Hiện có 26 người xem / 2518879 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/11/2017

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn quý thư mà ông mới có. Lần này cả hai cuốn sách đều bằng Pháp văn, một cuốn còn mới và một cuốn tương đối cổ. Cuốn thứ nhất, tương đối cổ là một tập trên 10 số “Tuần báo có minh họa” (La petite Illustration) được xuất bản trên 90 năm trước. Điều đặc biệt là loại tuần báo này (chỉ dày khoảng từ 22 tới 34 trang, với nhiều minh họa) lại chỉ đăng những truyện ngắn, truyện dài, ngắn thì đăng trong một số, dài thì đăng trong ba bốn số liên tiếp.

Tập báo trên 10 số này chứa đựng ba truyện của ba tác giả thời những năm 20 tên là Albéric Cahuet, Charles Géniaux và André Savignon.


Khi gặp cuốn cổ thư người viết đã đọc lướt qua và thấy ba truyện ngắn dài của ba tác giả trên mang tựa đề là Kinh Tình Yêu (Le Missel d’amour), Bí Mật Sông Nước (Le secret des eaux), và Nữ thần Aphrodite tái sinh (La résurrection d’Aphrodite). Về nhà việc đầu tiên là người viết tra tên ba tác giả trong cuốn tự điển Tác giả văn học Pháp to đùng, nhưng tuyệt đối không thấy tung tích gì của ba tác giả nói trên cho nên cũng không thấy hứng thú muốn đọc ngay mấy truyện trong tập báo. Tuy nhiên ông vẫn muốn mua vì thấy nó cũng đã được xuất bản gần 100 năm trước, đồng thời ông cũng thích những minh họa trong sách.

Cuốn thứ nhì là một cuốn truyện cổ tích nhan đề là “Truyện cổ tích của Grimm” (Contes de Grimm) được nhà xuất bản lừng danh Flammarion in năm 1962, và được một họa sĩ minh họa nổi tiếng là Janusz Grabianski vẽ rất nhiều minh họa màu cực đẹp. Hai anh em và cũng là hai đồng tác giả, là Jacob Grimm (1785-1863) và Wilhelm Grimm (1786-1859) là những tác giả người Đức của những truyện cổ tích rất nổi tiếng, và cuốn quý thư dày 350 trang khổ lớn này chứa đựng tổng cộng 59 truyện, nhưng người mình, ngay cả những người chịu khó đọc nhiều, cũng chỉ biết khoảng 5, 6 truyện như Cô gái Lọ Lem (Cendrillon), Nàng Bạch Tuyết (Blanche-Neige), Hằng Nga ngủ ở trong rừng (La Belle au Bois dormant), Cô bé quàng khăn đỏ (Le Petit Chaperon rouge), Con mèo đi hia (Le chat botté)… Mấy chục truyện còn lại của anh em nhà Grimm, người mình ít ai biết tới.

Cuốn sách cực đẹp và nhất là những minh họa bằng màu thì đẹp tuyệt vời, và cứ vài trang lại có một minh họa. Đồng thời vì sách bằng Pháp văn nên giá tiền rất vừa phải, khiến người viết mua ngay không do dự. Sau khi được giới thiệu xong, hai cuốn sách đã được một vài thành viên chuyền tay nhau thưởng lãm.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, thành viên Phước Hải lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Tiếp lời anh Phước Hải, anh Nhựt Thanh lên nói về Nguyễn Trãi và bài thơ Bán chiếu. Sau anh Nhựt Thanh, anh Phạm Vũ đăng đàn nói về tiểu thuyết lịch sử, và tác giả viết lịch sử tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật, khá nổi tiếng thời tiền chiến. Anh Phạm Vũ nói xong, thành viên Hoàng Thị Vinh lên ngâm một bài thơ về lễ Giáng Sinh. Sau thành viên Hoàng Thị Vinh, thành viên Thùy Hương lên ngâm hai bài thơ Bâng khuâng bụi phấn và Mộng tình. Tiếp lời thành viên Thùy Hương, anh Lang Nguyên lên ngâm bài thơ “Trâu buộc ghét trâu ăn”. Sau anh Lang Nguyên, thành viên Thanh Phong lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ vui của chính anh. Anh Thanh Phong ngâm xong, người bạn mới Hoàng Cúc lên hát hai bài “Nhớ ơn cô thầy” và “Người cao tuổi”. Sau cô Hoàng Cúc, cặp song ca Lê Nguyên và Phùng Chí Tâm lên hát tặng các thành viên ba bài ca liền với giọng ca rất ư là điêu luyện. Tiếp lời cặp song ca, anh Minh lên hát tặng các thành viên một bài ca bằng tiếng Anh. Sau anh Minh, anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên bài “Gửi người em gái”. Anh Tấn Thuận hát xong, Kim Sơn lên nói lời chúc mừng về Ngày Thầy Cô và kể vài chuyện vui về một nhà giáo. Sau Kim Sơn, Thùy Mai lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ, Thúy Mai ngâm thơ xong, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom lên hát tặng các thành viên một bài hát, và sau cùng Lệ Ngọc đăng đàn hát tặng các thành viên bài “Từ biệt mái trường xưa”.

Buổi họp kết thúc thật vui vẻ lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU

VÀI DÒNG VỀ MỘT SIÊU QUÝ THƯ

MÀ TÔI MỚI GẶP

Một trong những niềm vui lớn nhất của tôi, là tôi luôn được Hoàng Thiên ưu ái cho gặp toàn những quý thư tôi thật sự yêu thích, qua nhiều tình huống rất vui, rất lạ. Cách đây ba hôm, tôi nhận được một cú điện thoại của Huyền, một bà bạn trước là Gs. Pháp văn tại một số tư thục, cho biết là bà mới gặp bà Luyến, một người bạn chung của chúng tôi, trước làm phụ tá hành chánh cho Mỹ, và bà này đã khoe với bà Huyền là bà ta mới mua được một cuốn sách mà, theo bà ta, “nếu anh bạn Tuấn mà thấy, thì anh ta sẽ mê tít thò lò!”. Nghe thấy bà Luyến khoe như vậy, Huyền có ý giục tôi ghé xem cuốn đó là cuốn gì, và có gì thật đặc biệt không mà bà ta dám nói chắc như vậy. Tôi lập tức tới gặp bà Luyến và, vừa thấy mặt tôi, bà cười tủm tỉm và nói “Huyền nó bảo anh tới phải không?”. Tôi gật đầu và bảo bà cho xem cuốn sách bà nói là cuốn gì? Bà mời tôi vào ngồi ở salon, và đi lên lầu lấy cuốn sách mang xuống đưa cho tôi, miệng nói: “Là người hiểu rõ tính anh, em biết là anh sẽ thích cuốn này lắm, vì đây là đề tài chính yếu của anh mà…”. Bà ta đã nói không sai, vì vừa nhìn vào cuốn sách, là tôi mê tít ngay vì nó là cuốn Tự Điển các Quý Bà trứ danh (Dictionnaire des femmes célèbres), một cuốn tự điển xinh đẹp, nhỏ nhắn, dày 256 trang, nói về khoảng 1000 người đẹp trứ danh, trên nhiều lãnh vực khác nhau. Tôi bảo bà Luyến “đúng là tôi rất thích và sẽ cảm ơn em lắm nếu em có thể nhường lại cho tôi”. Bà trả lời “anh thích thì em tặng anh, vì anh đã cho em khá nhiều sách và Bản Tin”. Tôi từ chối, vì nguyên tắc cả đời của tôi là không muốn nhận gì của các quý bà, ngoài tình cảm và tình yêu. Bà thì muốn tôi nhận lời, lấy cớ là để đổi lại với những cuốn tôi đã cho bà ta trong quá khứ. Nhưng tôi vẫn cương quyết từ chối, vì không muốn tự mình phá bỏ những nguyên tắc của chính mình, nhất là không muốn “nói vậy mà không làm vậy!”. Cuối cùng bà chịu nhường cho tôi và bảo tôi trả bà 120 ngàn. Tôi trả tiền, cảm ơn bà và hý hửng ôm nàng quý thư về nhà.

Về tới nhà, tôi bỏ hết mọi việc, chỉ ăn qua loa hơn một bát cơm, và a lê chúi đầu vào sách. Cuốn sách thật là tuyệt vời vì nó cho người đọc những thông tin cần thiết về trên 1000 người đẹp nổi tiếng tự cổ chí kim. Ngoài những thông tin, còn có hình ảnh đi kèm, giúp cho người đọc được biết dung nhan một số siêu mỹ nhân, không những chỉ đẹp, mà còn giỏi, và nhiều người còn có sự nghiệp lẫy lừng trong nhiều lãnh vực khác nhau. Tôi kiên nhẫn lướt qua từng trang một và thấy là mình chỉ biết được khoảng 8% trong số trên 1000 mỹ nhân đó.

Ví dụ về mặt văn học, tôi biết được Louisa May Alcott, tác giả của danh tác Bốn cô con gái Bác sĩ March (Les Quatre Filles du Dr. March), nữ tiểu thuyết gia người Anh Jane Austen (1775-1817), nữ văn sĩ Pháp Sidonie Gabrielle COLETTE (1873-1954) tác giả các cuốn như Claudine đi học (Claudine à l’école), Claudine ở Ba Lê (Claudine à Paris), Claudine thành gia thất (Claudine en ménage), Claudine bỏ đi (Claudine s’en va), nữ tác giả 16 tuổi Anne Frank (1929-1940) với cuốn Hồi Ký nổi danh được dịch ra 32 thứ tiếng, được quay thành phim và được coi là một tác phẩm siêu nhân văn có nguồn cảm hứng từ chiến tranh, nữ thánh Jeanne d’Arc (1412-1431), nữ tiểu thuyết gia người Thụy Điển Selma Lagerlof (1858-1940) tác giả cuốn Chuyến du hành kỳ diệu của Nils Holgersson (Le voyage merveilleux de Nils Holgersson (1906-1907). Trong cuốn này Việt Nam mình cũng có hai người là Đoàn Thị Điểm và Hồ Xuân Hương. Trong các lãnh vực khác thì người viết cũng biết được một số người ví dụ như Joséphine de Beauharnais - bà xã của Nã Phá Luân (Napoléon), Cléopâtre VII… Vì chỉ mới lướt qua nên người viết thấy được là mình chỉ biết được khoảng trên dưới 100 nhân vật, bằng khoảng 8% mà thôi, và anh ta đã tự hứa trong những ngày rảnh rỗi cuối đời sẽ có lúc đọc cuốn sách đáng quý này để làm quen với nhiều phụ nữ nổi danh khác…

Một chuyện vui vui khác đã xảy đến 3 giờ đồng hồ sau khi người viết được bà Luyến nhường cho cuốn sách. Đó là, người viết vừa cất cuốn sách vào một cái kệ những sách mới mua, thì có tiếng chuông báo có khách. Người viết chạy xuống mở cửa thì thấy người khách lại chính là bà Luyến. Bà ta nói chỉ ghé qua mấy phút, rồi phải đi có việc, và bà ta đưa trả lại cho người viết tờ 100 ngàn, với lời giải thích là “thật ra cuốn sách giá chỉ có 20 ngàn, nhưng lúc nãy bà ta ghét cái tính chảnh không chịu nhận quà của quý bà, nên phạt thêm 100 ngàn thành 120 ngàn, nhưng rồi khi ngủ trưa dạy, bà ta cảm thấy mình hơi quá nghiêm khắc với một người dễ thương, nên bây giờ ghé qua để trả lại 100 ngàn tiền… phạt!

Biết rõ là bà ta nói thật tình, vì cuốn sách khổ nhỏ, mà lại bằng tiếng Phan sa, là thứ tiếng còn rất ít người dùng ngay lúc này, nên người viết cảm ơn bà ta, và nhận lại tiền cho bà ta vui…

Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI”

VŨ ANH TUẤN

CÓ TẬN THẾ KHÔNG?

THỰC PHẨM BẨN

(Tiếp theo số 138)

7. Yến huyết gây ung thư: Chương trình VTV1 lúc 17g30 ngày 4/7/2015: Trung Quốc đã kiểm tra yến huyết, chất nitric vượt cao 4.000 lần cho phép.

8. Phù phép thịt bẩn thành đặc sản.

Báo Thanh Niên ngày 12/7/2015 (btv Bùi Thị Xuân, Hoàng Việt): Thịt bẩn được phù phép thành đặc sản các loại cung cấp cho quán ăn, nhà hàng thậm chí lên kệ siêu thị.

- Thịt bẩn + hóa chất = thịt đặc sản. Đoàn kiểm tra phát hiện 2 chai nhựa bên trong chứa chất màu đỏ, lấy thịt heo cắt lát tẩm vào nước này thịt từ từ chuyển sang màu đỏ tươi. Kiểm nghiệm thịt đặc sản tại cơ sở này, 3 mẫu thịt bị nhiễm vi sinh.

- Hàng chứa chất cấm vào siêu thị: Ngày 9/6 đoàn kiểm tra phát hiện tại một cơ sở ở Vĩnh Lộc A, H. Bình Chánh, 100kg thịt đông lạnh hết đát, không giấy kiểm dịch, 170kg bột ngọt Trung Quốc. Đáng sợ hơn là 70kg chất độc benzoate cấm sử dụng trong chế biến thịt. Kiểm tra Cty thực phẩm H.B (Tân Phú) phát hiện nhiều phụ gia, hương liệu không nhãn mác, đặc biệt có cả hàn the bị cấm dùng trong thực phẩm. Hàng hóa của Cty này đang chuẩn bị giao cho các siêu thị, cả siêu thị lớn nữa.

- Thực phẩm bẩn tiềm ẩn nguy cơ gây bệnh nguy hiểm: Bác sĩ Nguyễn Xuân Mai, nguyên Viện phó Viện Vệ sinh y tế cộng đồng Tp.HCM cho rằng thịt bẩn dùng hóa chất cấm để biến đổi màu sắc, mùi vị thành các thịt khác (đặc sản thịt nhím, đà điểu, lạc đà…) chắc chắn tiềm ẩn nguy cơ gây bệnh nguy hiểm cho người dùng.

9. Phải quản lý chặt chẽ bếp ăn tập thể.

Báo Thanh Niên ngày 30/10/2015 (btv Hoàng Phương): Ngày 29/10, hội thảo về bảo đảm an toàn thực phẩm bếp ăn tập thể tại các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) do Cục An toàn thực phẩm (ATTP) Bộ Y tế tổ chức đã diễn ra tại Tiền Giang, với sự tham dự của đại diện các Sở Y tế, Chi cục ATTP và Ban Quản lý các KCN của 32 tỉnh, thành từ Đà Nẵng trở vào. Theo Cục ATTP, cả nước hiện có 256 KCN, KCX phân bổ tại 61 tỉnh, thành trên cả nước. Riêng vùng kinh tế trọng điểm phía nam đã có 65 KCN, KCX với hơn 1,17 triệu lao động trực tiếp và 1,5 triệu lao động gián tiếp. Từ năm 2010-2014, cả nước ghi nhận có 859 vụ ngộ độc thực phẩm với 22.522 người bị ngộ độc, 21.951 người phải nhập viện và 184 người bị tử vong. Trong đó có 48,2% vụ ngộ độc thực phẩm do bảo quản không tốt cá biển, 44,4% vụ do thức ăn được chế biến từ thịt bảo quản ở nhiệt độ thường trong thời gian dài...

10. Vận chuyển 6,1 tấn thực phẩm thối vào Tp.HCM tiêu thụ.

Báo Thanh Niên ngày 12/11/2015 (btv Ngọc Minh): Sáng 11/11/2015, cơ quan an ninh đã bắt giữ 6,1 tấn mận và thịt heo đang trong tình trạng phân hủy bốc mùi hôi thối từ Hà Nội vào Tp.HCM tiêu thụ.

11. Hơn 50 công nhân bị ngộ độc nghi ăn giò thối.

Báo Thanh Niên ngày 12/11/2015 (btv Văn Đông): Vụ việc xảy ra tại công ty Giày Da Amara (Nam Định) khiến 50 công nhân phải đi cấp cứu. Công nhân khẳng định do ăn suất cơm trưa với giò lợn luộc có mùi hôi hám, một số người thậm chí còn phát hiện trong giò có giòi bọ. Công ty có 2.100 công nhân. Cách đây khoảng 3 tháng đã xảy ra một vụ ngộ độc khiến 49 công nhân phải đi cấp cứu.

12. Biến vú heo thối thành vú dê: Báo Thanh Niên ngày 16/11/2015 (btv Công Nguyên, Trác Rin):

- Hành trình mờ ám: Pv Thanh Niên ghi nhận nhiều người đi xe máy tới ngôi nhà trong một hẻm sâu ở đường Bạch Đằng (Bến Thành) nhận hàng đi giao cho nhiều quán dê trong khu vực quận Phú Nhuận, Bến Thành.

- Phát hiện giấy chứng nhận kiểm dịch giả (Hoàng Long).

- Vú heo Trung Quốc “núp bóng” Nam Định. Đoàn kiểm tra phát hiện 1.202kg vú heo, chủ nhân khai mua từ Nam Định, trình giấy kiểm dịch Nam Định giả. Đoàn kiểm tra nghi hàng nhập từ Trung Quốc, vì khoảng 2 ngày chủ nhân nhập vú heo một lần, mỗi lần khoảng 1 tấn. Đàn heo Nam Định bao nhiêu? Mỗi ngày giết mổ bao nhiêu heo nái? Vậy đàn heo Nam Định có đáp ứng được không? Kiểm tra các thùng xốp chứa vú heo, chữ Trung Quốc viết chi chít… Chủ nhân khai ướp đá khi vận chuyển nhưng qua kiểm tra không thấy dấu hiệu ướp đá. Theo kinh nghiệm điều tra, lô hàng được ướp bằng hàn the với liều lượng cao… Đọc chữ Trung Quốc trên thùng xốp dịch ra: “Cơ sở Phong Nguyên khu A5 thị trường nông phẩm đường Vạn Tam, thành phố Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc”.

Vú heo thối tẩm ướp hóa chất, đóng vào thùng xốp, lén lút vận chuyển bằng xe khách từ các tỉnh phía bắc vào Tp.HCM để hô biến thành vú dê tiêu thụ tại các quán ăn ngay giữa trung tâm thành phố. Hiện trên khắp địa bàn Tp.HCM nhiều quán bán thịt dê, lẩu bò thu hút rất nhiều thực khách. Hầu hết những quán này đều có món “khoái khẩu” là vú dê nướng. Nhưng trên thực tế, số lượng vú dê rất hiếm và rất khó để mua. “Tôi mua bán thịt dê lâu năm mà muốn ăn vú dê còn khó, nói chi người tiêu dùng. Nhiều quán bán vú dê nướng hiện nay toàn dùng vú heo nái nhập từ ngoài Bắc vào rồi tẩm ướp biến thành vú dê lừa người dân”, ông N.T.V (một người kinh doanh thịt dê tại Tp.HCM) tiết lộ.

13. Hành vi đầu độc đồng bào!

Báo Thanh Niên ngày 17/11/2015 (Ban CTBĐ tổng hợp): Đó là ý kiến của nhiều bạn đọc sau khi đọc bài Biến vú heo thối thành vú dê trên Thanh Niên ngày 16/11:

- Ai cũng ớn lạnh: Sáng nay đọc bài báo cả gia đình ai cũng ớn lạnh, nghĩ đến sự độc hại cả nhà ăn vào người bao năm nay mà bức xúc quá. Tốn tiền để mua thực phẩm mà lại mua chất độc vào người. Cơ quan chức năng phải xử nghiêm những trường hợp này để bảo vệ người dân (Trần Thị Hiền; hien_tran125@gmail.com).

- Tội diệt chủng : Từ Hà Nam, Trung Quốc qua đến VN mất ít nhất 15 ngày, rồi chở vô Tp.HCM mất thêm 5 ngày nữa. Chắc chắn rằng thứ hóa chất giữ cho vú heo thối không phân hủy là rất độc hại. Hành vi này vô cùng ác độc và tàn nhẫn (saigonpen @gmail.com).

- Nguyên nhân khiến ung thư tăng : Cứ cái đà này thì chắc chắn không lâu nữa, người dân VN chúng ta sẽ bị ung thư hết. Đừng vì tiền, vì lợi nhuận mà tiếp tay với kẻ xấu để giết hại dân mình (Minh Triều; trieu@gmail.com).

- Không biết hay làm ngơ? : Theo phản ánh, cơ sở bán vú heo tồn tại từ rất lâu và bốc mùi hôi thối, ảnh hưởng đến người dân xung quanh, lẽ nào hàng xóm ông Quảng không phản ánh sự việc với chính quyền địa phương, hay dân có phản ánh mà chính quyền làm ngơ? (ninhtranck@ yahoo.com).

- Làm rõ trách nhiệm của chính quyền : Hệ thống chính quyền từ tổ dân phố, khu phố, phường, quận lẽ nào không biết có sự mờ ám trong việc bán vú heo? Nhưng vì lý do nào đó họ đã không xử lý để rồi chất độc từ món ăn này thấm dần vào mỗi người dân thành phố. Yêu cầu quận Bình Thạnh làm rõ trách nhiệm phường nơi có cơ sở này đầu độc đồng bào (Nguyễn Hồng Hạnh; honghanhvn@yahoo.com ).

- Luật cần quy định mức xử phạt thật nặng đối với hành vi vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm như thế này, bởi đây chẳng khác nào hành vi đầu độc, giết người hàng loạt, kéo dài (Võ Ngô Minh Thư, Q.8, Tp.HCM). Bao năm qua có biết bao người bị lừa khi ăn vú dê thành vú heo. Nếu chỉ thế thôi cũng không sao, ở đây lại là vú heo thối, độc hại thì càng tàn ác hơn. Chỉ vì đồng tiền mà nhiều người đang tâm giết hại biết bao đồng bào mình (Nguyễn Thị Hương, H. Phú Riềng, Bình Phước).

14. Ngâm hóa chất biến thịt heo thành thịt nai, nhím… Báo Thanh Niên ngày 17/11/2015 (btv Mã Phong - Trắc Rin): Không chỉ biến vú heo thối thành vú dê, quá trình điều tra nhóm PV Thanh Niên còn “bóc trần” một đường dây biến thịt heo thành thịt nai, nhím, đà điểu... rồi tung ra thị trường khắp cả nước.

Thịt nai, nhím… dỏm trở ngược lên Tây nguyên: Cứ tầm 8 giờ mỗi ngày, xe chở hai thùng thiếc loại lớn đến giao thịt heo tại ngôi nhà này. Lập tức, 3 nhân viên cùng bà chủ sơ chế thịt heo rồi ngâm tẩm hóa chất và đưa vào tủ cấp đông. Thịt heo sau khi lấy từ tủ cấp đông ra được để vào từng túi in sẵn những dòng chữ: Sản phẩm từ nai (trang trại chăn nuôi Sóc Trăng); Sản phẩm từ đà điểu (trang trại chăn nuôi Củ Chi); thịt nhím… đi giao cho hai xe khách Đắk Lắk và Bình Định đang đậu tại khu vực Bến xe Miền Đông. Sau đó quay trở lại nhà 33 tiếp tục lấy hàng đem giao cho ngôi nhà ở hẻm 216 Nguyễn Văn Công, P.3, Q. Gò Vấp.

“Đây là thịt nhạy cảm!” : Sáng 3/11, nhận tin báo của Pv Thanh Niên, UBND P. Hiệp Bình Chánh thành lập đoàn kiểm tra, tiến hành kiểm tra đột xuất cơ sở số 33 đường số 21. Khi đoàn kiểm tra đến, bà chủ và các nhân viên đang sơ chế thịt dưới nền đất dơ bẩn. Làm việc ban đầu với đoàn kiểm tra, ông chủ không xuất trình được giấy phép kinh doanh và những giấy tờ liên quan để chứng minh nguồn gốc số thịt nhím, đà điểu, nai đang có trong nhà. “Đây là thịt nhạy cảm! mong mấy anh giơ cao đánh khẽ cho em với. Còn chuyện gì nữa, anh em mình gặp sau”, ông chủ nói với đoàn kiểm tra. Qua kiểm tra, trong kho, tủ lạnh tại nhà 33 và nhà 29 có tổng cộng 939kg thịt được đóng gói dán nhãn “bắp đùi đà điểu”, 188kg thịt được dán nhãn “thịt nhím cắt lát”, 626kg với nhãn hiệu “thịt nai” và 132kg thịt heo nguyên liệu. Ông chủ thừa nhận, thực chất những thịt này là thịt heo, được mua ở chợ Bình Điền với giá 60.000đồng/kg, đem về sơ chế, cấp đông rồi đóng bao bì, dán nhãn hiệu thành các loại “thịt rừng” để bán ra thị trường Tp.HCM và các tỉnh, với giá 150.000 - 250.000đồng/kg.

15. Tuyên chiến thực phẩm bẩn.

Báo Thanh Niên ngày 25/11/2015 (btv Chí Nhân): Gần 27.000 vụ vi phạm - Theo số liệu của Sở NN-PTNN, từ đầu năm đến nay đã xử phạt 2.697 trường hợp vi phạm trong lĩnh vực ATVSTP với tổng số tiền phạt trên 6,1 tỉ đồng. “Thông qua các cơ quan báo chí, chúng tôi muốn nói rằng Tp.HCM tiếp tục tuyên chiến và tuyên chiến đến cùng đối với những trường hợp mua bán sử dụng chất cấm, tiếp tục làm mạnh hơn nữa; phối hợp với cảnh sát điều tra, quản lý thị trường và các sở ngành có liên quan để tăng cường kiểm tra xử lý” (Ông Nguyễn Phước Trung, Giám đốc Sở NN-PTNT Tp.HCM), “Có 3 đầu 6 tay thì chúng tôi cũng khó kiểm soát được hết”.

16. Nữ doanh nhân tuyên chiến với bún bẩn.

Báo Thanh Niên ngày 01/12/2015 (btv Nguyên Nga): Đã 3 lần trắng tay, một mình dám tuyên chiến với hàng loạt cơ sở làm bún bẩn, mấy mươi lần gõ cửa các cơ quan chức năng để tìm công bằng cho nghề của mình... Đó là vài nét phác thảo chân dung của bà chủ thương hiệu bún Thủ Đức Nguyễn Bính. “Nhiều cơ sở nhắn tin đe dọa tôi, nhiều người thắc mắc tại sao tôi lại ‘vạch áo cho người xem lưng’ nghề của mình vậy. Nhưng với tôi, đó là tội ác, không phải là bí quyết nghề. Tôi thà ‘dẹp tiệm’ chứ không chấp nhận làm ăn gian dối, nhất là trong lĩnh vực liên quan đến mạng sống con người”.

(còn tiếp)

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết

(Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)


PHẬT LÀ GÌ?

· ĐỨC THÍCH CA ĐÃ LÀM GÌ ĐỂ THÀNH PHẬT?

· THÀNH PHẬT CÓ PHẢI LÀ THÀNH THẦN LINH HAY KHÔNG?

Từ khi Y Bát thất truyền thì chúng sinh không còn nơi để noi dấu nữa. Đạo Phật mạnh ai nấy giảng. Mọi người không còn phân biệt thế nào là Chánh Pháp, thế nào là Tà Pháp. Phật Tử tôn thờ Phật để cầu xin như một vị Thần Linh quyền phép vô biên. Sự tôn sùng đó thịnh hành đến nỗi khi các nhà Khảo Cổ đến Ấn Độ để nghiên cứu về nơi Đức Thích Ca đã sinh ra và truyền đạo, đã thốt lên câu cảm thán:”Trớ trêu thay, sau cái chết của Đức Phật, người đã giảng về sự vô ích của những nghi lễ thờ cúng và sự sùng bái cá nhân lại trở thành đối tượng được sùng bái nhiều nhất trong lịch sử!”. Gần 3.000 năm với biết bao nhiêu lớp người truyền Đạo, rồi hoặc do du nhập rồi ảnh hưởng phong tục, tập quán của địa phương, hoặc “Y Kinh giải nghĩa” làm cho Đạo Phật ngày càng xa rời tôn chỉ của Đạo Giải Thoát mà không hay biết, để rồi biến Đạo Phật từ Đạo Giải Thoát trở thành màu mè hình tướng như hiện nay. Phật Tử hết Cầu An, cầu làm ăn đắc tài, đắc lộc, gia đình hanh thông, lên chức, lên lương, hết bệnh, khỏi chết! Lúc gia đình có người chết lại Cầu Siêu! Chùa nào chùa nấy nghi ngút khói hương. Các Tu Sĩ trở thành trung gian để chuyển lời cầu xin của Phật Tử đến Chư Phật. Có phải mục đích của Đức Thích Ca mở ra Đạo Phật là để Cứu độ cho bá tánh? Có phải Ngài đào tạo Đệ Tử để hướng dẫn cho bá tánh tôn thờ Ngài?

Để hiểu những điều này có lẽ chúng ta buộc phải quay lại từ trăn trở của Thái Tử Sĩ Đạt Ta, để xem mục đích Xuất Gia của Ngài. Điều gì đã làm cho Ngài phải rời bỏ hoàng cung, bỏ luôn cả vợ đẹp con còn thơ để đi tìm? Ngài đã thấy gì? Tu hành như thế nào mà gọi là Đắc Đạo? Đã làm gì để gọi là Thành Phật? Phật có cứu độ được cho “Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới” hay không? Sự thật ra sao?

Bắt đầu câu chuyện về Đức Phật thì ai cũng biết là trong lần đầu tiên đi dạo ở ngoại thành, Sĩ Đạt Ta, là một Thái Tử sắp nối ngôi của cha là một vị Vua của một nước nhỏ ở Ấn Độ. Lúc đó Thái Tử đã có vợ và con trai - trông thấy cảnh người GIÀ, BỆNH, CHẾT, làm cho ngài động tâm nên sau nhiều đêm suy nghĩ, Ngài đã quyết tâm rời bỏ ngai vàng, vợ con, lẻn trốn ra khỏi thành, gia nhập vô đoàn thể Tu Sĩ để mong tìm lời giải đáp: là có cách nào để Thoát khỏi cảnh SINH, LÃO, BỆNH, TỬ đè nặng trên thân của con người hay không? Sáu năm tu với Sáu vị Thầy nổi tiếng, học đủ các phép thuật, thần thông, Ngài đã được hướng dẫn đủ các kiểu gọi là tu hành, kể cả khổ hạnh, lõa thể... nhưng kết quả đạt được không cho câu trả lời điều mình đã trăn trở, nên lần lượt Ngài từ bỏ họ. Cuối cùng, Ngài quyết định trải tòa cỏ, ngồi dưới cội cây Bồ Đề để Tư Duy, và phát nguyện sẽ không đứng dậy nếu không tìm ra câu trả lời.

Rạng sáng đêm thứ 49 thì Ngài tìm ra được câu trả lời gọi là Đắc Đạo. Việc Đắc Đạo được diễn tả bằng lời hân hoan tuyên bố của Ngài ngay lúc xả Thiền, đứng dậy: “Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao nhiêu kiếp. Tìm mãi mà không gặp Kẻ Làm Nhà. Hỡi Kẻ Làm Nhà, ta đã gặp được người rồi. Ngươi không được Làm Nhà nữa. Bao nhiêu cột kèo của ngươi đã gãy vụn cả rồi, rui mè của ngươi đã tan nát cả rồi. Trí ta đã đạt đến Vô Thượng Niết Bàn. Ta đã hoàn toàn Giải Thoát”.

Qua đó, chúng ta có thể gom lại:

l. Lý do Xuất Gia của Đức Thích Ca, là đi tìm NGUYÊN NHÂN SINH TỬ, KHỔ ĐAU CỦA KIẾP NGƯỜI.

2. Việc gọi là “Đắc Đạo” của Ngài là tìm được Thủ Phạm đã gây ra cảnh SINH LÃO BỆNH TỬ hủy hoại cái Thân con người cũng như cách thức để hóa giải - tức là tìm ra được câu trả lời cho thắc mắc mà Ngài đã bỏ hết tất cả để dồn mọi tâm lực tìm cho bằng được là CHIẾN THẮNG SINH TỬ, KHỔ ĐAU CỦA KIẾP NGƯỜI.

3. Sau đó, Ngài để hết cuộc đời còn lại để truyền bá con đường mình đã khám phá ra. CON ĐƯỜNG ĐÓ GỌI LÀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT hay còn gọi là ĐẠO PHẬT. ĐẠO có nghĩa là CON ĐƯỜNG, PHẬT có nghĩa là GIẢI THOÁT.

Sau khi Đắc Pháp, thấy rằng con người mãi quanh quẩn trong vòng Sinh Tử, Khổ đau, Đức Thích Ca rao giảng những gì Ngài đã Chứng để chỉ Con Đường Giải Khổ cho con người. Đầu tiên là 5 người trước kia cùng tu Khổ Hạnh với Ngài, nhưng khi thấy Ngài từ bỏ Khổ Hạnh, vì cho rằng “Tinh thần không thể minh mẫn trong một thể xác yếu đuối” thì họ cho rằng Ngài đã thối chí, không muốn tu hành nữa, nên rời xa Ngài. Đó là thời Pháp đầu tiên, sau này gọi là Chuyển Pháp Luân. Ngài đã thu phục được họ làm năm người Đệ Tử đầu tiên.

Để Diệt Khổ thì phải biết gốc của nó. Đó là lý do Đức Phật giảng TỨ DIỆU ĐẾ cho họ, và cũng là công thức chung cho những ai tu hành về sau, vì thật ra không phải ai phát tâm đi tu cũng vì thật sự thấy đời là Khổ. Và chính vì không có mục đích rõ ràng, nên cũng không biết phải làm gì? Làm như thế nào? Phải làm trong bao lâu? Trong khi Đức Phật có mục đích rõ ràng, nên Ngài thấy rõ ràng mọi diễn tiến của nỗi Khổ hoành hành trên cái Thân, nên tu hành là tìm cách tháo gỡ nó.

Đức Thích Ca cho rằng tất cả mọi Khổ đau Sinh, Lão, Bệnh, Tử đều ở nơi cái Thân con người. Vì thế, công việc tu hành không ngoài nơi đó. Do đó, người tu được dạy phải quán sát cho kỹ cái Thân.

Theo Ngài, Cái Thân của mỗi chúng ta là kết tụ của những gì chúng ta đã làm trong quá khứ, gọi chung là Nghiệp. Nghiệp này gồm cả Thiện và Ác, nên Cái Khổ là Quả của những thứ Ác Nghiệp đã gieo. Khi mang hiện tướng là nó xuất hiện để bắt phải Trả theo Luật Nhân Quả. Dù vậy, theo Phật, lỗi không phải do cái Thân, mà do cái linh hoạt ở trong Thân đã điều khiển nó. Ngài đặt cho nó cái tên là TÂM. Cái này cũng chính là Thủ Phạm mà Ngài đã tuyên bố lúc vừa Xả Thiền. Nó vô tướng, vô hình, vô ảnh, mà lại là thủ lĩnh, là chỉ huy. Cái Thân và Ngũ Căn (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Ý) chỉ hoạt động như con rối, là tay sai của nó. Nó sai đâu đánh đó, bảo gì làm nấy mà thôi. Vì thế, muốn hết Khổ thì không cần cầu xin ai, chỉ có một cách, là tìm cho ra cái Tâm đó, chuyển hóa nó để nó ngưng tạo Nghiệp mà thôi. Đó cũng là cách duy nhất để Chuyển Nghiệp. Ngoài ra không còn cách nào khác.

Động cơ tạo Nghiệp, theo Phật, là do Chấp cái Thân là Mình, từ đó tìm cách để cung phụng cho nó những thứ mà nó yêu thích. Mắt nhìn sinh ham muốn. Tai nghe sinh ghét, thương. Hành trình cuộc sống cứ quanh quẩn theo vòng Sinh-Lão-Bệnh-Tử, mà nếu không biết để Dừng lại, thì cứ mỗi kiếp lại tạo thêm Ác Nghiệp, để rồi tiếp tục vào đời với Nghiệp chồng chất, cứ cắm cúi trả, rồi tạo tiếp… Kiếp sống như vậy có gì là vui, nếu không nói là chồng chất Khổ?

Tuy nhiên, Đức Thích Ca cho rằng: Dù những cái Khổ, Tập, là những thói quen được lập đi lập lại, những vẫn có thể DIỆT được bằng Đạo Đế. Tức là bằng con đường hành trì theo cách thức Ngài đã chỉ lại, để tháo cái vòng đau khổ đã theo đuổi, hành hạ con người từ vô lượng kiếp. Ngài phân tích, thấy rằng cái Khổ được hình thành do 12 món chuyền níu với nhau, gọi là Thập Nhị Nhân Duyên.

Vòng này gồm: Vô Minh sinh Hành, Hành sinh Thức, Thức sinh Danh Sắc, Danh Sắc sinh Lục nhập. Lục nhập duyên Xúc. Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái. Ái duyên Thủ. Thủ duyên Hữu. Hữu duyên Sinh, Sinh duyên Lão, Bệnh, Tử, Ưu Bi, Khổ não. Tức là do VÔ MINH nên đã Làm mọi việc. Từ Làm sinh ra nhận biết. Từ đó danh sắc theo Sáu Cửa (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý) mà vào làm thành cảm Xúc. Khi có cảm xúc là đã Thọ nhận. Mà đã Thọ, đã ưa thích thì muốn giữ lấy, muốn có, nên lại tiếp tục theo vòng quay Sinh, Lão, Bệnh, Tử và ưu bi, khổ não. Muốn cắt dứt vòng này thì mấu chốt quan trọng là phải cắt đứt cái VÔ MINH.

VÔ MINH, theo Đạo Phật là do thiếu sáng suốt nên đã NHẬN LẦM. Cái không phải Ta mà cho rằng là Ta. Tức là theo Đạo Phật, cái THÂN này không phải là Mình. Nó chỉ là tổng hợp của các chất ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA, gọi là TỨ ĐẠI mà nó mượn tạm một thời gian cho Nhân Quả thể hiện. Khi kết thúc Nhân Quả, nợ trả xong thì sẽ hoàn về cho Tứ Đại những gì đã vay mượn. Nhưng do thời gian trả nợ cũ lại vay thêm nợ mới, chính vì thế mà Vòng Luân Hồi không ngừng quay. Cho đến khi nào hết Vô Minh, không còn nhận cái Thân là Mình để ngưng tạo Nghiệp vì phục vụ cho nó, thì lúc đó mới kết thúc Sinh Tử, Khổ Đau. Hết Vô Minh gọi là Giác Ngộ. Cho nên Giác Ngộ không có gì huyền bí, linh thiêng, cao siêu hết.

Để Giác Ngộ, người tu được dạy phải Quán Sát, Tư Duy để thấy rõ cách thức vận hành của cái Tâm Mê, để chuyển Mê thành Giác. Chuyển Vô Minh thành Trí Huệ, hay Chuyển cái Tâm Mê trở về với cái Chân Tâm thanh tịnh buổi đầu thì mới chấm dứt Sinh Tử, Khổ đau.

Để chấm dứt cái Nghiệp tất nhiên phải làm ngược lại những gì đã làm sai trước kia. Nếu trước kia ta chỉ vì lợi mà làm, bất chấp gây thiệt hại đến người khác, thì kể từ lúc biết Đạo phải thay đổi. Việc thay đổi phải được thực hiện bằng Tám Con Đường Chân Chánh gọi là BÁT CHÁNH ĐẠO, gồm: CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY, CHÁNH NGỮ, CHÁNH NGHIỆP, CHÁNH MẠNG, CHÁNH NIỆM, CHÁNH ĐỊNH, CHÁNH TINH TẤN mà ta có thể phân ra thành ba nhóm:

- Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Niệm, Chánh Định thuộc về Ý.

- Chánh Ngữ thuộc về KHẨU.

- Chánh Mạng, Chánh Nghiệp thuộc về THÂN.

Hành theo Bát Chánh Đạo là để từ cái suy nghĩ cho tới nói năng, làm nghề nghiệp sinh sống, nuôi thân đều phải chân chánh. Kèm theo là Lục Độ, Vạn Hạnh để hướng mọi suy nghĩ, hành động đến Thiện Pháp. Tất cả những gì cần hành trì trong Đạo Phật chỉ nhằm mục đích tháo gỡ những thứ đã vướng mắc nơi THÂN, KHẨU và Ý của con người để được Giải Thoát. Tất cả chỉ có thế. Ngoài ra, Quả vị, Chư Bồ Tát, Phật, Nước Phật v.v... chỉ là phương tiện để dẫn dụ cho người tu đừng thối chí mà thôi.

Qua Phát Tâm, hành trì và Chứng Đắc của Đức Thích Ca, ta thấy việc tu hành chỉ là để chấm dứt nỗi Khổ Sinh, Lão, Bệnh, Tử hành hạ cái Thân để được an vui trong cuộc sống. Hành trì này gồm có 3 giai đoạn:

1. Phải thấy đời là Khổ, muốn Thoát khổ.

2. Phải trực tiếp hành trì để được Giải Thoát (gồm Giới Định Huệ - Văn Tư Tu - Bát Chánh Đạo - Độ Sinh). Phải thấy Chúng Sinh để Độ thì mới có kết quả Giải Thoát được.

(Xin nói thêm về Độ Sinh. Độ Sinh không phải là đi giảng pháp độ cho mọi người, mà cứu độ Chúng Sinh, tức những tư tưởng xấu, những ganh, ghét, hờn giận, gian dối, bất lương của chính nơi tâm người cứu độ. Phải “Độ tận” những chúng sinh đó thì mới gọi là Giải Thoát hay Thành Phật. “Độ”, không phải là tiêu diệt mọi tư tưởng để cái Tâm trở thành không ngơ, không còn biết xấu tốt, lợi hại, mà chỉ chuyển hóa nó từ Xấu sang Tốt, từ Động sang Tịnh, từ Ngu Si sang Trí Huệ mà thôi. Đó là ý nghĩa câu Kinh: “Ta đã diệt độ vô lượng vô số chúng sinh, nhưng thật ra không có chúng sinh nào bị diệt độ cả”).

3. Kết quả cuối cùng là hết Khổ. Được Giải Thoát hay còn gọi là Thành Phật. Thành Phật chỉ là đạt được sự thanh tịnh, an lạc ngay tại kiếp sống, gọi là Hữu Dư y Niết Bàn. Không phải là thành Thần Linh, có phép màu cứu độ cho người khác.

Sở dĩ phải dài dòng, tóm tắt cái Phát Tâm của Đức Thích Ca, công việc mà Ngài đã hành trì để Chứng Đắc, để chúng ta thấy rằng: Mục đích tu hành chỉ để cởi bỏ những ràng buộc với các tướng hữu vi để được Giải Thoát. Vì thế, không chỉ Phật Thích Ca, Chư Tổ quá khứ đạt được, mà tất cả mọi người thời này và bao nhiêu thời sau nữa cùng hành bao nhiêu việc đó thì cũng đạt được. Kết quả cũng giống nhau. Do đó, gọi là có “Tam Thế Phật”. Tức Quá Khứ đã có người Thành Phật. Hiện Tại cũng có người Thành Phật. Vị Lai cũng có người Thành Phật, không phải như người hiểu sai cho đó là Phật A Di Đà, Thích Ca và Di Lặc. Lẽ nào Phật Thích Ca đã nhập diệt cách đây gần 3.000 năm mà vẫn là Phật hiện đời được?

Nhiều thời qua, Phật Tử do thiếu kiểm chứng, nên đã tin rằng Phật “Quyền phép vô biên, có thể cứu độ cho Tam Thiên Đại Thiên Thế giới”, - không biết rằng Tam Thiên Đại Thiên Thế giới đó là Phật nói về Ba loại Chúng Sinh Tham, Sân, Si trong mỗi người. Phật của mỗi người phải “Cứu Độ”cho hết - nên cứ quay ra cầu xin Phật ngoài ban ơn, giáng phúc! Nhưng nếu có đọc Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên ta sẽ thấy có đề cập đến vấn đề này: Khi Phật giảng pháp thì La Vân lơ đãng không nghe, cho rằng bây giờ còn nhỏ, chờ lớn khôn mới nghe pháp được. Phật bảo: “Muôn vật Vô Thường, thân người cũng khó giữ được. Vậy ngươi có thể giữ được mạng cho đến lớn không?”. La Vân trả lời: “Dạ thưa Đức Thế Tôn. La Vân con đây không thể giữ được, nhưng Phật há chẳng giữ giùm mạng con ư?. Phật bảo: “Nầy La Vân! Ta còn không giữ được cho ta huống là giữ giùm cho ngươi”. Và rõ ràng, Phật cũng đã nhập diệt, đã trà tỳ. Ngài đã không tự cứu, cũng không cứu cho con, lẽ nào cứu cho ta được? Đó cũng là bài học cho người tin rằng Phật quyền phép vô biên rồi cầu xin Phật và ngồi chờ cứu độ!

Mục đích của Đạo Phật được nói rõ trong Phật Ngôn: “Nếu không có cái Sanh, Già, Bệnh, Chết, thì Như Lai cũng chẳng giáng trần để làm gì, và Phật Pháp cũng không có cơ hội rải tủa ánh sáng siêu việt trên khắp thế gian”. Phật Pháp chỉ là Pháp chỉ là Pháp Giải Thoát. Giải Thoát khỏi Khổ. Đức Thích Ca chỉ có thể “Độ” cho mọi người bằng Giáo Pháp, ai muốn hết Khổ thì phải tự mình hành theo để đạt kết quả, Phật không thể làm giùm hay ban cho ai. Nếu Phật “Độ” được cho người khác thì Đạo Phật biến thành Đạo “Độ Tha”, không còn là Tự Độ nữa.

32 Tướng Tốt và 80 Vẻ Đẹp của Phật là phương tiện để dẫn dụ con người cư xử tốt với nhau: Con cháu với ông bà, cha mẹ. Trò đối với Thầy. Giữ Giới. Ba Nghiệp thanh tịnh. Không nói lưỡi đôi chiều. Giảng hòa những cuộc tranh chấp. Cúng dường cha mẹ, Sư trưởng và những bậc có đức v.v... Mỗi việc làm thành một Tướng, là phương tiện mà Phật dùng để người tu theo đó mà hoàn thành cho mình, để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Vì thế Kinh gọi là “Tướng mà Vô Tướng”. Là tượng trưng cho kết quả đã làm. Không phải để dùng vật liệu quý đúc hay tạc ra để thờ!

Tóm lại, qua những gì đúc kết về con đường tu Phật của Đức Thích Ca thì chúng ta biết rằng kết quả tu hành không phải để trở thành Thần Linh. Do vậy, Phật không thể phù hộ, độ trì hay đưa ai về Niết Bàn, Phật Quốc mà mọi việc tùy thuộc vào Nhân Quả, vì Đạo Phật còn được gọi là Đạo Nhân Quả.

Thật vậy. Nhân Quả là những gì Đức Thích Ca quan sát thấy mọi việc lành dữ đã làm thì không mất, mà sẽ quay lại với người đã làm, nên Ngài cảnh báo, để con người ngưng tạo Ác Nghiệp, chỉ nên làm điều Thiện. Bát Chánh Đạo và Giới cũng là rào cản và định hướng cho người chưa hiểu rõ không còn tạo Nghiệp nơi Thân, Khẩu và Ý. Và Độ Sinh chính là thanh lọc tư tưởng để nó không còn nhiễm trần, được thanh tịnh, an lạc. Những việc đó cũng là thước đo để xác định là chúng ta có Nhị Thừa, có Mê Tín hay không? Bởi đã tin Nhân Quả thì không thể tin rằng cứ cúng kiến, lễ bái cho nhiều thì Phật, Thần Linh sẽ phù hộ cho ta, mà phải bằng những việc làm cụ thể: Bỏ Ác, hành Thiện; Xoay Tâm Tà trở về với Tâm Chánh, gọi đó là “CẦU MÀ KHÔNG CẦU”, tức là muốn được thế nào thì cứ thực hiện bằng hành động, kết quả sớm hay muộn tự nhiên sẽ đến. Một điều nữa là khi ta phạm sai lầm thì người chịu cái Quả trả lại là chính ta. Ta đã bôi bẩn, đã làm ô uế Phật của chính mình, thì phải quay vào mà Sám Hối với Bản Thể Tâm để không tái phạm nữa, không cớ gì phải đi Sám Hối với Phật Thích Ca. Ngài đâu có gánh tội thế hay tha thứ cho ta được? Tôi tin rằng khi hiểu rõ Lý Nhân Quả là chúng ta sẽ không còn mê tín, Thần Quyền nữa, mà lấy lại sự Tự Tin, để Tự Độ, tự hành trì để Giải Thoát đúng theo tinh thần của Đạo Phật chân chính.

Phật là kết quả Giải Thoát, cái Giải Thoát đó chỉ có giá trị đối với bản thân người làm, không giúp được cho người khác. Nó như một kỹ năng mà người muốn có phải tự luyện tập. Và ta nghĩ sao khi thấy người khác hay, giỏi, mà không học, không làm theo mà chỉ theo bái lạy, thờ phụng, cầu xin, hoặc ngưỡng mộ, kính phục? Bao đời nay, nhiều người cứ tưởng rằng xây Chùa cho hoành tráng, đúc tượng cho to, kêu gọi thêm nhiều người Quy y theo Phật là tôn vinh Phật. Không ngờ Ngài chỉ mong muốn chúng ta làm theo lời Ngài dạy hơn là những điều vô bổ đó như lời Kệ trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa:

“Xá Lợi Phất nên biết

Ta muốn tất cả chúng

Bằng như ta không khác”

“Bằng như Phật” là phải Thành Phật. Nhưng nhiều thế hệ qua, mọi người cứ tưởng thành Phật là thành Thần Linh nên không dám nghĩ đến, cho đó là Tăng Thượng Mạn, không biết rằng Thành Phật chỉ là thành tựu Công việc tự Giải Thoát mà thôi. Phật đã không phải là Thần Linh thì chúng ta làm trung gian hương khói chuyển lời cầu xin về đâu? Ai sẽ chứng giám?

Con thì phải nối nghiệp cha. Con của Phật thì phải Thành Phật. Chúng ta tôn kính Phật vì Ngài đã đưa ra Giáo Pháp để chúng ta học theo mà được Thoát Khổ, nhưng không việc gì phải lạy Phật của Đức Thích Ca hay của ai khác. Vì mỗi người đều có khả năng để Thành Phật. Chính vì vậy mà Tổ Đạt Ma dạy: “Đừng mang Phật ra mà lạy Phật”!

Có lẽ đã đến lúc mọi người nên xem lại những gì bản thân mình đang làm có đúng là Chánh Đạo hay không? Kết quả về đâu? Nếu thấy không đúng thì nên điều chỉnh lại. Bởi vô lý hết sức khi tự cho rằng mình là Đệ Tử của Phật, mà Phật dạy một đàng, mình hành một nẻo. Phật dạy Nhất Thừa, Phật Thừa, Chánh Đạo, mình hành theo Nhị Thừa, Quyền Thừa, Tà Đạo, mà vẫn xưng là Đệ Tử của Phật, thì oan cho Đạo Phật biết bao nhiêu! Tôi tin rằng nếu chúng ta không đối chiếu lại với Chính Kinh, để đi quá xa, còn dắt theo nhiều người từ thế hệ này sang thế hệ khác, thì hậu quả rõ ràng là chẳng những chính ta phải gánh chịu, mà còn trở thành “Những con trùng trong thân Sư Tử ăn thịt Sư Tử”. Tội đó e rằng không phải nhỏ, chỉ người không biết gì về Nhân Quả mới dám làm vậy.

Tháng 11/2017

Tâm Nguyện


Phụ Bản I

3 Truyện ngắn

của Ivan Turghenev (1805-1883)

CON CHÓ

Hai chúng tôi ở trong buồng: con chó và tôi. Ngoài trời giông tố khủng khiếp, điên cuồng.

Con chó ngồi trước mặt tôi - và nhìn thẳng vào mắt tôi.

Và tôi cũng nhìn vào mắt nó.

Dường như nó muốn nói điều gì với tôi. Nó không biết nói, nó im lặng, bản thân nó không hiểu mình - nhưng tôi hiểu nó.

Tôi hiểu rằng, trong giây phút này, cả ở trong tôi và trong nó cũng đang có chung một tình cảm, rằng giữa hai chúng tôi chẳng có gì khác biệt. Hai chúng tôi đồng nhất, trong mỗi chúng tôi đang cháy và thắp sáng một ngọn lửa run rẩy.

Thần chết ào đến, chớp cánh xòe rộng giá lạnh của mình dập tắt ngọn lửa...

Thế là kết thúc!

Sau đó ai đi mà xem xét đích thị ngọn lửa nào đã cháy trong mỗi chúng tôi.

Không! Đây không phải cái nhìn của loài vật và cái nhìn của con người trao đổi nhau...

Đấy là hai cặp mắt như nhau hướng vào nhau.

Và trong mỗi cặp mắt ấy, trong con vật và trong con người - chỉ là một cuộc sống như nhau sợ hãi nép vào nhau.

Tháng Hai, 1878

ÔNG LÃO ĂN MÀY

Tôi đang đi trên phố thì một ông lão lọm khọm nghèo khổ chặn đường tôi.

Đôi mắt sưng mọng, nhòe nhoẹt lệ, cặp môi tím tái, quần áo tả tơi, chân tay lở loét. Ôi, cái nghèo khổ đã gậm nhấm cái thân thể bất hạnh đến nỗi thảm hại nhường này.

Ông lão chìa bàn tay bẩn thỉu đỏ lựng sưng mọng ra. Ông lão rên rỉ, ông lão búng búng cầu xin được chút bố thí.

Tôi đưa tay lục lọi tìm hết mọi túi áo lại túi quần, không có ví tiền, không có đồng hồ, thậm chí không có cả khăn mùi xoa. Tôi quên không mang theo gì hết.

Còn ông lão ăn mày thì cứ chờ đợi... và bàn tay của ông lão run lẩy bẩy.

Bối rối, sượng sùng tôi đưa tay nắm lấy bàn tay bẩn thỉu, run rẩy này... “Xin thứ lỗi cho, người anh em, tôi chẳng có gì cả, người anh em ạ”.

Đôi mắt sưng mọng của ông lão ăn mày nhìn tôi đăm đắm, cặp môi tím tái của ông lão nhếch cười - và đến lượt mình, ông lão siết chặt các ngón tay của tôi.

- Thì có sao đâu, người anh em,- ông lão thì thào,- vậy tôi cũng lấy làm cảm ơn rồi. Đấy cũng là món quà rồi, người anh em ạ.

Tôi hiểu rằng thì cả tôi cũng đã được nhận được của bố thí của một người anh em này.

Tháng Hai, 1878

ÔNG GIÀ

Những ngày tăm tối, nặng nề đã đến...

Bệnh tật của bản thân, bệnh tật của những người yêu thương, giá lạnh và u tối của tuổi già... Tất cả những gì anh từng yêu quý, với cái mà mình đã tự cống hiến cho đi đều không còn trở lại, đều mất biến đi không còn gì và đều tan nát cả. Con đường đi dẫn xuống dốc chân núi.

Thì ta làm gì đây? Ngồi đau buồn ư? Thương tiếc ư? Cái đó chẳng giúp gì cho chính bản thân mình, cũng như những người khác.

Trên cái cây đang khô héo, bị chế ngự lá mỗi ngày một ít hơn và thưa thớt hơn - nhưng mầu xanh của nó vẫn thế.

Thì cả mi cũng hãy nén mình lại, lặn vào trong bản thân, vào những hồi ức của mình, và ở đó, trong sâu, sâu thẳm, trong tận đáy cùng của tâm hồn tập trung tư tưởng, cuộc sống trước đây của mi, chỉ một mình mi hay biết, lóe hiện ra trước mi với toàn bộ vòng quay của nó, mọi cái vẫn một màu xanh tươi nguyên và của mùa xuân dịu dàng và mạnh mẽ!

Nhưng hãy cẩn trọng nhé... đừng nhìn lên phía trước, hỡi ông già tội nghiệp!

Tháng Sáu năm 1878

Thúy Toàn dịch

ĐÊM ĐÔNG LẠNH LẼO

CHÚA SINH RA ĐỜI

Lễ Giáng Sinh, còn được gọi là Lễ Thiên Chúa Giáng Sinh, Noël, Christmas hay Xmas là một ngày lễ kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thành Nazareth sinh ra đời của phần lớn người theo Thiên Chúa Giáo. Hài Nhi Giêsu được sinh tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của nước Do Thái, lúc bấy giờ đang dưới quyền thống trị của Đế quốc La Mã giữa năm 7 TCN và năm thứ 2.

Một số nước ăn mừng vào ngày 25 tháng 12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12. Theo Công giáo Rôma, lễ chính thức là ngày 25 tháng 12 còn gọi là “lễ chính ngày”, còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi là “lễ vọng”. Dù vậy, lễ đêm 24 tháng 12 thường thu hút tín đồ tham dự nhiều hơn. Những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Julius cho ngày này, nên họ tổ chức lễ Giáng Sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory.

Ý nghĩa chữ Christmas:

Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas.

Chữ Christ (Đấng chịu xức dầu) là tước vị của Đức Giêsu.

Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ).

Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu.

Chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos, Xpiơtós hay Xristos. Người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xpiơtós, rồi thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas. Như vậy Xmas cũng có nghĩa là ngày lễ của đấng Christ.

Năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine từ bỏ đa thần giáo và theo Cơ đốc giáo. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng “Thần Mặt trời” và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật của Đức Giêsu. Đến năm 354, Giáo hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu. Trong nhiều thế kỷ, những nhà ghi chép Ki-tô giáo chấp nhận Giáng Sinh là ngày Giêsu được sinh ra đời.

Biểu tượng Giáng Sinh và ý nghĩa

Hang đá: thường là vào mùa Giáng Sinh, một máng cỏ được đặt trong hang đá (hay gỗ) - được dựng lên trong nhà hay ngoài trời - với các hình tượng Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, xung quanh là các thiên sứ, mục đồng cùng các gia súc như bò, lừa để kể lại sự tích Chúa ra đời trong máng cỏ.

Cây Giáng sinh: là cây xanh - thường là cây thông - được trang hoàng để trình bày trong dịp lễ Giáng Sinh theo phong tục của người Ki-tô giáo.

Thiệp Giáng sinh: Vào Noël năm 1843, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới tại London, nó đã nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.

Quà Giáng sinh: đó là những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bạn bè. Đối với một số người, những món quà Giáng Sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giêsu, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.

Ngôi sao Giáng Sinh: Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rưc rỡ đủ màu sắc trong mùa Giáng Sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng dây ra bốn phía, có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.

Ông già Noël:

Nguồn gốc của từ “ông già Noël” (Santa Claus) hay Thánh Nicholas bắt đầu ở Thổ Nhĩ Kỳ từ thế kỷ thứ IV. Từ lúc còn nhỏ thánh nhân đã là một người rất ngoan đạo và hiến cả cuộc đời của mình cho lý tưởng theo Chúa. Người Hà Lan phát âm từ St. Nicholas thành Sint Nicholaas, sau đó nói chệch thành Sinterklaas và cuối cùng được những người theo giáo phái Anh đọc thành Santa Claus.

Ông già Noël thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông Giáng Sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.

Bộ quần áo đỏ của ông già Noël đã ra đời như một huyền thoại, nhưng đến mấy mươi năm sau, thì bộ trang phục đỏ gắn liền với huyền thoại ấy mới có. Còn bây giờ, hãy tự tin mà bảo với với mọi người rằng: “Ông già Noël trên xe trượt tuyết với hai con tuần lộc là hoàn toàn có thật”.

Bữa ăn Réveillon: tại Alsace, Pháp, bữa ăn này phải gồm có tam hành là thủy (cá chép, con hàu), không khí (gà tây hay ngỗng) và mộc (thịt heo). Tập tục ăn gà tây có từ thời Colombus phát hiện Châu Mỹ (Gà tây giống trang phục của nước Turkey nên thủy thủ gọi là Turkey).

Hai bài hát Giáng Sinh nổi tiếng thế giới của Mỹ:

1. “Jingle Bells” với lời bài hát đậm tính dân dã mộc mạc, diễn tả tâm hồn của người dân Mỹ hướng đến một mùa tuyết rơi thật tốt lành. Hình ảnh ông Noël với túi quà đồ chơi, ngồi trên xe tuần lộc với tiếng chuông leng keng diễn tả sinh động, quyến rũ làm cho người ta thích nghêu ngao, nó vô tình trở thành bài hát Giáng Sinh. Bài Jingle Bells (Tiếng chuông ngân) được sáng tác vào năm 1840 với tên gọi “One Horse Open Sleigh”. Tác giả của bài hát là James S.Pierpont, một cư dân Boston, tiểu bang MA, rất có năng khiếu về âm nhạc. Ban đầu, bài hát được sáng tác cho ngày lễ Tạ Ơn, nhưng đã bị nhầm thành nhạc Gíáng Sinh do được trình diễn lại thành công đêm Gíáng Sinh vào lúc mới sáng tác.

2. “Feliz Navidad” là một bài hát dịp lễ Giáng Sinh do nhạc sĩ kiêm ca sĩ José Feliciano , người Puerto Rico (là một vùng quốc hải thuộc chủ quyền của Hoa Kỳ ) sáng tác năm 1970. Bằng những đoạn tiếng Tây Ban Nha đơn giản (lời chúc mừng Giáng sinh, Năm mới truyền thống, “Feliz Navidad, próspero año y felicidad” hay “Merry Christmas, and a happy New Year” và một điệp khúc bằng tiếng Anh “I wanna wish you a Merry Christmas from the bottom of my heart”, bài hát đã trở thành một bản nhạc pop phổ biến ở Mỹ , Canada và trên toàn các nước nói tiếng Tây Ban Nha.

Lễ Giáng Sinh ở Mỹ

Từ sau Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), người Mỹ đã chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, người Kitô giáo chuẩn bị theo tôn giáo mình. Người làm thương mại thì buôn bán kỷ vật cho ngày lễ.

Tại Mỹ, lễ Giáng Sinh được kỷ niệm theo nhiều cách, mỗi cách phản ánh một truyền thống riêng. Những đứa trẻ của đảo Hawaii tin rằng ông già Noël đến từ một chiếc thuyền. Những đứa trẻ ở Alaska mang theo những ngôi sao rất lớn trong khi chúng vừa đi vừa hát mừng Noël. Ở New Mexico các gia đình trang trí những ngôi sao và đèn lồng giấy ở bên ngoài ngôi nhà của mình, còn ở Texas và Mexican - American những đứa trẻ tham gia vào lễ hội Posadas giống như được tổ chức ở Mexico.

Mỹ là một quốc gia đa dạng về văn hóa và chủng tộc vì vậy lễ Giáng Sinh cũng được tổ chức hết sức phong phú. Nhưng vì phần lớn người nước này theo đạo Tin lành và Công giáo, nên tinh thần mừng lễ Giáng Sinh cũng gần với đạo hơn, thường nhà nào cũng có cây thông Giáng Sinh, chung quanh trang trí bằng đèn điện màu sắc, dưới gốc cây là các gói quà cho mọi người trong gia đình, các gói quà này sẽ được trao đổi nhau và mở ra sau bữa ăn mừng Giáng Sinh ban đêm, nói lên những lời chúc tốt đẹp nhất cho Giáng Sinh và năm mới.

LỜI KẾT

Lễ Giáng Sinh - thời điểm mà niềm vui, hy vọng, thiện chí và tình thân ái tràn trề ở mỗi con người. Giáng Sinh đang tới gần, không khí Giáng Sinh đang ngập tràn khắp muôn nơi. Mừng Giáng Sinh đã trở thành ngày lễ phổ biến ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, song mỗi nơi lại có một phong tục đón Giáng Sinh khác nhau, mang những nét văn hóa đặc trưng.

Ngày nay, ở Việt Nam, Giáng Sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12. Trong những ngày này, cây thông Noël được trang trí ở nhiều nơi bằng cây thật hay thông nhân tạo làm bằng nhựa. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang trí nhiều loại nhưng thường có những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng, các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây...

Lễ Giáng Sinh là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp, những đôi tình nhân âu yếm tặng quà cho nhau, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của Ông già Noël, gia đình bè bạn rủ nhau hội hè, yến tiệc.

Một mùa Giáng Sinh nữa lại về, không khí Giáng Sinh đang tràn ngập khắp nhân gian, trên khắp phố phường, trong từng con ngõ nhỏ, trong mỗi ngôi nhà xinh xắn và trong trái tim của mỗi sinh linh. Tôi, bạn và tất cả chúng ta hãy cùng ca lên bài Thánh ca để cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất cho một mùa Giáng Sinh an lành và hạnh phúc…

Bài hát Hang Bê Lem được sáng tác năm 1945 tại Nam Định, là một ca khúc Giáng Sinh tiếng Việt quen thuộc, ngợi khen Chúa Giêsu sinh ra tại Bê Lem . Ca khúc này do nhạc sĩ Phanxicô Hải Linh sáng tác và đây cũng có thể xem là ca khúc rất được phổ biến trong các thánh lễ Giáng Sinh ở Việt Nam.

Bài hát Hang Bê Lem - sáng tác: Hải Linh

Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời

Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.

Trong hang Bê Lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng

Nghe trên không trung tiếng hát thiên thần vang lừng

Đàn hát réo rắt tiếng hát, xướng ca dư âm vang xa.

Đây Chúa thiên tòa Giáng Sinh vì ta.

Người hỡi hãy kịp bước tới, đến xem nơi hang Bê Lem

Ôi Chúa Giáng Sinh khó khăn thấp hèn.

Nửa đêm mừng Chúa Giáng Sinh ra chốn nhân trần

Người đem ân phúc xuống cho muôn dân lầm than

Nơi hang Bê Lem thiên thần xướng ca

Thiên Chúa vinh danh chúng dân an hòa

Ngày nay Thiên Chúa Giáng Sinh ra chốn gian trần

Người đem ân phúc xuống cho muôn dân lầm than

Nơi hang Bê Lem chiên lừa thở hơi

Tan giá đêm đông ấm thân con người.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)


TRIẾT LÝ NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI

Tác giả NGUYỄN PHẠM HÙNG

(Đại học Quốc gia Hà Nội)

Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1895 tại làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, mất năm 1983 tại Sài Gòn, thọ đúng 90 tuổi ta. Cuộc đời ông trải qua hầu hết những giai đoạn thăng trầm, chứng kiến hầu hết những biến cố quan trọng nhất của lịch sử cận hiện đại Việt Nam. Ông cũng chứng kiến hầu hết những cuộc đổi thay của văn học hiện đại Việt Nam, từ sự ra đi của thơ Cũ đến sự xuất hiện của Phong trào thơ Mới, của Tự Lực Văn Đoàn, đến các trường phái, trào lưu, khuynh hướng, chủ thuyết văn học cả tư bản và cộng sản gần suốt thế kỷ XX.

Những tưởng con người chứng kiến lắm sự đổi thay ấy sẽ phải có nhiều thay đổi trong cách cảm, cách nghĩ, trong nghệ thuật. Thế nhưng không. Ông xuất hiện là một nhà thơ Cũ, cho đến khi ra đi, ông vẫn là một nhà thơ Cũ. Điều đó khiến cho chúng ta không khỏi có những suy nghĩ về ông. Ông không thể đổi thay, hay ông không muốn thay đổi? Ông là người “chung tình” với nghệ thuật thơ Cũ, hay ông muốn trình bày một triết lý nghệ thuật của riêng mình?

Những đóng góp nghệ thuật chủ yếu của Á Nam Trần Tuấn Khải

Á Nam Trần Tuấn Khải là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX, trước khi có Phong trào Thơ Mới. Xuất thân trong một gia đình Nho học, đồng thời tiếp thu tư tưởng học vấn phương Tây, ông bước vào con đường nghệ thuật từ rất sớm. Ông bắt đầu sáng tác từ khi chưa đầy 20 tuổi. Năm 1921, ông cho xuất bản tập thơ đầu tiên Duyên nợ phù sinh, rồi sau đó là Duyên nợ phù sinh II năm 1923, Bút quan hoài và Hồn tự lập năm 1924, Bút quan hoài II và Hồn tự lập II năm 1927, Với sơn hà năm 1936, Với sơn hà II năm 1949… cùng nhiều sáng tác theo các thể loại khác như tiểu thuyết Gương bể dâu (1922), Hồn hoa (1925), Thiên thai lão hiệp (1935), và nhiều kịch bản, dịch phẩm, tản văn khác, từ những năm 20 cho đến những năm 80 của thế kỷ XX. Nhưng thành công nhất trong sáng tác của ông là trên lĩnh vực thơ ca.

Thơ Á Nam Trần Tuấn Khải dù qua bao đổi thay, mãi mãi dường như vẫn chỉ là thơ của những năm 20 của thế kỷ XX. Nội dung thơ ông chủ yếu nói về tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình đồng chủng, nghĩa đồng bào, nghĩa thủy chung, tiết nghĩa, ân tình… mang đậm màu sắc đạo đức truyền thống. Sống trong thời kỳ đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, thơ ông chứa đựng một cảm hứng yêu nước âm thầm được thể hiện qua những sáng tác về đề tài vịnh sử, hay gửi gắm trong các tác phẩm về đề tài sinh hoạt, như tả nỗi lòng cô gái gánh nước đêm trăng, niềm tâm sự của người vợ trẻ nhớ chồng chốn xa xôi, tâm sự của bác hát xẩm, của anh đồ, của người khách chốn bình khang, người khách sông Hương, hay cô hàng bán nước, cô gái nhà nông… Những bài thơ Tiễn chân anh khóa xuống tàu, Gánh nước đêm, Gửi thư cho anh khóa, Nhắn khách sông Hương, Đêm di tìm bạn, Chơi xuân, Hỡi cô bán nước… là những bài thơ chan chứa tình cảm thương nước. Nếu như tâm sự “Non Nước” là tâm sự yêu nước tiêu biểu trong thơ Tản Đà, và hình tượng “Non Nước” trở thành hình tượng đẹp nhất về lòng yêu nước âm thầm trong thơ của thi sỹ Tản Đà, thì trong thơ của Á Nam, ta cũng thường thấy xuất hiện tâm sự này. Nhưng Á Nam đã sáng tạo nên một hình tượng thơ khác, hình tượng “Anh Khóa”. Sự chia ly giữa Đất Nước với chủ nhân chân chính của nó là Nhân Dân được biểu tượng bằng sự chia ly giữa Non và Nước trong thơ Tản Đà, nay lại được biểu tượng bằng sự chia ly giữa Anh Khóa và người vợ trẻ trong thơ Á Nam. Sự chia ly ấy là do đâu và đến bao giờ, vẫn là đều day dứt trong tâm hồn mỗi người khi đọc lại thơ của hai ông. Có lẽ những hình tượng “Non Nước” và “Anh Khóa” đã trở thành những hình tượng điển hình, phổ biến nhằm ngấm ngầm bày tỏ lòng yêu nước thương nòi không chỉ của các nhà thơ, mà còn của đông đảo người Việt Nam mọi thời đại.

Bây giờ đọc lại thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, nếu không đặt vào hoàn cảnh lịch sử của nó, chúng ta khó có sự đánh giá khách quan. Trong cái không khí ngột ngạt và tối tăm của đất nước sau khi các phong trào cần vương kháng Pháp thất bại, thì đây có thể là những âm thanh nghệ thuật được xem là trong trẻo và lành mạnh nhất. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà nhiều bài thơ của ông, nhất là những bài thơ về “Anh Khóa” lại được độc giả nồng nhiệt chào đón, truyền tụng, yêu dấu. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà những bài thơ ấy lại bị những kẻ cưỡng chiếm đất nước này, mà lúc đó là chính quyền thực dân, sợ hãi, cấm đoán.

Điểm đặc biệt về nghệ thuật là thơ của ông hoàn toàn làm theo lối cổ. Ông là một nhà thơ hoàn toàn Cũ. Các thể thơ thường được ông sử dụng là các thể thơ Đường cổ xưa: bát cú Đường luật, tứ tuyệt Đường luật, ngũ ngôn luật, thất ngôn trường thiên, thi ca liên hành, từ khúc… Bên cạnh đó, ông cũng thường sử dụng những thể thơ dân tộc như lục bát, song thất lục bát, thơ hát nói và nhiều thể thơ ca dân gian như hát xẩm, ngâm khúc, ca lý… Những thể thơ đó hoàn toàn không mới.

Có người nói rằng ông không có đóng góp gì đặc biệt cho sự phát triển của nghệ thuật thơ ca. Có người cho rằng nghệ thuật của ông không theo kịp được thời đại. Nếu nhìn qua, thì có phần đúng. Trong khoảng thời gian những năm 20 của thế kỷ trước, văn học Việt Nam đã bắt đầu có những biến chuyển quan trọng, chuẩn bị cho sự hình thành nền Văn học Mới với những tiểu thuyết, truyện ngắn theo xu hướng hiện đại như các tác phẩm của Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bá Học… và đặc biệt là Hoàng Ngọc Phách với tiểu thuyết Tố Tâm. Bên những vần thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết… tuy không mới về thể cách nhưng tràn trề nhiệt huyết và tinh thần cách mạng của Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…, bên những nhà văn miệt mài tìm kiếm cách tân hình thức, hay bên cây bút tài hoa Tản Đà tuy được xem là nhà thơ Cũ nhưng có những cách tân tuyệt vời về thi từ và thi cú, là người được chính các nhà thơ Mới “cung chiêu anh hồn” khi khai trương đài Thơ Mới, thì nghệ thuật thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải dường như không thật ấn tượng, không thật đột xuất, không có cách tân. Điều đó càng rõ hơn sau khi Phong trào Thơ Mới rầm rộ chiếm lĩnh thi đàn Việt Nam.

Tuy nhiên, như chúng ta thấy, ông vẫn là một trong những nhà thơ nổi tiếng, có nhiều độc giả vào loại bậc nhất ở nửa đầu thế kỷ XX. Thơ của ông đi vào lòng người theo cách của nó, và phù hợp với tâm hồn một bộ phận đông đảo con người thời kỳ này. Thành công là bởi ông đã triệt để khai thác thế mạnh của những lời ca dân gian. Những bài thơ hay nhất của ông là những bài được viết theo phong cách của những lời ca dân gian. Có lẽ không có nhà thơ nào của đương thời đã ngân lên tiếng lòng của mình bằng những cung bậc của lời ca dân dã thành công bằng ông. Những bài thơ Đường luật của ông không thật ấn tượng. Nhưng những lời thơ lục bát, song thất lục bát, hát nói, những điệu hát xẩm, hát ví, sa mạc, ca lý… đã thực sự làm say đắm lòng người, nhất là lớp bình dân cả ở chốn thị thành lẫn nơi thôn dã. Nhớ Á Nam là người ta nhớ tới những bài thơ - ca mang tính dân gian ấy.

Bên những nhà thơ, nhà văn bắt đầu lần mò tìm kiếm những lối diễn đạt mới cho những tư tưởng nghệ thuật mới, hay bên những nhà văn, nhà thơ diễn đạt những tinh thần mới của thời đại một cách mãnh liệt, ồn ào trong những thể cách thơ văn cũ, thơ ông thật hiền lành, lặng lẽ. Thế nhưng, ông đã lặng lẽ tự tạo cho mình một phong cách riêng, một lề lối thể hiện riêng, và một tư tưởng riêng, khiến cho nhớ tới ông là người ta phải nhớ tới một tiếng thơ riêng, nhớ tới những lời ca tha thiết, du dương và đầy quyến rũ. Nó cất lên trong trẻo trên bầu trời tối tăm vần vũ của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, và in sâu mãi vào tâm hồn người đọc.

Lặng lẽ, âm thầm và kiên trì cất lên tiếng hát trong trẻo gửi người phương xa trong nỗi buồn nhớ và mong ngóng, chính là hình ảnh của Á Nam không chỉ ở những năm 20 đầu thế kỷ XX, mà còn mãi sau này. Đó là một hình ảnh tưởng là quê cũ, nhưng trong bối cảnh ồn ào của những phong trào “Âu hóa”, “hiện đại hóa”, của những chủ thuyết và khuynh hướng đến từ Pháp, Liên Xô hay Mỹ… thì thật là lãng mạn. Có lẽ để đánh giá những đóng góp của ông vào lịch sử văn học dân tộc, chúng ta cần chú ý nhiều đến điều này, một điều tưởng rất bình thường dung dị, nhưng lại không phải ai cũng làm được, và nhất là không phải ai cũng làm được một cách đầy ấn tượng như ông.

Á Nam Trần Tuấn Khải là một nhà thơ Cũ, từ bắt đầu cho tới kết thúc

Những điều trên là để nói tới một Á Nam Trần Tuấn Khải của những năm cách đây ngót thế kỷ. Nhưng còn một Á Nam Trần Tuấn Khải trước những biến động vô thường của lịch sử gần trăm năm qua thì sao? Lật giở lại thơ văn ông, thật kỳ lạ, dường như ông không hề thay đổi sau hơn nửa thế kỷ sáng tác. Những tưởng điệu lục bát, điệu ca, điệu lý, điệu xẩm, điệu ví ấy… chỉ là nghệ thuật của ông ở những năm 20 trước khi có Phong trào Thơ Mới xuất hiện? Những tưởng khi Thơ Mới đã thắng thế và ngự trị trong đời sống thi ca Việt Nam thì không còn chỗ cho những điệu Thơ Cũ đó nữa? Những tưởng sau bao tháng năm sống hết dưới chế độ “thực dân cũ” lại đến chế độ “thực dân mới”, rồi chế độ “xã hội chủ nghĩa”…, tiếp xúc với bao trường phái văn học từ “lãng mạn” đến “hiện thực”, từ “hiện đại” đến “hiện sinh”, từ “nô dịch” tới “cách mạng”…, thơ ông phải đổi thay đi, phải Mới lên?

Thế nhưng, chúng ta vẫn chỉ thấy một Á Nam Trần Tuấn Khải không hề thay đổi. Đọc Với sơn hà I, xuất bản chính khi Phong trào Thơ Mới toàn thịnh năm 1936, chúng ta vẫn thấy ông lặng lẽ thả những dòng Đường luật, và nhất là vẫn ngân nga những câu lục bát, song thất lục bát, những điệu hát nói, những lời ca lý, xẩm, ví… cũ về những đề tài rất cũ, cả Khi tỉnh giấc, lúc Nghe người hàng xóm khóc, khi Trời mưa hỏi cô hàng gánh, lúc Cùng bạn văn học, Viết bức thư đêm… cho đến Với sơn hà II in năm 1949 cũng vẫn thế. Hay những bài thơ viết mãi sau này, gần cuối thế kỷ XX, như bài Mong tri kỷ viết năm 1970, Xuân Giáp dần viết năm 1974, Mừng xuân Ất mão viết năm 1975… Và nhất là bài Mừng anh khóa về viết năm 1975, sau ngày đất nước hết cảnh chia ly, ta hoàn toàn bất ngờ khi gặp lại một Á Nam Trần Tuấn Khải dường như vẫn là một Á Nam của những năm 20 cách đó hơn nửa thế kỷ!

Năm 1914, khi mới vừa 20 tuổi, ông đã ví cảnh nước mất như sự chia lìa giữa người vợ với người chồng, giống như cảnh Nước - Non đôi ngả trong thơ Tản Đà, khi ông hóa thân trong vai một người vợ trẻ Tiễn chân anh khóa xuống tàu mà lòng ngơ ngác buồn:

Anh khóa ơi! Em tiễn chân anh xuống tận bến tàu

Đôi tay em đỡ cái khăn trầu, em lấy đưa anh…

Anh khóa ơi! Chữ tương tư vai gánh nặng nề

Giang hồ anh sớm liệu trở về kẻo nữa em mong…

Hơn 60 năm sau, năm 1975, ngay sau khi Nam - Bắc tái hợp, trong vai người vợ sau bao nhiêu năm mòn mỏi chờ chồng, ông nghĩ đó là một sự tái hợp, nên ông Mừng anh khóa về với nỗi mừng vui đến ngỡ ngàng, ngượng ngập và vẹn nguyên trẻ trung, xúc động:

Anh khóa ơi! Nhớ từ khi em tiễn chân anh xuống tận bến tàu

Mấy mươi năm đằng đẵng em những ôm sầu trông đợi tin anh…

Lúc đó, Á Nam xem sự tái hợp Nam - Bắc là một sự trở về của Non và Nước, của Đất Nước và Nhân Dân. Có lẽ sự liên tưởng nào về mặt nội dung của thơ ca cũng ít nhiều là gán ghép. Nhưng đều chúng ta thấy ở nghệ thuật thơ của Á Nam một thực tế khó phủ nhận, rằng, trong khi nhân tình biến đổi, thế cuộc vần xoay, và các hình thức nghệ thuật ào ào tiến lên phía trước, thì, hình như một mình Á Nam Trần Tuấn Khải vẫn đứng lại với thời xa vắng. Ông vẫn đắm mình trong những câu ca, điệu lý, giọng xẩm cổ xưa. Đọc những vần thơ của ông viết bây giờ (tức là những năm 70, 80 của thế kỷ XX), so với những vần thơ ông viết của hơn 60 năm trước, mà thấy dường như âm điệu không hề thay khác. Chúng ta bỗng nhận ra rằng, ông thật là lãng mạn. Ông vẫn như người vợ trẻ thủy chung chờ đợi “Anh Khóa” thuở nào, ông vẫn chung tình với những lời ca dẫu là rất Cũ nhưng thật trong trẻo, tha thiết và quyến rũ của “buổi ban đầu lưu luyến ấy”. Hỏi trong văn học của chúng ta, có mấy ai lãng mạn được như thế? Lãng mạn đâu phải chỉ là đuổi theo những mối tình mới. Lãng mạn có khi còn là ôm mãi một mối tình xưa cũ chẳng tàn phai. Và đến đây, hình tượng “Anh Khóa” sau hơn nửa thế kỷ dường như lại có thêm một ý nghĩa mới, không phải chỉ là cái hình tượng bày tỏ lòng yêu nước thương nòi trong sự chia ly có phần ai oán, não nề của Non và Nước, của Anh Khóa và người vợ trẻ, mà dường như vẫn ngấm ngầm bày tỏ niềm tin sắt đá về một ngày đoàn tụ nhất định sẽ đến sau những phong ba, bão táp của thế cuộc?

Sự “chung tình” hay một triết lý nghệ thuật?

Đọc thơ ông, buộc lòng người ta phải đặt ra câu hỏi: Ông không có khả năng thay đổi? Hay ông không muốn thay đổi? Theo chúng tôi, hình như ông là người không muốn đổi thay. Ông mãi chung thủy với những vần thơ Cũ. Ông mãi là một nhà thơ Cũ giữa thời đại thơ Mới, giữa thời “hiện đại”, hay thậm chí “hậu hiện đại”. Bản thân sự việc đó chẳng nói lên điều gì hay sao? Cũng có thể ông không theo kịp thời đại như có người quan niệm. Cũng có thể ông bảo thủ và cố chấp. Nhưng chúng tôi không cho là như vậy. Và ông không có lý gì phải như vậy. Chúng tôi cho rằng, bằng nghệ thuật của mình, và bằng cả cuộc đời của mình, ông muốn trình bày một triết lý nghệ thuật mà ông kiên trì bảo vệ, rằng:

Không phải mọi cái Mới đều có giá trị và mọi cái Cũ đều vô giá trị. Mọi cái Mới rồi cũng sẽ Cũ, nhưng cái Cũ mà vẫn được chào đón thì nó là luôn luôn Mới. Hướng về dân tộc là một việc nên làm. Nguyễn Du học tiếng nói của người trồng dâu trồng gai trong những lời ca nơi thôn dã (“Thôn ca sơ học tang ma ngữ” - Thanh minh ngẫu hứng) để làm nên truyện Kiều, thì ông cũng học tiếng ca của nhân dân lao động trong câu ví, điệu xẩm, điệu lý để làm nên sức sống cho thơ ca của mình ngay cả khi phong trào “Âu hóa”, “Tây hóa”, “ngoại hóa” đã thành thời thượng trong văn hóa và văn học.

Trong cái thế giới lắm đổi thay thì không thay đổi cũng là một triết lý sinh tồn. Trong cái biến ảo khôn lường của nhân thế, khi vạn vật dường như chỉ còn là một “sát na”, một “điện ảnh” rồi tan biến vào hư không, ông muốn tìm tới chỗ “thường trụ” cho nghệ thuật của mình, đó chính là tiếng thơ, là âm thanh của dân tộc. Điều đó phải chăng là không mới, khi nó đã được kiểm định trong những hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt của văn học hiện đại Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua? Thơ ông đã vượt qua được hoàn cảnh đó. Nó đâu chỉ là lời ca tương hợp với tiếng lòng của con người trong một cung đoạn của lịch sử xa xưa, mà nó còn có thể tương hợp với tiếng lòng của không ít con người bây giờ, nhất là trong thời buổi mà Nhân Dân vẫn mải miết tìm kiếm vai trò chủ nhân của mình với Đất Nước mình, khi mà đời sống văn hóa, đời sống nghệ thuật dân tộc có nhiều dấu hiệu của một sự khủng hoảng, khi mà lơ lửng treo trước mắt nhiều nghệ sỹ bây giờ một câu hỏi chưa hẳn đã được trả lời rốt ráo: “Nghệ thuật của chúng ta đang đi về đâu?”

Tuy nhiên, sự “chung tình” một cách cố ý, thậm chí cố chấp của Á Nam Trần Tuấn Khải không phải bao giờ cũng thành công, nếu không muốn nói rằng nhiều khi thơ ông rơi vào lạc lõng trong thế giới đầy cách tân và thay đổi này. Nhưng ông đã khiến mọi người nghĩ ông đúng là như thế. Và như thế, phải chăng ông đã thành công? Nếu trầm lắng đọc thơ ông, chúng ta sẽ có thể ngộ ra nhiều điều thú vị. Dường như đấy là một triết lý nghệ thuật, thậm chí, một triết lý văn hóa! Theo cách mà Á Nam Trần Tuấn Khải thể hiện thì có thể hiểu, cái mà mọi sự đổi thay, cách tân, hiện đại cần phải dựa vào để tồn tại, chính là truyền thống dân tộc, chính là Dân tộc. Và trầm lắng dưới những dòng thơ hoài cổ của ông, ta vẫn thấy ngân lên tha thiết khát vọng xum vầy của Non và nước, của Đất Nước và Nhân Dân.

HOÀNG KIM THƯ st.

NHỮNG GIAI - THOẠI KỲ THÚ

VỀ NGÀY LỄ NOËL

Đôi guốc Noël trước ống khói và trận mưa tiền vàng

Theo đúng tục lệ cổ truyền, người ta phải đặt guốc trước ống khói mà không phải đặt giày da hay giày vải như dân thành thị vẫn thường làm.

Tập tục trên dường như có liên quan với tích truyện sau đây:

Vào một mùa đông giá rét, giặc Vandales vào nước Gaule, phá hoại tất cả những gì chúng gặp trên đường đi của chúng. Cùng với dân chúng, thánh Crepin và thánh Crepinien phải lên đường lánh nạn. Quá mệt mỏi, hai thánh mới dừng chân lại một túp lều bên đường.

Hai thánh gõ cửa. Một người đàn bà bước ra. Gian nhà thật là tiều tụy. Ở một góc, một em bé hai tuổi đang nằm ngủ. Trong lòng lò sưởi, ngọn lửa leo lét thiêu dần đôi guốc của em bé, có lẽ đó là củi đốt duy nhất mà người mẹ đã bỏ vào lò để sưởi ấm cho con.

Trước cảnh não lòng đó, hai thánh thu hết tàn lực ra vườn hạ một thân cây xuống. Hai thánh lấy gỗ đẽo một đôi guốc xinh xinh - (vì nghề đẽo guốc là nghề của hai thánh), đoạn hai thánh lấy mụn bào nhúm lửa để hong khô đôi guốc. Hai thánh đọc kinh cầu nguyện, vừa dứt lời kinh, từ ống khói rơi xuống một trận mưa toàn tiền vàng.

Câu chuyện trên đây thật là đẹp! Đêm Noël, bạn có thể đặt guốc trước ống khói - nhưng việc chờ đợi một trận mưa vàng… Xin bạn chờ đợi, biết đâu phép lạ sẽ đến với bạn.

Cây Noël và lễ “Rê-vây-ông”

Với lễ Noël và những tập tục khác mỗi năm, trước hết chúng ta nên nhắc đến lễ “Rê-vây-ông” (Lễ nửa đêm).

Chính ở tại nước Đức và các nước thuộc vùng Thụy-Na-Đan (Na-Uy, Thụy-Điển, Đan-Mạch) vào thời Trung Cổ đã nảy sinh ra tục lệ trồng cây Noël mang đầy nến, những viên thủy tinh đủ màu sắc, những tràng hoa lá bằng bạc, những hạt giẻ bằng vàng, những trái “bôm” và đồ chơi nhỏ.

Tục lệ nầy được dân vùng Alsace đưa vào nước Pháp vào năm 1871. Người ta tổ chức tiệc tùng quanh cây Noël sáng lạn.

Ở Anh, lễ Noël được tổ chức rất trọng thể. Chính nữ hoàng Victoria là người đầu tiên đưa cây Noël vào nước Anh.

Dân chúng noi gương của triều đình và việc dựng cây “Noël”, chẳng bao lâu biến thành tục lệ chung.

Còn việc đắp máng cỏ, theo cổ truyền chính thánh François d’Assise đã có sáng kiến đó vào một đêm Noël.

Đuốc S inh N hật (Buche de Noël)

Hầu hết các nước Tây phương, vào đêm sinh nhật, mọi gia đình mừng lễ một cách vui vẻ. Cha mẹ, con cái, tôi tớ, quây quần bên lò sưởi. Bữa áp lễ, người ta đã lo kiếm một khúc gỗ to, có thể cháy từ chiều hôm cho đến quá nửa đêm.

Ngọn lửa ấy gọi là “Đuốc S inh N hật” (buche de Noël). Đang khi cây Đuốc cháy sáng, người ta đọc những tích truyện về lễ Sinh Nhật. Tới giờ “lễ nửa đêm”, chuông nhà thờ trổi dậy, mọi người lẹ làng đến Giáo đường, trên tay cầm một cây đèn ngũ sắc, trông giống như một đêm cộ đèn. Đến nhà thờ chầu lễ, mọi người về nhà nhập tiệc, cây Đuốc Sinh Nhật lần lần bớt sáng cho đến lúc ngọn lửa gần tàn, ngưới ta mới từ giã nhau đi ngủ.

Vì sao lại gọi là Bethleem ?

Cái thành phố nhỏ bé mà khắp thế giới đều biết tên đó, khởi đầu gọi là Ephrata. Nó được nói đến lần thứ nhất trong Thánh kinh. Hai cái tên Ephrata và Bethlétur là do sự dồi dào phong phú của vùng đất bao quanh nơi ấy.

Ephrata có nghĩa là “đầy trái cây”, còn Bethleem chỉ “cái nhà đầy bánh mì”. Ngày nay, người A Rập gọi là Bayt Lahm “cái nhà đầy thịt”, vì nơi ấy tụ tập đông đảo những cừu và dê.

Theo Sciences et Vie

HOÀNG CHÚC st.


Phụ Bản II

Tôi yêu Tiếng Việt

Nói đến sự tồn vong của Tiếng Việt người ta hay nhắc câu “Tiếng ta còn thì nước ta còn” của Phạm Quỳnh. Dân tộc ta đã phải trải qua hàng ngàn năm từ Hán sang Nôm, từ Nôm qua tiếng Việt và phát triển mãi cho đến bây giờ. Từ những chữ tượng hình chuyển qua chữ La tinh chúng ta đã tách ra và trở thành một nước riêng biệt.

Tôi lại liên tưởng ngay đến bài thất ngôn tứ tuyệt, và là bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chống quân Tống lần 1/981 và lần 2/1076:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phân định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư)

Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Bản Tuyên Ngôn khẳng định lại rõ ràng chúng ta không lệ thuộc vào non sông địa lý của ai cả. Chúng ta có ngôn ngữ và chữ viết riêng. Tuy rằng có một số chữ vẫn dùng chung nhưng chữ viết thì hoàn toàn khác.

Chính vì chữ viết liên quan đến dòng lịch sử nên càng phong phú thêm khi Trịnh Nguyễn phân tranh, khi non sông còn chia đôi 2 miền đất nước.

Có những lúc tôi thắc mắc tại sao trong Nam tên đường là Lê Thánh Tôn, ngoài Bắc thì lại dùng Lê Thánh Tông thế thì dùng cái nào là đúng? Có vị nói dùng Tôn hay Tông đều được cả. Sau này tìm hiểu thêm tôi mới phát hiện ra là sau khi Trịnh Nguyễn phân tranh thì những chữ “kỵ húy” chia ra 2 miền rất rõ. Trong Nam kiêng:

Hoàng trùng với Nguyễn Hoàng nên phải đổi là Huỳnh

Ánh trùng Nguyễn Ánh → yếng ví dụ: yếng sáng

Cảnh trùng Hoàng Tử Cảnh → kiểng như cây kiểng, cá kiểng, chậu kiểng…

Con dâu của vua tên Hoa → dân thường phải gọi là bông (cầu Bông), hay là hóa (Thanh Hóa), Hoa hậu → huê hậu, Phàn Lê Huê (hát tuồng)…

Ngô Thì Nhậm (miền Bắc) → Ngô Thời Nhiệm (miền Nam)

Nhưng ngoài Bắc thì không đổi như trong Nam. Bởi vậy cụ Tú Xương qua 8 kỳ thi chỉ đậu dở dang ở tú tài không lên thi Hương được vì hay bị rớt ở khâu kỵ húy (bây giờ ta hay gọi là rớt từ lúc gởi xe).

Ba tôi kể lại lúc di cư vào Nam 1954, người Nam rất hiếu khách luôn mời chào những người mới vào. Nhưng người Nam dùng , người Bắc thì dùng vào, đôi bên hơi khó hiểu nhưng nói: “Dô vào đây” thì ai cũng biết rồi từ từ mới bỏ bớt đi vì hiểu rằng trong trường hợp này ngôn ngữ nói hơi có sự khác biệt còn nghĩa thì như nhau cả thôi.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết bài ca Nối vòng tay lớn có câu: “Từ Bắc Nam nối liền…” chứ không viết vào Nam. Trên đã nói nghĩa giống nhau bây giờ hơi khác một chút: trong bóng đá lại hay dùng chữ: Vàooooooooooo, và uống rượu bia lại hay dùng chữ: Dôooooooooooo.

Sự phong phú của Tiếng Việt còn ở chỗ cũng là một từ nhưng trong từng tình huống lại dùng chữ khác ví dụ như: áo thâm, ngựa ô, mèo mun, chó mực… Nếu theo một số người muốn biến thành công thức cho khỏi rắc rối, đổi thành một chữ ĐEN hết, đọc lên chắc sẽ buồn cười lắm.

Ví dụ như: Ông tôi mặc cái áo thâm, tay cầm ô. Ông thấy con mèo mun và con chó mực đang vui đùa ngoài sân…

Được đổi thành: Ông tôi mặc cái áo đen, tay cầm dù đen. Ông thấy con mèo đen và con chó đen đang vui đùa ngoài sân…

Thầy cô nào chấm bài này chắc cho điểm đen và vào sổ đen luôn. Nói cho vần vậy thôi chứ văn chương không thể máy móc, công thức được. Chấm Toán cứ đúng là 10 điểm còn Văn thì chưa chắc, phải là người Việt yêu tiếng Việt mới thấm từng chữ từng câu; cũng như I ngắn, Y dài…

Đường Lê Văn Sĩ giờ đây đã sửa lại là Lê Văn Sỹ, Cầu Công Lý không thể là Lí được, lịch sử nhà Lý, dòng họ Lý càng không thể đổi thành Lí được mặc dù các em được dạy các môn như Vật Lí, Lí thuyết, Kĩ thuật, Kĩ sư… Ta vẫn dùng chữ giặc Mĩ nhưng lại có cái Sân vận động Mỹ Đình. Ns. Nguyễn Văn Tý bị đổi là Nguyễn Văn Tí chắc buồn lắm, và Tí không thể thay cho Giáp Tý được, bạn thử sản xuất lịch xem có ai mua không? Tí chỉ là tí tẹo, lí chỉ là lí lắc không thể thay cho Lý Trí, Lý Luận, Giáo Lý… được. Name card mà bạn đề Kĩ sư… chắc là khó lấy được tình cảm của khách hàng rồi.

Về cách phát âm thì cũng nhiều chuyện đây, người viết chỉ đưa ra trường hợp cùng một chữ nhưng nếu phát âm sai sẽ là phản nghĩa:

Bài hát Mùa Xuân trên Tp. HCM của Ns. Xuân Hồng cuối cùng có câu “Vui sao nước mắt lại trào”. Đây là vui quá, mừng đến rơi lệ sau bao nhiêu năm đợi chờ nhưng nếu phát âm là “chào” thì nghĩa ắt hẳn sẽ là ngược lại.

Cách đọc các dấu cũng khác với cách viết

Dấu huyền quệt từ trái qua phải, từ trên xuống là đúng

Dấu sắc theo cách đọc là phải đá từ dưới bên trái lên, chếch sang bên phải.

Dấu hỏi theo cách đọc từ dưới đi lên. Cứ nghe người rao bán phở thì rõ nó liền tiếng từ thấp lên cao

Dấu ngã theo cách đọc phải xuống rồi mới lên

Khi được học hỏi sao lại có sự khác biệt như vậy thì được trả lời ràng có lẽ do ban đầu mình viết bằng ngòi bút sắt (có 2 loại: ngòi lá tre, ngòi bầu) mà giấy thì không tốt nếu đá ngược dấu sắc lên thì không được đành phải quệt xuống từ bên phải xuống vậy. Bây giờ giới trẻ có bút bi nên dấu sắc tha hồ đá lên viết cho lẹ.

Trên mới là phần dấu còn một số từ hơi bị ngược ngạo với cách phát âm:

Đứng lên đang trên cao độ lại xuống như muốn bảo người ta ngồi

Chữ xuống trong ngồi xuống như muốn giục người ta đứng lên

Bạn thử hét câu ra lệnh: “Ngồi xuống” coi chừng sẽ có kẻ bật dậy

Chính vì chữ xuống có âm cao nên các nhạc sĩ khi sáng tác luôn để chữ xuống cuối câu và hát nhẹ nhàng hơn

Trời cao hãy đổ sương xuống (Trời cao của Duy Tân)

Hãy ngồi xuống đây (Lê Uyên Phương)…

Cặp chữ trời cao, đất thấp cũng ngược ngạo như vậy. Nhưng đa số lại cho rằng âm điệu của tiếng Việt tự nó đã ngân nga như lời hát. Bạn thử nghe lời rao: Ai ăn bún xào không? Thật lọt lỗ tai phải không?

Để chọn một từ cho hợp có khó hay không hãy hỏi các thi sĩ khi nắn nót từng vần thơ trắc hay bằng sao cho hợp luật. Có khi bài thơ ra đời đã lâu nhưng lại sửa lại 1 chữ cho rõ hơn, hay hơn. Đó cũng là nguyên nhân phát sinh dị bản. Bà Thùy Dương cũng cho rằng có nhiều dị bản (kể cả truyện Kiều) là do“Chính tác giả sửa lại thơ của mình” (CLB Sách Xưa & Nay số 43 trang 32). Bà đưa ra ví dụ bài thơ Chiều xanh của chính tác giả:

CHIỀU XANH

(Tặng CLB thơ Chiều Xanh, Q. PN)

Chiều tà nghe chuyển ráng trời xanh

Ngan ngát hương đưa quyện gió lành

Lả lướt thuyền thơ trôi suối ngọc

Chơi vơi sóng nhạc quyện đàn tranh

Hồn thu lạc bước miền hư ảo

Bến mộng dừng chân cõi tịnh thanh

Một thoáng phiêu du về dĩ vãng

Nghìn sầu ngưng đọng giọt long lanh!

Về nhà tôi đưa cho một cô bạn xem. Cô rất thích và bảo: “Hay lắm, nhưng sao câu chót lại buồn thế?”. Tôi nói: “Vui chứ sao lại buồn?” - “Vui sao lại khóc?”. Thì ra cô hiểu lầm “giọt long lanh” là giọt lệ và nói: “Có gì mà buồn thê thảm đến thế!”. Tôi nói: “Xưa thì là giọt lệ đấy, nhưng nay thì giọt lệ đã thăng hoa, ngưng đọng thành những giọt châu” và tôi tin chỉ có cô không hiểu mà thôi. Nhưng vài tuần sau tôi lại nhận được một lá thơ của một nam thi hữu ở một tỉnh xa. Ông rất thích bài thơ và đặc biệt 2 câu chót đã gợi cho ông một sự thương cảm rất sâu sắc, vì thế ông mạn phép họa lại và an ủi tôi. Nguy hiểm quá! Câu thơ mình tâm đắc nhất đã được bạn bè yêu thích, nhưng lại được hiểu ngược nghĩa 1800! Nhưng đã phổ biến rồi làm sao lấy lại? Vì thế khi lên tập thơ của nhóm Chiều Xanh, tôi đã phải đổi lại “giọt long lanh” thành “hạt long lanh”, chắc chắn ai cũng hiểu là hạt châu, hạt ngọc, không thể là hạt lệ!

Nhiều bài nhạc đã hay nhưng sau một thời gian chính tác giả lại sửa lại ca từ như bài “Con đường xưa em đi” (Châu Kỳ), Vinh Danh Thiên Chúa (Hải Linh) chỉnh lại độ ngân hoặc chỉnh ô nhịp…

Tôi vẫn thường dùng từ điển tiếng Việt để tra cứu. Có người nói cần gì, nhưng vẫn phải dùng vì văn nói khác mà văn viết khác. Có từ dùng để nói nhưng khi viết văn thì phải dùng sao cho thanh tao chứ không cứng cáp, thô tục được. Có những từ phải sử dụng một thời gian dài mọi người chấp nhận rồi mới đưa vào từ điển được nên cứ dùng từ điển mất công một chút nhưng chắc ăn không sợ sai.

Người ta cứ vịn cớ VN chưa có Hàn Lâm viện. Xin thưa thời vua Lê Thánh Tôn đã có sáng kiến thiết lập một hàn lâm viện văn học thực thụ dưới danh hiệu Tao Đàn nhị thập bát tú (1459) trước cả các nước Ý, Pháp, Anh… nữa (xem hình bên)

Thiết nghĩ muốn làm việc này cũng đâu có gì khó còn hơn là tiêu biết bao nhiêu tiền vào đào tạo những vị chẳng làm được gì cho văn học nước nhà có khi còn ngáng đường đi của những người khác…

Tại hải ngoại trẻ em vẫn được học tiếng Việt và trong những gia đình Việt Nam sống tại đó, Tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chính sử dụng trong gia đình.

Sách dạy tiếng Việt - Con Tim Việt Nam - của nhà xuất bản Tuổi Hoa, dành cho trẻ em gốc Việt ở hải ngoại, đang học tại các trường công lập, cuối tuần học tiếng Việt tại các Trung Tâm Việt Ngữ. Bộ sách này đang được chính thức sử dụng tại Highline Public Schools, Washington và Westminster School District, California cũng như tại nhiều trường và trung tâm Việt Ngữ.

Ngôn ngữ & Văn Hóa của Quyên Di là bộ sách tiếng Việt cao cấp, đang được chính thức sử dụng tại đại học UCLA và Cal State University, Long Beach cũng như tại học khu Garden Grove, California.

Nhiều người Việt xa quê hương tình cờ nghe ai đó nói tiếng Việt thế nào cũng lân la tay bắt mặt mừng để hỏi chuyện, hỏi thăm quê hương, thăm bà con mình. Dĩ nhiên với thời đại Internet như ngày nay thì mọi chuyện trên trời dưới đất đều rõ cả, nhưng không phải ai cũng có thể nghe những gì mình muốn biết rõ ràng, những giọng nói thân thương mà chỉ vùng miền của mình mới có…

Thế nên dù có thông thạo Anh, Pháp, Nga, Hoa, Nhật, Hàn… nhưng tiếng Việt vẫn là tiếng mẹ đẻ. Tiếng ấy đã ngấm sâu trong máu khi còn nằm nôi đã nghe những lời ca dao, những câu hò… trẻ bây giờ còn nghe thêm nào là Mozart, nào là Beethoven trong thai kỳ nữa để tăng thêm IQ cho sau này… thực ra thì ngay khi mới tượng hình cho đến khi chào đời, đứa bé vẫn thường được người mẹ - đôi khi cả người cha - âu yếm, thương yêu nựng nịu không chỉ bằng những cái vuốt ve mà còn dùng cả những lời nói tràn đầy yêu thương để trò chuyện, thủ thỉ, thầm thì với đứa con yêu quý của mình về tình yêu thương, về những mong ước tốt lành của mình dành cho đứa trẻ, thậm chí tâm sự với con cả những suy nghĩ, tâm trạng của mình trong thời gian cưu mang này (thường được gọi là thai giáo)…

Nhạc sĩ Phạm Duy có bài hát rất nổi tiếng:

“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…”

Có người trước khi chết còn muốn nghe lại câu hò quê hương, nghe lại câu dân ca, lời hát ru mới xuôi tay nhắm mắt được.

Xin dâng một nén hương kính nhớ các vị tiền bối đã có công khai sáng chữ viết từ Hán sang Nôm, từ Nôm sang chữ Việt, để chúng tôi là những hậu sinh được thừa hưởng những sự nghiệp lớn lao của các ngài.

Xin trân trọng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và truyền lại cho thế hệ mai sau những câu nói, những tiếng hát, tiếng ru à ời mẹ cha thủ thỉ khi còn nằm trong nôi.

HÀ MẠNH ĐOÀN


Mộ ngài Alexandre de Rhodes trong một nghĩa trang nằm ở ngoại ô của thành phố Esfahan, Iran.

THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI

BÀI THƠ BÁN CHIẾU…

1. Thân thế Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi sanh năm 1380 mất năm 1442, là bậc khai quấc công thần của nhà Hậu Lê. Ông được giữ chức Nhập Nội Hành Khiển tức là Tể Tướng. Năm 1439 ông về trí sĩ. Vì vụ án Lệ chi viên ông bị tru di tam tộc năm 1442, lúc nầy ông 62 tuổi. Tôi võ đoán rằng Nguyễn Trãi gặp Nguyễn Thị Lộ vào khoảng trước 1439 vì còn là quan to thì các cô gái trẻ chuộng hơn. Đương nhiên họ cũng chuộng luôn cả văn chương, sự nghiệp của ông nữa. Như vậy Nguyễn Trãi gặp Nguyễn Thị Lộ vào khoảng chưa đầy 60 tuổi nên hồn xuân có lẽ còn rạt rào lắm. Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ 73 tuổi còn cưới nàng hầu 18 tuổi kia mà.

Tục ngữ có câu “Đặng chim bẻ ná, đặng cá quên nơm”. Nhóm quan trẻ có khi cũng ganh tị và cách cư xử của họ có khi gần gũi và được lòng của vua Lê Thái Tôn hơn.

2. Bài thơ Bán chiếu

Trong hoàn cảnh triều đình thời bấy giờ, ông quan già đệ nhứt công thần Nguyễn Trãi ắt kém vui do đó nên ông xin về trí sĩ vào năm 1439. Dù Nho giáo khắt khe nhưng thời phong kiến, dân gian thường nói:

Làm trai năm thê bảy thiếp,

Gái chính chuyên chỉ có một chồng .

Khi quan Phan Thanh Giản, một vị tiến sĩ, một quan to của triều đình ra kinh đô Huế công tác thì đồng liêu khuyên ông cưới vợ hai nhưng ông không chịu. Trong tâm trạng buồn, gặp cô gái trẻ đi bán chiếu, nếu Nguyễn Trãi cợt nhả chút tưởng cũng không có gì quá đáng.

Về bài thơ “Bán chiếu” có phải của Nguyễn Trãi không? Khi thấy người con gái trẻ đi bán chiếu, với tâm trạng không vui thì ông kêu hỏi bâng quơ:

Ả ở đâu đi bán chiếu hôn ?

Hỏi xem chiếu ấy hết hay còn ?

Vừa hỏi cho vui miệng, vừa hỏi vô lý để khích cô gái trẻ trả lời. Thấy cô gái quay lại và đẹp quá nên ông ỡm ờ luôn:

Xuân thu nay được bao nhiêu tuổi

Đã có chồng chưa, được mấy con.

Không ngờ cô gái đáp trả ngay:

Tôi ở Hồ Tây bán chiếu hôn

Việc chi ông hỏi hết hay còn

Xuân thu nay được trăng tròn lẻ

Chồng còn chưa có, có chi con !

Ứng khẩu mà đáp được ngay thành bài bản thì phải nói là giỏi dù chỉ đổi một số từ từ hỏi sang trả lời thôi. Thế là hai người tiếp cận nhau và đi tới lấy nhau.

Bài thơ “Bán chiếu” được loan truyền như thế nào? Quan to đi ắt có cận thần theo bảo vệ. Họ nghe được và truyền nhau, sau đó ra tới nhơn dân.

Người làm thơ có quyền đặt ra từ mới để diễn đạt. Ban đầu nghe lạ nhưng chấp nhận được. Nghe quen, về sau nếu thông dụng thì đời sau tìm cách giải nghĩa. Việc đặt ra từ mới tưởng đã thông dụng trong dân gian. Thí dụ với tục quý danh, ông bà tên “Đức”, con cháu không được nói “Đức” mà phải nói trại ra là “Đước”. Ông bà tên “Thố”, gặp cái “Thố” người ta nói cái “Thiệp”. Nghe lạ nhưng chưa ai tìm ra từ gần với “Thố” mà thay nên cứ dùng từ “Thiệp” cho gia tộc nhà đó.

Làm thơ cũng vậy, khi cần, nhà thơ tự đặt ra từ để đọc nghe có âm điệu hay và giải quyết sự kẹt vần. Thí dụ khi tả con trâu già, Nguyễn Khuyến viết:

Một nắm xương, một nắm da

Bao nhiêu cái ách đã từng qua

Đuôi kia biếng vẩy Điền Đan hỏa

Tai nọ buồn nghe Ninh Tử ca

Sớm thả đồng đào ăn đủng đỉnh

Tối về chuồng quế thở nghi nga.

Có một bài thơ cũng tả trâu già của Huỳnh Mẫn Đạt làm quan triều Nguyễn từ 1847 trong khi Nguyễn Khuyến sanh năm 1835. Bài của Huỳnh Mẫn Đạt thì bốn câu đầu có khác mấy chữ: kia, nọ, buồn và Ninh Tử ghi Ninh Thích thôi. Bốn câu cuối ý giống nhau nhưng từ dùng khác nhau. Tôi cứ theo bài học hồi lớp 11 (1958) mà chép ra thôi. Tra trong Việt Nam Tự Điển của Hội Khai trí Tiến Đức thì không có từ “nghi nga”. Từ “nghi nga” nó gần với từ “ngân nga” hay “ngâm nga” nên con trâu ung dung thở chớ không thở mệt như “phì phà”.

Trần Tế Xương làm bài thơ dặn học trò đi thi, ông viết:

Đi thi đi cử, các thày nho

Ta dặn điều nầy, phải nhớ cho

Ra phố, khăn ngang quàng lấy mặt

Vào trường, quần rộng xắn lên khô.

“Xắn lên khô” là gì? Phải nói “xắn lên cao” mới đúng. Nhưng có từ “khố” là vật dùng che hạ bộ đàn ông nên ông nói “xắn lên khố”. Nhưng vần “o” bằng mà nói “khố” không được nên phải nói “lên khô” vậy, dù có trái khoáy đôi chút.

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu viết bài “Sự nghèo”:

Người ta hơn tớ cái phong lưu

Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo

Cảnh có núi sông cùng xóm ngõ

Nhà không gạch ngói, chẳng gianh pheo.

Tra trong Tự điển Việt Nam, từ “pheo” không có. “Gianh” là cỏ tranh lợp nhà, làm vách được. Người ta thường nói “vách phên”, tôi cho là túng từ và vần “eo” nên gần với từ “phên”, ông đặt ra từ “pheo” đó thôi.

Khi Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ cưới cô hầu trẻ 18 tuổi, cô này hỏi tuổi thì ông đáp:

…Ngũ thập niên tiền nhị thập tam

Tình đã chung mà lứa cũng vam

“Vam” là gì? Cũng tra trong Tự điển Việt Nam không có từ nầy. Nay tôi suy luận rằng “vam” là “vừa” hay “được”.

Nguyễn Trãi là một danh nho, là một quan đại thần nên khi đi hẳn có quan cận thần, có người bảo vệ đi theo, họ có trò chuyện với nhau không? Tôi cho là có. Khi nhắc lại bài thơ, có lẽ họ cũng khen Thị Lộ nhanh nhẩu, trả lời xác đáng và ý tứ hay nên Nguyễn Trãi đọc lại

Ả ở đâu đi bán chiếu hôn ?

Hỏi xem chiếu ấy hết hay còn ?

thì thấy từ “hôn” dù đúng nhưng nghe không được xuôi tai nên ông sửa thành “gon” cho xuôi tai hơn.

Ông Nguyễn Văn Sâm trưng ra bài thơ khác của Nguyễn Trãi khác xa hơi hướm bài ghẹo Thị Lộ như trắng với đen. Đồng ý là vậy. Nhưng đây là bài văn nói, có lẽ Nguyễn Trãi cho rằng nói cho vui rồi bỏ thôi. Vả lại người bình dân, người nông dân diễn tả trong lúc hát hò cho vui cũng nhẹ nhàng thanh thoát lắm nên tôi cho bài thơ nầy là sự kiện bình thường. Nhưng bài thơ hay của thời Nguyễn Trãi có lẽ khác với bài thơ hay ngày nay. Ngày xưa hay thì ý tứ phải súc tích có điển tích, hay qua từ ngữ người tả cảm thấy là sự diễn đạt bao hàm câu nói của cổ nhân, thể hiện sự học nhiều, hiểu nhiều… nên có khi có bài thơ người xưa khen hay, ta đọc không thấy hay. Vậy bài thơ sáng tác in thành sách để truyền tụng thì khác hẳn với bài thơ nói cho vui rồi bỏ. Bài thơ “Bán chiếu” còn truyền lại tôi cho là không phải Nguyễn Trãi truyền lại nên trong chính sử không có.

Tóm lại, tôi cho rằng bài thơ ghẹo Thị Lộ là của Nguyễn Trãi được lưu truyền có lẽ từ 1439 tới nay. Bài “Con gái nhà ai bán rượu ngon” được chép trong sách chữ Nôm có ghi chép ngày mùng 10 tháng 8 năm Tân Dậu (1921) sau bài “Bán chiếu” gần 500 năm nên tôi cho rằng ai đó bắt chước bài “Bán chiếu” của Nguyễn Trãi mà viết cho vui dù xuất hiện cách nay 200 năm vẫn sau bài của Nguyễn Trãi vài trăm năm đó. Với lập luận như vậy, tôi cho là bài thơ ghẹo Thị Lộ là của Nguyễn Trãi.

3. Việc nghi ngờ tác giả tác phẩm “Gia Huấn Ca”

Việc nghi ngờ tác giả, khi còn học cấp 2, giữa thập niên 1950, các giáo sư Quấc văn có nói đến hai tác phẩm là Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm và Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi.

Tác phẩm Chinh Phụ Ngâm thì dựa vô câu nói của ông Phan Huy Ích ghi rằng ông có dịch tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn ra chữ Nôm. Giáo sư Quấc văn thì lý luận rằng bản Chinh Phụ Ngâm chữ Nôm mang tánh cách đàn bà. Ví dụ:

Chín lần gươm báu trao tay

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh

nó không mạnh như nguyên tác. Nếu là nam giới dịch thì phải có khí thế mạnh của người lính mới đúng. Hơn nữa giữa Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm có lây dây chuyện tình mà bà Điểm chê ông Côn là còn kém. Nay đọc thấy tác phẩm Chinh Phụ Ngâm hay quá nên bà tiếc nên kết thúc tác phẩm bằng câu:

Ngâm nga mong mỏi chữ tình

Đối với tác phẩm Gia Huấn Ca thì giáo sư nói chỉ nghi ngờ thôi chớ không thấy gì xác đáng nên không nói được. Bản thân tôi cũng có dạy Quấc văn trước 1975, có dạy tác phẩm Gia Huấn Ca nhưng không có tác phẩm nầy trong tay nên khó bàn và với tuổi gần 80 nên tôi cũng không vô thư viện để tìm đọc. Tuy nhiên tôi còn nhớ một số câu trong Gia Huấn Ca như:

Ngày con đã biết chơi biết chạy

Đừng cho chơi cầm gậy trèo cao

Đừng cho chơi búa chơi dao

Chơi vôi chơi lửa, chơi ao có ngày

Lau cho sạch không hay dầm nước

Ăn cho vừa, đừng ước cao lương.

…..

Nhà chẳng quét, quét hay có rác

Đã bói ra, bỏ nhác sao đành.

Thương người như thể thương thân

Người ta phải bước khó khăn đến nhà

Đồng tiền bát gạo mang ra

Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên.

…..

Làm dâu thì chỉ kính mới nên

Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền.

…..

Đường công danh có chí thì nên...

Trở lại hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ. Sau khi thắng quân Minh thì quấc khố như thế nào? Dân khốn khổ thời chiến tranh thì nay ổn định lòng dân yên phận làm ăn, phấn đấu học hành để tiến bộ là chánh. Tôi thấy Gia Huấn Ca dạy việc ổn định cuộc sống trong nhà rất chu đáo, lại khuyên cố gắng học hành để tiến bộ nữa. Do đó, hơn 30 năm sau, đến đời vua Lê Thánh Tôn (1460) thì nước nhà cực thịnh. Từ đó tôi suy ra rằng người viết tác phẩm Gia Huấn Ca phải là người có tài an bang tế thế nên gán cho Nguyễn Trãi là tác giả là đúng lắm.

Người xưa thường nói rằng “Nôm na là cha mách qué” nên bậc đại nho như Nguyễn Trãi, ông không chú ý đến thơ Nôm đâu. Tác phẩm dạy vợ con trong nhà thời đó thì cần viết cho dễ hiểu để phổ quát trong toàn dân là chánh.

Khánh Hội - Quận 4 Sàigòn 06-11-2017

PHẠM HIẾU NGHĨA


Có ngọn gió

mang tên Hạnh Phúc

Có ngọn gió mang tên Hạnh Phúc
Thi thoảng bay ngang
Những chiếc lá xôn xao cười nói
Cỏ xanh thêm
Màu nắng cũng xanh thêm

Ngọn gió khẽ nghiêng chao
Hương tỏa
Ánh trào

Và ngọn gió bất chừng bay mất
Nhanh và nhanh
Ngỡ giấc mơ nồng bất chợt tỉnh ra
Đâu nào ?
Đã rất xa

Những tán cây đìu hiu ngóng đợi
Mây cũng ngừng bay xõa xuống phía chân trời
Đôi ba chiếc lá ngẩn ngơ chiều sau cuối
Không tiếng tạ từ
Thăm thẳm khuất vào đêm

Vành trăng rơi
Lặng lẽ bên thềm.

ĐÀM LAN

NỐT LẶNG

PHÍM DƯƠNG CẦM

Tiếng đàn thẫn thờ, nhịp tim buông chậm

Dấu tình sầu còn vương vấn ngày đêm

Hơi thở nghẹn ngào hay là ngấn lệ

Bởi mong chờ dẫu mòn mỏi chưa quen

Phím dương cầm đứng im nơi dấu lặng

Tái tê người bên nốt nhạc xanh xao

Có còn không chút dư tình Tháng Chạp

Mong manh đất trời… hay thất lạc nhau

Thinh không ngọn sóng lao đao đáy vực

Tiếng đàn ai bay bổng cõi mơ hồ

Tìm đâu hư vô gõ xuống cung tơ

Thoáng qua rồi có kịp níu giấc mơ !

Tuyết lạnh lẽo phủ hàng cây Tháng Chạp

Đông úa tàn cây cỏ dẫu trăm năm

Mây xám co ro mặt trời ủ rũ

Kìa dáng ai, nghiêng ngả phím dương cầm…

Phạm Thị Minh-Hưng

Giáng Sinh Nguyện Cầu

Noel lấp lánh ánh vàng,

Đèn hồng, xanh, đỏ trên cành thông reo,

Rộn ràng náo nức, đèn treo,

Không gian rực rỡ, ánh sao trên trời.

Ôi ! Chúa Giáng Sinh Ra Đời,

Đem bao ước vọng, muôn người chờ mong,

Mừng Chúa Giáng Thế, đêm đông,

Nghìn lời cầu chúc, ước mong điều lành,

Cầu cho cuộc sống yên bình

Cầu cho hạnh phúc gia đình an vui,

Cầu cho tình thắm lứa đôi,

Cầu cho ước mộng đời đời nở hoa,

Cầu cho yên ấm quê nhà,

Cầu cho lúa chín, mặn mà tình quê,

Mong sao vẹn chữ “Hẹn Thề”

Năm Châu, Bốn Biển, ta về bên nhau,

Tình nồng ấm áp quên sầu,

Mừng Chúa Giáng Thế... Nguyện cầu... Thiết tha...!

Phạm Thị Minh-Hưng

Nguồn cội

Lập địa khai thiên

Rợp bóng cờ

Lạc Long Quân

Với mẹ Âu Cơ

Dựng xây nòi giống

Vun nguồn cội

Bồi đắp giang sơn đẹp cõi bờ

Góp sức - rạng danh

Tài chói sáng

Chiến công lừng lẫy

Chẳng phai mờ.

NGÀN PHƯƠNG

Chạnh lòng

Nhìn Chúa chịu cực hình trên thập giá

Hai ngàn năm cuộc sống lặng lờ trôi

Ta sực tỉnh chuông giáo đường rộn rã

Chạnh thương mình lạc lõng kiếp đơn côi.

NGÀN PHƯƠNG

GIÁNG SINH 

Chợt thèm khói thuốc ấm bờ môi

Khắc khoải hồi chuông - sao đổi ngôi

Băng giá hồn ta lời hẹn cũ

Giáo đường lặng lẽ - mất em rồi.

Mừng Giáng Sinh

Loài ác điểu hãi hùng kêu tuyệt vọng

Cả hành tinh run rẩy ngập ngừng xoay

Chuông giáo đường dồn dập đổ mê say

Chúa hiển hiện - giang vòng tay cứu rỗi.

Chuông giáo đường

Cô đơn suốt mấy ngàn năm

Hồn tăm tối chợt trăng rằm vụt lên

Thánh ca dìu dặt mông mênh

Xóa tan tội lỗi bồng bềnh gió mây.

NGÀN PHƯƠNG

BÔNG MAI ĐÊM NOËL

Đêm Noël

Chúa cho tôi một bông mai

Không mượt mà nhung thắm

Không tuyết trắng kiêu sa

Một đóa mai vàng trên nền xanh lá

Tôi nâng trên tay

như trôi đi

Giữa ngàn sao lạnh giá

mà ấm nồng lửa than

Tìm đâu nơi thiên đàng

Con xin Chúa được mãi ở đây

Nơi trần thế

Trên mặt đất cỏ mềm

Có sắc mai vàng

với bao chồi nụ biếc xanh

Và hạt sương ngấn lệ long lanh.

Noël 1999

LÊ NGUYÊN

DẠ TIỆC

Viết cho L.

Còn món quà nào tuyệt vời hơn

Còn nụ hoa nào ngát thơm hơn

Trong tiếng chuông ngân nga mừng Chúa

Như niềm vui con trẻ được quà

Lấp lánh sao trời và sao dưới đất

Những ngọn đèn màu cũng muốn thành sao

Em chẳng muốn làm ngôi sao đẹp nhất

Em chỉ muốn là mình được nhận và trao

Nghe tiếng em xa hóa thành gang tấc

Như tay trong tay, mắt chìm trong mắt

Nào có gì đâu phép nhiệm màu

Quà vẫn để dành cất giữ cho nhau

Nụ hoa tình chẳng bao giờ mất

Đủ ru êm xoa dịu niềm đau

Món quà ấy không thể nào mua được

Trong trái tim, đâu phải kiếm tìm xa

Còn hơn cả tuyệt vời mong ước

Đêm Noël thành dạ tiệc rượu và hoa.

Đêm Noël 2007

LÊ NGUYÊN

HOÀNG HÔN

Hoàng hôn ngả bóng bên song cửa

Mây tím giăng đầy lối cỏ xanh

Mắt đẹp sầu thương trong ngấn lệ

Tim yêu dâng ngát mối hương tình.

Ngùi thương tuổi mộng lướt qua mau

Để lại tâm hồn nỗi đớn đau

Gác vắng bao năm buồn gối lẻ

Ngàn hoa phai sắc, nắng phai màu.

Em đã chờ anh tự bấy lâu

Chiều thu hoa cỏ nhuốm sương sầu

Đầu đông, hoa tím đơm ngoài giậu

Đưa đón tình quân bắc nhịp cầu !

Đời đã hoàng hôn, em có hay ?

Chiều đông, gió bấc lạnh lùng thay !

Thuyền neo bến vắng chờ anh đến

Đưa đón nhau về cõi đắm say !

THANH PHONG

DẤU CHẤM HỎI

Tình yêu có còn mãi không em ?

Có mãi ngời xanh trong ấm êm ?

Như ánh trăng pha màu ngọc bích

Hay như cơn gió thoảng qua rèm ?

THANH PHONG

CẢM XÚC: CHIỀU

Vẫn biết bướm, hoa tuổi xế chiều

Xuân về vui thỏa biết bao nhiêu

Hoa trêu, bướm lượn vui tâm trí

Mây, gió giao kề bớt quạnh hiu

Dẫu biết tuổi xuân đã cuối chiều

Trái tim còn đập vẫn còn yêu

Mai, đào đến hạn dần phai sắc

Thi phú, tao đàn mãi nét yêu

Hoa bướm, bướm hoa dưới nắng chiều

Không còn e ngại bóng đìu hiu

Tri âm, tri kỷ tình ươm mật

Vẫn đứng chờ nhau dưới bóng chiều.

HOÀNG CÚC

Thành phố vào xuân

Thành phố vào xuân mùa gió mới

Văn minh sạch đẹp nẩy đâm chồi

Gia đình hạnh phúc hoa đua nở

Con trẻ bên xuân khoe áo mới

Người già vui khỏe sống yêu đời

Nêu gương con cháu làm điều tốt

Xây dựng gia đình: mạnh khỏe, vui

Kinh tế đi lên công nghiệp hóa

Công trình, nhà máy nở như hoa

Bướm vờn cánh mỏng bay trong gió

Én lượn vòm trời cánh tự do

Đất nước yên bình hòa bốn bể

Năm châu xích lại để vui chung

Văn minh nhân loại cùng đua nở

Thành phố vui xuân mãi đón chờ.

11.11.2017

HOÀNG CÚC

THIÊN TAI LŨ LỤT

(năm 2017)

Đầu tháng chín và mười

Năm hai nghìn mười bảy

Thêm đầu tháng mười một

Vài xã của Sơn La

Vài xã ở Yên Bái

Hòa Bình rồi Hà Tĩnh

Quảng Bình cũng vài nơi

Đã trải qua lũ bão

Trong cơn bão mười hai

Vùng Tây nguyên miền Trung

Bão đã tới Khánh Hòa

Nhà trôi và mất lúa

Thiệt hại người và của

Vài trường học tan hoang

Đồng bào ôi thương quá

Nhìn về những thủ đô

Miền Nam trời thân thương

Hoa quả tươi trái đẹp

Gạo tôm cá đầy ghe

Tràn trề sang nước ngoài

Các cấp lãnh đạo ta

Đã tới nơi thăm hỏi

Giúp đỡ và sẻ chia

Anh em các nước bạn

Đã hỗ trợ tiền nong

Hãy dành cho vùng nghèo

Tình thương lành ấm áp

Trong cơn hoạn nạn này

Đói no cùng sẻ chia.

10.11.2017

QUAN THÚY MAI

Bài thơ giao hữu

Kính chào bằng hữu buổi sơ giao

Nhân lúc tương phùng mến tặng nhau

Tiếng nhạc Bá Nha mừng bậu bạn

Lời thơ Lý Bạch kết trăng sao

Chung trà thân ái thêm lưu luyến

Chén rượu nghĩa tình mãi khát khao

Vui vẻ tinh thần văn nghệ sĩ

Kính chào bằng hữu buổi sơ giao.

Thanh Châu

LẺ LOI

Chiều thu lá úa, khói giăng mờ

Gió gọi chim muôn, hội tấu thơ

Rừng tím ngỡ ngàng sương pha muối

Đồi cao lưu luyến nắng se tơ

Thông xanh nhớ bạn reo sầu não

Lối vắng chờ ai lặng hững hờ

Trên nẻo đường trần, sao lẻ bóng

Cô đơn lầm lũi bước làm ngơ.

Thanh Châu

TÌNH TRONG MỘNG

Thương em, anh trải tấc lòng

Thương em với cả tình nồng vị tha

Thương em lời nói gấm hoa

Thương em rực rỡ như là vì sao

Thương em duyên dáng hoa đào

Thương em chung thủy, duyên nào gặp em.

Thanh Châu

NẾU

Riêng tặng 1 người

Nếu một ngày không có anh

Ta tìm nhau qua đường nhỏ

Nếu một ngày em vắng anh

Bướm có cùng hoa bày tỏ

Nếu một ngày không thấy anh

Bước chân rong ruổi kinh thành

Mưa sẽ nhạt nhòa mắt biếc

Cho em giọt lệ long lanh

Nếu một ngày không với anh

Dìu nhau dưới ánh trăng thanh

Em về ôm lòng đơn lẻ

Một mình ôn chuyện ngày xanh

Nếu một ngày em xa anh

Dạ hương rơi rụng trên cành

Đêm thổn thức lời yêu cũ

Em mang theo tình mong manh.

HOÀI LY

KHI TRỞ VỀ

Tặng T.Nga

Khi ta trở lại nơi này

Vườn xưa đã khép dấu giày rong rêu

Giọt buồn lặng lẽ trong chiều

Nghe hoang sơ đến đìu hiu cõi lòng

Dường như trời sắp vào đông

Mà sao quạnh vắng quá chừng nơi ta

Giờ người ấy đã rời xa

Còn đây một khúc tình ca cuối cùng.

HOÀI LY

Màu hạnh phúc

Hạnh phúc không kiếm tìm ở đâu xa
Tình yêu không nở hoa, hoa úa tàn
Đời sẽ khép khi tim mình khép lại
Hãy sống biết yêu thương biết mỉm cười
Hạnh phúc là tình yêu giữa con người
Khi người ta cho tình yêu say đắm
Khi người ta nhận tình yêu đầm ấm
Khi người ta tan vào những nụ hôn
Khi người ta miên man trong cảm xúc
Người ta sẽ nhận ra màu hạnh phúc
Xanh đỏ vàng lục lam chàm tím tím
Màu của hạnh phúc của tình yêu thương.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Những con chữ đầu tiên

Khi còn nằm nôi
Tiếng nói đầu tiên của bé a...a...
Không cần má dạy
Như tự nhiên của đất trời
Tiếng nói đầu tiên
Tiếng nói yêu thương
Bập bẹ từ đôi môi hồng xinh xắn
Ba...Ba... Bà...Bà... Má...Má...
Trái tim người mẹ
Dịu dàng hát ru con
Lời ca dao mượt mà
“Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm”
Lời ru chao lượn theo hương gió
Rót vào tai bé
Đưa bé vào giấc ngủ êm đềm
Em bé lớn lên
Mẹ dắt tay bé đến trường
Bé học từng con chữ
A... B... C...
Những con chữ đầu tiên Ba…Má
Gắn kết tình yêu thương
Những con chữ dài theo năm tháng
Tạo nên một nhân cách
Một con người
Biết yêu văn hóa lịch sử
Yêu quê hương đất nước con người Việt Nam.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

TỰ ĐẮC

Người khoe hơn tớ cảnh giàu sang

Tớ cũng hơn người cái máu ngang

Danh lợi tuy nhiều anh vất vả

Tiền tài dẫu ít bậu thênh thang

Bụng đầy thơ phú không lo mất

Túi lép bạc vàng khỏi sợ mang

Lếu láo chuyện đời vài cốc rượu

Thả hồn mây gió thấu cung hằng.

LANG NGUYÊN

ĐỒNG TIỀN

Đồng tiền trong túi chẳng đâu xa

Đến lúc muốn xài tiết kiệm ra

Xã hội bao người tìm rất khó

Cá nhân lắm kẻ đã tiêu pha

Nếu đem cứu trợ thì hay mấy

Mà cứ để quên mất nghĩa nhà

Lãng phí rượu chè sao hữu ích

Không bằng làm phúc lợi dân ta.

LANG NGUYÊN

TÌNH CA BOTANY

Từng đàn Hải Âu

Bay trên sóng êm

Từng đàn Hải Âu

Ríu rít êm đềm

Vịnh Botany

Sóng nâng biển biếc

Tình đá trinh nguyên

Vui bên biển em

Hải Âu chao nghiêng

Ríu rít bên thềm

Hải Âu reo vang

Sức sống dâng tràn

Tình yêu thênh thang

Biển biếc mơ màng

Botany biển hát

Tình ca âm vang.

PHÙNG CHÍ TÂM


Trăn trở

Bình minh rồi lại hoàng hôn

Mình Em lẻ bóng nghe hồn tái tê

Kéo dài kiếp sống lê thê

Gởi theo mây gió ê chề thâu canh

Nhủ thầm số phận thôi đành

Mưa say ai oán mộng Anh mịt mờ

Nhờ Trăng gửi mấy câu thơ

Tình ơi hỏi có đợi chờ ta không ?

Ơ kìa gối lệ sầu đông

Vừa rơi xuống giọt tình hồng tương tư

Nửa đời sao mãi thế ư ?

Ta tìm ta hỏi bây chừ nhớ ai ?

VŨ THÙY HƯƠNG

Tự tình

Gặp nhau chiều ấy mưa giông

Để rồi nhung nhớ có ngông không nào ?

Từng đêm chợt tỉnh chiêm bao

Chăn đơn gối chiếc nghẹn ngào hỏi Trăng

Ai phong trần ! Ai hồng trần !

Để tình ta mãi nửa gần nửa xa

Cuộc đời đầy rẫy phong ba

Trái tim rỉ máu xót xa muôn phần

Tình ơi hỏi có thanh tân

Cho ta trang điểm hương xuân đời mình

Để quên năm tháng vô tình

Để quên chiếc bóng tự tình đơn côi.

VŨ THÙY HƯƠNG

PHẬN BẠC

Ta còn nửa gánh sầu Đông

Em còn nửa mộng Xuân Hồng lệ rơi

Nhặt gom Vinh - Nhục phận người

Cùng Trăng say khướt trên đồi ngụ ngôn

Thùy Hương ơi ! Mất hay còn ?!

Sao Ta ! Đời vẫn hoàng hôn bóng chiều

Còn Em ! Phận bạc cô liêu

Trái tim rách nát dáng Kiều xanh xao

Nợ duyên đâu biết thuở nào ?

Bỗng dưng gặp gỡ ! Lời chào hỏi thăm

Ô hay ! Tình ngỡ tri âm

Tháng ngày như vẫn nửa gần nửa xa

Đâu hay những giấc mơ hoa

Thơ tình lưu dấu ! Tình Ta với Nàng

Thùy Hương ơi ! Có mộng vàng

Hãy cùng Ta nhé ! Viết trang SỬ TÌNH.

Ngày đầu tháng Hạ

HẢI ÂU

CÓ EM

Tạ ơn Em ! Vẫn còn Em trong Trời Đất

Cho Ta về ! Tình chẳng hóa câm

Bây giờ Ta đã có Em

Trang thơ đầy ắp ước nguyền TÌNH YÊU.

HẢI ÂU

KỶ NIỆM

Có những người mê say cùng kỷ niệm
Ôm vào lòng bao năm tháng phong rêu
Tô thêm phấn vào đôi má ngọt ngào
Của ngày xưa, mà giờ xa xôi lắm.

Có những người, không gian đâu dài ngắn
Trời bên này nối với đất bên kia
Bằng, ô hay! quyển lưu bút long bìa
Hoặc mộc mạc đôi khuôn hình cũ mốc

Có những người, thời gian luôn ngây ngất
Với vô vàn những tên tuổi hằn sâu
Vào tim óc, vào mái tóc bạc màu
Kể vanh vách những ngày xưa còn mới.

Có những người không bao giờ bối rối
Kể với vợ mình chuyện luyến ái thơ ngây
Kể với chồng mình chuyện đôi má hây hây
Ngày xưa đã từng dành riêng ai đó

Có những người thốt nhiên tim vụn vỡ
Khi nghe tin ai đó mới qua đời
Ai đó ư ? Một bạn cũ xa vời
Có khi mấy chục năm chưa gặp lại !

Có những người ôm chầm, rồi ôm mãi
Những thân thương của thuở áo học trò
Những thơ ngây cũ, những niềm vui bất ngờ
Khi gặp lại người xưa, ngày xưa ấy

Và thế là mặc thời gian trôi mãi
Chút rong rêu kỷ niệm cũng rực màu
Làm sáng lên cuộn phim cũ từ lâu
Nay nhớ lại, chiếu cho đời thêm mới...

26.10.2014

LAM TRẦN

MÙA THU

NHỚ ĐƯỜNG XƯA

Rừng chiều chim mỏi cánh bay

Cô đơn ta nắm bàn tay lạnh sầu

Bất ngờ ai biết vì đâu

Rồi thương như thể cau trầu trăm năm

Trời thu mây tím giăng trôi

Bên hiên lá rụng ai ngồi đợi ai

Gặp nhau chiều ấy, đôi ta

Duyên tình ngang trái trăm bề đắng cay

Chiều heo may gió mưa rơi

Nhớ con đường cũ anh ngồi đợi em

Còn đâu ngày ấy bên thềm

Than ôi ! Một kiếp phong trần: thi nhân !

KIM SƠN

CHẲNG TỪ AI

Ai hay

Cuộc đời đầy bi kịch

Có vui buồn và cả nỗi đau

Rằng vui thì cũng có vui

Mà lòng cứ thấy ngậm ngùi làm sao

Vì sau cái sự vui mừng

Còn đây thách thức với cùng nỗi lo

Đời lạ lắm

và đổi thay nhanh lắm

Cuộc đời ơi ! sao thăm thẳm khó lường

Nổi chìm nghịch cảnh tha hương

Gập ghềnh số phận nẻo đường tương lai

Để có cuộc sống hôm nay

Đổi bao công sức đắng cay cuộc đời

Thăng trầm, trăn trở, suy tư

Khách quan quy luật chẳng từ một ai.

LÊ MINH CHỬ

MỪNG NGÀY ĐẠI HỶ

“Chim khôn đậu mái nhà quan

Trai khôn chọn vợ, gái ngoan tìm chồng”

Mừng ngày đại hỷ thắm nồng

Trai tài gái sắc như rồng gặp mây

Quan viên hai họ sum vầy

Ngời tươi nét mặt, tràn đầy tình thân

Mở lòng như nở hoa Xuân

Du dương khúc nhạc trong ngần tiếng ca

Quế Lan sum họp một nhà

Mừng xuân Hạnh phúc nở hoa đón chào.

LÊ MINH CHỬ

MỪNG XUÂN

Xuân đến xuân đi, xuân tái lai

Pháo nổ rượu hồng, đón chào xuân

Bằng hữu gặp nhau, bao nỗi mừng

Hân hoan trò chuyện, chúc mừng xuân

Chào anh, chào chị, chào em nhỏ

Ta chúc cho nhau, vạn tình thân

Chúc nhau mạnh khỏe, đẹp tinh thần

Gia đình hạnh phúc, đón mừng xuân

Chúc con, chúc cháu, trọng nghĩa nhân

Sống đời phát đạt, đẹp muôn phần

Ta cùng nâng cốc, chúc mừng xuân

Chúc xuân đẹp mãi, với thế nhân.

THANH XUÂN

GÓC XUÂN

Vầng hồng tỏa sáng ở trời đông

Sương phủ bao quanh cả cánh đồng

Mây gió thoảng bay rung cánh huệ

Đôi chim ca hót vui chung lòng

Mai đào trước ngõ nhô cành búp

Hoa cúc đâm chồi rực sáng hồng

Ánh nắng rọi lên cành kẽ lá

Hàng cây mai nở đã đơm bông.

QUANG BỈNH 2017

ĐẾN XUÂN 

Sương lạnh mùa xuân mới lại về

Hương thơm tỏa ngát mọi miền quê

Nhởn nhơ ong bướm cùng vui tết

Rực rỡ đào mai nở bốn bề

Hoa thắm mừng xuân lòng mát lạnh

Nắng hồng phơi phới mải đam mê

Chim bay én lượn trong chiều gió

Vui với mùa xuân đôi chúc phê.

QUANG BỈNH 2017

CHO LÀ NHẬN

Biết nhận tự mình phải biết cho

Chứ như ai đó sống bo bo

Của nhiều tình ít đời mặn chát

Cô quạnh buồn tênh chuốc mối lo

Đằm thắm yêu thương vườn trái ngọt

Lộc dành trao tặng nghĩa nhân gian

Biết cho là nhận tình san sẻ

Rộn rã đời vui hạnh phúc tràn.

VŨ MÃO

GIVING IS RECEIVING 

Knowing how to receive,

one must know all by oneself how to give

Don’t be like the one that lives

a stick-in-the-mud way of life

Too much wealth but very little love

would be a too salty existence

So lonely, so sad and filled with worries

Fervid and loving would bring about a sweet-fruits garden

Benefits are reserved for the herebelow mortals’ bonds

Knowing how to give means receiving a shared love

Life would be animated and happiness would overflow.

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN


Phụ Bản III

ĐIỆN KREMLIN

(Chủ yếu được xây dựng vào năm 1475, tại Nga)

Hoàng đế Ivan I, là người được toàn thể nhân dân nước Nga gọi là Sa hoàng đầu tiên. Năm 1547, nhà vua này làm lễ gia miện tại điện Kremlin, ở Moskva. Điện Kremlin có nghĩa là “thành lũy” hoặc “nội thành”. Tại một số thành phố lớn ở Nga, đều có những ngôi điện Kremlin cổ xưa. Nhưng, từ năm 1547 trở về sau, chỉ có một ngôi thành tại Moskva, mới được gọi là “điện Kremlin”.

Vào thế kỷ 12, khi thành lũy ở đây mới được xây dựng, thì Moskva lấy nó làm trung tâm để phát triển. Thành lũy này có hình tam giác, nằm trên bờ sông Moskva, rộng 28 hecta, bên trong có cung điện của Sa hoàng và nhiều nhà thờ. Sau cách mạng tháng 10 năm 1917, điện Kremlin trở thành trụ sở của chính phủ Liên Xô.

Bức tường cao bao bọc chung quanh xây dựng vào thế kỷ 15. Tường được xây bằng gạch nung, cao 18,3 mét, dài 1,6km. Trong đó, có rất nhiều tòa tháp cao và có những tòa tháp nóc nhọn như một ngôi nhà bạt. Cổng chính thức đi vào điện Kremlin, nhìn ra Quảng trường đỏ. Tháp chuông Ivan đại đế, cao 81 mét, được xây dựng vào năm 1600. Tháp chuông này cũng là một trạm canh, vì đứng trên đó, có thể nhìn bao quát một khu vực rộng 32km2 ở chung quanh. Dưới chân tháp chuông này có một chiếc chuông khổng lồ, được gọi là “Vua của các chuông”, là một chiếc chuông lớn nhất thế giới và được đúc vào thập niên 30 của thế kỷ 18, có trọng lượng 203 tấn. Cạnh đó, còn có một vật khổng lồ khác: vua của các cỗ đại bác. Đường kính của khẩu đại bác này lớn 8,9 mét, được đúc vào năm 1586, nặng 40,6 tấn. Chiếc chuông “vua của các chuông”, chưa bao giờ được đánh lên thành tiếng và cỗ đại bác “vua của các cỗ đại bác”, cũng chưa bao giờ được bắn ra một phát đạn nào.

Cuối thế kỷ 15, vua Ivan III ủy thác cho một kiến trúc sư người Ý trùng tu lại điện Kremlin trở thành thủ đô của Đệ Tam La Mã. Cung điện có nhiều góc được xây bằng loại đá hoa cương có nhiều cạnh vào năm 1491. Gian phòng lớn, dùng để họp triều đình của Hoàng đế nước Nga, được trang hoàng hết sức lộng lẫy. Ngôi giáo đường Đức Mẹ thăng thiên được xây dựng hồi thập niên 70 của thế kỷ 15, là nơi gia miện của các Sa hoàng. Tại cửa chính đi vào cung điện có một ngai vàng làm bằng gỗ quý dùng để các vua Ivan ngồi lúc lâm triều. Chiếc ngai vàng này được làm ra hồi năm 1551. Riêng nhà thờ báo hiếu, được trùng tu vào thập niên 60 của thế kỷ 16. Vì toàn bộ nóc ngôi nhà thờ được thếp vàng, cho nên mọi người gọi là “nhà thờ mái vòm vàng”. Riêng ngôi nhà thờ San Miguel, là một kiến trúc chịu ảnh hưởng thời văn nghệ Phục hưng ở Ý. Nơi đây, chính là khu vực lăng mộ của các Hoàng đế Nga tại Moskva trước thời Đại đế Peter. Những bức bích họa, cũng như những bức phù điêu trên vách bang của nhà thờ nói trên, khiến ai xem qua cũng rất khó quên. Chung quanh đấy, còn có một số nhà thờ nhỏ hơn.

Chủ thể trong quần thể cung điện Kremlin, chính là điện Kremlin. Cung điện này về sau đã trở thành nơi hội họp của Xô Viết tối cao Liên Xô cũ, toàn bộ công trình được hoàn thành vào năm 1849. Tất cả những kho báu mà các nhà vua Nga đã tập trung suốt mấy trăm năm, nay được trưng bày ở đây, trong đó có vũ khí, khôi giáp, vương miện, những đồ bằng ngọc thường dùng trong Hoàng gia cũng như ngai vàng lộng lẫy của nhà vua. Châu báu, lễ phục của các quan đại thần, xe ngựa và những chiếc hộp đựng thuốc lá hít bằng mũi xinh xắn, những quả trứng Noël, cũng được đưa ra trưng bày. Cung của vị giáo trưởng Đông Chính Giáo, được xây dựng vào thập niên 50 của thế kỷ 17, hiện nay đã trở thành viện bảo tàng văn hóa nghệ thuật của nước Nga thế kỷ 17.

Phòng họp lớn dùng trong điện Kremlin dùng để cử hành những cuộc họp đại biểu toàn quốc của đảng cộng sản Liên Xô được xây dựng vào năm 1961 và nằm dưới mặt đất để tránh gây ảnh hưởng đến cảnh quan của những kiến trúc cổ xưa. Phía ngoài điện Kremlin là Quảng trường đỏ, Lăng mộ của Lenin được xây dựng tại đây, để mọi người hàng ngày có thể vào chiêm ngưỡng di thể của nhà lãnh tụ này. Di thể của Stalin cũng được đặt tại đây từ năm 1953 đến năm 1961. Quần thể giáo đường Vasili tại quảng trường là những tòa kiến trúc mà tất cả mọi người đều khen ngợi. Những nóc vòm tròn của chúng giống như những củ hành tây. Quần thể kiến trúc này được vua Ivan xây dựng vào thập niên 50 của thế kỷ 16, từ đó trở thành tượng trưng của nước Nga.

Điện Kremlin Liên Xô được công nhận là Di sản thế giới năm 1990.

BÙI ĐẸP st.


LỄ CHAY ĐÀN

Cầu an bá tánh, cầu siêu nhơn loại

Tôi thuật lại lễ cầu siêu các anh hùng tử sĩ

Lịch sử Việt Nam có một thời chiến tranh đau khổ. Nhơn loại bị sát hại, đa số người bị chết oan vô tội, linh hồn không siêu thoát được. Có một số người tâm “từ bi” tình nguyện tổ chức lập đàn cầu siêu, cứu vớt những linh hồn chưa siêu thoát, về chùa có nơi an cư, mới tổ chức chay đàn, rất long trọng, về nghi lễ, thỉnh quý vị chư tăng, Hòa Thượng, sư - ni, phật tử, nhiều chùa tề tựu lại một điểm, nơi có mặt bằng rộng.

Quý vị chính quyền địa phương, cùng phật tử tại gia lo nghi lễ, động viên dân quân bốn hướng lại kẻ công người của, dựng lên cái giàn cao gần 2 mét, ngang 5-6 mét, chiều dài 9-10 mét bảo đảm cứng chắc. Có đặt một ông Tiêu cao 2 mét, chu vi hơn 1 mét, đầu đội mão chân mang hia, tay cầm phất trượng, đứng oai nghiêm trên giàn. Nhiều tượng Phật - quý nhà hảo tâm, sĩ, nông, công, thương hợp lại lo nghi lễ, làm những cỗ bánh khác nhau tùy ý thích của gia chủ.

Có gia đình làm cỗ bằng tiền lẻ, tiền giấy. Ba thời tụng niệm mỗi ngày, Hòa Thượng phân công, phật tử hành. Dưới sông có chiếc thuyền thuyền gọi là thuyền Bát Nhã, đầu rồng, đuôi phượng, treo chung quanh cờ ngũ sắc, thờ nhiều tượng Phật. Hòa Thượng, sư - ni, phật tử ngồi tụng niệm cầu những linh hồn trôi sông, lạc bến hồi tâm giác ngộ về chùa an thân. Thuyền thả trôi theo dòng nước, lên xuống ba ngày đêm mới xong lễ.

Trong ba ngày lễ dân làng cũng ăn chay lạt. Ngày thứ ba xô giàn, người ở trên giàn xô những cỗ bánh xuống, người người tranh nhau lấy đồ cỗ, đặc biệt là ông Tiêu, ai cũng muốn được lộc, người nào khỏe mạnh giành được phần đầu ông Tiêu, rồi đem tặng cho cụ ông, cụ bà nhận phần lộc. Xong lễ cầu siêu.

Ngày nay tôi không thấy nơi nào tổ chức Chay Đàn cầu an nữa.

Đinh Dậu 2017

PHƯỚC HẢI thuật chuyện

GIỌNG NGÂM NGẬM NGÙI

Đưa tới cửa chị Thục còn dặn: “Mi coi mà giải quyết đi, tau coi bộ hắn đeo đẳng mi mấy chục năm nay đó. Ghen tương, theo phá phách hạnh phúc mi nên mi lận đận tình duyên”.

Nghe mà xót xa đời mình. Tôi cũng có trách nhiệm phần nào về cái chết bi đát xảy ra cho Nghiêm. Tôi nói: “Tội nghiệp Nghiêm, em từ chối anh ấy đã khổ, biết em có người yêu anh ấy liền buông thả đời, đến nỗi vướng vào chuyện đua xe tốc độ để gánh lấy tai nạn”. Tôi bá vai chị Thục, nước mắt đầy mi. Hai người đàn bà cùng thông cảm về phần số của một nhân vật đã đi khỏi thế gian nầy hơn ba thập niên rồi.

Lâu lắm chị Thục mới nói: “Để linh hồn hắn siêu thoát, mi quyết tâm ngay nha, thẳng đến chùa, vái vong linh hắn thông cảm. Mi tâm thành, hắn sẽ ngộ rằng theo đuổi cũng chẳng ích lợi gì. Hồn ma bóng quế! Hắn bỏ đi thì mi mới hanh thông đời”. Tôi nghe như có tiếng nói phải đấy nhẹ như gió thoảng bên tai, cảm giác xa xăm lúc Nghiêm rù rì trên tóc tôi nói lời yêu đương mật ngọt. Như có luồng hơi lạnh chạy từ đỉnh đầu tới cuối sống lưng, tôi chợt rùng mình.

Tôi nói: “Em chẳng còn muốn về nhà nữa! Đuổi mãi mà Thông chẳng chịu dọn đi. Cả năm rồi em đuổi như đuổi tà mà không được. Chán ghê! Về thấy mặt người hai lòng đã phản bội mình thì chỉ muốn đi mãi, đi mãi”.

Chị Thục có vẻ chưa muốn để tôi về, lại hỏi về Hợp. Tôi đứng lại trên ngạch cửa thở dài: “Ông tướng ấy còn ghê gớm hơn nữa, ly dị cả 7, 8 năm rồi vẫn còn kêu điện thoại trách móc về chuyện xa xưa cũ kỹ khiến mình mặc cảm như có tội trong khi cách sống gia trưởng đàn áp của ông ta hơn hai mươi năm qua và những ghen tương vô lý trong cuộc sống mới là nguồn gốc của sự gãy đổ”.

Thục nói: “Cũng là sự xui giục gián tiếp của Nghiêm thôi! Vỵ nhớ không, hôm đó Nghiêm cầm tay em nói câu cuối trong nước mắt và đớn đau: “Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm”. Vỵ càng nên vái van cho Nghiêm hiểu mà siêu thoát”.

Và tôi xăng xái ghé chùa Ngọc Hoàng. Ngày Tết, thiên hạ nườm nượp. Không có chỗ đậu xe, đành đánh liều đậu nghênh ngang trước cổng chùa, xuống đứng day vào chánh điện xá xá vái van Phật Tổ độ Nghiêm vãng sanh tĩnh thổ. Thế thôi, chẳng van xin gì ở Nghiêm cho mình.

Tôi về nhà, lòng nhẹ nhõm, mở cửa, càng khoan khoái hơn khi thấy nhà trống trơn. Người tôi không muốn thấy mặt đã dọn đi. Tất cả đồ đạc của ông ta biến khỏi mắt tôi, tấm note gắn trên tủ lạnh hôm giao thừa khuyên ông ta nên ra khỏi nhà vì tôi đã hết yêu, lãnh cảm, nằm lăn lóc bên máy điện thoại. Máy có tin nhắn, tôi bấm nút. Hợp chúc tôi được hạnh phúc cuối đời, ra Giêng anh lập gia đình mới. Lập gia đình có nghĩa là sẽ không còn có thể gọi điện thoại quấy rầy tôi nữa.

Tôi hạ bức ảnh Nghiêm xuống. Không còn cần thiết nữa, mắt ảnh bây giờ cũng không liếc theo dõi từng bước chân tôi. Tôi nói: “Vỵ cám ơn Nghiêm, chắc anh đã hiểu, chữ ngàn năm nên lý giải là một đời người, không nên hiểu cách khác”.

Tết tuy chưa có pháo, nhưng lòng tôi rộn rã vô bờ. Biết chắc trong các chương trình mua vui sắp tới cho cộng đồng tôi sẽ ngâm thơ xúc cảm nhưng hữu lý hơn giọng ngậm ngùi thê lương không cần thiết trong suốt bao nhiêu năm nay tôi cố tránh mà không được.

Victorville, CA June 12-21-2011

Nguy ễn Văn Sâm

LÁ THƯ NOEL

HUỲNH BÉ TƯ

Giáng sinh là đêm diệu kỳ để ta đặt niềm tin vào phép màu. Và điều tuyệt vời nhất luôn tới từ những trái tim rộng mở yêu thương.

Thuở ấu thơ, nhiều đứa trẻ luôn ôm ấp giấc mơ dịu ngọt về ông già Noel với bộ râu trắng như tuyết chui ra từ ống khói. Cuộc viếng thăm bất ngờ vào đêm Giáng sinh không chỉ mang tới cho em đồ chơi và áo đẹp, nó còn gói ghém bao niềm vui cùng hạnh phúc. Dư vị ngọt ngào ấy được nâng niu từng chút...

Ông già Noel ơi...!

Nhớ lại đêm Giáng sinh tại mảnh sân nơi Giáo điểm hiu hắt hôm qua, con lại thắt lòng khi nghĩ tới cô bé tám tuổi xa lạ với đôi mắt màu hạt dẻ và mái tóc cháy nắng. Thiên thần bé bỏng ấy đã hiện lên sống động trong tâm trí con, qua lời kể của cô bạn thân như một minh chứng về lòng tốt và hy vọng.

Ba mẹ mất trong một vụ tai nạn giao thông, em sống trong sự bảo bọc của bà ngoại và dì Hai. Người dì phải vất vả lo cho mẹ già và cháu nhỏ, chai sần trước khó khăn nên chẳng thể tin có một ngày vào ông già Noel mang quà đến trong mỗi đêm Noel nữa. Cô cháu gái ngây thơ chỉ muốn nhường điều ước đêm Giáng sinh cho dì, để dì nuôi những hy vọng nhỏ nhoi về ngày mai tươi sáng.

Đêm Chúa giáng trần em muốn nhường lại những kỷ niệm ấm áp cho những người bạn nghèo nơi xóm đạo ấy, để bố mẹ các bạn vơi bớt gánh nặng cơm áo.

Mùa Giáng sinh năm nay, Ông già Noel trong truyền thuyết hoá ra ở rất gần. Trong cái se lạnh của vùng đất bị cáo ồn ào của đô thị Saigon đẩy ra đây, ấy thế! Cái se lạnh ấy lại sưởi thật ấm bao tâm hồn bé thơ trong cái đêm mà tưởng như không bao giờ có.

Ông già Noel ơi...!

Đêm Giáng Sinh năm nay, con được tham gia và được sẻ chia niềm vui dành cho trẻ em mồ côi và những người khuyết tật. Những anh chị em thiện nguyện đội những chiếc mũ đỏ, tượng trưng niềm vui Giáng Sinh của những người muốn mang tấm lòng đi chia sẻ qua những món quà thực tế: bánh, kẹo, sữa,...Nhưng điều gây ấn tượng với con lại là những trái bóng đủ màu sắc tràn ngập. Ai đó đã nhìn thấy được hình ảnh những trái bóng có thể làm người ta vui như thế?

Có lẽ chẳng ai nghĩ rằng người lớn đôi lúc cũng muốn mình trở thành trẻ thơ, được thả mình vào hình ảnh của một em bé hồn nhiên đón nhận niềm vui. Những khuôn mặt hằn sâu những vất vả nhọc nhằn của một người khiếm khuyết chợt bừng lên niềm vui khi nhận trái bóng trên tay, đôi mắt như ngời lên niềm hạnh phúc thật đơn sơ. Trái bóng đung đưa trên tay, xoay tròn, đưa lên hạ xuống. Nó mang những ước mơ vươn lên của họ, những ước mơ thật nhỏ bé nhưng đôi khi không vươn tới vì những hoàn cảnh của mỗi người, như quả bóng bị cột giữ lại chỉ được vươn lên trong tầm tay. Dù chẳng được bay cao nhưng trái bóng vẫn căng tròn, dù không được uốn lượn giữa bầu trời xanh nhưng nó vẫn mang được hình ảnh ông già Noel tượng trưng của niềm vui được chia sẻ. Đón nhận những món quà, nhưng họ vẫn nắm chặt trái bóng trên tay, để thấy niềm vui vẫn còn đó.

Ông già Noel ơi... là “mảnh ghép” khép lại của đêm Giáng sinh. Lúc mọi người lắng lòng trong giờ canh thức đợi chờ Chúa sinh ra đời. Trong con lại để tâm trí trôi miên man trong những hoài niệm. Nhớ những Giáng sinh nơi giàu sang ồn ào vô cảm, những buổi trình diễn mà người ta cứ gọi là thi thố thánh ca... Đêm nay, ông già Noel nơi cái quê nghèo này giữ cho trong tâm hồn con một góc trong trẻo, một góc bình yên để những phép màu của yêu thương của Lòng Thương Xót mãi được lan tỏa.

LỆ NGỌC st.


Cà Cuống

Sau khi đụng đầu vào mấy cây cột đèn, cuối cùng gã cũng bò về đến nhà. Cả nhà đã đi ngủ hết, trừ Mây, vợ gã đang buồn rầu ngồi ở góc phòng. Nàng bật TV mà dường như chẳng biết trên màn hình có gì, trừ ra nỗi buồn mụ mẫm len vào tận nụ cười của ai đó trong phim. Nàng giật mình nghe tiếng lạch cạch phát ra từ chiếc nhẫn cưới gã đeo trên ngón tay va vào tay vịn cầu thang, rón rén lên lầu, vì sợ nàng biết.

Có bao giờ suốt cả mươi năm nay, Mây không biết, không nghe những thanh âm rệu rã ấy. Nhưng nàng hoài lặng thinh sau bao lần nặng nhẹ với gã về cái cố tật say sưa ngoài đường. Vì gã thực sự chẳng nghe rõ được bất cứ âm thanh gì, trừ tiếng bia chảy vào chiếc ly óng ánh sắc vàng đầy ma lực. Gã biết nàng không bao giờ đi ngủ trước khi gã trở về nơi vốn là mái ấm của gã.

Chẳng hiểu sao mà gã lại lết lên tận sân thượng. Tự nhiên gã thấy thích vầng trăng đang rung nhẹ những cánh hoa hồng trồng trong bệ chênh vênh bên lan can. Có cái gì khiến gã leo lên cái lan can còn ươn ướt bụi mưa. Bỗng gã tuột chân… Gã cố la lên nhưng âm thanh nhừa nhựa của gã chỉ như tiếng rên rỉ của lũ dế nấp kín đâu đó.

Khi tỉnh dậy, mãi gã mới nhớ ra mình đã rơi vào cái gì tròn tròn và trơn tuột như lòng cái máng xối đầy rêu. Gã cố giãy dụa và vui sướng biết mình còn sống. Gã hài lòng vì đã không phải kêu réo vợ con lúc này đang ngon giấc, mặc cho gã muốn làm gì thì làm, sau khi biết chắc gã không thể chết héo chết tàn ngoài đường sau chầu nhậu tưng bừng.

Gã liếm mép, và sảng khoái nuốt chất nước mưa đọng trên môi gã. Mặt trăng dường như to gấp nhiều lần làm gã thắc mắc, rồi tự nhủ men rượu đã làm mắt gã nhìn mọi sự không còn như thật nữa; Trừ ra, cái gã muôn đời nhìn rất chắc chắn là Mây còn rất đẹp. Có lẽ trong men rượu, gã thấy Mây còn đẹp hơn nữa kìa. Tự dưng, gã chép miệng.

Gã nhổm người lên, rồi đổ kềnh ra. Mặt trăng chiếu vào mắt gã cứ như một vũng ao đầy ánh sáng ụp trên người. Rồi gã cũng bò dậy được. Gã vừa ngáp vừa vươn vai. Có lẽ gã vươn vai mạnh quá hay sao mà gã có cảm giác thân mình gã nhấc lên khỏi mặt đất. Gã trấn tĩnh lại khi rơi nhẹ xuống. Tuy vậy, gã thấy chân mình đau điếng sau cú chạm đất ấy. Bây giờ thì gã mới kịp hoàn hồn mà nhận ra rằng, mọi vật chung quanh gã dường như là một thế giới khác, chứ không chỉ là vầng trăng to tướng trên kia mà thôi. Hay gã mơ. Gã hét thật to, và hả hê nhận ra giọng mình còn khỏe lắm. Gã còn nghe văng vẳng tiếng vợ gã ru thằng bé trong phòng, với giọng hát ngọt ngào đến nỗi gã có thời gian yêu nàng điên dại.

- Mẹ ơi! Bố về chưa? Có tiếng đứa con gái lớn hỏi nàng

- Bố về rồi con à. Con ngủ đi!

- Sao không thấy bố đâu hết vậy…

- Chắc bố mày lại ngủ chèo queo trên lầu chứ gì. Thôi để tí mẹ lên xem sao.

Rồi nàng thở dài đánh sượt…

Mãi gã mới lại gần được chỗ hai mẹ con nói chuyện với nhau. Chống mạnh hai tay xuống nền nhà, gã thật sự ngạc nhiên khi thấy mình vọt lên cao. Gã luống cuống chao người đi để trong tích tắc chân gã bám chặt vào thanh kim loại to đùng. Gã trố mắt nhìn vào khoảng trống trước mặt, để kinh hãi nhìn thấy ngay trước mắt gã là một con bọ rùa đang ngoe nguẩy nhìn gã trong gương. Gã xanh mặt khi biết mình đã biến thành một chú bọ rùa vàng hực với những cái chấm như mấy giọt mực. Gã thử tung đôi cánh màu cam của gã trong gian phòng. Tiếng gió vù vù bên tai khiến gã biết mình đang bay rất nhanh. Rồi gã lao vào tường và lăn quay dưới sàn nhà. Chân tay gã quờ quạng trong không khí. Gã bất lực hét lên dù biết rằng tiếng hét của gã chỉ như tiếng những hạt cát va chạm vào nhau.

Mãi rồi gã mới… lật lại được. Rồi chú bọ rùa đủ thông minh để biết mình phải bay lên tận trần nhà, bám trên ấy mới có thể nhìn mọi sự vật rõ như mắt con người. Nghĩ là làm. Lần này thì gã đã đủ “điêu luyện” để vèo phát một rồi bám cứng vào sợi giây điện lú ra khỏi cái đèn neon sáng quắc.

Ơ kìa! gã nhìn thấy Mây đang ngồi trên chiếc ghế trước bàn thờ. Nàng bật hai ngọn đèn nến ấm cúng để sát vào nhau. Mấy cánh hoa hồng chắc là hái ngoài lan can được nàng cho vào chiếc lọ xinh xinh đặt ở phía đối diện. Rồi nàng thì thầm những lời cầu kinh mà gã từng thuộc từ hồi thơ bé. Bất giác, gã lẩm nhẩm đọc theo. Rồi gã nghe rất rõ ràng Mây cầu nguyện. Nàng cầu cho chồng đừng nhậu nữa. Thậm chí nếu phải gánh một cơn bạo bệnh để đổi lấy sự “ăn năn” của chồng, nàng cũng luôn sẵn sàng đón nhận. Nàng còn cầu cho mẹ gã đừng bao giờ ghét bỏ gã, mà hãy cố gắng cảm hóa chồng nàng…

Những lời nguyện cầu dai dẳng ấy khiến gã tỉnh như sáo. Cơn say đã biến mất! Đôi mắt bọ rùa của gã nhìn thấy trên mái tóc rất đẹp của nàng loáng thoáng mấy sợi bạc. Đột nhiên, gã thấy thương Mây biết bao! Gã cố khóc mà chẳng có giọt nước mắt nào trào ra từ đôi mắt bọ rùa của gã…

Đêm ấy, gã bay khắp nhà. Gã thấy tận mắt ổ mối đang đùn trong góc trần. Gã xăn tay áo định gỡ cái ổ mối khốn nạn ấy rồi liệng ra ngoài cửa, nhưng mấy cái chân mỏng manh của gã thì làm được tích sự gì? Gã nhìn thấy mẹ gã giả vờ lim dim ngủ, nhưng kỳ thực bà đang nhìn Mây trở về phòng, lòng bà xót xa vô hạn. Gã thấy bé Hồng ôm em ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng giật mình, nó huơ huơ cái quạt giấy về phía thằng bé, rồi đánh rơi khi mắt nó trở lại với giấc mộng đang hồi êm đềm của tuổi thơ!

Gã bay xuống, đậu vào mái tóc thoảng mùi bồ kết của Mây. Gã hôn lấy hôn để, nhưng mặc, vợ gã nào biết đến sự hiện diện của con bọ rùa bé xíu xiu trên tóc mình.

Mây mở cửa, ra ngoài, miệng lẩm bẩm:

- Cà cuống ơi là cà cuống, anh đi đâu mất tiêu rồi.

Nước mắt gã thế nào cũng trào ra như suối nếu gã không đang là thằng bọ rùa vô dụng. Vợ gã vừa gọi “cà cuống”, là biệt danh chỉ có hai người nói với nhau khi họ còn trên ghế học đường. Gã rên lên, giọng tha thiết:

- Anh đây, Mây à!

Nhưng nàng không hề nghe thấy cái giọng bé bỏng ấy, nàng chỉ thấy ngưa ngứa ở vành tai, khi con bọ rùa khốn kiếp đu trên sợi tóc bạc của nàng, rồi tuột tay tuột chân mà bám vào vành tai nàng, ngứa thấy mồ. Nàng hốt hoảng, tay nàng phủi thật mạnh vào con côn trùng màu cam ấy, khiến nó lộn mấy vòng trong không trung, rồi chui tọt vào chỗ cách đấy mấy tiếng đồng hồ nó từng chui ra. Rồi lộn ra ở đầu kia, và nguyên hình nguyên trạng gã lại trở về.

Gã lao vội vào nhà tắm, hăng hái kỳ cọ. Gã ra chỗ ban công, hái chiếc bông hồng còn sót lại, rồi hai tay đàng sau lưng, gã xuống nhà. Vừa lúc Mây lẩm bẩm:

- Kỳ ghê, ảnh đi đâu rồi ta!

Một tay gã ôm ngang eo vợ, tay kia cài cái bông còn chưa nở hết lên tai Mây, miệng gã thơm hơn bao giờ hết:

- Cà Cuống đây Cà Rốt ạ.

Mây quay ngoắt lại. Đôi mắt nhung của nàng đụng ngay vào cặp mắt rất lẳng lơ như ngày nào của Cà Cuống…

08.06.2015

LAM TRẦN

SỰ KHÁC BIỆT

ĐÀN ÔNG - ĐÀN BÀ

- Tại sao lại gọi là ông trăng (ông mặt trời, ông sao) mà không gọi là bà trăng? Câu trả lời: “Bởi vì đàn ông đẹp hơn đàn bà!”

- Tai sao chỉ có bà phù thủy độc ác mà không có ông phù thủy độc ác? Câu trả lời: “Bởi vì không có người đàn ông nào độc ác như đàn bà!”

- Tại sao chỉ có mỹ nhân kế chứ không có nam nhân kế? Câu trả lời: “Bởi vì họ không gian xảo như phụ nữ được!”

- Tại sao có ông già noel mà lại không có bà già noel? Câu trả lời: “Tại vì đàn ông nhân hậu hơn đàn bà!”

- Và tại sao lại gọi là phụ nữ mà không hề nghe ai gọi... phụ nam? Câu trả lời: “Tại vì đàn bà con gái chỉ là phụ thôi!”

Kim Sơn st.


Phụ Bản IV

Điểm sách

1. Những suy nghĩ vẩn vơ 16

Có tận thế không? Đó là câu hỏi mà Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết đặt ra liên tục trong những cuốn mà ngài đã viết từ cuốn số 10. Điều đó trong Kinh Thánh xác nhận là có nhưng chúng ta không thể biết đó là ngày nào. Nhưng với sự hủy hoại môi trường bằng cách xả thải, hủy hoại sự sống của con người bằng cách đưa các chất độc vào thực phẩm… thì chắc ngày ấy đến không xa.

Mở đầu là Bài ca tạo vật của Thánh Phanxic ô và kế đến là những bằng chứng đã được phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Linh mục đã trích dẫn chỉ nhằm chứng minh một sự kiện, một quan điểm nào đó để bạn đọc xác tín hơn chứ không hoàn toàn vì lợi nhuận (sách hoàn toàn miễn phí).

2. Khoảng trời si 3

Tiếp nối Khoảng trời si 1 & 2 là cuốn 3. Tác giả Phùng Chí Tâm đã cho xuất bản từ tháng 1/2010 .

Tập thơ gồm 103 bài thơ và 2 bản nhạc do chính tác giả sáng tác. Riêng 2 bản nhạc đã được trình bày tại CLB Sách Xưa & Nay. Khoảng trời si 3 ca tụng những nơi tác giả đã du lịch, những tình cảm thân thương của gia đình, những giao thừa, mùa xuân, mùa thu thương nhớ… nói chung là những khoảng trời mà tác giả đã gửi gấm tâm hồn mình vào, tạo nên những giai điệu vừa thơ vừa nhạc và nhất là được giọng ca vừa trầm, vừa khỏe mà lại có hồn khiến nhiều người nghe không thể nào quên được.

HÀ MẠNH ĐOÀN

BÉO GẦY,

KHỎE YẾU LÀ DO “TẠNG”

HÃY XEM BẠN THUỘC LOẠI NÀO

ĐỂ CHĂM SÓC ĐÚNG CÁCH

Không biết thể trạng để chăm sóc, giống như trồng cây ưa nước trên sa mạc

Chúng ta hay nói cơ thể khỏe hay yếu, gầy hay béo đều do “tạng người”, nhưng nhiều người chưa biết “tạng” của mình thuộc loại nào. Theo công trình nghiên cứu kéo dài hàng chục năm vừa được công bố thành sách của Giáo sư Tiến sĩ Vương Kỳ, Đại học Trung Y dược Bắc Kinh (Trung Quốc), có tất cả 9 nhóm thể trạng phổ biến, mỗi một thể trạng cần một cách chăm sóc khác nhau.

Kết quả nghiên cứu này cũng giúp giáo sư Kỳ giành được giải thưởng lớn, được phong tặng danh hiệu Quốc y Đại sư Trung Quốc (một danh hiệu danh giá nhất của ngành y học truyền thống Trung Quốc).

Nếu bạn chăm sóc không đúng, không những cơ thể không khỏe lên mà mọi thứ còn trở nên tồi tệ đi. Giống như một cây ưa nước lại đem trồng trên sa mạc, còn một cây thích khô bạn lại gieo xuống hồ vậy. Vì thế, hãy tham khảo thông tin tóm tắt công trình nghiên cứu của giáo sư Kỳ để dưỡng sinh hợp lý.

1. Thể chất bình hòa (cân bằng, khỏe mạnh)

Người có thể chất bình hòa là người có sức khỏe bình thường, hình thể những người này cân đối, sắc mặt, sắc da đều trơn nhẵn sáng sủa, tóc dày bóng mượt, ánh mắt có thần, môi đỏ hồng hào, không dễ mệt mỏi, tràn đầy năng lượng, ăn ngủ tốt, đại tiểu tiện bình thường, tính cách vui vẻ dễ chịu, ít bệnh tật.

Phương pháp dưỡng sinh : Chú trọng và duy trì trạng thái hiện tại.

Bình thường chỉ cần chú ý chế độ ăn uống sinh hoạt hằng ngày, kết hợp chế độ làm việc và kiên trì luyện tập điều độ thích hợp là được.

2. Thể chất âm hư (tạng nóng, thiếu nước)

Người có thể chất âm hư thường gầy cao, hay cảm thấy nóng ở lòng bàn tay bàn chân, mặt nóng bừng, má ửng hồng, hồng nhạt, khó chịu khi gặp thời tiết nóng của mùa hè, mắt khô, miệng lưỡi khô, háo nước, da khô ráp, tính tình vội vã, hướng ngoại, dễ kích động, lưỡi hơi đỏ. Bệnh nhân dễ mắc các bệnh như ho, hô hấp.

Giải pháp dưỡng sinh : Chú ý bổ sung các yếu tố sinh âm và phòng tránh các bệnh về hô hấp.

Chú ý ăn thực phẩm dễ sinh âm, ăn nhiều các loại thực phẩm ngọt mát tăng độ ẩm như thịt lợn, trứng vịt, đậu xanh, bí đao… nên hạn chế ăn các loại thực phẩm có tính ôn khô như thịt dê, tỏi tây, ớt, hạt hướng dương.

Cuộc sống hàng ngày nên tránh thức khuya, tránh làm việc ở môi trường nhiệt độ cao. Không nên vận động quá nhiều, khi luyện tập nên hạn chế chú ý để không bị đổ mồ hôi, kịp thời bổ sung đủ nước, không nên tắm hơi.

3. Thể chất dương hư (tạng lạnh, sợ lạnh)

Người có thể chất dương hư, cơ thịt không săn chắc, lúc nào cũng cảm thấy chân tay lạnh, vùng thượng vị, vùng lưng và eo đều sợ lạnh, thích mặc áo nhiều hơn người khác, mùa hè không thích ngồi điều hòa, thích yên tĩnh, khó chịu khi ăn và uống các loại thực phẩm lạnh, dễ bị đi phân lỏng, nước tiểu màu nhạt và đi tiểu lượng rất nhiều.

Tính cách thường lặng lẽ, hướng nội. Khuynh hướng dễ bị các bệnh như nhiễm lạnh, tiêu chảy, liệt dương…

Giải pháp dưỡng sinh : Ôn dương bổ khí, phòng các bệnh như tiêu chảy, liệt dương…

Ăn các loại thực phẩm bổ dương như thịt bò, thịt dê, tỏi tây, gừng, hành… Hạn chế ăn các loại thực phẩm dễ sinh lạnh như quả lê, dưa hấu, củ mã thầy, nên uống ít trà xanh.

Cuộc sống hằng ngày nên chú ý giữ ấm, đặc biệt là vùng lưng và phần huyệt đan điền ở bụng dưới, tránh ở trong phòng điều hòa quá lâu, tránh để ra nhiều mồ hôi, nên chú ý ra ngoài vận động dưới ánh mặt trời thường xuyên hơn.

4. Thể chất khí hư (hơi thở yếu)

Người có thể chất khí hư nhìn ngoài cảm giác rất mệt mỏi, khó thở, tiếng nói nhỏ nhẹ yếu ớt, dễ đổ mồ hôi. Người có thể chất khí hư dễ bị mắc các bệnh như cảm lạnh, sau khi mắc bệnh khó chữa lành do sức đề kháng kém, còn dễ bị các bệnh nội tạng như bệnh dạ dày…

Giải pháp dưỡng sinh : Cần chú ý bổ sung những phương pháp ích khí kiện tỳ, chú ý các bệnh về dạ dày. Nên tham gia các bài tập hít thở sâu.

Bình thường nên ăn các loại thực phẩm có lợi cho khí và lá lách, ví dụ như đậu nành, đậu trắng, thịt gà, nấm hương, táo tàu, nhãn, mật ong… Hạn chế ăn các loại thực phẩm có tác dụng hao tổn khí huyết như rau muống, cà rốt sống…

Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày nên có thiết lập thời gian biểu rõ ràng, nghỉ ngơi sinh hoạt đúng thời gian và theo mùa, bảo đảm ngủ đủ giấc.

Chú ý giữ ấm, tránh lao động và tập thể dục nhiều dẫn tới đổ mồ hôi nhiều dễ gây đột quỵ. Không nên làm việc quá sức, để tránh tổn thương khí huyết. Tập luyện nhẹ nhàng vừa đủ, không nên tập luyện các bài thể dục mạnh.

5. Thể chất thấp nhiệt (thiếu năng lượng)

Người có thể chất thấp nhiệt, mặt mũi bóng nhẫy dầu, dễ bị mụn trứng cá, da dễ bị ngứa rát. Thường cảm thấy khô miệng, hôi miệng, miệng có mùi lạ, phân nhớt, đi tiểu cảm giác nóng, nước tiểu màu vàng, nữ giới thường sắc mặt vàng vọt, nam giới thường bị đổ mồ hôi ướt ở bìu. Bệnh nhân dễ bị mắc các bệnh như nổi mụn nhọt, vàng da…

Giải pháp dưỡng sinh : Chú ý các biện pháp thanh nhiệt lợi tiểu.

Nên kiêng các loại thực phẩm mỡ béo ngậy. Ăn uống thanh đạm, có thể ăn nhiều các loại thực phẩm ngọt mát, như đậu đỏ, cần tây, dưa chuột, ngó sen. Hạn chế ăn các loại thực phẩm có tính nóng, nhiều dầu mỡ ngậy như thịt dê, tỏi tây, ớt, gừng tươi, hạt tiêu, tần bì và các món lẩu, món chiên, món nướng.

Trong sinh hoạt hằng ngày tránh ở môi trường nóng ẩm. Nên lựa chọn môi trường sống khô ráo, thông thoáng gió. Không nên thức đêm, làm việc lao lực. Mùa hè là mùa nóng ẩm, nên hạn chế hoạt động ngoài trời. Tăng cường tập luyện, tập luyện với cường độ và thời gian lâu.

6. Thể chất huyết ứ (tắc máu, nổi mụn)

Người có thể chất huyết ứ, sắc mặt, môi nhợt nhạt, tĩnh mạch dưới lưỡi ứ. Da thô, có lúc tự nhiên xuất hiện tình trạng bầm tím dưới da. Trong mắt xuất hiện rất nhiều các tia máu dạng sợi, khi đánh răng rất dễ bị chảy máu chân răng. Dễ cáu gắt, hay quên, tính tình nóng vội.

Giải pháp dưỡng sinh : Cần hành khí hoạt huyết, phòng tránh xuất hiện khối u, đột quỵ, tức ngực…

Ăn các loại thực phẩm hành khí hoạt huyết, loại bỏ ứ trệ, thông khí, giúp giảm sự trì trệ khí huyết ở gan ví dụ như táo gai, giấm, trà hoa hồng, quất…, hạn chế ăn các loại thực phẩm béo như các loại dầu mỡ, thịt mỡ.

Trong sinh hoạt hằng ngày, không nên ngồi nhiều nhàn nhã, lười vận động để tránh tình trạng khí cơ bị trì trệ, làm cho huyết mạch không thông. Nên ngủ đủ giấc, có thể ngủ sớm dậy sớm, tăng cường luyện tập thể dục, xoa bóp mát xa cơ thể.

7. Thể chất khí uất (hay buồn chán)

Người có thể chất khí uất, vóc dáng thường gầy, cảm giác u uất không vui vẻ, tâm trạng chán nản, dễ căng thẳng, thần kinh lo lắng bất an, đa sầu đa cảm, yếu đuối trong chuyện tình cảm, dễ có cảm giác sợ, dễ bị làm cho sợ hãi, thường cảm thấy căng đau tức ở nhũ hoa và hai bên sườn.

Phiền muộn, vô cớ thở dài, cổ họng bị nghẽn hoặc như có vật lạ chèn mắc. Người có loại thể chất này thường có khuynh hướng mất ngủ, trầm cảm, rối loạn thần tinh, tăng sinh tuyến vú…

Giải pháp dưỡng sinh : Tránh để nảy sinh các loại bệnh như trầm cảm, rối loạn thần kinh, tinh thần, tình cảm...

Ăn các loại thực phẩm giúp thư giãn và lưu thông khí huyết, giảm buồn phiền lo lắng, thức ăn dễ tiêu hóa, hỗ trợ thần kinh như cây rong biển, sơn trà, trà hoa hồng…

Cuộc sống sinh hoạt hằng ngày không nên quá tĩnh tại, không ở nhà nhiều, tăng cường tham gia các hoạt động ngoài trời, giao lưu bạn bè. Tránh uống các loại nước có tác dụng kích thích thần kinh trước khi ngủ như trà, cà phê, nước ngọt, bia rượu…

8. Thể chất đặc bẩm (dị ứng)

Người thể đặc bẩm là người có thể chất rất đặc biệt. Mặc dù không bị cảm cúm, nhưng thường xuyên bị nghẹt mũi, hắt hơi, chảy nước mũi, hen suyễn. Da dễ bị nổi mề đay, dễ dị ứng với các loại thuốc, thức ăn, mùi, phấn hoa, thời tiết, da dị ứng thường xuất hiện các nốt đỏ bầm tím, xuất huyết dưới da, bị đỏ và có các vết trầy xước.

Giải pháp dưỡng sinh : Tránh để mắc các bệnh như hen suyễn, các bệnh về da, dị ứng, mẫn cảm.

Ăn các loại thực phẩm bổ sung và tăng cường khí, thanh đạm, và các loại thực phẩm bổ khí, hạn chế ăn kiều mạch vì nó chứa chất gây dị ứng fluorescein, và các loại thực phẩm mang tính kích thích, cay nóng.

Ăn vừa phải các thực phẩm có chất gây dị ứng như đậu tằm, đậu lăng trắng, thịt bò, thịt ngỗng, cá chép, tôm, cua, cà tím, rượu, hạt tiêu, chè đặc, cà phê…

9. Thể chất đàm thấp (dễ béo)

Người có thể chất đàm thấp hình thể béo mập, béo bụng, không săn chắc, dễ đổ mồ hôi. Thường cảm thấy nặng nề, di chuyển không dễ dàng. Cảm giác trên mặt như có một lớp mỡ, miệng thường có cảm giác dinh dính hoặc ngọt.

Cổ họng luôn có đờm, tính cách tương đối ôn hòa, lưỡi dày và bóng nhờn. Có khuynh hướng nhạy cảm với các bệnh như tiểu đường, đột quỵ, đau tức ngực…

Giải pháp dưỡng sinh chính : Loại bỏ đờm và ẩm, phòng tránh các bệnh như đột quỵ, đau tức ngực…

Ăn uống thanh đạm, hạn chế ăn các loại thịt mỡ và các loại thực phẩm ngọt, dính, nhiều dầu mỡ béo ngậy. Có thể ăn nhiều các loại thực phẩm như rong biển, bí đao…

Sinh hoạt hằng ngày nên tránh để ẩm ướt, môi trường sống nên khô ráo, nên tham gia nhiều các hoạt động thể dục ngoài trời. Quần áo nên chọn loại thoáng khí thoát mồ hôi, thường xuyên tắm nắng.

Trong điều kiện khí hậu lạnh ẩm ướt, nên hạn chế tập thể dục ngoài trời, tránh bị nhiễm lạnh và mưa. Cơ thể béo mập, dễ buồn ngủ, nên dựa vào tình trạng của bản thân để có các bài tập thể dục thích hợp, cần kiên trì tập luyện lâu dài.

Theo Health Sina/Baidu

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

BÀI TẬP CỘT SỐNG LƯNG

Những bài tập sau đây sẽ giúp cho bạn khỏe mạnh một cách nhanh chóng và không còn bị đau trở lại.

Những bài tập này có những lợi ích thiết thực của nó nhưng nó có thể mang lại những hiệu quả trái ngược, nếu không được tập đúng cách. Sau đây là những điểm quan trọng cần lưu ý:

1. Bắt đầu tập với những động tác nhẹ nhàng và cẩn thận. Khi bạn cảm thấy tự tin, bạn có thể tăng tốc cùng với sự thường xuyên luyện tập, nhưng tốc độ không phải là yếu tố chủ yếu. Điều quan trọng là duy trì sự cân bằng của nhịp thở với mỗi bài tập, hít vào và thở ra nhịp nhàng.

2. Đừng tập quá sức nhất là khi mới bắt đầu tập. Tập theo đúng số lần chỉ định và tập theo những bài tập đã được chỉ định.

3. Đừng bỏ một ngày tập rồi sau đó tăng tốc bằng những bài tập nặng nề hơn. Những bài tập không đều đặn rất có hại cho sức khỏe.

4. Khi đang tập, nếu bạn cảm thấy hơi khó chịu, bạn đừng lo lắng. Điều này cũng thường xảy ra vì khi cơ bắp của bạn trở nên khỏe hơn và có điều kiện trở lại bình thường. Tuy nhiên, cảm giác bị đau và khó chịu thường không tồn tại lâu. Nếu có, bạn ngưng tập và hỏi ý kiến Bác sỹ.

5. Mỗi bài tập nên tập 5 lần và giữ nguyên tư thế từ 5 đến 10 giây. (Xem hình trang kế tiếp)

ĐỖ THIÊN THƯ st.


BÊN HIÊN GIÁO ĐƯỜNG

Gã cứ cắm cúi bước, bóng đêm phủ ngập quanh mình, gã không nhìn ngang ngó dọc, gã chỉ nhìn bước chân mình, gã đi đi hoài, gã không biết gã đã đi qua bao đoạn đường kể từ lúc bước ra khỏi cách cổng sắt màu đen nặng nề được đẩy ra, và gã bước những bước chân đầu tiên dười bầu trời thanh bình sau những tháng ngày…, và kể từ lúc bước xuống chuyến xe khách đường dài mà hắn đã vẫy đại ngang đường, kể từ lúc gói xôi nóng hổi từ tay một người ân cần đặt vào tay gã với lời chúc may mắn ấy. Đôi chân gã đã đồng tình với cái dạ dày đang rọt rẹt, đôi vai gã cũng đã mỏi với cái túi xách quần áo càng lúc như càng nặng hơn, nhưng đôi mắt hắn vẫn không rời những bước chân dù bóng tối đã làm nó mờ đi nhiều. Nơi đâu sẽ cho gã một hớp nước… nơi đâu sẽ cho gã một mẩu bánh mì… gã không biết, vì gã không dám tạt vào cả một cánh cửa bên đường, vì gã không dám cả một lời đề nghị, gã sợ, sợ những ánh mắt trong veo, sợ cả những bàn tay ấm hồn nhiên, gã sợ với nỗi sợ mơ hồ ám ảnh không biết đã bao lâu, nỗi sợ như một sự mặc định mà gã không làm cách nào rũ bỏ được. Nên rồi gã cứ thế mà đi, gã không biết cả nơi mình đang đi có tên gọi là gì, và đâu là điểm gã sẽ thả phịch cái xác thân mòn mỏi này xuống. Nhưng gã biết nó sắp đến lúc không chịu đựng nổi rồi, ít nhất thì cũng hơn một ngày với gói xôi ấy, ít nhất thì cũng non nửa ngày với những bước chân cắm cúi mải miết… con gió se lạnh thấm vào người, gã so vai rụt cổ và vẫn bước… bước. Có một thứ thanh âm dìu dịu từ rất xa, thoang thoảng thoang thoảng vọng vào tâm thức, gã không nhận thức được đó là thanh âm phát ra từ cái gì và từ đâu, và những bước chân gã cứ tùy nhiên hướng về phía ấy và rồi cũng đến lúc những sợi gân cuối cùng đã chùng lại, gã khụy xuống, tay gã như chạm vào một bờ đá, và gã dần vô thức... hình như trời đã tang tảng sáng…

Vị linh mục tuổi độ trung niên, mở rộng cánh cửa sảnh đường, bước ra khoan thai làm vài động tác co duỗi bỗng ông giật mình, định thần nhìn kỹ bóng người nằm co gần như úp sấp bên hiên. Ông đến gần khẽ chạm tay vào người ấy, chút âm ấm của cơ thể khiến ông phần nào an tâm và cất tiếng gọi, trong nhà sau chạy ra hai thanh niên. Rồi cả ba người vực cái thân hình đang rã rệu ấy vào một gian phòng. Vị linh mục lần sờ túi áo túi quần của hắn, lấy ra một cái bọc nhựa, trong đó là một số giấy tờ tùy thân, dưới ánh sáng đèn điện, ông chăm chú xem từng thứ một, và người chợt cất tiếng “À”. Hai thanh niên lúc trước đã đem đến một thau nước ấm và một cái khăn mặt, làn da sạm khô dần được mềm ra dưới những bàn tay khe khẽ, và cả bộ quần áo đẫm mồ hôi và bụi đường cũng đã được thay bằng một bộ đồ khác mềm nhẹ hơn. Bây giờ gương mặt người đàn ông ấy đã hiện ra rõ hơn nhiều, trong dáng vẻ đôi mi khép, anh ta không hoàn toàn như một giấc ngủ ngon, thi thoảng chút giật giật trên cơ mặt trên mi mắt cho thấy tâm anh ta có phần bất an ngay cả khi ngủ. Một tiếng thở dài nhè nhẹ trong làn hơi vị linh mục. Ông nói nhỏ với một thanh niên, anh này dạ rồi đi ngay vào gian bếp.

Gã lờ mờ chút gì tỉnh thức, tay gã động nhẹ, và khi mi mắt chập chờn mở ra lại nhíu ngay vì ánh đèn lấp lóa. Nỗi ám ảnh mơ hồ thường trực là thứ bản năng trỗi dậy đầu tiên, và hắn mở to mắt dáo dác nhìn quanh, hai ba bóng người bên cạnh khiến hắn hoảng sợ co tay chống để ngồi dậy, một bàn tay ấm nhẹ đặt lên trán gã ấn gã nằm trở lại. Một bàn tay khác vỗ vỗ trên vai gã, gã không biết mình đang trong một trạng thái nào, nhưng có gì như mách gã không phải điều nguy hiểm. Gã nhắm mắt nghe ngóng nhận định. Có tiếng chiếc thìa va vào thành chén, hình như đang khuấy cái gì, và môi hắn được tiếp nhận một chất nước ấm ấm ngọt ngọt, đó là nước cháo pha đường, gã mặc cho dòng nước chảy vào cuống họng chảy vào thực quản, dòng nước ấm chảy đến đâu gã biết đến đấy, một chút khoan khoái của cơ thể cho gã cảm giác dễ chịu, gã cứ nuốt nuốt… và gã từ từ mở mắt, nhìn từng gương mặt đang cúi xuống gã. Ánh mắt từ nhân của một gương mặt đứng tuổi đọng lại gã lâu nhất, gã nhìn như hút vào đấy, ánh mắt như xoa nhẹ cái tâm hồn đầy sẹo của gã, ánh mắt như một sự truyền dẫn an lành vào tận cùng tâm can hắn, gã nhìn nhìn mãi, và ánh mắt ấy cũng không rời đi đâu một giây, cứ như đó là sự chủ định của thần khí để điều chuyển tâm thức cho gã vậy. Và trong luồng sáng thanh tâm ấy gã lại chìm vào giấc ngủ, hơi thở đều dần đều dần… bàn tay ấm lại đặt lên trán gã, lần này lâu hơn.

Gã đã biết mình đang ở đâu, khi gã được ngồi dậy nhìn quanh, tiếng chuông êm đềm thư thả vọng vào làm gã mang máng nhớ lại, đó là thứ thanh âm mơ hồ thoảng vào gã khi đang trên đường. Một cảm giác bình yên tỏa ngập tâm hồn gã, đó là thứ cảm giác tốt nhất gã nhận được sau rất nhiều ngày… Gã cứ ngồi im thế mà lắng nghe, hình như ngoài kia đang có nhiều người, giờ thì gã biết có một khóa lễ sắp diễn ra. Gian phòng gã đang ngồi sát sảnh đường, nên những âm thanh ngoài ấy vọng vào tai gã rất rõ. Ít phút sau tiếng cầu kinh rì rầm vang lên, không những nghe rõ mà gã còn như nhìn thấy từng hình ảnh từng cử chỉ từng ánh mắt nghiêm cẩn thành kính. Gã đang buông mình ngược dòng ký ức, đó là những ngày gã đi theo mẹ đến giáo đường, lớn hơn rồi lớn hơn, gã đi một mình hoặc với chúng bạn, rồi gã đi cùng một người con gái, rồi gã trao nhẫn cưới cho người con gái ấy trước sự chứng giám của Đấng Toàn Năng, của bà con họ hàng đôi bên, của làng xóm đang tưng bừng hoan hỉ chúc mừng. Trái tim hắn như nghẹn thắt lại… rõ ràng là êm đẹp rõ ràng là hạnh phúc lắm mà, sao chưa được bao lâu thì đã… Từ khi còn nhỏ gã đã được răn dạy rằng trong mỗi người đều có những con quỷ dữ, sự tu tập hướng đạo duy trì và củng cố đức tin là để triệt tiêu đi những con quỷ dữ ấy. Thuở ngây ngô, gã hình dung con quỷ dữ ấy là một cái đầu có hai sừng nhọn hoặc có hai cái răng nanh nhọn hoắt và có hai bàn tay móng vuốt cũng nhọn hoắt. Nhưng lớn lên gã hiểu đó là sự tham ác sân hận trong mỗi người. Và một khi con quỷ dữ ấy lồng lên thì nó sẽ đốt cháy cuộc đời mỗi người chỉ trong tích tắc. Vậy mà gã đã để cho một trong những con quỹ dữ ấy lồng lên, và gã chỉ nhận ra điều ấy khi nhìn một xác người nằm bê bết máu. Không ai xa lạ mà lại chính là người con gái gã đã yêu và gã đã cưới. Sự ghen tuông mù quáng, hấp tấp và vội vã khiến gã không còn đủ tỉnh táo nhận thức đúng sai. Cái sĩ diện vớ vẩn của một gã đàn ông tự cho mình đang bị xúc phạm đã khiến gã thành một kẻ điên cuồng. Người ta bảo gã máu lạnh bảo gã mất nhân tính bảo gã quá man rợ… gã chỉ nhận diện được bản chất những tính từ ấy khi bản án đã tuyên. Và gã đã phải mất rất nhiều ngày để nghiền ngẫm những tính từ ấy, và luôn tự hỏi, vì sao nó lại xuất hiện trong con người gã, khi mà trước đó gã thường nhận được những cái nhìn và những từ ngữ khác cơ. Phải chăng cái phần ác thú trong con người hắn chưa được tiến hóa, nó vẫn âm ngầm núp kỹ trong tận cùng tâm thức, chỉ cần đợi có một thời cơ…

Gã ngồi đó, hai tay chắp trên đầu gối, đầu cúi xuống. Gã không cần phải ngăn vành mi rưng rưng, vị linh mục ngồi im chờ đợi, chờ cho gã qua cơn thống thiết, chờ cho gã tự tìm lại bản ngã làm người, chờ cho gã lắng đi cơn bão dằn vặt, gã đã được vị linh mục thực hiện một số nghi thức cần thiết, và gã cảm nhận được một luồng quang tuyến rọi sâu vào tâm thức, gạn lọc đi phần nào cảm giác tội lỗi, gã đang mon men đến cánh cửa mở rộng. Vị linh mục khẽ cầm đôi tay đang run run của gã bóp nhẹ. Và ông bắt đầu nói bằng một chất giọng trầm ấm truyền cảm, ông giảng giải cho gã biết đó là một hỏa ngục mà gã phải đi qua, và cơ hội hồi sinh cho gã là suốt quãng đời còn lại với những việc làm thiện tâm phước hạnh cho đời, càng làm được nhiều việc tốt cho đời bao nhiêu thì những lỗi lầm xưa được hóa giải bấy nhiêu. Sự trả giá về pháp luật đã xong, còn sự trả giá lương tâm thì còn dài, cho dù có thể không bao giờ bôi xóa được những gì đã xảy ra, thì cùng bằng hết sức của lòng mình hẳn sẽ một ngày mỉm được một nụ cười thanh thản. Gã vâng gã dạ gã như nuốt hết những lời dạy vào tim gan, và gã hứa với tất cả lòng thành, cuộc sống của gã bây giờ là lăn xả vào để vác những cây thập tự giá của cuộc đời. Để ít nhất mẹ cha gã không còn hổ thẹn vì đã sinh ra đời một con người không đúng nghĩa.

Gã đứng đó, dưới tháp chuông, trong bộ quần áo giản dị màu trắng, tay giật nhẹ từng nhịp chuông, lắng nghe tiếng ngân của từng tiếng chuông cho đến dư âm cuối cùng. Trong sân nhà thờ, người ta đang rộn rã nói cười í ới gọi nhau trong những công việc chuẩn bị cho Lễ Giáng Sinh. Trong sảnh đường vọng ra trầm bổng tiếng ca đoàn vang lên những bài thánh ca. Gã không nhỡ rõ đây là mùa Giáng Sinh thứ bao nhiêu từ khi gã có mặt nơi đây. Bởi gã thường xuyên tham gia những công việc thiện nguyện do giáo xứ tổ chức. Gã thường nhận những phần việc nặng nhất khó nhất mệt nhất, gã không từ bất kỳ nơi nào cần sự cứu giúp. Từ những vùng xa sâu hẻo lánh cư dân thiếu thốn đói nghèo, đến những nơi bão lụt hạn hán thiệt hại. Gã hăm hở đi hăm hở làm hăm hở trèo đèo lội dốc cứ như thể không biết mệt là gì. Hầu hết bà con giáo dân nơi đây không hề biết gì về câu chuyện đời gã, người ta chỉ biết gã là một kẻ lỡ đường, sau khi được sự giúp đỡ của vị linh mục thì xin ở lại luôn. Ừ người ta hiểu sao cũng được, miễn đừng đụng đến vết thương nhức buốt trong lòng gã, để cho nó có thời gian mà lành lặn. Ít ra thì vào giờ phút này, khi mái tóc đã phai dần những sắc tố, thì câu chuyện buồn xa xưa ấy cũng thoảng nhẹ đi mấy phần, đôi khi hiện về thì cũng chỉ buông vài tiếng thở dài. Gần đây người ta thi thoảng nhìn thấy nụ cười hiếm hoi của gã, thế cũng đã là thanh thản. Cuộc đời, suy cho cùng, chỉ đi gần đến cuối mới ngẫm được giá trị của mình của người. Cho dù nhiều khi ngẫm ra được rồi mới biết hối tiếc. Bất kỳ ai khi được sinh ra đời là cũng được tạo hóa giao phó một vài nhiệm vụ gì đấy. Để rồi những cái đẩy những lối dẫn cho người ta thực hiện. Cuộc đời cho vay rồi cuộc đời bắt trả, thế là lòng vòng cũng hết một phận người. Gã đã nghiệm ra như thế khi nghiền ngẫm lại tất cả những gì đã diễn ra trong đời gã. Xong những hồi chuông, gã thong thả đi xuống những bậc thang, và gã lại hòa vào đám đông đang công kia việc nọ. Mỗi mùa Giáng Sinh về, lại như mở ra những tầng thanh sắc mới, để người người hân hoan, người người ước vọng. Những Đấng huyền linh ngôi cao vẫn luôn tồn tại trong một Đức tin, để nhiều nhiều linh hồn đã lầm lạc như gã bám níu mà quay về, bám níu mà hành hiện.

Con quỳ lạy Chúa trên trời

Cho con thoát khỏi mọi vòng tai ương

A men”

ĐÀM LAN

HƯƠNG VỊ QUÊ NHÀ

Tuyết bao phủ ngọn đồi, bám quanh hàng cây, trùm lấp dòng sông, xóa tan dấu tích con đường. Tuyết trắng trời! Tuyết tràn ngập! Tuyết chở giá rét mùa đông và bão tố về đây vây bọc lấy tôi.

Đặt tờ đô la trên lòng bàn tay, tôi ngắm nhìn nó. Tôi đã giữ tờ giấy bạc nầy gần năm năm. Đó là số tiền đầu tiên tôi kiếm được từ tuyết. Hôm ấy, tuyết cũng dầy đặc như bây giờ. Người ta trốn buốt lạnh trong những căn phòng cửa kính, có lò sưởi. Bên ngoài, mọi vật như tê đi, ngất lịm vì bị ướp trong khoảng không gian băng giá.

Khác với người lớn, trẻ con háo hức nhìn ra khung kính. Chúng thích thú thấy tuyết biến màu xanh của hàng cây trước ngõ thành một dãy cổ thụ trắng xóa, bạc đầu. Tuyết lất phất. Tuyết bay bay. Tuyết mang những tiếng hú hú dài vang xa rồi quay vòng lại. Khu phố cũ bỗng dưng lạ lẫm, huyền hoặc như thành trì trong cổ tích. Tony, một chú bé mơ mộng kể cho cha mẹ nghe mơ ước của mình. Chú muốn chạy ra giữa trời. Tuyết sẽ bám đầy tóc, đóng quanh người chú như hàng cây kia đang đông cứng, hóa thạch. Người ta sẽ gọi Tony là “Người tuyết”.

Đời nào ba mẹ Tony đồng ý nhưng họ nghĩ ra một sáng kiến để làm vừa lòng đứa con trai độc nhất bằng cách thuê người lấy tuyết nắn tượng. Không ai dại gì trong cơn bão tuyết mà ra ngoài trời để nhận số tiền ít ỏi. Một trăm “đô” không đủ mua quan tài nếu nhỡ bị chết cóng. Nhưng, tôi lại chính là kẻ khờ khạo ấy. Tôi muốn sống bằng chính đồng tiền của tôi tạo ra. Tôi muốn được hồi sinh!

Tôi đã chết từ khi rời khung cửa máy bay. Nó đã mang tôi từ vùng đất quê hương sang xứ sở giàu có nầy. Nơi mà Kha, chồng tôi đã định cư và nhập quốc tịch Mỹ. Tôi chờ đợi ngày gặp lại anh như nắng hạn chờ mưa. Tôi yêu anh! Vắng anh, cơm không thể làm tôi no. Áo không đủ ấm cho cơ thể và mọi thứ đều trở nên vô nghĩa. Những lá thư của anh không làm tôi an tâm mà chỉ đốt cháy lòng tôi nỗi nhớ anh. Khi mọi thủ tục xuất cảnh hoàn tất, ngồi trong máy bay sang Mỹ, tôi muốn điên lên vì sung sướng. Trái tim tôi mọc cánh bay bổng ước mơ. Tôi sẽ sà vào lòng anh. Mặc kệ dòng người đông đúc tại phi trường với những nụ cười hóm hỉnh, những đôi mắt tò mò chế giễu, tôi sẽ nhìn tận mặt anh. Tìm lại nét đáng yêu ngày nào hai đứa mới quen. Tôi nắm lấy tay anh, đi bên anh như cô dâu e thẹn sánh vai cùng chú rể. Tôi sẽ… Tôi sẽ rất nhiều thứ.

Nhưng, Kha không đi một mình đến đón tôi. Bên anh là người đàn bà lạ. Bàn tay đeo đầy nhẫn vàng nắm lấy cánh tay Kha. Khuôn mặt chẳng có nét gì sắc sảo nhưng nhờ trang điểm khéo léo đã trở nên quyến rũ. Nghiêng đầu tựa vai anh, bà ta nũng nịu thì thầm gì đó khiến Kha mỉm cười thích thú. Khi nhìn thấy tôi, Kha không dám chạy đến mừng. Anh mỉm cười, gật đầu chào lễ độ như người lạ. Và, tôi biết, từ lúc đó, tôi mất anh. Tôi đã chết! Họ đưa tôi về một căn phòng tiện nghi bằng chiếc mercedes của người đàn bà Việt Nam mang quốc tịch Mỹ ấy. Kha giải thích:

- Đây là nhà của em. Cathy thuê cho em đó. Anh rất tiếc! Trong lần đi lo giấy tờ cách đây một tháng, anh đã gặp Cathy và yêu cô ấy. Anh không thể sống thiếu Cathy. Anh định viết thư xin lỗi em, đề nghị em ở lại Viêt Nam. Nhưng, giấy tờ đã xong. Vả lại, Cathy bảo rằng dù sao cũng tốn kém rồi, nên để em sang đây, giúp em làm ăn hầu chuộc lại lỗi lầm của anh và cô ấy. Anh hứa sẽ lo hết mọi thứ cho em. Em được sống trong giàu sang, sung sướng.

Ngừng giây lâu để xem tôi phản ứng ra sao, thấy tôi im lặng, anh tiếp:

- Em muốn gì anh cũng chiều, miễn là…

Tôi ngắt lời:

- Ly hôn?

Kha nhìn tôi, mặt đỏ ửng, không biết vì xấu hổ hay xúc động:

- Em vẫn thông minh như ngày nào! Chắc em cũng hiểu rằng dù em không đồng ý cũng không thay đổi được gì. Anh mong em hiểu là anh muốn đôi bên đều có lợi. Rồi em sẽ thấy New York là thiên đường.

Khi họ đã về nhà riêng, tôi khép cửa “thiên đường” bắt đầu công việc biến thân thể mình thành xác chết. Và làm cho cái “thiên đường” này thành một “ngôi nhà mồ”. Tôi mở tung hành lý tìm chai thuốc ngủ. Sơ ý, tôi đánh rơi hộp mứt sầu riêng xuống nền nhà. Mùi hương ngào ngạt lan tỏa khắp nơi, gợi nhớ quê hương với vườn sầu riêng của ngoại. Những hàng cây khẳng khiu, cành ngang xấu xí, màu lá xanh vàng, héo hắt, mệt mỏi khép hờ, khiến thoạt nhìn cứ ngỡ cây sắp chết khô. Vậy mà, khi gió mùa thổi về, cây trở mình chìa ra những chùm hoa trắng tinh khôi. Đứng giữa vườn lúc ấy, tôi phải ngẩn ngơ tưởng là xuân đã về rồi. Hoa sầu riêng thơm chẳng khác hương bưởi lan tỏa trong vòm lá quấn quýt bên tôi. Tôi tha hồ tung tăng giữa khoảng không gian thơm lừng. Những cánh hoa nhỏ tàn dần, nhường cho trái xuất hiện. Lạ làm sao! Cuống hoa bây giờ ngày cứ một to hơn để giữ chặt trái trên cành. Mỗi lần nhìn dáng méo mó, gai góc của trái sầu riêng. Tôi ngạc nhiên chẳng hiểu vì cớ gì bên trong nó lại ẩn chứa một hương vị độc đáo, diệu kỳ. Tôi thích ăn sầu riêng lắm. Cứ đến tháng năm là tôi về thăm quê ngoại. Bà hay đùa:

- Nhớ ngoại hay nhớ sầu riêng vậy?

Tôi bẽn lẽn thưa:

- Con nhớ ngoại nhiều hơn!

Sau đó, tôi tha hồ thưởng thức sầu riêng. Bao giờ, tôi cũng phải hít hà:

- Thật là tuyệt, hả ngoại!

Ngoại cười hiền lành rồi đem mớ vỏ ra sân phơi, bà bảo:

- Khói sầu riêng cũng thơm lắm. Nhưng bọn gián, rận rệp, lại sợ mùi thơm ấy. Nếu đem treo một cái vỏ sầu riêng dưới gầm giường thì lập tức mấy chú rệp sẽ bồng bế nhau di tản sang nơi khác.

Tôi đùa:

- Ngoại ơi! Sau này, con lập gia đình, nếu chồng con có vợ bé, ngoại cho con vài quả sầu riêng nhé! Con sẽ ném vào mặt tình địch cho nó rỗ mặt mới được.

Bà phì cười:

- Làm vậy ác lắm cháu ơi!

- Chứ làm sao hả ngoại?

Bà lặng đi giây lâu. Có lẽ bà nhớ lại hoàn cảnh của bà:

- Cháu hãy về đây sống với ngoại!

Tôi ném chai thuốc vào tường. Mảnh thủy tinh vỡ cùng những viên thuốc ngủ văng tứ tung. Đứng bật dậy, tôi thảng thốt gọi:

- Ngoại ơi!

Ngay hôm sau, khi Cathy và Kha trở lại, hai người đều phải kinh ngạc trước thái độ bình tĩnh của tôi. Họ đồng ý cung cấp tiền bạc, sắp xếp cho tôi đi học ngoại ngữ và mọi thứ khác với điều kiện tôi phải ký tên vào tờ đơn xin ly dị.

Ngoài giờ học, tôi lân la làm quen những người gần đó để tìm việc làm. Và, công việc đầu tiên của tôi là “nắn tượng tuyết”.

Với cây xẻng nhỏ, tôi băng ra ngoài trời. Hai hàm răng run lên va vào nhau nghe cồm cộp. Bàn tay tê cứng đánh rơi cái xẻng xuống nền tuyết. Tôi muốn chạy vào nhà, từ chối công việc điên rồ nầy nhưng nhớ đến vẻ lạnh lùng của Kha, ánh mắt khinh bỉ của ả Cathy mỗi lần trao tiền cho tôi, tôi cương quyết phải tiếp tục làm cho bằng được để có thể sống bằng đồng tiền của chính mình. Bỗng dưng, tôi cảm thấy cái lạnh như giảm đi, máu nóng chảy dồn dập. Nhấc xẻng lên, tôi hăng hái đắp tuyết thành một cột trụ cao lớn. Tôi dùng con dao nhỏ khắc họa khuôn mặt người lên tuyết. Tôi khắc đôi mắt lãng mạn, đa tình, cách nhếch mép đểu cáng lên môi hình tượng và tôi đội cho nó chiếc nón nỉ, khoác lên vai người tuyết cái áo dạ cũ dành cho việc hóa trang. Tôi bàng hoàng nhận ra Kha trên hình tượng tuyết. Tôi run rẩy vuốt ve đôi má lạnh buốt. Tôi hôn đắm đuối đôi môi cứng đờ, không cảm xúc ấy rồi tựa đầu lên vai anh, tôi ngất lịm.

Tỉnh lại, tôi thấy mình nằm trong căn phòng sang trọng của biệt thự. Người ta đã đưa tôi vào đó, cho tôi sưởi ấm. Vị bác sĩ giúp tôi hồi sức cũng là người gốc Việt đã chân thành khuyên bảo:

- Tôi sẽ tìm việc làm giúp cho cô. Nhưng cô nên xem tiền chỉ là phương tiện trong cuộc sống hơn là mục đích của đời mình.

Tôi ngậm ngùi giải thích:

- Ở đây, mục đích của tôi là tiền. Khi nào được hồi hương, tiền sẽ biến thành phương tiện, thưa ông.

Hôm nay, ngày cuối cùng tôi sống trên đất Mỹ. Nơi mà nước mắt và máu tim tôi bị vắt đến khô cạn. Nơi mà tôi lăn mình trên đớn đau, vật lộn với công việc để tìm lãng quên và hái ra tiền. Những tờ giấy bạc được xếp cẩn thận trong ngăn tủ. Chúng nằm yên chờ giờ hóa thân thành phương tiện để biến nơi tôi trở về thành một thiên đường nhỏ.

Ngày mai, New York ở lại sau lưng, cùng với quá khứ xa xôi, phiền muộn. Ngày mai, tôi về với quê hương. Khi rời khung cửa máy bay, tôi sẽ lại là tôi năm nào. Vườn sầu riêng của ngoại mùa nầy chắc nở đầy hoa trắng! Ôi, hương sầu riêng rồi lại bủa vây tôi! Và, ngoại tôi lưng còng, tóc bạc ra tận ngõ dang tay thì thầm:

- Cháu đã về với ngoại!

NGUYỄN THỊ MÂY


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 11.11.2017… .................................... Vũ Thư Hữu ... 01

Vài dòng về một siêu quý thư mà tôi mới gặp ........................... Vũ Anh Tuấn ... 05

Có tận thế không? (tt) .......................................... Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết ... 08

Phật là gì ? .......................................................................................... Tâm Nguyện ... 16

Ba truyện ngắn của Ivan Turghenev:

Con chó - Ông lão ăn mày - Ông già ........... Thúy Toàn dịch .... 28

Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời .................................................... Phạm Vũ ... 31

Triết lý nghệ thuật trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải ...... Hoàng Kim Thư st. ... 38

Nh ững giai thoại kỳ thú về ngày lễ Noel .................................. H oàng Chúc st. ... 47

Tôi yêu Tiếng Việt ........................................................................ Hà Mạnh Đoàn ... 51

Thơ Nôm Nguyễn Trãi - Bài thơ Bán chiếu ........................ Phạm Hi ếu Nghĩa ... 59

Có ngọn gió mang tên Hạnh Phúc (thơ) ............................................ Đàm Lan ... 66

Nốt lặng phím dương cầm (thơ) ...................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 67

Giáng Sinh nguyện cầu (thơ) ........................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 68

Nguồn cội (thơ) .................................................................................. Ngàn Phương .... 69

Chạnh lòng (thơ) ............................................................................... Ngàn Phương .... 69

Giáng Sinh - Mừng Giáng Sinh - Chuông giáo đường (thơ) ...... Ngàn Phương .... 70

Bông mai đêm Noel (thơ) .................................................................... Lê Nguyên .... 71

Dạ tiệc (thơ) ............................................................................................ Lê Nguyên ... 72

Hoàng hôn (thơ) ............................................................................... Thanh Phong .... 73

Dấu chấm hỏi (thơ) .......................................................................... Thanh Phong .... 74

Cảm xúc: Chiều (thơ) ......................................................................... H oàng Cúc .... 74

Thành phố vào xuân (thơ) .................................................................. H oàng Cúc .... 75

Thiên tai lũ lụt (thơ) ...................................................................... Quan Thúy Mai ... 76

Bài thơ giao hữu (thơ) ....................................................................... Thanh Châu .... 77

Lẻ loi (thơ) ........................................................................................... Thanh Châu .... 78

Tình trong mộng (thơ) ...................................................................... Thanh Châu .... 78

N ếu (thơ) ...................................................................................................... Hoài Ly .... 79

Khi trở về (thơ) ............................................................................................ Hoài Ly .... 80

Màu hạnh phúc (thơ) ........................................................ H uỳnh Thiên Kim Bội .... 80

Những con chữ đầu tiên (thơ) .......................................... H uỳnh Thiên Kim Bội .... 81

Tự đắc (thơ) ........................................................................................ Lang Nguyên .... 82

Đồng tiền (thơ) ................................................................................... Lang Nguyên .... 82

Tình ca Botany (thơ) ................................................................... Phùng Chí Tâm ... 83

Tôi yêu Sydney (nhạc) ................................................................. Phùng Chí Tâm ... 84

Trăn trở (thơ) ................................................................................ Vũ Thùy Hương .... 85

Tự tình (thơ) ................................................................................. Vũ Thùy Hương .... 85

Phận bạc (thơ) .............................................................................................. Hải Âu ... 86

Có em (thơ) ................................................................................................... Hải Âu ... 86

Kỷ niệm (thơ) .......................................................................................... Lam Trần .... 87

Mùa thu nhớ đường xưa (thơ) ................................................................ Kim Sơn ... 88

Chẳng từ ai (thơ) ................................................................................ Lê Minh Chử .... 89

Mừng ngày đại hỷ (thơ) .................................................................... Lê Minh Chử .... 90

Mừng xuân (thơ) ................................................................................ Thanh Xuân .... 90

Góc xuân (thơ) ..................................................................................... Quang Bỉnh .... 91

Đến xuân (thơ) ..................................................................................... Quang Bỉnh .... 91

Cho là nhận (thơ) ....................................................................................... Vũ Mão .... 92

Giving is Receiving (thơ) ......................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 92

Điện Kremlin ........................................................................................... Bùi Đẹp st. .... 94

Lễ chay đàn ............................................................................................ Phước Hải ... 97

Giọng ngâm ngậm ngùi ........................................................... Nguyễn Văn Sâm .... 98

Lá thư Noel ............................................................................................ Lệ Ngọc st. . 100

Cà Cuống ................................................................................................. Lam Trần .. 103

Sự khác biệt Đàn ông - Đàn bà ......................................................... Kim Sơn st. . 107

Điểm sách: Những suy nghĩ vẩn vơ 16 - Khoảng trời si 3 ... Hà Mạnh Đoàn . 109

Béo gầy, khỏe yếu là do “tạng”… ........................... Đào Minh Diệu Xuân st. .. 110

Bài tập cột sống lưng .................................................................. Đỗ Thiên Thư st. .. 117

Bên hiên giáo đường .............................................................................. Đàm Lan .. 120

Hương vị quê nhà ...................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 126

Thông báo

Kỳ họp tiếp theo của CLB sách Xưa & Nay sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 13/01/2018 tại Nhà thờ Tân Sa Châu, số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình.

Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về:

hamanhdoan69@yahoo.com

hoặc liên hệ với Hà Mạnh Đoàn - 0937 108489

Các bản tin trước có thể xem tại:

www.diendan.songhuong.com.vn

www.giaimakinhphat.com

www.sachvatranh.com

www.newvietart.com

www.vandanviet.net

www.hoamai-aus.org.au

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế