở Trạm khuyến nông giúp đỡ hướng dẫn cách chọn giống cỏ, cách gieo trồng…

Bà Bảy

(chen vào) Lúc đầu cũng gian nan vất vả, trần ai khoai củ lắm đó. Nhiều người còn cười ngạo: “Ông Năm Môn dại ơi là dại! bỏ ruộng lúa đi trồng cỏ dại”.

Bé Ba

Bây giờ không còn là cỏ dại mà là cỏ tiên huyền…

Ông Năm

(cười lớn) Cỏ tiên huyền, có cỏ có tiền, hay lắm!

(Có tiếng xe máy nổ xình xịch)

Từ

(nói chuyện điện thoại) Alô. Anh Mười, được đến lúc thu hoạch tôi sẽ chở đến tận nhà anh đủ số lượng đã đặt hàng. A! nhà có khách.

Ông Năm

Từ à, bác Sáu mới lên chơi. Còn đây là con Bé Ba mày nhớ nó hôn?

Từ

Con chào bác Sáu. Cha em Bé Ba lớn dữ ha!

Ông Sáu

Ngồi xuống đây nói chuyện đi cháu Từ.

Từ

Dạ.

Ông Sáu

Cháu Từ giỏi quá, lo công việc kinh doanh cho ba cháu hả

Ông Năm

Ừ, cả nhà xúm vào làm, người nào việc nấy.

Ông Sáu

Tôi lên đây là muốn học hỏi kinh nghiệm làm ăn, ở miệt quê tôi ít người nuôi bò sữa, người ta nuôi bò vàng, bò vàng dễ nuôi sinh lợi nhiều hơn.

Từ

Dạ đúng vậy, ở đây phong trào nuôi bò sữa hơi khựng lại, gặp chút khó khăn, do nhiều người nuôi, số lượng bò nhiều, thị trường cái gì cũng tăng giá, người nuôi bò lao đao lắm.

Bé Ba

Đó tía thấy chưa, làm ăn đâu phải dễ, chuyển đổi cây trồng vật nuôi mà đổi đồng loạt một thứ như vậy, có ngày sẽ dư thừa thua lỗ là cái chắc. Thất bại mất vốn liếng…

Từ

Bé Ba nói chuyện hay lắm! nhưng không đến nỗi như em nghĩ. Nhà nước, Sở Nông nghiệp có kế hoạch phát triển đàn bò sữa, đương nhiên phải có kế hoạch sản xuất tiêu thụ hỗ trợ cho nông dân lúc khó khăn.

Ông Sáu

Được rồi, hai cha con đưa tui ra thăm đồng cỏ. Thằng Từ chỉ dẫn cho bác rành rẽ cách thức nuôi trồng. Về quê bác nhất định trồng cỏ nuôi bò…

Ông Năm

(cười vui vẻ) Ừ, đi đi, thăm đồng cỏ về, tui với anh nhậu một chầu nghe.

Ông Sáu

Ừ, nhậu một chầu quắc cần câu… (cười ha ha)

(Nhạc)

Bé Ba

(reo lên) Tía ơi! Nhìn kìa… giữa đồng lúa bát ngát mênh mông, mọc lên một trảng cỏ xanh rì mơn mởn. Không còn là cỏ dại bị người ta ghét bỏ nhổ đi.

Ông Sáu

Ừ, cây cỏ dại nhỏ nhoi có ích cho đời.

Tháng 9.2004

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

MỘT SỐ BÀI THUỐC

ĐÃ KINH NGHIỆM

UNG THƯ PHỔI, UNG THƯ VÒM HỌNG,

UNG THƯ GAN, MEN GAN CAO

Lấy lá đu đủ thái ra, phơi khô, 9 phần lá đu đủ, 1 phần Sả cọng, đun uống thay cho nước trà.

MỠ MÁU : Cây Chó Đẻ răng cưa, Nửa trái dứa xanh, gọt vỏ, 2 lạng gan heo, đổ vô 4 chén nước, đun từ 2 đến 2 giờ rưỡi, chắt ra lấy 3 chén, uống sáng, trưa, chiều trước khi ăn 30 phút. Thử sau 6 tháng. Nếu chưa ổn thì uống 1 đợt nữa.

ĐAU ĐẦU : Day mạnh vảo hai hõm sau tai.

VIÊM HỌNG, HO : Xoa dầu gió vào huyệt Dũng Tuyền, (chỗ lõm dưới gan bàn chân) dán cao Salonpas vô để tới sáng. Hoặc dùng Tỏi chưng với mật ong.

NHÀ THUỐC VẠN TẾ HƯNG CẦN T HƠ, số nhà 22 Phố Thủ Khoa Huân, Phường Tân An, Quận Ninh Kiều Tp Cần Thơ có bài thuốc trị Tiểu Đường rất công hiệu. Đt: 0713.821.983 gọi đặt thuốc có người giao tận nhà. (do Nhà Thơ Trần Đăng Khoa cung cấp)

LÁ LƯỢC VÀNG trị nhiều thứ bệnh: Gan, Ung thư xương hàm, Ung thư hạch cổ, Gút, u tiền liệt tuyến, tê, chảy máu răng, mắt mờ, đau nhức đốt sống cổ, bả vai, Ung thư Đại tràng, đau nhức xương khớp

BỆNH TỔ ĐĨA : Lá Muồng Trâu, giã nát, với chút muối đấp lên.

TRINH NỮ HOÀNG CUNG : lấy lá, xay, lọc, bỏ vô chút muối trị UNG THƯ BÀNG QUANG, U Xơ Tuyến Vú, U Não (Lá Trinh Nữ hoàng cung + hoa đu đủ đực)

XƠ GAN, VIÊM GAN SIÊU VI B, UNG THƯ GAN: Lá Mơ (Lá thúi địt) hái cả thân lẫn lá, rửa sạch, phơi khô uống thay nước trà, hoặc xay lấy nước uống.

CÂY BỒ CÔNG ANH : Diệt tế bào Ung Thư. Mỗi ngày uống 10-12gr

TRÁI MÃNG CẦU XIÊM có dược tính kháng Ung Thư rất mạnh

- MĂNG TÂY cũng trị Ung Thư rất tốt

- GIỜI VẮT KHĂN : Lấy mực tàu thứ thiệt, mài ra, bôi lên.

- Có người dùng thuốc Tây Hapacol đâm nhuyễn trộn với kem đánh răng bôi lên.

Những lời khuyên của Bs. LƯƠNG LỄ HOÀNG

- Ăn cá biển 2 lần/tuần ngừa bệnh tim . Cá mòi xốt cà, ớt, củ hành có giá trị hơn 100v dầu cá

- Dogarlic thông mạch và cholesterol rất tốt

- Uống dấm Táo vào buổi sáng trước khi điểm tâm giải độc cho cơ thể. 2 lần trong tháng. Nặng hơn thì hơn 10 lần:

(1muỗng canh dấm táo + 1 muỗng canh mật ong + ½ lít nước suối)

- VIÊM THẬN chỉ cần uống ngày 2 lần. Mỗi lần 200ml nước ép trái dâu. Sau 3 tuần có kết quả.

- Người mổ Sạn Thận nên uống mỗi tuần 1 lần để ngừa sạn trở lại.

- CHUỐI TIÊU, CHUỐI SỨ XANH, CHUỐI CA U , làm ra bột chuối sống, pha với sữa, cắt cơn đau dạ dày.

- NẤM MÈO làm loãng máu, phòng chống bệnh tim mạch, trị thiên đầu thống, ngừa biến chứng viêm tĩnh mạch hậu sản. Trị nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não. Chỉ cần 10g mỗi ngày.

- DƯA GANG có tác dụng như nấm mèo.

- CAFE làm giảm cơn Hen . Uống cafe không đường, sữa, với chút muối, cải thiện tuần hoàn ở người Huyết áp thấp.

- CÀ TÍM trị phong thấp, Hàn Quốc lấy cà tím phơi khô làm thuốc giảm đau, trị sưng khớp, loét bao tử, trật đả, bong gân.

- Nước ép Cà Tím hữu dụng cho người bị động kinh, ngừa ung thư bao tử, nhuận tràng.

- QUẢ KÉ ĐẦU NGỰA : Trị hết bệnh vẩy nến, uống kèm với lá cây giải độc

- CHỮA BỆNH NƯỚC TIỂU ĐỤC : Rễ tranh nấu nước uống

- CHỮA TRẺ CON KHÓC DẠ ĐỀ

Lấy cành dâu tươi, mỗi ngày, canh trước giờ bé khóc, quất túi bụi trong phòng của bé, không chừa ngóc ngách nào, dưới gầm gường, xó tủ luôn. Từ trong quất ra như xua đuổi ai, Ngay cả chỗ bé nằm. Dưới chỗ bé nằm lén lót 1 cành dâu phía dưới. Làm liên tục vài hôm bé sẽ hết.

- TRỊ SỐT RÉT : Lấy chai nước suối, cho vô đó 1/3 muối hột, 2/3 rượu trắng, lắc cho tan, mỗi ngày uống 1 chung. Uống chừng 4 ngày là dứt bệnh

- LÁ BẦU TRỊ SỎI THẬN : Mỗi lần lấy 1 nắm, nấu 10 phút, uống 35 ngày

- CÂY AN XOA : Trị khối u trong Gan. Xơ Gan cổ trướng, Viêm Gan A, B, C, Viêm Đại tràng. Phòng tránh ung thư.

- CÂY CHÓ ĐẺ : Sao khô + Cá Diếc làm sạch, chiên, cho tương, muối, đường, om cho ngấm, bỏ hành lá vô TRỊ BỆNH GAN.

- RỂ CÂY ĐINH LĂNG : Trị Thoái Hóa Cột Sống và Đốt sống cổ. Cho cả thân, rễ nấu, uống lúc còn nóng, sau bữa ăn

- CHÈ XANH : Ngừa Ung Thư

- TIỂU KHÔNG TỰ CHỦ : Quả Dứa để nguyên vỏ, nướng cho cháy hết mắt gai, để nguội vắt lấy nước + chút muối. Ăn thêm ngày 1 quả trong vòng 5, đến 10 trái. Kết hợp lấy gạo nhồi vô bong bóng heo cột chặt, hấp chín, để nguội ăn.

- BỆNH TIỀN LIỆT TUYẾN : Rễ CÂY HỒNG QUÂN thái nhỏ, phơi khô uống – Lá Trinh Nữ Hoàng Cung

- LÁ MƠ TAM THỂ : Ung Thư Gan (Ông Tu chỉ) Viêm gan, Xơ gan.

- SUY GIÃN TĨNH MẠCH:

Hoàng Kỳ 50 gr

Đương Quy 10 gr

Xích Thược 10g

Xuyên Khung 5g

Đào Nhân 5g

Hồng Hoa 5 g

- SỎI THẬN : Trái đu đủ xanh chừng 400g rửa sạch, cắt đầu, moi hết hột, cho vô chút muối, bỏ vô nồi hấp cách thủy chừng 40’. Mỗi ngày ăn 1 quả, chừng 7, 8 ngày

- SUY THẬN (Tiểu đêm)

30g cỏ mực đã phơi, sao. 40g đậu đen đã rang

Đun sôi, lấy nước uống hàng ngày

- UNG THƯ XƯƠNG, vết thương hoại tử

Lấy 3, 4 củ Bán Hạ, gọt vỏ, cho vô nồi đất, thêm 1 muỗng canh GẠO LỨT để nguyên không vo, đổ vô 1 chén nước, nấu sôi vài dạo. Khi nước còn ấm thì lấy rửa vô chỗ xương, thịt bị hoại tử.

- BỊ TAI BIẾN, BỆNH VỀ XƯƠNG KHỚP, CỘT SỐ NG, ĐAU NHỨC XƯƠNG, KHỚP, PARKINGSON… Công Nghệ LASER của PGS. Tiến Sĩ TRẦN MINH THÁI Trường Đại Học Bách Khoa TpHCM trị rất hay. Có rất nhiều Phòng Mạch Đông Y áp dụng công nghệ này ở TP và nhiều Tỉnh. Số Đ.T. của PGS Thái: 386.35776 (buổi chiều sau 4 giờ 30) Hoặc Phòng phục Hồi Chức Năng của Thạc Sĩ Bác sĩ Ngô Thị Thiên Hoa ở số 90 Nguyễn Tri Phương, Ấp Long Thị D, Tân Châu, An Giang. ĐT. 171.076.3823.372

- Thuốc BÓ CHỮA NGƯỜI BẠI LIỆT:

Dây KHỔ QUA rừng

Hạt Mã tiền tươi

Dấm nuôi

Băm nhỏ hay giã nát dây khổ qua rừng với 6 hoặc 8 hạt Mã tiền tươi (Dây nhiều thì tăng hạt Mã tiền). Rưới Dấm nuôi cho ướt. Cho lên chảo gang xào cho nóng lên. Dùng khăn hay vải, bó khắp phần bị liệt, vừa sức nóng chịu được. Thấy nguội thì bỏ ra, xào cho nóng lại. Làm 3 lần. Liên tục trong 3 đến 5 ngày, xong nghỉ 1 ngày rồi làm tiếp. Chừng 3 liệu trình là khỏi bệnh.

DÂY KHỔ QUA RỪNG: trị nhức mỏi.

DÂY CỨT QUẠ trị THẤP KHỚP

NƯỚC UỐNG TRỊ GAN, MẮT

Bắc tỉ thảo, Hạ cô thảo, Lục cầm thảo, La Hán Quả Mỗi thứ 100gr. Chia làm 4 lần. Mỗi lần nấu với 2 lít nước cho đường phèn vô cho vừa ngọt.

UNG THƯ MÁU (Có người đã chữa khỏi)

Sâm Đại hành 2 củ, Hoa Kim Châm 30 bông, sắc 3 chén còn 1 uống buổi sáng

TRỊ UNG XỈ MỦ TRÊN RĂNG :

Lọ chảo gang chừng 50gr. Mỡ heo để hôi, 3 muỗng canh. Cây Gạt Nai mọc dưới ruộng 200gr. Giã cây Gạt Nai cho nát, trộn 2 thứ kia vô trong nồi đất, cho lên bếp, đập vô 1 cái trứng gà. Xào tất cả với nhau, xong để nguội bôi vào mấy kẽ ngón tay, ngón chân, vài lần là hết bệnh.

- Thoái hóa Đốt sống cổ: LÁ CÂY MẬT GẤU (Miền Nam) Giã 7, 8 lá Mật gấu, vắt lấy nước, uống chung với rượu hoặc Bia. (còn tiếp)

ĐỖ THIÊN THƯ st.

MUỘN

MÀNG

Cộc... cộc...cộc…

Nguyện giật mình gấp quyển album lại, đưa tay lau dòng lệ trên má, cô đi ra cửa, chưa vội mở chốt, Nguyện cất tiếng hỏi:

- Ai đấy?

Ngoài cửa không có tiếng trả lời, cô băn khoăn, ngần ngại “Ai thế nhỉ?”. Suy nghĩ một chút, Nguyện thấy không có gì đáng lo lắm, vì bây giờ đang là giấc trưa của mọi người trong khu nhà trọ này, nếu cần thiết cũng sẽ không có gì khó khăn cả. Cô quyết định mở, cánh cửa vừa bật ra, Nguyện tròn mắt sững sờ. Hùng từ từ bước vào trong ánh mắt đau đáu. Khi đã đẩy nhẹ cánh cửa cho nó khép lại, Hùng đặt hai tay lên vai Nguyện, cả hai vẫn không nói lời nào. Rồi cùng một lúc Nguyện đổ vào ngực Hùng, Hùng ôm choàng lấy Nguyện. Họ lặng đi thật lâu trong phút giây đầy cảm xúc. Một lúc sau, Nguyện từ từ ngẩng lên, đôi mắt đẫm ướt nhìn Hùng:

- Sao anh biết em ở đây?

Hùng vừa lau nước mắt cho Nguyện vừa nói:

- Với trái tim đang yêu thì không có gi giấu được cả em ạ.

Nguyện vừa xúc động vừa dằn dỗi:

- Anh xạo…

Hùng dìu Nguyện vào ghế, khẽ nâng cằm cô lên, anh ngắm rồi lắc đầu:

- Em ốm đi nhiều quá. Tai sao em lại bỏ đi đột ngột như thế? Anh tìm em khắp nơi, may mà cuối cùng rồi Hương cũng chịu cho anh địa chỉ của em.

Nguyện cúi đầu:

- Em nghĩ như thế thì tốt cho anh hơn. Với lại, em không đủ can đảm…

Hùng nghe một cảm giác đầy lên trong ngực, dù đã biết vì sao Nguyện phải bỏ đi, nhưng khi nghe chính Nguyện nói, anh vẫn rất khổ tâm.

- Anh biết, chính anh cũng không muốn em phải chứng kiến điều đó, nhưng em ra đi thế này cũng có giải quyết được gì, chỉ làm anh rối lòng thêm thôi.

- Anh hiểu cho em, có thể thời gian và cuộc sống mới sẽ giúp anh, còn hơn em cứ ở đó, sẽ làm tình trạng thêm khó xử mà thôi. Chúng mình có duyên mà không nợ, cho nhau được chút tình đẹp đẽ là may mắn cho em lắm rồi, em không thể để anh phải chịu những thiệt thòi vì em nữa.

- Sự thiệt thòi lớn nhất là anh không có được người anh yêu, em không có cảm giác đó sao?

Nguyện lại ứa nước mắt:

- Sao lại không chứ? Có ai yêu mà không muốn gần người mình yêu, nhưng trong trường hợp chúng mình thì biết làm sao được.

- Về lý thì chúng ta đã hành động đúng, con người ta rất nhiều khi phải hy sinh bản thân mình vì những lý do chính đáng. Nhưng tình cảm của chúng ta thì đâu có dễ dàng trôi qua như thế được. Em về đi, về cho anh yên lòng, em một mình nơi xa xôi này anh không thể nào chịu nổi.

Nguyện ngồi thẳng dậy nhìn vào mắt Hùng:

- Không được, anh đừng lo cho em, anh phải về để làm bổn phận của mình tình cảm chúng mình sẽ mãi mãi không phai nhòa được, nhưng em không thể là nguyên nhân những xào xáo, bất hòa trong gia đình anh sắp tới được. Có thể trong lúc này cả hai chúng ta đều rất đau khổ, nhưng rồi mọi việc sẽ ổn cả thôi. Còn hơn xảy ra những điều đáng tiếc về sau. Thà em xa hẳn anh như thế này, chứ nếu một ngày nào đó vợ anh nhìn em bằng con mắt khinh khi thì sự tổn thương của em còn lớn hơn nhiều. Tính em xưa nay anh biết đấy, khổ mấy chịu cũng được, nhưng nhục là không chịu được. Anh phải nghĩ xa hơn một chút, đừng ép em. Vả lại, thà em nhường chồng cho người khác, chứ không thể là kẻ đi cướp chồng người khác được.

Hùng bóp trán, anh hiểu rất rõ bản tính Nguyện, chịu đựng, hy sinh nhưng khẳng khái. Anh biết, Nguyện đã nghĩ đúng và làm đúng, quả tình nếu Nguyện cứ ở gần anh, liệu anh có làm chủ được tình cảm của mình, mà như thế có thể đẩy Nguyện đến chỗ uất ức. Vì có người phụ nữ nào lại không ghen, người ta ghen với tất cả những hình bóng chung quanh người chồng, người ta luôn muốn tỏ rõ vị thế chiếm hữu khi được hợp pháp hóa bằng một mảnh giấy. Không kể là tương lai hay quá khứ, một khi đã chung tay vào bản hôn ước, thì không thể có người thứ ba xen vào. Nhưng vấn đề là ở chỗ, tình cảm không phải là một thứ đồ vật mà người ta có thể thay đổi tùy tiện, đã xác định được tình cảm chân thật của lòng, thì đương nhiên không ai muốn mất đi người của lòng mình cả. Hôn nhân không có tình yêu chỉ là một cuộc sống nặng nề bởi những nghĩa vụ, sẽ không thiếu những nảy sinh khó chịu. Liệu anh có chịu đựng nổi một cuộc sống như thế không? Như thế rõ ràng là một bi kịch cho cả ba người. Hùng bất chợt lên tiếng:

- Có lẽ anh sẽ phải hủy đám cưới.

- Cái gì? Anh hủy đám cưới á?

Hùng buồn bã gật đầu:

- Chứ nhìn em đau khổ thế này anh không chịu nổi, mà chính anh, anh cũng không chịu nổi ý nghĩ mất em. Hay em cứ về với anh đi, mình sẽ tìm cách khác tốt hơn.

Nguyện nghiêm nét mặt:

- Nếu có thể có cách khác tốt hơn thì sự việc đã không đến lúc thế này. Chẳng có cách nào di khối u trong buồng trứng của em đi nơi khác được, cũng chính vì thế mà không thể có cách nào cho trọn vẹn đôi ba đường cả. Đằng nào cũng phải chấp nhận một sự mất mát, nhưng chọn được cách mất ít hơn đã là tốt lắm rối, anh đừng làm cho sự thể thêm rối rắm hơn nữa.

- Ba mẹ anh đâu đã biết chuyện em không thể có con.

- Chưa biết rồi sẽ biết, trước hết là hai chúng ta đều biết, anh nghĩ thế nào khi ba mẹ anh phải sầu muộn, héo úa vì niềm hy vọng nối dõi độc nhất của gia đình tiêu tan. Và em, làm sao em sống được với nỗi dày vò khi chính mình là nguyên nhân của sự tuyệt vọng ấy. Đừng vì một chút cá nhân mình mà làm khổ đau cho những người khác.

Hùng nhìn Nguyện đau đáu:

- Em lý trí đến mức ấy sao?

Nguyện cười buồn:

- Cuộc sống luôn cần cả hai vế, tình cảm và lý trí, thông thường người ta luôn hành động theo cảm tính, vì thế mà có những đáng tiếc không sửa chữa được. Trong trường hợp này lại càng phải cần lý trí hơn anh ạ. Thôi, bây giờ anh đợi em thay đồ một chút, rồi chúng ta ra ngoài cho thoáng, cứ ngồi đây nói mãi những chuyện này thì em đau đầu lắm.

Nói rồi, Nguyện đứng dậy đi vào phòng trong, Hùng ngồi im lặng, anh thừa nhận những gì Nguyện nói là đúng, vô cùng đúng nữa là khác. Có những lúc Hùng thầm cảm ơn vai trò độc tôn của mình trong gia đình, nhưng lúc này anh lại rất hối tiếc, rất oán trách nó, vì nó mà anh phải mất đi người con gái anh rất yêu thương. Trong cuộc đời bao la này, tìm được một người tri âm tri kỷ đến tuyệt cùng, lại với cả một tấm chân tình tha thiết đến tuyệt cùng đâu phải là chuyện dễ có. Vậy mà anh phải đành lòng nhìn người ấy xa vuột tầm tay, mà anh hiểu rõ Nguyện cũng vô cùng yêu anh, vì yêu anh hết lòng, Nguyện phải hy sinh tình cảm của mình để anh không trở thành người con bất hiếu. Một người con gái như thế mà phải chịu mất đi thì còn đau đớn gì bằng. Hùng không thể chịu nổi áp lực của tình cảm đang dâng trào đến chất ngất trong lòng, anh vụt đứng bật dậy, lao theo hướng Nguyện vừa đi vào.

Nguyện vừa cởi chiếc áo ra thì giật nảy mình vì tiếng cánh cửa va mạnh vào tường nhà, cô chưa kịp định thần thì đã chìm ngập trong vòng tay của Hùng. Không một lời nói nào có thể thay đổi được tình huống, và cũng không cần phải một lời nào để bày giãi cho hành động, chỉ biết Nguyện không đủ sức kháng cự lại chính mình. Cô mềm người trong cơn sóng dồi của tình cảm. Đã từng mong ước được một lần thuộc về người mình yêu. Đã từng đau đớn khi cắn răng mà rời xa người thương người nhớ của lòng. Đã từng quay quắt, ngậm ngùi trong tiếng réo gọi của con tim, thì giờ đây không còn một lý do gì khả dĩ để vùng thoát khỏi cái mãnh lực của tình cảm Nguyện buông chìm mình trong cảm giác vừa hạnh phúc vừa đau khổ, bởi cô chỉ thương cho mình, lẽ ra đây phải là giây phút đẹp đẽ nhất trong ngày tân hôn của cuộc đời một người con gái, thì cô lại phải mang mặc cảm của một sự đánh cắp. Nhưng dẫu sao thì cũng phải được một lần trong vòng tay yêu dấu, dẫu mai này có mãi mãi vắng xa nhau.

Nguyện loay hoay chạy đi chạy lại giữa những dãy bàn ăn, trên tay cô từng chồng bát đĩa sau khi thực khách đã đứng lên, chợt Nguyện cảm giác bị choáng, cô vội níu cái mép bàn gượng lại, cố giữ vững tay bên kia để không bị rơi vỡ bát đĩa. Chừng mấy giây, Nguyện thấy đỡ, cô đi nhanh xuống nhà bếp, thả được đám bát đĩa trên tay xuống sàn rửa, Nguyện thở hắt ra rồi ngồi sụp xuống.

- Nguyện em làm sao vậy?

- Em không sao đâu chị, chỉ chóng mặt một chút thôi.

- Em mệt thì xin phép nghỉ sớm đi, cũng sắp vãn khách rồi.

- Thôi, để em cố một lúc nữa cho xong rồi về luôn chị ạ. Chứ mới vào làm chưa được bao lâu mà xin về sớm kỳ lắm.

- Có được không đó, đừng có ráng quá mà đổ bệnh lại khổ.

Cảm ơn sự quan tâm của chị bếp trưởng rồi Nguyện cố gắng hoàn thành nốt phần việc của mình. Xong, cô trở về nơi ở trọ với sự mệt mỏi vô cùng của cơ thể. Nằm dài ra giường, nghĩ đến sự cô quạnh của mình giữa nơi xa lạ, Nguyện không cầm được những giọt nước mắt tủi thân. Cô lại nghĩ đến Hùng, từ sau hôm đó, với tất cả sự cương quyết, cô đẩy được anh trở về nơi có một người con gái khác đang đợi, thì Nguyện đã chuyển ngay chỗ ở. Một địa danh xa tít không ai ngờ tới, cô hy vọng với bao bận rộn lo toan cho cuộc sống mới sẽ làm cô nguôi quên được phần nào. Và hơn một tháng qua, quả là cô không có nhiều thời gian cho những buồn nhớ, bởi chỉ mỗi chuyện đi tìm việc làm để ổn định đời sống hàng ngày đã ngốn gần hết những thời gian của cô rồi. May mắn cô được nhận làm chân phụ cho một nhà hàng, công việc khá vất vả, từ sáng sớm đến tối mịt, nhưng đồng lương thì tạm cho cô giải quyết những nhu cầu sinh hoạt trước mắt. Và cũng nhờ sự bận rộn của công việc, Nguyện cũng đỡ phải rơi nước mắt cho mình hơn. Nhưng hôm nay, dấu hiệu không tốt của sức khỏe đã ảnh hưởng đến tâm trạng của cô. Không ảnh hưởng sao được, khi đau ốm, lại đơn độc, người ta luôn có cảm giác yếu đuối, lo sợ và buồi tủi. Huống nữa là chuyện tình cảm không vui càng làm cho nỗi xúc cảm tăng thêm.

Khóc một lúc, Nguyện tự vỗ về mình, thôi đừng buồn nữa, anh mà biết sẽ không yên tâm đâu, mình mong muốn những điều tốt đẹp cho anh mà, rồi thời gian sẽ giúp mình vượt qua được cả thôi. Có điều, ngày mai phải đi bác sĩ xem sao, chắc là do mình làm việc quá sức thôi đấy mà. Dù trước kia ở nhà mình cũng không phải là ít việc, tốt hơn là đừng để tình trạng sức khỏe xấu thêm, càng khó khăn lắm. Nghĩ vậy, Nguyện ngồi dậy di mua một gói cháo nóng, ăn xong cô trùm mền cho ra mồ hôi, cảm thấy dễ chịu phần nào, Nguyện yên tâm ngủ thiếp đi.

Nguyện trố mắt:

- Bác sĩ… ông nói…

- Tôi nói là chúc mừng cô, cô đã có thai.

- Tôi có thai? Bác sĩ có nhầm không ạ?

Vị bác sĩ tỏ vẻ tự ái:

- Bao nhiêu năm trong nghề, làm sao mà tôi nhầm được chứ. Vậy chu kỳ phụ nữ của cô thế nào?

Nguyện thần người, đầu óc cô lùng bùng, câu hỏi của người thầy thuốc như không lọt vào tai cô, cô nói như mộng du:

- Có thai. Làm sao tôi có thai được, tôi bị u nang buồng trứng mà.

- Cô nói cô bị u nang buồng trứng à?

Nguyện trở về thực tại:

- Vâng, bác sĩ xem lại giúp tôi, mới cách đây mấy tháng, tôi đi khám thì được biết kết quả ấy, chẳng lẽ lần khám đó sai.

- Cô có mang giấy chứng nhận kết quả đó theo không?

- Dạ có đây.

Nguyện mở túi xách lục tìm tờ giấy, khi sáng cô cầm theo vì e có vấn đề gì từ căn bệnh đó. Vị bác sĩ cầm tờ giấy xem kỹ rồi nhíu mày:

- Đúng đây là kết luận của chẩn đoán, nhưng với triệu chứng hiện tại trong cơ thể cô báo chắc chắn là cô đang có thai, thai nhi đã được hơn một tháng tuổi. Tôi sẽ khám lại cẩn thận cho cô để có câu trả lời chính xác, mời cô theo tôi.

Sau khi đã kiểm tra lại tất cả những chi tiết liên quan, vị bác sĩ thốt lên kinh ngạc:

- Quả là cuộc sống luôn có những điều kỳ diệu đến khó tin. Chỉ một khe hở nhỏ nhoi mà đã thay đổi cả một vấn đề. Nhưng cô chỉ có thể có một đứa con duy nhất này thôi.

Một đứa. Dù chỉ một đứa thôi cũng đủ rồi. Nguyện vội vã chào bác sĩ trở về chỗ ở, cô mau chóng thu xếp hành lý. Trong tâm trí cô chỉ có một ý nghĩ, cô không thể mất Hùng, lý do mà cô buộc phải xa Hùng nay không còn nữa, và giọt máu đang dần tượng hình trong cô đây phải chào đời trong vòng tay bố nó. Sẽ không còn điều gì ngăn trở được hạnh phúc của cả ba người nữa cả.

Ngồi trên chuyến xe trở lại nơi chất đầy dấu ái, Nguyện như nhìn thấy trước mắt gương mặt bừng sáng của Hùng. Còn cái đám cưới, cô tin sẽ dàn xếp được thôi, dù có tổn thương cho người con gái kia thì rồi cô ấy cũng phải hiểu, không thể có được một hạnh phúc thực sự khi điều đó không thuộc về mình. Xe đến bến, Nguyện vời ngay một chiếc xe thồ, nói địa chỉ và kèm theo một lời thúc giục, Nguyện thầm mong sẽ còn kịp để thay đổi cuộc diện. Nhưng khi chiếc xe đưa cô đến nơi, còn cách một đoạn khá xa, Nguyện đã nhìn thấy một đoàn xe với chiếc xe hoa đi đầu đang từ từ dừng lại trước cổng nhà Hùng. Anh xe thồ phải đạp thắng gấp vì cái đập vào lưng của cô. Nguyện sững người nhìn về phía chiếc xe hoa, bao dũng khí của cô suốt chặng đường về giờ tiêu tan hết, cô không đủ can đảm xông vào cái đám cưới kia mà giành lại người của mình. Anh xe thồ chừng như đoán hiểu được chuyện gì, nên ý tứ im lặng chờ. Nguyện cắn chặt môi, ước mắt ứa ra, cô nói như thiếu hơi:

- Anh quay lại bến xe giùm.

Một lần nữa, Nguyện phải rời mảnh đất của mình với cõi lòng tê tái. Ông Trời ơi! Sao ông cay nghiệt với con thế? Sự thể diễn ra cứ như một trò chơi đuổi bắt mà cô luôn là người chạy trốn. Nguyện nhìn thấy những gì sẽ đến với cô sắp tới không phải dễ dàng gì. Bất giác cô đặt nhẹ tay lên bụng mình “Con ơi ! Bây giờ mẹ chỉ còn mỗi con thôi. Suốt cuộc đời này mẹ chỉ sống vì con, mẹ sẽ cố gắng để bù đắp những thiệt thòi mà lẽ ra con đã không phải gánh chịu. Có lẽ đây là số phận của mẹ con mình rồi con ạ”

- Mẹ ơi, mẹ ơi… con được học sinh xuất sắc này, mẹ phải thưởng cho con đấy nhé.

- Đâu, đưa mẹ xem nào, ôi con mẹ giỏi quá, tất nhiên là mẹ phải thưởng cho con rồi. Bây giờ con muốn gì nào?

- Con muốn… con muốn một cái xe đạp được không mẹ?

- Xe đạp á? Con mới chừng này làm sao đạp được xe?

Thằng bé dẩu môi phụng phịu:

- Chỉ có mẹ là chê con còn bé thôi, ở lớp con mấy đứa có xe đi học rồi, con cứ phải đi nhờ mãi.

- Ừ thôi, để mẹ mua cho con chiếc xe mi ni nhé. Nhưng mà mẹ lo con ngã lắm cơ.

- Mẹ yên tâm đi, con đi được xe của bạn con rồi, không ngã đâu mà mẹ lo. Mẹ hứa mua cho con rồi đấy nhá, con sắp có xe rồi, thích quá.

Vừa nói thằng bé vừa chạy vào nhà bỏ cái cặp lên bàn. Nguyện nhìn theo con, hơi ngạc nhiên là bỗng hôm nay cô nhận thấy con mình đã lớn thêm chút nữa. Mỉm cười vì niềm vui với con trẻ, Nguyện đứng dậy định đi vào bếp thì có tiếng gọi ngoài cổng:

- Chủ nhà ra lấy thư này.

Nguyện vội vã chạy ra, thầm đoán chắc thư của Uyên Uyên, em gái cô. Quả đúng vậy. Từ sau chuyến chạm phải đám cưới Hùng, Nguyện không còn ý nghĩ trở lại nơi quê nhà nữa. Cám cảnh chữ tơ duyên lắm nỗi, cô gửi gắm hết niềm vui, hy vọng vào đứa con bé bỏng, và thầm cảm ơn định mệnh vẫn còn ban cho cô chút vận may. Cu Phận nay đã tám tuổi, học lớp ba và rất thông minh, cô an lòng với cuộc sống của mình, đôi khi nghĩ về quá khứ, Nguyện lại thở ra một hơi dài và thầm mong cho Hùng có được hạnh phúc. Để biết những thông tin về gia đình, Nguyện chỉ liên lạc với Uyên Uyên, và căn đi dặn lại là không được tiết lộ cho ai biết địa chỉ của cô, chỉ vì cô sợ sẽ đến tai Hùng, và nếu Hùng biết anh đã có một đứa con trai thì chắc chắn sẽ không có gì ngăn cản được bước chân anh nữa. Như vậy sẽ rất khó khăn cho tất cả, gạo đã thành cơm rồi còn xào đi nấu lại làm chi.

Nguyện sững sờ trước dòng chữ “Chị Dung, vợ anh Hùng đã mất vì tai nạn xe, em không biết chị có để mất cơ hội cho mình lần nữa không? Cả nhà ai cũng mong chị về. Còn tương lai của cháu Phận nữa, chị nghĩ sao?”. Cái tin đột ngột đã xáo trộn tâm trí của người thiếu phụ vốn đã cam lòng với những nhỏ nhoi. Xúc cảm tưởng đã chôn vùi theo năm tháng vụt trỗi dậy, Nguyện hít một hơi dài cố trấn áp nhịp tim đang dồn dập trong mình, dù không muốn làm người bất nghĩa, nhưng cô buộc phải thừa nhận, sự bất hạnh của người phụ nữ kia đang là cơ may cho hai mẹ con cô. Trong suốt thời gian qua, Nguyện đã từng phải trốn chạy chính mình mỗi khi nhìn con. Người ta bảo đứa con không chính thức thường lại giống cha nó như tạc. Quá đúng. Phận giống cha từng ly từng nét trên gương mặt, dáng người. Một phiên bản thực thể không thể nhầm vào đâu được. Đã có lúc Nguyện nghĩ, biết đâu sẽ có một lúc nào đó Hùng ngẫu nhiên nhận ra con mình qua cái sự rất giống nhau ấy. Nguyện giật mình khi nghe con gọi:

- Me ơi, con đói quá rồi, mẹ không lấy cơm cho con ăn?

- Ừ ừ, mẹ đi lấy ngay đây.

Nguyện đứng bật dậy cùng ý nghĩ “Uyên Uyên nói đúng, ta còn đợi gì nữa”.

Hôm sau cu Phận ngạc nhiên khi thấy mẹ đến trường xin cho nghỉ mấy hôm. Những câu hỏi cứ vướng vất mãi trên môi thằng bé:

- Sao con lại được nghỉ học? Sao mẹ sắp đồ vào túi thế? Mình đi đâu hả mẹ?

- Từ từ rồi con sẽ biết. Con có muốn gặp ba không?

- Gặp ba? Con có ba hả mẹ? Sao hồi trước mẹ bảo không có? Ba con ở đâu hả mẹ?

Nguyện không thể giải thích những thắc mắc của con, cô trả lời vòng quanh cho đến khi…

Bước chân Nguyện như muốn ríu lại khi nhìn thấy khung cảnh quen thuộc ngày nào. Vẫn mảnh sân với những chậu cảnh mà cha của Hùng rất thường xuyên chăm sóc, với mùi hoa Ngọc Lan dìu dịu phả lênh loang trên quãng đường, cho người người lâng lâng cảm giác thanh thỏa nồng nàn. Cảm xúc của cuộc hội ngộ sắp tới làm Nguyện ngộp thở. Cô phải tự lắng mình ít giây trước khi gọi cổng.

- Cháu chào bác. Cháu là Nguyện đây ạ.

Cặp kính lão trễ xuống cho cái nhìn nhận diện gần hơn, nhưng cái nhìn vẫn ngơ ngác trước gương mặt người mẹ, lại ánh lên một tia ngỡ ngàng sửng sốt khi chuyển qua gương mặt đứa con. Người đàn ông đã lớn tuổi bỗng lắp bắp:

- Thằng Hùng… nó giống thằng Hùng quá… cô là…

Nguyện tủi thân, nghẹn giọng không nói được gì nữa. Nước mắt cô trào ra thay cho tất cả những gì cần phải nói. Cha của Hùng vụt hiểu ra, ông ngồi thụp xuống nắm lấy tay thằng bé, miệng gọi vóng vào nhà:

- Bà ơi…

Lẹp kẹp tiếng dép cùng câu hỏi:

- Ai hỏi gì mà ông kêu tôi đấy?

Câu trả lời đập ngay vào mắt bà khi nhìn thấy hai ông cháu. Bà há mồm kinh ngạc một lúc rồi vội vã kêu to:

- Hùng ơi…Hùng ơi…

Nguyện bỗng rủn chân, phải ngồi xụp xuống khi một bóng dáng hiện ra nơi khung cửa. Với linh cảm, với trực giác, với những gì tâm linh mách bảo, cả với những suy nghĩ trong những ngày sau cái chết của vợ, đã khiến Hùng chỉ ba bước nhảy là ôm chặt Nguyện trong tay. Những giọt nước mắt không gì cầm giữ được, hai người già và một đứa trẻ ngây người trước cảnh ngộ. Giây lâu, Nguyện chợt gỡ tay Hùng, bây giờ Hùng mới nhìn thấy hai con mắt long lanh thơ ngây đang dõi vào mình, Nguyện nghẹn ngào nói:

- Con gọi ba đi.

Không đợi đứa trẻ lên tiếng, Hùng kêu lên:

- Ôi con tôi…

Vòng tay rắn chắc khép kín cả hai mảnh đời lưu lạc bấy lâu. Không biết những giây phút thiêng liêng đến kỳ cùng ấy sẽ kéo dài bao lâu nếu không có câu nói của cha Hùng:

- Vợ chồng con cái bây định ngồi ngoài nắng đến tối à?

Nguyện ngượng ngùng cúi đầu:

- Con đội ơn ba má.

Gương mặt Hùng bừng ánh rạng rỡ, anh bế con lên tay, hết nhìn con rồi nhìn vợ, nắm chặt tay Nguyện vào nhà mà Hùng vẫn ngỡ như trong mơ.

ĐÀM LAN

CHIẾC NÔI

T ôi là một người đàn ông dị dạng. Toàn bộ cơ thể tôi là một sự kết hợp thiếu cân đối, xấu xí lạ lùng. Nó gây ấn tượng mạnh mẽ khi thoạt nhìn. Ngạc nhiên và sợ hãi. Đó cũng là nguồn gốc khổ đau và hạnh phúc của tôi.

Đã hơn ba mươi tuổi mà dáng người tôi bé loắt choắt như một đứa trẻ lên mười. Nếu chẳng có bộ đồ kiểu người lớn tôi đang mặc thì không ai nghĩ đây là một gã đàn ông sắp đi qua nửa đời người. Trông tôi già chẳng ra già, non chẳng ra non, ham háp, lưa lứa thế nào ấy!

Từ sau lưng nhìn tới, đầu tôi như một quả dừa khô đã được bóc lớp vỏ ngoài, đặt chơ vơ trên bệ thấp. Chỏm tóc xoăn tít ở đỉnh đầu nhưng đến ngang mang tai lại ngay đơ như sợi chỉ bị nhúng nước. Ngày còn bé, tôi cắt tóc ngắn cũn cỡn. Bây giờ, do yêu cầu nghề nghiệp, tôi để chúng dài ngang lưng. Thỉnh thoảng vấn lại thành một bím tóc be bé sau ót. Đôi khi còn buộc chúng bằng một cái nơ màu sặc sỡ.

Cứ nhìn khuôn mặt tôi cũng biết thượng đế có tính khôi hài và tàn nhẫn. Ông tạo cho tôi những hình thể ngộ nghĩnh. Vầng trán phẳng lì như một bãi trượt ba-te. Sóng mũi gãy, khiến hai cánh mũi vểnh lên tựa hai cái ống nhỏ chờ hứng nước mưa. Chúng đứng chễm chệ giữa đôi mắt bên to bên nhỏ. Nó khiến người đối diện bứt rứt, bực bội trước vẻ quạu quọ, xấc xược. Hàm răng chuột trắng đều, ung dung đứng ểnh tới, đẩy cặp môi vêu ra, dày cộm. Màu da tai tái góp phần u ám, bệnh hoạn cho dung nhan của tôi.

Nối liền đầu và mình là cái cổ hơi to. Phải chi nó thon nhỏ hơn một ít thì trông tôi dễ nhìn đôi chút. Đàng nầy, nó dường như muốn nổi bật nên to phình như một cái lít.

Tôi có bờ vai của một người khỏe mạnh. Săn chắc, thịt cuộn vòng. Chỉ tiếc những cơ bắp ấy mang dáng vẻ một lực sĩ tí hon. Hai cánh tay dài như tay vượn. Còn hai chân lại ngắn như chân khỉ. Đã vậy, chúng không đều nhau. Tay chân phải chiếm ưu thế hơn bề dài. Khi bước, người tôi lắc lư, khập khiễng khập khà ngã chui chúi sang bên trái. Dù vậy, chẳng những tôi không bị té mà đi lại khá nhanh.

Bù cho thiếu sót của vóc dáng. Thượng đế phú cho tôi một cái lưỡi đa năng và bộ óc nhạy bén. Tôi có thể bắt chước tiếng của bất cứ con vật nào, từ chim đến thú. Tôi huýt sáo giống hệt tiếng hót của chim. Tôi gầm gừ y chang cọp dữ. Cả tiếng động của đồ vật va chạm, tiếng nổ, tôi cũng bắt chước được. Ngoài ra, giọng hát của tôi đặc biệt truyền cảm. Chả lẽ là may! Tôi hiểu nhanh, nhớ lâu, lãnh hội kiến thức dễ dàng, mau chóng hòa nhập môi trường nghề nghiệp. Nhưng bộ óc của tôi cũng đem đến bao nhiêu là đau buồn. Nó bắt tôi nhớ thời thơ ấu tủi cực mà thâm tâm tôi lúc nào cũng muốn lãng quên. Nó khắc sâu vào ký ức tôi bóng dáng mẹ với những ngọn roi tàn nhẫn. Tôi nhớ như in khuôn mặt xinh tươi của mẹ. Mỗi lần giận dữ, đôi chân mày lá liễu nhướng lên, cong lại. Ánh mắt sắc lẻm, quét ngang người tôi. Hàm răng cắn chặt môi dưới và bàn tay cầm roi quật liên hồi lên tấm thân gần như tật nguyền của tôi. Những tiếng vút vút... vang mãi trong trí nhớ. Nó dữ dội, âm vang còn hơn tiếng khóc của tôi lúc ấy. Tôi ngất đi và tỉnh lại bao giờ cũng nhìn thấy mình nằm trên giường, mẹ ngồi bên ôm mặt khóc. Lúc nầy, mẹ đẹp và hiền như một bà tiên. Nước mắt mẹ xoa dịu cơn đau của tôi và khiến tôi yêu mẹ vô cùng. Thuở đó, tôi chẳng hiểu vì sao mẹ lại có những hành động kỳ quặc như thế. Bà vừa yêu vừa ghét tôi. Vừa chở che vừa ruồng rẫy, hắt hủi. Bà nhào nặn đầu óc trẻ thơ của tôi thành một cái kho chứa nỗi đau ngọt ngào hiếm có. Sau này, tôi mới hiểu. Lẽ ra, tôi đừng có mặt trên đời nầy thì tốt biết mấy. Mẹ đâu phải xấu hổ, bị chồng bỏ bê vì đẻ ra một quái thai. Tôi là hiện thân của “ác đức” mà người ta gán cho mẹ, là một loại giống chỉ có thể được nảy mầm từ gốc thú cầm mà thôi. Người ta vẽ vời đủ chuyện về cái nguyên do mà mẹ sinh ra một đứa con xấu xí, tật nguyền. Tôi là bất hạnh của đời mẹ. Mẹ khổ và bà căm ghét tôi. Đơn giản thế. Có đến hàng trăm lần bà vừa đánh vừa gào lên: “Sao mày không chết đi, đồ yêu tinh”.

Những lúc như vậy, tôi muốn chết nhưng trời cũng trớ trêu, tôi chẳng hề hấn gì. Mẹ đánh chỉ ê ẩm mình mẩy, nóng sốt qua loa rồi lại ăn ngủ khỏe. Những trận đòn quen thuộc cứ diễn đi diễn lại cho đến khi tôi gặp lão mù hát rong.

Đó là một buổi chiều thu. Nắng nhạt, gió êm, lá vàng rơi ngập lối. Lão hát rong ngồi tựa gốc đa, nắn phím. Cây đàn thùng tròn như vầng trăng. Năm dây đàn run rẩy theo bàn tay nhăn nheo của lão. Âm thanh réo rắt, dịu vợi buồn, bàng bạc lan xa. Nhiều người đi làm đồng về, ghé lại, ngồi bệt xuống, lắng nghe. Tôi cũng chiếm một chỗ, say mê uống từng giọt đàn thánh thót rơi xuống. Ông lão mù đàn hết bản này đến bản khác. Ai cũng tấm tắc khen. Trước khi đi, người nào cũng bỏ vào cái lon nhỏ đặt trước mặt ông một ít tiền lẻ.

Lúc không còn nghe tiếng chân người, ông lão quờ quạng tìm cái lon tiền, lôi từ trong đó ra những tờ giấy bạc nhầu nát, vuốt phẳng phiu rồi gấp đôi, cất vào túi. Ông ngã lưng trên tấm nylon cũ, gối đầu lên bị quần áo. Thoáng chốc, đã nghe tiếng ngáy đều đều. Trông ông lão hát rong thảnh thơi, sung sướng làm sao! Cây đàn nằm cạnh bên ông. Tôi len lén bước tới, ngồi xuống, lấy tay khều nhẹ vào dây đàn: “Từng, từng, tưng...” Âm thanh rời rạc vang lên. Ông lão bỗng choàng dậy, hớt hãi hỏi:

- Ai đó?

Tôi giật nẩy mình, bò vội ra xa và đáp:

- Dạ... con...!

- Hừ, con... nào? Muốn ăn cắp đàn phải không?

Hoảng hốt, tôi kêu lên:

- Không phải vậy đâu, con muốn đàn thử.

Ông lão có vẻ yên tâm khi đã ôm gọn cây đàn vào lòng. Ông bảo:

- Lại đây ông bảo.

Tôi mon men đến gần, ngồi xuống: Ông sờ vào tóc tôi, bàn tay lướt xuống vai như muốn tìm hiểu điều gì. Ông chợt hỏi:

- Con bao nhiêu tuổi?

- Dạ, mười hai tuổi.

- Sao bé thế?

- Dạ... con không biết nữa.

Ông cười hiền hậu:

- Cháu thích nghe đàn hát lắm sao?

- Dạ, ông hát cho cháu nghe đi!

Ông gật đầu, tay nắn phím. Tiếng đàn lại vang lên. Ông lão cất giọng hát, điệu buồn áo não. Bài ca nói về đời người hát rong xa xứ, cô đơn, buồn tủi. Tôi khóc mùi mẫn như những lần bị mẹ đánh. Ông lão chợt nín lặng, lẩm bẩm:

- Thằng bé lạ thật. Mới tí tuổi đầu đã biết thưởng thức, cảm xúc đến vậy!

Ông quay lại, hỏi tôi:

- Con có muốn học hát không?

Tôi mừng rỡ đáp:

- Dạ, muốn!

Ông đã dạy tôi bài hát đầu tiên. Ngắn, buồn, nhưng tôi rất thích. Ông khen tôi có chất giọng ngọt ngào. Nếu muốn trở thành nghệ sĩ, chỉ cần kiên nhẫn luyện tập thì sẽ được như ý. Tôi không tin như thế nhưng chẳng dám nói gì. Ông lão lấy từ trong bị ra một đòn bánh tét. Ông tháo dây dễ dàng như nhìn thấy rõ. Dường như công việc này đã thành thói quen nên ông chẳng cần ai giúp. Ông chia cho tôi phân nửa. Chợt nhớ tới bữa cơm chiều và trời đã nhá nhem tối. Tôi chào ông rồi chạy về.

Mẹ tôi chờ sẵn trước cửa. Tay cầm roi. Bà lại vẽ lên người tôi những đường ngang, lằn dọc thâm tím. Mẹ còn tuôn ra một loạt những câu quen thuộc: “Sao mầy không chết đi, mất tích đi, hả thằng quỉ?”. Tôi chạy trở ra chỗ ông lão đánh đàn. Ông đã đi rồi. Tôi không còn muốn quay về nữa. Tôi sợ mẹ. Ôi một người mẹ quá nhẫn tâm! Tôi lùng kiếm lão mù hát rong. Ông ấy không có ánh sáng trên đôi mắt nhưng trái tim ông chói lọi ánh hào quang. Và tôi đã tìm thấy ông. Chạy đến, ôm ghì đôi chân ông, tôi khóc nức nở: Ông ngạc nhiên hỏi:

- Ai đó?

Tay sờ soạn trên mái tóc của tôi và ông nhận ra ngay:

- Sao con lại khóc?

Tôi van xin ông cho tôi theo. Không nói gì, ông ngồi xuống, ôm tôi vào lòng. Hai hố mắt sâu hoắm có những giọt nước đục ngầu rơi xuống. Từ đó, tôi bắt đầu một cuộc đời mới. Đời người hát rong.

Tôi đi trước, tay cầm cái lon nhỏ, vai mang bị quần áo. Lão mù, thầy tôi đi sau, tay phải vịn vào vai tôi, tay trái ghì chặt cây đàn đeo bên hông. Nơi biểu diễn của chúng tôi là nhà “lồng chợ” hoặc bất kỳ chỗ nào đông người. Chọn một góc sạch sẽ, thầy tôi ngồi xuống, ông gác một đùi lên bị quần áo, nhấc cây đàn lên, bắt đầu se dây, nắn phím. Như có sức hút, những người hiếu kỳ từ từ kéo tới. Họ vây quanh chúng tôi, lắng nghe. Sau khi vừa đàn, vừa hát vài bản, thầy bảo tôi phục vụ bà con ít bài. Tôi cũng được mọi người tán thưởng. Nhưng, bao giờ cũng kèm theo câu: “Xấu quá!”, “Giống khỉ quá!”, “Trông quái dị làm sao!”, “Thằng này gặp nó ban đêm chắc phải ngất vì tưởng thấy ma!”...

Tôi đau khổ, đêm về, khóc rấm rứt. Lâu dần, tôi quen đi. Thầy tôi thường an ủi tôi rằng:

- Xấu người mà đẹp nết. Con ráng học đàn học hát cho giỏi. Cái tài sẽ che khuất cái xấu của dung mạo. Ngày xưa, Trương Chi xấu xí mà vẫn được một tiểu thư khuê các mơ tưởng và đã để lại cho đời một thiên tình sử đầy nước mắt.

Lúc ấy, tôi đã lớn khôn, tôi thừa biết lời thầy chỉ là những câu an ủi đứa học trò yêu. Thực tế phũ phàng hơn nhiều. Rồi tôi cũng sẽ như Trương Chi mà thôi. Tiếng hát có thể đi vào lòng người, nhưng tôi thì chắc chắn chẳng một ai muốn gần gũi. Tôi là một gã hát rong lùn tịt, tật nguyền. Sau buổi diễn, tôi chỉ nhặt được dưới đất những đồng tiền lẻ, còn tình yêu, một khái niệm mơ hồ, dù có nằm mơ, chưa chắc tôi dám tưởng. Tôi cố gắng tập cho mình thói quen lạnh lùng với phụ nữ. Tôi tránh nhìn họ, không đến gần để khỏi phải xao động rồi khổ đau.

Tôi hát chợ, ngủ đình cùng với thầy. Đời sống vất vả nhưng chưa bao giờ ông đánh mắng tôi. Thầy chia cho tôi phần cơm, thầy nhường cho tôi chăn ấm và xoa dịu nỗi đau thân phận bằng âm nhạc. Khi hát, tôi quên đau, khi đàn, tôi chơi vơi trong ảo tưởng lãng mạn. Từ địa vị thấp hèn, tôi đã tìm ra niềm vui cuộc sống. Rồi do tình cờ, thầy khám phá ở tôi những năng khiếu khác.

Một đêm nọ, trời tối đen như mực. Tôi nằm sát bên thầy, ông choàng tay qua lưng tôi và ngáy đều đều. Tôi không sao ngủ được. Tôi nhớ mẹ. Giờ nầy, chẳng biết mẹ có nghĩ tới tôi không hay bà đã quên rồi một giọt máu rơi nhơ nhuốc? Chắc bà không ngờ tôi đang ngủ trong một miếu hoang và nghĩ về mẹ. Bỗng, từ trên mái nhà, một chú mèo nhảy xuống, cặp mắt tròn xoe, sáng rực trong bóng đêm, nhìn chăm chăm vào tôi. Nó kêu lên thảm thiết: “Méo, méo...” Những con mèo động tình thường gọi như thế. Nó cứ lởn vởn gào lên, khuấy động tĩnh mịch bằng âm thanh rờn rợn. Con vật đi rồi, tôi cứ nghĩ mãi về nó. Con vật cũng biết rung động, yêu thương đó chứ, bằng cách của nó. Còn tôi, một con người mang dáng dấp như vật, tôi lại phải đè nén lòng mình. Bất giác, tôi gào lên: “meo... meo... meo...”. Tiếng kêu thảm thiết ấy đã đánh thức người thầy mù lòa. Ông ngồi bật dậy, gọi: “Thao... Thao... con đâu?”.

Tôi vội lên tiếng:

- Dạ, con đây thầy.

Ông quờ quạng và chụp lấy vai tôi:

- Hình như có một con mèo ở gần đây, phải không?

- Dạ, đâu có!

- Sao thầy mới nghe nó gào mà lại nghe sát một bên.

Tôi chợt hiểu, tươi cười giải thích:

- Dạ, con mèo thật đi rồi, còn tiếng gào ban nãy là của... con đó. Con bắt chước nó.

Ông gật gù bảo:

- Vậy mà thầy tưởng có con mèo nào gào, nhưng lớn và rõ đến thế. Con bắt chước giống quá.

Thầy nằm xuống nhưng chợt bật dậy bảo:

- Đâu, con thử làm lại thầy xem!

Vâng lời thầy, tôi gào lên lần nữa, giọng nhỏ hơn vì mắc cỡ nhưng thầy lại xuýt xoa: “Trời ơi, giống quá!” Thầy chợt nghĩ ra một sáng kiến, bảo tôi: “Con cũng có thể biểu diễn bằng cách mô phỏng tiếng kêu của con vật hoặc là âm thanh của bất kỳ thứ gì”. Thầy trò tôi quên ngủ, cả hai bắt đầu cuộc thử thách mới, trong bóng đêm dày đặc. Thầy nắn phím, một tràng âm thanh tuôn ra, tôi cũng đàn nhưng bằng lưỡi, lập lại y hệt âm thanh những sợi dây đồng. Thầy cười ha hả. Thầy gõ nhịp lên thùng đàn, tôi gõ lưỡi. Tiếng chó sủa khuya vẳng lại, thầy bảo tôi sủa theo. Cứ thế đến khi gà gáy sáng. Thầy tôi mỏi mệt nằm xuống, chìm ngay vào giấc ngủ. Tôi cũng nằm bên thầy nhưng tỉnh táo khác thường. Nước mắt tuôn ràn rụa. Tôi lắng nghe cái đầu nhạy bén của mình truyền mệnh lệnh xuống trái tim: “Kể từ nay, Thao, mầy không chỉ có dáng vẻ của con vật mà còn biết nói tiếng của chúng. Nghĩa là một con vật biết ăn, ngủ và suy nghĩ như một con người”.

Đời hát rong của tôi kết thúc khi người thầy đáng kính lâm trọng bệnh. Ông ho. Thỉnh thoảng thầy tôi khạc ra những nhúm máu tươi. Biết mình không còn sống được bao lâu nữa, thầy đưa tôi về thành phố. Ông tìm gặp người bạn cũ hiện là bầu gánh hát cải lương. Gánh hát không lớn lắm nhưng chính nơi đó đã thay đổi cuộc đời tôi.

Người thầy cũ khuất rồi, người thầy mới, cũng là ông bầu đã cưu mang, giúp đỡ tôi. Thoạt đầu, tôi gặp nhiều khó khăn cũng tại dáng dấp bên ngoài xấu xí. Nhưng, thầy mới của tôi đã tìm ra một giải pháp hợp với tôi là cho tôi diễn ẩn mặt. Tôi đứng sau cánh gà ngâm thơ, hát bè... hoặc là mang lớp Hổ trong tuồng “Võ Tòng sát tẩu”, mặc áo vượn diễn đoạn “Bạch Viên mang lớp vượn”. Tôi đã chinh phục được khán giả qua tài bắt chước của mình. Tôi còn làm cho sân khấu trở nên phong phú hơn với những âm thanh mô phỏng tiếng vang giống hệt. Anh em trong đoàn quý mến, thương yêu tôi hơn trước. Họ đã xem tôi như một người thân. Vui cái vui của tôi, buồn nỗi buồn tôi đang ấp ủ. Điều mà trước đây, dẫu nằm mơ, tôi cũng chẳng dám đòi hỏi.

Ngoài ra, một vinh dự lớn lao cho tôi là sự ái mộ của khán giả rất nồng hậu khi tôi chuyển thêm một bước ngoặc nữa, đóng vai hài. Người thầy mới hiểu rõ lòng tôi. Ông thấu được nỗi đau của một người thiếu cái bề ngoài xinh đẹp. Mỗi lần đội lớp thú hay mang mặt nạ để ra sàn diễn thì cũng chính là tủi hờn được dịp khơi dậy, dày xéo lòng tôi. Tôi đau khổ vì những câu khen như: “Đóng hay quá, y như cọp thật”, “chẳng khác vượn tí nào”. May sao, người thầy đáng kính đã lột bỏ mặc cảm của tôi bằng cách đưa tôi ra ngoài ánh sáng, bằng vai hài. Ông dùng chính cái xấu của tôi, sự mất cân đối trên thân thể, kết hợp với nghệ thuật hóa trang, tôi trở thành một “Charlô Việt Nam tí hon” mà duyên dáng. Tôi đội cái mũ nồi, mặc áo vét, cầm can, điệu bộ y hệt Char-lo của Pháp. Tôi làm cho khán giả suýt nữa đứt hơi vì cười. Màn phụ diễn hài thử nghiệm đã thành công mỹ mãn. Tôi được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh.

Từ đó, khi viết vở tuồng nào soạn giả của đoàn hát cũng cố tình lồng thêm vai hài vào kịch bản. Và tôi đã chinh phục được khán giả bằng cách diễn xuất của mình. Tôi đem đến cho họ những tràng cười sảng khoái, cảm giác vui nhộn. Ngược lại, khán giả cũng giúp tôi xua tan bóng đêm của cuộc đời mình. Tôi yêu cuộc sống và mọi mặc cảm dường như đã ngủ yên, không đày đọa tôi nữa.

Hạnh phúc lớn lao mà sân khấu đã mang lại cho tôi là tình mẹ. Mẹ tôi, người đuổi xô tôi ngày xưa, bây giờ, lặn lội tìm tôi. Mẹ đã già, không còn xinh đẹp. Trong buổi xế chiều của cuộc đời, mẹ mới nhận ra sai lầm. Bà không giữ được chồng lại hắt hủi đứa con. Cái hình vóc mẹ đã sanh thành, dung mạo xấu xí của tôi mà mẹ có phần trách nhiệm. Tôi không có lỗi. Tự tôi, tôi không làm nên con người mình. Tôi chỉ có thể biến đổi tâm hồn, khả năng và hoàn cảnh sống. Tôi chỉ có thể tạo nên giá trị cho cái thân xác xấu xí của mình. Từ đó, tôi đã dành được tình yêu của mẹ.

Một số bạn bè của tôi không đồng ý như thế. Người ta nghi ngờ mẹ. Họ cho rằng tiền và tiếng tăm của tôi đã làm cho trái tim sắt đá của mẹ rung động. Mẹ cần một thứ khác kia. Sự an vui trong tuổi già mà tôi có điều kiện giúp mẹ toại nguyện. Tình thương của mẹ bấy giờ chỉ là tấm màn nhung che đậy một hậu trường bề bộn, phức tạp. Tôi đã bị lợi dụng.

Cũng có thể như thế lắm! Nhưng tôi còn mong ước gì hơn thế nữa? Được mẹ lợi dụng, chọn làm chỗ nương dựa cuối cùng! Đôi khi sự giả dối đúng lúc, đúng chỗ cũng trở nên cần thiết. Ít nhất là đối với tôi. Nếu tìm mua được hạnh phúc thì tôi cũng không ngại gì mất trắng những tờ giấy bạc vô tri ấy. Tôi cần một mái ấm gia đình, một chiếc nôi êm, mà suốt thời thơ ấu tôi mơ tưởng.

Bây giờ, sân khấu đã đem đến cho tôi. Tôi sung sướng được đắm mình trong tiếng ru ngọt ngào của mẹ, dù phải trả giá.

NGUYỄN THỊ MÂY


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 10.10.2015… ..................................... Vũ Thư Hữu .... 01

Cuốn cổ thư “Thuyển trưởng Rivière & cuộc viễn chinh ở Bắc Kỳ”

(Le commandant Rivière et l’expédition du Tonkin)

của Charles Baude de Maurceley ..................................... Vũ Anh Tuấn .... 04

Lời xin lỗi về việc phá hủy ảnh tượng (tt) ........ Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 08

Việc truyền Y Bát

liên quan đến cách hiểu Đạo Phật như thế nào? (tt) ............. Tâm Nguyện .... 17

Hưởng muộn ....................................................................... Nguyễn Hoàng Minh .... 32

Thơ ca Nga Xô Viết

giai đoạn chiến tranh giữ nước vĩ đại ở Việt Nam ................. Thúy Toàn .... 34

Nhớ Hồ Gươm: Vua Lê & vua Arthur

cùng trả gươm cho thần linh ........................................ Phạm Vũ .... 38

Những kỷ niệm về nhà thờ Đức Bà ........................................... Hà Mạnh Đoàn .... 49

Nằm mơ trên ảo giác ............................................................................ Dương Lêh .... 58

Vua Thành Thái với bài thơ yêu nước ...................................................... BĐ. st .... 66

Điều bất ngờ ngày Nhà Giáo ................................................... Giáng Ngọc (G.Đ) .... 71

Chiếc lá Thu mơ (thơ) ...................................................... Phạm Thị Minh Hưng .... 76

Tình chớm Thu (thơ) ........................................................ Phạm Thị Minh Hưng .... 77

Lời của trái tim (thơ) ............................................................................... Đàm Lan .... 78

Ga cuối (thơ) ...................................................................................... Tâm Nguyện .... 79

Tròn trăng (thơ) ...................................................................................... Lam Trần .... 80

Ngẫm (thơ) ............................................................................................... Lam Trần .... 81

Đạo cả (thơ) ........................................................................................ Thanh Châu .... 82

Thế sự (thơ) ......................................................................................... Thanh Châu .... 82

Đá gọi tình (thơ) ................................................................ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 83

Lời ru (thơ) ........................................................................... Mai Thị Thủy Hoa st .... 84

Anh tôi (thơ) ................................................................................. Vũ Thùy Hương .... 85

Hoài niệm (thơ) ........................................................................... Vũ Thùy Hương .... 86

Phiên lễ khuya (thơ) ........................................................................... Bs.Doanlinh .... 87

Tâm sự con tàu (thơ) .......................................................................... Bs.Doanlinh .... 88

Ngoảnh lại (thơ) .............................................................................. Võ Kim Cương .... 89

Bức tranh (thơ) ............................................................................... Võ Kim Cương .. 90

Mưa đêm (thơ) .................................................................................... Quang Bỉnh .... 90

Xa nhà (thơ) ......................................................................................... Quang Bỉnh .... 91

4 không (nên dừng) (thơ) ................................................................... Quang Bỉnh .... 91

Tâm sự Nguyễn Du (thơ) ................................................................ Ngàn Phương .... 92

Ai tri âm đó (thơ) ............................................................................... Ngàn Phương .... 93

Bụi phấn thời gian (thơ) ................................................................... Ngàn Phương .... 94

Mưa (thơ) ............................................................................................ Lê Minh Chử .... 95

Bệnh xã hội (thơ) ............................................................................... Lê Minh Chử .... 96

Làng gốm Bát Tràng (thơ) ............................................................... Lang Nguyên .... 96

Làng nghề trồng bàng đan đệm (thơ) ............................................ Lang Nguyên .... 97

Bạn 1 bên và em 1 bên (thơ) ............................................................... Lê Nguyên .... 98

Lên thăm tượng Chúa (nhạc) .............................................................. Lê Nguyên .... 99

Bong bóng (thơ) .......................................................................................... Vũ Mão .. 100

Bubble (thơ) .............................................................................. Vũ Anh Tuấn dịch .. 101

Hoài niệm xưa .................................................................................. Lê Minh Chử .. 102

Những chuyện hoang đường nghe & thấy (tt) ..................... Phạm Hiếu Nghĩa .. 108

Phải ngủ mấy giờ ........................................................... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .. 112

Khoa học hiện đại trả lời ra sao về dĩa bay & người ngoài hành tinh … ............... Hoàng Kim Thư st .. 118

Xác tàu Titanic trở thành di sản Unesco ................................................... B.Đ.st .. 127

Những chiếc xe định mệnh ............................................ Đào Minh Diệu Xuân st .. 130

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ......... Thanh Châu dịch thuật .. 137

Cỏ dại có ích cho đời (kịch) ............................................ Huỳnh Thiên Kim Bội .. 141

Một số bài thuốc đã kinh nhgiệm .............................................. Đỗ Thiên Thư st .. 146

Muộn màng .............................................................................................. Đàm Lan .. 151

Chiếc nôi ...................................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 162



[1] Ánh sáng trong rừng sâu, R.Karmen, NXB Nhà văn Xô viết, M.1957 (bản tiếng Nga) tr.41-42

[2] Xem Bước đầu tìm hiểu thơ ca Nga ở Việt Nam Thúy Toàn, Văn học nước ngoài, số 1, 2005, tr.174-186

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế