VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 08/8/2015 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách mà ông mới có, một cuốn mới ra lò, và một cuốn tương đối cũ vì được xuất bản năm 1896 (119 năm trước). Cuốn sách mới là một tập thơ của các thành viên của Hội Cựu Giáo Chức Quận 8, mà chính Hội Trưởng Nguyễn Hữu Hừng mới mang tặng và nhờ giới thiệu tại CLB Sách Xưa và Nay, vì ông lại là một thành viên của CLB này. Cuốn sách mang tựa đề là HỒN VIỆT, khổ 11x18cm, và dày 202 trang, được trình bày khá đẹp và là thuộc dạng “lưu hành nội bộ”. Cuốn sách được chia làm ba phần: - Phần một mang tựa đề là “Những Áng Thiên Cổ Hùng Văn” gồm 7 bài hùng văn như Nam Quốc Sơn Hà, Bình Ngô Đại Cáo, Hịch Tướng sĩ v.v… rất hấp dẫn. - Phần hai gồm 46 bài thơ “Ngợi ca địa danh và nhân danh lịch sử” của các nhà thơ nổi tiếng, và không… nổi tiếng, tuy nhiên vẫn khá hấp dẫn. - Và Phần ba gồm 12 bài thơ văn của các nhà giáo thành viên của Hội. Được tặng, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã đọc lướt qua và ông thấy rất thích khi gặp lại mấy thiên cổ hùng văn mà ông đã từng đọc khi còn trai tráng, và nhớ lại một số địa danh và danh nhân mà ông đã gặp trong đời. Tóm lại đây là một tập thơ hay đáng giữ. Cuốn thứ hai được giới thiệu là một cuốn tương đối cổ vì đã 119 tuổi đời (1896). Cuốn này bằng Pháp văn, khổ 12x18cm, dày 345 trang, và có 4, 5 minh họa bằng bút sắt khá đẹp. Tựa đề là “Tiếng Nói của Sự Vật” (La Voix des Choses) mà tác giả là Émile de Saint-Auban (1858-1947), một luật sư ở Paris và năm 1932 đã được bầu làm Thủ Lãnh Luật sư đoàn ở Ba Lê. Khi gặp cuốn sách, thấy nó đã hơn 100 năm nên cũng hấp dẫn, nhưng khi đọc lướt qua và thấy ông Thủ Lãnh Luật sư đoàn này nói rằng ông ta nghe được tiếng nói và các sự bàn cãi về mọi lãnh vực xã hội của sự vật như rừng, núi, một tòa thành, một thánh đường v.v… thì Dịch giả Vũ Anh Tuấn thấy là nó vớ vẩn quá không đáng mua, nhưng sau một phút ông thoáng nhớ tới các ý tưởng vớ vẩn thời hiện đại như ẩn dụ, hiện dụ, hậu hiện đại, hậu ma dại v.v… và v.v… thì ông lại quyết định mua cho bằng được để có một tang vật minh chứng rằng cả trăm năm trước cũng đã có những loại tư tưởng, trào lưu vớ vỉn như vậy, chứ không phải chỉ bây giờ mới có. Có cuốn sách trong tay, Dich giả Vũ Anh Tuấn đã tự chứng minh với mình là ông đã không nghĩ sai khi nghĩ rằng “chỉ có những gì có chân giá trị thì mới tự chúng tồn tại và vượt được mọi thử thách của thời gian” và, “mọi sự nhăng nhít sẽ chỉ vụt lóe trên bầu trời văn học, rồi sẽ… tắt ngúm”. Nói là làm liền, ông đã bỏ ra trên hai giờ đồng hồ để tra cứu 8 bộ tự điển văn học lớn nhỏ của Pháp xem có thấy có chi tiết gì về vị Thủ Lãnh Luật sư đoàn “nghe được tiếng nói của sự vật” này trong các bộ tự điển văn học đáng tin cậy đó không, thì, hỡi ơi, quả là đúng như ông đã nghĩ, chẳng có một chi tiết nào về nhân vật và tác phẩm này cả (trong các bộ tự điển văn học Pháp đó)… Sau phần giới thiệu sách, anh Chử đã lên nói về chuyến du hành của anh ở Nam Hàn trong ba tuần lễ vì anh mới về trong vài ngày trước. Anh kỹ càng kể cho các thành viên nghe về các điều anh đã chứng kiến, đã trải qua trên đất Nam Hàn, một nước mà vài chục năm trước thì chả hơn gì mình, nếu không muốn nói là còn kém. Nhưng hiện tại thì có một số thuận lợi hơn chúng ta. Khi anh Chử nói xong, Dịch giả Vũ Anh Tuấn có nhận xét là dù thế nào đi nữa, về mặt văn chương, văn học thì nơi anh vừa ghé thăm không thể bằng Việt Nam ta, vì họ làm quái gì có những thiên tài như Cụ Nguyễn Du của chúng ta. Tiếp lời anh Chử, anh Nhựt Thanh đã lên nói chuyện về một số những điều kiêng cữ, có thứ nên giữ, có thứ nên bỏ. Anh Nhựt Thanh nói xong, anh Quang Bỉnh lên nói thêm về một số chuyện đi thăm nước ngoài. Sau anh Quang Bỉnh, Lm. Triết giới thiệu một cuốn sách cổ và đẹp.
Tiếp lời Lm. Triết, anh Dương Lêh lên nói về các tập tục mê tín dị đoan. Anh Dương nói xong, cô Kim Sơn lên nói về vài cảm tưởng của cô sau khi nghe anh Chử kể chuyện bên Nam Hàn, sau đó cô cùng mấy vị nữa đồng ca bài Tình Ca Xứ Huế. Cuối cùng, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom, đã ca tặng các thành viên bài Giòng Sông Xanh (Le Beau Danube Bleu) của Johann Strauss. Buổi họp rất vui đã kết thúc lúc 11g15 cùng ngày. VŨ THƯ HỮU
CUỐN TỤC NGỮ LƯỢC GIẢI CỦA HAI ĐỒNG TÁC GIẢ PHẠM HỮU KHÁNH VÀ LÊ TRẦN-NGUYỄN Cách đây hai tháng, một buổi sáng khi tôi đang ăn sáng với một người bạn ở Pháp về, thì được một bà bạn điện thoại cho biết là bà có một bà chị họ ở Củ Chi có một tủ sách cũ mà bà ta muốn bán. Bà bảo tôi: “Sáng nay em rỗi, anh muốn đi xem thì độ 8 giờ rưỡi em dẫn đi”, và bà cho biết sách là của ông chồng quá cố của bà chị họ bà để lại. Tôi hỏi tên và khi biết tên thì tôi thích quá vì người quá cố là một người bạn thân của một người bạn tôi là nhà giáo Nguyễn văn Y, cũng đã ra đi nhiều năm trước. Thế là tôi bỏ luôn mấy việc định làm và lên đường đi Củ Chi… tầm cổ thư. Nửa giờ sau, khi tới nơi, tôi rất vui vì được đón tiếp rất thân thiện bởi một quý bà trên 70 mà đẹp như một phụ nữ còn xuân, với một thân hình mảnh mai, một nét mặt đẹp quý phái và thuần Việt, và một cái mũi dọc dừa thuần Việt, không có hơi hám thảm mỹ viện (tôi cực ghét những cái mũi dổm), và nhất là một làn da trắng muốt và siêu đẹp. Bà tươi cười mời vào và bảo tôi: “Anh mới gặp em hôm nay là lần đầu, nhưng em thì không lạ gì anh, vì em thường xuyên ghé trang Sachvatranh của anh trong cả năm nay rồi”. Câu nói của bà làm tôi cảm thấy lâng lâng như đang ở trên mây. Tôi được bà mời vào xem tủ sách đã được mở sẵn, và bà cho biết tôi được tự do lựa và chỉ cần lấy những gì tôi thấy thích hợp. Tủ sách có khoảng 400 cuốn, nhưng phần lớn bằng tiếng Pháp và là loại “livre de poche” là loại tôi có cả 1000 cuốn ở nhà, nhưng cuối cùng, sau một giờ lựa chọn, tôi cũng lấy được 37 cuốn sách phần lớn là bằng tiếng Việt và được xuất bản trước năm 75. Tôi hỏi bà là bao nhiêu thì bà nói quá dễ thương: “Anh tính cho em bao nhiêu cũng được, chứ em có bán bao giờ đâu mà biết?”. Tôi liền đưa một số tiền tương đương với giá tôi phải trả nơi các tiệm sách tôi quen. Bà tỏ vẻ ngạc nhiên và cho là tôi đưa quá nhiều, nhưng tôi cho bà biết đó chỉ là một giá rất vừa phải. Bà cảm ơn và tính mời tôi và cô em họ bà ở lại dùng cơm rồi hãy về, nhưng chúng tôi xin phép về vì sợ trưa thì trời nắng nóng quá. Cuốn sách tôi muốn giới thiệu hôm ngay là một trong 37 cuốn mà tôi đã mua được hôm đó. Tôi thấy tôi yêu tiếng Việt là phải quá, vì tôi rất có duyên với tục ngữ Việt Nam. Khoảng 2 năm trước tại một tủ sách ở Long An, tôi đã mua được một cuốn Tục Ngữ lược giải khác của Vân Hạc Lê Văn Hòe do nhà Diên Hồng xuất bản năm 1957. Cuốn tôi có trong tay là của hai tác giả khác, và không có năm in, vì cả bìa trước và bìa sau đều đã bị mất, tuy nhiên nhìn loại giấy và cách thức in ấn, tôi có thể tin gần như chắc là cuốn này đã được xuất bản trong thập niên 60. Cuốn sách khổ 16x24cm và dày đúng 200 trang. Sách được chia làm 2 phần: Phần I từ trang 5 tới trang 31 gồm 1 trang lời nói đầu và khoảng gần 300 Tục Ngữ Việt Nam được sắp xếp theo thứ tự a.b.c, và phần II, từ trang 32 tới trang chót là phần dẫn giải từng câu một. Có cuốn sách trong tay, tôi đã để ra nửa ngày để cưỡi ngựa xem hoa, và thấy là cuốn sách tương đối tốt và có thể có những câu tục ngữ mà trong cuốn của cụ Lê Văn Hòe không có. Cách dẫn giải cũng khá trong sáng, súc tích. Và dưới đây là một vài thí dụ cụ thể: 1/ Ăn miếng chả giả miếng nem Ăn của người ta miếng chả thì phải biếu người ta miếng nem, có như vậy mới xứng đáng với lòng tốt người ta cho mình. Đại ý câu này là phải ăn ở với người cho xứng đáng, để đền bù lại lòng tốt của người ta. Câu này cũng gần nghĩa với câu “Ăn miếng trả miếng” nghĩa là ai cho mình thế nào thì mình trả lại vậy, người ta tử tế với mình thì tử tế đáp lại, người ta tệ với mình thì mình xử tệ lại. Đó là đúng lẽ công bằng. 2/ Bá nhân bá khẩu Nhiều người nhiều miệng, nhiều người thì nhiều ý kiến khác nhau, tức là lắm lời. Ý câu này nói là ở chỗ đông người thì khó xử sự lắm vì mỗi người một điều thành ra không biết làm sao vừa lòng cả được. 3/ Đánh chó ngó chúa Con chó thì ai đánh nó nó chẳng chịu. Nhưng trước khi đánh nó thì hãy nhớ tới chủ nó, đánh chó người ta hẳn người ta cũng bực và vì vậy có khi sinh ra lôi thôi với nhau và như vậy là không nể mặt người ta, là bất lịch sự. Ngụ ý câu này khuyên ta nên thận trọng, trong những việc thường ngày, chớ để mất lòng kẻ khác. 4/ Giữ miệng chai miệng lọ ai giữ được miệng họ miệng hàng Miệng chai miệng lọ thì còn bịt kín được, chứ miệng họ hàng, miệng người ta thì ai bịt được, có chuyện gì hở ra là họ nói ngay, giữ sao được miệng người ta. Nghĩa bóng câu này là anh em họ hàng hay phẩm bình khen chê là ở họ, mình có quyền gì mà giữ được miệng người ta. 5/ Mặt méo mó nhưng có đồng tiền, mặt vuông chữ điền mà tiền chẳng có Theo như tướng số của các cụ xưa nguời nào mặt vuông thì giàu có, người nào mặt méo thì nghèo hèn: đây trái lại kẻ mặt vuông chữ điền thì lại chẳng có một xu mà kẻ mặt méo mó thì lại có lắm tiền. Câu này có ý mỉa mai khoa tướng số là nói sai, mà cũng chế riễu những anh đẹp người mà kiệt đồng tiền. 6/ Quyền rơm vạ đá Rơm thì nhẹ và bé bỏng, đá thì nặng và lớn: quyền thì nhẹ bé như rơm mà vạ hay là trách nhiệm thì nặng như đá, nghĩa là quyền hành thì chẳng thấm vào đâu mà trách nhiệm thì nguy hiểm nặng nề vô cùng. Qua sáu thí dụ vừa được đưa ra ở trên, có thể nói là đây là một cuốn tục ngữ lược giải khá tốt. Thực ra khi nói về tục ngữ lược giải, mọi người thường nghĩ ngay tới cuốn của cụ Lê Văn Hòe, tuy nhiên người viết cảm thấy rằng trong việc học hỏi thì thừa tốt hơn thiếu, và nếu ta dùng cuốn của hai tác giả Phạm Hữu Khánh và Lê Trần-Nguyễn này để bổ sung cho cuốn của cụ Lê Văn Hòe thì đâu phải là dở, mà người viết thì lại có cái may là sở hữu cả hai cuốn, hơn nữa chính vì đi mua cuốn này mà đã có cơ may gặp được một giai nhân tuyệt thế thì cũng là rất bõ công và quá đã rồi! Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI VŨ ANH TUẤN
NHÂN MÙA VU LAN NÓI VỀ CHỮ HIẾU Không biết những tôn giáo khác nói gì về việc báo ân cha mẹ. Riêng Đạo Phật, HIẾU với cha mẹ là 1 trong Tứ Trọng Ân mà người Phật Tử cần phải báo đền. Tứ trọng ân gồm: Ân phụ mẫu, Ân Tam Bảo (có nơi ghi là ân Thầy, bạn), Ân Đất nước, Ân chúng sinh. Nhưng dù các vị trí khác có thể thay đổi, riêng Ân phụ mẫu lúc nào cũng được đặt lên hàng đầu. Vài thập niên gần đây, Chùa nào cũng tổ chức Đại lễ Vu Lan hết sức long trọng vào ngày rằm tháng Bảy, gọi là Mùa Báo Hiếu, để các Phật Tử theo hạnh của Đại Hiếu Mục Kiền Liên cúng dường Trai Tăng, báo hiếu cho phụ mẫu còn sống cũng như đã qua đời. Các Phật Tử còn được nghe thuyết pháp về công ơn cha mẹ, nhiều em đã xúc động rơi nước mắt. Qua bài giảng họ thấy các em sống chưa xứng đáng. Chắc chắn sau đó họ cũng sẽ bị tác động không nhiều thì ít. Trong khi xã hội quá nhiễu nhương, gia đình, nhà trường không lo xuể, thì ít ra Chùa cũng góp một phần trong việc giáo dục về chữ Hiếu cho những thiếu niên còn hướng thiện để làm nền tảng cho các em khi trưởng thành. Cũng không phải vô lý khi Ân phụ mẫu được đặt lên hàng đầu, bởi con người không thể có mặt ở cuộc đời và lớn lên, nếu không có sự thương yêu, quan tâm chăm sóc, đùm bọc của cha mẹ. Thật vậy, theo dõi sự hình thành của một con người bắt đầu từ con tinh trùng gặp được cái trứng thì cũng đã là một sự may mắn hãn hữu vì đã phải vượt qua hàng triệu ứng viên khác. Trong quá trình nằm trong bụng mẹ, có biết bao nguy hiểm rình rập, chỉ cần chút sơ sẩy thí dụ thai phụ bị trợt ngã là mất mạng như chơi. Phút cuối, để chui ra khỏi bào thai cũng không dễ dàng, chỉ cần có nhau choàng hay bác sĩ, cô đỡ non tay nghề, chậm vài phút là thai nhi bị ngộp, là công lao người mẹ nâng niu cái trứng, vất vả mang nặng 9 tháng 10 ngày kể như vất đi. Thế rồi rời bụng mẹ với cái thân trần trụi, đứa bé sơ sinh phải được bảo vệ một cách cẩn thận. Người mẹ phải quạt nồng, ủ ấm, tập cho con bú, bón từng muỗng sữa, muỗng cháo cho con dần biết ăn, rồi mới tới cơm. Phải nói nuôi được một đứa con lớn lên không bị tổn hại là cha mẹ đã đổ vào đó không biết bao nhiêu nhọc nhằn. Không chỉ là tiền bạc, mà còn công sức, đến nỗi người đời hay ví một người nào quan tâm, bận rộn đến việc gì đó một cách quá chu đáo bằng cụm từ “như chăm con mọn” thì đủ biết. Với cha mẹ, con cái là “báu vật trời cho”. Khi người chồng hay gia đình được báo tin vợ, con, dâu đã mang thai là hết sức vui mừng. Nghèo gì cũng cố gắng tẩm bổ cho người mẹ tối đa, không cho làm nặng, bắt đi đứng cẩn trọng, kiêng khem đủ thứ. Phần người mẹ, từ lúc biết mình mang thai thì rất hồi hộp, chờ từng tín hiệu của con. Nó biết quẫy, biết đạp là người mẹ vui mừng tột độ, đếm từng ngày, chọn lựa từng món áo, quần, tã, nón, vớ, loại tốt nhất theo khả năng để chờ con chào đời. Đứa con đôi khi là sự mong đợi của gia đình hiếm hoi, đến nỗi có gia đình cổ hủ sẵn sàng ép con trai bỏ vợ nếu không sinh được con trai để nối dõi. Không phải thai phụ nào cũng xuôi thuận, chỉ thèm chua hoặc thèm ngọt như nhiều người. Có cái thai nhiều khi hành người mẹ điêu đứng. Ăn không được món nọ, món kia. Ăn vô là ói. Đôi khi chỉ cần nghe mùi là đủ ói. Có người sợ mùi xăng, người thì sợ mùi cá, có người sợ cả mùi cơm. Có khi thai hành bắt ăn những thứ kỳ cục. Có người ăn gạo sống, có người ăn than. Hễ thèm gì là phải ăn cho bằng được. Đôi khi đang đêm mà thèm trái ổi hay trái cóc ngoài vườn tối om cũng phải đốt đuốc tìm cho ra. Ở nhà quê tôi từng nghe có bà kể không biết tại sao bà lại thèm ăn cái cứt trâu khô trộn với bùn người nhà quê dùng để trét những kẽ hở của những tấm cằng tăng (tức là những sợi tre chẻ mỏng, đan theo chiều ngang, nhiều tấm kết lại với nhau, làm thành một vòng tròn, cao chừng vài mét gọi là cái bồ để chứa lúa). Người ở quê tôi trét hỗn hợp đất sét và phân trâu cho kín những khe hở, không cho lúa lọt ra. Vậy mà bà ăn một cách ngon lành trong khi người khác nghe nói đã muốn ói! Từ thân hình mảnh dẻ của một cô gái, cái tử cung nhỏ bé từ lúc chứa đựng cái trứng đã phải giãn nở hết cỡ để chứa một bọc bào thai và cả nước ối nặng đến chục ký lô. Bào thai càng lớn thì đứng, nằm, ngồi đều khó khăn. Giờ phút sinh con cũng là cả một hành trình đau đớn, sinh tử, không ai chia xẻ được gọi là “vượt cạn”. Người mẹ lúc sinh nở phải “banh da, xẻ thịt” đổ máu, để cho sinh linh cả mấy kí lô chui ra, đau đớn biết mấy. Vậy mà bà mẹ nào cũng quên hết đau đớn, nhọc mệt, lại vô cùng vui sướng khi ngắm nhìn tấm hình hài bé nhỏ, đỏ hỏn đang oe oe khóc khi hòa nhập vào cuộc đời. Lại thêm những ngày đau đớn hành hạ khi dạ con co thắt. Người sản phụ lúc đó yếu đuối, mong manh, phải kiêng khem nhiều thứ cho mình, cho con. Cả tháng sau mới dần bình phục, thân hình cũng sồ sề, không còn mảnh dẻ như xưa. Người khá giả còn được nghỉ một thời gian để phục hồi. Có những phụ nữ cuộc sống khó khăn, chỉ được nghỉ vài hôm là lại phải lao vào cuộc mưu sinh rất tội nghiệp. Mang thai đã nhọc nhằn mà nuôi con cũng là cả một kỳ công! Nào thức đêm thức hôm để pha sữa, thay tã cho con khỏi bị ướt, bị lạnh. Mỗi khi con quẫy khóc lại phải xem coi có con gì đốt hay nó bị đau bụng rồi lại phải ru cho con ngủ yên mẹ mới được ngủ lại. Gặp đứa ít bệnh còn đỡ. Có nhiều đứa ốm đau, dặt dẹo thì cha mẹ chân không bén đất. Khuya khoắt cỡ nào, đường xa mấy, nghe đâu có thuốc hay, thầy giỏi cũng lặn lội tìm đến, hoặc khăn gói bồng bế con đến BV ngồi chầu chực để con được khám, được chữa! Tốn kém mấy, chạy nợ kiểu gì, thậm chí cầm cố nhà cửa cũng chấp nhận. Miễn sao con khỏe mạnh, hay ăn, chóng lớn. Ngay khi con chào đời người mẹ phải quan sát coi chân nó có bị cong không để hơ lửa than nắn uốn cho nó. Vuốt ve từng ngón tay cho thon. Hơ mỏ ác để mai kia nó đừng bị sổ mũi, nhức đầu. Nâng niu con hơn vàng ngọc. Đi nhẹ, nói khẽ cho con đừng giật mình, được ngủ ngon giấc. Rồi vài tháng sau là con tập lẫy, tập trườn, bò, lẫm chẫm đi, mẹ phải túc trực, mắt không rời, sợ e con va phải vật nọ vật kia làm con đau! Khi con tự đi được cũng nào đã được yên. Phải canh chừng con đừng đến gần sông, suối, ao, hồ. Bảo vệ cho con đủ thứ, từ những con vật hung dữ cho đến những bạn xấu hiếp đáp. Tập cho con từ tiếng nói bập bẹ đầu đời. Bắt đầu là Ba, bà… từ những tiếng dễ phát âm, lần lượt đến câu chào, nói. Tập cho con biết thưa hỏi người lớn, biết cảm ơn khi được cho thứ gì. Tới tuổi con đi học lại chạy trường, chạy lớp, nộp đơn, kiếm trường tốt cho con. “Biết điều” với thầy, cô để con được chú ý. Con đã lên Đại Học mà cha mẹ cũng đâu có buông tay. Cảnh cha mẹ thuê xe cứu cấp đi nộp đơn cho con. Cảnh nhiều phụ huynh chen chúc và người mẹ bật khóc trong lúc chờ rút đơn cho con trong việc cải tổ giáo dục vừa qua được đưa lên mạng làm xúc động bao người! Thậm chí con cái đã có chồng, lúc sinh nở, dù ở xa, bận bịu tới đâu người mẹ cũng thu xếp để tới nhà con “nuôi đẻ”, hết đứa này tới đứa khác, cho tới lúc nó cứng cáp mới về! Rõ ràng là từ bước đi đến câu nói, đều có công sức của cha mẹ góp vào. Công ân đó biển trời nào sánh được? Cuộc sống của bậc cha mẹ phải đâu lúc nào cũng trôi chảy, công việc thuận lợi, chỗ làm ổn định, có lương đều đặn hàng tháng? Người sinh ra trong cảnh no đủ thì không nói chi. Có người phải buôn ngược bán xuôi. Có người phải bán sức lao động, chạy chợ, ai thuê gì làm đó, tiền kiếm được tùy thời điểm. Họ sợ nhất là bệnh phải nghỉ ngơi, không đi làm kiếm tiền được. Tội nhất là những gia đình ở quê, ruộng đất không có, phải làm những công việc vừa nặng nhọc, vừa theo thời vụ, lúc có, lúc không, chạy tiền cho con đi học là cả một vấn đề đối với họ. Mỗi kỳ nhập học là tiền trường, tiền sách vở, tiền đồng phục… đè nặng trên đôi vai của người cha, người mẹ... Rồi khi con học hết cấp 3, phải lên Tỉnh, Thành Phố để học Đại Học thì gánh nặng còn dồn thêm. Nào tiền phòng trọ, tiền ăn, tiền học, tiền sách vở, cha mẹ ở quê càng phải xoay xở, kiếm thêm công việc, nuôi thêm con heo, con gà, vừa làm thuê, vừa chăn nuôi để có đủ mà lo cho con. Vậy đó, mà khi trưởng thành con đối xử với cha mẹ ra sao? Đa phần là vô tâm, vì quả thật trẻ con làm gì biết được cha mẹ đã phải khổ cực như thế nào để nó có được tấm thân toàn vẹn như hiện tại? Cứ động chút là hờn dỗi, là bỏ cơm, đòi bỏ học. Cha mẹ mắng là bỏ nhà đi để cho họ lo lắng đứng ngồi không yên. Trách móc cha mẹ không cho mình thứ nọ thứ kia cho bằng bạn bè. Chơi với bạn xấu. Đòi tiền để thỏa mãn những thú vui, đòi sắm xe, đòi tiền chơi game! Có đứa nhẫn tâm lấy tiền cha mẹ cho để đóng tiền học để cờ bạc, cá độ! Có đứa còn đi cầm mạng để đánh bạc ở Campuchia rồi nhắn người về báo tin “nếu không mang tiền qua chuộc thì chủ nợ sẽ giết”. Quá thương con, nên dù túng thiếu cách nào cha mẹ cũng cố chạy sấp chạy ngửa để vay hỏi mang tiền qua đón về. Thời gian sau điệp khúc đó lại lập lại! Vậy mà chỉ cần không vừa ý là một số sẵn sàng ra tay đánh, giết cha mẹ. Đọc trên báo, ta thấy từ Nam chí Bắc, từ trong nước ra đến nước ngoài đều có những nghịch tử. Trẻ cũng có mà trung niên có, vợ con rồi cũng có. Nhẹ thì mắng chửi, tắt điện không cho dùng, khóa cửa nhốt, đẩy ra đường. Nặng thì đánh, chửi, bắt cha mẹ phải quỳ lạy, phải mời cơm, phải kêu bằng ông, bằng bà. Có đứa còn nhẫn tâm chém giết cha mẹ rồi dấu xác, hoặc mang xác đi phi tang! Thậm chí mới đây, một phụ nữ ở Singapore đã bắt mẹ ruột ăn cứt làm hàng xóm phẫn nộ quay phim rồi báo với chính quyền! Đó là chưa kể những đứa tuy không trực tiếp hỗn láo với bậc cha mẹ, nhưng trộm cắp, lừa đảo, cướp của, giết người rồi vô tù làm cha mẹ không chỉ phải vất vả thăm nuôi mà còn phải nhục nhã với hàng xóm, láng giềng vì đã không nuôi dạy con nên người. Có đứa hận tình thì nhảy sông, thắt cổ, tự thiêu, quên rằng cái thân của nó không phải tự lớn lên, trong đó là biết bao nhiêu công sức, mồ hôi nước mắt của cha mẹ, nó không có quyền hủy đi vì những nông nỗi nhất thời. Những đứa làm thế, không những phụ công cha mẹ mà còn làm cho cha mẹ đau đớn khôn nguôi vì tiếc thương! Lúc nào trong đám ma chúng ta cũng nghe dàn kèn thổi những bài “Lòng Mẹ”, “Công Đức sinh thành” nghe rất là ai oán! Sao lúc sinh thời chúng ta không xử tốt với cha mẹ mình, đợi lúc chết thì làm đám ma linh đình, rước thầy tụng, đưa linh, thuê dàn kèn thổi cho lối xóm nghe? Trong cuộc sống chúng ta thấy, dù nghèo đến thế nào, ít cha mẹ nào chịu xa rời con trừ trường hợp bất đắc dĩ phải đi làm ăn xa thì cũng thuê người chăm hay nhờ hai bên nội ngoại giữ. Thế mà vừa mới đây, trong ngày Vu Lan, tôi đã đọc được đôi giòng tâm sự cảm động của vài bậc cha mẹ, có lẽ là khá giả, và tự chọn vào ở trong Viện Dưỡng Lão đắt tiền, có người chăm, cho con cháu khỏi vướng bận để lo chuyện làm ăn! Họ để cha mẹ ở đó sống với những người già với nhau. Thỉnh thoảng ghé thăm, mua một ít quà, là ông, bà thấy vui rồi, vì biết con cái chưa quên mình! Lẽ nào chúng ta không biết, niềm vui của người già là được sống bên cạnh con cháu, nhìn con cháu trưởng thành, làm ăn phát đạt. Giàu thì nhà cửa nghinh ngang, lẽ nào không chừa được cho cha mẹ 1 phòng nhỏ, thuê 1 người hầu hạ ông bà để cho ông bà hưởng được hơi ấm gia đình, ngày ngày có thể thăm hỏi để ông bà có thể nhìn thấy con cháu kề bên? Có người có cả năm bảy con, lẽ nào cả đám không ai có thể lo hay hùn nhau để phụng dưỡng? Nghèo thì bát cơm, manh áo, dưa mắm gì cũng qua buổi. Họ nào đòi hỏi cơm gà cá gỏi gì đâu! Chỉ cần thấy con cái thành đạt, các cháu ngoan hiền, học hành giỏi giang để tuổi già thanh thản đôi năm chờ theo ông bà là đủ mãn nguyện rồi. Đọc trên mạng, ta thấy đưa tin nhiều con “nghĩa khuyển” mà xúc động. Dù chỉ được chủ nhân nó nuôi dưỡng thôi, mà khi chủ mất, nhiều con suốt bao nhiêu năm dài, cứ đến giờ là ngồi chờ như ngày xưa vẫn đón chủ nó đi làm về. Có con vì bảo vệ cho chủ, sẵn sàng chiến đấu với rắn cực độc rồi hy sinh. Có con chó được chủ bị mù nuôi dưỡng. Lúc nào đi đâu cũng dắt theo. Khi tòa nhà cao 72 tầng bị hỏa hoạn, biết rằng khó thoát, người chủ tháo xích cho con chó chạy đi, nhưng nó không bỏ rơi chủ, mà quay lại để dắt chủ thoát chết. Có con ở cạnh mộ chủ suốt mười mấy năm cho tới lúc chết. Có con khi chủ chết thì chết theo… Con người thì được mẹ mang nặng suốt 9 tháng 10 ngày, rồi không những đẻ đau, mà còn phải bồng ẵm nuôi dưỡng bao nhiêu năm dài mới trưởng thành, lẽ nào đối xử với cha mẹ lại thua con vật với chủ nuôi? Có người rất trọng Phật, kính Tăng. Có gì quý là mang đến chùa cúng Phật, cúng Sư, nhưng đối với cha mẹ thì lại tính toán, so đo từng chút, trong khi Phật không cần chúng ta tôn trọng, trái lại, Ngài dạy: “Cha mẹ già là Thích Ca, Di Lặc”, để con cháu yêu kính, phụng dưỡng các người. Bởi suy cho cùng, Phật chỉ là người bày cho ta biết cách sống. Còn cha mẹ là người mà thiếu họ ta còn không có cơ may được làm người. Nói chi là được trở thành ông nọ bà kia, giàu sang phú quý, có địa vị xã hội, được ăn trên, ngồi trước, ăn sung mặc sướng, nhà lầu, xe hơi, kẻ hầu người hạ như hiện nay! Điều quan trọng là “sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy”. Mai kia ta cũng sẽ trở thành người già, con cái ta đã học tấm gương của cha mẹ, liệu ta có muốn con cháu mình đối xử với mình như đang đối xử với cha mẹ? Thời mà con người: “Mỗi năm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con” có lẽ không còn nữa, vì con người thời này quá ích kỷ, chỉ biết bản thân, lo cho vợ con được ăn sang, mặc đẹp, còn bậc cha mẹ đã cực khổ nuôi dưỡng, giáo dục, dựng vợ, gả chồng, đào tạo cho mình thì chẳng cần nghĩ tới, thậm chí còn thấy đó là gánh nặng muốn trút cho người khác. Nhiều người chỉ nghĩ đến Phật, hy sinh cuộc đời để phụng sự Phật mà bỏ quên cha mẹ, để ông bà sống thui thủi trong tuổi xế chiều để lo cho bá tánh đâu đâu! Chính Ngài Qui Sơn cũng có nhắc nhở điều đó. Có câu nói về đường tu hành rất đáng cho chúng ta suy ngẫm: “Dục tu Phật đạo, tiên tu Tiên đạo. Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhân đạo”. Có nghĩa là trước khi muốn tu Đạo Phật thì nên tu theo Đạo Tiên. Trước khi tu Đạo Tiên thì nên tu Đạo làm người. Đạo làm người chưa có. Hiếu dưỡng cha mẹ cũng không, thì không thể nào trở thành một công dân tốt trong xã hội, nói chi là làm quan chức cao cấp lãnh đạo người khác, hay làm người thầy đứng trên bục giảng để dạy cho học trò, vì học trò đâu phải chỉ học tính toán, văn hay, chữ tốt, mà còn phải học đạo đức để mai kia ra đời biết sống, biết cư xử. Và dù giỏi giang cỡ nào, nhưng nếu sống chẳng ra gì thì xã hội không ai trọng nể, và người mà không yêu thương được cha mẹ là kẻ đã sinh ra, nuôi dưỡng họ thì họ còn có thể yêu thương ai, nói gì là thương nước, thương dân? Trong Đạo Phật thì Ân phụ mẫu đứng đầu, nếu chúng ta không báo ân cho cha mẹ, ân đất nước, ân chúng sinh, chỉ lo báo ân Phật thì rõ ràng chưa thực hiện đúng lời Phật dạy. Vì không cha mẹ làm sao chúng ta có được thân người? Không có đất nước thì chúng ta dựa vào đâu mà sống? Không có sự đóng góp của những người khác thì chúng ta lấy đâu cơm ăn, áo mặc, phương tiện để sống? Chính vì vậy mà Đạo Phật dù đưa ra nhiều triết lý cao siêu, tả nhiều cảnh sống ở cõi này, cõi khác, mục đích cũng chỉ để khuyên chúng ta nên sống cho đúng như một con người với hiếu kính cha mẹ, đối xử tốt với thầy, bạn, có nghĩa với đất nước, tôn trọng, giúp đỡ mọi người, không kiêu mạn, bất tín, bất trung… Chắc chắn không có một ai thiếu những điều đó mà lại có thể thành Thánh, thành Phật. Đọc 32 Tướng Tốt của Phật ta sẽ thấy: Đó chẳng phải là những hào quang, hảo tướng ở đâu đâu để mọi người dùng vàng, ngọc, châu báu, xi măng tạc lấy để thờ, chỉ là những cách cư xử với cha, mẹ, ông bà, Thầy, bạn, và với mọi người chung quanh mà thôi. Cho nên, càng đọc kỹ con đường tu Phật, ta thấy trong đó Đạo làm Người mới thật sự quan trọng, vì có tu cao đến đâu vẫn là một con người trong xã hội, phải “Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ tam đồ”. Ngày xưa, kinh sách chưa có, người muốn tu hành phải để cha mẹ ở lại nhà để tầm sư học đạo, trực tiếp gặp Thầy để hướng dẫn. Nhưng ngày nay thì kinh sách tràn lan, muốn hỏi thông tin về Đạo, về Đời chỉ cần nhắp chuột, thì việc bỏ bê cha mẹ không phụng dưỡng để đi phụng sự cho Phật. Không hầu hạ cho người đã mang nặng, đẻ đau, cho mình cả cuộc đời, lại giáo dưỡng cho mình, chỉ lo hầu hạ Sư Trưởng là có hợp lý không? Bởi việc tu hành dù mới nghe có vẻ quan trọng, lớn lao, nhưng mục đích chỉ là học cách nhận thức về các pháp, học Giới, Định, Huệ, Lục Độ, Vạn Hạnh, chủ yếu là tự mình phải thực hành để có kết quả thì cần gì phải vô Chùa, giao cha mẹ lại cho người khác, mặc họ bị đối xử thế nào mình không cần biết tới, vì đi tu là phải bỏ đời? Với người có gia đình thì mục đích là để có người chia sẻ cuộc sống, để nhân đôi hạnh phúc. Nếu gặp phải người vợ không thể như nhà thơ Xuân Quỳnh, xem mẹ chồng như mẹ đẻ: “Mẹ đâu là mẹ riêng anh. Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi” mà lại hỗn láo với mẹ chồng như một nàng dâu ở miền Bắc, khi cãi nhau với mẹ chồng đã nhẫn tâm xô bà xuống giếng rồi dùng cây sào dìm bà cho đến chết, thì làm gì có hạnh phúc và mong gì có con hiền hiếu? Hơn nữa, lẽ nào ta chỉ hạnh phúc bên vợ con mà bỏ mặc cha mẹ lẻ loi trong tuổi già bóng xế khi một đời họ đã cống hiến hết sức lực để không những lo cho con cái được khỏe mạnh, mà còn tạo lập gia sản cho con, để rồi đôi khi chúng giành nhau, quay lại chửi cha mẹ bất công vì chia không đồng đều, sẵn sàng đẩy cha mẹ ra đường vì chia cho mình ít hơn! Mong rằng với con người thời đại này, học rất cao, biết rất rộng, những bài học không thiếu chung quanh, thì nên cư xử với cha mẹ cho phải lẽ. Đừng đợi đến khi cha mẹ qua đời rồi ngày Vu Lan mang lễ vật lên Chùa cúng để tỏ lòng biết ơn, mà trong cuộc sống hàng ngày nên kính trọng, yêu thương, săn sóc cha mẹ như ngày còn thơ cha mẹ đã săn sóc mình, dù không do lòng Hiếu, mà chỉ kể như báo ân. Cha mẹ nào sinh con ra mà đợi lúc già con cái nuôi lại? Nhưng nếu ai thấy đó là trách nhiệm của mình thì cha mẹ sẽ vui lòng biết bao nhiêu. Và cầu phúc ở đâu, tích phúc nơi nào cho bằng phụng dưỡng cho cha mẹ, vì đó hai vị Phật Sống hiện tiền, mà người phúc phần lớn mới được cha mẹ còn để phụng dưỡng. Dù thành đạt, đủ điều kiện để dâng cho cha mẹ những món ngon, vật lạ, hay chỉ là chút cơm rau đạm bạc, áo quần rẻ tiền, vài món bánh trái tầm thường, nhưng chắc chắn bậc làm cho mẹ cũng sẽ thấy ấm lòng, được chút an ủi khi được con cái quan tâm, chăm sóc, không bỏ mặc mình. Người theo Đạo Phật mà không đền đáp Tứ Ân thì kể như chưa hiểu Giáo Pháp của Đạo. Làm người mà không hiểu câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con” có nghĩa là lúc đứa bé chưa đủ sức tự lực thì bậc cha mẹ là nơi cho nó nương tựa, thì người già cũng không khác đứa trẻ, chẳng còn sức lực để đi đứng, làm mọi việc, phải nhờ vào con cái chăm nom. Chúng ta đã vay cha mẹ tấm hình hài và cả một quãng đời niên thiếu lẽ nào khi trưởng thành lại quên mất do đâu mình có được như ngày nay? Không cứ gì phải là người tu Phật mới biết đến Tứ Ân. Đã làm con người thì phải Báo Ân, Đáp Ân thì mới xứng đáng làm người và không uổng kiếp sống vậy. Mùa Vu Lan năm 2015 Tâm Nguyện
Phụ Bản I CON CỘC K.Stanhiukovich (tiếp theo số 111) III Sự căm ghét của viên sĩ quan trưởng đối với con Cộc và lời đe dọa ném con chó của anh em thủy thủ xuống biển bị cả đội thủy thủ tầu âm thầm phản ứng. Mọi người hình như đều ngạc nhiên trước thái độ tàn bạo vô nghĩa này – tước bỏ của anh em thủy thủ con vật yêu quý của họ, trong vòng suốt hai năm trời lênh đênh trên biển nước đã đem lại biết bao nhiêu trò tiêu khiển giữa nhàm chán và tẻ nhạt của cuộc sống trên tầu , và đã là một con chó hiền lành, trìu mến và biết ơn đến thế, đáp lại bằng sự quyến luyến chân thành cho thái độ đối xử nhân từ của mọi người đối với nó, thái độ đối xử mà, cuối cùng nó đã tìm được sau mấy năm cuộc sống lang thang và đầy những gian truân nghịch cảnh trên các phố xá Kronstadt. Sáng dạ và nhanh chóng thích ứng, nhanh chóng nhận biết các vật dụng khác nhau mà cánh thủy thủ chỉ bảo, con Cộc ngộ nghĩnh và xấu xí đã làm không biết bao nhiêu trò hề, gây cho cánh thủy thủ phải phá lên cười và làm họ ngạc nhiên bởi sự am hiểu lạ kỳ của nó. Nó đã đem lại không biết bao nhiêu niềm thích thú và trò tiêu khiển cho cánh thủy thủ chẳng mấy đòi hỏi, làm cho họ ít ra chốc lát quên đi cuộc sống biển cả vất vả trong những cuộc viễn chinh liên miên, cũng như sự xa cách lâu ngày với quê hương xứ sở. Nó đi bằng đôi chân sau với biểu hiện dáng vẻ thật sự nghiêm trang trên cái mõm thông minh của mình, bê chiếc khay, leo lên thang giây cột buồm rồi đứng trên đó, cho đến khi người ta còn chưa quát: “Rời khỏi bậc cuối cột buồm”, còn nếu như hỏi nó: “Cộc, anh bạn có muốn ăn roi không?” thì nó lại giận dữ nghiến răng gầm gừ, và ngược lại ra vẻ khoái trá, ngoe nguẩy một cách thích thú mẩu đuôi cộc của mình khi bảo với nó: “Anh bạn muốn lên bờ chứ?”. Khi tiếng còi hiệu vang lên và tiếp sau đó là tiếng hô của thủy thủ trưởng: “Lên boong”, con Cộc cùng với các thủy thủ trợ trực gác phóng ngay lên boong trên, bất kể thời tiết như thế nào và chờ ở mũi tầu cho đến khi có hiệu lệnh: “Trợ trực gác xuống khoang dưới”. Còn trong thời gian bão tố nó hầu như bao giờ cũng ở trên boong và làm cho những người thủy thủ trực khuây khỏa trong buổi gác trực. Còn khi còi hiệu lệnh đến bữa rượu, con Cộc có mặt cùng với các thủy thủ trong lúc chia phần và sau đó trong bữa ăn trưa đi bằng hai chân sau vòng quanh khắp đám thủy thủ ngồi thành từng nhóm, chỗ nào cũng nhận được những khoản đãi hào phóng, và nó vui vẻ lên tiếng sủa bầy tỏ niềm cám ơn. Sau bữa ăn trưa khi các thủy thủ trợ gác trực nghỉ ngơi, con Cộc không bao giờ thay đổi, luôn nằm dưới chân Kotsiev, bác thủy thủ đứng tuổi lúc nào mặt cũng khó đăm đăm, một tay nát rượu khốn khổ; đối với bác ta, Cộc tỏ những tình cảm trìu mến khác thường và bộc lộ sự trung thành xúc động. Cộc nhìn bác thủy thủ, như thường nói, đăm đắm vào đôi mắt bác và luôn quấn quýt bên cạnh bác, tỏ ra thích thú vô hạn khi bác Kotsiev vuốt ve nó. Trong thời gian các ca trực đêm con Cộc nhất thiết ở bên bác Kotsiev và khi bác ta ngồi ở mũi tầu cảnh giới buộc phải nhìn về phía trước, Cộc ta không ít lần làm thay người bạn mình nhiệm vụ người cảnh giới. Cộc tự nguyện chịu ướt át dưới mưa, những ngọn gió lạnh xuyên thấu và vểnh đôi tai bị cắn nham nhở tỉnh táo nhìn về phía trước, sâu vào màn tối của trời đêm, giành cho bác thủy thủ chùm áo mưa sưởi ấm bên bộ lông của chó, chập chờn thiếp đi cắm mũi gật gà gật gù. Nhìn thấy ánh đèn lửa của tầu đi ngược chiều hay bóng dáng “khách buôn” không treo đèn báo ở đuôi, Cộc ta sủa to đánh thức người gác thiếp ngủ. Lên bờ bao giờ Cộc cũng đi theo Kotsiev, đi cùng bác ta đến quán rượu gần nhất và bỏ đi chốc lát để thăm thú lũ chó trên bờ, trở về, đôi khi bị cắn xé tơi tả, với người bạn của mình Cộc không rời mắt nữa. Cộc chăm chú và với tình cảm biểu lộ rõ ràng lắng nghe những lời độc thoại say sỉn của bác thủy thủ, đế theo tiếng bật của mẩu đuôi cộc hay tiếng ăng ẳng réo rít dịu dàng, nếu bác Kotsiev chuyện trò với Cộc về điều gì đó hẳn là không phải những chủ đề vui vẻ gì, và canh chừng bác thủy thủ nằm lăn ra phố trong tình trạng say sỉn cho đến khi đồng đội tìm đến và đưa bác ta về tầu. Nói gọn là Cộc đã biểu thị tình quyến luyến gắn bó đặc trưng của loài chó với con người đã đem lại cho nó, một kẻ lang thang bị xua đuổi, mỗi buổi sáng đều có thể gặp nguy cơ rơi vào cái thòng lọng của kẻ săn bắt, có được một chỗ nương náu yên bình trên chiến hạm và cuộc sống no đủ dễ chịu giữa những con người hiền hậu, biểu lộ với kẻ vô gia cư ngay từ ngày đầu tiên khi Cộc xuất hiện trên tầu một thái độ quan tâm dễ thương và tử tế, điều mà Cộc đã từ lâu không được hưởng. Về phần mình, bác thủy thủ cau có ít giao tiếp, cũng gắn bó thân thiết với con vật mình tìm thấy, thể hiện những khả năng sư phạm tuyệt vời, chưa nói đến những phẩm chất đạo lý đẹp đẽ, và dường như chỉ riêng với Cộc bác mới chuyện trò khi say trong những cuộc tâm tình dài lê thê. Bác ta đã kể cho Cộc nghe về chuyện bác ta vì một “kẻ xấu xa” đã bị đưa vào làm thủy thủ, về người vợ của mình nay đang sống dường như một “quý bà kiểu mẫu”, cả về đứa con gái của bác ta không còn muốn biết về bố… Và Cộc dường như hiểu được rằng người thủy thủ cau có này, nốc hết cốc rượu này đến cốc rượu khác trong một cái quán rượu nước ngoài, kể cho nó nghe những chuyện chẳng vui vẻ gì. Cuộc gặp gỡ làm quen với Cộc diễn ra hoàn toàn tình cờ. Chuyện đó xẩy ra ở Kronstadt vào một ngày chủ nhật mưa gió và lạnh giá, sau bữa ăn trưa ba ngày trước khi con tầu “Mogutsii” ra khơi đi vào chuyến bơi vòng quanh thế giới. Sau một trận nốc ra trò và bằng đôi bàn chân vẽ nên những hình họa tiết kỳ cục nhất trên mặt đất, Kotsrev từ quán rượu trở về chiến hạm thả neo ở quân cảng, vừa lúc đó ở một ngõ nhỏ đã thấy chú chó nhăn nhó ghé sát bên đường ống nước và run rẩy vì lạnh. Bộ dạng thảm hại của chú chó ướt át gầy trơ bộ xương sườn, hẳn là vô gia cư và thêm vào đó vẻ ngoài lại xấu xí quá thể, thấy rõ là một kẻ lang thang đã động lòng trắc ẩn của bác thủy thủ. - Này, người anh em, chủ của chú mày là ai? Rõ là con chó vô gia cư, hả? – Bác ta lắp bắp nói, dừng lại bên con chó. Con chó cảnh giác đưa cặp mắt thông minh nhìn người lính thủy, dường như đang tính toán: liệu nó có lập tức bám theo hay chờ cho người này bỏ đi. Nhưng tiếp sau đó, một giọng dịu dàng, những lời lẽ người này nói thêm hẳn làm cho nó yên tâm, hẳn đã chẳng có gì không hay sẽ đến với nó, thế là nó rầu rĩ cất tiếng kêu rên. Người thủy thủ đến gần thêm và đưa tay vuốt ve nó, con chó đưa lưỡi liếm tay bác, biểu lộ sự xúc động bởi cử chỉ dịu dàng và nó lại kêu rên to hơn. Khi đó Kotsiev đưa tay sờ xoạng túi áo túi quần, cử chỉ đó làm con chó hau háu chăm chú. Người lính thủy nói: - Chắc là đằng ấy đói, thật tội nghiệp. Nhưng mà đằng ấy khoan khoan đã… A đây, tìm ra rồi, thật may cho đằng ấy. Bác ta nói thêm, cuối cùng moi được từ túi quần ra một đồng tiền xu. Bác ta rẽ vào một quán hàng nhỏ và lát sau quay lại ném cho chú chó mấy lát bánh mì đen và khúc xương sườn, được mua bằng hai kô pêch bác ta còn chưa… mua rượu uống hết. Chú chó thèm thuồng vồ lấy thức ăn, chỉ qua mấy giây ngốn bằng hết mọi thứ, và lại dò hỏi đăm đăm nhìn người thủy thủ. - Thôi, ta cùng đi về tầu… Ở đó ta sẽ cho đằng ấy ăn đầy bụng, một khi đằng ấy đói như vậy… Cánh thủy thủ là những người anh em hiền từ đôn hậu… Đằng ấy không phải sợ. Và đằng ấy ngủ lại đêm trên tầu, chứ thú vị gì nằm ướt dưới mưa… Nào đi, anh bạn. Bác ta dịu dàng huýt sáo gọi. Chú chó đi theo bác ta, không phải không ít nhiều ngại ngùng đi qua thanh gỗ cầu bắc từ bờ lên tầu, và theo sau bác thủy thủ, con chó e ngại trước đám người tụ họp đằng mũi tầu, nó ngập ngừng dường như xấu hổ vì bộ dạng không hấp dẫn của mình. - Anh em ạ, tôi tìm thấy con chó hoang này. - Kotsiev vội nói, chỉ chú chó. Vẻ bất hạnh của chú chó đã động lòng trắc ẩn của đám thủy thủ: họ đưa tay vuốt ve nó và đưa xuống khoang dưới cho ăn. Lát sau chú chó ăn no nê, nằm lăn ra ngủ gần buồng bếp nấu ăn và không tin vào niềm hạnh phúc của mình, luôn lo lắng thức dậy trong giấc ngủ. Sáng ra, tỉnh dậy trên mặt boong tầu sạch sẽ, chú chó sợ hãi nhìn quanh, nhưng Kotsiev đã thực sự làm cho chú chó yên tâm, đặt xuống trước mõm chú một tô cháo đặc, mà cánh thủy thủ vừa ăn sáng. Lát sau, khi mặt boong tầu đã được lau rửa sạch sẽ, Kotsiev đưa chú chó lên mũi tầu và đề nghị anh em thủy thủ giữ chú ta lại trên tầu. - Cứ để chó cùng đi với chúng ta. Đề nghị được chấp nhận với sự thông cảm hoàn toàn. Họ nói với bác thủy thủ trưởng lên xin phép sĩ quan trưởng, và khi đã được phép, trên mũi tầu lại dấy lên vấn đề, đặt tên cho chú chó là gì đây. Mọi người nhìn chú chó khá là xấu xí, để đáp lại những cái nhìn dịu dàng, ngoe nguẩy mẩu đuôi cộc và bày tỏ biết ơn liếm tay những thủy thủ vuốt ve chú. - Cứ gọi Cộc, không có gì khác được - có ai đó lên tiếng. Cái tên gọi được mọi người thích thú. Và từ giây phút đó Cộc được tiếp nhận làm thành viên của hạm tầu “Mogutsii” . Việc dậy dỗ ban đầu cho Cộc do Kotsiev đảm đương và bác ta đã thể hiện các khả năng giáo dục tuyệt vời. Sau một tuần Cộc đã hiểu sự bất khả xâm phạm vẻ sạch bóng sáng của mặt boong tầu và sự nghiêm khắc của các thủy thủ đối với sự sạch sẽ đã trở thành chú chó có quy củ. Ngay trong trận động biển đầu tiên ở biển Ban Tích, Cộc đã biểu lộ các phẩm chất đi biển của mình. Chú không hề bị say sóng một chút nào, chú vẫn ăn uống ngon lành như khi thời tiết phẳng lặng, và không tỏ ra chút nhỏ nào thái độ sợ hãi trong cảnh những con sóng khổng lồ chồm lên thành tầu. Chẳng bao lâu Cộc sáng ý và dịu dàng trở thành đối tượng yêu mến chung và chú mua vui cho các thủy thủ bằng đủ mọi trò của mình. Vậy mà người ta lại dọa ném chú chó đáng yêu quý như vậy xuống biển. Cái tin về chuyện ấy đã làm cho Kotsiev hầu như lo lắng hơn tất cả mọi người. Bác ta cũng đã quyết định làm mọi biện pháp để cái gã “quỷ sứ cao kều” không gặp mặt Cộc. Và ngay ngày hôm đó, khi Cộc với vẻ hớn hở vô tư chạy lên boong trên, khi có hiệu lệnh gọi mọi người đến bữa rượu, Kotsiev dắt Cộc xuống dưới và chỉ cho chú một chỗ ở góc tối nhất sau đống giây rợ, bảo chú: - Ở đó, Cộc ạ, ngoan ngoãn ở đây chẳng có tai họa đấy! Ta sẽ mang cho anh bạn bữa trưa! IV Một tháng trôi qua , trong thời gian này các thủy thủ đã quan sát đầy đủ viên sĩ quan trưởng và không thể yêu mến được ông ta. Quả thực thì ông ta cho đến lúc này không dùng roi vọt xử phạt ai, nói chung không đánh đấm ai, không biểu thị sự độc ác, tuy vậy nam tước vẫn bị căm ghét vì thói xét nét bắt bẻ nhỏ nhen, vì chuyện ông ta cứ bám theo như “nhựa dính”, cứ vo ve rình rập thủy thủ mắc lỗi nào đó và rồi trừng phạt bằng một cách cay đắng: không cho người mắc lỗi lên bờ, bằng cách đó tước đoạt của người thủy thủ điều lý thú duy nhất trong các cuộc lênh đênh viễn xứ. Nếu không lại bắt đứng trên thang dây cột buồm hoặc phải lên ngồi trên thanh ngang giữ buồm và bằng một việc mà các thủy thủ cho là bị xúc phạm hơn nữa, không cho người có lỗi được nhận xuất rượu Vôtka, mà dân biển nước yêu thích hơn tất cả mọi thứ trên đời. Mọi người căm ghét nam tước và cũng sợ ông ta vì những cách trừng phạt như trên, vì thói cố chấp không có tình người của ông ta, không bỏ qua bất cứ ngoại lệ nhỏ nhặt nhất đối với thời gian biểu trong cuộc sống hạm tầu. Mọi người đều cảm thấy áp chế đè nặng lên mình, một áp chế nhẫn tâm của một cỗ máy bướng bỉnh và điều chủ yếu là, họ hiểu ra rằng trong thâm tâm nam tước khinh miệt thủy thủ và xem họ hoàn toàn chỉ là một thứ công cụ lao động. Không bao giờ có một lời nhân từ, không một câu vui đùa. Bao giờ cũng một cái giọng kèn kẹt đều đều và bình thản, trong đó người có tai thính nghe thấy âm điệu trịch thượng khinh bỉ. Bao giờ cũng chỉ là cái nhìn nghiệt ngã của cặp mắt vô cảm. Ông ta cũng không có được sự kính trọng như một thủy thủ. Tại mũi tầu, cái câu lạc bộ của thủy thủ, nơi những đánh giá chính xác được đưa ra đối với các sĩ quan, mọi người nhận ra là, ông ta còn xa mới xứng đáng là một cánh đại bàng, như Xtepan Xtepanưts, mà là chị gà mái ủ rũ, tỏ rõ bản chất nhút nhát trong trận bão tố vừa ập xuống chiến hạm khi vừa ra khỏi Xanhgapo. Và, theo ý kiến của các thủy thủ lớn tuổi, ông ta hiểu công việc không đến nơi đến chốn, mặc dù chỗ nào cũng thò mũi vào. Và “đầu óc” ông ta không có bao nhiêu chỉ mỗi cái tính ương gàn. Nói tóm lại, mọi người không chịu đựng nổi ông ta và chỉ gọi có một tên không khác là “Con quỷ Giuđa”. Ai ai cũng sợ những điều chỉ bảo của ông ta như sự ôn dịch. Thoạt đầu viên nam tước toan tính thay đổi mọi trật tự trên tầu và thay vào các buổi luyện tập hàng ngày ngắn ngủi trước đây bắt “kéo” các buổi luyện tập liền tù tì ba giờ đồng hồ làm cho thủy thủ mệt mỏi, và ngoài ra còn sự mệt mỏi trong suốt sáu giờ đồng hồ tuần tiễu. Nhưng, cám ơn ngài thuyền trưởng, ông đã nhanh chóng hạn chế sự mẫn cán của viên sĩ quan trưởng. Về điều này cậu Egorka, cần vụ nhanh nhẹn của thuyền trưởng đã kể lại ở mũi tầu như sau: - Ngài thuyền trưởng cho gọi, anh em ạ, cái gã “Con quỷ Giuda” ấy lên gặp và ông bảo: “Ông, ông ấy nói, Karl Friantưts, lập ra cái quy củ mới chỉ uổng công thôi và bằng những buổi luyện tập quá mức chỉ làm khổ mọi người. Cứ để, mọi chuyện như cũ”. - Thế cái gã “Quỷ Giuda” ấy phản ứng thế nào? - Mặt mày đỏ lự lên như tôm luộc ấy, …Giuda đáng nguyền rủa, mới trả lời: “Xin tuân lệnh, hắn ta nói, nhưng chỉ có điều tôi cho rằng, tất cả chỉ là để có lợi cho phục vụ…”, -“Xin lỗi nam tước, đó là ngài thuyền trưởng cắt ngang ông ta, - tôi, ngài nói, không có ông tôi cũng biết, ngài nói, ích lợi nào cho phục vụ... Và ích lợi, ngài nói… phục vụ đòi hỏi sao không làm các thủy thủ phát chán nản. Người thủy thủ, ngoài việc luyện tập còn có cơ man nào việc khác, còn canh gác, và, ngài nói, thủy thủ của chúng ta làm lụng khá lắm, và họ đều đáng khen ngợi cả... Vậy thì về lợi ích của phục vụ ông đừng tự cho phép quá bận lòng… với lại, tôi không nói gì thêm với ông nữa”. Vậy là, con quỷ cao kều ra về, được một mẻ toát mồ hôi. Egorka kết thúc với sự hài lòng chung của đội thủy thủ có mặt. Nói chung nam tước Phon der Bering với những quy củ mới và quan niệm về kỷ luật của mình đã không vào đúng sân chơi. Trong phòng sĩ quan, sĩ quan trưởng mới này cũng không được mọi người ưa, đặc biệt đám sĩ quan trẻ, tất cả đã thấm đượm những luồng gió mới của những năm sáu mươi và khao khát đưa những luồng gió ấy đến đích bằng sự đối xử nhân đạo với các thủy thủ. Có cái gì đó cổ lỗ toát ra là những quan điểm của nam tước, một gã theo đuổi chế độ nông nô và bảo thủ. Là người hoàn toàn chính trực và cương nghị, không giấu diếm những nguyên tắc, như ông ta nói, thiêng liêng của mình, bao giờ cũng bóng bẩy và tự phụ, chải chuốt và tề chỉnh đến tởm lợm, nam tước khơi dậy sự đố kỵ trong đám sỹ quan trẻ vui tươi, những người coi ông ta là một tay thông thái rởm hạn chế, đần độn và một con người khô khan, hoang tưởng mình không bao giờ lầm lạc và nhìn mọi người từ trên cao giòng dõi nam tước của mình. Ông ta cũng không được ưa đối với đám trai phục vụ hạm đội: đám hoa tiêu, pháo thủ và thợ máy. Chẳng những như vậy đã là những người dễ phật ý và ảo tưởng, họ cảm thấy rất rõ trong thái độ đối xử tao nhã, lịch thiệp của ông ta có sự khinh miệt hạ cố của ngài nam tước hăng hái, nhận thức được sự vượt trội của mình. Viên sĩ quan trưởng mới cũng không hợp khẩu vị của ngài thuyền trưởng. Thuyền trưởng không lấy làm cám ơn thủy sư đô đốc, ban tặng cho ông “khúc xúc xích Đức” như vậy, mà kể cũng không đoán ra rằng, tất nhiên ngài đô đốc khôn ngoan đã cố tình gán nam tước về làm sĩ quan trưởng cho tầu “Mogutsii” mau chóng “nấu chẩy” nam tước, thế là đô đốc bằng cách ấy “phủi tay” và đưa nam tước ra khỏi hạm đội gửi trả về Nga. Ở phòng sĩ quan gần như chẳng ai chuyện trò với nam tước ngoại trừ phải giao tiếp công việc sự vụ, và ông ta trở nên xa lạ trong gia đình thân ái của sĩ quan hạm tầu “ Mogutsii”. Chỉ có các viên chuẩn úy hải quân đôi khi không tước bỏ niềm thích thú của mình trêu trọc nam tước bằng cách có mặt nam tước lại lên tiếng chỉ trích những kẻ ủng hộ chế độ nông nô và bọn bảo thủ, không hiểu ý nghĩa của những cải cách vĩ đại, và thêm vào đấy còn khen ngợi ông sĩ quan trưởng cũ Xtepan Xtepanovich. “Thật may mắn đã một thời được cùng ông ấy phục vụ mới thú vị làm sao. Đấy mới là một sĩ quan trưởng hiểu biết công việc và thông thạo và là một đồng chí nhân hậu”. Và cả anh em thủy thủ cũng yêu mến ông thật nồng nhiệt, và chính ông mới thật sự hiểu cánh thủy thủ và yêu thương họ. Và họ đã vì ông mà hết lòng hết dạ thi hành nhiệm vụ. - Đến cả con Cộc cũng yêu mến ông - anh chàng chuẩn úy tóc xoăn bạch kim Kosutits, đặc biệt thích thú làm tình làm tội cái “thằng ngốc quý tộc Đức”. - Mà các ngài nhỉ, lâu nay không thấy bóng dáng Cộc xuất hiện trên boong tầu đâu… Chú chó đáng thương phải đi trốn. Thế nghĩa là làm sao nhỉ? - viên chuẩn úy cố tình nói thêm, biết tỏng về viên sĩ quan trưởng đã hăm dọa con vật. Nam tước chỉ căng lên, như chú gà tây, rõ ràng là, không tỏ vẻ để ý gì đến những mũi kim châm chọc, và với thói bướng bỉnh đần độn của con người hạn chế, không thay đổi thái độ cư xử của mình và không đếm xỉa sự không ưa của chung của mọi người đối với mình. Trong khoảng thời gian một tháng qua Cộc quả thực không xuất hiện trước mắt viên sĩ quan trưởng, dù bản thân Cộc có nhìn thấy ông ta một lần từ xa, kể ra Kotsiev đã chỉ cho Cộc thấy, bảo nó: “Cộc ạ, anh bạn phải cẩn thận đấy!”, và nói với một giọng đáng sợ đến mức Cộc liền khụy xuống hai chân sau. Cuộc sống phóng khoáng trước đây của con Cộc đã thay đổi. Sáng sáng, trong khoảng thời gian viên sĩ quan trưởng đi kiểm tra quanh tầu, Cộc ta trốn biệt tăm đâu đó trong một góc của hầm tầu hay gian nồi hơi, theo sự chỉ dẫn của Kotsiev, người đã bỏ ra những cố gắng để dậy cho Cộc ngồi không động đậy trong góc tối. Và trong thời gian đội thủy thủ cùng làm việc Cộc không còn chạy lên boong. Nhờ có các bài dạy dỗ của người bảo trợ của mình, thích thú mỗi khi nói nhanh: “Giuđa đang tới”, thế là Cộc cụp mẩu đuôi cụp lại, vụt lao xuống dưới và nấp kín vào một chỗ kín đáo nhất nào đó, từ đó chỉ đi ra khi vang lên tiếng huýt sáo trấn an của một thủy thủ nào đó chõ xuống qua cửa nắp tròn. Các thủy thủ đưa Cộc lên trên boong thượng trong lúc nam tước ăn trưa hay ngủ, và vào những giờ ấy họ lại giải trí như cũ bằng các trò vui nhộn của chú chó thông minh: “Cộc ạ, không phải sợ, - các thủy thủ trấn an Cộc - không có Giuđa đâu”. Và anh em thủy thủ bảo vệ bạn yêu mến của mình, đã đặt người canh chừng khi Cộc lại trình diễn trên mũi tầu. Chỉ đến đêm đêm, đặc biệt những đêm nhiệt đới tối trời không trăng, đã ngủ đẫy sau một ngày, Cộc tự do dạo chơi nơi mũi tầu, và thân ái quanh quẩn bên cạnh các thủy thủ, nhưng không túc trực canh gác cùng Kotsiev, không còn nhìn về phía trước và cũng không sủa như trước, khi thấy có ánh đèn lửa - Kotsiev không đem Cộc đi theo mình, bảo vệ kẻ được yêu chiều nhất của mình tránh sự giận dữ của “Con quỷ Giuđa”, kẻ mà bị bác thủy thủ cau có hơn hết thẩy mọi người căm ghét Nhưng, mặc dù có mọi chuyện đề phòng này, trong thời gian sắp tới một cơn giông tố vẫn nổ ra trên đầu con Cộc đáng thương. *** Một ngày oi bức cháy nắng trên biển Hoa Đông qua đi. Trên bầu trời xanh lam không một gợn mây và trên biển gió lặng như lịm chết. Ngay từ sớm tinh mơ đã không có gió, mấy cánh buồm lười nhác treo rủ, và thuyền trưởng ra lệnh xả hơi máy. Lát sau hơi máy lên tiếng réo và “Mogutsii” cuốn buồm lại, chạy hết tốc lực hướng về Nagaxaki. Đặc biệt quan tâm về chuyện làm sao “Mogutsii” đến được Nagaxaki, nơi thủy sư đô đốc ấn định cuộc hội quân hạm đội, trong bộ dạng bảnh bao, ngày hôm sau nam tước đã đi tua đến lần thứ ba, quanh hạm tầu bắt bẻ mọi điều, phiền nhiễu mọi người bằng những lời răn dạy của mình. Có vẻ ông ta đang bứt rứt chuyện gì đó, mặc dù mọi cái trên tầu dường như ngăn nắp đâu vào đấy, mọi cái trên boong sạch bóng và ngời lên dưới ánh nắng mặt trời chói lọi thiêu đốt của vừng mặt trời, dường như một quả cầu lửa treo lửng lơ trên mặt biển lặng gió. Nam tước lại vừa có một cuộc giải trình không lấy gì làm đặc biệt dễ chịu với thuyền trưởng và cho là mình phật lòng. Quả tình mọi đề đạt, mọi xu hướng của ông ta, như ông ta tin là, có lợi cho công việc phục vụ, lần lượt bị con người “thiếu bản lĩnh”, như cách nam tước khinh miệt gọi thuyền trưởng, gạt phắt mất, và các mối quan hệ giữa họ mỗi ngày một trở nên càng khô cứng hơn. Thêm vào đó cả đám sĩ quan chuẩn úy lại liên tiếp nghĩ ra đủ những mũi nhọn châm chọc mà ông ta lại không có cách gì để khiển trách họ được. Vậy là nam tước điên tiết lên mà hờn dỗi, đã cao ngạo nghĩ rằng thật là khó khăn đối với một người lương thiện phục vụ cùng với bọn dân chủ Nga ngu ngốc này, không hiểu kỷ luật thật sự là thế nào mà vẫn sẵn sàng phá hoại uy tín của chính quyền. Khi đi xuống boong ở tầng dưới, mải mê với những suy nghĩ của mình, ông ta không có sự quan tâm thường nhật nhòm ngó vào mọi xó xỉnh, đang tiến đến gần buồng thủy thủ, thì đột nhiên con Cộc phóng ra bên cạnh, chạy ngang trước mặt và lao lên tầng thượng. - Đồ chó khả ố - nam tước thốt lên, hơi hoảng sợ vì sự xuất hiện đột ngột của con Cộc, ông ta dừng bước, bất giác ngó vào chỗ theo đó Cộc ta chạy ra. Và ngay khoảnh khắc đó cái nhìn của nam tước cắm vào điểm của sàn tầu, đúng ở dưới cửa tròn xuống thang tầu dẫn lên phần mũi tầu, và mặt ông ta liền nhăn nhó kinh tởm. - Gọi thủy thủ trưởng đến đây - nam tước quát ra lệnh. Mấy giây sau thủy thủ trưởng Gordeev xuất hiện. Nam tước dằn giọng thong thả hỏi, chi ngón tay xuống mặt sàn tầu: - Cái này là gì vậy? Bác thủy thủ trưởng ngó theo hướng ngón tay trắng trẻo đeo nhẫn chỉ và bối rối. - Cái này là gì vậy, tôi hỏi anh, Gordeev? - Xin cho phép tự ngài thấy đấy, thưa đức ông… Và bác thủy thủ trưởng cau có nói tên gọi cái vật kia là vật gì. Nam tước im lặng một lát rồi phán: - Anh còn nhớ, tôi đã nói gì với anh trước đây? - Tôi nhớ, thưa đức ông - bác thủy thủ trưởng trả lời, càng cau có hơn . - Vậy thì qua năm phút phải ném con chó ghê tởm này xuống biển. Thủy thủ trưởng lên tiếng bằng một giọng thật kính cẩn, tràn đầy sự cầu khẩn: - Dám xin được bẩm, thưa đức ông, là vì con chó không được khỏe… và y sĩ đã khám bệnh cho nó, bảo nó bị đau bụng, nhưng chỉ có điều chẳng mấy nữa nó sẽ lại khỏi… trong trạng thái khỏe mạnh, có nghĩa là, con Cộc không bao giờ lại dám bậy, thưa đức ông... Xin tha thứ con Cộc - bác thủy thủ trưởng bằng một giọng run rẩy cầu xin. - Gordeev. Tôi không có thói quen nhắc lại mệnh lệnh. Các người dối trá không ít chuyện bậy bạ đối với tôi. Qua năm phút đến gặp tôi và báo cáo, mệnh lệnh của tôi phải được thi hành… Thêm vào đó phải cọ sạch chỗ này trên sàn tầu - nam tước nói thêm. Nói xong mấy lời đó ông ta quay gót và bỏ đi. - Hừm, đồ phỗng đá - bác thủy thủ trưởng dằn giọng nói theo chân nam tước. Bác đi lên tầng trên và xúc động đến gần Kotsiev đang đợi con Cộc để đưa nó xuống dưới, thông báo vội vàng: - Người anh em, hỏng rồi… Vừa nãy “Con quỷ Giuđa” nhìn thấy ở boong dưới con Cộc đã bĩnh ra, và, và… Bác thủy thủ không nói hết và chỉ cau có lắc đầu. Kotsiev đã hiểu ra mọi chuyện, nét mặt đột ngột biến đổi. Đôi gò má rung rung, bác ta đứng lặng đi, ảm đạm trong nỗi tuyệt vọng kéo dài đến mấy giây. - Không làm thế nào được với quân đê tiện này! Mà con chó đáng thương quá đi mất! - Zakharưts... Zakharưts... cuối cùng bác thủy thủ thốt lên bằng một giọng nức nở van nài. - Chỉ vì Cộc bị ốm đau, chẳng lẽ có thể đòi hỏi gì ở con vật ốm? Thì, có nghĩa là, nói chung bụng dạ nó không chịu nổi, chứ không lẽ nó lại dám…. Nó thông minh… Nó hiểu… Chưa bao giờ với nó lại xẩy ra... và biết bao nhiêu bận hôm nay nó chạy lên boong trên... Zakharưts, làm ơn như cha đẻ… Bác hãy báo cáo với con quỷ ấy, - Có gì mà tôi chưa báo cáo với ông ấy kia chứ? Tôi đã cầu xin hết lời cho con Cộc. Chẳng quan tâm chút gì hết. Ông ta nói, làm sao sau năm phút con Cộc phải bị ném xuống biển. - Zakharưts!... Bác lại đi lần nữa… cầu xin… - Chúng ta phải làm ra nhẽ - những tiếng nói tán thành vang lên. - Akim Zakharưts. Hãy tập họp chúng tôi vào hàng ngũ, toàn thể đội tầu. Sự thể bắt đầu xoay chuyển nghiêm trọng. Akim Zakharưts đăm chiêu đưa tay gãi gáy. Vào giây phút đó anh chàng chuẩn úy trẻ Kosutits được mọi thủy thủ yêu quý, xuất hiện. Thấy viên sĩ quan xuất hiện, tất cả thủy thủ đều im lặng. Bác thủy thủ trưởng mừng rõ. - Chả là thế này, thưa đại nhân, - bác nói với viên chuẩn úy - ông sĩ quan trưởng ra lệnh ném con Cộc xuống biển, mà toàn đội thủy thủ không bằng lòng về mệnh lệnh đó. Vì sao đi giết hại con chó một cách vô tội? Nó là con chó, như ngài biết đấy, nghiêm chỉnh, hai năm ròng đã cùng chúng ta đi trên biển. Và tất cả lỗi lầm của nó, thưa đại nhân, chỉ vì bụng nó đau. Bác thủy thủ trưởng giải thích, do đâu mà xảy ra có chuyện “thải bậy” ra và nói thêm: Thôi thì ngài đừng từ chối, thưa đại nhân, ngài hãy lên tiếng bảo vệ con chó Cộc… Xin ngài đề nghị để nó lại cho chúng tôi... Và con Cộc, dường như đã hiểu cả, rằng câu chuyện nói về nó, dịu dàng liếm tay viên chuẩn úy và sẽ sàng ngúng nguẩy mẩu đuôi cụt của mình. - Đấy, thưa đại nhân, cả con Cộc cũng xin ngài. Phẫn nộ đến tận đáy lòng, viên chuẩn úy hứa sẽ bênh vực con Cộc. Trên mũi tầu làn sóng phẫn nộ lắng xuống. Vẻ mặt Kotsiev sáng lên niềm hy vọng. - Thưa ngài nam tước, - lao vào buồng tầu, viên chuẩn úy xúc động lên tiếng, - toàn đội tầu đề nghị ngài hủy lệnh liên can đến con Cộc và cho nó được sống trên thế gian... Thưa nam tước, và lẽ gì mà ngài lại đi tước đoạt cuộc sống con chó của anh em thủy thủ? Vả lại bản thân nó đã phạm một trọng tội gì nào, thưa nam tước? - Đó không phải việc của ông, chuẩn úy Kosutits, - nam tước phán. Và bản thân ông đừng có quên mình là ai và đừng có bầy tỏ ý kiến của mình với tôi. Con chó phải bị ném khỏi tầu! - Ngài nghĩ vậy sao? - Tôi đề nghị ông im miệng - nam tước sẵng giọng và mặt tái đi… Viên chuẩn úy lòng đầy tức giận thốt lên: - Vậy ngài muốn cả đội tầu nổi loạn chắc, phải chăng thế bởi sự tàn bạo của mình? Vậy thì, điều đó ngài không làm nổi đâu. Tôi sẽ đi gặp ngay thuyền trưởng. Và Kosutits lao tới buồng tầu của thuyền trưởng. Mọi người có mặt tại buồng tầu sĩ quan đều quay nhìn viên sĩ quan trưởng với một thái độ ác cảm rõ ràng. Nam tước mặt trắng bệch với nụ cười khẩy trên môi, đưa tay sờ mó một bên hàm râu quai nón. Khoảng hai phút sau cần vụ của thuyền trưởng báo cho nam tước biết, ông ta được thuyền trưởng triệu đến gặp. Ngài thuyền trưởng lên tiếng hỏi và nhăn mặt, vẻ chua chát: - Câu chuyện với con chó ở đây là thế nào nhỉ, ngài nam tước? - Chẳng có chuyện gì cả. Tôi ra lệnh ném nó ra khỏi tầu, - nam tước lạnh lùng trả lời. - Vì sao thế? - Tôi đã cảnh báo rằng nếu tôi mà nhìn thấy con chó ỉa bậy, tôi sẽ ra lệnh ném nó xuống biển. Tôi đã thấy nó ỉa bậy rồi, và ra lệnh ném nó ra khỏi tầu. Tôi mạnh dạn cho rằng mệnh lệnh của sĩ quan trưởng phải được thi hành nếu như trên tầu quả thực tồn tại một kỷ luật. “Ôi, cái cây gậy tầy giống Đức quốc” - ngài thuyền trưởng thầm nghĩ và bộ mặt ông càng nhăn nhó thêm. - Còn tôi đề nghị ông nam tước, lập tức hủy bỏ mệnh lệnh của ngài đi và rồi đây để cho con chó được yên. Nó có mặt trên tầu do được phép của tôi… Tôi lấy làm tiếc rằng ngài buộc phải hủy bỏ lệnh của mình ban ra, không thể ra thêm những cái lệnh giống như thế và vô cớ làm mọi người bực bội. - Trong trường hợp như thế này, thưa ngài thuyền trưởng, tôi lấy làm hân hạnh xin với ngài tự ngài ra lệnh hủy lệnh của tôi, còn tôi cho rằng điều đó đối với tôi là không thể được. Và ngoài ra… Ngài thuyền trưởng lạnh nhạt hỏi : - Còn gì nữa? - Tôi ốm và không thể thi hành nhiệm vụ một sĩ quan trưởng. - Vậy thì ông cứ làm đơn đi... Và có thể khí hậu trên bờ đối với ông có lợi hơn. Nam tước cúi chào bỏ đi. Sang ngày hôm sau, sau khi tới Nagaxaki, nam tước Phon der Bering, trước sự vui mừng chung của mọi người, rút ra khỏi hạm tầu và một người khác được bổ nhiệm làm sĩ quan trưởng trên tầu “Mogutsii”. Anh em thủy thủ thở phào nhẹ nhõm. Với sự ra đi của nam tước, con Cộc lại được sống cuộc sống tự do và lại được sự quý mến còn hơn trước của anh em thủy thủ, vậy là nhờ có nó mà hạm tầu thoát khỏi con quỷ Giuđa . Con Cộc vẫn như trước thường lên bờ cùng với người bạn của mình - bác Kotsiev, canh chừng bác: lại như trước nhìn về phía trước và mua vui cho anh em thủy thủ bằng đủ mọi trò vè của mình, thêm vào đó khi nghe tiếng kêu “Giuđa đang đến!” nó lao bán sống bán chết xuống tầng dưới, nhưng ngay lập tức quay lên, hiểu ra rằng kẻ thù của nó đã không còn nữa. Thúy Toàn dịch
François-Henri Schneider và tờ Lục-tỉnh Tân-văn
Gần bẩy năm sau khi Nông-cổ mín-đàm, tờ báo kinh tế đầu tiên, ra đời, tại Nam Kỳ có thêm một tờ báo mới, Lục-tỉnh tân-văn. Đây là một tờ tuần báo được Pierre-Jeantet Sombsthay thành lập ngày 16/08/1907 và phát hành số đầu tiên ngày 14/11/1907. Thư viện Quốc gia Pháp lưu trữ bắt đầu từ số 4, ra ngày 05/12/1907, của tờ báo này, cho tới các số cuối phát hành vào tháng 09/1944. Tới cuối tháng 12/1909, tờ công báo bằng chữ quốc ngữ Gia-định báo ra số cuối cùng và bị đình bản vĩnh viễn (sắc lệnh ngày 21/11/1909). Công việc in ấn và phát hành Gia-định báo rất tốn kém cho ngân sách của chính quyền thuộc địa Nam Kỳ. Kể từ khi Nhà in Thuộc địa (Imprimerie coloniale) chính thức bị đóng cửa sáu năm trước đó theo sắc lệnh ngày 14/06/1904, thì mọi công việc in ấn được giao lại cho lĩnh vực tư nhân. Hơn nữa, do ngân sách hạn hẹp hơn, nên trong giai đoạn này, chính quyền thuộc địa Pháp buộc phải ngừng cấp miễn phí rất nhiều đầu báo cho các địa phương, cơ sở hành chính nhà nước hay công chức cao cấp người Pháp. Chưa đầy hai năm sau khi thành lập, người đứng đầu ngành in ấn-xuất bản thời đó tại Đông Dương, François-Henri Schneider, đã mua lại tờ báo Lục-tỉnh tân-văn vào tháng 05/1909. Phải chăng đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay một thoả thuận ngầm giữa hai bên? Vì ngay cuối năm đó, Gia-định báo, tờ công báo viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên, bị đình bản vĩnh viễn, Lục-tỉnh tân-văn tiếp tục chức năng công báo của tờ Gia-định báo. François-Henri Schneider là ai? Lục-tỉnh tân-văn không phải là tờ báo đầu tiên do François-Henri Schneider xuất bản tại Đông Dương. Và Schneider cũng không phải là khuôn mặt xa lạ với chính quyền thuộc địa. Ông tới Nam Kỳ vào khoảng tháng 08/1882 theo hợp đồng ký ba năm với Hải quân Pháp mà ông hình dung sẽ là một quãng thời gian dài đày ải. Chính Schneider cũng không nghĩ sẽ ở lại mảnh đất vùng Viễn Đông lâu đến như vậy. Cho tới khi nghỉ hưu trở về Pháp, vào đầu những năm 1920, ông đã sống và làm việc tại Đông Dương gần 40 năm. Sau hơn một năm làm việc tại Nhà in Chính phủ (Imprimerie du Gouvernement), ông bị thuyên chuyển theo nhà in này ra Hà Nội để thành lập một nhà in mới vào cuối năm 1883, mang tên Nhà in Bảo hộ (Imprimerie du Protectorat). Hai năm sau, theo lời khuyên của chính quyền bảo hộ, Schneider xin thôi việc để ra mở nhà in thương mại riêng của mình và cũng là nhà in tư nhân đầu tiên ở Bắc Kỳ. Sự hợp tác này đặt ra câu hỏi về thỏa thuận lợi ích giữa chính quyền và lĩnh vực tư nhân, cũng như chế độ đặc quyền ưu đãi đối với một số cá nhân hay doanh nghiệp tư nhân. Vì, chỉ hai năm sau khi khánh thành nhà in riêng của mình, Schneider mua lại Nhà in Bảo hộ với toàn bộ máy móc, cũng như phông chữ Hán vào năm 1886, với một giá khá hời 14.000 franc Pháp và được hưởng nhiều điều kiện ưu đãi khác, như thầu toàn bộ việc in ấn giấy tờ và công báo của chính phủ, những công việc mà Nhà in Bảo hộ đảm nhiệm trước đây. Cơ sở mới mở rộng của ông mang tên Nhà in typo F. H. Schneider (Imprimerie typographique de F. H. Schneider). Chưa chắc hợp đồng chuyển nhượng này có thể đã được thực hiện nếu như Toàn quyền Đông Dương, Paul Bert, không đột ngột qua đời vào năm 1886. Ông ấp ủ dự án xuất bản một tờ công báo bằng chữ Hán tại Bắc Kỳ, nơi truyền thống Trung Hoa vẫn còn giữ ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống người dân, đồng thời giao cho Hàn lâm viện Bắc Kỳ (thành lập ngày 03/07/1886) dịch sang chữ quốc ngữ nhằm phổ biến loại chữ viết mới này. Chính vì mục đích trên, ông Paul Bert cử Trưởng ban Tài chính sang Thượng Hải để nghiên cứu công việc in ấn một tờ báo bằng chữ Hán. Sau khi ông qua đời, dự án này bị ngừng lại cho tới khi Jean-Marie de Lanessan, một người khá thân với Schneider, sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương. Với một bản thỏa thuận miệng với Toàn quyền de Lanessan, François-Henri Schneider cho xuất bản tờ công báo bằng chữ Hán đầu tiên tại Bắc Kỳ, tờ Đại-nam đồng-văn nhật-báo (cuối 1891-31/12/1907), để đăng các tin tức và bài viết do Phòng Sự vụ địa phương soạn thảo. Hợp đồng độc quyền của Schneider với chính quyền thuộc địa kéo dài tới năm 1905, khi một chủ nhà in khác yêu cầu đấu giá công việc xuất bản tờ công báo. Ernest Babut, chủ tờ báo Đại-Việt tân-báo (05/05/1905-25/05/1908), là người duy nhất giành được hợp đồng phát hành công báo từ tay Schneider. Đồng thời, cứ ba năm một lần, chính quyền thuộc địa buộc phải đưa ra đấu giá công việc in ấn công báo. Tuy nhiên, công việc trên chỉ mang tính hình thức và thủ tục vì với mối quan hệ mật thiết với chính quyền và trang thiết bị cơ sở mà Schneider có, ông dễ dàng vượt qua được các đối thủ để giành hợp đồng. Chính vì vậy, trong suốt thời gian làm việc tại Bắc Kỳ, Schneider có trong tay bẩy đầu báo, trong đó có 5 đầu báo (Đại-nam đồng-văn nhật-báo (cuối 1891-31/12/1907), Nam-Việt quan-báo 01/01/1908-1913), Nam-Việt công-báo (01/01/1911-31/12/1913), Pháp-Việt thông-báo (01/01/1914-31/12/1918), Công-thị báo (11/1914-cuối 1915)) được in một mặt, khổ lớn, để dán tại những nơi công cộng như đình làng, để phổ biến thông tin cho người dân; hai tờ báo khác được in dưới dạng báo thông thường là Tạp chí Đông Dương và tờ Trung Bắc tân văn. Tới năm 1909, trong tổng số bẩy nhà in tư nhân tại Bắc Kỳ, F.H. Schneider sở hữu hai nhà máy lớn nhất, tại Hà Nội và Hải Phòng và một nhà máy sản xuất giấy. Sau nhiều năm gây dựng cơ nghiệp tại Bắc Kỳ, Schneider có ý định mở rộng thị trường tại miền Nam. Được sự hậu thuẫn của chính quyền, ông mua lại tờ Lục-tỉnh tân-văn từ Pierre-Jeantet Sombsthay và nhận được một khoản trợ cấp hàng năm từ chính phủ, giống như những tờ báo ông xuất bản tại Bắc Kỳ. Lục-tỉnh tân-văn : Từ một tờ báo tư nhân thành một tờ “công báo” Trong khoảng thời gian một năm rưỡi tồn tại, từ tháng 11/1907 tới tháng 05/1909, trước khi bị Schneider mua lại, chủ bút tờ báo là Trần Chánh Chiếu, còn gọi là Gilbert Trần Chánh Chiếu hay Gilbert Chiếu, với bút danh Trần Nhựt Thăng. Ông là một người cổ súy mạnh mẽ các phong trào duy tân yêu nước, cùng với các nhân sĩ yêu nước khác như Nguyễn An Khương, Lương Khắc Ninh, Đặng Thúc Liêng, Nguyễn Thần Hiến... Năm 1906, khi thay Lương Khắc Ninh làm chủ bút tờ Nông-cổ mín-đàm, ông bí mật sang gặp Phan Bội Châu tại Hương Cảng, Hồng Kông, sau đó sang Nhật Bản gặp Kỳ Ngoại hầu Cường Đề. Về hoàn cảnh gặp Phan Bội Châu, vẫn còn nhiều ý kiến và giải thích khác nhau. Trở về nước, Gilbert Chiếu khởi xướng phong trào Minh Tân để hưởng ứng lời kêu gọi của Phan Bội Châu. Cùng với nhiều thân sĩ yêu nước, ông chủ trương lập Nam Kỳ minh tân công nghệ xã (1908) và nhiều cơ sở kinh tài khác để giúp tiền bạc nhiều thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập theo phong trào Đông Du. Trong khoảng thời gian này, Nam Kỳ có khoảng hơn 100 học sinh, con các điền chủ, được bí mật gửi sang Nhật Bản học tập, trong đó có người con trai Jules Tiết của Gilbert Chiếu. Ngoài ra, tận dụng vai trò là chủ bút tờ Lục-tỉnh tân-văn, ông công khai trên mặt báo hô hào duy tân cứu nước, chống hủ tục, tranh luận về lập trường dân tộc và đặc biệt là công kích chính quyền thuộc địa và phong kiến tay sai. Về mặt kinh tế, tờ báo kêu gọi đồng bào cạnh tranh với Hoa kiều và Ấn kiều đề giành quyền lợi. Mọi hành động, hay lời kêu gọi của ông đều nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của giới điền chủ và công chức. Cùng với các biến cố xảy ra dồn dập khắp đất nước: tại miền Trung là phong trào chống thuế năm 1908 hay vụ Hà thành đầu độc cũng xảy ra năm đó, chính quyền Nam Kỳ buộc phải cử mật thám theo dõi Gilbert Chiếu. Và cuối cùng, ông bị bắt vào tháng 10/1908 tại Sài Gòn vì tội ủng hộ và có quan hệ với phong trào Đông Du và đã viết báo công kích chế độ thuộc địa. Trong số 50, ra ngày 29/10/1908, tờ Lục-tỉnh tân-văn chỉ đưa tin chung chung như sau:“Chủ bút Lục tỉnh tân văn đã bị giam cầm vì tội đại ác. Vậy chủ nhơn kính tỏ cùng tôn bằng quý khách đặng rõ rằng bổn quán thiệt vô cùng không hay không biết những việc Chủ bút (Gibert Chiếu) phản bạn, giao thông với người ngoại quốc. Nhà nước cũng cho bổn quán biết nhà nước chẳng chút nào tin dạ trung nghĩa của Gibert Chiếu, cho nên đã có ra lịnh kiềm thúc thám sát quá đỗi ngặt nghiêm”. Sau khi Gilbert Chiếu bị bắt, tờ báo của Pierre-Jeantet Sombsthay có nguy cơ bị đóng cửa cho tới khi được Schneider mua lại vào tháng 05/1909, dưới sự chấp thuận của chính quyền Nam Kỳ. Vì vậy, ý đồ của nhà cầm quyền nhắm hai mục đích chính: thứ nhất, thay đổi hoàn toàn đường lối biên tập của tờ Lục-tỉnh tân-văn đặt dưới sự quản lý của một đối tác có uy tín; thứ hai là nhằm thay thế chức năng của tờ công báo của tờ Gia-định báo, bị đình bản vào cuối năm đó. Tờ báo là bản sao viết bằng chữ quốc ngữ của tờ Bulletin administratif de la Cochinchine (Kỷ yếu hành chính Nam Kỳ), phát hành thứ Năm hàng tuần với 32 trang. Vì vậy, thân hào tại mỗi làng xã phải đăng ký mua tờ báo này. Trớ trêu thay là từ giờ các địa phương phải tự bỏ tiền túi trả cho một cơ sở tư nhân để được cung cấp thông tin liên quan tới thay đổi hành chính hay các sắc lệnh, nghị định của chính phủ. François-Henri Schneider cử trí thức trẻ Nguyễn Văn Vĩnh, một người được ông nâng đỡ, tin tưởng và đã từng cộng tác, vào Sài Gòn làm công việc cố vấn cho tờ Lục-tỉnh tân-văn từ năm 1909 cho tới năm 1913. Sau đó, ông trở về Hà Nội để phụ trách tờ Đông Dương tạp chí, một ấn bản viết bằng chữ quốc ngữ, song không cần xin phép trước, nhờ trí thông minh và lanh lợi của ông chủ Schneider. Sự kiện đánh bom khách sạn Hà Nội (tại phố Paul Bert, nay là phố Tràng Tiền) ngày 27/04/1913 do Việt Nam Quang phục hội tiến hành đã giúp Schneider tận dụng được tình hình rối ren và bối rối của chính phủ để cho xuất bản ngày 15/05/1913, cùng ngày với thông tri cho phép phát hành, số đầu tiên của ấn bản đặc biệt của tờ Lục-tỉnh tân-văn, dưới tên gọi Đông Dương tạp chí. Tờ tạp chí văn hóa trở thành một ấn bản đặc biệt dưới sự điều khiển của Nguyễn Văn Vĩnh cùng với nhiều cây bút “tây học” (Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn) hay “hán học” (Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục) nổi tiếng thời bấy giờ. Những trí thức vì tân trào trên biến tờ báo thành nơi thử nghiệm văn phong, cải tiến chữ quốc ngữ, du nhập những thể văn hiện đại và phổ biến học thuật phương Tây. Đầu những năm 1920, Schneider bán lại tất cả tài sản của mình tại Đông Dương để trở về nghỉ hưu tại Pháp. Ông nhượng lại tờ Lục-tỉnh tân-văn cho ông Nguyễn Văn Của, hay còn gọi là ông huyện Của. Từ ngày 03/10/1921, tờ báo hợp nhất với Nam-Trung nhật-báo và vẫn giữ nguyên tên Lục-Tỉnh tân-văn do Lê Hoàng Mưu làm chủ bút và chuyển thành nhật báo cho tới tháng 12/1944 thì đình bản. Những chủ bút cuối cùng là Nguyễn Văn Giàu và Diệp Văn Cương. Cùng với các tờ Gia-định báo, Nhựt trình Nam-Kỳ, Phan-yên báo, Thông-loại khóa-trình, Nông-cổ mín-đàm, Nhựt báo tỉnh, tờ Lục-tỉnh tân-văn là một trong những tờ báo đầu tiên xuất bản tại Nam Kỳ và viết bằng chữ quốc ngữ. Đây cũng là tờ báo uy tín nhất và tồn tại lâu nhất tại Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa. Bs. Nguyễn Lân-Đính st.
HỘI THÁNH TIN LÀNH TẠI ĐỨC XIN LỖI VỀ VIỆC ĐÃ PHÁ HỦY TRANH ẢNH TÔN GIÁO TRONG CUỘC CẢI CÁCH Trong một cuộc gặp gỡ tại Hamburg giữa hai phái đoàn của Tòa Thượng phụ Constantinopolis và Hội Thánh Tin Lành Đức (EKD), Giám mục Tin Lành Petra Bosse-Huber đã đưa ra lời xin lỗi về phong trào bài việc sùng bái tranh ảnh thánh do Tin Lành đề xướng vào thế kỷ XVI. “Hội Thánh Tin Lành lên án việc phá hủy tranh ảnh tôn giáo. Các tranh ảnh thánh này từ lâu đã trở thành một cách diễn tả lòng sùng đạo của Tin Lành”. Khi phát biểu các lời này, vị giám mục Tin Lành phía Bắc (NEK), cũng là thành viên của Hội Thánh Tin Lành Đức (EKD), một cách nào đó, đã lên tiếng xin lỗi về việc phá hủy một số lớn tranh ảnh tôn giáo trong cuộc Cải Cách. Thực vậy, trong nửa đầu thế kỷ XVI, một số lớn bộ tranh, bức chạm, kính màu, bức họa và biểu tượng về Đức Mẹ và các Thánh, và cả các di vật cùng các đồ vật có liên quan đến phép lạ hay mang ý nghĩa siêu nhiên, đã bị phá hủy một cách có hệ thống hay bị đưa ra khỏi các nhà thờ, nhà nguyện Công giáo, đặc biệt tại Thụy Sĩ, Hà Lan, tại miền nam nước Đức và tại Anh. Jean Calvin khởi xướng Vào năm 1531, tại thành phố Ulm, miền nam nước Đức, người theo Cải Cách, viện cớ cái gọi là “Ngày chống thờ quấy” (Götzentag), đã lấy đi các bàn thờ và hai đàn đại phong cầm khỏi nhà thờ chính tòa. Tại Genève cũng vậy, do Jean Calvin khởi xướng, một số lớn các tác phẩm Kitô giáo trong số những công trình quý giá nhất của thành phố đã bị phá hủy. Tại Pháp, các vụ phá hủy này cũng đã diễn ra, chủ yếu trong cuộc chiến tranh tôn giáo lần thứ nhất vào năm 1562. Nhiều nhà thờ bị phá hủy hoàn toàn và nhiều đền đài đồ sộ bị hư hỏng trầm trọng, như trường hợp các Vương cung thánh đường Thánh Martin thành Tours, Thánh Maria Mađalêna ở Vézelay, nhà thờ chính tòa Thánh Phêrô ở Angoulème, nhà thờ chính tòa Thánh Giá ở Orléans hay tu viện Jumièges… Bài trừ việc tôn thờ tranh ảnh thánh Đối với các tín hữu Tin Lành thế kỷ XVI, đây chỉ đơn thuần là việc cấm mọi sự sùng kính ảnh tượng đạo, được đồng hóa với việc tôn thờ tranh ảnh thánh và do đó, mang tính cách ngoại đạo. Khi ấy, người ta gọi đây là phong trào bài ảnh tượng thánh Tin Lành - ám chỉ tới phong trào tương tự diễn ra vào thế kỷ VIII. Các lời phát biểu của Giám mục Petra Bosse-Huber tại cuộc gặp gỡ ở Hamburg vừa qua để bàn về “tranh thánh” theo quan điểm Chính Thống giáo và Tin Lành, có ý nghĩa lớn đối với sự biến chuyển của Tin Lành, đã diễn ra từ nhiều thập niên, liên quan đến vấn đề tranh ảnh, và một cách rộng lớn hơn, đến vấn đề biểu tượng và thẩm mỹ. Vào thời điểm người Tin Lành đang chuẩn bị cử hành kỷ niệm 500 năm cuộc Cải Cách (vào năm 2017 sắp tới), tuyên bố này lại càng có ý nghĩa. (Nguồn: WHĐ - Theo La Croix) Lm Jos. Nguyễn Hữu Triết st. Nhạc sĩ VĂN CAO với 20 năm “Cõi thiên thai” & Bản TIẾN QUÂN CA tròn 70 tuổi
Cố nhạc sĩ Văn Cao 20 năm “Cõi thiên thai” Trưa ngày 12/7/1985, lúc đưa tiễn người nghệ sĩ tài danh về nghĩa trang Mai Dịch, bà Nghiêm Thúy Băng, phu nhân của ông, kể: Văn Cao rất thích hai câu thơ: “Giữa sự sống và cái chết, tôi chọn sự sống Để giữ cho sự sống, tôi chọn cái chết” - Nói về người bạn của mình, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không tiếc lời khen tặng: “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư...”. - Ca khúc đầu tiên của Văn Cao mang tên Buồn tàn thu, được sáng tác năm ông 16 tuổi. Ca khúc cuối cùng là Mùa xuân đầu tiên khép lại sự nghiệp sáng tác âm nhạc lẫy lừng của ông trên cả hai mảng tình ca và hùng ca. - Trong những sáng tác đầu tiên, nhạc của Văn Cao đậm chất lãng mạn của con người phương Đông với Suối mơ, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Bến xuân, Thiên thai, Trương Chi. - Nét thơ mộng trong ca từ hòa quyện với giai điệu du dương, bay bổng giúp cho âm nhạc của Văn Cao trở nên sang trọng khó ai bì kịp. Ca khúc Thiên thai từng được sử dụng làm nhạc nền cho bộ phim nổi tiếng Người Mỹ trầm lặng. Với mảng hùng ca, Văn Cao được tôn vinh là cha đẻ của hùng ca và trường ca của Việt Nam. Ngoài bài hát nổi tiếng Tiến quân ca được chọn làm quốc ca của nước Việt Nam, người nhạc sĩ tài hoa này còn có một số sáng tác trường tồn theo năm tháng như: Ngày mùa, Tiến về Hà Nội, Trường ca sông Lô, Thăng Long hành khúc ca, Làng tôi, Ca ngợi Hồ chủ tịch… Những ca khúc này đã trở thành những bài hát đỉnh cao của nhạc kháng chiến. 70 năm còn đó lời hiệu triệu non sông Tháng 10-2015 này, ca khúc “Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao tròn 70 tuổi. 70 năm đồng hành cùng non sông, có mặt trong tất cả các sự kiện lịch sử trọng đại, in hằn trong lòng người dân Việt Nam, vì lẽ đó “Tiến quân ca” cũng chính là một “báu vật tinh thần” của toàn dân tộc. 21 tuổi và nhiệm vụ bất ngờ Khi nói về “Tiến quân ca”, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân - Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã không giấu nổi niềm xúc động lẫn sự tự hào. Ông nói: “Có thể khẳng định, Quốc ca đã trở thành một phần giá trị tinh thần song hành cùng lịch sử dân tộc gần 70 năm qua. Quốc ca là quốc hồn, quốc túy, là tinh thần dân tộc được kết tinh qua giai điệu, lời ca. Âm nhạc ấy, được bao thế hệ người dân Việt Nam hát vang đầy tự hào, đặc biệt là chiến sĩ đồng bào đã đi qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, từng hát, từng nâng niu trân trọng như một vật báu của dân tộc”. Tuy nhiên, ít người biết, khi sáng tác ca khúc này vào tháng 10-1944 Văn Cao mới bước vào tuổi 21. Đó là phút giây lóe sáng, thể hiện tài năng đích thực của Văn Cao, nhất là trong bối cảnh đất nước hồi ấy còn vô vàn khó khăn. Bây giờ, khi “Tiến quân ca” tròn 70 tuổi và đã 20 năm nay nhạc sĩ Văn Cao mãi mãi đi xa, thì những ký ức về Văn Cao cùng bản hùng ca bất tử này vẫn còn tươi nguyên trong trí nhớ của những người thân. Theo nhà thơ Nghiêm Bằng - con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao thì sinh thời, mỗi khi bài “Tiến quân ca” vang lên, Văn Cao thường nghĩ đến người bạn, người anh và cũng là người lãnh đạo đầu tiên, trực tiếp giác ngộ ông vào Việt Minh hồi năm 1944 tại Hà Nội. Người đó là Vũ Quý (còn gọi là Quý đen) - một huấn luyện viên bơi lội, xưa từng huấn luyện ông trong hoạt động thể thao tại Hải Phòng, lúc anh đang là lãnh đạo (cùng với các vị Lê Quang Đạo, Nguyễn Văn Trân…) trong Ban cán sự thành phố Hà Nội (nay gọi là Thành ủy). Vũ Quý đã không giao bất kỳ khẩu súng nào cho Văn Cao hoạt động, lại chính thức giao nhiệm vụ cho ông sáng tác ngay một bài hát để hát trong ngày ra đời sắp tới của một đội quân vũ trang khóa quân chính kháng Nhật trên chiến khu Trần Hưng Đạo tại Việt Bắc. Chính đồng chí Vũ Quý đã khuyến khích Văn Cao viết những ca khúc yêu nước trước đó như: “Đống Đa”, “Thăng Long hành khúc”, “Tiếng rừng”… Tháng 9-1944, nhạc sĩ Văn Cao nhận lời Vũ Quý và ngay hôm đó chính thức gia nhập Việt Minh, bắt tay vào việc sáng tác ngay một bài hát với thể loại hành khúc của một đội quân, khác với những ca khúc trữ tình ông thường quen sáng tác mỗi khi có xúc cảm trong tâm hồn. Nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị Ở Hà Nội mỗi khi từ phố Nguyễn Thượng Hiền rẽ vào Yết Kiêu, tôi thường nhớ tới cái dáng hao gầy của Văn Cao. Vào đầu những năm 80 - 90 của thế kỷ trước, nhiều lần tôi đã nhìn thấy đôi mắt xa xăm của ông dõi nhìn dòng xe xuôi ngược. Trong căn phòng ở số 108 phố Yết Kiêu, khuôn mặt hơi buồn, Văn Cao trầm ngâm nhấc ly rượu, ít nói và cũng ít cười cho dù những bài hát của ông đã được công chúng trong và ngoài nước yêu thích. Đặc biệt, hành khúc “Tiến quân ca” đã trở nên thân thuộc với mọi tầng lớp dân chúng. Đã 20 năm Văn Cao đi xa, nhưng góc phố này vẫn như hằn in dấu chân ông. Căn gác 171 phố Mongrant xưa (nay là phố Nguyễn Thượng Hiền) đã không còn. Nhưng đọc lại hồi ký “Tại sao tôi viết Tiến quân ca” của Văn Cao vẫn cho ta cảm giác sống động vô cùng, ông viết: “Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em tôi đang đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa được gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khóa quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. Ở đây đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị, cho họ có thể hát được”. Cứ miên man như thế, một giai điệu trong ông bỗng dâng trào và hòa quyện cùng lời ca như bật ra: “Đoàn quân Việt Minh đi/ Chung lòng cứu quốc/ Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…”. Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu ngân dài của bài hát, mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng: “Đoàn quân Việt Minh đi/ Sao vàng phấp phới/ Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than…”. Để kết thúc cùng với tiếng thét ở đoạn cao trào, mang dấu ấn từ “Thăng Long hành khúc ca”, một bài ca yêu nước ông đã từng sáng tác trước đó, ông tiếp tục: “Tiến lên! Cùng thét lên!/ Chí trai là nơi đây ước nguyền”... “Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt anh đen sạm. Đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh”- Văn Cao viết trong nhật ký của mình. Đó là vào một ngày cuối tháng 10-1944. Bản hùng ca “hay nhất Việt Nam” Đến Quốc hội khóa I năm 1946, “Tiến quân ca” đã chính thức trở thành Quốc ca của nước Việt Nam cho đến ngày hôm nay. Sinh thời, nhạc sĩ Phạm Duy đánh giá “Tiến quân ca” là một trong những bài hùng ca hay nhất của tân nhạc Việt. Ông khẳng định rằng Văn Cao “là người đẻ ra loại hùng ca Việt Nam” dù loại nhạc này đã được Thẩm Oánh, Hoàng Quý hay Lưu Hữu Phước có công khai phá, nhưng thật là “Việt Nam” thì phải là Văn Cao với các tác phẩm như “Tiến quân ca”, “Chiến sĩ Việt Nam” và “Bắc Sơn”. Tuy vậy, để bản “Tiến quân ca” trở thành Quốc ca vang lên như ngày nay thì năm 1955, Quốc hội đã mời nhạc sĩ Văn Cao tham gia sửa chữa một số chỗ về phần lời. Theo đó, câu “Thề phanh thây uống máu quân thù” dù rất đúng với hoàn cảnh lúc đó có tới 2 triệu người chết đói nhưng chính Văn Cao cũng thống nhất sửa lại là: “Vì nhân dân chiến đấu không ngừng”. Sau này, có một vài câu bị sửa khiến nhạc sĩ Văn Cao không được ưng ý lắm. Nhưng đúng như tâm niệm của Văn Cao lúc cuối đời, “dù sao Tiến quân ca cũng chẳng phải là của riêng tôi, nó đã là của một dân tộc Việt Nam độc lập kể từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đến nay”. 70 năm đã qua đi, giai điệu “Tiến quân ca” vẫn vang lên cùng lịch sử dân tộc, là lời hiệu triệu non sông vững bền. Và vẫn còn tiếp tục ngân rung trong trái tim người Việt, dân tộc Việt Nam. PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo – Internet)
Chuyện nghề chuyện nghiệp BIÊN TẬP SÁCH THỜI NAY NGHỀ BẠC, NGHỀ MẠT Nếu chịu khó lui tới một vài nhà xuất bản ở Hà Nội, bạn sẽ có nhận xét này: tuổi trung bình của đám người biên tập sách là khá cao, khoảng 45-50 cả. Chuyện “trẻ hóa” lớp người này có lẽ còn là chuyện viển vông, chẳng ai thiết… Một lần gần đây, trong dịp một đoàn khách Mỹ đến thăm một nhà xuất bản ở Hà Nội, chủ và khách hỏi chuyện nhau đôi chút về nghề làm sách. Một vị khách, được giới thiệu là tổng biên tập nhà xuất bản Pinguin Books hỏi: khâu khó nhất trong việc làm ra bản thảo đưa in, ở chỗ các bạn, là việc gì? Chủ nhà bảo: là chuyện làm việc với các nhà văn, tác giả, là sự tranh chấp trên từng câu chữ. Khách xua tay: đấy là chuyện muôn thuở, ở góc trời nào chẳng vậy. Ý khách muốn hỏi việc tạo ra những bản thảo phức tạp, văn bản là sự lắp ráp nhiều thành phần cần đến bàn tay tổ chức, dựng dõi-công việc ấy ở đây thế nào? Chủ nhà vỡ lẽ: thì đây là công việc biên tập; sách khó, phức tạp phải do những biên tập viên thạo nghề, lâu năm đảm nhận. Khách gật đầu và tỏ ý muốn nghe kể nhiều về công việc ấy… Công việc của người biên tập: có đáng kể không? Đã có ai đó trích dẫn Gorki, bảo rằng người biên tập phải “dạy vỡ lòng” cho các nhà văn trẻ ở những cuốn sách đầu tay. Trong giới viết văn ở ta cũng có nhà văn muốn thấy ở các biên tập viên hình ảnh bà đỡ mát tay cho các tác phẩm của mình. Hồi những năm 60-70 ở miền Bắc, vị trí biên tập viên nhà xuất bản là chỗ ngồi đáng mơ ước của những sinh viên ngữ văn, của cả những cây bút viết văn trẻ đang còn dính chặt ở các nhiệm sở nơi tỉnh lẻ hoặc ở ngoài ngành. Đến những năm 80-90 này, vị trí ấy mất hẳn sức hấp dẫn. Chỉ đôi người thân cô thế yếu mới ngồi lại ở ghế biên tập viên xuất bản. Rất nhiều “nguyên biên tập viên” đã rời ghế, trèo lên những chỗ “thơm tho” hơn, danh giá hơn, hoặc xoàng ra cũng gắng chuyển từ biên tập sách sang biên tập các báo, ít ra thu nhập cũng cao hơn hẳn! Nhưng làm biên tập xuất bản thời nay không chỉ đáng ái ngại về nỗi nghèo. Từ thời vào kinh tế thị trường, hoạt động liên kết xuất bản với các “đầu nậu” trở thành việc thường ngày, thì trong từng nhà xuất bản, khối lượng công việc của nhiều khâu có thể vẫn như cũ hoặc tăng giảm đôi chút, riêng công việc biên tập thì tăng vọt. Các thứ bản thảo tìm đến đậu chồng chất trên bàn các biên tập viên, có cái theo kế hoạch dự kiến, có cái do đầu nậu đưa tới, cần làm gấp để lấy giấy phép đưa in. Một nhà xuất bản hiện giờ chỉ trực tiếp in chừng 1/3 số sách mình đứng tên trong năm. Nhưng tất cả 1/3 ấy cộng 2/3 còn lại, đều phải qua sự biên tập của NXB, vì chẳng NXB nào muốn trong tất cả những sách mình in ra lại vô phúc có những lỗi chết người! Thời bao cấp, mỗi biên tập viên làm mỗi năm chừng dăm bảy cuốn. Hiện tại có người mỗi năm biên tập tới vài ba chục cuốn. Lao động biên tập nặng hơn, nhưng thu nhập thì vẫn bình quân, đó là “nếp sống” thông thường ở các NXB. Các bên liên kết (đầu nậu) có cần săn sóc đến các biên tập viên không? Cũng có ít nhiều, nhưng đối với họ, khâu then chốt là người ký và cấp giấy phép đưa in. Chỗ mà đầu nậu phải đối xử “tế nhị”, “kín đáo” là các vị chánh phó GĐ ấy. Mươi lăm phần trăm giá bìa công khai ghi trong hợp đồng in sách là chuyện đương nhiên, trả cho quỹ chung của NXB. Không ai biết, ngoài ra, cái chỗ “kín đáo”, “tế nhị” kia là mấy phần trăm, nhưng có phần chắc là bao giờ cũng có. Nhưng có đấy mà người ta công nhiên phải xem như không có. Thành thử việc một vài người quản lý NXB được hưởng “lộc” riêng trên lưng các biên tập viên là điều mà ai nấy trong giới xuất bản đều biết, nhưng đều mặc nhiên xem như không có, không biết. Sản phẩm của lao động biên tập là bản thảo đã được chỉnh đốn để đưa duyệt in, nó bao giờ cũng đã là một sản phẩm khác so với bản thảo “mộc” lúc mới đưa tới NXB. Nó in dấu trình độ, kinh nghiệm, sự lành nghề của người biên tập. Nhưng người biên tập có chút quyền, chút lợi nào không khi cái bản thảo đã biên tập ấy sẽ được in thành sách, rồi sau đó có khi được in lại nhiều lần? Hình như ngành XB ở Việt Nam chưa tính gì tới điều ấy. Tác phẩm ra đời, nếu chẳng may gặp nạn thì trong số những người bị kỷ luật, bao giờ cũng có biên tập viên đầu cuốn. Nhưng khi tác phẩm có tiếng vang, được nhận các loại giải thưởng, thì người biên tập bị coi như vô can. Ở mức đời thường hơn, còn xảy ra nhiều chuyện chẳng hiểu đáng cười hay đáng… mếu. Sách in ra bán hết, thị trường lại có nhu cầu, thế là người ta đưa cho một biên tập viên khác “xem qua” lại, làm thủ tục tái bản. Lại có vị chánh phó nhanh tay hơn, tự mình đóng vai biên tập dưới một bút danh nào đó, cho in lại chính cuốn sách ấy. Thế là công của người biên tập lần đầu bị coi như không có, nói ở khía cạnh lao động, là bị chiếm đoạt kết quả. Mà những chuyện nhập nhèm, lèm nhèm kiểu này lại rất phổ biến, nếu ta tìm hiểu sâu lịch sử và tiền sử của các xuất bản phẩm. Ở phương diện này, vấn đề trị giá thành tiền của lao động thì ít thôi, nhưng cái chính đáng nói là đóng góp về tinh thần của người biên tập qua các chặng đường của một bản thảo. Và nếu sự việc liên quan đến một tác phẩm quan trọng, thì công việc trên còn gắn với tiến trình phát sinh dị bản của một văn bản tác phẩm-điều mà các nhà nghiên cứu về sau sẽ phải bỏ nhiều công sức lục lọi, đối chiếu, bởi chỉ những ai thật ngây thơ mới tưởng rằng một tác phẩm bất kỳ, qua nhiều lần in, lại cứ vẫn nguyên vẹn đến từng dấu phẩy như lần in đầu! Cố nhiên, giới biên tập sách ngày nay không chỉ đáng cảm thông, mà còn có nhiều phương diện đáng trách. Chất lượng ấn phẩm, chất lượng văn hóa của rất nhiều sách xuất bản ào ạt gần đây còn ở dưới mức trung bình. Trong khi tệ viết kém, viết ẩu, biên soạn tùy tiện, đánh cắp văn, đánh cắp và biến báo tư liệu v.v… đang có cơ lan tràn trong giới viết sách, soạn sách, thì ở giới biên tập sách lại có ngày càng ít những người đủ hiểu biết để ngăn chặn và chỉnh đốn; tệ hơn thế, không ít người biên tập, vô tình hoặc cố ý trở thành kẻ a dua, tạo cơ hội cho những thứ kém cỏi được phép phổ biến vào công chúng. Ở phía quản lý, người ta chỉ xem là nặng những thứ lỗi còn có thể tranh luận, nhưng lại xem thường những thứ lỗi rành rành không thể tranh cãi; chữ dùng sai, câu sai, chính tả sai v.v… Biên tập tuy là một nghề, nhưng có vẻ ai làm cũng được. Lập một NXB, người ta chỉ tính đến người đứng đầu, không tính đến thành phần và chất lượng của “co” biên tập. Mà người đứng đầu, có thể từ ngoài nhảy đại vào xuất bản, bắt đầu với “độ không” của thâm niên. Trong tình cảnh thu nhập thấp, chuyện “học nghề” đối với các lính mới trở thành chuyện không tưởng. Một vài biên tập viên luống tuổi còn “mắc cạn” ở nghề này có lúc nhìn không thấy đám “kế cận” đâu, buồn buồn mà bảo nhau: không khéo sau bọn ta sẽ là thời hồng thủy, chẳng ai vào nghề này nữa đâu! Thế nhưng vẫn có nhiều người lạc quan, nghĩ đến một tương lai xuất bản kiểu mới: các tác giả sẽ đưa bản thảo đến NXB bằng đĩa mềm hoặc qua mạng vi tính, người ta sẽ làm biên tập trên máy, dập xóa, chữa chạy văn bản trên phím bấm… Quả thực, nếu người biên tập dùng được máy vi tính thì thật tốt, nhưng sẽ chỉ giống như mọi thợ đánh máy chữ thời xưa nếu còn chưa biết kỹ nhiều thứ, ít nhất là về câu chữ tiếng Việt, chưa biết đằng sau mỗi chữ dùng có những tầng bậc hàm nghĩa nào, những hàm lượng văn hóa ra sao. Mà chừng ấy vẫn còn chưa phải là tất cả những gì cần có để làm nghề biên tập sách. 12.5.1998 LẠI NGUYÊN ÂN ĐỖ THIÊN THƯ st.
Phụ Bản II TÁM HÓM Vợ Tám Hóm chết một cánh oan uổng mà lão vẫn bình an vô sự. Ai cũng biết chuyện nhưng chẳng ai muốn dây vào lão, một thằng cha phát xít không thể tưởng tượng được. Đó! Bả chết chỉ vì cái gương soi bé bằng cái lòng bàn tay! Hôm đó, bà la ơi ới: - Ông Tám ơi! Tự nhiên cái cầu tiêu bị nghẹt rồi! Giọng bả run run mỗi khi cầu cứu lão. Mà y như rằng, chưa gì lão đã om sòm: - Nghẹt là nghẹt làm sao? Bà vợ lão chỉ biết gãi gãi cái đầu, vì ăn nói loạng quạng là coi chừng năm ngón tay của lão sẽ in năm vết đỏ ối trên khuôn mặt chứ chẳng chơi! Lão vô toilet, vừa loay hoay vừa chửi như cái máy hát cà lăm. Lão thoọc tới thoọc lui mà ba hồi thì nước chảy, ba hồi ứ lại khiến mồ hôi mồ kê ngày càng đầm đìa trên khuôn mặt đỏ ngầu cuồng nộ. Rồi lão phải kêu thợ tới. Sau một hồi đục đục phá phá rồi lôi cái bồn cầu ra, gã thợ gắp ra cái gương soi màu hồng của vợ lão, không hiểu sao lại chui vào chặn đường nước chảy. Thích thì nó nằm ngang để nước chảy qua trót lọt, không thích thì nó dựng đứng lên, thế là mọi sự đành việt vị. Lão chẳng cần biết lý do cái gương của vợ lão lại nằm chỗ cắc cớ như vậy! Lão chỉ biết rõ rành rành là vợ lão phải chịu trách nhiệm về việc tày trời này, vì cái gương đó là của bả mà! Con người vũ phu ấy ngoài cách đánh vợ đến gãy cả chân phải bó bột ra, thì còn thêm cái miệng quang quác như thùng thiếc rủa sả không tiếc lời. Bả cũng chẳng còn được nghỉ ngơi nữa kìa. Để một hôm, cả nhà đi vắng, bả lúi húi phơi chậu quần áo ở sân sau có một mình. Rồi chẳng ai thấy bả nữa. Khi phát giác ra thì bả chỉ còn là cái xác không hồn nằm dưới giếng với chiếc nạng nằm vắt trên lưng. Dĩ nhiên Tám Hóm đâu có trực tiếp giết vợ, nhưng lão phát xít ấy đã khiến sự việc xảy ra như vậy mà chẳng hề rơi lấy một giọt nước mắt, trừ tiếng “chậc” phát ra từ cổ họng: - Phiền ghê! Lại tốn tiền! Dù gì thì từ nay, lão khỏi còn phải nghe lời than vãn của mụ vợ lắm lời. Mà lão chỉ yêu cầu để yên cho lão nhâm nhi từ sáng tới chiều chớ có gì đâu mà khó? Lão còn dặn là trừ khi cháy nhà thì kêu, còn thì tự mà giải quyết lấy mọi việc. Làm sao mà không “làm phiền” lão được cơ chứ, khi thì đóng tiền học cho thằng Tủn, khi mua cái nọ, trả tiền cái kia, kể cả mấy thùng bia của lão đã uống xong mà chưa trả tiền để người ta cứ réo đòi ngoài cửa… Mà chính lão mới là người cầm tiền trong cái nhà này. Thế không kêu lão thì kêu… con chó à? Có lần vợ lão lỡ miệng nói như vậy. Thế là lão nổi xung cầm chổi đập. Né tới né lui, cái chổi vạng trúng miệng vợ lão khiến trận đó bả mất mấy cái răng cửa mà khỏi cần sửa làm gì vì lão lườm lườm: - Cần mẹ gì mà răng với cỏ! Hết tiền rồi… Vợ với chẳng con! Rõ là cái đám ăn hại! Có tí tiền lận lưng thì nay tiền điện, mai tiền nước, rồi lấy gì mà nhậu nhẹt đây! Lão cứ lải nhải như vậy với bất cứ ai lão gặp. Chỉ trừ mấy người đẹp mà lão có lưu tâm, thì lão lại nhơn nhơn cái mặt ra vẻ ta đây giàu có rồi tán tỉnh nọ kia. Nhưng chẳng bà chẳng cô nào có cảm tình nổi với lão. Nội cái tên Hóm của lão cũng khiến quý bà bịt mắt chạy từ xa. Chưa kể “lịch sử” về cái chết của vợ lão cũng đủ khiến người ta rùng mình. Kể ra lão cũng khá. Cái nghề cho vay lấy lãi đem lại cho lão cuộc sống khá nhàn hạ, trừ khi lão phải trợn con mắt, cung đôi tay để hù dọa thiên hạ lúc xiết nợ thì lão phải vận sức đôi chút. Hay khi ra rả cái mồm để dụ người ta vô tròng nợ nần của lão thì lão phải nén lòng hết sức để lời nói của lão cũng có chút ngọt ngào. Còn thật ra, lão sướng bỏ mẹ! Không sướng sao được, khi tiền bạc lão giữ hết. Con lão chẳng hó hé được gì trừ mấy bữa cơm mà đồ ăn cứ nhai đi nhai lại hết trứng tới rau luộc, còn lão thì tha hồ mà nhậu nhẹt, chơi bời. Có bữa, lão kêu người tới sửa cái mái bếp. Loay hoay làm sao mà mất cái đồng hồ lão mới mua. Lão chửi bới ông thợ om sòm. Ông này đỏ mặt tía tai phân bua: - Tui có biết cái đồng hồ của ông ra sao mà ông nẹt tui! Đây này, tui cởi quần cho ông khám luôn cho chắc ăn. Nếu không có, ông mất gì với tui? Rồi ông ta tính… tuột thiệt, khiến Tám Hóm xua xua tay: - Thôi bỏ đi! Bữa đó, ông thợ tính tiền hơi quá tay vì bực tức, lại còn vừa làm vừa phá khiến Tám Hóm tức điên người. Rồi có ai đó nói năng linh tinh gì đó với lão, mà tối hôm sau, lão hoạnh họe mấy đứa con: - Sinh! Tao nghe nói mày mới bán cái đồng hồ nào đó cho thằng Mập phải không? - Làm gì có, bố già! (Sướng chưa, nó nói với cha nó cứ y như là nói với con chó xồm vậy!) - Sao thằng Long nói? - Ơ! Làm gì có vụ đó! Không tin bố hỏi thằng Sự coi! - Hm! Anh em nhà mày tử tế quá phải không? Bộ tao tin lời thằng Sự chắc! - Mai bố ra hỏi lại thằng Long coi! Chắc nó lộn với ai rồi… Thật ra, thì chính nó chôm chứ còn ai nữa. Nhưng nó không ăn một mình, nó chia cho thằng em nó chút chút để có bề gì, thằng này còn làm chứng gian cho nó. Còn cái thằng Long khốn kiếp nữa! Chỉ vì nó biết đồng hồ ăn cắp nên trả giá bèo, làm sao nó bán. Đến khi nó bán cho thằng Mập thì nó lại méc lão già. Thế có tức không cơ chứ! Vậy là tối hôm đó, một cục đá xanh bay ngay vô cái tủ đồng hồ của thằng Long. Thằng này còn đang ú ớ thì đã thấy thằng Sinh ghé vô. Nhìn cái mặt nó cứ như là ác quỷ! Đã vậy, tay nó còn ngầm chĩa cái dao nhọn hoắt: - Ông liệu cái mồm nhé, kẻo dọn đi chỗ khác mà làm. Rồi nó leo lên yên sau xe. Thằng Sự cầm lái! Dĩ nhiên là thằng Long phải thề bán sống bán chết với Tám Hóm là nó nhìn lộn. Lão tức lắm! Vì nhìn cái tủ bể toang là lão biết thủ phạm còn là ai ngoài mấy thằng con trời đánh của lão. Lão lẩm bẩm: - Cha nào con nấy… Những chuyện như vậy ngày càng nhiều trong nhà lão. Cái đầu tanh tưởi của lão bế tắc vì chẳng có phương án nào có thể đối phó với đám đệ tử mà xem ra còn thiện nghệ hơn lão nữa. Lão cứ việc rút ruột người khác để có cái cho con lão rút ruột lại của lão. Thôi thì kệ thây chứ biết làm sao. Cứ ăn chơi cho nó “đã” cái cuộc đời ọp ẹp này. Lo gì! Những thứ khốn khó đã có mấy cái nhà nghèo hằng hà sa số gánh cho lão, cho cha con lão rồi! Lão chợt mỉm cười vì ý nghĩ rất “cách mạng” ấy vừa lóe lên trong trí lão. Thế là cả nhà được chơi bời thả ga rồi, còn mong gì nữa… Một hôm, thằng Sinh ở đâu lò dò về tới nhà. Chẳng qua là nó bị lỡ hẹn cuộc đi chơi xa nên phải về giữa chừng. Nó trợn tròn con mắt thấy thằng cha nó đang “ấp” con Thu - bạn gái nó - trên sa lông. Máu nóng bốc lên đầu. Mắt đổ hào quang. Tay nó run run vơ cái chân đèn bằng đồng to tướng nện lấy nện để vào đầu cha nó… Bầy hầy! Cha nó vô nhà xác. Nó ra tòa. Nhìn xuống phía ghế người đi coi xử án, nó thấy thằng Sự tí tởn với con nhỏ nào, làm như chuyện thằng anh có nguy cơ tù chung thân là chuyện chẳng đáng quan tâm, tới coi chút cho biết mà thôi. Nó lùng nhùng cái lỗ tai khi quan tòa hỏi cái gì đó. Nó nổi quạu y như lúc cha nó nổi quạu với mẹ nó trong cái vụ chiếc gương soi trong bồn cầu. Đột nhiên nó thét lớn: - Mẹ! Hỏi gì mà hỏi hoài? Cà chớn thì chết là phải quá rồi mà còn hỏi! Dưới kia, thằng Sự nhảy cẫng lên, hai tay nó vỗ bôm bốp. Rồi nó tỉnh bơ hôn đánh chụt vào má con bạn gái màu mè của nó… LAM TRẦN 27.07.2015
CÔNG VIÊN HÒA BÌNH Ở HIROSHIMA Ngày 6.8.1945 lúc 8giờ14phút, Mỹ đã ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hiroshima của Nhật Bản. Hơn 240 ngàn người dân vô tội ở đây bị chết. Sau đó ba ngày, tức ngày 9.8.1945, Mỹ lại ném bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki. 73 ngàn người đã chết ngay tại đó. Và chỉ ít ngày sau, 35 ngàn người nữa chết sau những cơn đau đớn kéo dài. Từ đó đến nay, biết bao người khác đã chết dần chết mòn vì nhiễm xạ. Các họa sĩ Iri và Toshiko Maruki, những người còn sống sót sau tấm thảm kịch Hiroshima và là những người được nhận giải thưởng quốc tế hòa bình, miêu tả lại tội ác đó như sau: “Luồng sáng xanh chói mắt hiện lên, một tiếng nổ, chẳng còn biết gì nữa, rồi cơn gió nóng ào tới và trong giây lát, mọi thứ chung quanh đều cháy bùng bùng… Mọi người bị những mảng nhà sụp xuống đè chết, những người hồi tỉnh lại định tìm cách thoát ra khỏi nơi nguy hiểm, nhưng cũng không thoát khỏi cái chết trong vành đai lửa… Tiếng kêu la đau đớn vang dội khắp không gian…” Hơn năm thập kỷ qua, nhiều người trong giới cầm quyền ở Mỹ vẫn ra sức biện bạch rằng, sở dĩ nước Mỹ cho ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản là để sớm chấm dứt chiến tranh, rằng hai quả bom đó đã làm bọn phát xít quân phiệt phải đầu hàng. Thế nhưng, chính cố vấn quân sự chính của Tổng thống Mỹ lúc đó là Đô đốc William Leghi và nhà sử học Anh John Echman về sau đã nhận xét rằng: “Việc sử dụng vũ khí man rợ này ở Hiroshima và Nagasaki không giúp gì đáng kể cho cuộc chiến tranh chống Nhật bởi vì sau khi ném bom nguyên tử, quân đội Nhật Bản vẫn tiếp tục chống cự ác liệt”. Thủ tướng Anh Churchill cũng buộc phải nhận rằng “sẽ sai lầm nếu cho rằng số phận của Nhật Bản được định đoạt bằng bom nguyên tử”. Lịch sử cũng đã ghi nhận rằng sau khi Mỹ đã ném xuống quần đảo này hai quả bom nguyên tử, công hàm của chính phủ Nhật Bản gửi chính phủ Mỹ ngày 10.8.1945 cũng đã bác bỏ yêu cầu đầu hàng không điều kiện… Việc đầu hàng chỉ xảy ra sau khi quân đội Liên Xô đã ào ạt tiến công và tiêu diệt hàng loạt cứ điểm quan trọng nhất của quân đội Nhật Bản, tiêu diệt tập đoàn quân Quan Đông, “quả đấm sắt” của quân đội Nhật Bản ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, giải phóng một vùng rộng lớn từ Đông Bắc Trung Quốc đến Bắc Triều Tiên, Nam Sakhalin, và quần đảo Kurin. Điều đó đã được chính Thủ tướng Nhật Bản lúc đó là Đô đốc Suzuki thừa nhận: “Việc Liên Xô tham chiến” đã đặt chúng ta vào tình trạng không lối thoát, do đó, không thể nào tiếp tục chiến tranh nữa”. Việc Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản tàn sát một lúc hàng trăm ngàn người nhằm mục đích: đe đọa nhân dân thế giới về “sức mạnh nguyên tử” của Mỹ, mở đầu thời kỳ chạy đua vũ trang vũ khí nguyên tử của Mỹ và các nước đế quốc, đe dọa cuộc sống của nhân loại trên hành tinh. Để rồi giờ đây họ lại “lên án” các nước chế tạo vũ khí hạt nhân. Giờ đây có ít người được biết chiếc máy bay B.29 mang tên “Enola Gay” của Mỹ đang được sửa chữa bảo tồn trong một khu nhà phụ của trung tâm nghiên cứu Smithronian ở ngoại ô thủ đô Washington (Mỹ). Theo quyết định thì chiếc Enola Gay sẽ được coi như một mặt hàng trưng bày triển lãm cùng với tàu Con thoi, v.v… trong một Viện bảo tàng dự định sẽ được xây dựng ở sân bay quốc tế Dallas. Viên phi công Mỹ K.Bilan kẻ thả bom nguyên tử xuống thành phố Nhật Nagasaki đã qua đời gần thành phố Houston (bang Texas) thọ 70 tuổi. Vào năm 1985, khi tròn 40 năm ngày diễn ra thảm họa Hiroshima và Nagasaki, Bilan tuyên bố rằng y không có ý định xin lỗi về những hành động của mình. Theo lời Bilan, y đã từng đồng ý với lập luận rằng: “Ném bom nguyên tử là cách tốt nhất chấm dứt cuộc chiến tranh khủng khiếp”. Tuy thế, Bilan vẫn nhiều lần nhắc lại rằng y rất muốn trở thành người cuối cùng sử dụng vũ khí hạt nhân chống loài người. Tại thành phố Hiroshima, người ta xây dựng tượng đài Hòa Bình để kỷ niệm nạn nhân bom nguyên tử. Hàng năm ngày 9.8, tổ chức lễ kỷ niệm dâng hương, thắp nến, hoa, đặc biệt tưới nước lên những tấm bia của nạn nhân, thả chim bồ câu… BÙI ĐẸP
Tản văn của MAI VĂN TẠO MƯA Hồi nhỏ, tôi rất ngại mưa, mà cũng rất thích mưa. Mưa ngồi trong nhà nhìn ra bầu trời xám xịt, hạt mưa lác đác, lê thê buồn lắm. Nhưng mưa lớn bổ ra đường tắm mưa, rượt đuổi nhau trong màn mưa xối xả, chân chạy tóe trong nước xâm xấp mắt cá, chốc chốc đá nước tung lên. Khoái lắm. Mưa vui. Nhưng, gặp lúc mưa nhiều thì lũ lớn, nước dâng nhanh, làng quê mau bị lụt. Tuổi thơ tôi đã qua biết bao mùa lũ lụt. Tôi đã nhìn biết bao ngày tháng nước ngập đến mái nhà. Mẹ tôi phải trổ cánh én sát nóc tạo lỗ trống chui ra vào. Lắm đêm đang ngủ say, thình lình mẹ nắm chân vực dậy, mẹ con lụi hụi kê sàn lên. Nước đã liếm tới lưng rồi. Sợ nhất những đêm mưa dầm, nhà dột. Mái lợp là dừa nước, qua hai mùa nắng, trời khô hanh ngó lên lỗ chỗ như sao đêm trên trời. Đêm mưa dầm nhà nghèo não lắm. Nghe tiếng lộp độp, rơi trên mái lá, cả nhà lật đật bật dậy, cuốn vội mùng chiếu, mỗi người một góc, ủ rũ né mưa. Ngủ gà ngủ gục. Người làng quê xưa than thở chuyện không may dồn dập đến với mình, giọng nói xót xa: “Nhà dột gặp mưa đêm”. Cái lạnh buồn rã rượi bóp thắt lòng người trong đêm dài mưa gió, đến nay vẫn chưa buông những xóm nghèo heo hắt đồng xa. Cảnh: “nhà dột gặp mưa đêm” còn thấy trong những xóm vắng xa xôi trong ruột Tứ giác Long Xuyên, trong rốn Đồng Tháp Mười vắng lặng. Những năm đánh Pháp, đánh Mỹ trên đất Tháp Mười, U Minh, một mình một xuồng chèo giữa lòng kênh thăm thẳm, mặc mưa rơi, gió lạnh. Cuộn áo quần gọn ghẽ trong tấm lá sen, nón lá đậy lên, mình trần quần cụt, xô đẩy mái chèo. Chèo miết cho kịp cuộc họp làng bên kia. Qua những chiếc cầu sơ sài bằng tre hay miếng gỗ kề bến nước, thấy người phụ nữ tắm cho con, qua những ngôi nhà bé nhỏ một gian, vợ chồng con cái quây quần bên mâm cơm chiều muộn, giây phút chạnh lòng. Thèm mái ấm gia đình, bâng khuâng ước ao buổi chiều đoàn tụ vợ con. Nghĩ thương bè bạn cảnh ngộ như mình. Những chiều mưa Trường Sơn sao mà hùng tráng lạ. Suốt đêm lênh đênh trên dòng Nhật Lệ mù mịt sương khuya. Sáng ra lên bến Kiên Giang. Ăn sáng với cơm nắm từ chiều qua. Nghỉ ngơi nửa tiếng, lại khoác ba-lô về hướng làng Ho. Nắng chiều vàng sáng dưới những thung lũng xa, lô nhô những xóm nhà, tưởng như mái úp vào mặt đất. Đoàn quân trên triền núi cheo leo. Chợt đổ mưa. Mưa lâm thâm xám núi, xóm làng phía dưới nhà cửa lờ mờ trong bụi nước. Tự dưng tiếng hát cả đoàn quân cất lên “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát… Trên đỉnh Trường Sơn ta hát bài ca, gởi tới quê nhà”. Hát cho đỡ lạnh, hát để tự giục mình đi miết trong mưa. Đêm mưa Trường Sơn lại có nét đẹp huyền ảo núi rừng. Trời không mưa, đêm Trường Sơn xôn xao trên lối cỏ lối lá khô. Trong khu vực đóng quân không ngớt người đi. Người này đến trò chuyện với người kia. Khắp núi rừng lao xao ánh lửa, ánh đèn lọ thủy tinh và ánh đèn pin chốc chốc sáng gốc cây rừng. Gợi lên hình ảnh chiến trường xưa gươm giáo trong quá khứ xa xăm. Một cơn mưa chợt đến, rừng tắt tiếng người, tiếng bước chân trên lá. Ai về lều nấy. Mỗi người một võng tòn ten trong lều bạt. Mưa rơi lộp độp trên mái lều. Mỗi người một nẻo tâm tư. Trăng lên từ lúc nào không ai biết. Đến khi lá rừng lấp lánh mới biết trăng đến thăm rừng. Huy Cận lặng lẽ đến không hình không bóng, chỉ nghe tiếng thơ anh: “Đêm mưa làm nhớ không gian/ Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la”. Đêm đã lạnh, mưa lác đác trong trăng rừng núi. Huy Cận vẫn chưa đi. Thơ anh cứ thầm thỉ bên tai: “Mưa giăng buồn sợi xuống lơi lơi/ Lạnh của không gian thấm xuống người”. Cái lạnh se se dễ chịu, sợi mưa lơi lơi. Giọt trăng mờ sáng kẽ lá cây rừng, vừa yếu ớt vừa dịu dàng. Cái đẹp trăng rừng, mưa sợi đưa ta vào giấc êm đềm. Cũng có lẽ vì quá mệt nhọc. Suốt cả ngày hành quân đi bộ, có lúc đi xe. Mà đi bộ hay đi xe mệt nhọc có kém chi nhau. Lắm khi ngồi xe xốc quá chịu không xiết, bảo lái xe cho xuống, lội bộ cho khỏe người. Thuở thiếu thời, mưa thu làng quê tôi dữ dội quá. Những cơn giông xé toạc cành xoài to hơn bắp chuối. Những tảng mây đen nặng nề cuồn cuộn, những cơn mưa xối xả, những tia chớp lăn quăn và những tiếng sét như trái đất vỡ tung. Tôi chưa cảm nhận được cái đẹp trời mưa. Bởi mưa nhiều, mưa to dồn dập dẫn đến lũ tràn, lụt ngập cả làng quê. Không lê thê như mưa dầm trong mắt hành nhân Nguyễn Bính: “Trời mưa xứ Huế sao buồn thế? Ròng rã ngày đêm…”. Tình cờ gặp mưa trong tiểu thuyết trinh thám Đoan Hùng - Lệ Hằng: “Mưa. Giọt buồn reo lệ giữa màn mưa”. Tôi bớt sợ mưa, bớt ngán ngẩm những cơn mưa. Ra đời tha hương kiếm sống miền Tây bắc Campuchia, tôi gặp những mưa chiều Kampốt trắng rừng thốt nốt, trắng núi Ta Lơn (Bôco). Nỗi buồn thê thiết dâng lên ngập cả tâm hồn. Lắm khi mưa suốt buổi chiều đến tối. Chiều này sang chiều khác. Mưa chiều ảm đạm, thê lương. Tôi quá ngán mưa mùa Tây Bắc. Vậy mà cuộc đời đã nhốt tôi trong cái túi mưa Kampốt suốt bốn mùa mưa rầu rĩ. Sau chính biến 9.3.1945, quân Nhật đảo chính Pháp, tôi hối hả về quê núi Sam - Vĩnh Tế. Ngôi làng núi quê nghèo, đổ xuống những cơn mưa đầu mùa đẹp lạ. Tôi say đắm nhìn mưa đồng, mưa núi trong tâm trạng hân hoan. Cách mạng đến với tôi và tôi cùng đi với Cách mạng trong màn mưa tháng năm “nước dậy”, trong tháng sáu mưa dầm, tháng bảy mưa Ngâu. Ngày về lại cố hương, mưa quê rót vào lòng kẻ tha phương quay đầu lại từng giọt ngọt ngào. Mưa sớm, mưa trưa, mưa chiều, mưa khuya ở cái làng núi nhỏ đìu hiu này khiến lòng tôi xao xuyến, nao nao. Một câu hát dân dã, từ trong nẻo đời xa thẳm cứ day dưa trong thế giới nội tâm: “Ra đi là sự đánh liều, mưa mai đâu biết nắng chiều nào hay”. Từ đó tôi yêu tha thiết cụm từ “mưa sớm nắng chiều, mưa chiều sớm tạnh, gió sớm mưa khuya”… Người quê tôi xưa đã thấy được qui luật thiên nhiên, giàu tưởng tượng sáng tạo ra câu châm ngôn để lại muôn đời. Thì ra cái màn mưa buồn bã tôi đã trông thấy ở cánh rừng thốt nốt quê người, dấy lên từ nỗi nhớ mẹ, xa quê. Dần dần tôi mới nhận ra cái đẹp bình dị làng quê. Trong mưa mặt nước các dòng sông lấm tấm bóng nước trong ngần, vườn cây xào xạc lá reo. Sau cơn mưa cây núi xanh um, tươi tỉnh, cỏ đồng mướt mượt, bến sông sáng lên màu sáng đục tận chân trời xa. Rồi tôi gặp Pautovsky, tài năng lớn của văn học Xô viết với “Bông hồng vàng”, “Bình minh mưa”, “Một mình với mùa thu” và những trang viết về mưa đằm thắm, trữ tình, nhẹ nhàng, thanh thoát: “Mưa rào trút xuống. Người phụ trách toa hấp tấp hạ hết cửa xuống. Những sợi mưa xiên xiên chảy thành dòng trên mặt kính. Ánh sáng mất hẳn, chỉ ở đàng xa, xa lắm, mãi tận chân trời, qua bụi mưa là một dải rừng mạ vàng cuối cùng cháy sáng…”. Trang sách chỉ ra cho tôi vẻ đẹp của mưa. Mưa to không làm tôi sợ, mưa lất phất không gợi nỗi buồn. Hễ trời đổ mưa tôi mở cửa, ngồi ngắm mưa rơi. Tôi thích ngắm mưa từ ấy. Phải mất nhiều năm, sau khi đọc Pautovsky thiên tài, tôi mới nhận ra cái đẹp của mưa. Nhưng cái gì cũng có mặt trái của nó. Bông hồng rực rỡ mê hoặc cả loài người, tệ thay gai hồng rất sắc, chơm chởm khắp cành, đụng nhẹ một cái cũng đã rỉ máu ra rồi. Tấm huân chương vàng lấp lánh trên ngực người anh hùng, hấp dẫn và trang trọng. Nhưng phía sau cái ngôi sao sáng rỡ ấy nham nhở, sần sùi. Cũng như nước là cội nguồn sự sống. Nơi nào có nước, ở đó cuộc sống sinh sôi, nảy nở. Những cơn mưa đầu mùa, cây cối xanh tươi, ruộng đất mỡ màng. Nghe nói trong nước mưa có đạm. Vài cơn mưa nữa ruộng vườn tốt tươi thêm lên. Mưa dồn dập, xối xả nhiều ngày ngày, sợ nhất mưa nguồn, chớp biển, nước tràn, nước đổ, nước dâng cao, ngập lụt. Gây tai họa cho người. Những năm gần đây tôi thật sự e ngại những cơn mưa dai, mưa, ào ạt. Tôi vẫn nhìn, vẫn ngắm, ngẫm nghĩ về mưa những lúc mưa sa. Nhưng giờ đây, mưa mùa đè nặng lên cảm xúc lo âu. Trận bão tố số 5, trận lũ lụt miền Trung để lại trong lòng tôi ấn tượng hãi hùng, thương cảm không nguôi. Những bức ảnh báo chí, những thước phim tuyền hình hiện lên những hình ảnh xé lòng. Trên những bãi biển miền Tây khăn tang trắng lốp trong màn mưa xám ngầu rã rượi. Tiếng kêu người thân thống thiết và nước mắt lã chã hòa lẫn nước mưa. Còn miền Trung, mưa giông, bão tố, “đường phố hóa dòng sông”, “xóm làng chìm sâu trong nước”, “đá và bùn tàn phá nhà cửa vùi dập con người. Con người giãy giụa đắm chìm trong mưa dầm nước lũ, sóng nước giông gió xô cuốn ra tận cửa sông xa…” Cho đến bây giờ, tâm tư tôi vẫn chưa tan giông bão miền Tây năm ấy, cơn “hồng thủy” miền Trung còn đang vần vũ trong nội tâm tôi. Bây giờ mỗi khi thấy những mảng mây trắng xốp như bông khuất dần sau những cụm mây đen nặng nề xê dịch, chiếm đoạt hơn nửa bầu trời. Thỉnh thoảng luồng gió lạnh thoáng qua. Những ánh chớp giằng ngang co giật. Ánh sáng trong phòng mòn mỏi, âm u. Tôi chợt rùng mình buồn và lo mưa to gió lớn. Tai ương sẽ đến nơi nào đây. Rồi cơn giông vụt đến, cây vườn, cây nhà vật vã, quằn quại. Thấy mà thương. Rồi những tảng mây một màu đá đen đáng sợ cuồn cuộn trôi nhanh trên nền xám lạnh nhờ nhờ sà xuống thấp. Chân trời vàng rực, những tia chớp lóe, những vết rạn nứt ngoằn nghèo. Những tiếng sét nổ vang dữ dằn đâu đó, những tiếng nổ rền xa. Bầu trời ảm đạm. Tôi bắt đầu sợ hãi. Cơn mưa dữ dội sẽ hấp tấp đổ xuống trong phút giây. Trong cõi đời biết bao mưa đẹp, mưa vui, mưa đem đến cho con người niềm hân hoan, lợi lộc. Cũng không ít mưa thảm mưa buồn. Người ven biển Cà Mau Rạch Giá… mong đợi mưa rơi khi mùa khô gần cạn. Nhà nào cũng có vài máng xối hứng mưa, chứa vào mái vú, mái đầm. Nghèo thì dùng lu, khạp, bể chứa nilông… trữ nước mưa dùng suốt cả năm. Nông dân Nam bộ cuối xuân đã chờ mưa xuống xới ruộng cày bừa. Mưa xuân miền Bắc nước ta đẹp lắm. Mạ xanh non, trời trắng bụi mưa phùn. Mưa lâm râm, khí đêm man mác qua phòng lứa đôi mùa cưới. Chợ hoa Hà Nội lấm tấm mưa phùn, cúc vàng thêm, đào thắm lạ lùng. Mưa Tây Hồ - Hàng Châu - Trung Quốc đẹp đến ngỡ ngàng. Sợi mưa thu nhẹ nhàng rơi dài trên hàng liễu làm cho liễu biếc hơn, dịu dàng hơn liễu buông trong nắng. Trong cuộc sống vạn vật và con người vừa là niềm vui, vừa là tai họa, chỉ có thơ nhạc mới gìn giữ được cái đẹp vĩnh cửu của mưa. Mưa trong thơ Huy Cận: “Rơi rơi… dìu dịu rơi rơi Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ…” Đặng Thế Phong đã ra đi non nửa thế kỷ, tiếng nhạc “Giọt mưa thu” của anh vẫn da diết đến bây giờ: “Ngoài hiên giọt mưa thu Thánh thót rơi Trời lắng u buồn Mây hắt hiu ngừng trôi…” Mưa nẻo rừng xa, mưa tràn bãi cát, mưa lạnh trong vườn, mưa rơi trên phố (Il pleut sur la route - thơ Pháp) là lẽ thường. Mưa rơi trước mái hiên chùa mang theo điều gì u ẩn chốn thiền môn: “Chiều nay gió tạt mây về núi Mưa nhẹ rơi rơi giọt nửa chừng” Y Sa Mùa mưa, tháng 6.2000 MAI THỊ THỦY HOA st.
LỄ VU LAN NHỚ MẸ Kính mừng tuổi Mẹ sống dư trăm Tiếng tốt, danh thơm, tỏa khói trầm Đâu quản nuôi con vui với tháng Cũng đành giữ cháu thích cùng năm Nắng mưa lặn lội, ghi ân nặng Mưa gió tảo tần, nhớ nghĩa thâm Đem cả cuộc đời nuôi nấng trẻ Giờ đây phúc lộc đắc minh tâm... * Ân Mẹ thâm sâu, tợ suối nguồn Chắt chiu nuôi trẻ đặng tròn vuông Hoài thai chín tháng cưu mang nặng Nhũ bộ ba năm mệt mỏi cuồng Lo lắng con thơ khi gió lộng Chở che bé dại lúc mưa tuôn Thân cò đâu quản chi cay đắng Ân nghĩa Mẹ hiền kể vạn muôn Thanh Châu THĂM VIẾNG MỘ CHA Nhìn xem cảnh vật ngại ngùng Quạnh hiu cánh bướm, lạnh lùng cỏ cây Trời chiều, gió thoảng, mây bay Cuộc đời dâu bể, tháng ngày trôi qua Nhớ thương về viếng mộ cha Buồn tàn hương khói, chan hòa nắng mưa Làm con chữ hiếu chưa vừa Tủi thân con trẻ, sớm trưa chưa tròn Bây giờ cha đã về non Nhớ lời cha dạy sắc son ngày nào Giữ mình cho đặng thanh cao Tấm lòng nhân nghĩa chuốt trau giữ gìn Hiểu rằng chữ lễ đinh ninh Làm người đức hạnh phân minh phẩm nhà Tình cha vộ lượng bao la Độ con khắp chốn sơn hà ngược xuôi Ngồi bên mộ luống ngậm ngùi Hương thơm ba nén, rượu mùi ba ly Kính dâng thân phụ từ bi Cúng dường hiếu thảo, khắc ghi lời vàng Nguyện cầu cha được bình an Phiêu diêu cõi Phật, thanh nhàn cảnh Tiên... Thanh Châu GỌI CHA GỌI MẸ Nghe thảng thốt tiếng gọi Cha gọi Mẹ Giữa xa cao hư ảo ánh trăng ngàn Gió se mùa da diết khúc ly tan Chiều mái cũ hiên nhà hoe nắng Thuở vào ra lời vui câu mắng Phút ân cần con chấy cái nơ Vẫn u hoài bàng bạc cơn mơ Và ánh mắt trầm tư ngọn khói Đã vắng xa dấu trần bước mỏi Mẹ Cha miền sương trắng phơ phơ Văng vẳng lối… rưng mờ ký ức Dại tê lòng… thao thức… hồ như… Xưa cũng tiếng gọi Cha gọi Mẹ Có nào hay thăm thẳm bây giờ Thu bóng đời thoang thoảng huyền mơ Hồi chuông vọng hương trầm ngao ngát ĐÀM LAN Mưa Chiều Giọt mưa buồn, giọt nước mắt ai, Rơi rơi, nức nở, khóc tình phai, Mưa rơi thánh thót trên đường vắng, Bọt bèo bong bóng nước, đường dài Mưa rơi, rơi ướt, mưa bay bay, Tìm đâu vạt nắng hồng mê say, Chiều xuống mây buồn, se sắt lá, Vàng úa rời cành, tiếc nuối, xót xa. Mưa rơi thấm lạnh vai em gầy, Tím ngắt hoàng hôn, sầu gió lay, Lạnh lùng giọt-giọt-thương-thương-nhớ. Ngập ngừng hiu hắt bước chân ai Sao trời mưa mãi, khóc thương chi, Tình đời thôi thế, cũng đến khi, Một thời hoa mộng, xôn xao nắng, Thấp thoáng đắng cay, ngày chia ly. Gió hỡi ngừng đi, xin đừng bay, Đừng cùng mưa, giá buốt tình ai, Đừng khóc thương chi, buồn tê tái, Đâu đó sẽ còn Ánh-Nắng-Mai. Phạm Thị Minh Hưng CHIỀU TÀN Hẹn nàng đến, cả mươi lần trống vắng Mặc ngoài vườn hoa khoe sắc trông chờ Mặc trà thơm, mặc ánh nắng đung đưa Mặc chim hát những bài ca tình tứ. Hẹn nàng đến, trời gom mưa cất kỹ Chỉ còn trên lưng đá, nước lăng quăng Chỉ có mây đan trắng đá lát hồng Chờ đôi chân điệu đà, ôi sao nhớ! Hẹn nàng đến, dầu thơm ngầm trong áo Quyến rũ chăng? Không! Chỉ chút ít mà thôi Để may ra, trong ngọng nghịu câu chào Cũng có chút mênh mang… Sao không đến? * Hẹn vô chừng, để hoa rồi rơi rụng Rũ đầy sân những xác ẩm mưa chiều Để bài ca chim hót mãi đìu hiu Rồi ngủ gật khi mùi thơm thoảng tới Mặt trời xiên qua làn mây trắng mỏi Với cái nhìn khô khốc mảng nước reo Lưng đá chơ vơ, thâm thẫm buổi chiều Rồi lạnh ngắt lối đi nàng quên đến! * Ta tựa lưng gốc bàng già hổn hển Chú lòng tong quẫy nhẹ mất trên giòng Trong tay ta, một cành lá phân vân Cào trên đất những nhì nhằng trong óc Ta nhìn ra, gặp tia nhìn mải miết Của nàng thơ, giờ mới ngúng nguẩy chào… LAM TRẦN 17.08.2015 RONG CHƠI Ta thả lên bầu trời từ hửng sớm Chú diều khờ cho rám nắng hôm nay. Cho mây bay ngang, vươn cánh tay dài Làm thêm chiếc đuôi mong vầng dương bỡ ngỡ! * Ồ không, mặt trời ngủ quên và lũ mưa vội vã Phủ trên lưng một lớp nước từ trời Hơi chao đi, diều thêm vẻ lả lơi Rồi cười cợt trong công viên đầy những đôi tình nhân thủ thỉ… * Thỉnh thoảng thôi, diều vô duyên chúi mũi Xuống tận bàn cà phê nghe ngóng họ nói gì Mà mặt trời đỏ lưng, vẫn cứ mải mê Với câu chuyện chẳng ngày nào không lặp lại! * Sà xuống đàng kia, khói đàn vương vời vợi Len vào từng ánh mắt lũ chim xanh Len vào từng cặp mắt kính mênh mông Len vào từng khúc ca có từ xưa nào đó… * Tiếng cười trong như bước chân bỡ ngỡ Của cô bé ngồi chăm chú ngắm nàng sâu Mê mải đo cho hết cả cuộc đời Còn bố mẹ trẻ của cô, dường như đang ôn lại nụ hôn ngày mới bén… * Diều ngộp thở, buông dây, rồi nằm xuống Vương trên lưng là chút nắng ẩm mưa Có vết nâu nâu như giọt cà phê Quyện với bài du ca anh mắt kính hát cho đời lãng đãng Có con sâu đo chưa hết quãng đời phù phiếm Có cô bé thắt nơ má hây giữa nắng hồng Có nụ hôn, có nụ cười mùa xuân… * Tất cả như kể lại một ngày diều trải nghiệm. LAM TRẦN 16.08.2015 NHƯ HẠT SƯƠNG LONG LANH Đời thì dài mà cũng là thật ngắn Bởi những đợi chờ, vui chỉ tày gang Có trải qua bão bùng xót đắng Mới hiểu ngọt bùi trong từng giọt thời gian * Em vẫn là dòng sông xanh, xanh biếc Con sông ảo huyền nào ai biết nông sâu Sóng ở đáy sông cồn cào thao thiết Trở nặng phù sa đỏ lịm một màu * Là làn hương thơm rất nhẹ Em trao cho tôi – ngọn gió mùa đầu Thành heo may như khúc ru thật khẽ Giữa Sài Gòn có mùa thu đâu * Nào biết cảm ơn ai em nhỉ Cơ duyên nào từ cõi hư không Cho ta mỗi ngày một niềm vui nhỏ bé Như hạt sương long lanh trên cánh sen hồng Đêm 14.4.2012 LÊ NGUYÊN HƯƠNG CỐM Quý yêu từ sợi rơm vàng Tay ai gói buộc cả làn hương quê Nâng niu từng hạt đầu nia Xanh xanh màu ngọc đường về phố xưa Dẻo thơm tình ý em cho Dăm ngàn xa cách bỗng như lại gần Cảm ơn hương ngát cốm Vòng Thăng Long ngàn tuổi vẫn không nhạt nhòa Sài Gòn, 4 - 2006 LÊ NGUYÊN NHƯ KHÔNG Hoa vàng rụng trắng đầy sân U sầu nhặt cánh hoa tàn thương hoa Yêu hoa như thể thương ta Như không hề tiếc đời hoa ngậm ngùi Hương bay gió thoảng ai vui ? Thì ra con bướm đa tình lả lơi Hương hoa bướm đậu nhụy rơi I a a í à ơi rối bời Êm êm gió lượn ngàn khơi Như không hề tiếc hoa rơi lụi tàn HUỲNH THIÊN KIM BỘI LẠC GIỮA CÕI ĐỜI Ta bơi trong thế giới loài người Đầy quyến rũ, mơ hồ của ảo giác Lòng xao xuyến nỗi buồn vui man mác Cơn lũ đời đã cuốn đẩy đi xa Bởi dại khờ, mơ mộng Ta lang thang lạc lõng giữa cõi đời Tâm sáng trong luôn hy vọng ở con người Ai chỉ đường cũng vội vã tin thôi
Đường có không ? Họ cũng chưa qua Mà chỉ nghe người ta nói lại Ôi lợi hại… đâu là sự thật ? Chuyện xưa như trái đất Đã vất vả, cả thời gian cũng mất Mơ mơ, màng màng, năm tháng dần qua Người chỉ đường là người Hay là những hồn ma ?
Lẽ nào cứ đau khổ triền miên ? Lẽ nào chỉ có thể bình yên trong lòng đất ? Lẽ nào đã đi sai quy luật ? Hay ảo tưởng, còn đường không có thật ? Tôi rùng mình như rơi xuống hố sâu Lòng sợ lo không biết bám vào đâu Miệng la hét, mà người thì bất động Bật tung người… Tôi thoát cơn ác mộng
Trải qua bao thử thách ê chề Buộc lòng phải tay trắng trở về Khi tỉnh lại… Ngẫm ngày ấy đam mê Mới thấy mình ngô nghê đến thế LÊ MINH CHỬ QUY LUẬT Người cao tuổi như cỗ xe đã cũ Đi lâu rồi hỏng hóc sẽ sinh ra Từng một thời tuổi trẻ xông pha Bao vất vả cũng đến hồi suy yếu Có nỗi niềm chỉ “cánh già” mới hiểu Lúc giao mùa chuyển điệu nhức toàn thân Cội già còn luyến tiếc sức xuân Thịnh rồi suy xoay vần theo quy luật
LÊ MINH CHỬ CÔ ĐƠN Sớm tối ra vào nhà trống không Biết ai tâm sự bạn cùng trông Nhìn mây bay lơ lửng chiều gió Ngó nước sông trôi lục bình bông Nỗi nhớ người đi không trở lại Niềm thương con cháu rộng mênh mông Thơ ca gắn bó thành duyên nợ Đây đó giao lưu lòng vẫn mong QUANG BỈNH THAM QUAN CẦN GIỜ Đường đi Rừng Sác Cần Giờ Hai bên cây đước sững sờ vươn cao Qua phà Bình Khánh xôn xao Mênh mông sông nước biết bao hữu tình Hon đa bè bạn hành trình Đường xe lộ mới cảnh tình yên vui Địa danh lều quán đón mời Du khách thưởng thức cua thời chấm tương Nước biển đục như nước sông Nhìn ra biển rộng mà lòng thảnh thơi Gió mây thổi dạt mọi nơi Hàng dương bóng mát ru ơi dạt dào Tâm hồn cảm nghĩ xôn xao Cần Giờ đổi mới biết bao công trình Cầu cao giòng nước chảy xinh Chung quanh rừng đước vươn mình lên cao Cây chen bóng mát đẹp sao Dưới kinh sấu lội đầu cao ngước nhìn Khỉ đảo chí chóe uốn mình Giựt nón điện thoại đứng nhìn trên cây Đặc công Rừng Sác nơi nầy Là khu di tích suốt ngày tham quan QUANG BỈNH TÌNH NHÀ NỢ NƯỚC Nầy gươm nầy súng trao anh giữ Thay thế quyền tôi hãy chỉ huy Chiến sĩ vẫn mong đền nợ nước Đừng lưu luyến nữa cố đường đi Mai nầy anh có thương con tội Xin cũng vì tôi dạy ít lời Cha nó tử bôm ngoài mặt trận Nửa buồn nửa tủi đứa con côi Cha con chiến đấu vì công lý Rửa sạch muôn đời trả nước thôi LANG NGUYÊN THÂN TRAI Tay súng tay gươm vẹn chữ tòng Gương người chiến sĩ khắp tây đông Anh hùng Lê Lợi lừng danh sử Liệt nữ Trưng Vương rạng má hồng Phải tỏ lòng trung vì đất nước Đừng quên chí cả với non sông Ai ơi tiến bước mau theo bước Dân tộc Việt Nam vẫn giống dòng LANG NGUYÊN KẺ HƠN 21 NHỚ NGƯỜI HAI MƯƠI (lần thứ 3) Minh Quyên ơi, Minh Quyên Nàng là quỷ hay tiên? Mà hành ta dữ vậy Nàng là nợ hay duyên? * Dù là nợ hay duyên Ta ghét nàng như điên Trần gian chẳng sum họp Tìm nhau chốn Cửu Tuyền! * Nàng yêu thích huyền học Mà ham gây nhức óc Cho ta, kẻ cô đơn Ghét nàng ta muốn khóc… * Còn chi nữa mà mong Đời coi như đã xong Ghét tăng, ghét chẳng giảm Ghét vượt qua tử vong! * Cuộc tình như tuyệt vọng Duyên tình quá long đong Chẳng còn tia hy vọng Nhưng vẫn cố chờ mong! * Bỗng có một buổi chiều Nàng xuất hiện yêu kiều Nói như qua hơi thở : “Anh ơi, em cũng yêu!”… VŨ ANH TUẤN 12-2000 MỘT LẦN GẶP GỠ Nhớ buổi ban đầu đến gặp Em Hoa xuân khoe sắc rộ bên thềm Nỗi niềm phấn khởi khi chào hỏi Ấp ủ trong lòng thương nhớ thêm * Sau phút hàn huyên ngắn ngủi về Tâm hồn như dại dạ như mê Đường đi lắm lối xe lăn bánh Phố cũ sao mà cảnh đẹp ghê * Xuân đã qua mau cuốc gọi hè Nhiều lần lẩn thẩn bước lê thê Ngóng trông về phía phương trời ấy Canh cánh bên lòng tim sắt se * Tự trách mình sao quá vụng về Nhiều lần lẩn thẩn bước lê thê Chừ đây chưa biết khi nào nữa Cảm thấy trong lòng thật ủ ê BÁ MẠNH
GỢI NHỚ Quê tôi xa quá kinh thành Sông Hương núi Ngự đất lành nặng mang Qua bao chiến cuộc vẻ vang Rồi thì xa xứ lang thang chốn nầy Mùa Xuân ở Huế vui vầy Bánh mứt chả tré tràn đầy tét chưng Lời chúc sao mãi chẳng ngưng Ôn Mệ sống thọ đau lưng chóng lành Mùa Hè đỏ rực sân trường Tay thì nhặt phượng tay cầm quạt mo Lá vàng rơi rụng là do Mùa Thu đã đến ngại lo Đông về Bao nhiêu kinh sợ não nề Mưa to gió lớn ngành nghề đảo điên Bởi vì cây cội ngả nghiêng Sóng gầm biển động triền miên đêm ngày Giờ đây sinh sống nơi này Vấn vương trĩu nặng tỏ bày nhớ thương THÙY HƯƠNG NGẬM NGÙI Sao quên được ngày rời xa Cha Mẹ Cất bước ra đi mà dạ ngậm ngùi Quay đầu nhìn lại mắt Mẹ rưng rưng Cha thì sầu não vẫy tay đượm buồn Nửa muốn theo Chàng nửa muốn Mẹ Cha Chuông chùa Linh Mụ tiễn biệt ngân nga Sông Hương phẳng lặng tưởng chừng phong ba Vân Lâu gợi cảm đau lòng chia xa Giá buốt ngoài trời lạnh thấu thịt da Xe lăn bánh chạy mà tan nát lòng Gởi lại Song thân tình sâu nghĩa nặng Lưu giữ cố đô xúc cảm dạt dào Mấy mươi năm sinh sống chốn Đô thành Nhớ quá quê hương nhớ lắm bạn bè Sân trường đỏ rực với bao hàng Phượng Trưa hè inh ỏi nặng tiếng Ve rầu Bao năm xa cách giờ đây về lại Huế bây giờ sao khác Huế năm xưa Người thân mất cảnh cũ quá tiêu điều Trường xưa bè bạn nhỏ còn đâu nữa Hoài niệm quê hương sao quá chạnh lòng THÙY HƯƠNG THÂN TA Thân ta đâu dễ quy hàng Chỉnh hình dấu ấn khải hoàn khúc ca Chuyện đời như thể việc nhà Nắng mưa thay đổi cũng là trò chơi Nên chi giữ lấy nụ cười Tâm hồn tươi trẻ thấy đời nở hoa Sáu mươi lăm tuổi chưa già Chỉ vì chẳng cạo râu ra đầy cậm BÁ MẠNH VẦNG TRĂNG Vầng trăng tròn giữa đêm thu Lững lờ trôi giữa mịt mù trời mây Như đời gió thoảng mây bay Mênh mông biển khổ thương thay kiếp người Thương cha mẹ kiếp tù đày Thương ông bà kiếp đắng cay trọn đời Thương mình một kiếp chơi vơi Thương con ai biết cuộc đời về đâu Thương người trong cuộc bể dâu Vầng trăng như thấu nỗi đau kiếp người Chợt thương trăng giữa xa vời Cũng như ta cũng một trời phù du… VÕ KIM CƯƠNG NHÌN EM Anh vẫn thường nhìn em một bên Vẫn uống cạn nét dịu hiền quyến rũ Dẫu hàng mi cong bị che đi một nửa Dẫu ánh mắt nhìn không gặp được nhau * Ánh mắt em cứ mãi nhìn đi đâu Năm tháng rộng và đời mênh mông quá Giọt nắng nào làm má em ửng đỏ Cơn gió nào làm môi em hồng tươi * Ánh mắt em cứ mãi nhìn đi đâu Sao khó thế một phút giây ngoảnh lại Giọt nắng nào làm lòng anh tê tái Cơn gió nào làm tim anh xót xa * Anh vẫn mãi nhìn em một bên Mãi trông đợi phút giây em ngoảnh mặt Để cho mắt được đắm chìm trong mắt Không gian, thời gian thu lại một chiều * Anh đang chờ em trong chiều ấy tình yêu Lòng ích kỷ trời sinh nên vị đắng Thời gian giãn ra cho đời thu ngắn Trong đợi chờ phút ngoảnh lại nhìn nhau… VÕ KIM CƯƠNG XỨ ĐẠO MỚI Tháp nhà thờ mới nhô lên khỏi ngọn đồi Gặp mặt trời mỗi sáng nghiêng qua Ngôi chùa mới cũng vút cong giọt nắng Hai tiếng chuông loang trong mờ ảo tiếng gà Làng mạc vây quanh những mái tôn lấp lánh Phía trước là cánh đồng Đàn cò hình chữ V bay ùa qua thánh giá Một thời mở đất gian nan Xứ đạo mới có những đứa con nhận niềm tin mới Đã bừng lên khởi sắc một vùng xa… Một huyện có hai thị trấn Một xã có hai vùng tâm linh Bên vầng trăng Phật ngự Bên thánh giá Chúa về… Xứ đạo bình yên thanh thản một vùng quê Người bản địa cũng như người tứ xứ Góp sức dựng xây nên thói nên lề Em gái xứ đạo bước trên bờ ruộng đi lễ Mái tóc dài vương gót chân sương Vệ hoa dại đơm hương chờ tay hái Ngun ngút kinh đưa Rộn rã giáo đường… Tôi tìm thấy chất đời trong cách sống Đường mới thênh thang trong tấm lòng rộng mở Đóa sen nở trong ao Hoa huệ trắng ngoài đồng Ngọn gió phúc âm thơm lừng thổi qua từng ngõ ngách BS. DOANLINH 8/8/2015 NIỀM TIN NHÒA NHẠT Nhịp cầu hiu hắt hoài mong Âm thầm soi bóng xuống dòng sông xanh Nghiêng nghiêng bờ liễu chân thành Ngàn thu rũ tóc dệt mành tương tư Thềm rêu ủ mộng thiên thư Mắt thuyền sương khói Tạ từ cố nhân Gió trăng gợi nhớ đông quân Dõi hồn theo cánh mây Tần lênh đênh Bên nhau lên thác xuống ghềnh Vững lòng tin mặc sóng duềnh nhấp nhô Đời hiu quạnh chít khăn sô Tình xưa vùi dập nấm mồ đơn côi Bổng trầm khúc nhạc chia phôi Tay rời tay… chợt bồi hồi xót xa Niềm tin tàn úa nhạt nhòa Sương giăng trắng xóa Sa pa ngút sầu. NGÀN PHƯƠNG
PHỞ VÀ CƠM Điểm tâm phở thật tuyệt vời Thơm lừng nóng hổi thấy đời lên hương Phở cơm khác biệt đôi đường Cơm ngày hai bữa yêu thương nhạt nhòa * Phở thì mới lạ thiết tha Ấm nồng quyến rũ mặn mà duyên thơ Dù cho ràng buộc mối tơ Gia đình hạnh phúc vẫn mơ… ngoài luồng * Ăn cơm no vẫn thèm thuồng Cái mùi vị phở điên cuồng đam mê Thật là ngon hết chỗ chê Lạ lùng - hấp dẫn bên lề kiêu sa * Chẳng mong tình nghĩa đậm đà Chiều phơn phớt nắng cũng là tuyệt chiêu Cơm là vợ - phở : người yêu Quên cơm nhớ phở thật nhiều đắm say * Thế gian tâm lý xưa nay Các ông bắt cá hai tay - chuyện thường Cuộc đời một nắng hai sương Có mới nới cũ nhiễu nhương phũ phàng * Lúc giàu đổi bạn - khi sang… Lăm le bỏ vợ lỡ làng phu thê Đắn đo cân nhắc hẹn thề Vẫn mơ bát phở hơn về ăn cơm * Vợ hiền dù rất thảo thơm So loài hoa quý - cỏ rơm sao bằng Phở như một nụ Cát đằng Lả lơi ong bướm - gió trăng mát lòng * Mong manh như sợi chỉ hồng Nhưng đầy lôi cuốn qua sông lụy đò “Dò sông dò biển dễ dò Nào ai lấy thước mà đo lòng người” * Phở cơm - dở khóc dở cười Vẫn ham của lạ - biển trời bao la Cõi trần muôn chuyện gần xa Tình nhân là phở - Vợ nhà là cơm ! NGÀN PHƯƠNG TÌNH XA Em hơn Chức Nữ bội phần Gặp anh đến những hai lần mỗi năm Vượt ngàn thương nhớ về thăm Nửa vòng trái đất mấy trăm bến bờ. NGÀN PHƯƠNG NGƯỜI CŨ Chưa yêu mà thấy lòng tha thiết Chưa hẹn mà sao đã nhớ mong Làn tóc hoài thương pha ánh nguyệt Mắt mờ sương khói vẫn vời trông NGÀN PHƯƠNG NGÃ NĂM BÂNG KHUÂNG Năm ngả xòe như năm cánh sao Sương chiều Đà Lạt đã dâng cao Bâng khuâng đứng giữa năm đường rẽ Anh muốn tìm em, rẽ lối nào ? Đà Lạt, 27.6.2008 VŨ ĐÌNH HUY THE DAZED WITH LONGING FIVE-WAY-CROSSROADS The five ways spread like five star’s points The Da Lat evening dew has risen high Dazed with longing and standing amidst the five ways Wishing to look for You, which way should I take ? Da Lat, 27.6.2008 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN CHIẾN TRANH Lịch sử lật sang trang Nỗi đau còn theo mãi ! Phía đánh thắng : khói hương lên quằn quại ! Phía đánh thua : đeo ám ảnh kinh hoàng ! Tp. Hồ Chí Minh, 27.7.2008 VŨ ĐÌNH HUY WARTIME History has turned over a new page The pain still persists The victorious side : incense and smoke rose writhingly The defeated side : bore a haunting obsession ! HoChiMinh city, 27.7.2008 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN MÙA XUÂN HẾT XANH Chẳng biết rằng em có nhớ anh ? Có yêu tha thiết, có chân thành ? Cớ sao em bỏ đi biền biệt, Để lại Mùa Xuân đã hết xanh ? Bình Thuận, 05.3.2009 VŨ ĐÌNH HUY SPRING IS NO LONGER GREEN I don’t know whether you remember me or not ? Do you love me eagerly and sincerely ? Why did you go off, leaving behind no traces whatsoever, As well as a Spring that’s no longer green ? Binh Thuan, 05.3.2009 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN ****** ĐÍNH CHÍNH Trong Bản Tin số 111 (tháng 8 năm 2015), nơi trang 40, trong bài thơ tiếng Pháp của Félix Arvers, câu cuối cùng đã bị chép sai thành hai câu như dưới đây: “Quelle est donc cette femme ?” Et ne comprendra pas! Quý vị độc giả có trong tay Bản Tin số 111 làm ơn chỉnh lại cho chính xác như dưới đây: Quelle est donc cette femme? et ne comprendra pas.
Sở dĩ chúng tôi phải cẩn thận vì bài thơ này là một bài thơ cả thế giới nơi đâu cũng có người đọc và biết tới, nên sự chính xác là rất cần thiết. CLB Sách Xưa & Nay ******************************************* CA DAO VỚI TINH THẦN YÊU NƯỚC Dân tộc Việt Nam có lịch sử bốn ngàn năm văn hiến, từ xa xưa trong thời kỳ Bắc thuộc nước Tàu dai dẳng hơn nghìn năm. Tiếp đến lịch sử nước nhà thịnh trị tự chủ, từ thời nhà Đinh cho đến Hậu Lê. Cuộc chiến tranh Nam Bắc phân tranh của Tây Sơn và chúa Nguyễn đưa đến cảnh đất nước bị áp bức đô hộ cả trăm năm, nhân dân phải gánh chịu bao nhiêu tang tóc lầm than. Nhân dân Việt Nam với tinh thần bất khuất kiên cường quật khởi đã có nhiều phong trào yêu nước nổi lên để chống lại ách đô hộ mong giải phóng dân tộc như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục… và còn nhiều cuộc khởi nghĩa của các anh hùng dân tộc để chống giặc ngoại xâm như Trương Định, Hoàng Hoa Thám, Trịnh Văn Cấn. Trong bối cảnh nước nhà trải qua nhiều biến cố lịch sử đầy đau thương mất mát, người thanh niên là rường cột của đất nước, thể hiện tinh thần yêu nước, sẵn sàng lên đường đi chiến đấu. Ca dao đã thể hiện tất cả những khí thế hào hùng: “Làm trai quyết chí tang bồng Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam” “Làm trai quyết chí tu thân Công danh chớ vội nợ nần chớ lo” Những lời đầy tâm huyết, động viên thanh niên ra đi tòng quân: “Làm trai cho đáng mặt trai Cớ sao bó gối khoanh tay ngồi chờ” “Ở đời muôn sự của chung Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi” “Anh còn ẩn dật làm chi Xuống đời trả nợ nam nhi cho rồi” “Cầm tay em dặn đôi điều Ra đi xin nhớ tới chiều hôm nay” Người thanh niên lên đường tham gia kháng chiến sống ở bưng biền, ca dao có câu: “Ở thành có sữa có bơ Ở bưng có súng có cờ anh đeo” Người ra đi đánh trận, nhớ thương gia đình mẹ già con dại sống ở chốn quê nhà giữa ách đô hộ của thực dân tỏ bày tình cảm: “Anh đi đánh Bắc dẹp Đông Thảm thiết trong lòng nhớ mẹ thương con” Người cô phụ ở quê nhà ngày đêm lo lắng cho người chinh phu: “Anh đi đánh giặc miền Tây Để em ái ngại hết ngày lại đêm” “Thương người bôn tẩu xứ xa Quê hương cũng bỏ, mẹ cha cũng lìa” Dù sống trong sự lo âu lo lắng cho người ra đi xông pha nơi chiến trận, ở nơi quê nhà người cô phụ vẫn lam lũ trên cánh đồng, tăng gia sản xuất, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến: “Anh đi theo ngọn cờ hồng Lúa mùa gặt hái ngoài đồng có em” Cuộc chiến tranh gian khổ để giành lại độc lập tự do cho dân tộc là niềm mong mỏi ước mơ của người dân sống trong cảnh bị áp bức đô hộ. Có niềm tin vào chiến thắng, là những tấm lòng của người mẹ, người vợ, một lòng một dạ sắt son chờ đợi đêm ngày: “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ Năm canh chày mẹ thức đủ vừa năm” Chiến tranh qua đi, người đi chinh chiến trở về quê hương. Ngày trở về đi giữa ruộng đồng bao la bát ngát, tâm trạng thơ thới hân hoan trong cảnh thanh bình của quê hương: “Anh đi lúa chửa chia về Anh về lúa đã chín hoe cả đồng” Chỉ với những lời thơ mộc mạc bình dị đầy ẩn dụ, ca dao đã thể hiện rõ nét tình yêu nước. Yêu nước từ chiến đấu bảo vệ đất nước và trong lao động sản xuất. Tình cảm yêu thương gắn bó của gia đình hòa quyện trong tình yêu quê hương xứ sở, mang đậm chất dân dã của một xã hội Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn. Từ một xã hội nông nghiệp cổ truyền từng bước tiến lên một xã hội hiện đại phát triển như ngày hôm nay vào thế kỷ thứ 21. HUỲNH THIÊN KIM BỘI NHỚ NGUYỄN BÍNH Bộ nhớ của thời gian dường như được đặt vào những ngày cuối của năm. Thôi thì tất cả trăm thứ tạp nham to nhỏ người ta đều sực tỉnh, để rà soát những được, thua, còn, mất. Các ông chủ, bà chủ lật trang cũ đã qua, tìm ra mẹo mới để tính chuyện kinh doanh. Người làm canh nông kiểm lại gió, mưa, dông, bão lo việc cấy trồng. Còn những người làm thơ văn như chúng tôi bóp đầu vắt óc lang thang đây đó nhặt thi tứ mới của đời và nghĩ về bạn bầu ai còn ai mất. Mừng cho người gặp may mắn, khóc cho số phận cay đắng hẩm hiu… Trong đó có nhà thơ Nguyễn Bính một người để lại cho đời tất cả là thơ. Ông chỉ nhận về mình thân nghèo khổ xác xơ và cái chết đơn côi lạnh lẽo, hôm ấy là ngày 29 tháng Chạp năm Bính Ngọ (20.1.1966) chỉ trước lúc đón giao thừa mấy chục tiếng đồng. Ông sinh năm Mậu Ngọ 1918, ông lại ra đi năm Ngọ. Con người thơ ấy từ tiếng khóc chào đời đến lúc hóa thành cát bụi vẻn vẹn có bốn giáp ở với cõi người. Đời ông ngắn vậy, còn thơ ông tôi tin sẽ ở với muôn đời. Vào những năm bảy mươi tôi có dịp về Vụ Bản tìm đến thôn Thiện Vinh hỏi xem có ai là bà con thân của nhà thơ Nguyễn Bính, thì một số người đồng niên với ông họ bảo “ông Nguyễn Trọng Bính dẫu không còn nhưng cả làng, cả huyện ai cũng quý ông như người ruột thịt”. Tôi có hỏi về người chị trong bài thơ “Lỡ bước sang ngang” họ cho biết người chị của ông từ độ sang ngang đò giang cách trở cũng ít về làng. Phút bùi ngùi nhất là tôi được nghe về cái chết của ông, hôm ấy đúng là ngày đại hàn, cái rét tưởng như rụng từng đốt ngón tay. Ty văn hóa Nam Hà cũng đã nghỉ, ai nấy về nhà lo sắm Tết, chỉ riêng ông ở lại chẳng biết đi đâu, vợ con thì ở tận miền Nam cách trở, ông ở lại nơi sơ tán này dẫu là huyện Lý Nhân thì cũng coi như Vụ Bản vì chỉ cách nhau có mấy thôi đường, vẫn là quê hương sông Hoàng, sông Vị. Hôm ấy ông dậy muộn, vợ chồng anh chị chủ nhà vẫn phải ra đồng cấy nốt thửa ruộng. Ông như chợt nghĩ ra điều ngày mai là tất niên, ông lật cổ áo bông bịt tai, che gáy, bảo cháu bé con anh chị chủ “Bác đi một lát rồi bác về”, ý rằng ông ra chợ làng mua mấy thứ đồ lễ và để cùng ăn tết với gia chủ. Thời gian chỉ độ dập hai miếng trầu, đã thấy ông quay về, nằm vật ra giường kêu đau bụng, cháu bé hốt hoảng, thì lúc ấy chị chủ nhà cũng từ ngoài đồng về, chị kêu hàng xóm giúp đưa ông ra trạm xá xã. Vì hôm đó là ngày trót năm, y tá viên cũng đã được nghỉ về nhà lo tết. Ông nằm vật vã mãi ngoài hiên, gọi được chị y tá đến, lục tìm thuốc, thuốc cũng hết. Thế là cuối năm mọi người tìm đường về, còn ông lại tìm đường đi vĩnh viễn… Xóm làng ở nơi sơ tán ai nấy đều dồn sức lo chôn cất cho ông, người tìm gỗ, kẻ tìm đinh ghép vội cái áo cho nhà thơ, đưa ông ra đồng, không một ai ruột thịt, chỉ có người yêu thơ ông, quý ông ở Lý Nhân này khóc chú Bính, bác Bính… Khóc một con người đầy sự hội tụ của khổ đau: Ba tháng sinh ra đã mồ côi mẹ, cảnh nhà túng thiếu cha phải cho sang ông cậu làm con nuôi. Năm mười tuổi đã rời quê đi kiếm sống. Ông đã cảm định trong cái tuổi Ngọ: Em vốn đường dài thân ngựa lẻ Chị thì sông Cái chiếc đò nan Quê người đứng ngắm mây lưu lạc Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng Bao tái tê dằn dặt cuộc sống đã toát lên những vần thơ cô đơn xoáy vào định mệnh, xoáy vào đáy hồn, đắm dòng cảm linh chới với, dùng dằng của mảnh làng, thất thểu bóng người thân, mịt mùng hi vọng. Tất cả khiến ông quy vào số phận, đất đã sinh và trời đã định: Cha đừng tiếc, mẹ đừng thương Cầm như đồng kẽm qua đường đánh rơi Nhiều người bảo ông mắc thói giang hồ như bao lãng tử khác. Nói thế thì cũng được nhưng chưa hẳn là đúng. Tôi coi giang hồ là luật của những khách chơi, những tay anh chị có chút tiền lưng, gạo vực, còn ông ra đi với cảnh túng quẫn, hết tiền đi xin từng mớ rau góc chợ, đêm ngủ trọ ngủ nhờ, ngồi vắt óc làm thơ, khóc cho bao số phận, kiếm đồng nhuận bút để tồn tại qua ngày, sao lại gọi là giang hồ được. Chị từ lỡ bước sang ngang Trời giông bão giữa tràng giang lật thuyền Xuôi dòng nước chẩy liên miên Đưa thân thể chị tới miền đau thương Mười năm gối hận bên giường Mười năm nước mắt bữa thường thay canh… Manh áo, bát cơm hàng đối với ông đều bằng nhuận bút in thơ, mà lại vào đúng cái thời mà người Việt ta còn ít chữ. Thơ ông không màu mè giả dối, tâng trên đánh dưới, ông đồng điệu với tầng lớp bình dân, ông hát đúng tiếng hát của trái tim: Có lần tôi thấy một cụ già Đưa tiễn con đi trấn ải xa Tầu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng Lưng còng đổ bóng xuống sân ga… Mảng thơ tình mới thật là tài tình. Văn chương có một không hai, khiến người ta chỉ đọc một lần đã nhập tâm, chỉ nghe một thoáng đã gần như thuộc: Cái ngày cô chưa có chồng Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa Lối này lắm bướm nhiều hoa Đi vòng để được qua nhà đấy thôi… Và đây nữa: Giá đừng có dậu mồng tơi Thế nào tôi cũng sang chơi nhà nàng Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng Có con bướm trắng thường sang bên này… Ông đã xa chúng ta tính đến tất niên này là 32 lần tất niên. Cái số 8 với ông thật là khắc nghiệt: 1918 ông ra đời, 48 tuổi ông về với cát bụi, 48 năm với ông Nguyễn Trọng Bính tức nhà thơ Nguyễn Bính đã cưỡi con ngựa của tuổi sinh mình hành trình khắp Nam, Bắc, Tây, Đông tổ quốc, dẫu không phải là ngựa chiến, nhưng đúng là con ngựa của ông, nên không bao giờ ông bị hất ra khỏi yên cương. Còn những kẻ hiếu danh muốn phi nước đại đã đánh cắp ngựa của người khác mà phi thì việc ngã ngựa cũng chẳng có gì là lạ. Vì thế ông và thơ ông tồn tại trên cõi đời này như cơm ăn, nước uống. 1.1998 NGUYỄN ĐỖ LƯU HOÀNG KIM THƯ st.
Phụ Bản III NHỮNG ĐIỀU MẮT THẤY TAI NGHE Sau ba tuần du lịch Seoul Hàn Quốc. Tôi xin kể lại đôi điều tai nghe mắt thấy. Tôi biết ở đây đã có nhiều quý vị đã từng đi qua Mỹ, Âu, Á hay Hàn Quốc. Nhưng cuộc sống luôn biến đổi, mỗi thời điểm, những nơi ta đã từng qua cũng có biết bao sự thay đổi, hơn nữa cảm nhận sự việc của mỗi người cũng khác nhau. Tôi cũng đã từng qua một số nước Châu Á, nhưng chuyến đi thăm Hàn Quốc này đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng, nhiều cảm xúc cả vui lẫn buồn… Người ta có câu “Mưu sự tại nhân, hành sự tại thiên”. Quả không sai, ngay từ đầu đã có “sự cố” ngoài ý muốn, tôi cũng nên nói sơ qua một chút. Tôi và “bà xã” đi làm thủ tục xuất cảnh, thấy người đi Hàn Quốc khá đông: người thì đi thăm con cháu, người thì đi thăm chồng, người đi du lịch, làm ăn v.v… Ở đâu có “mồi” là “cò” xuất hiện. “Cò” dụ xếp hàng và làm thủ tục nhanh phải chi 400.000đ/người. Chúng tôi tự giải quyết, hơn nữa ở diện bố mẹ đi thăm con cũng không khó khăn gì. Chỉ có điều rắc rối là hôm đi làm thủ tục thì chưa có dịch “Moscôvi”. Đến khi chúng tôi làm xong thủ tục, đặt mua vé máy bay rồi, mới nghe thông tin về dịch bên Hàn Quốc mỗi ngày một tăng. Trên các phương tiện thông tin đại chúng thông báo dồn dập, nào có mấy chục người nhiễm bệnh, nào bao nhiêu người chết v.v… Sau đó thì khuyến cáo mọi người hãy dừng đi du lịch vào vùng dịch. Lúc này anh em bạn bè đều chân thành khuyên nhủ chúng tôi nên tạm dừng. Sự đời lại không đơn giản như vậy. Nếu không đi, trả lại vé sẽ bị trừ mất một ít tiền nhưng thời cơ bị mất. Con tôi dịp này đang nghỉ hè mới có thời gian đưa bố mẹ đi thăm quan đây đó. Cả nhà bàn tính, hàng ngày chúng tôi liên hệ với các con để nắm thực trạng tình hình dịch bên Hàn Quốc như thế nào? Cuối cùng chúng tôi vẫn quyết định “Bay”. Quả nhiên khi máy bay hạ cánh xuống sân bay quốc tế (Incheon International Airport) tôi thấy mọi người đều rất bình thản như không có chuyện gì xảy ra và cũng chẳng thấy ai đeo khẩu trang, trừ 2 chúng tôi. Tất nhiên Hàn Quốc cũng không chủ quan, họ đặt máy đo nhiệt khắp nơi nếu thấy ai khả nghi là bị cách ly. Mặt khác họ cũng đã khoanh vùng dịch rồi. Niềm vui vừa bừng lên thì chuyện không may lại ập đến. Trong lúc sửa soạn trang phục xuống máy bay “bà xã” tôi lỡ rớt mất cái điện thoại, phương tiện duy nhất để liên hệ với con không còn. Một chút hoang mang, lần đầu đến Hàn Quốc, sân bay vừa hiện đại, vừa rộng, tiếng lại không biết, điện thoại bị mất, biết làm sao đây? Chúng tôi quyết định cứ bám theo đoàn người, họ vào tàu điện ngầm mình cũng theo, rồi cũng tìm ra nơi nhận hành lý. Qua khâu kiểm tra của sân bay và thoát ra ngoài. Ra cửa rồi vẫn không thấy con ra đón ở đâu. Loay hoay mất một lúc chúng tôi mới gặp được con gái và cả nhà lên xe bus về Seoul. Sau đó con rể tôi đưa xe ô tô riêng ra đón về khu ký túc xá của chúng. Những ngày ở Hàn Quốc, nhờ phương tiện đi lại thuận tiện, khi đi xe bus, lúc đi tàu điện ngầm, khi thì đi xe ô tô riêng của con nên tranh thủ thăm quan được nhiều nơi. Trong cái rủi lại có cái may, những ngày này khách du lịch Hàn Quốc giảm nên chúng tôi được đi thăm quan miễn phí (đỡ khá tiền). Những nơi chúng tôi đi thăm quan rất nhiều, tôi chỉ xin nói sơ qua một số địa danh chính: 1. Thăm Tòa thị chính Seoul Hôm ấy bầu trời Seoul trong xanh như mùa thu mặc dù Hàn Quốc đang là mùa hè. Trước quảng trường trung tâm thành phố như một tấm thảm xanh khổng lồ là tòa nhà thị chính Seoul. Đây là tòa nhà được thiết kế rất đặc trưng và hiện đại, trông bề thế, hoành tráng phù hợp với tầm vóc thủ đô của một nước giàu có. Chúng tôi cũng như những người dân, tự do đi vào thăm quan. Đi hết tầng trệt rồi xuống tầng hầm rộng mênh mông. Có nơi trưng bày hiện vật, nơi cho trẻ đọc sách miễn phí, nơi có màn ảnh rộng, người thì xem phim, nhà mát mẻ có người lại tranh thủ làm một giấc. Tất cả đều tự giác, tạo không khí gần gũi giữa chính quyền với dân (chúng tôi không lên khu làm việc ở những tầng trên). 2. Thăm Đức-Thọ-Cung Khu này không lớn lắm, chúng tôi đi thăm nơi làm việc của nhà vua, trước nhà có hai hàng bia đá như đánh dấu vị trí các quan đứng chầu, từ hàm nhất phẩm đến cửu phẩm, trên bia khắc chữ Hán nên tôi đọc được. Trong cung này còn có một bảo tàng nghệ thuật. Tôi thấy trưng bày nhiều bức tranh thuộc trường phái trừu tượng khó hiểu, thời gian ít nên tôi chỉ đi lướt qua. Ấn tượng nhất ở đây là được xem màn trình diễn giao ca gác của các quan binh thời xưa. Tất cả đều ăn vận trang phục, binh khí thời đó đẹp như các diễn viên đóng phim cổ trang. Bàn giao xong đội quân tuần tra đi một vòng xung quanh cung, hoạt cảnh sống động như thật. Trước khi từ biệt cung, chúng tôi cũng không quên chụp ảnh lưu niệm bộ ảnh mang trang phục cổ Hàn Quốc. 3. Thăm trường Đại học Quốc gia Seoul (Seoul National University) Đây là một trường danh giá của Hàn Quốc. Cơ ngơi rộng lớn nên có xe bus phục vụ đi lại trong trường. Môi trường học tập hài hòa với thiên nhiên đúng nghĩa xanh-sạch-đẹp. Trường phân ra nhiều khu, có sân vận động, sân ten-nít, thư viện thật hoành tráng, với thiết kế ẩn dấu ý tưởng rất ấn tượng, khu các phân viện của trường, khu ký túc xá sinh viên, khu nhà ở của giáo sư v.v… Đây cũng là trường con rể tôi đang bảo vệ luận văn tiến sĩ và sẽ kết thúc vào cuối năm nay. Chúng tôi tự do đi khắp nơi, không thấy ai tra hỏi, dò xét gì và tôi còn thấy người dân dẫn con vào tham quan trường. Tôi nghĩ, chắc chắn những đứa trẻ này sẽ mơ ước một ngày nào đó, nó sẽ là sinh viên của trường danh giá nhất Hàn Quốc này. Vì trường rộng nên chúng tôi phải dành mấy ngày đi xem mới hết. 4. Thăm Viện nghiên cứu Trung ương Hàn Quốc học Nếu có quý vị nào đã đi qua trường này rồi cũng sẽ đồng tình với tôi một câu nhận xét: Xanh-sạch-đẹp. Đây là trường mà con gái tôi ở, nghiên cứu làm luận văn tiến sĩ. Trường không có sinh viên chỉ có từ thạc sĩ và tiến sĩ. Nước nào có nghiên cứu sinh thì đều treo cờ của nước đó. Tôi thấy 2 dãy cờ của rất nhiều nước cả Âu lẫn Á, trong đó có cờ Việt Nam đứng ngang hàng với cờ các nước khác, đang tung bay trước gió. Tự nhiên trong lòng tôi rộn lên một cảm xúc vui vui và tự hào… 5. Đi ăn ở nhà hàng nổi tiếng Từ xa tôi đã thấy tên cửa hàng ghi bằng tiếng Hoa: Thế giới tự nhiên. Người Hàn Quốc và cả người nước ngoài muốn “thử tí” nên cũng đông. Tất nhiên đã “chịu chơi” thì phải chịu mắc. Tiền nào của nấy, bù lại phục vụ rất tốt và trước khi thanh toán tiền xong bước ra cửa còn khuyến mãi mỗi người một ly cà phê mang lên xe uống. 6. Thăm công viên khoa học: Người ta cho con đến đây chơi rất đông. Tuy không cao siêu gì nhưng nơi đây sẽ giúp chúng tìm hiểu thế giới xung quanh, từ máy móc (trò chơi) đến ruộng lúa, cây ngô, cây bầu, cây bí, các cây-con sống dưới nước đến đài thiên văn ngắm các vì sao v.v… Trẻ được giáo dục học tập thực tế chứ không phải một đống lý thuyết mơ hồ. Giá nước mình cũng có những công viên như thế đế chắp cánh ước mơ cho trẻ thơ bay vào tương lai… 7. Thăm Tháp truyền hình Seoul (Seoul Tower): Tháp được dựng trên ngọn núi cao Nam Sơn (243m) nên tổng chiều cao của tháp là 480m. Đường lên tuy làm bậc như thang lên gác, nhưng nhiều chỗ rất dốc phải có sức khỏe mới lên được. Những người già, người khuyết tật hay ai muốn đi nhanh thì đi cáp treo. Đứng trên đây có thể ngắm “toàn cảnh” Seoul. Hôm chúng tôi đi thì gặp phần nhiều là thanh niên. Nơi đây rất đẹp và có nhiều thứ dành cho họ như ghế ngồi trái tim, cái đặc biệt của ghế này là dốc vào giữa nên nam nữ cứ bị “hút” sát vào nhau. Các đôi yêu nhau thì ghi lời cầu nguyện của mình rồi mua một cái khóa (có cửa hàng bán khóa tại chỗ) khóa móc vào lan can bảo hiểm xung quanh. Thật một rừng khóa, khóa chồng lên khóa, còn biết bao đôi uyên ương tiếp tục lên và tiếp tục khóa… Tôi nghĩ có nhiều nữa cũng không sợ sập vì nó ở trên núi mà. Các bạn trẻ hãy cứ lên đi, hun đúc lên tình người, tình yêu để cho cuộc sống của chúng ta thêm tươi đẹp. 8. Thăm Bảo tàng quốc gia của Hàn Quốc (National Museum of Korea) Một công trình hoành tráng, hiện đại mang tầm vóc quốc gia và quốc tế. Tôi thấy từng đoàn thanh niên, học sinh vào xem, chúng học sử bằng trực quan sinh động, có tranh vẽ, hiện vật và mô hình như thật. Trưng bày đủ thứ về cuộc sống từ “cổ” đến “kim”. Ngoài ra còn có một số cổ vật của các nước Nam Á, trong đó có trống đồng ngọc lũ của Việt Nam. Các phòng đều có màn ảnh và thuyết minh tự động, người xem ra khỏi phòng là nó tự tắt. Sau khi xem hết các phòng ở các tầng tôi đi thăm khuôn viên bên ngoài trời, bảo tàng thì rộng lại ham tìm hiểu khám phá… nên đi cả ngày mới hết. 9. Thăm Nhà Kỷ niệm Chiến tranh Chúng tôi thăm các phòng trưng bày vũ khí, tàu thuyền cổ, các bức tranh kết hợp với sa bàn mô tả các cuộc chiến thời dựng nước đến thời cận đại… nhưng lý thú nhất là đi xem hiện vật ở ngoài trời. Khách tham quan tha hồ chụp ảnh kỷ niệm. Bạn có thể lên chiếc tàu chiến, qua các phòng để biết thủy binh sống thế nào! Ra xem các loại xe tăng, xe thiết giáp, các loại súng pháo, tên lửa, rồi các loại máy bay lên thẳng, cánh quạt đến phản lực. Bạn sẽ thấy có loại bé xíu một chỗ ngồi đến các máy bay vận tải to đùng và đặc biệt là “người khổng lồ” B52. Chúng tôi đã leo lên cầu thang đứng trước đầu mũi máy bay B52 chụp ảnh kỷ niệm. Thời còn chiến đấu chống máy bay Mỹ bắn phá, tôi chỉ được thấy cái “kho bom di động” này bay trên chín tầng mây đi rải thảm. Ai ngờ bây giờ hòa bình lại được sờ vào “con áo ộp” bí ẩn ngày nào… 10. Thăm Nhà Quốc hội Chúng tôi bước vào cổng, người bảo vệ hỏi vào làm gì? Chúng tôi nói đi thăm quan và họ cho vào không gây phiền hà gì. Tòa nhà Quốc hội uy nghi nổi bật trong khuôn viên rộng lớn. Chúng tôi đi đường chính giữa thẳng tòa nhà, hai bên đường hoa, đến đài phun nước rất đẹp. Tự do đi xem và chụp ảnh ở bên ngoài không được vào xem bên trong vì họ đang họp. 11. Thăm Sông Hàn Qua khu nhà Quốc hội là hướng ra bờ sông Hàn. Song song với bờ sông là bãi xe ô tô hàng hàng lớp lớp nhìn hết tầm mắt. Chúng tôi đi ngang qua bãi xe tới bãi ven sông. Sóng nước trong xanh xô vào mép đá, trong nước có nhiều hạt tảo xanh nhỏ li ti, các kẽ đá không hề có rác. Bờ sông bó bê tông, tạo thành bậc, rất sạch có thể ngồi chơi mát mẻ. Chỗ chúng tôi ngồi chơi là gầm cầu Tây giang đại kiều. Đi dọc theo đường ven sông thì đến công viên nước Hán giang. Dãy hồ bơi liên hoàn rất rộng và sạch. Nước chảy như suối từ phía bờ ra sông Hàn. Trẻ con tắm rất đông, chúng trượt nước từ các bệ trượt quanh hồ. Những con chim Hải âu bay lượn sát người. Tôi nhìn kỹ, hóa ra chúng lao xuống nhặt những thứ trẻ ăn rơi trên mặt hồ. Thiệt tài, chúng cứ lao xuống như tên bắn mà lúc bay lên đã thấy mỏ cặp được miếng mồi. Cảnh thật đẹp, an bình, vui tươi. Chúng tôi đứng xem một lúc lâu mới đi. 12. Thăm Khu phố đi bộ Tôi thấy đây như là một phố cổ của Seoul, chỉ có người đi bộ, cấm xe ô tô ra vào. Tất nhiên nó không hoành tráng như đường đi bộ Nguyễn Huệ của Sài Gòn. Giữa đường, cứ cách một đoạn lại có một viên đá trắng khắc chữ No Smoking. Mọi người đều có ý thức không xả rác ra đường. Cuối con đường có đặt 5 thùng rác, tùy từng loại mà vứt vào thùng quy định (không đọc được chữ thì nhìn ký hiệu). Phố bán đủ thứ từ hàng ăn uống giải khát đến đồ lưu niệm v.v… Có cửa hàng còn ghi giảm giá 50% cho người nước ngoài. 13. Thăm Kênh mới phục hồi Kênh này đi qua trung tâm thành phố, trước đây dân xả rác, nước ô nhiễm bốc mùi hôi thối nên chính quyền lúc đó cho lấp đi làm đường. Sau này họ nhận ra sai lầm, nhà cầm quyền đương thời lại quyết định bỏ ra rất nhiều tiền để phục hồi con kênh tự nhiên xưa, tô đẹp thêm cho trung tâm thành phố. Ai đã qua đây đều có cảm giác như con suối tự nhiên chảy qua, nước trong sạch không có chút rác bẩn nào. Nước chỉ sâu độ 30-40cm, cách một đoạn lại có những tảng đá to xếp cách đều nhau để mọi người có thể qua lại hai bên bờ kênh. Kênh sâu, bờ kênh ốp đá, có nơi người ta dán tranh, có nơi có hình chiếu tự động trông rất vui mắt. 14. Thăm Khu nhà giàu Gang Nam Hai dãy phố là những tòa nhà cao tầng rất đẹp dành cho người nhiều tiến lắm của. Chúng tôi rẽ vào một tòa nhà, lên tầng 3 để mua điện thoại. Dù ở trên cao thế mà người mua, nhất là người nước ngoài, cũng khá đông. 15. Thăm các Chùa Chúng tôi đi thăm khá nhiều chùa. Đặc biệt có chùa làm cheo leo trên vách núi cao, tuy có tay vịn nhưng rất sợ vì hiểm trở lỡ trượt chân một cái thì… Chùa to, chùa nhỏ đủ loại. Nói chung trang trí khác chùa mình, họ treo nhiều đèn lồng kiểu Hàn Quốc nửa đỏ nửa xanh. Giống ta là cũng thắp nến và thắp nhang. Còn tượng lớn thì ít nhưng tượng nhỏ xíu thì xếp tầng tầng lớp lớp, có khi còn ngồi lên tận xà nhà của chùa. Mọi người vào, bỏ tiền hòm công đức, rồi thắp nhang khấn vái, cầu nguyện… 16. Thăm Quảng trường lớn Đúng như tên gọi, quảng trường này có lẽ lớn nhất Seoul. Đến Seoul tự nhiên tôi lại có cảm giác như đất nước này rộng lớn lắm nên mới có nhiều công trình hoành tráng đến thế. Bên phải tôi là nhà đại sứ quán Mỹ to lớn, treo cờ Mỹ và có nhiều cảnh sát đi lại. Phía trước mặt, bên kia đường lớn là Cung chính của nhà vua. Hôm tôi đi ở đây lại gặp một ông biểu tình kiểu Hàn Quốc. Chỉ có một người đứng trên quảng trường lớn, lưng đeo một panô (chắc là ghi những điều mình bức xúc) đứng đó. Còn cảnh sát cứ làm việc của cảnh sát không gây phiền hà hay can thiệp gì (tất cả theo luật). 17. Thăm Cung chính của nhà vua Là cung chính nên lớn hơn về mọi mặt diện tích, cũng như nhà cửa so với Đức-Thọ Cung. Chúng tôi đi tự do, sao cho đi một vòng là hết. Thăm ngai vàng nơi vua ngự triều, khu cung tần mỹ nữ, nơi nghỉ ngơi thư giãn, nơi học tập của vua… nhà nào cũng đẹp (màu sắc, trang trí, kiểu cách đặc trưng văn hóa Hàn Quốc) nhưng tòa nhà nơi có ngai vàng vua ngự triều là lộng lẫy, rộng lớn nhất. Tôi nghe nói thời Nhật chiếm đóng, đã xóa sổ khu hoàng triều này để xây nhà làm việc. Nhưng ngay sau ngày giải phóng Hàn Quốc lại phá bỏ tất cả các công trình của Nhật rồi phục dựng lại cung chính của nhà vua như hiện nay. Cung chính chiếm cả một khu đất rộng lớn lưng dựa vào núi cảnh quan rất đẹp. Bỗng nhiên tôi nảy ra so sánh. Với cơ ngơi ấy vua quan vương triều hưởng thụ thật là quá sướng rồi, nhưng các quan ngày nay nhà cửa, tiện nghi v.v… còn hoành tráng, hiện đại hơn vua quan ngày xưa nhiều. 18. Thăm các Siêu thị lớn nổi tiếng ở Seoul như: Times Square, Home Plus… Những dãy nhà liên hoàn lộng lẫy đi mệt nghỉ. Trên sân mấy tầng lầu trồng cây xanh lớn không phải cái chậu cảnh nhỏ như ta. Có siêu thị nằm sâu ngầm dưới đất, rộng rãi, mát mẻ. Tôi thấy họ ghi thức ăn sạch. Đặc biệt khác ta là cuối giờ họ giảm giá dần. Có lẽ hàng tươi sống chỉ bán trong ngày nên khoảng gần 12 giờ đêm (giờ đóng cửa) giá cực giảm, nhiều người mua có kinh nghiệm chờ thời cơ mua hết. 19. Thăm Nhà Truyền thống Tuy gọi là nhà truyền thống nhưng đây toàn là mẫu nhà giàu có thời xưa, bộ khung bằng gỗ tốt, mái lợp ngói ống (giống ngói ống Trung Quốc). Vách ngăn giữa các phòng có thể tháo lắp liên thông tạo mặt bằng rộng rãi lúc cần. Bếp củi đun tận dụng nhiệt, khói bếp sẽ luồn dưới sàn nhà để sưởi ấm khi mùa đông giá lạnh, sau đó khói thoát ra ống khói cao ở đằng sau nhà. 20. Thăm Chợ Truyền thống Chợ nhỏ như chợ ta nhưng rất sạch sẽ, ngăn nắp, bao bì, cân đong, mặc cả, giá thỏa thuận, vui vẻ, giá rẻ. 21. Thăm Chợ Hải sản Chợ rộng như sân bóng đá, ô tô có thể chuyển hàng ra vào, các quầy ngăn nắp, sạch sẽ không có mùi tanh hôi. 22. Thăm Thư viện Quốc gia 23. Thăm Công trường xây dựng đường hầm qua núi 24. Đi ăn Kem Bát Tôi thấy người Hàn Quốc và người nước ngoài đến rất đông. Cái khác biệt ở đây là các vị khách không thưởng thức kem que, hay kem cốc mà là tô bự đầy kem. Các đôi nam nữ thường rủ nhau vào đây ăn chung một bát và có thời gian tâm sự… 25. Thăm nghĩa trang Seoul Nghĩa trang thành phố nằm trên một vùng đồi thấp và rộng lớn. Người sống ở xanh-sạch-đẹp và lúc chết cũng yên nghỉ nơi: xanh-sạch-đẹp. Nghĩa trang được phân ra từng khu, có bảng chỉ dẫn rất dễ tìm. Nào khu lính, khu tướng, khu tổng thống… Người nhà đến thăm viếng đông mà người chơi cũng đông, nơi đây sạch đẹp, thoáng mát như công viên, có ghế ngồi, xung quanh cây xanh, chim, sóc tự do kiếm mồi không lo cảnh giác con người. Riêng mộ các tổng thống chiếm khu đất rộng, xây bao quanh, đất đắp lên thành mộ to, cạnh đó có bia đá lớn ghi tên tuổi, có chỗ nhang khói. Đặc biệt mỗi khu mộ tổng thống có một bảo vệ trông nom. 26. Leo núi Seoul có đồi núi nhiều và đã ở Seoul thì không thể bỏ qua cái thú leo núi. Giữa rừng cây cối tươi xanh, con chim bay liệng kiếm mồi, gọi nhau ríu rít, con người đi trên đường rừng tự nhiên, lúc lên lúc xuống, lúc qua trái khi quẹo phải tự do khám phá. Dân rất tự giác và có ý thức giữ gìn vệ sinh chung. Từng chặng lại có nhà vệ sinh miễn phí. Thỉnh thoảng lại có ghế ngồi hay có nhà để tránh mưa, nắng. Nơi có nước miễn phí du khách uống no nê rồi đóng chai mang đi, nơi có tủ sách, ngồi nghỉ đọc rồi để lại vào tủ sách. Nơi có dụng cụ tập vận động thân thể v.v… An ninh rất tốt, không sợ trấn lột dọc đường rừng vắng vẻ. Đặc biệt trên đường còn đặt hệ thống 119 báo động cấp cứu lỡ bệnh đột ngột hay ai đó rớt xuống núi v.v… sẽ có máy bay lên thẳng đến trợ giúp đưa vào bệnh viện. Điều lạ là hầu hết những người leo núi đều là người già. Họ trang bị rất chuyên nghiệp, từ mũ, quần áo, giày, gậy v.v… Người nào không có thì thuê dịch vụ ngay ở chân núi. Tôi có gặp 3 người ăn xin ở Seoul và cũng chưa đi các tỉnh khác nên không biết có bao nhiêu nơi cuộc sống được như Seoul này? Còn bao chuyện tế nhị không nói ra được và để đỡ mất thời gian của quý vị tôi xin phép tâm sự vào một dịp khác. Phần trên tôi nói những chuyện vui nhưng của người ta, còn cảm xúc buồn là gì? Thưa quý vị chúng ta đã tồn tại bao nhiêu năm trên đất nước mình, không nói ra nhưng mọi người đều quá rõ. Cái mà chúng ta ước mơ, khao khát phấn đấu (chỉ kể từ sau ngày giải phóng đến nay đã 40 năm) họ đã có và đã là hiện thực bao lâu nay rồi. Chưa kể các nước Âu, Mỹ họ đã đạt được trước ta hàng trăm thậm chí mấy trăm năm rồi. Nói vậy không có nghĩa là ta chưa làm được gì, mà so với 40 năm trước cuộc sống chung đã được nâng cao. Theo như người ta đánh giá thì chúng ta là nước có thu nhập trung bình. Ngẫm thế hệ tôi 40 năm về trước còn trẻ đang sung sức, thấm thoắt đã thành U70 rồi thì coi như đã không hoàn thành ước mơ xây dựng nước ta thành “con rồng châu Á”. Tôi thấy mình có lỗi với con cháu, đành phải bàn giao lại cho “thế hệ” con. Thế hệ con nay cũng ở hạng U30-U40 rồi, liệu chúng có hoàn thành khát vọng ấy không hay lại tiếp tục bàn giao cho thế hệ con của chúng (tức là cháu chúng ta)… Nói vậy có quý vị cho là lo xa quá. Nhưng người ta có câu: “Thà rằng chẳng biết cho xong Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu” Vâng, người ta cứ hay nói ngược chứ thà đau chút mà biết còn hơn làm kẻ không biết gì phải không? Giờ chỉ còn biết giữ niềm tin vào tương lai. Tôi vẫn khát khao hy vọng có một ngày “Rồng Việt” sẽ bay cao. Xin chân thành cảm ơn các quý vị đã quan tâm lắng nghe. LÊ MINH CHỬ 19.8.2015 BF của nhau · Một cậu bé nói với một cô bé: - Tớ là BF của cậu! Cô bé hỏi: - BF là gì? Cậu bé cười hì hì trả lời: - Nghĩa là Best Friend đấy. · Sau này họ hẹn hò, chàng trai lại nói với cô gái: - Anh là BF của em! Cô gái dựa nhẹ vào vai chàng trai, thẹn thùng hỏi: - BF là gì hả anh? Chàng trai trả lời: - Là Boy Friend đấy! · Vài năm sau đó họ kết hôn, sinh được những đứa con thật xinh xắn, người chồng lại cười và nói với vợ rằng: - Anh là BF của em! Người vợ dịu dàng hỏi chồng: - BF là gì hả anh? Anh chồng nhìn đàn con xinh xắn và hạnh phúc trả lời: - Là Baby’s Father. · Khi họ già, họ cùng nhau ngồi ngắm hoàng hôn trước hiên nhà, ông lão lại nói với vợ: - Bà nó à! Tôi là BF của bà đấy! Bà lão cười với những nếp nhăn trên mặt: - BF là gì hả ông? Ông lão mỉm cười thật hạnh phúc và trả lời 1 cách thật thần bí: - Là Be Forever! · Khi ông lão hấp hối cũng nói : - Tôi BF bà nha. Bà lão trả lời với giọng buồn: - BF là gì vậy ông?? Ông lão trả lời rồi nhắm mắt: - Là Bye Forever! · Vài ngày sau, bà lão cũng ra đi, trước khi nhắm mắt, bà lão nói nhỏ bên mộ ông lão: - Beside Forever nha ông. Hà Mạnh Đoàn st.
* THỬ BÀN VÀI ĐIỀU VỀ MÊ TÍN - DỊ ĐOAN (Tiếp theo số 111) 5. COI NGÀY, GIỜ & KIÊNG CỮ Coi giờ và kiêng cữ chỉ là niềm tin hay sự sợ nào đó mà thôi. Ví dụ sợ cọp thì gọi là ông ba mươi, bịnh giời ăn có khi phát triển nhanh rất nguy hiểm thì người ta chỉ chỉ và nói “Nó!”, có người trong gia đình chết vì đốn cây để dựng nêu ngày 29 Tết thì họ cữ đốn cây hay cầm dao, rựa trong ngày 29 Tết… Coi ngày, coi giờ, kiêng cữ có từ lúc nào? Theo tôi, nó có từ thời bình minh lịch sử cách nay hàng ngàn, có khi tới hàng triệu năm đấy. Con người biết suy xét thì vì sợ nên họ bắt đầu kiêng cữ. Dựa vào kinh nghiệm cuộc sống, họ bắt đầu coi ngày, coi giờ. Do phương tiện ứng xử kém, họ thấy cần tránh giờ nầy, giờ nọ. Về sau, những người giàu kinh nghiệm, có trí suy xét hay những người có chút thủ thuật họ đặt ra giờ nầy của ngày nầy là thế nầy, giờ nầy của ngày kia là thế kia… Có người thì truyền kinh nghiệm để giúp người, có người thì hù dọa để người ta tới nhờ vả mà kiếm sống. Người ta coi ngày, giờ, kiêng cữ trong trường hợp nào? Có lẽ khi bắt đầu làm một việc quan trọng như cưới xin, buôn bán hay trồng trọt… Đối với quấc gia là ngày tức vị, ngày ra quân… Về ngày, giờ thì thế nào? Mỗi năm có bốn mùa, mỗi mùa có nét vẻ riêng. Có mùa nóng, mùa lạnh, mùa mát mẻ, có mùa khí trời khô, ẩm… Như vậy, mỗi mùa đều có tác động tới sức khỏe của con người cả. Ngày tháng lúc thời tiết dễ sanh bịnh, nếu chưa cần thiết thì chưa khởi sự. Do đó sự coi ngày thiết tưởng để nhắm vào sự thích hợp cho sự tiến hành công tác mà thôi. Có sức khỏe, vững niềm tin thì làm việc mới phấn chấn và hứng khởi được. Trịnh tự Quyền được sai đem quân chống Tây Sơn, ông chùng chình hơn mười ngày mới xuất quân thì Tây Sơn đã tới, ông bị đánh tan. Phải chăng ông Quyền coi ngày xuất hành thắng lợi nhưng ông bị đánh tan. Ngày cuối cùng trong tháng là ngày hối (29 hay 30 âm lịch), binh gia phải kiêng ngày đó, không ra quân. Thời Đông Châu liệt quấc, vua Hồ, vua Thẩm, Hạ Khiết và quân Sở cho là ngày hối nên không phòng bị, bị quân nước Ngô tiến đánh và đánh tan vì họ lợi dụng sự không phòng bị. Do đó tôi cho rằng coi ngày, giờ có khi không cần thiết. Ta thường thấy gần Tết thì đám cưới nhiều, phải chăng vì khí trời mát mẻ dễ chịu, hoa lá xanh tươi cho nên con người theo cái vượng khí đó mà làm đám cưới. Vả lại xưa kia thì sau khi gặt hái xong, từ Tết trở đi thì rảnh rang nên làm đám cưới để đón sự hưởng thụ. Mùa xuân, tháng giêng, tháng hai, tháng ba khí trời mát mẻ nhưng Tháng giêng là tháng ăn chơi Tháng hai trồng đậu, trồng khoai trồng cà Tháng ba thì đậu đã già Ta đi ta hái về nhà phơi khô… Như vậy, từ tháng hai đã bắt đầu lao động. Mệt vì tổ chức và ăn tết, nghỉ ngơi chưa bao lâu thì bắt tay vào lao động. Ở miền Nam vào khoảng nầy tiết trời nóng nực, đã dốc tiền, dốc tâm vào việc ăn Tết, bây giờ lại chuẩn bị nhiều thứ để làm đám cưới thì hơi phiền nên ít người tổ chức cưới xin. Còn coi giờ thì thế nào? Tôi thấy các đám cưới thường bắt đầu đi rước dâu vào lúc sáu giờ sáng cho tới tám giờ, có khi cũng tới chín giờ. Các nghi thức lễ rước dâu tại nhà gái thường là chín hay mười giờ, chậm nhứt là 11 giờ. Tới nhà trai, tôi không nghe nói làm lễ gia tiên vào lúc mấy giờ cả, có lẽ tới lúc nào làm lễ lúc đó thôi. Còn đám tang thì thế nào? Giờ động quan thường cũng vào lúc sáu giờ sáng. Ở nông thôn có khi động quan vào lúc 10 giờ hay 11 giờ nhưng thường họ khiêng ra chôn gần đó thậm chí có người chôn ngay trong khuôn viên nhà nữa. Giờ hạ rộng cũng có đấy. Ngày nay đường sá xe cộ nhiều lắm, đôi khi kẹt xe nên tới nơi nhiều khi sai giờ. Ngày nay, tôi thấy nhiều đám tang, các nhà sư không coi giờ hạ rộng. Họ nói tới lúc nào hạ lúc đó. Như thế thì thế nào? Sách coi ngày coi giờ họ dựa vào gì? Có khi họ dựa vào ngày có nhiều cát tinh như Thiên ân, Thiên hĩ, Đào hoa, Hồng loan… hay dựa vào tuổi Tý, Sửu, Dần, Mẹo… hoặc theo Tử vi, sao thủ mệnh là gì, sao ứng hợp nào thì tốt… Nhưng gần địa cầu có mặt trăng thôi, các sao khác thì xa lắm. Ảnh hưởng của nó không lớn lắm đâu. Mặt trăng thì ảnh hưởng tới nước lớn nước ròng. Có khi coi giờ người ta cũng dựa vào nước lớn nước ròng nữa đó. Đi lạc ra ngoài một chút, việc các vì sao ảnh hưởng đến con người chi phối nhiều vào việc coi bói, tôi cho là không đúng. Làm việc gì có thành công hay không nó thuộc vào lý trí, ý chí và sự quyết tâm chớ ngày, giờ, tuổi tác, hợp, kỵ… không phải là yếu tố quyết định. Bản thân tôi, khi tử vi vào đại hạn có ĐÀO, HỒNG, HỈ tương hợp, đó là mười năm tốt về việc cưới xin. Nhưng suốt mười năm đó tôi cũng không muốn cưới ai. Người thì mặt mày không hợp, người thì tánh tình, cách cư xử không hợp nên không chủ động tiến tới hôn nhơn. Do đó tôi cho lý trí mới là yếu tố quyết định. Nhiều người có quan điểm cho rằng khi bắt đầu công việc, ta bắt đầu vào buổi sáng vì trời càng lúc càng tươi sáng, càng ấm áp nên việc của ta hy vọng mỗi lúc một tốt hơn. Còn buổi chiều, trời tối lần, cảnh vật ảm đạm lần buồn lắm. Thầy thuốc thì cho rằng chiều tối rủi bị cảm lạnh thì chết vì sách thuốc có câu: “Hàn cảm hàn tắc tử”. Ngoài yếu tố sáng, chiều còn yếu tố nào nữa không? Xưa kia đi xa người ta thường dùng xuồng, ghe nên yếu tố nước lớn nước ròng cũng cần thiết lắm. Yếu tố này thì do ảnh hưởng của trăng tròn hay khuyết. Đi rước dâu người ta kiêng việc phải dừng lại. Hễ đi thì mau hay chậm vẫn phải đi liên tục cho tới nơi. Kiêng là vậy nhưng chẳng có nghĩa gì. Đi rước dâu cho cháu tôi, xe chạy lố ba cây số, xe phải quay lại. Ấy thế mà hai vợ chồng nó vẫn sống vui vẻ, con cái đầy đủ đấy. Vì kiêng dừng lại nên thầy phải coi giờ sao cho khi khởi hành nước bắt đầu lớn, tới nơi là nước đầy sông để làm lễ xong nước còn lớn và về tới nhà, dù ròng, nước vẫn còn nửa sông. Nhưng coi theo nước lớn nước ròng cũng không ổn vì chỗ nầy lớn, hai giờ sau chỗ kia mới lớn thì thế nào? Khi viết bài nầy tôi tới cột cờ thủ ngữ ở dốc cầu Khánh Hội - Quận Tư coi nước lớn và ròng lúc 6 giờ, 9 giờ và 11 giờ (buổi sáng) thì thấy có nửa tháng nước lớn nửa tháng nước ròng. Nhưng từ 9 giờ tới 11 giờ thì có hai mươi ngày nước lớn. Đối chiếu sách mực nước thủy triều, nước ròng thấp nhứt là còn cao 2,4 mét, nước lớn thấp nhứt là cao 2,1 mét. Như vậy nếu tin vào nước nhiều ở sông là tốt thì tiến hành công việc từ 9 giờ tới 10 giờ sáng là được. Tôi cho rằng không cần phải coi giờ, coi ngày vì cần phải theo thời tiết nên cần lưu ý đôi chút. Ngay từ xưa, việc coi giờ cũng phải du di. Thời nhà Trần, lễ di quan Nhân Tôn Thượng Hoàng, dân xem đầy đường nên không tiến hành được. Quan Chỉ hậu Chánh chưởng Trịnh Thượng Tứ tạo ra khúc hát Long ngâm cho binh sĩ đi hai bên đường vừa đi vừa hát, dân ra nghe và xem hát bấy giờ mới rước được quan tài vua đi. Từ lúc thấy tình thế không đi được tới lúc nảy ra tạo khúc hát và tạo được khúc hát. Sau đó dạy cho lính vừa đi vừa hát cho tới lúc dân tản ra và di quan được, tôi tính có lẽ mất ít nhứt 120 phút thì có lẽ đã trễ giờ hạ rộng rồi. Tóm lại, việc kiêng cữ, coi tuổi, coi ngày, coi giờ… ta phiên phiến bỏ đi. Quận Tư-Khánh Hội-Sàigòn ngày 18.6.2015 NHỰT THANH (Phạm Hiếu Nghĩa)
Dương Lêh Tính đến nay ông Thăng đã “ôm” cái cây cao su này gần hai chục năm rồi. Thực ra ông Thăng chạy xe ôm và sử dụng cây cao su tại ngã tư này làm bến đậu của ông. Từ đây làm điểm xuất phát cho ông đi khắp các hướng trong thành phố Saigon này. Nghề của ông là để cho người ta “ôm”, nhưng đối với cây cao su tại ngã tư này là ông phải “ôm” nó. Nói đúng ra làm nghề xe ôm, nhưng khi ông chở khách đàn ông hay đàn bà có ai ôm ông thiệt đâu. Khách ngồi phía sau nhất là phụ nữ người ta vẫn giữ được một khoảng cách dù rất nhỏ đủ để ngực không chạm vào lưng ông tài xế ôm. Cái khó chịu nhứt đối với khách đi xe ôm là phải chịu đựng cái mùi mồ hôi của chiếc áo khoác ông tài đang mặc, “lan tỏa” vào mũi của khách đi xe. Vì chiếc áo thấm mồ hôi cho nên nó… hôi lắm. Nhiều người cho đó là cái mùi đặc trưng của đàn ông, thực ra không phải người đàn ông nào cũng có cái mùi đó, mà chính là cái mùi của những người đàn ông không biết cách giữ gìn vệ sinh cá nhân. Lợi dụng cái điểm yếu này của đàn ông, những nhà sản xuất mỹ phẩm đã sản xuất ra nhiều loại sản phẩm chuyên trị cái mùi này. Từ đây phát sinh ra cái tâm lý là người nào sử dụng sản phẩm đó tự cho là lịch lãm, sang trọng biết sử dụng tiền của để mua mỹ phẩm. Giá như những người đàn ông này có đọc sách, đọc báo họ sẽ được hướng dẫn để dùng một thứ hóa chất rất rẻ tiền có bán đầy ở các nhà thuốc tây. Mua về sử dụng thường xuyên sẽ trị dứt điểm. Phụ nữ cũng vậy. Các bà nên tìm hiểu để mua loại hóa chất đó để trị dứt điểm cái mùi mồ hôi đặc biệt này. Ông Thăng thì ngược lại, từ khi vô nghề đến nay, ông Thăng giữ vệ sinh cá nhân rất kỹ. Khi đi “làm việc” ông ăn mặc rất tề chỉnh, dù chỉ với cái sơ mi trắng cụt tay bỏ vô cái thùng là một quần kaki vàng, khoác thêm cái áo gió là hàng quảng cáo mà ông được tặng cách đây mấy năm khi ông mua một đầu video cho vợ con xem phim từ những băng cát-xét to bằng cái bóp cầm tay của phụ nữ. Ông không dùng nước hoa vì đó là một thứ hàng xa xỉ đối với một tài xế xe ôm. Thực ra, ông cũng không thích bất cứ một loại nước hoa nào cả cho dù nó thơm lừng như trên TV quảng cáo. Ông lại có thành kiến với người sử dụng nước hoa. Ông cho rằng một người sử dụng nước hoa, đi ngang bay mùi thơm phức, người này rất có thể có mùi mồ hôi đặc biệt sao đó nên phải dùng nước hoa để trấn áp nó. Có lần ông Thăng đi dự một tiệc cưới, ngồi bên cạnh một phụ nữ, bà này hình như đã “tắm” nước hoa trước khi đến dự tiệc nên từ người bà bốc lên một mùi hương ngào ngạt. Đột nhiên ông Thăng phát lên nhảy mũi liên tục. Ông lấy cái khăn ăn chụp lên mặt. Cơn nhảy mũi vẫn tiếp tục. Chín lần, mươì lần… Ông chợt nghĩ ra liền vội đứng dậy, xin lỗi bà ta, rồi đi về hướng toilet, tiếp tục nhảy mũi trong cái khăn ăn. Khi trở ra, ông kín đáo nhờ người hướng dẫn cho ngồi vào một bàn khác, gần với các bô lão. Ông đã bị dị ứng với mùi nước hoa. Từ đó khi đi “làm việc” ông thường phải đeo khẩu trang, nhất là khi có một phụ nữ ngồi phía sau. Những khi chạy theo khách liên tục đến các quận xa ông thỉnh thoảng dừng chân ở những “bến” có vài người quen biết để hàn huyên dăm ba câu chuyện phiếm. Từ đó ông nhận xét, trong giới xe ôm cũng có được mấy lớp người, lớp trẻ, lớp xồn xồn, và lớp già cỡ ông Thăng. Cỡ ông Thăng tức là cỡ trên năm mươi đến vừa quá sáu mươi. Rất ít có tay nào kéo đến sáu lăm. Vừa qua sáu mươi là lo “đá chống” kiếm đường nghỉ ngơi rồi. Qua chuyện trò ông Thăng thấy khá nhiều “tài” xe ôm đều có những hoàn cảnh khó khăn, không theo được việc học hành. Nhứt là mấy anh chàng xồn xồn suy nghĩ không tới đâu, không biết tôn trọng khách. Thấy khách gọi cứ nghĩ “ta ở đẳng cấp cao”, nói chuyện với khách một cách cộc lốc: - Đi đâu? - … - Bảy chục. - … - Cho bà đi kiếm xe khác đó! Bà khách đành phải bước lên xe, vì chỗ đó ít có xe ôm trong khi bà cần đi gấp lên chùa. Bà này cũng không dám đi taxi vì sợ mấy ông tài này chạy lòng vòng rồi cứa bà cũng trên trăm bạc. Ở các ngã tư người ta thường thấy mấy ông xe ôm nằm dài trên xe phơi bụng chờ khách. Cái hình ảnh này thật vô cùng xấu xí, nhưng tiếc một điều là không thấy vi phạm bất cứ điều luật nào của Việt Nam, cho nên không thấy ông cảnh sát nào hỏi thăm sức khỏe. Đa số mấy ông xồn xồn này không chú ý đến vấn đề ăn mặc. Trong khi chạy xe thường mặc áo ngắn, phanh ngực, sau lưng đẫm ướt mồ hôi có đường viền là lớp muối trắng từ mồ hôi đã bay hơi. Đám tài xế trẻ thì khác hẳn. Khách dù kỳ kèo khó chịu đến đâu họ không để vuột mất. Nhưng khi khách đã đồng ý lên xe rồi thì mấy ổng tha hồ chạy, chạy tự do, vượt đèn đỏ nếu cần, miễn sao mau về điểm đến. Mấy ông trẻ này thường bao sân từ tối đến sáng hôm sau. Nhiều người có mối sẵn là những ca sĩ hát ở các tụ điểm ca nhạc, các nhà hàng đám cưới, những người đẹp ở các nhà hàng ôm, nhà hàng “dựa”. Đây là loại nhà hàng mà các cô tiếp viên không được ngồi bên cạnh khách để cho khách ôm ấp, “mát xa, mát gần” mà chỉ được đứng sau lưng ghế khách, ẹo qua ẹo lại làm màu. Khách khó mà sàm sở được gì cả. Nhưng khi khách ra về mấy cô nàng này đòi tiền “bo” theo thời giá ở những nơi có các cô được ngồi bên cạnh khách. Nhiều ông khách than thở: - Tiền “dựa” sao mà đắt quá vậy! Nghe đâu ngoài Bắc mới phát sinh “xe ôm nữ”. Tài xế là nữ, là những cô gái trẻ trung xinh xắn, chạy xe ôm như cánh đàn ông. Ông Thăng thấy cũng hay. Hình ảnh tài xế xe ôm đàn ông mặt mày bặm trợn sẽ lần lần được thay thế bằng những khuôn mặt khả ái của những cô gái trẻ, làm cho thành phố có phần tươi mát hơn. Một số cao niên như ông Thăng may mắn kiếm được cái bằng tốt nghiệp cấp ba nên thỉnh thoảng ghé sạp báo kẹp một tờ để khi dừng chân nghỉ ngơi, lấy ra xem cho biết tin tức thời sự. Ngày nào ông cũng mang về một tờ báo và khuyên đứa con gái sau đọc để biết tin tức hoặc những thông tin liên quan đến việc học hành. Thằng con trai lớn của ông đã tốt nghiệp một trường kỹ thuật và đi làm việc tại một xí nghiệp cơ khí, an phận với cuộc đời công nhân, lấy dầu nhớt, mỡ bò làm bạn bè thân thích. Ông muốn con gái ông phải giỏi hơn anh của nó và ông rất mừng khi thấy nó đã vào được đại học, sau kỳ hè này nó sẽ được lên năm thứ hai. Từ năm ngoái ông đã mua trả góp một giàn máy vi tính cho con gái sử dụng. Ông cũng mày mò nhờ con gái chỉ dẫn để xem báo, viết thư từ giao dịch. Ông nghe một cô giáo cùng xóm kể một học trò của cô có cha mẹ ở dưới quê làm ruộng mà biết sử dụng vi tính, và trong nhà có cả một tủ sách, không lớn lắm, chừng vài trăm cuốn trở lại, hầu hết là sách xưa. Câu học trò này cứ mỗi lần nghỉ hè về quê thường ở miết trong nhà để đọc sách. Cậu cho như vậy là thích lắm. Ông Thăng nghe chuyện, cảm thấy rất bái phục gia đình này. Ông thường khuyến khích con gái lên mạng tìm sách đọc. Thấy ông già cứ nhắc đi nhắc lại hoài cái chuyện đọc sách, cô bé lầu bầu: - Được rồi, ba ơi! Để có thời gian con tìm đọc mà! Thấy mình có phần quá đáng, ông Thăng đành phải im lặng. Tuy nhiên ông cũng cảm thấy hài lòng vì nếu ông không cương quyết quay trở về Saigon sinh sống thì hai đứa con ông giờ này một đứa thành nông dân và một đứa thành cô thôn nữ quê mùa, chứ ông đâu có khả năng cho hai đứa lên Saigon ăn học giống như gia đình nông dân mà cô giáo trong xóm đã kể. Ngày ấy, thời buổi khó khăn, kiếm sống chật vật quá, ông Thăng nghe lời bạn bè xúi giục về quê sống cuộc đời nông dân, không cần phải bon chen, vất vả như ở Saigon. Có cùng cực lắm cũng vẫn có cái ăn, không sợ đói. Ở dưới quê được một thời gian gần hai năm, Ông Thăng cảm thấy vô cùng thoải mái. Miếng đất của ông chú nằm cạnh bờ sông, nhà ở muốn nới rộng sao cũng được. Ông Thăng có một gian riêng rộng rãi làm nơi cư ngụ cho gia đình nhỏ bé của ông. Vào những buổi chiều Chủ Nhật, ông chú bày một bàn phía sau vườn cạnh bờ sông. Ông gọi hai người con trai đang làm việc ngoài thị xã về ráp lại ngồi nhậu lai rai với các loại cá, nướng, xào, chiên đủ kiểu trong lúc gió thổi liu riu mát lạnh. Thật là thần tiên! Ông chú có dành cho ông Thăng một vuông đất khoảng nửa công để ông trồng trọt kiếm thêm thu nhập. Ông Thăng đã bỏ công sức trồng đậu phọng và chỉ ba tháng sau ông kiếm được chút đỉnh tiền, mua một ít quà cáp cho vợ con. Trong thời gian chăm sóc cái rẫy đậu phọng của mình, ông Thăng cũng tham gia vào công việc đồng áng của ông chú và cũng được ông chú thưởng cho một ít tiền công. Vợ ông ngoài thời gian chăm sóc con cái cũng tham gia vào khâu chăn nuôi đàn heo và đàn gà của ông chú. Ông nghĩ, ông cũng giỏi lắm. Dân Saigon về quê mà có đủ sức khỏe để làm ruộng, làm rẫy, thích nghi với mọi công việc nhà nông. Khi thằng con trai lớn bước vào năm tuổi thứ sáu, cái tuổi mà mọi đứa con nít đều phải bắt đầu đi học. Ông như bừng tỉnh cơn mê. Ông nghĩ nếu cứ đeo bám ông chú như thế này thì không biết đến đời nào ông mới có được một căn nhà, một miếng đất để canh tác nuôi sống gia đình của ông. Rồi ông nghĩ đến tương lai hai đứa nhỏ, mươi mười lăm năm nữa chúng sẽ là những nông dân, mỗi sáng vác cuốc ra đồng làm cỏ lúa thuê cho người ta, hay đào mương, tát đìa, chiều về xách vài con cá, bỏ túi năm bày chục một trăm ngàn. Vậy là xong. Một tương lai tối tăm mù mịt! Tự nhiên ông cảm thấy hốt hoảng, và ông đã bê trọn gia đình của ông “tháo chạy”… Mục đích cuộc tháo chạy của ông không đâu khác hơn là chạy về Saigon tá túc tại nhà cha mẹ ruột của ông vốn dĩ đã chật hẹp bấy giờ phải chứa thêm bốn nhân khẩu. Những ngày đầu về lại Saigon, ông Thăng nghĩ phải làm sao kiếm được một công việc gì đó có thu nhập liền để giải quyết khâu ăn uống mỗi ngày cho gia đình bé nhỏ của ông chứ không thể ăn bám vào gia đình cha mẹ ông, rất là phiền. Nghĩ tới nghĩ lui, ông và bà xã “nhất trí”, hai người một ý, là ủng hộ ông vào nghề xe ôm. Thế là ông và bà xã ông trút hết “hầu bao”, kể cả nhẫn cưới đang đeo ở tay. Đối với ông Thăng tài sản của ông lúc bấy giờ chỉ có chiếc nhẫn cưới là chủ lực và là duy nhất, phần còn lại là của bà xã và tài sản của bà xã cũng chỉ là hàng còn lại sau ngày đám cưới của hai người. Cuối cùng ông Thăng cũng mua được một chiếc xe “Rim” của Trung Quốc. Ngày hôm sau, ông bắt đầu cho sự nghiệp của mình… Dương Lêh
THẰNG NHÓC Histoire d'un Enfant của Alphonse Daudet Hải Đảo Của Tôi (tt) Thình lình cha tôi trở nên khó tánh dễ sợ. Thường xuyên ông bộc lộ tư cách ra ngoài: nóng nảy, thô bạo, quá đáng... thích quát tháo, thích đập bể, thích sấm sét... Nói tóm lại, cha tôi vốn là một người đàn ông tuyệt vời, với đôi tay nhanh nhẹn, với tiếng nói to và trịch thượng làm rung sợ mọi người chung quanh. Sự bất hạnh thay vì quật ngã ông, thì càng làm cho ông phát điên lên. Từ sáng đến chiều, chỉ có giận dữ mà không biết vì lý do gì; ông giận tất cả, ông giận mặt trời, ông giận cơn gió, ông giận anh Jacques, ông giận bà vú già Annou, ông giận cách mạng... Chỉ cần nghe lời than của cha tôi là bạn có thể đoán được rằng, cái phong trào cách mạng 18... nầy đã chủ trương đặc biệt để chống lại cha tôi. Sự thật thì cái khủng hoảng kinh tế đi theo cái khủng hoảng chánh trị, nên chẳng có thể nào phục hồi được cái cơ xưởng vốn đã bệnh hoạn. Cách mạng thì đa mang công việc... Cho đến ngày hôm nay, khi mà ông Eyssette già đi, (Cầu Trời phò hộ cho ông), thì vướng phải bệnh thấp khớp, ông nằm dài trên ghế trường kỷ một cách khó nhọc, và chúng tôi nghe ông càu nhàu: - A! Cái phong trào cách mạng nầy. Vào cái thời tôi nói chuyện thì ông Eyssette hãy còn khỏe. Cái nỗi đau đớn về sự nghiệp bị sụp đổ, đã tạo ra nơi ông một con người mà không ai dám đến gần. Người ta phải trích lấy máu của ông mỗi tuần một lần. Chung quanh ông mọi người đều im lặng. Người ta sợ. Nơi bàn ăn, chúng tôi hỏi xin bánh mì bằng lời nói thì thầm. Người ta không được khóc trước mặt ông. Như vậy đó, nên khi ông vừa quay gót đi ra, thì tiếng khóc bật ra từ đầu nhà đến cuối nhà... mẹ tôi, bà vú già Annou, anh Jacques và cũng có Anh Cả Linh Mục khi đến nhà chơi, mọi người đều khóc... Mẹ tôi khóc thì có lý do, vì bà thấy chồng bà bạc phước, Anh Cả Linh Mục và bà vú già Annou khóc vì thấy mẹ tôi khóc. Riêng về phần anh Jacques thì hãy còn nhỏ để hiểu biết được điều bất hạnh của gia đình. Anh chỉ lớn hơn tôi hai tuổi. Anh khóc chỉ vì nhu cầu, vì yêu thích. Anh Jacques là một đứa trẻ kỳ khôi. Đó là một đứa trẻ có cái năng khiếu chảy nước mắt. Tôi không còn nhớ rõ, lúc nào tôi cũng thấy đôi mắt anh đỏ chạch trong nước mắt. Ban chiều, ban sáng, ngày cũng như đêm, ở nhà cũng như ở trường, anh cứ khóc mãi, anh khóc khắp mọi nơi. Khi có ai bảo: - Mầy làm sao vậy? Thì anh trả lời: - Tôi không sao cả. Và thật là buồn cười rằng, anh ta chẳng có sao cả. Anh khóc như người ta bị chảy nước mũi thường xuyên, vậy thôi. Có lúc, cha tôi bực bội mới bảo mẹ tôi: - Cái thằng nhỏ nầy dị hợm, bà nhìn nó kìa. Đúng là một dòng sông đang chảy. Mẹ tôi dịu dàng trả lời: - Ông muốn làm sao đây. Lớn lên thì nó sẽ hết thôi. Ở tuổi nó tôi cũng từng như vậy mà. Chờ đợi cho anh Jacques lớn lên, anh Jacques lớn lên nhiều hơn nữa và tật nầy thì không dứt. Trái lại, cái khuynh hướng khóc vẫn tăng gia đến lạ lùng, khóc như mưa đổ càng ngày càng nhiều thêm. Sự phiền hà của cha mẹ tôi càng làm cái cớ để anh khóc cho bằng thích. Đến một dạo, người ta để mặc tình cho anh khóc thoải mái mà không ai thèm hỏi tới: “Mầy làm sao vậy?”. Nói tóm lại, đối với anh Jacques cũng như đối với tôi, thì sự sụp đổ của gia đình cũng có cái góc độ dễ chịu của nó... Riêng về phần tôi thì tôi rất là hạnh phúc. Người ta không còn để ý đến tôi nữa. Tôi có dịp để chơi đùa với thằng Rouget trong cái cơ xưởng vắng vẻ mà bước chân của chúng tôi vang dội như trong thánh đường, cái sân rộng lớn đã mọc đầy cỏ. Thằng bé Rouget là con trai của chú gác cổng Colombe, mới lên 12 tuổi, khỏe như con bò, tận tụy như con chó, khờ khạo như con ngỗng, và lạ lùng hơn nữa về cái mái tóc bồm xồm màu đỏ mà người ta đặt cho nó cái biệt danh là Rouget. Tôi sẽ nói với bạn điều duy nhất nầy. Rouget đối với tôi thì không phải là Rouget. Nó thay phiên làm tên mọi Vendredi trung thành, làm bộ tộc mọi, làm nhóm thủy thủ nổi loạn, làm tất cả những gì tôi thích. Chính ngay cả tôi, tôi không phải là Daniel Eyssette, tôi là một con người kỳ quái mặc áo da thú mà người ta đã kể trong chuyện phiêu lưu, ông Crusoé đó... một sự điên rồ thú vị. Sau buổi cơm chiều, tôi đọc lại quyển truyện Robinson và học thuộc lòng. Sáng ra tôi chơi, tôi đóng kịch hăng say, và những cảnh quang chung quanh, tôi đều đặt cho một vai trò trong bản hài kịch của tôi. Cái cơ xưởng không phải là cơ xưởng nữa; nó là một hòn đảo hoang vu. Ôi, hòn đảo thật là hoang vu. Những cái hồ nước là đại dương. Mảnh vườn là khu rừng rậm. Trên những cây bàng có hàng tá con ve sầu đang đóng vai trong vở kịch mà chúng không biết. Chính đến thằng Rouget cũng vậy, nó không màng đến cái vai trò quan trọng của nó. Nếu người ta có hỏi nó Robinson là gì ắt nó phải lấy làm bối rối. Song, tôi phải nói là nó đóng vai trò rất là nhiệt tình, và để bắt chước tiếng gầm gừ của dã thú thì không ai làm được như nó. Nó học ở đâu thì tôi không được biết. Luôn luôn là tiếng gầm rống phát xuất từ trong cổ họng của nó, với cái đầu bờm lắc lư nó có thể làm run sợ kẻ gan dạ nhất... Chính ngay cả tôi là Robinson, đôi khi tôi cũng bàng hoàng, nên tôi nhắc nhở nó: - Đừng la to quá, Rouget, mầy làm tao sợ. Rủi thay, nếu Rouget bắt chước được tiếng gầm hoang dã, thì nó cũng còn biết một số câu nói thô tục ngoài đường phố, vì sự thờ ơ dạy dỗ của cha nó mà trẻ con có giáo dục thì không nên biết đến. Còn tôi, cứ mãi chơi với nó, tôi bị tạp nhiễm cách nói chuyện của nó... Cho đến một ngày nọ ngay giữa bữa ăn, một tiếng nói kinh khủng được phát ra từ miệng tôi mà tôi không biết tại sao. Mọi người đều chưng hửng. - Mầy học câu nói nầy ở đâu vậy? - Ai dạy cho mầy nói như vậy? Quả thật là một biến cố. Ông Eyssette bảo: - Phải lập tức đưa tôi đến nhà Giáo Huấn. Anh Cả Linh Mục, người mà tôi kính trọng nhất, thì bảo nên gởi tôi đến phòng Xưng Tội, bởi vì tôi đã đến tuổi trưởng thành. Người ta dẫn dắt tôi đến Nhà Thờ... Sự việc trở nên trầm trọng. Tôi không ngủ được cả hai đêm trường. Sao mà nhiều tội lỗi thế nầy. Không còn gì khổ sở hơn. Tôi có được khoan hồng thì cũng vậy thôi. Một khi đã quỳ gối xuống bục gỗ xưng tội thì phải trình bày tất cả với Ông Cha Đạo, tôi cảm thấy bối rối chết đi được. Rồi cũng xong. Tôi không muốn chơi với thằng Rouget nữa. Bây giờ tôi mới hiểu rằng ý tưởng xấu đang mang nhiều bộ mặt để có thể cám dỗ chúng ta, và nó đang mượn bộ mặt của thằng Rouget để xui tôi lầm lỗi với Trời Đất. Như vậy đó, khi mà về đến nhà, tôi liền thông báo cho thằng Rouget biết là nó nên ở luôn bên nhà nó đi. Thằng Rouget khốn khổ. Cái mệnh lệnh nầy làm đau lòng nó, nhưng mà nó vẫn tuân thủ không một lời phiền trách. Đôi khi tôi bắt gặp nó đứng trước cửa nhà, nó đứng đó mà buồn bã, và khi thấy tôi nhìn, nó bèn cất tiếng gầm rống vừa lắc lư cái đầu bờm để cố làm cảm động tôi. Nhưng mà nó càng gầm rống to bao nhiêu thì tôi càng xa lánh nó bấy nhiêu. Tôi xét thấy nó cũng giống như con sư tử đang tìm cách nuốt người, mà Ông Cha Đạo đã nói với tôi. Tôi la nó: - Đi đi, mầy làm cho tao tội lỗi quá nhiều. Mầy làm cho tao phát gớm mầy rồi. Thằng Rouget thì cứ gầm cứ rống như vậy được vài hôm. Kế đó, người cha trở nên bực mình vì tiếng gầm rống mãi ở trong nhà, nên gởi nó đi gầm rống ở một cơ xưởng học nghề, và tôi không hề gặp lại nó nữa. Cái thằng Rouget tội nghiệp. (Còn tiếp) Thanh Châu dịch thuật
Phụ Bản IV
COI CHỪNG ! NHỮNG CỬ-CHỈ THÔNG-THƯỜNG CÓ THỂ BIỂU-LỘ TÂM-TÍNH CON NGƯỜI Do những cử-chỉ, những hành động thường ngày, người ta có thể biểu-lộ được tâm tính riêng. Bởi vì mỗi tâm tính phát biểu ra ngoài bằng những cử-chỉ riêng. Đây là một thứ bản thống kê để nhận xét tâm tính con người, do nhiều kinh-nghiệm tạo nên các bạn thử nghiệm xem có đúng chăng? BƯỚC ĐI Ở NGOÀI ĐƯỜNG - Bước đi nặng nề và ầm-ĩ Bước đi nặng nề và rầm rĩ không biểu-lộ tính cương-quyết như người ta nhầm. Trái lại, nó biểu-lộ tính nóng nẩy, sốt ruột. - Bước đi nhẹ nhàng, êm dịu Lịch-sự biết để ý nghe người khác. Đôi khi biểu-lộ tính dối trá. - Khi bước đi đặt đầu bàn chân xuống trước Hơi vụng về, kém thông-minh. Đôi khi lố. - Tay đi vung vẫy Đãng trí, khờ khạo hay mơ mộng. - Lúc đi, tay thuờng để túi quần Vô tư lự, có vẻ lười, ngông. - Lúc đi, thuờng chắp tay sau lưng Nghiêm-nghị, tốt, tính thẳng thắn, có thứ tự. - Lúc đi chắp tay trước bụng Vui đời, thích ăn ngon, ích-kỷ. - Vừa đi vừa đọc báo Ít kiên tâm, nóng nẩy, hay bất mãn. - Vừa đi vừa đếm bước, hay đếm gạch Hay băn khoăn, trí hay lo âu. CÁCH NGỒI TRÊN XE LỬA, XE ĐIỆN, XE BUÝT, Ở NƠI CÔNG CỘNG - Thích nói chuyện về cảnh ngộ mình với người kế bên Tầm thường, tâm hồn yếu ớt. - Ngồi để tay trên đầu gối Yếu sức khỏe, tính buồn rầu, chậm chạp. - Ngồi khoanh tay Quả quyết, cương-quyết thẳng thắn. - Dựa đầu vào tay Yếu, thiếu máu. - Ruỗi thẳng hai chân Ích-kỷ, kém lịch-sự, hay gây chuyện. - Ngồi nép một xó Tính hiền lành, nhụt. - Hay ngó sang để đọc báo người ngồi bên Tò mò, hay khoe, tính soay sỏa. VÀI THÁI ĐỘ TRONG VÀI TRƯỜNG HỢP - Cảnh binh ra hiệu bắt ngừng xe, để biên phạt. Bạn cãi lại, viện lý lẽ… Tính bướng bỉnh. Dại dột. - Bạn bình-tĩnh, lấy giấy tờ đưa ra Tính thẳng thắn, hiểu trách-nhiệm. - Rối trí… Có tự-ty mặc-cảm (tự khinh mình sợ sệt) - Xả tốc lực chạy đi. Tính tình dữ. - Kêu van xin tha lỗi Sợ trách-nhiệm, tính hèn. - Vào hiệu ăn, người bồi đánh đổ rượu, nước trà, cà-phê vào quần áo. Bạn mắng chửi rầm rĩ. Tính tầm thường không hòa-nhã. ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st Tản mạn PHỤ NỮ VÀ TÌNH YÊU Đàm Lan Khi nói đến một người phụ nữ, phần lớn người ta liên tưởng ngay đến tình yêu. Vì sao lại thế? Nói cho nhanh luôn rằng: Phụ nữ gắn liền với đời sống tình cảm, xem tình cảm là điều quan trọng nhất, thường bị khuất phục bởi tình cảm, bị cuốn đi bởi tình cảm, và hầu hết dùng cả cuộc đời cho tình cảm, và phần lớn nhận về mình rất nhiều thương tích cũng bởi vì tình cảm. Phụ nữ được ví như những loài hoa. Cũng đúng thôi, vì nhan sắc của họ, vì sự mỏng manh của họ, và cũng vì sự quyến rũ mơ màng của họ nữa. Phụ nữ sinh ra là để yêu và được yêu, là để được chìu chuộng nâng niu, vì họ yếu đuối mà, vì họ mảnh mai mà, vì họ đáng yêu đến thế kia mà. Nhưng thật là kỳ quái. Nếu tất cả những người phụ nữ sinh ra đều được yêu chìu như thế thì làm gì còn có khái niệm “đa đoan”. Thử xem lại một chút nhỉ. Yêu. Được yêu. Đương nhiên rồi, nhưng cái yêu ấy chỉ là khúc dạo đầu, tiếp sau cái yêu ấy là cả một núi trách nhiệm bổn phận yêu cầu thiên chức đè sập xuống đôi vai nhỏ nhắn mảnh mai của họ. Cái gọi là ưu đãi của tạo hóa ban cho họ lại trở thành những cuộn lưới thép bó tròn thân phận. Để rồi cả một đời họ phải mang vác cong lưng. “Đau khổ là đấy nhưng hạnh phúc cũng là đấy. Nếu không thế thì cũng chẳng còn gì gọi là giá trị của phụ nữ cả”. Có nhiều người đang bảo thế đấy. Quá đúng. Chẳng cãi vào đâu dược. Và cũng vì chẳng cãi vào đâu được mà ngùi ngậm cho một kiếp đàn bà hết thế hệ này sang thế hệ khác. Méo tròn cơn cớ cũng bởi một chữ Yêu. Phụ nữ và Tình yêu như một cặp phạm trù liên kết. Cái chính là ở chỗ phụ nữ luôn muốn được yêu thương ve vuốt chăm sóc ấp ủ, kể cả tuổi già cũng thế, khác nhau là cách thức chứ không khác về tâm ý. Vì vậy mà phụ nữ luôn cần một người đàn ông. Trách đàn ông là đa tình, là đểu giả, là tham lam thì đúng, nhưng đàn ông có thế được không là ở sự tiếp tay của phụ nữ. Chỉ cần một tướng mạo, một ánh mắt, một lời nói, một cử chỉ ở người đàn ông gây nhiễu loạn tâm tư, thì người phụ nữ đã chênh chao ngả về một phía, dấn thêm chút nữa thì sẵn sàng lắm một vòng tay. Phụ nữ khi đã yêu thì chẳng còn cân nhắc xét suy gì cả. Có biết là hố sâu rừng thẳm thì cũng cứ lao vào, cho thỏa cái khao khát yêu đương, cho bõ đắm say nồng cháy. Cứ trải hết mình cho mối tình mà mình đang đắm đuối. Để rồi khi phải nhận lãnh những điều tệ bạc, vẫn cố tìm những lý do để biện minh, không chỉ bào chữa cho tình cảm của mình, còn là bảo vệ sĩ diện cho người đàn ông mà mình yêu, và rồi, nếu có một ngày sau bao trông mong chờ đợi, người đàn ông ấy trở về bất cứ trong bộ dạng nào cũng chấp nhận. Nói một cách cao cả thì là bao dung rộng lượng, nhưng thực sự thì cái tình yêu ấy vẫn còn âm ỉ trong tâm can, bởi nếu không còn yêu thì chẳng thể nào dung dưỡng lại được một người đã tệ bạc với mình. Cũng vì cái sự nệ cảm, phụ thuộc vào tình cảm của người đàn ông nên phụ nữ thường tự hạ thấp giá trị mình, chỉ cốt vừa lòng người đàn ông ấy, bởi lẽ hầu hết tất cả đàn ông đều có nhu cầu oai phong, nói cách khác là sĩ diện, có không hơn được ai thì ít nhất cũng phải cảm thấy hơn được người phụ nữ của mình. Đàn ông cũng vì thế mà cho dù được rất nhiều ở những người phụ nữ vẫn cứ là coi thường xem rẻ. Không những thế rất nhiều đàn ông còn đem chuyện có được tình cảm của nhiều phụ nữ khoe khoang như một loại thành tích. Mà không ít trong số họ biết cách tận dụng triệt để nhược điểm của phụ nữ để thỏa mãn mình nhiều mặt. Cho dẫu ngày nay, số lượng phụ nữ có cá tính, có chủ động cả về vị thế xã hội lẫn kinh tế có tăng dần, và cũng kha khá người biết cho mình cái quyền lựa chọn đối tượng tình cảm, biết xem xét cân nhắc nhiều mặt của cuộc sống, biết thoát dần khỏi cái bóng đàn ông, nhưng con số ấy vẫn chưa phải là đáng mừng, vẫn còn nhiều nhiều lắm là những trái tim vụng dại. Nói thì tự ái, nhưng cho dù phụ nữ có nhiều ưu thế đến đâu cũng khá dễ dàng bị khuất lụy với chính trái tim mình. Cho dù cuộc sống vẫn tôn vinh Tình yêu, cho dù đúng là Tình yêu vẫn đóng một vai trò nền tảng cho cuộc đời, nhưng chỉ biết yêu hết cả con tim lẫn lý trí thì mãi mãi phụ nữ vẫn luôn tự bó mình trong những cuốn lưới thép và chìm đắm trong khổ đau mà than thân trách phận. Và phần lớn phụ nữ vẫn mặc nhiên mà đào cho mình cái mồ buồn đau. Không phải là để chê để trách, vì không thể chê trách khi đó là tạo hóa. Tạo hóa thích chơi trò xúc xắc sắc màu mà tạo ra người phụ nữ với những nồng nàn nghiệp phận như thế. Để mà lo toan để mà gồng gánh để mà thương vay cho những sấp ngửa cuộc đời. Có đến vạn vạn đời phụ nữ nữa vẫn không qua nổi cái lẽ thường tình. Có đến muôn muôn trái tim phụ nữ nữa cũng vẫn bồi hồi những nhịp nong nả yêu say. Cho dù có bao bao phụ nữ thành đạt, giỏi giang giàu có vẫn lệ thuộc vào hình bóng của một đấng trượng phu, cho dù đáng hay không đáng. Cho dù hạnh phúc hay bất hạnh thì phụ nữ vẫn gắn liền với tình yêu. Và đối tượng mà họ yêu gần như là một mục tiêu chính để làm hướng đạo cho cuộc đời của họ. Ôi phụ nữ. Không tình yêu không phải là phụ nữ. Và không có phụ nữ thì cũng chẳng có tình yêu. Cho dù đàn ông suốt đời xem thường phụ nữ, suốt đời đùa cợt với phụ nữ, nhưng suốt đời họ không lánh xa được phụ nữ. Bởi không có phụ nữ thì đàn ông cũng chẳng có giá trị gì cả. TRĂNG BẠC ĐẦU NGUYỄN THỊ MÂY Ánh nắng cuối ngày nhuộm vàng mặt nước. Cơn gió thoảng qua đẩy đưa những chiếc lá úa trôi lững lờ trên dòng kênh. Bóng chị đổ ra phía trước. Hai cánh tay giăng ngang theo chiều dài đòn gánh như cánh chim bay hối hả trong chiều. Chị thấy mình mỉm cười. Hàm răng đều đặn, trắng bóng thấp thoáng dưới làn nước. Đôi mắt sáng long lanh khiến gương mặt chị bỗng dưng trẻ lại như thuở mới dậy thì. Cũng với đôi cánh tay nầy trong đêm vũ hội xa xưa, chị đã làm cho biết bao người ngạc nhiên say đắm. Những bước đi uyển chuyển theo nhịp ngũ âm. Mấy ngón tay mềm mại rung cùng nhịp trống. Đôi cánh tay chị như cặp rắn thần giữ đền thiêng, uốn éo vươn dài rồi đưa cao vẫy gọi vầng trăng. Ánh vàng chảy tràn trên người chị. Cái dáng đang độ nảy nở đẹp lên một cách lạ thường. Chị lượn quanh các cô bạn. Tiếng vỗ tay phụ họa của những chàng trai đứng xem khi lớn khi nhỏ, khi nhanh khi chậm như tiếng mưa đầu mùa rơi xuống sân chùa. Chị như người say dù chưa nhấp chút men hồng. Chị cứ múa, cứ hát mãi đến gần tàn đêm Chol Chnam Thmây. Khi dừng lại, chị mới hay trời đã về khuya. Các bạn đi đâu mất cả. Chắc họ đã trở lại nhà. Chỉ còn lác đác vài ba người đang thu dọn bàn ghế, nhạc cụ đem vào chùa. Chị lo lắng nhìn quanh, bắt gặp ánh mắt đắm đuối của anh chàng nào lạ hoắc. Cái nhìn giữ chặt nụ cười của chị, ghìm lại nỗi vui dạt dào và nhường chỗ cho sợ hãi bất chợt trong lòng. Anh ta tiến thêm vài bước rồi dừng lại, giọng trầm ấm: - Cô múa hay quá! Đẹp quá. Chị không cảm thấy mừng vì được khen mà một nỗi lo sợ mơ hồ cuốn lấy chị, nâng chị đứng vụt lên rồi bỏ chạy. Chị băng qua những con đường đất. Gió tạt mạnh vào mặt. Mái tóc xổ tung bay ngược về phía sau. Vầng trăng chập chờn đuổi theo, mỉm cười giễu cợt. Mặc! Chị cứ chạy, chạy mãi. Đến khi hàng cau thẳng tấp trong vườn nhà hiện ra rõ nét, chị mới dừng lại để thở. Tựa người vào gốc cây ven đường, chị ngoái nhìn ra sau. Không có ai đuổi theo hết. Chỉ có vầng trăng vẫn còn nhìn chị chằm chằm rồi lẫn vào làn mây mỏng. Cuối năm đó, chị thành hôn với người con trai ấy. Anh không đuổi theo chị nhưng trái tim anh đã vượt qua mấy đoạn đường dài dõi theo bóng chị. Ôi, những ngày tháng ngọt ngào hạnh phúc mau chóng qua đi. Mới một năm thôi mà tình yêu đã bay khỏi căn nhà chị. Nó đem theo người chồng ham vui, ném anh vào các cuộc đỏ đen, những đêm vũ hội. Anh chỉ biết hội hè đình đám, bỏ mặc chị với ruộng vườn, với đứa con chưa đầy hai tháng. Cũng một đêm trăng, chị đã băng qua con đường đất. Mặc gió buốt, mặc gai góc dọc đường, chị chạy thi với vầng trăng đưa thằng Chal Tha vào bệnh viện cấp cứu. Nhìn thấy con chị, bác sĩ liền mở tung tất cả cúc áo của thằng bé rồi vội vàng đưa nó vào phòng lạnh. Lúc trở ra, ông nghiêm khắc nói: - Con chị bị sốt rất nặng. Sao tới giờ nầy chị mới đưa cháu vào đây? Chút nữa là không còn kịp! Chị cúi mặt, nước mắt chảy dài xuống má. Chị không biết trả lời sao với người thầy thuốc tận tình ấy. Chẳng lẽ chị lại nói rằng chị phải coi nhà, cha thằng bé bận đình đám, rượu chè. Chal Tha bình phục, chị bồng con về luôn nhà cha mẹ ruột, bỏ lại tất cả đồ đạc, nhà cửa, ruộng vườn mà phần lớn do chị tạo nên. Chị xem như mình đã đánh mất những thứ ấy cùng lúc với tuổi trẻ, thời thiếu nữ vàng son ngày nào. Gia tài còn lại lúc bấy giờ thuộc về chị là Chal Tha, đứa con yêu quý. - Mẹ để con gánh cho. Sao Mai đã đến bên cạnh chị, cô bé đỡ lấy đòn gánh trên vai chị chuyền sang vai mình. Sao Mai khom người xuống, hai tay nắm chặt hai cán thùng, đẩy nhè nhẹ trên mặt nước, tạo thành những đợt sóng nhấp nhô, lan rộng, xóa nhòa khuôn mặt và cái bóng chị rung lên rồi vụt biến mất khi cặp thùng được Sao Mai nhận chìm xuống nước. Lúc cô bé đứng thẳng người lên, mặt trời đỏ ối như rơi tỏm vào thùng, nằm lơ lửng giữa bóng cây và mây trắng trôi bồng bềnh trong gánh nước. Chút nữa đây, cô bé sẽ tưới cả trời chiều lên hàng cà nâu tươi tốt. Cô đi những bước vững vàng lên bờ kênh. Gánh nước trông nhẹ hẩng theo tiếng cười trong trẻo và bàn tay đong đưa dịu oặt. Chal Tha từ xa chạy tới, tóc xoăn tít trên đầu, vàng hoe dưới nắng chiều, tựa những sợi tơ óng ánh đang bốc cháy. Cậu cũng cười theo em gái mà không biết cười vì lý do nào. Hàm răng trắng đều tăm tắp phô ra khiến khuôn mặt đen bóng của cậu bất chợt duyên dáng, dễ thương. Chal Tha đến bên em gái, cất giọng vui tươi: - Giành làm hết phải không? Sao Mai vừa đổ nước sang thùng tưới vừa nói: - Ừ, anh với mẹ vào nghỉ mệt đi. - Có mệt đâu mà nghỉ. Đưa thùng tưới đây cho anh. Chiều rồi Sao Mai lặn đi là vừa. Giờ nầy là của Sao Hôm. Sao Mai mỉm cười trêu anh: - Thầy giáo không được gánh nước, việc của anh là gõ đầu trẻ kìa. Chal Tha giật lấy cái thùng, nước bắn lên tung tóe. Cậu cười giòn tan, chị cũng cười theo, lòng vui như hội. Ai cũng nói chị có phước. Vùng nầy không có con ai học giỏi bằng Chal Tha. Còn Sao Mai vừa đẹp vừa siêng năng chăm chỉ hơn người. Con bé giống cha ở lòng say mê ruộng rẫy, chăn nuôi nhưng lại cùng suy nghĩ như mẹ là biết quý những thứ khác hơn của cải, vật chất. Khi Chal Tha lên mười, chị bước thêm bước nữa. Người chồng sau rất cần cù lao động. Anh không hề đặt chân đến chỗ vui chơi nào. Hầu hết thời giờ của anh là để làm việc, là gặt hái, là chăn bò, là trồng rau, tỉa đậu... Người trong “sóc” đùa rằng anh chỉ nhìn xuống luống cày, vồng khoai chứ không hề ngẩng lên ngắm nhìn ai hết. Người ta đâu ngờ anh vẫn len lén nhìn trộm chị để khi chị bắt gặp thì anh giả đò ngó đi nơi khác rồi chắt lưỡi, hít hà. Chị quyết định chắp nối với anh khi anh đã phóng mình xuống dòng nước xiết để cứu thằng Chal Tha lúc thằng bé qua cầu bị trượt chân té ngã. Đây là điều sai lầm thứ hai của chị. Có sống chung với anh, chị mới thấy mọi người đã nghĩ đúng. Anh không yêu ai bằng con bò anh đang nuôi. Anh không quý ai bằng luống rau xanh anh bỏ công vun vén. Anh làm một cái chuồng cột đúc hẳn hoi để cho bò ở. Nửa đêm, anh vùng dậy, lao ra ruộng nếu trời nổi gió dông. Điều làm chị đớn đau, thất vọng nhất là anh buộc chị phải bắt Chal Tha nghỉ học với lý do là hai con bò đẻ một lượt. Không có ai chăn mấy chú bò con nầy ngoài Chal Tha. Anh giải thích: - Học làm gì, nuôi bò có lợi nhiều hơn. Hai con bò mẹ sang năm lại đẻ. Vài năm nữa thôi mình sẽ có ít lắm mười con bò. Mình sẽ giàu to, bà biết không? - Nhưng con mình sẽ phải bỏ học, thua kém người khác. - Thì có sao đâu? Bên gia đình tôi không có ai tới trường mà mấy cái cột nhà tôi đều là cột đúc. Còn nhà bà, ai cũng học cao, hiểu rộng mà tới cái nhà ở cũng không lành. Bỗng dưng, chị cảm thấy hơi thở mình trở nên nặng nhọc. Chị ngồi dựa lưng vào vách nghĩ ngợi hồi lâu rồi bỏ vào buồng thu xếp quần áo và dắt Chal Tha trở về nhà cha mẹ mình. Trở về căn nhà vách lá cột tre thân thuộc. Ở đó, cha mẹ chị lại cưu mang giúp đỡ chị trong những ngày sinh nở. Cũng chính trong căn nhà cột xiêu vách đổ này, Sao Mai, con gái của anh ta đã lớn lên. Hàng xóm lại được dịp bàn tán, xôn xao. Người khen chị biết yêu thương con. Người lại chê chị ngu, làm lụng vất vả rồi bỏ đi cho anh ta hưởng hết. Sau đó, anh có đến xin lỗi, làm lành với chị. Không còn giận chồng nữa nhưng chị biết khó có thể tiếp tục sống chung với anh. Anh có ưu điểm mà người chồng trước không có là cần cù lao động nhưng lại tham lam, ích kỷ quá đáng. Trong khi người ta đã tìm đường lên tới tận vầng trăng kia mà anh bắt Chal Tha làm một người ngu dốt thì thà để nó chết dưới dòng nước xiết ngày nào còn hơn. Chị biết anh không sao hiểu được rằng những con bò ấy được sinh ra là để phục vụ con người chứ không phải con chị phải rời ghế nhà trường để phục vụ nó. Chị biết anh không sao nghĩ ra rằng, khi sinh con thì phải có trách nhiệm với nó. Phải nuôi dạy nó chứ không phải chỉ cho nó ăn rồi lớn lên như một con bò. Chị biết anh không sao có được niềm vui khi nghe tiếng trẻ học bài sang sảng và chắc chắn anh không sao hiểu được rằng Chal Tha đã cư xử lễ độ với anh cũng chính nhờ có ăn học, có giáo dục. Bây giờ cái nhà của mẹ con chị cũng đã được xây tường lợp tôn hẳn hoi. Nhưng không phải chị tự hào vì nó mà là ở chỗ chị có hai đứa con ngoan ngoãn. Chal Tha đã đi đúng con đường mà chị ước mong. Chal Tha đã trở thành thầy giáo. Một người có ích. Mỗi lần chị tưởng tượng Chal Tha đang đứng trước bao ánh mắt tròn xoe thơ dại, cậu cất tiếng trầm ấm nói về một điều gì đó trong lịch sử hay giảng một vấn đề thuộc khoa học và đời sống. Học sinh lắng nghe, miệng hé mở như để uống từng lời của con chị. Ôi, lòng chị như có ai gõ lên những nhịp trống lạ thường. Con Sao Mai, sáng đi học, chiều làm công việc nhà giúp mẹ. Tất cả những vồng cải, những luống cà qua tay cô bé đều tươi tốt như được tưới nước thần. Nó mườn mượt như tơ, như gấm. Và đồ đạc trong nhà sạch bóng lên khi được cô chú ý tới. Có phải đó là phần thưởng dành cho chị sau bao năm vất vả nhọc nhằn? Chị mở cửa sau, bước nhè nhẹ ra sân. Đêm nay, trăng lại tròn vành vạnh, treo lơ lửng trên nền trời. Ánh nắng rơi đầy khu vườn nhỏ bé. Bóng những cây cau đen sẫm trước mắt chị. Mọi vật dường như đang say ngủ. Cây lá im lìm. Chỉ có cửa sổ phòng Chal Tha còn mở rộng. Chị biết giờ này con mình vẫn chưa ngủ. Cậu đang ngồi trước quyển giáo án nhưng không ghi tiếp được chữ nào. Người ta bảo tình yêu tạo thêm sức mạnh cho con người nhưng tại sao nó giết chết dần mòn con trai chị. Gần đây, trong nhà không còn rộn rã tiếng nói cười nữa. Tất cả hình như đổi thay. Chal Tha đi về như cái bóng, cả chị và Sao Mai không còn muốn nhếch môi. Mỗi người tìm một góc nhà ngồi ủ rũ. Chị muốn đến bên cạnh Chal Tha, ôm lấy nó, vuốt lên mái tóc xoăn tít của con rồi vỗ về: - Hãy quên hết đi con. Nhưng điều đó bây giờ trở nên quá khó với chị. Có phải tình yêu biến nó thành người lớn và nỗi đau khổ đang giày vò nó đã ngăn chị lại. Tại sao cô bé ấy chỉ xem Chal Tha như bạn chứ không muốn kết hôn với cậu. Cô không muốn làm vợ một thầy giáo? Hay cái nhà của chị còn quá nhỏ so với những ngôi nhà khác? Cô đã quay mặt đi giống như mặt trời vừa trốn khỏi nơi này. Những buổi sáng trở nên âm u, lạnh lẽo và đêm thì dài ra, tẻ nhạt. Đêm nay, cũng dưới ánh trăng mà tóc chị dường như nhuộm bạc. Hai cánh tay bất lực, co quắp ôm lấy ngực. Trái tim chị như vỡ ra trong đớn đau run rẩy. Chị thấy tuổi già phủ đầy hai vai. Chị ngã khuỵu xuống khi chợt nhận ra con đường mình vạch cho con đi đầy chông gai thử thách. Không phải ai cũng trọng nhân nghĩa và xem thường vật chất, xa hoa. Không phải ai cũng ngã mũ chào con trai chị, một giáo viên như những đứa học trò nhỏ bé và cũng không phải ai cũng xem nghề giáo là một nghề cao quý. Cô gái ấy đã làm Chal Tha khổ sở và bóp chết cả trái tim chị nữa. Chị đưa hai tay ôm lấy mặt, khóc nức nở. - Mẹ, mẹ… Chị giật mình ngước lên, Chal Tha đang đứng trước mặt chị, đăm đăm nhìn những giọt nước mắt ràn rụa trên má chị rồi cậu vụt ôm chầm lấy chị, gục lên vai chị và kêu lên đau đớn: - Mẹ... Tiếng kêu lạc lõng kinh hoàng. Tiếng thét của con chim trúng đạn. Chị vuốt tóc con rồi vỗ nhè nhẹ lên lưng cậu như ngày xưa lúc ru cậu ngủ, câu ca dao ngọt ngào ngày nào được thay thế bằng những tiếng nấc dồn dập, kéo dài của chị. Chal Tha đỡ chị đứng lên. Cậu nhìn vào mắt chị, quả quyết nói: - Khuya lắm rồi, mẹ vào nhà nghỉ đi. Đừng lo lắng nữa. Buồn khổ bấy nhiêu cũng đã đủ. Đây là đêm cuối cùng con thao thức vì dĩ nhiên là con sẽ không quên được cô ấy. Nhưng, không được kết hôn với cô ấy có lẽ còn tốt hơn. Vợ chồng sẽ ra sao nếu hai người không cùng một suy nghĩ, không tôn trọng nhau, lúc ấy còn đau khổ hơn nhiều. Ngày mai, con sẽ bắt đầu làm lại cuộc đời. Dù thế nào thì việc học cũng cần thiết. Con sẽ cố học. Học đến phút cuối đời. Đi dạy và tiếp tục học. Con xem đó là niềm vui. Con người không thể chỉ biết sống chết vì một cô gái đẹp. Con còn có mẹ, còn có Sao Mai. Ý chí con người chiến thắng tất cả. Xin mẹ cứ tin con. Mẹ đừng buồn nữa. Chị ngơ ngẩn nhìn Chal Tha. Trong một thoáng, chị nhớ lại mấy câu dân ca đậm đà tình mẹ: Tôi thương mẹ tôi vô bến vô bờ Người đã sinh ra tôi cho đời tôi có mẹ Dẫu núi Thái Sơn hay nước nguồn biển cả Chi có mẹ tôi không thể thế ai vào. Rồi chị nghĩ tới anh chồng sau của mình. Có thể anh ta có lý. Phải chi hồi đó mình bắt Chal Tha nghỉ học đi chăn bò có lẽ giờ này nó đỡ khổ hơn. Ngay lập tức, ý nghĩ ấy xóa mờ bởi câu nói của Chal Tha ban nãy: - Dù thế nào thì việc học cũng cần thiết. Con sẽ cố học. Học đến phút cuối đời. Chị mỉm cười. Nụ cười điểm long lanh hai giọt nước mắt: - Chal Tha! Con đã lớn rồi đó. Con yêu quý của mẹ! NGUYỄN THỊ MÂY
MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 08.8.2015… ...................................... Vũ Thư Hữu .... 01 Cuốn Tục-Ngữ lược-giải của hai đồng tác giả Phạm-Hữu-Khánh & Lê Trần-Nguyên .......... Vũ Anh Tuấn .... 05 Nhân mùa Vu Lan nói về chữ Hiếu .............................................. Tâm Nguyện .... 09 Con Cộc (tt) ................................................................................... Thúy Toàn dịch .... 19 François-Henri Schneider & tờ Lục-tỉnh Tân-văn ... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .... 33 Hội thánh Tin Lành tại Đức xin lỗi về việc đã phá hủy tranh ảnh tôn giáo trong cuộc Cải Cách ......... Lm Jos. Nguyễn Hữu Triết .... 40 Nhạc sĩ Văn Cao với 20 năm “Cõi thiên thai” & bản “Tiến quân ca” tròn 70 tuổi .............. Phạm Vũ .... 42 Chuyện nghề chuyện nghiệp: Biên tập sách thời nay Nghề bạc – nghề mạt ................. Đỗ Thiên Thư st .... 47 Tám Hóm ................................................................................................ Lam Trần .... 52 Công viên Hòa Bình ở Hiroshima .......................................................... Bùi Đẹp .... 56 Tản văn của Mai Văn Tạo: MƯA .................................. Mai Thị Thủy Hoa st .... 59 Lễ Vu Lan nhớ Mẹ (thơ) ................................................................... Thanh Châu .... 65 Thăm viếng mộ Cha (thơ) ............................................................... Thanh Châu .... 66 Gọi Cha gọi Mẹ (thơ) .............................................................................. Đàm Lan .... 67 Mưa chiều (thơ) ................................................................. Phạm Thị Minh Hưng .... 68 Chiều tàn (thơ) ........................................................................................ Lam Trần .... 69 Rong chơi (thơ) ....................................................................................... Lam Trần .... 70 Hạt sương long lanh (thơ) ..................................................................... Lê Nguyên .... 71 Hương cốm (thơ) .................................................................................... Lê Nguyên .... 72 Như không (thơ) ................................................................ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 72 Lạc giữa cõi đời (thơ) ....................................................................... Lê Minh Chử .... 73 Quy luật (thơ) .................................................................................... Lê Minh Chử .... 74 Cô đơn (thơ) ........................................................................................ Quang Bỉnh .... 74 Tham quan Cần Giờ (thơ) ................................................................. Quang Bỉnh .... 75 Tình nhà nợ nước (thơ) .................................................................... Lang Nguyên .... 76 Thân trai (thơ) ................................................................................... Lang Nguyên .... 76 Kẻ hơn 21 nhớ người hai mươi (lần thứ 3) (thơ) ......................... Vũ Anh Tuấn .... 77 Một lần gặp gỡ (thơ) ............................................................................... Bá Mạnh .... 78 Gợi nhớ (thơ) ...................................................................................... Thùy Hương .... 79 Ngậm ngùi (thơ) ................................................................................. Thùy Hương .... 80 Thân ta (thơ) ............................................................................................ Bá Mạnh .... 81 Vầng trăng (thơ) ............................................................................. Võ Kim Cương .... 81 Nhìn em (thơ) .................................................................................. Võ Kim Cương .... 82 Xứ đạo mới (thơ) ................................................................................. Bs.Doanlinh .... 83 Niềm tin nhòa nhạt (thơ) ................................................................ Ngàn Phương .... 84 Phở & Cơm (thơ) .............................................................................. Ngàn Phương .... 85 Tình xa (thơ) ...................................................................................... Ngàn Phương .... 86 Người cũ (thơ) ................................................................................... Ngàn Phương .... 86 Ngã năm bâng khuâng (thơ) .......................................................... Vũ Đình Huy .... 87 The dazed with longing five-way-crossroads (thơ) ............ Vũ Anh Tuấn dịch .... 87 Chiến tranh (thơ) .............................................................................. Vũ Đình Huy .... 87 Wartime (thơ) ............................................................................ Vũ Anh Tuấn dịch .... 88 Mùa Xuân hết xanh (thơ) ............................................................... Vũ Đình Huy .... 88 Spring is no longer green (thơ) ................................................ Vũ Anh Tuấn dịch .... 88 Đính chính ...................................................................................................................... 89 Ca dao với tinh thần yêu nước ...................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 90 Nhớ Nguyễn Bính .................................................................... Hoàng Kim Thư st .... 92 Những điều mắt thấy tai nghe ........................................................ Lê Minh Chử .... 97 BF của nhau ............................................................................. Hà Mạnh Đoàn st. .. 107 Thử bàn vài điều về Mê tín - Dị đoan (tt) ....................................... Nhựt Thanh .. 109 Người chạy xe ôm ................................................................................. Dương Lêh .. 113 Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ......... Thanh Châu dịch thuật .. 119 Coi chừng! Những cử chỉ thông thường có thể biểu lộ tâm tính con người .......... Đào Minh Diệu Xuân st .. 125 Phụ nữ & tình yêu ................................................................................... Đàm Lan .. 127 Trăng bạc đầu ............................................................................ Nguyễn Thị Mây .. 129 |