Hiện có 6 người xem / 2521162 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/12/2015

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Khác với mọi lần khác, trong buổi họp này một sự bất ngờ đã xảy ra: trước lúc họp độ 15 phút, một đoàn 9 thành viên của CLB Thơ Ca xã Bình Thạnh Tây Ninh đã bất ngờ tới thăm và giao lưu mà không báo trước. Chủ nhiệm Vũ Anh Tuấn đã vui vẻ đón chào các khách quý, và vào lúc khai m ạ c phiên họp, ông đã mời các người bạn mới tự giới thiệu qua về mình, sau đó ông đã m ờ i các vị khách an tọa và bắt đầu phiên họp như thường lệ. Và để mở đầu phiên họp, ông đã giới thiệu với các bạn mới và các thành viên hai cuốn quý thư mà ông mới có.

Cuốn đầu là một cuốn sách mới bằng Pháp văn và Anh văn in năm 1995 mang tựa đề là “Các từ và nhóm từ về Điện Ảnh và Video” (Lexique Cinéma Vidéo - Français-Anglais - Anglais-Français) chứa đựng tất cả các từ và nhóm từ chuyên môn liên quan tới hai đề tài nói trên, là những thứ mà độc giả bình thường rất khó tìm được trong đủ các loại tự điển thông thường khác. Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã may mắn gặp được cuốn quý thư này ngay tại nhà sách cũ ở ngay trước cửa nhà ông. Ba ngày trước ông tình cờ ghé qua nhà sách và đã thấy cuốn quý thư nằm chình ình ngay trên một chồng sách to đùng mà không ai để ý, thấy nó ông thích quá, và điều “đã thích lại thích hơn” là giá để trên sách chỉ có 89.000 đô mít (Annamese dollar), và khi mang ra ông còn được chủ nhà sách tính gọn cho có 80.000 ngàn. Thật là tuyệt vời, giả sử giá đề trên sách có gấp đôi, có khi ông cũng chả để tâm mặc cả, nên ông hớn hở ẵm nàng về ngay. Cuốn sách quá quý với ông là người xem không biết bao nhiêu phim trong đời, vì với nó, ông có thể hiểu cặn kẽ về một số từ liên quan mà chẳng có thể tìm thấy trong các loại tự điển thông thường. Sau khi giới thiệu cuốn sách, ông có kèm theo lời mời và lời hứa sẽ sẵn lòng tra cứu hộ bất cứ một thành viên nào có từ gì cần ông tra giúp. Cuốn thứ hai có thể gọi là một cổ thư vì được in năm 1912 (103 năm trước) cũng bằng tiếng Pháp và mang tựa để là “Tự Điển về Ngành In ấn và Đồ họa” (Dictionnaire de l’Imprimerie et des Arts Graphiques en général). Đây cũng là một cổ thư rất quý đối với một người yêu sách và chơi sách vì nó cung cấp đủ mọi định nghĩa liên quan tới ngành in, là những định nghĩa chuyên môn ít khi có đủ trong các tự điển thông thường. Và điều quý hơn nữa đã làm Dịch giả Vũ Anh Tuấn rất khoái cuốn sách, là nó đã chung sống rất lâu với một người bạn chơi sách của ông là ông cụ Vương Hồng Sển, vì ngay ở ngoài bìa có một chữ S to đùng và thủ bút của ông cụ Sển mà ông thuộc lầu. Hơn nữa cuốn sách này cũng là một minh chứng cho sự việc đáng đau lòng là các sách trong tủ sách Vương Hồng Sển nay đang tan tác, mỗi cuốn ở một phương trời, thi thoảng lại thấy một cuốn lòi ra, và được đưa tới bởi các chuyên gia săn lùng quý thư với một giá hơi bị… cứa cổ người chơi sách. Sau phần giới thiệu, hai cuốn sách được một số thành viên mượn xem tại chỗ một cách rất thích thú.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu hai cuốn quý thư, nhân dịp kỷ niệm 250 năm sinh của Cụ Nguyễn Du, anh Phạm Vũ đã có một bài nói về Truyện Kiều khá dài và rất hay, qua đó anh đã phân tích và trích dẫn gần 30 câu Kiều mà anh cho là tứ thơ, ý văn, và cách dùng từ thật là hay tuyệt vời, hết chỗ chê luôn. Bài nói của anh được các thành viên thích thú và chăm chú nghe. Tiếp lời anh Phạm Vũ, một vị khách đã lên nói qua về đề tài “lẩy Kiều”. Vị khách nói xong, anh Nhựt Thanh đã lên đề đạt thêm vài ý kiến về Truyện Kiều, và anh lại một lần nữa cho rằng Cụ Nguyễn Du đã có phần nào vi phạm bản quyền của Truyện Kiều của tác giả ba tàu Thanh Tâm Tài Nhân. Sau đó anh có bài nói ngắn về đề tài trồng cây nêu ngày Tết. Khi anh nói xong và trở xuống, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã trả lời anh là việc nói Cụ Nguyễn Du của chúng ta, và bây giờ là của cả thế giới, vi phạm bản quyền là hoàn toàn vô căn cớ, và ông đưa ra bằng chứng là Công Ước về bản quyền tác giả được ký tại Berne (Thụy Sĩ) vào năm 1886, do sự vận động của đại văn hào Pháp Victor Hugo, mãi gần cuối thế kỷ thứ 19 mới có mặt trên đời, trong khi Truyện Kiều được viết vào cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17, thì vào lúc đó làm quái gì có ai nghĩ tới chuyện bản quyền mà nói là vi và phạm…

Dịch giả Vũ Anh Tuấn trả lời anh Nhựt Thanh xong, một vị khách mời cho biết ông mới đọc một bài thơ của anh Lê Nguyên trong bản tin, và rất thích vì thấy là rất hay, nên ông lên ngâm tặng các thành viên và bạn bè của ông bài thơ đó. Rất tiếc là trong phiên họp này tác giả Lê Nguyên lại bận không dự họp được, nếu không hai vị gặp nhau thì vui biết mấy. Tiếp lời vị khách, anh Dương Leh lên nói về bài hát Mùa Giáng Sinh nổi tiếng là bài Silent Night và vừa đàn vừa hát tặng các thành viên bài hát nói trên cộng với một bài tiếng Việt. Đàn hát xong, anh Dương đã có lời đề nghị với các thành viên là trong những phiên họp kế tiếp, mọi người có thể chia sẻ với nhau những tác phẩm hay đã đọc cũng như những phim hay đã xem trong quá khứ nếu vẫn còn nhớ các thứ đó. Sau anh Dương Leh, cô Kim Sơn lên hát tặng các thành viên bài Tam biệt Huế, hình như của Thu Bồn. Tiếp lời cô Kim Sơn, hai bà khách lên hát tặng Bs. Đoàn Linh bài Tình Xa của Trịnh Công Sơn. Sau đó Bs. Đoàn Linh lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ.

Trong phiên họp ngày hôm nay các vị khách của CLB Thơ Ca xã Bình Thạnh Tây Ninh có tặng mỗi thành viên ba tập thơ, về phía chủ nhà, thoạt đầu chỉ có một cuốn sách nhỏ của Lm. Nguyễn Hữu Triết để tặng lại, rồi may thay, vào phút chót trước khi bế mạc, Lm. Cố Vấn Triết đã kịp nhớ và mang tặng mỗi vị khách một tập Thơ Mây Bạc (thơ của các thành viên CLB Sách Xưa và Nay) mới được in khá đẹp, khiến cho ai nấy đều rất vui.

Buổi họp kết thúc và các thành viên cùng khách tới thăm vui vẻ chia tay vào lúc 11g30, ước mong có ngày gặp lại.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN

200 NĂM NGHIÊN CỨU

BÀN LUẬN TRUYỆN KIỀU

CỦA CỐ TÁC GIẢ LÊ XUÂN LÍT

Tôi đã được nghe nói về cuốn này khoảng ba năm trước, và vào thời điểm đó, tôi cũng đã ghé qua vài nhà sách lớn để tìm, nhưng tới đâu cũng được trả lời là không có hoặc đã bán hết.

Điều này càng làm tôi chú ý hơn, vì nghĩ rằng sách chắc phải rất hay nên mới hết sớm thế, và tôi đã dặn rất nhiều cô bạn bán sách ở các nhà sách lớn là hễ có thì làm ơn cho biết ngay. Nhưng gần ba năm đã trôi qua mà cuốn sách vẫn biệt âm vô tín. Cho tới mấy ngày trước, tôi được một anh bạn thân, chủ một nhà sách cũ trong cư xá Bắc Hải, thông báo là anh mới mua được 150 cuốn truyện tranh Tarzan loại cổ khoảng những năm 50 và trước nữa nên anh ấy mời tôi tới coi. Được tin, sáng ngày hôm sau tôi tới thật sớm và không thích lô truyện tranh Tarzan đó vì là loại khổ nhỏ không phải là loại báo Tarzan, Zorro, Vaillant, mà tôi đã có trong tuổi trẻ của tôi, hồi 65 năm trước. Nhưng rồi tôi đã may mắn bắt gặp cuốn “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều” mà tôi đang để tâm tìm kiếm. Tôi mừng quá và dở ra xem thì thấy là bản in lại lần thứ nhất vào năm 2007, chứ không phải bản đầu tiên được in năm 2005. Cuốn sách to đùng này khổ 19x28, dày 1996 trang, và nặng 4 ký 800 gờ ram. Giá tiền anh bạn để trên sách là 580 ngàn, nhưng tôi được anh bớt cho chỗ lẻ thành ra còn đúng 500 đô mít. Trên cuốn sách không để giá nên tôi không biết vào năm 2007 giá bán là bao nhiêu, nhưng tôi nghĩ nếu in vào ngay lúc này, với khổ sách và độ dày như thế này, thì giá chắc chắn là phải bằng hoặc hơn giá tôi phải trả một chút. Ra về tôi mừng quá và cảm thấy chuyến đi của mình thật đã không uổng công vô ích.

Tôi là người thích Truyện Kiều từ năm 17 tuổi, và cũng đang có một sưu tập Kiều đựng đầy một cái tủ cỡ 1.20x1.60, và cũng đã đọc qua khá nhiều cuốn Kiều nổi tiếng của các tác giả nổi tiếng như các cụ Nguyễn Văn Vĩnh, Lê Văn Hòe, Bùi Kỷ, R. Crayssac v.v… đồng thời cũng có quen biết những nhà Kiều học hiện đại như quý ông Phạm Đan Quế, Nguyễn Quảng Tuân, Bá Khoát, chủ nhân Vườn Kiều ở Biên Hòa v.v… Với tác giả Lê Xuân Lít thì tôi chưa gặp mặt nhưng khoảng 1 năm trước, tôi cũng có gặp ông một lần qua điện thoại và có nghe ông khoe về tập bản thảo viết tay dày 5000 trang của ông, là tiền thân của cuốn “200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều” này, và ông có chỉ cho tôi mấy chỗ mà ông cho là còn bán, nhưng khi tôi tới thì đều đã hết.

Nay do cơ duyên mà gặp được cuốn sách mình đang tìm, mấy ngày nay tôi đã dành khá nhiều thời giờ để “cưỡi ngựa xem hoa” qua gần 2000 trang sách, và điều đầu tiên tôi cảm nhận thấy là tác giả Lê Xuân Lít (đã về với Kiều 9 tháng trước) đã rất dày công sưu tập được một số tư liệu thật lớn, thật đáng nể để làm nên cuốn quý thư này. Cuốn sách khổ 20x28 phân, dày 1996 trang, cân nặng 4 ký 8 này có tổng cộng 210 bài viết của 162 tác giả.

Với tư cách cá nhân, và chỉ cá nhân thôi, trong số 162 tác giả, tôi chỉ thấy thích có những tác giả mà tôi nêu tên sau đây: các cụ Bùi Kỷ, Dương Quảng Hàm, Đào Duy Anh, Đào Nguyên Phổ, Đặng Thái Mai, Đông Hồ, Hoa Bằng, Hoài Thanh, Lê Thước, Lê Văn Hòe, Lm. Thanh Lãng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Thiệu Lâu, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Quảng Tuân, Phạm Đan Quế, Phạm Quỳnh, Thái Văn Kiểm, Thiếu Sơn, Trần Trọng Kim, Trúc Khê. Về phía người nước ngoài thì có Gs. Maurice Durand thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ và tác giả René Crayssac. Một điều hơi kỳ lạ là trong cuốn sách này, tác giả tuyệt đối không nhắc gì tới dịch giả Abel des Michels, người đã dịch Truyện Kiều ra Pháp văn hồi cuối thế kỷ 19 với cuốn 1 và 2 bằng Pháp văn và một cuốn thứ 3 bẳng chữ Nôm. Tôi đặc biệt yêu thích bài viết của Lm. Thanh Lãng, cuốn Tự Điển Truyện Kiều của cụ Đào Duy Anh, bản dịch Truyện Kiều ra Pháp văn của cụ Nguyễn Văn Vĩnh (2 cuốn), bản dịch Truyện Kiều ra Pháp văn bằng thơ 12 âm (alexandrin) của René Crayssac, cũng như bản dịch Truyện Kiều ra Pháp văn của Bs. Nguyễn Khắc Viện.

Sau vài năm lưu tâm tìm kiếm, nay chỉ vì đi xem mấy cuốn sách khác mà tình cờ tìm được cuốn sách mình đang tìm, tôi cảm thấy đúng là phải có cơ duyên sách mới tới với mình, và tôi cảm thấy thật khoái khi có thêm cuốn sách nghiên cứu về Truyện Kiều này trong sưu tập Kiều của tôi…

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

CÓ TẬN THẾ KHÔNG ?

Đây là câu hỏi người ta đặt ra từ thời thượng cổ tới bây giờ và mãi sau này nữa. Nhiều giáo phái chẳng biết dựa vào đâu mà rao báo tận thế tới nơi đồng thời hô hào mọi tín đồ chuẩn bị cho ngày tận thế…

Cách nay hơn 10 năm ở Hàn Quốc có một vị đạo trưởng loan báo chính xác ngày tận thế đồng thời hô hào đạo hữu bán nhà cửa, vật dụng rồi nộp tiền cho vị đạo trưởng đó… nhiều người đã làm theo. Tới đúng kỳ hạn, không thấy chuyện gì xảy ra, dân chúng tố cáo, vị đạo trưởng đã bị Chính phủ bắt giam và bắt bồi thường tài sản cho các đạo hữu…

Thực ra có tận thế không?

Có là chuyện chắc chắn:

1. Theo các nhà khoa học: Trong vũ trụ có nhiều thái dương hệ, cho tới nay rất nhiều định tinh, tức là mặt trời trong thái dương hệ đó đã không còn chiếu sáng, nghĩa là đã “tắt thở”. Vậy thì mặt trời của chúng ta cũng chỉ tồn tại tối đa 13 tỷ năm nữa, sau đó ngọn lửa sẽ tắt, kéo theo cái chết của các hành tinh và vệ tinh.

Các nhà khoa học còn tính được mỗi phút qua đi, mặt trời đốt cháy 400 triệu tấn khí Helium để duy trì ngọn lửa liên tục. Lượng khí Helium tuy nhiều nhưng không phải vô hạn, không thể cung cấp vô thời hạn cho mặt trời. Nguồn khí Helium cạn kiệt cũng kéo theo sự “tắt thở” của mặt trời và cả thái dương hệ. Đó chính là ngày tận thế theo khoa học.

2. Theo suy luận của lý trí loài người: Tất cả những gì ở trong vũ trụ này có bắt đầu thì cũng phải có kết thúc. Nhà thờ Đức Bà xây vững chắc như vậy mà trải qua hơn 100 năm đã xuống cấp trầm trọng, cần tu sửa gấp mới có thể đứng vững được một khoảng thời gian nữa.

Chúng ta hay “lạm ngôn” khi tuyên bố đã xây công trình này, công trình kia vĩnh cửu. Chẳng hạn chúng ta đã thay được bao nhiêu cây cầu tre lắt lẻo bằng những cầu bêtông vĩnh cửu,… Chẳng có gì vĩnh cửu ở trần gian này cả, đó là điều mà lý trí chúng ta nhận ra.

3. Theo Thánh Kinh: Chắc chắn có ngày tận thế, cũng là ngày Chúa Giêsu tái lâm, xét xử kẻ sống và người chết để thưởng phạt công minh mỗi người.

- “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người. Muôn dân sẽ được tập họp trước mặt Người. Người sẽ tách biệt họ ra như mục tử tách chiên (kẻ lành) ra khỏi dê (kẻ dữ). Chiên thì cho đứng bên phải, còn dê thì ở bên trái… Bấy giờ họ sẽ ra đi: Những kẻ dữ vào chốn cực hình muôn thuở (Hỏa ngục), còn những người lành đến hưởng sự sống muôn đời (Thiên đàng)” (Mt 26,31-46).

- “Xin Thầy nói rõ cho chúng con biết: bao giờ các sự việc ấy (tận thế) xảy đến và khi tất cả sắp đến hồi chung cuộc thì có điềm gì báo trước?”. (Đức Giêsu trả lời): “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được ngay cả các thiên sứ trên trời hay Con Người cũng không biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13,4.32) [do đó ai nói ngày nào, năm nào tận thế là nói dóc]. Vậy: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức (sẵn sàng luôn) vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (Mc 13,33).

Lưu ý : Ngày tận thế không ai biết được, có thể còn rất xa, nhưng ngày con người lìa đời, ra trình diện Chúa thì mỗi người nắm chắc không xa, vì quỹ thời gian tối đa:

Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy.

Cảnh phù dù trông thấy cũng nực cười

(Nguyễn Công Trứ).

Thế nên mọi người phải sẵn sàng cho hậu sự của linh hồn mình.

Thực trạng thế giới hôm nay cho chúng ta thấy chính loài người làm ra tận thế qua việc hủy diệt môi trường sống của con người và muôn loài: khí thải vượt mức sinh ra hiệu ứng nhà kính, tầng ôzôn bị thủng, mưa acid… phá sạch rừng, chận mọi dòng nước làm thủy điện, bức tử các dòng sông – Rác thải ngập đầu ngập cổ, trung bình mỗi ngày Tp. Hồ Chí Minh xả 6.000 tấn rác, không còn chỗ đâu mà chứa… Chất thải hóa học từ các nhà máy làm ô nhiễm mọi nguồn nước… nhất là chất thải nguy ê n tử, phóng xạ chôn vùi trong lòng đất. Chưa kể lò thuốc súng đạn và các lò nguyên tử của thế giới mà phát nổ thì ai mà sống được!

Chính vì nhìn thấy nguy cơ hủy diệt do chính con người tự tạo ra qua việc hủy hoại môi trường nên Đức Giáo H oàng Phanxicô đã ra thông điệp “Laudato S í ” gửi toàn thế giới như một lời cảnh báo. Xin mời mọi người cùng theo dõi.

TÓM LƯỢC THÔNG ĐIỆP “LAUDATO SÍ”

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

Bản văn này nhằm giúp đọc Thông điệp lần đầu tiên, giúp lãnh hội diễn tiến tổng quát và nhận ra những hướng đi căn bản của Thông điệp. Phần “Một cái nhìn tổng quát” trình bày tổng quan Thông Điệp, sau đó trình bày nội dung mỗi chương, nêu rõ mục tiêu và trích dẫn vài đoạn nòng cốt. Các con số ở trong ngoặc đơn là số đoạn của Thông Điệp. Phần chót là Mục Lục tổng quát của Thông Điệp.

Một cái nhìn tổng quát:

“Loại thế giới nào chúng ta muốn chuyển lại cho những người đến sau chúng ta, cho các trẻ em đang lớn lên?”. Câu hỏi này chính là trọng tâm thông điệp “Laudato sí”, Thông điệp của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà người ta chờ đợi về việc săn sóc căn nhà chung. Ngài viết tiếp: “Câu hỏi này không phải chỉ liên quan riêng đến môi trường mà thôi, vì ta không thể đặt câu hỏi một phần”, và điều này khiến ta tự hỏi về ý nghĩa cuộc sống và những giá trị làm căn bản cho đời sống xã hội: “ Chúng ta đến trần thế này để làm gì? Chúng ta hoạt động và tranh đấu với mục đích nào? Tại sao trái đất lại cần chúng ta?”. Đức Giáo Hoàng viết: “nếu chúng ta không đặt những câu hỏi căn bản ấy, thì tôi không tin rằng những quan tâm của chúng ta về môi trường có thể có những hiệu quả quan trọng”.

Thông điệp lấy tên từ lời cầu của thánh Phanxicô. “Laudato sí, mí Signore” (Lạy Chúa của con, chúc tụng Chúa), trong bài ca của các thụ tạo có nhắc nhớ rằng trái đất là căn nhà chung của chúng ta, “cũng như người chị chúng ta, chúng ta chia sẻ cuộc sống với chị ấy, và như người mẹ tươi đẹp đón nhận chúng ta trong vòng tay của mẹ”(1). Chính “chúng ta là đất” (Xc St 2,7). Chính thân thể chúng ta được cấu thành nhờ những yếu tố của trái đất, không khí là yếu tố mang lại cho chúng ta hơi thở và nước của trái đất làm cho chúng ta được sống và được bổ dưỡng”(2).

Giờ đây, trái đất, bị ngược đãi và cướp phá đang kêu than và những tiếng than trách của trái đất đang hiệp với những tiếng rên xiết của tất cả những người bị bỏ rơi trên thế giới này. ĐGH Phanxicô mời gọi hãy lắng nghe họ, ngài kêu gọi tất cả và từng người - cá nhân, gia đình, tập thể địa phương, quốc gia và cộng đồng quốc tế - hãy “hoán cải về môi sinh”, theo kiểu nói của thánh Gioan Phaolô 2, nghĩa là “đổi hướng”, đón nhận vẻ đẹp và trách nhiệm dấn thân để 'săn sóc căn nhà chung'. Đồng thời ĐGH Phanxicô nhìn nh ậ n rằng: “Người ta nhận thấy có sự nhạy cảm ngày càng gia tăng đối với môi trường và việc săn sóc thiên nhiên, và thành thực lo lắng vì những gì đang xảy ra cho hành tinh của chúng ta”(19), hợp thức hóa cái nhìn hy vọng mà toàn thể Thông Điệp làm nổi bật và gửi đến tất cả mọi người một sứ điệp rõ ràng và đầy hy vọng: “Nhân loại còn có khả năng cộng tác để xây dựng một căn nhà chung ”(13); “con người còn khả năng can thiệp tích cực” (58); “không phải tất cả đã bị mất mát, vì con người, tuy có khả năng thoái hóa tột độ, nhưng vẫn còn có thể tự vượt thắng, tái chọn lựa điều thiện và tái tạo”(205).

Dĩ nhiên ĐGH Phanxicô ngỏ lời với các tín hữu Công Giáo, ngài nhắc lại lời thánh Gioan Phaolô 2: “Đặc biệt các tín hữu Kitô nhận thấy rằng nghĩa vụ của họ giữa lòng thiên nhiên, các nghĩa vụ của họ đối với thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa là thành phần đức tin của họ”(64), nhưng họ “đặc biệt muốn đối thoại với tất cả mọi người về căn nhà chung của chúng ta”(3) : đối thoại được nói đến trong toàn Thông điệp, và trong chương V nó trở thành một phương thế để đối phó và giải quyết các vấn đề. Ngay từ đầu ĐGH Phanxicô nhắc nhở rằng cả “các Giáo Hội và các Cộng đoàn Kitô khác - cũng như các tôn giáo khác - đã phát triển sự quan tâm sâu xa và một suy tư quý giá” về đề tài môi sinh học(7). Đúng hơn, họ đóng góp đặc biệt, bắt đầu tự sự đóng góp của “Đức Thượng Phụ chung quý mến Bartolomeo”(7), được trích dẫn nhiều trong các đoạn số 8-9. Rồi nhiều lần, Đức Giáo Hoàng cám ơn những người giữ vai chính trong công cuộc này - các cá nhân cũng như các hiệp hội và tổ chức - ngài nhìn nhận rằng “suy tư của vô số nhà khoa học, triết gia, thần học gia và các tổ chức xã hội đã phong phú hóa tư tưởng của Giáo Hội về những vấn đề ấy”(7) và Đức Giáo Hoàng mời gọi tất cả mọi người hãy nhìn nhận “sự phong phú mà các tôn giáo có thể đóng góp cho một nền môi sinh học toàn diện và cho sự phát triển trọn vẹn con người”(62).

Lộ trình của Thông Điệp được trình bày trong số 15 và được khai triển trong 6 chương. Văn kiện đi từ một sự lắng nghe tình trạng, dựa trên những thủ đắc khoa học tốt nhất ngày nay (ch. 1), đối chiếu với Kinh Thánh và truyền thống Do thái - Kitô (ch. 2), nêu rõ căn cội của các vấn đề (ch. 3) trong thời đại kỹ thuật làm chủ và trong thái độ co cụm thái quá tự tham chiếu của con người. Chủ trương của Thông điệp (ch . 4) là một “nền môi sinh học toàn diện, bao gồm rõ rệt các chiều kích nhân bản và xã hội” (137), gắn chặt với vấn đề môi trường. Trong viễn tượng ấy, ĐGH Phanxicô đề nghị (ch. 5) khởi sự một cuộc đối thoại chân thành trên mọi bình diện của đời sống xã hội, kinh tế và chính trị, cuộc đối thoại này cơ cấu hóa các tiến trình quyết định minh bạch và ngài nhắc nhở (ch.6) rằng không dự phóng nào có thể hữu hiệu nếu không được linh hoạt nhờ một lương tâm được huấn luyện và có tinh thần trách nhiệm, Đức Giáo Hoàng đề nghị những điểm để tăng trưởng trong chiều hướng này trên bình diện giáo dục, tu đức, Giáo Hội, chính trị và thần học. Thông điệp kết thúc với 2 kinh nguyện: một được trình bày để chia sẻ với tất cả những người tin nơi “Một Thiên Chúa Sáng Tạo và là Cha”(246) và một được đề ra cho những người tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, theo nhịp điệp khúc “Laudato sí” khởi đầu và kết thúc Thông Điệp.

Thông Điệp được một số chủ đề hướng dẫn , được cứu xét dưới những viễn tượng khác nhau, mang lại cho nó một sự nhất thống vững mạnh: “Quan hệ thâm sâu giữa những người nghèo và sự mong manh của trái đất; xác tín rằng mọi sự trên trái đất có liên hệ mật thiết với nhau; sự phê bình mô hình mới và những hình thức quyền lực xuất phát từ kỹ thuật; lời mời gọi tìm kiếm những cách thức khác để hiểu kinh tế và tiến bộ; giá trị riêng của mỗi thụ tạo; ý nghĩa nhân bản của môi sinh học; sự cần thiết phải có những cuộc thảo luận chân thành và ngay thẳng; trách nhiệm hệ trọng của chính trị quốc tế và địa phương; nền văn hóa gạt bỏ và đề nghị một lối sống mới”(16).

Chương I. Những gì đang xảy ra cho nhà chúng ta

Chương này tóm lược những thủ đắc khoa học mới nhất về môi trường như một cách thức để lắng nghe tiếng kêu của thiên nhiên, “biến những gì xảy ra cho thế giới thành đau khổ đang xảy ra cho bản thân mình, và như thế nhìn nhận đâu là sự đóng góp mà mỗi người có thể mang lại”(19). Chương này đề cập đến “các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng môi trường hiện nay”(15).

- Những thay đổi khí hậu : “Những thay đổi khí hậu là một vấn đề hoàn cầu với những hệ lụy trầm trọng về môi trường, xã hội, kinh tế, phân phối và chính trị, và chúng là một trong những thách đố chính hiện nay đối với nhân loại”(25). Nếu “khí hậu là một thiện ích chung của tất cả và cho tất cả mọi người” (23), thì ảnh hưởng nặng nề nhất của sự thay đổi khí hậu đè nặng trên những người nghèo nhất, nhưng “nhiều người có nhiều tài nguyên và quyền lực kinh tế hoặc chính trị hơn, dường như chỉ chú tâm tới việc che đậy vấn đề hoặc dấu nhẹm những triệu chứng của sự thay đổi khí hậu”(26): “sự thiếu phản ứng đứng trước những thảm trạng ấy của anh chị em chúng ta là một dấu hiệu cho thấy có sự mất ý thức trách nhiệm đối với những người đồng loại của chúng ta, trách nhiệm này vốn là nền tảng của mọi xã hội dân sự”(25).

- Vấn đề nước uống: Đức Giáo Hoàng khẳng định rõ ràng rằng “có được nước uống an toàn là một nhân quyền thiết yếu, cơ bản và của tất cả mọi người, vì nó ảnh hưởng tới sự sống còn của con người và vì thế, đây là điều kiện để thực thi các nhân quyền khác”. Tước bỏ quyền của người nghèo được nước uống có nghĩa là “phủ nhận quyền sống vốn bắt nguồn từ chính phẩm giá bất khả nhượng của họ”(30).

- Bảo vệ sự đa dạng sinh vật (biodiversità) : “Mỗi năm có hàng ngàn loại thực vật và động vật biến mất mà chúng ta không có thể biết chúng nữa, các con cháu chúng ta không thể thấy chúng nữa, chúng biến mất vĩnh viễn ”(33). Không những chúng là những “tài nguyên” có thể khai thác được, nhưng còn có giá trị tự mình. Trong viễn tượng đó “thật là đáng ca ngợi và ngưỡng mộ những cố gắng của các nhà khoa học và kỹ thuật tìm cách giải quyết các vấn đề do con người gây ra”, nhưng sự can thiệp của con người, khi nó nh ằ m phục vụ cho tài chánh và sự tiêu thụ, thì “làm cho trái đất nơi chúng ta sinh sống bớt ph o ng phú và tươi đẹp hơn, ngày càng giới hạn và u ám hơn”(34) .

- Món nợ môi sinh : trong khuôn khổ một nền luân lý đạo đức về các quan hệ quốc tế, Thông điệp của Đức Giáo Hoàng cho thấy có “một thứ nợ về môi sinh”(51), nhất là nợ của các nước giầu đối với những nước nghèo trên thế giới. Đứng trước những thay đổi khí hậu, có “những trách nhiệm khác nhau”(52), và trách nhiệm của các nước phát triển thì lớn hơn.

Ý thức về những khác biệt sâu xa về các vấn đề này, ĐGH Phanxicô tỏ ra rất ngạc nhiên vì “chỉ có những phản ứng yếu ớt” trước những thảm trạng của bao nhiêu con người và dân tộc. Mặc dù không thiếu những ví dụ tích cực(58), nhưng Thông Điệp tố giác “một thái độ thiếu nhạy cảm và một thứ vô trách nhiệm thiếu suy xét”(59). Thiếu một nền văn hóa thích hợp(53) và sự sẵn sàng thay đổi lối sống, sản xuất và tiêu thụ(59), trong khi đó cần cấp thiết “kiến tạo một hệ thống quy phạm (...) đảm bảo hệ thống môi sinh”(53).

Chương II - Tin Mừng về sự sáng tạo

Để đương đầu với những vấn đề được trình bày trong chương thứ I, ĐGH Phanxico đọc lại các trình thuật Kinh Thánh, và trình bày một cái nhìn toàn diện đến từ truyền thống Do thái - Kitô và nêu rõ “trách nhiệm lớn lao”(90) của con người đối với thiên nhiên, mối liên hệ thâm sâu giữa tất cả các loài thụ tạo và sự kiện “môi sinh là một thiện ích chung, là gia sản của toàn thể nhân loại và là trách nhiệm của mọi người”(95).

Trong Kinh thánh, “Thiên Chúa giải thoát và cứu vớt cũng là Đấng đã tạo dựng vũ trụ... [...] nơi Ngài, lòng quý mến và sức mạnh liên kết với nhau”(73). Ở vị thế trung tâm là trình thuật về sự sáng tạo để suy tư về tương quan giữa con người và các loài thụ tạo khác, và cho thấy tội lỗi phá vỡ sự quân bình của toàn thể thiên nhiên nói chung: “Các trình thuật này gợi ý về “Cuộc sống con người dựa trên 3 tương quan căn bản có liên hệ mật thiết với nhau: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân và tương quan với trái đất”. Theo Kinh Thánh, 3 tương quan sinh tử này bị cắt đứt, không những bên ngoài, nhưng cả bên trong chúng ta nữa. Sự tan vỡ ấy chính là tội lỗi”(66) .

Vì thế, cho dù “đôi khi các tín hữu Kitô đã giải thích Kinh Thánh không đúng, nhưng ngày nay chúng ta phải mạnh mẽ phủ nhận rằng từ sự kiện được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và từ mệnh lệnh thống trị trái đất, người ta có thể biện minh cho một sự thống trị tuyệt đối trên các loài thụ tạo”(67). Loài người có trách nhiệm “vun trồng và gìn giữ” vườn thế giới (Xc St 2,15), vì biết rằng “mục đích chung kết của các loài thụ tạo khác không phải là chúng ta. Trái lại tất cả tiến bước, cùng với chúng ta và qua chúng ta, hướng về một mục tiêu chung, là Thiên Chúa”(83).

Sự kiện con người không phải là chủ tể của vũ trụ, “không có nghĩa là mọi sinh vật đều giống như nhau và tước bỏ giá trị đặc thù của chúng”; và “cũng không bao hàm sự thần thánh hóa trái đất, làm cho chúng ta không còn ơn gọi cộng tác và bảo vệ sự mong manh của trái đất”(90), nhưng “một tâm tình kết hiệp thâm sâu với các hữu thể khác trong thiên nhiên, không thể là một tâm tình chân chính, nếu đồng thời trong tâm hồn không có sự dịu dàng, cảm thông và quan tâm đến con người”(91). Cần ý thức về một sự hiệp thông đại đồng: “Được cùng một Cha dựng nên, tất cả hữu thể của vũ trụ chúng ta được liên kết với nhau bằng những mối dây vô hình và chúng ta họp thành một thứ gia đình đại đồng, [...] thúc đẩy chúng ta có thái độ tôn trọng thánh thiêng, yêu thương và khiêm tốn”(89).

Chương này kết thúc điều nòng cốt của mạc khải Kitô giáo: “Chúa Giêsu trần thế”, với “tương quan rất cụ thể và thương yêu của Ngài với thế giới”, đã “sống lại vinh hiển, hiện diện trong mọi thụ tạo với quyền chủ tể đại đồng của N gài”(100) .

Chương III: căn cội sự khủng hoảng môi sinh do con người gây ra

Chương này trình bày một phân tích tình hình hiện nay, “để có thể nhận thấy, không những các triệu chứng, nhưng cả những nguyên do sâu xa”(15), trong một cuộc đối thoại với triết học và các khoa học nhân văn.

Điểm nòng cốt trước tiên của chương III là những suy tư về kỹ thuật: với lòng biết ơn, nhìn nhận những đóng góp của kỹ thuật để cải tiến các điều kiện sống(102-103), tuy nhiên kỹ thuật “mang lại một sự thống trị lớn lao trên toàn thể nhân loại và thế giới cho những người nắm giữ kiến thức kỹ thuật và nhất là quyền lực kinh tế để khai thác nó ”(104). Chính chủ trương thống trị bằng kỹ thuật đưa tới sự phá hủy thiên nhiên và khai thác bóc lột con người và các dân tộc yếu thế hơn. “Mô hình kỹ thuật trị có xu hướng thi hành sự thống trị trên cả kinh tế và chính trị”(109), ngăn cản không cho nhìn nhận rằng “nguyên thị trường [...] không đảm bảo sự phát triển toàn diện con người và không làm cho mọi người được hội nhập xã hội” (109).

Nơi căn cội người ta nhận thấy trong thời đại tân tiến ngày nay một chủ trương quy hướng vào con người thái quá(116): con người không còn nhìn nhận vị thế đúng đắn của mình so với thế giới và tự tham chiếu, chỉ quy hướng mọi sự về mình và quyền lực của mình. Từ đó nảy sinh chủ trương “sử dụng rồi vứt bỏ” biện minh cho mọi thứ gạt bỏ, dù là môi trường hay con người, đối xử với tha nhân và thiên nhiên như những đồ vật và dẫn tới vô số những hình thức thống trị. Đó là thứ chủ trương dẫn tới sự khai thác trẻ em, bỏ rơi người già, biến những người khác thành nô lệ, đánh giá quá cao khả năng của thị trường tự điều khiển, thực hành việc buôn người, buôn bán da thú vật đang trên đường bị triệt tiêu và “những kim cương đẫm máu”. Đó cũng chính là chủ trương của nhiều tổ chức bất lương mafia, buôn bán bộ phận con người, những kẻ buôn bán ma túy và gạt bỏ các thai nhi vì chúng không đáp ứng các dự phóng của cha mẹ(123).

Dưới ánh sáng ấy, Thông Điệp cứu xét hai vấn đề nghiêm trọng đối với thế giới ngày nay. Trước tiên là lao công: “Trong bất kỳ sự áp dụng nền môi sinh học toàn diện nào, không loại trừ con người, điều tối cần thiết là phải nhìn nhận giá trị lao công”(124), và nhìn nhận rằng “từ khước không đầu tư vào con người, để được lợi nhuận ngay tức khắc, đó thực là một lối kinh doanh tệ hại nhất cho xã hội”(128).

Vấn đề thứ hai liên quan đến những giới hạn của tiến bộ khoa học, cụ thể là những thực phẩm biến thái hệ di truyền, gọi tắt là OGM(132-136), đây là “một vấn đề phức tạp”(135). Mặc dù “tại một số vùng, việc sử dụng loại thực phẩm này đã làm tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết một số vấn đề, nhưng người ta gặp những khó khăn lớn không thể coi thường”(134), bắt đầu từ sự “tập trung đất đai canh tác vào tay một thiểu số người”(134). ĐGH Phanxicô đặc biệt nghĩ đến các nhà sản xuất nhỏ và các công nhân ở miền quê, sự đa d ạng sinh học, các hệ thống môi sinh (ecosistemi). Vì thế cần “có một cuộc thảo luận khoa học và xã hội theo tinh thần trách nhiệm và có tính chất rộng rãi, có thể cứu xét tất cả thông tin hiện có và gọi đích danh sự vật” từ “những đường hướng nghiên cứu độc lập và liên ngành”(135) .

Chương IV: Môi sinh học toàn diện

Trọng tâm đề nghị của Thông Điệp là một nền môi sinh học toàn diện như một mô hình công lý: một nền môi sinh học “hội nhập chỗ đứng đặc biệt của con người trong thế giới này và tương quan của con người với thực tại xung quanh”(15). Thực vậy, “ chúng ta không thể coi thiên nhiên như cái gì tách biệt khỏi chúng ta hay như một cái khung cho đời sống chúng ta” (139). Điều này có giá trị vì chúng ta sống trong các lãnh vực khác nhau: trong kinh tế và chính trị, trong các nền văn hóa khác nhau, đặc biệt trong những nền văn hóa bị đe dọa nhất, và thậm chí trong mọi lúc đời sống thường nhật của chúng ta.

Viễn tượng toàn diện cũng đòi một nền môi sinh học về các cơ chế: “Nếu mọi sự đ ề u có liên hệ với nhau, thì tình trạng sức khỏe của các cơ chế trong một xã hội cũng có những ảnh hưởng đối với môi trường và tới chất lượng đời sống con người: “Những gì làm thương tổn tình liên đới và tình thân hữu của dân chúng cũng đều gây hại cho môi trường”(142).

Với nhiều thí dụ cụ thể, ĐGH Phanxicô lập lại tư tưởng của n gài, đó là có một liên hệ giữa các vấn đề môi sinh và các vấn đề xã hội và con người mà không bao giờ người ta có thể phá vỡ. Vì thế, “sự phân tích các vấn đề môi trường không thể tách rời khỏi sự phân tích các bối cảnh nhân bản, gia đình, lao động, thành thị, và tách khỏi tương quan của mỗi người với chính mình”(141), xét vì “không có hai cuộc khủng hoảng riêng rẽ, một cuộc khủng hoảng môi trường và một cuộc khủng hoảng xã hội, nhưng chỉ có một cuộc khủng hoảng duy nhất và phức tạp về xã hội và môi trường”(139).

Nền môi sinh học toàn diện này “không thể tách rời khỏi ý niệm công ích”(156), nhưng phải hiểu một cách cụ thể: trong bối cảnh ngày nay, trong đó “có bao nhiêu bất công và ngày càng có nhiều những người bị gạt bỏ, thiếu các nhân quyền căn bản”, sự dấn thân cho công ích có nghĩa là thực hiện những chọn lựa liên đới trên căn bản “sự chọn lựa ưu tiên dành cho những người nghèo nhất ”(158). Đó cũng là cách thức tốt nhất để để lại một thế giới lâu bền cho các thế hệ mai sau, không phải qua những lời tuyên bố, nhưng qua sự dấn thân săn sóc người nghèo ngày nay, như ĐGH Biển Đức 16 đã nhấn mạnh: “ ngoài sự liên đới chân thành giữa các thế hệ, còn cần tái khẳng định nhu cầu cấp thiết về luân lý cần có sự liên đới được canh tân giữa các thế hệ ”(162).

Nền môi sinh học toàn diện cũng ảnh hưởng tới đời sống thường nhật, điều mà Thông Điệp đặc biệt chú ý trong môi trường thành thị. Con người có khả năng lớn trong việc thích ứng và “thật là điều đáng ngưỡng mộ óc sáng tạo và lòng quảng đại của các cá nhân và các nhóm có khả năng gỡ bỏ các giới hạn của môi trường [...], học cách định hướng cuộc sống của họ giữa sự xáo trộn và bấp bênh”(148). Dầu vậy, một sự phát triển chân chính đòi phải cải tiến toàn diện về chất lượng cuộc sống con người: không gian công cộng, nhà ở, phương tiện di chuyển v.v... (150-154).

Cả thân xác chúng ta cũng đặt chúng ta trong tương quan trực tiếp với môi trường và với các sinh vật khác. Sự đón nhận thân thể mình như hồng ân của Thiên Chúa là điều cần thiết để đón tiếp và chấp nhận toàn thế giới như món quà của Chúa Cha và như căn nhà chung; trái lại một chủ trương thống trị trên thân xác mình đang biến thành một thứ thống trị nhiều khi rất tinh vi ”(155).

Chương V: Một vài đường hướng và hoạt động

Chương này đề cập đến câu hỏi: chúng ta có thể và phải làm gì? Nếu chỉ phân tích mà thôi thì không thể đủ: còn cần phải có những đề nghị “đối thoại và hành động đòi có sự can dự của mỗi người chúng ta, cũng như của nền chính trị quốc tế nữa”(15) và “giúp chúng ta ra khỏi cái vòng lẩn quẩn tự hủy diệt mà chúng ta đang phải đương đầu”(163). Đối với ĐGH Phanxicô, một điều không thể loại bỏ, đó là làm sao để việc xây dựng những hành trình cụ thể không được cứu xét như một ý thức hệ, hời hợt hoặc thu hẹp. Vì thế một điều không thể thiếu, đó là đối thoại, một từ luôn được nhắc đến trong mỗi phần của chương IV này: “Có những cuộc thảo luận, về những vấn đề liên quan đến môi trường, trong đó thật là khó đạt tới một sự đồng thuận. [....], Giáo Hội không chủ trương giải quyết các vấn đề khoa học, cũng không thay thế chính trị, nhưng tôi mời gọi thảo luận chân thành và minh bạch, để những nhu cầu đặc thù hoặc các ý thức hệ không làm thương tổn công ích ” (188).

Trên căn bản đó, ĐGH Phanxic ô không sợ đưa ra một phán đoán nghiêm khắc về những hoạt động quốc tế gần đây: “Các hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường trong những năm gần đây không đáp ứng các mong đợi, vì thiếu quyết định chính trị, chúng không đạt tới các hiệp định môi trường hoàn cầu thực sự có ý nghĩa và hữu hiệu”(166). Và ngài tự hỏi: “tại sao ngày nay người ta muốn duy trì một quyền bính sẽ được nhắc đến trong tương lai là không có khả năng can thiệp khi cấp thiết và cần phải hành động?”(57). Trái lại - như các vị Giáo Hoàng đã nhiều lần lập lại kể từ Thông điệp “Hòa bình dưới thế”, cần có những hình thức và dụng cụ hữu hiệu để quản trị thế giới”(175): “Chúng ta cần một hiệp định về các chế độ quản trị cho toàn thể những gì gọi là công ích của thế giới”(174), xét vì “sự bảo vệ môi trường không thể được bảo đảm dựa trên tính toán tài chánh về phí tổn và lợi lộc mà thôi. Môi trường là một trong những thiện ích mà các cơ cấu thị trường không có khả năng bảo vệ hoặc thăng tiến một cách thích hợp” (190, trích dẫn Sách Toát yếu đạo lý xã hội của Hội Thánh).

Cũng trong chương này, ĐGH Phanxicô nhấn mạnh việc phát triển những tiến trình quyết định lương thiện và minh bạch, để có thể “phân định” đâu là những chính sách và sáng kiến xí nghiệp có thể đưa tới một “sự phát triển toàn diện”(185). Đặc biệt, việc nghiên cứu ảnh hưởng của một dự án mới về mặt môi sinh “đòi có những tiến trình chính trị minh bạch và có sự đối thoại, trong khi nạn tham ô che đậy ảnh hưởng thực sự về môi sinh của một dự án để đổi lấy những ân huệ, nó thường đưa tới những hợp đồng mơ hồ, trốn tránh nghĩa vụ thông tin và một cuộc thảo luận sâu rộng” (182).

Đặc biệt quan trọng là lời kêu gọi gửi đến những người nắm giữ các trách vụ chính trị, để họ “tránh tiêu chuẩn hành động duy hiệu năng và nhất thời”(181) đang thịnh hành ngày nay; “Nếu họ có can đảm làm, thì họ sẽ có thể tái nhìn nhận phẩm giá mà Thiên Chúa đã ban cho họ như một người và họ sẽ để lại một chứng tá về trách nhiệm quảng đại, sau khi họ đi vào lịch sử”(181) .

Chương VI: Giáo dục và linh đạo môi sinh

Chương cuối cùng đi thẳng vào trọng tâm sự hoán cải môi sinh mà Thông Điệp mời gọi. Những căn cội cuộc khủng hoảng văn hóa tác động sâu xa và không dễ điều chỉnh lại những tập quán và cách cư xử. Giáo dục và huấn luyện vẫn là những thách đố chủ yếu: “Mọi thay đổi cần có những động lực và một hành trình giáo dục” (15); cần có sự can dự của tất cả các lãnh vực giáo dục, trước tiên là “trường học, gia đình, các phương tiện truyền thông, việc huấn giáo”(213).

Điểm đầu tiên là “nhắm đến một lối sống mới ”(203-208), có thể tạo ra cơ hội “gây một sức ép lành mạnh trên những người nắm giữ quyền bính chính trị, kinh tế và xã hội”(206). Và điều này xảy ra khi những chọn lựa của những ng ười tiêu thụ “thay đổi được cách hành xử của các xí nghiệp, bó buộc họ cứu xét ảnh hưởng về môi sinh và những kiểu mẫu sản xuất”(206).

Ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành trình giáo dục về môi sinh có khả năng ảnh hưởng tới những cử chỉ và thói quen thường nhật, từ sự giảm bớt tiêu thụ nước, cho đến việc thu lượm rác theo các loại khác nhau, “ tắt những đèn điện vô ích ” (211): “Một môi sinh học toàn diện được thực hiện kể cả bằng những cử chỉ đơn sơ thường nhật trong đó chúng ta phá vỡ lý lẽ bạo lực, khai thác bóc lột, ích kỷ ”(230). Tất cả điều ấy sẽ đơn giản hơn nhờ cái nhìn chiêm niệm đến từ đức tin: “Đối với tín hữu, thế giới không được chiêm ngắm từ bên ngoài nhưng từ bên trong, nhìn nhận những lối liên hệ qua đó Chúa Cha liên kết chúng ta với mọi sinh vật. Ngoài ra khi làm tăng trưởng khả năng đặc thù mà Thiên Chúa ban cho mỗi tín hữu, sự hoán cải môi sinh dẫn đưa họ đến chỗ phát huy khả năng sáng tạo và sự hăng hái ” (220). Trở lại đường hướng được đề nghị trong Tông Huấn “Niềm vui Phúc Âm”: “Sự điều độ, được sống một cách tự do và ý thức, có tác động giải thoát” (223), cũng vậy “hạnh phúc đòi phải biết giới hạn một số nhu cầu làm cho chúng ta choáng váng, và nhờ đó tỏ ra sẵn sàng đối với nhiều cơ may do cuộc sống mang lại”(223); theo cách thức đó, chúng ta có thể tái cảm thấy chúng ta cần lẫn nhau, chúng ta có một trách nhiệm đối với nhau và đối với thế giới, và sống tốt lành lương thiện là điều thật bõ công”(229) .

Các thánh tháp tùng chúng ta trong hành trình này. Thánh Phanxicô nhiều lần được trưng dẫn, là “mẫu gương tuyệt hảo về sự chăm sóc những gì là yếu đuổi và một nền môi sinh toàn diện, được sống trong vui mừng”(10), mẫu gương về sự “không thể tách biệt nhau giữa mối quan tâm đối với thiên nhiên, công bằng đối với người nghèo, dấn thân trong xã hội và hòa bình nội tâm(10). Nhưng Thông điệp cũng nhắc đến thánh Biển Đức, thánh Têrêsa thành Lisieux, chân phước Charles de Foucauld.

Sau thông điệp Laudato sí này, việc xét mình, - phương thế mà Giáo Hội luôn cổ võ để định hướng cuộc sống của mình dưới ánh sáng tương quan với Chúa, - phải bao gồm một chiều kích mới: không những cứu xét xem ta đã sống tình hiệp thông với Thiên Chúa, với tha nhân và với bản thân như thế nào, nhưng còn với toàn thể các loài thụ tạo và thiên nhiên nữa.

MỤC LỤC THÔNG ĐIỆP

Lạy Chúa của con, chúc tụng Chúa [1-2]

Chúng ta không dửng dưng đối với điều gì của thế giới này [3-6]

Được liên kết do cùng một mối quan tâm [7-9]

Thánh Phanxicô Assisi [10-12]

Lời kêu gọi của tôi [13-16]

CHƯƠNG I

Điều đang xảy ra cho căn nhà của chúng ta [17-61)

I. Sự ô nhiễm và thay đổi khí hậu [20-26]

Ô nhiễm, rác rưởi và văn hóa gạt bỏ [20-22]

Khí hậu như công ích [23-26]

II. Vấn đề nước uống [27-31]

III. Đánh mất sự đa dạng sinh vật [32-42]

IV. Suy giảm phẩm chất đời sống con người và suy thoái xã hội [43-47]

V. Bất công hoàn cầu [48-52]

VI. Phản ứng yếu ớt [53-59]

VII. Các ý kiến khác nhau [60-61]

CHƯƠNG II

Tin Mừng về sự sáng tạo [62-100]

I. Ánh sáng do đức tin mang lại [63-64]

II. Sự khôn ngoan của các trình thuật Kinh Thánh [65-75]

III. Mầu nhiệm vũ trụ [76-83]

IV. Sứ điệp của mỗi thụ tạo trong sự hòa hợp của toàn thể công trình tạo dựng [84-88]

V. Một sự hiệp thông đại đồng [89-92]

VI. Của cải để mưu ích cho mọi người [93-95]

VII. Cái nhìn của Chúa Giêsu [96-100]

CHƯƠNG III

Căn cội sự khủng hoảng môi sinh do con người gây ra [101-136]

I. Kỹ thuật: óc sáng tạo và quyền bính [102-105]

II. Hoàn cầu hóa mô hình kỹ thuật trị [106-114]

III. Khủng hoảng và hậu quả của thuyết duy nhân loại học tân thời [115-136]

Chủ thuyết duy tương đối thực hành [122-123]

Cần thiết bảo vệ lao công [124-139]

Canh tân sinh học từ nghiên cứu [130-136]

CHƯƠNG IV

Một nền môi sinh học toàn diện [137-162]

I. Môi sinh học môi trường, kinh tế, xã hội [138-142]

II. Môi sinh học văn hóa [143-146]

III. Môi sinh học về đời sống thường nhật [147-155]

IV. Nguyên tắc công ích [156-158]

V. Công lý giữa các thế hệ [159-162]

CHƯƠNG V

Vài đường nét định hướng và hành động [163-201]

I. Đối thoại về môi trường trong chính trị quốc tế [164-175]

II. Đối thoại hướng về những chính sách quốc gia và địa phương [176-181]

III. Đối thoại và minh bạch trong các tiến trình quyết định [182-188]

IV. Chính trị và kinh tế trong đối thoại để đạt tới sự viên mãn của con người [189-198]

V. Các tôn giáo trong cuộc đối thoại với khoa học [199-201]

CHƯƠNG VI

Giáo dục và linh đạo môi sinh học [202-215]

I. Nhắm đến một lối sống mới [203-208]

II. Giáo dục về liên minh giữa nhân loại và môi trường [209-215]

III. Hoán cải môi sinh học [216-221]

IV. Vui mừng và hòa bình [222-227]

V. Tình yêu dân sự và chính trị [228-232]

VI. Các dấu chỉ bí tích và nghỉ lễ [233-237]

VII. Chúa Ba Ngôi và tương quan giữa các thụ tạo [238-240]

VIII. Nữ Vương toàn thể thụ tạo [241-242]

IX. Đi xa hơn mặt trời [243-246]

Kinh nguyện cho trái đất của chúng ta

Kinh nguyện Kitô giáo với thụ tạo

(G. Trần Đức Anh OP , dịch từ bản tóm lược chính thức của Hội Đồng Tòa Thánh “Công lý và Hòa bình”. RadioVaticana 18.06.2015)

Lm. Jos Nguyễn Hữu Triết

 


Phụ Bản I

NĂM 2016 VÀ CÂU CHUYỆN

VỀ CHÁNH PHÁP

Năm 2016 – Phật Lịch là 2560. Càng về cuối gần năm thứ 3.000, những Phật Tử trên thế giới càng hy vọng, vì theo theo huyền ký trong Kinh, thì đó là thời điểm Đức DI LẶC hạ sanh. Hy vọng đó lại càng bùng lên mạnh mẽ hơn bởi sự xuất hiện của Hoa Ưu Đàm – loài hoa mà theo trong Kinh ghi lại là 3.000 mới nở một lần, báo hiệu là một vị Phật giáng sinh, chỉ xuất hiện khi có Đức Phật hay Kim Luân Vương hoặc Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế, là điềm lành cho nhân thế.

Bắt đầu là tháng 7 năm 1997 Hoa Ưu Đàm xuất hiện trên tượng Phật ở Hàn Quốc, rồi sau đó là Đài Loan, Singapore, Pháp, Hongkong, Mỹ, Úc, Trung Quốc. Ở Việt Nam thì khắp nơi, từ năm 2012 đã xuất hiện ồ ạt: An Giang, rồi đến Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Huế, Nghệ An, Daklak, Tuy Hòa, Phú Yên, Thái Nguyên, Nam Định. Hoa Ưu Đàm còn mọc cả trên dây đèn trang trí hang đá Noel quanh gốc mai ghép của Linh mục Giuse Vũ tại nhà thờ Mai Khôi trước Giáng sinh 2 ngày trong năm 2012. Trong năm 2015 thì xuất hiện ở Sơn Trà, Huyện Hương Sơn, và ở Tp. HCM, tại nhà nhiếp ảnh gia Hoài Sơn, tại Cung Văn Hóa Tao Đàn Quận 1, tại Quận 7, Quận Thủ Đức, rồi Cái Bè Tiền Giang…

Trích các Kinh nói về Hoa Ưu Đàm như sau:

Kinh Huệ Lâm Ân Nghĩa viết: “Hoa Ưu Đàm do điềm lành linh dị sinh ra. Đây là một loài hoa của trời, trên thế gian không có. Nếu một đấng Như Lai hoặc Chuyển Luân Thánh Vương hạ xuống thế giới loài nguời, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ vào đại ân đại đức của Ngài”.

Kinh Vô Lượng Thọ viết: “Này Anan, Như Lai vì lòng đại bi vô tận thương xót ba cõi nên xuất hiện ở đời, tuyên dương giáo pháp là muốn cứu bạt quần sanh, đem lại lợi ích chân thật, khó gặp, khó thấy, như hoa Ưu Đàm khi xuất hiện”.

Bài Kệ trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì nói rằng: “Phật xuất thế đã khó. Hoa Ưu Đàm xuất hiện cũng khó, mà người nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà hoan hỷ, tán dương cũng khó như vậy”.

Một số nhà khoa học cho rằng đó chỉ là trứng của một loài côn trùng có tên là Lacewings. Nhưng một người dân ở Lalaca, Malaisia đã phát hiện cả hoa và trứng, chứng tỏ hoa Ưu Đàm không phải là trứng. Ô. Lê Văn Mậu là một Thạc sĩ Sinh Học ở Tuy Hòa, Phú Yên cũng có nghiên cứu rất kỹ và khẳng định đó là Hoa chớ không phải là trứng.

Hoa này lạ một điều là có thể mọc ở bất cứ đâu: Đồng, thép, sắt, gỗ, xi măng, thủy tinh, lá cây, trong điều kiện không có đất, ánh sáng hay nước, và tồn tại từ vài tháng đến cả năm.

Hoa Ưu Đàm xuất hiện trùng hợp theo Kinh viết đã là một điều rất lạ. Nhưng dù có đúng là Hoa Ưu Đàm hay không, thì sự xuất hiện đồng loạt, ở các vùng miền của Việt Nam vào thời điểm gần sát với Kinh viết, có lẽ cũng là một điềm lành.

Việc Chánh Pháp sẽ xuất hiện ở Việt Nam đã được nhiều nhóm tu hành ở nhiều nước biết trước từ rất lâu. Điển hình là từ trước năm 1975, một nhà giáo trẻ, giỏi ngoại ngữ, có quen biết nhiều người nước ngoài cho biết, có một người Nhật, không biết thuộc giáo phái nào ở Nhật, đã sang Việt Nam ngụ tại Quận 5 Chợ Lớn chờ để gặp vị Giác Ngộ mà họ cho là sẽ ra đời tại Việt Nam. Cho đến năm 1976 ông ta vẫn còn ở tại Việt Nam. Về sau thì không gặp lại, không biết đã trở về Nhật hay chưa.

Trong một số Báo Xuân Tin Sáng, (Chủ nhiệm là cựu Dân biểu Ngô Công Đức), trong một hai năm đầu Giải Phóng, không nhớ chính xác, nhưng Báo Tin Sáng chỉ tồn tại có vài năm thôi. Ở trang cuối, sát bìa, tôi có lưu ý một dòng tin khá lạ nên cắt để dành, nhưng do dời nhà nhiều lần nên thất lạc. Bài báo nói về một Phái đoàn Quốc Tế đến Việt Nam và được hướng dẫn đi tham quan Thảo Cầm Viên. Khi được hướng dẫn viên giới thiệu về tên khoa học của một loài hoa có tên là Hoa Vàng Anh - Saradica Indica - thì cả phái đoàn đều quỳ sụp xuống to vẻ cung kính, làm hướng dẫn viên ngạc nhiên, không hiểu vì sao. Hỏi ra thì Phái Đoàn cho biết đây là tên của một vị Cổ Phật mà họ đã đi tìm khắp thế giới nhưng không gặp. Không ngờ đến Việt Nam thì được nghe xướng tên ở đây. Sau này tôi vào Google để tìm thì được biết trong Thảo Cầm Viên có một giống hoa tên Vàng Anh lá nhỏ, mà tên khoa học gọi là Saradica Indica cũng gọi là Hoa Vô Ưu.

Nhiều năm trước đây, một bà bạn lớn tuổi, trong cùng nhóm tu học với tôi, trong một chuyến tham quan miền Trung, đã ghé vào một ngôi Chùa, thấy có tượng của Đức Chuẩn Đề. Từ lâu, bà đã rất muốn tìm thỉnh tượng này nhưng không gặp. Tình cờ vô Chùa này, thấy có, nên bà rất mừng, nói với người trông coi cửa hàng cho bà thỉnh. Người quản lý gian hàng kêu bà đợi, rồi đi mời trụ trì ra gặp bà. Vị trụ trì cho biết là tượng này do một vị Sư từ nước ngoài, mỗi năm qua Chùa ngụ vài tháng, tạc để đó, chờ người đến thỉnh tượng, vì ông cho là người thỉnh tượng có liên quan đến dòng Chánh Pháp tại Việt Nam – Vì thế, trước khi về nước, vị sư này có dặn vị trụ trì khi có người đến thỉnh thì ghi lại địa chỉ, số điện thoại cho ông, để ông liên lạc khi trở qua Việt Nam. Người bạn tôi sau đó dời nhà, không biết có phải vì lý do đó mà không liên lạc được hay không... Vị Sư thì sau này nghe tin đã mất. Bức tượng Chuẩn Đề người bạn tôi vẫn còn thờ tại nhà ở gần Thủ Đức.

Kể sơ vài việc mà tôi thu thập được, chứng tỏ là nhiều nước trên thế giới cũng đã quan tâm đến dòng Chánh Pháp sẽ xuất hiện ở Việt Nam. Phối hợp với hiện tượng Hoa Ưu Đàm nở rộ khắp cả nước như sự hối thúc cho điều đó chóng thành hiện thực.

Sự thật là Chánh Pháp đã có mặt ở nước ta từ rất lâu rồi. Từ thời của Vua Trần Thái Tông mà qua những bài giảng, Thơ, Kệ của Ngài và 2 vị Tổ Trúc Lâm đầu tiên ta nhận ra điều đó. Tiếc thay là với thời gian, với sự pha trộn của những tu sĩ về sau nên lần hồi Chánh Pháp đã bị “tam sao thất bổn”. Đạo Phật trở thành là một tôn giáo tôn thờ Đức Thích Ca và Chư Phật, Chư Bồ Tát để cầu xin, nương tựa, không còn là Đạo Giải Thoát như thuở ban đầu Đức Thích Ca thành lập nữa. Có lẽ chư vị Giác Ngộ đã biết trước điều đó, nên đã có lời huyền ký mà ta thấy ghi lại nơi nhiều Kinh Sách nói trên.

Tuy vậy, dù không rầm rộ, nhưng trong âm thầm, dòng Chánh Pháp vẫn được giữ gìn nơi những bậc chân tu, chờ ngày hiển lộ. Chánh Pháp vẫn ở cạnh chúng ta, nhưng chúng ta khó nhận ra, vì không được quảng cáo về sự linh thiêng, kỳ bí của Phật, không có hứa hẹn Phật sẽ cứu độ nên người đời có biết cũng không thấy hấp dẫn. Người tu theo Chánh Pháp không phải học cho thuộc thật nhiều pháp để viết những bài luận giải tràng giang, hay thuyết pháp thao thao, thu phục nhiều tín đồ, mà họ chỉ làm công việc tu sửa nơi Tâm, không cần nhiều người biết, cũng không quan tâm đến hình tướng bề ngoài, không Chùa to Phật lớn, không cờ xí rầm rộ cung nghinh, nên bị chìm lấp giữa dòng đời mà con người nhiều lo âu phiền muộn nên cần sự hộ trì hơn là phải tự cứu.

Đương nhiên khi đã có Chánh Pháp thì sẽ có vị giác ngộ hay Chuyển Luân Thánh Vương, vì điều đó không phải là chuyện gì quá lớn lao, vĩ đại, đòi hỏi một sự kinh thiên động địa hay phải có hiện tượng gì ghê gớm. Trái lại, Chánh Pháp chỉ diễn ra rất âm thầm nơi Tâm của người tu. Có nghĩa là: Người tu Phật sau khi nhận biết về Thân, Tâm, về Các Pháp. Biết rõ đâu là Mê Lầm, đâu là Giác Ngộ, đâu là Sinh Tử, đâu là Thường Còn, thế nào là Ràng Buộc, thế nào là Giải Thoát, thế nào là Chúng Sinh, thế nào là Phật, thì sẽ làm công việc là tự chuyển hóa cái Vọng Tâm của mình trở thành Chân Tâm. Biến cái Tâm vô Minh, động loạn, lúc nào cũng hành hạ, làm cho mình đau khổ, thành Phật Quốc, thanh tịnh, an vui. Công việc Chuyển Hóa đó được gọi là Chuyển Pháp Luân. Người Chuyển Pháp Luân gọi là Chuyển Luân Thánh Vương. Người hiểu tất cả các sự vận hành của các pháp, biết Sinh Tử là gì? Biết cách làm để Giải Thoát, không còn chạy theo mê lầm thì gọi đó là bậc Giác Ngộ. Vì thế, Bậc Giác Ngộ hay Chuyển Luân Thánh Vương nếu hiểu theo đúng Chánh Pháp thì không phải là một vị nào đó có thần thông quảng đại, đoán được chuyện sắp tới hay biết được tâm ý của người khác, có thể làm đảo lộn hay xếp đặt trật tự cho cả thế giới, cứu cả nhân loại, mà chỉ là người ý thức được Con Đường Giải Thoát, Biết thế nào là Chân, thế nào là Vọng. Người đó chỉ có thể sắp xếp, cứu độ cho chúng sinh trong Tâm của họ mà thôi. Đó mới đúng là hiểu và hành theo Chánh Pháp. Cũng do được đào tạo trong dòng Chánh Pháp, tôi hiểu những điều đó. Vì thế, giả sử có ai nói rằng có vị Chuyển Luân Thánh Vương hay vị giác ngộ xuất hiện ở đâu đó tại Việt Nam, tôi cũng chẳng cần háo hức đi tìm, bởi các lẽ:

Thứ Nhất: “Ai tu nấy đắc”. Dù có được tiếp xúc, gặp gỡ các vị thì cũng chỉ là cơ hội để cho ta học hỏi thôi. Ngay cả gặp Phật cũng không phải tất cả đều được giải thoát. Phật Ngôn có câu: “Có kẻ nắm chéo y Như Lai mà cách xa ngàn dặm”. Trực tiếp gặp Phật, nắm được chéo y của Ngài cũng không được Ngài đưa lên Niết Bàn, mà tự mình phải hành dụng mà thôi. Giáo Pháp của Phật thì có đầy đủ trong Kinh. Cứ theo đó mà thực hành cũng đủ rồi. Điều cần là có người đi trước đã biết rõ đường lối, cách thức để hướng dẫn chúng ta. Do vậy vị Chuyển Luân Thánh Vương cũng chỉ có sứ mạng như một vị Thiện Tri Thức và khơi dậy niềm tin vào Chánh Pháp đã bị quên lãng mà thôi. Chánh Pháp có xuất hiện ở nước ta cũng không thể đưa nước ta từ lạc hậu sang văn minh, từ đói nghèo thành cường quốc trên thế giới, mà chỉ cho chúng ta hiểu để tự chuyển xoay cái Tà Tâm của mình trở về nẻo Chánh mà thôi. Nhưng điều đó còn tùy thuộc ta có chấp nhận có thực hành hay không, vì chỉ ai làm, nấy được. Không ai làm thế cho ai được.

Thứ hai: Theo Kinh Lăng Nghiêm thì Chư Bồ Tát có thể xuất hiện dưới bất cứ hình dạng nào: “A Nan, ta có dạy các Bồ Tát và A La Hán. Sau khi ta diệt độ rồi thì các ông phải thị hiện thân hình trong đời mạt pháp để cứu độ các chúng sanh đang trầm luân. Hoặc hiện làm Thầy Sa Môn, cư sĩ, vua, quan, đồng nam, đồng nữ, cho đến hiện đàn bà góa, kẻ dâm nữ, người buôn bán để lẫn lộn trong từng lớp người, chung làm một nghề nghiệp đặng giáo hóa chúng sanh trở về chánh đạo. Nhưng các vị ấy quyết chẳng bao giờ nói: “Ta đây thật là Bồ Tát hoặc A La Hán v.v…” hay tỏ ra một vài cử chỉ gì làm tiết lộ sự bí mật để cho người ta biết mình là thánh nhân thị hiện. Chỉ trừ sau khi mạng chung rồi mới âm thầm để lại một vài di tích cho người biết thôi. Các vị đã không lộ bí mật thì muốn biết, muốn gặp cũng không dễ. Trái lại người quảng cáo, hô hào thường là những kẻ giả mạo để mưu cầu danh lợi.

Thứ Ba: Nhiều người sùng bái chư vị Giác Ngộ háo hức mong chờ là do hiểu lầm phương tiện của Đức Thích Ca. Nghĩ rằng sự xuất hiện đó phải đầy hào quang hay hiện tượng lạ, làm đảo lộn cả thế giới. Thật ra, gọi là Chuyển Luân Thánh Vương hay bậc Giác Ngộ nghe như lớn lao, nhưng xét về phương diện tu hành theo Chánh Pháp, thì vị đó chỉ là công việc chuyển Ba Pháp THAM, SÂN, SI thành GIỚI, ĐỊNH, HUỆ. Chuyển vô Minh, thành Minh. Chuyển Mê Lầm thành Giác Ngộ nơi chính cái Tâm của vị đó thôi. Đâu có chuyển thứ gì ngoài vũ trụ hay chuyển giùm cho ta? Vì vậy, nếu người nào biết rõ con đường tu hành để tự chuyển hóa nơi tâm của mình thì cũng là Chuyển Luân Thánh Vương. Người hiểu rõ Đạo Phật, hiểu rõ các Pháp, hết Vô Minh thì là người Giác Ngộ, không có gì là ghê gớm. Chính vì vậy mà đạo Phật mới có Tam Thế Phật. Tức là không chỉ Phật quá khứ tu hành thành công, mà hiện tại ai tu cũng thành công, tương lai cũng thế.

Theo tôi, Chánh Pháp xuất hiện là có thật. Do nước ta từ xưa đến nay có rất nhiều người hướng thiện, mộ đạo. Nhưng họ lại tin Phật, Bồ Tát như là những vị Thần Linh, có quyền cứu Độ cho Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Vì thế họ tạc tượng cho to để tôn sùng, thờ phụng, ngày ngày thắp hương thành kính cầu xin được ban ơn, giáng phúc, cứu khổn, phò nguy. Họ hoàn toàn không biết lối tin, hiểu như vậy theo Đạo Phật là Tà Pháp. Kinh Kim Cang đã có Kệ viết rõ: “Kẻ nào dùng sắc để thấy ta. Dùng âm thanh để cầu ta. Kẻ đó hành tà đạo. Không thấy được Như Lai”. Tin Phật theo Chánh Pháp là không cho rằng Phật là Thần Linh, mà chỉ là sự Giải Thoát. Phật của mỗi người sẽ Giải Thoát, hay là Độ cho chúng sinh của chính mình mà thôi. Chúng Sinh cũng chỉ là những tư tưởng xấu, ác, luôn khởi lên nơi tâm của mỗi người. Chính vì vậy mà Đức Thích Ca đã Thành Phật. Bởi vì nếu chúng ta là Chúng Sinh của Ngài thì Ngài đã không thể thành Phật được, vì chưa độ thoát cho ta, cho nên ta mới còn trầm luân trong bể khổ như hiện nay. Do vậy, hiểu theo đúng nghĩa của Chánh Pháp thì Phật Thích Ca không phải là Thần Linh có thể phù hộ, độ trì, đổi xấu lấy tốt cho ta. Ngài cũng chỉ là người bình thường như tất cả mọi người. Nhưng Ngài đã tìm được con đường để Thoát Khổ, Thoát Sinh Tử. Bản thân Ngài đã hoàn tất cho chính mình và để lại con đường chỉ lại cho tất cả mọi người, để ai hành theo đều sẽ được thành tựu như Ngài.

Về Phật Di Lặc sẽ xuất hiện ở thời kỳ cuối của 3.000 năm cũng thế. Nếu có học theo đúng Chánh Pháp mọi người sẽ biết Kinh dạy: Sau thời kỳ Thích Ca là thời kỳ Di Lặc, mà Thích Ca có nghĩa là Năng Tịnh. Người siêng năng tu tập, làm cho cái Tâm trở thành thanh tịnh thì sẽ được an lạc. Sự an lạc được ví như Đức Di Lặc giáng trần, mà hình tượng của Ngài mô tả về một người to béo, bụng phệ, ngồi cười vui thoải mái, quanh mình là sáu đứa trẻ leo trèo. Đó là tượng trưng cho người đã hàng phục, chuyển hóa được Lục Căn, không còn bị nó quấy rối, làm khổ nữa. Trước khi tu hành thì Lục Căn được gọi là Lục Tặc, vì luôn tìm cầu, đòi hỏi làm cho con người không yên. Tất cả những việc xấu, việc ác của con người đều bắt đầu từ chúng. Do Mắt thấy, Tai nghe, Thân va chạm, Ý ham thích, rồi khởi lên tìm kiếm để thỏa mãn. Rồi vì tìm cầu mà bất chấp Nhân Quả nên hành động theo chiều hướng xấu, chỉ muốn chiếm đoạt mà không muốn dùng sức, dùng tài của bản thân, do đó mà vi phạm luật đời, luật đạo, để rồi phải chịu quả báo.

Công việc tu hành tưởng chừng như lớn lao, để trở thành Thánh, thành Phật, thành Như Lai… thật ra chỉ để Giải Thoát bản thân khỏi sự kềm tỏa của Lục Căn, không để cho nó tác oai, tác quái. Trước khi tu hành thì nó là Lục Tặc. Sau khi hiểu rõ và chuyển hóa được chúng, thì Lục Tặc sẽ biến thành Lục Hộ Pháp, vì giúp đỡ cho người tu. Nhờ có Tai mà ta nghe được những lời phải, lời hay để học hỏi. Có Mắt để quan sát, để đọc những điều tốt để làm theo. Có cái Thân cho ta dùng mà chuyển hóa tâm, ý và làm được tất cả những điều tốt đẹp cho mình, cho người. Không còn khởi lên những ý nghĩ ác độc, hại người, hại vật nữa, thì gọi là Tâm ta đã trở thành Phật Quốc. Chúng sinh đều Thành Phật.

Đất nước chúng ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, bị các cường quốc lấn chiếm, đô hộ. Nhưng bản tính người Việt Nam chúng ta luôn hiếu hòa, yêu cái thiện, mộ đạo, có nếp sống đạo đức. Đó cũng là đức tính tốt để Chánh Pháp luôn song hành cũng với đất nước, dân tộc ta từ bao đời qua, có điều mọi người chưa nhận ra. Sự khác biệt giữa Chánh Pháp và Tà Pháp rất mong manh. Cùng là Tin Phật, cùng giữ Giới, cùng hành theo Bát Chánh Đạo, nhưng lại tin Phật như là một vị Thần Linh. Do đó, dù họ cố gắng luôn ăn hiền, ở lành, nhưng là để cầu được độ, được ban ân, giáng phúc. Đó cũng là lòng thành, nhưng đặt sai hướng. Do vậy, kết quả chỉ là được hưởng phước, không bị đọa mà thôi, không thể đưa đến Giải Thoát rốt ráo được.

Người sẵn có căn bản đạo đức thì việc quay về với Chánh Pháp không có gì khó. Chỉ cần thay đổi cách Tin. Thay vì tin vào Phật, chờ mong Phật Độ, thì tin vào Nhân Quả, tin vào Tánh Giải Thoát của chính mình sẵn có, chỉ cần khai mở, phát huy. Không cần cầu xin, Niệm Phật, không cần Ngồi Thiền nhiều, chỉ cần học để Biết, để phân biệt CHÂN, VỌNG, rồi “phản vọng quy chân”, xa lìa cái Ác, hướng Thiện. Biết rằng cõi trần là cõi tạm. cái Thân này mong manh không bền để đừng Tham Lam, Sân Hận. Ghi nhớ, tâm niệm con đường Giải Thoát, hành trì để đạt mục đích Giải Thoát. Không cần sùng bái bất cứ ai. Vì dù Đức Thích Ca xuất thế, hay Đức Di Lặc có xuống trần cũng không có cứu độ cho cả thế giới như hàng Nhị Thừa tin tưởng, mong đợi. Tôi tin rằng một khi người Phật Tử đã hiểu đúng, thì bắt đầu từ năm 2016 này sẽ là một thời kỳ mới để Chánh Pháp được hiển lộ, được tỏa sáng nơi cái Tâm của mỗi người. Mỗi người tự ý thức để rồi tự tin, tự tu, tự độ để được kết quả Giải Thoát, vì không ai có thể giải thoát cho người khác. Đó là thông điệp của Chánh Pháp mà tôi rút ra từ rất nhiều bộ Kinh Đại Thừa sau nhiều năm dài nghiêm cứu, tìm tòi. Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều có thể thực hiện được.

Thầy tôi lúc sinh thời có cho biết: “Thời kỳ sau này là thời đồng độ”, tức là mọi người đã được Chư Vị đi trước giải thích hết những gì trước kia do thiếu ngôn ngữ diễn tả nên trở thành huyền bí trong đạo. Khi đã biết được tất cả đều chỉ là phương tiện mà Đức Thích Ca đã dùng thì không cần phải khó khăn tu hành. Chỉ cần quay về với Chánh Đạo. Xoay cái Tâm Tà trở về Tâm Chánh. Cải Ác, Hành Thiện, biết yêu thương giúp đỡ mọi người, san sẻ cho nhau để cùng chung sống an vui trong kiếp sống tạm trăm năm này mà thôi. Kinh Lăng Nghiêm viết: “Giải Thoát hay triền phược đồng do Sáu Căn. Được Chứng Thánh hay đọa phàm cũng bởi Sáu Căn, chớ không có con đường nào khác. Hễ mê muội là Vô Minh, còn Giác Ngộ thì Giải Thoát”. Hoàn toàn phù hợp với hình ảnh được mô phỏng của Đức Di Lặc.

Thử kiểm điểm nơi bản thân, có phải lúc nào chúng ta làm điều gì tốt đẹp thì thấy lòng thơ thới hân hoan, và ngược lại? Vậy thì tại sao lại tự đày đọa mình bởi những cái Xấu, cái Ác để lương tâm dày vò? Do đó, khi Lục Căn của người nào đã điều phục xong, cái Tâm lúc nào cũng thanh tịnh thì gọi là Đức Di Lặc giáng thế nơi đó. Nhiều người đều cùng thực hiện như thế, thì Chánh Pháp hiển lộ nơi xứ sở đó. Mong rằng qua những hiện tượng liên tục diễn ra như một sự nhắc nhở để mọi người tỉnh thức mà quay về với Chánh Pháp, tự mình tu sửa để tự độ, không còn cầu xin, nương tựa vào Phật ngoài, vì có muốn nương cũng không được.

Nước ta hẳn do nhiều thời, nhiều người mộ đạo, lòng thành cảm động đến chư vị Giác Ngộ, nên được các Ngài quan tâm chọn làm điểm đến để khơi dậy, hiển lộ Chánh Pháp đã bị ẩn dấu từ mấy ngàn năm qua mà các nhà tu hành ở nhiều nước khác cũng đã biết nên sang tận đây để mong gặp. Đó cũng là một đại duyên cho đất nước nhỏ bé, chiến tranh triền miên. Hòa bình mới được lập lại, tiếng súng đã im ắng. Không còn cảnh máu đổ thây rơi mới vài chục năm đây thôi. Mong rằng mọi người sẽ hưởng ứng dòng Chánh Pháp, để không phụ lòng các vị, mà kết quả thì lại chính mình nhờ. Mọi người đâu cần làm chuyện gì lớn lao, chỉ cần rũ bỏ Tham, Sân, Si, độc ác. Không còn tranh chấp, bóc lột, tàn sát, đấu tranh, giành giật với nhau, mà yêu thương, đùm bọc nhau để tất cả đều được sống trong an vui. Một cảnh thanh bình trên dãy giang sơn hùng vĩ, gấm vóc mà ông cha ta để lại tự ngàn xưa. Thiên nhiên ưu đãi với biển bao la, rừng bát ngát, núi non chập chùng, bao nhiêu con suối uốn lượn, thác ngàn điểm tô. Duới biển thì mỏ dầu. Trên rừng là mỏ khoáng sản. Người dân lại hiền hòa, cần cù, nhẫn nại, chịu thương, chịu khó. Cây trái bốn mùa sum suê. Hoa cỏ cũng tô đẹp thêm. Thời tiết cũng hiền hòa, Xuân, Hạ, Thu, Đông mùa nào cũng vừa phải, không quá gay gắt thì có khác gì nơi bồng lai tiên cảnh?

Khi Sống đã ý thức cái Thân giả tạm, cuộc sống mong manh, không bám víu đam mê với vật chất phù du, nên không tạo Nghiệp, lại biết bố thí để dành phước báo, thì kiếp sống được an vui. Lúc sắp hết kiếp cũng biết cái Chết chỉ là sự rũ bỏ cái xác thân già cỗi để nhận lấy một cái thân mới trẻ, khỏe, lại biết rằng sẽ được sinh về cõi tốt đẹp, do những việc lành mình đã làm, thì có gì mà phải sợ chết? Sống an lành. Chết thanh thản. Không có gì phải lo sợ hay hối tiếc. Đó chính là cái Quả Thoát Sinh Tử mà Chánh Pháp của Đạo Phật hướng dẫn để người nào tin mà hành theo sẽ đạt được vậy.

Tâm Nguyện

(Tháng 12/2015)

 


CỤ PAULUS HUỲNH TỊNH CỦA

Một người có công lớn với nền quốc ngữ Việt Nam

Một nhà văn, nhà báo tiền phong

Cụ là người đầu tiên lên tiếng đề nghị thay chữ Nho, chữ Nôm bằng chữ quốc ngữ (mẫu tự La tinh) để tiện bề phổ biến học thuật, truyền bá văn chương. – Chính cụ đã chủ biên tờ Gia Định báo, tờ báo đầu tiên tại miền Nam.

Trong một kỳ trước, cũng ở mục này của phụ trang “Hương Xưa Vị Cũ”, chúng tôi đã nhắc đến cụ Trương Vĩnh Ký và ghi nhận rằng cụ Trương là một “tay thợ” có công đầu trong công cuộc xây đắp tòa lâu đài quốc ngữ và Văn học Việt Nam ta.

Đã nhắc cụ Trương, trong tinh thần kể trên, tưởng không thể không hoài niệm đến cụ Huỳnh Tịnh Của vậy.

Cho đến nay, tại Saigon cũng như ở một số tỉnh thành chúng ta thấy có những con đường mang tên “Paulus Của” đó là danh hiệu của ai?

Đó chính là cụ Huỳnh Tịnh Của, một nhà trí thức, một học giả Nam Kỳ, người đã có công lớn với nền quốc ngữ Việt Nam.

Huỳnh Tịnh Của - tức Paulus Của - sinh năm 1843 gốc gác tại tỉnh Bà Rịa (bây giờ là Phước Tuy).

Từ thuở trẻ tuổi, ông Huỳnh Tịnh Của theo học Hán văn về sau lại học cả Pháp văn.

Thế nên ông tinh thông cả Hán và Pháp văn. Ông giữ chức Đốc phủ sứ thời Pháp, được giao phó phần việc phiên dịch các văn án.

Tuy là một quan lại, nhưng cụ Huỳnh Tịnh Của lại nghiêng nặng hoạt động về văn học và thật sự đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển văn học quốc ngữ Việt Nam.

Là người đồng thời với cụ Trương Vĩnh Ký, đã thiết tha với tiền đồ ngôn ngữ dân tộc, cụ Huỳnh Tịnh Của là người đầu tiên lên tiếng đề nghị bỏ chữ Nho và cả chữ Nôm, mà thay vào, nên dùng chữ quốc ngữ (theo mẫu tự La tinh) để tiện bề phổ biến học thuật, truyền bá văn chương.

Không chỉ đề nghị suông mà chính cụ Huỳnh đã tích cực thực hiện ý kiến của mình: một mặt cụ liên tục cổ động mọi người công nhận cái tiện lợi của chữ quốc ngữ, một mặt, cụ biên soạn khá nhiều truyện, sách bằng chữ quốc ngữ để chứng tỏ hiệu năng của quốc ngữ.

Bấy giờ, ở miền Nam có tờ báo quốc ngữ đầu tiên, là tờ Gia Định báo: chính cụ Huỳnh Tịnh Của đã giữ việc biên tập tờ báo ấy, trên mặt báo, luôn luôn cụ có những bài khích lệ dùng chữ Quốc Ngữ và phổ biến những tư tưởng văn minh tiến bộ Âu Tây.

Những bài báo đó, cụ Huỳnh viết về đủ loại và loại nào cũng đạt được mức độ uyên bác, sáng sủa hấp dẫn. Cho đến nay những bài báo đó vẫn còn lưu truyền, chúng ta thấy đủ loại nghị luận khảo cứu, sưu tầm thơ ca, truyện tích…

Cụ Huỳnh Tịnh Của cũng biên soạn sách, trong kho tàng sách của Việt Nam có mấy tác phẩm giá trị của cụ như Đại Nam quốc âm tự (2 quyển), Chuyện giải buồn (cũng 2 quyển).

Về tác phẩm “Chuyện giải buồn” của cụ Huỳnh tưởng cũng cần đề cập đôi nét. Ấy là bộ sách sưu tập nhiều truyện cổ tích thuần túy Việt Nam cùng một số những truyện cổ Trung Hoa. Những truyện cổ, được cụ lựa chọn và viết lại, đều vững vàng, chải chuốt về kỹ thuật, về văn chương và nội dung thì thâm thúy, ý nghĩa có tác dụng răn chúng, dạy đời.

Cho đến nay, tính ra tác phẩm “Chuyện giải buồn” của cụ Huỳnh đã “già” đến 85 tuổi rồi (cụ cho xuất bản quyển những “Chuyện giải buồn” vào năm 1880) nhưng khi đọc lại, chúng ta vẫn cảm thấy lý thú, hấp dẫn mạnh mẽ.

Chính đây là những chuyện làm mẫu, cho những người viết Việt văn về sau này vậy.

Và chính đây, cũng là “kho tàng” quý báu cho những tay biên soạn về văn chương cổ Việt Nam. Rất nhiều những chuyện giải buồn của cụ Huỳnh Tịnh Của đã được trích dịch lại trong các bộ sách nghiên cứu loại kể trên.

Ngoài ra, công lao của cụ Huỳnh về phương diện báo chí, cũng luôn được nhắc nhở, đã là một sự khích lệ lớn cho đàn hậu bối trên đường làm báo viết báo ở Miền Nam nầy vậy.

Cụ Huỳnh Tịnh Của dâng hiến trọn vẹn vốn liếng trí thức vào công cuộc phát triển nền Quốc ngữ Việt. Theo những bậc bô lão từng biết về cụ Huỳnh ai cũng chân thành, nhiệt liệt hoan nghênh cụ về tinh thần sốt sắng với tiền đồ ngôn ngữ, văn học xứ sở.

Cụ Huỳnh mất vào năm 1907, hưởng thọ 73 tuổi.

Cụ mất rồi, song công lao to tát của cụ đối với nền quốc ngữ Việt vẫn mãi mãi rạng chói.

Nhắc đến cụ, chúng ta rất lấy làm hãnh diện, vì từ thuở mà nền quốc ngữ vẫn còn phôi thai, tiền bối chúng ta đã có người như cụ Huỳnh. Nhờ vậy ngày nay chúng ta mới được hưởng cái di sản quý báu: một nền quốc ngữ phong phú, chẳng thua kém bất cứ một nền ngôn ngữ quốc tế nào!

TRIỀU SINH

Bs. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st.

Niềm hoài cổ

NƯỚC TA ĐÃ CÓ BAO NHIÊU QUỐC HIỆU

TỪ VĂN LANG ĐẾN VIỆT NAM

Dưới đây chúng tôi xin tóm tắt để giúp bạn đọc ghi nhớ về quốc hiệu nước ta trải qua từng quãng thời gian cho đến bây giờ.

- Vào đời Hồng Bàng (2877 - 258 trước Tây lịch) thì nước ta có quốc hiệu là VĂN LANG.

- Qua đời nhà Thục, vua An Dương Vương (257 - 206 trước Tây lịch) thì đổi quốc hiệu lại là ÂU LẠC.

- Đến khi Triệu Vũ Vương tức Triệu Đà đánh đuổi An Dương Vương, lấy Âu Lạc sáp nhập với quận Nam Hải thành một nước, đổi quốc hiệu là NAM VIỆT (206 - 111 trước Tây lịch)

- Từ 111 trước Tây lịch, nhà Hán chiếm trị nước ta, cải gọi là GIAO CHỈ BỘ. Rồi cũng chính do nhà Hán, lại sửa tên nước ta lại là GIAO CHÂU, (bấy giờ nước ta triền miên lệ thuộc Tàu hằng ngàn năm nên về quốc hiệu chẳng thành vấn đề, mặc dù thỉnh thoảng tiền nhân ta vùng lên đánh đuổi Tàu - như Hai Bà Trưng, Triệu Ẩu - duy có khoảng nhà Tiền Lý thì đáng kể là có quốc hiệu).

- Khoảng những năm từ 544 đến 602 ông Lý Bôn đánh đuổi Tàu lập nhà Tiền Lý xưng quốc hiệu là VẠN XUÂN.

- Nhưng rồi đế quốc Tàu lại xâm chiếm nước ta. Bấy giờ thuộc nhà Đường, họ gọi nước ta là AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ (618 - 907). Trong khoảng mấy trăm năm nầy vào lúc Cao Biền sang nước ta dẹp giặc Nam Chiếu từng có một dạo đổi An Nam lại là Tỉnh Hải (năm 870).

Rồi mặc dù đến năm 939 nước ta bắt đầu tự chủ, khởi tiên do nhà Ngô (Ngô Quyền) nhưng về quốc hiệu rõ rệt vẫn chưa thấy.

Mãi đến nhà Đinh (968 - 980) nền tự chủ nước ta vững mạnh vua Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu là ĐẠI CỒ VIỆT.

- Qua đời nhà Lý, triều vua Lý Thánh Tôn (1054 - 1072), nước ta được đổi quốc hiệu lại là ĐẠI VIỆT.

- Nhưng đến đời vua Lý Anh Tôn, vào năm Giáp Thân (1164) nước ta cầu thân với nhà Tống bên Tàu và vua ta chịu sự “phong chức” của vua Tàu. Hồi này, nước ta bị bọn nhà Tống gọi là AN NAM QUỐC.

- Dứt nhà Lý sang nhà Trần, nước ta vẫn giữ nguyên quốc hiệu An Nam Quốc.

- Cho tới năm 1400 Hồ Quý Ly phế Thiếu Đế nhà Trần lập nhà Hồ, bèn đặt quốc hiệu là ĐẠI NGU.

- Nước ta lại thuộc Tàu (nhà Minh) nhờ có anh hùng Lê Lợi làm cuộc kháng chiến 10 năm, giành lại nền độc lập.

- Lê Lợi lên ngôi vua chính thức vào năm 1428 và định lại quốc hiệu là ĐẠI VIỆT

- Dứt Lê qua nhà Tây Sơn, bấy giờ quốc hiệu ta chẳng thấy cải sửa rõ rệt.

- Đến khi vua Gia Long nhất thống sơn hà tức vị Hoàng Đế năm 1802, đặt quốc hiệu là VIỆT NAM.

- Qua đời Minh Mạng, lại sửa là ĐẠI NAM.

- Nhưng rồi nước ta cũng trở lại quốc hiệu VIỆT NAM

- Và rồi Việt Nam (có nghĩa là gốc người Việt Thường định quốc tại phía Nam) trở thành quốc hiệu của chúng ta cho đến bây giờ.

Qua bao nhiêu lần đổi thay quốc hiệu từ VĂN LANG tới VIỆT NAM - là bấy nhiêu lần quốc gia biến đổi mà tiền nhân ta đã phải tốn hao xương máu vô lường.

TRIỀU SINH

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

MỘT NHÀ VĂN CHỮ NÔM

HƠN 400 NĂM TRƯỚC ĐÂY

Giữa đa số người quý chuộng chữ Hán và khinh miệt chữ Nôm, ông Hoàng Sĩ Khải đã làm nên việc phi thường nêu gương sáng cho hậu thế, trong bổn phận vun bồi quốc ngữ.

Như đã rõ, do hoàn cảnh đặc biệt ngày xưa tiền nhân ta đã dùng chữ Hán làm văn tự chánh trong triều đình, ngành học vấn… khiến nền thi văn Việt Nam ngày xưa cũng là chữ Hán chiếm ba phần.

Hồi đó, dùng chữ Hán được coi là… cao quý, còn ai làm thơ, viết văn Nôm thì bị coi… hạ cấp, dốt nát là hạng… “nôm na cha mách qué”!

May thay, chẳng vì cái quan niệm trớ trêu ấy mà tuyệt nhiên không một ai dám làm thơ, viết văn Nôm; trái lại, vẫn có những bậc tiền bối tha thiết với tiếng mẹ đẻ, đã ghi lại những thành tích sáng chói vạn đại.

Chẳng hạn như ông Nguyễn Thuyên, đời Trần.

Và, đời nhà Mạc - trào Mạc Phúc Hải quãng năm 1544 - lại có một vị tài cao học rộng “dám” viết văn Nôm và rất hay. Ấy là ông Hoàng Sĩ Khải biệt hiệu Lạc Phu Lãn Trai, quê tại làng Lại Xá huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.

Ông Hoàng Sĩ Khải vốn thuộc hàng nhân vật lừng danh thời ấy, cả trong trào đình nhà Mạc lẫn ngoài giới trí thức và thi văn nhân.

Thế nhưng, trong khi bao nhiêu nhà “trí thức” thời ấy nặng quan niệm trọng chữ Hán, khinh chữ Nôm, thì ông Hoàng Sĩ Khải lại chẳng thích làm thơ viết văn bằng chữ Hán, mà cứ thản nhiên dồi mài tiếng mẹ đẻ, sáng tác thi văn tiếng Nôm.

Lẽ dĩ nhiên, đối với ông, các tay “đội chữ Hán, đạp chữ Nôm” cùng thời chẳng dám khinh thường vì việc ông ngả về chữ Nôm, bởi nếu so sánh ra thì ông Hoàng Sĩ Khải giỏi hơn họ quá nhiều, về mọi mặt.

(Ông đậu Tiến sĩ và làm quan đến chức Thượng thơ Hộ bộ, kiêm Quốc tử giám tế tửu - và lúc về hưu lại được phong tước Vĩnh Kiều Hầu).

Nhắc lại thời đó - quãng năm 1544 tức đã cách nay hơn những 427 năm rồi, thế nhưng ông Hoàng Sĩ Khải đã dùng tiếng mẹ đẻ, sáng tác những tác phẩm giá trị như:

- Sứ Bắc quốc thi tập

- Tứ thời khúc

- Sứ tình khúc

Việc làm thực tế đó của ông đã khiến những người viết văn, làm thơ vốn chỉ chuộng chữ Hán cùng thời với ông phải hổ thẹn và nể phục vì nhận thấy quá rõ ràng: thi văn bằng quốc ngữ của ông chẳng những không có chỗ nào sút kém mà lại hay hơn nhiều áng thi văn của người khác viết bằng chữ Hán.

Tưởng cũng cần kể thêm công lao đi sứ sang Tàu của ông Hoàng Sĩ Khải: trong trách nhiệm nầy ông đã làm rỡ mặt nước Nam và khiến bọn vua quan Tàu không dám quen thói hách dịch nữa.

Tương truyền rằng bọn vua quan Tàu đã bày lắm điều rắc rối, khó khăn, để thử thách ông Hoàng Sĩ Khải nhằm làm nhục sứ thần nước Nam, hầu bắt đà ấy mà đặt thêm những sự hạch sách, đòi hỏi tham lam, tức bắt Nam quốc phải tấn cống nhiều của quý… Thế nhưng, bọn Tàu đã bị sứ thần Hoàng Sĩ Khải dùng tài trí lỗi lạc với lòng can đảm, chí quật cường, lần lượt làm cho xấu hổ đến phải tự động dẹp đi các tham vọng kia của chúng.

Ông Hoàng Sĩ Khải cũng tỏ ra là một sứ thần rất giỏi tài ngoại giao: chính ông đã thuyết phục được vua Tàu chấp nhận giao hảo với Nam quốc và không đòi hỏi quá nhiều điều kiện bất công mà trước đó họ đã từng đòi hỏi.

Một số các đặc điểm vừa kể ấy với những kỷ niệm trong mấy chuyến đi sứ, ông Hoàng Sĩ Khải có ghi lại trong hai tập thi văn “Sứ tình khúc” và “Sứ Bắc quốc thi tập” của chính ông sáng tác.

NGÔ YÊN

ĐỖ THIÊN THƯ st.


 

CHÚC GIÁNG SINH AN LÀNH

& NĂM MỚI HẠNH PHÚC

We wish you a Merry Christmas

We wish you a Merry Christmas

We wish you a Merry Christmas and a Happy New Year.

Good tidings we bring to you and your kin

Good tidings for Christmas and a Happy New Year.

Là một bài hát thông dụng thường được phát trên khắp thế giới vào dịp Giáng sinh, có nguồn gốc từ miền Đông nước Anh. Đây là bài hát được ưa chuộng khắp nơi, dùng để đón chào Giáng sinh an lành và Năm mới vui vẻ hạnh phúc.


- Ba nhà chiêm tinh theo tới thăm Hài nhi Giêsu (ảnh trái).

- Đón Năm Mới tại quảng trường Thời Đại, New York, Mỹ (ảnh phải) .

LỄ NOEL , CHRISTMAS

C òn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh hay Xmas là một ngày lễ kỷ niệm Chúa Giêsu sinh ra đời , theo phần lớn các tín hữu Kitô giáo . Họ tin là Chúa Giêsu được sinh tại Bethlehem thuộc xứ Judea nước Do Thái (ngày nay là một thành phố của Palestine ), lúc bấy giờ thuộc Đế quốc La Mã năm 7 TCN .

Ngày lễ được cử hành chính thức vào ngày 25 tháng 12 nhưng thường được mừng từ tối ngày 24 tháng 12 bởi theo lịch Do Thái , thời điểm tính bắt đầu một ngày là lúc hoàng hôn chứ không phải nửa đêm. Lễ chính thức ngày 25 tháng 12 được gọi là “lễ chính ngày”, còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là “lễ vọng” và thường thu hút nhiều người tham dự hơn. Nhiều giáo hội Chính Thống giáo Đông phương như ở Nga , Gruzia vẫn sử dụng lịch Julius để định ngày này, cho nên lễ Giáng sinh của họ ứng với ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory .

Tên gọi

Noel , từ tiếng Pháp Noël, dạng cổ hơn là Naël, có gốc từ tiếng Latinh nātālis (diēs) có nghĩa là “(ngày) sinh”. Cũng có ý kiến cho rằng tên gọi Noel xuất phát từ tước hiệu Emmanuel, tiếng Hebrew nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, như được chép trong sách Phúc âm Matthêu.

Trong tiếng Anh , ngày lễ này được gọi phổ biến là Christmas. Chữ Christ (phiên âm Việt là “Ki-tô” hay “Cơ-đốc”, có nghĩa là Đấng được xức dầu) là tước hiệu của Chúa Giêsu; còn chữ Mass nghĩa là thánh lễ . Do đó Christmas theo nghĩa chiết tự là “(Ngày) lễ của Đức Kitô”. Chữ Christ bắt nguồn và được viết trong tiếng Hy Lạp là “Χριστός” (Khrīstos), mở đầu bằng chữ cái “Χ” (Chi) nên Christmas còn được viết tắt là Xmas.

Lịch sử

Thời kỳ Kitô giáo sơ khai (khoảng 2 đến 3 thế kỷ đầu công nguyên), lễ này được mừng chung với Lễ Hiển Linh . Ngay từ năm 200, thánh Clementê thành Alexandria (150-215) đã đề cập đến lễ hết sức đặc biệt này được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Nhưng Giáo hội La tinh thì mừng lễ này vào ngày 25 tháng 12 .

Theo một nguồn khác thì các Kitô hữu sơ khai không ăn mừng lễ sinh nhật, vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Bởi lẽ đó họ không ăn mừng lễ giáng sinh của Chúa Giêsu trong suốt ba thế kỷ đầu. Đến thế kỷ thứ 4, người Kitô hữu mới bắt đầu muốn ăn mừng lễ giáng sinh của Chúa Giêsu mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính quyền Đế quốc La Mã phát hiện và bắt bớ, bởi vì thời điểm đó Kitô giáo vẫn chưa được công nhận là một tôn giáo hợp pháp.

Những người La Mã hàng năm ăn mừng “Thần Mặt T rời” (Feast of The Sol Invictus) đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Các Kitô hữu đã nhân cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Chúa Giêsu giáng sinh, đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại (Gn 8:12) trùng một ngày với ngày lễ “Thần Mặt T rời” của người La Mã. Vì vậy, chính quyền La Mã đã không phát hiện rằng thực sự là các Kitô hữu tổ chức ăn mừng lễ giáng sinh của Chúa Giêsu.

Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine I đã bỏ đa thần giáo và theo Kitô giáo. Ông đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng “Thần Mặt T rời” và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật Chúa Giêsu. Đến năm 354, Giáo hoàng Libêrô công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng sinh của Chúa Giêsu.

Trong nhiều thế kỷ, những sử gia Kitô giáo chấp nhận ngày lễ giáng sinh là ngày Chúa Giêsu được sinh ra. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac Newton cho rằng ngày giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với ngày đông chí bắc bán cầu , từng được đánh dấu là ngày 25 tháng 12. Năm 1743, Paul Ernst Jablonski người Đức lập luận ngày giáng sinh được xác định ngày 25 tháng 12 để khớp với ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước Kitô giáo, nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ của họ vào cuối tháng 12.

Bản nhạc: Silent Night

Thơ: Joseph Mohr - Nhạc: Franz Gruber


Làng quê Mariapfarr - nơi ra đời ca khúc Silent N ight

Silent night, holy night, all is calm, all is bright.

Round yon virgin mother and child!

Holy infant so tender and mild

Sleep in heavenly peace, sleep in heavenly peace.

Trong tâm trí nhiều người, bản Silent Night được viết ra lúc khởi đầu năm 1818 chỉ là một bản nhạc giản dị, một khúc ngợi ca, được sáng tác để làm nghi thức mừng lễ Giáng sinh có ý nghĩa hơn, bản nhạc xưa cũ này vẫn còn mạnh mẽ và tươi mát như lần đầu tiên được hát lên trong ngôi thánh đường nhỏ bé nơi nước Áo xa xôi.

Douce nuit, sainte nuit - Lời Pháp: Joseph Mohr

Douce nuit, sainte nuit! Dans les cieux! L´astre luit.

Le mystère annoncé s´accomplit

Cet enfant sur la paille endormi

C´est l´amour infini! C´est l´amour infini!

Đêm thánh vô cùng – Lời Việt: Hùng Lân

Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng,

đất với trời se chữ đồng.

Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ.

Canh khuya Giáng sinh trong chốn hang lừa.

Ơn châu báu không bờ bến, biết tìm kiếm của chi đền.

DƯƠNG LỊCH

Lịch của Julius (Julius là tên của Thống lãnh La Mã Julius Caesar).

Julian calendar đã dùng rất lâu, mãi từ năm 45 trước TC. Lịch Julius tính trái đất quay một vòng chung quanh mặt trời mất 365 ngày 6 giờ (365.25 ngày). Thời gian đúng thật sự ít hơn 11 phút: 365 ngày 5 giờ 49 phút (365.2424 ngày). Vì lý do này mà từ năm 45 trước Thiên Chúa đến năm 1582 khi GH Gregory cải tiến Dương lịch, lịch Julius đã sai thêm 10 ngày.

Vì thế, Gregory quyết định dùng lịch mới, bỏ đi 10 ngày để cộng đồng Công Giáo kỷ niệm lễ Phục Sinh đúng ngày. Tuy là Dương lịch đặt theo tên của Giáo Hoàng Gregory, Gregorian calendar, người tính toán lịch này là một người Ý đa tài vừa là bác sĩ, vừa là nhà thiên văn, vừa là triết học gia tên là Luigi Lilio.

Các nước quốc giáo là Công Giáo như Ý, Ba-Lan, Bồ-Đào-Nha, Tây-Ban-Nha.., áp dụng ngay Dương lịch mới vào năm 1582 hay ngay sau đó. Phần lớn khối Âu Châu không dùng Dương lịch cho đến thập niên 1700. Nước Anh (và Mỹ lúc còn là thuộc địa của Anh) mãi đến 1752 mới theo lịch này, và khi đó phải bỏ bớt 11 ngày trong lịch (do đó TT Washington sinh 11 / 2 / 1731, nhưng Mỹ mừng sinh nhật của ông vào ngày 22 / 2 ) . Nga theo lịch này sau năm 1917 - Nhật Bản bắt đầu dùng vào năm 1873. Trung Hoa dùng 1949. Việt Nam bắt đầu dùng từ khi tiếp xúc các giáo sĩ Thiên Chúa châu Âu năm 1862.

Chữ Calendar từ chữ La-Tinh “Kalendae”, nghĩa là ngày đầu tiên trong tháng.

Chính xác thì September, October, November, December là Tháng 9, 10, 11, 12, vì chữ September từ chữ La-Tinh “septem” có nghĩa là 7, October từ chữ “octo” có nghĩa là 8, November từ chữ “novem” có nghĩa là 9, và December từ chữ “decem” có nghĩa là 10. Lý do là vì trước Julian calendar người ta dùng Roman calendar, một năm chỉ có 10 tháng. Sau đó, Senate La Mã mới thêm hai tháng: Julius Caesar (July – tháng 7, tháng sinh nhật của J.C.) và Caesar Augustus, cháu của J.C. (August – tháng 8) vào, thành 12 tháng của Lịch Julius, sau đó là Lịch Gregory.

Chúa Nhật là ngày nghỉ :

Vào năm 321, để thỏa mãn cho cả Thiên Chúa Giáo kỷ niệm ngày Chúa Giêsu sống lại và những người tin vào đạo giáo khác như Thần Mặt Trời, Hoàng đế La Mã Constantine chọn Chúa Nhật là ngày nghỉ (Việt Nam sử dụng cả từ Chúa Nhật và “Chủ” Nhật!).

Trong Anh ngữ, vài ngày trong tuần đặt theo tên các thần Saxon (Saxon theo truyền thuyết đến từ Đức, định cư ở Anh vào thời Trung Cổ), ngoại trừ Thứ Bẩy đặt theo tên thần Saturn của La Mã:

Monday : Ngày mặt trăng, moon Tuesday: Thần Tiw

Wednesday : Thần Woden Thursday: Thần Thor

Friday : Nữ thần Frige Saturday: Thần Saturn

Sunday : Ngày mặt trời, sun

AULD LANG SYNE

Khúc ca Giao thừa nổi tiếng nhất mọi thời đại

Vào thời khắc chuyển giao năm mới và năm cũ, hàng triệu người lại đứng sát bên nhau, tay trong tay cùng ca vang khúc ca giao thừa nổi tiếng nhất mọi thời đại.

Giống như tên gọi bằng tiếng Scotland của ca khúc, Auld Lang Syne được dịch ra tiếng Anh là “Old Long Since” (Những ngày xa xưa). Đây là một bài hát cổ, có lịch sử hơn 200 năm. Không thể nhắc đến Auld Lang Syne mà quên đi cái tên Robert Burns (1759-1796), là nhà thơ vĩ đại của Scotland, người đã có công sáng tác lời và phổ nhạc cho bài hát theo một giai điệu dân ca cổ.

Năm mới Dương Lịch

Đối với các nước Châu Âu, Bắc Mỹ và Nam Mỹ ngay khi Noel bắt đầu cũng là thời điểm người dân náo nức chuẩn bị cho ngày Tết Dương lịch. Khi kim đồng hồ điểm hết 12h ngày 31/12 là bắt đầu thời điểm chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Tùy theo nét văn hóa, phong tục riêng mà “bữa tiệc” đón chào năm mới ở mỗi nước có sự khác nhau.

Auld Lang Syne nhanh chóng được yêu thích rộng rãi và việc hát ca khúc vào đêm giao thừa đã trở thành một phong tục truyền thống ở Scotland . Cùng với những bước chân di cư của người Scotland, Auld Lang Syne được phổ biến khắp nơi trên thế giới. Khi ca khúc sang Mỹ, nó được nhạc trưởng Guy Lombardo chọn biểu diễn ngay khi tiếng chuông đồng hồ điểm 12 giờ đêm. Suốt từ năm 1929 cho đến nay, mỗi khi đến thời điểm một năm cũ qua, một năm mới đến, hàng nghìn người lại đổ dồn về Quảng trường Thời đại để cất vang lời ca của Auld Lang Syne.

HÁT VANG CA KHÚC AULD LANG SYNE

Auld Lang Syne là bài hát đón chào năm mới phổ biến nhất ở các nước nói tiếng Anh cũng như trên toàn thế giới.

Auld Lang Syne ám ảnh người nghe bằng những câu hỏi tu từ được láy đi láy lại như một sự mời gọi các kỷ niệm cũ trở về:

“…Should old acquaintance be forgot,

and never brought to mind?

Should old acquaintance be forgot,

and auld lang syne?”

“…Lẽ nào lại quên đi những người bạn cũ năm xưa

Và không bao giờ nhớ gì nữa?

Lẽ nào quên đi những người bạn xưa ấy

Và những ngày xưa êm đềm?”

Lời ca như một sự nhắc nhở không bao giờ được lãng quên quá khứ và những người đã đến trong cuộc đời ta. Tất cả kỷ niệm dù cay đắng hay ngọt ngào, tất cả những người đã đến mang theo hạnh phúc hay đau khổ đều góp phần tạo nên con người ta ở hiện tại.

Thời khắc giao thừa là khi người ta nhìn lại năm cũ với bao được và mất, thành công và sai lầm, niềm vui và nỗi buồn. Cả một năm với bao sự kiện trong thoáng chốc cùng lướt qua trước mắt. Mọi người tiễn đưa năm cũ với sự luyến tiếc nhẹ nhàng, xen lẫn niềm vui vô bờ khi năm mới đến. Một khởi đầu mới lại đến với những niềm hy vọng ở một tương lai rực rỡ hơn, đẹp đẽ hơn. Ở thời khắc đặc biệt ấy, khúc Auld Lang Syne càng trở nên da diết và xúc động:

“…For auld lang syne, my dear,

For auld lang syne,

We’ll take a cup of kindness yet,

For auld lang syne…”

“…Cho những ngày xa xưa, bạn ơi

Cho những ngày xa xưa ấy

Chúng ta cùng nâng ly vì những điều tốt lành

Cho những ngày xa xưa…”

L ỜI PHÁP: Chant Des Adieux

(Ce N'est Qu'un Au Revoir)

Sáng tác: Musique Traditionnelle Écossaise

- Lời: Père Jacques Sevin

Faut-il nous quitter sans espoir/ Sans espoir de retour,

Faut-il nous quitter sans espoir/ De nous revoir un jour

Ce n'est qu'un au revoir, mes frères

Ce n'est qu'un au revoir

Oui, nous nous reverrons, mes frères

Ce n'est qu'un au revoir

Formons de nos mains qui s'enlacent

Au déclin de ce jour,

Formons de nos mains qui s'enlacent

Une chaîne d'amour.

Unis par cette douce chaîne/ Tous, en ce même lieu,

Unis par cette douce chaîne/ Ne faisons point d'adieu.

Lời Việt

Giờ đây anh em chúng ta cùng nhau giã từ lòng còn lưu luyến

Cách xa nhưng ta hằng mong rồi đây có ngày còn được gặp nhau.

Cách xa nhưng ta hằng mong giờ đây cách xa thì lòng xao xuyến.

Cách xa nhưng ta hằng mong rồi đây có ngày còn được gặp nhau.

LỜI KẾT

Hai bài hát We wish you a merry Christmas Auld Lang Syne là những bản nhạc ai trên thế giới cũng biết.

Lời ca Auld Lang Syne như một sự nhắc nhở không bao giờ được lãng quên quá khứ và những người đã đến trong cuộc đời ta. Tất cả kỷ niệm dù cay đắng hay ngọt ngào, tất cả những người đã đến mang theo hạnh phúc hay đau khổ đều góp phần tạo nên con người ta ở hiện tại.

Thời khắc giao thừa là khi người ta nhìn lại năm cũ với bao được và mất, thành công và sai lầm, niềm vui và nỗi buồn. Cả một năm với bao sự kiện trong thoáng chốc cùng lướt qua trước mắt. Mọi người tiễn đưa năm cũ với sự luyến tiếc nhẹ nhàng, xen lẫn niềm vui vô bờ khi năm mới đến. Một khởi đầu mới lại đến với những niềm hy vọng ở một tương lai rực rỡ hơn, đẹp đẽ hơn. Ở thời khắc đặc biệt ấy, khúc Auld Lang Syne càng trở nên da diết và xúc động.

Vào thời khắc chuyển giao năm mới và năm cũ, hàng triệu người lại đứng sát bên nhau, tay trong tay cùng ca vang Khúc ca Giao thừa nổi tiếng nhất mọi thời đại ( Auld Lang Syne - The New Year’s Anthem).

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)

 


Phụ Bản II

BÀI THƠ ĐẦU TAY CỦA PUSKIN

XUẤT HIỆN NHƯ THẾ NÀO?

Đã có lần tôi bị một người quen trách khi bản thảo của anh bị Nhà xuất bản trả lại. Anh chép miệng buông một câu “Thì vẫn, viết thì phải lách mà!”. Tôi giận lắm, song nghĩ lại cũng thấy đáng thương cho anh ấy mà thôi. Chẳng qua anh ấy đã không hiểu, cho rằng con đường đến với nàng thơ cũng dễ dàng thôi, cốt sao có được chỗ dựa dẫm, thầy bà.

Thi hào Nga A.Puskin (1799-1837) ngay từ những bước đi đầu tiên hướng tới đỉnh thi sơn đã quan niệm: “Việc phụng thờ nàng thơ không chấp nhận thái độ lăng xăng hối hả”. Ấy là suy nghĩ của Puskin, khi đang còn là một cậu học trò trường Lycée (một kiểu trường Quốc tử giám của Nga hoàng mở tại Hoàng Thôn gần Peterburg vào năm 1813). Puskin đã viết những lời đó trong bài thơ Gửi người bạn làm thơ. Và bài thơ này chính là tác phẩm đầu tay xuất hiện trên thi đàn của Puskin.

Puskin làm thơ rất sớm. Tám tuổi cậu bé Puskin đã viết những câu thơ đầu tiên. Mười hai tuổi vào học trường Lycée, chẳng bao lâu trở thành cây bút xuất sắc, các thầy đều chú ý, bạn bè thán phục. Trong trường Puskin được sống bên cạnh nhiều người bạn cũng yêu thích sáng tác văn thơ. Đặc biệt Puskin thân thiết với Anton Denvig (1798-1831) lớn hơn cậu một tuổi. Quan niệm của Denvig về thơ ca rất phù hợp với Puskin định nghĩa về thơ: “Thơ là thơ”. Sau này trở thành nhà thơ lớn, vì những bài thơ yêu tự do của mình, Puskin bị đầy xuống miền Nam nước Nga. Khi trở về Puskin có nhiều sáng tác mới, trong đó có trường ca Đoàn người Digan. Một lần nhà thơ bậc thầy Giucovxki (1783-1852) hỏi Puskin về mục đích viết trường ca Đoàn người Digan là gì? Puskin đã trả lời “Mục đích của thơ chính là thơ”.

Puskin và Denvig cùng xuất hiện sớm. Sau này nhớ lại, Puskin đã viết trong một bài thơ “Hai chúng tôi cùng xuất hiện sớm. Một niềm hân hoan sôi nổi đã đón chào chúng tôi”.

Bấy giờ là năm 1814, Denvig 16 tuổi, Puskin kém một tuổi. Cả hai đều đã khá nổi tiếng trong trường Lycée và giới thơ ca Nga cũng đã biết đến. Ngay ở Hoàng Thôn, cũng như ở thủ đô Peterburg, cả hai người đều có thể dễ dàng tìm ra cho mình những người bảo trợ sẵn sàng giúp giới thiệu họ với một ông chủ bút nhà xuất bản hay báo chí và “dắt tay” đưa họ vào làng văn. Nhưng đôi bạn ấy thấy như vậy là “lăng xăng hối hả” là “không thơ” nên đã quyết định đi bằng con đường của chính mình. Họ đã bảo nhau tự gửi bài đến một tờ tạp chí văn học có uy tín, nhưng cùng giấu tên. Đó là tờ Người đưa tin châu Âu do Izmailov (1773-1830), nhà văn, tác giả của tiểu thuyết Hồ Roxtov đang nổi tiếng khi ấy, làm chủ bút. Izmailov đã nhận thấy ngay giá trị của tác phẩm không có tên tác giả. Ông đã cho đăng lên một số báo lời nhắn tin: “Chúng tôi thỉnh cầu tác giả của bài thơ có tên Gửi người bạn làm thơ đã gửi tới báo Người đưa tin châu Âu, cho được biết quý danh, bởi vì chúng tôi đã đặt ra cho mình cái lệ không đăng báo khi mà tác giả không báo cho chúng tôi quý danh và địa chỉ… Chúng tôi xin đảm bảo giữ bí mật…”.

Thông báo đăng ở số 8 của tạp chí. Đến số 11 tạp chí Người đưa tin châu Âu đã đăng bài thơ của Denvig không có tên tác giả và tiếp theo số 12 đăng bài thơ Gửi người bạn làm thơ với bút danh Alecxandr NKSP. “ En Ka Sê Pê”- là chữ cái đảo ngược của từ Puskin.

Tác phẩm đầu tay của Puskin trên văn đàn rất hoàn mỹ, chững chạc ở mức kinh điển giống như mọi sáng tác khác của ông sau này.

Puskin đã không vội vã công bố “tên mình”, không quấy động một ai trong số các cây bút bậc thầy, không chờ đợi, không đòi hỏi, hay tìm kiếm sự hỗ trợ và tán thưởng ở bất cứ một ai, trừ người bạn tin cậy Anton Denvig của mình. Nhà thơ đã hành động một cách tự lập, tin vào chính bản thân mình.

Tên tuổi của Puskin được công khai vào một năm sau đó. Năm 1815, trường Lycée tổ chức một kỳ thi lớn, trong đó đặc biệt có thi ngôn từ, tổ chức công khai với sự có mặt của nhiều vị khách danh dự, trong đó có nhà thơ trưởng lão Dergiavin (1743-1816). Cậu học sinh Puskin đã đọc bài thơ Những hồi ức về Hoàng Thôn của mình vừa sáng tác. Nhà thơ già 72 tuổi vẫn ngồi lim dim ngủ gà ngủ gật nghe các thí sinh lần lượt ra mắt trình bày sáng tác của mình. Đến lượt Puskin, bỗng cụ già choàng tỉnh để nghe rõ hơn, rồi nhổm dậy nhoài người ra phía trước. Khi Puskin kết thúc bài thơ, nhà thơ lão thành đã đòi được ôm hôn thi sĩ trẻ. Puskin đã bỏ chạy trốn biệt, còn nhà thơ lão thành phải thốt lên: “Cậu ta rồi sẽ lớn vượt, che trùm tất cả chúng ta!”…

Sau đó, Những hồi ức về Hoàng Thôn của Puskin được Izmailov công bố trên tạp chí của mình. Lần này với đầy đủ tên họ tác giả: A.X.Puskin. Và từ đây Izmailov luôn luôn quan tâm làm sao cho các sáng tác mới của cậu học sinh Lycée kỳ lạ kia sẽ không rơi vào tay ai khác, mà chính là tay ông. Bài thơ Những hồi ức về Hoàng Thôn do ông chú Puskin chuyển đến tay Izmailov. Về sau, chính Puskin giữ quan hệ mật thiết với ông. Năm 1826, nhận được thư Izmailov, lúc đó đã là chủ bút tạp chí Muzeum văn học, yêu cầu gửi sáng tác mới đến, Puskin lập tức phúc đáp một cách thịnh tình: “Tôi sẵn sàng, nếu có thể bằng cách gì đó làm vừa lòng người bảo trợ đáng kính đầu tiên của nàng thơ tôi”. Puskin gọi Izmailov là “người bảo trợ” không theo cái nghĩa thông thường như ta vẫn hiểu, bởi thực ra Izmailov không hề bảo trợ gì cho Puskin. Bởi mọi bước đi của Puskin thực ra đều là những bước đi tự lập, bằng chính sức lực của mình, trung thành với quan niệm: “Sự phụng thờ nàng thơ không chấp nhận thái độ lăng xăng hối hả” trung thành với định nghĩa “Thơ là thơ”.

Làm nghề xuất bản sách ở ta hơn ba mươi năm qua, tôi có dịp quan sát không ít những bước đường của người này người khác để đến với văn học. Mỗi lần tôi đều nhớ lại câu chuyện nhà thơ vĩ đại Nga Puskin lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn như thế nào và lại có dịp chiêm nghiệm cái chân lý mà ngay từ thuở thiếu thời, cách đây hơn hai trăm năm, con người ấy đã chọn.

Thúy Toàn (kể chuyện)


Thơ mở cửa

đi vào mùa Xuân

“Tháng giêng ngon như cặp môi gần

Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”…

Xuân Diệu

Vội vàng của Xuân Diệu cho ta một cảm giác bâng khuâng rung động, đón chào xuân, mùa xuân đi qua, ta sẽ thêm một tuổi già, giữa gió xuân một thoáng vui, một thoáng buồn: Xuân vô cùng ngắn ngủi.

Tôi thích thơ, thoảng gặp những bài thơ hay là đắm chìm cùng âm điệu khi bổng khi trầm, thơ bao giờ cũng nhẹ nhàng êm ái, rung động lòng người đọc, thơ mở cửa đi vào mùa xuân của các thi nhân. Mùa Xuân này, tôi đã lạc vào vườn thơ muôn màu muôn sắc của các thành viên Câu lạc bộ Sách Xưa & Nay. Vườn thơ nở hoa, hoa mùa xuân ngát hương.

NGÀN PHƯƠNG - TÂM NGUYỆN

với tập thơ Đường Xuân

Nhà thơ Ngàn Phương viết nhiều bài về xuân: Hương xuân, Tình ca mùa xuân, Mỗi độ xuân về, Đón xuân, Lộc xuân.

Mỗi độ xuân về

“Xuân đến ngàn thương nhớ mỏi mòn

Lưng trời ngơ ngác mảnh trăng non

Thủy chung nguyện giữ hồn tha thiết

Trung hiếu vẹn gìn nghĩa sắt son

Khóm Bạch Mẫu đơn - màu tóc mẹ

Cánh hồng lai nhạn - tấm lòng con

Ngàn mây dệt mộng mừng năm mới

Kim tước chào xuân hót véo von”.

Hương xuân

“…Mùa xuân đến

Tơ lòng ta bất tuyệt

Bỗng ngất ngây

Câu thơ không kịp viết

Thông rì rào nức nở khúc tình ca”

Thơ chị Ngàn Phương ít nhiều mang dấu tích Hồn thơ Đường, âm hưởng theo lối thơ xưa, chữ dùng cũng xưa, mà lại diễn tả được nỗi lòng của thi nhân. Ý tưởng đẹp, lời thơ trang trọng mềm mại. Thơ xuân Ngàn Phương có nét mong manh, ngọt ngào, chỉ một khoảnh khắc ngất ngây của hương xuân cũng đủ để lòng người vui, muốn níu kéo mãi mùa xuân.

TÂM NGUYỆN với tập thơ Chút Hương Trần, chủ đề mùa xuân có: Khúc xuân, Ước mơ mùa xuân, Giọt lệ đêm xuân, Xuân Di Lạc, Nhắn xuân, Xuân giả - buồn thật, Nhà thơ ăn Tết, Hờn xuân.

Xuân Di Lạc

Hẹn với trần gian vạn nụ cười,

Khơi niềm hạnh phúc, tát sầu vơi.

Nào ai nức nở, trông buồn dứt.

Hỡi người mòn mỏi, ngóng vui trôi.

Kìa Mầm An Lạc đang đơm nụ,

Nọ Giống Vô Ưu đã nẩy chồi

TÂM BÌNH - biển lửa thành Sen thắm.

Xuân từ trong ấy tỏa muôn nơi.

Xuân giả - buồn thật

“...Hương trầm phảng phất lúc Giao Thừa

Bỗng lòng chùng xuống, nhớ Xuân xưa

Quanh ta: Cha, Mẹ, anh, em, bạn...

Họ ở nơi đâu cả, bây giờ?

Mấy chục Xuân qua như bóng mây

Tóc bạc bao giờ, đâu có hay!

Ga đời quạnh vắng, ngày đơn lẻ

Xuân Giả - mà Buồn Thật, mới cay!”

Chị Tâm Nguyện viết một số bài thơ ảnh hưởng triết lý tôn giáo, đưa người đọc đến thế giới tâm linh cao cả, rồi trở về một thực tại của cuộc đời có vui buồn, sầu khổ. Mạch thơ của chị chứa nhiều nỗi buồn u uất, buồn thân phận, buồn nhân thế, mượn lời thơ để chuyển tải tâm sự, tâm trạng một cách sâu sắc sống động. Thơ chị hay từ điều đó!

PHẠM THỊ MINH HƯNG với tập thơ Thoáng Hương Xưa , là những hoài niệm của chị về một thời thanh xuân, chuyện tình yêu, mộng mơ, chia xa, nhung nhớ. Mười sáu bài thơ chủ đề xuân, ý thơ, lời thơ êm dịu, tha thiết, ngọt ngào, ẩn giấu tâm sự của người thi nhân đắm say tình yêu, hoa, cỏ, gió, mây. Chị Minh Hưng gởi một Thoáng Hương Xưa cho mùa xuân hiện tại của đời mình bao nhiêu nỗi niềm, một khúc tự tình mùa xuân: Nàng xuân lộng lẫy, Xuân về quê ta, Hoa xuân, Tình ca xuân, Tìm đâu mùa xuân cho em, Xuân phai, Lá thư mùa xuân, Dáng xuân, Biển lặng chiều xuân, Xuân mơ, Ảo mộng ngày xuân 1, Ảo mộng ngày xuân 2, Gọi xuân, Tình xuân, Đón xuân, Tình xuân gởi gió mây.

Tình ca xuân

“Kìa mai, cúc rực ánh vàng bên gốc

Cây đào già e ấp nụ hồng tươi

Lan tỏa hương tô sắc thắm cho đời

Xanh, đỏ, tím cùng đón chào xuân mới

Mạch sống vơi đầy,

hồn hoa gieo rắc ánh xuân tươi”.

Biển vắng chiều xuân

“Xuân sang đào cúc rạng ngời

Hồng nhan bẽ phận một đời héo hon

Mắt trong vướng nét dỗi hờn

Tiếc lời ai đã theo cơn gió buồn”

TRẦN VĂN HỮU với tập thơ Một Bước Tâm Tình. “...Tôi cũng xin bộc bạch tiếng lòng mình về hoài niệm, về yêu thương đối với đời, với người, với cỏ, với cây, với đất, với trời” (Lời nói đầu).

Thơ xuân có Bảy nốt nhạc xuân, Xuân về, Một mùa xuân. Thơ anh Trần Văn Hữu nhẹ nhàng, âm điệu tinh tế, gợi nhiều hình ảnh. Nửa cành hoa, Hương mắm tình quê, Ngọn hải đăng v.v… tạo cho người đọc thơ thích thú. Một tập thơ dễ thương của người thi nhân bước vào tuổi tám mươi.

Một mùa xuân

Một mùa xuân (lại) một mùa xuân

Đời người may được mấy lần xuân qua

Bóng chúc ta lại hỏi ta

Đến bao nhiêu tuổi mới là hết xuân”

VÕ KIM CƯƠNG với hai tập thơ Phù Du, Miền Say, viết về mùa xuân có Tết thiên niên kỷ, Vườn xuân, Hoa mai.

“Nhà thơ Võ Kim Cương hầu như ít xuất hiện trên văn đàn. Anh có nhiều thơ, nhưng là một lối đi thầm kín riêng tư. Mỗi câu thơ, mỗi bài thơ của anh như dấu ấn lặng lẽ của cuộc hành trình” (Đỗ Ngọc Quang).

Tết thiên niên kỷ

“Chẳng sống trọn trăm năm

Ta vẫn có Tết mừng thiên niên kỷ

Xuân Tết này hơn ngàn lần hoan hỷ

Giọt nắng xuân ngàn năm nữa sẽ khác bây giờ…

…Nắng xuân năm ba ngàn chắc vẫn còn tươi thắm

Nụ hoa xuân còn óng ánh sương đêm

Vui sướng thay được ăn tết ngàn năm

Ta trọn hưởng chút thời gian giãn nở…”

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Tháng 01 năm 2016


KHÓC MÙA ĐÔNG

Trải mấy đông qua mấy độ sầu

Mùa nầy năm trước khác là bao

Lạnh về ủ rũ lòng cô Lý

Rét đến xanh xao má bạn Đào

Mấy chục năm qua luôn đáo muộn

Riêng lần Ất Vị vội qua mau

Hằng Nga vốn tội nàng tranh cãi

Chú Cuội ra tay ả cúi đầu.

LANG NGUYÊN

TỚ ĐÃ TỪNG

Những điệu trêu hoa tớ đã từng

Mềm môi mỏi lưỡi ghẹo nàng Xuân

Chác lòng cô Điệp ai kìa chớ !

Thử dạ chàng Trương ấy bảo đừng !

Vuốt vẫy cá kình khôn lớn mất

Trèo lưng bà chúa khéo quen chân

Ngó lơ không nói ừ rằng ngộ

Nhắc tới thêm mang tiếng xỏ xừng.

LANG NGUYÊN

CẢM THỨC THỜI GIAN

Sao người ta cứ phải rối lên

Mỗi khi nhận diện dòng thời gian lừng lững

Nó trôi đi trôi đi

Kéo theo vô vàn dở dang rơi vỡ

Ây dà, có gì nghiêm trọng đến thế đâu

Những câu chuyện cuộc đời 

         vẫn tuần hành theo từng giai đoạn

Tạo hóa đã bày ra cảnh cuộc

Dẫu mấy trêu ngươi cũng chẳng đổi thay

Con người cùng vạn vật

Hóa sinh sinh hóa viên kỳ

Vô lượng huyền vi

Đến đến đi đi vô nghì bất khả

Thế nên đừng lạ

Khi chuyến đò thời gian đưa ta qua những bến bờ

Đục trong hay dở

Để bỗng một ngày

Gió thoảng…

Hư vô

ĐÀM LAN

Xuân nhnhung

Xuân đã về đây với mọi nhà

Người còn ở mãi chốn nào xa

Mai vàng đào thắm rung rinh gió

Rụng từng cánh mỏng úa màu hoa.

*

Hoa nhớ thương người đi biệt tăm

Em thơ ngày ấy tuổi trăng rằm

Vắng bóng bao năm chưa gặp lại

Mái tóc bạc mầu tình lặng câm…

*

Làm sao quên được phút chia xa

Lòng ngẩn ngơ sầu dạ thiết tha

Cứ ngỡ người đi rồi trở lại

Ai biết tình sương khói xót xa !

*

Đời cứ hờ hững lặng lẽ trôi

Nhớ nhung nguyệt lạnh những đêm vơi

Trăng lên, trăng đứng ngoài song cửa

Tiếng đàn ai tấu khúc ngậm ngùi…

Phạm Thị Minh-Hưng

YÊU CHÚA

Ta yêu Chúa, hay chỉ yêu mình
Khi dâng Thánh Lễ, cứ phân vân
Nên may áo gì cho đẹp mã
Nên uống thức gì dễ tăng cân...

Ta yêu Chúa, hay chỉ yêu tiền
Cha giảng, miệng ta mãi huyên thuyên
Về cửa hàng sinh sôi lợi lộc
Về việc làm ăn những tốt hên !

Ta yêu Chúa, có thật thế không ?
Khi mỗi ngày qua... thật đắng lòng:
Ta dành cho Ngài bao phút hiếm
Để tạ ơn hay để cầu xin ?

Ta muốn gần Ngài, mà rõ xa.
Mắt trần mải ngắm bướm, xem hoa
Hồn nào trông về Nhan Chúa nữa
Kinh nào tụng thế cõi lòng tà ?

Chúa dạy ta mến Chúa, yêu người
Chúa mãi trên cao, mãi xa vời
Nhân thế chung quanh cần chi biết
Ta chỉ cần biết cái Thân Tôi !

Ta chỉ muốn gần Chúa một lần
Là khi chết, hoa phủ đầy sân
Quan tài của ta kê thật sát
Cung Thánh, cho nghe rõ chuông ngân !

Mến Chúa như ta, mến kiểu gì ?
Yêu người như ta, yêu kiểu chi ?
Chúa ơi, giục lòng cho con hiểu
Rằng yêu như thế, chẳng lối về...

LAM TRẦN 26.10.2014

Bỗng dưng rưng rức buồng tim,

Ngây ngô một thoáng, lim dim bóng nàng,

Thướt tha tà áo lụa vàng,

Em ngời nhan sắc, bàng hoàng nắng rơi,

Mắt em, trời biếc, tình ơi !

Cho ta năm tháng tả tơi lưu đày,

Hắt hiu ngọn gió heo may,

Nhớ em đằm thắm, gót đài thanh xuân,

Tình xưa sao mãi lần khân,

Như con bướm trắng, bâng khuâng ngược dòng,

Vườn xưa, ngày cũ thong dong,

Nắng cười lúng liếng, ửng hồng má em.

Dòng sông tuổi nhỏ êm đềm,

Ta ngồi đón gió bên thềm liễu xưa,

Chơi vơi hạnh phúc đong đưa,

Lòng như có đóa lan vừa nở bung,

Em là ảo giác mông lung,

Nụ hôn óng ả, phím rung tơ lòng.

Xót xa một mối tình không,

Giấc mơ huyễn ảo vẫn rong… xa mờ !

Nguyễn Thị Ngọc Vân

Đền Taprohm

Đâu chiến tích, đâu bạo tàn tội lỗi

Đâu ngọc ngà, đâu mỹ nữ kiêu sa

Đâu đạo giáo đã cuộn trong quyền bính

Tranh xây đền mong hậu thế ngợi ca ?

*

Đây đền lớn ngàn năm trong rừng thẳm

Bóng cây cao đang đè nặng tường thành

Quá khứ ngậm ngùi trong vòng vây đá xám

Chịu khom lưng trước hiện tại hoành hành

*

Hiện tại gặp thời đang phô trương sức mạnh

Rễ cắm sâu lên thành cổ điêu tàn

Chân - thiện - mỹ hay lòng tham mơn mởn

Gió rừng xanh hay quá khứ kêu than ?

*

Quá khứ là chi ? Lịch sử là chi ?

Tường đá lạnh u buồn chìm trong góc tối

Cây hiện tại phải chăng đang tội lỗi,

Đấng vô tri chỉ biết sống qua ngày ?!

Võ Kim Cương (11.2015)

ĐÍNH CHÍNH

SỐ 115 Trang 89 bài thơ Khuôn mặt Bayon

Dòng thứ 3 từ trên xuống:

“sau khi đánh đuổi Chămpa xưa và nay

xin sửa lại là:

“sau khi đánh đuổi Chămpa”

VỀ MIỀN BẮC

Hôm nay đầu tháng tám

Mây trong xanh dịu mát

Qua rồi cơn bão bốn

Đây là tiết mùa thu

*

Cuộc hành trình về quê

Thật là thú vị ghê

Thăm họ hàng hai bên

Thăm các mộ tổ tiên

*

Ở nhà của anh chị

Nơi quận hồ Hoàn Kiếm

Thủ đô Thăng Long xưa

Anh chị cùng các cháu

Luôn tình thân thắm thiết

Cháu chồng cùng cháu mình

Người nào cũng thân tình

Kể chuyện xưa và nay

*

Một sáng dạo quanh hồ

Hàng liễu rũ xanh bờ

Ôi hồ Gươm thơ mộng

Hồ Tây rộng mênh mông

*

Năm hai nghìn lẻ ba

Đã về thăm Hà Nội

Để đưa tiễn Bác gái

Sang bên kia thế giới

*

Đã thăm Lăng Bác Hồ

Thật uy nghi trang trọng

Rồi về tỉnh Việt Trì

Thăm gia đình anh chị

Đi lễ đền Hùng Vương

Đền Hạ đến đền Thượng

Dốc núi cao vòi vọi

Cây cối mọc xum xuê

Nay hai nghìn mười lăm

*

Tỉnh Việt Trì Phú Thọ

Đã có trường Đại Học

Trở thành nước tiên tiến

Ơn Bác và Đảng ta

*

Nay hai nghìn mười lăm

Về Hà Nội hai ngày

Tin báo anh chồng mất

Ngày bốn tháng tám ta

Thôi đành ở lại Bắc

Không về đưa tiễn anh

Thật là thiếu lễ nghi

Vì cách trở sơn khê

Lòng buồn nhưng dằn lại

Để tuần sau mới về.

QUAN THÚY MAI

03.10.2015 (23.8 Ất Mùi)

NỖI NIỀM

                             Tặng T-H

Nhớ buổi ban đầu mới gặp em

Hoa Xuân khoe sắc rộ bên thềm

Nỗi niềm phấn khởi khi gặp gỡ

Ấp ủ trong lòng thương nhớ thêm

Sau phút hàn huyên ngắn ngủi về

Tâm hồn như dại lại như mê

Đường đi lắm lối xe lăn bánh

Phố cũ sao mà cảnh đẹp ghê

NGÔ BÁ MẠNH

GIÃ TỪ

Dẫu biết, rồi cũng tháng năm thôi

Vẫn vương víu những ngày tươi đẹp ấy

Em ra đi ngọt ngào đến vậy

Mặt hồ xanh còn gợn sóng làm gì ?

Giữ yên lặng cho giã từ im lặng

Giữ hồn nhiên cho xa cách hồn nhiên

Người cầm lái khua thêm mái chèo !?

Bs. DOANLINH

(12.12.2015)

NGUYỆN CẦU

Dầu bạc tóc con vẫn là tấm bé

Vẫn thường hoài nhớ mãi tuổi ấu thơ

Lời Mẹ ru ấm trầm khe khẽ

Con nâng niu gìn giữ đến giờ

Tóc mẹ trắng

Một vầng mây trắng

Gội bằng tảo tần mưa nắng sớm trưa

Tóc xanh vì chưa lo lắng

Chưa biết đúng sai phải trái lọc lừa

Giọt sữa ấm dỗ dành tiếng khóc

Củ khoai bùi xua cơn đói meo

Con tung tăng bước vào lớp học

Mẹ cười ánh mắt trong veo

Cánh võng ru trưa vỗ về giấc ngủ

Mắc qua bốn nghìn năm bao thế hệ con nằm

Đắp lạnh quạt nồng nâng niu ấp ủ

Danh thành nhân đức từ tâm

Dẫu tóc bạc con vẫn là tấm bé

Mẹ của con ơi!

Xin được mãi bên Người

Dù con biết đó là không thể

Không thể nên nguyện cầu ao ước Mẹ ơi !...

BS.DOANLINH

12.12.2015

BIỀN BIỆT CHÂN MÂY

Bắt chước Cao Bá Quát – Bài thơ chứa 4 câu:

*

“Người ở phương trời ta ở đây

Chờ mong phương nọ - ngóng phương nầy

Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm

Vạn lý sầu lên núi tiếp mây”

*

Phiêu bạt - lục bình tím sắc hoa

Lênh đênh trôi giạt kiếp không nhà

Gió sương ve vuốt tình xa xứ

Nắng sưởi ấm lòng - sương thiết tha

*

Đêm trắng nghiêng làn gió thủy tiên

Thuyền lìa bến cũ lỡ tơ duyên

Đơn côi bờ liễu quên thề hẹn

Hiu hắt vầng trăng lạnh ước nguyền

*

Vương vấn câu thơ miền hạ giới

Bâng khuâng nhã nhạc chốn đào nguyên

Nghìn năm giữ trọn lòng chung thủy

Bèo giạt hoa trôi vẫn vẹn tuyền

*

Nửa con tim mộng gieo sầu nhớ

Một mối tình thơ vạn dặm trường

Ngõ vắng - duyên xưa chờ viễn khách

Hoài mong mòn mỏi kiếp tha hương

NGÀN PHƯƠNG

CHƯA DÁM TỎ TÌNH

Nắng ấm nhuộm hồng trên phố nhỏ

Nụ hoa lòng hé nở thắm tươi

Cánh thư Yêu muốn trao Người

Nhưng lòng e ngại - gượng cười… lại thôi

*

Vẫn cảm thấy xa xôi cách trở

Hồn mênh mang bỡ ngỡ - u hoài

Xin cầm ngọn gió trong tay

Đội mưa trên tóc - ủ ngày trong đêm

*

Bâng khuâng mãi - dõi tìm ngơ ngác

Người nơi đâu… biển bạc non xanh

Bấy lâu xây giấc mộng lành

Tình yêu thầm kín - nên đành lặng thinh

*

Đêm trăng đẹp riêng mình một bóng

Trăng rải vàng mặt sóng lăn tăn

Cùng ai kết nghĩa tri âm

Sườn non lắng đọng chữ tâm ngọt ngào

*

Lòng đa cảm ước ao chưa trọn

Như muôn hoa chờ đón mùa xuân

Đôi ta - vạn nẻo đường trần

Tơ hồng se kết - thiên ân dạt dào

NGÀN PHƯƠNG

GẶP LẠI NGƯỜI THƠ

Tặng Nhà thơ Từ Kế Tường

Lâu lắm mới gặp lại người thơ

Lời yêu tha thiết gửi trời mơ

Quán cũ chờ ai vào buổi sớm

Rồi về đâu đó lúc trăng mờ

*

Thì ra người chưa từng quen ai đó

Chỉ nét buồn trên mắt ấy xa xăm

Cũng làm sóng lòng như muốn ngỏ

Để đợi chờ cô độc tựa muôn năm

*

Ta vẫn thế với vô vàn kỷ niệm

Một lần thôi đủ trời đất lắng chìm

Rải thương nhớ từng con đường qua lại

Ôm nỗi sầu lãng đãng mãi trong tim

*

Người nhớ hoài những đóa cúc màu xanh

Mà cô gái mang về quê hương cũ

Như vạt nắng bên ngọn đồi lấp lánh

Chút hương đời làm khơi gợi tình anh

*

Ta đọc thơ “Gửi người” chiều đã tắt

Nghĩ vẩn vơ người cũ có bao giờ

Khi gặp lại thêm lòng buồn se sắt

Hình như người - ta cùng một cơn mơ.

HOÀI LY 14.7.2013

QUA PHỐ

Tặng T.

Ta về qua phố mùa thu

Trời như xuống thấp mây mù giăng cao

Chợt nghe lòng thoáng nao nao

Người xưa giờ đã phương nào xa xăm

Biết bao giờ mới về thăm

Khi trăng mờ lặn mất tăm một đời

Ta về nơi cũ mưa ơi

Mười mươi năm đã xa vời quá thôi

HOÀI LY

Mừng lễ Giáng Sinh

Trong hang đá, Thánh Chúa ra đời

Rộn rã Noel, diễn mọi nơi

Chuông tháp ngân nga, vang vọng khắp

Cây thông rực rỡ, chiếu đầy vơi

Người ta xem lễ, đông đô hội

Cha đạo cầu kinh, phúc lộc đời

Vạn vật xoay vần, ân Thượng Đế

Bình an dưới thế, sáng soi Trời ...

Thanh Châu

An lạc với đời

Dư vị

Của cà phê là đắng

Của hoa hồng là thơm

Của nụ hôn là chìm đắm

Của hạnh phúc là niềm vui

Của buồn rầu là thất vọng

Của đời người: nụ cười hay nước mắt

Nụ cười làm tươi hồng cuộc sống

Nước mắt làm khổ đau trái tim ta

Nụ cười - nước mắt - hạnh phúc - khổ đau

Đời người là một vòng quay không ngừng nghỉ

Như vũ trụ có mặt trời, mặt trăng

Như thời gian có ngày và đêm

Như thiên nhiên có bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông

Hãy mang đến mùa Xuân nụ cười siêu nhiên an lạc

Hãy mang đến mùa Hạ bài tình ca ướt át

Hãy mang đến mùa Thu vần thơ quyến rũ

Hãy mang đến mùa Đông tấm lòng sẻ chia

Hãy làm đẹp đời mình bằng trái tim thánh thiện.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

(Tháng 10.2015)

NỖI

LO

Lo vì đủ thứ buồn phiền

Lo cơm, lo áo, lo tiền nuôi con

Lo cho thân phận héo mòn

Lo vùng quy hoạch nhà còn hay đi

Lo rồi, lo mãi, lo chi

Lo muôn vàn thứ, cái gì cũng lo

Lo sợ quan hệ xin cho

Lo “bà” ưng thuận, lo dò ý “ông”

Lo chuyện tai nạn giao thông

Lo thực phẩm bẩn hay không mà dùng

Lo quá bị trét(1) hóa khùng

Lo đến tội nghiệp muốn bung cái đầu

Lo đến khắc khổ buồn rầu

Lo cả tai vạ bỗng đâu bay vào

Lo cho con học trường nào

Lo cho cạn kiệt… mòn bào tư duy

Lo từ việc nhỏ lo đi…

Lo đủ mọi thứ còn gì ước mơ.

LÊ MINH CHỬ

(1) stress

NÉN LÒNG

Cứ rơi cho hết đi
Những tờ lịch cuối cùng !
Cứ vui cho hết đi
Đừng nhấm nhẳn, bâng khuâng !

Đời ta rồi cũng thế
Tựa lịch đóng vào tường
Rơi mà không toại ý
Những lát mỏng tháng năm…

Dù lòng ta có muốn
Kéo dài những si, sân
Thì ngoài kia sương xuống
Đủ nhão nhoẹt hố tham !

Dù môi ta mạnh miệng
Cũng chỉ là dự phần
Vào liu riu bếp lửa
Những tranh chấp nhọc nhằn…

Ta chỉ là tờ lịch
Chờ về cõi lãng quên
Cần chi mà mải miết
Với lụy phiền, đảo điên ?

LAM TRẦN

DẪU BIẾT RẰNG

Dẫu biết rằng

Tiếng gọi không đến được em

Nhưng tôi cứ gọi

*

Dẫu biết rằng

Chỉ có lặng im

Trên phím đàn vắng hơi ấm tay người

Nhưng tôi cứ mong

*

Dẫu biết rằng

Chỉ còn đỉnh cao mây trắng ngày xưa

Nhưng tôi cứ đến

*

Dẫu biết rằng

Hoa sữa đêm nay không còn hương thuở ấy

Nhưng tôi vẫn tìm

*

Dẫu biết rằng

Đời người chỉ có một mùa xuân

Nhưng mùa đông trong tôi

Không thiếu mùa nắng ấm

*

Dẫu biết rằng

Không thể đi ngược thời gian

Nhưng tôi vẫn gặp hôm qua trong ánh sáng hôm nay.

LÊ NGUYÊN (1998)

Sông Bé chiều vương

Ký ức dòng sông trào xốn xang

Dịu êm man mác trải mênh mang

Nụ cười thôn nữ hoàng hôn tím

Con sóng lan xa chốn địa đàng

*

Biêng biếc đôi bờ vương thổn thức

Tình hoài cảm mộng sắc thu trang

Đồi non cỏ mướt xanh thơm gió

Thấp thoáng chiều quê gieo nắng vàng

Thủ Dầu Một 2001

VŨ MÃO

Sông Bé early in the evening

The memory of the river overflowed perplexedly

Softly vague and spreading immensely

The girl’s smile in the purplish twilight

The waves spread far into the earthly paradise

*

The two bluish shores slightly sobbed

Recollected love dreamed of autumnal shade

The velvety green grass on the hillock

was so perfumed in the wind

The countryside evening appeared

and disappeared in the golden sunlight

Thủ Dầu Một 2001

VŨ MÃO Translated by VŨ ANH TUẤN


DỰNG NÊU ĂN TẾT

Tục lệ dựng nêu ăn Tết, dựng nêu với mục đích gì? Tra tự điển Hán Việt thì không thấy từ NÊU. Việt Nam tự điển thì giải thích NÊU là cây cắm cao để làm dấu hiệu. Ngày tết thì trồng NÊU. Hỏi một người bạn Việt gốc Hoa mà ông nội anh ta mới sang Việt Nam, cha anh là đời thứ nhứt, anh là đời thứ hai, anh không thấy và cũng không nghe ai nói về việc dựng NÊU ăn Tết dù gia đình ở Trà Vinh, khuôn viên nhà cũng rộng đấy. Như vậy tôi cho phong tục dựng NÊU ăn tết nầy là của Việt Nam.

Theo học giả Goloubew thì người Việt là giống dân In-đô-nê-giêng tới định cư ở lục địa Châu Á. Như vậy phải nói là ban đầu họ sống ở vùng châu thổ và đồng bằng cho tiện việc trồng trọt sanh sống. Thú dữ ở rừng ra thì đuổi bằng cách đánh vật gì cho tạo tiếng động ầm lên, đốt lửa để xua đuổi. Và ngày nay, dân ở vùng giáp với rừng cũng làm vậy. Theo các cụ già ngày xưa, họ kể rằng dựng NÊU là dựng:

- Một cây tre dài để ngọn,

- Có một mão quan văn,

- Treo một mét vải đỏ,

- Cách xa ngọn tre hai tấc thì treo:

· Một vòng tròn đường kính hai tấc, xung quanh có gắn dây tua cũng dài hai tấc.

· Dưới mỗi dây tua thì treo chuông và khánh (khánh là vật giống như nắp hộp nhỏ, tròn, bằng đồng để các sư đánh beng beng khi tụng kinh) xen nhau sao cho khi có gió thì nó chạm nhau kêu leng keng.

Ngày xưa, có lẽ không ai thoát khỏi óc mê tín dị đoan, có lẽ cũng có cả ba lá bùa trừ tà ma cũng nên. Khi không có những ông thầy làm bùa, có lẽ người ta thay vào đó bằng ba tấm vải đỏ đại để ghi:

- Xua đuổi tà ma,

- Diệt trừ thú dữ

- Mọi người vui Tết.

Ngày nay, người ta thay vào đó bằng ba tấm vải đỏ với lời chúc ngắn, gọn.

Lễ dựng NÊU thì người ta đặt một bàn nhỏ trên đó có:

- Một lư hương,

- Hai chưn đèn có gắn đèn

- Một hay hai dĩa đựng lễ vật cúng.

Người chủ lễ lên đèn, thắp nhang và vái đại khái là cầu trời đất chứng giám cho tôi dựng NÊU ăn Tết, cho trong nhà trong cửa được yên ổn và vui vẻ, làm ăn tấn phát.

Với cách cúng dựng NÊU ngày xưa tôi cho rằng đây là phong tục của Việt tộc, của dân ở đồng bằng. Dân du mục thì sống bằng nghề săn bắt hái lượm, thấy thú rừng là họ tổ chức giết để ăn thịt chớ không làm ầm lên để xua đuổi đâu.

Trong thập niên 90 của thế kỷ trước, xem dựng NÊU ở Lăng Ông Lê Văn Duyệt, tôi cũng không để ý đến vật treo ở câu NÊU. Những năm gần đây, tôi thấy ở cây tre dựng NÊU có treo một cái giỏ, trong đó có treo ba tấm vải đỏ nhỏ có ghi lời chúc. Lần xem dựng NÊU đầu năm 2015, người chủ trì là người thứ ba sau ông Đốc phủ Rỡ. Xa xưa thì ở Lăng Ông dựng NÊU như thế nào, có lẽ mọi người chỉ xem thôi. Khi được cử làm thì noi theo hình thức xưa và tự nghĩ ra mà làm vì là người trưởng thượng kia mà. Nghe nói có bài văn cúng dựng NÊU nhưng khi tôi hỏi và nói chỉ cần biết vái ai thôi chớ không cần biết bài văn thì người có trách nhiệm nói là vái Thái Thượng Lão Quân. Thái Thượng Lão Quân là ai? Ai đặt? Chức vụ gì ở Thiên đình thì tôi chưa được biết. Nhưng bài văn viết là ai viết và viết vào năm nào? Nhưng có điều là ngày nay cúng dựng NÊU có múa Lân mà trước đây không có.

Ca dao Việt Nam có câu:

Cu kêu ba tiếng cu kêu,

Kêu mau tới Tết dựng nêu ăn chè.

Ngày mùng bảy Tết hạ NÊU thì các cụ nói là cúng bằng Chè và Xôi. Tuy vậy, tôi thấy người ta cúng bằng trái cây cả. Không biết có phải vì đứng ở xa nhìn nên tôi không thấy chè xôi chăng? Tôi suy luận rằng ngày xưa thì cúng bằng chè xôi đấy vì việc mua trái cây khó lắm vì mỗi mười ngày hay nửa tháng nữa mới có họp chợ gọi là chợ phiên nên cúng bằng chè xôi cho tiện. Ngày nay, chợ họp mỗi ngày nên cúng bằng trái cây cho tiện vì dễ mua và khỏi mất công.

Thiển nghĩ phong tục nếu không ghi lại bằng văn bản thì nó biến dạng lần và có khi biến mất luôn đấy. Tuy nhiên, theo đà tiến hóa của nhơn loại, cái nào lạc hậu mất nhơn tánh thì phải loại bỏ hay biến cải.

Việc dựng NÊU ăn Tết, ngày nay ngoài Lăng Đức Tả quân Lê Văn Duyệt, kiếm đỏ mắt cũng không thấy ở đâu, nhà nào có dựng NÊU. Ngay các thầy giáo ở vùng quê già cỡ tôi cũng không thấy nhà nào có dựng NÊU ăn Tết.

Khánh Hội-Quận Tư

Saigòn ngày 14.8.2015

NHỰT THANH

(PHẠM HIẾU NGHĨA)


Phụ Bản III


Dương Lêh

Ông Lẵm giơ remote bấm giảm nút âm lượng xuống hết mức khi chương trình chuyển sang mục quảng cáo. Đã từ lâu ông phải làm công việc này để được theo dõi một cách thoải mái chương trình tin tức một tiếng đồng hồ. Ông cũng công nhận làm công việc này quả là đem lại cho ông sự hân hoan thư thái vô cùng tận. Chỉ cần chịu khó một chút là sau khi vặn âm lượng nhỏ xuống hết mức, ông đi làm công việc khác, thỉnh thoảng ông liếc lên màn hình khi thấy đã chuyển trở lại tin tức ông lại bấm nút cho âm lượng lớn lên để ông tiếp tục nghe bản tin. Một ông bạn già làm ra vẻ “thầy đời” lên lớp:

- Ông phải xem quảng cáo để biết trên thị trường có món gì để mình mua khi cần.

- Dạ, tôi đã xem và đã mua lần lượt ba sản phẩm đem về không sử dụng được.

- Thế… ông đã mua món gì nào?

Ông Lẵm biết tính ông bạn già này, nói chuyện có vẻ trịch thượng lắm. Nhưng bản chất ông ta là như vậy. Được cái là ông cũng hay giúp đỡ bà con trong xóm. Ông Lẵm cũng thấy quen dần cái lối nói chuyện đầy cao ngạo đó:

- Cái máy hút bụi trong nhà tôi đó. Họ quảng cáo cái máy hút được trái bóng bowling, khi đem về nhà tôi cho thử với trái banh tennis cũ, “no hair”, nó hút không lên.

- Thế ông có khiếu nại không?

- Có chứ. Tôi làm liền. Nhưng khi gọi điện thoại đến thì không ai trả lời. Hoặc máy trả lời thay bằng tiếng tè, tè, tè vô tận trời xanh.

- Bố láo nhẻ!

- Vậy chứ bác đã mua món nào chưa?

- Chưa. Nhà tôi cần gì tôi bảo con tôi ra hãng chính mà mua. Không mua cái thứ vớ vẩn này.

- Tôi không thích quảng cáo mua hàng qua điện thoại là vậy đó.

Ông này cũng có óc khôi hài đen. Ông khuyên người ta xem quảng cáo để xem sản phẩm nào cần thiết thì đi mua. Nhưng riêng ông thì không thích mua mấy “thứ vớ vẩn” đó.

Động tác vặn nhỏ volume khi có chương trình quảng cáo hoàn toàn không đụng chạm tới ai. “Nhà ta ta biết, nhà ta ta hay”. Ông Lẵm cứ thế mà làm. Ông biết rằng mỗi kênh truyền hình giống như một tờ báo, tờ báo muốn sống được phải nhờ vào quảng cáo. Kênh truyền hình cũng y chang như vậy. Kênh truyền hình nào không có quảng cáo bảo đảm ba bẩy hai mốt ngày là “tịch” ngay. Hiện nay nhiều kênh truyền hình đang tranh giành đất để chiếm thị phần quảng cáo.

Ông bạn già của ông Lẵm cũng có tính hay “nổ”. Ông hay xưng “tớ”, tội nghiệp khiêm tốn lắm! Vậy mà cái gì “tớ” cũng “zành” hơn các anh, cái gì tớ cũng biết “tất tần tật”. Một hôm, mấy ông già về hưu ngồi uống bia lai rai tại một nhà hàng gần vòng xoay, trong đó có một ông là kỹ sư xây dựng muốn chia sẻ với bà con:

- Trên mạng mới phổ biến thứ thuốc trị bệnh gút nghe đâu hay lắm.

Ống “tớ” nhảy vô liền:

- Tớ biết rồi, bán đầy trên mạng, một cú điện thoại là nó mang tới nhà.

Ông Lẵm nhè nhẹ chen vô:

- Hình như cái nhãn hiệu đó có lâu rồi. Mới đây người ta tạo ra thuốc thế hệ thứ hai. Hiệu “a-zô-zim” gì đó nghe nói cũng hay lắm.

Ông “tớ” lại xen vô:

- Tớ cũng thấy rồi. Đúng. “A-zô-zim”. Cũng bán đầy trên mạng.

- Ông coi trên mạng nào? Ông “xây dựng” hỏi.

- Ơ kìa, anh buồn cười, các anh không chịu xem gì cả.

Mấy ông già kia, kể cả ông Lẵm không ai nói gì. Một lát sau ông “tớ” đi toilet, Ông Lẵm mới nói nhỏ đủ cho hai ông già kia nghe:

- Hồi nãy tôi đặt dóc ra cái chuyện thuốc trị gút thế hệ thứ hai với cái hiệu tầm bậy tầm bạ, Vậy mà ổng cũng nói đã có thấy trên mạng. Đúng là xạo có bằng cấp.

- Ờ mà bằng cấp này có dễ dàng, không cần phải mua.

Khi ông “tớ” trở về bàn, Ông Lẵm kín đáo giơ ngón tay lên miệng bảo mấy người kia im lặng, rồi nói lảng qua chuyện khác.

Chuyện ông “tớ” nổ và xạo lên tới mức “triều cường” khi có một ông bạn trong nhóm cách đây mấy năm xin visa sang Mỹ thăm con bị bác, lúc gặp mặt ở quán nhậu ông than thở:

- Mình già như thế này mà Mỹ nói mình không có lý do trở về.

Ông “tớ” giáo huấn liền:

- Vậy là ông không biết cách trả lời. Nó hay hỏi vặn thế này thế nọ, trả lời không khéo nó bác ngay.

Ông già kia nổi sùng:

- Nó hỏi có một câu, ông sang Mỹ làm gì, tôi trả lời thăm con đi học. Xong nó bác không cấp visa. Theo ông trả lời sao đây?

Bị hỏi khó, ông “tớ” nói liền một mạch:

- Này nhé tôi ra Tổng lãnh sự rồi đấy. Thằng cháu tôi làm việc ở đó bảo tôi: “Bác xong rồi, không cần phải gặp Mỹ. Cháu để visa của bác ở đây, khi nào bác đi, bác ra đây cháu điền tên bác vào, rồi đưa bác cầm về leo lên máy bay. Vúúúút!”.

Ông nói tiếp:

- Hiểu chưa? Qua Tết tôi sẽ sang Mỹ thăm bà chị.

Ông già kia ngơ ngác nhìn chằm chặp vào ông “tớ”. Chưa bao giờ ông ta kinh ngạc đến như vậy. Ông Lẵm biết chắc chắn rằng ông ta chưa hề ra đến Tổng lãnh sự Mỹ bao giờ và ông cũng chẳng có thằng cháu trời thần nào làm việc ở cái cơ quan nước ngoài này.Thời gian trôi qua Ông Lẵm không bao giờ thấy ông “tớ” này lên đường sang Mỹ thăm bà chị. Đến nay thì câu chuyện này đã bay ra khỏi đầu ông ta rồi và có lẽ đã bay đi ngay sau khi uống bia ở quán đó ra về. Làm gì có cái chuyện cấp sẵn cho ông cái visa, khi nào ông cần đi chỉ việc đến Tổng lãnh sự Mỹ, người ta điền tên vào cho ông lên đường.

Tắt xong cái TV, ông Lẵm dựa lưng ra ghế dài nghĩ ngợi. Không lẽ người ta già rồi sinh ra tật này tật nọ. Người ta nói người già thường sống về quá khứ, thường hay nghĩ về giai đoạn huy hoàng khi còn trai trẻ. Nguyên nhân có thể là vì hiện tại của họ là một ông già đang bị bao vây bởi đủ thứ bệnh tật. Tính từ đầu đến chân phải có đến một trăm thứ bệnh, làm sao tránh khỏi? Họ thường mang một mặc cảm bị bỏ rơi, bị cô lập. Họ muốn chứng tỏ. Nhưng hiện tại họ không còn làm gì được để chứng tỏ, thôi đành phải gợi lại quá khứ, nhắc lại thời kỳ vàng son như một người bạn mà ông Lẵm đi thăm ở Nha Trang. Ông này đúng ra là đàn anh của ông Lẵm vì tuổi tác lớn hơn ông Lẵm gần một con giáp. Trong bữa ăn ông thường nói ngày xưa ông quen biết ông này ông nọ, toàn là những nhân vật tai to mặt lớn. Ông còn kể một nhân vật nào đó bị buộc tội tham nhũng nhờ ông cứu vớt cho tai qua nạn khỏi nếu không, phải vô nhà đá nghỉ mát. Đúng là hồi xưa ông ta phụ trách về Tố Tụng, và ông Lẵm làm dưới quyền ông và bị ông “chỉnh” miết về cái việc lập phúc trình buộc tội không được chặt chẽ. Sau đó, ông Lẵm về Saigon, chừng một năm sau, có người gọi điện thoại nhắn vô nói rằng ông này đã lên thiên đường. Ông Lẵm thấy cũng hay, hy vọng ông sẽ gặp những ông tai to mặt lớn để “bắt quàng làm họ”. Nhưng mấy ông kia đang ở trên trời bây giờ trở lại có chức phận đang “làm việc” đâu đó trên cõi vĩnh hằng không thèm nhìn mặt ông già “cắc ké” này vừa mới lóp ngóp “thăng thiên”.

Cách đây gần hai chục năm. Ông Lẵm tình cờ gặp một ông bạn cũ đang lêu bêu thả bộ trong Tao Đàn tập thể dục. Sau khi tay bắt mặt mừng ông hỏi ông Lẵm, vẫn với giọng đàn anh ngày trước:

- Chú mày bây giờ làm gì?

- Dạy ở trường Ngoại Ngữ…

- Tưởng gì, thằng cha giám đốc trường đó mời tao dạy, tao lờ đi. Chắc nó tức lắm.

Cú “nổ” của cha này quá lộ liễu. Ông ta quên rằng ông Lẵm biết rõ cái “tẩy” của ổng rồi. Ngày xưa ông ta chỉ là một chuyên viên hành chánh làm việc không cùng một bộ phận với ông Lẵm, bậc lương thua ông Lẵm… cái bằng đại học trong khi ông ta mới tốt nghiệp cao đẳng. Tuy nhiên ông nghĩ mình lớn tuổi hơn nên gọi ông Lẵm bằng “mày tao” thoải mái.

Đây là một trường hợp mặc cảm tự ti bị thoái hóa biến thành mặc cảm tự tôn. Do biết rằng mình không đủ điều kiện để đi giảng dạy, hoặc có xin cũng không ai cho đứng lớp nên ông ta nói thánh nói tướng như vậy cho đỡ quê. Làm gì có cái chuyện ông giám đốc trường đó đến mời ông này ra giảng dạy. Cái sự tự tôn đó có thể biến thái thành ra hoang tưởng.

Có một loại “ông già” cũng do mặc cảm thua kém “người khác” về học thức, về hạnh phúc gia đình, về tuổi tác, cho nên khi ở giữa đám đông thường tìm cách “hạ bệ”, những “người khác” đó. Có ông chê thẳng thừng người khác ăn mặc không được sạch sẽ khi ra đường ngay cả lúc ở trước những người mới quen: “áo này thấy hôm qua mặc rồi hôm nay mặc nữa!”, có ông chỉ đích danh một người nào đó để trêu chọc cho người đó xấu hổ, để chứng tỏ mình ăn nói hay. Thực ra anh ta chỉ biết một vài chuyện khôi hài châm chọc và chỉ kể đi kể lại những chuyện đó mỗi gặp mặt bạn bè. Trong bàn tiệc anh ta luôn luôn mở loa nói tá lả, cho nên được biệt danh là anh “Tư tá lả” Cái biến thể của mặc cảm tự ti này thành một thứ tự tôn muốn không cho mọi người chung quanh thấy tài năng của người khác để nhìn lại “ta” là kẻ “trên chân”.

Có một ông già được nhóm bạn bè của ông Lẵm đặt cho cái tên là “ốc tiêu”. Đây là tên một loại dế đá nhỏ con nhất so với dế than màu đen và dế lửa màu vàng sậm, nhưng tiếng gáy to nhất và lâu nhất so với hai loại dế lớn con kia. Khi xáp trận với hai loại dế kia, lúc đầu “ốc tiêu” gáy liên hồi như hù dọa, trấn áp, nhưng khi anh chàng dế than hay dế lửa kia lặng lẽ mở càng hích cho một cái, ốc tiêu hết gáy, phóng chạy thật xa. Khi đến chỗ an toàn anh ta lại cất cao tiếng gáy làm ra vẻ như anh ta là kẻ thắng trận.

Ông bạn già ốc tiêu này cũng vậy. Dáng dấp nhỏ con lại nhỏ tuổi nhất trong lớp khi còn đi học hồi xưa, nói chuyện với bạn bè trong lớp thường gọi “mầy tao” không cần biết trong lớp có nhiều người lớn hơn anh ta đến 5, 6 tuổi. Khi ra trường làm việc, ai đi nhậu với anh ta đều được anh gọi bằng “mầy” dù rằng ai đó lớn tuổi hơn, hoặc chức vụ cao hơn. Đây cũng là một thứ mặc cảm có từ nhỏ khi ông ta phát hiện mình nhỏ con, ốm yếu, nên đối phó bằng cách sử dụng lời nói dao to búa lớn cho ngang tầm những người bạn khác. Đối với những “týp” người này mọi người chung quanh sẽ thấy rõ ràng anh ta có thêm một cái mặc cảm khác nữa. Trong lúc tranh luận anh ta thường la lớn để trấn áp kẻ đối thoại, đó chính là cái mặc cảm sợ rằng nếu tranh luận một cách êm thắm, bình đẳng, anh sẽ không thắng được người khác. Trong thực tế anh ta thường cho là thắng vì người đối thoại đã im lặng tự bao giờ. Anh ta không nghĩ rằng người đối thoại không muốn ồn ào có thể dẫn tới xung đột. Lúc bấy giờ anh ta giống như Ả Q của Lỗ Tấn với “thắng lợi tinh thần”. Thông thường Ả Q sau những thắng lợi đó hả hê đi tới một vỉa hè nào đó ngồi xuống cởi áo ra bắt… rận. Không biết những anh chàng “ốc tiêu” này có làm gì khác hơn Ả Q chăng?

Tức cười nhất có lẽ là cái ông bạn già ở tận bên kia bờ đại dương, tình cờ ông Lẵm tìm được số điện thoại và gọi sang thăm. Ông bạn già có vẻ như không vui lắm, trong khi ông Lẵm tíu tít hỏi han chuyện này chuyện nọ. Nói xong năm ba câu, ông bạn kia phán:

- Lúc này tao bận ngồi Thiền nên không thích đi đâu và cũng chẳng muốn… nói chuyện với ai.

Ông Lẵm biết ngay ông bạn già này có vẻ không thích một bạn cũ gọi điện thoại qua thăm dù rằng đã xa cách gần năm chục năm trời. Ông Lẵm đành phải chào, chúc sức khỏe và tặng không cho hai chữ “take care”. Ông Lẵm nghiệm lại và thấy tức cười. Ông bạn già này đang tu Thiền. Thì tốt thôi! Quá tốt nữa là khác, đối với tuổi già. Nhưng theo ông Lẵm thấy người tu Thiền thực sự đâu có thời gian để hê lên “tao đang tu Thiền” cho một người bạn biết dù ông bạn này ở cách xa gần mười ngàn cây số. Như vậy ở địa phương của ông, có lẽ tất cả mọi người chung quanh đều biết ông đang tu Thiền. Ông ta làm như sắp đạt đến mức giác ngộ cao minh và sắp bay vào cõi… hư vô nào đó. Theo ông Lẵm, người tu thiền mà đi hê lên cho mọi người biết như vậy thì cái chất Thiền trong con người đó sẽ bốc hơi và biến mất.

Thật ra ông Lẵm không phải là người khó chịu, hay suy nghĩ vẩn vơ rồi đâm ra cáu kỉnh, gay gắt với cái hiện tại của mình. Trái lại, ông Lẵm rất thoải mái gần như là quá mãn nguyện với cuộc sống hiện tại. Ông còn nói nếu có cuộc sống kế tiếp ông cũng chỉ mong được như thế này và thêm một mơ ước nữa là ông sẽ gặp lại người bạn đời mà ông đang chung sống đến nay gần năm chục năm. Xã hội là như vậy, là đủ thứ chuyện rắc rối, phức tạp, và phải như vậy mới tạo thành xã hội trong đó ông đang sống với sự vô tư của tuổi già. Giờ này ông vẫn còn đủ sức khỏe để tham gia nhiều hoạt động tiêu khiển ở nhiều lãnh vực khác nhau từ đó đã mang lại cho ông rất nhiều niềm vui trong cuộc sống. Mỗi khi có thời gian rảnh rỗi ông trở về ngồi trước cái máy vi tính của mình. Đây chính là người bạn tri kỷ, thân thiết nhất của ông.

Dương Lêh

Hương xưa vị cũ

TỪ LÚC NÀO, DO ĐÂU MÀ CÓ

THÀNH NGỮ “NẰM GAI NẾM MẬT”

20 NĂM NUÔI CHÍ QUẬT CƯỜNG

CÂU TIỄN ĐÃ CHUYỂN BẠI THÀNH THẮNG

* Quốc sách 7 điểm do Phạm Lãi và Văn Chủng

hoạch định, gồm những gì làm cho nước Việt

hưng cường, nước Ngô suy hoại?

Cho đến nay “Nằm gai nếm mật” đã là một thành ngữ rất phổ biến: khi nói đến bốn chữ nầy, ai cũng có thể hiểu nghĩa, đại khái là sự kiên trì chịu đựng mọi gian khổ cao độ để đạt đến mục đích nào đó - tức là sự nuôi dưỡng, tôi luyện ý chí sắt đá hầu hoàn thành một công cuộc đã định. Lại cũng có nghĩa hẹp hơn, là cái quyết tâm trả thù, phục hận của con người…

Đó vốn là nghĩa tượng trưng, tức “nghĩa bóng” còn nghĩa đen sát từng chữ một, thì do điển tích sau đây:

Vào thời hai nước Việt và Ngô tranh chấp dai dẳng…

Sau những năm dài, vì thất thế, Việt Vương Câu Tiễn bị chúa nước Ngô là Phù Sai, buộc cả hai vợ chồng phải đem thân qua làm con tin bên nước Ngô, nhờ giỏi đóng vai tuồng ngoan ngoãn, chịu nhục, Câu Tiễn được trả tự do, trở về Việt.

Khác nào cọp về rừng, giao long ra biển, Câu Tiễn quyết bắt đầu một cuộc quật khởi nhằm đưa nước Việt vượt lên vị thế hùng cường, hầu đè bẹp lại nước Ngô, rửa bao nhiêu nhục nhã, oán thù cũ.

Nguyên đã từng đại bại ở Cối Kê và do đây mà bị Ngô Phù Sai bắt ly quốc, đi làm kiếp tôi đòi, con tin…

Nên ngay khi về tới Việt, Câu Tiễn liền dời đô đến Cối Kê. Làm vậy, dụng tâm của Câu Tiễn là để không giờ phút nào quên lãng chuyện thất bại, lần điêu đứng nọ. Và mặt khác, cũng muốn tránh xa ra sự dòm ngó bất lợi của nước Ngô.

Hai bực hiền tài Phạm Lãi và Văn Chủng được Việt Vương Câu Tiễn trọng dụng, giao trọn trách nhiệm chấn hưng toàn diện nước Việt.

Một đường lối thân dân đặc biệt được thực tâm áp dụng, tạo không khí phấn khởi chung trong toàn dân. Ấy là những đường lối “Tôn hiền, đãi sĩ, kính lão, nâng đỡ người nghèo”.

Văn Chủng họp bàn cùng Phạm Lãi, hoạch định quốc sách 7 điều và ráo riết, nghiêm chỉnh đeo đuổi, thi hành.

Việt Câu Tiễn hạ quyết tâm phải thực hiện cho kỳ được 7 điểm quốc sách ấy.

Đó là 7 điểm vừa làm cho nước Việt cường thịnh mau chóng, cũng nhằm mục tiêu chánh yếu: đánh tan nước Ngô.

7 điểm ấy có thể tóm tắt như sau:

1. Hủ hóa, ru ngủ vua tôi và quan quân nước Ngô, bằng cách luôn đem cống dâng thật nhiều phẩm vật, vàng bạc, và tung qua Ngô vô số xa xí phẩm.

2. Trụy lạc hóa nước Ngô, bằng kế mỹ nhơn, bằng nhiều trò khoái lạc, đú đởn, ham sung sướng, thích du hí, cầu an.

3. Tạo cớ thúc đẩy sự hoang phí, thâm thủng ngân sách và tài liệu nước Ngô bằng cách liên miên đưa qua Ngô những thứ đá đẹp, gỗ quý. Vua và quan Ngô đua nhau dùng các vật liệu nầy mà xây cất hoài những cung điện, đền đài nguy nga, đồ sộ, gây tình trạng hao tốn vô kể.

4. Thu dụng tối đa những nhân vật giỏi về gián điệp, tình báo để luôn biết rõ mọi tình hình nội bộ nước Ngô, đồng thời phá rối, lũng đoạn từ trong ruột nước nầy. Mọi mưu kế thuộc loại nầy, bất cứ của ai đề nghị, đều được tiếp nhận, nghiên cứu và thi hành ngay, nếu là mưu kế hay.

5. Thường xuyên mua chuộc các quan to, những nhân vật cốt cán, quan trọng của Ngô, vừa gây chia rẽ giữa họ với nhau vừa bôi lọ uy tín của số nhân vật nào không mua chuộc được. Đồng thời luôn gây ly gián tạo hiềm khích giữa các nước khác với Ngô, cố gắng cô lập Ngô.

6. Phá hoại nền kinh tế và sản xuất của Ngô, trong khi Việt thì nỗ lực tăng gia công nông nghiệp và phát triển thương nghiệp. Để gây sụp đổ tận gốc nên kinh tế nông nghiệp của địch, Việt ngấm ngầm tung tiền ra mua thật nhiều lúa thóc loại tốt của Ngô hủy giống đi, bằng cách đem lúa nấu chín lên, diệt mầm, rồi tráo ngược qua cho nông dân bên Ngô đem cấy trồng, dĩ nhiên là hoàn toàn thất mùa, liên tiếp nhiều năm.

7. Chấn chỉnh một cơ cấu nước Việt nhằm hữu hiệu hóa các ngành hoạt động của quốc gia; vừa tập trung khả năng tăng quân, luyện quân tinh nhuệ và âm thầm chuẩn bị đầy đủ nguồn dự trữ cho chiến tranh.

Việt Vương Câu Tiễn đích thân làm gương mẫu trong mọi việc hưng quốc, lại hết sức siêng năng, chăm chỉ, quên sung sướng riêng. Cho đến độ cắt đặt kẻ hầu hạ chực sẵn, hễ lúc nào Câu Tiễn buồn ngủ gật gưỡng thì cứ lấy cỏ khô mà quất vào mặt vào mắt, cho tỉnh dậy mà làm việc.

Vào mùa đông thì Câu Tiễn ngồi gần băng tuyết, mùa hạ thì đốt lửa bên cạnh, hầu quen sự rét, bức.

Đặc biệt là Câu Tiễn lấy loại cây khô nhánh tre gai trải lên giường ngủ, để không thể ngủ say, mà phải thao thức tính suy mưu kế hoặc tiếp tục làm việc.

Ngay trên đầu giường, trên chỗ làm việc, luôn treo sẵn túi mật đắng, để chốc chốc lại nếm, cho lưỡi tê miệng đắng, hầu ghi nhớ nhục mất nước, và nuôi tâm chí quật khởi…

Ròng rã 20 năm sau, quả nhiên nước Việt mạnh, giàu và quy củ hẳn lên, còn Ngô thì như ngôi nhà sơn phết lòe loẹt mà mối đục mục nát bên trong.

Thế là thời cơ đã thuận tiện: Câu Tiễn công nhiên tiến quân đánh Ngô, thắng như chẻ tre.

Phù Sai vô phương kháng cự, bị chặt đầu.

Việt đè bẹp Ngô một cách hùng dũng.

Mối hận thù dai dẳng hàng mấy mươi năm, giữa hai nước Việt và Ngô, giờ đây Việt Vương Câu Tiễn đã báo phục xong.

Mà sự thành công hoàn toàn của Câu Tiễn, tuy kể chung là nhờ chánh sách, kế hoạch chính xác, ứng hiện và có những người tài hợp lực… Nhưng điều quan trọng, là do sự quyết tâm, trì chí cao độ của Câu Tiễn. Tức là Câu Tiễn đã tiến đạt mục đích, nhờ quá trình “Nằm Gai Nếm Mật” vậy.

Chẳng hạn trong bản văn bất hủ “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi có câu:

“Đau lòng nát ruột, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật, nằm gai, nào phải một ngày nay đó”

Hoặc cụ Đồ Chiểu, viết trong điếu văn vị anh hùng kháng Pháp Trương Định, cũng có câu:

“Nằm gai nếm mật, đất Cối Kê

Tâm mật quyết chí không dời đổi”…

Trên đây chúng tôi làm sáng tỏ nguồn gốc của thành ngữ “Nằm gai nếm mật”, nên chỉ nhắc đến mấy chi tiết liên quan chánh điểm mà thôi; chớ thật ra toàn chuyện Việt Ngô tranh quyền còn rất nhiều tình tiết rất ly kỳ ý nhị - mà chúng tôi sẽ đề cập vào các dịp khác sau nầy.

TRÌNH SIÊU

HOÀNG KIM THƯ st.

12 CẢNH ĐẸP

CỦA QUẢNG NGÃI

1. NÚI ẤN - SÔNG TRÀ

Núi Thiên Ấn (Thiên Ấn niêm hà)

Thuật ngữ Núi Ấn Sông Trà dùng để chỉ tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Từ lâu trong tiềm thức của người dân địa phương cho rằng đây là ngọn núi thiêng liêng của tỉnh. Năm 1850, vua Tự Đức đã liệt núi Thiên Ấn vào hàng danh sơn (ghi vào tự điển) và sông Trà Khúc vào hàng đại xuyên (con sông lớn, khắc vào dụ đỉnh cùng với sông Vệ). Núi Ấn soi mình xuống dòng sông Trà như dấu ấn của mình xuống dòng sông nên được Nguyễn Cư Trinh vịnh trong Quảng Ngãi thập cảnh (sau là Quảng Ngãi thập nhị cảnh) là “Thiên Ấn niêm hà”; ngày 02 tháng 5 năm 1990, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã công nhận núi Thiên Ấn và mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng (trên ngọn núi này) là thắng cảnh cấp quốc gia theo quyết định số 168 VH/QĐ.

Núi Thiên Ấn là một trong 12 cảnh đẹp mà khi xưa cụ Nguyễn Cư Trinh đã phát hiện mà sau này Nguyễn Quang Mao đã thể hiện trong bài thơ “Non sông đẹp bởi chỉ người”:

Ấn trời tô điểm sâu tình nước.

Quả núi xanh um, phía bắc liền núi La Vọng, phía tây giáp núi Long Đầu, phía đông tiếp núi Tam Thai, nằm soi bóng trên bờ sông Trà Khúc, bốn mùa nước trong xanh, xưa kia gọi là núi Hổ.

Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử triều Nguyễn như sau: chu vi rộng 5 dặm, cao hơn 100 trượng. Đỉnh núi bằng phẳng, ước có vài mẫu, bốn mặt vuông phẳng trông như hình cái ấn, nên gọi tên ấy. Trên núi có chùa, trước chùa có giếng sâu 55 mét, nước rất ngọt. Tương truyền ngày xưa có thầy Tăng đến dựng chùa ở đây, khổ nỗi không nước uống, bèn đào giếng trên đỉnh núi trước của chùa tới 20 năm mới tới mạch nước. Giếng đào xong thầy Tăng ấy mất, đến nay người trụ trì chùa ấy đều nhớ giếng đó…

Trên núi Ấn mọc lên cảnh chùa gọi là Tổ đình Thiên Ấn. Chùa Thiên Ấn khởi lập từ năm Bính Thìn (1676) Vĩnh Trị năm đầu đời Lê Hy Tôn (1675-1705) và lúc đầu chỉ là một thảo am. Nửa thế kỷ sau, khi chùa đã trở thành một ngôi chùa tráng lệ thì chùa được sắc phong của vua Lê Dụ Tông. Trải qua biến cố, chùa bị hoang phế, bị phá hoại hoàn toàn. Năm 1961, chùa được trùng tu và đến nay quang cảnh vẫn còn như mới. Có tháp 6 vị Tổ đình trụ trì qua các thời kỳ. Thiên Ấn niêm hà là danh thắng bậc nhất của Quảng Ngãi.

Trên đó còn có mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng, một chí sĩ yêu nước, một người con của Quảng Ngãi, giữ chức vụ Quyền Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khi Hồ Chủ tịch sang Pháp đàm phán (1946) và đã “dĩ bất biến ứng vạn biến”, dũng cảm ra lệnh phá vụ án Ôn Như Hầu. Năm 1947 cụ Huỳnh mất được đưa về an táng trên Thiên Ấn. Mộ cụ luôn được nhân dân thăm viếng hương hoa và tu bổ ngày càng khang trang, đẹp đẽ.

Bạn đi ra Bắc vào Nam trên hành trình thiên lý, đến cầu Trà Khúc hãy nhìn về phía đông sẽ thấy Thiên Ấn; và bạn nhìn xuống mặt gương nước sông Trà sẽ thấy ngay chiếc ấn trời in dấu lòng sông.

Núi Thiên Ấn như trung tâm mặt trời, xoay quanh nó còn có nhiều tiểu hành tinh khác mà ta nhìn thấy từ đỉnh núi này.

THIÊN ẤN

Sừng sững ai xây ngó cùng tình

Càng trên cao mấy thắng cũng xinh

Sông bên góc núi trưa dùng bích

Biển sát chân trời bủa sóng xanh

Giống Phật mạch sân mùi nước ngọt

Chuông thần đêm vắng gượng đưa thnah

Sờ sờ bia đá còn ghi đó

Ngâm vịnh vùi cân tỏ tất thành

Cử nhân PHẠM TRINH

Sông Trà Khúc

Sông Trà Khúc là con sông lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi, phát nguyên từ cao nguyên Đak Trôn (Kon Tum) hợp lưu từ bốn con sông nhỏ (sông Tang, Xà Lò, Rhe, Rinh) nằm trên địa bàn khắp 5 huyện miền núi phía tây Quảng Ngãi, chạy qua các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa và thị xã Quảng Ngãi trước khi đổ ra biển Đông qua cửa Đại Cổ Lũy và cửa Sa Cần; ở hạ lưu, sông Trà còn thông với sông Vệ (một con sông lớn khác ở phía nam sông Trà Khúc) qua một dòng sông nhỏ.

Theo tính toán của các nhà thủy văn, hệ thống sông Trà Khúc có tổng độ dài 200km, lưu vực trên 3250km2, gấp 1,5 lần tổng lưu vực của các sông Trà Bồng, sông Vệ, Trà Câu (cùng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi). Vì vậy sông Trà Khúc có vai trò rất quan trọng trong việc chuyển tải phần lớn lượng nước mưa ra biển cũng như cấp nước cho vùng đồng bằng tập trung đông dân cư. Từ địa điểm Ngã Ba Nước (thuộc xã Sơn Hạ, huyện Sơn Hà - tả ngạn, xã Nghĩa Lâm, huyện Tư Nghĩa - hữu ngạn), dòng sông ổn định dòng chảy và được định danh là Trà Khúc. Có người cho rằng âm Trà có nguồn gốc từ ngôn ngữ Chiêm (Trà/ Chà), còn Khúc là biểu thị những khúc quanh đổi hướng của dòng sông (Trà giang cửu khúc hồi hoàn - thơ Cao Bá Quát).

Các dòng sông ở miền Trung nói chung, sông Trà Khúc nói riêng có đặc điểm lưu vực nhỏ, lòng sông hẹp và dốc, nước chảy xiết, dẫn đến khả năng trữ nước ngầm cho mùa khô khá nghèo nàn. Trong khi đó, do ảnh hưởng của các điều kiện thời tiết - khí hậu, lượng mưa lại chênh lệch rất cao giữa hai mùa mưa nắng. Dòng chảy sông Trà Khúc mùa mưa chiếm 70% tổng lượng mưa hằng năm, 30% tổng lượng mưa trong mùa mưa lại kéo dài từ tháng giêng đến tháng chạp. Nạn khô hạn vào mùa nắng (tháng 1 đến tháng 8) và lũ lụt vào mùa mưa (tháng 9 đến tháng 12) trở thành mối đe dọa thường xuyên đối với sản xuất và đời sống của cư dân sông Trà Khúc. Đã có nhiều trận lũ lịch sử gây ra những thảm họa về môi trường và tính mạng người dân như những trận lũ kinh hoàng năm Mậu Dần (1878), Giáp Thìn (1964), Kỷ Mão (1999). Riêng trận lũ năm Mậu Dần (Tự Đức thứ 31) dân gian gọi là trận “lụt bất quá” đã để lại những ấn tượng khó phai mờ trong ký ức người dân Quảng Ngãi với nhiều bài vè, nhiều câu hát đến nay vẫn còn lưu truyền, thể hiện tình cảnh bi đát của người dân Quảng Ngãi lúc bấy giờ:

Ai mà thác mất đã rồi

Ai còn sống lại cũng ngồi nhìn trông

Đói mà sống cũng không xong

Thương người trôi nổi giữa dòng nước sâu

Kẻ kêu than vợ còn đâu?

Người thảm cha mẹ, người rầu anh em

(Vè lụt bất quá)

Lưu vực và cận lưu vực sông Trà Khúc là nơi hội tụ nhiều cảnh quang thiên nhiên và nhân tạo khá tiêu biểu của Quảng Ngãi. Trong số 12 cảnh quang của thiên nhiên mà người ta gọi là “kỳ thú” của Quảng Ngãi (Quảng Ngãi thập nhị cảnh) có 4 thắng cảnh nằm ven sông Trà Khúc (Thiên Ấn niêm hà, Long Đầu hý thủy, Cổ lũy cô thôn, Hà Nhai văn độ) và nhiều thắng cảnh khác hiện ra trong tầm quan sát từ điểm nhìn đỉnh núi Thiên Ấn (đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi) như: Thiên Bút phê vân, Thạch Bích tà dương, An Hải sa bàn, Thạch cơ điếu tẩu… Sông Trà Khúc hợp với núi Thiên Ấn (núi Ấn - sông Trà) thành cấp biểu tượng sông núi của vùng đất Quảng Ngãi (Trà Giang, Thiên Ấn chuông gầm sóng / Vang tiếng nghìn năm đất Cẩm Thành - thơ Bích Khê) và được nhà Nguyễn cho khắc vào Cửu Đỉnh. Những xóm làng ven sông Trà Khúc uốn lượn theo những khúc quanh của dòng sông, với đồng ruộng phì nhiêu, nương dâu xanh thẳm, bãi ngô, bãi mía bạt ngàn, phía tây là núi rừng trùng điệp, phía đông là biển biếc bao la.

Bồ xe nước đầu tiên trong tỉnh Quảng Ngãi dựng tại xã Bồ Đề - Mộ Đức vào khoảng giữa thế kỷ 18 dần dần phổ biến trên sông Vệ, sau đó một thời gian lan rộng ra sông Trà Khúc.

Gốc tích những guồng nước rất nổi tiếng ở Quảng Ngãi trước đây từ Bình Định từ sông Phủ Hoài Nhơn.

Ca ngợi bồ xe nước Quảng Ngãi, một nhà văn Pháp đã viết: “Không có quang cảnh nào trong tỉnh cho ta biết nhiều hơn về óc kỹ xảo của nông dân An Nam”.

2. THIÊN BÚT PHÊ VÂN (Bút viết trên mây)

Núi Thiên Bút nằm ở phía nam huyện lỵ Tư Nghĩa chừng 2 km. Hình núi tròn, chân loe rộng gấp mấy lần đỉnh ngọn; quanh 4 phía, mặt đất phẳng phiu; giữa là một đống nhô cao khoảng 65 mét và một chỏm núi có những cây nhỏ mọc lên khẳng khiu đều đặn.

Theo Đại Nam nhất thống chí, núi này xưa có nhiều cây trâm, mây móc. Hai loại cây có trái màu tím đen, chỉ ăn một vài trái là môi và lưỡi đều đen tím như nhắp mực. Vì có sự đặc biệt như thế và núi giống hình ngọn bút, nên người xưa gọi núi này là núi Bút. Bên chân núi tiếp một gò vuông thường gọi là hòn Nghiên, nơi đó còn dấu vết nền cũ của đài Xã Tắc. Ngắm cảnh vật như trên đã nói, trái móc, trái trâm đầy núi với những buổi nương dãi đầu non, chúng ta có thể thẩm định gò Nghiên đây là nghiên mực viết.

Ở xa xa, nhìn ngọn núi Thiên Bút có dáng vẻ như ngọn bút trời đang vẽ mây trên bầu trời xanh lơ. Nên có bài thơ Thiên Bút phê vân (Bút trời viết trong mây).

3. LA HÀ THẠCH TRẬN (Trận đá La Hà)

Tại thôn La Hà, phía đông nam huyện lỵ Tư Nghĩa, có 3 đồi đá không cao lắm. Một đồi gồm những đá lổng chổng, hòn thấp, hòn cao, hòn nghiêng, hòn ngã trong cái thế ngóc lên hay nép xuống và toàn bộ giống hình con hổ ngồi. người ta bảo đó là núi Hùm núi Beo.

Một đồi khác mang hình thù một đống thù lù, sườn coi sần sùi và sắc đá đen sạm. Theo lời người xưa truyền lại thì đó là đống voi nằm, nên lúc này người ta vẫn gọi là núi Voi hay núi Tượng.

Còn một đồi nữa lởm chởm những đá nhọn, trong nhóm lên hai tảng đá giống như hai người to lớn và đương đối diện với nhau ở khoảng cách chừng 15 bước. Núi đó không tên, nhưng có thể nó là chính sơn. Người ta mường tượng hai phiến đá nhân dạng kia là hai mãnh tướng của hai phía đối địch đương lăm lăm một trận thư hùng.

Ngoài ra còn nhiều đống đá nhỏ, chỗ một vài hòn, chỗ 3,4 tảng nằm rải rác khắp trong đồng làng Điện An và làng Vạn Anh. Người ta nhận rõ hai trận tuyến của hai phía đối nghịch và việc bày binh bố trận như đã sẵn sàng.

4. THẠCH BÍCH TÀ DƯƠNG NƯỚC KHOÁNG

Thạch Bích tà dương (Núi biếc mặt trời lặn): núi ở phía nam huyện Sơn Hà, gần ranh giới huyện Minh Long. Những hôm đẹp trời, đứng ở chỗ khoáng đãng tại huyện Nghĩa Hành, ta vẫn thấy ngọn núi hiện lên xanh biếc ở phía trời tây xa thẳm. Đại Nam nhất thống chí: “Nnúi cao ngất trời, cỏ cây xanh rậm không hề bị lưỡi búa của tiều phu đến chặt. Khói mây buổi sớm pha sắc tía, hang hốc buổi chiều nhuộm màu son. Bóng tà dương chiều xuống thì đá núi đều ánh lên những vệt sáng như đốm điểm ngàn sao, trong khi khung cảnh quanh vùng đã ngả màu đen tối”.

Bởi lẽ ấy người ta mới chú trọng đến cảnh tà dương ở núi Thạch Bích còn gọi là núi Đá Vách (cảnh núi biếc vào lúc mặt trời lặn).

Dưới núi có đường hẹp đi thông qua miền Thượng, Minh Long, Tứ Tuyền (suối Tuyền) rất hiểm trở. Thời Gia Long đắp lũy Trường Dục nay ta gọi là Trường lũy chạy dài từ giáp Quảng Nam đến An Lão Bình Định hơn 100km để phòng ngự 6 đạo sơn phòng.

Nguồn nước khoáng Thạch Bích

Từ độ sâu 1200 mét trong lòng đất, từ hàng triệu năm kiến tạo địa chất, vọt trào lên nguồi suối khoáng Thạch Bích như một món quà thanh khiết nhất mà thiên nhiên dành cho con người. Với nhiệt độ ở điểm lộ 72, với hàm lượng muối khoáng Thạch Bích đã được đưa vào danh sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc Sử Quán triều Nguyễn soạn, xác nhận giá trị vĩnh hằng của thứ nước quý trong lòng đất, ứng với quẻ Thủy Phong Tình trong Kinh Dịch: “Giúp cho đời như nước sâu. Càng lên càng tốt”.

Đó là nguồn nước nằm ở phía tây, giữa vùng núi đồi Thạch Bích hoang sơ cách xa mọi ô nhiễm nơi quanh năm bàng bạc một khí thu dịu mát, ứng với những vân hành kỳ diệu của Trời đất.

Đó là nguồn nước dành cho sức khỏe con người là “Nước của sự sống” (Eau-de-Vie) mà những hiền nhân, đạo sĩ xưa từng tìm kiếm và ca ngợi: “Người nào hấp thụ được nhiều khí thủy từ chất nước ẩn sâu trong Thổ (đất) thì thường thâm trầm dày dạn, cho nên trí lực có thừa”.

Được đóng chai trên dây chuyền thiết bị hiện đại của Italia, nước khoáng Thạch Bích, bạn có thể hòa nhập tận suối nguồn của thiên nhiên hoang sơ và thời gian bất tận.

Ghi chú: các công trình nhiều tác giả nghiên cứu về nguồn nước khoáng Thạch Bích:

C. Madrollo năm 1923

H. Fountaine năm 1927

F. Blondel năm 1928

Pavel Hoppe Jarostav Dvorak năm 1986

GS. Hà Như Pháp, Đại học Dược Hà nội năm 1980

Liên đoàn Địa chất (5 - 1993)

5. VÂN PHONG TÚC VŨ

Nếu Thạch Bích tà dương có vẻ đẹp rực rỡ vào lúc chiều tà khi mặt trời dát vàng những triền đất trắng nổi bật lên triền núi xanh um thì núi Vân Phong có nét thơ mộng, lãng mạn lúc ban mai khi sương sớm phủ dày đặc tạo cho núi có hình dáng huyền ảo.

Núi Vân Phong tọa lạc phía tây huyện Sơn Tịnh. Đại Nam nhất thống chí: “Hình núi cao vút lên giữa lưng trời, có các núi bao quanh bốn phía trùng điệp, đứng xa thấy tươi sáng. Chót núi dờn dợn mây bay suốt ngày khí sắc như lúc trời mới sáng hay sau khi mưa tạnh”.

6. LONG ĐẦU HÝ THỦY

Long Đầu hý thủy (Đầu Rồng giỡn nước) là tên đặt cho dãy núi có hình dáng như con Thần Long đớp giỡn nước sông. Núi Long Đầu thuộc địa phận huyện Sơn Tịnh. Hình dáng núi hiểm trở, mạch từ núi Tham Hội thuộc huyện Bình Sơn, khi khởi, khi phục chạy về phía nam cho sát tới bờ bắc sông Trà Khúc.

Đại Nam nhất thống chí: “Giòng nước chảy đến đầu núi… vào mõm đá, cuộn nổi sóng lăn tăn, rồi dội lên tiếng rì rào ồ ạt”. Từ ngàn xưa vẫn vậy, cảnh vật chưa lúc nào biến đổi. Đây là núi Long Đầu hý thủy (đầu rồng giỡn nước).

Bên núi có ngôi miếu cổ thờ Phi Vân tướng quân. Trên lưng chừng núi có 3 đường hẻm sâu hun hút, truyền thuyết cho rằng đây là chỗ Cao Biền đời Đường bên Trung Quốc cỡi diều giấy qua đây chém đứt mạch rồng để hủy hoại của ta một quý địa.

7. CỔ LŨY CÔ THÔN (Thôn Cổ Lũy)

Địa danh “Cổ Lũy cô thôn” có từ khi ông Nguyễn Cư Trinh làm Tuần Vũ ở Quảng Ngãi. Một thắng cảnh thiên nhiên ở miền biển Tư Nghĩa, được tôn vinh cách đây 200 năm.

Từ thị xã Quảng Ngãi, đường về Cổ Lũy chạy song song với sông Trà Khúc, một con sông dưới chân núi Ấn, nước trong xanh ngày đêm bờ xe đổ nước vào ruộng. Ở đây có cá bống, con don làm nên món ăn nổi tiếng vùng này. Con đường tỉnh lộ chạy qua bạt ngàn nương dâu, bãi mía, nương khoai, nương bắp và những vườn rau xanh mượt, chạy tận đến Cổ Lũy. Rau thì không phải nói, chứ hoa hồng, hoa đồng tiền trồng từng vạt trong vườn nhà tôi, điểm màu sắc rực rỡ trên nền xanh của cây trái. Những đoạn sông Trà gần giáp biển uốn lượn như con rắn đang bò, thoắt sông uốn bờ bắc, chợt lại lượn bờ nam, rồi để lại những dải phù sa màu mỡ có một không hai ở các xã ven sông này.

Những dải xanh của cây cối, vườn rau chạy từ chân núi Phú Thọ đến chân núi Cổ Lũy. Từ trên núi Phú Thọ nhìn thấy những con thuyền lớn nhỏ đang rẽ sóng ngược xuôi dưới sông, chở đầy cá, tôm, mực… đang về bến đậu.

Đây có lẽ là con sông đặc biệt nhất Quảng Ngãi, sông Trà Khúc và con sông Vệ như hai gọng kìm ôm lấy đất Tư Nghĩa, trước khi hòa vào biển Đông bao la, hai con sông này đột nhiên rẽ ngoặt tạo nên một dòng sông ngay thẳng, như kênh đào, mà sông Phú Thọ chính là một phần của sông này. Đứng trên núi Phú Thọ có thể nhìn thấy những đám gai lưỡi long, hễ đến mùa hoa đỏ rực một vùng ở Nghĩa An. “Ốc đảo” Nghĩa An như một con cá kình khổng lồ bị sóng thần đánh dạt vào bờ như “con đê” che sóng gió.

Thành bàn cờ trên núi Phú Thọ chính là chốt tiền tiêu của thành Cổ Châu Sa, bên tả ngạn sông Trà. Đấy được xem như thủ phủ của tướng quốc Chăm pa hồi thế kỷ thứ 9 - 10. Thành lũy nằm trên núi Phú Thọ được xây cất rất công phu. Cổ Lũy được mang tên từ cái lũy cổ này chăng?

Nơi đây còn lưu lại cổng Tam quan của chùa Phước Sơn. Ngôi chùa được Nguyễn Thân xây dựng sau khi từ giã chốn quan trường, từ giã các cuộc chém giết đối với phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ 19.

“Cổ Lũy cô thôn” vẻ đẹp đặc trưng của một làng chài lưới ven biển miền Trung của đất nước.

“Cổ Lũy cô thôn” không có vẻ nhộn nhịp của một làng đánh cá. Biển ở đây bị che khuất sau những vườn rau cây trái, những sườn đá thoai thoải.

Toàn cảnh hiện ra một màu xanh, vài nếp nhà tranh lẻ loi ẩn mình dưới bóng dừa hoặc rặng phi lao, mà ngày đêm thổi lên những điệu nhạc vi vu cùng sóng biển rì rào, trắng xóa.

Con thuyền, sau những ngày mệt mỏi với sóng biển đang nằm nghỉ ngơi, gối đầu trên bãi cát trắng, gợi cho chúng ta một cô thôn (thôn nhỏ) trong những bài thơ Đường tuyệt tác của Trung quốc thời xa xưa.

PHONG KIỀU DẠ BẠC

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngữ hỏa đôi sầu miên

Cô tô thành ngoại Hàn Sơn tự

Dụ bán chung thanh đáo khánh thuyền

TRƯỜNG KÊ*

*(trước hoặc sau năm 756, đời Đường Túc Tông)

Dịch thơ:

Trăng tà, chiếc nhạn kêu sương

Lửa chài, cây bên, sầu vương giấc hồ

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

(Tản Đà dịch)

Cổ Lũy được nhà nước cấp bằng “Di tích lịch sử văn hóa quốc gia” cho thắng cảnh “Cổ Lũy cô thôn” cùng với núi Phú Thọ. Cổ Lũy còn thay đổi nhiều để hấp dẫn khách du lịch.

8. THẠCH CƠ ĐIẾU TẨU (Lão câu ghềnh đá)

Tại cửa biển Sa Kỳ huyện Bình Sơn, có dòng sông chảy ra biển, giữa hai trái núi đá nằm sát bờ. Giữa dòng chảy nhô lên một ghềnh đá hình dáng như một người ngồi câu cá, nên gọi là “Lão câu ghềnh đá”.

9. AN HẢI SA BÀN (Mâm cát An Hải)

Cũng là cảnh đẹp ở biển Sa Kỳ, những cảnh ở đây kỳ vĩ mà trơ trụi, chỉ là những bãi cát trắng phau, làn sóng cát chạy dài xa tít mắt chỉ có mép nước những làn sóng rì rào ngày đêm, những chú còng chạy lên chạy xuống đào hang. Những bụi cỏ lông chạy tròn theo làn gió, dấu chân người lúc còn lúc mất theo đợt sóng biển.

10. LIÊN TRÌ DỤC NGUYỆT (Trăng tắm ao sen)

Tiếng lành đồn xa đã bao thế kỷ: “Con gái Liên Chiểu da trắng, tiếng nói như chim hót, má lúm đồng tiền, tóc có mùi hương của hoa sen”. Thật vậy, theo Đại Nam nhất thống chí, tại làng Liên Chiểu có hồ sen lớn đến 30 mẫu tây, hồ tròn như mặt trăng rằm, thuộc đất Phổ Thuận (Đức Phổ - Quảng Ngãi). Hồ trồng toàn sen ấy là “Liên Trì dục nguyệt” hay trăng tắm ao sen.

Từ xưa, có lệ dân làng góp tiền mua nhiều giống sen hồng, sen trắng để trồng. Hàng năm dân làng thu hoạch phải nộp hạt sen cho làng để làm quỹ công ích. Ngoài ra còn có cá chép, cá giếc, cá rô, cá tràu, tôm, ốc, cua… đem lại một nguồn lợi cho dân làng được hưởng. Đặc biệt các cô gái sống xung quanh ao sen tóc dài có mùi thơm. Có lẽ hương sen tỏa ra bay thấm vào da thịt của con người nên có “mùi hương sen thơm phức”. Hàng năm đến ngày hội lễ, Tết trong làng có tổ chức vui chơi hoặc những ngày mùa, hát hò, giã gạo, đập lúa, làm mía, trai gái trong làng thường hát đối đáp dưới ánh trăng thanh gió mát. Nhiều chàng trai các vùng lân cận ai cũng muốn đến tận nơi tận mắt thử xem để thưởng thức có thật con gái Liên Chiểu tóc ướp hương sen hay không?

Hồ sen hẹp dần vì tháng năm bồi lở nước hồ chảy ra đồng ruộng thôn Hoa Chiểu rồi chảy về phía nam sáu dặm đổ vào sông Trà Câu. Tuy hồ hẹp dần về diện tích nhưng sen vẫn tốt tươi, hương sen tỏa khắp vùng. Sen là cây đặc sản của người dân Liên Chiểu như trà ướp sen, chè hạt sen, mứt sen, gà bồ câu hầm hạt sen để bổ dưỡng… còn những bộ phận khác của sen như lá, hoa… là những vị thuốc đông y chữa nhiều chứng bệnh cho người và gia súc.

Tại sao ông Nguyễn Cư Trinh có bài thơ tựa đề “Liên trì dục nguyệt” (trăng tắm ao sen)? Hằng Nga cách xa trái đất hàng ngàn vạn dặm, xuống tắm ao sen là cảnh bồng lai tuyệt thế, cá đớp mồi, trăng lúc ẩn lúc hiện nguyên hình, lúc vỡ ra trăm nghìn mảnh… đó là lúc Hằng Nga đang tắm. Liên trì dục nguyệt để lại một địa danh thơ mộng từ xưa nay là một trong 12 cảnh đẹp của Quảng Ngãi.

Sen không những phục vụ đời sống con người mà còn đi vào văn học nghệ thuật điêu khắc các lăng tẩm, đình chùa, hội họa như bộ tranh tứ thời (4 mùa): Mai, Liên (sen), Cúc, Tùng. Còn thơ ca, các thi sĩ sáng tác ca ngợi từ xưa để lại nhiều áng thơ hay:

Ngọc Lĩnh mưa thôi lúng nắng tương

Sen nên mặt nước tóc soi gương

Thanh vặc vặc in vầng nguyệt

Sáng làu làu tỏ bóng gương

Tân tử phơi rồi xiêu dạ khách

Thái châu tắm đã nức mùi hương

Kham chi Mậu thúc lòng mơ ở

Thú vị rằng hơn khác thế thường

(Liên Hồng Đức quốc âm thi tập)

Người con gái đẹp được ca ngợi như bông sen:

Sen in mặt, tuyết pha chân

Sen vàng lững thững như gần như xa

…..

Gót sen thoăn thoắt dạo quanh mé tường

(Kiều - Nguyễn Du)

“Liên trì dục nguyệt” giữa con người và thiên nhiên quyện vào nhau tạo nên cảnh đẹp muôn thuở để con người được quyền hưởng thụ.

11. HÀ NHAI VÃN ĐỘ (Chiều đò nhộn nhịp điệu hò vui)

Từ đỉnh Thiên Ấn nhìn về hướng tây chẳng khó khăn. Xuôi đến chặng này sông Trà lại thêm một lần nữa đột ngột đổi dòng chảy, bỏ lại bên hữu ngạn con sông Cùng để ngoặc sang hướng tây bắc - đông nam tạo ra một vùng bãi thấp, dang rộng ra hai phía bờ sông.

Thời đó dọc bến Hà Nhai là các guồng xe Ngân Giang, Chợ Hố, Bến Đỏ ngày đêm rì rầm mang nước tưới cho những cánh đồng trù phú của hai thôn vào hạng giàu có bậc nhất một vùng. Xen đều giữa nơi đặt những guồng xe chín bánh là bến Ngân Giang, bến Biền, bến Đá, lũy tre làng kết thành một vòng cung từ bến biển men theo Bào Vo, đến giáp Bào Lùng, phân cách xóm làng với vùng đồng soi rộng gần 20 mẫu, dâu mía xanh rờn.

Bên kia bến Hà Nhai, phía Nghĩa Kỳ, Nghĩa Thắng là sông Cùng, bãi Bói, là những mái nhà ẩn hiện dưới bóng tre. Giữa sông là một gò đất nổi rộng mấy công đất có tên gò Một. Gò là “vương quốc” của trẻ chăn trâu. Lùa trâu bò qua một lạch nước sâu, thả rông trên bãi cỏ, rồi tha hồ mà xúc cảm trút ống, mò tôm…

Thực ra Hà Nhai là một chuỗi bến sông, chạy từ guồng xe Ngân Giang cho đến bến đò xóm Vạn, nằm bên tả ngạn sông Trà thuộc thôn Ngân Giang, Thọ Lộc của xã Tịnh Hà huyện Sơn Tịnh. Người dân không quen nói Hán, nói Tây có cách gọi riêng là bến Cây Gáo.

Hồi người Pháp chưa làm cầu xe lửa Trường Xuân có hành lang cho người đi bộ đến Hà Nhai là mối đầu mối giao thương quan trọng, đóng vai trò trung chuyển hàng hóa giữa vùng Tư Nghĩa, Cổ Lũy, Sa Kỳ với Tây Sơn Tịnh và các nguồn cao tây bắc Quảng Ngãi. Từ phía biển, từ bến Tam Thương, các lái buôn đưa nước mắm, muối, cá khô, hàng thủ công, dầu hỏa… cập bến Hà Nhai, rồi quang gánh chuyển hàng theo đường bộ lên chợ Mới, chợ Đình, Ba Gia và xa hơn là chợ Than, Đồng Ké, Thạch An… Đi theo hướng ngược lại là lâm sản vùng cao, lúa khoai sắn, đường muỗng Thọ Lộc, nón lá chợ Đình, đồ sừng xóm Lược, đồ rèn Tịnh Minh, thuốc lá Bông Chình… có câu ca nay còn người hát:

Làng anh bậu ghé mà mê

Trước sông, sau chợ, giếng kề một bên…

Chiều xưa, bến Hà Nhai tấp nập những chuyến đò người đi làm đồng ra sông tắm, trò chuyện râm ran, đàn bò no nê đủng đỉnh về làng, theo sau là lũ trẻ ca hát nghêu ngao, thỉnh thoảng hú dài lên một tiếng vọng sang bên kia gọi bạn. Bóng nắng phía trời tây đổ dài trên máy nước, bãi bồi phía xa xa ngã dần sang màu xanh pha vàng nhạt, những guồng xe vẫn lặng lẽ quay đều đổ nước vào đồng ruộng.

Như thế là chuyện ngày xưa. Biển dâu đắp đổi, bến Hà Nhai bây giờ vẫn đẹp nhưng khác trước nhiều, cây gáo vàng không còn nữa, gò Một bị trận lụt năm Giáp Thìn cuốn trôi đi mất, tên làng cũng đổi thay…

12. VU SƠN LỘC TRƯỜNG (Bãi nai ở núi Vu Sơn)

Vu Sơn, tục gọi là núi Hòn Dầu, cao hơn 400m, nằm trên vùng đất giáp giới các xã Tịnh Bắc, Tịnh Đông, Tịnh Hiệp, cách thành phố Quảng Ngãi chừng 25 km về phía tây bắc. Nhìn từ xa, Vu Sơn cao vút lên giữa chập chùng núi đồi như điểm phát mạch cho các dãy núi thấp hơn, trùng điệp chạy về đồng bằng theo nhiều ngã.

Núi Hòn Dầu, vốn là nơi cây rừng rậm rạp, muông thú làm chỗ náu mình. Sườn phía tây bắc có trảng cỏ khá rộng, phía dưới là khe nước nhỏ. Các loài móng guốc như hươu, nai, cheo kết thành bầy ăn cỏ và lộc non. Những đêm trăng sáng, đàn nai quần tụ nô đùa, dưới chân núi thấp thoáng mấy bóng tiều phu về muộn. Cảnh trí nên thơ tựa như bức tranh sơn thủy mà sứ thần Bùi Quỹ (1795 -1861) phóng bút trên đường đi sứ sang Yên Kinh (Trung Quốc) năm Mậu Thân – 1848, về sau khắc in trong sách Yên Đài anh thoại:

Này hươu nai nhởn nhơ bên suối

Này tiều phu dưới núi mấy người...

Chữ “Vu” ở đây có nghĩa là hoang vu, bỏ hoang; ý nói ngọn núi hoang vu, rậm rạp, um tùm cây cối.

Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Núi Vu ở phía tây bắc huyện Sơn Tịnh, đứng cao vút trên không trung làm tổ sơn cho huyện nầy. Phía sau núi cây cối sầm uất, hươu nai tụ tập cả bầy. Sau đời ông Nguyễn Cư Trinh có người tục vịnh là “Vu Sơn lộc trường” (Trường nai núi Vu) làm thắng cảnh thứ 11 của Quảng Ngãi”. (Quốc sử quán triều Nguyễn; 1909; bản dịch Tu Trai Nguyễn Tạo; Nha Văn hóa – Bộ QGGD VNCH; 1964).

BÙI ĐẸP biên soạn


Phụ Bản IV

HÀNH

Tên bả là Hành cũng phải! Bả vừa bự con, lắm mồm và dữ ác liệt. Nhưng thật ra bả lại tốt bụng. Nhìn cái bụng của bà ai cũng nói bụng bà quá tốt vì… to! Ấy! Đó là nghĩa đen thôi, chớ thật ra bả cũng có lòng nhân ái lắm. Chuyện không nên không phải ngoài đường mà có mặt bả là y như xong ngay. Phải trái phân minh. Cà chớn là bả dũa liền tù tì. Chí ít cũng đủ mẻ đủ cha, còn quá quắt là bả khện cho vài chưởng có mà nám phổi trước khi qua đời!

Vậy mà có một chiều hiu hiu lạnh, bả chết lãng nhách! Người thì chẳng sợ mà bả lại sợ…chuột! Đang lúi húi dọn trái cây bán ngoài lề đường thì con chuột cống ở đâu chạy xẹt ngang chân bả. Bả rú lên rồi bỏ chạy ra ngoài đường cái. Xe tải chạy ngang, hốt bả luôn rồi dọt mất, chẳng ai nhìn thấy tăm hơi, nói gì cái biển số làm bằng chứng.

Vậy là bữa đó thức dậy ú ớ, thấy mình không còn mấy cái cần xế nào xoài, nào sầu riêng sầu tây… Bả thấy mình nằm trong có lẽ là cái hộp vuông vắn. Bà thử thở phì một cái thì bụi bay tá lả, làm bả chẳng thấy gì ngoài cái màn bụi đang rất từ tốn hạ xuống. Bà giật nẩy mình, khi chợt phát giác ra mình chỉ còn là chút tro bụi nằm trong cái hũ bằng sành. Nói là giật nẩy mình, chớ bà còn mình đâu mà giật, chỉ có chút nhúc nhích nhóc nhách của chỗ hồi xưa là cái mông vĩ đại mà thôi!

Chung quanh lặng lẽ như tờ. Bả chợt thấy đau đau ở tay phải, cái tay hàng ngày cân biết bao nhiêu là cóc, ổi, khế và mọi thứ được kêu là trái cây. Cố ngóc đầu lên, bả thấy trên cái cổ tay ú nần chỉ còn 4 ngón, cái ngón trỏ đi đâu mất tiêu. Phải một lúc định thần, bà mới nhớ ra là bà bị cái xe tải chết tiệt ấy cán lên người. Bả sực nhớ ra bả chưa hề cám ơn những ai đã thu dọn cái xác bẹp dúm của bả mà mang vô lò thiêu. Chậc! ngón tay kia đi đâu vậy cà? À! Sao mình mát dây quá đi! Chết mà cũng đòi phải đầy đủ các chi tiết nữa! Rồi bà lại tự phân trần: Chớ chết rồi thì mọi người mắc gì phải tắm rửa, rồi mặc quần áo cho đẹp, thậm chí còn ma-ki-nhê, miễn là đừng có mà diêm dúa như cải lương Hồ Quảng mà thôi. Ấy! Đôi khi người ta trưng tấm hình đầu thì của chính người mới chết, còn thân, kể cả ca ra vát, áo trong áo ngoài (và cả áo lót)… là của ai đó tháp vào cho ra dáng. Vậy thì, chuyện bà muốn có lại cái ngón trỏ thân yêu cũng là chuyện đâu có trái với luân thường đạo lý! Vậy là bả rắp tâm kiếm lại ngón tay của mình. Mà bả lại áy náy, sao còn được gọi là rắp tâm khi tim bả đã thành tro bụi. Phải chăng, bả phải dùng từ mới là “rắp tro” mới đúng hệ! Bả nghĩ mình thật là thông minh. Rồi bả lại tặc lưỡi. Thông minh mà chết vì con chuột. Thật rầy rà! Thật là vào ngõ cụt khi nghĩ tới nghĩ lui.

Cái chuyện ngón tay kia cũng rầy rà không kém bà chủ của nó. Thôi ta kêu nó là Ngờ đi, chứ dông dài “ngón tay” thì tốn giấy lắm! Vâng! Ngờ cũng bị cái bánh xe chà bá đè lên gẫy gọn. Ngờ nhờ có bản năng đếm tiền nên khá là… dính. Vậy là Ngờ cứ bám, dính hay gì gì đấy vào cái bánh xe quay nhanh nhanh hốt hoảng và kinh hoàng ra khỏi trận địa. Với tốc độ ma đuổi cùng lũ bụi mịt mù như thế mà Ngờ vẫn bám chặt vào cái bánh xe xóc xòng xọc!

Về tới nhà, gã tài xế mặt mũi xanh như tàu lá sống! (Chứ lá chết đâu có xanh) Hắn kỳ cọ, lau chùi bẳng cả chục ký xà bông chứ chẳng chơi. Đèn nhà gã thiếu gì, nhưng gã cứ để tùm hụp như vậy mà rửa xe. Vợ gã hỏi gã chỉ ậm ừ vậy thôi chứ chẳng còn hơi sức đâu mà trả lời trả vốn!

Ngờ vẫn ở đấy, trong cái rãnh vỏ xe dán sát mặt nền. Gã tài xế de xe lại để rửa cho kỹ 10 cái bánh xe, không để lại một hột bụi. Làm thế nào không rõ, mà Ngờ lại lẩn xuống chỗ rãnh khác, áp sát xuống cái nền nhà vốn đã tối như đêm 30.

Sau mấy ngày ém muốn tê tái cõi lòng, gã tài xế (chẳng biết tên, thôi gọi đại là Tỏi cho gọn nhé) tái xuất giang hồ. Khác với thói quen, Tỏi lái xe cẩn thận lắm. Lại bỏ cả nhậu nhẹt, chăm đi chùa, khấn khấn vái vái cái gì đó. Bàn thờ nhà Tỏi tự nhiên sau này thường sáng đèn, khói hương nghi ngút. Vợ cũng chẳng hỏi, nhưng thấy Tỏi có vẻ… tu ra, thì mừng ơi là mừng!

Có bữa, trời vừa hửng sáng, Tỏi lái xe đi chở gạch cho người ta. Dù Tỏi lâu nay đã cố tránh đi qua đoạn đường ấy, thì hôm nay, chẳng biết có cái gì cứ đeo bám trong lòng khiến gã vừa sợ sệt vừa tò mò đi qua chốn ấy. Tới ngã ba, Tỏi sợ quá không dám bò vào con đường cũ thì ô hay! Cái gì cứ ngọ nguậy ở trên đồng hồ tốc độ. Tỏi dụi mắt dễ đến cả tỉ lần nhưng cái ngón tay… Chính là cái ngón tay cứ ngúc ngoắc thúc dục Tỏi. Tỏi đè ga chạy lối kia thì Ngờ lồm cồm như con sâu giận dữ. Rồi ai xui khiến tay vô lăng của Tỏi phải xuôi theo lối cũ đường xưa! Ngờ nằm im, thỉnh thoảng lại nhúc nhích khiến tim Tỏi như thắt lại. Tỏi không dám nhìn kính chiếu hậu! Gã sợ phải thấy bộ mặt như xác chết của mình.

Ngờ vẽ nửa vòng tròn theo chiều kim đồng hồ (đồng hồ gì cũng được!). Tỏi thử bẻ sang trái. Ơ kìa! Ngờ lại giẫy lên đành đạch! Thì rẽ phải. Ngờ hài lòng thấy rõ…

Cứ thế, chiếc xe bò dần đến trước một ngôi nhà, mà hôm nay người ra kẻ vào khá là đông. Tỏi tắt máy xe. Ngờ nhảy tõm xuống sàn cabin. Tỏi hãi hùng định nhặt lên, ôi sao mà nặng thế. Ngờ cứ loi choi tông vào cửa xe, làm như yêu cầu, mở cửa ra, thằng khốn!

Tỏi run bắn người. Gã nặng nề mở cửa. Trước khi gã kịp nhảy xuống thì Ngờ đã gieo mình xuống lối đi đã mở sẵn. Rồi nằm im đấy. Tỏi cũng dừng lại. Ngờ nhóc nhách như đòi hỏi gì đấy. Tỏi rối tinh cái đầu. Chẳng hiểu sao gã lại nhặt Ngờ lên. Lạ thay, Ngờ lần này nhẹ, hết sức nhẹ, như một hạt tro…

Chân Tỏi cứ thế bước. Người trong nhà trố mắt nhìn gã tài xế lạ mặt. Như người mất hồn, gã bước đến bàn thờ bà Hành, quýnh quáng thắp mấy cây nhang mãi mà không xong, phần vì tay gã còn kẹp Ngờ, phần vì gã dường như… đái ra quần vì sợ!

Ngờ búng người ra khỏi tay Tỏi. Bây giờ, Tỏi mới thấy cái ngón tay tròn trịa rõ ràng như thế. Đầu ngón tay là chiếc móng còn nguyên màu hồng mới sơn hôm trước khi bà Hành thiệt mạng. Chiếc ngón bò lên khung ảnh, gãi nhẹ vào khuôn mặt bà Hành, cứ như trình diện chủ sau chuyến ngao du không phép. Ai nấy sững sờ, răng va vào nhau như mùa đông Mát Cơ Va… Màu hồng sơn móng tay mềm ra, rồi như màu son vẽ trên khung ảnh: Mày phải bán xe đền mạng cho tao nhé Tỏi…

Rồi y như màn hình, các giòng chữ nối tiếp nhau, nhảy múa trước khuôn mặt vã mồ hôi của Tỏi:

…Rồi ra ngoài kia, chỗ của tao đó mà bán trái cây cho đến khi xe tải hốt mày mất xác.

Và bỗng nhiên, miệng bà Hành cười toe chẳng biết vì nhận lại được ngón tay trỏ của mình hay vì tìm được thằng tài xế bất nhân. Chỉ biết Ngờ sau đó chẳng biết bằng cách nào chui vào được trong cái hũ đã 100 ngày tuổi.

Ừ! Hôm ấy là 30 tết, giỗ 100 ngày của bà Hành bán trái cây.

Sáng mồng một, người ta thấy Tỏi khai trương chỗ bán trái cây. Gã cứ phân vân không biết có nên de… đít ra đường cho xong tội, chớ chờ đợi hoài, ớn quá!

LAM TRẦN 17.02.2014

8 MÓN THƯỢNG THỌ

Sau khi nghiên cứu, điều tra cụ thể, các nhà dưỡng sinh và các chuyên gia dinh dưỡng đã phát hiện thấy những người sống trường thọ thường có 10 sở thích sau:

1. Cháo

Nhìn từ thói quen ăn uống, trong những người sống trường thọ thì không có một ai là không thích ăn cháo. Nhà kinh tế học nổi tiếng của Trung Quốc Mã Dần Sơ và phu nhân Trương Quế Quân đều là những người trường thọ trăm tuổi. Hai người đặc biệt thích ăn cháo sáng và mỗi sáng đều lấy 50g yến mạch và 250g nước nấu thành cháo.

Người sống thọ trăm tuổi ở Thượng Hải (Trung Quốc) là Tô Cục Tiên mỗi ngày ba bữa đều ăn cháo nấu từ gạo, định lượng mỗi bữa là một bát nhỏ.

Các nhà y học và dinh dưỡng từ bao đời nay đều cổ động người già nên ăn cháo vì nó tốt cho sức khoẻ. Cháo dễ tiêu hóa, hấp thụ, có thể điều hòa dạ dày, bổ tỳ, thanh lọc phổi, mát đường ruột.

Nhà dinh dưỡng học thời nhà Thanh Tào Từ Sơn đã từng nói: “Người già, mỗi ngày nên ăn cháo, không kể bữa, có thể tăng cường sức khoẻ cho cơ thể và hưởng đại thọ”.

2. Các món kê

Người già thích nhất ăn kê và xem kê là thực phẩm bổ dưỡng tốt nhất cho cơ thể. Kê từ trước đến nay đều được xứng danh là “món đầu đàn của ngũ cốc”. Người có thể chất ốm yếu, bệnh tật thường dùng kê để bồi bổ sức khoẻ.

Y học Trung Quốc cho rằng, hạt kê có ích cho ngũ tạng, đặc biệt là dạ dày (làm dày đường ruột, dạ dày), bổ sung tinh dịch, mạnh khoẻ gân cốt, cơ bắp.

Có một danh sư nổi tiếng thời nhà Thanh đã nói: “Hạt kê là dinh dưỡng tốt nhất cho sức khoẻ con người. Khi dùng hạt kê nấu cháo, dầu kê trong cháo có tác dụng tốt hơn cả canh nhân sâm”. Có thể nói, người già trường thọ thích ăn kê là rất đúng và có cơ sở.

3. Bắp

Bắp còn có tên gọi khác là Ngọc trân châu, là “thực phẩm vàng” được toàn thế giới công nhận và cũng là món ăn chính mà người trường thọ không thể “rời xa”.

Các nhà khoa học Mỹ nhận thấy người Pueblo bản địa không ai bị cao huyết áp và xơ cứng động mạch. Nghiên cứu thì được biết là do người dân vùng này thường xuyên ăn bắp.

Các nhà khoa học cho biết: trong bắp hàm chứa đại lượng lecithin, acid linoleic, vitamin E vì vậy không dễ gây ra cao huyết áp và xơ cứng động mạch…

4. Khoai lang

Ăn khoai lang là một trong những sở thích lớn của người già trường thọ.

Một trong những người trường thọ tâm sự: “Khoai lang là một báu vật, bữa ăn nào cũng phải có nó”.

Theo nghiên cứu, khoai lang có 5 tác dụng lớn: thứ nhất dinh dưỡng phong phú, điều hòa bổ máu; thứ hai là nhuận tràng thông khí, có lợi cho đại tiện; thứ ba là ích khí, tăng cường hệ thống miễn dịch; thứ tư là khoai lang hàm chứa chất chống ung thư, có thể phòng chống ung thư; thứ năm là phòng chống lão hóa, ngăn chặn xơ cứng động mạch.

Khoai lang hàm chứa đại lượng chất keo protit vì vậy có thể ngăn ngừa các bệnh gan và thận, tăng cường hệ miễn dịch, tiêu trừ các gốc tự do, tránh bệnh ung thư do các gốc tự do gây ra.

Trong khoai lang lại còn chứa khá nhiều calci, magie, vì vậy có thể phòng ngừa chứng xương cốt rời rạc. Từ đó có thể thấy, khoai lang là một báu vật không thể thiếu của người trường thọ.

5. Tàu hũ

Người già thường thích ăn tàu hũ, họ cho rằng: “Ăn cá sinh nóng, thịt sinh đờm, bắp cải, tàu hũ đảm bảo bình an”.

Thành phần chủ yếu của tàu hũ là protein và isoflavone. Tàu hũ có công dụng ích khí, bổ hư, lọc chì trong máu, bảo vệ gan, thúc đẩy chức năng trao đổi chất trong cơ thể.

Thường xuyên ăn tàu hũ có lợi cho sức khoẻ và phát triển trí lực. Người già thường xuyên ăn tàu hũ có tác dụng rất tốt để trị liệu các chứng như xơ cứng mạch máu, xương cốt lỏng lẻo, rời rạc.

6. Cải thảo

Cải thảo là một trong những loại rau củ người già thích ăn nhất. Cải thảo có mùi vị tươi ngon, dinh dưỡng hài hòa, là loại rau tốt nhất trong mùa đông.

Đại sư Tề Bạch Thạch Trung Quốc đã để lại một bức tranh cải thảo rất có ý nghĩa, bức tranh độc luận cải thảo là “vua của các loại rau” và ca ngợi “ trăm loại rau không bằng cải thảo”.

Thường xuyên ăn cải thảo cơ lợi cho việc đánh đuổi bệnh tật, kéo dài tuổi thọ. Cải thảo hàm chứa chất khoáng, vitamin, protein, chất xơ, carotine, ngoài ra còn hàm chứa một loại chất có thể phân giải nitrosamine - một chất gây ra ung thư.

Nhìn từ công dụng dược lý, cải thảo có 7 công dụng lớn: đó là dưỡng dạ dày, nhuận tràng, giải rượu, lợi tiểu, giảm mỡ, thanh nhiệt và chống ung thư.

7. Củ cải

Người già trường thọ mùa đông không rời xa củ cải. Họ nói: “Mùa đông ăn củ cải, mùa hè ăn gừng, 1 năm 4 mùa đảm bảo an khang”.

Củ cải hàm chứa nhiều loại vitamin và khoáng chất, không chứa chất béo, có tác dụng đẩy mạnh trao đổi chất cũ mới, tăng cường cảm giác thèm ăn và giúp tiêu hóa.

Củ cải đích thực là thực phẩm bảo vệ sức khoẻ của người già. Y học Trung Quốc cho rằng, củ cải có thể “hóa giải” và tiêu hóa thực phẩm tích trữ trong dạ dày, trị mất tiếng do ho, đờm gây ra; trị ho ra máu, chảy máu mũi, giải khát, trị kiết lỵ, giảm đau đầu, lợi tiểu...

Nếu ăn sống có thể giải khát, thanh nhiệt, giải đờm, ngăn hen suyễn và trợ giúp tiêu hóa; luộc chín ăn có tác dụng bổ ích, khoẻ tỳ.

“Củ cải và trà” tức là ăn củ cải, sau đó uống trà, có thể tiêu trừ khô nhiệt, bài trừ khí nóng độc tích tụ trong cơ thể, có tác dụng rất tốt để khôi phục thanh khí và tinh thần.

Củ cải nấu với thịt sẽ là ngon nhất nhưng không được ăn cùng với nhân sâm và cam quýt.

8. Cà rốt

Cà rốt hàm chứa nhiều vitamin A, có chứa phong phú chất carotine. Nghiên cứu chỉ rõ, cà rốt có thể cung cấp các thành phần dinh dưỡng cần thiết để phòng ngừa bệnh tim mạch, trúng gió, cao huyết áp và xơ vữa động mạch.

Chất carotine ít bị phá hủy dù ở nhiệt độ cao mà cơ thể lại dễ hấp thụ. Vào cơ thể, carotine sẽ chuyển hóa thành vitamin A, giúp trị các chứng khô mắt và quáng gà do thiếu vitamin A gây nên.

Chất carotine chỉ dễ hấp thu khi có dầu mỡ vì vậy, những người già “trường thọ” có kinh nghiệm thường cắt cà rốt thành miếng nhỏ và xào với dầu mỡ, như thế khả năng bảo tồn của carotine có thể đạt trên 79%. Cà rốt cắt miếng vuông dài rán trong chảo dầu thì chất carotine có thể bảo tồn đến 81%. Cà rốt cắt miếng nấu với thịt, tỉ lệ bảo tồn chất carotine đạt đến 95%.

Cà rốt còn có tác dụng tăng cường trí nhớ. Trước khi đọc sách hay học bài nếu ăn một đĩa cà rốt xào, rất có lợi cho việc tăng cường và củng cố trí nhớ.

Hoàng Chúc st.


DẤU CHẤM THAN !

(chấm cảm, chấm nhểu)

 

Mùa cưới đã về, tuần qua gia đình tôi nhận được 3 tấm thiệp cưới:

Một ở Long Khánh, một ở Tam Hiệp (Biên Hòa) và một ở Sài Gòn.

Nói văn vẻ một chút thì nó là “Chuyện thường ngày ở huyện”(1), nói bình dân như thời bao cấp thì “bình thường như cân đường hộp sữa”(2) nhưng hay ở chỗ tấm thiệp của Long Khánh và Sài Gòn có điểm chung đó là sau chữ Kính mời có dấu chấm than (!) còn tấm thiệp ở Biên Hòa cuối cùng vẫn là chữ “Kính mời” quen thuộc.


Trước giờ tôi chả để ý lắm đến nội dung ghi trong thiệp, chỉ cần xem tiệc được tổ chức ở đâu? Lúc mấy giờ? Để đến cho đúng là được. Chắc quý vị cũng thế, nhưng tình cờ dấu chấm than sau chữ “Kính mời !” đập ngay vào mắt. Đây là lần đầu tiên được thấy như vậy.

· Hỏi thăm các cụ lớn tuổi, các cụ cho rằng trước kia không có như vậy sao bây giờ lại như thế?

· Hỏi các nơi in thiệp cưới, thì được trả lời:

- Thấy người ta in sao mình in vậy.

· Hỏi bác Google về cách dùng dấu chấm than thì dưới đây được chọn là câu trả lời hay nhất trên mạng:

Dấu chấm than đặt cuối câu cầu khiến hoặc câu cảm:

1. Bộc lộ trạng thái cảm xúc :

- Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao!

2. Biểu thị lời hô, lời gọi

- Lan ơi! Ngủ chưa, Lan?

3. Nêu ý đề nghị, yêu cầu, khuyên bảo :

- Dế Choắt, hãy giương mắt ra xem tao trêu con mụ Cốc đây này!

Theo Văn Phạm Việt Nam được giảng dạy trên các lớp phổ thông.

Thán từ là tiếng không có nhiệm vụ văn phạm, dùng để kêu gọi, để bộc lộ tình cảm đột nhiên (buồn, vui, nhớ, tiếc, giận…) hay để làm cho câu nói thêm phần mạnh mẽ, linh hoạt.

- Hỡi các bạn!

- Than ôi!

Tùy nơi ý nghĩa của chúng ta phân biệt:

1. Giao thán từ:

- Thưa các bạn! ta hãy bình tĩnh mà xét (thưa: giao thán từ, thưa các bạn: hô khởi ngữ)

- Anh Giáp! Tôi khuyên anh nghĩ lại (Anh Giáp: hô khởi ngữ)

2. Cảm thán từ:

- À! Ồ! Úi chà! Ô hay! Than ôi! Trời ơi! Khốn nạn! Cực chưa!

3. Ngữ khí thán từ:

- Thưa ông, tôi không biết ạ!

- Anh đừng buồn nhé!

Các ngữ khí thán từ đặt cuối câu để làm cho mạnh mẽ, linh hoạt: a, ạ, vậy, cơ (kia), nào, mà, hẻ, nhé, nhỉ…

4. Hài thanh thán từ:

- Thùng! Thùng! Trống đánh ngũ liên (ca dao)

Bắt chước một âm thanh, không có nhiệm vụ văn phạm

- Lằn mõ làng xưa khua cốc cốc

- Tiếng chuông chùa cũ đánh boong boong

(cốc cốcboong boong có nhiệm vụ văn phạm không dùng thán tự)

(Văn Phạm Việt Nam của Bùi Đức Tịnh NXB Tp. HCM)

Lục tủ sách cũ lấy ra quyển Việt Nam Văn Phạm của Trần Trọng Kim(3) Chương XIII từ trang 134-136 thấy viết như sau:

Tán thán tự

1. Dùng để biểu diễn một cái cảm tình, một sự xúc động rất mạnh đột nhiên mà phát ra thường là tiếng kêu để biểu diễn:

- Sự vui mừng: A! Ô! Ơ!

- Sự ngạc nhiên: Ả! Ủa!

- Sự đau đớn: Ay! Ái! Ái chà!

- Sự kinh hãi hay lo sợ: Cha ơi! Ôi cha ơi! Trời ôi! Ôi trời ôi!

- Sự ngờ hỏi: Hé!

- Sự than vãn: Ô hô! Hỡi ơi! Than ôi! Thay! Vậy thay!

- Sự nhắc nhở lại: À! Ờ!

Những tiếng khác có thể dùng làm tán thán tự:

Kìa! Chết! Chết nỗi! Lạ! Lạ đời! Cực chưa! Khốn khổ! Khốn nạn! Thương hại! Tội nghiệp! Tội nghiệp chưa!

2. Tán thán tự là tiếng đứng lẻ một mình, về đường văn phạm thì không quan hệ gì với tiếng khác. Bởi thế vị trí của nó không nhất định.

- Ái! Đau quá!

- Chết! Ai bảo nó đi?

- Trời ôi! Thế này có khổ không?

- Hỡi ơi! Chỉ vì tham ăn mà bỏ mạng!

- Thương thay! cái gái quạt mồ

Hại thay! cái gái cầm vồ đập săng.

(Ca dao)

Tiếng vậy thay! Bao giờ cũng đi với một tiếng tĩnh tự hay một tiếng động tự và đặt ở cuối câu:

- Kính vậy thay!

- Đáng tiếc vậy thay!

(Việt Nam Văn Phạm của Trần Trọng Kim NXB Tân Việt)

Tóm lại Chấm than ( ! ) bộc lộ cảm tình buồn, vui, nhớ, tiếc, giận… hay dùng để kêu gọi, để làm cho câu nói thêm phần mạnh mẽ, linh hoạt. Gửi gắm đề nghị, mong chờ, khiến sai …

Nếu cứ theo quy luật “đi riết sẽ thành con đường, hay dùng hoài sẽ được ghi vào từ điển” thì sắp tới đây chúng ta sẽ có nhiều chuyện để bàn về chữ nghĩa khi tại Việt Nam chưa có Hàn Lâm Viện nên ai muốn dùng thế nào cũng được.

Và cũng có thể hiểu dấu chấm than sau “Kính mời !” là:

- Rất vui khi quý vị đến chung vui cùng gia đình chúng tôi.

- Đến đúng giờ nhé đừng để ế hàng!

- Sự hiện diện của quý vị là niềm ‘ân hận’ của gia đình chúng tôi !!!

HÀ MẠNH ĐOÀN

(1) Chuyện thường ngày ở huyện của Valentin Ovechkin (Nga)

(2) Sát thủ đầu mưng mủ của NXB Nhã Nam trang 11

HAI BÀ CHÁU

- Bà ơi, từ ngày mai trường cháu nghỉ tết rồi, cháu được ở nhà chơi với bà. Thích quá!

Cặp mắt già nua sáng lên trên khuôn mặt xếp đầy nếp nhăn của bà cụ. Bà ghì chặt lấy đứa cháu nội duy nhất, chúi mái đầu bạc vào cổ nó mà hít lấy hít để cái mùi thịt da non tơ của nó. Nó nhột, cứ cười ré lên từng hồi.

Con bé yêu bà lắm, còn bà cũng yêu cháu như tất cả các người bà khác trên đời. Thế nhưng hai bà cháu ít khi được ở gần nhau. Con bé đi học suốt, từ sáng sớm đến chiều ở trường bán trú. Buổi tối và ngày chủ nhật, nó phải học thêm ngoại ngữ, vi tính, đàn Organ, múa và bơi lội. Nếu mẹ nó không vì xót con còn bé mà quyết liệt phản đối thì bố nó còn bắt học một lớp võ thuật nữa kia. Về đến nhà, con bé mệt nhoài, chỉ thèm ngủ.

Thỉnh thoảng, con bé mới được chơi với bà. Nó thích nghe bà hát ru lắm. Bà học từ bao giờ mà thuộc nhiều câu hát ru hay đến thế? Chẳng khi nào nó nghe được hết kho lời ru đó của bà, vì bà chỉ ru đôi câu là mắt cháu đã díp lại, lơ mơ ngủ mất rồi. Từ mai nghỉ tết ở nhà, nó sẽ được quấn quýt bên bà, nghe bà hát, vòi bà kể chuyện, rủ rê bà cùng chơi những trò chơi thú vị với nó. Sung sướng biết bao!

Thế nhưng sáng hôm sau, con bé vẫn bị mẹ gọi dậy đúng giờ như mọi ngày.

Nó ngúng nguẩy:

- Hôm nay con được nghỉ học mà mẹ.

- Nhưng bố mẹ phải đi làm, không để con ở nhà được. Mẹ gửi con sang với dì Phượng.

- Không, con ở nhà với bà.

- Bà già yếu chậm chạp không trông con được. Ngồi dậy thay quần áo rồi ăn sáng, mau lên!

Mặt con bé nặng chịch, mắt đỏ hoe ngân ngấn nước. Nó dằn dỗi ngồi vào bàn, nhai bữa điểm tâm một cách miễn cưỡng. Rồi cũng như mọi hôm, nó lên xe cùng bố mẹ.

Nhưng ngôi nhà bố nó ghé đến lại khóa cửa im ỉm. Mẹ nó tặc lưỡi ta thán:

- Sáng sớm đã đi đâu thế này? Giờ tính sao đây anh? Hay là dẫn con đi theo?

- Hôm nay đi xa, nó không chịu nổi đâu. Đành để nó ở nhà với bà nội một hôm vậy.

- Thế thì ghé cửa hàng để em mua ít thứ cho con ăn trưa.

Con bé được đưa trở về nhà với một túi lớn nặng chịch thức ăn. Nó sung sướng chạy vào sân, gọi bà ầm ĩ.

Nhảy chân sáo trên năm bậc gạch nối từ sân lên thềm nhà, nó sững lại, trố mắt nhìn ổ khóa to tướng đang nằm bệ vệ trên hai cánh cửa bóng loáng thơm nức mùi sơn mới. Mặt nó xịu xuống. Ô hay, cả bà nội nữa, cũng đi đâu mất rồi?

- Bà ở đây này.

Bà cụ đang ngồi trên băng ghế đá kê sát góc tường, nơi bố nó đặt mấy dãy dài những chậu hoa kiểng, làm thành một khoảnh vườn nho nhỏ. Trông bà thật âm thầm nhỏ bé, giá bà không lên tiếng thì khó ai biết được. Màu áo xanh rêu của bà chìm trong những chậu cây tươi tốt lá hoa.

Con bé mừng rỡ chạy ùa lại, trách:

- Bà ngồi đây mà cũng khóa cửa.

Hai bà cháu ôm chầm nhau. Con bé liến thoắng:

- Hôm nay cháu được ở nhà chơi với bà, bà thích không? Lát nữa bà nhớ kể tiếp chuyện cô Tấm hôm trước đang kể dở nhé. Rồi buổi trưa bà hát ru cháu ngủ, cháu thích nghe bà hát ru lắm.

Bà cụ âu yếm hôn lên trán cháu, đôi mắt mờ đục lấp lánh niềm vui bất ngờ.

Con bé lắc tay bà, giục:

- Bà ngồi đây làm gì thế? Vào nhà đi, bà.

- Bà không có chìa khóa mở cửa, cháu ạ.

- Ô hay, thế nó đâu?

- Bố mẹ cháu giữ.

- Rồi làm sao bà vào nhà?

Bà cụ cười nhẹ:

- Bà có cần vào làm gì đâu?

Con bé trợn mắt nhìn bà. Cái nhìn như lạ lẫm, như nghi ngờ, như sợ hãi một điều gì:

- Thế bà cứ phải ngồi ngoài sân suốt ngày đợi đến tối bố mẹ cháu về hay sao?

- Ừ.

- Rồi trưa bà ăn cơm ở đâu?

Bà cụ chỉ tay cho cháu thấy ở góc nhà để xe của bố nó có cái bàn nhỏ. Trên bàn, ai đã đặt sẵn một gà-mên với chai nước lọc có cái ca nhựa úp bên trên.

Con bé bước lại gần bàn bằng những bước chân rón rén, như sợ sệt. Mắt nó nhìn đăm đắm vào gà-mên như nhìn vật gì bí hiểm lắm. Tính hiếu kỳ của trẻ con thúc giục nó mau mở nắp ra, nhưng khi những ngón tay vừa chạm vào, nó đã rụt lại ngay. Gà-mên lạnh tanh làm nó mất hết can đảm, mất luôn cả tò mò. Nó có thể đoán được bên trong chứa những gì rồi.

Con bé nhìn xuống túi thực phẩm đang xách trên tay. Trong đó, mẹ nó vừa mua phần ăn trưa cho con, có săng-uých, đùi gà quay, giò lụa, bánh ngọt, trái cây và sữa tươi đóng hộp.

Mắt con bé cay cay. Nó buông rơi túi xuống, chạy đến lăn vào vòng tay bà, thổn thức:

- Bà ơi… tại sao lại phải… thế?

Bà cụ vuốt ve mái tóc cháu, nhẹ nhàng bảo:

- À, tại bà già yếu rồi mà kẻ gian bây giờ có nhiều trò lừa đảo lắm, cháu ạ. Thôi nào, nín đi. Có gì mà khóc? Bà không buồn đâu. Bà quen rồi. Thật đấy.

Đúng là bà cụ quen rồi thật. Từ lâu, bà vẫn cả ngày thơ thẩn một mình quanh những chậu cây như thế. Hết bắt sâu, tỉa lá thì uốn cành, xới đất gốc cây. Bà lấy giẻ tỉ mỉ lau chùi những cái chậu cho thật sạch, sáng bóng lên. Rồi bà lò dò ra sau nhà, nơi có một vòi nước, bà sẽ hứng từng ca đi tưới cho suốt lượt. Vừa làm, bà vừa rì rầm nói chuyện với cây, những câu chuyện thiết tha trìu mến. Bà đặt cho mỗi cây một tên riêng như tên người, tùy theo đặc điểm của cây của chậu, thân thương lắm. Nhờ có chúng mà một ngày của bà bớt cô đơn, ngắn đi rất nhiều.

Lúc chán ngồi ở ghế đá rồi thì bà cụ vào nhà xe, lấy ra cái võng treo hai đầu lên hai móc sắt đóng ở hai bức tường đối diện nhau. Nằm đong đưa trên võng cho đỡ mỏi lưng, bà vẫn hướng mắt ra khoảnh vườn. Phần cơm trong gà-mên lắm hôm cứ để nguội khô như thế. Đến chiều, bà sẽ lén đổ vào thùng rác, mà phải thật kín đáo để khỏi bị ai phát giác ra.

***

Khác với mọi tối, hôm nay con bé không ngủ được, cứ thao thức mãi. Sợ mẹ, nó phải nằm im cố nhắm chặt hai mắt lại. Bố mẹ nó đang loay hoay ở bàn, ghi sổ và tính tiền. Đèn mở sáng choang làm nó càng khó ngủ. Nó hé mắt nhìn trộm bàn tay thoăn thoắt đếm tiền của mẹ.

Hai người vừa làm vừa nói chuyện:

- Ăn tết xong, gọi thợ lên hai lầu nữa, anh ạ. Năm tới hạp tuổi, xây nhà tốt lắm.

- Anh dự định sửa sang lại phần sân trước, lấy chỗ đặt vài bàn bi-da. Đám cây cảnh dồn hết lên sân thượng.

- Phải đấy. Để những thứ vớ vẩn ấy choán chỗ phí quá.

Con bé giật thót người. Nó bất ngờ ré lên làm bố mẹ nó hoảng hồn, quay phắt lại.

Mẹ nó vội vã chạy đến, hỏi dồn dập:

- Cái gì thế con? Con sao thế?

Con bé khóc òa lên, tức tưởi:

- Mẹ ơi… đừng đem những chậu cây ngoài sân đi đâu cả… Giữ nguyên đấy, mẹ nhé…

Con bé không biết diễn tả làm sao cho mẹ nó hiểu, những chậu cây cảnh kia mà mẹ nó vừa bảo là vớ vẩn, lại gắn bó và cần thiết cho bà nội như thế nào.

Người mẹ vỗ về:

- Tưởng gì. Thôi ngủ đi con, khuya rồi đấy. Ngoan rồi mai mẹ dẫn đi sắm tết.

Quay lại bàn, mẹ nó hỏi tiếp câu chuyện dang dở:

- Anh có định phá bỏ cái nhà để xe không?

- Có chứ. Dĩ nhiên rồi. Phá đi mới có chỗ đặt bàn bi-da.

Bây giờ thì con bé nín khóc. Nó ngồi bật dậy, tỉnh táo nhìn từ bố sang mẹ. Một cảm giác kỳ lạ vừa như giận dỗi vừa như tủi thân giúp nó dạn dĩ lên. Nó bảo:

- Bố mẹ có phá cái nhà xe cũ thì nhớ xây lại cái khác lớn hơn cho con đấy.

Cả bố lẫn mẹ cùng ngạc nhiên quay lại:

- Để làm gì thế con?

- Để khi bố mẹ già rồi, còn có chỗ treo hai cái võng nằm đợi con. Như bà nội bây giờ ấy.

Nói xong, con bé nằm lăn xuống giường, úp mặt vào gối.

Bố mẹ nó ngồi chết lặng, ngó sững nhau.

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)


THẰNG NHÓC

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

BIỆT DANH

Một hôm, ông Viện Trưởng của một trường đại học miền nam, bạn thân của cha tôi, gởi đến một lá thơ nói rằng, nếu cha tôi cần một học bổng ngoại trú cho con cái, thì người ta có thể cung cấp cho một suất…

Ông Eyssette mới nói:

- Cái học bổng nầy để dành cho bé Daniel.

Mẹ tôi liền hỏi:

- Thế thì còn thằng Jacques?

- Ờ, còn thằng Jacques thì để tôi giữ lại. Nó rất có ích cho tôi. Hơn nữa, tôi xem nó có cái khiếu làm thương mãi. Chúng ta sẽ đào tạo nó thành một thương gia.

Thật tình, tôi không biết ông Eyssette làm cách nào để nhận xét được, là anh Jacques có cái khiếu làm thương mãi. Vào lúc đó, anh chàng tội nghiệp nầy chỉ có cái khiếu chảy nước mắt mà thôi, và cũng không có ai buồn hỏi đến ý kiến của anh ta làm gì.

Đến ngày nhập học, điều gây ấn tượng đầu tiên cho tôi, là chỉ có tôi mặc cái áo blouse (loại áo rộng mà dài như áo y tá vậy). Ở thành phố Lyon, con nhà giàu không mặc áo blouse. Cái áo blouse là để cho con nhà nghèo đường phố. Còn tôi thì lại mặc một cái áo blouse cũ sọc vuông. Khi vào lớp, tôi bị lũ học trò chế nhạo:

- Ê ! Coi kìa, nó mặc áo blouse.

Ông Thầy Giáo, có lẽ đã đoán được sự khó khăn về đời sống đã bắt buộc tôi phải ăn mặc như vậy, nên ông chỉ nhăn mặt… Còn về ông Giám Thị, tôi không hiểu tại sao, ông ta ghét tôi ngay từ dạo đầu. Không bao giờ ông ta gọi tên tôi, mà chỉ luôn luôn bảo: “Ê, thằng Nhóc kia”, mặc dầu có cả chục lần, tôi nói với ông, tên tôi là Daniel Eyssette. Rốt cuộc rồi, bạn bè cũng đều gọi tôi là: “Thằng Nhóc”, và nó thành hẳn biệt danh của tôi. Ôi! Cái áo blouse khốn kiếp.

Không chỉ có cái áo blouse mới phân biệt tôi với đám trẻ khác, mà còn về dụng cụ học tập nữa. Những đứa trẻ khác đều có cái cặp đẹp màu vàng bằng da, bình mực bằng gỗ hương thơm tho, tập vở bìa cứng, với những cuốn sách mới tinh, có những chú thích ở bên dưới. Còn tôi, thì chỉ có những cuốn sách cũ mèm, hôi mùi mốc meo, được mua ở ngoài lề đường phố; cái bìa thì rách tả tơi, đôi khi lại thiếu trang.

Anh Jacques phải cố gắng hết sức để khâu đóng lại, thay thế bằng cái bìa thô khác với keo hồ. Anh luôn luôn dùng rất nhiều keo hồ, cho nên sách vở đã cũ, càng không được thơm tho gì. Cái nhu cầu phết dán, và tạo bìa đã trở thành một cái tật bệnh, cũng như cái nhu cầu chảy nước mắt vậy. Ở trước lò sưởi, luôn luôn có hàng tá hũ keo hồ, để lúc nào rảnh là anh dán phết, khâu vá… Thì giờ còn lại, anh mang hàng ra phố, viết lách, đi mua thức ăn, và làm thương mại.

Còn về phần tôi, thì tôi vẫn hiểu rằng; một khi người ta bị gọi là “Thằng Nhóc” thì người ta phải cố gắng học hành gấp đôi những đứa trẻ khác, để tạo ra sự quân bình, và với niềm tin Thằng Nhóc làm việc bằng tất cả tấm lòng can đảm.

Thằng Nhóc dũng cảm thật, tôi còn nhìn thấy nó ở trong một căn phòng giữa mùa đông mà không có lửa để sưởi ấm, nó ngồi vào bàn làm việc, hai chân bọc trong vải mền. Ở ngoài trời, gió tuyết đang tạt rào rạc vào cửa kính…

Trong cửa hàng, người ta nghe ông Eyssette đọc:

- Tôi đã nhận được lá thơ của quý ông đề ngày: 08…”

Và tiếng của anh Jacques lập lại:

- Tôi đã nhận được lá thơ của quý ông đề ngày: 08…”

Thỉnh thoảng cánh cửa phòng nhẹ nhàng mở ra. Đó là lúc mẹ của chúng tôi bước vào. Bà nhẹ nhàng đến gần Thằng Nhóc trên ngón chân: “Suỵt”.

Bà nhỏ nhẹ hỏi:

- Mầy làm bài à?

- Vâng, mẹ ạ.

- Mầy không lạnh sao?

- Ô, không đâu.

Thằng Nhóc nói dối, trái lại nó đang lạnh lắm.

Rồi bà Eyssette ngồi xuống gần nó, với cái áo len đan dở dang trong tay, và ngồi ở đó hàng giờ để đếm lầm thầm từng mũi chỉ. Chốc lát, lại thở dài.

Tội nghiệp thay cho mẹ tôi, bà luôn luôn nhớ về quê hương, mà không bao giờ còn hy vọng trở lại được nữa.

(Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật

ƠI MÙA ĐÔNG

ĐÀM LAN

Trời hôm nay không có nắng. Cũng không phải là một ngày đầy mây, không đen ngòm những vạt nước đang chực bao trùm vạn vật trong cơn bủa giăng thỏa thích, để rồi sau những xối xả ấy sẽ lại hiện ra một gương mặt như mới rửa của vòm trời, sáng trong, xanh ngắt, và mặt đất như vừa được tắm gội, bửng lên một ngút ngát màu xanh, một thênh thang tươi tắn, mở ra trong mắt người rờ rỡ những sinh sôi. Mà trời không nắng hôm nay còn kèm theo những cơn gió lạ, khi thì thoang thoảng phớt qua, nhưng tinh nghịch lẩn vào trong nếp áo, để bỗng người phải co tay ôm lấy bờ vai trong khe khẽ tiếng rên bật khỏi đầu môi, khi thì thốc tháo như một đạo quân hùng mạnh đang truy đuổi những kẻ phản đồ, hồng hộc lùa qua những mảnh tôn ọp ẹp, khiến chúng phải thét lên những tiếng kêu sợ hãi, thốc tung những gì đang ngáng trên con đường chúng qua, cây cối cúi rạp mình, lá hoa rụng tơi tả, những hạt bụi yếu ớt tung lên, bập xuống trong bàn tay thô bạo, cuồng nộ của từng con gió. Những manh áo ấm đã đến lúc vươn vai trở mình thức dậy sau một giấc ngủ dài, để trân mình thách thức những con gió đông ngang tàng bướng bỉnh, để mở rộng lòng che chở cho những tấm thân yếu đuối, nép mình vào hơi ấm của từng sợi bông, len. Những bếp lửa hừng lên vào mỗi cuối chiều như rạng rỡ ánh reo vui vì sự trông chờ vào sức mạnh muôn thuở của nó trong bao người, những làn hơi nghi ngút trên những nồi xoong chén dĩa khiến cho những tiếng suýt xoa trong hơi thở gần nhau hơn.

Là cái buổi tàn thu, những chiếc lá vàng lặng lẽ rời cành, khi đã xanh hết mình cho những ngọt thơm của hoa của trái, là những thân cành khẳng khiu, gầy guộc căng ra những mảng vỏ sần ôm ấp những mầm xanh bé bỏng, âm thầm chờ phút hồi sinh. Là mùa đông đã đến, những giá buốt cứ len vào, len vào, thấm đến tận xương tủy, se sắt từng tế bào da, bờ môi cong nứt nẻ, những ngón tay tê buốt, co ro. Chiều nhợt nhạt, buông chìm giữa mênh mênh sương trắng, tái ngắt gió mùa.

Vâng. Quả thực mùa đông đã về rồi, bất chấp con người có hay không những đón đợi. Mùa đông này, với tôi sẽ giá lạnh gấp nhiều lần những mùa đông trước. Bởi không còn một cái tên để gọi, không còn một bóng dáng để mong, không còn những giấc mơ để vịn. Hoang hoải cả một câu chuyện dài, dài thật, dài đến gần một phần tư đời người. Tôi đã đi qua những mùa nắng, những mùa mưa, những ngày đông giá, những tháng hạ nồng. Đi qua một cách dễ dàng, điềm tĩnh, cho dù những ngày tháng ấy cũng chỉ thân mình với bóng mình thôi. Nhưng trong tim luôn là một chút lửa ấm, một manh gió hiền, đủ để trang trải những khi lòng dạ… Tôi không thiết tha những thường tình người ta vẫn có. Chỉ cần đâu đó một phương trời có ánh mắt thi thoảng dõi về tôi, có trái tim nhè nhẹ chút tình tôi, để qua một sợi dây dài mỏng mảnh, có một tiếng cười trầm ấm, có một tiếng nói dịu êm, chỉ thế thôi cũng đủ cho tôi có được niềm vui và hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc thật nhẹ nhàng. Là bởi người còn mang trên vai một lý tưởng để tôn thờ, để phụng sự. Tôi chưa từng manh nha một ý nghĩ sẽ kéo Người về bên tôi, sẽ buộc Người phải chọn lựa giữa sự cao cả và tầm thường. Chẳng cần chi phải thế.

Đâu phải chuyện tình nào cũng cần đến một kết cuộc là hôn nhân thì mới gọi là tròn vẹn. Con người với con người. Trái tim với trái tim. Chỉ cần là một sợi dây vô hình liên kết, thì cho dẫu có xa cách đến tận nơi đâu, cũng như luôn có nhau bên cạnh. Bạn bè tôi cười tôi: “Thời đại ăn nhanh uống vội này mà còn tồn tại một thứ tình thanh cao đến thế được sao? Ảo ảnh hóa một thiên đường trong bạn đấy thôi”. Tôi chỉ cười. Cứ để cho họ hoài nghi, họ không tin là có, nhưng tôi tin là có, bằng chứng là đã rất nhiều thời gian trôi qua rồi mà vẫn lung linh hình bóng trong nhau.

Tôi khước từ rất nhiều cuộc vui ồn ã, rất nhiều những lời tha thiết nỉ non chỉ để về với những lung linh riêng mình ấy, chỉ để mân mê chiếc điện thoại và mong chờ một thứ thanh âm êm đềm, dịu ngọt thấm vào tai. Cũng chẳng nhiều đâu những câu chuyện, rất nhiều khi chỉ vài câu thăm hỏi vu vơ, nhưng đã đầy chật cả lòng cảm xúc yêu thương da diết. Chừng ấy năm là chừng ấy lần gặp. Trung bình, một năm thì nhìn thấy nhau được một lần, đủ để biết Người mập hay ốm, đen hay trắng, thần thái vẫn ung dung hay có điều vương vất. Và rồi lại thầm lặng đem về nơi góc nhỏ riêng mình những hình ảnh thân thương ấy, để nuôi dưỡng, để dỗ dành mình khi mưa rơi, khi gió nổi. Mỗi khi chạm phải màu áo thiêng liêng đâu đó, lại hít một hơi dài chặn lên dào dạt tâm can.

Người vẫn đi, vẫn lênh đênh cuối đất cùng trời, vẫn đem những từ bi an lành đến nơi nơi. Tôi vẫn an nhiên tự tại một góc trời, vẫn thầm cầu nguyện an bình cho những bước chân thư thả, vẫn tin vào một điều khác lạ, vốn khó tin mà lại rất thật giữa đời này. Vậy thôi, tôi không thêu dệt một bức tranh nào người đời vẫn thường mong mỏi, và bởi chính Người cũng chẳng màng cái chuyện sớm hôm. Suốt bấy nhiêu năm, chưa từng một lần chạm nhẹ, trong mắt tôi, Người là một nguời đàn ông tuyệt bích nhất trên đời, càng nhìn thấy những thói thường đàn ông buông thả, tôi lại càng thấy Người thực sự là một vầng sáng, rọi ngời mãi trong tôi. Và tôi cũng hết sức gìn giữ cho Người vẹn câu tâm đức, không muốn mình trở thành một kẻ tội đồ. Tệ lắm, tệ tệ lắm.

Những mưa những nắng qua đi, những đông những hạ qua đi, tôi cứ dần gửi theo thời gian từng mảng xanh suối tóc, từng trơn mượt làn da, chiếc gương soi đã từ lâu lắm rồi vùi trong xó xỉnh nào đấy mà bụi bặm, sắc phấn, màu son cũng đã từ lâu vắng bóng trong hành trang thường ngày. Cái gì là nhan sắc ? Chẳng qua chỉ là chút dáng nét của một thời đoạn mà ai rồi cũng đi qua. Phần lớn phụ nữ chăm sóc sắc vóc mình chẳng qua chỉ để dành cho một người đàn ông của riêng họ. Còn người đàn ông của riêng tôi hẳn chỉ để tâm đến nét đẹp thật sự trong tâm hồn tôi thôi, tôi có chăm chút thì cũng chỉ là tạo những phiền hà, rắc rối cho mình, mà người ở xa cũng đã chắc yên lòng.

Thế rồi khoảng cách của những cuộc điện thọai đã dần dài hơn, đương nhiên là những lý do vô cùng chính đáng, những lý do mà không cần Người phải nói tôi cũng đã tự hiểu. Hai từ “thông cảm” được dùng đến nhiều hơn. Không sao, tôi vẫn luôn thông cảm, vẫn luôn tự hiểu cho những cái khó của Người, Người cứ an tâm mà lo liệu những công việc của mình. Tôi không hề thắc mắc, không hề hoài nghi, nghĩ ngợi gì đâu. Tôi không có những vụn vặt thường tình như những người đồng phái khác, tôi khác họ, khác họ rất nhiều mà, thế nên tôi mới duy trì được một trạng thái tình cảm cân bằng trong suốt một thời gian dài đến thế chứ. Không sao, không sao cả, Người đừng bận tâm lo lắng gì những bề bộn quanh tôi, tôi tự xoay xỏa lo liệu cho mình được hết, có khó khăn gì tôi cũng cố tìm cách để vượt qua, không để Người phải áy náy, ái ngại gì cả. Tôi không hề muốn chất gánh nặng của bản thân mình lên vai Người đâu, Người cứ việc thảnh thơi đi nhé.

Và tôi đã nhìn thấy gì nhỉ? Cảnh tượng ấy cũng bình thường thôi, rất bình thường, nhan nhản chung quanh tôi mỗi ngày, mà cũng chẳng hề lạ lẫm với bất kỳ ai. Có gì đâu, một người phụ nữ bế một đứa bé bụ bẫm, xinh xắn với nụ cười mãn nguyện, hạnh phúc bên một người đàn ông hồng hào, phong thái đạo mạo cùng ánh mắt say đắm nhìn hai mẹ con. Một gia đình đầm ấm, một gia đình hạnh phúc, hạnh phúc một cách rõ ràng, hạnh phúc không một chút ngờ vực. Quả là một cảnh tượng hết sức bình thường. Thế mà sao tôi lại bủn rủn hết cả người, tôi tiêu tán hết sức lực chỉ trong vòng vài giây, người ta bảo tôi trúng gió, sao mà mặt mày tái mét, thân thể lạnh ngắt vầy nè, ai có dầu cho xin miếng. Lẽ ra tôi phải ngã ngất đi luôn chứ nhỉ? Thế mà tôi lại không ngất, lại đủ tỉnh táo để gạt mọi người ra, cho dù chẳng còn mấy hơi tôi cũng cố bảo tôi không sao đâu. Tôi loạng choạng đứng dậy, không còn nhìn thấy cảnh tượng ấy nữa, cứ như là một giấc mơ đột ngột giữa ban ngày.

Tôi không biết mình đã trở về nhà được như thế nào, chỉ biết tôi khô khốc cả mồm miệng cứng ngắc cả chân tay, trong trí não chỉ tồn tại mỗi một câu hỏi “Chiếc áo thiêng liêng kia đã gửi lại chốn thâm nghiêm tự bao giờ vậy?”. Rút cục, con người ta vẫn không bước qua nổi hai chữ “thường tình”. Tôi đã biến thành một kẻ dại nghệch, dại đến nỗi một đứa trẻ con cũng phải toét miệng cười. Tôi đã khoác lên Người những tô vẽ của lòng tôi, từ đó phản chiếu lại trong tôi những điều không có thật. Hơn bốn mươi tuổi đầu, tôi mới nhận ra tôi ngây ngô, ngờ nghệch đến tội nghiệp. Tôi phải làm gì đây? Lẽ ra tôi phải khóc chứ nhỉ? Khóc thật to, khóc thật lâu, khóc cho trút xả hết những gì đang chất ngất trong trái tim quá nhỏ bé của tôi, nhưng thế được thì đã tốt. Mắt tôi cứ thô lố, ráo hoảnh, hệ cảm xúc trong tôi như biến thành một thân cành khô khốc giữa mùa đông không còn nhựa sống.

Chiến điện thoại rung lên với một hàng số. Tôi đắng ngắt cả lòng, chằm chằm nhìn nó như mới thấy lần đầu, những ngón tay đờ dại quên cả những thao tác thông thường. Cuối cùng thì làn sóng thanh âm quen thuộc cũng vọng được vào tai, nhưng có một dòng thác trên cao đổ ào xuống, lôi tuột nó đi. Tôi cố gắng, cố gắng gìm độ rung của tay cầm điện thoại, cố gắng để giữ rịt trong lòng những từ ngữ, và cuối cùng cũng cố gắng để nói được một câu “Cảm ơn vì đã quan tâm. Chúc hạnh phúc”. Nhắm mắt và cố nuốt một cái gì chận ngang cổ, tôi bấm xóa đi hàng số, hàng số đã chiếm một vị trí trong suốt một phần tư đời người, nó biến mất ngay trong nháy mắt. Thật là đơn giản, thật là nhanh gọn, giá như những chiếm giữ trong lòng tôi, trong tim tôi cũng có thể bấm xóa đi như thế nhỉ?

Phơ phất những hạt mưa đông mảnh như sợi tơ vắt vào mặt. Trông nó mỏng mảnh vậy thôi mà sao lại buốt đến tận cùng gan ruột thế nhỉ? Buốt quá. Buốt từ móng chân đến sợi tóc, buốt đến nỗi những mảnh bông len dày dặn cũng không phát huy đủ tác dụng. Xa xa kia, những dáng núi trơ vơ trong chiều quạnh quẽ, những bóng cây hiu hắt trong chập chùng sương trắng một chiều đông. Tôi ngồi đây, đếm những cơn gió đi hoang ngoài khung cửa, đếm hoài, đếm hoài mà không hết. Vì sao thế hở? Mùa đông ơi !!!

ĐÀM LAN

VƯỜN MAI CỔ TÍCH

NGUYỄN THỊ MÂY

G ió hây hẩy, nắng hanh vàng, trời trong veo, vời vợi. Mùa xuân về mơn man vùng đất bạc màu, đánh thức cỏ cây đâm chồi, nẩy lộc. Hoa lá nhẫy nhượt, xanh um. Duy chỉ mấy gốc mai già trong sân nhà Uyển chìa ra những nhánh lá vàng úa, rách lỗ chỗ.

Uyển chớp chớp đôi mắt to đen lay láy, lắc lắc đầu, hai bím tóc thắt nơ tím chao nghiêng trên vai. Uyển bảo chỉ thích hoa anh đào. Hoa mai không có gì lạ. Màu vàng chẳng gợi cảm bằng màu hồng phơn phớt tím. Tôi nhún vai, không có ý kiến. Đối với tôi, hoa nào cũng đẹp. Mỗi loại có một vẻ riêng biệt và mang ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng đúng lúc, đúng chỗ, hoa tức khắc sáng giá, trang trọng, tuyệt vời! Ngược lại, hoa trở thành điềm gở hoặc một cách tỏ bày thiếu tế nhị, phản tác dụng ngay.

Uyển mơ màng nhìn khoảng trời biêng biếc. Một bóng mây thoáng qua, rơi xuống đáy mắt. Lẽ ra, Uyển phải là thi sĩ chứ không phải là cô giáo. Mơ mộng, lãng mạn là tính cách độc đáo ở Uyển. Hai chúng tôi có nhiều điểm không hợp nhau. Tôi nhìn đời trần trụi, với ánh mắt gai góc, thích tách bạch mọi chuyện và phơi bày sự thật phũ phàng. Tôi thích chẻ vụn nỗi buồn rồi giẫm nát.

Còn Uyển, Uyển nối kết lẫn lộn vui buồn vào nhau, bện thành một chiếc cầu vồng mỏng mảnh, phất ngang đỉnh trời để ngắm nghía thở than hoặc vui sướng. Uyển thích nhả cảm xúc riêng tư thành thơ lên trang giấy, gởi đăng báo, phổ biến suy nghĩ. Không như tôi, chôn chặt mơ ước tận đáy lòng và thích trêu cợt Uyển. Chúng tôi bất đồng ý kiến luôn, cãi vã liên miên nhưng vẫn tìm tới nhau, chú ý nhau.

Hôm nay, Uyển rủ tôi vặt lá mai. Mẹ Uyển tính rồi, thời điểm này thích hợp nhất cho cây thay lá, trổ hoa đúng vào ngày tết. Uyển nhón hai ngón tay nhỏ xinh, kéo nhẹ. Chiếc lá từ tốn rời cành, được thả bay là là xuống đất.

Tôi cười, bảo:

- Làm như Uyển ba ngày chưa xong. Xem anh nè! Tiểu thư!

Tôi đưa cả hai bàn tay lên, chộp lấy nhánh lá giật mạnh. Cả chục chiếc rời cành. Uyển cười bảo: “Ác lắm!”. Tôi ra lệnh:

- Uyển vào lấy sọt rác cho anh đựng lá mai!

Cô gái lắc đầu:

- Anh cứ ném chúng xuống đất, chút nữa em sẽ quét. Ôi, mùa đông tàn, em lại quét lá mai. Tuyệt quá!

Vất nhúm lá xuống đất, tôi cằn nhằn:

- Thật là mệt! Vẽ chuyện. Chỉ tổ mất công. Mơ mơ màng màng như Uyển chỉ có mà thua thiệt.

Tôi vội nín bặt. Lỡ lời rồi! Đúng là Uyển luôn thua thiệt. Chúng tôi dạy chung trường, Uyển sẵn lòng nhận lớp cuối cấp, khó dạy. Còn tôi và bao người khác giành lấy phần nhẹ nhàng. Ai cũng thương và nể phục Uyển. Song họ đều tự bào chữa: “Có khối người ra đó, tội gì! Khả năng như mình làm sao sánh kịp!”

Hai hàng mai trụi lá. Thoạt nhìn tưởng như cây đã chết, khoe mấy nhánh khô. Uyển chỉ cây mai be bé khuất nơi góc vườn:

- Đây là cây mai ba trồng lúc mẹ sinh ra em đó!

Ở đây, mỗi cây mai được vun trồng khi trong nhà có thêm mầm sống. Uyển kể, khi bà sinh cậu Hai, ông ngoại trồng cây mai tứ quý đầu tiên trong vườn. Rồi cậu Ba, cậu Tư, cậu Năm và mẹ Uyển. Số mai cứ tăng dần. Nhưng chiến tranh đã bứt rời những người thân trong nhà Uyển, ném mỗi người cậu đến một chiến trường xa tít tắp. Và, họ đã nằm lại vĩnh viễn ở đó. Bà ngoại Uyển dở sống, dở chết. Hòa bình, bà đi tìm mãi nhưng chẳng thấy được hài cốt bốn người con trai. Trở về, bà biến vườn mai thành dấu tích liệt sĩ. Mỗi cây mang tên một địa danh, nơi các cậu hy sinh: Mai Trường Sơn, Mai Mỹ Lợi, Mai Tầm Vu và Mai An Bình. Mùa xuân về nước mắt bà rơi nhiều hơn những cánh mai rụng. Mỗi Iần ngắt lá mai lúc tàn đông, bà khóc. Mẹ Uyển xót cả ruột. Gần đến tết là giao việc cho Uyển. Uyển bảo không có tôi cùng làm, Uyển cũng khóc. Uyển nhớ các cậu dù cho khi Uyển chào đời, họ đã yên nghỉ ở tận nơi nào. Di vật chỉ là bốn tấm ảnh đặt xếp hàng trên bàn thờ, sau những chiếc bình hương nghi ngút khói. Tất cả đều trẻ, uy nghiêm và xa cách. Tôi cũng quý họ vì yêu Uyển. Có lần Uyển cho tôi xem con diều giấy có gắn ống sáo của cậu Hai, giấy ngã màu vàng xỉn đầy bụi. Ngày xưa, nó vàng ươm như nắng thu. Hai cái đuôi dài thậm thượt, lắc lư theo điệu sáo diều lơ lửng réo rắc giữa bầu trời xanh thẳm. Đất nước phút chốc bình yên như chưa từng biết tới chiến tranh và mất mát. Uyển là một cô gái giàu tưởng tượng. Nhưng tôi vẫn tin những điều Uyển kể về những ngày thơ ấu của cậu Hai.

Ngược lại, cậu Ba thích những trò chơi dưới đất. Bắn bi! Uyển và tôi thường ngắm những viên bi to nhỏ đủ cỡ, nhiều màu sắc sặc sỡ. Chúng được giữ kỹ trong một chiếc hộp thiếc xinh xắn. Có đến hàng trăm viên. Vậy mà một lần Uyển lỡ đánh rơi, vỡ vụn một viên. Cả nhà ngơ ngẩn tiếc. Uyển cứ len lén lau nước mắt bảo là làm vỡ dần kỷ niệm của cậu.

Cậu Tư của Uyển chỉ để lại vài quyển vở chi chít chữ. Ngày xưa, cậu học giỏi nhất lớp. Tôi và Uyển thường phê bình thầy giáo ngày xưa dạy giỏi nhưng nghiêm khắc quá. Chữ bay bướm, trình bày sạch đẹp thế kia mà điểm số ít khi đạt tối đa. Điểm mười thầy quý như báu vật, ít chịu ban phát. Có lẽ vì nghĩ vậy, Uyển thường vẽ những con số mười đỏ au, to tướng trong vở học sinh. Điều này, tôi và Uyển hợp nhau. Chúng tôi đua nhau ra phiếu điểm mười.

Uyển yêu cậu Năm nhất. Hai cậu cháu giống nhau lắm. Nếu khuôn mặt cậu trong ảnh có thêm mái tóc dài, thắt bím, buộc nơ tím thì tôi sẽ lầm là Uyển. Tính tình cũng hợp. Cậu Năm yêu thơ. Cậu để lại một quyển tập dầy, trong đó chép toàn thơ Nguyễn Bính và một số bài cậu tự làm. Lời thơ của cậu không xuất sắc nhưng gợi cảm, man mác buồn. Uyển thuộc lòng tất cả nhưng thỉnh thoảng mang tập thơ ra ngâm nga rồi khóc. Nếu gom tất cả những giọt nước mắt trong gia đình đem rưới xuống sông, lập tức nước sẽ mặn như nước biển. Riêng Uyển đã là một hồ nước mắt mênh mông.

Uyển vừa quét lá vừa nói:

- Em không thích hoa mai.

- Vì sao?

- Nó chỉ nhắc nhớ những người đã khuất.

- Và mùa xuân!

- Mùa xuân ở bên ngoài khung cửa nhà em, trong mảnh sân con.

- Lại vớ vẩn!

Bỗng có tiếng lao xao ngoài cổng:

- Cô ơi, cô có ở nhà không?

Một nhóm học sinh tay xách tay mang bánh trái đang nhón chân nhìn vào. Uyển reo lên:

- Ủa, mấy em đó hả, đi đâu đây?

Uyển chạy ra mở cổng. Mấy đứa bé ùa vào vây quanh. Chúng tíu tít như chim:

- Thưa cô, em mới tới! Mẹ em bảo em mang trà bánh sang biếu cô.

- Thưa cô, bà em gửi biếu cô một cặp bánh tét để cúng giao thừa.

Nhưng Uyển lại vồ lấy nhánh đào trên tay một cậu bé đứng lặng yên phía sau các bạn, Uyển xuýt xoa:

- Chao ơi! Hoa anh đào tuyệt quá!

Quay sang tôi, Uyển khoe:

- Anh thấy chưa, em ước gì được nấy!

Uyển vuốt tóc cậu bé:

- Quân tìm được hoa này ở đâu vậy?

Quân cười sung sướng:

- Thưa cô, trong sân nhà em có một cây nhưng…

- Nhưng sao?

- Nhưng sáng nay mẹ em vừa đốn bỏ. Em biết cô thích hoa nên chặt một nhánh đẹp nhất mang biếu cô.

Uyển kêu lên tiếc rẻ:

- Cây đang ra hoa đẹp thế này, sao mẹ em lại nỡ đốn bỏ?

Quân im lặng, cô bé đứng cạnh xen vào đáp thay:

- Em nghe bác ấy bảo hoa bội bạc, để làm chi cho chướng mắt.

- Hoa bội bạc!

Quân giải thích:

Mẹ bảo ngày xưa ba biết mẹ thích hoa anh đào. Ba đã lặn lội tìm mua cho bằng được, đem đến tặng mẹ. bây giờ, ba em ly dị mẹ rồi, mẹ thù luôn hoa Anh Đào là vậy.

Uyển không hỏi thêm gì nữa. Cô quay lưng về phía chúng tôi, len lén lau nước mắt. Tôi rút thuốc ra hút. Vầng khói mỏng vẽ những đường ngoằn ngoèo vô nghĩa trên khoảng không. Cuộc sống quả là đa dạng và phức tạp. Người muốn xóa bỏ kỷ niệm, lãng quên dĩ vãng. Kẻ lại mãi níu kéo, giữ gìn từng di vật, sợ kỷ niệm mờ nhạt. Quá khứ thường thường là đẹp. Nhưng hiện tại lại quyết định giá trị của quá khứ và tương lai.

Mấy đứa học trò ngỡ ngàng, lấm lét nhìn nhau rồi nhìn xuống những gói quà trên tay mình. Quay lại, thoáng thấy, Quyên gượng cười:

- Mang quà cho cô nhiều quá vậy? Cô cảm ơn các em nha. Cô biết lấy gì tặng lại đây?

Cũng cô bé buộc tóc đuôi gà nhanh nhẩu thưa:

- Bao nhiêu đây làm sao sánh bằng công ơn dạy dỗ của cô đối với chúng em.

Tôi bật cười, phất tay:

- Giỏi! Thầy cho em mười điểm!

Cả nhóm cười rộ. Mùa xuân hình như đã quay lại rồi, len lén rải niềm vui quanh đây. Uyển mang cành đào vào nhà, cắm vào độc bình trên bàn thờ các cậu rồi quay ra với cái đĩa nhỏ. Uyển mở một gói bánh ngọt bày lên đó. Lũ học trò xúm quanh nhai bánh giòn tan. Uyển đưa cho tôi một chiếc bích qui có dáng hoa mai. Tôi đùa:

- Các em hãy xem thầy cắn vỡ mai vàng!

Cả nhóm cười rộ. Gió từ đâu bỗng phất qua, mát rượi. Những chiếc lá mai bị lùa bay tản mạn đây đó. Tôi nhìn về phía cây mai Ngự Uyển. Nó đang đưa những cây be bé ra giữa trời như muốn bảo: “Tôi và Ngự Uyển có mặt trên đời nầy cùng một lúc”. Cạnh đó, còn một khoảng đất trống chờ đợi vài dáng mai mọc lên. Tôi nhìn đăm đắm vào đôi mắt đẹp của Uyển, thì thầm như đang tỏ tình:

- Uyển nè, sau này khi vợ anh sinh con đầu lòng, em cho phép anh trồng một cây mai trong vườn nhà này nhé!

Uyển đỏ mặt, cúi xuống. Lũ học trò hồn nhiên bảo: “Chịu đi cô!”.

NGUYỄN THỊ MÂY

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 12.12.2015… ..................................... Vũ Thư Hữu .... 01

Vài chi tiết về cuốn “200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều”

của cố tác giả Lê Xuân Lít ............................................. Vũ Anh Tuấn .... 06

Có tận thế không? .................................................... Lm. Jos. Nguyễn Hữu Triết .... 09

Năm 2016 và câu chuyện về Chánh Pháp ................................... Tâm Nguyện .... 29

Cụ Paulus Huỳnh Tịnh Của

- một người có công lớn với nền quốc ngữ Việt Nam -

một nhà văn, nhà báo tiền phong ....................... Bs. Nguyễn Lân-Đính st. .... 41

Nước ta đã có bao nhiêu quốc hiệu

từ Văn Lang đến Việt Nam .......................... Đào Minh Diệu Xuân st .... 44

Một nhà văn chữ Nôm hơn 400 năm trước đây .................... Đỗ Thiên Thư st .... 46

Chúc Giáng Sinh an lành & năm mới hạnh phúc .............................. Phạm Vũ .... 49

Bài thơ đầu tay của Puskin xuất hiện như thế nào? ...................... Thúy Toàn .... 60

Thơ mở cửa đi vào mùa Xuân ........................................ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 64

Khóc mùa đông (thơ) ...................................................................... Lang Nguyên .... 69

Tớ đã từng (thơ) ................................................................................ Lang Nguyên .... 69

Cảm thức thời gian (thơ) ........................................................................ Đàm Lan .... 70

Xuân nhớ nhung… (thơ) ................................................. Phạm Thị Minh-Hưng .... 71

Yêu Chúa (thơ) ....................................................................................... Lam Trần .... 72

Tình si (thơ) ........................................................................ Nguyễn Thị Ngọc Vân .... 73

Đền Taprohm (thơ) ....................................................................... Võ Kim Cương .... 74

Về miền Bắc (thơ) ....................................................................... Quan Thúy Mai .... 75

Nỗi niềm (thơ) .................................................................................. Ngô Bá Mạnh .... 77

Giã từ (thơ) .......................................................................................... Bs.Doanlinh .... 77

Nguyện cầu (thơ) ................................................................................ Bs.Doanlinh .... 78

Biền biệt chân mây (thơ) ................................................................ Ngàn Phương .... 79

Chưa dám tỏ tình (thơ) ................................................................... Ngàn Phương .... 80

Gặp lại người thơ (thơ) ............................................................................... Hoài Ly ... 81

Qua phố (thơ) .............................................................................................. Hoài Ly .... 82

Mừng lễ Giáng Sinh (thơ) ................................................................. Thanh Châu .... 82

An lạc vời đời (thơ) ........................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 83

Nỗi lo (thơ) .......................................................................................... Lê Minh Chử .... 84

Nén lòng (thơ) ......................................................................................... Lam Trần .... 85

Dẫu biết rằng (thơ) ................................................................................ Lê Nguyên .... 86

Sông Bé chiều vương (thơ) ........................................................................ Vũ Mão .... 87

Sông Bé early in the evening (thơ) ........................................ Vũ Anh Tuấn dịch .... 87

Tiếc thương tuổi mộng (nhạc) ............................................................ Thanh Hòa .... 88

Thêm hương cho rượu (nhạc) .............................................................. Lê Nguyên .... 89

Dựng nêu ăn Tết .................................................................................. Nhựt Thanh .... 90

Đi tìm người tri kỷ .................................................................................. Dương Lêh .... 94

Từ lúc nào, do đâu mà có thành ngữ “Nằm gai nếm mật”

20 năm nuôi chí quật cường

Câu Tiễn đã chuyển bại thành thắng ............. Hoàng Kim Thư st .. 102

12 cảnh đẹp của Quảng Ngãi ................................................. Bùi Đẹp biên soạn .. 106

Hành .......................................................................................................... Lam Trần .. 122

8 món thượng thọ ........................................................................... Hoàng Chúc st .. 126

Dấu chấm than! (chấm cảm, chấm nhểu) .............................. Hà Mạnh Đoàn .. 131

Hai bà cháu ............................................................................... Giáng Ngọc (G.Đ.) .. 135

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ......... Thanh Châu dịch thuật .. 141

Ơi mùa đông ............................................................................................. Đàm Lan .. 144

Vườn mai cổ tích ....................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 150

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế