VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 14/11/2015 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn quý thư: một cuốn bằng tiếng Việt và một cuốn bằng tiếng Pháp. Vì năm nay là năm kỷ niệm 250 năm sinh của Đại thi hào Nguyễn Du, nên lần này cả hai cuốn quý thư được giới thiệu là hai cuốn Kiều của Cụ. Cuốn tiếng Việt là một cuốn Truyện Kiều của Cụ Trương Vĩnh Ký (bản in lần thứ 3 năm 1911) được in lại bởi nhà xuất bản Văn Hóa Văn Nghệ vào đầu năm nay (2015). Bản in lần thứ nhất của cuốn này đã được in vào cuối thế kỷ 19 (1875). Trên cuốn Kiều được in lại này người viết thấy có ghi là bản in lần thứ ba vào năm 1911 này được sưu tầm và giới thiệu bởi biên tập viên Trần Nhật Vy của báo Tuổi Trẻ. Thấy nói người sưu tầm là một biên tập viên, người viết cảm thấy yên tâm, nhưng cũng cẩn thận lướt qua một số trang và kiểm tra xem từ cuối mỗi trang sang đầu trang kế tiếp câu cú có được lành lặn tốt đẹp không hay là lại bị chỗ thì thiếu vài chữ, chỗ thì thừa vài chữ, như chính bản thân người viết đã một lần lâm nạn (khi một truyện ngắn có 11 trang mà bị chỗ thừa chỗ thiếu chỉ có chín lần), nhưng rất may và thích là cuốn Kiều in lại này được dàn trang và in khá kỹ càng không mắc phải vấn nạn nói trên. Ngoài ra cuốn sách được trình bày trang nhã và in ấn khá đẹp với một số minh họa cũng khá đẹp. Chúng ta, những người thích và để tâm tới Truyện Kiều, thì ai cũng biết cuốn Kiều của Cụ Trương Vĩnh Ký là cuốn đầu tiên được chuyển từ chữ Nôm sang Quốc Ngữ, và Cụ Trương Vĩnh Ký thì là một nhân vật và tác giả hàng đầu của ta rồi, nên việc cuốn sách được in lại cũng là một việc đáng mừng. Cuốn thứ nhì được giới thiệu cũng là một cuốn Kiều được dịch ra tiếng Pháp, và được dịch bằng thể thơ 12 âm (vers alexandrin) của Pháp bởi tác giả René Crayssac (1883-1940) là một quan chức biệt phái ở Dinh Thống Sứ Bắc Kỳ, đồng thời là một nhà báo viết cho mấy tờ báo như tờ Diễn Đàn Đông Dương (Tribune Indochinoise), tờ Đông Dương tạp chí (Revue Indochinoise), và tờ Những trang báo Đông Dương (Pages Indochinoises). Tóm lại, ngoài việc là một quan chức, Crayssac còn là một nhà văn, nhà báo, nhà thơ. Cuốn này được xuất bản vào năm 1926 (89 năm trước) do nhà in Lê Văn Tân ở số 136 Phố Hàng Bông Hà Nội in. Lời nói đầu cũng do chính người dịch viết, và viết dài tới 86 trang, trong đó ông cho biết đã làm việc trong 4 năm ròng để thực hiện bản dịch bằng thơ 12 âm (còn được gọi là 12 chân), và cũng qua lời nói đầu này, dịch giả có nhắc tới một cuốn phim về Kiều mà ông đã xem ba năm trước (tức là vào năm 1923 – Không biết là phim Kiều nào), cũng như ông đã tìm hiểu và nghiên cứu rất kỹ lưỡng về Truyện Kiều và Cụ Nguyễn Du trước khi dịch. Thật vậy, nếu dịch giả không nghiên cứu kỹ thì làm sao viết được một lời nói đầu dài tới 86 trang. Viết đến đây, người viết tự hứa với mình là, dù bận rộn đến đâu với các quý bà, hắn cũng sẽ dành thì giờ đọc thật kỹ lời nói đầu rất dài này của dịch giả Crayssac trước ngày hắn… đi hành hiệp! Sau khi giới thiệu xong, hai cuốn quý thư được một số thành viên thích thú chuyền tay nhau xem. Sau phần giới thiệu hai cuốn Kiều, tác giả Kim Bội, một thành viên, có lên nói mấy lời giới thiệu một cuốn sách mang tựa đề là Khi Tổ Quốc Gọi Tên Mình, là một cuốn Hồi Ký của một người bạn của cô tên là Nguyễn Long Trảo viết và đã tặng cô. Tiếp lời tác giả Kim Bội, bà Tâm Nguyện lên giới thiệu một cuốn sách rất hay nhan đề là Hành Trình Về Phương Đông (Journey to the East) nói về vấn đề tâm linh của tác giả Baird Thomas Spalding (1872-1953) là một giáo sư người Mỹ, qua bản dịch của một dịch giả rất đáng tin cậy là dịch giả Nguyên Phong hồi những năm 60 của thế kỷ trước. Tiếp lời bà Tâm Nguyện, anh Dương Leh lên nói chuyện về vấn đề ảo giác rất vui. Sau anh Dương Leh, anh Cương lên kể chuyện anh đi du lịch bên Miên về và ngâm tặng các thành viên bài thơ anh đã làm trong chuyến du hành là bài “Khuôn Mặt Bayon”. Sau anh Cương, anh Hữu lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ của nhà thơ Yên Thao. Tiếp lời anh Hữu, cô Thùy Hương đăng đàn để ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Hoài Niệm” và “Anh Tôi”. Sau cô Thùy Hương, anh Phùng Chí Tâm lên hát tặng các thành viên bài “Nụ cười sơn cước” bằng giọng ca rất mượt mà và chuẩn của anh. Anh Phùng Chí Tâm hát xong, anh Lê Nguyên lên nói ít lời đính chính mấy lỗi đánh sai trong mấy bài thơ của anh. Anh Lê Nguyên đính chính xong, anh Thanh Châu với tiếng hát át tiếng bom của anh lên hát tặng các thành viên bài “Nối vòng tay lớn” của Trịnh Công Sơn. Cuối cùng một vị khách mới cũng đăng đàn ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Xuân Thiếu Nữ” và “Nhớ Xuân xưa”. Buổi họp kết thúc hết sức vui vẻ lúc 11g15 cùng ngày. VŨ THƯ HỮU
CÓ MỘT CUỐN SÁCH GIÁ TRỊ BẰNG CẢ NGÀN CUỐN KHÁC Trong những bài viết của người viết, có lần người viết đã viết là “với sách thì cần tính đến phẩm chất chứ không phải là số lượng, vì có những cuốn sách giá trị bằng cả ngàn cuốn khác”. Một thời gian ngắn sau khi viết như vậy, người viết nhận được những lời chất vấn sao lại viết như vậy, và nhận được những yêu cầu đưa ra những bằng chứng chứng minh lời mình viết. Hôm nay, trong bài viết này, người viết trả lời chung tất cả những vị đã hỏi, bằng cách nói về một cuốn sách, mà theo người viết, có thể chứng minh cho những lời nói trên của người viết. Cuốn sách đó là cuốn QUID (từ La Tinh có nghĩa là Cái Gì), một dạng Bách khoa tự điển phổ thông chứa đựng các định nghĩa, các câu trả lời cho tất cả mọi từ và câu hỏi liên quan tới tất cả mọi lãnh vực của cuộc sống. Cuốn Bách khoa tự điển QUID đầu tiên ra đời vào năm 1963 và tác giả là một người Pháp tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa tên là Dominique Frémy (1931-2008), và một đồng tác giả lại chính là phu nhân của ông là bà Michèle Frémy. Cuốn Bách khoa tự điển phổ thông này đã được nhà Plon (một nhà xuất bản danh tiếng của Pháp) in từ 1963 tới 1974; và từ 1975 tới 2007, nó được in bởi nhà xuất bản cũng rất danh tiếng của Pháp là nhà Robert Laffont. Phương châm của cuốn Bách khoa tự điển phổ thông này là “Tất cả về tất cả” (Tout sur tout) và “Ngay tức thì” (Tout de suite). Và mỗi năm sẽ có một bản được xuất bản. Bản QUID đầu tiên được xuất bản năm 1963 chỉ dày có 632 trang, nhưng với các ấn bản ra liên tiếp trong các năm kế tiếp số trang tăng dần lên tới trên 2000 trang và số chuyên gia cộng tác viên viết bài lên tới 12.000 người thuộc đủ mọi lãnh vực của cuộc sống. Cuốn QUID ra được đều đặn mỗi năm 1 cuốn từ 1963 cho tới 2007 qua hai nhà xuất bản Plon và nhà Robert Laffont. Sau khi cuốn QUID 2007 ra đời được vài tháng thì tác giả Dominique Frémy qua đời ở Paris (77 tuổi) và cuốn Bách khoa tự điển phổ thông cực kỳ nổi tiếng này cũng… cùng tác giả của nó qua đời luôn không được ra tiếp. Người viết may mắn biết dùng cuốn QUID này từ năm 1970 tới 2007. Trong suốt 37 năm trời các cuốn QUID của các năm khác nhau luôn là người bạn thân và luôn có mặt trong tủ sách của người viết, và ngay lúc này người viết cũng lại có cơ may có được cuốn QUID cuối cùng là cuốn của năm 2007, do cô em ruột gửi từ Pháp về cho.
Cuốn QUID 2007 này khổ 19x28cm và dày 2190 trang và được giới thiệu nơi bìa sau như sau đây: “Tất cả về tất cả, và ngay tức thì” Từ thời tiền sử cho tới ngay giờ phút hiện tại, tất cả mọi đề tài lớn, mọi điều mới mẻ, mọi thông tin chính xác nhất đều có trong QUID: Nghệ thuật, Thiên văn học, Ngân khố, Điện ảnh, Quốc phòng, Kinh tế, Giáo dục, Môi trường, các Quốc Gia lớn bé, Lịch sử, Văn chương, Văn học, Internet, các Trò chơi, Âm nhạc, Các sắc dân, Chính trị, các Vùng, các Miền, các Tôn giáo, Hưu trí, Sức khỏe, Thể thao, Chiến thuật, Truyền hình, Đời sống thường nhật v.v... Cả một thư viện trong một cuốn sách, đầy đủ nhất, mới mẻ nhất. QUID 2007 mang lại cho bạn 2100 trang hiểu biết và thời sự với 120 chương về 600 lãnh vực, với 2.500.000 thông tin, trong đó có 100.000 thông tin mới lạ, đã được kiểm tra bởi 12.000 chuyên gia của mọi lãnh vực trên toàn thế giới. Và sau đây là vài thí dụ về những thông tin mới lạ trong Bách khoa tự điển QUID: 1/ Tất cả những người đưa thơ ở Úc đều bị cấm không được để râu quai nón vì sợ bị lẫn với các sĩ quan quân đội. 2/ Vào năm 1850 nước Phần Lan (Finland) có dân số là 1.400.000 người. 3/ Trung bình mỗi một người phụ nữ ở Tây Phương bỏ ra 100 ngày trong suốt cuộc đời của cô ta để… ủi đồ! Tóm lại với Bách khoa tự điển QUID, bạn muốn tìm thông tin gì trên đời đều có thể tìm được ngay, và cái hay lả những thông tin đó rất chính xác. Đem một cuốn sách như Bách khoa tự điển QUID ra mà so sánh với những loại sách dạy sống theo lối Mẽo cho sớm mất gốc, hoặc dạy cách lươn lẹo theo Âu Mỹ để kiếm tiền một cách ít lương thiện, thì theo người viết, cuốn QUID phải bằng vài ngàn cuốn chứ không chỉ bằng một ngàn cuốn mà thôi đâu! Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương VI VŨ ANH TUẤN
VỀ VIỆC PHÁ HỦY ẢNH TƯỢNG (Tiếp theo số 114) CHỖ DỊCH SAI VÔ CÙNG TAI HẠI Cho đến thập niên 60-70 thế kỷ 20 tất cả các bản dịch công giáo cũng như các phái ly khai đều dịch “CHƯA CHÍNH XÁC” nói nôm na là DỊCH SAI ý tác giả THÁNH KINH trong bản THÁNH KINH ĐƯỢC COI NHƯ BẢN GỐC. Đó là câu TIN MỪNG THEO THÁNH MATTHÊU 19,9: “TÔI NÓI CHO CÁC ÔNG BIẾT TRỪ TRƯỜNG HỢP NGOẠI TÌNH [1] AI RẪY VỢ MÀ CƯỚI VỢ KHÁC LÀ PHẠM TỘI NGOẠI TÌNH [2]”. Các bản dịch xưa kia: bản tiếng LA TINH, ANH, PHÁP, Ý, TÂY BAN NHA… ĐỀU CHỈ DÙNG 1 TỪ “NGOẠI TÌNH’ CHO CẢ 2 CÂU [1] VÀ [2], hậu quả là tất cả các phái ngoài công giáo dù vẫn tôn trọng luật MỘT VỢ, MỘT CHỒNG và SỰ GÌ THIÊN CHÚA PHỐI HỢP, LOÀI NGƯỜI KHÔNG ĐUỌC PHÂN LY. Nhưng được áp dụng luật trừ NGOẠI TÌNH NÊN CHO PHÉP LY DỊ VÀ TÁI HÔN HỢP PHÁP. Riêng đạo CÔNG GIÁO dù vẫn dùng bản dịch SAI, nhưng nhờ HUẤN QUYỀN TỐI CAO CỦA GIÁO HỘI NÊN VẪN LUÔN HÀNH XỬ ĐÚNG Ý CHÚA TRONG TIN MỪNG LÀ KHÔNG CHO PHÉP LY DỊ DÙ CÓ NGOẠI TÌNH. ĐỐI ĐẾ CHỈ CHO PHÉP LY THÂN MÀ THÔI. CÁM ƠN CHÚA NHỜ TRUYỀN THỐNG CỦA GIÁO HỘI GÌN GIỮ. Vấn đề đã được đặt ra ngay thời giáo hội sơ khai, cuốn sách HERMAS PASTOR, một cuốn sách giáo lý sớm nhất của giáo hội Công Giáo thế kỷ 2-3 đã có trường hợp sau đây: “Hermas: T hưa ngài xin chi tôi hỏi ít lời - Được. Thưa Ngài nếu ai có vợ mà vẫn trung tín trong Chúa nhưng bắt được vợ ngoại tình mà cứ ở với vợ thì có phạm tội không? - Bao lâu không biết thì không có tội nhưng nếu chồng đã biết mà vợ không hối lỗi, lại cứ tiếp tục dâm dục, thì khi đó chồng ăn ở với vợ là tham dự vào tội ngoại tình của vợ. - Vậy thưa Ngài nếu vợ cứ tiếp tục mê đắm thì chồng phải làm gì? - Hãy rẫy vợ nhưng chồng phải ở vậy,vì nếu bỏ vợ đi lấy người khác thì chính chồng cũng phạm tội ngoại tình” (Ronet de journel: Enchiridion patristicum,86). Thánh Augustinô cũng quả quyết: “TRONG CHÚA VÀ TRONG GIÁO HỘI VẪN CÓ LUẬT LÀ ĐÔI BẠN CÒN SỐNG VỚI NHAU KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC LY DỊ, PHẢI GIỮ LỜI THỀ ƯỚC ĐÓ KỸ LƯỠNG ĐẾN NỖI DẦU MÀ LẤY VỢ, LẤY CHỒNG VÌ MỤC ĐÍCH SINH SẢN, CŨNG KHÔNG ĐƯỢC PHÉP LY DỊ NGƯỜI BẠN SON SẺ ĐỂ LẤY NGƯỜI KHÁC CÓ THỂ CÓ CON” (De nuptiis et concupiscentiis 1,11.PL.44,420). LỐI GIẢI THÍCH TRÊN LÀ ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN THỐNG CỦA GIÁO HỘI. TRƯỜNG HỢP NÀY GIÁO HỘI CHỈ CHO PHÉP LY THÂN MÀ THÔI (cả hai phải ở vậy hoặc tha thứ về với nhau, không ai được tái hôn). Gần đây linh mục J.Bonsirven, giáo sư KINH THÁNH tại học viện Roma căn cứ vào TỪ NGỮ HỌC và tư tưởng các Rabby đã giải thích đúng ý nghĩa như sau: “TRỪ NỐ DÂM BÔN (hôn nhân bất hợp pháp, tiếng Hy Lạp dùng chữ ‘PORNEIA’)…AI RẪY VỢ MÀ CƯỚI VỢ KHÁC LÀ PHẠM TỘI NGOẠI TÌNH” (tiếng Hy Lạp dùng chữ ‘MOIKHEIA’). Như trên đã nói chữ đánh số [1] là hôn nhân bất hợp pháp mà các bản dịch cứ dịch sai là NGOẠI TÌNH, còn chữ đánh số [2] mới là NGOẠI TÌNH THỰC SỰ, (nghĩa là đã có vợ có chồng mà còn ăn ở với người khác). Các bản dịch Công Giáo cũng sai trong một thời gian dài nhưng CHÚA THÁNH THẦN GÌN GIỮ NHỜ HUẤN QUYỀN TỐI CAO TỨC LÀ TRUYỀN THỐNG GIÁO HỘI, GIÁO HỘI ĐÃ KHÔNG SAI LẦM TRONG VẤN ĐỀ NGHIÊM TRỌNG NÀY. (Ngoài Công Giáo thì cứ ly dị thoải mái khi có ngoại tình). ĐỌC THÁNH KINH CẦN NHẤT LÀ PHÂN BIỆT ĐÂU LÀ LỜI THIÊN CHÚA, ĐÂU LÀ LỜI CON NGƯỜI. LỜI CHÚA hay SỨ ĐIỆP hoặc LỆNH TRUYỀN CỦA CHÚA được gởi tới loài người qua ngôn ngữ, cách diễn tả theo phong tục, văn hóa của mỗi dân, mỗi nước do đó thường có sự đánh đồng giữa LỜI CHÚA và LỜI DIỄN TẢ CỦA CÁC THÁNH KÝ. Ví dụ 11 chương đầu của SÁCH SÁNG THẾ KÝ bị người ta hiểu lầm và phê phán nhiều nhất. 11 chương đầu SÁCH SÁNG THẾ nói về việc CHÚA tạo dựng TRỜI ĐẤT VÀ MUÔN LOÀI TRONG TRỜI ĐẤT, CHÚA ĐẶT CON NGƯỜI LÀM CHỦ MỌI LOÀI CHÚA ĐÃ DỰNG NÊN VÀ RA LỆNH CHO MUÔN LOÀI PHÁT TRIỂN ĐẦY MẶT ĐẤT. Thánh ký hay tác giả chép KINH THÁNH đã tả Chúa tạo dựng trong 7 ngày, ngày thứ nhất Chúa dựng nên ÁNH SÁNG, ngày thứ hai Chúa dựng nên VÒM TRỜI, ngày thứ ba Chúa cho có đất và biển và ra lệnh cho đất sinh ra thảo mộc… Ngày thứ tư Chúa dựng nên MẶT TRỜI, MẶT TRĂNG VÀ CÁC TINH TÚ… Ngày thứ năm Chúa dựng nên chim trời, cá biển… Ngày thứ sáu Chúa dựng nên gia súc, thú rừng… và cuối cùng Chúa dựng nên CON NGƯỜI GỒM CÓ NAM VÀ NỮ GIỐNG HÌNH ẢNH CHÚA, CHO LÀM CHỦ MỌI LOÀI CHÚA ĐÃ DỰNG NÊN, TRUYỀN SINH SÔI NẨY NỞ ĐẦY MẶT ĐẤT… Ngày thứ bẩy ĐỨC CHÚA TRỜI NGHỈ NGƠI. Những người duy vật chỉ tin chân lý khoa học nên cho rằng những lời THÁNH KINH trên có nhiều sai lầm, vô lý và phi lý... thí dụ rõ nhất là ngày thứ nhất Chúa dựng nên ÁNH SÁNG nhưng mãi ngày thứ tư Chúa mới dựng nên MẶT TRỜI là nguồn sáng... rõ ràng: “Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông” XIN NHỚ RẰNG THÁNH KINH không dậy khoa học mà chỉ dậy ĐỨC TIN VÀ CHƯƠNG TRÌNH CỨU RỖI CỦA CHÚA. Mỗi môn học có cách trình bày và đối tượng riêng của mình, đừng LẤY RÂU ÔNG CẮM CẰM BÀ... Trong văn chương người ta vẫn nói: HOA CƯỜI, BIỂN HÁT, MẶT TRỜI MỌC, MẶT TRỜI LẶN v.v… hoàn toàn SAI KHOA HỌC nhưng lại rất ĐÚNG VĂN CHƯƠNG, chả ai thắc mắc, bắt bẻ cả. XIN HIỂU RẰNG những lời trên chỉ là lời diễn tả của nguòi chép THÁNH KINH ở vào thời đại bán khai chưa có khoa học như hiện nay... hừng đông chưa thấy mặt trời đâu thì đã thấy ánh ban mai... ông bèn nói ánh sáng có trước... LỜI CHÚA TRONG 11 CHƯƠNG ĐẦU SÁCH SÁNG THẾ chỉ gói gọn trong những điều sau đây: 1/ Không có sự gì, vật gì hữu hình hay vô hình trong vũ trụ này lại đã không do Chúa dựng nên. 2/ CHÚA là ĐẤNG CAO CẢ, QUYỀN NĂNG VÔ CÙNG LÀM ĐƯỢC MỌI SỰ THEO Ý NGÀI MUỐN. 3/ Mọi loài phải vâng lệnh Chúa. 4/ Loài người Chúa đặc biệt ưu ái, dựng nên GIỐNG HÌNH ẢNH CHÚA (có linh hồn với lý trí, ý chí, tự do) Chúa cho cai quản mọi loài. 5/ Loài người có nam, có nữ, đồng bản tính NGƯỜI, bình đẳng. 6/ Hôn nhân do Chúa thiết lập gồm 1 nam và 1 nữ, bổ sung cho nhau và duy trì nòi giống. 7/ Ông bà nguyên tổ đã chịu thử thách vì có TỰ DO và ông bà đã sa ngã kéo theo hậu quả là muôn vàn khổ đau, tội ác... và cuối cùng là phải chết như lời thánh Phaolô đã nói: “BỞI MỘT NGƯỜI MÀ TỘI ĐÃ VÀO THẾ GIAN MÀ BỞI TỘI THÌ CÓ SỰ CHẾT” (Rm 5,12). 8/ Dù nguyên tổ sa ngã, Thiên Chúa không bỏ rơi loài người, Ngài đã dự trù KẾ HOẠCH CỨU CHUỘC LOÀI NGƯỜI NHỜ NGÔI THỨ HAI LÀ CHÚA GIÊSU XUỐNG THẾ LÀM NGƯỜI, SINH BỞI BÀ MARIA ĐỒNG TRINH như LỜI TIÊN BÁO: “TA SẼ ĐẶT MỐI THÙ GIỮA NGƯƠI (SATAN) VÀ NGƯỜI ĐÀN BÀ, GIỮA DÒNG GIỐNG NGƯƠI VÀ DÒNG GIỐNG NGƯỜI ẤY, DÒNG GIỐNG NGƯỜI ẤY SẼ ĐÁNH VÀO ĐẦU NGƯƠI, VÀ NGƯƠI SẼ CẮN VÀO GÓT NÓ” (St 3,15). (lưu ý kiểu nói: cắn vào gót là kiểu nói khinh miệt, như kiểu nói Việt Nam: xách dép cho nó). 8 BÀI HỌC TRÊN CHÍNH LÀ NỘI DUNG LỜI CỦA CHÚA, NHỮNG GÌ KHÁC CHỈ LÀ LỐI DIỄN TẢ CỦA THÁNH KÝ MÀ THÔI. VỤ ÁN GALILÊ Chị Hồng Thắm (có lẽ là tín hữu Công Giáo mới thành vấn đề chứ là người duy vật thì chuyện lại khác) mới đậu thạc sỹ. Chị về làng vinh quy bái tổ. Mọi người mừng rỡ, chính quyền biểu dương… Chị cám ơn mọi người và nhắn nhủ các bạn trẻ trong làng tránh xa cạm bẫy và những hàng rào cản bước tiến hóa là tinh thần bảo thủ, là những mê tín dị đoan… Chị nêu trường hợp nhà thiên văn GALILÊ ra làm bối cảnh: 1/ Galilê là nhà bác học vĩ đại, đã khám phá ra chân lý khoa học: TRÁI ĐẤT QUAY QUANH MẶT TRỜI CHỨ KHÔNG PHẢI NGƯỢC LẠI NHƯ NGƯỜI TA VẪN TIN TƯỞNG. 2/ Giới lãnh đạo Công Giáo cho rằng lời tuyên bố của Galilê là RỐI ĐẠO, theo luật thời đó kẻ rối đạo phải lên giàn hỏa thiêu… 3/ Galilê, một nhà bác học kiêu hùng, bước lên giàn thiêu vẫn nắm tay tuyên bố: “Dù sao trái đất vẫn quay quanh mặt trời”. Ông đã chết trong tay những nhà lãnh đạo tôn giáo mù quáng như thế đó… SỰ THỰC VỤ ÁN GALILÊ NHƯ THẾ NÀO? 1/ Galilê (1564-1642) là nhà vật lý, một nhà thiên văn học, một văn sỹ người nước Ý, ông khám phá ra trái đất xoay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời xoay quanh trái đất như người thời đó tin. Ông không phải người đầu tiên nói thế vì trước ông, COPERNIC (1473-1543) nhà thiên văn Balan đã nói như thế rồi. 2/ Galilê bị đưa ra xét xử tại tòa án tôn giáo không phải vì câu nói: “TRÁI ĐẤT QUAY QUANH MẶT TRỜI” mà vì ông nói thêm rằng: “THÁNH KINH NÓI SAI”. Ông dẫn chứng câu chuyện Giosuê chỉ mặt trời bảo: “ĐỨNG LẠI” (sách Giosuê 10,12-15). 3/ Giới chức Công Giáo đưa ông ra tòa không phải vì VẤN ĐỀ KHOA HỌC (Copernic người công giáo Balan đâu có ra tòa) mà chỉ vì VẤN ĐỀ ĐỨC TIN (Ông quả quyết “KINH THÁNH NÓI SAI”). 4/ Ông Galilê không bị HỎA THIÊU như những người chống đạo Công Giáo thường lu loa, vu khống. Ông chỉ bị quản thúc tại một tu viện và bị cấm không được viết về vấn đề TRÁI ĐẤT QUAY QUANH MẶT TRỜI. Còn câu tuyên bố: “Dù sao trái đất vẫn quay quanh mặt trời” thì thiếu bằng chứng lịch sử. Fulton Sheen, thành viên trong Ban biên tập bộ bách khoa tự điển COMPTON’S đã cho biết: “100 năm sau mới xuất hiện câu nói đó”. Lời tuyên bố của Galilê là hư cấu, không có giá trị lịch sử. (Bài: THƯ NGỎ VỤ ÁN GALILÊ của Lm Ngô Phúc Hậu, tuần san Công Giáo và Dân Tộc số 1978 ngày 16/10/2014,tr 28-29). NHẬN ĐỊNH Một tín hữu trí thức lão thành như GALILÊ vẫn còn lầm lẫn LỜI CHÚA với LỜI NGƯỜI PHÀM. Ông cho rằng câu nói: “MẶT TRỜI ĐỨNG LẠI” là NỘI DUNG LỜI CHÚA, CHÂN LÝ ĐỨC TIN. Thực ra đó chỉ là kiểu diễn tả của người chép THÁNH KINH. Nội dung LỜI CHÚA trong đoạn Kinh Thánh đó là: THỦ LÃNH GIOSUÊ ĐƯỢC CHÚA ĐẶT LÊN THAY MÔSÊ LÀ TÔI TRUNG ĐẸP LÒNG CHÚA, CHÚA YÊU THƯƠNG, Ở CÙNG VÀ LUÔN PHÙ HỘ, CHE CHỞ ÔNG TRONG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO DÂN THÁNH CHÚA. Hiểu như thế thì làm gì có chuyện: “KINH THÁNH NÓI SAI” và làm gì có vụ án GALILÊ. Nếu KINH THÁNH có những lần dùng kiểu nói: “MẶT TRỜI MỌC, MẶT TRỜI LẶN” thì cũng đâu có vì thế mà bảo KINH THÁNH NÓI SAI ĐÂU. Tuy nhiên sau này thấy rằng việc quản thúc ông, cấm viết về vấn đề thuần túy khoa học cũng là quá nặng tay đối với một nhà thiên văn… nên Giáo Hội đã chính thức xin lỗi và phục hồi danh dự cho ông. CHA, THẦY VÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO. Chúa Giêsu phán dậy: “PHẦN ANH EM, THÌ ĐỪNG ĐỂ AI GỌI MÌNH LÀ ‘RAPBI’ NGHĨA LÀ THẦY VÌ ANH EM CHỈ CÓ MỘT THẦY, CÒN TẤT CẢ ANH EM ĐỀU LÀ ANH EM VỚI NHAU. ANH EM CŨNG ĐỪNG GỌI AI DƯỚI ĐẤT NÀY LÀ CHA CỦA ANH EM, VÌ ANH EM CHỈ CÓ MỘT CHA LÀ CHA TRÊN TRỜI. ANH EM CŨNG ĐỪNG ĐỂ AI GỌI MÌNH LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, VÌ ANH EM CHỈ CÓ MỘT VỊ LÃNH ĐẠO LÀ ĐỨC KITÔ…” (Mt 23,8-10) QUA ĐOẠN THÁNH KINH TRÊN, ĐÂU LÀ LỜI DẬY CỦA CHÚA, ĐÂU LÀ LỜI LOÀI NGƯỜI? 1/ LỜI CHÚA: Chỉ có CHÚA là Chúa duy nhất không được tôn thờ ai, vật gì bằng, như CHÚA (lưu ý động từ THỜ chỉ dành cho ĐẤNG TỐI CAO mà thôi). Không được nghe lời ai hơn nghe Lời Chúa Giêsu, không coi lời ai trọng bằng Lời Chúa Giêsu. Không chịu sự chỉ đạo của ai bằng sự chỉ đạo của Chúa Giêsu (ai dậy gì, chỉ đạo gì hợp đạo lý của Chúa, chúng ta chấp hành vì đúng ý Chúa. Bất cứ ai dậy, chỉ đạo điều gì sai lời Chúa, chúng ta loại bỏ ngay). 2/ LỜI LOÀI NGƯỜI: Tuyệt đối tránh gọi bất cứ ai là CHA, THẦY, LÃNH ĐẠO, KỂ CẢ ÔNG ĐẺ RA MÌNH, ÔNG, BÀ DẬY MÌNH HỌC, NGƯỜI ĐIỀU HÀNH ĐẤT NƯỚC... Tránh cả những từ tương đương tiếng Việt hay ngoại ngữ... ví dụ: TÍA, BỐ, BA… cũng đồng nghĩa với CHA. Như vậy là hiểu theo NGHĨA ĐEN, NGHĨA CHỮ... KHÔNG BIẾT NHỮNG NGƯỜI HIỂU NHƯ THẾ NÀY THÌ HỌ GỌI CÁI ÔNG ĐẺ RA MÌNH LÀ GÌ? CÁI ÔNG, BÀ DẬY MÌNH LÀ GÌ? NGUYÊN THỦ QUỐC GIA LÀ GÌ? Gọi là THỦ TƯỚNG, TỔNG THỐNG cũng là LÃNH ĐẠO THÔI... Gọi là MỤC SƯ, SƯ CŨNG LÀ THẦY, gọi thế là VI PHẠM rồi... Ấy thế mà vẫn có những người phê phán tín hữu Công Giáo gọi các linh mục là CHA. Xin trả lời: 1/Không bao giờ người ta THỜ ÔNG CHA, COI ÔNG CHA NHƯ ĐỨC CHÚA TRỜI. 2/ Không bao giờ Giáo Hội hay chính linh mục bắt giáo dân gọi mình là Cha. 3/ Sở dĩ họ gọi thế là vì họ kính trọng chức thánh đồng thời tỏ lòng yêu mến người chăm lo linh hồn mình. 4/ Đây cũng là thói quen trong nội bộ Công Giáo. Không ai có quyền ngăn cấm hay phê phán ngôn ngữ địa phương, đoàn thể cả. Thí dụ dân Hà Nội xưa, chính gốc gọi cha mẹ là CẬU MỢ. Miền Hải Dương và nhiều miền khác ở Bắc gọi cha mẹ là THẦY BU hay THẦY U... Miền Nam gọi là CHA MÁ, TÍA MÁ, BA MÁ... Cộng đoàn Công Giáo cũng có cách gọi riêng tại sao lại phê phán? LẤY LỜI CỦA LOÀI NGƯỜI ÁP ĐẶT LÊN MỌI NGƯỜI COI NHƯ LỜI THIÊN CHÚA LÀ BẤT CÔNG VÀ KHÔNG HIỂU KINH THÁNH. 5/ Lý do cuối cùng để người tín hữu Công Giáo gọi các linh mục LÀ CHA là căn cứ vào lời thánh PHAOLÔ: “THẬT THẾ, CHO DẦU ANH EM CÓ NGÀN VẠN GIÁM THỊ TRONG ĐỨC KITÔ, ANH EM CŨNG KHÔNG CÓ NHIỀU CHA ĐÂU, BỞI VÌ TRONG ĐỨC GIÊSU KITÔ, NHỜ TIN MỪNG CHÍNH TÔI ĐÃ SINH RA ANH EM” (1Cr 4,15-16). Phép RỬA TỘI là cuộc TÁI SINH TRONG NƯỚC TRỜI nên người tín hữu gọi cái kẻ RỬA TỘI CHO MÌNH, ĐẺ MÌNH RA TRONG NƯỚC TRỜI, cả con cháu mình nữa LÀ CHA THÌ CÓ GÌ SAI KINH THÁNH KHÔNG? HAY LẠI RẤT HỢP KINH THÁNH...? TẠM KHÉP LẠI “LỜI XIN LỖI’’ Kể ra thì còn rất nhiều điều phải nói nhưng thiết nghĩ bấy nhiêu cũng đủ cho những ai thành tâm thiện chí gẫm suy: “HÃY ĐỂ CHO LƯƠNG TÂM MỌI NGƯỜI TỰ PHÊ PHÁN TRƯỚC MẶT CHÚA” (2Cr 4,2). Tất cả các Kitô hữu đều TÔN THỜ MỘT CHÚA BA NGÔI, ĐỀU YÊU MẾN, TÔN THỜ CHÚA GIÊSU, ĐỀU YÊU MẾN, TÔN THỜ LỜI CHÚA TRONG KINH THÁNH VÀ MUỐN LẤY KINH THÁNH LÀM KIM CHỈ NAM CHO CUỘC SỐNG MÌNH. ĐÂY LÀ ĐIỂM HẸN CHUNG CỦA MỌI KITÔ HỮU. CẢM TẠ ƠN CHÚA MUÔN NGÀN TRÙNG VỀ ĐIỀU NÀY. XIN MỌI NGƯỜI ĐẶT THÁNH KINH LÊN ĐẦU CỦA MÌNH VÀ CÙNG ĐỌC: “NẾU CÁC ÔNG Ở LẠI TRONG LỜI CỦA TÔI THÌ CÁC ÔNG THẬT LÀ MÔN ĐỆ TÔI” (Ga 8,31). ] “TÔI TRUYẾN CHO ANH EM HÃY NHẤT TRÍ VỚI NHAU TRONG LỜI ĂN TIẾNG NÓI VÀ ĐỪNG ĐỂ CÓ SỰ CHIA RẼ GIỮA ANH EM NHƯNG HÃY HÒA THUẬN, MỘT LÒNG, MỘT Ý VỚI NHAU” (1Cr1,10). ] ] “THẾ RA ĐỨC KITÔ BỊ CHIA NĂM XẺ BẨY RỒI Ư?” (1Cr 1,13). Thực tế hiện nay không phải chỉ chia năm xẻ bẩy mà chia nghìn xẻ vạn. Bởi đâu có tình trạng này? Ai đã cầm đầu gây ra tình trạng này??? Chúng ta là những môn đệ thành tâm với Chúa, chúng ta phải làm gì cho Chúa vui lòng đây? MỖI NGƯỜI CHẮC CHẮN ĐÃ TỰ TRẢ LỜI ĐƯỢC. Chỉ xin nhắc lại lần nữa: “CÓ THÁNH KINH LÀ TỐT RỒI, CHĂM ĐỌC THÁNH KINH LÀ TỐT HƠN NỮA NHƯNG HIỂU ĐÚNG THÁNH KINH, PHÂN BIỆT ĐƯỢC ĐÂU LÀ LỜI CHÚA, ĐÂU LÀ LỜI PHÀM MỚI THẬT TUYỆT VỜI VÀ TRÊN CẢ TUYỆT VỜI NŨA. Ai có thể tự hào mình hiểu hết THÁNH KINH MỘT CÁCH CHÍNH XÁC? “KHÔNG AI ĐƯỢC TỰ TIỆN GIẢI THÍCH MỘT LỜI NÀO TRONG SÁCH THÁNH” (2Pr 1,20), nên HUẤN QUYỀN TỐI CAO VẪN LÀ KIM CHỈ NAM CHO MỌI NGƯỜI MUỐN HIỂU ĐÚNG Ý CHÚA QUA NHỮNG LỜI DIỄN TẢ, TRÌNH BÀY TRONG THÁNH KINH. ] ] ] “AI NGHE LỜI ANH EM LÀ NGHE LỜI THẦY, AI KHƯỚC TỪ ANH EM LÀ KHƯỚC TỪ THẦY, AI KHƯỚC TỪ THẦY LÀ KHƯỚC TỪ ĐẤNG ĐÃ SAI THẦY (Lc 10,16). Lưu ý cần xem lời đó Chúa nói với ai và cho ai? Chắc chắn không phải cho ông A, ông B, ông C không phải tông đồ Chúa chọn mà là nói với các Tông đồ và truyền nhân được những vị này ĐẶT TAY tuyển lựa. “NGUYỆN XIN ÂN SỦNG CỦA ĐỨC GIÊSU KITÔ CHÚA CHÚNG TA, TÌNH YÊU CỦA CHÚA CHA VÀ ƠN THÔNG HIỆP CỦA CHÚA THÁNH THẦN Ở CÙNG TẤT CẢ ANH CHỊ EM”. AMEN. Giáo xứ Tân Sa Châu Ngày 29 tháng 8 năm 2015 Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết VIỆC TRUYỀN Y BÁT LIÊN QUAN ĐẾN CÁCH HIỂU ĐẠO PHẬT NHƯ THẾ NÀO? (tiếp theo số 114) Qua một số trích dẫn trên, ta có thể đánh giá được ai hành theo đúng lời Phật dạy, ai chưa, vì còn đuổi theo hình tướng bên ngoài, bỏ quên Chùa Vô Tướng là thanh tịnh địa, PHẬT là sự giải Thoát nơi Tâm của mình. Như vậy, nếu người tu dù hình tướng đầy đủ như thế nào mà không điều phục được cái Tâm, vẫn còn Tham, Sân, Si, Mạn… thì ta có quyền nghi ngờ là họ chưa thực hiện đúng như lời Phật dạy. Dù thời buổi này vàng thau lẫn lộn, thật giả khó phân, vì ai cũng mang hình tướng của Phật. Nhưng chỉ cần chúng ta đối chiếu lại với cuộc sống của Phật và Chư Tổ ngày xưa: Phật sống một đời đạm bạc, chỉ đi chân trần, mặc y bằng vải liệm thi mà người đời bỏ đi. Ngụ ở cội cây hay trong rừng. Chư Tổ cũng một Y, một Bát. Chỉ ăn vừa đủ để cái Thân khỏi bệnh, khỏi đói để truyền Đạo. Đã đành thời buổi văn minh, người tu cũng không nên cố chấp, vẫn có quyền sử dụng phương tiện của thế gian để hành đạo. Nhưng trong khi ta nói rằng chê chán thế gian để đi tu, mà sử dụng phương tiện của đời một cách xa xỉ, làm hao tổn tiền bạc của bá tánh liệu có xứng đáng là đệ tử của Phật hay không? Trong khi có một phóng sự mà chỉ trong vòng 4 giờ được đưa lên thì đã có hơn 7 triệu người chia sẻ. Đó là một ngôi làng tên Hokse, cách thủ đô Kathmandu của Nepal chỉ 20km có hàng ngàn người không ai còn đủ hai quả thận! Họ đã phải bán đi một quả để lấy một số tiền ít ỏi, chỉ 1.500 bảng Anh, có khi còn kém hơn. Có người đã dùng số tiền đó để xây nhà cho gia đình, rồi một số cũng đã bị sụp đổ theo các trận động đất ngày 29/7 vừa qua, thì ngày 12/8 báo Dân Trí dẫn nguồn từ truyền thông Ấn Độ, đăng tin một ngôi chùa được cho là giàu nhất Ấn Độ có tên là Tirumala, ở Bang Andhra Pradesh, miền Nam Ấn Độ thông báo sẽ gởi 4,5 tấn vàng vào Ngân Hàng. Theo lãi suất hiện hành thì chùa sẽ nhận được lãi là 80 ký lô vàng hàng năm! Không biết Chùa đó có bao nhiêu Sư, Tăng? Họ chỉ ăn chay và mặc Cà Sa thì tiêu gì cho hết 80 ký vàng (tương đương hơn 2.000 lượng vàng) trong 1 năm? Người tu hành đã cho là chê đời, bỏ đời, thì lại có quá nhiều của cải quý giá của trần tục mà nhiều người làm quần quật cả đời không kiếm ra! Nhưng chưa hết, Chùa vẫn còn giữ lại khoảng 1 tấn vàng nữa! Số 5,5 tấn vàng có giá trị khoảng 13,2 tỷ rupi (hơn 4,513 tỷ VND), và người ta ước tính số tài sản tích lũy nhiều năm qua tại các Chùa Đền ở Ấn Độ có giá trị lên đến hàng tỷ đô la dưới dạng vàng trang sức, vàng thỏi và tiền xu. So với thời Phật, Ngài và chư Đệ Tử chỉ “một Y, một nạp”, ở trong rừng hay cội cây, thì tu sĩ ngày nay giàu hơn rất nhiều! Phải chăng “Con hơn cha là nhà có phúc”? Lẽ ra khi đất nước đang gặp khó khăn, người dân quá khốn đốn thì chùa nên xuất kho cứu tế mới đúng. Hay các vị chỉ quen vận động người khác, coi như người đời tự thu xếp mà giúp đỡ nhau, các Ngài đã bỏ hết việc đời? Nhưng nếu trong khi bá tánh đang lầm than mà chỉ lo tập trung tiền của để tôn tạo Chùa, tượng, thì tôi tin chắc chẳng có Phật nào hoan hỉ, nếu không nói là đau lòng thấy rằng đệ tử Ngài đã vô tâm, vô cảm trước nỗi đau của bá tánh! Hồi tưởng lại những gì làm mình mến mộ Đạo Phật đến bỏ hết mấy mươi năm của cuộc đời để nghiền ngẫm con đường tu hành, tôi không khỏi ngậm ngùi nhớ lại 4 câu Kệ nói về đời sống thanh bần, an lạc, thong dong của các bậc tu hành chân chính ngày xưa sao mà thánh thiện, nhẹ nhõm, thanh cao đáng ngưỡng mộ vô cùng. Tiếc thay, bây giờ hình ảnh đó không còn nữa! Bình Bát cơm ngàn nhà Thân chơi muôn dặm xa Mắt xanh xem người thế Mây trắng hỏi đường qua! Xét về mặt hình tướng thì đến nay Đạo Phật có vẻ phát triển mạnh. Người tin theo ngày càng đông. Chùa Chiền càng lúc càng xây nhiều thêm, hoành tráng hơn. Nhưng nếu Phật Tử thay vì Tự Độ thì ngày càng tin tưởng, tôn thờ, cầu xin Phật, việc gì cũng phó thác cho Phật, thì rõ ràng họ chỉ khác những tôn giáo Thần Quyền ở chỗ thay hình ảnh Thượng Đế bằng Phật mà thôi. Có điều không hiểu tại sao vào thời đại này rồi mà nhiều người không hề thắc mắc: Đã xưng là ĐỆ TỬ Phật tức là CON, là EM của Phật, nhưng tại sao con mà không nối nghiệp cho Cha, không vào nhà để hưởng gia tài, mà ngày ngày phải khói hương quỳ lạy Cha để cầu xin? Đã xưng là CON PHẬT mà không nhìn nhận là mình có PHẬT TÁNH, tức là CHÚNG TỬ PHẬT, chỉ cần phát huy để cũng được Thành Phật, lại nhất định chối bỏ, chỉ nhận mình là Chúng Sinh để cầu xin Phật Độ cho, trong khi Phật dạy mọi người phải TỰ ĐỘ? Kết luận: Cho tới thời này thì hình ảnh Đức Phật đã bị thổi phồng một cách quá đáng bởi những người không hiểu và những người lợi dụng Đạo Phật. Nhưng nếu người Phật Tử không bị lóa mắt với những gì được rao giảng về thần thông, phép mầu, cứu độ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới của Phật, mà thận trọng tìm hiểu sẽ thấy: MỤC ĐÍCH của Đạo Phật là để người tin tưởng, hành trì theo sẽ được Thoát Khổ, nên Đạo Phật còn được gọi là Đạo ĐỘ KHỔ. PHƯƠNG TIỆN là Giáo Pháp, người tu phải theo đó mà Soi, Quán rồi hành trì theo. KẾT QUẢ của Đạo Phật chỉ là được Thoát Khổ, Thoát SINH TỬ LUÂN HỒI. Phật không có cứu độ cho, nên người tu phải tự mình hành trì để tự cứu lấy mình gọi là TỰ ĐỘ. Đạo Phật không phải là một Tôn Giáo dạy thờ phụng Phật để nương tựa, cầu xin, mà chỉ là CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT. Con đường này có giá trị xuyên thời gian, không gian, cho nên dù là quá khứ, hiện tại hay vị lai, hay ở bất cứ nơi đâu, chỉ cần hành trì theo hướng dẫn của Đạo đều sẽ thành tựu như nhau. Thời mới khai đạo, Đức Thích Ca biết con người không dễ dàng dứt bỏ đam mê vật chất trần gian, nên Ngài đã dùng rất nhiều Phương Tiện, mô tả Nước Phật với nhiều châu báu và Chư Bồ Tát có đủ thần thông để cứu độ chúng sinh... để người dù chưa biết giá trị của Đạo cũng sẽ nhờ ham thích mà hướng về đó để bớt đi những cái tham đắm đang làm cho phiền não. Nhưng khi đối chiếu với con đường tu hành thì biết rằng những cảnh giới đó là Phật diễn tả nơi CÕI TÂM của mỗi chúng ta. PHẬT là sự Giải Thoát, không còn phiền não, được thanh tịnh, an ổn. CHÚNG SINH là những tư tưởng còn nhiễm những tính chất xấu xa, còn loạn động, còn khởi những ác tâm. BỒ TÁT là những tư tưởng đã thanh tịnh, an ổn, nhưng không nghỉ ngơi, mà làm công việc giải thích, hướng dẫn cho Chúng Sinh, cho nó bỏ đi những toan tính xấu xa, để bản thân cũng được an ổn. Khi làm cho một Chúng Sinh được an ổn gọi là ĐƯA MỘT CHÚNG SINH THÀNH PHẬT. Chừng nào Cõi Tâm trở thành thanh tịnh, không còn những Chúng Sinh thì gọi đó là PHẬT QUỐC hay Niết Bàn. Tất cả những gì Phật giảng nói đều nhằm mục đích chỉ ra cái Khổ của kiếp sống để người nào ý thức được thì theo sự hướng dẫn của Ngài sẽ được Thoát Khổ. Phật không hề dạy phải phụng thờ, tôn kính Ngài, cũng không hứa độ trì cho ai, chỉ như người cha thương con, ân cần nhắn nhủ con cái nên đi theo con đường Ngài đã mở ra để được an lạc trong cuộc sống và kiếp sau - nếu có - cũng sẽ tốt đẹp hơn. Do thiếu đường truyền chính thống nên bất cứ ai cũng có thể rao giảng, làm cho Đạo Phật ngày càng bị hướng dẫn đi vào hình tướng, thờ cúng, cầu xin Phật, không còn là con đường quay vô để tu, sửa Thân, Tâm để được Giải Thoát nữa. Đôi khi có nhiều người nghe nói Đạo Phật vi diệu, Phật Pháp cao thâm, cũng muốn học hỏi, nhưng không biết bắt đầu từ đâu, bởi cho tới thời nay thì Đạo Phật ngoài những Bộ Chính Kinh còn được luận, giải, thêm thắt vào đó của người nhiều thời trở thành Thiên Kinh vạn quyển, làm tăng thêm phần huyền bí, cao siêu, làm người muốn tìm hiểu thêm hoang mang, không biết tin ai. Vì thế, khi muốn tìm hiểu Đạo thì phần đông chỉ biết nương tựa vào những người mang sắc áo tu hành. Nhưng công tâm mà nói, không phải vị tu hành nào cũng là bậc Chân Tu, có đủ kiến thức về Đạo để hướng dẫn cho bá tánh, mà đa phần lại hướng Phật Tử vào tôn thờ kính ngưỡng Phật, xem Phật như là một vị Thần Linh có toàn quyền ban ân, giáng phúc, làm sai lạc ý nghĩa của Đạo Giải Thoát chân chánh, biến Phật Tử thành những tín đồ chỉ biết cầu xin, nương tựa lúc sống cũng như khi chết. Là người đã bỏ khá nhiều năm để đúc kết Giáo Pháp của Đạo Phật, đối chiếu nhiều Bộ Chính Kinh với nhau, tôi đã rút ra được cho mình một giáo trình rõ ràng, thực tế để có thể kết luận rằng Đạo Phật là một lý thuyết tuy được đưa ra cách đây cả mấy ngàn năm, nhưng phù hợp với mọi thời đại, vì không hề đưa con người đến Thần Quyền, mê tín, cầu xin, nương tựa mà chỉ dùng phương tiện để hướng con người đến nẻo Thiện bằng Luật Nhân Quả mà thôi. Như vậy, người muốn tu theo Đạo Phật chỉ cần GIỮ GIỚI và thực hành theo BÁT CHÁNH ĐẠO. Con đường tu Phật theo Kinh VIÊN GIÁC thì không cần quy y, thọ giới, sớm tối chuông mõ, CHỈ CẦN BIẾT HUYỂN, LY HUYỂN. Muốn vậy phải khai mở CÁI BIẾT hay còn gọi là TRÍ HUỆ hoặc TRÍ BÁT NHÃ bằng Giáo Pháp mà Đạo Phật hướng dẫn. Tu theo Đạo Phật chỉ là để được an vui trong kiếp sống và kết thúc vòng Sinh Tử Luân Hồi mà thôi. Để giải thích lý do làm ra và làm thế nào để kết thúc vòng LUÂN HỒI, thì trong “NHỮNG NGÀY VÀ NHỮNG LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT” chỉ rõ: “Này các Tỳ Kheo, chính vì không giác ngộ, không hiểu Tứ Thánh Đế mà chúng ta phải lưu chuyển Luân Hồi lâu năm. Bốn Thánh Đế ấy là gì? Này các Tỳ Kheo, chính là vì không giác ngộ, không thông hiểu KHỔ THÁNH ĐẾ, KHỔ TẬP THÁNH ĐẾ, KHỔ DIỆT THÁNH ĐẾ, KHỔ ĐẠO THÁNH ĐẾ”… Thánh Đế này được giác ngộ, được thông hiểu, thời HỮU ÁI được diệt trừ, dẫn dắt đến một đời sống khác được đoạn tuyệt, không còn hậu hữu nữa. (Tức là không còn Sinh Tử Luân Hồi). Kinh ĐẠI THỪA là do những TỔ ĐƯỢC TRUYỀN Y BÁT bên ĐẠI THỪA nhiều đời kế tục nhau để giảng hay viết về con đường tu PHẬT. Nhưng có nhiều vị đã quyết liệt phản bác, cho đó là Kinh ngụy tạo mà không cần biết trong đó viết những gì. Trong khi đó, ta thấy từ xa xưa, Phật đã thận trọng dặn dò đệ tử rất kỹ, là khi nghe có những trường hợp có người nói điều nọ điều kia thì nên đối chiếu với Kinh, với Luật rồi mới kết luận: “Này các Tỳ Kheo, có thể có vị Tỳ Kheo nói: “Này hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Đức Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vầy là Pháp, như vầy là Luật, như vầy là lời dạy của vị Đạo Sư”. Này các Tỳ Kheo, các ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của vị Tỳ Kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật. Nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các ngươi có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này không phải là lời Đức Thế Tôn, và các vị Tỳ Kheo ấy đã thọ giáo sai lầm”. Và này các Tỳ Kheo, các ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, thời các ngươi có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Đức Thế Tôn và vị Tỳ Kheo ấy đã lãnh thọ giáo pháp chơn chánh”. Này các Tỳ Kheo, như vậy là Đại Giáo Pháp thứ nhất, các ngươi hãy thọ trì”. Như vậy, rõ ràng là đệ tử của Phật đã thiếu sót khi không đọc kỹ những lời dặn dò, gọi là Đại Giáo Pháp thứ nhất của Đấng Đạo Sư, nên tự làm mất lợi ích cho mình, vì Kinh Đại Thừa không chỉ nói về GIỚI, ĐỊNH, HUỆ, BÁT CHÁNH ĐẠO, những Phẩm Trợ Đạo thôi, mà còn giải thích từng chi tiết về cách thực hành các Pháp trong Đạo, từ những gì cần Soi, Quán, cho đến cách để kiểm tra để người tu theo đó mà biết mình đúng, sai như thế nào để không sợ lạc lối. Muốn phân biệt người nào giác ngộ hay chưa thì Kinh kể lại: Trước lúc Phật nhập Niết Bàn, Ngài có cho đệ tử thông báo là ai còn nghi ngờ gì về Giáo Pháp thì cứ đến hỏi, Ngài sẽ giải đáp cho, thì có một tu sĩ ngoại đạo tên Subhadha đến xin gặp Phật. Ông đã bị Ngài Ananda 3 lần từ chối, vì Thế Tôn đang mệt. Nhưng khi nghe được câu chuyện thì Phật bảo hãy để cho Subhadha vào. Subhadha hỏi Phật: “Tôn giả Gotama, có những Sa Môn, Bà La Môn là những vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như các Ngài Purana, Kassapa v.v… Tất cả những vị này có phải là đã Giác Ngộ như các vị đã tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đã giác ngộ và một số chưa giác ngộ?”. Phật trả lời: “Này Subhadha, trong pháp luật nào không có Bát Thánh Đạo thời ở đấy không có Đệ Nhất Sa Môn, không có Đệ Nhị Sa Môn, không có Đệ Tam, Đệ Tứ Sa Môn (Tứ Quả Thánh). Này Subhadha, trong pháp luật nào có Bát Thánh Đạo thì trong đó có Đệ Nhất Sa Môn, Đệ Nhị Sa Môn, Đệ Tam, Đệ Tứ Sa Môn. Này Subhadha, chính trong Pháp Luật này có Tám Thánh Đạo. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có. Này Subhadha nếu những vị Tỳ Kheo này sống chơn chánh thời đời này không vắng những vị A La Hán”. Qua đó, ta thấy Phật giải thích rất rõ: Dù trong Giáo pháp của Ngài có Bát Thánh Đạo, nhưng các vị TỲ KHEO phải sống chân chánh thì mới đạt những quả vị. Nhưng theo Kinh Đại Thừa viết, thì những người TIỂU THỪA là những người dừng ở cái Thấy các Pháp là KHÔNG. Cái Thấy này đưa hành giả chứng được TỨ QUẢ THÁNH. Đạt được Niết Bàn. Đó cũng là một giai đoạn tu hành. Nhưng con đường tu Phật chưa ngưng ở đó, vì Quả vị chỉ là “Hóa Thành” cho người lười mỏi nghỉ ngơi mà thôi. Sợ họ tu hành lâu ngày mà không thấy có kết quả nào đâm ra nản lòng. (Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA). Muốn thành Phật thì phải ĐỘ SINH. Phải “Hàng phục Vọng Tâm, an trụ Chân Tâm”. Do vậy, người tu phải tiếp tục quán sát cái Tâm, biết cái Phật gọi là VỌNG TÂM là vì cái Tâm còn đầy dẫy Ba Độc, tức Tham, Sân, Si. Khi cái Tâm còn nhiễm 3 thứ này, sẽ sản sinh ra những suy nghĩ xấu, những đố kỵ, giận hờn, ganh ghét, toan tính ác, lấn người, hại vật gọi là CHÚNG SINH. Người tu cần đi vào CON ĐƯỜNG ĐỘ SINH, do đó mà phải Chuyển Hóa hoặc Điều Phục chúng sinh, cho nó “Phản Vọng Quy Chân”, tức là bỏ đi những ý tưởng xấu xa, đen tối. Có 3 chủng loại Chúng Sinh, đó là THAM, SÂN và SI, nên việc làm đó được gọi là “Cứu độ Tam Thiên Đại Thiên Thể Giới”. Khi Chuyển Hóa được 1 tư tưởng xấu, cho nó được thanh tịnh, thì gọi là “Đưa được 1 Chúng Sinh thành Phật”, vì vậy, một đời người tu hành sẽ “Cứu độ vô lượng vô số Chúng Sinh”. Khi cái Tâm hoàn toàn thanh tịnh tức là trở lại tình trạng chưa ô nhiễm từ khởi thủy, thì được gọi là Thành Tựu Con Đường Giải Thoát hay là Thành Phật. Điều này tương ứng với câu Kinh KIM CANG: “TA ĐÃ DIỆT ĐỘ VÔ LƯỢNG VÔ SỐ Chúng Sinh. Nhưng thật ra không có Chúng Sinh nào bị diệt độ cả”, vì Chúng Sinh đó chỉ là những tư tưởng nhiễm Ba Độc của chính người tu, không phải là “độ” cho chúng sinh nào ở bên ngoài. Người tu theo TIỂU THỪA, do thấy CÁC PHÁP là KHÔNG, nên trên không thấy có Phật để học hỏi, dưới không thấy có CHÚNG SINH để “Độ”, vì thế Kinh Đại Thừa gọi họ là “Chồi khô, mộng lép”, vì không làm ích lợi gì được cho ai. Bởi người thấy các Pháp là KHÔNG thì đâu còn thiết tha làm hay học hỏi điều gì nữa. Sau đây là một vài cách thức hiểu và hành của Đại Thừa và Tiểu Thừa: · Giải Thoát của Tiểu Thừa là phá Tiểu Ngã, xa lánh Khổ Não, vào chỗ vắng lặng. Giải Thoát của Đại Thừa là không cần xa rời thế gian, không cần vào chỗ vắng lặng, chỉ cần Xả cái Chấp Ngã, Chấp Pháp thì được Giải Thoát, vì dù ở đâu cái tâm cũng vẫn an tịnh. · Tu theo Tiểu Thừa là phải đầy đủ hình tướng, phải giữ Tứ Oai Nghi. Tu theo Đại Thừa là chỉ cần giữ cái TÂM. Điều cần thiết là sau khi Thọ, trì, đọc, tụng, biên chép, giải nghĩa để hiểu rõ ý Kinh thì “Y Pháp Tu hành”. Hình tướng, nơi chốn không quan trọng. · Tiểu Thừa xa lánh thế nhân, cho đời là ô trược. Đại Thừa cho rằng cái ô trược chính là Tham, Sân, Si hay còn gọi là BA ĐỘC của chính mình, không phải là ở cảnh đời. Vì thế việc tu hành, thành Phật theo Đại Thừa được tóm gọn trong 4 câu Kệ trong Kinh Viên Giác: “Nếu người đoạn Thương, Ghét. Cùng với Tham, Sân, Si. Chẳng cần tu gì khác. Cũng đều đặng Thành Phật”. · Tiểu Thừa tránh không đề cập đến Niết Bàn, trong khi Đại Thừa giải thích rất rõ: Niết Bàn hay Phật Quốc là tình trạng vắng lặng, thanh tịnh, an ổn trong nội tâm mà người tu sẽ đạt được ngay tại cảnh sống hiện tiền, không phải là một cõi xa xôi nào đó sau khi chết mới được về. Một điều quan trọng đáng cho chúng ta lưu ý là nếu ai tu với Phật cũng có thể đủ kiến thức để truyền Đạo cho thế hệ sau, thì Đức Thích Ca đã không bày ra việc TRUYỀN Y BÁT để làm chi. Và nếu chỉ cần thuộc Pháp của Phật làu làu thì người được truyền là Ngài A Nan, không phải là Ngài Ca Diếp. Mỗi Pháp mà Đạo Phật dùng đều có lý do vì sao nên hành? Phải Hành như thế nào? Kết quả về đâu? Tất cả đều biện minh được, không có chống trái nhau. Vì vậy, nếu ta tu hành mà không biết mình cần phải làm gì? Tại sao phải làm? Làm tới đâu là đủ? Không biện minh được Niết Bàn, Phật Quốc là ở đâu, thì làm sao về đó? Đợi chết mới về, nhưng rủi không về được thì ai đền cho công sức cả một đời hy sinh, kham khổ? Không biết Chúng Sinh là gì? Ở đâu, thì làm sao để “độ”? Nếu Chúng Sinh là bá tánh bên ngoài thì ngay cả Đức Thích Ca cũng chưa thành Phật, vì ngày càng sinh sản thêm ra, và chừng nào ta mới thành Phật được, vì phải “Độ tận Chúng Sinh” thì mới thành Phật? Không phân biệt được giữa Thờ Phật và Tu Phật thì ta sẽ Tu đến bao giờ? Điều đó mỗi người sẽ tự khai thông cho chính mình. Bởi vì Nhân Quả là do chính mình gây tạo, chính mình là người được hưởng. Đốn hay Tiệm cũng do chính mình sáng suốt hay không. Phật cũng không thể phá Vô Minh giùm cho người khác được, mà Ngài bảo hãy “Tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Phật ngôn có câu: “Kẻ nào ca ngợi ta, tán thán ta mà không hành theo lời ta chỉ dạy. Kẻ đó đang phỉ báng nặng nề ta”. Vậy thì “hành” theo lời Ngài dạy cách nào nếu không phải là thực hiện lời Thọ Ký: “Chúng Sinh là Phật sẽ thành”? Vì “thành Phật” chỉ là thành tựu con đường giải thoát, đâu phải để thành thần linh, nên đâu có gì là Tăng thượng mạn khi quyết tâm thực hiện điều đó? Và thật ra, dù nói bao nhiêu lý thuyết cao siêu, nhưng tóm lại thì mục đích của Đạo Phật cũng chỉ để hướng con người đừng làm ác, nên làm điều thiện: “Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành”, bởi tất cả chỉ là NHÂN QUẢ mà thôi. Vì thế, chỉ cần cải ác, hành thiện, thì dù hành theo bất cứ Thừa nào, thì cũng như những người con của trưởng giả, dù ham Xe Dê, Xe Trâu hay Xe Nai mà chạy ra khỏi Nhà Lửa thì cũng đều thoát chết, được người cha ban thưởng đồng đều như nhau (Diệu Pháp Liên Hoa) bởi Thừa nào cũng đều có GIỚI, đều thực hành theo BÁT CHÁNH ĐẠO. Người thực hành theo Bát Chánh Đạo thì không phải chỉ tập trung nghĩ tưởng đến Phật, mà lúc nào cũng kiểm soát bản thân từ tư tưởng, lời nói, hành vi, thì làm gì còn tính toán, so sánh cao thấp, hơn thua hay đố kỵ, ghen ghét, bởi Thân, Khẩu, Ý ba Nghiệp được thanh tịnh thì sẽ được như Hoa Sen nổi lên giữa bùn. Bao nhiêu đó đủ để sống giữa đời mà không bị pháp trần làm cho đau khổ, điên đảo. Vậy là đã đạt được mục đích Thoát Khổ mà Đức Thích Ca mong mỏi rồi. Thực hiện được những điều đó thì dù có mang hình tướng hay không, có gia đình hay độc thân, cũng sẽ được như lời Phật dạy: Không chỉ người hành pháp đó được nhờ, mà tất cả hoàn cảnh chung quanh họ đều cũng được an lạc vậy. (còn tiếp) TÂM NGUYỆN (Tháng 6/2015) TÂM NGUYỆN & GÓP NHẶT QUANH ĐỜI Tác giả Tâm Nguyện tên thật là Trần Thị Biên, sinh ngày 06/7/1944 tại Trà Vinh Trước năm 1975 chị làm việc tại Pháp Quốc Thương Mãi Ngân Hàng Saigon (BFC). Từ năm 1977: Học Phật trong nhóm HOA NGHIÊM do Cư Sĩ Nguyễn Quang Lượng hướng dẫn. Tác giả là thành viên Câu Lạc Bộ Sách Xưa & Nay tại Sài Gòn. Tôi hân hạnh được biết chị thông qua dịch giả Vũ Anh Tuấn, Chủ nhiệm CLB Sách Xưa & Nay. Ông đã giới thiệu nhiều bài viết của chị trên trang sachvatranh.com , trên Bản tin (lưu hành nội bộ). Ngoài ra, tôi còn được đọc bài viết của chị trên trang văn nghệ Việt Văn Mới. Và gần đây, Tác giả Tâm Nguyện vừa hoàn thành bản thảo tác phẩm “Góp Nhặt Quanh Đời”. Tôi thật sự ngưỡng mộ chị khi đọc xong quyển sách. Tôi không phải là một nhà phê bình, lại rất ít khi viết bài cảm nhận về tác phẩm mình yêu thích. Nhưng nội dung quyển sách Góp Nhặt Quanh Đời đã tạo cho tôi cảm xúc rất lạ. Cảm động, hân hoan và tin yêu cuộc sống này hơn. Vì thế, tôi muốn ghi lại suy nghĩ của mình về Góp Nhặt Quanh Đời của tác giả Tâm Nguyện. Quyển Góp Nhặt Quanh Đời có 300 trang với 25 bài viết. Đó là 25 điều tác giả đã góp nhặt, tôi tạm phân chia thành 4 chủ đề khác nhau như sau: 1/ Chủ đề sức khỏe: - Thông Tin Sức khỏe - Thuốc hay quanh ta. - Một phương pháp trị liệu mới & một cái tâm - Vị đắng tuổi già - Thêm 1 điều lạ cho khu vườn Kỳ Lạ Long An 2/ Chủ đề cảm nhận cuộc sống quanh đời: - Người Thầy không hề gặp mặt - Cổ Tích giữa đời thường - Tản mạn về Hạnh phúc - 20 ngày rớt địa ngục - Vài chuyện vui vui quanh quyển thơ Mây Bạc - Cổ tích thời @ - Nhân kỷ niệm 7 năm ngày thành lập CLB Sách Xưa & Nay - Nhân bản tin thứ 100… - Tết Xưa, Tết Nay, Tết Quê, Tết Chợ - Người mang lại mùa Xuân - Mùa Xuân bất tận của đạo Phật - Để mùa Xuân còn mãi nơi đời - Bao giờ mùa Xuân vĩnh cửu mới thực sự đến với mọi người? 3/ Du lịch: - Cảm nhận lần đầu đến nước Mỹ - 1 chuyến du lịch bụi ở Singapore - Ký sự 11 tuần Mỹ du 4/ Tôn giáo – Giáo dục: - Thơ Thiền, Phật Ngôn, Thơ Đời - Phải chăng quả báo nhãn tiền? - Điều Đạo Phật muốn nói qua Pháp Vô Thường - Giáo dục… viễn tưởng Đọc những bài chủ đề sức khỏe, chúng ta sẽ nắm được những thông tin hữu ích về y học. Biết thêm được nhiều bài thuốc dân gian, gia truyền. Với lời văn mộc mạc, dễ hiểu xen lẫn chút hài hước của chị đã khiến nội dung khô cứng trở nên duyên dáng. (Gia đình tôi phải lén BS điều trị để bôi thuốc dân gian, vì BS cho là “bôi thuốc bậy bạ vô làm vết thương loét thêm ra, không trị được!”. Ông còn đe: “Nếu cứ tiếp tục bôi thuốc ông sẽ không trị nữa!”. Nhưng kết quả là nhờ lén bôi thuốc gia truyền 3 cử mỗi ngày, mà mẹ tôi lành hẳn - Trích bài Thuốc hay quanh ta). Tôi rất thích những bài viết về chủ đề cảm nhận cuộc sống. Cách chị nhìn hiện tượng xã hội sao mà bao dung, nhân ái! Chị còn đưa ra những giải pháp khắc phục để cuộc sống chất lượng hơn (Bài Tản mạn hạnh phúc – Cổ tích giữa đời thường…). Chị hoài niệm về một người thầy không hề gặp mặt, cảm xúc chân thành trước những bước đi thầm lặng nhưng vững chãi của CLB Sách Xưa & Nay thông qua bản tin… Những bài viết về du lịch của chị khiến tôi như được cùng đến những nơi chị đã đến. Được thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, văn hóa ẩm thực và sống vui vẻ bên người thân yêu. Có lẽ đây là những bài viết vui vẻ nhất của chị. Tôi thờ Phật, vẫn ăn chay và ngày rằm và mùng một. Lễ Tết cũng có đi chùa nhưng thật sự đến khi đọc bài viết của chị tôi mới hiểu sâu hơn về đạo. Qua những bài viết về tôn giáo của chị, người đọc sẽ được học hỏi về đạo để tường minh hơn. Tóm lại, những điều chị góp nhặt thật tuyệt! Chúng đem đến cho độc giả tri thức về nhiều mặt và cảm xúc chân thật được dâng trào giữa cuộc sống tưởng chừng như chai cứng. Vì thế, hãy đọc “Góp nhặt quanh đời” của tác giả Tâm Nguyện, các bạn nhé! NGUYỄN THỊ MÂY (Trà Vinh)
Phụ Bản I HỒI KÝ NGUYỄN LONG TRẢO Khi TỔ QUỐC gọi tên mình Đối với tôi, khi có một quyển sách mới, là một sự hữu duyên mới. Tham dự “Tuần lễ sách Hay lần 9” với chủ đề “Những nẻo đường của sách”, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh tổ chức , t rong số sách được tặng và mua về, quyển “Khi tổ quốc gọi tên mình” - Hồi ký của Nguyễn Long Trảo, sách dày 333 trang, Nxb. Trẻ, năm 2015, được tôi quan tâm thích thú ngay khi mở trang đầu tiên. Mở đầu là “Đôi lời muốn nói” của tác giả: “Tôi ghi lại những dòng Hồi ký này thể theo mong muốn của con gái Bạch Dương và cũng để có việc làm giải khuây trong những thời gian rảnh rỗi ở tuổi hưu. …Đây không phải là một quyển tiểu thuyết bởi nó chỉ là những điều ghi chép về cuộc đời thật của một con người bình thường, với lối hành văn thuộc hạng “chưa sạch nước cản” . Từ “Đôi lời muốn nói” của chú Nguyễn Long Trảo (xin được gọi danh xưng chú thay cho từ tác giả) khiến tôi phải đọc ngay, buổi chiều đọc chưa xong, buổi tối chong đèn đọc đến khuya. Đọc trong ba ngày, đọc chậm, từng con chữ trên trang giấy, như những thước phim quay chậm, quay chậm… 1. Thanh xuân - Từ Đồng Tháp Mười đến thành phố mang tên Bác Sinh ra từ một gia đình nghèo: “Tôi sinh ra trong một gia đình thuộc lớp nghèo thành thị. Nói nghèo vì cha mẹ t ôi không có đến một tấc đất cắm dùi, cả gia đình đều tá túc trong căn nhà của ông bà nội. Cũng chẳng có của chìm của nổi, mỗi khi cần làm ăn, thì chỉ có cách mượn tiền trả góp hoặc hốt hụi” (tr.15). Quê hương , nhà ông bà nội, ba má, anh em, bà con láng giềng, ruộng vườn, con sông, cây khế, cây mận… những kỷ niệm thời “Thanh xuân”, chú nhớ và viết lại từng câu chuyện, viết mà như thủ thỉ kể chuyện cho con nghe, giọng văn mộc mạc chân chất của người Nam bộ, cái mộc mạc chân chất dễ đi vào lòng người, dễ thấm đẫm cho người đọc, để rồi tìm thấy những ký ức, những hoài niệm của chính mình. Chính tôi cảm nhận được quê hương của chú sao giống quê hương của mình đến thế! Hồi ký tiếp nối từng trang, từng trang, cứ lần lượt xuất hiện : - Đây là chú bé Long Trảo 12 tuổi,nghịch ngợm, học trò lớp Nhất của trường Cao Lãnh phải một mình đi 27 cây số đến Sa Đéc để thi tốt nghiệp tiểu học, cùng với một kỷ niệm khó quên khi nhập bọn đá banh với lũ con nít tại thị xã: “Đang mải mê đá, tôi sút một cú thật mạnh, nào ngờ trái banh trúng cửa kính tòa bố rồi lọt luôn vào bên trong khiến tất cả hoảng sợ bỏ chạy tán loạn. Đến chiều thì chúng nó kéo đến nhà bắt tôi phải đền nhưng đâu có tiền, nên nói với chúng nó rằng tôi chỉ có thể đền bằng cái quần má mới may cho đi thi” (tr.41). Những câu chuyện kể lại rất thật, rất cảm động về hoàn cảnh gia đình nghèo, phải di chuyển từ vùng này sang vùng khác để mưu sinh và cũng để... trốn nợ! (tr.50). 2. Vào đời - Lòng yêu nước vương tơ với quê hương Đồng Tháp. Như chú Nguyễn Long Trảo bộc bạch: “Đây không phải là một quyển tiểu thuyết…”. “…Khi chèo xuồng trong kinh Bằng Lăng, gần Đốc Binh Kiều, chốc chốc lại gặp một miệng vó giăng ngang sông. Phải gọi người ta kéo lên để đi qua. Chợt nhớ chuyện về cô gái đang kéo vó cho xuồng chèo qua, vì mặc quần lưng vận nên khi rướn mình thót bụng cố kéo vó lên thì quần bị tuột, hoảng hồn bỏ tay ra chụp lấy lưng quần thì lúc đó cả miệng vó chụp xuống làm chìm cả xuồng người ta, báo hại mọi người phải lặn hụp lóp ngóp chui ra, người ướt như chuột lột. Không biết chuyện kể là hư hay thật nhưng cứ mỗi lần qua mà thấy phụ nữ kéo là hơi ngán” (tr.102). 3. Ra miền Bắc và đi Trung Quốc - Hành trình theo sứ mệnh con Hồng cháu Lạc. Đoạn Hồi ký này chú Nguyễn Long Trảo, bằng ngòi bút tài hoa, sắc sảo, tinh tế đưa độc giả xuyên qua một cuộc hành trình dài từ miền Bắc tiến qua biên giới đất Trung Hoa. Bản thân chú, bằng ý chí, nghị lực của người con trai miền Nam, phấn đấu học tập, nơi xứ người, trau dồi nghề nghiệp. “…Bản thân tôi từng học tiếng Pháp, đã quen với các quy tắc về văn phạm, về cách phát âm, có phương pháp học tốt, mà lại cố gắng tranh thủ mọi thời gian tự học thêm, nên sau một năm thì trình độ Hoa Văn của tôi đã vượt nhiều giáo viên, và được đánh giá giỏi nhất nhì trường” (tr.187). 4-Trở về Việt Nam - Trai Miền Nam trả ơn đồng bào đất Bắc. Nét nổi bật trong thời gian này là vừa phải làm nhiệm vụ của người lính thời chiến vừa phải“gà trống nuôi con” trong suốt thời gian người vợ được cử đi du học ở nước ngoài hầu như là suốt thời gian chiến tranh. Với nhiệm vụ của người lính, để góp sức vào việc đảm bảo kỹ thuật cho các đơn vị phòng không không quân, chú từng một người một xe đạp đi suốt quãng đường dài năm sáu trăm cây số từ Hà Nội đến Vĩnh Linh, một quãng đường thường xuyên bị máy bay và tàu chiến Mỹ oanh kích ngày cũng như đêm, một con đường mà hầu như không còn một cây cầu nào có thể tồn tại với hằng trăm, hằng ngàn hố bom chi chít trên mấy chục héc-ta chung quanh, và làm việc trong gian lao nguy hiểm. Là “gà trống nuôi con” chú phải đưa đứa con trai mới 5-6 tuổi đi gửi hết đầu này đến đầu kia, khi thì ở nhà bà con, khi thì phó thác cho bạn bè, lại cũng phải dành phần thời gian ít ỏi để chăm sóc con: “Rồi mỗi tuần phải đội đèn đi bắt cóc bỏ vào bao mang đến nơi sơ tán của đứa con trai vừa lên 9 đang ở một mình, để nó làm thịt ăn dần”... “Nhớ lại có một lần vì quá lo lắng nên nửa đêm tôi đạp xe qua nơi nó sơ tán, lúc đó từng tốp máy bay B-52 vào ném bom Hà Nội, mỗi tốp 3 chiếc, đèn xanh đèn đỏ trên từng chiếc đều thấy rõ mồn một, bay ù ù qua đầu. Đến nơi thấy thằng nhỏ vẫn ngủ say trên giường, kêu nó dậy hỏi tại sao không chạy ra hầm thì tội nghiệp, nó bảo rằng buồn ngủ quá!” (tr.227). 5-Trở về miền Nam - Lá rụng về cội. Từ ngày đất nước hòa bình, cuộc đời chú Nguyễn Long Trảo kinh qua nhiều chức vụ. Hồi ký đoạn này kể tỉ mỉ, chi tiết những trăn trở trong cuộc sống, chuyện riêng của gia đình, của bạn bè, người đồng hương, chuyện xã hội, phải đấu tranh tư tưởng giữa con người và con người từ hai phía, bên này, bên kia v.v… Những trang viết đầy khắc khoải, xúc động, bồi hồi , như chuyện khi vừa bước chân về đến Sài Gòn: “Như vậy là tôi đã thật sự về đến thành phố Sài Gòn... Nếu tính từ khi tôi rời khỏi nơi đây để tham gia cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc thì đã phải mất tới 25 năm! Cả một thời gian dài với bao phong ba bão táp và biến động khó lường! Niềm hy vọng được trở về cái đất Sài Gòn này suốt mấy mươi năm dài đăng đẳng cứ níu kéo trong tim tôi, có lúc tôi cảm thấy một niềm tin thật mãnh liệt, nhưng lắm lúc cũng cảm thấy mong manh xa vời, bởi qua bao gian truân nguy hiểm, thì làm sao tin chắc rằng mình có thể còn sống để nhìn thấy ngày giải phóng, tuy không bao giờ mất niềm tin rằng ngày đó nhất định sẽ đến trên cái đất nước thân yêu này. Bây giờ thì tôi đã về đây thật rồi, Sài Gòn vừa quen vừa lạ đang sờ sờ trước mắt, mà có lúc vẫn sợ rằng đây lại là một giấc mơ như bao lần từng mơ thấy. Sài Gòn thân yêu của tôi đã được giải phóng! Tôi đang đứng đây thật rồi, tôi sẽ được gặp lại những người thân yêu nhất, hạnh phúc biết bao nhiêu!”. “…Và tôi đã về hưu sống thanh thản theo cách người ta thường nói là như một anh nông dân cày xong thửa ruộng, áo vắt vai ra về, ăn một bữa cơm đạm bạc rồi lên giường ngáy khò khò không chút ưu tư” (tr.330). Đúng như tên gọi “Khi tổ quốc gọi tên mình”, Hồi ký Nguyễn Long Trảo viết về tình yêu quê hương, đất nước, con người, là tài sản tinh thần quý giá dành cho con gái Bạch Dương và cho người yêu sách. Khép lại trang cuối của tập Hồi ký, đọng lại trong lòng tôi một chút xao động, bâng khuâng, một cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản, như đã đi một đoạn đường dài và tìm được cái đẹp muôn màu của cuộc sống. Tháng 10/2015 HUỲNH THIÊN KIM BỘI LẦN ĐẦU TIÊN TÔI ĐƯỢC LÀM QUEN VỚI NHÀ THƠ NGA SERGEI ESENIN Thúy Toàn Vào cuối năm 1972 hay đầu năm 1973, tôi không nhớ được chính xác (từ đó đã qua gần nửa thế kỷ - phải, cả nửa đời con người ta rồi còn gì - thời gian trôi qua thật nhanh!), một lần từ nơi sơ tán xa về làng quê (cần phải nói là, lúc đó là thời gian đang diễn ra cuộc chiến tranh xâm lược đường không của Mỹ chống miền Bắc Việt Nam), trở về Hà Nội, tôi nhận được đợt sách mới đặt trước qua Xunhasaba (xuất nhập khẩu sách báo Việt Nam), trong số sách mới ấy tôi lập tức để ý đến một cuốn sách của tác giả mà tên tuổi tôi đã quen: cuốn sách của Iuri Prokusev: “Sergei Esenin”, do NXB “Đetskaia literature” (“Văn học Thiếu nhi”), Moskva, 1971. Tôi say sưa đọc cuốn sách, và đặc biệt thấy hấp dẫn và nhớ mãi bài bút ký ở đầu sách (thay Lời nói đầu), trong đó tác giả đã miêu tả bức tranh ngày lễ hội thơ tại làng Konstantinovo, quê hương của ông, ngày 2 tháng mười năm 1965, và ngày hội thơ Esenin bên mộ ông ở Moskva cùng thời gian đó: “Vào cái ngày đáng ghi nhớ đó - mồng hai tháng mười năm 1965 - từ sáng sớm người ta đã đi bộ, đi tầu, đi xe về làng Konstantinovo, một số trong họ đi tầu thủy, đi xe lửa, số khác đi nhờ xe thuận đường. Dù đường xá tồi tệ, dù thời tiết xấu đều không cản trở bước chân họ. Trong họ có những nhà thơ đã nổi danh khắp cả nước và cả những người còn đang mơ ước được công bố những bài thơ đầu tay của mình. Những người dân Riazan, dân Moskva, người miền Nam nước Nga và người từ Xibiri xa xôi, người Leningrad và người thành phố Gorki - tất cả họ hội tụ về quê hương của Esenin từ khắp mọi miền đất nước Nga, hội tụ về để khai trương bảo tàng nhà thơ vĩ đại trong căn nhà gỗ izba bình thường. Cho đến chiều tối người ta ùn ùn theo nhau kéo đến căn nhà thấp với những cánh bịt cửa sổ màu xanh lam để cúi chào ngôi nhà tổ ấm của nhà thơ. Họ đã kéo đến Konstantinovo cả ngày hôm sau đó - mồng 3 tháng mười (hơn ba nghìn người!), rồi sau đó còn kéo đến đấy trong tất cả những ngày tháng mười, còn đến vào cả tháng một và tháng Giêng, vào tháng ba và tháng sáu…và rồi đây sẽ mãi mãi tìm tới đây, như tìm đến Mikhalovskoie để kính viếng Puskin, đến Tarkhanư - kính viếng Lermontov, đến Volga - kính viếng Nekrasov. Ký ức trái tim còn lưu giữ cả một sự kiện khác cũng trong những ngày ấy. Moskva…ngôi mộ của Esenin chìm ngập trong hoa tươi. Tiếng thơ vang lên, những câu thơ từ lâu đã trở thành những danh ngôn. Nhưng ở đây, những câu thơ ấy được tiếp nhận một cách đặc biệt xúc động đến nghẹn ngào: Tôi chẳng xót, chẳng nài, chẳng khóc Tất cả qua đi, như khói như hương Hoa táo trắng đã úa tàn tan tác, Chẳng bao giờ tôi còn được trẻ trung Một người đọc thơ Esenin, leo lên bám bên lan can hàng rào, một người khác đứng trên tảng đá cao, còn người nữa đơn giản đứng ngay dưới mặt đất. Người chen chúc chung quanh. Rất đông, đông lắm. Họ ở đây suốt từ sáng sớm”. Ngay trong phút ấy tôi chợt nhớ đến lần đầu tiên tôi được làm quen với tên tuổi nhà thơ Nga vĩ đại này. Bấy giờ là vào năm 1959, chúng tôi đã lên năm thứ ba khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Quốc gia Moskva mang tên V.I.Lênin. Nhóm sinh viên Việt Nam chúng tôi từ năm 1954 đã trải qua hai năm học tiếng Nga và khóa chuẩn bị để vào trường Đại học. Năm tháng tiếp theo giờ chúng tôi đã lên năm thứ ba. Chúng tôi đã được nghe các bài giảng về cuộc đời sáng tác của nhiều nhà văn, nhà thơ Nga, Xô viết. Nhưng về Esenin trong chương trình không có đả động tí gì. Ở năm thứ ba, may mắn, chúng tôi được tham gia các bài giảng ngoại khóa. Tôi ghi tên vào nghe giảng về thơ chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Bạn gái tôi trong nhóm sinh viên Việt Nam ghi tên vào ngoại khóa do một cán bộ giảng dậy trẻ là ông Iuri Prokusev phụ trách. Sau các bài giảng chúng tôi chia sẻ những điều tiếp thu được cho nhau nghe. Bạn gái tôi bấy giờ xúc động thông báo cho biết việc khám phá ra tên tuổi nhà thơ lớn Serghi Esenin, mà trước đó chúng tôi hoàn toàn chưa hay biết. Bạn kể lại nhiều điều lý thú về nhà thơ qua bài giảng của Iuri Prokusev. Sau đó qua một thời gian, đến khi kết thúc đợt thực tập sư phạm ở trường phổ thông số 70 Moskva trở về, bạn gái tôi mang về và cho tôi đọc cuốn sách tuyển tác phẩm của Esenin. Đó là tặng phẩm của lãnh đạo nhà trường kỷ niệm đợt thực tập sư phạm. Cuốn sách dày dặn, nghiêm chỉnh, hơn năm trăm trang, bìa các-tông cứng: Sergei Esenin, tuyển chọn tác phẩm (hai phần), NXB “Riađanski pisnenik”, Kiev, 1959. Tiếp theo đó, ngay trước năm cuối cùng của trường Đại học Sư phạm Quốc gia Moskva, ở quầy sách bên cửa vào trường tình cờ tôi lại gặp cuốn sách mỏng trong “Tủ sách Ngọn lửa nhỏ” do NXB “Pravda” ấn hành, N046, năm 1960: Sergei Esenin (những ghi chép văn học về tuổi thơ và niên thiếu của nhà thơ), và tác giả của nó hóa ra vẫn là Iuri Prokusev. Vậy là từ đó hai cuốn sách này được giữ gìn trong gia đình chúng tôi như những kỷ vật quý giá trong nhà. Và rồi khi ấy, sau khi học xong và trở về nước tôi sớm có dịp giới thiệu những cuốn sách này cho một số các nhà thơ trong Hội Nhà văn Việt Nam. Sự thể là ở chỗ vào cuối thời điểm này Hội Nhà văn Việt Nam quyết định ra một tuyển thơ của các nhà thơ Xô viết nhân dịp Kỷ niệm 45 năm cách mạng tháng Mười Nga sắp tới (1917-1962). Tôi được mời vào tham gia tổ chức cuốn sách. Bấy giờ tôi chưa phải là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhưng trước đó, còn là sinh viên khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Quốc gia Moskva, tôi đã bắt đầu dịch thơ ca Nga, Xô viết và, “điếc không sợ súng”, tôi đã gửi một số bản dịch của tôi được đăng lên báo, trong đó có báo “Văn học” của Hội Nhà văn Việt Nam. Trong công việc tiến hành làm sách “Thơ Liên Xô” tôi đề nghị bổ sung Sergei Esenin vào danh mục tuyển chọn các tác giả, và trước đó đã được nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, trưởng Ban Đối ngoại, chuẩn bị rồi. Về Esenin tôi đã dựa vào tư liệu 2 cuốn sách của mình kể cho các thành viên Ban biên tập sách, trong đó có các nhà thơ nổi tiếng như Tế Hanh, Xuân Diệu, Yến Lan… Mọi người đồng ý với đề nghị bổ sung của tôi, chỉ có điều không có bản tiếng Pháp (trước chúng tôi chủ yếu mọi người đều dịch từ bản tiếng Pháp). Bấy giờ tôi được giao chuẩn bị bản dịch nghĩa. Theo các bản dịch nghĩa của tôi, nhà thơ Xuân Diệu, ông hoàng của thơ trữ tình tình yêu, đã nhận chuyển ngữ thành thơ. Cũng như nhà thơ Huy Cận theo bản dịch nghĩa của tôi mà dịch trích đoạn trường ca Tiếng nói Châu Á, giải thưởng Lênin 1960, của nhà thơ Tadjich -Tursun - Jade. Tôi tiếp tục làm quen với Esenin qua các nguồn tư liệu phong phú trong báo chí Xô viết lúc đó được gửi sang ta đều đặn theo đường xuất nhập khẩu báo chí. Và đến dịp kỷ niệm 70 năm sinh của S.Esenin dựa vào tài liệu đọc được tôi viết một bài viết ngắn cho báo Văn nghệ với tên Một hồn thơ Nga. Cũng phải nói, bấy giờ chiến tranh đã bắt đầu, nên ở ta nói chung chẳng còn nghĩ đến các dịp lễ lạc kỷ niệm danh nhân. Bài viết của tôi thành ra là bài kỷ niệm duy nhất. Nhưng qua một năm cuộc sống dần dần quen, mọi cái đâu vào đấy, mặc dù cuộc chiến tranh không quân của Mỹ mỗi ngày một khốc liệt hơn. Năm 1966, NXB “Văn học” đã cho ra đời tập thơ dịch Thơ Puskin ngay “dưới bom đạn Mỹ”. Bạn đọc nồng nhiệt đón tiếp cuốn sách này và số bản khá cao trong thời gian ngắn dù tiêu thụ hết. Thành công của cuốn sách động viên tất cả chúng tôi, những người làm sách ở NXB “Văn học”, đặc biệt trong đó có tôi, bởi vì tôi có đóng góp nhất định cho sách ra đời. Thêm vào đó trong tuyển dịch thơ Puskin đầu tiên ra ở ta này, tôi có đóng góp một số lượng khá các bản dịch.Và thành công của cuốn sách này đã cổ vũ tôi nảy sinh sáng kiến ra tiếp tuyển thơ dịch ra tiếng Việt của hai nhà thơ Nga ở thời kỳ đầu Xô viết: Aleksandr Blok và Sergei Esenin. Thơ Blok và Esenin ra ở NXB Văn Học, Hà Nội, 1983. Trong tập sách này không kể thơ của Blok, riêng phần thơ của Esenin có tới 45 bản dịch từ 42 bài thơ nguyên tác do 7 dịch giả thực hiện, trong đó chỉ có hai dịch giả - nhà thơ thế hệ đàn anh, còn năm người khác là những dịch giả trẻ dịch trực tiếp từ nguyên bản tiếng Nga. Và chỉ sau khi cuốn sách ra đời ít lâu trong sách giáo khoa lớp 12 trường phổ thông ở Việt Nam lần đầu tiên đã đưa vào giảng dậy 3 bài thơ của Sergei Esenin: “Lá thư gửi mẹ”, “Ôi, nước Nga thân thiết của tôi ơi” và “Nước Nga Xô viết”. Thúy Toàn
Kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội ĐÔNG KINH một nghĩa thục ở Hà Nội đầu thế kỷ Trong số những trường học do các sĩ phu đứng ra thành lập năm 1907, nhằm thực thi nền học mới, phục vụ công cuộc cứu nước, trường Đông Kinh mở tại Hà Nội có quy mô và ảnh hưởng sâu rộng hơn cả. Trong những tư liệu lịch sử, sau khi thăm Nhật Bản và chia tay với Phan Bội Châu về nước, tại Hà Nội, Phan Chu Trinh có gặp Lương Văn Can định lập một nghĩa thục, kiểu như Khánh Ứng Nghĩa Thục của Nhật. Ít lâu sau, Phan Bội Châu ở Nhật về, nhân cơ hội đó hai cụ Phan, cụ Lương và cụ Tăng (Tăng Bạt Hổ) họp nhau ở phố Hàng Đào quyết định mở Đông Kinh Nghĩa Thục với mục đích: khai trí cho dân, mở những lớp dạy học không lấy tiền. Nghĩa là trường làm việc nghĩa. Lương Văn Can được cử làm Thục trưởng vì ông lớn tuổi hơn cả, bản tính ôn nhu mà có khí tiết. Ông sinh năm 1854 ở làng Nhị Khê, tỉnh Hà Đông. Năm 21 tuổi, đậu cử nhân, không nhận chức giáo thụ của triều đình, cũng không tham gia Hội đồng thành phố Hà Nội theo đề cử của thực dân. Nguyễn Quyền được cử làm Giám học. Ông sinh năm 1869, ở làng Thượng Trì, tỉnh Bắc Ninh. Đậu tú tài khoa Tân Mão, được bổ huấn đạo Lạng Sơn. Nhưng ông xin nghỉ một năm để tham gia nghĩa thục. Mặc dù chưa được giấy phép, khoảng tháng 3-1907 trường vẫn tạm thời mở 2 lớp chuyên dạy quốc ngữ, học sinh khoảng 60-70, phần đông là con cháu hội viên. Ngôi nhà số 4, gác trên, phố Hàng Đào do Lương Văn Can cho mượn, trở thành nơi dạy đầu tiên của trường. Mãi tháng 5, giấy phép của Thống sứ Bắc Kỳ mới được cấp; từ đó trường khuếch trương càng mạnh hơn, phải mướn thêm ngôi nhà số 10, bên cạnh. Trường tổ chức thành 4 ban: Ban giáo dục, Ban cổ động, Ban tu thư và Ban tài chính. Việc dạy học có 3 bậc là tiểu học, trung học và đại học. Thực ra chương trình học không được hoạch định rõ ràng và hệ thống. Đại loại, tiểu học dạy những người mới học Quốc ngữ, trung học và đại học dạy cho những người lớn đã thông chữ Hán, hoặc muốn học chữ Pháp. Tất cả đều căn cứ theo trình độ hiểu biết của học sinh mà xếp thành lớp, trong lớp tuổi học sinh cũng không đều. Các môn học có sử ký, địa lý nước nhà, toán, vẽ, một số kiến thức khoa học. Tham gia dạy về Hán văn có Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí… Dạy Việt văn và Pháp văn có Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học… Về Hán học, thì học tân thư Trung Quốc, nhất là sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu được dùng làm tài liệu giáo khoa. Sách học Quốc ngữ dạy những kiến thức cơ bản về đất nước, về lịch sử Việt nam. Số học sinh ngày càng tăng có tới 40 lớp và trên ngàn học sinh. Trường cũng thường tổ chức diễn thuyết, bình văn vào các tối mồng một và rằm hàng tháng. Người ngoài trường dự nghe rất đông, có cả quan lại, binh lính, viên chức. Trong các buổi diễn thuyết, diễn giả thường bình luận các bài in trên Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tân báo, là cơ quan ngôn luận của trường, hoặc nói chuyện về đề tài lịch sử, về Cách mạng Pháp 1789, về sự nghiệp của Hoa Thịnh Đốn… Phan Chu Trinh cũng thỉnh thoảng đến diễn thuyết ở trường. Biên soạn và dịch thuật cũng là một nội dung lớn của Đông Kinh. Sách giáo khoa chữ Hán in bản gỗ, trên giấy lĩnh làng Bưởi như Nam quốc địa dư, Nam quốc vĩ nhân truyện; nhất là Quốc dân độc bản được in lại rất nhiều lần vẫn không đáp ứng đủ yêu cầu. Sách quốc ngữ thì in bằng thạch, chủ yếu là những bài ca dễ đọc, dễ nhớ, đại loại như Kêu hồn nước, Á tế Á, Đề bỉnh quốc dân, Thiết diễn ca được phổ biến khá rộng. những sách được dịch ra đầu tiên là những bộ tân thư như Trung Quốc tân giáo khoa thư, Văn minh tân học sách… được xem như cương lĩnh hành động chung của sĩ phu duy tân bấy giờ chủ trương dùng văn tự nước nhà, hiệu đính sách vở cốt thiết thực, sửa đổi phép thi, cổ võ nhân tài, chấn hưng công nghệ, xuất bản báo chí… Quỹ nhà trường lúc đầu hầu như không có. Chỗ dựa tài chính chủ yếu là các hội viên, các khoản “lạc trợ” của những người có tinh thần yêu nước. Theo cụ Lê Đại, “ấy vậy, có lúc nhà trường đứng ra thu tiền ủng hộ không xuể”. Phong trào duy tân xung quanh Đông Kinh Nghĩa Thục lan rộng trên các lĩnh vực khác: nhiều công ty buôn bán, nhiều hiệu buôn mở ra; thậm chí các cụ đã tính đến việc lập đồn điền khai hoang, gieo trồng lương thực, khai khoáng hầm mỏ… Phong trào “nghĩa thục” chẳng mấy lúc tỏa ra các địa phương ở Bắc Kỳ rồi lan rộng khắp nước. Bắt đầu là ở Hà Đông, quê hương của nhiều sáng lập viên nghĩa thục có tên tuổi như Vũ Trác, Hoàng Tăng Bí; ở Hoài Đức còn có 3 phân hiệu nghĩa thục ở thôn Canh, Tây Mỗ, Tân Hội, ở Hưng Yên cũng có 2 huyện có nghĩa thục, lại còn mở thêm một hiệu buôn nội hóa là Hưng Lợi Tế; Hải Dương, Thái Bình, nghĩa thục cũng phát triển khá mạnh mẽ, lại còn tổ chức ra nhiều hội ái hữu, tương tế. Thậm chí, nghĩa thục của Thái Bình còn cử người đi liên hệ với phong trào chống Pháp của Hoàng Hoa Thám, muốn ứng viện cho nghĩa quân Yên Thế… Trước tình hình vậy, chính quyền thực dân không thể làm ngơ cho phong trào tiến triển. Cuối năm 1907 chúng ra lệnh đóng cửa Đông Kinh Nghĩa Thục và đầu năm 1908, ra lệnh cấm việc hội họp diễn thuyết ở miền Trung. Khi xảy ra vụ chống sưu thuế ở Trung Kỳ (3-1908), và vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (6-1908), thực dân Pháp nhân đó quy trách nhiệm cho sĩ phu duy tân và thẳng tay đàn áp. Hàng trăm “khoa mục” bị tù đày, xử tử. Những trường học, hội buôn đều bị giải tán. Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục đã đi vào lịch sử dân tộc như một cuộc vận động chính trị của cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ trong thời đại mới. Khi đọc xong những tư liệu về Đông Kinh Nghĩa Thục, người ghi lại sự kiện này có đến phố Hàng Đào, nhưng thật khó hiểu và buồn thay: nhà số 4 giờ ngăn đôi, nửa bán quần áo, nửa chữa đồng hồ; nhà số 10 nay trở thành một cửa hàng thời trang đồ sộ của công ty. Tuyệt nhiên không một tấm bia, không một dòng chữ gọi là dấu chứng tích lịch sử của một thời vừa “sực tỉnh cơn mê” của dân tộc trước ngưỡng cửa thời đại. VŨ VĂN SĨ Bs. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st NGUYỄN KHẮC VIỆN MỘT CUỘC ĐỜI ĐÁNG TRÂN TRỌNG NGUYỄN HOÀNG thực hiện Tôi đã gặp bác sĩ Nguyễn Khắc Viện tại nhà ông – một căn phòng rộng 20m2 ở ngõ Nguyễn Chế Nghĩa (Hà Nội) mấy lần. Khi thì vừa đu đưa trên chiếc võng gai mắc chéo giữa hai cửa sổ, vừa trò chuyện với khách, lúc nằm tựa trên chiếc chăn bông, hai tay nâng một cuốn sách dày nghiên cứu tâm lý trẻ em viết bằng tiếng Pháp, vừa nhẩm đọc vừa dịch cho một thư ký chép, nên không tiện trò chuyện lâu với ông. Lần này, gặp ông tại nơi ông “trốn rét mùa đông” - một căn nhà ở đường Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh - tôi thấy ông vẫn giữ được dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhõm, nước da trắng hồng, thật khó nghĩ ông đã là một ông lão 84 tuổi. * Chào ông, thế là các cụ ở câu lạc bộ dưỡng sinh lại bị ông “lừa” một lần nữa… - (Cười) Phải! Trước đây, cứ đến ngày sinh nhật của tôi, ngày 5/2, anh em CLB dưỡng sinh Thành phố thường đãi cơm tôi. Cách đây 7, 8 năm, lần mừng tôi thọ 75 tuổi, tại một quán cơm đặc sản, tôi bảo: “Lần này nữa thôi nhé!”. Chắc anh em đều nghĩ đấy là lần cuối ông lão không còn nguyên lá phổi này vào Sài Gòn. Nhưng rồi năm nào tôi cũng vào, có năm hai lần. Hồi đó, tôi đã báo trước, coi chừng các vị sẽ bị lừa! * Thưa ông, xin ông kể cho bạn đọc nghe về gia đình cũng như việc du học tại Pháp. - Khi gửi tôi đi Pháp học, bố tôi đương chức Phủ doãn Thừa Thiên. Bố tôi quê huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), đời ông tôi tuy có một ít ruộng đất, nhưng cũng chỉ là một gia đình nông dân bình thường. Bố tôi đậu Hoàng giáp (đệ nhị giáp tiến sĩ) khi chưa đầy 20 tuổi. Cụ có cảm tình và từng giao thiệp với các chí sĩ đương thời như cụ Lê Huân, Phan Bội Châu. Cả đời làm quan, cụ không đến nhà quan Tây lần nào, nên bị đổi chỗ luôn và thăng tiến rất chậm. Khi đi Pháp, tôi từ Hà Nội vào Huế. Ông cụ tiễn tôi vào Sài Gòn bằng ô tô. Lúc chia tay ở cảng Nhà Rồng, ông cụ đưa tôi một bức thư, dặn dò: “…Sang Pháp, việc học hành thầy không phải dặn và tin con thành công. Thầy chỉ dặn một điều là nhất thiết đừng lấy vợ đầm!...”. Đó là năm 1937, sau 3 năm học Đại học Y khoa Hà Nội, chỉ có 3 người trong số 20 người cùng khóa tôi sang Pháp học tiếp để lấy bằng “bác sĩ nội trú” tại Trường Y Paris. Chế độ thi tuyển cũng rất khó: phải mấy chục bác sĩ thường mới tuyển được một bác sĩ nội trú. Sang đến Pháp, tôi vào ngay cư xá sinh viên ở Paris. Mỗi nước có riêng một cư xá sinh viên. Ký túc xá Đông Dương có khoảng 100 sinh viên, trong đó một nửa là người Việt Nam. Ở đây tôi đã gặp các anh Ngụy Như Kon Tum, Nguyễn Mạnh Tường, Phạm Quang Lễ… Các sinh viên đi lại theo đường tàu điện ngầm, chỉ một mình tôi đi xe đạp. đến tháng nghỉ hè, bằng xe đạp, tôi đã đi thăm hầu khắp nước Pháp. Trung bình, mỗi ngày đi 100km. Khi Đức chuẩn bị tiến vào Paris, chúng tôi tản cư về phía Nam. Cùng đi có anh Hoàng Xuân Nhị và Phạm Quang Lễ (tức Trần Đại Nghĩa). Đến bờ sông Loire, cách Paris chừng 120km, trời tối, chúng tôi trải nệm dưới gầm cầu, nằm nghe Hoàng Xuân Nhị ngâm Kiều và Chinh phụ ngâm. Mờ sáng hôm sau, máy bay Đức ném bom vào cầu, may mà không ai chết! Đầu năm 1942, trở lại làm việc ở một bệnh viện gần ngoại ô Paris, tôi biết mình bị bệnh lao. Hồi đó chưa có thuốc chữa nên bệnh tôi kéo dài trong gần chục năm. Tôi phải lên bàn mổ 7 lần, cắt mất hẳn lá phổi phải, 1/3 lá phổi trái và 8 xương sườn. Vì sức yếu, mỗi lần tôi chỉ cắt 2 xương sườn, hai tháng sau cắt tiếp, nhiều lần tưởng nguy đến tính mạng. Nhưng trong cái rủi lại có cái may. Những năm nằm bệnh viện, tôi đọc nhiều sách, trong đó có triết học Trung quốc và Ấn Độ. Là người bị suy yếu sức thở, tôi đặc biệt chú ý đến khí công và học cách thở đúng phương pháp. Tôi đã tìm ra con đường sống cho mình từ đấy. * Là một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng trong phong trào Việt kiều ở Pháp, xin ông hãy cho bạn đọc hình dung đôi nét về những ngày tháng gian lao đó. - Quãng năm 1948-1949, tổ chức người Việt yêu nước được thành lập gồm một số trí thức: Trần Đức Thảo, Trần Thanh Xuân, Lê Văn Thiêm… và mấy ngàn anh em công nhân. Các anh Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước đã theo Bác Hồ về nước từ năm 1946. Những năm này, tôi còn điều trị trong bệnh viện, chỉ tham gia đấu tranh khi các diễn giả đến nói chuyện tại bệnh viện. Về sau, khi sức khỏe khá hơn, tôi được cử đến thành phố Grenoble tổ chức phong trào Việt kiều. Những hoạt động ở Grenoble là dịp cho tôi tập dượt để sau này nhận trách nhiệm phụ trách phong trào chung của Việt kiều ở Pháp. Sau gần một năm ở Grenoble, tôi trở lại Paris. Lúc này, tổ chức Việt kiều còn hoạt động công khai với phương thức đa dạng và quy mô lớn, đặc biệt có hai dịp biểu dương lực luọng hàng năm: Ngày hội báo Nhân đạo (L’Humanité) vào đầu tháng 9, trùng với lễ Quốc khánh của nước ta và ngày Tết. Ngày hội của báo Nhân đạo tổ chức trong công viên Vincennes, sát cửa ô Paris có khi thu hút đến một triệu người. Các bạn Pháp dành cho Việt kiều một khu rộng để triển lãm, cờ đỏ sao vàng kéo lên, bay phần phật giữa thủ đô nước Pháp, hàng vạn người ký vào kiến nghị đòi chính phủ Pháp chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Phái phản động cực hữu tức tối, đã đòi chính phủ cấm tổ chức Việt kiều hoạt động. Một buổi sáng tháng 12/1952, cảnh sát Pháp bắt mấy chục anh em, lấy cung giữ lại 12 người, trong đó có anh Phạm Huy Thông bị giải về giam ở Sài Gòn. Tôi cũng có tên trong danh sách bị bắt, nhưng đúng lúc cảnh sát ập đến nhà thì tôi đi vắng. Từ đó, để khỏi bị bắt, tôi bắt đầu cuộc sống di động, vài ngày hay vài tuần lại đổi chỗ ở. Nhờ mạng lưới quen biết, tôi không thiếu chỗ ở an toàn. Paris đông, lại không có luật đăng ký hộ khẩu, chỉ cần nhanh nhẹn, chen vào đám đông, thế là tôi lặn “mất tăm”. Đó là năm 1953. Tôi chính thức hoạt động chính trị lúc vừa tròn 40 tuổi. Công việc bắt đầu là tập hợp tin tức từ các báo Nhân dân, Cứu quốc, soạn thành tờ tin Quyết thắng, phân phát cho kiều bào và giúp các bạn Pháp có tài liệu chống thực dân Pháp. Mặt khác, với sự giúp đỡ tận tình của anh Nguyễn Văn Chỉ, hàng ngày chúng tôi chọn lọc tin quan trọng từ mười mấy tờ báo lớn của Pháp để chuyển về Việt Nam. Những công việc này cùng với việc tổ chức, củng cố 10 chi hội ở các tỉnh của Pháp diễn ra thầm lặng và căng thẳng, vì hoạt động bất hợp pháp. Đến ngày 7.5.1954, khi báo Pháp loan tin “Điện Biên Phủ đã thất thủ” thì các bạn Pháp mua rượu cùng người Việt uống mừng chiến thắng, vì họ xem chiến thắng Điện Biên Phủ cũng là chiến thắng của họ! Trên đường phố Paris, sinh viên các nước châu Phi kéo đi từng đoàn, hô lớn: “Điện Biên Phủ! Hoan hô Hồ Chí Minh! Hoan hô tướng Giáp!”. Cả những người thuộc phe Bảo Đại ngày hôm ấy cũng hân hoan, tự hào. Trong mấy chục năm ở Pháp, đó là những ngày vui sướng nhất của chúng tôi. Năm 1956, Hội liên hiệp Việt kiều thành lập, ra hoạt động công khai. Tôi được cử làm Tổng thư ký. Công việc lúc này đa dạng, mà cơ quan chỉ có 3 người. Vấn đề phức tạp và khá tế nhị là lúc này, quan hệ ngoại giao chính thức chỉ mới có Đại sứ chính phủ Ngô Đình Diệm đặt tại Pháp. Phải rất khôn khéo, chúng tôi mới tập hợp được lực lượng - trong đó phần lớn sinh viên lại là người miền Nam. Đến năm 1959, khi chính quyền Diệm tăng cường khủng bố ở miền Nam, dưới sức ép của Mỹ, chính phủ Pháp ra lệnh giải thể Hội liên hiệp Việt kiều. Chúng tôi đóng cửa trụ sở, nhưng mở một quán cơm để hoạt động của Việt kiều không bị gián đoạn. Mãi về sau, nhiều anh chị em Việt kiều, các bạn Pháp và châu Phi vẫn nhắc đến “quán cơm Cụ Hồ”… Năm 1962, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa có đại diện chính thức tại Paris: đồng chí Mai Văn Bộ. Nhưng đồng thời, lần thứ hai, nhà cầm quyền Pháp ký lệnh trục xuất tôi. Tôi nán lại Pháp thêm một năm, cốt giúp phái đoàn anh Mai Văn Bộ nắm được tình hình. Về tổ chức Việt kiều, anh Huỳnh Trung Đồng được cử thay tôi. Sau 26 năm ở Pháp, ngày 27.4.1963, tôi trở về nước qua đường Tiệp Khắc, Liên Xô, Trung quốc. * Hữu Ngọc trong bài viết “Thầy đồ Nghệ làm sách báo tiếng Tây” cho biết ông là người sáng lập hai tờ: “Le Courrier du Vietnam” và “Etudes Vietnamiennes”. Hai tờ báo này và các sách của NXB Ngoại văn, trong đó có bản dịch Truyện Kiều của ông và bộ “Anthologie de la Littérature Vietnamienne” (Tuyển tập văn học Việt Nam) gồm 4 cuốn 2000 trang khổ lớn, đã có tác dụng tốt trong việc giới thiệu nền văn học Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình của thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta. Trong những công trình ấy, theo ông, công trình nào sẽ là công trình “để đời”. - Điều ấy chỉ thời gian mới trả lời được. Tôi chỉ biết đến nay, nhiều độc giả nước ngoài khi nghiên cứu về Việt Nam vẫn tìm đến những bộ sách ấy. Bộ “Anthologie de la Littérature Vietnamienne”, sau khi rút ngắn một nửa, chuyển sang tiếng Anh, đã được các độc giả Mỹ, Anh, Úc xem là tác phẩm tham khảo bổ ích. Một số cuốn tôi viết về lịch sử Việt Nam được nước ngoài dịch sang tiếng Ý, Đức, Tây Ban Nha… Dù vậy, cái gọi là “để đời” thì biết đâu lại là tập sách mỏng về dưỡng sinh, hoặc chỉ là mấy câu về chỉ dẫn cách tập thở. Đại loại: Thót bụng thở ra - Phình bụng thở vào - Hai vai bất động - Chân tay thả lỏng - Êm, chậm, sâu, đều - Bình thường qua mũi - Khi gấp qua mồm - Đứng ngồi hay nằm - Ở đâu cũng được”! (Cười) * Năm nay, vừa tròn 30 năm ra đời bản dịch Truyện Kiều của ông ra tiếng Pháp, xin ông nhắc lại vài kỷ niệm về bản dịch này. - Đúng là tôi hoàn thành bản dịch Kiều vào năm 1965, để kịp giới thiệu với thế giới nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh thi hào Nguyễn Du. Trước tôi, đã có 7 người dịch Kiều ra Pháp văn, trong đó có bản dịch của ông Nguyễn Văn Vĩnh, bản của hai ông Xuân Việt - Xuân Phúc. Anh em giao việc dịch cho tôi, vì nghĩ tôi đã có điều kiện hiểu văn hóa Pháp, lại là con một vị Hoàng giáp nên chắc cũng giỏi chữ Hán. Thực ra, tôi đã tự học thêm chữ Hán trong thời gian điều trị bệnh lao tại Pháp. Tôi nhớ cuộc họp bàn chuyện dịch Kiều có anh Trường Chinh tham dự. Quan điểm dịch của tôi là phải chuyển được cả ý, tứ và văn; lấy văn Pháp làm chuẩn chứ không trói buộc vì vần. * Mấy năm gần đây, bạn đọc ít thấy ông xuất hiện trên báo chí. Có phải ông đang tập trung cho công việc ở Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em hay không? - Đúng vậy. Đối với tôi bây giờ, đấy là công việc quan trọng nhất. Thời đại ngày nay, khoa học nhân văn ngày càng trở nên quan trọng. Suy cho cùng, mọi cuộc đấu tranh đều nhằm phục vụ con người. Với riêng tôi, đây còn là dịp để trả món nợ gia đình và nhân dân đã nuôi tôi ăn học ngành nhi khoa 60 năm về trước. Với sự cộng tác của nhiều nhà khoa học có uy tín về nhi khoa, thần kinh, tâm lý giáo dục, tôi đã lập Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em, gọi tắt là N-T, từ năm 1989. Đây là tổ chức nghiên cứu khoa học phi chính phủ được thành lập đầu tiên ở nước ta. Qua 7 năm hoạt động, chúng tôi đã xây dựng một tổ chức khá hoàn chỉnh từ ban điều hành, hội đồng khoa học, các đơn vị hoạt động, các cơ sở địa phương tại Tp. Hồ Chí Minh, Huế, Vinh, Thanh Hóa, Hải Phòng; đã in trên 30 đầu sách và một số tài liệu chuyên đề với trên 10.000 trang. Như thế là đã tạo ra được nền tảng đầu tiên về bộ môn khoa học này ở nước ta. Hoạt động của N-T ngày càng được các cơ quan hữu quan như Bộ khoa học công nghệ và môi trường, Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Bộ giáo dục và đào tạo quan tâm giúp đỡ. Đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười cũng đã có dịp tới thăm một cơ sở N-T và đã gửi thư cho tôi, hoan nghênh những việc mà N-T đã làm được. * Mấy mươi năm trôi qua, ông chỉ sống với 1/3 lá phổi còn lại, thế mà ông vẫn sống và hoạt động sôi nổi… - Phương pháp tập luyện của tôi không có gì gọi là “bí quyết” cả. Những điều cần biết, tôi đã giới thiệu trong cuốn “Từ sinh lý đến dưỡng sinh”, NXB. Y học, 1979; sau này NXB. Đồng Nai in lại. Năm 1993, tôi có cuốn “Dưỡng sinh dành cho mọi lứa tuổi” (NXB. Trẻ). Xí nghiệp phim tài liệu khoa học Trung ương cũng vừa hoàn thành bộ phim cơ thể con người “động và tĩnh” do tôi viết kịch bản, anh Lương Đức đạo diễn. Theo tôi, phải nắm chắc những nguyên tắc cơ bản và dựa trên sinh lý học hiện đại để xây dựng phương pháp tập luyện dưỡng sinh mà mọi người đều có thể áp dụng, nhằm nâng cao sức khỏe. Đó là 3 nguyên tắc: thở, vận động, tập trung ý liên quan đến hoạt động của ba bộ phận cơ chế chủ yếu là: nội tạng, cơ bắp, thần kinh. Nhờ tập luyện kiên trì như thế, nên sau hơn 30 năm về nước, tôi chỉ phải vào bệnh viện một lần. * Những năm ở Pháp, chắc ông cũng có một vài cuộc tình thơ mộng? - (Cười) Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, với quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”, cho nên đến năm hăm mấy tuổi, tôi vẫn chưa bao giờ ngồi riêng với một cô gái nào. Thuở nhỏ, đi học thì con gái một trường, con trai một trường; đến lúc học Trường Y Hà Nội, trường cũng không có sinh viên nữ. Đến lúc sang Pháp… Chuyện này đã được bà nhà tôi đồng ý cho công bố rồi! (Cười hóm hỉnh). Hôm ấy, sau khi tôi trình bày một bệnh án, được một vị giáo sư khen, thì cô M. tìm gặp tôi nhờ giải thích vài điều thắc mắc. Tôi cùng cô ngồi trên ghế đá trong vườn hoa bệnh viện chừng hơn 15 phút. Các bạn trai ngạc nhiên vì chuyện đó bởi cô là hoa khôi sinh viên. Lần đầu tiên, tôi ngồi gần một cô gái. Từ đó, gặp vấn đề khó trong bài học, cô lại đến hỏi tôi, rồi thỉnh thoảng đi học cùng chuyến tàu điện ngầm; cũng đã có đêm cùng đi dạo bên bờ sông Seine và tôi đã được gia đình cô mời cơm… Mấy năm quen biết như thế, kể cũng đáng gọi là một cuộc tình thơ mộng. Nhưng rồi vì chiến tranh, rồi bệnh tật và nhất là tôi nhớ lời bố dặn trước khi đi Pháp, hơn nữa gia đình cô M. theo đạo Kitô, không muốn cô lấy chồng ngoại đạo và ngoại quốc, nên chúng tôi đành chia tay… * Thưa, lần này bà nhà có vào cùng ông…? - Mọi lần, chúng tôi thường cùng vào Sài Gòn. Lần này, bà nhà tôi ở lại Hà Nội để chữa mắt. Chúng tôi biết nhau từ bên Pháp, nhưng sau khi tôi về nước mới xây dựng gia đình. Nhà tôi tên Nguyễn Thị Nhất, nguyên là chuyên viên Viện nghiên cứu giáo dục, nay là thành viên Ban điều hành N-T 30 năm qua, chúng tôi là đồng chí với nhau, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi… À, xin lỗi anh, tôi có việc phải gọi điện ra Hà Nội một chút. Ông bước đến bên máy điện thoại. Tôi nghe được một phần cuộc đối thoại ngắn: “Alô!... Cháu Minh hả, ông Viện đây… Bà sang cơ quan rồi à?... Cháu nói với mẹ cho ông mượn 10 ngàn đồng, mua hoa tặng bà ngoại nhân ngày 8 tháng 3… Sao? Bố cháu mua hoa tặng bà rồi à? Thế là tốt…”. Ông trở lại với nụ cười trẻ trung: Chuyện tiêu tiền bây giờ tụi này thua bọn trẻ rồi. Tôi “dự chi” 10 ngàn, không ngờ con rể tôi đã mua bó hoa 50 ngàn tặng bà nhà tôi rồi. Tôi thoáng mỉm cười và chợt nhớ đến giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp tặng ông (400.000 franc) mà ông trích phần lớn cho Trung tâm N-T. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy, trong một bài viết trên báo “Tiền phong” còn cho biết hai ông bà Viện nhiều bữa chỉ ăn một suất cơm vài ngàn đồng ở quán cơm bình dân. Tạm biệt ông ra về, trong tôi cứ vương vấn mãi nụ cười đôn hậu của ông, một nhà khoa học uyên bác mà bình dị. HOÀNG KIM THƯ st. HAPPY THANKSGIVING! Lễ Tạ Ơn ở Hoa Kỳ & Canada
Bức tranh The First Thanksgiving của Jean Ferris , người da trắng mời người da đỏ cùng ăn Lễ Tạ ơn (Thanksgiving) L à một ngày lễ hàng năm được tổ chức chủ yếu tại Hoa Kỳ và Canada . Có ý nghĩa lúc đầu là mừng thu hoạch được mùa và tạ ơn Thiên Chúa đã cho sống no đủ và an lành. Đây cũng là ngày nghỉ lễ chính thức, cho tất cả người lao động theo luật định tại Mỹ và Canada. “ L ễ Tạ ơn đầu tiên” theo truyền thống được coi là đã diễn ra tại khu vực thuộc thuộc địa Plymouth vào năm 1621. Ngày nay, tại Hoa Kỳ , lễ Tạ ơn được tổ chức vào ngày thứ Năm tu ần thứ tư của tháng 11 vì thế ngày này có thể không phải là ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 như nhiều người lầm tưởng (thí dụ năm 2012 có đến 5 ngày thứ năm). Tại Canada , nơi có cuộc thu hoạch sớm hơn, ngày lễ này được tổ chức vào ngày thứ Hai tu ần thứ hai của tháng 10 . Thanksgiving cũng là ngày đầu tiên của Mùa Lễ Hội (Holidays Season) , kéo dài cho đến ngày đầu N ăm mới, mồng một tháng giêng. Lịch sử Lễ Tạ ơn gắn liền với các lễ hội ngày mùa thường được tổ chức ở châu Âu từ xưa. Trong truyền thống Anh, ngày tạ ơn và nghi lễ tôn giáo tạ ơn đặc biệt trở nên quan trọng trong quá trình Cải cách Kháng Cách tại Anh trong thời kỳ trị vì của vua Henry VIII . Vào khoảng thế kỷ 16-17, một số người theo Công giáo và Thanh giáo tại Anh bị hoàng đế lúc đó bắt cải đạo để theo tôn giáo của ông ta, trong cuộc Cải cách Tin Lành . Những người này không chấp nhận và bị giam vào tù. Sau khi giam một thời gian vị hoàng đế truyền họ lại và hỏi lần nữa, họ vẫn quyết không cải đạo. Hoàng đế không giam họ vào tù nữa mà nói với họ rằng nếu họ không theo điều kiện của ông ta thì họ phải rời khỏi nước Anh . Những người này rời khỏi Anh đến Hà Lan sinh sống nhưng họ sớm nhận ra mình không thể hòa nhập ở nơi này và lo sợ con cháu của họ sẽ bị mất gốc, một số nhóm người rời khỏi Hà Lan để đến Tân Thế Giới ( Châu Mỹ ) sinh sống, và sau này thường được gọi là Người hành hương ( Pilgrims ). Những người này đi trên một con thuyền tên là Mayflower, họ đặt chân đến Thuộc địa Plymouth thuộc vùng Tân Anh (New England) khi đang mùa đông. Đói và lạnh, một nửa trong số họ không qua nổi mùa đông khắc nghiệt. Đến mùa xuân, họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng và cho họ ít lương thực. Người da đỏ dạy họ những cách sinh tồn ở vùng đất này như cách trồng hoa màu, săn bắt... Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời vì đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Từ đó về sau, hằng năm con cháu của người Pilgrims luôn tổ chức lễ tạ ơn để cảm ơn cho những gì tốt đẹp đã đến với cuộc sống. Theo tài liệu, buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ, do người Pilgrims tổ chức, là vào năm 1621 tại Thuộc địa Plymouth, ngày nay thuộc Massachusetts , sau một vụ thu hoạch tốt. Tổ chức truyền thống Lễ Tạ ơn thường được tổ chức với một buổi tiệc buổi tối cùng với gia đình và bạn bè với món thịt gà tây . Tại Canada và Hoa Kỳ, nó là một ngày quan trọng để gia đình sum họp với nhau, và người ta thường đi xa để về với gia đình. Người ta thường được nghỉ bốn ngày cuối tuần cho ngày lễ này tại Hoa Kỳ: họ được nghỉ làm hay học vào ngày thứ Năm và thứ Sáu của tuần đó. Lễ Tạ ơn thường được tổ chức tại nhà, khác với ngày Lễ Độc lập Hoa Kỳ hay Giáng Sinh , những ngày lễ mà có nhiều tổ chức công cộng (như đốt pháo hoa hay đi hát dạo). Tại Canada, nó là một cuối tuần ba ngày, người ta thường được nghỉ vào ngày thứ Hai tuần thứ nhì của tháng 10 mỗi năm. Tại sao những chú gà tây được dùng trong Lễ Tạ ơn lại có tên là Turkey? Gà tây là một trong những món ăn truyền thống trong L ễ Tạ ơn của người Mỹ. Theo thống kê thì có tới 91% người Mỹ “đánh chén” gà tây trong dịp lễ này. Cũng theo thống kê, có tới gần 300 triệu con gà tây được bán ra mỗi năm trong dịp L ễ Tạ ơn. Vậy tại sao Gà tây lại được gọi là Turkey (giống như Thổ Nhĩ Kỳ), có phải do tiếng Turk Turk Turk của nó hay không? Có 2 giả thuyết: 1/ Vào thế kỷ XVI, khi những chú G à tây từ Bắc Mỹ du nhập vào châu Âu thì ở đây đã có một giống chim tương tự được gọi là Guinea fowl, nhập từ Madagascar (lúc đó thuộc quyền quản lý của đế chế Ottoman). Hầu hết những sản phẩm đi từ đế chế này tới châu Âu đều được gọi là “turkey”. Do vậy, những chú G à tây cũng đã bị gọi nhầm theo loài chim nói trên một cách oan uổng là “turkey fowl” và sau đó rút gọn lại là “turkey”. 2/ Vào thế kỷ XIX, nước Thổ muốn mở rộng thương mãi với thế giới, đã bán dê sang Úc, bán Gà tây sang Mỹ. Lúc bấy giờ, Mỹ chưa biết gọi G à tây là gì nên gọi luôn những người mang Gà tây đến là “Turkey” và cái tên này từ đó mới có. Gà tây khác với gà nhà ở chỗ là chúng có thể bay từng đoạn ngắn và thường ngủ ở trên cây để tránh kẻ thù như các loài thú ăn thịt hay là rắn. Thường người dân Mỹ chỉ ăn nhiều Gà tây vào ngày Lễ Tạ ơn. Tuy nhiên vào năm 1939, dưới thời TT Roosevelt thì người dân Mỹ đã được ăn G à tây tới hai lần. Lễ Tạ Ơn của người Mỹ cũng thăng trầm, trôi nổi theo vận nước của họ . Các tiểu bang thuộc địa đầu tiên không thống nhất được ý kiến chung về một ngày Lễ Tạ Ơn. Họ giữ ngày lễ tùy ý mà họ cho là thích hợp. Khi cuộc cách mạng giành độc lập từ tay người Anh thành công họ mới nghĩ đến một Lễ Tạ Ơn chung cho 13 tiểu bang. Tổng Thống đầu tiên của nước Mỹ kêu gọi dân chúng giữ ngày thứ năm 26/11/1789 làm ngày Lễ Tạ ơ n đầu tiên cho toàn quốc (First National Thanksgiving). Nhưng sau đó L ễ T ạ ơn cũng không được mọi người công nhận theo một ngày tháng nhất định. Dầu vậy, càng ngày càng có nhiều người đưa ra ý kiến nên có một ngày nhất định, đưa Lễ Tạ ơn thành quốc lễ (National Holiday) và đưa quyền quyết định cho chính phủ Liên Bang. Mãi đến năm 1863, T T Lincoln nhận thấy chiến tranh đã đến hồi kết thúc nên chỉ định ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ ơn cho toàn quốc. Chẳng may ông bị ám sát, Andrew Johnson lên làm Tổng Thống, tiếp tục truyền thống cũ, nhưng đổi lại ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm Lễ Tạ ơn. Rồi trong khoảng thời gian từ năm 1939 đến 1941, T T Franklin Roosevelt chỉ định ngày thứ năm của tuần thứ ba trong tháng 11 làm Lễ Tạ ơn thay vì thứ năm trong của tuần lễ thứ 4. Nhưng lần nầy Roosevelt bị các thương gia và các đảng viên Đảng Cộng Hòa chống đối dữ dội, cho rằng Tổng Thống đã đi ngược lại truyền thống cũ. Hai năm sau T T Roosevelt rút lại quyết định và đặt ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ ơn cho toàn quốc mãi cho đến ngày hôm nay. Khi nào thì Lễ Tạ ơ n và có nên “tha” Gà tây không? Kể từ đó, hàng năm ngày L ễ Tạ ơ n bắt đầu được tổ chức với quy mô nhỏ lẻ ở nhiều nơi khác nhau trên đất Mỹ. Các vị tổng thống Mỹ lại vinh danh L ễ Tạ ơ n theo cách của mình. TT Washington tổ chức L ễ Tạ ơ n để mừng đánh thắng quân Anh ở trận Saratoga. James Madison thì dùng L ễ Tạ ơ n để kỷ niệm kết thúc Chiến tranh năm 1812. Nhưng phải đến năm 1863, nhờ TT Lincoln, ngày L ễ Tạ ơ n mới trở thành một ngày hội mang tầm vóc quốc gia. Lincoln cũng là người ấn định tổ chức L ễ Tạ ơ n vào ngày thứ Năm thứ tư của tháng 11. Mỗi năm National Turkey Federation (hiệp hội nuôi gà tây của Mỹ) gởi tặng Nhà Trắng gà tây vào dịp Thanksgiving. Và o năm 1990, TT George H.W. Bush (Bush cha) đã chính thức thành lập N gày tha tội cho G à tây (Pardons Thanksgiving Turkeys) , tặng các chú gà tây nhận được vào các thảo cầm viên, và ngày nay ta có truyền thống ân xá gà tây hàng năm tại Nhà Trắng. Năm nay, 2015, TT Obama ân xá cho hai chú gà tây Tự Do và Hòa Bình. LỜI KẾT Khi những chiếc lá vàng cuối cùng rơi và khí trời càng trở lạnh cũng là lúc cả đất nước Hoa Kỳ đang chuẩn bị bước vào những ngày lễ trọng đại và thiêng liêng. Một trong những ngày lễ quan trọng đó là Lễ Tạ ơn. Đây cũng là ngày đầu tiên của Mùa Lễ Hội (Holidays Season) , kéo dài cho đến ngày đầu N ăm mới Dương lịch . Dân Mỹ nghỉ Lễ Tạ ơn, giống dân ta đón Tết Nguyên đán. Hiện có 8 nước theo phong tục này là Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ. Lễ Tạ ơ n như đem những người sống trên đất nước Hoa Kỳ trở về với những ngày đầu của tổ tiên họ… Tháng Tư họ cùng nhau trồng bắp dưới sự chỉ dẫn của một người Da Đỏ tên là Squanto. Những luống bắp nầy quyết định sự sống còn của họ trong mùa Đông sắp tới. Họ vui mừng vì mùa Xuân và mùa Hè năm 1621 thật quá tuyệt đẹp! Bắp lên tươi tốt hứa hẹn một vụ mùa no nê như lòng họ mơ ước. Mùa Đông lại về, nhưng bây giờ không còn là một đe dọa nữa. Mùa màng đã gặt hái xong, họ có dư thực phẩm để sống qua những ngày đông giá rét. Cũng không còn sợ lạnh vì đã làm được 11 cái nhà vững chắc đủ chỗ để quây quần sum họp. Họ quyết định tổ chức một Hội Ngày Mùa (Harvest Festival) để tạ ơn Thượng Đế cho họ sống sót qua mùa đông đầu tiên. Đó là Lễ Tạ ơn đầu tiên trên đất Mỹ . Dân Mỹ coi Thanksgiving là ngày đoàn tụ gia đình nên vào tuần cuối tháng 11, dân chúng đi lại như mắc cửi - g iống dân Việt khăn gói quả mướp về quê ăn Tết - không về đúng ngày Thanksgiving thì chả còn ai cho ăn. Lễ Tạ ơn là dịp để chúng ta đếm các ơn lành Trời ban. Nhìn lại những ngày tháng tại quê nhà, cuộc hành trình tị nạn đầy gian nan vừa qua và những thành quả mà người Mỹ gốc Việt đạt được ngày hôm nay để chúng ta dâng lên Thượng Đế lời Tạ Ơn sâu xa nhất. Tạ ơn Trời vì Ngài đã ban cho ta sự sống, hơi thở, sức khoẻ và bao nhiêu là ân huệ. Chúng ta cũng nên cảm ơn nhau. Cảm ơn thân quyến, bạn bè, những người thân quen và ngay cả những người chưa từng biết về sự chan hòa của họ trong cuộc sống của mỗi chúng ta trong cộng đồng nhân loại. Thường thì tại hầu hết các gia đình Việt Nam, vào ngày Lễ Tạ ơn đều có món gà tây. Nhưng cũng có gia đình chọn không làm món này vì nướng rất lâu. Mặt khác vị gà tây béo ngậy đến mức mà nhiều người Việt không quen. Vì thế có gia đình, chị em phụ nữ sáng kiến chuyển sang nướng gà nhà thay vì gà tây, mặc dù công thức vẫn như nấu gà tây (như gia đình c on gái của người viết đang sống ở tiểu bang Maryland, Mỹ). Kính chúc mọi người, mọi nhà một kỳ Lễ Tạ ơn tràn đầy ý nghĩa! PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo - Internet)
Phụ Bản II
Dương Lêh Đến lúc này ông Khấn mới thực sự về hưu sau khi ngồi nán lại gần mười năm trời, so với tuổi hưu quy định, ở cái ghế Phó Tổng giám đốc Tổng Công Ty Gạo Muối. Tính ra từ lúc khởi đầu bằng cái chức trưởng phòng cho đến nay cũng mới hơn hai chục năm mà ông đã phất lên nhanh chóng và kết thúc an toàn như thế này. Một căn nhà theo kiểu villa liên kế ở quận 7 và một chiếc xe 5 chỗ dành cho vợ chồng ông và vợ chồng đứa con gái lớn ở chung sử dụng, không kể hai ba chiếc xe máy tay ga dành cho người nào đó muốn đi chơi riêng một mình. Ở tuổi này ông Khấn không còn muốn tự lái xe đi chỗ này chỗ nọ như hồi mới mua xe. Lúc bấy giờ, ông lái xe như để tập dượt cho nhuần nhuyễn sau khi học lái và lấy bằng. Thỉnh thoảng vào ngày cuối tuần khi tan sở ông chở năm ba cô nhân viên đi ăn buffet rồi đi hát karaoke. Sau đó thì, dĩ nhiên, mạnh ai về nhà nấy. Có người hỏi: - Ông phó gan quá. Không sợ bà nhà biết được rồi “khía cạnh” ông sao? Ông lên giọng triết gia: - Ở đời mình phải biết sống hòa đồng một chút. Mấy đứa đó coi như em cháu. Không có gì mà ầm ĩ. Nói như vậy chứ trước khi đến gần cổng bảo vệ ông tắp xe vào lề, kiểm tra từng ghế ngồi, các tấm cao su trải dưới sàn đến khi thấy sạch bong mới thôi. Ông sợ khi phải chở bà xã đi đâu đó bà phát hiện trên xe còn rải rác vài miếng vỏ đậu phọng, vài miếng vỏ hạt dưa hay miếng giấy bọc kẹo cao su thì dù có thật thà khai báo đến cỡ nào đi nữa cũng khó làm cho bà kìm hãm trận lôi đình. Cái chai nước thơm rẻ tiền ở trong xe luôn luôn được mở hết ga để trấn áp mùi nước hoa đắt tiền của các cô đã sử dụng khi đi chơi với ông. Bây giờ mỗi khi cả nhà đi chơi xa trên chiếc xe màu sơn còn bóng láng, ông thấy vô cùng hả hê, mãn nguyện khi bước vào giai đoạn cuối của cuộc đời. Ông so sánh với những người bạn đồng môn còn ở lại Việt Nam thấy rõ ràng ông hơn họ nhiều quá. Điểm danh lại từng người, ông thấy như thằng Phi, bảy chục tuổi rồi còn rị mọ ngồi sửa chữa những đồ điện hư hỏng như quạt máy, bàn ủi, đèn ngủ kiếm tiền sống lai rai qua ngày. Vợ con bỏ đi về bên ngoại ở vì thấy ông này sống quá tiêu cực, không biết bay nhảy, kiếm việc làm như ông Khấn để cho vợ con được ăn tiêu sung sướng. Ông này vì bản tính quá trầm lặng cho nên cuộc đời cứ rề rề như vậy cho đến bây giờ. Còn nhớ, hồi xưa sau khi tốt nghiệp ra trường, ông được bổ nhiệm làm công chức đàng hoàng. Lúc bấy giờ với mức lương công chức của ông muốn cưới vợ không phải muốn mấy bà cũng được mà là lúc nào cũng được. Bạn bè thường nói: - Nó rù rờ như vậy không biết chừng nào mới kiếm được một bà vợ đây. Vậy mà không lâu sau đó anh chàng cưới được một cô đồng nghiệp. Thế là với chỉ số lương được nhân đôi, hai người chung sống trong hòa bình, no ấm. Đến khi thời cuộc biến đổi họ cũng đã có được hai đứa con gái xinh xắn thơ ngây. Bà vợ lúc bấy giờ vì bận hai con còn nhỏ không đi làm đâu được, còn ông, lúc đó đang thất nghiệp, bắt đầu đi nhận những thiết bị điện gia dụng như quạt máy, bàn ủi, đèn thắp sáng các loại mang về sửa chữa lấy tiền công coi như nguồn thu nhập chủ lực cho gia đình. Lúc đầu bà vợ nghĩ bụng ông xã chắc là làm công việc này như chờ thời đến khi có cơ hội tới ông sẽ bay nhảy tính chuyện nuôi sống vợ con lâu dài một cách vững vàng. Không ngờ đời sống khó khăn kéo dài năm này đến năm khác, ông thì vẫn cứ nhởn nha như thế, bà vợ thấy hai đứa con nheo nhóc quá nên từ giã ông dẫn hai con về bên ngoại tá túc. Lúc bấy giờ người ta bỏ đi nước ngoài rất nhiều, gia đình bên vợ ông cũng nối gót kẻ trước người sau ra đi biền biệt. Kết cuộc là hạnh phúc đã dành cho vợ con ông. Thỉnh thoảng họ gửi về cho ông vài trăm đô để ông cầm hơi mà sống. Theo ông Khấn, ông bạn “người Việt trầm lặng” này kể như thua đẹp. Không có cửa để mà so bì với ông. Ngoảnh đi ngoảnh lại còn đâu chừng 7, 8 người nữa là đủ số người còn ở lại Việt Nam, như vậy số bạn bè cùng lớp đã ra sống ở nước ngoài cũng phải vài chục nhưng cho dù họ sống ở nước ngoài tiền của nhiều, chưa chắc danh giá bằng ông Khấn bây giờ. Có ai thẳng tiến một lèo từ một trưởng phòng bay lên đến chức phó tổng giám đốc trong vòng hơn hai chục năm? Nếu ông không về hưu ở cái tuổi bảy chục có lẽ vài năm nữa ông cũng sẽ lên đến chức Tổng giám đốc. Nhân tiện ông Khấn xoay bộ não của ông hướng về những đồng môn khác của tất cả cả đàn anh và đàn em, ông thấy những người có chức vụ cao trong xã hội bây giờ cũng chỉ vài người và hình như cũng chưa ai đạt tới chức phó tổng như ông. Ông Khấn thấy hài lòng với cái hiện tại của mình. Về hưu một cách thong thả, nhàn hạ, không hề lo lắng về tất cả công tác đã thực hiện trong quá khứ. Vài người bạn nói với ông: - Như vậy là ông bạn già đã “hạ cánh an toàn”. - Có gì là an toàn với không an toàn. Trong thời gian làm việc không có làm gì sai trái bây giờ về hưu thật là “phẻ phè phe”. Đúng vậy, ông hoàn toàn không lo lắng gì với công việc làm trong quá khứ. Đầu óc ông thực sự trống trải. Bây giờ ông hoàn toàn hả hê thưởng thức niềm hân hoan thơi thới khi cảm thấy hơn hẳn những người bạn cùng lớp ngày xưa. Ông hơn họ về sự giàu sang, về danh vọng. Ông từng đi qua nhiều nước trên thế giới để công tác hay nghỉ dưỡng. Ông từng vào ra những nhà hàng khách sạn 7 sao, 8 sao chứ nói gì 5 sao chỉ là chuyện nhỏ như… con thỏ. Nghĩ tới rồi nghĩ lui, ông Khấn như chìm dần vào dĩ vãng, thuở đó cậu học sinh từ một vùng đất xa xôi hẻo lánh của một tỉnh đụng với biên giới Kampuchia, đã thi đậu vào một trường đại học ở Saigon như đã đặt một bước vào cuộc đổi đời vĩ đại của ông sau này. Những ngày tháng khởi đầu ở đại học, ông thấy trường đại học quả là… vĩ đại. Trường học như một dinh thự rộng lớn. Phòng ốc, bàn ghế cái gì cũng lạ lẫm đối với ông. Những thầy cô giáo, hồi đó gọi là giáo sư, có vóc giạc to lớn, oai vệ, mặc “côm-lê’ vào lớp, nghiêm trang hoàn toàn khác hẳn với những thầy cô giáo của ông hồi ở trung học dưới tỉnh lẻ, gầy yếu, ăn mặc đơn sơ, có thầy mang dép lẹp xẹp vào lớp. Rồi ông nhìn vào những đứa bạn cùng lớp con trai cũng như con gái ai ai cũng có vẻ ung dung tự tại, ăn mặc đúng với thời trang của sinh viên Saigon dù chỉ với sơ mi trắng quần tây đơn giản. Họ ăn nói thoải mái, tỏ ra cái gì cũng biết, hỏi ra họ từ các trường trung học nổi tiếng ở Saigon như Pétrus Ký, Chu Văn An, Gia Long, Trưng Vương... nên suốt trong quá trình học tập ông Khấn không thấy họ có gì khó khăn, không hề thấy họ cắm đầu cắm cổ gạo bài cho những đợt thi học kỳ hoặc tốt nghiệp, nhưng họ luôn luôn chiếm thứ hạng cao. Nhiều người trong số họ thuộc những gia đình giàu có. Thỉnh thoảng có vài đứa đi học bằng xe hơi, chắc là mượn tạm của cha mẹ để lấy oai, những đứa còn lại đi bằng xe gắn máy nếu không Goebel, Brummi thì cũng Vespa, hoặc nhẹ hơn là Vélo Solex… trong khi ông Khấn và những đứa từ các tỉnh lên Saigon học phải ì ạch với chiếc xe đạp “đòn vông”, xe đạp thường hoặc “đờ-mi-cuộc”(1). Đám sinh viên dân Saigon này có nhiều khả năng đặc biệt về văn nghệ như đàn hát hoặc viết văn, làm thơ. Mỗi năm vào dịp gần Tết cả đám lao vào tập dượt văn nghệ để trình diễn vào buổi liên hoan tất niên, còn nhóm của anh chàng lớp trưởng cặm cụi làm báo xuân. Nói chung cái đám dân Saigon bao sân làm mấy công việc này. Đứa nào cũng có thể ôm cây đàn ghi-ta đệm tửng tưng cho mấy cô hát. Mấy cô đang tập hát hò đây cũng là dân Saigon, còn mấy cô ở “miệt dưới” lên hay ở miền trung xa xôi vào; thì ngồi vòng ngoài thưởng thức. Lên đến năm thứ ba thì hình thành những cặp nam nữ không rõ do làn sóng điện hay từ trường nam châm nào đã dẫn dắt họ đến gần với nhau. Đó là những cô bạn trong lớp thuộc thành phần dân Saigon, xinh xắn và tương đối đài các hơn, còn những người tình nguyện làm cận vệ cũng là mấy anh con trai Saigon đa năng, đa hiệu đó. Các anh chàng này đương nhiên kiêm nhiệm công việc đệm đàn cho cô bạn của mình hát. Trong nhóm có một chàng rủi ro không biết đàn trong khi cô bạn gái của anh thì ở trong ban hợp ca cho nên anh phải ngồi chầu rìa một cách ấm ức nhìn anh trưởng ban văn nghệ tập cho cô bạn anh ta hát. Khổ một cái là anh trưởng ban văn nghệ này có tính hơi cộc cằn, hay gắt gỏng mỗi khi cô hát sai. Khi ban văn nghệ nghỉ giải lao, cây đàn để tựa vào tường, anh chàng đến lấy tập đàn từng nốt đồ rê mi… Một anh chàng trong nhóm báo xuân châm chích: - Úi chào, mày tập đàn như thế này thì chưa đệm được cho cô nàng, cô ấy đã đi lấy chồng mất rồi. Kiếm thầy mà học cấp tốc đi em. Nhưng có lẽ trời thương và nhờ đeo bám kỹ quá cho nên, dù đàn hát không ra được điệu xì-lô hay bồ-lê-rô gì cả, cô ấy cũng đồng ý và rồi hai người làm đám cưới sau khi tốt nghiệp vài năm. Trong nhóm trai Saigon có một đứa mà bây giờ ông Khấn nhớ lại và muốn kêu nó bằng thằng như hồi xưa trong lớp đã gọi nhau như vậy. Nó nhỏ con, mặt mũi còn rất “sữa”, kiểu cách học hành của nó không có gì đặc biệt nhưng không hiểu sao cuối năm kết quả các kỳ thi lên lớp nó đều chiếm hạng cao. Kết quả tồi tệ đối với nó là kỳ thi tốt nghiệp nó bị rớt xuống hạng mười mấy trên sĩ số gần năm chục sinh viên. Mới lên năm thứ hai, nó, cũng giống như cái đám con nhà giàu dân Saigon kia, đeo bám một cô bạn cùng lớp. Ông Khấn thấy cô bạn này cũng có cảm tình với nó vì thấy cô đứng nói chuyện với nó ở cửa ra vào gần hết giờ giải lao. Tuy nhiên có lần ông Khấn nghe một cô bạn tương đối sành đời trong lớp tiết lộ: - Thấy vậy chứ không phải vậy à. Anh chàng nhỏ con này coi bộ với không tới đâu nhe. - Sao thấy coi bộ khắng khít quá hả. - Cô có cảm tình vì thấy anh ta học khá và hiền lành. - Ừ! Kệ họ, chờ xem. Thật tình, anh chàng nhỏ con này có nhiều tài vặt. Anh ta viết văn, làm thơ đăng trên báo xuân của lớp. Có lần ông hiệu trưởng xuống đứng lớp nhân tiện ông khen ngợi tờ báo xuân, rồi đọc lên mấy bài biết, bài thơ trong đó cho cả lớp nghe. Rốt cuộc những bài viết đó đều của anh ta. Có lẽ nhờ vậy mà trong lớp anh ta được nhiều cô có cảm tình. Rồi đến buổi liên hoan tất niên năm cuối anh ta cũng có vài tiết mục như hợp ca, đánh trống cho màn vũ của mấy bạn nữ. Thế rồi, giống như cô bạn đã nói với ông Khấn “thấy vậy không phải vậy”, sau khi tốt nghiệp anh chàng nhỏ con này biết mất, trong khi hầu hết các bạn khác nộp đơn làm việc cho công sở ở Saigon để kiếm đồng lương cố định, chắc chắn không bao giờ bị thất nghiệp. Sau này có người kể lại; anh chàng nhỏ con đó, sau khi tốt nghiệp, đã âm thầm lặng lẽ ra Cam Ranh làm việc, sinh sống và cưới vợ, một người con gái đến từ miền sông Hương núi Ngự. Thành thật mà nói, sau khi ra khỏi trường, làm việc tại một cơ quan có tầm quan trọng, ông Khấn mới trút bỏ được cái mặc cảm nặng trình trịch của một cậu học trò nhà quê, lên Saigon học để tìm cách đổi đời. Từ khi về Tổng Công Ty Gạo Muối, cuộc sống của ông thay đổi hẳn. Ông thường xuyên tiếp xúc các quan chức quan trong trong lãnh vực kinh tế, hoặc khách hàng là những tổng giám đốc, giám đốc các công ty khác đến cùng ông hợp tác kinh doanh, từ đó dẫn ông đến những buổi tiệc tùng hoành tráng, hoặc những buổi tối lung linh dưới ánh đèn màu, ông lặng lẽ nhìn những cặp nam nữ dìu nhau trong tiếng nhạc. Đây là một môn ăn chơi xa hoa mà hồi đi học ông không dám nghĩ tới trong khi cái đám sinh viên gốc Saigon trong lớp ông đa số đã trải nghiệm rồi. Đặc biệt ông uống bia hay uống rượu thì thuộc hàng đại cao thủ. Tại các buổi tiệc, những nhà doanh nghiệp khác phải khẩu phục tâm phục ông Khấn. Họ thường xuyên ra về trong trạng thái “ngất ngư gần chết” trong khi ông Khấn vững như thành đồng. Mỗi lần như vậy ông về nhà chưa chịu đi ngủ, dù đã khuya, ông gọi điện thoại cho anh chàng nhỏ con ngày xưa vừa gặp lại sau này. Ông thao thao bất tuyệt giảng cho anh chàng nhỏ con nghe niềm kiêu hãnh của ông trong hiện tại với nhà cao cửa rộng, xe cộ đề huề và khi hạ gục những nhà doanh nghiệp kia bằng khả năng uống rượu của mình. Rồi ông liên hệ đến chuyện ngày xưa: - Hồi đó tụi bây coi tao là một thằng nhà quê. Thật tình lúc đó tao quê thiệt. Tao đã nhìn tụi bây, mấy thằng gốc Saigon đó với cặp mắt thán phục! Tụi bây vừa học cũng vừa ăn chơi mà lại kỳ thi nào cũng đậu cao. Nhưng mà bây giờ tụi bây hết thời rồi. Có đứa nào qua tao đâu? Những đứa ở ngoài, Tây Mỹ gì đó, có thể giàu hơn tao thiệt nhưng làm sao có được chức vụ cao bằng tao? Phó tổng giám đốc nè! Thấy chưa? Ông Khấn với giọng nhừa nhựa vì cũng đã xỉn rồi, lập đi lập lại mấy ý này không biết bao nhiêu lần. Thỉnh thoảng thấy đầu dây bên kia có vẻ yên lặng ông hét lên: - A-lô. Mầy có nghe tao không? - Có, có. Nói nữa đi. Nếu ông Khấn có cặp “thiên lý nhãn” ông sẽ thấy “thằng nhỏ con” đang nằm trên giường, một tay cầm cái điện thoại nhưng không áp vào tai mà để loa ngoài vừa đủ nghe tiếng vang của ông Khấn đang nói, tay kia mở cái ipad mini xem đánh bi-da trên You tube. Ông Khấn biết “thằng nhỏ con” hiền lắm mặc dù nó cũng bằng tuổi ông và nay cũng đã trên 70 rồi, nó không cúp máy đâu. Lần sau cùng gần đây, cũng đã say xỉn, và gần 10 giờ tối, ông Khấn lại gọi điện đến “thằng nhỏ con”, và ông nhỏ con này trả lời vào máy rất lịch sự: - Tao nghe đây nè. - Sao mậy? Lúc này có đứa nào ở ngoài về không mà im re, không thấy mầy báo cáo cho tao biết gì hết vậy? - Không có “em” nào về, lấy gì báo cáo? - Cũng được đi. Tao dặn mầy nè. Khi nào mấy đứa đó về mày phải nói với tụi nó rằng tao không còn quê mùa như hồi còn đi học đâu he. Đứa nào ngon lại đây uống với tao. - …. Đột nhiên ông Khấn bấm stop, đập máy điện thoại xuống nệm của cái ghế dài. Mặt ông đỏ lên, rồi tái dần lại. Ông ngả lưng ra nằm dài trên ghế. Câu nói của “thằng nhỏ con” còn văng vẳng bên tai: “Hê hê! tao nói cho mày nghe, với cái đầu của mày bây giờ, mày vẫn là một thằng nhà quê!”. Dương Lêh (1)Giống xe đạp đua, nhưng tay cầm nằm ngang (demi-course) . KHÚC RU BUỒN Bàn tay ta sớm tảo tần Ngón dài ngón ngắn chai sần sớm hôm Ngón cầm cây viết bồn chồn Ngón run run thổi áo cơm hàng ngày Ngón ru đời vốn lá lay Ngón buồn ngón nhớ đêm dài tịch liêu Thương ta duyên phận hẩm hiu Trắng tay cô quạnh buồn thiu một mình Ôm lòng đoài đoạn nhân sinh Bàn tay năm ngón chung tình ru ta HUỲNH THIÊN KIM BỘI HOA SẦU ĐÂU Hoa sầu đâu Nhớ ai Hoa sầu Hoa héo Hoa tàn
Cánh hoa lả xuống Nhẹ nhàng chao nghiêng Giữa làn gió thoảng Lá rơi Trên vai áo Một người Ngẩn ngơ
HUỲNH THIÊN KIM BỘI TIẾNG QUÊ HƯƠNG Mỗi năm một cái Tết Chồng thêm tuổi lên đầu Sương trắng mờ mái tóc Mây bạc phủ hàng râu Tuổi xuân dâng tất cả Cho đất nước gian nan Mái đầu xanh đẹp nhất Hiến quê mẹ cơ hàn
Tình yêu cao quý nhất Yêu mẹ, yêu quê hương Vầng trăng khuya xứ sở Sáng rỡ mọi nẻo đường Ơi quê hương! Quê hương! Cội me già rộng bóng Con đường nhỏ, triền nương Mái chòi ruộng, khói sương…
Cho tôi yêu tất cả Bằng sức mạnh yêu thương Nỗi đau đời đáng sợ Thiếu vắng tiếng quê hương. Mai Văn Tạo (1986) Mai Thị Thủy Hoa st. TÓC TRẮNG TÓC ĐEN Trên đầu tóc trắng hỏi tóc đen “Tôi thấy anh nay gối đã mềm Thưa thớt chẳng còn bao hơi nữa Thôi đừng cố nữa kẻo lại rên” Tóc đen cười mỉm khẽ một bên “Mấy chục năm chân cứng vững bền Con suối thời gian… ừ vẫn chảy Tôi nào hơn thiệt chút tuổi tên” Tóc trắng bỗng trầm câu tâm sự “Đời cất tôi làm chân kế nhiệm Buổi đầu đâu dễ ngước mặt lên Mới hở tí chân đà bứng gọn Nhưng nào cưỡng lại được lệnh trên Lớp lớp tôi xen lớp lớp liền Vội vã van nài anh hóa chất Choàng ngay tôi một sắc màn đen” “Tôi có màng chi câu cố vị Ngồi mãi ghế cao cũng mỏi rần Cũng muốn lui về nơi ẩn dật Thanh thản êm đềm nhẹ cái thân” Tóc đen ngao ngán vẻ trầm ngâm Tóc trắng thở ra rồi thì thầm “Hai ta âu cũng loài thiên tạo Đâu thiết trò vui rắn thêm chân” ĐÀM LAN Lục bát Thu Thu qua bóng khói sương mờ Em về qua bến ngẩn ngơ sắc trời Chiều quê con đò nhẹ trôi Tìm trời một dải bồi hồi heo may Bs. DOANLINH THÁNH THIÊNG ĐÊM Người về từ cõi thủy chung Để mang thân phận khốn cùng thế nhân Ngàn năm trước Chúa giáng trần Ngàn năm sau vẫn nhọc nhằn đa đoan Chia nhau một chút bình an Chia nhau chia cả lầm than kiếp người Chúa từng nghiêng ngả khóc cười Ta từng nghiêng ngả giữa đời đảo điên Đêm nay đêm của thánh thiêng Lắng lòng cung tiến nỗi niềm tin yêu. Bs. DOANLINH (13/6/2015) TRĂNG Xuống thuyền thấy nửa vầng trăng Ai quên nỡ để trăng nằm đáy sông Gác chèo bên mái đê cong Đem câu thơ vớt vầng trăng lên thuyền Bs. DOANLINH THIÊN ĐƯỜNG Không phải ai cũng tìm thấy thiên đường Vì thiên đường nhiều khi ở nơi không ngờ tới Chố nấy phải chăng không xa vời vợi Mà có ngay khi ta tha thứ lỗi lầm Cho ai kia trong một phút ác tâm Gây cho ta vết thương lòng cháy bỏng! Thiên đường có ngay trong từng ngày cần mẫn Giúp ai kia khi khốn khổ cuộc đời Lắng tai nghe đâu đó giọt lệ rơi Nuốt hộ bạn chuỗi ngày đầy vị đắng. Một cái xiết tay, hay ôm vai đầy đặn Là thiên đường đã tròn trịa yêu thương.
Có ai qua, khập khễnh bước ven đường; Mòn đuôi dép bán từng tờ báo nhỏ. Áo ướt lưng, là trời chưa mưa đó… Lại đây em, ta giúp được thôi mà! Mua một tờ, mời em ly nước, đường xa Thêm hy vọng, là thiên đường dù phút chốc. Có ai kia, phận người như bèo dạt Ế ẩm đời quạnh quẽ giữa phù du Của ngựa xe, của phố thị, tân tiến mà rất xa mù Và rất khác với những đơn sơ ít ai nghĩ tới. Hãy lôi họ ra cho mặt trời tươi mới. Và thiên đường lại lấp lánh trong đôi mắt ngày xưa
Thiên đường không thể bị che lấp bởi mây mù Nếu ta có trái tim luôn rực cháy. Nếu ta có trái tim luôn tự hỏi: Phải chăng ta là kẻ khốn khổ duy nhất trên đời Phải chăng ta là kẻ không thể tự bơi Phải chăng ta, không còn chuyện gì làm ngoài cái buồn, mà buồn thì muôn thuở? LAM TRẦN 13.05.2013 Xuân vui Đón xuân ai cũng xinh tươi Cái mắt lúng liếng, miệng cười như hoa Xuân vui tự ở lòng ta Đời vui vì bởi thiết tha yêu đời LÊ MINH CHỬ GIEO VẦN XUÂN Hương xuân thoang thoảng tới gần Đó là thời tiết gieo vần đón xuân Chúc cho tất cả người thân Bạn hữu xa gần năm mới an khang LÊ MINH CHỬ TRANG THƠ NGÀY CŨ Trang thơ ngày cũ đã phai nhòa Nét chữ thân thương vẫn mặn mà Cánh Phượng ưu tư giờ nhạt sắc Tình xưa còn đọng giấc mơ hoa
Phù sa đỏ thắm dòng sông Hậu Khóm lục bình trôi tím thản nhiên Phiêu bạt về đâu đời vạn nẻo Có còn tưởng nhớ đất Long Xuyên Hương tràm lưu luyến kiếp tha phương Trăng rụng mơn man nụ Cát tường Ta ủ men sầu trong bóng chữ Mắt mờ ngấn lệ ngỡ màn sương NGÀN PHƯƠNG
LỜI CA TRÁI TIM (Tâm sự Hòn Vọng Phu) Mình ơi tôi gọi tên mình Mà nghe kỷ niệm dâng nghìn ý thơ Mình ơi tôi thấy bơ vơ Xa mình giây phút bằng chờ thiên thu Mình ơi, bóng tối âm u Rừng tình ái chợt hoang vu tiêu điều Mình ơi tôi thương mình nhiều Khi sương thu lạnh khi chiều nhạt phai Mình ơi tôi yêu mình hoài Đến hơi thở cuối xuôi tay lìa đời. NGÀN PHƯƠNG 9 NGƯỜI 10 Ý Buồn cười sự thế trên đời “Bá nhân bá tính đó lời xưa nay” Có người thích uống rượu say Ngày hai ba cữ loay hoay lè nhè Có người thì lại khoang khoe Sức tài có ít kết bè thêm lên Có người cứ mãi kêu rên Bạc tiền túng thiếu xui hên vận thời
Có người lại thích ăn chơi Sáng làm tối nấu cả đời chẳng lo Có người giống hệ trùm sò Ăn cơm không dám cháo cho đỡ tiền Có người ỷ thế cậy quyền Hung hăng hách dịch có tiền thì trơn Có người cứ tính thua hơn Mất lòng không ngán, giận hờn chẳng chi
Kể ra xã hội thiếu gì Chín người mười ý phải thì làm theo Có người hoàn cảnh khổ nghèo Cứ ham bài bạc cứ theo số đề Có người thì lại ham mê Bà lớn bà bé bỏ bê gia đình Có người lại cứ làm thinh Ai sao mặc kệ thủ mình lặng câm
Có người có tính tham dâm Một chồng không đủ kiếm thêm hai chồng Nói đi nói lại lòng vòng Biết người biết mặt khó hòng biết tâm Cuộc đời như ánh trăng rằm Khi tròn khi khuyết trăm năm cõi đời Có người tâm trí thảnh thơi Thơ ca văn nghệ thấy đời nở hoa Tâm hồn trẻ mãi không già Kính chúc tất cả bài ca kết đoàn.
NGÔ BÁ MẠNH THÊM HƯƠNG CHO RƯỢU Tặng các bạn C.N.A.M. “Savoir manger – savoir s’échanger” (ngạn ngữ Pháp) “Biết ăn là biết giao lưu” Hữu duyên nên mới cưng chiều lẫn nhau Trưa mùa thu – có gì đâu Trời hiu hiu gió, nắng màu thiên thanh Bữa ngon là bởi có tình Có ai nâng chén ngọt lành cho ai. Em mang hòa sắc quỳnh mai Thêm hương cho rượu, ta khai vị nào Đâu cần đặc sản sơn hào Tươi xanh đậu bắp ngọt ngào mồng tơi Món tôm bọc cốm đây rồi Hương đồng dịu ngát trên môi đậm đà Chưa cạn ly đã say ngà Say tình bạn quý giao hòa tri âm ! Sàigòn 19.10.2007 LÊ NGUYÊN LÀNG QUÊ XƯA Đây hàng cau cũ một sớm xuân Hàng cau yêu dấu lá xanh ngần Không còn ngăn cách đời dâu bể Một thoáng mơ về thuở bé thơ
Làng quê ngày ấy đã là đây Vẫn con đường đất mấp mô này Bờ ao cỏ dại, đầy rêu phủ Tìm đâu yêu dấu mắt hoen cay
Ngập ngừng chân bước nhớ thương ai Đâu cây táo nhỏ nắng vàng phai Cổng nhà sau trước tìm đâu thấy Người vắng xa, đời bao đổi thay
Hôm nay ngày lễ hội Nguyên Tiêu Đình làng vôi mới khói nương chiều Trống chiêng vang vọng lòng nhung nhớ Cảnh cũ người xưa như giấc mơ...
Phạm Thị Minh-Hưng 24/2/2013
NỐT LẶNG PHÍM DƯƠNG CẦM
Tiếng đàn thẫn thờ, nhịp tim buông chậm Dấu tình sầu còn vương vấn ngày đêm Hơi thở nghẹn ngào hay là ngấn lệ Bởi mong chờ dẫu mòn mỏi chưa quen Phím dương cầm đứng im nơi dấu lặng
Tái tê người bên nốt nhạc xanh xao Có còn không chút dư tình Tháng Chạp Mong manh đất trời... hay thất lạc nhau
Thinh không ngọn sóng lao đao đáy vực
Tiếng đàn ai bay bổng cõi mơ hồ Tìm đâu hư vô gõ xuống cung tơ Thoáng qua rồi có kịp níu giấc mơ ! Tuyết lạnh lẽo phủ hàng cây Tháng Chạp
Đông úa tàn cây cỏ dẫu trăm năm Mây xám co ro mặt trời ủ rũ Kìa dáng ai, nghiêng ngả phím dương cầm...
Phạm Thị Minh-Hưng
MÊ SỮA Vườn sữa chín hồng lôi cuốn anh Trái to lẫn lộn không lựa nhanh Tròn quả xinh tươi màu tím đỏ Sương mai thắm vỏ đẹp long lanh Xòe tay nâng nhẹ mà khao khát Vú sữa vườn cây trĩu quả cành Vĩnh Kim danh tiếng lò rèn sữa Cứng có mềm nhà vườn Chủ Hạnh QUANG BỈNH TÌNH BẠN Từ Huế về lại Sài Gòn Dừng chân Đà Nẵng phố còn khá xinh Nơi đây tìm bạn thâm tình Thưở xưa cùng lớp chúng mình chơi thân Tham quan Cầu Đúc Sông Hàn Điện màu thắp sáng tỏa tràn bờ đê Có thuyền du ngoạn cà phê Nhạc vàng cung bổng đê mê lòng người Nhớ em anh ghé thăm chơi Tỏ tình thân thiện đến nơi bạn chờ Tình quê cảm xúc lời thơ Vui gặp bè bạn ước mơ lâu dài. QUANG BỈNH TIẾNG TRỐNG QUÂN HÀNH Luyện võ dưới trăng quyết rửa hờn Mài gươm bên suối trả công ơn Vinh hoa thấy nhẹ lòng không nản Phú quý xem khinh dạ chẳng sờn Rượu ngọt nửa bầu vơi lửa bỏng Thơ ngâm một túi bớt tình đơn Vó câu dồn dập mờ quan ải Tiếng trống quân hành vang núi sông LANG NGUYÊN XUÂN BẢY LĂM Bước tới bảy lăm chớ nói già Cơm ngày ba bữa khỏe thêm ra Dưỡng sinh tập luyện thường xuyên nhớ Hòa vận giao lưu chẳng bỏ qua Ngâm vịnh đâu màng chi bậc thước Xướng ca thường lệ chốn quê nhà Buộc ràng kẻ sĩ trong trời đất Chôn chặt anh tài với chúng ta. LANG NGUYÊN MẢNH VỤN XUÂN SANG Hàng năm đến độ Xuân về Lòng sao trĩu nặng ê chề thê lương Đâu đây vọng tiếng ễnh ương Nhớ thương quê cũ vấn vương tơ lòng Giờ đây ghi tạm vài dòng Giãi bày tâm sự ngược vòng thời gian Cho dù đời lắm trái ngang Quê hương thương lắm mãi mang nặng tình Mậu Thân sáu tám cực hình Chưa nguôi kinh sợ biết mình biết ta Rời xa xứ Huế bôn ba Mỗi lần Xuân đến mưa sa não nề Nhớ mẹ cha mắt dầm dề Muốn về thăm lắm ê chề tháng năm Ất Mùi Xuân đến trầm ngâm Hai mươi tháng Chạp lâm râm nguyện cầu Xin cho có phép nhiệm mầu Huế luôn khởi sắc, âu sầu cao bay. VŨ THÙY HƯƠNG KHUÔN MẶT BAYON Cuối Thế kỷ 12, Jayavaman VII - Hoàng đế Khmer sau khi đánh đuổi Chămpa xưa và nay đã đem tinh khí muôn dân xây đền Bayon với 54 ngọn tháp 216 khuôn mặt Bồ Tát Lokesvara với những đôi mắt rõi khắp bốn phương và những nụ cười bí hiểm…(*)
Đã hơn 900 năm, những tượng bốn mặt Bayon đứng đó trầm tĩnh thời gian uy nghi nắng gió và lặng thầm những bất hạnh Khmer…
Những đôi mắt Bayon nhìn khắp bốn phương chỉ thấy kẻ thù đã không cứu được các vương triều thua trận.
Và rồi suốt 500 năm, các tượng thần bị lãng quên trong rừng rậm mặc cho các lãnh chúa tranh quyền tàn sát lương dân và có cả trăm năm làm nô lệ nước người.
Phải chăng những đôi mắt Bayon đã không nhìn thấu được thời gian không phân định được bạn - thù, ân - oán ?
Và những nụ cười bí hiểm Bayon những nụ cười mãn nguyện thường khởi đầu cho lịch sử suy vong,
hay là những nụ cười nhẫn nhịn, bao dung thường dễ dãi trao cuộc đời cho bọn người khát máu ?
Mong sao Thần bốn mặt Bayon dẫu bốn mặt nhưng chỉ một trái tim Bồ Tát và ánh lửa diệu hiền từ trái tim sáng ngời lên mắt rõi khắp bốn phương không phải để kiếm kẻ thù mà là để tìm bầu bạn
Và nụ cười bí hiểm Bayon chính là nụ cười thân thiện mang tình thương và sức mạnh thánh thần.
Đó chính là sức mạnh Campuchia đang trên đường thịnh vượng. Võ Kim Cương (10/2015) ____________ (*) Khuôn mặt Quan Âm Bồ Tát cũng như là khuôn mặt Hoàng đế Jayaraman VII.
MỘT CHIỀU LÃNG MẠN Thuyền xuôi nước, gác chèo lên mạng Ngắm trời thanh, mây tản nên thơ Đàn chim vỗ cánh thờ ơ Bay về viễn xứ, sương lờ mờ xa Gió đẩy đưa chiều tà ráng nhạt Ngồi lái ghe, hứng mát hân hoan Mấy ai hưởng được chữ nhàn Trà dư, tửu hậu, điệu đàn thiên nhiên Gõ mạn thuyền, rượu tiên say hát Khúc tiêu dao man mát tuyệt vời Ngao du góc núi, chân trời Tìm lời tri kỷ, tìm người tao nhân Thời tiết nay đang dần nắng tới Ánh thái dương vừa mới gọi hè Vào mùa phượng vĩ đỏ hoe Đợi cơn gió mát, con ve ca tình. Thanh Châu
TỰ TRÀO Nếu như biết tự trào Khôi hài pha châm biếm Lòng dạ bớt hanh hao Vui giao hòa chuyện phiếm Nếu như biết tự trào Lãng đãng tìm xôn xao Nghĩ mình thường dân vậy Bằng hữu tình đổi trao
Sóng dạt dào xô đẩy Nếu như biết tự trào Lúa đơm đòng hạt mẩy Thu nắng vàng thanh cao Hà Nội, Năm 2004 Vũ Mão Self-satirizing Were one to know how to self-satirize And blend comic matters with satirical ones One’s mind will turn less hot and dry And exchanged idle talks will make one happy and fine Were one to know how to self-satirize Indistinctly looking for commotion Considering oneself as a simple private citizen Who simply exchanges friendships with other persons Life waves will be lapping, pushing and showing Were one to know how to be self-satirizing Ears of rice would bring about seeds of fat rice The autumnal gold sunlight will be bright and lofty. Hà Nội 2004 Vũ Mão Translated by Vũ Anh Tuấn TIỆC VUI Người phu xích lô kéo vội cái thắng xe, nhưng chẳng còn kịp nữa! Xe ông đã tông phải chiếc xe đạp của cô bé học trò. Cô ngã lăn cù xuống vệ đường, miệng xuýt xoa vì đau. Chiếc xe của cô chỏng trơ giữa mặt đường, cái bánh trước cong vẹo thành số tám. Ông nhảy vội xuống đường đỡ cô bé dậy, lúng túng hỏi: - Cháu có sao không? - Ơ! Không sao bác ơi. Cô nói thế, nhưng cái mặt nhăn nhó của cô tố cáo cô vừa nói dối… - Thôi, để bác chở cháu vào bệnh viện nhé. Mà cũng xin lỗi cháu… - Không phải tại bác đâu ạ! Tại cháu chạy hơi vội nên… Mà chắc cháu không sao đâu! Người phu xích lô chợt nhớ chai dầu vợ ông hàng ngày để sẵn trong túi áo cho ông, phòng khi ông trái gió trở trời giữa đường. Ông lấy chai dầu khuynh diệp đã cạn một nửa. Cô bé vén cái quần dài lên đến gối, lộ ra vết thương ri rỉ máu. Cô đỡ lấy chai dầu, rồi xức vào đầu gối, miệng xuýt xoa… - Nếu vậy, để bác chở cháu về đến nhà nhé. Chứ xe cháu hư rồi, sao cháu đi được. Rồi hết bao nhiêu tiền sửa xe, bác sẽ bồi thường cho cháu. Nói thế, chứ ông làm gì đủ tiền mà bồi với chả thường. Khe khẽ thở dài cho cái ngày xui xiểm… Ông lại ân cần: - Thế nhà cháu ở đâu. Lên xe đi, rồi bác chở cả người lẫn xe về tận nhà… Đang còn ngần ngại, vì cô biết ông chẳng giàu có gì với cái nghề đạp xích lô. Để ông đền thì tội cho ông quá… Bỗng có ai đó xen vào: - Cho phép tôi giải quyết thế này nhé, ông bạn… Cả hai ngước lên. Kìa là một người đàn ông nom thật lịch sự. Ông nói tiếp: - Đàng nào cũng lỡ rồi. Đường sá chật chội thì chịu thôi. Tôi thấy cháu gái này cũng chỉ bị trầy xước tí chút, có lẽ cũng không sao. Tôi sẵn cái xe máy đây. Cháu lên cho bác chở về đến nhà. Còn anh chịu khó chở dùm cháu cái xe hư này về nhà cháu, rồi tìm tiệm sửa xe nào gần đó. Hết bao nhiêu cho tôi gửi nhé. Công anh chở về, cũng cho tôi được gửi cho vui… Người phu xe ú ớ, chẳng biết nói gì. Cô bé tròn xoe mắt nhìn người khách lạ. Thời buổi này mà vẫn có người tốt bụng đến thế ư! Ông khách lạ vỗ vào vai người phu xe: - Có đáng gì mà anh ngại. Tôi giúp anh, mai mốt anh giúp lại, lo gì… Thế là chiếc xe méo mó được hai người đàn ông khiêng lên, để ngang trên chiếc xích lô cà tàng… Người phu xích lô rối rít cảm ơn con người tốt bụng nọ. Chẳng những ông khách đã trả thế cho ông số tiền sửa xe, mà còn dúi vào túi ông xấp bạc chắc cũng kha khá, miệng cười giả lả: - Kệ! cho các cháu ăn quà. Ông lại còn vời thằng bé bán vé số, mua cho nó 10 tờ, rồi chia cho ông xích lô một nửa, cũng với cái giọng giả bộ hài: - Biết đâu trúng thì chia cho tôi nhé… oOo - Mời bác vào nhà ạ! - Ừ Cô bé dắt người khách vào nhà. Căn nhà đơn sơ mà ngăn nắp. Cái tủ sách xếp lớp những quyển sách ngay ngắn không bám một gợn bụi nào. Có tiếng lẹp kẹp vọng ra. - Thế… Ông vào xơi nước ạ! Rồi một bà trông còn quắc thước hiện ra. Cặp kính làm bà thêm vẻ khả ái. Bà kéo ghế mời ông ngồi - Thế… Ông thật là người tử tế… - Dạ, có gì đâu bà ạ, cháu chỉ… - Thế… Cháu gái tôi đã kể hết cho tôi nghe rồi ông ạ. Thôi thì tôi chỉ biết cám ơn ông mà thôi. Mà ông cho tôi gửi tiền sửa xe và tiền công cho ông xích lô nữa… - Có bao nhiêu đâu bà ơi. Giúp các cháu để mai kia chúng giúp lại người khác là vui rồi. Bà cụ nghe câu này quen quen. Vì chính bà hay nói câu này lắm ! - Thế… Ông ở có gần đây không ạ? - Dạ, cháu ở ngoài Sài gòn bà ạ. - Thế… Ông thấy ù cả tai! Thôi chết rồi! Ông nhớ ra cái giọng của bà rồi! Nhất là cái chữ “Thế” mà bà chêm vào mỗi đầu câu. Ông lén nhìn bà. Đúng thật là cô, cô gì nhỉ… Rồi như điện xẹt qua bộ não, ông nhớ ra… - Dạ, dạ thưa có phải là cô Thoa không ạ? Bà cụ há hốc mồm, tròn xoe mắt nhìn người đàn ông cũng đang nở to đôi mắt nhìn bà. Ông rú lên : - Thôi đúng là cô rồi cô ơi! - Ơ… - Con là Hùng “xiêu” đây cô ạ! Bà vỗ vỗ mái tóc bạc rồi cặp mắt còn rất đẹp của bà làm như sáng hơn - Thế… Thế tôi nhớ ra rồi! Vậy là thầy trò họ nhận ra nhau như vậy đó! Hùng “xiêu” nhớ mãi câu chuyện cũ, câu chuyện cách nay đã hơn 30 năm. Dạo ấy, bố mẹ Hùng nghèo lắm. Hàng ngày, cậu phải mò ra lò bánh mì lấy bánh về cho mẹ bán. Trước đó, cậu còn phải dậy luộc thịt rồi thái ra sẵn cho mẹ. Cậu kiêm luôn vụ thái dưa, hành. Thậm chí rọc sẵn cả giấy gói bánh mì cho mẹ. Vừa thái thịt vừa ôn bài, có hôm lật bật làm đổ cả nước dưa chua ra vở, ố cả trang giấy làm văn, bị cô Thoa tế cho một trận nên thân. Nhưng khi biết hoàn cảnh của gia đình Hùng, cô lại đâm ra thương cậu bé ấy. Rồi cứ chiều đến, cậu lại cầm tiền mẹ đưa, đem ra trả cho chủ lò tiền bánh mì lấy ban sáng. Thường thì thế nào mẹ cũng dúi thêm cho cậu ít đồng ăn chè đậu đỏ bánh lọt. Nghĩ lại, mà Hùng “xiêu” còn nhớ cái cảm giác mát rượi khi nuốt từng thìa chè hấp dẫn… Có hôm, cậu làm rơi mất tiền. Sợ quá, khai thật thì mẹ sẽ la. Hùng không sợ mẹ la cho bằng thấy mẹ khổ vì số tiền đã mất sẽ làm bà thêm lo lắng khi đời sống gia đình đã quá đạm bạc. Cậu bèn khai thật với bà chủ lò. Rồi cậu hứa: - Cháu sẽ nhịn ăn chè để trả cho bác nhé, nhé bác… Nhìn cái dáng liêu xiêu của Hùng, bà vừa thương vừa tức cười : - Ừ! Thì vậy cũng được, nhưng nhớ trả cho nhanh nhé, kẻo tao hết vốn! - Mà bác cũng đừng cho mẹ cháu biết, tội mẹ cháu lắm bác ạ. Ngẫm nghĩ một chút rồi bà cũng “ừ”. Được hai hôm thì xảy ra cớ sự. Một thằng thợ bánh mì lẻo mép đem chuyện bí mật ấy nói cho mẹ Hùng. Dĩ nhiên cậu chối bay chối biến, làm mẹ cũng bán tín bán nghi. Hôm sau, đến lượt thằng Dũng mất tiền. Tiền học bố mẹ cho, nó chưa kịp đóng cho văn phòng, kẹp trong quyển sách bỗng biến mất sau giờ ra chơi. Thằng Dũng bù lu bù loa trong lớp, khiến cô Thoa chẳng biết làm sao bèn dắt nó lên phòng Giám Thị. Lát sau, Thầy Long, gọi cả mấy đứa chung quanh lên, đứa nào đứa nấy tái mét cái mặt. Hùng thì vô can. Nó vẫn chăm chỉ làm bài. Nhưng sao mà tay nó cứ run như bị cảm lạnh vậy kìa. Cô Thoa lại gần nó, bàn tay hiền dịu của cô đặt lên cái trán lấm tấm mồ hôi của nó : - Thế… Em làm sao vậy? Hùng lúng búng, giọng nó run thấy rõ : - Dạ… dạ… em có làm sao đâu! Nó cố gắng lắm mới nuốt được nước bọt. Khỉ thật… Mấy đứa trở về lớp, mặt đứa nào cũng ràn rụa nước mắt. Thằng Dũng khóc như cha chết, vì nó sợ bị bố đánh. Mà bố đánh là ghê lắm, vì thằng Dũng có cái tật chơi bài, nó từng bị bố cho no đòn vì cái tội đáng nguyền rủa ấy. Không khéo, bố nó cứ nghĩ nó lại mụ mẫm vì 52 lá bài xanh xanh đỏ đỏ… Cô Thoa kéo nó lại gần, bảo: - Thế…Đừng nói gì với bố mẹ hết nhé! Hễ bố mẹ hỏi, thì bảo hôm nay phải làm bài lâu quá nên mai đóng, nghe chưa! Cô sẽ lo cho! Thằng Dũng chỉ còn biết hy vọng vào cô thôi nên khẽ gật đầu, miệng còn sụt sùi. Cuối giờ, cả lớp ra về. Cô gọi Hùng lại. Thằng nhỏ tái xanh: - Dạ… - Thế… Hôm nay em lạ lắm. Có chuyện gì thì nói cô nghe đi. Hùng nhìn vào mắt cô. Có cái gì thật nghiêm nghị, lại vừa van lơn. Nó thấy xúc động vô cùng. Cả cái thân xiêu xiêu của nó run bắn lên… - Thế… em lấy phải không? Nó òa khóc, rồi mếu máo gật đầu. Cô thở dài. Rồi cô ôm nó vào lòng. Cô biết nó là đứa học trò ngoan. Chẳng ai nghi nó cả, kể cả thằng Dũng. Chỉ có cô là biết trong lòng nó đang có cái gì ghê gớm mới xảy ra. Sau vài cái “Thế” của cô, thì mọi sự đã rõ ràng. Nó nhìn cô với đôi mắt hoang dại. Cô bóp chặt vai nó, rồi thong thả từng chữ: - Thế… Em phải ra nhà thờ xin lỗi Chúa. Rồi liệu mà lo xưng tội đi. Còn đây, cô cho em tiền để mai mà trả cho lò bánh mì, kẻo tội nghiệp mẹ nhé! - Dạ thôi… Cô quát lên: - Thế… Em có nghe cô không hả? Rồi cô dịu giọng: - Thế… Cô sẽ đem tiền ấy đưa cho Thày Giám Thị, nói là trò Dũng đánh rơi ở dưới bục giảng chứ làm sao. Thế… Cô chỉ nhắn nhủ em một điều, là cô làm việc này để giúp em, vì em có hoàn cảnh khó khăn. Thế… Và với điều kiện, em sẽ học hành giỏi giang để sau này giúp đỡ lại người khác. Thế… hiểu chưa? Lạy Chúa! Những chữ “Thế” của cô sao mà đầy mến thương… thế! Rồi cuộc đời cứ trôi đi như có sẵn một dòng chảy nào đó đã được lập trình sẵn. Kỷ niệm ấy đã làm Hùng mạnh mẽ tiến vào cuộc đời với tâm hồn trong sáng, với ánh mắt vừa nghiêm nghị vừa thương yêu của cô giáo năm nào. Học đường đã rời xa nhưng lòng Hùng vẫn đau đáu về hình ảnh cô giáo thân thương. Ngã rẽ của đất nước cũng là ngã rẽ của biết bao con người, trong đó có Hùng với những tháng năm phiêu dạt. Rồi dần dà, Hùng trở về đất cũ khi tóc đã nhuốm màu thời gian. Ông tìm lại bạn xưa dù chẳng còn mấy người. Ông đi qua ngôi trường năm xưa mà cái tên đã bị gỡ bỏ mà thay vào đó là một cái tên lạ hoắc. Nhưng dẫu sao, ông vẫn cảm thấy có cái gì đó ràng buộc với những viên phấn, những trang giấy học trò, và nhất là… Cô đã dời nhà đi đâu không biết, chỉ biết là cả đời cô cặm cụi với lũ học trò. Không chỉ với Hùng, mà cả với nhiều học trò thiếu thốn, cô luôn dạy thêm cho kiến thức học trò mình mở mang mà chẳng tơ tưởng gì đến những đồng tiền vô vị. Cô lý luận rằng, cô vốn xấu, nên cô chẳng lấy chồng chi cho khổ; và ở một mình thì có cần gì nhiều đến tiền bạc mà ôm vào người cho nặng tâm hồn… Dòng chảy cuộc đời đôi khi trùng lắp. Những ngã rẽ một ngày nào đó rồi cũng gặp nhau. Chiếc xích lô đã đem ông về với kỷ niệm, với mến thương chẳng phai mờ. Cô kể về Ngọc, cháu cô. Nó mồ côi cả cha lẫn mẹ, khi song thân bị nghiền nát dưới chiếc xe oan nghiệt. Bố mẹ nó đều là học trò của cô. Thế nên, cô đem Ngọc về và lo lắng cho nó như con cháu trong nhà. Được cái, nó cũng biết thân biết phận mà nết na học hỏi. Hai bà cháu đã ở với nhau từ mươi năm rồi. Chẳng bao lâu sau, ông Hùng đến nhà bà giáo. - Chào cô! - Thế… Chào anh. Vào nhà đi! Ông chợt tức cười vì cái chữ “thế” truyền thống của bà giáo. Ôm bụm miệng, nhưng kẽ cười đã kịp lọt vào cái tai rất thính của bà. Bà phì cười: - Thế… Chết! tại cô quen rồi anh ạ. Ông chột dạ, lấp liếm: - Cô bảo gì ạ! - …Nếu mà ngày xưa, cô đã cho một roi vì cái tội trêu ngươi đấy nhé. Thế… Rồi bà cười, nụ cười giòn tan - Thế…Hm, có việc gì mà đến cô vậy. - Dạ, ngày 20.11 sắp tới, lũ bạn học con tổ chức tiệc vui để mời cô đến dự, để nói lên lòng biết ơn của trò xưa, cô đến dự nhé… - Thế… Cô bận việc hôm ấy rồi, làm sao đi được. Cô phải đại diện cho phụ huynh lớp con Ngọc mừng ngày Hiến Chương Nhà Giáo rồi. - Ơ! Tụi con tổ chức vào buổi tối cơ mà! - Thế… thì được. - Cô cho cả cháu Ngọc đến nữa nhé. Con sẽ nhờ người đến chở hai bà cháu đi cho tiện. - Thế… không cần đâu. Cô cũng có xe mà. Hai bà cháu sẽ có mặt đúng giờ đấy. - Cám ơn cô quá. Thế nào hôm ấy cũng sẽ rất vui… Vợ chồng ông Hùng dành cả cái sân lót đá để tổ chức ngày vui. Vợ ông tất bật từ sáng sớm. Bà nghe chồng kể rất nhiều lần về bà giáo của ông. Riết rồi bà cũng thấy mến người phụ nữ ấy, dù chưa bao giờ bà biết mặt. Bà vui lây với chồng khi thấy bạn bè của ông dập dìu đến nhà. Họ ôm chầm lấy nhau như tuổi còn thơ. Họ ôm cả bà nữa, khiến bà cảm thấy chính mình mới là bạn của họ. Ai cũng khen bà đẹp, làm cánh mũi bà vốn đã phập phồng vì mấy món ăn còn nghi ngút khói, giờ lại căng thêm ra. - Cô Thoa tới! Cô Thoa tới… Cả nhà nhao nhao lên. Kẻ thì dắt hộ cô cái xe. Ông Dũng thì… bế cả bà lên. Có mấy bà học trò cũ mắt đỏ hoe khi nhìn lại thầy mình ngày xưa. - Tụi mày phải để cô nghỉ cái đã. Ông Hùng la lớn, rồi ông ấn bà vào cái ghế chính giữa dãy bàn đã chưng đầy hoa, cùng các thức ăn hấp dẫn. Khi trật tự đã được vãn hồi. Ông Hùng trịnh trọng đứng lên: - Kính thưa cô, thưa…tụi mày và tất cả… Ô hay! Ông bật khóc. Vâng! Ông khóc mất rồi, vì xúc động quá thể. Thằng Dũng ngày xưa, ngồi kế bên ông phải cấu ông một cái thật đau mới làm cho ông hết sụt sùi. Ông gọi vợ lại đứng bên cạnh để… dựa hơi. Ông cám ơn cô giáo. Ông cười với mọi người. Rồi ông kể lại câu chuyện tiền nong hôm xưa. Miệng cười mà mắt ông đẫm lệ. Vợ ông ôm chặt lấy ông, nước mắt bà cũng trào ra trên đôi mắt đẹp. Ông Dũng cũng đứng lên, nghẹn ngào chẳng nói được gì. Bà giáo chỉ biết huơ huơ hai cái tay thừa thãi, lòng bà thổn thức. - Quên mất, xin lỗi cháu nhé. Hôm nay, tôi xin giới thiệu cháu Ngọc, là cháu của cô giáo cùng đến vui với chúng ta. Cô cũng cho phép con, các bạn cũng cho phép tôi được giới thiệu con trai tôi nhé. Việt ơi, ra đây con. Việt bước ra, lắp bắp: - Con chào bà, con chào các bác ạ! Rồi cậu giật mình, vì ai kia… Mà ai kia cũng giật mình không kém… Ngọc nhào lại phía Việt, cậu ú ớ: - Mai là Ngọc à? Bà giáo lên tiếng: - Đi học thì tên là Mai, về nhà thì tên Ngọc con à. Sao hai đứa con quen nhau ? Hai đứa trẻ đồng thanh lên tiếng : - Tụi con là bạn học cùng lớp mà… Mọi người ồ lên hể hả, cứ như họ mới là nhân vật chính trong câu chuyện vừa chứng kiến. Bỗng Việt chạy vào nhà. Rồi cậu chạy ra, dúi vào tay Mai cái gì đấy. Cô nàng lại đẩy ra. Cù cưa mãi… Bà giáo hỏi Mai: - Gì đấy Ngọc ? - Dạ con trả tiền hôm nọ mượn của Mai để đổ xăng, vì đi học quên đem tiền, nay con trả mà Mai không chịu lấy bà ạ! - Thì hôm nay, Mai giúp Việt. Mai kia Việt giúp lại người khác chứ có gì mà khó đâu? Bà Mai dạy vậy đấy! Họ nhìn nhau. Rồi cùng nâng ly. Những ly bia óng ánh niềm vui. Những ánh mắt tràn đầy thân ái. Họ chẳng biết Việt và Mai đã lẩn đi từ lúc nào… LAM TRẦN (16.11.2014)
Phụ Bản III PICASSO MỘT THIÊN TÀI CỦA THẾ KỶ QUỐC ẤN tổng hợp Chưa một họa sĩ nào, lúc sinh thời, lại được nói đến một cách rầm rộ, mang vòng hoa tuyệt đỉnh danh dự như Picasso. Họa phẩm của Picasso đắt như vàng trong khi hầu hết những người ngắm tranh Picasso đều chẳng hiểu gì cả. Chẳng hiểu gì cả, nhưng vẫn có người dám tung hằng vài trăm triệu bạc Việt-Nam để mua một bức tranh Picasso treo chơi và gìn giữ như một kho tàng quý giá, đó là một hiện tượng lạ lùng nhất thế kỷ! Đầu thế kỷ 20, ra khỏi trường Mỹ thuật Barcelone, với số tuổi 20 đầy thơ mộng, Picasso chỉ biết tìm cảm hứng qua các tác phẩm của những họa sĩ tài danh và theo những vết chân cũ của họ, nhất là phái “fauvisme” như Matisse, Marquet, Derain v.v… Bực thầy mà Picasso chịu ảnh hưởng nhiều hơn hết là Cézanne. Phải sáng tạo một nghệ thuật mới Tháng 4 năm 1904, họa sĩ trẻ tuổi vô danh Picasso sang Paris tìm cách sinh sống trong một xưởng họa tồi tàn ở ngôi nhà dơ dáy đường Ravignan, thuộc xóm Montmartre. Ban đầu, Picasso chỉ biết tranh đấu cho khỏi chết đói, chết lạnh thôi. Nhưng lần lần, ông cảm thấy mình cần phải ra khỏi những con đường mòn đã có sẵn. Ông nghiên cứu Cézanne và nhận thấy hướng đi của mình, một hướng đi đầy khó khăn, nguy hiểm. Bạn ông, hai nhà văn Max Jacob và André Solmon cố gắng khuyến khích ông. Max Jacob giới thiệu với Picasso thi sĩ Guillaume Apollinaire, và nhà thơ đã nói với họa sĩ: “Trong thế kỷ vừa chớm nở nầy, cần phải sáng tạo một nghệ thuật mới. Phải làm một cái gì mới”. Cái gì mới ấy, Picasso làm được năm 1907. Ông trình diện với các bạn hữu một bức họa dưới tên “Các cô gái ở Avignon” (Les demoiselles d’Avignon), dài 2 thước rưỡi. Các bạn ông tưởng ông phát điên. Cả Apollinaire, người khuyên ông sáng tạo một nghệ thuật mới cũng sững sờ trước bức tranh. Thật ra, đó là năm gái đĩ. Ba cô bên trái xấu xí, mà hai cô bên mặt thật quái dị, nhất là cô ngồi gây “xì-căng-đan” trong số người ngắm tranh. Guillaume Apollinaire đưa đến đường Ravignan một họa sĩ trẻ phái fauvisme tên là Georges Braque. Braque - sau nầy cũng vang danh khắp thế giới - sửng sốt, bảo Picasso: “Lối họa của anh như là muốn bắt chúng tôi nuốt xơ gai uống dầu lửa”. Nhưng chỉ có Braque hiểu được Picasso muốn gì. Trường phái lập thể xuất hiện Một trong những vấn đề căn bản trong hội họa là diễn tả trên vải phẳng cảm giác “nổi” của những đường nét trong tranh. Các họa sĩ cổ điển đã đạt được mục đích ấy với nghệ thuật “tranh tối tranh sáng”, tạo chiều sâu với những vùng tối xen lẫn với ánh sáng. Picasso xoay hướng sự khó khăn với một phương pháp khác là sự méo mó mượn ở lối điêu khắc của người da đen hoặc nghệ thuật của dân xứ Ibérie (miền Nam núi Caucase) vào Trung cổ thời đại. Sau nhiều cuộc gặp gỡ và thảo luận sôi nổi về một đề tài làm cả hai say sưa là “những khối lượng trong hội họa”, và từ những cuộc thảo luận đó nảy sanh trường phái “cubisme” (lập thể) Khoảng 1912, tranh lập thể gặp những phản ứng mạnh mẽ của công chúng, đến nỗi nhiều người yêu cầu chánh phủ cấm tranh lập thể vào các viện bảo tàng. Tuy nhiên, trường phái lập thể thêm được tên nhiều họa sĩ nổi tiếng sau nầy như Gris, Léger, Marcoussis, Metzinger, Gleizes, Delaunay, La Fresnaye và nhiều người khác. Riêng Picasso, ông lại từ bỏ lối lập thể giải tích để đi về lối lập thể tổng hợp ít bị công chúng phản đối hơn. Trong lối lập thể nầy, những miếng vải dầu láng, những gói thuốc lá hoặc những mảnh báo lẫn lộn với những đồ biểu theo một quan niệm mới: “Trong hội họa, không những chỉ mô phỏng theo thiên nhiên mà còn phải bắt chước thiên nhiên ngay lúc những họa phẩm sự vật vừa được cấu tạo. Phải sáng tạo những họa phẩm không theo một kiểu mẫu đã có sẵn y như thiên nhiên sáng tạo cây và hoa”. Nghĩa là họa sĩ muốn làm y như Thượng đế. Nhưng trường phái lập thể không sống lâu. Trận thế chiến 1914 phân tán các nhóm họa sĩ gồm những công dân của các quốc gia khác. Tuy nhiên, Picasso vẫn còn tiếp tục nhiều họa phẩm lập thể. Ngay lúc đang diễn ra trận Verdun năm 1917, ông đã dùng lối họa phẩm lập thể để trang trí cho vũ điệu “Parade” của Diaghilev theo một chủ đề của Jean Cocteau, nhạc của Erik Satie tại rạp hát Châtelet. Lối trang trí nầy đã bị khán giả huýt sáo phản đối. Nhưng Picasso lại nghe theo những tiếng gọi khác, tiếng gọi của lối họa cổ điển pha lẫn với siêu thực. Rồi bỗng nhiên, những phụ nữ mang hai con mắt trên một gò má xuất hiện. Một hiện tượng không dính dáng gì với hội hoa. Picasso xúc động dữ dội trước sự tàn phá thành phố Guernica do phi cơ Đức trên lãnh thổ Tây Ban Nha, quê hương thân yêu của ông, trong cuộc nội chiến 1937. Ông muốn hét lên gọi thế giới văn minh tiếp cứu. Để diễn tả thảm họa chiến tranh, ông phải dùng đến nghệ thuật lập thể. Những nhân vật trong tranh được nhìn từ nhiều điểm khác nhau: những gò má có hai con mắt, cặp mắt không cùng hàng, mũi của con quỷ đầu trâu (minotaure) cao hơn trán, mặt vừa bán diện vừa trực diện, những cái miệng méo xệch đang gào thét. Vật và người lẫn lộn, hỗn độn. Có lẽ đây là trường hợp duy nhứt trong lịch sử hội họa mà một họa sĩ quay về với kỹ thuật cũ để diễn tả xúc cảm của mình. Bức họa kết án chiến tranh nầy còn có một giá trị khác nữa. Nó giúp ta phương pháp ngắm tranh Picasso mà không bị lạc hướng vì những nét táo bạo của họa sĩ. Trong sự hỗn tạp, trong những gương mặt không giống với thực tế của những bức tranh trừu tượng nầy, người ta chỉ chờ đợi một khích động. Một người đàn bà nâng đứa con đã chết lên phía con bò mộng, một người khác từ mái nhà rơi xuống, cháy như một cây đuốc… đó là những gì ta phải thấy bằng tim hơn là bằng mắt. Với những kẻ đau khổ cùng cực thì mắt nằm ở đỉnh đầu, mũi, ở trán hay ở nơi ta quen nhìn, phỏng có gì khác biệt đâu! Picasso không hề từ bỏ thiên nhiên. Trong giai đoạn đầu, ông vẽ một bức tranh như những gì mà mắt ta thấy được. Thí dụ: Khi dùng Jacqueline Roque làm mẫu (cũng là người vợ cuối cùng của ông), Picasso vẽ một bức tranh thật sát với thiên nhiên. Từ bức tranh ấy làm khởi điểm, ông mới đưa ra những bức tranh khác đường nét vô cùng táo bạo. Nghĩa là ông cố tình làm xấu đi những nét đẹp trong bức tranh đầu tiên, để cho ta, chẳng những chỉ nhìn tranh bằng mắt, mà phải nhìn bằng cả tâm hồn. Ấy thế mà lối vẽ kỳ dị ấy đã gây những ảnh hưởng lớn lao khắp thế giới, chẳng những trong hội họa mà khắp mọi lãnh vực. Ông đã bắt buộc người thưởng thức tranh phải bỏ mọi quan niệm nghìn đời về cái đẹp để tìm cái đẹp trong sự phức tạp và hỗn độn của một lối hội họa lạ lùng. Cái thiên tài của ông là ở chỗ đó! ECHO – TOUT SAVOIR ĐỖ THIÊN THƯ st.
Rùa và Thỏ Tổng hợp – Trí tuệ thắng Sức mạnh (tiếp theo số 99 tháng 8/2014 tr.110) Mỗi ngày Thỏ con thấy Cụ Rùa khệ nệ lê tấm thân già, đủng đỉnh đi dạo nó vẫn không hiểu tại sao dòng họ nó đã từng thua Cụ Rùa chậm chạp kia tới 3 lần. Có lẽ vì chậm chạp như vậy mà cụ nào cũng kéo dài tuổi thọ trên trăm tuổi là chuyện bình thường, có cụ thọ tới 700 ấy chứ. Còn dòng giống nhà thỏ có lẽ chạy nhanh quá nên thu ngắn thời gian sống chỉ trong vòng từ 4 đến 10 niên là cùng, không bằng số lẻ của cụ rùa. Sau khi đã nghiên cứu kỹ từng trận thua của Thỏ Cụ ngày xưa, Thỏ con ta đề nghị Rùa con đua và đề xuất ra hành trình và cách đua: Đường đua phải có xuất phát, phải có đích đến, tránh trường hợp rùa rụt vào mai rồi hô to: “my home” là thắng. Để cho chắc ăn, Thỏ con ta còn đề nghị gắn chíp để không có việc tráo người trong quá trình đua cho dù nhân bản vô tính cũng bị phát hiện. Cuối cùng Thỏ con ta với ý chí phục thù đã siêng năng tập luyện không sao nhãng. Hắn bỏ tất cả những buổi hẹn hò ăn nhậu với các chàng thỏ, cùng các cuộc vui chơi với các nàng thỏ đáng yêu để chỉ tập luyện và luyện tập. Và rồi khi ngày đua tới, Thỏ con ta hãnh diện bước vào đường đua với 1 cái nơ đỏ trong đó có gắn chíp để theo dõi. Rùa con cũng bước vào mức khởi hành với sự lề mề vốn có của nhà rùa cùng cái nơ đỏ có gắn chíp trên lưng - vì không thể buộc nơ vào cổ được - để kiểm tra bước đi của Rùa Tại nơi xuất phát, thầy giáo Cú đẹp trai - hậu duệ của thầy giáo Cú già ngày xưa - với cặp kính thư sinh tay cầm Ipad đang kiểm tra đường đua. Gia đình Gấu vẫn được vinh dự phất cờ tại đường đua và quần chúng là muôn thú trong rừng vẫn là phe ủng hộ Thỏ con. Thế rồi chỉ một lát sau khi xuất phát, tất cả đã thấy Thỏ ta tại mức đến với khuôn mặt thật rạng rỡ. Bạn bè của Thỏ hò reo vang cả khu vườn. Tất nhiên “Thỏ thắng” theo lời tuyên bố dõng dạc của thầy giáo Cú trẻ. Cả giờ đồng hồ sau mới thấy Rùa con từ từ tiến tới. Đón chàng là Cụ Rùa già năm xưa. Cụ Rùa già đưa tay gõ nhè nhẹ lên mai của chú Rùa con, động viên chàng và rù rì vào tai chàng điều gì không biết, chỉ thấy chàng Rùa nhanh nhẩu chạy đến Ban tổ chức xin tái đấu 3 ngày sau. Thỏ con ta đang trong cơn hưng phấn nhận lời ngay lập tức. Ngày hẹn đã tới, vẫn trang bị đầy đủ để không gian lận trong khi thi, sau cờ lệnh của bác Gấu, Thỏ ta lại phóng như tên bắn khiến khán giả ủng hộ phải một phen bị hít khói bụi huống chi là chàng Rùa. Nhưng lần này chỉ khác với lần trước một chút là mức đến của đường đua là bên kia sông, nên khi đến gần bờ sông Thỏ ta cứ lăng xăng nhảy qua nhảy lại tức tối mà chẳng dám nhúng chân xuống nước. Cuối cùng thì Thỏ ta bất lực ngồi đó nhìn Rùa con từ từ bơi qua sông và tới đích một cách chậm rãi. Bên kia sông, một lần nữa thầy giáo Cú trẻ dõng dạc tuyên bố “Rùa thắng”. Mọi thú vật trong rừng lại hoan hô vang dội cho sự thông minh của dòng họ nhà rùa. Sau khi cõng vòng hoa giải thưởng, chàng Rùa con lặng lẽ tách khỏi đám đông, bơi trở lại giòng sông nơi chàng Thỏ con đang rầu rĩ. Rùa con ta tâm sự: - Bạn à, mỗi chúng ta đều có mặt mạnh riêng của mình: anh chạy nhanh, tôi biết bơi. Sở dĩ ta thắng được nhau là do ta biết tận dụng mặt mạnh của mình. Tôi với anh bây giờ huề. Chúng ta cứ phát triển những khả năng vốn có và vận dụng chúng để cùng thành công nhé. - Cám ơn bạn, thế mãi mãi chúng mình là bạn nhé. Từ đó chúng ta không còn nghe thấy cuộc thi giữa thỏ và rùa nữa. Kết luận: Mỗi một cá nhân đều có điểm mạnh và điểm yếu: “Nhanh như thỏ” và “Chậm như rùa”, nhưng nếu biết tận dụng những điểm mạnh của mình thì sẽ thành công. Việc thay đổi một chút trong cuộc chơi cho phù hợp với khả năng của Rùa đã đem lại thành công cho Rùa con, khiến Thỏ con phải chấp nhận “tâm phục khẩu phục” sự thông minh của họ nhà rùa. Hà Mạnh Đoàn
GIỚI THIỆU VỀ CÔN ĐẢO Côn Đảo là tên một quần đảo ngoài khơi thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cách Vũng Tàu 97 hải lý và cách sông Hậu 45 hải lý. Côn Đảo hay Côn Sơn cũng hay dùng cho tên của hòn đảo lớn nhất trong quần đảo này. Sử Việt trước thế kỷ 20 thường gọi đảo Côn Sơn là đảo Côn Lôn. Tên gọi cũ trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp là Poulo Condor. Năm 1977, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định tên gọi chính thức là Côn Đảo. Côn Đảo cũng là đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Côn Đảo có cùng một kinh độ với Thành phố Hồ Chí Minh (106°36′ Đông) và cùng một vĩ độ với tỉnh Cà Mau (8°36′ Bắc). Lịch sử Côn Đảo nằm ở vị trí thuận lợi trên đường hàng hải nối liền Âu - Á, vì vậy Côn Đảo được người phương Tây biết đến rất sớm. Năm 1294, đoàn thuyền của nhà thám hiểm người Ý Marco Polo, gồm 14 chiếc trên đường từ Trung Hoa về nước bị một cơn bão nhấn chìm mất 8 chiếc, số còn lại đã dạt vào trú tại Côn Đảo. Từ thế kỷ 15 - thế kỷ 16 có rất nhiều đoàn du hành của châu Âu ghé qua thăm Côn Đảo. Cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 các nhà tư bản Anh, Pháp đã bắt đầu để ý đến các nước phương Đông. Nhiều lần các công ty của Anh, Pháp cho người tới Côn Đảo điều tra, dò xét tình hình mọi mặt với dụng ý chiếm Côn Đảo. Năm 1702, năm thứ 12 đời Chúa Nguyễn Phúc Chu, Công ty Đông Ấn của Anh đổ quân lên Côn Đảo xây dựng pháo đài và cột cờ. Sau 3 năm, ngày 03/02/1705 xảy ra cuộc nổi dậy của người Mã Lai Macassar (lính đánh thuê của chính quyền Anh), đoàn quân Anh phải rời bỏ Côn Đảo. Ngày 28/11/1783, Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), trong chuyến đem hoàng tử Cảnh và vương ấn của Chúa Nguyễn Ánh về Pháp, tự đứng ra đại diện cho Nguyễn Ánh để ký với Bá tước De Mantmarin, đại diện cho vua Louis XVI của Pháp, Hiệp ước Versailles. Đó là văn kiện đầu tiên của nhà Nguyễn nhượng cho Pháp chủ quyền cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn. Để đổi lại, Pháp giúp Nguyễn Ánh 4 tàu chiến, 1200 lính, 200 pháo thủ, 250 người lính Phi để chống lại nhà Tây Sơn. Tương truyền, trong đợt thứ 3 bị Tây Sơn truy sát Nguyễn Ánh đã trốn ra Côn Lôn. Sống ẩn dật mấy tháng trời ở đây. Vì thế, hiện nay ở đảo Côn Sơn có một ngọn núi cao gọi là núi Chúa. Đền thờ thứ phi của Nguyễn Ánh là Hoàng Phi Yến ở làng An Hải và Miếu Cậu thờ Hoàng tử Cải con của thứ phi Hoàng Phi Yến tại làng Cỏ Ống. Ngày 01/9/1858, Pháp tấn công Đà Nẵng, chiếm đóng bán đảo Sơn Trà, chuẩn bị đánh Huế. Tháng 4/1861, Pháp đánh chiếm Định Tường. Chính trong thời gian này, Pháp khẩn cấp đặt vấn đề chiếm đóng Côn Đảo vì sợ Anh chiếm mất vị trí chiến lược quan trọng này. 10 giờ sáng ngày 28/11/1861, Bonard (thủy sư đô đốc Pháp) hạ lệnh cho thông báo Norzagaray đến xâm chiếm Côn Đảo. Trung úy Hải quân Pháp Lespès Sebastien Nicolas Joachim lập biên bản “Tuyên cáo chủ quyền” của Pháp tại Côn Đảo. Ngày 14/01/1862, chiếc tàu chở hàng (Nievre) chở một số nhân viên ra đảo, họ có nhiệm vụ tìm vị trí thuận lợi dựng tạm hải đăng Côn Đảo, nhằm chống chế nếu có nước nào phản kháng hành động tuyên bố chủ quyền. Nhà tù Ngày 01/02/1862, Bonard ký quyết định thành lập nhà tù Côn Đảo, và từ đó biến Côn Lôn thành nơi giam giữ những người tù chính trị Việt Nam với hệ thống chuồng cọp nổi tiếng. Quần đảo Côn Lôn trước khi thuộc Pháp, thuộc tỉnh Hà Tiên, sau đổi cho tỉnh Vĩnh Long quản lý. Ngày 16/5/1882, tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh công nhận quần đảo Côn Lôn là một quận của Nam Kỳ. Tháng 9/1954 chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục chế độ nhà tù của Pháp và đổi tên quần đảo Côn Lôn thành hải đảo Côn Sơn. Ngày 22/10/1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thành lập tỉnh Côn Sơn. Ngày 24/4/1965, Việt Nam Cộng hòa đổi tỉnh Côn Sơn thành cơ sở hành chính Côn Sơn, trực thuộc Bộ Nội vụ và chức tỉnh trưởng được đổi thành Đặc phái viên hành chính. Sau Hiệp định Paris, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu lại đổi tên quần đảo này một lần nữa là Phú Hải. Các trại tù đều được ghép thêm chữ Phú. Giai đoạn này số tù nhân lên đến 8.000 người. Với chế độ tàn bạo của nhà tù, khoảng 20.000 người Việt Nam đã chết và được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng Dương. Côn Đảo hôm nay Ngày 01/5/1975 Côn Đảo được giải phóng. Tháng 5/1975, Côn Đảo được gọi là tỉnh Côn Đảo Tháng 01/1977, trở thành huyện Côn Đảo thuộc tỉnh Hậu Giang Tháng 5/1979, trở thành quận Côn Đảo thuộc Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo Tháng 10/1991 đến nay là huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Bộ máy hành chính và dân cư Hiện nay Côn Đảo là một huyện có chính quyền một cấp, thông qua các cơ quan chức năng huyện, trực tiếp đến địa bàn dân cư, không có các cấp phụ thuộc như xã, phường hay thị trấn. Dân số tính đến cuối năm 2003 là 4.466 người, thuộc 9 khu dân cư. Người dân Côn Đảo luôn được đánh giá là hiền lành, chất phác và rất thân thiện. Côn Đảo đã được phủ sóng điện thoại và chất lượng sử dụng rất tốt. Hiện có 3 mạng điện thoại di động phủ sóng là Vinaphone, Mobifone và Viettel. Ngoài ra có mạng điện thoại cố định không dây của Viettel. Cuối tháng 8/2007, Côn Đảo đã có kết nối Internet tốc độ cao ADSL. Ngoài ra, Côn Đảo còn có đài phát thanh và truyền hình. Thị trấn Côn Đảo Nằm trên một thung lũng hình bán nguyệt ở tọa độ 106°36′10″ kinh độ Đông và 8°40′57″ vĩ độ Bắc. Cao độ trung bình khoảng 3m so với mặt nước biển. Chiều dài từ 8 đến 10km và chiều rộng từ 2 đến 3km. Một mặt trông ra biển (Vịnh Đông Nam). Ba mặt còn lại vây quanh là núi, chính nơi đây tập trung toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của quần đảo. Thị trấn Côn Đảo nằm ở khoảng giữa của sân bay Cỏ Ống và cảng Bến Đầm (khoảng cách ước chừng là 12km). Thị trấn Côn Đảo là nơi tập trung dân cư, khu resort nghỉ dưỡng phục vụ du khách và các đơn vị hành chính của huyện Côn Đảo. BÙI ĐẸP st. Chụp ảnh cưới ở đâu ? Hai anh chị sắp cưới rủ nhau đi chụp hình ngoại cảnh để làm album ảnh. Bác phó nhòm gợi ý: - Chụp cảnh công viên nhé? - Bọn em không phải dạng quấn nhau trên ghế đá anh ơi. - Vậy khung cảnh chùa? - Ý anh là cưới xong ăn chay hả? - Thôi ở thềm nhà, hai vợ chồng thổi bong bóng? - Anh nghĩ là bọn em đang xây dựng hạnh phúc bong bóng à? - Vậy ra bờ sông đi, có cái cầu đẹp lắm, chú rể trên bờ, cô dâu đứng phía dưới. - Như vậy là bọn em cứu vớt đời nhau hả anh? - Khó ghê, thôi thể hiện khung cảnh thể thao cho nó mạnh mẽ. Bóng đá nhé? - Bọn em không muốn giành giật với ai hết. - Hay là vườn hoa đi. - Cái đó sớm nở tối tàn lắm anh. - Cảnh đồng quê, cây rơm gốc rạ? - Dạ thôi, người ta nói lửa rơm mau tàn lắm, anh đừng trù ẻo tụi em. - Thì lên lầu cao? - Bậc cửa nhà người cao quá khó leo, trắc trở về sau anh ạ. - Lấy cảnh siêu thị? - Bọn em đâu có phải tình yêu chợ búa. - Nhà hàng? - Mì ăn liền hả anh? - Phi trường? - Anh nghĩ là sẽ xa nhau biền biệt sao? - Trường học? - Hôn nhân đâu phải kỳ thi mà xin điểm hả anh! - Phòng ngủ? - Anh nghĩ bọn em chỉ có thế thôi à? - Hiệu sách? - Toàn tiểu thuyết chia tay mới đẹp mà anh. - Khu du lịch, nhé? - Bọn em đâu có định chặt chém nhau. - !!!!!(%*)&#@$@$DKM 2 đứa mày!! Tao đưa chúng bay ra nghĩa trang chụp khung cảnh “Đến chết thiếp vẫn nguyện cùng chàng nhé”. Hà Mạnh Đoàn st THẰNG NHÓC Histoire d'un Enfant của Alphonse Daudet CÁI HŨ NƯỚC Ở được một tháng, thì bà vú già Annou ngã bệnh… Sương mù đã làm hại bà. Người ta buộc lòng phải gởi trả bà về lại quê hương miền Nam. Bà Annou thì rất thương mến mẹ tôi, nên không chịu rời xa. Bà van xin được ở lại, và hứa là sẽ khỏe ra. Người ta phải cưỡng lý mà đưa bà về, trong sự hối tiếc. Bà vú già Annou đi rồi, mà không có người thay thế, làm cho tôi cảm thấy khốn khổ tràn trề. Bà vợ của chú gác cổng phải lên phụ giúp công việc nhà; vì cha tôi không muốn ngọn lửa bếp làm chai cứng bàn tay dịu dàng của mẹ tôi, mà tôi rất thích nâng niu… Còn về phần thức ăn, thì có anh Jacques đảm nhiệm. Me tôi trao cho anh một cái giỏ xách cập tay, và bảo: “Mầy mua cái nầy. Mầy mua cái kia”, và anh mua cái nầy, anh mua cái kia rất giỏi, dĩ nhiên là trong nước mắt. Tội nghiệp cho anh Jacques, anh không được thoải mái. Ông Eyssette cứ nhìn thấy anh, lúc nào cũng nước mắt lưng tròng, nên tức giận đến đỗi phải cho anh vài cái tát tai. Ngày nào người ta cũng nghe ông quát tháo: “Jacques, mầy là đồ thú. Jacques, mầy là con lừa”. Kết quả là cha tôi càng phiền hà bao nhiêu, thì anh Jacques càng mất tự chủ bấy nhiêu. Sự cố gắng cầm giữ mấy giọt nước mắt, làm cho anh trở nên xấu xí hơn. Sự sợ hãi làm cho anh phải vụng về và đây là vở kịch của cái hũ nước… Vào một buổi chiều, người ta mới phát hiện ra là không còn một giọt nước uống nào ở trong nhà. Anh Jacques tốt bụng vội nói: - Mẹ ơi, để con đi lấy nước cho. Mẹ tôi bèn trao cho anh một cái hũ sành to; ông Eyssette nhún vai bảo: - Nếu để cho thằng Jacques đi lấy nước, thì cái hũ sẽ bể là cái chắc. Mẹ tôi bình thản bảo: - Mầy có nghe không Jacques? Phải cẩn thận, đừng làm bể nhé. Ông Eyssette nói tiếp: - Ờ, dù cho bà có bảo nó đừng làm bể, nó vẫn cứ làm bể cho bà xem. Tới đây, Anh Jacques mới nức nở trả lời: - Nhưng mà tại sao cha cứ muốn cho con phải làm bể cái hũ. Ông Eyssette bảo: - Tao không muốn bảo mầy làm bể cái hũ. Tao chỉ nói là mầy sẽ làm bể cái hũ thôi. Không dám cãi, Anh Jacques nắm cái hũ và vội vã ra đi, như thầm bảo: “Vâng, tôi sẽ không làm bể cái hũ đâu, hãy chờ xem”. Năm phút… rồi mười phút trôi qua, mà anh Jacques vẫn chưa trở về… Bà Eyssette bắt đầu lo lắng: “Miễn là đừng có chuyện gì xảy ra cho nó” Ông Eyssette nói với giọng bực tức: - Được rồi, bà muốn điều gì xảy ra cho nó. Nó đã làm bể cái hũ rồi nên không dám trở về. Nói xong, ông hậm hực đứng lên, và đi ra mở cửa, để xem coi anh Jacques đang làm gì. Ông không cần phải đi đâu xa, anh Jacques đang đứng ở bực thềm trước cửa, với hai tay không, im lặng như trời trồng. Thoạt nhìn thấy cha tôi, anh tái xanh mặt đi, anh nói với một giọng áo não nhỏ nhẹ, hết sức nhỏ nhẹ: - Tôi đã làm bể cái hũ rồi. Anh Jacques đã làm bể cái hũ thật sự rồi. Trong tài liệu gia phả của nhà họ Eyssette, chúng tôi gọi đó là: “Kịch Bản Cái Hũ Nước”. (Còn tiếp) Thanh Châu dịch thuật
TRUYỆN VUI THỜI @ BẠN TÔI XXII hay là ĐẤT VIỆT ĐÂU THIẾU NGƯỜI TÀI? Đã gần hai năm nay, vì một số công việc bận rộn, tôi đã không gặp bạn tôi, tuy tôi vẫn nhớ anh lắm. Phía anh, anh cũng có một số việc phải giải quyết nên cả hai chúng tôi thông cảm với nhau và không ai muốn làm lỡ việc của ai. Nhưng lúc 7 giờ sáng nay tôi nhận được điện thoại của anh hẹn tôi đí ăn cơm trưa với anh sau gần hai năm xa cách, tôi mừng quá, vui vẻ nhận lời ngay, và trưa nay hai chúng tôi đã gặp và đã hàn huyên trên 2 tiếng đồng hồ từ lúc 11 giờ tới giờ. Gặp anh tôi mừng quá, vì thấy sau hai năm anh vẫn không thay đổi là bao nhiêu, vẫn tươi cười, vẫn đi đứng nhanh nhẹn như một tráng niên, như để minh họa cho một câu khoe tuổi của anh rất là nổi tiếng và đó là câu “mới hết hai mươi tuổi có lần thứ tư”, tuy nhiên tôi cũng ghi nhận ngay được môt thay đổi nhỏ nơi anh: đó là hàm răng trên và hàm dưới đều mất một răng và ở cùng một địa điểm nên trông như một cái cửa nhỏ để mở. Tôi hơi ngạc nhiên vì tôi biết anh không thiếu thốn gì, và là người rất coi nhẹ tiền bạc, nhưng không hi ể u sao anh không đi làm răng, hơn nữa tôi còn biết rằng anh chơi thân với hai cô nha sĩ giỏi lúc nào cũng sẵn sàng tiếp, và làm cho anh ngoài giờ. Tôi liền hỏi lý do tại sao anh để vậy và được anh trả lời một câu không hề kém phần têu tếu. Anh ta nói: “Tuấn còn lạ gì hai cô nha sĩ bạn tôi lúc nào cũng sẵn sàng giúp, nhưng tôi cố tình để mở như vậy, để làm gì Tuấn biết không? Để cho quý mẫu hậu của tôi được hoàn toàn tự do, ra vào tùy thích, tùy hứng!”. Hai chúng tôi gặp nhau ở quán Ngân Nga, một quán ăn rất ngon và giá cả thật hợp lý của hai vợ chồng một nhà giáo cũng là bạn tôi. Sau mấy phút hàn huyên thăm hỏi lẫn nhau, tôi hỏi anh lý do nào khiến anh hôm nay lại nổi hứng hẹn tôi đi ăn thế này. Anh cho biết anh có một tâm sự nhỏ muốn thổ lộ với tôi. Tôi trả l ờ i anh là tôi rất hào hứng xin nghe và mời anh kể ngay trong khi ăn. Sau đây là nguyên văn tâm sự nhỏ của anh: Tuấn biết không, lúc này mình cũng đỡ bận lắm rồi, và thường xuyên vào Facebook đọc những bài và hình ảnh Tuấn đưa lên mỗi ngày, vì tuy không gặp nhưng mình vẫn nhớ cậu lắm, và Facebook đã giúp mình đỡ nhớ và yên tâm về cậu. Nhưng sáng nay, cậu có thấy trên Facebook có một người đưa lên hình một người Ấn Độ 66 tuổi chụp chung với 39 người vợ và khoảng 100 người con và cháu. Trên hình là một người đàn ông đứng trước khoảng gần 150 người là 39 bà vợ và con và cháu của ông ta. Lời bình luận cho biết vắn tắt là tất cả 39 bà vợ và cả nhà đều vui vẻ chung sống ở cùng một nơi. Và rồi là có tới 6, 7 lời bình luận đều khen là hạnh phúc, là giỏi, là thật đặc biệt v.v... Mình hơi bực mình khi xem hình đó và nghĩ ngay tới việc mời cậu đi ăn để gặp lại và trút bầu tâm sự. Tuấn biết không, người mình bình luận hơi vội vàng, và ít chịu suy nghĩ là mình chỉ được trông thấy cái hình như vậy, và được thông báo là tất cả họ chung sống với nhau vui vẻ, thế thôi, nhưng những người bình luận không chịu nhận xét là trông vậy mà có phải vậy không, có đúng vậy không, có đúng là hạnh phúc thật không? Theo mình nghĩ, mình chỉ có thể thực sự biết là mọi chuyện có tốt đẹp, có hạnh phúc thật, có không lộn xộn gì thật không KHI MÌNH LÀ NHỮNG NGƯỜI HÀNG XÓM SỐNG GẦN HỌ, có đúng không Tuấn, và chỉ sau khi biết được thật đúng thì mới khen cũng đâu có muộn, và có chết anh tây nào đâu? Tôi hoàn toàn đồng ý với anh và cho là anh có lý khi nói rằng chưa biết gì rõ ràng, mà đã vội hùa nhau khen rối rít. Hai chúng tôi ngưng nói tiếp một lúc để ăn cơm, và sau độ nửa tiếng ăn khá no rồi, anh lại bảo tôi: “Này chưa hết chuyện đâu, còn chuyện này mới quan trọng, cậu ráng mà nghe cho kỹ nghe, lý do tôi hơi bực mình là, ngoài việc khen vội khen vàng, việc quan trọng hơn nữa là việc người mình chỉ vội cho ngoại bang là giỏi, là tuyệt vời, mà chẳng chịu tìm hiểu để BIẾT RẰNG NGƯỜI ĐÀN ÔNG ẤN ĐỘ NÀY CHƯA PHẢI LÀ NGƯỜI HAY NHẤT VỀ VẤN ĐỀ NHIỀU BÀ XÃ ĐÂU. VÌ TÔI CÓ MỘT NGƯỜI BẠN (đương nhiên là người Việt mình) HAY HƠN NHIỀU! Nghe anh nói vậy tôi khoái quá, và giục anh cho biết liền, tôi sẽ rỏng tai nghe, và viết bài phổ biến cho bạn bè cùng biết. Sau đây lại là nguyên văn những gì anh kể: Tuấn ạ, ông bạn Ấn Độ này có tất cả 39 bà, trong khi ông bạn tôi có tổng cộng 51 bà là những người ông đã chung sống trong các khoảng thời gian, ngắn dài khác nhau, nhất là trong thời gian 2 lần 20 tuổi, sau này thì chi còn 3 bà ở Mỹ và 1 bà ở quê nhà. Ba bà mà ông thường gọi đùa là Quốc Hội đã qua Mỹ thì nay chỉ còn lại một bà ở bang Arkansas, còn hai bà trước đã… du tiên cảnh. Điều này chứng tỏ Đất Việt mình đâu thiếu người tài? Chỉ có điều là mình không thèm khoa trương thôi. Mà theo tôi chuyện 39 bà Ấn Độ không biết có sống chung hòa thuận hay không thì không biết, nhưng 51 bà người Việt mình của ông bạn tôi thì lại có phần hay hơn, vì trong gần 60 năm, bà nào vẫn ở nhà bà ấy MÀ KHÔNG HỀ CÓ CHUYỆN GHEN TUÔNG HAY SÌ CĂNG ĐAN nào hết trọi. Tôi phục bạn tôi quá và tìm hiểu, sau mới biết được rằng ông bạn tôi làm được vậy VÌ ÔNG LUÔN THÀNH THẬT KHAI BÁO không gian manh nói leo lẻo: “Anh chỉ yêu duy nhất một mình em”, mà ông luôn nói thật và nói với các bà đó là “chúng mình ho à n toàn độc lập tự do, về kinh tế, về tri thức, về gia cảnh, NẾU THÍCH NHAU THÌ CỨ ĐẾN VỚI NHAU, KHÔNG VIỆC GÌ PHẢI GHEN VỚI TUÔNG, GÂY SÌ CĂNG ĐAN CHO XẤU MẶT CẢ HAI”, và ông còn dám thề là SẼ TRUNG THÀNH VỚI TẤT CẢ, thế mới ghê, và hay hơn ông Ấn Độ kia chứ, vì ông DUY TRÌ ĐƯỢC HÒA BÌNH GIỮA CÁC MẪU HẬU CỦA ÔNG TRONG SUỐT 60 NĂM. Tuấn ạ tôi thấy ông ta được yên hàn như vậy nên rất lấy làm lạ, và vì là bạn của ông ta trong gần cả cuộc đời, nên tôi có lưu ý điều tra thì biết được là sở dĩ ông ta được như vậy, là vì ông ta có mấy bí quyết sau đây: A.- Ông ta không bao giờ dính líu tới các em trẻ khoảng 2, 3 chục tuổi mà chỉ giao lưu với các quý bà bảo-tích-phương từ 5 tới 6 chục tuổi và là các bà hoặc là độc thân, hoặc là góa chồng, mà tất cả đều là trí thức được học hành đàng hoàng. Còn việc độc lập về kinh tế thì thái độ của ông ta rất rõ rệt, các quý bà giàu nghèo là việc các quý bà, KHÔNG BAO GIỜ ÔNG TA CHO CÁC QUÝ BÀ TIÊU CHO ÔNG TA MỘT XU vì ông luôn thưa với các quý bà là NAM PHÁI CHI NGÂN, NỮ NHÂN CHỈ CÓ CHI… TÌNH! Ông tâm sự với tôi “mình chẳng đạo đức thật, đạo đức giả gì, nhưng xét cho cùng “việc phá gia cang nhà người ta vừa không tốt vừa cực kỳ nguy hiểm” nên mình luôn luôn “kính lão viễn chi” Tuấn ạ. B.- Với chuyện luôn luôn thành thật khai báo, ông ta đã khiến các quý bà không có cớ để ghen và tuông và thậm và chí có những bà sau còn là bạn của nhau nữa. C.- Ông ta không ép buộc, gạ gẫm, hay chơi xấu với bà nào, và do ông ta cũng viết lách chơi thôi, nhưng được các bà đọc và thích, nên mới có chuyện như vậy. Tuấn biết không, ngoài việc có nhiều bà như vậy, vì hơn ông Ấn Độ kia đúng 1 tá bà, ông ta còn có một thứ kỷ lục Guinness mà ông Ấn Độ kia làm sao mà có được, vì kỷ lục này cực kỳ độc đáo. Và đó là kỷ lục mà ông ta gọi tên nôm na là “Kỷ lục duyệt quạt”. Trong thời gian 3 năm đầu ông ta dùng máy vi tính, ông ta đã không nghiện chơi game, mà chỉ khoái duyệt quạt và, cũng vì ông ta có một nghề tự do rất tốt, nên có được rất nhiều thì giờ để làm việc duyệt quạt đó. Sau ba năm đầu gặp người viết, ông ta có khoe đã đạt một con số bằng dân số châu Mỹ La Tinh mà lúc đó ông ta cho người viết biết là 620 triệu. Một năm sau, tức là năm thứ tư, gặp người viết ông ta thông báo là đang tiến lên dân số Trung Quốc… Nhưng từ năm ngoái thì ông cho biết ông đã… bão hòa và thôi dứt điểm luôn chuyện đó. Người viết tò mò hỏi tại sao thì được ông ta cho biết như sau: thoạt kỳ thủy ông ta duyệt các em trẻ “teenager”, sau chán các em trẻ, ông ta chuyển sang quý bà nạ dòng (mature) thì điều kỳ diệu là số nạ dòng nhiều hơn bọn trẻ, sau chán các quý bà nạ dòng, ông ta chuyển sang xem các quý bà trọng tuổi (oldies) và, theo ông ta, điều kỳ diệu hơn nữa là số trọng tuổi lại còn nhiều hơn số nạ dòng nữa và, trong số trọng tuổi có những hình hài trông còn đáng sợ hơn ma quỷ nữa, và đó là lý do, sau khi đạt kỷ lục Guinness, ông ta giã từ chuyện duyệt quạt luôn cả năm nay rồi. Đấy Tuấn thấy không “Đất Việt đâu thiếu người tài” phải không? Tôi phải chấp nhận là anh lại có lý, vì so với người bạn của bạn tôi, thì ông Ấn Độ có 39 vợ kia đã đi đến đâu đâu! VŨ ANH TUẤN MỘT SỐ BÀI THUỐC ĐÃ KINH NGHIỆM (Tiếp theo số 114) HẠ MỠ MÁU : - R ễ c ây Ngưu Tất (Cỏ Xước) 12gr. nấu uống thay nước trà hàng ngày. - Vỏ đậu Xanh nấu uống. - Mộc Nhĩ Trắng và Đen, mỗi thứ 10gr + 5gr Đường Phèn nấu trong 1 giờ. Ăn cả cái l ẫ n nuớc trong 15 ngày. - ¼ quả Bí Đỏ xắt nhỏ, cho vô ½ lít nước xay nhuyễn, lọc lấy nước uống mỗi bữa sáng 1 cốc phối hợp với đi bộ. 2 tuần có kết quả. - SƠN TRÀ 10-15 gr nấu, pha đường uống thay trà LƯƠNG Y Nguyễn Thị Hiền Đ.T. 0906.298.985 có bài thuốc gia truyền trị Mỡ Máu và Gan nhiễm mỡ. ĐAU LƯNG DO THOÁT VỊ ĐĨA ĐỆ M Chọn cây chuối Hột chưa có buồng, đường kính khoảng 15, 20cm, lấy dao chặt ngang thân, khoét lỗ giữa thân, cho vô chút đường phèn, đậy kín lại, để qua đêm. Dùng ống hút, hút lấy nước tiết ra để trị Thoát Vị Đĩa Đệm và KHỚP rất tốt. Uống hết phần đó ta lại vạt xuống và tiếp tục để lấy nước được nhiều lần. ĐAU LƯNG, NHỨC XƯƠNG KHỚP - 15-20gr rễ cây Xấu Hổ sao vàng pha trà uống hàng ngày - 200, 300gr hộ t C huối Hột phơi khô giã nhỏ, ngâm rượu khoảng 2, 3 tuần, mỗi ngày uống 30-50ml trước bữa ăn. TRÁI SUNG CHỮA SỎI MẬT : 200gr t rái S ung vừa già, xắt miếng, phơi khô, sao vàng, nấu nước uống. BÀI CHÚ CHỮA HÓC XƯƠNG Người chữa l ấy 1 tách nước, (bất kể nước gì có thể uống được). Ngó vô nước, đọc những câu dưới đây (lưỡi không được chạm răng) Long thăng, điểu giáng (…) cốt hóa đan trì (Mắc xương loại nào thì đọc tên loại đó. Thí dụ Gà thì đọc là Kê cốt. Heo thì đọc là Trư cốt v.v… Cá là Ngư cốt…) Xong rồi đưa cho người mắc xương uống. Thần hiệu (bài này của Lương Y Đinh Thành Song truyền lại cho gia đình). Ngày trước thì gia đình giữ không phổ biến, nên rất ít người biết. NƯỚC ÉP TRÁI MÃNG CẦU XIÊM : Có tác dụng kháng ung thư, tốt hơn hóa trị. KINH NGHIỆM TRỊ CỤP XƯƠNG SỐNG theo Phương Pháp Diện Chẩn BÙI QUỐC CHÂU . Lấy 1 cây bút bi hết mực, dùng dầu viết dò theo đường thẳng từ giữa 2 bên chân mày xuống cuối chót mũi. Thấy chỗ nào đau nhiều thì dừng lại, dùng dầu bút bi day, ấn vài phút ở điểm đó. Làm vài lần trong ngày. Rất công hiệu. TRỊ MỤN CÓC : Bẻ 1 cành của CÂY GIAO, lấy mủ của nó bôi lên mặt của Mụn Cóc, (đừng cho dính da nơi khác sẽ bị phỏng). Hôm sau, lớp da bị dính mủ sẽ khô, lột ra, tiếp tục bôi mủ lên cho tới lúc nó sẽ tự rụng. VIÊM XOANG : Lấy khoảng 1 nắm Cành GIAO, giã cho dập, cho vô ấm nước nấu cho sôi lên, xong dùng giấy cứng làm cái phễu, hít hơi nước sôi đó, chừng 2 tuần là sẽ hết bệnh. Nhiều người đã khỏi. TRỊ CỤC CHAI CHÂN : Lấy vỏ của trái chuối chin, giã nát ra, bó vô chỗ cục chai, để nguyên đi ngủ. Sáng rửa bằng nước muối loãng. Chỉ làm vài lần là cục chai tự rụng, trong khi đi mổ thì lại tái đi tái lại. LOÉT BAO TỬ : Ăn Hột Sầu Riêng hoặc Tổ ong, ngâm với rượu vài tuần cho tan rồi uống. BỊ ONG ĐỐT : Lấy mật ong bôi lên vết ong đốt và uống mật ong. CỒN TỎI : 200gr tỏi bỏ vỏ, xắt hay đập dập, 400ml rượu 45o ngâm 10 ngày thì dùng được. Mỗi lần uống 40 giọt buổi sáng và trước khi đi ngủ. Trị Tim mạch, huyết khối, thấp khớp, viêm họng, hen suyễn, ăn không tiêu. XƠ GAN CỔ TRƯỚNG : 200gr Gan heo, 1 nắm đọt cỏ xước, cho nước vô nấu chừng 15 phút cho bệnh nhân uống. Nhớ không được nêm gì hết. ( Bài này của Cô Thu ở Vũng Tàu cho. Cô có đứa em sắp chết, nhờ có người chỉ bài thuốc này mà khỏe lại). THẦN DƯỢC CỨU MẠNG: Bài thuốc này do Ông Nguyễn An Định, con trai cụ Nguyễn An Ninh ở số 40/10 đường Hậu Lân, Bà Điểm, Hóc Môn phổ biến. Đt. 8914379 Gồm các vị: Địa Long 50gr. Đậu đen, Đậu xanh mỗi thứ 100gr. Khoảng 200-300gr cây Rau Bù Ngót. Địa long sao cho giòn. Đậu đen, đậu xanh sao lên. Bỏ chung các thứ với rau Bù Ngót để cả cọng đã sao lên, đổ 4 chén nước sắc còn ½ chén. Trị được các di chứng của Tai Biến, Sốt Xuất Huyết. Người đang đang hôn mê cũng cứu được CÂY DỪA CẠN : Nấu nước uống trị Ung Thư. NGƯỜI CÓ CÂY THUỐC QUÝ TRỊ THẬN : Anh Lạc đt. 0168614.6886 Bản thân anh bị kết luận cả 2 quả thận đã hư, nhưng uống loại cây này một thời gian thì khỏi. Có bán cho ai muốn mua để dùng. TRỊ KIẾT LỴ (Ngàn Phương cho) Chỉ cần uống 2 lon Xá Xị là hết KHÍ CÔNG LONG AN: Thập Niên 80, ở Long An có mở một Trung Tâm Khí Công trị rất nhiều bệnh như Tim, Suyễn… do một cựu Sĩ Quan chế độ cũ tên là BÙI LƯU YÊM trực tiếp hướng dẫn điều trị. Một người bạn của gia đình tôi là Ông Sáu Thố chủ nhà hàng ở Vũng Tàu, bị Suyễn rất nặng, rất nhiều lần đi cứu cấp, đã xuống Trung tâm để trị. Sau khi hết bệnh, ông ở lại để học rồi đem phương pháp Khí Công đó về Vũng Tàu trị cho rất nhiều người bệnh Suyễn lâu năm cũng hết, được nhiều người đăng báo cảm ơn. Phương pháp này rất đơn giản: Chỉ cần ngồi kiểu Thiền bán già, thả lỏng cơ thể, đừng gồng, kết hợp thở ba thì: 5-5-5 và theo dõi hơi thở bằng cách đếm từ 1 cho đến lúc kết thúc. CÁCH NGỒi : Trước lúc ngồi chỉ cần uống 1 ly nước lọc, xong lấy 1 chiếc gối kê dưới mông để ngồi Thiền kiểu Bán Già, mắt khép hờ, ngó xuống đầu mũi, rồi hít vô, đếm chậm từ 1 đến 5. Trong khi hít vô thì đưa hơi thở xuống bụng dưới, phình bụng giữ lại, cũng đếm từ 1 đến 5, xong hót bụng lại, thổi ra như thổi tách trà nóng, cũng đếm 5 tiếng. Sau đó tiếp tục hít vô… cứ mỗi vòng đếm trong trí nhớ : 1 rồi 2,…10…100 v.v… (Cần tập trung tư tưởng bằng cách nhớ những con số đã đếm cho tới lúc kết thúc và nhớ lúc nào cũng thả lỏng cơ thể). Mỗi lần ngồi khoảng ½ giờ, ngồi được lâu hơn càng tốt. Ngày 4 suất: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Bệnh nặng thì cách 2 tiếng ngồi 1 lần. Hướng ngồi theo hướng mặt trời. Sáng sớm quay mặt về hướng Đông, sau đó là Tây Nam, rồi hướng Tây v.v… Khi xả Thiền thì xoa hai tay vào nhau cho ấm, xong úp lên 2 mắt 3 lần. Xong đặt 2 bàn tay lên đầu gối, rồi quay 2 vai theo vòng tròn, ra phía trước (9 lần, cho nữ, 7 lần cho nam). Rồi quay vòng ngược lại cũng số lần như thế. Xong, duỗi chân để 2 bàn chân để kề nhau, dùng đầu bàn chân xoay 1 vòng tròn qua hướng trái 9 lần, hướng phải 9 lần. Cuối cùng xoa tay vào nhau cho ấm, rồi vuốt 2 chân, từ đùi dài xuống cho máu lưu thông trở lại. THUỐC GIA TRUYỀN CỦA GIÒNG HỌ BÙI QUANG MỎ CÀY: Dạng kem bôi. Trị sưng nhức răng, lở miệng, chó, mèo cắn, ghẻ lở, ghẻ phỏng, Dời ăn. Rửa sạch vết thương, rồi bôi ngày 3 lần, rất hay. Địa chỉ: 46/4 đường Hoa Sứ (đường Phan Xích Long, qua Coopmart, chạy tới hết đường nhựa, qua đường xi măng khoảng 10m, nhà bên tay phải). THOÁT VỊ ĐĨA ĐỆM, THOÁI HÓA KHỚP GỐI, ĐỐT SỐNG CỔ : Lấy trái bình bát, nướng rồi bó vô gối lót khăn vô để nóng vừa sức chịu. Phần Lưng thì bó hay nằm lên. Làm vài lần trong ngày. - Hoặc dùng cây xương rồng, bỏ gai đi, đập cho dập với muối hột rồi hơ nóng, lót khăn rồi nằm lên. Nguội thì hơ lại. Nhiều người lẽ ra phải mổ nhưng đã khỏi bằng phương pháp này. - Hoặc dùng Dây CHÌA VÔI rửa sạch, phơi khô, sao vàng, cộng với cỏ xước, dền gai, tầm gửi, cỏ ngươi và lá Lốt, mỗi thứ 20-30gr nấu nước uống hàng ngày. Hoặc dùng Dây Chìa Vôi giã với muối hột đắp lên. LÁ THẦU DẦU CHỮA GAI CỘT SỐNG: 300gr lá Thầu Dầu, tươi hay khô cũng được. Đổ 700gr nước, sắc với lá, nhỏ lửa đến chừng còn ½ thì uống. Liên tục trong 2 tuần. NỨT DA GÓT CHÂN: Lấy nhựa của cây Sung bôi vô là hết. U ÁC TÍNH, BƯỚU ĐỘC, BƯỚU HẠCH, BƯỚU MỠ, CƯỜNG GIÁP, HẠCH LAO, viêm bàng quang, viêm tụy: CÂY DỀN GAI phơi khô, sao khử thổ uống (kiêng: bắp cải, cái bẹ xanh, xu hào, đầu nành, măng, giá). MỠ MÁU, Thận khô: Cây Nở Ngải còn gọi là cây Nút áo, phơi khô trong bóng mát, mỗi lần lấy 3, 4 bụi, nấu nước uống. SẠN THẬN: Đọt cây Bông Gòn xay nhuyễn lọc lấy nước uống. ĐAU LƯNG, CHÂN TAY TÊ BẠI: Cây Trinh Nữ (Xấu Hổ) phơi khô, sao uống thay trà CÂY MÃNH CỘNG (Có nhiều ở miền Bắc): Trị nhức mỏi toàn thân, nhất là các ngón tay, chân. ĐAU KHỚP GỐI: Củ Nghệ giã với Phèn chua, bó vô. Hoặc muối hột rang nóng rồi lấy lá đu đủ lót lên chỗ đau, chườm muối lên đó. Hoặc giã nát hạt Cải Bẹ Trắng, trộn với Dấm nuôi vô, bóp chỗ đau. Hoặc giã Cỏ Hôi và Cỏ Lông Trắng với muối hột rồi bó vô đầu gối để nguyên đêm, làm liên tục 3 đêm. XƯƠNG KHỚP: Lá Lốt 20gr, Thiên niên kiện 12gr, Gai Tầm xoong 16gr. Đổ vô 400ml nước, mỗi ngày uống 1 thang. TRỊ UNG THƯ VÚ 9 đọt rau Trai 3 tép Hành Lá 3 tép tỏi 1 cục phèn chua bằng ngón chân cái Giã nát tất cả rồi đem bó ở cổ tay người bệnh. Đau bên này thì bó bên kia, không cho người bệnh biết. DAY ẤN TRỊ GAN Ấn vô khe giữa 2 ngón chân cái và số 2 (Huyệt Thái Xung). Dùng ngón tay day lên, nếu thấy đau nhiều chứng tỏ gan yếu. Hệ miễn dịch kém nên mới bị. Mỗi sáng thức dậy và mỗi tối trước khi ngủ day vài phút. Uống thêm viên Tảo Spirulina. BƯỚU Ở THỰC QUẢN Thầy Tư Thật ở Củ Chi chỉ Lấy con Bìm Bịp, cho nguyên con vô nồi đất, đậy nắp, trét kín, nướng cho cháy thành than. Sau đó nghiền thành bột, mỗi lần uống hòa với nước sôi để nguội. Uống vào lúc 10 giờ đêm. Chừng 10 con là hết ngộp thở và hết mệt. ĐỖ THIÊN THƯ st.
Phụ Bản IV Thật khó mà tin được nhưng rồi cũng phải tin, vì tất cả những gì đã dạy chúng ta trước kia về cách giữ gìn răng phải nói là đã sai hết… PHƯƠNG PHÁP MỚI BẢO VỆ HÀM RĂNG NGỌC NGÀ CỦA BẠN PHÙNG KHOANG Reader’s Digest Bạn có thường đánh răng sau mỗi bữa ăn không? Chắc bạn dùng loại bàn chải mềm phải không? Có phải bạn đã đánh ngang đánh dọc, đánh trong đánh ngoài trên hàm răng bạn phải không? Bạn cũng thường hay rửa nước để tránh cho khỏi sưng phải không? Chắc bạn tin rằng nếu cứ áp dụng phương pháp kể trên là chắc chắn bạn tránh được bệnh sâu răng sưng và nhất là khỏi lo ôm răng mà khóc lại còn tiết kiệm được một ngân khoản lớn cho gia đình để khỏi mất thì giờ đến Nha sĩ xin nhổ, trám hoặc đặt làm những hàm răng giả thật đắt tiền phải không? Không đâu bạn, có thể nói là hầu như sai hết. Thế thì tại sao vậy? Những nhà chuyên môn học hỏi về răng cho biết: tất cả những phương pháp trên đương nhiên góp phần vào công việc bảo vệ răng, nhưng chưa đủ, vì ta chưa tấn công vào tận gốc, hoặc nói một cách khác, nơi mà bệnh sâu răng bắt nguồn, nơi mà có một chất nguy hiểm mà người ta khó thấy được chất đó gọi là chất “plaque”. Vì chính chất này là thủ phạm chứ không phải đồ ăn thừa còn lại gây nên bệnh sâu răng. Chất này tàn phá hàm răng của chúng ta ở bất cứ tuổi nào, nhất là ở tuổi thơ ấu, nếu chúng ta không biết cách lấy nó đi. Theo Bác sĩ Howard Marsall hội viên Hội Bảo vệ Răng tại Nữu Ước cho biết như sau: “Dầu chất plaque có tàn phá răng đến đâu chăng nữa, ta cũng vẫn có thể đề phòng được nếu mỗi ngày chúng ta để dành ra từ năm đến mười phút để kiểm soát nó”. Hội về răng tại Huê kỳ đã cho coi lại tất cả tài liệu, phim ảnh về răng, đồng thời nhờ phản ảnh mới này việc kiểm soát và đề phòng chất plaque cũng đã được áp dụng trong chương trình giáo dục học đường nữa. Mà “Plaque” là cái gì? Nó là một khối vi khuẩn ở nướu răng, vi khuẩn này luôn luôn có ở trong miệng chúng ta, phối hợp với nước miếng và đồ ăn thừa (đáng kể như những thứ có chất đường) luôn luôn đóng đô trên hàm răng chúng ta. Tất cả chúng ta, ai ai cũng có chất “plaque” này và chẳng ai có thể lấy nó đi một cách thường trực. Có bạn nào tỉ mỉ đến cái độ lấy thật hết chất “plaque” đi chăng nữa, thì chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ nó lại xuất hiện tức khắc. Thường thì chất “plaque” này rất khó thấy, chỉ trừ khi nào nó quá nhiều. Chất “plaque” sẽ nhả ra acid, nó sẽ ăn men răng rồi từ từ ăn vào xương răng, đục thành những lỗ sâu. Có khi nó lại ứa ra chất độc, ăn thấu tới xương hàm. Có khi chất “plaque” không được lấy đi, lại biến thành chất vôi và trở thành cáu răng nữa. Chất “plaque” trong khi hoành hành nó còn ăn cả vào các sợi giây nối liền răng và nướu, đồng thời làm cho nướu sưng lên rồi ăn vào xương. Đôi khi chất “plaque” nằm ở những chỗ ngóc ngách quanh chân răng, nên ta có dùng bàn chải đánh răng, nhiều khi cũng đành bó tay, vì thế “plaque” có cơ hội tung hoành để rồi cuối cùng ta phải chấp nhận sâu răng. Khi ta bị sâu răng rồi nhưng lại không chịu chạy chữa, vi khuẩn mỗi ngày mỗi đục khoét thêm làm cho chân răng và nướu không còn dính liền với nhau, đương nhiên chiếc răng sẽ bị rụng. Tại Hoa Kỳ hàng năm người ta đã phải tốn tới 5 tỉ Mỹ kim để chuyên trị răng. Chín mươi lăm phần trăm học sinh đều bị răng có lỗ. Tệ hơn nữa cứ 10 người thì có 4 người bị sưng lợi ở dưới tuổi 11. Trong 10 người ở lứa tuổi từ 35 đến 44 thì có một người hư hết răng. Những người từ 55 đến 64 tuổi thì cứ 10 người là có 3 người hư hết răng. Còn những ai ở tuổi 65 thì hầu hết mất một vài chiếc răng. Hiện nay tại Hoa kỳ các Nha sĩ đã dùng một loại máy đặc biệt không đau để khám phá các chiếc răng có triệu chứng sắp hư. Họ kịp thời cứu vãn các chiếc răng đó bằng cách lấy đi chất cáu và “plaque” nằm ngay ở gần nướu thế là các sợi giây bao quanh chiếc răng đó từ từ mạnh lại, giữ cho chiếc răng chặt trở lại. Có những trường hợp răng bị hư nhưng lại không đau nếu ta không thường xuyên kiểm soát nó, đến lúc khám phá ra thì đã quá muộn. Tại Nữu Ước có một ông đã thường xuyên đi nha sĩ để chăm sóc răng. Ông ta đã tốn trên 1300 đô la để bảo vệ hàm răng của ông. Nhưng cuối cùng ông cũng bị hư đến 6 chiếc răng vô phương cứu chữa. Vậy ta phải làm gì để khám phá và đề phòng cho chất “plaque” khỏi vây quanh chân răng của chúng ta? Sau đây là những điều cần thiết mà các nhà chuyên môn về răng chỉ cho chúng ta cách kiểm soát và đề phòng chất nguy hiểm đó: Dấu hiệu cho ta biết khi “plaque” cấu tạo. Khi ta thấy nướu răng sưng hoặc đỏ hơn bình thường, đó là dấu hiệu báo cho ta biết chất “plaque” đang cấu tạo và hoành hành. Người yếu, máu có thể rỉ ra chút ít, hơi thở có mùi hôi. Tại Hoa kỳ, người ta dùng thuốc viên hoặc thuốc nước để kiểm soát chất “plaque”. Loại thuốc này sẽ làm hiện rõ chất “plaque” bằng một màu đặc biệt dễ thấy. Nhưng đối với chúng ta thì sao? Hiện nay chúng ta chưa có những loại thuốc đó nên chúng ta phải chú trọng đến vấn đề đánh răng. Ta phải đánh răng thế nào? Nếu ta đánh theo chiều ngang chiều dọc của răng thì ta chỉ lấy đi được những chất đồ ăn dư còn mắc lại ở các kẽ chân răng chứ chưa hề đụng đến vị trí của chất “plaque”. Phương pháp sau đây sẽ giúp ta lấy chất “plaque” đi một cách dễ dàng như sau: - Đặt bàn chải ngang với răng, góc bàn chải ở 450 với góc của chân răng để lông của bàn chải được đặt sát vào nướu răng, sau đó ta đưa bàn chải nhẹ nhẹ qua lại khoảng 8 lần. - Mé trong hàm răng, ta đặt bàn chải thẳng rồi đưa đầu bàn chải vào tới nướu răng, sát ngay chân răng, rồi đánh lại nhẹ nhàng. Không nên dùng loại bàn chải cứng vì có thể làm rách nướu răng. Ta nên lấy “plaque” vào những lúc nào? Chất “plaque” xuất hiện trong vòng 24 tiếng đồng hồ, vì thế ta chỉ cần đánh răng mỗi ngày một lần là đủ. Đối với trẻ em cũng như những ai thường ăn nhiều chất ngọt trong ngày thì nên đánh răng sau mỗi bữa ăn. Thời gian tốt nhất để đánh răng hoặc súc răng là sau bữa cơm tối, hoặc trước khi đi ngủ. Và khi đó chất “plaque” đã được lấy đi hết, vi khuẩn đã bị tống ra ngoài nên không còn cơ hội hoạt động trong lúc ta ngủ. Trái lại, trước khi đi ngủ nếu ta không đánh răng, vi khuẩn và đồ ăn thừa mắc lại sẽ phối hợp với nhau tạo nên chất acid phá hoại răng của chúng ta. Một Nha sĩ đã nói: “Mặc dầu bạn có đánh răng ngay sau khi ăn một món gì đi chăng nữa, bạn cũng vẫn có thể bị sâu răng , chỉ trừ khi nào bạn lấy hết được chất “plaque” mới hy vọng bao vệ được hàm răng bạn”. Sau đây là những điều cần biết để giữ gìn răng: Nên ăn ít đường, vì chất đường là chất mau làm ra acid và tạo nên chất “plaque”. Nên đi thăm Nha sĩ thuòng xuyên để được kiểm soát răng toàn diện. Đôi khi bạn có thể nhờ người nhà lấy cáu răng, nhưng có những chỗ hiểm hóc phải cần đến Nha sĩ vì họ có dụng cụ chuyên môn. Dạy con em cách kiểm soát “plaque” vào tuổi lên 6 để các em có ý niệm về việc giữ gìn răng ngay từ lúc còn thơ ấu, nhất là dạy các em cách đánh răng (cho tới nướu) như đã trình bày ở trên. Ngày nào đó, có thể sẽ có phương pháp hoặc một loại thuốc đặc biệt để giết loại vi khuẩn do “plaque” cấu tạo. nhưng trong khi chờ đợi, bạn nên sửa đổi lại cách đánh răng cổ điển của bạn mới hy vọng bảo vệ được hàm răng ngọc ngà của bạn lâu dài. Bạn còn nhớ câu người đời thường nói: “Hàm răng, mái tóc là gốc con người” không bạn ? ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st. Kỷ niệm ngày sinh thứ 79 (01/12/2015) của nhà văn Ma văn Kháng. Truyện này viết khi nhà văn tròn 70. GIÓ CHIỀU THÊNH THANG Kính Tặng Anh M.V.K Bảy mươi, đã quá nửa chặng đường Anh vẫn lặng thầm những yêu thương Vẫn ngân trong nắng lời mây biếc Vẫn thắp môi nồng một khóe hương - Bà ơi! Sao hôm nay bà cho con mặc áo mới vậy hở bà? - Ừ hôm nay là ngày mừng thọ ông con đấy. Con mặc áo mới để chúc ông con mạnh khỏe sống lâu nhé. - Vâng ạ! Bà ơi! Thế con đi chúc ông bây giờ nhé. - Chưa đâu con ạ. Phải chốc nữa đã. Bây giờ con đi chơi đi, ngoan không được làm bẩn áo đấy nhá. - Vâng ạ! Thằng bé trả lời rõ to rồi chân sáo nhảy ra cửa, nó líu lô với những đứa trẻ bên ngoài về điều mà nó vừa được nghe bà nó nói. Trong nhà, bà nó mỉm cười khẽ lắc đầu rồi đi vào trong bếp. - Gần xong chưa hả con? - Cũng sắp xong rồi mẹ ạ. Không biết bố con đã chuẩn bị gì chưa? - Để mẹ lên xem ông ấy đang làm gì. Bà Đoan chậm rãi đi lên từng bậc cầu thang. Lên đến tầng thứ ba thì bà phải dừng lại nghỉ một chút. Ngôi nhà mới xây cao đến năm tầng, các con đã chu đáo làm cả thang máy để ông bà lên xuống cho đỡ mệt, nhưng ngoài trừ những lúc có việc cần, hay sức khỏe không tốt lắm thì hai ông bà mới dùng đến nó. Bình thường thì đi cầu thang bộ, cũng coi như một cách thể dục cho khỏe người. Bà Đoan bước tiếp lên tầng thứ tư. Đây là tầng dành cho ông bà. Ở trên cao, vừa thoáng mát lại vừa yên tĩnh, một khoảng sân trước được thiết kế cho một khoảng vườn xanh nho nhỏ, đủ để ông thư thái lúc thưởng hoa, tỉa lá. Tầng lầu được ngăn làm ba phòng, một phòng ngủ, một phòng khách và một phòng làm việc của ông. Đứng trước cửa phòng làm việc của ông, bà gọi khẽ: - Ông ơi! Không có tiếng trả lời, bà lại gọi lần nữa cùng vài tiếng gõ vào cửa, vẫn không có tiếng ông trả lời, bà đẩy nhẹ, thấy cửa không khóa, bà xô rộng ra, nhìn vào trong chỉ thấy những giá sách, và những quyển báo, tap chí cùng những xấp bản thảo trên bàn như mọi ngày, nhưng chẳng thấy ông đâu. Ông đi đâu vậy nhỉ? Và đi từ bao giờ? Lúc sáng sớm bà có thấy ông tập thể dục trước ban công, bà đã pha một ấm trà để sẵn trên bàn, rồi cùng con cái tíu tít chợ búa, không biết ông đã ra khỏi nhà từ lúc nào. Chắc ông đi mời thêm một vài ông bạn già nào đó thôi. Bà Đoan tần ngần một chút rồi quay trở xuống. Bà đang còn phải bận tâm với sự chuẩn bị lễ mừng ông Đoan vừa tròn thất thập. Ông Đoan vẫn ngồi nguyên một chỗ từ lúc mới ghé xuống. Chiếc ghế đá này không biết đã bén hơi ông bao nhiêu lần rồi. Ông đã từng ngồi trên nó mà ngắm những đổi thay của đường phố Hà Nội, con người Hà Nội, nếp sống Hà Nội. Có những điều ngỡ như ông đã rất thuộc, vậy mà vẫn cứ lạ lẫm mỗi khi chạm phải. Như cái hồ Hoàn Kiếm này. Nó đã tồn tại cả nghìn năm, và nó vẫn tiếp tục tồn tại với những bất biến của nó. Nó đã trở thành một biểu tượng đặc trưng của đất Hà Thành, là một góc nhỏ rất thiêng liêng trong lòng mỗi người con Hà Nội, để dù có xa mãi tận nơi đâu, thì chỉ cần nhìn lại nó là đã như thấy lại cả một cội nguồn. Người người qua lại, xe cộ dập dìu, Hà Nội bây giờ đã xuất hiện trên đường phố những chiếc xe bốn bánh lướt êm trong gió nhiều hơn, những tấm áo đa dạng cả về những kiểu dáng và màu sắc cũng nhiều hơn. Không còn là một Hà Nội xa xưa với những manh áo nâu cũ kỹ, với những chiếc xe đạp kẽo kẹt tiếng sên líp. Ông say sưa trong sự liên tưởng, miên man trong suy tư và ngắm nhìn. Những đổi thay trong những nếp nhà Hà Nội, trong những sinh hoạt đời thường của người dân Hà Nội, và cả những hối hả của một Hà Nội mới hôm nay. Một Hà Nội từng thương tích, từng lành lặn, từng khắc khoải và cũng từng nôn nao. Một Hà Nội đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu, đang vững chãi đi lên từng bước, đang đem lại từng ngày từng ngày rạng rỡ không chỉ cho con người Hà Nội mà cho cả một dân tộc Việt Nam. Nhưng ông vẫn thấy nó không có gì thay đổi trong ông, như một cô gái thuần Việt, nết na, thùy mỵ, dù có khoác bên ngoài những sắc màu lạ lẫm, cao sang thế nào đi nữa thì cũng vẫn không thể mất đi cái vẻ tự thân vốn có. Cái vẻ nền nã, lịch lãm, thanh tao và cả một chút mơ mộng, tất cả đã làm nên một nét riêng cho cả con người và cảnh vật nơi đây. Chính vì thế mà bất kể ai đã từng may mắn được sinh ra ngay trên chính mảnh đất này đều mặc nhiên ghi sâu một thứ tình cố hữu trong tận cùng tiềm thức. Ông đã sinh ra tại đây, đã lớn lên, đã thấm đẫm đến từng tế bào hơi thở Hà Nội, đã từng tê buốt những mùa đông, đã từng khô cháy những mùa hạ, đã từng ngơ ngác những mùa thu, và cũng đã từng hồng thắm những cánh hoa đào mùa xuân. Cho dù đã có đến gần hai mươi năm ông là giáo viên trên một vùng núi tỉnh Lào Cai, cũng có thể gọi đó là một mái nhà thứ hai của ông, nhưng khi trở về lại Hà Nội thì mọi cảm xúc trong ông vẫn còn nguyên. Ông Đoan khẽ trở mình, thở nhẹ một làn hơi. Hôm nay là ngày ông tròn bảy mươi tuổi, ông đã từng trải qua sáu lần tròn số, những lần trước, ông cũng luôn có một cảm giác lênh đênh, man mác khi đời người lại bước qua thêm một khấc thời gian. Nhưng những cảm giác ấy, không có nhiều nghĩ suy trong ông như lần này. Ngày nay, với mức bình quân tuổi thọ được tăng trưởng theo đà sống của xã hội, thì cái tuổi bảy mươi đã không còn là sự “xưa nay hiếm” nữa, nhưng “tri thiên mệnh” thì đúng. Một đời người, đến giờ phút này, ông đã đi qua biết bao thăng trầm của cuộc sống. Làm sao có thể đếm hết được những gì đã xảy ra, Hàng nghìn, hàng triệu những sự kiện lớn nhỏ, hàng nghìn hàng triệu những vui buồn được mất. Người ta chỉ có thể nhớ những sự kiện lớn, những vui buồn được mất rõ rệt của một thời đoạn nào đó, những điều mà có thể là một sự đánh dấu chính yếu cho những bước ngoặt đời người. Còn lại thì tản mác theo những trôi chảy của thời gian, như một vốc cát trên bàn tay, dù có cố khép chặt những ngón tay thế nào đi nữa, thì nó cũng vẫn lọt qua từng kẽ, để rồi theo gió đi vào hư không. Nhưng với ông, có những nhỏ nhặt vẫn còn được lưu giữ, nó hiển hiện thành những con chữ trên những trang viết. Những con chữ có một sức hàm chứa đến vô tận những chắt chiu, những trải nghiệm, những rút tỉa từ bao cuồng xoay trong vụ trụ nhân sinh này. Với hàng chục đầu sách, ông đã gói ghém biết bao ước nguyện, biết bao trăn trở, biết bao ngọt đắng của một kiếp người. Những thực tại, những phù hư, những khôn ngoan, những ngốc dại. Có những điều từ ở chính ông, có những điều ông nói hộ người. Những điều không nằm ngoài bản thể của cuộc sống. Người đời vẫn cửa miệng “May hơn khôn”. Mà những cái có thể gọi là “May” ấy thì có được bao nhiêu? Và cái lẽ dại khôn ở đời thì biết nói sao cho rành mạch. Khôn ở người này lại là dại ở người kia, và ngược lại. Suy cho cùng, con người ta chỉ thường quan tâm và hành xử theo những gì mà bản thân người đó cho là giá trị. Vì thế mà các giá trị của cuộc đời thường không có một chuẩn mực nhất định, nó lại thường thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, đôi khi nó lại chỏi nghịch nhau trong những quan niệm trái chiều, vì thế mà nảy sinh ra bao điều oan trái, bao nỗi khóc cười. Để ngòi bút của ông cứ thầm lặng đi theo mà ghi chép lại. “Anh ạ! Anh đã từng nói, đời sống con người không giá trị ở con số tháng ngày, mà nó ở những gì mà ta đã sống, đã làm, đã góp vào cái giá trị chung của cuộc đời này”. Ông nhớ, ông nhớ chứ, không phải là những hào phóng ngôn ngữ tôn vinh của những giải thưởng trong và ngoài nước, mà là sự ghi nhận của người đời với những moi gan rút ruột của ông. Ông cũng quá hiểu đằng sau sự hào phóng ấy là gì. Ông đã đi qua, đi qua nhiều lắm rồi những cái gọi là “thói thường” của nhân thế. Có là gì đâu khi vốn dĩ cái đích lớn nhất của con người là được đứng lên một cái bục cao nào đó. Chỉ khác nhau ở chỗ, người ta đi đến đó bằng sự bình thản từ nội tại của chính mình, hay bằng sự vội vã lấn chen nhau qua những cái cầu vượt. Người ta vẫn nói “Cuộc đời là một sân khấu lớn, mà mỗi người vừa là diễn viên, cũng vừa là khán giả”, nhưng ông nghĩ khác hơn một chút: “Đời người như tham dự một phiên chợ, mua mua bán bán, khác nhau là khi tàn buổi chợ, ra về với thứ gì trên tay”. Cho đến lúc này, ông chưa bao giờ phải hối tiếc nếu những sai phạm của mình gây tổn thương trầm trọng cho ai đó, và ông cũng không phải hổ thẹn với những gì ông có được vì đã không tì lên vai người khác. Ông vô cùng cảm ơn duyên mệnh đã cho ông có được một chút thiên tư, để có thể thấu tận những dở hay của người đời, nhờ thế mà cuộc sống cũng đầy đặn phong vị hơn. “Anh đã sống đúng nghĩa với một chữ NGƯỜI viết hoa”. Đó không phải là một lời nói dua nịnh của một người hòng được ở ông một chút lợi danh thường tình, mà ở một tấm lòng, một chân tình, một sự đồng cảm ít ỏi mà ông đã gặp được trên những chặng đường. Chỉ là một cô học trò nhỏ bé, một trái tim có cùng nhịp đập chí hướng với ông, thời gian tương ngộ chỉ có thể được tính bằng những tích tắc ngắn ngủi của chiếc đồng hồ, nhưng cảm nhận và tồn tại bền bỉ trong suốt cả chục năm trời trong một hoàn cảnh địa lý cách biệt, thì không cái gì cân đong được. Ông vui vì điều đó, bởi bao tâm lực trong phạm vi chức trách, tâm huyết cho sự truyền thụ không chỉ là tri thức, mà còn là sự vun xới xây đắp nên những nhân cách, có được nhiều lắm đâu những tâm hồn, những trái tim đón nhận ngọn lửa nhỏ từ ông. Với ông, cái thực sự đáng quý, thực sự giá trị nhất trên đời này, chỉ là sự chân thành yêu mến mà con người có thể mang đến cho nhau.Trong hành trình dằng dặc của một đời người, có hàng vạn, hàng vạn những con người gặp nhau rồi đi qua nhau, có đọng lại được trong nhau chỉ là rất ít. Và ông nghiệm ra một điều “Chỉ có những người đã từng phải chịu sự thua thiệt, từng phải chịu đựng những bất công vô lý của tạo hóa, của xã hội, thì mới biết trân trọng những giá trị đích thực của cuộc sống, những giá trị không thể quy đổi ra những thứ vật chất thông thường. Còn những người số phận may mắn cho họ được hưởng những ưu đãi một cách đương nhiên mà chẳng gặp phải một trở lực nào, thì họ rất dễ trở nên hợm hĩnh, hợm hĩnh một cách ngu ngốc, và cũng dễ trở nên ác tâm, ác tâm một cách tự nhiên”. Cô học trò nhỏ bé của ông cũng như ông, là người thuộc vế trên. Vì vậy mà có những sẻ chia sâu sắc với nhau.Có thể gọi đó là một cái may vậy. Lá thư gần đây đến đã đem đến cho ông một niềm vui và chút gì nhẹ nhõm. Cô bé (dù đó là một người phụ nữ đã ngoài bốn mươi, nhưng với ông, cô ấy vẫn mãi là một cô bé) đã đọc rõ cảm trạng của ông. Một thứ cảm trạng của lứa tuổi. Thực ra thì cũng không có gì là quá khó hiểu, song với một người trong lĩnh vực tư duy thì cách hiểu có khác hơn, thâm trầm những góc cạnh hơn, và cũng là san sẻ được nhiều hơn. Những lời lẽ đầy xúc cảm trong thư cứ lởn vởn mãi trong ông: “Em biết, trong những ngày tháng này, anh có rất nhiều những suy nghĩ, mà phần lớn là những điều không vui. Đó là cảm trạng phải có khi cái thời đoạn phải đến với mỗi người. Con người sinh ra, như đã có sẵn một lập trình, ai rồi cũng phải nhận đủ những chua cay đắng ngọt của cuộc đời, và ai rồi cũng phải đi về một nơi. Nơi ấy không ai chứng minh được nó có thật hay không? Người ta chỉ biết nói về nó như một dự ước, phần nhiều mang tính cảnh báo cho những người có bản chất không tốt trong thế giới hiện tại này. Vì thế, em chỉ tin vào những gì đang có thật trước mắt rằng một đời người chỉ thực sự đáng sống khi không phải hối tiếc, không phải dằn vặt lương tâm lúc về chiều. Anh đã là một người như thế. Anh thực sự là một đốm sáng giữa màn đen cho em hướng đến. Cho dù những người như anh và em luôn phải gánh chịu những vùi dập của cuộc đời, khi ưu thế thuộc về số đông, nhưng ta vẫn bước đi bằng những bước chân rắn rỏi, bằng một phong thái đĩnh đạc, trong một tư thế đàng hoàng. Anh ạ, vẫn biết mỗi chúng ta đều không thoát khỏi quy luật của sự sinh tồn, thì buồn bã mà làm chi, nghĩ ngợi mà làm chi. Cho dù ngày mai sẽ là một tấm màn đen ụp xuống, thì hôm nay ta vẫn vui cười, hồ hởi mà đón nắng đang lên. Chung quanh anh vẫn tràn đầy những tình yêu thương nồng đậm, ngày càng ấm áp hơn, tha thiết hơn. Vậy thì anh hãy cứ mỉm cười mỗi sáng thức dậy, hãy cứ ân cần nắm những bàn tay, và đừng phí hoài thời gian cho những gì chưa đến, hãy chỉ biết hôm nay và hôm nay. Thực ra con người ta chỉ có hai khái niêm thời gian thực sự, đó là hôm qua và hôm nay.Cái gọi là ngày mai ấy vốn chỉ là một khái niệm trừu tượng. Nó không có mặt mũi cụ thể. Hôm qua là những gì ta không lấy lại được, hôm nay là những gì ta đang có thể sờ nắm được. Em biết, không phải anh không biết những điều này, nhưng trong một cảm trạng, đôi khi anh quên mất nó đi, nên em xin phép được nhắc lại phần nào, hy vọng anh sẽ có được một trạng thái tinh thần tốt nhất, để vẫn có thể trao gửi những ước vọng tốt đẹp của cuộc sống này cho thế hệ chúng em, và để đón nhận những món quà cuộc sống mà anh đang có, trong lòng tay thân thương của những người người, trong đó có em, có cô học trò nhỏ bé miền xa của anh này”. Đúng, cô bé nói không sai, ông đã từng nói những lời tương tự với một vài người, nhưng khi cần ông lại quên nói với chính ông. Trong ông bỗng ngồn ngộn một thứ cảm xúc, cái thứ cảm xúc diệu kỳ mà ông đã từng được trao đi, và từng được nhận lại. Cái thứ cảm xúc ấy như một nồi nước thơm đang bốc hơi nghi ngút, tỏa khắp tâm hồn ông một niềm thư thái lâng lâng. Ông nhớ đến rất nhiều gương mặt, những gương mặt long lanh những ánh mắt cười, ông nhớ đến những trang bản thảo còn đang bề bộn, những con chữ ngoan ngoãn xếp hàng ngay ngắn dưới từng ngón tay ông. Ông nhớ đến những nụ hoa sáng nay vừa hé, nhớ cả tiếng hót tươi tắn, lảnh lót của chú chim họa mi lách chách trong lồng mỗi lúc ông cho ăn. Ông mỉm một nụ cười. Chiều đã hơi muộn, những tia nắng đang nhạt dần, con gió đầu đông se se, khiến ông Đoan hơi rùng mình, kéo lại tầm khăn len quàng cổ, cũng là một món quà của cô học trò nhỏ ấy gửi ra. Ông lại mỉm cười, tâm trạng nhẹ nhõm, sực nhớ đến những gì sắp diễn ra trong ngôi nhà ấm cúng đang quây quần cả ba thế hệ. Ông thong thả đứng dậy, khẽ vặn mình cho đỡ mỏi, rồi ông chậm rãi từng bước chân. Chợt ông dừng lại, đôi môi lại hé ra, vì phía trước kia, đang bước ngược về phía ông, là bà với cái áo len dầy trên tay, với những bước đi nong nả quen thuộc, với vóc người thanh mảnh, nhẹ nhàng đã từng hôm sớm cùng ông suốt mấy chục năm dài. Bà đến cạnh ông, ánh mắt dịu dàng, ấm ngọt, chẳng nói một lời nào, bà ân cần khoác tấm áo lên người ông. Rồi vẫn im lặng, bà nhẹ bước bên ông. Những chiếc lá lăn tăn đuổi nhau trên đường, một làn hương thoang thoảng vờn quanh. Hà Nội khi chiều xuống, nghe thân thương ấm áp chi lạ. ĐÀM LAN
XÓM CẦU TÀU NGUYỄN THỊ MÂY Đó là tên gọi của xóm tôi. Nơi quy tụ những kẻ trôi sông, lạc chợ. Nơi tạm trú của khách thương hồ, nơi ẩn náu của những người nghèo khạc ra tro, nghèo ho ra máu… như gia đình tôi. Tất cả đều nghèo. Chúng tôi sống xúm xít quây quần bên nhau trên mảnh đất hoang dã, lở lói, lỗ chỗ những vũng nước ăn luồn từ dòng sông chở nặng phù sa ngầu đục. Phong thổ độc đáo, con người thì độc chiêu, đáng sợ. Người vùng lân cận nghe tên “Xóm Cầu Tàu” đã phát ớn da gà. Cả xóm độ vài chục nóc nhà. Ngoài dãy nhà trệt dàn hàng ngang, cửa ngóng về phía dòng sông, còn bao nhiêu mái lá lụp xụp khác mọc lên tự do, không theo thứ tự nào. Nhà thì xây cửa cái về hướng đông. Nhà lại quay sang hướng tây. Nhà có mặt tiền hướng về phía bắc. Nhà lại quay “Hậu môn” ngay cửa nhà người khác. Cả vùng chỉ có ba ngôi nhà lớn, xây cất theo kiểu Tây. Ngôi biệt thự đẹp nhất thuộc quyền sở hữu của chủ hãng nước đá. Căn nhà bề thế thứ hai là… cái đề - bô rượu. Chủ nó ở tận trời Tây. Hằng ngày nó được một gã ăn mặc bảnh tỏn lui tới trông nom. Người ta gọi hắn là “Ông đại lý hãng rượu”. Ngôi nhà thứ ba mái ngói đỏ tươi. Tuy nhỏ nhưng khang trang, ấm cúng. Đây là chỗ trú của gia đình người gác cổng hãng rượu. Người ấy chính là ông ngoại tôi. Người nghèo nhất xứ nầy. Ông chấp nhận làm bảo vệ không công cho chủ hãng rượu để đổi lấy chỗ che mưa, che nắng cho gia đình. Trước đây, ngoại cũng có một ngôi nhà lá ba gian, hai chái. Nhưng ông đã bán nó để chữa bệnh cho bà ngoại tôi. Tiền hết, cả nhà lâm vào cảnh bần cùng. Biết ông tôi có chút đỉnh võ nghệ, ông đại lý tới gạ gẫm. Những lời đề nghị của ông ta thật bất công. Nhưng cái nghèo đã khiến ông tôi trở thành nhu nhược. Ngoại phải vừa giữ cổng hãng rượu, vừa đong rượu vào thùng, vác xuống đò máy cho khách. Kiêm luôn việc canh và bán củi cho ông đại lý. Phải nói hắn có tài khai thác sức lao động. Hắn không để ông tôi được rảnh rang. Ông tôi có tài đắp đầu lân, đầu sư tử, vẽ tranh Phật. Nhưng ít khi có cơ hội thi thố. Mỗi năm ông chỉ tạo hình được một cái đầu mãnh sư vào dịp tết. Số tiền kiếm được cũng chẳng nhiều. Cả nhà phải sống nhờ vào gánh hàng rong của bà và mẹ tôi. Khi tôi lớn lên, vừa đủ để hiểu được nỗi nhọc nhằn, tủi cực trong câu chuyện ngày xưa mà ngoại kể thì Tây đã về nước. Nhưng cái hãng rượu vẫn còn chễm chệ đứng án ngữ trước ngõ nhà tôi và bao nhiêu nhà khác như một vật chứng bất công, tàn nhẫn. Nó ngăn tầm mắt tôi và mọi người. Che khuất dòng sông êm đềm trôi giữa đôi bờ rợp mát bóng dừa. Cả xóm ra vào bằng một con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo. Mùa nắng đầy bụi, mùa mưa ngập ngụa bùn đất. Sự cách biệt sang hèn đã gợi trong lòng tôi nỗi đau từ thời thơ ấu. Không ngày nào tôi không nghe tiếng chửi bới nhau vì những chuyện bé như hạt tiêu. Chung quy tại nghèo. Hôm thì bà Sáu Huôi mắng bà Tám Tàng tham lam. Mấy cục gạch bà ném xuống chỗ đất trũng cho nước không đọng, bỗng dưng chúng biết chạy sang nhà bà Tám Tàng, nằm chương ướng ngay lối đi. Hôm thì ông Tư Liễng chửi ông Tư Tòng “Cõng rắn cắn… lối xóm”. Ỷ có sức khỏe, dắt chư vị về ăn nhậu rồi kiếm chuyện đánh lộn với trai tráng trong xóm. Xóm tôi vui nhất là lúc tiếng còi tàu thét vang dọc đường sông. Tiếng tu tu vọng lại, rõ dần, báo hiệu tàu sắp cặp bến. Tàu còn nhấp nhô đàng xa, tiếng chửi bới ỏm tỏi rộ lên. Họ giành chỗ đứng để rước khách cần khuân vác. Tàu vừa bỏ neo, gác đòn dong, mạnh ai nấy nhảy xuống. Bất kể hiểm nguy, họ te te chạy xuống tàu, gặp ai thì chụp lấy túi xách, te te chạy lên bờ. Khách thương hồ hoảng vía, sợ mất hành lý, họ quáng quàng chạy theo bất kể hiểm nguy. Có lần, bác Ba Biền sơ ý rơi tòm xuống sông. May là cứu kịp nhưng nước sông có dịp chui qua mũi, ộc vào miệng, đội bụng, căng rốn nhìn phát khiếp. Phải mất mấy ngày bác mới hoàn hồn. Thấy vậy, ngoại tôi khuyên lối xóm: “Không phải chỉ có đói mới chết mà bị tai nạn cũng có thể chết”. Họ cãi: “Đói thì thường gặp, còn tai nạn thì hiếm thấy hơn”. Vậy là đâu lại vào đấy. Mãi đến lúc chủ đò máy hăm dọa: “Nếu còn vậy nữa, tui sẽ cho tàu cặp bến khác!”. Họ đành phải đổi thái độ, đứng trên bờ chờ khách. Ai vừa bước lên, cả chục mạng ào tới, người vỗ vai, kẻ vỗ mông, hỏi: “Có gì cho em xách không?”. Cũng tại làm vậy mà anh Hai Lâu bị một bà khách tát cho mấy cái vì tưởng lầm anh muốn sàm sỡ. Sau bước ngoặc đó, người trong xóm đổi nghề khá nhiều. Ông Tư Liễng lập giàn nhạc… ma chay gồm năm người. Mỗi người sử dụng một nhạc cụ. Nào là đàn cò, đàn kìm, đàn bầu. Nào là trống, chiêng… Tay nghề chưa điêu luyện nên âm thanh họ xướng ra ngắc ngứ, trục trặc như bị ai cản họng. Láng giềng an ủi: “Nghe cũng muốn… chết lắm chứ bộ!”. Bà Tám Tàng trổ nghề đón ghe chuối về ủ chín đem bán. Chưa thấy ai đếm nải chuối lạ như bà Tám. Lâu lâu lại nhảy lùi cả chục số. Mới đếm tới 27, 28 đến 19, 20, 21…Tôi kêu lên: “Í ẹ, Bà Tám đếm lộn rồi. 28, 29, 30 chứ…”. Từ dưới ghe, bà nhảy lên bờ, lôi tuột tôi vào nhà, đến trước mặt ngoại, hỏi tội: “Nè, có cháu mà không biết dạy, để nó ăn rồi đi đập nồi người khác”. Ông chưng hửng: “Chuyện gì nữa?”. Nghe tôi kể lại, ông bật cười: “À, thì ra nó tưởng bà đếm sai. Chớ không biết bà định ăn gian người ta. Thôi, để tôi dạy nó: Mai mốt con nghe, thấy bà Tám làm gì kì cục con cũng giả đui, giả điếc, giả câm nghe không”. Bà Tám ngoe nguẩy bỏ đi sau khi ném lại một câu: “Đồ hà bá vật!”. Tuy vậy, từ đó bà không bao giờ đếm sai, dù tôi bao phen rình xem thử. Bà Sáu Huôi bỗng nghĩ ra một kế sinh nhai tuyệt diệu: Cho mướn chỗ ngủ. Gặp khách lỡ chuyến đò, bà rước vào nhà… cho mướn giường, chiếu. Còn vợ chồng con cái bà thì ngủ chùm nhum trên sàn nhà. Bà bảo: “Những đêm như vậy thường ngủ say, mộng đẹp, sáng ra còn được tiền mua gạo”. Con Bé Tí trạc tuổi tôi, nhà ở cuối hẻm. Nó nghĩ ra một chước kinh thiên động địa. Mỗi lần đi bán bánh cam về ngang qua chỗ bán vật liệu xây dựng, nó lén lấy trộm một viên gạch. Nó định để xây nhà tường. Đến khi mẹ nó mất, người ta mới phát hiện được, số gạch lên đến cả thiên được dấu dưới gầm giường. được lôi hết ra để làm mả đá cho mẹ nó. Bé Tí gào khóc thảm thiết trước mộ mẹ và thề: “Từ nay con không ăn cắp nữa. Chắc tại con tham mà mẹ chết, bỏ con hu hu…”. Từ hạt cát đến hàng cây. Từ ngôi nhà đến từng người trong xóm. Tất cả đã tô đậm trong tôi niềm thương cảm, thiết thân vô hạn. Không bao giờ tôi quên được hình ảnh ông Tư Liễng đã dùng chiếc xe ba bánh chở nhạc cụ bấy lâu để chở ngoại tôi vào bệnh viện khi ngoại tôi té từ trên chiếc thang xuống đất. Cả xóm lúp xúp chạy theo. Người khóc, kẻ… chửi trời, mắng đất. Thượng đế bị lôi tuột xuống trần về tội bất công. Còn tôi, bấy giờ tôi hiểu rõ hơn câu nói: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Khi hoạn nạn mới biết lòng người nhân hậu. Bây giờ, xóm tôi đã khấm khá hơn. Nhiều ngôi nhà lụp xụp được thay bằng nhà tường khang trang, đẹp đẽ hoặc nhà cao tầng. Lũ trẻ xóm tôi đã truởng thành, có nghề nghiệp ổn định. Chỉ tiếc nhiều người lập nghiệp phương xa. Nhưng tôi biết tất cả bọn tôi đều cùng ý nghĩ: Xóm Cầu Tàu mãi là chốn để nhớ về.
NGUYỄN THỊ MÂY Kịch bản (phóng tác) TIẾNG HÁT ĐÊM GIÁNG SINH NHÂN VẬT: - BÁC GIANG: thợ đóng giày, 44 tuổi - PHÚ HỘ: 50 tuổi - 2 khách hàng - Các con của bác Giang (lớn nhất 16 tuổi, nhỏ nhất 5 tuổi): HIẾU, HẠNH, DUNG, NHÂN, TRUNG, HIỀN, ÁI, THIỆN và NGHĨA. THỜI GIAN & KHÔNG GIAN : Buổi tối ngày 24.12, tại nhà bác Giang. Nhà rất nghèo, chỉ có 1 bàn và vài ghế gỗ. Trên bàn và dưới đất ngổn ngang giày dép và dụng cụ của thợ làm giày (búa nhỏ, kéo, lọ keo, miếng da, cao su, kim chỉ v.v…). CẢNH DUY NHẤT : Bác Giang và Hiếu ngồi dưới đất, cắm cúi may giày cho khách. Một lát làm xong, bác Giang cầm từng chiếc giày lên ngắm nghía, vẻ hài lòng. Hạnh từ trong đi ra, tay bưng 2 ly nước lọc. HẠNH: Cha và anh nghỉ tay uống nước đi. Bác GIANG: Cám ơn con. HẠNH: Trời tối rồi, cha chưa đóng cửa nghỉ sao? Bác GIANG: Còn hai người khách nữa chưa đến. Cha phải chờ giao hàng đúng hẹn. (Một ông khách bước vào) KHÁCH: Bác thợ ơi, giày của tôi đã xong chưa? Bác GIANG: Dạ, xong rồi đây! Ông xem, nhìn y như mới. Ai tinh mắt tới đâu cũng không phát hiện được các đường chỉ tôi may. KHÁCH: Bác khéo tay quá! Nhìn đúng là giống y như mới. Hy vọng tôi còn mang thêm được 6 tháng nữa. Bác GIANG: Ô, sao lại 6 tháng? Mà là 12 tháng, tức là Giáng sinh năm sau ông mới phải đến đây đóng giày mới. Tôi đã dùng loại keo đắt tiền dán đế lại, bền lắm đấy. KHÁCH: Hôm nay lễ Giáng sinh, chắc tiền công cũng tăng theo ngày lễ, phải không? Bác GIANG: Không đâu. Tôi vẫn tính giá như ngày thường thôi. KHÁCH (trả tiền, nhận giày, nhìn sang Hiếu): Con bác hay thợ học nghề thế? Bác GIANG: Thưa ông, là con trai lớn nhất của tôi. KHÁCH: Chà chà, giỏi nhỉ? Đúng là tre chưa già măng đã mọc. Hai tay cậu bé mới thành thạo làm sao! À thôi, chào cha con bác nhé, tôi về đây. Chúc bác Giáng sinh vui vẻ! Bác GIANG: Chào ông! Chúc ông Giáng sinh an lành! (Một lát, một bà khách hấp tấp vào) KHÁCH: May quá, bác thợ đây rồi. Tôi cứ lo bác đóng cửa nghỉ thì đêm nay tôi không có giày mới đi chơi. Suốt ngày nay tôi bận quá, giờ mới rảnh đến được, xin lỗi bác nhé. Bác GIANG: Không sao, thưa bà. Cuối cùng bà cũng đến rồi mà. Giày mới của bà đây, bà xỏ thử xem có vừa chân không? KHÁCH: Thôi, ở vùng này còn ai không biết bác là người thợ khéo tay nhất? Bác đã đo ni đóng giày thì chẳng bao giờ rộng hay chật cả, không cần thử mất công. Bác GIANG (đưa túi giày cho khách, nhận tiền): Cám ơn bà, chúc bà Giáng sinh vui vẻ. KHÁCH: Cám ơn bác, chào bác nhé! (Ra). Bác GIANG (lấy hết tiền trong túi, bỏ xuống bàn, ngồi đếm đi đếm lại nhiều lần): Hiếu à, bây giờ cha đi mua vài món đồ. Con đóng cửa hàng lại nghe. Ngày mai mình nghỉ làm việc một ngày. HIẾU: Lễ Giáng sinh thì nghỉ luôn 3 ngày đi cha. Bác GIANG (thở dài): Cha cũng muốn lắm nhưng mà… Còn rất nhiều hàng của khách chưa làm kịp… Thôi, cha đi đây. HẠNH: Con đi với, con xách đồ phụ cha. Bác GIANG: Cũng được. Thì đi. (Hai cha con đi. Hiếu đóng cửa. Bảy đứa trẻ từ trong ùa ra) LŨ TRẺ (gọi to): Cha ơi, cha! Ủa, cha đâu rồi, anh Hai? HIẾU: Cha đi phố mua đồ rồi. LŨ TRẺ (sung sướng vỗ tay reo): Thích quá, thích quá! (Nói với nhau) Cha đi mua đồ chơi cho em đó… Mua áo mới cho chị nữa… Cha mua ổ bánh kem thật to với gà quay cho cả nhà… Phải không anh Hai? HIẾU: Các em à, cha đâu có tiền nhiều mà mua đủ thứ vậy? Cha làm việc từ sáng tới tối cũng chỉ kiếm đủ tiền mua gạo mỗi ngày. Các em có thương cha không? LŨ TRẺ: Thương, thương chứ! HIẾU:Thương thì không được đòi mua thứ này thứ khác, nghe chưa? Hễ có tiền là tự khắc cha mua liền à. Cha không có tiền mà các em đòi, cha chỉ lo lắng thêm, lỡ đổ bệnh thì sao? TRUNG: Cha bệnh rồi chết giống mẹ, phải không anh Hai? HIẾU: Phải rồi. Em có muốn cha chết giống mẹ không? TRUNG: Không. Em muốn cha sống hoài hoài với em. HIỀN: Em cũng vậy. Em muốn cha sống 500 tuổi luôn. NHÂN: Anh Hai, sau này em nhất định học làm bác sĩ, hễ cha bệnh là em chữa khỏi liền, cha không chết được, há? TRUNG: Còn em sẽ làm kỹ sư xây dựng, xây cái nhà thật lớn, mình không phải ở cái nhà bé xíu này nữa. DUNG: Em học may, may cho mười người trong nhà mình cả chục bộ quần áo đẹp luôn. HIỀN: Em thích nấu ăn. Em sẽ học nhiều món thật ngon nấu cho cả nhà ăn. HIẾU (mỉm cười): Trước mắt bây giờ các em phải học cho thật giỏi đã thì sau này mới làm nghề như mơ ước được. HIỀN: Anh Hai, sao anh lại nghỉ học ở nhà sửa giày giống cha vậy? HIẾU (thở dài): Biết sao giờ? Một mình cha không nuôi nổi cả nhà. Anh lớn nhất phải phụ cha nuôi các em ăn học. TRUNG: Mẹ không chết sớm thì cha với anh em mình đâu có vất vả như vầy. NGHĨA: Mẹ hiền lắm, phải không anh Hai? Em không thấy mặt mẹ ra sao hết. HIẾU (ôm Nghĩa và Thiện vào lòng): Làm sao hai đứa em biết được vì vừa sinh ra hai đứa là mẹ mất. Cha phải nấu nước cháo pha đường cho bú thay sữa mẹ, vất vả cực khổ lắm mới nuôi hai đứa lớn như vầy đó. THIỆN: Thương cha quá à! (Bác Giang và Hạnh về. Hạnh hai tay xách hai túi lớn. Lũ trẻ mừng rỡ reo hò, vây quanh hai người). LŨ TRẺ: Cha về rồi! Cha có mua đồ chơi cho con không? Cha có mua gà quay không? Chị Hạnh xách gì nhiều vậy, cho em coi! HẠNH (đẩy các em ra): Là gạo với mì gói thôi mà (xách túi vào. Lũ trẻ xịu mặt, thất vọng). Bác GIANG (ngồi xuống ghế, vẫy tay): Các con lại đây. Cha xin lỗi vì Giáng sinh năm nay cha không mua được áo đẹp với món ăn ngon cho các con… HIẾU: Cha à, các em còn nhỏ không hiểu gì, cha đừng buồn. Bác GIANG: Cha cũng đã từng là một đứa trẻ như các em con bây giờ, đến dịp Giáng sinh cha cũng mong mỏi được ông bà nội mua quà, cũng thèm được ăn ngon nên cha hiểu lắm. Nhưng mà… đếm đi đếm lại số tiền trong túi… mua gạo mua mì xong chỉ có thể mua quà cho một đứa thôi chứ không thể cho cả 9 đứa được… HIẾU (ngắt lời): Con lớn rồi, cha không cần mua quà cho con. Bác GIANG: Không mua cho con thì cũng còn 8 đứa em con. Nếu chỉ mua cho 1 đứa, 7 đứa kia sẽ buồn, sẽ phân bì, mà mua cả 8 phần quà thì… (tất cả buồn hiu). Nhưng trên đường về, cha vừa nghĩ ra một món quà vô cùng ý nghĩa cho tất cả các con rồi… LŨ TRẺ (đồng thanh): Quà gì vậy cha? Bác GIANG: Là một bài hát, bài hát mừng Chúa Hài Đồng giáng sinh. Cha sẽ dạy các con. Đó là món quà cho tất cả chúng ta. Các con có thích không? (Lũ trẻ hào hứng vỗ tay reo). Được rồi, nào, gọi chị Hạnh ra đây luôn. (Hạnh ra. Bác Giang xếp 9 đứa con theo thứ tự lớn nhỏ ngồi thành một hàng ngang dưới đất) . Bác GIANG: Các con chú ý hát theo, nghe không (hắng giọng, hát chậm rãi từng câu trong bài ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG cho lũ trẻ lặp lại): Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng, đất với trời se chữ đồng. Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ, canh khuya giáng sinh trong chốn hang lừa… (Lũ trẻ càng lúc càng hào hứng hát thật to, không nghe tiếng Phú Hộ gõ cửa. Phú Hộ phải đập cửa thật mạnh, cha con bác Giang mới nghe tiếng, ngưng bặt. Hiếu chạy ra mở cửa dẫn Phú Hộ vào. Phú Hộ quần áo sang trọng, dáng điệu bệ vệ, nghênh ngang). Bác GIANG: Dạ, kính chào ngài sang chơi nhà chúng tôi… PHÚ HỘ (ngắt lời): Ta không rảnh mà sang chơi với nhà bác! Ta sang để hỏi: bác có biết bây giờ là mấy giờ rồi không? (Lũ trẻ sợ hãi, nín thở ngồi nép vào nhau). Bác GIANG: Dạ… dạ… Là gần 11 giờ đêm, thưa ngài. PHÚ HỘ: Đã gần 11 giờ đêm mà cha con bác ca hát ồn ào như vậy, không cho hàng xóm nghỉ ngơi hay sao? Bác GIANG: Xin lỗi ngài. Vì đêm nay là đêm Giáng sinh nên cha con tôi hát mừng Chúa Hài Đồng ra đời, chứ mọi ngày cả nhà chúng tôi ngủ sớm lắm. PHÚ HỘ: Cha con bác muốn hát mừng thì cũng phải tôn trọng hàng xóm, tức là tôn trọng ta một chút chứ! Ồn ào như chợ vỡ làm sao ta ngủ được? (Nhìn lũ trẻ) Con nhà ai mà tụ họp ở đây đông thế? Bác GIANG: Thưa ngài, tất cả là con của tôi. PHÚ HỘ: Ố là la! Bác đẻ nhiều con đến thế kia à? Bác GIANG: Không, thưa ngài, là vợ tôi đẻ chứ không phải tôi. PHÚ HỘ: Ừ thì vợ bác đẻ! Chà chà, đông nhỉ? Xem nào (đếm) một, hai, ba… Ta có đếm lộn không đây? Những 9 đứa, cả trai lẫn gái? Bác GIANG: Chính xác là vợ chồng tôi có 5 con trai và 4 con gái. PHÚ HỘ (ôm đầu, kêu lên): Một bác thợ sửa giày nghèo rớt mà có tới 9 đứa con! Ôi trời! Bác không thấy mệt hay sao? Bác GIANG: Dạ, có mệt chứ. Vì khi đóng giày cho chúng, tôi phải đóng một lúc 9 đôi. Khi mua quần áo, tôi phải mua 9 bộ. Đến bữa cơm tính cả tôi thì phải dọn 10 cái tô cho 10 miệng ăn… PHÚ HỘ (tiếp lời): Và khi hát thì cả 10 cái miệng như 10 cái loa cùng rống lên, chứ gì? Làm ta điếc cả tai! Bác GIANG: Xin ngài thông cảm. Là đêm nay Giáng sinh nên chúng tôi mới hát mừng thôi. PHÚ HỘ (nhìn quanh nhà, lắc đầu): Nghèo quá, thiếu thốn quá! Không có thứ gì ra hồn cả! Nghèo thế này mà cha con bác vẫn vui vẻ ca hát được sao? Bác GIANG: Thưa ngài, đâu có luật nào cấm người nghèo không được ca hát? Trái lại, nhờ ca hát mà chúng tôi không nhớ ra mình nghèo nữa. PHÚ HỘ: Trước khi sang đây, ta vẫn hình dung bác lúc nào cũng buồn rầu khổ sở, luôn luôn cáu kỉnh gắt gỏng chứ không nghĩ bác lại vui vẻ bình an như thế. Bác GIANG: Dạ, đó là nhờ ơn Chúa ban cho tôi! PHÚ HỘ: Ta biết bác phải vất vả làm việc từ sáng tới tối mới đủ ăn. Đó, đêm nay lễ Giáng sinh mà bác có được nghỉ ngơi sớm đâu, ta thấy trời tối vẫn có khách hàng đến tìm bác. Bác GIANG: Dạ, đó là nhờ ơn Chúa ban cho tôi! PHÚ HỘ: Rồi cũng vì đẻ nhiều quá mà vợ bác phải chết sớm… Bác GIANG: Dạ, đó là nhờ ơn Chúa ban cho tôi! PHÚ HỘ (trợn mắt): Hả? Bác GIANG (chợt nhớ, cuống quýt xua tay): Ấy chết, ấy chết… Không phải, không phải thế!... Xin lỗi ngài, nghe ngài nhắc đến vợ tôi, tôi xúc động quá nên nói lộn… Tôi muốn nói vợ tôi chết sớm là ơn Chúa ban cho bà ấy ạ. PHÚ HỘ: Là sao? Bác GIANG: Thưa ngài, vì Chúa thương vợ tôi quá vất vả với đàn con đông đúc này nên Chúa cho bà ấy được nghỉ ngơi sớm. Vâng, chính thế, bây giờ bà ấy đang rất hạnh phúc trên thiên đàng rồi… PHÚ HỘ: Bác quả quyết đó là ơn Chúa ban à? Vậy bác nghĩ ý Chúa thế nào mà lại đem vợ bác về thiên đàng để trút gánh nặng nuôi 9 cái tàu há mõm này cho một mình bác? Bác GIANG: Ngài hỏi tôi nghĩ ý Chúa thế nào ư? Thưa ngài, tôi không cần mất công nghĩ xem ý Chúa thế nào, tôi chỉ vui vẻ đón nhận tất cả những gì Chúa giao phó cho tôi mà thôi. PHÚ HỘ: Thôi được rồi. Ta vừa nghĩ ra một chuyện muốn đề nghị với bác… Bác GIANG: Chắc ngài muốn đóng một đôi giày mới ạ? PHÚ HỘ: Không phải chuyện giày dép. Trong kho của ta còn hàng chục đôi chưa xỏ chân kia, đóng mới làm gì? Ta đem tới cho bác một cơ hội đổi đời, một vận may không đến lần thứ hai… Bác GIANG: Xin ngài cứ nói. Ngài làm tôi hồi hộp quá. PHÚ HỘ: Bác quá đông con còn vợ chồng ta lại chẳng có được một mống nào! Nhà cửa mênh mông, đất đai bạt ngàn, tiền vàng chất chật tủ mà thiếu vắng một đứa trẻ, ta vẫn cô đơn buồn quá, thấy đời sống thật tẻ nhạt. Ta muốn hỏi xin bác một đứa làm con nuôi… Bác GIANG (sửng sốt kêu lên): Ô! Con nuôi? PHÚ HỘ: Đúng thế. Bác hãy cho ta một đứa, ta làm giấy tờ nhận nó là con, đổi nó sang họ của ta. Nó sẽ là người thừa kế duy nhất gia sản kếch sù của ta sau này… Bác GIANG (lẩm bẩm một mình): Ôi, tuyệt vời quá! PHÚ HỘ: Nó sẽ trở thành một chủ nhân giàu sụ, lúc đó nó sẽ có điều kiện giúp đỡ bác và 8 đứa kia… Bác GIANG (lẩm bẩm một mình): Có lý quá! PHÚ HỘ: Cha con bác sẽ thoát nghèo nhanh chóng… Bác GIANG (lẩm bẩm một mình): May mắn quá! PHÚ HỘ: Bác thấy ta nói đúng không? Bác GIANG: Dạ đúng, rất đúng ạ. PHÚ HỘ: Vậy là bác bằng lòng rồi nhé? Bác GIANG (bối rối): Tôi… tôi… còn đang nghĩ ạ… PHÚ HỘ: Nghĩ gì nữa? Ta cam đoan với bác, bác sẽ không bao giờ gặp một cơ hội tốt thế này đâu. Bác GIANG: Tôi biết chứ. Nhưng mà… nhưng mà… Việc quan trọng thế này, xin ngài để tôi cân nhắc kỹ lưỡng đã. Tôi cần suy nghĩ lâu lâu một chút… PHÚ HỘ: Ta không có thời giờ đứng đây chờ bác suy nghĩ. Ta còn về ngủ nữa. Bác phải trả lời ta ngay lập tức, có bằng lòng hay không? Chỉ vậy thôi! Bác GIANG: Vâng, vâng! Tôi bằng lòng! PHÚ HỘ (cười mãn nguyện): Ừ, phải thế chứ! Bác khôn ngoan sáng suốt hơn ta tưởng! Bây giờ bác hãy chọn cho ta một đứa đi. Ta tùy bác đấy, đứa nào cũng được vì ta thấy đều dễ thương cả. Bác GIANG: Vâng, để tôi chọn giúp ngài. Chín đứa con của tôi đứa nào cũng dễ thương hết. (Điểm mặt từng đứa con trai) Xem nào… Thằng Hiếu lớn nhất đã biết phụ tôi đóng giày, không cho được! Thằng Nhân học giỏi nhất, không cho được! Thằng Trung vợ tôi thương nhất, không cho được! Hai thằng út sinh đôi này còn bé quá, cũng không cho được!... (Chỉ sang các con gái) Con Hạnh đã biết nấu cơm chăm em, không cho được! Con Dung giống vợ tôi nhất, không cho được! Con Hiền yếu đuối hay đau ốm, không cho được! Con Ái thương tôi nhất nhà, cũng không cho được! (Phân vân, gãi đầu gãi tai, lưỡng lự rất lâu. Phú Hộ kiên nhẫn đứng chờ)… Đứa nào? Là đứa nào bây giờ?... PHÚ HỘ: Đã chọn xong chưa mà lâu thế? Bác GIANG: Tôi không biết phải làm sao… Tôi không thể quyết định được vì tôi không đành lòng rứt ruột bỏ bất cứ đứa con nào. Cả 9 đứa tôi đều thương như nhau. PHÚ HỘ: Bác đừng quên bác đang nghèo rớt mồng tơi đấy. Bác GIANG: Tôi vẫn có thể vừa nghèo rớt mồng tơi vừa thương cả 9 đứa con được mà, thưa ngài? PHÚ HỘ: Bác đã nói bằng lòng rồi, giờ lại định nuốt lời hay sao? Bác GIANG: Không, tôi không nuốt lời… Tôi vẫn giữ ý định cho ngài một đứa làm con nuôi… Nhưng mà… Khó nghĩ quá!... Thôi thế này vậy… (Bảo lũ trẻ) Các con vừa nghe ông đây nói rồi đấy. Giờ tùy các con, đứa nào muốn làm con ông đây để được sống giàu sang phú quý thì đứng dậy, cha cho đi theo ông ngay. LŨ TRẺ (đồng loạt đứng lên, nhưng để chạy đến phía sau cha): Chúng con chỉ muốn ở với cha thôi. Chúng con không đi đâu hết! Bác GIANG (nói với Phú Hộ): Thưa ngài, ngài đã nghe rồi đấy. Thế là không xong rồi. Ngài vui lòng vậy. PHÚ HỘ: Là sao? Bác GIANG: Là dù nghèo khổ, các con tôi không bao giờ muốn xa tôi. Tôi cũng thế, 9 đứa con này là 9 ân sủng tuyệt vời Chúa ban cho tôi, tôi không thể từ chối một ân sủng nào của Chúa, ngài ạ. PHÚ HỘ (vẻ bực tức khó chịu, ngẫm nghĩ rất lâu rồi nói): Ta muốn làm một điều tốt giúp gia đình bác mà bác từ chối. Thôi thì ta cũng thông cảm do bác quá yêu các con. Ta cho bác cơ hội cuối cùng nữa: ta đổi một số tiền lấy tiếng hát của cha con bác, bác nghĩ sao? Bác GIANG: Là sao, thưa ngài? PHÚ HỘ: Là ta muốn cha con bác im miệng lại, không hát ca ầm ĩ nữa, chứ sao! (Lấy trong túi ra bọc tiền lớn) Đây, bác cầm lấy rồi bảo lũ trẻ im ngay đi! Chỗ tiền này bác đóng giày cả năm cũng chưa chắc kiếm được đâu. Ta nghĩ bác không điên mà từ chối nó. Bác GIANG (mừng rỡ cầm bọc tiền bỏ ngay vào túi áo): Vâng, vâng! Tôi đồng ý, tôi đồng ý! (Xua lũ trẻ) Các con, vào ngủ thôi, khuya rồi! PHÚ HỘ (cười): Bác thật khôn ngoan sáng suốt! Số tiền này sẽ giúp bác rất nhiều. Ngày mai, bác hãy đi mua quần áo đẹp, đồ chơi và thật nhiều món ăn ngon về cho lũ trẻ mà vẫn còn khối tiền lo cho chúng học hành nữa đó. HIỀN: Cha ơi, chúng ta không được hát nữa à? Bác GIANG: Không hát nữa. Vì ông đây muốn thế. Tất cả vào buồng ngủ thôi! (Lũ trẻ tiu nghỉu nhưng vẫn đứng im tại chỗ, buồn bã nhìn bác Giang và Phú Hộ. Sân khấu hoàn toàn im lặng vài phút). PHÚ HỘ (cười khoái trá): Một sự im lặng thật dễ chịu! Đầu óc ta nhẹ nhõm quá! LŨ TRẺ (lôi tay bác Giang): Cha ơi, con thích hát!... Hát nữa đi cha! Bác GIANG (chỉ Phú Hộ, ngập ngừng): Nhưng mà… ông đây… PHÚ HỘ (hỏi lũ trẻ): Bọn nhóc này, chúng bay có biết số tiền của ta mua được nhiều thứ lắm không? LŨ TRẺ (đồng thanh): Dạ biết ạ. PHÚ HỘ: Thế mà chúng bay còn đòi hát à? Bây giờ nói đi, thích hát hay thích ăn ngon mặc đẹp, hả? LŨ TRẺ (đồng thanh): Thích ăn ngon mặc đẹp… nhưng thích hát nhiều hơn ạ. NHÂN (kéo áo bác Giang): Cha ơi, vậy là Chúa Hài Đồng không được nghe nhà mình hát mừng nữa à? Bác GIANG (ngẩn mặt ngẫm nghĩ, rồi quả quyết lấy bọc tiền trả lại Phú Hộ): Thưa ngài, tôi đã nghĩ lại rồi, tôi không thể đổi tiếng hát lấy tiền được. Ngài hãy nhận lại tiền của ngài và để mặc cha con chúng tôi ca hát. Tiếng hát đêm Giáng sinh là vô giá, bao nhiêu tiền cũng không đổi được. (Bảo lũ trẻ) Xong rồi các con! Chúng ta tiếp tục hát mừng giờ phút Chúa Hài Đồng ra đời. Các con chú ý nhé, bắt đầu nào… Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng… Hết GIÁNG NGỌC (GĐ.) MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 14.11.2015… ..................................... Vũ Thư Hữu .... 01 Có một cuốn sách giá trị bằng cả ngàn cuốn khác .................... Vũ Anh Tuấn .... 05 Lời xin lỗi về việc phá hủy ảnh tượng (tt) ......... Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 08 Việc truyền Y Bát liên quan đến cách hiểu Đạo Phật như thế nào? (tt) ............. Tâm Nguyện .... 19 Tâm Nguyện & Góp nhặt quanh đời ..................................... Nguyễn Thị Mây .... 30 Hồi ký Nguyễn Long Trảo: Khi tổ quốc gọi tên mình .................. Huỳnh Thiên Kim Bội .... 35 Lần đầu tiên tôi được làm quen với nhà thơ Nga Sergei Esenin ... Thúy Toàn .... 40 Đông Kinh một nghĩa thục ở Hà Nội đầu thế kỷ ..... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .... 45 Nguyễn Khắc Viện, một cuộc đời đáng trân trọng… ........ Hoàng Kim Thư st .... 49 Happy Thanksgiving! Lễ Tạ ơn ở Hoa Kỳ & Canada ...................... Phạm Vũ .... 58 Mặc cảm nhà quê ................................................................................. Dương Lêh .... 66 Khúc ru buồn (thơ) ........................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 74 Hoa sầu đâu (thơ) ............................................................ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 74 Tiếng quê hương (thơ) ........................................................ Mai Thị Thủy Hoa st .... 75 Tóc trắng tóc đen (thơ) ........................................................................... Đàm Lan .... 76 Lục bát Thu (thơ) ............................................................................... Bs.Doanlinh .... 77 Thánh thiêng đêm (thơ) ..................................................................... Bs.Doanlinh .... 77 Trăng (thơ) .......................................................................................... Bs.Doanlinh .... 78 Thiên đường (thơ) ................................................................................... Lam Trần .... 78 Xuân vui (thơ) ................................................................................... Lê Minh Chử .... 79 Gieo vần Xuân (thơ) ........................................................................ Lê Minh Chử .... 80 Trang thơ ngày cũ (thơ) .................................................................. Ngàn Phương .... 80 Lời ca trái tim (thơ) .......................................................................... Ngàn Phương .... 81 9 người 10 ý (thơ) ............................................................................ Ngô Bá Mạnh .... 81 Thêm hương cho rượu (thơ) ................................................................. Lê Nguyên .... 83 Làng quê xưa (thơ) ............................................................ Phạm Thị Minh-Hưng .... 84 Nốt lặng phím dương cầm (thơ) ..................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 85 Mê sữa (thơ) ........................................................................................ Quang Bỉnh .... 86 Tình bạn (thơ) ...................................................................................... Quang Bỉnh .... 86 Tiếng trống quân hành (thơ) .......................................................... Lang Nguyên .... 87 Xuân bảy lăm (thơ) ......................................................................... Lang Nguyên .... 87 Mảnh vụn Xuân sang (thơ) ........................................................ Vũ Thùy Hương .... 88 Khuôn mặt Bayon (thơ) ................................................................ Võ Kim Cương .... 89 Một chiều lãng mạn (thơ) ................................................................. Thanh Châu .... 91 Tự trào (thơ) ................................................................................................ Vũ Mão .... 92 Self-satirizing (thơ) ................................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 93 Tiệc vui ...................................................................................................... Lam Trần .... 94 Picasso một thiên tài của thế kỷ… ............................................ Đỗ Thiên Thư st .. 104 Rùa & Thỏ tổng hợp – Trí tuệ thắng Sức mạnh (tt) .............. Hà Mạnh Đoàn .. 109 Giới thiệu về Côn Đảo ............................................................................ Bùi Đẹp st .. 112 Chụp ảnh cưới ở đâu ? ........................................................... Hà Mạnh Đoàn st. . 116 Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ......... Thanh Châu dịch thuật .. 118 Bạn tôi XXII ...................................................................................... Vũ Anh Tuấn .. 120 Một số bài thuốc đã kinh nghiệm (tt)… ................................... Đỗ Thiên Thư st .. 126 Phương pháp mới bảo vệ hàm răng ngọc ngà của bạn ........... Đào Minh Diệu Xuân st .. 134 Gió chiều thênh thang ............................................................................ Đàm Lan .. 139 Xóm Cầu Tàu ............................................................................. Nguyễn Thị Mây .. 147 Tiếng hát đêm Giáng Sinh (kịch bản phóng tác) .................. Giáng Ngọc (GĐ.) .. 152 |