VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 10/12/2016 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn cổ quý thư mà ông mới có. Lần này cả hai cuốn đều bằng Pháp văn. Cuốn đầu mang tựa đề là Lịch Sử Thủy Sư Đô Đốc Courbet (Histoire de l’Amiral Courbet). Cuốn sách khổ 15x23 phân, dày 413 trang, được in năm 1891 (127 năm trước). Tuy đã trên 100 năm tuổi, nhưng cuốn sách còn mới tới 90% và được đóng bìa thật đẹp, bên trong vẫn giữ nguyên bìa nguyên thủy ở phía trước. Vì nhớ lại trong thời niên thiếu, khi còn sinh sống ở Hải Phòng trước năm 1954, có thấy và đi qua phố Amiral Courbet nhiều lần, rồi tới khi vào Nam thì lại cũng gặp đường Amiral Courbet, nên người viết, khi có cuốn sách, đã bỏ ra trên hai giờ đồng hồ để đọc lướt qua. Nội dung cuốn sách như sau: Cuốn sách dày 413 trang được chia thành 16 chương nhưng chỉ có 3 chương nói tới các hoạt động của viên Thủy Sư Đô Đốc này thoạt tiên ở Nam Kỳ, rồi tới Trung Kỳ và sau lại trở lại Bắc Kỳ, và sách mô tả tất cả các chiến thắng của ông và hải quân của ông ta chống lại quân ta vào thời kỳ đó và chống lại bọn Giặc Cờ Đen. Thủy Sư Đô Đốc Courbet này tên đầy đủ là Amédée-Anatole-Prosper Courbet. Ông sinh năm 1827 và mất năm 1885 vì bệnh dịch tả. Sau khi ông mất thi hài được đưa về Pháp và ông được coi như một anh hùng quân sự của Pháp. Ba chương 11 tới 13 trong cuốn sách mô tả các chiến công hiển hách của ông ta như việc chiếm thành Thuận An, đưa đến việc ký Hiệp Ước hòa bình ở Huế, và những chiến thắng khác đối với quân ta và Giặc Cờ Đen. Cuốn sách rất hấp dẫn ở chỗ nó còn rất đẹp và được đóng thật đẹp tuy đã 127 tuổi đời và cũng cung cấp được một vài chi tiết lịch sử trong thời Pháp thuộc. Cuốn thứ nhì được giới thiệu thì cổ hơn nhiều vì được in năm 1844 (172 năm trước) . Cuốn sách mang tựa đề là Cuộc Đời Đức Cha Borie, Khâm Sứ Giáo Hoàng Miền Tây Xứ Bắc Kỳ (Vie de Mgr Borie Vicaire Apostolique du Tong-King Occidental) là một vị Giám Mục tử vì đạo (martyr) bị giết trong cuộc cấm đạo bắt đầu ngày 03 tháng 01 năm 1833 dưới triều Minh Mạng. Cuốn sách khổ 11x17 phân, dày 252 trang, còn nguyên bìa bằng da nguyên thủy, gáy mạ vàng và 3 cạnh có những chấm mực màu xanh cực đẹp, trong khi các trang bên trong thì thật kỳ diệu, tuy 172 năm đã trôi qua mà giấy vẫn c ò n trắng nguyên và chữ thì thực rõ.
Cuốn sách là cả một kho tài liệu về việc rao giảng đạo Thiên Chúa ở Bắc Kỳ cho những nhà nghiên cứu về đề tài này. Còn đối với người viết thì cuốn sách thật đáng quý vì tuổi tác trên một thế kỷ rưỡi của nó, vì tình trạng đáng trân quý của nó sau 172 năm, và sau cùng là một điểm rất đặc biệt chứng tỏ cho người đời nay biết là trên một thế kỷ rưỡi trước cũng có chuyện đồ giả, đồ dổm y như trong những ngày chúng ta đang sống vậy, chỉ khác là lúc đó chắc chỉ có độ 20, 30%, trong khi bây giờ thì ít ra cũng phải trên 70%: đó là một trang nguyên ngay nơi đầu sách mang chữ ký của nhà xuất bản ở trên có hàng chữ “Tất cả những cuốn không mang chữ ký này là sách giả”… Ôi thật là vui, hóa ra con người lúc nào cũng biết làm giả, chỉ có điều là người lúc trước biết làm giả ít, người đương thời giỏi hơn gấp bội mà thôi! Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu hai quý thư xong, Lm. Triết cũng lên giới thiệu với các thành viên cuốn Tự Điển Công Giáo mới được in năm 2016 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin - Ban Từ Vựng Công Giáo cho ấn hành. Cuốn Tự Điển khổ 18x24 phân, dày 1218 trang là cả một kho tư liệu tuyệt vời về Đạo Công Giáo, lần đầu tiên được in và phổ biến bằng tiếng Việt yêu quý của chúng ta. Sau phần giới thiệu cả hai cuốn sách cổ và cuốn Tự Điển đều được các thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.
Sau phần giới thiệu sách, anh Nhựt Thanh lên nói và góp ý về 108 cuốn sách văn học nổi tiếng thế giới được nói tới trong Bản Tin tháng trước (số 126). Tiếp lời anh Nhựt Thanh, cô Ái Liên lên nói về vấn đề tập thở để trường sinh bất lão. Cô Ái Liên nói xong, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom của anh, lên hát tặng các thành viên bài “Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi!”. Sau anh Thanh Châu, anh Bá Mạnh lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Nhớ Quảng Ngãi” của chính anh sáng tác. Tiếp lời anh Bá Mạnh, anh Phạm Vũ lên nói về nhạc sĩ Cung Tiến, một trong những nhạc sĩ tài hoa nhất của Việt Nam. Sau anh Phạm Vũ, thành viên Thùy Hương lên ngâm bài thơ “Hoài Niệm” mà cô viết để nhớ xứ Huế của cô. Cô Thùy Hương ngâm xong bài thơ, anh Chử đăng đàn hát thơ tặng các thành viên bài “Em đến rồi đấy ư” do chính anh sáng tác. Anh Chử hát thơ xong, cô Tuyết lên hát tặng các thành viên bài “Hương Xưa” của Cung Tiến mà anh Phạm Vũ vừa nói đến mà không có ai hát minh họa. Cô Tuyết hát xong, cô Nguyên, một thành viên CLB thơ Tr ả ng B à ng, và là một khách mời, lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Những ngày thơ ấu”. Cô Nguyên ngâm xong, anh Lê Nguyên cũng lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ liên quan tới ngày sinh nhật của anh nhan đề là “Như hoa tứ quý sắc mai”, và sau khi ngâm xong, anh dịch và đọc bài thơ ra tiếng Pháp. Tiếp lời anh Lê Nguyên, thành viên Hoài Ly lên ngâm bài thơ “Mùa Xuân đến”. Hoài Ly ngâm thơ xong, cô Ái Liên lên giới thiệu một Đông Y sĩ chữa mắt bằng Đông y rất hay ở Quận 12. Sau đó cô Ái Liên đã hướng dẫn các thành viên tập thở bụng để chống lại bá bệnh trong gần 30 phút, và buổi họp kết thúc thật vui vào lúc 11g30 cùng ngày. VŨ THƯ HỮU
VÀI DÒNG VỀ CUỐN “Xứ Bắc kỳ, phong cảnh và cảm tưởng” (Tonkin Paysages et Impressions) của nữ tác giả Hilda Arnold Đây là một cuốn sách tôi có từ lâu nhưng vì chỉ là một bản photocopie nên tôi không quan tâm lắm, và để lẫn vào một chồng báo cũ. Ba hôm trước, trong lúc soạn lại sách vở nơi một góc phòng, tôi gặp lại cuốn này, và đã để ra hai giờ đọc lướt qua thì mới thấy cuốn sách rất hay, nên viết mấy hàng về… nàng! Cuốn sách khổ 14x20, dày 252 trang được in năm 1944 (82 năm trước) ở Hải Phòng, quê tôi, và được viết bởi nữ tác giả Hilda Arnold, một tác giả thời Thuộc Địa hay còn được gọi là thời Đông Dương. Tôi có lưu ý tìm kiếm trong các tự điển văn học của Pháp mà tôi có tới 3 bộ ở trong nhà, nhưng tuyệt đối không tìm được một thông tin nào về nữ tác giả này. Đây không phải là một trường hợp đặc biệt hay ngoại lệ nào, vì đơn giản là tất cả các tác giả thời Thuộc Địa hay thời Đông Dương, kể cả các tác giả hàng đầu như Lm. Léopold Cadière, Abel des Michels, Jean Marquet v.v… đều không được nói tới trong các tự điển văn học Pháp ngay lúc này. Cuốn này được tôi bỗng nhiên rất yêu thích sau khi đọc lướt qua vì một lý do khá đặc biệt là nó được minh họa bởi danh họa Mạnh Quỳnh, một danh họa minh họa mà tôi rất yêu thích. Cuốn sách dày 252 trang được viết về năm đề tài sau đây: Phong cảnh - Cảm tưởng - Phong tục - Lễ Hội - Chùa chiền. Với đề tài đầu tiên viết về phong cảnh, tác giả đã viết một cách rất dễ thương về cảnh đồng quê, về mưa phùn, về lễ Phục Sinh ở Bắc kỳ, về mùa mưa, về lũ lụt, về mùa thu, mùa hạ, về hoàng hôn, về buổi chiều, về chuyện say sưa nơi phố thị, về Hồ Hoàn Kiếm và về đồng ruộng.
Với đề tài thứ nhì, tác giả đã trình bày những cảm tưởng của mình qua các bài viết mang các tiểu tựa như: Lý do là vì muỗi - Những chuyến du ngoạn đẹp và thích thú nhất - Một giấc mơ - Người bán phở - Bài ca đôi guốc gỗ - Nước vối! Nước vối - Điệp khúc của mùa Hè - Những nghề nho nhỏ - Trên đường phố - Những anh thầy bói - Đến Ngân Hàng - Quán ăn và quán cà phê - Những bông sen - Những anh nghiện á phiện - Buổi chiều ngày Tết trong một quán ăn của người Hoa.
Với đề tài thứ ba về phong tục, tác giả đã viết về Ẩm thực Pháp và ẩm thực An Nam - về Nhà ở Bắc kỳ - và về Lịch sử và nguồn gốc hạt gạo. Với đề tài thứ tư nói về Lễ Hội, tác giả đã viết về những ngày trước Tết - về những ngày sau Tết - về lễ Trung Nguyên - và về Tết Trung Thu.
Với đề tài thứ năm và là đề tài chót nói về Chùa chiền, tác giả đã viết về Đi Chùa Hương - về một ngôi chùa tứ trụ (phải chăng là Chùa Trầm) - và về Đi thăm Yên-So (phải chăng là Yên Tử). Tóm lại đây là một cuốn sách dễ thương mà một nữ tác giả thời Đông Dương đã viết về Bắc kỳ vào thời đó. Người viết đã không tiếc hai giờ đồng hồ đã bỏ ra để đọc lướt qua và để thưởng lãm gần 20 minh họa cực đẹp của danh họa Mạnh Quỳnh. Trích Hồi ký 60 năm chơi sách. Chương VI VŨ ANH TUẤN CHÀO NĂM 2017 Thế là Bản Tin nhỏ bé của CLB SÁCH XƯA & NAY đã góp mặt được hơn 10 năm. Tính đến số Tân Niên 2017 này thì đã là số thứ 128. Hàng tháng, các thành viên mải mê nắn nót, viết, sửa bài vở để Bản Tin được đến với nhau, và những thân hữu xa gần, quên mất thời gian, giật mình nhìn lại đã thấy bị chồng chất thêm cả 10 tuổi lên đầu! Nhưng cũng phải cảm ơn CLB, vì từ ngày tham gia sinh hoạt, mọi người có thêm việc để mà bận bịu. Đó cũng là hạnh phúc của tuổi già! Dù đa số thành viên đều nhiều tuổi, đã qua thời trẻ trung, năng động, nhưng vẫn bền bỉ, hăng say sáng tác. Trước hết là để thỏa mãn niềm đam mê của mình, nói ra được những điều ấp ủ từ nhiều năm, nhưng chưa có dịp thổ lộ. Họ dùng thơ, văn, tự truyện, truyện ngắn, mượn nhân vật nào đó để ôn lại một thời tuổi trẻ tinh nghịch, phá phách. Nhớ về những nơi thơ mộng nào đó từng đặt chân đến đã mang những dấu ấn không phai trong đời. Hoặc chuỗi ngày thơ ấu êm đềm đầy ắp kỷ niệm bên gia đình thân yêu, để mang lại chút hồi ức ấm áp cho chính bản thân, và cũng là việc làm để kích hoạt cho bộ óc chậm lão hóa. Sau đó cũng là cơ hội để san sẻ, tâm sự với những người yêu mến CLB. Dù chưa từng gặp nhau, nhưng hàng tháng đều chờ đợi để đón nhận, như một món ăn tinh thần mới lạ, để Bản Tin trở thành bạn đồng hành với các thân hữu trong suốt nhiều năm qua. Có bạn ở tận Miền Bắc xa xôi. Có bạn là những chủ trang Web quốc tế cũng nhiệt tình ủng hộ. Một số bạn còn photo ra thêm để biếu cho bạn bè. Đó là những khích lệ để những cây viết không chuyên của các thành viên càng thêm động lực để sáng tác. Có người phản ảnh rằng sở dĩ họ yêu thích Bản Tin, vì trong đó có bài viết đều đặn của hai Tôn Giáo: Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo lúc nào cũng song hành, là hiện tượng chưa từng xảy ra trên các sách báo từ xưa đến nay. Là một trong hai tác giả, tôi xin được tâm sự như sau: Tôi quan niệm rằng Tôn Giáo là một nhu cầu thật sự của con người. Trước hết là vì tín ngưỡng, sau đó là chỗ dựa tinh thần vì thấy mình quá nhỏ bé, bơ vơ, giữa thiên nhiên và dòng đời muôn nẻo, không có chỗ để bám víu. Hơn nữa, người theo Thiên Chúa Giáo thì nương vào “Đấng trọn tốt trọn lành”, là Thượng Đế, người đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, “là đường, là ánh sáng, là sự sống đời đời”, hướng dẫn cho mình đường đi lúc sống, lối về sau khi qua đời thì còn gì tốt hơn nữa. Phần tôi thì tin vào Đạo Phật, nhưng không phải tin và tôn thờ Đức Thích Ca, mà vì tin vào Giáo Pháp của Đạo Phật qua cách giải thích về Nỗi Khổ của kiếp người cũng như cách thức giải quyết. Theo Đức Thích Ca, kiếp sống của con người không dài mà còn phải gánh chịu biết bao nhiêu phiền não. Tất cả những điều đó là do Nghiệp của mỗi người đã gây tạo. Muốn chấm dứt thì phải tự mình thay đổi bằng cách thực hành một số việc theo hướng dẫn. Không ai có thể làm giùm cho ai. Mỗi người phải tự làm bằng cách tự mình cải Ác, hành Thiện. Biết rõ Nhân Quả, để không làm những việc có hại cho chính bản thân mình và người khác. Tất cả chỉ có thế. Phật không phải là Thần Linh, không cứu độ được cho ai, Ngài chỉ là người đã Giải Thát cho mình khỏi phiền não, và mở ra con đường cho người nào muốn bản thân cũng được Giải Thoát thì làm theo. Tu hành không phải để thành ông thánh hay ông Phật quyền phép, cứu độ cho ai, nên không thể cầu xin Phật phù hộ cho được. Muốn tốt hay muốn xấu thì tự hành lấy. Đó là tinh thần TỰ ĐỘ, đòi hỏi người theo phải có một sự Tự Lực mạnh mẽ, và đó mới là những gì Đạo Phật do Đức Thích Ca và Chư Tổ truyền đạt. Nhưng nhiều người truyền đạo hiện nay đã không hiểu hết ý Phật, lời Kinh, mới đọc tới đoạn Phật phương tiện diễn tả về Phật, Bồ Tát và Tây Phương Cực Lạc trang hoàng bằng châu báu đã tin là có thật, vội ngưng hết việc đời, cả ngày chỉ tụng Kinh, Niệm Phật mong mỏi được về đó, rồi phổ biến Đạo Phật bằng cách cổ súy cho chùa to, tượng lớn, đi vào hình thức mà bỏ quên điều cần thiết là tu sửa ngay chính cái Tâm đúng như tinh thần mà Đạo Phật muốn tín đồ hướng tới, không phải là những màu sắc, hình tướng Chùa, Tượng hoành tráng bên ngoài. Do vậy mà tôi thấy mình có trách nhiệm viết ra những điều mình thấy, biết qua thời gian khá dài nghiên cứu kinh Phật. Trước hết là để trả lại cho Đạo Phật những gì thuộc về Đạo Phật đúng theo Chánh Pháp, không bị lai căng bởi ngoại đạo, Thần Quyền. Sau đó là để trả ân Thầy đã đào tạo, và ân Phật đã đưa ra một Giáo Pháp để người tin và hành theo đó được một đời sống hạnh phúc, an vui. Không chỉ có như thế, người Phật Tử còn được dạy biết tri ân và trả ân cuộc đời để tất cả mọi người đều có được cuộc sống tốt đẹp. Ai cũng biết, sở dĩ các Tôn Giáo có mặt ở trần gian là vì muốn giúp ích cho con người. Vì thế, tôi tin rằng bất cứ tôn giáo nào có Giáo Pháp dạy con người sống tốt, biết yêu thương nhau và làm đủ trách nhiệm của một con người đối với cuộc đời thì đều là tôn giáo chân chính. Qua Giới, Điều Luật của Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo thì tôi thấy cả hai gặp nhau rất nhiều điểm: - Bên Thiên Chúa Giáo nói rằng: “Con người là tro bụi rồi sẽ trở về với bụi tro”, thì bên Đạo Phật nói rằng cuộc sống là Vô Thường, cái Thân xác là giả tạm kết hợp bằng Tứ Đại, khi hết duyên, hết nghiệp sẽ trả lại cho Tứ Đại. - Bên Thiên Chúa Giáo dạy: “Làm lành, lánh dữ”, thì bên Đạo Phật dạy: “Cải Ác, hành Thiện”. - Điều Răn thứ Nhất bên Thiên Chúa giáo là “Thảo Kính cha mẹ”, thì bên Đạo Phật có Tứ Ân mà ân đầu tiên là Ân Phụ Mẫu, phải đền đáp, thậm chí còn dạy: “Cha mẹ già trong nhà là Thích Ca, Di Lặc”, để người kính trọng Phật thì phải kính trọng Cha Mẹ như Phật. - Bên Thiên Chúa Giáo nói: “Chúa ở cùng anh chị em” thì bên Phật Giáo nói: “Mỗi người đều có Phật Tánh, tức chủng tử của Phật”. - Bên Thiên Chúa Giáo dạy: “Chớ lấy của người”, thì bên Đạo Phật có Giới “Đạo”, tức không được trộm cắp. - Bên nào cũng cấm Dâm Dục (Tà dâm). - Bên Thiên Chúa Giáo dạy: “Chớ làm chứng dối” thì bên Đạo Phật có Giới Vọng Ngữ. Thiên Chúa Giáo đưa ra 10 Điều Răn Chúa được tóm gọn “Trước kính Chúa, sau phải yêu người như mình”, và Sáu Điều Răn Hội Thánh mà điều đầu tiên là “Thảo Kính cha mẹ” là để tín đồ thực hành. Người không thực hành những điều đó, chỉ ngày ngày khăn đống áo dài đến nhà thờ để ca tụng Chúa hay hàng tháng xưng tội đều đặn, hoặc đơn giản chỉ cần chịu đủ các phép Bí Tích, lúc qua đời nhờ linh mục làm lễ cầu hồn mà chắc chắn là sẽ vào Thiên Đàng được sao? Bên Đạo Phật cũng vậy. Người theo Phật phải Từ, Bi, Hỉ, Xả. Phải cung kính, giúp đỡ mọi người, vì tất cả đều là Phật sẽ thành. Phải kính hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ là Thích Ca, Di Lặc trong nhà. Không được lấn át, xâm phạm người khác. Phải đền Tứ Ân. Như vậy nếu chỉ Quy Y, siêng đi Chùa mà không làm các việc đó, lại ăn ở độc ác với mọi người, hỗn láo với cha mẹ, không nuôi dưỡng họ, chỉ có Tụng Kinh, Niệm Phật mà muốn về Tây Phương Cực Lạc e rằng chẳng có Phật nào đến rước! Điểm khác biệt chỉ là tín đồ bên Thiên Chúa Giáo thì hoàn toàn giao phó mọi việc cho Chúa định đoạt. Sống, chết, vui, buồn gì cũng do Ngài ban cho. Bên Phật Giáo thì mỗi người tự chọn số phận cho mình bằng cách gây tạo Nhân Quả. Phật không có quyền cầm tay ai dắt lên Niết Bàn, hay đày ai xuống Địa Ngục. Do đó, những người cúng kiến, lễ lạy, nhang khói cầu xin thì không phải là người tin Đạo Phật theo đúng Chánh Pháp. Tôi tin rằng nếu cùng đi trên một con đường thì chắc chắn sẽ đến cùng một nơi như nhau, bất kể dùng cách gì? Người hướng dẫn là ai? Sắc phục như thế nào? vì bề trên hẳn nhiều phương tiện, miễn là tất cả cùng đến đích cuối cùng là CHÂN-THIỆN-MỸ. Bởi suy ra, trong cuộc đời dù có rất nhiều Tôn Giáo, đủ thứ tín ngưỡng, nhưng cuối cùng chỉ còn lại là bên THIỆN và bên ÁC mà thôi, và chắc chắn Thượng Đế hay Đấng Sáng Tạo không thể là một Ác Thần được. Vì thế, đi theo hướng Thiện thì dù được dẫn dắt bởi bất cứ Giáo Chủ nào cũng chắc chắn không thể bị đọa Địa Ngục được. Điều đó tôi tin là đúng và cũng phù hợp câu chuyện mà bà cụ tên Trần Thị Sương, ngụ ở Tây Ninh, theo Đạo Cao Đài - người trở về trần gian sau 9 tiếng du hành qua thế giới bên kia kể lại - trong nhiều clip được đăng trên Youtube mà tôi xem cách đây vài năm. Bà nói khá nhiều nhưng tôi chỉ ghi lại vài điểm cần thiết. Theo bà kể, bà hoàn toàn tỉnh táo khi rời thân xác. Thấy mình là một chơn linh bay lên trời xuyên qua nhiều lớp mây. Càng gần dưới trần gian thì mùi bốc lên rất hôi thúi. Càng lên cao thì bầu trời càng sáng. Cảnh vật, nhà cửa xinh đẹp không thể tả nổi. Những vị tu luyện nhiều thì ở những tầng cao hơn, nhà cửa đẹp đẽ hơn. Trước kia bà tin rằng chỉ người theo tôn giáo của mình được siêu thăng mà thôi, không ngờ khi lên cõi đó mới thấy không hề có phân biệt tôn giáo, mà tất cả những người sống thiện đều được đến đó. Họ di chuyển mà không cần đi, muốn nhanh hay chậm tùy ý. Cũng không cần ngôn ngữ, và dù ở rất xa nhau nhưng vẫn hiểu được nhau. Bà Sương tuy nhiều tuổi nhưng nói năng rất mạch lạc. Theo bà, từ lúc gặp Thượng Đế và được nhận luồng ánh sáng từ tay của Ngài chiếu xuống đầu thì bà sáng suốt hẳn, khác hơn lúc trước khi ra khỏi thân xác… Đầu năm kể chút chuyện lạ lạ, không phải để khuyến khích mê tín, mà để chúng ta củng cố thêm niềm tin là những điều tốt đã làm trong cuộc sống sẽ là hành trang theo ta mãi mãi dù có đến kiếp khác. Hầu hết những tôn giáo chân chính đều nói như thế. Nhân đầu năm mới, xin được kính chúc CLB ngày càng phát triển, thêm nhiều người tham gia, nhiều người yêu mến. Các Thành viên luôn dồi dào sức khỏe, tăng phúc, tăng thọ, thêm nhiều năng lượng để có thêm những sáng tác mới. Chúc các thân hữu gần xa phúc thọ khang an, làm ăn phát đạt, và xin dành những lời tốt đẹp nhất để chúc đất nước thêm giàu mạnh, sản sinh thêm nhiều nhân tài để đưa dân tộc tiến lên. Tâm Nguyện (Tháng 12-2016)
THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ “CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG” Bản dịch của L inh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh (Tiếp theo số 127 ) 151. Cần phải chăm sóc các nơi công cộng, các viễn cảnh và những điểm thông báo trong thành phố. Vì chúng ghi trong tâm hồn chúng ta ý nghĩa thuộc về, cảm giác căn cơ và ấn tượng “như trong nhà của mình” ngay giữa thành phố đang ôm trọn và kết hợp chúng ta. Điều quan trọng là những phần khác trong một thành phố được hội nhập trọn vẹn và dân chúng có được một toàn cảnh, thay vì tự đóng kín mình trong một khu phố như một không gian thực sự chia sẻ những người khác. Tất cả sự can thiệp vào mảnh đất thuộc thành phố hay miền quê phải chú ý đến thực tế, những yếu tố khác nhau của địa phương, tạo nên một tổng thể mà dân chúng xem như một hình ảnh phong phú đầy ý nghĩa. Với cách này, những người khác sẽ không còn là kẻ xa lạ và cảm nghiệm là một thành phần của một thứ “chúng tôi” do chính chúng ta cùng nhau xây dựng. Cũng vì lý do đó, trong môi trường thành phố cũng như môi trường đồng quê, phải gìn giữ một vài nơi, tránh cho con người can thiệp vào, làm thay đổi. 152. Việc thiết đặt nơi cư trú là một vấn đề trầm trọng trong nhiều nơi trên thế giới, trong vùng đồng ruộng cũng như ngay giữa các thành phố lớn, chỉ vì quỹ nhà đất cho đô thành chỉ đáp ứng một phần nhỏ cho những người cần thiết. Không những kẻ nghèo mà ngay cả phần đông trong xã hội cũng gặp khó khăn trong vấn đề tìm một ch ỗ trú ngụ riêng cho mình. Việc làm chủ một căn hộ cũng liên hệ rất nhiều đến phẩm giá của con người, cũng như sự phát triển của các gia đình. Đó cũng là một vấn nạn căn bản cho môn sinh thái nhân bản. Nếu như trong một nơi xác định đã có những ngôi nhà được xây thật lộn xộn, việc đầu tiên là thành phố hóa nơi này, nhưng không làm cho dân chúng mất gốc và giải tỏa họ. Nếu như những người nghèo sống trong những vùng ngoại ô dơ bẩn hay trong những xóm nhà nguy hiểm, nếu như người ta muốn giải tỏa, thì “đừng gia tăng đau khổ thêm đau khổ […] nhưng cần phải cung cấp một dự án tương đối và sớm sủa, đưa ra những nơi trú ngụ xứng đáng và tham khảo cho những người có nhu cầu”[118]. Đồng thời sự sáng tạo phải hướng đến việc đưa các phường có vấn đề vào trong thành phố có thể đón nhận được. “Các thành phố tốt đẹp dường nào, có thể giúp vượt qua sự bất mãn bệnh hoạn bằng cách đưa những người khác biệt nhau vào trong một tác nhân phát triển. Thành phố đẹp chừng nào, ngay trong những kiến trúc, có nhiều chỗ ở, tạo liên hệ và việc chấp nhận những người khác”[119]. 153. Phẩm chất cuộc sống trong thành phố liên kết với việc chuyên chở, gây nhức nhối cho thị dân. Trong thành phố, nhiều chiếc ô-tô chỉ dành cho một hay hai người. Điều này làm cho việc giao thông ra nặng nề, mức độ ô nhiễm lại cao, một lượng lớn năng lượng không thể tái chế được sử dụng, và như thế cần có những xa lộ và chỗ đậu xe, ảnh hưởng đến cấu tạo của thành phố. Nhiều nhà chuyên môn đồng ý rằng, phải ưu tiên chú tâm đến phương tiện giao thông công cộng. Nhưng một số người chấp nhận cách khó khăn, nếu không cải thiện các phương tiện giao thông này, vì trong nhiều thành phố do quá đông người, bất tiện hay không được thuận lợi khi phải đi gần hay không được bảo đảm, cũng như hành khách không thân thiện. 154. Việc nhận thức phẩm giá đặc biệt của con người thường nghịch lại với cuộc sống xáo trộn mà con người phải chịu đựng trong thành phố. Nhưng điều này không được làm quên lãng và không chú trọng đến tình trạng bị bỏ rơi mà nhiều người đang sống trong vùng đồng ruộng phải chịu, nơi việc phục vụ cần thiết không đi đến được và cũng là nơi các người lao động bị rơi vào tình trạng nô lệ không có luật lệ và cũng không có một viễn ảnh cho một cuộc sống xứng đáng. 155. Môi sinh học nhân bản đòi buộc một điều căn bản hơn: liên hệ cần thiết của đời sống con người với lề luật luân lý được khắc ghi trong bản chất riêng của mình. Liên hệ này tất yếu để có thể tạo được một môi trường xứng đáng hơn. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI xác quyết: có một môi sinh học nhân bản (Õkologie des Menschen - écologie de l’homme) chỉ vì “con người có một bản chất mà họ phải tôn trọng và họ không thể nào muốn làm gì thì làm theo ý mình”[120]. Theo nghĩa này, người ta phải công nhận rằng, thân xác đặt chúng ta vào một liên hệ trực tiếp với môi trường và với các sinh vật khác. Việc chấp nhận thân xác của mình như là hồng ân của Thiên Chúa, cần thiết phải đón nhận và chấp nhận trọn cả thế giới cũng là hồng ân của Cha và là ngôi nhà chung; trong khi lý luận cho việc làm chủ thân xác dễ dàng trở thành lý luận làm chủ cả thiên nhiên. Phải học hỏi để chấp nhận thân xác của mình, để chăm sóc và tôn trọng những ý nghĩa đa dạng, là sinh thái học nhân bản đích thực. Cũng như việc đánh giá thân xác mình là nam hay nữ cũng cần thiết, để có thể nhận ra chính mình trong việc gặp gỡ với người khác mình. Với cách này, có thể vui mừng đón nhận hồng ân đặc biệt của kẻ khác là đàn ông hay đàn bà, là công trình của Thiên Chúa, và giúp làm phong phú cho nhau. Vì thế, thái độ cho rằng “phải xóa đi sự khác biệt giữa tính dục, vì không còn biết xử lý như thế nào” thái độ đó không lành mạnh”[121]. IV. NGUYÊN TẮC CÔNG ÍCH 156. Môi sinh học nhân bản không thể tách rời với ý niệm công ích, một nguyên tắc giữ vai trò trung tâm và kết hợp trong đạo đức xã hội. Đó là “toàn bộ các điều kiện cho một cuộc sống xã hội, cho từng nhóm cũng như cho từng cá nhân, có thể đạt được cách dễ dàng sự toàn thiện trọn vẹn”[122]. 157. Công ích xuất phát từ sự tôn trọng con người như là điều xuất phát từ các lề luật nền tảng và bất biến, nhằm vào sự phát triển toàn diện. Công ích cũng đòi hỏi thiện ích xã hội và sự phát triển những nhóm khác biệt trung gian, dựa theo nguyên tắc bổ trợ. Giữa những người này, gia đình là tế bào gốc cho xã hội. Cuối cùng, thiện ích đòi buộc sự hòa bình xã hội, có nghĩa là sự bền vững và đảm bảo cho một trật tự xác định, không thể thực hiện được, nếu không có sự chú tâm đặc biệt đến công bình phân phối, mà việc vi phạm luật này sẽ luôn tạo nên bạo lực. Toàn thể xã hội - trong đó một cách đặc biệt là thành phố - có trách nhiệm đòi buộc vào bảo vệ công ích. 158. Trong những điều kiện hiện hành của xã hội toàn cầu, trong đó có rất nhiều bất bình đẳng trong xã hội và luôn có nhiều người bị loại trừ, bị cướp đi các luật cơ bản cho nhân phẩm, việc áp dụng nguyên tắc công ích như hệ quả hợp lý và không thể phủ nhận được, một lời kêu gọi tình liên đới và một định kiến ưu tiên cho người nghèo khổ nhất. Định kiến này mang ý nghĩa, được xem như rút ra từ những hệ luận của việc xác định chung về của cải trái đất, nhưng, như Tôi đã cố gắng giải thích trong Tông Huấn Evangelii gaudium - Niềm vui Tin Mừng [123] - nó đòi buộc trước tiên phải nhìn phẩm giá vô hạn của những người nghèo trong ánh sáng đức tin sâu xa nhất. Chỉ cần nhìn thực tại để hiểu rằng, định kiến này là một sự đòi hỏi đạo đức căn bản để thực hiện cách hữu hiệu cho công ích. V. SỰ CÔNG BẰNG GIỮA CÁC THẾ HỆ 159. Quan niệm về công ích phải liên hệ đến các thế hệ tương lai. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu cho thấy những hậu quả tác hại nặng nề nhất, đưa đến việc không công nhận một số phận chung mà những người đến sau chúng ta bị loại ra ngoài. Nếu không có sự liên đới giữa các thế hệ, thì không thể nào nói đến việc phát triển lâu dài được. Nhớ đến hoàn cảnh này, trong đó chúng ta đã để lại hành tinh cho những thế hệ tương lai, chúng ta sẽ bước vào một lô-gíc khác về quà tặng nhưng không, mà chúng ta đã nhận và sẽ trao lại. Khi trái đất được ban cho chúng ta, thì chúng ta không thể nào chỉ nghĩ theo tiêu chuẩn hiệu năng và khả năng sản xuất cho việc sử dụng cá nhân chúng ta được. Chúng ta không thể nói về thái độ theo định kiến, nhưng về một câu hỏi căn bản về công bằng, vì trái đất mà chúng ta lãnh nhận, cũng thuộc về những người sẽ tới. Các Giám Mục Bồ Đào Nha khuyến khích đón nhận trách nhiệm công bằng này: “Môi trường nằm trong lô-gíc của việc đón nhận. Đó là món quà vay mượn, mà mỗi thế hệ đón nhận và phải tiếp tục trao cho những thế hệ tiếp nối”[124]. Một sinh thái học trọn vẹn phải có viễn ảnh này. 160. Chúng ta muốn trao lại một trái đất nào cho những người tiếp nối chúng ta, cho con cái đang lớn của chúng ta? Câu hỏi này không những dính dáng đến môi trường cách độc lập, chỉ vì người ta không thể đặt câu hỏi này cách manh mún được. Khi tự hỏi về trái đất mà chúng ta muốn để lại, chúng ta có ý nói đến định hướng của nó cách chung, ý nghĩa và giá trị của nó. Nếu câu hỏi này không được suy xét kỹ, Tôi không tin rằng những ưu tư của chúng ta về môi sinh có thể đạt được kết quả có ý nghĩa. Nhưng nếu câu hỏi này được can đảm đặt ra, nó sẽ dẫn chúng ta đến những câu hỏi khác một cách trực tiếp hơn: tại sao chúng ta bước qua thế giới này, chúng ta bước vào cuộc sống này để làm gì? chúng ta làm việc để làm gì cho phải mỏi mệt, thế giới này tại sao cần đến chúng ta? Vì thật ra, nói mãi cũng không đủ, tại sao chúng ta phải lo lắng cho thế hệ tương lai. Chúng ta phải ý thức rằng, chúng ta đang đặt phẩm giá của chúng ta lên bàn cân. Chúng ta là những người đầu tiên chú tâm đến việc để lại cho hậu thế một hành tinh có thể trú ngụ được. Đó cũng là bi kịch cho chính chúng ta, vì điều này cho thấy ý nghĩa cuộc sống của chúng ta trên trái đất này đang bị gặp khủng hoảng. 161. Những tiền dự bi thảm không thể bị đánh giá thấp hay cười cợt được. Chúng ta có thể để lại cho những thế hệ tiếp sau quá nhiều đống đổ nát, hoang mạc và dơ bẩn. Mức độ tiêu thụ, xài phí và thay đổi thế giới chung quanh vượt quá khả năng của hành tinh, đến độ cách sống hiện tại mà chúng ta đang thực hiện, sẽ chấm dứt trong tại họa, như đã xuất hiện theo chu kỳ trong nhiều vùng khác nhau. Việc giảm bớt các hậu quả của sự bất bình đẳng hiện tại, lệ thuộc vào điều chúng ta đang làm, nhất là, khi chúng ta nghĩ đến trách nhiệm mà những người phải gánh lấy những điều tồi tệ do chúng ta đã làm. 162. Khó khăn để đón nhận những thách đố này có liên hệ với việc sa đọa đạo đức và văn hóa, kèm theo sự sa sút về mặt môi sinh. Con người hậu thời tân tiến sẽ gặp nguy hiểm ngay trong chính cá nhân của mình, và rất nhiều vấn đề xã hội liên hệ đến chủ thuyết cấp thời ích kỷ, với cuộc khủng hoảng trong liên hệ gia đình và xã hội, cùng với những khó khăn trong việc liên hệ với đồng loại. Một sự tiêu thụ trực tiếp và quá đáng của cha mẹ gây tai hại cho chính con cái mình, về lâu về dài sẽ khó khăn hơn để tậu một ngôi nhà và lập một gia đình. Ngoài ra, sự bất lực của chúng ta để suy nghĩ cẩn thận về các thế hệ tương lai, liên kết với sự bất lực để triển khai quan niệm của chúng ta về những việc chú tâm hiện tại và suy nghĩ về những người bị loại ra khỏi sự phát triển. Chúng ta không những suy nghĩ đến những người nghèo khổ trong tương lai. Thật cũng đủ để suy nghĩ đến những người nghèo trong hiện tại, họ có rất ít năm để sống trên trần gian này và không còn tiếp tục chờ đợi được nữa. Vì thế, “cận kề sự liên đới với các thế hệ […] cần phải nhấn mạnh về mặt luân lý đến sự liên đới ngay trong một thế hệ”[125]. (còn tiếp) (Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)
Phụ Bản I
ĐI TÌM MÙA XUÂN Dù rằng con người rất yêu mùa Hè với những tia nắng ấm áp, ngập tràn khắp nơi, nên đến mùa là mọi người kéo nhau ra biển để được thả mình tung tăng trên biển xanh, nô đùa cùng sóng biếc, hoặc tổ chức những chuyến dã ngoại thú vị để khám phá những phong cảnh thiên nhiên hay những nơi mà mình yêu thích. Rồi thì mùa Thu với những khu vườn trang điểm cho mình bằng những cành lá chuyển sang màu vàng rực rỡ, thả từng đợt lá theo những cơn gió, làm thành những thảm lá vàng rực cả một khu vườn, đẹp đến nao lòng! Bao nhiêu người đã rung cảm rồi dùng ngôn ngữ của mình mà ca tụng. Thi sĩ, thì dệt những vần thơ mượt mà. Nhạc sĩ sáng tác những bản nhạc với giai điệu du dương, da diết. Nhà làm phim thì dùng bối cảnh của thiên nhiên lồng vào đó những chuyện tình lãng mạn… làm người thưởng thức không khỏi mơ màng, thấy hồn như lâng lâng, thoát tục… Nhưng phải nói mùa Xuân mới là mùa mà mọi người mong đợi, bởi không chỉ là cỏ cây đâm chồi nẩy lộc, hoa cũng phô hết sắc hương, mà mọi người từ bao giờ đã quy định với nhau để lấy những ngày đầu Xuân làm mốc cho mọi diễn biến, cũng như mơ ước cho năm sắp tới được tốt đẹp, nên mọi thứ đều được chuẩn bị hết sức là chu đáo, mọi người đều háo hức đón chờ. Nếu Mùa Hè, Mùa Thu là lúc mà con người được nghỉ ngơi, nên sắp xếp rời ngôi nhà với nếp sống thường nhật để có thời gian riêng tư, sống cho bản thân. Họ dùng thời gian đó để thư giãn và nạp năng lượng để tiếp tục cuộc hành trình mưu sinh, thì trái lại, Mùa Xuân là mùa của sum họp. Các thành viên trong gia đình ngày thường tung ra khắp nơi để làm ăn, nhưng ngày Tết đều tìm cách quay về đoàn tụ với gia đình, với người thân, nên ngày Tết mang một ý nghĩa thật là đặc biệt. Ngoài thiên nhiên tươi mới điểm tô bằng những sắc hoa rực rỡ, nhà nào cũng dọn dẹp, trang hoàng, trưng bày lộng lẫy, đồ ăn, thức uống tràn ngập, khác hẳn ngày thường, thì sự hiện diện của những thành viên sau cả năm dài xa cách cũng làm cho không khí gia đình rộn rã, ấm áp hẳn lên. Không chỉ gói gọn trong khuôn viên của mỗi gia đình, mà khắp nơi mọi người cũng vui tươi, hớn hở khác thường. Nhờ những lời dặn dò kiêng khem cho những ngày đầu năm nên mọi người cũng cư xử với nhau nhẹ nhàng và và thanh lịch hơn. Đó là thời điểm mà thiên nhiên và con người đều sung mãn và hào phóng nhất. Thiên nhiên thì ban lộc cho cây cối, cỏ hoa. Con người thì cũng ban phát niềm vui, tặng nhau quà cáp, tài lộc, lời chúc tốt lành. Tiếc thay, chỉ được có vài ngày rồi tất cả trở lại như cũ, làm cho ai có suy nghĩ cũng không khỏi ước ao giá mà cả năm đều được như thế, có phải là cuộc sống ở trần gian này tươi đẹp biết bao nhiêu! Không phải đợi đến tuổi đời chồng chất, mỏi gót bon chen con người mới có thì giờ chiêm nghiệm cuộc đời để thấy tất cả sao mà phù du, mộng ảo, rồi mơ ước làm sao để có một niềm vui vĩnh cửu không bao giờ tàn lụi mà không cần sự hỗ trợ của cảnh vật, của thiên nhiên. Trước đây đến mấy ngàn năm Đức Thích Ca là người đã thấy được nhu cầu đó của con người, nên đã bỏ ra một đời để truyền bá cách thức thực hiện điều đó. Tiếc thay những lời Ngài dạy ngày càng bị hiểu lầm để ý tưởng tuyệt vời đó bị biến thể thành một Tôn Giáo để cầu xin Giáo Chủ ban cho, mà không phải là mỗi người phải cố gắng tự lực để đạt được như Ngài mong mỏi. Thật vậy, thử kiểm điểm Giáo Pháp của Đạo Phật chúng ta sẽ thấy: Dù được thành lập cách đây cả mấy ngàn năm, nhưng trong đó không phải là một mớ lý thuyết cao siêu, mơ hồ, mà là cả một quy trình rất khoa học để giải quyết cuộc sống, qua những trình tự: l. Lý giải về những nỗi Khổ của cuộc đời. 2. Giải pháp để có cuộc sống tốt đẹp cho không chỉ kiếp này, mà còn vô lượng kiếp về sau. Theo Đức Thích Ca, kể từ lúc bắt đầu ý thức về bản thân, lúc nào con người cũng thấy rằng: “Đây là ta. Đây là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, nhà cửa, đất đai, gia sản của ta”. Rồi do còn sống là còn nhu cầu. Ngoài ăn uống, nhà cửa, vật dụng, phương tiện, con người luôn muốn mở rộng cơ ngơi, tìm cầu đủ thứ để cung ứng cho mọi nhu cầu của bản thân và gia đình. Chưa có thì đấu tranh cho có. Có rồi thì muốn kiếm thêm. Có đủ dùng thì muốn những thứ tốt hơn, sang hơn. Cuộc sống lại ngày càng khó khăn, vì thế, để kiếm sống, mọi người đã hành xử theo hai cách: Người lương thiện thì kiếm sống một cách chân chính, bằng khả năng, bằng sức lao động của mình, không lừa đảo, chèn ép, lấn át người khác. Người bất lương thì tìm mọi cách để đạt được những thứ mình muốn, bất kể thủ đoạn bất chính. Những người này gây rối loạn cho xã hội không ít, nên xã hội phải đặt ra luật pháp để ngăn ngừa và trừng trị. Cũng chính vì nghĩ rằng “chết là hết” nên nhiều người sẵn sàng lấn át người khác để được lợi về phần mình, không biết rằng những việc xấu hay tốt đều không mất. Vì thế, lúc vay thì vui vẻ, thích thú, đến lúc phải trả lại oán trời, trách đất, cho là ông trời đối xử bất công với mình. Tại sao người khác luôn gặp vận may, còn mình thì rủi ro cứ đeo bám! Chưa hết, ngoài những nỗi Khổ do ngoại cảnh mang tới, tự thân mỗi người cũng có những nỗi Khổ vì Già, Bệnh, và cuối cùng là cái Chết là điều không tránh khỏi và đáng sợ nhất, vì phải xa lìa những người thương yêu, nhất là không biết sẽ về đâu? Để không gặp phải những cảnh bất như ý diễn ra với cuộc đời của mỗi người, Đức Thích Ca vạch ra một con đường và bày ra phương cách để giải quyết một cách hợp lý nhất để người chịu tin theo quan sát, tìm hiểu, thực hành sẽ có một cuộc sống an vui, không bị cảnh khổ hành hạ nữa. Con đường đó gọi là ĐẠO PHẬT. Phật dạy: Té ngã ở đâu thì đứng lên từ đó. Con người đã bị cuộc đời làm Khổ thì phải nhìn nó cho rõ, xem nó có gì để mình phải Khổ vì nó. Quan sát cuộc đời thì ai cũng thấy: Đã có mặt trên đời thì mọi người đều phải sống. Nhưng tại sao cùng do cha mẹ sinh ra, cùng là một kiếp người mà người thì giàu trong trứng giàu ra, kẻ mấy đời vẫn đói rách lầm than?! Rồi thì kẻ đẹp, người xấu, kẻ thọ, người yểu, kẻ sang, người hèn, kẻ xấu, người tốt... mà trong xã hội luôn diễn ra những hình ảnh tương phản đủ kiểu khác nhau? Có cách nào thay đổi, đem lại sự bình đẳng được không? Sau một thời gian dài quán sát, Đức Thích Ca thấy được nguyên do của những dị biệt, và tìm ra giải pháp chính xác nhất. Theo Ngài, những điều tốt hay xấu, giàu hay nghèo, thọ hay yểu diễn ra không phải do Thượng Đế hay Thần Linh nào cầm cân, nẩy mực, mà do kết quả của chính việc làm của mỗi người gọi là NHÂN QUẢ. Gieo gì thì gặt nấy. Làm tốt được tốt. Làm xấu được xấu. Không có người cầm nắm để bỏ sót, do đó không thể dùng cách này cách khác để xin bớt hay nài thêm. Như vậy, người nào muốn thay đổi số phận thì phải xét tận gốc của vấn đề để thấy cho rõ, rồi theo hướng dẫn của Đạo Phật mà làm những việc để hóa giải thì mới thay đổi cuộc đời được. Trước hết, người muốn thay đổi số phận được dạy phân tích cuộc đời. Theo Đức Thích Ca, “Đời là Bể Khổ”, “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước trong biển cả”. Ngài liệt kê những Nỗi Khổ và cách thức để hóa giải ra thành TỨ DIỆU ĐẾ. Trong đó, KHỔ ĐẾ nói về những cái KHỔ của kiếp người là: SINH KHỔ, LÃO KHỔ, BỆNH KHỔ và TỬ KHỔ. Người thương yêu mà phải xa Kẻ oán ghét lại phải gặp gỡ. Cầu không được. Có rồi lại mất… đều là những nỗi Khổ mà cái Thân người phải gánh chịu. Rồi do không bỏ được thói quen cung phụng cho Lục Căn những thứ nó ham muốn là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Phật gọi đó là TẬP ĐẾ. Chính những điều đó làm cho con người ngày càng dính vào cái Thân không thể xa rời rồi gây thêm nhiều Nghiệp chướng. Muốn hết Khổ thì phải dùng DIỆT ĐẾ để hóa giải. DIỆT ĐẾ không phải là diệt hết Lục Căn đi. Mắt không nhìn, Tai không nghe. Xa lánh hương, vị, những cuộc tiếp xúc với các Pháp, mà những người hiểu lầm đã phải dùng đến mấy trăm GIỚI để làm rào cản, không cho các pháp đến gần. Trong khi đó, Đạo Phật chân chính thì đốn gốc, tìm ngay chính thủ phạm, thuyết phục nó bằng những lý lẽ để nó chấp nhận mà thay đổi gọi là Điều Phục hay Chuyển Hóa nó. Đó là cái VỌNG TÂM. Thế nào là cái VỌNG TÂM? Tìm nó ở đâu? Do Đạo Phật được mở ra từ thời xa xưa, ngôn ngữ chưa gần với thời này, nên nhiều người đọc Kinh thấy xa lạ, bỡ ngỡ. Thật ra gọi là VỌNG TÂM chỉ là những Ý TƯỞNG SAI LẦM mà thôi. Sao gọi là sai lầm? Vì đánh giá không đúng. Cái không phải là TA mà cho đó là TA rồi chịu sự điều khiển của nó mà làm nhiều hành động sai quấy gọi là TẠO NGHIỆP. Theo Đức Thích Ca, Cái THÂN không phải là TA, mà nó chỉ là CÁI THÂN NGHIỆP CỦA TA. Do kiếp trước ta làm nhiều việc, tốt có, xấu có. Mỗi việc đều có Nhân Quả. Vì thế, khi Thân trước hết Nghiệp, hết Duyên mà trở về cùng cát bụi thì lại phải nhận một cái Thân mới, cũng bằng ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA gọi là TỨ ĐẠI kết hợp lại với nhau để ở trong đó mà tiếp tục trả những gì đã gieo. Trong thời gian TRẢ NGHIỆP cũ, mỗi người lại tạo thêm NGHIỆP MỚI, vì thế VÒNG LUÂN HỒI không dứt. Hết Sinh lại Tử, Tử rồi Sinh. Tu theo Đạo Phật tức là tìm cách để cắt đứt VÒNG LUÂN HỒI. Đức Thích Ca mô tả VÒNG LUÂN HỒI bằng THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN, trong đó VÔ MINH là mối chủ chốt. Bao giờ hết VÔ MINH thì vòng này sẽ tan rã, kết thúc Sinh Tử Luân Hồi. Nhưng người quán sát lại gặp một số nghi vấn: Rõ ràng gai đâm, lửa đốt thì đau. Cảm sương, cảm nắng thì bệnh. Gặp cảnh trái lòng thì đau khổ. Thực dưỡng đúng thì mạnh khỏe, sai thì ốm yếu gầy gò, hoặc sinh nhiều thứ bệnh, sao lại cho rằng không phải Ta? Đạo Phật không chối bỏ hoàn toàn cái Thân, mà cho nó là Cái THÂN do Nghiệp chiêu tập mà ta tạm thời cư ngụ trong đó, không phải thật là Ta. Vì nó có những cái độc lập, ta không thể điều khiển đươc. Nếu là Ta thì ta có muốn cho mình xấu xí, bệnh, già, chết hay không? Chắc chắn ai cũng muốn khỏe mạnh, đẹp đẽ, không già, không chết. Nhưng nó cứ lầm lũi theo hướng mà nó hoạch định sẵn. Thậm chí vì muốn nó cứ sống mãi với ta nên cưng chiều nó hết mực, đáp ứng tất cả yêu cầu của nó. Vì ai mà ta phải chạy ngược chạy xuôi, học hành, làm lụng vất vả để kiếm sống? Chính là vì nó, vì thiếu thực phẩm là nó không tồn tại được. Vì ai mà đôi khi ta bất nhân bất nghĩa, luồn lọt cầu cạnh để kiếm chút danh, cho nó được ăn trên, ngồi trước, được mọi người trọng vọng? Vì ai mà ta cất nhà cao, cửa rộng, sắm xe đời mới, dinh cơ đồ sộ để cạnh tranh với người khác? Tất cả là vì nó. Vì nó nhìn thấy người khác rồi so sánh, rồi muốn bằng, muốn hơn mọi người. Nhưng rồi thì nó làm được gì? Nó cứ thản nhiên mà Già, mà Bệnh, mà Chết, bất kể lời van nài của ta! Xưa có một vị vua lâm bệnh nặng, thấy mình chẳng còn sống được bao lâu, nên ra lệnh tập trung tất cả những nhà thông thái trong nước, kêu họ viết cho vua hiểu về kiếp sống của con người. Họ làm việc cật lực để viết. Đầu tiên chất đầy mấy xe. Vua bảo họ tóm gọn lại. Họ gom lại thành một xe. Vua kêu gọn nữa, gọn nữa... cuối cùng chỉ còn một câu: Con người sinh ra là để chết! Đó là một thực tế, từ ngàn đời vẫn thế. Không ai có thể duy trì cho cái Thân tồn tại mãi được. Vậy thì nếu cái Thân chỉ sống rồi để chết tại sao ta phải cung phụng cho nó tất cả những yêu cầu vượt quá sức của mình để phải chạy đôn chạy đáo mà lo, trong khi nó chỉ cần không bị đói, không bị lạnh, không bị mưa gió tấn công và không bị bệnh hoạn hành hạ? Nhà to như cung điện thì cũng chỉ cần một phòng để ngủ nghỉ. Long sàng hay chiếc vạt tre thì cũng chỉ để ngả lưng, cần gì phải sang trọng, đắt tiền? Bao nhiêu sơn hào hải vị thì cũng chỉ cần đầy cái bao tử. Chính vì nạp vào cơ thể quá nhiều chất bổ dưỡng đôi khi lại sinh ra đủ thứ bệnh, nào là gút, tiểu đường, mỡ máu... đe dọa cuộc sống? Tại sao lại phải giết những động vật để ăn thịt tươi, trong khi chúng cũng biết quý mạng sống, cũng có vợ chồng, sinh con, đẻ cái? Phải chăng vì cung phụng cho cái Khẩu mà ta đã làm nhiều điều gây tổn hại cho những sinh vật khác? Vì muốn sắm cho gia đình những phương tiện đắt tiền mà ta phải bóc lột những người yếu thế hơn mình, lợi dụng chức quyền để chèn ép cấp dưới, làm nhiều người bất mãn. Một căn nhà có đủ tiện nghi là đủ, thì cớ gì ta phải tranh chấp ranh đất với hàng xóm để nới rộng thêm? Đất nước khắp thế giới do tiền nhân để lại, đã được xác định ranh giới từ nhiều đời, tại sao nhiều nước lại ỷ mạnh cử binh lấn chiếm đất nước láng giềng để gây họa cho dân lành, gây ra bao cảnh tang thương, chết chóc, làm vợ phải xa chồng, con phải mất cha để rồi những gia đình thiếu đi người đàn ông trụ cột, người vợ lại phải vất vả mưu sinh, đàn con nheo nhóc, lớn lên thiếu giáo dục của cha mẹ lại trở thành gánh nặng cho xã hội! Bao nhiêu người đang tuổi thanh xuân, chưa nếm trải cuộc sống đã phải tức tưởi xa lìa cuộc đời do tham vọng bành trướng của mình mà không thấy đó là tội ác trời không dung đất không tha? Tất cả cũng vì nghĩ rằng cuộc đời sẽ kéo dài, muốn tìm thêm để thụ hưởng, cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước mình! Nhưng lịch sử đã chứng minh: Bao nhiêu biển cả giờ đã thành đất liền. Nhiều thành phố bị chôn vùi. Nhiều đế chế hùng mạnh cũng đã suy tàn. Bao lớp người rồi cũng đi vào quên lãng… cho ta thấy Đạo Phật nói đúng: Vô Thường tác động lên tất cả những gì có tướng. Không có gì bền vững trong cuộc đời. Nhưng không phải Đạo Phật đưa Vô Thường ra để chúng ta yếm thế, chán nản, buông xuôi hết, không muốn làm ăn, học hành chi nữa! Ngược lại, học Vô Thường để thấy rằng cuộc sống không kéo dài mà làm những việc cần thiết không để thời gian trôi qua một cách vô ích. Học Vô Ngã để đừng vì cái Ta mà tranh giành, lấn át người khác, làm cho họ phải đau khổ. Nhờ học những điều đó, con người sẽ sống một cách xứng đáng hơn. Trong gia đình thì con cháu biết rằng ông bà, cha mẹ sẽ ra đi không biết ngày nào, nên không làm những điều để cho họ phiền lòng, trái lại, yêu thương, chăm sóc họ, vì biết họ đã một đời hy sinh cho mình. Cha mẹ cũng biết rằng không biết xa con ngày nào nên cũng cố gắng dồn tình yêu thương và giáo dục con cho nó nên người. Vợ chồng sẽ yêu thương, nhường nhịn nhau vì biết sẽ không ở bên nhau mãi. Bạn bè cũng sẽ trân trọng cái duyên được gặp nhau mà cư xử với nhau cho hết lòng, vì một khi mất Thân này thì muôn kiếp khó gặp lại. Nhưng việc tìm cái TÂM dính líu gì đến Vô Thường, Vô Ngã, đến Tham, Sân Si? Chính vì không biết ta đang bị cái VỌNG TÂM nó điều khiển, nên không biết cái Thân này là VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ mà Tham, muốn tranh giành nhiều thứ tốt đẹp về cho mình. Không giành được thì Sân, do đó mà Phật dạy rằng ngoài cái Thân Vô Thường này, ta còn một cái CHÂN TÂM, tức cái Thân trường tồn, không bị giới hạn bởi thời gian, không gian. Thân này mới là THẬT MÌNH. Nó Vô Tướng nên không bị Sinh, Diệt, vui, buồn, được, mất... làm ảnh hưởng. Tìm được nó gọi là gặp được BỔN THỂ TÂM hay là CHÂN TÁNH. Trụ ở đó thì không bị các Tướng Hữu Vi làm ảnh hưởng đến nữa, nhờ đó có được sự an ổn, thường lạc, mà Đạo Phật gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Đúc kết cuộc đời của một con người ta sẽ thấy: Sau bao nhiêu vinh quang, tủi nhục, thành công, thất bại, thì điều mà con người cần tìm không phải là danh vọng, tiền tài, vì những thứ đó có rồi mất. Đến rồi đi. Cái mọi người cần tìm là một gia đình đầm ấm, một cuộc sống an lành, không bị đe dọa bởi thiên tai, nhân tai, tật ách, không bị truy đuổi bởi kẻ thù, bởi luật pháp. Con cái chăm ngoan, hiếu hạnh. Muốn có được điều đó cũng không khó. Chỉ cần mỗi người nương nhau mà sống một cách chân chính. Cuộc đời chẳng được bao nhiêu năm mà cứ phải đối đầu với đủ thứ chuyện. Trầy trật học xong, lấy được tấm bằng thì kiếm được một việc làm cũng hết hơi, lương chỉ vửa đủ sống, muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng không phải dễ! Muốn kinh doanh để làm giàu thì bị lừa đảo hay mùa màng thất bát rồi không những trắng tay lại kèm thêm món nợ đã vay! Đang yên lành thì bị họa chiến tranh xảy đến, bom rơi, đạn lạc, gia đình chia lìa, tang tóc khắp nơi, nước mắt sinh ly, tử biệt chảy tràn… Chính vì vậy mà con người mơ về một Bồng Lai tiên cảnh. Nơi đó không có giết chóc, hận thù, lừa đảo. Cảnh đẹp, người lại xinh. Tiên đồng, ngọc nữ không nhọc nhằn kiếm sống, ngày ngày chỉ thảnh thơi múa hát. Tiên ông, tiên bà thì nhàn hạ, túi thơ, bầu rượu, cuộc cờ... Hoặc có người chán đời, đi vào hang sâu để ẩn tu, tránh xa cảnh trần. Không ẩn tu thì ly gia, cắt ái, vô Chùa sống đời tu sĩ, cho là rũ sạch bụi trần… Không biết rằng TU chỉ có một nghĩa là SỬA. Mỗi người cần SỬA cái TÂM của mình để nó không còn dắt mình làm những chuyện sai quấy nữa. Thật vậy. Nhiều người nghĩ rằng muốn tu Phật là phải làm những việc vĩ đại phi thường, nên muốn lánh cõi trần vì đầy ô uế, con người thì xấu xa, độc ác. Trong khi đó, tu theo Chánh Pháp thì chỉ cần mỗi người quay vào tu sửa Thân, Tâm của mình. Chẳng cần xa rời cuộc đời, cũng chẳng cần phải gồng mình để Giữ hàng mấy trăm Giới, Ngồi Thiền giờ này sang giờ khác, mà việc tu hành rất là đơn giản như lời Lục Tổ dạy: “Lòng bình đẳng đâu cần giữ Giới ? Làm việc ngay há đợi tu Thiền ? Ân song thân hiếu dưỡng cần chuyên Nghĩa huynh đệ dưới trên tương ái…” Đúng thế. Tu Phật đâu phải là để xa lánh hay thay đổi cuộc đời, mà là để nhìn rõ cuộc đời với những diễn biến của nó, chấp nhận nó, rồi Sửa cái TÂM của mình, thay đổi những nhận thức, hành vi của mình để tiếp tục sống giữa cảnh trần mà không bị bụi trần làm cho ô nhiễm, gọi là Giải Thoát hay Thành Phật. Nếu có xem kỹ 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp của Phật được mô tả, ta thấy đó chỉ là những cách cư xử giữa con người và con người với nhau. Nhưng vì biết con người vốn ham đạt những gì cao siêu, phi thường, nên Phật phương tiện nói người làm những điều đó gọi là “chạm khắc tượng Phật”, mục đích chỉ để những người ham làm Thánh, làm Phật theo đó mà thực hiện để bản thân và mọi người chung quanh được an ổn, hạnh phúc mà thôi. Khi con người thực hiện những điều mà Đạo Phật hướng dẫn sẽ có được cái Tâm bình ổn, làm chủ mọi suy nghĩ, hành vi của mình. Lúc đó dù vẫn nhìn thấy các pháp tốt, xấu diễn ra mà không bị nó tác động nữa gọi là NHƯ THỊ. Rồi cũng chính vì cuộc đời còn đầy nhiễu nhương, đau khổ, nên cần lắm những bàn tay góp nhau xây dựng. Cần lắm những Bác sĩ, Lương y để chữa bệnh. Những vị Thầy dạy chữ, dạy đạo đức, đào tạo nghề nghiệp để con trẻ lớn lên biết yêu ông bà cha mẹ, yêu đất nước, và có phương kế sinh nhai, để không vì dốt nát, vô công, rồi nghề, túng quẩn mà trở thành tội phạm, làm rối loạn xã hội vừa hại chính bản thân, gia đình. Là một công dân, hưởng mọi thành quả của nhiều thành phần trong xã hội, ta phải có trách nhiệm với cuộc đời, thì nỡ nào đứng bên lề hay chui vào Chùa, nấp sau cửa Chùa để yên ổn tấm thân, mong thành Thánh, thành Phật, bỏ mặc cuộc đời cho người khác mặc tình xây dựng hay tàn phá. Như vậy sao gọi là đền TỨ ÂN? Người xưa đã nói: “Dục tu tiên đạo, tiên tu nhân đạo. Dục tu Phật Đạo, tiên tu Tiên Đạo”. Làm người chưa xong trách nhiệm, làm sao đòi thành Tiên, thành Phật? Đành rằng người dân nước ta có truyền thống tín ngưỡng rất cao. Nhưng đất nước đã có quá nhiều Chùa, tượng Phật. Thiết nghĩ việc xây Chùa, đúc tượng, đâu có cần thiết bằng trợ vốn cho người nghèo, hay xây Bệnh viện, Trường học, đào tạo nhân tài, tương lai xây dựng đất nước. Xây Cầu, làm Đường để mọi người có phương tiện đi lại, làm ăn sinh sống để bớt đi phần nào nỗi khổ của cuộc đời. Điều đó thiết thực hơn. Là Đệ tử Phật, người tu càng cần thực hiện hạnh QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, “lắng nghe tiếng kêu khổ của chúng sinh”, và Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát. “Có ngàn con mắt” là để nhìn thấy cảnh khổ của chúng sinh khắp nơi. “Có ngàn tay” là để cứu độ cho mọi người khi họ cần giúp đỡ. Đó cũng là “cứu độ chúng sinh”, hay “cúng dường những vị Phật sẽ thành”. Nếu ta chưa hiểu điều đó để thực hiện sao gọi là làm Hạnh Bồ Tát? Vì những việc đó đâu phải để Phật làm? Hơn nữa, người tu được học Tứ Vô Lượng Tâm, đâu có phải để Vô Tâm mà vô cảm trước nỗi đau của cuộc đời! Khi tất cả mọi người đều quay vô lo tu sửa được cái tâm, lòng tràn an lạc, sống đúng trách nhiệm của một con người, biết yêu thương, giúp đỡ người khác, thì cảnh thái bình sẽ diễn ra khắp nơi. Trong gia đình thì trên thuận dưới hòa. Con cháu hiếu kính ông bà cha mẹ. Vợ chồng yêu thương chăm sóc cho nhau. Mọi người sống vui vẻ với nhau, trong nhà luôn ấm áp, đầy ắp tiếng cười. Gia đình đã thế, hàng xóm láng giềng cũng thuận thảo, giúp đỡ lẫn nhau, không ai xâm phạm của ai... Nếu được nhân ra thì cả xã hội tốt đẹp biết mấy. Mọi người ý thức trách nhiệm của mình, tích cực học hỏi khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới để phụng sự đất nước. Khi nước này không xâm lấn nước khác thì thay vì mua máy bay, tàu chiến, vũ khí để chuẩn bị đánh nhau thì dành ngân sách đó để xây dựng và phát triển đất nước. Các nhà Khoa Học cũng thôi không chế tạo vũ khí giết người, mà chế tạo thuốc men để chế ngự bệnh tật, máy móc hỗ trợ cho ngành công nghiệp, nông nghiệp. Nguồn nhân lực trẻ dành cho chiến tranh thì để sản xuất, kiến tạo đất nước. Nước giàu giúp cho nước nghèo. Người khỏe nâng đỡ người yếu. Người hạnh phúc san sẻ cho người bất hạnh… Khi tâm hồn mỗi người nở đầy hoa nhân ái, mọi người nhìn nhau là anh em, không phân chia màu da, lãnh thổ. Lúc đó hẳn khắp nơi đều được sống trong hòa bình, an lạc. Vực nước mắt bị tát cạn, thì trần gian vốn đã đẹp bởi thiên nhiên xanh tốt cộng thêm lòng người hòa ái chỉ có yêu thương nhau đã biến thành Tiên cảnh, Niết Bàn, mọi người yên ổn sống với những chuỗi ngày hạnh phúc, êm đềm, thư thả cho đến hết kiếp. Như thế thì quanh năm lúc nào chẳng là Mùa Xuân đâu còn phải tưởng tượng, tìm kiếm đâu cho xa vời? Tâm Nguyện Tháng 12/2016 MỘT TẬP THƠ CÒN TRONG DI CẢO Trong một chuyến đi công tác sang Moskva, như thường lệ, tôi được ông Marian Tkachev - nhà văn dịch giả, nhà Việt Nam học người Nga, một trong những người bạn thân thiết của giới văn nghệ sĩ Việt Nam, mời đến chơi. Ở văn phòng của ông tôi để ý thấy bức ảnh ông Marian đứng bên cạnh nhà văn Nguyễn Đình Thi. Ông Marian cho biết: Ông đang dịch cho đại biểu Việt Nam, nhà văn Nguyễn Đình Thi ở đại hội nhà văn Liên Xô. Cả hai người trên ảnh đều còn rất trẻ, đứng bên bục diễn đàn, sau nền còn một đại biểu ngồi ở bàn chủ tịch đoàn. Tôi xin phép được chụp lại bức ảnh. Trở về Hà Nội chưa có dịp nào đem bức ảnh khoe với nhà văn Nguyễn Đình Thi, thì nhà văn qua đời. Và rồi chuyến trở lại Moskva sau đó, tôi cũng lại không được gặp Marian nữa, ông cũng đã ra đi vào cuối năm ngoái (2006). Tuy nhiên lần này, tôi cũng có được một chút an ủi: trước khi rời Moskva về nước tôi đã được nhà thơ Châu Hồng Thủy, phụ trách tờ Đoàn kết của Hội văn học nghệ thuật người Việt ở Liên bang Nga, trao cho một kỷ vật quý - một tập tư liệu xin được sau khi ông Marian mất, rồi bà vợ của ông cũng gặp tai nạn mà sớm qua đời. Trong số tài liệu này tôi chú ý đến một số bút tích của mấy nhà văn Việt Nam, đặc biệt thư từ và một tập bản thảo thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi. Đó là tập thơ viết tay có tên Người đi đường do tác giả tự tuyển chọn, xếp sắp, chép tay trên những trang giấy học trò gửi cho dịch giả Marian để dịch sang tiếng Nga. Ở trang đầu tên tập thơ Người đi đường viết bằng mực xanh lá cây, bên trên có hai dòng chữ tiếng Nga của ông Marian viết bằng mực đỏ: Nguyễn Đình Thi và tên sách, nếu dịch ngược lại tiếng Việt theo từng chữ là Con người và Con đường. Còn mấy dòng chữ số ghi chép tính toán gì đó phía dưới nữa. Sau trang đầu là nội dung 21 bài thơ có ghi đầu đề bằng chữ nhỏ viết trên sát góc trái đầu trang, mỗi bài lại đều được đánh số thứ tự La Mã từ I đến XXI, chữ chép tay cẩn thận bằng cùng một thứ mực xanh như chữ ở trang đầu, số trang được đánh từ 1 đến 25 bằng mực đỏ (có lẽ là của ông Marian ghi thêm vào). Theo ngày tháng đề trên mấy lá thư của nhà văn Nguyễn Đình Thi gửi cho dịch giả Marian, mà ông gọi thân mật là Marik, thì tuyển thơ Người đi đường được gửi đi vào cuối năm 1986. Người đi đường là một tập thơ được tuyển chọn chủ yếu từ các bài thơ trong tập Tia nắng (9 bài), đã in trong nước năm 1983 và số khác (7 bài) sau này đưa in vào tập Trong cát bụi (ra năm 1992), về sau cả 16 bài này đều được đưa vào tuyển tập: Tuyển tập thơ Nguyễn Đình Thi (nhà xuất bản Văn Học 1994) và Tuyển tập, ba tập, tập III, Bút ký, phê bình, và thơ Nguyễn Đình Thi (nhà xuất bản Văn Học 1997), 6 bài trong số 16 bài này in lại trong tập Sóng reo, tập thơ cuối cùng của ông ra 2001. Chỉ có 5 bài ở đây không tìm thấy trong các sách vừa nói đến, gồm: Xa, xa mãi, mắt người (số I, trang 2), Mùa xuân của anh (số IV trang 5), Người làm vườn (số V trang 6), Khuôn mặt anh có em (số IX trang 10), và Mỗi ngày… không ngừng (số XXI trang 25). So với những bài in lại trong sách sau này thì các bài viết tay trong tập Người đi đường được sắp xếp theo một thứ tự riêng, có lẽ phục vụ cho một nội dung nhất quán của tập thơ này. Một số tên bài thơ có khác, chẳng hạn: Hoa chua me đất, thì có tên Đôi bạn (Số VI), Niềm nhớ - có tên là Hỡi người sắp đi xa (số VIII), Là một tia nắng - chỉ gỏn gọn có một từ Là (số X) và Nhìn xem - vốn ở đây là Mắt nhìn (số XVI). Ngoài ra cũng có một đôi chỗ thay đổi từ, đôi dòng thêm bớt hay sắp xếp lại thứ tự câu trong bài. Đọc Người đi đường người ta có thể nhận ra ngay vẫn là Nguyễn Đình Thi, một con người đầy suy tư, nặng trĩu nỗi lòng, buồn, nhưng vẫn là một con người lạc quan, có đầy niềm tin ở cuộc sống. Ai đó sau này gọi ông là “Người lạc quan buồn” có lẽ không sai. Mở đầu tập thơ bài Xa, xa mãi, mắt người có thể cho ta cảm nhận thấy ngay điều đó. Xa, xa mãi, mắt người ngợp vào khoảng biếc không bờ bến. Biển đã đây rồi. Ánh mây chiều đang vừa bay vừa bốc cháy mỗi lúc càng đỏ rực Và quả bưởi lửa của trời thong thả chìm xuống nước biếc thẫm. Trên bãi cát, người đi đường tìm nhặt mấy cành khô và đến bên một tảng đá ngồi lúi húi nhóm lửa. Một con chim biển vỗ cánh dài trắng đến lượn vòng bên trên làn khói lất phất. Chân trời tím dần, mặt trời đã chìm mất và biển cũng dần tối. Con chim hải âu đã bay đi. Người đi đường cũng về đâu rồi. Trên bãi cát, bên tảng đá đã im lặng, vẫn lất phất làn khói. Đốm lửa nhỏ vẫn cháy, dưới ngôi sao đầu tiên lấp lánh hiện lên. Ở đây là cuộc đời. Cuộc đời con người và thiên nhiên. Quy luật nhân sinh, trời đất. Sắc sắc không không. Nhưng đốm lửa nhỏ vẫn cháy dưới ngôi sao đầu tiên lấp lánh hiện lên. Những bài tiếp theo là tâm sự của người đi đường đang có bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang và linh cảm thấy những gì là tai họa, thậm chí cả cái chết đón chờ phía trước. Nhưng người đi đường này vẫn bình thản, tự tin, yêu đời, yêu người, vẫn tìm thấy cái đẹp ở khắp nơi, từ một ánh nắng mặt trời, từ một chiếc lá cây. Trong căn nhà nghèo nàn anh vẫn thấy mỗi hạt bụi bay thành hạt vàng (Tia nắng.II). Chiều vẫn xuống dần. Gió cuộn mây âm u. Mùa đông mở to đôi mắt ướt đầm sương// nhưng khắp mặt đất đã lấm tấm xanh. Muôn ngàn đốm vàng nghiêng ngả// Và kia ánh lên vầng hồng của một cây đào bên một mái nhà tranh giữa núi mờ. Bài thơ cuối cùng càng đọc càng thấy toát lên cái chất lạc quan của người đi đường: Hai ngọn lửa quyện múa rực hồng Hai làn sóng hòa vào nhau dào lên mãi, cười reo… Nghìn nghìn ngọn lửa mỗi ngày trên mặt đất Nghìn nghìn làn sóng không ngừng trên sông biển. Bốn câu thơ trên là bài Mỗi ngày… không ngừng đánh số XXI có ghi rõ tháng 3-4/1982. Đọc tập Người đi đường ta có thể thấy rõ và hiểu thêm đôi chút về tác giả Nguyễn Đình Thi. Giai đoạn những năm 80 thế kỷ qua, sau khi đất nước được giải phóng và thống nhất làm một, bước vào thời kỳ xây dựng lại, đầy khó khăn thử thách mới. Con người cũng nhiều thay đổi. Nhưng không thể khác - cuộc sống cứ đi lên. Tâm sự của người đi đường cũng là tâm sự của nhà thơ, một nhà thơ đầy tài năng lại là một người đang có trọng trách đối với cả xã hội và đất nước… Để thấy hết được con đường đi của nhà thơ Nguyễn Đình Thi cùng đất nước, nên chăng cùng với những tập thơ của ông đã xuất bản, từ Người chiến sĩ đến Sóng reo, cần cho ra đời cả tập Người đi đường. Thúy Toàn Tự thuở xuân có báo Đã thành thông lệ, hằng năm cứ độ Tết đến xuân về không chỉ những người làm báo mà các độc giả luôn háo hức chờ đợi sự ra mắt của tờ báo Xuân. Không biết từ bao giờ, nét văn hóa ngày Tết của người Việt ngoài thịt mỡ - dưa hành - câu đối đỏ thì báo Xuân như là món ăn tinh thần không thể thiếu của nhiều người. Từ những tờ báo Xuân đầu tiên… Ngày 15-4-1865, tờ Gia Định báo ra mắt bạn đọc mở đầu cho sự hình thành và phát triển của nền báo chí Việt Nam. Tuy nhiên, kể từ số ra mắt cho đến khi đình bản vào năm 1910, tờ báo này chưa một lần ra số Tết. Vậy, tờ báo Tết đầu tiên ra mắt vào năm nào? Có ý kiến cho rằng tờ báo Xuân đầu tiên xuất hiện vào năm 1908, đó là tờ Lục Tỉnh Tân Văn (số ra năm Đinh Tỵ, tức ngày 30-1-1908) bởi phần nội dung có bài dài khuyên ăn Tết lành mạnh, bớt ăn chơi, hủ tục. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng tờ Lục Tỉnh Tân Văn số Đinh Tỵ 1908 chỉ là tờ báo ra vào dịp Tết chứ không phải là báo Xuân vì phần hình thức tờ báo này không khác gì tờ báo ra ngày thường. Ra mắt vào ngày 1-7-1917, Nam Phong tạp chí (Ngọn gió Nam) là dạng nguyệt san do L. Marty, một người Pháp rất thông thạo tiếng Việt sáng lập; chủ bút là học giả Phạm Quỳnh. Chỉ mấy tháng sau khi ra mắt, Nam Phong tạp chí đã ra mắt “số Tết 1918” (và cũng là số Tết duy nhất của Nam Phong tạp chí) với lối trình bày khác biệt, không đánh số thứ tự theo thường lệ, bìa mầu vàng cam nhạt, với hình bìa là hai ông già, một sáng và một mờ, tay cầm cành đào tượng trưng cho hai vị Hành khiển phán quan Mậu Ngọ (cầm nhánh đào tươi) và Đinh Tỵ (cầm nhánh đào không có bông) bàn giao ấn tín cho nhau. Đặc điểm Nam Phong tạp chí “số Tết 1918” là tất cả các bài viết đều nằm trong khung hoa, có nhiều tranh minh họa và không có quảng cáo. Nam Phong tạp chí số Tết 1918 đã nêu lý do làm số Tết: “Cả năm có ngày Tết là vui… Bản báo muốn cho khúc đàn riêng của mình không đến nỗi sai nhịp với khúc cảm chung của xã hội trong buổi đầu năm xuân mới, giời ấm khí hòa, cảnh vật tươi cười, lòng người hớn hở, lại muốn không trái cái chủ nghĩa lúc bình thường, bèn định in riêng ra tập ngày Tết này, ngoài những số báo thường, trước là để cùng quốc dân góp một phần vào cuộc vui chung, sau là để tặng các bạn đọc báo đã có bụng tin yêu gửi mua từ đầu đến nay một cái quà hợp với cảnh năm mới…”. Tiếp theo tờ Nam Phong tạp chí số Tết 1918, tờ Đông Pháp thời báo cũng cho ra mắt số báo Xuân với hai mầu đen, đỏ bán rất chạy vào năm 1927 hoặc tờ Thần Chung báo của Diệp Văn Kỳ cũng cho ra mắt số Xuân vào năm 1929. Như vậy, trong giai đoạn này một số tờ báo ra số Xuân chỉ nhằm để kỷ niệm dấu ấn chứ chưa thật sự có mục đích làm báo Xuân như sau này. Tuy nhiên, Lục Tỉnh Tân Văn số Xuân 1908 và Nam Phong tạp chí số Tết 1918 là sự mở màn, đặt nền móng cho “tục” làm báo Xuân sau này của làng báo Việt Nam. Đến sự định hình và phát triển của báo Xuân Năm 1929, tờ Phụ nữ Tân văn do nhà báo nổi tiếng Đào Trinh Nhất làm chủ bút ra mắt bạn đọc. Đây là tờ báo thứ hai của nữ giới xuất bản tại Sài Gòn sau tờ Nữ giới chung của bà Sương Nguyệt Ánh (con gái cụ Đồ Chiểu). Kể từ khi ra mắt, ngay cái Tết đầu tiên (Xuân Canh Ngọ năm 1930), Phụ nữ Tân văn đã ra mắt báo Xuân với lối trình bày đẹp mắt và tiên tiến. Các năm sau đó, Phụ nữ Tân văn đều đặn cho ra mắt các ấn phẩm Xuân. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định mẫu báo Xuân trở thành truyền thống cho làng báo Xuân ngày nay chính là từ tờ Phụ nữ Tân văn. Ở Bắc Kỳ, tờ Đông Tây tuần báo của nhà báo tài ba Hoàng Tích Chu ra mắt bạn đọc Tập văn mùa xuân vào năm 1932. Tập văn mùa xuân 1932 đã khẳng định rõ tinh thần làm báo của Đông Tây: “Trải qua mấy xuân rồi, xuân nay cũng như xuân trước, Đông Tây hằng lo đổi mới. Tự nhận là cơ quan bạn trẻ, Đông Tây vẫn giữ được cái thái độ ngang nhiên, tự chủ, ôn hòa mà không lún, mạnh bạo nhưng chẳng cuồng” (bài “Tuổi xuân ta mừng xuân - Đông Tây”). Phong trào làm báo Xuân thật sự nở rộ trong thập niên 30 của thế kỷ trước với sự ra đời của hàng loạt tờ báo Xuân như Loa (Hà Nội 1935), Chơi Xuân (Hà Nội 1935), Đuốc Nhà Nam (Sài Gòn 1936), Quà Tết (Sài Gòn 1937), Sách Xuân (Sa Đéc 1937). Nhưng nổi tiếng nhất phải kể đến hai tờ báo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn là Phong Hóa tuần báo và Ngày Nay. Phong Hóa tuần báo ra mắt bạn đọc năm 1932 do ông Phạm Hữu Ninh sáng lập, sau này nhượng lại cho nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và số 14 ra ngày 22-9-1932 của tờ Phong Hóa ra mắt bạn đọc với sự đổi mới về nội dung và văn phong. Có thể nói, Phong Hóa tuần báo là tuần báo trào phúng, hài hước hấp dẫn nhất vào thời điểm bấy giờ. Trong bốn năm tồn tại (từ 1932 đến 1936), Phong Hóa tuần báo ra bốn số báo Xuân (1933, 1934, 1935, 1936) với trình bày đẹp mắt và hấp dẫn bạn đọc. Đầu năm 1936, khi tờ Phong Hóa chính thức bị thu hồi giấy phép thì tờ Ngày Nay xuất bản trở lại. Cũng giống như tờ Phong Hóa, tờ Ngày Nay cơ bản đề cao xu hướng cá nhân chủ nghĩa theo lối duy tân cấp tiến, và có đóng góp không nhỏ trong việc phát triển nền báo chí nước nhà. Tờ Ngày Nay chỉ tồn tại đến ngày 2-9-1940 thì bị đình bản. Trong mấy năm tồn tại, tờ Ngày Nay cho ra mắt bốn kỳ báo Xuân (Tết 1937, 1938, 1939 và 1940). Điểm đặc trưng của báo Xuân Ngày Nay là những minh họa mang chủ đề mùa xuân như thiếu nữ với hoa xuân hoặc các con vật tượng trưng cho con giáp trong năm, đôi khi là biến tấu từ tranh dân gian. Thí dụ như tờ Ngày Nay số Tết 1938, họa sĩ Nguyễn Gia Trí (Rigt) biến tấu từ bức tranh “Ngũ Hổ” rất nổi tiếng của tranh Hàng Trống. Các “ông Hổ” mang cờ Nhật, cờ Đồng Minh, cờ phát-xít tượng trưng cho các phe trong Đệ nhị thế chiến. Cạnh đó chàng Lý Toét thở dài than vãn. Việc quảng cáo cho báo Xuân cũng rất độc đáo. Tờ Ngày Nay số 197 in mẫu quảng cáo mô phỏng tờ lịch có kê cứu “lịch sử” phát hành các số báo Xuân: - 1937: “Số mùa Xuân” đầu tiên của Ngày Nay xuất bản. Khắp Đông Pháp người ta tranh nhau mua. - 1938: “Số Mùa Xuân” thứ hai của Ngày Nay xuất bản. Tranh nhau mua. Một người bị thương. - 1939: “Số Mùa Xuân” thứ ba của Ngày Nay xuất bản. Hai ông cụ khóc vì không mua được. Đến chậm quá. Nếu tính từ ấn phẩm Tết 1918 trên Nam Phong tạp chí thì lịch sử báo Xuân Việt Nam đã có chặng đường gần một thế kỷ hình thành và phát triển. Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ làm báo, báo Xuân liên tục cải tiến về nội dung và hình thức để đáp ứng thị hiếu ngày càng cao của độc giả. Trong cái rét ngọt đầu xuân, những ấn phẩm báo Xuân đã dần nhuộm đỏ trên các sạp bán báo để chờ phân phát đến mỗi gia đình người Việt. Dường như những ấn phẩm báo Xuân đã trở thành nét văn hóa không thể thiếu trong phong tục đón Tết của người Việt Nam.
TẠ THU PHONG - HOÀNG KIM THƯ st. ANH CHO EM MÙA XUÂN Tết Dương lịch (hay còn gọi là Tết Tây). Là một trong những ngày lễ quan trọng trong năm của nhiều dân tộc và nền văn hóa trên thế giới. Ngày năm mới của lịch Gregorius rơi vào ngày 1 tháng 1, cũng là ngày được áp dụng trong lịch La Mã cũ và lịch Julius . Thứ các tháng trong năm là từ tháng 1 đến tháng 12 trong lịch La Mã cổ trong suốt triều đại vua Numa Pompilius khoảng năm 700 trước Công nguyên, theo như Plutarchus và Macrobius , và được tiếp tục sử dụng cho đến ngày nay. Ở nhiều quốc gia như Cộng hòa Séc , Italy , Tây Ban Nha , vương quốc Anh và Hoa Kỳ , ngày 1/1 là ngày lễ quốc gia. Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản còn gọi là Tết). Là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam , cùng với văn hóa Tết Âm lịch của các nước Đông Á. Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn như “Tết Táo Quân” (23 tháng chạp âm lịch) và “Tất Niên” (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch) Vì Tết tính theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch . Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng). Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 theo Âm lịch trên đất nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên... Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ . Theo lịch năm 2017 thì ngày mùng 1 TẾT sẽ vào ngày 28 tháng 1 năm 2017 Câu đối Tết Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân “tồn cổ” vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ” nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. Bản thân chữ “câu đối đỏ” cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau: Thịt mỡ , dưa hành , câu đối đỏ Cây nêu , tràng pháo , bánh chưng xanh . Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam . Ngoài ra, ngày nay vẫn còn tồn tại tục “xin chữ” lấy hên đầu năm, với việc mua những tấm thư pháp viết chữ Hán, chữ Nôm, chữ Việt, với mục đích ấy, nhiều phố ông đồ với những ông đồ viết những tấm thư pháp bằng chữ Hán , chữ Nôm , chữ Việt đã được tái lập tại Sài Gòn và Hà Nội. Hoa Tết Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ , cúc , lay ơn , hoa huệ ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng , hoa thủy tiên , hoa lan , hoa thược dược , hoa violet , hoa đồng tiền ... Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp cho bình hoa ngày tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc. - Hoa Đào Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.
Hoa đào & Hoa mai ngày Tết - Hoa Mai Hoa Mai, với Miền Nam nước Việt , nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp môi trường cho hoa Mai đơm bông nảy mầm mỗi dịp Xuân về Tết đến. Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hơn miền Bắc, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành , theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với người miền Nam, nếu hoa Mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó. Ca khúc “Anh cho em mùa Xuân” Mỗi độ Xuân về, nhạc bản “Anh cho em mùa Xuân” lại vang lên các nơi, và hầu như người Việt nào cũng có thể hát theo. Với giai điệu rộn ràng của một ca khúc Xuân, bài hát này đặc biệt được mến chuộng là do lời ca thiết tha yêu thương, mang hình ảnh quê hương với những mong ước đơn sơ hiền hòa. Đã gần năm mươi năm nay, “Anh cho em mùa Xuân” trở nên nhạc khúc không thể thiếu khi nhà nhà đón Xuân sang. Theo tài liệu thì vào Tết Đinh Hợi năm 2007, Tuổi Trẻ Online (là một trang báo mạng trong nước) tổ chức cuộc thi bình chọn ca khúc Xuân hay nhất. Kết quả là bài “Anh cho em mùa Xuân” đứng đầu. Điều đáng nói là cuộc thi do một tờ báo trong nước tổ chức, mà bài “Anh cho em mùa Xuân” là một nhạc phẩm được viết ở miền Nam trước 1975. Nhà thơ Kim Tuấn Tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê, ông sinh năm 1938 tại Huế nhưng quê gốc ở Hà Tĩnh. Ông là hậu duệ 5 đời Tùng Thiện Vương Miên Thẩm . Từ năm 1975 ông ở Saigon, dạy tiếng Anh, và dạy nghề cho những trẻ bụi đời tại Khánh Hội. Mãi đến năm 1990, ông mới xuất bản tập thơ “Thời của trái tim hồng”. Ông có nhiều bài thơ phổ nhạc đặc sắc mà tiêu biểu là Anh cho em mùa xuân ( Nguyễn Hiền ) và Những bước chân âm thầm ( Y Vân ). Đêm Trung Thu 2003, ông đi dự lễ phát quà cho trẻ em nghèo tại trường ông, về nhà ăn bánh, uống trà, ngắm trăng với vợ con rồi đột ngột bị nhồi máu cơ tim và qua đời. Nhạc sĩ Nguyễn Hiền: Sinh năm 1927 tại Hà Nội . Bắt đầu học nhạc từ năm 1935, ông đã học và sử dụng dương cầm , vĩ cầm , phong cầm . Năm 18 tuổi, ông phổ nhạc cho bài thơ “Người em nhỏ” của Thiệu Giang, một người bạn của ông. Năm 1950, ông là nhạc trưởng của ban nhạc “Hotel de Paris” tại Hà Nội. Ông lập gia đình năm 1953 rồi vào miền Nam. Năm 1988, nhạc sĩ Nguyễn Hiền và gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện ODP . Ông cùng cố nhạc sĩ Ngọc Bích và một số người bạn lập ra ban Saigon Band ở Little Saigon , Westminster, California. Năm 2004 ông được Trung tâm Thúy Nga mời đến Toronto , Canada để thực hiện Đại nhạc hội Paris By Night 74 với chủ đề Hoa bướm ngày xưa nhằm vinh danh ông cùng với hai nhạc sĩ khác là Huỳnh Anh và Song Ngọc . Nguyễn Hiền qua đời vào ngày 23/12/2005 tại California. Xuất xứ bản nhạc Tác giả Nguyễn Hiền là một nhạc sĩ miền Nam. Cơ duyên đưa đến tay ông bài thơ “Nụ hoa vàng ngày Xuân” của nhà thơ Kim Tuấn vào đầu Xuân 1962. Trong không khí Xuân tràn trề, những câu thơ dễ thương gây cảm hứng để nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ ngay thành bài “Anh cho em mùa Xuân”. Bài hát này đã vượt mọi giới hạn và được dân chúng trong nước mến chuộng tới mức chọn là Ca khúc Xuân hay nhất, trên tất cả những bài ca khác. Nhạc sĩ Nguyễn Hiền thuật lại: “Nói về bản nhạc ấy, xuất xứ của nó là vào năm 1962, mùng 5 Tết hãy còn hương vị Tết, tôi đi làm, thấy có một tập thơ để trước bàn tôi ở văn phòng, nhan đề là 40 bài thơ của Vương Đức Lệ, Định Giang, Kim Tuấn và một nhà thơ khác. Lật xem thì tôi thấy có bài thơ 5 chữ tên là “Nụ hoa vàng ngày Xuân” thấy hay hay thì tôi mới nảy ý phổ nhạc. Tôi hoàn tất trong buổi sáng hôm đó. Đến sáng hôm sau thì có một nhà thơ trẻ, xưng danh là Kim Tuấn “Đến gặp anh để hỏi thăm là hôm qua có để cái tập 40 bài thơ thì anh đã nhận được chưa?” Tôi bảo “Nhận được rồi, mà có một bài chắc là của anh, tên nó là “Nụ hoa vàng ngày Xuân” thì tôi đã phổ rồi nhưng mà tôi đặt tựa đề, lấy câu thơ đầu là “Anh cho em mùa Xuân”. Nghe thế, anh ấy rất vui mừng. Cái bài ấy, thơ 5 chữ, nét nhạc đầu tiên thì tôi dùng ba câu “Anh cho em mùa Xuân/ Nụ hoa vàng mới nở/ Chiều Đông nào nhung nhớ” thì buồn cười là ghép 3 câu thơ thành một câu nhạc. Từ cái ý nhạc ấy, chúng tôi phát triển. Mùa xuân của “Anh cho em mùa xuân” là xuân của trời đất giao mùa, là xuân của “lộc non vừa trẩy lá”, là vẻ e ấp của “nụ hoa vàng mới nở”. Trong cái nắng sớm của ngày đầu xuân có chút se se lạnh của chiều cuối đông còn rớt lại, có chút vấn vương của “chiều đông nào nhung nhớ”, có chút hơi hướng của đông tàn, xuân mới vừa sang... Đôi lúc việc thay đổi hoặc hát sai lời nhạc cũng làm giảm phần nào cái đẹp và độ truyền cảm của bài nhạc gửi đến người nghe. Đường lao xao lá đầy Chân bước mòn vỉa phố Mắt buồn vin ngọn cây... (không phải là “mắt buồn... nhìn ngọn cây”) Chữ “vin” ấy nghe rất thơ. Những chữ “lao xao” và “mòn” ấy nghe cũng rất thơ. Hai câu hát trong bài được ca sĩ… hát sai nhiều nhất: Đất mẹ gầy có lúa/ Đồng ta xanh mấy mùa Câu thứ nhất, “đất mẹ gầy có lúa”, là ước mơ đơn sơ của Kim Tuấn bài thơ gửi về quê mẹ Hà Tĩnh (vùng “đất cày lên sỏi đá”), được nhiều ca sĩ đổi thành “đất mẹ gầy… cỏ lúa”, hoặc “đất mẹ gầy… cỏ úa”, hoặc “đất mẹ... đầy cỏ lúa”!?! Câu thứ hai, “đồng ta xanh mấy mùa”, ước mơ khác, được nhiều ca sĩ đổi thành “đồng xa xanh mấy mùa”, hoặc... “đồng xanh xa mấy mùa”!?! Sau câu thơ “lộc non vừa trẩy lá”, những câu nào không giữ nguyên được thì nhạc sĩ Nguyễn Hiền bèn thay đổi chút ít, trong lúc vẫn giữ ý chính của câu thơ. Lạ một điều, những câu ông đổi nghe rất thơ, và có phần... thơ hơn cả tác giả bài thơ. Chẳng hạn: “Con chim mừng ríu rít” đổi thành “bầy chim lùa vạt nắng” “Ngoài đê diều thẳng cánh” đổi thành “ngoài đê diều căng gió” “Câu hát hò vẳng đưa” đổi thành “thoảng câu hò đôi lứa” “Trẻ đùa vui nơi nơi” đổi thành “trẻ nô đùa khắp trời” “Nắng vàng trên ngọn cây” đổi thành “rung nắng vàng ban mai” Người nhạc sĩ đã “làm mới” thơ, đã làm thơ “thơ” thêm một lần nữa. Tâm hồn nhạc sĩ Nguyễn Hiền vốn nhạy bén với thơ, dễ bắt được những tần số rung động của thơ. Ông đã “nâng” thơ lên, đã chắp cho thơ “đôi cánh nhạc”, đã tặng thêm cho bài thơ một đời sống khác. Ngôn ngữ nhạc quyện lấy ngôn ngữ thơ, khiến thơ bay lên, nhạc cũng bay lên. “Nụ hoa vàng ngày xuân” đã bước ra khỏi những trang thơ để hóa thành một trong những bài nhạc xuân hay nhất. Trong giây phút linh thiêng của Mùa Xuân mới, Mùa Xuân của “Anh cho em mùa Xuân” là Xuân của trời đất giao mùa, là Xuân của “lộc non vừa trẩy lá”, là vẻ e ấp của “nụ hoa vàng mới nở”… chúng ta chào năm 2017 - Chào Xuân Đinh Dậu! Chúc cho Việt Nam: Tiếp nối truyền thống yêu nước của cha ông, tạo thành sức mạnh đoàn kết tiến lên dựng xây Đất nước Tự lực tự cường - “Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh” (Phan Châu Trinh). Chúc Quý Thân hữu khắp bốn phương và Huynh đệ trong gia quyến có một năm mới “Thân Tâm an lạc”. Và cùng hát lên: Anh Cho Em Mùa Xuân - Thơ: Kim Tuấn - Nhạc: Nguyễn Hiền Anh cho em mùa xuân/ Nụ hoa vàng mới nở/ Chiều đông nào nhung nhớ Đường lao xao lá đầy/ Chân bước mòn vỉa phố/ Mắt buồn vin ngọn cây. Anh cho em mùa xuân/ Mùa xuân này tất cả/ Lộc non vừa trẩy lá Lời thơ thương cõi đời/ Bầy chim lùa vạt nắng/ Trong khói chiều chơi vơi. Đất mẹ gầy có lúa/ đồng ta xanh mấy mùa Ngoài đê diều căng gió/ thoảng câu hò đôi lứa Trong xóm vang chuông chùa/ trăng sáng soi liếp dừa Con sông dài mấy nhánh/ cát trắng bờ quê xưa. Anh cho em mùa xuân/ Trẻ nô đùa khắp trời/ Niềm yêu đời phơi phới Bàn tay thơm sữa ngọt/ Giải đất hiền chim hót/ Mái nhà xinh kề nhau. Anh cho em mùa xuân/ Đường hoa vào phố nhỏ/ Nhạc chan hoà đây đó Tình yêu non nước này/ Bài thơ còn xao xuyến/ Rung nắng vàng ban mai. Anh cho em mùa xuân/ Nhạc thả tràn muôn lối. PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo - Internet) The Birth of Vietnam DỊCH VÀ NGẪM NGHĨ (Thay lời dịch giả) Năm 1924 một người dân làng Đông Sơn, ngôi làng quê phía trên cầu Hàm Rồng, cách tỉnh lỵ Thanh Hóa vài cây số, đi câu cá, tình cờ nhặt được vài món cổ vật thời tiền sử. Từ đó người ta phát hiện và khai quật một nền văn hóa khảo cổ tại ngôi làng này, và tên Đông Sơn nhanh chóng trở thành một địa danh lừng lẫy trong giới sử học không những ở Việt Nam mà cả quốc tế. Mười năm sau, năm 1934, nhà khảo cổ học người Áo Heine Geldern R, đề xướng gọi nền văn hóa khảo cổ phát hiện ở Đông Sơn là “Văn hóa Đông Sơn”. Chủ nhân của nền văn hóa đó đã sống cách đây trên 3000 năm. Tuy nhận thấy tính bản địa rõ rệt của nền văn hóa này, nhưng hầu hết các học giả thời đó đều không tin đó là một nền văn hóa của người Việt cổ, và cho nó là một nền văn hóa ngoại lai, của Tàu hoặc thậm chí của… châu Âu! Dù sao, sự phát hiện nền văn hóa khảo cổ rực rỡ Đông Sơn với các kết quả công bố của các học giả Trường Viễn Đông Bác Cổ (l’École française d'Extrême-Orient) tại Hà Nội, đã lôi cuốn nhiều nhà bác học Việt Nam và thế giới lao vào nghiên cứu và phát hiện nhiều nền văn hóa khảo cổ khác trên đất nước Việt Nam và các quốc gia lân cận trong vùng Đông Nam Á, nhân đó vấn đề tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt Nam được đặt ra. Cho đến thế kỷ XX, vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam cùng với mức độ văn minh và những sinh hoạt cổ thời của dân tộc nhất là trong thời chưa có sử thành văn, vẫn còn là một khoảng trống tri thức được tạm lấp bằng những truyền thuyết mơ hồ từ cổ sử Tàu. Sau 40 năm với nỗ lực nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước, nhiều nền văn hóa khảo cổ khác trên khắp nước, nhất là ở miền Bắc, được khám phá, khai quật, nghiên cứu, và với nhiều tiến bộ cả trong ngành khảo cổ và nghiên cứu cổ sử thành văn (nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc gọi chung là Khảo Tiền sử), sự hiểu biết đã tạm đủ cho một cuốn sách thành hình. Và cuốn “Việt Nam Thời Khai Sinh” của sử gia Nguyễn Phương, giáo sư tại Viện Đại học Huế, xuất bản năm 1965, có lẽ là tác phẩm đầu tiên bước đầu tổng kết các kết quả nghiên cứu “khảo tiền sử” cả trong Nam và ngoài Bắc. Cho đến đó, dường như chưa có một tác phẩm lịch sử Việt Nam nào về thời kỳ cổ sử này, dưới dạng sách hoàn chỉnh, chứa đựng các kết quả nghiên cứu “thực địa” về khảo cổ học (phần lớn cho tới đó là do các nhà bác học nước ngoài, và Trường Viễn Đông Bác Cổ thực hiện). Cuốn sách của Giáo sư Nguyễn Phương gồm hai phần: phần đầu dành nghiên cứu các kết quả khảo cổ học, phần thứ hai là khảo sát lại các cổ thư Trung quốc, nguồn tư liệu thành văn chính và quan trọng về cổ sử của Việt Nam. Cuốn sách của Giáo sư Nguyễn Phương dựa trên các kết quả khảo cổ học cho tới lúc đó, và soi xét lại nguồn cổ thư Trung quốc, đã đề xuất một số quan điểm và phát kiến mới về chủng tộc và ngôn ngữ học đã làm bối rối không ít người có quan tâm đến lịch sử dân tộc. Cho tới nay, bộ sách cổ về Lịch sử Việt Nam được coi là đề cập thời kỳ lịch sử dài nhất, là bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (bản Chính Hòa) viết bằng chữ Hán, ghi chép từ thời thượng cổ đến thế kỷ XVII, thời của các soạn giả dưới sự chủ biên của quan đại thần Phạm Công Trứ. Bộ sách này chép nối tiếp bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của sử gia đời Lê là Ngô Sĩ Liên ở thế kỷ XV. Mà bộ sách của Ngô Sĩ Liên là căn cứ theo và tổng hợp bộ Đại Việt Sử Ký của sử gia Lê Văn Hưu đầu đời Trần thế kỷ XIII, và Đại Việt Sử Ký Tục biên của Phan Thu Tiên, sử gia đầu thời Lê sơ thế kỷ XIV, có thêm phần Ngoại kỷ chép các truyền thuyết dân gian từ các sách Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp (/Vũ Quỳnh). Dù vậy phần thượng cổ của dân tộc trong hai bộ sử sau cũng chỉ giành được một số trang ít oi ở phần đầu cuốn sử. Và các truyền thuyết nặng tính hoang đường không có mấy giá trị lịch sử. Thậm chí, trong cuốn Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim chỉ dành cho họ Hồng Bàng, và thời sử chưa thành văn trải dài qua nhiều ngàn năm trong vỏn vẹn có 5 trang giấy! Thế nên, sử gia Nguyễn Phương dành cả cuốn sách Việt Nam Thời Khai Sinh chỉ chép về thời thượng cổ và mấy thế kỷ đầu Công nguyên, là một sự kiện mới trong ngành sử học Việt Nam thời đó. Do tình hình đất nước chiến tranh, kết quả nghiên cứu từ các nhà sử học hai miền tuy được công bố nhiều (phần nhiều hơn có lẽ ở miền Bắc) nhưng từ đó không/ chưa có tác phẩm nào khác được xuất bản tổng hợp tư liệu về thời kỳ mở đầu lịch sử dân tộc. Cho đến năm 1983, gần 20 năm sau cuốn sách Việt Nam Thời Khai Sinh của Giáo sư Nguyễn Phương, mới thấy xuất hiện thêm một tác phẩm lịch sử Việt Nam khác, với quy mô phạm vi khảo sát trùng với phạm vi của Giáo sư Nguyễn Phương. Và lần này một tác phẩm sử học về Việt Nam nhưng không phải của một học giả Việt Nam mà của một học giả ngoại quốc, một giáo sư sử học người Mỹ. Đó là cuốn sách The Birth of Vietnam của Giáo sư tiến sĩ Keith Weller Taylor. The Birth of Vietnam khảo sát quá trình dựng nước của dân tộc Việt Nam; tác giả giới hạn thời gian đối tượng nghiên cứu từ thời tiền sử tới khi nước Việt Nam giành được độc lập từ đế quốc Trung Hoa đời nhà Đường, vào thế kỷ X. 60 năm sau ngày phát hiện nền văn hóa khảo cổ Đông Sơn, hàng trăm di chỉ văn hóa khảo cổ khác trên khắp đất nước cũng đã được khảo sát; người ta sắp xếp, đối chiếu các kết quả nghiên cứu chúng để có một khái niệm rõ về trình tự phát triển liên tục theo thời gian của nền văn minh văn hóa Việt Nam từ thời kỳ Đồ Đá cũ với các di chỉ sơ kỳ ở Núi Đọ, Thanh Hóa… đến thời Đồ Đá giữa nổi tiếng với Văn hóa Hòa Bình có dấu vết phát sinh nông nghiệp nguyên thủy; thời kỳ Đồ Đá mới với các nền văn hóa Bắc Sơn, Quỳnh Văn… đến thời kỳ văn hóa Đồ Đồng rực rỡ với các giai đoạn văn hóa khảo cổ nổi tiếng có tính cột mốc tiến hóa như các nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun,… Và cuối cùng là thời kỳ Đồ Sắt với tên tuổi các nền văn hóa Đông Sơn, Đường Cồ, Đào Thịnh… Đó là các dấu mốc của quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Điều này khiến tác giả, Giáo sư K.W. Taylor không cần phải đặt riêng phần khảo cổ học cho cuốn sách của mình (như Giáo sư Nguyễn Phương đã làm trong Việt Nam Thời Khai Sinh). Ông chia cuốn sách làm 7 chương và khảo sát từng lãnh vực trong mỗi chương. Đó là các Chương: 1. Các hào trưởng Lạc (Lạc Lords) 2. Kỷ nguyên Hán Việt. 3. Chủ nghĩa cát cứ và thời Lục Triều (ở Trung quốc) 4. Sự cai trị của các thế lực địa phương ở Việt Nam trong thế kỷ VI 5. Thời kỳ (nhà Đường đặt) An Nam Đô hộ phủ. 6. Sự đương đầu giữa đế quốc Đường và nhân dân/ dân tộc Việt Nam. 7. Nền Độc lập giành lại được. Và phần Phụ Lục để giải thích một số khái niệm và nguồn gốc hay nền tảng của một số sự kiện lịch sử đề cập trong cuốn sách. Cũng như tác phẩm Việt Nam Thời Khai Sinh của Giáo sư Nguyễn Phương, cuốn sách The Birth of Vietnam ra đời đã nhận được sự chú ý của nhiều người đọc quan tâm đến lịch sử. Ở Việt Nam cuốn sách được tặng giải thưởng của Quỹ Phan Châu Trinh cùng với nhiều lời tán thưởng nồng nhiệt từ độc giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên cuốn sách không tránh khỏi vài thiếu sót nhỏ. Sự phàn nàn đầu tiên người đọc dành cho cuốn sách The Birth of Vietnam của giáo sư Keith Weller Taylor, là nhằm vào nguồn sách tham khảo. Một học giả nhận thấy nguồn tham khảo của tác giả là ít quá, trong khi chính bản thân vị học giả đó có hơn trăm bộ sách về đề tài này trong thư viện gia đình của mình. (Ôi, tiếc biết bao số bảo vật bị cất giữ trong kho!). Do thiếu sự phong phú về tư liệu tham khảo, theo vị học giả này nhận xét, tác giả không có nhiều chi tiết cho các sự kiện đề cập trong sách được chính xác hơn. Và cũng do sự tham khảo thiếu sót này, tác giả có một lý giải buồn cười về ý nghĩa của từ Giao Chỉ: “Giao chỉ có nghĩa là bàn chân giao nhau và có ý nói đến tập quán người ngủ thành từng nhóm quay đầu ra ngoài, các bàn chân chụm lại ở giữa!” Không chỉ vị học giả này mà có lẽ bất cứ ai có hiểu biết căn bản về lịch sử Việt Nam cũng nhận thấy lý giải của tác giả về từ Giao Chỉ là kỳ quặc, và vô căn cứ. Có chỗ tác giả có ghi nhận không trùng hợp với tư liệu lịch sử về thời điểm diễn ra trận đánh trên sông Bạch Đằng. Tư liệu tham khảo bị cho là thiếu, nhưng tác giả có vẻ có thừa một số tư liệu chưa được kiểm tra; chẳng hạn ông dẫn lời của học giả người Nhật Gotō Kimpei, trong sách “Betonamu Kyuugoku Kōsō Shi” (Nghiên cứu cổ sử Việt Nam) cho rằng từ Lạc là một âm khác của từ Lạch hay Rạch, tức các kênh mương nhỏ dẫn nước (vào ruộng); và ở một chỗ khác ông cho rằng “có nhiều tuồng tích dân gian chung quanh các hành động vĩ đại và những công trạng mang tính siêu nhân của Mã Viện được trình diễn ở Việt Nam” để tưởng nhớ y! Mã Viện là tên Phục Ba Tướng quân nhà Hán đã đánh dẹp cuộc kháng chiến của hai chị em Bà Trưng. Tuy vậy, cuốn sách The Birth of Vietnam của Giáo sư K.W. Taylor có nội dung tích cực hơn so với cuốn Việt Nam Thời Khai Sinh của Giáo sư Nguyễn Phương trước đây. Điều này không lạ, vì người đi sau trong nghiên cứu thường có dịp… “đứng trên vai người đi trước” nên có được tầm mắt xa và rộng hơn. Chương đầu tiên của cuốn sách nói về các “hào trưởng Lạc”. Đây là một phát hiện thú vị. Thực ra, sự phát hiện này là… không phát hiện gì cả. Tác giả là một người Tây phương nhìn vào cổ sử Việt Nam với con mắt mới mẻ, không mang định kiến trước, nên không nhìn thấy một ông Lạc hầu hay Lạc tướng nào trong “triều đình các vua Hùng” trong thời đại Hùng Vương như các sử sách của ta thường đề cập. Các sách lịch sử truyền thống của ta khi nói về thời đại Hùng Vương thường viết các vua Hùng “đặt tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Việt Nam Sử Lược, và vân vân). Đó là do các sử gia của ta tham khảo sử liệu Trung quốc và viết theo quan niệm tổ chức triều đình của họ. Thật ra thời các “Vua” Hùng không hề có một hình thức triều đình với bá quan văn võ và các tổ chức ban bệ như triều đình Trung quốc - mà ta thường thấy trong truyện và phim Tàu. Thế nên, những người được sử gọi là Lạc hầu, Lạc tướng, là không hề có; hoặc họ không phải là quan tước chính quy của triều đình, mà chỉ là các tù trưởng bộ lạc, hay những người được gọi là “hào trưởng”, thường là địa chủ, giàu có, có nhiều thế lực và uy tín ở địa phương, cai quản một số dân cư trong khu vực chịu ảnh hưởng của họ. Gọi họ là các “Chúa Lạc” (Lạc lords) như cách gọi của tác giả có vẻ cường điệu quá đáng. Họ chỉ là các “hào trưởng” thôi. Lê Lợi ở thế kỷ XV cũng được sử coi là một hào trưởng như thế. Tác giả biết nghĩa của từ Lạc hầu, và từng dịch chữ Lạc hầu thành “Lạc Marquis”, nhưng trong suốt cuốn sách, khi nói đến họ, thay vì gọi họ là Lạc Marquis, tác giả chỉ gọi họ là Lạc lords - “Những hào trưởng Lạc”. Họ, các “hào trưởng” ấy, và các “vua Hùng” không có quan hệ vua tôi, mà sống nương tựa vào nhau. Tác giả viết: Dường như các vua Hùng bảo vệ các hào trưởng Lạc chống lại sự tấn công và xâm lấn từ các vùng núi, trong khi các vị hào trưởng Lạc hỗ trợ các vua Hùng bằng sức người và của cải của họ”. Các hào trưởng Lạc này có thể gây áp lực với các “vua” Hùng trong một số vấn đề nhất định. Vì những người được sử cũ gọi là Lạc hầu, Lạc tướng chỉ là những “hào trưởng” dân sự, chớ không phải quan tước triều đình, cho nên khi Thục Phán “đánh chiếm” nước Văn Lang, ông ta không phải giao chiến với các Lạc hầu, Lạc tướng nào. Trong nước Nam Việt của Triệu Đà, các hào trưởng Lạc vẫn tồn tại bên ngoài triều đình. Lộ Bác Đức đánh chiếm Nam Việt, y cũng không hề bắt bớ giết chóc một Lạc hầu, Lạc tướng nào cả, mà để yên cho các hào trưởng Lạc quản lý dân chúng trong khu vực của họ như cũ. Về các hoạt động của Lộ Bác Đức ở Nam Việt, tác giả viết: “Tuy vậy, những biến cố này không làm xáo trộn cuộc sống của người dân, và vị thế của các hào trưởng Lạc vẫn không thay đổi”. Vì các hào trưởng Lạc không phải là Lạc hầu, Lạc tướng gì của triều đình nên không phải là đối tượng đánh giết của quân Hán. Tác giả viết: “trong thời gian này phần lớn các hào trưởng Lạc vẫn còn giữ vững đất đai và kiểm soát được dân chúng của họ”. Khi Mã Viện đánh Hai Bà Trưng, sử chép y giết hàng vạn người nhưng không có một dòng nào nói y giết một Lạc hầu hay Lạc tướng, vì giai cấp này không hề tồn tại, chỉ có các hào trưởng dân sự mà cho đến khi nhà Hán đồng hóa họ vào ngạch quan lại và cấp cho họ “ấn đồng tua thau” thì họ mới trở thành người của chánh quyền cai trị chính nhân dân mình. Và “các hào trưởng Lạc phải đối diện với sự chọn lựa hoặc trở thành quan lại cấp dưới trong chánh quyền Hán hoặc phải làm lính ra chiến trường”. Đó là chuyện “Lạc hầu”. Trong suốt cuốn sách, dường như tác giả không một lần nào đề cập đến các “Lạc tướng”. Lý do là người Việt cổ thời Hùng vương không duy trì quân đội chính quy nên không hề có ông tướng nào để gọi là Lạc tướng cả! Khi cần chiến đấu chống kẻ địch nào đó, người dân tự biến thành chiến sĩ dưới quyền chỉ huy của… các mẹ, các chị! “Trong xã hội Lạc người phụ nữ có vị thế tương đối cao. Như chúng ta sẽ thấy, khi các hào trưởng Lạc nổi lên chống lại ảnh hưởng ngày càng nặng nề của Trung quốc, các cuộc nổi dậy của họ đều do phụ nữ lãnh đạo”. Vậy, chấm dứt huyền thoại lâu đời về chuyện Lạc hầu, Lạc tướng. Trận đánh của Ngô Quyền trên sông Bạch Đảng diễn ra vào mùa đông năm 938 nhưng tác giả sách The Birth of Việt Nam ghi nhầm vào mùa thu. Dù vậy, ông hiểu rõ ý nghĩa của sự việc này. “Trận đánh trên sông Bạch Đằng và sự nổi lên của Ngô Quyền là một sự kiện cực kỳ lớn lao gây rúng động cả dân tộc. Từ đây họ có thể tưởng tượng được một vị vua Việt Nam của mình”; tác giả đã ghi một nhận định bình thường nhưng từ đó chúng ta có thể hiểu ra một điều quan trọng mà cho đến nay dường như chưa một sử gia nào gợi ý: “Ngô Quyền đặt việc xưng vương của mình vào truyền thống vương quyền của đất nước”. Và “Ngô Quyền củng cố việc xưng vương của mình với sự tôn trọng phù hợp với quan niệm của người dân bản địa về quyền lực chính trị.” Tiến sĩ K.W. Taylor nói đến “truyền thống vương quyền” và “phù hợp với quan niệm của người dân bản địa về quyền lực chính trị”, nhưng có lẽ chính ông cũng chưa nhận ra nội hàm rất đặc biệt trong từ Vương của “truyền thống vương quyền” của người Việt Nam. Vương là một từ thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), hay nói cách khác, nó là từ “thuần Việt” được người Tàu viết với dạng biểu ý nên nó có vỏ chữ Tàu, chớ nó không phải là “tiếng Hán”. Chữ “Vương” gồm ba vạch ngang song song (三) hội ý tượng trưng tam tài Thiên - Địa - Nhân, và một vạch dọc ở giữa nối liền ba gạch ngang (王). Vậy Vương ngụ ý là người “nối thông tam tài,” hoặc đấng liên kết con người với trời đất. Trong ngữ nghĩa đó, Vương là một hiền giả, một nhà minh triết của nền văn minh nông nghiệp, hiểu rõ lẽ nhân sinh và thiên văn địa lý, chớ không phải người cai trị chính trị (vua). Có lẽ trong mỗi cộng đồng dân cư người Việt nguyên thủy với nền văn minh nông nghiệp sơ khai đều có một nhà lãnh đạo tinh thần là Vương mà quyền lực chính là uy tín cá nhân người đó. Với vai trò “nối thông tam tài” hoặc “liên kết con người với trời đất” có lẽ vương gần với một pháp sư hơn. Hoặc vương là pháp sư của một cộng đồng. Sách (Đại) Việt Sử Lược viết: “Vào thời Chu Trang Vương (696- 682 trước CN) ở Gia Ninh có một dị nhân dùng pháp thuật thu phục tất cả các bộ lạc. Ông tự xưng là Hùng Vương”. “Dị nhân dùng pháp thuật” chính là cách biểu thị một pháp sư. Cả nước có thể có nhiều “vương” (pháp sư) trong từng cộng đồng dân cư nhỏ, nhưng thỉnh thoảng xuất hiện một người có pháp thuật cao cường hoặc sự minh triết vĩ đại, uy tín bao trùm cả nước, như một bậc thánh nhân; người đó được tôn là Hùng Vương, nếu không phải tự xưng như sách (Đại) Việt Sử Lược nói. Vậy, HÙNG VƯƠNG CHỈ CÓ NGHĨA NÔM NA LÀ VỊ ĐẠI PHÁP SƯ hoặc vị PHÁP SƯ TRƯỞNG của quốc gia, với tất cả sự thiêng liêng và tôn nghiêm, có thể có cả sự huyền bí nữa, dành cho chức vị này, như thấy trong chế độ thần quyền của một số dân tộc thời sơ khai, và cả trong giới tăng lữ ở châu Âu tồn tại mãi đến thời Trung cổ. Điều này phù hợp với phát hiện mới về ngôn ngữ học: “từ Hùng có nguồn gốc từ một danh hiệu của người thủ lĩnh đến nay vẫn còn tồn tại trong ngôn ngữ của các dân tộc nói tiếng Môn-Khmer sống tại các vùng núi ở Đông Nam Á, cũng như trong tiếng Mường, thứ ngôn ngữ miền trung du gần gũi chị em với tiếng Việt”. Vậy, nghĩa nguyên thủy của Vương không phải là “Vua”. Hùng Vương không có nghĩa và không phải là “vua” Hùng, không có tính thừa kế liên tục. Ở đâu đó nhà ngôn ngữ học Trung quốc Vương Lực cho Vua là âm cổ của Vương là điều đáng ngờ. Hai từ đó phải chỉ hai thực thể khác nhau. Trong nền văn minh nông nghiệp hiền hòa với sự lãnh đạo của các vị vương đó, ông vua chưa có mặt. Vương thì có nhiều trong các cộng đồng địa phương, nhưng Hùng Vương thì rất hiếm. Có thể hàng trăm năm mới xuất hiện một người. Điều đó cắt nghĩa tại sao trong suốt thời gian 2622 năm chỉ có 18 vị Hùng Vương (mà trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim tính bổ đồng mỗi vị trị vì đến gần 150 năm!) Sách Hán Tự Tố Nguyên ( 汉 字溯源 ) của Lý Lạc Nghị nói dạng kim văn của chữ Vương là tượng hình lưỡi rìu, (*) với ý nghĩa người cầm lưỡi rìu là người nắm giữ quyền lực, tức là vua. Kim văn là chữ tượng hình khắc trên đồ đồng từ đời nhà Thương được phát hiện tại các di chỉ Ân Khư, kinh đô nhà Thương, thuộc tỉnh Hà Nam, Trung quốc. Người ta biết lưỡi rìu là vũ khí đặc trưng của người Việt cổ. (Vũ khí đặc trưng của người Tàu là kiếm). Nhìn hình dạng lưỡi rìu người ta nghĩ ngay đến một ông vua người Việt (chớ không phải một ông vua nào khác). Thế nhưng hình cái lưỡi rìu không chứa trong nó nội hàm lớn lao là Vương đạo mà người Trung quốc cổ rất ngưỡng mộ nhưng không theo, và Khổng tử dành cả đời để thuyết giảng nhưng không vua chúa nào chịu nghe vì Vương đạo là truyền thống của người Việt. Hơn nữa, dạng giáp cốt văn của chữ Vương (*) là hình một người (pháp sư) dang tay cầu khẩn (với trời đất). Người Trung quốc biết rõ Vương là một tôn hiệu mang một khái niệm ngoại lai chớ không phải từ bản ngữ với nội dung của tinh thần dân tộc họ. Trong toàn bộ lịch sử Trung quốc, chỉ có các vua nhà Chu (từ thiên niên kỷ I đến thiên niên kỷ II trước Công nguyên) xưng Vương. Lý do là trước đó các bộ lạc du mục từ miền Tây Bắc nước Tàu cổ tràn xuống phương Nam, sống chung với đại chủng người Việt (mà người Tàu gọi là Yüeh) nói tiếng Nam Á, phía dưới sông Hoàng Hà, và bị tiêm nhiễm văn hóa Việt, nên các vua của họ mới xưng Vương theo người Việt. Nhưng như đã biết, trong văn hóa của người Việt, Vương là một hiền giả, một người minh triết, một đấng thánh nhân, có thể cũng nắm giữ vị trí lãnh đạo xã hội, chủ yếu bằng đức độ và sự minh triết, chớ không phải bằng quyền lực và vũ lực. Thiên Hồng Phạm trong Kinh Thư viết: “Thiên tử tác dân phụ mẫu, dĩ vi thiên hạ vương” 天子作民父母, 以為天下王 (Bậc thiên tử là cha mẹ của dân, làm vương thiên hạ). Tức nói về đức độ lãnh đạo của bậc vương, là Vương đạo, chớ không phải quyền lực cai trị. Cha mẹ thương yêu nuôi nấng dạy bảo con cái chớ không dùng quyền lực cai trị con cái bao giờ. Kinh Thư là một trong những tác phẩm kinh điển được viết vào thời nhà Chu tức thời người Trung quốc chịu ảnh hưởng văn hóa Việt này. Danh hiệu Bố Cái Đại Vương mà Phùng An tôn xưng người cha vĩ đại đã qua đời của mình là trong ý nghĩa đó. Bố Cái Đại Vương = Đấng Cha Lành Vĩ Đại. Chớ không phải “Vua cha mẹ vĩ đại”. Đại Vương không phải và không có nghĩa là “ông vua lớn”. Và Phùng Hưng không bao giờ là ông “vua lớn” hay ông vua vĩ đại cả. Nhân đây, trong một ghi chú trong sách (số 96, dưới trang 204) tác giả viết: (trích): “Ý kiến của Haudricourt cho rằng “Bố Cái” phải được dịch là “vua cái”, “vua vĩ đại” (John De Francis, “Colonialism and language Policy in Vietnam”, (Chủ nghĩa thực dân và chính sách về ngôn ngữ ở Việt Nam, trang 22) là có lý và hấp dẫn, nhưng như thế là bỏ qua sự kiện trong văn bản của Việt Điện U Linh Tập giảỉ thích một cách rõ ràng rằng: Vì, theo cách nói của người địa phương, người ta gọi cha là bố, và gọi mẹ là cái” (Việt Điện U Linh Tập, 6) (hết trích). André-Georges Haudricourt là nhà nhân chủng học và ngôn ngữ học người Pháp của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Ông hiểu rõ từ “Cái” (Nhưng “Bố” là Cha chớ không phải là Vua). Cái là một từ cổ trong tiếng Việt có nghĩa “chính,” “to lớn,” “quan trọng”, “đứng đầu”… Ví dụ Sông cái, đường cái, ngón tay cái, thợ cái (Thợ cái là người đứng đầu trong nhóm thợ) v.v… Cái không bao giờ có nghĩa là Mẹ như được hiểu lầm. Trước kia tại một số địa phương ở miền Bắc và miền Trung, có người gọi mẹ là bu, u, hay vú; hoặc vì một số lý do đặc biệt nào đó, có người có thể gọi mẹ là dì hay chị, nhưng không nơi nào có người gọi mẹ là là “Cái” bao giờ. Trong câu tục ngữ “Con dại cái mang”, từ “Cái” không hề có nghĩa là mẹ. Cái là người lớn nhất, có vai trò quan trọng nhất trong gia đình (chỉ trong chế độ mẫu hệ, vai trò “cái” đó mới do người mẹ nắm giữ). Dân tộc Việt Nam thuộc văn minh nông nghiệp; người Tàu nguyên thủy thuộc nền văn minh du mục. Từ nhiều ngàn năm trước người Tàu đã biết rõ sự khác biệt đó. Họ “vẽ” từ nước (quốc gia) của hai chủng dân bằng hai mặt chữ khác nhau. Chữ Quốc để chỉ quốc gia của những người Việt có vương đạo được vẽ một hình vuông bao bọc một chữ vương ở trong ( 囯 ): đất nước của văn minh nông nghiệp với vương đạo của các nhà hiền triết. Đó là chữ quốc “đơn” chỉ dùng để chỉ quốc gia của người Việt thôi, chớ bản thân người Tàu không bao giờ dùng; mà họ cũng không dùng nó để chỉ một quốc gia nào khác. Nếu coi chữ Vương là hình lưỡi rìu kim văn thì chữ Quốc ( 囯 ) càng mang nghĩa xác định nước của người Việt. Ai học chữ Hán cũng biết, không kể chữ Quốc “đơn” với chữ Vương đó, hiện nay trong chữ Hán có hai chữ Quốc nữa, mà một, chữ quốc xưa, chữ quốc phồn thể, biểu hiện tính cách du mục của dân tộc Trung quốc. Thoạt đầu người Tàu vẽ khái niệm quốc gia của minh bằng hai vạch ngang (二), ở giữa hai vạch là một cái ô vuông. Hai vạch tượng trưng trên là trời, dưới là… bãi chăn thả. Dưới trời và trên bãi chân thả là… người Tàu (cái ô vuông - chữ khẩu (口) - tượng trưng cho người). Trong cuộc sống du mục họ thường phải cạnh tranh giành bãi chăn thả của nhau, nên cần phải có vũ khí để bảo vệ - và để xâm lăng. Vạch ngang phía trên được vẽ thêm vài nét thành một món vũ khí - cái qua. (戈) (Can qua (干戈) là cái qua và cái khiên, hai món biểu tượng cho chiến tranh). Cụm hình vẽ đó gọi là chữ “hoặc” hay “hoắc”, (或) hàm nghĩa “có người”. Về sau, khi khái niệm quốc gia phát triển lên một mức cao hơn, họ vẽ thêm chữ “vi”, (囗) một ô vuông to hơn, bao bọc chung quanh chữ “hoặc” - như biên giới bảo vệ chỗ “có người”. - Đó là chữ Quốc phồn thể (國) hàm nghĩa đất nước của người du mục, có vũ khí để xâm lăng và tự vệ. Năm 1949, trong khi cải tổ chữ viết họ nói chữ Quốc phồn thể nhiều nét rắc rối, khó nhớ quá, phải đơn giản thôi. Tuy vậy, họ vẫn không dùng chữ quốc minh triết của người Việt đã có sẵn từ nhiều ngàn năm. Họ sửa nó bằng cách thêm một dấu chấm vào cạnh nét sổ dọc của chữ Vương, biến chữ Vương (王) thành chữ ngọc (玉). Đó là chữ Quốc thứ ba, (国) giản thể, hiện nay, ngụ ý: Trung Quốc (中国) là đất nước của ngọc ngà châu báu (chớ không phải của Vương đạo - Vương đạo là thứ của dân tộc Việt thuộc văn minh nông nghiệp.) Người Tàu biết rõ như thế, còn người Việt (xưa) có lãnh hội điều đó không? Có. Không những có biết mà tiền nhân ta đã tỏ ra rất tự hào về điều này. Có một giai thoại kể chuyện trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Tàu. Trong một cuộc chiêu đãi các sứ thần ngoại quốc ngay tại triều đình Trung quốc, vị hoàng đế Trung quốc có ra đề thơ hay câu đối gì đó và yêu cầu các sứ thần đáp lại. Do ngôn ngữ bất đồng, các sứ giả phải dùng cách bút đàm. Bài thơ (hay câu đối) của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi được chấm giải nhất, với lời nhận xét của vua Tàu: về sau con cháu sẽ “có nước”, nhưng vì trạng nguyên dùng chữ Quốc “đơn” nên phúc phận con cháu không nhiều. Không xét chuyện “phúc phận” của con cháu Mạc Đĩnh Chi ra sao, chỉ cần thấy một ông trạng nguyên, chắc chắn là người học vấn giỏi nhất thiên hạ, từng đọc thiên kinh vạn quyển biết rõ người Tàu không đánh giá cao vương đạo của dân tộc mình, thế mà giữa triều đình của đại quốc, trước mặt “thiên tử” ông điềm nhiên viết ra cái hình vẽ rạng rỡ mang niềm tự hào dân tộc! “Trong nền văn minh du mục, người lãnh đạo nắm toàn quyền cai trị và thống nhất xã hội bằng vũ lực. Chính sự bắt chước theo văn hóa Việt đã làm phân hóa xã hội của chủng dân du mục. Tước vị Vương của nhà Chu chỉ cho họ một điều thích hợp duy nhất là tôn người lãnh đạo lên bậc chí tôn, thiên tử, con trời. Nhưng vì không có quyền lực và vũ lực trong tay nên ông con trời đành bất lực nhìn đất nước phân tán nát bấy. Nhà Chu có tới tám trăm nước chư hầu. Tức là tám trăm bề tôi của cùng một ông vua đều mỗi người làm vua một cõi mà thiên tử nhà Chu yếu thế không có vũ lực trong tay, không làm gì được, kể cả khi đám bề tôi đó liên tục nhân danh thiên tử để triệt hạ và thâu tóm lẫn nhau. “Vì thấy rõ cái Vương đạo của người Lạc Việt chỉ phù hợp cho chủng dân với nền văn minh nông nghiệp hiền hòa và minh triết, không thể áp dụng được cho chủng dân vốn xuất phát từ nền văn minh du mục, nên mặc cho Khổng Tử mang Vương đạo đi rao giảng khắp nơi mòn giầy lỏng gối mà chẳng ai thèm nghe theo. “Khi Tần vương Doanh Chính thống nhất thiên hạ, ông ta quyết định xưng Đế theo truyền thống của người dân du mục trước đó. Thủy Hoàng Đế: Hoàng Đế đầu tiên”. (còn 1 kỳ) Thiếu Khanh
Phụ Bản II Ngày Xuân Đọc Báo Xuân “Phong Hóa” của Tự Lực Văn Đoàn
Lời người viết : Phong Hóa là một tờ tuần báo của thế kỷ trước, số 1 ra ngày 16-6-1932, do ông Phạm Hữu Ninh làm quản lý và Nguyễn Xuân Mai giám đốc chính trị. Nhưng ra đến số 13 thì ban quản trị sang lại cho nhà văn Nhất Linh, nên tờ Phong Hóa từ số 14 trở đi, Nhất Linh chính thức đứng tên chủ bút dưới tên thật là Nguyễn Tường Tam cùng với sự hợp tác của nhiều nhà văn, nhà báo, họa sĩ mà sau này trở thành đoàn viên của Tự Lực Văn Đoàn như Nhất Linh, Hoàng Ðạo, Thạch Lam, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu, hoặc có những ngòi bút tên tuổi hợp tác - tuy không phải thành viên của Tự Lực Văn Đoàn nhưng đoạt giải văn chương do Văn Đoàn tổ chức - như Ðỗ Ðức Thu, Phan Văn Dật, Vi Huyền Ðắc, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Tế Hanh… Ngoài ra, có những chi tiết mà sau này ít ai được đọc lại như mục đích, chủ trương thành lập của Tự Lực Văn Đoàn với văn phong nguyên thủy thuở ban đầu cũng đã được phổ biến trên báo Phong Hóa, số 87 ra ngày 02 tháng 3-1934. Rồi thể lệ cuộc thi sáng tác gọi là “ Giải Thưởng Tự Lực Văn Đoàn ” được công bố 3 tháng sau ngày Văn Đoàn thành lập, cũng đã được phổ biến trên Phong Hóa số 101 ra ngày 08 tháng 6-1934. Đoán biết sẽ có ngày Phong Hóa bị chết, Nhất Linh đã xin phép ra một tờ báo dự trữ thứ hai, đó là tờ báo Ngày Nay chỉ chuyên về mỹ thuật, văn chương. Báo Ngày Nay số 1 ra vào ngày 30-01-1935 và tới ngày 07-9-1944, ra số 224 thì bị chính quyền thực dân rút giấy phép, đóng cửa hẳn. Tờ Phong Hóa ra tới số 190, ngày 05-6-1936 thì đổi tên thành Ngày Nay nhưng cũng vẫn do nhóm Tự Lực Văn Đoàn đảm trách. Tất cả những chi tiết quý báu nêu trên, gần đây đã được nhắc lại trên trang nhà của Đại Học Hoa Sen ( http://tintuc.hoasen.edu.vn ) trong một thông báo về sự “số hóa” các số báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn, tức là các trang báo đã được scan lại thành digital (số hóa) và nay sẽ xuất hiện dưới dạng PDF để ai vào Net cũng có thể đọc được. Đây thực sự là một tin vui lớn lao cho những ai đã từng quan tâm tới vấn đề sách, báo “thời tiền chiến”, tức là những năm 30 của thế kỷ 20, trước Đệ nhị Thế chiến 1939-1945. Công trình đồ sộ, công phu, tốn rất nhiều công sức này là của một nhóm nhân vật đầy thiện chí với công cuộc gìn giữ và bảo tồn văn hóa, bao gồm các vị như Phạm Thảo Nguyên , Martina Nguyễn Thục Nhi , Nguyễn Tường Thiết, Vu Gia … hợp tác với Nhóm Kỹ Thuật gồm các vị Nguyễn Trọng Hiền, Lê Thành Tô n với sự giúp sức của Đỗ Thị Kim Dung, Lê Huyền Thanh. Là một độc giả vốn hâm mộ Phong Hóa, Ngày Nay từ thuở thiếu thời, nay được nhìn lại trên màn hình tờ báo gần như còn nguyên vẹn như ngày xưa, tôi vô cùng cảm kích và rất biết ơn các vị đã đóng góp công sức vào công cuộc bảo tồn văn hóa lớn lao này, cũng như các tạp chí Nam Phong , Thanh Nghị , Tri Tân cũng đã được nhiều nhóm thiện chí khác số hóa, để cho mọi người còn được dịp thưởng ngoạn lại những công trình tim óc của nhiều thế hệ đi trước. *** Nhân dịp đầu Xuân, mở đọc số báo Xuân Phong Hóa năm Giáp Tuất (tức Phong Hóa số 85 ra ngày 11 tháng 02-1934), tôi xin làm một cuộc tường trình sơ lược về số báo này để chia sẻ với bạn đọc về một tờ báo Xuân đã phát hành cách nay cũng đã tròn 80 năm. Vì trang báo có hạn, tôi chỉ xin lược qua vài nét chính, muốn đọc đầy đủ chi tiết bài vở hơn, xin quý vị vào trang web: http://tintuc.hoasen.edu.vn/vi/1437/tin-chuyen-de/so-81-den-100-bao-phong-hoa rồi click vào khung: PH 085 (11-2-1934 ) Phong Hóa số Mùa Xuân Quý Dậu , 1934 dầy 36 trang khổ lớn, giá bán 20 xu. Bìa in 4 mầu do họa sĩ Le Mûr tức Cát Tường vẽ, nội dung diễn tả cảnh Cụ Lý Toét đi du xuân (xin coi hình ở trên). Trong hình, ta thấy Cụ Lý choàng khăn đỏ che lấp cái khăn xếp mầu đen cố hữu, vai vẫn vác ô nhưng lại là cái ô “lục soạn” mầu xanh lá cây chứ không phải ô cũ rích mầu đen thường ngày. Lục soạn là một thứ lụa trơn, mỏng người Hà Nội thời đó ưa dùng, cũng để làm ô che, dù che. Một tay Cụ Lý cầm phong pháo đang đốt, tay kia nâng cái ô trên vai, ở cán ô thấy treo lủng lẳng đôi dép Gia Định buộc chung với vài túm, gói không biết bên trong đựng những gì. Tuy Cụ Lý treo đôi dép trên cán ô, nhưng chân cụ lại đi dép có quai ngang chứ không giẫm đất (tết nhất ai lại đi chân đất!). Ở ngang thắt lưng, Cụ giắt một cây quạt giấy (trời Xuân mát mẻ đâu cần quạt nhỉ?). Còn ở ngang ngực, Cụ đeo một cái bao kính mà theo nhà thơ Tú Mỡ thì cái bao này có bọc vải thêu bên ngoài cẩn tó (xin coi bài thơ họa bức tranh Bìa của Tú Mỡ ở dưới). Năm ấy, Dậu vừa qua, Tuất đang tới nên họa sĩ vẽ thêm ở dưới chân cụ Lý có một cái bu gà trong nhốt một anh gà sống thiến đang thò đầu ra khỏi bu kêu quang quác. Bên cạnh bu gà, không hiểu sao lại không có một anh Chó cho đúng năm Tuất mà lại có một Cụ Rùa đang kéo theo nào chai rượu Văn Điển, nào bầu rượu. Lại có cả cuốn sách Niên Lịch cùng nhiều thứ linh tinh khác, đặc biệt là cái bánh chưng, chẳng hiểu sao lại bọc ngoài nhãn hiệu là “Lang Băm” (không theo dõi thường xuyên báo Phong Hóa chắc ít ai hiểu thâm ý của họa sĩ). Riêng nhà thơ Tú Mỡ thì nơi trang 7 đã có bài thơ “ Lý Toét Chơi Xuân ” diễn tả nguyên trang bìa. Xin trích lại ít câu để độc giả thưởng lãm: LÝ TOÉT CHƠI XUÂN (tả bức tranh ngoài bìa của họa sĩ LE MÛR ) Đầu năm Lý Toét chơi xuân Phất phơ bộ cánh, áo quần bảnh bao Khăn nhiễu đỏ quấn đầu, quấn cổ Áo láng thâm lót lụa mầu vàng Quần hồng súng sính, xênh xang Chân đi giép Nhật quai ngang điếm đời Ô-lục-soạn vắt vai, ra dáng ! Đầu cán ô giầy láng buộc treo Trước ngực đeo bao kính thêu Quạt tầu chổng gọng giắt ngoèo thắt lưng Trông dáng bộ tưng bừng phớn phở Mắt gấp gãy nhăn nhở miệng cười Cụ mừng tết đã tới nơi Trời cho thăng chức lên ngôi lão làng… … (bài thơ còn dài, xin ngưng trích) TÚ MỠ Vì là Số Tết nên nội dung tờ báo tràn ngập không khí Tết. Như nơi trang 6, tòa soạn dành nguyên cả trang cho mục Thơ có tên gọi là “ Hoa Đầu Xuân ”. Trong mục này ta thấy có 3 bài thơ của Thế Lữ (Hái Hoa, Tiếng Sáo Thiên Thai, Cây Đàn Muôn Điệu), và 1 bài ký tên Tường Bách chắc là của Nguyễn Tường Bách, bào đệ của Nhất Linh. Tưởng cũng nên nhắc lại bài hát Tiếng Sáo Thiên Thai là do Phạm Duy phổ nhạc bài thơ cùng tên của Thế Lữ. Nó đã rất được ưa chuộng, ngay cả cho tới tận ngày nay. Thì ra bài thơ này đã xuất hiện lần đầu ở đây, số Xuân Phong Hóa năm Giáp Tuất 1934: Tiếng sáo Thiên Thai Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi, Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng. Tiếng đưa hiu hắt bên lòng, Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn… Tiên Nga tóc xõa bên nguồn. Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu; Mây hồng ngừng lại sau đèo, Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi. Trời cao, xanh ngắt. - Ô kìa Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai. Theo chim, tiếng sáo lên khơi, Lại theo giòng suối bên người Tiên Nga. Khi cao, vút tận mây mờ, Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh, Êm như lọt tiếng tơ tình, Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không, - Thiên Thai thoảng gió mơ mòng, Ngọc Trân buồn tưởng tiếng lòng xa bay… Thế Lữ Cũng ở nơi trang 6 này, ta thấy có một khung quảng cáo cho tập thơ nổi tiếng “MẤY VẦN THƠ ” của Thế Lữ. Xin sao lại nguyên văn cái quảng cáo này vì nó cũng là một hình ảnh đáng ghi của quá khứ: TỰ LỰC VĂN ĐOÀN MẤY VẦN THƠ của Thế Lữ (góp những bài thơ hay của Thế Lữ in thành sách). In có hạn và in thật có vẻ mỹ thuật In trên giấy lệnh Annam thứ trắng và dầy, chữ mực đen đè lên nét vẽ mầu xanh nhạt. Họa sĩ Trần bình Lộc trông nom về mặt mỹ thuật, ông Đỗ Văn trông nom về mặt in. Mỗi cuốn giá 1$00, cước gửi 0$20. Trả tiền trước bằng ngân phiếu 1$20, gửi về cho người nhận thay ông Thế Lữ: Nguyễn Tường Tam, 1 Bd Carnot - Hanoi. Bao nhiêu người gửi tiền mua thì in bấy nhiêu. Ngoài ra không bán . Thật là một cuốn sách quý để dành riêng cho bạn yêu thơ Thế Lữ. (hết quảng cáo) Như ở trên ta thấy, ngay trong số xuân này, tức số 85 ra ngày 11-2-1934, đã xuất hiện hàng chữ Tự Lực Văn Đoàn đặt ở trên cái tựa đề “Mấy Vần Thơ” của Thế Lữ, nhưng mãi tới số 87, ra ngày 2-3-1934 mới thấy công bố mục đích, tôn chỉ của Văn Đoàn này. Vậy nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn đã công bố trên Phong Hóa số 87, nguyên văn như sau: Tự Lực Văn Đoàn Tự Lực Văn Đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương. Người trong Văn Đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực Văn Đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn Đoàn nhận và đặt dấu hiệu. Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo gửi đến để Văn Đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn Đoàn có mặt ở Hội-đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Văn Đoàn và sẽ tùy sức cổ động giúp. Tự Lực Văn Đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách. Sau này nếu có thể được, Văn Đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là Giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của đoàn. Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn : 1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài, nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích để làm giầu thêm văn sản trong nước. 2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội chủ ý làm cho Người và cho Xã hội ngày một hay hơn lên. 3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân. 4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách Annam. 5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. 6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quý phái. 7. Trọng tự do cá nhân. 8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa. 9. Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Annam. TỰ LỰC VĂN ĐOÀN NHẬT TIẾN - ĐỖ THIÊN THƯ st. ( Phong Hóa số 87, ra ngày thứ Sáu 2 tháng 3-1934) TRUYỀN THUYẾT TÁO QUÂN Hàng năm vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, từ thành thị đến thôn quê, khắp nơi trong nước ta, cùng một ngày một giờ dân chúng làm lễ tiễn đưa Táo quân chầu Trời. Truyện kể rằng xưa kia ở nước ta có đôi vợ chồng nhà nọ, chồng tên Trọng Cao, vợ là Thị Nhi. Chung sống đã lâu mà không có con, cuộc sống rất tẻ nhạt; thỉnh thoảng vợ chồng cãi vã, rồi đánh đập tàn nhẫn, vợ thấy chồng vũ phu, thô bạo, chịu không nổi thừa lúc chồng vắng nhà bỏ trốn ra đi. Thị Nhi đến một nơi vắng vẻ, vì đường xa mệt mỏi, nằm bên gốc cây cổ thụ nghỉ chân. Bỗng có một người con trai diện mạo khôi ngô đi ngang, thấy người đàn bà đẹp đem lời ong bướm. Sau nhiều lời hợp ý của Phạm Lang, Thị Nhi ưng thuận về làm vợ. Trọng Cao về nhà thấy vợ đi mất, vội tìm kiếm khắp nơi để tạ lỗi. Nhưng tìm mãi không thấy, tiền trong túi đã cạn. Cuối cùng, Trọng Cao phải đi ăn xin để mong có ngày gặp lại vợ. May mắn cho anh, khi đến ăn xin một nhà nọ, vì trải qua nhiều ngày đi đường mệt nhọc, bụng đói, sức yếu ngã gục bên thềm nhà Phạm Lang, mà anh không hề biết chính là nhà vợ trước của mình. Trọng Cao và Thị Nhi hội ngộ trong lúc Phạm Lang đi vắng chỉ có vợ ở nhà. Thị Nhi nhận đúng là chồng cũ, lấy làm hối hận, đỡ dậy đem vào nhà lo cơm nước thết đãi Trọng Cao tử tế. Rồi Thị Nhi chợt nhớ đến Phạm Lang, nếu biết được ắt sẽ lôi thôi, nên đề nghị Trọng Cao ra ngoài đống rơm phía sau nhà nằm nghỉ tạm vài hôm để Thị Nhi có thời gian thu xếp hành lý, tìm cách trở về đoàn tụ, chung sống như xưa. Đêm ấy, sau khi Phạm Lang trở vô nhà, nhớ đến ngày mai không có tro để bón phân ruộng, liền ra đống rơm châm lửa đốt cháy. Lúc ấy Trọng Cao đang ngủ ngon giấc, mà Thị Nhi cũng đang ngủ say trong nhà. Khi hay tin Phạm Lang đốt cháy đống rơm, Thị Nhi vội chạy ra để cứu Trọng Cao nhưng đã muộn mất, lửa bốc cháy to quá, Trọng Cao đã thành người thiên cổ. Thị Nhi thương tiếc Trọng Cao xông vào cứu người chồng bạc số nên cũng bị ngọn lửa thiêu chết cháy luôn. Phạm Lang đứng ngoài trông thấy vợ xông vào đống lửa mà không thấy nàng ra, liền nhảy vào tìm, ngọn lửa thiêu cháy cả chàng. Như thế, ngọn lửa vô tình đã giết chết 3 mạng người một lúc. Sáng hôm sau, thiên hạ hay tin đã cho rằng những người chết ấy sau này linh thiêng lắm. Do vậy, từ đó về sau dân chúng làm bếp ghép ba hòn đá đều nhau bắt ba góc, để kỷ niệm ngày chết Trọng Cao - Thị Nhi - Phạm Lang. Dân chúng đặt tên cho Phạm Lang là Thổ công, trông nom việc trong bếp; Trọng Cao là Thổ địa, trông nom việc nhà; Thị Nhi là Thổ kỳ trông nom việc chợ búa cho đàn bà, hoặc việc sinh sản, hoa màu súc vật ở vườn đất… Cứ đến cuối năm, vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, từ thành thị đến thôn quê, thì thần Táo quân lên trời chầu Ngọc Hoàng Thượng đế, để báo cáo những việc lành dữ hàng năm của mỗi gia đình ở trần gian, mà Táo quân có trách nhiệm trông nom suốt năm. Trong ngày 23 tháng Chạp, người ta làm lễ tiễn đưa linh đình, mua sắm lễ vật nào nón mão, áo, vàng bạc bằng giấy, nhang đèn, giấy tiền cò bay ngựa chạy… để đốt cúng. Đến ngày 30 tháng Chạp là ngày Táo quân trở về chốn cũ bắt tay vào việc mới, cho năm mới… Tập tục Tết Táo quân ở nước ta là do truyền thuyết đó, hiện nay đã có phần hạn chế bớt, do thiếu cơ sở khoa học, chỉ khai thác sự mê tín dị đoan làm lãng phí tiền bạc một cách xa xỉ. BĐ. st. SÁCH XƯA&NAY MẢNH VỤN MỪNG XUÂN
Nghe vẻ nghe ve Nghe vè XƯA NAY Giới thiệu sách hay Mọi người mê say Cố vấn CHA TRIẾT Đi công tác miết Hiền từ đức độ Bao người ái mộ Anh Tuấn mê sách Đi mọi ngõ ngách Tìm chọn sách hay Ngồi đọc mê say Mua về giới thiệu Quý thư hàng hiệu Bài vở gởi về Mạnh Đoàn bộn bề Tất cả chỉnh tề Hội viên nhận về Tình cảm tràn trề Bác sĩ Doãn Linh Làm thơ rồi dịch Yêu thơ mê nhạc Lang Nguyên chững chạc Ngàn Phương mộc mạc Quang Bỉnh hay cười Thơ về quê hương Nhung nhớ vấn vương Tình nghĩa gia đình Tôn vinh Anh mình Thùy Hương trải lòng Bày tỏ bao giòng Đặc biệt vè chòi Có Ngô Bá Mạnh Thật là bất hạnh Tai nạn mãi hoài Nhà tận Gò Xoài Hát ca chia sẻ Kim Sơn vui vẻ Từ Nguyên tươi trẻ Cũng đi đơn lẻ Thanh Châu cao ốm Tóc đà lốm đốm Tiếng hát át bom Kính thưa Cô Bác Cùng Huynh Tỷ Muội Danh sách hội viên Kể hết triền miên Không dám huyên thuyên Dài dòng văn tự Bao nhiêu tâm sự Bấy nhiêu người dự Thành tâm cầu chúc Năm mới hạnh phúc Hàng tháng định kỳ Xưa Nay điểm hẹn Tình cảm thiết tha Luôn sống vị tha Trước lúc “GÚT BAI” Ăn uống lai rai Tất Niên tạm vắng Chúc luôn may mắn Nâng cốc đi nào Xuân đến đón chào Xưa Nay tự hào Xin có lời mời TÂN NIÊN nhớ đến Hội viên thân mến Cầu chúc an lành Với cả lòng thành Trước lúc chia tay Chúc Ban Chủ Nhiệm Cô Bác Huynh Tỷ Xuân đến hoan hỷ Mọi việc hoàn mỹ Sinh hoạt chăm chỉ PHƯỚC HẠNH CHÚA BAN
VŨ THÙY HƯƠNG ĐÓN XUÂN Trời hơi se lạnh về Đông Miền Trung mưa lũ bão giông mãi hoài Thiên tai luôn đến miền ngoài Bao người sống cảnh lạc loài thương tâm Thế mà sắp hết một năm Ước ao no đủ lâm râm nguyện cầu Mong sao Xuân đến vơi sầu Nước nhà khởi sắc hoa mầu đẹp xinh Đinh Dậu sắp đến hiển vinh Xóa tan xui rủi phát sinh năm rồi Đông tàn Xuân đến bồi hồi Đào - Mai - Cúc - Trúc đâm chồi nở hoa Cảnh quang nhìn ngắm xuýt xoa Xưa Nay rực rỡ như thoa phấn hồng. VŨ THÙY HƯƠNG TRỒNG CÂY ĐỨC Người trồng cây kiểng người chơi Tôi trồng cây đức để đời cháu con Mai sau nước chảy đá mòn Kiểu đời thay đổi vẫn còn lòng nhân Sống sao nở mặt lương tâm Sớm ưa tối ghét thì thầm trái tai Mặc cho ai nói bên ngoài A dua nịnh hót buồn rày kẻ nghe Dù cho tài giỏi đỡ che Chi bằng trung thực bạn bè ngợi khen Nhìn kìa quân tử xóm giềng Anh hùng đất nước như tiên hạ trần Xem gương tốt đẹp tinh thần Học từng cử chỉ ta cần để tâm Trước tôn Tổ Phụ uyên thâm Sau bền tài đức mới tầm đạo cao. LANG NGUYÊN DẬU (GÀ) Thần kê báo thức giấc liêu trai Gà gáy đong đưa bóng ngã dài Trại thú thung thăng hồi trống sớm Nhà thiền rộn rã tiếng chuông mai Nông dân thức giấc đèo cơm nước Du mục bận lo sửa lưỡi cày Lãng tử xốn xang vì chậm bước Anh hùng chăm chỉ chí giồi mài. LANG NGUYÊN MỪNG XUÂN ĐINH DẬU 2017 Xuân về vấn vít mối tình đầy Đinh Dậu tết nầy rạng rỡ đây Ngày đợi tin nhạn bay ải bắc Đêm trông bóng nguyệt lặn phương tây Ngâm câu thi tứ lòng hăng hái Nhắp chén rượu đào dạ cảm say Lòng tưởng nhớ ai, ai có biết Tâm tư gởi trọn hết đông nầy LANG NGUYÊN MỪNG XUÂN ĐINH DẬU 2017 Xuân tươi thắm nét cuộc đời Đua bay cánh én vòm trời xanh lơ Bình minh con bướm nhởn nhơ Búp hoa chớm nở đợi chờ nụ duyên Nắng xuân tỏa sáng dịu hiền Gió xuân ấm áp thổi nghiêng nón nàng Tình quê tha thiết dịu dàng Bầy chim tung cánh hót vang chào mừng Xuân về hoa nở tưng bừng Lòng người phơi phới như từng yêu nhau Vui thay tuổi trẻ đón chào Năm nay hạnh phúc về bao cuộc đời Vui đi ca hát khắp nơi Cùng nhau chúc tụng những lời thiết tha Trăm năm khỏe mạnh tuổi già Nhân tâm thuận thảo, lộc quà đầy kho… Thanh Châu Xuân nhật hỷ tình Lâm ly nhất vũ tiện kinh tuần, Thặng hỷ kim triêu tễ sắc chân. Nhật lệ phong khinh tăng khí tượng, Sơn thanh thủy lục bội tinh thần. Trường không trạm trạm vô dư cảnh, Tứ hải hy hy cộng nhất xuân. Phong vật mãn tiền ngâm hứng túc, Tao ông tòng thử thưởng phương thần. LÊ CẢNH TUÂN Phóng dịch: Mưa rơi tầm tã hạt mưa rơi Rực rỡ ban mai nắng rực rồi Gió thoảng trong lành xuân gió mới Non xanh nước biếc cõi lòng tươi Trời trong bát ngát mây trời gợn Bốn bể xuân lành đón nụ cười Cảnh đẹp xôn xao tràn ngẫu hứng Thi nhân thưởng ngoạn tứ thơ cười. HUỲNH THIÊN KIM BỘI Gió xuân Trời sắp vào xuân lạnh buốt da Đêm khuya vằng vặc bóng trăng già Mơ tận cung Hằng... ai ghé bước Một vì sao rụng ngỡ tiên sa Xuân đến ngàn mai rụng hết rồi Tội tình đàn én liệng chơi vơi Cành trúc lơ thơ chào gió mới Chắc cũng gọi thầm “ mai của tôi !”
Dù có ngàn hoa nở khắp trời Sao lòng vẫn ngóng chỉ mai thôi “ Ngàn năm tình cũ sầu không hận ” Chẳng thấy mai xưa luống ngậm ngùi . Nguyên Lê
Những sắc hoa mùa xuân quê tôi Hoa mai nở lúc đông tàn Chòm hôi, dâm bụt ngỡ ngàng chào xuân Tigon sắc đỏ tưng bừng Cùng hàng bông giấy không ngừng trổ hoa Lục bình cũng nở đó mà Phong lan ngọc điểm hương xa thơm lừng Hoa nào chẳng vẽ nên xuân Ai người chẳng lụy người dưng hữu tình . Nguy ê n L ê Họa DU XUÂN của Đỗ Nguyễn Trời xanh lấp lánh ánh sao Lang thang đếm bước đường vào khoan thai Yêu thương mái tóc hoa cài Ngỡ như chìm giữa thiên thai cõi người Rừng hương vui hé nụ cười Chim ca suối hát rạng ngời sắc xuân Hồn thơ cao vút nhẹ lâng Lãng du mây kết chín tầng xanh tươi Nỗi sầu ngày cũ chưa vơi Lênh đênh trôi giữa khoảng trời mùa Xuân. NGÀN PHƯƠNG Bắt chước Cao Bá Quát CHIỀU XUÂN Khung trời xanh diệu vợi bao la Én liệng điểm tô vẻ mặn mà Cỏ biếc đọng sương vui phận cỏ Hoa thơm phong nhụy thắm tình hoa Đường tơ - phím nhạc còn nhung nhớ Nét bút - hồn thơ vẫn thiết tha Sương lạnh thấm vào mùa ngọt chín Lộc xanh bung nở - nụ căng ra. NGÀN PHƯƠNG
CỎ MỀM CHO EM Ngắt một ngọn cỏ mềm Run em cài lên ngực Mầm xanh như bật thức Ánh cỏ mềm lung liêng Em mơn man nhánh cỏ Mùa vui mắt ngoan hiền Con chuồn chuồn đưa nhẹ Cánh mỏng mềm chung chiêng Xanh trái đất chân đồi Mướt ran như gọi mời Bàn chân em thấm nhẹ Ập òa vạt sương đêm Ban mai kia nắng tỏa Long lanh nhánh cỏ mềm Nghe như nghìn nốt nhạc Tâm hồn em bay lên Có đàn chim không vội Vẽ một vòng chao nghiêng Cánh rung như khẽ gọi Lòng trời em xanh thêm ĐÀM LAN NƠI ĐÁNG SỐNG Phải đâu chỉ có nơi nhà cao cửa rộng Phải đâu cuộc sống ta chỉ vì tiền Phải đâu chỉ có nơi cảnh đẹp thần tiên Mới là nơi đáng sống ? Để dựng và giữ đất nước này Ai đó có biết không ? Máu dân ta đã chảy thành sông Xương dân ta chất cao như núi
Biết bao năm ngậm ngùi khổ tủi Là con người mà đâu được làm người Đã anh dũng vùng lên… Để thoát cảnh nô lệ tôi đòi Bao giông tố… đất trời sôi động Bao thăng trầm, bao lặng lẽ hy sinh Tổ quốc ơi ! mỗi mảnh đất nước mình Là tài sản của cha ông để lại
Mẹ tổ quốc - quyết không để kẻ nào xâm hại Mẹ có nghèo cũng mãi mẹ của ta Con là ai thì cũng mẹ sinh ra Lời dạy ông cha câu ca còn đó “Con không chê bố mẹ khó Chó không chê chủ nghèo” Dù đâu đó còn có bất công
Đất nước này vẫn là tài sản cha ông Biết phát huy sức mạnh cộng đồng Tổ quốc thương yêu - có nơi nào mà lại không đáng sống ? LÊ MINH CHỬ Tình Ca Xuân Nàng băng tuyết lạnh lùng qua nẻo khác, Nắng chan hòa ấm áp đợi Xuân sang, Gió nhẹ hôn cành lá biếc mơn man, Sương đọng hạt trong ngần, cây nẩy lộc, Kìa Mai, Cúc rực ánh vàng bên gốc, Cây Đào già e ấp nụ hồng tươi, Lan tỏa hương tô sắc thắm cho đời, Xanh, đỏ, tím cùng đón chào Xuân mới, Xuân đến đây rồi, Xuân đến nơi nơi, Mạch sống vơi đầy, hồn Hoa gieo rắc... ... Ánh Xuân tươi Phạm Thị Minh Hưng Lá Mai Cuối Đông Em, chiếc lá Mai cuối đông, Nắng mưa dầu dãi cùng dòng thời gian, Đông đi tuyết lạnh đang tan, Ai hay lá úa vương mang nỗi sầu, Lìa cành một sớm về đâu, Nghẹn ngào, tan tác, tình sâu héo mòn ...Thì thôi... cũng thể như còn... Cho đời, có một nụ hôn mặn nồng, Lá sầu, tơi tả chiều đông, Xuân về rực ánh Mai vàng, Hoàng Hoa, Tìm đâu chiếc lá đã xa, Cành cao Mai đã mượt mà sắc Xuân. Phạm Thị Minh Hưng CHIẾC BÌNH HOA Hãy cứ nghĩ mình là chiếc bình hoa cũ kỹ Thinh lặng nhìn những biến cố chưa phai Rồi nhìn vào chính xiêm áo một thời Còn ẩn dưới lớp phong rêu mụ mẫm… Ta có là ổ khóa nằm uất giận ? Lớp gỉ sét đã báng bổ cuộc đời Chôn ta trong niềm tiếc nuối vợi vời Muốn bước đi mà vô phương vì tàn phai buộc trói !
Ta có là đôi dép già mòn mỏi Mà cuộc đời đã lê lết trên lưng ? Chỉ còn trơ quai đứt đã lưng chừng Ta nằm đó, chờ theo người phu rác ! Ta có là chiếc lá vàng ngơ ngác Chờ gió qua để xóa bỏ cuộc đời ? Cơn gió nữa khi thỏa thích phiêu du Sẽ đưa ta về đâu, nào ai biết !
Ta có là chiếc đèn hình mỏi mệt Chiếu cảnh đời u ám đến thương tâm ? Đến nỗi rồi một buổi rất âm thầm Ta tự vỡ để đời thôi ngán chán… Ta có là chiếc dây đàn bất mãn Nối triệu lần cho vết đứt trầm kha ? Phải tháo ra cho đàn bớt ề à Cho lời hát lại ngọt ngào, trong trẻo !
Ta có là cây ăng ten xiêu vẹo Cảnh thật xinh, mà ảnh lại võ vàng ? Nhổ ta đi ! Trồng cái mới, rõ ràng Hình và ảnh của cuộc đời trong suốt ! Ta chẳng là cái chi chi trong đống đồng nát ! Ta chẳng là cái chi chi trong rách rưới tả tơi ! Ta phải là một chút gì cho thế giới thêm vui ! Ta phải là nụ cười cho tàn hoang tránh lối !
Chiều nay mưa, bình hoa ta sẽ ra tắm gội Giữa không gian cho bật tiếng reo hò Những chú bé, nụ cười rất ngây thơ Sẽ ôm ta vào nhà, bình hoa xưa đã lên đầy men sắc Ngày mai nắng, ta sẽ lăn long lóc Dưới nắng trời, da dẻ sáng niềm vui Nào các nàng hoa, các em sẽ chói ngời Khi ngồi vào lòng ta : Gian nhà thơm phưng phức…
LAM TRẦN 03.12.2014 PH Ụ N Ữ ĐÁ NH C Ầ U L Ô NG Đẹp thay phụ nữ đánh cầu Lông bay vùn vụt trên đầu quý ông Quý ông né tránh lộn vòng Giống như rồng lộn mênh mông giữa trời. NGÔ BÁ MẠNH BẰNG ĐỊA VỊ Bằng chị bằng anh đẹp lắm rồi Bằng tranh địa vị bạc đầu sôi Bằng thân luyện võ, noi nguồn cội Bằng thể ôn văn, hướng dẫn chồi Bằng mẹ thương con, duyên phận đẹp Bằng Ông mến cháu, kết thành đôi Bằng trong thiên hạ nhiều bằng giả Bằng được ngôi cao, vướng vấp mồi Bằng đi ngoại Quốc tốn mười mươi Bằng ở quê hương tỏa rạng ngời Bằng chức trưởng phòng, giờ việc bận Bằng quyền giám đốc, phút nào thơi Bằng tiền phi nghĩa, mang tù tội Bằng của bất nhơn, tiếng để đời Bằng phó thường dân vui sướng nhất Bằng chi sự nghiệp lắm cơ ngơi
Bằng thân cực khổ ít nằm ngơi Bằng trí thông minh tỏ sáng ngời Bằng chốn công đường, hành chánh đạo Bằng nơi xã hội, dựng xây đời Bằng am tu niệm, yêu thương bạn Bằng động thiền môn, quý mến người Bằng tạm tương rau vui thế tục Bằng bằng chi nữa ! bớ ai ơi… PHƯỚC HẢI
Tôi thương nước Việt Tôi thích xuân về cúc trổ bông Tôi vui tết đến chậu hoa hồng Tôi đi làm rẫy, nơi rừng quạnh Tôi đến khoan dầu, tận biển mông Tôi quý Thăng Long Thành hướng bắc Tôi yêu Quốc Tử Giám phương đông Tôi thương dân Việt người chân thật Tôi sợ chiến tranh, cảnh bế bồng… PHƯỚC HẢI XUÂN VỀ
Mỗi độ xuân về Lễ chùa xem pháo hoa Người ấy và tôi Tóc bạc cùng hoa râm
Nửa đêm sang canh Từng chùm lúa vàng Từng chùm sao sa Vàng, xanh, trắng, đỏ Rực trời nở hoa Người người reo hò Rồi nghe Chủ tịch Đọc thơ chúc Tết
Giờ về nhộn nhịp Người người sát cánh Xe cộ chen qua Anh em gia đình Về nhà chúc Tết Mùng hai cúng tổ Về nhà má em Mùng ba chúc Tết Họ hàng thân quen Mỗi độ xuân về Vui thật là vui.
THÚY MAI (04.9.2013) ĐI LỄ CHÙA (1) Xuân về là lễ hành hương Ba giờ đã dậy, tất tươm áo quần Màn đêm xe chạy còn vương Tiền Giang tượng Phật lớn cao tươi cười Bên đường mai nở trong vườn Xoài xanh còn đó đầy vườn nhà ai Đồng Tháp phồn vinh hôm nay Lăng mộ của cụ thân sinh ra người(2) Thập tự tươi đẹp hôm mai Tăng ni phật tử cầu an nước nhà. THÚY MAI (2013) (1) Mùng 5 Tết Quý Tỵ đi lễ 10 chùa ở Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp. (2) Người là Bác Hồ. THẮM MÃI HOA NGƯỜI Lẵng hoa em trao trên thềm năm mới Cánh hoa mang theo hồn xuân phơi phới Còn gì hơn nữa đẹp nhất trên đời Là sắc hương hoa nồng ấm tình người Chúc cho nhau thêm một mùa xuân mới Chúc nhau băng qua bao điều ngang trái Giữ luôn trên môi nụ cười thân ái Thắm mãi hoa người chẳng bao giờ phai ! Trước thềm Xuân 2017 LÊ NGUYÊN MƯỢN Tôi đã mượn hết lời của gió Mượn nắng mượn mưa mượn khắp loài hoa Mượn lửa ấm nồng mượn chiều ráng đỏ Mượn cả hạt sương như giọt lệ rơi nhòa Khi tiếng nói trở nên nghèo quá Chẳng nói được gì theo nhịp đập con tim Xin mượn thêm cồn cào biển cả Để thay lời trao gửi cho em Đã trót mang ơn nợ đất trời Chỉ còn đây kho báu trái tim tôi Đã nợ vay đến ngày phải trả Xin được hiến dâng trọn vẹn người ơi ! LÊ NGUYÊN CHỢ Chợ sáng bạn hàng bỏ mối quanh Chợ trưa công chức ăn cơm nhanh Chợ chiều lao động mua đồ rẻ Chợ tối nữ nam dạo Bến Thành Chợ Lớn bạn bè thích đẹp tốt Chợ khuya bợm nhậu về vài anh Chợ nghèo chiều bán ba mươi tết Chợ nổi Cái Bè cây trái xanh. QUANG BỈNH DƯỠNG LÃO Sống vui, sống khỏe, sống yêu đời Tuổi lão nhớ quên quý bạn ơi Rượu uống nhâm nhi cùng chiến hữu Thưởng thức hương trà thú vui chơi Rảnh rang thơ phú trao nhau ý Học hát bài ca lúc thảnh thơi Mong ước tuổi già luôn trẻ mãi Giữ gìn sức khỏe như xuân thời. QUANG BỈNH CHẦM CHẬM THÔI… Chầm chậm thôi những tờ lịch mỏng Đừng rụng xuống để ngày qua mau Những nỗi lo toan không thể lẩn tránh Thoang thoảng mùi hương hiên nhà Chầm chậm thôi những dòng người qua Phố cuối năm nhộn nhịp Người người vật lộn với chính mình Nỗi lo cuối năm. Chầm chậm thôi… BS.DOANLINH 10/12/2016
CON KHÔNG VỀ Năm trước con đi hẹn về năm tới Nay cuối thu nắng chiều đang xuống vội Đông chớm mùa con vẫn biệt xa xôi Hẳn mẹ buồn miệng nhắc không thôi… Mẹ ơi con không về ! Vẫn biết tháng này tháng mười một Ông bà tổ tiên sẽ mong tha thiết Nhưng cuộc trần con lỡ hẹn mẹ ơi !
Chiều về nắng có rơi Mẹ thắp dùm con nén hương cho bố Mẹ nói với ông bà tổ tiên Con không về vì cách trở vách ngăn Con gửi lòng theo các chị các anh Xin lấy lời cầu thay cho con hiện diện Bs.DOANLINH 10/12/2016 ĐÍNH CHÍNH Trong số 127 (tháng 12 năm 2016), nơi trang 87 trong bản dịch bài thơ Quen (An Acquaintance) ở cuối dòng 8 (từ trên xuống), có chữ cuối cùng "cabbage" cần được đổi thành "cauliflower", như vậy câu "written on the cabbage"xin đọc thành “written on the cauliflower”. Chân thành cảm ơn và mong quý độc giả thông cảm. Mùa Xuân đến Mùa xuân vàng hoa cúc Mai nở rợp trên cành Vui cười ta mến chúc Một đời vạn niên thanh Đất trời vào Xuân mới Hoa lá như cất lời Lòng người như mở hội Chào đón mùa Xuân tươi Người người rộn rịp chờ Xuân đầu tiên đã về Đều vui mừng hớn hở Đầy tình yêu say mê Ta yêu Xuân nồng thắm Vì mùa đầu của năm Anh có còn nhớ lại Yêu thương đời muôn năm. HOÀI LY Xuân Đinh Dậu 2017 CHÚC TẾT ĐINH DẬU 2017 Khỉ nay chuẩn bị đi rồi Vùng biển miền Trung khổ quá thôi Kính chúc Bính Thân mau chóng thoát Cầu mong Đinh Dậu sẽ vun bồi Tiếng gà ò ó đầy hoan hỷ Tiếng khỉ chi choe thật hỡi ơi Năm mới hân hoan đua bước tiến Lềnh bềnh xác cá… mặc suông trôi. NHỰT THANH (24.9.2016) SẤM THÁNG BA Sấm đuổi theo nhau rung ấm chân trời Nhổ cỏ đay lúc này xong chưa, mẹ ? Ơi em gái, chớp nguồn rồi đấy nhé Cá bột về - săm, vợt đủ chưa ? Ta ngồi nghe sấm gọi mùa mưa Thức với quê hương: pháo gầm tiếng sấm Nở hoa lửa, sáng màu đay xanh sẫm Sáng bàn tay ươm cá hố bom sâu
Sấm rền vang hay trống nổi mừng nhau Của tiền tuyến, hậu phương cùng thắng Mỹ ? Ơi tiếng sấm báo mùa hoa thiên lý Lúa đang vàng, vải đỏ vườn sau… Vĩnh Phú, 4-1967 VŨ ĐÌNH HUY MARCH THUNDER Thunder ran one after the other warming the horizon Are you through with plucking up jute, dear mother ? Oh little sister ! heat lighting has started Fries have come back - have you got enough hand nets ? I sat listening to thunders calling the rainy season Staying awake with the Homeland; artillery fire resounded along with thunders Fire flowers bloomed, lighting the dark green colour of jute Illuminating the hand sowing seedlings for fish in deep bomb craters
Successive peals of thunder or drum beats merry making Of both the front line and the rear that won over the Americans ? Oh the sound of thunder announcing the pergularia flower season Rice is turning yellow, while reddish is the litchi in the rear garden… Vĩnh Phu, 4-1967 VŨ ĐÌNH HUY- Translated by VŨ ANH TUẤN WASHINGTON Tôi tới nơi đây một sớm thu Con tàu nhẹ lướt sóng lời ru Dòng sông xanh biếc Potomac Ngân vọng lan xa khúc mộng mơ “Cây bút thần kỳ” cao chót vót Tượng đài kỷ niệm Washington Tuyên ngôn Độc lập giàu nhân ái Hậu thế lưu danh lòng hiếu dân
Dấu ấn ngày xưa nay vẫn còn Ngôi nhà tưởng niệm Lincoln Trái tim thấu hiểu người nô lệ Để lại nhân gian một dấu son Hình ảnh kiên cường Mô-ri-son Sục sôi khí phách lửa căm hờn Tự thiêu phản đối loài gian ác Rạng rỡ tên anh giữa quảng trường
Dạo bước nơi này tôi nghĩ suy… Dòng sông tư lự vẻ thầm thì… Con người hướng thiện giàu nhân nghĩa Nhân nghĩa là xuân của kiếp người. Washington, Đêm 28.8.2000 VŨ MÃO
WASHINGTON I came here a morning early in the Fall The boat slightly glided over the lulling waves The bright and blue Potomac river The modulating echo of a dreamy music spread far away The soaring high “marvellous Pen” The Washington memorial The humanistic Declaration of Independence Their devotion to the people will be remembered by posterity
The seal in days past still exists today The Lincoln Commemorative House The heart that throughly understands the slaves Has left to the world a red stamp The strong and firm image of Morrison A character seething with hatred and a resenting fire Who burned himself to protest against the evil-doers So bright is his name amidst the square
Strolling at this place I’ve thought and meditated… The river got an anxious look and seemed to talk whisperingly… A man with a tendency to good is quite humane and just Benevolence and righteousness is the springtime of a human life. Washington, on the night of April 28, 2000 VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN
Bà Toán lấy cái giỏ đi chợ để lên cái càng kéo va-li bước ra phòng khách. Cái càng này bà mua trong một lần đi du lịch với ông để kéo cái va-li đựng đủ thứ đồ “tế nhuyễn” cho được thong thả. Đi du lịch trở về bà thấy cái càng kéo này còn có thể sử dụng để kéo cái giỏ đi chợ của bà. Thực ra, ngày thường bà đi chợ mua hàng hóa thực phẩm không nhiều lắm, nhưng bà thích kéo cái giỏ đi chợ như một kẻ nhàn du. Con đường từ nhà bà đến chợ cũng chừng 500 mét, bà kết hợp làm một cuộc đi bộ thể dục buổi sáng luôn. Kéo cái giỏ không đến phòng khách định nói dăm ba câu chuyện với ông Toán trước khi bà ra đường đi đến chợ. Vừa lúc đó trên TV hiện ra một chương trình quảng cáo. Ông Toán chỉ tay vào TV kêu bà: - Bà coi, cái quảng cáo vô duyên quá trời. Dứt lời ông bấm remote tắt âm thanh. Bà Toán nhìn lên thấy đó là cái quảng cáo thường xuyên của chương trình này vào mỗi buổi sáng. Lúc đầu ông và bà còn nghe đầy đủ màn quảng cáo đó, nhưng thấy vô duyên quá nên sau hai ba lần, chịu không nổi ông tắt âm thanh, khi hết quảng cáo ông mở âm thanh tiếp tục nghe tin tức. Những chương trình khác như tường thuật bóng đá, tennis cũng vậy, ông chỉ xem hình còn âm thanh thì ông để “câm như hến”. Ông cho biết mấy ông tường thuật viên nói nhiều, nói cầu kỳ quá, chế biến từ ngữ làm ông không hiểu gì hết. Ngồi vào ghế sa-lông, bà hỏi ông: - Ông muốn mua gì để ăn Tết đây? - Thức ăn thì bà coi mua cái gì đó làm cho con cháu ăn trong mấy ngày này, rồi mua vài bó hoa nho nhỏ về cắm cho có màu sắc chút chút vậy thôi. - Tôi muốn hỏi mua gì cho riêng ông để lai rai với bạn bè. - Thôi khỏi đi! Có gì ra quán ngồi cho xong. Ở nhà làm rình rang rồi phải dọn dẹp. Oải lắm! - Vậy thì khỏe, có thì giờ đi chơi. - Chà tính gọn ghê! Thì giờ chở bà đi chơi đã “qui hoạch” rồi, bây giờ bà muốn lấn chiếm thời gian rảnh rỗi của tôi nữa sao? - Không dám đâu. Chỉ khi nào đột xuất thôi. Bà đi rồi, ông lấy cái USB cắm vào sau lưng cái TV để ông nghe nhạc mp3 mà ông đã thu sẵn từ trước. Ông đưa ly cà phê sữa lên làm một hớp nhỏ mà ngon lành rồi lim dim nghe nhạc. Bài hát đầu tiên là một bài rum-ba nhẹ nhàng bằng giọng ca của một ca sĩ ở Saigon cách đây hơn năm chục năm. Ông nghe bài hát này không biết bao nhiêu lần rồi. Có lẽ cũng vài trăm lần. Giọng hát của cô này rất đặc biệt. Bài hát này đã được thu từ khi cô còn trẻ nghĩa là cũng khoảng năm chục năm rồi. Giọng hát của cô không phải não nuột u sầu mà giống như người con trai và người con gái đang tỉ tê tâm sự: “Người về, người về đâu nhớ ta chăng? Người ơi mỗi lá thu rơi làm ta bâng khuâng…”(1). Nghe thích thú vô cùng. Đặc biệt ca từ của bài hát này không dùng hai từ ngữ “anh” và “em” ai oán, não nề mà dùng hai từ ngữ hết sức dễ thương là “người” và “ta” và hai từ này là cho người ta khi thưởng thức bài hát cũng cảm thấy ngậm ngùi. Có lần ông nói với bà Toán: - Hồi còn trẻ bị bồ đá, mà nằm nghe bài hát này thì phải nói là rầu thúi ruột. - Ông hồi xưa chắc là bị mấy cô đá chai đỏ lên như mông khỉ. - Đúng vậy. Thà để mấy cô đá, tôi không đá ai hết. Để đức cho con cháu nhờ cậy. Hồi còn đi học chưa biết ai hơn ai nên mấy cô mới chê, nhứt là học cùng lớp. Sau này biết được chắc có cô tiếc hùi hụi. - Xì, ông làm như ngon lắm. - Ngon lắm chứ. Có ngon mới được bà quan tâm tuyển chọn tôi? - Công nhận, hồi đó thấy ông bảnh thiệt. Hai ông bà này tình tứ lắm. Bà luôn luôn biết cách nói cho ông mát ruột nên hai ông bà rất ít khi có tranh cãi lớn tiếng. Ở ngoài chợ, bà Toán dáo dác nhìn tới nhìn lui để tìm mua những thứ mình cần. Hôm nay là 26 Tết rồi, chợ đã đông đúc, nhộn nhịp hẳn lên. Thực ra, chợ này đang ở trong diện giải tỏa. Trước ngày 20 ta, chợ có phần thưa thớt từ sau cái lệnh yêu cầu bà con sắp xếp lại việc mua bán của mình. Ai bán hàng tươi sống rau cỏ thì đi kiếm chỗ khác mua bán. Ai làm dịch vụ còn được ở lại. Sau đó nghe nói bà con năn nỉ xin bán đến qua Tết rồi tính. Quận đã đồng thuận. Thế là bà con tập trung đưa hàng về bán lại như cũ. Đây là cái chợ tự phát nằm trên một con đường hẻm giới hạn hai đầu là hai con đường lớn. Các sạp, quầy bày la liệt trước nhà người dân. Hàng hóa được bày bán gần như che bít lối ra vào của hai dãy nhà dọc theo đường hẻm. Ở những nơi bán hàng bách hóa, sản phẩm cho ngày Tết được trưng bày rất đẹp mắt với màu sắc rực rỡ của các loại bao bì. Phải công nhận ngày nay người ta chế tạo rất nhiều loại bao bì. Có nhiều loại sản phẩm mua về sử dụng xong, bao bì rất đẹp không nỡ vất đi, mà giữ lại không biết sử dụng vào việc gì, vẫn cứ để đâu đó trong nhà, lâu ngày chất thành đống đành phải giải tỏa bằng cách bán phế liệu hoặc vất vào thùng rác công cộng. Thường thì mấy người mua phế liệu chê hoặc mua với giá rẻ mạt, cho nên bà Toán thường vất hết vô thùng rác để cho những người đi lượm rác tự do chọn lựa. Những loại sản phẩm đắt tiền như sâm, yến sào thường có bao bì rất đẹp mắt, người ta hay mua để sử dụng hoặc làm quà điếu đóm. Chính những loại bao bì đẹp mắt đó làm cho người ta dễ bị cám dỗ cho rằng chất lượng sản phẩm được đảm bảo. Ai biết được rằng những sản phẩm đắt tiền đó chẳng có gì là bổ dưỡng. Dầu rằng ngày Tết không ăn uống nhiều nhưng bà Toán cũng phải chấp nhận mua những thứ nguyên liệu để làm một số món ăn mà tám chín chục phần trăm gia đình nào cũng phải có, đó là món thịt kho tàu với trứng vịt. Món này không rõ các nhà ẩm thực khi cho mang nhãn hiệu “văn hóa” thì đặt tên là gì chứ ông Toán hay gọi đó là món “Trư Bát Giới đá banh” cho tiện. Ngoài cái món truyền thống này, bà Toán cũng cố tìm những món đặc biệt dành cho ngày Tết như dưa hành, củ kiệu, củ cải ngâm dấm đường, mấy thứ này bà Toán mua của người ta làm sẵn đựng trong hủ thủy tinh cho gọn nhẹ. Sản phẩm của ngày Tết thường có liên quan mật thiết với nhau, như sau khi mua củ kiệu dưa hành, bà Toán không quên rước thêm hai đòn bánh tét cỡ lớn nhứt mà bà biết con gái, rể và mấy đứa cháu ngoại của bà rất thích. Ông Bà Toán có vỏn vẹn hai cô con gái tuổi đã ngoài bốn mươi đều đã có gia đình ở hai hướng đông bắc, tây nam tức là nằm trên hai quận, Gò Vấp và quận 8. Mỗi cô con gái của ông bà lại cũng chỉ sản xuất hai ái nữ, vị chi hai ông bà có được bốn cô cháu ngoại, tuổi từ mười lăm đến mười tám. Hồi mấy đứa cháu còn nhỏ, ông Toán từng nói như than thở với bà: - Sao nhà mình phái “féminin”(2) coi bộ hưng thịnh quá hen. - Con nào cũng là con, có gì đâu mà ông phải lo. Sau này có cháu ngoại rồi, có lần bà nhắc: - Hồi tụi nó còn nhỏ chắc ông lo dữ lắm? - Lo chứ. Con nhỏ em lấy chồng hơi trễ tôi lo sốt vó. Lo từng ngày không biết chừng nào có “ân công”(3) đến rước nó. - Cũng hên, nhờ ông Trời thương, nó cũng có người đến rước đi. Bước qua gian hàng bách hóa, bà Toán thấy rất nhiều giỏ quà bọc giấy kiếng rất đẹp, bên trong chứa những hộp bánh, có cả chai rượu nguyên. Ở khoảng giữa chợ và cuối chợ còn có thêm mấy gian hàng bách hóa khác và cũng đầy ắp các giỏ quà. Ở ba bốn gian hàng trái cây nằm rải rác từ đầu đến cuối chợ cũng có trưng bày những giỏ trái cây chứa táo, nho, lê… Ở các gian hàng này còn có trưng bày những mâm quả theo “bộ” để đem lại may mắn cho cả nhà như bộ “thơm, đủ, sung” gồm trái thơm, trái đu đủ và một nhánh sung, hoặc bộ “cầu vừa đủ xài” gồm trái mãng cầu, trái dừa, trái đu đủ, trái xoài. Một số lớn người miền nam nhứt là ở các vùng quê người ta phát âm “dừa” với “vừa”, và “xoài” với “xài” na ná như nhau. Bà Toán không quan tâm đến mấy giỏ trái cây kiểu cọ này, bà mua “hàng rời”, vài quả táo màu đỏ, mấy trái cam màu vàng rực, hai trái thanh long. Bà dự định làm một dĩa quả có nhiều màu sắc theo ý thích của mình. Ông Toán tỉ mỉ cắt chữ “Chúc mừng năm mới” từ mấy tờ giấy đỏ mua từ hôm trước để dán lên tường và trang trí cái căn hộ hơn 60m2 của hai ông bà. Đây là công việc ông rất thích cho nên năm nào Tết đến ông cũng lãnh phần trang trí. Bà Toán sẵn sàng để ông tự do múa may để giết thì giờ. Theo ông Toán công viết trang trí nhà cửa để đón Tết tuy rằng lặt vặt nhưng cũng có tính nghệ thuật và nằm trong mấy cái “hoa” trên hai bàn tay của ông. Thật vậy, trên mười đầu ngón tay của ông có đến sáu bẩy cái xoáy tròn ngay chính giữa đầu ngón tay, cho biết ông là người có tài về mỹ thuật. Ông Toán không tin vào mấy chuyện chỉ tay mê tín này. Sở dĩ ông có một số tài vặt là nhờ hồi còn ở trung học ông chơi với bạn bè rồi bắt chước. Thấy một thằng bạn có tài về hội họa, cho ông xem mấy bức tranh màu nước do nó vẽ rất đẹp. Ông về nhà xin tiền ông bà già mua màu, cọ, giấy vẽ rồi hí hoáy luyện tập. Lên đến đệ tứ, ông theo chơi với một thằng bạn để học nghề đàn ghi-ta của nó. Thằng này khi tốt nghiệp tú tài nó theo nghề đàn ca hát xướng rồi thành nhạc sĩ nổi tiếng. Còn ông Toán chỉ học lóm một số bài căn bản rồi tự luyện tập khi có thời gian rảnh rỗi, cho nên tay nghề của ông cũng chỉ xàng xàng bậc… dưới trung. Khi lên đại học khi có chương trình liên hoan tất niên ông cũng có dịp ôm đàn tập cho mấy bạn nữ sinh viên tập hát làm cho mấy chàng trai không biết đàn ngồi chầu rìa bên ngoài tức tối. Hồi này, phong trào sinh viên làm văn làm thơ phổ biến rất rộng rãi. Ông Toán cũng thức ngày thức đêm đóng góp bài viết cho báo xuân của lớp hoặc của trường, riết rồi ông cũng có thêm nghề viết lách. Ông không muốn với lên đỉnh cao trí tuệ là trở thành nhà văn mà chỉ muốn được gọi là “người viết” mà thôi. Ngoài việc học hành hay sau này làm công việc chuyên môn kiếm sống, ông Toán có những ngón nghề tay trái, còn gọi là những sở thích riêng giúp ông sống vui tươi thoải mái. Bây giờ về già ông sống hạnh phúc với gia đình, dù rằng hiện nay các con ông sống riêng biệt để lại cho hai ông bà vào ra vắng vẻ trong căn hộ này. Nhưng hai ông bà không hề cảm thấy buồn rầu vì xa vắng con cái. Mỗi khi ông đi khám bệnh bảo hiểm y tế bác sĩ thường khuyên bảo ông nên sống lạc quan, tập thể dục, tiếp xúc bạn bè. Khi ra về ông nhủ thầm trong bụng: Ông bác sĩ này không hề biết ông sống lạc quan thoải mái như thế nào, dù rằng không phải là người giàu có lắm. Để tiêu khiển tất cả những môn sở thích của ông có thể nói không có đủ thời gian trong ngày để ông thực hiện ý muốn của mình vì ông cũng phải dành một khoảng thời gian để phục vụ người đàn bà đã theo ông đến cuối cuộc đời, và đây cũng là niềm vui của ông… Dương Lêh 1. Bài hát “Hai vì sao lạc” của nhạc sĩ Anh Việt Thu. 2. Phái nữ. 3. Người làm ơn cho ai (ở đây còn có nghĩa là Chú rể).
Phụ Bản III CÁCH CHÀO HỎI CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI Những cách chào hỏi của các dân tộc trên thế giới rất đa dạng, phong phú, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Sau đây là những phong tục chào hỏi mà ta nên biết: - Bắt tay: Một số dân tộc cổ xưa ở Ấn Độ coi tục lệ bắt tay là một phần của nghi lễ trong việc kết hôn. Đối với người La Mã thời cổ, tục lệ bắt tay cũng mang đặc điểm trang trọng của nghi lễ, về sau tục lệ đó thuộc về người đạo Thiên Chúa, dần dần nó trở thành hình thức chào hỏi đơn giản của phần đông các dân tộc trên thế giới. - Nắm tay: Người dân ở đảo Pasnhi chào nhau thì đứng thẳng, nắm tay lại thành nắm đấm, đưa thẳng về phía trước, sau đó nâng lên khỏi đầu, rồi mở các ngón tay ra và cuối cùng thả cho 2 cánh tay tự do rơi xuống. - Nâng tay lên môi: Người Ainur khi gặp nhau, đan các ngón tay lại, rồi vỗ nhẹ vào nhau, đầu tiên vỗ theo một phía và sau đó thì phía khác của bàn tay. Họ đưa 2 tay lên môi hoặc lên trán. - Nắm tay chìa ngón trỏ: Một số vùng ở Triều Tiên, khi gặp nhau, người ta nắm tay lại thành nắm đấm, giơ nắm đấm ra đồng thời chìa ra 1 ngón trỏ để chào hỏi lẫn nhau. - Chắp tay xá dài: Ở Việt Nam ta xưa kia, khi các cụ già gặp nhau thì chào nhau bằng cách chắp tay lại rồi xá xá vài cái, đồng thời thăm hỏi sức khỏe bằng một vài câu lễ độ nhẹ nhàng. - Hai tay nghiêng đút vào nhau: Dân cư ở dọc theo thung lũng sông Congo, khi chào nhau có tục lệ đưa cho nhau cả 2 tay và nghiêng đút vào nhau. - Nghiêng mình… vỗ tay: Khi gặp gỡ và chào nhau, những dân tộc ở vùng Trung Phi lại nghiêng mình và vỗ tay, đồng thời đọc những lời chào hỏi rất hay và lịch sự. - Nghiêng mình ngửa lòng bàn tay: Ở Ấn Độ, nhân dân chào nhau bằng cách nghiêng mình, đồng thời đặt ngang ngực hai bàn tay ngửa lòng lên phía trên. - Ngả mũ: Ở châu Âu vào thời đại phong kiến (vào trung thế kỷ) những người thuộc tầng lớp quý tộc để thực hiện sự hiền từ của mình, khi gặp nhau bằng cách ngả mũ và để đầu trần. Về sau động tác ngả mũ và chào nhau bắt đầu cùng một lúc. Động tác đưa tay lên mũ là sự đơn giản hóa của cách chào này. - Cúi đầu: Người Nhật và người Triều Tiên cúi đầu chào và gập mình khi chào cung kính, các diễn giả, nghệ sĩ trên sân khấu cũng thường chào khán giả bằng cách này. - Vỗ vào râu, vào môi: Người Ainur khi gặp nhau, xếp 2 tay lại nâng lên trán, quay lòng bàn tay lên trên và vỗ vào nhau. Đàn ông thì vỗ vào râu, còn phụ nữ thì vỗ vào môi trên sau đó mới siết tay nhau. - Vỗ ngực: Ở phía Tây châu Phi, người dân bản xứ chào nhau bằng cách vỗ lòng bàn tay vào ngực mình. - Vỗ lưng: Ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, khi chào nhau thân mật người ta ôm nhau và vỗ vào lưng nhau. Cách chào hỏi này bắt đầu từ khi người Ả Rập xâm chiếm bán đảo Iberia (nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) sau đó dàn hòa với dân địa phương bằng cách ôm nhau và vỗ vào lưng nhau để chứng tỏ mình không mang giấu vũ khí. - Vỗ bụng: Các bộ lạc sống trên bờ hồ Tanganica (châu Phi) chào nhau bằng cách vỗ bụng nhau 3 cái, tiếp theo là gõ vào lòng bàn tay nhau và cuối cùng bắt tay nhau. - Cọ mũi: Tại thủ đô Niu Đêli của Ấn Độ và một số vùng ở Ả Rập khi để mừng tuổi chúc tụng và tỏ dấu hiệu âu yếm nhau trong dịp năm mới, người ta cọ mũi vào nhau. - Ngửi nhau: Ở vùng bộ lạc Mông Cổ hiện nay vẫn còn tục lệ khi gặp gỡ, để thể hiện tình cảm, người ta chào hỏi nhau bằng cách ngửi nhau. - Mũi rung, đầu lắc lư: Người thổ dân của Niu Đilơn khi chào nhau làm cho mũi rung động lên trên và xuống dưới hoặc từ phía này sang phía kia, rồi họ mới chúc tụng thăm hỏi trò chuyện và tâm sự với nhau. - Nụ cười: Ở những người thuộc bộ lạc Yanadi của Ấn Độ cho đến nay vẫn chưa có lời chào hỏi. Họ thể hiện việc chào đón bằng những nụ cười. Những nụ cười của họ thể hiện sự thân thiện và chân thành đến kỳ lạ. - Thè lười, lắc đầu: Ở phía Nam dãy Hymalaya (TQ) có một vùng khi gặp nhau, người dân địa phương liền thè lưỡi và dùng hai hàm răng cắn chặt lưỡi mình lại rồi lắc lắc cái đầu để chào nhau. - Cắn vai nhau: Ở đảo Pancuve (Philippines) những người bạn thân khi gặp nhau vào ngày xuân thì cắn vào vai nhau để biểu lộ tình cảm mừng rỡ. Và lỡ cắn chảy máu thì họ lại càng mừng đúng như câu tục ngữ: “Yêu nhau lắm cắn nhau đau” vì theo họ đó là điều tốt cho cả năm. - Ôm hôn: Ở Tây Âu, khi gặp gỡ nhau hay chia tay nhau, người ta chào nhau bằng những chiếc hôn. - Cha mẹ hôn con lên trán. - Bạn bè với nhau thì hôn hai bên má, hôn gáy. - Là người yêu thì hôn môi. - Hôn tay: Ở Pháp có một lối chào, đàn ông chào các bà quý phái đáng tôn kính bằng cách hôn tay. Đây là truyền thống và cũng là một tục lệ bắt buộc khi chào một bà dòng dõi vua chúa. Tuy gọi là hôn tay nhưng hkông hôn thật sự mà chỉ giả vờ hôn thôi, cho nên đôi môi của người đàn ông không bao giờ chạm vào làn da người đàn bà. Nghĩa là một lối hôn tay xã giao, người đàn ông không được để môi đụng vào da tay của người phụ nữ. - Nhún chân, hạ mình: Đây là kiểu chào của các nghệ sĩ, võ sĩ, kỹ sĩ. Hai chân nhún xuống, hạ mạnh cúi đầu, tay phải với tư thế ngửa lòng bàn tay, đưa từ phía trong ngực bụng ra bên ngoài. Đó là đối với nam giới. Còn nữ giới thì thường có khi quỳ 1 chân, cúi người và đầu, đồng thời hai tay xuôi về phía sau. - Cởi giày ngồi xuống: Ở miền Bắc châu Phi, có một bộ lạc vào ngày đầu năm mới, hễ khi gặp nhau họ liền ngồi thụp xuống cởi giày ra, xong mới chúc tụng thăm hỏi trò chuyện và tâm sự với nhau. - Tưới nước: Đối với đất nước Lào, nước sông là nguồn hạnh phúc cho nên tục lệ mừng nhau bằng cách dội nước vào khách hay bạn bè, bà con xuất phát từ ý niệm cho là nước đem lại sự mát mẻ phồn vinh cho vạn vật, ấm no và hạnh phúc cho con người, đồng thời cũng hàm ý nước là tinh khiết, tẩy rửa những điều dơ bẩn để sang năm mới tốt đẹp hơn. Ở Tiệp Khắc cũng có tục lệ té nước như ở Lào vậy, nhưng chỉ có các chàng trai té nước vào người con gái mà mình yêu thôi. HOÀNG ANH - BÙI ĐẸP st.
Xa rồi… Thuyên cảm thấy tâm hồn phơi phới. Hôm nay nàng về mà cái xóm tự dưng êm ru bà rù, trừ ra những ánh mắt của mấy chàng trai cứ chòng chọc nhìn nàng vẫn ồn ào náo động, dù miệng các chàng ấy nếu không câm như hến, thì không nhìn cũng biết đang há hốc ra vì sắc đẹp nghiêng thành của nàng! Xóm êm êm thật ra là có lý do hẳn hoi, chứ không phải tự nhiên mà như thế! Số là, nhà đối diện, nhà con Dung “đen” chứ ai, có nuôi một con chó trông cũng đẹp hơn… chủ nó! Mỗi tội, sáng nó kêu gấu gấu gấu, trưa nó kêu gâu gâu gâu, tối nó kêu gầu gầu gầu đến phát mệt! Dĩ nhiên, mỗi lần con Dung đen về tới nhà là nó có kiểu mừng kèm kiểu kêu rất riêng biệt. Này nhé, cái đuôi của nó chẳng phải là vẫy, mà là xoắn xít, là quét tới quét lui, là xỉa qua xỉa lại, như khi con bé cháu nhà nàng múa cái chổi lông gà hoa cả mắt. Đã vậy, cái… đít nó cứ ẹo qua ẹo lại như bê đê thật là nhảm. Miệng nó cứ nhè miếng giẻ chùi chân mà ngậm rồi lắc qua lắc lại, làm như trong “lòng” nó đang agogo chứ chẳng chơi! Nhưng bực nhất là nó cứ ư ứ trong miệng như ca cải lương vậy! Dù không ưa, thì Thuyên cũng phải “công tâm” mà nhìn và nhận rằng thì là con A li ba bốn ấy quả là dễ thương hết chỗ nói! Ngặt cái là, cứ thấy nàng là cái con A li ba bốn ấy lại ỏm tỏi lên. Không những gấu gấu gấu, gâu gâu gâu, gầu gầu gầu như cơm bữa mà còn gẩu gẩu gẩu, hay hậm hực gậu gậu gậu khi nàng đã khuất khỏi tầm nhìn vô cực của nó! Quỷ tha ma bắt cho cái giống chó… má! Cái mũi thính của nó bộ không nhận ra mùi hương nồng nàn của nàng hay sao chứ. Ngày nào mà nàng chẳng tẩm lên mình mẩy lọ nước hoa thơm nhất nhì trần thế này. Vậy mà vừa nghe thấy tiếng máy xe nàng về tới khúc quẹo là y như nó đứng thẳng người lên, hai hàm răng nhe ra như hàm cá mập giận dữ cùng thù hận! Rồi nó gừ gừ, mắt long lên sòng sọc nghĩa là chẳng hề nhắm lại bao giờ mà lom lom, lom lom nhìn nàng như kẻ thù truyền kiếp và truyền nhiễm! Chỉ cần kéo cái chốt cửa “cạch” một cái là nó lại ông ổng, hoặc tru lên như người ta hay nói là chó cắn ma, mà trong trường hợp này là chó cắn… Thuyên! Nàng biết, và chỉ một mình nàng biết cái nguyên cớ khiến con A li ba bốn ghét nàng như… chó chứ! Chẳng là có lần Xuyên đến nhà Dung đen, nàng bỗng nổi khùng nên, thừa lúc hai con người đáng ghét ấy khuất sau cánh cửa là nàng… phi cái dép cùn ngay chóc vô mõm con chó vốn hữu hảo với nàng từ thuở sơ khai. Thế là nó trở nên căm thù như chính nàng cũng căm thù nó và kể cả con Dung đen đúa! Chuyện thật rõ ràng mà khó nói là, Thuyên vốn thích Xuyên, nếu không muốn nói là mê, là yêu, là mến, là là… Vậy mà chàng lại mù hay sao mà chẳng… lý gì tới Thuyên, một nàng tiên mà nếu ai đó có sắc đẹp chỉ bằng một nửa của nàng thôi, cũng xứng đáng gọi là hoa khôi rồi. Còn cái con quỷ cái Dung, da thì đen như cột nhà cháy, nhe cái răng trắng nhởn ra mà phát ốm. Đã vậy còn lùn tủn như hột mít nướng nữa kìa. Mà Thuyên nào có thụ động bao giờ. Trái tim run rẩy của nàng đã từng làm cho con mắt duyên dáng nháy qua nháy lại hàng tỉ lần với chàng, khi nàng cố ý gây tiếng động để chàng phải nhìn lên nơi nàng đứng đầy ánh nắng rực rỡ cùng đám bông giấy thơ thơ mộng mộng. Vậy mà anh chàng mù kia chẳng hề bận tâm, chàng cứ tỉnh như ruồi khi nàng giả bộ e thẹn cười mỉm chi với chàng mỗi khi đụng nhau ngoài ngõ, lúc chàng chuẩn bị đến nhà tình địch của nàng! Cáu sườn vì tiếng sủa điếc cả cõi lòng tương tư, nàng quyết ra tay… ám sát con chó không hiểu tâm lý kẻ thất vọng vì tình, nghĩa là thất tình ấy mà. Dễ ợt! Nàng mua một gói thuốc chuột, cùng một miếng giò hảo hạng, loại không có phoọc môn. Rồi lấm la lấm lét dưới ánh đèn đường lúc đã gần nửa đêm. Nàng nín thở, người bôi đầy dầu xanh với ý nghĩ nếu con A li ba bốn có đánh hơi thấy thì cũng thương hại kẻ ốm đau mà câm cái mõm nhiều chuyện lại, và nhất là sẽ không biết chính kẻ đại thù đang tiến lại khe hở dưới cổng, tim đập hơn trống làng, đẩy vào đó những thứ cần đẩy rồi… chém vè! Cho dù có bị té một cú đau điếng, đến nỗi sáng hôm sau phải cà lê cà lê ra coi tình hình đám tang bi đát của con A li ba bốn, khi chủ nó là con Dung đen khóc như bão cấp 18 đổ bộ bên Phi Luật Tân rồi bay ngang qua Trung Quốc gây chết biết bao nhiêu nhân mạng, thì lòng Thuyên mừng vui khôn xiết. Chỉ có cái thắc mắc là, tại sao râu con A li ba bốn vẫn thẳng như lông nhím, trong khi người xưa cứ nhai đi nhai lại là “chết queo râu”? Hóa ra là còn có loại chết không queo râu! Thôi thì kệ đời nó! Và vì thế mà cái xóm bỗng im ru bà rù vì vắng tiếng sủa dai dẳng và dằng dai của con A li ba bốn. Nàng còn đang tính mưu tiếp, là làm thế nào “cua” được Xuyên thì đêm hôm sau xảy ra việc lớn! Số là, tuy không còn con A li ba bốn, thì vẫn còn tinh tú trên trời, còn loài người dưới thế, còn chuột bọ chạy qua chạy lại hàng đêm. Và còn có kẻ trộm nữa chứ! Vì chẳng còn tiếng gầu gầu dò dẫm, gừ gừ dọa nạt, gẩu gẩu đuổi xua, gấu gấu cùng xù lông ra trận của con A li ba bốn mẫn cảm và mẫn cán, nên thằng, con trộm đêm vô hình nào đó, đã vui lòng rinh mất chiếc xe mới mua của Thuyên, mà khi mua, nàng cứ nghĩ bụng: - Biết đâu khi thấy mình có xe mới, ảnh mới… thương mình! Hà… LAM TRẦN 03.07.2016 Khói thuốc cả Truyện ngắn là bài viết ít sự thực nhẩt, kế đó là hồi ký, trên cùng là bài viết về lịch sử. Sự thực làm nguồn cho truyện ngắn, bị bóp méo ít nhiều trong hồi ký, được đào xới, phân tích, giải thích trong các bài về lịch sử... NVS. 1. Lời thầm thì của cậu học trò trường con trai. Kể từ 1946 vùng Chợ Đệm quê ngoại cưu mang gia đình chúng tôi không còn yên lành chút nào nữa. Mấy lò gạch bự xộn, những ruộng lúa minh mông, chục đám mía Tây ngon ngọt, con sông rộng bát ngát... của vùng nhà quê một thời hiền hòa nầy bị tôi bỏ lại. Chiến tranh khiến cha mẹ tôi kéo bầy con lếch thếch bốn đứa từ chỗ nầy qua chỗ khác một năm vài ba bận đi lần về Sài gòn lánh nạn. Chợ Đệm - Sài gòn, khoảng cách nay chỉ bằng một chuyến xe buýt ngoại thành sao mà ngày trước thấy muôn trùng vời vợi. Tôi xẹt vô trường nầy chừng năm ba tháng, ghé vô trường kia một vài tuần. Cái hay ho của thời đó là tới đâu cũng có trường cho con nít học không bị đòi hỏi chứng minh giấy tờ gì. Không có khai sanh hả? Cứ khai danh dự, khai sanh hay Giấy Thế Vì Khai Sanh đưa cho trường sau cũng được. Dễ vô dễ ra nên ba tôi cho mấy con nhập học trường nầy trường nọ tự nhiên, không thắc mắc. Tuổi trẻ dễ nhớ, vậy mà chưa kịp nhẵn mặt hết mấy đứa cùng lớp thì đã bị lôi tuột qua trường khác. Nhớ đầu tiên là cái trường chỉ ọp ẹp có ba lớp, nguyên là căn nhà rộng được ngăn phòng của vợ thầy Ba y tá chích dạo trong xóm theo toa Bác Sĩ. Cô Ba mở ra để giúp cha mẹ học trò cầm chưn mấy đứa nhỏ khỏi lang thang lâu ngày do không thể đi học hơi xa. Trường nghèo, băng ghế cái nầy xọ cái kia đóng bằng đủ thứ cây của người thợ vụng về, nhám ồ và dăm nhỏ thường đâm vô tay học trò nhiều khi làm độc, thành mủ. Năm đó lúc tôi học lớp Tư (lớp 2 ngày nay), không nhớ gì nhiều, chỉ nhớ là học được chừng non hai tháng thì thằng bán cà lem cục trước cửa trường vô học chung lớp. Nó ngồi cùng bàn với tôi, tên nó hơi lạ nên tới giờ vẫn còn nhớ: Trần Doãn Nhàn. Chúng bạn cùng lớp chưa ý thức về sự tôn trọng người khác nên cứ kêu Nhàn bằng cái biệt danh ‘thằng bán cà lem cục’, nói chuyện về nó thường ra dấu với nhau bắt chước cử chỉ hai tay nó lẹ làng đè cắt cục cà lem và rút cái tăm tre ghim vô trao cho người mua một cách điệu nghệ. Nhàn học giỏi vô cùng, bỏ xa các bạn vô trước. Tôi nhớ là mình từng làm anh hùng can thiệp để cứu bạn bớt bị chế ngạo hay ăn hiếp. Vốn là dân lội ruộng từ nhỏ, lớn con hơn mấy đứa dân thành thị, lại là tay lăn chai nên tôi bảo vệ nó hữu hiệu. Nó có vẻ cảm động lắm, tâm sự về gia đình với tôi nhiều điều. Tôi có rộng thời giờ thắc mắc ngó cái miệng bự xộn của nó với cặp môi vãnh tròn vì phải rao bán cà lem lâu ngày khi còn quá nhỏ. Rồi ba tôi xách con tạt qua học trường mới. Đi mà tôi vẫn nhớ dai dẳng cái thằng có tên Trần Doãn Nhàn. Tiếc là dòng đời vô tình đẩy con người ta đi vào nhiều lối, từ đó đến giờ tôi vẫn mang trong trí cái tên đó nhưng chưa bao giờ gặp lại hay nghe tin về người bạn từng cùng ngồi chung một băng ghế lỏng chỏng ngày chiến tranh xa xưa. Trường mới tên chánh thức là gì không còn nhớ, hình như là Trường Ngã Sáu Sài gòn, nhưng cha mẹ học trò đều kêu là trường Hãng Đinh. Tên nầy có là do trường dùng dãy nhà của cái hãng sản xuất đinh của ai đó bị Tây tịch thâu. Ở trường Hãng Đinh tôi quen với thằng Cửu. Sau nầy còn gặp nó ở Mỹ, nói chuyện xưa râm ran khiến cho nhiều lần người trong nhà chế ngạo ‘Tám’ quá, coi chừng tăng hormone nữ. Trường nầy có thằng Phơi và chị nó học cùng lớp. Hai chị em học giỏi tất cả các môn. Tôi mắc cở thầm khi thấy mình thua họ cả một trời một vực. Lúc nhỏ cũng có lúc chơi chung, tiếc là lớn lên gặp lại không còn thân thiết như cũ. Chỉ chào nhau, nói chuyện ngày xưa năm ba phút rồi mạnh ai nấy đi, lòng cảm thấy có gì hụt hẫng vì những trao đổi nhạt phèo mà mình tưởng rằng sẽ rất sinh thú. Chắc thời gian làm mờ ký ức trong khi thực tế chiếm chỗ trong trí ta bằng những lo âu tính toán cho hiện tại và tương lai khiến con người lơ là với hình bóng cũ. Năm sau tôi qua trường Nguyễn Tri Phương, nay trường lớn lên sau hơn nửa thế kỷ, khang trang hơn và mang một cái tên mới lạ hoắc và đầy máu lửa. Lúc mới thành lập, trường còn cả khu đất trống phía sau, chúng tôi làm sân đá banh bằng lá chuối cột lại tuy đau chưn nhưng cũng hào hứng tận mây xanh. Điều đáng nhớ là toàn khu nầy nhà cửa thơ thớt, chiều tan trường nếu lơ mơ về trễ là bị bạn bè nhát ma, có lần tôi bị hù chụp, đã chạy vắt giò lên cổ, về tới nhà mặt xanh như tàu lá chuối. Lớp Ba của tôi có anh Thạnh là đặc biệt. Kêu bằng anh vì Thạnh lớn hơn tụi cùng lớp chúng tôi ít nhứt là 4 tuổi và là người rất chững chạc. Không biết cha mẹ anh làm giấy tờ sao đó mà anh học cùng với lũ nhỏ chúng tôi. Thạnh có tài đá cầu vảy cá mỗi mạng cả ngàn cái, chúng tôi đứa nào cũng mê mẩn theo coi anh đá lần lần tới nhà mỗi khi tan học. Thạnh dường như cưới vợ một hai năm sau đó khi chúng bạn còn đương học lớp Nhứt (lớp 5 ngày nay). Tôi nhớ có lần sau nầy nghĩa là 2, 3 năm sau ngày thi Tiểu học, tôi tò mò ghé lại tiệm may của Thạnh lúc anh đã có con 2 tuổi. Tôi nhắc lại chuyện cũ, anh lơ lảng như nghe chuyện của ai đâu, anh trở thành kẻ ngoại cuộc, đã quên hết - quên cả cái tài đá cầu của mình ngày trước. Vì bận bịu mưu sinh con người bị biến đổi tới như vậy sao? Rồi tôi qua trường Trương Minh Ký trên đường Galliéni (nay là trường Nguyễn Thái Học trên đường Trần Hưng Đạo) lớp Nhì tôi học có thằng Thức Georges với tên Tây đáng nhớ, thằng Bửu Đăng ưa khoe rằng mình là chú vua Bảo Đại. Lớp Nhứt có hai thằng bạn nhỏ con, mặt mày như tiểu thơ các bạn thường chọc là con gái cha mẹ đặt lộn tên rồi cho đi học lộn trường. Trời xui đất khiến tôi gặp lại một đứa cùng chung lớp ở trường Petrus Ký. Sau nầy ở hải ngoại nó mạnh khỏe, lớn con, lừng danh là người biết nhiều về chuyện môi trường, đất đai dòng nước nhiễm độc... Còn thằng tiểu thơ kia, tên cúng cơm là Lê Huyền Trang, con của ông chủ tiệm vàng Lê Văn Sự ở đường Quai de Belgique mà tụi nhóc chúng tôi thường hát chọc: Thằng Lê Huyền Trang, là ông Tam Tạng, Cha nó bán vàng, mà nó lang thang. Nghe chọc, nó cung tay rượt tụi tui chạy có cờ. Rượt thì rượt, chọc thì vẫn chọc, lớp chúng tôi năm đó nổi tiếng là lộn xộn trong giờ ra chơi nhứt trường. Tôi gặp Trang lần cuối khi nó là Trung Úy nhảy dù, bị đạn thù xuyên bụng tại chiến trường đương trong thời gian nghỉ phép dưỡng thương. Năm đó có cuộc di cư từ Bắc vô Nam theo hiệp định Genève. Đậu được vô Petrus Ký nhưng chưa tựu trường, tôi lợi dụng lúc nghỉ hè rủ bạn lơn tơn vô thăm trường cũ, nơi tôi theo học gần hai năm, thời gian lâu nhứt trong đời làm học trò Tiểu học. Ngôi trường có cái sân rộng mà tụi chúng tôi hằng ngày xếp hàng trước lớp dự chào cờ và nghe ông Hiệu Trưởng Phác giảng dạy luân lý năm ba phút về những cách cư xử của học trò khi ra đường cũng như lúc ở nhà. Trường đặc biệt có ba tác giả cuốn sách Khoa Học Quan Sát lừng danh: Huỳnh Văn Đó, Nguyễn Hữu Thông, Tăng Văn Chương mà học trò đứa nào được học với bất cứ thầy nào cũng lấy làm hãnh diện. Sân trường bây giờ la liệt đó đây là những túp lều, những lu vại, bếp núc. Quần áo treo, giắt lủng lẳng khắp nơi cả trên lan can và trên các nhánh cây trứng cá. Một số bàn ghế đã bị khiêng ra làm chỗ ngủ hay đã bị chẻ ra làm củi chụm bếp. Tôi ngạc nhiên trong đau xót khi thấy sân trường mình hoang tàn một cách thảm hại. Lác đác có những bếp lò làm bằng ba cục gạch như là được cạy xới lên ở đâu đó. Trên lò thường có nồi niêu soong chảo đen đúa khói ám, nhiều lò lửa còn đương cháy, củi tàn ngã cả ra ngoài. Kế bên thường là bãi nước lầy của chỗ làm cá thịt và giặt giũ... Tôi tò mò nhìn những bà cụ dân quê đặc, tóc chải thành lọn dài, quấn bằng tấm vải thâm, cuốn vòng trên đầu. Điều khiến cho tôi và thằng bạn lối xóm đi chung tò mò là các bà đều có răng đen, mặc áo thâm với hai vạt dài, cái ruột tượng luôn luôn quấn ngang bụng, nói chuyện bằng giọng mà cố gắng lắm chúng tôi mới hiểu lõm bõm. Có tiếng trẻ con rượt đuổi ca hát. Thằng Thôn bạn cùng xóm, đi chung, thách tôi lập lại coi các bé hát gì. Lấy hết trí thông minh đương có, tôi lập lại khi kết nối với hình ảnh người Chà Và đương đội mâm bán bánh rế bánh cay cũng mới bước vô cửa trường: ÔngTây đen nằm trong cái bồ. Đánh cái rắm thành bánh ga tô... Ông Tây đen nằm trong cái bồ. Đánh cái rắm thành bánh ga tô... Thằng trời đánh Thôn, đập lên vai tôi một cái đau điếng chỉ một bé gái chừng bốn năm tuổi coi mũm mĩm dễ thương nói theo kiểu dân chợ búa: - Thưởng cho mầy con nhỏ bốn năm tuổi đó, đem về nuôi một trăm tạ gạo nữa là vừa. Tao chịu con chị, nó chừng mười tuổi trổ mã tới nơi . Tôi mắc cở lảng mắt ra khỏi đám con gái hát hò, hướng về phía đám con trai đương hát bằng một điệu mà tôi chưa từng nghe: Dưới trời kỳ quái sao cùng Chân đâu còn vết ở trong đá này Ví đem sắc tướng tin đây Như Lai chưa dễ thấy ngay được ngài. Tụi nhỏ vừa hát vừa ịn chưn mình trên mấy dấu chưn có sẵn trên nền đất ẩm. Chúng kéo nhau rồng rắn đi một vòng rồi hát tiếp, rồi lại ịn chưn: Bể oan lai láng trên đời Xưa nay ai vớt hết người trầm luân Mong cho ngọn nước chảy lần Lòng mê ta rửa dần dần tỉnh ra. Trò chơi kéo dài. Tôi đứng vểnh tai nghe, chíp trong bụng mấy câu hát chưa từng nghe trong Nam. Thằng Thôn trố mắt ra ngó. Cái miệng nó tròn vo. Độ chừng mười lăm phút, thằng nầy đố tôi là nếu tôi thuộc hai bài đó thì nó bao tôi đi đổ xí ngầu ăn bò vò viên trên đường Hamelin bên hông trường... Hai bài hát vì vậy in vô trí tôi để sau nầy tôi được cái cơ duyên nói chuyện với Ngoạn Nguyệt dễ dàng và ôm em thiệt lâu trong tình thương mến... 2. Lời thì thầm của một học sinh trường con gái. Bà Nội tôi là con một vị túc nho đã đỗ Tú Tài trong kỳ thi Hương ngày trước. Nội thấm nhuần nhiều điều thuộc về Nho giáo và thuộc nằm lòng lắm bài thơ Nôm mà Nội nói không sách quốc ngữ nào có. Lúc nhỏ nhà tôi ở khu buôn bán Phố hàng Buồm, cũng thuộc hàng khá giả. Trẻ con trong phố thường xuống vệ đường ca hát ngông nghênh chọc ông Tây đen bán bánh. Nghe mãi nên tôi nhập tâm lắm bài kỳ quặc mà nếu Nội nghe cháu gái u ơ thế nào cũng mắng. Chẳng hạn như bài ông Tây đen nằm trong cái bồ... nhưng mà thôi không dám kể tiếp đâu. Lúc tôi năm tuổi, theo gia đình vào Nam, mấy tháng đầu tạm cư trong một ngôi trường sau này tôi mới biết là trường Trương Minh Ký, cũng là tên một nhà văn miền Nam như trường tôi học những năm đầu tiên ở Miền Nam. Mẹ dặn không nên bước ra khỏi cổng, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng ren rén theo một người lớn nào đó ra ngoài ngắm nghía mấy chiếc tàu điện chạy qua mà trên đầu nẹt lửa thật đáng ngạc nhiên. Không nhớ gì nhiều về thời gian ở đây ngoài việc mẹ bảo chăm sóc hai cây cà chua bỗng nhiên mọc dại, trổ trái xum xuê cạnh nơi gia đình tôi dùng làm sàn nước. Hằng ngày tôi ra ngắm hai cây cà của mình, sờ nắn để thấy từng trái lớn lên theo thời gian. Và rồi tới lúc mọi người phải dọn đi, trả trường lại cho học sinh. Tôi thắc mắc không biết phải làm sao với hai cây cà. Mẹ bảo cứ để vậy, có thể ai đấy sẽ hưởng những quả kia... Ngày rời khỏi sân trường tôi khóc hết nước mắt khi những tên con trai lém lỉnh đã nhổ phăng cả hai, vất lăn lóc và dẵm nát những quả tròn mịn, bóng nhẩy mới lớn bằng ngón chân mà tôi từng nâng niu. Nhà mới chúng tôi ở khu Tân Định, trên đường Paul Blanchy, tôi học Tiểu học ở trường Huỳnh Tịnh Của, chị Ngoạn Thư học tiếp trường Trưng Vương. Năm tôi học lớp Nhất thì chị Thư cho theo các chị đi bán báo Xuân ở mấy trường con giai. Các bà ý ngại nên cần người theo cho đỡ sợ. Lần đấy, năm1959, kể cả tôi là năm người, chúng tôi đi bán ở trường Chu Văn An. Chẳng nhớ trường tọa lạc nơi nào, các bà ý bảo đi đâu thì mình đi đấy. Vào một lớp nọ, hình như là Đệ Nhất B6, chị Ngoạn Thư lí nhí xin phép giáo sư cho các em bán báo. Thầy Ngà, sau nầy tôi mới biết tên thầy, đặt viên phấn lên bàn, lui ngồi vào ghế, nhìn chúng tôi. Các chị quíu chân. Tôi rất tự nhiên, khuân cả hai chồng báo to kềnh vào. Có anh kia đứng lên xin phép thày cho phụ với các cô. Được phép thày và không đợi chúng tôi đồng ý, anh đem phát cho mỗi người một quyển nói là các bạn xem trong năm phút, thấy thích thì giả tiền, không thích thì giả báo lại. Lần đấy chúng tôi bán quá hơn mình mong đợi nhiều. Lớp ấy tiêu thụ bằng cả ba bốn lớp cộng lại. Bán xong, khi thấy bọn nữ sinh chúng tôi phải khuân vác nặng xuống cầu thang có anh kia xin xung phong ra giúp. Khi đi gần tôi anh ấy nói, giọng Nam: - Nữ sinh Trưng Vương sao bé bằng cái kẹo thế này? Các bà ý quay lại ngó tôi cười trêu. Tôi đáp tự nhiên: - Em chưa phải là nữ sinh Trưng Vương. Em là học sinh trường Tiểu học Huỳnh Tịnh Của, Tân Định. Chị Ngoạn Thư đi cạnh anh nhanh nhẩu khi nãy. Sau này tôi mới biết anh tên Cần, Lê Mộng Cần. Anh chị quen nhau từ đấy. Những lần đầu tiên đến nhà chúng tôi, anh Cần thường đi với anh Sảnh, người đã nói tôi bé như cái kẹo. Thân thiết tôi xem hai anh như người thân trong gia đình. Tiếc là anh Cần năm sau phải đi du học Nhật Bản, bỏ chị Ngoạn Thư tôi lại nhà chúi đầu vào sách vở với nỗi buồn thâm quầng hốc mắt sâu. 3. Khói thuốc cả. Tôi ra trường được bổ nhậm về tỉnh ba năm sau mới được chuyển về Sài gòn. Trường lớn, nổi tiếng học sinh giỏi và ngoan. Dạy môn Triết dầu không thích vì phải soạn bài thật cẩn thận. Năm nọ, kỳ thi Tú Tài 2, khóa 1, lớp tôi chỉ có một cậu rớt phải thi lại khóa 2. Vài trò được phép du học cùng nhau tổ chức một tối liên hoan có ăn uống và khiêu vũ. Được mời, tôi từ chối nhiều lần nhưng các em khẩn khoản quá nói rằng Thầy phải tới cho các em vui, thầy trò mình biết bao giờ mới được gặp lại. Phải nhận rằng em ấy nói hay và tha thiết... Tiệc thiệt tưng bừng, vui nhộn, sang trọng hơn tôi tưởng. Người tham dự toàn là học sinh nam nữ trang lứa nhưng sành điệu và chững chạc khác với hình ảnh của các em lúc còn đi học chỉ mới cách nay chưa đầy một tháng. Lúc bắt đầu màn khiêu vũ, tôi bị bắt buộc phải nhảy một bản Slow khai mạc. Các em dẫn đến cho tôi một cô thật đẹp, trong ánh sáng lờ mờ tôi có cảm tưởng là cô ta quen quen. Mùi nước hoa thơm ngát, giọng Bắc ngọt ngào, cô ôm tôi thân thiện và xưng em kêu tôi bằng thày. Cô nói mình học TrưngVương, mới đỗ Tú Tài 1, ban C. Cô nói chuyện có duyên, từ chuyện nầy dẫn sang chuyện kia, rằng ngày xưa có người nói mình học Trưng Vương sao mà bé như cái kẹo. Tôi cười vui, bớt đi phần nào bỡ ngỡ khi khiêu vũ trước mắt bao nhiêu học trò. Cô nói thày dạy trường Petrus Ký mà thày có biết ở Sài gòn có một trường cũng tên có chữ Ký không. Tôi nói lúc nhỏ tôi học ở đó, còn lạ gì. Cô nói em có kỷ niệm ở đấy vì ngày mới di cư vào Nam gia đình tạm trú trong trường. Tôi nhớ lại lúc mình đi thăm trường cũ mười năm về trước. Tôi hát nho nhỏ: Ông Tây đen nằm trong cái bồ... rồi ngừng lại vì mắc cở. Ai đời làm giáo sư, đang khiêu vũ với một cô đẹp mà hát bậy. Tôi chuyển sang: Dưới trời kỳ quái sao cùng/ Chân đâu còn vết ở trong đá này... Tôi bàng hoàng khi thấy cả hai chúng tôi cùng ngâm nga hết cả hai bài. Tới đây thì tôi tịt, cô bé còn hát thêm vài ba bài nữa rồi hỏi sao thầy biết mấy bài ấy. Tôi nói tình cờ thôi. Lúc xưa trước khi nhập trường Trung học, tôi đi thăm trường cũ, được nghe trẻ con hát. Cô ta nói có thể là trong số trẻ đấy có em. Nhạc khiêu vũ chấm dứt bài, chuyển sang Tango. Cô ta vẫn ôm tôi sát hơn, nói nhỏ: - Ta tiếp tục bài này. Rồi ngước lên nhìn tôi: Anh không nhận ra em sao? Bé Ngoạn Nguyệt đây. Té ra cô ta đã nhận ra tôi ngay từ đầu nhưng không nói ra. Mới có chừng ấy năm mà cái kẹo ngày xưa đã thành thiếu nữ đương độ. Nhớ tới câu nói của thằng Thôn ngày trước, tôi bạo dạn: - Ngoạn Nguyệt dùng nước hoa gì mà hương thơm lạ? Soir de Paris? - Không, Rêve d’or. - Giá đừng dùng nước hoa thì hơn, vẫn... sang trọng như thường. Tôi dùng từ sang trọng vì không dám dùng từ đang có trong trí. Vòng tay đang ôm ngang hông tôi xiết mạnh. Tôi bạo dạn hơn vì hoàn cảnh và bóng tối: - Ngoạn Nguyệt cho anh hôn lên tóc nha. - Là tình anh em như anh Cần ngày trước hay khác? - Khác. - Anh có người yêu chưa? - Đã, nhưng sẽ tính lại sau này. - Thế thì không được. Cho tới khi bản nhạc dứt chúng tôi về bàn, không nói gì thêm. Từ đấy Ngoạn Nguyệt sang ngồi với tôi luôn, chắc cô bé có ý muốn nói gì đấy… Cô nói sang đàng từ chuyện nầy sang chuyện kia như là đương bối rối... ...Em học ở Trưng Vương sáu năm rồi, Giáo sư em thương kính nhất là bà Hồng Điệp, giám thị thì thích bà Từ Nguyên... Trường cho em tinh thần học hỏi nghiêm túc, tình thương bè bạn, nghĩa thầy trò. Xin lỗi, đáng lý em gọi anh bằng thày nhưng vì chúng ta đã là anh em trước cho nên em mạn phép xưng hô như thế. Sở dĩ em nói không là vì em học được rằng ở đời phải biết việc gì quan trọng việc gì không. Nói chung tất cả mọi sự rồi sẽ tan mất như khói thuốc. Biến thành không. Nhưng cùng lúc đó mọi chuyện cũng quan trọng, nó làm cho con người mình trở nên có giá trị hay tồi tệ.... Tôi lấy hết can đảm đặt tay mình lên trên bàn tay đẹp của Ngoạn Nguyệt như cho em một điểm hai mươi. Ngoạn Nguyệt đọc khẽ cho tôi bài thơ em nói là mới nhập tâm khi xem Giai Phẩm Xuân của trường Trung Học Hoàng Diệu năm nay. Em nói: - Bài thơ buồn quá. Em coi mà như thấy vận vào đời thanh niên thiếu nữ ngày nay. Trong tiếng nhạc nhẹ, lẫn với âm thanh ồn ào của buổi vui chơi đông người, tôi nuốt từng lời giọng đọc buồn của em. Như có tiếng nấc nghẹn ngào lạc lõng trong bi thiết: Khi ánh trăng xếp hàng nằm ngủ. Tôi hỏi rằng mình đứng đợi ai đây, Trời vào Thu, trời lớp lớp mưa bay, Tôi 16 tôi vào đời con gái, 16 tuổi yêu không ngần ngại, Người yêu tôi anh thiếu úy không quân, Ngoạn Nguyệt cầm ly rượu chát của tôi san nửa qua cái ly không trên bàn nhưng không uống, đọc tiếp: ...Tôi đứng nơi nầy trông ngóng trời Tây, Để thầm nhủ người yêu tôi ở đó… …Có người yêu thời chiến tranh thật khổ. Lúc gần nhau ngắn ngủi làm sao, Lúc giã từ cũng không kịp hôn nhau, Tôi đã khóc sợ người yêu vào lịch sử, …Trời có buồn đâu sao trời ủ rũ, Mây có buồn đâu sao mây rũ khăn tang, Trời vào thu trời tiếc thương chàng, Tôi 19 tôi vào đời quả phụ... Tôi nói mà như nói với mình . Thời chiến mọi người đều có hay sẽ có những đau buồn. Người đi đối diện với chết chóc, người ở nhà chìm ngập trong lo âu hay chờ đợi cái tang nát ruột xé gan. Lơ đãng nhìn những hạt khói được rọi sáng thành những làn khói mỏng khi ánh đèn lướt qua, Ngoạn Nguyệt nói trong tiếng thở dài: - Khói thuốc cả. 4. Thơ buồn không địa chỉ. Hai năm sau một chiều gần lễ Noel, một bức thư màu xám được ai đó đem tới trường cho tôi, không địa chỉ người gởi nhưng nhìn cách trình bày và chữ viết ngoài bao thơ tôi run run linh cảm có tin gì đó không lành từ Ngoạn Nguyệt. Thơ rất đặc biệt khiến nửa thế kỷ qua như vẫn còn hiển hiện trước mắt: Sàigòn, ngày tháng buồn không nước mắt, 1970. Anh S. ‘Tôi mười chín tôi vào đời quả phụ’ . Khói thuốc cả. Em: NN. Từ đó đến nay tôi không được tin tức gì của Ngoạn Nguyệt. Biết mình vô lý, nhưng mỗi lần nhớ về thời trai trẻ tôi đều thầm van vái người em gái Trưng Vương thông minh và dễ thương đó không có thân phận của khói thuốc dầu cuộc đời đã vốn dĩ phù du mà lại luôn tác quái lên mọi người. Chẳng chừa một ai. Van vái chỉ vì thương cảm và sự yếu lòng. Khói thuốc nào rồi chẳng biến tiêu? Câu than của em đã ảnh hưởng nhiều trên hành trang của tôi cũng như đã hướng dẫn nhiều phản ứng trước cuộc đời. Em có biết không Ngoạn Nguyệt? Nguyễn Văn Sâm Khởi thảo:Victorville, CA, 15 tháng 11, 2016. Hoàn tất: Alfortville, ngoại ô Paris, 02 tháng 12, 2016. Mùa Xuân của Bé Bông Sáng sớm lúc vừa thức dậy, Ngọc Hà đã nhìn thấy những cánh mai vàng nở lác đác trên mấy cây mọc cạnh bờ tường nhà đối diện, thì ra năm nay mùa xuân lại đến sớm. Ngọc Hà chợt thở dài. Mỗi lần xuân trở về, chị lại nhớ đến bé Nhi, đứa con gái tội nghiệp của mình mất cách nay đã ba năm vì bệnh sốt cấp tính. Từ khi con mất, Hà như mất phương hướng, tinh thần suy sụp một thời gian dài làm Việt Thu, chồng chị lo ngại vội đưa chị về Nha Trang dưỡng bệnh. Chị mới trở về nhà mình chỉ hơn ba tháng nay. Ngọc Hà đứng lên, mở tủ lấy ra một bọc quần áo trẻ em, và ngồi soạn lại, sắp xếp từng cái một cho đến lúc đồng hồ phòng khách điểm 10 giờ sáng. Chị để đống quần áo trên giường, bước xuống bếp sửa soạn bữa ăn trưa chờ Việt Thu về. Khi hai vợ chồng dùng cơm trưa xong, bước vào phòng ngủ, Việt Thu nhìn thấy quần áo bày trên giường, nhớ ra điều gì, quay sang nói với Ngọc Hà: - Em à, khoảng ngày 21, 22 cuối năm, hai vợ chồng mình có hẹn đi làm từ thiện với nhóm thiện nguyện ở mái ấm tình thương Lagi, em nhớ không? Ngọc Hà mỉm cười: - Em nhớ chứ, chỉ sợ anh không xin được nghỉ phép thường niên ở công ty thôi hà. - Vậy để anh viết đơn từ bây giờ, chắc là được em à, rồi cả hai vợ chồng thu xếp cùng đi nhé. - Dạ, em sẽ điện cho các chị trong nhóm để hẹn ngày giờ nghe anh. - Em chờ anh sắp xếp công việc ở công ty, anh sẽ báo em biết. Tuần lễ sau, hai vợ chồng Việt Thu, Ngọc Hà sửa soạn hành trang cùng với nhóm thiện nguyện Từ Ái, Ngọc Hà cũng không quên đem theo bọc quần áo của Ngọc Nhi, đứa con gái bất hạnh của chị. Họ đã lên đường ra Hàm Tân - Phan Thiết đến với các Mái Ấm Tình Thương theo dự định của đoàn. Đã từ lâu, sau khi lập gia đình Ngọc Hà không có dịp đi xa, trừ khi phải đi về xứ biển để nghỉ dưỡng, nay lại được một chuyến đi như thế và cùng với một nhóm đồng hành cùng tâm nguyện chị cảm thấy vui và phấn khởi, như vơi đi những nỗi buồn nặng nề trong lòng, nhất là cùng đi với Việt Thu, chồng chị. Chuyến xe khởi hành lúc 6 giờ sáng sau khi đoàn thiện nguyện đã tập trung tại ngã tư Trương Định - Nguyễn Thị Minh Khai, trước cửa vườn Tao Đàn, nơi các chị em trong nhóm tập Dưỡng sinh mỗi sáng tinh mơ. Ngọc Hà nhìn ra hai bên đường, khi xe qua khỏi Hàng Xanh là chị bắt đầu thấy lạ, nhà phố nhộn nhịp khác với trước đây quá, hồi trước mà chị biết thì con đường quốc lộ còn thưa thớt dân cư lắm, Ngọc Hà ngẩn ngơ nhìn ngắm cảnh vật giật lùi phía sau xe một lúc lâu rồi quay sang hỏi chồng đang ngồi kế bên: - Anh ơi, sao giờ có nhiều thay đổi quá anh hả? Việt Thu đưa tay kéo cái khăn choàng cổ của Ngọc Hà ngay ngắn lại rồi thong thả trả lời: - Thì như em thấy đó, cứ mỗi giờ trôi qua là vạn vật sẽ đổi dời thôi em à! Chị vẫn nhìn anh như chờ đợi câu trả lời khác hơn. Hiểu ý vợ, anh lại chậm rãi nói thêm: - Hơn mười năm nay, khi đất nước thông thương hai miền Nam Bắc, tình hình mở mang, dân cư mình đưa nhau đi lập nghiệp, miệt từ ông Đồn trở ra nhà cửa san sát hàng quán, cửa hiệu liền kề nhau, tại em không đi về vùng này lâu rồi nên em thấy lạ đó thôi. Ngọc Hà nghe nói đến đây thì à một tiếng. - Hồi em về Nha Trang và vô lại, anh đặt vé máy bay cho em nên em không biết đến sự thay đổi là phải rồi anh há. Việt Thu mỉm cười: - Vậy em vừa ý câu trả lời của anh rồi đúng không? (còn tiếp) HOÀI LY CƯỜI GIẢNG CHO HỌA SĨ (1) Một hôm họa sĩ Véc-ne của Pháp (thế kỷ 19) đang đi dạo trên bờ hồ bỗng dừng lại xem một cô gái đang ngồi vẽ phong cảnh. Thấy ông có vẻ tán thưởng, cô gái bèn giảng giải cho ông đủ mọi điều về môn hội họa. Ngày hôm sau, họa sĩ lại gặp cô gái ấy đi cùng một chuyến tàu thủy. Cô gái hỏi ông: - Ông đã có tuổi, hẳn ông có biết mặt nhà danh họa Véc-ne. Nghe nói ông ta cũng đang cùng ngồi một chuyến tàu với chúng ta. Cháu muốn được chiêm ngưỡng ông ta một chút! Họa sĩ Véc-ne mỉm cười: - Thì cô đã biết mặt ông ta rồi còn gì. Sáng hôm qua, trên bờ hồ cô đã giảng giải cho ông ta một thôi một hồi về hội họa rồi kia mà! CÂU NÓI CỦA MỘT NGƯỜI BỆNH (2) Nghệ sĩ hài hước nổi tiếng Sa-plin ốm nặng. Bác sĩ đến khám bệnh xong, buồn bã lắc đầu: - Rất tiếc tôi không đủ khả năng để làm ngài trẻ lại. Vua hài hước nằm trên giường bệnh vội vã xua tay: - Ồ, tôi có muốn ông làm cho tôi trẻ lại đâu. Ông chỉ cần giúp tôi già được thật lâu cũng quý báu lắm rồi! Có lẽ câu nói ngộ nghĩnh ấy đã giúp bệnh tình Sa-plin thuyên giảm rất mau. ĐÀN ÔNG THÔNG MINH (3) Nhà văn nổi tiếng Bớc-na Sô có kể một câu chuyện như thế này: Có lần ông tâm sự với mấy người bạn tại nhà riêng của mình: - Đàn bà thường hay chậm chạp và kém thông minh. May mà nhược điểm ấy được cái nhanh nhẹn và thông minh của cánh đàn ông chúng mình bù đắp! Không ngờ lúc ấy vợ Bớc-na Sô đi qua tình cờ nghe được. Bà liền chống nạnh nói oang oang: - Phải, chính vì đàn ông thông minh nên mới lấy được tôi, còn đàn bà ngu đần nên tôi mới vớ phải ông! Vua trào phúng ít khi bị một mẻ đột ngột như vậy, đành cười xòa xin lỗi. SỌT BÁNH MÌ (4) Ê-dốp là một nhà thơ ngụ ngôn nổi tiếng thời cổ Hy Lạp nhưng cũng từng phải làm nô lệ. Một buổi tên chủ tổ chức một chuyến đi xa, nhiều nô lệ phải theo hầu hạ. Trong số hành lý có sọt bánh mì là nặng hơn cả nên ai cũng tránh không muốn nhận mang. Nhưng Ê-dốp thản nhiên vác lên vai. Ai cũng cho là lạ. Sau vài ngày đi đường, mọi người mới vỡ nhẽ. Thì ra cứ sau mỗi bữa ăn, sọt bánh mì vơi dần và Ê-dốp trở thành người mang nhẹ nhất. Ai cũng tấm tắc khen sự thông minh của ông. LỜI KHUYÊN SÂU SẮC (5) Nhạc sĩ Véc-đi người I-ta-lia một hôm tiếp một nhạc sĩ trẻ. Anh ta cứ huyên thuyên nói chuyện về các tác phẩm của mình một cách đầy hãnh diện. Mãi Véc-đi mới ngắt lời anh ta được và nói: - Này anh bạn trẻ ơi, hồi 20 tuổi như anh tôi cũng hay nói về “tôi” như thế đấy. Nhưng năm 25 tuổi, tôi thường nói: “tôi và Mô-da”. Đến năm 40 tuổi, tôi đổi vế: “Mô-da và tôi”. Và bây giờ đã ngoài 50 tuổi đầu, tôi chỉ còn nói mỗi một tiếng: “Mô-da” mà thôi! NẤM MỘ KHÔNG CÓ HÀI CỐT (6) Ca-mô-en (1524-1580) là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Bồ Đào Nha. Trong một lần đi du lịch, ông bị mất tích. Để tưởng niệm ông, người ta đã xây một ngôi mộ rất đẹp. Tất nhiên trong đó không có hài cốt của ông. Người ta đã thu thập đất ở tất cả các nơi mà ông đã từng qua để chôn vào trong mộ. TÌNH HUỐNG BẤT NGỜ (7) Có lần Béc-na, nữ diễn viên nổi tiếng của Pháp đóng vai một người đàn bà cực khổ cùng quẫn trên sân khấu. Bà vừa rên rỉ: “Trời ơi, thế này thì tôi sẽ chết đói mất thôi!” thì bỗng dưới khán giả có tiếng kêu: “Thế thì đem bán chiếc vòng vàng ở cổ tay kia đi!”. Béc-na sực nhớ mình quên không tháo chiếc vòng vàng trước khi ra sân khấu. Lác đác có tiếng cười dưới khán giả. Ông trưởng đoàn kịch toát mồ hôi lo lắng cho lớp kịch bị gãy đến nơi. Không ngờ Béc-na nói tiếp ngay sau tiếng kêu của khán giả lúc nãy: - Tôi đã đem chiếc vòng này đến hiệu cầm đồ, nhưng họ lại chê là vàng giả! Sự nhanh trí ấy của bà đã cứu vãn nổi tình thế nguy ngập trên sân khấu. BUỔI BIỂU DIỄN BẤT NGỜ (8) Một lần danh ca người I-ta-lia tên là Ca-ru-dô đến ngân hàng nhận tiền mới vỡ lẽ rằng mình không mang theo bất cứ giấy tờ chứng nhận nào cả. Viên thủ quỹ khăng khăng không phát tiền. Suy nghĩ giây lát, danh ca bèn quyết định: - Vậy thì bây giờ xin mời ông hãy nghe! Đoạn ông lấy giọng trình bày một khúc ca trong vở nhạc kịch nổi tiếng mà ông đã sắm vai chính. Các nhân viên ở ngân hàng bất ngờ được nghe một giọng hát tuyệt diệu mà họ từng quen thuộc. Viên thủ quỹ đã vui vẻ phát tiền cho Ca-ru-dô. LÂU ĐÀI NHƯ QUÁN RƯỢU ! (9) Nhà văn Vôn-te của Pháp rất hiếu khách. Nhưng có một vị linh mục lợi dụng lòng hiếu khách của ông, cứ đến chơi và ở lì mãi trong lâu đài của ông. Một hôm nhà văn bảo vị linh mục ấy: - Thưa ngài, ngài có biết ngài và chàng hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê khác nhau ở chỗ nào không? Vị linh mục lắc đầu: - Tôi không biết! Nhà văn cười: - Đôn Ki-hô-tê coi quán rượu như những lâu đài, còn ngài thì lại coi lâu đài như những quán rượu! TRÍ THÔNG MINH CỦA CÔ (10) An-đéc-xen là nhà văn có nhiều biệt tài. Nhưng về hình thức, ông không được đẹp trai cho lắm. Hồi ông chưa lập gia đình, một hôm có một phụ nữ quý tộc đỏm dáng đến gặp ông và sống sượng đề nghị: - Thưa ông, ông có thể chọn em làm vợ. Em tin rằng con cái chúng ta sẽ có cả trí thông minh của ông lẫn sắc đẹp của em. An-đéc-xen cười: - Thưa cô, tôi sợ rằng chúng nó sẽ có sắc đẹp của tôi và trí thông minh của cô thì khốn thay! ĂN… THUỐC ĐỘC ! (11) Có một dạo nhà văn Ra-bơ-le của Pháp túng thiếu quá. Ông có việc phải tới hải cảng Mác-xây, nhưng khi cần phải mua vé tàu trở lại Pa-ri thì túi ông hết sạch cả tiền. Ông đã nghĩ một mẹo như sau: lấy đường cát gói làm ba gói, gói thứ nhất đề “thuốc độc để giết hoàng đế”, gói thứ hai đề “thuốc độc để giết hoàng hậu”, gói thứ ba đề “thuốc độc để giết công chúa”. Ba gói này ông giả vờ sơ ý để trên nắp va-li trong khách sạn. Chẳng mấy chốc, có người báo với nhà chức trách. Và Ra-bơ-le bị giải về Pa-ri lập tức trên một chuyến tàu hỏa cùng với tang chứng. Trước tòa, nhà văn bèn thú hết “âm mưu” của mình. Và để mọi người tin, ông đã lần lượt ăn hết ba gói “thuốc độc” một cách ngon lành. HAY VÀ MỚI (12) Một nhạc sĩ mới vào nghề đưa tác phẩm của mình cho một giáo sư âm nhạc nổi tiếng góp ý kiến. Giáo sư xem xong và nói: - Trong bản nhạc của anh có nhiều chỗ hay và nhiều chỗ mới. Nhạc sĩ trẻ hí hửng ra mặt, nhưng vị giáo sư nói tiếp: - Tiếc thay chỗ nào hay thì không mới, mà chỗ nào mới thì lại không hay! Từ (1) đến (12) do M.S. st. Một lái buôn người Mỹ đến thuê một họa sĩ vẽ một tấm biển có hình sư tử để treo trước nhà. - Ông thích sư tử bị xích hay sư tử không bị xích? - người họa sĩ hỏi - nếu vẽ sư tử bị xích thì giá 100 đô-la, còn sư tử không bị xích chỉ giá 50 đô-la thôi. - Ông vẽ cho tôi sư tử không bị xích, - người lái buôn nhanh nhẩu nói. Một tuần sau người lái buôn đến nhận tấm biển về treo. Đêm đó trời đổ mưa. Sáng ra khi mở cửa hiệu, người chủ nhìn lên chẳng thấy sư tử đâu cả. Nổi cáu, lão ta chạy tới nhà họa sĩ hỏi. Họa sĩ bèn nói vì ông bảo tôi vẽ sư tử không bị xích, nên nó xổng đi là phải. Thật ra họa sĩ đã vẽ sư tử bằng phấn mầu, nên khi trời mưa đã rửa sạch nét vẽ. o0o Ông Đuy-răng rất thích âm nhạc. Đang ngồi nghe âm nhạc, thì một bà ngồi bên cạnh cứ huyên thuyên. Bà ta hỏi ông Đuy-răng khi ông đang chăm chú với bản giao hưởng của Bét-tô-ven: - Thưa ông, theo ông thì trên đời này còn gì đẹp hơn âm nhạc nữa không ạ? - Thưa bà, có chứ. Đó là sự yên lặng! - Đuy-răng đáp khẽ. o0o Nhà văn nổi tiếng Bớc-na Sô gặp một người rất béo. Ông ta nhìn chằm chằm vào thân hình gầy gò của nhà văn và nói: - Nếu nhìn thấy ông, người ta có thể nghĩ rằng nước Anh nghèo đói! - Còn nếu như nhìn thấy ngài thì người ta có thể nghĩ rằng chính ngài là nguyên nhân của điều bất hạnh đó! o0o Trên một tàu thủy. Một nhà bác học hỏi thủy thủ: - Anh có biết ngữ pháp không? - Thưa ngài, tôi không biết. - Thế là anh phí mất nửa đời người. Nhà bác học nhận xét. Bỗng bão tố nổi lên. Anh thủy thủ hỏi nhà bác học: - Thưa ngài, ngài có biết bơi không ạ? - Tôi không biết bơi. - Ôi, thế thì ngài lại phí mất cả một đời người. o0o Một lần nhà văn Tsê-khốp hỏi một nhà văn trẻ: - Đi xe lửa anh thường mua vé hạng nào? - Dạ, tôi mua hạng nhất, để được yên tĩnh suy nhgĩ. - Tôi khuyên anh nên mua vé hạng bét, cuộc sống ở đó sẽ giúp ích nhiều cho nghề viết của anh. o0o Nhà văn hài hước nổi tiếng người Đức Mô-rít Da-phia cãi nhau với một nhà thơ. Vốn ghen ghét tài năng, anh nhà thơ bèn nói: - Ông chỉ viết vì tiền, còn tôi viết vì danh dự. - Mỗi chúng ta viết chính vì cái chúng ta thiếu. Nhà văn từ tốn trả lời. X.T. & ĐỖ THIÊN THƯ st.
TÁC PHẨM VĂN HỌC NỔI TIẾNG THẾ GIỚI I. Đại cương Nhân đọc 108 tác phẩm nổi tiếng của thế giới trong tập Bản tin 126 của CLB Sách Xưa & Nay, Nhựt Thanh cũng nêu vài ý kiến của mình cho vui. Phê bình Văn, Thơ, Nhựt Thanh tôi khẳng định là theo trường phái Ấn Tượng dung hòa với trường phái Bác Học và Phương sách giáo khoa nghĩa là nói hay là phải nêu được chứng cớ là nó hay. Trong 108 tác phẩm hay đó, tôi không thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du ở đâu cả. Truyện Kiều hay hay dở? Phải nói là hay đấy. Nhưng một tác phẩm hay là thế nào? Theo tôi, nó phải phong phú về nội dung, mà mỗi vấn đề phải diễn tả sâu sắc nghĩa là éo le mà hấp dẫn. Muốn cho tác phẩm hấp dẫn phải nói đó là nghệ thuật trình bày và diễn đạt. Xét như vậy thì Truyện Kiều hay thật nhưng nó được Quấc tế coi là tác phẩm tiêu biểu của Văn học Việt Nam thôi vì Trung Quấc nói rằng tác phẩm đó là của Trung Quấc. Nếu có ai đọc Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thì phải nói đúng là tác phẩm của Trung Quấc nhưng diễn đạt không hay thôi. Nếu Nguyễn Du tự dựng lên tác phẩm nầy thì phải nói là tác phẩm hay của thế giới. II. Nhận xét vài tác phẩm A. Tác phẩm chưa xứng đáng tầm vóc quốc tế. 1 . Thủy Hử của Thị Nại Am, Trung Quốc (1296-1370). “Thành công nghệ thuật: đưa dòng văn học hiện thực chủ nghĩa cổ điển Trung Quấc lên một mức cao, nhất là nghệ thuật khắc họa các anh hùng hảo hán “tạo phản” (Bản tin số 126). Thời phong kiến, động tới vua là chết nhưng Thủy Hử gồm 108 hảo hán chống lại triều đình nổi đình nổi đám làm lòng người cảm thấy hả hê nên khen thôi. Còn về khắc họa anh hùng hảo hán thì các tiểu thuyết lịch sử của Trung Quấc đều gần như vậy cả. Tam Quấc Chí ở thế kỷ thứ tư, tả Điển Vi thì nói nhảy qua suối rượt đánh hổ. Thuyết Đường tả về Hùng Khoát Hải thì khi hai con hổ xông tới tấn công, Khoát Hải túm đôi hổ ấn xuống rồi hai chưn đá hai cái, đôi hổ vỡ óc ra mà chết. Có lẽ Khoát Hải với Điển Vi cũng ngang ngửa với anh hùng đả hổ của Thủy Hử đấy. Thời còn trẻ, tôi có đọc chuyện Thủy Hử và nhớ là Tống Giang khéo chiêu nạp anh hùng lỡ vận bị truy nã phải trốn và được quân sư Ngô Dụng khéo bày binh bố trận chống được với triều đình nhưng sau đó thất bại. Đây là tác phẩm không cổ bằng Tam Quấc Chí của La Quán Trung nhưng được Trung Hoa thêu dệt quá mà ai đó có ấn tượng rồi khen thôi chớ riêng tôi, tác phẩm nầy không xứng tầm là tác phẩm hay của thế giới, của nhơn loại. Tác phẩm hay hay dở là thế nào? Có lẽ do có người đề cao hay không thôi. Có trường hợp tác giả chết rồi, một thời gian sau có người nêu lên và nổi tiếng đấy. Trong thời thơ mới phát triển rầm rộ, theo giáo sư Thanh Lãng kể trong giảng khóa, Thi sĩ Đông Hồ sáng tác thơ mới, tôi không nhớ là tác phẩm xuất bản hay những bài thơ riêng lẻ đăng trên báo, không thấy ai khen thơ mình, chính Đông Hồ viết một bài khen thơ mình bằng một tên khác, ông gởi báo và được báo đăng. Ông đem bài báo đó cho bạn bè xem và hỏi người ta phê bình như vầy thì thế nào? Nhiều người nói bài báo phê bình đúng, thơ Đông Hồ hay thiệt. Sau đó ông mới cho biết là chính tôi khen tôi đó. Nhà thơ hay hay dở cũng có trường hợp như vậy. 2 . Ly Tao, trường ca của Khuất Nguyên, Trung Quốc (340-287 trước CN): một bài thơ trường thiên độc đáo thống thiết, rực rỡ, hào hùng của một tâm trạng u uất sắp tử tiết để răn đời. Mở đầu thể văn “Sở từ phú” (Bản tin số 126) Khuất Nguyên làm chức Tả đô đời Sở Hoài Vương, bị đại phu Thượng Quan gièm nên vua bỏ rơi. Ông buồn cho người ngay không có chỗ dung thân nên viết ra Khúc Ly Tao nghĩa là buồn trong chia ly. Nội dung ông viết gì? Ông nói chuyện lịch sử từ Đế Cốc tới Tề Hoàn. Ông nêu nguyên nhân nước nhà trị loạn và đề cao tầm quan trọng của đạo đức. Văn ông ngắn, gọn, kín đáo (Theo Sử Ký Tư Mã Thiên). Nói đến Khúc Ly Tao, xưa nay ai cũng cho là một áng văn buồn. Ông có kể hết chuyện từ Đế Cốc tới Tề Hoàn không? Tôi cho là không đâu. Ông chỉ kể một số nhân vật lịch sử bất hạnh như ông để đề cao một số nhân vật có đạo đức. Theo tôi, Ly Tao hay do ba yếu tố: - Tác phẩm có tánh cách lịch sử từ thời cổ. - Nó gắn liền với tác giả. Người đời thương Khuất Nguyên nên đề cao thêm. - Nó mở đầu cho thể Sở từ phú. Về văn thể có lẽ ngày nay người Trung Hoa đã bỏ thể nầy rồi vì nó gò bó có vần, có đối. Thể thơ Đường nổi tiếng của Trung Hoa mà nay sinh viên Trung Hoa còn không biết kia mà. Giá trị là văn cổ của nhơn loại có lẽ Khổng Tử với Kinh Thi (551-479 trước CN), Nam Hoa Kinh của Trang Tử (355-275 trước CN), Sử Ký của Tư Mã Thiên (145-90 trước CN) đại diện là đủ rồi. Tôi không đọc được tác phẩm nầy nhưng tôi không nghe ai nói Ly Tao là tác phẩm lịch sử. Về tâm sự buồn thì nhơn loại đầy dẫy. Tôi cho rằng Ly Tao là tác phẩm có giá trị lớn của Trung Quốc thôi chớ không phải là của thế giới. Việt Nam ta với “Bình Ngô Đại Cáo” được cho là một thiên cổ hùng văn nhưng tôi chưa nghe nói nó vượt ra khỏi Việt Nam. Với yếu tố người đời thương Khuất Nguyên tôi cho là đúng nhứt. Dân Trung Hoa đông, nước Trung hoa mạnh, họ làm ăn buôn bán sanh sống ở rất nhiều nước trên thế giới nên sức lan tỏa của Khuất Nguyên với Ly Tao lớn mà ai đó đã đề cao quá mức. B. Tác phẩm có tầm vóc quấc tế. 1 . Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, Trung Quốc (thế kỷ XVI). Tác phẩm 100 hồi, toàn truyện hoang đường, đầy dẫy thần, ma, quỷ, quái, người đọc đều biết là vô lý, nhưng vẫn chấp nhận vì rất sinh động và chan chứa tình người (Bản tin số 126). Theo tôi, tác phẩm Tây Du Ký hay có tầm mức thế giới là ở sự tưởng tượng vô cùng phong phú của Ngô Thừa Ân. Ông dựng cảnh ở Thiên đình, cảnh đi mây về gió. Ông dựng cảnh đánh nhau bằng phép rất lý thú. Khi núng thế, Tề Thiên nhổ một nhúm lông, thổi một cái thì có vô số Tề Thiên xuất hiện… 2 . Sử Ký của Tư Mã Thiên, Trung Quấc (145-90 trước CN) một tác phẩm sử học có giá trị văn chương rất cao, nhất là những phần viết về các nhân vật lịch sử (Bản tin số 126). Đọc lướt qua Sử Ký của Tư Mã Thiên, tôi thấy ông kể các nhân vật thời Hán trở về trước, các bậc đại hiếu như Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Mạnh Tử. Các nhà quân sự như Tôn Tử, Ngô Khởi. Các nhà lãnh đạo lập nên sự nghiệp hiển hách như Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang, Hạng Vũ… Các tướng tài trí hơn người như Liêm Pha, Lạn Tương Như, Quý Bố, Loan Bố… và cả các nhà thuyết khách giỏi như Tô Tần, Trương Nghị… Đọc Sử Ký của Tư Mã Thiên ta thấy nổi lên những giá trị muôn đời và những tấm gương đáng kính như Khổng Tử với thuyết chính dnah và dùng đạo đức để tạo kỷ cương. Lão Tử thì giấu mình kín tiếng, sáng suốt nhận định để ở đi đúng lúc tránh tai họa. Với kinh gia Tôn Ngô thì tài dùng binh và binh pháp được các binh gia, kể cả các nhà kinh doanh ngày nay nghiên cứu. Các hành xử đoàn kết nội bộ của Lạn Tương Như thì khó sánh kịp. Sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, theo tôi, nó có tầm vóc quấc tế vì: - Sách cổ trước công nguyên. - Ý nghĩa nội dung phong phú, nhiều mặt giá trị vượt thời gian. 3 . Tam Quốc Chí của La Quán Trung, Trung Quốc (thế kỷ IV) một bộ tiểu thuyết lịch sử, chủ yếu là chiến tranh mà thuyết phục và hấp dẫn, thành công hiếm có trong lịch sử văn học nhân loại (Bản tin số 126). Sự kiện lịch sử xảy ra là như vậy mà kể lại thì hay ở chỗ nào? Ta phải ngược về thế kỷ thứ tư, La Quán Trung có đọc được nguồn tài liệu phong phú mà kể lại không? Tôi cho là không vì từ thế kỷ thứ tư trở về trước, việc in sách còn hạn chế lắm. Do đó, tài liệu viết sách, đại bộ phận là do ông nghe. Với trí tưởng tượng phong phú, với tài sắp xếp, ông tùy nghi thêm bớt mà viết ra. Cái hay là ông kể hấp dẫn từ đầu đến cuối. Sự kiện xảy ra ở vùng nầy vùng nọ… ông sắp xếp sao cho sự diễn tiến hợp tình hợp lý. Sự thắng và thua ông cũng nói và sắp xếp sao cho độc giả thấy rõ thế tất thắng và tất thua. Việc Mã Tắc thua và bị giết. Mã Tắc là nhà quân sự có tiếng là giỏi. Ông thuộc binh thơ làu làu. Khổng Minh nói mất Nhai Đình thì đại quân của ta vứt cả. Mã Tắc làm cam đoan và cùng Vương Bình dẫn quân đi. Ra Nhai Đình, Tắc đem quân lên núi đóng. Vương Bình bàn đóng quân ở ngã năm để giữ yếu đạo vì lên núi mà thiếu nước thì là nguy. Tắc nói lên núi đóng quân vì thế trên xuống như chẻ tre và Tôn Tử nói “Bỏ vào đất chết rồi mới sống”. Nếu Ngụy chặn đường lấy nước thì quân Thục phải liều chết mà đánh. Mã Tắc nói đúng. Hoàng Trung giết Hạ Hầu Uyên cũng ở thế nầy. Hoàng Trung chiếm ngọn núi Đới Sơn cao chót vót phía Tây núi Định Quán. Hạ Hầu Uyên chia quân vây kín. Hoàng Trung tế ngựa xuống, đại quân kéo sau như trời long đất lở. Hoàng Trung hét to một tiếng, chém xả Uyên làm hai mảnh. Nhưng Mã Tắc thì thua vì quân Bắc Ngụy đông như kiến và khống chế hết các điểm lấy nước. Với lượng quân lớn, không nước uống và nấu ăn nên quân sanh loạn và thua. Để mất vị trí chiến lược và làm đảo ngược thế trận thì phải bị kỷ luật. Xưa thì chuyện chém tướng bị sai là thường. Nhưng chém Mã Tắc, Khổng Minh khóc gây người đọc một nỗi xao xuyến. Dùng người và cắt đặt là do Khổng Minh. Để Mã Tắc thua là lỗi ở Khổng Minh. Chém Mã Tắc là chém vào tim Khổng Minh nên ông khóc và giải thích rằng Lưu Bị đã nhắc chừng là Mã Tắc kém mà ông lại dùng vào việc lớn và bị hại nên ông khóc. Việc khóc cho thấy Khổng Minh biết về Mã Tắc nhưng vì một lý do nào đó mà cắt đặt. Cái khóc của ông làm cho không ai nghĩ đến cái sai của ông. Hình ảnh Khổng Minh vẫn là thần tượng xuyên suốt tác phẩm. Các tướng thì mỗi người một đặc điểm. Điển Vi thì tự hào về tài sức của mình nên bị gạt uống rượu say mà nhết, Quan Công thì tài giỏi, tín nghĩa, anh hùng; Trương Phi thô lỗ nhưng có lúc cũng biết dụng mưu, Triệu Vân thì tài giỏi, trầm tĩnh đáng là bậc lương tướng… Dàn mưu sĩ thì người thế nầy, người thế khác nhưng mỗi người có cái riêng. Tất cả hợp lại làm tác phẩm hấp dẫn từ đầu tới cuối. Tác phẩm xuất hiện ở thế kỷ thứ tư mà loại nầy hiếm có nên nó đáng tôn vinh ở tầm thế giới. 4 . Thơ ngụ ngôn của La Fontaine (Fables de La Fontaine), 1668-1694, Pháp: “Phản ánh một cách trào phúng xã hội Pháp với bất công, áp bức. Luân lý thực tế, dân gian” (Bản tin số 126). Fables de La Fontaine gồm 2 cuốn với khoảng 170 bài nói về con vật, con người, đồ vật và sự liên quan mà bài nào cũng có ý nghĩa sâu sắc. - Bài “Con ve và con kiến” phản ánh thói đời lắm kẻ ham chơi hơn lao động: Hỏi rằng: “Bậu không làm gì mùa nắng Không dành để tiện tặn Để bây giờ kêu vay” Ve rằng: “Tôi ca hát cả ngày” Kiến rằng: “Vậy, hát thử vài bài nghe chơi”. (Thanh Châu dịch) chỉ kể một mẩu chuyện nhẹ nhàng mà thấm thía. - Bài “Thần chết và tiều phu” (La mort et le bucheron) cười cợt tánh hiếu sinh “Thà rằng sống khổ chết đi không đành” (Theo bài dịch Thanh Châu) - Bài La Laitière et le Pot au Lait, ngó lướt qua, tôi cho rằng bài nầy có bản dịch mà tôi thuộc: Có em bán sữa nghèo nàn Đội sữa đi bán dọc đàng nghĩ suy Được thời tôi bán sữa đi Trứng gà có trống mua thì một trăm Mau hơn làm ruộng nuôi tằm ………… Và đoạn cuối: Thừa tiền mua một con bê Để cho nó nhảy bốn bề mà coi rồi em bán sữa nhảy cẫng lên, sữa đổ hết. Suy nghĩ ước mơ viển vông tắt lịm. Tình tiết diễn ra mạch lạc thể hiện tâm lý chung mà con người mắc phải. - Bài La Poule aux œufs d’or. Có lẽ có bản dịch, đọc lướt qua, tôi thấy hao hao giống bài: Con gà đẻ một trứng vàng Chủ nuôi cắc củm mới bàn lời ni Bụng gà vàng khối có khi Bắt ra mổ bụng tức thì mà coi Vàng đâu chẳng chút lẻ loi Hại thay gà chết người lòi tánh tham. Tánh tham lam muốn vơ vét để làm giàu cho mau có lẽ nhiều người có. - Bài Le Cochet, le Chat et le Souriceau. Đọc lướt qua, tôi thấy nội dung giống những câu thơ mà tôi thuộc lòng: Chết con ạ, chớ trông ngoài mã Bộ hiền lành chính gả miêu nhi Xưa nay độc ác gian phi… Và: Còn gà nọ thì con chớ sợ Đã không phá hại nhà nầy Mà thường giống chuột lại hay bắt gà Nó nêu lên một mặt của cuộc đời: “Người cực gian giống như thật”. Do đó, ta chớ nhìn bề ngoài mà xét. Với khoảng 170 chuyện, mỗi chuyện là một mặt của cuộc sống rất sâu sắc nên La Fontaine được đánh gái là đại thi hào của Pháp. Đó là tác phẩm của thế giới, của nhơn loại do nội dung phong phú thể hiện lề thói của quảng đại quần chúng. Khánh Hội - Quận Tư Saigòn 05.12.2016 PHẠM HIẾU NGHĨA (Nhựt Thanh) Đọc Sách dùm bạn TỪ ĐIỂN CÔNG GIÁO của Hội đồng Giám mục Việt Nam Sách gồm 1220 trang và trên 150 người biên soạn gồm các Đức giám mục, Đức ông, các linh mục, tu sĩ các dòng, giáo dân trong và ngoài nước… Các mục từ được xếp theo thứ tự A, B, C… theo dạng tự điển. Mỗi từ được viết thành 5 thứ tiếng khác nhau theo thứ tự: Việt, La Tinh, Anh, Pháp, Hoa. Một số chữ có để tiếng gốc là Aram, Hipri, Hy Lạp… Sau những từ gốc Hoa, Aram, Hipri, Hy Lạp đều có cách đọc và diễn nghĩa của từ. Với chủ trương vắn tắt không quá dài dòng, “từ nào nội dung nấy”, người đọc với trình độ vừa phải cũng có thể nắm bắt ý chính của từ ngữ. Đây là một công trình cần thiết và hữu ích, đáp lại sự mong đợi của nhiều người, trước hết là các tín hữu Công giáo, từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân, từ những người giảng dạy và học tập trong các học viện đến giáo lý viên và học viên giáo lý tại môi trường giáo xứ (theo Lời giới thiệu của Đức cha Giuse Nguyễn Năng - Giám mục Phát Diệm). (NXB Tôn Giáo Quý IV/2016) Sổ tay 2017 Tòa TGM Tp. HCM Một cuốn sổ tay cần thiết cho các địa chỉ nhà thờ, các giờ lễ. Danh sách các Giám mục, Linh mục trong và ngoài nước. Các dòng tu hiện diện tại thành phố HCM. Theo danh sách này ta có thể phát giác sớm những người lợi dụng, giả mạo để làm những chuyện có hại cho tôn giáo. HÀ NỘI ƠI Thơ Lê Nguyên Thăng Long Hà Nội 1000 năm/2000 Gồm 38 bài Thơ và Nhạc Trình bày bìa và minh họa của họa sĩ Lê Thiết Cương (NXB Hội Nhà Văn Quý III/2010) Những suy nghĩ vẩn vơ Tập 12 &13 Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông. (Lưu hành nội bộ). Nhớ thương mùa phượng năm nào Thơ NGÀN PHƯƠNG Gồm 89 bài thơ và một số hình chân dung phụ bản của con gái rất đẹp. (Hình bìa bên dưới) HÀ MẠNH ĐOÀN
THỞ BỤNG - BÀI THUỐC CHỮA BÁCH BỆNH của Bs. NGUYỄN KHẮC VIỆN (Xem trên Bản tin số 39 trang 77-78) TẬP THỞ Tập thở là phần mở đầu và là phần quan trọng nhất trong quá trình tập luyện. Muốn thở với hiệu suất tối đa thì: Thở ra: Đưa cơ hoành lên thật cao, khép hai cánh sườn lại, thót bụng tối đa. Thở vào: Đưa cơ hoành xuống tối đa, hai cánh sườn mở ra, phình bụng tối đa. Thở ra là chính, là chủ động, là quyết định. Thở cơ hoành là tập cho nội tạng và thần kinh. BÀI VÈ THỞ BỤNG 1. Thót bụng thở ra | 8. Luồng ra luồng vào | 2. Phình bụng thở vào | 9. Bình thường qua mũi | 3. Hai vai bất động | 10. Mới tập qua mồm | 4. Chân tay thả lỏng | 11. Lúc gấp qua mồm | 5. Êm, chậm, sâu, đều | 12. Đứng ngồi hay nằm | 6. Mặt Phật ung dung | 13. Ở đâu cũng được | 7. Tập trung theo dõi | 14. Lúc nào cũng được |
BÀI THỞ CƠ BẢN hay THỞ BỤNG Tưởng tượng thổi chén cháo cho nguội. Thở ra bụng thót lại, hết hơi không thổi được nữa, ngậm miệng lại buông bụng ra. Bụng phình lên - Hít vào. Thót bụng thở ra - Phình bụng thở vào - Đếm 1/ tức là một hơi thở/ Tiếp tục thở như vậy đến 10 hơi/ 10 hơi thở là một đợt/ Nghỉ (5 đến 10 giây). Đợt hai - Tiếp tục tập như vậy và đếm nối theo từ 11 đến 20. Hai đợt/ mỗi đợt 10 hơi thở/ là một lần tập thở. THỜI KHÓA BIỂU TẬP THỞ TRONG NGÀY Lần I: Sáng sớm khi vừa chợt tỉnh giấc - Co 2 chân, 2 gối chạm nhau, bàn tay đặt vào bụng, ngón giữa chạm rốn. Thót bụng thở ra, phình bụng thở vào. Đếm: từ 1 đến 10 - Nghỉ từ 11 đến 20 - Xoa bụng theo chiều nhu động ruột già (chiều kim đồng hồ, từ 20 đến 30 vòng; không xoa ngược lại). Tập tiếp từ 21 đến 30 - Nghỉ từ 31 đến 40. Lần II: Trước khi dùng cơm trưa từ 41 đến 50 - Nghỉ từ 51 đến 60 Lần III: Trước khi dùng cơm chiều từ 61 đến 70 - Nghỉ từ 71 đến 80 Lần IV: Trước khi ngủ từ 81 đến 90 - Nghỉ từ 91 đến 100 - Xoa bụng như buổi sáng Tập tiếp từ 101 đến 110 - Nghỉ từ 111 đến 120 Tập thở có thể ở tư thế nằm, ngồi hay đứng hoặc đi bộ tùy ý thích, hoàn cảnh, nơi chốn. Tư thế ngồi: ngồi xếp bằng hay trên gót hoặc ngồi hoa sen, đặt tay vào bụng ngón giữa chạm rốn. Cách tập thở giống như ở tư thế nằm (thót bụng thở ra, phình bụng thở vào).
Kiên trì tự nguyện tự giác nhất định các bạn sẽ thành công Có sức khỏe là có tất cả - Mất sức khỏe là mất hết PHƯƠNG PHÁP YOGA DƯỠNG SINH của BS NGUYỄN KHẮC VIỆN PHÒNG và CHỐNG BỆNH TÂM THỂ (Maladies psychosomatique) - Thở kém, rối loạn nhịp thở, hen suyễn - Rối loạn nhịp tim, cao áp động mạch, thiếu máu cơ tim… - Khó tiêu, táo bón, viêm loét dạ dày, tá tràng… viêm xoang - Tiểu đường, béo phì… rối loạn cường dương… hiếm muộn - Thấp khớp, đau lưng, mỏi tay chân, đi lại khó khăn… - Mất ngủ, kém bình tĩnh, hay hốt hoảng, bi quan, kém trí nhớ… xóa stress - Đặc biệt: Thể dục mặt, giúp đẹp da, trẻ lâu. Có động tác bụng nhỏ, eo thon. Nhận hướng dẫn tại tư gia, cơ quan. Giúp hiểu rõ thêm về phương pháp của thầy: Bs Nguyễn Khắc Viện THẾ NÀO LÀ TẬP YOGA Tập Yoga là: 1. Động tác kết hợp chặt với hơi thở, khi nào thở ra khi nào thở vào rất rõ ràng, phân minh, chính xác. 2. Cố gắng kéo giãn cơ khớp tối đa (theo sự cho phép của cơ thể) cho nên phải tập chậm, tập trung lắng nghe sự kéo giãn của cơ khớp để kịp thời ngưng lại, tránh tổn thương cơ khớp gây đau đớn khó chịu. Để đạt được điều nầy dễ dàng, mỗi lần tập cố gắng kéo cơ khớp giãn thêm dù chỉ 1mm (lần tập sau kéo giãn hơn lần trước ít nhất 1mm) 3. Trong khi tập Tâm Ý phải hoàn toàn tập trung: hoặc là vào hơi thở hoặc là vào động tác. Một động tác hoàn chỉnh thường có 2 pha: a) PHA ĐỘNG: thực hiện từ 5 - 10 lần (lần sau cơ kéo giãn hơn lần trước như đã nói ở trên). b) PHA TĨNH: giữ yên tư thế tập trung đếm hơi thở từ 5 - 10 hơi tùy sức và mỗi khi thở Ra cố gắng kéo giãn cơ khớp thêm một chút nữa vì ở thì thở Ra cơ khớp dễ kéo giãn hơn. TẬP TRUNG: là nhắm mắt lại chú ý vùng bụng của mình “thót bụng thở ra, phình bụng thở vào” là 1 hơi thở. THỞ TÍCH CỰC: là thở ra cho đến khi không thở ra được nữa mới hít vào và cũng vậy, hít cho đến khi không hít được nữa mới thở ra. Pha Tĩnh là quan trọng, là quyết định. Pha Động chỉ chuẩn bị cho Pha Tĩnh. Hơi thở trong tập Yoga phải là THỞ CƠ HOÀNH (nói nôm na là THỞ BỤNG) Trong Pha Tĩnh HDV (hướng dẫn viên) hoàn toàn giữ IM LẶNG, KHÔNG HÔ ĐẾM để HV (học viên) tập trung lắng nghe vào hơi thở riêng của mình, đếm được hơi thở của mình. Vì bộ não người không thể làm cùng một lúc 2 việc; hễ nghe tiếng đếm của HDV thì không thể tập trung vào hơi thở, mà đã tập trung vào hơi thở thì không nghe tiếng hô đếm. Cần tập trung vào hơi thở hơn là nghe tiếng hô đếm Tiếng hô đếm không đem lại hiệu quả cho việc tập trung vào hơi thở cá nhân. HDV sẽ hô đếm cho HV buổi đầu đủ 5 lần cho pha động, để HV dễ làm và HDV dễ theo dõi, dễ kiểm tra mà thôi. Sau 1, 2 tháng sẽ “buông” dần… đếm 4 lần thôi, lần thứ 5 HV sẽ tự tập như đã nói ở trên (chỉ cho HV tự tập 2 lần sau thôi, vẫn luôn luôn đếm ở 3 lần đầu để HV dễ nhớ, GV dễ kiểm tra). Cách nầy cũng giống như bài “học thuộc lòng” của học sinh tiểu học. Lần đầu cho đọc nguyên bài trên bảng. Lần thứ 2 cô giáo sẽ bôi bớt chữ cuối cùng. Lần thứ 3 bôi bớt chữ cuối, kế đó cứ lần lượt bôi bớt như vậy HS sẽ học thuộc bài ngay tại lớp. Lần lần HV Yoga sẽ tự tập được khi không có HDV. HƠI THỞ MỖI NGƯỜI KHÁC NHAU: Có người thở 12 giây/ hơi thở Có người thở 10 giây/ hơi thở Có người thở 6 giây/ hơi thở Nếu hô đếm theo người thở “10 giây” thì người thở 12 giây sẽ tập “dưới sức” lâu lên sức, người thở 6 giây sẽ bị “quá sức” gây mệt. Tốt nhất là mọi người tập theo đúng hơi thở riêng của mình. Trong một lớp học tập thể, điều nầy chỉ có thể thực hiện ở 2 lần sau cùng (pha Động) lúc GV không hô đếm và trong pha Tĩnh GV hoàn toàn giữ im lặng như đã trình bầy ở trên. Ái Liên rất mong nhận được ý kiến phản biện giúp AL cải tiến phương pháp, để đem lại hiệu quả cao nhất cho học viên và tiết kiệm được công sức cho GV. Chân thành cám ơn mọi ý kiến đóng góp của Quý Bạn. Thân mến, Ái Liên Chủ nhiệm: Lê Ái Liên - Trọng tài bộ môn Email: leailien2015@gmail.com - DĐ: 0903 903 793 Giáo viên: Cô Kim Thúy - DĐ: 0983 824 128 Cô Kim Phụng - DĐ: 0918 794 266 Mời xem qua Google: 1. Phỏng vấn cô Lê Thị Ái Liên, đài HTV 7 - 2013 2. Yoga đã thay đổi cuộc đời tôi như thế nào, đài HTV 9 - 2015 3. Facebook: Yoga dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện.
Phụ Bản IV TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỨC PHẬT Ái tình Đức Vua trông thấy những cử chỉ từ bi, bác ái của Thái Tử thì lấy làm lo ngại cho mai hậu, bởi vì Thái Tử ắt có khả năng xuất gia tầm Đạo, bất cứ lúc nào, nhưng mà Ngài vẫn không biết, phải làm sao để ngăn cản cho có hiệu quả. Đức Vua cho vời các vị lão thần lại hội họp để hỏi ý kiến. Có một vị lão thần đứng lên mà tâu rằng: - Muôn tâu Đại Vương, theo ngu ý của hạ thần, thì chỉ có ái tình mới ràng buộc được Thái Tử, say đắm mà quên hết mọi việc tu hành. Tất cả bá quan đều tán thành. Còn Đức Vua thì vẫn e ngại mà phán rằng: - Nếu như ta chọn vợ cho Thái Tử, thì e rằng Thái Tử không vừa lòng, nào có ích chi. Hay là ta nên mở hội, mà mời các mỹ nữ, giai nhân khắp nơi, về đây hội họp, để cho Thái Tử tự do lựa chọn theo ý thích, mà vừa lòng. Bá quan đều đồng ý, cho là phải. Hôm sau, có lệnh truyền rằng: “Tất cả các thiếu nữ xinh đẹp, đều có quyền đến dự buổi yết kiến ra mắt Đông Cung Thái Tử tại hoàng triều, để Ngài tùy duyên mà ban thưởng vàng bạc” Đây là một dịp may, ngàn năm một thuở cho các thiếu nữ, được thi đua ăn mặc đẹp đẽ để trình diện trước mặt Đông Cung Thái Tử. Thuở ấy, Thái Tử nổi tiếng là đẹp trai, tuổi trẻ, tài cao, và đầy đủ các phước đức lành. Còn về phần giai nhân, thì cô nào cũng nuôi giấc mộng vàng, là sẽ được Thái Tử lưu ý đến sắc đẹp của mình. Nhưng mà, than ôi, cô nào đến trước mặt Thái Tử cũng đều lo lắng, sợ sệt. Thái Tử thấy vậy, lấy làm thương hại, nên ban thưởng vàng bạc cho mọi người. Các quan phụ trách để ý xem coi Thái Tử có thích cô nào không… Nhưng mà các mỹ nhân đã lần lượt đi qua hết, mà Thái Tử vẫn thản nhiên, làm cho các quan nhà lấy làm thất vọng. Họ tự nhủ: - Vậy thì cô gái nào có diễm phúc đây, để được Thái Tử lưu ý. Ngay lúc đó, thì có một người đẹp ung dung bước tới, với dáng đi hiền hòa đài các… Đó là cô Công Chúa Yasodara, con của một vị vua của nước láng giềng, nghe được tin lành, cũng đến tham quan cho biết. Lúc đó, Công Chúa Yasodara nhận xét, thấy Thái Tử chưa đẹp lòng phải cô gái nào, nên mới bước ra… Còn Thái Tử thì tỏ ra rất ngạc nhiên, trước vẻ đẹp huy hoàng của Công Chúa. Khi đến trước Thái Tử, Công Chúa ngước mặt lên nhìn Thái Tử, rồi chấp tay, nghiêng mình chào duyên dáng mà hỏi rằng: - Thái Tử có gì để thưởng cho Yasodara này chăng? Thái Tử đáp lời bằng một giọng đầy trìu mến: - Những phần thưởng cho các giai nhân khác thì quá tầm thường. Ta chỉ có xâu chuỗi ngọc này mới xứng đáng với tài sắc của nàng mà thôi. Nói xong, Thái Tử mở chuỗi tràng ngọc của ngài đang đeo, mà quàng vào cổ cho Công Chúa. Rồi bốn mắt lại gặp nhau, chan hòa niềm vui. Các quan phụ trách thấy vậy cũng lấy làm phấn khởi, mới đem chuyện này về tâu lại cho Đức Vua Tịnh Phạn Vương nghe. Đức Vua rất lấy làm đẹp dạ, mà phán rằng: - Đấy, các khanh có thấy chưa. Ta đã tìm được mồi ngon để giữ lại con chim trời. Ta cứ tưởng rằng không có cách chi cột được cánh chim đại bàng. Bây giờ, sự việc đang trở nên tốt đẹp. Vậy ta hãy mau mau làm lễ cưới hỏi Công Chúa Yasodara cho Thái Tử. Khi các sứ thần mang lễ vật đến cầu hôn Công Chúa Yasodara, thì Nhà Vua Supabuda đáp lễ lại rằng: - Con gái của ta đã có rất nhiều vị Thái Tử gắm ghé xin kết hôn… Ta sẽ gả cho Hoàng Tử nào văn hay, võ giỏi nhất trong một cuộc thi tài. Sứ thần trở về, tâu lại tự sự cho Đức Tịnh Phạn Vương nghe… Nhà Vua không vui, vì lẽ đương thời có rất nhiều nhân tài, chưa chắc Thái Tử Sĩ Đạt Ta sẽ giành được phần thắng. (Còn tiếp) Thanh Châu st.
CHÍN ĐẦU MỘT LÚC Hài kịch của Thiên Hư (*) viết 84 năm trước Sen I Giữa phố hàng Thúng, trước cửa một tòa nhà không to, nhưng những miếng gạch hoa, những ống máng với kính đủ các màu làm thành ra đồ sộ, một anh xe đứng nghênh ngang chờ... Một bác thợ cạo đi qua . ANH XE - Thợ cạo! Thợ cạo! THỢ CẠO (vội chạy lại) - Ra ngõ gặp giai có khác, rõ may quá! ANH XE - Lấy bao nhiêu một đầu? THỢ CẠO - Vẽ chuyện mặc cả nữa! Vào nhà cụ Chín Hoặc, chẳng được cao giá hơn thì cứ giá thường ngày chứ gì. ANH XE - Nhưng cụ tôi bảo tôi phải mặc cả. Ba xu một người mà cạo luôn chín người một lúc đấy, có bằng lòng thì vào. THỢ CẠO - Ba xu? Những ba xu? Thế thì bác vào thưa với cụ bác là có thằng thợ cạo kia nó bảo rằng ba xu thì nó thà để thì giờ nó cạo lông chân của nó nhé. ANH XE - Không bằng lòng thì bước! Lôi thôi gì? THỢ CẠO - Chả bước thì dễ vào à?... Giầu nhất Hà thành đấy! Ba xu! Nói xong đi. Đến lượt một người thợ thứ hai đi qua. ANH XE - Này, cạo không? Lấy bao nhiêu một người? THỢ CẠO THỨ HAI - Cạo cho bác hay cho chủ bác? ANH XE - Không! Cạo cho chín cô với cậu, con cháu ông chủ. ANH XE - Ồ những chín người một lúc à? Thôi được, để cụ cho bao nhiêu thì cho, không phải mặc cả. ANH XE - Nhớ nhé. THỢ CẠO - Được, được, (nhìn cái mã nhà tin lắm). Cụ cho bao nhiêu cũng xin vâng. Sen II Phòng ngủ với phòng khách một nhà giầu, đồ đạc bầy theo lối mỹ thuật của bà Bé Tý. Tất cả chín đứa vừa giai vừa gái, tuổi từ 5 đến 12 đứng biểu tình quanh cái sạp gụ khảm bên trên có ông và bà Chín Hoặc, đang ngồi đếm giấy bạc với văn tự cạnh cái tủ bạc to. CẢ CHÍN ĐỨA - Khổ quá, đầu con như cái bờm sư tử thế này, đi ăn cưới làm sao? - Tóc dài quá, cháu ngứa đầu quá đi mất. - Con đến đau mắt mất! ÔNG CHÍN - Gớm làm gì mà nheo nhéo thế! Chúng bay xếp hàng một, lần lượt cúi cổ giơ gáy cho tao xem nào... (bọn trẻ theo lời; ông Chín khám một lượt). Chết thật chứ bọn này rồi mai sau phá gia chi tử! Tóc mới thế mà đã đòi cạo rồi! BỌN TRẺ - Chúng con cạo đã ba tháng nay rồi còn gì nữa. Không cho cạo thì chúng con không đi ăn cưới đâu. BÀ CHÍN - Thôi! Cứ im! Tao bảo thằng xe ra trông thợ cạo rồi! ÔNG CHÍN - Bà có dặn nó mặc cả cẩn thận đấy không? BÀ CHÍN - Có, tôi đã bảo rồi. BỌN TRẺ - Lại còn mặc cả làm gì cho nó lâu ra. ÔNG CHÍN - Thế chúng bay vội cái gì chứ! Chín đứa cạo một lúc mà không mặc cả thì để sạt nghiệp hay sao? BÀ CHÍN - Thôi, thợ đây kia rồi, không phải eo sèo gì nữa. Sen III Thêm thợ cạo THỢ CẠO - Lạy cụ lớn ạ. ÔNG CHÍN - Được! Thế nó đã mặc cả chưa? THỢ CẠO - Bẩm cụ lớn cho thế nào chúng con cũng xin vâng, được vào cửa cụ lớn đã là phúc lắm. ÔNG CHÍN - Bác này thật biết điều, sau này chắc bác sẽ giàu to. Thằng xe lấy thau nước nóng ra đây để bác phó rửa tông đơ đi nhé. THỢ CẠO - Bẩm rửa nước sợ gỉ mất ạ. BÀ CHÍN - Được, rửa xong bác lau ngay thì việc gì. ÔNG CHÍN - Không rửa nhỡ chín đứa trẻ này hắc lào hay ghẻ lở thì tôi bắt đền ai? THỢ CẠO - Vâng thế thì xin rửa. Chính ra thì phải hơ đèn cồn kia đấy ạ. ÔNG CHÍN - Thời buổi này phải vệ sinh, bác không có đèn cồn là lỗi ở bác chứ. Húi rõ cao cho chúng nó nhé! Thợ cạo rửa tông đơ rồi bắt tay vào cạo. Đồng hồ đánh 8 tiếng. Ông Chín và Bà Chín vẫn ngồi soạn văn tự, đếm giấy bạc. Đến lúc đồng hồ đánh 12 tiếng thì cái đầu thứ chín cũng cạo xong. ÔNG CHÍN - Đã xong rồi à? Chúng bay lại gần đây tao xem bác ấy làm ăn thế nào mà chóng quá thế. THỢ CẠO - Bẩm, con cạo kỹ lưỡng lắm đấy ạ. MỘT ĐỨA TRẺ - Kỹ quá hóa hỏng! Húi ca rê mà bác húi cho tôi trọc lốc y như đầu thằng tù! MỘT ĐỨA KHÁC - Để rẽ lật mà bác làm đầu tôi thành ra cái bàn chải ngựa! THỢ CẠO - Cụ lớn đã dặn tôi húi cao mà lại. ÔNG CHÍN - Phải, chính thế. Chúng mày đừng có lôi thôi! Húi cao càng mát! Này đây, bác cầm lấy tiền. THỢ CẠO - (sau khi đếm tiền) - Bẩm hai hào bẩy tất cả. ÔNG CHÍN - Phải. Có thiếu, thừa trinh nào không? THỢ CẠO - Bẩm cụ lớn cho thế thì thiệt con quá. ÔNG CHÍN - Thiệt? Còn đòi bao nhiêu nữa?! THỢ CẠO - Bẩm giá thường thì cứ 5 xu một cái đầu mà cụ cho thế, chúng con thành ra thiệt những hào tám. ÔNG CHÍN - Được rồi, nhưng bác nên biết rằng bác được cạo luôn chín cái đầu một lúc, không mất công đi rụng chân ngoài phố, giữa mùa mưa này mới được chứ. Bác phải biết bác được bước vào cái nhà này là một nhà như thế nào mới được chứ! THỢ CẠO - Đến chúng con cạo cho cu-ly cu-leo, bắt-tê, họ cũng trả cho được đúng 5 xu một cái đầu... ÔNG CHÍN - Anh nói ngu lắm!... Thằng xe đâu? Xe! Sen IV Thêm thằng Xe BÀ CHÍN - Sao mày không mặc cả hở thằng khốn nạn kia. THẰNG XE - Thưa cụ, anh ta đã nói cho bao nhiêu cũng làm mà. BÀ CHÍN - Thế mồm anh hay là sẹo gỗ. ÔNG CHÍN - Có nó làm chứng đấy nhé. Anh đã kêu được vào nhà này là phúc, cho bao nhiêu cũng làm, tôi cho hai hào bẩy lại chưa đủ phúc cho anh ư? THỢ CẠO - Ông thử đi hỏi khắp Hà Nội này xem có thằng nào lấy ba xu một cái đầu không? ÔNG CHÍN - Thôi anh câm đi! Rõ đồ không biết điều! Rồi vạn kiếp anh cũng đến làm thợ cạo! THỢ CẠO - Tôi có ăn không của ai đâu mà giầu có được. ÔNG CHÍN - Anh là đồ ngu! Chúng bay ra đây!... (Bọn trẻ chạy ra). Anh trông lũ con cháu tôi xem. Anh húi chúng nó thành ra một lũ ăn cắp mà anh lại cả gan mở mồm ra đòi thêm nữa à? THỢ CẠO - Ông dặn tôi húi thế nào mới được chứ? ÔNG CHÍN – Thí cho nó thêm một xu nữa. THỢ CẠO – Một xu thì để ông bà mua thuốc bổ. Tưởng cho thì ít ra cũng cho hơn 5 xu một người hoặc không thì thôi chứ lại trả kém cả bọn phu gạo! ÔNG CHÍN – Đừng láo mà lên Cẩm tức khắc bây giờ (lảng vào). THỢ CẠO – Thằng nào chứ thằng này sợ lên Cẩm chắc? BÀ CHÍN – Thôi thôi, đây, một xu (nói khẽ). Bác cứ ra ngõ kia chờ tôi trả thêm. Sen V Thợ cạo đứng chờ một mình để bà Chín vờ dọn dẹp đâu ra đấy xong mới ra. Đồng hồ đánh một tiếng. BÀ CHÍN – Này đây, hai xu nữa là đúng ba hào. Thôi, bác đi. THỢ CẠO – Chết thật chứ tôi chờ một giờ đồng hồ mà giả thêm được ba xu ư? BÀ CHÍN - Chết! Nói khẽ chứ!... ÔNG CHÍN (từ bên trong) – Chết thật, lại còn trả thêm nó nữa thì bà giết tôi! BÀ CHÍN (chạy vào) – Không, tôi có trả thêm đâu? ÔNG CHÍN – Bà đừng chối nữa! Biết làm thế nào bây giờ? A! Xe! Mau chạy ra bắt nó vào ngoáy thêm hai lỗ tai cho tao vậy. Thợ cạo cắm đầu chạy. HẠ MÀN THIÊN HƯ (Loa , 15.3.1934) Đào Minh Diệu Xuân st. (*) Thiên Hư là bút hiệu của Vũ Trọng Phụng
NHỮNG CÁI THÚ CỦA CUỘC ĐỜI Cuộc sống luôn cho ta rất nhiều điều thú vị, rất nhiều màu sắc, rất nhiều đáng yêu. Và người ta luôn biết tận hưởng những cái thú ấy. Cuộc sống sẽ thật giàu có khi cảm nhận được rõ những khắc hân hoan nhè nhẹ khi được ngấm vào cảm xúc cái gọi là phúc hạnh vì ta đang được nhận những món quà dễ thương của đời. Cái thú được hưởng thụ giá trị vật chất là khi ta được ăn uống những thức vị ngon hợp ý, được mặc những bộ quần áo yêu thích, được ở trong một ngôi nhà trong một không gian dễ chịu, được sở hữu những món đồ vật mà bằng cách chính đáng nào đó mà mình có được, nó đem lại sự tiện dụng và cả thân quen trong sinh hoạt hàng ngày. Được sờ mó cầm nắm những gì mình ao ước có được, và quan trọng hơn là cảm giác an lành sòng phẳng thỏa mãn với những gì ta đang được tận hưởng. Sẽ rất là tội nghiệp khi ta phải mang một cái ba lô ơn nghĩa nặng chịch trên lưng và nuốt đánh ực cùng những giọt lệ rơm rớm. Hoặc tệ hơn là khi đang hưởng thụ nhưng vẫn lờ mờ ám ảnh những món nợ phải trả cho dù bằng cách nào. Cái thú giao đãi là khi ta tiếp xúc với những người mà ta quý mến, nói những câu chuyện không có điểm dừng, không phải lo ngại đề phòng bất cứ phương diện nào. Cười những tràng cười sảng khoái đến bung nở hết cả tâm can. Và còn đem về cả những niềm vui ẩn lại trong tim cho mãi về sau. Cái thú ấy còn cho ta cảm nhận được sự thiện duyên của bản thân. Rằng ít ra trong đời cũng có được đôi ba người đối đãi với ta bằng sự hồn nhiên chân chất vô điều kiện. Bởi nếu chỉ có ai đến với ta vì cái lợi lớn nhỏ gì đó cho bản thân họ, và khi đã đạt được thì sự quay gót của họ sẽ cho ta thấy cuộc đời ta ôi thôi quả thật quá đáng thương. Cái thú sáng tạo cho ta niềm hạnh phúc dâng lên từ sâu thẳm khi ta làm được và được làm công việc mà mình đam mê yêu thích, đắm đuối mệt mài hy sinh vì nó để được tận hưởng cái thành quả dù rất nhỏ nhoi, và vui hơn rất nhiều nếu thành quả ấy đem lại được chút hữu ích cho nhiều người. Cho dù trong quan niệm trái chiều có thể điều đó chẳng có chút giá trị thực thể nào. Không sao, khi ta tin và ta hiểu được điều ta làm là tâm huyết là chính đáng là thiết thực cho bản thân ta và cho một góc nhỏ cuộc đời là đã chấp nhận được. Những thang bậc giá trị của cuộc sống không phải ai cũng có thể cân đo chính xác. Nếu quá phụ thuộc vào những luận điểm đa chiều mà phần lớn là sự chủ quan hoặc công kích, thì mãi mãi ta chẳng làm được gì cả. Cái thú vui sướng tinh thần là một cái thú rộng nhất mà mỗi người được ban tặng theo sở thích. Nhưng điểm chung là ai cũng biết yêu cái hay say cái đẹp, chỉ khác nhau quan điểm nhận định thế nào là hay là đẹp. Người mẫn cảm tinh tế thì sự cảm nhận mang chiều kích tổng toàn hơn. Phần lớn những cảm xúc đẹp của cuộc sống được dẫn truyền qua các loại hình nghệ thuật. Nghệ thuật chính là sự nâng cao mỹ hóa thăng hoa những hình hài bình thường nhất với những hàm chứa về chân nghĩa sâu xa của tâm thức sống. Và sự dồn nén lay động nhất mà nghệ thuật làm được là khiến cho con người nhận diện được bản thân nên sống thế nào để song hành được với những hay những đẹp ấy. Vì vậy có một cái thú đặc biệt khi người ta mở thêm được biên độ tâm hồn mình, thấy được ý nghĩa cuộc sống của chính mình, và dậy lên cái khao khát được đóng góp một chút hay đẹp của chính mình vào sắc màu chung ấy. Có một cái thú nữa mà không chắc ai cũng có thể cảm nhận được, đó là cái thú cô tịnh. Cô tịnh ở đây không đồng nghĩa cô đơn, mà là được thư thỏa trong một miền không gian thanh lắng, không một chút tác động khó chịu nào đến cho mình, thả sức mở rộng từng tế bào suy cảm phóng khoáng, chiêm ngẫm và bay bổng những thinh linh huyền tích nhất của tinh thần. Sự cô tịnh giúp cho con mắt thứ ba của mỗi người bỗng tinh anh hơn trong trẻo hơn. Khi bị chìm đắm giữa những hỗn độn xô bồ huyên náo thì tâm hồn như một cánh cửa sổ đóng kín, bị bưng che bị ù đặc bởi ngồn ngộn những nhiễu tạp, để rồi đến lúc cô tịnh, nó mới được hé ra dần dần, bay đi từng lớp bụi, tan đi từng mảng bám, và sự thanh lọc sẽ có tác dụng rất rõ rệt, đem lại cho con người ta một thứ ánh sáng tinh khoát để soi rọi để phản chiếu, và thế là đột nhiên, có những câu đố lâu ngày lại được giải đáp nhanh gọn chính xác. Và chắc chắn sẽ vô cùng hữu ích cho người ta đi tiếp về phía trước. Cuộc sống luôn đem lại cho mỗi người những xúc cảm dễ chịu đáng yêu khi nhận biết được cái thú mình đang được tận hưởng, đó là điều làm cho cuộc sống hấp dẫn hơn, ý nghĩa hơn và đáng sống hơn. Cũng cần phải nói thêm, bằng vào tính cách bản chất tầng văn hóa, mà mỗi người có những gam màu kỳ thú khác nhau, qua đó cũng biểu hiện được tư chất phong thái lý tưởng và trí tuệ của bản thân vậy. ĐÀM LAN VƯỜN XUÂN Nhà Phương ở cạnh nhà tôi, cách nhau một giậu… dâm bụt xanh xanh, đỏ đỏ. Hai đứa khá thân thiết vì đều nghèo khổ. Chúng tôi dễ gần nhau hơn nhưng tính tình không mấy hợp. Phương trầm tĩnh, ít nói. Thuở còn mặc… tà lỏn, áo thun, Phương đã ra vẻ đạo mạo như một cụ non. Chiều chiều, Phương thích chấp tay sau mông ngẩng mặt nhìn mây bay hay dõi theo bóng chim hối hả vỗ cánh. Tôi và mấy đứa bạn láng giềng chế giễu là “lão Phương mộng mơ” Phương sống chẳng thực tế tí nào. Giữa đám em năm đứa trai gái đủ cả, hừng đông, đã nghe thấy tiếng nói cười của chúng như chim ríu rít đầu cành. Suốt ngày, trong nhà Phương nhộn nhạo như có giặc vậy mà Phương lơ lơ, lửng lửng đến độ phát bực. Có lần, tôi hỏi: - Sao Phương tỉnh quá vậy? Dòm bản mặt như chết chưa chôn. Phải mất mấy giây chờ đợi tôi mới được nghe giọng trầm trầm: - Chứ Thu Sang bảo tôi phải làm gì bây giờ? Chẳng lẽ lúc nào cũng cười hi hỉ, ha hả hoặc góp phần cãi vã, làm bốc cháy vùng trời này hay sao? - Phương ngạo Sang đó hả? - Hổng dám đâu! Tôi vẫn biết tính mình cũng chẳng hay ho gì. Nhưng, sống như Phương, tôi cảm thấy không ổn. Ba mẹ tôi hiếm muộn con. Mãi đến năm ba mươi tám tuổi, mẹ tôi mới sanh ra tôi. Dù èo uột, xấu xí nhưng vẫn được ba mẹ tưng tiu như hoa quý. Ba mẹ tôi đều là giáo viên, cuộc sống tuy không vất vả cho lắm nhưng những nếp nhăn cứ thi nhau tăng dầy thêm trên trán song thân. Ba mẹ tôi vắt óc, nặn tim lên trang giáo án, khàn hơi giảng bài để đổi lấy miếng cơm manh áo cho tôi. Tôi yêu ba mẹ lắm nhưng không hài lòng về hoàn cảnh sống của mình. Tôi muốn bay ra khỏi sự yên tĩnh bình thường, xoải cánh giữa khung trời thênh thang nắng gió hoặc bão táp. Tôi chán ngấy cảnh nhà vắng ngắt. Ba mẹ đi dạy rồi, tôi còn một mình, hết học bài lại làm bài. Xong, nằm khèo trên bộ ván gỗ nâu bóng nghe nhạc hoặc xuống bếp vừa nấu nướng vừa nghêu ngao vài ba câu nhạc trẻ. Đôi khi buồn quá, tôi lấy cây thước chọt vào hông cô mèo Miu Miu hoặc chú chó Mi Lu, đuổi chúng chạy vòng vòng, kêu sủa inh ỏi. Phương phê bình tôi điên và ác. Được yên tĩnh để suy nghĩ thú vị biết bao mà không chịu hưởng, cứ quậy cho om sòm trời đất. Có phước mà cũng chẳng hay. So với Phương thì tôi có phước thật. Tuy nghèo nhưng Tết nào tôi cũng được ba mẹ sắm cho ít nhất ba bộ đồ mới. Còn Phương, năm khi mười họa mới được một bộ. Đã vậy, bác Lan, mẹ Phương tính kỹ còn hơn… trùm Sò. Bà thường lựa vải màu đậm cho lâu phai hoặc mua quần áo may sẵn để khỏi phải trả tiền công. Vì vậy, mỗi lần Phương mặc áo mới, trông anh già đi vài tuổi. Năm nọ, người cô của Phương ở Long Xuyên đến thăm, thấy cảnh nhà em trai túng thiếu, bà liền rước Phương theo. Bà bảo là xin Phương làm con nuôi, cho học nghề để sau nầy nhờ tấm thân. Phương bỏ học chữ, đi theo cô biền biệt cả năm. Bỗng tàn đông, tôi và lũ bạn trông thấy Phương lù lù quay về, một tay xách bọc ny lông quần áo, tay kia xách theo một giò lan vừa hé nụ. Chiếc áo xanh dương ngày nào bây giờ trở màu đen mốc. Mái tóc như rễ tre bù xù đè nặng trên đầu. Mặt đầy nếp nhăn vì... suy dinh dưỡng. Chúng tôi ào tới mừng. Được Phương cho biết rõ về việc đã học xong nghề… làm ruộng. Tuy chưa thành thạo nhưng Phương tuyên bố thôi rèn luyện vì xét thấy người mẹ nuôi hay mẹ ruột cũng không thể nào có ruộng để cho Phương cày, sử dụng cái nghề Phương đã học. Rốt cuộc, sau một năm tầm sư học đạo trở về, Phương đã san phẳng bậc học giữa hai đứa. Thay vì trước kia anh học cao hơn tôi một lớp. Bây giờ hai đứa ngồi cùng bàn, chung một phòng học. Đúng là công chẳng thành mà danh thì có chuyển. Và anh có thêm tên mới “Phương Hai Lúa”. Làm ruộng không xong nhưng bù lại Phương giỏi trồng hoa kiểng. Phương bảo là học được của người dượng. Bây giờ, ngoài giờ học, anh lo chăm sóc cây kiểng. Thỉnh thoảng, chúng tôi bắt gặp Phương khuân về một chậu kiểng. Bao nhiêu tiền làm thêm như giữ xe, chạy bàn cho quán cà phê… đã bị chi một phần cho cây cỏ. Lâu dần, khoảng sân nhỏ bên hè nhà Phương ngợp màu xanh của lá chen lẫn sắc màu rực rỡ của hoa. Phương quý chúng lắm. Lũ em Phương phá phách, làm hư hại cái gì anh cũng tha thứ, trừ chuyện vặt lá, ngắt hoa anh trồng. Lũ chúng tôi nói gì anh cũng không chấp nhưng nếu chỉ trích hoa lá thì bảo đảm sẽ được nghe anh triết lý. - Hoa đẹp khó có thể nở trên sỏi đá. Những trái tim chai sạn không bao giờ biết cảm xúc, rung động trước cái đẹp và sẽ không biết yêu thiên nhiên kỳ diệu. Thật ra, chúng tôi mê vườn hoa nho nhỏ nầy. Nhưng làm cho anh giận dỗi càng thích hơn nữa. Những lúc như vậy, dáng đi của Phương lắn quắn, léo quéo, ngúng nguẩy như con gái, trông tức cười gần chết. Và thế nào anh cũng ca cẩm: - Ngày xưa, Bá Nha còn có Tử Kỳ, còn đời nay tìm một người xứng với tiếng tri kỷ khó như mò kim đáy biển. Chúng tôi cười khúc khích nhưng đứa nào cũng nhói lòng khi nghĩ đến cây kim mà Phương đang tìm. Ngày 29 âm lịch, tôi theo mẹ đi chợ sắm đồ tết. Ngang qua hàng hoa, thấy hai chậu trúc vàng tuyệt đẹp. Mẹ bảo đó là loại cây quân tử.Tôi chợt nhớ Phương và khu vườn nhỏ của anh. Trong đó, chưa có loại cây nầy. Tôi buộc miệng: - Phải con có tiền, con sẽ mua cặp kiểng này để tặng Phương. Chắc bạn ấy sẽ vui mừng lắm. Đôi mày của mẹ thoáng nhíu lại rồi dãn ra ngay cùng với nụ cười hiền hòa: - Mẹ sẽ cho con số tiền đó. Tôi mừng quýnh, ôm chầm lấy mẹ nhưng chợt cảm thấy áy náy, không yên vì tôi biết rõ mẹ chẳng có nhiều tiền. Mua cặp trúc nầy sẽ hao hụt một khoản dự chi của mẹ. Tôi vội ngăn: - Thôi, đừng mua, mẹ nhá! - Tại sao? - Con sợ tốn tiền của mẹ. Mẹ mỉm cười bảo: - Không sao. Mẹ định mua một tấm màn loại tốt để dùng trong ba ngày xuân nhưng nghĩ lại cũng phí. Vì dù có treo nó lên khung tre, dưới mái lá đơn sơ thì cái màn đắt tiền ấy cũng không làm cho nhà ta sang trọng được. Nhưng nếu dùng số tiền ấy để con mua quà tặng bạn thì ý nghĩa lại đẹp đẽ biết bao. Việc làm này sẽ biến con thành cô bạn giàu tình cảm. Lời dạy của mẹ khiến tôi lâng lâng trong niềm hạnh phúc bất ngờ. Tôi nhận ra rằng mẹ là tấm gương sáng đẹp mà tôi không hề biết để noi theo. Tôi và mẹ khệ nệ bê hai chậu trúc về, ghé ngang nhà Phương để tặng anh. Khung cảnh ở đây khiến mẹ và tôi bàng hoàng, kinh ngạc. Vườn hoa của anh chỉ còn thưa thớt vài chậu kiểng. Hai phần ba số cây trồng đã biến mất. Đúng lúc đó, có tiếng lao xao ngoài ngõ. Phương và các em vừa vào cổng. Nét mặt anh tươi vui khác thường. Thấy tôi và mẹ đứng cạnh cặp trúc vàng, anh chạy vội đến, sà xuống cạnh cặp kiểng, xuýt xoa: - Ủa, trúc ở đâu đẹp quá vậy bác? Tôi nói hớt: - Mua ngoài chợ chớ đâu. Phương mỉm cười, gật đầu: - Nhưng sao Thu Sang mang chúng vào đây? - Để tặng Phương chớ chi. Phương trố mắt ngạc nhiên nhìn tôi. Thấy vậy, mẹ liền bảo: - Biết cháu yêu hoa kiểng, Thu Sang mua tặng cháu đó. Mừng quá, Phương nắm tay tôi cám ơn rối rít. Mắc cỡ, tôi rút tay về, hỏi lảng sang chuyện khác: - Vườn hoa của Phương sao vầy nè: Phương phân trần: - Phương đã mang đến nhà mỗi bạn hai chậu làm quà tết. Hồi nãy có mang sang nhà Thu Sang hai chậu trạng nguyên nữa đó. Có thích không. Mẹ và tôi nhìn nhau. Cả hai cũng mỉm cười nhưng lòng lại rưng rưng xúc động. Thì ra Phương vun trồng tình bạn trên những chồi xanh kia, đã ủ ấp mùa xuân ở nơi nầy. Và, bây giờ hoa đời trổ nụ tỏa hương xuân ngan ngát một vùng đất nghèo, xóm tôi. NGUYỄN THỊ MÂY MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 10.12.2016… ............................... Vũ Thư Hữu ... 01 Vài dòng về cuốn “Xứ Bắc Kỳ, phong cảnh và cảm tưởng” của nữ tác giả Hilda Arnord .................. Vũ Anh Tuấn ... 06 Chào năm 2017 ............................ Tâm Nguyện .... 09 Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) .... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch ... 15 Đi tìm mùa Xuân .............................. Tâm Nguyện ... 23 Một tập thơ còn trong di cảo ...................... Thúy Toàn ... 35 Tự thuở Xuân có báo ............. Tạ Thu Phong - Hoàng Kim Thư st. ... 40 Anh cho em mùa Xuân .......................... Phạm Vũ ... 47 The Birth of Vietnam - Dịch và Ngẫm nghĩ ........... Thiếu Khanh .... 55 Ngày Xuân đọc báo Xuân “Phong Hóa”… ..... Nhật Tiến- Đỗ Thiên Thư st. .... 71 Truyền thuyết Táo Quân .......................... BĐ st. .... 79 Sách Xưa & Nay Mảnh vụn mừng Xuân (thơ) ..................... Vũ Thùy Hương .... 81 Đón Xuân (thơ) ................................ Vũ Thùy Hương .... 82 Trồng cây đức (thơ) ........................ Lang Nguyên .... 83 Dậu (Gà) (thơ) .......................... Lang Nguyên .... 84 Mừng Xuân Đinh Dậu 2017 (thơ) ............. Lang Nguyên .... 84 Mừng Xuân Đinh Dậu 2017 (thơ) .................. Thanh Châu .... 85 Xuân nhật hỷ tình (thơ) ........................... Lê Cảnh Tuân .... 86 Phỏng dịch Xuân nhật hỷ tình (thơ) ............................. Huỳnh Thiên Kim Bội .... 86 Gió Xuân (thơ) ............................................ Nguyên Lê .... 87 Những sắc hoa mùa Xuân quê tôi (thơ) ........................ Nguyên Lê .... 87 Họa Du Xuân của Đỗ Nguyễn (thơ) ............................ Ngàn Phương .... 88 Bắt chước Cao bá Quát: Chiều Xuân (thơ) ................................ Ngàn Phương .... 88 Cỏ mềm cho em (thơ) ...................................... Đàm Lan ... 89 Nơi đáng sống (thơ) ....................................... Lê Minh Chử .... 90 Tình ca Xuân (thơ) .......................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 91 Lá mai cuối đông (thơ) .................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 91 Chiếc bình hoa (thơ) .............................................. Lam Trần .... 92 Phụ nữ đánh cầu lông (thơ) ............................ Ngô Bá Mạnh .... 93 Bằng địa vị (thơ) ................................. Phước Hải ... 94 Không có người .................... Thơ: Đàm Lan - Nhạc: Lê Nguyên ... 95 Tôi thương nước Việt (thơ) ............................... Phước Hải ... 96 Xuân về (thơ) ................................................. Thúy Mai .... 96 Đi lễ chùa (thơ) ........................................... Thúy Mai .... 97 Thắm mãi hoa người (thơ) ....................... Lê Nguyên ... 97 Mượn (thơ) ........................................... Lê Nguyên ... 98 Chợ (thơ) ............................................... Quang Bỉnh .... 98 Dưỡng lão (thơ) ............................................ Quang Bỉnh .... 99 Chầm chậm thôi… (thơ) ....................... Bs.Doanlinh .... 99 Con không về (thơ) ................................ Bs.Doanlinh .. 100 Mùa Xuân đến (thơ) .................................. Hoài Ly .. 101 Chúc Tết Đinh Dậu 2017 (thơ) ................ Nhựt Thanh .. 102 Sấm tháng Ba (thơ) ................................ Vũ Đình Huy .. 102 March thunder (thơ) .................... Vũ Anh Tuấn dịch .. 103 Washington (thơ) ............................. Vũ Mão .. 104 Washington (thơ) ................... Vũ Anh Tuấn dịch .. 105 Tết với tuổi về chiều ................................. Dương Lêh . 106 Cách chào hỏi của một số dân tộc trên thế giới ..... Hoàng Anh - Bùi Đẹp st. .. 114 Xa rồi… ..................................................... Lam Trần .. 118 Khói thuốc cả .................................. Nguyễn Văn Sâm .. 121 Mùa xuân của bé Bông ............................................. Hoài Ly .. 134 Cười ........................................................ XT & Đỗ Thiên Thư st. . 136 Tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới ........... Phạm Hiếu Nghĩa (Nhựt Thanh) . 143 Đọc sách giùm bạn .......................................... Hà Mạnh Đoàn . 151 Thở bụng - bài thuốc chữa bách bệnh ......................... Bs. Nguyễn Khắc Viện .. 153 Tập thở - Bài thở căn bản- … ....................................... Lê Ái Liên .. 153 Truyền thuyết về Đức Phật: Ái tình ........................... Thanh Châu sưu tập kể . 160 Chín đầu một lúc (hài kịch của Thiên Hư) ............. Đào Minh Diệu Xuân st. . 163 Những cái thú của cuộc đời ..................................... Đàm Lan .. 168 Vườn Xuân ..................................................... Nguyễn Thị Mây .. 171
|