Hiện có 4 người xem / 2337715 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 08/10/2016

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Trong phiên họp sáng nay có hai người bạn mới là quý cô Lệ Ngọc và Thu Hà do thành viên Đỗ Thiên Thư giới thiệu, nên hai người bạn mới này đã được dành cho vài phút để tự giới thiệu. Sau đó, như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên một bộ báo cổ rất quý (tuy chỉ là bản photocopy) và một tân quý thư. Bộ báo cổ rất hay và quý là bộ báo Khoa Học Huyền Bí do nhà Mai Lĩnh xuất bản hồi năm 1938 (78 năm trước) gồm 52 số liên tục từ 1 tới 52. Tuy chỉ là bản photocopy nhưng ông cũng đã phải chi ra một số tiền không nhỏ vì trong 52 số báo này có tới 5 tác phẩm đáng chú ý vì chúng thật quý, nhất là vì chúng đầy đủ từ trang đầu tới trang chót. Tác phẩm quý nhất mà bộ báo này có là TIẾNG SẤM BẠCH VÂN hay là Đời Trạng-Trình chép theo dã-sử của tác giả Văn Tuyền, kế đó là 4 tác phẩm khác mang tựa đề BÙA YÊU là một thiên phóng sự khảo cứu của tác giả Trần Lang - Cách giản tiện học lấy SỐ TỬ VI của tác giả Liên Hoa Tử - Cách HỌC THÔI MIÊN trong ba tháng của Giáo sư P.C. - Phương pháp XEM CHỮ KÝ của tác giả Cao Hoài, toàn là những đề tài hấp dẫn khiến Dịch giả Vũ Anh Tuấn rất thích và sẵn sàng chấp nhận giá tiền hơi bị cứa cổ một chút. Cuốn tân quý thư được giới thiệu sau bộ báo cổ và quý là một cuốn sách bằng Pháp văn mang tựa đề là Một Thế Kỷ Báo Nhân Loại (cũng có người dịch là Nhân Đạo) 1904-2004, cũng được xuất bản năm 2004 (12 năm trước) bởi nhà xuất bản “Le Cherche Midi” ở Pháp. Đây là một cuốn sách nói về lịch sử tờ báo Nhân Loại của Đảng Cộng Sản Pháp (mà ở ta được dịch là Nhân Đạo), và cuốn sách này là một tuyển tập những bài viết quan trọng (mỗi năm đăng một bài từ 1904 tới 2004) vị chi là 100 bài báo tất cả. Thực ra Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã không chọn mua cuốn sách này, nhưng vì nó nằm lẫn trong một lô 10 cuốn sách về Hội Họa mà ông thích, trong khi người bán đòi bán cả lô, nên ông cũng phải lấy luôn. Nhưng sau ông cũng thấy thinh thích vì cũng có một vài bài nói về Việt Nam và một bài ông rất thích mang tên là “Ai đã giết Kennedy” và, suy cho cùng, đây cũng là một tập tài liệu đáng quý liên quan tới thế giới sử nên cũng nên chơi!

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, nhà thơ Phạm Thị Minh Hưng lên giới thiệu thi phẩm mới ra lò của bà mà bà có đem tặng mỗi thành viên một cuốn, và có ngâm tặng các thành viên bài Mặc Kệ Thời Gian nơi trang 165 của tập thơ bà tặng. Tiếp lời nhà thơ Minh Hưng, anh Nhựt Thanh lên nói về việc cúng bái trong Tết Đoan Ngọ (5 tháng 5), việc Cúng Cô Hồn trong tháng 7, và việc Thờ cúng trong Tết Trung Thu rằm tháng 8. Sau anh Nhựt Thanh, thành viên Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Thần Kinh Thương Nhớ”. Sau thành viên Thùy Hương đến lượt thành viên Hoài Ly cũng lại ngâm tặng các thành viên một lúc hai bài thơ “Khúc Mùa Thu” và “Người Anh”. Tiếp lời Hoài Ly, thành viên Kim Sơn lên nói về ngày 20/10 là Ngày Phụ Nữ Việt Nam. Kế đó thành viên Doan Linh lên đọc tặng các thành viên một bài thơ được một người làm tặng bà.

Để thay đổi không khí, từ thơ sang nhạc, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc của anh, đã lên hát tặng các thành viên bài Chiến sĩ Việt Nam. Tiếp lời anh Thanh Châu, anh Quang Bỉnh lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Gặp cô lái đò”, sau đó lại hát tặng luôn các thành viên bài Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây.

Sau anh Quang Bỉnh, người bạn mới Thu Hà lên ca tặng các thành viên bài thơ nhan đề là “Vần thơ sầu rụng” do Phạm Duy phổ nhạc. Tiếp đó anh Lê Minh Chử, với mục hát thơ độc đáo của anh, đã “hát thơ” bài “Nhớ nghe anh” tặng các thành viên.

Cuối cùng, người bạn mới Lệ Ngọc hát tặng các thành viên bài “Việt Nam!Việt Nam!” của Phạm Duy, và buổi họp kết thúc sớm hơn mọi khi một chút vào lúc 11 giờ cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI DÒNG VỀ

MỘT TÂN QUÝ THƯ 60 TUỔI ĐỜI

MÀ TÔI MỚI GẶP VÀ ẴM VỀ…

Đã lâu lắm tôi không ghé phố sách cũ Trần Nhân Tôn, phần vì lười, phần vì thấy còn cơ man nào là sách mình thích mà chưa đọc kịp, nên tôi cũng không mấy ham mua thêm. Tóm lại, ngoại trừ những cuốn thật đặc biệt, tôi không còn ham vơ vét như vài chục năm trước nữa. Cho tới sáng ngày hôm kia, trên đường từ Chợ Lớn về Bến Thành, không hiểu sao tôi lại nổi hứng đi xe buýt số 56, và rồi khi tới khu đường sách Trần Nhân Tôn, tôi lại tiếp tục nổi hứng xuống xe buýt ghé đường sách mà cả năm nay tôi không ghé. Để rồi, thư duyên đã khiến tôi gặp nàng tân quý thư 60 tuổi đời này, và hoan hỷ rước nàng về. Chắc có bạn sẽ nghĩ là tôi đã hơi lẩm cẩm khi gọi một quý bà sách 60 tuổi đời là nàng! Thưa quý bạn, tôi không lẩm cẩm tí nào, bởi vì với một kẻ đã chén (bát) tuần như tôi, nàng mới 60 thì tôi thấy thật còn rất trẻ và măng, làm sao mà già nổi?

Vừa thấy tôi, cô chủ tiệm cười tươi như hoa và hỏi tôi sao biệt tích lâu thế, và cô cho biết cô tưởng tôi đã đi nước ngoài rồi nên mới vắng mặt lâu thế. Sau đó cô dẫn tôi lại một kệ sách ở góc nhà và bảo tôi xem lô sách cô mới mua ở nhà một người bạn chơi sách mà tôi biết, và thế là thư duyên đã khiến tôi gặp nàng sách, và mua ngay với một giá thật tốt vì sách được một tác giả người Việt viết bằng Pháp văn, mà sách Pháp lúc này hơi bị ít người đọc nên rẻ.

Cuốn sách được đóng bìa cứng nghiêm chỉnh, và mang tựa đề là 50 Truyện Ngắn và Truyền Thuyết của 50 Xứ Sở trên Hoàn Cầu (50 Contes et Légendes de 50 Pays du Monde) của tác giả Trần Minh Tiết (1918-1990) là một người không quá xa lạ với tôi vì tôi đã có dịp đọc qua một cuốn sách mà ông viết mang tên là “Tìm hiểu người Nhật-Bổn để biết những nhược điểm của ta”. Tác giả này người Quảng Trị, năm 1954 ông rời Huế sang định cư ở Pháp, và vừa là một nhà nghiên cứu chuyên viết về châu Á, vừa là nhà báo. Nhiều người cho rằng chính nhờ các bài viết và tác phẩm của ông, mà các dân tộc trong cộng đồng Pháp ngữ có điều kiện hiểu thấu đáo về châu Á, nhất là về Việt Nam. Ông có tổng cộng gần một chục tác phẩm viết bằng tiếng Việt và 7, 8 tác phẩm viết bằng Pháp văn trong đó có cuốn 50 Truyện Ngắn mà tôi mua được này.

Cuốn sách khổ 14x29 phân này dày 130 trang, có sự cộng tác của một người tên là Hồ Sĩ Hiệp, và được Nhà Xuất Bản NOTRE-DAME COUTANCES in vào tháng 12 năm 1956. Phần dưới trang bìa cuốn sách có hai dòng chữ:

Dành cho sự hiểu biết và cảm thông giữa các dân tộc và cho việc mang các tấm lòng lại gần nhau (Pour la comprehension des peoples et le rapprochement des coeurs). Cuốn sách được mở đầu bằng một Bài Tựa của một nhân vật tên là César PULVAR, và nhân vật này là Phó Chủ Tịch Hội các nhà Xã Hội Học thuộc Hàn Lâm Viện Luật Học Quốc Tế ở La Haye. Kế đó là một Lời Nói Đầu bằng thủ bút của tác giả dưới có chữ ký và địa chỉ của tác giả ở Pháp. Sau đó là tên 50 quốc gia sắp theo mẫu tự A.B.C. bắt đầu bằng Afghanistan và kết thúc bằng Việt Nam, và dưới tên mỗi nước là một truyện ngắn hoặc một truyền thuyết.

Người viết tạm lược dịch truyền thuyết về Việt Nam mà tác giả viết hơi bị vui vui để giới thiệu với quý bạn độc giả.

Truyền thuyết mang tựa đề là Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam (L’origine du people vietnamien) đã được tác giả viết nguyên văn như sau:

“Năm 5000 trước Thiên Chúa giáng sinh, Việt Nam là một nước nhỏ giàu có và trù phú, nơi những người Việt sống thật sung sướng, với triết lý và óc khôi hài. Đó là một nước nhỏ téo; nhưng là một nước nhỏ mà dân chúng tự cho mình là những nhân vật trưởng thượng, đứng trên tất cả mọi người đồng loại. Lòng kiêu căng của họ không bờ bến, và niềm tự tin của họ là không giới hạn; bởi vì họ tự cho là những người thông minh nhất trên Trái Đất.

Để lừa phỉnh và huyền hoặc hóa nguồn gốc của họ, họ đã tạo ra một truyền thuyết như sau:

“Vào một ngày mùa Xuân nắng ráo đẹp trời, và cả thế giới như ngập tràn hoa thơm cỏ lạ, Hoàng Thiên đi kiểm tra Vũ Trụ mà Ngài vừa tạo đựng. Ngài đã đứng lại ngạc nhiên và hứng khởi trước hằng hà sa số những non xanh nước biếc, và những ruộng nương trù phú của Việt Nam. Thích thú vì những gì mình đã tạo dựng, Ngài đã quyết định cho giáng trần cậu con trai duy nhất, mà Ngài đặt tên là Lạc Long, để trị vì trên đất Việt. Ngài cũng không quên gửi theo một công chúa để làm phu nhân của cậu con trai: đó là công chúa Âu Cơ.

Lạc Long, chú Rồng đại hạnh phúc, trở thành vị vua đầu tiên của Việt Nam, và hoàng hậu Âu Cơ mà tên gọi có nghĩa là Lý trí và niềm Hy vọng, một năm sau đã cho ra đời, không phải một đứa trẻ, hoặc những đứa trẻ có tay có chân như những đứa trẻ khác, mà là một bọc toàn trứng, có đúng một trăm trứng. Từ trăm quả trứng đó nở ra năm mươi đứa con trai và năm mươi đứa con gái mà Lạc Long cho lệnh là “hãy đi cư ngụ trên cả nước, hãy tự gia tăng và tăng trưởng nhanh”.

Và như vậy, từ trăm trứng đó đã nảy sinh ra 30 triệu người Việt (dân số Việt Nam vào thời điểm cuốn sách được viết).

Người Việt ngày nay vẫn lưu giữ truyền thuyết đó. Dù thế nào đi nữa, dù chuyện gì xảy đến nữa, họ vẫn muốn khác những người đồng loại, vẫn muốn sống trên những người khác, vẫn muốn hùng mạnh hơn những đồng loại; đơn giản bởi vì họ là con cháu của Ông Trời của Hoàng Thiên. Và đây cũng là một phương tiện để họ tự kim soát mọi hành vi và cách sống thường nhật để chỉ làm điều thiện, và lánh việc ác.

Đây cũng là một cuốn sách vui vui, tếu tếu được viết bằng một thứ tiếng Pháp rất chỉnh chu và trong sáng, không kém tiếng Pháp của Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng bao nhiêu.

Người viết cũng rất khoái nàng sách này vì nơi trang thứ ba trong sách có thủ bút của tác giả viết lời đề tặng cho một người tên Nam ở Làng Việt - Nam Vang, và lời đề tặng, ở dưới có chữ ký của tác giả, được viết ở Paris vào ngày 24/12/1956.

Tóm lại phải nói là có cơ duyên người viết mới nổi hứng đột xuất ghé vào đường sách cũ Trần Nhân Tôn để gặp được… Nàng Quý Thư này!

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG”

Bản dịch của L inh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 1 25 )

Thuyết tương đối thực hành

122. Một chủ thuyết quy nhân bản sai lệch sẽ làm cớ cho một cách sống cũng lệch lạc. Trong Tông Huấn Evangelii gaudium - Niềm vui Tin Mừng - Tôi đã nói đến thuyết tương đối thực hành đánh dấu cho thời đại của chúng ta và “còn nguy hiểm hơn lý thuyết tương đối”[99]. Khi tự đặt mình vào vị trí trung tâm, con người sẽ đi đến việc khẳng định quyền ưu tiên cho lợi ích và tất cả những gì còn lại đều tương đối. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên, sự hiện diện khắp mọi nơi của việc thực dụng kỹ thuật và việc tôn vinh quyền vô hạn của con người sẽ đưa đến việc triển khai thuyết tương đối giữa con người, với thuyết này tất cả đều tương đối, nếu như không trực tiếp phục vụ cho lợi ích cá nhân. Trong đó có một lô-gíc giúp chúng ta hiểu rằng có nhiều thái độ khác nhau gây sự hủy hoại môi trường và gây tai họa cho xã hội.

123. Văn hóa của thuyết tương đối cũng là bệnh hoạn, đẩy con người đến việc lợi dụng kẻ khác và xử sự người đó như chỉ là đối tượng, buộc họ phải thực hiện các lao động khổ sai hay vì mang nợ mà trở thành một người nô lệ. Đó cũng là lối suy nghĩ đưa đến việc hiếp dâm trẻ em hay bỏ rơi người già lão, nếu không phục vụ được lợi ích của mình. Đó cũng là thứ lô-gíc nội tâm của những người muốn nói: Hãy để cho các sức mạnh vô hình của thị trường điều chỉnh kinh tế, chỉ vì các hậu quả của nó trên xã hội và thiên nhiên là không thể tránh được. Nếu như không có những chân lý khách quan cũng như những nền tảng vững chắc, ngoài việc thỏa mãn những chương trình của riêng mình và những nhu cầu trực tiếp - thì hoạt động của con người còn gì ranh giới trong các tổ chức tội phạm, buôn bán ma túy, buôn bán kim cương vấy máu và da thú vật, là những con thú đang trên đường tuyệt chủng? Đấy không phải là cách suy nghĩ tương đối trong cách hợp thức hóa việc buôn bán hay sử dụng các bộ phận của người nghèo hay là việc “quăng” các em bé, chỉ vì không đáp ứng được các ý muốn của cha mẹ chúng? Đấy cũng là cách suy nghĩ “sử dụng và quăng đi”, vì tạo ra quá nhiều rác thải, gây nên do khao khát vô độ, nhiều hơn tiêu thụ như con người cần thiết. Vì thế, chúng ta đừng nghĩ rằng các chương trình chính trị hay là quyền lực luật lệ đủ để tránh những thái độ kéo theo môi trường vào việc cùng đau khổ. Chỉ vì khi văn hóa sa đọa và người ta không còn công nhận một chân lý khách quan hay những nguyên tắc chung được chấp nhận, như thế luật lệ chỉ là những bó buộc và như rào cản vây quanh con người.

Cần thiết phải bảo vệ lao động

124. Trong bất cứ tiếp cận một môi sinh học trọn vẹn, không có thể loại con người ra được, tất yếu phải hội nhập giá trị của lao động, đó là điều Vị thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã trình bày cách sáng suốt trong Thông Điệp Laborem exercens. Chúng ta nhớ lại rằng, theo trình thuật Thánh Kinh về sáng tạo, Thiên Chúa đã đặt con người vào vườn địa đàng vừa mới tạo dựng (x St 2,15), không những để gìn giữ (bảo vệ), nhưng còn để lao động cho thửa vườn sinh hoa kết quả. Với cách này những người lao động và thợ thủ công “bảo đảm cho sáng tạo vĩnh cửu của Thiên Chúa” (x Hc 38,34 LXX). Trong thực tế, sự can thiệp của con người nhằm vào việc phát triển sáng tạo cách hợp lý, là hình thức tương xứng nhất để chăm sóc. Điều này cũng được xem như công cụ của Thiên Chúa giúp đặt vạn vật đúng chỗ, và giúp phát triển các khả năng mà Thiên Chúa đã đặt vào trong vạn vật: “Thiên Chúa làm cho đất trổ sinh dược liệu; những thứ đó, người khôn chẳng dám coi thường” (Hc 38, 4).

125. Nếu chúng ta cố suy nghĩ về những gì liên kết con người với thế giới chung quanh, cần thiết phải có một quan niệm đúng đắn về lao động. Vì nếu chúng ta nói về liên hệ của con người với vạn vật, sẽ xuất hiện câu hỏi về ý nghĩa và mục đích của hoạt động con người trên thực tại. Chúng ta không chỉ nói về lao động chân tay hay lao động trên mặt đất, nhưng tất cả hoạt động có thể làm thay đổi điều gì đang hiện hữu, từ việc đưa ra một quan sát xã hội cho đến dự án phát triển về mặt kỹ thuật. Mỗi hình thức lao động đều nêu lên một quan niệm về liên hệ mà con người có thể hay phải đón nhận kẻ khác. Linh đạo Kitô giáo, với việc thán phục khi chiêm ngắm vạn vật, như chúng ta đã gặp nơi thánh Phanxicô As s isi, còn khai triển ý nghĩa sâu xa của lao động, như chúng ta thấy nơi gương của chân phước Charles de Foucauld và các môn đệ của ngài.

126. Chúng ta đón nhận vài điều từ truyền thống tu sĩ. Lúc khởi đầu, một cách nào đó truyền thống này tạo nên sự trốn lánh thế gian với ý muốn lánh đi sự sa đọa nơi thành phố. Vì thế các nhà ẩn tu đã tìm đến sa mạc, vì họ tin rằng, đây là vị trí thích hợp để cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Sau đó thánh Bênêđictô thành Nurcia ra lệnh cho các tu sĩ của mình sống thành những cộng đoàn và liên kết lời cầu nguyện và việc học cùng với lao động chân tay ( “ora et labora” - “cầu nguyện và lao động”). Việc đưa lao động chân tay thấm nhuần ý nghĩa cầu nguyện, mang tính cách mạng. Người ta học hỏi việc trưởng thành trong việc hội nhập chiêm niệm và lao động. Đó là cách thức sống lao động giúp chúng ta chú tâm và tôn trọng môi trường và giúp cho liên hệ của chúng ta với thế giới trong một sự điều độ thánh thiện.

127. Chúng ta nói rằng “con người là tác giả, trung tâm và mục đích tất cả đời sống kinh tế - xã hội”[100]. Dù vậy, khi khả năng chiêm ngắm và tôn trọng bị lệch lạc nơi con người, sẽ xuất hiện các điều làm ý nghĩa lao động bị sai lệch[101]. Phải luôn nhớ rằng, con người có “khả năng” nắm lấy “trách nhiệm tạo hạnh phúc về mặt vật chất, bước tiến luân lý, sự triển nở tinh thần”[102]. Lao động phải là nơi phát triển nhiều mặt của con người, nơi nhiều chiều kích cuộc sống đang triển nở: sự sáng tạo, dự phóng cho tương lai, phát triển mọi khả năng, thực hành các giá trị, liên hệ với kẻ khác, thái độ thờ phượng. Vì thế, thực tế xã hội toàn cầu trong hiện tại, vượt qua các lợi ích được hạn định của các nhà kinh doanh và một suy luận kinh tế có thể bàn thảo được, cần thiết “phải xem điều ưu tiên cần phải theo đuổi là tạo cho mọi người được tiếp cận với lao động”[103].

128. Chúng ta được mời gọi phải lao động từ khi được sáng tạo. Người ta đừng tìm cách cho sự tiến triển kỹ thuật sẽ thay thế cho lao động con người, nếu như thế, con người sẽ sa sút. Lao động là một điều cần thiết, là một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, con đường đi đến trưởng thành, phát triển con người và hiện thực cá nhân mình. Theo nghĩa này, dùng tiền để giúp người nghèo chỉ là một cách giải quyết dự trù để đối mặt với những vụ việc khẩn cấp. Mục đích chính phải tạo khả năng cho họ có một đời sống xứng đáng với lao động của họ. Thế nhưng định hướng kinh tế tạo nên một cách phát triển kỹ thuật để hạ giá thành của sản phẩm bằng cách giảm bớt các chỗ làm được thay thế bằng máy móc. Thật là ảo tưởng theo cách cho hoạt động con người như chống lại chính họ. Việc giảm bớt công ăn việc làm “sẽ tạo nên một tác động tiêu cực trên bình diện kinh tế ngang qua việc xói mòn tiệm tiến của “tư bản xã hội” đặc biệt qua việc chôn vùi tất cả mọi liên lạc, dựa vào sự tin tưởng, sự vững vàng và tuân giữ luật lệ và đó là những điều không thể thiếu trong đời sống chung của xã hội”[104]. Cuối cùng: “ Giá trị con người cũng luôn là giá trị kinh tế”, và những sự lệch lạc kinh tế cũng kéo theo giá trị con người”. Ngưng đầu tư vào con người để đạt được những lợi lộc trực tiếp là m ộ t thứ trao đổi xấu cho xã hội.

129. Để có thể tạo công ăn việc làm, cần thiết phải đòi buộc nền kinh tế có thể dễ dàng tạo nhiều sản phẩm thật đa dạng và sự sáng tạo của các nhà thầu. Tỉ dụ như có một sự khác biệt lớn trong hệ thống lương thực đồng áng của những chiều kích nhỏ tiếp tục tạo lương thực cho phần lớn dân sự toàn cầu, khi sử dụng một lượng nhỏ đất đai cũng như nước, và ít thải ra rác rưởi, có thể là những mảnh đất nông nghiệp nhỏ hay là vườn tược, hay nhờ săn bắn, thu nhặt những sản phẩm của rừng hay đánh cá bằng các lưới nhỏ. Những thứ kinh tế lớn, đặc biệt là trong môi trường nông nghiệp, sẽ đưa đến việc những nhà nông nghèo phải bán đất hay phải bỏ cách trồng trọt cổ điển. Những cố gắng của một số người triển khai một hình thức sản xuất khác, cũng phải chấm dứt vì lý do các khó khăn để bước vào thị trường của vùng hay toàn cầu, hay chỉ vì hạ tầng cơ sở buôn bán và chuyên chở chỉ để phục vụ cho các doanh nghiệp lớn. Những người mang trách nhiệm có quyền và có trách nhiệm để nâng đỡ rõ ràng và vững chắc cho các nhà sản xuất nhỏ và sự đa dạng của các sản phẩm. Để có thể có một sự tự do về mặt kinh tế mà tất cả mọi người có thể hưởng lợi, đôi khi cần xác định ranh giới cho những người có nhiều phương tiện và quyền hành tài chính. Một sự tự do về mặt kinh tế thuần túy theo lý thuyết, nhưng lại ngăn chận các điều kiện thực tế, mà nhiều người không thể tiếp cận được, gây khó khăn cho việc tiếp cận lao động, thì đó là một bài diễn văn nghịch lý, bôi nhọ chính trị. Hoạt động kinh doanh là một ơn gọi cao quý và nhắm vào việc xây dựng hạnh phúc và làm cho thế giới dành cho mọi người được tốt đẹp hơn, có thể là một cách thức mang lại nhiều hoa trái khi tác động vào vùng miền mà họ xây dựng các dự phóng, nhất là khi họ hiểu rằng, việc tạo công ăn việc làm là một phần tất yếu cho việc phục vụ cho lợi ích cộng đoàn.

Canh tân sinh học từ việc tìm hiểu

130. Trong nhãn quan triết và thần học về sự sáng tạo, mà Tôi cố gắng trình bày, rõ ràng là con người nhân bản đặc biệt với lý trí và khoa học, không phải là một tác nhân bên ngoài, có thể hoàn toàn bị loại. Dù con người có thể can thiệp vào thế giới thảo mộc và thú vật và sử dụng chúng cho bản thân mình, khi cần thiết cho sự sống, Giáo Lý toàn cầu dạy rằng, các thí nghiệm trên thú vật đều được phép chỉ khi nào “chúng nằm trong ranh giới hợp lý và được tìm hiểu để chăm sóc và cứu chữa cuộc sống con người”[106]. Sách giáo lý nhắc lại rõ ràng, quyền lực con người có giới hạn: “Hành động làm đau đớn và giết thú vật một cách vô ích, sẽ xúc phạm đến phẩm giá con người”[107]. Mỗi việc sử dụng và thí nghiệm “đòi buộc phải có một sự tôn trọng về mặt tôn giáo đối với tính trọn vẹn của sáng tạo”[108].

131. Về điểm này, Tôi muốn lấy lại thái độ quân bình của vị thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, khi cho thành công của các tiến bộ khoa học và kỹ thuật, “là những biểu lộ ơn gọi cao quý của con người, chia sẻ một cách có trách nhiệm vào hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa trong thế giới… nhưng đồng thời cũng nhớ rằng, bất cứ sự can thiệp vào môi sinh cũng không thể bỏ qua những hậu quả của nó trên những bình diện khác”[109], Ngài nhấn mạnh, Giáo Hội đánh giá cao việc học hỏi và áp dụng môi sinh phân tử, được bổ túc bằng các môn khác như di truyền học và việc áp dụng kỹ thuật vào nông nghiệp và công nghiệp”[110], Ngài cũng nói, điều này không thể đưa đến một thao tác theo di truyền mà không có chủ đích”[111], không biết đến các hậu quả tiêu cực từ những can thiệp này. Không thể nào ngăn chận sức sáng tạo của con người. Nếu như người ta không thể ngăn cản một nghệ nhân muốn phát triển khả năng sáng tác của mình, thì người ta cũng không thể ngăn cản những người có năng khiếu khoa học và kỹ thuật cũng như các khả năng Thiên Chúa ban để phục vụ kẻ khác. Đồng thời người ta cũng không thể ngưng xác định các mục đích, các hậu quả, các liên hệ và ranh giới luân lý của các hoạt động nhân bản này, là một hình thức của quyền lực với những thử thách cao độ.

132. Chính trong vấn đề này, cũng cần phải xác định mọi suy tư về sự can thiệp của con người trên thảo mộc và thú vật - điều này có liên hệ đến những thay đổi mang tính di truyền do kỹ thuật sinh thái - để có thể khai thác các khả năng hiện diện trong vật chất. Việc tôn trọng niềm tin đối với lý trí đòi hỏi phải chú tâm điều mà khoa sinh thái, được triển khai bằng nhiều cách độc lập nhờ qua các lợi ích kinh tế, có thể chỉ dạy trên các cơ cấu sinh học cũng như những khả năng và các chuyển đổi của chúng. Dù sao đi nữa, sự can thiệp hợp lý tác động trên tự nhiên, “để giúp nó phát triển theo đường hướng của mình, đường hướng của sáng tạo, đường hướng do Thiên Chúa muốn”[112] .

133. Thật khó để đưa ra một phán quyết chung về những việc chuyển đổi gen (GMO) của cây trồng và vật nuôi, trên bình diện y học hay chăn nuôi và nông nghiệp, vì chúng rất khác nhau, nên cần phải có những phán quyết cũng khác nhau. Mặt khác, những bất trắc không hoàn toàn do kỹ thuật, nhưng do việc áp dụng không thích hợp hay quá đáng. Trong thực tế, việc chuyển đổi Gen thường là do tự nhiên. Ngay cả những việc can thiệp của con người cũng không phải là hiện tượng gì mới lạ. Việc thuần thục các thú vật, việc giao nhau giữa giống loài và những thực hành xa xưa và phổ biến được công nhận có thể nằm trong những nhận định này. Người ta nhớ rằng, khởi đầu cho việc phát triển khoa học về hạt giống chuyển đổi Gen xuất phát từ việc quan sát một vi khuẩn, theo cách thức tự nhiên đã đem đến một sự chuyển đổi trong bộ gen của một thảo mộc. Trong thiên nhiên, những tiến trình này đi theo một nhịp điệu chậm chạp, không thể so sánh với vận tốc phát triển kỹ thuật hiện hành, ngay cả khi dựa vào sự phát triển khoa học của nhiều thế kỷ.

134. Dù chúng ta không nắm được các chứng cứ về những tổn thất cho con người do các giống được chuyển Gen - trong một vài vùng đã sử dụng đưa đến sự phát triển về mặt kinh tế, giúp giải quyết những vấn đề - cũng có nhiều khó khăn lớn lao, không thể được xem là tương đối được. Nhiều nơi đã áp dụng cách canh tác này, người ta nhận thấy một sự tập trung đất đai canh tác vào tay một số ít người, đưa đến việc “những người sản xuất nhỏ dần dần biến đi, hậu quả là mất đất canh tác, phải gia nhập vào sản xuất hiện hành”[113]. Những người yếu đuối nhất sẽ trở thành lao công tạm thời, và nhiều nông dân phải trốn trú vào những khu nghèo khổ trong thành phố. Việc gia tăng diện tích kiểu canh tác này phá hủy mạng lưới đa dạng của hệ thống môi sinh, làm giảm đi sự đa dạng trong sản xuất và ảnh hưởng đến hiện tại và tương lai kinh tế trong vùng. Trong nhiều nước khác, người ta thấy xu hướng phát triển các vựa nhỏ trong việc sản xuất lúa giống và các sản phẩm khác cho việc canh tác, và việc lệ thuộc sẽ còn nặng nề hơn với việc sản xuất các hạt giống cằn cỗi, để rồi cuối cùng các người nông dân phải mua hạt giống nơi các hộ kinh doanh.

135. Đương nhiên, cần phải có một sự chú tâm liên lỉ đến những phương diện luân lý ẩn chứa trong vấn đề. Vì lý do này cần phải bảo đảm một cuộc thảo luận khoa học và xã hội có tránh nhiệm và rộng rãi, có khả năng đón nhận các thông tin đang có trong tay và gọi sự vật theo đúng tên của chúng. Đôi khi, người ta đã không chú tâm đến tất cả thông tin đã được chọn lọc, như chỉ chú tâm đến các thông tin có lợi đặc biệt, có thể về mặt chính trị, kinh tế hay ý thức hệ. Điều này sẽ làm cho việc đánh giá hóa ra khó khăn về những vấn đề khác nhau vì không có một phán đoán quân bình và cẩn thận. Cần phải có không gian trao đổi về tất cả những gì trực tiếp hay gián tiếp đụng chạm đến vấn đề (nông nghiệp, người tiêu thụ, những người có trách nhiệm, các nhà khoa học, những người sản xuất hạt giống, những người sống gần vùng những cách đồng đã được xử lý và nhiều vấn đề khác) phải nêu lên những khó khăn hay tiếp cận và những thông tin trọn vẹn và vững chắc, để có thể đưa ra những quyết định cho công ích trong hiện tại và cho tương lai. Đây là một vấn đề về môi trường đa dạng đòi buộc phải xử lý với cái nhìn toàn vẹn các phương diện của nó, điều này đòi buộc ít ra là một cố gắng tài chính để tìm hiểu bằng nhiều con đường độc lập và liên khoa hầu đem lại một ánh sáng mới.

136. Mặt khác, cũng phải chú ý đến những phong trào môi sinh muốn bảo vệ sự trọn vẹn của môi trường và đòi hỏi phải có luật lệ cho những ranh giới được xác định đối với việc tìm hiểu khoa học, cho đến bây giờ các nguyên tắc này chưa được áp dụng vào cuộc sống con người. Nói cách chung, người ta tin rằng được phép vượt qua tất cả ranh giới khi người ta thí nghiệm trên các bào thai con người. Người ta quên rằng, giá trị bất biến của một con người nằm bên ngoài các giai đoạn phát triển. Cũng theo cách thức đó, kỹ thuật, một khi phủ nhận các giá trị lớn của luân lý, không thể nhìn bất cứ thực hành nào là hợp pháp. Như chúng ta đã nhìn trong chương này, kỹ thuật một khi tách rời khỏi luân lý rất khó ngăn chận quyền lực của mình được.

CHƯƠNG BỐN

MỘT MÔI TRƯỜNG HỌC TRỌN VẸN

137. Đối mặt với thực tại là tất cả đều liên kết với nhau chặt chẽ và các vấn đề hiện tại đòi buộc phải có tầm nhìn về cuộc khủng hoảng toàn cầu. Tôi đề nghị, chúng ta phải dừng lại để nắm các yếu tố của một môn trường học trọn vẹn, trong đó có cả chiều kích nhân bản và xã hội.

I. SINH THÁI HỌC MÔI TRƯỜNG,

KINH TẾ VÀ XÃ HỘI

138. Sinh thái học tìm hiểu những liên hệ giữa các sinh vật sống động và môi trường nơi chúng sống. Điều này đòi hỏi phải suy nghĩ và bàn thảo một cách thẳng thắn các điều kiện của sự sống hay sự tồn tại của một xã hội để đưa ra những câu hỏi, các mẫu phát triển, sản xuất và tiêu thụ. Cần phải nhấn mạnh là tất cả đều liên kết với nhau, thời gian và không gian không thể độc lập với nhau cũng như các nguyên tử và các phần nhỏ nhất có thể tách biệt nhau được. Tất cả các yếu tố khác biệt của hành tinh - vật lý, hóa học và sinh học liên kết với nhau, tạo thành những giống loài sống động trong một mạng lưới mà chúng ta không bao giờ có thể biết và hiểu hết được. Chúng ta chỉ có chung một phần lớn các thông tin về di truyền học với nhiều loài sống. Vì lý do này, chúng ta chỉ có những kiến thức manh mún và đơn độc, có thể trở thành một hình thức dốt nát, nếu như chúng không được hội nhập vào cái nhìn tổng quát của thực tại.

139. Khi nói đến “môi trường”, người ta muốn chỉ một cách đặc biệt đến sự liên hệ đã có giữa thiên nhiên và xã hội đang hiện diện nơi đó. Điều này ngăn cản chúng ta hiểu biết thiên nhiên là một cái gì đó khác biệt với chúng ta hay chỉ là một khung cảnh đơn thuần của cuộc sống. Chúng ta bị nhốt trong đó, là một phần của nó và cùng sống với nó qua việc thông hiệp hỗ tương với nhau. Để tìm những nguyên nhân hủy hoại của một vị trí, đòi buộc phải có sự phân tích phận vụ xã hội, kinh tế, các mẫu liên hệ và cách hiểu thực tại. Đối diện với quá nhiều thay đổi không còn khả năng để tìm cách giải quyết đặc biệt và độc lập cho mỗi phần vấn đề. Điều quyết định chính là phải tìm những cách giải quyết trọn vẹn, phải chú ý đến hậu quả thay đổi giữa nhau của hệ thống tự nhiên và cả hệ thống xã hội. Không phải có hai cơn khủng hoảng cận kề nhau, một của m ô i trường và một của xã hội, nhưng thực ra chỉ có một cơn khủng hoảng duy nhất mang tính xã hội - môi trường. Những cách giải quyết đòi hỏi một lối đi trọn vẹn để chiến đấu với nghèo đói, trả lại phẩm giá cho những người bị loại ra khỏi xã hội và đồng thời phải chú tâm đến thiên nhiên.

(còn tiếp)

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)

ĐỨC THÍCH CA

ĐÃ NGỒI THIỀN NHƯ THẾ NÀO

ĐỂ ĐẮC ĐẠO?

Có lẽ đây là một câu hỏi mà những ai Ngồi Thiền theo Đạo Phật muốn thành công cần đặt ra cho bản thân trước khi đi vào thực hành nếu không muốn mọi cố gắng của mình trở thành vô ích. Thật vậy, với những người chỉ nhắm mắt nghe và tin vào những gì người khác giảng về Đạo Phật. Ca tụng Đức Phật như một vị Thần Linh với quyền năng vô biên để trở thành người sùng bái Chư Phật, Chư Bồ Tát, lúc nào cũng khấn vái để cầu xin phù hộ độ trì mà không cần biết thêm điều gì khác thì chúng ta không cần bàn tới, vì họ hoàn toàn đi ngược với đường lối của Đạo Phật chân chính. Người có tìm hiểu đôi chút sẽ thấy có rất nhiều thắc mắc, quan trọng nhất là tại sao Đức Thích Ca đã Thọ Ký: “Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành” vậy mà Ngài chỉ cần Ngồi Thiền trong 49 ngày đêm thì Thành Phật, còn từ sau Ngài đến nay đã gần 3.000 năm với vô số đợt người cũng áp dụng phương pháp Ngồi Thiền, mà số thành công quá ít ỏi, chỉ vỏn vẹn có 32 vị Tổ được cho là Thành Đạo? Lý do vì sao? Người xưa dấu để chỉ truyền riêng, hay người thời nay thiếu duyên may để gặp người đã thành công chỉ dạy? Hoặc Nghiệp nặng ngăn che nên không thể hiểu biết để thực hành đúng phương pháp? Mấu chốt nằm ở đâu?

Không biết do sự sắp đặt từ kiếp xa xưa nào đó hay may mắn là người mang hoài nghi khi đến với Đạo Phật, mà tôi không đi theo lối mòn của những người đặt trọn niềm tin vào Đạo Phật. Trái lại, tôi cố tình tìm mọi ngóc ngách của Đạo Phật nhằm để chỉ trích, nhờ đó tôi phát hiện nhiều điều dù không được viết lại trong Kinh Điển, nhưng xâu chuỗi lại thì thấy hợp lý, cho phép tôi lý giải vì sao nhiều người Ngồi Thiền miên mật năm này sang tháng nọ mà cũng không thành công, dù tư thế Ngồi hoàn toàn giống hình ảnh Đức Thích Ca lúc Ngồi Thiền dưới cội cây Bồ Đề năm xưa. Xin lần lượt trình bày như sau:

Ai có học Ngồi Thiền dù theo bất cứ pháp môn nào cũng biết tư thế Thiền là ngồi xếp bằng trong tư thế Kiết Già hay Bán Già, mắt lim dim, ngó xuống, hai tay xếp lại để trước bụng. Nhưng người tập Thiền tùy theo mục đích mà được dạy: Hoặc tập trung tư tưởng bằng cách đếm hơi thở. Hoặc để đầu óc trống không, không được nghĩ gì hết. Hoặc đưa tư tưởng đến bộ phận nào bị bệnh để điều trị. Hoặc xuất hồn. Môn sinh của phái chuyên Tu Thiền thì dùng sự tập trung để tìm hiểu một đề tài nào đó được người Thầy giao cho gọi là Tham Thoại Đầu. Nơi đây tôi không đề cập đến những cách Ngồi Thiền của những môn phái khác, mà tập trung về cách Ngồi Thiền của Đức Thích Ca để khám phá điều mà nhiều thời cho là bí mật.

Dựa theo truyền thuyết được lịch sử ghi nhận, kết nối những sự kiện đã diễn ra suốt chặng đường tìm Đạo của Đức Thích Ca, ta thấy như sau:

Sau một thời gian khổ hạnh đến suy kiệt, Thái Tử Sĩ Đạt Ta thấy rằng: “Linh hồn không thể minh mẫn trong một thể xác yếu đuối” nên nhận bát cháo sữa của cô gái chăn bò rồi trải tòa cỏ ngồi dưới cội cây Bồ Đề với lời phát nguyện “Sẽ không rời chỗ ngồi cho đến khi nào tìm ra được con đường Giải Thoát”, và rạng sáng đêm thứ 49 Ngài đã “Đắc Đạo”. Việc Đắc Đạo được nhận biết qua lời tuyên bố của Đức Thích Ca ngay khi vừa xả Thiền đứng dậy: “Ta lang thang trong vòng Luân Hồi qua bao nhiêu kiếp, tìm mãi mà không gặp được Kẻ Làm Nhà. Hỡi Kẻ Làm Nhà, từ đây ta đã gặp được ngươi rồi. Ngươi không được làm nhà nữa. Bao nhiêu cột kèo của ngươi đã gãy vụn cả rồi. Rui mè của ngươi cũng tan nát cả rồi. Trí ta đã đạt đến Vô Thượng Niết Bàn, Ta đã hoàn toàn Giải Thoát”.

Lời tuyên bố cho phép ta xác định được 2 điều:

1. Đắc Đạo là đắc cái gì?

2. Đức Thích Ca đã làm gì trong lúc NGỒI THIỀN?

1. Hai câu hỏi có chung một câu trả lời. Chỉ cần quay lại với Phát Tâm tu hành của Thái Tử Sĩ Đạt Ta thì ta sẽ hiểu rằng: Đắc Đạo tức là GẶP ĐƯỢC ĐIỀU NGÀI ĐANG THIẾT THA MUỐN TÌM: LÀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT, là điều Ngài phát nguyện trước lúc Ngồi. Đó là tìm ra nguyên nhân của SINH LÃO BỆNH TỬ đã đè nặng lên thân xác con người, là lý do đã làm Ngài trăn trở đến nỗi phải bỏ ngai vàng, vợ con, kinh thành, gia nhập vào hàng ngũ tu sĩ lang thang để đi tìm. Nghĩa của Đắc Đạo chỉ có thế, không có gì là ghê gớm hay huyền bí, sâu xa không thể hiểu nổi.

2. Qua kết quả được tuyên bố, ta thấy Đức Thích Ca không dùng thì giờ NGỒI THIỀN để ngồi im không động đậy, đếm hơi thở, hay thả hồn rong chơi các cõi, hoặc tìm xem tâm ý người khác nghĩ gì, hoặc đoán chuyện tương lai sắp diễn ra…, mà Ngài dùng thời gian Ngồi đó để tập trung cả Thân và Tâm mà tư duy. Chính vì vậy mà THIỀN của Đạo Phật được Kinh VIÊN GIÁC giải thích: THIỀN ĐỊNH LÀ CHỈ, QUÁN, và CHỈ QUÁN SONG TU.

THIỀN là ĐỊNH hay là CHỈ. QUÁN là tên gọi khác của Tư Duy. Quán cái gì thì sẽ có kết quả của cái đó. Cũng nhờ câu tuyên bố khi xả Thiền của Đức Thích Ca mà ta có thể kết luận rằng trong thời gian Ngồi Thiền, Ngài đã tập trung cả Thân và Tâm để truy tìm thủ phạm đã gây ra cảnh SINH LÃO BỆNH TỬ cho cái Thân người. Cuối cùng Ngài đã gặp được và đã gọi hắn là KẺ LÀM NHÀ. NHÀ đây tức là NHÀ SINH TỬ. Để tìm ra hắn, Ngài đã mất 6 năm trong hiện kiếp và biết bao nhiêu kiếp trong vòng luân hồi như lời tuyên bố của Ngài lúc xả Thiền.

Nhưng nhiều người thời nay còn mất nhiều thời gian hơn, cũng Ngồi Thiền đúng y tư thế mà Đức Thích Ca đã ngồi, tại sao không thấy có người chứng đắc?

Câu trả lời rất là đơn giản: Đức Thích Ca có mục tiêu để tìm, nên khi Ngài quyết liệt ngưng nghỉ tất cả, tập trung để tìm nên đã gặp, gọi là Được Đạo. Nghĩa của “Được Đạo” là gặp, là tìm ra, thấy được Con Đường mà Ngài muốn tìm. Người sau này chỉ bắt chước tướng Ngồi. Xếp tay chân ngồi yên lặng, gọi là Ngồi Thiền. Nhưng vì không có mục đích, không biết mình muốn tìm gì thì làm sao gặp? Như vậy dù có ngồi vô lượng kiếp cũng vô ích mà thôi.

Chẳng phải họ cũng thiết tha cầu Đạo, muốn Chứng Đắc, muốn “Hoát nhiên Đại Ngộ” đó sao?

Đạo tức là CON ĐƯỜNG. Muốn Được Đạo phải biết cái Đạo mà mình muốn tìm là con đường gì? và cũng phải biết đôi nét về con đường đó thì lúc gặp mới biết là đã gặp. Thí dụ như người muốn tìm vàng chẳng hạn, ít ra họ cũng phải biết hình dáng, màu sắc của nó thì khi gặp mới biết là tìm được nó. Hoặc như người đi hái lá thuốc trên rừng, phải phân biệt như thế nào là lá thuốc mà mình muốn hái giữa cơ man lá trong rừng, thì lúc gặp mới hái đúng được. Đạo Phật cũng vậy. Ta chưa biết Đạo Phật là gì? Chưa biết rằng trong Đạo Phật cũng có Chánh, có Tà, nếu ta chưa phân biệt hai bên làm sao cho là Gặp Chân Đạo? Trong Chân Đạo còn có vô số điều cần khám phá. Ta chưa biết gì, chưa làm được cái nào mà muốn Chứng Đắc thì quả là ấu trĩ! Giác Ngộ cũng vậy. Chưa hiểu Giác Ngộ là gì mà cứ Ngồi Thiền để mong có ngày “Đột nhiên hoát ngộ” quả là chỉ có người thiếu hiểu biết mới giàu tưởng tượng đến như thế! Qua đó ta thấy các Thiền Sư ngày xưa nhiều vị cũng nhận vơ, nhận bừa. Tham chữ VÔ, thấy cái gì đó rồi hét lên cho là mình Thấy Tánh! Vậy mà cũng được Thầy ân chứng, chứng tỏ Thầy cũng mơ hồ. Tìm gì thì thấy đó. Tánh đâu có phải là chữ VÔ? Chính vì vậy mà ta thấy bài Kệ của Thiền Sư Vô Môn chỉ có 20 chữ VÔ, nghĩa lý chẳng ra sao hết cũng tự xưng là Thấy Tánh! Chính vì nhận bừa nên Ngài mới luận Đạo kiểu mắng Phật, khinh Pháp, mang những lời xúc xiểm Phật làm thành Công Án trong quyển Vô Môn Quan để giới Tu Thiền học hỏi. Người sau bắt chước theo đó rồi ngông cuồng, ngạo mạn mà không biết đó không phải là tính cách của người tu. Nhìn 32 vị Tổ chính thức mà xem, đâu có vị nào có thái độ bất thường đâu. Bởi vì người Chứng Đắc của Đạo Phật là CHỨNG CÁI VÔ NGÃ, cái KHÔNG CÒN TA. Đã không còn Ta thì làm gì có ta cao hơn Phật để mà ngạo mạn, gọi Phật là “Que cứt khô”, là “Ba cân mè”, còn cho rằng “Thích Ca, Di Lặc còn là tôi đòi của kẻ ấy”. Đã thế còn dạy người tu Thiền gặp bậc Giác Ngộ giữa đường thì “đấm thẳng vào mặt”! Quả là làm người còn chưa xong. Chẳng có chút tác phong nào của người tu hành. Vậy mà nhiều Chùa dạy Tu Thiền vẫn dùng sách đó để giảng dạy không biết đó là chồng mê cho những người theo học! Đó đúng là những con “Trùng trong thân sư tử” mà người tu hành vẫn được nhắc nhở. Còn những người giữ Giới Hạnh nghiêm chỉnh, dù chưa phải là bậc giác ngộ cũng không làm mất giá trị của người tu hành và không làm hoen ố hình ảnh đệ tử Nhà Phật.

Qua 49 ngày đêm Thiền Định, Đức Thích Ca đã gặp, đã vạch mặt chỉ tên kẻ làm ra NGÔI NHÀ SINH TỬ và mang hắn đi cùng khắp cho mọi người đều biết, mô tả lại đầy đủ trong Kinh sách. Đó là cái VỌNG TÂM mà người tu Phật nào cũng phải tìm cho được nó. Tìm được rồi thì sau đó phải “Phản Vọng Quy Chân”. Chuyển VỌNG thành CHÂN, đâu có còn gì là bí mật mà nhiều người truyền nhau tới thời này vẫn ngồi nhắm mắt nhắm mũi để tìm, rồi ngồi hoài không thấy chứng đắc lại cho rằng Đức Thích Ca và Chư Tổ ẩn dấu. Những vị Thầy được thể còn cho là bí mật không thể chỉ được!

Do không hiểu mục đích của Đạo Phật. Không hiểu công dụng của việc Ngồi Thiền, nên nhiều người cứ Ngồi ỳ một chỗ, không hoạt động, ngưng suy nghĩ rồi đinh ninh cứ Ngồi như thế thì có ngày sẽ Ngộ Đạo! Đương nhiên, với sự dừng lắng cái tâm thì người Ngồi sẽ có được sự tĩnh lặng trong giờ Ngồi Thiền. Chỉ có vậy thôi. Tĩnh lặng hay nhập vào cái Không, thấy mình lâng lâng, thoát tục không phải là Ngộ Đạo của Đạo Phật. Thiền của Đạo Phật gọi là THIỀN QUÁN, hay CHỈ QUÁN SONG TU, tức là dùng thì giờ dừng lắng để tư duy để sinh ra sự hiểu biết về Đạo gọi là Trí Huệ. Nhưng tư duy về đề tài gì thì có sự hiểu biết về đề tài đó. Không phải tư duy bất cứ pháp nào cũng đắc đạo, và không phải Quán bất cứ pháp nào cũng Đắc Tâm như có vị Thiền Sư nào đó đã dạy như thế. Kinh Tâm Địa Quán viết: “Trong Ba Cõi lấy Tâm làm chủ. Người quán được Tâm được giải thoát cứu cánh; người không quán được Tâm ở mãi trong triền phược”. Và “Các vị còn ở trong phàm phu địa, không quán được Tâm nên phải trôi giạt trong bể Sinh Tử. Chư Phật, Bồ Tát vì quán được Tâm nên qua được bể Sinh Tử, đến bờ Niết Bàn”. Quán Tâm mới đắc Tâm. Và “Tu Phật là Tu Tâm”. Đó là con đường mà Chư Phật, Chư Tổ đều dạy, không phải Tu Phật là Ngồi Thiền cho lâu, cho nhiều, hay ăn vận cho giống hình ảnh Phật ngày xưa cho là đủ cho công việc tu hành.

Có người sẽ thắc mắc tại sao Thấy Tâm mà Thành Phật? Xin được giải thích như sau: Thành Phật không phải là thành một vị Thần Linh có quyền phép, “Cứu độ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới”, mà là Thành Tựu Con Đường Giải Thoát. Chính do cái VỌNG TÂM lầm chấp cái TƯỚNG HỮU VI HƯ DỐI, tức là cái THÂN giả tạm, cho đó là MÌNH, rồi ở trong đó mà Tham Sân Si, gây đủ thứ Nghiệp, làm cho bản thân và những người chung quanh đều phải Khổ. Khi nhận ra THÂN này không phải là MÌNH, mà chỉ là cái THÂN NGHIỆP mà mình mang trong một giai đoạn nhất định. Hết Nghiệp nó sẽ hoàn trả lại cho Tứ Đại những gì đã vay mượn, thì không dính mắc, đắm nhiễm vào nó, không chịu sự sai khiến của nó nữa, mà lấy lại vị thế làm chủ, điều khiển nó, dùng nó làm phương tiện để tu hành. Cho đến khi nào không còn bị các pháp buồn, vui, sướng, khổ, được, mất, hơn thua, ganh ghét, giận hờn, đố kỵ… khảo đả nữa thì gọi là được Giải Thoát. Giải Thoát cũng là nghĩa của Thành Phật.

Tóm lại, Tam Thế Chư Phật đều do con đường Bát Nhã tức là Trí Huệ mà “Qua bờ bên kia”. Bờ bên này là Phiền Não, Đau Khổ. Bờ bên kia là Giải Thoát, thanh tịnh, tự tại, an vui. Muốn có Trí Huệ thì phải THIỀN ĐỊNH. Kinh VIÊN GIÁC có Kệ:

CÁC TRÍ HUỆ THANH TỊNH

CỦA TẤT CẢ BỒ TÁT

ĐỀU DO THIỀN ĐỊNH SANH

Do đó, những người Ngồi Thiền mà không biết Ngồi để làm gì, không có đề tài Soi, Quán thì không phải là Ngồi Thiền theo Đạo Phật. Tham những Công Án không liên quan đến sự hiểu biết về Đạo đương nhiên không bao giờ có Trí Huệ được, vì Trí Huệ là sự hiểu biết để sau đó thực hành liên quan tới Con Đường Giải Thoát.

Tâm không tìm, Con Đường Giải Thoát không tìm, lại đi tìm xem “Ai niệm Nam Mô A Di Đà Phật”, “Con chó có Phật Tánh không”? Tìm người nào thì gặp người đó. Tìm con gì sẽ gặp con đó. Đâu có tìm Con Đường Giải Thoát mà đòi gặp? Biết mục đích của đạo Phật là gì? Biết cần phải hành trì như thế nào rồi cố gắng thực hành theo. Đó là công việc mà người Ngồi Thiền thời sau cần làm, bởi vì mục đích, phương tiện của Đạo Phật đã được Đức Thích Ca và Chư Tổ khai sáng hết rồi, đâu còn có gì bí mật để cho ta khám phá nữa. Có chăng là tự phá nghi cho chính mình về những điều Đạo Phật đã thuyết để hiểu cho rõ mà chấp nhận và thực hành theo để bản thân mình cũng được lợi ích mà thôi.

Sau khi kiểm chứng qua nhiều Bộ Chính Kinh, nắm được mục đích tu hành của Đạo Phật, tôi thấy rằng mục đích của Đạo Phật dù nói cho nhiều, mô tả đủ thứ Nước Phật, Chư Phật, Chư Bồ Tát, Thánh Chúng, Niết Bàn, Địa Ngục v.v... chung quy cũng chỉ là làm sao để con người cải Ác, hành Thiện để kiếp sống hiện tại và những kiếp về sau không còn bị cái Khổ hành hạ, được hạnh phúc, an vui. Không cần phải khoác áo tu hành đạo mạo trang nghiêm, ở trong Chùa, độc thân, xa rời trần gian. Chỉ cần lắng vọng niệm, không tà tư duy, cải Ác, hành Thiện, sống đầy đủ theo Nhân Thừa thì đó là người đã ở trong con đường Đạo. Sống đúng trách nhiệm của một con người bình thường trong gia đình, xã hội. Hiếu kính ông bà, cha mẹ và bậc trưởng thượng. Không làm hại ai, trái lại giúp đỡ mọi người. Không cần Tướng Thiền, tức là không cần trói chân tay, khép mắt ngồi yên không động. Nhưng trong sinh hoạt bình thường giữa cảnh đời mà Tâm không xao động… thì vẫn THIỀN gọi là NHƯ LAI THIỀN. Đó là kết quả sau một thời gian dài tìm hiểu, thực hành từng Pháp của Đạo Phật, vì Đạo Phật dạy chúng ta hành nhiều Pháp, chung quy cũng để để cởi lần những buộc ràng với giả tướng, giả cảnh mà thôi. Do đó, không phải chỉ cần NGỒI THIỀN là nghiễm nhiên Thành Phật, mà đó là kết quả của Tư Duy, chấp nhận cái Lý của Đạo rồi thực hành theo đó cho tới khi được hoàn toàn Giải Thoát thì gọi là Thành Phật vậy.

Tháng 10/2016

TÂM NGUYỆN


Phụ Bản I

CÁI DUYÊN NHÀ THƠ TÚ MỠ

VỚI ĐẤT PHÙ LƯU

(1900-1976)

Trong bài viết “Anh Tú Mỡ bị Tây bắt” nhà văn Tô Hoài cho biết: sau Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất họp tại Chiêm Hóa ở Tuyên Quang năm 1949, ở đó nhà thơ Tú Mỡ được phong là chiến sĩ thi đua ngành văn hóa, nhà thơ về gia đình đang tản cư ở Bắc Giang. Nhà văn Tô Hoài kể tiếp:

“Có đến mấy tháng đã qua, chưa thấy anh Tú Mỡ về cơ quan (Hội văn nghệ tản cư lên chân dãy núi Tam Đảo ở làng Yên Dã, huyện Đại Từ trên Thái Nguyên) và cũng không có tin tức. Cũng không ai để ý. Trong kháng chiến, chúng tôi ở khuất nẻo và công tác phân tán. Mọi việc nhanh chậm đều do đôi chân, thật “ngày rộng tháng dài”.

Một hôm, thấy ai như anh Tú Mỡ đi từ ngoài cánh đồng vào lối cơ quan ở trong đồi. Anh Tú Mỡ, vóc người bé nhỏ, bước nhanh nhẹn. Đúng anh Tú Mỡ. Nhưng cách ăn mặc thì lại khác lạ quá, không phải Tú Mỡ quần áo nâu với cái nón lá mọi khi. Người này đội chiếc mũ sắt tùm hụp. Bộ quần áo xám xịt, nhiều túi, có cả hai cái túi bắt gà to kềnh trên đầu gối. Áo mũ của bọn com-măng-đô Pháp. Đôi khi, thường thấy người vùng tề ra mặc như thế.

Người ấy đi gần đến nơi. Thì rõ ràng anh Tú Mỡ.

Bấy giờ chúng tôi mới biết trong ngót hai tháng qua anh đã bị Tây bắt” [1] .

Chuyện nhà thơ Tú Mỡ bị Tây bắt đã được chính nhà thơ kể lại tường tận trên hơn 60 trang hồi ký với cái tên TÚ MỠ… CAI TÙ đã được công bố trong Tú Mỡ toàn tập (3 tập) do NXB Văn học xuất bản năm 2008 mới đây. Chuyện này còn được nhà thơ nhắc đến trong nhiều trang viết khác nhau của mình. Chẳng hạn trong bài Những bạn tri âm, bạn “ghi âm”: “Năm 1949, tôi bị giặc Pháp tóm được trong một trận ở Đức Thắng (Hiệp Hòa), khi tôi đi theo đội chèo Quyết Thắng của Ty Thông tin Bắc Giang. Giặc đem tôi về giam ở bốt Phù Lưu (huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh)…” [2]

Phải nói chuyện nhà thơ Tú Mỡ bị Tây bắt là một sự kiện đáng kể trong đời sống văn nghệ kháng chiến, gây cho nhiều người chú ý. Có điều khi nhắc đến nhiều người kể lại có phần không thật chính xác ở những chi tiết này chi tiết kia. Ngay như tác giả Tú Mỡ cũng còn có lần nhớ sai thời gian bị bắt. Như mở đầu đoạn trích trong bài “Những bạn tri âm, bạn “ghi âm” ở trên, chính tác giả kể: “Năm 1949, tôi bị giặc Pháp tóm được…”. Phải dựa vào Hồi ký Tú Mỡ - Cai tù mới công bố trong tập II toàn tập tác phẩm Tú Mỡ do NXB Văn học mới xuất bản năm 2008, từ trang 391-452: “Hôm ấy là ngày 19 tháng Ba năm 1950, lớp học tập chính trị tổ chức cho đoàn ca kịch Quyết Thắng của Ty Thông tin Bắc Giang vừa bế mạc. Tôi đề nghị với anh B, trưởng ban Tuyên truyền để tôi đi theo đoàn một thời gian…

…Tôi theo đoàn ca kịch xuất phát lên đường. Chiều hôm ấy, chúng tôi đến Bắc Lý… Sáng hôm sau, trời chưa sáng rõ đã nghe thấy tiếng súng nổ xa xa…”. Nhà thơ theo dân chúng chạy tóe ra cánh đồng, lạc mất đoàn ca kịch. Và rồi bị giặc tóm được cùng với cặp tài liệu. Giấy má lý lịch của nhà thơ ở cả trong cái cặp da, ông không thể nói dối được, đành phải nói thực với bọn chỉ huy giặc, hơi xuyên tạc một tý thôi. May mà trong đám sĩ quan chỉ huy có viên thiếu úy Tây lai và một người đội ta có lòng tốt thông cảm giúp một tay, nhà thơ biến báo che mắt được bọn chỉ huy cao hơn, vốn lười nhác, đại khái. Vì thế ông già “công chức quèn” được giải cùng đám người bị bắt về giam tại bốt Phù Lưu, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Riêng ở chỗ này cần nói rõ địa danh Phù Lưu - Từ Sơn - Bắc Ninh - chỉ có một. Phù Lưu, ở đây đích thị là làng Phù Lưu - Chợ Giầu, cách “bốt Từ Sơn chừng mười lăm phút,… vào trại Phù Lưu cách đấy độ năm trăm thước… Qua một con đường cái lát đá phiến xanh…”, chứ tuyệt không phải Phù Lưu Tế, hai lần nhắc đến trong bài viết “Con người nhân ái [3] của anh Hồ Viết Cường, con giai út của nhà thơ.

Qua cuộc hỏi cung bọn giặc tin là nhà thơ chỉ là một công chức cũ thời Pháp, đi tìm gia đình tản cư, do phải có kế sinh nhai cho mình và gia đình đành phải làm cho Việt Minh, nhưng cũng chỉ là anh thư ký quèn lo công văn giấy tờ. Thấy người tù già lanh lợi chững chạc lại giỏi tiếng Pháp nên bọn chỉ huy giao cho ông làm chân cai tù kiêm thông ngôn trong trại. Nhờ sự khéo léo biện bạch của Tú Mỡ và những người trong hàng ngũ giặc, nhưng vẫn còn lương tâm giúp đỡ và mọi bạn tù, là người dân chất phác, có cả du kích thật, đoàn kết nghe lời ông cai già, nên tai họa qua được. Mọi người được thả tự do. Theo lá đơn viết bằng tiếng Pháp nhà thơ thỉnh cầu cho được ra vùng tự do tìm gia đình tản cư đâu đó… cuối cùng ông cũng được cấp giấy thông hành qua bốt chờ đi sang Hiệp Hòa, Bắc Giang và trở về cơ quan văn nghệ kháng chiến.

Vậy là Tú Mỡ đã có dịp sống ở trên đất Phù Lưu - chợ Giầu đến hai tháng trời. Tuy bị giam lỏng trong trại mà vẫn thoát tay giặc. Giờ đây, thời gian đã qua hơn nửa thế kỷ Phù Lưu - Chợ Giầu bây giờ đã lên phố Phù Lưu, phường Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn. Nhà cửa được tu sửa lại, xây dựng thêm càng khang trang như vốn đã nổi tiếng. Và khách thập phương đến vẫn trầm trồ đi trên con đường lát đá phiến xanh từ cổng Bắc chạy suốt dọc phố chính xuống đến đầu làng cổng cũ phía Nam. Đường chính bốn viên rộng thênh thang, rẽ vào các ngõ “răng bừa” đường lát hai viên…

Ngôi nhà mà bọn chỉ huy đồn Phù Lưu hơn sáu mươi năm trước đây đóng trụ sở vẫn còn giữ nguyên vẹn, được tu sửa, ở giữa phố chính, gần đình, chùa, mang số 84, vừa được tu sửa khai trương làm Nhà lưu niệm “Văn học Nga ở Việt Nam” - một điểm văn hóa mới góp vào nhiều di tích văn hóa vốn có của làng Giầu - Phù Lưu, nổi tiếng từ xa xưa khắp cả vùng Kinh Bắc.

Và nhà thơ Tú Mỡ một lần nữa lại có mặt ở trên đất Phù Lưu.

Ngôi nhà Tây lấy làm trụ sở chỉ huy đóng đồn khi ấy còn giữ được cho đến tận ngày nay. Ngôi nhà gác hai tầng xây chắc chắn bằng gạch, cốt sắt xi măng trên một khuôn viên rộng rãi có sân tường hoa. Theo bà con thế hệ cao tuổi sống tại Phù Lưu cho biết: ngôi nhà này của ông bà cả Ngườm, nhờ buôn bán tần tảo, như nhiều gia đình người Phù Lưu - Chợ Giầu, tích cóp mà xây được từ đầu những năm 40 thế kỷ trước. Ông bà chỉ có một cậu con trai duy nhất gửi ra Hà Nội ăn học, lại sớm chết vì tai nạn xe điện ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Vào thời điểm đó, đất nước có nhiều biến chuyển, ông bà cả Ngườm bỏ vào Sài Gòn rồi đi biệt tung tích. Hòa bình lập lại ngôi nhà được chính quyền địa phương quản, sử dụng vào các việc khác nhau, từ trụ sở công an địa phương sau đó lại cho ở nhờ. Người ở nhờ được chia đất mới chuyển đi. Vừa hay biết tôi là người làng sau cả cuộc đời công tác thoát ly gắn bó với văn học Nga có một bộ sưu tập lớn về văn học Nga ở Việt Nam, tuy lâu nay công tác ở ngoài Hà Nội nhưng vẫn gắn bó nơi quê làng cũ, nên lãnh đạo chính quyền và bà con địa phương đã ưu ái giao cho ngôi nhà để tu sửa làm nơi thành lập ngôi nhà lưu niệm “Văn học Nga ở Việt Nam”. Chính ngôi nhà mà hơn nửa thế kỷ trước Tây đã chiếm đóng đặt sở chỉ huy đồn Phù Lưu của chúng và trong một thời gian ngắn nhà thơ Tú Mỡ sa cơ buộc phải cộng tác. Từ khi khai trương vào dịp kỷ niệm 65 năm quan hệ hữu nghị Việt Xô - Việt Nga và thành lập Hội Hữu nghị Việt - Xô, ngày truyền thống Hội Hữu nghị Việt-Nga, ngày 27 tháng Năm, 2015, đến nay đã được hơn một năm.

Nhà lưu niệm có hai phần chính: I, gian dưới - “Những trang tình nghĩa” với 3 bộ phận theo 3 chủ đề khác nhau: Bác Hồ với nước Nga; Đề tài nước Nga trong văn học Việt Nam và Đề tài Việt Nam trong sáng tác văn thơ Xô viết, văn thơ Nga. Và II, gian “Quá trình văn học Nga ở Việt Nam” trên gác, với nhiều chủ đề khác nhau về thể loại, về các chủ đề…

Và một lần nữa nhà thơ Tú Mỡ lại “có mặt” chính tại ngôi nhà này. Trong bộ sưu tập sách báo liên quan đến quan hệ Việt Nam - Liên xô và Việt Nam - Liên bang Nga có nhiều hiện vật quý hiếm gắn với tên tuổi Tú Mỡ. Trước hết phải kể đến những bài viết của nhà thơ sáng tác ngay sau chuyến đi trong đoàn đại biểu các trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam lần đầu tiên chính thức thăm Liên Xô ngay sau khi đất nước giành thắng lợi trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống xâm lược Pháp 1946-1954. “Nói chuyện về văn nghệ sĩ Liên xô”, viết ngày 20.11.1954 và “Phát biểu ý kiến về bức thư của nhà văn Cholokov” viết ngày 26 tháng 12 năm 1955 [4] cùng với Hồi ký “Tú Mỡ…cai tù” [5] . Tiếp theo bài thơ “Bắt quàng làm họ” ký tên Tú Mỡ, đăng ngay ở đầu trang báo Văn học số 160 ra ngày 18 tháng 8 năm 1961 dưới tiêu đề chạy dài suốt hai trang báo: “Hoan hô kỳ công tuyệt vời của anh hùng phi công vũ trụ Liên xô thiếu tá Ti tốp!”. Bài thơ chỉ có 15 câu lục bát ca ngợi thành tựu khoa học Liên xô phóng thành công hai con tầu “Phương đông Một”, “Phương đông Hai” mang người lên vũ trụ buộc Mỹ phải làm thân, gắn tên tuổi của các phi công vũ trụ Mỹ Xê pớt và Gonitxơn bên cạnh tên tuổi Gagarin, Ti tốp của Liên xô. Cùng có mặt trên hai trang báo còn có tiếng nói văn thơ của các văn nghệ sĩ Việt Nam khác, như: nữ sĩ Vân Đài, nhà thơ Xuân Tửu, Đại Thủy, Cẩm Giàng, Lê Mão, Phan Đình Côn và các nhà văn nhà thơ Liên xô: Lep Nuculin, Lép Osanin. Hai trang báo văn học số 160 cùng với các trang báo của hai số Văn học trước đó: số 24, ra ngày 9 tháng Một năm 1954 và số 143 ra ngày 21 tháng 4 năm 1961, chào mừng hành tinh nhân tạo Liên xô phóng thành công ngày 4.1.1959 và chuyến bay lên vũ trụ con tầu “Phương đông Một” chở phi công vũ trụ Iuri Gagarin, đều được đóng khung trang trọng trong góc trưng bầy “Đề tài nước Nga trong văn học Việt Nam” ở gian có tên “Những trang tình nghĩa”. Ở tủ kính bầy sách tại đây còn có bản sao tập bản thảo viết tay tập thơ có tên “Chuyến đi dối già” của Tú Mỡ hoàn thành sau chuyến đi thăm Liên xô lần thứ hai, năm 1970. Tập bản thảo viết tay (bản chính: trong một cuốn vở học sinh Liên xô được trưng bày trong tủ bản thảo gốc đặt ở tầng trên) có tới 24 bài thơ và một phụ lục truyện dân gian Nga được nhà thơ kể lại bằng thơ song thất lục bát. Tập bản thảo thơ có lẽ gửi tới báo Văn nghệ để đăng vì sau đó trên báo Văn nghệ số 280 ra ngày 22 tháng 1 năm 1971 đã công bố Truyện cổ tích xứ Krimê - Liên xô (Núi gấu) do Tú Mỡ sáng tác, và báo Văn nghệ số 445 ra ngày 21 tháng Tư năm 1972 đã công bố chùm thơ ba bài: Chào Mạc Tư Khoa, Từ giã Yan-Ta mến khách Thăm quê hương của Tôn-xtôi. Bản sao hai trang báo này cũng được để bên cạnh bản sao tập bản thảo chính để ở tủ kính trên tầng gác trên.

Phải nói thêm, liên quan đến tên tuổi nhà thơ Tú Mỡ trong nhà Lưu niệm còn có thể thấy sáng tác cũng như bản dịch văn học của người con thứ 7 của nhà thơ, dịch giả - nhà thơ Hồ Quốc Vỹ… Hồ Quốc Vỹ có thơ đăng trong tập Tuyển thơ Nối hai đầu thế kỷ (thơ của người Việt về đề tài nước Nga) NXB Hội Nhà văn vừa ấn hành năm 2014, có bản dịch Ông già đánh cá và con cá vàng truyện dân gian Nga do A.Puskin sáng tác, Hồ Quốc Vỹ dịch sang tiếng Việt do NXB Cửu Long ấn hành năm 1986 với 40.000 cuốn… Ngoài ra là các bản sao các bài viết: Con người nhân ái 12-1992 của Hồ Quốc Cường, con trai út của Tú Mỡ và Tú Mỡ hồi sinh, 16.11.1995, của Hồ Thị Xuyến, con gái của nhà thơ.

Thúy Toàn


KỶ NIỆM 405 (1585-1990) NGÀY MẤT

NGUYỄN BỈNH KHIÊM

(1491-1585)

NHÀ HỌC GIẢ,

NHÀ TRIẾT GIA NỔI TIẾNG THẾ KỶ XVI

Lịch sử một dân tộc, một con người nhiều khi dễ bị thời gian “phủ bụi”. Song, một con người đã giã từ cuộc đời cách đây 405 năm, vẫn còn vang vọng sống mãi trong lòng dân tộc. Đó là nhà học giả, nhà triết gia nổi tiếng NGUYỄN BỈNH KHIÊM.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm 1585; người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng thư Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả hai bố mẹ đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tướng mạo khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước, cứu đời. Niềm thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm tìm được thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp thông minh từ nhỏ lại gặp thầy giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt xuất nổi tiếng. Và sau này, tài học vấn uyên thâm của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vượt xa thầy. Tương truyền Lương Đắc Bằng là người giỏi lý học, đã đem sách Thái ất thần kinh ra dạy cho học trò, nhưng có những điều trong sách ấy Lương Đắc Bằng cũng không hiểu được mà chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này tinh thông hơn cả,

Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đố kỵ chém giết lẫn nhau, Lê Uy Mục lên ngôi bằng cách giết hại bà nội (vợ Lê Thánh Tông) và 26 chú, bác, anh em trong hoàng tộc. Năm năm tiếp theo, Lê Tương Dực lại giết Lê Uy Mục cướp ngôi. Bảy năm sau, Trịnh Duy Sản lại giết Lê Tương Dực lập Quang Trị. Nhưng mới được ba ngày đã bị một triều thần khác bắt cóc, giết chết và lập Chiêu Tông v.v… Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một tân triều mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535, lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm đã 45 tuổi mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng Nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hy vọng lớn lao vào triều đại nhà Mạc để có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc Đăng Dung đã nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng. Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã nhìn thấy điều đó. Và ông hy vọng với nhân vật này thì triều đại mới có thể phục hồi đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến gây ra.

Nhưng niềm tin đó bị thất vọng. Năm 1540, Mạc Đăng Doanh bị chết, con là Mạc Phúc Hải lên làm vua. Rồi ngay cuối năm ấy, để củng cố ngai vàng, Mạc Đăng Dung đã làm một điều ô nhục nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Cắt đất, đúc người vàng làm đồ cống nạp và lên tận cửa ải tự cởi trần, trói mình, quỳ mọp trước sứ giả nhà Minh. Điều sỉ nhục đó đã xúc phạm tới lòng tự trọng tự tôn dân tộc, nhất là đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, điều ấy càng làm cho ông thất vọng, tan nát và một nỗi u hoài chua chát bao trùm lên cuộc đời. Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong thơ ông hay nhắc tới sự thăng trầm “thương hải biến vi tang điền” (biển xanh biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và bức tranh cuộc đời trôi nổi như “phù vân” thương xót cho “vận mệnh” quốc gia, và nỗi niềm cảm thông sâu sắc cho tình cảnh “dân đen”, “con đỏ”, ông thật sự mong muốn một đất nước thịnh vượng thanh bình. Tương truyền hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, “vận mệnh” của đất nước trong hoàn cảnh ấy, chưa thể có những lực lượng đảm đương thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho chúng những phương cách khác nhau để giữ thế “chân vạc”. Năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại, lo cho “số phận”, đã ngầm cho người hỏi kế an thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (ngụ ý nói: dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài). Thế là Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào).

Tại Thăng Long, thời ấy chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê và muốn phế bỏ, liền cho người yết kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm hỏi ý kiến. Ông không trả lời thẳng vào câu hỏi và lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa và nói với nhà sư: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”, ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quyền hành tất giữ được. Nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến binh đao. Còn đối với nhà Mạc, sau những cuộc chiến tranh liên miên, phải bỏ chạy lên Cao Bằng thế thủ, vua Mạc cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả lời: “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thế” (Cao Bằng tuy đất hẹp, nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Các truyền thuyết trên đây muốn chứng tỏ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, do ông nắm được bí truyền của sách “Thái ất thần kinh”. Vả lại còn truyền thuyết nữa về Trạng Trình với tập Trình quốc công sấm ký. Tương truyền trong tập sách đó, ông đã tiên tri và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc xảy ra “năm trăm năm sau”. Thực, hư thế nào, còn là vấn đề cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ định của các nhà học giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đương nhiên, một điều cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả “thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sư” (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lý, ở giữa hiểu con người).

Ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn, thơ có giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai tập: Trình quốc công Bạch Vân thi tậpTrình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập hay còn gọi là: Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông còn truyền đạt một đạo lý cho đời đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, làng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học, mong đào tạo cho đời những tài năng “kinh bang tế thế”. Học trò của ông cũng có người trở thành danh tướng, Trạng Nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền,…

Có thể nói ở thế kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của nước ta. Tư tưởng triết học của ông không bận tâm đi vào xu hướng duy lý…, đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử, như triết học Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết học Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt; không lý giải quá sâu cái lý, khí rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ mơ hồ rối rắm trong những khái niễm hỗn tạp đó. Mặc dù với sự uyên thâm vốn có, ông được triều đình nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyên hầu, tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện - hai nhà triết học khai phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho) - hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình; nhưng triết học của ông là triết học đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như từ sự gợi ý mách bảo của cuộc sống thực tiễn. Ông chắc lọc từ trong nhận thực triết học mà mình thu lượm được phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ, để giải đáp nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát “luật” đời bằng những phạm trù triết học. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù đối lập như: đen - trắng, tốt - xấu, đầy - vơi, sinh - diệt, vuông - tròn, để giải bày quan niệm triết lý nhân sinh của mình.

Tuy nhiên “Một hạn chế dễ nhận thấy trong tư tưởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tuy nắm được phép biện chứng, nhưng vẫn nặng nề duy tâm. Quan niệm về sự phát triển của ông còn nằm trong khung tròn khép kín chứ chưa phải là vòng tròn xoáy ốc. Đó là sự phát triển tuần hoàn, là cái phép biện chứng của chu dịch… ông đã nhận được trong nền giáo dục Nho học đương thời, cộng với phép biện chứng thô sơ của Lão Tử trong Đạo đức kinh. Đó cũng là những hạn chế đương nhiên của rất nhiều nhà triết học cổ đại” (*).

Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử và con người thế kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm (**) xứng đáng là “cây đại thụ”, nhà học giả, nhà triết gia của thế kỷ.

HOÀNG ĐIỆP

ĐỖ THIÊN THƯ st.

(*) ĐÀO THÁI TÔN. “Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cây đại thụ của tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI”. Báo “Người Hà Nội” số 21, (1.3.1986)

(**) Còn có biệt hiệu là Tuyết Giang Phu Tử.


Người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ

LÊ KIM & BÙI VIỆN

B ÙI V IỆN ( 1839 - 1878 )

Theo Nguyễn Q. Thắng, trong “Từ điển Nhân vật Lịch sử Việt Nam” NXB Khoa học Xã hội, năm 1992 cho rằng Bùi Viện là nhân vật xuất ngoại đầu tiên vận động bang giao với nước Mỹ. Ông hiệu Mạnh Dực , là một nhà cải cách , nhà ngoại giao của Việt Nam cuối thế kỷ 19 , làm quan dưới triều nhà Nguyễn . Quê làng Trình Phổ, tổng An Hồi, Trực Định, thuộc Kiến Xương, Nam Định.

Đường khoa cử và xuất chính làm quan

Bùi Viện năm 18 5 6 đỗ Cử nhân . N ăm 1871 ông nhận nhiệm sở giúp Lê Tuấn , Tham tri Bộ Lễ ra Bắc dẹp loạn. Công việc hoàn thành, ông trở về Huế . Bùi Viện được Doãn Khuê , Doanh điền sứ Nam Định mời ra giúp việc khai hoang, lấn biển.

Năm 1873, trước khi vua Tự Đức buộc phải ký Hiệp ước Giáp Tuất ( 15/3 / 1874 ) nhượng bộ nhiều yêu sách của thực dân Pháp và nguy cơ mất cả nước đã nhỡn tiền, triều đình đã chủ trương tìm kiếm những đối trọng khác ở nước ngoài để chấn hưng đất nước và cứu vãn họa xâm lăng của thực dân Pháp. Bùi Viện đã lãnh nhận sứ mạng sang Mỹ do sự tiến cử của một viên đại thần trong triều với Vua Tự Đức. Bùi Viện lúc đó đang được xem như là một nhà kinh bang tế thế, có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng , lập ra Tuần dương quân (lực lượng hải quân thường trực) gồm 200 chiến thuyền và 2.000 quân thủy thiện chiến và lập ra hệ thống thương điếm ở khắp các tỉnh ven biển.

Sang Mỹ tìm đồng minh giao hiếu

Từ cửa biển Thuận An ở kinh đô Huế , Bùi Viện xuống thuyền ngược ra Bắc vào tháng 7 năm Quý Dậu (tháng 8 năm 1873 ) và 2 tháng sau thì đế n H o ng Ko ng lúc đó đã là nhượng địa của nước Anh và là đầu mối giao thông nối châu Á với thế giới phương Tây. Tại đây Bùi Viện đã kết giao được với viên lãnh sự Hoa Kỳ lai Tàu nên 2 bên giao thiệp được. Được biết ý đồ của Bùi Viện, viên lãnh sự đã viết thư giới thiệu với một người ở Hoa Kỳ có khả năng giúp ông tiếp cận với nguyên thủ của quốc gia này.

Bùi Viện sau đó đã đi qua Yokohama , Nhật Bản để đáp tàu sang Mỹ, rồi lưu lại một năm vận động mới gặp được Tổng thống Abraham Lincoln (nhiệm kỳ 186 1 - 186 5 ). Lúc này Pháp và Mỹ đang kình nhau trong chiến tranh ở Mexico nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp.

Texas nổi dậy chống Mexico và sau đó đã được sá p nhập vào Hoa Kỳ . N hững tranh chấp về đất đai, lãnh thổ với nước Mỹ đã làm bùng nổ cuộc chiến tranh Mỹ-Mexico (1846-1848) với thất bại nặng nề thuộc về Mexico. Năm 1848, Hiệp ước Guadalupe-Hidalgo được ký kết, theo đó Mexico mất tới 1/3 diện tích lãnh thổ cho Hoa Kỳ. Những năm 1860, Mexico phải đối mặt với sự xâm lăng của nước Pháp . Công tước Ferdinand Maximilian của Áo (thuộc dòng họ Habsburg ) được chọn để trở thành vua của Đế chế Mexico thứ Hai. Tuy nhiên chính thể phong kiến này cũng chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn ngủi.

Chính vì Mỹ và Pháp mâu thuẫn, nên trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865), Pháp dự tính công nhận Confederacy (phe miền Nam ly khai) chống lại Tổng thống Lincoln lãnh đạo Liên bang U.S.A. (miền Bắc) về vấn đề “kỳ thị người d a đen”, nhưng ngay trong nước Pháp, Laboulaye, giáo sư đại học Paris và các người cấp tiến khác đã viết các sách nhỏ phản đối, nên Pháp do dự và sau đó bỏ hẳn ý nghĩ công nhận miền Nam. Đồng thời Laboulaye vận động thiết kế Tượng Nữ thần Tự do trao tặng nước Mỹ.

Thật là đáng tiếc, Bùi Viện không mang theo quốc thư nên Tổng thống Lincoln không thể có một cam kết chính thức. Vì vậy, ông lại quay về Việt Nam .

Sau đó, c ó được quốc thư của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa. Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Nội chiến kết thúc, Tổng thống Lincoln bị ám sát, nước Mỹ đang bị xáo trộn nên Tổng thống Ulysses Grant khước từ sự cam kết giúp Việt Nam đánh Pháp.

Bùi Viện lại trở về nước, vừa đặt chân lên bờ thì nghe tin mẹ từ trần nên về quê cư tang. Ba tháng sau Bùi Viện lại được triệu về kinh đô giữ chức Thương chánh tham biện rồi chuyển sang chức Chánh quản đốc nha Tuần hải . Chẳng bao lâu Bùi Viện mất đột ngột ở tuổi chưa đầy 40.

Đánh giá

Hành trạng cũng như tư tưởng của Bùi Viện thường được ví và xếp chung vào lớp sĩ phu có tư tưởng canh tân như Phạm Phú Thứ , Nguyễn Lộ Trạch , Nguyễn Trường Tộ .

Vua Tự Đức đã có lời phê: Trẫm đối với ngươi chưa có ân nghĩa gì, mà ngươi đã coi việc nước như việc nhà, không quản xa xôi lo lắng, quỉ thần ắt cũng chứng cho ” .

Lịch sử đã coi ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước Mỹ.

LÊ KIM (1821-1866) ĐẦU TIÊN ĐẾN MỸ

Nhưng trong cuốn sách “ Con đường Thiên lý ” (NXB Văn hóa - Thông tin), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục, chứng minh rằng trước Bùi Viện 20 năm, có một người Việt đã thực hiện một chuyến phiêu lưu ở miền Tây hoang dã của Hoa Kỳ như một cao bồi thực thụ.

Từ một người đi tìm vàng ở California, Lê Kim đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ, sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.

Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất, từ Hương Cảng đến Anh, Hà Lan, Pháp. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó.

Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans, Louisiana (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.

Du thuyền tới California vào lúc bắt đầu Cơn sốt vàng

Cơn sốt vàng California

(California Gold Rush 1848 - 1855 )

Bắt đầu tháng 01 năm 1848, khi James W.Marshall phát hiện vàng Sutter's Mill , Coloma, California . Thông tin về việc tìm vàng đầu tiên từ những người ở Oregon , Sandwich Islands ( Hawaii ) và Mỹ La tin h , họ là những người đầu tiên đổ xô đến bang Cal i fornia vào cuối năm 1848. Khi tin này lan ra, khoảng 300.000 người đã đến California từ khắp nơi trên nước Mỹ và từ nước ngoài. Trong số đó, khoảng phân nửa là đến bằng đường biển và nửa đến từ miền đông bằng California Trail và tuyến sông Gila .

Những người tìm vàng đầu tiên được gọi là: “forty-niners”, đến California bằng thuyền buồm và bằng covered wagons xuyên qua lục địa, thường phải chịu nhiều gian khổ trong chuyến đi. Trong khi phần lớn những người mới đến là người Mỹ, cơn sốt vàng cũng thu hút hàng ngàn người từ Mỹ Latin , châu Âu , châu Úc châu Á . Ban đầu, những người tìm kiếm đã đãi vàng từ các con suối và lòng sông với các kỹ thuật đơn giản, sau đó phát triển các phương pháp chiết vàng tinh vi hơn và sau này được cả thế giới áp dụng. Vàng có giá trị hàng tỷ dollar Mỹ theo thời giá hiện nay đã được khai thác dẫn đến sự giàu có cho một số người, nhiều người trở về quê với vẻn vẹn một chút vàng có giá trị chỉ cao hơn lúc họ mới bắt đầu.

Hiệu ứng của cơn sốt vàng California khá quan trọng. San Francisco phát triển từ một ngôi làng lều trại thành một boomtown , và đường sá, nhà thờ, trường học và các thị trấn khác đã được xây dựng. Một hệ thống luật lệ và chính quyền đã được tạo ra, dẫn đến sự gia nhập của California là tiểu bang thứ 31 của Hoa kỳ vào năm 1850 với thủ phủ là Sacramento và từ đó California có nickname là “Tiểu bang Vàng” (Golden State) . Các phương thức vận tải đã phát triển khi tàu hơi nước đã được đưa vào hoạt động thường xuyên và đường sắt đã được xây dựng. Công việc kinh doanh nông nghiệp , lĩnh vực tăng trưởng chính của California đã được bắt đầu trên một quy mô rộng khắp bang.

Sau khi đến Mỹ, Trần Trọng Khiêm cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó ông trở về thành phố San Francisco, California và làm ký giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.

Trong cuốn sách La Rueé Vers L'or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Canada, Anh, Pháp, Hà Lan, Mexico… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans tiểu bang Louisiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.

Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là cụm từ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.

Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người, nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn, gồm tiếng Hà Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam, nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa, và đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.

Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah”:

- Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc.

Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.

Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng. Nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.

Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.

Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.

Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.

Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.

Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.

Người Minh Hương cầm quân chống Pháp

Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: “gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về”, Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.

Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực dân Pháp xâm lược nước ta. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng.

Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrand iè re chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:

“Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh

Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”

Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh tan, nhưng Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ 19.

TÓM TẮT

· Trần Trọng Khiêm (Lê Kim) trở thành người Việt đầu tiên làm Cao bồi (cowboy) đầu tiên trong phong trào đi tìm vàng tại Mỹ, cũng cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ . Không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Và Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ 19.

· Bùi Viện sang Mỹ, yết kiến Tổng thống Lincoln. Lúc này Pháp và Mỹ đang kình nhau trong chiến tranh ở Mexico nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng vì Bùi Viện không mang theo q uốc thư nên Hai bên không thể có một cam kết chính thức. Phải chi, nếu lần đầu tiên yết kiến Tổng thống Mỹ mà Bùi Viện có Quốc thư thì biết đâu lịch sử quan hệ Việt - Mỹ lật sang một trang mới.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Tài liệu về Lê Kim & Bùi Viện trên Sách báo, Internet)

THA THỨ CHO ANH

(tiếp theo)

- Không hẳn vậy, anh đã tìm em và con rất lâu, trước khi mạ nói điều đó, em biết không?

Huyền Tâm nghiêm giọng:

- Trước hay sau gì cũng thế thôi, tôi không mong gặp lại anh, Tịnh Lan cũng không cần người cha như anh. Anh về đi, về đi Trọng Thu.

- Bao nhiêu năm qua, mẹ con chúng tôi sống bên nhau vui vẻ, hạnh phúc lắm rồi. Tôi không muốn anh lui tới làm xáo trộn cuộc sống của mẹ con chúng tôi.

Ông Trọng Thu nín lặng, buồn bã. Bà Huyền Tâm thì giận dỗi quay mặt ra phía cửa sổ.

Không khí trong phòng trở nên ngột ngạt, lặng ngắt. Tiếng ông Trọng Thu như van nài, lại cất lên:

- Huyền Tâm, em…

Người phụ nữ vội vàng khoát tay, cất lời:

- Anh hãy dừng lại, đừng nói gì nữa cả.

Ông Trọng Thu đành thở dài, lặng thinh ngồi thừ ra.

Căn phòng mở ra, tiếng bước chân đi vào.

- Mẹ, con về rồi. Ủa, sao mẹ không bật đèn cho sáng thêm, tối rồi.

- Con về hở Tịnh Lan?

- Vâng, thưa mẹ.

Tịnh Lan đáp lời bà mẹ xong, chợt quay sang thấy ông Trọng Thu thì mừng rỡ gọi ngay: “Ba!”

Bà Huyền Tâm quắc mắt nhìn cô con gái:

- Tại sao con biết ông ấy, tại sao lại gọi ông ta như thế, và tại sao ông ta lại vào nhà được chứ?

Sau một loạt câu tra vấn Tịnh Lan như thế, một cách dồn dập, bà Huyền Tâm ôm lấy ngực thở dốc, mặt tái xanh làm cô gái hoảng hốt, chạy đến ôm mẹ kêu lên:

- Mẹ, mẹ có sao không? Mẹ đừng giận con nghe mẹ, con xin lỗi mẹ. Nhưng mẹ ơi, dù sao ông cũng là cha con mà mẹ.

- Con còn nói vậy nữa hở? Cha con gì chứ? Mẹ cấm con đó Tịnh Lan. Ai cho phép con gọi như thế. Bà mẹ nói giọng giận dữ:

- Con lại tự ý mở cửa cho ông ta nữa, mẹ để tội con đấy, rồi con sẽ biết mẹ xử tội con như thế nào?

Cô con gái mắt rưng rưng lệ, quỳ sụp xuống trước mặt bà mẹ van xin.

- Mẹ ơi, mẹ thương con tha thứ cho ba nghe mẹ, bao nhiêu năm nay ba đau khổ quá rồi mẹ.

Bà Huyền Tâm nói lớn:

- Con mà biết rõ sao? Đau khổ, gian khó bằng mẹ và con sao? Mẹ không nghe lời con đâu nghe chưa! Ông ta… ông ta… giọng bà càng lúc càng nghẹn ngào gần như tắc nghẹn.

Bà chợt đứng phắt dậy, bước lảo đảo, liêu xiêu rời khỏi phòng, dập mạnh cửa đánh ầm một tiếng lớn như dội vào tim hai người còn lại trong căn phòng.

Tịnh Lan bước đến trước mặt người cha, ngồi xuống cầm tay ông gọi tha thiết: “Ba ơi!”

Cả hai cha con cùng rơi lệ.

- Ba đừng giận mẹ, mẹ đã buồn khổ nhiều lắm. Mẹ con đã khóc thầm biết bao đêm rồi ba. Con thương mẹ, con cũng thương ba nhiều lắm ba ơi.

Ông Trọng Thu vuốt mái tóc dài của con gái, khẽ nói:

- Ba biết mình có lỗi với mẹ con rất nhiều, ba rất thương mẹ con và vẫn mong bà ấy tha thứ cho ba.

- Ba ơi, hai mươi hai năm nay, mẹ chịu cực khổ gian nan ghê gớm, lúc con lớn khôn hiểu biết ít nhiều, con thấy mắt mẹ lúc nào cũng ướt lệ hết, nhiều hôm mẹ ôm con vào lòng khóc nức nở, con đau lòng lắm ba ơi!

Ông Trọng Thu thở dài, rồi chợt nhớ ra điều gì vội hỏi Tịnh Lan:

- Con hãy cho ba biết nguyên nhân tại sao mẹ con lại bị khập khiễng như vậy hở con?

Tịnh Lan ngước mắt nhìn cha, chậm rãi kể lại:

- Lúc con được ba tuổi, mẹ mang con đi khắp nơi tìm việc làm để nuôi hai mẹ con nhưng đi mãi, đi mãi mà vẫn không có ai mướn, mẹ phải đi xin từng nhà để con được no lòng, cuối cùng Chúa thương đến hoàn cảnh khốn khổ của mẹ và con nên có người nhận mẹ làm phụ hồ ở một công trình xây dựng. Ba biết không, hai mẹ con không có nhà cửa nên mẹ xin che lều ở đó luôn.

- Rồi một đêm mưa giông gió lớn đã thổi sập cái lều mỏng manh ấy và một khối gạch to chất gần đó cùng đổ ập xuống, mẹ ôm con vào lòng che chở con, còn mẹ thì bị gạch đổ làm gẫy xương chân. Lúc ở bệnh viện, mẹ chỉ được chủ thầu dúi cho một số tiền ít ỏi gọi là rồi họ đi mất, mẹ chỉ biết khóc, mà lúc ấy con còn quá nhỏ, thấy mẹ khóc chỉ biết khóc theo mà thôi.

Kể đến đây, Tịnh Lan ngừng lại lấy khăn lau nước mắt đang chảy dài trên má. Ông Trọng Thu cũng xúc động, mắt rưng rưng, run giọng:

- Rồi chuyện ra sao nữa con, thật tội cho cả hai mẹ con quá!

- May sao có cô y tá ở bệnh viện báo lên tình cảnh của mẹ với Ban Xã Hội của bệnh viện nhờ giúp đỡ và xin cơm từ thiện cho hai mẹ con sống qua ngày đó ba.

- Sau đó cô Mai còn chạy vạy xin gửi con vào một Mái Ấm tình thương, để mẹ rảnh rang đi tìm việc làm.

- Không có tiền để mổ sắp xương lại vì khi tháo bột ra bác sĩ nói chân mẹ gãy làm mấy đoạn nên không lành hẳn.

- Ngày qua ngày, mẹ không thể lìa xa con được, lúc ấy con lại thường quấy khóc đòi mẹ suốt, nên mẹ phải xin về mái ấm làm việc để săn sóc cho con, rồi mẹ lại còn bị té ngã cầu thang lúc bưng bê cơm nước ở nơi ấy, vậy là mẹ bị tật chân từ ấy đến nay luôn đấy ba.

Nghe đến đây, ông Trọng Thu ôm đầu cúi gục xuống khổ sở, kêu lên:

- Trời ơi, tội nghiệp mẹ con và con biết bao, ba làm khổ mẹ con quá My ơi!

Cô con gái ôm lấy cánh tay cha nhỏ giọng an ủi:

- Chuyện cũng qua lâu rồi ba, con biết ba đâu muốn thế, con hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của ba, nhưng ba ơi, mẹ con đáng thương lắm. Một mình đơn thân vượt lên mọi đau thương để nuôi dưỡng con trưởng thành như ngày nay.

Ông Trọng Thu khẽ gật đầu:

- Ba hiểu rồi con gái, nhưng đó cũng là lỗi của ba con ơi.

Tịnh Lan ngước lên nhìn cha nhỏ nhẹ:

- Ba đừng buồn, để từ từ con sẽ năn nỉ mẹ, chắc mẹ sẽ nguôi lòng tha thứ cho ba. Ba ráng chờ nghe ba.

Ông Trọng Thu mỉm cười, gạt lệ nói với Tịnh Lan:

- Con gái dễ thương lắm, con giống mẹ con lúc trẻ lắm. Con hãy năn nỉ mẹ hộ ba nha con. Ba đặt hết kỳ vọng vào con đấy.

Tịnh Lan nhoẻn cười:

- Ba đừng lo, con sẽ làm cầu nối giữa ba mẹ mà, nhưng với điều kiện…

- Điều gì con gái?

- Ba tặng con một chuyến về Huế, để con thăm bà nội được không ba?

- Trời ơi, ba bằng lòng cả hai tay con gái à! Nhưng phải có mẹ con cùng về nữa, đó là điều ba mong nhất, con yêu à. Còn nữa, mệ nội rất mong gặp cháu gái đấy.

Nói đến đây, ông Trọng Thu chợt quay sang hỏi Tịnh Lan:

- My à, sao mãi đến bây giờ mà mẹ con chưa trở về hở con?

- À, chắc mẹ con đi sang nhà khách hàng giao áo ở gần đây thôi ba à!

- Vậy ba về nghe con, hôm khác thuận tiện ba sẽ lại thăm con nhé!

- Vâng, ba về. Nhưng con có điều muốn nói với ba…

Ông Trọng Thu quay lại:

- Điều gì hở con, ba nghe đây.

- Sáng Chúa Nhật tới, con sẽ đưa mẹ đi lễ ở nguyện đường Mai Khôi đấy ba, ba đến nhé, 7 giờ sáng nghe ba.

- Ừ, ba sẽ đến đi lễ với mẹ và con. Ba cám ơn con nhiều nhé My.

Cô gái nhoẻn cười và tiễn cha ra đến cửa. Tịnh Lan trở lại ngồi xuống giường, ngước lên nhìn ảnh Chúa chịu nạn, đưa tay làm dấu thánh giá và bắt đầu cầu nguyện. Một lúc sau khi bà Huyền Tâm trở về nhà, Tịnh Lan chờ lâu quá đã ngủ thiếp đi trên giường, bà đứng lặng nhìn con gái một lúc, đưa tay bỏ màn và nằm xuống cạnh con, mắt mở to, suy nghĩ mãi gần đến sáng.

Sáng hôm sau thấy Tịnh Lan đi qua lại trong phòng, bà Huyền Tâm gọi lại:

- Tịnh Lan, con đến đây mẹ hỏi chuuyện.

Cô con gái vâng một tiếng và tiến đến ngồi gần mẹ mở lời:

- Mẹ bảo gì con ạ?

Bà Huyền Tâm nghiêm giọng

- Con hãy cho mẹ biết, vì sao con gặp và biết ông ta ở đâu, từ bao giờ vậy hả? Con phải nói thật, nếu không mẹ không tha thứ cho con đâu nhé.

Cô gái nhỏ nhẹ:

- Mẹ, mẹ đừng giận con, con sẽ kể hết cho mẹ nghe.

- Mẹ ơi, cách nay hai tháng, con gặp ba…

Bà Huyền Tâm trừng mắt nhìn Tịnh Lan, cô vội vàng sửa lại:

- Ông ấy tại một buổi hội chợ từ thiện do Trung tâm bảo trợ Người Khuyết Tật tổ chức, con đang đứng phụ bán gian hàng đồ chơi làm bằng tay, thì ông tiến lại gần và hỏi thăm làm quen, rồi kế đó ông đến trường con gặp và trò chuyện. Ông bảo: “Con rất giống một người thân của ông ấy” mẹ ạ. Từ đó ông lân la hỏi han về con và mẹ, cuối cùng con cũng nhận biết ông ấy là ba con.

Bà Huyền Tâm gằn giọng:

- Sao con dễ tin người thế? Sao con lại vội vàng nhận ông ấy vậy chứ? Thật là mẹ không biết nói với con ra sao nữa.

- Mẹ ơi, nhưng ông ấy chính là ba của con, mẹ cũng nhận ba rồi mà phải không?

Tịnh Lan quỳ xuống nắm lấy tay mẹ và tựa đầu vào lòng bà giọng cầu xin:

- Mẹ, xin mẹ tha thứ cho ông ấy nghe mẹ. Tội nghiệp ông mà mẹ.

Bà Huyền Tâm xịu mặt, liếc ngang con gái:

- Con nói khéo nhỉ? Lại năn nỉ hộ ông ta nữa ư? Con có biết rằng hai mẹ con chúng ta đã sống như thế nào mấy mươi năm trước không? Mẹ nhắc lại, mẹ không tha thứ cho ông ta và cả gia đình của ông ấy đâu, không bao giờ!

Tịnh Lan đứng lên thở dài, vẻ buồn bã vì không thuyết phục được mẹ mình.

Bà Huyền Tâm thì ngồi thừ trên ghế, trầm tư mặc tưởng như bao giờ. Cô gái nhìn mẹ một thoáng, rồi lặng lẽ rời khỏi phòng.

(còn tiếp)

Hoài Ly


Phụ Bản II

108 TÁC PHẨM VĂN HỌC

NỔI TIẾNG THẾ GIỚI (*)

A.Q. CHÍNH TRUYỆN, của LỖ TẤN (1881-1936) Trung Quốc. Trong khuôn khổ vừa, với một cố nông ở một làng Mùi nào đó, tác giả đã khái quát rất cô đọng và rất chân thực tình hình xã hội và “quốc dân tính” của dân Trung Quốc hồi đó. Bằng hình tượng nghệ thuật, tác giả đã phê phán tính cách mạng nửa vời của cách mạng tư sản 1911, dự báo một cuộc cách mạng triệt để sắp tới và mở đầu cho dòng văn học cách mạng chân chính ở Trung Quốc.

AI ĐƯỢC SỐNG SUNG SƯỚNG TRÊN ĐẤT NƯỚC NGA, 1866-76 N.A.NEKRASSOV (Nhê-kra-xốp), Nga. Trường ca miêu tả nước Nga nông nô và cuộc đấu tranh giành tự do.

AI-VƠN-HÂU, 1819. Tiểu thuyết lịch sử của W.SCOTT (Xcốt), Anh. Tập đoàn phong kiến cũ Xắc-xơn mưu toan khôi phục quyền thế chống bọn phong kiến mới Noóc-man, nhưng không được.

ANH EM NHÀ KA-RA-MA-DỐP, 1880. Tiểu thuyết của F.M.DOSTOIEVSKI (Đô-xtôi-ép-xki). Sự suy sụp của một gia đình quý tộc, con giết bố, thể hiện rõ rệt mâu thuẫn ngay trong nhân sinh quan của Đ. và những vấn đề đạo lý, triết học đương thời.

ÁNH SÁNG THÁNG TÁM, tiểu thuyết của FAULKNER (Phok’-nơ), Mỹ. Một người lai da đen lấy một phụ nữ da trắng, luôn mâu thuẫn, cắt cổ vợ, sau bị cảnh sát chém chết 1932

ANNA KARENINA (An-na Ka-rê-ni-na), 1873-77, của LEV.N.TOLSTOI (Tôn-xtôi), Nga. Tiểu thuyết nêu hai vấn đề: số phận người phụ nữ (tình yêu, hôn nhân). Số phận nước Nga (mâu thuẫn địa chủ - nông dân).

BA-BIT, 1922. Tiểu thuyết của S.LEWIS (S.Luix’). B. điển hình cho người Mỹ tiểu tư sản tầm thường, công thức, Sô-vanh, đạo đức giả, có nhiều mánh khóe con buôn.

BÀ BÔ-VA-RY, 1857, tiểu thuyết của G.FLAUBERT (Phlô-ber’), Pháp. Một phụ nữ lãng mạn thất vọng sau khi lấy một y sĩ nông thôn tẻ nhạt. Bô-va-ry tìm tình yêu trong ngoại tình. Vay nợ, tự tử để thoát xã hội tư bản tầm thường và nghiệt ngã.

BÀI CA NIBELUNGEN (Ni-bê-lung-gơn), anh hùng ca Đức (thế kỷ 13). Ca ngợi Xich-phrit, người hiệp sĩ lý tưởng.

BÀI CA ROLAND (Rô-lăng), anh hùng ca Pháp (thế kỷ 11-12). Ca ngợi chiến công của R. chống Hồi giáo, bị tử trận. Rô-lăng là hình tượng người hiệp sĩ, trung quân, ngoan đạo, thẳng thắn.

BÀI CA TỔNG HỢP, 1950, của PABLO NERUDA (Nê-ru-da), Chi-lê. Bản nhạc hùng tráng ca ngợi cuộc sống châu Mỹ, thảo mộc,muông thú, con người, truyền thống. Tố cáo bọn xâm lược.

BÁCH KHOA TOÀN THƯ, 1751-72, Pháp. Công trình tập thể thể hiện những tư tưởng của trào lưu tư sản tiến bộ Ánh sáng, chuẩn bị cách mạng 1789, do Đi-đơ-rô chủ trương.

BẤT BÌNH CHÍN MUỒI (có người dịch: CHÙM NHO NỔI GIẬN, khó hiểu), 1939, tiểu thuyết của J.STEIN BECK (Xtain’-beck’), Mỹ (sau phản động). Nông dân nợ nần bị mất đất, di cư trong những năm kinh tế suy thoái.

BÚT KÝ NGƯỜI ĐI SĂN, 1846-51. Tập truyện ngắn của TURGENIEV (Tur’-ghê-nhep’), Nga. Chống chế độ nông nô, do một người đi săn kể lại.

CA DÂNG LÊN (Gitanjali), 1913. Tập thơ của TAGORE (Ta-go-rơ), xứ Băng-gan (Ấn Độ), được giải thưởng Nô-ben. Gồm hơn 100 bài: đề cao sức mạnh tinh thần, tư tưởng phiếm thần, cảm thông thiên nhiên, yêu con người và muôn vật, hiểu biết tâm hồn trẻ em.

CÂY THẬP TỰ THỨ BẨY, 1942, tiểu thuyết của nữ nhà văn Đức ANNA SEGHERS (An-na Dê-gơr’-dờ). Cuộc trốn khỏi trại giam Quốc xã của 7 chiến sĩ cách mạng, sau đấy chỉ một người thoát.

CHA CON, 1860-62. Tiểu thuyết của TURGENIEV (Tur’-hê-nhep’), Nga. Thế hệ “cha” đại diện những quan điểm lỗi thời, những người quý tộc theo chủ nghĩa tự do. Thế hệ “con” là những người trí thức bình dân, có tư tưởng mới, cách mạng.

CHÀNG NGỐC, 1868, tiểu thuyết của F.M.DOSTOIEVSKI (Đô-xtôi-ép-xki). Chứng minh tất cả những gì là đẹp đẽ, cao cả không thể tồn tại trong xã hội quý tộc, tư bản.

CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH, 1863-69, tiểu thuyết của LEV.N.TOLSTOI (Tôn-xtôi), Nga. Cuộc chiến tranh 1812 chống quân xâm lược Pháp của Na-pô-lê-ông I, diễn tả nhân dân là nhân vật chính; bức tranh nước Nga đầu thế kỷ 19, những người trí thức tiến bộ, tư tưởng cách mạng phát sinh do phong trào yêu nước - tư tưởng nhân dân.

CHUÔNG NGUYỆN HỒN AI, tiểu thuyết của E.M. HEMINGWAY (Hê-minh-uây), Mỹ. Nội chiến Tây Ban Nha. Hoạt động của một nhóm du kích với sự giúp đỡ của một chiến sĩ cộng hòa Mỹ trong lữ đoàn quốc tế 1940.

CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ, 1922-41, tiểu thuyết của A.N.TOLSTOI (Tôn-xtôi), Liên Xô. Quá trình diễn biến phức tạp của trí thức Nga đi với cách mạng, phản ánh cuộc nội chiến.

CON ĐƯỜNG SẤM SÉT, 1948, tiểu thuyết của P.A.BRAHAMS (E-brơ-ham-dơ), Nam Phi. Vạch rõ: tình yêu giữa người da đen và da trắng ở Nam Phi nhất định tan vỡ.

CỔNG RA-SÔ-MÔN, 1915. Tập truyện ngắn của AKUTAGAWA (A-kư-ta-ga-oa), Nhật Bản. Pha trộn hiện thực và huyền ảo, phân tích tâm lý, duy mỹ.

CUỘC HÀNH HƯƠNG CỦA CHILDE HAROLD, 1812-17. Thi phẩm của G.BYRON (Bai-rơn’), Anh. Tả những chuyến đi châu Âu của nhà thơ lãng mạn cách mạng; phản ánh những mâu thuẫn xã hội đương thời.

DA ĐÍCH hay SỐ MỆNH, 1748. Truyện triết học của VOLTAIRE (Von-te-rơ), Pháp. Một thanh niên Ba-by-lon có số phận gian nan nhưng do tài ba, lấy được người yêu và làm vua. Triết học “Ánh sáng”, lý trí - chống phong kiến cuồng tín.

ĐẤT VỠ HOANG, 1932-59. Tiểu thuyết của M.SHOLOKHOV (Sô-lô-khôp), Liên Xô. Về thời kỳ bắt đầu công cuộc cải cách triệt để xã hội chủ nghĩa ở một làng vùng sông Đông (1930-31).

ĐÂY-VÍT CÔP-PƠ-PHINĐ, 1849-1850. Tiểu thuyết của C.DICKENS (Đic-kens), Anh. Kể lại thời thơ ấu một cách trữ tình, châm biếm, hiện thực. Tinh thần nhân đạo tư sản.

ĐỈNH GIÓ HÚ, 1847. Tiểu thuyết của nhà văn nữ Anh E.BRONTË (Brôn-ti). Những nhân vật có dục vọng cuồng nhiệt, một gia đình cô đơn trong cảnh thiên nhiên hoang vu. Sự nổi dậy của cá nhân đòi tự do, chống lại đạo lý công thức.

ĐỎ VÀ ĐEN, 1830. Tiểu thuyết của STENDHAL (Xtăng-dan), Pháp. Một thanh niên tầng lớp dưới, đầy tham vọng, tiến thân bằng con đường võ không được, theo con đường tôn giáo; sau bị xử tử vì bắn người tình cũ ghen tuông và phá âm mưu của mình. Tác phẩm tố cáo sự thối nát của tư sản và phong kiến.

ĐỘI CẬN VỆ THANH NIÊN, 1945. Tiểu thuyết của A.FADEEV (Pha-đê-ép), Nga Xô Viết. Hoạt động bí mật của học sinh chống phát xít Đức, họ bị bọn phát xít hành hình gần hết trong lúc Hồng quân sắp giải phóng thành phố.

ĐÔN KI-HÔ-TÊ, 1605-15, của CERVANTES (Xer-van-têx), Tây Ban Nha. Một thể loại tiểu thuyết mẫu mực trên thế giới về hiện thực phê phán. Giá trị nhân văn lớn, gắn liền với mẫu người mới của thời kỳ Phục Hưng, với truyền thống nhân dân. Qua Đôn Ki-hô-tê, giễu cợt thể loại tiểu thuyết hiệp sĩ đương thời, đề cao những ảo vọng và đạo lý của tầng lớp hiệp sĩ phong kiến suy tàn.

ÉP-GHÊ-NHI Ô-NHÊ-GHIN, 1823-31. Tiểu thuyết thơ của A.PUSHKIN (Pu-skin), Nga. Đỉnh cao văn học Nga thế kỷ 19. Hiện thực E.Ô. và lớp thanh niên quý tộc ưu tú, không tìm được chỗ đứng trong xã hội Sa hoàng. E.Ô. mất cả tình yêu.

Ê-NÊ-IX, hùng ca có ảnh hưởng lớn đến văn hóa châu Âu. Do nhà thơ cổ La Mã VERGILIUS (Ver’-gi-li-ux’), hay Virgile, viết năm 19 (tr.C.N.). Huyền thoại về việc xây dựng La Mã bởi hoàng tử Aemenas (Ê-mê-nax).

GAR’-GĂNG-CHUYA-A VÀ PĂNG-TA-GRUY-EN, 1532-64. Tiểu thuyết phiêu lưu trào phúng của F.RABELAIS (Ra-bơ-le), Pháp. Quan điểm nhân văn thời Phục Hưng: truyện hai người khổng lồ, đả kích Trung cổ (cuồng tín ngu dân).

GIA ĐÌNH BUT-ĐƠN-BRỐC, 1901. Tiểu thuyết của THOMAS MANN (Thô-max Man’), Đức. Sự suy sụp của một gia đình tư sản thương nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh đế quốc chủ nghĩa.

GIA ĐÌNH RU-GÔNG MĂC-CAR, 1871-93. Bộ tiểu thuyết 20 cuốn của E.ZOLA (Dô-la), Pháp. Lịch sử một gia đình, bức tranh xã hội Pháp nửa sau thế kỷ 19. Nhiều cuốn nổi tiếng như: Na-na (một cô gái nghèo trở thành điếm quý phái), - Gier-mi-nan về đầu tranh thợ mỏ, v.v…

GIĂC-CƠ, NGƯỜI TIN ĐỊNH MỆNH, 1773. Tiểu thuyết của DIDEROT (Đi-dơ-rô), Pháp. Đối thoại giữa G. và chủ trong khi đi đường. G. kể lại rất nhiều chuyện. Bàn về tự do và tất yếu, sáng tác văn học.

GIĂC-CƠ VANH-TRAX’, 1878-86. Tiểu thuyết tự truyện 3 tập của J.VALLES (Va-lex’). Thời thanh niên, những cuộc đấu tranh của V. và công xã Paris.

GIĂNG C’RI-XTÔ-PHƠ, 1903-12. Tiểu thuyết 10 tập của R.ROLAND (R.Rôlăng), Pháp. Kể về cuộc đời một thiên tài nhạc sĩ Đức coi Pháp như Tổ quốc thứ hai, thể hiện quan điểm nhân đạo của R. về các vấn đề nhạc, xã hội, sự thông cảm giữa các dân tộc.

GIÂY-NƠ E-RƠ, 1847. Tiểu thuyết của nữ nhà văn Anh CH.BRONTË (Ch.Brôn-ti). Đời một cô gái mồ côi dũng cảm chống lại bất công và mối tình nồng nàn, đầm ấm của nàng.

GIÔNG TỐ, 1859. Bi kịch lớn nhất của A.OSTROVSKI (Ô-xtrốp-xki), Nga. Tố cáo chế độ vô nhân đạo, xã hội thương nhân bóp nghẹt hạnh phúc, khiến cho một cô giáo trong trắng, dũng cảm, phải chọn cái chết để phản kháng.

GIUY-LI hay NÀNG Ê-LÔ-I-DƠ MỚI, 1761. Tiểu thuyết bằng thư của Rút-xô (Pháp). Câu chuyện tình đau khổ của một chàng thường dân đến dạy học ở một gia đình quý tộc, yêu cô học trò và được yêu, không lấy được nhau. Tác phẩm ảnh hưởng đến trào lưu lãng mạn.

GÓT SẮT, 1907 của JACK LONDON (Giắc Lăn-đơn), Mỹ. Gót sắt là sự thống trị tư bản. Tiểu thuyết không tưởng về cuộc khởi nghĩa của quần chúng nhằm đập tan gót sắt.

GA-LI-VƠ DU KÝ, 1726. Tiểu thuyết của J.SWIFT (J.Xuy-pht), Anh. G. đến các nước khổng lồ và tí hon (đả kích xã hội thối nát, có nhiều cảnh hấp dẫn, truyện dí dỏm, chua chát. Ca ngợi lao động, chỉ trích xu nịnh, ích kỷ, tham vọng, hiếu chiến).

HÀNH LỘ NAN của LÝ BẠCH, Trung Quốc (701-762). Bài thơ tiêu biểu cho tính ngông của Lý Bạch, luôn luôn cảm thấy sự câu thúc của thiên nhiên và xã hội, muốn phá bỏ hết, mưu cầu giải thoát bản ngã để vươn tới vô biên. Cùng tác giả, đọc thêm: TƯƠNG TIẾN TỬU, THỤC ĐẠO NAN.

HỘI CHỢ PHÙ HOA, 1847-48. Tiểu thuyết của W.THACKERAY (Thác-kơ-ry), Anh. Đả kích sự ích kỷ, tham tiền và quyền hành của quý tộc và tư sản.

HỒNG LÂU MỘNG (còn gọi là THẠCH ĐẦU KÝ hoặc KIM THẠCH KỲ DUYÊN của TÀO TUYẾT CẦN, Trung Quốc (1716-1763). Trên cái nền mấy cuộc tình duyên éo le “trái đạo”, nội dung tác phẩm đã được coi là cuốn bách khoa toàn thư về đời sống nội bộ của giới quý tộc phong kiến Trung Quốc. Đặc biệt là bút pháp tinh tế và kỳ ảo đến mức toàn thiện.

I-LI-AX’ thế kỷ IX-VIII (tr.C.N.). Thiên anh hùng ca cổ Hy Lạp của HOMEROS (Hô-mê-rôx’). 16.000 câu thơ kể chuyện quân liên minh Hy Lạp vây đánh thành I-li-ôn (Troi-a) để cướp lại hoàng hậu Hê-le-nê bị bắt cóc. A-khi-lê-ux’ là hình tượng dũng sĩ anh hùng thời đại.

IU-LY-XI-DO, 1922. Thơ văn xuôi (800 trang) của J.JOYCE (Gioi-xơ), Anh (Ai-len). Pha đủ các loại văn phong, ngôn ngữ. Độc thoại nội tâm, nhại truyện cổ Hy Lạp Ô-đy-xê, phá vỡ cấu trúc tiểu thuyết cổ điển.

KHÓI LỬA, 1916. Tiểu thuyết của H.BARBUSSE (Bar’-buy-xơ), Pháp. Nhật ký một tiểu đội (chiến tranh thế giới 1914-18). Người lính nhận thức tính chất phi nghĩa của chiến tranh đế quốc, và lòng khát vọng hòa bình của họ.

KINH CÔ-RAN, thế kỷ VII-VIII. Kinh đạo Hồi, tương truyền là lời của Thượng Đế truyền cho Tiên tri Mô-ha-mét. Tiếng Ả Rập. Gồm những giáo lý, điều răn… Cơ sở văn minh Ả Rập (luật pháp, đạo lý, văn học, chính trị).

KINH THÁNH - Sách giáo lý đạo Ki-tô. 1) Cựu ước (tiếng Hê-brơ) kể về dân tộc Do Thái, từ khi khai thiên lập địa đến khi xây dựng lại thành Giê-ru-da-lem. 2) Tân Ước (tiếng Hy lạp), kể về Chúa Giê-xu và Cộng đồng Ki-tô. - Ảnh hưởng sâu sắc văn minh phương Tây.

KINH THI gồm 305 bài dân ca cổ đại, do Khổng Tử (551-479 tr.C.N.), Trung Quốc chọn và soạn. Người Trung Quốc coi đây là “Vị Tổ nền thơ ca” của họ.

LIÊU TRAI CHÍ DỊ của BỒ TÙNG LINH, Trung Quốc (1640-1715), 432 truyện (từ 300 đến 2.000 chữ). Toàn ghi sự tích yêu ma, quỷ, quái, hồ ly tinh… ở lẫn với người, và rất gần với người. Có những cảnh ngộ “ma” tự thú đích thực là ma, thì người nói “không sao! Ma như thế đáng yêu quý hơn nhiều người!”. Ngôn từ giản dị đến mộc mạc, nhưng vẫn trau chuốt, bút pháp huyền thoại bậc thầy của văn học nhân loại.

LY TAO, trường ca của KHUẤT NGUYÊN, Trung Quốc (340-287 tr.C.N.) một bài thơ trường thiên độc đáo thống thiết, rực rỡ, hào hùng của một tâm trạng u uất sắp tử tiết để răn đời. Mở đầu thể văn “Sở từ phú”.

MA-HA-B’HA-RA-TA, thế kỷ V (tr.C.N.). Bản anh hùng ca Ấn Độ, 200.000 câu thơ. Cuộc chiến đấu giữa hai họ thù địch, tức là Thiện và Ác. Xen vào có nhiều phần tả cảnh, giải thích, huyền thoại, luận văn về tôn giáo, luật…

MIẾNG DA LỪA, 1831. Tiểu thuyết của BALZAC (Ban-dắc), Pháp. Một chàng trai bỏ hy vọng văn nghiệp nhờ cái bùa miếng da lừa, thỏa mãn các dục vọng, nhưng tuổi sống rút rất mau.

MỘT CUỘC ĐỜI, 1883. Tiểu thuyết của MAUPASSANT (Mô-pa-xăng), Pháp. Một phụ nữ quý tộc vỡ mộng dần, suốt đời khổ vì chồng và con trai. Lên án thực tế tư sản tàn nhẫn.

MƯỜI NGÀY RUNG CHUYỂN THẾ GIỚI, 1919. Ký sự của J.REED (Ritd’), Mỹ. Chứng kiến Cách mạng tháng Mười Nga.

NAM HOA KINH, tức sách TRANG TỬ của TRANG TỬ, Trung Quốc (355-275 tr.C.N.). Gồm những tùy bút văn học thuyết minh và phát triển học thuyết Lão Tử, có giá trị văn chương tuyệt tác.

NGÀI TỔNG THỐNG, 1938. Tiểu thuyết của M.ASTURIAS (A-xtu-ri-ax’), Goa-tê-ma-la. Một bức tranh rộng lớn về một xã hội thối nát, tố cáo chế độ độc tài tàn bạo ở châu Mỹ La tinh và chủ nghĩa đế quốc Mỹ.

NGHÌN MỘT ĐÊM LẺ, khoảng năm 1400. Tập truyện dân gian Ả Rập. Nguyện vọng và ước mơ quần chúng trong một xã hội bất công lẫn yếu tố tiêu cực (định mệnh, mê tín). Một tác phẩm văn học nổi tiếng được nhiều dân tộc trên thế giới biết đến.

NGƯỜI MẸ, 1900. Tiểu thuyết của M.GORKI (Góoc-ki), Nga Xô Viết. Tác phẩm tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Pa-ven điển hình của người chiến sĩ vô sản, bà mẹ hiện thân của quá trình giác ngộ cách mạng trong nhân dân.

NGƯỜI XA LẠ, 1942. Tiểu thuyết của A.CAMUS (Ca-muy), Pháp. Thể hiện học thuyết “cuộc sống là vô lý” của chủ nghĩa hiện sinh, nhân vật sống xa lạ, thờ ơ với thế giới chung quanh, cuộc sống và bản thân mình.

NGƯỜI MỸ THANH THẢN, 1955. Tiểu thuyết của GRAHAM GREEN (Grây-ơm Grin), Anh. Tố cáo Mỹ can thiệp vào cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam. Một người Mỹ ngây thơ chính trị, gây tai hại mà lương tâm vẫn thanh thản vì ngu ngốc mà không biết.

NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐÓI KHÁT, 1942. Tiểu thuyết của J.AMADO (A-ma-đô), Bra-xin. Sự vùng dậy của nông dân sống cơ cực. Qua số phận một gia đình, A. lên án chế độ ruộng đất tàn khốc của các nền độc tài Mỹ La-tinh.

NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU CỦA TÔM XO-Y-Ơ, 1876. Tiểu thuyết của M.TWAIN (Tuên), Mỹ. Những câu chuyện ly kỳ của hai chú bé ra bãi tha ma chôn một con mèo chết. Đấu tranh chống cổ hủ, lạc hậu, cuộc sống mòn. Sách thiếu nhi nổi tiếng thế giới.

NHỮNG LINH HỒN CHẾT, 1842. Tiểu thuyết viết dở của N.GOGOL (Gô-gôn), Nga. Nhân vật chính đi mua tên những nông nô chết nhưng chưa xóa tên trong sổ, mục đích cầm cố Nhà nước lấy tiền và bịp người khác. Bị lộ. Tố cáo những “linh hồn chết” đang thống trị áp bức, bóc lột nhân dân Nga.

NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN, 1949-1951. Tiểu thuyết 6 tập của L.ARAGON (A-ra-gông), Pháp. Phản ánh sự suy đồi của xã hội tư bản Pháp qua những năm 1939-40. Bọn phản quốc và những người Pháp chân chính.

NHỮNG THỨC ĂN TRẦN THẾ, 1897, Thơ văn xuôi của A.GIDE (Gi-đơ), Pháp, kêu gọi thanh niên vứt bỏ xiềng xích đạo lý khắt khe của đạo Ki-tô, tận hưởng thú vui trần thế, tự do tư sản vô chính phủ.

NHỮNG NGƯỜI SỐNG VÀ NHỮNG NGƯỜI CHẾT, 1959-71. Tiểu thuyết 3 tập của SIMONOV (Xi-mô-nốp), Liên Xô. Chiến tranh vệ quốc từ những ngày đầu đến giải phóng Béc-lin.

NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ, 1862. Tiểu thuyết của VICTOR HUGO (Huy-gô), Pháp. Một người tù khổ sai mãn hạn làm lại cuộc đời, sống vì người khác. Bức tranh rộng lớn về giới cần lao. Lên án xã hội bất công. Tư tưởng xã hội không tưởng thông qua hình tượng nhân vật Giăng Văn Giăng.

NỖI ĐAU KHỔ CỦA CHÀNG VER’THƠR (WERTHER), 1774. Tiểu thuyết của GOETHE (Gơt-tơ), Đức. Mối tình tuyệt vọng trong ước lệ phong kiến, kết liễu bằng tự sát. Khát vọng tự do, vượt ra khỏi xã hội phong kiến.

NÔN MỬA, 1938. Tiểu thuyết hiện sinh chủ nghĩa của J.P.SARTRE (Xac-trơ), Pháp.

Ô-ĐI-XÊ-I-A, thế kỷ IX-VIII (tr.C.N.). Anh hùng ca cổ Hy Lạp của HOMEROS (Hô-mê-rox’) 12.000 câu thơ. Truyện phiêu lưu của vua Ô-đy-xê-ux sau chiến tranh, 10 năm lưu lạc.

ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ, 1952. Truyện của E.M. HEMINGWAY (Hê-minh-uây), Mỹ. Ca ngợi con người chiến thắng thiên nhiên, ông già nghèo khổ chiến thắng cá mập.

Ơ-GIÊ-NI GƠ-RĂNG-ĐÊ, 1833. Tiểu thuyết của BALZAC (Ban-dắc), Pháp. Ơ.G. sống âm thầm (cha keo kiệt, người yêu phụ tình). Ma lực đồng tiền trong xã hội tư sản. Tiểu thuyết mô tả một mối tình bi thảm và đau khổ của nàng Ơ-giê-ni Gơ-răng-đê.

PA-MÊ-LA, 1740. Tiểu thuyết bằng thư của S.RICHARDSON (Ri-trớt-xơn). Một cô gái nghèo, bị chủ trẻ và đẹp ve vãn. Cô ta biết giữ mình nên buộc phải xin cưới. Cuốn tiểu thuyết tư sản châu Âu đầu tiên về phong tục.

PHÍA TÂY KHÔNG CÓ GÌ MỚI, 1929. Tiểu thuyết của REMARQUE (Rơ-mar’-kơ), Đức. Một nhóm lính Đức trẻ trong chiến tranh 1914-1918, - sự hy sinh vô ích của một thế hệ thanh niên.

PHÒNG SỐ 6, 1892, Truyện của TSHEKHOV (Trê-khốp), Nga. Phòng người bệnh tâm thần: tàn ác, tượng trưng cho cả nước Nga độc đoán. Bác sĩ Viện trưởng bị hãm hại, cuối cùng cũng bị giam và chết ở đấy.

QUO VADIS?, 1896. Tiểu thuyết của H.SIENKIEWICZ (Si-en-ki-e-vitr’), Ba Lan. Một bức tranh tô đẹp đạo Thiên Chúa thời kỳ đầu, cuộc xung đột tôn giáo và Nhà nước La Mã.

RA-MA-Y-A-NA, 2-3 thế kỷ (tr.C.N.). Anh hùng ca cổ đại Ấn Độ gồm 96.000 câu thơ. Truyện hoàng tử Ra-ma, hiện thân của thần Vi-snu, bị đầy ải, thắng quỷ ác, lấy được nàng Si-ta trung thành. Ra-ma được thần khỉ giúp đỡ R. tượng trưng cho lý tưởng đẹp nhất của con người thời đó.

SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM, 1925-40. Tiểu thuyết của M.SHOLOKHOV (Sô-lô-khốp), Nga Xô Viết. Sự đổi thay ở vùng sông Đông những năm 1912-21. Những quan hệ mới thay những quan hệ cũ bị đổ vỡ. Cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Nhân vật chính là anh trung nông Gri-gô-ri. Và những mối tình cuồng nhiệt, bất chính, ngang trái.

SỬ KÝ CỦA TƯ MÃ THIÊN, Trung Quốc (145-90 tr.C.N.) một tác phẩm sử học có giá trị văn chương rất cao, nhất là những phần viết về các nhân vật lịch sử.

TẢ TRUYỆN tức XUÂN THU TẢ TRUYỆN do TẢ KHÂU MINH, Trung Quốc (đồng thời Khổng Tử) dựa theo những sự kiện trong cuốn sử biên niên KINH XUÂN THU của Khổng Tử, viết thành những truyện thuyết minh và phát triển học thuyết của Khổng Tử.

TAM LAI, TAM BIỆT của ĐỖ PHỦ, Trung Quốc (712-770); bằng 6 cảnh ngộ điển hình mà khái quát được tình trạng thảm khốc của dân đen trong hoàn cảnh nội chiến kéo dài. Cùng tác giả, đọc thêm: XUÂN VONG, BÌNH XA HÀNH, XUẤT TÁI (hai bài).

TAM QUỐC CHÍ của LA QUÁN TRUNG, Trung Quốc (thế kỷ IV) một bộ tiểu thuyết lịch sử, chủ yếu là chiến tranh mà thuyết phục và hấp dẫn, thành công hiếm có trong lịch sử văn học nhân loại.

TÂY DU KÝ của NGÔ THỪA ÂN, Trung Quốc (thế kỷ XVI); dựa vào một sự kiện lịch sử có thật đời Đường: nhà sư Trần Huyền Trang, 17 năm trời, chỉ bằng sức ngựa, và chân người, đi từ Trung Quốc sang Ấn Độ thỉnh kinh lại về trọn vẹn. Tác phẩm 100 hồi, toàn truyện hoang đường, đầy dẫy thần, ma, quỷ, quái, người đọc đều biết là vô lý, nhưng vẫn chấp nhận vì rất sinh động và chan chứa tình người.

THỦY HỬ của THỊ NẠI AM, Trung Quốc (1296-1370). Tập văn Trung Quốc đầu tiên nói về nông dân khởi nghĩa, một đề tài “nghiêm cấm” dưới chế độ phong kiến. Thành công nghệ thuật: đưa dòng văn học hiện thực chủ nghĩa cổ điển Trung Quốc lên một mức cao, nhất là nghệ thuật khắc họa các anh hùng hảo hán “tạo phản”.

TẬP SÁCH RỪNG RẬM, 1894 của R.KI-PLING-KI-PLINH, Anh. Chú bé Mâu-gli, được chó sói nuôi, lớn lên từ biệt các con vật trong rừng để về với đồng loại.

TÊN BỘ HẠ, 1914. Tiểu thuyết của HEINRICH MANN (Hai-rictr “Man”), Đức. Một tên tư sản thờ phụng Hoàng đế như thần, leo lên bằng con đường đểu cáng. Nước Đức quân phiệt, phong kiến, tư sản, trước 1914.

THÉP ĐÃ TÔI THẾ ĐẤY, 1930-33. Tiểu thuyết của N.OSTROVSKI (Ô-xtrốp-xki), Liên Xô. Cuộc đấu tranh anh dũng của thanh niên cộng sản vì chính quyền Xô Viết, thái độ đối với lao động và hạnh phúc cá nhân (Pa-ven).

THƠ NGỤ NGÔN, 1668-1694, của LA FONTAINE (La Phông-te-nơ), Pháp. Phản ánh một cách trào phúng xã hội Pháp với bất công, áp bức. Luân lý thực tế, dân gian.

TÌM THỜI GIAN ĐÃ MẤT, 1913-1927. Bộ tiểu thuyết của M.PROUST (Pruxt’), Pháp. Tái tạo lại thời gian đã trôi đi, gợi lại kỷ niệm, phân tích tâm lý, đi sâu tiềm thức. Khung cảnh xã hội thượng lưu Pa-ri cuối thế kỷ 19.

TỘI ÁC VÀ TRỪNG PHẠT, 1866. Tiểu thuyết của F.M.DOSTOIEVSKI (Đô-xtôi-ép-xki), Nga. Qua lương tâm một kẻ sát nhân, Đ. thể hiện sự thất bại của chủ nghĩa cá nhân tư sản về tham vọng quyền lực. Số phận bế tắc của tầng lớp trẻ, xã hội tư sản và sức mạnh đồng tiền.

TÔM GIÂUN’-DƠ, 1749. Tiểu thuyết của H.FIELDING (Phin-đinh’), Anh. Tư tưởng nhân đạo. Miêu tả đời sống xã hội Anh đương thời.

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN, 1967. Tiểu thuyết của G.GARCIA MARQUEZ (Mar’-kex’), Cô-lôm-bi-a. Lên án trật tự xã hội khiến con người cô đơn, mất sáng tạo. Thần thoại pha hiện thực: câu chuyện 100 năm của một làng Mỹ La-tinh bị tiêu diệt cùng cả một giòng họ.

THIÊN ĐƯỜNG ĐÃ MẤT, 1667. Thiên hùng ca của J.MILTON (Min-tơn), Anh. Đấu tranh Thiện-Ác, con người sa ngã do tội lỗi, - tượng trưng cuộc đấu tranh cách mạng tư sản trong Thánh giáo.

TRUYỆN GHEN GI (thế kỷ 11) của nữ sĩ Nhật S.MURASAKI (Mu-ra-xa-ki), thời Trung cổ. Tình duyên lắt léo của hoàng thân G. và của con, thời thơ ấu. Phong tục và đời sống vương hầu. 54 tập.

TRUYỆN DỊ KỲ, 1839. Tập truyện của E.POE (Pâu), Mỹ.

TRUYỆN MỘT NGƯỜI CHÂN CHÍNH, 1946 của B.POLEVOI (Pô-lê-vôi), Liên Xô. Chân dung một phi công yêu nước Xô Viết.

TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI, 1958. Tiểu thuyết của B.APITZ (A-pitx’), Đức. Một em bé được nuôi trong trại giam phát-xít dã man. Cuộc đấu tranh anh dũng và lạc quan của những người tù đầy nhân đạo.

TRÒ CHƠI NHỮNG VIÊN NGỌC BẰNG THỦY TINH, 1943 H.HESSE (He-xơ), Đức. Tác phẩm không tưởng và tượng trưng, nói lên khả năng tương lai của loài người. Thế kỷ 23: một nhóm trí thức kết hợp tư tưởng Tây-Đông sống trong tháp ngà, tu luyện tinh thần, gắn tư duy toán học với rung cảm của âm nhạc.

TRUYỆN KỂ CHO TRẺ EM, 1835-41 của ANDERSEN (An-der’-xen’), Đan Mạch. Truyện kể rất mơ mộng, hiện thực, triết lý sâu sắc.

TRUYỆN CỔ GRIM, 1812, do anh em GRIM, Đức sưu tầm và kể lại. Giáo dục, - thiện thắng ác, - phê phán xã hội.

TỲ BÀ HÀNH của BẠCH CƯ DỊ, Trung Quốc (772-846); qua một câu chuyện “Tình hoài”, tố cáo sự bất công của thời thế cũ đối với những giai nhân mặc khách có tài, và trung chính. Cùng tác giả, đọc thêm TRƯỜNG HẬN CA, THƯƠNG DƯƠNG NHÂN.

TÝ DẠ (Nửa đêm) của MAO THUẪN, Trung Quốc, viết xong và xuất bản 1932. Tác phẩm phản ánh những cuộc đấu tranh cách mạng ở Trung Quốc sau Đại chiến thế giới I và Cách mạng tháng Mười Nga. Với bút pháp rất chân thực và sâu sắc, tác phẩm hấp dẫn và khẳng định với người đọc: sứ mạng lãnh đạo cách mạng tất yếu phải chuyển lên vai giai cấp công nhân.

U-PA-NI-SAT, cổ Ấn Độ. Tác phẩm triết lý, văn học, gồm chuyện thần thánh, ngụ ngôn, đối thoại,nội dung rút ra từ kinh Vệ đà.

U-TÔ-PI-A, 1516 của T.MORE (Mo). Miêu tả một hòn đảo tưởng tượng, đả kích sự tàn bạo của tư sản Anh, đề ra một xã hội lý tưởng trong đó luật pháp và nếp sống theo chủ nghĩa xã hội không tưởng.

VĂN TÂM ĐIÊU LONG, của LƯU HIỆP (thế kỷ IV); sách lý luận văn học cổ điển của Trung Quốc, viết theo thể văn biền ngẫu hoàn thiện.

VỆ ĐÀ (PHỆ ĐÀ), 1500-1000 (tr. C.N.). Tập kinh, thần thoại cổ Ấn Độ, gồm: bài hát, thơ, văn, văn phù chú tụng niệm, chuyện về thánh thần. Cơ sở đạo Bà La Môn và Ấn Độ giáo.

VIẾT DƯỚI GIÁ TREO CỔ, 1943. Phóng sự soạn trong xà lim tử tù của nhà báo J.FUCIK (Phu-trik’), Tiệp Khắc. Những ngày đấu tranh và sống của người cộng sản đương đầu với phát-xít Đức.

VỤ XÉT XỬ, 1925. Tiểu thuyết của F.KAFKA (Kap’ka), nhà văn Tiệp Khắc (viết tiếng Đức). Một người đại lý ngân hàng bỗng được báo tin là sẽ bị đưa ra tòa xét xử. Anh ta không có tội gì, càng tìm cách thanh minh càng bị nghi ngờ, sau bị đâm chết. Phản ánh sự vô lý của cuộc sống ngột ngạt trong xã hội tư bản.

VỞ KỊCH THẦN DIỆU, 1313-18. Trường ca của DANTE (Đan-tê), I-ta-lia. Miêu tả con đường của nhân loại đi tìm hạnh phúc trần gian và sự cứu vớt linh hồn ở thế giới bên kia. Du khách được lý trí chỉ đường, qua rừng tội lỗi, âm phủ, chốn ăn năn trước khi lên Thiên Đường. Kết hợp chủ nghĩa nhân văn Thiên Chúa giáo và cổ điển.

VIÊN TƯỚNG CỦA ĐẠO QUÂN CHẾT, 1963. Tiểu thuyết của KADARE (Ka-da-rê), An-ba-ni. Một tướng I-ta-lia trở lại An-ba-ni sau chiến tranh để tìm hài cốt binh sĩ đồng hương đã xâm chiếm nước này. Châm biếm sâu sắc.

VƯƠNG QUỐC CỦA THẾ GIỚI NÀY, 1949. Tiểu thuyết của A.CARPENTIER (Car-pênh-ti-ê), Cu-ba. Cuộc đấu tranh của dân nô lệ da đen Ha-i-ti để giành tự do trên thế gian này.

XỨ TUYẾT, 1935-37. Tiểu thuyết của KAWABATA (Ka-oa-ba-ta), Nhật Bản. Một chàng trai lên xứ tuyết để tìm sự thuần khiết của tâm hồn và thể xác. Mối tình một cô vũ nữ.

HỮU NGỌC và TRẦN VĂN TẤN

HOÀNG KIM THƯ st.

* Những kịch bản văn học có giá trị nghệ thuật và tư tưởng xin xem phần “Kịch bản sân khấu” (B.T.)

VỀ THĂM THẦY CŨ

Một sớm nắng hồng nhuộm xóm quê

Đường xưa êm ái dẫn tôi về

Trường xưa nay đã rêu phong phủ

Tiếng trẻ đọc bài nghe nhớ ghê

Ngày mẹ dắt tôi đến lớp thầy

Gió thu nhè nhẹ lá vàng bay

Nhìn thầy, nhìn bạn tôi vui sướng

Ngày đầu đi học cũng hay hay

Rồi sau mười mấy năm đèn sách

Tôi đã hăng say nối bước thầy

Nay trở lại đây về thăm chốn cũ

Thầy tôi tóc đã trắng như mây

Gặp tôi, thầy giáo nhận ra ngay

Cô bé ngày xưa rất sợ thầy

Mỗi lúc sai lầm thầy quở nhẹ

Chưa chi nước mắt đã đong đầy

Thầy vẫn tận tâm sớm với trưa

Vẫn còn ánh mắt sáng như xưa

Nếp nhăn lắng đọng trên vầng trán

Đã biết bao mùa nắng lại mưa

Con ạ, bao năm đi dạy học

Chỉ mong giáo dục trẻ nên người

Mai đây lớp lớp đàn em nhỏ

Nối gót chúng ta bước kịp người

Thầy ơi con nguyện khắc ghi lời

Dạy trẻ còn thơ - giúp ích đời

Lớp lớp mầm non vùng lớn mạnh

Làm tròn nghĩa vụ khắp nơi nơi.

NGÀN PHƯƠNG

CẦN GIỜ

Đã từng thăm động Phong Nha

Hội An phố cổ - Sapa chợ tình

Trường Sơn - Bến Hải - Gio Linh

Đầu ghềnh cuối bãi - U Minh - Việt Trì

*

Gouga - Than Thở - Cam Ly

Rì rầm thác đổ - rèm mi ngậm sầu

Bước chân viễn khách về đâu

Sao tâm sự vẫn chôn sâu đáy lòng

*

Bốn phương cát bụi vời trông

Vẫn ôm ấp mộng phiêu bồng lãng du

Cánh chim bay bổng tuyệt mù

Từ đêm đông đến chiều thu hững hờ

*

Thế mà… mảnh đất Cần Giờ

Gần trong gang tấc lại mờ mịt xa

Niềm đau - bão tố phong ba

“Ai tri âm đó mặn mà với ai”*

*

Mặn môi giọt lệ trang đài

Ôi! Hình bóng cũ u hoài trong tim

Tình yêu - suốt kiếp đi tìm

Ta bâng khuâng nhặt tiếng chim cuối ngàn.

NGÀN PHƯƠNG

* Thơ Kiều - Nguyễn Du

BÂNG KHUÂNG BỤI PHẤN

Bản thân làm Mẹ lẫn Cha

Bởi Chồng mất sớm bôn ba u hoài

Mẹ Con sống cảnh lạc loài

Quê hương xa lắm ở ngoài miền Trung

Vào Nam sầu não nhớ nhung

Mẹ thời dạy học chẳng sung sướng gì

Đồng lương Nhà Giáo thật kỳ

Không trang trải nổi so bì làm chi

Thương Con trăn trở ướt mi

Người thân khuất núi chia ly não nề !

Vẫn luôn đeo bám với nghề

Cho dù lương ít không hề “GÚT BAI”

Mẹ Con thui thủi bi ai

Thoi đưa ngày tháng sạn chai thân gầy

Mong Con cuộc sống vui vầy

Xế chiều Mẹ ở nơi nầy dung thân

Giã từ trường lớp phân vân

Bao năm bụi phấn bâng khuâng chạnh lòng

Giờ đây ghi lại đôi giòng

Nhân ngày Nhà Giáo mãi mong rạng ngời

Xin cho nhắn nhủ đôi lời

Tương lai Các Cháu tuyệt vời hay không

Rất mong Nhà Nước cảm thông

Dựng xây trường lớp bão giông mọi miền

Nhà hàng khách sạn xây liền

Cớ sao Trường lớp bàn nghiêng vách trầy !?

Nỗi lòng tất cả Cô Thầy

Ước ao Con Trẻ đủ đầy TÀI TÂM.

VŨ THÙY HƯƠNG

VỌNG TƯỞNG

Miền Nam ngoạn cảnh nhiều rồi

Suy đi ngẫm lại bồi hồi vấn vương

Ngày đêm vọng tưởng quê hương

Cách xa ngàn đạm thê lương não nề

Nếu như chia cách trở về

Mẹ Cha đã mất ê chề cảnh quan

Trường Tiền như vết dầu loang

Đền đài lăng tẩm, lầu trang dãi dầu

Vân Lâu cảnh cũ phai mầu

Thuận An hiu quạnh âu sầu thiên tai

Từ Đàm chuông vọng bi ai

Thiên Mụ hùng vĩ nay mai có còn ?

Từ ngày lưu lạc Sài Gòn

Thơ ca làm bạn lối mòn năm xưa

Dù cho duyên số đẩy đưa

Tha phương cầu thực nắng mưa mặc lòng.

VŨ THÙY HƯƠNG

Tối 16-6-2015

Cây Đàn Tiên I

Cầu treo ngoạn mục thả liền sông

Kết nối đôi phương chẳng ngại dòng

Thuở trước, Ngân Hà còn trắc trở

Ngày nay, Bá Sắc được lưu thông

Xuyên mây, đón gió, tầm bay phượng

Uốn khúc, giương oai, thể điệu rồng

Rực rỡ Tây Đô thêm tỏa sáng

Kỳ quan phát khởi tại Mekong .

Thanh Châu

Cây Đàn Tiên II

Cáp giăng chớp nhoáng lướt qua sông

Gánh vác giao liên bất kể dòng

Bá Sắc ngân nga làn gió thoảng

Tây Đô chiếu sáng nhịp xe thông

So dây thẳng vút, tầm bay phượng

Nắn phím cheo leo, thế cỡi rồng

Ai dạo đàn tiên, tay thánh vuốt

Vang lừng tấu khúc nhạc Mekong…

Thanh Châu

CẢNH GIÀ

Vừa lúc nào đây mấy chuyện qua.

Nép mình sau cửa lánh phiền ba.

Hở môi chỉ ngại rằng than thở.

Nín mũi mà xem khỏi hít hà.

Cười cợt gượng vui cùng tuế nguyệt.

Hư hèn nghĩ thẹn với niên hoa.

Nước bầu cơm giỏ trời cho đủ.

Lần lửa chìu theo cái cảnh già.

LANG NGUYÊN

MUA CƯỜI

Thân tôi trầm lặng trong đời.

Buồn thương mặc kệ chuyện cười dám mua.

Thói quen chừa bỏ hơn thua.

Thương người hiếu thảo dám đưa của mình.

Thói quen lại ghét bất bình,

Thương người hoạn nạn mến tình thiết tha.

Thói quen thù ác ghét tà,

Thương người có hậu ôn hòa với nhau.

LANG NGUYÊN

SẦU MƯA SÀI GÒN

Thôi thì trời cứ mưa đi

Sài Gòn xám ngắt ôm ghì nhớ thương

Làm sao quên nỗi vấn vương

Mưa chiều kỷ niệm, đoạn trường tình thơ

*

Ước gì tình một giấc mơ

Cho ta gặp lại duyên hờ mộng phai

Sài Gòn mưa ướt áo ai

Lạnh lùng thương nhớ tình hoài ngóng trông...!

*

Người đi tít tắp mịt mùng

Giận hờn ai biết mây chùng gió bay

Sài Gòn mưa mấy hôm nay

Cho dài nỗi nhớ buồn lay lắt buồn...

*

Bơ vơ trong cõi cô đơn

Mình em vàng võ dỗi hờn tình đau

Chiều buồn trời vẫn mưa mau

Sài Gòn nuối tiếc, tình sầu bâng khuâng!

Phạm Thị Minh-Hưng

GIÓ MƯA THÁNG BẢY

Gió lạnh lùng tung làn tóc rối,
Cây Phượng buồn hoa rụng tả tơi
Mưa rơi ướt nhạt nhòa sân vắng
Trường xưa chẳng thấy bóng một người...

Mưa giăng giăng rớt giọt vơi đầy
Không gian sầu lắng đọng cỏ cây
Màn mưa sương khói mờ che khuất
Phố cũ lạnh tanh có thấy ai !

Tìm đâu tia nắng ấm bên song
Từng hạt bình minh lấp lánh hồng
Gió kéo mưa về ngang lối nhỏ
Tình ơi thương nhớ rối tơ lòng !

Có tiếc gì không thuở hẹn hò
Bơ vơ một bóng dưới trời mưa
Mưa chất ngất bay - hồn tượng đá,
Hững hờ ảo ảnh - chập chờn mơ...

Phạm Thị Minh Hưng

VUI ĐÙA

Rủ nhau chạy nhảy rong chơi

Băng qua gò đất ra nơi ao đồng

Nhóm trẻ mát mẻ quần đùi

Hè nhau cùng nhảy lao chui tắm nhào

Bò lên trên cạn giỡn nhau

Đứa nào không té xưng mình là vua

Chiều mát chạy đua xe đạp

Xe đời xưa bánh đất nạp vành cui

Đường đê đắp lớn đông vui

Nửa chừng sút vỏ lui cui gắn vào

Xe trâu gò đầu lôi kéo

Cỏ rơm khô rạ chất khéo lên cao

Mỗi thằng ngồi một mo cau

Kéo lê nóng đít bỏ nhào đại ra

Bao đời cực khổ ông cha

Tạo đường đắp ngõ thẳng ra xóm làng

Cháu con vui hưởng nhà nông

Hãy lo tu bổ chung lòng dựng xây

QUANG BỈNH 2016

CÔ LÁI ĐÒ

Cô lái đò đưa khách sang sông

Hàng ngày rộn rã dậy trong lòng

Mỗi năm cứ đến mùa phượng vĩ

Đưa đón học sinh đi thi xong

Thuyền con chở khách vẫn miệt mài

Tay chèo tay lái vẫn khoan thai

Lữ khách sang bờ đi biền biệt

Nào ai ngoảnh lại có mấy khi

Năm tháng vô tình mãi trôi qua

Lá vàng rơi rụng đến mùa thi

Đưa bao thế hệ trẻ về đi

Vui buồn đôi lúc không bận chi

Mang kiếp con tằm phải nhả tơ

Rước ai lên xuống đò vẫn chờ

Cuộc sống âm thầm trên bến bờ

Đôi lúc tâm hồn vẫn ước mơ

Đò đưa có khi cũng phải lòng

Khách thì trêu ghẹo lúc qua sông

Cô lái vẫn cười má ửng hồng

Đôi câu trò chuyện nước mênh mông.

QUANG BỈNH

HẾT NỬA CHỪNG

Cang, Xoàng, Chử, Phận, Sóng, Mạnh, Ty

Đối ẩm chung vui rất diệu kỳ

Rượu trong rau sạch tình thân thiết

Tâm hồn cảm hứng xuất văn thi

*

Pháo tay ròn nổ vui như hội

Không khí tưng bừng tựa đầu xuân

Nhu cầu rau bánh không đáp ứng

Nước chấm thật ngon hết nửa chừng

*

Phần ba trong số chưa thỏa thích

Một vài ý kiến lại rất ưng

Trời đông giá lạnh, lòng không lạnh

Bằng hữu thân tình rất thủy chung.

NGÔ BÁ MẠNH

NGỌC ĐỜI

Khi tai nghe một khúc hát tâm tình
Tim một thoáng ngọt ngào lay động
Tiếng yêu thương của ngày xưa ướp mộng
Bỗng theo về da diết mênh mang

Khi mắt say một cánh hoa vàng
Nghe ngan ngát một chiều xuân rợp nắng
Cánh ước mơ dạo trời xanh mây trắng
Gót phiêu bồng theo gió ngân nga

Khi ấm tay yêu dấu một món quà
Con tim khẽ run lên một nhịp thở
Khắc âm vang chút tình xưa đã ngỡ
Phút êm đềm tha thiết mộng hồn bay

Nhấp thêm này men rượu ngậm say say
Thêm iu ấp sắc ngọc đời sâu lắng
Thêm thiết thao những gừng cay muối mặn
Giữa lòng trời hương nắng rộm xôn xao

ĐÀM LAN

CHÚT SÁNG THẦM

Ngọn đèn nguyện cầu nghiêng đêm

Chênh một góc nhà thân thương tối

Chúa là nén hương tỏa thơm

Con chỉ là tàn hương rơi vụn vội

Tiếng thạch sùng thổi tắt đêm sang

*

Tiếng thạch sùng xé tách đêm hoang

Dẫn dụ lòng con về đoạn kinh vừa đọc

Chúa vẫn xanh

Xanh hơn biển của nền trời xanh con ước

*

Con chậm nửa bàn chân

Ngỡ chỉ trễ một thời

Nào hay một đời khóc muộn

Hạnh phúc thơm lên

Nỗi đau nhảy mầm xanh xuống

Mặc tháng ngày tàn úa rêu phong

*

Thực hay ảo - Chúa có hay không

Lại bắt đầu trong con nổi rõ

Nguyện cầu nguyên đêm…

Dù lẻ loi như vì sao nhỏ

Chúa sáng thầm

Con gửi Chúa đêm đêm

BS.DOANLINH 08/10/2016

LẮNG ĐỌNG

“Hồn nghệ sỹ bao giờ cũng lớn

Tô điểm cho đời bốn mùa Xuân”

“Em ngồi nhặt nắng ươm tơ

Chắt chiu từng sợi đầu mùa mỏng manh”

“Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc

Những phút bay còn đọng trên môi

Nghìn thu sau vẫn trên trần thế

Hồn thu bay cùng ánh nguyệt trôi”

BS.DOANLINH 08/10/2016

ĐỢI CHỜ

Họa vần bài “THƯ TÌNH” của Thi sĩ An Bình

Anh có bao giờ nhắc đến em

Phòng khuê thơ thẩn nép bên rèm

Ngóng chờ người thương cô gái nhỏ

Và khẽ kêu thầm tên của em

Hồn anh thì đầy bao nhung nhớ

Tâm tình tràn ngập bóng hình em

Một ngày bỗng mơ thành đôi én

Sớm tối bay về trong ấm êm

Chờ đến xuân nào anh mới ngỏ

Lời yêu tha thiết gửi trao em.

HOÀI LY

KHÚC MÙA THU

Tặng T.T.

Mùa thu đến rồi anh

Trời còn chút vàng hanh

Mưa thu rơi rào rạt

Những con đường vắng tanh

*

Lá thu nhẹ nhàng bay

Vương áo em chiều nay

Đôi vai buồn nặng trĩu

Em về ướt mi cay

*

Nhớ người bao là nhớ

Bao năm dường như mơ

Dòng đời dần xa mãi

Tình đã tắt lời thơ

*

Mùa thu đầy kỷ niệm

Người đã quên lối về

Em lòng đầy tiếc nuối

Mưa còn dài lê thê.

HOÀI LY

Thu 2016

HÃY QUÊN TÔI ĐI

Hãy quên tôi đi cho rộng tầm con mắt
Đã bao năm quanh quẩn với tầm thường
Đã bao lời u ẩn lẫn ngổn ngang
Đã vươ ng lối đi bằng cỏ cây tàn rụi.

Hãy quên tôi đi cho chẳng cần tay với
Cũng thỏa lòng với trái chín trên kia
Cũng phiêu du cùng chấp chới cơn mê
Cũng mê nh mang với khóe cười kín lối.

Hãy quên tôi đi cho tiếng đàn xởi lởi
Gửi muôn phương bao điệu vũ mê hồn
Gửi ân tình bằng chất ngất nụ hôn
Gửi dối gian cho ai cần gian dối.

Hãy quên tôi đi cho không gian vời vợi
Những nhớ mong dù sớm đợi đêm lìa
Những hân hoan dù sáng nắng chiều mưa
Nhữn g mải mê dù con tim chán ngán.

Hãy quên tôi đi cho lòng tôi rỗi rảnh
Mà chơi đùa cùng hoa cỏ ngoài kia
Mà thiết tha với mưa khóc đẫm đìa
Mà cháy bỏng với mặt trời vô cảm...

LAMTRẦN 06.02.2014

KHÔNG BỎ CUỘC CHƠI

“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

Nguyễn Bính

Không bỏ cuộc chơi

Em vẫn sống hết mình trong tình bạn với đời

Là gió xuân thơm trước thềm năm mới

Là bông hoa dịu dàng biết nói

Chia lửa hương cho mỗi trái tim người

*

Dẫu ngày mai dấu chân em

       sẽ in trên tuyết băng Phú Sỹ

Sẽ cùng chàng trở về xứ sớ Phù Tang

Giữa vườn anh đào như chốn địa đàng

Thì em vẫn là cô gái Việt Nam

        trăm phần hương sắc Việt

Mang trái tim đằm thắm

Và ngọn lửa tình yêu tinh khiết

Làm của hồi môn

Mạnh hơn cả sóng cồn

Làm chảy tan băng tuyết

Cả những trang anh hùng đã chọn cho mình cái chết

Thì cũng phải dừng mũi kiếm trên tay

Trước một cánh hoa tỏa ngát hương say

Mang tên TÌNH YÊU đất Việt.

LÊ NGUYÊN

(trước ngày X.P. kết hôn)

Ừ, THÔI THÌ…

Ừ, thôi thì…

Anh cứ đi đi!

Tử biệt - sinh ly vốn là quy luật

Em hiểu thế nên chẳng buồn đau khóc hận

Phút chia tay chỉ xin níu nét môi cười…

*

Ừ, thôi thì...

Anh cứ thoải mái rong chơi

Thong dong với đam mê một thời ấp ủ:

Soạn nhạc, làm thơ, vẽ tranh, khiêu vũ,

Bốn biển năm châu tiếu ngạo giang hồ

Biết đâu chừng duyên thiên định đẩy đưa

Cho Từ Thức - Giáng Hương hay Tú Uyên

- Giáng Kiều kỳ ngộ

Cõi thiên thai, Lưu - Nguyễn lạc đường về…

*

Ừ, thôi thì…

Sau quãng đời lăn lóc, mỏi mê

Đã đến lúc buông tay, dứt áo

Người ra đi hẳn còn vấn vương, đau đáu

Người ngó theo khắc khoải tháng ngày

Giọt thời gian nhả từng nhịp miệt mài

Cuốn lịch treo tường vừa dày đã mỏng…

*

Từ khi anh đi,

Cô phòng cửa đóng

Sao vẫn về khuấy động giấc mơ em?

Vẫn dáng hình, giọng nói thân quen

Khi chia sẻ, lúc ân cần nhắc nhở

Thôi, hãy yên lòng

Đừng băn khoăn, trăn trở

Để an nhiên trong thế giới riêng mình

Em không muốn giấc mơ bị đánh thức trước bình minh

Em sợ lắm khi tay mình quơ vào khoảng tối

Vẫn biết có những điều chẳng bao giờ thay đổi

Vẫn vững tin sự tồn tại đời đời

Như di ảnh kia mãi roi rói môi cười…

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

(20.10.2016)

“Ôn cố tri tân”

QUÂN TỬ VÀ TIỂU NHÂN*

*

Làm sao nói vậy là người quân tử

Nói đằng làm nẻo đích thị tiểu nhân

*

Thấy người làm điều hay

Người quân tử, khen ngợi, học theo

Kẻ tiểu nhân thì ghét ghen, hãm hại.

*

Thấy người nói điều lỗi

Người quân tử vui mừng, cảm ơn, sửa đổi

Kẻ tiểu nhân thì tức tối, cãi quanh

*

Người quân tử làm việc tốt

Cốt vun trồng đạo nghĩa

Nhằm hữu ích cho nhân quần

*

Kẻ tiểu nhân làm việc

Để mưu cầu lợi, danh

Cốt sao được vinh hoa, phú quý

*

Người quân tử

Thấy việc phải - dẫu hại đến thân cũng làm

Thấy việc trái - dẫu lợi đến thân cũng bỏ

*

Kẻ tiểu nhân

Thấy việc phải - mà không lợi đến thân cũng bỏ

Thấy việc trái - mà có lợi đến thân cũng làm

*

Quân tử hay tiểu nhân

Để người đời soi xét

Tự bộc lộ mình

Ai giấu được ai ?

LÊ MINH CHỬ

* Quan niệm làm người của người xưa.

TẠI SAO ?

Xưa nay vẫn dạy học sinh

Dân ta anh dũng, thông minh, cần cù

Lại còn cũng rất tự hào

Rừng vàng, biển bạc dồi dào cả hai

Nước ta không thiếu nhân tài

Giành nhiều giải thưởng… tương lai sáng ngời

Càng ngẫm, càng thấy lạ đời

Thử xem cuộc sống khắp nơi thế nào ?

Báo cáo thành tích lên cao

Tiềm năng rất lớn, mà sao vẫn nghèo ?

LÊ MINH CHỬ

MỘT TỐI

TRONG NHÀ GIÁO SƯ TRẺ

Trong căn phòng chật chội

Trên tầng cao - gác tư

Lợn sống chung sớm tối

Với gia đình Giáo sư

*

Mẹ: dịu ho, nằm thở

Trên chiếc giường cá nhân

Con: mực đầy sách vở

Bên bà, đang đánh vần

*

Góc phòng, anh giúp chị

Ôn luyện bài Pháp văn

(Châu Phi cần bác sĩ

Chị chờ đi kiếm ăn)

*

Ánh đèn khuya vàng vẩn

Soi mặt người xanh xao

Mùi lợn hôi lẩn quẩn

Quanh những chồng sách cao…

Hà Nội, 10-1986

VŨ ĐÌNH HUY

ONE EVENING

IN THE YOUNG PROFESSOR’S HOUSE

Within a narrow room

On a high storey - the fourth one

Day and night, pigs live together

With the family of the Professor

*

Mother: coughing softly and lying to breathe

On an individual bed

Child: ink smearing all over books and copy books

Beside grandmother, the child is spelling

*

At the room’s corner,

    elder brother is helping elder sister

To review her French lesson

(Africa needs doctors

Elder sister waits to go to earn her living)

*

The yellow late night’s lamplight

Reflecting so pale faces

Pigs’ bad smell hangs about

Around high piles of books…

Hanoi, 10-1986

VŨ ĐÌNH HUY- Translated by VŨ ANH TUẤN

CHIA TAY

TRONG MÙA ĐÔNG

Đất đầy tuyết lạnh trắng phau

Rời tay nhau, biết tìm đâu ấm nồng?

Trời mù che phủ mênh mông

Người về, hồn cứ như không cùng về !

Matxcơva, 09-11-1986

VŨ ĐÌNH HUY

PARTING IN WINTER

The ground was full of cold spotless snow

Parting from each other, where can we find warmth ?

Cloudy sky covered the immensity

One returned,

while one’s soul seemed not returning together !

Moskow, 09-11-1986

VŨ ĐÌNH HUY- Translated by VŨ ANH TUẤN


Cô Bình Phương để ống nghe xuống chiếc hộp điện thoại. Cô vừa báo tin cho người bạn thân nhất của ông anh ruột của cô rằng anh cô qua đời vào sáng sớm hôm qua. Nghe điện thoại cô có thể hình dung ông bạn anh cô ở đầu dây bên kia chắc là sửng sốt lắm rồi. Cái tin anh cô qua đời có lẽ không làm ông bạn già kia phải giật gân. Bẩy lăm, bẩy sáu tuổi ngày xưa gọi là tuổi hiếm nhưng ngày nay tuổi thọ có cao hơn nhưng anh cô qua đời ở tuổi này cũng không phải là sớm đâu. Những thông tin theo sau mới có đủ tác dụng làm cho ông bạn già đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:

- Thế có ai đến giúp cô lo vấn đề hậu sự cho anh ấy không vậy?

- D ạ , em không phải lo.

- Ơ kìa, cô không lo thì ai lo.

- Em muốn nói là không có vấn đề tang lễ gì cả?

- Thế ông ấy tự động bay lên Bình Hưng Hòa à?

- Dạ, anh ấy cũng không lên Bình Hưng Hòa.

- Thế thì cô đưa anh ấy đi đâu? Trời ơi anh cô chết mà cô nói chuyện như anh ấy đi du lịch Vũng Áng. Phải rồi ở ngoài ấy người ta đang làm khu du lịch đấy.

- Không phải đâu anh. Em thương anh ấy lắm. Em khóc cả ngày hôm qua.

- Thôi đừng khóc nữa. Saigon lại sắp lụt nữa bây giờ. Thế cô đưa anh ấy đi đâu?

- Dạ, về Trường Đại học Y dược.

- Cái gì? Anh ấy hiến xác à?

- Đúng rồi anh. Anh ấy đã đăng ký trước rồi.

- Thôi Cô cho tôi chia buồn nhé. Tôi sẽ đến nhà thắp hương cho anh ấy.

- Dạ.

May quá nói đến đây ông bạn già đó đã bỏ máy xuống rồi. Cô Bình Phương nhìn lại căn nhà trước đây đã trống vắng bây giờ lại trống vắng hơn nữa. Ông Tiến Lâm, anh cô, đã thanh thản ra đi và bây giờ đã nằm im trong bể chứa dung dịch bảo quản thay vì tung tăng vẫy vùng trong nước như thời xưa. Hồi còn sống ông thích bơi lội, ở tuổi năm mươi ngày nào ông cũng thả bộ đến hồ bơi Yết Kiêu thong thả bơi chừng mười lăm vòng trong một tiếng đồng hồ rồi mới về nhà ăn cơm trưa. Có lần, ông công tác ở một tỉnh duyên hải nên ông thường ra biển bơi vào những lúc sáng sớm. Có khi ông theo những người chuyên săn bắn dưới biển ra những hòn đảo ngoài khơi xa, bắt những con cá mú mươi mười lăm ký lô gam. Nói thật tình, trong những chuyến đi săn cá ngoài xa như vậy ông Tiến Lâm thường ngồi trên tàu, chứ hầu như không bao giờ xuống nước vì ông không được chuẩn bị cho bình hơi và súng mũi tên để bắn cá. Một phần ông cũng sợ rủi như bị mũi tên đó văng trúng chắc đau lắm. Tuổi trẻ ông rất năng động, những chỗ ăn chơi, trà đình tửu điếm ông đều có mặt. Rồi ông bước vào cuộc sống của một người chủ gia đình nho nhỏ. Ông có vợ và có một đứa con trai xinh xắn. Cuộc sống gia đình hạnh phúc kéo dài được vài năm rồi thời cuộc thay đổi, vợ ông nhứt quyết theo gia đình sang Pháp định cư. Riêng ông ở lại vì ông còn mẹ già và một người em gái. Một cuộc chia tay như vậy lúc bấy giờ coi như một sự xa cách biền biệt, “thăm thẳm chiều trôi”.

Lúc bấy giờ ông Tiến Lâm phát hiện vợ ông không thực sự yêu ông, không phải bà yêu thương người nào khác mà bà rất yêu thương gia đình, cha mẹ của bà. Lúc sắp cưới nhau bà đã đặt điều kiện:

- Anh đừng cho em về quê làm dâu ở nhà anh nghe.

- Được mà! Có thể anh đưa má và con em gái lên Saigon ở cho vui.

- Ồ, như vậy thích quá.

Đó rồi mọi việc diễn ra đúng theo ông sắp xếp. Ông nghĩ hồi hai người yêu nhau thật sự không tìm hiểu được gì ngoài tính tình hiền hậu và trình độ văn hóa mà ông chấp nhận được. Nhưng rồi sau khi có chồng, có con người phụ nữ để lộ ra một số vấn đề tế nhị. Ví dụ như trong lúc tranh luận một vấn đề gì đó, bà thường nhận định không chính xác để rổi kết luận một cách nhanh chóng, vội vàng không phù hợp với vấn đề đang tranh luận. Khi tranh cãi ông luôn giữ được thái độ bình tĩnh, êm dịu, nhưng bà dễ bị kích động sinh ra lớn tiếng. Cách hay nhứt của ông lúc bấy giờ là im lặng tuyệt đối, không tranh cãi nữa. Ông không muốn giải thích cho bà biết rằng theo tâm lý học những người hay nói lớn tiếng trong một cuộc tranh cãi là do từ mặc cảm sợ tranh luận không bằng người đối diện nên muốn trấn áp. Ông phải im lặng vì nếu ông giải thích thêm chắc là sẽ đổ thêm dầu vào lửa và bà sẽ nổi trận lôi đình, dù rằng sai trái.

Bà và con đã đi rồi, ông bình thản sống với mẹ và em. Ngày hai buổi ông làm việc tại một siêu thị. Trong phòng làm việc ông là người lớn tuổi nhứt nhưng chức vụ chỉ là một nhân viên bình thường ngang hàng với những nhân viên nam nữ khác ở trong phòng.

Nhiều người khuyên ông tìm một người phụ nữ nào đó làm bạn đời, bạn tri kỷ trong lúc tuổi già bóng xế, ông ậm ờ, cho qua. Thật ra, trong lúc đi làm việc ở siêu thị, ông có dịp tiếp xúc nhiều phụ nữ ở vào cái tuổi có thể làm bạn đời với ông, nhưng ông thấy rất khó vì qua biểu hiện ông thấy có nhiều phụ nữ không hợp với cá tính của ông.

Qua quan hệ công tác, ông quen một phụ nữ đã ly dị chồng, đang sống với một đứa con trai đang học ở đại học sắp ra trường. Cô là một cô giáo tiểu học, tuổi xấp xỉ bốn lăm. Đi ăn vài lần ông phát hiện cô này nói nhiều quá, cô thường khoe cha mẹ cô giàu lắm, con cái có phá nhà phá cửa cũng không ăn thua gì:

- Em và con không làm gì hết cũng sống khỏe re.

Cô thường hay giao du, đeo bám những phụ huynh học sinh giàu có, sang trọng để ăn theo những chuyến du lịch xa, những bữa tiệc tùng thịnh soạn tại nhà hàng này nhà hàng nọ sau đó cô đi khoe với các đồng nghiệp khác, chứng tỏ cô được phụ huynh học sinh quý mến thường xuyên mời mọc đi ăn uống. Hỏi về sở thích riêng tư, cô trả lời thoải mái:

- Không chơi gì hết. Không thơ văn, không đờn, ca, hát, xướng, không vẽ vời, tranh ảnh. Em chỉ thích kiếm tiền thôi.

- Em giàu quá trời rồi mà!

- Ba má em mới giàu chứ. Còn em cũng muốn kiếm tiền cho riêng mình.

Thấy những người giàu có hay đi du lịch xứ này nước nọ, cô cũng hê lên:

- Khi nào về hưu em đi du lịch chơi. Em sẽ đi Cali, có nhà phụ huynh của em ở bên đó. Họ mời hoài.

Cô nói “phụ huynh của em” có nghĩa là phụ huynh của học trò cô đang dạy. Quả thật cô bám phụ huynh của học trò cả trong tương lai xa thẳm. Thế là ông Tiến Lâm lấy điện thoại xóa số của cô để không còn bận bịu nữa.

Trong một lần làm công tác khảo sát thị trường nhắm vào thành phần nữ khách hàng ở lớp tuổi 40 đến 50 tức là gần gũi với tuổi của ông lúc bấy giờ, ông quen một nữ khách hàng đang ở trong tình trạng độc thân sống cùng với đứa con trai khoảng 15, 17 tuổi và ông bố ruột xấp xỉ hàng 80, yếu đuối, bệnh hoạn. Bà này cũng đã ly dị chồng cách đây khoảng mười năm. Ông Tiến Lâm không hỏi bà lý do gì mà vợ chồng phải chia tay như vậy vì ngoài chủ đề nghiên cứu thị hiếu khách hàng của ông. Đây là một phần của chương trình nghiên cứu thị trường do ông giám đốc chỉ đạo thực hiện. Ông giám đốc này đã từng du học nước ngoài, muốn thực hiện hoài bão phục vụ khách hàng đúng với nhu cầu thiết thực nhất, nghĩa là hàng hóa, sản phẩm của siêu thị phải đáp ứng đúng với yêu cầu của khách hàng. Ông muốn nhân viên phải biết cách trưng bày sản phẩm làm sao quyến rũ được khách hàng, cho dù không có nhu cầu nhưng họ vẫn đến mua. Ông giám đốc cũng chú ý rất kỹ về chất lượng sản phẩm nhất là về vệ sinh an toàn vệ sinh thực phẩm. Hàng hóa sản phẩm nào không đủ điều kiện đưa vào siêu thị phải được dứt khoát loại ra. Các nhà cung cấp không hề dám đề nghị đưa tiền cà phê hay hoa hồng cho giám đốc để có hàng đưa vào siêu thị. Ông Tiến Lâm biết rất rõ điều này cho dù có nhiều người không tin.

Sau đợt công tác đó ông Tiến Lâm cảm thấy có phần thân mật với bà khách hàng này. Qua một hai lần đi uống cà phê ông thấy bà nữ khách hàng này có tâm hồn yêu thích văn nghệ, thi ca, và bà tiết lộ, sở dĩ bà và chồng bà ly dị là vì hai người không hợp nhau. Ông chồng bà là một kỹ sư cầu cống, ngoài công việc chuyên môn, ông không còn có một sở thích nào khác, không thơ văn, không ca nhạc. Có lần bạn bè rủ đi hát karaoke, ông miễn cưỡng phải đi vô đó ông hét như cái loa phường buổi sáng.

- Đúng là ổng hét chứ không phải hát.

- Tại sao lúc đầu cô ô kê lấy ổng?

- Trời! Hồi đó mình mới lớn, học hành chưa tới đâu, mới dự bị đại học, thấy ổng đeo bám quá, mình thôi học lấy ổng.

- Uổng quá, sao không đợi học xong đại học rồi lấy ổng, sau này có gì cô tự lực cánh sinh?

- Mình nghĩ lúc đó một bước lên bà kỹ sư rồi cần gì? Bây giờ mình cũng tự kiếm sống bằng cái nghề kinh doanh may mặc này.

- Hồi còn sống chung thường cãi nhau lắm phải không?

- Cái đó chính xác, thầy bói nói em với ổng khắc khẩu. Vấn đề nhỏ xíu đang thảo luận, tự nhiên biến thành tranh luận, rồi… “cãi lộn luận”.

Tuy cô kể cho ông Tiến Lâm nghe về cái quá khứ buồn tênh của cô có vẻ như thành thật lắm, nhưng có khi trí tưởng tượng của cô khá mạnh mẽ. Ví dụ như ông hỏi cô ta có đọc một cuốn sách nào đó chưa, cô trả lời liền:

- Rồi, quyển ấy ai chả đọc.

- Bây giờ còn nhớ một tí gì không?

- Không, quên tuốt tuột. Không nhớ gì cả.

Ông Tiến Lâm “phang” liền:

- Vậy là chưa đọc!

Cô nổi nóng:

- Có mà! Ông anh mua về đọc.

Vậy là rõ rồi, cuốn sách đó không có thật mà do ông Tiến Lâm tưởng tượng ra. Vì tự ái hay do mặc cảm sợ người khác chê mình kém nên cô rất mạnh dạn nói rằng đã đọc qua. Với kinh nghiệm nghề nghiệp chuyên phỏng vấn khách hàng cộng với một số kiến thức về tâm lý học ông Tiến Lâm dễ dàng đánh giá người phụ nữ này quá giàu óc tưởng tượng.

Ông già này còn có dịp tiếp xúc nhiều phụ nữ độc thân khác và ông cũng phát hiện ra nhiều điều thú vị. Có cô tuổi ở độ U50, chẳng may duyên trời đến chậm, nhưng khi đứng trước mặt một người đàn ông muốn kết thân với mình thì cô tỏ ra lạnh nhạt, từ chối những lời mời đi ăn, uống cà phê, đi xem phim… Đây là biểu hiện của trường hợp mặc cảm tự ti thoái hóa biến thành mặc cảm tự tôn giả tạo. Chính cái mặc cảm giả tạo này sẽ đưa duyên phận của cô đến muộn màng hơn nữa vì có người đang muốn đến với cô thật tình thì sao?

Thông qua nghề nghiệp, ông Tiến Lâm lần lượt gặp hết người phụ nữ này đến người phụ nữ khác, nhưng chưa thấy có bà nào bước nhẹ vào tim ông trong quãng đời còn lại này. Không phải ông khó tính, ông cũng không phải là một người cầu toàn, chỉ muốn có một người phụ nữ không có một khuyết điểm nào hết. Thật tình không phải như vậy, nhưng những bà bạn mà ông Tiến Lâm đã gặp lại để lộ những đức tính mà ông không thích chút nào và làm cho ông mất cả hứng thú trong khi tiếp xúc. Có một bà bạn khoe với ông ngày xưa lúc còn là sinh viên bà đã biết nhảy nhót rồi. Hồi đó vào dịp Noël thường đi “bum” ở nhả bạn. Một hôm, ông Tiến Lâm mời bà đến một Câu lạc bộ khiêu vũ. Tới đây ông mới biết bà này vừa học căn bản ở một lớp căn bản khiêu vũ, nên đi còn lạng quạng. Ông cố gắng kéo cho bà đi theo nhạc nhưng bà cứ vấp tới vấp lui, vậy mà còn nói một cách gượng gạo:

- Anh đi sai bước rồi.

Ông Tiến Lâm không nói gì, đưa bà trở về bàn ngồi. Một lúc sau ông ghé tai bà nói nhỏ:

- Thôi về nhe.

Ông Tiến Lâm không thể tưởng tượng một người phụ nữ có thể nói như vậy để che cái yếu kém của mình, bà biết rõ ông Tiến Lâm nhảy rất giỏi mà dám mở miệng chê ông đi sai bước.

Khi còn trẻ, người ta yêu nhau thường nhanh chóng, nhiều lắm cũng chừng một năm rồi cưới nhau. Trong thời gian ngắn ngủi đó người ta hiểu nhau được bao nhiêu đâu? Mà có kéo dài nữa cũng chẳng hiểu thêm được gì, trong khi ai cũng muốn cưới nhau cho nhanh chóng, “chớ để lâu ngày có kẻ dèm pha”. Nhưng khi người ta lớn tuổi, nhứt là đối với những người đã trải qua một cuộc hôn nhân như ông Tiến Lâm, hồi bốn mấy năm mươi muốn tìm một bạn đời tri kỷ sao khó quá! Ở cái tuổi này ông dễ dàng “hiểu” được một người phụ nữ mà ông đang tiếp xúc thân mật, và cũng dễ dàng nhận biết những bậc nữ lưu này không thể làm bạn tri kỷ với ông được.

Cuộc sống của ông Tiến Lâm cứ thế trôi dần đến tuổi xưa nay hiếm. Tuy rằng sức khỏe ông vẫn còn tốt, ông vẫn luôn nghĩ đến ngày ông về miền cực lạc, theo ông hiểu theo chữ Hán Việt là nơi cực kỳ hạnh phúc. Vậy thì không có gì phải buồn lo cho mệt. Ông sẽ giải thích cho cô em biết và yêu cầu cô em phải làm đúng theo yêu cầu của ông. Ông muốn sau khi ông lên Trời, công việc hết sức đơn giản của cô là đưa thân xác của ông lên trường Đại Học Y Dược để ông đi, trước cô, về nơi cực lạc. Thế rồi ông lên máy thảo ngay tờ di nguyện…

Dương Lêh


Phụ Bản III

BẢNG DANH TỪ MÀU SẮC

VIỆT - PHÁP - ANH

VIỆT

PHÁP

ANH

Vàng - hoàng

Jaune

Yellow

Vàng - chanh

Jaune citron

Citron (lemon) yellow

Vàng kim

Jaune d’or

Golden yellow

Vàng hoa hòe

Jaune de chrôme clair

Chrome yellow pale

Vàng ngô bắp

Jaune de cadmium orange clair

Cadmium yellow orange light

Màu hùng hoàng

Jaune de cadmium orange foncé

Cadmium yellow orange deep

Vàng ngọc

Jaune de chrôme foncé

Chrome yellow deep

Màu hoàng yến

Canari

Canari yellow

Màu vàng nghệ

Safran

Saffron

Vàng cam

(màu hỏa hoàng)

Jaune orange

Yellow orange

Vàng rạ

Jaune paille

Straw yellow

Vàng đất

(thổ huỳnh)

Ocre jaune

Yellow ochre

Màu vàng cháy

Jaune basanée

Sunburnt gold

Màu râu ngô (bắp)

Blond

Blond

Màu mỡ gà

(màu kem)

Crème

Cream

Màu cổ đồng

Jaune cuivré

Copper yellow

Màu thân hương (màu be)

Beige

Beige

Màu cá vàng (màu ka-ki)

Kaki

Sand (of) or Khaki

Màu da

Chair

Màu cam

Orange

Orange

Màu hoa hiên

(cà rốt)

Carotte

Carrot

Màu son,

màu vỏ cua

Vermillon

Vermillion

Màu hoa phượng

Vermillon foncé

Vermillion deep

Màu hồng đào

Pêche

Peach

Màu hồng (hường)

Rose

Pink or rose

Màu cánh sen

Cyclamen

Cyclamen

Màu gạch

Brique

Chinese

Màu son Tầu

Rouge de Chine

Chinese red

Hồng phấn

Garance rose

Opera pink

Màu đỏ

Rouge

Red

Màu hồng ngọc

Rouge rubis

Ruby

Đỏ mào gà

Rouge écarlate

Scarlet red

Màu anh đào

(trái cây)

Cerise

Cerise

Màu yên chi

đỏ huyết

Carmin

Carmine

Màu tía

Laque de cramoisie

Crimson lake

Đỏ tía

Cramoisie

Crimson

Đỏ chu

Laque rouge

Red lake

Màu rượu chát

Bordeaux

Claret or bordeaux

Màu huyết dụ (màu thạch lựu)

Grenat

Màu bánh mật

Basané

Sunburnt-grenat

Màu đất nung

Terre de sienne brulée

Burnt sienna

Màu nâu

Brun

Brown

Màu hạt dẻ

Marron

Brown

Màu hoa đào

Noyer

Walnut

Màu tím

Violet

Violet

Màu hoa sim

Violet de cobalt

Cobalt violet

Màu hoa cà

Lilas

Lilac

Tím than

Violet foncé

Violet deep

Màu da lang

Pourpre

Purple

Màu tím bông bèo

Mauve

Mauvette

Màu quảng chu

Ocre rouge

Red ochre

Màu chàm

Indigo

Indigo

Màu xanh

Bleu

Blue

Xanh biển,

xanh đậm

Bleu marine

Navy blue

Màu thanh sơn

Bleu de cobalt

Cobalt blue

Màu viễn sơn

Bleu de cobalt clair

Cobalt blue light

Màu xanh da trời

Bleu ciel

Sky-blue

Xanh lưu ly

Bleu lapis lazuli

Lapis lazuli blue

Màu thâm lam

Bleu de prusse

Prussian blue

Xanh lông công (xanh khổng tước)

Bleu paon

Peacock blue

Xanh phỉ thúy (xanh lông chả)

Bleu turquois

Turquoise

Xanh dương

Outremer

Ultramarine

Màu lam ngọc

Bleu saphir

Sapphire blue

Xanh dương đậm

Outremer foncé

Ultramarine blue deep

Xanh đen

Bleu noir

Blue black

Xanh tươi

Bleu nouveau

New blue

Màu hồ thủy

Bleu céruléum

Cerulean

Màu sương khói

Fumée

Smoke

Màu nguyệt bạch

Bleu azural

Azure blue

Màu lục

Vert

Green

Màu ngọc thạch

Vert Jade

Jade

Màu bích ngọc

Vert emeraude

Viridian

Lục lá cây

Vert feuille

Leafy-green

Lục rêu

Vert mousse

Moss green

Màu ô liu

Olive

Olive

Màu dưa cải úa

Vert d’olive

Olive-green

Màu ve chai

Vert bouteille

Bottle-green

Màu lá chuối non

Vert clair

Bright green

Màu rêu xanh

Vert chrôme foncé

Chrome green light

Lục lá cam

Vert jaune

Yellow green

Lục lá mạ

Vert anglais clair

Chrome green light (or Grass-green)

Sa lục

Vert veronése (Cendre vert)

Emerald green

Màu cứt ngựa lạt

Réséda

Mignonette-green

Màu lục đất

Terre vert

Green-earth

Lục­­­ đá khổng tước

Vert malachite

Malachite-green

Màu ngà

Ivoire

Ivory

Bạch diện

Blanc d’argent

Silver-white

Trắng kẽm

Blanc de zinc

Zinc-white

Trắng ngà

Blanc d’ivoire

Ivory white

Trắng điệp

Blanc de coquille

White shell

Đen

Noir

Black

Đen than ngà

Noir d’ivoire

Ivory-black

Đen khói đèn

Noir de fumée

Smoky-black

Đen mun

Noir d’ébène

Ebony-black

Xám

Gris

Grey

Xám tro

Gris cendre

Ashen-grey

Màu đậu xanh (xám lục)

Gris vert

Green grey

Màu bồ câu

(xám hồng)

Gris pigeon

Pinkish grey

Màu ruốc(xám tím)

Gris violet

Violet grey

Màu sương xám (xám xanh)

Gris azural

Grey azure

(Livid, Pale)

Xám than

Gris de fusain

Charcoal grey

Xám chuột chù

Gris souris

Mousy grey

Màu khói hương

Gris bleu

Blue grey

Màu bã trầu

Sang de dragon

Dragon blood

Màu ten đồng

Vert de gris

Green ashen

Đen hạt huyền

Noir de jais

Jet black

TÔN THẤT THANH

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

Khung cửa sổ tâm hồn

Một dì lớn tuổi nói với tôi: “Khi tôi ngồi trong cánh cửa, nhìn ra ngoài, cuộc sống chỉ nhỏ hẹp trong tầm mắt của một khung cửa. Nếu tôi mở cửa bước ra ngoài, mở lòng ra với mọi người, sẽ nhìn thấy cuộc sống muôn màu, bao la rộng lớn. Hãy kết bạn, đi chơi, đi du lịch đó đây… Cuộc sống của người phụ nữ cần có tình yêu…”. Tôi nghĩ điều đó đúng. Cuộc sống của mỗi người do chính người đó chọn, tôi đã chọn cho tôi cuộc sống đơn độc lặng lẽ…

Khi tôi hai mươi tuổi, bước vào đời sống và làm việc, di chuyển khá nhiều nơi, đã từng đến những vùng quê nghèo, sống cùng những người dân quê lam lũ. Đã đi đến những vùng biên giới đìu hiu Tây Ninh, Lộc Tấn bốc mộ liệt sỹ. Mùa hè, đưa các con liệt sỹ đi tham quan Đà Lạt, Nha Trang, Long Hải, Vũng Tàu. Đi tham quan vùng đất Trị An những năm mới khai phá để làm thủy điện. Tham quan nhà tù Côn Đảo tìm hiểu về lịch sử, chứng tích của chiến tranh. Trong mỗi chuyến đi, đọng lại trong ký ức nhiều hoài niệm đẹp. Đất nước Việt Nam trong tâm hồn tôi luôn luôn là một ngọn lửa cháy sáng niềm tin vào cuộc sống. Tôi nghĩ mình đã sống trọn vẹn một thời thanh xuân tươi đẹp, sống có ý nghĩa, làm công việc tôi đã toàn tâm toàn ý, góp một phần công sức nhỏ bé của mình phục vụ xã hội.

Khi tôi bước vào tuổi trung niên, do hoàn cảnh, lý do khách quan hay chủ quan tôi cũng không lý giải được, trong thâm tâm tôi nghĩ mình thất bại trong cuộc đời. Một bước ngoặc của số phận, một lối rẽ. Tôi bỏ cuộc, khép cửa, sống lặng lẽ trong căn nhà mình, xa lánh sự tiếp xúc với xã hội.

Cho đến một ngày, gặp lại các chú các dì ở cơ quan cũ, tôi chợt nhận ra cuộc sống đơn điệu của mình. Một bác hưu trí từng nói: “Nếu biết cháu xin nghỉ việc, bác đã ngăn cản, cháu phải sống và làm việc ngoài xã hội, chứ không thể ru rú trong nhà làm việc nội trợ. Tiếc thật!”. Từ đó tôi suy nghĩ nhiều, nhiều câu hỏi tự đặt ra cho mình. Tại sao tôi sống thiếu ý chí, không vượt qua được khó khăn, nghịch cảnh, mất niềm tin, hoài nghi với cuộc sống, với con người? Tại sao tôi không tìm cách giải quyết những vấn đề nan giải người khác gây ra cho mình? Tôi quyết định thay đổi hoàn cảnh sống, tôi muốn tiếp tục con đường đã đi qua, tiếp tục làm việc. Gia nhập câu lạc bộ, là một môi trường đầy tình yêu thương, được đón nhận, được chia sẻ, được cho đi, được bộc bạch với người khác về những khó khăn trong cuộc sống, chính là liều thuốc giải tỏa tâm lý hữu hiệu nhất. Tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ về tinh thần, vật chất. Câu lạc bộ là một gia đình lớn của cuộc đời tôi.

Mọi việc trở nên tốt đẹp hơn, tôi phải thay đổi, thay đổi từ chính bản thân, tư tưởng của mình. Tôi quyết định tham dự một khóa học sáng tác kịch bản. Từ kịch bản đầu tiên, giải thưởng nho nhỏ đầu tiên, cho tôi tìm lại chính mình, một khả năng tiềm ẩn trong tôi, cho tôi sự tự tin để thể hiện mình trên những trang viết.

Tôi đã học được một bài học đắt giá. Có thể tôi đã không thay đổi được những thực tại rắc rối trong cuộc sống, nhưng tôi đã biết chọn cho mình một hướng đi mới, thay vì chán nản, thụ động. Tôi cảm nhận được những ưu phiền sầu não của mình đã trở thành niềm vui và hạnh phúc.

Tôi cảm nhận được thời gian vẫn cứ chầm chậm trôi qua, thời gian không liên quan gì đến cuộc đời, nhưng thời gian trôi qua cho tôi ý thức về cuộc đời mình. Khi tôi sáu mươi sáu tuổi, tôi nghĩ cuộc đời là một hành trình dài để tôi chiêm nghiệm về ý nghĩa cuộc sống, khép cửa hay mở cửa, hiện tại đối với tôi không còn là điều quan trọng. Cuộc sống của tôi là khung cửa sổ tâm hồn, khung cửa sổ trí tuệ. Niềm vui của tôi đến từ tâm hồn và trái tim, chứ không phải từ những thứ bên ngoài, và tôi biết tận hưởng cuộc đời tôi từ bên trong ngôi nhà nội tâm của chính mình. Ngôi nhà đó giúp tôi sống lạc quan yêu đời.

Dù như thế nào, tôi vẫn là người quyết định và làm chủ cuộc đời mình. Tôi trân trọng những món quà từ cuộc sống đã trao tặng cho tôi, tôi đã tìm lại được niềm tin và ý nghĩa cuộc sống.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Tháng 11/2016

TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỨC PHẬT

Ngày Phật Đản

 

(Vì đây là một bài viết truyền thuyết, nên nội dung có phần huyễn hoặc, thơ ca . Tôi cố gắng giản dị hóa câu chuyện, nhưng vẫn giữ ý tứ trân trọng, thiêng liêng. Xin quý độc giả hoan hỷ)

Năm ấy, tại kinh đô Catilave, người ta tổ chức lễ hội trọng đại rất là náo nhiệt vui vẻ, có xe hoa, cộ đèn, cờ bay, rồng múa. Tất cả thần dân đều được nghỉ việc để vui chơi.

Ngày ấy, Hoàng Hậu MADA cũng tắm rửa sạch sẽ, rồi thân hành đến cuộc lễ, mà cấp phát chẩn bần cho người nghèo khó.

Xong rồi, Bà trở về hoàng cung, phát nguyện thọ trai giới.

Đến đêm, Hoàng Hậu nằm ngủ, mơ thấy, có một ngôi sao sáng rơi vào bụng. Kể từ đêm ấy, Bà thọ thai.

Nhà Vua lấy làm đẹp dạ.

Thời gian trôi qua êm đẹp.

Đến một ngày rằm trăng sáng nọ, Hoàng Hậu mới xin phép Nhà Vua TỊNH PHẠN, để trở về viếng thăm quê hương.

Đó là kinh đô Devadaha.

Nhà Vua cho đoàn tùy tùng theo hộ tống Hoàng Hậu rất đông.

Đến một vùng biên giới, phong cảnh hữu tình, xinh tươi như mộng, Hoàng Hậu ra lệnh hạ trại nghỉ ngơi, thì bỗng chốc, Bà chuyển dạ, sanh ra một Thái Tử khôi ngô, tuấn tú. Các phi tần đều mừng rỡ, vội vàng pha nước ấm mà tắm cho Thế Tử sạch sẽ, và đem gấm vóc lụa là ra bao bọc cho Thế Tử được ấm áp.

Tục truyền rằng, khi ấy thì âm nhạc trên trời du dương trổi lên, hoa thơm rơi xuống như mưa. Thái Tử mới bước xuống đất, hướng về phía đông đi bảy bước, tay mặt chỉ trời, tay trái chỉ đất mà nói:

- Thiên Thượng, Thiên Hạ, Duy Ngã độc tôn.

Khi Phật đản sinh, người ta đồn rằng có một vị Đạo sĩ sống trên 120 tuổi, tu tịnh độ trên núi Hymalaya, đã lập tức chạy xuống núi. Các học trò lấy làm lạ, bám theo hỏi:

- Thầy chạy đi đâu vậy?

Thầy mới nói:

- Ta không có thì giờ.

Mấy người học trò đành phải chạy theo để hộ tống ông.

Vị Đạo sĩ chạy ngay đến hoàng cung, để yết kiến Nhà Vua ngay lập tức. Nhà Vua thì rất lấy làm ngạc nhiên, vì đã mấy chục năm qua, chưa ai từng trông thấy vị Đạo sĩ này rời núi để đi đâu cả.

Nhà Vua bèn hỏi:

- Vì sao người đến đây? Có chuyện gì xảy ra vậy?

Ông Lão trả lời:

- Con trai của Nhà Vua đâu rồi? Ta đến để nhìn mặt nó.

Giây phút đầu tiên của Phật Đản Sinh, thì ông lão này đã bắt đầu chạy. Ông phải mất 24 giờ để về đến đồng bằng, mà vào yết kiến Nhà Vua. Còn Nhà Vua thì không tin nổi vào mắt mình, bởi vì vị Đạo sĩ này rất nổi tiếng, là thầy của các vị thầy. Tại sao ông lại quan tâm đến Thái Tử, con trai của Nhà Vua?

Đứa trẻ được bồng ra. Vị Đạo sĩ già vội vàng quỳ xuống, hôn chân đứa trẻ mà khóc.

Nhà Vua bối rối.

Bà Hoàng Hậu bối rối.

Họ hỏi ông rằng:

- Tại sao Đạo sĩ lại khóc? Có họa phước gì chăng?

Ông Lão nói:

- Ta khóc vì sung sướng, vì đã nhìn thấy được một vị Phật ra đời còn búp hoa. Vị Thái Tử này sẽ có một tương lai tươi sáng, là vua của các vị vua trên thế gian.

Một thánh nhân 120 tuổi cúi đầu chào một vị phật một ngày tuổi, rồi khóc vì hạnh phúc. Những người hiểu biết thì luôn luôn khóc vì hạnh phúc mỗi khi họ chứng kiến một điều siêu việt, đang xảy ra trên thế gian. Nhưng rất có ít người có khả năng để nhìn thấy. Thậm chí, người cha cũng không nhìn thấy, người mẹ cũng không nhìn thấy.

Đức Phật là người con trai duy nhất của một vị Hoàng Đế già, vừa mới được hạ sinh. Toàn vương quốc rất đỗi vui mừng, chúc phúc cho Vị Vua nhân hậu, và giàu có nhất vào thời bấy giờ.

Các nhà Chiêm Tinh trong nước đều được mời đến, để tiên đoán vận mệnh hậu lai của Thái Tử.

Người ta đặt tên cho Thái Tử là Tất Đạt Ta, có nghĩa là thỏa nguyện, là niềm mong ước tha thiết nhất.

Đứa con trai này khiến cho Nhà Vua cảm thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn, quan trọng hơn.

Trong niềm vui chung, Nhà Vua bèn hỏi các nhà bói toán rằng:

- Các khanh hãy tiên đoán xem coi, cuộc đời của con trai ta sau này sẽ ra thế nào?

Các nhà bói toán đều đồng loạt giơ hai ngón tay lên, chỉ trừ ra nhà bói toán trẻ thì giơ một ngón tay mà thôi.

Nhà Vua phân vân, không hiểu gì cả, mới hỏi:

- Các khanh làm ơn bỏ cái biểu tượng đó đi. Ta chỉ là người bình thường, không biết bói toán là gì cả. Các khanh hãy diễn đạt bằng lời nói cho ta biết: Hai ngón tay có nghĩa là gì vậy?

Tất cả các nhà chiêm tinh đều nói:

- Hoặc là Thái Tử sẽ trở thành một đế vương oai hùng nhất thế giới, hoặc là xuất gia tầm Đạo, để trở thành một Vị Phật đại giác ngộ. Thái Tử có hai khả năng đó, nên chúng tôi giơ hai ngón tay.

Nhà Vua rất lấy làm lo lắng về khả năng thứ hai. Con trai của Ngài sẽ từ bỏ thế gian mà đi tu, thì vấn đề sẽ trở nên khó khăn như trước. Ai sẽ lên kế vị Nhà Vua?

Nhà Vua mới day sang hỏi nhà bói toán trẻ sau cùng, với cái tên Kodanna:

- Tại sao khanh chỉ giơ một ngón tay?

Kodanna đáp lời:

- Muôn tâu Thánh Thượng, Thái Tử sẽ không có sự lựa chọn nào khác, ngoài việc xuất gia đi tu để thành Phật đại giác ngộ.

Nhà Vua không vui với lời tiên đoán của Kodanna. Người ta khó lòng mà chấp nhận sự thật. Nhà Vua bỏ qua Kodanna không ban thưởng cho vị bói toán trẻ này, mà còn đuổi đi.

Nhà Vua trở lại vấn đề, hỏi ý kiến của các vị chiêm tinh khác:

- Các khanh có đề nghị gì, để khiến cho Thái Tữ không từ bỏ thế gian. Ta không muốn cho con trai Ta sẽ trở thành một nhà sư lang thang hành khất bụi đường. Ta muốn Thái Tử phải trở thành một Minh Vương trị vì thiên hạ.

Đây cũng là tham vọng bình thường của các bậc cha mẹ. Ai lại muốn con mình đi tu. Nó phải được giàu sang, địa vị huy hoàng bề ngoài.

Các nhà bói toán tâu:

- Sự việc có thể dàn xếp ổn thỏa. Thái Tử phải được nuôi dưỡng nơi cung điện sang trọng, đầy niềm vui với cung phi mỹ nữ. Nhất là tránh xa cái già, cái chết.

Các nhà chiêm tinh nói có lý. Cái chết làm cho con người sợ sệt mà đi tìm một sự giải thoát ở đâu đó.

(còn tiếp)

Thanh Châu st

VÀI TỤC CÚNG

(tiếp theo)

5. Cúng mùng năm tháng năm (còn gọi là Tết Đoan Ngọ)

Năm nào cũng vậy, cứ đến mùng năm tháng năm âm lịch, nhà nào cũng bày một dĩa bánh ú nước tro tức là bánh ú làm bằng nếp ngâm trong nước tro củi, sau đó làm bánh. Bánh có ba chóp nhọn và gói bằng lá tre nên hơi nhám để thả xuống sông cá không ăn được. Có lẽ việc thả xuống sông nầy là ở thời xa xưa chớ ngày nay tôi không thấy ai thả xuống sông cả. Mỗi cái bánh ú lớn bằng ba ngón tay chụm lại hay lớn nhứt là lớn hơn ngón chưn cái người lớn một chút. Nếp nước tro nên bánh ú ửng màu đỏ sậm, ăn có hương vị đặc biệt và hơi dai. Tới năm 2015 tôi thấy bánh ú bán ít hơn các năm trước. Nhiều người quên ý nghĩa của việc cúng bằng bánh ú nên có người cũng cúng bằng chè hay bánh ngọt nữa.

Đúng mười hai giờ trưa có tục muối mắt nghĩa là người ta ra sân cầm một hay vài hột muối, nhìn lên mặt trời, đặt hột muối ở trước con mắt một chút và nói làm vậy cho mắt tỏ.

Sáng mùng năm, nhà nào cũng chặt một nhánh xương rồng treo trước cửa. Sau nầy xương rồng ít ai trồng nên người ta thay bằng một bó ô rô gọi là để trừ tà. Ngày nay sông rạch bị lấp nhiều, ô rô cũng khó kiếm nên người ta treo bằng một bó nhánh cây nhỏ có lá sum suê mà tôi không biết là cây gì. Họ bán ngoài chợ, cứ mua về treo.

Khi cúng bánh ú, sau khi đốt đèn, tôi nghe vái là: “Hôm nay tôi cúng mùng năm tháng năm tức là Tết giữa năm, cầu Trời Đất phò hộ cho trong nhà trong cửa được yên ổn”. Như vậy là người Việt ngày nay đa số là cúng theo tục lệ chớ không biết ý nghĩa của việc cúng nầy.

Cúng Tết Đoan Ngọ mùng năm tháng năm là cúng theo phong tục người Trung Hoa. Đó là ngày ông Khuất Nguyên, một quan to của nước Sở, đời Sở Hoài Vương, cột đá vào lưng trầm mình xuống sông Mịch La tự tử năm 299 trước Tây lịch (theo Chiến quấc sách, phần Phụ lục niên biểu trang 513).

Theo sách Sử Ký Tư Mã Thiên, Khuất Nguyên giữ chức Tả Đô bị quan đại phu Thượng Quan nói gièm nên vua ruồng bỏ. Ông làm ra khúc Ly Tao buồn thấm thía mà ý sâu sắc. Tần chiếm Hán Trung của Sở và mời vua Sở sang Tần. Khuất Nguyên can vua đừng đi. Vua cứ đi và bị Tần giữ lại và chết ở Tần. Thượng Quan lại gièm với vua con là Khoảnh Tương Vương nên ông bị đày. Thế là mộng vua Sở tỉnh ngộ tin dùng ông để làm nước Sở mạnh bị vỡ. Ông buồn đi lang thang, ông lão đánh cá khuyên ông nên theo thời cuộc. Ông nói là ta thà chết chớ không để bản chất trắng ngần của ta vương bụi của đời. Sau đó thì tự tử.

Sách “Hỏi đáp nghi lễ phong tục dân gian” tác giả là Đoàn Ngọc Minh và Trần Trúc Anh thì nói cúng Khuất Nguyên bằng bánh chưng và nói bánh chưng đầu tiên xuất hiện ở miền Bắc Trung Quốc và cũng nói mơ hồ về thời Tấn. Như vậy thì Tấn nào? Vua nước Tấn thời Đông Chu liệt quốc hay thời Tấn sau nhà Hán vì sách cũng nói bánh chưng thời Đông Hán là thời Khuất Nguyên đã chết 400 năm. Như vậy, Đoàn Ngọc Minh và Trần Trúc Anh có biết sự tích bánh chưng về thời Hùng Vương chăng? Lang Liêu là Hùng Vương thứ mấy, tôi không biết. Chỉ biết thời đại Hùng Vương kết thúc vào năm 275 trước Tây lịch (năm Thục Vương xưng là An Dương Vương). Như vậy, Khuất Nguyên tự tử trước khi thời đại Hùng Vương kết thúc là: 299 - 275 = 24 năm.

Về cúng Khuất Nguyên bằng bánh ú lá tre với ý nghĩa cá không ăn được để cho Khuất Nguyên ăn có lý hơn là cúng bằng bánh chưng. Bánh chưng của Lang Liêu tượng trưng cho Trời Đất để cúng Tiên Vương, sau nầy là cúng tổ tiên, tôi thấy có ý nghĩa và có lý hơn.

Sách Việt Nam lược sử của Trần Trọng Kim ghi: “Hùng Vương bấy giờ cậy mình có binh cường tướng dũng, bỏ trễ việc nước, chỉ lấy rượu chè làm vui thú. Người cháu Thục Vương tên là Phán biết tình thế ấy, mới đem quân sang đánh lấy nước Văn Lang”. Lang Liêu nghèo, đơn phương tranh gay gắt với anh em mới được cho lên ngôi vua lại bỏ bê việc nước như vậy sao? Tôi võ đoán Lang Liêu là vua Hùng trước Hùng Vương thứ 18. Như vậy, tôi cũng võ đoán là bánh chưng có gốc tích của Việt Nam, là bánh của Việt Nam. Tôi ghi sự kiện nầy để mong thức giả hiểu biết về thời Hùng Vương khẳng định Lang Liêu là Hùng Vương thứ mấy để khẳng định bánh chưng là của Việt Nam hay Trung Quấc.

6. Cúng rằm, mùng một

Cúng rằm, mùng một, tôi thấy là tục lệ cúng xưa nay, không ai giải thích ý nghĩa và cũng không nghe ai vái gì. Cứ đến ngày rằm và mùng một, nhà nào cũng mua trái cây sắp lên bàn thờ ông bà, bàn thờ ông Địa và ở bàn Thiên mỗi nơi một đĩa, sau đó đốt nhang và xá xá là xong, cũng không thấy rót nước nữa. Theo tôi thì cũng nên rót một ly nước để cúng. Đương nhiên người theo đạo Thiên Chúa thì không cúng. Cúng với mục đích gì? Không nghe ai giải thích cả.

Ở thế kỷ 20, thời ông nội tôi còn sống, năm nào có nhựt thực hay nguyệt thực, ông phàn nàn với ba tôi là không biết TRỜI, TRĂNG đi thế nào mà để đối đầu nhau và bị ăn như vầy! Năm nay dân chúng khổ lắm. Quan niệm xưa về TRỜI và TRĂNG là như vậy. Tìm hiểu về tín ngưỡng cổ, tôi có đọc một ít tài liệu về tôn giáo ở Ấn Độ, chiết trung lại mà ghi. Tôn giáo cổ nhứt là Phệ Đà giáo với Phệ Đà thánh điển, người Ấn Độ coi là sách dạy của Trời, họ coi tế lễ là vạn năng. Tôn giáo có từ 4.000 năm trước Tây lịch. Dân ở vùng lưu vực sông Hằng Hà thấy rằng sản vật ở đó phong phú, khí hậu ấm áp, thời tiết điều hòa nên họ sùng kính mặt trời, mặt trăng, rừng, sông, núi… Do đó việc kính cúng là điều tất yếu. Nhưng dân ta thuộc nhóm độc thần tức là thờ thần mặt trời. Tiếng cổ của Việt tộc là ông Trăng, bà Trời nên họ cũng thờ kính ông Trăng nữa.

Như vậy, khi không thấy mặt trăng xuất hiện trên bầu trời, dân chúng chìm trong cảnh tối tăm thì họ sợ lắm. Sau ngày 30 tối tăm hoàn toàn thì mùng một họ cúng để cầu mặt trăng xuất hiện soi sáng khắp nơi chăng? Tới ngày rằm, mặt trăng tròn trịa soi sáng khắp nơi nên họ cũng bày ra lễ cúng để mừng và tạ ơn. Như vậy, có lẽ ngày xưa có vái nhưng lâu dần người ta quên chăng? Ngày mùng một, trời tối om thì người ta cần thần trăng xuất hiện soi sáng nhơn gian, tiêu trừ tà ma quỷ quái. Ngày rằm thì họ vái là mừng thần TRĂNG soi sáng khắp nhơn gian xua đuổi tà ma quỷ quái giúp con dân.

Như vậy bàn Thiên coi như thờ cả thần TRỜI và thần TRĂNG đấy. Việc cúng ngày rằm, mùng một diễn ra đều đặn, liên tục từ xưa tới nay thì ta cứ sắm lễ vật mà cúng, thiết tưởng cũng nên lắm vậy.

7. Cúng rằm tháng bảy

Tháng bảy có cúng Vu Lan báo hiếu (?) và cúng cô hồn

- Lễ cúng Vu Lan báo hiếu (tôi không rõ việc nầy). Đây là lễ cúng do các chùa tiến hành. Hình như chỉ có Phật giáo Bắc tông mới cúng còn Nam tông thì không. Lễ cúng về việc Mục Liên Thanh Đề. Người mẹ làm điều sai trái bị tội ở địa ngục, con tu đạt đạo và cùng chư Phật bốn phương cầu xin. Người mẹ thoát tội. Điểm nầy tôi thấy sai với tôn chỉ Đức Phật Thích Ca.

Phật dạy ai tạo nghiệp thì người đó trả nghiệp. Tu là tu cho chính mình. Bị quả báo mà cầu xin là hết tội là sai, không chấp nhận được dù là đạo hay đời. Lễ nầy theo tôi là bỏ đi. Các chùa hành lễ trong phạm vi chùa thôi. Biểu ngữ lễ Vu Lan có lẽ chỉ treo trước chùa. Xa ra ngoài thì không nên treo.

- Cúng cô hồn:

Trong dân gian thường nói “Ngày rằm xả tội vong nhơn”. Mọi người hiểu ngầm là rằm tháng bảy. Nói “Xả tội” hay “Xá tội”? Theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức thì “xá” là tha còn “xả” là buông xuống, thả. Theo tôi thì “Xả tội” mới đúng vì tội nhơn bị giam cầm cực khổ, một năm thả ra cho họ đi chơi tự do độ nửa tháng thì giam lại. Với quan điểm như vậy nên mới có việc cúng Cô Hồn để giúp họ. Người bị tội nặng, có khi ngày giỗ cũng không được về nữa đấy. Cũng với ý nghĩa chung của nhơn dân, cúng cô hồn nầy lại là cúng cho cô hồn trẻ con. Cúng có tác dụng gì không, có lẽ không ai biết. Nhưng đã cúng thành lệ thì không nên bỏ. Chị tôi khi buôn bán, mỗi năm tới rằm tháng bảy thì chị cúng. Sau, chị không buôn bán nữa nên không cúng. Đêm 29 tháng 7, chị nằm chiêm bao thấy con nít chạy rần rần một đám đông, chúng tới nắm chưn chị mà kéo rồi cười. Nhớ ra chưa cúng cô hồn, chị vái để mai cúng thì không thấy nữa.

Cúng cô hồn thì cúng từ rằm tháng bảy cho tới cuối tháng. Khi cúng thì bày một mâm để ở cửa ngỏ, trên mâm để:

- Nhang, đèn, nước, giấy tiền vàng bạc và giấy áo cô hồn.

- Bánh trái, nhứt là trái cây rẻ tiền như cóc, ổi, chôm chôm, mía chặt từng khúc ngắn…

- Một dĩa gạo muối (nửa gạo nửa muối).

Sau khi lên đèn, chủ lễ vái: “Hôm nay ngày… tháng 7, tôi cúng cô hồn, mời những người khuất mày khuất mặt về hưởng”. Để một lát rồi đốt giấy tiền vàng bạc, giấy áo, sau đó rải hết gạo muối ra bốn phía rồi đưa mâm ra ngoài, ai muốn giựt thì giựt.

Thường thì khi mới đốt đèn, nhang thì con nít ào vô giựt hết nhưng kệ nó, không la rầy gì hết. Có người thì đóng cửa ngõ lại, đợi khi cúng xong mới mở cửa cho giựt. Sao cũng được.

8. Cúng rằm tháng tám (còn gọi là Tết Trung Thu, Tết Nhi Đồng)

Tết nầy có là do sự tích vua Đường Minh Hoàng của Trung Hoa chiêm bao thấy lên cung trăng xem cảnh tiên với các tiên nữ múa rất đẹp. Sau đó, ông bắt chước cho dân treo đèn kết hoa khắp nơi để vui chơi. Tết Trung Thu thường được người giàu có cúng vì người nghèo khó mua bánh Trung Thu đắt tiền để cúng. Nhưng nếu cúng bánh ngọt như cúng rằm thường cũng được thôi. Trong thập niên 50 của thế kỷ trước, Tết Trung Thu, trẻ con tựu họp năm bảy đứa từng nhóm xách lồng đèn hay đẩy đèn bằng lon sữa bò đi quanh trong xóm chơi cho vui. Có lẽ Tết Trung Thu để cho địa phương tổ chức, họ quy tụ các em nhỏ trong xóm, trong khu phố đi vòng quanh hay tựu họp tại một địa điểm nào đó cùng nhau ca hát, múa hát cho vui. Không tổ chức, không cúng cũng được.

Khánh Hội - Quận 4 - Saigòn ngày 27-7-2016

NHỰT THANH (Phạm Hiếu Nghĩa)

MÓN DON QUẢNG NGÃI

Nghèo nghèo, nợ nợ

Cũng ráng cưới con vợ bán don

Mai sau nó chết cũng còn cặp ui (vò)

(Ca dao địa phương)

Câu ca dao trên đã nhắc đến món ăn đặc sản Quảng Ngãi: Don. Du khách ghé qua miền Núi Ấn - Sông Trà một buổi sáng màu hè, hãy dừng chân tại quán nhỏ trong thị xã Quảng Ngãi để thưởng thức một tô don nóng hổi. Cùng với don là chén mắm nhỏ, trái ớt kim nhỏ nhắn, chiếc bánh tráng gao tròn trịa nướng giòn và một số rau thơm, tất cả đều là sản phẩm địa phương.

Don được múc từ nồi nhỏ ra với chiếc vá bằng vỏ dừa khô mùi tanh thoang thoảng ban đầu. Khách ăn thong thả, dằm trái ớt bé nhỏ, bẻ chiếc bánh tráng mới nướng phồng, giòn rụm ra từng miếng, bỏ vào tô trộn đều, dùng muỗng vớt ruột don, sau đó húp một hơi để cảm nhận thấm thía mùi vị vừa ngọt vừa thanh, vừa cay gắt của ớt, cay dịu của tiêu, vừa hăng nồng của hành tỏi lại có mùi thơm của rau quế, rau húng, rau răm… Mùi vị quyện vào nhau, kích thích biết chừng nào. Don là thực đơn nhẹ, thích hợp với bụng đói buổi sáng, đúng với nghĩa ăn sáng, ăn lót dạ, ăn nhẹ. Càng ăn càng ngon, mùi vị mặn mà, khêu gợi, mời mọc. Khách cảm thấy thèm ăn, gọi tô thứ hai, rồi tô thứ ba. Thích hợp với túi tiền dân lao động, khách địa phương. Ngay cả đến khách loại sang, khách du lịch cũng đến đây để thưởng thức Don.

Sông Trà cùng với Thiên Ấn tạo thành cảnh đẹp của Quảng Ngãi “Thiên Ân niêm hà” (ấn trời trên sông).

Sông Trà là bầu sữa của Quảng Ngãi, sông Tùng cung cấp cho hàng trăm bờ xe nước, tưới cho hàng chục ngàn mẫu ruộng. Trước khi hòa mình vào đại dương (cửa Đại Cổ Lũy) tại vùng “chẻ hai” nơi gặp gỡ của nước sông và nước biển, sông Trà cung cấp cho địa phương một món ăn ngon lành là Don.

Có thể nói chỉ Quảng Ngãi mới có Don ở lòng sông Trà vùng nước “chẻ hai” là quê hương duy nhất của loài don.

Don màu vàng lợt, hình quả trám, to bằng hột bắp dài độ một phân đến một phân rưỡi, vỏ cứng bóng láng, mỏng hơn các loài khác. Hai vỏ don chụp vào nhau, ruột don thon và dài màu vàng lợt, có hai sợi râu màu hồng hồng. Đây là bộ phận giúp don luồn lách trong cát. Hằng năm, don nằm tận dưới cát độ 5 phân, chỉ nổi lên mỗi lần vào đầu mùa xuân đến cuối hạ. Mùa thu cũng có nhưng ít và không ngon, mà ngon nhất là don mùa hè. Don sống ở mực nước sâu, trung bình 1 mét kể từ bờ ra.

Mùa nhủi don (cũng gọi là cào don) bắt đầu từ tháng giêng đến cuối tháng 3 âm lịch. Từ tháng 7 trở đi, don ít dần, đến khi nước lớn không thể nhủi được nữa. Vào những ngày của hai mùa xuân hạ, từ sớm tinh mơ, khi mực nước thủy triều vừa tầm, tại miền đông Quảng Ngãi, người dân Sơn Hội (Sơn Tịnh) qua Tư Nghĩa, giữa hữu ngạn sông Trà cho đến cuối thôn Vạn Tượng xuống Tư Hiền, Tư Nguyện, các nhà nghề rủ nhau đi nhủi. Ngoài hạng nhà nghề sống bằng nghề nhủi don, đồng bào địa phương thỉnh thoảng cũng đi cào don về nấu canh rau muống ăn với bữa cơm đạm bạc ở thôn dã. Dụng cụ nhủi don rất đơn giản, đều làm bằng tre: một cái nhủi, một cái thúng và một giỏ nhỏ. Nhủi giống như cái máng đổ nước, dài 8 tấc, đầu chúm lại, nan vót trải bện như vạt giường dày vừa đủ cho cát lọt. Nhủi có cán bằng tre dài độ 1 mét và 1 dây niết.

Quang cảnh trên sông Trà vào mùa nhủi don thật rộn rịp! Hàng chục chiếc ghe nhỏ thường cắm sào tại chỗ có nhiều don. Những người đi nhủi don mình trần, vác dụng cụ lội xuống nước, cán nhủi đặt trên vai, giây niết buộc quanh lưng, vừa cào vừa lui. Khi don đầy nhủi, người ta giơ nhủi lên cao, xốc xốc mấy cái cho cát rơi xuống, rồi trút hết don vào chiếc thúng cột bên ghe nhỏ. Hạng nhà nghề làm từ sáng đến trưa, có thể nhủi từ 2 đến 6 ang (giạ) don, mỗi ang 20 lon đem bán ở chợ từng lon hay bán một lần.

Nấu Don rất đơn giản: don mua về được lượm sạch sẽ loại bỏ hết rong rêu và các loại ốc, hến khác, chỉ còn rặt lại don. Đoạn đem don ngâm vào nước lạnh từ chiều đến chạng vạng, sau đó bỏ don vào nồi nấu. Trung bình cứ một ui (vò nhỏ) nước thì bốn bát don vỏ. Đun sẵn nước quá nóng gần sôi bỏ don vào, thêm ít muối. Khi nước sôi lên thì dùng đũa bếp khuấy mạnh và đều cho don há miệng nhả tất cả chất ngọt ra làm nước don có mùi vị ngon. Nước luộc don đổ vào một cái nồi riêng, để dành nấu don. Ruột don được lọc đãi bằng một rổ nhỏ, xác don bị loại bỏ, xong đem ruột don đã lọc đãi sạch nấu một lần nữa với nước luộc don. Phải nấu thật sôi thêm gia vị: ớt, tiêu, tỏi, hành, lá mùi thơm để khử mùi tanh. Cuối cùng trút tất cả vào vò, lồng vò vào đôi gánh quang mây một số tô, muỗng, chai nước mắm nhỏ, gói ớt kim, gánh lên tỉnh lỵ kịp bán cho khách ăn sáng. Một ngày có thể đi hai chuyến. Tiền lời đủ mua gạo hàng ngày cho gia đình ít con. Don thường được ăn một lần cả cái lẫn nước (cái: ruột don, nước: nước luộc don). Một tô don chỉ có một ít ruột don, còn toàn là nước don luộc. Ruột don xào dòn là món ăn chọn lọc rẻ tiền. Từ nghèo đến giàu, trẻ em đến người lớn ai cũng có dịp thưởng thức.

Ngoài cách thông thường, ăn don với bánh tráng bẻ nhỏ, gia thêm mắm ớt, người ta còn dùng thay món canh vào những ngày nóng nực hay nấu cháo làm gỏi…

Người Huế lập nghiệp nhiều năm tại địa phương lại có sáng kiến pha chế don trộn với mắm ruốc, thêm gia vị ăn cũng ngon. Tuy nhiên, những người có tiền, trước hết là dân nhậu ở miền Ấn - Trà thường ăn ruột don xào dòn uống với rượu đế.

Cách nấu cũng nhanh chóng, chỉ cần một rổ nhỏ ruột don, một ít bánh tráng sống làm bằng gạo, ít gia vị (tiêu, hành, tỏi, ớt, lá thơm) là đủ.

Người nấu đổ dầu phọng khử chín, bỏ ruột don vào soong, đun vừa lửa, trộn đều, xắt bánh tráng nhỏ, trộn vào lần thứ hai. Ruột don vừa chín tới, nhắc soong xuống ngay, đừng để ruột don quá chín sẽ mất chất ngọt. Thế là đã có món ruột don xào giòn, nhậu với rượu trắng, hoặc với bia, đãi khách rất tiện lợi, ít tốn kém so với món ăn đắt tiền ở các quán ăn sang trọng hay khách sạn.

Nói Quảng Ngãi có món don là đặc sản, nhưng don ngon nhất là don Vạn Tượng, nên có câu:

“Cô gái làng Son, không bằng tô don Vạn Tượng”.

BÙI ĐẸP


KHỔ ĐAU

Chị có tên là Hoàng Thị Diễm Phúc, một cái tên đẹp đấy chứ.

Cũng như mọi người, chị cũng lấy chồng. Cả hai người đều bước chân ra chợ đời để kiếm kế sinh nhai. Họ không có công việc gì cao sang, chỉ là buôn thúng bán bưng, chỉ là xích lô bươn chải. Họ sống không nhiều suy tư, chỉ là lo sao cho cơm ăn áo mặc qua ngày. Tuy vậy, chị luôn là người phụ nữ rộng rãi khi có việc chi tiêu gì đó.

Có 4 thằng con trai, nhưng họ vẫn muốn có thêm. Chị sanh cho anh đứa con gái. Ôi đẹp quá! Nhưng anh chê con gái. Anh chẳng thèm vào thăm vợ khi chị sanh lần thứ 5 chỉ vì con anh là con gái. Anh chỉ thích con trai. Rồi đứa thứ sáu - lại con gái - cũng thế. Mà anh có lo cho đứa nào đâu. Tất cả mọi lo toan đều từ đôi vai nhỏ bé của chị. Hàng ngày, được vài cuốc xe là anh làm bạn với chai rượu đế. Căn nhà nhỏ dần sau mỗi lần đổi chỗ ở, chỉ vì đồng tiền nhỏ bé dôi ra ấy có thể giải quyết cấp thời nhu cầu của đàn con ngày một lớn. Căn nhà ấy dường như là của mình anh hay sao ấy, mà mỗi khi say xỉn là anh lại đuổi vợ lùa con đi, để chỉ còn mình anh tha hồ làm bạn với trái cóc, trái ổi cùng mấy chai rượu ngả nghiêng.

Nặng với gánh con, mệt với chợ đời. Mái nhà lại không là chỗ nương thân. Chị thường xuyên bị anh hành hạ, đến nỗi, có lần anh bị công an khu vực đưa đi “cải tạo”. Chị nhẹ phần xác, nhưng nặng phần hồn, vì dẫu sao, anh cũng là chồng, dù bà con chòm xóm vẫn bàn ra tán vào, chồng vậy thì chết mẹ nó đi cho rảnh.

Mà thật. Ít lâu sau chị cũng lãnh anh về. Rồi đâu lại hoàn đấy. Khổ đau vẫn hoàn đau khổ. Anh chẳng làm mất lòng ai trừ vợ anh. Rồi trời cũng gọi anh ra khỏi thế giới mà anh đã lâu rồi chưa hề cống hiến cho ra con người. Anh bị lao rồi chết.

Vậy là chị vừa là bố, vừa là mẹ của bầy con. Những đứa con có thể lớn xác mà trái tim còn non lắm, cái đầu còn bé lắm. Hai đứa gái út chẳng hề sống với mẹ ngày nào.Từ lâu, chúng đã quen ở nhà vú nuôi. Dĩ nhiên, mẹ nó phải lo thu xếp tiền bạc để người vú nuôi ấy có thể lo cho chúng cái ăn cái mặc. Thiếu thốn gì, chúng cũng như các anh chúng lại chạy về ngoại, nơi chú dì, cậu mợ ít nhiều cũng giúp chúng vì thương bà chị quần quật sớm hôm. Có chỗ dựa, tuy đôi khi cũng bị người trên khiển trách vì cách sống vô trách nhiệm, chúng vẫn tìm cách sống đầy đủ mà chẳng hề quan tâm đến mẹ mình đang chạy ăn từng bữa. Nhậu nhẹt dường như là cách thể hiện duy nhất của những đứa con trai. Hai đứa con gái, cứ bám nhẵng đến nhà ngoại mà xe xua, kệ cho mẹ thức khuya dậy sớm, thậm chí chẳng buồn về đến nhà xem mẹ sống chết ra sao. Một trong bốn thằng con trai lao đầu vào ma túy. Dĩ nhiên là xảy ra việc chôm chỉa, khi thì của gia đình vốn đã tư bề rách nát, khi của ai đó lơ đễnh, bỏ quên. Rồi đủ cả: cầm xe, xe của nhà và cả xe người ngoài. Lại mẹ thôi, lại khóc lóc. Xin xỏ anh em trong nhà. Chị như cái nợ mà chẳng ai nỡ dứt ra.

Rồi phải cho thằng xì ke vào chỗ đáng vào, để người ta giáo hóa: Trại cai nghiện. Cũng mẹ nó thỉnh thoảng đón xe đến thăm thằng con trời đánh. Chị mừng vì nó mập ra. Mừng rồi lôi con về, để ba bảy hai mốt ngày, mà không, chỉ nội ngày hôm sau thôi, nó đã chích choác với mấy cái thằng xanh như tàu lá. Cứ vậy, ra vào trại như cơm sáng chiều vậy. Riết rồi muốn nó vào trại phải có tiền. Mà tiền làm gì có, chỉ có thể có cho nó hút chích thôi. Nghĩa là nó ăn vào chính thịt mẹ nó. Nghĩa là nợ nần. Nghĩa là năn nỉ, van xin. Nghĩa là cô dì chú bác nó mắc nợ nó. Nó không có tai để nghe. Nó không có mồm để nói điều hơn lẽ thiệt. Nó chỉ có cái thân gầy gò, cái tay như que củi đầy những vết chích bộn tiền.

Thằng anh lớn, may thay lấy được cô vợ nghiêm trang, vì cô là nhà giáo. Nhờ vợ, nó bớt ăn xài, bớt nhậu nhẹt. Anh em nó học có là bao, nhưng may cho nó là xin được công việc tàm tạm có dư. Nhưng nó còn phải lo cho vợ con, nó còn nghĩ đến tương lai của chính gia đình nó. Nó vẫn giúp mẹ, nhưng nếu chỉ lo cho mẹ, mọi điều nào có khó khăn chi. Đàng này, còn thằng nghiện trong nhà!

Thằng thứ tư, đẹp trai nhất nhà, mới đi làm được một thời gian ngắn thì cái máy xén giấy xén mất 7 ngón tay của nó. Nó khổ, và mẹ nó khổ gấp ba, gấp bốn. Mẹ nó nuôi nó trong bệnh viện, giao việc bán hàng ngoài chợ cho thằng xì ke, dù biết rằng thế là giao trứng cho ác. Và quả vậy, hàng bán hết thì tiền cũng bay xa, xe lại cầm, lại chuộc, lại cầm, lại chuộc. Ôi!

Thằng thứ ba dài lưng tốn vải. Theo yêu cầu của nó, dì nó cho tiền để nó đi học nghề nấu ăn. Nó nấu ngon ra phết. Nhưng chẳng thèm làm vì “lương có nhiêu đâu!”. Nó chọn số đề, cá độ mà chơi. Lúc có tiền, nó tí tởn, xài như nước mà kệ mẹ mình tùm hụp ngoài chợ. Rồi nó cũng lấy vợ, con vợ cũng giống chồng chả biết làm cái gì ngoại trừ nói và chửi thề là không ai bằng. Hai đứa nó vừa có con, cũng là lúc nó khai ra hàng đống nợ nần. Vợ về nhà mẹ đẻ để bả lo. Còn nó về nhà chị, cơm cũng của chị, nhất nhất đều từ chị mà ra, từ nợ muốn tự tử mà ra. Nhìn cái lưng dài của nó ôm tô cơm ở xó nhà, thật vừa thương lại vừa giận. Thương vì thiếu sự chỉ dạy của mẹ cha. Giận vì chả biết đường mà sống. Mãi cứ như trên mây!

Rồi mẹ nó cũng đến lúc quỵ ngã: Chị đau lưng quá, nhịn đau ở nhà, rồi cuối cùng cũng phải đi bệnh viện. Lại các em giúp đỡ. Tiền vào tay chị có nghĩa là vào tay mấy thằng con trời đánh ấy. Lưng đau, chị như bà còng, mếu máo sang em ruột. Người em rể thương tình, lại dúi vào tay bà chị vợ khi thì đôi triệu để có tiền mà chữa bệnh, khi lại huy động dăm trăm của mỗi anh em khác để chị có tiền làm lại hàm răng đã lổn ngổn mỗi khi lùa chén cơm vào miệng. Ôi những chén cơm đầy nước mắt.

Mà rồi, chỉ có thằng nghiện là lại có cơ hội để thêm cái chất chết người ấy vào thân. Chị không thể làm cho mình hàm răng, cũng vẫn cứ lụ mụ cái lưng còng vì thằng trời đánh lột sạch mọi thứ chị có. Nếu không đưa, có thể nó sẽ giết chị như giết một con gà. Nó thường xuyên đòi chị phải bán nhà để chia phần cho nó. Chị nào dám khi nhìn những đứa con khác trong nước mắt. Giết thì chưa, nhưng “mày tao” thì không kể xiết, và rượt đuổi mẹ như bố ngày xưa thì như cơm bữa. Chị cứ phải lánh nạn sang mấy người em. Thằng mất 7 ngón rồi cũng xin được việc, nhưng nó lại sợ thằng anh hành hung mẹ, nên lại ở nhà. Riết rồi cũng nhậu nhẹt um xùm. Hai đứa em gái thỉnh thoảng lại về đẽo mẹ, mẹ chả có gì, lại mò sang cậu dì xin xỏ…

Mọi người trong nhà sẵn sàng giúp chị, và chỉ một mình chị thôi. Vì chẳng ai có thể đổ đầy một cái lỗ không đáy. Mà chị, chị còn có con, kể cả thằng xì ke.

Ngoài nghĩa trang kia, mộ chồng chị xiêu vẹo từ lâu. Chả có đứa con nào đến viếng. Cỏ um tùm mọc. Tình bơ vơ trả. Ảnh anh mờ nhạt trong bóng úa buổi chiều. Thỉnh thoảng có ai đó thắp cho anh nén nhang le lói.

Chị vẫn khổ đau như thế. Vẫn có người đa mang giúp chị đôi chút. Rồi thằng xì ke lại đẽo của chị như tự bao giờ. Chị biết vậy là sai, là làm cho anh chị em chúng bất mãn, là làm cho các em chị rối lòng. Nhưng cái thằng xì ke, dầu sao cũng là con chị, thằng con đáng thương nhất, sao chị đành bỏ được. Trời ơi! Sao ba má con lại đăt tên con là Diễm Phúc chứ?

LAM TRẦN 03.06.2013

Lời hay ý đẹp

1. Nếu bạn xuất sắc hơn người khác một chút, người khác sẽ ghen tị với bạn. Còn nếu bạn xuất sắc hơn rất nhiều, người khác sẽ hâm mộ bạn. Đây chính là điểm khác biệt.

2. Đôi khi có ngu ngốc một chút cũng chẳng sao, chẳng ai phải thông minh suốt cả đời, nhưng hai lần phạm một lỗi lại là chuyện khác.

3. Học cách lắng nghe. Cơ hội trong đời nhiều khi đến gõ cửa nhà bạn rất khẽ.

4. Đừng mất thì giờ học các mánh khoé gian thương. Hãy học làm doanh nhân chân chính.

5. Tình yêu, tình bạn, không phải là cả đời không cãi nhau, mà là cãi nhau rồi vẫn có thể bên nhau cả đời.

6. Có một ngày bạn sẽ hiểu, lương thiện khó hơn thông minh nhiều. Thông minh là một loại tài năng thiên phú, còn lương thiện lại là một sự lựa chọn.

7. Đã chấp nhận làm thì đừng than vãn, hãy làm tốt điều mình đang có, còn nếu muốn than vãn thì bỏ đi, đừng làm nữa.

8. Niềm tin cũng giống như sóng wifi. Bạn không thể nhìn thấy nó, nhưng nó có sức mạnh để kết nối bạn với những gì bạn cần.

9. Cẩn thận với những suy nghĩ của bạn khi ở một mình, và cẩn thận với ngôn từ của bạn khi ở chốn đông người.

10. Cuộc sống không chỉ có những bữa tiệc. Hãy cho mình sống bận rộn với công việc hoặc một niềm đam mê, sở thích nào đó.

11. Trong một số trường hợp, nếu không yêu cầu, bạn sẽ chẳng bao giờ nhận được.

12. Con cái bạn chỉ có một tuổi thơ. Bạn muốn chúng nhớ lại gì khi đã lớn?

Phạm Thế Cường st.

MƯỜI NGUYÊN TẮC

THỌ THÊM NHIỀU TUỔI

Thứ NHẤT

“Trong thiên hạ, không có chuyện làm biếng mà có thể có một thân thể khỏe mạnh”

Thứ HAI

- Ðối với những việc không vui vẻ của dĩ vãng và nghịch cảnh, không thấy khó chịu.

- Ðối với những ngày sắp tới không có ước vọng quá cao, nhưng luôn cầu bình an hạnh phúc.

Ba DƯỠNG

1. Bảo dưỡng

2. Dinh dưỡng

3. Tu dưỡng.

Bốn QUÊN

1. Quên tuổi tác

2. Quên tiền tài

3. Quên con cái

4. Quên buồn phiền.

Năm PHÚC

1. Có thân thể mạnh khỏe, gọi là phúc

2. Có vui thú đọc sách, gọi là phúc

3. Có bạn bè tri kỷ, gọi là phúc

4. Có người nhớ đến anh, gọi là phúc

5. Làm những việc mà mình thích làm, gọi là phúc.

Sáu VUI

1. Một vui là hưu nhưng không nghỉ

2. Hai vui là con cái độc lập

3. Ba vui là vô dục tắc cương

4. Bốn vui là vui vẻ vấn tâm mà không xấu hổ

5. Năm vui là có nhiều bạn hữu

6. Sáu vui là tâm tình không già.

Bảy SUNG SƯỚNG

1. Biết đủ thường sung sướng

2. Biết giải trí khi nhàn rỗi

3. Biết đắc chí tìm niềm vui

4. Khi cấp thời biết tìm niềm vui

5. Biết dùng người làm vui

6. Biết vui khi hành thiện

7. Bình an là vui nhất.

Tám CHÚT NỮA

1. Miệng ngọt ngào thêm một chút nữa

2. Ðầu óc hoạt động thêm một chút nữa

3. Nóng giận ít thêm một chút nữa

4. Ðộ lượng nhiều hơn một chút nữa

5. Lòng rộng rãi thêm một chút nữa

6. Làm việc nhiều thêm một chút nữa

7. Nói năng nhẹ nhàng thêm chút nữa

8. Mỉm cười nhiều thêm chút nữa.

Chín THƯỜNG

1. Răng thường ngậm

2. Nước miếng thường nuốt.

3. Mũi thường vê

4. Mắt thường động

5. Mặt thường lau

6. Chân thường xoa bóp

7. Bụng thường xoay

8. Chi thường vươn

9. Hậu môn thường co bóp .

MƯỜI NGUYÊN TẮC KHỎE MẠNH

1. Ít thịt, nhiều rau

2. Ít mặn, nhiều chua

3. Ít đường, nhiều trái cây

4. Ít ăn, nhai nhiều

5. Ít áo, tắm nhiều

6. Ít nói, làm nhiều

7. Ít muốn, bố thí nhiều

8. Ít ưu tư, ngủ nhiều hơn

9. Ít đi xe, đi bộ nhiều

10. Ít nóng giận, cười nhiều hơn .

Kim Thư st.


Phụ Bản IV

Đọc sách dùm bạn

BÀI HỌC CỦA CHÚ RÙA

Tác giả Steve Goodier NXB Phụ Nữ 2006

Theo lời tựa đó là một câu chuyện nhẹ nhàng, sâu sắc và đầy ý nghĩa về cảm nhận của một chú rùa đối với cuộc sống. Vì tai nạn, chú ngã chổng kềnh, đưa bốn vó lên trời. Không thể tự mình lật ngược trở lại, chú đành chờ chết, hy vọng vào một sự cứu giúp. Thế nhưng tai nạn này đã làm cho chú một cơ hội tuyệt vời để tự xem xét, đánh giá nhìn lại cuộc đời mình. Chú đã học được những bài học quý giá để làm cho cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa hơn.

1. Chú đã chọn lựa con đường ngắn để đến suối nước thay vì cứ theo lối mòn như những chú rùa khác trên con đường xa để đi đến dòng nước.

2. Chú học được ở cây xanh lòng tự hào khi có chỗ đứng để bám rễ vào đất và ngọn thì đâm thủng vào bầu trời xanh.

3. Nhìn đám mây luôn thay đổi hình dạng dẫn rùa ta đến những giấc mơ nhưng nếu không có quyết tâm thì những giấc mơ sẽ tan như mây khói. Chú rút ra được bài học đó là sự quyết tâm.

4. Một cô bướm vội vã bay qua chẳng giúp gì được cho chú cả và chú phát giác là đời bướm rất vắn vỏi nên cô phải tận dụng thời gian cô có. Đó là sống giây phút hiện tại.

5. Chính khi nằm ngửa chú mới thấy ngọn núi cao thật sự. Phải quyết tâm leo nhiều bước, thực hiện hàng ngày mới tới đỉnh và đó chính là bài học về mục đích.

6. Được sự giúp đỡ của bạn bè và chính bản thân rùa cùng cộng tác, rùa ta đã lật trở lại như cũ. Sức mạnh ở đây là chung lòng chung sức cùng một nghị lực động viên nhau nâng nhau dậy khi vấp ngã.

Phần kết của câu chuyện là rùa ta sẵn sàng chia sẻ con đường mình đã chọn lựa, chia sẻ kinh nghiệm sống khi bị tai nạn cho 2 cô bạn đã giúp đỡ mình nhưng chỉ 1 người dám chọn lựa theo sự dẫn dắt của chú rùa mà thôi!

HÀ MẠNH ĐOÀN

NGẪM NGHĨ VỀ CUỘC ĐỜI

ü Đừng bao giờ trách móc bất kỳ ai trong cuộc sống của bạn.

Người Tốt sẽ cho bạn Hạnh Phúc. Người Xấu cho bạn Kinh Nghiệm.

Người Tồi Tệ nhất cho bạn Bài Học…và… người Tuyệt Vời Nhất sẽ cho bạn Kỷ Niệm.

Đừng hứa khi đang… vui! Đừng trả lời khi đang… nóng giận!

Đừng quyết đoán khi đang… buồn! Đừng cười khi người khác… không vui!

ü Cái gì mua được bằng tiền, cái đó rẻ.

Ba năm học nói, một đời học cách lắng nghe.

Chặng đường ngàn dặm luôn bắt đầu bằng 1 bước đi.

Đừng a tòng ghen ghét ai đó, khi mà họ chẳng có lỗi gì với ta.

ü Tuy trong rừng có nhiều cây đại thọ cả ngàn năm, nhưng người sống thọ đến 100 tuổi không nhiều. Bạn thọ lắm cũng chỉ sống đến 100 tuổi (tỉ lệ 1 trên 100.000 người).

Nếu bạn sống đến 70 tuổi, bạn sẽ còn 30 năm. Nếu bạn thọ 80 tuổi, bạn chỉ còn 20 năm. Vì lẽ bạn không còn bao nhiêu năm để sống và bạn không thể mang theo các đồ vật bạn có, bạn đừng có tiết kiệm quá mức (trên 50 tuổi mừng từng năm, qua 60 tuổi mong hàng tháng, tới 70 tuổi đếm mỗi tuần, đến 80 tuổi đợi vài ngày, được 90 tuổi… ngơ ngác một mình với giờ phút dài thăm thẳm!).

Bạn nên tiêu những món cần tiêu, thưởng thức những gì nên thưởng thức, tặng cho thiên hạ những gì bạn có thể cho, nhưng đừng để lại tất cả cho con cháu. Bạn chẳng hề muốn chúng trở nên những kẻ ăn bám.

ü Đừng lo lắng về những gì sẽ xảy ra sau khi bạn ra đi, vì khi bạn đã trở về với cát bụi, bạn sẽ chẳng bị ảnh hưởng bởi lời khen hay tiếng chê bai gì nữa đâu.

Đừng lo lắng nhiều quá về con cái vì con cái có phần số của chúng và chúng sẽ tự tìm cách sống riêng. Đừng trở thành kẻ nô lệ của chúng. Đừng mong chờ nhiều ở con cái. Chúng tất nhiên biết lo cho cha mẹ, dù có lòng nhưng vẫn quá bận rộn vì công ăn việc làm ăn và các ràng buộc khác nên không thể giúp gì bạn. Các con vô tình thì có thể sẽ tranh giành của cải của bạn ngay khi bạn còn sống, và có khi còn muốn bạn chóng chết để chúng có thể thừa hưởng các bất động sản của bạn. Các con của bạn cho rằng chuyện chúng thừa hưởng tài sản của bạn là chuyện dĩ nhiên nhưng bạn không thể đòi dự phần vào tiền bạc của chúng.

ü Với những người thuộc lứa tuổi 60 như bạn, đừng đánh đổi sức khoẻ với tài lực nữa. Bởi vì tiền bạc có thể không mua được sức khoẻ.

Khi nào thì bạn thôi kiếm tiền? Và có bao nhiêu tiền là đủ (tiền muôn, tiền triệu hay mấy chục triệu)?

Dù bạn có cả ngàn mẫu ruộng tốt, bạn cũng chỉ ăn khoảng 3 lon gạo mỗi ngày; dù bạn có cả chục ngàn dinh thự, bạn cũng chỉ cần một chỗ rộng 8 mét vuông để ngủ nghỉ ban đêm. Vậy chừng nào bạn có đủ thức ăn và có đủ tiền tiêu là tốt rồi. Nên bạn hãy sống cho vui vẻ.

Mỗi gia đình đều có thể có những chuyện buồn phiền riêng. Đừng so sánh với người khác về danh vọng và địa vị trong xã hội và con ai thành đạt hơn con mình, nhưng bạn hãy so sánh về hạnh phúc, sức khỏe và tuổi thọ…

ü Đừng lo nghĩ về những chuyện mà bạn không thể làm thay đổi, vì chẳng được gì, mà lại còn làm hại cho sức khỏe bạn… Bạn phải tạo ra sự an lạc và tìm được niềm hạnh phúc của chính mình. Miễn là bạn phấn chấn, nghĩ toàn chuyện vui và làm những việc bạn muốn mỗi ngày một cách thích thú thì bạn thật đã sống hạnh phúc từng ngày.

ü Một ngày qua là một ngày bạn mất đi, nhưng một ngày trôi qua trong hạnh phúc là một ngày bạn “được”.

Khi bạn vui thì bệnh tật sẽ lành; khi bạn hạnh phúc thì bệnh sẽ chóng hết. Khi bạn vui và hạnh phúc thì bệnh sẽ chẳng đến. Với tính khí vui vẻ, với thể thao thể dục thích đáng, thường xuyên tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, thay đổi thực phẩm đa dạng, uống thuốc bổ vừa phải, hy vọng rằng bạn sẽ sống thêm 20 hay 30 năm tràn trề sức khỏe.

Và nhất là cần biết trân quý những điều tốt đẹp quanh mình và còn bạn bè nữa... họ đều làm cho bạn cảm thấy trẻ trung và thấy còn có nhiều người cần đến mình… Không có họ chắc chắn bạn sẽ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ.

Xin chúc bạn mọi điều tốt đẹp nhất. (xin chia sẻ những điều này với tất cả những người quen của bạn đã trên 60 tuổi, hay những người không bao lâu nữa cũng sẽ đến tuổi 60).

Bạn LN st.

CÂY KHÔ

T hấy tôi lặc lè với cái bụng gần sanh, chồng tôi lo lắng:

- Em đã tin cho má biết là sắp sanh chưa?

- Em báo cho má biết từ tháng trước rồi, không biết má còn bận gì mà chưa thấy lên nữa.

- Nhắm chừng má không lên được thì anh phải coi nhờ ai lo cho em chớ, sanh tới nơi rồi.

Nhìn xuống cái bụng tròn căng, nặng nhọc mỗi khi đi lại, tôi hiểu nỗi lo của chồng tôi. Không lo sao được, ảnh thì đi làm suốt ngày, tôi ở nhà một mình, cũng chẳng dám làm gì nặng, nhưng chỉ loay hoay một chút đã mệt đuối ra rồi. Thực tình hơn nửa tháng nay tôi mong má tôi lên lắm. Sanh con đầu lòng, mọi sự còn lúng túng cần những gì cũng không rõ, cứ hỏi chừng mấy chị em chung quanh thôi. Nghĩ đến má, tôi tự nhiên muốn khóc. Má tôi có đến sáu đứa con gái, đứa nào sanh đẻ là cũng kéo về để một tay má lo. Đêm hôm lục cục chăm con chăm cháu, mà lúc này má tôi cũng tuổi tác lắm rồi, bắt má phải chịu cực như vậy nữa, thực tôi không đành lòng. Cha mẹ nào cũng vậy, nuôi con cho lớn chẳng mong cậy nhờ gì, chứ mà có chuyện gì lại quày quả lo toan. Chồng tôi có ý hay, phải tìm người phụ giúp tôi lúc sanh đẻ, để má không phải cực nhọc nữa. Nghĩ vậy, tôi nói:

- Anh à, hay anh cứ tìm người giúp em đi, chứ má giờ cũng cao tuổi rồi, lâu nay em lại nghe má hay đi chùa, để má phải lo chuyện này khổ má quá. Kiếm ai mình nhờ độ vài tháng thôi.

- Anh cũng tính vậy dó, nếu mình không có điều kiện thì phải đành phiền má, chớ mình lo được mà, để má nghỉ ngơi tuổi già cho thư thả đi.

- Kiếm thì kiếm người lớn tuổi một chút anh à, họ có kinh nghiệm, chớ em đã không rành lại gặp người lơ ngơ nữa thì chết.

- Yên tâm đi cô nương, tui biết rồi.

Đùa cho tôi vui thế rồi mấy ngày sau anh dắt về một người đàn bà tuổi độ ngoài năm mươi. Vừa nhìn thấy, tôi than thầm, trời ơi, đã già quá lại trông ốm yều thế kia. Liệu có làm gì được không, hay vài bữa đổ bệnh ra thì khổ mình nữa.

- Em à, đây là dì Ba, có chị bạn cơ quan anh giới thiệu giùm, dì chuyên chăm sóc sản phụ đó.

Có lẽ thấy vẻ mặt nghĩ ngợi của tôi, dì Ba rụt rè:

- Cô Hai à, cô yên tâm đi. Tui nuôi đến chín đứa con rồi, ba cái chuyện sanh đẻ này tui hổng lạ gì đâu.

Tôi trố mắt:

- Trời đất ! Dì tới chín đứa lận hả?

- Thì cái thời tụi tui có biết kế hoạch… kế hoạch gì đó…

- Kế hoạch hóa gia đình.

- Ừa phải rồi, có biết chi cái đó đâu, nên cứ bầu là đẻ thôi.

Tôi buột miệng:

- Hèn gì...

Chồng tôi ngắt ngang:

- Con nói thiệt với dì, tụi con mới có đứa đầu, nên mọi sự nhờ dì cả đó. Có dì là tụi con yên tâm lắm rồi. Dì ráng giúp tụi con nghe.

Dì Ba cười móm mém:

- Cậu đừng có lo, bổn phận của tui mà.

Thế là dì Ba ở lại nhà tôi, nói thật là tôi rất áy náy, thuở bé đến giờ nào có quen chuyện người ăn kẻ ở đâu, dì cũng không ít tuổi hơn má tôi là mấy. Mình còn trẻ mà để người già cả phải lo toan phục dịch mình, thiệt nghĩ ngợi làm sao. Nhưng phải chịu thôi, vào lúc này thì không còn giải pháp nào tốt hơn. Vấn đề là do xử sự ở mình vậy, đừng để người ta phải buồn và mặc cảm là được rồi. Tôi tự dặn mình như thế. Ngày đầu tiên, dì vừa nấu xong cơm thì chồng tôi về, dì nhanh nhẹn dọn cơm ra bàn rồi nói:

- Mời cô cậu ăn cơm.

- Cha, dì Ba khéo tay ghê há, nhìn mâm cơm đói bụng quá. Dì còn làm gì nữa đó, ăn với tụi con luôn đi.

- Dạ, cô cậu cứ ăn trước cho nóng, tui còn dở chút chuyện.

- Chuyện gì, dì cứ để đó, ăn cơm đã.

Nói rồi chồng tôi ngồi vào bàn, chúng tôi vừa ăn vừa có ý chờ, nhưng mãi cho đến lúc no rồi vẫn chưa thấy dì lên. Tôi bỏ chén đi xuống bếp, thấy dì đang giặt quần áo, tôi kêu lên:

- Trời, dì Ba, dì không ăn cơm luôn, cái này lát nữa làm cũng được mà.

Dì Ba vội vã bỏ chậu quấn áo đứng dậy:

- Cô cậu ăn xong rồi hả? Để tui dọn.

Nói rồi dì le te đi lên bê mâm cơm xuống, bây giờ dì mới lấy chén xúc cơm ăn, tôi cảm thấy bất nhẫn:

- Sao dì làm vậy?

- Dạ… nói thiệt với cô, hồi giờ tui cũng đi giúp việc nhiều nơi rồi, nên quen, không dám ngồi ăn chung với chủ đâu.

- Dì nói chi kỳ vậy. Con không thích thế đâu, người ta khác, tụi con khác, dì mà còn làm như vầy nữa tụi con giận đó.

Dì Ba cười cúi xuống chén cơm, nhìn một người đàn bà đã tuổi tác, với mâm cơm thừa ngồi xệp ở nền bếp, tôi không hiểu tại sao có những người đã chấp nhận cái cảnh này một cách đương nhiên được. Họ cho rằng thế mới xứng đáng đồng tiền họ bỏ ra sao? Đồng tiền của họ không chỉ mua công sức thời gian, mà còn muốn mua cả giá trị nhân phẩm của người khác nữa. Họ làm thế mới thỏa mãn được cái quyền làm chủ trước sự khép nép, khúm núm của kẻ tôi đòi. Thật buồn quá cho những ý tưởng phân ranh phi lý và vô tình như vậy. Người ta có khó khăn, người ta mới phải đến phụ giúp mình để kiếm sống, suy cho cùng, đó là sự trao đổi công bằng hai người đều cần đến nhau, mỗi người có một lợi thế, sự tương quan giữa hai bên chỉ là sự trao đổi những lợi thế đó, để cùng được cho cả hai, hà tất phải bắt người ta phục lụy mình. Chỉ cần có một thái độ tôn trọng, phép tắc khi cần thiết là đủ. Nhưng mà ai cũng nghĩ như tôi thì đời này làm gì có câu “Giàu - Sang”, “Nghèo - Hèn”. Người giàu tự cho mình cái quyền trên chốc, và họ lấy đó làm sang, người nghèo nói to một tiếng cũng khó, nên riết đâm hèn đi. Trước người giàu, lại nhất là phải phụ thuộc đời sống vào người đó, tự nhiên có tính hành xử của kẻ dưới, không biết đã tự hạ thấp phẩm giá mình, không biết đã vô tình nâng cao người kia hơn vốn có, và tạo ra một thứ tâm lý khó chịu cho cả đôi bên. Lan man suy tư, tôi chợt nghĩ đến những người con của dì. Cả chín người con ấy, đã có ai từng thấy mẹ mình trong cảnh này chưa? Chín người con ấy lớn đến đâu rồi? Làm được những gì rồi? Sao cả chín người mà không nuôi nổi một mẹ mình mà để mẹ chừng này tuổi còn đi cơm bưng nước rót hầu hạ người? Rồi một hôm, thủ thỉ trò chuyện với dì, tôi được biết.

Dì Ba có bốn con trai, năm con gái. Sáu người trong số đã có gia đình riêng, nhưng không khác gì cảnh ngộ của cha mẹ, cũng tất bật quanh năm suốt tháng mà chẳng đủ ăn, cũng vay đầu nọ đắp đầu kia, và cũng… nhiều con. Vốn vùng nông thôn, mùa màng khi được khi thất, khi hạn khi lũ, không mấy ai nở được nụ cười nhẹ nhõm lúc trời chiều. Không mấy ai mà trán không hằn những nếp nhăn xếp lớp. Và cũng không mấy ai leo nổi qua cổng trường cấp một của xã. Nghèo đói và thất học là mũi tên chỉ sẵn một con đường lao lực. Chồng dì cũng đã ngã xuống trên con đường đó, còn lại dì chèo chống giữa bầy con, bầy cháu nheo nhệch. Thương con cháu, còn chút hơi sức nào dì cũng ráng đem đổi lấy hạt gạo, cọng rau mà đỡ đần. Đã tuổi tác lại sức vóc chẳng còn bao nhiêu, dì chỉ còn mỗi nước đi ở mướn. Giọt nước mắt cay cực của dì khi nhớ đến những cung cách đối xử của một số nhà chủ trước, tôi xót xa:

- Vậy dì đi làm được bao lâu rồi?

- Cũng có gần mười năm rồi cô.

- Các con dì biết cả chứ?

- Biết thì cũng biết tui đi làm vậy, chớ có những chuyện không vui, tui đâu có cho tụi nó biết. Cái số mình nó vậy rồi, biết làm sao được. Lâu lâu dành dụm được chút ít gửi về cho chúng nó cũng thấy vui bụng. Hổng biết rồi trong mấy đứa có đứa nào ngẩng mày ngẩng mặt được không? Hổng lẽ cứ vầy hoài.

Trong cái thế giới người này, mãi mãi hai từ “công bằng” chỉ là ước lệ. Bao nhiêu kẻ no say phè phỡn, thừa mứa, hoang phí cả vào những thú vui có hại, thì bao con người đang trầy trật vật lộn với cuộc sống hàng ngày.

- Con nghe nói nhà nước có cho vay vốn xóa đói giảm nghèo mà dì?

- Có thì cũng có đó, nhưng mà hổng dễ vay được đâu cô ơi. Họ có cho vay cũng nhìn mặt cả đấy. Hổng đến lượt mình đâu. Với lại tui cũng sợ lắm, vay rồi lỡ không có trả, còn mỗi cái nhà dột mất nốt thì sao. Thôi thì còn sống ngày nào, cứ ráng đắp đổi ngày đó, hồi nào hết hơi hết sức thì đi theo ba nó vậy.

- Dì đừng quá bi quan thế, cuộc đời có luật bù trừ mà.

- Tới tuổi này rồi còn mong bù trừ được gì nữa.

Nói an ủi dì vậy thôi, chứ tôi cũng biết, chẳng còn khả năng nào để cho dì Ba thay đổi được cuộc sống một cách tốt đẹp hơn.

- Dì có nghĩ cảnh nhà mình như vậy là do đông con quá không?

- Có chớ, lâu nay nghe người ta nói nhiều về chuyện đó, nhưng mà biết thì cũng đã muộn rồi.

- Đời dì thì thực là đã muộn rồi, nhưng còn mấy anh chị, dì nói họ rút kinh nghiệm của thế hệ trước cho đỡ khổ.

- Tụi nó đứa nào cũng ba bốn đứa rồi, hổng biết nó có biết đường mà tránh không. Nhà quê cũng khó lắm cô.

- Vấn đề là ở mình thôi dì ạ. Đừng có nghe người xưa nói “đông con nhiều của”. Không có đâu, vì làm thì ít ăn thì nhiều, có đâu mà dư dã được. Con cái không đủ ăn, không phát triển trí óc được, lại không có điều kiện học hành cho tới nơi tới chốn. Mà thời buổi bây giờ, không có học thì chẳng thể nào thay đổi được cái nghèo, ngay như làm nông nghiệp bây giờ cũng cần phải có tri thức, trình độ. Mà cũng đừng nên cố để có đủ trai đủ gái, con nào có hiếu thì mình cũng được nhờ cả. Khối người đẻ được con trai thì mừng húm, rồi khi nó lớn nó hư lại than khổ. Dì về nói với mấy anh chị vậy nghe.

Dì Ba cười vui thích:

- Cô nói phải quá, được rồi để kỳ tới tui về, tui sẽ nói tụi nó đừng có đẻ nữa, quá tiêu chuẩn nhà nước cho phép rồi, nhiêu đó nuôi cho ăn học nên người là được rồi. Thiệt hồi xưa mà biết như vầy thì đâu có khổ.

Nhìn dì Ba cười, tôi liên tưởng đến một thứ cây đã khô xác, còn cố chắt chiu chút nhựa để nuôi những chồi non xanh nhú đầu cành.

Bất giác, tôi đặt tay lên bụng mình, một cảm giác hạnh phúc cồn lên khi chân đứa bé đạp gồ lên một chỗ, tôi thì thầm “Con yêu của mẹ, ba mẹ sẽ cố gắng để cho con có một cuộc sống tốt nhất, chắc chắn đời con sẽ không phải chịu cảnh lầm lụi như một số mảnh đời không may khác đâu. Nhưng mà con phải thật ngoan đấy nhé”.

ĐÀM LAN

PHONG LƯU THẢO

Tiểu Đan đi đi lại lại, hết đứng rồi ngồi. Nét mặt căng thẳng bừng đỏ. Mắt lóng lánh như sắp khóc.

Kỳ Phong sốt ruột, càu nhàu:

- Có gì mà muội hồi hộp dữ vậy? Làm như sắp có người coi mắt không bằng.

Thẹn chín người, Tiểu Đan ngúng nguẩy:

- Huynh…! Huynh vậy đó! Nói bậy không hà. Bộ huynh không hồi hộp sao?

Kỳ Phong lắc đầu, làm tỉnh. Thật ra, trống ngực anh cũng đập liên hồi. Làm sao không lo. Mấy khi rồng cần đến tôm! Dễ thường có chuyện vua đòi xem ca múa dân gian! Tại sao nhà vua biết đến hai người hát rong như họ? Chẳng lẽ giọng ca anh có sức rung động trái tim vương giả? Hay là…

Kỳ Phong không dám nghĩ tới nữa. Anh liếc nhìn người yêu. Cô gái đẹp tuyệt. Suối tóc mượt mà, óng ả, chảy dài sau chiếc lưng ong. Xiêm y cũ kỹ cũng không làm giảm sức gợi cảm của một thân thể xuân thì. Đôi vai thon, hai gò ngực tròn căng. Cặp đùi dài thon thả. Mỗi bước đi, chiếc mông đầy đặn đong đưa, lồ lộ như múa. Một vũ điệu đơn giản nhưng lôi cuốn ghê người. Anh có cảm giác cổ họng khô cháy. Nàng sắp là vợ của anh. Nếu sư phụ không ngã bệnh rồi khuất núi bất ngờ thì hai người đã nên duyên cầm sắc. Tiểu Đan là đứa con có hiếu. Nàng không đành vui say duyên mới. Chỉ còn một mùa trăng nữa là mãn tang. Tiểu Đan sẽ thuộc về anh. Ván đóng thuyền rồi, còn gì phải lo nữa.

Tiểu Đan cũng yêu Kỳ Phong. Nhưng nàng là gái đoan trang, không chấp nhận chuyện “liễu ngõ, hoa tường”. Điều không ai ngờ có được ở hai người hát rong. Một tầng lớp bị xem là “xướng ca vô loại” trong thời phong kiến này. Kỳ Phong, Tiểu Đan phiêu bạt khắp nơi. Một trai, một gái cùng tạm trú trong một căn phòng nhà trọ. Chưa kể những lúc họ qua đêm ở một nơi hoang vắng. Làm sao người ta biết được Kỳ Phong đã phải dùng hết nghị lực để thoát khỏi sự cám dỗ của tội lỗi. Bóng tối và ánh sáng đều đồng lõa với ham muốn chiếm đoạt trong lòng anh. Kỳ Phong ngây ngất ngắm nhìn Tiểu Đan đi lại hoặc nằm ngủ. Nàng gối đầu lên túi hành lý. Trăng phủ một làn lụa vàng óng, trong suốt lên người nàng. Một tay vắt ngang trán, Tay kia, nàng buông hờ hững bên đùi. Cặp môi đào mím mím như cười… Nàng tinh khiết như một nữ thánh. Kỳ Phong muốn cúi xuống hôn vào môi trinh nữ nhưng không dám.

Quay đi, Kỳ Phong hướng về phía vầng trăng, tắm mình trong ánh vàng huyền hoặc. Anh cất tiếng hát. Tiểu Đan giật mình, mỉm cười, nụ cười ngu ngơ dễ thương lạ. Nàng lại chìm vào giấc ngủ, mặc cho Kỳ Phong hát với trăng. Đêm tĩnh mịch. Tiếng hát vang xa, gợi cảm lạ lùng. Kỳ Phong nào biết đó là lúc xuất thần của chàng và cũng là lúc anh đánh thức sự bất hạnh.

Nỗi bất hạnh tượng hình, lớn dần và rõ nét khi hai người đến kinh thành. Tiếng hát trong đêm đánh thức sự tò mò của bọn quyền thế. Nửa đêm, họ choàng tỉnh, ngơ ngác lắng nghe. Sáng ra, họ kháo nhau về tiếng hát trong đêm. Cho bộ hạ đi tìm. Kỳ Phong và Tiểu Đan bị phát hiện, được vời tới dinh phủ. Hai người mừng rỡ trước sự thành công bất ngờ này. Tiểu Đan bảo:

- Huynh ơi! Phen nầy, mình kiếm được nhiều tiền rồi. Lúc ấy, mình mua một căn nhà nhỏ, định cư ở đấy. Sống đời lang thang mãi cũng chán.

Kỳ Phong gật đầu. Anh tưởng tượng một ngôi nhà nhỏ, có vườn hoa trong sân. Kỳ Phong sẽ trồng hoa. Toàn hoa hồng. Mỗi ngày, anh cắt một đóa tặng nàng, vợ yêu của anh. Và, những đứa con sẽ lần lượt ra đời, nó đẹp như Tiểu Đan. Nhưng Kỳ Phong bắt đầu lo sợ. Anh khám phá rằng bọn cửa quyền đã chuyển sự say mê sang Tiểu Đan. Họ say mê nhan sắc nàng hơn tài năng của anh. Họ chẳng ngần ngại giấu giếm sự thèm khát cô gái xinh đẹp bằng ánh mắt dại hẳn đi khi nhìn nàng múa. Tiểu Đan ngây thơ quá. Nàng chẳng hay biết gì hết, ung dung nói cười, thản nhiên múa. Khi anh cho biết hết gã quan này đến tên quan nọ đòi anh nhường vợ cho họ cưới làm tì thíếp, Tiểu Đan cười hồn nhiên:

- Mấy gã điên, đòi chuyện trái đạo lý. Muội đã hứa hôn với huynh. Dù mình chưa làm đám cưới nhưng muội không thay đổi ý định đâu.

Kỳ Phong vẫn chưa hết lo ngại, nhớ đến ao ước của nàng hôm nào:

- Nhưng họ có tiền của, quyền thế…

Ngắt lời anh, Tiểu Đan bảo:

- Kệ họ! Muội yêu huynh! Muội chẳng cần gì hết.

- Lấy huynh, muội sẽ phải sống đời lang thang. Đời người hát rong vất vả, khổ sở trăm bề.

Đan bật cười:

- Huynh quên cha muội là sư phụ của huynh sao. Chính cha muội đã đưa huynh vào nghề, sống kiếp lang thang. Còn muội, muội có xa lạ gì cảnh sống rày đây, mai đó. Nay đầu ghềnh, mai cuối bãi. Ăn quán, ngủ đình. Dẫu sao, nó cũng có cái hay của nó. Mình được biết nhiều nơi, được đi qua những vùng đất xa lạ và tuyệt đẹp. Mỗi chỗ để lại trong lòng muội vài kỷ niệm khó quên. Những điều đó kết thành một sợi dây vô hình buộc chặt muội vào cuộc đời phiêu bạt. Chỉ có những chiều mưa, những đêm đông lỡ đường, phải ngủ tạm bên một gốc cây trong cánh rừng thưa muội chợt thèm một mái ấm, một bếp lửa hồng. Nhưng được ở bên huynh, muội bất chấp thiếu thốn…

Kỳ Phong vui lòng hởi dạ vô cùng. Anh muốn ôm ghì lấy nàng nói tiếng cám ơn. Nhưng anh loay hoay mãi rồi lại cất tiếng hát. Trời đất bừng sáng, trăm hoa đua nở theo những giai điệu vui tươi, hạnh phúc.

Hôm nay, niềm tin vào tình yêu bỗng bị lung lay. Nhà vua cho đòi hai người vào cung điện. Kỳ Phong mơ hồ cảm nhận lành ít, dữ nhiều. Ông vua già nầy nổi danh háo sắc. liệu có buông tha cho Tiểu Đan? Anh muốn rủ nàng trốn đi. Nhưng rồi từ bỏ ý định. Biết đi đâu, về đâu để thoát lưới quyền thế, vòng kiềm tỏa của nhà vua. Thôi thì đành nhắm mắt, đưa chân…

Kỳ Phong và Tiểu Đan choáng ngợp trước vẻ oai nghiêm, sang cả của cung đình. Cảnh cung son điện ngọc khiến họ có cảm giác như lạc vào thế giới lạ trong truyện cổ tích. Hai hàng quan lại áo mão chỉnh tề. Họ đứng bất động, im như tượng gỗ. Họ nói cười như máy móc. Linh hồn họ lệ thuộc người ngồi trên chính bệ kia. Kỳ Phong rùng mình kinh khiếp khi nhác thấy vẻ mặt đanh ác và cặp mắt hau háu dán vào Tiểu Đan.

Chẳng biết nàng có nhận ra không mà như mất hết bình tĩnh. Gương mặt bừng đỏ. Cánh mũi phập phồng. Cặp môi rung rung. Bước đi của nàng chới với như sắp ngã. Kỳ Phong phải đưa tay đỡ. Họ cúi mọp, tung hô: “Vạn tuế”. Nhà vua phán: “Hãy bình thân!” Hai người lập cập đứng lên, lui qua một bên. Nhà vua dõng dạc ra lệnh:

- Hai ngươi là Kỳ Phong, Tiểu Đan đó à? Nào, Tiểu Đan bước tới gần thêm chút nữa, ngước mặt lên cho ta nhìn xem nào!

Tuân lệnh, Tiểu Đan bước tới, đưa gương mặt xinh đẹp về phía lão vua già. Hai gò má đỏ au. Vua buột miệng:

- Ô, đẹp! Tuyệt đẹp! Ha ha…. thật là một mỹ nhân sức nước hương trời. Bây giờ hai ngươi hãy biểu diễn cho ta và bá quan xem nào.

Kỳ Phong nhấc chiếc đàn lên, lòng anh tan nát. Mấy sợi tơ đồng rên se sẽ. Kỳ Phong cất tiếng hát. Một khúc ca buồn thê thiết. Tiểu Đan run rẩy. Nàng hiểu lòng chàng. Cô gái bước ra giữa sân rồng, nàng múa. Qua nhịp điệu, nàng diễn tả tâm trạng bất an của hai người trước cơn giông bão sắp chụp xuống đầu họ. Chưa bao giờ Kỳ Phong hát hay đến thế và cũng chưa bao giờ Tiểu Đan múa dẻo đến như vậy. Nàng làm cho bá quan văn võ phải ngỡ ngàng, thán phục. Tiếng vỗ tay vang rền. Nhà vua gật gù:

- Hay, hay lắm! Chưa bao giờ ta được xem một vũ điệu hay và lạ như thế.

Vua ngẫm nghĩ rồi tiếp lời:

- Quân đâu hãy vào kho lấy ra 500 lượng vàng ban thưởng cho Kỳ Phong. Còn Tiểu Đan, ta phong cho nàng làm cung nữ ở triều nội.

Cả hai kinh hồn. Họ sụp lạy. Tiểu Đan là cà lập cập tâu:

- Tâu bệ hạ, xin cho thần thiếp về quê vì…

Kỳ Phong vội tiếp lời:

- Vì chúng thần sắp đến ngày thành hôn rồi ạ! Xin bệ hạ rủ lòng thương…

Vua đùng đùng nổi giận, ngài thét lên:

- Hay cho tên vô lại kia! Nhà ngươi dám cãi lại lệnh trời à! Quân đâu, lôi hắn ra pháp trường xử trảm.

Tiểu Đan bật dậy, lạy như tế sao:

- Lạy bệ hạ, ngàn lạy bệ hạ! Xin cho chàng được sống. Thần thiếp sẽ chiều theo ý bệ hạ.

Kỳ Phong kinh hồn, bạt vía. Chàng chết lặng cả người. Phải một lúc lâu mới thốt được;

- Không! Không! Ta thà chết chứ không để mất người yêu. Hãy giết ta đi!

Vua nổi trận lôi đình:

- Cả gan! Ngươi dám chống lại ta à? Được. Ta sẽ cho ngươi thấy uy quyền của một vì vua. Ngươi phải biết, ta vẫn có thể bắt ngươi chết mà vẫn buộc người yêu của ngươi phải tiến cung.

Kỳ Phong kêu lên tuyệt vọng:

- Trời! Thật là độc ác, vô nhân!

Nhà vua gầm lên:

- Quân đâu, lôi nó đi ngay!

Tiểu Đan đứng bật dậy:

- Khoan! Hãy đợi ta một chút. Xin hỏi đức vua, đạo lý nào bắt vợ phải xa chồng, vui say duyên mới chứ?

- Ta không cần biết điều đó. Ta muốn là trời muốn!

Biết không lay chuyển được gã vua dâm ác, tàn bạo. Tiểu Đan ôm chầm lấy Kỳ Phong.

- Chàng ôi, vì em mà chàng phải chịu chết oan.

- Mất nàng, ta đâu còn thiết sống nữa. Nàng hãy bảo trọng.

Tiểu Đan chợt thét lên:

- Không! Không một mãnh lực nào chia cắt được tình ta. Vĩnh biệt chàng!

Tiểu Đan phóng mình tới trước, đập đầu vào cột. Người ta chỉ kịp nghe một tiếng thét: “Á…!” Rồi nhìn thấy Tiểu Đan ngã lăn ra, chết tốt. Máu đào thắm đỏ khuôn mặt nàng.

Kỳ Phong gào lên

- Tiểu Đan! Chàng bật khóc.

Bất ngờ trước phản ứng của cô gái đẹp, nhà vua thoáng ân hận. Ông tìm cách lấp liếm tội lỗi:

- Hai người là những kẻ ngốc nghếch. Được ta sủng ái lại chối từ. Thôi được! Ta cho ngươi được tự do, hãy đi đi!

Kỳ Phong ngẩng lên:

- Ta còn biết đi đâu nữa khi thế gian này đã vắng bóng Tiểu Đan. Hãy giết ta đi!

- Tên điên rồ! Hãy đuổi cổ hắn ra ngoại thành.

Quân sĩ chưa kịp tràn tới, bá quan văn võ đã thấy Kỳ Phong ngã sóng soài trên nền gạch. Máu trào ra hai bên khóe. Chàng đã cắn lưỡi tự tử. Nhà vua bàng hoàng, hối hận. Nhưng đã muộn ông chỉ còn cách cho tổ chức tang lễ hai người yêu nhau theo nghi lễ hoàng gia. Kỳ Phong được tẩn liệm đồng quan với Tiểu Đan và họ được chôn cất trên ngọn núi cao nhất nước. Nơi mà nhân dân dùng để làm chỗ an nghỉ cho những bậc công thần, những người tiết nghĩa.

Một thời gian sau, xảy ra một hiện tượng lạ. Cạnh mồ Kỳ Phong, Tiểu Đan chợt mọc lên một loài cỏ lạ. Hoa của nó tỏa hương thơm dịu dàng. Và có ai cất tiếng hát, lá hoa bỗng uốn éo, lả lướt như múa. Người ta đổ xô đến xem thử. Nhiều kẻ tham lam lén nhổ một ít cây về trồng, nhưng vừa bật gốc, hoa tàn. Và dù người trồng có chăm sóc chu đáo đến độ nào, cây vẫn héo rũ, chết dần. Vì vậy, dân chúng cho rằng đấy chính là hiện thân của Tiểu Đan. Linh hồn của nàng vẫn còn lẩn khuất đâu đây. Nghe hát, nàng ngỡ Kỳ Phong cất giọng nỉ non nên đã khiêu vũ để minh họa.

Biết được, nhà vua tìm đến nơi để tận mắt trông thấy điều kỳ thú. Nhìn lá hoa uốn éo, múa may, nhà vua xót xa, ân hận, phong cho hai kẻ yêu nhau bốn chữ “Tiết nghĩa khả phong” và đặt tên cho loài hoa dại là PHONG LƯU THẢO.

Đó là huyền thoại về Phong Lưu Thảo. Chẳng biết có thật hay chỉ là sự tưởng tượng phong phú của những người đang yêu. Họ đã dệt nên những câu chuyện tình tuyệt đep và biến cỏ cây thành nhân chứng tình yêu.

NGUYỄN THỊ MÂY


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 08.10.2016… ............................... Vũ Thư Hữu .... 01

Vài dòng về một tân quý thư 60 tuổi đời… ............................. Vũ Anh Tuấn .... 04

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) .... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch .... 08

Đức Thích Ca đã ngồi thiền như thế nào để đắc đạo? .............. Tâm Nguyện .... 19

Cái duyên nhà thơ Tú Mỡ với đất Phù Lưu ..................................... Thúy Toàn .... 28

Kỷ niệm 405 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm ........ Đỗ Thiên Thư st .... 35

Người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ: Lê Kim & Bùi Viện ..... Phạm Vũ .... 41

Tha thứ cho anh (tt) ................................................................................... Hoài Ly .... 51

108 tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới .............................. Hoàng Kim Thư st .... 59

Về thăm thầy cũ (thơ) ..................................................................... Ngàn Phương .... 76

Cần Giờ (thơ) .................................................................................... Ngàn Phương .... 77

Bâng khuâng bụi phấn (thơ) .................................................... Vũ Thùy Hương .... 78

Vọng tưởng (thơ) .......................................................................... Vũ Thùy Hương .... 79

Cây đàn tiên I (thơ) ............................................................................ Thanh Châu .... 80

Cây đàn tiên II (thơ) ......................................................................... Thanh Châu .... 80

Cảnh già (thơ) .................................................................................... Lang Nguyên .... 81

Mua cười (thơ) ................................................................................... Lang Nguyên .... 81

Sầu mưa Sài Gòn (thơ) ..................................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 82

Gió mưa tháng bảy (thơ) ................................................. Phạm Thị Minh-Hưng .... 83

Vui đùa (thơ) ........................................................................................ Quang Bỉnh .... 84

Cô lái đò (thơ) ..................................................................................... Quang Bỉnh .... 85

Hết nửa chừng (thơ) ....................................................................... Ngô Bá Mạnh .... 86

Ngọc đời (thơ) .......................................................................................... Đàm Lan .... 87

Chút sáng thầm (thơ) ......................................................................... Bs.Doanlinh .... 88

Lắng đọng (thơ) .................................................................................. Bs.Doanlinh .... 89

Đợi chờ (thơ) ................................................................................................ Hoài Ly .... 89

Khúc mùa thu (thơ) .................................................................................... Hoài Ly .... 90

Hãy quên tôi đi (thơ) ............................................................................. Lam Trần .... 91

Không bỏ cuộc chơi (thơ) ..................................................................... Lê Nguyên .... 92

Ừ, thôi thì… … ....................................................................... Giáng Ngọc (G.Đ.) .... 93

Quân tử & tiểu nhân (thơ) ............................................................... Lê Minh Chử .... 94

Tại sao ? (thơ) ................................................................................... Lê Minh Chử .... 95

Một tối trong nhà Giáo sư trẻ (thơ) ................................................ Vũ Đình Huy .... 96

One evening in the young Professor’s house (thơ) ............. Vũ Anh Tuấn dịch .... 97

Chia tay trong mùa đông (thơ) ....................................................... Vũ Đình Huy .... 98

Parting in winter (thơ) .............................................................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 98

Về cõi bình yên ..................................................................................... Dương Lêh .... 99

Bảng danh từ màu sắc Việt - Pháp - Anh ................ Đào Minh Diệu Xuân st. . 108

Khung cửa sổ tâm hồn .................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .. 112

Truyền thuyết về Đức Phật: Ngày Phật Đản ........................... Thanh Châu st. . 115

Vài tục cúng (tt) .................................................................................. Nhựt Thanh .. 119

Món Don Quảng Ngãi ............................................................................. Bùi Đẹp . .. 125

Khổ đau ................................................................................................... Lam Trần .. 129

Lời hay ý đẹp ........................................................................ Phạm Thế Cường st. . 133

Mười nguyên tắc thọ thêm nhiều tuổi ............................................. Kim Thư st. . 134

Đọc sách giùm bạn: Bài học của chú Rùa .............................. Hà Mạnh Đoàn . 138

Ngẫm nghĩ về cuộc đời ........................................................................ Bạn LN st. . 139

Cây khô .................................................................................................... Đàm Lan .. 142

Phong lưu thảo ........................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 148



[1] T ú Mỡ Thơ và đời , NXB Văn học 1995, trang 280-281

[2] Tú Mỡ toàn tập, NXB Văn Học 2008, Tập II trang 908

[3] Tú M ỡ toàn tập, I.II, NXB Văn học, 2008, trang 863

[4] Tú Mỡ toàn tập, ba tập, tập III trang 103-120, và 121-123

[5] Và tập II, từ trang 391-452

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế