Hiện có 25 người xem / 2518860 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/3/2017

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách mới mà ông mới có. Cuốn thứ nhất là một cuốn sách nhan để là “Thơ Việt Nam - Tác giả, Tác phẩm, Lời Bình” của tác giả Lê Bảo do Nhà xuất bản Giáo Dục in 14 năm trước (2003). Cuốn sách khổ 14x20 phân, dày 536 trang được in rất đẹp, mà vào lúc đó giá tiền chỉ là 30.000VNĐ, lúc này một cuốn dày cỡ này, giá tối thiểu cũng phải c ả 100 ngàn.

Người viết thích cuốn này và đã mua với giá gấp đôi giá trên sách chỉ vì cuốn sách này mang ở ngay trang đầu thủ bút và chữ ký của nhà thơ Xuân Vân, một thành viên đã quá cố của CLB Sách Xưa & Nay. Nội dung cuốn sách khá tốt và về phần các tác giả thì sách nói tới các tác giả từ thời cổ như các tác giả thời Lý Trần : Kh ô ng Lộ thiền sư, Mẫn Giác thiền sư, Lý Thường Kiệt, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung, Nguyễn Tr ã i, tới các tác giả gần đây như Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Thâm Tâm và Vũ Đình Liên. Phần tác phẩm gồm gần 70 bài thơ của các tác giả nói trên và những lời bình mà người viết vì chưa có thời giờ đọc nên chưa có ý kiến về chúng. Cuốn thứ nhì là một cuốn sách bằng hai ngoại ngữ Anh và Pháp, mang tựa đề là “Tiểu Tự Điển Pháp - Anh - Pháp về Điện Ảnh - Video” (Lexique Cinéma Vidéo Français - Anglais Anglais - Français). Cuốn sách kh ổ 12x18 phân, dày 544 trang được in năm 1995 (22 năm trước) bởi một nhà xuất b ả n mang tên là DUJARRIC và nhà xuất bản này thuộc về một tổ chức mang tên “Ngôi Nhà Tự Điển” (La maison du dictionnaire) của thành phố Ba Lê (Paris) Pháp quốc. Là người đã “hết hai mươi tuổi lần thứ 4” + 3, người viết trong đời đã xem cả vài ngàn phim nên rất thích cuốn Tiểu Tự Điển này vì nó cho người viết thật đầy đủ, thật chi tiết, tất cả các từ Anh - Pháp, Pháp - Anh v ề Điện Ảnh và về Vidéo, cần hiểu từ nào là có ngay để mà tra cứu . Sau khi được giới thiệu, hai cuốn sách đã được các thành viên trao tay nhau xem một cách thích thú.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, anh Phạm Vũ đã đăng đàn nói chuyện về Đền Trần, lễ hội Đền Trần và về danh tướng Trần Hưng Đạo. Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Minh đã lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Còn gặp nhau” của nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương. Sau anh Minh, anh Bá Mạnh đã lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Có Em” của Lê Minh Châu và bài “Nhớ Quảng Ngãi” do chính anh viết. Anh Bá Mạnh ngâm thơ xong, anh Phước Hải lên và cũng ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Quê Ngoại” và “Đạo Đời”. Tiếp lời anh Phước Hải, anh Lê Nguyên lên nói chuyện về ngày 27/2 là Ngày Y học Việt Nam, và sau đó cũng lại ngâm tặng các thành viên bài thơ “Màu trắng xanh tinh khiết”. Sau anh Lê Nguyên, thành viên Thùy Hương lên, lại cũng ngâm tặng các thành viên một bài thơ của Xuân Vân, một thành viên đã đi xa của CLB, sau đó còn ngâm thêm 2 bài “Còn đâu” và “Xuân đơn lẻ”. Thùy Hương ngâm xong, để thay đổi không khí, anh Chử lên hát thơ bài thơ nhan đề là “Như là ngọn nến”. Chưa có kỳ họp nào mà lại “đa thơ” như kỳ này, nhưng may quá, sau anh Chử , anh Thanh Châu đã thay đổi hẳn đề tài khi giới thiệu về Yoga Dưỡng Sinh áp dụng cho người cao tuổi. Sau khi anh Thanh Châu nói xong, anh Phùng Chí Tâm, với giọng ca thật điêu luyện, đã lên hát tặng các thành viên một bài hát của Indonesia, và một bài hát của Nga nhan đề là “Hoa vàng xinh như Tatiana”. Anh Phùng Chí Tâm hát xong, Bs. Doan Linh lại tiếp tục ngâm tặng các thành viên bài thơ, “Năm mới làm thơ”. Sau Bs. Doan Linh, thành viên Kim Sơn lên nói về Ngày Phụ Nữ Quốc Tế và cũng lại ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Gửi người phụ nữ” của Nga, và bài “Người đàn bà thứ hai” nói về bà mẹ chồng. Kim Sơn nói xong, thành viên Hoài Ly lên lại cũng ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Năm Mới và bài “Tháng Giêng” lại thơ, ôi đây quả thật là kỳ họp “đa thơ” nhất từ khi có CLB của chúng ta tới giờ. Cuối cùng, anh Thanh Châu, với “tiếng hát át tiếng bom” quen thuộc của anh, đã lên hát bài “Sài Gòn đẹp lắm” và phiên họp bế mạc lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI DÒNG VỀ MỘT CƠ MAY

MỚI ĐƯỢC HOÀNG THIÊN CHO HƯỞNG

BA NGÀY TRƯỚC

Ba hôm trước, một bà bạn thân có ghé thăm và cho biết bà có một việc muốn nhờ mình giúp. Bà ta nói: “Em biết việc này thì chỉ có anh là người chắc chắn giúp được em. Con em ở Cali nó nhờ em tìm mua giúp nó cuốn Tâm Hồn Cao Thượng, bản dịch của Hà Mai Anh, do nhà Sống Mới in lại cuốn được giải in năm 1943, hồi những năm 60 hay 70 thế kỷ trước. Em dư biết những cuốn in lại đang bán đầy ở các nhà sách, nhưng con em nó xin em cố tìm cho bằng được cuốn do nhà Sống Mới in cơ anh ạ. Và việc này em tin chắc là anh giúp được em, vậy anh giúp em nhé”. Là người chưa bao giờ biết, và dám từ chối, mọi nhờ vả lớn nhỏ của các bà bạn, tôi đã vui vẻ nhận lời, và, sau khi bà ra về tôi vội đảo qua mấy tiệm sách ngay trên đường Trần Huy Liệu của tôi nhưng không thấy, nên phải dùng taxi, vì trời quá nóng, làm một tua sang đường Bùi Hữu Nghĩa, đến đường Trần Hưng Đạo, vòng ra đường Trần Nhân Tôn, và cuối cùng vào tận Cư Xá Bắc Hải thì tìm được cuốn sách bà bạn tôi cần. Thế là trên đường về tôi ghé luôn nhà bà để đưa cuốn sách. Cuốn sách tuy giá chỉ có 180 ngàn, nhưng tôi phải chi trên 600 ngàn tiền taxi. Bà ta cảm ơn rối rít và xin hoàn lại tiền, nhưng vì còn rất nhiều máu ga lăng trong người, tôi chỉ nhận tiền cuốn sách, không thèm nhớ gì tới taxi phí. Chính vì tôi nghĩ trong lòng rằng mình tuy đi tìm sách hộ bà bạn, nhưng cũng đi xem sách cho chính mình mà, vả lại bà ta thân chiếc, làm gì có tiền nhiều, nên đã không nói gì tới tiền taxi. Bà ta tỏ vẻ ái ngại và nói: “Anh không cho em trả tiền taxi, em không biết nói sao đây”. Tôi trả lời: “Không sao, không quan trọng gì”, và ngay chính lúc này bà ta chợt reo lên: “À! Anh làm ơn đợi em một tí”, và rồi tôi thấy bà leo lên lầu và trở xuống trong tay cầm một cuốn sách. Đưa cho tôi cuốn sách bà ta nói: “Đây là cuốn sách của chú em để lại, nhưng em đâu có đọc được vì nó bằng tiếng Pháp, vậy em xin tặng anh vì nó thích hợp với anh hơn”.


Nhận cuốn sách, nhìn vào cái tựa “Các Tiểu thuyết gia Pháp trong những năm 1800 tới 1930” (LES ROMANCIERS FRANÇAIS – 1800 - 1930), tôi mừng húm và nghĩ hành động hơi bị ga lăng của mình đã được Hoàng Thiên đền đáp quá đầy đủ, đơn giản vì ở trong toàn là những tên tuổi tôi yêu thích từ 60 năm nay như Victor Hugo, Lamartine, Chateaubriand, Anatole France, André Gide, Marcel Proust, Pierre Benoit, Balzac, Alexandre Dumas, Guy de Maupassant vv… và nhất là có cả Eugène Sue, tác giả bộ sách tôi yêu từ bé là bộ “Bí m ật thành Ba Lê” (Les mystères de Paris).

Đó chính là cơ may đã khiến tôi sở hữu được một cuốn sách mà tôi thực sự yêu thích, và về tới nhà, vừa ăn cơm xong là tôi bỏ ra 4 giờ liền để cưỡi ngựa xem hoa, và thấy rằng cuốn sách thật tuyệt vời, xin chia sẻ và giới thiệu qua loa với quý bạn đọc của tôi.


Cuốn sách khổ 12x18 phân, dày 574 trang được in năm 1948, gồm một Lời nói đầu nói về nguồn gốc tiểu thuyết ở Pháp chiếm 28 trang đầu, còn từ trang 29 cho tới trang cuối là những b ài viết về tổng cộng 62 tiểu thuyết gia danh tiếng của Pháp trong thời gian từ năm 1800 tới năm 1930. Về mỗi tác giả, trước tiên là hình chân dung thật đẹp, năm sinh, năm mất, sau đó là vài trích đoạn của vài tác phẩm nổi tiếng, và một số lời bình. Thật là tuyệt vời, nhất là những bức chân dung nguyên trang, và, tuy là một người chịu khó đọc và rất yêu thích văn chương Pháp, người viết cũng phải công nhận là mình đã không biết gì về 19 trong số 62 tiểu thuyết gia được nói tới trong sách. Và trong số các tác phẩm của 42 tác giả mà người viết biết, thì cũng có rất nhiều (độ gần một nửa) tác phẩm, mà người viết chưa biết, nên lúc này có cơ hội biết tới thì cũng rất là tuyệt, nhất là người viết nay có tất cả đoạn đời còn lại chỉ để đọc sách… và làm Bản Tin mà thôi!

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách. Chương VI

VŨ ANH TUẤN

THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG”

Bản dịch của L inh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 130)

194. Để có những mẫu hình ảnh mới cho sự phát triển, “chúng ta phải hướng kiểu mẫu phát triển toàn cầu theo một hướng khác…”, điều đó đòi buộc phải suy nghĩ cách thức có trách nhiệm về “ý nghĩa của kinh tế và mục đích của nó, để có thể sửa sai những sự lạm dụng và mất thăng bằng”[137]. Thực sự cũng không đủ khi chăm sóc thiên nhiên bằng một hiệp ước tài chính hay bảo quản môi trường với các tiến bộ và liên kết chúng lại bằng một con đường trung gian. Trong liên hệ này, những con đường trung lộ chỉ làm chậm lại sự đổ vỡ. Điều chính đáng ở đây là phải định nghĩa lại sự phát triển là gì. Một sự phát triển về mặt kỹ thuật và kinh tế, nếu không để lại một thế giới tốt đẹp hơn và một phẩm chất sống cao hơn cho mọi người, thì không thể gọi là phát triển được. Mặt khác, phẩm chất thực sự của cuộc sống con người thường bị giảm đi trong sự liên hệ với phát triển kinh tế - qua việc tàn phá môi trường, do phẩm chất thấp kém các sản phẩm lương thực hay làm cạn kiệt tài nguyên. Trong khung cảnh này, diễn từ về việc phát triển lâu dài thường trở thành lời phản hồi phủ nhận và hợp lý hóa, nằm trong các bài diễn văn môi sinh trong lý luận về mặt tài chính và kỹ thuật; trách nhiệm xã hội và môi trường của các doanh nghiệp thường được đúc kết vào một chuỗi quảng cáo và trưng hình trưng ảnh.

195. Nguyên tắc thu hoạch tối đa, thường chú tâm tách biệt các cách quan niệm, đó là phá tán ý nghĩa kinh tế: khi sản phẩm gia tăng, không cần đến cái giá của tài nguyên tương lai hay về sự lành mạnh của môi trường, nếu việc khai thác rừng làm tăng giá thành sản phẩm, thì trong tính toán không ai dám nói đến sự mất mát, đó là việc hoang hóa một mảnh đất, hay việc gây tai hại cho sự đa dạng sinh học hay nâng cao mức ô nhiễm môi trường. Điều này có nghĩa là, các doanh nghiệp đạt được lợi nhuận khi tính toán và trả thấp theo giá thành. Chỉ có thể nhận một thái độ mang tính luân lý, “khi giá kinh tế và xã hội xuất phát từ việc sử dụng tài nguyên tự nhiên chung được thiết đặt rõ ràng và những người hưởng lợi phải gánh chịu, chứ không phải các dân tộc khác hay các thế hệ tương lai phải trả”[138]. Tính chất hợp lý của một sự phân tích thực tại cách quân bình dưới cái nhìn vào nhu cầu hiện tại, cũng như thị trường, đảm nhận các tài nguyên, khi Nhà Nước như là người điều phối, hoạch định.

196. Điều gì sẽ diễn ra với chính trị? Chúng ta nhớ lại nguyên tắc hỗ trợ, điều này bảo đảm sự tự do cho việc phát triển mọi khả năng đang có trên mọi bình diện, đồng thời đòi buộc người nắm giữ quyền hành nhiều hơn, phải bảo đảm công ích. Thật vậy, ngày nay nhiều phạm vi kinh tế thực hiện nhiều quyền hành hơn là quốc gia. Người ta không thể hợp lý hóa cho một nền kinh tế không có chính trị - nền kinh tế này không có khả năng đưa ra một lý luận khác có thể chuyển dịch nhiều phương diện khác biệt của cơn khủng hoảng ngày nay. Một lý luận mà người ta không thể mong chờ một sự chăm sóc đúng đắn cho môi trường, thì lý luận đó sẽ ngăn cản sự hội nhập của những người yếu đuối, vì “trong cách thức hiện tại về “thành công” và “quyền tư nhân”, không mang ý nghĩa giúp những kẻ sau cùng, những người yếu đuối hay ít khả năng, có thể làm một điều gì cho cuộc sống của họ”[139].

197. Chúng ta cần một thứ chính trị, mà suy tư của chính trị này bao gồm một viễn ảnh rộng lớn, nâng đỡ một quyết tâm mới và trọn vẹn, khi đón nhận các phương diện khác nhau của cuộc khủng hoảng trong một cuộc đối thoại liên khoa học. Thường thì chính trị tự đánh mất diện mạo của mình, vì lý do sa đọa hay vì thiếu chính trị tốt đẹp công khai. Khi một thành phố của một vùng nào đó không chu toàn vai trò của mình, sẽ có những nhóm nhà kinh tế xuất hiện như những người từ thiện và sẽ nắm lấy quyền lực thật sự một cách bất chính, tự cảm thấy mình đầy quyền hành, không tuân thủ một số luật lệ và còn đưa ra những cái cớ dưới nhiều hình thức tội phạm có tổ chức, buôn bán người, buôn bán ma túy và bạo lực - những điều xấu này khó mà tiêu diệt được. Nếu chính trị không còn khả năng loại bỏ lý luận lộn xộn này và nếu như không vượt qua được các bài diễn thuyết nghèo nàn, chúng ta sẽ tiếp tục hành động mà không tấn công vào những vấn đề lớn của nhân loại. Một chiến thuật cho một sự thay đổi thực sự đòi buộc, phải suy nghĩ lại toàn bộ tiến trình, vì không thể đúc kết một cách hời hợt trên các suy luận về môi trường, trong khi người ta không đặt vấn đề về lý luận và văn hóa hiện tại nằm sâu trong đó. Một chính trị lành mạnh phải có khả năng đón nhận những thách thức này.

198. Chính trị và kinh tế thường có xu hướng cùng nhau kết tội cho nghèo đói và tàn phá môi trường. Nhưng điều mà người ta hy vọng là họ nhận thức lỗi lầm của họ và tìm những hình thức cộng tác với nhau, nhằm vào hướng công ích. Trong khi nhóm này chỉ nghi ngờ về lợi lộc kinh tế và nhóm kia chỉ nhắm vào bảo vệ quyền lực hay gia tăng quyền lực, chúng ta chỉ có kết quả là chiến tranh hay những sự thỏa thuận âm thầm, ít ra cả hai nhóm phải chú tâm bảo vệ môi trường và chăm sóc những kẻ yếu. Ở đây cũng có nguyên tắc: “Sự hiệp nhất đứng trên xung khắc”[140] .

V. CÁC TÔN GIÁO TRONG CUỘC ĐỐI THOẠI

VỚI CÁC KHOA HỌC

199. Người ta không thể nói rằng các khoa học thực nghiệm giải thích hoàn toàn sự sống, cơ cấu các tạo vật và sự toàn vẹn của các thực tại. Có nghĩa là, chúng đã bước ra khỏi ranh giới thực nghiệm của mình. Nếu người ta suy nghĩ trong khung đóng kín này, thì cảm nghiệm vẻ đẹp, thi phú và cả khả năng lý trí để nhận ra ý nghĩa và mục đích vạn vật, cũng tiêu tan[141]. Tôi chỉ xin nhắc lại, “các bản văn tôn giáo cổ điển vẫn có thể đưa ra một ý nghĩa cho tất cả mọi thời đại và có một sức lực tác động luôn khai mở một chân trời mới […]. Có hợp lý và khôn ngoan không, khi đưa những bản văn nằm trong bóng tối ra ánh sáng, chỉ vì chúng xuất phát từ một niềm tin tôn giáo?”[142]. Thật ngây thơ mà bảo rằng, các điểm luân lý căn bản có thể trừu tượng và tách ra khỏi môi trường và thực tế chúng xuất hiện trong một ngôn ngữ tôn giáo, cũng không làm giảm đi giá trị của chúng trong những tranh luận công khai. Các nguyên tắc luân lý mà lý trí có thể chấp nhận, luôn có thể xuất hiện trong bộ áo mới và được diễn tả bằng những ngôn ngữ khác nhau, bao gồm cả tôn giáo.

200. Mặt khác, mỗi một giải đáp kỹ thuật mà khoa học trưng ra, xem ra bất lực để giải quyết các vấn đề trầm trọng của thế giới, khi nhân loại rời xa dòng chảy của mình, khi những lý do chuyển động tạo nên sự chung sống, hy tế và điều thiện hảo, bị quên lãng. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, người ta vẫn gọi đến các tín hữu, để sống trong sự đồng thuận, trong niềm tin và trong hoạt động không đi ngược lại với niềm tin; người ta xin họ một lần nữa mở rộng tâm hồn cho ân sủng của Thiên Chúa và xác tín sâu thẳm về tình yêu, công bằng và bình an. Nếu hiểu sai về những nguyên tắc, đôi khi đưa chúng ta đến việc công chính hóa những hành động sai trái trên tự nhiên hay sự thống trị như chủ nhân trên sáng tạo hay chiến tranh, sự bất công và bạo lực; là tín hữu chúng ta có thể nhận ra, theo cách này, chúng ta đã bất trung với kho tàng khôn ngoan mà chúng ta phải bảo vệ. Thường các ranh giới văn hóa của nhiều thời đại, ảnh hưởng trên ý thức của gia sản luân lý và tinh thần; nhưng chính từ việc quay về với những nguồn này sẽ giúp các tôn giáo đáp ứng tốt hơn với những nhu cầu hiện tại.

201. Phần đông dân chúng của hành tinh tự nhận mình là các tín hữu, từ đó các tôn giáo phải bước vào cuộc đối thoại với nhau để giải hòa với thiên nhiên, bảo vệ người nghèo và xây dựng mạng lưới tôn trọng và huynh đệ. Cuộc đối thoại giữa các nhà khoa học cũng rất cần thiết, chỉ vì mỗi khoa học thường tự đóng kín mình trong ranh giới của ngôn ngữ riêng, và sự chuyên môn có xu hướng tự tại và tuyệt đối hóa sự hiểu biết của mình. Điều này ngăn trở việc đối mặt đúng đắn các vấn đề môi trường. Một cuộc đối thoại rộng mở và tôn trọng nhau trở nên cần thiết giữa các phong trào môi sinh khác nhau, nơi đó cũng có nhiều tranh đấu cho ý thức hệ. Sự trầm trọng của cuộc khủng hoảng môi sinh đòi buộc mọi người suy nghĩ về công ích và tiến bước trên con đường đối thoại, đòi hỏi sự kiên nhẫn, khổ hạnh và khoan dung; luôn nhớ đến câu: “Thực tế đứng trên ý tưởng”[143].

CHƯƠNG SÁU

GIÁO DỤC VÀ LINH ĐẠO MÔI SINH

202. Nhiều điều phải được định hướng lại, nhưng trước tiên nhân loại phải tự thay đổi. Cần có một ý thức về nguồn gốc chung, một sự thuộc về nhau cách hỗ tương và một tương lai được chia sẻ cho mọi người. Ý thức căn bản này cho phép có một sự phát triển những xác tín mới, cách thức liên hệ và hình thức cuộc sống. Đây chính là thách thức lớn về mặt văn hóa, tinh thần và giáo dục, sẽ kéo dài trong một tiến trình tái sinh thật khó khăn.

I. HƯỚNG ĐẾN MỘT LỐI SỐNG KHÁC

203. Thị trường luôn hướng đến việc tạo ra một bộ máy tiêu thụ không thể đảo ngược lại được, để các sản phẩm cuối cùng nhấn chìm con người vào trong một vòng xoáy mua và xài phí cách vô ích. Chủ thuyết tiêu thụ cách bệnh hoạn là phản ảnh chủ quan của thực dụng kinh tế - kỹ thuật. Romano Guasdini đã báo trước về vấn đề này: Con người “chấp nhận các vật dụng và cách sống như dự án hợp lý và sản phẩm quy định do máy móc áp đặt cho họ, và họ thực hiện toàn bộ với cảm giác như thế là hợp lý và đúng đắn”[144]. Sự thực dụng giúp cho người ta tin tưởng mình hoàn toàn tự do, bao lâu họ có được sự tự do tiêu thụ; nhưng trong thực tế chỉ có một số nhỏ có được sự tự do này, đó là những người có quyền lực về kinh tế và tài chính. Trong sự mơ hồ này, nhân loại thời hậu hiện đại đã không tìm được sự tự ý thức giúp họ định hướng và cảm nghiệm sự thiếu sót về căn tính với lo âu. Chúng ta có quá nhiều phương tiện cho một vài mục tiêu hạn hẹp và nhỏ bé.

204. Hoàn cảnh hiện tại của thế giới “tạo một cảm giác thiếu xác tín và bất an, đưa đến những hình thức ích kỷ tập thể”[145]. Khi con người tự kỷ và tự nhốt mình vào ý thức của riêng mình, họ sẽ không được thỏa mãn. Khi trái tim con người trống rỗng, sẽ cần rất nhiều vật để mua, để chiếm hữu và để tiêu thụ. Trong tình trạng này, thật không thể nào một người lại cho rằng thực tại đã đặt ranh giới cho họ. Trong vòng suy nghĩ này cũng không thể có công ích thực sự. Nếu mẫu người như thế đứng đầu một cộng đoàn, các luật lệ chỉ có thể tôn trọng trong chừng mực không đi ngược lại nhu cầu của họ. Vì thế, chúng ta không những nghĩ đến khả năng những hiện tượng khủng khiếp của khí hậu hay những tai họa tự nhiên lớn lao, nhưng cả những tai họa do các cơn khủng hoảng xã hội, vì định kiến về một lối sống tiêu thụ như thế - nhất là, khi chỉ có một nhóm nhỏ sống như vậy - sẽ gây nên bạo lực và tự phá hoại nhau.

205. Dù vậy, không phải tất cả đều bị đánh mất, vì con người có đủ khả năng để tự hạ mình đến mức cuối, cũng có thể vượt lên trên, quyết định cho điều thiện và tự cải hóa mình cho tốt, loại bỏ tất cả những điều kiện tinh thần và xã hội đang đè nén họ. Họ có khả năng, tự khẳng định mình một cách trân trọng, cởi bỏ những điều chán ngấy và quyết định con đường mới đến sự tự do đích thực. Không có hệ thống nào có thể tiêu diệt triệt để việc khai mở cho điều thiện, chân lý và vẻ đẹp, cũng như khả năng thích ứng. Khả năng này đã có sẵn vì chính Thiên Chúa từ sâu thẳm của con tim con người, đã động viên chúng ta. Tôi xin mỗi người trong thế giới này, đừng bao giờ quên phẩm giá của mình; không ai có quyền rút đi phẩm giá này được.

206. Một cuộc thay đổi lối sống có thể đưa đến việc thực hiện một áp lực thanh thoát trên những người nắm lấy quyền lực chính trị, kinh tế và xã hội. Điều này xảy ra, khi phong trào những người tiêu thụ sẽ không mua một số sản phẩm và trở nên hữu hiệu hơn để sửa sai thái độ của doanh nghiệp, khi ép buộc họ phải suy nghĩ về tác động đến môi trường và các mẫu sản xuất. Đó là một thực tế, khi thói quen xã hội ảnh hưởng trên thu nhập việc kinh doanh, buộc họ phải thay đổi cách sản xuất. Điều này nhắc nhở cho chúng ta về trách nhiệm của người tiêu thụ. “Việc mua không những là một hành động kinh tế, nhưng vẫn luôn là một hành động luân lý”[146]. Vì thế “đề tài ô nhiễm môi trường đòi buộc thái độ của từng người trong chúng ta phải chịu trách nhiệm”[147].

207. Hiến chương Trái đất (die Erd-Charta - la Charte de la Terre) mời gọi tất cả mọi người chúng ta quay lưng lại với giai đoạn tự tàn phá mình và bắt đầu một bước tiến mới, nhưng chúng ta chưa triển khai ý thức phổ quát, đó là điều tạo khả năng cho chúng ta để thực hiện. Vì thế, Tôi dám đề nghị lại lời đòi buộc đầy giá trị này: “Như chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử nhân loại, định mệnh chung mời gọi chúng ta can đảm tìm một khởi đầu mới […]. Hãy để cho thời đại tạo dáng cho chúng ta, để người ta sẽ nhớ thời gian này là một thời đánh thức sự tôn trọng mới mẻ trước cuộc sống, như một thời gian quyết định vững vàng đạt tới sự lâu dài, như một thời gian thúc đẩy tiến đến công bằng và bình an, và như một thời gian cử hành thật hạnh phúc của cuộc sống”[148].

208. Vẫn luôn có khả năng để bước ra khỏi con người của mình để đến với kẻ khác. Nếu không có khả năng này, người ta không thể nhận ra giá trị đặc thù của những tạo vật khác, và cũng không chú tâm, làm một điều gì đó cho kẻ khác, và cũng không có khả năng để tự xác định ranh giới để tránh đau khổ hay gây hại cho chung quanh. Thái độ cơ bản để vươn ra khỏi mình, khi phá vỡ sự cô độc trong ý thức và chỉ quy về mình, là nguồn gốc để tâm đến kẻ khác và môi trường. Thái độ này đem đến các phản ứng luân lý, để nhận ra tác động và từng quyết định cá nhân bước ra khỏi bản thân mình. Khi chúng ta có khả năng vượt qua chủ nghĩa cá nhân, bấy giờ mới có thể tự triển khai một lối sống và một sự thay đổi mang đầy ý nghĩa trong xã hội.

II. GIÁO DỤC CHO MỘT SỰ LIÊN KẾT

GIỮA NHÂN LOẠI VÀ MÔI TRƯỜNG

209. Ý thức về sự trầm trọng cơn khủng hoảng văn hóa và môi sinh nổi bật trong những thói quen mới. Nhiều người biết rằng, sự phát triển hiện tại và việc thu thập đơn thuần các đối tượng và tiêu dùng vẫn chưa đủ, để có thể đem lại ý nghĩa cho tâm hồn con người và ban niềm vui cho họ, nhưng họ cảm thấy không có khả năng từ chối điều mà thị trường mời mọc họ. Trong nhiều đất nước, phải đưa ra những thay đổi mới về thói quen tiêu thụ, giới trẻ có cảm nhận mới về sinh thái và tinh thần quảng đại, một vài người trong số họ phấn đấu một cách đáng kinh ngạc cho việc bảo vệ môi trường, nhưng vì họ lớn lên trong một hoàn cảnh tiêu thụ và thoải mái, thực cũng khó để phát triển những thói quen khác. Vì thế chúng ta đứng trước một thách thức về giáo dục.

210. Việc giáo dục về môi trường đã phổ biến mục tiêu của mình. Nền giáo dục này khởi đầu bằng cách đưa ra những thông tin khoa học, cũng như cảm nhận và ý thức về những nguy cơ cho môi trường, sau đó mới đưa ra lời phê bình về những “huyền thoại” dựa trên lý trí cơ chế của thời đại (chủ nghĩa cá nhân, phát triển không định hướng, cạnh tranh, chủ nghĩa tiêu thụ, thị trường không luật lệ) và triển khai các bình diện khác nhau về sự quân bình sinh thái: bình diện nội tại với chính mình, bình diện liên đới với những người khác, bình diện tự nhiên với các sinh vật và bình diện tinh thần với Thiên Chúa. Việc giáo dục môi trường chuẩn bị cho chúng ta một bước tiến vào mầu nhiệm, từ đó đạt được ý nghĩa sâu xa của luân lý môi sinh. Mặt khác, các nhà giáo dục có khả năng theo lối giáo dục của mình cho thấy một nền luân lý mới về môi sinh, giúp làm nổi bật tình liên đới, trách nhiệm và cùng cảm nhận sự quan tâm chung.

211. Dù vậy, giáo dục này cố tạo ra một thứ “công dân sinh thái”, nhưng đôi khi bị ngăn chận thông tin và không đạt được việc phát triển những thói quen. Sự hiện hữu các lề luật và luật lệ với một thời gian dài không thể ngăn chận các thái độ xấu, cho dù đã có một sự kiểm soát hữu hiệu. Để cho các luật lệ pháp lý đưa ra những hiệu quả quan trọng và lâu dài, cần có nhiều thành phần trong xã hội chấp nhận nhờ vào những động lực thích hợp, và khởi động từ một sự thay đổi cá nhân. Chỉ từ việc vun đắp những nhân đức vững vàng mà việc tự ban tặng chính mình trong sự dấn thân sinh thái mới có thể được. Nếu một người có thói quen mặc ấm thay vì đốt lò sưởi, vì tình hình tài chính cho phép, họ tiêu thụ và xài phí, điều này cho thấy họ đã đón nhận những xác tín và ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường. Chu toàn bổn phận bảo vệ sáng tạo nhờ vào những hành động nho nhỏ trong ngày, thật là tốt đẹp và thật bất ngờ, khi sự giáo dục có khả năng tạo nên những điều tốt đẹp này, đến việc tạo một lối sống thật thích hợp. Việc giáo dục giúp nhận trách nhiệm với môi trường đòi buộc nhiều thái độ liên hệ có ảnh hưởng trực tiếp và mang ý nghĩa cho việc bảo vệ môi trường, cũng như việc tránh sử dụng các vật có chất liệu nhựa hóa chất và giấy, hạn hẹp lại việc sử dụng nước, phân loại các rác thải, cũng như nấu nướng vừa đủ cho bữa ăn, chú tâm lo lắng cho cách sống của những người khác, sử dụng các phương tiện lưu thông công cộng hay xe ô-tô với nhiều người, trồng cây, tắt đèn khi không sử dụng. Tất cả những điều này đều là những hành động quảng đại và xứng đáng, sẽ đem đến điều tốt đẹp cho hữu thể con người. Hành động sử dụng lại một cái gì đó thay gì quăng đi, có thể là một hành động tình yêu làm nổi bật phẩm giá của chúng ta.

212. Đừng nghĩ rằng những cố gắng này sẽ làm thay đổi thế giới. Những hành động này gieo rắc trong xã hội một điều thiện hảo, sẽ luôn mang lại nhiều hoa trái vượt lên trên điều người ta nhận ra được, chỉ vì chúng gây nên trên trái đất này một điều thiện hảo đôi khi không nhận ra. Ngoài ra, việc triển khai các thái độ này tái ban cho chúng ta cảm nghiệm về chính phẩm giá của chúng ta, sẽ hướng chúng ta vào điểm sâu thẳm nhất của cuộc sống và ban cho chúng ta kinh nghiệm để thấy cuộc sống thật có giá trị trên trái đất này.

213. Những lãnh vực phổ biến giáo dục này rất khác nhau: trường học, gia đình, các phương tiện thông tin, các lớp giáo lý và nhiều lãnh vực khác. Một giáo dục tốt đẹp tại trường học trong những năm các em còn bé, sẽ được gieo những hạt giống sản sinh những hiệu quả trong suốt cuộc đời. Nhưng Tôi muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa quan trọng của gia đình, chỉ vì “đó là nơi mà cuộc sống là hồng ân của Thiên Chúa được đón nhận một cách thích hợp và được che chở khỏi những tấn công mà cuộc sống phải đối mặt và là nơi có thể triển khai những đòi hỏi thích đáng cho một việc lớn dậy thật nhân bản. Chống lại thứ văn hóa của sự chết, gia đình là cái nôi cho văn hóa sự sống”[149]. Trong gia đình, người ta giúp phát triển những thói quen đầu tiên của tình yêu và chăm sóc cho cuộc sống, tỉ như việc sử dụng đúng đắn các vật dụng, trật tự và vệ sinh cho cuộc sống, chú ý đến hệ thống môi sinh địa phương và bảo vệ tất cả sinh vật đã được sáng tạo. Gia đình là nơi giáo dục trọn vẹn, nơi những thời đoạn khác nhau của một sự trưởng thành cá nhân được diễn ra, liên kết chặt chẽ với mọi người. Trong gia đình, người ta học hỏi để biết xin phép, để không xúc phạm đến kẻ khác, tiếng nói “cám ơn” như sự biểu lộ một sự đánh giá đúng đắn điều mà chúng ta lãnh nhận, làm chủ sự tấn công và bạo lực và học biết xin lỗi, khi chúng ta gây một điều gì tai hại. Những hành động nhỏ bé này sẽ giúp chúng ta lễ phép, một thứ văn hóa của đời sống chung và sự tôn trọng với tất cả những gì chung quanh chúng ta.

214. Trách nhiệm của chính trị và các tổ chức khác là phải chú tâm đến cảm nghiệm của dân chúng. Giáo Hội cũng phải nhận trách nhiệm này. Tất cả các cộng đoàn Kitô hữu cũng phải chu toàn vai trò quan trọng trong việc giáo dục này. Tôi cũng hy vọng trong các đại chủng việc, các nơi đào tạo của các dòng tu, người ta giáo dục sự khắc khổ có trách nhiệm, một sự chiêm ngắm với lòng biết ơn cả thế giới và chú tâm đến những sự yếu đuối của người nghèo và của môi trường. Không những các tổ chức có quyền lực cần thiết để phê chuẩn chống lại những tấn công vào môi trường, những cũng cần thiết để chính chúng ta cũng kiểm soát mình và giáo dục nhau.

215. Trong hoàn cảnh này, “không thể quên liên hệ giữa việc đào tạo về vẻ đẹp với việc gìn giữ môi trường lành mạnh”[150]. Chú ý và yêu mến vẻ đẹp sẽ giúp chúng ta vượt qua chủ nghĩa thực dụng. Khi một người không học biết tự dừng lại để quan sát và đánh giá điều gì tốt đẹp, thì không lấy làm lạ gì tất cả đối với người đó trở thành đối tượng để sử dụng và lạm dụng không chút ngại ngùng. Đồng thời, nếu người ta muốn nhắm đến việc thay đổi sâu xa, phải thấy cách suy nghĩ ảnh hưởng thực sự đến các thái độ. Việc giáo dục sẽ không có hiệu quả và những cố gắng sẽ vô ích, nếu như không chú tâm phổ biến một hình ảnh mới mẻ về con người, về cuộc sống, về xã hội và sự liên hệ với thiên nhiên. Mặt khác, mô mẫu nhằm vào việc tiêu thụ do phương tiện truyền thông và mạng lưới thị trường đầy hiệu quả vẫn tiếp tục.

(còn tiếp)

TƯỢNG và PHẬT

Hai từ này từ lâu đã bị ghép chung đến độ nhiều người không thấy có gì khác biệt nữa. Vì thế, nhiều đời qua, Phật tử đã thờ, đã thắp hương, đã cúng lạy Tượng mà cứ nghĩ rằng mình đang thành tâm lễ Phật! Họ quỳ trước tượng van vái, cầu xin điều nọ điều kia, hy vọng rằng Phật sẽ linh ứng để ban cho họ những điều mong mỏi. Chùa nào tượng càng nhiều, càng lớn thì càng thu hút tín đồ. Mọi người đã xem Chùa như Đất Phật, Tượng là Phật, nên làm tượng, đúc tượng, tạc tượng trở thành một nghề nuôi sống biết bao nhiêu gia đình. Chùa không có Tượng Phật thì không thể gọi là Chùa, nên từ lâu, Chùa trở thành nơi Thờ Tượng, các vị sư trở thành là những người trông coi, thờ tự, nhang khói cho Tượng. Có gì khác biệt giữa Tượng và Phật? Tượng có phải là Phật không?

Theo tôi, không phải là những vị tu hành không biết Tượng không phải là Phật, một vị HT. rất có uy tín đã giải thích rằng “Tượng là để Phật Tử nhìn thấy mà phát tâm tu hành”. Nhưng có phát tâm hay không thì không biết, mà thực tế thì Tượng là để Phật Tử đốt hương, vái lạy và cầu xin, trước tượng bao giờ cũng là một hay những bát hương thật to, người muốn cầu xin thường đốt vài nén cắm vào đó, nên bao giờ cũng nghi ngút khói hương. Hình như mọi người không ai quan tâm đến lời nhắc nhở trong Kinh Kim Cang:

“Ai nương sắc để thấy ta

Dùng âm thanh để cầu ta

Kẻ đó hành tà đạo

Không thể thấy Như Lai”

Mục đích của việc tu Phật không phải là để phụng sự cho Phật, mà là để Thành Phật, thành Như Lai, tức là được Giải Thoát khỏi phiền não, tiếp xúc với các pháp mà vẫn không động tâm theo nó gọi là Như Lai. Như Lai không phải là Phật Tổ Như Lai có thần thông quảng đại, quyền năng vô biên cứu khổ ban vui cho mọi người. Không động tâm không phải là để Vô Tâm, Vô Cảm trước mọi khổ, vui của cuộc đời, mà không chạy theo cái Tâm Tham, Tâm Sân, Tâm Si khi đối pháp. Mọi người đều có thể Thành Phật như Đức Thích Ca, chính vì vậy mà Ngài đã Thọ Ký: “Ta là Phật đã thành. Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. “Thành Phật” chỉ là “thành tựu công việc Giải Thoát khỏi phiền não” cho bản thân của người thành tựu mà thôi, không phải là thành Thần Linh để ban ân, giáng phúc cho ai. Nhưng nhiều đời qua, do không hiểu được điều này mà biết bao nhiêu thế hệ không dám phát tâm tu hành để Thành Phật, sợ rằng Tăng Thượng Mạn, chỉ mong được làm đệ tử của Phật, phụng sự Phật mà thôi.

Không biết từ khi nào, Chùa, Tượng Phật đã được hình thành, nhưng chắc chắn không phải là thời Đức Thích Ca tại thế, bởi vì thuở đó Ngài và các Đệ Tử chỉ ngụ trong rừng hay những cội cây, không có cất chùa, và trong Giáo Pháp của Đạo Phật cũng không có bài giảng nào dạy lạy Phật, lễ Phật. Vậy mà cho đến nay thì Phật trở thành nơi nương tựa của bá tánh. Họ xưng tán, lạy Phật, lễ Phật, sám hối với Phật khi lỡ làm điều gì sai lầm. Cầu xin độ trì khi sống cũng như lúc qua đời đã trở thành những nghi lễ không thể thiếu cho các Phật Tử.

Đọc trong các bộ Chính Kinh chỉ thấy chỉ tập trung giải thích về những lý do vì sao cần tu hành, cách thức tu hành, về Giới, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo. Dạy cách thức Quán, Soi, Tư Duy, Thiền Định. Quan trọng hơn hết là nói về cái Tâm, vì Phật là kết quả Giải Thoát cái tâm ra khỏi phiền não. Kinh là những lời giải thích về cái Tâm và cách thức để cải tạo nó cũng như những gì diễn ra trước và sau khi chuyển hóa nó. Tất cả những gì được mô tả như Niết Bàn, Địa Ngục, Chúng Sinh, Thánh chúng, Chư Bồ Tát, Phật đều là phương tiện của Đức Thích Ca cũng chỉ để nói về cái Tâm, không phải để tả cảnh giới của Phật nào bên ngoài. Vì thế, Tổ Đạt Ma dạy: “Ngàn Kinh muôn luận cốt mở sáng cái Tâm”.

Không phải bỏ nhà vô Chùa, mặc pháp phục, trai giới, hình tướng theo đúng hình ảnh Phật ngày xưa, giữ đúng Tứ oai nghi mà gọi là tu hành. Người muốn tu Phật phải biết “Tu Phật chính là Tu Tâm”. Cái Tâm mới chính là cái cần Tu, cần Sửa, không phải là Sửa Tướng, vì “Giải thoát hay ràng buộc đều do Tâm” (Kinh Lăng Nghiêm). Do vậy, người tu Phật mà không biết đến cái Tâm thì không thể nào tu hành cho thành công. Xin trích dẫn một số:

- “Ông từ hồi nào đến giờ, nhiều kiếp Sanh Tử Luân Hồi cũng vì Tâm và Mắt. Nếu ông không biết nó ở chỗ nào thì không bao giờ hàng phục được phiền não trần lao” (Kinh Lăng Nghiêm).

- “Ông nay muốn đặng Đạo Vô Thượng Bồ Đề thì điều cần thứ nhất là phải hiểu rõ hai món căn bản:

1. Căn bản của Sanh Tử là Vọng Tâm.

2. Căn bản của Bồ Đề Niết Bàn là Chân Tâm”

(Lăng Nghiêm).

- “Trong ba cõi lấy Tâm làm chủ. Người quán được Tâm được giải thoát cứu cánh. Người không quán được Tâm ở mãi trong triền phược”

(Tâm Địa Quán).

- “Nếu không thấy Tâm thì học Pháp vô ích”

(Pháp Bảo Đàn Kinh).

- “Chúng sinh cầu Thấy Tánh.

Kính Phật chớ phụ Tâm” .

- “Tâm là nguồn của mọi pháp lành.

Tâm là chủ của muôn công đức.

Niết Bàn thường vui cũng do Tâm mà ra.

Ba cõi lăn lóc cũng theo Tâm mà dậy”.

- “Tâm là cửa, là ngõ của đạo xuất thế.

Tâm là bến, là ải của đạo Giải Thoát”.

- “Ta vốn cầu Tâm chẳng cầu Phật.

Rõ ra Ba Cõi không một vật.

Ví muốn cầu Phật thà cầu Tâm.

Chỉ Tâm, Tâm, Tâm ấy tức Phật” .

(Sáu Cửa vào Động Thiếu Thất của Bồ Đề Đạt Ma).

Phật Tử thì có thể viện lẽ rằng mình chỉ là một Phật Tử bình thường, đâu cần biết Tâm là gì? Tu hành như thế nào? Chỉ biết thờ Phật, ăn chay ngày Rằm, mồng Một, thỉnh thoảng đi chùa, cúng kiến để cầu bình an cho gia đạo, như vậy là đủ rồi, cần gì tìm hiểu, thắc mắc gì thêm? Điều đó đúng với những người chấp nhận và tin theo những gì được nghe nhiều người truyền lại, không cần biết đúng sai, kết quả về đâu. Nhưng với người không chấp nhận phó mặc tương lai của mình cho người khác, vì khi đối chiếu với thực tế thì thấy không khớp với những gì được giảng dạy thì lại thấy khác. Bởi chúng ta muốn thờ vị nào thì cũng nên xem đó có phải là điều vị đó yêu cầu hay không? Muốn xin ai thứ gì đó thì phải biết rằng họ có hay không? Có khả năng cho hay không? Nếu ta theo dai dẳng, thế hệ này sang thế hệ khác để xin người không có, không thể cho, thì có phải là làm chuyện vô ích hay không? Hơn nữa, Đạo Phật dạy Tự Độ, dạy Nhân Quả, tức là cần điều gì thì tự mình gây tạo để có kết quả, không ai ban cho ai được, mà chúng ta cứ cầu xin thì liệu có phù hợp với chân đạo hay không? Có giống như những gì vị sáng lập Đạo mong mỏi hay không? Nếu không giống thì chúng ta đang làm gì? Kết quả về đâu? Đó là điều mà tôi tin rằng những ai có chút suy nghĩ sẽ tự xét nếu không muốn tiếp tục hành trì trong mê mờ.

Với người Phật Tử thì cho rằng không cần biết Tâm là gì? Tu Phật thì phải làm gì? Muốn thoát Khổ thì cần làm gì, thì có thể chấp nhận được. Nhưng với người tu, hàng ngày tụng Bát Nhã Tâm Kinh mà không hiểu: “Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”, có nghĩa là việc “độ nhất thiết khổ ách” là kết quả của việc “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, đâu có nói rằng do Phật Độ cho? Và rõ ràng Kinh viết HÀNH THÂM BÁT NHÃ, đâu có dạy TỤNG THÂM BÁT NHÃ mà ngày nào chúng ta cũng mang ra tụng, lấy đó làm công phu? Bát Nhã được dịch là Trí Huệ. Người muốn có Trí Huệ để qua bờ Sinh Tử thì phải Soi, Quán về cái Ngũ Uẩn tức là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nhờ xem xét, tìm hiểu nó để thấy cuối cùng nó sẽ trở về KHÔNG. Bản chất nó không bền, không thật, để rồi không tiếp tục chạy theo sự điều động của nó. Các Pháp khác cũng tương tự. Cũng là Không. Không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm v.v... Nói chung, Thân, Tâm của ta và những gì ta có thể Nghe, Nhìn, Va chạm, Cảm xúc, Nghĩ tưởng v.v... đều sẽ theo cái Thân này mà hư hoại, không tồn tại lâu dài được, vì thế không nên bám lấy nó để rồi cuộc sống không yên ổn. Người quán sát như thế sẽ có sự hiểu biết của Đạo gọi là Trí Huệ mà Đạo Phật gọi là chỉ có “con dao Trí Huệ” mới có thể cắt đứt mọi phiền não để người có nó sẽ thoát khỏi sự vây hãm, buộc ràng bởi các pháp, được thanh tịnh, an ổn, gọi là Chứng Niết Bàn.

Mọi người cứ tưởng rằng Phật là Thần Linh, nên nghĩ rằng chỉ có những bậc Xuất Gia, thanh tịnh, tu hành nghiêm chỉnh mới Thành Phật được, không biết rằng Phật chỉ là kết quả Giải Thoát. Người Giải Thoát khỏi phiền não cho bản thân thì được gọi là Phật, không cần biết người đó Xuất Gia hay tại gia, nhiều tuổi hay ít tuổi, nam hay nữ, sang hay hèn. Vì ai, ở đâu mà không gặp phiền não? Vô Chùa cũng chắc gì đã thoát được? Vì vậy mà Đạo Phật mới đưa ra giải pháp để trừ nó.

Nhưng muốn Thành Phật hay Giải Thoát phải tìm ở đâu?

Chỉ cần trừ hết phiền não thì gọi là Thành Phật. Tổ Đạt Ma xác định: “Phật ở trong tâm như hương theo cây. Phiền não hết thì Phật theo tâm ra. Vỏ mục hết thì hương theo cây ra”. “Mới biết ngoài cây không có hương, ngoài Tâm không có Phật. Nếu ngoài cây có hương ắt là hương của cây khác. Ngoài Tâm có Phật, ấy là Phật ngoài của ai khác”.

Tổ dạy:

Nếu biết Tâm mình là Phật ắt chẳng nên tìm Phật ngoài Tâm như vậy”

“Mà cũng đừng đem Phật ra lạy Phật.

Đừng đem Tâm ra niệm Phật.

Phật chẳng tụng Kinh.

Phật chẳng giữ Giới”

(Sáu Cửa vào Động Thiếu Thất).

Như vậy, nếu ta cho rằng mình đang Tu Phật mà chỉ biết thờ lạy Phật, kiên trì giữ Giới, ngày ngày tụng Kinh, Niệm Phật, học pháp, giảng pháp... thì liệu có đúng cho một quy trình tu hành?

Vì không hiểu rằng Phật chỉ là nghĩa của Giải Thoát. Giải Thoát hay ràng buộc cũng ở nơi cái Tâm, nên nói Tâm là Phật thì nhiều người không chấp nhận được, bởi từ nhiều đời mọi người đều tin rằng Phật là Thần Linh, tất cả mọi người dù cho có tu hành, cố gắng đến mấy cũng không thể thành Phật được. Vì thế, họ hô hào nhau đúc hình, tạc tượng Phật rồi hương khói để mong phù hộ, độ trì. Nhưng tin Phật kiểu như thế thì đâu có khác gì những tín đồ của Tôn Giáo khác tin vào sự hộ trì của Giáo Chủ? Như vậy là Thần Quyền, đâu có phải là Đạo Phật chân chính? Đạo Phật dạy người tu phải có Trí Huệ, thì nếu thật sự Thờ Phật là mục đích của Đạo Phật thì cần tìm Trí Huệ làm chi? Nếu Phật đã cứu được mọi người thì cần gì Giáo Pháp, cần gì phương tiện, giải thích dông dài làm gì? Đó là một số nghi vấn mà tôi tin rằng ai chịu khó tìm hiểu sẽ thấy ra nhiều điều lợi lạc cho bản thân.

So sánh giữa Tượng và Phật ta thấy hoàn toàn khác nhau. Tượng là vật vô tri do con người chạm khắc, đúc tạc ra. Phật là Giải Thoát, là kết quả của vô số hạnh lành mà người tu thực hiện nơi Thân, Tâm của chính mỗi người. Tượng Phật là vật vô tri do con người tạo ra thì làm sao hộ trì được cho ai? Phật là sự thành tựu công việc Giải Thoát của người hành trì thì cũng đâu có quyền năng để hộ trì cho người khác. Do đó, nếu ta sùng bái Phật Thích Ca hay A Di Đà, thờ lạy Tượng được xem là hình ảnh của Ngài để cầu mong được về quốc độ của Ngài cũng vô ích mà thôi. Tổ Đạt Ma dạy: “Người lạy ắt không biết. Người biết ắt không lạy”. Thay vào đó, chư vị Giác Ngộ luôn dạy chúng ta dùng những Hạnh mà Phật đã làm, đã chỉ dạy, để đúc, tạc nơi Tâm của mình để bản thân mình cũng có Phật, cũng được Giải Thoát như Phật. Chúng ta nên nhớ, ngay cả Đức Thích Ca hay Di Lặc có giáng trần đi nữa thì các Ngài cũng chỉ làm công việc hướng dẫn, rồi mỗi người phải tự thực hành để đạt kết quả. Các Ngài không thể làm thay cho chúng ta được. Vì nếu cứu được mọi người thì Đạo Phật không còn là Đạo Tự Độ, Đạo Nhân Quả nữa, mà trở thành Đạo Độ Tha mất rồi! Do đó, dù cùng tin tưởng Đạo Phật, cùng đọc kinh Phật, nhưng do hiểu khác nhau, nên khi thực hành thì phân ra Chánh Đạo và Tà Đạo do các việc: hoặc hướng nội, hướng vào Tâm của mình mà xây Chùa, tạc Tượng Phật nơi Thân, Tâm mình, bằng cách cải tà, quy chánh, cải ác, hành thiện, là Chánh Đạo; và hướng ngoại: Tin, thờ lạy, tôn sùng Phật, nương hình tướng mà cầu xin, chờ mong được ban cho điều nọ điều kia, gọi là Ngoại Đạo. Mà đã ngoại đạo thì mong gì “Thấy Như Lai”? Vì “Thấy Như Lai” là nói về sự thành tựu của công việc tu hành, không phải là cái Thấy bằng mắt khi Ngài xuất hiện vậy.

Tâm Nguyện

(Tháng 02/2017)

THÔNG BÁO TẶNG SÁCH

Nhân sắp kỷ niệm 11 năm thành lập CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA VÀ NAY . Nhà nghiên cứu Phật Giáo Tâm Nguyện có nhã ý tặng những quyển sách đã xuất bản:

- Từ Tu Thiền đến Tu Phật

- Pháp Bảo Đàn Kinh (Lược Giải)

- Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất (Lược Giải)

- Kinh Duy Ma Cật (Lược Giải)

Bạn đọc muốn nhận sách thì vui lòng gởi địa chỉ về Bản Tin hay email cho: bientran33@yahoo.com, sách sẽ được gởi đến nhà, chỉ cần trả cước phí cho Bưu Điện.

Phụ Bản I

VỀ VIỆC DỊCH VĂN HỌC ITALIA

NHÂN CUỐN “CA DAO VIỆT NAM”

ĐƯỢC DỊCH RA TIẾNG ITALIA

Qua bài giới thiệu của giáo sư Nguyễn Văn Hoàn trên báo chí vừa qua, chúng ta được biết ở Italia mấy chục năm trước, vào những năm 60, đã xuất hiện các tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra tiếng Italia: Truyện Kiều (1968) do một nhà xuất bản ở Rôma ấn hành, tiếp theo là Chinh phụ ngâm do Ida Garzonio dịch và Nhà xuất bản Tallone, một nhà xuất bản có uy tín lớn ở châu Âu, ấn hành. Thật vui mừng với cái tin lại có thêm một cuốn sách văn học Việt Nam nữa được dịch ra tiếng Italia và đã được ấn hành, hơn thế nữa, lần này trong công việc dịch thuật lại có sự cộng tác giữa một dịch giả Việt Nam với dịch giả Italia cùng thực hiện.

Nhân buổi giới thiệu cuốn “Ca dao Việt Nam” hôm nay, có mặt một trong hai dịch giả, giáo sư Nguyễn Văn Hoàn, và các bạn Italia, ngài đại sứ kính mến Luiji Sobari và người bạn thân thiết, giảng viên Giuseppe Barboro, chúng ta nhiệt liệt chúc mừng dịch giả giáo sư Nguyễn Văn Hoàn cùng các bạn Italia.

Thưa các bạn, đến đây tôi lại nhớ đến lời nhà thơ Chính Hữu phát biểu khi đưa tặng bản dịch tiếng Pháp Chinh phụ ngâm cho nữ thi sĩ Maria Vailati, mà giáo sư Hoàn trích dẫn lại trong bài giới thiệu cuốn Chinh phụ ngâm in bằng tiếng Italia: “…Tập thơ này ở trong tay bạn thì sẽ có ích cho đất nước tôi nhiều hơn”. Sau đó bản dịch tiếng Pháp đó đã được Ida Garzonio dịch ra tiếng Italia và cuốn sách ra được ấn hành vào cuối những năm 60, thời điểm đất nước Việt Nam đang hứng chịu bao nhiêu bom đạn của thế lực xâm lược Mỹ. Tôi chắc rằng Chinh phụ ngâm ra đời đã làm cho nhiều bạn bè Italia lúc đó hiểu rõ hơn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân chúng tôi và trong những người dân Italia xuống đường biểu tình chống Mỹ xâm lược ủng hộ Việt Nam, những người dân Italia gửi hàng viện trợ giúp nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, hẳn có nhiều người đã từng tiếp xúc với những trang Truyện Kiều và những dòng thơ trong ca khúc Chinh phụ ngâm”.

Vậy là ở đây nhà thơ Chính Hữu đã diễn đạt lại cái ý tứ mà nhiều người có uy tín đã từng phát biểu là, “hơn tất cả mọi cái khác, văn học có thể giúp cho dân tộc này hiểu dân tộc khác một cách rõ ràng hơn, sâu sắc hơn!” và như vậy là chúng ta ý thức được thêm sự cần thiết và sự quan trọng của công việc dịch thuật.

Các nhà văn dịch giả Việt Nam từ nhiều thập kỷ qua cũng đã có nhiều cố gắng dịch và giới thiệu cho bạn đọc Việt Nam một khối lượng không ít các tác phẩm văn học Italia, từ cổ điển đến hiện đại, đủ các thể loại: truyện dân gian, cổ tích, văn, thơ, kịch, truyện cho thiếu nhi… Tính sơ sơ cho đến nay ở Việt Nam đã có trên ba mươi đầu sách văn học Italia được dịch và xuất bản (riêng Nhà xuất bản Văn học ra tới 10 tên sách, Nhà xuất bản Kim Đồng cũng có tới sáu, bảy tên sách…).

Chúng ta vui mừng vì đã có những tác phẩm văn học Việt Nam dịch sang tiếng Italia và hẳn chúng ta càng vui vì nhiều tác phẩm văn học Italia đã được dịch sang tiếng Việt.

Nhân đây ta thử đi sâu vào việc dịch thuật ở phần văn học Italia sang tiếng Việt một chút. Nhìn vào danh mục sách Italia đã được dịch so với mặt bằng công việc chung dịch văn học các nước khác ta thấy: Số lượng sách văn học Italia đã được dịch ở vào mức trung bình (trong vòng nửa thế kỷ sau thế kỷ XX ở Việt Nam ra khoảng hơn hai nghìn đầu sách văn học dịch, trong đó văn học Nga - Xô viết khoảng 600, văn học Pháp trên 300, văn học Trung Quốc chưa tổng kết, nhưng hẳn khá nhiều…). Nhưng khác với số sách của các nước khác được chọn dịch, ngoài những giá trị văn học cũng có lần nhiều sách tầm thường, không tiêu biểu, các tác phẩm văn học Italia được xuất bản ở Việt Nam cho đến nay cơ bản là những sách đích đáng: Thần khúc của Dante, Mười ngày của Bocaxxô, Kịch của Gônđôni, tiểu thuyết Những kẻ hứa hôn của Monzôni, truyện ngắn và tiểu thuyết của Prandêlô, Môravia, Buzzati, Pavixê, Pratolini, truyện cổ tích dân gian, tác phẩm cho thiếu nhi của G.Rôdari, C.Côlôdi, Edơ Amixít… Song ở đây lại có một vấn đề khác của dịch thuật: đó là, hầu hết các tác phẩm này đều được dịch qua một ngữ trung gian, bản dịch tiếng Pháp, hoặc tiếng Nga, chỉ gần đây mới có một hai tác phẩm được dịch trực tiếp từ tiếng Italia. Nhìn vào đội ngũ người dịch, cũng như tình trạng chung, ta thấy nhiều tên tuổi khác nhau, nhưng xem ra không thấy có mấy ai là người tập trung đi chuyên sâu gắn bó lâu dài với văn học Italia. Thêm nữa nhiều dịch giả có tên tuổi đều đã nhiều tuổi, thậm chí đã không còn nữa: Nhà thơ dịch giả Khương Hữu Dụng người cùng với Lê Trí Viễn dịch Thần khúc, chẳng hạn, đã trên chín mươi tuổi và sức khỏe quá yếu rồi, các dịch giả Nguyễn Vĩnh, Hoàng Hải, Hướng Minh, Thiều Quang, Nguyễn Duy Lập đều đã qua đời.

Từ đó có thể thấy một vấn đề quan trọng cấp bách của công việc dịch thuật văn học nói chung và dịch thuật văn học Italia nói riêng là vấn đề đội ngũ người dịch. Nhân có các bạn Italia, chúng tôi muốn đưa ra một ý kiến để chúng ta cùng suy nghĩ và cố gắng giải quyết: phải kiến nghị với nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền coi công việc dịch thuật nói chung và dịch văn học nói riêng là một sự nghiệp của quốc gia, có ý nghĩa xã hội chính trị, vì thế phải thật sự đầu tư cho công việc đào tạo nười dịch một cách cơ bản, lâu dài và có những biện pháp khuyến khích.

Không dám lợi dụng diễn đàn. Nhân dịp Hội thảo giới thiệu bản dịch ra tiếng Italia cuốn sách Ca dao Việt Nam như thế này, tôi chỉ mạn phép góp một vài suy nghĩ như trên.

Một lần nữa chúc mừng giáo sư Nguyễn Văn Hoàn và các bạn Italia.

Xin cảm ơn Ban tổ chức và các bạn thính giả và có gì không phải xin được lượng thứ.

THÚY TOÀN

JEAN-JACQUES ROUSSEAU

VÀ ÂM NHẠC

Jean - Jacques Rousseau (1712-1778) là một văn tài phong phú và đa dạng. Ông bàn đến chính trị và triết học trong “Luận về nguồn gốc và các cơ sở của sự bất bình đẳng giữa người với người” (Discours sur l’origine et les fondements de l’inégalité parmi les hommes), “Khế ước xã hội” (Contrat social); ông luận về giáo dục trong “Émile”; ông viết tiểu thuyết “Julie hay nàng Héloise mới” (Julie ou la nouvelle Héloise) và các tác phẩm tự truyện “Những lời thú nhận” (Les Confessions), “Những mơ mộng của người đi dạo một mình” (Les Rêveries du promeneur solitaire)…

Chưa hết. Ông còn là một nhà lý luận về âm nhạc. Mới đây, nhà xuất bản Gallimard (Paris) cho ra mắt bạn đọc tập thứ năm của “Jean - Jacques Rousseau toàn tập”, gồm những bài viết của ông về âm nhạc, kịch nghệ và ngôn ngữ, dày đến 2.240 trang!

Âm nhạc là nỗi đam mê suốt đời của Rousseau. Vở đại ca kịch “Ông thầy bói vườn” (Le Devin de village) của ông được công diễn ở Paris đã mang lại cho ông danh vọng và tiền bạc nhiều hơn bất cứ tác phẩm văn chương nào khác. Trong tám năm cuối đời (1770-1778), khi không còn nguồn thu nhập nào nữa, chép nhạc trở thành kế sinh nhai duy nhất của ông: ông cặm cụi chép hơn 11 nghìn trang nhạc, bán mỗi trang được mười xu!

Rousseau là người thông minh và nhạy cảm. Song ông không được học nhạc một cách có hệ thống nên các nhận định của ông về âm nhạc có quá nhiều thành kiến, thậm chí không thiếu những sai lầm.

Ông chê bai những tẩu khúc (fugue), lên án việc thiến các nam ca sĩ khi họ còn trẻ để họ giữ được giọng cao soprano. Trong một bài viết cho Tự điển bách khoa (Encyclopédie) do Diderot và d’Alembert chủ biên, ông viết: “Ở Ý, có những người cha man rợ đã hy sinh cái trời cho để làm giàu, bắt con trai của mình phải thiến đi để mua vui cho bọn người ưa khoái lạc và tàn bạo đi tìm tiếng hát của những người khốn khổ”. Ông viết những dòng chữ này xuất phát từ ý thức bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, trong tác phẩm “Những lời thú nhận” xuất bản năm 1781 (3 năm sau khi ông qua đời), ông kể rằng: năm 1743, ông đến Venise (Ý) và được nghe Giovanni Carestini (trong vai Hercule) biểu diễn tại nhà hát San Crisostomo. Ông đã thốt lên lời khen: “Thật thích thú biết bao! Ngây ngất biết bao!”, mà không biết rằng Carestini chính là một ca sĩ bị thiến (castrat)!

Trong “Luận về nguồn gốc các ngôn ngữ” (Essai sur l’origine des langues), Rousseau cho rằng: “Ở các xứ phía Nam, thiên nhiên hào phóng, nên các nhu cầu được sinh ra từ những đam mê; ngược lại ở những xứ lạnh, thiên nhiên keo kiệt, nên các đam mê được sinh ra từ những nhu cầu”. Vì vậy, theo ông, ở những xứ phía Bắc, vì nhu cầu sinh tồn, con người làm cho cơ quan phát âm của mình mạnh thêm, hại đến sự mềm mại của nó, khiến tiếng nói ở những nơi này không còn thích hợp với âm nhạc nữa; ngược lại, ở miền Nam, tiếng nói dịu dàng du dương, mỗi câu nói biến thành một lời ca.

Ông chế nhạo nhạc của người Anh và người Đức là “huyên náo ầm ĩ”. Trong “Thư về âm nhạc Pháp” (Lettre sur la musique française), ông cho rằng tiếng Pháp không thể có những đặc điểm đó, rằng bài hát của người Pháp chỉ là một tiếng sủa dai dẳng khó chịu, rằng sự hòa âm của nó là sống sượng và không linh động. Từ nhận định đó, ông kết luận rằng “người Pháp không có âm nhạc và không thể có âm nhạc được” (les Français n’ont point de musique et n’en peuvent avoir)!

Các nhạc sĩ của nhà hát Opéra đã nổi cơn thịnh nộ, treo cổ một hình nộm của Rousseau, cấm ông bước chân vào nhà hát này.

Quả thật, những nhận xét về âm nhạc của Rousseau thiếu vô tư và công bằng. Ông lấy sự khoái chá của thính giác thay cho những luận cứ khoa học.

Song có một điều không ai có thể phủ nhận: văn xuôi của ông rất giàu chất nhạc. Có lẽ vì vậy các thế hệ hôm nay vẫn tìm đọc những bài viết về âm nhạc của ông.

­ HOÀNG ANH - ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

NHÂN NGÀY GIỖ TỔ,

VỀ THĂM ĐỀN HÙNG

Hùng Vương, Thục, Trưng, Tiền Lý, Ngô

Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ

Lê Sơ, Mạc, Lê (Trung hưng), Tây Sơn, Nguyễn

Lịch sử Tiên Rồng.

(Lời mới của bài “London Bridge”)

Chúng ta ai cũng nhớ đến Quốc tổ Hùng Vương, vương triều đầu tiên của Lịch sử Việt Nam, theo như bài hát “Việt sử ca” kể trên - bài hát ngắn gọn, tóm tắt tất cả 15 vương triều từ đời vua Hùng Vương cho đến đời Nguyễn (30-8-1945) - căn cứ theo Niên biểu Việt Nam của Vụ Bảo tồn bảo tàng, Bộ Văn hóa Thông tin.

Nhân ngày Giỗ Tổ 10-3 âm lịch, tôi ra Hà Nội và cố gắng tranh thủ đi Phú Thọ, ghé thăm Đền Hùng, để hiểu biết về Đất Tổ, và thế là tôi đã thu xếp, vượt gần 90km để đến với Đền Hùng. Nhờ một người anh họ ở Hà Nội nhận làm hướng dẫn viên cho chú em từ phương Nam, lớ ngớ là tôi, mới khỏi “lạc điệu” trong cuộc hành hương về với Đất Tổ lần này.

Từ khu mộ Làng Cả, qua cầu Bạch Hạc, đã thấy một vùng núi non hùng vĩ, mà theo lời của người anh, đó là núi Hùng, núi Văn và núi Trọc. Riêng Đền Hùng được xây dựng trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh của đất Phong Châu xưa (hiện nay thuộc xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Núi Nghĩa Lĩnh cao 175m, thuộc thôn Cổ Tích (xã Hy Cương). Tại đây, các đền thờ, lăng miếu nhắc nhở sự tích các vua Hùng và giải thích nguồn cội dân tộc Việt Nam. Nơi đây theo truyền thuyết còn có 99 ngọn đồi, hóa thân của 99 con voi có nghĩa, phủ phục chầu về núi Tổ. Nghĩa Lĩnh còn là nơi các vua Hùng chọn làm nơi tế Trời đất, Linh thần và các vị Tiên Tổ. Toàn bộ khu di tích gồm 4 đền, 1 chùa và 1 lăng, hài hòa trong phong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất đẹp mắt.

Cồng Đền Hùng nằm ở phía tây của chân núi, xây theo kiểu tam quan, hai tầng, góc mái uốn cong. Bờ nóc có “Lưỡng long chầu nhật”, cửa chính giữa cao rộng, với 4 chữ Hán phía trên cổng, viết theo lối chữ chân, đại tự là: “Cao sơn cảnh hành” (Lên núi cao nhìn xa rộng) và các câu đối viết dọc theo bốn thân cột. Từ cổng Đền, khách muốn lên Đền Hạ phải vượt qua 255 bậc đá. Tương truyền nơi đây Mẹ Âu Cơ đã sinh ra bọc trăm trứng, nở trăm con. Dâng hương ở chùa Thiên Quang xong, anh họ dẫn tôi đến nơi thờ hai vị Công chúa, nổi danh tài sắc, con của vua Hùng Vương thứ 18 là Tiên Dung và Ngọc Hoa, anh giải thích: Đây gọi là Giếng Ngọc, là “tấm gương soi” mà ngày xưa hai nàng Công chúa thường soi vào để vấn khăn, chải tóc, mỗi khi cần ra ngoài! Hãy ngồi mà thưởng lãm phong cảnh, nghỉ chân, chuẩn bị leo thêm 168 bậc đá nữa để viếng Đền Trung, thăm nơi hội họp và làm việc của các vua Hùng thời xưa.

Ở đền Giếng, không khí đã khác xa với không khí ở cổng Đền. Gió thoảng nhẹ nhưng mát lạnh. Tôi dường như lạc vào cái không khí trầm lắng xa xưa, suy nghĩ miên man về một thời kỳ dựng nước của Cha ông ta xưa…

Cột Đá Thề, Giếng Ngọc, hạt Lúa thần và cây Thiên tuế, theo Ban quản lý khu di tích lịch sử Đền Hùng, đó là những “linh vật” của Khu di tích. Chỉ cây Thiên tuế, được chống đỡ bằng cột và giá sắt, anh tôi nói vui: “Cụ cũng đã gần 800 tuổi rồi đấy”, bỗng nhiên tôi muốn chắp tay xá “Cụ” trước khi giã từ để lên viếng Đền Trung.

Chưa kịp ngắm nghía hết các “phòng họp” của các vua Hùng, anh tôi đã đưa tay xem đồng hồ và thúc giục nhanh lên Đền Thượng, nơi có lăng vua Hùng tượng trưng cho mộ Tổ. Vậy là chúng tôi hì hục để đến với Đền Thượng.

Đây là nơi mà ngày xưa các vua Hùng đã dùng làm nơi tế lễ Trời Đất, Thần Núi và Thần Lúa. Trong Đền có bức hoành phi lớn đề 4 đại tự: “Nam quốc Sơn hà”. Trước Đền có một cột đá lớn, ám đen khói hương. Đây là cột Đá Thề, mà theo truyền thuyết là do vua Thục An Dương Vương dựng lên, nguyện đời đời nối dõi cơ nghiệp các vua Hùng để lại.

Trước Lăng vua Hùng, tôi cùng người anh nghiêm trang, kính cẩn dâng hương và cầu nguyện. Buổi trưa im ắng, trước phong cảnh hữu tình, nên thơ, trang trọng, thiêng liêng, tâm hồn tôi cảm thấy lâng lâng, khó tả…

Không còn nhiều thời gian để ngắm cảnh và thả hồn mình theo những áng mây bay về phía Ngã ba Hạc, nơi sông Lô đổ nước vào sông Hồng, nơi các dãy núi Tam Đảo, Ba Vì mờ ảo, bồng bềnh trong mây.

Chúng tôi xuống núi, tìm một hàng quán, để bạn đãi những món quà dân dã mà độc đáo, để tiếc không được chứng kiến và thưởng thức những món ngày xưa dùng để… tiến Vua như hồng Hạc Trì, bưởi Đoan Hùng, cá Anh Vũ… Bạn ỡm ờ hẹn, lần sau cứ đến, sẽ được chiêu đãi!

Hơn nửa đời người, tôi mới được một lần đến với Đất Tổ, Đền Hùng. Nơi cội nguồn của dân tộc. Đến với xứ sở của “Rừng Cọ, đồi Chè, Đồng xanh ngào ngạt”, là nguồn cội của tâm linh người Việt, mới thấy thấm thía câu nói: “Từ Đền Hùng nhìn ra cả nước. Cả nước hướng về Đền Hùng”, và câu ca dao cổ:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng ba.

LỄ HỘI ĐỀN HÙNG

Lễ hội Đền Hùng cũng là dịp giỗ Tổ thiêng liêng. Hàng năm vào cuối xuân, nhân dân cả nước lại hướng về Đất Tổ, nô nức hành hương tưởng niệm các vua Hùng, triều vua mở nước và dựng nghiệp, lập ra nhà nước Văn Lang cổ đại. Hàng năm chính hội là ngày 10-3 âm lịch, ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Đông vui nhất thường từ ngày 8-3 đến ngày 11-3 âm lịch. Sáng ngày lễ chính 10-3 có nghi lễ Rước kiệu hoành tráng, nghi lễ Dâng hương rất trọng thể, nghi lễ Dâng lễ vật của con cháu khắp mọi miền đất nước.

Phần hội có nhiều hoạt động vui chơi như hát thi (hát ca trù, hát xoan), đâm trống đồng, các trò chơi truyền thống của người Việt, người Mường. Lễ hội Đền Hùng là một ngày hội lớn của Việt Nam, ca ngợi sự hưng thịnh của nòi giống, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng, nhắc nhở người dân Việt Nam chung sức xây dựng đất nước ngày một phồn vinh. Lễ hội năm nào cũng nhộn nhịp, đông vui. Hàng chục vạn người hành hương từ mọi miền đất nước, cũng như kiều bào và du khách nước ngoài đến dâng hương lễ Tổ. Đây là một ngày Lễ Quốc Gia, tất cả công, tư sở, trường học đều được nghỉ một ngày, vào đúng ngày Lễ chính 10-3 âm lịch, tương ứng với ngày dương lịch để mọi người tường nhớ đến công lao to lớn của Quốc tổ Hùng Vương.

CẦN GIỮ NÉT ĐẸP TINH THẦN CHO LỄ HỘI

Hàng trăm Lễ hội lớn nhỏ của tháng giêng đi qua là những bãi rác khổng lồ chất quanh đền chùa - nơi được coi là chốn linh thiêng. Nơi này người dân bức xúc vì thanh niên vẽ bậy, nơi kia buồn vì giới trẻ ăn mặc hở hang đi chùa. Đó là chưa kể đến những lời than không dứt về việc hàng đống tiền chất đầy đền này phủ kia, ngân sách nhà nước bỏ ra cho Lễ hội bị lãng phí.

Ai cũng muốn làm cái Lễ hội cho làng mình tươm tất hơn. Để rồi sinh ra hàng ngàn hệ lụy tốn tiền của người dân và nhà nước. Sau vài ngày Lễ hội, đền chùa có đẹp hơn không? Chẳng có đền, chùa hay di tích nào trụ vững trước hàng trăm ngàn người chen lấn, xô đẩy, không chen được thì trèo lên bờ tường, hàng rào, giẫm lên cỏ… Nét đẹp tinh thần của người Việt từ xa xưa hình như không còn được gìn giữ, mà đã bị lợi dụng, thậm chí biến tướng để phục vụ cho mục đích cá nhân, tập thể…

Thái độ văn hóa của người tham gia Lễ hội là việc rất đáng nói trong hoàn cảnh hiện tại. Trong số đó, phần nhỏ là người về thăm lại quê hương nói chung có thái độ rất tốt với bản quán, trừ việc cung tiến đến mức đưa vào di sản bừa bãi những đồ thờ không hợp với cảnh quan. Nhìn cách nhiều người hành xử trong những Lễ hội mới thấy dường như, chưa bao giờ sự dị đoan bùng nổ như hiện nay, làm mất hết ý nghĩa thiêng liêng cúa các tín ngưỡng bản địa và Phật giáo.

Lễ hội văn hóa trong xã hội hiện đại ở bất cứ nước nào, đều gắn với kinh doanh. Nhưng điều tiết giữa những món lợi và hành vi văn hóa để Lễ hội còn sống mãi với thời gian, là việc mà các địa phương nên đặt lên hàng đầu, trong đó những Nội dung Văn hóa Truyền thống phải được coi là Thiêng liêng bất biến để Trân quý, Giữ gìn.

PHẠM VŨ

Tham khảo: Sách Non nước Việt Nam, TC Du lịch VN, 2005 - Báo Tuổi trẻ Cuối tuần số 7-2011.

CUỐN SÁCH CŨ

& MỘT ĐỜI THƠ

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

Ngộ bệnh, tha thẩn buồn, lục tìm sách cũ chợt thấy tập thơ Bích Khê, do Chế Lan Viên, Hà Giao và Nguyễn Thanh Mừng tuyển chọn, Sở Văn hóa thông tin Nghĩa Bình xuất bản năm 1988. Trên loại giấy rất xấu, những con chữ nhạt, màu đục lờ như nước sông Trà mùa lũ.

Người đời xếp Bích Khê chung một chiếu với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, trong “trường thơ loạn”. Cùng chung một chất sầu: đau thương, chán nản và ray rứt. Đọc lại cuốn sách cũ “Thơ Bích Khê”, dễ nhận ra hơn một cách có hệ thống về những gì mà các nhà phê bình đã nói. Nhưng đó chỉ là một chiều. Tôi nghĩ là thơ Bích Khê còn có một chiều khác trong trẻo và đẹp đẽ vô ngần, nhất là khi nhà thơ nói về thiên nhiên và tình yêu.

Xuất phát từ cái gốc Đường Thi, khi nói về thiên nhiên, thơ Bích Khê chịu ảnh hưởng đặc biệt của thơ Đường về cấu tứ nhưng lại đầy sáng tạo và cách tân trong từng chữ, từng câu. Đây là một bức tranh đẹp ghê gớm của thơ mới:

Hoàng hôn ở bên cồn

Bên cồn ô cô thôn

Cô thôn ô trúc vàng

Trúc vàng điểm riêng thu

Thoảng tiếng gáy của cu

Cườm. Hiu hiu vàng đượm.

Dưới sức đẩy của các con chữ “ồ”, “ô”, “ô”, “thôn”, “cồn”, “thôn”, bức tranh về một ngôi làng cô độc bên cồn lơ thơ những bụi trúc vàng được lột tả tiệm tiến. Cái đẹp cứ dần dần lộ ra. Khách ly tao thưởng thức câu thơ được nhìn thấy bằng mắt (hoàng hôn, cô thôn, cồn, trúc vàng) và được thẩm âm bằng tai (tiếng gáy chim cu). Để rốt lại tất cả đều “hiu hiu vàng đượm” - một màu vàng khả ái chỉ có trong tranh mùa thu của Levital. Phải chăng cũng với mùa thu vàng ấy, một lần nữa được Bích Khê nhắc lại trong “Tỳ bà”:

Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi ! vàng rơi ! thu mênh mông.

Câu thơ mà Hoài Thanh cho là hay vào bậc nhất thi ca hiện đại Việt Nam cũng đẹp một sắc vàng tê tái. Mùa thu mang nỗi buồn của thi nhân, trải ra qua nhịp thơ 2 - 2 - 3 và mênh mang với những thanh bằng.

Cách tân trong từ, cách tân trong câu, Bích Khê còn giỏi thổi hơi thở mới vào nghệ thuật tạo hình. Thiên nhiên trong thơ ông là thiên nhiên của Tình và Sự, Cảnh chỉ đơn thuần là một cái phông để nhà thơ mô tả lòng mình:

Ô trời hôm nay sao mà xanh

Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành

Nhung mây tê ngời sao kim cương

Dạ lan tê ngời say men hương.

(Nghê thường)

Cách kết hợp đầy sáng tạo “Ngọc - Trăng” (thay vì ngọc ngà), “nhung - mây” (thay vì nhung lụa) mang lại cho ý thức một vẻ đẹp kỳ lạ của cảm giác. Những “tê ngời - sao”, “tê ngời - say” làm ngây ngất lòng người. Thiên nhiên đã tái sinh từ tâm tưởng nhà thơ. Một lần viếng Ngũ Hành Sơn - bước chân đến Vọng Hải Đài, Bích Khê đã viết:

Thuyền neo bên lau lách

Sông lạch bóng sao rơi

Mặt nước vỗ bành bạch

Da trăng trắng tợ hàu

Đứng trên đài Vọng Hải

Ngỡ tới Hoàng Hạc Lâu.

Tôi cố xâu chuỗi những “dữ liệu”: Thuyền - sông - mặt nước và da trăng để nhận chân một bức tranh cạn nghĩ có tính đồ họa. Nhưng đành chịu. Có lẽ thi sĩ đã có một cái nhìn riêng với những phát hiện riêng trong chuỗi tư duy khác thường không đi từ bộ phận đến toàn thể mà ngược lại, mà đi từ một góc nhìn xoắn đầy trẻ thơ. Đến như câu “da trăng trắng tợ hàu”, thì chịu. Ít nhất câu thơ cũng cho ba cách hiểu. Một, là da ai đó trăng trắng (da một thiếu nữ chẳng hạn và trăng trắng ở đây là từ láy toàn bộ). Hai, da trăng trắng được hiểu là da của vầng trăng màu trắng. Ba, là mặt nước có làn da trắng tợ hàu. Mới biết nhận định của Hoài Thanh hơn nửa thế kỷ trước “Thơ Bích Khê đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc”, là vậy.

Có hình khối màu sắc, đường nét và kích thước riêng biệt, thơ Bích Khê nói về thiên nhiên còn tinh tế đến kỳ lạ. Đọc câu thơ:

Ô nắng vàng thơm rung rinh điện ngọc

Những cánh hồng đơm, những cánh hồng đơm

Nhẹ nhàng nhịp nhàng thở đều trong sương.

Nếu không chịu nín thở và đọc khẽ một tí, thì còn thấy đâu hơi thở nhẹ huyền hoặc của những cánh hoa hồng.

Giống như những thi sĩ của thời “tiền chiến”, phần lớn các trang viết Bích Khê dành cho tình yêu đôi lứa, say đắm nồng nàn và da diết đến đau đớn. Tình yêu - đó là thứ ma lực không phai sắc hương, bìu ríu tâm hồn thi sĩ:

Anh thấy mơ màng trong ảnh ấy

Người em lãng mạn quá đi thôi

Anh nhìn trân trối anh tư tưởng

Anh ngỡ là em đứng đấy rồi.

(Ảnh ấy)

Trong đời thực theo bà Ngọc Sương - chị ruột nhà thơ, Bích Khê có yêu ba người là Song Châu, Bích Thủy và Ngọc Kiều nhưng cả ba mối tình đều lần lượt dở dang. Ngay trong những ngày bệnh nặng, Bích Khê viết:

Muốn thấy người xa trong giấc mộng

Khuya lơ còn tựa bên song.

(Gửi Liên Tâm)

Đọc câu thơ nhịp chẵn: khuya lơ/ còn tựa/ bên song của Bích Khê, bỗng dưng thấy cồn cào như đã đọc tâm sự buồn của Ức Trai những ngày xa, nhớ thương Thị Lộ. Chữ dùng: khuya lơ” trong “khuya lơ khuya lắc” rất nôm na lại chính là nơi gặp gỡ giữa sự cách tân và tính truyền thống trong thơ Bích Khê. Chia tay cuối cùng với mối tình Ngọc Kiều, cũng là những ngày bệnh nặng nhất. Bích Khê nhắn nhủ:

“Hạnh phúc ngoài trời nhiều vẻ đẹp

Em đừng bận bịu ái ân xưa”.

Cũng có khi tình yêu đôi lứa trong thơ Bích Khê nhuốm một chút liêu trai, nhà thơ tương ngộ với cả người trong sách:

Trong sách có người ngọc

Khép cửa mặt hoa xuân

Đốt lò vàng. Mở quyển

Tương hội với tân nhân.

(Cùng người trong sách tương hội)

hoặc đêm nằm mộng thấy “Bà chúa thơ nôm” Xuân Hương:

Người vợ trong thơ gần cách mộng

Đêm nay chẳng biết có về không ?

(Nhớ Xuân Hương)

Không thiếu những quãng lặng và sự ê chề đau khổ, tình yêu trong thơ Bích Khê còn có một gương mặt khác nhẹ nhàng hơn và cũng dễ chịu hơn, ấy là lúc nhà thơ nâng đàn “Tỳ bà”:

Tối qua tim nàng vay du dương

Tôi mang lên lầu lên cung thương

Ôi tôi bao giờ thôi yêu nàng

Tình tang, tôi nghe như tình lang.

Khúc “Tỳ bà” ấy không còn là thơ mà là tiếng hát bồng bềnh thuở nào có biết gì nhà thơ. Cái tri thức lớp bốn, lớp năm của một cậu học trò trường làng chỉ biết ông nhà thơ Bích Khê tài hoa mệnh yểu này là người quê mình. Thế là thích đọc, là yêu, ê a như đọc vè rau muống.

Mười mấy năm, lật lại từng trang sách cũ không dưng mà lòng nghe rưng rưng. Cuốn sách đã cũ lắm và ố vàng, gáy mềm oặt như tàu lá chuối, muốn đọc phải gỡ từng tờ một. Và Bích Khê sau bao năm tháng như chưa bao giờ bị khuất lấp. Với khuôn mặt hớn hở ông vừa thăm Hàn Mạc Tử trở về. Chiếc áo thư sinh ông vận đỏ rừng rực ráng chiều của đỉnh núi Tà Cú…

ĐỖ THIÊN THƯ st.

CHÙA KEO

BÁU VẬT KIẾN TRÚC VIỆT NAM

Chùa Keo hay chùa Thần Quang (Thái Bình) thờ Không Lộ thiền sư thời Lý, được xây dựng vào thế kỷ 17. Theo văn bia đặt ở chùa Keo, khắc năm Đức Long thứ 4 (1632), tháng 8 năm Canh Ngọ (1630) đời vua Lê Thánh Tông, chùa được trùng tu, mở rộng với quy mô như ngày nay. Những tay thợ tài hoa khắp mọi miền đất nước đã hội tụ về đây thi công trong hai năm ba tháng ròng rã mới hoàn thành. Tục truyền rằng chỉ riêng việc giã gạo cho công thợ ăn đã mòn thủng 33 cối đá.

Chùa Keo gồm một quần thể kiến trúc, chạm trổ điêu khắc có một không hai ở Việt Nam. Mặt bằng chiếm 16 ha, riêng khu chùa có diện tích 5,7 ha. Chiều dài ngôi chùa 300 mét, chiều rộng 125 mét có tất cả 25 dãy, 154 gian, nay chỉ còn 107 gian. Có đến 15-16 thành phần tạo thành quần thể: cột cờ, sân lát đá, tam quan, ao trước chùa, tam quan trong sân đất, chùa Hộ, chùa Phật, sân gạch, tòa Giá Roi, tòa Thiên Hương, tòa Phục Quốc, tòa Thượng điện, gác chuông, nhà Tổ, ngoài ra có hai dãy hành lang chạy hai bên từ chùa Hộ trở vào. Trình độ tổ chức không gian ở đây “phức tạp nhưng rất trật tự” theo kiểu “tiền Phật hậu thần”. Đặc biệt gác chuông, một công trình nghệ thuật - kiến trúc cổ làm bằng gỗ hình vuông, ba tầng, cao 11,5 mét thanh thoát trên nền gạch vuông vức. Bốn cây cột chính cao hai tầng được cấu tạo kiểu “thượng thu hạ thách” cùng với hệ thống cột biên và những hàng lan can con triện kết nối khéo léo, tạo nên cân bằng, hài hòa và theo nhịp điệu. Mỗi tầng, mỗi gác chuông bốn mái, ở đuôi mái có một đầu mũi đao cong duyên dáng với nhiều hình chạm trổ tinh vi. Nhìn từ bên ngoài, gác chuông như một đóa sen nở giữa vườn cau ngan ngát hương quê. Bên trong có ba quả chuông lớn, trong đó có quả được đúc từ thời Tây Sơn.

Chùa Keo hiện lưu giữ một kho di vật quý hiếm: cột cờ bằng gỗ chò cao 25 mét, gậy trúc khắc chạm đầu rồng, bình vôi cổ rất lớn, tràng hạt bằng ngà… tương truyền đều là của Không Lộ thiền sư để lại. Bức trướng Thiền sư ở hậu cung sắc nét, khác thường. Đôi lọ sứ bát tràng nền trắng ngà điểm đen xanh chàm từ thời Lê, cao 71 cm với nhiều hoa sen như Rông cún cánh sen. Những đồ gỗ cốm, hàng trăm bức hoành phi, câu đối được thếp chữ vàng, bạc lóng lánh. Các hương án chạm trổ công phu. Hàng trăm tượng đất sơn khéo léo, bí ẩn. Đặc biệt nhất trong mấy trăm di vật cổ, đó là hai cánh cửa tam quan, mỗi cánh dài 2,26 mét, dày 5 cm, được ghép bằng bốn tấm gỗ lim đen huyền.

Có thể nói bức tranh rồng được chạm khắc trên cánh cửa là đỉnh cao của nghệ thuật: hai con rồng lớn, nhỏ và con nghê hiện lên giữa những hạt châu tròn quyện trong mây…

Chùa Keo là chỉnh thể kiến trúc hài hòa, thống nhất từ cái đơn giản đến phức tạp, từ chi tiết nhỏ đến hình khối lớn.

Nhìn từ xa như hai áng mây vừa tụ giữa trời xanh, mà ẩn trong ấy là loan, phượng trên mái vòm cong độc đáo.

Trung tuần tháng Chín âm lịch hàng năm, chùa Keo đón khách thập phương về đây trẩy hội.

Dù cho cha đánh, mẹ treo

Cũng không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.

Hội chùa Keo không chỉ là lễ viếng chùa, mà còn là ngày hội lớn, những cuộc thi bơi trải, ném pháo, nấu cơm… cho trai tài, gái sắc đua nhau giữa vùng sông nước miền đồng bằng Bắc bộ.

HOÀNG ANH - BÙI ĐẸP st.


Mừng SINH NHẬT

Linh mục ĐẮC LỘ 15/3


Alexandre de Rhodes - Lm. Đắc Lộ

( 15/3 / 1591 - 5/11 / 1660 )

Là một nhà truyền giáo dòng Tên người Avignon và một nhà ngôn ngữ học . Ông đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ Việt Nam hiện đại bằng công trình Tự điển Việt-Bồ-La , hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh .

Thời niên thiếu

Ông sinh tại Avignon , miền nam nước Pháp và gia nhập dòng Tên tại Roma ngày 24/4 / 1612 , thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển. Tuy nhiên, cùng với đà tiến này, Giáo hội Công giáo cũng gặp sức kháng cự vũ bão của chính quyền các dân tộc được rao giảng Tin Mừng . Vì thế, bên cạnh nhiệt tâm truyền giáo , còn phải kể ước muốn được đổ máu đào minh chứng cho Chúa Jesus của các vị thừa sai tiên khởi. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes ( bán đảo Iberia ), tổ tiên sang tị nạn dưới bóng Giáo hoàng vì thời ấy Avignon là đất của Giáo hoàng, nên tên ông là Alexandre de Rhodes.

Truyền giáo

Trong bối cảnh đó, Alexandre de Rhodes đã xin và được Bề Trên chỉ định đi truyền giáo tại Nhật Bản . Ngày 0 4/4 / 1619 , ông lên đường vào tuổi 26, cùng với kiến thức sâu rộng về thiên văn học toán học . Alexandre là một người cường tráng, vui vẻ và lạc quan, luôn nhìn khía cạnh tích cực của vấn đề. Ông thích nghi nhanh chóng với mọi môi trường sống và cư xử giản dị trong giao tế với người khác.

Đầu tiên, Alexandre cập bến tại Goa , đợi chờ cơ hội thuận tiện đặt chân lên đất Nhật Bản . Nhưng tình hình bách hại Kitô Giáo dữ dội tại đây đã khiến các Bề Trên buộc lòng chỉ định ông đi Trung Quốc . Ông lên tàu đi Ma Cao , nhập Đại học Thánh Phaolô .

Tại Việt Nam

Đầu năm 1625 , Alexandre cùng với bốn cha dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản, cập bến Hội An , gần Đà Nẵng . Ông bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Thầy dạy tiếng Việt cho ông là một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi.

Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của Alexandre, nhưng cuộc đời truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi. Trong vòng 20 năm, ông bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép.

Ông đến truyền giáo ở Đàng Trong vào năm 1625 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên và ở Đàng Ngoài vào năm 1626 dưới thời chúa Trịnh Tráng . Thời gian Alexandre giảng đạo tại Việt Nam cũng là thời kỳ các cha thừa sai dòng Tên hoạt động rất hăng say và hữu hiệu. Riêng Alexandre, ông đã truyền đạo từ Nam ra Bắc. Năm 1645 , ông bị Chúa Nguyễn trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Khi trở lại châu Âu, Alexandre de Rhodes vận dụng mọi khả năng hiểu biết về công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu , đã xin Tòa Thánh gửi các Giám mục truyền giáo đến Á Châu, để các ngài có thể truyền chức linh mục cho các thầy giảng bản xứ. Ông mất ngày 0 5 tháng 11 năm 1660 Isfahan , Iran.

Đóng góp vào chữ Quốc ngữ


- Ảnh trái: Trang đầu sách Phép giảng tám ngày song ngữ bằng tiếng Latinh (trái) và tiếng Việt với chữ Quốc ngữ (phải)

- Bản đồ Đàng Ngoài và Đàng Trong theo Alexandre de Rhodes 1651 (ảnh phải).

Năm 1651 , ông cho in cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha Ý trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ . Ngoài ra một tác phẩm khác cùng tầm quan trọng do giáo sĩ Đắc Lộ soạn là cuốn Phép giảng tám ngày (tựa Latinh : Catechismus). Khác với phần tự điển ghi từ vựng , Phép giảng tám ngày là tác phẩm văn xuôi , phản ảnh văn ngữ và ghi lại cách phát âm của tiếng Việt vào thế kỷ 17 .

Năm 1961 , nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày qua đời của Alexandre de Rhodes, nguyệt san MISSI (Magazine d'Information Spirituelle et de Solidarité Internationale) do các cha Dòng Tên người Pháp điều khiển, đã dành trọn số tháng 5 để tưởng niệm và ca tụng Cha Đắc Lộ, một nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội Công giáo hoàn vũ nói chung và của Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng. Nguyệt san MISSI nói về công trình khai sinh chữ Quốc ngữ với tựa đề: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ”.

Tưởng niệm

- Năm 1941 Hội Trí Tri cùng với Hội Truyền bá Quốc ngữ đã quyên góp để dựng một tấm bia kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 350 của giáo sĩ Đắc Lộ ở gần bên bờ hồ Gươm trước cửa Đền Bà Kiệu . Bia này đến năm 1957 thì bị gỡ bỏ và mất tích đến năm 1995 thì mới tìm lại được và nhiều học giả đề nghị Hà Nội dựng lại Bia.

- Hai năm sau, năm 1943 chính quyền thuộc địa Đông Dương phát hành con tem 30 xu để tôn vinh những đóng góp của ông trong quá trình phát triển tiếng Việt.

- Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng phát hành một bộ 4 con tem kỷ niệm 300 năm ngày mất của ông, nhưng ra trễ 1 năm (phát hành ngày 0 5/11 / 1961 ). Tên ông được đặt cho một trường trung học và một con đường ở gần Dinh Độc Lập .

Đường Alexandre de Rhodes xưa và nay

Con đường nghiêng mình nằm bên lề của Công viên 30/4 như một cô tiểu thư con nhà giàu kiêu kỳ và tràn đầy sức sống.

Thời Pháp thuộc, đường Alexandre de Rhodes có tên là Rue de Paracels (tức Hoàng Sa). Từ năm 1945, con đường này mang tên Alexandre de Rhodes. Sau năm 1975, có thời gian đường được đổi tên thành đường Thái Văn Lung. Nhưng hiện nay trở lại với tên cũ: đường Alexandre de Rhodes.


Đường Alexandre de Rhodes

Hình thành của Chữ Quốc ngữ

Biết được tiến trình hình thành của chữ Quốc ngữ, chúng ta mới hiểu rằng không phải chỉ có linh mục Đắc Lộ là người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồm các giáo sĩ Tây phương và người Việt Nam.

Phải đợi đến những nhà văn tiền phong như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ Quốc ngữ, trong đó Huỳnh Tịnh Của soạn quyển “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị”, in năm 1896. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy về các địa hạt: báo chí, dịch truyện tàu, viết tiểu thuyết và ngay cả phong trào thơ mới cũng bắt đầu từ miền đất Nam Kỳ nầy.

Địa vị chính thức

Đơn khai sinh năm 1938 Bắc Kỳ có bốn dạng chữ: chữ Quốc ngữ lẫn chữ Nôm cùng dấu triện bằng tiếng Pháp và vài chữ Nho .

Chữ Quốc ngữ trên chặng đường hơn 300 năm vẫn không được công nhận là văn tự chính thức cho tới khi người Pháp chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19 . Ngày 22/02 / 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công văn ở Nam Kỳ . NĐ 82 ký ngày 06/4/1878 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký cũng đề ra cái mốc hẹn trong bốn năm (tức năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ.

Ngày 01/01/1879 thì lại có lệnh khẳng định các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng năm đó chính quyền Pháp đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục.

Khi Gia Định Báo phát hành, tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt, thì câu văn đã thêm phần mạch lạc, chính tả không mấy khác ngữ văn ngày nay.

Sang thế kỷ 20 thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910. Năm 1915 thì kỳ thi Hương cuối cùng diễn ra ở Bắc Kỳ mặc cho sự chống đối của giới sĩ phu. Ở Trung Kỳ thì đạo dụ của vua Khải Định ngày 28/12 / 1918 chính thức bãi bỏ khoa cử và năm 1919 là năm cuối mở khoa thi ở Huế. Chữ Quốc ngữ từ đó trở thành phương tiện diễn đạt duy nhất của người Việt trong khi địa vị chữ Nho chữ Nôm càng mờ nhạt tuy chưa mất hẳn nhưng lui dần vào quá khứ.

Trong khi đó cũng có thành phần theo Nho học nhưng hiểu được giá trị của chữ Quốc ngữ và cổ động việc thâu nhận chữ Quốc ngữ như là một cách nâng cao trình độ kiến thức đại chúng, canh tân xã hội, thức tỉnh tinh thần yêu nước và huy động động lực phản kháng của người Việt trước quyền lực của thực dân Pháp . Trong đó có nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục . Việc theo học chữ Quốc ngữ theo đó thì không chỉ là phương tiện đọc và viết mà còn hàm ý vận động chính trị và vận mệnh dân tộc.

Chữ Quốc ngữ qua những tác phẩm biên khảo , phóng sự , bình luận , du ký của những Nam Phong Tạp Chí (1917), Đông Dương Tạp chí (1913), cùng một loạt tiểu thuyết thơ mới của nhóm Tự Lực Văn Đoàn (1933- 1936) với tư tưởng mới, phong cách mới cũng và nhiều tác giả khác đã chứng minh chức năng toàn diện của chữ Quốc ngữ làm văn tự của người Việt để rồi sau năm 1945 các chính quyền kế thừa đều công nhận lối chữ này.

- Đông Dương Tạp Chí do Nguyễn Văn Vĩnh điều hành, được sự tài trợ của chính quyền thuộc địa. Mỗi tuần ra một số, có sự tham gia của những cây bút xuất sắc nhất về Tây học lúc bấy giờ, như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn và những cây bút xuất sắc về Nho học, như Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục.

- Tiếp sau là sự ra đời của Nam Phong Tạp Chí, trong đó, chủ bút Phạm Quỳnh - với niềm tin “hậu vận nước Nam ta hay hay dở là ở chữ Quốc ngữ, ở văn Quốc ngữ”- phụ trách về phần chữ Quốc ngữ, Nguyễn Bá Trác chịu trách nhiệm về phần chữ Hán. Tạp chí nhanh chóng cuốn hút được nhiều cây bút xuất sắc lúc bấy giờ, như Nguyễn Bá Học, Lê Dư, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Hữu Tiến…

- Quan điểm của Phan Khôi về chữ Quốc ngữ cũng giống như Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí.

LỜI KẾT

Tưởng niệm ngày sinh nhật 15/3 của Alexandre De Rhodes, người có công khai sinh lối chữ viết mà nghiễm nhiên đã là Quốc ngữ của xứ sở, như là một trong những ân nhân của dân tộc. Dân tộc ta có truyền thống trọng tình nặng nghĩa; ghi công và biết ơn anh hùng liệt nữ đã đóng góp cho Tổ quốc. Và chúng ta thể hiện lòng biết ơn đó qua các biểu hiện vinh danh những vị đó bằng cách đặt tên đường tại gần Dinh Thống Nhất… và hy vọng bia cũ sẽ được tái lập tại khu vực Hồ Gươm, Hà Nội.

Nếu dựng lại nhà bia linh mục Đắc Lộ trên vị trí cũ, khu vực Hồ Gươm sẽ sáng lên những nét đẹp:

- Hòa bình (vua Lê trả gươm)

- Văn hóa (Nguyễn Siêu dựng Tháp Bút)

- Hữu nghị (bia linh mục Đắc Lộ, người có công trong chế tác chữ Quốc ngữ)!

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)


Phụ Bản II

 


Cái chuyện anh chàng Việt kiều, kỹ sư xe lửa, từ Mỹ về Việt Nam lấy vợ không chỉ làm cho bà Tâm Phấn bồi hồi xuyến xao mà còn làm cô Linh Duy, con gái bà bâng khuâng hồi hộp.

Anh Việt kiều này qua Mỹ khi còn bé, sống và lớn lên ở một tiểu bang có rất đông người đồng hương. Nhờ cha mẹ anh, ông bà Phùng, tương đối khá giả nên rất kiều dưỡng và tạo mọi điều kiện thuận lợi để anh học hành giỏi giang, tốt nghiệp đại học, ra trường với học vị là kỹ sư đường sắt. Đến khi kỹ sư Tuân có được một công việc làm ổn định với mức lương khấm khá dư sức nuôi một gia đình nho nhỏ của riêng anh, nhưng tiếc rằng chưa có, và trợ cấp cho cha mẹ anh khi tuổi cao sức yếu, nhưng ông bà già anh lại chưa cần, ngược lại cũng còn đủ sức nuôi anh ăn học thêm nữa nếu anh muốn. Như vậy có thể nói cuộc sống kinh tế của gia đình anh quá đầy đủ. Tài khoản ngân hàng của riêng anh cứ tăng dần với số dư từ năm con chữ số đến sáu con chữ số, tức là có đến hàng trăm ngàn rồi đó.

Cha mẹ anh mỗi lần họp mặt với bạn bè thường khoe đứa con trai của mình. Bạn bè đồng hương của ông bà đều hết lời khen ngợi. Họ nói “ông bà giỏi quá, qua đây cuộc sống khó khăn, vất vả mà xây dựng nên một gia đình sung túc, hạnh phúc”. Tuy nhiên có một điều cha mẹ của anh chàng kỹ sư này canh cánh bên lòng từ khi anh chàng ngấp nghé tuổi ba mươi: Đó là làm sao kiếm cho chàng một cô vợ. Từ đó mỗi lần hỏi tới việc tìm một phụ nữ về ở chung với anh đều được anh từ chối còn khuyên ông bà yên tâm để từ từ tìm một cô gái đoan trang, thùy mị về làm dâu cho ông bà hài lòng. Bà Phùng “hứ” một tiếng:

- Coi bộ khó à con! ở cái xứ sở văn minh này ai cũng nhào ra xã hội để mưu sinh, phụ nữ lăng xăng làm việc này việc nọ, có đâu cái dạng thục nữ khuê các như con muốn.

- Được rồi má, để con lo.

Đó, rồi anh bắt đầu để ý đến từng cô bạn mà anh từng biết qua hồi còn học ở đại học. Anh cảm thấy hối tiếc vì ngày xưa, trong những lần họp mặt giao lưu của lớp hay toàn trường, hay những lần đi dã ngoại anh đều không quan tâm đến các cô học cùng lớp. Mỗi lần đi như vậy anh tiếp xúc qua loa năm ba người bạn rồi đợi đến hết giờ ra về, vào phòng ôn tập bài vở. Coi như bao nhiêu cơ hội gặp gỡ anh đã để trôi qua một cách phung phí. Sau này nhìn lại đám bạn bè họ đều đã có đôi, có bạn. Có cặp đã về sống chung với nhau sinh con đẻ cái, tạo dựng gia đình hạnh phúc. Những cặp đó hình thành từ những lần họp mặt giao lưu khi còn ở đại học. Anh tự nghĩ: “Muộn rồi. Không sao mình bắt đầu từ bây giờ cũng còn kịp. Rồi anh tìm lại những số điện thoại của những cô bạn hồi còn học ở đại học…

Số điện thoại đầu tiên anh tìm được là Linh, cô bạn học cùng lớp có cái tên Mỹ là Linda. Cô theo cha mẹ qua đây định cư, học hành chăm chỉ, ra trường đi làm việc ở một thành phố cách chỗ Tuân chừng một tiếng đồng hồ lái xe, sau đó thì không còn tin tức gì nữa. Tuân từ từ trở về quá khứ nhớ lại từ nét mặt, hình dáng cô bạn này. Thật tình cô không xấu và cũng không được xinh xắn. Vóc dáng vừa phải, cao ráo, tròn trĩnh, có lẽ nhờ được dinh dưỡng tốt. Tuân nghĩ thời buổi này không cần phải xinh đẹp theo cái quan niệm thông thường. Anh chỉ cần một người phụ nữ có một trình độ học vấn tương đối và bảo đảm có đủ sức khỏe cho việc nuôi con cái sau này. Hồi còn đi học anh hầu như không dám làm quen với bất cứ một cô bạn gốc Việt nào ở cùng trường, trong khi đó các cô thấy anh có vẻ người châu Á thường đến hỏi xem anh có phải người Việt Nam không, nhờ vậy anh mới quen được mấy cô bạn đó. Cuối cùng số bạn gái anh quen được cũng chỉ đếm được trên đầu số ngón của một… bàn tay.

Một số bạn trai của Tuân khi ra trường có vẻ tự mãn vì đã cầm được bằng kỹ sư, kháo nhau tìm những cô đẹp để cưới làm vợ. Trong nhóm này có anh chàng Dylan Lý, xí trai nhứt, thường xuyên diện hàng hiệu, lúc nào cũng khoe “tao quen em này ở Lốt(1), em kia ở Lát(2)”, nhưng cả bọn thấy anh chàng này xách xe không chạy hoài. Tuân nghe mấy đứa khác trong nhóm nói “thằng này vì xí trai quá nên ăn diện tối đa”. Ra đường lúc nào cũng thấy đeo cặp kính Ray Ban hình giọt nước giống như đám đười ươi của tổng thống Mỹ. Có đứa nói vì nó bị mặc cảm xí trai nên ăn diện để che bớt cái khiếm khuyết của nó. Cũng giống như một công thức, trong một lớp học đứa nào ăn diện nhiều thường học hành không ra chi, như anh chàng Dylan này, anh ra trường với số điểm khiêm tốn, vừa đủ cán mức qua cầu.

Bỏ mặc cái đám săn người đẹp, Tuân về với suy nghĩ của mình. Anh lo làm việc cho tốt và thong thả tìm lại mấy cô bạn mà anh còn giữ được số điện thoại. Một hôm anh đánh bạo gọi một cô bạn đang ở và làm việc tại Santa Ana, bên kia đầu dây một giọng nữ thánh thót:

- Hello, Linda nghe.

Tuân mừng rỡ:

- Chào Linda, Travis đây.

- Travis nào?

- Travis “nhút nhát”, hồi xưa trong lớp Linda hay chê con trai mà giống con gái đó.

- A! nhớ rồi. Trời ơi, 5, 6 năm rồi ha, công việc làm tốt không? Có vợ con gì chưa?

- Công việc làm tốt lắm, nhưng vẫn còn xô-lô(3).

- Anh gọi em có việc gì không?

- Đang muốn làm một vòng đi thăm bạn bè. Đến gặp Linda có tiện không?

- Tiện sao không tiện, em mời anh đến nhà ăn cơm rồi em giới thiệu ông xã em.

Tuân nghe như trời sập. Thua rồi! Nhưng cũng ráng làm bộ hỏi, không lẽ cúp máy:

- Ủa lập gia đình rồi ha?

- Dạ, ông xã em là accountant(4) người Hà Lan đó anh. Tụi em có một nhóc trai, tháng tới đây nó được 3 tuổi.

Tới đây thì Tuân không còn ý tưởng gì để nói rồi. Anh đành phải bình tĩnh “kết luận”:

- Rồi, khi nào tôi sắp xếp được tôi sẽ xuống chơi và báo cho Linda biết. Bye bye nhe.

- Dạ, bye anh.

Thế là xong mối “khách hàng” đầu tiên. Thất bại một cách ngon lành. Anh tự nghĩ không lẽ “mở hàng” một cách xui xẻo như thế này sao? Anh bắt chước mấy người Việt Nam nhập cư lớn tuổi nói: “thua keo này bày keo khác”. “Keo” kế tiếp của Tuân sau đó vài tháng với số điện thoại của một cô bạn khác mà anh còn nhớ hồi ở trong lớp có “đôi mắt bồ câu” như đám “săn người đẹp” đã đặt tên. Thật ra sống ở đây từ nhỏ, Tuân cũng không biết là mắt như thế nào mà gọi là “mắt bồ câu”. Anh chỉ còn nhớ hồi ở trong lớp cô nàng này cũng thấy dễ thương. Có lẽ nhờ khí hậu nên nước da cô rất trắng kết hợp với mái tóc đen của người gốc châu Á nên dưới mắt Tuân cô này cũng xinh xắn vậy. Rồi anh không ngần ngại rút điện thoại ra bấm số. Anh không gặp ngay chính người con gái đó mà gặp cô em, cô này cho biết nhanh chóng: “Chị Cathy của em lấy chồng lên Minnesota ở rồi anh à”.

Lại xong “mối” thứ hai. Tuân có cảm nhận là tìm một người phụ nữ để cưới làm vợ coi bộ khó rồi đây. Anh lại nghe mấy ông già bà cả nói “cần phải kiên trì tìm kiếm sẽ được thôi”. Và lần này anh kiên trì thiệt, anh nhờ mẹ anh tìm trong số bạn bè xem có ai có con gái làm mai mối giùm. Một tháng sau bà má anh “báo cáo”:

- Mấy bà có con gái ở đây có vẻ không mặn mà gì cái việc làm mai mối cho con gái kiếm chồng. Họ nói con gái họ muốn tự do tìm người đàn ông mà họ thích.

- Có lẽ mấy cô nàng không thích lấy chồng cùng quê hương chăng?

- Có. Cũng thích vậy. Nhưng mấy cô đó muốn tự tìm kiếm. Nếu tìm không được họ sẵn sàng ở vậy.

Tuân có vẻ nản lòng:

- Con trai gốc Việt bên này coi bộ khó cưới vợ đồng hương!

- Không sao, còn một đường “binh”.

- Đường nào vậy má?

- Bà Phượng, bạn của má, hỏi nếu con muốn về Việt Nam cưới vợ, bả giới thiệu cho.

Tuân như đang chới với tận ngoài biển Đông bỗng vớ được cái phao, mừng rỡ:

- Được đó má. Mà cô đó học hành tới đâu? Nhà cửa ra sao?

- Cô giáo, rất mực hiền lành. Cha mẹ đều là công chức.

- Coi chừng gặp cô giáo nhà trẻ, mẫu giáo gì đó đánh đập con cái người ta thấy ghê quá.

- Không đâu. Cô giáo trung học đàng hoàng. Ở bên này cô giáo mà đánh đập con người ta cảnh sát biết được bỏ vô tù liền. Vợ chồng cũng vậy. Ông chồng lỡ tay bộp vô mặt bà vợ, lập tức chạy lên đồn cảnh sát tự nguyện xin được giam giữ trước rồi bà xã thưa kiện sau.

- Má nói làm gì, ở bên đó chưa biết cách bảo vệ phụ nữ và trẻ em…

….

Cô Linh Duy đã được kỹ sư xe lửa Tuân về Việt Nam cưới rồi đưa về Mỹ định cư được mấy năm nay. Tội nghiệp hồi mới qua, ngoài công việc phục vụ cho chồng và việc cơm nước dọn dẹp ở nhà chồng, cô tranh thủ đi học thêm được nghề y tá rồi sau khi tốt nghiệp cô xin được việc làm tại một phòng mạch của một bà bác sĩ gốc Việt chuyên về tai mũi họng. Linh Duy vô cùng hạnh phúc cảm thấy cô đã được cuộc đời ưu đãi. Cô báo tin về cho bà mẹ ở Việt Nam và niềm hạnh phúc của cô cũng đã biến thành một niềm hạnh phúc vô cùng to lớn cho bà mẹ ở vào cái tuổi gần đất xa trởi. Thỉnh thoảng cô gọi điện thoại về thăm, mỗi lần như vậy hai má con đều sụt sịt nước mắt vắn dài trong nỗi nhớ nhung thương cảm.

Mọi người chung quanh thấy Linh Duy như vậy đều cho là cô nàng rất hạnh phúc nhứt là sau khi cô có với ông kỹ sư một đứa con trai kháu khỉnh. Thật ra Linh Duy rất khổ tâm khi “lỡ” phải sống với ông chồng này. Không phải ông bê tha, hay bồ bịch gì, trái lại ông rất thương con. Sau giờ làm việc ông thường ở nhà để chăm sóc, nô đùa với con. Chỉ phải cái tội ông thương má ông lắm và tin bà như tin mấy ông thầy bói. Hồi mới qua định cư, Linh Duy đã nghe bà già chồng và mấy bà bạn nói xa nói gần, muốn ám chỉ cô con dâu của bà sau khi qua được Mỹ rồi, sẽ bỏ chồng và “cất cánh bay cao” nếu có cơ hội thuận tiện. Bà già còn ra mặt khinh thường cha mẹ của Linh Duy là quê mùa, nếu không nhờ con trai bà là Việt kiều về Việt Nam hỏi cưới thì làm sao cất đầu lên nổi? Nhưng thời gian trôi qua thấy Linh Duy vẫn một mực làm tròn trách nhiệm của người vợ ở nhà, hoàn toàn không hề có suy nghĩ gì sai trái, mấy bà già khi gặp nhau dần dần không còn lời ra tiếng vào ám chỉ thế này thế nọ.

Thực ra cái chuyện một phụ nữ được Việt kiều về quê nhà cưới rồi đưa sang Mỹ định cư, chẳng bao lâu sau cô này xổng mất, do có nhiều vụ việc tương tự đã xảy ra rồi, cho nên mấy bà này cứ tự do quơ đũa cả nắm. Nếu các bà sợ như vậy thì đừng cho con trai về quê nhà cưới vợ để khỏi phải lo lắng về sau? Muốn làm ơn cứu vớt một người phụ nữ để đưa về một xứ sở văn minh hiện đại đồng thời có được một người vợ để xây dựng nên một mái ấm giống như người ta, chứ nếu ở lì bên Mỹ kiếm hoài không ra một người vợ, và chắc chắn là ế muôn năm.

Dứt được cái nỗi bực mình về vụ mấy bà già mỉa mai, to nhỏ, Linh Duy lại thêm nỗi bực mình về phía ông chồng của cô. Không biết ông này bị “động kinh” hay bị “sốc” cái gì mà tự nhiên cấm không cho cô gửi tiền về giúp đỡ bà mẹ già hiu quạnh. Cô có đi làm việc có lương hướng hẳn hoi. Có nghĩa là cô dễ dàng sống một mình. Đây cũng là cái cớ để mấy bà già nói ra nói vào là cô có thể sống tự lập rồi, không cần chồng bao bọc nữa đâu. Linh Duy không biết chồng mình lãnh lương được bao nhiêu nhưng chắc chắn phải hơn cô rất nhiều. Nhưng tại sao anh ta lại bủn xỉn đến như vậy? Năm, sáu tháng cô gửi chỉ vài trăm “buck”(5) cho mẹ chi tiêu rộng rãi một chút, hoặc thuốc thang khi trái gió trở trời. Hai người biết nhau qua mai mối không hề có thời gian yêu thương hay tìm hiểu trước khi tiến tới hôn nhân thành ra khi về sống chung với nhau, tính xấu của mỗi bên dễ dàng được thổi phồng lên rất lớn. Ở đây Linh Duy phát hiện ông chồng bủn xỉn như vậy cô thấy vô cùng chán nản.

Linh Duy chợt nhận ra những mâu thuẫn tương tự như thế này ở những cặp vợ chồng như cô và ông kỹ sư khiến họ dễ dàng tan vỡ…

Dương Lêh

(1) Los Angeles,

(2) Las Vegas,

(3) Solo: Độc thân,

(4) Chuyên viên kế toán,

(5) US đô la

Lời tự tình của mẹ


Mẹ mang trước ngực

Mẹ cõng trên lưng

Từ từ rồi mẹ cũng bưng lên đầu

Thơ ngây con có biết đâu

Con hơn cả phép

            nhiệm mầu trời ban

*

Người mẹ già quảy gánh

Nước mắt theo bước chân

Nỗi buồn nào mang tới

Khi đất trời sang xuân

*

Nhớ con rồi nhớ cháu

Quảy gánh ghé sang thăm

Lỡ mang luôn đôi dép

Vào nhà nó vừa lau

Nó cằn nhằn cộc lốc

"Bỏ dép ngoài rồi vào

Má lúc nào cũng vậy

Thiệt bực mình vì đâu"

*

Bà nghẹn ngào bà khóc

"Thói quen từ hồi nảo

Ở nhà tranh vách đất

Mẹ có bỏ dép đâu!"

Năm tháng dần qua mau

Mẹ đã già con lớn

Gả con đi lấy chồng

Nhà tranh mình mẹ ở

*

Tết nhớ con nhớ cháu

Mang đôi dép... tội tình

Định bụng không tới nữa

Nỗi nhớ lại trào lên

Cái nỗi nhớ không tên

Quảy gánh qua nhà nó

Gói chuối khô hồi nhỏ

Nó khóc thèm đòi ăn

Mãng cầu còn sống nhăn

Nở gai rồi sắp chín

Vừa đi mẹ vừa tính

Chắc con cháu vui mừng

Nước mắt chảy rưng rưng

Trong nhà nghe nó dặn

"Bây ra mà nhắc ngoại

Làm ơn dép để ngoài"

Như sấm nổ ngang tai

Me cúi đầu lặng bước

Ôi đoạn đường xuôi ngược

Bây giờ dài lê thê

Cánh cò chết trên đê

Xong rồi đời tần tảo.


NGUYÊN LÊ


Lời tự tình của dế

Dế nọ cứ oán than

Sắp đến rồi tháng chạp

Sao mưa vẫn tuôn hoài

Ngập hang không chỗ ở

Bụi chòm hôi ngoài ngõ

Thông lệ lúc trổ hoa

Mưa sẽ dứt đó mà

Sao năm nay lại khác

Nước ngập hoài lênh láng

Hoa cỏ đều úa tàn

Giun dế còn lầm than

Muôn loài ai sống nổi

Người xưa thường hay nói

Nơi nào có tham quan

Nơi ấy phải hoang tàn

Vì trời già trừng phạt

Xứ mình quan vẫn tốt

Mai mưa thuận gió hòa

Đâu đâu cũng hoan ca

Chỉ riêng mình dế khóc

Công lý nào soi thấu

Kẻ phải ở hang sâu

Nhìn trăng tận trên cao

Ước chi mình bay mãi

Khoảng trời cao xanh ấy

Bay hoài chẳng đến nơi

Khàn cổ gọi TRỜI ƠI

ĐẾN BAO GIỜ HẾT KHỔ ?

Nguyên Lê 25/12/2016

NGÀY MỞ ĐẦU

Một ngày mở đầu bằng khúc nhạc

Bằng email của những anh em

Thấy tâm hồn thư thái hơn lên

Và bỗng thấy một ngày thật đẹp quá

*

Cuộc sống cho ta những ngày yên ả

Những thênh thang nắng gió khắp phương trời

Cho ta luôn thanh thoát những tiếng cười

Và bỗng thấy trần gian là mật ngọt

*

Hãy với ta hãy từng ngày như thế

Để trái tim rung những nhịp bồi hồi

Để rưng lòng những khoảnh khắc chơi vơi

Để biết khóc biết cười cùng nhân thế

*

Nếu ngày sau có những lời vui kể

Hẳn cõi trần thêm một phút hương hoa

Hẳn sông đời thêm một khúc tình ca

Và như thế chan hoà là lẽ sống.

Đàm Lan

TƯỞNG NIỆM

Biết anh năm chục năm rồi

Cùng chung xứ Huế từ hồi thơ ngây

Chiến tranh lưu lạc vào đây

Tha phương cầu thực đám mây chực chờ

Nào ai đoán được chữ ngờ

Anh lâm bệnh nặng bây giờ lìa xa

Miền Nam nhớ quá muốn ra

Thôi đành đoạn tuyệt mưa sa não nề

Còn đâu chờ đợi ngày về

Khói hương nghi ngút ê chề thê lương

Vợ con dâu rể lệ vương

Bà con bè bạn thắp hương nguyện cầu

Cố quên bao nỗi âu sầu

Mong anh siêu thoát cúi đầu tiêu dao

Một năm tưởng niệm thương sao

Âm dương cách biệt biết bao hãi hùng

Anh nằm dưới đất lạnh lùng

Vợ con trần thế não nùng bi ai

Lệ rơi ướt đẫm bờ vai

Sầu than thương tiếc mà ai oán lòng.

VŨ THÙY HƯƠNG

CÁC LOÀI HOA XINH ĐẸP

Thiên nhiên tạo hóa định bày

Thực vật động vật muôn loài sinh ra

Thực vật cây cỏ bông hoa

Sắc màu rực rỡ mặn mà chứa chan

Đầu xuân nở rộ Mai vàng

Hoa Đào, Vạn Thọ, hoa Lan đủ màu

Thôn vườn hoa Mướp, hoa Cau

Hoa Dừa, hoa Muống, Trúc Đào, hoa Lang

Hoa Cà, hoa Nấm, hoa Soan

Hoa Gạo, hoa Sữa, Vông Vang, hoa Lài

Hoa Chuối, hoa Lúa, Cỏ May

Hoa Bưởi, Chuối Nước, Móng Tay, Lục Bình

Hoa Lựu, hoa Khế, hoa Tình

Hoa Sen, hoa Súng đẹp xinh tuyệt vời

Kim Đồng, Trinh Nữ, Mồng Tơi

Hoa Bụt, hoa Giấy, Ô Môi, Dã Quỳ

Phượng Hồng, Điên Điển, Tường Vi

Hoa Dầu, Bò Cạp, Trà Mi, Tơ Hồng

Hoa Bèo, Nguyệt Quế, Sầu Đông

Hoa Chanh, hoa Sứ, hoa Hồng, Dạ Lý Hương

Xương Rồng, Ngũ Sắc, Hướng Dương

Thược Dược, Thạch Thảo, Hải Đường, Phong Lan

Trạng Nguyên, Tu-lip, hoa Trang

Hoàng Điệp, Cẩm Chướng, Cúc vàng, Bát Tiên

Người đẹp có hoa Đồng Tiền

Cát Đằng, Ngọc Nữ, Tóc Tiên, Tú Cầu

Phù Dung, Hoa Hậu, hoa Ngâu

Kim Châm, Chuỗi Ngọc, yêu cầu Hoa Tai

Tầm Xuân, Thiên Lý, Tiên Hài

Hoa Trâm, Bạch Phượng, Chi Mai, Loa Kèn

Ti-gon, hoa Cưới, Lồng Đèn

Đỗ Quyên, Hạt Nổ, Bằng Lăng, hoa Bìm

Mười Giờ, Tí Ngọ, hoa Sim

Pen-Sée, Sao Nháy, Phượng tím, hoa Quỳnh

Ba-By, Chùm Gởi tựa mình

Hoa Liễu, Móng Cọp, Trường Sinh, Sống Đời

Cúc hồng, Cúc trắng xinh tươi

Linh Lan, Bất Tử, hoa Rơi, Mồng Gà

Mẫu Đơn, Quỳnh Hương, Mimosa

Hoa Râm, Sinh nhật, hoa Mãn Đình Hồng

Hoa Sử - Quân - Tử Ngô Đồng

Hoa Biển, hoa Tuyết, hoa Nylon nhiều màu

Hoa Rồng - Nhã - Ngọc trao nhau

Muôn hoa, muôn sắc, muôn màu thắm tươi

Hoa Huệ xinh đẹp vui cười

Thanh Hoa, Xác Pháo, hồng tươi Điệp Vàng

Quỳnh Anh, Hồng Gấm, Ngọc Lan

Anh Đào, hoa Vải thêm nàng Hoa Khôi

Đầu xuân kính chúc mấy lời

Chúc mừng các bạn yêu đời yêu hoa.

Đầu xuân Bính Tuất 2006

BÁ MẠNH

MỪNG SINH NHẬT

TUỔI HỢI

TUỔI TÁM LĂM

Mừng quý bạn thơ, tuổi tám lăm

Tâm hồn trong sáng, tựa trăng rằm

Tuổi cao, tư tưởng,tinh thần trẻ

Chúc cầu quý bạn, thọ trăm năm.

TUỔI BẢY BA

Chúc mừng quý bạn, tuổi bảy ba

Cuộc sống hồn nhiên, khỏe không già

Tâm tình trò chuyện luôn trao gởi

Luôn thích làm thơ tặng quý bà.

TUỔI SÁU MỐT

Sáu mốt mùa xuân, hoa vẫn nở

Vẫn còn vui khỏe, thích làm thơ

Chúc mừng quý bạn, luôn tươi đẹp

Luôn viết thơ tình, luôn ước mơ.

TUỔI BỐN CHÍN

Tuổi hợi bốn chín đẹp như hoa

Phong phú hồn thơ, chất đậm đà

Chúc mừng sinh lực, luôn cường tráng

Sống khỏe, sống vui, rất khó già.

17/10/2007

NGÔ BÁ MẠNH

Chiều Hè

Thuyền xuôi nước gác chèo lên mạn

Ngắm trời xanh mây tản nên thơ

Đàn chim vỗ cánh thờ ơ

Bay về viễn xứ, sương lờ mờ xa

Gió đẩy đưa chiều tà ráng nhạt

Ngồi lái ghe hứng mát hân hoan

Mấy ai hưởng được chữ nhàn

Trà dư tửu hậu điệu đàn siêu nhiên

Gõ mạn thuyền rượu tiên say hát

Khúc tiêu dao man mác tuyệt vời

Ngao du góc núi chân trời

Tìm vần tri kỷ, tìm người tao nhân

Thời tiết nay đang dần nắng tới

Ánh thái dương vừa mới gọi hè

Vào mùa phượng vĩ đỏ hoe

Đợi cơn gió mát, con ve ca tình !...

Thanh Châu

MÙA THU

Mùa Thu đẹp, mùa Thu xinh

Mùa Thu chan chứa bình minh sáng ngời

Mùa Thu đẹp lắm bạn ơi

Mùa Thu là của bầu trời Việt Nam

Mùa Thu đâu phải hoang tàn

Mùa Thu chiến thắng ai làm được nên

Mùa Thu sống mãi với tên

Tự do độc lập vững bền Việt Nam.

Bs. DOAN LINH

Hoa lãng mạn

Xa thăm thẳm như màu hoa lãng mạn

U hoài như sương khói tỏa bâng khuâng

Âm thầm như mơ ước tuổi thanh xuân

Niềm tin tưởng đắp xây cao chót vót

Nhung nhớ ngập trang thư hồng dịu ngọt

Hồn tương tư hạnh phúc thật đơn sơ

Ào ạt như thác đổ dưới trời thơ

Nồng nàn dệt giấc mơ xanh thắm thiết

Xao xuyến lắm, gió vàng hôn sóng biếc

U ẩn trao tâm sự đẹp duyên thề

Ân tình sâu lắng đọng nét đam mê

Ngàn ý sống kết tinh thành lý tưởng

Nỗi lòng lướt chập chờn theo cánh bướm

Hương trăng ngà choáng váng khúc bi ca

À - Ngưu Lang xúc động dưới mưa hoa

Nên vượt giải Ngân Hà đêm dạ tiệc.

NGÀN PHƯƠNG

DUYÊN LÀNH

Đạo lành Phật pháp thật thiêng liêng

Kinh kệ cao thâm vẹn ước nguyền

Phật hiện nhất ngôi tiêu nghiệp chướng

Di đà lục tự diệt oan khiên

Tam thời tịnh độ quên trần thế

Cửu phẩm liên hoa dứt lụy tình

Giác ngộ người đời nên cảnh tỉnh

Tu hành đắc đạo đáo đào nguyên.

NGÀN PHƯƠNG

TẢN MẠN ĐƠN CÔI

Thao thức canh thâu nỗi muộn phiền

Dòng đời lặng lẽ chảy triền miên

Thả trôi cung nhạc yêu mù quáng

Cố nuốt lệ lòng sống thản nhiên

Ký ức xa xưa nguồn thác đổ

Tâm tình hiện hữu ánh trăng nghiêng

Say thơ quên cả niềm đau xót

Thiên lý dặm ngàn đọng chút duyên.

NGÀN PHƯƠNG

KỶ NIỆM

4O NĂM NGÀY CƯỚI

Gặp gỡ lần đầu muội với huynh

Hai ta giáp mặt tỏ chân tình

Hẹn ngày giạm ngõ vui xuân cưới

Chọn tháng kết duyên thắm mái tranh

Đối diện cảnh đời xây tổ ấm

Chung vai xã hội đắp hòa bình

Một lòng vì nghĩa không gì khác

Bốn chục năm qua tuổi đến nhanh.

LANG NGUYÊN

DUYÊN VÀ NỢ

Trời xanh kết hợp nợ và duyên

Se mối chỉ hồng trọn ước nguyền

Vẹn vẻ chữ tình, vui cuộc sống

An cư cảnh ngộ, khó truân chuyên

Tình nhà mãi giữ nguồn con thảo

Nợ nước luôn gìn đạo phúc truyền

Bốn chục xuân ôi bao nghĩa nặng

Hẹn ngày trả dứt mối ơn thiên.

LANG NGUYÊN

Tiễn Đưa

Có nỗi đau nào hơn,
Nỗi buồn thương tiễn biệt,
Lời tạ từ da diết,
Có níu kéo được chi,
Khi người đã ra đi,
Rời xa, rời xa mãi...

Tiếng đàn sao ai oán,
Tấu khúc biệt ly sầu,
Lệ nhòa trên mắt biếc,
Lệ ứa thấm tim đau,
Tiễn đưa người yêu dấu,
Mịt mù phương trời nào.

Còn nỗi đau nào hơn,
Khóc thương tình thâm sâu,
Cỏ úa, phương trời sầu,
Trời buồn, mưa giăng mau,
Dấu tình đang phai nhàu,
Thuyền ơi, về bến nao?

Còn đây giây phút cuối,
Biết bao điều chưa nói,
Lòng xót xa, vời vợi,
Khúc nhạc sầu chơi vơi,
Người ơi sao mà vội,
Biết bao giờ cho nguôi!

Phạm Thị Minh Hưng

NGƯỜI ĐÀN BÀ THỨ HAI

PHẠM THỊ VĨNH HÀ

Mẹ đừng buồn khi anh ấy yêu con

Bởi trước con anh ấy là của mẹ

Anh ấy dẫu yêu con một thời trai trẻ

Cũng không bằng yêu mẹ, mẹ ơi

Vì mẹ đã sinh ra anh ấy ở trên đời

Hình bóng mẹ khắc sâu vào tim anh ấy

Dẫu bây giờ con được yêu đến vậy

Yêu rất nhiều con cũng chỉ thứ hai

Mẹ đừng buồn mỗi khi hoàng hôn hay mỗi sớm mai

Anh ấy có thể nhớ con hơn nhớ mẹ

Nhưng con chỉ là một cơn gió nhẹ

Còn mẹ là bến bờ thương nhớ suốt đời anh

Con chỉ là cơn mưa mong manh

Người đàn bà khác

có thể thay con trong trái tim anh ấy

Nhưng anh ấy có một tình yêu suốt đời âm ỉ cháy

Chỉ dành riêng cho mẹ mà thôi

Anh ấy có thể yêu con trong suốt cuộc đời

Cũng có thể chia tay ngay ngày mai - có thể

Nhưng anh ấy sẽ suốt đời yêu mẹ

Dẫu thế nào con cũng chỉ thứ hai.

KIM SƠN st.

CÒN GẶP NHAU

Ưu ái dành tặng những tâm hồn đồng điệu

Còn gặp nhau thì hãy cứ vui

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi

Lợi danh như bóng mây chìm nổi

Chỉ có tình thương để lại đời

Còn gặp nhau thì hãy cứ thương

Tình người muôn thuở vẫn còn vương

Chắt chiu một chút tình thương ấy

Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường

Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi

Bao nhiêu thú vị ở trên đời

Vui chơi trong ý tình tao nhã

Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời

Còn gặp nhau thì hãy cứ say

Say tình say nghĩa bấy lâu nay

Say thơ say nhạc say bè bạn

Quên cả không gian lẫn tháng ngày

Còn gặp nhau thì hãy cứ đi

Đi tìm chân lý - lẽ huyền vi

An nhiên tự tại - lòng thanh thản

Đời sống tâm linh thật diệu kỳ.

TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG

THƯ GỬI BẠN


Biết nói sao với bạn đây
Khi lần lữa những lời thăm hỏi
Rồi bần thần nhìn gió thổi mây trôi
Nhắc nhớ rằng đời đang trôi rất vội


Tôi vẫn biết thời gian không chờ đợi
Cho mỗi người thực hiện mọi chuyến đi
Cho mỗi con tim thỏa hết ước thề
Cho khi nhắm mắt chẳng còn gì nuối tiếc.

Tôi vẫn biết nơi phương xa biền biệt
Chưa bao giờ bạn trách móc một câu
Vì mến thương khi đã đủ ngọt ngào
Thì chắc hẳn chẳng ai đo tâm tình bằng bao nhiêu cánh thư đã gửi.
Nhưng trong thâm tâm, tôi luôn nghĩ rằng mình bê bối
Khi chưa bao giờ thử níu lại thời gian
Để dần dà những giây phút bàng hoàng
Cứ chốc chốc lại thúc vào tim: Bạn đang chờ ta đó!

Rồi đêm nay, lang thang trong hơi sương bỡ ngỡ
Những cánh sao vội vã tránh ánh đèn
Tôi chợt thèm người đối ẩm huyên thuyên
Nhưng cô độc theo bước chân nhẩm đếm
Và trở về, cánh sao mờ loạng choạng
Những dòng này, rả rích gửi phương xa...

Lam Trần

THẢM HỌA

Ngày xưa thảm họa chiến tranh

Nay bao thảm họa đang hành chúng ta

Đều do con người gây ra

Hỏi ai, ai thấy xót xa trong lòng

Nào là thảm họa giao thông

Biết bao tai nạn xe tông kinh hoàng

Nào là thảm họa môi trường

Ô nhiễm, lụt lội… hết đường sống đây

Nào thực phẩm bẩn bổ vây

Bệnh tật xã hội càng ngày thêm nguy

Chất lượng cuộc sống xấu đi

Còn gì sạch đẹp, còn gì văn minh ?

Trào lưu sống vội thất kinh

Gây hoang mang với bất bình trong dân

Ô nhiễm đời sống tinh thần

Hay là tận thế đến gần rồi chăng ?

Chuyển đổi khắc phục cho nhanh

Xã hội tử tế thực hành văn minh

Đừng vô cảm, chớ vô tình

Làm ơn thương lấy dân mình ai ơi.

LÊ MINH CHỬ

NGỘ 1

Vượt muôn vàn gian khổ

Đường Tăng gặp Phật tổ

Xin được Phật cho kinh

Mở ra giấy trắng tinh

Sở dĩ Phật cho kinh

Toàn là kinh không chữ

Vì không muốn phật tử

Theo sách vở giáo điều.

LÊ MINH CHỮ

VIỆC NHÀ

Công việc nhà là công việc gì nhỉ ?

Người thương yêu của ta phải xử lý hàng ngày

Ôi ! một chuỗi không tên và bất tận

Hãy đỡ đần bằng cách góp một tay.

LÊ MINH CHỬ

MẢNH ĐỜI

Chuyện mình lác đác như mưa rơi

Lá úa lìa cành yếu rụng rời

Bài viết mông lung vào tuổi hạt

Nhớ xưa gian khổ lúc đôi mươi

Bây giờ vượt khó cho thân phận

Tuổi trẻ qua mau bởi cuộc đời

Phấn khởi vui vầy con với cháu

Thơ ca hạnh phúc cho con người.

QUANG BỈNH - 2016

XUÂN TÌNH

Xuân về tươi thắm nhà em

Vườn mai vạn thọ tô thêm sắc vàng

Hoa thơm rải khắp xóm làng

Bướm ong rộn rã vè nàng nhụy sang

Bông tươi chớm nở ngỡ ngàng

Vui xuân bày tỏ duyên chàng đổi trao

Yêu thương ước hẹn mai sau

Trầu cau cưới hỏi cùng nhau vui tình.

QUANG BỈNH - 2016

YÊU MÀU TÍM

Tặng T.Nga

Tôi vẫn yêu màu tím Pensée

Lối vườn xưa ngập bước đi về

Hoa thủy chung năm tháng không hề

Phai sắc thắm và tàn trong gió

Tôi vẫn yêu cành sim tím đó

Mà có lần người đã trao tay

Thay ước hẹn ngày mai trở lại

Nhưng dòng đời nào thấy tương lai

Tôi vẫn yêu thương tà áo tím

Như tình nồng ngàn thuở không phai

Như mộng đời thành đôi mãi mãi

Người cùng tôi yêu mến nhau hoài.

(Trích tập Gió Mới 4)

HOÀI LY

THÁNG GIÊNG

Tặng anh Hoàng Thanh

Nếu anh về thăm tháng giêng

Cỏ mùa xuân sẽ làm duyên

Nếu anh về trong nắng ấm

Hoa trên cành soi bóng nghiêng

Nếu anh về theo sớm mai

Mưa đầu năm nhẹ trải dài

Em đợi chờ bao nỗi nhớ

Anh ở bên trời mây trắng bay

Nếu anh về buổi tân niên

Áo xiêm lộng gió trăng hiền

Mẹ già ngóng con ngày tháng

Màu đất quê nghèo vẫn nguyên

Nếu anh về vui với em

Cho nụ xanh đời tỏa hương

Trẩy lộc xuân ngời sắc thắm

Cùng nhau chung mộng yêu thương.

(Trích tập Gió Mới 4)

HOÀI LY

Tình dấu

Có phải vì dấu em kỹ quá

Nên nhớ em anh tìm mãi không ra

Như làn hương vừa quen vừa lạ

Em rất gần mà cũng thật xa

Vẫn biết rằng tiếng gọi không đến được em

Anh vẫn gọi em dưới ánh sao đêm

Trong sớm mai trong chiều nhạt nắng

Trong cả tiếng ồn cát bụi bon chen

Tình yêu dấu nên tình sâu đậm

Ở bên em anh chẳng dấu nữa đâu

Gió mùa thu đong đưa trái cấm

Tiếng gọi nhau còn mãi vọng thầm.

10.7.2007

LÊ NGUYÊN

CHIỀU THU TÂY HỒ

Bóng nước chiều thu xanh áng mây

Heo may sóng sánh nhẹ bay bay

Ai người khao khát hồ thu ấy

Sắc nước hương trời ôm ngất ngây

Lãng đãng Tây Hồ lòng thanh thản

Sóng vờn tóc liễu ngọt men say

Sâm cầm lưu luyến hoàng hôn xuống

Nghiêng mảnh trăng về ai có hay !

Năm 1998

VŨ MÃO

AUTUMNAL EVENING ON THE TÂY HỒ

(WESTERN LAKE)

The autumnal evening’s mirroring water was like a bluish cloud

The shaking north-east wind lightly flew

He who longs for that autumnal lake

Would grasp it and be enraptured by the colour of water and the perfume of the waves

At the profligated Tây Hồ (Western lake) one’s mind is untroubled

The waves played with the willow-like hair so sweet with yeast

Black coots didn’t want to part with the falling dusk

Did anyone know that the inclined moon was coming back !

1998

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN

SUY TƯ

Phong Nha tĩnh tọa giữa mùa xuân

Thanh thản lòng ta sạch bụi trần

Gió ngàn vi vút trong dòng biếc

Nhũ đá long lanh tựa áng vân

Thăm thẳm động tiên ngẫm sự đời

Thăng trầm vận thế những đầy vơi

Tình người xanh với trời - non - nước

Nhân nghĩa thủy chung mãi sáng tươi.

Xuân 2000

VŨ MÃO

MEDITATING

Sitting and meditating at the Phong Nha grotto amidst the springtime

Serene, my heart is deprived of all worldly dust

The mountainous and forests’ winds whistling over the bluish waves

Stalactites and stalagmites were sparkling like clouds

*

Sitting far and deep in the fairy grotto and meditating about worldly affairs

The ups and downs of life are at times full at times not full

Human love remains blue with the sky - mountains - and rivers

While loyalty, benevolence and righteousness remain fresh and bright forever.

Spring 2000

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN


Phụ Bản III

NHỮNG BỮA TIỆC

Quả thật là dở hơi khi hè nhau thuê taxi ra tuốt luốt Thanh Đa chỉ để được ngồi mãi phía trong, cách xa con sông tối om om những mươi mười lăm mét! Thật thế, tốn một đống tiền với mục đích được lai rai bên bờ sông mà chẳng được vì lý do đã hết chỗ mà chẳng được toại lòng, thì lấy đâu mà không… anh ách!

Chẳng lẽ lại bò về với thêm ngần ấy tiền xe nữa? Thế nên đành ngồi lùi vào bên trong, nhìn mấy cô nàng tóc bay bay bên lan can sát bờ nước. Dĩ nhiên là cái đám nhậu nhẹt ấy, cho dù chẳng mấy hài lòng với cái chỗ ngồi chẳng khác gì hàng ngàn quán nhậu khác trong cái thành phố này, thì cũng cố cưa hết một vài thùng bia với những món ăn ngon chẳng ra ngon, dở không ra dở và ít ỏi cứ như là dành cho lũ mèo ốm kiết xác…

Lý ra, họ có thể ngồi ở ven đường mà lai rai với trăng thanh gió mát! Cũng kề bên làn nước êm đềm phản chiếu ánh đèn đường đêm xuống, cũng nằm giữa cái lan can ngộ nhỡ có ai lộn cổ xuống và mảng cỏ xanh ri rí tiếng dế nỉ non. Ừ! Kênh Nhiêu Lộc ấy mà! Có thể ngồi tềnh toàng bên bờ kênh mà lai rai chẳng tốn tiền mua chỗ. Thậm chí nếu muốn, thế nào cũng có đám ca nhạc ven đường ghé vào với những chiếc loa ồn ào, tông tổng những nhạc khúc chẳng cần biết có được duyệt không nữa…

Ấy! Họ tha hồ tự do, đến nỗi có thể tận sáng ngày mai mới trở về, sau khi đã cẩn thận hẹn hò cho một tối vui khác. “Khác” ở đây chỉ là khác cái thời điểm, cũng có thể “khác” nơi chốn chút ít, vì biết đâu họ còn hẹn nhau ở một cái đám tang chiến hữu không biết chừng!

Nhưng nói chung, là họ luôn có mặt sớm hết mức. Ai tới sớm cứ việc rỉ rả, và có quyền phạt kẻ tới sau cùng, dễ thương là phải nốc hết số bia phạt ai cũng muốn uống, hoặc có thể sẽ phải trả tiền chầu nhậu đêm ấy, để “nhớ mai ra sớm nghe!”.

Nghĩa là, họ dự mấy cuộc vui bên lề đời một cách hết lòng! Hết lòng đến nỗi chẳng mấy khi chai lọ còn đọng lại chất men quyến rũ! Hết lòng đến nỗi thỉnh thoảng họ phải ụa ra giữa đường phố những thứ cơ thể của họ không còn đủ nơi chứa chấp…

Và họ gọi nhau nào là “chiến hữu”, nào là “huynh đệ chi binh”, nào là gào lên “tình thương mến thương” để động viên nhau nuốt vào những thứ lương thực chẳng biết có hợp vệ sinh không nữa…

Ấy, họ lại còn hát nữa cơ! Dù cho giọng ca có rè như cái còi bể thì nó vẫn rú gào giữa đêm khuya khoắt, cùng với những thứ nhạc khí tận dụng tại chỗ đầy tính phát minh: đũa, thìa, ly, chén…

Nghĩa là, dù bên bờ sông rong rêu, hay trong quán xá Góc Phố, Góc Nhà, Góc Xóm, Góc Nhỏ, Góc To gì gì… thì họ vẫn đến với ông thần men với sự hăng hái cùng lòng… trìu mến vô bờ…

Ngộ nhỡ ra, họ được mời vào dự tiệc cưới thì cũng có khác một chút! Ấy là y phục phải nghiêm túc hơn, và phải nhớ luôn kèm theo cái phong bì kẻo sẽ hối tiếc vì “làm người, ai lại làm thế”! Họ cũng sẽ hùng hùng hổ hổ lên sân khấu hát mấy cái bài hát ai cũng biết là xập xình trên mọi thứ xập xình! Có khi họ còn giành nhau hát hò giữa nơi hai họ gái trai kết giao tình sui gia đẹp đẽ! Thỉnh thoảng, vì có chút men, có thể họ cũng sẵn sàng choảng cho ai kia phải bỏ cái thói giật mi cờ rô ông đang hát…

Vậy mà lắm khi họ lại xớ rớ mãi tận đẩu đâu khi bữa tiệc miễn phí đang chiêu đãi cho trăm họ. Trong sảnh tiệc, vị đại diện đang hào hứng nói gì đó rất có ý nghĩa về bữa tiệc hôm ấy, về thứ thức ăn tuyệt cú mèo bày sẵn trên bàn, và về thứ tình cảm chủ tiệc luôn dành cho mọi người bất phân giàu nghèo, hơn kém…

Sảnh tiệc còn đầy chỗ, nhưng một số lại thích ngồi ngoài hành lang vì ở đấy mát hơn! Số khác lại tràn ra ngoài sân rộng để vừa ngồi nhổ râu trên xe, vừa ngắm mình trong gương chiếu hậu, vừa cằn nhằn sao mà ông đại diện nói dài thế! Số khác lại ở hẳn ngoài hàng rào, có khi lùi mãi ra lòng đường. Họ cũng cố ngồi trên dãy xe mới tinh tình tình sát với vỉa hè chỉ vì nếu ngồi ra xa nữa, e có ngày lũ xe đang di chuyển đoạt mất cái mạng rất đáng quý của mình!

Họ có thể nhổ tóc sâu cho nhau, thậm chí soi cả đèn điện thoại để khỏi nhổ lầm những sợi tóc còn đen bóng, trẻ trung. Họ có thể tâm sự vụn với nhau dù trước đó, họ đã cùng nhau ngao du cả một ngày dài thoải mái. Họ chẳng đáp lại một lời nào nếu vị đại diện hô hào lời gì đấy, vì giọng nói vàng ngọc của họ chỉ dành cho hát hò và… tâm sự!

Mà lạ thật! Sau lời chia sẻ gì đó của vị đại diện là lúc mọi người cùng thưởng thức món ăn mà phần đông đều mừng vui nhấm nháp, thì họ lại lờ đi…

Đi nhậu mà không nhậu thì đi làm quái gì cơ chứ? Chẳng phải là người ta cho dù không được ngồi sát bờ sông như dự định, nhưng vẫn cò cưa cho hết lũ bia trong thùng cùng lũ thức ăn đáng ngờ trong mấy cái dĩa tẻo teo hay sao? Mà sao ở đây, nơi một buổi tiệc lớn lao như thế, họ lại thờ ơ, nguội lạnh? Chẳng phải trong cái đám ma khi nãy, họ suýt phải cãi cọ mới giành được cái mi cờ rô để lời chia buồn của mình được mọi người vểnh tai lên rồi gật gù khen ngợi chăng? Mà sao lúc này, miệng họ lại câm lặng cứ như con đường phía sau lưng lúc đèn đỏ, không có lấy một chiếc chạy qua…

Vâng! Thật thế đó! Có rất nhiều tín hữu (chiến hữu) đã dự Tiệc Thánh Thể từ tít ngoài ngõ vắng cuộc đời, chẳng lý gì đến lời mời mọc, lời sẻ chia của vị Linh Mục đang tha thiết trong ngôi Thánh Đường. Những kẻ dự tiệc ấy chẳng hề hát lấy một câu, đối đáp lấy một lời trong Bữa Tiệc Tình Yêu ấy. Họ đến không là để dự, để được thông phần, và để sẻ chia chính mình cho mọi người chung quanh. Họ đến không để ăn Lương Thực Trường Sinh hoàn toàn miễn phí, mà chỉ đến vì không đến thì “e là có tội”!

Vâng, tiếc thay, họ chỉ đến “xem” lễ cho có lệ chứ không “dâng” lễ như phải thế! Họ đến mà không “rước” lễ, vì cho dù lời xướng đáp:

- Đây là Bánh ban xuống bởi Trời!

- Bánh có đủ mọi mùi thơm ngon

có vang khắp cả trần ai, thì tai họ cũng chưa bao giờ nghe thấy…

LAM TRẦN 19.03.2017


SÁCH THUỐC NAM

Mạch diễn quốc âm

Ngày xuân gió mát hiền hòa

Vui bề nhơn vật say bề nho y

Trải xem can mục chư thi

Đặt làm Quốc ngữ vân vi kể bày

Trước là dễ nhớ dễ hay

Sau thêm nhủ bảo mỗi ngày con em

Hỏi ai có chí thì xem

Hai mươi bảy mạch vậy mà kể ra.

*

Mạch Phù nổi ở ngoài da

Dường như gió thổi lông nga nhẹ nhàng

Trầm thời nội lý thâm tàng

Nặng tay mới thấy rõ ràng sẽ hay

Trì thời chậm chạp lắm thay

Nhứt tức tam chí chẳng say đâu là

Mạch Sát hô hấp đều ba

Một hơi sáu chí ắt là đinh ninh

Hượt thời lưu lại phân minh

Dưới tay lúc nhúc dạng hình hột châu

Sắc thời trì trệ khá âu

Hoặc tán hoặc chỉ thiệt hầu gian nan

thời lực bạc hình tàng

Trì đại như nhiễu chỉ đang mơ màng

Thiệt thời đại nhi, thả trường

Phù trung trầm hậu ứng dường như nhau

Trường thì bổn vị quá sâu

Như cây khô ngọn tế nhơn một loài

Đản thì bổn vị chẳng dài

Lương đầu tú tú khác loài mạch vi

Mạch Hồng lại thận khí suy

Phao phao mạng chí khác gì nước trôi

Mạch Vi lảng Quản thấp thôi

Nhẹ thời dường thấy, nặng thời dường không

Mạch Cẩn mau rấp chập chồng

Như tơ như thắng nối chuyền lại qua

Mạch Hưỡn ứng chí phan hòa

Nhứt tức tứ chí thiệt là thung dung

Mạch Khâu bên có trong không

Dường như thông điệp không trong có ngoài

Mạch Huyền công thắng dây dài

Như dây cung thẳng như dây đờn kìm

Cách thời dưới tay râm râm

Như đè mặt trống ầm ầm khác chi

Lao thời trường đại khôn bì

Cũng loài trầm phục thiệt thời tế ni

Nhu mạch phơi phới như hơi

Phù nhi thả tế khác gì mạch vi

Mạch Nhược trong án khác chi

Xem chìu vô lực thiệt hòa là danh

Tán thời áo mền tan tành

Dưới tay tan tác dạng hình hoa rơi

Tế thì ly ly nhỏ thay

Trầm hầu vô tuyệt từ nay đã truyền

Mạch Phục lại báo cho an

Suy câu trước cốt tầm miền trong xa

Động thời vọng khởi bôn ba

Hình như đại đậu châu mà ư quan

Mạch Thúc nhặt rồi lại khoan

Sát thời nhứt chí hiệp tan khôn lường

Mạch Kết lại khứ vô thường

Hưỡn nhi nhứt chí tỏ tường phân minh

Mạch Đại chỉ xác đinh ninh

Trước sao sau vậy xem tình chẳng sai ?

*

NGŨ TẠNG MẠCH

Mở tay khá khuyên ai ai

Hai mươi bảy mạch khác loài nhau xa

Ấy là thể trạng kể qua

Lại thêm chủ bịnh lượt ra mọi đường

Mạch Phù ngoài bịnh chủ dương

Cũng loài khí thoát, huyết vong phong hàn

Mạch Trầm đích thị âm hàn

Khí ngưng thủy sút luận bàn cho xong

Mạch Trì đích thị hàn trong

Chẳng lưng thì bụng tâm hung đau hoài

Sát thì nóng lắm dương can

Sát mà đi yếu tỏ tường dương hư

Hượt thì đàm ẩm có dư

Cùng loài thực tích kèm chư nhâm thần

Sắc thì tích huyết bịnh nhân

Hư lao ung bế thân hình khô khan

Mạch chánh khí hư lao

Một về thương thử một về hư lao

Thiệt là tà nóng có dư

Nói xàm bí ỉa âm hư rõ ràng

Mạch Trường là bịnh khác thường

Vị thiệt can cường bịnh thế nhiệt tăng

Đản thì chánh khí bất hằng

Phù là huyết sắc trầm hằng trướng đông

Hồng thì dương thạnh âm vong

Tư âm giáng hỏa hoặc dùng phát dương

Di thì huyết khí đều thương

Trai thì lao bịnh, gái thì đái băng

Cẩn thì lạnh đau băng trằng

Phù thì phát tán trầm trằng ôn kinh

Hưỡn thì thịnh vệ suy vinh

Lâu bịnh đặng lành bịnh mới ắt hư

Khâu thì huyết thoát huyết hư

Trên thì thổ nục dưới như băng hồng

Mạch Huyền đàm ẩm chứa trong

Thổ suy mộc vượng sáng đông tức thời

Cách thì tính tẩu huyết suy

Gái thì băng đái, trai thì mộng di

Mạch Lao lý thiệt hữu dư

Khí ngưng hỏa uất, tán trừ mới yên

Mạch Nhu bởi tại thấp truyền

Tùy hải đơn điền lần thấy suy vi

Mạch Nhược âm dương lưỡng phi

Điều kinh dưỡng vị tráng kỳ chơn ngươn

Mạch Tán cẩn bổn hầu tàn

Thấy trong xích mạch nguy nan xiết gì

Mạch Tế lão nhược tương nghi

Thổ huyết nục huyết mạch thì mới nên

Mạch Phục thực uất thấp hàn

Phàm có bịnh dữ khôn nàn nhớ lo

Mạch Động huyết khí bất thâu

Chủ kinh chủ thống luận cho tỏ tường

Mạch Trúc đa nhiệt thiểu hàn

Bịnh thì xiềng khái cường ban đã đành

Mạch Kết khí uất huyết ngưng

Tích tụ há từng trên dưới chẳng thôi

Mạch Đại một tạng đã vong

Mặc dù thương biến khôn hòng cứu cho

*

KHUYÊN

Mấy lời thốt đặng trữ thơ

Bịnh nào mạch nấy, luận cho tỏ tường

Ví dầu trí huệ khôn lường

Mà suy thiển vạn mấy đường cũng nên

Lại xem mạch nhiệt mạch hàn

Bịnh hàn bịnh nhiệt khác thường mới suy

Với người hình thạnh mạch suy

Hình suy mạch thạnh ắt thì chẳng nên

Bịnh dưới mạch thạnh ở trên

Bịnh trên mạch dưới phép bền bảo cho

Trên thạnh làm giáng làm thâu

Dưới thạnh thăng cử liệu thâu tức thời

Mạch trong mạch nổi ngoài bì

Bịnh ngoài mạch nội phép thì cang xin

Bịnh trong ôn tạng ôn kinh

Thiếu da thâu liểm vệ vinh điều hòa

Mạch bên chẳng có phù ra

Ấy là phép tá chánh hòa được thay

Còn như bịnh ở bên ngoài

Mạch thì tại nội chớ hoài giáng thâu

Phép dương ôn táng chẳng phù

Trước là phò chánh sau sưu dâm tà

Bịnh ngoài mạch ngoài càng đa

Ấy là ngoại cảm thì ta khứ phù

Bịnh nội mạch nội bấy chừ

Nội thương bịnh ấy bổ hư làm đầu

Bộ thốn riêng có chỗ âu

Phép dương cho ói mới hầu được yên

Bộ xích riêng có liên miên

Là hư căn bổn phép nên phò trì

Lão nhược mạch nhược phải thì

Trẻ thơ mạch mạnh ấy thì trường sanh

Con trai, thốn thạnh là bình

Con gái ích thạnh quyên sinh nhưng là

Này mạch con trẻ kể ra

Tám chín chí nóng ba là lạnh thay

Ba bộ xem một ngón tay

Thốn quan cùng xích đều bày ở trong

Tiểu nhi khí huyết vị xung

Mạch là đại khái xét cùng tam quan

Nam tả nữ hữu sẽ toan

Xem nơi hổ khẩu chỉ tay rõ ràng

Ngón trỏ trong mỗi bàn tay

Phong quan ở dưới giữa nầy khí quan

Lóng trên chót gọi mạng quan

Xem chỗ cho rõ hoặc đen, xanh, hồng

Xanh là thiệt chứng cảm phong

Đỏ sâm là nóng, lợt hồng là hư

Chỉ chạy đến móng rất nguy

Mười đứa cứu một, hoặc thì cũng không

Thai mạch trầm hượt, đái hồng

Ba, năm, bảy tháng khá phòng lậu thai

Tám, chín tháng trầm tế lai

Thai hư ban sáng ắt thai chẳng toàn

Gần đẻ phù hồng chẳng nên

Ắt là noãn sản tìm miền tiên vu

Lâm bồn trầm phục chớ lo

Thánh hiền đã dạy mạch đồ lỵ kinh

Ắt là dễ sản dễ sinh

Mạch mà sản hậu hòa bình mới nên

Trần vi phụ cốt miên miên

Thiên vạn sản hậu chẳng nên phù hồng

Ví dầu phù đại mà không

Bổ tâm bổ huyết hư trong mà dùng

Tán huyết gia vị xuyên khung

Hồng hoa, ngưu tất chớ dùng làm chi

Con gái mạch sắc trường tri

Huyết khô huyết ít ắt thì mất kinh

Có kinh đau bụng đau lưng

Huyết thì đen xấu trong mình chẳng nên

Có thai, thai cũng chẳng bền

Có chồng, chồng cũng ghen tuông bất hòa

Thốn hồng tán loạn can già

Một là dâm đản, một là dường can

Bộ xích trầm hượt mới nên

Hai tay mạch Huyền can khí có dư

Tức hông, sót ruột, ợ chua

Tánh thường hay giận hay lo trăm đường

Vì chung bịnh ở nhị dương

Trong kinh đã dạy bởi thương tâm, tỳ

Nữ nhi nào khác nam nhi

Khác vì thai sản với kỳ nguyệt kinh

Mò tay thô thiển vị tinh

Nôm na quốc ngữ dịch thành một thiên.

LANG NGUYÊN st.


Sống lâu nhờ ngón tay


Người Nhật sống lâu nhất thế giới chỉ nhờ… ngón tay! Không phải bỗng nhiên người Nhật sống thọ đến vậy… Bí kíp giúp người Nhật sống khỏe, sống thọ nhất thế giới! Tất cả bạn cần chỉ là 1 bàn tay!!!

Nếu bạn bị căng thẳng, chỉ cần giữ ngón tay cái thật chặt và đếm 20 giây; muốn ngăn chặn sỏi và suy thận, giữ ngón tay trỏ một thời gian ngắn để cân bằng nước trong cơ thể.

Tại Nhật Bản tồn tại một nghệ thuật chữa bệnh đã 5.000 năm tuổi. Đó là cách chữa lành cơ thể bên trong hoàn toàn bằng cách nắm giữ các ngón tay trên bàn tay. Khi nắm chặt ngón tay cái, cơ thể giải phóng những căng thẳng trong não bộ, giúp bạn thoát khỏi căng thẳng về thần kinh. Tương tự như vậy, các ngón tay còn lại cũng có khả năng chữa bệnh khác nhau.

Dưới đây là cách giữ ngón tay để thoát khỏi bệnh tật của người Nhật, theo Boldsky.

Ngón tay cái

Nếu bị căng thẳng, bạn chỉ cần giữ ngón tay cái thật chặt và đếm đến 20 giây. Việc đơn giản này lại có tác dụng giúp giảm căng thẳng cũng như làm dịu hệ thống thần kinh của bạn. Bạn đang bị rối loạn tiêu hóa cũng nên thực hiện theo bài tập này bởi ngón tay cái được kết nối với lá lách và dạ dày.

Ngón tay trỏ

Ngón tay trỏ được kết nối đến thận. Có thể ngăn chặn sỏi thận và suy thận bằng cách giữ ngón tay trỏ trong một thời gian ngắn để cân bằng nước trong cơ thể, ngăn ngừa sỏi hình thành.

Ngón tay giữa

Tức giận, thất vọng và mệt mỏi đều được kết nối với ngón tay giữa. Nếu bạn đang trải qua một cơn đau đầu nhẹ, hãy nắm chặt ngón tay giữa, nỗi đau của bạn sẽ biến mất. Mặt khác, các ngón tay giữa được kết nối với gan, túi mật và bàng quang, vì vậy bạn có thể điều trị bệnh liên quan đến các bộ phận kia một cách tự nhiên bằng cách giữ ngón tay ba lần trong ngày.

Ngón tay đeo nhẫn

Ngón tay này được kết nối với trung tâm, đến phổi. Khi nắm chặt, massage ngón tay đeo nhẫn giúp bạn thở tốt hơn. Bài tập này có lợi cho những người đang bị khó thở hay các vấn đề về hô hấp.

Ngón tay út

Nắm chặt và ấn nhẹ ngón tay út giúp làm dịu dây thần kinh trong cơ thể. Đồng thời, những ngón tay nhỏ được kết nối với trung tâm còn giúp ngăn ngừa cơn đau tim và bệnh về tim mạch.

Lòng bàn tay

Lòng bàn tay được kết nối với cơ hoành và rốn. Áp sát hai lòng bàn tay của bạn với nhau có lợi cho chăm sóc sức khỏe tổng thể.

Hoàng Kim Thư st.

Bạn có biết

tổ tiên chúng ta đời xưa lưu lại

bảo bối dưỡng sinh gì không?

1. Ăn no không gội đầu, đói không tắm.

Rửa mặt nước lạnh, vừa đẹp vừa khỏe.

Mồ hôi chưa khô, đừng tắm nước lạnh.

Đánh răng nước ấm, chống ê chắc răng.

2. Ăn gạo có trấu, thức ăn có chất sơ.

Nam không thể thiếu rau hẹ,

nữ không thể thiếu ngó sen.

Củ cải trắng, sống không tốt nhưng chín thì bổ.

Ăn không quá no, no không nên nằm.

3. Dưỡng sinh là động, dưỡng tâm là tĩnh.

Tâm không thanh tịnh,

ưu tư vọng tưởng dễ nảy sinh.

Tâm thần an bình, bệnh sao đến được.

Nhắm mắt dưỡng thần, tĩnh tâm ích trí.

4. Dược bổ thực bổ, đừng quên tâm bổ.

Coi tiền như cỏ, coi thân như bảo.

Khói hun cháy lửa, tốt nhất không ăn.

Chiên dầu ngâm ướp, ít ăn thì tốt.

5. Cá thối tôm rữa, lấy mạng oan gia.

Ăn mặc giữ ấm, nhất thân là xuân.

Lạnh chớ chạm răng, nóng chớ chạm môi.

Đồ chín mới ăn, nước chín mới uống.

6. Ăn nhiều rau quả, ít ăn đồ thịt.

Ăn uống chừng mực, ngủ dậy đúng giờ.

Đầu nên để lạnh, chân nên giữ ấm.

Vui chơi biết đủ, không cầu an dật.

7. Dưỡng sinh là cần cù, dưỡng tâm là tĩnh tại.

8. Người đến tuổi già, thì phải rèn luyện,

Đi bộ chạy chậm, luyện công múa kiếm;

Đừng sợ giá lạnh, quét sạch sân nhà,

Hội họa thêm vui, tấm lòng rộng mở;

9. Nghe tiếng gà gáy, đừng cố nằm thêm,

Trồng hoa nuôi chim, đọc sách ngâm thơ;

Chơi cờ hát kịch, không ham phòng the,

Việc tư không nhớ, không chiếm lợi riêng.

10. Ẩm thực không tham, bữa tối ăn ít,

Khi ăn không nói, không nên hút thuốc;

Ít muối ít đường, không ăn quá mặn,

Ít ăn chất béo, cơm không quá nhiều.

11. Mỗi ngày ba bữa, thức ăn phù hợp,

Rau xanh hoa quả, ăn nhiều không sợ;

Đúng giờ đi ngủ, đến giờ thì dậy,

Nằm dậy nhẹ nhàng, không gấp không vội;

12. Uống rượu điều độ, danh lợi chớ tham,

Chuyện thường không giận, tấm lòng phải rộng.

13. Tâm không bệnh, nên phòng trước,

Tâm lý tốt thân thể khỏe mạnh;

Tâm cân bằng, phải hiểu biết,

Cảm xúc ổn định bệnh tật ít;

14. Luyện thân thể, động cùng tĩnh,

Cuộc sống hài hòa tâm khỏe mạnh;

Phải thực dưỡng, no tám phần,

Tạng phủ nhẹ nhõm tự khai thông;

15. Người nóng giận, dễ già yếu,

Thổ lộ thích hợp người người vui;

Thưởng thức thư họa, bên suối thả câu,

Lựa chọn sở thích tự do vui chơi;

16. Dùng đầu óc, không mệt nhọc,

Bớt lo dưỡng tâm ít náo nhiệt;

Có quy luật, sức khỏe tốt,

Cuộc sống thường ngày phải hài hòa;

17. Tay vận động, tốt cho não,

Phòng ngừa bị lạnh và cảm cúm.

18. Mùa hè không ngủ trên đá,

Mùa thu không ngủ trên phản.

Mùa xuân không hở rốn,

Mùa đông không che đầu.

19. Ban ngày hoạt động, tối ngủ ít mơ.

Tối ngủ rửa chân, hơn uống thuốc bổ.

Buổi tối mở cửa, hễ ngủ là say.

Tham mát không chăn, không bệnh mới lạ.

20. Ngủ sớm dậy sớm, tinh thần sảng khoái,

Tham ngủ tham lạc, thêm bệnh giảm thọ.

Tranh cãi buổi tối, ruột như sát muối.

21. Một ngày ăn một đầu heo,

Không bằng nằm ngủ ngáy trên giường.

22. Ba ngày ăn một con dê,

Không bằng rửa chân rồi mới lên giường.

23. Gối đầu chọn không đúng,

càng ngủ người càng mệt.

Tâm ngủ trước, người ngủ sau,

ngủ vậy sẽ thành mỹ nhân.

24. Đầu hướng gió thổi, ấm áp dễ chịu,

Chân hướng gió thổi, hãy mời thầy lang.

25. Không ngủ nơi ngõ hẻm, độc nhất khi gió lùa.

26. Đi ngủ không thắp đèn, sáng dậy không chóng mặt.

27. Muốn ngủ để tấm thân nhẹ nhõm,

Chân không hướng tây, đầu không hướng đông.

Hoàng Chúc st

TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỨC PHẬT

Bài hát hay

Có một buổi chiều, sau khi dùng cơm nước xong, thái tử Tất Đạt Ta có vẻ mệt mỏi, nên nằm nghỉ trên giường cùng với công chúa Yasodara.

Các nhạc công thì đang hòa tấu những điệu nhạc êm đềm và dịu dàng… Các nàng hầu thì đang vui vẻ nói chuyện với nhau ở một góc phòng.

Kể từ khi chuyển dời vào cung điện Như Ý này, thì chiều nào Thái Tử cũng được thưởng thức những cuộc vui vầy nhộn nhịp. Nhưng đêm nay, vì cảm thấy trong lòng bồn chồn khó ngủ, Thái Tử đề nghị với người ca sĩ ưa thích nhất rằng:

- Hãy ru cho ta ngủ, bằng bài ca hay nhất, chưa từng hát trước đây.

Người nữ danh ca lịch sự vâng lời. Nàng bắt đầu hát bằng những lời ca du dương, êm ái, trong tiếng nhạc đệm phụ họa hài hòa tuyệt vời. Bài hát ca ngợi vẻ đẹp non nước, những vùng đất xa xôi, những thành phố thạnh vượng, nơi mà dân chúng đang sống bình an, hạnh phúc.

Bài ca kỳ diệu làm say mê Thái Tử từng hồi.

Ca sĩ vừa hát dứt lời, Thái Tử liền hỏi:

- Ngươi hãy nói thật cho ta biết, còn có những nơi tuyệt đẹp ở bên ngoài bức tường này, phải không? Người ta sanh sống như thế nào ở bên ngoài? Và những thứ ở bên ngoài có đáng thích hơn những thứ ở bên trong cung điện này không? Hãy nói cho ta biết tất cả sự thật về thế giới bên ngoài đi.

Cô ca sĩ trả lời:

- Thưa Thái Tử, chắc chắn cung điện mà Thái Tử đang ở là tuyệt vời nhất rồi. Thế nhưng vẫn còn có nhiều thứ khác ở bên ngoài cũng có vẻ đẹp riêng tư của nó không kém, như là thành phố, nhà cửa, đường xá, núi non, sông biển… Cung điện và vườn hoa của Thái Tử thì thật là rất xinh đẹp; tuy vậy, vẫn còn nhiều thứ đáng được thưởng ngoạn ở bên ngoài bức tường thành này.

Nghe xong, Thái Tử rất mong muốn được ngắm nhìn những cảnh quan đẹp mắt, lạ tai ấy. Đã nhiều năm qua, Thái Tử chỉ quen sống trong những bức tường của khu vườn và cung điện Như Ý này và hoàn toàn không hề biết gì đến thế giới bên ngoài.

Bây giờ vỡ lẽ ra, Thái Tử mới có ý nghĩ toan tính đi ra bên ngoài cung điện, và rồi đó, chàng mới gởi lời thỉnh nguyện lên Vua Cha, để xin được phép đi dạo quanh, tham quan thành thị, phố xá.

Đức Vua đã đồng ý lời yêu cầu của người con trai.

Đức Vua suy nghĩ:

- Bây giờ con trai ta muốn được nhìn thấy vương quốc vĩ đại của ta. Đây cũng là thời điểm thích hợp, bởi lẽ nó đã thỏa mãn trong cung Như Ý rồi, thì phải để cho nó có dịp mà nhìn thấy thực tế cái vương quốc đồ sộ và đẹp đẽ mà nó sẽ cai trị sau này.

Đó là Nhà Vua đã vô tình khai duyên cho lời tiên tri của nhà Chiêm Tinh tuổi trẻ Kadonna, trở nên sự thật rằng: “Thái Tử sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là xuất gia đi tu để trở thành một vị PHẬT đại giác ngộ”.

Nếu Thái Tử tu hành đắc đạo, thành Phật là một điều tốt; tại sao Nhà Vua từ chối, bởi vì Nhà Vua cũng là phàm phu không nhìn thấy xa, không tin sự thật. Không chỉ là ý kiến riêng tư của Nhà Vua, mà tất cả mọi người đều không thích bà con của mình đi tu, vì sự bấp bênh của đường ĐẠO. Bởi vì họ không thắp sáng được niềm tin trong lòng họ, nên họ tin rằng không ai khác có thể THẮP SÁNG ĐƯỢC NIỀM TIN CHO CHÍNH MÌNH.

Thượng Đế sanh chúng ta ra Bình Đẳng trước Uy Danh của Ngài…, thì đã có một người Tu Hành thành Phật, tất nhiên mọi người khác chịu Tu Hành cũng thành Phật vậy.

(Còn tiếp)

Thanh Châu st.


ĐỌC SÁCH GIÙM BẠN

HỌC HỎI CÁC VĂN KIỆN

CỦA CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II

Nhân dịp kỷ niệm 40 năm linh mục

cha Tổng đại diện Inhaxiô Hồ văn Xuân

Bạn tôi sau khi được Lm. Xuân tặng quyển sách dày đẹp rất lấy làm thích thú nhưng khi đọc tiêu đề xong thì không dám xé phần nylon bao bên ngoài vì cho rằng sách chỉ dành cho những linh mục, tu sĩ hay những nhà nghiên cứu… Biết tôi là người yêu sách đạo nên “Kiếm sắc tặng tráng sĩ”.

Trước kia tôi cũng biết qua loa về hiến chế “Ánh sáng muôn dân” nên rất thích thú khi nhận được cuốn sách dày và đẹp này. Cuốn sách được đóng bìa cứng khổ 15x21 cm, dày 821 trang, do NXB Tôn Giáo - Hà Nội phát hành.

Sách được chia ra như sau:

I. VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG THÁNH PHÊRÔ:

Từ trang 9-56 nói về lịch sử đền thờ và quảng trường thánh Phêrô với những hình ảnh thật chi tiết như đưa người xem trải qua một cuộc du lịch nhỏ về thăm đền Thánh.

II. NHỮNG VỊ GIÁO HOÀNG TUYỆT VỜI CỦA THẾ KỶ 20 VÀ 21:

Từ trang 59-164:

- Thánh Gioan XXIII, vị Giáo hoàng ra lệnh triệu tập công đồng Vaticano II.

- Chân phước PhaolôVI, vị Giáo hoàng đưa công đồng Vaticano II đến thành công.

- Đức Thánh cha Bênêdictô XVI, vị Giáo hoàng quyết định mở năm Đức Tin qua Tông thư Tự sắc “Cánh cửa Đức Tin” (Porta Fidei)

- Đức Phanxicô, vị Giáo hoàng mang lại luồng gi ó mới cho Giáo hội Công giáo.

III. HỌC HỎI CÁC VĂN KIỆN CỦA CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II:

Từ trang 191-722: Gồm 4 Hiến chế, 11 Sắc lệnh và 3 Tuyên ngôn

Đây là phần chính của cuốn sách gồm 2182 câu hỏi thưa cho 4 hiến chế và 1 sắc lệnh về: Hoạt động truyền giáo của giáo hội “Đến với muôn dân”

IV. MỘT SỐ ĐỀN THỜ NỔI TIẾNG TẠI RÔMA:

Từ trang 723-812 chúng ta lại được du lịch từ Vương cung Thánh đường Thánh Gioan tại Latêran ô - Nhà nguyện Sistin a - Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả - Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành… đến các nơi khác ở Rôma.

Tại Vương cung Thánh đường Sài Gòn những ngày Chủ nhật và Lễ trọng đều học hỏi theo cách hỏi và thưa mỗi ngày từ 3 đến 5 câu. Giá như được in ra luôn trong 1 tháng để ai thích cầm về nghiên cứu thì hay hơn vì khó có thể nhớ được.

HÀ MẠNH ĐOÀN

CHUYỆN NGÀY XỬA NGÀY XƯA

Ngày xưa có một sự tích - truyền khẩu đến ngày nay. Ở nơi thôn quê, có một Ông bá hộ thường cho dân trong làng vay tiền để làm ăn. Có vợ chồng anh nông dân ở trong làng đến vay của Ông bá hộ một số tiền để làm ăn, nhưng vì sự nghèo khó chưa trả được.

Một hôm Ông bá hộ cùng bọn gia đinh đến nhà anh nông dân để đòi nợ. Nhưng khi đến nhà thì không có anh nông dân ở nhà, chỉ có một mình em bé con của anh nông dân mà thôi. Em bé độ chừng 10 tuổi - ở nhà một mình - em đang nhồi đất để nắn trâu bò, vật dụng chơi ở trước sân.

Ông bá hộ liền hỏi: Cha mẹ con có ở nhà không?

Đứa bé: Dạ thưa, không có ở nhà

- Vậy chớ cha mẹ mi đi đâu?

- Kính thưa ông, Cha con đi - chém cây sống, trồng cây chết. Mẹ con đi, bán gió - mua trăng.

Ông bá hộ ngẩn ngơ, chẳng biết đứa bé nói gì, ông yêu cầu nó lập lại, nói rõ đi đâu.

- Ông đến đây hỏi cha mẹ con có việc gì?

- Cha mẹ mi thiếu tiền của tao, mi nói rõ cho ông nghe, được ông sẽ cho hết số tiền nợ của cha mẹ mi đang thiếu.

- Ông nói có thật không?

- Tao người lớn, nói, tao giữ lời.

- Vậy thì ông đưa hai ngón tay của ông đây.

Đứa bé liền in hai ngón tay vào cục đất ướt, cùng lúc có con rắn mối bò trên cái bồ - nó liền nói: có con rắn mối làm chứng nghe ông - rồi nó trả lời:

- Cha con đi chém cây Lác, trồng cây Lúa. Mẹ con đi bán quạt - mua dầu.

- Đồng ý - Ông công nhận nó nói đúng, ông cùng gia đinh đi về…

Đứa bé đem cục đất phơi khô để dành ngày sau làm chứng…

Một thời gian sau, Ông bá hộ nghĩ lại tiếc số tiền nên đến nhà anh nông dân để đòi số nợ lần nữa. Đứa bé nói cho cha mẹ biết rằng Ông bá hộ đã hứa cho con hết số nợ rồi, cha mẹ đừng có trả.

Tức lý, Ông bá hộ liền đến Quan kiện anh nông dân. Đứa bé xin đi cùng cha mẹ để hầu Quan tòa.

Quan hỏi: Có bằng chứng gì không?

Đứa bé đưa cục đất có chỉ tay của Ông bá hộ ra làm chứng.

Quan hỏi: Có bằng chứng gì nữa không?

Đứa bé: Có con rắn mối làm chứng.

Quan lại hỏi: Con rắn mối bao lớn?

- Bẩm Quan con rắn mối to bằng cái bồ

Ông bá hộ nói: Mầy nói láo! Bẩm Quan con rắn mối lúc đó đang bò trên cái bồ ạ.

Những người gia đinh đồng thanh nói đứa bé nói đúng. Quan xử Ông bá hộ thua kiện.

Sự tích chỉ tay đến ngày nay còn áp dụng.

Xin quý vị cho biết thêm sự tích chỉ tay có từ bao giờ? Và ai là người khai sinh?

Lời xưa:

Khôn từ thuở lên ba cũng khôn,

Dại đầu tóc bạc cũng còn dại.

PHƯỚC HẢI st.


Phụ Bản IV

Người ta không chết vì khổ,

vì đói, mà chết vì tức

Ngày xửa ngày xưa, ở một cái ao nọ, có một chú ếch xanh sống với hai chú chim nhạn. Hàng ngày chúng cùng nhau bơi lội, chơi đùa rất vui vẻ, cuộc sống thật là an vui tự tại.

Một năm nọ, đã rất lâu mà trời vẫn không có mưa, nước trong ao dần dần cũng cạn sạch hết cả. Không còn cách nào khác, chim nhạn đành phải dọn nhà, tới một nơi khác có nhiều nước hơn.

Ếch xanh buồn bã nói: “Hàng xóm của tôi ơi! Tớ thật không nỡ rời xa các cậu! Các cậu đi rồi, tớ phải làm thế nào đây?”

Chim nhạn cũng buồn rầu, nói: “Chao ôi! Bọn tớ cũng không nỡ rời xa cậu. Giá như chúng ta có thể cùng dọn nhà tới một nơi khác, vẫn được cùng nhau bơi lội, cùng nhau chơi đùa thì thật tốt biết bao. Nhưng mà chúng tớ có cánh có thể bay được. Còn cậu thì chỉ biết nhảy, làm sao theo chúng tớ được đây!”

Ếch xanh buồn bã, vò đầu bứt tai, chợt nó nảy lên sáng kiến: “Hay là thế này. Tớ sẽ đi kiếm một khúc cây, hai cậu mỗi người ngậm một đầu, còn tớ ngậm khúc giữa. Các cậu bay song song với nhau, vậy không phải là đã có thể mang tớ theo cùng hay sao?”

“Thật đúng là cách hay! Thật đúng là cách hay!”, chim nhạn mừng rỡ vỗ tay, “cạc cạc” kêu váng cả lên.

Ếch xanh nhanh nhảu chạy đi, một lát sau đã quay lại với một khúc gỗ ở miệng. Thấy vậy, hai chú chim nhạn liền bay liệng xuống. Bằng một động tác không thể đẹp mắt hơn, chúng cắp lấy hai đầu khúc cây và bay vút lên. Thế là mang được theo ếch xanh cùng đi.

Hai chú chim nhạn cứ bay, cứ bay, khi bay qua một ngôi làng, mọi người trong thôn liền chạy ra xem, miệng không ngớt lời khen: Hay chưa này. Hai con chim kia đúng là thông minh. Cách hay như vậy mà cũng nghĩ ra được”

Ếch xanh nghe xong, trong lòng rất lấy làm không vui, nó nghĩ: “Cách này là tôi nghĩ ra mà, sao lại có thể nói chim nhạn thông minh được chứ?”

Chim nhạn cứ bay, cứ bay, bay mãi, lại đi qua một ngôi làng, những người trong thôn đang cấy lúa, trông thấy cảnh tượng kỳ lạ đều dừng lại, ngẩng đầu lên bàn tán: “Cả đời tôi chưa bao giờ nhìn thấy cảnh này. Chim nhạn mang theo ếch xanh cùng bay. Đúng là thông minh quá mà .

Ếch xanh nghe xong, càng thấy thêm bực mình, thầm nghĩ: “Cách này rõ ràng là mình nghĩ ra, họ thật chẳng biết gì cả”.

Hai chú chim nhạn cứ bay, lại bay qua một ngôi làng nữa. Ếch bị treo lơ lửng giữa trời, mắt chẳng nhìn thấy gì cả, chỉ nghe thấy từ dưới có tiếng vọng lên: “Mọi người hãy mau ra đây mà xem này. Hai chú chim nhạn kia dùng cành cây khô để cắp ếch đi cùng. Hay chưa kìa! Thật là thông minh quá đi!”

Lần này ếch xanh không nhịn được nữa, nó tức điên lên, cố gào: Là do tôi nghĩ ra đấy. Không phải chim nhạn nghĩ ra đâu”. Vừa nói dứt lời, nó rơi thẳng xuống đất, chết tươi tại chỗ. Thật đúng là, họa từ miệng mà ra.

Thiện Sinh biên dịch – MĐ st.

Bill Gates:

11 điều con của bạn

không được học ở trường

Gửi tất cả mọi người có con em nhỏ đang đi học! Dù bạn yêu hay ghét ông, thì những điều Bill Gates chia sẻ dưới đây chắc chắn bạn nên nói lại với con cái của mình.

Bill Gates, tỉ phú, đồng sáng lập hãng phần mềm lớn nhất thế giới Microsoft. Trong bài phát biểu tại một trường trung học do Cnet thuật lại, tỉ phú Bill Gates đã chia sẻ về 11 điều bạn đã và sẽ không bao giờ được dạy tại trường học. Ông cũng nói thêm rằng việc chỉ dạy những giáo lý được cho là đúng đắn đã tạo nên một thế hệ trẻ không có khái niệm về thực tế và điều này làm họ gặp thất bại trong cuộc đời.

Điều 1 : Cuộc sống không công bằng, hãy quen với nó!

Điều 2 : Thế giới không hề quan tâm tới lòng tự trọng của bạn. Thế giới chỉ trông đợi bạn hoàn thành được điều gì đó trước khi bạn cảm thấy hài lòng về bản thân.

Điều 3 : Bạn sẽ không thể kiếm được 60.000 USD sau một năm rời ghế nhà trường. Bạn sẽ không thể là một phó tổng thống với một chiếc xe hơi tiện nghi có gắn điện thoại ở bên trong cho tới khi bạn kiếm được đủ tiền để mua cả hai.

Điều 4 : Nếu bạn nghĩ giáo viên của mình khó ưa, hãy chờ cho tới khi bạn được gặp ông chủ của mình.

Điều 5 : Đi bán bánh mì kẹp thịt không làm mất đi giá trị của bạn. Ông bà của bạn ngày xưa gọi công việc bán bánh mì kẹp thịt với một cái tên khác, họ gọi đó là “cơ hội”.

Điều 6 : Nếu bạn gặp rắc rối, đó không phải lỗi của cha mẹ bạn, vì vậy đừng rên rỉ khi mắc sai lầm, hãy cố gắng học hỏi từ chúng.

Điều 7 : Trước khi bạn được sinh ra, cha mẹ của bạn không hề trông buồn chán như bây giờ. Họ trở nên như vậy là do phải nghĩ cách thanh toán hóa đơn cho bạn, làm sạch quần áo cho bạn và lắng nghe bạn nói về việc bạn phải trở nên sành điệu như thế nào. Trước khi kêu ca về sự buồn chán của thế hệ cha mẹ bạn, hãy cố gấp quần áo trong tủ của bạn sao cho gọn gàng trước đã.

Điều 8 : Trường học có thể là nơi loại bỏ sự thắng thua nhưng cuộc đời thì không. Ở một số ngôi trường, họ có thể loại bỏ những điểm kém và cho bạn nhiều cơ hội để làm lại cho tới khi có đáp án đúng. Điều này hoàn toàn không giống chút nào với cuộc đời.

Điều 9 : Cuộc đời không hề chia thành các học kỳ. Bạn sẽ không nhận được kỳ nghỉ hè và rất ít ông chủ thích thú tới việc giúp bạn tìm được chính bản thân mình. Vì vậy, bạn phải tự dùng thời gian của mình để làm việc đó.

Điều 10 : Đời thực không giống như trên TV. Ở ngoài đời thực, mọi người đều phải rời quán cà phê và đi làm đúng giờ.

Điều 11 : Hãy đối xử tốt với một kẻ khác người. Có thể bạn sẽ phải làm việc dưới quyền của một kẻ như vậy.

Nguyễn Long - Hoàng Chúc st.

THÓI TÍNH NGƯỜI VIỆT

(Tiếp theo số 130)

14. E DÈ NHÚT NHÁT

Cái sự e dè nhút nhát này thường biểu hiện rõ rệt trong những cuộc hội họp trao đổi. Khi nêu ra một vấn đề cần ý kiến tham gia bàn thảo thì thường gặp cảnh đùn đẩy “anh nói đi, chị nói đi….” hoặc những cái nhún vai le lưỡi. Mặc dù kha khá người biết nên nói gì và cần nói gì, nhưng tâm lý e ngại, sợ sai, sợ bị chê cười, sợ bị cho là làm nổi, sợ há miệng mắc quai, lỡ ý kiến mình nêu ra mà hợp lý thì e trách nhiệm sẽ đổ lên vai, thêm việc thêm lo thêm mất thời gian thêm mệt. Bên cạnh đó là tính tự ti, luôn tự hạ thấp mình, tự ti này khác hoàn toàn với khiêm tốn “mình đâu có là cái gì đâu mà nói. Không khéo lại…”. Nếu đánh đổi tâm lý này bằng một tâm lý bình đẳng “khi ta được mời đến tham dự cuộc họp này, lẽ tất nhiên ta đồng tư cách với mọi người, họ có thể hơn ta mặt này mặt khác, nhưng trong phạm vi một đề tài một bối cảnh, thì ta cũng như họ, ngoại trừ ta không nghĩ ra được điều gì hay ho thì thôi, còn đã nghĩ được thì nói được”. Chỉ cần trước khi nói phải hiểu rõ phải nắm chắc then chốt của vấn đề, phải đưa ra được một ý kiến xác đáng và mạch lạc, đừng như một số người lại năng động quá mức cần thiết, là cái gì cũng nói nhưng nói vòng vo linh tinh không trúng trọng tâm, nói mà rồi chính họ chắc cũng không biết họ đang nói gì, chiếm thời gian chiếm diễn đàn và làm người nghe chán ngán.

Cái sự e dè nhút nhát này còn biểu lộ trước những khách nước ngoài. Chuyện giao tiếp bằng ngoại ngữ trong đa số dân Việt hiện nay là không quá khó khăn, không cần quá nhiều từ vựng chuyên môn, chỉ cần một số từ ngữ giao tiếp thông thường là đã có thể chào hỏi. Nhưng ngay cả những người có vốn liếng ngoại ngữ vào loại khá vẫn có thói quen hạn chế giao tiếp. Trong khi hầu hết người nước ngoài họ luôn tỏ thái độ cầu thị, cho dù đó là khách du lịch hay bán cư trú, họ rất cần sự trao đổi với dân bản địa, một phần là gây thiện cảm, một phần là thực tế văn hóa đời sống. Ánh mắt họ thường biểu lộ một nhu cầu tiếp cận, nhưng họ luôn gặp rào cản, không chỉ khó khăn ngôn ngữ mà còn là thái độ né tránh ngần ngại. Điều này không chỉ phương hại đến sự giao thoa các nền văn hóa, mà còn gây sự hiểu nhầm cho đối phương là mình không muốn tiếp nhận sự có mặt của họ, hoặc mình kỳ thị chê bai họ về một cái gì đó. Nguời Việt ta đã gây được một cảm quan là thân thiện, vậy hãy nên mạnh dạn tiếp xúc hơn nữa, để tính thân thiện ấy có thực chất và tôn lên nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt hơn.

Ở một góc độ khác, sự e dè còn biểu hiện trước những hình thái mặc nhiên của xã hội. Dân đến trước cửa quan, cho dù với tư thế mục đích gì cũng tự nhiên mà e dè khép nép. Người nghèo đứng trước người giàu cho dù với mối quan hệ hay giao dịch gì vẫn vô hình chung mà e dè ngần ngại. Tóm lại, cứ trước một hình thế có tính áp lực, cảm giác hơn mình một vài phương diện nào đó, thì người ta luôn có tâm lý e dè nhút nhát. Mặc dù rất nhiều khi không cần thiết, thêm nữa là cái cách tự yểu nhược mình sẽ tự nhiên mà đẩy lợi thế về phía đối phương. Vì vậy mới sinh ra cái luật bất thành văn: cứ quan là hống hách, cứ dân là sợ sệt. Cứ giàu là lớn tiếng, cứ nghèo là bé miệng. Dễ xảy đến cái gọi là “xử ép” nếu đôi bên có phần va chạm. Những nỗi oan sai không chỉ xảy ra ở những chốn tụng đình, mà rất hiển nhiên trong các sinh hoạt đời sống, phần nhiều trong đó bắt nguồn từ sự e dè nhút nhát không nên có.

15. CHUỘNG HÌNH THỨC

Có một câu nghe rất dị “Việt Nam ham to”. Quá thô quá dị quá xấu hổ, nhưng mà… đúng. Đi mua bất cứ mặt hàng gì cũng thích lựa cái to, dù khá nhiều loại to không tốt bằng nhỏ. Và nếu một món hàng chất lượng như nhau, giá cả như nhau, cũng thích vào cửa hiệu to, để có cảm giác sang trọng đẳng cấp. Vì tâm lý này mà nhiều món hàng bề ngoài trông rất to, nhưng phần sử dụng được thì rất bé.

Trong nhà ăn uống tiện tặn sao cũng được, nhưng khi ra ngoài phải hoành tráng quần áo xe cộ. Tiền trong túi không nhiều nhưng đi vay để mua hàng hiệu hàng đẹp trông cho ra dáng bảnh bao hào nhoáng. Con cháu có túng thiếu gì thì cứ để đó đã, xây cái nhà cho lác mắt thiên hạ, kẻo thiên hạ khinh mình nghèo. Không những xây nhà mà còn đua nhau xây những ngôi mộ độc đáo cầu kỳ để dãi nắng dầm mưa chơi. Thấy người ăn mặc có vẻ sang trọng giàu có thì xem như đó là người tốt, để rồi hầu bao bị móc sạch lúc nào không biết. Hoặc những người có dáng vẻ lịch lãm hào hoa bóng sắc, thì đa phần không có tính thủy chung và chín chắn. Dù cố tình hay không thì họ luôn là cái đích ngắm của nhiều người, khi đã ham mê sự bóng sắc với bao viễn tưởng tự vẽ ra để huyễn hoặc mình, thì tự thân những người ham mê ấy đã đưa cơ hội thiêu thân đến cho người kia, để rồi chuốc vào mình bao thương tích khổ sở. Nghìn nghìn triệu triệu người bị ăn quả lừa bởi cái mẽ bên ngoài như thế nhưng vẫn luôn luôn và mãi mãi còn nhiều triệu người sẽ tiếp tục rơi vào cái bẫy ấy. Lẽ đương nhiên tạo hóa cho con người khả năng mỹ cảm để biết yêu những cái đẹp trong cuộc sống. Nhưng yêu là một chuyện, còn nhận thức bản chất cái đẹp ấy như thế nào lại là chuyện khác. Không có một kẻ lừa đảo nào mà không ngụy tạo một vẻ bên ngoài ngon lành ra dáng cả. Và họ cũng hết sức ranh ma khi nhìn vào ánh mắt của con mồi, họ lập tức hiểu rằng cá đã cắn câu, việc còn lại là cách thức và thời điểm.

Một điểm nữa cũng cần nói qua, là đa số những người dốc công sức thời gian tâm huyết cho một công việc mang tính thiện ích có khi là kéo dài nhiều tháng nhiều năm, thì chắc chắn một điều cái vẻ bề ngoài của họ hết sức đơn giản. Cách ăn mặc bình dân, phong thái nhũn nhặn điềm đạm, không có một điểm nổi trội nào để làm sức hút. Nên với những người không biết họ là ai, thì dễ dàng tỏ vẻ xem thường, cư xử thiếu lễ phép tôn trọng. Ví dụ một nhà khoa học sau nhiều năm nghiên cứu sáng chế ra một công cụ tiện ích nào đó, mà chưa có dịp xuất hiện trước công chúng, thì dám chắc người ta sẽ lầm ông ấy là cái anh chàng comple ca vát sang trọng làm trợ lý kia, còn ông ấy cho dù có đứng ngay gần đấy mà ăn mặc giản tiện thì cũng chẳng ai nhìn đến. Vì ông ấy trong như một ông bảo vệ hay một long tong sai vặt nào đấy thôi mà.

Tâm lý chuộng hình thức này luôn dẫn con người ta sai lầm về nhận định bản chất, gián tiếp tạo cơ hội cho những lật lường gian xảo. Đành rằng, yêu cái đẹp không phải là có lỗi, ai cũng mong cái đẹp hình thức đi đôi cùng cái đẹp nội dung thì đúng là điều tuyệt mỹ. Nhưng không có nhiều tuyệt mỹ như thế trong cuộc sống này, vì vậy nên chăng hãy tập cho mình một cách nhìn trầm tĩnh mà sáng suốt, ít ra cũng để tránh cho chính mình không tự biến thành nạn nhân, và tôn trọng được đúng điều đáng tôn trọng.

16. MÊ TÍN

Trước hết xuất phát từ niềm tin tín ngưỡng. Hầu hết người dân Việt đều theo truyền thống mà hướng theo một tôn giáo để hình thành một đời sống tâm linh. Xét mặt tích cực, tôn giáo là sự hỗ trợ tinh thần tâm cảm cho con người, cũng có thể xem như một nơi để bám víu trong những lúc con người cảm thấy yếu đuối lo sợ trước bất kỳ một hiểm hoạ nào đó từ đời sống. Tất cả các hình thái thuộc niềm tin tôn giáo chủ yếu để thỏa đáp tâm lý tình cảm con người là chính. Giải quyết cái gọi là: cho yên tâm. Không cần có những minh chứng cụ thể rằng hành vi ấy, cách thức ấy có là sự thật, có mang đến một thực chất hiện hữu, người ta chỉ biết làm như vậy người ta cảm thấy bình an, yên chí. Nếu không làm được hay không được làm, người ta có cảm giác bứt rứt bất an, và mơ hồ ám ảnh một nguy cơ chập chờn đâu đó. Vì vậy mà các tôn giáo luôn tồn tại và phát triển thịnh suy theo từng thời đại. Và thường thì tôn giáo luôn làm tốt vai trò uốn nắn răn dạy hướng thiện cho đời sống con người trở nên đạo đức và lành mạnh.

Nhưng cũng như mọi loại hình sinh hoạt trong đời sống, trải qua một quá trình sẽ có những biến tướng. Luôn luôn có một thành phần người cơ hội, nắm bắt nhu cầu của con người và tìm cách phục vụ nhu cầu ấy một cách lợi dụng. Niềm tin lại là một nhu cầu thiết yếu nhất trong đời sống. Từ đây mà đẻ ra chuyện bói toán hoặc những quan niệm làm thế này thì tốt, làm thế kia thì không ổn. Tuy cũng có một số cơ sở mang tính kinh nghiệm đúc kết, nhưng không phải để áp dụng vào tất tật những trường hợp có đa số nét tương đồng. Còn lại hầu hết là cách nói phỏng đoán chung chung mơ hồ dọ ý. Không ít người hồn phi phách tán khi nghe những lời phán kinh khủng hiểm nguy nào đó. Rồi phấp phỏng phập phồng suốt bao lâu, rất nhiều khi cản trở công việc gây những thất thoát lớn nhỏ, phần nhiều do tâm lý bất an, sợ điều xui rủi xảy ra. Và cho dù đã đi qua khoảng thời gian của sự ước đoán, cũng vẫn ám ảnh một nỗi sợ dai dẳng. Thật khó hiểu, mất tiền cho thiên hạ để mua lấy cái lo cái sợ vào người. Nhưng cho dù có nhiều minh chứng bất hảo trong chuyện tìm kiếm niềm tin không đúng chỗ, thì người người vẫn cứ tin vào những lời vu vơ vớ vẩn. Cái chính là do con người ta luôn cảm giác yếu đuối mỏng manh trước những hiểm hoạ từ nhiều phía, lại thêm ước vọng cầu lợi, vì vậy mà người ta cứ sẵn sàng bám víu vào những mơ hồ “biết đâu…”.

Nhưng vẫn có những người bản lĩnh, tin vào những hiện thực, tin vào chính khả năng mình, tin vào sự vận hành cuộc sống không phải là những điều mê mị được dẫn dắt từ những vu vơ. Những may rủi được mất là điều hiển nhiên song hành cùng cuộc sống. Không phải là sự chọn lựa có chủ động mà được. Nếu những quan niệm có tính duy tâm, phần lớn đều chỉ có thể đáp ứng một chút gì cho tâm lý. Nhưng nếu duy tâm một cách thái quá, không có sự suy xét cân nhắc thì đó chính là con dao hai lưỡi để rồi tiền mất tật mang. Cũng như mọi vấn đề thuộc lĩnh vực khác, niềm tin cũng phải có một tầm hiểu biết nhất định, ít nhất cũng để tránh cho mình không rơi vào một trạng thái tệ hại, không những thất thiệt cho mình còn làm cho cười cho thiên hạ. Vì vậy rất cần thiết phải hiểu mình nên tin vào cái gì, tin đến đâu, và niềm tin ấy đem lại cho mình những lợi hại gì. Rất cần thiết một điều phải hiểu: không thể giao phó vận mệnh mình cho những con số mơ hồ đâu đó đặt ra là tốt xấu, không thể giao phó thành quả của mình cho những ý niệm rủi may mà đâu đó đặt ra hòng cơ hội, không thể giao phó sự bình yên của mình cho những quân bài xúc xắc mà đâu đó đặt ra đầy ma mị. Lòng tin nếu được đặt đúng nơi đúng chỗ sẽ đem lại cho con người một tinh thần sống vững chãi và lành mạnh. Nhưng nếu đặt để lòng tin một cách tùy tiện thiếu suy xét, sẽ chỉ tự rước vào mình những nguy ngại khó khăn thậm chí còn là sự vong bại. Cần phải nhớ rằng: không có một cái gì xảy đến với ta mà không có căn nguyên. Lành dữ rủi may mất được đều tiềm ẩn trong suốt chặng trình cuộc sống, đến một thời điểm thích hợp thì nó diễn ra. Không chỉ tiềm ẩn trong chính bản thể mỗi người, mà tiềm ẩn trong các hình thái môi trường xã hội chung quanh. Không thể ngăn chận nếu điều đó buộc phải xảy ra, có chăng là nếu có thể tiếp nhận mọi sự vụ trong một tâm thế bằng an chấp nhận và khắc phục bằng mọi cách có thể. Để làm được như thế, rất cần thiết phải củng cố căn bản niềm tin và sự hiểu biết trong chính nội tại của mình. Mọi thứ chỉ có thể vững chắc nếu không phải đi vay mượn trông đợi hay nhờ vả.

17. TÒ MÒ VÀ SOI MÓI

Phải nói đây là một thói tính gần như đặc thù của phái nữ, nhưng nam giới cũng không ít người mắc phải. Cái sự tò mò này luôn nhắm vào những góc khuất của con người. Người ta thường muốn biết những chuyện rất riêng tư của người khác, biết tường tận biết cặn kẽ biết càng nhiều càng thích, chuyện càng xấu càng vui. Khi thoáng nghe một thông tin gì có vẻ nhạy cảm của một ai đó, lập tức săn đón hỏi tới hỏi tới, vẻ mặt thì chăm bẳm ráo riết truy gạn người nói. Và khi đã biết được ít nhiều thì thêm thắt lan truyền. Cho dù không một ai thích chuyện có người nhòm nhỏ soi mói vào chuyện riêng của mình, nhưng lại rất tận tình “quan tâm” đến góc riêng của mọi người. Nhất là những người có chút tiếng tăm lại càng hấp dẫn. Nếu bảo rằng người đó người nọ người kia làm được việc gì đó tốt lắm, thì thái độ tỏ vẻ thờ ơ ngay, chuyển đề tài sang hướng khác, nhưng mà nghe hình như có vẻ không ổn thì thôi rồi, đào tới tận gốc trốc tới tận hang. Khi biết được ít nhiều, chưa chắc đúng hay sai, đi toe loe cái đã, thêm mắm dặm muối cho xôm trò. Hễ cứ một nhóm ngồi lại với nhau trong thời gian rỗi rảnh mà tán gẫu, thì y như rằng, sớm muộn gì cũng có những cái tên bị đem ra làm nạn nhân. Đa phần chỉ đơn thuần ý nghĩ cho vui chuyện chốc lát, mà không hề lường đến một hậu quả nhiều khi rất là tồi tệ rất là thảm khốc với những nạn nhân của họ. Và chính họ, cũng chưa chắc đã thoát khỏi sự truy cứu sự trả giá, mà cho dù không đến mức phải truy cứu trách nhiệm trong một phạm vi nào đó, thì họ cũng bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến tư cách nhân phẩm uy tín. Bởi không ai có thể yên tâm làm bạn với những người năng nổ trong việc tham gia tận tình đời tư người khác. Ai cũng có một suy nghĩ: hôm nay bêu rếu moi móc người này người kia, thì rồi một mai cũng đến lượt mình. Bây giờ đặt điều giễu cợt mai mỉa người vắng mặt, thì khi vắng mặt mình chắc cũng thế. Tốt hơn hết đừng có thân cận với họ làm chi cho thêm nhiều chuyện, qua loa cho xong thôi. Và những người thích dòm ngó soi mói chuyện riêng của người khác, thì bản thân cũng có tránh được cái sự thể tương tự ấy đâu. Cứ ngồi lê mãi chỗ này đến chỗ kia thì kiểu gì cũng đến lúc thành người bê tha bất nghĩa. Thời đại công nghệ phát triển hiện nay, thì cái chuyện “ngồi lê” được nâng cấp nhanh và xa gấp bao lần nữa. Vì những cái lợi tức thời của một nhóm người, thì sự gieo rắc cái hại không chỉ cho một thành phần một đối tượng là một điều không giới hạn. Tuy nhiên, có vấp phải cái hại đó hay không là ở chỗ có thích soi mói đàm tiếu chuyện riêng của người khác. Hẳn đang có những phản bác “bày ra đấy thì xem qua một chút cho vui chứ làm gì mà ghê vậy?”. Vâng, đúng là ban đầu chỉ xem qua một chút cho vui thôi, nhưng dần dần nếu cứ thích quan tâm đến những thông tin kiểu như thế thì con ma tò mò nó sẽ như được tích thêm công lực, nó sẽ trỗi dậy và điều khiển hành vi mình lúc nào không biết. Ai cũng có thể nói câu cửa miệng: tò mò đời tư của người là xấu, đưa chuyện bôi nhọ gây hại cho người là xấu, và tôi ghét nhất người ta tò mò tọc mạch chuyện của tôi. Thế nhưng thấy rò rỉ chuyện đời tư của ai đó là lại mắt lớn mắt bé mà hóng hớt. Nếu con người bỏ được thói tính này, thì xã hội sẽ bớt đi rất nhiều thứ trò hề nhố nhăng, như dọn được những cỏ rác ven đường đi vậy.

18. COI TRỌNG MIẾNG ĂN

Một cách không tránh né, bởi người Việt trải qua nhiều thời kỳ chiến tranh, sự thiếu đói luôn hằn sâu trong tâm thức, đời truyền đời, kiếp nối kiếp. Vì thế mà cho đến bây giờ, không kể đến thành phần trung bình hoặc trung bình kém vẫn còn phải lo toan nhiều, mà cả thành phần kha khá cũng vẫn có tâm lý xem trọng miếng ăn. Điều này rất dễ nhận thấy ở những đám tiệc hay du lịch có điểm ăn uống buffe, nhất là những nơi ăn uống có tính miễn phí. Kiểu như ăn lấy được, ăn nhanh không thì hết, ăn đến hết cỡ bụng thì thôi, ăn đi chứ lần sau không có nữa đâu, vừa ăn vừa nhìn chừng những người chung quanh, thấy miếng gì ngon sợ người kia nhanh tay hơn, nếu có người thân đi cùng thì gắp lấy gắp để cho vào bát, miệng luôn giục ăn đi ăn đi. Cái sự coi trọng miếng ăn này với người trong cuộc không hề nhìn thấy hình ảnh khó coi thậm chí tầm thường hạ cấp của mình, nhưng ở ngoài nhìn vào thì thật đáng buồn. Những bộ comple hay những chiếc váy áo trông thật sang trọng, nhưng nó bỗng trở nên thảm hại khi chủ nhân của nó có những hành vi ăn uống hết sức thô tục và tham lạm. Có thể nhiều người không biết, miếng ăn là một phần biểu thị tính cách con người. Thanh cao lịch lãm hay thô tục phàm phu, chừng mực cẩn trọng hay buông tuồng bừa bãi, nhường nhịn bao dung hay chấp nê vụn vặt… Không chỉ là một góc nhìn nông sâu mà còn là những hệ lụy lâu dài. Khi vô hình chung tạo một ấn tượng khó coi trong con mắt xã hội, cho dù là một phạm vi xã hội thu nhỏ, thì sự xóa nhòa là một điều không dễ thực thi. Chỉ cần một lần, có thể xem như bị đóng đinh vào diện mạo. Bất kỳ đâu đó người ta nhắc đến, sẽ ánh lên một cái nhìn mỉa mai dè bỉu “tưởng ai chứ đó thì…”, hoặc bất kỳ gặp lại đâu đó, người ta tỏ những thái độ thiếu thiện cảm, tránh né và ái ngại. Đó là còn trong một giới hạn cộng đồng, xa hơn, có ai đã từng nghĩ đến không, còn là Quốc thể. Ngày nay việc du lịch ra nước ngoài đã rất phổ biến, và đã không ít những phản ảnh hành vi thuộc lĩnh vực này. Liệu người ngoại quốc nhìn dân Việt ta thế nào qua những hình ảnh không đẹp ấy. Được biết, một số nơi nhà hàng buffet từ chối đón khách Việt, nghe sao mà… Đừng xem thường chuyện miếng ăn, nó không nhỏ đâu, nó kéo theo cả một diện mạo văn hóa dân tộc đấy. Dường như người đời nay đã quên mất câu “ăn trông nồi ngồi trông hướng”, và nhiều câu tương tự cho việc uốn nắn giáo dục cho con trẻ. Cứ trách người xưa là nhiêu khê giáo điều, là cổ hủ cẩn trọng quá mức, nhưng cái cách giáo dục con người từ cách thức ăn uống đi đứng đã đưa được vào đời những người con lịch thiệp chừng mực, rất có phong cách điềm đạm chững chạc. Đành rằng không nên quá cẩn trọng hay cố tình kiểu cách, nhưng rất cần thiết phải có một nét văn hóa tối thiểu của một người biết tự trọng trước đông người qua những hành vi cá nhân của mình. Đừng để một hành vi nhỏ mà làm ảnh hưởng đến cả một nhân cách.

19. BẮT QUÀNG

Phải nói rằng có rất nhiều dở khóc dở cười từ cái chuyện bắt quàng này. Cuộc sống luôn có những thành tựu đáng kể đem lại nhiều ảnh hưởng quan trọng cho con người. Những thành tựu đó được chắp nên từ bao công sức ý chí nỗ lực khả năng của những con người ưu tú. Họ xứng đáng được nhận sự tôn vinh ngưỡng mộ thán phục tôn trọng và cả tính thần tượng của công đồng. Có cơ duyên được gặp họ hoặc quen biết với họ thật là một điều vinh dự và may mắn. Nhưng vấn đề là ở chỗ qua chiếc cầu nào để được gặp, và câu chuyện phía sau sự gặp ấy.

Nếu trong cùng một ngành nghiệp có những dịp hội tụ do chuyên môn thì việc gặp gỡ những người thầy những bậc đàn anh đi trước, có cơ hội chuỵên trò trao đổi, chụp ảnh kỷ niệm, xin số điện thoại là chuyện đương nhiên. Về sau cũng có những lúc muốn được học hỏi thêm cũng tiện. Nhưng vẫn là hạn chế làm phiền nếu không có lý do chính đáng. Bởi đó là những người không có nhiều thời gian rảnh rỗi, càng không phải người bằng vai phải lứa để gọi điện tán gẫu hay ngẫu hứng rủ cà phê.

Một số thì hàng ngày nhìn thấy người nổi tiếng trên ti vi báo chí, bất chừng đâu đó gặp được, hoặc vô tình ngồi cạnh trên một chuyến đi, cứ xoắn lấy như thân quen từ tận thuở xa xưa nào. Có được tấm hình hay số điện thoại thì lấy làm vinh vang lắm, khoe hết người nọ đến người kia, không hiếm lúc tỏ ra mình là người đẳng cấp lắm mới quen được người ấy. Thậm chí còn tự bịa ra những chuyện có chung với người ấy như để khẳng định sự quen biết là có thật. Cái kiểu mượn danh này trông cứ như một đứa trẻ con đi sau bám gấu áo người lớn vậy. Nhiều khi ra trò khoe mẽ, ngồi với dăm bảy người hoặc chỗ đông, lấy điện thoại ra gọi, nói năng vẻ thân thiết đôi khi là trịch thượng, người bên kia máy, nhiều khi cố tỏ ra lịch sự mà ậm ờ, cũng có khi họ đã tắt máy nhưng bên này vẫn độc thoại với vẻ mặt oai phong lắm lắm. Một số khác thì lấy cái sự quen biết ấy ra mà hù doạ hay có dụng ý lừa đảo. Nếu bị phát hiện thì cùng lắm gỡ thẹn bằng cách nói người kia chẳng ra gì, tha hồ bôi bác những điều không thật về người ấy để vớt vát sĩ diện cho mình. Nếu không bị phát hiện, đạt được mục đích cho lợi ích riêng, gián tiếp gây thiệt hại ít nhất là về mặt danh dự cho người bị mượn danh.

Những kiểu người này nhiều lắm nhưng không khó để nhận diện. Chỉ cần để ý tính cách thái độ và phạm vi vị thế xã hội là có thể đoán được ra bản chất của cái sự “quen biết” ấy. Nhưng cho dù có nhận ra người ta cũng chẳng nỡ nói thẳng, hay bóc mẽ, mà chỉ cười thầm. Người mượn danh mượn oai ấy thường thì chẳng đủ tinh tế để cảm nhận xem cái cách mình đang diễn có đạt hiệu quả không. Mà tâm trí đang vùi trong ảo giác hư vinh càng tự biến mình thành một thứ con rối vụng về trên sàn diễn. Và lắm cái nhếch mép thay cho hai từ “tội nghiệp”, bởi bản thân họ không có gì để đứng nên phải ghé nhờ vào góc sân của người khác vậy.

20. KHOE CỦA

Đây là một câu chuyện hết sức nhiêu khê. Cái khổ của những người luôn lo sợ mình kém cỏi. Người ta cứ phải bận tâm sợ người nọ người kia khinh mình nghèo. Khác nhau là cách khoe, có người khoe vẻ như kín đáo, có người huênh hoác ba hoa, đàn ông khoe kiểu đàn ông, đàn bà khoe kiểu đàn bà. Cứ ngồi vào một tụm là y như rằng câu sang câu sếu xọ câu soi. Nào là khoe quần áo, khoe nhà cửa, khoe xe pháo, khoe vật dụng, khoe ăn uống, khoe chuyện làm ăn (chuyện làm ăn nào cũng lớn cả). Anh có cái kia thì tôi có cái nọ, cái nọ của tôi ăn đứt cái kia của anh. Chị có cái áo vài triệu tôi có cái váy miễn chê, so với cái váy của tôi thì cái áo của chị chỉ là giẻ rách. Ông có cái nhà sang tôi có cái biệt thự khủng. Bà có cái nhẫn kim cương 3, 4 cara tôi có đôi bông tai hạt xoàn đến 5, 7 cara. Cái xe ấy á… mùi gì… xe tôi mới đập hộp hơn cả tỉ. Cái ví da ấy á… không ăn thua… tôi mới thửa hàng hiệu mốt mới vừa ra lò đây. Con tôi á, nó không thèm xài cái loại mèng mèng ấy đâu, nó phải cái đấy cái đấy cơ. Hôm nọ đi nhà hàng gọi toàn món đỉnh thế mà có ăn được mấy đâu, bỏ lại cả nửa. Du lịch á, trong nước là chuyện vặt, châu Á cũng thường thôi, châu Âu châu Mỹ mới đáng đồng tiền chứ. Nhiều người cứ sợ không khoe thì thiên hạ không biết mình có tiền, khoe ra thấy thiên hạ mắt tròn mắt dẹt thì sướng lắm. Khi họ nói, cảm tưởng họ chỉ cần ra đến ngã tư là hốt về được cả đống tiền, vỏ hến vỏ sò còn phải nhọc công đi cào đi bắt, và đôi chân đồng tiền của họ dẫm lên tất tật mọi thứ ở cái gầm trời này. Nghe họ khoe thì những người nghèo muốn đập đầu tự tử cho xong, sống thế mới là sống chứ, nghèo như mình sống làm gì cho nhục.

Thực ra những người thích khoe của một cách thô thiển như vậy phần lớn không phải là người có cái giàu căn bản cái giàu chính đáng cái giàu được nhen nhóm từ những tháng ngày xa xưa, mà là những người giàu xổi, bằng cách nào đó, có được một nguồn lợi bất chừng, hay do thuận lợi trong công việc mà gặt hái một kết quả không mấy khó khăn, có khi còn đi vay nợ hàng đống, nhưng cứ phải vội vàng ra sức thể hiện cho không ai dám coi thường mình. Vốn đã ngấm ngầm cay cú với những người có lợi thế hơn mình về mặt nào đó, thì nhân cơ hội trưng ra cho bằng hết để chứng tỏ mình cũng nào có kém thua ai. Còn những người giàu thật sự, họ không dại gì mà khoe một cách nông nổi như vậy, vì họ thừa biết cách khoe ấy là tự rước họa vào mình. Họ có cách khoe trầm tĩnh mà trọng lượng. Họ cũng khoe chứ, khoe nhiều nữa, nhưng vẫn kiểm soát được mức độ để có cái nhìn trọng vọng thật sự chứ không tự biến mình thói nhố nhăng lố bịch kệch cỡm. Thế nên mới có những cụm từ mang hàm ý mỉa mai “bọn trọc phú ấy mà” “trưởng giả học làm sang” “chả biết được mấy hơi”. Hầu hết những người thích khoe của đều không có cảm nhận rằng mình đang làm trò cười với những người có cái nhìn sâu sắc minh định, mà họ chỉ biết có một thứ ảo giác đang bao phủ họ, trong tâm tưởng họ toàn tự nghĩ những lời trầm trồ tán thưởng từ đâu đó, và nếu có những ánh nhìn đầy ghen tị lại là chất xúc tác ghê gớm hơn cho ảo giác này. Thực chất, người khoe ghen tị với người khoe, thấy người kia khoe nhiều hơn thì ức không chịu được, phải tìm mọi cách để trội hơn dù chỉ một nhinh nhỉnh thôi mới hả dạ. Chính vì cái thói lố lăng này mà lắm lúc rát tai không chịu được. Thế nhưng ai khó chịu mặc ai, họ khó chịu chẳng qua họ không bằng mình đây thôi, nên cứ việc khoe cho thỏa sức, mặc kệ những kẻ xấu bụng đang giăng sẵn những cái bẫy tán tụng ngọt ngào, mặc kệ những bọn trộm cướp đang rập rình ngay bên cạnh. Không hiếm những người vừa nghe om sòm hoành tráng lắm đã bể nợ hàng tỉ, tom góp trốn mất tiêu khỏi xứ cả đời không dám quay về. Để rồi khối khối người lại ngẩn tò te “Thế mà tưởng…”. Cái thói khoe của này tiềm ẩn ngay khi còn bé, phần nào đó có tính di truyền. Thấy cha mẹ huênh hoang thì con cái cũng vung vít. Thấy cha mẹ cay cú thì con cái cũng hậm hực. Thấy người nọ người kia có cái gì đó ngon lành thì mình cũng phải có cái hơn thế. Thấy người nọ người kia nhóng nhánh khoe khoang thì mình cũng nhấp nhổm tìm cơ hội phô trương cho biết mặt. Trong quan niệm của nhiều người, giàu có là bản thân có giá trị, có phong độ, có bề thế. Không cần biết giàu bằng cách nào, giàu thực hay giàu ảo, cứ giàu là cái đích cho thiên hạ nhức nhối cái đã, cho mình cảm giác trên chốc cuộc đời. Để được phép nói càn nói bậy, để được quyền coi thường xem khinh người người. Thì vốn cha ông đã đúc kết rồi “Vai đeo túi bạc kè kè. Nói khuếch nói khoác người nghe ầm ầm”. Thế nên không được là người giàu thì khổ tâm lắm. Giàu mà không khoe ra được thì cũng khổ sở lắm. Thế nên cứ phải khoe… khoe… khoe đến lợm giọng. Xét cho cùng, khi người ta không có khả năng gì đáng để tự hào, đáng để thu hút sự ngưỡng mộ, thì người ta phải nương nhờ vào những sắc màu giả tạm, kể ra thì đáng tội nghiệp thật.

TỔNG KẾT

Những thói tật liệt kê trên có thể chưa thật sự đã hết, nhưng có lẽ nó cũng đã có thể điểm được phần lớn những bất cập trong đời sống xã hội. Và dù không muốn cũng phải nói: nó trở thành một thứ dân tính của người Việt. Có thể đâu đó trên thế giới người ta cũng vướng mắc phải những điều tương tự, nhưng hãy cứ biết mình đi đã, biết để chấn chỉnh, biết để giảm thiểu, biết để tự cải tạo mình. Bởi một người tốt hơn, hai người tốt hơn, trăm người tốt hơn, nhiều nhiều người tốt hơn thì cả xã hội sẽ tốt hơn. Tôi và bạn, ai cũng có thể mắc phải một vài, trong phạm vi cá nhân cho là chuyện nhỏ, không có gì quan trọng, không có gì đáng kể, nhưng hãy ngẫm xem, vì sao nước Việt Nam ta đã trải qua hơn bốn nghìn năm, mà vẫn lẹt đẹt ở mức nghèo, kém phát triển, trong khi ở một số nước khác, có khi chỉ mới vài trăm năm, mà người ta đã có những bước tiến nổi trội. Không cần nhìn xa lắm đâu, chỉ nhìn qua cái phên hàng xóm cũng thấy có quá nhiều thứ cho chúng ta học. Hãy công tâm mà nhìn nhận xem, có phải một số tên tuổi đặc biệt xuất sắc, mang lại chút vẻ vang cho dân tộc, thì hầu hết đã trải qua một thời gian dài học tập làm việc ở nước ngoài. Còn trong nước, cũng nổi lên được một con số không đến nỗi, nhưng lại hầu hết chỉ dừng lại ở mức độ xôn xao công luận một thời, trên thực tế họ không đủ không gian điều kiện cơ hội để tiếp tực phát huy tính ưu việt của bản thân mà giúp ích cho đất nước, dẫn đến chuyện chảy máu chất xám. Trong khi đây đó nhan nhản kiểu dốt thì ngồi cao, không hiểu biết chuyên môn lại om xòm chỉ trỏ. Chỉ số IQ của người Việt không thấp, nhưng phần lớn được sử dụng vào “những thủ đoạn tinh vi”, trở thành một thứ cản phá. Tính vụn vặt tủn mủn cá nhân thì chỉ xoay quanh cái vòng tròn hạn hẹp, không thể làm được việc gì lớn cả. Đất nước ta, ngoài một số cảnh quan thiên nhiên ưu đãi, (và chính sự ưu đãi này đang ngày càng bị tàn phá cũng bởi cái sự tư lợi cá nhân) thì có gì để ngẩng mặt với thế giới về độ tầm vóc. Các công trình trên giấy thì dữ dội hoành tráng lắm, khi đưa ra thực tế không bao lâu đã rệu rã vì bị rút ruột. Nhìn vào cách sinh hoạt của một đám đông thì thấy rõ tính vô tổ chức, mất trật tự, buông tuồng nhốn nháo và vô cảm. Tất cả những điều đó gây nên sự cản trở phát triển, tự mình kềm hãm mình, tự mình biếm nhẽ mình. Sẽ có nhiều người đang phản bác, rằng dân ta cũng có những tính tốt, vâng thưa rằng đúng, có tốt chứ, tốt cũng nhiều, nhưng đã đủ chưa cho một dân tộc muốn vươn đến những thang bậc sánh ngang thế giới, thậm chí những ưu điểm ấy không đủ để làm đối trọng cho những khuyết điểm. Khi nghe những điều trái tai, hầu hết đều có tâm lý là nói ai kia chứ không phải mình, mình không thế, mình hay hơn thế tốt hơn thế nhiều. Nếu những điều bất cập thuộc dân tính này mà không được cải thiện điều chỉnh, và nếu chỉ biết “ăn mày” những đức tính (mà đức tính thì ít hơn thói tính) mà không biết điều chỉnh thói tính, thì e rằng có nhiều nghìn năm nữa dân Việt ta cũng không tiến hơn được là bao nhiêu. Hiện tại, không biết bao nhiêu là hệ lụy, những hệ lụy kéo dài, những hệ lụy dây chuyền bắt nguồn từ kiểu dân tính này. Hãy thử ngẫm xem:

- Tại sao chúng ta mất quá nhiều thời gian công sức trí lực tài lực kinh lực để đối phó với những cách làm ăn giả trá bất chính, những sự lừa đảo dối gạt nhiều khi là trên phạm vi rộng? Tại tất cả những thói tật kể trên.

- Tại sao dân ta mãi không thoát khỏi cái tập tính nhỏ lẻ manh mún và sự thiếu đồng bộ trong nhiều bộ máy vận hành? Tại tất cả những thói tính kể trên.

- Tại sao đất nước ta cũng có rất nhiều nguồn tài nguyên có giá trị nhưng mãi vẫn không nắm bắt được những cơ hội phát triển đúng tầm mang lại những hiệu quả cao cho nhiều mặt, mà phần lớn phải nhờ vào bàn tay của người nước ngoài? Tại tất cả những thói tính kể trên.

- Tại sao người Việt Nam đi ra nước ngoài sinh sống hay học tập thường không được xem trọng mà đa số còn thiếu đoàn kết, gây gổ tranh cạnh nhau nhiều khi rất là khốc liệt? (Không thể vin vào một số ít nổi trội thành đạt mà bảo rằng tất cả người Việt đều được như thế). Tại tất cả những thói tính kể trên.

- Tại sao chúng ta cũng cho con em hoặc nhân viên đi nước ngoài đào tạo rất nhiều, nhưng trở về phục vụ lại rất ít, mà không ít người đã bằng mọi cách để ở lại nước ngoài kể cả bất hợp pháp? Tại tất cả những thói tính kể trên.

- Tại sao nước ta phát triển nhiều về mặt du lịch nhưng lại thiếu sức hấp dẫn du khách, nhất là không nhiều du khách nói lời tái ngộ? Tại tất cả những thói tính trên.

- Tại sao Việt Nam ta có nhiều sản vật có giá trị nhưng lại chưa có được tiếng nói trọng lượng trên thị trường quốc tế? Tại tất cả những thói tính kể trên.

- Tại sao có những vấn đề mà suốt bao năm rồi vẫn cứ tồn tại tính phức tạp của nó, ví dụ như giao thông? Tại tất cả những thói tính kể trên.

Tóm lại, còn rất nhiều tại sao mà không khó để nhìn thấy, hãy nhìn nhận cho đúng vấn đề để may ra biết đó là chưa tốt mà tự cải đổi. Đời này chưa cải đổi được bao nhiêu, thì đời sau đời sau nữa tiếp tục. Chỉ có thực sự nhìn ra, thực sự nhận thức rõ thực sự thiện chí sửa thì may ra nhiều đời sau mới có một bộ mặt dân tộc Việt rạng rỡ hơn. Chắc chắn sẽ có những phản ứng: Đành rằng có những điều như thế thật, nhưng có cần phải huỵch toẹt chữ nghĩa đến vậy không? Xin thưa là cần, rất cần. Bởi suốt bao lâu nay, cứ chạm vào những vấn đề khó nói, người ta hết tìm cách tránh né thì lại cố nói theo kiểu ve vuốt khôn khéo cho dễ lọt tai. Nói vòng vo rào đón, nói xa xôi ẩn dụ, trên thực tế không phải ai cũng có thể hiểu ngay được ý định của các cách nói ấy, người ta càng không có đủ thời gian và sự trầm tĩnh để suy ngẫm cho đến đầu đến đũa. Và: mệt quá, bỏ quách sang một bên cho yên chuyện, để đầu óc lo việc khác. Vì vậy, nói thẳng nói sát nói rõ không phải là cách nói dễ chịu, nhưng lại bày ngay ra trọng tâm vấn đề là gì, cũng là cách rút ngắn thời gian cũng như con đường đến tâm thức mỗi người. Không dám mong “thuốc đắng rã tật”, vì những thói tật này ngoan cố lắm, không dễ gì rã đâu, mà chỉ dám mơ, mỗi người nghe một chút nghĩ một chút làm một chút… may ra sẽ có một ngày…

Tất cả những điều đã đề cập đến, không phải áp dụng cho tất cả mọi người dân Việt, nhưng bất kỳ ai, nếu thấy mình có vướng một chút gì trong số ấy, hãy dành một chút thời gian tự kiểm điểm, đừng vội nổi tự ái mà rằng: Tui vậy đó, nhiều người cũng vậy đó, chẳng sao, vẫn sống ngon lành, việc gì phải sửa, ai đó có ngon cứ giỏi sửa đi. Bài học ở nước Nhật mới đây đã cho ta thấy rất nhiều ưu điểm trong dân tính của họ, phải chăng nhờ những ưu điểm ấy mà nước Nhật vẫn đứng vững và luôn phát triển sau mỗi lần bị thương tổn lớn. Tuy rằng sự kém phát triển ở Việt Nam còn vì nhiều nguyên do, nhưng những nguyên do ấy sẽ được khắc phục nhanh chóng có hiệu quả hoặc ít ra không phải là nguyên do kéo dài nếu như không vướng thêm những thói tính đáng ngại kể trên.

Một lời cuối cho bài viết này, là tất cả thiện chí của một người con dân nước Việt, cho dù rất nhỏ bé rất hữu hạn trọng phạm vi một cá nhân, nhưng hết sức mong mỏi cho một đất nước cong cong mềm mại bên bờ biển, ngày càng có được những bước tiến đáng tự hào trên nhiều lĩnh vực, và con người Việt Nam không chỉ sáng lên trong con mắt thế giới mà còn đầy nồng ấm khi nhìn vào nhau. Có thể mong ước này hiện tại là quá xa xôi, nhưng biết đâu đấy, hy vọng hy vọng nhiều lắm vào một tương lai, nếu mỗi chúng ta đều biết cầm lên một ngọn đuốc soi cho chính mình. Mong. Mong lắm thay.

ĐÀM LAN

NGẨN NGƠ

DẢI YẾM EM ĐEO

Yếm là một loại nội y của phụ nữ ta thời xưa. Khi đến tuổi dậy thì, các cô gái bắt đầu biết thẹn thùng và muốn che kín bộ ngực tròn căng của mình dưới dải yếm. Đó chỉ là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có kết dây để quàng qua cổ và buộc ngang lưng. Rồi họ còn mặc áo tứ thân bên ngoài cho thêm phần kín đáo. Nhưng cái dải yếm đào cứ như một loại bùa mê làm ngẩn ngơ, say đắm biết bao người. Nét đẹp vừa kín vừa hở, vừa đằm thắm vừa gợi cảm ấy đã trở thành hình tượng độc đáo trong thơ ca Việt Nam.

Đàn ông đóng khố đuôi lươn

Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh.

Yếm được chăm chút để vừa che nhũ hoa vừa là vật trang điểm cho các cô các bà thêm duyên dáng:

Nhác trông cái yếm cũng xinh

Khen ai khéo dệt ra hình hoa mai

Khen người khâu yếm cũng tài

Cổ thêu con nhạn có hai đường viền.

Hay là:

Cổ thì em ngã màu hiên

Thắt lưng mùi huyền, dải yếm cũng xinh

Khen ai khâu yếm cho mình

Đường lên đường xuống ra hình lưng ong

Yếm này em ngả màu hồng

Yếm này nhuộm mất mấy công hỡi nàng?

Khi xưa lụa hãy còn vàng

Khen ai khéo nhuộm cho nàng, nàng ơi!

Yếm còn là cái cớ để các chàng trai vin vào đó trêu ghẹo gái xuân thì:

Con cò lặn lội bờ ao

Phất phơ hai dải yếm đào gió bay.

Và:

Ba thương má lúm đồng tiền

Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua

Năm thương cổ yếm đeo bùa…

Màu sắc của yếm cũng gợi cho đấng mày râu những cảm xúc khác nhau:

Cô kia yếm trắng lóa lòa

Lại đây đập đất trồng cà với anh!

Bao giờ cà chín cà xanh

Anh cho một quả để dành mớm cơm!

Qua câu ca dao trên chúng ta nhận ra yếm trắng hoặc yếm nâu là một loại thông dụng mà các nàng mặc khi đi làm đồng hay công việc nhà. Còn khi dự hội hè thì mặc yếm màu sắc rực rỡ hơn.

Hỡi cô áo trắng yếm hồng

Đi trong đám hội có chồng hay chưa?

Hay là:

Hỡi cô yếm thắm răng đen

Muốn lên mạn ngược ngồi thuyền cùng anh!

Có anh chàng lại xem dải yếm có một sức mạnh kinh hồn:

Thuyền anh đã cạn lại đầy

Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền.

Có anh lại tinh nghịch rằng:

Ước gì dải yếm em to

Để em buộc lấy mũi đò kéo lên

Ước gì dải yếm em bền

Để em buộc lấy kéo lên trên bờ.

Và có những lời chòng ghẹo… vô duyên:

Hỡi cô mặc yếm hoa tằm

Chồng cô đi lính cô nằm với ai?

Khi nàng ôm cầm sang thuyền khác, chàng liền… đòi yếm:

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím

Cô có chồng rồi cô trả yếm cho tôi.

Cô gái cũng không vừa:

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh

Yếm tôi tôi mặc, yếm gì anh anh đòi!

Thậm chí khi đi chùa, cái yếm cũng khiến cho bao người hồn xiêu phách lạc, họ ví von lãng mạn vô cùng:

Chùa này chẳng có bụt ru

Mà đem chuông khánh treo chùa hồ sen?

Thấy cô yếm đỏ răng đen

Nam mô di phật lại quên mất chùa!

Các sư cũng không yên với cái yếm:

Ba cô đội gạo lên chùa

Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư

Sư về sư ốm tương tư…

Cái yếm bé thế nhưng đối với các chàng trai thì ấm áp còn hơn chăn bông:

Đêm nằm đắp chục chiếc chăn

Làm sao sánh được ấm bằng yếm em.

Đúng là chỉ có tình yêu mới khiến cho chàng thả sức tưởng tượng:

Trời mưa trời gió kìn kìn

Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông.

Và tuyệt diệu nhất là chàng mơ tưởng biến thành dải yếm để mãi mãi được quấn lấy, ôm ấp người yêu:

Kiếp sau đừng hóa ra người

Hóa ra dải yếm buộc người tình nhân.

Ngày nay, cái yếm tuy không còn phổ biến nhưng mỗi khi thấp thoáng “cái dải yếm đào” trong các hội thi hay biểu diễn văn nghệ, lòng người lại rộn lên cảm xúc nhớ về một thời rất xa và rất duyên!

Nguyễn Thị Mây

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 11.3.2017… ......... Vũ Thư Hữu ... 01

Vài dòng về một cơ may

mới được hoàng thiên cho hưởng ba ngày trước ..... Vũ Anh Tuấn ... 05

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) .... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch ... 08

Tượng và Phật ..................... Tâm Nguyện ... 21

Về việc dịch văn học Italia

nhân cuốn “Ca dao Việt Nam” được dịch ra tiếng Italia .... Thúy Toàn .... 30

Jean-Jacques Rousseau và âm nhạc ........ Đào Minh Diệu Xuân st. .... 33

Nhân ngày giỗ Tổ, về thăm Đền Hùng ........... Phạm Vũ ... 36

Cuốn sách cũ & một đời thơ ............ Đỗ Thiên Thư st. .... 41

Chùa Keo báu vật kiến trúc Việt Nam .......... Bùi Đẹp st. .... 45

Mừng sinh nhật Linh mục Đắc Lộ 15/3 ......... Phạm Vũ ... 48

Văn chương Mỹ ............ Hoàng Kim Thư st. ... 57

Cưới chồng xa quê ................ Dương Lêh ... 62

Lời tự tình của Mẹ (thơ) .............. Nguyên Lê .... 71

Lời tự tình của dế (thơ) .............. Nguyên Lê .... 72

Ngày mở đầu (thơ) ................. Đàm Lan ... 73

Tưởng niệm (thơ) ................... Vũ Thùy Hương .... 74

Các loài hoa xinh đẹp (thơ) ............... Bá Mạnh .... 75

Mừng sinh nhật tuổi Hợi (thơ) ............. Ngô Bá Mạnh .... 77

Chiều hè (thơ) ................... Thanh Châu .... 78

Mùa thu (thơ) .................... Bs.Doanlinh .... 78

Hoa lãng mạn (thơ) .............. Ngàn Phương .... 79

Duyên lành (thơ) .................... Ngàn Phương .... 80

Tản mạn đơn côi (thơ) ................ Ngàn Phương .... 80

Kỷ niệm 40 năm ngày cưới (thơ) .......... Lang Nguyên .... 81

Duyên & nợ (thơ) ................. Lang Nguyên .... 81

Tiễn đưa (thơ) .................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 82

Người đàn bà thứ hai (thơ) ................. Kim Sơn st .... 83

Còn gặp nhau (thơ) ............ Tôn Nữ Hỷ Khương .... 84

Thư gửi bạn (thơ) ............... Lam Trần .... 85

Thảm họa (thơ) ............ Lê Minh Chử .... 86

Ngộ 1 (thơ) ................... Lê Minh Chử .... 87

Việc nhà (thơ) .............. Lê Minh Chử .... 87

Mảnh đời (thơ) .................... Quang Bỉnh .... 88

Xuân tình (thơ) ................. Quang Bỉnh .... 88

Yêu màu tím (thơ) ............... Hoài Ly .... 89

Tháng Giêng (thơ) ................. Hoài Ly .... 89

Tình dấu (thơ) ............. Lê Nguyên ... 90

Trách (nhạc) ............. Lê Nguyên ... 91

Chiều thu Tây Hồ (thơ) ................ Vũ Mão .... 92

Autumnal evening on the Tây Hồ (Western lake) (thơ) .... Vũ Anh Tuấn dịch .... 92

Suy tư (thơ) .............................. Vũ Mão .... 93

Meditating (thơ) .............. Vũ Anh Tuấn dịch .... 93

Những bữa tiệc ............. Lam Trần .... 95

Sách thuốc Nam (mạch diễn quốc âm) ....... Lang Nguyên st. ... 99

Sống lâu nhờ ngón tay ....................... Hoàng Kim Thư st. . 106

Bạn có biết tổ tiên chúng ta đời xưa

lưu lại bảo bối dưỡng sinh gì không? ........... Hoàng Chúc st. .. 108

Truyền thuyết về Đức Phật: Bài hát hay ..... Thanh Châu sưu tập . 111

Đọc sách giùm bạn:

Học hỏi các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II ...... Hà Mạnh Đoàn . 114

Chuyện ngày xửa ngày xưa ................ Phước Hải st. . 116

Người ta không chết vì khổ, vì đói, mà chết vì tức ............ MĐ. st. .. 119

Bill Gates: 11 điều con bạn không được học ở trường ........... HC. st. .. 121

Thói tính người Việt (tt & hết) ................ Đàm Lan .. 123

Ngẩn ngơ dải yếm em đeo ............. Nguyễn Thị Mây .. 140


|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế