Hiện có 25 người xem / 2518859 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 13/9/2014

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 quý thư mà ông mới có: một cuốn bằng tiếng Việt (có bản dịch ra Pháp văn) và một cuốn bằng tiếng Pháp.

Cuốn tiếng Việt mang tựa đề là “Lục Súc Tranh Công” được in chung với bản dịch ra tiếng Pháp của Dịch giả Hoàng Hữu Xứng. Cuốn sách khổ 16x24 phân, dày 134 trang, được xuất bản năm 1944 (60 năm trước), và được minh họa bởi danh họa Mạnh Quỳnh. Vì cuốn sách được Thư Xã Đắc Lộ in, nên bản dịch cũng được dịch như một vài tác phẩm dịch thuật khác (Truyện Kiều cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch, Chinh Phụ Ngâm Bùi Văn Lăng dịch vv…) nghĩa là sau khi dịch cả câu, lại còn dịch từng chữ một, rất tiện lợi cho những người đọc vừa muốn đọc, vừa muốn học. Ngoài ra sách còn có khoảng trên mười minh họa rất dễ thương của danh họa Mạnh Quỳnh khiến cho giá trị của sách được gia tăng. Dịch giả Vũ Anh Tuấn rất thích cuốn sách này và ông mới may mắn mua được nó trong tủ sách bị tan tác của cụ Dương Minh Thới, một trong những người chơi sách nổi danh của Sài Gòn cũ, với giá chấp nhận được là 500 đô mít. Bản dịch của cụ Xứng cũng rất hay, rất đáng tin, vì thời trước các dịch giả đều rất cẩn trọng và thật sự khá giỏi thứ ngoại ngữ họ dịch.

Cuốn sách quý thứ nhì được giới thiệu là một cuốn sách bằng Pháp văn được xuất bản năm 1982 (32 năm trước) mang tựa đề là “Le Talisman” có nghĩa là “Lá Bùa” và của văn hào Tô Cách Lan Walter Scott. Đây là một truyện lịch sử thời Trung Cổ hồi thế kỷ thứ 12, khi vua Richard Sư Tử Tâm (Richard Coeur de Lion) chỉ huy cuộc Thập Tự Chinh ở Đất Thánh Palestine lúc đó do quân Hồi Giáo chiếm đóng. Đây là một truyện lịch sử nhưng được viết rất li kỳ hấp dẫn. Cuốn sách khổ 19x26 phân, dày 120 trang, bìa cứng chữ vàng tuyệt đẹp. Dịch giả Vũ Anh Tuấn muốn giới thiệu cuốn sách vì ông muốn cho các thành viên biết một dạng sách thật đặc biệt, có thể nói là tuyệt vời, khi trong cùng một cuốn sách mà người đọc được vừa đọc truyện, vừa được xem truyện tranh, có nghĩa là trong cuốn sách truyện này trang bên trái là truyện bằng chữ viết và trang bên phải là truyện bằng tranh in màu và được vẽ cực đẹp, nhân vật nào ra nhân vật ấy, khác hẳn những hình thù méo mó, nhăn nheo trông người chẳng ra người, ma chẳng ra ma như một số truyện tranh ngày nay. Không biết bao giờ người mình mới có thể làm được những cuốn sách đẹp như cuốn này? Thật là thích thú khi những hình tranh nằm ngay bên cạnh sẽ giúp người đọc hiểu rõ câu chuyện rất nhanh, đồng thời cũng học và nhớ được nhiều từ mới rất nhanh. Sau khi được giới thiệu, 2 cuốn sách đã được các thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu 2 quý thư xong, BS Đính cũng giới thiệu qua về 2 cuốn sách mà ông thích. Tiếp lời BS Đính, anh Dương đã lên nói chuyện và đưa đề nghị là từ nay, không chỉ có Dịch giả Vũ Anh Tuấn và một vài người khác mà mỗi một trong các thành viên đều nên giới thiệu với các vị khác những sách mình có, mình đã đọc và thấy là hay, là nên đọc.

Lúc này Dịch giả Vũ Anh Tuấn mới sực nhớ ra là có 2 vị khách mới nên ông đã lên tiếng mời họ tự giới thiệu vắn tắt về mình với các thành viên.

Sau khi hai vị khách mới tự giới thiệu, anh Hữu đã lên nói về vài vấn đề anh thắc mắc và ngâm tặng các thành viên bài thơ Tình Sử Mùa Hè bằng giọng ngâm rất truyền cảm của anh.

Tiếp lời anh Hữu, anh Phạm Vũ đã lên nói về nhà văn Thế Lữ danh tiếng và Tự Lực Văn Đoàn của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Sau anh Phạm Vũ, anh Lang Nguyên đã nói qua về hai chữ “Thầy Đồ” và ngâm tặng các thành viên một bài thơ.

Kế đó anh Lê Nguyên lên ngâm tặng các thành viên mấy bài thơ Tình Vẫn Còn Nguyên và Bùa Yêu.

Tiếp lời anh Lê Nguyên, bà Tâm Nguyện lên thông báo chuyện bà đi lễ và chữa bịnh nơi một bà lang rất giỏi, nên bà muốn giới thiệu cho các thành viên, sau đó bà ngâm tặng các thành viên một bài thơ vui nhan đề là “Ai điên?”.

Cuối cùng anh Thanh Châu, bằng giọng ca hùng dũng của anh đã hát tặng các thành viên bài “Bóng trăng trắng ngà – Có cây đa to…” và buổi họp kết thúc vào lúc 11 giờ 15…

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN

“LỀ LỐI CÁCH THỨC VÀ CHƯ THẦN

CỦA ĐỒNG CỐT VIỆT NAM”

của tác giả Pháp Maurice Durand

Mới đây tôi được cháu Nam chủ một tiệm sách cũ rất lớn ở Cư Xá Bắc Hải cũ gọi điện mời xuống xem một lô sách bằng tiếng Pháp mà cháu mới mua được. Được tin, tôi xuống ngay và gặp lô sách của cụ Dương Minh Thới, một trong những người chơi sách hiếm hoi của Sài Thành những ngày cũ. Tôi lựa được trên hai chục cuốn, trong đó có cuốn này, tuy chỉ ở dạng photocopy chứ không được là bản chính, nhưng thực ra nếu là bản chính thì chắc khó mà dám đụng tới, vì tôi chỉ giàu tình, giàu sách chứ chẳng giàu tiền!

Đối với những người Việt chúng ta, tôi muốn nói những người thuộc thành phần trí thức, nếu muốn hỏi nhau và bàn về chuyện lên đồng thì hầu hết chỉ biết được những chuyện như một số bà ăn mặc lòe loẹt, ca hát và nhảy múa, khấn vái loạn xà ngầu, rồi ban lộc ban liếc… và thế là chấm hết. Hỏi về nguồn gốc, lề lối cách thức và các loại thần linh mà các bà đồng thờ cúng thì ai nấy tịt mít, chối là không quan tâm nên không biết. Thế mà có một người Pháp, Giáo sư Maurice Durand thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ đã có một thiên nghiên cứu dày 333 trang, chiếm nguyên Tập Kỷ Yếu của Trường Viễn Đông Bác Cổ (Publications de L’Ecole Française d’Extrême-Orient) số XLV (45) năm 1959.

Cuốn sách nghiên cứu của cụ Maurice Durand gồm: đầu tiên là một bài viết dài 66 trang qua đó tác giả viết về nguồn gốc “Lên Đồng”, về các bà đồng (vì phần lớn là các bà) lên đồng múa may ra làm sao, hát hò ra làm sao, cầu khấn thứ thần gì? Và khi nhập đồng các bà đồng trở thành ngay chính vị thần các bà cầu khấn và đôi khi phán cho đơn thuốc chữa bệnh. Ngoài ra tác giả còn cho biết các bà đồng thờ những loại thần linh như Thần Hổ, Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo), ở Đền Kiếp Bạc, bà Chúa Liễu Hạnh ở Phố Cát vv… cùng với những bài chầu văn (24) như Tứ phủ công đồng văn, Địa Tiên Thánh Mẫu văn, Thập vị Hoàng Tử văn, Thượng ngàn công chúa văn vv… Các bài văn này còn có bản bằng chữ Nôm đi kèm. Tác giả cũng cho người đọc biết qua mấy bài viết về các thần thánh được thờ như Thần Hổ, Đức Thánh Trần, Bà Chúa Liễu Hạnh vv…

Cuốn sách còn có 8 Phụ bản (Planches) nguyên trang in màu về các hình ảnh đồ vật, mũ áo, vàng mã dùng cho các buổi lên đồng. Đặc biệt nhất là sách có tới 78 hình nguyên trang cho thấy tất cả các hoạt động của đồng cốt, thực là quá tuyệt vời.

Tác giả, cụ Maurice Durand đã không chỉ viết theo một số tài liệu tham khảo mà cụ có cẩn thận ghi ở cuối sách, mà cụ còn đích thân tham dự vào các buổi lên đồng và hầu bóng để được tận mắt chứng kiến mọi hoạt động, hành vi, cử chỉ của các bà đồng, vì ở ngay đầu sách cụ đã viết những lời tri ân và cảm tạ như sau đây: “Tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả những vị đã giúp tôi trực tiếp hay gián tiếp để tôi có thể hoàn thành tác phẩm nghiên cứu này. Đặc biệt là quý ông Trần-Hàm-Tấn, Đặng-Xuân-Khanh, Nguyễn-Hữu-Thọ, Jean Manikus thuộc Chi Nhánh Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội. Tôi xin chân thành bày tỏ lòng tri ân của tôi với tất cả các quý bà đã không mệt mỏi và đã luôn luôn tiếp đãi tôi một cách rất nồng hậu tại các cuộc lên đồng của họ. Không có họ, tôi đâu có thể thấy tận mắt, nghe tận tai, và tôi sẽ chỉ có thể có được những hiểu biết qua sách vở về một hiện tượng tôn giáo hấp dẫn nhất của người Việt”.

Có cuốn sách trong tay, tôi bỗng thấy bị hấp dẫn một cách kỳ lạ và tự hứa sẻ bỏ thì giờ đọc thật kỹ bài nghiên cứu của cụ Maurice Durand, vì cụ cũng đồng thời là đồng tác giả với Thiếu Tướng Quân Y Pierre Huard của tác phẩm nhan đề là “Hiểu Biết Việt Nam” (Connaissance du Vietnam) mà năm 1992 tôi đã dịch từ Pháp Văn sang Anh Văn, do đó tôi rất thích đọc những bài nghiên cứu cụ đã viết…

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN

****

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT

Một thoáng

Đạo Trời


Imprimatur: Ngày 09/06/2014

Phaolô BÙI VĂN ĐỌC

TỔNG GIÁM MỤC

GIÁO PHẬN SÀIGÒN

(Ấn ký)

Lời đầu

Trong bức thư của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16 gửi giới trẻ toàn cầu để giới thiệu cuốn sách Youcat, sách Giáo lý Công giáo cho thanh niên (Nxb. Tôn Giáo 2013) có đoạn viết: “Trong môi trường văn hóa thay đổi, nhiều người không còn biết chính xác Kitô hữu thực sự tin gì, Hội Thánh dạy gì và Hội Thánh còn gì để dạy nữa? Người ta phân vân không biết các điều trên còn phù hợp với hoàn cảnh văn hóa đã đổi mới sâu xa. Kitô hữu như vậy đã lỗi thời rồi chăng? Vẫn còn có thể là tín hữu hợp thời chăng? Đây là những câu hỏi mà nhiều Kitô hữu tốt ngày nay vẫn đang tự vấn… Sách Giáo lý Công giáo (Youcat) phải cho thấy những gì Hội Thánh Công giáo tin trong thời nay và những gì người trẻ tin không mâu thuẫn với lý trí” (Giáo Hoàng Bênêđictô 16).

Giáo lý Công giáo thì bao la nằm trong 73 cuốn Kinh Thánh Tân – Cựu Ước, sách hệ thống hóa Giáo lý Công giáo thì cũng rất nhiều và rất dày, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức nghiên cứu. Một Thoáng Đạo Trời là tập sách nhỏ đáp ứng yêu cầu của những ai chỉ cần bỏ ra 20 phút là có thể có được ý niệm tổng quát về đạo Công giáo, một trong 4 tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu. Xin hãy cầm lấy và đọc (Tolle et lege – St. Augustinô).

Tân Bình, ngày 02/05/2014

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT

***

Ghi chú : Thánh Kinh được trích dẫn theo bản dịch của Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.

Cách trích dẫn Kinh Thánh:

VD: Mt 5,17 – có nghĩa là sách Tin Mừng theo Thánh Matthêô đoạn 5 câu 17; Ga 14,6 – Gioan đoạn 14 câu 6.

MỘT THOÁNG ĐẠO TRỜI

PHẦN DẪN NHẬP

1. H. Đạo Trời là gì?

T. Đạo Trời nói chung là tín ngưỡng thờ Trời.

2. H. Đạo Công giáo là gì?

T. Đạo Công giáo là một tín ngưỡng chung cho mọi người và cũng là đường lối thể hiện niềm tin của một cộng đồng tín hữu có tổ chức, có hệ thống Giáo lý và hàng Tư tế với việc phụng thờ một Đấng Thiêng Liêng duy nhất là Ông Trời hay là Đức Chúa Trời.

3. H. Đạo Công giáo có thờ những thần nào khác không?

T. Đạo Công giáo chỉ thờ một Đức Chúa Trời mà thôi, nhưng Người có 3 Ngôi, Ngôi thứ nhất là Chúa Cha, Ngôi thứ hai là Chúa Con, Ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi là một Chúa duy nhất vì cùng một bản thể, một quyền năng nên bằng nhau, không Ngôi nào hơn Ngôi nào kém (một thí dụ dễ hiểu như nước có ba dạng: đặc, hơi và lỏng, nhưng cùng một bản thể nước; hay như ngọn lửa một trật tỏa ánh sáng và sức nóng).

4. H. Các vị thánh khác thì sao?

T. Đạo Công giáo có nhiều thánh nhưng chỉ tôn kính chứ không thờ, riêng với Đức Mẹ thì tôn kính cách đặc biệt, nhưng cũng không thờ như Chúa Trời.

5. H. Giáo lý của đạo Công giáo dựa trên cuốn sách nào?

T. Toàn bộ Giáo lý được rút ra từ bộ Thánh Kinh (gồm 73 cuốn: 46 cuốn trong bộ Cựu Ước và 27 cuốn trong bộ Tân Ước).

6. H. Giá trị của bộ Thánh Kinh thế nào?

T. Người Công giáo tin Thánh Kinh là Lời Chúa. Cựu Ước là bước chuẩn bị, nhiều điểm chưa hoàn chỉnh (do đường lối giáo dục tiệm tiến của Chúa). Tân Ước là những quy tắc hoàn chỉnh do Chúa Giêsu ấn định, vĩnh viễn không bao giờ thay đổi (ví như quy luật cho người lớn). “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thấy đến không phải để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).

7. H. Lý tưởng của Tân Ước là gì?

T. Là hòa bình: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Là hiền lành: “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp” (Mt 5,4).

Là chân thiện mỹ: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Là công bình: “Của Xêda trả cho Xêda, của Chúa trả cho Chúa” (Mt 22,21).

Là mến Chúa, yêu người: “Điều răn trọng nhất là mến Chúa hết lòng…, điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là yêu người như chính mình. Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ tùy thuộc 2 điều răn ấy” (Mt 22,37-40)…

8. H. Tại sao đạo Công giáo còn được gọi là Kitô giáo?

T. Vì đạo này do Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, được xức dầu tấn phong làm Tiên tri (Kitô có nghĩa là Đấng được Xức dầu) để thi hành sứ mệnh. Vì thế đạo Công giáo còn được gọi là Kitô giáo, tức là đạo mới phân biệt với đạo Do Thái là đạo cũ. Kitô giáo cũng là tên chung của những tôn giáo khác như Chính Thống giáo (ly khai khỏi Giáo hội Công giáo vào thế kỷ XI); Các hệ phái Tin Lành và Anh giáo (ly khai khỏi Giáo hội Công giáo vào đầu thế kỷ XVI). Những anh em ly khai này cũng tôn thờ Thiên Chúa, tôn thờ Chúa Giêsu Kitô, cũng lấy Thánh Kinh làm nền tảng nên cũng được gọi là Thiên Chúa giáo hay Kitô giáo, nhưng có một số điều trong Thánh Kinh họ hiểu khác với Giáo hội Công giáo.

9. H. Đạo Đức Chúa Trời (Thiên Chúa Giáo) có tự bao giờ?

T. Theo Thánh Kinh và niềm tin của các đạo hữu thì Đạo Đức Chúa Trời có từ tạo thiên lập địa, do chính Chúa lập cho loài người [tín ngưỡng dân gian cũng như những đạo do con người sáng lập, toàn bộ là đa thần hay phiếm thần (chủ trương rằng ở trong thế giới chỗ nào cũng là thần cả. Thần với vũ trụ là một, cũng gọi là vạn vật hữu thần giáo – Panthéisme)]. Nguyên đặc tính độc thần cũng đủ nói lên rằng Thiên Chúa giáo do Thiên Chúa lập, loài người không thể tạo lập được.

10. H. Đạo Công giáo có tự bao giờ?

T. Đạo Công giáo có từ khi Chúa Giêsu thiết lập (đầu thế kỷ I Công nguyên).

11. H. Đạo Công giáo có bao nhiêu tín hữu?

T. Cho tới nay đạo Công giáo có hơn 1,2 tỷ tín hữu.

12. H. Ngoài Đạo Công giáo có những tôn giáo nào cũng tôn thờ một Chúa Trời duy nhất?

T. Có Do Thái giáo, Chính Thống Giáo, Anh giáo, Tin Lành giáo (khoảng 1,2 tỷ), Hồi Giáo (khoảng 1,3 tỷ). Có thể kể cả tín ngưỡng dân gian tin thờ Ông Trời cao cả, tác sinh mọi loài: “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”; “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”; “Một Ông Trời thấy hết mọi sự, thưởng phạt công minh”; “Trời có mắt; Ơn Trời; Cầu Trời; Trời phạt”… Việt Nam đa số các gia đình đã thể hiện việc thờ Trời bằng bàn thờ Ông Thiên trước nhà, còn vua chúa thời phong kiến thì 3 năm một lần thay mặt toàn dân tế Trời bằng lễ tế Nam giao… (nếu tính gộp lại tất cả những người tin Ông Trời hay Chúa Trời thì cả thế giới có trên 5 tỷ người).

13. H. Đạo Công giáo lan rộng tới đâu?

T. Ngày nay đạo Công giáo có mặt khắp thế giới, không một nước nào mà không có người Công giáo, không nhiều thì ít.

14. H. Giáo lý đạo Công giáo được tóm gọn thế nào?

T. Giáo lý đạo Công giáo là những lời dạy của Chúa trong 73 cuốn Kinh Thánh, nhưng đã được trích ra và hệ thống hóa thành 4 đề mục hay 4 chữ: TIN - XIN - GIỮ - NHẬN .

PHẦN I: TIN

15. H. Tin là gì?

T. Tin là chấp nhận điều gì đó là sự thật dù ta không thấy, nhưng không vô lý và phi lý - Thí dụ: Loài người có trí khôn.

16. H. Đức tin khác với mê tín dị đoan ở chỗ nào?

T. Mê tín dị đoan là tin những điều không có thật, hão huyền và phi lý.

- Thí dụ bảo rằng bói toán là nói đúng quá khứ, tương lai. Thầy bói có giỏi nói số trúng trên các vé số xem nào!

- Các bạn trẻ ngoài Kitô giáo làm đám cưới thường coi tuổi, coi ngày-giờ: Tuổi hạp, ngày tốt, giờ tốt, tại sao cứ ly dị ào ào? (Số vụ ly dị mỗi năm mỗi tăng).

- Nói ngoại cảm chính xác: Sao không tìm ra xác chị Huyền bị Bác sĩ Tường vứt xuống sông Hồng ngày 19/10/2013? Hay xác chiếc máy bay Mã Lai MH370 mất tích ngày 08/03/2014 mang theo 239 nhân mạng!

Còn Đức tin luôn dựa trên cơ sở vững chắc là Lời Chúa dạy và lập luận chắc chắn của trí khôn, cho dù mắt không thấy (không có vô lý, phi lý trong Đức tin). Thí dụ:

- Thấy một đứa bé thì biết chắc nó có cha, có mẹ, có ông, có bà nội ngoại.

- Đi làm về thấy tủ bị mở khóa, đồ đạc mất thứ tự, tiền và nữ trang để trong đó không còn thì chắc chắn có trộm, dù không thấy và bắt được nó!

Cũng vậy, dựa vào nguyên tắc nhân quả hay túc lý của triết học, ta có thể nhận biết những chân lý siêu nhiên hay chân lý đức tin: Có tác phẩm thì phải có tác giả, có lửa mới có khói, có vật chất, có thiên nhiên và muôn vật trong trời đất thì phải có người làm ra nó, công trình kỳ diệu, lớn lao quá sức tưởng tượng loài người, không ai làm nổi cho nên Đấng làm ra trời đất phải cực kỳ lớn lao, quyền năng Đấng đó gọi là Ông Trời theo niềm tin bình dân, hay Chúa Trời theo niềm tin Công giáo.

Con chim nó hót trên cành

Nếu Trời không có thì mình có sao?

Con chim nó hót trên cao

Nếu Trời không có thì sao có mình?...

Lạy Trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cày

Lấy đầy bát cơm

Lấy rơm đun bếp

(ca dao)

Những câu ca dao bình dân nhất nhưng cũng chính xác nhất. Đối với người Công giáo, chân lý trên còn được củng cố vững chắc bằng lời Kinh Thánh: “Tự ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất” (St 1,1).

17. H. Đạo Công giáo tin những gì?

T. Đạo Công giáo chủ yếu tin 12 điều sau:

§ Điều 1: Tin có một Đức Chúa Trời

- Ngài là Cha nhân hậu gần gũi, không phải là một Thượng Đế xa vời chỉ biết sai thiên lôi đến sửa phạt.

- Ngài là Cha toàn năng, tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình.

§ Điều 2: Tin Chúa Giêsu Kitô là Con duy nhất của Thiên Chúa, phát sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời (thí dụ hình sinh ra bóng và có cùng một trật, có hình là có bóng, có bóng phải có hình). “Chúa Giêsu là họa ảnh của Chúa Cha” (Cl 1,15). Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra (phát sinh như nói trên) mà không phải được tạo thành. Đồng bản thể với Chúa Cha. Nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành.

§ Điều 3: Vì loài người và để cứu rỗi loài người (thủy tổ loài người được Chúa dựng nên có nam có nữ - Adam và Eva, được ban tự do nhưng đã lạm dụng tự do chống lệnh Chúa nên phạm tội và để hậu quả lại cho dòng dõi con cháu). Chúa Giêsu đã nhập thể trong lòng Đức Nữ Đồng Trinh Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần (là Ngôi Ba) và đã làm người. (Đức Mẹ cưu mang và sinh đẻ Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể bởi phép mầu của Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ chỉ sinh Chúa Giêsu mà thôi, không sinh thêm ai khác do người phàm nên Đức Mẹ trọn đời Đồng Trinh).

§ Điều 4: H. Chúa Giêsu đã làm gì ở trần gian?

T. Chúa Giêsu được Đức Mẹ và Thánh Giuse (là cha nuôi) chăm sóc bảo vệ cho lớn khôn, khoảng 30 tuổi Ngài đi khắp nơi trong nước rao giảng Đạo Thánh, làm nhiều phép mầu: biến nước thành rượu, hóa bánh ra nhiều, chữa mọi bệnh tật, khử trừ ma quỷ, cho kẻ chết sống lại. Sau ba năm giảng đạo, Ngài bị các thủ lãnh Do Thái ghen ghét, vu khống và bị kết án tử hình trên Thập giá thời quan Philatô làm Tổng trấn.

§ Điều 5: H. Chuyện gì xảy ra sau khi Chúa chịu chết?

T. Các môn đệ an táng Chúa, sau ba ngày Ngài đã sống lại như lời Ngài báo trước rất nhiều lần bằng lời nói và những hình ảnh ám chỉ.

H. Chúa sống lại có ai làm chứng không?

T. Có các Tông đồ và môn đệ cùng hơn 500 người được chứng kiến Chúa xuất hiện sau cái chết (1Cr 15,5-8), tiếp theo là hàng vạn, hàng triệu tín đồ sẵn sàng chọn tử hình để bảo toàn niềm tin Chúa sống lại (Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng có hàng ngàn hàng vạn anh hùng tử vì đạo), nhưng bằng chứng chắc hơn cả là những lời tiên báo trong Thánh Kinh. Chúa Giêsu nói với hai môn đệ trốn về làng Emmau: “Lòng trí các anh thật là chậm tin vào những lời Kinh Thánh. Nào Đức Kitô chẳng phải chịu khổ hình như thế rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả sách Thánh” (Lc 24,25-28) (điều lạ lùng nhất là mọi chi tiết trong đời sống của Chúa Giêsu đều được báo trước trong Thánh Kinh).

§ Điều 6: H. Sau khi sống lại Chúa làm gì?

T. Người còn ở lại dạy dỗ các Tông đồ 40 ngày, truyền lệnh cho các ông đi khắp tứ phương thiên hạ rao truyền đạo mới, rồi Ngài lên Trời ngự trong vinh quang của Chúa Cha.

§ Điều 7: H. Chúa Giêsu có trở lại thế gian không?

T. Người sẽ trở lại trong vinh quang để xét xử kẻ sống và kẻ chết (vào ngày Tận thế), kẻ lành được về Nước Thiên Đàng hạnh phúc vô cùng vô tận, kẻ dữ phải xuống Địa Ngục đời đời kiếp kiếp.

§ Điều 8: H. Niềm tin vào Chúa Thánh Thần như thế nào?

T. Chúa Thánh Thần là Ngôi Thứ Ba, là Thiên Chúa và là Đấng Thánh hóa, ban sự sống. Ngài bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người đã dùng các tiên tri (những người được chọn để nói thay Chúa) mà dạy dỗ loài người (qua Thánh Kinh).

§ Điều 9: H. Chúa Giêsu về trời Ngài có trối sự nghiệp cho ai ở trần gian không?

T. Hội Thánh là cơ nghiệp chính Chúa Giêsu thiết lập và làm đầu. Chúa đã đặt Thánh Phêrô là Tông đồ Cả làm thủ lãnh thay mặt Ngài điều hành công việc truyền Đạo. Kế vị Thánh Phêrô là các Đức Giáo Hoàng - tới vị đương kim là thứ 266.

H. Hội Thánh Công giáo có những đặc tính nào?

T. Hội Thánh Công giáo có bốn đặc tính:

- Duy nhất: Một niềm tin, một vị lãnh đạo và một hệ thống những việc tế tự.

- Thánh thiện: Đấng sáng lập là cực Thánh, đường lối, chủ trương của Tin Mừng là rất Thánh. Con cái của Hội Thánh rất nhiều người làm Thánh (những khiếm khuyết mặt này mặt kia là do yếu đuối, sai lầm của con người, không phải chủ trương của Hội Thánh).

- Công giáo: Đạo chung cho mọi người, đón nhận mọi người không phân biệt đối xử bất cứ dưới hình thức nào.

- Tông truyền: Giáo lý là do các Tông đồ, những người trực tiếp học với Chúa Giêsu truyền lại. Chúa hứa ở cùng các Tông đồ và những người kế vị cho đến tận thế: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

§ H. Điều 10 dạy ta sự gì?

T. Tin có một phép Rửa để tha tội. Phép này chính Chúa Giêsu thiết lập như visa vào Nước Trời: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho các con” (Mt 28,19-20) – “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần

(Ga 3,5).

§ H. Điều 11 dạy ta sự gì?

T. Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại: “Mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng Người Con và sẽ ra khỏi đó: ai làm điều lành thì sẽ sống lại để được sống; ai làm điều dữ thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,28-29). [Con người có hồn và xác - Hồn thiêng bất tử. Sinh thời bất cứ điều lành, điều dữ đều do cả hồn lẫn xác làm. Thiên Chúa là Đấng công bình vô cùng, thưởng hồn phải thưởng cả xác, phạt hồn phải phạt cả xác. Do đó việc xác sống lại là hợp lý, đương nhiên phải do quyền năng vô cùng của Chúa và phải chờ đến ngày tận thế, Chúa phán xét chung cả loài người, từ Adam cho tới người cuối cùng sinh ra].

§ H. Điều 12 dạy ta sự gì?

T. “Tôi tin hằng sống vậy - Amen”. Sẽ có cuộc sống vĩnh hằng sau phán xét chung. Ai được lên Thiên Đàng sẽ hạnh phúc mãi mãi. Ai phải xuống Địa Ngục sẽ đau khổ đời đời kiếp kiếp. Thiên Chúa tôn trọng tuyệt đối tự do của mỗi người. Ai phạm tội ác là công khai từ bỏ Thiên Đàng mà chọn Hỏa Ngục rồi, ở đời này còn có thể sám hối đổi đời, chứ đến chết mà vẫn yêu và chọn tội ác thì không bao giờ đổi được nữa. Kiếp sau vĩnh cửu là điều tuyệt đại đa số nhân loại vẫn tin. Người xưa tin nên mới chôn theo các đồ tùy táng (bằng chứng khảo cổ). Người thời nay vẫn tin nên mới cúng bái, nhang khói, giỗ chạp… Đạo Công giáo xác định rõ ràng Thiên Đàng vĩnh cửu dành cho kẻ lành, Hỏa Ngục đời đời dành cho người ác.

(Đạo còn nhiều tín điều khác nữa nhưng trên đây là 12 điều chính yếu)

(Còn tiếp)

THIỀN ĐỊNH của ĐỨC THÍCH CA

và của NGƯỜI THỜI NAY

Có lẽ Phật Tử nào cũng có thể kể lại vanh vách lịch sử của Đạo Phật. Đó là câu chuyện bắt đầu từ Thái Tử Sĩ Đạt Ta, là con của Ngài Tịnh Phạn, một vị Vua, thủ lĩnh của nhiều vương quốc nhỏ ở Bắc Ấn. Lúc vừa mới sinh ra thì có vị quan chiêm tinh tiên đoán là sau này Thái Tử sẽ trở thành một Đại Đế thống trị toàn thế giới hay là một nhà lãnh đạo Tôn Giáo. Tất nhiên, vua cha đâu có muốn cho con mình trở thành nhà lãnh đạo Tôn Giáo, vì thế, Thái Tử không được phép ra khỏi thành vì sợ Ngài trông thấy những cảnh không vừa lòng rồi chán nản mà bỏ đi tu. Ở trong triều, Ngài được cung phụng mọi thứ thỏa mắt, vừa tai, có rất nhiều nàng hầu xinh đẹp, và khi Ngài 16 tuổi thì vua cha đã cưới vợ cho Ngài. Đó là Công Chúa rất xinh đẹp Gia Du Đà La, mà Thái Tử phải chiến thắng những Hoàng Tử khác trong một cuộc tranh tài. 12 năm sau Công Chúa Gia Du Đà La mới sinh cho Ngài được 1 con trai, được đặt tên là La Hầu La.

Lần đầu tiên đi dạo ở ngoại thành, trông thấy cảnh người GIÀ, BỆNH, CHẾT, làm Ngài ngạc nhiên và hỏi vị quan hầu cận xem bản thân Ngài có Thoát được những thảm cảnh đó không? Vị quan trả lời là: Tất cả mọi người dù là bậc vua chúa hay thứ dân đều không thể tránh khỏi. Lúc trở về thành, Ngài ray rứt mãi, muốn tìm ra cách thức nào đó để không còn bị những cảnh đó diễn ra trên cái Thân con người. Thấy rằng nếu cứ tiếp tục ở trong triều thì bận việc triều chính và vướng bận vợ con, không thể được rảnh rang tìm kiếm, nên trong một đêm, Ngài đã lẻn rời bỏ vợ, con, cung điện, ra khỏi thành, gia nhập vô đoàn thể tu hành, hy vọng sẽ khám phá ra điều Ngài đang trăn trở. Năm đó Ngài 29 tuổi.

Thế rồi sáu năm học với sáu vị thầy giỏi nhất vẫn không có câu trả lời, mà thân thể do hành Khổ hạnh nên ngày càng suy kiệt. Cuối cùng Ngài chợt nhận ra là “tinh thần không thể minh mẫn trong một thể xác yếu đuối”, nên nhận bát cháo sữa của cô gái chăn bò, rồi trải tòa cỏ, ngồi tĩnh lặng dưới cội cây Bồ Đề với lời phát nguyện: “Sẽ không rời chỗ ngồi nếu chưa tìm được lời giải đáp”. Rạng sáng đêm thứ 49 thì Ngài tìm được thủ phạm đã gây ra Sinh, Lão, Bệnh, Tử của thân người, đồng thời cũng thấy được cách thức để chế ngự hắn ta. Sau đó Ngài dành suốt cuộc đời để truyền bá những gì Ngài đã khám phá ra. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT KHỎI SINH LÃO BỆNH TỬ là Bốn Nỗi Khổ Lớn của kiếp người. CON ĐƯỜNG tức là ĐẠO. GIẢI THOÁT có nghĩa là PHẬT, nên gọi là ĐẠO PHẬT.

Nếu chỉ đơn thuần là Phật Tử thì chỉ cần biết tới đó là đủ. Nhưng thật ra cũng là một thiệt thòi rất lớn, nếu ta cứ tin vào lời người khác để rồi thờ phụng, cầu xin Phật, cho rằng Ngài là một vị Thần Linh có thể phù hộ, độ trì cho ta. Trong khi đó, xem lại quá trình tu hành của Ngài ta không thấy chỗ nào nói rằng sau khi tu hành xong thì Ngài trở thành Thần Linh. Ngài cũng không hề hứa sẽ độ trì cho người khác, mà nói rằng chỉ để lại Giáo Pháp để ai muốn được Thoát Khổ thì hành trì theo đó.

Với những muốn thực hiện lời Thọ Ký: “Chúng Sinh là Phật sẽ thành” thì càng cần phải tìm hiểu cho kỹ xem Đức Thích Ca đã TÌM gì? Tìm như thế nào? Chứng Đắc là gỉ? thì mới có thể thực hiện cho bản thân theo như Đức Thích Ca cũng mong mỏi, muốn tất cả mọi người đều được như Ngài.

Trước hết, ta tìm xem điều gì đã đưa đến việc NGỘ ĐẠO của Đức Thích Ca. Phải chăng:

1/- Ngài không ngừng thắc mắc, trăn trở, về Bốn nỗi Khổ lớn: Sinh, Lão, Bệnh, Tử của kiếp người?

2/- Qua con đường tìm Đạo của Ngài, ta thấy rằng không thể bằng những phương pháp như, thần thông, phép mầu, khổ hạnh… Chỉ cho đến lúc Ngài chọn phương pháp NGỒI TĨNH LẶNG, sau này gọi là THIỀN ĐỊNH thì mới đạt được điều Ngài cần tìm, hay còn gọi là ĐẮC ĐẠO.

Tất cả những người có nghiên cứu Đạo Phật đều hiểu điều đó. Nhưng có một câu hỏi mà bao nhiêu thời qua, nhiều người đã không đặt ra, nên cứ đua nhau Ngồi Thiền, mà không thấy có người Đắc Đạo như Đức Thích Ca. Người Ngồi Thiền giỏi nhất cũng chỉ trở thành THIỀN SƯ mà thôi. Đó là lý do nào để gần 3.000 năm rồi, dù những người tham gia NGỒI THIỀN đều làm giống y như Đức Thích Ca: Cũng xếp tay chân, mắt khép hờ, ngồi yên một chỗ. Nhưng tại sao Đức Thích Ca chỉ cần có 49 ngày thì đắc đạo, mà người thời sau Ngồi mãi không đắc? Thậm chí thời các đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng bày ra Ngũ Phái chuyên Tu Thiền là Tào Động, Lâm Tế, Pháp Nhãn, Vân Môn, Quy Ngưỡng cũng không thấy cho ra đời được vị Giác Ngộ nào.

Thời nào cũng có những Thiền Sư nổi trội, vì được rất nhiều người ngưỡng mộ. Ở Nhật thì có Ngài Suzuki. Đài Loan thì có Ngài Nguyệt Khê. Ở Việt Nam ta, ngoài chùa chiền nào cũng có dạy Thiền thì sau năm 1975, ở tại Tp Hồ Chí Minh xuất hiện Ô. TÁM Lương Sĩ Hằng, dạy Tu Thiền Vô Vi để xuất hồn. Rất nhiều trí thức thấy lạ nên tham gia cũng khá đông. Nhóm này hoạt động được vài năm thì bị chính quyền bắt đi cải tạo vì cho là truyền bá mê tín dị đoan. Phái này cũng làm cho một số người bị điên loạn.

Thiền càng về sau càng được phổ biến, thậm chí có cả quán Trà Thiền và du lịch kết hợp Thiền. Nhưng do trong Kinh không ghi lại là Đức Thích Ca hay Chư Tổ đã làm gì trong khi Ngồi THIỀN, nên các Tông, Phái, các Thiền Sư mặc sức sáng tác ra những phương pháp để hướng dẫn: Thiền Ngồi, Thiền Nằm, Thiền Chạy vv... Có vị thì ra CÔNG ÁN. Có Thầy thì dùng phương pháp đánh, hét. Có thầy quăng phất trần. Thậm chí có vị chỉ đưa ngón tay lên, hoặc có nơi người học Thiền được cho Nhập Thất. Trong thời gian Nhập Thất, các Thiền Sinh phải chấp nhận bị đánh chết bỏ, gọi là Thiền “Đả Thất”, mà cũng có khối người theo học! Các người Thầy ra những Công Án hay Thoại Đầu cho người tu học Tham, cho rằng nếu khai được thì sẽ chứng đắc. Nhưng đa số Công án có vẻ không hợp lý chút nào. Thí dụ cho Tham “Ai niệm Nam Mô A Di Đà Phật”. Nếu khám phá ra là Ô. A hay bà B niệm Phật thì chẳng lẽ người khám phá ra sẽ thành Phật? Rồi thì “Tiếng vỗ của một bàn tay”! Có vẻ Công Án càng phức tạp càng được nhiều người muốn Tham. Nhưng phải chăng tìm gì thì gặp nấy. Có tìm Phật đâu mà gặp Phật? Vậy mà nhiều đời cũng truyền nhau để Tham những Công án này.

Người được cho là Chứng đắc bên Thiền Tông thì ngôn ngữ, hành vi không hề giống như cách thể hiện của Đức Thích Ca hay Chư Tổ. Các vị Giác Ngộ thì hết Ngã Chấp. Thân, Khẩu, Ý lúc nào cũng thanh tịnh. Không nói những lời vô nghĩa. Trái lại qua những gì được viết lại trong sách vở được phổ biến của Thiền Tông. Cụ thể là Vô Môn Quan, ta thấy họ rất kiêu mạn, coi Phật, Tổ chẳng ra gì, ngang với “Que cứt khô”, “ba cân mè”… Trong khi Phật Pháp có vô số chữ cần hiểu, cần khai mở, phải đâu riêng một chữ VÔ, và chữ Vô liên quan gì đến cái TÁNH, mà thấy được chữ này lại cho là THẤY TÁNH? Vậy mà thời đó các Tông Thiền tự cho phương pháp mình là “Đốn Ngộ”! Chỉ biết được 1 chữ đã Ngộ, còn những chữ khác chẳng lẽ không cần thiết? Hơn nữa, điều mà họ Tham không thấy dính dáng gì đến Giải Thoát Sinh Lão Bệnh Tử của Đạo Phật theo đường lối Phật Thích Ca đã hướng dẫn. Điều đáng buồn là những Thiền Sư khởi xướng đều là những đệ tử của Phật gia.

Thời gian đã chứng minh cho thấy: Những lớp đào tạo Tu Thiền cũng chỉ bắt chước Đức Thích Ca phần hình thức, không nắm được nội dung, nên nhiều đời qua, kể cả thời nay, biết bao nhiêu người NGỒI THIỀN mà không thấy ai đạt kết quả chứng đắc của Đạo Phật, và từ thời Lục Tổ Huệ Năng đã khẳng định thêm một điều: GIÁC NGỘ không nhất thiết phải NGỒI THIỀN, CŨNG CHẲNG CẦN NGỒI NĂM NÀY SANG THÁNG NỌ, vì Lục Tổ Huệ Năng lúc vô Chùa được giao cho chẻ củi, giã gạo ở nhà sau, không có NGỒI THIỀN suất nào, nhưng chỉ trong 8 tháng thì Ngài đã Thấy Tánh, được Ngũ Tổ Truyền Y bát. Chúng ta hiểu điều này ra sao?

Vậy thì thế nào là Thiền Định? Mục đích của Thiền Định là gì?

Thiền Định trước kia gọi là Tĩnh Lự, hay Tư Duy Tu. Qua định nghĩa, ta cũng thấy là không phải chỉ xếp tay, xếp chân ngồi bất động mà đã là Thiền Định như nhiều người hiểu lầm, rồi cứ Ngồi bất động ngày này sang tháng kia. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh Lục Tổ cũng chỉ trích lối Ngồi Thiền đó:

Lúc sống, ngồi không nằm

Khi chết, nằm chẳng ngồi

Gốc là cục thịt thúi

Làm chi vậy mệt ôi!

Người tu theo Đạo Phật được dặn dò phải làm 3 việc: VĂN-TƯ-TU. Có nghĩa là khi NGHE một pháp nào đó cần phải TƯ DUY, hiểu cho rõ rồi mới thực hành. Với Pháp THIỀN ĐỊNH cũng không khác. Do đó, rất nhiều người bản thân cũng không hiểu NGỒI THIỀN để làm gì? Ngồi Thiền phải như thế nào? Cũng không thấy Thiền Sư nào giải thích rõ, cho nên có người Ngồi một chỗ, bất động, nhưng đầu óc suy nghĩ đủ thứ chuyện. Thả hồn rong chơi các cảnh. Như vậy rõ ràng là Thân ĐỊNH, nhưng TÂM đâu có Định! Người khác thì hôn trầm, ý thức bặt đi đâu mất. Lúc tỉnh lại thì có khi cả tiếng đồng hồ đã trôi qua. Như thế khác gì ngủ Ngồi? Bởi tỉnh dậy thì vẫn y như cũ, có biết thêm được điều gì.

Đạo Phật định nghĩa rõ ràng về THIỀN ĐỊNH trong Kinh Viên Giác như sau:

THIỀN ĐỊNH LÀ CHỈ QUÁN

VÀ CHỈ QUÁN SONG TU

Thế nào là CHỈ QUÁN SONG TU? Chỉ là DỪNG lại, và Quán là Tư Duy về một vấn đề nào đó trong Đạo.

Muốn biết Đức Thích Ca đã làm gì trong lúc THIỀN ĐỊNH thì ta có thể hiểu qua lời tuyên bố của Ngài lúc vừa xả Thiền, nguyên văn như sau: “Ta lang thang trong vòng Luân Hồi qua bao nhiêu kiếp, tìm mãi mà không gặp Kẻ Làm Nhà. Hỡi Kẻ Làm Nhà, từ đây ta đã bắt gặp được ngươi rồi. Người không được Làm Nhà nữa. Bao nhiêu cột kèo của người đã gãy vụn cả rồi. Rui mè của ngươi đã tan nát cả rồi. Trí ta đã đạt đến Vô Thượng Niết Bàn, Ta đã hoàn toàn Giải Thoát”.

Qua đó, ta thấy Ngài đâu có Ngồi bất động và diệt hết tư tưởng như một số Thiền Sư sau này hướng dẫn. Trái lại, Ngài tập trung cả Thân lẫn TÂM để TÌM KẺ LÀM NHÀ và đã bắt gặp được hắn cũng như phá hủy những chất liệu mà hắn đã nhiều kiếp dùng để XÂY NGÔI NHÀ SINH TỬ LUÂN HỒI cho con người. Việc tìm được Kẻ Làm Nhà, Biết được cách thức để đưa đến Giải Thoát, gọi là ĐẮC ĐẠO.

Nhưng thời xa xưa, khi khai triển Con Đường Giải Thoát mà phải nói về những điều vô hình, vô tướng thì rất khó, không thể nào diễn tả được tư tưởng hay ý thức của con người, vì thế, Đức Thích Ca phải dùng nhiều ẩn dụ. Chính vì vậy mà những người NGHE mà không tư duy, tìm hiểu, cứ theo CHỮ mà hiểu, nên rất dễ hiểu lầm. Thí dụ Phật diễn tả CÕI TÂM, trong đó luôn sinh ra rất nhiều tư tưởng, tốt có, xấu có, mà Ngài gọi là PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ. Những tư tưởng thánh thiện, tốt đẹp thì Ngài gọi là Thần, Thánh. Những tư tưởng đen tối, xấu xa, tội lỗi thì Ngài gọi là CHÚNG SINH. Những CHÚNG SINH này xuất phát từ 3 động lực lớn là THAM, SÂN và SI. Chúng nhiều như những con người của một Thế Giới. Do có đến 3 chủng loại, nên Ngài gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Tư tưởng có nhiệm vụ thanh lọc cái xấu Ngài đặt tên là Bồ Tát. Nhiệm vụ của Bồ Tát là tìm, quán sát, thấy có chúng sinh nào muốn Khởi lên là giáo hóa chúng, để chúng bỏ đi những toan tính xấu, mà hướng thiện, gọi là “Đưa một Chúng Sinh về Nước Phật”, hay là “Độ được một Chúng Sinh thành Phật”. Cho nên, dù Bồ Tát đã “Diệt Độ vô lượng vô số Chúng Sinh, mà thật ra không có Chúng Sinh nào bị diệt độ cả”, vì đó là những tư tưởng trong nội tâm của người tu mà thôi.

Khi một Cái Tâm chỉ còn những tư tưởng thánh thiện, trong sáng thì được an vui. Những tư tưởng Tham, Sân Si không còn nữa, nên gọi là Phật đã Độ cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Lúc đó, cái Tâm của người làm việc Tự Độ đó được thanh tịnh. Phật gọi đó là CÕI PHẬT, hay là PHẬT QUỐC, vì tất cả đã được Giải Thoát khỏi phiền não.

Mục đích Tu hành theo ĐẠO PHẬT là SỬA những tư tưởng bị trói buộc vào CÁI THÂN và các PHÁP HỮU VI. Việc tháo gỡ sẽ lần lượt theo từng giai đoạn. Đầu tiên, Đạo Phật dạy là các PHÁP HỮU VI là không trường tồn, cuối cùng nó sẽ hư hoại, gọi là Vô Thường. Gốc của các pháp là KHÔNG, nên nó sẽ trở về KHÔNG. Người quán sát như vậy sẽ gỡ bỏ được sự ràng buộc với các pháp HỮU VI.

Khi Thấy được GỐC của các Pháp Hữu Vi thì người tu cũng sẽ bớt được sự ham muốn, ôm giữ nó. Đó cũng là kết quả của người tu học theo BÁT NHÃ TÂM KINH. Quan sát các Pháp sẽ thấy: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức... cuối cùng rồi cũng chỉ là Không, vì nó chẳng khác với KHÔNG. Do đó SẮC và KHÔNG như nhau. “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Rồi thì Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng theo đó mà hiểu, mà hành, để diệt phục chúng.

Nhưng nếu không tiếp tục Quán sát mà dừng ở đó thì người tu sẽ bị mâu thuẫn với cuộc đời. Nói Cuộc đời là KHÔNG. Nói Thân là KHÔNG, trong khi nó và chính Thân Ta đang hiện diện. Gai đâm, lửa đốt thì đau. Đói không thể không ăn. Bệnh không thể không dùng thuốc. Không thể thiếu mái nhà để che chắn sương gió. Quanh mỗi người vẫn là ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái và cả một xã hội với biết bao nhiêu con người. Vậy thì làm sao nói các pháp là KHÔNG được. Bởi thật ra cái KHÔNG đó cũng chỉ là một giai đoạn tu học. Chưa phải là cái lý rốt ráo. Chưa phải là cái đích cần đến của người tu Phật.

Sau khi THẤY được các Pháp Hữu Vi vốn không bền, không thật, và nhìn lại cảnh đời, ta sẽ thấy là các pháp thật sự đang CÓ. Nhưng vì không còn mãi, nên gọi nó là TẠM CÓ. Trong cái Thân Tạm Có này lại có một cái TA THẬT, trường tồn, bất sinh, bất diệt. Vì thế, những việc làm hiện đời sẽ ảnh hưởng đến kiếp sống về sau. Do vậy mà không nên tạo Ác Nghiệp, vì cái NGHIỆP tuy cũng vô hình, vô tướng, nhưng sẽ đeo đẳng người thực hiện. Có đi đến kiếp nào cũng không thoát.

Người thấy các pháp là KHÔNG sẽ không làm điều xấu, nhưng cũng chẳng thiết tha để làm điều tốt. Trên không thấy Phật để học hỏi. Dưới cũng không thấy có Chúng Sinh để Độ. Nghe nói có Tây Phương Cực Lạc với Bảy Báu tràn ngập vội bỏ hết mọi việc, chuyên chú Tụng Kinh, Niệm Phật để mong về! Như vậy cuộc sống của họ cũng chẳng biết phải về đâu và cũng không làm được lợi ích gì cho ai, kể cả cho chính bản thân họ. Họ sống lơ lửng như người không hồn, do chưa quan sát kỹ cuộc sống. Mới nghe nói các Pháp là KHÔNG đã vội chấp lấy. Do vậy, mà Phật nói rằng làm hư hoại các pháp, gọi họ là “chồi khô, mộng lép”, vì uổng một kiếp làm người, uổng duyên gặp Đạo, tu hành, vì chưa chịu học hết lý thuyết của Đạo Phật.

Người tu học cần quan sát các pháp, xét lại mục đích tu hành của Đạo Phật để thấy: Đạo Phật không hề dạy người tu phải xa lìa cuộc sống, hay sống chỉ để chờ chết. Trái lại, tu theo Đạo Phật là học cách thanh lọc cái Tâm của chính mình để tiếp tục cuộc sống giữa phiền não mà không bị phiền não bức bách, vì mục đích của Đạo Phật, là trang bị sự hiểu biết cho con người, để con người vẫn tiếp tục sống giữa trần gian ô trược mà không bi ô nhiễm, được như Hoa Sen, sống trong bùn mà vẫn tinh khiết... Người tu Phật vẫn sống giữa các Pháp Có, mà không để cho nó trói buộc mình. Họ cũng tham gia vào cuộc đời, như mọi người, nhưng không tạo Ác Nghiệp, bớt được những tính xấu THAM, SÂN SI đố kỵ, thương, ghét, hơn thua… của những người thấy cuộc đời là THẬT. Họ cũng không đắm mình vào cảnh Không, gọi là sống trong TRUNG ĐẠO, nhờ đó họ có được cuộc sống được an vui, gọi là đạt Hữu Dư Y Niết Bàn.

Kiểm chứng lại, ta thấy: THIỀN ĐỊNH mà Đức Thích Ca đã Ngồi, là để tập trung cả Thân và Tâm để tìm thủ phạm gây ra cảnh SINH, LÃO, BỆNH, TỬ cho cái Thân con người. Sau đó Ngài xây dụng thành Giáo Pháp để hướng dẫn cho những ai tin theo. Các vị Tổ nối tiếp về sau ngày càng giải thích rõ ràng thêm trong những bộ chính Kinh. Người thời sau chỉ việc tìm hiểu, nếu thấy hợp lý và bản thân mình cũng muốn đi theo con đường đó thì Y PHÁP TU HÀNH. Như vậy, bàn về mục đích của THIỀN ĐỊNH, ta thấy: khác nào có một tay sát thủ ghê gớm, từ nhiều đời đã hại biết bao nhiêu người, và còn sẽ tiếp tục mãi nếu không có người tìm bắt được hắn về quy án. Chính Đức Thích Ca đã tìm được hắn và đã liệt kê hết về những hành vi, tác hại, mặt mũi của hắn từ mấy ngàn năm về trước rồi. Người sau cần gì phải nhắm mắt nhắm mũi Ngồi để tìm kiếm ai nữa? Cho nên, người tới thời này vẫn còn NGỒI THIỀN, chứng tỏ chưa biết gì về THIỀN của Đạo Phật! Thì giờ ngồi khơi khơi đó, lẽ ra họ nên tập trung để tìm hiểu cho kỹ lý thuyết của Đạo Phật, để hiểu cho rõ mà thực hành cho đúng, để được lợi lạc.

Chính vì không hiểu rõ về Đạo Phật, về những danh xưng Phật, Bồ Tát, Cõi Phật, nên nhiều người đã vọng ra, tạc cho nhiều tượng Phật cho to, rồi ngày mấy thời hương khói thờ phụng, mong cầu được phù hộ, độ trì. Không biết rằng Phật là nói về tình trạng Giải Thoát, an ổn trong nội tâm của mỗi người, không phải là Thần Linh thì làm sao có thể cứu độ cho ai. Nhìn lại con đường tu tập của Đức Thích Ca, ta thấy Ngài chỉ đi tìm nguyên do của Sinh Tử Luân Hồi, và khám phá ra cách thức để không còn bị vòng quay đó cuốn đi nữa. Việc tu hành của Ngài cũng chỉ là để Thoát khỏi những ràng buộc của Pháp Tướng cho bản thân Ngài, sau đó Ngài truyền dạy lại để ai cũng muốn được Giải Thoát thì thực hành theo, không phải để cho người sau tôn thờ. Ngược lại, những kẻ tán thán, tôn thờ Ngài để cầu xin lại rơi vào lời cảnh báo: “Kẻ nào ca tụng ta, tán thán ta mà không hành theo lời ta chỉ dạy. Kẻ đó đang phỉ báng nặng nề ta”.

Tóm lại, những người cho tới thời này vẫn còn NGỒI THIỀN bằng tướng, chứng tỏ họ chưa hiểu THIỀN VÔ TƯỚNG hay còn gọi là NHƯ LAI THIỀN của Đạo Phật. Có nghĩa là: Người tu hành, sau thời gian thanh lọc cái Thân, cái Tâm. Đối pháp không còn khởi nữa, thì dù đi, đứng, ngồi, nằm, tiếp xúc với thế nhân, giải quyết việc đời vẫn không động. Không Động không có nghĩa là ngồi ỳ như tượng gỗ, mà là không bị Tham, Sân, Si khởi lên. Người đạt được tình trạng an ổn thì không những bản thân họ, mà hoàn cảnh, mọi người chung quanh cũng nhờ đó mà bớt đi những vướng mắc, tranh chấp, để tất cả đều được an vui. Được sống một cuộc sống an lành, không phiền não là họ đã đạt đến mục đích mà Đạo Phật muốn người tu hướng đến.

Thời xưa có vị đã mô tả con đường tu Phật bằng những bức tranh Thập Mục Ngưu Đồ, vẽ Người Chăn và con Trâu. Đầu tiên, Người chăn đi tìm con trâu thất lạc bằng cách theo dấu chân của nó. Khi tìm được nó rồi, thì giáo hóa, điều phục nó. Khi con trâu đã được thuần hóa rồi, thì dù cho có thả nó vô ruộng lúa, nó cũng không phá hại. Người chăn trâu thỏng tay vào chợ. Cuối cùng là cả người chăn, lẩn con trâu đều được Giải Thoát. Con Trâu đó tượng trưng cho cái VỌNG TÂM. Người tu Phật phải nương theo lời của chư vị Giác Ngộ hướng dẫn mà tìm cho được cái Vọng Tâm. Thấy được nó rồi thì phải dùng lý thuyết của Đạo để giáo hóa nó. Khi VỌNG đã biến thành CHÂN rồi, thì người tu được Giải Thoát.

Hành trình TÌM TÂM, THẤY TÂM, ĐIỀU PHỤC CÁI TÂM phải theo một trình tự nhất định. Bắt đầu là phải học hỏi để nắm được Lý Thuyết của Đạo. Phải khai mở cái TRÍ HUỆ rồi dùng đó để phá VÔ MINH. Muốn có Trí Huệ trước hết phải có GIỚI. Có GIỚI rồi thì sẽ có sức ĐỊNH. Dùng sức ĐỊNH để Tư Duy, Soi Quán, tức là THIỀN QUÁN. THIỀN QUÁN như vậy không cần phải dùng TƯỚNG NGỒI. Mà chủ yếu làm sao có thể tập trung cái Ý thức, rồi dùng nó tư duy các pháp, dần dà có được sự hiểu biết theo đường lối của Đạo. TRÍ HUỆ cũng chỉ là cái Trí Hiểu Biết, nhưng thiên về Đạo, để phân biệt với cái hiểu biết thuần túy thế gian gọi là THỨC. Chẳng có gì là cao siêu, không thể hiểu nổi. Đạo Phật dạy phải BIẾN THỨC THÀNH TRÍ. Có nghĩa là hành giả dùng sự hiểu biết, soi chiếu vào các pháp của Đạo, để thấy ra những điều cần Hiểu, cần Hành trong Đạo.

Đạo cũng không khác với Đời. Người Tu cũng không có lên Niết Bàn để sống, mà vẫn tiếp tục sống trong cuộc đời. Cũng là mặc áo, ăn cơm. Nhưng người đời thấy cảnh trần là THẬT, là CÓ. Thấy THÂN là MÌNH, rồi ở trong đó tranh chấp với mọi người, dành tiền bạc, danh tiếng, địa vị để phục vụ cho nó. Người tu Phật thấy cái THÂN là THÂN NGHIỆP mà mình phải sống trong đó cho đến hết kiếp. Do đó, ở trong nó, nhưng không để cho nó điều khiển vào phải, quấy, hơn thua. Không bằng mọi giá kiếm tìm danh, lợi, vật chất để cung phụng cho nó. Không để cho cái Thân làm chủ, mà làm chủ nó, điều khiển nó theo mình. Sống vừa phải, không quá bon chen. Kính trên, nhường dưới, yêu thương, giúp đỡ mọi người, để tất cả đều được an vui.

Người tu Phật chân chính nhờ ý thức Nhân Quả nên tự mình trang trải cuộc sống, không lợi dụng người khác cung dưỡng cho mình để khỏi mắc nợ ai. Không tranh chấp, hơn thua danh, lợi, với ai nên cuộc sống được an ổn thì cần gì phải CẦU AN? Sống lương thiện, không tạo Nghiệp, đương nhiên sau khi chết địa ngục nào kéo được họ mà phải Cầu Siêu? Cả đời sống với dòng pháp thanh tịnh, không nghĩ, nói, làm ác, và giữ Thân, Khẩu, Ý, thì đương nhiên khi bỏ cái Thân, thần thức sẽ về với với những dòng pháp lành, cần gì ai tiếp dẫn? Tự giáo hóa cái Tâm của mình, cần gì ai biết mình đang tu hành, nên hình tướng, chiếc áo, nơi ở đâu có cần thiết. Vì ở đâu? Làm gì? Mặc gì? mà không Sửa cái Tâm được? Không cần rời bỏ cha mẹ, vợ chồng, con cái, nhưng rời Nhà Lửa Tam Giới. Không tạo 3 Nghiệp của Thân và 4 Nghiệp của Khẩu là đã “xa rời quyến thuộc ngu si”. Tự gây Nhân Thiện thì biết Quả lành chắc chắn sẽ tới. Ở trong đời mà không tranh danh, đoạt lợi với người đời, làm hết trách nhiệm của mình, thì gọi là “Ở trong thế gian mà Thoát thế gian”. Người có cuộc sống như thế thì lúc nào cũng THIỀN mà không cần phải Ngồi một chỗ vậy.

Tâm Nguyện - Tháng 9/2014


Phụ bản I

************************************

Nhân dịp kỷ niệm 250 năm năm sinh của Đại thi hào Nguyễn Du (1865-2015), nhà nghiên cứu Phạm Đan Quế mới cho ra mắt quyển thứ 18 viết về Truyện Kiều là: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRUYỆN KIỀU.

CLB Sách Xưa & Nay xin trân trọng trích giới thiệu làm nhiều kỳ phần viết về TỪ LÁY VỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN KIỀU để quý vị độc giả hiểu thêm thiên tài và bút pháp của Nguyễn Du.

Ban Biên tập CLB Sách Xưa & Nay

________________________________________________________

***

TỪ LÁY VÀ NHÂN VẬT

Phạm Đan Quế

I. TỪ LÁY VÀ NGOẠI HÌNH MẤY NHÂN VẬT CHỐN LẦU XANH.

Văn học cổ điển thường ít chú ý đến việc miêu tả ngoại hình nhân vật mà nếu có thì cũng theo lối ước lệ làm cho ngoại hình nhân vật bị trừu tượng hóa. Tả người đẹp thì “mắt phượng mày ngài, chim sa cá lặn”, tả anh hùng thì “Yến hàm hổ cảnh” (hàm én, cổ cọp) mà Nguyễn Du viết thành “râu hùm, hàm én”... Miêu tả ngoại hình nhân vật trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dù vẫn đi theo bút pháp truyền thống của nghệ thuật tượng trưng thời Trung đại, nhưng vẫn thể hiện sự cách tân rõ rệt. Đặc biệt là với mấy nhân vật chốn lầu xanh, Nguyễn Du sử dụng chủ yếu loại ngôn ngữ thuần Việt - đặc biệt là lớp từ láy, lớp từ vừa làm hiện ra được vẻ riêng trong ngoại hình của từng tên cụ thể lại vừa nói lên được thái độ và cảm xúc của nhà thơ.

Ta hãy cùng tìm hiểu xem Nguyễn Du đã thể hiện tài năng của mình trong lĩnh vực này như thế nào.

1. Ngoại hình của Mã Giám Sinh.

Trong các nhân vật Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ tả ngoại hình của một số nhân vật, trong đó đặc biệt có 3 tên ở lầu xanh Lâm Tri. Mã Giám Sinh xuất hiện đầu tiên vì là người trực tiếp đi mua Kiều:

0623. Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.

0625. Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh.

Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.

Mã Giám Sinh có một lai lịch mập mờ, là người viễn khách nhưng nói dối lại trả lời cũng gần, và đây là ngoại hình của Mã:

0627. Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Ngoại hình của y được tác giả mô tả qua mày râu và y phục bằng hai tính từ láy đặt ở vị trí thông thường ngay sau danh từ “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” - quay “cận cảnh” để nhìn thấy cả mày râu, lại quay “lướt” để thấy áo quần - vừa có giá trị miêu tả lại vừa nêu được nhận xét của tác giả. Sau câu lục “Quá niên - trạc - ngoại tứ tuần” với nhịp thơ khập khễnh 2/1/3, giới thiệu y một cách tưởng như vô tình, nhưng chính cái cách đặt câu lục có 5/6 từ Hán -Việt trang trọng và ngay sau đó là câu bát thuần Việt nôm na “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” này cho ta cảm giác như tác giả muốn hạ bệ Mã, đặt y vào đúng vị trí của mình với thái độ khinh ghét của ông. Với cách giới thiệu như trên, chỉ bằng 2 câu thơ, kết hợp hai kiểu quay, Nguyễn Du đã để Mã Giám Sinh tự bộc lộ tính cách trai lơ “bất cận nhân tình” của một tên buôn người mạt hạng.

2. Ngoại hình của Tú Bà.

Và đây là lần đầu tiên, tác giả nói đến Tú Bà:

0809. Lầu xanh có mụ Tú Bà,

Làng chơi đã trở về già hết duyên.

0811. Tình cờ chẳng hẹn mà nên,

Mạt cưa mướp đắng, đôi bên một phường…

Tuy nhiên Thúy Kiều chưa được gặp mụ, phải đến một tháng sau, lúc tới Lâm Tri thì:

0921. Xe châu dừng bánh cửa ngoài,

Rèm trong đã thấy một người bước ra.

0923. Thoạt trông nhờn nhợt màu da,

Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?

Cái thân hình ngoại cỡ của mụ gây cho Thúy Kiều ngay từ cái nhìn đầu tiên một ấn tượng mạnh mẽ, một cảm giác kinh tởm, ngạc nhiên đầy lạ lẫm. Một từ láy nhờn nhợt được đặt trước danh từ màu da theo lối đảo ngữ lại được đặt ở vị trí giữa câu lục vừa có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm ngoại hình của mụ vừa nêu bật được cảm giác ghê sợ nơi Kiều. Rồi lại còn tiếp theo một câu hỏi đầy mỉa mai với một từ láy đẫy đà đặt ở vị trí gần cuối câu bát Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao? Nguyễn Du đã “quay cận cảnh” rồi “quay lướt” để làm rõ cả nước da lẫn thân hình mụ trùm lầu xanh chỉ bằng hai câu thơ. Cái nước da nhờn nhợt và thân hình cao lớn đẫy đà đã tố cáo cuộc đời chơi bời truỵ lạc vô độ của mụ. Chỉ có đoạn đời dài trác táng chuyên hoạt động về đêm, lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm mới cho mụ một làn da có sắc màu nhờn nhợt - một màu da tái mét nhợt nhạt trông thật tởm và chúng tôi lại muốn như một số bản Kiều dùng từ lờn lợt cho thật là phù hợp với mụ vì nó gợi cho ta một cái gì thật là “bẩn thỉu”.

3. Ngoại hình của Sở Khanh.

Nếu Mã Giám Sinh đã ở tuổi trạc ngoại tứ tuần để đóng vai người có của đi lấy nàng hầu thì Sở Khanh với nhiệm vụ quyến rũ lừa gạt những cô gái trong trắng nên phải trai lơ đỏm dáng đặc biệt là phải trẻ hơn vì hắn không có tiền lại mang dáng vẻ nho sinh:

1059. Một chàng vừa trạc thanh xuân,

Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.

Cũng như với Mã Giám Sinh với hai từ láy đặt ở vị trí thông thường sau danh từ: mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, Nguyễn Du dành cho Sở Khanh hai tính từ láy đặt ở cùng vị trí “Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng” nhưng ngay sau một câu lục với từ song tiết Hán Việt trang trọng thanh xuân trong Một chàng vừa trạc thanh xuân. Ngược lại, vẻ “nho nhã” Sở Khanh lại được giới thiệu cùng với tên của hắn ở hai câu tiếp theo:

1061. Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,

Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.

Chúng ta cần để ý là ở đây tác giả dùng chữ hình dong chứ không phải hình dung, dung còn là từ gốc Hán vẫn có cái nghĩa trang trọng nhưng dong đã trở thành từ thuần Việt nôm na nên hình dong chải chuốt mới có ý mỉa mai khinh ghét (Trong ca dao có câu: Trông mặt mà bắt hình dong - Con lợn có béo thì lòng mới ngon). Cụm từ Hình dong chải chuốt ấy lại kết hợp với những ý nghĩ từ điểm nhìn của Thúy Kiều: Nghĩ rằng... Hỏi ra mới biết... ở sau đã thể hiện rõ sự nghi ngờ, thiếu tin tưởng ở con người Sở Khanh, càng tố cáo cái vẻ đội lốt văn nhân của hắn.

4. Qua ba mục trên, cùng với cái màu da nhờn nhợt và cái khổ người cao lớn đẫy đà của mụ Tú, ta thấy với ba tên lưu manh ở nhà chứa Lâm Tri, Nguyễn Du đã dành cho mỗi tên hai từ láy thật là đắc địa để tả ngoại hình của chúng. Và cũng thật là mỉa mai nếu ta lại dùng câu Kiều sau đây để nói về ngoại hình của chúng qua cách mô tả của tác giả Truyện Kiều: Mỗi tên một vẻ, mười phân vẹn mười.

Nguyễn Du đã rất khéo léo và chính xác khi cho lần đầu tiên mỗi nhân vật xuất hiện bằng 4 câu thơ trong đó có 2 câu tả ngoại hình với 2 từ láy dùng đúng chỗ, cái nhẵn nhụi - bảnh bao của Mã, cái nhờn nhợt - đẫy đà của mụ Tú, cái chải chuốt - dịu dàng của Sở Khanh làm hiện lên cái thần của từng nhân vật mang từ thực tế sống động vào văn chương. Thế mới biết chỉ với 6 câu thơ mà tác giả đã mô tả ngoại hình của ba nhân vật điển hình này một cách thần tình biết bao. Chính vì vậy mà các nhân vật của ông mới sống mãi trong lòng độc giả.

Chỉ bằng một vài câu, Nguyễn Du không thể đi vào chi tiết. Ông chọn lối vẽ truyền thống là lối chấm phá của các nhà hội họa phương Đông, từ chi tiết tiêu biểu mà dùng bút lực làm bật lên cái thần sắc của từng người, đặc biệt với lớp từ láy đầy gợi cảm mà chúng tôi sẽ xét thêm ở mục sau.

+ Cũng xin lưu ý thêm quý vị độc giả về từ láy với ngoại hình của hai nhân vật khác là hai chị em Kiều. Với Thúy Vân là đầy đặn, nở nang:

0019. Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Với Thúy Kiều là sắc sảo mặn mà :

0023. Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

(còn tiếp)


*

Mừng 60 năm giải phóng Hà Nội –

NHỚ VỀ CÁC NHÀ VĂN HÀ NỘI

Mừng 60 năm Ngày Giải phóng Hà Nội:

Khi tôi lớn lên, chiến tranh đã lùi xa. Đất nước yên bình và vững bước trên con đường hội nhập. Thế nhưng, những ký ức về chiến tranh, về những ngày tháng lịch sử hào hùng cùng sự hy sinh xương máu của các thế hệ đi trước vẫn khắc sâu trong tôi qua những bài học lịch sử, những áng văn, thơ truyền cảm.

Trong dòng lịch sử đó, ngày “Giải phóng Thủ đô” đã mang đến cho tôi cảm giác hân hoan vì chính tôi cùng bạn bè học sinh trường tiểu học Quang Trung đi bộ đến Phố Huế đón bộ đội tiến về Hà Nội. Đây cũng là điều tôi luôn tự hỏi, bởi tôi vốn sinh ra, lớn lên ở Hà Đông (nay là Hà Nội). Vì thế, trong tiềm thức, ngay từ khi còn nhỏ thì ý niệm về Hà Nội trong tôi đã vô cùng thiêng liêng. Có lẽ đơn giản bởi một điều: Hà Nội là Thủ đô là trái tim của cả nước. Vậy nên, tự trong lòng mình tôi đã yêu Hà Nội, yêu cả những góc phố, hàng cây, những trang lịch sử hào hùng của Hà Nội.

Trong những ngày tháng lịch sử này, Hà Nội chuẩn bị tròn 60 năm giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Cách đây 60 năm, ngày 10-10-1954, khi những tên lính thực dân cuối cùng rút khỏi Hà Nội thì Ủy ban Quân chính Tp và các đơn vị quân đội nhân dân chia làm nhiều cánh lớn, mở cuộc hành quân lịch sử tiến vào Hà Nội. Trong rừng cờ hoa, với niềm vui sướng tột độ, 20 vạn nhân dân Thủ đô náo nức đón đoàn quân chiến thắng trở về. Cờ đỏ sao vàng tung bay, cả Hà Nội tưng bừng hân hoan trong niềm vui giải phóng.

Các nhà văn sinh quán tại Hà Nội:

- NGUYỄN KHẢI :

Nguyễn Khải sinh năm 1930 ở Hà Nội, quê cha ở Nam Định. Là nhà văn quân đội. Tác phẩm tiêu biểu: “Xung đột” (1953-1962), “Mùa lạc” (1960), “Chiến sĩ” (1973), “Gặp gỡ cuối năm” (1982), “Thời gian của người” (1985), vv… Nguyễn Khải là một nhà văn giàu sáng tạo, rất nhạy bén trước hiện thực cuộc sống. Năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí là mặt mạnh của trang văn Nguyễn Khải. Thời kỳ đổi mới văn học nước nhà, tác phẩm của Nguyễn Khải hàm chứa chất chính luận - triết lý.

- NGUYỄN TUÂN :

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đình nhà nho ở Hà Nội. Tác phẩm tiêu biểu nhất: “Vang bóng một thời” (1933), “Sông Đà” (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, độc đáo và uyên bác. Cái đẹp, cái thiên lương trong cuộc đời được ông nói đến với tâm hồn nghệ sĩ đích thực, với cái nhìn phát hiện và đầy sáng tạo. Văn của ông, chữ nghĩa của ông giàu có, tài hoa. Chuyện xưa và nay, chuyện trên rừng dưới biển, chuyện làm ăn, thú ăn chơi tao nhã… đến đặc sản, thổ ngơi, chuyện người, chuyện cây cỏ… từ rượu đến hoa, từ giò chả đến phở… được ông nói đến thật hay. Người đọc cảm thấy tâm hồn mình giàu có thêm lên qua từng trang văn độc đáo của ông, để yêu hơn, tự hào hơn đất nước, con người và nền văn hóa Việt Nam.

Nếu đồng ý rằng đối với Nguyễn Tuân, Hà Nội là nơi còn in lại nhiều dấu vết lịch sử “vang bóng một thời”, nơi những người tài tử hội ngộ, chúng ta sẽ hiểu tại sao tuy đây đó tác phẩm của ông có đượm chút “hoài cổ” song lại là những trang sách có ích, nó cho thấy “bề dầy” của Hà Nội, và làm cho chúng ta trân trọng những khía cạnh truyền thống tốt đẹp.

- TẠ VŨ :

Tên khai sinh: Vũ Hùng, sinh ngày 22-3-1935 tại Hà Nội.

Nhiều năm làm giáo viên bổ túc văn hóa tại Tổng cục Đường sắt. Sau đó nhiều năm làm thợ. Đã xuất bản: Vừng sen Hàm Rồng (Trường ca, 1975); Những cánh chim trời (1984).

- TÔ HOÀI :

Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27-9-1920 (tức ngày 16-8 năm Canh Thân) tại thị trấn Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội. Là một nhà văn có nguồn sáng tạo to lớn. Có trên 100 tác phẩm. Trước cách mạng, nổi tiếng với truyện “Dế mèn phiêu lưu ký”. Sau năm 1945, có “Truyện Tây Bắc”, “Mười năm”, “Miền Tây”, “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, “Tự truyện” vv…

Sáng tác của Tô Hoài thể hiện vốn hiểu biết phong phú về đời sống và phong tục, chất tạo hình và chất thơ qua miêu tả và kể chuyện đầy thú vị. Là một nhà văn viết truyện về miền núi rất thành công.

- NGUYỄN ĐÌNH THI :

Sinh ngày 20-12-1924, tại Luang Prabang (Lào). Quê quán: Vũ Thạch, Hà Nội. Sau cách mạng Tháng Tám (1945), ông làm Tổng thư ký Hội văn hóa cứu quốc, Tổng thư ký Hội Văn nghệ (1956-1958); Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III.

Đã xuất bản: Người chiến sĩ (1956); Bài thơ Hắc Hải (1959), Dòng sông trong xanh (1974), Tia nắng (1983), bài hát “Người Hà Nội” và “Diệt Phát-xít” nổi tiếng.

- NGUYÊN SA :

Nguyên Sa tên thật Trần Bích Lan, sinh năm 1932 tại Hà Nội.

Thơ Nguyên Sa trữ tình, lãng mạn, giàu nhạc điệu, chất chứa sáng tạo trong ngôn ngữ cũng như hình ảnh, đôi khi pha lẫn thi tứ triết học.

Tác phẩm tiêu biểu: Thơ Nguyên Sa (1958), các tập biên khảo Quan Điểm Văn Học và Triết Học, Một Bông Hồng cho Văn Nghệ..., truyện Gõ Đầu Trẻ, tập truyện Mây Bay Đi.

- NGUYỄN HUY THIỆP :

Sinh năm 1950 tại Hà Nội, là nhà văn đương đại Việt Nam trong địa hạt kịch , truyện ngắn tiểu thuyết với những góc nhìn mới, táo bạo. Năm 2004 , bài viết “Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn” đăng trên Tạp chí Ngày nay của ông tạo ra những tranh luận sôi nổi trong giới văn chương trong một thời gian dài trên Báo Văn nghệ và một số trang mạng tại Việt Nam.

Các nhà văn quê ở Tỉnh, sinh sống - viết văn tại Hà Nội:

- Hoàng Ngọc Phách: người Đức Thọ, Hà Tĩnh. Thời thanh niên của Hoàng Ngọc Phách gắn liền với những kỷ niệm về các trường học của Hà Nội, cũng như ở trường Cao đẳng Sư phạm về sau. Nhìn lại nội dung tập sách, có điều lý thú là các nhân vật chính trong Tố Tâm đều mang cốt cách Hà Nội khá rõ.

- Nguyễn Công Hoan : đã học ở trường Bưởi Hà Nội từ khi chưa đầy mười tuổi, từ nhỏ, ông đã quen với nhân tình thế thái người phường phố, thành thạo sự đời, và chả coi cái gì làm quan trọng. Thành thử, tuy không phải bao giờ cũng trực tiếp đả động đến chuyện Hà Nội, nhưng trong cái nhìn của ông, chất Hà Nội rất rõ.

- Ngô Tất Tố: trong các tiểu phẩm của ông, đời sống Hà Nội hiện ra như một thứ kẻ chợ lộn xộn, ồn ào, phồn vinh giả tạo, một nhà báo như ông thấy rất chướng tai gai mắt. Chỉ riêng trong Lều chõng, chúng ta thấy Hà Nội hiện lên với nhiều nét đẹp, người Hà Nội từ những cô hàng bán giấy bút, cho đến ông chủ quán trọ cũng đều hết sức tài hoa, lịch thiệp.

- Nguyên Hồng: chỉ ở Hà Nội mấy tháng, rồi nhớ Hải Phòng, ông lại trở về thành phố cảng, có một dạo, Nguyên Hồng cùng gia đình ở hẳn Thủ đô vào năm 1943. Từ đây, cái nhìn của Nguyên Hồng về Hà Nội rất rạch ròi. Ông xa lạ một thứ kinh thành hoa lệ của bọn nhà giàu. Nhưng ông càng thêm yêu một Hà Nội khác, Hà Nội tranh đấu. Hà Nội đầy sức sống.

- Trần Huyền Trân – Thâm Tâm – Nguyễn Bính: Ngay trong lòng Hà Nội, thường cũng có một lớp người viết sống rất nghèo khó, như dân thất nghiệp, họ lam lũ làm văn làm báo như người khác cày thuê cuốc mướn. Báo của họ bán không chạy, sách in ra không gây được tiếng vang gì lớn. Nhưng họ vẫn gắn bó với nghề, với Hà Nội, và vừa sống vừa viết một cách thanh thản. Lớp nhà văn vô sản này đại khái như Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Nam Cao, Tô Hoài…

- Nguyễn Huy Tưởng:

Với Những người ở lại, Lũy Hoa, Sống mãi với Thủ đôNguyễn Huy Tưởng là một trong những người xứng đáng nhất với danh hiệu nhà văn Hà Nội. Những thành công chính của ông đều gắn với đề tài này. Lại nữa, trong khi viết về thủ đô, ông biết mang lại cho sinh hoạt nơi đây một vẻ trang nghiêm, một không khí lịch sử, nó là cái sắc thái cần thiết cho suy nghĩ của người ta về thủ đô mọi nước nói chung, và rất tiêu biểu cho Thủ đô Hà Nội nói riêng.

- Nhóm Tự Lực Văn đoàn với:

Nhất Linh – Khái Hưng Hoàng Đạo Thế Lữ Thạch Lam Tú Mỡ , và Xuân Diệu

Tự Lực Văn đoàn là một câu lạc bộ viết văn do Nguyễn Tường Tam ( Nhất Linh ) khởi xướng và bắt đầu hình thành vào cuối năm 1932 , chính thức năm 1934. Trụ sở chính của văn đoàn đặt ở nhà số 80 phố Quán Thánh , Hà Nội . Đây vừa là tòa soạn báo Phong Hóa, Ngày Nay; vừa là trụ sở nhà xuất bản Đời Nay. Ban đầu, bút nhóm chỉ có 6 thành viên, gồm: Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), là Trưởng văn đoàn và cũng là Giám đốc báo Phong HóaKhái Hưng Hoàng Đạo Thế Lữ Thạch Lam Tú Mỡ , về sau có Xuân Diệu .

Việt Nam Danh tác: Hà Nội băm sáu phố phường.

Hà Nội băm sáu phố phường là tập tùy bút xuất sắc của Thạch Lam do NXB Đời Nay xuất bản năm 1943. Đây là những trang viết về các giá trị văn hóa Hà Nội với nhiều nét đặc sắc. Trong từng mục, từng đoạn của Hà Nội băm sáu phố phường, mọi sự ghi chép của nhà văn đều hướng theo mục đích: cái đẹp. Đọc kỹ tác phẩm, nhìn vấn đề theo định hướng đó, ta thấy Thạch Lam quan tâm đến hai mảng văn hóa nổi bật của một Hà Nội ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc. Đó là mảng văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập một số ý kiến về những văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể.


Tuy Thạch Lam chỉ dành một số ít trang (khoảng 1/4) so với mảng thứ hai nhưng theo chúng tôi, đây là mảng Thạch Lam rất tâm huyết. Những biển hàng là bài viết rất lành. Nhà văn rủ rỉ kể về một nét độc đáo của Hà Nội: chỉ có Hàng Đào là một trong số ba mươi sáu phố phường có các biển hàng vẽ hình con vật mà chỉ là các con vật hiền “không có con nào dữ cả”: trâu vàng, bò vàng, cá chép vàng, lạc đà, con gà trống, con hươu sao, con kỳ lân, con phượng hoàng, con rùa, con vịt che ô, con voi vv... Có chăng con tê giác là con vật dữ, “nhưng con tê giác ở Hàng Đào thì lành lắm: nó không cắn ai bao giờ”. Những biển hàng “Không có hổ vàng, sư tử vàng”. Gắn với các biểu tượng này là một vài câu chuyện mang tính chất giai thoại không xác định tạo một nét hấp dẫn bình dị. Tất cả điều đó kết hợp thành một nét đẹp độc đáo mà một ai yêu Hà Nội chưa tận độ, hoặc không chuyên tâm tìm hiểu thì khó mà phát hiện được.

Nâng niu trân trọng những nét đẹp mang tầm vóc lịch sử văn hóa dân tộc, Thạch Lam không đồng tình với một số việc, một số hiện tượng chưa đẹp. Mục người Ta viết chữ Tây: Vẫn là chuyện biển hàng, nhưng “bây giờ các biển hàng viết chữ Pháp chiếm đến chín phần mười trong các biển hàng. Nhiều hàng, tuy chỉ giao thiệp với khách hàng Việt Nam thôi, cũng toàn chữ Pháp, cũng như ngày xưa họ đã dùng toàn chữ Nho”. Người sử dụng không nắm vững mẹo luật, sai nghĩa, sai chính tả thành ra lố bịch, phản cái đẹp, thiếu văn hóa. Thạch Lam chắc cũng không thích gì phải dẫn ra nhiều trường hợp sai sót đến thế nhưng không thể không làm.

Ông không phải là người hoài cổ, nhưng ông thực sự tiếc những cái đẹp mang chiều sâu văn hóa của dân tộc bị mai một khi quan sát và suy ngẫm về những biển hàng. Ông nâng niu, trân trọng giá trị văn hóa, những nét đẹp ẩn chứa trong từng vật thể này. Bởi ở đó kết đọng những phẩm chất tốt đẹp của một thương hiệu, là kết tinh những giá trị thư pháp, là truyền thống quý báu, là công sức của nhiều thế hệ vun đắp mới có được. “Tạng” của ông không khi nào gay gắt, đốp chát nhưng quả là ông ngỡ ngàng và đau buồn khi thấy: “Tất cả cái gì cũng thay mới: người ta không những thấy có biển hàng, người ta thấy cả bề mặt cái cửa hàng nữa. Và sự thay đổi bề ngoài ấy đem đến cho phố xá Hà Nội một vẻ mới riêng, hơi lạ lùng và đột ngột”.

Ông là người thấy rõ giá trị những tiến bộ của thời đại mới, bởi ông là người có vốn Tây học uyên thâm, trẻ trung, rất nhạy cảm với cái mới. Đồng thời ông cũng luôn có ý thức nâng niu và bảo tồn truyền thống. Ông thấy: “Những phố gạch thẳng và rộng rãi, với từng dãy nhà giống nhau đứng xếp hàng, thẳng và đứng hàng, đó là biểu hiện của văn minh”. Nhưng cũng vì nó mà mất đi vẻ tự nhiên, vẻ yên tĩnh của những giá trị ổn định trong đời sống của một Thăng Long-Hà Nội cổ kính mang vẻ đẹp xưa - một Hà Nội giản dị mà hài hoà, mộc mạc mà chan chứa tình người, ấm tình làng xóm, với những nét sinh hoạt thân quen đậm đà bản sắc văn hóa.

Trang văn nhắc đến một vài lối ngõ con: “ngõ Phất Lộc… ngõ Trung Yên”,… ngọn cỏ Ô Quan Chưởng không có gì khác lạ mà sao thức dậy trong lòng người yêu Hà Nội bao nỗi xót xa. Hình ảnh “Bên này một cửa hàng tạp hóa có đầy đủ quả sơn đen, có chồng giấy bản và ống bút nho, có cô hàng thùy mỵ mà hàng phố vẫn khen là gái đảm đang. Bên kia, nhà một ông cụ Tú, có tiếng trẻ học vang, có cậu học trò xinh trai đứng hầu chè thầy bên tràng kỷ” không cao sang, lộng lẫy, xa hoa nhưng thật đẹp, đầy cảm mến.

Đáng yêu sao Hà Nội một thời tuy không có nhà cao tầng, ít tiện nghi như châu Âu hiện đại nhưng lại tiềm tàng bao nét đẹp cổ điển phương Đông với một lối kiến trúc riêng: “Giữa nhà, mảnh sân vuông lộ thiên, có bể non bộ và cá vàng, có dãy chậu lan, có bể đựng nước và trên tường có câu đối chữ Nho. Đôi khi đi qua một cánh cửa hé mở chúng ta thoáng nhìn vào: bóng một thiếu nữ nhẹ qua sân, hình dáng một cụ già cúi mình trên cây cảnh. Tất cả cuộc đời của những kẻ bên trong, cuộc đời xưa, những ý nghĩ cũ, những hy vọng và mong ước khác bây giờ”.

Yêu Hà Nội nghĩ về những giá trị của một nền văn hóa đang bị tàn phai, bị thay thế, Thạch Lam không kìm giữ được tâm thế điềm tĩnh vốn có của mình đã phải đau xót thốt lên: “Không còn gì của Hà Nội ngoài năm sáu mươi năm trở về trước. Thăng Long của vua Lê, của chúa Trịnh không còn dấu vết nào. Đâu còn những cung điện ngày xưa, những phụ đế của các bậc công hầu, khanh tướng? Thỉnh thoảng một vài tên gọi còn khắc lại, một vài đống đất còn ghi dấu, thế thôi”.

Đặc biệt, những suy nghĩ, quan niệm và trăn trở của nhà văn, dưới góc nhìn văn hóa ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Ông không chịu được sự lai căng, pha tạp làm tổn thương đến giá trị trường tồn của những công trình mang giá trị biểu trưng của dân tộc: Hình ảnh Hồ Gươm, Tháp Rùa, Đền Ngọc Sơn là một cái gì thiêng liêng, cao quý trong tâm thức của người Hà Nội nói riêng, người Việt nói chung. Mọi sự đổi thay, gán ghép cho dù mới chỉ trong ý định cũng không thể chấp nhận.

Với tầm nhìn văn hóa vượt thời đại, bằng cảm quan nghệ thuật tinh tế, Thạch Lam sớm nhận ra nét đẹp hoàn mỹ và giá trị thực của các di sản văn hóa này. Với ông, những việc làm cho dù với dụng ý tốt đẹp như mắc thêm đèn điện chiếu sáng, đắp tượng đài, làm bót cảnh sát để giữ gìn an ninh... nhưng thiếu mất cái nhìn của người có con mắt văn hóa sắp đặt thì đều chỉ là “sự thêm thắt xấu xa”, là “bôi nhọ vẻ đẹp”. Nhìn những cột điện thẳng tắp, sừng sững, dây điện nhằng nhịt, với những cái “bình tích” bằng sứ trắng, ông thấy cột điện “như một thứ cây già mọi rợ, vụng về. Cái cây đó làm cho vẻ đẹp của cổng đền Ngọc Sơn giảm mất đến chín phần mười”.

Không phải ông phản đối việc đưa văn minh công nghiệp vào việc làm đẹp, mà ông nói rõ: “Muốn sáng cổng, sáng cầu thì thiếu gì cách: mắc đèn vào những chỗ lõm, khuất khúc của cổng và của cầu: đèn để như thế vừa được kín đáo, vừa không làm giảm vẻ đẹp, không kể đến lối ánh sáng đập lại ấy dịu dàng và làm tôn cảnh đền hơn lên. Đằng này, mắc những vòng sắt với cách hoa hoét rẻ tiền kia vào cái cổng đẹp đẽ có lối kiến trúc riêng, có vẻ cổ sơ ấy, thực là một cách đập phá mỹ thuật tai hại không gì bằng”.

Điều đó chứng tỏ khả năng nhìn nhận cái đẹp của Thạch Lam thật tinh tế, sâu sắc, nhất là những giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc, ẩn chứa trong từng vật thể và phi vật thể như những gì ông đã thể hiện.

Khu phố cổ Hà Nội: phố Bắc Ninh (nay là Nguyễn Hữu Huân).

“Hà Nội 36 phố phường là một cách gọi không chính xác của khu phố cổ, vì 36 phố phường là một cách gọi ước lệ khu vực đô thị cổ, nằm bên trong và bên ngoài cả khu phố cổ.

Với khoảng 400 phố hiện nay, Hà Nội thưa thớt dăm ba cái tên phố là địa danh nơi khác. Và Hà Nội từng có một phố mang tên Bắc Ninh. Thời thuộc Pháp, có một phố mang tên thống chế Pétain, mang thêm tên phố Bắc Ninh, sau đổi thành phố Phan Thanh Giản và nay, tên chính thức là phố Nguyễn Hữu Huân. Một đầu là chỗ ngã ba với phố Trần Nhật Duật (có Trường tiểu học Trần Nhật Duật), nhưng theo một góc nhọn chứ không phải là góc thước thợ như những ngã ba thông thường khác.

Sau khi lăn mình gần tròn 450m, nó kết thúc ở ngã tư Lý Thái Tổ và Lò Sũ, mà một thời phố Lý Thái Tổ được gọi là Hàng Vôi trên, phân biệt với Hàng Vôi đi song song và nhỏ hơn về phía Đông. Trường tiểu học Nguyễn Du từng được gọi là trường Hàng Vôi cũng vì thế.

Hà Nội là nơi hội tụ nhiều thứ hàng, nhiều nghề, mỗi nghề cũng thường mang một nét gì đó tượng trưng, chẳng hạn các cửa hàng chữa điện thường mang chữ Quang, hàng đồ gỗ mang chứ Lâm, hàng vàng bạc mang chữ Kim.

Trong đó, những hiệu làm và bán đồ gỗ có chữ Lâm thì tập trung khá nhiều ở phố Bắc Ninh như Quảng Lâm, Quản Nam Lâm, Thành Lâm, Mỹ Lâm, vì phố Bắc Ninh một thời gần như phố bán đồ mộc từ cái giường đôi, cái ghế đẩu, chạn bát, giá để sách, tủ đứng, bàn làm việc... có nhà làm ngay đồ trên vỉa hè, có nhà buôn gỗ súc để hàng đống gỗ tròn, trẻ con trèo lên chơi, có nhà chỉ buôn thành phẩm.

Cho đến thời điểm năm 1997-1998, chỉ còn một hai nhà chế biến đồ gỗ, còn mấy chục nhà buôn cất hàng đóng sẵn từ nơi khác đến giường, tủ, bàn, ghế, tủ gương, tủ tường, sa lông, những thứ đóng ở Hà Đông, Sơn Tây, Cổ Nhuế.

Chỗ đầu phố, trước khi có cây cầu Chương Dương đồ sộ, người Hà Nội quen gọi chỗ này là phố Cột Đồng Hồ vì có một cái đồng hồ công cộng. Còn hai bên phố có hai cái ngõ nhỏ, rất Hà Nội. Một là ngõ Phất Lộc (Thạch Lam có nhắc đến). Còn con ngõ nữa có tên chính thức là ngõ Nguyễn Hữu Huân, trước đây có tên là phố Bạch Thái Bưởi. Khi tên phố đổi, cái ngõ cũng phải đổi tên theo, Bạch Thái Bưởi chỉ còn là kỷ niệm trong lòng người Hà Nội.

Phố Nguyễn Hữu Huân nằm gọn trong khu phố cổ. Nguyên lòng phố Nguyễn Hữu Huân nay phẳng lỳ, thẳng tắp, nằm sâu trong lòng đất Hà Nội chứ khoảng trăm năm trước, đây còn là bờ sông, con đê chắn sóng còn nằm trên lòng con đường ngày nay.

Nguyễn Hữu Huân, người làng Tịnh Hà, tỉnh Tiền Giang. Ông thi đỗ thủ khoa năm 1853, nên ông mang thêm tên Thủ Khoa Huân. Năm 1875, chúng bắt ông, tuyên án tử hình, ông tự cắn lưỡi chết không chịu để Pháp chặt đầu. Ông cũng để lại nhiều áng văn thơ giá trị, còn trong nhiều tuyển tập do đời sau sưu tầm.

Đi trên hè phố Nguyễn Hữu Huân, cứ mang máng nhớ đây là phố Bắc Ninh xưa. Hàng cây xà cừ lực lưỡng mới trồng mấy chục năm nay, loáng thoáng reo vui, bóng lá thưa thớt chỉ đủ cho gió lướt qua nhè nhè, mà mình hình dung ra lơ thơ dòng nước sông Cầu, phảng phất tiếng ca quan họ, thấp thoáng tà áo đổi vai của liền chị ngày xuân cùng cái ô anh hai dùng dằng người ở...

TÓM TẮT

Trong lời bạt viết cho cuốn Sống mãi với thủ đô - tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng - in ra 1961, nhà văn Nguyễn Tuân từng đưa ra một nhận xét chung:

“Hình như hầu hết danh nhân, anh hùng cổ kim nước ta đều là những con người Hà Nội. Các vị ấy có thể quê quán gốc tích ở “ngũ tỉnh đàng trong, tứ tỉnh đàng ngoài!” nhưng cái đoạn trội nhất của các bậc ấy vẫn là diễn ra trên mảnh đất thủ đô.

…Cũng là một điều đúng vậy, khi mọi người bảo rằng Thủ đô là cái nơi kết tinh mọi phong vị nhân tài của một dân tộc đời này qua đời khác. Cho nên những con người Thủ đô bao giờ cũng bén nhậy sắc cạnh hơn những người khác với tất cả những ưu điểm và nhược điểm của nó, với tất cả cái trí cái dũng, cái tài, cái tật của nó”.

Hà Nội, Thủ đô ngàn năm văn hiến của ta là vậy. Mừng 60 năm giải phóng Hà Nội, chúng ta hãnh diện về một rừng Nhà văn – dù sinh quán tại Hà Nội hay ở Tỉnh – đều về sinh sống tại đất Thăng Long ngàn năm văn vật, chính tại nơi đây, họ đã viết biết bao điều hay lý thú về Thủ đô yêu dấu của đất Việt con cháu Rồng Tiên vậy.

Nhớ về ngày Giải phóng Thủ đô, chúng ta cùng nhau hát:

Ca khúc Tiến Về Hà Nội - Sáng tác: Văn Cao

Trùng trùng quân đi như sóng

Lớp lớp đoàn quân tiến về

Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng

Cờ ngày nào tung bay trên phố.

Trùng trùng say trong câu hát.

Lấp lánh lưỡi lê sáng ngời

Chúng ta đem vinh quang sức dân tộc trở về.

Cả cuộc đời tươi vui về đây.

Năm Cửa Ô đón mừng đoàn quân tiến về.

Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào

chảy dọc sức sống long lanh.

Chúng ta ươm lại hoa sắc hương phai ngày xa.

Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu,

Những bông hoa ngày mai đón tương lai vào tay

Như xuân đời mỉm cười vui hát lên.

Khi đoàn quân tiến về là đêm tan dần

Như mùa xuân xuống cành đường nghe gió về.

Hà Nội bừng tiến quân ca.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo & Internet)

***

TUẤN ĐÔ ĐOÀN PHÚ TỨ

- MỘT NHÀ VĂN TÀI HOA

GẮN BÓ VỚI DỊCH THUẬT

Thúy Toàn

So với các nhà văn khác cùng thế hệ, Đoàn Phú Tứ chừng như chưa được tìm hiểu, nghiên cứu bao nhiêu. Công trình chuyên khảo tương đối đầy đặn đầu tiên về ông là bộ sách Đoàn Phú Tứ con người và tác phẩm của Văn Tâm do NXB Văn học xuất bản năm 1994(1). Ngoài ra, về ông ít nhiều có được nhắc đến trong một số hồi ký của bạn bè hoặc cộng sự và trong đôi ba mẩu chuyện giai thoại đăng trên sách báo. Nói chung trong các văn bản đã được công bố người ta mới nói nhiều đến giai đoạn đầu trong toàn bộ cuộc đời hoạt động văn học nghệ thuật của Đoàn Phú Tứ - thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám và mấy năm đầu kháng chiến chống Pháp. Giai đoạn sau – thời kỳ từ sau hòa bình cho đến cuối đời của nhà văn, - người ta mới điểm xuyết sơ qua và ở một số tài liệu của người này người khác, lại còn có nhiều điểm chưa chính xác(2).

Đoàn Phú Tứ vốn người Kinh Bắc, sinh ra tại Hà Nội năm 1910, bắt đầu “viết văn từ năm 1925, lúc còn học lớp nhất. Những bài văn đầu tiên là những Từ khúc đăng báo Đông Pháp. Sau này thỉnh thoảng viết giúp Phong hóa, Ngày nay. Năm 1937, chủ trương tờ Tinh hoa. Chuyên viết kịch. Làm thơ rất ít”(3)

Theo nhà nghiên cứu Văn Tâm thì ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, Đoàn Phú Tứ “lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1932 trên báo Phong hóaTự lực văn đoàn với bài thơ mới Một buổi chiều xuân; từ 1937, Đoàn Phú Tứ bắt đầu hoạt động mạnh mẽ trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật và văn hóa, xã hội”: ông xuất hiện thường xuyên trên các báo; liên tục sáng tác kịch, làm chủ nhiệm báo Tinh hoa, trưởng ban kịch Tinh hoa (1937-1944) vừa tổ chức hoạt động trình diễn, vừa tham gia đạo diễn và thủ vai; giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức nhóm Xuân thu nhã tập; nghiên cứu tiếng Việt.

Sau Cách mạng tháng Tám, năm 1946 Đoàn Phú Tứ được bầu làm Đại biểu quốc hội khóa I. Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp ông tản cư ra vùng tự do, tham gia giảng dạy Trường văn hóa kháng chiến liên khu IV, Tòa soạn tạp chí Văn nghệ (cơ quan của Hội văn nghệ Việt Nam), Ủy viên Ban thường vụ Trung ương của Ban chấp hành Hội văn hóa Việt Nam, đi chiến dịch Sông Thao (1949), tham gia Hội nghị tranh luận văn nghệ (25-28 tháng 5-1949), tham gia tổ chức Hội nghị tranh luận sân khấu (20-22 tháng 8-1950), giảng ở Trường Đại học kháng chiến (Đào Giã, Phú Thọ), Trường văn nghệ nhân dân…

Tháng 7 năm 1951, Đoàn Phú Tứ trở về Hà Nội bị tạm chiếm làm nghề dạy học. Đến đây có thể coi như chấm dứt giai đoạn đầu trong cuộc đời hoạt động văn học, nghệ thuật và văn hóa, xã hội của nhà văn Đoàn Phú Tứ(4)

Giai đoạn thứ hai trong sự nghiệp của Đoàn Phú Tứ có thể kể từ khi ông xuất hiện lại trên văn đàn dưới bút danh là Tuấn Đô – người dịch tập Kịch I.L.Caragiale do NXB Văn học xuất bản vào cuối năm 1964, cho đến lần xuất hiện cuối cùng với đầy đủ tên họ Đoàn Phú Tứ, cũng với tư cách người dịch tiểu thuyết Thiên thần nổi loạn của nhà văn Pháp Anatôn Franx, cũng do NXB Văn học xuất bản năm 1987; chưa kịp in bản dịch vở kịch Sáu nhân vật đi tìm tác giả của nhà văn – nhà soạn kịch Italia Pirandelo, thì hạ tuần tháng 9 năm 1989, từ giã mọi người, ông ra đi mãi mãi.

Ở giai đoạn này, nhà văn tài hoa Đoàn Phú Tứ thể hiện chủ yếu trong lãnh vực dịch thuật. Kể ra hoạt động dịch thuật của Đoàn Phú Tứ có ngay từ khi ông còn rất trẻ. Nhà văn, nhà báo, nhà giáo quá cố Nguyễn Lương Ngọc trước khi qua đời ít lâu đã kịp xuất bản tập hồi ký Nhớ bạn, trong đó giành cả một chương ghi lại kỷ niệm về một trong những người bạn chí cốt từ thuở thiếu thời của mình – nhà văn Đoàn Phú Tứ. Ông viết: “Anh Tứ cùng tôi bắt đầu dịch văn từ khi hãy còn đi học”. Ở đoạn trên ông đã cho biết: “Các hoạt động chung và lâu dài của chúng tôi là trong các lĩnh vực dậy học, diễn kịch, làm báo và dịch thuật”. Và ông còn viết thêm: “Các bản kịch, các bản dịch của Đoàn Phú Tứ thì may mắn không để mất nhiều”(5)

Đáng tiếc là cho đến nay chưa có tài liệu nào cho biết rõ cụ thể hoạt động dịch thuật ấy của Đoàn Phú Tứ. Ở giai đoạn đầu Đoàn Phú Tứ chúng ta chỉ được biết có mấy bài dịch của ông đã đăng báo trong những năm đầu kháng chiến gồm: “Tổ chức kịch ở Liên Xô (tạp chí Văn nghệ số 22, 1950), Hoạt động của kịch trường Liên Xô trong chiến tranh vừa qua (tạp chí Văn nghệ số 25, 1950)(6)

Hoạt động dịch thuật văn học của Đoàn Phú Tứ trong giai đoạn sau chủ yếu gắn bó với nhà xuất bản Văn học (tiền thân là nhà xuất bản Văn hóa trực thuộc Viện Văn học), mà việc cộng tác đầu tiên là những ý kiến đóng góp của ông đối với bản dự thảo kế hoạch xuất bản quy mô đầu tiên, trong đó có nêu đến hơn hai trăm tên tác phẩm văn học của nhiều nước trên thế giới: Khi NXB Văn hóa còn đóng trụ ở số 6 Quang Trung, có lần Ban Văn học nước ngoài đã tiếp đón Đoàn Phú Tứ, lúc ấy vẫn đang dậy học ở trường Albert Sarraut, đến bàn bạc công việc theo lời mời của Ban biên tập.

Vào những năm này, hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới hàng năm kỷ niệm các danh nhân văn hóa thế giới, ở ta đã sôi nổi tổ chức các buổi nói chuyện về thân thế sự nghiệp các vị đó, dịch và xuất bản các tác phẩm của họ: Andecxen, Tagor, Michxkêvich, Bôtep, Hainơ, Sile… Năm 1962, thế giới kỷ niệm 50 năm ngày mất của nhà văn, nhà soạn kịch cổ điển Rumani Ion Luca Caragialê (1852-1912). Trước đó NXB Văn hóa đã liên hệ với Ủy ban bảo vệ Hòa bình của Việt Nam (người trực tiếp giúp đỡ là dịch giả Xuân Oanh) và đại sứ quán Rumani ở Hà Nội mượn được một số tài liệu về Caragialê và tác phẩm của ông. Đoàn Phú Tứ đã nhận với NXB sẽ tuyển dịch một tập kịch của Caragialê (trong khi Ban biên tập gợi ý ông dịch một tập truyện ngắn Caragialê). Dựa vào các tài liệu tiếng Pháp, Đoàn Phú Tứ đã hào hứng làm việc đến giữa năm 1963, ông đã nộp bản thảo cho Ban biên tập, gồm bản dịch 5 vở kịch: Một đêm dông tố (Hỉ kịch hai hồi), Ông Lêônida với phe phản động (Hài kịch một hồi), Bức thư rơi (Hỉ kịch bốn hồi), Những cảnh hội giả trang (Hài kịch ba hồi) và Oan khổ (Thảm kịch hai hồi), cùng một bài giới thiệu tới 15 trang viết tay.

Biên tập Hoàng Lâm được giao phụ trách đầu cuốn. Là người mến mộ nhà văn Đoàn Phú Tứ ngày từ thời còn trẻ (sau này nhiều lần ông Hoàng Lâm đã tả lại cho chúng tôi hình ảnh lý tưởng Đoàn Phú Tứ của ông ngày nào: một trang công tử hào hoa, tuấn tú luôn mang bộ đồ Tây bằng vải đũi mầu sáng là lượt thẳng tắp, cavat đỏ rực rỡ, ăn nói điềm đạm, duyên dáng, lại còn chơi cả viôlông…), cộng với tác phong biên tập cẩn trọng, tỉ mỉ, chu đáo, ông Hoàng Lâm đã cặm cụi đối chiếu từng dòng, từng trang trong bản dịch của Đoàn Phú Tứ với tác phẩm của Caragialê I.L qua bản tiếng Pháp. Biên tập không phát hiện ra những sai sót nào đáng kể, ngoại trừ những sơ suất nhỏ mà trong bất cứ bản thảo nào cũng có thể có, như ở phần phiên âm, chính tả… Bài Lời giới thiệu do Đoàn Phú Tứ viết cho thấy ngay dịch giả trước khi dịch đã nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng về từng tác phẩm. Thấy rõ dịch giả đã chọn dịch những gì ông tâm đắc, những gì mà nếu ở vào giai đoạn trước ông đã không dịch mà rất có thể dựa vào chủ đề của nguyên tác ông đã viết ra những vở kịch của ông như: Ghen, Sau cuộc khiêu vũ, Ông ki cóp, Ngã ba… Là một người sành sỏi trong lĩnh vực sân khấu, Đoàn Phú Tứ đã thể hiện đầy đủ trong các bản dịch tập Kịch Caragialê, từ cái tên phân định thể loại từng vở, đâu là hỉ kịch, đâu là hài kịch, đâu là thảm kịch đến lời lẽ đối thoại của từng nhân vật, đâu là cảnh sát, sen đầm, đâu là nhà chính khách địa phương, đâu là ông công chức quèn, hay bà quý tộc lỗi thời… Tất cả đều được chuyển đạt một cách rành rẽ, đâu ra đấy.

Bản dịch của Đoàn Phú Tứ Kịch Caragialê nhanh chóng được đưa in. Dịch giả Đoàn Phú Tứ đã tham gia tích cực vào mọi khâu trong quá trình in ấn, từ hoàn chỉnh bản thảo đến khi ra thành sách: ông sửa kỹ lại bản đánh máy, góp ý tỉ mỉ cho maket, tự xem lại cả bông một, bông hai và bản in thử trước khi đi in chính thức, để tránh phải đính chính lỗi in… Kịch Caragialê do Đoàn Phú Tứ dịch, ký tên Tuấn Đô đã in xong vào tháng 11 năm 1964 gồm 366 trang, do họa sĩ Dương Bích Liên vẽ bìa.

Thời điểm này là lúc NXB Văn học thuộc Liên hiệp văn học nghệ thuật Trung ương vừa được ổn định sau khi sát nhập hai NXB Văn hóa thuộc Viện Văn học với NXB Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Ban lãnh đạo NXB bấy giờ gồm các đồng chí Nguyễn Đức Phiên (Hoài Chân), Nguyễn Văn Mãi, Lý Hải Châu, Nguyễn Xuân Sanh, và do nhà văn Nguyễn Đình Thi làm giám đốc. Lúc này có chủ trương chung từng bước sử dụng văn nghệ sĩ có khả năng, nhưng bấy lâu có vướng mắc này nọ, hiện đang gặp những khó khăn trong đời sống. Nhà văn Đoàn Phú Tứ từ năm 1962 không còn dậy học ở Albert Sarraut, gia đình đông miệng ăn, chỉ trông vào đồng lương ít ỏi của một người đi làm nhà nước là vợ nhà văn, được nhiều người trong NXB chú ý. Từ việc cộng tác đầu tiên – tập Kịch Caragialê, ban lãnh đạo NXB đã mời nhà văn Đoàn Phú Tứ làm cộng tác thường xuyên: ngoài việc bản thân ông tiếp tục nhận dịch sách, ông giúp thêm việc biên tập, hiệu đính các bản thảo dịch của những người khác, tạo cho ông có thu nhập tương đối đều đặn với một hợp đồng cộng tác viên có lương hàng tháng…

Sau đây là danh mục các tác phẩm dịch của Đoàn Phú Tứ từ năm 1964 đến lúc mất:

- Môlie. Kịch. Người hà tiện,

Trưởng giả học làm sang, 1968

- Ipxen. Kịch. Nhà búp bê, 1970

- Xtăngđan. Tiểu thuyết Đỏ và đen, 2 tập, 1971,

in lần thứ 5, 1996

- Ipxen. Kịch. Hồn ma bóng quỷ, Con vịt trời, 1973

- Alfrết đờ Muyxê. Kịch. Lôrenzáxiô, Kantanziô,

Không đùa với tình yêu Bácbơrin, 1975

- Môlie. Kịch. Thằng Tactuyf. Anh chàng ghét đời, 1977

- Sêchxpia. Hài kịch. T.I. Người lái buôn thành Vơnidơ,

in chung với bản dịch của Song Xuân.

Giấc mộng đêm hè, 1979, từ trang 83 đến 186.

- Rabơle. Tiểu thuyết. Gargăngchuya, 1983

- Anatôn Franx. Tiểu thuyết Thiên thần nổi loạn, 1987

- Pirandelo. Kịch. Sáu nhân vật đi tìm tác giả (chưa in)

Qua danh mục sách ở trên chúng ta thấy tất cả các tác phẩm Đoàn Phú Tứ dịch đều là những kiệt tác của các tác giả thế giới nổi tiếng từ xưa đến nay. Các tác phẩm này đều mang những nội dung tư tưởng nhân văn cao cả, đều thuộc loại mẫu mực về văn phong. Phần lớn số này lại là các tác phẩm kịch, mà chủ yếu lại là hỉ kịch và hài kịch, hợp với bút pháp của chính nhà viết kịch Đoàn Phú Tứ đã từng nổi tiếng trước đây. Có những tác phẩm nguyên bản thuộc loại cổ văn, chữ nghĩa không phải ai biết tiếng Pháp cũng có thể hiểu được, như Pantagruyen Gargăngchuya của Rabơle, đến nay ở ta có lẽ chỉ có Đoàn Phú Tứ mới dịch nổi cho thanh thoát với những chú giải rất nghiêm túc, sâu xa.

Đánh giá về chất lượng các bản dịch thuật của Đoàn Phú Tứ tôi xin dựa vào hai ý kiến có uy tín lớn. Nhà văn Như Phong, thời kỳ làm giám đốc NXB Văn học, đã viết: “Trong những nhà văn chuyên về dịch thuật này có anh Tuấn Đô là một nhà văn cũ, bây giờ vì lẽ này lẽ khác, không sáng tác nữa chuyển hẳn về dịch văn học thế giới. Trong những điều kiện sinh sống eo hẹp, túng thiếu, anh đã làm việc rất khỏe, trong mười mấy năm trời đã dịch được năm vở kịch của H.Ipxen, mấy vở kịch của Môlier, của A. đờ Muytxê, một bộ tiểu thuyết của Xtăngđan và đặc biệt nhất là những tác phẩm chủ yếu của Rabơle, một nhà văn lớn ở thế kỷ 16 của nước Pháp, viết bằng một thứ văn Pháp cổ, rất khó dịch. Anh dịch rất chính xác lại có nghệ thuật, vì bản thân anh trước khi chuyên về dịch đã là một nhà văn sáng tác. Anh lại uyên bác, có một kho hiểu biết sâu rộng về ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử, phong tục của nhiều nước châu Âu, nhất là về nước Pháp, nên chú thích, tiểu dẫn, trong các bản dịch của anh rất bổ ích, hấp dẫn”(7)

Còn tác giả Nhớ bạn Nguyễn Lương Ngọc cũng có nhận xét tương tự: “Tuy anh là người ưa tự do, làm việc ít kế hoạch, nhưng trong công tác dịch thuật anh lại là người rất cẩn trọng, rất tỉ mỉ nên đã tránh được nhiều lần hiểu sai nguyên tác. Vốn là người rất giỏi viết văn, anh đã cố dịch sao cho sát đúng nguyên bản, đồng thời lại phù hợp với ngôn ngữ Việt. Anh thích nhất là dịch kịch. Đó cũng là lẽ đương nhiên. Anh vốn sành viết kịch. Anh thường nói: Lời trong kịch vừa là lời nói thông thường, vừa không phải là lời nói thông dụng, nó phải có ngữ điệu như thế nào đó thì nó mới có thể vượt sàn đèn được (dépasser là rampa). Anh cũng rất thích dịch Rabôleis, do anh có hiểu biết về Latinh. Chắc người không biết Latinh khó có thể hiểu được Rabôleis, nói gì đến việc chuyện nhà văn vốn còn chịu nhiều ảnh hưởng của tiếng Pháp cổ sang tiếng Việt cũng cần có sắc thái cổ…”(8)

Mỗi bản dịch của Đoàn Phú Tứ là một thành công. Nhưng những thành công đó lại có những nguyên do khác nhau. Thêm một thí dụ nữa: thành công bản dịch Đỏ và đen của ông. Ngoài những yếu tố khác thể hiện khi dịch các tác phẩm đã nhắc ở trên, nhà văn Bùi Hiển có lần đã vừa cười vừa nhận xét với tôi: “Juyliêng Xôren cũng là Đoàn Phú Tứ ấy mà...”. Điều đó ngụ ý nói người dịch đã chọn đúng tác phẩm “hợp” với mình và khi dịch đã hóa thân thành nhân vật của tác phẩm, như diễn viên nhập vai thể hiện nhân vật trên sân khấu. Nhưng để nhập được “vai” không nhất thiết ở ngoài đời thật diễn viên cũng phải giống y như nhân vật. Để có thành công, điều quan trọng là tài năng và lao động của người diễn viên. Chỉ qua một vài dòng trong lời người dịch in ở đầu sách Đỏ và đen ta cũng có thể thấy được điều đó - chính quan niệm đúng đắn và tác phong làm việc cẩn trọng của dịch giả đã đưa đến thành công của bản dịch: “Dịch tác phẩm này, chúng tôi sử dụng bản tiếng Pháp của Nhà xuất bản Fernand Hazan (Tủ sách Les Classiques du Monde) do Henri Mactinô (Martinean) trình bầy, chú thích đề tựa…”. “Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo bản in tiếng Pháp của Nhà xuất bản Ngoại văn Liên Xô (Moskva, 1957), có lẽ dựa theo Bucci, chúng tôi đặc biệt chú ý phần chú thích bằng tiếng Nga của bản in này, để bổ sung những chú thích của chúng tôi”.

Sở dĩ H.Mactinô không theo bản năm 1954, mà lại theo bản in lần đầu, là vì ông cho rằng “nên đọc Đỏ và đen khi chưa sửa chữa tí nào, cứ nguyên như nó từ trí óc của Xtăngđan một mạch tuôn ra, sôi sục ồ ạt, như lửa phun từ hỏa diệm sơn”, mặc dù làm như vậy có thể bị trách là đã tiếp nhận cả một số lỗi sơ suất của lời văn. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý ý kiến đó, khi sử dụng vào công việc dịch thuật bản in do H.Mactinô trình bày. Và trung thành với chủ trương này khi gặp những câu văn có vẻ luộm thuộm của tác giả, chúng tôi không lấy ý kiến riêng để sắp xếp sửa sang lại, mà cố dịch sát cả ý lẫn cách hành văn. Làm như vậy, chúng tôi nghĩ rằng là đã cố gắng nghiêm túc làm trọn nhiệm vụ người dịch, tôn trọng bản sắc của tác giả, không để cho cái bóng đen của mình chen lấn mất phần nào tác phẩm mình giới thiệu”(9).

Tôi còn giữ một lá thư của dịch giả Đoàn Phú Tứ viết cho, đề ngày 10-1-1973, cũng có thể chứng minh thêm thái độ lao động nghiêm túc sáng tạo của ông.

Anh Toàn,

Gửi lại anh hai vở kịch của Ibsen: Ma quỷ và Vịt trời (Bản đánh máy đã sửa chữa kỹ, có thể đưa nhà in được, nhưng còn phải dặn kỹ nhà in về cách trình bày, kiểu chữ… vì từ trước đến nay, do sự luộm thuộm của anh chị em NXB không chuẩn bị tốt bản thảo đưa in, nên vẫn có những lỗi trình bày, nhất là các vở kịch. Khi chữa morasse thì không thể nào chữa hết được vì sẽ phải đảo lộn cả, mất nhiều công. Mong rằng khi nào đưa nhà in, anh cho tôi biết để tôi đưa một maquette điển hình, cứ theo đó mà trình bày, xếp chữ.

Bản đánh máy này có tốt hơn so với những lần trước, nhưng vẫn còn tồn tại một số thiếu sót, như không nghiêm chỉnh tôn trọng những dấu chấm, dấu ngoặc, chữ gạch dưới… của bản viết tay. Đề nghị lưu ý các bạn đánh máy chú trọng điểm đó hơn nữa, thì tốt.

Anh cho tôi mượn:

1. Quyển Nhà búp bê (để tham khảo viết tiểu dẫn cho hai vở này).

2. Quyển Ibsen tiếng Pháp, có Le Canazd Sauvage, để tôi xem lại nguyên văn, ngộ nhỡ còn có một vài điểm cần sửa chữa bản dịch thêm, trước khi in, chăng.

Thân ái

Tứ

Không phải trong biên chế NXB Văn học, nhưng nhà văn Đoàn Phú Tứ thực sự gắn bó với công việc xuất bản của nhà xuất bản. Ông gần gũi với nhiều anh chị em trong nhà xuất bản. Có lần ông đã vào chi nhánh Nhà xuất bản Văn học tại TP.Hồ Chí Minh làm việc bảy tám tháng. Ông vừa theo dõi việc in ấn bộ Hài kịch Sechxpia, trong đó có cả một bản dịch của ông - Người lái buôn thành Vơnidơ, - vừa làm công việc biên tập các bản dịch của người khác. Trong công việc biên tập nhà văn Đoàn Phú Tứ cũng có thái độ nghiêm túc như trong công việc dịch thuật của chính mình. Trong tay tôi may mắn còn giữ được một tập góp ý nhận xét của ông về bản thảo 36 bài dịch ngụ ngôn của Tú Mỡ, từ năm 1965.

Tập góp ý có tới 36 trang, mở đầu còn có một nhận xét chung. Ông viết: “Dịch rất tài tình. Nhiều bài rất hoạt, nghe không thấy lời văn dịch, so với những bài ông Vĩnh dịch trước kia, có phần xuất sắc hơn (tất nhiên là nói chung, vì có một vài chỗ đặc biệt thành công của ông Vĩnh thì không so sánh làm gì).

Dịch giả tỏ ra có công nghiên cứu nguyên văn một cách nghiêm túc, hiểu thấu đáo câu văn Pháp cổ điển rất khúc mắc (tuy cũng còn sơ sót vài chỗ, tất nhiên, nhưng rất ít).

Đáng tiếc là sự thành công đáng được mong chờ ở dịch giả một cách đều đặn hơn, thì trái lại, còn một vài bài chưa thấy được đến mức mong đợi. Nếu không vì lý do thời gian gì đó, thì đề nghị dịch giả lưu tâm sửa lại, cho ngang với những bài khác. Được thế thì tiểu tập này sẽ được hoàn hảo. 9/9/1965”.

Tiếp theo là các trang góp ý tỉ mỉ cho từng bài dịch. Có bài dịch ông chỉ ra có tới hơn mười chỗ gợi ý để dịch giả xem lại. Chẳng hạn về bản dịch bài Thiếu phụ góa chồng, Đoàn Phú Tứ nhận xét:

Nói chung, bài dịch hay:

1) Ngày buồn chắp cánh bay xuôi

Thời gian lại dẫn nguồn vui trở về.

Câu dưới dịch sát hơn câu trên. Câu trên, kể ra dịch được thoát ý và lời hay, song hơi tiếc rằng bỏ mất hình ảnh sur le air du Temp…”

2) So với người vợ góa năm kia

Với người vợ góa hôm kìa khác xa.

Dịch không làm cho thấy được đây chỉ là một người, so lúc mới góa một ngày và lúc ở góa đã được một năm (như câu dưới nói rõ: cùng một cô ta). Trái lại, bạn đọc có thể hiểu lầm là có 2 người khác nhau.

3) Cô xưa muôn vẻ hút người

Cô nay khiến khách tếch rời lãng xa.

Cô xưa và cô nay: càng làm tăng sự hiểu lầm nói trên. Xưa hút người, nay… khó hiểu.

- Hút người: không sát và không được nhã. Sở dĩ hai câu này không ổn, vì quá nệ bám lời văn. Có thể dịch thoát ý như sau:

“Xưa sao khiến khách xa vời

Nay sao duyên dáng lắm người say sưa...”

Và cứ tiếp tục như thế suốt 36 trang viết tay. Dịch giả Tú Mỡ nhận được bản góp ý đã nghiên cứu kỹ lưỡng, tiếp thu phần lớn những góp ý ấy, bên lề mỗi ý kiến đều ghi rõ: “Đã sửa lại”, “Đã chữa và chú thích”, có chỗ còn ghi: “Đã sửa lại (dịch giả xin chịu mình dốt), “Đã sửa lại. Hay quá!”, “Xin lĩnh ý kiến và đã sửa lại. Hay!”, “Đã sửa lại cả một đoạn 9 câu”, “Đã viết lại cả một đoạn đầu cho sát nguyên bản và lọn nghĩa hơn”, “Hoan nghênh. Đã sửa lại”, “Đã dịch lại cả bài”…

Hoạt động dịch thuật là hoạt động chủ yếu trong giai đoạn 2 của nhà văn Đoàn Phú Tứ tính ra kéo dài tới một phần tư thế kỷ. Khối lượng các bản dịch của ông thật sự là to lớn. Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam về văn học dịch (1983-1984) trao tặng cho ông nhân bản dịch Pantagruyen Gargăngchuya, nói riêng, và toàn bộ hoạt động dịch thuật, nói chung, của ông cùng với tấm huy chương Chiến sĩ văn hóa do Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam gắn cho ông trong dịp kỷ niệm 35 năm thành lập Nhà xuất bản Văn học là một ghi nhận rõ ràng của xã hội đối với tài năng và lao động cần cù sáng tạo trong lĩnh vực dịch thuật của Đoàn Phú Tứ.


1: Văn Tâm – Đoàn Phú Tứ con người và tác phẩm,

NXB Văn học, 1994, 662 trang

2: Văn Tâm, sách đã dẫn, tr.38-41. Hồi ký Đào Xuân Quý

- Từ cái nôi văn học, NXB Văn học, 1994, tr.269

3: Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam,

NXB Văn học, 1988, tr.113

4: Văn Tâm, sách đã dẫn, tr.15-17 và 21-23

5: Nguyễn Lương Ngọc, Nhớ bạn, NXB Văn học, 1992, tr.149, 157

6:Văn Tâm, sách đã dẫn, tr.8

7: Như Phong, Tuyển tập Như Phong, tập 1,

NXB Văn học, 1994, tr.359-360

8: Nguyễn Lương Ngọc, Nhớ bạn, NXB Văn học, 1992, tr.158

9: Tuấn Đô, Lời người dịch in trong Đỏ và đen, T1,

NXB Văn học, 1971 , tr.55-56


Phụ bản II

TÔI ĐI TÌM 4 CÂU THƠ

BÀN MÔN LỘNG PHỦ

(Múa búa trước cửa Lỗ Ban)

Lý Bạch giang biên nhất đối thổ

Lý Bạch chi danh cao thiên cổ

Lai lai vãng vãng nhất thủ thi

Lỗ Ban môn tiền lộng đại phủ

Bốn câu thơ trên của Mai Chi Hoán là 4 câu vần “trắc” người dịch thơ lại dịch ra vần “bằng” (tự điển Tầm Nguyên).

Thái Bạch bên sông một nấm mồ

Tài cao Lý Bạch nhất làng thơ

Vãng lai du khách đều ngâm vịnh

Múa búa Lỗ Ban rõ dại khờ

Tháng 4 năm 1992 mỗi chiều thứ bảy chúng tôi thường hội tụ tại CLB trong một ngân hàng cuối đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa để tập đánh bóng bàn với nhau, nhóm chúng tôi có cố nhà văn Ng.Qug.S. (năm 1992 anh đang làm chủ tịch hội nhà văn Tp., anh cũng tập đánh bóng bàn như chúng tôi). Đến giờ nghỉ giải lao chúng tôi rủ nhau xuống căn-tin ngồi nói chuyện ngẫu hứng và ngâm nga mấy câu thơ cho vui (thời kỳ 1992 thơ đang nở rộ). Bất chợt anh S. hỏi, mấy anh thích thơ phú vậy tôi đố mấy anh có biết bài thơ nào bốn câu vần trắc, viết theo thể thơ đường luật từ hàng quan lại đến dân dã tính từ “đầu đời vua Hùng cho tới cuối đời vua nhà Nguyễn” chỉ nhận thơ VN còn thơ các nước ngoài không chấp nhận, nếu các anh tìm ra bài thơ bốn câu vần trắc (theo lối thơ kể trên) thì được thưởng. Lúc bấy giờ tôi còn trẻ, hơi háo thắng, ngồi suy nghĩ, nước mình từ vua quan đến dân mà không có bài thơ nào bốn câu vần trắc thật là vô lý, thơ dài còn làm được, huống chi thơ bốn câu vần trắc, mà anh S. viết văn thì tuyệt còn thơ phú chưa chắc anh đã biết nhiều. Tôi cười cười bảo:

- Anh S. nói chơi chứ làm gì nước ta từ quan tới dân mà không có bài thơ nào bốn câu vần trắc thật vô lý quá.

Anh S nói:

- Anh cứ đi tìm.

Tôi bảo:

- Vậy xin kỳ hẹn với anh trong vòng một tuần là có ngay.

Anh S. nói:

- Tôi cho anh nửa tháng, nếu anh tìm không có thì anh tính sao?

Tôi đáp:

- Nếu không tìm ra xin chịu một chầu nhậu, anh bằng lòng không?

Anh S. nói:

- Nếu anh tìm ra tôi cũng đãi anh và tất cả anh em ở đây như anh vậy.

Tôi bằng lòng, các bạn đều vỗ tay hoan nghênh.

- Vậy chúng ta bắt đầu tính từ ngày mai, anh em đều đồng ý.

Về tới nhà, lật đật bắc ghế đứng lên kệ sách vói tay lấy cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh-Hoài Chân ra xem, xem từ đầu đến cuối tập, mà chẳng tìm được bài thơ nào bốn câu vần trắc, tới tập thơ Thi nhân hợp tuyển của Dương Quảng Hàm, rồi Trần Trọng Kim cũng mù mịt; tìm mấy tập văn thơ từ lớp tám cho đến đại học mong sao có được bài thơ bốn câu rắc rối đó, mắt đã hoa, ngày xuống, chiều xuống, bụng thì đói ruột lại nóng, lục mấy ngày liền, nhưng mất công toi bốn câu thơ vẫn biệt vô âm tín. Qua hôm sau là đúng ngày hẹn, tôi vừa tới thấy có mặt đông đủ anh em, ông S. ngồi chễm chệ trên ghế ra vẻ kẻ chiến thắng, họ nhìn thấy tôi “mặt không vui” họ đã đoán biết “9/10 tôi thua”. Anh S. hỏi:

- Tìm ra rồi chứ?”

Tôi chậm rãi đáp:

- Vì bận công việc quá nên chưa có thì giờ để tìm, nếu tôi lục kỹ chắc phải có! (vẫn nói cứng).

Anh S. cười bảo:

- Nếu anh nói thế, tôi cho anh thêm một tháng nữa, anh bằng lòng không?

Tôi mừng quýnh nói:

- Anh cho thêm nha!! chắc chắn kỳ nầy tôi sẽ trình bốn câu thơ đưa anh xem.

Ngồi nói chuyện tào lao một lúc rồi chia tay.

Hôm sau tôi ghé lại nhà anh bạn (mê thơ, khờ “dại” như tôi), anh gặp hỏi, lâu quá sao không ghé lại chơi bộ trốn hả? Tôi cười như mếu, rồi nói, mình đi tìm thơ; anh hỏi thơ gì mà tìm? Tôi bảo bốn câu vần trắc, thể thơ Đường luật của VN, thơ của Trung Quốc không nhận; anh ấy nói cứ lại đàng kệ sách mà lục muốn thơ gì cũng có, cả thơ bốn câu như anh nói. Tôi đứng lên đi tới cái kệ đựng sách với tay hễ nghi có thơ là lấy xuống đọc, đọc hết tập nầy đến tập khác, không thấy hình bóng nó đâu cả, tôi ngó lên trên cao thấy một bộ sách tựa đề Văn Đàm Bảo Giám, trời đà xế bóng, tôi hỏi anh để mượn bộ sách 4 cuốn nầy đem về nhà xem cho kỹ. Anh hơi lưỡng lự, rốt cuộc rồi cũng cho mượn, tôi cám ơn và chào anh ra về. Về tới nhà, không nhớ gì tới cơm nước mà chỉ chăm chú vào tập thơ, tôi mở cuốn thượng ra đọc, đọc hết cuốn thượng tới cuốn trung (hai quyển), lần lượt tới tập cuối cùng là cuốn hạ, nhưng chẳng thấy bài nào bốn câu vần trắc như mình tìm, đa số tám câu vần bằng còn tám câu vần trắc rất hiếm thấy, nói chi 4 câu vần trắc; nhưng phải nhìn nhận trong bộ sách nầy có đủ các cây cổ thụ từ đời nhà Lý cho đến cuối đời nhà Nguyễn đều đầy đủ cả. Ba ngày sau tôi lại nhà anh để trả mấy cuốn sách, vừa thấy tôi anh liền hỏi: “Kiếm ra rồi chứ?”. Mặt tôi bí xị nói nó đã mất tích. Thấy vậy anh an ủi bảo: “Anh nên đi tới mấy câu lạc bộ thơ ca Q.3, ở đấy có nhiều người nổi tiếng về thơ Đường”. Tôi từ giã anh ra về, qua hôm sau tôi xin giấy phép trường cho tôi vào Thư viện quốc gia ở đường Nguyễn Du (sát tòa án Tp.) để tìm mấy bài thơ 4 câu trên. Rồi một tuần lễ nữa đã trôi qua, mà trên sách vở không thấy tung tích nó đâu cả?! (xem 46.437 bài thơ Đường luật sách của Trung Quốc chỉ thấy được vài bài thơ 4 câu vần trắc để lại). Hôm sau là ngày chủ nhật, tôi ghé lại Quận 3 (vào năm 1992 CLB hội thơ còn ở bên M.T.T.Q. tại đường Phan Đình Phùng, sau dời về Nhà văn hóa Q.3). Vừa vào tới nơi tôi nhìn thấy người rất đông có đủ mọi thành phần, họ nhìn tôi soi mói, họ nghĩ thầm không biết thằng nầy lạc loài từ đâu đến đây! Mình thì bỡ ngỡ, tôi chào tất cả mọi người, vừa bắt đầu làm quen, còn họ ư? Coi tôi như một chàng mới tập tễnh học làm thơ, nên có nhiều anh chị cũng “dương oai diệu võ” lắm lắm.

Một tháng trôi qua rất nhanh, tôi ghé lại CLB bóng bàn và chịu trả cái chầu nhậu đó, cuộc tiệc tốn hết “hai trăm bốn mươi mốt ngàn đồng” (tiền năm 1992 rất có giá trị), ngồi ăn mà nuốt không muốn trôi, vì bị anh em chọc quê. Nghĩ lại một bài học thật đắt giá, bây giờ nhớ tới còn mắc cỡ nhưng thầm nghĩ cũng vui vui, hồi nào cứ tự cho mình là thằng hiểu nhiều biết rộng; rồi từ đấy tôi không còn ra vẻ nữa, hễ đến ngày chủ nhật là đi tới CLB thơ ca Q.3 nghe thơ và học thơ, nhưng không quên cái nhục bốn câu thơ mà mình gây ra. Một hôm tôi gặp anh X.Q. (anh của chị Th.D. cùng CLB Xưa & Nay) tôi đưa anh xem một bài thơ bốn câu vừa mới viết xong ngày hôm qua:

BÊN ĐÌNH LÀNG

Bên đường dừng bước nhìn đình xưa

Trước cổng đôi câu đối chữ nho (bốn câu vần “Thông”)

Không biết chữ Tàu nên ngớ ngẩn

Heo may phớt lạnh buổi thu về

Ông X.Q. đọc sơ qua đưa trả lại cho tôi, nói anh viết hay, nhưng không phải thơ Đường luật; anh đọc thơ Bà H.T.Quan “viết theo vần chính”:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông rợ mấy nhà

Ông nói “tà”, “hoa”, “nhà” mới đúng thơ Đường luật. Tôi chưa kịp nói gì thì ông đã bỏ đi, mình suy nghĩ: à ra các cụ này chỉ biết làm thơ vần “chính” còn vần “thông” thì mù tịt; bắt đầu từ ngày tôi đi chơi thơ tới nay, chưa bao giờ thấy một bài thơ tám câu vần trắc (rất ít) nào ra hồn cả, nói chi bốn câu vần trắc. Qua một thời gian sau Quận 3 có cuộc thi thơ và ra tập thơ, tôi có gởi một bài thơ như sau:

VỊNH HOA QUỲNH

Giận đời chi lắm hoa Quỳnh ơi?!

Nứt nách nửa đêm hé nụ chơi (vần “chính”)

Ta tiếc đời hoa sao ngắn ngủn

Tàn đêm còn đọng chút hương trời

Lúc bấy giờ, ông Thanh Nam làm chánh hội thơ Q.3, Xuân Vân, Đình Lịch làm phó, ông Thanh Nam và Đình Lịch sửa lại: “Nứt nách nửa đêm hoa hé chơi”, sửa thơ mà không cho tác giả biết, đến khi xuất bản tập thơ, vào ngày chủ nhật có rất đông các nhà thơ, tôi mới đứng lên nói: “Hoa Quỳnh là một loại hoa chỉ nở về đêm, nụ hoa ở nách lá chui ra vào khoảng một giờ khuya thì bắt đầu nở hoa, tới gần năm giờ hơn thì tàn, nứt nách nửa đêm hoa hé chơi, mới nứt nách làm sao hé hoa được, có nụ mới ra hoa, hoa nở tác hoác rồi thì còn chơi với ai?, trong truyện Kiều có câu: Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên”, tất cả đều vỗ tay đồng ý lời của tôi giải nghĩa. Thơ tôi bắt đầu khởi sắc, nhất là bài thơ Lòng Quê Theo Một Bước Đường Một Đau được nhà văn Mai Văn Tạo (lúc bấy giờ ông làm Tổng thư ký hội nhà văn) ghé lại nhà hỏi tôi nghe nói anh có bài thơ khá lắm, đưa đây tôi đăng trong tập san Thất Sơn, tập thơ quê tôi đẹp lắm, nhiều nhà thơ nổi tiếng như nhà thơ Bảo Định Giang cũng có bài trong tập nầy, mẹ của bà Phạm Phương Thảo cho người tới xin tôi mấy bài thơ mà bà tâm đắc nhất, tôi có tặng cho bà tập thơ Một Bước Tâm Tình vừa mới xuất bản; hai tháng sau, ông Thanh Nam hội trưởng thơ Q,3 tặng tôi quyển sách làm thơ, trong sách có ghi cách dùng những từ ngữ: dạy cách làm thơ của ông xuất bản, còn thiếu sót, nhiều sai phạm, nhất là thiếu hai câu Phù khứ thanh “sắc” và Trầm khứ thanh “nặng” dùng cho những phụ âm.

Tới ngày chủ nhật tôi tới CLB Q.3 gặp lại bạn bè nói chuyện nghe thơ cho vui, ông Thanh Nam hội trưởng, đang ngồi trên ghế chủ tọa, tôi lại chào ông, rồi xuống kiếm ghế ngồi, để nghe ông giảng về thơ “Đường luật” trong đó có cách dùng ngữ âm (phonétique) vần bằng và trắc. Nhưng ông chỉ nói có hai bằng (bình) và bốn vần trắc mà thôi, tôi nối lời ông nói còn có hai âm là phù khứ thanh dấu sắc và trầm khứ thanh dấu nặng nữa, ông cười khẩy nói, anh bịa ra cho vui chứ làm gì có thêm sắc nặng trong đó, người trong hội thơ cười lên (như có ý chế nhạo), tôi chậm rãi nói, Phù khứ thanh để dùng cho những chữ “phụ âm” (consonne) như sau: B,C,Đ,L,M,N còn Trầm khứ thanh dấu nặng dùng cho những phụ âm: T,Tr,Ph. Tôi mở tập, cách làm thơ của nhiều tác giả nổi tiếng chính xác nhất, bấy giờ ông không còn nói thêm gì nữa, và mấy anh chị làm thơ cũng im luôn.

Hè năm 2004 trường Đ.H.B.K. cũng vừa thi cử xong, (sinh viên đã tốt nghiệp sắp rời ghế nhà trường) phòng LAB 1&2 chúng tôi ở trên lầu 3 sinh viên vẫn đông đủ, hôm đó có gió khá mạnh trời sắp mưa, tôi đang đứng nhìn ra ngoài “xuyên qua cửa kính” thấy mấy cây Phượng Vỹ hoa nở đầy cành nhìn rất đẹp (cũng thật buồn vì mùa chia tay sỹ tử) đang đung đưa theo gió, làm như trêu cợt với cây Phi Lao gần bên, cũng đang lắc lư theo chiều gió, còn các cành hình như muốn chụp lấy mấy đóa hoa phượng mà không tài nào chụp được cành hoa, còn thân cây thì ngã qua ngã lại ra vẻ tức giận lắm, tôi mới suy nghĩ viết ra bài thơ “Tình Sử Mùa Hè” thơ được anh Lê Văn Nhung, và anh Hồ Thi Ca tới nhà lấy bài thơ để đọc trên đài phát thanh t/s FM (lúc bấy giờ anh H.T.C. đang làm trưởng ban thơ nhạc trên đài), anh xin sửa câu “Một cây thông chết bên bờ suối” thành “Một cây thông lạnh bên bờ suối” để ăn khớp với câu: “Còn đọng hương xưa lạc lối về” tôi xin chấp nhận, tiếp câu: “Bướm vờn trêu nụ phượng trêu cây” sửa là: “Ong vờn trêu nụ bướm trêu hoa” thì tôi không đồng ý, và giải thích cho hai anh nghe như ở đoạn trên – lúc tôi đang đứng trong phòng LAB 1 của trường Đ.H.B.K. – hai anh đồng ý; xin quý vị nhìn vào cây mai thì biết không có con ong nào vờn qua lại trước nụ hoa cả mà chỉ hút mật hoa xong là bỏ đi ngay.

Khi muốn sửa thơ ai, mình phải tự xét mình coi có hay hơn người ta không? Mà có hay hơn nữa thì cũng không được tự chuyên như vậy, phải hỏi qua tác giả coi có bằng lòng không? (chị Bích Ngân phó giám đốc, bây giờ là Giám đốc Nhà xuất bản Văn Nghệ có trao đổi với tôi và anh Thành L.S. có cho tôi cuốn sách Luật xuất bản).

HẢI ĐĂNG: TRẦN VĂN HỮU

HẠT MƯA

Mưa rơi! Thánh thót mưa rơi

Chút tình mộng mị qua rồi! Thời gian!

Hạt mưa thánh thót bàng hoàng

Mưa rơi như thể hàng hàng lệ sa

Hạt mưa thánh thót phun hoa

Mưa rơi! Chẳng đợi người xa trở về!

Hạt mưa thánh thót đê mê

Mưa rơi! Sao chẳng hẹn thề với ai?

Đinh Xuân Hảo

QUÊ NỘI TRONG TIM

Lâu rồi con không về quê nội

Ngôi nhà thờ nghi ngút khói hương

Bắc Vàm Cống mênh mông vẫy gọi

Dòng Hậu Giang lồng lộng buồn thương.

*

Lâu rồi con không về quê nội

Vườn xoài, ao cá, nắng ven sông

Gió lướt thướt trôi trên đồng nội

Mây lang thang theo gió phiêu bồng.

*

Lâu rồi con không về quê nội

Tiếng còi tàu văng vẳng bâng khuâng

Tiếng sóng vỗ bập bềnh con nước nổi

Nắng hanh vàng soi nỗi nhớ mong.

*

Lâu rồi con không về quê nội

Chuối sau vườn xào xạc mỗi trưa

Đồng cỏ mượt vẳng tiếng trâu nghé ọ

Hoa bắp vàng phơ phất lưa thưa.

*

Lâu rồi con không về quê nội

Tuổi thơ trôi trong ký ức xa

Chút hối tiếc xen lẫn niềm bối rối

Tiếng buồn rơi nỗi nhớ xa nhà.

Đinh Xuân Hảo

BƯỚC CHÂN THU

Em có thấy lẩn thẩn vào thu

Lá rơi chen lấn cả vỉa hè

Xào xạc chân ai bâng khuâng bước

Tóc mềm quyến rũ trái tim si.

*

Em có nghe lất phất hạt mưa

Hát vu vơ đâu đó tựa hồ

Lẻn ra từ lòng anh đắm đuối

Từ dạo hôm nào em bước qua

*

Em có yêu nặng trĩu cung chiều

Mây xám lăng quăng, phố hắt hiu

Lác đác người qua, trong số ấy

Là anh, kẻ đứng, giả đăm chiêu.

*

Em có nghĩ trong cơn gió thu

Có lời gửi gấm một gã khờ.

Rằng, tuy mùa thu đơn chiếc lắm

Chẳng bằng cái lạnh kẻ ngẩn ngơ.

*

Em có biết bối rối lòng anh

Mỗi chiều gót nhỏ vội bước nhanh

Không nhìn nhưng chắc em hẳn biết

Có kẻ, mùa thu sớm giật mình.

*

Em có hay chót vót trên kia

Sớm trăng đã vội những hẹn thề

Cho anh bay những lời thu mộng

Dệt vào cung bậc đẫm say mê.

*

Em có bao giờ tự trả lời

Tại sao có kẻ mãi ỉ ôi

Tại sao gã cứ mê mải ngắm

Thu về, lá rụng, tiếng đàn rơi.

LAM TRẦN 28.07.2013

MỘNG TÌNH

Mộng đêm bỗng chợt thấy anh.

Cùng xe gắn máy chạy quanh ngoài đời.

Giữa đường bỗng gặp mưa rơi.

Áo mưa trùm lại dạo chơi dưới cồn.

Bình minh rồi đến hoàng hôn.

Hưởng trăng dạo gió bảo tồn bên nhau.

Ăn ngày trước, để ngày sau.

Tình yêu ngọt sớt như màu cỏ Xuân.

Thương nhau nào kể gian truân.

Mong cho cha mẹ chuyển luân cuộc tình.

Cầu ơn dưới bệ thánh linh.

Thề nguyền gắn bó hai mình liền đôi.

LANG NGUYÊN

KẾT CUỘC CHƠI

Bình đẳng với nhau kết cuộc chơi.

Ly trà chén rượu xóa trò đời.

Năm ba bạn hữu vui trăng gió.

Bảy tám nhà thơ thích đất trời.

Đến giữa non xanh nhiều vượn hót.

Vô sâu suối biếc thiếu thuyền bơi.

Mây trôi nhè nhẹ xem trần thế.

Cảnh đấy lòng đây khó thốt lời.

LANG NGUYÊN

Kiếp vẹt

Dù chỉ là kiếp vẹt cảnh thôi

Mà cũng phong lưu suốt một đời

Người khen mày giỏi như người máy

Được chủ lập trình sẵn để chơi

     Ý nghĩa đời mày, có biết không ?

     Tự do mà hót ở trong long

     Hót sao cho giống như ông chủ

     Chủ tiến thì mày cũng có công

Kìa những kẻ giỏi xu thời nịnh hót

Đời “ba hoa” biết có trọn vẹn không ?

LÊ MINH CHỬ

RỪNG VÀ CHIM

Rừng đẹp nhất là khoảnh khắc bình minh

Chim ríu rít gọi bạn tình thức dậy

Cất tiếng hót vang đón tia nắng đầu tiên

Giai điệu tuyệt vời – bản giao hưởng của thiên nhiên

Lá xanh thấp thoáng trong sương

Cỏ cây hoa lá mùi hương lạ thường

Tình với cảnh biết bao thương mến

Rừng và chim. Ôi ! đẹp đến mê hồn

Được thả mình trong cảnh sắc nên thơ

Tan biến đi những lo toan mưu sinh cuộc sống

Thực thực, hư hư, đời như ảo mộng

Hồn mênh mang thênh thản đến vô bờ.

LÊ MINH CHỬ

Tình Phai Như Lá Thu

Đời bạc quá, làm sao tôi giữ được,

Chút tình vui trên mái tóc thời gian

Nào tôi đã có điều chi lầm lỗi

Mà bụi trần vương vất mãi chẳng thôi

*

Mối tình tôi tháng năm cứ dần vơi

Hai mấy năm qua, tình mãi ngậm ngùi

Đời bạc quá, tình xanh đi vội vã

Soi bóng thời gian, tình đã phai phôi...

*

Thôi cũng đành, ôm tình hận ly bôi

Tình xanh như lá úa, tình ngậm ngùi

Tàn phai thay sắc, rơi rụng tơi bời

Đời một người, bạc đến thế... mà thôi!

*

Đời bạc mãi, đời nhiều lần giả dối,

Bạc rồi đen, đen rồi bạc, ơi người!

Làm sao giữ được, màu xanh mơ ước

Giữa thu vàng lá úa, buồn chơi vơi

*

Năm tháng bụi trần vương mái tóc

Đổi thay, đen bạc, sợi buồn vui

Chẳng biếc xanh, màu tình diệu vợi

Cũng đành, ôm hận, tình phai phôi...

Phạm Thị Minh-Hưng

Tĩnh Lặng và Mưa

Tôi ngồi tĩnh lặng, bóng đơn côi
Một cõi thinh không với đất trời
Chẳng biết vương buồn hay tưởng nhớ,
Mình tôi mộng mị với hồn tôi

*

Ơ hờ, một cõi lòng vời vợi,
Chẳng phải buồn mà cũng chẳng vui,
Trống vắng âm thầm trong thoáng mộng,
Còn gì... Dĩ vãng đã xa xôi...

*

Mưa rơi lặng lẽ mưa không thôi,
Bão rớt, chiều nay gió tả tơi
Thổn thức mưa tuôn hồn lạnh giá
Mưa hoài, ngập lối, nát khung trời...

*

Mưa mờ-mịt, giọt sầu tê tái,
Cỏ úa hoa tàn, mộng nhạt phai,
Xám ngắt không gian, lòng quạnh vắng,
Ai cho vạt nắng sưởi tình vơi?

Phạm Thị Minh-Hưng.

MÌNH YÊU NHAU

Mình yêu nhau chẳng cần ai chứng giám

Cũng chẳng bận tâm vì những thói lệ thông thường

Khi hai trái tim chung nhịp một chặng đường

Thì nhất thiết chi phải nề hà hình thức

Mình yêu nhau giữa cách ngăn là điều có thực

Chẳng ồn ào hờn dỗi chuyện đón đưa

Chỉ gom từng sợi nắng, nhặt từng hạt mưa

Đan thành chiếc áo tơ hong cho mùa nhung nhớ

Mình yêu nhau sẽ chẳng bao giờ như loài hoa tim vỡ

Cứ cháy rực lên rồi tan tác vào một cuối chiều

Mình yêu nhau ngôn ngữ chẳng cần nhiều

Trong sâu thẳm khắc ghi là đã đủ

Tiếng yêu thương có bao giờ là cũ

Khi khúc nhạc lòng ta mãi rót về nhau

ĐÀM LAN

Nguyễn Du

Máu ứa ra thơ đầu ngọn bút

Mắt tràn ngấn lệ thấm từng câu

Tấm lòng trải lòng dài hun hút

Hồn lẫn vào trong cõi nhiệm mầu

NGÀN PHƯƠNG

HỒ HOÀN KIẾM

Tháp Rùa in bóng lộng hồ Gươm

Phong cảnh cố đô hiện chập chờn

Hàng liễu xanh tươi vờn trước gió

Mái đền đỏ thắm ẩn trong sương

Nghìn năm thế sự – Cầu Thê Húc

Vạn thuở ân tình – Đỉnh Ngọc Sơn

Sử Việt ngàn thu ngời kiếm báu

Anh hùng áo vải sáng như gương.

NGÀN PHƯƠNG

TÌM QUÊN

Lòng ta

       Bỗng chốc sóng cồn

Xốn xang muốn nói

       Ngõ hồn lặng câm

Trơ như núi đá âm thầm

Thoảng bên tai

        Khúc nguyệt cầm du dương

Góc trời

        Lồng gió ngàn phương

Cô đơn chắn lối

        Ngăn đường về quê.

NGÀN PHƯƠNG

KỶ NIỆM CHẬP CHỜN

Mảnh trăng ngơ ngác giữa hoàng hôn

Như chiếc thuyền thơ lạc ngõ hồn

Vẳng tiếng còi tàu ru viễn phố

Thoáng câu ca cổ vọng cô thôn

*

Xót xa hồi tưởng thời xuân sắc

Man mác hoài mơ vượt vũ môn

Bến lạ sóng xô buồm lướt gió

Chập chờn kỷ niệm cố vùi chôn

NGÀN PHƯƠNG

Sài Gòn

bao giờ cũng dễ thương

Sài Gòn hai mùa mưa nắng

Sài Gòn nắng

Đường phố đông đúc người đi qua

Ngã ba, ngã tư, ngã năm, ngã sáu, ngã bảy

Đèn xanh, đèn đỏ, đèn vàng… chớp tắt… chớp tắt…

Cho người ta dừng lại

Cho người ta đi qua.

*

Sài Gòn có nhiều bùng binh

Vòng tròn xoay tròn theo bánh xe lăn

Như vòng tay ôm, ôm tròn tình nhân.

*

Sài Gòn mưa

Mưa đầu mùa lất phất

Mưa dầm dề tầm tã triền miên

Con đường bỗng chốc thành sông

Mưa ướt áo ru tình đầm ấm

*

Sài Gòn đêm

Lung linh lung linh ánh đèn

Sương đêm lành lạnh thấm vai mềm

Xích lại gần nhau… gần nhau thêm chút nữa

Đêm thăm thẳm ru tình mật ngọt.

*

Sài Gòn thành phố yêu thương,

Sài Gòn bao giờ cũng dễ thương!

Huỳnh Thiên Kim Bội

XƯA

Đông xưa

Gặp giữa núi rừng

Sương mù giá lạnh lưng chừng đồi cao

*

Em xưa

Tóc xoã môi hồng

Nụ cười lúng liếng nghiêng soi mặt hồ

*

Anh xưa

Nín lặng. Trái tim bồi hồi

Như cây thông đứng giữa trời

*

Xuân xưa

Về với ruộng vườn

Tết quê khói bếp canh nồi bánh chưng

Mẹ già tóc bạc da mồi

Bỏm bẻm nhai trầu môi đỏ như son

*

Em xưa quá đỗi ngây thơ

Để anh chưa kịp nói lời yêu thương

*

Hạ xưa

Hoa phượng đỏ cành

Mùa thi đã đến chong đèn học khuya

*

Trăng xưa

Lay nhẹ bên thềm

Khép mi em ngủ ngoan hiền

Mặc cho trang vở thì thầm nhỏ to

Học trò sao quá ngu ngơ

Mùa hè rực nắng đến mùa chia tay

*

Thu xưa

Lá vàng lã tã lá rơi

Gió ơi sao gió vô tình

Tung bay tà áo nắng chiều nhạt phai

Đường xưa thưa vắng bóng người

Lặng thầm một bóng trong chiều lang thang

Huỳnh Thiên Kim Bội.

AI ĐIÊN ?

(Kính tặng các Nhà Thơ)

Đời bảo nhà thơ giống kẻ điên

Suốt ngày hồn thả cõi thần tiên

Khóc gió, than mây, buồn lá rụng

Quên kiếp nhân sinh phải có… tiền !

*

Người đời ai chẳng thích làm quan

Ở nhà biệt thự, sắm xe sang

Nháo nhác đi tìm danh với lợi

Kẻ mê vần điệu, đúng… đồ gàn !

*

Người điên lẩm bẩm nói huyên thuyên

Nhà thơ thì viết, xóa liên miên

Nói bằng ngôn ngữ hay con chữ

Giống nhau: diễn tả nỗi niềm riêng !

*

Mọi người cuống quýt chạy theo tiền

Rồi làm cuộc sống rối tung lên

Nhà thơ ngạo nghễ, ngồi ngâm, vịnh

Nhạo đời lừa lọc, trắng thay đen !

*

Ngoài vòng thế sự, chẳng bon chen

Thấy rằng thiên hạ thảy đều điên

Lúc đói, thơ không thay được gạo

Chợt hay mình mới đúng đồ điên !

Tâm Nguyện

CỐ HƯƠNG

Nhắc đến làm chi tiếng cố hương

Thắp sáng trong ta nỗi đoạn trường

Đồng vọng từ xa, tim nhức buốt

Như tiếng chân quen, giọng bạn thân

*

Núi như ẩn dạng dưới sương thu

Thung lũng bình minh trải thảm mù

Liễu hờn phơi lá, cành xơ xác

Tháp chiều vàng ửng giữa xa mờ

*

Tường rêu năm tháng, mòn con dốc

Mục đồng bên suối vẫn thay nhau

Hứng từng giọt nước, lành, trong vắt

Bình giữ trong tay, chuyện giải sầu

*

Bếp lửa nhà ai, ánh dịu hồng

Khói tuôn từ nóc, khách vời trông

Vật dẫu vô tri, hồn ắt có

Nên bám hồn ta, gợi luyến thương

TÂM NGUYỆN

LA TERRE NATALE

Pourquoi le prononcer ce nom de la patrie ?

Dans son brillant exil mon coeur en a frémi

Il résonne de loin dans mon âme attendrie

Comme les pas connus ou la voix d’un ami

*

Montagnes que voilait le brouillard de l’automne

Vallons que tapissait le givre du matin

Saules don’t l’émondeur effeuillait la couronne,

Vieilles tours que le soir dorait dans le lointain

*

Murs noircis par les ans, coteaux, sentier rapide

Fontaine où les pasteurs accroupis tour à tour

Attendaient goutte à goutte une eau rare et limpide

Et, leur urne à la main s’entretenaient du jour

*

Chaumière où du foyer éteincelait la flamme,

Toit que le pèlerin aimait à voir fumer,

Objets inanimés, avez-vous donc une âme

Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer ?

LAMARTINE

TIỄN EM TRONG MÙA THU

Bàn tay vẫy vẫy gọi bàn tay

Em đã xa mờ, anh đứng ngây.

Mưa trút, phong vàng bay mấy lá

Lương trà đỏ quả rũ cành cây !...

Matxcơva, 24.8.1993

VŨ ĐÌNH HUY

SEEING YOU OFF IN THE FALL

The wavering hand was calling a hand

You turned dim, I stood bewildered

Rain poured, a few yellow maple leaves flew

Red “Luong Tra” fruits drooped the branches…

Moskow, 24.8.1993

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

TÌM SAO LẶN

Em khuất hẳn rồi ! Người chen lấp lối

Ngơ ngác anh nhìn: mắt lạc rưng rưng !

Chân hụt hẫng bước về, đêm tuyết nổi,

Hồn quay tìm sao lặn phía sau lưng !...

Matxcơva, 19.01.1994

VŨ ĐÌNH HUY

LOOKING FOR A SET STAR

You’re completely hidden from view!

Hustling people filled up the way

I looked dazedly: tears welled up my strayed eyes !

I walked back, losing my foothold, in the snow falling night

My soul turned round, looking

for the set star on my backside !...

Moskow, 19.01.1994

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

ĐI TÀU ĐÊM

Tàu đi, đêm dập dềnh

Tuyết dâng đầy mông mênh

Đèn bên đường loang loáng

Anh bên em bồng bềnh…

Matxcơva – Xanh Petecbua,

02.4.1994

VŨ ĐÌNH HUY

ON THE NIGHT TRAIN

The train departed, the night was bobbing

Snow rose full and immense

Lamps on roadsides were flashing

Beside you, I’m floating…

Moskow – St. Petersburg, 02.4.1994

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

VŨNG TÀU CÓ EM

Anh sẽ đưa em về biển

Con đường Thùy Vân lượn sóng ven bờ

Mặt trời lên như trái cam chín đỏ

Bước chân trần đi lạc vào trong mơ

*

Anh sẽ đưa em lên đỉnh Nghinh Phong

Tầm mắt cánh tay ôm chùm biển rộng

Trong nắng trải vàng gió lộng

Có khúc tình ca em nghe thấy không

*

Chiều rất êm trước ngày biển động

Sắc cầu vòng lấp lóa ánh sao bay

Vị mặn trên môi thơm còn đọng

Suốt đêm dài nghe sóng vỗ hồn say

*

Vũng Tàu có em – biển trời thành khác lạ

Hương tình yêu cho đất hóa địa đàng

Qua núi lớn ta gửi hồn vào đá

Lẽ nào cỏ cây không thắm sắc hoa.

LÊ NGUYÊN

Vũng Tàu 12.2008


Đồi thông hai mộ

Anh Đinh Lăng ! giờ đây đâu nhỉ ?

Anh của em yêu quý nhất đời.

Anh đi, mù mịt xa khơi,

Phượng hoàng tung cánh phương trời mải bay.

Đây là một trong những câu hát ru má tôi thường dùng để ru chúng tôi ngủ khi chúng tôi còn bé. Đó cũng chính là một trích đoạn trong cuốn thơ truyện “Đồi thông hai mộ”. Và cũng ở thời điểm đó, chúng tôi được cầm cuốn sách này nhưng chỉ là để xem hình, vì lúc bấy giờ còn chưa biết chữ. Tôi còn nhớ đã từng xem bức hình chàng Đinh Lăng đang phi ngựa thì bị trúng một mũi tên. Một hình khác là nàng Mỵ Dung đang ngồi khóc. Theo thời gian chúng tôi lớn lên dần và cuốn sách cũng từ từ mỏng theo năm tháng. Đến một ngày nào đó chẳng còn ai thấy bóng dáng của nó; nhưng mọi người đều tiếc vì đó là kỷ niệm của ba má, của chúng tôi khi còn ấu thơ.

Như đàn chim non lớn dần rồi cũng rời xa tổ. Em gái tôi lấy chồng, gặp được bà mẹ chồng rất yêu quý thơ. Bà có một cuốn thơ chép tay mang từ Hà Nội vào, trong đó có truyện tình viết bằng thơ: “Đồi thông hai mộ”. Nhưng thật tiếc thay lại thiếu vài trang đầu và vài trang cuối, chắc cũng giống như gia đình bên tôi vì cả hai đều đông con lắm.

May mắn thay anh Phạm Thế Cường - một thành viên của CLB sách Xưa & Nay - biết một người bạn có và anh đã photo cho tôi 1 bản (1950) nhưng sách có lẽ đã cũ nên nhiều chỗ không đọc được tôi phải dùng bản chép tay để thêm vào những chỗ mờ. Đọc xong từ đầu đến cuối tôi hơi thất vọng vì cuốn sách vẫn bị mất phần cuối.

Sau cùng tôi đành phải nhờ đến Google: Thì ra cũng có 1 cụ thuộc lòng bản in lần đầu năm 1949 và tôi có được trang chót - mảnh ghép cuối cùng còn thiếu - cho tác phẩm được hoàn thành.

Công đoạn cuối cùng là vợ tôi đánh máy đúng theo các từ đã dùng lúc đó, còn tôi thì scan các tấm hình và dàn trang lại y như bản 1950.

Xin dâng tặng ba má món quà để ghi nhớ những kỷ niệm xưa, những lời thơ chứa chan tình cảm, những chân lý làm người, để chúng con giờ đây khi lớn lên còn thuộc rất nhiều câu ca dao tục ngữ làm hành trang sống khi vào đời…

HÀ MẠNH ĐOÀN

(9/2014)


CÓ MỘT HOÀNG HẬU VIỆT

TRONG VƯƠNG TRIỀU CHĂMPA

NGUYỄN XUÂN LÝ


Trong lịch sử Việt Nam đã có nhiều câu chuyện có thực về các triều vua Đại Việt, vì nhiều lý do ngoại giao của dân tộc đã gả công chúa của mình cho vua chúa của các quốc gia lân cận như các trường hợp: Đầu thế kỷ XIV (1301), nhân chuyến sang thăm vương quốc Chămpa, vua Trần Nhân Tông đã hứa gả con gái của mình là công chúa Huyền Trân cho vua Chăm là Sinhavarman IV, sử Việt gọi là Chế Mân. Tuy nhiên phải qua nhiều lần đàm phán về quan niệm, thủ tục và nghi lễ, nên 5 năm sau (năm 1306) lễ cưới mới được tổ chức. Con gái Thượng hoàng Trần Nhân Tông, em vua Trần Anh Tông đã vì Tổ quốc về vương quốc Chămpa với chồng là vua Chăm Sinhavarman IV, với đồ sính lễ rất hậu. Sử sách ghi lại: “Sính lễ gồm vàng bạc, hương quý, vật lạ và hai châu Ô, Lý”. Hai châu này đến năm sau đổi tên Việt là Thuận và Hóa, sáp nhập vào bản đồ Đại Việt.

Một trường hợp khác là vào giữa thế kỷ XVII, chúa Nguyễn Phúc Nguyên có hai công chúa thì một gả cho vua Chăm Pôrômê là công chúa Ngọc Khoa và một gả cho vua Chân Lạp là công chúa Ngọc Vạn.

Khi liên tục bị sức ép từ phía bắc, vương triều Chămpa dời về miền Panduranga phía nam vương quốc (khu vực Ninh – Bình Thuận ngày nay). Thời kỳ này, xung đột giữa các quốc gia láng giềng tăng cao không có lợi cho đất nước. Để giữ thế hòa hoãn và tạo tiền đề cho mối bang giao hai nước sau này được êm đẹp, chúa Nguyễn đã gả công chúa cho Pô Nít làm thứ phi và sau này là hoàng hậu. Điều đó cũng chứng tỏ uy quyền và sức mạnh của vương quốc Chămpa vào thời kỳ này khiến cho chúa Nguyễn phải dùng đến nghệ thuật ngoại giao êm đẹp, sử cũ gọi là ngoại giao “hoa hồng”. Nhờ đó đã củng cố được nền hòa hiếu một thời gian khá dài giữa hai dân tộc Chăm - Việt.

Công chúa gả cho Pô Nít thời kỳ này là con của vị chúa Nguyễn nào, không ai được biết đến. Trong dân gian Chăm cho là con chúa Sãi, nhưng thực ra chúa Sãi chỉ có hai công chúa như đã nói ở trên. Theo chúng tôi có thể con của các vị Hoàng thân trong triều. Mặc dầu chưa chắc chắn nhưng trên thực tế là có thực, ngày sau khi bà mất Hoàng tộc Chăm còn cho tạc cả tượng để thờ bà đặt cạnh tượng vua Pô Nít.

Tất cả những lần vua Đại Việt gả con gái của mình cho vua Chăm chúng ta chỉ biết được qua sử sách, do các vương triều ghi chép cẩn thận và lưu lại trong lịch sử và văn hóa của cả người Việt và người Chăm, mà không có một bằng chứng vật chất nào để lại cụ thể.

Riêng đối với trường hợp công chúa Đại Việt gả cho vua Chăm Pô Nít thì ngược lại, sử sách hầu như không ghi lại, hoặc bị mất mát hoặc vì lý do nào đó. Nên sau này không biết công chúa là con gái của vị chúa nào, nên chúng tôi dự đoán là con của các vị Hoàng thân trong triều. Bù lại sau khi trở thành thứ phi và hoàng hậu của vua Pô Nít, bà lại được triều đình vua Chămpa quý mến, coi bà như người thân thiết trong Hoàng tộc và như cả Hoàng hậu của người Chăm chính thống. Sự kiện này có ý nghĩa tương tự như sự kiện đầu thế kỷ XIV khi vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chăm Chế Mân.

Về tên tuổi, tư liệu lưu giữ trong quyển Phổ ý của họ Đặng và Nguyễn (một bộ phận người Chăm ở xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình mang họ Đặng và Nguyễn sau sự kiện bà hoàng hậu người Việt mất như đã nêu trên) còn lưu lại từ triều vua Pô Nít, thì bà hoàng hậu người Việt tên là Nguyễn Thị Thương (tên khi mất là Nguyễn Thị Chính). Vì mối bang giao và là nhiệm vụ của Tổ quốc, theo lệnh triều đình Việt, công chúa đã về làm thứ phi cho vua Chăm là Pô Nít (1603-1613) lúc này triều đình đóng đô ở vùng Phan Rí (Bắc Bình) ngày nay.

Tài liệu của Pháp do ông H.Parmentier công bố đầu thế kỷ XX, khi đến đền thờ Pô Nít nghiên cứu, ông gọi bà Nguyễn Thị Thương là nữ Hoàng thứ nhì theo cách gọi của người Chăm lúc bấy giờ. Kể từ khi chính thức trở thành hoàng hậu trong vương triều Chăm, bà được vua Pô Nít yêu thương và vương triều trọng vọng, bởi uy tín và đóng góp của bà. Do đó khi mất bà được khắc ghi công lao và tạc tượng bằng đá, được lưu giữ bên cạnh vua trong đền thờ. Ngang cấp bậc với bà hoàng hậu Chăm (bà Pô Mưk Chà), cả lúc sống và khi đã qua đời. Điều lý thú và cảm động là lúc sinh thời, nhiều lần bà được vua Pô Nít mời đi dự những đám hỏa thiêu các quần thần trong triều và người thân trong Hoàng tộc. Bà cảm thấy rất sợ hãi khi phải chứng kiến cảnh tượng trong đám thiêu người chết. Theo phong tục khi người Chăm theo đạo Bàlamôn (Hindu giáo) chết, phải dùng đến đám hỏa thiêu, lúc đó các thủ tục lo cho đám thiêu vừa kéo dài ngày, vừa tốn kém nhiều của cải. Sau đám thiêu gia đình người quá cố phải trả nợ, không phải chỉ có gia đình đó, mà cả một tộc họ phải giúp trả nợ…

Nhìn thấy những cảnh tượng đó, bà đã trao đổi thẳng thắn với vua Chăm Pô Nít là việc gì, phong tục gì của vương triều Chămpa bà đều theo được hết, kể cả những người hầu cận bà đưa từ Đại Việt qua. Riêng một việc khác mà bà xin vua là sau khi bà mất sẽ được chôn như phong tục của người Việt mà không bị hỏa táng, kể cả con cái của bà và những người Việt theo bà về Chăm. Do quá yêu thương bà, một phần sợ uy lực của chúa Nguyễn lúc đó. Vua Chăm Pô Nít đã phá lệ triều đình và ước nguyện đó của bà đã được thỏa mãn. Nhà vua và triều đình đã thống nhất và lệnh cho dòng tộc thực hiện. Hơn nữa rút kinh nghiệm của gần 4 thế kỷ trước, khi vua Chế Mân mất, triều đình làm đám hỏa thiêu và định hỏa thiêu luôn công chúa Huyền Trân. Nhưng sau đó nhờ sự khôn ngoan của người Việt, công chúa Huyền Trân được cứu thoát đưa về nước mà không bị hỏa thiêu cùng nhà vua.

Khi mất, bà được chôn theo phong tục của người Việt, kể cả những người con và những người thân thiết của bà. Từ đó về sau, con cháu của bà và những người Chăm thân cận khi chết được chôn mà không phải dùng đến đám hỏa thiêu. Không những thế, về sau một bộ phận những người Chăm trong dòng tộc hậu duệ triều Pô Nít cũng phải thực hiện lệnh của vua Chăm Pô Nít và triều đình.

Ngày nay, trong dòng tộc vua Pô Nít có hai dòng chính thống, một dòng theo hoàng hậu người Chăm (bà Pô Mưk Chà) thì khi mất được hỏa thiêu theo phong tục tập quán của người Chăm. Còn một dòng khác theo hoàng hậu người Việt (bà Nguyễn Thị Thương) khi mất được chôn theo phong tục tập quán của người Việt.

Từ thế kỷ XVII đến nay, những người thuộc họ Đặng và họ Nguyễn được gọi chung một tộc là tộc Đặng và Nguyễn. Những người này là người Chăm chính thống, hằng ngày trong cách sinh hoạt thì theo phong tục tập quán của người Chăm. Tuy nhiên, có một số phong tục tập quán khác lại theo phong tục tập quán của người Việt. Trong đó quan trọng nhất phải kể đến là phong tục chôn cất, mở cửa mả, lập bàn thờ, nhang đèn, văn tế đến cúng bái…

Theo quy định chung, người Chăm theo dòng bà hoàng hậu người Việt, khi sống dù là mang họ gì đi nữa, nhưng khi chết đi đều được đổi thành họ Nguyễn, là họ của bà Nguyễn Thị Thương. Ví dụ như ông A khi sống là họ Đặng (Đặng Văn A hay Lâm Văn A), đến khi chết bắt buộc đổi thành họ Nguyễn (Nguyễn Văn A). Còn những người họ Nguyễn khi sống, khi chết vẫn là họ Nguyễn. Có những người khác như họ Trần, Lê, Lâm… khi chết vẫn đổi thành họ Nguyễn. Do đó người Chăm trong dòng tộc thường nói về họ là “sinh Đặng, tử Nguyễn”.

Đây là một hệ quả tất yếu và sâu sắc nhất trong tiến trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa người Việt với người Chăm trong lịch sử hàng trăm năm qua. Và chưa từng có một trường hợp nào ở trong lịch sử qua các thời kỳ của Việt Nam và các dân tộc khác như trường hợp của người Chăm ở Phan Hiệp, Bắc Bình.

Qua hơn 400 năm, phong tục tập quán này còn lưu giữ như một thứ tài sản tinh thần quý giá mà không ai có thể bỏ được. Tính đến nay, trong tộc họ Đặng và Nguyễn đã có 120 hộ với hơn 500 người, trong đó đa phần cư trú tại thôn Bình Hiếu và Bình Đức. Một số người khác lập gia đình ở Tuy Phong, Hàm Tân, Phan Rang, Hàm Thuận Bắc. Hàng năm, đến ngày giỗ tổ đều phải quay về cúng bái tổ tiên. Chứng kiến những lễ nghi tại tộc Đặng và Nguyễn, chúng tôi thấy hàng trăm người dự lễ, khi lịch sử hơn 400 năm qua được nhắc lại, nhiều người đã khóc. Những người trẻ thì tìm hiểu qua các người già, qua tư liệu của tộc họ bằng chữ Hán còn lưu lại.

Theo quy định từ lâu đời, cứ 7 năm tộc họ Đặng và Nguyễn phải tổ chức lễ hội một lần gọi là lễ tộc họ. Tộc họ Đặng và Nguyễn của người Chăm có một quyển Phổ ý có giá trị như một cuốn Gia phả của dòng tộc. Nội dung của quyển Phổ ý ghi chép nhiều vấn đề quan trọng về phong tục tập quán, lễ nghi liên quan đến dòng tộc. Trong đó việc cúng tế theo phong tục Việt có từ năm 1609, tức là lúc bà hoàng hậu người Việt Nguyễn Thị Thương còn sống. Nghi lễ này kéo dài 2 ngày để tưởng nhớ công ơn của bà hoàng hậu người Việt cũng như ông bà tổ tiên và những người đã khuất theo phong tục tập quán của người Việt. Những ngày lễ này thường được quy định tổ chức vào ngày rằm và ngày 16 tháng giêng của năm Tỵ và năm Hợi. Chúng tôi hỏi ông Đặng Văn Lẽo tộc trưởng ở đây, vì sao có quy định như vậy và xuất phát từ đâu. Được trả lời là quy định này có từ lâu đời, theo lệnh của vua Chăm Pô Nít. Đặc biệt kể từ khi bà hoàng hậu người Việt mất thì việc này trở nên quan trọng hơn đối với những người trong dòng tộc.

Cũng do quy định 7 năm mới được mở quyển Phổ ý ra một lần, nên trong 7 năm đó, dù trong tộc có một hay nhiều người chết, thì việc ghi chép chỉ thực hiện bên ngoài. Chỉ đến kỳ lễ hội mở lại, lúc này họ tên người chết mới thực sự được ghi chép vào cùng sổ sách với tổ tiên ông bà.

Trước đây, việc ghi chép tên người mất vào Phổ ý thường do một người trong tộc biết chữ Hán thực hiện. Đến năm 1970, thì chấm dứt vì không còn ai biết chữ Hán. Từ đó người Chăm trong tộc họ Đặng-Nguyễn phải ghi chép bằng chữ Quốc ngữ.

Cụ thể như năm Đinh Hợi (2007) lễ hội được tổ chức vào ngày rằm và 16 tháng giêng, gồm có các lễ tục như sau: Lễ thứ nhất là lễ trình báo tại đền thờ Pô Nít nơi thờ tượng vua Chăm Pô Nít và tượng bà hoàng hậu Nguyễn Thị Chính, sau đó là tại nhà tộc ở thôn Bình Hiếu. Lễ thứ hai là lễ tế heo sống và phải là heo trắng (phong tục của người Chăm không hề có lễ thức này). Lễ thứ ba là lễ cúng các vị thần linh và những người đã khuất.

Trong tất cả các nghi lễ này, mọi lễ vật, thức ăn, đồ uống, trang phục, cách vái lạy, nhang đèn, đặt bàn thờ trong nhà (trong lúc người Chăm không có bàn thờ) đều theo đúng quy định của phong tục tập quán người Việt.

Lần đầu tiên chúng tôi thấy một bộ phận người Chăm cúng tế tổ tiên giống như phong tục tập quán của người Việt. Thậm chí còn bài bản hơn một bộ phận người Việt, khi thiếu sự hiểu biết về phong tục tập quán của tổ tiên mình. Ban tế lễ phải mặc áo dài khăn đóng (người dân địa phương gọi là áo rộng), những người khác mặc áo bà ba hoặc là áo quần bình thường như của người Việt. Trong lễ nghi này tuyệt đối không được mặc trang phục của người Chăm. Trong Ban tế lễ bắt buộc phải mặc áo dài khăn đóng, người xướng tế phải mặc áo màu vàng. Còn ban nhạc thì mời của người Việt với những nhạc cụ của người Việt. Các bàn thờ được dựng lên, ở đây trên các bàn thờ đều có lư nhang để mọi người thắp nhang và cầu khấn (khác với ngày thường phong tục của người Chăm không thắp nhang, không lập bàn thờ trong nhà). Các thức ăn, đồ uống khác cũng được nấu nướng và chế biến theo cách thức của người Việt.

Có thể nói rằng đây là một phong tục tập quán quý, nội dung nói đến tình đoàn kết sâu sắc của hai dân tộc Chăm - Việt trong lịch sử, biểu hiện này ngày nay còn cho thấy trong văn hóa của dân tộc Chăm ở từng nơi, từng vùng chứa đựng những giá trị chung của văn hóa Việt. Đó là một thứ di sản cần được bảo lưu và gìn giữ như một tài sản của nhân dân địa phương, mà chúng ta, trước hết là những nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cần phải tuyên truyền để mọi người khác biết thêm giá trị của những phong tục tập quán và lễ nghi này, và cần phải bảo lưu như nó đã từng có trong lịch sử.

B.Đ. st


Phụ bản III


Qua khỏi cầu An Hạ, ông Lâm cho xe chạy rề rề trước một khu chợ sầm uất. Tại khúc đường này không ai có thể chạy mau được vì lối dành cho xe máy rất hẹp, thêm vào đó người đi xe máy ngược chiều rất đông. Ông Lâm đoán hầu hết những người đang cưỡi xe máy lưu thông ngược chiều này là dân địa phương, vì không có ai đội mũ bảo hiểm. Họ chạy thoải mái coi như con đường là dành riêng cho họ. Những người chạy xe xuôi chiều là đang hướng về những mục tiêu xa hơn như Củ Chi, Trảng Bàng, Gò Dầu rồi đến Tây Ninh và những vùng sâu vùng xa gần biên giới Kampuchia.

Ông Lâm cho xe chạy chậm vì sợ rủi ro có va quẹt thì sinh chuyện rắc rối khó mà gỡ ra được và còn làm hư cả chuyến đi của ông, nhứt là khi ông đang chở phía sau xe là một “mệnh phụ” mà ông có nhiệm vụ phải chăm sóc suốt đời. Đột nhiên bà “mệnh phụ” lên tiếng:

- Ghé vào mua con vịt quay đi anh.

- Chân lý!

Rồi ông từ từ ghé vào một chiếc xe bán hàng chung quanh bọc kính, bên trong treo lủng lẳng gần hai chục con vịt quay vàng rượm, tươm mỡ bóng loáng. Ngay sát dưới những con vịt là những miếng thịt heo quay khoe phần nạc đùi màu nâu hấp dẫn trên lớp da dày có nổi những bong bóng kích thích khẩu vị người ta bằng độ giòn tan của da và chất béo ngậy của thịt. Người bán là một anh chàng khoảng trên bốn mươi, nói theo những nhà tướng số thì anh này có tướng “trư hình”, dù mặc áo sơ mi nhưng cũng thấy được cái bụng tròn, to như cái trống. Nhìn anh người ta thấy “toát” lên cái “chuyên môn nghiệp vụ” bán thịt heo quay giống như những anh ba Tàu Chợ Lớn. Trong một góc của xe bán vịt quay là một túi nylon lớn đựng bánh bao. Đây là loại bánh bao không có nhân dùng để ăn với vịt quay. Phía sau chiếc xe là một cái cần xé đựng đầy bánh mì. Mới nghe nói một người nào đó có tướng “trư hình” ai cũng có thái độ khinh khỉnh, và xếp vào thành phần hạ lưu. Thật ra những người có tướng này thường là giàu có, và nói theo sách tướng thì họ được “ở nhà lầu đi xe hơi” sang trọng biết mấy. Cứ nhìn vào đời sống và tập tính của con heo thì thấy rõ. Có con vật nào được ăn ngon như… heo? Và ăn xong thì lăn ra ngủ. Thử hỏi những người nghèo khó, khố rách áo ôm làm sao có được “tập tính” này. Hay có người ăn xin ngoài đường nào mà lại béo tốt, mặt mũi phương phi?

Cũng theo những người thường xuyên sống chung với cái mu rùa thì con người ta còn có những tướng khác như “kê hình”- tướng gà, “hầu hình”- tướng khỉ, “hổ tướng”- tướng cọp, “xà hình” thường dành cho phái nữ có tướng đi vặn vẹo như con rắn bò. Căn cứ vào đời sống và tập tính của những con vật trên đây, thầy tướng số sẽ vận vào người khách đến xem rồi phán người này sẽ giàu có hay nghèo mạt rệp, thành công hay thất bại... Có đúng hay không, chỉ có người bỏ tiền ra xem mới biết. Nhưng thường những người đi xem đều cho là đúng, vì nếu nói ông thầy bói này sai thì sẽ bị người ta cười cho rằng ông này mắc phải hai cái… thiếu thông minh. Một là bỏ tiền đi coi bói và hai là coi bói với ông thầy dở, nói trật. Coi bói là làm một công việc đi đánh đổi một vật hữu hình là tiền để lấy một vật vô hình thể hiện qua lời tán phét của ông thầy bói.

Mua hàng xong bà mệnh phụ bước ra, lên ngồi sau yên, ông Lâm cho xe từ từ ra khỏi khu vực chợ, hướng thẳng về phía Củ Chi. Hai bên đường những đám ruộng đã được gieo cấy sau những cơn mưa tầm tã vào giữa tháng năm, bây giờ đã bén nước tạo thành những mảng xanh um làm mát dịu tầm nhìn. Phải nói rằng việc đô thị hóa đã phát triển nhanh chóng. Từ Saigon lên đến cầu An Hạ, hai bên đường nhà cửa che kín, không hề thấy một mảng cây xanh hay một khu đất trống, Toàn là nhà, xưởng, quán xá đầy rẫy.

Ông Lâm hít một hơi thật sâu để hưởng thụ cái không khí trong lành thoáng mát tại một vùng đồng quê, không xa thành phố cho lắm. Ông nói để bà ngồi sau nghe thấy:

- Hít thở sâu nghe.

- Có. Mát quá anh hả?

- Nhớ hít thở cho nhiều vào!

- Rồi. Có đây.

Ông hay nhắc chừng bà như vậy vì bà không được siêng tập thể dục cho lắm. Ở nhà có một máy tập xe đạp. Ông nhắc nhở lắm bà mới lấy ra tập được vài hôm, sau đó thấy ông không để ý đến nữa, bà cho máy tập nghỉ xả hơi. Ông thường nêu trường hợp một bà bạn là huấn luyện viên môn thể dục Yoga, và một hai lần gì đó bà đến câu lạc bộ văn thơ nơi ông thường sinh hoạt để hướng dẫn tập thở bằng… bụng. Có người còn bày cho ông phải biết ém hơi xuống “đan điền”. Ông Lâm về nhà suy nghĩ mấy đêm liền và không biết đan điền nằm ở đâu trong cơ thể của mình. Sau cùng, ông đành phải tập theo phương pháp cố hữu miễn là có hít thở sâu là được rổi vì ông nghe người ta nói “thở sâu, sống lâu” đâu đó trên mạng. Sở dĩ ông nêu bà bạn huấn luyện viên Yoga là “điển hình tiên tiến” cho bà nghe vì bà bạn này có lẽ nhờ tập yoga nên có dáng người cao ráo rất đẹp. Đến đây, bà “còm-men” ông liền:

- Em như thế nầy đủ cao hơn anh rồi. Anh còn muốn em cao thêm nữa sao?

Như bị trúng một mũi tên tẩm thuốc độc vô ngay tâm thất phải của tim, ông Lâm đành phải “im như chưa im lần nào”.

Quả thật ông hơi bị thiếu chiều cao. Khi đứng bên cạnh bà thì vị nữ nhân này hơi nhỉnh hơn ông vài phân. Tuy nhiên ông không lấy gì làm xấu hổ nhất là hồi mới cưới nhau, bạn bè có chọc quê, nhưng ông tự an ủi biết đâu con cái sau này sẽ cao lớn hơn cha mẹ chúng. Đúng như điều ông dự đoán, đến giờ nầy, ông là người lùn nhất nhà!

Con đường thẳng như kẻ chỉ, nắng sáng tràn ngập. Ông Lâm cho xe chạy từ từ như những kẻ nhàn du. Triết lý sống của ông là không có gì mà vội. Cứ thong thả hưởng thụ cuộc đời. Còn sống ngày nào cứ yên tâm lo giữ gìn sức khỏe ăn uống có chừng mực, có gì trục trặc cứ chạy ngay tới bác sĩ. Nhiều người nôn nóng luôn muốn biết khi nào thì về chầu Ngọc Hoàng Thượng đế, chạy tìm hết ông thầy bói này đến bà cốt nọ, khi thì coi chỉ tay, lúc thì coi chỉ chân, khi thì coi lá số tử vi, khi thì đi tìm thầy đoán sao giải hạn, riết rồi thành một người nghiện… coi bói. Có người đang mạnh khỏe cũng chạy đi tìm hết bác sĩ này đến bác sĩ khác, từ đông y đến tây y, yêu cầu phải tìm cho ra một thứ bệnh gì đó để chữa trị. Lại có người mới phát hiện một vài triệu chứng của bệnh về thận liền bay qua Trung quốc xin thay thận. Chú Ba đang ế độ thấy có khách tội gì không thay để lấy mấy chục ngàn đô la, mặc kệ cho bệnh nhân trở về quê nhà uống thuốc chống đào thải. Thải được thì tốt, không thải được thì người mang trái thận đó sẽ bị “thải” vô… hòm. Cũng có người cứ hay đi nghe ngóng, hoặc xem quảng cáo trên TV rồi đi tìm mua về uống để trị một thứ bệnh mà mình chưa mắc phải. Hỏi “tại sao không bệnh mà lại mua thuốc về uống?”. Câu trả lời đơn giản vô cùng:

- Uống trước để ngừa. Rủi mai mốt có bệnh khỏi phải lo.

hoặc:

- Thứ này bằng thảo dược, không bệnh uống vô đâu có chết chóc gì.

- TV có nói đây không phải là thuốc để trị bệnh.

- Không phải là thuốc để trị bệnh nhưng tại sao cho bày bán trong nhà thuốc tây, mà không bán trong tiệm tạp hóa, chung với các loại xì dầu, nước mắm, tương, chao??

- À... à…

Đấy, bỏ công sức ra để giải thích về cách dùng thuốc nhưng lại bị hỏi ngược lại và bí lối, chịu thua.

Ông Lâm cũng thấy bí lối không tìm được câu trả lời thỏa đáng. Ông thấy tốt hơn hết là không bao giờ tìm mua những loại thuốc thảo dược này. Thế là chắc ăn.

Đang “tư duy trừu tượng” những chuyện đâu đâu, bỗng nhiên bà nhà vỗ vào lưng ông bịch bịch:

- Dừng lại! Đây rồi.

Thì ra ông vừa chạy ngang một rẫy trồng mướp hay khổ qua gì đó lá xanh mướt trên những giàn tre chống hình tam giác tạo thành những luồng xanh song song trên diện tích một, hai công đất. Ông Lâm dừng xe. Bà bước xuống chờ ông mở cóp lấy đưa bà máy ảnh “chuyên dùng” để bà bước vào rẫy săn ảnh giống như một nhiếp ảnh gia tài tử. Thực tình ông Lâm cũng thích cái thú tiêu khiển này lắm nhưng vì “đụng hàng” với bà xã nên ông đành phải kiếm thú vui khác. Không lẽ hai ông bà mỗi người sắm riêng một máy ảnh để thỏa mãn sự ham thích của mình thì hao xu quá. Niềm vui không thấy đâu mà chỉ có nỗi buồn vì bị thâm thủng một khoản tiền tiết kiệm khá lớn. Mới đây một người bạn đưa lên mạng một hiệu máy ảnh có rất nhiều công dụng và tiện ích. Ông thích vô cùng nhưng khi nhìn đến giá tiền thấy ghi hai chục “chai”, thì ông âm thầm lặng lẽ tìm cách lãng quên. Bà nhà ông thích đi chỗ này, chỗ nọ để tìm chụp những tấm ảnh thật đẹp thật ăn với… ý của bà. Bà cũng thích chụp những cảnh đồng ruộng bao la, xanh um khi mới vào mùa hoặc vàng rực khi gần tới ngày thu hoạch. Nếu hình ảnh được ghi thêm năm ba cánh cò bay thì coi như “đại thành công!” Có lần bà chụp hình những đống rơm rạ nằm rải rác trên mặt ruộng sau khi thu hoạch xong. Kết quả, hình ảnh sau đó được đưa lên máy vi tính xem rất đẹp. Đặc biệt bà rất thích chụp những loài hoa đẹp khi bắt gặp trên đường đi hay ở các công viên, các chỗ bày bán hoa cảnh. Bà cũng rất thích chụp những loại côn trùng nhất là ong với bướm, hoặc những con cào cào, châu chấu, những búp hoa vừa hé nở, hàm tiếu… Sau khi làm công tác đi săn ảnh trong ngày, tối đó, bà bỏ ra hằng giờ ngồi vào máy vi tính xem từng tấm ảnh đã chụp được trong ngày, rồi bà chỉnh sửa những chỗ không vừa ý, hoặc cắt xén những mảng xanh thừa thải, những bụi cây khô không thích hợp, hoặc giảm kích cỡ của tấm ành để sau đó gửi tặng bạn bè hay post lên Facebook. Ông nhìn thấy được sự đam mê của bà trong công việc này nên ông để bà tự do làm mọi thứ, mọi lúc, mọi nơi.

Ông Lâm dựng xe trên lề đường rút chìa khóa, rồi bước đến bên cột đèn gần đám rẫy để vừa trông xe vừa quan sát bà đang chụp ảnh bằng mọi tư thế. Ông rất cảnh giác khi cùng một lúc phải quản lý hai món tài sản, chiếc xe và cái máy ảnh. Còn bà già khỏi phải lo. Hơn sáu bó tuổi đời không ai bắt cóc làm gì. Hai món tài sản này đều đã cũ kỹ, nhưng không thể lường được, kẻ gian bây giờ liều lắm, chỉ cần một lượng ma túy thích hợp thì cái gì chúng cũng làm được, không cần quan tâm đến nhân tính hay đạo đức con người. Thử tưởng tượng cảnh một kẻ cướp rượt theo xe một cô gái và rồi chặt tay cô này để cướp lấy chiếc xe máy đắt tiền. Nghe đâu tòa xử tử hình tên kẻ cướp này, nhưng chưa biết đã thi hành án chưa? Nếu đã xử tử xong kẻ tội phạm này, tòa án đã làm được một công việc hết sức công bằng và xã hội không còn lo lắng vì đã loại trừ được một tên cướp vô củng nguy hiểm.

Sau khi đi vòng vo trong đám rẫy, bà Lâm trở ra, nét mặt hớn hở:

- Được nhiều hình đẹp lắm. Có rất nhiều bướm.

- Chụp được em bướm nào không?

- Được chứ. Bây giờ anh cầm máy chụp cho em.

Nói rồi bà đưa máy cho ông. Ông Lâm sực nhớ đây là màn chót. Sau khi chụp phong cảnh bây giờ là đến lúc chụp hình cho “người mẫu cao tuổi”. Ông đưa máy lên ngắm và đạo diễn giống như mấy anh chàng thợ chụp hình đám cưới trong khu Bình Quới:

- Chụp hết người. Nhìn bên phải. Mơ màng. Chụp nhe… Xong

Sau ba bốn lần “Xong”, bà bước đến gần một dây khổ qua có trái lủng lẳng. Ông Lâm lại đưa máy lên ngắm:

- Rồi, Người mẫu nhìn trái khổ qua. Đừng cúi nhiều quá... Chụp nhe… Xong. Núp sau dây khổ qua! Cười tươi! Chụp! Xong!

Ông bước qua bước lại, xàng tới xàng lui ra vẻ như là một nhiếp ảnh gia năng nổ tài ba.

Mặt trời đã lên cao lắm rồi, nắng không còn dịu dàng như vào thời điểm sáng sớm. Ông thấy bà có vẻ thở hơi lên sau gần một tiếng đồng hồ đi lăng quăng trong đám rẫy khổ qua.

- Đói bụng chưa? Kiếm cái gì ăn đi!

- Khoan đã, chưa đói lắm. Vòng qua chợ Củ Chi chơi. Gần tới rồi.

Nơi đến này cũng nằm trong phần lập trình của bà Lâm. Mỗi khi đi đến một địa điểm nào bà đều đi một vòng chợ để tìm kiếm xem có gì đặc trưng ở địa phương đó.

Đưa xe vào bãi giữ, hai ông bà sóng vai bước vào nhà lồng chợ. Con vịt quay đã được bỏ vào cóp xe khóa lại rồi.

Chợ Củ Chi cũng có phần sầm uất. Các gian hàng đều đầy ắp hàng hóa. Người ta đi chợ tấp nập mặc dù đã gần trưa. Ông Lâm nói:

- Đi lòng vòng nãy giờ chẳng thấy món đặc sản gì hấp dẫn.

- Củ Chi có gì đâu. Đi lên chút xíu nữa có bánh tráng Trảng Bàng.

- Trời, đi sáu bảy chục cây số tưởng kiếm được món gì dữ dội, ai dè chỉ có… bánh tráng!

- Hay là mình đi qua địa đạo, đó cũng là một đặc sản du lịch?

- He he! Anh không dám nói là không thích đi, nhưng bây giờ em nên chọn con đường lớn, rộng rãi thoáng mát, dù có nắng chang chang, để trực chỉ về Saigon.

- Đúng rồi, về đi anh. Về để còn xử lý con vịt quay…

♥♥♥

Dương Lêh

ĐOẢN THIÊN TIỂU THUYẾT

ANH NEO

của LƯU-TRỌNG-LƯ

Trời đã chấp-choảng. Anh Neo ngẩng mặt lên nhìn ra cảnh xung-quanh mình: Con ác-là đã về núi hồi nào. Những bạn đồng-nghiệp của ảnh cũng đã lần-lượt đập bò về ràn. Đến bây giờ anh Neo mới hay trời tối. Anh hò con bò lại, tháo cày ra. Anh đưa tay vỗ vào lưng con bò ba cái để báo hiệu cho “người bạn nắng mưa” của ảnh biết rằng công việc hằng ngày đã mãn. Rồi ảnh đỡ cái cày trên vai; theo một con đường nhỏ, con bò đi trước ảnh đi theo sau… Đó không phải là cái dấu-hiệu thua-sút của giống người: ảnh đi theo sau là để mà coi ngó, vì “người bạn nắng mưa” của ảnh, dẫu công việc hằng ngày đã hết, cũng cần phải gìn-giữ kềm-thúc, đánh đập. Bây giờ ảnh đã về tới nhà. Đưa roi ảnh lùa con vật vào ràn, đóng chặt lại. Rồi ảnh mới vào cái ràn của ảnh: Cái nhà của ảnh cũng là một cái ràn khác, cái ràn có hai gian: ăn ở đấy, ngủ ở đấy, cười ở đấy, khóc ở đấy. Anh Neo đặt cày xuống thềm nhà nghe cái sạt. Một đứa bé con độ bốn tuổi chạy ra cầm lấy tay bố nó mà la “ớ bọ đã về”. Bây giờ cái ngọn đèn con trong nhà đã liu-hiu hầu tắt mới trồi dậy dọi ra một cái ánh sáng hơi mạnh-mẽ. Người vặn ngọn đèn lên đó là một người đàn bà có chửa, cái bụng đã to bằng cái trống.

Anh Neo nhìn vợ mà nói:

- Mạ thằng Cu! chiều nầy có ai vào hỏi tôi không?

- Có ông Lý vào một lần, ông Phó một lần.

- Nói gì?

- Đòi dắt bò, đòi dỡ nhà.

- Thế mạ thằng Cu có lên ông Bá-Ngô không?

- Có, tôi nằn nì mãi mà ông không chịu. Ông nói thời-buổi khủng-hoảng nhà giàu cũng khủng-hoảng.

- Thế rồi thôi, mạ thằng Cu đi về?

- Chứ “bọ hắn” bảo tôi ở lại làm gì nữa chứ?

Chồng thở dài, vợ cũng thở dài. Giữa cảnh im-lìm lặng phắc chỉ còn nghe có tiếng thở dài và thở dài.

Chặp lâu thằng Cu mới mếu-máo nói: “Mạ ơi! mạ lấy cơm cho con ăn với.” Người mẹ đi vào buồng dưới, bưng lên một cái mâm gỗ. Mâm cơm của cái gia-đình nghèo-khổ kia đó. Một bát rau dền và một rá khoai vằm. Hết. Những cái vật hằng ngày nuôi sống người nghèo-khổ chỉ có thế thôi. Trên một chiếc chiếu rách trãi ở đất, ba “mạng” cùng ngồi lại ăn. Thằng Cu lại mếu-máo: “Chứ cơm đâu mạ?” Mạ nó không đáp. Anh Neo chặp lâu lại hỏi vợ:

- Chứ mười thúng lúa bán trên ông Hương-Cả mạ thằng Cu đã lấy tiền chưa?

- Lấy rồi, nhưng tôi đã mua hết mười quan khoai vằm, năm tiền muối và năm tiền vừng.

- Thế còn được mấy?

- Còn được mười hai quan.

- Mười hai quan! Tiền sưu, tiền ích, tiền nầy tiền nọ mà trước sau chỉ có mười hai quan!

Anh Neo nghĩ đến đó, thì anh dừng bát… khoai lại mà thở dài. Anh chỉ thở dài mà thôi, vì anh cũng không còn cách gì khác nữa. Không, anh đã nghĩ kỹ rồi, anh không còn cách gì khác nữa. Bán nhà thì phải ra ngủ ở đình chợ, tức là phải vất thân vào cái kiếp hành khất. Bán cái mảnh ruộng đi thì mảnh ruộng kia là của tổ-tiên lưu lại cho anh để lo ngày ông bữa bà, vì người chết, theo như anh nghĩ, cũng còn phải ăn uống như người sống.

Bán bò đi thì ruộng kia phải bỏ hoang, mà ảnh cũng không còn có cách gì làm thuê làm mướn ruộng người ta được nữa. Nghĩ vậy rồi thì hai hàng nước mắt chảy dòng dòng xuống hai gò má đen xám, chắp-nối theo nhau mà nhỏ xuống bát. Ảnh sẽ nuốt những cái hạt châu ấy cũng ngon-lành như những “hạt ngọc nhà trời”. Anh Neo lại nhìn vợ mà hỏi:

- Thế ông Lý có hẹn với mạ thằng Cu bao giờ thì ông trở lại không?

- Ngày mai, ông nói ngày mai sẽ cho xeo tới bắt.

- Thế thì mạ thằng Cu tính sao?

- Tính sao được giờ!...

Nói chưa dứt câu, người vợ anh Neo đặt bát xuống, tay đè lấy bụng mà rên. Anh Neo hỏi:

- Mạ thằng Cu đau thế nào đó?

- Tôi hơi đau bụng… chuyển bụng, bố hắn đi qua bên thím Ba xin cho tôi ít ngọn ngải-cứu.

- Hay là mạ thằng Cu đã đến ngày rồi?... Thử nhớ lại coi đã được mấy tháng?

- Chín tháng, phải, đã già chín tháng…

Anh Neo đứng dậy đi ra, trong chốc-lát thì đã thấy anh trở về với một nắm ngải-cứu.

Anh vò ra trong một bát nước đưa lại cho vợ uống. Anh kề vào tai người bạn trăm năm của ảnh mà nói:

- Uống đi cho đỡ. Tình-cảnh đến thế nầy thì e phải lên ông Bá-Ngô để bán đợ thằng Cu…

Người vợ anh nhìn thằng Cu mà đáp lại lời anh bằng hai hàng lệ. Anh Neo lại nói tiếp: “Tôi đã nghĩ kỹ lắm rồi mạ thằng Cu ạ. Tiền sưu, tiền ích nộp cho ông Lý; rồi lại tiền củi, tiền than, tiền cúng đồ-bà cho mạ thằng Cu nữa… duy chỉ còn có một cách ấy mà thôi.”

Người vợ anh Neo bây giờ đã dứt hẳn tiếng rên, chỉ nhìn thằng Cu mà khóc nức-nở. thằng Cu hẳn bây giờ cũng không hiểu giọt lệ của mẹ nó là giọt lệ gì. Ngày mai đến họa chăng nó mới hiểu.

Anh Neo lại nói:

- Thôi, mạ thằng Cu cũng chớ nghĩ giọt máu nhà lọt vào tay người mà đau-đớn. Nhờ trời nhờ phật, chuyến nầy mạ hắn sinh con trai, thằng Cu nầy đi còn có thằng Cu khác đến.

- Nhưng biết đâu thằng Cu khác lại chẳng chịu chung cái số-phận thằng Cu nầy!

Đến đây anh Neo nhìn vợ mà chủm-chỉm cười:

- Nầy, tôi coi mạ thằng Cu bây giờ đã hết đau bụng rồi thì phải?

- Đã đỡ, đỡ nhiều. Có lẽ tôi chỉ đau bụng xoàng mà thôi… bố hắn ạ!

Cũng là tốt phước cho thằng Cu lắm, nhưng ngày mai, tiền sưu tiền ích… ngày mai thằng Xeo nó vẫn cứ đến…

LƯU TRỌNG LƯ

HOÀNG KIM THƯ st.

TỰ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM

NHỮNG MẢNH TÌNH

của NHỰT THANH

Nhựt Thanh vừa xuất bản tác phẩm “Những mảnh tình” gồm 21 chuyện tình được coi là của Nhựt Thanh. Tình thời học sinh, con nít, tình thời giáo viên từ trẻ tới già, tình với nữ thi hữu, tình với ni cô và đặc biệt là vô nhà thương để yêu những cô y tá áo trắng với cái khẩu trang che gần hết mặt mà không biết cô nào mới lạ. Người ta nói “lắm mối tối nằm không” là đúng lắm vậy. Trong tác phẩm mỗi chuyện chỉ từ bốn tới năm trang thôi. Nhựt Thanh cho rằng trong tác phẩm này có hai điểm mới:

1. Các chuyện này Nhựt Thanh diễn đạt bằng văn xuôi lẫn với thơ.

Thiết tưởng đây là lối viết truyện ngắn mới đấy. Trước kia, trong truyện, các tác giả có chua thêm thơ vô nhưng bài thơ có tính minh họa. Ở đây, Nhựt Thanh dùng thơ để diễn đạt, với sự có ẩn ý trong thơ và cần sự ngắn gọn sự việc thể hiện, đọc giả vừa hiểu theo nghĩa đen, vừa hiểu với ẩn ý để thấm thía với tác giả mà tác giả không cần phải diễn tả dài dòng. Ví dụ ở chuyện tình thứ nhứt:

…Khúc khích em nàng dưới gốc cây

Hỏi han cười cợt… chút vui nầy

Mẹ, em và chị… đi xem hát

Vội vã tôi về đến miếu ngay

Đong đưa son sắt… lấn, chen, giành

Nhìn chị em nàng đẹp tợ tranh

Lặng lẽ ngồi xem trên dãy ghế

Tôi thời bám víu… ngó quanh quanh

Râm ran câu chuyện hát đêm qua

Vểnh mặt, khoa tay… ắt cũng là

Bất chợt lặng người, chua chát quá

Bỏ trường bỏ lớp… não nùng đa…

Đoạn thơ đã âm thầm trình bày thân phận của hai bên, người đọc chắc cũng hiểu ngầm việc tôi không tiếp tục lân la với nàng nữa mà không cần diễn tả bằng lời đối thoại dông dài giữa tôi và các bạn tôi. Và cũng không cần những lời mắc mỏ nào đó mà vì tự ái, vì xót xa với thân phận mà xa lánh nàng.

Hay chuyện tình thứ ba:

… Hỏi chuyện tình trường bao vướng mắc

Chuyện học trò… nàng đáp thật vui

Chuyện Đức Hòa nàng lại im hơi

Tôi cứ hỏi… nàng lạnh lùng như chẳng

Tôi ngồi im… nàng cũng im thôi

Giây lâu nàng ngước mắt nhìn tôi

Vô duyên lắm… phải chăng? Thế hẳn?

Lại lạnh lùng cúi đầu lẳng lặng

Chúng tôi ngồi… im ắng chẳng một lời

Tôi lại hỏi, nàng nhìn… thôi đừng hỏi

Cao Lãnh mai đà đi… nàng lại nói

Chuyện xong rồi… đừng nhắc nữa anh ơi…

Những nỗi tâm tình gút mắc, có lẽ cả hai cùng tự trách mình vì thẹn thùng, vì rụt rè… nên để vuột tay nhau.

2. Điểm mới thứ hai là truyện ngắn đại nhân vật.

Xưa nay một tác phẩm tiểu thuyết có một nhơn vật chánh. Phần một gây mầm mâu thuẫn, phần hai là mâu thuẫn xung đột mà nhơn vật chánh là trung tâm, phần ba là mâu thuẫn tự giải quyết. Sau, có truyện không có nhơn vật. Nó là những mẩu truyện mà hết nhơn vật nầy đến nhơn vật khác tự gây hấp dẫn cho người đọc từ đầu đến cuối. Trong tác phẩm “Những mảnh tình” nầy, chuyện tình thứ hai mươi mốt, Nhựt Thanh tôi yêu cô y tá có đôi mắt huyền mà chiếc khẩu trang che gần hết mặt nhưng cô có tinh thần trách nhiệm cao. Yêu cô nào? Tôi cũng không biết, nhơn vật tôi yêu là tiêu biểu cho nhóm y tá của bịnh viện của khoa tôi đang nằm điều trị chớ không riêng cô nào cả. Tôi gọi đây là truyện ngắn đại nhân vật đấy.

Nếu đọc giả và các nhà nghiên cứu văn học thấy chấp nhận được tính đại nhơn vật nầy thì truyện ngắn của tôi lại bước thêm một ngã rẽ mới. Như vậy truyện ngắn của ta có nhơn vật, không nhơn vật, và đại nhơn vật thế cũng vui.

Về nội dung thì thế nào?

Hiện nay tôi thấy báo đăng nhiều chuyện tình khá bi đát: chàng yêu nàng, nàng không yêu lại thì giết để ở tù. Hay cả hai yêu nhau rồi bỗng cái xấu xuất hiện, nàng đòi chia tay, chàng cũng giết nàng hay bêu xấu trên mạng cho vui. Nhưng ngược lại, cũng có bà vợ thấy chồng ngoại tình thì cắt bỏ đi, hay cô nhơn tình bị phụ bạc thì cho một lít xăng đốt cho chết phứt… Ở những chuyện tình của Nhựt Thanh thì hai đàng đến với nhau thật nhẹ nhàng mà chia tay nhau cũng êm ái. Không có gì mà ầm ĩ, không có gì mà gây gỗ hay đánh đập nhau làm sứt mẻ tình người.

Nếu cách diễn đạt của Nhựt Thanh tôi gây hấp dẫn được đọc giả thanh thiếu niên nói riêng và mọi tầng lớp trong xã hội nói chung thì hy vọng người đối với người được tốt hơn chăng?

Quận 4, ngày 09 tháng 8 năm 2014

NHỰT THANH

Mẹ và Con gái

Quyên là con gái út trong gia đình có nhiều anh chị em. Ba mất lúc Quyên mới lên năm. Má bốn mươi lăm, còn trẻ đẹp. Bà ở vậy nuôi các con khôn lớn. Mồ côi cha trong lúc còn thơ dại, Quyên luôn quấn quýt bên má, được má cưng nhất nhà. Từ nhỏ Quyên quen ngủ với má cho đến ngày lên xe hoa theo chồng rời xa quê hương.

Má buồn, không cản trở hay nói một lời nào cả. Má biết sự chọn lựa của Quyên xuất phát từ tình yêu. Mối tình yêu của Quyên và người bạn trai trắc trở mười năm, vượt qua bao thử thách, thủ tục giấy tờ mới có được giấy bảo lãnh. Quyên hiểu tấm lòng của má không muốn xa Quyên để con ra đi sống xa lạ nơi xứ người. Chị gái thứ là người động viên Quyên nhiều nhất, chị nghĩ Quyên lựa chọn giữa gia đình và tình yêu, đương nhiên tình yêu và hạnh phúc của chính mình là sự lựa chọn đúng.

Quyên ra đi, nhờ các anh chị chăm sóc má, Quyên thương má và mong má sống yên ổn và vui sướng cùng các anh chị nơi quê nhà.

Thắm thoát mười mấy năm trôi qua. Quyên bước vào tuổi bốn mươi, con gái nhỏ lên năm. Bao nhiêu năm xa nhà, nhớ má, Quyên quyết định về thăm má.

Không thể nào tin được, má bảy mươi tuổi, dáng người gầy gò, bước đi liêu xiêu, nheo nheo mắt, giọng nghẹn ngào:

- Con út Quyên của má, má nhớ con…

Quyên không dằn được cảm xúc, ôm chầm lấy má khóc.

- Má. Má ơi.

Con gái Quyên nhìn má khóc, cũng khóc theo.

- Mami… sao mami khóc.

Những giọt nước mắt của tình yêu thương chan chứa lòng mẹ. Sống trong cảnh hạnh phúc, sung sướng bên chồng con, giờ đây Quyên hiểu được cảnh má sống góa bụa vò võ một mình mấy mươi năm, buồn, lủi thủi cô đơn trong căn nhà cũ, với di ảnh của ba trên bàn thờ.

Ngón tay có ngón dài ngón ngắn, anh chị em của Quyên cũng thế. Ai cũng có hoàn cảnh của riêng mình, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đời sống chật vật, cùng nhiều lý do khác nên thiếu sự chăm sóc má. Má chịu đựng tất cả, không than thở hoặc đòi hỏi điều gì ở các con.

Quyên xót xa nao lòng khi má nói:

- Con về thăm má đem cả cháu ngoại cho má gặp mặt… má vui lắm. Như thế này má cũng yên lòng, biết đâu là lần cuối.

- Má ơi. Đừng suy nghĩ vẩn vơ, má lo ăn uống tẩm bổ sống vui vẻ. Con sẽ về thăm má… con sẽ về hoài…

Một tháng, Quyên lại được ngủ với má trên bộ ván gõ. Quyên nằm giữa, một bên là má, một bên là con gái. Quyên xoay bên này rồi xoay bên kia. Bé con đã ngủ say. Má vẫn còn thao thức. Quyên vòng tay ôm má. Vòng tay của Quyên ôm trọn trái tim của má…

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

ẾCH VỀ NHÀ MỚI

Chú ếch con nhảy ùm xuống cái vũng nước nhỏ, những giọt nước bắn tung tóe lên làm chú nhe cái miệng rộng ngoác ra cười khoái trá. Hm! Chú khoái trá không chỉ vì cái vũng nước mới tóe tòe toe này, mà còn vì chú đã bạo gan cứ cà tực cà tực nhảy từ tuốt bên kia đường về định cư chỗ mới này mà không hề bị sứt sẹo gì cả. Dù chỉ là con ếch nhãi nhép thôi, chú cũng biết lý do làm chú an toàn khi chú hiên ngang băng qua con đường đông đúc. Ấy là vì mọi lối đi người ta đã trưng dụng để bán đủ thứ trên đời, nào quần áo, nào bóp, nịt, nào đồ chiên, đồ xào nấu… những thứ ấy chú chẳng hề quan tâm, vì chú chỉ thích đớp muỗi cho gọn nhẹ, khỏi đánh răng đánh lợi gì ráo. Nào đã hết, nếp văn minh đô thị đã làm cho con người tự cho mình bày biện cả ra lòng đường, nơi đủ các thứ xe và các loại kèn thi nhau nhả khói và hét hò rầm rĩ, khi người đi bộ, và kể cả chú cũng đành lách chân trên từng cm một. Người thì í ới với đôi mắt tròn xoe, xe thì bẳn gắt với mấy cái pô nèn nẹt bực cả mình, còn mấy cái còi thì cứ ông ổng, đua với mấy cái loa to đùng ra rả những bài hát nghe mãi chỉ muốn đập… mẹ nó ra cho khỏi nhức cái lỗ nhĩ. Còn chú thì chỉ là loài ếch nên biết gì về văn minh lịch sự. Chú tự hỏi sao người ta không cấm xe chạy là xong chuyện. Đàng này xe cộ lại chen với khách bộ hành thì quả là thú vị. Dĩ nhiên là thú vị cho chú vì chú được cười thoải mái về cái ngô nghê của con người. Chú rất vui vì trong rừng người chen chen chúc chúc ấy, chú vẫn từng bước chân hoàng hôn mà tiến tới, thỉnh thoảng, chú nhảy bừa trúng lên chiếc dép của ai đó đang vô tình bước trên con đường đau khổ, thì hóa ra cái chân ấy đã vô tình đưa chú đi một đoạn khá xa, đến nỗi khi rơi xuống khá đau, chú nhận ra mình đang về chốn cũ. Rồi dăm ba lần như vậy cũng đủ đưa chú về đây. Nơi cái vũng nước mà dòng nước pha đất sét vàng óng dễ thương đang từ từ chảy vào… Vũng nước loang dần mầu vàng, rồi dập dập dềnh dềnh vì cái xe nọ ào qua, khiến không chỉ là giòng chảy bé bé xinh xinh, mà cả một túm tụm nước tòe loe, xối xả ụp xuống, làm chú nhủi cả người vào tận đáy. Khi chú ngoi lên thì có tiếng xí xa xí xố của ai đó, chắc là người chệt, mà chú nghe chớt chớt nhả nhả, lủ mẻ ló, ướt hết mẻ nhà người ta zồi. Chú cạy óc mà chẳng hiểu lủ mẻ ló nghĩa là cái gì nữa!

Dĩ nhiên là vợ chồng ông già người Tàu hiểu điều ổng vừa phát ngôn. Dù học ít nhưng ông hiểu nhiều chứ. Ổng hiểu rằng, dù ông có nói bất cứ thứ gì thì lời nói ông hoàn toàn vô giá trị. Vì ông nghèo, mà nghèo thì ai thèm để ý gì cho chật chội cõi lòng vốn đã có ni có tấc! Nhà ông nghèo, ở gần đầu hẻm. Hai ông bà chui trong cái nhà mà nếu ở Hội An, không biết chừng đã được liệt vào nhà cổ. Còn ở đây ư? Nó chỉ là một cái mái ngói xiêu vẹo như cái lưng của vợ ông. Những viên ngói rêu phong từ ngày con ông chết trận, để lại cho 2 ông bà già nỗi cô quạnh bên dưới những cái xà nhà cong oằn mà có lẽ vì thương ông bà già chỉ sống nhờ cái nghề lượm ve chai mà chưa chịu sụp. Nhà ông thấp nhất xóm. Già như ông mà khẽ với cái tay khẳng khiu lên là đã lấy được mấy cây nhang ông nhét dưới viên ngói, để tối tối ông đốt lên rồi xì xa xì xụp lạy bốn phương tám hướng mà cầu trời khẩn đất rằng, hãy để cả 2 ông bà chết rồi nhà mới sụp. Thỉnh thoảng bà òa khóc như đứa trẻ con vòi kẹo mà nhiếc ông trời, ôông mà lể tôi chết trước khi nhà tui sụp thì tui hổng zái ôông đâu lửa nhá! Mỗi khi bà rủa trời như vậy thì y như rằng, ông lại nhe cái lợi ra mà khôi hài, chết mẻ ló zồi làm sao mà cúng với pái a!

Hôm nay, người ta sửa lại con hẻm cho đẹp sau khi nó bị băm nát bởi thời gian và sự cẩu thả của con người. Dọc theo hẻm là mấy cái con lươn cong cong quẹo quẹo nhô nhô hụp hụp sau khi ông điện lực, bà cấp nước và mấy chú công ty tá lả thành phố đào đào xới xới. Vằn vện theo chiều ngang là các con rãnh ngày càng nhiều như để thi gan cùng tuế nguyệt, dĩ nhiên là các nhánh cống nối vào từng nhà, lại còn ống nước sửa tới sửa lui, mà mỗi lần sửa thì con đường xưa em đi giờ không dám đi nữa. Chẳng chờ tối đến, mà ngay cả ban ngày ban mặt ra chờ mua ổ bánh mì là coi chừng có cô nàng đẹp như Tây Thi chạy xe đẹp còn hơn người chạy ngang, cái bánh xe dậm hẳn vào vũng nước, làm tóe lọe chất nước chẳng hiểu từ đâu và gồm thành phần dinh dưỡng là gì, có khi lên tới tận mồm làm cái miệng muốn chửi cũng không thể mở ra vì mầu vàng của nước và đất đã tô điểm cho khuôn mặt đủ vẻ khó ưa rồi. Ấy vậy, mà còn phải cãi nhau với cậu chủ xe bánh mì. Mày bán bánh mì mà để ướt hết vầy sao tao ăn? Thôi đi bố! Con đưa cho bố rồi thì bố phải mà liệu chứ. Ừ! Thằng này nói chí phải. Tao cầm rồi thì tao chịu. Nhưng tiền tao đã đưa cho mày nhé con. Nghĩ vậy, mà ai nỡ làm vậy, đành mua ổ khác, còn ổ kia về nhà, tỉa cho chó ăn. Dòm lại cái quần vợ mới ủi, giờ ướt nhẹp. Không biết chừng cái bà vợ nhiêu khê lại rề rà, đi mua có ổ bánh mì mà cả tiếng, lại còn té thế kia nữa. Thật là xấu hổ cho gia đình chúng tôi!

Vậy là người ta chận đường ở hai đầu để làm đường. Ai cũng phải đóng tiền! Thằng nào làm hư thì chuyện đã qua rồi, cho qua luôn nhá. Ai có nhà thì đóng tiền rồi có lối đi đẹp mà xài, còn không làm thì tùy thích thôi ông bà ạ! Thế thì lòi tiền ra chứ làm sao! Người ta thay vì cạy lớp cũ ra rồi làm lớp mới thì chả ai phải sửa nhà. Đàng này, mode là làm cao hơn cũ chừng 30cm, cho dễ và đỡ công cào lớp cũ đi. Do vậy, khi làm xong đường thì có nhà cửa sổ sẽ thay cửa ra vào vì thấp lè tè. Túi ai căng thì nhà sẽ tôn lên cao để ngạo nghễ với đời. Còn ai thiếu máu, đành be thêm trước cửa con đê chống lũ và chống ra vào luôn. Xe ra xe vào thì chịu khó khiêng lên cho khỏe người. Già cả thì coi chừng kẻo vấp phải con đê kia mà cấp cứu. Rồi ngày mai, hẻm kế cũng làm, và phải cao hơn hẻm này mới là phải chớ! (Phải gió thì có!). Kiểu nó vậy mà! Quả là nan giải! Chẳng có ai giải nên nan càng tối nan. Ai mà mất công giải chi cho mệt! Thằng nào không theo kịp thì… chết cho rảnh!

Bởi vậy, nhà ông bà người Tàu mới thành cái hồ bé bé xinh xinh, đầy sình và ngập muỗi. Mà cũng vì vậy, chú ếch nọ lấy làm vui sướng được định cư trong nhà ổng bả. Để ngày ngày, được nghe ổng bả lủ mẻ mà chẳng hiểu cái chữ ấy ý nghĩa ra làm sao. Chú có đầy muỗi để no lòng, chú còn cần chi nữa. Ít ra, chú bái bai được con đường ngoài kia. Con đường ồn ào và lổn ngổn…

LAM TRẦN 29.07.2014

Kịch

SAU 50 NĂM

(Cảm hứng từ những mẩu chuyện trên Internet)

Nhân vật:

- NGỌC: Bác sĩ

- VÂN: vợ Ngọc

- ÔNG CỤ và BÀ CỤ: cha mẹ Ngọc

TH ỜI GIAN & KHÔNG GIAN:

Buổi tối tại phòng khách nhà Bác sĩ Ngọc. (V ợ chồng Ngọc vừa tổ chức lễ kim khánh hôn phối cho cha mẹ. Từ trong phòng ăn vọng ra nhiều tiếng xôn xao:

- Chúc hai bác trường thọ…

- Chúc hai bác sức khỏe và hạnh phúc…

- Kính chúc hai cụ tiếp tục tổ chức nhiều lần kỷ niệm ngày cưới như hôm nay nữa…

Sau đó, khách từ trong lục tục ra về. Vợ chồng Ngọc ân cần tiễn khách ra cửa rồi quay vào.

oOo

Ng ọc (thở phào, ngồi xuống ghế): Ổn rồi. Mệt mà vui quá. Ba má hôm nay cười suốt buổi.

Vân: Đúng thế. Nhìn ba má trẻ ra cả chục tuổi.

Ngọc: Còn em có vui không?

Vân (ngạc nhiên): Anh hỏi lạ vậy? Vui chứ. Em đang nghĩ đến ngày vợ chồng mình cũng tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày cưới giống ba má hôm nay.

Ngọc: Thế mà anh nghĩ em đang không vui đấy.

Vân: Sao em lại không vui? Anh muốn nói gì thế?

Ngọc: Anh muốn em trả lời thành thật. Sáng nay lúc anh lấy xe chở em đi chọn mua bánh kem, em nhớ không?

Vân: Em nhớ. Làm sao?

Ngọc: Thôi, để em tự nói ra, hay hơn.

Vân: Anh hôm nay úp úp mở mở, lạ quá. Em chẳng hiểu gì cả. Anh nói thẳng ra đi.

Ngọc: Dọc đường gặp chuyện gì, chẳng lẽ em quên?

Vân (cười): À, nhớ rồi. Dọc đường xe anh hết xăng chết máy, anh phải dắt bộ đi tìm cây xăng.

Ngọc: Đúng thế. Sao nữa?

Vân: Thì đổ đầy bình xăng xong, xe tiếp tục chạy, chứ còn sao nữa.

Ngọc: Còn một chi tiết quan trọng.

Vân: Sao em không nhớ nhỉ? Chắc em quên rồi.

Ngọc (cười khẩy): Quên thật không?

Vân (hơi lúng túng): À phải, anh đang dắt xe thì có một bà mẹ bồng đứa con nhỏ chặn anh lại. Bà ấy rối rít cám ơn anh tháng trước đã chữa khỏi bệnh cho nó.

Ngọc (gật đầu): Em kể tiếp đi.

Vân: Đã tận tâm chữa bệnh không nhận thù lao, anh còn cho mẹ con bà ấy tiền đi xe về quê nữa. Bà ấy bảo chưa gặp bác sĩ nào vừa có tài vừa có tâm như anh. Em thấy rất hãnh diện.

Ngọc: Rồi sao nữa?

Vân: Rồi bà ấy chào vợ chồng mình, bồng con đi. Thế thôi.

Ngọc: Không phải chuyện mẹ con đứa bé ấy. Chẳng lẽ em hoàn toàn quên chuyện sáng nay?

Vân: Em không nhớ thật, anh nhắc em đi.

Ngọc: Vậy là em muốn anh nói ra, thì anh nói. Lúc ở cây xăng sáng nay… Anh chàng nhân viên đổ xăng cho xe anh… Đấy, em nhớ chưa? (Vân cúi mặt). Anh ta quen em, đúng không?

Vân: Sao anh nghĩ thế?

Ngọc: Không phải nghĩ mà là biết. Anh biết thế. Anh chắc chắn thế. Em và anh ta đã rất thân thiết trước kia. Anh thấy rõ hai người thảng thốt khi nhìn thấy nhau. Anh ta lúng túng đến nỗi bơm tràn cả xăng ra ngoài, còn em lúc trả tiền, tay run lên. Từ lúc đó, em bâng khuâng, ít nói cười…

Vân: Anh ơi, thật ra thì…

Ngọc: Thì em cứ nhìn nhận ngày trước hai người đã có thời gian yêu nhau nhưng vì lý do gì đó mà phải chia tay. Rồi em gặp anh, làm vợ anh. Và hôm nay tình cờ gặp lại cố nhân…

Vân: Anh ạ, đúng thế. Nhưng đó là chuyện ngày xưa khi em chưa thi đại học. Từ lâu, em đã quên anh ấy rồi. Em nói thật đấy, anh đừng nghi ngờ em…

Ngọc: Anh không nghi ngờ. Anh chỉ không muốn em giấu giếm anh. Đúng ra, em cứ tự nhiên chào hỏi anh ta như chào hỏi một người bạn cũ xa cách lâu ngày. Đúng ra em phải giới thiệu anh với anh ta chứ… Thôi được, vài ngày nữa xe hết xăng, anh lại đưa em đến đấy để em nói chuyện với bạn cũ nhé.

Vân (cười): Không cần vậy đâu anh. Sáng nay đúng là em có đôi chút bất ngờ khi tình cờ gặp lại anh ấy. Sau đó thì em lại quên anh ấy rồi.

Ngọc: Nhưng hẳn em cũng chạnh lòng khi thấy người yêu cũ giờ chỉ là một nhân viên đổ xăng… Ồ, anh xin lỗi, anh không coi thường bạn em đâu, anh chỉ nói sự thật… Anh có thể đọc được trong đầu em lúc này đang nghĩ gì...

Vân (cười): Thế à? Em nghĩ gì?

Ngọc (cũng cười): Em đang nghĩ nếu ngày ấy không chia tay, em lấy anh ta thì bây giờ em chỉ là vợ một nhân viên đổ xăng chứ đâu phải là vợ một bác sĩ. Đúng không?

Vân: Không đúng. Em chỉ nghĩ: nếu ngày ấy em lấy anh ấy thì bây giờ anh ấy cũng đã là một bác sĩ, như anh.

(Ông bà cụ từ trong đi ra. Ngọc và Vân chạy lại dìu ông bà ngồi xuống ghế)

Ông cụ (hỏi Ngọc): Khách về hết rồi hả con?

Ngọc: Dạ, về hết rồi ba.

Vân: Ba má có đói để con dọn đồ ăn lên. Con thấy ba má vui quá có ăn uống gì đâu.

Ông cụ (cười lớn): Phải rồi. Ba vui quá no luôn, giờ con nhắc mới thấy đói. (Hỏi bà cụ) Bà ơi, bà muốn ăn gì?

Bà cụ: Ông ăn gì thì tôi cũng ăn vậy.

Vân: Để con lấy xúp cho ba má.

Ông cụ: Ba mới ăn một chén lúc chiều rồi. Thôi, con lấy cho ba ly sữa với miếng bánh mì đi.

Vân: Dạ, để con xuống bếp pha sữa (đi vào)

Bà cụ (nói theo): Để má pha cho. Con làm không đúng ý ba con đâu (vào theo)

Ngọc (ngồi xuống cạnh ông cụ): Ba thấy má lo lắng cho ba ghê chưa? 50 năm nay, ngày nào má cũng tự tay chăm sóc bữa ăn giấc ngủ cho ba. (Vẻ quan trọng) Ba, con hỏi thật, ba nói bí quyết cho con nghe đi, làm sao để ba má sống hạnh phúc suốt đời với nhau được vậy?

Ông cụ: Bí quyết gì đâu? Chỉ hai chữ “chung thủy” thôi. Ba luôn chung thủy với má con là tự nhiên vợ chồng hạnh phúc thôi.

Ngọc: Chỉ vậy thôi sao ba?

Ông cụ: Vậy thôi.

Ngọc: Con thấy khó tin quá. Hay ba sợ con kể lại với má? Không đâu, con về phe ba mà. Ba đẹp trai, phong độ, thế nào chẳng có nhiều phụ nữ chết mê chết mệt? Đàn ông với nhau, con hiểu quá mà…

Ông cụ: Suỵt! (Nhìn vào trong) Nhỏ miệng thôi, má con nghe được là tiêu đời ba giờ!

Ngọc (cười): Đó, vậy là ba thú nhận rồi. Nói vậy mà không phải vậy, đúng không ba?

Ông cụ (gãi đầu): Ờ thì…

Ngọc: Ba kể cho con nghe để con học kinh nghiệm sống với vợ con như ba má đã sống hạnh phúc suốt 50 năm qua vậy.

Ông cụ: Con muốn ba kể gì bây giờ?

Ngọc (hạ thấp giọng, vẻ bí mật): Ba có phản bội má lần nào chưa? Nghĩa là ba có hò hẹn với người đàn bà nào khác không? Dĩ nhiên là lén lút, má không biết. Ba yên tâm đi, con không nói với ai bí mật của ba đâu…

Ông cụ (ngần ngừ): Ờ thì… cũng có.

Ngọc: Cũng có là mấy người? Ý con hỏi ba phản bội má bao nhiêu lần tất cả?

Ông cụ (giơ 2 ngón tay lên)

Ngọc: Hai lần?

Ông cụ (lắc đầu, vẫn giơ 2 ngón tay)

Ngọc: Con hiểu rồi. Ba bỏ tay xuống đi. Chỉ có hai lần thì không đáng kể, nhỉ ba?

Ông cụ: Không phải hai mà là… 20, con ơi!

Ngọc (kêu to): Trời đất ơi! (Sực nhớ vội nhìn vào trong, nhỏ giọng) Tới 20 lần lận sao ba?

Ông cụ: Không phải 20 lần mà là… 20 bà. Còn lần thì nhiều lắm, ba không nhớ nổi.

Ngọc (lại kêu to): Trời, ba ơi là ba!

Ông cụ: Nhỏ miệng thôi con. Coi chừng má nghe thấy.

Ngọc: Con toát mồ hôi lạnh rồi đây nè. Vậy mà má không hề hay biết gì sao?

Ông cụ: Má không biết nên ba mới làm tới tới, hết mửng này đến mửng khác được chứ con. Ngày trẻ, ba nông nổi, ham vui, cả thèm chóng chán nên làm nhiều chuyện không phải với má con. May mà má con tuyệt đối tin tưởng ba, chẳng hề nghi ngờ gì. Nếu không ba má rã đám từ lâu, còn đâu cho con tổ chức đám cưới vàng hôm nay nữa?

Ngọc: Có khi nào ba thấy hối hận không?

Ông cụ: Có. Giờ nghĩ lại, ba ân hận lắm. Con đừng đi vào vết xe đổ của ba nghe con.

Ngọc: Con cũng không tin suốt 50 năm qua, ba giữ kín được một bí mật lớn như vậy.

Ông cụ: Tính má con nhẹ dạ cả tin vậy đó, thấy thương lắm. Sẵn đây, ba bật mí thêm một bí mật nữa của ba với má cho con nghe…

Ngọc: Trời, lại chuyện gì nữa vậy ba?

Ông cụ: Con còn nhớ ba má vẫn kể lại lần đầu tiên ba gặp má không?

Ngọc: Con nhớ. Chuyện này má nhắc hoài. Hôm đó, ba đang ngồi làm việc trong văn phòng thì má vào, hỏi hồ sơ giùm bạn của má. Lúc má quay lưng ra về, chợt nghe cái “rầm”, má nhìn lại thấy ba ngã chúi dưới đất. Thì ra bị tiếng sét ái tình của má đánh trúng, ba xúc động quá tới nỗi ngồi không vững, lăn quay xuống đất. Cả phòng cười ồ lên…

Ông cụ (tiếp lời): Và ba ngượng đỏ mặt tía tai. Rồi ba nói với má thế này “Trái tim yếu đuối của tôi không chịu đựng nổi khi phải chia tay cô gái diễm lệ như cô”… (cười to) Nghe sến quá, hả con?

Ngọc: Và thế là bắt đầu từ giây phút đó, ba má làm quen nhau rồi mấy năm sau thì tổ chức đám cưới… (Ông cụ gật đầu). Chuyện này con nghe kể cả trăm lần, có gì bí mật đâu ba?

Ông cụ: Có đấy. Bí mật ở chỗ tới giờ má vẫn đinh ninh ba bị sắc đẹp của má quyến rũ tới nỗi không giữ nổi bình tĩnh, mất thăng bằng ngã lăn xuống đất.

Ngọc: Ủa, không phải vậy sao?

Ông cụ: Không phải. Chỉ là lúc đó ba đụng tay làm rơi cây bút chì xuống, ba nhoài người định nhặt lên, vô ý làm ghế nghiêng nên mất đà ngã chúi xuống. Vậy thôi!

(Hai cha con cùng cười lớn)

Ngọc: Đúng là điều bí mật ngọt ngào, phải không ba?

(Bà cụ đi ra, tay bưng khay có 2 ly sữa và vài lát bánh mì)

Bà cụ: Hai cha con đang nói chuyện gì vui mà cười đó?

Ông cụ: À, chuyện riêng của đàn ông thôi.

Ngọc (nháy mắt với cha rồi đi vào)

Bà cụ (đặt khay xuống bàn): Ông ăn đi. Để tôi bẻ bánh bỏ vào sữa cho mềm, cho ông dễ nuốt (cầm một miếng đầu ổ bánh mì lên).

Ông cụ: Khoan đã bà. Tôi muốn hỏi ba một câu mà tôi thắc mắc 50 năm rồi. Bà biết tôi rất thích ăn bánh mì, đúng không?

Bà cụ: Dĩ nhiên tôi phải biết ông thích ăn gì, sống chung nửa thế kỷ rồi mà (bẻ nhỏ từng miếng bánh thả vào ly sữa của ông cụ).

Ông cụ: Nhưng tại sao ngày nào bà cũng dọn cho tôi ăn hai đầu ổ bánh? 50 năm nay, bà bắt tôi ăn mấy ngàn cái đầu ổ bánh như thế rồi, bà có đếm nổi không? (Bà cụ ngây người, sửng sốt nhìn chồng). Trong khi tôi rất ghét ăn hai đầu ổ bánh. Nó khô cứng, không hấp dẫn chút nào. Mấy năm nay tôi đã rụng hết hai hàm răng không nhai nổi nữa mà bà cũng không tha cho tôi, bà vẫn bẻ hai đầu ổ bánh khô khốc ấy thả vào ly sữa, buộc tôi phải ăn nó. Tôi sẽ còn phải ăn thứ tôi không thích cho đến chừng nào đây, hả bà?

Bà cụ (kéo vạt áo chậm nước mắt): Suốt 50 năm nay ông không nói, tôi đâu có ngờ…

Ông cụ: Vì tôi sợ bà buồn, bà giận, bà bỏ tôi mà đi.

Bà cụ: Vậy sao hôm nay ông lại nói ra?

Ông cụ: Hôm nay sau kỷ niệm đám cưới vàng, tôi mới thực sự yên tâm, không sợ bà bỏ tôi nữa. Bà nói lý do cho tôi khỏi ấm ức đi. Tại sao vậy?

Bà cụ: Tại vì… (nghẹn ngào) Vì… tôi rất thích ăn nó, ông ạ. Đấy là phần ngon nhất của ổ bánh mà tôi luôn muốn được ăn…

Ông cụ (giật mình): Bà nói thật đấy à?

Bà cụ (gật đầu, lau nước mắt)

Ông cụ (thẫn thờ một chút rồi hỏi nhỏ): Đến hôm nay, bà còn thích không?

Bà cụ: Vẫn còn. Bởi vì 50 năm nay, chưa bao giờ tôi được thưởng thức thứ tôi thích cả. Tôi luôn nhường nó cho ông rồi.

Ông cụ (cầm tay vợ): Xin lỗi bà, tôi vô tâm quá. Bà thông cảm cho tôi… (Cầm 1 lát bánh trong dĩa lên) Đây, hãy còn một đầu bánh này, bà ăn đi. Từ giờ bà không cần nhường cho tôi nữa.

Bà cụ: Muộn rồi ông ơi. Tôi cũng đâu còn răng để nhai, tôi cũng phải xé nhỏ thả vào ly sữa giống ông mà thôi, vậy phần nào thì có khác gì nhau?

Ông cụ: Hôm nay tôi mới hiểu thêm về bà, tôi áy náy quá. Bà đừng buồn tôi nhé (xé bánh bỏ vào ly sữa cho bà cụ) Thôi, xí xóa chuyện đó đi. Mình ăn bánh kẻo sữa nguội thì uổng công bà đã khó nhọc pha cho tôi. (Hai người cầm muỗng ăn phần mình). À bà này, thằng Ngọc vừa hỏi tôi bí quyết giúp tôi và bà sống hạnh phúc bền vững với nhau suốt 50 năm qua đấy.

Bà cụ: Con Vân cũng mới hỏi tôi một câu giống y như vậy.

Ông cụ: Rồi bà trả lời nó làm sao?

Bà cụ: Tôi nói bí quyết của tôi chỉ nằm trong hai chữ “chịu đựng” thôi.

Ông cụ (sửng sốt): Chịu đựng là thế nào? Bà nói vậy, con Vân tưởng bao nhiêu năm nay bà vẫn phải chịu đựng tôi hay sao?

Bà cụ (lẩm bẩm một mình): Chịu đựng! Luôn luôn là chịu đựng!

Ông cụ (to tiếng): Tôi đã làm gì không phải với bà để bà phải chịu đựng tôi? Tôi có lỗi gì, tôi làm gì sai?

Bà cụ (vẫn lẩm bẩm): Chịu đựng và chịu đựng! (Đứng dậy chầm chậm đi vào trong)

Ông cụ (hỏi với theo): Sao bà không trả lời lại bỏ đi đâu? Bà khinh thường tôi quá.

(Một lát, bà cụ trở ra, tay cầm cái hộp nhỏ đặt xuống bàn).

Ông cụ: Hộp gì thế?

Bà cụ: Ông ạ, hôm nay tôi cũng muốn nói với ông một bí mật tôi giữ kín 50 năm qua. (Lấy chìa khóa từ từ mở hộp) Trước ngày cưới, mẹ tôi cho tôi cái hộp này, bảo tôi rằng: “Con ơi, trong đời sống hôn nhân, mỗi khi chồng con làm điều gì cho con đau khổ thì con cứ khóc thật to cho nhẹ lòng. Con cần một cái khăn tay để lau khô nước mắt. Cái khăn ấy con chỉ dùng một lần rồi cất kỹ vào hộp, không bao giờ nhớ tới nó ra nữa. Như thế, con xóa sạch tất cả buồn phiền chồng con gây ra cho con, để con tiếp tục vui sống, tiếp tục chu toàn bổn phận làm vợ của con…”. Tôi đã làm đúng theo lời mẹ dặn. (Lần lượt lấy từ trong hộp ra 3 cái khăn tay) Đây là những cái khăn tôi dùng lau khô nước mắt. Nhờ thế, tôi quên hết mọi buồn phiền, để tiếp tục chịu đựng…

Ông cụ (bối rối): Bà à, tôi thật vô tâm, bà thông cảm cho. Nhưng mà… nhưng mà… Chỉ có 3 cái khăn tức là chỉ có 3 lần tôi có lỗi với bà, làm bà phải khóc, thì cũng không phải là nhiều, đâu đáng kể, phải không bà? Đàn ông mà… (Bà cụ lấy trong hộp một xấp tiền buộc gọn gàng, đặt xuống bàn). Tiền gì nhiều vậy? Bà cất quỹ đen đấy à?

Bà cụ: Không phải. Đây là toàn bộ số tiền tôi đã bán những chiếc khăn lau nước mắt của tôi…

Ông cụ (giật mình): Bà nói là… sao lại… sao lại…

Bà cụ: Cái hộp nhỏ quá không đủ chỗ cất khăn nên khi nào nhiều thì tôi lại phải bán bớt nó đi.

Ông cụ: Bà đùa tôi đấy à? Làm sao tôi lại làm bà khóc nhiều lần đến thế được?

Bà cụ: Có đấy. Tại ông không biết thôi. Những lúc ông đi ăn nhậu với bạn bè… những lần ông hò hẹn với người phụ nữ khác… những đêm tôi một mình thức trắng với con trong bệnh viện… những buổi tối nhai chén cơm khô khốc trong lạnh lẽo cô độc… rồi bao nhiêu lời nói vô tình của ông như lưỡi dao xoáy vào tim, khiến tôi đau đớn, tổn thương… Nhiều, nhiều lắm… tôi không thể kể hết, không sao nhớ hết. (Kéo vạt áo lau mắt) Ông biết không, tôi đã phải cắn răng chịu đựng, phải giả vờ không biết, không thấy, không nghe hàng trăm… à không, dễ đến hàng ngàn lần…

Ông cụ (bối rối gãi tai): Ơ ơ… Tôi cứ tưởng…

Bà cụ (bình tĩnh lại, mỉm cười): Mà thôi, tôi cũng quên hết từ lâu rồi, ông ạ. Có thế tôi mới có thể tiếp tục vui sống, tiếp tục chu toàn bổn phận làm vợ làm mẹ của tôi, như lời mẹ tôi căn dặn.

Ông cụ (vịn vai vợ): Tôi xin lỗi bà. Thế mà tôi vẫn nghĩ… Nhưng sao 50 năm nay, bà cứ âm thầm cắn răng chịu đựng? Nếu bà nói ngay ra, tôi đã thấy được sai lầm của mình, tôi đã biết dừng lại rồi.

Bà cụ: Tôi không dám nói vì sợ ông bỏ tôi đi luôn theo người đàn bà khác, tôi sợ gia đình tan vỡ…

Ông cụ: Vậy tại sao hôm nay bà không tiếp tục cắn răng chịu đựng mà lại nói ra?

Bà cụ: Vì sau kỷ niệm đám cưới vàng, tôi mới thật sự yên tâm, không sợ ông bỏ tôi mà đi nữa. Và vì…

Ông cụ (đỡ lời): Và vì bà cũng rụng hết răng rồi, còn đâu mà cắn, chứ gì? (Bà cụ gật nhẹ) Bà à, tôi vẫn không hiểu nổi, bà đã biết tôi như thế mà sao có thể bền lòng chung sống với tôi đến ngày nay?

Bà cụ: Tôi đã nói rồi, tất cả nằm ở hai chữ “chịu đựng” thôi. Và tôi sẽ còn tiếp tục chịu đựng nữa, ông ạ.

Ông cụ: Không. Từ giờ phút này, bà phải nhường phần chịu đựng cho tôi. Để tôi được chuộc lỗi với bà.

Bà cụ (cười): Ông định chuộc lỗi thế nào?

Ông cụ: Trước mắt, tôi lại tiếp tục chịu đựng nỗi khổ ăn hai đầu khô khốc của ổ bánh mì. Từ ngày mai, bà lại tiếp tục dọn nó cho tôi như đã dọn 50 năm qua…

Bà cụ: Và cũng như 50 năm qua, đó vẫn là phần ngon nhất của ổ bánh mà tôi rất thích.

(Hai người nắm tay nhau, cùng cười)

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

CHUYỆN CỔ

VỪA LỌT LÒNG RA BA ĐỨA TRẺ

CÙNG TRÈO LÊN BÀN THỜ

NGỒI CHỄM CHỆ

Hôm ấy cụ Tả-Ao, thánh-sư địa-lý, đi “làm đất” cho một vị đại-thần vắng.

Ở nhà, cụ bà, thình-lình dở dạ đẻ, đau cuồng đau cuống, đau lăn đau lộn, đau vật từ giường trên xuống giường dưới, sau mấy khắc đồng-hồ, bà Tả-Ao nhà ta mới cho ra một cậu bé, mặt trắng, môi son, tai to, mắt sáng. Tắm rửa và cắt rốn xong, đặt con nằm một chỗ, bà lại nghe đau bụng đổ hồi. Sau một giờ đau-đớn, bà lại sinh thêm một cậu con trai. Mặt mũi đỏ như son tàu. Rồi bà lại đau bụng. Rồi lại một cậu nữa ra đời. Cậu này mặt đen như nhọ nồi, mắt lồi như ốc nhồi, tóc đen và cứng dựng lên.

Ba cậu nằm thong dong liền nhau mắt chấp chới, miệng hơn-hớn, chân tay khua nghịch như con người ta đã được ngót năm.

Một giờ sau bà Tả ngủ say vì mệt ba cậu liền cùng nhau đứng dậy, chạy ra nhà ngoài. Cậu mặt trắng trèo ngay lên bàn thờ, ngồi chễm chệ vào cái ỷ.

Cậu mặt đỏ vớ cái bút đứng bên tả. Cậu mặt đen cắp đâu được con dao nhọn đứng hầu bên hữu.

Chẳng hiểu ba cậu có bàn định gì với nhau không, mà sau đó một khắc, cậu mặt đen tụt xuống phăm phăm cầm dao ra sau nhà định bắt lợn chọc tiết.

Người nhà và hàng xóm kinh sợ hoảng hồn. Họ kêu la rầm rĩ, như thấy ma quỷ hiện hình. Một đứa bé chỉ bằng một tí ở trần nhộng nhộng trèo vào chuồng bắt lợn, thấy thế, ai chẳng rụng rời. Hàng xóm kéo đến đông như nhà có giỗ. Bà Tả-Ao cũng giật mình tỉnh dậy.

Ai nấy càng sợ hãi hơn. Vì thấy cậu bé mặt đen ton ton chạy vào nhà, trèo lên bàn thờ đứng đối diện cậu mặt đỏ, hầu cậu mặt trắng ngồi bệ-vệ nghiêm trang trên chiếc ỷ sơn son.

- Ma quỷ đầu thai!

- Âm binh nổi dậy!

Mỗi người nói một câu, làm ra bộ thạo đời và mạnh bạo lắm, tuy trống ngực vẫn đánh thình thình.

Cả bà mẹ đẻ sinh ba cũng vậy. Bà cũng kinh-khủng, khiếp sợ, và có lẽ khủng-khiếp hơn hết mọi người. Bà kêu, bà khóc, bà không ngờ mình hiền lành, thật-thà như thế mà lại sinh một lúc ba cái quái thai. Không những sợ hãi mà thôi bà lại lấy làm xấu-hổ nữa. Bà kêu nhà bà vô-phúc nên mới sinh ra quỉ-quái như vậy. Bà van lạy làng xóm trừ quỉ-quái giúp nhà bà.

Thế rồi, mạnh-bạo vì đông người làng xóm đổ xô lại, người túm lấy cậu này, người nắm lấy cậu kia, mỗi cậu bị một nhát dao chết ngoẻo…

Ở xa, nóng ruột, hôm sau cụ Tả-Ao về đến nhà. Nghe chuyện, cụ mếu-máo khóc lóc, dậm chân thất-vọng như muốn chết.

Sau một bữa nhịn ăn, cụ ngửa mặt lên trời mà thở dài:

- Thật là nhà vô-phúc! Đất Đế-Vương đã kết-phát mà lại đi đời nhà ma! Trời hỡi trời!

…Thì ra ba cái quái-thai đó chỉ là kết-quả của kiểu đất Đế-Vương cụ Tả-Ao “để” cho nhà mình, nhưng có lẽ cụ vội vàng khiến đất phát chóng quá, nên người làng mới lầm tưởng là quái thai và thẳng tay trừ khử. Đáng tiếc!

ĐỖ THIÊN THƯ st.


Phụ bản IV

CHUYỆN VUI

NGƯỜI ĐẺ RA HỔ

Cách đây ngót ba chục năm nay,

Cái tin người đẻ ra Hổ tuyên-truyền đồn-đại từ miệng người này đến miệng người nọ, chẳng mấy lúc đã vượt qua lũy tre xanh làng Định qua khu-vực huyện Nông-cống, lan tới tỉnh-lỵ Thanh-Hóa.

- Con dâu cụ Phủ đẻ ra hổ!

Đó là đầu-đề câu chuyện của các bà đi chợ cũng như của các người nằm cạnh bàn đèn. Đó là câu chuyện thứ nhất người ta nói cho nhau nghe khi gặp mặt, bất cứ ở trong nhà, ở ngoài phố hay ở cánh đồng.

Thật là một câu chuyện lạ, từ thượng-cổ đến giờ mới nghe thấy xảy ra không những ở xứ Thanh mà ở cả nước An-Nam.

Nên người bận việc làm ăn buôn bán đến đâu, cũng phải dành một ít thì-giờ nếu không để về tận nơi xem con hổ người đẻ ra nó thế nào, thì cũng để nghe cho biết câu chuyện lạ. Còn nói gì đến người nhàn-rỗi hiếu sự xưa nay!... Thôi thì họ kéo lũ năm lũ bảy tấp-nập về làng Định đông như đi xem hội. Đường đất khí xa: nóng ruột muốn biết rõ thực hư, giữa đường gặp bọn nào trở về họ cũng hỏi. Thì bọn này bọn khác đều tươi-cười trả lời:

- Phải! Thật đó! Người đẻ ra một con hổ nhỏ bằng đứa bé con!

Người đẻ ra hổ thật! Hãy đi mau tới nơi coi. Ai cũng nghĩ vậy. Rồi chẳng biết thấy những thế nào, mà lúc ở ngõ nhà cụ Phủ ra, họ đều vừa cười vừa trả-lời người đến chậm:

- Phải, người đẻ ra hổ thật!

Bọn nào ở nhà cụ Phủ ra cũng nói giống bạn nào. Duy có người nhà cụ Phủ là nói khác.

Chắc là chuyện có thật nhưng họ giấu. Cứ thế ròng-rã trong một tháng trời, nhà cụ Phủ lúc nào cũng gạt ra không hết người lui tới!

Nhưng một tháng sau không còn ai đến xem hổ con nữa.

Hổ đã bị đánh chết? hay cứng cáp, hổ con đã xông ra, chạy vào rừng?

Không.

Người đến xem cuối cùng đã thật thà cho ta biết sự thực.

Sự thực là người đàn bà ấy đã đẻ ra một con… trai.

Cũng như hết thảy bọn nhà nho và dân nước ta, cụ Phủ ấy thấy con trai trưởng hiếm con trai thì lấy làm nóng ruột. Ai lại con dâu trưởng cụ-lớn mà cứ hết thị-mẹt này đến thị-mẹt khác! Nóng ruột quá tất phải đâm ra cáu-kỉnh, gắt gỏng. Chẳng biết trút cái cáu-kỉnh, gắt gỏng đó vào đâu, cụ lớn bèn trút cả lên đầu người con trai và người con dâu trưởng.

Thấy con dâu trưởng dở dạ đẻ, ở nhà trên, cụ-lớn mắt long-lanh, tay vuốt râu, miệng lẩm-bẩm nói một mình, giọng nói cứng nhắc đanh-thép, nghe như nguyền-rủa, dọa nạt:

- Hễ lại cái đĩ thì thật xấu hổ!

Thế rồi chẳng hiểu thế nào, mà hai tiếng xấu-hổ khi lọt ra ngoài, chỉ còn trơ lại độc một tiếng hổ. Nhân đó mà lan ra cái tin đồn người đẻ ra hổ, làm chấn-động dư-luận cả một vùng xứ Thanh.

Lộng giả thành chân, cụ Phủ tức mình đặt tên luôn cho thằng cháu trưởng là Hổ.

Đến nay Hổ, cũng như bạn với tôi, đang đi làm gì đó. Mỗi lần nhắc lại chuyện cũ, Hổ chỉ nhe răng cười…

VÂN-HẠC

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

NĂM TUẦN LỄ

(Cinq Semaines En Ballon)

của Jules Verne

BAY LẠC VÀO SA MẠC

Ba thầy trò họ đã đổ hết cái két nước dự trữ, trong lúc cứu hộ vị linh mục. Bây giờ, họ chưa tìm ra nguồn nước, thì đã bay lạc vào sa mạc trong tình trạng thiếu nước uống trầm trọng... thật là bi đát.

Bác sĩ Samuel rất đỗi buồn phiền trước cái địa thế khắc nghiệt nầy, nhưng mà, ông vẫn giữ sự bình tĩnh và thản nhiên của một trái tim dày dạn kinh nghiệm. Với cái ống dòm trong tay, ông nhìn ra chân trời, mà thấy đồi núi thì thưa dần, và rừng rú đã chấm dứt..., trước mắt toàn là sa mạc Sahara mênh mông.

Cái trách nhiệm bảo tồn ba cuộc sống, làm nặng trĩu tim ông, mà ông vẫn dấu kín. Dick và Joe là hai người bạn thân thích, mà ông đã lôi kéo vào cuộc hành trình nầy vì tình bạn cũng như vì bổn phận.

Ông có làm đúng không, khi đưa họ vào con đường cấm kỵ nầy? Ông có vượt qua được cái sa mạc hiểm nghèo nầy không? Đã nhiều thế kỷ qua, Trời đã tạo ra cái vùng cát trắng phản bội nầy, trở nên nổi tiếng.

Nhiều giờ trôi qua, những ý nghĩ thất vọng nầy lần lượt xuất hiện trong đầu mà không có một hệ thống nào cả! Cuối cùng rồi bác sĩ cũng trở lại thực tế. Có thể trở lui được không? Có ngọn gió nào đủ mạnh để đưa họ thoát khỏi vùng khô cằn nầy không?

An toàn về xứ sở đã qua, nhưng dốt nát về bước đường sắp tới. Lương tâm lên tiếng, ông quyết định bày tỏ rõ ràng với hai bạn đồng hành về tình trạng khó khăn hiện tại! Những điều đã làm, và những điều còn phải đương đầu! Ý kiến của họ là thế nào?

Joe phát biểu:

- Tôi không có ý kiến nào khác hơn là của thầy tôi. Ổng vất vả, thì tôi vất vả vậy. Ổng đi đến đâu, tôi theo đến đó.

- Còn bạn nghĩ sao, Kennedy?

- Còn tôi, bác sĩ Samuel ạ, tôi không phải là người dễ nản lòng. Không ai biết rành hơn tôi về nguy cơ của cuộc hành trình vầy. Tôi đã làm lơ lúc vào cuộc. Bây giờ, thân thể và linh hồn tôi đều thuộc về ông. Theo ý tôi, thì trong hoàn cảnh hiện nay, chúng ta nên kiên nhẫn mà đi cho đến nơi. Vả lại, trở lui cũng không kém phần nguy hiểm! Vậy thì cứ tiến bước, ông có thể tin tưởng vào chúng tôi.

Bác sĩ trả lời trong nỗi xúc động thật sự:

- Cảm ơn hai bạn tốt. Tôi chờ đợi sự nhiệt tình và lời khuyến khích của các bạn. Một lần nữa, xin cảm ơn.

Và ba người bắt tay nhau một cách nồng nhiệt. Bác sĩ nói:

- Các bạn hãy nghe đây, theo định vị thì chúng ta còn cách bờ biển Guiné khoảng 600 cây số. Vùng sa mạc nầy thì rộng mênh mông. Không biết chúng ta có thể tìm ra được một ốc đảo, để dự trữ nước, bởi vì thùng nước dự trữ của chúng ta đã bị đổ bỏ trong lúc cứu hộ vị linh mục. Bây giờ, chỉ còn một cái thiếu thốn nữa là gió. Thiếu gió, thì chúng ta phải nằm yên một chỗ mà chờ!

Kennedy nói:

- Chúng ta kiên nhẫn mà chờ đợi vậy.

Hy vọng vô ích. Gió vẫn đứng im.

Sự nóng bức trở nên khó chịu.

Hàn thử biểu trong lều chỉ đến 45OC.

Cơn khát nước bắt đầu giầy vò dữ tợn.

Chỉ còn hai lít nước nóng hổi trong chai.

Mọi người đều nhìn vào vài giọt nước quý báu đó...

Hai lít nước trong sa mạc!

Hai lít nước cho 9-10 ngày đợi gió!

Thật là thảm não...

Trong khi ông bác sĩ điều khiển chiếc balong lên cao để tìm luồng gió, thì Joe la lên:

- Ô kìa, lạ quá!

- Cái gì vậy Joe?

- Các bạn hãy nhìn xem kìa! Chúng ta không phải một mình ở đây. Có kẻ mạo danh đi cùng. Họ đã ăn cắp phát minh của chúng ta.

- Bộ mặt trời nóng quá, làm loạn trí não của thằng nhỏ nầy rồi. Mầy nói gì?

Joe chỉ vào không gian:

- Nầy thầy ơi, hãy xem kìa!

Đến lượt Kennedy cũng la lên:

- Ôi, Thánh Patrict ơi! Thật là khó tin. Hãy xem kìa bác sĩ.

Bác sĩ điềm nhiên trả lời:

- Tôi thấy rồi, một cái balong khác, với những người du hành như ta.

Đúng là cách chừng 200 mét cũng có một khinh khí cầu đang bay lơ lửng với hành khách ở trên. Nó đi theo hướng của con tàu Khải Hoàn.

Bác sĩ bảo:

- Được rồi, lấy cờ phất, ra hiệu cho họ đi.

Dường như, những người du hành ở bên kia cái giỏ tàu cũng có cùng một tư tưởng, bởi vì, một cây cờ giống y chang như vậy, được một bàn tay phất cũng giống y chang như vậy.

Kennedy hỏi:

- Như vậy là sao?

Joe la:

- Đó là những con khỉ. Họ chọc tức chúng ta.

Bác sĩ Fergusson nói:

- Sự việc là như thế nầy. Chính là bạn đó thôi, bạn Dick ạ. Đó có nghĩa là chúng ta cũng đang ở trong cái giỏ tàu thứ nhì.

Joe nói:

- Về việc nầy thì xin thầy tha lỗi cho tôi nhé. Tôi không tài nào hiểu nổi.

- Thì bạn cứ việc leo lên bờ thành cái giỏ tàu, rồi vẫy tay xem

Joe làm theo, thì gã thấy những cử động của gã được lập lại tức thì ở bên kia.

Bác sĩ giải thích:

- Đây chỉ là một tác động của khúc xạ ánh sáng. Một hiện tượng đơn giản về quang học. Các lớp khí quyển giãn nở không đều, tạo thành một tấm gương phản chiếu. Có như vậy thôi.

Joe nói:

- Thật là tuyệt vời!

Kennedy nói thêm:

- Thật là lạ mắt. Cũng vui, khi thấy con tàu Khải Hoàn bay oai vệ như vậy.

Không khí vẫn luôn yên tĩnh, chưa tìm ra được ngọn gió nào, bác sĩ đành cho con tàu hạ xuống đất. Hình ảnh phản chiếu đó cũng biến mất.

Không một chút gió nào hết.

Cũng một không gian oi bức.

Cũng một bầu trời quang đãng.

Cũng một sự yên tĩnh dai dẳng.

Có còn hy vọng gì không?

Joe thì ngồi yên lặng mà nghĩ quẩn.

Kennedy thì quá bệnh hoạn. Gã chịu khát hết nổi rồi.

Chỉ còn vài giọt nước mà mọi người chưa ai dám đụng tới.

Ba người nhìn nhau ngơ ngác, vì thiếu nước trầm trọng. Tình cảm của họ trở nên phàm phu. Họ đi tới đi lui. Họ nói năng lảm nhảm. Họ la khan. Họ cạp nắm tay. Gã thợ săn thét lên:

- A, xứ sở của đói khát, xứ sở của tuyệt vọng.

Đến chiều, thì Joe cũng nổi cơn điên. Gã thấy chung quanh toàn là nước trong veo, nên vội úp mặt xuống uống, và chỉ khi ngước lên thì miệng đã đầy cát.

Gã giận dữ nói:

- Cơ khổ, chỉ toàn là nước muối thôi.

Quá sức chịu đựng, gã lê lết lại con tàu với cái nhìn nhớn nhác, rồi chụp lấy chai nước mà đưa lên miệng. Trong lúc đó, thì có tiếng nói vang lên như xé lòng:

- Cho uống với, cho uống với.

Đó là gã Kennedy cũng lết bết bò theo một cách thảm hại mà cầu xin. Joe trao chai nước cho bạn. Gã thợ săn nốc một hơi hết sạch.

- Cám ơn bạn.

Nhưng Joe không nghe thấy gì nữa, gã đã ngã quỵ xuống bãi cát.

Sáng hôm sau, những kẻ bất hạnh cảm thấy tay chân rã rời, thân thể khô cằn đi.

Joe muốn ngồi dậy mà không nổi. Gã thấy bác sĩ ngồi khoanh tay, mà nhìn ra phương trời vô định. Kennedy thì bấn loạn, như một con thú dữ, gã nhìn phải nhìn trái, rồi chụp lấy khẩu súng, đưa nòng vào miệng.

Joe vội vàng nhảy vào can thiệp:

- Bạn ơi, bạn ơi.

Gã thợ săn thét lên:

- Hãy để cho tao yên, đi đi.

Hai người đấu tranh với nhau rất quyết liệt

Kennedy la lên:

- Hãy đi đi, hay là tao giết mầy!

Nhưng mà Joe vẫn bám chặt vào gã. Hai người vật lộn ầm ĩ như vậy mà ông bác sĩ chớ hề hay biết, và trong giành giựt, khẩu súng bị cướp cò! Tiếng nổ “đoành” làm cho bác sĩ giựt mình tỉnh trí! Ông nhìn quanh quất rồi la lên:

- Xem kìa, xem kìa!

Hai người vội buông nhau ra và nhìn theo hướng của bác sĩ.

Cánh đồng cát chuyển động như một cơn bão biển. Những cơn sóng cát tung lên, đợt nầy rồi đến đợt khác.

Một cái vòi rồng hiện ra quay tít mù.

Mặt trời bị che khuất.

Một cái nhìn đầy hy vọng lóe lên trong mắt của bác sĩ…

Ông ta la lên:

- Gió trốt.

Joe lập lại mà không hiểu gì:

- Gió trốt?

Kennedy nói:

- Tốt thôi, chúng ta sắp chết rồi.

Bác sĩ cãi lại:

- Tốt mà, chúng ta sống rồi.

Ông ta bắt đầu quăng ra ngoài mấy cái bao cát dằn tàu. Hai bạn kia hiểu ý cũng nhảy vào tiếp tay. Cái balong bay lên kịp lúc, nếu chậm tay thì con tàu đã bị nghiền nát như tương!

Bác sĩ la lên:

- Quăng thêm bao bì đi.

Con tàu Khải Hoàn bay lên mau lẹ. Nó đã lên cao khỏi cái vòi rồng, nhưng mà nó vẫn bị luồng gió lôi cuốn đi với một tốc độ khó lường.

Sau khi cơn biến động ngừng, thì bầu trời trở nên quang đãng yên lặng như trước.

Con tàu Khải Hoàn dừng ngay trên một ốc đảo xanh tươi.

Bác sĩ reo lên:

- Có nước rồi, có nước rồi. Lạy Trời, Tạ ơn Trời Đất cứu khổ cứu nạn.

Thanh Châu dịch thuật

MÓN QUÀ NGẪU NHIÊN

ĐÀM LAN

Món quà ngẫu nhiên là món quà không trông đợi, không được báo trước, không dự trù sẽ có, nhưng bỗng nhiên trong một khoảnh khắc trong một thời điểm sẽ ùa đến với ta, sẽ mang cho ta một cảm xúc thật dễ thương thật tuyệt vời thật hạnh phúc. Và cái sự ngẫu nhiên ấy cho ta cái cảm giác được ưu đãi được ban tặng, khiến ta nhận thấy cuộc sống này với ta thật đẹp thật ý nghĩa. Món quà ngẫu nhiên ấy không xa không sách ước không cầu vọng không tìm kiếm, mà vẫn thường hiện hữu cùng ta trong những ngày. Vấn đề là ta có nhận ra nó hay không, có xem nó là một món quà hay không, có cảm nhận được giá trị mà nó đã mang đến cho ta hay không, hay ta chỉ nhìn nó một cách đơn thuần rằng đó là lẽ tự nhiên phải đến, không cần chú ý, không cần nâng niu, không cần cảm xúc.

Một buổi sáng ngẫu nhiên mở ti vi đúng lúc vừa bắt đầu một chương trình nhạc Trịnh, những bản tình ca tuyệt đẹp, những giọng hát tuyệt hay, những hòa âm phối khí tuyệt dịu, tất cả sự hòa điệu làm nên một chương trình tuyệt thú, và đó là một món quà ngẫu nhiên mang một âm hưởng một cảm xúc lung luênh mãi trong tâm hồn.

Một sáng mở email, nhận được những bức hình tuyệt bích, mê hồn và sống động, cảnh sắc như vỡ oà một thế giới huyền diệu thanh thỏa. Cái tình hào phóng của thiên nhiên, cái tính tài hoa ưu việt của con người, cái tâm rộng mở của những tấm lòng, đã chung tay làm nên những sắc màu kỳ ảo. Ngắm mãi ngắm mãi mà không chán mắt, ngắm mãi ngắm mãi mà chưa thỏa lòng. Sao mà ngây sao mà say.

Một ngày gặp lại người bạn cũ đã mấy mươi năm biền biệt. Chao ôi nồng ấm cái bàn tay, chao ôi bừng nở những sắc cười, chao ôi là những năm tháng xưa vụng dại, ùa về ùa về. Cho dù lặng ngắm nhau trong mái hoa râm, cho dù bao nét hồn nhiên xưa chỉ còn trong ký ức, nhưng vẫn nghe dâng trào một cảm giác thân thương tha thiết. Ừ rằng cái ngày xưa đẹp đẽ ấy, bỗng nhiên mà trỗi dậy miên man, nếu không gặp lại bạn, có đâu khoảnh khắc bồi hồi yêu dấu thế.

Một chiều, một người chị một người bạn dúi cho một món quà nho nhỏ trong túi xốp cùng cái háy mắt và môi cười thân thiết. Nho nhỏ thôi mà đậm đà tình nghĩa, nho nhỏ thôi mà oà ngợp tâm hồn, sao bỗng nhiên thấy cuộc đời này đáng yêu vô vàn. Giản đơn mà nồng đậm, nhẹ nhàng mà ấm áp. Khi hít thở, một mùi hương đâu đó thoảng qua, khi dạo qua khu vườn, một nụ hoa mới nở, một trái chín hường hường, một ngọn rau xanh vươn khẽ, một tiếng chim chiu chíu rơi ngang, một làn gió hây hẩy rung rinh, một ngọn cỏ đung đưa mềm mại… Tất cả đó đều là món quà ngẫu nhiên mà cuộc đời ban tặng, cho ta một cảm giác lâng lâng thanh thỏa, cho ta một tâm thế thư thái bình yên. Nho nhỏ thôi mà vẫn có bên ta hàng ngày, nho nhỏ thôi mà làm giàu thêm cuộc sống, nho nhỏ thôi mà thêm dày phong vị. Cuộc sống lắm bôn ba lắm tìm tòi lắm chinh phục. Người ta cứ mê mải những cao xa để rồi buồn chán khổ đau khi chưa đạt được. Trong khi người ta luôn bỏ quên những món quà dễ thương thân ái bình dị và đáng yêu bên cạnh. Và cuộc đời chỉ thêm giá trị, thêm sắc màu, thêm tươi tắn khi mỗi mỗi người cảm nhận được niềm vui tao khiết khi nhận được những món quà ngẫu nhiên ấy. Xét cho cùng, những cái được cho là lớn lao của cuộc đời đều được xâu kết bằng hàng chuỗi những nho nhỏ giản đơn. Như từng hạt thóc mà đầy bồ mà thành vựa. Nếu không để ý đến, không nhặt nhạnh không xem trọng, khác nào ta tự tước bỏ đi một phần cuộc sống của mình. Hướng lên cao vươn ra xa luôn là những cái đích của mỗi người, nhưng đừng quên để có đủ động lực đủ sức bền để đạt được điều mình mong ước, thì phải có những tiếp sức, có những tiếp sức rất lặng thầm mà hữu hiệu, không cao về giá trị vật chất nhưng hết sức phong mãn về giá trị tinh thần. Và mọi nỗ lực có thể thành công đều không thể thiếu nội lực tinh thần. Hãy biết tận hưởng và trân trọng những món quà ngẫu nhiên mà ta được nhận hàng ngày. Đó như nguồn suối ngọt của tự nhiên cho cuộc đời mỗi người đơm hoa kết trái.

ĐÀM LAN

Truyện ngắn

NỬA ĐÓA HOA

CẨM CHƯỚNG

NGUYỄN THỊ MÂY

Ông Tư khẽ nghiêng người, nheo nheo mắt ngắm cái chậu kiểng. Nửa cánh hoa nở xòe trên nền xi măng. Mảnh chén kiểu bể màu hồng được bàn tay khéo léo của ông mài dũa đã biến thành những cánh cẩm chướng tuyệt vời. Chỉ còn ghép vào ba cánh nữa là hoàn thành cả đóa hoa. Ông sẽ gắn vài cái lá cho thêm sinh động. Vừa chọn xong mảnh chén kiểu mang màu lá thì cơn ho bất chợt nổi lên. Ông gập người lại, mặt đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại. Những tiếng ho ằng ặc liên tục khiến lồng ngực ông muốn vỡ tung. Hai bên hông đau thắt lại. Cổ như bị cào xé. Ông mệt rũ người, buông rơi cái dao gạch.

Một tiếng “rổn” vang lên làm ông giật thót người. Cây dao gạch rơi trúng những mảnh chén mài dũa sẵn khiến ba cánh hoa còn lại vỡ nát. Nước mắt ông ứa ra. Có một bàn tay vô hình bóp chặt trái tim khiến ông nghẹt thở. Ông ngồi bệt xuống đất, gục đầu trên hai cánh tay đặt vòng quanh gối.

Đang học bài, thấy vậy, Trà hốt hoảng chạy đến bên nội:

- Trời ơi! Nội có sao không, nội?

Khẽ lắc đầu, ông lại ho dữ đội. Tiếng khùng khục vừa dứt, ông khạc mạnh, bãi nước miếng văng ra có lẫn chút máu. Choáng váng, ông gục đầu vào ngực Trà. Cậu hét lớn:

- Nội !

Bà Tư từ trong vườn trầu bước ra, nghe tiếng thét của Trà, nhìn thấy chồng lả người, bà đánh rơi thúng trầu mới hái. Những lá trầu vàng bay lả tả xuống mặt đất như những trái tim tan tác, oằn oại dưới gót chân vội vã của bà. Chỉ kịp kêu lên một tiếng “ông”, nước mắt bà ràn rụa tràn xuống má.

Trà thẫn thờ nhìn mấy chậu kiểng của nội. Cái nào cũng đẹp và lạ mắt. Ông đã tự đúc lấy chứ không hề mua ở một cửa hàng nào. Có những chậu chỉ bằng cái chén. Các mặt hông của nó được ông cẩn toàn đá cuội hoặc vỏ ốc trắng óng ánh, sắc tím xanh. Khi có tia sáng chiếu qua lại ngả sang hồng, sáng lấp lánh, bên hông được ông dùng mảnh chén kiểu bể cẩn vào thành những bức tranh với hồ sen trầm mặc dưới cầu vọng nguyệt. Vài cánh mai đào khoe sắc. Cả những vị bát tiên cũng được ông nội miệt mài tạo hình lên mặt chậu.

Ông nội của Trà còn chọn nhiều loại hoa kiểng độc đáo để trồng trong những cái chậu ấy. Những gốc mai trồng như hai con rắn quấn lấy nhau núp dưới tán lá xanh mơn mởn. Nhưng Trà thích nhất là hai cây ngâu đã được ông cắt xén, uốn nắn từ bé. Chúng trở thành hai con cò xanh mướt cứ lớn dần, Trà vừa thích thú vừa có một ý nghĩ trẻ con là đến một lúc nào đó chúng sẽ duỗi thẳng chân ra rồi nhún mình bay vút lên không, mãi mãi không trở lại vuông sân nầy nữa. Các bạn học của Trà thì mê tít mấy chậu xương rồng bé xíu. Nhóm con gái cứ vuốt ve, trầm trồ: “Xương rồng gì mà có chút xíu. Chắc rồng suy dinh dưỡng!”. Gai nó cũng lạ ghê, nó dịu dàng, mềm mại không như những loại xương rồng trồng làm hàng rào.

Các bạn trai của Trà kháo nhau: “Xương rồng nầy giống bàn tay nắm lại hoặc xòe ra của tụi mình, còn mấy cây kia lại mọc thẳng, chẳng khác gì bọn mình đứng xếp hàng, chen chúc, lấn áp nhau giành chỗ một cách tinh nghịch”.

Những chậu kiểng của ông nội Trà còn quyến rũ những người giàu có tìm tới hỏi mua. Trà ngạc nhiên vô cùng khi thấy ông cương quyết không bán dù họ tự đưa ra những giá rất cao. Có khi lên đến cả chỉ vàng. Với số tiền này, nội có thể mua vật liệu để làm năm bảy cái chậu tương tự hoặc trị dứt căn bệnh đã kéo dài cả tháng nay. Ông giải thích:

- Mấy chậu kiểng nầy nội xem như con đẻ của mình. Không ai bán con bao giờ, huống chi nội…

- Vậy sao nội cho bạn con hết mấy chậu?

- Vì chúng là bạn con.

- Nội không cần tiền sao?

- Cần lắm chứ! Nhưng để có tiền mà phải đánh đổi những gì mình yêu thích thì nội đành chịu nghèo vậy.

Chợt nhớ tới vợ phải mua bán vất vả để nuôi cả nhà, ông quay sang bà:

- Tôi không bán cặp kiểng, bà có giận tôi không?

Bà nội của Trà mỉm cười:

- Không! Trả hai chỉ vàng tôi cũng không cho ông bán, miễn ông vui là được rồi.

Ông nội Trà không nói gì nữa nhưng Trà hiểu ông đang vui. Ánh mắt ướt của ông cho Trà biết ông xúc động. Tâm hồn bà đẹp không khác gì những chậu kiểng trong vườn nhà. Chính vì thế mà dù ăn ở với bà mấy mươi năm, bà không sinh đứa con nào, ông cũng không có ý nghĩ bỏ bà, cưới một người đàn bà khác để có con nối dõi. Nhưng, ông cũng có được một đứa con.

Sáng hôm đó, khi vừa mở cửa, bà giật nẩy mình vì trông thấy một cái thúng đặt trước hiên nhà. Trong đó, chú bé sơ sinh còn đỏ hỏn đang say ngủ. Bà gọi ông inh ỏi. Hai ông bà đem đứa nhỏ vào nhà, nâng niu như giữ gìn báu vật. Đứa bé ấy chính là cha của Trà.

Cũng bất ngờ như lúc đến, cha Trà đã vĩnh viễn rời khỏi nơi nầy sau một lần bệnh nặng. Bỏ lại Trà mới vừa hai tuổi. Khi Trà lên ba thì mất cả mẹ. Mẹ Trà không chịu nổi cảnh phòng không chiếc bóng nên đã tìm một tổ ấm khác. Bây giờ, Trà không thể nào hình dung được khuôn mặt mẹ. Trà chỉ tưởng tượng mẹ là một trong những tố nữ mà nội đã tạo hình lên mặt chậu.

Có lần, Trà đã hỏi bà nội:

- Người ta bảo mẹ con đẹp người mà không đẹp nết phải không nội?

- Bậy nà, mẹ con đẹp cả người lẫn nết đó chứ.

- Vậy sao mẹ bỏ con theo trai?

- Không đâu con. Mẹ con cũng buồn lắm khi phải xa con nhưng… vì thương nội, không muốn nội xa đứa cháu duy nhất đó thôi.

- Chắc không phải vậy đâu. Nếu thương con sao mẹ không trở lại thăm con lần nào hết?

- Chắc tại… mẹ bận. Mà sao con nhắc mẹ hoài vậy? Lỡ mẹ con quay về bắt con theo thì nội sống làm sao nổi đây?

- Con sẽ không bao giờ đi theo mẹ.

- Mẹ con giàu lắm đó!

- Kệ! Con cũng không bao giờ bỏ nội.

Đến lúc này, Trà cũng chưa bao giờ có ý nghĩ bỏ nội nếu mẹ trở về rước Trà… Dù nơi nầy đêm đêm chỉ có ánh đèn dầu leo lét, cả ba người quây quần trên bộ ván. Trà nằm gối đầu lên đùi ông nghe kể chuyện lúc ông còn trai trẻ hoặc nhắc đi nhắc lại câu chuyện sự tích cái bình vôi hay sự tích trầu cau để trêu bà nội. Không biết vì ánh đèn hay vì cảm động mà bà cứ cúi xuống ngoáy trầu để dấu hai gò má hình như hồng lên từng chặp. Không bao giờ Trà bỏ đi, dù nơi đây mỗi bữa ăn chỉ có vài con cá rô nhỏ xíu hay vài con tép nằm trơ vơ trên dĩa. Làm sao Trà có thể quên được cảnh bà nội giả đò đau bụng, ăn cơm không được. Còn ông nội thì ngán cá tép để nhường lại cho Trà. Khi thấy Trà đã no cành bụng thì bà mới vét nửa chén cơm còn lại đem đi nấu cháo. Nhưng chuyện ngán cá tép và đau bụng của bà cứ diễn đi, diễn lại cả tuần khi bắt đầu mùa mưa, thời điểm bà nội Trà bán ế ẩm. Điều nầy làm Trà chợt hiểu. Thế là Trà cũng làm bộ thèm kho khô kho quẹt cho bà đỡ rầu lo.

Trà không bao giờ bỏ nơi bà mỗi dịp tết Trung thu, Trà được nội làm cho cái đèn ông sao lớn nhất xóm và đêm rằm thì cả nhà tha hồ giả bộ không thích ăn bánh trung thu để cho cái bánh duy nhất nằm tủi thân trên đĩa cho tới khuya. Cuối cùng, bà bắt hai ông cháu phải chia đôi cái bánh. Không thôi nó sẽ… thiu mất. Còn bà thì ngày rằm phải ăn chay.

Nhưng Trà chưa bỏ đi mà người sắp xa nơi nầy vĩnh viễn là nội. Trà thương ông lắm! Cậu không biết làm sao giúp ông toại nguyện là hoàn thành đóa hoa cẩm chướng đang làm dang dở.

- Bạn Trà làm thơ đó hả?

Trà quay lại, các bạn học đã đến tự hồi nào đang vây lấy Trà cười cười nói nói:

- Sao hai bữa nay Trà nghỉ học vậy? Cô chủ nhiệm bảo tụi nầy tới thăm đó. Thanh nhanh nhẩu nói.

Trà than thở:

- Nội mình trở bệnh nặng lắm, làm sao học cho vô!

Quân nhìn bạn, cậu lo lắng hỏi:

- Hôm nay, nội đã khỏe chưa?

Trà buồn bã lắc đầu. Hân liền nhắc nhở:

- Gần đến ngày thi rồi đó. Bạn không vào trường ôn thi, sợ…

Chợt nhìn thấy cái chậu làm mới được nửa chừng, Hân hỏi:

- Sao chỉ có nửa đóa hoa vậy bạn?

- Đang làm thì ông trở bệnh.

- Bạn làm thay không được sao?

Mắt Trà sáng lên niềm vui:

- Ừ, phải rồi, mình sẽ làm thay ông.

Trà chợt nhớ:

- Nhưng làm sao có vật liệu đây? Làm sao có những mảnh chén kiểu bể màu hồng để mài thành ba cánh hoa còn lại. Mình đâu có tiền mua chúng.

- Trước đây ông nội bạn làm sao có?

- Bà nội mình đã làm bộ đánh rơi mấy cái chén có màu sắc ông cần. Đến khi trong tủ không còn cái nào bà nghĩ ra một cách để giúp ông là khi đi phụ đám cưới, bà xin những cái chén vỡ. Nhưng ít khi có lắm vì người ta tin dị đoan, họ cố gắng giữ cho chén đĩa nguyên vẹn. Có khi phụ cả chục đám cưới mà chỉ đem về được một cái đĩa bể. Nhưng rồi cũng chưa chắc xài được vì kích thước của nó không đúng với mẫu ông đã chọn sẵn hoặc là màu không thích hợp. Nên làm một cái chậu lâu lắm.

- Tội nghiệp bà nội quá! Lân nói.

Hân lặng thinh suy nghĩ rồi chợt bảo:

- Tụi mình về đi, để bạn Trà vào chăm sóc ông nội.

xXx

- Trà ơi! Mở cổng cho Hân với!

Trà ngừng tay quét sân, ngẩng lên. Hân đang kiễng chân nhìn vào. Cô bé cười khoe cây răng khểnh, trông thật dễ thương. Nắng mai lấp lánh vờn trên bím tóc thắt nơ vàng. Trà chạy vội ra cổng:

- Bạn đi đâu sớm vậy?

Hân nguýt dài:

- Đi thăm ông nội được không? Sẵn dịp tặng bạn mấy cái chén kiểu bể nè.

Trà nhìn cái gói trên tay Hân. Thì ra là mấy mảnh chén vỡ:

- Cảm ơn bạn. Ở đâu bạn có vậy?

- Hỏi lãng xẹt! Ở nhà Hân chớ đâu. Hân làm bể hôm qua đó.

Trà nhìn Hân, mắt cô bé long lanh như những giọt sương buổi sớm. Cô quay mặt đi, đưa tay kéo bím tóc ra phía trước rồi cắn nhè nhẹ vào đuôi tóc. Trà ấp úng mãi mới nói được:

- Hân làm bể chén đó hả?

Cô bé phì cười:

- Ừ đó, mai mốt chắc còn làm bể vài cái nữa.

Trà vội gạt đi:

- Thôi, Trà không nhận mấy mảnh chén nầy đâu. Hân cũng đừng làm bể chén nữa. Đập phá những cái chén quý giá để trang trí chậu kiểng, cho dù có đẹp đến đâu cũng không nên. Phí lắm! Lỡ mẹ Hân đánh đòn Hân thì Trà ân hận biết bao!

Cô bé chớp mắt:

- Hổng có đâu! Mẹ quý Hân hơn những cái chén nầy nhiều. Mẹ chỉ la Hân vụng về quá! Rồi bảo Hân quăng mảnh chén vào sọt rác.

- Nếu vậy, Hân càng không nên làm mẹ buồn.

- Trà nói đúng lắm. Mai mốt, Hân không làm bể cái chén nào nữa. Còn mấy mảnh vụn nầy thì bạn hãy nhận đi. Nếu không, Hân không tới đây nữa đâu!

Hân đặt cái gói giấy lên tay Trà rồi chạy vội ra cổng. Trà mỉm cười thầm nghĩ:

- Ông nội tặng mấy cái chậu cho các bạn của mình là phải. Ông quả có mắt tinh đời.

Trà sẽ cố gắng mài những mảnh vụn nầy thành mấy cánh cẩm chướng còn thiếu. Một việc làm hai kết quả. Chắc nội mừng lắm. Biết đâu nội hết bệnh. Còn Hân, hẳn là sẽ hài lòng. Trà sẽ mời Hân tới ngắm những cánh hoa mà có cô bé góp phần vào việc tạo hình, giúp nó nở trọn vẹn.

Trà chạy vội vào nhà tìm cái dao gạch. Trà muốn tạo hình một nửa đóa hoa cẩm chướng còn lại. Công việc phải bắt dầu và kết thúc ngay ngày hôm nay.

NGUYỄN THỊ MÂY

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 13.9.2014… ................................... Vũ Thư Hữu .... 01

Vài chi tiết về cuốn “Lề lối cách thức và chư thần của

đồng cốt Việt Nam của tác giả Pháp Maurice Durand ...... Vũ Anh Tuấn .... 05

Một thoáng Đạo Trời ............................................ Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 11

Thiền định của Đức Thích Ca và của Người Thời Nay ............. Tâm Nguyện .... 23

Từ láy và nhân vật ...................................................................... Phạm Đan Quế .... 36

Mừng 60 năm giải phóng Hà Nội – Nhớ về các nhà văn Hà Nội .. Phạm Vũ .... 41

Tuấn Đô Đoàn Phú Tứ -

một nhà văn tài hoa gắn bó với dịch thuật ....................... Thúy Toàn .... 53

Tôi đi tìm 4 câu thơ .................................................... Hải Đăng: Trần Văn Hữu .... 65

Hạt mưa (thơ) ............................................................................... Đinh Xuân Hảo .... 71

Quê nội trong tim (thơ) ................................................................ Đinh Xuân Hảo .... 72

Bước chân thu (thơ) .............................................................................. Lam Trần .... 73

Mộng tình (thơ) ............................................................................... Lang Nguyên .... 74

Kết cuộc chơi (thơ) ............................................................................ Lang Nguyên .... 74

Kiếp vẹt (thơ) ..................................................................................... Lê Minh Chử .... 75

Rừng và chim (thơ) ......................................................................... Lê Minh Chử .... 75

Tình phai như lá thu (thơ) ............................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 76

Tĩnh lặng và Mưa (thơ) ................................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 77

Mình yêu nhau (thơ) ............................................................................. Đàm Lan .... 78

Nguyễn Du (thơ) ............................................................................... Ngàn Phương .... 79

Hồ Hoàn Kiếm (thơ) ....................................................................... Ngàn Phương .... 79

Tìm quên (thơ) ................................................................................... Ngàn Phương .... 80

Kỷ niệm chập chờn (thơ) ................................................................. Ngàn Phương .... 80

Sài Gòn bao giờ cũng dễ thương (thơ) ......................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 81

Xưa (thơ) ........................................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 82

Ai điên ? (thơ) ..................................................................................... Tâm Nguyện .... 83

Cố hương (thơ) .................................................................................. Tâm Nguyện .... 84

La terre natale (thơ) .............................................................................. Lamartine .... 85

Tiễn em trong mùa thu (thơ) .......................................................... Vũ Đình Huy .... 86

Seeing you off in the fall (thơ) .............................................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 86

Tìm sao lặn (thơ) .............................................................................. Vũ Đình Huy .... 87

Looking for a set star (thơ) .................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 87

Đi tàu đêm (thơ) ............................................................................... Vũ Đình Huy .... 88

On the night train (thơ) ............................................................ Vũ Anh Tuấn dịch .... 88

Vũng Tàu có em (thơ) ......................................................................... Lê Nguyên .... 89

Vũng Tàu có em (nhạc) ........................................................................ Lê Nguyên .... 90

Đồi thông hai mộ ........................................................................ Hà Mạnh Đoàn .... 91

Có một Hoàng hậu Việt trong vương triều Chămpa .............................. B.Đ. st .... 95

Một ngày đi dạo .................................................................................... Dương Lêh .. 103

Đoản thiên tiểu thuyết: Anh Neo .......................................... Hoàng Kim Thư st .. 110

Tự giới thiệu tác phẩm: Những mảnh tình của Nhựt Thanh .... Nhựt Thanh 113

Mẹ và con gái .................................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .. 116

Ếch về nhà mới ..................................................................................... Lam Trần .. 118

Sau 50 năm (kịch) ................................................................. Giáng Ngọc (G.Đ.) .. 121

Chuyện cổ: Vừa lọt lòng ra 3 đứa trẻ

cùng trèo lên bàn thờ ngồi chễm chệ .............................. Đỗ Thiên Thư st .. 132

Chuyện vui: Người đẻ ra hổ .......................................... Đào Minh Diệu Xuân st .. 135

Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (tt – kỳ 4) ............... Thanh Châu dịch thuật .. 136

Món quà ngẫu nhiên .............................................................................. Đàm Lan .. 142

Nửa đóa hoa cẩm chướng ........................................................ Nguyễn Thị Mây .. 144

_________________________________________________________

Thông báo:

Kỳ họp tiếp theo của CLB sách Xưa & Nay sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 08/11/2014 tại nhà thờ Tân Sa Châu, số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình.

Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về:

hamanhdoan69@yahoo.com 

hoặc liên hệ với Hà Mạnh Đoàn

Dđ: 0937 108489

Các bản tin trước có thể xem tại:

www.diendan.songhuong.com.vn

www.sachvatranh.com

www.newvietart.com

www.vandanviet.net

www.hoamai-aus.org.au

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế