Hiện có 24 người xem / 2338040 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/6/2016

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch g iả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư mà ông mới có.

Lần này cả hai đều là sách mới và là sách ông được đề tặng. Cuốn đầu là một cuốn truyện ngắn và tạp bút mang tựa đề là “Người đàn bà bơi trên sóng” của nhà văn Bích Ngân mới tặng ông. Đây là một tập truyện ngắn và tạp bút rất hấp dẫn của một tác giả đang lên và khá nổi tiếng, bà đã từng là Phó Giám Đốc hay Giám Đốc nhà xuất bản Văn Nghệ nay được đổi tên là nhà xuất bản Văn Hóa Văn Nghệ. Cuốn truyện ngắn và tạp bút này là một cuốn được Giải Thưởng của Hội Nhà Văn thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2006.

Cuốn thứ nhì là một tập thơ mang tựa đề là “Gởi người không quen” của nhà thơ nữ Nguyễn Rose đề tặng. Đây là một tập thơ Tình gồm 154 bài thơ rất tình tứ, lãng mạn và dễ thương. Và điểm đặc biệt là tập thơ này được in cực đẹp bằng một thứ giấy đặc biệt khá dầy, và điều đáng nói nhất là mỗi trang thơ đều có hình minh họa và đều được in màu rất đẹp. Sau khi được giới thiệu, hai tân quý thư đã được các thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Sau phần giới thiệu sách mới của Dịch giả Vũ Anh Tuấn, nhà thơ Lê Nguyên cũng lên giới thiệu cuốn thơ song ngữ Việt-Pháp của ông mới được xuất bản, và sau khi giới thiệu ông đã ký tặng mỗi thành viên một bản. Tiếp lời nhà thơ Lê Nguyên, Lm. Triết vừa đi Úc về đã lên kể qua với các thành viên về chuyến đi vừa qua. Lm. Triết nói xong, anh Phạm Vũ đã lên nói về lễ hội Hoa Phượng đỏ. Anh Phạm Vũ nói xong, anh Phùng Chí Tâm lên cho biết là việc Lm. Triết vừa đi Úc về khiến anh nhớ lại là năm 2008 anh cũng có tới thành phố Sydney ở Úc và có làm bài hát tên là “Tôi Yêu Sydney” và hát tặng các thành viên bài hát đó. Sau đó anh có nhắc tới một vài kỷ niệm với thành phố Hải phòng là thành phố Hoa Phượng đỏ và tặng thêm các thành viên một bài hát về thành phố Hải Phòng. Tiếp lời anh Phùng Chí Tâm, anh Bá Mạnh đã lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ rất vui bằng giọng ngâm thật mạnh mẽ của anh. Anh Bá Mạnh ngâm thơ xong, anh Nhựt Thanh lên nói về đề tài bản sắc dân tộc qua một bài nói chuyện ngắn. Tiếp lời anh Nhựt Thanh, anh Bùi Hữu Giao, một thân hữu nhiều năm trước đã có ghé thăm CLB Sách Xưa & Nay, nay lại ghé chơi để giao lưu với các thành viên và để giới thiệu một tác phẩm của anh mang tựa đề là Hành trang đời người, một tác phẩm trên 300 trang và đã được tái bản tới lần thứ 9. Sau anh Bùi Hữu Giao, anh Lê Minh Chử lên hát thơ tặng các thành viên một bài kỷ niệm 10 năm thành lập CLB. Anh Chử hát thơ xong, nhà thơ nữ Minh Hưng lên ngâm tặng các thành viên bài thơ của bà mang tựa đề là Em Xưa. Tiếp lời nhà thơ Minh Hưng, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc của anh, đã hát tặng các thành viên bài hát Rạng đông trên Quê Hương. Sau anh Thanh Châu, thành viên Kim Sơn đã lên nói về Ngày Quốc Tế Thiếu Nhi và hát tặng các thành viên bài Bên bờ đại dương của nhạc sĩ thời danh Hoàng Trọng. Kim Sơn hát xong, thành viên Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ và buổi họp kết thúc lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


MỘT CHUYỆN VUI VUI

TRONG ĐỜI CHƠI SÁCH

Trong đời chơi sách người viết quý nhất một sưu tập trên 500 cuốn cổ thư của thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20. Nhiều năm trước, qua năm đợt mua, người viết đã bỏ ra một số tiền khá lớn để sưu tập được số sách đó. Người viết rất yêu quý số sách đó và đã đưa lên Internet khoảng 30 cuốn là những cuốn thuộc loại quý hiếm và có minh họa do các họa sĩ minh họa danh tiếng vẽ, còn những cuốn khác thì người viết chỉ xem qua, và cũng không thể nhớ hết các tên của chúng. Điều đáng quý nhất của lô 500 cuốn sách này là tất cả đã thành của chung của mọi người, và đã chẳng còn dính dấp gì tới Công Ước Berne về bản quyền, ai muốn khai thác chúng thì cứ việc khai thác, chả còn phải xin phép ai và trả tiền bản quyền cho ai cả.

Thời gian trôi nhanh như gió cuốn mây bay, thoáng một cái người viết đã bát tuần, chén tuần, và điều đáng tiếc nhất là người viết không có người nối nghiệp chơi tiếp. Với ba quốc hội ở Mỹ, người viết vừa là ông, lại vừa là cha, của cả chục anh Mỹ, chị Mỹ bất đắc dĩ, nhưng tất cả đều không có ai quan tâm tới thú chơi sách, khiến người viết lâm vào một tình thế rất bất ổn. Là người rất yêu thương những cuốn cổ thư, đã luôn ở cạnh mình trong một đoạn đường đời dài lâu, người viết cảm thấy rất lo cho tương lai của chúng, nhất là hơn ai hết, người viết biết rất rõ hoàn cảnh những cổ thư trong sưu tập của ông cụ Vương Hồng Sển, sau nhiều năm được ở bên nhau, lúc này chúng thật sự bị tan tác mỗi cuốn một nẻo, thật vô cùng đáng thương. Người viết là người biết lo xa, nên ngay lúc này đang ra công tìm kiếm một ai đó cũng biết thương yêu, chăm sóc, sử dụng, khai thác 500 cuốn cổ thư của mình. Người viết không muốn chúng lâm vào hoàn cảnh như những cuốn của ông cụ Sển, cũng như không muốn chúng rơi vào tay một phú gia sẽ nhốt chúng chỉ để trưng, mà không cho chúng được đọc, được khai thác, khiến số phận của chúng chẳng khác chi những cung nữ khi xưa bị vua chúa nhốt vào lãnh cung. Sau nhiều ngày suy nghĩ, người viết thấy rằng nơi chúng có thể được bảo toàn và sử dụng tốt nhất là một nhà xuất bản lớn nào đó, có thể thoải mái khai thác chúng mà không cần phải xin phép ai cả, vì người viết luôn nghĩ rằng sách được đọc, được khai thác là được sống cuộc đời đáng sống của sách, còn lâm vào cảnh chỉ bị nhốt để trưng thì đau lòng quá! Trong một hai năm gần đây, để lo cho tương lai của những cuốn sách mình yêu quý, người viết đã nhờ một số bạn bè giới thiệu cho mình một số những nhà xuất bản để tính chuyện nhường sách vào những nơi chúng đáng được tới, và đáng được trang trọng, quý mến, như trong thời gian chúng chung sống với mình. Gần đây một nhà xuất bản lớn có liên lạc với người viết, nhưng rồi sau đó cũng không hề có tin tức gì nối tiếp, nên người viết cũng hơi cảm thấy buồn buồn, để rồi, do một sự tình cờ, trong lúc hơi buồn buồn, người viết bỗng gặp câu chuyện vui vui nho nhỏ như sau: một hôm trong lúc lên mạng, người viết chợt bắt gặp một bài viết nói về những cuốn sách hiếm, thuộc loại in lần thứ nhất và đã tuyệt bản, mắc nhất trong thế kỷ 20, và người viết đã đọc bài viết đó và đã đọc luôn tên các cuốn sách mà bài viết nói là mắc nhất. Người viết bất ngờ thấy trong số 500 cuốn của mình có vài cuốn có tên trong danh sách đó, và khi đọc đến giá tiền của chúng thì thấy đó là những giá mắc kinh khủng. Có thể nói nếu trong 500 cuốn sách của người viết mà chỉ cần có độ mươi mười lăm cuốn thì tính giá tiền đã hơi bị nhiều hơn là giá tiền mà người viết có thể được trả ở đây cho cả 500 cuốn sách của mình khi bán! Người viết không quan trọng chuyện tiền bạc lắm, vì giá trị số tiền lớn bỏ ra khi mua, so với giá trị số tiền tương đương bây giờ thì số tiền bây giờ chỉ bằng 1 phần 4 số tiền bỏ ra khoảng 20 năm trước, nhưng với người viết, nếu sách được giữ lại nơi quê hương yêu dấu của Mẹ Âu Cơ thì có thiệt cũng chẳng sao. Người viết liền liên lạc mấy nhà sách lớn ở Âu châu mà bài viết nhắc tới, thì được họ cho biết là nếu có những đầu sách đó thì họ xin mua ngay với giá tiền độ bằng 1/5 tới tối đa 1/3 giá tiền ghi trong bài viết. Và, ngay sau đó người viết đã đưa thử 20 đầu sách bình thường và hỏi giá thì mới thấy rẳng chỉ mới 20 đầu sách bình thường giá tiền được trả cũng đã bằng 1/10 giá tiền bán cả 500 cuốn sách ở đây, Còn trường hợp tìm được những cuốn in lần thứ nhất, những cuốn hiếm đã tuyệt bản, nhất là những cuốn do các danh họa minh họa, thì số tiền thu về được phải gấp hai ba chục lần giá tiền ở đây. Đây là một chuyện vui vui cho người viết, vì trong những ngày tới, người viết sẽ được hưởng cái thú ngồi lục lọi trong 500 cuốn sách của mình xem được bao nhiêu siêu quý thư, đơn giản vì những siêu quý thư cuốn nào giá cũng trên một ngàn đô mẽo cả, trong khi ở đây nếu có được trả một triệu đô mít thì cũng chỉ là 1/20 của một ngàn đô mẽo. Riêng về việc biết cuốn cổ thư nào là quý, giá trị chính xác của nó như thế nào, thì người biết khá biết rõ, và ngay sau đây là một câu chuyện thực 100% mới xảy ra hồi năm ngoái, để minh chứng việc người viết không thể bị bọn ngoại nhân qua mặt: Hồi tháng 10 năm ngoái, người viết tiếp một anh bạn ngoại vẫn mang sách từ Pháp về trao đổi, nhưng phần lớn là anh ta bán cho người viết, năm chừng mười họa mới mua của người viết được vài cuốn, và công việc mua bán này không có tính chất mua bán thuần túy, mà chỉ là trao đổi sách vở văn hóa mà thôi, vì anh ta không phải là người buôn sách, mà là một trí thức yêu sách, chia sẻ cùng một thú vui với người viết. Hôm đó trong lúc lại chơi, anh ta bỗng lấy ra từ kệ sách của người viết một cuốn sách cỡ nhỏ và nói với người viết: “Ồ tôi tìm cuốn này mãi, vì nó làm tôi nhớ lại một kỷ niệm rất đẹp với một trong mấy quý bà tôi yêu quý nhất, mà nay lại thấy nó ở đây, anh để nó cho tôi đi, tôi xin gửi anh một giá đặc biệt, đây tôi xin gửi anh 200 đô Mỹ”. Thấy anh bạn mọi khi mặc cả xin thêm bớt từng vài đô một, mà hôm nay tự nhiên hào phóng đột xuất như vậy, người viết nghi ngay và cầm cuốn sách lật xem vài trang để tìm ngay ra lý do: cuốn sách có một phụ bản in litho và một số minh họa của danh họa Picasso, và giá trên thị trường quốc tế một cuốn có phụ bản in litho và minh họa của Picasso phải xấp xỉ 1500 đô, nghĩa là anh bạn trả có 1/7 giá vì nghĩ là người viết không biết giá và thấy 200 đô là mê quá rồi! Người viết liền tươi cười trả lời: “Tôi rất tiếc là không thể nhường cho anh được, đơn giản vì tôi với anh gần như đồng cảnh, cuốn sách này của một mẫu hậu tôi tặng tôi giữ làm kỷ niệm, làm sao tôi dám bán?”. Anh bạn tưng hửng và buồn bã ra về… Những người ngoại quốc, khi mua bán với chúng ta, một đôi khi gặp được những thứ mà họ mua được với giá rất rẻ và được lời rất nhiều, đơn giản chỉ vì chúng ta không biết rõ giá trị đích thực của thứ đồ ta có, chứ họ đâu có cần lường gạt gì chúng ta đâu!

Một điều an ủi người viết một chút, là những quý thư được bán với những giá tiền thật mắc, lại được toàn những người chơi sách mua, nên khi về với những người đó, những quý thư cũng sẽ có được một cuộc sống có thể bằng hoặc hay hơn khi nó ở với người viết…

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN


THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG”

Bản dịch của L inh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 1 21 )

II. SỰ KHÔN NGOAN CỦA CÁC TRÌNH THUẬT

TRONG THÁNH KINH

65. Không cần phải lập lại toàn bộ thần học Sáng Tạo, chúng ta tự hỏi các trình thuật lớn của Thánh Kinh nói gì về liên hệ của con người với thế giới. Trong trình thuật đầu tiên về công trình Sáng Tạo trong sách Sáng Thế, chương trình của Thiên Chúa được gói trọn trong việc sáng tạo con người. Sau việc sáng tạo con người, Sách Thánh nói: “Thiên Chúa nhìn thấy tất cả những gì Người sáng tạo: Người thấy thế là tốt” (St 1,31). Thánh Kinh dạy, mỗi con người đều được sáng tạo từ tình yêu, như hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa (x. St 1,26). Lời công bố này cho chúng ta thấy phẩm giá lớn lao của từng con người: “Con người không phải là sự vật, nhưng là một người nào đó. Con người có khả năng nhận thức về mình, làm chủ mình, tự do để ban phát và bước vào liên hệ với những người khác”[37]. Vị thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nhắc nhớ rằng, tình yêu hoàn toàn đặc biệt mà Đấng Sáng Tạo dành cho từng con người, đã trao cho họ phẩm giá cao sang vô cùng[38]. Những ai muốn bảo vệ phẩm giá con người, có thể tìm được trong niềm tin Kitô giáo những lý luận sâu xa nhất cho trách nhiệm này. Một sự chắc chắn tuyệt vời khi không đánh mất đời sống một con người bị rơi vào sự lộn xộn vô vọng, trong một thế giới phải bước đi trong sự tình cờ thuần túy hay những chu kỳ, cứ đáo đi đáo lại thật vô nghĩa. Đấng Sáng Tạo có thể nói với từng người trong chúng ta: “Trước khi tạo hình dáng cho ngươi trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1,5). Chúng ta đã được nhận ra trong tình yêu của Thiên Chúa, và vì thế: “Mỗi người là hoa trái một suy tư của Thiên Chúa. Mỗi người được Thiên Chúa muốn như thế, mỗi người được yêu và mỗi người thật cần thiết”[39].

66. Trình thuật sáng tạo trong sách Sáng Thế, trong ngôn ngữ biểu trưng và trình thuật, chứa đựng những lời giảng dạy sâu xa về hiện sinh con người và thực tại lịch sử của họ. Trình thuật này muốn nói, hiện sinh con người dựa trên ba sự liên hệ căn bản, liên kết với nhau thật mật thiết: liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân và với trái đất. Theo như lời Thánh Kinh, ba liên hệ sống động này đã bị phá vỡ, không những bên ngoài, nhưng cả nội tại bên trong. Sự đổ vỡ này là tội lỗi. Sự hòa hợp giữa Đấng Sáng Tạo, nhân loại và toàn thể sáng tạo đã bị phá vỡ qua hành động muốn thay thế vị trí của Thiên Chúa, khi từ chối công nhận chúng ta là những thụ tạo hữu hạn. Hành động này đã làm sai lệch mệnh lệnh “cai quản” trái đất (x, St 1,28) “xây dựng” và “che chở” trái đất (x. St 2,15). Như hậu quả là liên hệ thật hòa hợp thuở ban đầu giữa con người và thiên nhiên bước vào xung khắc (x. St 3,17-19). Vì lý do đó, thật ý nghĩa khi sự hòa hợp mà thánh Phanxicô chia sẻ với vạn vật, được xem như cách cứu chữa sự đổ vỡ này. Thánh Bonaventura nói, thánh Phanxicô “khi Người sống hòa bình với tất cả thụ tạo” đã đạt được “tình trạng trước nguyên tội”[40]. Bước ra khỏi mẫu gương này, ngày hôm nay, tội lỗi đã xuất hiện với tất cả sự tàn phá trong chiến tranh, trong nhiều hình thức khác nhau của quyền lực và ngược đãi, trong việc bỏ rơi kẻ yếu và tấn công vào thiên nhiên.

67. Chúng ta không phải là Thiên Chúa. Trái đất đã có trước chúng ta và được ban cho chúng ta. Điều này cho phép trả lời một kết án đối với suy nghĩ theo Do Thái giáo và Kitô giáo: Người ta nói rằng, trình thuật sáng thế mời gọi con người “thống trị” trái đất (x. St 1,28), việc bóc lột khủng khiếp thiên nhiên qua cách trình bày con người như chủ và tàn phá. Đấy không phải là cách giải thích Thánh Kinh đúng đắn, như Giáo Hội hiểu. Thật sự, đôi khi, những người Kitô hữu chúng tôi giải thích sai Thánh Kinh, nhưng ngày hôm nay chúng tôi phải xác nhận rõ ràng, từ sự kiện được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và với mệnh lệnh cai quản trái đất, từ đó đưa đến quyền thống trị các tạo vật khác. Điều quan trọng, phải đọc Thánh Kinh trong mạch văn của nó, với sự chú giải thích hợp, và phải nhớ rằng, các bản văn này mời chúng ta “canh tác” và “gìn giữ” ngôi vườn của Thiên Chúa (x. St 2,15). Thuật ngữ “canh tác” có nghĩa là trồng trọt, khai hoang hay làm việc, và thuật ngữ “gìn giữ” có nghĩa là bảo vệ, cứu giúp, giữ gìn, chăm sóc, canh chừng. Điều này đưa đến sự liên kết hỗ tương giữa con người và thiên nhiên. Mỗi cộng đoàn được quyền thu nhặt từ trái đất những gì cần thiết để sống, nhưng có trách nhiệm bảo vệ và làm cho sự phì nhiêu được tiếp tục dành cho thế hệ tương lai. Dứt khoát “trái đất thuộc về Thiên Chúa” (Tv 245,1), “trái đất và tất cả những gì sống trên trái đất” (Đnl 10,14) đều thuộc về Người. Vì lý do đó, Thiên Chúa phủ nhận tất cả ý đồ chiếm hữu tuyệt đối: “Đất thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta” (Lv 25,23).

68. Trách nhiệm đối với trái đất, một trái đất thuộc về Thiên Chúa, cho thấy con người có lý trí, biết tôn trọng các lề luật của thiên nhiên và sự quân bình tế nhị giữa các hữu thể trong thế giới này, chỉ vì “Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành. Người định nơi cho tất cả đến muôn đời muôn thuở, ban truyền lề luật, luật đó chẳng hề qua” (Tv 148,5b-6). Vì thế, Thánh Kinh trưng ra cho con người nhiều luật lệ khác nhau, không những trong liên hệ với đồng loại, nhưng cả trong liên hệ với các sinh thể khác: “Khi anh (em) thấy lừa hay bò của người anh em mình ngã trên đường, thì đừng bỏ mặc làm ngơ, nhưng phải giúp người anh em đỡ chúng dậy… Nếu trên đường, anh (em) gặp một tổ chim, ở trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất, trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim con hay ấp trứng, thì anh (em) không được bắt cả mẹ lẫn con” (Đnl 22,4.6). Trong nhãn quan này, sự nghỉ ngơi trong ngày thứ bảy không phải chỉ dành cho con người, nhưng cho cả “bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 23,12). Với cách thức này, chúng ta nhận thấy Thánh Kinh không đưa ra duyên cớ tập trung vào chỉ con người, mà không lo lắng cho các tạo vật khác.

69. Trong khi được phép sử dụng các sự vật một cách có trách nhiệm, chúng ta cũng đồng thời được mời gọi để nhận biết, các sinh vật khác cũng có những giá trị trước mặt Thiên Chúa và “qua sự hiện hữu đơn sơ của mình đã ca tụng và tôn vinh” Người[41], “Chúa vui sướng vì các công trình của Người” (x. Tv 104,31). Chính nhờ vào phẩm giá độc nhất của mình và vì có được lý trí, con người được kêu gọi tôn trọng sáng tạo từ những luật lệ nội tại của chúng, vì “Thiên Chúa đã kiến tạo trái đất với sự khôn ngoan” (Kn 3,19). Ngày nay Giáo Hội không chỉ nói cách đơn sơ, các tạo vật khác hoàn toàn tùy thuộc vào hạnh phúc của con người, gần như chúng không có giá trị gì tự tại và chúng ta có thể sử dụng chúng theo sở thích của chúng ta. Vì thế các vị Giám Mục nước Đức đã dạy về các thụ tạo khác “người ta có thể nói về sự ưu tiên của hữu thể trước khi nói về sự hữu ích của chúng”[42]. Quyển Giáo Lý nói rất rõ một cách trực tiếp và nhấn mạnh về chủ nghĩa quy nhân (Anthropozentrismus – anthropocentrisme): “Mỗi tạo vật đều có sự thiện và toàn vẹn riêng của mình […] Các thụ tạo khác nhau phản ánh ngay trong sự hiện hữu riêng mình như Thiên Chúa muốn, mỗi thứ một cách, ánh quang của sự khôn ngoan vô tận và sự thiện hảo của Thiên Chúa. Chính vì thế, con người phải tôn trọng bản chất tự nhiên đặc thù của chúng để tránh sử dụng chúng một cách vô trật tự”[43].

70. Trong trình thuật về Cain và Abel, chúng ta thấy sự ganh tị của Cain dẫn đến việc đối xử quá bất công với chính em mình. Điều này đưa đến một sự đổ vỡ liên hệ giữa Cain và Thiên Chúa, giữa Cain và mảnh đất anh ta bị xua đuổi ra bên ngoài. Đoạn văn này được tóm kết trong cuộc đối thoại của Cain và Thiên Chúa. Thiên Chúa hỏi: “Em ngươi đâu?”. Cain trả lời: “Tôi không biết”. Thiên Chúa nhấn mạnh: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta. Giờ đây ngươi bị nguyền rủa và bị đuổi ra khỏi đất màu mỡ” (St 4,9-11). Sự chểnh mảng trong trách nhiệm canh tác và gìn giữ một liên hệ tương ứng với người chung quanh, tôi phải lo lắng cho người đó và phải che chở cho họ; sự chểnh mảng đó sẽ phá vỡ liên hệ nội tại với chính tôi, với kẻ khác, với Thiên Chúa và với đất đai. Khi các liên hệ này bị bỏ quên, khi không còn công bằng tồn tại trên đất nước, thì – như Thánh Kinh nói với chúng ta – toàn bộ cuộc sống sẽ gặp nguy hiểm. Đó là điều mà trình thuật về Noach muốn dạy chúng ta, khi Thiên Chúa hăm dọa, sẽ tiêu diệt nhân loại vì luôn bất lực trong việc thực thi những đòi buộc về công bằng và hòa bình: “Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì tại chúng mà đất đầy bạo lực” (St 6,13). Trong biểu trưng xa xưa nhưng sâu sắc của trình thuật chứa đựng một xác tín cho ngày nay: tất cả đều liên kết với nhau và việc che chở đích thực cho cuộc sống riêng tư của chúng ta cũng như mọi liên hệ của chúng ta với thiên nhiên không thể bị tách ra khỏi tình huynh đệ, sự công bằng cũng như sự trung tín với kẻ khác.

71. Cho dù “sự gian ác của con người quả là nhiều” (St 6,5) và “Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 6,6), Người đã quyết định mở một con đường cứu độ nhờ Noach, người vẫn kiên vững trong sự công chính và hoàn hảo. Như thế, Người ban cho nhân loại khả năng đón nhận một khởi đầu mới: chỉ cần một người công chính là đủ, để hy vọng không bị chôn vùi. Trình thuật Thánh Kinh ghi lại rõ ràng, việc tái thiết gắn liền với việc tái khám phá và chú trọng đến các chu kỳ được chính bàn tay Thiên Chúa ghi khắc. Tỉ như luật ngày Sabbat. Vào ngày thứ bảy, Thiên Chúa ngưng tất cả mọi công trình của Người. Thiên Chúa ra lệnh cho Israel mỗi ngày thứ bảy phải là ngày nghỉ, là ngày Sabbat (x. St 2,2-3; Xh 16,23; 20,10). Ngoài ra mỗi bảy năm phải là năm Sabbat cho Israel và cho cả đất đai (x. Lv 25,1-4), trong năm đó người ta phải để cho đất đai hoàn toàn ngưng nghỉ; không đươc phép gieo cấy, chỉ thu hoạch những gì cần thiết để sống và dành cho việc tiếp khách (x. Lv 25,4-6). Và cuối cùng, sau bảy tuần năm, nghĩa là sau bốn mươi chín năm, sẽ cử hành Năm Thánh, năm tha thứ tất cả và là năm “tự do cho toàn thể dân trong đất nước” (Lv 25,10). Việc triển khai lề luật này tìm cách bảo đảm cho sự bình đẳng và công bằng trong mọi liên lạc giữa người đồng loại và với đất đai, nơi họ sống và lao động. Đồng thời công nhận: quà tặng của đất đai, cũng như hoa trái của nó, thuộc về toàn dân. Ai canh tác và gìn giữ đất đai phải chia sẻ hoa màu, đặc biệt là cho người nghèo, các bà góa, trẻ mồ côi và khách lạ: “Khi các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt tới sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót. Vườn nho (các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19,9-10).

72. Các Thánh Vịnh thường mời gọi con người ta tụng Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, “Đấng trải mặt đất này trên làn nước bao la, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136,6). Các Thánh vịnh cũng mời gọi mọi tạo vật khác ca tụng Thiên Chúa: “Ca tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt, ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi. Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút, cả khối nước phía trên bầu trời. Nào ca tụng Thánh Danh Đức Chúa, vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành” (Tv 148,3-5). Chúng ta hiện hữu không chỉ nhờ quyền năng Thiên Chúa, nhưng trước mặt Người và gần gũi Người. Vì thế chúng ta thờ lạy Người.

73. Tác phẩm của các ngôn sứ cũng mời gọi chúng ta, tìm được sức mạnh trong những giây phút gặp khó khăn, khi người ta chiêm ngắm Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo thành vũ trụ. Quyền lực vô biên của Thiên Chúa không đưa chúng ta trốn chạy trước tình phụ tử nhân ái của Người, vì trong Người việc chăm sóc từ ái và sức mạnh hòa quyện với nhau. Thật vậy, mỗi linh đạo thánh thiện cho thấy rõ cùng lúc đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và tin tưởng thờ lạy Thiên Chúa vì quyền năng vô biên của Người. Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa, Đấng giải thoát và cứu độ, cũng là Đấng sáng tạo vũ trụ, và hai cách hoạt động của Thiên Chúa liên kết với nhau thật chặt chẽ: “Lạy Đức Chúa, Chúa Thượng của con! này Ngài đã tạo thành trời đất bằng sức mạnh vĩ đại và cách tay uy quyền của Ngài. Không có gì mà Ngài không làm được! […], Ngài đã dùng dấu lạ điềm thiêng, đã giương bàn tay mạnh mẽ và cánh tay uy quyền… mà đưa dân Ngài là Israel ra khỏi Ai Cập” (Gr 32,17.21). “Đức Chúa là Thiên Chúa vĩnh cửu, là Đấng sáng tạo toàn cõi đất. Người không mệt mỏi, chẳng nhọc nhằn, trí thông minh của Người không dò thấu. Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi, kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng” (Is 40,28b-29).

74. Kinh nghiệm cuộc lưu đày ở Babylon đưa đến cuộc khủng hoảng tinh thần mà chỉ có việc đào sâu niềm tin vào Thiên Chúa mới có thể giải quyết được, khi làm rõ nét quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa để động viên dân chúng tìm lại hy vọng trong hoàn cảnh bi đát của họ. Nhiều thế kỷ sau, trong một thời đoạn thử thách và bị bách hại, khi đế quốc La Mã tìm cách thiết đặt sự thống trị tuyệt đối của họ, các tín hữu tìm lại được sự an ủi và hy vọng lớn dần trong sự tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng, và họ đã ca hát: “Lạy Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng, sự nghiệp Ngài thật lớn lao kỳ diệu! Lạy Đức Vua trị vì muôn nước, đường lối Ngài quả chân thật công minh” (Kh 15,3). Nếu Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ từ hư không, thì Người cũng có thể can thiệp vào thế giới này và chiến thắng sự dữ dưới mọi hình thức. Vì thế, sự bất công không thể nào là không thắng được.

75. Chúng ta không thể có một thứ linh đạo lại quên Thiên Chúa toàn năng và là Đấng sáng tạo. Nếu không, cuối cùng chúng ta cũng sẽ tôn thờ các quyền lực khác trong thế giới, hay chính chúng ta tự đặt mình vào vị trí của Chúa và cho rằng, chúng ta có thể đặt tất cả thực tại do Người sáng tạo dưới chân mình. Cách thức tốt đẹp để đưa con người vào vị trí của mình và chấm dứt việc đòi hỏi quyền làm chủ tuyệt đối trên trái đất này, chỉ bằng cách đưa ra hình ảnh của một người Cha, Đấng sáng tạo và chủ duy nhất của thế giới này. Nếu theo cách khác thì con người luôn có xu hướng đặt tất cả thực tại nằm dưới luật lệ và lợi ích của mình.

(còn tiếp)

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)

ĐẠO PHẬT KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO

MÀ CHỈ LÀ MỘT PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC

(Công trình nghiên cứu của Tâm Nguyện)

(tiếp theo số 121)

LÝ TRUNG ĐẠO:

Chính vì con người thấy các Pháp là thật CÓ, nên mê đắm, ham thích, rồi tranh giành với nhau làm cho cuộc sống bất an. Để gỡ họ ra khỏi cái CHẤP CÓ, Đạo Phật đưa ra nguồn gốc của các Pháp. Nói rằng gốc của nó là KHÔNG. Cuối cùng rồi nó sẽ trở về KHÔNG, để con người bỏ đi cái CHẤP CÓ. Sau khi họ bỏ được cái CHẤP CÓ thì lại quay sang CHẤP KHÔNG thì Đạo Phật hướng dẫn thêm bước nữa là: Các Pháp “KHÔNG PHẢI CÓ, KHÔNG PHẢI KHÔNG”. Thật vậy. Nói rằng CÁC PHÁP LÀ KHÔNG thì rõ ràng là thiếu thực tế, mà cho rằng các Pháp là CÓ cũng không đúng. Vì nói rằng CÓ sao không còn mãi? Nói rằng KHÔNG thì cái gì đang hiện diện? Do đó, cần phải hiểu cho đúng rằng, các pháp thật ra KHÔNG PHẢI CÓ, KHÔNG PHẢI KHÔNG, mà đang TẠM CÓ. Sự hiểu biết này gọi là LÝ TRUNG ĐẠO. Người có sự hiểu biết như vậy sẽ có được cuộc sống an ổn. Sống trong cái CÓ mà như KHÔNG. Ý thức cuộc sống này có giới hạn, nên dùng của đời một cách vừa phải để cho cái Thân được tồn tại mà tu hành. Do thấy các pháp, vật chất chỉ là phù du, nên không tranh giành, nhờ thế, không những bản thân mình được an lành, mà môi trường, hoàn cảnh chung quanh cũng bớt hỗn loạn. Hơn nữa, nhờ không Tạo Nghiệp, nên mai kia có mất đi rồi tái sinh cũng sẽ về nơi tốt đẹp. Đó là kết quả mà Đạo Phật hướng dẫn và bảo đảm cho người tu.

THẾ NÀO LÀ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC?

LÀM THẾ NÀO ĐỂ VỀ ĐÓ ?

Đức Thích Ca biết rằng con người vốn Tham Lam, họ chỉ bỏ cái đang ôm giữ khi thấy rằng sẽ được cái khác còn nhiều hơn, tốt đẹp hơn. Người đời vốn vì DANH, vì Lợi, vì bạc, vàng, châu báu mà sẵn sàng giết nhau để tranh đoạt. Anh em tàn sát lẫn nhau. Người này hại người khác. Nước nọ đánh chiếm nước kia cũng để tranh giành đất đai, tài nguyên. Nếu cuộc sống cứ diễn ra như thế thì kiếp sống ngắn ngủi của con người sẽ trở thành đau khổ, bất ổn. Dân tình điêu linh, thống khổ mà những nước gặp họa chiến tranh đều phải chịu đựng. Vợ xa chồng, con xa cha. Chiến tranh cướp đi những người trẻ còn tràn đầy sức sống, đổi lại là nước mắt, là tang tóc trùm phủ gia đình của biết bao nhiêu con người, hệ quả còn kéo dài đến nhiều thế hệ sau đó. Do vậy mà Đức Thích Ca một mặt dùng Giới, dùng Bát Chánh Đạo để giữ gìn con người trong đường Thiện. Lúc nào cũng giữ gìn Thân, Khẩu, Ý cho thanh tịnh, không Khởi những tà tâm. Mặt khác, tả TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC của Phật A Di Đà, trong đó toàn là châu báu. Từ hàng rào, bao lơn, vườn cây, đường đi, ao nước, dây giăng toàn làm bằng những thứ mà mọi người ham thích để rồi phát tâm muốn về đó. Tất nhiên muốn đến đó phải đáp ứng một số điều kiện, sau đó Ngài từ từ đưa vào chánh đạo. Nhưng nhiều người đã không hiểu được điều đó. Vừa mới nghe nói Tây Phương Cực Lạc đã bỏ hết việc đời, chỉ chuyên tâm Tụng Kinh, Niệm Phật để cầu mong được về đó! Dù vậy, nếu họ không tạo ác nghiệp thì cũng sẽ có được cái an lạc, thanh thản trong Tâm.

Gọi là PHẬT A DI ĐÀ, tưởng như có một VỊ PHẬT cao quý, hào quang sáng chói, chủ trì TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC. Nhưng Kinh KiM CANG giải thích:

“Xá Lợi Phất, nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A DI ĐÀ? Xá Lợi Phất! Đức Phật đó hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị ngăn ngại, vì thế nên hiệu là A DI ĐÀ”. Cõi nước mà 10 phương được soi suốt” có nghĩa là không còn 10 điều ác chiếm ngụ. Do vậy, nếu Tâm của ta đã sạch được 10 điều Ác, được thanh tịnh, an lạc là trong đó đã hình thành Đức A Di Đà và Cõi Tây Phương Cực Lạc.

Lục Tổ Huệ Năng cũng giải thích về vị trí cũng như cách về TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC trong Pháp Bảo Đàn Kinh, như sau: “Thế Tôn lúc ở Thành Xá Vệ, nói Kinh về chỗ tiếp dẫn hóa độ vào cõi Tây Phương. Nếu luận về hình tướng và số dặm thì có mười muôn tám ngàn dặm. Đó là nói về Thập Ác và Tám Điều Tà trong Thân. Trừ Thập Ác là đi tới mười muôn dặm. Dứt Bát Tà là qua khỏi tám ngàn dặm”.

Để đến được Tây Phương Cực Lạc, Lục Tổ dạy: “Thường làm mười điều Thiện thì Thiên Đường liền đến. Dứt lòng tà vạy thì núi Tu Di sập ngay. Bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn. Trừ lòng phiền não thì sóng biển lặng êm. Quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt. Tu được như thế thì các Giác Tánh Như Lai ở trong tâm địa mình phóng đại quang minh. Ngoài soi Sáu Cửa trong sạch, có thể phá được trời Lục Dục Thiên. Lại soi trong Tánh mình làm cho Ba Độc đều dứt, cả thảy tội Địa Ngục đồng tiêu một lần. Trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây Phương. Nếu chẳng tu các hạnh ấy thì thể nào đến cõi Tây Phương được”.

Vậy thì với 7 MÓN BÁU như Vàng bạc, pha lê, ngọc ngà châu báu được trang hoàng ở Tây Phương Cực Lạc phải hiểu như thế nào?

Cõi trời nếu có thì cũng là thanh khí, đâu thể là một thiên hà có bề mặt vững chắc như trái đất các vì sao để chứa đựng các báu vật có hình tướng như ngọc ngà, châu báu? Vì vậy, đó chỉ là hình ảnh mà Đức Thích Ca dùng để tượng trưng cho điều ta ôm giữ trân quý mà thôi.

Phải chăng khi ta quý một thứ gì đó thì ta đeo mang, ôm ấp, không rời? Có những thứ mà con người ôm ấp, đeo mang từ vô lượng kiếp không thể xa rời là: BA NGHIỆP của cái THÂN là THAM, SÂN, SI và BỐN NGHIỆP CỦA KHẨU là NÓI LÁO, NÓI LƯỠI ĐÔI CHIỀU NÓI ĐỂ KHEN MÌNH, NÓI CHÊ NGƯỜI. Bốn việc này cộng với 3 NGHIỆP của cái THÂN thành BẢY. Do ôm giữ nhiều đời không thể bỏ, nên Phật gọi là BÁU. Cho nên, người tin rằng PHẬT A DI ĐÀ, TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC và BẢY MÓN BÁU là thật có, ở một xứ sở xa tít nào đó trên thiên hà thì ta có thể chắc chắn rằng họ đã bê nguyên NGỮ để hiểu. Như vậy sẽ còn cách Đạo Phật rất xa.

CÚNG DƯỜNG PHẬT hay ĐỘ SINH

Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “Nàng Long Nữ, nhờ CÚNG DƯỜNG CHO PHẬT viên châu có giá trị liên thành mà THÀNH PHẬT”, và nhiều Kinh cũng viết: “Bồ Tát cúng Dường nợ con, kiệu cáng, nhà cửa, dinh thự, đền đài, quốc thành, thê tử, chuỗi trân châu”. Như vậy phải hiểu như thế nào? Tại sao Cúng Phật mà Phật nhận xong lập tức Thành Phật? Có phải Phật nhận hối lộ chăng?

Đây là chỗ hiểu lầm của bá tánh từ bao đời. Do đó, có những người quá Tin Phật nên bị mất tài sản, tiền bạc, nhà cửa một cách oan uổng. Xin được giải thích rõ như sau:

Trước hết, muốn CÚNG DƯỜNG PHẬT, thì phải hiểu thế nào là PHẬT .

Phật không phải là Đức Thích Ca, A Di Đà hay Quán Thế Âm, mà là tánh Giải Thoát hay là kết quả Giải Thoát nơi người tu . Phật Thích Ca là Tánh Giải Thoát hay là danh hiệu của Thái Tử Sĩ Đạt Ta khi Ngài hành xong công việc Giải Thoát cho bản thân. Các vị Phật khác là do Ngài đặt tên, để nói về những công việc mà người tu phải hành trì. Thí dụ Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe âm thanh của thế gian, tức là theo dõi, lắng nghe những cái Khởi nơi Tâm của chính mình, không để cho nó nghĩ Ác, nói chi là Hành Ác. Mỗi người tu cần làm hạnh Quán Thế Âm để cứu độ cho chúng sinh của mình. Chúng ta nên nhớ rằng Đạo Phật dạy TỰ ĐỘ, không có nói ĐỘ THA. Vì vậy, người tin rằng có Đức Quán Thế Âm Bồ Tát linh hiển để cầu xin Độ cho ta thì đó là THA ĐỘ, là ngược với đường lối Đạo Phật chân chính.

Về CÚNG DƯỜNG thì chúng ta nên nhớ rằng Đức Thích Ca đã nhập Niết Bàn từ mấy ngàn năm qua, có muốn Cúng cho Ngài thì làm sao gặp được để cúng? TƯỢNG PHẬT chỉ là hình ảnh tượng trưng cho PHẬT, đâu có phải là CHÂN PHẬT ? Nếu ta CÚNG CHO TƯỢNG thì đâu có thể gọi đó là CÚNG CHO PHẬT? Kinh lại dạy: Mỗi người phải “Cúng Dường Vô Lượng Vô Số Ức Các Đức Phật” ta sẽ cúng như thế nào? Không lẽ phải tạc vô số Tượng để Cúng? Còn nếu Cúng cho một vị Phật hiện đời nào đó, thì nhiều kiếp mới có một vị xuất hiện, không lẽ ta sẽ phải mất vô lượng kiếp để Cúng, trong khi nói rằng “Mê nhất kiếp, Ngộ nhất thời”? “Sông Mê quay đầu là Bờ”? Rồi ta nghĩ sao về việc CÚNG DƯỜNG mà thành Phật? Chẳng lẽ mang tiền bạc, tài vật, nhà cửa hiến cho Phật rồi Thành Phật? Nghĩ như thế khác nào là bôi bác Đạo Phật, cho rằng Phật nhận hối lộ để cho thành Phật? Người nào mang tư tưởng này chính là “Báng Phật, nhạo Pháp” vậy.

Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Đạo nào do thí bạc mà thành”?! Nếu ta mang tiền bạc, tài sản, cúng cho Chùa nào hay một vị nào đó, thì cũng là vị đó nhận, đâu phải là Phật nhận mà gọi là Cúng Dường cho Phật? Hơn nữa, ta cũng nên sáng suốt mà xét, Phật đã nhập diệt gần 3.000 năm rồi. Người nhận muốn chuyển cho Phật thì chuyển cách nào? Ai có thể xuyên thời gian, không gian để gặp Phật để trao lại được?

Nghĩa đúng của CÚNG DƯỜNG PHẬT được hiểu như sau:

PHẬT tượng trưng cho GIẢI THOÁT. CÚNG DƯỜNG CHO PHẬT có nghĩa là XẢ CHẤP để được giải thoát. Cúng Viên Châu có giá trị liên thành là XẢ cái VỌNG TÂM chứa đầy THAM, SÂN, SI. Xả nó đi thì được Giải Thoát, gọi là Cúng cho Phật, hay là “Cúng cho Phật thì sẽ thành Phật”.

Vợ con, nhà cửa, dinh thự, đền đài…” nói về những thứ ta yêu quý nhất, ôm ấp, đeo mang, trú ngụ trong đó, không rời xa. Kinh viết rất rõ: “Phật là vô tướng, do vô lượng công đức mà thành”, đâu phải là một nhân vật có thật để có tay mà nhận, có một giang sơn để chứa những phẩm vật do bá tánh dâng cúng? Nếu Phật xúi mọi người Cúng những thứ đó để mình nhận thì chứng tỏ Ngài còn Tham hơn bá tánh, và Lý một đàng mà hành một nẻo. Chính những người “Y KINH GIẢI NGHĨA” đã làm oan cho Ba Đời Phật!

Chính vì vậy mà Mã Tổ Bách Trượng, dù cai quản cả một Thiền Viện đã “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”. Tổ Quy Sơn cũng nói về “Con Trâu dưới núi”, hay Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên nói về năm tên Phiến Đề La, phải chịu khổ sai để trả nợ cho thí chủ kiếp trước. Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN viết: “Thà cắt thịt mình dùng để nuôi miệng. Không dùng tâm tà thọ của cúng thí. Khó lắm! Khó lắm! Cẩn thận. Cẩn thận!”.

Thế nào là ĐỘ CHÚNG SINH?

Muốn Thành Phật thì phải ĐỘ SINH. Muốn Độ Chúng Sinh phải biết CHÚNG SINH là gì? Ở đâu? Lục Tổ giải thích:

“Chư Thiện Tri Thức! Chúng Sinh trong Tâm mình là: lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ganh ghét, lòng ác độc. Các tâm này đều gọi chung là Chúng Sinh”. Bồ Tát không phải là nhân vật có thật, mà chỉ nói về công việc giải thích cho chúng sinh hiểu mà chịu quay về nẻo Chánh, cải Ác, hành Thiện mà thôi.

Đức Thích Ca ngày xưa gọi tư tưởng chưa thanh tịnh là Chúng Sinh. Vì vậy, khi một tư tưởng đã chịu khuất phục, bỏ đi cái ác, được an ổn, thanh tịnh thì gọi là “cứu độ được một Chúng Sinh”, hay là “Độ cho Chúng Sinh đó Thành Phật”. Đó là ý nghĩa của “CÚNG DƯỜNG MỘT VỊ PHẬT”. Mỗi ngày, khi đối pháp, chúng ta Khởi lên biết bao nhiêu là Chúng Sinh. Người tu phải “Độ” cho nó được an ổn. Vì vậy, một đời tu hành người tu sẽ “CÚNG DƯỜNG VÔ LƯỢNG VÔ SỐ ỨC ĐỨC PHẬT” trong nghĩa đó.

Tư tưởng là do chính mỗi người sinh ra. Người tu hành làm công việc Độ Sinh được gọi là Bồ Tát. Do đó, Chúng Sinh là tư tưởng của mỗi người sinh ra nên cũng chính là “Quyến Thuộc” của Bồ Tát. Vì đi đến cõi nào thì chúng cũng theo ta không rời. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA tả: Bồ Tát “đem theo mấy muôn quyến thuộc”. Hay “Đời vị lai, Bồ Tát sẽ Cúng Dường Ba Trăm Sáu mươi Ức Đức Phật, rốt sau sẽ Thành Phật”. Có nghĩa là khi người tu hành Hạnh Bồ Tát, Độ hết Chúng Sinh thì sẽ được giải Thoát. Câu này cùng nghĩa với lời Nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Ngày nào còn một chúng sinh chưa được Độ, con thề không ngồi vào nơi Vô Thượng Chánh Giác”. Tất nhiên, còn Chúng Sinh là còn phiền não, thì cái Tâm đâu có thanh tịnh, an lạc được. Mà đã không thanh tịnh, an lạc chứng tỏ là chưa “ĐỘ TẬN CHÚNG SINH” thì chắc chắn không thể gọi là Thành Phật được.

Nhưng nhiều thời rồi, thậm chí đến thời này mà nhiều người còn tưởng Chúng Sinh là những con người ở bên ngoài người tu, nên tưởng rằng đi tu là để “Cứu độ” cho mọi người! Hoặc cho rằng tất cả mọi người là Chúng Sinh của Phật. Sự thật, theo Chánh Pháp diễn giải thì Chúng Sinh chỉ là những tư tưởng của mỗi chúng ta hàng ngày cứ “trùng trùng duyên khởi” theo Các Pháp. Có Ba loại Chúng Sinh nơi mỗi người cần phải “Độ” cho hết, là Chúng Sinh THAM, Chúng Sinh SÂN và Chúng Sinh SI. Từng sát na chúng nảy nở sinh sôi nhiều bằng con người ở một Thế Giới. Có Ba loại Chúng Sinh, nên Phật gọi là TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI. Vì thế, Kinh viết rằng PHẬT CỨU ĐỘ CHO TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI là trong nghĩa đó. Không phải là Thế Giới nào bên ngoài. Bởi nếu là Chúng Sinh ở bên ngoài, thế giới là vũ trụ bên ngoài, và phải DIỆT để độ, mà chúng ta là Chúng Sinh của Phật thì Ngài đã Diệt để Độ từ lâu rồi, và thế giới đã trở thành Niết Bàn lâu rồi, đâu còn dẫy đầy phiền não như hiện giờ?

Kinh Kim Cang viết: “Ta đã diệt độ vô lượng vô số Chúng Sinh, nhưng thật ra không có một Chúng Sinh nào bị diệt độ cả”. Vì Chúng Sinh đó chỉ là tư tưởng của Phật. Nói rằng Diệt Độ, nhưng thật ra Ngài cũng không có DIỆT ĐỂ ĐỘ, chỉ CHUYỂN HÓA chúng mà thôi. Chuyển Hóa cũng là tên gọi khác của Độ Sinh. Khi những tư tưởng xấu xa, đen tối đã bị “Diệt Độ”, trở thành thanh cao, trong sạch thì cái tâm người tu được gọi là đã “Thoát Tục”, tức là những pháp Tham, Sân, Si, Mạn v.v... không còn đeo bám, hành hạ hành giả, thì gọi là hành giả được giải thoát. Do đó, hình ảnh PHẬT NGỒI TRÊN TÒA SEN là để tượng trưng cho sự GIẢI THOÁT khỏi những nỗi KHỔ của người tu, là kết quả của những công việc làm mà mỗi người trên hành trình tu tập cố gắng bắt chước Hạnh của Phật để thực hiện trong đời sống, gọi là “tạc tượng Phật”, không phải là dùng vàng, ngọc, xi măng rồi tạc lấy mà thắp hương để thờ.

Ai có đọc Kinh Kim Cang đều thấy bài Kệ: “Nhược dĩ sắc kiến ngã. Dĩ âm thanh cầu ngã. Thị nhân hành tà đạo. Bất năng kiến Như Lai”. Tức là kẻ nào dùng hình tướng, âm thanh để cầu Ta, thì đó là kẻ hành tà đạo, không thấy được Như Lai. Bởi Như Lai là do công năng tu tập mà thành tựu, không phải do tạc tượng rồi tụng Kinh, niệm Phật cầu xin mà được gặp! Người tạc tượng rồi cầu xin rõ ràng là đang hành tà đạo mà không hay.

32 TƯỚNG TỐT VÀ 80 VẺ ĐẸP CỦA PHẬT

Sau khi hành đủ các Hạnh được hướng dẫn, Giới Định Huệ, Bát Chánh Đạo, người tu đã Thấy Tánh rồi thì phải làm công việc ĐỘ SINH, để đưa hết Chúng Sinh Thành Phật hay là hoàn toàn Giải Thoát. Nhưng đã Thành Phật rồi thì còn phải hành tiếp cho có 32 Tướng Tốt của Phật. Những Tướng này được Kinh ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN giải thích như sau: “Mỗi một tướng tốt đều là kết quả của sự tu diệu hạnh của Bồ Tát từ lúc mới phát tâm Bồ Đề kiên cố cho đến khi được thành đạo Vô Thượng Bồ Đề”. Công việc tu diệu hạnh được mô tả bằng 32 Tướng Tốt gồm có:

1) Bàn chân bằng phẳng

2) Bàn chân có nghìn xoáy ốc

3) Ngón chân dài và nhỏ

4) Gót chân đầy đặn

5) Ngón tay có nhiều vân

6) Chân tay mềm mại

7) Bụng tròn trĩnh, đầy đặn như bụng kim sắc lộc vương

8) Mắt cá chân bằng phẳng

9) Tay dài tới đầu gối

10) Năm căn ẩn kín, như tượng mã vương

11) Mình tròn trặn, đầy đặn như cây Ni câu đà.

12) Lông trên mình đều nghiêng lên phía trên

13) Lông đều xoáy theo bên phải

14) Thân mình sắc vàng

15) Thường chiếu sáng cách thân tám thước

16) Lớp da mịn màng, không dính bụi bặm

17) Bảy chỗ đầy đặn, bằng phẳng

18) Nửa mình trên như mình sư tử

19) Cánh tay tròn lẳn

20) Xương ngực bằng phẳng

21) Thân hình vạm vỡ

22) Trong miệng có bốn mươi răng

23) Răng nhỏ khít và rất đều

24) Răng trắng như ngà

25) Hàm vuông như hàm sư tử

26) Khi ăn thấy hương vị thượng hảo

27) Đỉnh trên trán nhô lên thành tướng nhục kế

28) Lưỡi dài và rộng

29) Tiếng như tiếng Phạm Âm

30) Sắc mắt xanh biếc

31) Mắt như mắt ngưu vương

32) Khoảng giữa lông mi có một sợi lông dài và trắng.

Những TƯỚNG này không thể dùng dụng cụ mà đẽo, tạc nơi đá, gỗ, xi măng, mà bằng những HẠNH được thực hiện trong đời sống của mỗi người qua các việc làm cụ thể cho từng TƯỚNG:

Như Lai đã từng trong vô lượng A Tăng Kỳ kiếp dốc lòng tu trì tịnh giới, cho nên nay mới được cái tướng bàn chân bằng phẳng.

Nhờ sự cúng dường cha mẹ và bậc có đức , cho nên được tướng nghìn xoáy ốc dưới bàn chân.

Đối với chúng sinh không mang lòng làm hại, không có ý tưởng cướp đoạt, hễ thấy cha mẹ, những bậc có đức thì ra xa đón chào, sửa đặt tòa ngồi, cung kính lễ bái, dẹp bỏ lòng kiêu mạn , nhờ thế mà nay được tướng ngón tay dài và nhỏ. Có đủ ba hạnh kể trên nên được gót chân đầy đặn.

Nhờ dùng Tứ Nhiếp Pháp giúp đỡ chúng sinh , nên được ngón tay có nhiều vân.

Dùng các thứ dầu thơm tắm gội cho cha mẹ, sư trưởng và các bậc có đức, nhờ thế mà được tướng chân tay mềm mại .

Nhờ công tu tập các pháp lành không biết chán mỏi, nên được tướng bụng tròn trặn, đầy đặn .

Nghe pháp vui vẻ, thích nói lại cho người khác nghe, và ưa làm việc đạo , nhờ thế mà được tướng mắt cá chân bằng phẳng.

Nhờ ba nghiệp thanh tịnh, khám bệnh cho thuốc, phá trừ lòng kiêu mạn, ăn uống có chừng mực , nên được tướng tay dài bằng gối.

Thấy người ta chia rẽ, dùng lời nói cho người ta đoàn tụ với nhau; biết tự tu hổ thẹn, lại dạy người tu , nhờ thế mà được tướng năm căn ẩn kín.

Tự mình tu sạch ba nghiệp lại dạy người khác tu, nếu chúng sinh nào đau ốm thì tìm cách chạy chữa , như thế mà được tướng thân mình tròn lẳn.

Nhờ lòng vui vẻ nghe pháp, lại hay nói lại cho người khác nghe mà được tướng lông trong mình đều hướng lên phía trên.

Suy nghĩ nghĩa lý sâu xa của các pháp, ưa tu các pháp lành, cúng dường cha mẹ, sư trưởng và những bậc có đức, nếu đi dọc đường gặp pháp hoặc tăng phường đều cúng dường. Giữa đường nếu có gạch đá, gai góc hay vật bẩn thỉu thì dọn đi , nhờ thế mà được tướng lông trên mình đều xoáy về bên phải.

Nếu đem thức ăn hoặc đồ châu báu cho người thì không bao giờ sinh lòng sân hận , nhờ thế mà được hai tướng: Một là sắc vàng, hai là thường có ánh sáng lại được tướng da mịn màng, không dính bụi nhơ.

Thường giúp cho người những thứ cần dùng , nhờ thế mà được tướng bẩy chỗ đều đặn.

Tự mình dẹp bỏ tính kiêu mạn, biết điều hòa tính tình, tùy theo sở thích của mọi người, như pháp tu hành để diệt các pháp bất lành , nhờ thế mà được tướng nửa mình trên như mình sư tử, tướng cánh tay tròn lẳn và tướng xương ngực bằng phẳng, tướng ngón tay nhỏ và thân hình đầy đặn.

Nhờ không nói lưỡi hai chiều và làm cho những người tranh dành phải hòa thuận mà được tướng có 40 răng, tướng răng khít không hở kẽ, tướng rằng bằng nhau, đều đặn.

Nhờ tu các nghiệp từ bi, thiện lạc mà được tướng răng trắng như ngà. Thấy người thiếu thốn vui vẻ giúp đỡ, đón đưa , nhờ thế mà được tướng hàm vuông như hàm sư tử.

Coi hết thảy chúng sinh như con một vì thế mà được tướng ăn thức gì cũng thấy mùi vị thượng hảo.

Thường bố thí chúng sinh pháp vị vô thượng, gặp người hay quên thì cho trí nhớ, tự mình giữ Năm Giới lại dạy người cùng giữ, tu tập lòng từ, hay bố thí pháp cho mọi người , nhờ nhân duyên ấy mà được tướng nhục kế, tướng lưỡi dài rộng.

Cứ như thực mà nói pháp cho mọi người vui mừng, nói những lời êm ái, dịu dàng, không đúng thời không nói, do đó mà được tiếng Phạm Âm .

Chứa góp lòng thương, coi hết thảy chúng sinh như cha mẹ , nhờ nhân duyên ấy mà được sắc mắt xanh biếc và tướng mắt như tướng ngưu vương.

Thấy những người có đức thành thật tán thán , do đó mà được tướng bạch hào.

Kinh viết: Đó là 32 tướng, tuy có những nhân duyên khác nhau, nhưng nhân duyên chính là cái nhân “Trì Giới” và “Tinh Tiến”. Tại sao vậy? Vì nếu không chịu trì Giới và siêng tu Tinh Tiến thì đến thân người còn chẳng được làm, nói chi đến 32 tướng?

Lại nữa, phàm đã làm việc thì lòng nhất định không hối hận , nhờ thế mà được tướng bàn chân bằng phẳng.

Và khi làm việc thì dốc lòng làm, do đó mà được tướng nghìn xoáy ốc dưới bàn chân, tướng ngón tay có nhiều vân, tướng bảy chỗ bằng phẳng, tướng da mịn màng, tướng thân bằng phẳng, tướng thân thắng và tròn, tướng lưỡi dài rộng.

Thường tu các pháp thiện và dạy người khác cho nên được tướng ngón tay dài nhỏ, tướng tay chấm gối; tướng thường phát ánh sáng cách xa tám thước và tướng răng khít, không thưa hở.

Nhờ công phu tu sạch ba nghiệp nên được các tướng khác ...

Lại nữa, đối với chúng sinh, sinh tâm thuần thiện , nhờ nhân duyên ấy được tướng tay chân mềm mại, da thịt mịn màng, bụi nhơ không bám.

Vì theo thứ lớp và thời tiết mà tu tập các pháp lành , cho nên được tướng thứ hai, thứ ba và thứ tư.

Ưa làm điều lành, lòng không chán nản , nhờ nhân duyên ấy mà được tướng thân sắc vàng, tướng thân thường sáng, tướng răng trắng, tướng khoảng giữa lông mi có sợi lông trắng.

Nếu nghe người ta ca ngợi đức tính của mình thì không sinh lòng kiêu mạn, dấu diếm việc lành không cho người khác biết , nhờ nhân duyên ấy mà được tướng mã tàng.

Phàm tu các việc lành đều hồi hướng cho đạo Bồ Đề , vì thế mà được tướng lông trong mình đều xoay về bên phải, tướng trong miệng có 40 chiếc răng; tướng khi ăn thấy mùi vị thượng hảo.

Nhờ nhân duyên siêng tu tinh tiến nên được tướng hàm vuông như hàm sư tử, tướng nửa mình trên như mình sư tử.

Dốc lòng thương nhớ hết thảy chúng sinh như mẹ thương con , nhờ nhân duyên ấy mà được tướng răng nhỏ và bằng phẳng, tướng mắt xanh biếc như mắt Ngưu Vương.

Nhờ tu tập các pháp lành không biết chán nản cho nên được các tướng khác.

Các Bậc Bồ Tát khi y vào tịnh hạnh mà tu 32 tướng tốt, khi các nghiệp đã được thanh tịnh, tuy có 32 tướng tốt như thế nhưng chưa đầy đủ, chưa được hoàn toàn trong sáng. Bồ Tát còn phải tu theo 13 hạnh để thấu suốt đầy đủ hết thảy các pháp của Phật”. Trong vô lượng tướng, chúng sinh không giống nhau, có Thượng, Trung và Hạ không thể nghĩ bàn. Bởi thế Phật nói, trong 32 tướng, đem công đức tích góp hợp hết thảy chúng sinh mà so sánh thì mới chỉ bằng cái tướng mảy lông của Như Lai. Hết thảy các lỗ chân lông đều có công đức, chứa góp hòa hợp mà thành một vẻ đẹp, rồi tập hợp công đức của 80 vẻ đẹp tăng gấp trăm lần mới thành một tướng. Duy có hai tướng Bạch Hào và Nhục Kế thì phải tập hợp hết thảy các tướng khác, tăng đến nghìn lần mối thành được hai tướng đó. Bởi đem hòa hợp hết thảy công đức, đem hết công đức của 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp tăng lên nghìn vạn ức lần mới thành được cái tướng Lôi Âm của Như Lai mà âm vang xa thẩm đến vô lượng vô biên thế giới của Chư Phật nhiều như vi trần cũng đều nghe thấy. Vì làm lợi ích cho chúng sinh mà Bồ Tát tu hạnh đại từ bi, nhớ ơn đền ơn, tu tập các pháp sâu xa mầu nhiệm khó thể nghĩ bàn và các tướng tốt vi diệu như thế. Trong mỗi tướng có thể làm lợi ích cho vô lượng trăm nghìn vạn ức chúng sinh, khiến cho đều mở lòng Bồ Đề, lần lượt tu tập đầy đủ công đức cho thành được 32 tướng tốt đẹp. Khi có đủ các tướng tốt đẹp rồi, đều khiến đi đến gốc cây Bồ Đề, hàng phục ma quân chứng thành Phật quả, quay bánh xe Chánh Pháp, độ cho chúng sinh qua khỏi bể khổ, ngu si, sinh tử mà lên bờ giác ngộ, giải thoát yên vui để thành tựu công việc lợi ích cho hết thảy chúng sinh”.

Qua đó, ta thấy, các TƯỚNG này toàn là kết quả của những việc tốt, đâu có gì là linh thiêng, huyền bí mà “Mắt phàm không thể nhìn thấy” như những người không đọc hết Kinh sách đã tưởng tượng rồi lấy vàng, ngọc, đá, xi măng tạc ngày càng to để thờ!

Tóm lại : Qua những gì mà người tu Phật được hướng dẫn phải hành trì, cũng như các Quả Vị, Bồ Tát, Phật mà ai chứng đắc được xem như là như những vị Thánh nhân cao cả. Rồi những Cõi Phật thanh tịnh, trang nghiêm, được trang hoàng toàn bằng châu báu, thỏa mắt, vừa tai v.v… không ngoài mục đích để con người ham thích được “Siêu Phàm, nhập Thánh” mà ngưng làm việc ác, hành các hạnh lành, nhờ vậy mà Thân, Tâm được an lạc. 32 Tướng Tốt trích dẫn trên cũng là những việc mà người tốt phải làm, đâu phải là của Phật cao cả, ở cõi trời nào? Niết Bàn cũng chỉ có nghĩa là “Ra khỏi rừng Phiền Não”, nói về sự an lạc sau khi Xả hết những dính mắc, chấp nhất các tướng hữu vi.

Khi người tu đã điều phục được cái Phàm Tâm của mình, không còn Tham, Sân, Si khi đối pháp, cũng không xâm phạm những gì không thuộc về mình. Lúc nào cũng giữ gìn Thân, Khẩu, Ý cho thanh tịnh, thì sẽ đạt được sự an ổn tại cuộc sống hiện tại gọi là “Hữu Dư Y Niết Bàn” mà có Kinh gọi là VIÊN NHƯ Ý BỬU CHÂU, vì mọi thứ đều được như mong muốn, đâu có đợi chết rồi mới đến được Cõi Tịnh Độ của Phật.

Tất nhiên, khi một người một đời sống thuần thiện. Ngay cả ý tưởng Ác cũng không còn, thì không cớ gì phải đọa Địa Ngục sau khi qua đời? Trái lại, khi bỏ cái Thân Phàm, thì phần Thần Thức của mỗi chúng ta sẽ trở về cùng với Hư Không bằng hình thức những Dòng Pháp, hay là những loại Khí. Theo hàng Tiên Đạo luận, thì loại nào cùng tính chất thì sẽ hội tụ với nhau. Như mây sẽ bay lên cao, đất đá sẽ chìm xuống. Thanh Khí sẽ về với Thanh Khí. Trọc Khí thì nặng hơn, sẽ ở cùng giai tầng với nhau là điều hiển nhiên. Đời cũng như Đạo đều có thể hiểu được. Cũng giống như người đời. Những người có cùng sở thích sẽ đến với nhau. Kể cả ra nước ngoài thì họ cũng sẽ tụ tập thành nhóm, sinh hoạt chung với nhau thì mới hợp. Người thanh cao tao nhã khó thể ở chung với những người ô tạp, ăn tục, nói phét. Chư Phật, Chư Thánh thì đã thoát tục, không còn những phàm tánh. Do vậy, nếu ta cùng tu các Hạnh giống như các Ngài. Cùng thanh lọc bằng cùng một công thức, đương nhiên kết quả đạt được sẽ không khác gì nhau. Đó là lý do Phật dạy: “Phật trước Phật sau đều bình đẳng”.

Tổng kết những việc Đạo Phật giải thích cũng như những điều người tu phải làm, kết quả đạt được, ta thấy không hề đưa đến việc tôn sùng, thờ phụng Giáo Chủ, hoặc người tu sẽ thành Thánh nhân, thoát phàm, lên ở một cõi trời thanh cao nào, mà chỉ nhằm mục đích đưa người thực hiện có một cuộc sống tốt đẹp hơn lên. Quá trình tu tập là một hành trình chuyển đối nhận thức, hành vi. Từ một người chỉ biết mọi thứ qua những gì cái Thân thu nhận qua Lục Căn, cho đó là kiếp sống, rồi lúc nào cũng phải bị động trước những sự tấn công của các pháp. Như thế là BỊ SỐNG, bị “Pháp Chuyển”. Cho vui thì được vui. Bắt buồn thì phải buồn. Người tu Phật là người tìm xét về Các Pháp, về cái THÂN, TÂM của mình, để thấy CÁI THÂN chỉ là vật mà mình sở hữu, không phải là MÌNH. Những điều mình từng đánh giá, nhận định, cân đo bằng Mắt Thấy, Tai Nghe là dựa vào cái THÂN, mà cái THÂN thì Giả tạm, Vô Thường, thấy đó rồi thời gian sau lại mất đi, không phải là THẬT MÌNH, rồi theo hướng dẫn của Đạo Phật dấn thân đi tìm cái MÌNH THẬT và sống với nó.

Khi chưa biết đến Đạo Phật thì “Đời là Bể Khổ”, “cái Thân là oán tặc”, vì chính nó và 5 tên giặc Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Ý, làm thành nhóm LỤC TẶC, lúc nào cũng mang ngoại pháp vào làm rối loạn cái Tâm. Nhờ nương Giáo Pháp của Đạo Phật rồi Tư Duy, Soi Quán, cuối cùng tìm lại được cái Thật Mình. Từ đó người tu sẽ chuyển hóa các pháp. Chuyển Mê thành Ngộ. Biến Nghiệp thành Nguyện. Chủ động lấy cuộc sống. Từ đó cái Thân trở thành ân nhân, trở thành chiếc bè để người tu dùng nó mà bơi khỏi biển Sinh Tử. Lục Tặc biến thành Lục Hộ Pháp, vì cũng nhờ có Tai để nghe giảng dạy, Mắt đọc Kinh, Sách để thắm nhuần lời giáo hóa của Chư Vị Giác Ngộ đi trước. Có Thân mới thực hành được các pháp lành. Lúc đó trần gian đã biến thành cõi an vui, gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Người tu từ đó có thể “Đồng sự nhiếp” hòa vào dòng Nguyện của Chư Vị đi trước, giúp cho những người chưa tỉnh, gọi là “Mồi ngọn Vô tận Đăng”, để mọi người cùng tiếp nhận được ánh sáng mà thoát ra khỏi bóng tối Vô Minh, không còn bị Pháp KHỔ vùi dập.

Tóm lại, PHẬT có nghĩa là GIẢI THOÁT. Tu Phật là một chuỗi công việc mà mỗi người phải tự thân vận động để được hưởng kết quả Giải Thoát. Kết quả này không đưa đến việc tôn thờ, sùng phụng ai, kể cả Giáo Chủ đã sáng tạo ra Đạo. Trái lại, tu hành là để đạt đến địa vị Giải Thoát giống như người đã sáng lập Đạo. Do đó, ta có thể kết luận rằng ĐẠO PHẬT KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO, dù hình thức cũng giống như tổ chức của một Tôn Giáo. Cũng có Giáo Chủ, Giáo Pháp, Tín Đồ, nhưng xem kỹ thì đó chỉ là Giáo Trình được Đức Thích Ca dùng nhiều phương tiện để Thiện Hóa con người mà thôi.

Trong khi các Tôn Giáo khác thì tín đồ thánh thiện lắm cũng phải đợi sau khi qua đời mới được về quốc độ của Giáo Chủ để được ban thưởng, thì tín đồ của Đạo Phật được gọi là PHẬT TỬ, tức là Con của Phật. “Con Phật thì sẽ được Thành Phật”, và thành tựu ngay tại hiện kiếp, cho ta thấy sự bình đẳng của một Giáo Pháp. Không hứa hẹn kiếp khác. Không phân chia giới tính, giai cấp, sang, hèn, học ít, học nhiều, già hay trẻ. Người tu cũng không làm tốt để kể công với Giáo Chủ, mà thanh lọc được nhiều hay ít thì tự bản thân được nhờ mà thôi. Mỗi người được hướng dẫn để tự giác mà cải tạo bản thân, từ hành vi, lời nói, cho đến cả ý nghĩ.

Qua đó, tôi thấy đây rõ ràng là một phương pháp giáo dục rất cần thiết cho con người, mà nếu nhân rộng ra thì không chỉ gia đình, người chung quanh mà tất cả xã hội đều được nhờ, vì mỗi người không chỉ thanh lọc lấy mình mà còn biết tôn trọng, yêu thương người khác, làm tròn trách nhiệm của một con người. Biết Từ, Bi, Hỉ, Xả và biết đền đáp TỨ ÂN, là những điều mà một con người chân chính phải thực hiện. Kết quả cuối cùng không phải là để thành Thánh, thành Tiên, thành Thần, rồi bay về cõi nào, mà chỉ để trở thành một con người hoàn hảo, sống giữa mọi người, giữa cảnh đời đầy phiền não, mà không còn bị phiền não nhiễu hại, đúng như hình ảnh HOA SEN mà Đạo Phật dùng làm biểu tượng. Một Giáo Pháp nói toàn chuyện cao siêu, lớn lao: Thánh Chúng, Bồ Tát, PHẬT, 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp, quyền phép vô biên, ngồi trên Tòa Sen để cứu độ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Tây Phương Cực Lạc, Đông Phương Tịnh Quốc v.v… Nhưng cuối cùng chỉ là để quy về công việc “Nội quang phản chiếu”, “Phản Vọng, quy Chân”, “Chuyển hóa Thân, Tâm” mà mỗi người tu phải TỰ THÀNH PHẬT, TỰ CỨU ĐỘ CHÚNG SINH CỦA MÌNH để tự mình được THOÁT KHỔ, THOÁT PHIỀN NÃO đúng như mục đích ĐỘ KHỔ của Đạo Phật.

Như thế, xét về mặt ảnh hưởng thì Đạo Phật dù ra đời cách đây cả 3.000 năm, nhưng rõ ràng là một phương pháp giáo dục cực kỳ siêu đẳng, sành tâm lý con người nên có thể vừa thuyết phục, vừa hứa hẹn để con người từ bóng tối bước ra ánh sáng. Từ phiền não trở thành an lạc mà vẫn không rời bỏ trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Tiếc thay rất nhiều người đã không đọc hết trình tự của Đạo Phật, mới vừa nghe nói Quả Vị, Cõi Nước Phật đầy dẫy châu báu đã vội bỏ hết việc đời, bỏ hết mọi trách nhiệm của một con người để chuyên tâm Tụng Kinh, Niệm Phật mong về đó! Đó là một sự hiểu lầm từ bao nhiêu thế hệ làm phí bao nhiêu sức trẻ, tài năng, sức đóng góp của con người đối với xã hội, với cuộc đời. Tôi mong rằng những người mến mộ Phật và Đạo Phật thời sau này chịu khó để thì giờ đọc kỹ lời dạy của Phật, để những hiểu lầm được xóa bỏ, trả lại cho Đạo Phật những gì đúng như người sáng lập mong mỏi: Thay vì đầu tròn, áo vuông thì hãy giữ Thân, Tâm cho ngay chính. Thay vì cạo tóc thì hãy cạo sạch Phiền Não. Thay vì bỏ hết mọi việc, không thiết làm ăn, sinh sống, chờ mọi người cung dưỡng cho, để hết thì giờ Tụng Kinh, Niệm Phật, thì hãy tự gây tạo cuộc sống để không mắc nợ Nhân Quả, đồng thời tiếp tay với xã hội để đưa đất nước đi lên. Thay vì tạc tượng bằng vàng, đồng, ngọc, xi măng để tốn tiền của bá tánh một cách vô ích thì quay vào tạc nơi Thân, Tâm của chính bản thân. Thay vì cất Chùa chiền hoành tráng thì tự xây Chùa nơi Tâm của mình. Biến đất Tâm thành Thanh Tịnh Địa để Phật ngự nơi đó. Thay vì Cầu xin Phật, trong khi Phật không có khả năng để ban phúc, giáng họa cho ai, thì tin vào Nhân Quả để sống một cách tốt đẹp hơn. Đó là những gì được ghi lại trong Chính Kinh mà tôi đã để khá nhiều năm, đọc hầu hết những Bộ Chính Kinh để đúc kết, cuối cùng đưa đến kết luận là ĐẠO PHẬT KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO mà chỉ là một phương pháp để giáo dục con người, để con người được Sống trong Phàm mà Thoát Phàm. Sống trong Phiền Não mà Phiền não không còn nhiễu hại”, được hạnh phúc, an lạc, trong kiếp sống gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn vậy.

 

TÂM NGUYỆN

Tháng 4 năm 2016


Phụ Bản I

Đại văn hào Anh

SHAKESPEARE

(Nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông)

William Shakespeare

( sinh 23/4/1564, mất 23 / 4 / 1616, theo lịch Julian )

L à một nhà văn nhà viết kịch Anh, được coi là nhà văn vĩ đại nhất của Anh và là nhà viết kịch đi trước thời đại. Ông cũng được vinh danh là nhà thơ tiêu biểu của nước Anh và là “Nhà thơ của Avon” (Avon là quê của Shakespeare, viết tắt của Stratford-upon-Avon). Những tác phẩm của ông, bao gồm cả những tác phẩm hợp tác, bao gồm 38 vở kịch, 154 bản sonnet, 2 bản thơ tường thuật dài và vài bài thơ ngắn. Những vở kịch của ông đã được dịch ra thành rất nhiều ngôn ngữ lớn và được trình diễn nhiều hơn bất kỳ nhà viết kịch nào.

Shakespeare được sinh ra và sinh trưởng tại Stratford-upon-Avon . Vào năm 18 tuổi, ông kết hôn với Anne Hathaway và có ba người con, đó là Susanna Hall và cặp đôi song sinh Hamnet Shakespeare và Judith Quiney. Trong những năm từ 1585-1592, sự nghiệp của ông thành công vang dội tại thủ đô Luân Đôn với vai trò là một diễn viên, nhà văn và đôi lúc là người sở hữu của một công ty kịch Lord Chamberlain’s Men , với tên gọi sau đó là King’s Men. Ông quay về quê Stratford để nghỉ hưu vào năm 1613, lúc ông 49 tuổi, sau đó 3 năm ông qua đời tại đấy. Số ít tài liệu về cuộc sống của ông tại đây đã được tìm thấy, được suy đoán là về các vấn đề thể chất, tình dục, tín ngưỡng, tôn giáo, và được cho là do những người khác có quan hệ gần gũi với ông ghi chép lại.

Hầu hết các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông được ông sáng tác trong giai đoạn từ 1589 đến 1613. Những vở kịch đầu tiên của ông chủ yếu là hài kịch và kịch lịch sử, những thể loại này được ông tăng lên sự tinh tế của nghệ thuật vào cuối thế kỷ XVI. Sau đó, ông sáng tác chủ yếu là bi kịch đến năm 1608, bao gồm các tác phẩm Hamlet , Vua Lear , Othello Macbeth , gồm một vài tác phẩm nổi tiếng nhất của ông bằng tiếng Anh. Trong giai đoạn cuối cùng của sự nghiệp sáng tác, ông sáng tác những vở kịch buồn (tragicomedies), hay còn gọi là lãng mạn, và hợp tác với một số nhà viết kịch khác.

Nhiều vở kịch của ông được tái bản nhiều lần với các chất lượng khác nhau và một cách chính xác trong suốt cuộc đời của ông. Năm 1623, hai đồng nghiệp cũ của Shakespeare, cũng làm việc trên sân khấu kịch, xuất bản First Folio , một tập hợp tất cả các vở kịch được coi là của ông. Nhưng đến nay, chỉ có hai trong tổng số đó được công nhận là của Shakespeare.

Cuộc đời và sự nghiệp

William Shakespeare là con trai của John Shakespeare, một người thợ làm găng tay và ủy viên hội đồng địa phương đến từ Snitterfield và Mary Arden, con gái của một chủ đất giàu có. Ông được rửa tội vào ngày 26 tháng 4 năm 1564 tại đó. Ngày sinh thật sự của ông vẫn chưa rõ, nhưng những báo cáo ban đầu là ngày 23 tháng 4 năm 1564, ngày của thánh George (St. George’s Day) . Ông là con thứ ba trong tổng số tám người con của gia đình Shakespeare và là lớn nhất trong những người con còn sống sót.

Mặc dù không còn những ghi chép về quãng đời đầu tiên của ông, nhưng các nhà nghiên cứu về tiểu sử của ông đồng ý rằng Shakespeare được giáo dục tại trường King’s New ở Stratford, một ngôi trường miễn học phí thành lập năm 1553, cách nhà ông khoảng một phần tư dặm. Vào thời Nữ hoàng Elizabeth , các trường dạy ngữ pháp có chất lượng không đồng nhất nhưng có một khuôn mẫu chương trình được quy định bởi luật pháp áp dụng trên toàn nước Anh và trường cũng cung cấp chương trình giáo dục chuyên sâu về ngữ pháp tiếng Latinh và những tác giả cổ điển trong tiếng Latinh.

Đến Luân Đôn

Vào năm 1585 , ông rời quê lên Luân Đôn đang lúc kịch trường ở chốn kinh kỳ trong thời kỳ sôi nổi.

Bước đầu ông xin làm chân giữ ngựa, soát vé ở cổng rạp hát. Sau đó làm nghề nhắc tuồng, thợ sửa bản in, dần dần lên làm diễn viên , đạo diễn nhà viết kịch . Lợi nhuận thu từ rạp hát là nguồn sống suốt đời của ông. Khi đời sống đã khá, ông củng cố địa vị xã hội bằng cách mua một tước quý tộc nhỏ.

Lúc ở kinh thành Luân Đôn, ông được Bá tước Southampton giúp đỡ. Dưới mái nhà của bá tước, có một người Ý lưu vong là Giovani Florio. Ông Giovani Florio đã giúp Shakespeare hiểu biết thêm về văn học Phục Hưng của Ý Pháp . Cuộc sống đang êm đềm thì xảy ra biến cố. Đó là vụ án Essex và Southampton (1601). Essex bị kết tội gây loạn chống triều đình Elizabeth I . Shakespeare cũng bị tình nghi có liên quan vì vở kịch Richard III được diễn ra một hôm trước đó. Essex bị chặt đầu, Southampton bị tù chung thân, còn Shakespeare trốn biệt .

Vào năm 1603 , Elizabeth I qua đời, Quốc vương nước Scotland là James VI lên nối ngôi và trở thành Quốc vương James I của nước Anh; khi đó Bá tước Southampton được trả tự do và trọng dụng. Shakespeare xuất hiện trở lại với đoàn kịch của mình và được triều đình hậu đãi.

Vào năm 1612 , Shakespeare rời kinh đô Luân Đôn sau 1/4 thế kỷ hoạt động sân khấu và trở về Stratford để sống những năm cuối đời. Ông mất ngày 23 tháng 4 năm 1616. Hiện nay, ở Stratford-upon-Avon quê hương ông, người ta thành lập Công ty kịch nghệ Shakespeare Hoàng gia.

Tầm ảnh hưởng

Cống hiến của Shakepeare in đậm dấu ấn lên kịch nghệ và văn chương các thế hệ sau. Ví như ông đã phát triển kịch nghệ cả về xây dựng nhân vật , cốt truyện , ngôn ngữ thể loại . Cho tới trước vở Romeo và Juliet, lãng mạn không được xem là đề tài giá trị đối với bi kịch . Độc thoại đã từng được sử dụng chủ yếu để truyền đạt thông tin về nhân vật sự kiện nhưng Shakespeare đã sử dụng nó để khám phá tâm trí nhân vật. Tác phẩm của Shakepeare ảnh hưởng sâu sắc tới thi ca thế hệ sau. Rõ ràng, ông vĩ đại hơn hẳn các nhà viết kịch lớn của Pháp trước thời ông như Racine hay Molière . Những nhà thơ trường phái lãng mạn đã nỗ lực để làm sống lại kịch thơ Shakespeare, dù đạt được rất ít thành công. Nhà phê bình Gorge Steiner phát biểu rằng tất cả các vở kịch thơ từ Coleridge đến Tennyson chỉ là những “phiên bản mờ nhạt viết dựa trên các chủ đề của Shakespeare”. Tuy nhiên, vào thế kỷ 18, đại văn hào nước Pháp Voltaire ( 1694 - 1778 ) - khi phân tích về kịch nghệ của Shakespeare cũng như những nhà soạn kịch nổi tiếng khác - đã phê phán ông, theo đó ông chỉ đáng được tôn vinh tại Anh:

Ông ta là một tên man rợ giỏi tưởng tượng; ông ta viết vài tác phẩm được ca tụng, nhưng những tuyệt tác của ông ta không thể được trình diễn ở một nơi nào ngoại trừ Luân Đôn và Canada . Đó không phải là dấu hiệu tốt đối với nền văn học của một quốc gia, vì những tuyệt tác của quốc gia ấy chỉ được trình diễn thành công trên mỗi chính quốc mà thôi. Không có bất kỳ một tuyệt tác nào của Shakespeare đã được trình diễn ở nước ngoài. (Voltaire)

Voltaire cũng bảo Shakespeare là “quái vật” tuy nhiên, bảo đại văn hào Pháp không bao giờ biết khen ngợi ông thì thật sai lầm. Voltaire luôn luôn cho rằng, ông là một nhà soạn kịch “có bản chất cao đẹp, mặc dù tởm lợm” .

Đại văn hào Shakespeare là người đồng tính?

Người ta nói rằng, Shakespeare rất lấy làm hối hận vì việc lấy vợ già lại đã mang thai như Anne. Chính vì thế, trong các tác phẩm của mình sau này, ông thường xuyên nhắc độc giả về tầm quan trọng của việc giữ gìn sự trong sạch trước hôn nhân.

Ở các nước phương Tây, Shakespeare được coi là một nhà văn, nhà viết kịch vĩ đại bậc nhất trong lịch sử. Có điều những gì mà người ta biết về ông cho tới hôm nay vẫn còn quá ít ỏi bởi lẽ ông gần như không để lại bất cứ thư tín, nhật ký hay bản thảo nào. Cho tới mãi gần đây, một học giả nổi tiếng căn cứ vào những dấu hiệu trong các tác phẩm của ông để đưa ra giả thuyết mới về cuộc đời của đại thi hào nước Anh này.

Vợ có thai trước khi kết hôn

William Shakespeare là con trai của John Shakespeare - Là một người có tiền, song cha của ông lại bị coi là không có văn hóa, cả đời chỉ biết điểm chỉ và vẽ các ký hiệu chứ không biết chữ. Chính vì vậy, cha của ông rất kỳ vọng vào đứa con trai duy nhất còn lại của mình. Vào thời nữ hoàng Elizabeth, tiếng La tinh được coi là biểu tượng của người có văn hóa và giáo dục, đồng thời cũng là viên gạch lót đường để bước vào xã hội thượng lưu. Cũng tại trường này, các thầy giáo thường xuyên cho học sinh diễn các vở kịch bằng tiếng La tinh. Đây là cơ hội để ông có được những chuẩn bị đầu tiên cho nghề diễn xuất sau này.

Năm 18 tuổi, ông kết hôn với một cô gái 26 tuổi, Anne Hathaway, khi đó đã mang thai. Anne sinh được một người con gái, Susanna, được rửa tội vào ngày 26 tháng 5 năm 1583. Hai năm sau đó, cặp song sinh một trai Hamnet (Hamnet mất vì một nguyên nhân không rõ vào năm 11 tuổi) và một gái Judith chào đời vào năm 1585. Do vậy, tới cuối đời, ông chỉ có hai người con gái.

Người ta nói rằng, Shakespeare rất lấy làm hối hận vì việc lấy vợ già lại đã mang thai như Anne. Một nhân vật trong tác phẩm “Đêm thứ 12” thậm chí còn tuyên bố rằng: phụ nữ nên lựa chọn một người đàn ông lớn hơn tuổi mình, như vậy hai người mới hợp nhau và người phụ nữ không làm mất đi tình yêu của chồng.

Tuy nhiên, trong xã hội thời bấy giờ, mối quan hệ hôn nhân cho dù có tồi tệ đến mức nào thì cả hai đều phải duy trì cho tới cuối cuộc đời mình. Do vậy, ông đã lựa chọn phương án sống ly thân với vợ. Sau khi cặp song sinh chào đời, ông đã một mình rời quê lên Luân Đôn. Những tưởng tượng và thể nghiệm về tình yêu của ông như trong những tuyệt tác sau này hầu hết đều là ở bên ngoài cuộc hôn nhân với Anne.

Yêu người khác giới

Các nhà nghiên cứu cho rằng, có thể tìm thấy khát vọng tình yêu ở khắp nơi trong các sáng tác của Shakespeare. Từ cặp đôi Romeo và Juliet cho tới Antony và Cleopatra… tất cả chỉ là hình ảnh vang vọng của những khát khao và lý tưởng về tình yêu. Ngoài kịch, ông còn viết rất nhiều thơ tình. Và cũng như kịch, thơ của ông không kém phần phức tạp mà mãnh liệt. Chính trong thơ, ông đã hé lộ nhiều điều về con người thật của mình.

Trong một bài thơ sonnet được nhiều người coi như là bản tiểu sử của Shakespeare, ông đã viết về mối quan hệ phức tạp giữa một người thanh niên trẻ và một người phụ nữ da đen. Người thanh niên trẻ tuổi này chính là bá tước Southampton. Hai bài thơ dài của Shakespeare viết vào các năm 1593 và 1594 đều là dành tặng cho bá tước này. Vị bá tước này cả ngày chỉ dành thời gian vào việc xem kịch, rất ghét chuyện kết hôn, thậm chí đã từ chối hôn sự với cháu gái của một đại thần của nữ hoàng, khiến gia đình bị phạt 5.000 bảng. Vì vậy, người nhà bá tước đã nhờ ông viết thơ khuyên nhủ anh ta.

Trong bài thơ này, Shakespeare không những không khuyên vị bá tước trẻ tuổi bớt tự yêu bản thân mình, ngược lại còn nói với anh ta rằng, tự kỷ là chưa đủ, cần phải thường xuyên soi gương để gương mặt xinh đẹp kia có thêm một phiên bản tuyệt đẹp nữa. Tiếp đó, ông nói với bá tước rằng: “Không người phụ nữ nào có thể cưỡng lại được sự hấp dẫn của anh, không để cho anh nắm giữ sự trong trắng của họ”. Vấn đề chính là mặc dù khuyên những người trai trẻ “chiếm giữ sự trong trắng của phụ nữ”, song Shakespeare lại say đắm chính chàng trai trẻ này. Bởi lẽ, vẻ đẹp của chàng ta không chỉ khiến phụ nữ run rẩy mà cả đàn ông cũng hoa mày chóng mặt. Trong thơ, ông viết rằng: “Anh có khuôn mặt của một cô gái, do chính tạo hóa đã tạo ra. Anh vừa là tình nhân vừa là tình lang của ta…”.

Giữa vị bá tước trẻ tuổi và người phụ nữ da đen đã xảy ra chuyện gì? Người phụ nữ da đen kia thực chất là ai? Cho tới nay người ta vẫn chưa thể trả lời được. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn, bài thơ này đã ngầm thể hiện rằng: ông say mê một người đàn ông, tuy nhiên người đàn ông này không thuộc về ông. Ông vẫn có ham muốn với phụ nữ, song lại cực kỳ ghét phụ nữ.

Rất nhiều năm sau đó, khi những dục vọng đã đi qua, Shakespeare dần trở nên bình lặng hơn với cuộc sống. Vào một ngày năm 1610, ông rời khỏi Luân Đôn, trở về bên cạnh người vợ mà mình đã lạnh nhạt từ lâu. Trước khi chết, ông đã viết một bức di chúc, để lại toàn bộ tài sản của mình bao gồm đất đai, vườn cây, trang trại cho con gái cả.

Cô con gái nhỏ chỉ được Shakespeare để lại cho một chiếc bát bằng bạc mạ vàng. Nguyên nhân là Judith đã khiến ông thất vọng vì kết hôn với người đàn ông kém tuổi mình, lại còn có con với người phụ nữ khác. Đối với người vợ đã gắn bó với mình suốt 34 năm, ông cũng chỉ viết vỏn vẹn một câu trong di chúc của mình: “Để lại cho vợ tôi chiếc giường tốt thứ hai của tôi cũng như những vật dụng trên đó”.

Hé lộ bí ẩn mới về cuộc đời của Shakespeare

Các nhà khảo cổ học Anh quốc tin tưởng rằng họ sắp khám phá những bí mật chưa từng biết đến trước đây về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn thiên tài William Shakespeare. Từ nay cho đến tháng 10/2010, khách tham quan vẫn có thể theo dõi quá trình khai quật của các nhà khảo cổ học tại khu vực quanh lâu đài New Place. Các chuyên gia khảo cổ học hy vọng những kết quả khai quật sẽ giúp chứng minh được giả thuyết rằng Shakespeare đã viết phần lớn các tác phẩm nổi tiếng của ông tại lâu đài này.

DANH NGÔN CỦA WILLIAM SHAKESPEARE

“Tồn tại, hay không tồn tại: đó là câu hỏi” (To be, or not to be: that is the question - Đây là một câu trong vở Hamlet của Shakespeare)

Cốt truyện Hamlet xoay quanh nhân vật trung tâm là Hamlet, hoàng tử nước Đan Mạch, sinh viên trường Đại học Wittenberg (Đức). Chàng gặp một cảnh ngộ éo le trong gia đình: vua cha vừa chết được ba tháng thì mẹ chàng, Hoàng hậu Gertrude tái giá lấy Claudius, chú ruột của chàng. Hồn ma của vua cha hiện về báo cho chàng biết Claudius là kẻ đã giết mình để chiếm đoạt ngai vàng và Hoàng hậu, và đòi Hamlet phải trả thù. Hamlet từ đó lòng tràn đầy căm phẫn, ghê tởm và chán ghét cuộc đời. Chàng giả điên để che mắt kẻ thù, thực hiện nghĩa vụ. Còn kẻ thù của Hamlet cũng ra sức theo dõi, dò xét chàng. Tình hình trở nên căng thẳng hơn khi Hamlet cho mời một đoàn kịch vào hoàng cung diễn một vở kịch. Xem đến kịch cảnh một đôi gian phu dâm phụ mưu sát nhà vua, Claudius hoảng hốt bỏ về rồi vào phòng riêng cầu nguyện. Hamlet theo sát và đứng ngay sau y. Thời cơ rất thuận lợi để chàng trả thù, nhưng chàng lại không hành động. Chàng cho rằng giết hắn trong lúc hắn đang cầu nguyện để linh hồn hắn sạch tội ác, lên thiên đàng thì không thể gọi là trả thù được và như thế không tương xứng với cái chết mà cha chàng đã chịu. Claudius lập mưu trừ khử Hamlet, hắn cho hai tên tay sai Rosencrantz và Guildenstern hộ tống Hamlet sang Anh, thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt. Trước khi Hamlet lên đường, mẹ chàng cho gọi chàng vào để nói chuyện, với ý đồ lợi dụng tình cảm mẹ con để khêu gợi Hamlet nói thật tâm trạng của mình. Quan đại thần Polonius, thân phụ của Ophelia, người yêu của Hamlet nấp sẵn sau bức rèm, có nhiệm vụ theo dõi cuộc nói chuyện đó. Nhưng Hamlet luôn đề phòng và khi phát hiện bức rèm động đậy, chàng rút gươm đâm. Tiếc thay không phải là nhà vua Claudius như chàng tưởng mà là bố người yêu của mình. Trên đường sang Anh, lợi dụng lúc hai tên tay sai của nhà vua sơ ý, Hamlet xem trộm tờ chiếu chỉ, đó là mật lệnh giao cho vua Anh phải giết ngay Hamlet. Hamlet bèn viết thay một chiếu chỉ khác, đề nghị vua Anh giết Rosencrantz và Guildenstern. Chàng trở về Đan Mạch tâu với vua là chàng bị bọn cướp biển bắt, rồi được chúng tha. Ophelia phần vì thất vọng với sự điên loạn của người yêu là Hamlet, phần quá đỗi đau thương trước cái chết bí ẩn của cha nên bị mất trí, lang thang và cuối cùng chết đuối. Laertes phẫn nộ trước cái chết của cha (Polonius) và được nhà vua nói cho biết Hamlet là thủ phạm, đồng thời bày ra kế hoạch để Laertes có thể trả thù được một cách êm thấm khiến Hoàng hậu không biết mà thần dân cũng không hay: tổ chức một cuộc đấu kiếm giữa Laertes và Hamlet, mũi kiếm của Laertes tẩm thuốc độc và không bịt đầu. Cẩn thận hơn, nhà vua còn chuẩn bị sẵn một cốc rượu độc để mời Hamlet uống. Hamlet không lường trước được âm mưu thâm độc của kẻ thù. Song, ngoài ý muốn của Claudius, khi Hamlet thắng điểm, Hoàng hậu lại là người uống cốc rượu để mừng con. Đến hiệp ba, Laertes đâm Hamlet bị thương. Đổi kiếm, Laertes lại bị Hamlet đâm trúng. Hoàng hậu ngấm rượu độc chết khiến cả triều đình sửng sốt. Laertes biết mình cũng sắp chết nên hối hận nói rõ sự thật: nhà vua Claudius là thủ phạm của âm mưu và Hamlet sẽ không thể thoát chết do đã bị trúng độc. Căm phẫn tột độ, Hamlet đã dùng mũi kiếm tẩm độc kết liễu nhà vua. Vở bi kịch kết thúc với việc Fortinbras, sau khi chinh phục được Ba Lan trở về, lên ngôi vua trị vì vương quốc Đan Mạch trong tiếng đại bác, tiếng quân nhạc tiễn đưa linh hồn Hamlet về nơi yên nghỉ.

Nói chung, thực tế xã hội xấu xa mâu thuẫn với lý tưởng của Hamlet, khiến chàng phải đánh giá lại tất cả và tìm cho mình một thái độ cư xử phải đạo. Quá trình đánh giá thực tế và xác định đó đã gây ra trong tâm hồn Hamlet những phút đau đớn, bi quan, hoài nghi, do dự, những phút trăn trở “tồn tại hay không tồn tại” (to be or not to be), những phút “chịu đựng hay vùng lên chống lại”. Cuối cùng, Hamlet đã tìm ra được chân lý đấu tranh nhưng vì đơn độc và thiếu cảnh giác nên chàng đã gục ngã vì cạm bẫy của kẻ thù. Vì thế, có thể nói “to be or not to be” chỉ thái độ suy tư, lý luận nhiều nhưng không đủ tin tưởng và dũng khí để hành động cụ thể, đồng thời phản ánh mâu thuẫn tất yếu của sự phát triển, của cuộc đấu tranh giữa cái đẹp và cái xấu trong tồn tại xã hội.

Các DANH NGÔN khác:

- Chúng ta nắm giữ vận mệnh của chính mình chứ không phải các vì sao.

It is not in the stars to hold our destiny but in ourselves.

- Không di sản nào quý giá bằng lòng trung thực.

No legacy is so rich as honesty.

- Quá nhiều cái tốt sẽ trở thành tiêu cực.

An overflow of good converts to bad.

- Những ngày tháng vàng son ở trước chúng ta, không phải ở sau ta.

The golden age is before us, not behind us.

- Đừng yêu bằng mắt mà hãy yêu bằng tâm hồn.

Love looks not with the eyes, but with the mind…

LỜI KẾT

Shakespeare Lives - Chương trình kỷ niệm về Shakespeare lớn nhất thế giới

Đây là chương trình bao gồm một chuỗi các sự kiện và hoạt động chưa từng có từ trước đến nay, đã được Hội đồng Anh công bố vào chiều 23.4.2016 và triển khai trên toàn thế giới, nhằm tôn vinh đại văn hào Shakespeare và các tác phẩm của ông ( Hội đồng Anh British Council là một tổ chức của Vương quốc Anh chuyên môn về lĩnh vực giáo dục và văn hóa quốc tế).

Dự án có tên gọi Shakespeare Lives sẽ kêu gọi cả thế giới cùng tham gia vào các hoạt động kỷ niệm, trong đó có các hoạt động trực tuyến, và trải nghiệm các tác phẩm của Shakespear trên sân khấu, trong các tác phẩm điện ảnh, các hoạt động triển lãm và trong trường học. Mục tiêu của dự án là thu hút được hơn nửa tỉ người tham gia trên phạm vi toàn cầu.

Dự án sẽ giới thiệu các tác phẩm sân khấu mới dựa trên kịch của Shakepeare, các bộ phim chuyển thể, các sự kiện đọc sách cho công chúng, tài liệu giáo dục dùng trong trường học và tài liệu học tiếng Anh dành cho học viên mọi lứa tuổi tại Vương quốc Anh và trên thế giới. Khởi động vào mùa thu năm nay, dự án Shakespear Lives sẽ diễn ra xuyên suốt trong năm 2016.

William Shakespeare: Biểu tượng văn hóa vĩ đại nhất nước Anh

Shakespeare tới London để theo đuổi sự nghiệp trong giai đoạn 1585 - 1592. Thời gian này, Shakespeare là một diễn viên, nhà soạn kịch đồng thời góp vốn vào công ty kịch Lord Chamberlain’s Men, sau đổi tên thành King’s Men.

Trên con đường đi tới thành công, Shakespeare không tránh khỏi sự chỉ trích. Ví dụ trong cuốn sách Groats-Worth Of Witte xuất bản năm 1592, nhà viết kịch Anh Robert Greene đã chỉ trích hoạt động biên kịch thời kỳ đầu của Shakespeare, gọi ông là một “con quạ mới phất”.

Mặc dù rất bực mình khi bị chỉ trích, Shakespeare vẫn sáng tác đều tay. Theo tư liệu lịch sử, các vở kịch đầu tiên của ông được ra đời vào khoảng năm 1594. Từ đó đến năm 1611, ông tung ra trung bình 2 vở kịch/năm. Trong năm 1593, ông xuất bản các bài thơ đầu tiên, gồm Venus and AdonisThe Rape Of Lucrece. Các nhà nghiên cứu cho rằng, thời kỳ này ông còn viết rất nhiều bài thơ trữ tình ngắn (sonnet).

Thành thương hiệu hút khách

Đây cũng là thời điểm sự lao động miệt mài của Shakespeare bắt đầu được đền đáp. Ông đã phát đạt hơn khi các vở kịch đầu tiên trở nên ăn khách. Tới năm 1598, Shakespeare đã thành một thương hiệu lớn, tên ông thường đồng hành với nhiều vở kịch cháy vé.

Các tác phẩm được ông sáng tác trong thời kỳ đầu chủ yếu mang đề tài lịch sử và hài kịch như Henry VI, Titus Andronicus, A Midsummer Night’s Dream, The Merchant Of Venus Richard II. Một trong những tác phẩm bi kịch nổi tiếng nhất của ông là Romeo and Juliet đã ra mắt trong thời kỳ này.

Tác phẩm có sức lôi cuốn toàn cầu

Tới nay các nhà phân tích vẫn coi William Shakespear là nhà văn, nhà viết kịch vĩ đại nhất của Anh và cuộc thăm dò mới nhất của Hội đồng Anh cho thấy nhận định này chưa cần phải được đánh giá lại. Sức ảnh hưởng lớn của Shakespear hình thành một phần từ việc ông là nhà viết kịch đi trước thời đại. Kể từ cuối thế kỷ 16 đến nay, tác phẩm của ông chưa bao giờ lỗi thời và vẫn có sức hấp dẫn toàn cầu.

Với những cốt truyện đầy lôi cuốn về các vụ án mạng, sự phản bội hòa trộn với những câu chuyện tình yêu, sự đam mê đan xen với ghen tuông, báo thù, yếu tố bí ẩn, chiến tranh, mâu thuẫn chủng tộc... có thể nói tính thời sự trong các vở kịch của ông vẫn rất phù hợp với thế giới hiện đại.

William Shakespeare là một nhà văn và nhà viết kịch Anh, được coi là nhà văn vĩ đại nhất của Anh và là nhà viết kịch đi trước thời đại. Ông cũng được vinh danh là nhà thơ tiêu biểu của nước Anh và là “Nhà thơ của Avon” .

PHẠM VŨ


(Tham khảo: Sách báo – Internet)

Một bài viết của nhà thơ Lưu Trọng Lư 73 năm trước

MÁI TÂY

Một hôm gần đây, tôi về thăm bạn tôi là ông Nhượng-Tống ở một làng hẻo-lánh giữa Hà-Nam và Nam-Định. Bạn tôi là một người đã từng hoạt-động nhiều, nhưng khi còn ở chốn xa-xăm hay khi “về vườn” (mà sao tôi không gọi được thế?), bạn tôi vẫn tỏ ra là một thi-sĩ có nhiều tài, một thi-sĩ bình-dị và trong trắng. Hiện nay, an-nhàn như một kẻ dật-sĩ, bạn tôi nằm dịch những án văn cổ như Ly Tao, Hồng Lâu Mộng…

Bản văn bạn tôi vừa dịch xong, chính là bản Tây Sương-Ký. Lẽ ra tôi đọc ngay lúc ấy cho thỏa lòng bấy lâu mong-ước, nhưng gặp nhau có một đêm, chúng tôi còn phải nói với nhau những chuyện khác. Tôi bình-sinh tuy không được đi nhiều, nhưng có điều này rất lấy làm tự đắc là không phải bao giờ cất chân đi cũng là vì một “đại sự”, nghĩa là không phải có “đại sự” tôi mới nghĩ đến sự xê dịch… Thường thường, một mình tôi băng hàng mấy trăm cây số để viếng cảnh đẹp hay là chẳng đẹp, đi hàng chục cây số để tới thăm một người bạn thân hay là chẳng thân. Được nói chuyện một đêm với bạn, sáng ăn một bữa cơm rồi lại ra về, thế cũng đủ lấy làm hoan-hỷ… Chúng tôi đã nói về văn-chương, về thời-thế và về cả việc kinh-doanh nữa… Nhưng có một điều là chúng tôi không nói đến Tây Sương-Ký. Có lẽ bạn tôi muốn dành hết cả sự bất ngờ cho tôi trong khi đọc sách.

Hai hôm sau, tôi mở sách ra đọc - một bản thảo gần 250 trang! Thú thật, lúc mở sách ra, tôi hơi cảm-động, cảm-động như khi được nói chuyện lần thứ nhất với một người tình-nhân. Sự cảm-động ấy dần dần tiêu-tán hết… Đọc gần nửa cuốn sách, tôi luôn luôn như phải nén giữ sự căm-giận của tôi. Đã nhiều lần tôi nói lẩm-bẩm: “Sách xoàng quá! Thế mà cả nước Tàu đều thán-phục, thì thật là một sự điên-rồ chưa từng thấy…”. Thực ra trong hơn trăm trang đầu ấy, cũng có một vài đoạn hay, nhưng cái hay không đủ kéo lại cái sự bằng-phẳng, nhạt phèo của các đoạn khác… Hôm đầu, tôi đành bỏ dở sự đọc, thất-vọng vô cùng… Tôi nói một mình: “Cái anh Nhượng-Tống kể cũng thừa công và rỗi việc thật!”. Có lúc tôi muốn ngờ rằng: hoặc giả người dịch bất-tài không lột được nguyên-văn chăng? Nhưng tôi thiết nghĩ sự bất-tài của người ta cũng có hạn, cái anh Nhượng-Tống có dịch sai hay dịch kém đến đâu, cũng không thể làm hại người xưa đến thế… Còn như cái nhà phê-bình Thánh-Thán múa tay, múa chân, đọc câu văn nào cũng lấy làm đắc ý, thì nghĩa làm sao? Có khi, một chữ một câu đủ làm cho văn chương ông ta tuôn ra như sông dài biển cả, nhưng lại có khi, ông chỉ phê có một chữ: “Hay!” hay “Tuyệt!”. Tôi nghĩ: “Anh này cũng lại chỉ là một người điên mà thôi”. Nhưng người ấy mà điên thì trong cả nước Tàu ai lại là không điên? Đọc đi đọc lại những lời phê của Thánh-Thán, tôi không thể nào tin được rằng nhà phê-bình ấy là giống dễ có ở đời, như thường đã sản-xuất ở nước vào khoảng năm 1935, 1936. Thánh-Thán quả là một nhà văn sáng suốt, tài-bộ, sâu-sắc và phong-nhã. Một nhà văn tiêu-biểu cho cái tinh-thần tráng-kiện, xuất-sắc, có nét, có cạnh, của nước Tàu… Nhiều đoạn văn của Thánh-Thán có thể ký tên: Pascal. Ta hãy thử đọc vài đoạn nhỏ về văn Thánh-Thán, ở chỗ nói: “cái rất nhỏ…”, ở chỗ nói: “núi Khuông lư”, ở chỗ nói: “dâm thư” thì rõ. Đó là những đoạn văn hay trong những đoạn văn hay nhất mà tôi thấy nhan-nhản trong những lời phê bình của Thánh-Thán. Nhưng tôi sợ đó chỉ là những đoạn văn hay mà thôi, và không thể là những lời phê- bình đúng.

Tôi cho rằng: Thánh-Thán chỉ mượn Tây-Sương một cái cớ để nói chuyện với người đời sau như trong bài tựa đã nói, và tôi lại cho rằng: vở kịch Tây-Sương không xứng với lời phê của Thánh-Thán. Nhưng tôi có thể nào đọc dở một tập sách danh-tiếng như thế không? Và có nên lên án ngay khi chưa xét hết tập hồ-sơ không?

Hôm sau, tôi lại mở sách ra, đọc nốt…

Vẫn một cái đôi xoàng-xĩnh, nhạt-nhẽo ban đầu, nhưng tôi biết từ đây đã xen vào một cái gì, một thứ ánh sáng mới, một sức mạnh huyền-diệu… Tôi bắt đầu bị lôi cuốn. Bên cạnh văn “Mái Tây” tôi cũng vẫn đọc những lời phê của Thán, và đã lo cho tài của Thán không xứng với Tây-Sương. Đã 12 giờ đêm… tôi vẫn ngồi đọc! Mỗi phút mỗi trang đã đưa lại cho tôi một thú-vị, một sự bất-ngờ. Tôi đã hiểu thế nào là Tây-Sương, thế nào là cái hay của Tây-Sương, và tôi không cần lời phê Thánh-Thán nữa. Tôi chăm-chú, tôi thành-kính đọc có một thôi hết vở kịch. Khi gấp sách lại, như có một ngọn gió lạnh thổi qua tâm-hồn tôi. Tôi mới hiểu tại sao người xưa lại sợ, không dám đọc những thơ hay trong lúc đêm lặng.

Bây giờ tôi đã hiểu rồi… Lời tựa của Lý Trác-Ngô có lẽ không nên có, cả lời phê của Thánh-Thán có lẽ cũng là thừa… Duy có lời dịch của Nhượng-Tống thực là nên có. Vì, dầu muốn tiến theo ngả nào, người Việt-Nam cũng không thể không biết đến những áng văn như Tây-Sương-Ký. Ta đã biết cái tư-tưởng thiết-thực của Khổng-Mạnh, ta đã biết cái triết-lý bóng bẩy của Lão-Trang, ta lại cần phải biết cái thi-vị huyền-diệu của Tỳ-Bà của Tây-Sương, của Ly-Tao. Chuyển dịch một tư-tưởng từ tiếng này qua tiếng khác, không khó, nhưng chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng này qua tiếng khác, thật quả là không dễ. Nhượng-Tống dịch Tây-Sương kể cũng đã xứng với cái công việc mà mình đã tự ủy-thác cho mình. Vì không những là một nhà nho, Nhượng-Tống còn là một thi-sĩ nữa.

Vậy thì “Mái-Tây” (Tây-Sương-Ký) là thế nào?

Nó chỉ là một vở kịch không phải để diễn, mà cốt để đọc, nó là “một tấc lòng lưu lại nghìn sau”, như lời Lý Trác-Ngô đã nói.

Cái tấc lòng ấy là một câu chuyện tình đã xảy ra ở mái tây ngôi chùa Phổ-Cứu, một ngôi chùa công đức của Đức Bà Võ Tắc-Thiên. Cạnh chùa có một biệt-thự của một vị tể-tướng họ Thôi. Thôi tướng-công xây cái biệt-thự ấy để làm nơi dưỡng-lão; không ngờ trời chẳng độ, tướng-công chết ngay hôm lạc-thành biệt-thự. Vì thế cả nhà ở lại chùa, chịu tang. Thôi tiểu thư cũng ở lại; một hôm nàng ra sân chùa đứng chơi, tình cờ gặp Trương Quân-Thụy là một thư-sinh con quan, có trí lớn, vừa phiêu-lưu vừa cầu học. Thôi Oanh-Oanh là một người đẹp. Mà Trương Quân-Thụy là một khách tài-hoa. Cả tấn kịch ở “mái tây” là ở đó. Quân-Thụy cảm Oanh-Oanh ngay từ phút đầu nên cố xin ở lại chùa trọ học, cốt để cho gần Thôi Oanh-Oanh. Nhưng thực ra, chàng đã tính lầm:

Tuy trong gang tấc mà nghìn quan-sơn…,

Càng gần, chàng càng thấy xa Oanh-Oanh… Trong thời-gian ấy thì không biết bao việc nữa đã xảy ra. Giặc vây chùa, đòi lấy cho được Oanh-Oanh. Mẹ Oanh-Oanh trong lúc khốn-nguy, hứa gả cho kẻ nào có thể cứu nguy được cho nhà mình. Người ấy, than ôi! không ngờ lại là Trương Quân-Thụy, nhưng một khi nguy đã hết rồi thì lời hẹn xưa cũng bị quên đi. Mẹ Thôi Oanh-Oanh không muốn gả nàng cho Quân-Thụy nữa, chỉ bằng lòng cho hai người kết làm “anh em” mà thôi. Thôi Oanh-Oanh, cũng đau-đớn như Quân-Thụy về sự lỗi hẹn nhưng nàng vẫn tỏ ra là người con nhà nề-nếp, phải giữ giá cao… Tất cả sự khổ-sở, “gian-truân” của kẻ si-tình là ở chỗ này. Nhưng cuối cùng lễ-giáo cũng không giữ được lòng người. Một hôm, Thôi Oanh-Oanh để mình trôi theo giòng tình-ái. Nàng tìm tới Trương Quân-Thụy, và hiến cả tấm lòng trinh-bạch mà xưa nay nàng vẫn gìn-giữ cho chàng. Việc ấy đến tai mẹ, nhưng biết làm thế nào! Mẹ nàng cũng đành để cho hai linh-hồn ấy tác-hợp với nhau vậy… Nhưng bà không muốn rể bà chỉ là một chàng áo vải. Vì thế, giữa ngày ân-ái, đã diễn ra cảnh sinh-ly. Chàng phải vào kinh chạy theo công-danh.

Sự đau buồn của hai người thật đã đến chỗ bút không đến được, trừ ngọn bút của tác-giả:

Bầu trời trời thăm thẳm xanh lơ, Đìu hiu mặt đất, lơ-thơ hoa vàng. Gió tây thổi buốt can-tràng, Về nam, cái nhạn Bắc, kêu thương lạc-loài.

Rừng sương ai nhuộm đỏ tươi ?

Phải chăng nước mắt của người biệt-ly ?

Tơ liễu dài, dài có ích chi ?

Buộc sao được gót ngựa phi dậm trường !

Xum vui sao khéo muộn màng ? Chia lìa sao khéo vội vàng, xót xa ?

Rừng thưa ơi ! có thương ta, vì ta, rừng níu bóng tà lại nao ! Ngựa kia, chầm chậm chứ nào ! Xe này liều liệu theo vào cho mau. Tương-tư vừa mới qua cầu, Biệt-ly lại chuốc mối sầu mang mang…

Chợt nghe một tiếng “Lên đường ?” Rụng rời tay ngọc, xuyến vàng rộng thênh.

(Tây-Sương-Ký)

Đó là nỗi buồn mênh mông trong lòng kẻ đi, người du-lịch thiên vạn cổ. nhưng mà thật ra, một khi vừa rứt áo, cái buồn mới bắt đầu… Mà cuộc ly-biệt ấy là một cuộc ly-biệt lâu dài như trời đất, mà đi một đoạn đường, lại thấy diễn thêm một lần ly-cách. Tuy rằng ly-cách, mà nào có rời được nhau ra. Từ đây, trong đêm, Trương vẫn nghe có tiếng nói thân-yêu theo dõi chàng, tiếng đập lên và dội lại như cái điệp-khúc của bài “Ly-cách”. Có khi chàng thấy nàng đến cạnh mình, hoặc khuyên-lơn, hoặc âu-yếm… Lại một hôm, thấy tiếng gõ cửa, thì chàng lại thấy Oanh-Oanh đẩy vào, chàng nói với Oanh-Oanh:

Có công lặn-lội thăm tìm,

Đêm khuya, sao chẳng mặc thêm áo giầy ?

Hài thêu, sương ướt bùn lầy,

Bàn chân đi vội chắc xầy da non ?

Sự thương-yêu của một người đàn ông như thế thật là tỉ-mỷ, thật là không cùng. Nhưng, than ôi! đó chỉ là lời hỏi-han sự thương-yêu trong giấc mộng mà thôi. Rồi sau cuộc sinh-ly, là gì nữa…? Tác-giả đã bỏ bút vào hộp, như viên võ-tướng tra gươm vào vỏ. Sau quyển sách là sự lặng-lẽ, sự tịch-mịch của muôn đời… Không một lời nào nói về sự đoàn-tụ mà người ta ước mong, không một lời nào nói về người thiếu-phụ mà người ta muốn biết số-phận, không một lời nào nữa! Ta nên biết rằng: Thôi Oanh-Oanh là một cô gái nghìn vàng, lại là một bậc tuyệt-thế giai-nhân, trước kia đối với gã si-tình đương chiều chuộng để yêu cho được mình, thì nàng làm ra vẻ cao-nghiêm biết chừng nào, thế mà khi đã biết số-phận mình rồi, nghĩa là đã là người vợ của Trương Quân-Thụy rồi, thì lúc chàng ra đi, nàng chỉ đọc mấy câu:

Rẻ rúng thôi đành phận !

Van lơn nhớ buổi đầu…

Xin đem lòng lúc trước

Thương lấy kẻ về sau. (Tây-Sương-Ký)

Thật là giọng một kẻ biết thân-phận mình, thân-phận một người vợ trong xã-hội Á-đông, một người phục-tòng, một người khốn-khổ. Mà số-phận khắt khe của nàng, đến đoạn cuối này mới chỉ là bắt đầu vậy.

Ý hẳn người viết ra muốn bảo rằng: Tây-Sương-Ký không phải là một tấn kịch của một người nào, hay của một nhà nào.

“Tây-Sương” chính là một tấn kịch vô-hồi, diễn đi và diễn lại trong đời người ta, một tấn kịch của mọi người, của mọi nhà, của mọi đời.

Ở phương Tây, kịch Roméo và Juliette còn sống mãi, thì kịch Tây Sương-Ký ở phương Đông cũng còn chưa chết trong lòng người. Thật là một con thuyền đã cắm neo ngoài dòng thời-đại! Thôi Oanh-Oanh ở trong lòng mọi người đàn bà, Trương Quân-Thụy ở trong lòng mọi người đàn ông. Trương và Thôi không phải là giống riêng, do một thời-đại nào tạo nên, một xã-hội nào sản-xuất ra cả.

Lý Trác-Ngô trong bài “Tựa Tây-Sương-Ký” có nói.

“Việc viết văn, để tấc lòng lại nghìn sau, đáng thương biết mấy”. nhưng ta là người sau, chợt tìm thấy mình, cái hình-ảnh mình, trong một áng văn, ở một vài nghìn thu trước, việc ấy cũng đáng cảm-động, đáng mừng, đáng sung-sướng biết bao nhiêu. Cái thú-vị đọc “Tây-Sương-Ký” ở chỗ đó vậy.

LƯU-TRỌNG-LƯ

HOÀNG KIM THƯ st.

GIỮ GÌN BẢN SẮC

VÀ TIẾNG NÓI DÂN TỘC

ĐẠI CƯƠNG

Tất cả sanh vật đều có tiếng cả. Đó là sự va chạm của luồng hơi từ trong phổi ra đi ngang qua cổ họng. Cấu trúc trong cổ họng thì mỗi loài mỗi khác nên tiếng của mỗi loài mỗi khác. Cấu trúc trong cổ họng con người gọi là bộ máy phát âm. Tiếng là ký hiệu để gọi nhau, để báo cho nhau những nguy hiểm trên đường đi hay chỉ bảo cho nhau cách kiếm ăn, con người thì gọi là phương cách sống. Tùy theo hoàn cảnh địa lý mỗi địa phương, vùng, miền, con người có cách kiếm sống khác nhau. Miền biển, sông, hồ thì kiếm sống bằng cách săn bắt thủy sản; miền đồng bằng thì trồng trọt; miền rừng núi thì hái lượm, săn bắt thú rừng… Mỗi cách sống đều cần có tổ chức để bảo vệ nhau… Từ đó, nó hình thành những phong tục tập quán riêng cho từng vùng. Lần lần nó khu biệt được dân tộc vùng nầy với vùng khác.

CON NGƯỜI VỚI BẢN SẮC DÂN TỘC

Nói về con người và bản sắc dân tộc, có lẽ ta cần bàn tại sao có loài người. Tôi cho rằng có loài người là do sự kết hợp của vật chất hữu hình và vật chất vô hình. Vật chất vô hình như bộ máy phát điện đặt vô vật chất hữu hình để nó điều hành hoạt động của tổng thể đó. Có nhà thám hiểm đi vào nơi rừng núi hoang vu sâu thẳm, họ phát hiện có một bộ tộc ở đó. Tôi cho rằng họ là người bản địa chớ không phải từ nơi khác tới vì nếu là từ nơi khác tới, họ phải ở nơi dễ kiếm sống. Do sự biến động của vũ trụ nên từng lúc, sự kết hợp giữa vật chất hữu hình và vô hình tạo thành sanh vật có hình dáng, thể trạng khác nhau trong đó có con người. Trong tập thể con người, sự kết hợp để sanh người theo một khuôn mẫu dễ dàng nên ẩn bức mạnh của vật chất hữu hình và vô hình không còn nữa nên ta thấy người sanh người mà thôi. Riêng con người tôi cho rằng có nhiều ngàn chủng tộc đấy. Một nước nhỏ như Việt Nam ta cũng có hơn năm mươi bộ tộc thiểu số. Mỗi bộ tộc đều có một nếp sống riêng. Bộ tộc nào mở mang trường tồn thì bộ tộc đó khai hóa hơn. Bộ tộc nào khai hóa mà mạnh, lấn lướt được nhiều bộ tộc khác vững vàng chớ không phải nhứt thời thì bộ tộc đó văn minh hơn. Bộ tộc văn minh, lớn mạnh ở một mức độ vừa phải thì tôi gọi là một dân tộc. Do đó, các dân tộc sánh vai nhau cùng tồn tại thì không nên nói dân tộc nầy khôn hơn dân tộc kia. Nó có mặt nầy mặt khác… Như vậy, mỗi dân tộc cần thể hiện rõ nét cái riêng của dân tộc mình. Nếu bắt chước nhau để sống tốt, ta cần phải suy xét thấu đáo sao cho hợp với nếp sống của dân tộc mình trước sau như một, tôi gọi đó là bản sắc dân tộc. Mỗi dân tộc cần giữ bản sắc của dân tộc mình.

CẦN GIỮ BẢN SẮC CỦA DÂN TỘC MÌNH

Bản sắc của dân tộc Việt ta là gì? Thờ kính tổ tiên, theo tôi, tôi cho là bản sắc dân tộc của ta. Từ thời Hùng Vương tới nay, chiếc bàn thờ gia tiên có lẽ nó hiện diện khắp nơi trong cộng đồng dân Việt. Giữ được một bản sắc xuyên suốt mấy ngàn năm lịch sử là tốt rồi. Ngày nay tôi thấy có gia đình theo đạo Thiên Chúa, ở nhà trên, nơi phòng khách có một kệ chưng hình các cụ đã khuất, chỉ thiếu đốt nhang thôi. Nếu không có sự cố nhà sư Tây Tạng bày ra việc đốt nhang thì có một kệ thờ tức là bàn thờ thể hiện lòng thờ kính tiền nhơn là được rồi.

Ngoài bản sắc cốt lõi đó ra, ta còn gì thể hiện là người Việt nữa? Trước đây ông bà ta thường nói: “Người lịch sự nghiêng mình thi lễ”. Chào nhau chỉ khẽ cúi đầu mà thôi. Ta vẫn trọng ta trước khách. Cách chào nầy ngày nay đã phai mờ nhưng tôi cho là vẫn còn. Thấy bạn ở xa, khách tới nhà… phần lớn chủ nhà khẽ cúi chào rồi mới hỏi. Nếu là thân tộc, là bạn xưa lâu gặp, nay gặp và nhớ ra thì lúc đó mới tay bắt mặt mừng. Nếu bỏ cái chào bắt tay, tôi cho là cúi chào cũng đủ.

Về cách ăn mặc, tôi thấy dù Bắc, Trung hay Nam, chiếc áo dài khăn đống của đàn ông trong thập niên 50 trở về trước của thế kỷ trước còn khá phổ biến. Ngày nay, trong các lễ cúng đình, lăng, miếu… các chức sắc của đình vẫn còn mặc. Đàn bà có mặc váy, mặc áo tứ thân…. Theo tôi, áo tứ thân tiến lên một bước là áo dài vừa tha thướt mà cũng vừa gọn. Ngày nay với trào lưu Âu phục hóa toàn cầu, hình như trong các lễ trang trọng người ta vẫn mặc áo dài trừ chức sắc và các lễ trong chánh trường. Tôi nghe có người nói người Âu Châu khen chiếc áo dài của phái nữ Việt Nam đẹp và tha thướt quá. Chiếc áo dài, theo tôi là cách trang phục truyền thống, nó thể hiện bản sắc dân tộc ta đấy. Tôi thấy rằng có lẽ đó là ba nét chánh của bản sắc dân tộc Việt ta. Về cách ăn mặc, có lẽ không nên nói cách ăn mặc nào tốt hơn. Hình như Ấn Độ, Myamar… chánh khách ra nước ngoài, họ vẫn mặc quấc phục của họ.

Tóm lại, giữ gìn bản sắc dân tộc, ta chỉ giữ những nét căn bản thôi. Ngoài ra thì phiên phiến chớ không cần phải giữ tất cả các phong tục cổ truyền của ta.

TIẾNG NÓI VÀ GIỮ GÌN TIẾNG NÓI DÂN TỘC

Như trên đã nói, luồng hơi từ phổi ra chạm vào các âm tơ của bộ máy phát âm, nó rung lên thành tiếng. Khi cần báo cho nhau điều gì, người ta uốn éo vận dụng bộ máy phát âm bằng nhiều cách như cho hơi thoát ra hoàn toàn hay dùng mũi, lưỡi, răng, môi cản luồng hơi lại làm cho nó tạo thành những nét âm thanh khác nhau, đó là tiếng nói. Tùy theo thổ nhưỡng, tùy theo địa thế cao thấp… cùng một tiếng nhưng có giọng nặng nhẹ khác nhau. Thí dụ: miền Nam, đồng bằng nói “CÓ”, miền Trung với núi non nhiều họ nói “CỌO” ta nghe như “CỌ”. Ta là người miền Nam, ta nghe giọng nói của người miền Nam nhẹ nhàng, dễ thương. Người miền Trung chắc chắn họ sẽ nói giọng nói của họ đậm đà, gợi cảm hơn. Miền Bắc cũng vậy. Một dân tộc trong một nước đã như vậy thì các dân tộc trên thế giới nầy chắc cũng vậy thôi. Do đó, ta cần giữ tiếng nói truyền thống của dân tộc ta chớ không thể khi bị nước khác cai trị, ta bỏ tiếng ta mà nói tiếng của họ được. Cuối thập niên 40 của thế kỷ trước, lớp hai đã nói câu tiếng Pháp ngắn, lớp ba, làm đơn thi Sơ Đẳng Tiểu học bằng chữ Pháp. Lớp mười, nhiều người cho con qua Pháp học. Khi đỗ đạt về, nói chuyện họ thường pha tiếng Pháp và chê tiếng Việt nghèo nàn. Nhưng khi họ đọc thơ văn Việt Nam rồi thì họ mới nói tiếng Việt ta phong phú.

Một dân tộc đã có bốn ngàn năm văn hiến thì phải nói tiếng nói cũng phong phú lắm. Ta bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm mà tiếng nói không mất thì phải nói nền văn hóa ta, tiếng nói của ta có một sức sống mãnh liệt nên ta cần giữ, bảo vệ và phát huy để ta ngẩng đầu với nhơn loại.

Có nên dùng quấc tế ngữ không? Có lẽ là không. Đề xuất này đã có từ đầu thế kỷ 20 để sự giao tiếp trên toàn thế giới được dễ dàng. Nhưng việc nầy đã thất bại. Mỗi tiếng nói của mỗi dân tộc đều có sức sống mãnh liệt của nó. Ta, mỗi dân tộc trên thế giới phải có nhiệm vụ giữ tiếng nói của mình và phát huy cho nó trong sáng thêm để tiếng nói của nhơn loại trở nên đa dạng và hay hơn. Tuy nhiên nếu tiếng nói nào có sức sống kém thì tự nó bị đào thải mà thôi.

Khánh Hội - Quận 4 - Sàigòn ngày 18-4-2016

NHỰT THANH (Phạm Hiếu Nghĩa)


Phụ Bản II

Điều thích thú của ông Bằng bây giờ là bà xã ông cũng không thích đi chỗ này chỗ nọ để thưởng ngoạn những danh lam thắng cảnh mà người ta thương gọi là đi du lịch và ngày xưa có người gọi là đi du sơn du thủy. Phong trào đi du lịch những năm gần đây phát triển dữ dội. Những người khá giả thường mua những “tua” dài ngày để đến những miền trên khắp đất nước, thưởng thức vẻ đẹp của núi rừng hùng vĩ, của những cánh đồng bao la giữa miền sông nước. Cũng có những người thích đến những “rì-zọt” bên bờ biển sang trọng, hay những đền đài, chùa chiền, hang động. Nhiều người đi du lịch về thường nói đi du lịch rất thú vị.

Rất ít người sau khi đi du lịch về than mệt mỏi, ngủ không được, ăn không ngon. Nhiều người đề cao du lịch nào là “đi một ngày đàng học một sàng khôn”, hoặc “đi để mở rộng tầm mắt”. Thành phần xã hội hay đi du lịch trong cũng như ngoài nước trước đây thường là tầng lớp thượng lưu giàu có, những đại gia, những nhà tư bản mới keng, nay bao gồm thêm thành phần tiểu thương, lao động. Như vậy coi như mọi tầng lớp xã hội bây giờ đều có thể đi du lịch dễ dàng. Cho nên nhiều người chưa đi du lịch thường có mặc cảm tự cho mình quê mùa nên hay nổ lên “sắp tới tôi sẽ đi du lịch mà đi Mỹ đấy nhé, visa đã có sẵn ở Tổng lãnh sự rồi, chỉ việc đến lấy là đi” như anh chàng kỹ sư về hưu, đại khoác lác, ở gần nhà ông Bằng.

Hồi xưa khi còn đi học, mười chín hai chục tuổi, một thằng bạn, nhà cửa cũng chẳng khá giả gì may nhờ có người bà con dẫn cho đi Đà Lạt chơi khi còn bé, sau này có lần hỏi ông Bằng:

- Đi Đà L ạt chưa mày?

Tình thiệt ông Bằng trả lời một cách khôi hài bằng tiếng Pháp:

- Pas encore! (chưa đi)

Thằng bạn lên mặt:

- Sao mày “mán” thế.

Ông Bằng biết tên bạn này muốn nói ông là tên nhà quê chưa có dịp đi xa để biết chỗ này chỗ nọ nên cho ông là thằng Mán, thằng Mường gì đó. Ông Bằng không trả lời và cũng không tìm dịp đi Đà Lạt để chứng minh cho thằng bạn biết ông không phải là thằng “mán” như nó nói. Mãi sau này khi ra đời đi làm việc, ông Bằng có dịp đi công tác lên Đà Lạt, ông thấy không có gì hấp dẫn, không có gì đáng để cho tên bạn gọi ông là “mán” vì ông chưa có dịp đi đến vùng đất cao nguyên này. Chẳng qua là thằng bạn đó gốc từ xưa là dân nhập cư vào Saigon, bản chất lại thích khoe khoang, nên chê bai người khác như vậy.

Tính tới nay, Ông Bằng chưa từng dẫn vợ con tham gia một “tua” du lịch đúng bài bản nào cả, nếu không kể những lần đi nghỉ mát vào các dịp hè hàng năm do cơ quan tổ chức. Những lần đi du ngoạn như vậy thường được tổ chức đi về trong ngày, ông Bằng thấy không thấm thía vào đâu cả, chưa được coi là đúng tầm cỡ một chuyến du lịch. Sau những lần đi dã ngoại đó trở về nhà, ông Bằng thấy mệt mỏi rã rời, vợ con ông cũng không thấy khỏe khoắn gì hơn, phải mất vài ngày sau mới cảm thấy được phục hồi.

Sau này có nhiều công ty du lịch tổ chức cho du khách đi chỗ này chỗ nọ, nhưng ông Bằng cũng không đăng ký tham gia vì con cái ông Bằng đã lớn và đã có gia đình cùng công ăn việc làm ở xa, bà vợ thì không thấy phấn khởi gì trong việc đi du lịch. Bà nghe người ta nói khi đi du lịch đến một chỗ nào đó, hướng dẫn viên hối thúc di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác như chạy… giặc, báo hại du khách thở không ra hơi. Bà thấy sao giống như những người đi hành hương mười chùa, mười “kiểng” Phật trong một ngày. Rồi bà tưởng tượng đến cảnh một nhóm mười người, hai chục người vừa đi vừa chạy lúp xúp theo anh chàng hướng dẫn viên, tay cầm bảng chỉ dẫn, tay kia huơ qua huơ lại, cũng vừa đi vừa chạy ở đàng trước, trông không đẹp mắt chút nào. Bà cứ thoải mái ở nhà cùng với ông mỗi người ôm một cái mày vi tính tự do muốn đi “du lịch ảo” bất cứ lúc nào. Bà nhớ lại hồi xưa trong cuốn Quốc Văn giáo khoa thư có bài “Chỗ quê hương đẹp hơn cả” kể chuyện một người đi du lịch về kể “…Cảnh đẹp mắt tôi trông thấy đã nhiều, nhưng không đâu làm cho tôi cảm động, vui thú bằng lúc trở về chốn quê hương, trông thấy cái hàng rào, cái tường đất cũ kỹ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể không sao xiết được”(1). Bà thấy ông du khách thời xa xưa vậy mà có lý. Dù rằng quê hương của bà là một thành phố ô nhiễm bụi bẩn, rác rến, nước thải, nhưng bà thấy khó mà xa cái thành phố này. Gần đây bà phải đi dự một đám cưới ở tận cùng vùng đất tây nguyên mất bốn ngày liền. Mới ở đến ngày thứ hai là bà muốn về Saigon ngay lập tức. May sao ngày thứ ba bà phải bận rộn cho cái đám cưới và đến sáng ngày thứ tư bà đã sẵn sàng lên xe nằm thoải mái về thẳng Saigon.

Đó, chỉ mới xa Saigon có mấy ngày mà bà xã ông Bằng cảm thấy khó chịu rồi. Nếu phải đi xa hơn và ở lại nhiều ngày hơn, không biết bà phải chịu đựng như thế nào đây? Bà không giống như những người khác kê lưng xuống giường là có thể cất tiếng ngáy rồi. Có người trêu bà, nói rằng vì xa ông nên bà nhớ không ngủ được. Bà chỉ cười trừ không buồn trả lời. Thực ra, ở nhà khi bà nghỉ ngơi hay đi ngủ có ông bên cạnh hay không có cũng chẳng có gì khác. Hai người luôn tôn trọng giấc ngủ lẫn nhau nên không còn có vấn đề bày tỏ tình cảm như thời còn trẻ trung.

Ông Bằng có một người bạn ở Phan Thiết, tuổi tác cũng gần tới ngưỡng 75, hiện còn khỏe mạnh, gọi điện thoại gọi ông ra chơi hoài. Ông hẹn lần hẹn hồi, và cuối cùng chịu không nổi, ông vác ba-lô, một buổi sáng, ông leo lên xe lửa ra Phan Thiết thăm vợ chồng ông bạn già đó. Đây cũng là lần đây tiên ông đi xa bằng xe lửa sau thời gian gần hai chục năm ông Bằng chỉ quanh quẩn trong cái Saigon này. Trước đó ông còn đi làm việc và mỗi khi đi công tác ông đi máy bay hoặc xe khách.

Khi lên xe lửa, ông Bằng phát hiện phương tiện giao thông này quá thích hợp cho người cao tuổi. Đó là cái toa-lét ở đầu mỗi toa, hành khách có thể sử dụng bất cứ lúc nào trong khi xe lửa đang chạy. Trong khi đó nếu đi du lịch theo “tua” của các công ty du lịch thường di chuyển bằng các loại xe buýt lớn, bốn năm chục chỗ ngồi hoặc nằm, hành khách chỉ được phép đi toa-lét theo “lệnh” dừng của quan tài xế tại các trạm dừng của các hãng xe. Tại đây các hãng xe thường cho xây dựng cửa hàng ăn uống, mini siêu thị bán các loại đặc sản địa phương, và đặc biệt là cái toa-lét rất rộng chia nhiều ô cho hành khách dễ dàng sử dụng với yêu cầu phải để giày dép ở ngoài cửa. Đây là cái được gọi là văn hóa để giày dép ở ngoài cửa toa-lét công cộng mà có lẽ chỉ có ở Việt Nam. Trong thành phố Saigon ở các công viên, hay ngoài đường phố các toa-lét công cộng đều áp dụng “văn hóa” này và mỗi nơi có thêm một lao công, ăn mặc theo kiểu những cơ thủ bi-ya túc trực để quét dọn, vệ sinh, lúc nào cũng có vẻ mặt rất hình sự.

Một lần do bạn bè rủ rê, ông Bằng đưa bà xã đi Nha Trang làm một chuyến du ngoạn về… nguồn. Thực ra đây không phải là nguồn cội đất đai gì của ông cha bà mạ của hai ông bà. Đây chẳng qua là nơi gặp gỡ của hai người từ hai nơi khác nhau, một người từ vùng sông Hương núi Ngự, nói cho có vẻ văn chương một chút, còn kẻ kia ở tận xứ Saigon Chợ lớn khô khan bụi bặm. Hai người đã cưới nhau rồi cùng về Saigon sinh con và sống với nhau đến bây giờ.

Chuyến đi này do hai ông bà tự thực hiện không cần qua một công ty du lịch nào cả cho nên hai ông bà cảm thấy vô cùng thoải mái, tự do. Tàu về đến ga Nha Trang khoảng một giờ trưa. Nắng tràn ngập. Nhưng hai ông bà không lấy gì làm lạ với cái nắng nóng của thành phố biển này. Hai người bạn của ông Bằng đi hai chiếc xe gắn máy vừa tới để đón ông bà về nhà. Thật vô cùng thú vị khi được ngồi trên chiếc xe gắn máy chạy dọc theo bờ biển, phía bên kia hàng dương đang ngả nghiêng trong gió là mặt biển với màu xanh biếc điểm những vệt màu trắng của những đợt sóng bạc đầu đang trôi vào bờ. Nhìn khung cảnh trước mắt ông Bằng thấy nếu ngồi nhà nhìn lên màn hình vi tính cũng đẹp như vậy thôi, nhưng có điều thiếu sót là không được hưởng cái luồng gió mát lạnh đang thổi mạnh vào người tạo cảm giác lâng lâng sung sướng.

Nhà anh bạn gần sát chân núi, nghe anh nói rất gần đèo Rù Rì nếu tính theo đường chim bay. Nhà anh rộng rãi thoáng mát, có hai lầu. Anh nói:

- Ông bà ra đây chơi cứ tới đây ở, không cần phải ra ở khách sạn.

- Mà có phiền hà gì không vậy bạn hiền.

- Không có đâu. Bạn tôi ở Saigon cũng ra ở đây.

- Rồi bạn anh có đóng góp gì không?

- Có, vài xị cho tiền điện nước, máy lạnh.

- Ờ, Được. Như vậy tôi hết sức đồng ý. Ở chơi mới thoải mái!

Sáng sớm hôm sau ông Bằng và bà xã thức dậy thả bộ theo con đường nhỏ của khu dân cư để ra đường cái. Cảm giác đầu tiên của hai người là không khí ở đây trong lành quá. Ông Bằng có cảm tưởng không khí ở đây được đưa từ ngoài biển vào, không kinh qua một nhà máy hay đống rác nào nên giữ được mức tinh khiết. Ông bằng hít vào một hơi thất mạnh, ông có cảm tưởng như không khí đang đi luồn vào trong hai lá phổi của ông tẩy sạch bụi bặm tồn đọng từ bao nhiêu năm tháng ở Saigon. Sau một vòng hóng mát ông Bằng và bà xã quay về vừa lúc anh bạn đã sẵng sàng chiếc xe 7 chỗ và không ai khác hơn là chính anh bạn tôi cầm tay lái.

Xe chạy dọc theo bờ biển hướng về thành phố Ninh Hòa. Trên xe bây giờ có đủ bẩy người, tức là thêm ba bà và một ông. Mấy người này đều là bạn cũ ngày xưa cùng làm việc trong một công ty. Đặc biệt ba bà ở tuổi sáu mươi rồi, một bà sống độc thân chưa từng chạm tay vào chiếc xe hoa, hai bà ở vậy nuôi con, một người rã gánh, người kia thì chẳng may có ông chồng lên thiên đường sớm vì bệnh sơ gan mà không hề biết uống rượu. Khi kể trường hợp ông chồng bà này, bác tài phán:

- Thấy chưa, người ta nói uống rượu bị sơ gan chết, ông này không hề uống cũng bị sơ gan chết đây nè, nói sao đây?

Ông Bằng nói như khuyên nhè nhẹ:

- Nhưng mà không uống rượu vẫn tốt hơn ông à!

Lúc đón mấy bà này lên xe, ông bạn tài xế, nói với ông Bằng, nét mặt có phần nghiêm trọng:

- Còn mấy bà nữa trước làm bên kho, cũng như mấy “em” này. Ông coi ở Saigon có ông nào ra đây rước giùm đi. Mấy “em” bây giờ “ở không” nhiều lắm.

- Coi bộ khó à!

- Sao vậy?

- Thường thường mấy cha trên năm mươi mà chưa vợ hay bị “mất thăng bằng”.

- Tửng tửng hay sao?

- Không phải, mà là rất khó tính.

- Đừng lo cứ ra đây gặp mấy em này là mấy ổng chịu liền.

Mấy bà ngồi ngoài sau nhao nhao lên, gây bác tài:

- Ông quỷ này, nói tầm bậy tầm bạ không hà!

Một bà ngồi bên cạnh đẩy thêm một câu:

- Coi chừng ổng sắp “hiện yêu” lên đó nghe.

Bác tài nhìn kính chiếu hậu cười giả lả.

Xe chạy vào khu vực Đại Lãnh, biển xanh ngắt trải ra tận chân trời, mặt biển yên tĩnh như mặt hồ, xa xa lấp lánh vài đợt sóng bạc đầu trôi bãng lãng.

Đến một khu phố nho nhỏ, ông bạn cho xe tấp vào một bãi đất trống bên cạnh một ngôi nhà ngói vách ván. Ông bạn xuống xe bước vào nhà nói vọng ra phía sau có lẽ chờ cho gửi xe, rồi quay trở lại bảo mọi người bước xuống:

- Tới bến rồi.

Mọi người lục tục theo sau ông bạn đi vào con đường đất ngoằn ngoèo, qua khỏi dãy nhà mặt tiền đường. Kế tiếp làmột khoảng trời xanh bao la hiện ra trước mắt mọi người với cảnh đồng ruộng mênh mông, chỗ thì lúa chín vàng nặng trĩu, chỗ thì trống trải vì lúa đã được gặt xong.

Đi sâu vào chừng hai trăm mét đến một khu vườn trồng nhiều cây ăn trái đang tỏa bóng mát tràn ngập lên một khu vực rộng lớn. Phía bên trong khu vườn là căn nhà của một người bạn cùng làm chung công ty ngày xưa. Anh đang đứng giơ tay vẫy chào mọi người vừa vào tới:

- Chu cha, chờ từ sáng tới giờ.

Rồi ông bước tới ôm vai ông Bằng:

- Gần bốn chục năm rồi hả anh Bằng. Con cái ra sao rồi?

- Bình yên cả.

Rồi cả đoàn dắt nhau vào nhà, ra ngoài sau rửa mặt, mũi, tay, chân cho sạch bụi đường.

Nhìn qua cửa sổ, mọi người kêu “ồ” lên một tiếng đầy kinh ngạc. Thì ra, chủ nhà đã chuần bị sẵn sàng một bàn tiệc ngay giữa sân dưới tàng cây mát rượi, cách bàn tiệc vài mét có một đống rơm đang cháy dở dang để lộ một mảng màu đen trên đó có mấy con cá lóc bị ghim vào que tre cắm lên lớp tro than.

Mọi người bước vào bàn, chủ nhà phân ngôi chủ khách, rồi nói với ông Bằng:

- Thấy ông ở trong Saigon ra chơi, tôi bảo mấy nhỏ làm món cá lóc nướng trui này đây.

- Trời ơi, quá tuyệt vời, sư huynh ơi...

Đối với ông Bằng, đi du lịch, hay nói nôm na là đi chơi xa, chỉ cần một hai ngày là đủ. Người cao tuổi đi chơi xa trong nhiều ngày thường phát sinh những điều rắc rối, bất tiện như ngồi xe đường dài việc đi vệ sinh không thuận tiện, ở khách sạn thì khó tìm được giấc ngủ như ở nhà. Những khu di tích, đền đài hay danh lam thắng cảnh có lẽ nên dành cho những người trẻ, những người còn đủ sức khỏe để đi bộ được lâu, trèo đèo lội suối để đến những hang động, những cảnh núi rừng hoang dã. Đi đường xa còn sợ tai nạn giao thông, như mới đây hai xe ca đụng nhau với một xe tải sao đó, bị cháy rụi cả chục người chết rất thương tâm. Cuối cùng, người lớn tuổi nên làm những chuyến du lịch ảo để về với núi rừng thiên nhiên, những danh lam thắng cảnh qua đường vào TV hay những đường vào Internet, đây đúng là kiểu đi du lịch không cần phải ưu tư về vấn đề tài chánh.

Dương Lêh

(1) Quốc văn giáo khoa thư, Lớp dự bị (cours préparatoires-lớp 2 bây giờ), Nha Học Chính Đông Pháp xuất bản năm 1935.

KỶ NIỆM

CLB XƯA & NAY 10 NĂM

10 năm thành lập Xưa - Nay

Giao lưu đàm đạo vui say nghĩa tình

Mừng sao cha Triết an bình

Cùng chung huynh muội chúng mình hàn huyên

Hôm nay cười nói huyên thuyên

Điểm danh hai chục cơ duyên kết thành

Từ nay luôn gặp điều lành

Xưa - Nay vững mạnh xin dành tặng nhau.

VŨ THÙY HƯƠNG

Tháng 6 vào Hạ

Nỗi niềm xa xứ

(Tặng Lộc Chi xứ Huế thương yêu)

Lộc Chi xứ Huế tôi ơi

Tuy xa xôi vẫn đầy vơi nghĩa tình

Bảo Quốc, nơi ở hai mình

Vườn cây, hoa cảnh linh đình làm sao

Tôi yêu thuơng Huế biết bao

Nhớ nhung trường cũ công lao cô thầy

Phượng rơi nón hứng vui vầy

Tung tăng chạy nhảy tay đầy ổi me

Hạ về vang vọng tiếng ve

Mùa thu lá rụng hăm he lụt tràn

Đông thì bão lũ ngập làng

Dân tình điêu đứng muôn vàn âu lo

Ông bà mãi bị cảm ho

Trẻ em run rẩy co ro trong nhà

Bao nhiêu kỷ niệm ngọc ngà

Mùa xuân đã đến mặn mà sắc hoa

Trời hoi se lạnh xuýt xoa

Nam thanh nữ tú hái hoa ươm tình

Bao năm lìa chốn Thần Kinh

Ngày đêm vọng tưởng nơi sinh xa vời

Bà con bè bạn mãi mời

Ra thăm Huế với lâu rồi biệt tăm

Thế mà tôi mãi trầm ngâm

Bởi về quê cũ dao đâm tim rồi!

Xót xa đau đớn bồi hồi

Người thân cách biệt núi đồi hoang vu

Còn đâu mà nghĩ chu du

Còn đâu vui thú mộng du xích xiềng!

Vần thơ gửi tặng bạn hiền

Bà con thân thuộc ngoài miền xa xôi

Mỗi lần nhớ Huế than ôi

Quê hương thương lắm sục sôi nghĩa tình.

VŨ THÙY HƯƠNG

Sài Gòn 29-3-2016

NHỚ CON TỪ CÕI TÂM LINH

Bước thầm từng bước bước thầm

Nghe đâu đó vọng thanh âm người

Mẹ ôm nhiều bó hoa tươi

Nghĩa trang liệt sĩ một nơi yên bình

Nhớ con từ cõi tâm linh

Bao nhiêu năm tháng một mình mẹ đi

Tên con bia mộ khắc ghi

Đớn đau, tử biệt, sinh ly một đời

Nghe từ lòng đất một lời

Hương bay gió thoảng chơi vơi thì thầm

“Mẹ ơi! Mẹ hãy bình tâm

Con đã yên nghỉ bao năm nơi này

Cỏ hoa, hoa cỏ đất dày

Vòng tay ôm trọn hình hài của con

Hy sinh vì nước vì non

Con không báo đáp đền ơn sinh thành”

Nghĩa trang hiu hắt nắng hanh

Mẹ từng bước chậm, nẻo quanh trở về.

Huỳnh Thiên Kim Bội

Tháng 7/2016

NGÔNG NGẠO

Người bảo ta ngông. Ừ đúng. Ta ngông
Không những ngông mà còn rất ngạo
Dẫu ngạo ngông là điều đáng ghét
Nhưng bật lên khí phách ngang tàng

Ngang tàng bởi chỉ ta là một
Chẳng bao giờ có lại ta hai
Cứ phăm phăm dẫu nhiều lần vấp ngã
Bởi đường kia đâu có lối quay về

Ta ngông ngạo bởi không hề khuất luỵ
Trước tiền tài danh vọng quyền uy
Ta nhìn thẳng và ta bước thẳng
Chẳng kẻ nào bẻ được lối ta đi

Ta đáng ghét bởi không bao giờ khúm núm
Chầu hẫu van xin một miếng bánh rẻ tiền
Và không thể nào biến mình thành công cụ
Cho những mưu đồ hám lợi mua danh

Ta ngông ngạo cất tiếng cười hào sảng
Trước tị hiềm vụn vặt nhỏ nhen
Ta khí phách bởi chưa từng mắc nợ
Phải khom lưng luồn cúi một bất kỳ

Cuộc đời này ngắn dài rồi cũng qua đi
Có chút vương vay cũng chỉ là bóng dáng
Khác chăng là khi người đời sau nhắc lại
Bằng một cái trề môi hay một cái nghiêng đầu.

ĐÀM LAN

Tặng Bạch Hoa

Lại về biển một mình

Ngắm trời buổi bình minh

Sóng trôi về đâu đó

Kể lể những cuộc tình

Mây bay màu xanh thẳm

Đá đứng hoài lặng câm

Hồn em dường bảng lảng

Nhớ phương nào xa xăm

Dạt dào lời biển hát

Như bài tình ca xưa

Bên khung trời bát ngát

Yêu thương biết sao vừa

Quay về biển một mình

Nhìn cát vàng lung linh

Phân vân đời muôn lối

Thôi quên hết chuyện tình.

(Trích tập Gió Mới)

HOÀI LY

BẢN TÌNH CA

Đã đến đông rồi sao lòng cứ bâng khuâng

Như có hẹn với người thân trong lần mới gặp

Như rạo rực ngọn đèn ai vừa thắp

Phút thời gian hình chỉ ở trong đầu

*

Ừ thì thêm mùa đông nữa có sao đâu

Dẫu không khỏi ngỡ ngàng giữa thềm sương sa lặng lẽ

Tháng mười hai, đèn và hoa cũng đằm hương cõi thế

Vẫn thơ tình nơi ca thánh khắc thiêng liêng

*

Đôi nén hương đầu ngày cầu nguyện với giáng sinh

Nghe trong biếc giọt sương mai loáng ắp

Những gương mặt trên đường tôi gặp

Ửng tươi lên giờ hội ngộ phút chờ mong

*

Tiếng chuông đầu ngày thêm nhịp trổi bâng khuâng

Tà áo em thêm chấm màu duyên dáng

Tôi có thêm những nốt trầm lãng mạn

Cho bản tình ca Thiên Chúa xuống làm Người…

BS. DOANLINH

11/6/2016

BẾN BỜ HẠNH PHÚC

Qua đông lại sáng thanh bình

Hoàng hôn nhớ ánh bình minh sớm ngày

Đời người mấy đỗi đổi thay

Ngọt bùi pha những đắng cay đã từng

Đường đi khúc khuỷu trập trùng

Gian nan mới có vui mừng quang vinh

Yêu người chính thể yêu mình

Sống sao trọn nghĩa để tình mai sau

Những ai cuộc sống khổ đau

Mới thương cho kiếp con tàu bão giông

Vững chèo vượt sóng biển Đông

Bến bờ hạnh phúc trào dâng sóng hồng.

BS.DOANLINH

11/6/2016

Buồn không nguôi

Mùa Xuân đẹp rộn ràng muôn sắc áo

Ngàn hoa thơm khoe sắc giữa thiên nhiên

Mây lâng lâng mềm mại nắng ngoan hiền

Gió lướt nhẹ niềm vui dâng rộn rã

*

Ta lầm lũi tia mắt nhìn xa lạ

Ngỡ chung quanh toàn ảo ảnh phù vân

Ngỡ cuộc đời sa mạc lạnh bâng khuâng

Đường vạn lối thênh thang đầy chớn chở

*

Ta chấp nhận chông gai và hiểm trở

Nên hững hờ mù mịt trước tương lai

Ta âm thầm lặng lẽ đón ngày mai

Không hy vọng tìm ra nguồn ánh sáng

*

Ta tiếc nhớ ngày xưa chìm lãng mạn

Ngày xa xưa hạnh phúc rợp bờ mi

Niềm tin yêu ước mộng chẳng biên thùy

Tim dào dạt vô tư tràn sức sống

*

Cố can đảm vượt qua vùng biển động

Gắng vươn lên xóa sạch nét u hoài

Quên tủi hờn sầu hận nhuốm bi ai

Để đi nốt quãng đời không lối thoát

*

Thế mà sao vẫn ngậm ngùi chua chát

Hồn bơ vơ nặng trĩu nỗi đơn côi

Bao đắng cay héo hắt úa vành môi

Buồn thăm thẳm kéo dài xa diệu vợi…

NGÀN PHƯƠNG

09/02/2008

LỜI MẸ RU

Mùa thu nắng gió dịu dàng

Lời ru của Mẹ mơ màng bâng khuâng

Chùa xa vọng tiếng chuông ngân

Dư âm trầm lắng - cõi trần mông mênh

Đung đưa - cánh võng bồng bềnh

Như con thuyền nhỏ dập dềnh sóng xô

Lưng trời mây trắng nhấp nhô

Lung linh soi bóng ven hồ thùy dương

*

Chìm vào giấc ngủ yêu thương

Nồng nàn thắm thiết quê hương tuyệt vời

Câu ca dao chẳng cạn lời

Bên giàn thiên lý buông lời đậm đà

*

Lời ru dàn trải bao la

Thoảng trong sương sớm chan hòa nhớ nhung

Vòng tay ấm áp vô cùng

Như con tim Mẹ thủy chung một lòng

*

Mưa thu xanh mướt ruộng đồng

Mơn man bờ cỏ bến sông thôn Trà

Cánh cò bay lả bay la

Lời ru của Mẹ mặn mà nghĩa nhân

*

Suối nguồn nhuần gội thiên ân

Lũy tre vi vút xa gần xôn xao

Hồn thơ bay bổng dạt dào

Hoa đồng cỏ nội ngọt ngào thân yêu

*

Qua bao nắng sớm mưa chiều

Một sương hai gió - sáo diều êm mơ

Lòng em lắng đọng đường tơ

Nhớ về xóm nhỏ ngẩn ngơ bồi hồi.

NGÀN PHƯƠNG

MẶT NGƯỜI

Gửi con trai - Họa sĩ L.T.Cương

Nhân triển lãm tranh chân dung Hà Nội 97

Ai cũng

có một bộ mặt

để mọi người nhìn ngắm

nhưng chính mình lại

          không tự nhìn

                thấy được

*

Đẹp nhất

là mặt người đang yêu

và được yêu

*

Mặt trời bé con

là khuôn mặt thiên thần của bé

Thật từ trong ra ngoài

*

Bắt hình dong

nhiều khi đúng

nhưng cũng dễ lầm da phấn mặt hoa

*

Cái ác chẳng phải đâu xa

ở ngay những bộ mặt suốt đời đeo mặt nạ

                            thơn thớt nói cười

Không gì chán hơn

là bộ mặt lỳ chơn

mang sẵn chương trình cài đặt

*

Thà làm khuôn mặt buồn

Cho trái tim giàu hơn

để có nụ cười chân thật

*

Có những chân dung không mặt

chỉ còn vóc dáng bất tử - con người

Khi các anh ngã xuống

vô danh.

LÊ NGUYÊN

SÂN CHƠI NHIỀU LỨA TUỔI

Luôn mãi nhớ lần đầu tôi mới đến

Bước vào làm văn nghệ thơ ca

Bằng hữu thân thương như thể một nhà

Kẻ ca nhạc, người ngâm thơ nghe thích thú

*

Nhiều thế hệ Nữ Nam đều có đủ

Đủ các thành phần họp mặt đông vui

Từ mọi nẻo đường Nam Bắc ngược xuôi

Ngày sinh hoạt gặp nhau mừng hớn hở

*

Mười năm trời như hoa xuân vẫn nở

Mỗi người một bài, mỗi ý thật hay

Thơ đa dạng giao lưu nhiều thể loại

Thơ Mới, thơ Đường, Lục Bát vân vân…

*

Dù đường xa nhưng tình bạn càng gần

Và như thế mỗi ngày thêm gắn bó

Cùng bạn bè với thơ nhạc nhiều nơi

Tâm hồn tôi thanh thản với tuổi đời

Luôn mãi nhớ sân chơi nhiều lứa tuổi

Ngày 09 tháng 6 năm 2016

NGÔ BÁ MẠNH

CÙNG CHUNG DÃ NGOẠI


Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè du lịch

Nhu cầu mục đích

Biết đó biết đây

Sáng sớm mỗi ngày

Đầm Sen - Bàu Cát

Tâm hồn tươi mát

Điểm hẹn Ba Vân

Lòng thấy lâng lâng

Xuôi về Gò Vấp

Giao thông tấp nập

Ghé quán gỏi gà

Ôi ngon quá đã

Không còn vội vã

Giải khát cà phê

Chẳng muốn quay về

Cùng nhau đi tiếp

Thời gian còn kịp

Thẳng đến An Sương

Lòng thấy vấn vương

Ghé thăm Bà Điểm

Đường đi nguy hiểm

Sỏi đá gồ ghề

Công trình thấy ghê

Quay về Bình Thạnh

Trời hơi se lạnh

Dừng lại nghỉ ngơi

Sinh tố tuyệt vời

Lăng Ông - Bà Chiểu

Đền thờ am miếu

Trang trọng uy nghi

Tiếp bước ra đi

Đa Kao điểm đến

Nghêu sò ốc hến

Nước chấm pha gừng

Hương thơm lẫy lừng

Ôi thôi sảng khoái

Kẻ cười người nói

Hạnh phúc biết bao

Ao ước dịp nào

Đi cho thỏa thích

Từ thiện có ích

Gặp mấy cụ già

Vé số chìa ra

Mua luôn cả xấp

Người xe dồn dập

Tranh thủ quay về

Công việc bộn bề

Sáng mai giải quyết

Có đi mới biết

Mời bạn rong chơi

Vui thú tuyệt vời

Cảm hóa cuộc đời

Xin có lời mời

Cùng chung dã ngoạn.


Ngày 10 tháng 6 năm 2016

NGÔ BÁ MẠNH

GIA ĐẠO GIẢI HÒA

Đồng xu ai nỡ cắn đôi

Đến khi cần quá phải lòi của ra

Giận nhau chồng vợ giải hòa

Vì bầy con cháu bỏ qua cho rồi

Cơm canh dịu ngọt đãi bôi

Sáng thăm tối viếng nguyện vui đạo nhà

Sống như thế đó mới là

Giàu mà thiếu đức ruột rà bỏ đi

Nghèo theo tánh tốt phải thì

Dù tu mấy kiếp bằng chi hiểu đời

Thế gian nhiều chuyện rối bời

Ráng mà tu luyện sáng ngời cái tâm

Ngày vui lao động tối nằm

Muốn nên thân kén làm tằm nhả tơ

Trước tôn Tổ Phụ đang thờ

Sau nhờ phước đức căn cơ lưu truyền.

LANG NGUYÊN

Họa bài thơ

TỰ SỰ 81 XUÂN

Thế sự trong đời học hỏi qua

Đến nay tám một nghĩ chưa già

Sống vui sống khỏe bền vườn phúc

Thích tỉa thích trồng vững khóm hoa

Tổ Quốc luôn thờ không biến đổi

Non sông mãi giữ khó dèm pha

Ơn cha nghĩa mẹ bồi đầy đủ

Đạo lý vuông tròn trọn thảo hòa.

*

Dù khó thế nào vẫn lướt qua

Bước đi vững chắc sức không già

Trong tim máu nóng còn bao mộng

Dưới gối da dùn để đốm hoa

Có nợ có thù ham thách đấu

Không tình không nghĩa dễ phôi pha

Dầm mưa dãi nắng trời cho phúc

Tám mốt xuân sang mãi hiếu hòa.

LANG NGUYÊN

NHÀ TRỌ - TRẦN GIAN

Bước vào đời là bước vào tranh đấu

Với bộn bề mơ ước với lo toan

Cả cuộc đời ở “trọ” chốn trần gian

Làm kiếp người gian nan vất vả

Tranh giành nhau, xưng hùng xưng bá

Vì đinh ninh trong dạ tưởng nhà mình

Tâm sân, si… che lấp bởi vô minh

Nên háo hức, say mê, buồn vui, được mất

Trò chơi ảo mà tưởng rằng có thật

Khởi đầu vui như xem màn ảo thuật

Trải nghiệm qua mới hiểu: cái gì còn, gì mất?

Màn khép lại, trở về… theo quy luật.

LÊ MINH CHỬ

TƯƠNG LAI ĐANG CHỜ TA

(Nhân kỷ niệm 10 năm thành lập CLB Sách Xưa & Nay)

Hát theo điệu khúc ca hoa chúc

Do chúng ta duyên lành nên mới gặp nhau

Cùng đam mê văn đàn, góp sức dựng xây

Chủ nhiệm đã cố gắng công

Xây dựng văn hóa cộng đồng

Nhiệt tình, nhiệt tình chung xây CLB ta tốt hơn

Chúng ta hứa quyết tâm

Thì ta sẽ tiến lên

Khi chúng ta đồng lòng, quyết tâm,

khó khăn nào cũng vượt qua.

Tương lai đang chờ ta.

LÊ MINH CHỬ

Hãy ngủ đi

Hãy ngủ đi em, hãy ngủ đi

Dẫu không gian quanh em ắp đầy trồng vắng

Dẫu mênh mông bên em là giường nệm trắng

Và ngoài kia vò võ trăng suông

*

Hãy ngủ đi em, hãy ngủ đi

Hãy khép lại đôi mắt đen huyền diệu

Hãy thanh thản nét mày ngài quyến rũ

Và hàng mi cong hãy lặng lẽ đợi chờ

*

Hãy ngủ đi em, anh sẽ đến trong mơ

Trong thổn thức những bến bờ dào dạt

Trong hương nồng của trời yêu bát ngát

Và miên man những thế kỷ dại khờ

*

Hãy ngủ đi em, hãy ngủ đi

Trong cõi nhớ dạt dào sóng biển

Trong cõi nhớ nồng nàn sâu thẳm

Nhè nhẹ ru sóng nhạc vơi đầy…

VÕ KIM CƯƠNG

Còn Đâu Tình Thơ Ngây

Ngày ấy chúng mình như chim non,

Đôi chim sáo nhỏ, bước chân son,

Ước mộng thơm nồng đôi môi đỏ,

Tâm hồn trong sáng, vẽ tương lai.

*

Em như vạt nắng ấm ban mai,

Áo bay trong gió ru lòng ai,

Em mùa xuân mới, cành hoa thắm,

Bên nhau say đắm, tình thơ ngây.

*

Ngày ấy tình mình đẹp tựa sao,

Khung trời đại học ước mơ cao,

Tuổi xanh thơ mộng, vô tư quá,

Ánh pha lê, trong suốt tình đầu.

*

Thế rồi, tình thơ không như mơ,

Mình xa nhau một sớm, không ngờ,

Em đi, xa vắng, đời ngăn cách,

Ly hận, nát tan tình ngây thơ!

*

Em đi, đi mãi, chẳng hẹn về,

Mình anh, ngày tháng buồn lê thê,

Còn đâu tình mộng, đời đơn lẻ,

Nhìn ánh trăng tan, nhớ ước thề.

Phạm thị Minh Hưng

CÂY CAU

Đứng làm thiên trụ đỡ vòm thanh

Lá ngọn bung xoe tợ chổi cành

Nguyệt ghẹo, bông đùa, hoa điểm gốc

Gió đưa, hương tỏa, ngát thơm quanh

Xuân về nứt bẹ phơi quày trắng

Hạ đến khai phong trổ quả xanh

Trái quý nồng nàn mâm lễ cưới

Dự phần chủ xướng mối duyên lành

THANH CHÂU

Trái bần

Tuổi thơ đến trường dọc bờ kênh

Rủ nhau tắm lội cho thỏa tình

Chín rụng trôi sông vẫn mình nổi

Bụng đói quơ nhằm trái bần xinh

Thực vật ăn ngon kèm muối ớt

Thôn quê hẻo lánh mọc đầy xanh

Phù sa lũ lút vươn cao ngó

Bông bần có đẹp vẫn hư danh

QUANG BỈNH

CHIM, CÁ VÀ NGƯỜI

Bài 1:

Cành khô khó giữ cánh chim,

Suối nông cá bỏ, cá tìm sông sâu.

Anh nghèo, em bỏ đi đâu ?

Anh đau em bỏ, để sầu cho ai ?

Em ơi, đời ngắn tình dài,

Lẽ nào người chẳng hơn loài cá, chim ?

Bệnh viện Thống Nhất

- Tp.Hồ Chí Minh, 08-12-2005

VŨ ĐÌNH HUY

Bài 2:

Cành khô khó giữ cánh chim,

Suối nông cá bỏ, cá tìm sông sâu.

Anh nằm bệnh viện, em đâu ?

Mong em, lòng vẫn nguyện cầu cho em !

Bệnh viện Thống Nhất

- Tp.Hồ Chí Minh, 08-12-2005

VŨ ĐÌNH HUY

BIRDS, FISH, AND MEN

Poem 1:

A dry branch can hardly retain the bird’s wings

The fish would leave the hollow stream for a deep river.

I’m poor, you left me to go where ?

I’m sick, you left me and to whom do you leave sadness ?

Oh dearest, life is short while love is long

That’s unbelievable that a human being isn’t

superior to fish and birds ?

Thống Nhất hospital - Hồ Chí Minh city, 08-12-2005

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN

Poem 2:

A dry branch can hardly retain the bird’s wings

The fish would leave the hollow stream for a deep river.

I’m hospitalized, and where are you ?

Awaiting for you, in my heart I always pray for you !

Thống Nhất hospital - Hồ Chí Minh city, 08-12-2005

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN

NẾU CUỘC SỐNG

LÀ MỘT TRÒ CHƠI…

Tôi không còn niềm vui nào ngoài cuộc sống ẩn dật trong căn nhà của mình, với bộn bề sách, bản thảo dở dang. Căn bệnh đến đột ngột, bệnh tiểu đường ảnh hưởng đến mắt. Đây là lần thứ hai, bệnh phát triển nhanh quá! Mắt thoái hóa, mờ, bác sĩ chuẩn đoán: “phải chịu vậy thôi”. Một mình đơn độc, chống chọi với bệnh tật. Sống một mình không phải dễ chịu, nhưng tôi đã quen rồi.

Trong những ngày dưỡng bệnh, không làm gì cả, không đọc sách, không viết, nhưng trí óc thì không quên nghĩ, nghĩ vẩn vơ, lung tung. Nhớ lại những năm tháng đã qua, một thời tuổi trẻ, tiếp bước vào tuổi trung niên, hiện tại là con số cao niên, sáu mươi sáu tuổi, độc thân.

Đã nhiều năm, từ ngày nghỉ làm việc ở cơ quan nhà nước, bệnh nặng, thuốc men, dưỡng bệnh, phục hồi sức khỏe, tôi bắt đầu một công việc mới: “Viết Văn”. Một chặng đường gập ghềnh, gian nan và cả nước mắt. Nhiều lần tôi phải buông viết, bỏ cuộc, do nhiều nguyên nhân, hoàn cảnh phải săn sóc cho má tôi già, bệnh. Nhưng nguyên nhân chính, tôi cũng không rõ thực hư như thế nào, tôi bị một số người sống trong bóng tối, bịa đặt vu khống. Một dì cán bộ hưu trí nói: “Dì không tin vào những lời bịa đặt về cháu”. Tôi bảo: “Cháu không biết gì cả”. Hỏi dì họ bịa đặt như thế nào, dì vẫn không chịu nói. Dì khuyên: “Không biết thì thôi, sống bình thường nghe cháu”. Sau đó, một lần dự thi viết kịch bản sân khấu, nhận được thông báo nộp đĩa A cho Ban tổ chức, không phải là chính thức được giải, nhưng các tác giả hiểu nộp đĩa A để in sách là có giải. Cuối cùng, tôi không có tên nhận giải. Tôi rất hụt hẫng và hiểu ra, có một thế lực ngầm tung tin bịa đặt vu khống hãm hại tôi. Tôi rơi nước mắt, nghỉ viết từ lần đó.

Khi má tôi qua đời, buồn, suy sụp, sống trong căn nhà vắng lặng. Đến giai đoạn này thế lực ngầm bắt đầu nhen nhúm:

- Một lần tôi đi vào một con hẻm, vừa đến cửa một con nhà đã xây xong, dưới đất có hai người đàn ông đứng, nghe một tiếng la, bỗng từ trên cao, một cây sắt dài khoảng bốn tấc, rơi thẳng xuống đất sượt qua mặt tôi, rớt trước bàn chân. Tôi đứng sửng, tim muốn ngừng đập. Một bà ngồi trước căn nhà đầu tiên chứng kiến la lớn: “Trời ơi! Bà may mắn thật, trời cứu, không thì tiêu đời”.

- Một thời gian sau, tôi ở nhà một mình, khoảng gần 11 giờ đêm, nghe tiếng mái tôn lay động mạnh, có tiếng chân chạm đất rất mạnh. May mà tôi không lên lầu, ở nhà dưới đất, khóa cửa ngăn, chặn cây song. Tên đột nhập hừ một tiếng thật to. Tôi sởn cả người, nổi da gà, tim đập thình thịch. Một đêm thức trắng.

- Lần thứ hai đột nhập, xông thuốc mê, tôi mê đi, chợt lạnh cả người, tỉnh dậy nhìn đồng hồ, biết bị mê đi gần nửa giờ, hoảng hốt ngồi dậy, tôi nghe tiếng lay động sợi dây lòi tói sắt, tôi vội bấm điện thoại cho đứa em, bảo nó bấm điện thoại vào máy tôi nhiều lần, cho bọn đột nhập sợ leo ra, thoát nạn.

- Lần thứ ba, đột nhập, đập phá mái nhà, ngói thủng một lỗ to, mưa tràn vào, ngập cả căn phòng, giường, tủ quần áo.

Tôi nghĩ có lẽ là một cuộc khủng bố tinh thần, đe dọa. Linh cảm của tôi rất nhạy bén, biết tôi gặp tai họa nên phòng bị trước. Những chuyện tôi đã trải qua và viết ra đây là sự thật một trăm phần trăm. Tôi đã thoát chết trong chớp mắt. Tôi càng nghĩ đến cuộc sống, tôi phải sống cuộc đời của mình, mặc kệ ai muốn nói gì thì nói, ai muốn tin thì tin. Tôi biết tôi là người lương thiện, không làm điều gì xấu. Tôi tin có trời, có linh hồn ba má tôi chứng giám.

Trong giai đoạn này, tôi viết một mạch truyện “Một cõi thiên đàng”, đọc lại tác phẩm của mình, tôi nghĩ mình ảo tưởng, lãng mạng, mơ mộng. Tại sao tôi không dám viết sự thật, cuộc sống của mình bị truy đuổi, đe dọa? Sứ mệnh của ngòi bút là phải viết đúng, tôi phải thành thật với bản thân mình, với ý nghĩ của mình. Tôi nghĩ “Cuộc đời là một cuộc chiến đấu tàn khốc và tận cùng là cái chết. Trong hành trình của một đời người, nếu gặp bất hạnh, tai họa, ta cũng phải tiếp tục bước đi, sống phải sống, ngẩng cao đầu mà sống”.

Nếu cuộc sống là một trò chơi, thì cuộc sống của tôi được họ xem là trò chơi gì đây? Vu khống! Xúc phạm danh dự! Tận cùng là cái chết! Thù? Trả thù?

HuỳnhThiên Kim Bội

Tháng 7-2016

QUYỂN SÁCH IN

CỔ NHẤT THẾ GIỚI

Đó là quyển kinh Phật được lưu giữ tại Viện bảo tàng Anh ở Luân Đôn với tên gọi Dunhuang Diamond Sutra (Đôn Hoàng Kim cương kinh).

Đôn Hoàng là tên một huyện của tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc. Phía Đông Nam huyện này có núi Minh Sa. Dưới chân núi có ngôi chùa tên Tam giới tự. Gần chùa có hơn 1.000 am đá (thạch thất), tên cũ là Mạc Cao quật (hang Mạc Cao), nhưng dân gian gọi Thiên Phật động vì ở bốn phía vách đều có tượng Phật.

Năm 1900, dưới đời vua Quang Tự nhà Thanh, một đạo sĩ trong khi quét dọn đất cát đã phát hiện ở phía sau một bức tường đổ có một phòng chứa rất nhiều sách. Lấy ra xem thì thấy số sách ấy gồm những bản viết tay của người đời nhà Đường (618-907) và đời Ngũ Đại (907-960). Ngoài số sách viết tay còn có những sách in, phần nhiều là kinh Phật. Người ta cho rằng số sách này được cất giấu kỹ ở đây là để tránh sự tàn phá trong những cuộc chiến tranh giữa nhà Tống (960-1279) và nước Tây Hạ (1032-1227). (Lúc bấy giờ Đôn Hoàng thuộc lãnh thổ Tây Hạ).

Năm 1907, một người Anh là Huân tước Auriel Stein đến chọn lấy những sách quý nhất đem về nước, trong đó có bộ Kim cương kinh. Bộ kinh này được in bằng bản khắc trên một tấm giấy bồi dài 5 mét. Dòng lạc khoản ở cuối bộ kinh đề ngày 14 tháng tư âm lịch năm thứ 9 niên hiệu Hàm Thông đời nhà Đường, tức là vào năm 868 sau Công nguyên.

Vào giữa thế kỷ XX, các nhà lưu trữ ở Viện bảo tàng Anh muốn giữ cho bộ Kim cương kinh được lâu bền đã dán thêm phía sau một lớp giấy mới. Nhưng khi cuốn lại, lớp giấy mới này căng kéo bản giấy bồi cũ, làm cho nó bị nứt nẻ. Để cứu vãn cổ vật quý ấy, các nhà lưu trữ nhờ giáo sư Kenneth Seddon, một nhà hóa học ở Trường đại học Sussex tìm một dung môi để tẩm vào mà lột lớp giấy mới ra. Nước là dung môi thích hợp nhất, nhưng nó cũng sẽ làm tan thứ mực tàu in chữ Hán. Theo các chuyên gia, bản Kim cương kinh có lẽ đã được in bằng chất becberin một thứ màu được chiết xuất bằng cách nấu sôi từ vỏ cây sồi xốp (chêne-liège). Fiona Jones, một thành viên trong toán nghiên cứu của giáo sư Kenneth Seddon, đã nghĩ ra giải pháp lý tưởng là dùng một dung dịch nitrat natri để làm tan chất keo dán mà không làm hại chất becberin. Các nhà lưu trữ ở Viện bảo tàng Anh đang rất hy vọng.

LÝ BÍCH QUANG

(Theo Sciences et Avenir tháng 10/90 và Từ Nguyên)

ĐỖ THIÊN THƯ st.

Có một thời…

Đã có một thời chúng tôi cùng ngồi chung một lớp. Rồi thời gian trôi đi làm mọi người chẳng còn nhớ đến nhau. Giá có gặp nhau ở đâu đó trên đường đ ời, có lẽ tôi cũng chẳng nhận ra chị từng là bạn cùng lớp ngày xưa…

Đã có một thời lũ chúng tôi bắt tay nhau trong quán cà phê tìm cách hẹn hò lũ bạn ngày nào. Cuộc gặp gỡ tình cờ tự nhiên đẩy hai đứa chúng tôi vào cuộc truy tìm tung tích những khuôn mặt cũ xưa. Một gã bạn với trí nhớ dai như sợi thun bới ra từ óc mình, một danh sách dằng dặc dài, để hai đứa chúng tôi lên đường… ngỏ ý!

Đã có một thời tôi từng là thành viên của Hội Legio Mariae ở một giáo xứ nhỏ, điều này làm tôi trở nên chẳng hề ngại ngùng khi đến thăm ai, hay tiếp cận với ai sau này, vì nó là bản chất của “chiến sĩ” Legio Mariae…

Đã có một thời tôi từng bán linh kiện điện tử, rồi bán các máy móc audio, video… khiến danh sách bạn bè tôi ngày càng dài thêm ra…

Đã có một thời ba má tôi phải liên tục đổi nhà thuê mướn, vì hai ông bà chẳng mua nổi căn nhà với đồng lương lính nghèo nàn, cùng cái xe bánh mì ọp ep ngoài ngã tư đường. Chính vì vậy mà tôi được ở nhiều xó xỉnh vùng Ông Tạ này. Chính vì vậy, mà tôi lại có vô số người quen ngoài đường mỗi khi bước ra khỏi cửa nhà…

Đã có một thời tôi mê ca hát nơi các nhà thờ, khiến tôi đã lê… mông chừng 18 ca đoàn, khiến cái bản mặt dễ ghét của tôi được nhiều người ghi nhận…

Bọn tôi gõ cửa các địa chỉ đã được phủ đầy nhiều trang giấy, hòng mời cho kỳ được những bạn xưa an tọa vào một hội ái hữu gì đó cho vui. Và kỳ diệu thay, chị bạn tôi ngày ấy lại là vợ của một khách hàng từng nhiều lần lui tới chỗ tôi bán buôn…

Bọn khác của chúng tôi cũng y như vậy, lặn lội tứ phương để lại hình thành một hội ái hữu cựu… gì gì khác…

Bọn khác nữa của chúng tôi khác, cũng rập khuôn như vậy, rồi lại tụm nhau lại thành một ái hữu… gì gì khác nữa…

Hóa ra, cuộc đời tôi lại gặp lại biết bao khuôn mặt cũ mèm mà rất mới. Và dù bận rộn với mấy cái ái hữu ấy, tôi thấy đời mình thêm hoan hỉ với đủ thứ lo toan…

Đã có một thời đi hát hò bên Ba Chuông, để gặp lại bạn cũ ở nơi này, hắn cù rủ tôi về chơi với CHS Saint Thomas. Cần cổ tôi gật cái cụp ngay tức thì. Lạ là hắn cũng là thành viên Legio Mariae. Vậy là tôi với hắn có tới 2 điểm chung: Sáng tác và Legio!

Đã có một thời mà tôi được lôi tới quán Dã Quỳ, tham dự buổi ra mắt tập thơ của hai nữ thi sĩ, mà tôi dám mạo muội phổ nhạc 2 bài thơ của nhị vị ấy để làm quà cho họ, cũng là lời cám ơn bạn bè đã đưa tôi đến đây dự cuộc vui rất thanh tao này…

Đã có một lúc, tôi và anh tròn mắt nhìn nhau, vì nhận ra nhau “tụi mình có quen mà” nơi cửa quán Dã Quỳ khi chưa có ai đến, vì chúng tôi đến sớm nhất. Tôi và anh nêu ra, nào Văn Đức, nào Legio, nào Ca đoàn, nào Saint Thomas, nào khách hàng mua bán máy móc để thất vọng vì những khung cảnh ấy không phải là nơi chúng tôi từng gặp gỡ. Rồi tạm thời, vì chúng tôi cùng quen một anh bạn là lý do tạm nghe được để kết luận rằng bọn mình ba đứa từng chung trường…

Đã có một thời, bỗng nhiên việc viết lách của tôi cứ như hơi thở cần có để sống hàng ngày. Hóa ra, tôi thành kẻ gắn liền với chữ nghĩa và những khung nhạc chẳng bao giờ rời, cho dù thỉnh thoảng vì ngồi nhiều mà lưng tôi ê ẩm, thỉnh thoảng vì lãng tai mà không trả lời tiếng léo nhéo của vợ mình, mà bị cô ấy rầy rà rằng, suốt ngày chỉ có máy với móc!

Tự nhiên tôi quen với thật nhiều bạn mới, đến nỗi tôi cứ lầm chị này là vợ của anh A, trong khi chị lại là bà xã của anh B, hay là em của anh C…, đến nỗi tôi lầm anh kia là chồng của chị D mà thật ra, anh ta “chỉ” là anh xe ôm chở chị đến chơi! Đó là vì bộ nhớ tôi đã quá đầy, khiến mắt tôi bị mờ đi khi có dịp gặp gỡ…

Tự nhiên tôi bị rút đi hết mọi kẽ hở thời gian, đến nỗi biết bạn mình cũng đang lên mạng, mà đành im ắng, vì tôi đang chuẩn bị được sai bảo làm gì cho ai ngay sau đó…

Tự nhiên tôi bị lôi vào cái guồng máy vui vui với cái máy chụp hình. Tự nhiên tôi thích, dù bằng tay nghề quá là non nớt, ghi lại những tích tắc khôi hài, ghi lại những khuôn mặt ngẩn ngơ của những người bạn xưa khi gặp gỡ. Trót thì trét, tôi đẩy chúng hết lên cho bạn bè xem trên FB, phần vì niềm vui, phần là nghĩa vụ…

Vậy mà, chị bạn tôi lại nhận ra anh bạn tôi từng gặp bên Dã Quỳ 3 năm trước, mới là thú vị. Họ líu ríu với nhau đủ để tôi hiểu rằng, ngày xưa họ từng chung xóm…

Hóa ra, tôi và anh ta biết nhau nhưng chưa từng quen nhau, vì có lẽ chúng tôi nhiều lần đụng mặt nhau trên đường đi lối lại mà chẳng hề nhớ ra…

Cái băn khoăn suốt 3 năm cho một câu hỏi, anh và tôi biết nhau trong trường hợp nào, đã được giải tỏa nhờ vào những tấm ảnh tuy thiếu tính nghệ thuật, nhưng kỳ diệu thay, lại là thứ duy nhất giải thích mối liên hệ của bọn tôi từ nay được nâng lên tới mây trời mê mải…

Chính vì có những thời như thế, mà tôi gặp được những bạn đồng tâm, để tuy chẳng làm được gì to tát, song, cũng đủ để lũ chúng ta nghiền ngẫm một cách thú vị rằng, chúng ta đã sống cạn mọi giây phút của cuộc đời bằng tất cả vui buồn, sướng khổ, và hẳn nhiên với mọi thân ái lẫn hờn giận trong đời…

Có lẽ chị bạn ấy sẽ thêm gắn kết với tôi để rong ruổi vào tâm hồn những bạn bè dần trắng tóc! Có lẽ anh bạn gặp ở Dã Quỳ sẽ thường xuyên cùng tôi đổi trao dù anh ở mãi Úc, mà nếu chèo ghe bằng tay, thế nào cũng có ngày tôi gặp anh bên ấy! Có lẽ anh bạn Legio mà bây giờ là “sếp” tôi, sẽ hay hàn huyên với lũ tả hữu của anh hơn - trong đó có tôi - như sáng nay bên ly cà phê chào mãi chưa về! Có lẽ những con chữ bất chợt này còn quấy rầy nhiều đến bạn bè có khi xa xứ mà như gần lắm của tôi, ôi những LTĐ, JP, Teresa Nguyen, Tam Nguyen, Canh Vu, Cindy Pham, Huong Nam Sydney, Nguyen Van Luong, Nhung Vu, Nguyenthuy Nguyen, Quang Vinh… cùng quá trời trời những tuổi cùng tên nếu viết ra cho đủ, e rằng tôi lại phải thoa thêm vài tuýp salonpas mà tôi mới vừa bóp nhẵn!

Tôi hứa rằng, tôi sẽ ráng sống đủ tuổi trăm, để nhấm nháp hết mọi phút giây đời mình, bạn gần xa ạ!

LAM TRẦN


Phụ Bản III

Di sản “Ký ức thế giới”

TRONG CUỘC HỌP CHƯƠNG TRÌNH KÝ ỨC THẾ GIỚI KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG - tại Tp. HUẾ

Việt Nam đề cử 2 Di sản tư liệu

(SGGP) - Ngày 18-5, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế phối hợp với Ủy ban Chương trình Ký ức Thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương (MOWCAP) khai mạc Hội nghị Toàn thể lần thứ 7 của MOWCAP tại Tp. Huế. 66 đại biểu quốc tế đến từ 16 nước trong khu vực và khoảng 40 đại biểu trong nước tham dự hội nghị.

Ông Phạm Sanh Châu, Tổng Thư ký Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam cho biết, hội nghị lần này sẽ xem xét 16 hồ sơ của 10 nước đệ trình đăng ký công nhận là Di sản tư liệu chương trình ký ức thế giới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương để công nhận năm 2016. Việt Nam có 2 hồ sơ đăng ký là Hồ sơ “Thơ văn trên Kiến trúc cung đình Huế” và Hồ sơ “Mộc bản trường học Phúc Giang” (Hà Tĩnh).

Ts. Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, cho biết hiện nay trên kiến trúc cung đình Huế còn 2.967 ô thơ văn chạm khắc, sơn thếp trên gỗ; 146 ô thơ văn viết tráng men pháp lam và 88 đơn vị ô hộc, câu đối, bài văn đắp ngõa sành sứ. Những thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là những bản gốc, duy nhất hiện chỉ còn ở di tích cố đô Huế. Trong lịch sử quá trình xây dựng và tu sửa các công trình xưa nay chưa hề có tư liệu nào đề cập việc thay đổi, chỉnh sửa hay làm mới các văn tự trên di tích.

1. Mỗi bài thơ kèm một bức tranh

Thơ văn trên kiến trúc gỗ cung đình Huế là toàn bộ hệ thống văn tự chữ Hán sáng tác dưới dạng các bài văn thơ được chạm cẩn chủ yếu trên các liên ba đố bản hoặc vách ván ở các di tích kiến trúc Huế được xây dựng trong giai đoạn triều Nguyễn (1802-1945).


Mỗi bài thơ hay mỗi đại tự được trang trí kèm một bức tranh. Thơ phổ biến là thể ngũ ngôn, thất ngôn. Tùy vào chất liệu (trên gỗ, đồng, đá, bê tông, vôi vữa…) những nghệ nhân xưa đã khéo léo lựa chọn màu sắc phù hợp cùng cách thể hiện (sơn, thếp, chạm, khảm, tráng men, đắp gắn…). Thơ văn đều theo mạch chủ để ca ngợi đất nước văn hiến, hùng cường, ca ngợi nôn sông gấm vóc, ca ngợi Triều Nguyễn với công lao to lớn thống nhất giang sơn, mở rộng bờ cõi, ca ngợi triều đại thịnh trị… Hiện nay, trên kiến trúc cung đình Huế còn 2.967 ô thơ văn chạm khắc, sơn thếp trên gỗ; 146 ô thơ văn viết tráng men pháp lam và 88 đơn vị ô hộc, câu đối, bài văn đắp ngõa sành sứ.

Hồ sơ “Thơ văn trên Kiến trúc cung đình Huế” được các chuyên gia đánh giá xuất sắc nhất trong tất cả các hồ sơ được đề cử lần này. Đây là những di sản tư liệu độc đáo, là những bản gốc, duy nhất hiện chỉ còn ở Việt Nam và có giá trị nổi bật toàn cầu.

“Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế” là một phong cách riêng trong trang trí kiến trúc cung đình, chưa thấy xuất hiện ở những nơi khác trên thế giới. Hệ thống di sản thơ văn này thật sự là một bảo tàng sống động, độc đáo, riêng có về văn chương thời Nguyễn.

2. Mộc bản Trường Lưu

- Di sản góp phần tạo nên diện mạo văn hiến xứ Nghệ

VOV.VN - Mộc bản Trường Lưu là một trong số di sản mộc bản phong phú, thể hiện truyền thống hiếu học và diện mạo văn hiến mang tính khu vực của xứ Nghệ.

Dù là gia sản của một dòng họ nhưng mộc bản Trường Lưu có giá trị trong việc khai thác, nghiên cứu nhiều lĩnh vực: văn học, lịch sử, địa lý, kinh tế, chính trị, ngoại giao, giáo dục, kỹ thuật in ấn của Việt Nam thế kỷ 18.

Mộc bản Trường Lưu gồm hơn 2.000 bản gỗ thị khắc chữ Hán ngược để in sách phục vụ việc giáo dục, khoa cử chọn nhân tài cho quốc gia cuối thời Hậu Lê, do dòng họ Nguyễn Huy tại Hà Tĩnh chế tác và gìn giữ. Trên bản khắc in, thời gian được ghi rõ là từ năm 1758-1788, tức là cách đây hơn 250 năm, tại làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Đáng lưu ý, mộc bản Trường Lưu có nội dung chủ yếu là sách kinh điển của Nho gia nhưng được chọn lọc, làm mới dựa trên sự kết hợp với vốn hiểu biết của người biên soạn.


Trải qua nhiều biến cố, đến nay tại kho Phúc giang Thư viện của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh còn lưu giữ 394 bản, trong đó trọn vẹn 379 bản là 12 tập sách Nho gia. Đó là 2 tập “Tính lý toản yếu” (sách rút gọn lại bộ sách do các nhà nho đời Minh biên soạn), 9 quyển “Ngũ Kinh toản yếu” (gồm Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu) và một tập “Thư viện quy lễ” (những lễ nghi, phép tắc trong trường học) do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh biên soạn, thể hiện tính trọn vẹn cho một bộ sách phục vụ giáo dục thời xưa.

Nói về 2 tập “Tính lý toản yếu”, Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Huy Mỹ - hậu duệ dòng họ Nguyễn Huy cho biết: “Trong tập ‘Tính lý toản yếu’ này, Nguyễn Huy Tự đã đưa triều đại Đinh - Lê - Lý - Trần vào giảng dạy cho học trò, trong đó có nhiều đoạn phê bình và nhận xét về các vị vua. Điều này rất khác với các tập Tính lý nguyên bản của Trung Hoa”.

Bộ mộc bản Trường Lưu được 5 danh nhân văn hóa dòng họ Nguyễn Huy biên soạn. Đó là Nguyễn Huy Tửu, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Cự, Nguyễn Huy Quýnh và Nguyễn Huy Tự. Ngoại trừ Nguyễn Huy Tửu thì những người còn lại đều tham gia giảng dạy tại Quốc Tử Giám. Theo Ts. Phạm Văn Ánh, Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam: Mặc dù các tác giả đã tham khảo nhiều trước tác của các danh nho Việt Nam và hệ thống Đại toàn từ thời Minh (Trung Quốc) nhưng mộc bản Trường Lưu vẫn thể hiện hướng tiếp thu khá riêng của các nhà nho bấy giờ.

Thời nhà Minh, vua nhà Minh có sai nhóm do ông Hồ Quảng phụ trách tiến hành biên soạn bộ “Ngũ kinh đại toàn” rất bề thế, thực hiện trong một năm. Trường hợp của ông Nguyễn Huy Oánh, theo lời tựa, cụ đã dùng 10 năm để biên soạn bộ này mặc dù xét về dung lượng thì chỉ bằng 10% bộ nguyên gốc Đại toàn của nhà Minh. Ngắn như vậy nhưng thời gian thực hiện gấp 10 lần thực hiện bộ gốc kia cho thấy dụng công của ông rất lớn trong việc thực hiện bộ “Ngũ kinh toản yếu” – Ts. Phạm Văn Ánh cho biết.

Ngoài giá trị về kỹ thuật in khắc, chữ viết, mộc bản Trường Lưu mở ra hai hướng nghiên cứu chính. Đó là hướng nghiên cứu hệ thống di sản liên quan đến giáo dục, khoa cử thời Trung đại và cách thức tiếp thu hệ thống kinh điển Nho giáo Trung Quốc. Riêng về góc độ giáo dục, Ts. Phạm Văn Ánh khẳng định: mộc bản Trường Lưu là một trong số di sản mộc bản phong phú, thể hiện truyền thống hiếu học và diện mạo văn hiến mang tính khu vực của xứ Nghệ:

“Đó là một vùng đất có truyền thống văn hiến, có rất nhiều khoa bảng xuất thân từ đó. Riêng dòng họ Nguyễn Huy là dòng họ có nhiều đời đỗ đạt cao. Như Nghệ An về sau này, thời Nguyễn có vị đại nho là cụ Nguyễn Đức Đạt, cũng là một khoa bảng, nhà giáo dục, khắc in được rất nhiều sách để lại. Đấy là những trường hợp đặc biệt còn về cơ bản thì những người trước có khó có điều kiện để khắc in được những bộ sách lớn vì điều kiện kinh tế không cho phép. Cho nên việc để lại bộ ván in có quy mô lớn như trường hợp mộc bản của dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu là rất ít”.

Hiện nay, bộ mộc bản Trường Lưu đã được in rập và số hóa thành 12 tập sách, gửi đến các trung tâm lưu trữ, các thư viện và Viện nghiên cứu Hán Nôm để phục vụ công tác nghiên cứu. Nếu mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm là tàng thư liên quan đến hoạt động của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, mộc bản lưu trữ ở Đà Lạt là tàng thư của triều đình Huế thời Nguyễn, thì bộ mộc bản Trường Lưu là tàng thư và in ấn sách về giáo dục khoa cử. Do vậy, đây là một loại hình tư liệu đặc thù và quý giá cần được đánh giá, công nhận bởi các tổ chức văn hóa có uy tín và có kế hoạch bảo tồn, quảng bá trong cộng đồng.

(Phương Thúy/VOV - Trung tâm Tin)

Hai di sản của VN được công nhận cùng với 12 di sản của 8 nước, gồm Trung Quốc (4), Hàn Quốc (2), Malaysia, Uzbekistan, Nhật Bản, Iran, Myanmar và Mông Cổ mỗi nước có 1 di sản. Theo đánh giá của MOWCAP, thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đáp ứng đầy đủ các tiêu chí độc đáo, duy nhất, mang ý nghĩa quốc tế, tính toàn vẹn, có kế hoạch bảo tồn, pháy huy giá trị bền vững và khoa học. Đặc biệt, Mộc bản trường học Phúc Giang (còn gọi là Mộc bản Trường Lưu) được đánh giá rất có giá trị trên nhiều phương diện, là khối mộc bản duy nhất về văn hóa, giáo dục của một dòng họ được lưu giữ ở VN.

Trong khuôn khổ Hội nghị toàn thể MOWCAP lần này đã diễn ra Hội thảo “Khuyến nghị về việc bảo tồn và tiếp cận di sản tư liệu dưới dạng số” vào chiều 20-5-2016.

Tài liệu tổng hợp trên báo SGGP

ngày 19-5-2016 và VOV- Trung tâm tin

BĐ st.

MIỀN QUÊ MƯỜI TÁM THÔN

HOÀI LY

CHƯƠNG I

Chuyện ngày xưa

Bà Bích Châu đang tưới nước mấy chậu mai tứ quý ở ngoài sân thì chợt trong nhà có tiếng điện thoại reo vang ở phòng khách. Bà day mặt vào trong gọi lớn:

- Có đứa nào trong nhà nghe điện thoại dùm má cái, Bích Lan à con đâu rồi?

Có tiếng dạ lớn, rồi tiếng trả lời điện thoại, chợt Bích Lan xuất hiện trước cửa nhà. Bà Bích Châu hỏi:

- Ai gọi điện thoại vậy con?

- Dạ, anh Hai Tân trên Hóc Môn gọi cho má, mời má về dự đám giỗ bác Ba trai.

- À, vậy hả? Vậy là rằm tới này là kỵ cơm của anh Ba Tường rồi, mà bữa nay ngày mấy rồi Lan?

Bích Lan ngoái nhìn tấm lịch treo tường phòng khách rồi đáp:

- Hôm nay là 13 Âm lịch rồi má.

Bà Bích Châu ngẫm nghĩ, thầm tính gì đó rồi nói với Bích Lan:

- Vậy là sáng ngày mốt con Lan chở mẹ về đám giỗ bác Ba nghe hôn.

Bích Lan lắc đầu:

- Dạ hổng được má ơi, bữa đó con phải lên trường chuẩn bị đi dã ngoại, má biểu chị Hiền đi.

Bà Bích Châu nhíu mày:

- Thiệt, con với cái, hễ sai biểu gì một chút là tìm đường né tránh hà. Chị Hiền mày yếu tay lái, chở má không có vững, má không yên tâm. Mà nè, có chở đi không thì nói một tiếng để tao còn liệu.

Bích Lan lật đật cười giả lả:

- Thì thôi, con chở má đi, có vậy mà má cũng la con. Nhưng để con tìm người thay con vụ học sinh dã ngoại đã nhe má.

- Ừ, má chờ con đó nghe, nhớ nhắc má đi sớm để còn ghé chợ mua đồ cúng nữa.

- Dạ, con biết rồi.

Bích Lan định đi vào nhà, nhưng chợt quay lại hỏi bà Bích Châu:

- À, mà má ơi, con nhớ chị Hiền thích về trên quê bà nội lắm mà, vì hồi bà còn sống thường dắt chị ấy và anh Nhật Bảo về đám giỗ, đám cưới, đám ma đủ hết mà.

Bà Bích Châu nghe vậy, ngưng tưới cây, rửa tay bước vô phòng khách ngồi xuống ghế, Bích Lan cũng bước theo ngồi kề bên. Bích Lan hỏi liền:

- Sao má, má kể con nghe đi, có phải chị Hiền thích Hóc Môn lắm phải không?

Bà Bích Châu chậm rãi nói:

- Ừ, thì hồi nhỏ nó thích về trển lắm, nhất là nững kỳ nghỉ hè, ở miệt mài luôn, nhưng giờ… có vẻ không thích nữa, với lại công việc làm của Hiền bận rộn, chắc vậy nên ít thấy nó nhắc về quê bà nội. Đâu, bữa nào thấy chị Hiền vui, con thử hỏi coi sao nghe?

Vừa lúc đó, Bích Hiền đi làm về, chạy xe vào sân.

- Kìa. Chị Hiền con về đó, nói gì nói đi. Thôi, má đi lo cơm nước đây.

Bích Hiền vừa bước vào nhà, mở nón bảo hiểm để lên kệ thì Bích Lan xán lại nói liền:

- Chị Hiền, chị về Hóc Môn ăn đám giỗ hông?

Bích Hiền hỏi hờ hững:

- Đám giỗ ai, mà đi chi vậy?

- Thì đám giỗ bác Ba Tường, cháu bà nội chớ ai, chị hổng nhớ sao. Ủa mà em nhớ hồi trước chị hay nôn về trển lắm, hễ có đám là chị xung phong đi liền cái một hà, giờ chị sao vậy, bộ không còn thích nữa hả?

Bích Hiền cau mày gạt ngang:

- Chị bận lắm, không đi được, sao em hỏi nhiều chi vậy, em đi với má đi.

- Chỉ tại em thấy hồi nhỏ chị rất thích kia mà.

- Hồi nhỏ khác, giờ lớn khác em biết hôn.

- Sao kỳ vậy hả chị Hiền?

Có tiếng bà Bích Châu gọi chị em ăn cơm, Bích Hiền nói nhanh:

- Thôi, đừng nói tới lui việc đó nữa nghe, em về với má được rồi.

Bích Lan muốn mở miệng định cãi nhưng nghĩ sao lại thôi. Bóng Bích Hiền đã khuất sau cánh cửa phòng khách, Bích Lan chắt lưỡi, cũng đi vào trong.

Sau buổi cơm tối cả nhà quây quần ở phòng khách vừa ăn trái cây vừa xem ti vi. Bà Bích Châu uống trà, ăn một miếng lê chợt lên tiếng:

- Ủa, hôm nay bộ Nhật Bảo trực cơ quan hả Hiền?

- Dạ, Bảo đi rồi má, ngày mai mới xuống ca.

- Còn Nhật Hào đâu má hổng thấy, cơm xong bữa là nó “biến mất” vậy là sao đây?

Bích Lan cười nhỏ:

- Má lại lo cho trai út nữa rồi, hổng sao đâu mà, ảnh đi chơi với Thùy Mai rồi má ơi!

- Vậy à, bạn gái của nó hả con? Coi bộ Nhật Hào thích con bé ấy phải không?

- Dạ, hình như vậy.

Bà Bích Châu day nhìn qua, thấy Bích Hiền không xem truyền hình, mà lại ngồi ở bàn viết, chăm chú xem tài liệu gì đó, bà liền gọi:

- Bích Hiền, công việc gấp hôn, ngưng tay qua má hỏi cái này coi.

Bích Hiền dạ một tiếng, chậm rãi gấp xấp tài liệu cất vào hộc tủ bàn, xong đến ngồi cạnh bà má nói:

- Má muốn hỏi con gì vậy?

- Lúc này công việc của con ra sao, mà má thấy con tất bật quá vậy, có khi đi sớm về tối vô chừng, con có thấy mệt không?

- Dạ, cũng có hơi bận rộn má à, vì mới chuyển qua chi nhánh công ty máy tính mới thành lập nên lu bu một chút, nhưng hổng sao đâu, má đừng lo nghe.

- À, mà con nhớ ngày mốt là ngày giỗ của bác Ba, anh của ba con không Hiền?

- Dạ, Bích Lan mới nhắc con hồi sáng, chớ không thôi con cũng quên rồi.

- Con có đi về đám giỗ bác con được không?

- Con còn nhiều việc chưa hoàn thành cho chi nhánh mới má à. Hay má kêu Nhật Hào hay Bích Lan đi với má được hôn?

Bà Bích Châu thở dài:

- Con thiệt lạ đó Bích Hiền, hồi nhỏ 5, 6 tuổi ba má chưa nhắc đến về quê là con đã đòi chèo chẹo bà nội cho đi theo bằng được. Sao bây giờ đã lớn lại thay đổi ý vậy hả?

Bích Hiền thong thả đáp:

- Không phải là con thay đổi, nhưng vì bây giờ ở quê Hóc Môn mình có nhiều đổi mới quá, không như lúc còn ông bà nội, ba và mấy bác, nên tự nhiên con không thích về nữa má à.

- À, ra vậy má hiểu rồi.

Nhưng chợt Bích Lan ngồi bên cạnh bà Bích Châu xen vô nói:

- Thì do sự phát triển của thành phố mà, miệt đó cũng thuộc phạm vi ngoại thành thì phải đô thị hóa nông thôn thôi chị à.

- Gì thì gì chứ thay đổi nhiều quá đến gần mất hết danh tiếng “18 Thôn Vườn Trầu” thì không hay rồi.

Bà Bích Châu thở ra:

- Má cũng nghĩ như Hiền vậy, bán hết đất hết ruộng rồi ôm tiền ở không thì có gì hay, còn nuôi bò sữa bán sữa cho công ty trầy trật lắm.

Bích Hiền cũng nói tiếp:

- Về trên ấy chị suýt đi lạc mấy lần đó, sau chị phải gọi điện cho anh Hai Tân ra đón vô nhà, té ra mình đang đứng ở ngay đầu đường vô nhà bác Tường hồi xưa. Chị buồn không muốn về là vậy đó chớ không phải hết thích về quê bà nội đâu.

Bà Bích Châu gật đầu:

- Ừ, má cũng vậy, giỗ trước đi còn nhớ. Giỗ năm sau phóng đường, hai bên cất nhà gạch nhà tầng hết trơn lấy đâu mà nhớ, lại phải bảo Nhật Bảo điện vô nhà Ba Nhung hỏi thăm mới lần ra. Thiệt khổ!

Bích Lan nói liền:

- Nhưng mà má cũng vô tới được nhà của bác Ba Tường rồi.

Bà Bích Châu thở nhẹ:

- Ừ thì tới đám nhưng ngôi nhà cũ thì còn đâu, Hai Tân với Ba Nhung giành nhau nhà đó, phá ra cất ba căn nhà gạch mới hết rồi mấy con à.

Bích Hiền hỏi nhanh:

- Má, phải căn nhà của ông ngoại của ba con mà hồi nhỏ con thấy ông cậu Quý anh bà nội và gia đình bác Tường ở phải hôn má?

- Ừ, thì đó, trước sân cát có trồng mấy cây lê ki ma, mãng cầu xiêm mà con ưa ăn đó.

Bích Lan níu tay bà Châu nói liến thoắng:

- Vậy mà kể chuyện xưa ở trển cho con nghe đi má, lúc ông bà nội còn sinh tiền con nhỏ xíu có biết gì đâu.

Bích Hiền liếc Lan một cái, cười tủm tỉm:

- Thôi đi cô, vẫn tính nhõng nhẽo từ nhỏ không bỏ hả.

Bích Lan trề môi, chọc lại chị:

- Kệ em, em nhõng nhẽo với má cho chị tức chơi.

- Má coi kìa, lớn chồng ngồng rồi mà còn tính con nít.

Bà Bích Châu cười lớn:

- Con nhớ không? Hồi nhỏ còn ẵm trên tay, chưa nói sõi mà Bích Lan đã biết khóc nói bi bô đòi đi taxi chứ hổng đi xe ngựa.

- Lúc đó con chọc nó: “không có taxi, có xe ngựa thôi hà”. Bích Hiền vừa nói vừa cười. Bích Lan đỏ mặt:

- Có thiệt vậy hôn, sao em không nhớ gì hết vậy, hay chị Hai bịa ra để chọc em?

- Hỏi má coi, thiệt chớ bộ. hồi đó đường ra chợ chỉ có xe ngựa và xe bò không thôi. Đến sau lâu lắm mới có xích lô chớ làm gì có taxi chạy cho đến bây giờ luôn đó.

Bích Hiền nói tiếp:

- Hồi xửa hồi xưa đó, nhà bác Hai Bờ sắm được cho anh Bình chiếc xe ngựa mới tinh để chở hàng mướn ra chợ hoặc xuống Sài Gòn mình là xịn rồi, ở xã đâu ai có.

Bích Lan hối bà Bích Châu:

- Má kể chuyện cho con nghe đi má.

Bà mẹ nhấp một ngụm trà, hắng giọng:

- Ừ, thì kể. Nhưng phải thong thả để má nhớ lại từ giai đoạn coi, chuyện cũng lâu lắm rồi, hổng biết má còn nhớ nhiều không nữa.

- Má cứ nhớ tới đâu kể tới đó đi má, có gì chị Hiền nhớ thì thêm vô hén, chị Hai - Bích Lan nói.

- Má nhớ lúc má mới về làm dâu nhà mình, ông bà nội tụi con mừng lắm, hễ trên quê có giỗ chạp nào thì liền dắt má về để giới thiệu cho bà con biết mặt. Họ hàng lối xóm cũng vui lắm vì ba tụi con có tiếng là kén vợ mà, gần 30 tuổi ổng mới chịu cưới má về. với lại theo phong tục làng quê, dòng họ có kỵ cơm, giỗ quảy là con dâu, cháu dâu trưởng, thứ cũng phải tụ về nhà từ đường để phụ lo mâm cỗ, cúng bái. Má không phải đứng ra lễ bái nhưng cũng phải đi chợ, nấu nướng phụ bác Ba gái và các cô, dì, thím trong họ.

Bích Hiền lên tiếng:

- Con nhớ giỗ nào cũng bày mâm cúng đủ thứ bánh má hả?

- Ừ, thì đó là tục lệ ông bà mà con. Nhiều bánh lắm như: bánh tét, bánh cúng, bánh cấp, bánh ít, bánh quy phải có đầy đủ trên mâm cỗ mới được.

Bích Lan chép miệng:

- Trời, má kể làm con thèm nhiễu nước miếng rồi nè!

Bích Hiền háy Lan:

- Con nhỏ này, lớn rồi mà mê ăn hết biết.

Bích Lan nháy mắt chọc lại:

- Kệ em, mà chị cũng thèm vậy chớ bộ.

(còn tiếp)

VĂN HỌC PHÁP

VỚI VĂN CHƯƠNG TA

Trong ba thứ chữ mà ta dùng đến để xây-dựng nên cái lâu-đài văn-học Việt-Nam thì chữ quốc-ngữ phải có một địa-vị đặc-biệt và một tương-lai rực-rỡ vô cùng.

Đành rằng những công-trình văn-nghiệp bằng chữ Hán và chữ Nôm mà tiền-nhơn để lại cho ta không phải là tầm-thường ít-ỏi, nhưng từ ngày chúng ta đã nhận rõ cái tiện-lợi, cái thần-tình của thứ chữ sáng-chế ra bởi cố Alexandre de Rhodes thì thứ chữ đó đã thành ra văn-tự phổ-thông của nước ta rồi.

So với hai thứ chữ trên thì nó dễ học, dễ viết hơn nhiều, kết hành bởi 25 chữ cái la-tinh nó dùng để đánh máy cũng tiện như sự giao-thông bằng điện-tín giữa thế-nhơn.

Trong khoảng ba chục năm nay, những sách, báo, tạp-chí xuất-bản bằng chữ quốc-ngữ đã có được một số lượng lớn-lao và cũng không phải là không có được những phẩm chất đặc-biệt.

Tuy nhiên, nếu văn-học quốc-ngữ được tiến-bộ ngần nào là cũng nhờ chịu ảnh-hưởng ở hai nền văn-học Trung-hoa và Pháp-quốc.

Cái ảnh-hưởng trên là do những tác-giả lớp đầu, những nhà nho thông-tuệ đã chịu bỏ quản bút lông để cầm cây bút sắt.

Cái ảnh-hưởng dưới là do những lớp tân-học đã chịu sự un-đúc ở trường học Pháp-lan-tây.

Trong hai lớp tác-giả đó, một lớp đã hầu tàn, một lớp đương hoạt-động.

Lớp hoạt-động đó là những người học bằng chữ Pháp để viết văn ta, những người đã chịu sự liên-lạc bằng tinh-thần với những cái tinh-thần tiêu-biểu hơn hết của dân-tộc Pháp-lan-tây.

Những cái tinh-thần đó ta thấy như lộn-xộn bất-đồng, hoặc như có chiều xung-đột cùng nhau, nhưng tổng-hợp điều-hòa lại thì chính là những cái nó làm cho nước Pháp có được cái bộ mặt khả-ái biết bao nhiêu.

Nhà sử-học Michelet đã nói rằng:

“Mỗi dân-tộc lớn đều tiêu-biểu cho một ý-tưởng quan-trọng giữa loài người. Nhưng, trời ơi, đối với nước Pháp cái đó mới đúng làm sao. Giả-thiết như có một lúc nó mờ đi, nó mất đi thì cái dây liên-lạc bằng tình-cảm ở thế giới sẽ dãn ra, sẽ tan đi và có lẽ sẽ tiêu diệt mất. Cái tình thân ái nó gây nên đời sống của địa-cầu sẽ bị thương-tổn ở chỗ linh-động hơn hết”.

(Tout grand peuple représente une idée importante au genre humain. Mais que cela, grand Dieu, est bien plus vrai de la France! Supposez un moment qu’elle s’éclipse, qu’elle finisse, le lien sympathique du monde est relâché, dissous et probablement détruit. L’amour qui fait la vie du globe en serait atteint en ce qu’il y a de plus vivant).

Cái dây liên lạc bằng tình cảm nói ở trên đây đã tạo nên bởi cái nhơn-bản chủ-nghĩa (l’humanisme) và cái tinh-thần cơ-đốc-giáo (le christianisme).

Ngoại trừ một số ít văn-sĩ quá suy-tôn chủ-nghĩa quốc-gia cho đến như có ý-tưởng bài-ngoại, còn phần nhiều đều là những người giàu lòng nhơn-đạo đã thành thật hy-vọng và hành-động cho loài người đi tới chỗ đại-đồng.

Nếu tôi không quen biết ai khác hơn là những nhà văn-hào, triết-học, những mặc-khách, thị-nhơn của Đại-Pháp thì chắc chắn là tôi không còn một chút dè-dặt gì trong cảm-tình của tôi đối với chánh-quốc.

Có lần, không nhớ là năm nào, tôi đã đau lòng về cái chết của một ông Thượng-thơ Pháp và tôi đã gởi lời chia buồn như đối với một người quen.

Hành-động kỳ-khôi. Nhưng là hành-động do tình-cảm chơn thiệt.

Ông thượng-thơ đó là ông Louis Barthou. Ông tuy làm thượng-thơ nhưng lại là một nhà danh-sĩ và là một diễn-giả của học-xá Université des Annale. Thường đọc những bài diễn-thuyết của ông ở tạp chí Conférencia tôi thấy lòng tôi cùng ông quyến-luyến.

Phút chốc, được tin ông bị ám sát ở Marseille, tôi lập tức biên thơ cho bà Yvonne Sarcey nói rằng tôi đau-khổ vì từ nay vượt qua không-gian tôi sẽ không được nghe ông Barthou diễn-thuyết nữa.

Nhà nữ sử Pháp cũng phúc-đáp cho tôi bằng những lời đau-thương thành-thiệt.

Chẳng phải một ông L.Barthou đã chiếm lòng tôi mà còn biết bao nhiêu những ông khác nữa, ông nào cũng đều có những điểm khả-ái tô lên cái bộ mặt rực-rỡ của nước Pháp tinh-thần.

Cái bộ mặt đó, từ ít lâu nay đã thấy bi-thương ủ-dột, nhưng càng trong cảnh bi-thương nó càng để cho người đời âu-yếm, thứ nhứt là đám thanh niên trí-thức Việt-Nam mà ta có thể gọi là những đứa con tinh-thần của Đại-Pháp.

Những người nầy trước hết tưởng rằng mình học chữ Pháp rồi có thể dùng luôn thứ chữ đó để diễn-đạt tư-tưởng của mình.

Nhưng lần lần họ thấy rằng họ còn sống trong cái hoàn-cảnh của xứ-sở mà họ chỉ có thể giao-thiệp được bằng tiếng nói và chữ viết của nước nhà.

Họ còn thấy rằng dầu cho tài-ba cách mấy và gắng-gỏi tới bực nào họ cũng không thế thành-tựu được một sự-nghiệp bằng Pháp văn như những nhà danh-sĩ Pháp.

Thỉnh thoảng, sau những khi đã nghỉ đọc những pho sách tây lớn bự, họ tò-mò dở đến một vài cuốn sách quốc-văn. Họ đọc và họ thấy rằng có thú-vị.

Rồi họ tập viết và cũng không thấy khó-khăn gì.

Họ đã sẵn có những phương-pháp hành-văn theo tây học.

Họ đã sẵn có những cái chứa trong đầu óc và tâm hồn.

Họ viết một cách sống-sượng mà người ta nói rằng viết theo lối tây.

Nhưng trong cái sống-sượng vụng-về đó vẫn để lộ ra những tình-cảm dồi-dào và những tư-tưởng mới.

Họ chưa bằng lòng. Họ tập luyện thêm. Họ đọc những văn-phẩm của tiền-nhơn để lại. Họ đọc những sách-vở của văn-sĩ đương thời. Họ nhận ra những chỗ dị, đồng của hai nền văn-hóa Pháp, Nam, rồi họ tham-bác, họ điều-hòa, họ muốn cải-lương những cái đã có bằng những tài-liệu mà họ đã vượt biển đem về.

Hơn thế nữa, họ còn là những đứa con cứng đầu, thường muốn thoát-ly cái ảnh-hưởng đã chịu để gây lấy cốt-cách cho giống-nòi xứ-sở.

Trong lối mươi năm nay, biết bao nhiêu là sách quốc-văn xuất bản mà hầu hết đều do những tác-giả trong đám thanh-niên tân học.

Từ những bộ tiểu-thuyết trứ-danh cho đến những bài thơ xán-lạn, từ những sách khảo-cứu phê-bình cho đến những công-trình lịch-sử, nhứt thiết đều thấy có cái dấu vết của văn-học Pháp-lan-tây, cả về phương-pháp lẫn tinh-thần.

Cái dấu vết đó hiện nay các nhà văn ta nhiều người muốn xóa nhòa để mong cho có ngày tiêu hẳn.

Như vậy không phải là họ vong-ân bội-nghĩa, nhưng chỉ là cái lẽ dịch-hóa đương nhiên.

Văn-học Pháp đành rằng ảnh-hưởng tới văn-học ta nhiều lắm. Nhưng nếu con càng lớn càng phải xa cha mẹ để luyện lấy cá-tánh của mình thì, càng tiến-hóa, văn-học Việt-Nam càng cần phải có một cái cốt-cách riêng để tiêu-biểu cho sự thuần-túy của dân-tộc.

Nó đã xa văn-học Tàu. Nó sẽ xa văn-học Pháp. Nhưng nó chẳng bao giờ xa được những núi non hùng-vĩ, những đồng-áng xinh-tươi, những nét mặt răn-deo mà hiền-hậu của các bà già xưa, những tánh-tình vui-vẻ nhưng dịu-dàng của mấy cô tân-nữ.

Nó chẳng những chỉ là hình-ảnh của xứ-sở với những phong-tục và nhơn-vật An nam. Nó còn phải chứa được những tình-cảm mãnh-liệt, những tư-tưởng cao-siêu của những cái tài-trí đặc-biệt mà giống-nòi ta có thể sản-xuất ra được.

“Nước ta sau nầy hay hay dở là nhờ ở chữ quốc-ngữ”.

Lời ông Nguyễn-văn-Vĩnh dối lại đã thấy có chứng-nghiệm rõ-ràng vì chữ quốc-ngữ đã được chúng ta để-ý và thương yêu.

Trong tình thương yêu đằm-thắm ta đương làm cho nó có một cái tiền-đồ rực-rỡ đáng trông mong.

Cái tiền-đồ đó đi đôi với tiền-đồ của văn-học và tương-lai của xã-hội.

Sự tiến-hóa rồi đi tới đâu chưa biết. Nhưng dầu cho tiến-hóa đến bực nào ra nữa, ta cũng phải nhớ rằng: Chữ quốc-ngữ là sáng-chế của một ông cố-đạo Tây-phương và văn-chương Việt Nam đã có hồi chịu ảnh-hưởng sâu xa của văn-học Pháp-quốc.

THIẾU-SƠN

Bs. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st.

thằng nhóc

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

SỰ KIỆN BOUCOYRAN

Sau lễ thánh Saint Théophile, thì ngày nghỉ hè cũng chấm dứt.

Những ngày tiếp theo thì thật là buồn bã… Không ai còn cảm thấy hăng hái làm việc, thầy cũng như trò.

Sau hai tháng trường nghỉ ngơi, thì cái khí thế làm việc vẫn chưa trở lại bình thường. Máy móc chạy kém. Cũng giống như một chiếc đồng hồ cũ, mà yếu dây cót… Tuy nhiên, cũng từ từ thôi, là nhờ ông Viot chịu khó sắp xếp mọi việc cho nên được ổn thỏa.

Mỗi ngày vào một giờ nhất định, với cùng một hồi chuông “Đinh-Đong”, người ta thấy những cánh cửa mở ra sân, những tốp học sinh diễu hành như tượng gỗ, đi hàng hai, dưới tàn cây xanh. Rồi hồi chuông lại vang lên “Đinh Đong”, Những đứa trẻ này lại quay trở về những cánh cửa ấy. “Đinh Đong”, thức dậy đi các trò. “Đinh Đong”, học tập đi các trò. “Đinh Đong”, chơi đùa đi các trò. “Đinh Đong”, ngủ nghê đi các trò, và như vậy đó suốt cả năm.

Ô, quy chế đắc thắng. Cũng giống như học sinh Ménalque sống vui vẻ với kỷ luật của ông Viot, trong ngôi trường mẫu Sarlande.

Riêng tôi, thì tôi làm mờ đi cái khung cảnh trân trọng này. Sự dạy học của tôi không suôn sẻ chút nào. Cái phương sách của tôi đối với đám học trò rừng rú này đã trở nên cứng rắn hơn bao giờ hết. Riêng tôi rất bực bội. Cái căn bệnh chưa hết dứt, làm cho tôi nóng tánh, dễ giận. Tôi không thể chịu đựng được nữa rồi. Dễ dãi trong năm rồi bao nhiêu, tôi trở nên nghiêm khắc trong năm nay bấy nhiêu. Như vậy đó, là tôi đàn áp phường vô loại này thẳng tay, với một chút sai lầm là tôi bắt nạt, là tôi cấm túc.

Cách thức này cũng không có hiệu quả gì. Sự trừng phạt quá đà, lại trở nên tai hại.

Rồi một ngày kia, tôi cảm thấy bất lực. Lớp học của tôi nổi loạn thật sự. Tôi không còn cách nào để đương đầu với đám biểu tình. Hiện giờ, tôi vẫn còn thấy rõ, là tôi đang vùng vẫy ở giữa những tiếng la, tiếng khóc, tiếng thét: “Hãy cút ngay đi con gà nuốt dây thung! Đừng có độc tài! Thật là bất công”, và tất cả cái đám quỷ nhỏ này lấy cớ khiếu nại, đã bu lên bàn của tôi mà la lối như bầy khỉ rừng.

Đôi khi, vì quá thất vọng trước tình hình, tôi đành kêu gọi, cầu cứu đến ông Viot. Bạn hãy xem coi sự nhục nhã là dường nào. Từ ngày thánh lễ Saint Théophile, thì người mang xâu chìa khóa luôn luôn dị ứng đối với tôi.

Khi mà thình lình, ông ta bước vào lớp học, xâu chìa khóa khua động trong tay, thì mọi người lập tức trở về chỗ cũ, cái mũi dí vào quyển sách. Người ta có thể nghe tiếng con muỗi bay. Ông Viot đi tới, đi lui một đỗi vừa khua động xâu chìa khóa, giữa sự im lặng hoàn toàn.

Ông ta ngạo nghễ nhìn tôi, rồi bước đi ra mà không nói năng gì. Ông ta đắc thắng, với lý lẽ riêng. Nghiêm lệnh là tuyệt đối, nên không ai dám cười cợt. Phải như vậy thôi.

Còn tôi thì vô phúc.

Các đồng nghiệp khinh lờn tôi. Ông Hiệu Trưởng lạnh lùng đi ngang qua tôi.

Để chấm dứt cái nghiệp dữ của tôi, thì sự kiện Boucoyran bỗng nhiên xảy đến.

Ôi! Cái sự kiện Boucoyran này. Tôi tin chắc rằng nó còn đang nằm ì ở trong hồ sơ tài liệu của nhà trường, và tất cả người dân Sarlande còn nhắc nhở mãi đến ngày hôm nay. Cả tôi nữa, tôi cũng muốn nói lên sự thật, về cái sự kiện quái gở nầy cho dư luận được biết.

Một đứa trẻ 15 tuổi, tay to, chân to, mắt to, không trán, với dáng đi cục mịch của dân quê nông trại. Đó là hình ảnh của thằng Boucoyran, cũng là nỗi khiếp sợ của cả lớp. Ông Hiệu Trưởng thì quan tâm nhiều tới đứa học trò này, căn cứ vào cha mẹ nó, vì họ đã cung cấp nhiều dịch vụ hữu ích cho nhà trường. Mọi người đều e sợ nó, đến cả tôi cũng chịu ảnh hưởng chung. Tôi nói chuyện với nó cũng hết sức dè dặt. Trong một thời gian, chúng tôi sống chung với nhau khá hòa hợp.

Lúc này, lúc khác, thằng Boucoyran có nhiều cử chỉ xấc láo đối với tôi, nhưng mà tôi vẫn làm lơ đi, như không hay biết. Tuy vậy, vào một ngày nọ, cái thằng này dám cả gan vô lễ với tôi ngay giữa lớp học, đến đổi tôi mất hết tự chủ, nên tôi mới bảo nó: “Trò Boucoyran hãy xách cặp mà rời khỏi lớp học ngay!”

Cái mệnh lệnh lạ lùng này làm cho thằng ranh con rất đổi ngạc nhiên. Nó đứng nhìn tôi như trời trồng, với đôi mắt mở to.

Tôi biết là tôi đã bước lún sâu vào một chuyện dữ dằn, nhưng mà tôi đã đi quá đà để có thể trở lại.

Tôi ra lệnh một lần nữa:

- Trò Boucoyran hãy bước ra khỏi lớp mau!

Lũ học trò chờ đợi trong lo lắng… Đây là lần đầu cả tiên lớp học được im lặng.

Mệnh lệnh thứ hai làm cho thằng Boucoyran trở nên cọc cằn hơn, với cái bộ điệu phách lối của nó:

- Tôi không đi.

Trong lớp có tiếng xì xào… Tôi tức giận đứng lên khỏi ghế ngồi:

- Trò không đi ra à. Đợi xem.

Và tôi bước xuống bục giảng…

Xin Thượng Đế chứng minh cho tôi, trong lúc đó, rằng ý tưởng bạo hành còn xa vời đối với tôi. Tôi chỉ muốn ra oai với thằng Boucoyran với cử chỉ nghiêm túc, nhưng mà, vừa thấy tôi bước xuống bục giảng thì nó cười cợt ngạo nghễ, đến đổi tôi toan giơ tay túm lấy cổ áo của nó đặng lôi ra ngoài…

Cái thằng khốn này đã dấu sẵn ở dưới bàn một cây thước sắt to dài. Khi mà tôi vừa động thủ, thì nó đã đánh vào tay tôi một cái đau điếng. Vì cái cú đánh nầy, mà tôi mất hoàn toàn bình tỉnh. Tôi bèn nhảy tới, nắm lấy thằng Boucoyran lôi nó ra khỏi bàn, mà quăng nó ra ngoài sân, lăn mấy vòng. Sự việc này chỉ xảy ra trong nháy mắt, mà tôi cũng không ngờ rằng sao lúc đó tôi có sức mạnh đến thế.

Mấy đứa học trò trong lớp khiếp vía.

Thằng Boucoyran là đứa học trò mạnh nhất lớp, mà bị trừng trị bởi một con chốt ốm yếu bề ngoài như vậy!

Thật là một biến cố. Tôi thì thắng trên quyền lực, còn thằng Boucoyran thì thua trên uy tín.

Khi mà tôi trở lên bục giảng, mặt mày còn tái mét vì xúc động, thì tất cả các gương mặt đều gục xuống bàn. Lớp học đã được chinh phục. Nhưng mà ông Hiệu Trưởng và ông Viot sẽ suy nghĩ thế nào đây về sự kiện này? Có phải là tôi muốn rời khỏi nhà trường không?

Những ý tưởng này đến với tôi quá trễ, đem lo ngại cho sự chiến thắng của tôi. Và trong từng giây phút một, tôi chực chờ ông Hiệu Trưởng bước vào… Tôi run sợ đến cuối giờ học, nhưng mà ông Hiệu Trưởng vẫn không đến. Vào giờ ra chơi, tôi rất đỗi ngạc nhiên mà thấy thằng Boucoyran đang cười đùa với những đứa trẻ khác. Điều này làm cho tôi an tâm đôi chút, và vì suốt cả ngày trải qua trong sự êm ả, cho nên tôi nghĩ rằng cái thằng quỷ nhỏ này đã bỏ qua mọi chuyện. Vậy là tôi thoát khỏi mọi sự lo sợ.

Tai hại thay, ngày thứ năm kế là ngày nghỉ, để học sinh về thăm nhà. Chiều đến thằng Boucoyran không trở vào ký túc xá. Tôi có linh tính chẳng lành. Suốt đêm tôi không ngủ được.

Sáng mai vào đầu giờ, lũ học trò xì xào với nhau, vì nhìn thấy chỗ ngồi của thằng Boucoyran trống vắng. Tôi thì chết điếng trong lòng, mà bề ngoài cố làm bộ bình tĩnh.

Khoảng 7 giờ, cánh cửa phòng học tự nhiên mở ra, tất cả học sinh đều đứng dậy…

Tôi thì thất sắc.

Ông Hiệu Trưởng đi vào trước tiên, kế đến là ông Viot, theo sau cuối cùng là một ông già to lớn, ăn mặc chỉnh tề, thắt cà vạt, mang áo vét. Tôi chưa từng biết người này, nhưng mà tôi hiểu ngay, đó là cha của thằng Boucoyran. Ông ta vừa vuốt râu mép, vừa càu nhàu trong miệng. Ba người đứng choán giữa phòng học; và cho đến khi ra đi, họ không màng nhìn về phía tôi một lần nào.

Ông Hiệu Trưởng phát pháo đầu tiên:

- Hỡi các em, - Ông ta nói với học trò - Chúng tôi đang thừa hành một nhiệm vụ rất nặng nề, hết sức là nặng nề. Chúng tôi phải nói to lên rằng, mọi sự bạo hành là sai trái đối với nội quy của nhà trường.

Phải trả lời làm sao đây với lời buộc tội nghiêm khắc này?

Đôi lúc tôi cũng muốn lý giải:

- Xin lỗi ông Hiệu Trưởng. Xin cho tôi nói.

Nhưng mà ông Hiệu Trưởng vẫn không muốn nghe.

Sau đó là cha của Boucoyran lên tiếng. Người cha đáng thương hại này. Người ta đã làm gì với đứa con của ông ta. Thằng bé yếu đuối, bị hành hạ như thể là… Đã hai ngày nay, mẹ của nó đã khóc hết nước mắt, để chăm sóc sức khỏe cho nó.

Với luận điệu đó, ông ta lải nhải suốt cả hơn 10 phút đồng hồ.

Lũ học sinh thì cười thầm, vì được dịp ngồi chơi, giải trí.

Còn cái xâu chìa khóa của ông Viot thì rất đỗi vui mừng, nhảy nhót leng keng.

Đứng trên bục giảng, Thằng Nhóc phải tiếp thu cho bằng hết những lời lăng nhục, mà không được quyền nói năng gì cả. Nếu như nó mở lời cãi lý, thì ắt nó sẽ bị đuổi ra khỏi trường ngay lập tức. Rồi đi về đâu. Nó đành phải ngậm câm, nuốt hận trong lòng.

Sau cùng rồi, ba người này cũng rút lui. Họ để lại một sự ồn ào náo nhiệt, mà tôi không thể nào trấn an được nữa. Sự kiện Boucoyran đã xóa hết quyền lực của tôi.

Rõ ràng là một sự kiện kinh hoàng, làm cho cả tỉnh phải xôn xao.

Những kẻ thông tin giỏi thêu dệt làm cho câu chuyện trở nên rợn tóc gáy.

Sự kiện vang dội, ồn ào lên. Ông Hiệu Trưởng giận dữ. Ông ta chưa đuổi tôi, là nhờ có sự bảo lãnh của ông Khoa Trưởng. Than ôi, phải chi tôi được nghỉ việc ngay tức khắc, thì có lẽ còn hay hơn. Cuộc sống trong ngôi trường này đã trở nên khó chịu. Lũ học trò không nghe lời tôi nữa. Mọi hành động răn đe của tôi đều bị chúng nó hăm dọa, là đi về mét cha mẹ chúng.

Thuở đó, tất cả báo chí trong tỉnh lỵ đều đăng tải về chuyện này. Có một tờ báo còn tung tin dữ rằng, ông thầy đứng lớp bị tự ái vì một lời nói hớ, đã giáng cho ông Boucoyran cha một chưởng.

Một chưởng. Là nghĩa gì vậy? Tôi cũng không màng sưu tra tự điển.

Tôi đã lầm lỗi nhiều rồi.

(Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật

Giai thoại

SỰ GIÀU CÓ CỦA TCHYA

Bút hiệu Tchya của Đái Đức Tuấn cũng là một sự đùa cợt. Có người nói Tchya là những chữ viết tắt của “Tôi chẳng hề yêu ai” hoặc “Tôi chỉ yêu An”. Bạn bè thân thiết của Đái Đức Tuấn thì gọi đùa ông là “Tẩy Xia”. Ông là tác giả những tập truyện dài Thần Hổ, Kho vàng Sầm Sơn, Ai hát giữa rừng khuya… Cũng như Huyền Kiêu, ông không hiện diện trong “Thi nhân Việt Nam” mặc dầu ông đăng nhiều thơ và đã xuất bản tập thơ mang tên là Đầy Vơi. Vào khoảng các năm 50, 60, ông vào Huế dạy học rồi vào Sài Gòn viết báo. Có một dạo dưới bút hiệu Mai Nguyệt, ông viết mục Nói hay đừng cho nhật báo Tự Do, qua đó ông bàn đủ thứ chuyện trên đời, có nhiều bài bình luận văn chương rất sâu sắc và duyên dáng do ông tinh thông Hán học lẫn Tây học, viết văn Pháp rất hay, làm thơ chữ Nho cũng giỏi, viết chữ thảo Tàu cũng rất đỗi tài tình. Về già, ông lâm vào cảnh túng thiếu, ở tít trên tầng năm của “bin-đinh” Everest, đường Nguyễn Văn Tráng, Saigon. Lại mang bệnh ghiền thuốc phiện. Một buổi sáng, có một người bạn nhạc sĩ đến thăm ông. Đó là nhạc sĩ V.P., một danh cầm ở Huế, có ngón đàn Tỳ Bà thật tuyệt vời. V.P. gặp Tchya mếu máo:

- Anh ơi, vợ em bị bệnh nặng phải nằm bệnh viện, không có tiền mua thuốc, em định nhờ anh…

Tchya móc túi. Vẻn vẹn còn có một ngàn rưỡi là tiền ông định giải quyết cữ thuốc sáng đó. Ông đưa hết cho anh bạn nhạc sĩ, V.P. ái ngại, cầm tiền nhưng thắc mắc:

- Nhưng mà… còn anh…?

Tchya cười:

- Chú định hỏi tôi là lấy tiền đâu mà đi hút chứ gì? Đừng lo cho tôi. Hãy cầm tiền về lo chữa bệnh cho thím ấy. Người ốm mới quan trọng cần lo trước hết. Tôi chịu được…

Sau khi anh bạn nhạc sĩ đi rồi, Tchya ngồi lại và bắt đầu… ngáp, nước mắt, nước mũi chảy ra. Người ta thường nói những người nghiện chúa là ích kỷ, đến vợ con cũng dám bán đi để lấy tiền thỏa mãn cơn ghiền. Đằng này, Tchya… V.P. đã nhiều lần đàn cho ông nghe trên con đò sông Hương, đệm theo tiếng ca của biết bao danh kỹ. Ông có “ngáp” một buổi mà giúp được bạn chạy thuốc cho vợ cũng là việc đáng làm. Tchya để lại hai câu thơ rất hay mà nhiều người lớn tuổi yêu thơ thường ngâm nga:

Nghệ sĩ trót sinh giàu cảm lụy

Dẫu tàn thân thế chẳng quên nhau

Cái giàu của Tchya không phải là giàu tiền mà đúng là giàu… cảm lụy.

TÔ KIỀU NGÂN kể

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

A FRIEND…

ĐỊNH NGHĨA QUA 24 CHỮ CÁI…

(A)ccepts you as you are

- Chấp nhận con người thật của bạn.

(B)elieves in “you” - Luôn tin tưởng bạn.

(C)alls you just to say “HI”

- Điện thoại cho bạn chỉ để nói “Xin chào”.

(D)oesn't give up on you - Không bỏ rơi bạn.

(E)nvisions the whole of you

- Hình ảnh của bạn luôn ở trong tâm trí họ.

(F)orgives your mistakes - Tha thứ cho bạn mọi lỗi lầm.

(G)ives unconditionally - Tận tụy với bạn.

(H)elps you - Giúp đỡ bạn.

(I)nvites you over - Luôn lôi cuốn bạn.

(J)ust “be” with you - Tỏ ra “xứng đáng” với bạn.

(K)eeps you close at heart - Trân trọng bạn.

(L)oves you for who are

- Yêu quý bạn bởi con người thật của bạn.

(M)akes a difference in your life

- Tạo ra khác biệt trong đời bạn.

(N)ever judges - Không bao giờ phán xét.

(O)ffers support - Là nơi nương tựa cho bạn.

(P)icks you up - Vực bạn dậy khi bạn suy sụp.

(Q)uiets your tears - Làm dịu đi những giọt lệ của bạn.

(R)aises your spirits - Giúp bạn phấn chấn hơn.

(S)ays nice things about you

- Nói những điều tốt đẹp về bạn.

(T)ells you the truth when you need to hear it

- Sẵn sàng nói sự thật khi bạn cần.

(U)nderstands you - Hiểu được bạn.

(W)alks beside you - Sánh bước cùng bạn.

(X)-amines your head injuries

- “Bắt mạch” được những chuyện khiến bạn “đau đầu”.

(Y)ells when you won’t listen

- Hét to vào tai bạn mỗi khi bạn không lắng nghe.

(Z)aps you back to reality

- Và thức tỉnh bạn khi bạn lạc bước.

KIM SƠN st.


Phụ Bản IV

CƠN ÁP THẤP GẦN BỜ

ĐÀM LAN

Chiếc xe mười hai chỗ trườn nhẹ vào khoảng sân trước của khu du lịch rồi từ từ dừng hẳn. Tôi nhô đầu ra khỏi cửa sổ xe, hít một luồng khí mát rượi bên ngoài. Trên xe mọi người lục tục kéo lôi các thứ hành lý.

- Gớm khiếp! Các bà các mợ đi đâu là dềnh dang hành lý đến è cổ.

- Đúng là đồ lười, mới phải khuân vác một chút đã than thấu trời rồi. Chúng tôi có dềnh dang thế thì các ông mới được chiêm ngưỡng những sắc màu của phụ nữ chứ. Cứ thử khô như củi hay hạn như lòng sông cạn xem các ông có còn hứng thú không?

- Đấy nhá. Các vị nghe rõ cả rồi đấy. Phải có đàn ông biết chiêm ngưỡng cái đẹp, thì mới có phụ nữ biết làm đẹp. Từ giờ đừng có mà nguây nguẩy “Xí, ai thèm… ai thèm…” nữa nhá.

- Xí, ai thèm…

- Đấy, thấy chưa? Đúng là miệng đàn bà vừa la vừa réo. Á, thôi thôi…

Tôi mỉm cười khi những câu chẳng chuộc của các bạn đồng nghiệp cứ như một màn hài kịch diễn một cách tùy ngẫu không bao giờ chán. Ngồi nán một tí cho mọi người ra bớt tôi mới kéo hai túi xách của mình ra.

- Chị đưa em xách hộ cho.

Uyên Thi vừa nói vừa cúi xuống cầm luôn vào quai xách. Cô chỉ khoác mỗi một chiếc túi nhỏ gọn trên vai.

- Sao em đem ít đồ dùng thế?

Uyên Thi cười thoang thoảng:

- Thế là đủ rồi chị ạ.

Tôi hơi một chút khựng lại. Ừ, cô ấy cũng có cần gì nhiều đâu. Uyên Thi làm tạp vụ ở cơ quan tôi. Hầu như cả ngày chẳng ai nghe cô cười cô nói bao giờ, cô lặng lẽ với những công việc của mình, nhẹ nhàng và chu đáo. Thi thoảng đôi ba câu đùa tếu táo có phần ác tâm cũng chỉ làm cô khẽ nhếch môi lên một chút. Cha mẹ cô đã ước vọng gì khi đặt cho cô một cái tên mỹ miều như thế? Cái tên như một đối lập dị hợm với gương mặt sàm sạm vì những vết nám, với đôi chân khuỳnh rộng kiểu vòng kiềng. Năm nay cô đã ngoài ba mươi, và tôi chắc, cô chưa một lần được nếm cảm giác hạnh phúc có thực với mình. Đôi mắt cô như một lòng hang sâu thẳm, ẩn chứa bao nỗi niềm. Có đôi lúc rỗi việc, tôi ngồi im lặng ngắm cô, lòng thầm trách cái ông Hóa Công ích kỷ. Tiếc gì mà chẳng cho tạo vật của mình thêm một chút sáng sủa. Hay lúc ấy ông say, đểnh đoảng tay gầy mà ném xuống cõi nhân gian một hình hài tùy tiện. Để rồi…

- Cô Cầm với cô Thi một phòng nhá. Chìa khóa phòng đây.

Anh Khoáng nhanh nhẹn với nhiệm vụ trưởng đoàn, vả lại trước khi đi, cơ quan đã liên hệ đặt chỗ, nên chẳng phải rề rà chi nữa. Lối về khu nhà nghỉ đi qua những bậc thang đá. Tôi “Ô” lên một tiếng thích thú khi nhìn thấy một cái hồ rất thi vị lượn quanh theo vị trí các căn phòng. Ven bờ là một dải xanh những loại cây lớn nhỏ. Tôi bước sát để nhìn thấy mặt nước lững lờ những lăn tăn sóng, những vòng tròn tỏa rộng từ những đuôi cá quẫy. Không gian thanh tĩnh, thoáng đãng, nhẹ nhõm, đúng là nơi để nghỉ ngơi cho cả thể xác lẫn tâm hồn. Các phòng nghỉ ở đây cũng khác nhiều nơi. Không là kiểu tận dụng diện tích, mà mỗi phòng như một ngôi nhà riêng rẽ, cách biệt nhau bằng một thảm cỏ xanh, điểm thêm một vài cây cảnh, mái ốp ngói giả, trông khá khang trang lịch sự. Trong phòng là những thứ tiện nghi tương đối thuận tiện cho cả những người khó tính. Uyên Thi nói:

- Chị cất đồ vào trong tủ rồi đi tắm trước đi.

- Em tắm trước đi, chị còn sắp soạn chắc lâu hơn em đấy.

Thi hơi tần ngần một chút:

- Dạ, thế thì em đi xả bụi trước nhé.

Tôi cười rồi giũ hành lý mình ra. Cái anh chàng ca thán lúc nãy cũng tội nghiệp thật. Phụ nữ chúng tôi mỗi lúc đi đâu xa là cả một vấn đề. Nào quần áo, giày dép, son phấn, lại cả mớ phụ kiện lủng củng nữa. Vừa sắp dọn, tôi vừa ngẫm những câu tếu táo lúc trên xe. Quá đúng. Phụ nữ làm đẹp là được để đàn ông trầm trồ khen ngắm, nếu không thế chắc các chị em không phải mất quá nhiều công sức trong việc chăm chút ngọai hình mình. Thực ra cả hai phái đều muốn có cái nhìn dễ chịu trong mắt nhau, ai bảo các ông không biết đỏm dáng? Cũng ra trò đấy chứ tưởng. Có điều cái sự làm đẹp của các ông thì có phần đơn giản hơn. Dẫu sao thì mọi thứ đã được hoạch trình từ tạo hóa, và con người cứ thế mà diễn trải theo sự vận hành. Ngày nhỏ, đã có lúc tôi nghĩ rất buồn cười. Sao loài người chỉ có hai dạng hình thể? Sao không tạo ra nhiều kiểu dáng như các loài hoa cây cối cho thêm phần phong phú? Lớn lên, tôi lại nghĩ, may quá, nếu con người có nhiều dạng hình thể kỳ quặc như thế thì cuộc đời này không biết còn bao nhiêu chuyện phức tạp đến đâu nữa, chỉ có một đàn ông và một đàn bà thôi mà đã có quá nhiều xầy vẩy rồi, thêm nữa chắc…

Uyên Thi đã bước ra khỏi phòng tắm với mái tóc ướt, trông cô tươi tắn lên hơn. Thi nói:

- Tắm nước nóng trong bồn thích thật đấy chị ạ, cảm giác như xương cốt giãn ra không còn chút mỏi mệt nào nữa vậy.

- Thế nên đời sống con người ta mới luôn phải kiện toàn những giá trị vật chất, để tạo cảm giác tốt nhất cho đời sống tinh thần đấy thôi.

Uyên Thi cười, một cái cười lại có chút gì đó mẫn cảm, tôi cầm bộ quần áo bước vào phòng tắm. Quả là sảng khoái thật khi dòng nước ấm từ cái vòi hoa sen tỏa khắp cơ thể. Tôi còn ngâm mình thêm một lúc nữa cho tận hưởng hết những cảm giác dễ chịu, rồi mới chịu ngồi vào bàn trang điểm. Uyên Thi đứng ngó mông lung ngoài cửa, tôi gọi:

- Thi ơi! Có sơn quét chút nào không?

- Dạ không, chị.

- Sao thế? Phụ nữ thì cũng phải tô điểm tí chút chứ.

- Em mà tô lên thì còn dị hơn nữa. Em quen rồi. Chị xong chưa? Mọi người gọi đi ăn cơm đấy.

- Ừ, chị xong rồi đây.

Mát mẻ trong bộ váy áo màu xanh da trời, tôi lâng lâng hít thở cảnh sắc quanh mình. Thầm nghĩ, cơ quan mình lần này chơi đẹp thật. Cho đi nghỉ mát đúng nơi thật lý tưởng. Nhớ hôm họp bàn địa điểm, đa phần nhất trí lên rừng. Xuống biển cũng dăm lần rồi, giờ lên rừng cho có gió mới chứ. Và điểm được chọn là một phố núi, với lý do một thành phố có nhiều cảnh quan và sức phát trỉển mạnh về nhiều mặt. Tôi thì đi đâu cũng được, bởi tôi chưa có dịp đi nhiều, với lại kể cả có đi đến chỗ mình đã từng qua cũng vẫn thấy nhiều cái lạ, và cả một chút tìm về nào đó nữa. Vừa may, đây là nơi tôi chưa từng đặt chân đến.

Phòng ăn là một gian rộng, một cái sân khấu vẫn còn giấy dán tên của một đôi tân hôn, và dòng chữ “Trăm Năm Hạnh Phúc”. Tôi mỉm cười, trên đời này, đã có ai hạnh phúc đúng trăm năm chưa nhỉ? Có hai nhóm khách trong phòng ăn, tôi hướng về phía nhóm của mình. Một bữa cơm thịnh soạn cũng những chiếc ly đá và bia chuẩn bị khua rổn rảng. Tôi ngồi xuống cái ghế dành cho mình, tham gia những câu chuyện linh tinh và những tràng cười. Gần cuối bữa ăn, một anh bạn tôi bất chợt đứng lên:

- A! Sao lại gặp nhau ở chốn này hở trời!

Tôi đưa mắt nhìn theo hướng tay anh bạn, một người đàn ông dáng đường bệ đang cầm ly bia đến bàn tôi. Tôi bất giác chết sững, suýt phì ngụm bia ra phải nuốt vội. Hoàng Trọng Hiển. Tôi như muốn bật kêu thành tiếng cả họ và tên người ấy. Câu anh bạn tôi vừa nói lập nguyên văn trong đầu tôi. Và chỉ sau vài lời giới thiệu thì có một đôi mắt nữa cũng sững sờ không kém gì tôi. Chúng tôi nhìn nhau như hai pho tượng, những người bạn cùng bàn nhận ra bèn kêu lên:

- Người quen cũ à? Hay người yêu cũ đấy?

Trọng Hỉển lấy lại bình tĩnh nhanh hơn tôi, anh kéo một cái ghế ở gần vào ngồi cạnh tôi, đồng thời trả lời mọi người:

- Vâng! Cô ấy là người yêu cũ của tôi, mười mấy năm nay rồi mới gặp lại nhau.

Những tiếng vỗ tay cùng lời hô hào của một người bạn:

- Hay quá, hay quá, vậy ta phải cụng ly chúc mừng cho cuộc hội ngộ của hai bạn nào.

Những chiếc ly giơ lên và cạn, tôi cũng uống cạn, phần là để trấn tĩnh mình. Câu chuyện tình buồn của chúng tôi ngày xưa ập về. Lẽ ra tôi đã là dâu của mẹ anh từ mười mấy năm trước, nếu như không vì một lời phán kinh sợ của một ông thầy bói: “Hai tuổi này không hạp nhau, nếu lấy nhau thì một là chồng chết, hai là mẹ chồng chết”. Với một xã hội hiện đại như ngày nay, nghe một câu như thế cũng còn tái mặt, huống là ngày ấy, lại những người lớn tuổi rất tin vào những đại loại thế. Hồi ấy, Trọng Hiển đã rủ tôi bỏ trốn đi một nơi xa, khi con cái rồi thì về, nhưng tôi không thể nghe theo. Một phần tôi không đủ can đảm để làm một chuyện như thế, một phần Trọng Hiển là con một, nếu lời ông thầy bói kia nói đúng, thì tôi làm sao gánh nổi trách nhiệm một khi hậu quả xảy ra. Và thế là dù có khóc hết nước mắt, tôi cũng đành buộc phải ra đi, bởi nếu tôi không bỏ đi thì sẽ là một trở ngại lớn cho cả hai về sau. Bây giờ nghĩ lại, tôi cho rằng, hai chúng tôi chưa đủ duyên, mà cũng chưa đủ nợ để có thể thuộc về nhau. Nhưng mối tình xưa chôn sâu giờ bỗng dạt dào ký ức.

- Bây giờ anh sống thế nào?

- Bây giờ em sống thế nào?

Hai câu hỏi bật ra cùng lúc, chúng tôi phì cười. Rồi lần lượt kể cho nhau nghe những gì sau ngày ấy. Ánh trăng non mờ mờ phả một luồng sáng xuống mặt hồ, một cơn mưa nhẹ lúc chiều đã làm không gian dịu mát, cái mát mẻ thanh thoát của một miền đất cao nguyên. Nếu không vì một chút e ngại chung quanh, thì có lẽ chúng tôi quên cả một đêm dài cho những gì xưa cũ mất. Lan man xúc cảm trên đường trở về phòng mình, tôi bỗng nghe âm vang một giai điệu “Ngoài hiên mưa rơi rơi…”, nhạc Trịnh với sự sâu lắng, da diết, ngân vọng của tiếng đàn piano. Ai đang đàn vào giờ này? Tiếng đàn thả dài trong đêm nghe càng thấu tận tâm can. Tôi dừng chân trước một căn phòng, nơi đang phát ra tiếng đàn ấy, và cứ đứng mãi cho đến khi bản nhạc dừng lại. Tâm trạng của tôi từ lúc gặp lại Trọng Hiển, giờ lại cộng thêm nỗi riết róng của bản nhạc, khiến tôi chơi vơi, mơ hồ như mình đang không có thực vậy. Bỗng một tiếng kẹt cửa làm tôi giật mình, cánh cửa phòng kia bật ra, tôi vội cắm cúi rảo bước, biết chắc người vừa bước ra sẽ nhìn thấy tôi, một cảm giác ngại ngùng dồn đuổi. Tôi bước ào vào phòng mà quên mất Uyên Thi chắc đã ngủ từ lâu. Cô ấy chỉ trở mình, nhìn thấy tôi rồi ngủ tiếp. Tôi vùi mình vào tấm chăn bông, vùi mình vào mớ hỗn độn cảm xúc. Chẳng hiểu mình tại sao lại thế? Có lẽ chỉ là một cái choáng khi có một chút gì đó riêng tư bị bắt gặp mà thôi. Nhưng rồi tôi không sao ngủ được, cứ xen lẫn trong câu chuyện với Trọng Hiển là tiếng đàn cùng những câu hỏi “Người đàn ấy là ai thế nhỉ?”. Chắc phải là đàn ông chứ phụ nữ thi đủ e dè để không gây sự chú ý trong một không gian khuya khoắt im vắng này. Nhưng cho dù là một người đàn ông với một tâm hồn nghệ sĩ đến quên cả thực tại, thì vì sao mà lại có thể đi vào bản nhạc một cách hòa quyện đến thế? Khi giao cảm cùng âm nhạc, con người phải gần như thuộc hẳn mình vào đấy, mới có thể biểu đạt cho đến tận cùng cảm xúc của từng nốt nhạc, và để làm được điều đó, ngoài sự say mê, kỹ thuật điêu luyện thì còn phải có cả một nỗi lòng. Vậy người đàn ông đó có tâm sự gì với bản nhạc ấy? Đương nhiên phải là một câu chuyện tình buồn rồi. Đàn ông mà cũng biết buồn thế á? Tôi thường chỉ thấy họ ném nỗi buồn của mình vào rượu thôi. Còn đây, anh ta lại trút tâm can mình vào một nhạc phẩm trữ tình với một thanh âm u trầm của nhạc khí. Tôi bỗng nhận ra mình trôi xa dần với cuộc gặp gỡ bất ngờ sau mười mấy năm cách biệt. Có lẽ chuyện của tôi và Hiển chỉ còn là một vệt mờ trong ký ức. Lạ. Ngày đó tôi cứ ngỡ mình chết ngay đi được khi nghe tin Hiển làm đám cưới với người con gái khác chỉ sau khi chia tay tôi chưa được nửa năm. Tôi biết, không phải Trọng Hiển là một người mau quên hay bội bạc, anh cưới vợ dưới sự thúc ép của gia đình, và cũng như để chạy trốn mối tình đau đớn của chúng tôi. Gia đình Hiển thì sợ chúng tôi sẽ còn gây ra những gì chưa biết trước. Tôi hiểu thế nên không trách hận gì anh, và thật lòng mong cho anh có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Cũng may, cuộc hôn nhân của Hiển không quá tệ, và tôi, cũng chẳng đến nỗi sai lầm. Tình cảm như một chiếc lưỡi mềm để có thể co duỗi theo từng âm ngữ. Trong từng cảnh trạng, nó luôn âm thầm lặng lẽ để tự chuyển biến theo, và có như thế, con người mới có thể sống được theo từng thời đoạn, chứ nếu nó cứ khư khư một cung bậc, một hình hài, thì tôi chắc sẽ chẳng còn một cuộc sống nào đúng nghĩa trên thế gian này. Là bởi, tất cả mọi con người, ai cũng ít nhất một vài lần phải trải qua nỗi đau tâm cảm, như tất cả mọi loại bệnh tật, nó sẽ lại được phục hồi qua những khả năng điều trị thích hợp. Và con người, sau những nát tan đổ vỡ, lại gượng đứng lên, lại vui cười, lại tiếp tục những gì đang vẫy gọi. Để rồi khi có dịp hồi tưởng, người ta lại bồi hồi với những gì đã qua, một thứ cảm xúc thật dễ chịu, thất đáng yêu và thật quý giá. Để gọi lại từ thẳm sâu lòng mình những khoảnh khắc đẹp với mình, với người. Lẽ ra tôi đã có thể chìm đến tận cùng sâu thẳm của ký ức, nếu không bị tiếng đàn kia chen vào, nếu bản nhạc đó không phải là “Ướt Mi” của Trịnh, một trong những nhạc phẩm bất hủ người nhạc sĩ thiên tài ấy. Những ai đã yêu được nhạc Trịnh, và nhất là thể hiện được nhạc Trịnh một cách đủ đầy như thế, ắt phải là người có một đời sống nội tâm sâu sắc, có một tâm hồn đa cảm, nhạy cảm và cả mẫn cảm nữa, thêm vào đó phải là một trái tim đa đoan, một trái tim đã từng biết yêu nhiều cũng đã từng biết vỡ nhiều, thì mới biết “lê” mình vào với nhạc Trịnh như thế. Tôi mường tượng một vóc dáng của người chơi đàn. Hẳn anh ta phải có một vóc dáng thật nghệ sĩ, có một chút gì đó lãng tử, và chắc rằng anh ta sẽ có một đôi mắt buồn biết nói. Bởi đôi mắt là cặp gương của tâm hồn mà. Anh ta đen hay trắng nhỉ? Tốt nhất là hơi ngăm ngăm, người đàn ông có màu da trĩu nặng suy tư thường là một người đàn ông tương đối có trọng lượng trong cái nhìn của khác phái. Đó là một nét của nam tính, trắng quá hóa mảnh mai, yếu đuối cả thể xác lẫn tinh thần, đen quá hóa tối mù, thâm u cả thể xác lẫn tinh thần, lại có vẻ cộc cằn dữ tợn. Nói thế không có nghĩa chỉ có đàn ông da ngăm mới có thể là điểm tựa cho phụ nữ. Chỉ màu da không thì không đủ để minh chứng cho mọi yếu tố khác, chỉ là một điểm chung tương đối vậy thôi. Tôi bỗng phát hiện ra mình có khả năng suy cảm về đàn ông, chẳng hiểu những điều này đã tiềm ẩn trong tôi tự bao giờ? Trong khi công việc và đời sống hàng ngày của tôi chẳng dính dáng gì đến nó cả. Có thể là những mẩu vụn được ghi nhận qua nhiều tiếp xúc, để đến một lúc thích hợp nó tự hình thành một cảm niệm. Hình như tôi linh đinh trong cảm niệm ấy cho đến lúc chìm thiếp đi vào khoảng gần về sáng.

Tôi mở choàng mắt khi nghe Uyên Thi nhẹ nhàng lay gọi:

- Chị Cầm, chị Cầm…

- Sáng rồi à?

Tôi nhừa nhựa giọng ngái ngủ.

- Sáng quá rồi chị ạ. Mấy anh đang gọi đi ăn sáng, rồi đi tham quan, nếu không em đã không gọi chị dậy, thấy chị ngủ say quá mà.

Tôi bật dậy khi nhìn thấy khoảng trời sáng bét ngoài cửa sổ.

- Trời đất! Trễ dữ vậy rồi á?

Tôi quáng quàng đâm đầu vào nhà vệ sinh, tiếng Uyên Thi cười:

- Em phải bắt đền cái anh Trọng Hiển kia mới được. Bỗng nhiên đâm sầm vào chị để bây giờ chị phải cuống quýt thế đấy.

Tôi cười với gương mặt đầy nước trong gương:

- Có vẻ như câu chuyện này đang là đề tài hấp dẫn thì phải?

- Một sự kiện bất ngờ thú vị đến thế cơ mà.

- Thôi chết! Thế này chắc chị phải chuồn về trước mất thôi. Làm sao mà chịu nổi với bao ong ve chứ?

- Vui thôi mà chị. Ai vào trường hợp này chả thế. Dễ gì…

Tôi bỗng cảm nhận được sau dấu chấm lửng ấy là một hơi thở dài khe khẽ. Tôi nhanh chóng với bộ trang phục gọn gàng, rồi cùng Uyên Thi vội vã lên nhà ăn. Chỉ còn thiếu hai chúng tôi, nhà ăn đang rôm rả tiếng nói cười. Bữa sáng là một phần bánh mì ốp la. Ngon miệng. Và tôi cũng đang đói.

- Này, cho tụi này tháp tùng với nhé!

- OK. Nhưng phải nêu ra lý do chính đáng thì mới duyệt à nha.

- Thôi mà. Làm khó nhau chi. Một chầu nhậu hoành tráng, được chưa?

Tôi cúi mặt vừa ăn vừa cười thầm, bởi cái mẩu đối thoại trên đang nhằm vào tôi. Trọng Hiển vừa cười vừa đi về phía tôi.

- Đêm qua em ngủ ngon không?

- Anh thì sao?

Một câu hỏi ngược và hai cái cười cho một đáp án. Sau đó, chúng tôi lục tục lên xe. Tôi nhẩn nha đi sau cùng, vừa phần không thích cảnh chen chúc, và cũng là thư thả để tận hưởng tia nắng ấm áp đầu tiên của ngày. Bên xe của Trọng Hiển cũng có một người chậm rãi đi sau cùng, tôi bất giác dõi mắt vào người ấy. Người đàn ông dong dỏng, ngăm ngăm, gọn ghẽ trong chiếc quần jean và chiếc áo thun cùng màu đen, khi anh ta đứng lại, khum tay đốt điếu thuốc, cái chạm mắt trong một phần nghìn giây làm gợn lên trong tôi một cái gì đó, tôi bỗng liên tưởng đến tiếng đàn, không lẽ…Những câu đùa cợt, trêu ghẹo của mọi người về chuyện tôi và Trọng Hiển cũng không bứt thoát được tôi khỏi hình dáng và sự liên tưởng trong tôi về người đàn ông ấy. Mặc dù tôi cũng tham gia cười nói, nhưng cứ có một cái gì đó ẩn trong tôi, kéo một phần tư duy tôi về với nó.

Điểm tham quan đầu tiên mà chúng tôi đến là Biển Hồ. Một danh mục cảnh quan đặc trưng của phố núi này. Biển Hồ được hình thành từ một hoạt động của miệng núi lửa từ nhiều nhiều năm trước. Nên một cảnh quan rất diễm tuyệt trải ra trước mắt mọi người. Một vùng nước xanh biếc, quanh co những chĩa dòng, được gần như bao tròn bằng một vòng cung những triền đồi, đúng như một cái miệng vậy. Nghe đồn nơi đây không có đáy, nhỡ có ai rơi xuống thì không thể tìm thấy xác. Tôi cho rằng với một độ sâu và địa tầng luồng lạch thông nhau, tạo nên những dòng xoáy ngầm, cuốn đi những gì lọt vào lòng nó, vì thế mà nó coi như không có đáy. Để bảo vệ một nguồn nước trong sạch cho toàn thành phố, người ta chỉ dựng lên nơi đây một cái đài cao để có thể đứng quan sát, ngắm nghía cảnh vật, mà không hề có một thứ dịch vụ ăn theo nào, ngoại trừ một vài người lẻ tẻ những bức hình lưu niệm và vài chai nước suối. Những chiếc máy ảnh hoạt động liên tục. Tôi thật tiếc khi đã bỏ quên chiếc máy lại nhà. Đi xa, nhất là đi đến những cảnh quan trác tuyệt của thiên nhiên, thì việc ghi lại những bức hình là một sự lưu giữ quý giá mãi về sau. Nhưng đã có người thay tôi sửa chữa cái điều đáng tiếc ấy. Trọng Hiển luôn tay máy, chụp tôi từ nhiều góc độ. Tôi phải cảnh giác anh chàng:

- Này, cẩn thận đấy, cái máy đó mà bị đập thì uổng lắm nha.

- Em đừng lo, trước khi về nhà, anh ghé đến một hiệu ảnh là xong thôi mà.

Đúng là sự tiện ích của phương tiện hiện đại. Không còn có những cuốn phim làm bằng chứng, sự chi phí cũng có giảm thiểu được nhiều hơn, và quan trọng, người ta có thể thao tác gọn trong một thời gian ngắn với chủ ý của mình. Một lúc sau, Trọng Hiển quay sang những người bạn, tôi có dịp thong thả tầm mắt mình. Bỗng tôi như bị hút vào màu áo đen ở một nơi tách biệt. Tôi hướng về phía ấy, những bước chân thật nhẹ, người đàn ông ấy đang chăm chú những nét phác thảo trên một cặp giấy gối lên hai đùi xếp bằng. Anh ta là họa sĩ. Tôi đứng im với một khoảng cách đủ để thấy được những nét vẽ mà không khuấy động không gian tĩnh lặng của người họa sĩ. Đến lúc này, tôi gần như chắc chắn trực cảm của mình đã báo đúng, đó cũng chính là người đã chơi đàn đêm qua. Ánh mắt tôi cố dõi qua vai anh ta, vài nét vẽ cho tôi thấy đó là một sóng tóc thả buông trước lay phay gió. Tôi đảo mắt tìm nguyên mẫu, và thật bất ngờ nhận ra Uyên Thi cũng đang đứng lảnh một mình, mái tóc cô xõa mềm trong gió, cô đứng như ngơ ngác giữa đất trời, như mênh mang một huyền thoại, cô đứng quay lưng, hơi nghiêng nghiêng, quả là nhìn từ góc độ này, Uyên Thi có một nét hay hay, tôi chắc cô không biết mình đang là người mẫu, là bởi Uyên Thi không bao giờ đứng trước ống kính, dù là chụp chung hay riêng, ai cũng hiểu vì sao, và cũng không mấy nài ép cô. Nếu lúc này Uyên thì bất thần quay lại, bất thần phát hiện ra một bức vẽ, cô sẽ phản ứng thế nào nhỉ? Tôi thầm mong điều đó đừng xảy ra, ít nhất là cho đến lúc bức vẽ được hoàn thành, chí ít cũng để trọn vẹn cảm xúc của một người nghệ sĩ. “Đời người có những khoảnh khắc làm nên sự nghiệp”. Tôi không nghĩ đó là lúc này với người đàn ông kia, nhưng cảm xúc nghệ thuật là một điều luôn luôn phải được tôn trọng. Bỗng tôi cảm giác như có tiếng bước chân, nhìn lại thấy Trọng Hiển đang đi đến, tôi vội đưa ngón tay lên môi, bước chân anh chậm lại. Tôi khe khẽ tháo lui, nhìn cả hai vẫn yên tĩnh với riêng tư, tôi mỉm cười rồi quay lại với Hiển.

- Anh chàng đó là bạn anh, nghệ sĩ lắm, khá đa tài nhưng cuộc đời thì không mấy suôn sẻ. Nghe tụi anh đi lên đây, cậu ấy đi theo luôn để thực tế.

Tôi trầm đi một chút khi nghe Hiển nói. Ừ thì cuộc đời vẫn vậy, luôn thách đố mỗi con người bằng những trúc trắc như cố tình. Hai cặp từ “đủ đầy” và “trọn vẹn” mãi mãi chỉ là một ước lệ. Bởi nếu con người không còn gì để khao khát, để kiếm tìm, thì chắc cuộc sống cũng không còn tồn tại được nữa. Với những người có tâm hồn nghệ sĩ, và chút tài năng mỹ cảm, thì sự thách đố của cuộc đời như nhiều hơn. Có lẽ vì thế mà ví con đường nghệ thuật như một vách đá cheo leo, người ta bấu bám vào những cạnh sắc của đá núi, chấp nhận đôi bàn tay rớm máu để đặt được từng bước chân vào từng vị trí, có khi an toàn chắc chắn, có khi khấp khểnh chênh vênh, và chỉ cần một chút sơ sảy là có thể thương tích. Chỉ hơi buồn rằng, trong cuộc đời đa sắc màu, đa dung diện này, những người biết trân trọng công sức và tâm huyết của những nghệ sĩ thì không nhiều lắm, còn lại là những góc nhìn lệch lạc, phiến diện. Tôi không phải là người làm nghệ thuật, nhưng tôi có rất nhiều bạn trong các lĩnh vực nghệ thuật, có lẽ nhờ thế mà tôi hiểu được phần nào. Có thể gọi đó là một duyên may cho tôi, vì nhờ đó mà tôi không bị phí hoài những góc đời đẹp đẽ quanh mình, và cũng nhờ đó tôi biết trân trọng những giá trị cuộc sống hơn.

Điểm thứ hai trong lịch tham quan của chúng tôi là khu du lịch Đồng Xanh. Một nơi có nhiều dáng nét văn hóa Tây Nguyên. Những pho tượng nhà mồ được mô phỏng theo nhiều hình sắc, một nhà rông tiêu biểu, một cái hồ xanh vắt, lơ thơ tím những đóa lục bình, bắc ngang là chiếc cầu có hai bên lan can cứ như những khúc tre ghép lại, những là bê tông hóa. Đặc biệt nơi đây có một khúc cây hóa thạch đã hơn nghìn năm tuổi. Tôi bỗng cười một mình khi nghĩ, có những thứ bị bỏ quên lâu ngày, bất chợt trở thành một giá trị bất biến. Cảnh quan nên thơ và lạ mắt luôn là mục tiêu của các bác phó nháy. Lần này có cả người đàn ông lạ ấy. Thỉnh thoảng, tôi cảm giác như anh ta ánh về tôi một nét cười, và tôi cũng mặc nhiên đáp lại một khóe môi. Giờ ăn trưa, cả hai nhóm cùng tập trung trên một bãi cỏ, nhà hàng đáp ứng yêu cầu bằng một tấm bạt khá rộng. Một không khí chan hòa sôi nổi, vồn vã những nói cười. Một cây đàn guitar xuất hiện, và nó nằm trong tay của người ấy. Anh ta bắt đầu bằng một đoạn dạo đầu của nhạc phẩm “Ở trọ”. Những tiếng hát, tiếng vỗ tay hòa theo. Tiếp đến là Diễm xưa, là Biển nhớ, và…Ướt Mi. Khi đàn bản nhạc này, anh ta lại ánh về tôi một nét cười, vừa có vẻ như thân quen, vừa có vẻ như gửi gắm, lại vừa có vẻ như tâm sự. Tôi vờ nhìn đi nơi khác, nhưng hai tai thì đầy ngộn âm thanh, tiết tấu. Bản nhạc này không ai hát, chỉ có tiếng đàn, tuy trong không gian này và với thanh âm của guitar, không da diết, không thẳm sâu bằng tiếng đàn đêm qua, nhưng tôi vẫn cảm nhận được sự mênh mang nỗi niềm. Thường thì nỗi buồn dễ tạo nhịp cầu giao cảm. Tôi bỗng nhiên cảm thấy, cứ như mình quen biết người này từ bao giờ rồi vậy. Trọng Hiển vẫn ngồi cạnh tôi, vẫn ân cần chăm sóc tôi, vẫn nhìn tôi bằng ánh nhìn của một ngày xưa cũ, nhưng sao tôi không còn cảm được độ ấm nồng trong mắt ấy nữa. Tôi chẳng hiểu là vì sao? Người ta vẫn nói “Tình cũ không rủ cũng tới” nhưng có lẽ không phải trường hợp nào cũng thế.

Sự phát triển kinh tế là một minh chứng của bao trí lực. Tôi nhận ra điều này khi nhìn sự bề thế của một thành phố đang phát triển mạnh. Không chỉ ở nội lực mà còn phải có một tầm nhìn đúng hướng. Tầm nhìn rộng cộng khai thác đúng quy trình và dài hơi tạo nên một sức bật không chỉ ở một vài lĩnh vực. Sự cộng hợp, cộng hưởng như một vòng tay đan kín và cùng vồng lên trong một nhịp điệu, và là một cái vẫy đầy hiệu ứng. Ánh chiều vàng như đang là tấm gương phản rọi bao khối hình đa sắc bỗng rợi đi. Trong một thoáng, một luồng khí ẩm lan nhanh cả thành phố. “Trời sắp mưa rồi, về nhanh lên bác tài ơi!”. Chẳng cần phải thúc giục thì chân ga của bác tài đã nhấn mạnh thêm rồi, cuộc du ngoạn quanh thành phố trên đường về bỗng chuyển thành một cuộc chạy đua với tính khí đỏng đảnh của ông trời. Cũng chẳng kịp, nên khi xe về đến khu nhà nghỉ, chúng tôi phải đội mưa mà chạy ào về phòng. Một khoảng thời gian cần thiết cho sự chỉnh trang, khi cơn mưa ngớt hạt, những chiếc dù lúp xúp về phía phòng ăn. Ngoài trời mưa rơi, những ly rượu votka làm ấm dạ. Ăn xong, mưa vẫn rỉ rả, chúng tôi ngồi nán nói chuyện linh tinh. Đài đang báo một cơn áp thấp. Mọi người lo lắng, những ngày tới có lẽ sẽ thường xuyên bị gián đoạn lịch trình vì những cơn mưa mất.

Mưa tạnh hẳn, tôi ra ngoài gọi điện thoại về nhà, không có gì phải lo lắng, bố con anh vẫn ăn đủ ngày ba bữa. Tôi mỉm cười. Không khí mát lạnh, cái lạnh hơi tê tê se se đặc trưng của một phố núi, tôi thả nhẹ đôi chân tản bộ một mình. Trong lòng nhẹ nhõm, dễ chịu. Những bước chân loanh quanh qua những lối rải đá, tôi không rõ con đường mình đang đi sẽ dẫn đến đâu, cũng là trong phạm vi khu nhà nghỉ này thôi, làm sao mà lạc được. Tôi cứ cúi đầu nhìn những bước chân mình, lan man lan man, và hình ảnh người đàn ông ấy như một ám thị lại hiện ra. Tôi tự mắng mình “vô duyên, người xa kẻ lạ, hơi đâu mà cứ nghĩ với ngợi thế”. Bất chợt, tôi đứng khựng lại, từ sau một tán cây, trên chiếc ghế băng là người ấy. Vẻ trầm tư, gương mặt sau làn khói thuốc của anh có gì như ma mị, như huyền hoặc khói sương. Đốm lửa hồng lập lòe lại càng làm tăng thêm vẻ chập chờn, ma quái. Tôi chợt nghe trong lòng trỗi lên một thứ cảm xúc kỳ lạ. Thứ cảm xúc này đã từ lâu lắm rồi không xuất hiện trong tôi. Cứ như một trọng lực vô hình ập vào tôi, khống chế tôi và vây bủa lấy tôi trong một tâm thế. Tim tôi đạp loạn lên, hơi thở dồn dập, cả thân người nóng lên, tôi hốt hoảng dợm chân định quay lui, thì một giọng nói ấm và thật nhẹ:

- Em có thể ngồi đây một chút được không?

Vài giây ngần ngừ, cái đầu thì bảo tôi quay về, nhưng đôi chân lại riu ríu đến cái băng ghế. Tôi lúc này không phải là một người đàn bà đã có gia đình, mà như một cô gái mới lớn với những hồi hộp cảm xúc đầu đời. Bàn tay anh nắm gọn bàn tay tôi, vẫn giọng nói nhẹ như sương ấy:

- Chết thôi. Không mặc áo ấm để tay lạnh thế này.

Chất giọng trầm, cộng thêm cái siết nhẹ của bàn tay, dậy lên một luồng nóng tỏa ngập toàn thân, tôi như buông rơi mình trong trạng thái vô thức. Sự im lặng như cố tình càng làm cái thứ cảm xúc kia cứ đầy ứ trong tôi. Tôi hơi ngước lên, ánh mắt mênh mang mà nồng nàn kia đang phủ lấy tôi. Bàn tay nóng ấm ấy siết nhẹ thêm tí nữa, nhẹ thôi nhưng đầy sức quyến rũ. Một nỗi sợ hãi đột ngột khiến tôi kéo giật tay lại, vội vã đứng lên lắp bắp “Em xin lỗi” rồi đi như chạy. Về đến phòng, tôi vội vàng lên giường tung mền phủ kín mình lại. Mặt tôi nóng bừng như một kẻ phạm tội. Uyên Thi lo lắng hỏi han, tôi trả lời qua quýt, lúc này tôi chỉ muốn được một mình. Tôi không sao lý giải được tại sao mình bỗng nhiên lại rối bời như thế? Vì sao bao năm sống với chồng tôi, tôi lại không có cái cảm xúc này? Hay như người ta nói, vợ chồng sống với nhau lâu ngày chỉ còn là một thói quen, hoặc một thứ nghĩa vụ, vì sự nhẵn mòn đã thui chột cảm xúc đi. Nhưng nếu tình trạng này xảy ra với Trọng Hiển thì còn có thể hiểu được, còn đây… một người đàn ông xa lạ, mới chỉ vài cái nhìn vu vơ, chỉ một chút gì len lỏi, sao lại như thổi bùng lên trong tôi cơn xúc động kỳ lạ này? Cơn xúc cảm này sẽ còn dẫn tôi đến đâu nữa? Và sẽ đem đến cho tôi những gì? Tôi tìm cách thoát khỏi tâm trạng, lấy điện thoại ra, tôi gọi về nhà, giọng con gái tôi ngái ngủ, ngạc nhiên:

- Lúc nãy mẹ gọi cho con rồi mà.

- Ừ thôi, con ngủ đi, mẹ nhớ con yêu của mẹ đấy mà.

Giọng con gái nũng nịu rồi tắt mắy. Tôi vẫn không thoát được mình. Nhìn qua thấy Uyên Thi đã ngủ say, tôi nhẹ nhàng trở dậy, mở cửa bước ra ngoài, khí lạnh ngoài trời đã giúp tôi tỉnh táo hơn. Trời lại lất phất những hạt mưa. Tôi giơ tay hứng những giọt nước, nghe cái lạnh tê tê trên da mặt. Lòng tôi đã dịu lại. Tôi tự mắng mình vớ vẩn, khi không lại vô lý thế, người ta chắc cười cho lắm đấy. Tôi vừa định quay trở vào thì văng vẳng tiếng đàn nhè nhẹ vang lên. Vẫn là bài Ướt Mi. Quái quỷ gì thế này? Cứ như ma ấy, một cảm giác có vẻ như phản kháng như tự vệ, khiến tôi quay ngoắt vào. Tôi kiên quyết vùi đầu vào tấm mền, ôm chiếc gối bịt kín cả hai tai, nhắm nghiền mắt. Hình như tôi đã ngủ thiếp đi khi đã thấm mệt.

Trời buổi sáng không phải là những tia nắng ấm xuyên qua từng kẽ mây mà gửi đến miền nhân gian một bức thông điệp ấm áp. Từ khoảng lấp ló ánh bình minh đầu tiên của ngày, thì những bộ mặt u ám, cáu bẳn, sầu muộn, ủ ê của dòng họ nhà mây xám đã trùm lấp hết cả một vùng trời. Bản tin sáng vẫn tiếp tục đưa tin về cơn áp thấp. Những tiếng thở dài thườn thượt cho một ngày phải chồn chân tại chỗ. Nếu họ hàng nhà mây sám ấy không có ý định dời chân sang chiếm lĩnh những vùng lân cận, thì sẽ tiêu tốn thời gian cả một ngày dài cho những gì đây? Ti vi ư? Mấy chục kênh của truyền hình cáp. Mỏi nhừ mắt. Ngủ. Tán dóc. Có tiếng ai đó bảo quên mất không đem theo một bộ bài. Hừ. Bài bạc. Ừ mà kể ra nếu có nó chắc cũng không mấy để ý đến bộ mặt thời tiết khó coi này nữa. Nó vẫn có thể đáp ứng tốt một nhu cầu, miễn đừng lạm dụng nó quá thôi.

Tôi mông lung nhìn trời, đầu óc vẫn lởn vởn những hình ảnh của tối qua. Không thấy người ấy có mặt trong bữa ăn sáng, có lẽ đang ngủ vùi trong một cơn mộng mị nào đấy. Tôi không làm sao tự giải đáp được cho mình rằng điều gì đã khiến tôi lâm vào một cảnh ngộ bất thường như thế? Đã khiến tôi lần đầu tiên thò một chân ra ngoài cánh cửa hôn nhân. Từ ngày lấy chồng, tôi luôn làm tốt vai trò của mình, chưa bao giờ tôi có ý nghĩ vượt rào hay phản bội chồng con, tuy cuộc sống gia đình cũng đôi khi chén bát, nhưng chẳng có gì nghiêm trọng, to tát đến mức căng thẳng cả. Nếu chồng tôi biết được những suy nghĩ gì đang có trong tôi lúc này, thì chắc, như cách nói của anh, tức đến tốc ngược cả dạ dày lên mất. Chợt một chiếc xe du lịch chầm chậm dừng lại trước sân khu nhà nghỉ, anh tài xế nhảy xuống mở cửa xe, một tốp người vội vã băng qua hàng rào mưa lên xe, người cuối cùng không có vẻ gì vội vã, bước lên và trước khi đóng của xe chựng lại một khắc phóng tia nhìn qua cửa sổ phòng ăn. Đó là người ấy. Tim tôi lại mất kiểm soát, hôm nay người ấy trông lịch lãm, sáng hẳn lên trong nền trời ảm đạm bằng chiếc quần tây màu kem và cái sơ mi trắng đóng thùng. Trời mưa thế này, lại ăn mặc tươm tất để đi, chắc rằng cuộc đi ấy hẳn là một cuộc đi quan trọng không thể bỏ. Hình như anh ta biết cách để làm bật mình lên ấy nhỉ. Trong khung cảnh quang đãng của đất trời, thì anh ta huyền hoặc trong bộ đồ đen, còn trong khung cảnh này, anh ta lại sáng láng trong bộ trang phục ấy. Càng lúc, anh ta càng chiếm nhiều diện tích trong bộ não của tôi. Tôi cố vùng vằng, cố bức thoát khỏi hình ảnh anh ta bằng chiếc dù và những câu chuyện linh tinh với Uyên Thi trên đường về phòng. Mở ti vi, tôi gặp ngay bản tin dự báo thời tiết, cơn áp thấp đang mạnh dần, có nguy cơ chuyển thành bão. Chuyển kênh phim truyện, tôi chọn một bộ phim hành động của Mỹ, đó là cách tốt nhất để cắt ngang những rối rắm trong tôi lúc này. Nhưng dù tôi có cố nhìn vào màn hình đến thế nào, thì trong tâm trí tôi vẫn cứ lởn vởn hình ảnh của một người trong mưa. Tôi thầm nạt nộ mình, sao mà vô lý thế, có liên quan gì đến mình đâu mà, bỗng nhiên mà mua dây buộc mình. Chợt tôi nghe một tiếng thở dài, nhìn qua thấy Uyên Thi đang đăm đắm mắt nhìn trời.

- Mưa không đi chơi được buồn quá hả em?

Thi chỉ thoáng nhếch mép, rồi nói một câu không đầu đuôi:

- Mưa này mà đi đâu vậy không biết?

Giọng nói của cô rõ là một vẻ lo lắng. Tôi tò mò:

- Em nói ai thế?

Vẻ mặt Thi là lạ:

- Dạ, em nói người ta.

- Người ta nào?

- Chị không biết đâu, mà thôi em nghĩ linh tinh ấy mà, không có gì đâu chị ạ.

Thấy cô lảng tránh, tôi lại cố rà theo:

- Thì cứ nói đi, có khi chị biết thì sao?

- Dạ thôi, mà cũng có gì đâu mà nói hở chị.

Tôi nghĩ ngay, có lẽ cô nàng đã tương tư ai đó, nhưng chắc chỉ là đơn phương thôi. Nghĩ thế tôi không hỏi gì thêm nữa, trở lại với những suy tư vừa gián đoạn của mình. Ngoài trời vần vũ mưa, trong tôi như có những loằng ngoằng sấm chớp. Những loằng ngoằng sâm chớp ấy càng đan chéo nhau nhiều hơn khi trời về chiều. Đã đến giờ ăn cơm chiều mà vẫn người đi chưa về. Uyên Thi như cũng không dằn nổi tâm trạng, cô ấy đi ra đi vào, cầm cái nọ lên bỏ cái kia xuống. Tôi không hỏi vì tôi còn bận rộn với những riêng tôi, nhưng cảm giác có bạn đồng hành cũng đỡ rối ruột hơn. Bữa cơm chiều nhạt thếch, tôi lùa vội vài ba miếng cho xong bữa, các bạn lại vài ba câu trêu đùa về Trọng Hiển, ừ thì cứ mặc nhiên tôi tâm trạng vì Trọng Hiển đi, hợp tình hợp lý hơn, khỏi phải giải thích. Cơm xong một chút thì trời tạnh mưa hẳn, tôi không về phòng ngay mà vơ vẩn có ý trông chờ. May sao, không bao lâu, chiếc xe mang đầy người kia đã xuất hiện. Tôi phải cố kềm lắm mới không bộc lộ một niềm vui bùng lên trong lòng. Khoảng trời om om tối như sáng rực lên khi người ấy từ từ bước xuống cửa xe. Tôi hơi né mình sau một cây cảnh để tránh sự chú ý. Chỉ cần nhìn thấy người về bình yên là đủ lắm rồi. Khi tất cả họ bước xuống những bậc thang đá, thì tôi mới nhẹ nhàng đi đến một chiếc ghế băng, tận hưởng cảm giác nhẹ nhõm thư thái, vui sướng vì đã trút bỏ một nỗi lo âu. Bầu trời sau cơn mưa mát mẻ làm sao, có một chút se lạnh làm tôi nhớ đến câu nói của người ấy. Bất giác tôi lại thấy mình nóng ran, lần này thì tôi không áp chế cái cảm xúc ấy nữa, vì tôi không cần phải che giấu khi chỉ có một mình. Trong cảm xúc và lan man tư tuởng, tôi mơ màng nghĩ đến một cảnh tượng, và tôi giật mình sợ hãi. Tôi không được phép, tôi không có quyền, trời ạ, tại sao tôi lại có một ý nghĩ hồ đồ như thế được, nhưng mặc cho bao lý lẽ đang tranh nhau chì chiết tôi, thì cái ý nghĩ ác nghiệt kia vẫn rõ ràng như một hiển nhiên vậy. Tôi muốn được thả mình vào vòng ôm nồng nàn ấy, tôi muốn được đón nhận một nụ hôn cuồng nhiệt từ đôi môi ấy. Sau một ngày với bao lo âu nghĩ ngợi, giờ đã bật lên trong tôi một ước muốn cụ thể và mãnh liệt đến vậy. Tôi cố dằn hơi thở dồn của mình lại, lấy cái điện thoại ra, nhưng rồi tôi không thể gọi về nhà trong tâm trạng này được, chồng tôi sẽ phát hiện ra ngay sự bất ổn trong tôi. Tôi phải làm sao bây giờ đây?

Tôi đứng bật dậy đi về phòng, bất chợt tôi nghe một tiếng hát khe khẽ bên một cụm liễu, nhìn lại, ra Uyên Thi. Chắc cô ấy cũng đang vui vì người cô ấy trông đợi đã trở về. Bỗng tôi như ganh tị với cô, vì cô đang được đàng hoàng sống với cảm xúc thật của mình, còn tôi, tôi đang phải chạy trốn. Và sự ganh tị ấy nhanh chóng biến thành nỗi bức xúc khó tả. Và tôi rùng mình khi chợt nhận ra có một tôi khác tiềm ẩn trong một tôi nhu mì, hiền thục lâu nay. Cái tôi khác ấy như đang nổi loạn, đang kêu đòi một thứ quyền, một thứ quyền mà chính ra tạo hóa ban đều cho cả hai phái, nhưng phái nam hầu như được mặc nhận cái thứ quyền ấy, trong khi phái nữ thì phải bị gò gô vào những cái khung giáo điều. Phải chăng những người đàn ông luôn biết cách tạo cho mình một thứ đặc quyền, thứ đặc quyền ấy như một sự bảo đảm cho tính tham lam và ích kỷ của họ và xua bọn phụ nữ chúng tôi vào cái thế thấp bé hơn, phụ thuộc và bị chiếm hữu hơn. Thì tất tật mọi thứ luật lệ bày ra trên đời này chỉ để bảo vệ cho cái gọi là “Quyền sở hữu” đó thôi. Bởi nếu là chồng tôi, trong trường hợp này, chắc chắn anh ấy sẽ tự cho phép mình được trao nhận một chút cảm xúc dễ chịu, và lại đổ cho một câu vừa bao biện vừa tự nhiên “Đàn ông mà”. Trong khi khởi thủy của tạo luật đều cho hai phái biết cảm nhận cái đẹp của nhau, biết rung động khi thu phát những tần sóng giới tính, thì những người đàn bà như tôi, khi đã thuộc quyền sở hữu của một người đàn ông lại không thể được phép, dù chỉ là một ý nghĩ. Nếu có một hành vi cảm xúc nào ngoài đời sống chồng vợ, lập tức bị quy kết rất nhiều thứ từ ngữ khó nghe, cùng bao cái nhìn khó chịu. Tôi toát mồ hôi khi nhận ra mình như đang cố vùng vẫy để thoát khỏi vòng kiềm tỏa lâu nay. Trời ơi! Tôi điên mất rồi hay sao thế này? Tôi gần như lảo đảo đi về phòng. Vào phòng tắm, tôi mở đầy một bồn nước ấm, rồi cứ nguyên cả quần áo nhúng mình vào. Gối đầu lên thành bệ, tôi nhắm mắt, cái nóng dễ chịu của làn nước ngấm vào, khiến tôi dần nhẹ mình đi. Hệ thần kinh như được đàn hồi khi cơ thể được bồi đắp chút nhiệt năng. Một lúc lâu sau, tôi mở mắt nhẹ nhàng thở ra. Tôi chợt mỉm cười khi tự mắng mình “Đồ điên”. Quấn chiếc khăn tắm, tôi ra ngoài lấy bộ quần áo khác. Vừa xong thì nghe tiếng gõ cửa. Tôi chải sơ lại mái tóc rồi ra mở chốt. Một cảm giác đột ngột ập vào tôi khi cánh cửa mở ra, người đàn ông ấy đang mỉm cười đứng trước cửa phòng. Tôi không khác gì một chiếc thuyền con vừa dạt được vào bờ lại bị con sóng cuốn phăng đi. Tôi gần như không khống chế được sự run rẩy của mình. Người ấy mỉm cười hỏi bằng một âm sắc trầm ấm:

- Anh có thể vào không?

- Vâng vâng, mời anh.

Tôi trả lời như một cái máy. Tôi cố trân tĩnh mình khi rót nước mời khách. Một vài câu chuyện thông thường, một vài chi tiết trong cuộc đi của anh, tôi cảm giác như anh hiểu rõ tâm trạng tôi trong ngày nay vậy. Câu chuyện đã làm tôi trở lại tự nhiên phần nào. Một vài người đi qua, tôi thoáng e ngại nếu họ có lời đồn đại linh tinh gì đấy. Có lẽ anh cũng cảm nhận được ý nghĩ trong tôi, nên tỏ lời cáo từ. Tôi đứng dậy tiễn khách, ra đến cửa, anh còn “đánh rơi” lại một câu “nếu lúc nào em thích nghe đàn thì sang anh nhé”. Một lời mời xã giao, hay có ẩn ý gì khác, chỉ biết tôi dịu dàng gật đầu, rồi quay trở vào với một trạng thái bần thần, chòng chành như say sóng.

- Chị Cầm làm gì mà thừ người ra thế? Nhớ nhà à?

Uyên Thi vừa đi đâu về, hỏi trong lúc mở tủ chọn một bộ quần áo, tôi ậm ừ. Thi khe khẽ hát khi thay đồ trong nhà tắm, tôi không mấy để ý vì còn đang bận rộn với chuyện của mình. Thi trở ra trong diện mạo khác, sà đến cạnh tôi, vẻ bối rối:

- Chị… chị cho em mượn đồ trang điểm một chút được không?

- A, chuyện lạ nha. Có anh nào rồi đấy hả?

Uyên Thi cười e thẹn, tôi chợt thấy thương thương, không hỏi nữa mà lấy son phấn ra trang điểm giúp cô. Của đáng tội, khi được tô điểm lên đôi chút, gương mặt Uyên Thi cũng không đến nỗi khó coi lắm. Thế rồi cô lỏn lẻn cười khi dặn lại một câu “Chị cứ ngủ trước đi nhé”. Tôi mỉm cười gật đầu “Chúc vui vẻ nha”. Thi đi rồi, tôi lại trở lại với những ngổn ngang của mình. Một lúc sau, tôi vùng dậy đi ra ngoài, một vài người ơi ới gọi tôi, nhưng tôi đáp lại bằng những cái lắc. Bước chân tôi, ánh mắt tôi cứ mặc nhiên một địa chỉ. Nhưng phòng người ấy tối đen, anh ta đi đâu nhỉ? Ngại những tia nhìn dò xét, tôi loanh quanh rồi quay về phòng. Giấc ngủ không thể đến được, tôi lại nghĩ đến Uyên Thi, cô ấy đã gặp ai thế nhỉ? Một người đàn ông thế nào mà lại có thể để mắt đến cô ấy? Và rồi liệu cô ấy có thật sự hạnh phúc không? Mình đây còn không thể trả lời được cho mình, làm sao trả lời thay người khác được. Khá khuya, Uyên Thi trở về, cô cố cử động nhẹ nhàng vì nghĩ là tôi đã ngủ. Tôi biết tâm trạng cô lúc này, nên cũng không muốn chen vào, chỉ im lặng vờ ngủ, nhưng hé nhìn qua mép chăn. Uyên Thi cầm một tờ giấy bìa cứng khá to, cô cứ nhìn vào đấy rồi cười, một nét cười sáng rạng làm sao. Tôi cười thầm, à thì ra, câu trả lời ở trong tờ giấy kia, có khi ngay sáng mai, cô nàng sẽ hí hởn khoe cho mà xem. Bên ngoài bỗng lộp bộp tiếng mưa rơi, tôi lại thắc thỏm, người ấy đã trở về chưa nhỉ? Hay còn long rong đâu đó để bị mắc mưa không? Tiếng mưa mỗi lúc một to, tôi trăn trở bứt rứt, giường bên kia, Uyên Thi cũng thế, tôi bất giác muốn biết cô đã có một buổi tối như thế nào?

- Đi chơi vui không em?

- Dạ, vui chị ạ. Tụi em đi uống cà phê thôi.

Câu nói vừa như khoe lại vừa như biện minh cho một ý nghĩa. Thật khổ, phụ nữ chúng tôi sao lại cứ phải mang cái sự lo lắng vì những suy diễn có thể phương hại đến danh dự, nhân phẩm của mình, nên hầu như trong mọi mối quan hệ có liên quan đến đàn ông, chúng tôi luôn phải tìm cách minh chứng ngay là không có hành vi nào khuất lấp. Thật là quá khó để mà suy suyển một phần những định kiến ăn sâu vào nếp nghĩ của con người. Tôi và Uyên Thi lại rơi vào im lặng, hỏi và trả lời thế thôi nhưng dường như cả hai đều không có ý định thổ lộ cho nhau nghe chuyện gì. Cũng may, cơn mưa không kéo dài, tiếng mưa nhỏ dần, nhỏ dần rồi mất hẳn. Tôi thở ra nhè nhẹ, và tự dỗ mình vào giấc ngủ.

- Có lẽ chúng ta phải rút ngắn lịch trình thôi các bạn ạ. Vì thời tiết thay đổi, không lẽ chúng ta cứ ngồi bó gối xem mưa. Mai ta về nhỉ?

Thông báo của trưởng đoàn làm bật ra những tiếng thở dài tiếc nuối. Tôi bất giác đưa mắt về một phía, từ phía ấy, tôi nhận một lúc hai tia mắt, một của Trọng Hiển, một của người ấy. Tôi chập mắt xuống nghe một nỗi thổn thức dâng lên trong lòng. Chỉ còn một hôm nay nữa thôi, cảm xúc mãnh liệt ấy lại trỗi dậy khiến tôi nảy ra một quyết định. Hình như đã có ai nói “Hèn nhát và tội nghiệp nhất là khi người ta phải trốn chạy chính mình”. Tôi sẽ không trốn chạy nữa, ít nhất cũng một lần tôi được sống thật với tôi. Cho dù có thể về sau sẽ có lúc tôi phải ray rứt vì mình đã có lỗi với chồng con, nhưng nếu lúc này tôi không được sống cho riêng tôi một lần, thì tôi lại có lỗi với chính bản thân tôi. Bao giờ cũng vậy, giữa những sự lựa chọn, người ta luôn lựa chọn bản thân mình. Qua trưa trời hưng hửng, mọi người rủ nhau đi mua quà, tôi lấy cớ nhức đầu không đi. Ngồi một mình trong phòng, điều duy nhất tôi trông chờ lúc này là lúc ông mặt trời đi ngủ. Vì bất luận thế nào, thì tôi vẫn phải biết e dè cái tác hại vô cùng của dư luận. Có tiếng gõ nhẹ vào cửa, tôi giật thót mình, run run xoay nhẹ nắm đấm. Nhưng lại là Trọng Hiển, anh cũng tranh thủ chút thời gian còn lại để trò chuyện cùng tôi, ác thay, anh không phải là người tôi đang chờ đợi. Câu chuyện khá rời rạc, rồi như Trọng Hiển cũng nhận ra vẻ gượng ép của tôi, anh tạm biệt tôi trong cái nhìn xưa cũ rồi quay đi. Tôi biết anh buồn, tôi biết chồng tôi cũng sẽ buồn và giận nữa, nếu biết điều gì đang xảy ra trong tôi. Nhưng tôi không có cách nào khác, tình cảm là một bản năng lành tính, nó khởi phát khi nó chạm đúng tần sóng của nó, để nó phát triển tự nhiên hay áp chế nó là công việc của lý trí. “Tình cảm là những phương tiện tham gia giao thông, và lý trí là anh cảnh sát cầm còi, nhưng không phải lúc nào cũng kịp thổi”. Vậy đó, lý trí chỉ đi theo để thu xếp hay dọn dẹp hệ lụy, hệ quả của tình cảm mà thôi. Mà con người thì luôn phải sống bằng tình cảm, chịu sự chi phối và quyền khiến của nó trong suốt hành trình cuộc sống. Cái gì cũng có hay có dở, có được có mất. Cố khiên cưỡng, chống lại tình cảm của mình hóa con người chỉ là một cỗ máy biết ăn. Tôi mặc mình trôi theo cảm xúc, ít ra tôi cũng được cảm nhận những phút giây tuyệt diệu với mình. Chồng con ư? Vâng tôi sẽ trở lại bổn phận chức năng của mình trong mai kia, còn bây giờ, tôi xin phép bước ra ngoài một chút.

Bữa cơm chiều, trưởng đoàn gọi một két bia. Người ấy đến chạm ly với tôi, trong hai đôi mắt có một thứ mật mã mà chỉ hai người giải được. Tôi nghe nóng bừng cả mặt mũi, may mà có men bia để qua mắt mọi người. Tim tôi cứ thập thình trong lồng ngực khi đợi chờ một khoảnh khắc. Để tránh sự chú ý của mọi người, nhất là Uyên Thi, tôi vờ đi tản bộ. Khí trời mát mẻ, cảnh vật hiền hòa trong thanh tĩnh cũng không là tôi yên ả được lòng mình. Lòng dạ bồn chồn, và rồi… tôi lắng nghe một thứ âm thanh nhẹ lan trong không gian, thứ âm thanh ấy đang mời gọi tôi, thứ âm thanh ấy đang cuốn lấy tôi, lôi những bước chân tôi gấp gáp đi về một phía. Cánh cửa phòng chỉ khép hờ, và như đã chờ đợi sẵn, cánh cửa hé ra, tôi bước vào như trong cơn mộng du, cánh cửa khép lại sau lưng tôi. Tôi run rẩy phải bám một tay vào thành ghế. Giọng nói ấm nhẹ như hơi thở phả vào sau tôi:

- Em ngồi xuống đi. Anh đàn cho em nghe nhé.

Một cái ôm nhẹ vào vai tôi và đỡ tôi ngồi xuồng ghế. Ánh sáng mờ dịu làm không gian như mê mị. Anh ngồi vào đàn, từng ngón tay lướt trên các phím. Vẫn là bài Ướt Mi. Nhưng lần này tôi được tận hưởng không gian trọn vẹn của bản đàn. Trong bộ quần áo đen nửa như kiêu bạc, nửa như bí ẩn, gương mặt anh ẩn hiện giữa những khoảng tối sáng, ánh mắt anh đắm vào tôi những ánh nồng nàn. Tôi như đang trôi, đang rơi, không còn một chút ý thức thực tại nữa. Chỉ biết đây là giây phút thần diệu nhất trong đời. Ngày xưa khi yêu rồi lấy chồng, tôi chưa bao giờ thực sự được đắm mình trong cảm xúc đê mê, say nồng như thế này, mọi việc cứ như một lẽ đương nhiên phải đến vậy thôi. Tôi chìm vào dòng nhạc như một tín đồ chìm vào tiếng cầu kinh, cả đến khi những thanh âm đã dừng lại. Anh đứng dậy, bước từng bước chầm chậm đến trước mặt tôi. Tôi đứng lên và không thể nào khác được là đổ vào anh. Vòng tay và đôi môi… đôi môi và vòng tay… tôi tan chìm vào thứ cảm xúc kỳ lạ nhất của con người, thứ cảm xúc như có lửa, lại như có bão, như những con sóng cuồng nộ, lại như chìm lỉm giữa thăm thẳm đại dương. Khi bàn tay anh đặt lên cổ áo tôi, thì bất chợt vang lên tiếng nhạc điện thoại, anh dừng lại nói nhẹ “em nghe đi”. Tôi lấy máy ra, là chồng tôi gọi, tôi đờ người, sao lại gọi vào đúng lúc này chứ, nhưng không thể không nghe. Vài câu thăm hỏi, tiếng mấy đứa con ríu rít khi tôi thông báo ngày mai về. Rồi tôi đóng máy trong sự thẫn thờ, đờ đẫn. Anh vòng tay ôm lấy tôi, không nói một lời nào. Chúng tôi cứ thế đứng lặng im trong nhau. Hơi ấm của anh như bao phủ hết cả thân tôi, hồn tôi. Tôi thả mình vào một trạng thái không trọng lượng, và tôi biết, đây sẽ là khoảnh khắc khó quên nhất trong đời. Rồi anh lại hôn tôi, một nụ hôn dài. Khi rời môi tôi, anh nhìn tôi bằng ánh mắt sâu thẳm, giọng nói như sương khói từ đâu vọng về “Em về đi, hãy sống thật hạnh phúc nhé”. Siết nhẹ bờ vai tôi thêm một lần nữa, anh dìu tôi ra cửa, rồi cánh cửa nhè nhẹ khép lại sau tôi. Tôi chênh vênh từng bước chân, và… tiếng đàn anh bỗng ngân lên, tiếng đàn như vấn vít từng sợi tóc, như riết róng từng hơi thở, như thức lên từng ngọn sóng quặn cả lòng tôi. Tôi lê mình đi trong tiếng đàn và những giọt nước mắt.

Tôi cố nhướng đôi mi cay nhức, khi ánh sáng xiên ngoài ổ cửa soi vào mặt. Tôi nhớ lại ngay chuyện tối qua. Khi tôi về phòng thì không có Uyên Thi, thế là tôi vùi mình vào tấm chăn trùm kín đầu mặc cho những giọt nước mắt tự do tuôn chảy. Rồi tôi cũng chẳng biết mình thiếp đi tự lúc nào. Nhìn qua giường Uyên Thi, cô ấy đang ngồi chăm chăm nhìn vào tờ giấy bìa cứng trên tay, vẻ mặt thật lạ, không hẳn buồn, không hẳn vui, đôi môi như dợm nét cười, nhưng khóe mắt thì rơm rớm đỏ, tôi bàng hoàng nhận ra đó là bức vẽ cô hôm ở Biển Hồ. Vậy ra, người làm cho Uyên Thi trở mình một chút là anh. Trong giây phút, tôi như bị hẫng vì không biết nên hiểu tính chất câu chuyện là thế nào? Phải chăng anh cũng chỉ là một người đàn ông háo sắc, một người có được chút ưu thế trời ban nên thỏa tình bay lượn trong vòm trời tình ái, và những người đàn bà cảm tính như tôi cùng lắm cũng chỉ là sự góp mặt vào một danh sách dài vô tận của anh? Không! Không phải thế. Nếu nghĩ thế có nghĩa tôi đã phỉ báng cả chính lòng mình. Trong một cảm quan có phần thiên vị, tôi cho rằng anh không phải là loại người như thế. Anh cũng là một người đa cảm, cũng có những cảm xúc đẹp khi gặp một tần sóng tương tự. Tôi cảm nhận rõ điều này qua tiếng đàn của anh hôm đầu tiên, và nếu chỉ thông thường là sự thoáng qua một bóng sắc, thì anh đã không dừng lại một giới hạn trong tối hôm qua. Vậy với Uyên Thi thì phải giải thích thế nào nhỉ? Có thể là cô ấy cũng có một cảm xúc về anh tương tự như tôi, và với sự nhạy cảm của mình, anh đã hiểu được. Thôi, tôi hiểu rồi, với Uyên Thi anh đã là một người đàn ông tử tế, anh ấy biết làm thế nào để một người không may mắn như Uyên Thi không phải tủi phận, phần nào đó thổi vào cô ấy một niềm tin và sức sống. Bức vẽ ấy sẽ là một kỷ niệm đẹp và là một tác lực đáng kể cho những ngày tháng sau này của Uyên Thi, điều mà tôi biết Uyên Thi chưa bao giờ nhận được từ những người đàn ông khác, ít nhất là những người mà cô ấy đã từng gặp. Tôi chợt nhận ra, cùng một vấn đề có thể có nhiều góc nhìn khác nhau, bằng vào những gì tôi đã cảm nhận, tôi cho rằng, vượt ra khỏi những định chế thông thường của đời sống, con người khi được cất mình từ nguyên khởi, có thể ân cần tặng nhau một chút tình ấm áp, đó là một điều rất đẹp, rất đáng trân trọng giữa cuộc sống xô bồ bao vật vã đua tranh này.

Hạnh phúc ư? Đôi khi chỉ như một làn gió.

ĐÀM LAN

Tiểu phẩm… mùa Euro

Chút tản mạn về bóng đá

“Tại sao các ông chồng mê bóng đá?” là câu hỏi đã trở thành quen thuộc (nhưng chưa nhàm chán) của rất nhiều bà vợ mỗi khi vào mùa World Cup - Euro. Hình như nó mãi là câu hỏi thuộc dạng “hiểm hóc” nhất hành tinh, vì chưa tìm ra câu trả lời thỏa đáng (hiểm hóc tương tự vế đối “da trắng vỗ bì bạch” của bà Đoàn Thị Điểm vậy!)

Euro 2016 càng đến cuối hành trình, lời kêu ca phàn nàn của các bà chẳng giảm bớt mà còn có chiều hướng gia tăng. Cũng dễ hiểu thôi, vì lúc này, độ khắc nghiệt lẫn ma lực hấp dẫn giữa các cặp đấu đạt đỉnh điểm, khiến các ông chồng càng sống chết mê mệt theo đường lăn trái bóng, quên hết đường về. Cũng có nghĩa đến thời khắc này, sự chịu đựng của các bà vợ lên đỉnh điểm rồi, “thần tiên cũng nổi điên” huống chi người trần!

Mà tại sao các ông chồng mê bóng đá?

Do ngoại hình bắt mắt? Chắc chắn là không rồi! Có phải đội bóng nào cũng sở hữu giàn cầu thủ dung mạo như Phan An - Tống Ngọc hoặc lẫm liệt oai phong tựa Lục Vân Tiên cả đâu? Cũng lùn, hô, lác, lộ, “đen như nhọ chảo” lẫn “trọc lóc bình vôi” nhan nhản đủ kích cỡ kia kìa, hấp dẫn chỗ nào cơ chứ? Ngay cả với một anh nức tiếng “giai đẹp toàn cầu” đi nữa mà trót dại một lần (chỉ một lần thôi) để ống kính máy quay phim tóm được đúng lúc đang phun đờm rãi toèn toẹt, ngoáy mũi hay móc… rồi ngửi, thì nhất định siêu sao cao tít tận trời ấy lập tức rớt oạch xuống… bùn đen! Tởm kinh người!

Do thời trang lôi cuốn? Càng không! Cứ nhìn xem: dù đầy hoa văn nhấn nhá và sắc màu lòe loẹt, khi đã bước ra sân thì anh hùng hào kiệt nào cũng rặt một kiểu quần đùi áo thun, nhìn chán chết!

Do tài nghệ siêu quần? Chưa chắc! Thử đếm xem trước giờ đã có quốc gia nào giữ cúp vô địch được quá 2 kỳ giải? Hình như chưa thì phải! Vì bóng đá chứ có phải truyện võ hiệp Kim Dung đâu nên làm gì sản sinh ra được hết Độc Cô Cầu Bại đến Đông Phương Bất Bại? Là số một, số hai toàn cầu vẫn không ít lần ngã ạch đụi, có khi chiến bại vì một đội dưới cơ, be bé, mới càng… mắc nghẹn chứ! Cứ phập phập phù phù, xoay qua chuyển lại như thế mà không hiểu sao thiên hạ vẫn thi nhau tôn sùng đẳng cấp?

***

Đến năm 2016 rồi mà nhiều bà vợ vẫn thắc mắc hỏi: tại sao “người ta” hà tiện thế, phát duy nhất chỉ một trái bóng trên sân để 22 cầu thủ cứ phải căng sức hùng hục giành giật nhau đến vỡ đầu, rớt răng, gãy tay, què cẳng?

Ừ nhỉ, sân cỏ rộng mênh mông thế kia, “người ta” cứ phát luôn 22 quả bóng riêng cho từng cầu thủ có phải hay hơn không? Anh nào chỉ được sử dụng với quả bóng của anh nấy, cấm đá lộn! Và dĩ nhiên, để trọng tài dễ phân xử, 22 quả bóng phải sơn 22 màu khác biệt nhau (nếu cần, sơn họ tên lên nữa). Đấy, cứ vậy mặc sức mà chạy như cuồng, chẳng phải tranh cướp, xô đẩy, tiểu xảo hay đại xảo, thì làm gì còn bạo lực hay chấn thương và bao nhiêu tiêu cực phát sinh? Chẳng qua vì “người ta” không phải là… vợ cầu thủ nên đâu có thấy xót ruột buốt lòng, đấy thôi!

Không khác các mùa World Cup - Euro trước, Euro 2016 cũng hút… quá bán những ông chồng nửa đêm bám trụ tại các quán cà phê. Cứ đếm bao nhiêu đầu đàn ông là biết có bấy nhiêu bà vợ (hay người yêu) đang trằn trọc (hay vò võ), thở dài chắc lưỡi (như Thạch Sùng) ở nhà!

Dĩ nhiên không phải mọi ông chồng mê bóng đá đều ra ngồi đồng suốt đêm ở quán cà phê. Cũng phải còn ít ra gần phân nửa chịu xem trực tiếp truyền hình tại nhà chứ! Nhưng than ôi, lúc ấy không chỉ các bà vợ thở dài chắc lưỡi thôi đâu mà chính các ông chồng còn… chắc lưỡi thở dài não nùng hơn đấy. Chứ gì nữa? Chứng kiến một đường chuyền đẹp như mơ, một trái sút vọt xà hay dội cột, nhất là một siêu sao đẳng cấp hụt cú pénanty “ra ngoài khó hơn vào lưới” thế kia, mà vì cần giữ thinh lặng cho các bà tròn giấc nên miệng các ông phải ngậm câm như thóc, hỏi còn nỗi khổ nào bằng? Nói cho công bằng, cũng khối bà vợ “tâm lý” ra phết! Dù chẳng hiểu mô tê gì banh bóng, dù nhìn vào màn hình là mắt ríu lại ngủ gật ngủ gà, nhiều bà vợ vẫn chịu khó thức sánh vai cùng thưởng thức bóng đá với chồng, cho đúng câu “ý hợp tâm đầu”, “thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, “thuyền theo lái, gái theo chồng” v.v… Chẳng thức suông đâu nhé, còn nấu cháo, chè, xôi, xúp… bồi dưỡng chồng canh khuya nữa ấy chứ! Chậc, chậc! Ngưỡng mộ quá đi!

Nhưng đàn ông đúng là tham lam, “có voi đòi tiên”, “đứng núi này trông núi nọ”. Họ có bằng lòng, có biết ơn vợ đâu. Sau lưng vợ, họ vẫn than vãn với nhau rằng “xem bóng đá với vợ chán hơn… ăn cơm nếp nát”. Lý do: các bà chủ yếu chỉ chú ý bình phẩm ngoại hình, đầu tóc râu ria cầu thủ, “anh này hiền lành dễ thương” còn “gã kia bậm trợn thấy ghét” thôi. Đã thế, đang phút gay cấn nhất, các bà lại cứ nheo nhéo hỏi “Việt vị là gì? Thế nào là ném biên? Tại sao phạt góc?”…

Rõ chán mớ đời!

Còn nữa, cứ sau một cú sút thủng lưới đối phương, 10 cầu thủ đội nhà lại a tầm phù chạy như điên đến tóm bằng được tác giả bàn thắng ấy mà dìm đầu xuống sân cho 10 đồng nghiệp (chưa tính đôi khi thêm ban Huấn luyện với giàn cầu thủ dự bị, vị chi ngót nghét 20 “trự” nữa, cũng nhảy vào góp phần) phi thân nằm chất chồng lên nhau, chẳng khác Tôn Ngộ Không bị đè bẹp dí dưới Ngũ Hành Sơn! Trước “thảm cảnh” ấy, có người phụ nữ giàu lòng nhân ái nào không bất nhẫn, thương cảm lẫn lo lắng cho kẻ đang có nguy cơ chết ngạt phía dưới tận cùng kia, chả biết có kịp thưởng lãm “hoa vàng trên cỏ xanh” một giây nào không nữa? Ấy vậy mà chưa thấy một trọng tài nào thổi phạt. Hành vi thập phần nguy hiểm, đe dọa sinh mạng một con người ràng ràng như thế lại không bằng cái kéo áo hay cú bóng chạm tay? Thậm vô lý, thậm bất công!

Tóm lại, cũng như hầu hết các bà vợ ấy, tôi (tác giả bài viết “ba trợn” này) loay hoay mãi cũng chẳng tìm ra nguyên do hợp lý nào để giải thích cho nỗi đam mê bóng đá của các ông chồng cả. Mãi mãi cứ là một bí mật chăng?

Ngẫm nghĩ lại, tôi mới thấy mình vô cùng may mắn vì được làm phụ nữ. Giá tôi cũng là đàn ông thì sao nhỉ? Hừ, giá rổ gì nữa? Thì cứ hai năm một lần, đến mùa World Cup và Euro, tôi cũng lại phải thức trắng đêm đến lõ con mắt, phờ phạc râu tôm mà hò hét theo từng trận đấu. Nhất là, bất hạnh hơn, tôi cũng có một mụ vợ “kèm” sát nách, nheo nhéo rót liên hồi vào tai: “Việt vị là gì? Thế nào gọi là ném biên? Tại sao bị phạt góc?”… Đố chạy đâu cho thoát!

Hên thật!

G.N.(G.Đ)


Hoa Sen Ngày Ấy

Những ngày đẹp trời như thế nầy, tôi thường bị... coi chừng nhà. Ba tôi đi làm không nói gì. Còn cô tôi, cứ thời tiết mát mẻ, dễ chịu là cô thích đến chùa lễ Phật, như thể lúc khí hậu ôn hòa thì lời cầu nguyện được lưu ý hơn.

Sáng nay cũng vậy, cô dịu dàng bảo tôi:

- Thức, coi chừng nhà cho cô đi chùa!

Tôi phàn nàn:

- Thức chẳng khác nào con chó trung thành của cô.

Cô bật cười, an ủi:

- Thức giỏi hơn chó nhiều! Chó đâu biết vừa học bài, vừa nấu cơm.

Không để cho tôi cằn nhằn thêm nữa, cô đi ra cửa, sau khi ném lại một câu quen thuộc:

- Chút nữa, cô mua bánh bao cho.

Tôi hậm hực nói với theo:

- Con không ăn đâu!

Cô vẫn thản nhiên băng qua đường. Tôi đành phải... giữ nhà. Để chắc ăn, tôi khóa cửa sau rồi ra ngồi trên cái xích đu đặt bên cửa sổ nhà trước. Bây giờ, kẻ trộm dù có ba đầu, sáu tay cũng chẳng vào được. Ai như cô tôi, nấu ăn sau bếp, cửa trước bỏ ngõ, kẻ gian lẻn vào lấy mất cái đồng hồ để bàn và “thỉnh” luôn chuông đồng trên bàn thờ Phật. Ba tôi vẫn thường bảo cô không nên đánh bóng cái chuông. Màu vàng sáng loáng của nó chỉ quyến rũ kẻ cắp chớ chẳng ích lợi gì. Dùng chuông cần âm thanh chứ đâu cần màu sắc. Cô không đồng ý. Cô tuyên bố với ba và tôi là: “Chuông, mõ ai dám lấy trộm? Tội chết! Đồ vật thờ cúng phải sạch sẽ, đẹp đẽ chứ”. Kết quả, cái chuông không cánh vẫn bay đi chỗ khác, để lại cho cô một nỗi buồn man mác mỗi lúc tụng niệm. Cô phải gõ vào cái mõ bự chảng và đánh vào cái chuông mới mua nhỏ xíu xìu xiu.

Tôi nhìn đăm đăm ra đường. Người và xe qua lại tất bật. Chẳng ai dòm ngó, để ý đến tôi và căn nhà không lấy gì làm sang trọng này. Tôi cảm thấy mệt mỏi, muốn ngủ một chút. Nằm dài xuống ghế, tôi gác chân lên chỗ tay vịn và lim dim cặp mắt.

- Chú, chú... cho hỏi thăm!

Tôi hết hồn hết vía khi vừa mở bừng mắt đã thấy một người lạ đứng trước mặt mình.

Ngồi bật dậy, tôi nhìn cô gái với ánh mắt nghi ngờ rồi lên giọng:

- Cô... vô đây làm gì?

Giật mình lùi lại, cô bé đan hai tay vào nhau, mắt chơm chớp ấp úng:

- Dạ, em... tìm nhà người quen.

Cô bé xinh đáo để, mắt nai vàng ngơ ngác. Không thể có một tên trộm đẹp như vậy. Nhưng, thấy vẻ sợ sệt của cô bé, tôi liền ra oai:

- Tìm người quen? Quen ai?

- Dạ, quen... quen anh Thức.

Như từ trên trời rơi xuống, tôi choáng váng cả người:

- Quen tôi? Kỳ vậy cà!

Cô gái đưa ngón tay xinh xắn lên môi:

- Anh là... Thức hả?

- Ừ, Thức, Trí Thức. Chớ hổng lẽ là... ngủ.

Cô bé cười khúc khích:

- Ủa, sao lạ quá vậy? Em nhìn không ra.

Tôi moi “bộ nhớ” xem cô bé nầy được quen tôi hồi nào nhưng nghĩ mãi... cũng quên, tôi mát mẻ:

- Quen hồi nào mà nhìn ra.

- Ủa, vậy anh không phải con của dì Thu sao?

Tôi ngơ ngác:

- Vậy là... quen rồi, còn...

- Em là Hoa Sen, con bác Hai Lan.

Tôi vỗ tay đánh bốp một cái, reo lên:

- Hoa Sen... ! Lớn đại rồi chớ bộ!

Cô gái mỉm cười:

- Anh lạ hoắc hà! Em nhớ hồi đó đầu anh trọc lóc.

Vò cái đầu chơm bởm của mình, tôi thầm cám ơn những sợi tóc đứng dầy đặc trên đó.

Ngày còn bé, có một lúc đầu tôi bị chốc dữ dội. Để dễ bôi thuốc, ba đã cạo trọc đầu tôi. Đi đâu, tôi cũng trưng bày cái gáo đầy sẹo, đỏ quạch màu thuốc. Bạn bè chung lớp không ai chịu ngồi gần, sợ bị lây ghẻ. Một mình tôi chiếm một cái bàn rộng. Tôi buồn đứt ruột. Nhưng, chẳng bao lâu, tình trạng ấy kết thúc.

Hôm đó, giờ vào học, thầy dắt từ văn phòng xuống một đứa con gái trạc tuổi tôi. Thầy vui vẻ bảo:

- Đây là Hoa Sen. Từ nay, Hoa Sen sẽ cùng học với các em.

Nhìn một vòng quanh lớp. Chẳng còn chỗ nào trống ngoài cái bàn tôi đang ngồi. Thầy bảo con bé vào ngồi chỗ đầu bàn bên trái. Vừa nhìn thấy cái mỏ ác của tôi, con bé liền chun mũi. Tần ngần một chút nó mới chịu vâng lời thầy. Đã vậy, lâu lâu con nhỏ lấy dầu ra ngửi làm như từ trong mình tôi bốc mùi hôi hám. Tôi ức lắm. Lâu dần, hai đứa cũng làm quen. Bệnh chốc của tôi đã dứt nhưng vì tóc chưa kịp mọc lên nên đầu tôi láng o, tròn trĩnh như trái mù u. Mỗi khi thầy gọi tôi trả bài, Hoa Sen đều lén nhắc giùm. Ngược lại, thỉnh thoảng Hoa Sen “cóp” bài giải toán tôi làm. Do vậy, tình bạn của hai đứa tôi ngày càng thân thiết.

Ngoài việc giỏi toán, tôi còn giỏi đá bóng và đá dế. Trái banh nào vào chân tôi là phải lăn lông lốc thôi. Và, tôi thường tự hào “bách chiến bách thắng” trong những bàn đá dế. Con vật đem vinh quanh đến cho tôi là một chú dế than. Nó đen thủi đen thui như... lọ nồi. Hai cái râu dài oai vệ rất nhạy bén. Cặp cánh của nó đẹp lắm. Những đường vân trên đó ngoằn ngoèo, lạ mắt như hoa văn được khắc họa công phu. Khi nó gáy, cặp cánh phồng lên cùng với tiếng te te hùng dũng. Đám bạn của tôi đòi mua nhưng tôi không bán. Tôi quý nó như vàng, đi đâu cũng đem theo.

Một hôm, tôi mang dế vào lớp. Giờ học, tôi đặt cái hộp dế vào hộc bàn. Cả lớp đang chăm chú nghe thầy giảng bài, bỗng dưng con dế trở chứng gáy inh ỏi. Thầy giận dữ hỏi:

- Ai đem dế vào lớp?

Không có tiếng trả lời, thầy lại quát:

- Ai?

Chẳng ai dám nhận, kể cả tôi. Nghĩ đến cây thước to bảng kia quất vào mông thì có nước... đau thấu trời. Lén thò tay vào hộc bàn, tôi đẩy cái hộp qua bên hộc bàn của Hoa Sen. Con bé liếc thấy, trừng mắt với tôi. Nó giả bộ một tay chống cằm, tay kia lòn vào chỗ cái hộp mở nắp, trút con dế ra. Tôi đau thắt cả ruột khi thấy đôi cánh nhỏ giăng ra rồi bay vụt đi. Thầy không hay gì hết, ông lại tiếp tục giảng bài. Dù thoát khỏi cây thước của thầy nhưng tôi vẫn thù nhỏ bạn. Ai bảo nó thả con dế cưng của tôi? Đưa nắm đấm về phía Hoa Sen, tôi ngầm đe dọa: “Rồi sẽ biết tay ta!”.

Tan học, tôi chạy thật lẹ đến ngã ba đường đất, đứng chống nạnh chờ Hoa Sen về ngang. Tôi sẽ nện cho nó vài cái bỏ ghét. Nhưng con bé tinh khôn đã băng ruộng, đi đường tắt về nhà. Chờ hoài không được, tôi càng giận.

Hôm sau, trên đường đến trường, ngang qua cái đầm sen, thấy có đóa hoa màu hồng nhô lên mặt nước, tôi chợt nghĩ ra một cách trả thù độc đáo. Tôi vào lớp với đóa hoa ấy.

Thấy điệu bộ lạ lùng của tôi, cả lớp nhao nhao:

- Đem hoa tặng ai vậy?

Tôi vênh mặt:

- Tụi mày muốn xem tao trổ tài ảo thuật không?

- Xem, xem...!

Trước những cặp mắt ngơ ngác, tôi đưa cành hoa sen lên:

- Đây, quý vị xem đây! Hoa chưa nở.

Với động tác nhịp nhàng, khéo léo, tôi lật từng cánh hoa ra xung quanh cái nhụy vàng. Tôi nói:

- Đây, hoa nở xòe!

Bấy giờ cái hoa to hơn, cánh phập phồng theo cử động đưa cao, hạ thấp của tôi. Trong lúc các bạn cười vang, tôi bắt đầu ngắt từng cánh ném xuống đất, chúng bay tan tác theo chiều gió. Tôi bẻ ngang cuống rồi nói:

- Đây, quý vị xem! Hoa tàn.

Có tiếng nấc từ phía sau lưng tôi. Ai cũng ngỡ ngàng khi biết đó là Hoa Sen, cô bạn nhỏ hiền hậu. Cô bé không thèm nhìn tôi, hét thật lớn:

- Đồ... ác độc!

Hoa Sen chạy vào lớp. Tôi hối hận vô cùng. Các bạn cũng nói:

- Mày ác thiệt!

Tôi muốn xin lỗi Hoa Sen nhưng cô bé không thèm nhìn mặt tôi, vào lớp ngồi nép sát một bên, giờ về chạy trước cùng với mấy đứa bạn gái.

Tôi buồn ghê lắm nhưng tôi chẳng có thời gian và điều kiện để làm lành với Hoa Sen nữa. Có một nỗi khổ khác bao trùm lấy tôi: Mẹ tôi mất! Không ốm, không đau, bỗng dưng mẹ ngất đi rồi chẳng bao giờ tỉnh lại. Tôi không rời quan tài của mẹ một bước. Tôi nhảy theo mẹ xuống huyệt rồi ngất đi. Không như mẹ, tôi tỉnh lại giữa những tiếng khóc thảm thiết của nhóm bạn cùng lớp, có cả Hoa Sen. Người ta đưa tôi về nhà. Từ đó, tôi không gặp bạn bè nữa vì phải theo ba về quê nội. Ở đây, tôi sống và lớn lên bên cạnh ba và cô Út, cô em gái duy nhất của ba. Cô Út góa chồng từ năm hai mươi lăm tuổi. Cô yêu dượng Út lắm nên chọn cách chăm sóc anh ruột và cháu làm nguồn an ủi chứ không bước đi bước nữa. Cuộc đời cô như một cái vòng tròn buồn bã, đơn điệu. Cô đi từ nhà ra chợ, từ chợ trở về nhà. Hoặc, từ nhà đến chùa rồi từ chỗ trú tinh thần kia cô trở lại đời thường bằng lối vào căn nhà nhỏ bé. Tôi và ba rất yêu quý cô. Vì thế, không ai bỏ đi đâu xa cô nữa, kể cả việc về lại quê xưa.

Hôm nay, Hoa Sen tìm đến đây, làm sống lại quảng đời hồn nhiên ngày nào. Thời tuổi nhỏ có mẹ và kỷ niệm buồn vui lẫn lộn trong mái trường làng. Tôi nhìn cô bạn xinh đẹp, ngậm ngùi:

- Lâu quá rồi mới gặp lại nhau.

- Sao anh không về quê chơi?

- Anh phải đi học.

- Anh học đến đâu rồi?

- Vừa đậu tốt nghiệp Trung học phổ thông. Mới có giấy báo mời đến trường Cao đẳng, còn Hoa Sen?

- Em cũng vừa đậu vào Cao đẳng Sư phạm nè!

Tôi reo lên sung sướng:

- Vậy là hai đứa mình lại học chung một trường.

Hoa Sen đưa bức thư cho tôi:

- Bác Hai Xuân dặn em tìm tới đây đưa cho anh bức thư. Nhờ vậy mới biết địa chỉ.

Bác Hai Xuân là bà con bên ngoại của tôi. Ngày xưa, ông thương tôi lắm. Vì thế, ông luôn nghĩ tốt cho tôi. Ông bảo thế nào lớn lên tôi cũng làm bác sĩ hoặc ông... Nghè, ông Cống. Còn tệ lắm thì cũng làm ruộng. Rốt cuộc, chẳng có nghề nào ông chọn mà tôi được dính vào. Hay tin tôi thi đỗ, sắp học nghề gõ đầu trẻ, bác tôi liền thích ngay cái chức giáo viên của tôi. Ông bảo với dì Hai Lan là thế nào tôi cũng sẽ thành giáo viên dạy giỏi và viết thư bảo tôi phải giúp đỡ, chỉ dẫn cho Hoa Sen thành giáo viên dạy giỏi luôn. Bác thật là người giàu tưởng tượng. Tuy nhiên, tôi cũng hết sức vui mừng khi được giao nhiệm vụ kèm cặp cô bạn ngày xưa.

- Hoa Sen ở đâu?

- Em ở ký túc xá. Khi nào rảnh, anh tới chơi.

Tôi đáp ngay, không cần chờ:

- Tôi ít có việc gì phải làm. Chắc sẽ tới thăm bạn luôn.

Nhìn hai gò má thẹn thùng ửng đỏ của Hoa Sen, tôi nghĩ đến mấy câu ca dao trữ tình:

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen

Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà?

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu...

Thấy tôi cứ nhìn chằm chằm rồi cười tủm tỉm, Hoa Sen hỏi:

- Anh nghĩ gì vậy?

Không dám nói thật, tôi tán dóc:

- Anh nhớ đến những câu ca dao nói về hoa sen:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng

Nhụy vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Hoa Sen nhìn tôi, ánh mắt long lanh. Bỗng dưng, tôi hồi hộp, lòng vui như hội. Tôi muốn mình biến thành cái đầm rộng mênh mông. Và, có một đóa sen hồng đứng ngẩn ngơ trong đó.

Nguyễn Thị Mây


Điểm sách

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết:

Chỉ Nam Hạnh Phúc : Giáo lý khẩn cấp để được làm con Chúa hay là “6 điều cần kíp” để được rỗi linh hồn.

Lê Nguyên:

Thơ Song ngữ Việt Pháp-2016: Gồm 47 bài thơ Việt-Pháp và hình phụ họa của tác giả, NXB Hội Nhà Văn 5/2016

Tâm Nguyện:

Khơi giòng chánh pháp 1,2,3: gồm những bài viết về đạo Phật đã đăng trong CLB Sách Xưa & Nay trong 10 năm

Ngàn Phương

Trái tim chín dại mười khờ: Gồm 346 bài thơ và 2 bài nhạc của nhạc sĩ Thanh Hòa và Lê Nguyên phổ nhạc từ thơ Ngàn Phương.

Viết Chung (1938 - 1996) : Tác giả bài ca sinh hoạt “Bài ca tạm biệt” các em thiếu nhi và các tập thể vẫn hát khi chia tay nhau. Tuyển tập “Dâng cao tiếng hát” gồm 117 bài hát dành cho ca đoàn của chính tác giả. NXB Đồng Nai Quý I/2016.

Lan Hinh:

Thơ Vườn Hồng ABC: Tái bản lần thứ 4 được chia làm 4 cuốn: Gồm những vần thơ giản dị dễ nhớ, những câu ca dao tục ngữ quen thuộc dành cho thiếu nhi, thiếu niên học mà chơi, chơi mà học. Đặc biệt bên cạnh mỗi bài thơ là một minh họa rất dễ thương của dân tộc Việt Nam yêu dấu.

Hà Mạnh Đoàn

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 11.6.2016… .............................. Vũ Thư Hữu .... 01

Một chuyện vui vui trong đời chơi sách ................................. Vũ Anh Tuấn .... 05

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch ... 10

Đạo Phật không phải là một tôn giáo mà… ..................... Tâm Nguyện .... 19

Đại văn hào Shakespeare ................................................................. Phạm Vũ .... 39

Mái Tây (Tây Sương Ký) ..................... Lưu Trọng Lư - Hoàng Kim Thư st .... 52

Giữ gìn bản sắc & Tiếng nói dân tộc ......................................... Nhựt Thanh .... 59

Chuyện du sơn du thủy .................................................................. Dương Lêh .... 64

Kỷ niệm CLB 10 năm thành lập (thơ) .............................. Vũ Thùy Hương .... 72

Nỗi niềm xa xứ (thơ) ............................................................. Vũ Thùy Hương .... 73

Nhớ con từ cõi tâm linh (thơ) .................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 74

Ngông ngạo (thơ) .............................................................................. Đàm Lan .... 75

Biển nhớ (thơ) ....................................................................................... Hoài Ly .... 76

Bản tình ca (thơ) ........................................................................... Bs.Doanlinh .... 77

Bến bờ hạnh phúc (thơ) .............................................................. Bs.Doanlinh .... 78

Buồn không nguôi (thơ) ............................................................ Ngàn Phương .... 78

Lời Mẹ ru (thơ) ........................................................................... Ngàn Phương .... 79

Mặt người (thơ) ................................................................................ Lê Nguyên .... 81

Sân chơi nhiều lứa tuổi (thơ) .................................................. Ngô Bá Mạnh .... 82

Cùng chung dã ngoại (thơ) ..................................................... Ngô Bá Mạnh .... 83

Gia đạo giải hòa (thơ) ................................................................ Lang Nguyên .... 84

Tự sự 81 xuân (thơ) .................................................................... Lang Nguyên .... 85

Nhà trọ trần gian (thơ) ............................................................... Lê Minh Chử .... 85

Tương lai đang chờ ta (thơ) ...................................................... Lê Minh Chử .... 86

Hãy ngủ đi (thơ) ....................................................................... Võ Kim Cương .... 87

Còn đâu tình thơ ngây (thơ) ...................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 88

Cây cau (thơ) ............................................................................... Thanh Châu .... 88

Trái bần (thơ) ................................................................................ Quang Bỉnh .... 89

Chim, Cá và Người (thơ) ........................................................... Vũ Đình Huy .... 90

Birds, Fish, And Man (thơ) ............................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 91

Nếu cuộc sống là một trò chơi .................................. Huỳnh Thiên Kim Bội .... 92

Quyển sách in cổ nhất thế giới ............................................. Đỗ Thiên Thư st .... 94

Có một thời… .................................................................................... Lam Trần .... 96

Di sản “ký ức thế giới” .................................................................... Bùi Đẹp st. .. 101

Miền quê 18 thôn ................................................................................. Hoài Ly .. 106

Văn học Pháp với văn chương ta ......................... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .. 113

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ... Thanh Châu dịch thuật .. 119

Giai thoại sự giàu có của TCHYA ......................... Đào Minh Diệu Xuân st .. 125

A friend… Định nghĩa qua 24 chữ cái ......................................... Kim Sơn st .. 126

Cơn áp thấp gần bờ ........................................................................... Đàm Lan .. 139

Tiểu phẩm… mùa Euro .................................................... Giáng Ngọc (G.Đ.) .. 156

Hoa sen ngày ấy ................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 160

Điểm sách ................................................................................ Hà Mạnh Đoàn .. 167

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế