VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/5/2018 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư mà ông mới có. Ông kể như sau: “Mấy hôm trước, tôi được một anh bạn thân có cửa hàng sách cũ m ờ i đến ngay để xem một dạng cổ thư mới có”, nghe vậy tôi hào hứng bắt taxi tới ngay tiệm sách của anh thì mới thấy là “dạng cổ thư mới có” chỉ mới có với anh, chứ không lạ gì với tôi. Đó là hai cuốn sách, thuộc loại “đăng từng đoạn ngắn hàng ngày, thành nhiều kỳ” mà tôi biết đã khá lâu, nhưng phải công nhận chủ nhân cũ của chúng là người kiên trì yêu chúng nên mới có thể chờ mỗi ngày để cắt từng kỳ của chúng để cuối cùng đóng chung lại thành một cuốn sách, một tác phẩm. Vừa đưa hai cuốn sách cho tôi, anh bạn tôi báo giá rẻ mạt là 3 triệu đô mít cho mỗi cuốn vì theo anh, những cuốn này đã không còn bản quyền, và ai có chúng thì được toàn quyền khai thác in lại, hết khỏi phải xin phép, xin tắc gì cả. Chỉ vào con số 70 (1970), tôi phải mất gần 10 phút trong đời để giải thích cho anh ta hiểu là hai cuốn sách, tính cho tới hôm nay, mới được 48 tuổi đời, nếu cả hai tác giả đã qua đời trước khi sách được đăng từng kỳ trên báo, thì cũng còn phải đợi hai năm nữa mới đủ 50 năm để hết bản quyền, và rơi vào lãnh vực chung; trường hợp các tác giả qua đời sau năm 70, thì còn phải đợi để biết chính xác năm họ qua đời cộng với 50 năm, thì mới hết bản quyền. Kết quả của việc tôi ra công giải thích là giá tiền đang từ 3 triệu đô mít tụt xuống còn 3 trăm một cuốn và tôi đã vui vẻ ẵm chúng về. Nội dung hai cuốn sách là những truyện cổ cho nhi đồng khá hay, và những truyện tình sử cổ của Trung Hoa từ đời Tần Thủy Hoàng. Người viết chịu mua vì thán phục sự kiên nhẫn của người chủ cũ, đã chịu khó hàng ngày cắt từng kỳ từ tờ báo trong mỗi ngày, để đóng chung các trang thành môt cuốn truyện. Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu xong thì hai cuốn sách hơi lạ với một số thành viên được vài vị chuyền tay nhau xem.
Xong phần giới thiệu sách, thành viên Phước Hải lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ vì ông có việc phải ra về sớm. Tiếp lời thành viên Phước Hải, anh Phạm Vũ lên nói về Hán ngữ hiện đại của Nhật. Sau anh Phạm Vũ, anh Nhựt Thanh lên và có bài nói ngắn về sự chuẩn xác của chính tả Việt ngữ. Tiếp lời anh Nhựt Thanh, nhà thơ Hải Âu lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ của anh đã được đăng trên Bản Tin số 144. Vào lúc này, Dịch giả Vũ Anh Tuấn sực nhớ là có một khách mới là chị Tố Nga, nên đã tạm ngưng mọi hoạt dộng lại để chị Tố Nga lên tự giới thiệu mình và ngâm tặng các thành viên hai bài thơ để ra mắt. Để tiếp nối thành viên Kim Mai lên hát tặng các thành viên bài “Chiều lên Bản Thượng”. Sau Kim Mai, thành viên Thùy Mai lên hát tặng các thành viên bài “Ca dao em và tôi”. Tiếp lời Thùy Mai, anh Lê Nguyên lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ. Sau anh Lê Nguyên, Thùy Mai lên hát tặng các thành viên bài “Trăn trở”. Thùy Mai hát xong, anh Thanh Phong lên hát tặng các thành viên bài “Diễm tình” và ngâm tặng các thành viên một bài thơ vui. Sau anh Thanh Phong, Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên ba bài lục bát và có mấy lời mừng đôi uyên ương Hải Âu và Thùy Hương. Tiếp lời Hoài Ly, Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên bài “Lời người ra đi”. Sau Lệ Ngọc, Kim Sơn lên kể với các thành viên câu chuyện về một quán cà phê ở Venise bên Ý làm từ thiện, và ngâm tặng các thành viên một bài thơ nói về trường Gia Long của Sài Gòn cũ. Tiếp lời Kim Sơn, anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên một bài về Trường Sa. Sau anh Tấn Thuận, anh Quang Bỉnh lên hát tặng các thành viên một bài vọng cổ và đọc một bài thơ. Anh Quang Bỉnh hát xong, cô Tuyết lên giới thiệu cuộc nói chuyện của thành viên Lê Ái Liên về Tập Thở sắp diễn ra, và gửi lời m ờ i chung cho các thành viên tham dự cuộc nói chuyện. Để kết thúc cuộc họp, anh Thanh Phong lên hát tặng các thành viên bài “Đường xa ướt mưa”. Cuộc họp kết thúc lúc 11g15, và các thành viên vui vẻ tạm biệt và hẹn gặp lại nhau trong cuộc họp tới. VŨ THƯ HỮU
MỘT BÀI VIẾT NÓNG HỔI NÓI VỀ MỘT TÂN QUÝ THƯ MỚI CÓ HÔM QUA Chiều hôm qua (28/5/2018), tôi đã phải khất với anh Đoàn, người bạn lo việc dàn trang cho Bản Tin của CLB Sách Xưa và Nay, mà tôi là chủ nhẹm, cho tôi chịu lại việc gửi bài viết cho tới sáng hôm nay, vì tôi nhận được tin có tủ sách của một nhà báo quá cố mà tôi biết danh, đang chờ tôi tới lựa mua vì thân nhân nhà báo trên muốn dành ưu tiên cho tôi lựa trước. Để cảm ơn lòng ưu ái của họ, tôi đành ngưng mọi công việc để đ ế n ngay với tủ sách đó. Ngồi trên taxi tôi cảm thấy khá hồi hộp vì tôi biết chủ nhân tủ sách là một người xuất thân trường tây như tôi và rất giỏi ngoại ngữ, nhưng lại cũng giống tôi ở chỗ yêu tiếng mẹ đẻ hơn mọi ngoại ngữ, nên tôi hy vọng tìm được nhiều sách tiếng Việt được xuất bản nhiều năm trước. Tới nơi tôi được đưa lên lầu một, và được xem ba tủ sách vây quanh một căn phòng thật đẹp, thật ngăn nắp, nhưng than ôi, các sách phần lớn là loại sách bỏ túi của tây, và một số sách về khảo cổ học b ằ ng ngoại ngữ Anh và Pháp, cộng với một số sách về ngữ học, là hai môn tôi không mấy quan tâm. Sau gần nửa tiếng lục soát, tôi chỉ lựa được trên 2 chục số nguyệt san chuyên về truyện hình sự của Pháp, và hơi lộ vẻ thất vọng, nên tôi hỏi người nhà chủ nhân ba tủ sách, mới biết lý do các sách quý bằng tiếng Việt đã ra đi hết hơn 7 năm trước, khi chủ nhân còn tại thế, và đã m ờ i vài ông bạn biết chơi sách tới để mời chơi tiếp. May thay ngay lúc đó, bà chủ nhà sực nhớ ra một kệ sách nhỏ ở phòng ngủ của chủ nhân ở lầu 2, và mời tôi lên xem. Tại đây tôi đã may mắn lựa được vài số báo Bách Khoa số đặc biệt và cuốn quý thư tuyệt và vời mà tôi muốn viết vài lời giới thiệu sáng hôm nay. Cuốn quý thư mang tựa đề là “Những lỗi thông thường trong thuật viết văn” của một Giáo sư, kiêm nhà văn và nhà nghiên cứu người Miền Nam (quê ở Chợ Mới An Giang) là Giáo sư Nguyễn V ăn Hầu (1922-1995). Cuốn sách khổ 14x21 phân, dày 198 trang, được nhà xuất bản Tự Do in năm 1960 (58 năm trước), và được chia làm 10 chương và 4 phần phụ lục.
Thấy cuốn sách quá hay tôi xin mô tả chi tiết như sau: 10 chương gồm các chương nói về : Chương 1.- Ý và lời Chương 2.- Câu văn Chương 3.- Chữ dùng trong văn Chương 4.- Chấm câu Chương 5.- Chính tả Chương 6.- Cái rườm trong văn Chương 7.- Cái sáo trong văn Chương 8.- Cái điệp trong văn Chương 9.- Hình ảnh trong văn Chương 10.- Nhạc trong văn Sau 10 chương nói trên là phần phụ lục nói về các loại văn gồm: Phụ lục 1.- Miêu tả Phụ lục 2.- Thuật sự Phụ lục 3.- Thư tín Phụ lục 4.- Nghị luận Ôi quả thực là một cuốn sách quá hay, cả một giáo trình về “Viết văn” mà tôi đã may mắn có được với vài trăm đô mít. Trên đường về, cầm cuốn quý thư trên tay, tôi thầm cảm ơn Đất Trời đã ban cho tôi, một người yêu tiếng Mẹ Âu Cơ hơn tất cả mọi ngôn ngữ ở trên đời, một giáo trình tuyệt vời mà tôi tự hứa sẽ đọc thật kỹ, nhưng sẽ chỉ áp dụng những điều mà tôi thấy là hay trong sách, để tiếp tục viết cho tới ngày… đi hành hiệp! Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI” VŨ ANH TUẤN
CÓ TẬN THẾ KHÔNG? THỰC PHẨM BẨN (tiếp theo số 143) 51. Hóa chất lên bàn ăn. Báo Thanh Niên ngày 6/5/2016 (btv Nguyễn Long): Ngâm hóa chất để làm tươi hải sản - Đoàn kiểm tra liên ngành đã tổ chức kiểm tra 14 buổi tại 10 chợ trên địa bàn thành phố . Kết quả, đã phát hiện và tiêu hủy gần 20kg bạch tuộc, mực chứa formol, hơn 15kg thực phẩm chứa hàn the... B s. Phạm Văn Lưu, Trưởng phòng Y tế Tp.Vũng Tàu, cho biết qua kiểm tra các chợ đã phát hiện nhiều tiểu thương bán hải sản có ngâm formol, hàn the. Nhiều nhất vẫn là mực, bạch tuộc, tôm khô, ốc... “Những mặt hàng hải sản này đều được người bán trữ nhiều ngày nên họ thường ngâm formol, hàn the để giữ tươi”, B s. Lưu cho hay. Tuy nhiên mới đây, Đoàn kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm Tp.Vũng Tàu kiểm tra 21 cơ sở bán hải sản tại đây và lấy 15 mẫu sản phẩm kiểm tra thì có đến 8 mẫu dương tính với formol. Còn tại C hợ Mới Vũng Tàu trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, đoàn kiểm tra test nhanh phát hiện 11/19 mẫu hải sản dương tính với hàn the. Ngoài ra, tại các chợ P.1, P.Thắng Nhì, P.5, Du lịch Vũng Tàu... cũng có sản phẩm hải sản như tôm, mực, bạch tuộc dương tính với hàn the, formol. Cơ quan chức năng Tp.Vũng Tàu còn kiểm tra các xe đẩy bán mực, tôm, bạch tuộc cũng phát hiện có đến 41/49 mẫu nhiễm formol. B s. Phạm Văn Lưu cho biết: “Hàn the ăn nhiều sẽ ảnh hưởng khả năng sinh sản. Trong khi đó, nếu sử dụng sản phẩm có nhiều formol sẽ gây hủy hoại đường tiêu hóa, bệnh đại tràng, suy thận...”. 52. Rùng mình khi biết sự thật! Mục Tôi có ý kiến báo Thanh Niên ngày 6/5/2016 (Ban CTBĐ): Đó là ý kiến của nhiều bạn đọc sau khi đọc bài Vô tư đưa chất độc vào người đăng trên Thanh Niên ngày 5/5. - Thật khủng khiếp : Hằng ngày, gia đình tôi và biết bao nhiêu người ăn các loại thực phẩm có chả như bánh mì, bánh cuốn, bún bò… Vì vậy, tôi thấy thật khủng khiếp và rùng mình sau khi đọc bài báo. Cảm ơn công phu điều tra của quý báo đã cảnh báo cho cả xã hội biết về chất độc hại borax. Chúng ta đang hằng ngày hằng giờ cố gắng làm sao để bảo toàn sức khỏe, tránh khỏi những căn bệnh chết người, nhưng bây giờ lại đối diện với những loại thực phẩm có quá nhiều chất độc hại dùng trong công nghiệp, điều này không thể nào chấp nhận được (Lê Thị Lệ, Q.12, Tp.HCM). - Biết rằng hàn the, borax... đều là chất độc nhưng người sản xuất vẫn vô tư sử dụng, vô tư bán ra bên ngoài và người dùng cứ tự nhiên đưa chất độc ấy vào người. Tại sao lại có một sự thật khủng khiếp như thế đang tồn tại trong xã hội hiện nay? Phải chăng do ý thức con người hay do thiếu một cơ chế quản lý hữu hiệu nhằm bảo vệ người tiêu dùng? Nhà nước, cơ quan chức năng cần sớm có giải pháp cho vấn đề theo tôi là đang rất nghiêm trọng này (Nguyễn Văn Tươi, Mỹ Tho, Tiền Giang). - Trên địa bàn Tp.HCM có đến hàng ngàn cơ sở làm chả thủ công, rải khắp ở các ngõ hẻm. Và tôi chắc chắn rằng hầu hết các cơ sở làm chả đều sử dụng hàn the. Để chấm dứt tình trạng này, trước hết phải kiểm soát, quản lý được các cơ sở làm chả từ nhỏ lẻ cho đến quy mô lớn về địa điểm lẫn chất lượng. Một khi chưa kiểm soát được 2 vấn đề này thì người ăn chả vẫn còn tiếp tục đưa chất độc vào người (Thái Thị Nga, H.Bình Chánh, Tp.HCM). 53. Trái cây Thái Lan chứa chất độc hại: “Buông” chất lượng vì nhập tiểu ngạch. Báo Thanh Niên ngày 7/5/2016 (btv Chí Nhân): Sau thông tin trái cây Thái được Văn phòng Quốc gia về sản phẩm nông nghiệp và tiêu chuẩn thực phẩm của nước này dán nhãn “Q”, dấu chứng nhận về chất lượng, nhưng dư lượng chất độc hại vẫn vượt quá tiêu chuẩn cho phép, rất nhiều người tiêu dùng lo lắng về khâu kiểm duyệt đầu vào với trái cây, rau của Thái tại VN. Theo Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 (Cục Hải quan Tp.HCM), chỉ riêng ở cảng Cát Lái tính từ tháng 5.2015 đến nay, lượng trái cây Thái Lan nhập vào VN đạt trên 4.000 tấn, chủ yếu là các sản phẩm sấy khô như: me, xoài, sầu riêng... Dù chưa có con số cụ thể nhưng trong thời gian gần đây số lượng hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan tăng mạnh. 54. Bỏ hàn the vào nem chua, bị phạt 30 triệu đồng. Báo Thanh Niên ngày 10/5/2016 (btv Tâm Ngọc): Ngày 9/5, Chi cục Chăn nuôi và thú y, Sở NN - PTNN tỉnh Bình Định, đã quyết định xử phạt hành chánh 30 triệu đồng đối với ông LNQ (44 tuổi, ở thôn Phú Mỹ 2, xã Phước Lộc, H.Tuy Phước), tạm đình chỉ sản xuất chế biến 2 tháng rưỡi, đồng thời tiêu hủy tại chỗ 840 cái nem của cơ sở vì vi phạm an toàn thực phẩm. Cụ thể, kết quả kiểm tra đột xuất ngày 26/4, từ mẫu nem chua tại cơ sở 72 Nem chợ Huyện (chính gốc Nhứt quán đặc sản) của ông Q. cho thấy có chứa chất hàn the (loại chất không có trong danh mục được phép sử dụng để chế biến nem, chả làm thực phẩm). 55. Làm giá “siêu tốc” bằng hóa chất. Báo Thanh Niên ngày 18/5/2016 (btv Đỗ Trường): Giá đỗ sản xuất bằng cách ngâm hóa chất của Trung Quốc trong vòng 48 giờ đã cho ra cọng giá mập, trắng… Sáng 17/5, Chi cục Quản lý thị trường (QLTT) Bình Dương phối hợp Chi cục Bảo vệ thực vật và Đội cảnh sát kinh tế Công an thị xã Thuận An (Bình Dương) kiểm tra cơ sở của bà P. Tại thời điểm kiểm tra, trong cơ sở đang lưu trữ 1.800 ống hóa chất màu trắng, dạng lỏng, có nhãn mác hoàn toàn bằng tiếng Trung Quốc và hơn 250 vỏ ống hóa chất đã được sử dụng; có 96 thùng giá đỗ (15kg/thùng), trong đó có 8 thùng đang chuẩn bị đưa đi bán và 20 thùng giá đỗ chưa kịp tưới hóa chất. Cứ 5 ống hóa chất dùng cho 20 thùng. Trong khoảng 48 giờ thì giá mọc lên đầy thùng (khoảng 15kg giá/thùng). Trong khi đó, nếu ủ theo phương pháp thông thường phải mất ít nhất một tuần và 1kg đỗ được khoảng 6 - 7kg giá. Có thể gây tử vong: B s. Nguyễn Triệu Vũ, Trưởng khoa Ung bướu - Ngoại tổng quát, Bệnh viện Q.Thủ Đức (Tp.HCM), cho biết: Chất 6-benzylaminopurine gây độc tính cấp, khi nuốt vào có thể gây nguy hiểm. Một số thử nghiệm trên động vật tại Mỹ cho thấy, khi nuốt một lượng lớn (150gr) 6-benzylaminopurine có thể gây tử vong hoặc gây tổn hại nghiêm trọng vĩnh viễn đến sức khỏe. Cũng nghiên cứu trên động vật thí nghiệm ở Mỹ, nếu tiếp xúc (ăn uống, hít, tiếp xúc qua da) lâu ngày kéo dài chất này có thể làm thai nhẹ ký, não úng thủy và các dị tật bẩm sinh ở thai. Nghiên cứu còn cho thấy nếu 6-benzylaminopurine văng vào mắt người sẽ gây viêm kết mạc; dính vào da gây viêm da, làm nặng thêm bệnh lý da; nếu hít gây tổn thương phổi, viêm phổi, làm nặng thêm triệu chứng phổi với bệnh nhân viêm phế quản mãn tính; tiếp xúc với lượng cao lâu dài gây bệnh lý bụi phổi, xơ phổi, khó thở (btv Thang Duy). 56. Đóng cửa lò kích nở lòng heo bằng bột Trung Quốc. Báo Thanh Niên ngày 18/5/2016 (btv Nguyễn Tú): Trưa 17/5, Phó chủ tịch UBND T p . Đà Nẵng Đặng Việt Dũng đại diện UBND trao thưởng cho Phòng Cảnh sát môi trường (PC49). Vào trưa 13/5, PC49 cùng Chi cục Chăn nuôi thú y bắt quả tang cơ sở ở tổ 1, thôn An Trạch, xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang) đang chế biến 350kg lòng heo tươi không nguồn gốc, mất vệ sinh. Tại hiện trường còn có 5,6 tấn lòng đã đóng gói, trong đó có gần 500kg lòng đã luộc chín. PC49 cũng đã phát hiện ông H. dùng bột Trung Quốc để luộc lòng nhằm tẩy trắng, kích nở và tăng trọng lượng 40%, mỗi tháng chế biến 5 - 6 tấn lòng rồi xuất bán đi… Do cơ sở dùng hóa chất không rõ thành phần cho sản phẩm động vật nên sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. 57. Phát hiện hàng trăm ký mỡ bẩn còn dính phân bò. Báo Thanh Niên ngày 21/5/2016 (btv Phước Hiệp): Ngày 20/5, PC49 - Công an tỉnh Bình Phước kiểm tra đột xuất hộ ông CTS (ngụ KP.5, P.Thác Mơ, Tx.Phước Long) phát hiện hàng trăm ký mỡ động vật đã qua chế biến bốc mùi hôi thối. Số mỡ bẩn này chứa trong nhiều bao ni lông, được ông S. cất giấu khắp nơi trong chuồng gà và chuồng bò, một số mỡ động vật sống còn trộn lẫn cả phân bò với tổng trọng lượng khoảng 300kg. Ông khai mua mỡ động vật ở các lò mổ trên địa bàn Tx. Phước Long về chế biến. 58. Biết heo độc vẫn bán cho dân ăn. Báo Thanh Niên ngày 1/6/2016 (btv Thanh Tùng, Công Nguyên, Hải Nam): Hàng loạt lô heo độc lén lút vận chuyển về Tp.HCM giết mổ được cơ quan chức năng phát hiện kịp thời nhưng thay vì buộc tiêu hủy thì cơ quan chức năng lại cho thương lái bán ra thị trường. Qua xét nghiệm, 623 con heo này đã bị thương lái bơm nước bẩn và tiêm chất acepromazine (thuốc an thần, cấm tiêm vào heo trước khi giết mổ). Thế nhưng điều đáng nói là những lô heo độc này rồi cũng sẽ được ưu ái cho sống 7 ngày để “ đào thải độc ” , sau đó giết mổ bán ra cho người tiêu dùng mua về ăn. “ Nếu công khai cho người tiêu dùng biết số thịt này được giết mổ từ con vật đã được tiêm chất cấm trước đó thì thử hỏi có người nào dám mua ăn không, vì thế, hành vi dù biết động vật đã có tiêm chất cấm nhưng vẫn giết mổ hoặc cho phép giết mổ bán ra thị trường, dù sau 7 ngày, là một việc làm vô đạo đức ” (Luật sư Trần Bá Học, Đoàn luật sư Tp.HCM). Năm 2015, Chi cục Thú y Tp.HCM cũng đã phát hiện nhiều trường hợp heo bị tiêm thuốc an thần trước khi giết mổ. Cụ thể, ngày 6/7/2015, Trạm thú y Q.12 phát hiện tại nhà không số thuộc tổ 47, KP.7, P.Hiệp Thành của ông NVV đang giết mổ lậu 11 con heo. Tại hiện trường, lực lượng chức năng phát hiện rất nhiều chai thuốc hiệu combistress (thuốc gây mê an thần) và chính ông V. cũng thừa nhận mua loại thuốc này ở các tiệm thuốc thú y về tiêm vào heo trước khi giết thịt. Ngày 22/7/2015, Trạm thú y H.Hóc Môn phát hiện ông NVT ngụ tổ 11, ấp 1, xã Đông Thạnh đang giết mổ lậu 25 con heo. Ông T. cũng thừa nhận đã tiêm thuốc an thần vào heo trước khi giết mổ ... (còn tiếp) Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết (Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông) NGHĨ VỀ ĐẠI LỄ VESAK Đại Lễ VESAK năm nay (Phật Lịch là năm 2562) sẽ được tổ chức ở Trụ Sở Liên Hiệp Quốc Phật Giáo Thái Lan, và Trường Đại Học Phật Giáo Mahachulalongrajavidyalaya ở Thái Lan từ ngày 25-27/5/2018 nói lên là Đạo Phật đã có mặt tại trần gian gần tới 3.000 năm rồi… Từ xa xưa, Đại Lễ VESAK hay còn gọi là lễ Tam Hợp: Phật Đản sinh, Phật Thành Đạo và Phật Niết Bàn. (là ngày kỷ niệm 3 sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni), đã được tổ chức tại các quốc gia Phật Giáo theo truyền thống Nam truyền, bắt đầu từ Sri Lanka sau đó truyền sang Miến Điện, Thái Lan, Lào... (Nguồn Internet). Theo giải thích này thì Đại lễ VESAK được tổ chức tại các Quốc Gia Phật Giáo theo truyền thống Nam Truyền. Nói về Nam Truyền là nói về Đạo Phật được truyền bởi Lục Tổ Huệ Năng. Pháp Bảo Đàn Kinh viết: Thời Tổ Huệ Năng giảng Pháp ở Chủa Bửu Lâm tại Tào Khê, thì Sư Thần Tú giảng ở Chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Nam. Cả hai phái đều rất thịnh hành, nên người thời bấy giờ gọi là NAM NĂNG, BẮC TÚ. Phía Lục Tổ thì dạy Đốn Giáo. Phía Sư Thần Tú thì dạy Tiệm Giáo. Tiệm Giáo thì cho rằng vì Chúng sinh căn cơ chậm lụt, nên cứ tuần tự mà tu hành dần dà nhiều kiếp mới Ngộ được. Đốn Giáo thì dạy “Trực chỉ Chân Tâm, kiến Tánh thành Phật”, cho là người tu có thể Thành Phật ngay tại hiện kiếp, không phải chờ đợi lâu.Cũng nên nhắc sơ qua về Từ Phật. Nhiều người đã hiểu lầm Phật là một vị Thần Linh có quyền năng, có thể cứu độ “Tam Thiên Đại thiên thế giới”, trong khi đó, thật sự, Phật chỉ nói về tình trạng Giải Thoát của Đức Thích Ca mà thôi, không có thần thông, phép màu, cũng không cứu độ được cho ai. Nói về ĐỐN, TIỆM, Lục Tổ Huệ Năng giải thích: “Pháp vốn không Đốn, Tiệm. Mê, Ngộ có chậm, mau. Chỉ môn Thấy Tánh ấy. Kẻ muội khó kham vào”, có nghĩa là Pháp vốn không có Đốn hay Tiệm, chỉ vì Mê mà làm chậm bước tiến. Nếu Ngộ thì sẽ đi nhanh hơn. Chỉ riêng môn Thấy Tánh thì người mê muội khó vào được, và tu Phật, nếu không Thấy Tánh thì chưa gọi là chính thức bước vào Đạo, chỉ dừng ở hành Thiện, tránh Ác mà thôi. Đó là điều mà Ngũ Tổ đã nói với Sư Thần Tú khi thấy Bài Kệ của Ông viết trên vách nhà cầu: “Thân thị Bồ Đề thọ. Tâm như minh cảnh đài Thời thời cần phất thức Vật sử nhá trần ai” Có nghĩa là Thân là cội Bồ Đề. Tâm là đài gương sáng. Giờ giờ cần phủi sạch. Chớ để vướng trần ai. Bài Kệ đó nói lên suy nghĩ của Sư Thần Tú. Ông đã biết được rằng mỗi người có hai phần: Thân và Tâm. Theo ông, công cuộc tu hành là mỗi người luôn chú tâm lúc nào cũng phủi, quét, đừng để cho bụi trần vướng vào. Ngũ Tổ đã giảng cho Sư Thần Tú hiểu là Sư mới tới bên thềm cửa, chưa vào bên trong, tức là Sư chưa nhận được BỔN TÂM, chưa thấy được BỔN TÁNH của mình. Sư đang trong giai đoạn thấy cái Thân phàm và cái Tâm phàm, vì vậy cần phải giữ cho nó được thanh tịnh. Chưa thấy được cái CHÂN TÂM vốn không nhơ, không sạch, không bụi nào làm nhiễm bẩn cho nó được. Đối chiếu với Bài Kệ của Lục Tổ Huệ Năng. Chỉ cần sửa vài chữ trong Bài Kệ của sư Thần Tú mà ý nghĩa hoàn toàn khác: Bồ Đề bổn vô thọ. Minh cảnh diệc phi đài Bổn lai vô nhất vật Hà xứ nhá trần ai Có nghĩa là Bồ Đề không có gốc. Gương sáng cũng không có đài. Trước sau không có vật gì thì đâu có chỗ nào mà vướng bụi trần. Đó là Ngài Huệ Năng nói về cái Chân Tâm, Chân Tánh vốn không có gốc gác, xứ sở, trước sau không có vật gì thì làm sao vướng bụi trần được. Hành động lau, quét, phủi bụi được gọi là Tiệm Giáo, còn trực chỉ Chân Tâm, Chân Tánh thì gọi là Đốn Giáo tức là tu tắt, đi thẳng đến kết quả Giải Thoát… Đọc Pháp Bảo Đàn Kinh, ta thấy Lục Tổ giải thích về những việc mà người tu phải hiểu, phải hành như: PHƯỚC ĐỨC và CÔNG ĐỨC - CÕI PHẬT A DI ĐÀ - TÁNH - XUẤT GIA, TẠI GIA, ĐỊNH, HUỆ - NGỒI THIỀN - SÁM HỐI VÔ TƯỚNG - CHÚNG SANH - QUY Y - THẤY TÁNH, là những căn bản mà người tu cần hiểu đúng hành đúng, để không lạc vào Nhị Thừa, Quyền Thừa, mới đi vào ĐỐN GIÁO được. PHƯỚC ĐỨC và CÔNG ĐỨC. Rất nhiều Phật Tử đã hiểu lầm về hai từ này. Họ nghĩ rằng làm những việc có liên quan đến Chùa Chiền thí dụ cất Chùa, độ Tăng, cúng dường cho chư Tăng, bỏ tiền vô thùng Công Đức được đặt trong Chùa, vô Chùa làm Công Quả... là làm Công Đức. Trong khi đó, đối với Nhất Thừa, tức là Con Đường Tu Phật chân chính thì tất cả những việc nào làm bên ngoài mình thì đều gọi là PHƯỚC ĐỨC. Còn CÔNG ĐỨC chỉ liên quan đến việc XẢ những ôm, chấp, dính mắc để được Giải Thoát. Về CÔNG ĐỨC , Tổ dạy: CÔNG ĐỨC PHẢI THẤY TRONG TÁNH MÌNH CHỚ CHẲNG PHẢI TÌM Ở CHỖ CÚNG DƯỜNG VÀ BỐ THÍ. Hành động XẢ, hoặc tên khác là Điều Phục hay chuyển hóa Chúng Sanh cũng gọi là ĐỘ SINH hay “CÚNG DƯỜNG PHẬT”. Muốn Thành Phật thì phải Độ Chúng Sanh. Thành Phật thì phải “Độ Tận Chúng Sanh”. Thế nào là Chúng Sanh thì Lục Tổ Huệ Năng giải thích: “Chư Thiện Tri Thức, Chúng Sanh trong Tâm mình là: Lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm này đều gọi chung là Chúng Sanh. Mỗi người phải dùng Tánh mình mà độ lấy mình mới là thiệt độ”. Mỗi lần ta “Độ” hay chuyển hóa được một Chúng Sanh, là ta đã “Cúng Dường một vị Phật”. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “Ông Ma Ha Ca Diếp, đệ tử của ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các Đức Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen rộng nói đại pháp của các Đức Phật, ở nơi rốt sau đặng thành Phật hiệu là Quang minh Như Lai... “Ông Tu Bồ Đề đây phụng thờ ba trăm muôn ức na do tha Đức Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, đủ Đạo Bồ Tát, ở thân rốt sau đặng thảnh Phật hiệu Danh Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, thế gian giải, Vô Thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn”… Do đó,“Độ Sinh” cũng là “Cúng Dường Phật”, vì đưa được một chúng Sinh thành Phật. Đó mới là nghĩa đúng của Cúng Dường Phật. Không phải là mang hương đăng, trà, quả, vô Chùa, đặt trước tượng Phật rồi thắp hương để Cúng, vì đó là Y Ngữ, là làm theo Ngữ. Một trong Tứ hoằng thệ nguyện là “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Người tu phải “Độ” cho hết Chúng Sinh thì mới có kết quả “thành Phật”, tương ưng với lời Phật Thọ ký cho Ngài Ma Ha Ca Diếp và Tu Bồ Đề nói trên, vì trong mỗi chúng ta, từng sát na, Chúng sinh theo pháp mà “trùng trùng duyên khởi”. Chính Đức Thích Ca cũng “diệt độ vô lượng vô số chúng sinh” trong nghĩa đó, không phải là đi giảng pháp để độ cho ai đó bên ngoài. CÕI PHẬT A DI ĐÀ hay Tây Phương Cực Lạc mà Đức Thích Ca giảng cũng ở trong Tâm của mỗi người. Sở dĩ nói cách xa 18 ngàn dặm là vì Thập Ác và Bát Tà. Nếu ta bỏ Thập Ác, hành Thập Thiện. Bỏ Bát Tà hành Bát Chánh Đạo là ta thu ngắn con đường đến cõi Phật A Di Đà vậy. Tổ dạy: “Này Sử Quân: “Người Đông Phương tạo tội thì nguyện sanh về Tây Phương. Còn người Tây Phương làm tội thì cầu vãng sanh về xứ nào? Vì người phàm mê muội không rõ Tánh mình. Không biết cõi TỊNH ĐỘ trong Thân mình nên mới nguyện Đông nguyện Tây. Người giác ngộ dầu ở chỗ nào tâm địa cũng thanh tịnh an nhiên, nên Phật nói: Tùy cái chỗ Trụ Tâm mà thường được an lạc. Ngài dạy: Nếu làm Mười điều Thiện thì cần gì phải nguyện vãng sanh. Còn nếu chẳng dứt lòng cưu mang mười điều Ác thì Phật nào đến rước mình. Nếu hiểu rõ pháp Vô Sanh Đốn Pháp, không tạo Ác Nghiệp, dứt ngay 10 điều Ác và 8 Điều Tà thì trong một sát na ắt thấy Cõi Tây Phương. Bằng chẳng hiểu rõ phép ấy mà cứ niệm Phật cầu Vãng sanh thì đường xa vời vợi thế nào tới cõi ấy đặng?” Về Xuất Gia , Tại Gia thì Tổ dạy: “Muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở Chùa. Ở nhà mà thường tu hành thì cũng như người Đông phương có lòng lành. Ở Chùa mà chẳng tu thì cũng như người Đông Phương có lòng dữ. Nếu lòng trong sạch thì Tánh mình tức là Tây Phương vậy”. Ngồi Thiền thì Tổ chê những người Ngồi bất động: Khi sống ngồi không nằm. Thác rồi nằm chẳng ngồi. Thiệt đồ xương thịt thúi. Sao luống lập công phu ”. Tổ giải thích: “Đạo do Tâm mà ngộ, đâu phải do chỗ Ngồi? Kinh nói; Nếu nói Như Lai hoặc ngồi, hoặc nằm ấy là tà đạo”. Bởi cớ sao? Không do chỗ nào mà lại. Cũng không do chỗ nào mà đi. Không sanh không diệt. Ấy là Tánh Như Lai Thanh Tịnh Thiền. Các pháp đều vắng lặng trống không, ấy là Tánh Như lai Thanh Tịnh Tọa. Thế là cứu cánh không chứng. Không gì mà chứng. Cũng không chấp chỗ chẳng chứng, hà huống là Ngồi”. “Lại có người dạy ngồi xem cái Tâm. Quán tưởng tâm, Cảnh vắng lặng. Ngồi yên chẳng dậy (Thiền) Bảo y theo đó mà lập công phu. Người mê chẳng hiểu, cố chấp làm theo rồi thành điên dại. Số người lầm như thế không phải là ít. Truyền dạy nhau như thế là lầm to”. Về SÁM HỐI thì Tổ dạy Sám Hối Vô Tướng: “SÁM nghĩa là ăn năn các tội trước của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ghen ghét đã tạo ra từ trước. Tất cả đều ăn năn, chẳng gây lại nữa, gọi là SÁM. HỐI nghĩa là ăn năn các Lỗi Sau của mình. Những tội do các nghiệp ác, ngu mê, ngạo dối, ghen ghét tạo ra. Nay đã giác ngộ rồi. Tất cả đều bỏ đời đời, ngày sau chẳng gây lại nữa. Gọi là Hối. Cho nên kêu là SÁM HỐI. Các người phàm phu ngu muội chỉ biết ăn năn tội trước của mình, mà chẳng biết ăn năn lỗi sau. Bởi chẳng ăn năn nên tội trước chẳng dứt, tội sau lại sanh. Tội trước chẳng dứt, tội sau lại sanh thì sao gọi là SÁM HỐI”. Thường thì Phật Tử muốn Quy Y thì đến Chùa để xin Sư làm lễ Quy Y. Nhưng Lục Tổ dạy: Phải Quy Y cái Diệu Giác của Tánh mình. Quy Y cái Chánh của Tánh mình Quy Y cái thể thanh tịnh của Tánh mình Từ đây về sau hãy xưng Giác là Thầy, chẳng nên Quy Y theo tà ma ngoại đạo. PHẬT nghĩa là Giác. PHÁP nghĩa là Chánh. TĂNG nghĩa là Tịnh. Tâm mình Quy Y Tánh Giác, thì tà mê chẳng sanh, lại ít có sự ham muốn. Thường thiểu dục tri túc, lìa được của tiền và sắc dục. Tâm mình Quy Y Tánh Chánh, thì niệm niệm không sanh tà kiến. Bởi không tà kiến nên không lòng nhơn ngã, cống cao, tham ái, chấp trước. Tâm mình Quy Y theo Tánh Tịnh, thì cả thảy cảnh giới trần lao, ái dục, tâm mình chẳng nhiễm, chẳng vương. Nếu nói Quy Y Phật thì Phật ở xứ nào? Bằng không thấy Phật thì Quy Y ở chỗ nào? Kinh văn nói rõ Quy Y Phật ở Tánh mình chớ chẳng nói Quy Y Phật nơi nào khác. Phật ở Tánh mình mà mình chẳng Quy Y thì không có chỗ nào mà Quy Y vậy. Chư Thiện Tri Thức. Tâm mình Quy Y Tánh mình. Ấy là Quy Y Chơn Phật. Tự mình Quy Y nghĩa là dứt trừ hết các tật xấu trong Tâm mình, là Lòng chẳng lành. Lòng ghen ghét. Lòng tà vạy. Lòng vị ngã. Lòng giả dối. Lòng khi người. Lòng nhạo người. Lòng tà kiến. Lòng cống cao, cùng các hạnh bất thiện. Trong cả thảy thời gian thường thấy lỗi mình. Chẳng nói việc tốt xấu của người ẤY LÀ MÌNH QUY Y TỰ TÁNH MÌNH VẬY. Mọi người thường đến Chùa để lễ Phật, cầu Phật phù hộ, độ trì. Tổ dạy: “MUỐN THẤY PHẬT PHẢI NGÓ TRONG TÁNH MÌNH MÀ TÌM, ĐỪNG NGÓ RA NGOÀI THÂN MÀ KIẾM. TÁNH MINH MÊ TỨC LÀ CHÚNG SANH. TÁNH MÌNH GIÁC TỨC LÀ PHẬT”. “Lòng Từ Bi là Quan Âm. Lòng Hỷ Xả tức Thế Chí. Lòng Năng Tịnh tức là Thích Ca. Lòng bình trực tức là Di Đà. Lòng nhơn ngã là núi Tu Di. Lòng tà vạy là nước biển. Lòng phiền não là sóng trào. Lòng độc hại là rồng dữ. Lòng dối giả là quỉ thần. Lòng trần lao là cá trạch. Lòng Tham Sân là Địa Ngục. Lòng ngu si là Súc Sanh. Chư Thiện Tri Thức. Thường làm Mười Điều Thiện thì Thiên Đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã thì núi Tu Di sập ngay. Bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn. Trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm. Quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt. Tu được như thế thì cái Giác Tánh Như Lai ở trong tâm địa mình phóng đại quang minh. Ngoài soi Sáu Cửa trong sạch, có thể phá được cõi trời Lục Dục Thiên. Lại soi trong Tánh mình làm cho Tâm Ba Độc đều dứt, cả thảy tội Địa Ngục đồng tiêu một lần. Trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây Phương. Nếu chẳng tu các hạnh ấy thì thế nào Tây Phương được?” Về PHẬT TÁNH, Tổ dạy: “Chúng ngươi hãy chú tâm mà nghe cho rõ. Những người mê muội đời sau, nếu biết cái Tâm Chúng Sanh, tức là Thấy Phật Tánh. Bằng chẳng biết cái Tâm Chúng Sanh thì muôn kiếp tìm Phật ắt khó gặp. Nay ta dạy các ngươi phải biết Chúng Sanh ở Tâm mình thì thấy Phật Tánh ở Tâm mình. Muốn cầu Thấy Phật thì phải biết cái Tâm chúng sanh. Chỉ vì Tâm Chúng sanh làm mê muội Tánh Phật chớ chẳng phài Tánh Phật làm mê muội Tâm Chúng Sanh. Nếu Tánh mình Giác Ngộ thì Chúng Sanh là Phật. Bằng Tánh mình mê muội thì Phật là Chúng Sanh. Tánh mình bình đẳng thì Chúng Sanh là Phật. Tánh mình tà hiểm thì Phật là chúng Sanh. Nếu Tâm chúng ngươi hiểm khúc tức là Phật ở trong Chúng Sanh. Một niệm bình đẳng, ngay thật tức Chúng Sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, Phật ở Tâm mình mới là chơn Phật. Nếu tự mình không có Tâm Phật thì Tâm chơn Phật ở nơi nào? Cái Tự tâm chúng ngươi là Phật, chớ khá hồ nghi”. Trong Kinh có câu của Ngũ Tổ mà người tu Phật có thể lấy đó làm căn bản để đối chiếu với công năng tu tập của mình: “Nếu chẳng biết Bổn Tâm thì học Pháp vô ích. Bằng biết Bổn Tâm và Thấy Bổn Tánh mình tức gọi là trượng phu, là Phật, thầy cõi trời và cõi người vậy”. Nếu chúng ta tu hành bao nhiêu năm, làm bao nhiêu công phu mà không biết Bổn Tâm thì Chư Cổ Đức cho là “Gãi ngứa ngoài giày”, vì chưa vào được Phật Đạo. Tóm lại, nhân Đại Lễ VESAK được tổ chức do Phật Giáo theo hệ thống Nam Truyền, tôi xin trích một số lời của Lục Tổ Huệ Năng, vì Ngài là Tổ Sư của hệ thống NAM TRUYỀN, để người tu theo NAM TÔNG có thể qua những lời dạy của Ngài, kiểm chứng những hiểu biết, hành trì của mình xem có khế hợp hay không? Bởi vì NAM TÔNG được học Pháp Đốn Ngộ của Lục Tổ, mà theo Pháp này thì người tu phải Thấy Tánh, thành Phật. Muốn Thấy Tánh, thì Phải biết Cái Tâm Chúng Sanh. Biết Cái Tâm Chúng Sanh là để chuyển hóa nó cho nó Thành Phật. Đó là cách tu hành theo ĐỐN GIÁO mà Lục Tổ Huệ Năng truyền lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh. Ngài dạy rất đơn giản: “Tánh mình Giác Ngộ thì Chúng Sanh là Phật. Bằng Tánh mình mê muội thì Phật là Chúng Sanh. Tánh mình bình đẳng thì Chúng Sanh là Phật. Tánh mình tà hiểm thì Phật là Chúng Sanh. Nếu Tâm chúng người hiểm khúc tức là Phật ở trong Chúng Sanh. Một niệm bình đẳng, ngay thật tức Chúng Sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, Phật ở Tâm mình mới là Chơn Phật”. Như vậy, hơn ai hết, những người tu theo Pháp môn Đốn Giáo của Lục Tổ Huệ Năng thì phải tự mình Thành Phật. Ngài dạy cho người tu theo Pháp môn của Ngài THÀNH PHẬT, đâu có dạy đi thờ lạy, tôn sùng cầu xin Phật nào bên ngoài? Bởi Phật chỉ có một nghĩa là Giải Thoát, đâu có phải là Thần Linh để cho ta cầu xin? Lục Tổ đã khẳng định: “Tâm ta tự có Phật, Phật ở Tâm mình mới là Chơn Phật”, vậy thì ta còn đi tìm Phật nào bên ngoài? Đạo Phật ra đời cũng đã gần ba ngàn năm. Gần đây nhất là Lục Tổ Huệ Năng mà Pháp Bảo Đàn Kinh là Kinh chép lại lời Ngài giảng cách đây cũng đã 1.200 năm. Với bao nhiêu thời gian đó. Với những lời tâm huyết của Chư Tổ. Với bao nhiêu Trường Phật Học được mở ra, đào tạo biết bao nhiêu thế hệ, mà nếu những người có trách nhiệm không đọc kỹ để áp dụng, vẫn tiếp tục hướng dẫn cho mọi người tôn thờ Phật để Cầu Xin, thì rõ ràng chúng ta chưa phải là Đệ Tử thật sự theo Tông của Ngài. Mong rằng dịp lễ VESAK cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta, vì Đức Thích Ca đâu có muốn Thành Phật một mình như lời Ngài trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: “Xá Lợi Phất nên biết. ta muốn tất cả chúng. Bằng như ta không khác”. “Bằng như Ngài” tức là phải Thành Phật như Ngài đã thành, như lời Ngài đã Thọ Ký “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. Như vậy, nếu với một thời gian quá dài, hàng Ba ngàn năm rồi, vậy mà cứ năm này qua năm khác, chúng ta vẫn tổ chức long trọng để ăn mừng ngày Thành Đạo của Đức Thích Ca, mà không biết bao giờ mới đến lượt mình ăn mừng cho sự Thành Phật của mình, thì rõ ràng chúng ta đã phụ công ơn của Đức Thích Ca đã mang Đạo Phật ra giữa đời, và bao nhiêu đời Tổ đã hy sinh cả đời chỉ để truyền Pháp Đốn Giáo cho chúng ta vậy. Tâm Nguyện (Tháng 5/2018)
BUỔI SÁNG M.Gorki (1868-1936) Điều tuyệt vời nhất trên toàn thế gian - nhìn ngắm một ngày ra đời như thế nào! Trên không trung bừng lên tia sáng đầu tiên của mặt trời - màn đêm tối sẽ sàng lẩn trốn vào những khe núi và kẽ đá, lẩn trốn vào vòm lá rậm rạp của cây cối, vào những đường ren của lá cỏ đẫm sương, còn những đỉnh ngọn núi nở nụ cười trìu mến - hệt như muốn nói với những cái bóng mềm mại của đêm: - Các bạn đừng sợ - đó là mặt trời đấy mà! Sóng biển cất cao những mái đầu bạc trắng, cúi chào mặt trời, như những mỹ nữ cung đình cúi chào nhà vua của mình, cúi chào và cất tiếng ca: - Xin chào người, chúa tể của thế gian! Mặt trời hiền hậu cười: những con sóng này suốt đêm, đùa nghịch, quay cuồng, vì thế bây giờ chúng mới xào xạc thế kia, xiêm áo mầu xanh của chúng nhầu nhịt, dải áo bằng nhung rối tung. - Chúc một ngày tốt lành - mặt trời nói, lên cao bên trên biển, - chúc một ngày tốt lành, các cô gái xinh đẹp! Nhưng thôi đủ rồi, yên đi! Trẻ thơ sẽ không thể xuống tắm được, nếu các người không thôi nhẩy nhót tớn lên thế kia! Phải làm sao, vạn vật trên trái đất đều tốt đẹp, có phải thế không nào? Từ trong kẽ đá những con thằn lằn xanh chạy ra và nhấp nháy những cặp mắt ngái ngủ, chúng bảo nhau: - Hôm nay sẽ nóng đấy! Vào ngày nóng bức - những con ruồi bay lượn lười nhác, họ hàng nhà thằn lằn dễ dàng bắt được chúng mà đánh chén, mà chén chú ruồi béo - điều ấy mới thú vị làm sao! Thằn lằn - vốn là những kẻ chúa thích ăn ngon. Những bông hoa, trĩu nặng sương, lắc lư tinh nghịch, hệt như trêu chọc và bảo: - Hỡi quý ông, xin quý ông hãy miêu tả, trang điểm những hạt sương, sáng nay chúng tôi xinh đẹp nhường nào! Hãy miêu tả bằng lời những bức chân dung nhỏ bé của hoa! Xin quý ông hãy thử xem, điều đó dễ thôi - chúng tôi giản dị như thế này kia mà... Sau này, khi nào em lớn em sẽ biết về điều đó, - nếu như, tất nhiên là, em muốn biết, còn tạm thời - em hãy biết yêu lấy mặt trời, ngọn nguồn của tất cả mọi niềm vui và sức mạnh, và em hãy vui tươi, hiền hậu, như mặt trời hiền hậu đối với muôn vật muôn loài. Con người thức dậy, và đây họ đi ra đồng ruộng của mình, đến với công việc lao động của mình, - mặt trời nhìn họ và mỉm cười: mặt trời biết rõ hơn hết thẩy, con người đã làm ra biết bao nhiêu điều tốt đẹp trên trái đất, có một thời nó nhìn thấy trái đất hoang vu kia, còn bây giờ cả trái đất phủ đầy sáng tạo vĩ đại của con người - của cha, ông, tổ tiên chúng ta, - bên cạnh cái nghiêm túc và tạm thời, không hiểu đối với trẻ thơ, họ còn làm ra tất cả những đồ chơi, tất cả mọi đồ vật lý thú trên trái đất - trong đó có chiếc bóng chẳng hạn. Chà, họ làm lụng mới tuyệt vời làm sao, tổ tiên của chúng ta, có cái gì đáng để yêu quý và kính trọng công việc vĩ đại, đã được các vị làm ra khắp chung quanh chúng ta. Về chuyện đó đáng để suy nghĩ, hỡi các em bé, - câu chuyện cổ tích về con người đã làm lụng như thế nào trên trái đất, - câu chuyện cổ tích lý thú nhất của thế gian! Trên bờ giậu quanh đồng ruộng rải rác những bông hoa tầm xuân, và khắp chốn hoa cười; nhiều bông trong bọn chúng đã héo, nhưng tất cả vẫn nhìn lên trời xanh, lên mặt trời vàng; những cánh nhung của chúng lao xao, xông ra hết hương thơm ngọt ngào, và trong không trung xanh lam, ấm áp, tràn đầy hương thơm, thủ thỉ lan đi khúc hát êm đềm: Cái gì đẹp - rất đẹp, Kể cả khi úa tàn; Cái gì ta yêu mến, Ta yêu không lay chuyển, Cả khi rời thế gian... Ngày đã đến! Chúc một ngày tốt lành, các em, và mong trong cuộc đời các em sẽ có nhiều ngày tốt lành! Tôi viết điều này buồn tẻ lắm sao? Chẳng làm thế nào khác được: khi đứa trẻ qua cái tuổi bốn mươi - nó trở nên buồn tẻ một chút. THÚY TOÀN dịch
Phụ Bản I CHỮ QUỐC NGỮ VÀ HỘI CHỨNG NHẢY CỪU (tiếp theo số 144) 60 năm phát triển của chữ Quốc ngữ Sau khi thiết lập nền đô hộ trên đất nước Việt Nam, người Pháp thấy không thể dùng chữ Nho và chữ Nôm trong hệ thống cai trị. Học các thứ chữ này khó quá. Họ quyết định dạy thứ chữ mới theo vần La tinh cho người bản xứ. Thứ chữ do các nhà truyền đạo Thiên Chúa giáo sáng tạo gần với tiếng Pháp hơn. Giới trí thức Nho học bản xứ phản đối kịch liệt thứ chữ mới “do người Tây bày ra” này. Họ muốn giữ lại chữ Nho và chữ Nôm để “duy trì văn hóa dân tộc”. Tuy vậy, từ năm 1861, người Pháp đã mở trường Thông ngôn tại Sài Gòn, đào tạo một số người biết tiếng Pháp. Họ muốn dùng chữ Pháp thay thế chữ Hán trong giáo dục từ cấp thấp nhất trong làng xã trở lên. Ngày 15/4/1865, tờ Gia Định Báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên, ra đời tại Sài Gòn, sử dụng chữ viết mới gọi là “chữ Tây quốc ngữ”. Ngày 22/2/1869, Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier, Thống đốc Nam Kỳ, ký nghị định bắt buộc dùng “chữ quốc ngữ” bằng chữ cái La tinh thay thế chữ Nho trong các công văn của chính quyền ở Nam Kỳ. Từ “Tây” trong “chữ Tây quốc ngữ” được lược bỏ, và “chữ Tây” dành để gọi chữ Pháp-lang-sa. Từ đây, chữ viết mới có tên gọi chính thức là “chữ quốc ngữ”. Ngày 6/4/1878, Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký Nghị định 82 ấn định “Kể từ mồng một Tháng Giêng năm 1882 tất cả văn kiện chánh thức, nghị định, quyết định, lịnh, án tòa, chỉ thị... sẽ viết, ký tên và công bố bằng chữ Quốc ngữ; nhân viên nào không thể viết thơ từ bằng chữ Quốc ngữ sẽ không được bổ nhậm và thăng thưởng trong ngạch phủ, huyện và tổng...” Từ cái mốc năm 1869 với nghị định đầu tiên của Thống đốc Nam Kỳ Marie Gustave Hector Ohier đến khi cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của ra đời năm 1895 là 26 năm, và tới cuốn Việt Nam Tự Điển của hội Khai Trí Tiến Đức năm 1931 là 60 năm. Đến lúc này vẫn còn có người đánh giá thấp tiếng Việt. Trong cuốn “Vietnamese Tradition on Trail 1920 - 1945” David G.Marr ghi nhận: “In September 1931, an aging collaborator politician, Ho Duy Kien, during an otherwise routine Cochinchina Colonial Council discussion on primary education, made the mistake of referring to the Vietnamese language as a “patois”similar to those found in Gascogne, Brittany, Normandy, or Provence.” (Vào tháng chín năm 1931, một chính trị gia lão thành hợp tác với Pháp, là Hồ Duy Kiên, trong một cuộc thảo luận của Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ về giáo dục tiểu học đã sai lầm khi nói ngôn ngữ Việt Nam như một thổ ngữ dân tộc tương tự như những thổ ngữ thấy ở các xứ Gascogne, Brittany, Normandy, hay Provence của Pháp)(1). Nghe nói về sau này, thạc sĩ văn phạm Pháp Phạm Duy Khiêm cũng đã phát biểu (không biết ở đâu và trong dịp nào) rằng tiếng Việt còn mang tính thổ ngữ mường mán, đã khiến dư luận phê phán sôi nổi một dạo. Nhận xét về hiện tượng đánh giá thấp tiếng Việt này, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Giáp viết: “Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về tiếng Việt thời thuộc Pháp được viết trên cơ sở lí luận của truyền thống ngôn ngữ học châu Âu, vì thế không tránh khỏi có hiện tượng nhìn tiếng Việt qua lăng kính của các tiếng châu Âu, cụ thể là tiếng Pháp mà sau này có học giả phê phán là có tính mô phỏng, hoặc có người nặng lời gọi là “dĩ Âu vi trung”(2). (“dĩ Âu vi trung: Lấy châu Âu làm trung tâm). Một năm sau cuốn Việt Nam Tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức là sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn, 1932. Bất chấp những nhận định chủ quan và tiêu cực về tiếng Việt của vài người như thế, trong thời gian 60 năm đó, tiếng Việt đã được đôi cánh thần kỳ của chữ quốc ngữ nâng lên và bay cao rực rỡ. Vào năm 1933, Việt Nam đã có được 155 tờ nhật báo và tạp chí định kỳ. Nếu so với với “con số 3.812 nhật báo ở Đức vào năm 1926, hoặc 100 tờ báo hàng ngày chỉ riêng của thành phố Paris”(3), thì 155 tờ báo là quá nhỏ bé. Nhưng chỉ mới hơn 60 năm chính thức phổ biến chữ quốc ngữ bắt đầu từ Nam Kỳ và từ khoa thi chữ Hán cuối cùng ở Bắc Kỳ (khoa Ất Mão) năm 1915, và Trung kỳ (khoa Mậu Ngọ) năm 1919, thì con số 155 tờ báo chữ quốc ngữ vào năm 1933 là rất đáng kể. Ngay trong vụ Hồ Duy Kiên 1931, theo David G. Marr cho biết: “For the next few months, from one end of Vietnam to another, the quoc-ngu press denounced Ho Duy Kien as rootless (mat goc), unpatriotic, and unrepresentative. Writers pointed out that Vietnamese had no less than 17 million speakers”, (Trong vài tháng kế tiếp, trên khắp nước Việt Nam, tất cả các tờ báo quốc ngữ đều tố Hồ Duy Kiên là người mất gốc, không có tinh thần ái quốc, và không đại diện cho nhân dân Việt Nam. Các nhà văn chỉ ra rằng tiếng Việt có không ít hơn 17 triệu người nói”(4). Dân số Việt Nam lúc bấy giờ vào khoảng 20 triệu. 17 trên 20 là một con số rất lớn. Sau năm 1945, số người Việt Nam đọc được chữ quốc ngữ càng tăng rất nhanh.
Chỗ nhảy của những con cừu Chữ quốc ngữ của người Việt bản xứ sớm xuất hiện trong các bản tin trên các báo chí tiếng Pháp ở chính quốc và thường xuyên trên báo chí tiếng Pháp tại Việt Nam bấy giờ là thuộc địa của Pháp. Khi sáng tạo chữ Quốc ngữ, trong nỗ lực ghi âm tiếng Việt chính xác 100%, các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tốn nhiều công sức tạo ra các dấu phụ nguyên âm và dấu thanh điệu cho hệ chữ viết này. Thế nhưng khi xuất hiện trên báo chí tiếng Pháp, tại chính quốc hay tại thuộc địa, những từ tiếng Việt bị lột bỏ hết các dấu, trở nên trần trụi, trông không còn là chữ Việt, mà cũng không giống chữ Pháp hay chữ La Tinh. Tình trạng này là do sự hạn chế về kỹ thuật in typo lúc bấy giờ. Chữ Pháp không có các dấu thanh điệu và dấu nguyên âm (tuy chúng có dấu sắc, dấu huyền, và dấu mũ trên chữ “e”) Kỹ thuật in typo lúc bấy giờ là đúc từng con chữ rời bằng một hợp kim chì, thiếc, và antimoon. Thợ nhà in sẽ sắp các con chữ thành từng từ vào một “bát chữ” rồi đúc thành “bản kẽm” để đưa lên máy in. Do chữ Pháp không có dấu, và họ không thể vì để in đúng chính tả một vài chữ Việt mà phải đúc cả bộ chữ khác, vả lại, họ không đánh giá cao và không thấy cần tôn trọng chữ viết của dân thuộc địa bản xứ, cho nên các từ tiếng Việt xuất hiện trong các bài báo tiếng Pháp đều không có dấu, “trông không giống ta mà cũng chẳng ra Tây”. Đó là một lỗi kỹ thuật. Các nhà trí thức Tây học bản xứ thời đó biết vậy mà cũng phải đành chịu vậy khi bài viết hoặc sách của họ được in ra bằng tiếng Pháp phải chứa những từ tiếng Việt “bất toàn” nếu không nói là què quặt. Chính sự hạn chế trong kỹ thuật in ấn này là thủ phạm chính (mà một số người Việt tiếp tay đồng phạm) làm biến đổi không ít các địa danh tiếng Việt trên đất nước mình. Chẳng hạn, làng Hương Bì dưới chân dãy núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh, được viết không dấu thành Huong Bi. Trong tiếng Pháp, chữ H không được phát âm (H muet: H câm), nên tên làng Hương Bì trở thành Uong Bi, để dần dà thành ra Uông Bí. Tương tự như thế, một địa danh Hồng Hải, biến thành... Hòn Gai! Khu vực bến Bạch Đằng ở quận Nhất Sài Gòn, nơi đặt trụ sở Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Hội Trường Diên Hồng nơi họp Thượng Viện của VNCH, ngày xưa thuộc làng Láng Thọ. Khi xuất hiện trên sách báo tiếng Pháp, Láng Thọ trở thành Lang Tho. Rồi vì chữ H câm, nên Lang Tho thành Lang To, và được đọc theo âm tiếng Pháp là “Lăng Tô”. Trong sách Sài Gòn Năm Xưa cụ Vương Hồng Sển có nhắc đến cái thú chiều chiều đi dạo mát Lăng Tô của dân thượng lưu Sài Gòn xưa. Chữ Việt không dấu trên báo chí tiếng Pháp thoạt đầu là do hạn chế và thiếu sót kỹ thuật khách quan. Nhưng sự khiếm khuyết này cứ được lập đi lập lại thường xuyên lâu ngày, khiến người ta (giới trí thức tân học người Việt) tưởng đó là điều đương nhiên phải là như thế. Từ đó, hễ phải viết một từ tiếng Việt trong một văn bản tiếng nước ngoài, người ta hồn nhiên tự tước bỏ hết các dấu phụ khỏi chữ viết của dân tộc mình. Họ là những người trí thức cả đó. Nhưng họ không hiểu rằng khi bị mất hết dấu, chữ đó không còn là chữ Việt nữa, nó trở nên vô nghĩa hoặc ý nghĩa không xác định hay khác xa với nghĩa gốc của nó. Người ta không biết “Ham” là chữ “hầm” tiếng Việt, hay một chữ tiếng Anh với nghĩa... thịt đùi heo xông khói; không rõ “vo de” là vợ đẻ hay vỡ đê; “nghi ngoi” là nghỉ ngơi hay nghĩ ngợi; không thể phân biệt Nguyễn Du, tác giả truyện Kiều, hay Nguyễn Dữ, tác giả sách Truyền Kỳ Mạn Lục. Không những người bình thường không hiểu những chữ “không phải Tây mà cũng chẳng còn ta” ấy, mà ngay cả những người có học nhưng kém tri thức có khi cũng không hiểu nó là cái gì. Chẳng hạn, một tác giả (dịch giả?) của một bài viết trên tờ tạp chí Heritage của hãng Hàng Không Việt Nam số Tết Canh Dần 2010 đã dịch ba chữ Việt không dấu Gia Dinh Bao thành… Family News! (Tin tức Gia đình!) Gia Định Báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam mà tên của nó có đầy đủ dấu rõ ràng ngay trên trang nhất, đã bị người viết tước bỏ hết dấu đi và trở thành... tờ Tin tức Gia đình! Ngày nay kỹ thuật in ấn đã tiến một bước dài thần kỳ như đi đôi hia ngàn dậm. Mỗi người, nếu có nhu cầu, đều có thể sắm cho mình nguyên một... nhà máy in, đặt ngay trên bàn làm việc. Với hàng chục font chữ đủ loại, kể cả ngoài hệ chữ viết La tinh, và khoảng 14 “bảng mã” (“bộ gõ” chữ Việt có dấu) từ VISCII (Vietnamese Standard Code for Information Interchange), TCVN3 với các font chữ .VnTime, VNSouthernH; VNI (Vietnam-International), BK HCM, Vietware, VIQR, v.v… đến Unicode, người ta có thể dễ dàng gõ chữ Việt với đầy đủ dấu. Thế nhưng, như những con cừu nhảy cẩng ở chỗ con đầu đàn đã nhảy, người ta vẫn tiếp tục gõ chữ Việt không dấu trong các văn bản tiếng nước ngoài! Trong một cuốn sách nghiên cứu âm nhạc viết bằng tiếng Anh của các tác giả người Việt xuất bản trong nước, trong đó những từ tiếng Việt được viết không dấu như thế này: “We used traditional technical terms still used by popular artists such as the ngon nhan, ngon chun, ngon nhun… A tendency has appeared among the young instrumentalists and teachers of the dan bau to use a more explicative language for example, by calling the second technique (ngon chun), the descending flexional technique (nhan luyen xuong)”(5) Viết bằng tiếng nước ngoài hẳn là để cho người nước ngoài đọc. Nhưng họ cũng phải viết chữ Việt có đầy đủ dấu thì độc giả người nước ngoài mới có thể đọc và hiểu đúng tiếng Việt chớ. Tôi đọc không hiểu những chữ Việt không dấu đó. Người nước ngoài hiểu được không? Thậm chí, trên các danh thiếp, một mặt người ta in tên mình với đầy đủ dấu nghiêm túc, nhưng mặt bên kia người ta tự loại bỏ hết dấu đi, cái tên như thể bị lột truồng. Họ không muốn người ta gọi đúng tên mình sao? Tên mỗi người là một điệu nhạc êm ái thân thương nhất với chính người đó. Xuyên tạc tên của ai là một sự xúc phạm không hề nhỏ. Vậy mà mình tự xúc phạm mình. Những cái tên “không mũ không giầy” đó vô tình khiến người ta có cảm giác mình tự ti (ông bà chỉ cần gọi tên tôi lơ lớ như vầy được rồi!) chưa nói những cái tên trần trụi như thế dễ gợi người ta nghĩ đến những từ không đẹp. Có lần tôi gặp một cái danh thiếp mang cái tên ba chữ: Ta Tham Du. Như đã nói, chữ Việt không có dấu thực sự là vô nghĩa. Sở dĩ con cừu đầu đàn nhảy lên vì chỗ đó có khúc cây ngáng chân nó. Người ta đã dẹp bỏ khúc cây trở ngại đó rồi, mà những con cừu đi sau tới đó cũng nhảy lên. Hãy bước tử tế đi. Nhảy ở chỗ không có gì ngáng chân mình thì... điên quá! THIẾU KHANH 1. David G.Marr, “Vietnamese Tradition on Trail 1920 – 1945” London, England, 1981, page 136) 2. Nguyễn Thiện Giáp, Khái quát về sự hình thành và phát triển của Việt ngữ học (Phần 2) http://ngonngu.net/index.php?m=print&p=309 3. David G. Marr, Vietnamese Tradition, ibid. page 138 4. David G. Marr, Vietnamese Tradition, ibid. page 136. 5. Đào Trọng Từ, et al., Essays On Vietnamese Music, Red River Foreign Language Publishing House, Hanoi, 1984. Ghi chú (1) trang 36 ). ĂN CHAY! Thi hào Pháp Lamartine Ăn Chay trường Ðịnh nghĩa: Ăn chay, do chữ Hán là Trai, người Nam nói là Chay, Trai có nghĩa là thanh tịnh, sạch sẽ. Ăn chay là ăn các loại thực phẩm phát xuất từ thảo mộc hay được chế biến từ thảo mộc. Thí dụ như: Rau cải, hoa quả, ngũ cốc, các loại đậu, tàu hủ, tương chao... Vậy, ăn chay, ăn tương hay ăn lạt đều đồng nghĩa. 1. Cấu tạo cơ thể con người : Muốn biết cơ thể của con người thích hợp với việc ăn chay hay ăn mặn, chúng ta nghiên cứu các loài vật ăn thịt sống như: mèo, cọp, cá sấu, và loài vật ăn thảo mộc như: trâu, bò, ngựa, dê, khỉ... rồi từ đó chúng ta suy gẫm ra con người, vì con người chỉ là loài tiến hóa cao cấp hơn thú cầm. Loài vật ăn thịt thì phải có móng vuốt bén nhọn để vồ mồi, xé thịt, hàm răng cũng bén nhọn chơm chởm. Loài vật ăn thảo mộc thì không có móng vuốt, không có hàm răng bén nhọn. Như vậy, xét về mặt cấu tạo cơ thể của con người, chúng ta nhận thấy con người thích hợp với việc ăn thảo mộc và ngũ cốc hơn là ăn thịt loài động vật. Mặt khác, xét về lịch sử tiến hóa của con người, con người xuất hiện sau thảo mộc và thú cầm, người nguyên thủy sống nhờ hái lượm, tức là nhờ ăn trái cây và ngũ cốc. Việc săn bắn thú vật lấy thịt làm thức ăn chỉ xảy ra sau nầy. Do đó, người ăn thảo mộc và ngũ cốc để nuôi sống cơ thể là hợp với luật Thiên nhiên. 2. Ðạm thảo mộc dễ tiêu hóa hơn đạm thú cầm: Các nhà dưỡng sinh học nhận thấy rằng, chất đạm trong thịt thú vật khó tiêu hóa trong bao tử con người và lại mang nhiều chất độc hơn đạm thảo mộc rất nhiều. Người ăn thịt thú vật thường cảm thấy nặng bụng khó tiêu khi ăn no, và khi lớn tuổi thường bị xơ cứng động mạch, hay tắc nghẽn động mạch. Trái lại, người ăn chay, ăn ngũ cốc và rau cải, dễ tiêu hóa hơn, động mạch dẻo dai hơn, thường cảm thấy khỏe khoắn trong người. 3. Các loại đậu bổ dưỡng hơn cá thịt: Viện Vệ Sinh Dịch Tể Học VN đưa ra Bảng Phân tích thành phần hóa học của 100 gram thức ăn mỗi loại. Xin trích ra sau đây một số thức ăn thường dùng để so sánh sự bổ dưỡng (tính bằng Calorie) giữa các thức ăn chay và mặn, tức là so sánh số năng lượng Calorie mà nó cung cấp cho cơ thể của chúng ta. (Bảng nầy trích trong sách: Phương pháp Dưỡng Sinh của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng) Thức ăn nào cung cấp cho cơ thể nhiều năng lượng (Calorie) thì được xem là thức ăn bổ dưỡng. Theo Bảng Phân tích trên, so sánh giữa Ðậu nành và Thịt bò, chúng ta thấy: 100g Ðậu nành sản xuất 411 cal. 100g Thịt bò sản xuất 121 cal. Vậy Ðậu nành bổ dưỡng hơn Thịt bò gấp 3,4 lần. Nếu so sánh Ðậu phộng với Thịt bò, Ðậu phộng bổ dưỡng hơn Thịt bò gấp 4,8 lần. - Hải Thượng Lãn Ông, Việt Nam Y tổ trong “Vệ Sinh Yếu Quyết” có lời khuyên về sự ăn uống như sau: “Vệ sinh ăn uống trước tiên, Khuyên ăn thanh đạm, khuyên kiêng đậm nồng. Ngũ tân dùng phải có chừng, Ăn nhiều tán Khí, biết phòng mới hay… - Nhà Nữ Bác học White nước Anh nói rằng: “Các thứ hột, các thứ trái cây, đậu và rau cải là những thức ăn mà thiên nhiên đã dành để nuôi sống chúng ta. Các thức ăn ấy nấu nướng một cách giản dị thì rất hợp vệ sinh và rất bổ, nó làm cho thân thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt và tránh được nhiều bịnh tật.” - Lợi ích của việc ăn chay theo J. Bernard-Pellet Ông l à một bác sĩ Pháp và đồng thời cũng là một khoa học gia nghiên cứu về Ăn Chay, ông được nhiều người biết đến vì sự nhiệt tâm của ông trong các buổi thuyết trình được tổ chức khắp nơi · Ăn chay vì sự sống của sinh vật: Mỗi năm có khoảng 55 tỉ sinh vật sống trên trái đất bị giết hại để ăn thịt. Cá trong ao hồ, sông ngòi và đại dương bị giết khoảng 1000 tỉ con vừa lớn vừa nhỏ mỗi năm. (Có lẽ cũng cần nhắc thêm là dân số địa cầu gồm khoảng 6 tỉ người). · Ăn chay vì môi sinh : Chăn nuôi là một trong những nguyên nhân hàng đầu làm ô nhiễm địa cầu. Một phần tư tổng số khí CO² thải ra trong bầu khí quyển là do gia súc chăn nuôi. Các chất phóng uế của súc vật trên đất và trong nước làm cho địa cầu trở nên ô nhiễm. Chẳng hạn như chất nitrat từ phân của súc vật và cá thải ra từ các nơi chăn nuôi kỹ nghệ đang làm cho các quốc gia Tây phương điên đầu vì không tìm được giải pháp nào hữu hiệu và quy mô để trừ khử. · Ăn chay để chống lại nạn đói : Ăn thịt là một sự phí phạm lớn lao vì phải cần đến 10 gam chất đạm thực vật mới tạo được 1 gam chất đạm trong thịt cá. · Ăn chay vì kinh tế và Ăn chay trong mục đích tu tập tinh thần : Bác sĩ J. Bernard-Pellet nêu lên hai lý do này nhưng không giải thích. Ông cho biết là vấn đề kinh tế không thuộc lãnh vực hiểu biết của ông, còn vấn đề tâm linh thì mang tính cách cá nhân. Sau đây là một vài lợi ích của ăn chay liên quan đến sức khoẻ do Bác sĩ J. Bernard-Pellet nêu lên : o Ăn chay làm giảm tỷ lệ tử vong (mortalité) và tỷ lệ mắc bệnh (morbilité) một cách rõ rệt. Tỷ lệ tử vong và mắc bệnh giám xuống từ 10% đến 15% đối với người ăn chay. o Cải thiện sự thoải mái và mang lại cảm giác khoan khoái cho người ăn chay. o Làm chậm lại hiện tượng lão hóa của các tế bào cơ thể. o Làm giảm xuống từ 20% đến 50% các chứng bệnh sau đây: phì nộm, các bệnh tim-mạch (chứng nhói tim, nhồi máu cơ tim), huyết áp cao, tiểu đường, ung thư, các bệnh về thận, sa sút trí nhớ và giảm trí thông minh (démence), sạn thận, viêm khớp vì phong thấp, bệnh trĩ, ruột thừa...(maladies diverticulaires), bệnh thoát vị của một số cơ quan (hernie)... Bác sĩ J. Bernard-Pellet khẳng định là cách ăn chay tốt nhất và lý tưởng nhất là cách ăn toàn chay. Ông nêu lên nhiều kết quả không chối cãi được do các khảo cứu khoa học mang lại liên quan đến sức khoẻ và sự ngăn ngừa và chữa trị đối với nhiều loại bệnh tật. Ăn chay đối với các Tôn giáo - Đạo Cao Ðài: Về việc ăn chay, Ðức Chí Tôn giáng dạy như sau: Môn đệ phải trai giới, vì luật ấy rất nên quí báu, không giữ chẳng hề thành Tiên, Phật đặng. - Ðạo Phật Giáo Hòa Hảo : Bực Hạ thừa thì ăn chay kỳ mỗi tháng 4 ngày (14, 15, 29, 30), còn bực Thượng thừa thì ăn chay trường. Ăn chay kỳ: ngày đầu (ngày 14) để cầu nguyện cho Tổ quốc; ăn chay ngày thứ nhì (ngày 15) để hiến cho Phật; ngày thứ ba (29) cho đồng bào; ngày thứ tư (30) cho bản thân. - Ðạo Phật : Cũng chia ra 2 loại ăn chay: +Ăn chay kỳ: Nhiều bậc: - Hai ngày (1, 15). - Bốn ngày (1, 8, 15, 23). - Sáu ngày (1, 8, 14, 15, 23, 30). - Mười ngày (1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30), - Nhứt nguyệt trai là ăn chay suốt một tháng: ăn chay tháng giêng hay tháng 7. - Tam nguyệt trai là ăn chay 3 tháng: tháng giêng, tháng 7, tháng 10. +Ăn chay trường: Trường hợp ăn chay trường mà lại phát tâm không ăn sau 12 giờ trưa thì gọi là Ngọ trai. - Phật giáo Tiểu Thừa : Có 5 thứ thịt thanh tịnh được phép ăn, gọi là Ngũ Tịnh nhục, kể ra: Thịt ăn mà không thấy người giết con vật. Thịt ăn mà không nghe tiếng kêu la của con vật. Thịt ăn mà không nghi người ta giết cho mình ăn thịt. Thịt con thú tự chết. Thịt con thú khác ăn còn dư. Phật hoàng Trần Nhân Tông: Truyện kể lại rằng vào đời nhà Trần trong một bữa tiệc do hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm thết đãi có cả món chay lẫn món mặn, thì Tuệ Trung Thượng Sĩ, người sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam, đã điềm nhiên ăn thịt cá. Thái hậu ngạc nhiên hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì thành Phật sao được?” Ngài cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm Phật. Phật không cần làm anh”. Tuệ Trung Sĩ là một bậc tu hành giác ngộ. Lời nói của Ngài không phải là lời kẻ tục tử đáp xằng. Việc ăn thịt cá của Ngài Tuệ Trung dĩ nhiên là trái hẳn kinh sách Đại thừa. Vậy thì sự thật ở đâu? Ăn chay là phải, hay ăn mặn là phải trong việc tu hành theo Phật pháp? Câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ hàm ý cho thấy cái quan trọng của tâm tu và cái phá chấp trong phương tiện tu hành. Thời nay, ta thấy có những trường hợp các bữa cơm chay trong chùa đầy rẫy các món như giò, chả.. về tinh thần , việc đó không giúp ích chút nào cho sự tu trì. - Ðạo Thiên Chúa : Kinh Cựu Ước có ghi rõ lời phán của Ðức Chúa Trời: “Nầy, Ta sẽ cho các ngươi mỗi thứ cỏ kết hạt mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh trái có hột, giống ấy sẽ là đồ ăn của các ngươi.” Như vậy, Ðức Chúa Trời đã nói một cách rõ ràng, bảo con người phải ăn chay, tức là ăn hoa quả ngũ cốc để sống, chớ không phải ăn thịt các loài thú vật. Việc ăn thịt thú vật xảy ra sau nầy là do nhơn ý. - Ðạo Hồi : Cũng buộc tín đồ ăn chay. Trong 5 điều chính làm nền tảng cho Giáo lý Hồi giáo thì điều thứ 3 ghi: Phải ăn chay vào tháng 9 theo lịch Hồi giáo, gọi là Ramadan. Alphonse Marie Louis de Lamartine ( 1790 - 1869 ) Là một nhà thơ, nhà văn theo trường phái lãng mạn nổi tiếng của nước Pháp . Ông còn là sử gia, một chính trị gia với chức Bộ trưởng bộ ngoại giao trong chính phủ Pháp. Tuổi thơ của ông trải qua êm đềm ở làng Milly, nơi người mẹ đã dạy ông những bài học đầu tiên về tình người. Lớn lên ông vào học ở một trường Công giáo địa phương, sau đó nghỉ ở nhà tự học bằng cách đọc sách. Ông đọc nhiều sách của Rousseau , Chateaubriand , Bible , Dante , Swedenborg … những tác giả này sau đó có ảnh hưởng nhiều đến văn chương của ông. Sách “ Những bà mẹ của các danh nhân” tác giả là Maurice Bloch, do nhà xuất bản Ch. Delagrave Paris phát hành năm 1885 cho biết chuyện ăn chay của thi hào Lamartine: ...Mẹ của Lamartine nuôi con bằng lối ăn chay cho đến khi ông lên 12 tuổi, bà chỉ cho ông ăn bánh mì, sữa, rau và hoa quả. Tuyệt đối không một miếng thịt nào… Lời kể chuyện của cậu bé Lamartine : “Một hôm mẹ tôi tình cờ dẫn tôi đi ngang một lò sát sinh . Tôi trông thấy những người đồ tể hai cánh tay để trần nhuộm đầy máu đang đập chết một con bò, các người khác thì đang giết bê và cừu. Những suối máu bốc khói chảy lênh láng khắp nơi. Tôi kéo tay mẹ tôi đi cho nhanh để tránh xa nơi này. Sau đó thì cậu hết sức sợ hãi và ghê tởm mỗi khi trông thấy thịt nấu chín…”. Trước cảnh tượng khổ đau, có những người xúc động không chịu nổi, tuy nhiên cũng có những người thản nhiên, chẳng hạn như những người đồ tể. Thật ra thì tất cả chúng ta đều hàm chứa những xúc cảm từ bi, nhưng những xúc cảm đó lại bị che lấp quá sâu kín trong lòng một số người. Tu tập có nghĩa là khơi động những xúc cảm đó trong lòng mình để không khiến mình giống như những người đồ tể đáng thương. Những xúc cảm ấy có thể sẽ giúp cho mỗi người trong chúng ta cảm nhận được những rung cảm của thi hào Lamartine đã từ hai trăm năm trước nhưng đến nay vẫn còn bàng bạc qua những trang sách và những vần thơ của ông. LỜI KẾT Các cụ ta ngày xưa không nói như người Mỹ nhưng cũng có quan niệm rằng những giống vật ăn thịt thường là bạo tạo tợn, như hổ báo, còn các giống ăn cỏ thường là hiền lành như hươu nai trâu bò. Nền văn hóa của những giống dân du mục, sống bằng săn thú và thịt động vật cũng có những nét hung dữ năng nổ hơn là văn hóa của những giống người sống bằng nông phẩm trồng trọt. Đối với con người thì rượu nồng dê béo? thường được coi là những món ăn khích động thú tính con người. Và không lấy gì làm lạ là những người tham dục thường tìm đến nào là huyết chim sẻ, máu rắn hổ mang, thịt dê đực vân vân, chứ ít ai tìm ăn rau cỏ trái cây. Tóm lại thức ăn ảnh hưởng quan trọng đến cơ thể và tinh thần con người. Ở Hoa Kỳ, chính quyền Liên bang còn khuyên người dân điều chỉnh chế độ dinh dưỡng bằng các sản phẩm từ ngũ cốc, rau củ và trái cây . Và khoảng 70% bệnh tật, trong đó có 1/3 bệnh ung thư các loại được giảm xuống đều có liên quan đến việc ăn chay. Khi ăn chay, có thể giảm nguy cơ mắc các bệnh thoái hóa mãn tính như: béo phì, bệnh động mạch vành, cao huyết áp, tiểu đường và các chứng bệnh ung thư như: ung thư ruột kết, ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư dạ dày, phổi và ung thư thực quản. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho biết, các loại thực phẩm giàu đạm như thịt gia súc, gia cầm và hải sản thường là nguyên nhân gây các trận bùng phát những loại bệnh liên quan đến Thực phẩm. PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo – Internet) NHỮNG HỐ CHƯN VOI TRONG LÒNG NGƯỜI Thằng Tý vô cửa nhà mình mà rón rén như đứa ăn trộm. Bước nhẹ nhẹ, đợi tiếng động phát ra từ chưn nầy hết nghe mới để chưn kia xuống, dò dò như đi trên bãi mìn, mỗi bước chưn để xuống đều đứng tim ngóng như thể thử dò coi ông địa có cười hay không. Thoát chết mấy lần khi từ chối đi lục lạo sắt vụn với tụi bạn từ mấy đống sắt phế thải cao ngùn ngụt của quân đội Pháp ở thành Ô Ma, nó rất ám ảnh cái chuyện ông địa cười khi trong đám sắt có lẫn lộn mấy trái mãng cầu hay mấy trái mìn trước đây bị chai, nghẹt. Mỗi tiếng cười của ông địa là có nhiều nhà khóc con, khóc cháu… Cứ vậy nó tiến tới tủ thờ. Nó núp bên cạnh tủ, khom mình cởi đôi giày ra, móc trong túi quần lấy tờ giấy báo đã được thấm lúc nào đó một chút nước ẩm ẩm rồi chùi chùi mặt giày. Nó thổi thổi lớp bụi nhưng cũng không dám thổi mạnh. Mắt láo liên ngó vô buồng nơi má nó đương nằm nghỉ bịnh. Một lúc hơi lâu, đoán là yên, nó bỏ giày vô một cái túi giấy, để lại chỗ cũ, chỗ mà nó khám phá ra cả tháng nay, sau cái khuôn hình. Nó vừa làm vừa len lén liếc mau lên tấm hình. Như là ba ngó theo mình và đương theo dõi từng cử chỉ của con. Nó hơi rùng mình, có làn khí lạnh dài chạy theo đường xương sống. Hơi sợ, nó lấy chưn quơ kiếm đôi dép rồi từ tốn bước ra khỏi chỗ núp, mắt vẫn thỉnh thoảng ngó lên khuôn hình. Tưởng đâu đã yên bề, mặt nó trở lại bình thường, nét căng thẳng đã biến mất, nó đưa tay vuốt ngược mái tóc lòe lòe xuống trán rồi hất đầu về sau để tóc bung lên, cử chỉ ra vẻ thanh niên lắm. Bây giờ thì có quyền gây tiếng động mà không còn sợ nữa, nó chu mỏ hút gió nhưng chưa học rành nên chỉ được những hơi ngăn ngắn và không bài bản gì ra hồn. Bỗng tiếng má nó phá tan bầu không khí lặng lẽ nãy giờ. - Tý, con dấu gì đó con! - Dạ, không có gì đâu má, khuôn hình của ba như là xiên xẹo. Má khỏe chưa má. Má ăn cháo không để con múc, chắc là em Tư đã nấu rồi. Con xuống bếp bưng lên cho má nhe! Giọng má nó bây giờ lại nhẹ nhàng hơn: - Con đem cái gói gì sau khuôn hình ba con lại cho má coi gì ở trỏng. Con biết đó, mẹ con mình có gì dấu nhau đâu! Biết chuyện không ổn nó kéo dài hơn thời gian chờ đợi bị xử án, hy vọng mong manh là má nó sẽ quên. - Má uống thuốc chưa má, con rót nước nóng cho má uống thuốc nhe! Má nó nói sau tiếng thở dài: - Ùm! Chắc tôi chết quá, con cái nói hông nghe lời. Biểu nó có một chuyện nhỏ mà nó cũng đánh trống lảng. Tới đây thì bà dằn từng tiếng: - Con đem gói gì sau khuôn hình lại cho Má, Má muốn coi đó là gói gì! Thằng Tý mặt mày sượng đỏ, nó ngó má nó, ngó khuôn hình ba nó rồi dợm cẳng bước ra cửa. Má nó ngồi dậy, bà thở dốc rồi kêu lớn: - Tý, mầy không vô cho má biểu thì má ngã xuống đây chết cho mầy vừa bụng… Bà nằm xuống giường thở nhiều hơn và gấp rút hơn, cố gắng rặn một chuỗi ho dài. Thằng Tý quay lại, ngó mẹ mình, nó biết thân, khi bà đổi cách xưng hô là bà giận lắm rồi. Nó đến bên giường mẹ sau khi vói lấy gói giày ra cầm tay. Mẹ nó trong cơn giận chụp áo con đánh thùm thụp vô ngực nó mấy cái liên hồi, không cần đếm. Mặt thằng con nghệch ra chịu đựng. Bà mẹ chưa hết giận, buông con, nằm nghiêng mình vô vách làm thinh. Thằng Tý đứng một hồi lâu mới lay vai mẹ nó: - Mẹ coi đôi giày Bata mới của con nè, con lén mẹ đập ống heo mua đó. Bà mẹ quay mặt lại. - Vậy thì có gì phải dấu má? Mua cũng được, nhưng sao con dại quá, để giày lên bàn thờ, con có biết như vậy tội với ông bà lắm không? Bàn thờ không chỉ thờ một mình ba con thôi, còn có ông bà nữa, những người đã tạo nên dòng họ mình. - Dạ con nghĩ là để sau tấm hình của ba thì không sao. Như là vái ba giữ nó giùm cho con, khỏi bị ăn cắp. Bà mẹ ngồi dậy, tóc tai hơi dã dượi, lòa xòa. - Thôi cũng được đi, từ rày con khỏi cần dấu má nữa, để dưới chưn bàn thờ là được rồi. Bàn thờ là nơi thờ cúng tổ tiên, không thể dùng cho chuyện khác… Bà ngó lên tấm hình chồng rồi nhìn mặt con, thằng nhỏ giống ba nó như đúc, mặt nó vẫn còn đỏ gay, nước mắt nước mũi chảy chèm nhèm. Bà cảm động nắm cánh tay con, lắc lắc thân yêu. - Sao hồi nãy con không chạy đi, đợi chiều tối lúc má hết giận con về? - Dạ, con sợ má chết! Má chết thì tội nghiệp lắm, nằm ngoài ruộng lạnh lẽo chỉ có một mình. Bà mẹ thút thít, bà nói nho nhỏ chỉ đủ một mình mình nghe: “Già rồi mà còn giận mất khôn! Bực thiệt”. Bà nắm tay con, tha thiết: - Má xin lỗi con nha Tý! Má đánh con oan ức. Má bậy lắm! Bức hình người đàn ông trên bàn thờ, mặt trẻ trung, áo lính tươm tất, cầu vai cài lon sĩ quan ngó xuống hai mẹ con, mỉm cười tươi tắn. A Lìn nghe hầu hết câu chuyện vừa xảy ra bên nhà thằng Tý. Cách có một cái vách ngăn mong manh người bên nầy nói người bên kia lấy cặc bần nhét lỗ tai nghe cũng rõ. Nó cười chúm chím, lấy tay đè lên ngực sợ thằng Tý biết được mình rình mò, nhưng cũng không thể cưỡng nổi việc nhóng lỗ tai đến gần vách hơn chút nữa. Nó nói bâng quơ: “Thiệt là có hiếu! Có hiếu quá!” Ông thầy giáo già thấy thằng Tý và thằng Tửng thân thiết với nhau, nên nhân dịp hai đứa đứng gần trong một giờ ra chơi nào đó, ông nói cà rỡn: - Hai trò thân thiết như anh em vậy kể từ bây giờ thầy kêu trò Tý là A Tỷ cho phù hợp với anh trò là A Tửng vì A Tửng lớn tháng hơn... Thằng Tý không biết thầy mình có ý gì khi nói như vậy nhưng nó cũng thấy thích thích vì câu nói hàm ý thằng Tửng là anh của nó. Chỉ vì một lý do giản dị: Thằng Tửng là anh của A Lìn. Kể từ đó bạn bè cả trường đều kêu nó là A Tỷ. Bữa nay thằng Tý cầm cái chén và cái chai qua tiệm Chú Xồi mua tương hột và nước mắm về cho má nó chưng cá. Nó quen với chuyện nầy bao nhiêu năm nay rồi. Mười bảy tuổi nó đã cao nghệu nhưng má nó cứ sai đi tiệm mua lặt vặt như thường. Tiệm là nhà thằng Tửng, chú Xồi là tía của con Lìn, nhiều khi nó ở trần bận quần xà lỏn đi qua tiệm cũng không chút gì ngại ngùng. Không thấy thằng Tửng ngồi ở bàn tài phú tay gõ bàn toán lốc cốc như mọi ngày, chắc là nó đi Chợ Lớn bổ hàng. Cũng không thấy mặt chú Xồi thường chào nó bằng câu quen thuộc: “Hề hề A Tý! Ăn cơm chưa?”. Chỉ thấy con Lìn lo chuyện bán buôn. Con nhỏ dở nắp khạp tương ra. Nắp hơi nặng, mà một tay Lìn đương nắm một nắm tiền nên hơi khó khăn, thằng Tý đưa tay dở nắp khạp giúp con nhỏ. Một con thằn lằn chết nằm ngửa bụng trắng hếu trên mặt tương đen xì lốm đốm nhiều chỗ nổi mốc meo. ThằngTý đưa tay nắm đuôi con vật liệng mạnh ra xa trước khi con Lìn kịp biểu lộ sự sợ hãi. Lần nầy chén tương được múc nhiều gấp đôi số tương những lần mua trước, nước mắm cũng được đong đầy gần tràn tới miệng chai. Nó hỏi nhỏ: - A Lìn có lộn không đó, hơi nhiều hơn những lúc tôi mua từ chú Xồi hay của A Tửng. Con Lìn ngó lên thằng Tý thiệt mau, má đỏ hồng, rồi cúi xuống nói nho nhỏ trong khi đậy nắp tĩn nước mắm rồi chùi tay vô cái nùi giẻ móc trên cây đinh đóng trên cột gần đó: - Vừa bán vừa thêm! Chiều hơi tối tối A Lìn muốn gặp A Tỷ ở chỗ bụi tre đầu xóm. Thằng Tý run en lên, tới tuổi biết thích con gái mấy năm nay rồi, nó ngó điệu bộ con Lìn thì biết mình đã hạp nhãn con nhỏ. Nó làm tỉnh gật đầu mà tim thiếu điều nhảy ra khỏi ngực… Giòng đời lặng lẽ trôi qua. Một xế kia lần đầu tiên con Lìn khóc trên vai thằng Tý: - Ba năm nay mình thương nhau lén lút chỉ có A Tửng là biết thôi, A Chệt không biết gì hết. Giờ đây có người ở Chợ Thiếc muốn đi cưới A Lìn. Họ ngạc nhiên sao A Lìn lại quyết liệt cãi lời A Chệt, họ dò xét, cuối cùng biết chuyện của mình. Chưa biết A Chệt sẽ tính sao, nhưng chắc chắn sẽ là rất dữ tợn vì bao lâu nay A Chệt luôn luôn nói rằng theo tục lệ của ông bà ở bên Tàu, người Tàu của A Lìn con trai thì được phép lấy vợ Việt Nam nhưng con gái thì bất cứ giá nào cũng không được lấy chồng Việt. Con gái lấy chồng Việt là làm mất giống, là đại bất hiếu mà cha mẹ cô ta phải chịu trọng tội trước vong linh ông bà tổ tiên. Thằng Tý vuốt vuốt vai người yêu, không biết nói sao, chuyện đối với nó lớn lao quá nó chưa bao giờ nghĩ tới. - A Lìn tiếc rằng mình không thể theo con đường ông bà mình vạch ra được vì A Lìn đã đi học trường Việt, đã sống bao lâu nay trong cái xóm nầy nên thấy gần gũi với người Việt hơn, thấy cái hố chưn voi phân cách hai bên là vô lý. Nó khóc thút thít: - Nếu A Lìn làm vợ A Tỷ thì là chuyện bình thường, còn lấy ông tài phú ở Chợ Thiếc với cái bụng phệ tối ngày bận cái áo thun ba lỗ lòi rún, luôn luôn vắt vai cái khăn lông màu nước lèo mới là lấy người xa lạ. Chắc chắn hai bên không hợp nhau, A Lìn sẽ không bao giờ thấy hạnh phúc. Mặt trăng chiếu mơ hồ khuôn mặt bụ bẫm huyền sử của A Lìn. A Tỷ lấy hết can đảm vuốt nước mắt cho người yêu rồi rón rén đặt lên chỗ mới vừa lau khô một cái hôn ngọt lịm. Gió lay động tàu lá chuối che khuất ánh trăng càng làm cho cảnh mờ ảo hơn. Nó lần tay lên cổ mình gỡ sợi dây chuyền có tượng Phật nhỏ đeo cho A Lìn: - A Lìn giữ tượng Phật nầy, dùng để cầu nguyện trong lúc khó khăn. Để A Tỷ lạy má qua tiệm nói với chú Xồi xin cưới A Lìn. Cũng chưa biết hai đứa làm gì để sống, nhưng cứ cưới nhau cái đã. Nụ cười buồn nở trên khuôn mặt xuân thì còn ngấn lệ: - Vô ích thôi, A Lìn biết ý A Chệt. Ông ta quý con gái, không bao giờ chịu người Việt Nam làm rể mình đâu. Biết rể thảo là trai đó, mà A Chệt thì cứng đầu lắm, không chịu là không chịu, ai nói gì cũng chẳng thèm nghe đâu. Đừng kêu Dì Ba qua mà Dì mang nhục tội nghiệp. Tiếng chuông chùa công phu buổi sáng đổ ngân nga, qua sương sớm như làm rung rinh ánh trăng. Thằng Tý lòng mềm như bún thiu, bỗng nhiên nó muốn đi tu phứt cho rồi. Chưa bước chưn vô đời đã thấy khó khăn làm nản chí anh hùng. A Lìn đứng dậy mau mắn, nói như người lớn: - A Chệt chỉ biết khát sống cho sướng, khát ăn uống cho ngon, khát có tiền thiệt nhiều, khát áp quyền uy lên con cái chứ chưa biết khát mang hạnh phúc lại cho con cái. A Tỷ thấy đó, A Tửng bị ép lấy người anh ấy không thương lớn hơn mấy tuổi… Thằng Tý đi như mất hồn về nhà, lén lén mở cửa chun vô mùng má nó đã giăng sẵn. Dì Ba thấy con đi suốt đêm biết là có chuyện nên chỉ đưa mắt ngó rồi thở dài. Lát sau bên kia vách có tiếng đồ vật bị xô bể, có tiếng chưởi rùm beng của Chú Xồi bằng thổ âm Tàu, tiếng được tiếng mất chen lẫn với tiểu nị lụ mụ, hầm cá sảnh…pha lẫn tiếng khóc và tiếng lý sự của A Lìn nói như hét bằng tiếng Việt: - Người ta không xin tình yêu. Chỉ là tình yêu của A Lìn trao mời cho người ta thôi. Đừng bao giờ quên điều đó! A Chệt đừng nói chuyện giàu nghèo. Cũng đừng nói chuyện chúng kọt, á nàm dành… Ai cũng là người không ai quý hơn ai. Chú đi về xóm cũ như người đi trong xứ xa lạ nào đâu mình chưa hề đặt chưn tới. Loanh quanh giữa những khu nhà tường, khác xa với xóm nhà lá vách phên ngày xưa, chú nhận ra vài cây cổ thụ quen thuộc, cái mả đá vôi lâu đời và những con đường rẽ tuy có méo mó và hẹp hơn chút đỉnh vì bị lấn chiếm nhưng không khác hình ảnh trong ký ức chú là bao nhiêu. Vườn cây kiểng của ngôi chùa chỗ chú nắm tay A Lìn lần đầu giờ là mấy cái nhà hàng với bảng hiệu bia Heineken, Tiger… xanh xanh đỏ đỏ và tiếng nhạc dâm dật xập xình. Để tâm lắm mới nhận ra một phần chánh điện ngôi chùa giờ là trạm gác dân phòng, ngó vô trong thấy hai ba thanh niên đương nằm ngủ mê mệt, lăn lóc, phần kia là Cửa Hàng Lương Thực lèo tèo vài đống khoai lang mà bùn đất coi bộ còn nhiều hơn củ. Hỏi qua lại tới lui vài lần chú đứng trước nhà của bà Liên ngày xưa bán quán. Khỏi cần quan sát thêm chú cũng biết đó là cái ót thân thuộc và những cử chỉ quen quen của A Lìn. (Đã quen lung rồi mà, sao không nhìn nhau đặng?) A Lìn mà chú phải bỏ xứ ra đi vì mối tình bị vướng vô lời nguyền chủng tộc đời cố Hỉ cố Lai nào đó xa xăm. ….“Hỏi nhỏ chuyện nầy nha A Lìn, không có ý gì hết, chỉ tò mò thôi”. Chú ngó thẳng vô mặt người bạn gái ngày xưa. “Cái tượng Phật vàng đeo trên cổ A Lìn hồi đó còn không?” Bà Liên không đáp ngay, mà từ tốn đứng dậy, nói: - Anh ngồi chơi uống nước, chờ Lìn chút, tới giờ triều lễ chiều rồi. Một năm sau ngày anh đi biền biệt Lìn biết rằng tình yêu của mình không gột rửa được sự bất bình trong lòng anh. Chắc chắn anh không quay về nữa, nên Lìn phát nguyện từ đó. Tiếng kinh kệ chuông mõ làm vơi lòng buồn, nương bóng Phật để sống thảnh thơi an tại, đánh tan đi những thất vọng trước đó. Chú vói tay lấy tách nước nhâm nhi cho đỡ bối rối. Nhà chật chội không có bàn thờ, cũng không thấy chuông mõ sao cô nầy lại nói chuyện triều lễ. Rồi lại còn bất bình nầy thất vọng kia. Khó hiểu quá! Bà Liên mở tủ lấy ra một cái khuôn hình, dựng đứng lên, khuôn hình có lồng trong đó tấm giấy đỏ viết chữ Phật bằng quốc ngữ, tô đậm nét, chữ lớn chiếm hết tờ giấy. Một cái chuông bán cà lem cây được đặt trang trọng bên tay mặt, dưới một vuông vải nho nhỏ cũng màu đỏ, mõ và dùi để trước khuôn hình. Bà vén tóc mai, mời chú uống nước một lần nữa rồi đi ra nhà sau rửa mặt, một lúc trở lên đã thay áo tràng màu dà, tới ngồi ngay ngắn trước khuôn hình, bắt đầu tụng niệm. Thấy không khí quá trang nghiêm chú đứng dậy bước trái ra hiên. Tiếng kinh tụng đeo đẳng chú tới ngoài nầy khiến chú mơ hồ nhớ lại lúc trẻ cầm tay A Lìn, tung tăng giữa những chậu kiểng uốn hình long lân quy phụng của ngôi chùa trong tiếng kinh kệ ê a của những vị sư già. Chú liếc xéo vô cửa, cảm thấy một chút xấu hổ và tội lỗi khi mắt mình nhìn kỹ lại đôi tay của người bạn gái năm xưa. Bàn tay khô, ốm, đầy gân xanh, vẻ tươi mát đầy đặn của thời mới lớn tan biến không để lại chút vết tích nào. Thời kinh xong bà Liên dọn dẹp tất cả chuông mõ và khuôn hình, bước ra mời bạn vô nhà. - Anh thấy đó, Lìn kinh kệ để lòng mình được bình thản, cho những hố chưn voi ngoài đời không tạo ra, cho những cái trong lòng người được tiêu tán. Không gian yên lặng một lúc thiệt lâu, mắt hai người ngó thẳng vào nhau, buồn buồn. - Cầu hoài mà chỉ có lòng Lìn là thanh thản đôi chút còn chuyện bên ngoài thì có được đâu. Biển Đông xao động vì những tranh cãi kéo theo sự thù hằn không đáng có của hai dân tộc láng giềng, nặng nề gấp triệu lần hố chưn voi trong lòng A Chệt của Lìn vì những lời dặn dò truyền kiếp xa xưa của ông bà ông vải mà mình không biết mặt. Bà Liên quệt thêm miếng vôi vô cái đuôi trầu, xếp xếp, ngó nhưng không bỏ vô miệng liền: - Anh biết không, hồi đó A Chệt chưởi Lìn ương ngạnh, phản loạn, cứng đầu khi nghịch với truyền thống dân tộc. Thiệt ra đâu phải vậy đâu, Lìn chỉ muốn phản ứng mạnh và chấp nhận chịu đựng sấm sét để thay đổi cách suy nghĩ của những người như A Chệt, ở nước người ta mà phân biệt kỳ thị người ta. Đó là chưa kể A Chệt đã không thèm để ý gì tới chuyện hạnh phúc của con cái. Nói xa hơn chút nũa là quá chấp mê hình tướng… Bà Liên bỏ miếng trầu vô miệng, nhưng vẫn chưa nhai, tiếp: - À mà cái tượng Phật ngày xưa hả? Lìn giữ cho tới mới gần đây bị trộm vô nhà lấy mất. Mà Lìn cũng không buồn làm gì. Vật ngoại thân mà. Mất tượng Phật đeo trên cổ, Lìn niệm Phật bằng cái khuôn hình viết chữ như anh thấy đó. Tượng Phật anh tặng A Lìn tượng trưng cho tình yêu của anh dành cho Lìn, chính Cái Tình trong lòng anh mới đáng quý. Chính Hình Ảnh Phật trong lòng Lìn mới đáng trọng. Bây giờ thì Lìn thanh thản vì khi trẻ đã biết sống cuộc đời mình. Lìn đêm nào nhìn bầu trời cũng thấy trăng sao đẹp đẽ, mây lúc nào cũng quang đãng trong xanh. Lìn chẳng buồn giận gì anh đã bỏ đi, chẳng oán hờn gì A Chệt cố chấp. Chú thấy mình bôn ba bao nhiêu năm nay nhưng tư tưởng không bằng người bạn gái cũ, lòng mình chưa thanh thản, vẫn còn bị cái hố chưn voi chủng tộc do A Chệt để lại làm nặng lòng bằng sự sân hận, khiến đời chú oằn oại bao lâu nay. Chú nhìn vẻ mặt thanh thản của A Lìn mà ước ao tâm mình bằng một góc tâm của người đàn bà nầy. Người ngồi đó tình cảm với anh là tình cảm của A Lìn xưa nhưng con người đã đổi khác. Cả chú nữa, già cỗi nhăn nheo. Nói gì thì nói mọi chuyện đã dĩ lỡ, chúng mình là người-ngày-xưa của nhau, nhưng khó thể còn là người-xưa của nhau. Chú ngó mông lung ra mấy cái nhà hàng bia ôm bia sờ gần đó, ngó Cửa Hàng Lương Thực xéo xéo bên kia để tìm về ngôi chùa xưa và tiếng chuông ngày cũ, cố kiếm một chút bình yên trong lòng, nhưng tìm hoài mà có được đâu. Chú nghe tim mình như có cái gì cấn ngang, chú thở ra một hơi dài thườn thượt. Và chú ngồi thừ ra đó dầu nhiều lần dợm cẳng muốn đứng dậy từ giã người tình xưa vừa mới gặp lại. (Victorville, CA, August 1-9 2011) NGUY ỄN VĂN SÂM CHÁNH TẢ VIỆT NGỮ I. Đại cương Báo Thanh Niên ngày 07-3-2018 với tựa: “Sẽ có quy định mới về chuẩn chính tả?”, tác giả là Tuệ Nguyễn. Đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, lần thứ hai học lại Sư phạm môn Văn, tôi còn nhớ rõ vị giáo sư Ngôn Ngữ học nói là chánh tả Việt ngữ của ta, tôi thấy đã hoàn chỉnh. Chỉ có một từ sai là “QUỐC”. Từ này phải viết “QUẤC” mới đúng. Nay ta viết “QUẤC” là ổn thôi. Nếu có đặt quy cách viết danh từ riêng… đó chỉ là sự sửa nho nhỏ ghi trong sách giáo khoa và chỉ đạo các thầy cô Văn phải thi hành. Chỉ có vậy thôi. II. Viết tên tiếng Việt và phiên âm tiếng nước ngoài Với ý kiến nói rằng chánh tả chữ Quấc ngữ là hoàn chỉnh rồi, thiển nghĩ nó đã đạt chuẩn rồi thì còn nói chuẩn gì nữa. Đọc bài báo, tôi thấy có hai điểm lớn: 1. Viết tên riêng tiếng Việt Là người biết chữ, có lẽ ai cũng đã viết tên riêng tiếng Việt. Về mặt nầy, tôi thiển nghĩ chỉ nêu một câu là đủ: tên người, tên nước, địa danh cần viết hoa các chữ cái khởi đầu. Ví dụ: Nguyễn Tri Phương, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một, Lê Thị Hồng Gấm… Chữ “Thị” của Lê Thị Hồng Gấm, viết hoa hay không cũng không có gì đáng nói. Viết: thị trấn Bến Lức, thành phố Vũng Tàu… Chữ “Thị” và “Thành” viết hoa hay không tôi thấy cũng được thôi. Đó là chuyện nhỏ. Nếu muốn thống nhứt cho có quy củ ta nói thêm: “Thể hiện tên địa phương, tên một sự kiện… ta viết hoa chữ đầu cho trang trọng là đủ. Ví dụ: Thành phố Vũng Tàu, Trường Tiểu học Bình Chánh… 2. Phiên âm tiếng nước ngoài Có lẽ phải nói rằng ghi âm một tiếng thì nghe sao viết vậy. Tiếng Việt ta là tiếng đơn âm, một từ, một tiếng là một âm tiết nên ít ai bàn đến âm tiết trong tiếng Việt. Nhiều thứ tiếng của nước ngoài thuộc loại đa âm tiết nghĩa là một từ gồm nhiều âm tiết. Ví dụ: Lamartine (tên một thi sỹ Pháp) Đó là một từ nhưng có ba âm tiết: La + mạt + tin + nờ nhưng “nờ” là tử vận, ta nghe như có “nờ” trong họng mà thôi nên bỏ đi. Vậy tiếng nước ngoài có lẽ chỉ cần nói: a/ Từ đa âm tiết thì chữ cái của âm tiết đầu viết hoa, các chữ cái đầu của các âm tiết tiếp theo thì không viết hoa nhưng giữa chúng cần có ngang nối (La-mạt-tin). b/ Trên phương diện bang giao quấc tế, tiếng Anh và Pháp hiện nay khá thông dụng, các thứ tiếng nói nghe lạ tai nhưng Pháp hay Anh có phiên âm, ta phiên âm theo cách đọc của Anh hay Pháp. Ví dụ: Genève, một địa danh của Thụy sĩ. Không biết địa danh nầy Thụy sĩ đọc như thế nào nhưng thời 1954-1960 ở Saigòn đọc là Gjơ-ne-vờ. Nhưng âm “vờ” là tử âm nên nghe là Gjơ-neo thôi. c/ Vài từ nước ngoài phiên âm sang tiếng Việt - Genève: sách Lịch Sử Việt Nam 1945-1975 do Trần Thục Nga chủ biên xuất bản năm 1987 ghi: Giơnevơ. Từ nầy thời 1954 không đọc Giơnevờ. Âm tiết Giơ khi đọc miệng hả ra, nó là âm miệng. Nhưng “Giơ” thời 1954 thì đọc “gjơ” nó là âm sát miệng + lưỡi + răng hàm trên. Âm “vơ” là tử âm nên từ nầy đọc “Gjơ-neo” thôi. Bài báo của Tuệ Nguyễn có ghi: “Đối với SGK lớp 4 và lớp 5, bên cạnh tên riêng được phiên âm có tên nguyên dạng hoặc chuyển tự đặt trong ngoặc kép”. Như vậy là tốt quá. Theo tôi, đó chỉ là sự sửa đổi nho nhỏ mà Bộ Giáo Dục thông báo cho các nhà soạn SGK và hướng dẫn cho giáo viên giảng dạy là đủ. - Club: tiếng Anh, đọc “klʌb”, người Trung Hoa phiên âm là Cơ-lắp-bô. Từ cách phiên âm của Trung Hoa, xưa nay từ nầy được phiên âm sang tiếng Việt là Câu-lạc-bộ. Nghĩa của từ nầy là Hội hay Nhóm. Có lần lên Bình Dương chơi, tôi nói: “Hội thơ Bình Dương…”. Thi hữu Bình Dương nói trên nầy không cho nói “Hội thơ” mà phải nói “Câu-lạc-bộ thơ…”. Dùng đã quen, ta thêm một từ vậy. - Tôle: tiếng Pháp, từ điển Pháp Việt của Đào Văn Tập ghi: Tôn, lá sắt (thập niên 1960). Chữ nầy không đọc là “Tôn” nghĩa là miệng hơi tròn, chót lưỡi đặt ở nướu hàm răng trên hạ chót lưỡi xuống phì hơi ra và ngậm miệng lại. Nó khác với cách đọc của tiếng Pháp là môi không tròn, chót lưỡi đặt ở răng hàm trên và hạ chót lưỡi xuống. Tôi cho rằng ta thêm một âm “ÔL” để viết và đọc từ nầy gần với âm người Pháp đọc chăng. Nếu đọc là “Tôn” lợp nhà, tôi cho là không ổn vì bản thân từ “Tôn” có nghĩa riêng là đề cao, tôn kính. Thời thập niên 1950, dân thôn quê và người bình dân ở Saigòn gọi là “Tuôn”. Mua tuôn về lợp nhà. Người có học ở Saigòn thì không nói “Tuôn” mà nói “Tôl” theo cách đọc của Pháp. Sau 1975, từ “Tôn” chỉ “Tôle” được ghi trên các bảng quảng cáo ở khắp nơi nên từ “Tuôn” đi vào quên lãng. Theo tôi, các nhà ngôn ngữ học cần lưu ý và lên tiếng. - Rousseau Jean-Jacques: nhà văn, nhà triết học Pháp (viết tên theo Tự điển triết học). Ông Rousseau được người Trung Hoa phiên âm thành “Rút-xô”. Có những âm mà người Trung Hoa không có hay không đọc được ví dụ: “Chèo ghe” thì họ đọc là “Chào ghe” chẳng hạn. Từ “Rút-xô” thì cách nói như thế nào đó rồi ghi thành chữ Hán, các cụ xưa ghi từ chữ Hán nầy sang tiếng Hán Việt là “Lư Thoa”, nó khác một trời một vực. Về sau, từ thập niên 1960, người có học đọc đúng tiếng Pháp là “Rousseau” nên từ Lư Thoa mất dần. Nay không nghe nói Lư Thoa nữa. - De Castries: người Pháp, tên của vị tướng giữ cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt. Sách Lịch Sử Việt Nam 1945-1975 do Trần Thục Nga chủ biên xuất bản năm 1987, tên vị tướng nầy được phiên âm thành Đờ Caxtơri. Tại sao lại phiên âm lạ như vậy, nó lại do một nhà trí thức ghi. Ta có từ “TRI” là biết, từ “Tre”, từ “Trà”… Tại sao lại phiên âm “Tri” thành “Tơri”? Nếu ta nói: “Tôi ngồi dưới gốc bụi Tơ Re, ngắm ông Tơ Răng, uống nước Tờ Rà nói chuyện tướng De Caxtơri” thì nghe như thế nào? Sách Lịch Sử Việt Nam tập IV do Lê Mậu Hãn chủ biên, xuất bản năm 2013 thì ghi: “tướng De Castries”. Không thấy phiên âm sang tiếng Việt tên vị tướng nầy. Các nhà viết sử đã sửa. Như vậy, các nhà soạn sách giáo khoa phiên âm sao cho đọc gần giống âm người Pháp đọc thì thôi. - Phnôm-Pênh: Thủ đô của nước Cambodia, xưa kia có lẽ ta phiên âm thành Nam Vang. Từ Nam Vang theo tôi cũng được vì nó gần giống với Phnôm-Pênh. Nhưng nay, ta có khuynh hướng đọc là Phnôm-Pênh nhưng từ Nam Vang cũng còn tồn tại. Thôi thì tùy nghi muốn dùng từ nào cũng được. - Vientiane: Thủ đô của nước Lào (viết theo Tự điển Việt Anh Pháp của Trần Hàn Nga) trước đây ta phiên âm thành Vạn Tượng nhưng nay có khuynh hướng đọc là Viêng Chăn (sách Sử lớp 12 xuất bản 1998). 3. Ghi âm tiếng của các dân tộc ít người anh em: - Kontum (trước 1975). Sau 1975 sách Lịch sử Việt Nam tập 4 ghi Kon Tum. Hiện nay tôi nghe xướng ngôn viên trên đài truyền hình đọc là “con tuum”. Như vậy địa danh nầy người bổn địa đọc gần với âm “Công tum” hơn. Muốn đọc cho đúng âm của người Tây nguyên, có lẽ các nhà ngôn ngữ học lên đó nghe rồi ghi mới đúng. Dân Tây nguyên anh em nằm trong lòng nước Việt, ta yêu cầu họ đọc theo âm Việt cũng được. Nhưng có lẽ ta không nên bắt như vậy. - Pleiku (trước 1975). Sau 1975 sách Sử tập 4 ghi Plâyku. Nhưng sách trước 1975 ghi là Pleiku và đọc là Plây Kuu. Âm “uu” nầy khi đọc, nâng sau lưỡi lên, chót lưỡi đụng răng dưới, hai môi hơi rụt ra sau, độ chúm ít. Tôi cho là nguyên âm lưỡi răng môi, cơ hả hẹp. Trong khi “u” khi đọc ta nâng dần phía sau lưỡi lên, hai môi nhô tới trước, chúm lại. Tôi không thấy chót lưỡi đụng vô đâu nên cho rằng nó là nguyên âm môi lưng lưỡi, cơ hả hẹp. Các vùng miền trên đất nước Việt Nam ta, qua các danh từ địa phương, ta thấy rằng âm vị tiếng Việt ta rất phong phú. Ngoài 36 âm vị: a, ă, â, b, c… ta còn có các âm vị khác nữa (âm vị là âm thanh làm thành một ngôn ngữ, nó tách biệt hẳn nhau ví dụ B và M, cùng là âm môi nhưng B khi đọc, luồng hơi qua miệng, M luồng hơi qua miệng và mũi). - Âm Pl như: Pleiku - Âm Bl như: Blao là cao nguyên đất đỏ ở Lâm Đồng - Âm Sr như: sông Srépok - P và B là tắc âm môi nghĩa là luồng hơi bị môi chận lại trong miệng rồi nhượng bộ đột ngột nghĩa là môi mở cho luồng hơi đi ra thì đọc được. * P là tắc âm cuối, có cường độ mạnh như “tập” nhưng nó cũng làm tắc âm đầu như Pakha tên một cao nguyên ở biên giới Việt Hoa, Cao nguyên Pouthaca, núi Pou-Nam-Long… * B là tắc âm đầu có cường độ yếu: Ba, Bằng… - Âm IA: núi Pia-ya. Lang Biang… Ngoài ra còn một số âm vị, khi ta phiên âm tiếng Tây phương thì tùy nghi mà viết thí dụ Tôle, có thể viết “Tol” để chỉ tấm lợp nhà bằng thiếc nhưng tôi chưa thấy ai viết. III. Tổng kết Dân tộc Việt Nam ta bị Trung Hoa đô hộ khoảng một ngàn năm nhưng dân Việt không bị đồng hóa và nước Việt vẫn trường tồn đến ngày nay. Do đâu mà Việt tộc không bị đồng hóa? Tôi cho là vì tiếng Việt còn. Do đó phải nói rằng tiếng nói gắn liền với vận mạng của dân tộc, của đất nước. Tiếng nói muốn được trường tồn thì tiếng nói đó phải phong phú, phải diễn đạt trọn vẹn được mọi ý nghĩ, mọi khía cạnh của cuộc sống thì người dân cảm thấy diễn đạt tiếng nói của dân tộc mình tốt hơn dùng tiếng nước ngoài thì tiếng nói được trường tồn và dân tộc đó được trường tồn vậy. Muốn tiếng nói được phong phú, ta cần hội nhập và Việt hóa tiếng nước ngoài cũng như tiếng nói hay của dân tộc anh em trong nước. Hội nhập tiếng nước ngoài và tiếng các dân tộc anh em ít người thì ta tìm cách ghi được tiếng của dân tộc đó nhưng vẫn theo phong cách Việt. Ngày nay khoa ngôn ngữ học được phổ biến rộng thì đọc, nói và viết theo âm của dân tộc khác tôi cho là dễ thôi. Theo tôi, ta cần đưa âm vị mới vào âm vị Việt Nam để ghi cho tốt. Cho tiếng ngoại hội nhập vô tiếng Việt thì tiếng địa phương của Việt Nam không cần cấm sử dụng nghĩa là các tác giả viết sách không bắt buộc phải dùng từ quấc gia. Đành rằng người ngoại quấc học tiếng Việt thì họ học tiếng quấc gia nên khi nói chuyện hay viết cho người nước ngoài đọc, ta cần dùng từ quấc gia. Nếu nói rằng người nước ngoài cũng đọc sách Việt thì đó là những tác phẩm hay, nổi tiếng. Khi tìm hiểu một tác phẩm hay của nước khác, độc giả cũng cần hiểu rộng về tiếng nước đó mà thẩm âm để cảm nhận. Nếu cần, ta giải thích một số từ địa phương đính kèm. Trên phương diện quấc gia, một nước cần có vài tờ báo có độc giả đông phải viết bằng tiếng quấc gia thôi. Ngoài ra thì tùy. Dân miền Nam từ Mỹ Tho trở xuống có từ địa phương “ÊN”. Tôi làm ên nghĩa là tôi làm một mình. Nói như vậy nó rút ngắn được một tiếng. Khi làm thơ tôi viết: “Tôi làm ên”, biên tập viên tập thơ nhiều tác giả tự ý sửa thành “Tôi làm nên”. Dù cũng được nhưng không phải là ý của tác giả. Hoặc trong bài thơ mời họa, tôi viết: “Thì có màng chi chuyện đãi bôi”. Một số thi hữu khi họa thì sửa “BÔI” thành “BỒI” và ghi chú rằng tiếng Việt không có từ “BÔI”, tôi sửa “BỒI” giùm anh. Dân Nam bộ nói “Tôi bôi bảng” hay “trịch bôi” là quăng chén làm hiệu. Vậy việc sửa từ của tác giả là không nên. Tóm lại, trong chánh tả Việt ngữ, cấu trúc đã ổn định rồi, ta cứ giữ nguyên. Ta cho du nhập cách viết, phiên âm không phải tiếng Việt một cách tùy nghi. Cách ghi âm tùy nghi tự phát đó, về sau thấy không được - ta bỏ, được - ta dùng. Có lẽ các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu để viết cho đúng và hay hơn thôi. Trong sáng tác, in sách, không bắt phải dùng từ quấc gia. Khánh Hội, Quận 4 ngày 04-4-2018 PHẠM HIẾU NGHĨA NÓI CHUYỆN SÁCH ĐẸP Có thể nói là từ xưa đến nay chưa bao giờ sách các loại được viết và xuất bản nhiều như bây giờ. Vào nhà sách, số lượng sách được trưng bày làm người yêu sách như tôi hoa cả mắt. Tuy nhiên, sau khi đã hết hoa mắt, tôi cố gắng để tâm tìm một cuốn sách có bản đẹp, bản đặc biệt. Thì ra còn khó hơn cả mò kim đáy biển Nhân tiết xuân, tôi xin được phép trình bày một vài hiểu biết nho nhỏ về các bản sách đẹp, các bản sách đặc biệt. Trong mỗi lần xuất bản, việc các tác giả và nhà xuất bản hợp tác làm một số bản đẹp và đặc biệt là một điều rất phổ biến từ lâu ở nước ngoài. Tuy nhiên, là người Việt, tôi xin được phép viết về người mình trước đã. Khoảng năm 1930 tới 1945, thời mà những người yêu sách gọi là thời tiền chiến thì các bản đẹp và đặc biệt rất phổ biến. Xin được phép đưa ra hai thí dụ: trước nhất là cuốn Đàn bà mới, kịch ba hồi của tác giả Vũ Đình Long (chủ nhân Nhà in Tân Dân) xuất bản hồi năm 1944 và kế đó là cuốn Lều chõng của tác giả Ngô Tất Tố do Nhà xuất bản Mai Lĩnh cho ra đời ngày 15-11-1941.
Cuốn Đàn bà mới của tác giả Vũ Đình Long có dành nguyên trang 137 trong sách để nói về “Các bản Đàn bà mới”. Đọc trang sách này ta thấy rằng tác giả đã để riêng ra ba bản coi như “không có thứ hạng” và “không bán” để đề các chữ tắt của chính tên mình (tên tác giả) và tên hai người thân nào khác (có thể là vợ hoặc con, hay chí ít là những người bạn thân tình nhất). Kế đó là những bản gọi là bản in “trên giấy lụa dó thượng hảo hạng” và có đánh số La Mã từ 1 đến 20, mà tác giả không bán và chắc chỉ để tặng cho các bạn bè quan trọng nhất. Kế đó là những bản cũng đánh số La Mã nối tiếp vào 20 bản đã kể trên từ số XXI (21) tới số L (50) và 30 cuốn này được đem bán với giá 50$00 (vào thời điểm năm 1944, ai cũng biết đó là một số tiền không nhỏ). Một điều đáng chú ý là các bản bán với giá 50$00 này đều có mang chữ ký của tác giả. Kế đó là còn một loại nữa cũng được in hai màu mực trên giấy trắng “nghệ thuật” thượng hảo hạng được bán ra với giá 5$00 (bằng 1/10 bản có đánh số La Mã và có chữ ký tác giả). Sau chót mới tới bản dành cho quảng đại quần chúng in một màu mực cũng trên loại giấy trên, nhưng giá bán ra chỉ là 2$00 (1/25 của bản đánh số La Mã và có chữ ký). Với cách thức phân chia sắp hạng như vậy, người ta dễ dàng nhận thấy sự quý giá và mức độ tình cảm của tác giả dành cho những người được tặng những cuốn loại không bán là to lớn chừng nào, còn với những người được tặng thì đương nhiên những cuốn sách đó là vô giá. Còn đối với những người chơi sách, yêu quý sách thì việc bỏ ra một số tiền gấp 25 lần giá một cuốn thường đủ biết những con người may mắn đó yêu quý cuốn sách của mình biết chừng nào. Bản tôi hiện có trong tay là một bản mà ông Vũ Đình Long tặng ông bà Nguyễn Khánh Đàm, chủ nhà sách thời danh ở đường Sabourain thuở nào, nhà sách đầu tiên tổ chức một cuộc triển lãm sách thật tuyệt vời. Bản này có lời đề tặng và chữ ký của ông Vũ Đình Long, khi ông đang ở Mục Xá để tránh bom đạn.
Cuốn Lều chõng của cụ Ngô Tất Tố do nhà Mai Lĩnh xuất bản năm 1941, in 3.000 cuốn giấy bản thường và 273 cuốn thuần dó (vì thuần dó nên nó dày độ 9 phân, nghĩa là dày gấp đôi mọi bản thường). Bản số 234 có mang chữ ký rất đẹp của cụ đồ Tố và chữ ký của chủ nhân Nhà xuất bản Mai Lĩnh. (Xem hình bên trang 65) Bây giờ tôi xin được phép nói qua về vấn đề bản đẹp, sách đẹp ở các nước, đặc biệt là ở Pháp. Khi làm các bản đẹp, các tác giả Pháp cũng ghi rõ là bản đẹp, cũng ký tên và cũng đề tặng. Và tùy theo nhân vật được tặng là ai, tác giả thuộc loại tác giả nào, nhất là cuốn sách được minh họa bởi họa sĩ nào, cũng như được đóng bởi nghệ nhân đóng sách nào mà giá tiền bán ra ngày nay có thể không ít hơn một gia tài nhỏ. Ở Pháp có một số nghệ nhân đóng sách được gọi là “nghệ sĩ” và các tác phẩm của họ (chỉ nói về cái bìa không) cũng có giá hàng trăm ngàn quan, chứ chưa kể đến nội dung cuốn sách và những minh họa trong sách được thực hiện bởi các danh họa. Là một trong số những người chơi sách khá hiếm hoi ở nước ta, điều ước mong duy nhất của tôi trong những ngày xuân này là mong sao trong tương lai gần các sách nghiêm túc khi được xuất bản sẽ có những bản sách đẹp, những bản đặc biệt. VŨ ANH TUẤN
Phụ Bản II NGẪM CHUYỆN BÚT TRE NGÔ MINH Tôi đến Phú Thọ hai lần, lần nào cũng nghe kể chuyện Bút Tre, nghe đọc thơ Bút Tre. Chuyến đi Đền Hùng tháng Tư năm 2006 vừa rồi, tôi mua được cuốn “Bút Tre - Thơ và giai thoại”(1) do họa sĩ - nhà văn Ngô Quang Nam sưu tầm và giới thiệu. Tôi đọc và thấy có nhiều điều tâm huyết cần suy nghĩ về thơ cũng như văn chương nghệ thuật trong thời đổi mới. Thơ Việt từ khi có chữ viết đến nay đều bắt nguồn từ ca dao dân ca chốn làng quê mà thành, nên chúng ta hay gọi là Thơ Ca. Ca rồi mới đến thơ (tức là từ dân gian đến bác học). Cũng có lối đi “từ bác học” đến dân gian. Ví dụ ca dao hò vè, các lối hát quan họ, ca trù, xẩm, v.v… đa phần là sáng tác của các nhà thơ, các thầy đồ hay chữ, được dân gian hóa mà truyền từ đời này qua đời khác. Có một lối đi từ văn chương bác học đến thơ ca dân gian nhưng vô cùng khác lạ mà lý thú, không giống ai: Đó là lối thơ Bút Tre! Từ nhiều năm nay, nghĩ đến thơ Bút Tre là tôi nghĩ ngay đến một cách chơi thơ tài tử, tài tình, nó là sự cách tân, làm giàu câu thơ Việt. Trong lịch sử thơ ca nước ta có lẽ tôi chưa biết có một nhà thơ nào sáng tạo ra một cấu trúc thơ riêng của mình có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống sinh hoạt xã hội của người Việt như Bút Tre. Thơ Bút Tre sinh ra từ những năm 60 của thế kỷ trước. Chỉ sau đó 5 năm thôi, thơ Bút Tre đã được “nhân bản” thành các dòng thơ hậu Bút Tre khi ông còn sống, như Bút Tre trẻ, Bút Tre non, Bút Tre xanh, Bút Tre Tây… Bây giờ thì dân ta ai cũng thuộc những câu thơ hậu Bút Tre: Anh đi công tác Pley/ Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra; hay Núi Voi trông thật giống con voi/ Có cả đầu đuôi, có cả vòi/ Núi cũng như người hăng sản xuất/ đầu thì trồng sắn, đít trồng khoai… Chắc chắn cuộc sống càng phát triển, thì “dòng thơ” Bút Tre ngày càng sinh sôi. Vậy thơ Bút Tre có phải là thơ không? Dòng thơ đó sinh ra trong hoàn cảnh nào? Và tại sao nó lại được công chúng khắp cả nước truyền tụng, “nối mạng” liên tục như vậy? Nhà “Bút Tre học” Ngô Quang Nam qua cuốn sách đã cho chúng ta hiểu về thơ và giai thoại Bút Tre. Nhưng có thể do bối cảnh ông chưa muốn lý giải kỹ nguyên nhân tại sao lại sinh ra dòng thơ Bút Tre. Đây là một vấn đề xã hội học và lịch sử văn học nghiêm túc cần phải được nghiên cứu thấu đáo. Bài viết này cố gắng lý giải đôi phần câu hỏi tại sao có thơ Bút Tre và thơ Bút Tre đã làm giàu câu thơ Việt như thế nào? Bút Tre không phải như nhiều anh nông dân thông minh biết đặt vè, nói lối mua vui cho bà con khi ruộng đồng cuốc cày vất vả, thường xuất hiện ở nông thôn nước ta bao đời nay. Ngay ở làng Thượng Luật của tôi hiện nay cũng có tới vài ba người như thế. Bút Tre là bút hiệu của ông Đặng Văn Đăng, nguyên Trưởng ty Văn hóa tỉnh Phú Thọ, rồi Vĩnh Phú. Ông sinh năm 1911, tốt nghiệp tú tài tây toàn phần về triết học; là người sử dụng thành thạo hai ngoại ngữ tiếng Pháp và tiếng Anh (đọc tiểu thuyết nguyên bản bằng hai thứ tiếng này). Ông từng viết báo, viết truyện in trên báo Đông Pháp thời Pháp thuộc, ký tên là Lục Y Lang (Chàng trai áo xanh). Sau năm 1945 ông hoạt động ngoại giao, từng làm Bí thư thứ hai Đại sứ quán Việt Nam ở Rumani. Năm 1956 ông là Bí thư của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm. Ông từng có tập thơ “Nhật ký thơ” gồm 398 bài thơ Đường luật, niêm luật rất chỉn chu, v.v… Nghĩa là ông là một người được học hành đến nơi đến chốn, một trí thức “toàn tòng”. Khi làm Trưởng Ty Văn hóa tỉnh, ông là người đề xướng khai mở nhiều vấn đề lớn về văn hóa của đất nước như vấn đề nghiên cứu “Văn hóa Hùng Vương”, phát động phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” sau chuyến đi thăm tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng Bình. Ông chính là người đã có công ghi lại (theo kiểu thơ) để lưu truyền câu nói nổi tiếng của Bác Hồ tại Đền Giếng, khi Bác về thăm Đền Hùng: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Một trí thức như thế không thể làm thứ thơ “ngớ ngẩn”, “ngô nghê, vô bổ” như một số người thời đó đánh giá được! Bút Tre sinh ra ở xã Đồng Lương, huyện Sông Thao, Phú Thọ. Đây là vùng đất có truyền thống văn hóa dân gian rất phong phú. Làng Đồng Lương xưa kia sinh ra nhiều cây sáng tác vè xuất chúng. Có lẽ ông Đặng Văn Đăng cũng là “hậu sinh khả úy” của làng. Sinh thời, ông Đặng Văn Đăng luôn luôn ứng tác thơ ca, vè để phục vụ cuộc sống. Thơ “xuất bản miệng” của Bút Tre nhiều vô kể. Kể cả khi là Trưởng Ty Văn hóa, ký quyết định phân công công tác cho một cán bộ về ngành bảo tàng, ông cũng chua thêm thơ: “Chú về công tác bảo tàng/ cũng là công cuộc cách màng giao cho”. Ông để lại rất nhiều bản thảo các tập thơ viết về Nguyễn Trãi, Nguyễn Quang Bích… Còn thơ xuất bản ông có các tập: “Quê hương Phú Thọ”, “Phú Thọ lớn lên”, “Rừng cọ đồi chè”, “Sông Lô sông Chảy”, “Đồng tâm thắm thịt thắm da”… do Sở Văn hóa Vĩnh Phú xuất bản. Ông viết trường ca tặng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, trường ca về Điện Biên tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp dài hàng trăm câu thơ song thất lục bát. Thơ Bút Tre giản dị, hồn nhiên, ông tự gọi thơ ông là ca vè: “Tre bút ca vè, tre triệu búp/ Tiên phong dẫn xướng gợi đổi mở ” . Nhưng có lẽ thơ Bút Tre nằm giữa thơ và ca, vè, khi thì thơ, khi thì vè, nên nhân dân rất dễ thuộc, dễ nhớ, dễ tiếp nhận và truyền tụng. Viết về Bác Hồ, ông có câu thơ có hình tượng đẹp: “Bác là dòng suối mát tươi/ Tưới đồng khô cạn, tắm đồi nẻ da”. Tôi đọc, thấy thơ Bút Tre chưa phải là thơ hay, thậm chí dưới trung bình, chủ yếu là để cổ động tinh thần sản xuất chiến đấu như thơ nhiều tác giả cùng thời. Ví dụ bài thơ “Cô lái máy cày” có đoạn: Nhịp máy rập rờn, tay em đẩy/ Con kìm cặp mạ nhả từng phen/ Cô đi mạ nở theo chân bước/ Đồng lúa xanh rờn dưới gót sen… Nhưng điều đặc biệt là trong thơ Bút Tre xuất hiện những câu thơ với hình ảnh, cách ngắt câu mạnh bạo, bắt vần rất lạ, rất đắc địa. Chính những câu thơ này làm nên sức sống và sức lan tỏa của thơ Bút Tre. Viết về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có câu: “Anh đi đồng ruộng lắng nghe/ Lúa mừng phân bắc khoai che mảnh vườn”. (“Bút Tre dân gian” mới sửa lại: Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh/ Anh về phân bắc phân xanh đầy đồng”). Thơ tặng cô bán quả vải, ông viết: “Yêu nhau bóc vỏ áo ra/ Trong như ngọc, trắng như ngà em ơi…”. Đặc biệt trong trường ca tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bút Tre có hai câu thơ xuất thần, đột khởi làm nên thương hiệu Bút Tre lưu truyền hậu thế và tạo nên nhiều thế hệ Bút Tre mới sau này. Đó là câu lục bát: Hoan hô đại tướng Võ Nguyên Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về Trong lịch sử thơ lục bát Việt Nam chưa có ai ngắt nhịp 6/8 chia đôi họ tên một người nổi tiếng như thế cả. Cách bắc cầu trong thơ lục bát như thế gây nên tiếng cười sảng khoái và ám ảnh. Vì chưa hiểu “Phong cách thơ Bút Tre”, nên nhiều nhà thơ chuyên nghiệp, nhiều nhà quản lý văn hóa đã cho rằng thơ như thế là thô thiển, văng mạng, là “vô lễ” với Đại tướng, có người còn cho là phản động v.v... Nhưng càng đọc, càng ngẫm, mới thấy với cách ngắt nhịp câu lục bát rất ga-lăng và bạo dạn ấy, Bút Tre đã bắt được cái hồn dân gian Việt với cái chữ “ta” tài tình, làm giàu có thêm cho thơ Việt: “Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về”. “Giáp ta” cũng như Đảng ta, dân ta, nước ta, làng ta v.v… là tự hào vỗ ngực, là thương yêu, chứ không hề hạ thấp hay vô lễ gì cả. Đó chính là chất dân gian hiện đại mà Bút Tre đã phát hiện ra. Hai câu thơ đó đã tạo nên loại thơ “Hoan hô” rất phong phú của hậu Bút Tre: “Hoan hô trung tá Phạm Tuân/ Bay lên vũ trụ một tuần về ngay”; “Hoan hô đồng chí Hà Đăng/ Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa” (Hà Đăng là Tổng cục trưởng Tổng Cục đường sắt lúc ấy); “Hoan hô đồng chí Trần Hoàn/ Lên làm bộ trưởng chiếu toàn phim Tây”… Có người cho rằng “Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên…” là bắt chước “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu. Đúng là Bút Tre có ‘bắt chước” Tố Hữu ở câu lục, nhưng lại tạo ra sự đột biến ở câu bát bằng cách ngắt nhịp “Võ Nguyên/ Giáp ta” làm cho câu lục bát bị gãy, tạo nên tiếng cười khoái cảm, có sức lưu truyền, làm cho dân nhớ về chiến thắng Điện Biên không thua kém thơ các nhà thơ nổi tiếng khác! Ngoài lối ngắt nhịp đột ngột nói trên, trong thơ Bút Tre còn có rất nhiều cách như chặt từ, để lửng từ, lối ép vần, ép thanh, biến thể lục bát, v.v… Đây là những sáng tạo quan trọng trong tu từ và cấu trúc thơ Việt, làm cho câu thơ mang chất uy-mua, chất ngây thơ, rất dân dã mà rất hiện đại. Xin nêu vài ví dụ: Lối nói tắt: Bây giờ đang đứng trưởng ty Bút Tre thơ phú tôi thì có sau (“đứng”, tức giữ chức vụ) Lối ép vận: Chú về công tác bảo tàng Cũng là công việc cách màng giao cho, v.v… Biến thể lục bát: “Đường đời mê mải tham quan/ Để cho tiếng hát cây đàn hơi chơi vơi” (câu bát đã biến thành 9 chữ). Có lẽ từ đó mới xuất hiện lối nói hiện đại của lớp trẻ: hơi bị điệu, hơi bị đẹp, hơi bị say… Lối lửng vần: Viết về một chiến sĩ giữ cầu cho xe qua, Bút Tre nhớ ngay đến câu ngạn ngữ: “Qua sông đấm bòi vào sóng”, nhưng ông lại viết khác đi: Bút Tre chẳng như mọi người/ “Qua sông…” nhớ mãi nụ cười chú em (đọc “nụ cười” nhưng người ta lại nghĩ ngay đến hình ảnh trong câu ngạn ngữ). Cách chọn từ để gieo vần như thế, người đọc sẽ tự tìm lấy những từ “đắt giá” theo đúng vần điệu và ý thích của mình, nhằm gây tiếng cười sảng khoái. Sinh thời mỗi lần ra Huế, nhà thơ Thu Bồn hay đọc một câu thơ mà bạn bè chọc trêu mình theo lối Bút Tre: Thu Vân ngâm thơ Thu Bồn / Thu Bồn cảm động cầm tay Thu Vân v.v… Từ đó “Hậu Bút Tre” sáng tác ra hàng ngàn câu thơ ép vần, bỏ lửng… làm cho cuộc sống thêm vui nhộn. Liên hoan chỉ có nải chuồi / Ra về nhớ mãi cái buổi hôm nay… Thì ra câu thơ Việt, con chữ Việt có nội lực tiềm ẩn rất lớn, nếu ta mạnh dạn cách tân cấu trúc, tu từ, sẽ tạo nên sự khoái cảm thẩm mỹ mới lạ! Những sáng tạo lạ lùng và hiệu quả đó của Bút Tre là nguồn gốc sinh thành Trường phái Bút Tre Việt Nam, mà hàng thế kỷ qua không có nhà văn, nhà thơ lớn nào tạo dựng được! Bút Tre là bút danh ông Đăng tự đặt. Ông viết rằng “Thơ Tố Hữu khêu gợi Bút Tre”. Khi ông đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, có hai câu: “ Nhà nghèo không mực thì son/ Bút tre giấy má nuôi con học hành ”. Ông liền lấy hai chữ Bút Tre làm bút danh của mình. Tại sao lại là Bút Tre? Bút Tre là để đối chọi với Bút sắt. Tại sao phải đối chọi? Vì một thời các nhà thơ “bút sắt” của ta đều làm thơ nghiêm túc quá, ít chất thi sĩ lãng tử. Làm thơ, làm nghệ thuật là “sự chơi” ở đời, mà chẳng ai biết chơi cả. Những “nhà thơ nhà nước” ấy nói năng thưa dạ chỉn chu, thơ văn thì nghiêm như báo cáo, từ chương, không ai dám sáng tạo ra điều gì về hình thức và nội dung ngoài những điều trên dạy, sách dạy. Thậm chí có ai làm khác đi, làm mới đi câu thơ Việt thì lập tức các nhà thơ “bút sắt”, các nhà phê bình xúm nhau lại để “giáo dục”, “uốn nắn” nhằm “lập lại trật tự”. Bút Tre là một ví dụ, ông đã bị chế diễu, dè bỉu, thậm chí có người còn đề nghị kiểm điểm, nghĩa là “Oan như oan Kim Ngọc khoán chui”! Có thể trong thâm tâm, Bút Tre cho rằng làm thơ từ chương, thơ “nghiêm như họp” ấy làm sao mà vào được lòng dân, nên ông quyết “tuyên chiến”, “thách thức” đối với loại thơ “bút sắt” ấy bằng lối tu từ chọc cười tài hoa của mình. Và ông đã thành công ngoài sức tưởng tượng! Có một nhà thơ “bút sắt” đã viết bài in báo ca ngợi Bút Tre: …Gieo vần gãy nửa nhịp câu Giữa dòng bạt mạng ngắt câu ngang phè Mà sao ai cũng thích nghe Cứ nghe là biết Bút Tre là cười Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi Hôm nay còn mãi với đời Bút Tre Sức sống của Bút Tre chính là nhờ sự cách tân câu thơ, chữ thơ Việt! Sinh thời hình như thơ Bút Tre không được tờ báo hay nhà xuất bản nào ở Trung ương in cả, vì người ta cho đó thơ ngô nghê, buồn cười. Vì là Trưởng ty Văn hóa, Đặng Văn Đăng phải tự ký giấy phép để Ty xuất bản thơ của mình, nên những người “bút sắt” không hiểu ông đã lu loa lên rằng: đó là thơ bậy bạ, tự ký tự in như thế nguy hiểm quá, phải kiểm điểm, phải chấn chỉnh. Những lúc đó ông buồn lắm, nên trách đời: “ Thêm bao bịa đặt cá nhân xuyên ” (“xuyên” đây là xuyên tạc - lại nói tắt!). Ông tâm sự: Mở ca vè, dẫn lối ca vè Trớ trêu văn nghệ không thừa nhận Xuyên suốt lòng dân luống đợi chờ Lịch sử quanh co trêu ghẹo mãi Nhân tài bất hạnh lặng im tờ… Nhưng ông nhất quyết không bỏ “lối thơ” mình đã chọn. Sách “ Bút Tre- Thơ và giai thoại ” kể nhiều giai thoại về Bút Tre rất lý thú. Một lần một nhà văn nổi tiếng ở Hà Nội lên Phú Thọ chơi. Sau khi nghe Bút Tre đọc một số bài thơ, nhà văn bảo: “Tôi sẽ nhờ anh Xuân Diệu sửa giùm những bài thơ của anh”. Ông Đăng trả lời ngay: “Thưa anh, anh Xuân Diệu làm “thơ bác học”, tôi “làm vè dân gian”. Anh Xuân Diệu là “ Bút máy”, tôi là Bút Tre, Xuân Diệu chữa thế nào được thơ tôi?”. Một lần khác, các nhà văn Tô Hoài, Nguyễn Văn Bổng, v.v… đi thực tế ở Phú Thọ. Sau khi nghe mọi người đọc một số câu thơ hậu Bút Tre như: “ Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh/ Anh về phân bắc phân xanh đầy chuồng” , “ Con ruồi là giống hiểm nguy/ Một chân của nó rất vi trùng nhiều ”… thì các nhà văn cho rằng phải đính chính trên báo để “giải oan cho Bút Tre”, vì một người trí thức Tây học không thể viết thứ thơ như thế. Khi người cán bộ kể với ông Đăng chuyện này, ông cười bảo: “Đố cậu đính chính nổi. Ai lại dùng thơ văn “bác học” để sửa lại thơ văn dân gian. Người cán bộ hỏi tiếp: “Đã là thơ dân gian sao lại có tên tác giả là Bút Tre hở bác?”. Ông cười bảo: “Đó là thơ dân gian hiện đại”. Rồi ông nói tiếp: “Cậu có biết vì sao các loại kiểu thơ Bút Tre người ta lại thích không?” Ông cán bộ: “Vì những câu thơ hồn nhiên, buồn cười hở bác?”. Ông Đăng mới kết luận: “Ấy đấy, vì thơ văn các cậu “nghiêm như hội nghị” ấy mà lỵ…”. Theo nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn (Phú Thọ), những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ trước, nghĩa là mãi 20 năm sau thơ Bút Tre ra đời, nhà văn Nguyễn Tuân - một bậc thầy về chữ nghĩa - đã nhắc nhở những người lãnh đạo văn nghệ Vĩnh Phú và Hội Nhà văn Việt Nam cần phải nghiên cứu nghiêm túc về hiện tượng thơ Bút Tre. Có lẽ lúc đó Nguyễn Tuân đã nhận ra sức sống của “Dòng thơ Bút Tre”. Qua những giai thoại trên ta thấy việc tạo ra những câu thơ “giả vờ ngây ngô” gây cười bằng cách xáo trộn cấu trúc câu, vần, chữ… là có chủ đích của Bút Tre. Tôi nghĩ, Bút Tre đã làm ra loại thơ ca gây cười để “trêu” cái thứ văn chương “nghiêm như họp” ấy. Ông cố tình viết như thế và ông tin: “ Năm năm dân dã lắng nghe/ Một Bút Tre thành vạn Bút Tre các làng ”, bởi vì “ Thế sự thăng trầm quân mạc vấn/ Cây đa bến cũ vẫn ngồi nguyên ”. Nghĩa là nền tảng văn hóa dân gian muôn đời, là hồn dân tộc vẫn còn nguyên vẹn trong tâm hồn và thơ ông. Nên “ Mai sau kẻ đoái người hoài, mặc!/ Hạnh phúc hôm nay mát dạ người ”. Bút Tre không mong mai sau có người nhớ mình, nhưng rõ ràng “Thơ Bút Tre” người ta vẫn nhớ, vẫn sinh sôi mãi mãi. Con người cần vui để sống, cần vui cười để lao động, học tập tốt hơn, nên thơ “Hậu Bút Tre” sinh sôi nảy nở. N.M. - ĐỖ THIÊN THƯ st. (1) Nguồn dẫn từ “Bút Tre- Thơ và giai thoại”, Ngô Quang Nam sưu tầm, giới thiệu, NXB Văn Hóa 1994. Có tái bản lần thứ 5, có sửa chữa vào năm 1996. DỪNG LẠI Có những lúc mình bảo nhau dừng lại Không để thôi không để mất không để tàn Chỉ gọi mình một tiếng giữa hoang mang Đi và đến ? Nơi nào là thiên phúc ? Có những lúc ta bảo ta dùng lại Để mà thanh để mà khắc để mà bình Những sóng dồi bồi lở chốn nhân sinh Đừng để chúng kéo - lùa - xô - đẩy Trong cuộc sống rất nhiều khi dừng lại Ít phút thôi mà thẩm thấu an nguy Chân bước tiếp phải lựa đường ngay thẳng Chậm mà tinh đừng trợt té khôn lường Khi dừng lại là nhắc mình trầm tĩnh Giữa xô bồ nong nả bon chen Đâu thật giả đâu tỉnh say hơn thiệt Nhắm mắt lại hít thật sâu thở nhẹ Để biết mình phải bước tiếp ra sao. ĐÀM LAN Không đề Thức trắng trong đêm đen Gieo vần thơ lục bát Sử ca dài năm tháng Tiếp nối trang từng trang Miệt mài cùng con chữ Bốn trăm trang giấy dày Trái tim chợt nhói đau Đôi mắt nhòa tăm tối Sao lòng ta bối rối Tâm trí thật bồi hồi Lật từng trang bản thảo Như sống lại ngày xưa Một mình ta một bóng Lạc vào trong cõi mộng Người xưa của ngày xưa Hiển hiện vào trang giấy... Huỳnh Thiên Kim Bội Bùa Phép Cà phê đắng hay tình cay đắng Đêm nay em thức trắng ngậm ngùi Mộng đã tan làm sao khỏi tiếc Chỉ còn em, nỗi nhớ - Xa người. * Tìm dấu tay anh trong sợi tóc Nhớ nhau ngày ấy mới xuân thì Dáng thơ ngây mắt môi mười sáu Chưa biết buồn cay đắng biệt ly * Cao nguyên đóa Dã Quỳ rét mướt Mưa buồn ủ rũ rớt ngoài sân Anh có thấy em đang đứng khóc Chưa nhìn rõ mặt bóng tình nhân * Anh hững hờ đi vào ngõ khác Vẫn còn vương vấn chút dư hương Từ khi em uống ly bùa phép Bước theo anh dù đã lạc đường… Phạm Thị Minh-Hưng Mơ Bước Tình Xa Con chim bé nhỏ co ro Chiều Thu rũ lá buồn so một mình Tìm ai hỡi chú chim xinh Thu vàng nắng nhạt chuyền cành đợi trông
* Trời cao đất rộng mênh mông Này con Chim nhỏ nắng hồng ở đâu Thu về sắc lá phai màu Tìm đâu thoáng mộng tình sầu xa xôi * Chiều thu gió thổi chơi vơi Sương mờ phủ kín nương đồi quạnh hiu Heo may rụng lá ban chiều Tả tơi cây đã tiêu điều cành khô * Nhớ ai lóng ngóng mong chờ Vàng bay gió cuốn vật vờ nẻo xa Ước mơ một khúc xuân ca Tình xa trở lại bến bờ mộng xưa * Con chim nhỏ hết bơ vơ Bình minh ríu rít tình thơ mặn nồng Thu về nhẹ bước thong dong Yêu Thu, yêu cả lạnh lùng gió thu Phạm Thị Minh-Hưng Gió chuyển mùa thương Con tim nửa tỉnh nửa say Mắt chưa ráo lệ, vòng tay hững hờ Bồi hồi nửa thực nửa mơ Xa nhau vĩnh viễn còn ngờ chiêm bao Nửa cay đắng, nửa ngọt ngào Đường trần muôn lối phương nào cho em Hồn thơ lạc nẻo thâu đêm Tình xưa hấp hối - môi mềm tái tê Trăm năm ấp ủ duyên thề Lòng vương vấn nỗi đam mê tuyệt trần U hoài nghẹn tiếng cố nhân Quên nhau trọn kiếp còn ân hận gì Tình em chẳng có biên thùy Xóa tan dĩ vãng rèm mi ngậm sầu Chuyển mùa gió gọi mưa ngâu Sông Ngân đã lỡ nhịp cầu anh ơi Chia ly, ngăn cách ngàn đời Em ôm kỷ niệm chơi vơi bẽ bàng. NGÀN PHƯƠNG SẦU Cảm hứng qua nhạc phẩm: “Trăng rụng xuống cầu” của cố nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ Nhớ ngày hai đứa mới quen nhau Em ngắm vầng trăng rụng xuống cầu: Đợi buổi xuân về hoa nở rộ Sẽ trao, anh nhé, nụ hôn đầu ! * Tình yêu cách trở mấy quan san Vẫn vững tin dù biết trái ngang Nhạc trỗi êm ru chiều nắng hạ Hoa dâng hương ngát lúc đông tàn * Nhưng rồi hai đứa cách xa nhau Đã mấy mùa trăng rụng xuống cấu Em đi biền biệt, không về nữa Để lại lòng anh : một khối sầu ! * Sầu này biết ngỏ cùng ai nhỉ Hay cất vào tim trái địa cầu ! Chờ đến khi nào ta gặp lại Dìu nhau về chôn hết thương đau ! THANH PHONG NHỚ VỀ EM Nhớ về em, mong em hạnh phúc Nhớ đến em tươi trẻ ngọt ngào Nhớ về em lòng dạ xôn xao Em tự lập tâm hồn trung thực Trái đất xoay tròn biết bao cơn lốc Anh mong em vững bước giữa đời Anh hiểu lòng em mong ước trên đời Là thanh thản bình thường giản dị Cảm ơn em đã cho anh chân lý Cảm ơn em đã cho anh quả ngọt ngào Bông Hồng yêu tươi trẻ biết bao Em hồn nhiên như mùa xuân đến Hãy giữ gìn những niềm thương mến Dù nơi đâu năm tháng bềnh bồng Tình ta biển rộng mênh mông Tàu em tới bến nắng hồng tươi xanh Chúc em đời mãi trong lành Chúc em mạnh khỏe an bình vui tươi Hy sinh cao cả niềm vui Bình yên kỷ niệm cuộc đời nở hoa. PHÙNG CHÍ TÂM SEN HỒNG THƠM NGÁT Dấn thân vào cõi phù sinh Nghĩa nhân đã thấm thế tình đã thông Chen chân giữa chốn bụi hồng Ra công gạn đục khơi trong dòng đời Dù cho xa cách phương trời Vẫn còn hình bóng của người ngày xưa Đinh ninh lòng lại như lòng Tìm về nẻo giác thoát vòng trầm luân Ngày xưa công việc trăm bề Giờ đây chung sức đồng tâm xây đời Dù cho biển cả sóng dồi Dù cho mưa nắng rã rời đôi chân Thương người như thể thương thân Dìu nhau về chốn thiện chân nhiệm mầu Sen hồng khuất bóng ngàn dâu. Hương thơm còn ngát muôn sau chẳng tàn. QUAN THÚY MAI ĐẤT MẸ Có buổi sớm nhẹ đi từng bước Nghe đất Mẹ thở ướt dưới chân Một nguồn sinh lực trào dâng Với tia ánh sáng trong ngần ngày xanh * Đất Mẹ vốn yên lành là thế Nuôi con mình bất kể gian nan Sanh ra thực phẩm chứa chan Bao nhiêu chủng loại lan tràn sẵn luôn * Trên không trung chim muông bay lả Dưới sông sâu tôm cá lội đầy Đồng xanh, lúa thóc, ngô khoai Trong rừng ẩn náu ngàn loài thú hoang * Lòng Mẹ chứa mỏ vàng, mỏ bạc Đủ nhu cầu khoáng chất cần dùng Mẹ nuôi con rất thủy chung Con thì quậy phá lung tung mỏi mòn * Mẹ sinh ra đám con ngỗ nghịch Tranh giành ăn bằng thích đô la Hạch nhân, ô nhiễm kêu ca Cái màn tận thế gần xa ngày nào ? Thanh Châu NHÀN CƯ CẢNH Không là tu viện chẳng non tiên Hoa kiểng điền viên thú toại nguyền Lư thảo ẩn mình, cây rợp bóng Giả sơn phô cảnh, nước non liền Ni khuyên phá chấp, tâm thanh tịnh Sư dạy lìa mê, tánh bản hiền Cay đắng cuộc đời, vay phải trả Nhàn cư tự tại, chốn non tiên. PHƯỚC HẢI CẢNH ĐỘNG ĐÀO Ngao du lạc cảnh động đào tiên Tửu phiến mỹ nhân giũ lụy phiền Vũ khúc thoát y, ngời tuyết bạc Ca ngâm trầm bổng, đất trời nghiêng Vai kề, nhũ cọ, hồn phiêu bạt Thắt đáy, lưng ong, túi sạch tiền Những tưởng du tiên nào hóa mộng Nam Kha tỉnh giấc mất nàng tiên. PHƯỚC HẢI Mạnh thu 2001 NHỚ MẸ Trán Mẹ thấm giọt mồ hôi Thâm sâu những nét cho môi con cười Mười đêm Mẹ thức đủ mười Thương con vẫn một nụ cười bình an Tóc Mẹ điểm trắng thời gian Dầm mưa đội nắng vô vàn vai mang Sớm trưa chăm sóc con thường Dạy lời ăn nói yêu thương đủ đầy Cho con những giấc ngủ say À ơ hôm sớm Mẹ thay quạt nồng Con ôm dòng sữa mát lòng Thức khuya dậy sớm trông con lớn dần Tình thương của bậc Mẹ hiền Nay con khôn lớn đoạn liền đi xa Tuổi đời đã được tám ba Ba* con thương nhớ xót xa vô cùng. QUANG BỈNH * Mẹ có ba (3) người con trai. HỘI NGUYÊN TIÊU (Ngày Thơ Việt Nam) Cờ Thơ rạng chiếu nắng vàng hanh Mở hội Nguyên Tiêu ủ mộng lành Sâu lắng tứ lời thêu cẩm tú Tung bay vần điệu dệt đan thanh Ngâm câu chính khí duyên văn kết Cụng chén tri âm nghĩa bạn dành Trời đất bừng lên hương sắc mới Non sông rực rỡ đẹp tươi xanh. THANH VĨNH NHỊP CẦU THƠ Tương hội tri giao tặng mấy bài Chút duyên hàn mặc góp cùng ai Nối vần thơ cũ quên chiều xuống Thắp sáng tình ta mộng đắm say. THANH VĨNH ANH VÀ TÔI Tặng T. Và anh trở về chốn xa xôi Để lại mình tôi đời đơn côi Thầm kín trong tâm tình lặng lẽ Chờ đến xuân nao mới tái hồi Và anh rời xa như cánh chim Phương trời biền biệt dấu khôn tìm Và tôi vẫn là người em gái Năm tháng dần qua sẽ lắng chìm
Và anh như biển rộng sông dài Dòng đời trôi giạt bóng hình ai Tôi tự đày tôi vào quên lãng Tình thơ rồi cũng chớm phôi phai Và anh mãi là giấc mơ thôi Mà khi sực tỉnh thấy thương đời Một mai anh có dừng viễn xứ Mây trắng lưng trời khuất nẻo tôi.
HOÀI LY (trích THƠ TÌNH MÙA THU) THỰC ĐƠN TRONG NGÀY Sáng điểm tâm tô bún Có ướp tí hàn the Xong uống ly hóa chất Được gọi là cà phê Trưa ghé tiệm cơm bụi Ăn bột nở trộn cơm Lợn siêu nạc kho trứng Trứng nhân tạo vàng ươm Chiều nấu cơm hạt nhựa Với thịt bò “lên đời” Heo tẩm thuốc trung quốc Thành miếng bò đỏ tươi Làm tô canh rau muống Tưới dầu nhớt xanh um Thêm tí cồn pha nước Mặt cũng đỏ bừng bừng Tối bạn rủ đi nhậu Uống hóa chất ủ men Khô mực cao su nướng Vẫn tê tái say mèm Bốn mươi khám tổng quát Bác sỹ cấp văn bằng Ung thư giai đoạn cuối Ra đồng nằm ngắm trăng !!! KIM SƠN st. TÌNH THƠ Lưu dấu mối tình từ Thơ nên Duyên Vợ Chồng Chúng mình gặp gỡ qua Thơ Mộng mơ nhung nhớ đâu ngờ hữu duyên Tuyên hôn gắn kết hai miền Cố đô - Hà Nội đoàn viên kết tình Thế rồi đám cưới linh đình Khách mời tham dự cung nghinh muôn phần Trẻ - Già trang trọng thanh tân Rượu hồng mừng chúc ân cần gởi trao Ý Thơ tình nghĩa đẹp sao Quận 5 - Tân Phú ngọt ngào đắm say Về Nguồn - Võ Vũ thật hay Sen Hồng - Thủ Đức - Xưa Nay đều về Quận 3 - Quận 8 ngộ ghê Giáo chức Thành phố tràn trề yêu thương Bình Thạnh - Phú Nhuận vấn vương Tân Bình - Quận 7 thuận đường thiết tha Bến Nghé - Quận 1 khéo là Quận 10 - Hương Việt chan hòa nghĩa nhân Chúc mừng Tài tử - Giai nhân Trăm năm hạnh phúc Sắc Xuân tuyệt vời. THÙY HƯƠNG - HẢI ÂU 14-01-2018 ƯỚC MONG Nhìn Anh thân thể gầy gò Lại thêm thương tật dày vò nội tâm Đời Anh chưa có tri âm Bao nhiêu khổ lụy tháng năm não lòng Em đây số kiếp long đong Đôi ta gặp gỡ ước mong chung đường Quên đi kiếp phận đau thương Xua tan u uất chán chường trái ngang Lặng thầm nước mắt tuôn tràn Tim đau thổn thức mơ màng mai sau Đôi ta sánh bước bên nhau Giá băng tan chảy… thương đau tạ từ. VŨ THÙY HƯƠNG XÚC CẢM Hôm nay phong cảnh hữu tình Muôn hoa khoe sắc cung nghinh gọi mời Thi huynh - Thi tỷ… khắp nơi Về chung chén rượu trao lời yêu thương Âu Hương qua cảnh đoạn trường Từ đây hạnh phúc thiên đường đắm say Âu Hương nhớ mãi hôm nay Nghĩa tình lưu dấu tràn đầy sắc xuân Bao lời bày tỏ tri ân Âu Hương tạc dạ - Nghĩa Nhân trọn đời. HOÀNG HẢI ÂU - VŨ THÙY HƯƠNG PHỐ NÚI MAI XA Rượu cần ai níu cần - say Men tình ai cất mà ngây ngất - tình Về “Xứ sở những con voi Tây Nguyên” Nghe bài ca “Chú voi con…” em hát Rừng ngút ngàn xanh trong ánh mắt Bập bùng bếp lửa nhịp cồng chiêng * Em mời tôi ăn miếng cơm lam Cơm gạo nương rưng rưng gió núi Sả ớt cay hay lòng ai bối rối Muối mặc tình người em gái Bản Đôn * Suối duỗi dài mềm mại những đường cong Con thác đầu nguồn âm vang huyền thoại Sêrêpốc oằn dòng hai nhánh sông Đực Cái Dắt nhau về với sông mẹ Cửu Long * Tay chuyền tay cần rượu lâng lâng Nhịp cầu treo chòng chành níu bước “Nhà sàn dài” một mai hẹn gặp Phố núi xa rồi, tạm biệt nhé cao nguyên ! Tây Nguyên - tháng 8 năm 2003 TRẦN THỊ TỐ NGA
DỄ GÌ… Dễ gì tắt lửa nhớ thương Đã lìa ngó ý còn vương tơ lòng Chỉ như một thoáng hương đồng Mà sao gió đã góp giông bão rồi * Dễ gì giữ được nụ cười Trong mưa nắng giữa đường đời chông gai Chỉ là bóng ngả chiều phai Đủ làm chạnh nhớ khoảng trời vàng thu * Dễ gì chung một chuyến đò Để người dưng bước lên bờ tri âm Dẫu không vằng vặc đêm rằm Mà sao lai láng sông trăng giữa trời ! LÊ NGUYÊN PHÙ VÂN “Nhãn trung phù thế tổng phù vân” (Trong con mắt này, cuộc đời chỉ là mây trôi) (Nguyễn Trãi) Như phù vân, như mây trôi Cuộc đời biến ảo nhẹ nhàng chơi Mắt nhìn dặm thế qua tầng trúc Hỏi hoa, hoa chẳng thốt nên lời. LÊ NGUYÊN 27.6.2007 NHỮNG ÁNH LỬA Đốt hết những cánh thư tình cũ Thành tro tàn những phút ấm êm Dù lãng quên là điều không thể Giữ làm chi, đời đã muộn màng…? Đốt nhang cho mịt mù hương khói Mà nhớ lại những kẻ qua đời: Đã mấy ai một thời tha thiết Và mấy ai từng rất bạc vôi…! Đốt khăn sô cho lòng nhẹ nhõm Để đếm những khuôn mặt trên đường Ngẫm xem còn mấy người yêu mến Mà mỗi ngày nối lại vấn vương…? Đốt nến lên chào mừng sinh nhật Ngày bắt đầu bước thấp bước cao Ngày oe oe chào đời đã mỏi Ngày chạm ly sướng khổ bùi ngùi…! Đốt phong long trừ tà tưởng tượng Đốt luôn niềm tin cậy con người Nhỡ suốt ngày quạnh hiu vắng vẻ Cũng mất luôn thêm một nụ cười…! Đốt lá trầu cho bé thôi khóc Cho mẹ vui, bố cũng an lòng Kẻ chết rồi, chỉ còn hơi lạnh Đành bùi ngùi nhìn… lửa vô nhân ! Đốt thuốc lá cho lòng nặng trĩu Khói bay cao, chót lửa lập lòe Móng ám màu sương khói từng khuya Đời ám khói, chân đi thất thểu… Mỗi nhúm lửa, là một chuyện lòng Sáng vẫn thế, nhưng có vui không Cũng chỉ bởi lòng người thanh thản Hay âu sầu, khóc những ngả nghiêng… LAM TRẦN 07.04.2018 VÔ ĐỀ Tháng ngày hối hả Thoáng chốc đã già Đời người ngắn ngủi Vui gần, buồn xa Ta mượn hiện tượng tư nhiên Để nói về nhân tình thế thái Gửi gấm niềm tâm sự đời thường Mà con người từng trải Vui, buồn, vinh, nhục.
LÊ MINH CHỬ ĐÊM XAY THÓC Đánh giặc anh đi… không trở lại Mình em xay thóc… tối mênh mông Đã xay cả trấu, xay, xay mãi Mây phía đằng Đông vẫn chẳng hồng !... Bắc Ninh, 27-7-2006 VŨ ĐÌNH HUY PADDY HUSKING NIGHT I went to fight the invaders… and didn’t return All alone, in the immense darkness… you’re husking paddy You’ve husked even chaff, and continued husking, husking for ever While clouds in the Eastern direction, still didn’t turn rosy !... Bac Ninh, 27-7-2006 VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN NGÀY RA VIỆN Soi gương, giật bắn: Ông già Nhìn ta chòng chọc, nhìn ta lạ lùng Ta già ? - Không, vẫn trẻ trung Việc nhiều, ta cứ ung dung ta làm. Bệnh viện Ung Bướu Tp. HCM, 25-8-2006 VŨ ĐÌNH HUY THE DAY I LEFT THE HOSPITAL Looking at myself in the mirror, I startled: an old man Looking fixedly and strangely at me Am I old ? - No, I’m always young Facing so many works, I’ll deliberately carry them out. HochiMinh Hump and Tumour Hospital, 25-8-2006 VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN ĐỜI ANH TÌNH EM Đời anh như cây xanh Tình em như nắng lụa Cây không vàng, không úa Dù nắng còn mong manh… Tp. Hồ Chí Minh, 08-9-2006 VŨ ĐÌNH HUY MY LIFE AND YOUR LOVE My Life is like a green tree Your Love is like a silky sunlight A tree that doesn’t turn yellow and fading Although the sunlight is still faint… HochiMinh city, 08-9-2006 VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN
Phụ Bản III CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT NON NƯỚC CAO BẰNG được công nhận là Công viên địa chất toàn cầu ngày 12-4-2018 của UNESCO Công viên Địa chất (CVĐC) Non Nước Cao Bằng nằm ở miền đất địa đầu phía bắc Việt Nam, cách Hà Nội khoảng 300km, diện tích hơn 3000km2, bao gồm 6 huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Trùng Khánh, Hạ Lang, Phục Hòa và một phần diện tích các huyện Hòa An, Nguyên Bình và Thạch An. Đây là nơi sinh sống của 9 dân tộc khác nhau, như Tày, Nùng, H’Mông, Kinh, Dao, Sán Chay…
Bản đồ phân bố di sản trong Công viên địa chất non nước Cao Bằng CVĐC Non Nước Cao Bằng là một miền đất hiếm có, nơi bạn có thể tìm hiểu lịch sử trên 500 triệu năm của Trái Đất qua các dấu tích còn lại ở đây. Các hóa thạch, trầm tích biển, đá núi lửa, khoáng sản,… đặc biệt là các cảnh quan đá vôi, là những minh chứng tuyệt vời cho sự tiến hóa và thay đổi của Trái Đất. Chúng xứng đáng là những di sản địa chất đặc sắc. CVĐC Non Nước Cao Bằng còn chứa đựng nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, đặc biệt là các di tích lịch sử cách mạng, trong đó có Di tích Quốc gia Đặc biệt Pác Bó - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước năm 1941 lãnh đạo phong trào cách mạng sau hơn ba mươi năm bôn ba ở nước ngoài; Di tích Quốc gia Đặc biệt Khu rừng Trần Hưng Đạo - nơi năm 1944 Đại tướng Võ Nguyên Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay. CVĐC Non Nước Cao Bằng cũng nổi tiếng với phong phú các giá trị đa dạng sinh học cùng nhiều hệ sinh thái, giống loài động thực vật đặc hữu. Ba “tuyến đường trải nghiệm” sẽ cho bạn cơ hội khám phá một phần CVĐC cũng như các đối tác của Công viên và người dân bản địa. Từng tuyến đều có thể đi về trong ngày, hoặc lâu hơn nếu có thời gian, và chắc chắn sẽ đem lại cho bạn những trải nghiệm độc đáo, riêng có và không thể nào quên về Công viên Địa chất Non Nước Cao Bằng! Tuyến 1: Khám phá Phía Oắc - Vùng núi của Những đổi thay : Tuyến tham quan “Khám phá Phía Oắc - vùng núi của những đổi thay” theo hướng tây, với các điểm dừng chân như: Di chỉ đại dương cổ, đồn Khai Phắt, Hợp tác xã thêu hoa văn và in sáp ong của người Dao Tiền, mỏ thiếc Tĩnh Túc, vonfram Lũng Mười và Bản Ổ, trang trại cá hồi Phía Đến, đồn điền chè Kolia và trọng tâm là Vườn quốc gia Phía Oắc-Phía Đến và Di tích quốc gia đặc biệt Khu rừng Trần Hưng Đạo, sẽ là một trải nghiệm đặc sắc mà du khách khó có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác ở CVĐC Non nước Cao Bằng. Tuyến 2: Tuyến tham quan “Trở về nguồn cội”: từ Thành phố Cao Bằng ngược lên phía bắc, với các điểm dừng chân như: Đền Dẻ Đoóng, hang Ngườm Bốc, đền Vua Lê, Vườn Đá, Ngườm Slưa, hóa thạch Cúc Đá, cảnh quan karst Kéo Yên, di chỉ hoạt động của đứt gãy Cao Bằng - Tiên Yên và trọng tâm là Khu di tích quốc gia đặc biệt Pác Bó cùng các dấu ấn quãng đời hoạt động cách mạng 1941-1944 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuyến du lịch “Trở về nguồn cội” được thiết kế với thời lượng một ngày có thể là lựa chọn đầu tiên của du khách khi đến với Cao Bằng. Tuyến 3: Trải nghiệm văn hóa bản địa ở xứ sở thần tiên: Tuyến trải nghiệm ở phía Đông này thực sự sẽ là điểm nhấn đối với du khách. Bên cạnh cảnh quan karst trưởng thành và già, du khách sẽ có dịp đến với các làng nghề truyền thống, các lễ hội dân gian, cũng như những món ăn nổi tiếng của người Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ… Cuộc sống dân dã, thanh bình hòa quyện trong khung cảnh trời mây, non nước sẽ khiến du khách muốn trùng lòng xuống, sống chậm lại để thư thả tận hưởng những giây phút thanh thản quý giá, hiếm hoi ở “xứ sở thần tiên”. Ngôi chùa lớn “Phật tích Trúc lâm Bản Giốc” cùng hệ thống nhà hàng, khách sạn-đối tác của CVĐC sẽ góp phần làm giàu thêm kho trải nghiệm của du khách cả về tâm linh lẫn vật chất. “Trải nghiệm những truyền thống văn hóa ở xứ sở thần tiên”, được thiết kế với thời lượng 1-2 ngày, và có thể còn kéo dài hơn tùy theo nhu cầu, chắc chắn nên là một trong những tuyến tham quan “chốt hạ” của du khách. DI TÍCH PẮC BÓ Di tích thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, nằm sát đường biên giới Việt Trung. Pắc Bó có nghĩa là “miệng nguồn”. Tại đây có hang Cốc Bó được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi ở sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài trở về tổ quốc ngày 8/2/1941. Trong hang Cốc Bó có một nhũ đá được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên là Các Mác. Tại đây còn lưu giữ một tấm gỗ là giường nằm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới chân núi trước cửa hang có dòng suối, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên là suối Lê Nin… Cách hang Cốc Bó khoảng 1.000m là lán Khuổi Nậm, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là đảng Cộng sản Việt Nam) tháng 5/1941, quyết định thành lập Mặt trận Việt minh, lập các căn cứ địa cách mạng. Pắc Bó trở thành một địa điểm, di tích thiêng liêng của cách mạng Việt Nam. Với phong cảnh sơn thủy hữu tình, Pắc Bó đã được nhiều du khách đến thăm mỗi khi có dịp đến với Cao Bằng. Nguyễn Ái Quốc ở hang Cốc Bó với bí danh Già Thu. Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc sáng tác thơ về Pác Bó Pác Bó hùng vĩ: “Non xa xa, nước xa xa Nào phải thênh thang mới gọi là Đây suối Lê-nin, kia núi Mác, Hai tay xây dựng một sơn hà.” Tức cảnh Pác Bó: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang, Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng. Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng , Cuộc đời cách mạng thật là sang.” (Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh, NXB Trẻ) Năm 1961, trở lại thăm Pác Bó, Bác làm bài thơ: “Hai mươi năm trước ở hang này, Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây. Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu, Non sông gấm vóc có ngày nay.” Tháng 2-1979, quân xâm lược Trung Quốc đã bắn pháo phá hoại khu di tích Pắc Bó. Sau khi đánh đuổi chúng, nhân dân Cao Bằng đã xây dựng lại và Pác Bó tiếp tục nhận khách tham quan. THÁC BẢN GIỐC Từ thị xã Cao bằng đi tiếp 89km theo tỉnh lộ 206 đến huyện lỵ Trùng Khánh. Thác Bản Giốc cách huyện lỵ Trùng Khánh 26km về phía bắc. Bản Giốc là một thác nước vào loại đẹp nhất ở Việt Nam, nằm ở địa phận xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, trên sông Quây Sơn. Từ xa du khách đã nghe thấy tiếng thác nước đổ ào ào. Từ độ cao trên 30m những khối nước lớn đổ xuống qua nhiều tầng đá vôi. Giữa thác có một mô đá lớn phủ đầy cây đã xẻ dòng sông thành 3 luồng nước nư ba dải lụa trắng. Ngày đêm thác nước cuồn cuộn đổ xuống những tảng đá phẳng làm tung lên màn sương mờ phủ trên cả vùng rộng lớn. Vào những ngày trời nắng, hơi nước bốc lên xuất hiện hình cầu vồng lung linh huyền ảo. Dưới chân thác Bản Giốc là mặt sông rộng, phẳng như gương. Bên kia bờ có cột mốc số 53 phân định biên giới Việt - Trung. Bờ bên này là thảm cỏ, ruộng đồng xanh tốt, lác đác điểm thêm sắc màu của các loại hoa; những đàn tr6au, bò ung dung gặm cỏ làm cho cảnh vật ở đây thật thanh bình. Cách bản Giốc chừng 3km có động Ngườm Ngao dài hơn 2km với ba cửa, là một trong số ít động đẹp vào hàng nhất nhì ở Việt Nam. Thác Bản Giốc đã đi vào nghệ thuật tạo hình với những tác phẩm hội họa và nhiếp ảnh đặc sắc. Cùng với núi, sông và các hang động kỳ thú ở xung quanh, thác Bản Giốc từ lâu đã trở thành một địa chỉ du lịch hấp dẫn nhất ở tỉnh Cao Bằng. Dường như bất kỳ ai hễ rời thác Bản Giốc thì trong lòng cũng liền thầm mong được ngày trở lại với tiên cảnh non bồng này. Cái đẹp ở đây vừa tĩnh vừa động, vừa khiêm tốn dung dị vừa kiêu hãnh ngang tàng. Bên cạnh đó, đến với thác Bản Giốc, du khách còn có dịp thưởng thức một đặc sản có một không hai: cá trầm hương Trùng khánh. Hình thù loài cá nầy rất giống với loài cá thu, nhưng có mùi thơm đặc biệt mà không có loài cá nào có được. Không cần gia vị, đem cá này rán đơn thuần cũng đủ thơm phức. Theo người dân địa phương thì loài cá nầy ăn rễ cây trầm hương mọc rất nhiều ở bên bờ sông. Loài trầm hương ấy cứ đến mùa xuân thì nở hoa đâm chồi nẩy lộc, rễ lan tỏa mạnh xuống vực sông và chỉ có riêng loài cá đặc biệt nầy mới ăn rễ cây trầm hương ấy, nên thịt rất đượm. Đây cũng là khía cạnh thú vị cho những nhà nghiên cứu về thủy động học. Ngoài một danh thắng có giá trị lớn về du lịch, thác Bản Giốc còn tiềm tàng khả năng không nhỏ về thủy điện. Với sức nước của thác, có thể cho phép khai thác hàng vạn kilôwatt điện năng phục vụ sản xuất và đời sống cho dân cư ở đây. HỒ THĂNG HEN Hồ Thăng Hen ở địa phận xã Quốc Toản, huyện Trà Lĩnh, giữa vùng núi non và màu xanh của cây vươn mình trên các vách đá cheo leo soi bóng xuống mặt nước trong, uốn lượn theo lòng lũng mấp mô những mỏ đá ngầm. Đây là một hồ đẹp trong số 36 hồ nằm ở trên núi của Việt Nam, độ cao so với mặt biển hàng nghìn mét. Hồ Thăng Hen có hình thoi chiều rộng chừng 100m, chiều dài 500m, giữa rừng trám trắng, trám đen nhô lên những khối đá tai mèo. Phía đầu nguồn là một cái hang rộng, từ trong hang nguồn nước chảy ra suốt ngày đêm. Vào mùa lũ trong khi các hồ khác nước đỏ lựng thì nước hồ Thăng Hen vẫn luôn trong xanh. Mùa cạn nước sâu chừng 10m. Gần hồ Thăng Hen còn có hồ Thăng Luông, giữa hồ nhô lên một quả núi phong cảnh rất ngoạn mục. BÙI ĐẸP (tổng hợp)
CƠN MƯA GIŨ BỤI Nhìn kìa! Cơn mưa như giận dữ cả loài người hay sao mà nước cứ mấp mé muốn tràn cả vào nhà! Các cửa sổ hé ra để mọi người nhận ra mấy lỗ thoát nước trên nắp cống đã bị cát đá chặn mất. Biết vậy, nhưng chẳng ai muốn làm “đầy tớ” cho người khác! Họ biết thế nào cũng có ai đó khùng khùng ra xoi ngay ấy mà! Quả như thế thật! Như mọi khi, chị Ba Ve Chai khố rách áo ôm cuối xóm lại đội mưa hý hoáy trên cái nắp cống ấy. Giòng nước lại vui vẻ tuôn xuống nơi nó phải đến… Nhưng chị chưa vội về, vì chị biết thế nào bịch rác của nhà ông luật sư Bằng, đám lá cây của nhà bà Long giám đốc cũng trôi đến tranh chỗ, khi bọn đá dăm đã được chị hốt sạch. Chị không nỡ để chúng tuôn xuống cống, vì chị biết chẳng chóng thì chầy, cống sẽ vì thế mà ngập lên những rác là rác, những đá là đá… Mãi đến khi, giòng nước chảy vào lòng cống đã trong veo như giọt sương trên lá, chị mới trở về, và các rèm cửa sổ mới thật sự không còn ai lén vén nhìn ra nữa. Nhưng nào đã xong. Thế nào chị cũng còn phải nghe những lời càu nhàu của chồng con chị. Dù sao thì chị cũng quen rồi! Những tháng ngày lê la trên khắp nẻo đường để lôi về hàng đống nào sắt, nào nhựa…, rồi lại đem ra vựa bán lại để kiếm tiền sinh sống, đã làm cho chị quen cái nết chịu đựng. Chị chưa hề cân gian của ai dù chỉ là một gờ ram giấy, nhưng ánh mắt của những người bán mớ báo cũ vẫn có cái gì nghi kỵ khi nhìn thấy chị, đánh đồng chị với bao kẻ gian dối khác đang nhung nhúc trên mặt đất này. Chị cũng chưa từng xin ai dù chỉ là ly nước lã dọc đường đi, vì chị hiểu con người bây giờ đáng ngờ lắm: Ai lại có thể tin một người nghèo như chị mà cho bước vào nhà, nói gì đến ly nước dù có đáng gì! Chị cũng chưa từng mua chịu ai dù chỉ là ổ bánh mì, vì chị biết, đồng tiền đang làm vua trên cõi đất này, nên tốt hơn hết, có thì ăn, không có thì nhịn… Thật ra, chồng chị cũng là người tử tế. Anh chỉ là một thợ xây quèn. Anh chỉ khác đám đồng nghiệp ở chỗ, anh chưa hề biết đàn đúm nhậu nhẹt mỗi cuối tuần. Anh cũng chưa bao giờ dám đi trễ về sớm, hay cẩu thả trong công việc. Nhờ vậy, mà anh luôn được tín nhiệm, nhưng cũng vì vậy, bạn bè anh không ít lần dè bỉu: - Ê Ba! Mày làm đàn bà được rồi… Anh cũng điên với mấy câu xóc óc kiểu ấy, nhưng anh làm thinh, và tự hào rằng: - Ít ra, tao không “bệnh” như tụi mày… Nhưng thấy vợ cứ như kẻ làm không công cho người khác, anh thấy ức lòng. Nhà lão Bình luật sư là “chuyên gia” ném rác từ lầu 3 xuống hẻm. Có khi bịch rác vỡ tung ra để lền khên rác vương trên lối đi. Có những chị nhà chẳng nghèo đói gì, cũng lấm la lấm lét ra nhặt về mấy cái chai nhựa, hay cái lon bia trống rỗng, rồi tí tởn bán lại cho vợ anh với cặp mắt không rời khỏi mặt cân đồng hồ. Những thứ không thể bán được thì cứ tung tăng trên hẻm, khiến con mắt sáng như đèn pha của chị, lại phải ra lệnh cho đôi tay chăm chỉ của chị hốt, rồi mang về căn nhà nhỏ bé của vợ chồng anh. Ức không cơ chứ. Thì phải quát lên với vợ thôi: - Sao cô… rảnh thế! Cứ làm mọi cho chúng mãi à! Chị nhe hàm răng rất trắng nhìn chồng, hơi lườm lườm một tí: - Thôi đi… anh xã! Hốt đi kẻo có đinh hay miểng chai thì xe anh xẹp lốp, con anh chảy máu chân đấy! Rồi lúc ấy không lẽ anh ra chửi đổng ngoài đường à! Chỉ vì hàm răng ấy mà anh Ba lấy chị, thì cũng tại cái hàm răng ấy lại khiến anh phải im như thóc, rồi… cười! Nhưng lần này thì chẳng đơn giản tí nào. Chị sốt liền mấy ngày khiến anh Ba cuống cuồng. Nhìn anh loay hoay mà thương ghê đi. Đã vậy, anh cứ càm ràm: - Đó, cô thấy chưa! Ai đời lại đứng ngoài mưa cả buổi như vậy để giờ phải chịu tai bay vạ gió! Cô coi, có thằng cha con mẹ nào tới cho cô viên thuốc nào không! Cáu là thế, nhưng anh đã mượn của chủ thầu chút tiền để đưa chị ra bác sĩ. Nào có xa xôi gì: bác sĩ Đơn giữa hẻm ấy mà. Mặc cho chị tiếc tiền, anh lôi chị ra bác Đơn cho bằng được. Vị bác sĩ già không con như chính tên Đơn của ông, áp bàn tay vào trán chị: - À! Sốt rồi đây! Thế là anh Ba giãi bày lý do khiến vợ mình bị cảm lạnh như vậy. Nhìn hai con mắt trố lên của anh, nhìn cái miệng láp xáp của anh, bác Đơn phì cười: - Có gì mà anh phải rối tinh lên thế. Ít viên thuốc là khỏi thôi ấy mà! - Hay bác chích cho vợ con đi! - Chích là chuyện của lũ… xì ke, còn bác không cứ hở ra là chích đâu nhé! - Con có tiền mà! - Ừ! Có tiền thì ráng mua lấy chai bia mà uống, rồi hát hò cho vui cửa vui nhà, chứ bác không chích choác gì ráo! Đã vậy, bác Đơn chả thèm lấy đồng bạc nào, mà còn nói: - Nhờ chị mà nhà tôi không bị nước tràn vào cách nay mấy hôm, vậy mà tôi nỡ lòng lấy tiền của kẻ đã giúp đỡ mình sao. Anh Ba lúng túng: - Ấy, tụi con không xoi cống thì nhà con lãnh trước nhất bác ạ! Nên thật ra, làm vậy là làm cho chính mình chứ có làm cho ai đâu! Chẳng thấy ông bác sĩ nói gì thêm, mà chỉ biết ông lầu bầu gì đó với vợ ông, mà bà bác sĩ vào nhà trong, mặt tươi như gái mười tám đem ra cho chị Ba: - Này, chị đem về pha nước mà uống cho mau khỏe, còn mấy cái này bác cho mấy đứa nhỏ nhé. Đừng có mà cám ơn. Hễ cám ơn thì đừng bao giờ ra đây nữa… Trời! Anh Ba nước mắt lưng tròng kìa! Anh cầm gói cam to tướng mà chẳng nói gì! Không phải vì anh tuân lệnh bà Đơn không được cám ơn, mà thật ra, sự cảm kích đã chặn ngang cổ họng anh, rồi trào ra trên hai con mắt đo đỏ… Anh dắt vợ ra về. Trời sập tối mà lòng anh sáng như lồng lộng ánh mặt trời… Tối hôm sau, vợ chồng bác Đơn vào thăm bệnh nhân của mình trước sự ngỡ ngàng của cả gia đình họ. Vợ chồng anh Ba cùng hai đứa con đang chuẩn bị bữa ăn đơn sơ của mình: một tô canh bí nóng hổi, và đĩa thịt kho trứng… Mấy đứa nhỏ đứng lên: - Con chào ông bà! Anh Ba luống cuống kê thêm hai cái ghế nhựa, chị Ba -xem ra đã khỏe - cũng luống cuống không kém, định bưng mâm cơm đi để tiếp những người khách tử tế. Bác Đơn ngăn lại: - Chị cứ để yên tại chỗ. Rồi nếu còn chén thì mang lên đây 2 cái cùng vài cái đĩa, để cho vợ chồng tôi ăn cơm với chứ. Thật là bất ngờ trước lời đề nghị hiếm có ấy. Nhưng chị Ba như khỏi hẳn bệnh. Nụ cười của chị đẹp hơn bao giờ hết. Anh Ba tự nhiên biến mất như một bóng ma, để rồi trở lại với mấy lon bia và bịch đá. Dĩ nhiên, vì có chủ ý, nên bác Đơn đã mang theo nào giò, nào bê thui, nào…, để bữa cơm chung vui hết chỗ nói. Niềm vui thật giản dị chính nhờ ánh mắt của con người tràn trề tình nghĩa. Giữa họ không là bác sĩ - bệnh nhân! Không là đầu xóm - cuối thôn! Không là trên - dưới! Mà là nhìn nhận giá trị thiêng liêng trong nhau! Chén trà hậu cũng không hề giảm đi tính tự nhiên như gió đang đùa lá ngoài kia: - Thế anh chị cho tôi biết, vì sao lại chịu khó “vác tù và hàng tổng” vậy! Khá là lúng túng, rồi chị Ba cũng với tay lên nóc tủ, lấy xuống quyển sách dày, đựng trong bao da đã có chút sờn: - Một hôm, con lượm được quyển sách này ngay trước cửa, chắc là của ai đánh rơi. Nhưng biết của ai mà tìm trả. Rồi tò mò đọc. Cái rồi thấy thích, hai bác ạ! - A! Quyển Kinh Thánh đây mà! - Dạ! Con nghĩ chắc đây là quà… Chúa cho, vì rõ ràng nhờ nó mà con vỡ lẽ ra rất nhiều điều. Chị khá là ngập ngừng vì đây là lần đầu tiên trên đời, chị nói đến chữ “Chúa” - Thế chị thấy có gì hay trong đó? Chị xòe tay cầm lại quyển sách, rồi như cầm một báu vật, chị nhẹ nhàng mở ra, rồi đọc: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Không hiểu sao, ngày đầu tiên con lại mở đúng vào trang này, rồi câu này, ai đó đã kẻ đậm lên khiến con chú ý. Mà quả thế, con thấy, khi cởi bỏ mọi ý riêng, mọi cái ngạo mạn của mình, thì mọi sự thật là nhẹ nhàng vô cùng. Nên dù có phải nhịn người khác một tí, con thấy chẳng còn là khó với con nữa… Vị Bác Sĩ già trầm ngâm: - Thật là lạ lùng, khi con không có đạo mà con thi hành lời Chúa tốt đến như thế. Còn bác, con có tin không: bác đã quên Chúa từ rất lâu rồi… Mọi người giật mình vì sao ông có thể dùng ai chữ bác - con một cách nhẹ nhàng như vậy… Ông mơ màng: - Chính vì tin Chúa, mà hai bác mãi cầu xin, nhưng Ngài lại không cho đứa con nào. Thế là quên Chúa luôn. Vì các con coi, hai bác lấy nhau từ khi còn trẻ, và đều mạnh khỏe, gia đình đều khá giả. Vậy mà không có lấy được mụn con nào. Bác hiểu là chỉ có Chúa mới làm được việc này… Nhưng xin mãi mà không được, nên bác chán cả Chúa… Mắt ông, cũng như lòng anh Ba tối hôm qua bỗng sáng lên một cách kỳ diệu: - Hôm nay, Chúa lại đến với hai bác. Không phải như thế đâu! Mà chính hai bác lại thấy được Chúa qua việc làm đơn sơ của hai cháu. Chính khi ta nhìn ra rằng ta nhỏ bé, thì ta lại thấy được Chúa Trời trong khắp mọi người. Chính hai cháu đã làm bác thay đổi cách làm, là cứ quên mình đi, ta sẽ thấy ta thật tự do. Ta chỉ còn bị ràng buộc mỗi một thứ thôi, là cố làm đẹp cho đời. Ngẫm nghĩ một lúc, ông hỏi: - Nếu Chúa nhật này, bác mời gia đình con đi lễ, mấy đứa con nghĩ sao… Tám con mắt dò hỏi nhau, rồi bốn cái đầu gục gặc, thúc cho miệng anh Ba khỏi cái ngại ngần sau cuối: - Vậy hai bác dắt tụi con theo nhé! Bà vợ ông bác sĩ, như trẻ lại trong cái giọng trong veo, khi bà đã quá lục tuần: - Xong rồi, bác mời mấy đứa qua nhà bác, ăn mừng… LAM TRẦN BÍ QUYẾT SỐNG THỌ Nobel sinh học: Người sống Thọ không phải do Ăn Uống hay Vận Động, mà do Tâm Lý Cân Bằng Một lý do thật kinh ngạc do Elizabeth H. Blackburn, người đoạt giải Nobel sinh học chỉ ra rằng người sống THỌ hay không, không phải do Ăn Uống hay Vận Động; mà là Tâm Lý Cân Bằng. Giải thưởng Nobel Sinh Học Elizabeth H. Blackburn đã chỉ ra: con người muốn sống trăm tuổi, ăn uống điều độ chiếm 25%, những cái khác chiếm 25%, Tâm Lý Cân Bằng chiếm những 50%! “Áp Lực Hormone” sẽ làm tổn thương cơ thể. Lý giải như thế nào về việc Tâm Lý Ổn Định ảnh hưởng tới 50% tuổi THỌ? Chúng ta nên làm thế nào? Nhà nghiên cứu tâm lý học chỉ ra: Một người nổi giận đùng đùng, áp lực hormone tăng sinh, đủ để giết chết một con chuột. Vì vậy, áp lực hormone, còn gọi là hormone độc tính. Y học hiện đại chỉ ra: ung thư, xơ cứng động mạch, cao huyết áp, loét hệ tiêu hóa, kinh nguyệt không đều, 65-90% triệu chứng có liên quan tới áp lực tâm lý. Vì thế, bệnh này còn gọi là bệnh tâm lý. Nếu con người cả ngày không yên, hay cáu gắt, lo lắng, khiến áp lực hormone luôn ở mức cao, hệ thống miễn dịch sẽ ngăn chặn và tiêu diệt, hệ thống máu huyết hoạt động quá nhiều trong thời gian dài dẫn đến mệt mỏi. Khi vui, não bộ tiết ra hormone hưng phấn. Hormone hưng phấn khiến con người thoải mái, cảm giác vui tươi, toàn thân rơi vào trạng thái tốt, giúp điều tiết các cơ quan trong cơ thể cân bằng, khỏe khoắn. Thế thì, trong cuộc sống, chúng ta nên làm như thế nào mới có thể có được hormone hưng phấn, giảm hormone áp lực? Có mục tiêu rõ ràng, nỗ lực đạt được. Nghiên cứu mới nhất cho rằng, cảm giác đạt mục tiêu càng mạnh càng giúp cơ thể khỏe khoắn. Bởi vì trong cuộc sống, đam mê quyết định tâm thái con người, quyết định trạng thái sống. Người nỗ lực đạt mục tiêu não bộ trong trạng thái thoải mái phát triển, vì thế, thường dùng não bộ sẽ thúc đẩy hoạt động não, đẩy lùi tuổi già. Người trung lão niên sau khi nghỉ hưu có thể đọc sách, khiêu vũ, vẽ vời, giúp não bộ luôn trong trạng thái hoạt động. Giúp đỡ người khác làm niềm vui có tác dụng trị liệu tốt… Nghiên cứu chỉ ra, giúp đỡ người khác về vật chất, có thể giảm tỉ lệ tử vong xuống 42%, giúp người khác ổn định tinh thần, có thể giảm tỉ lệ tử vong dưới 30%. Bởi vì tốt với người khác, hay làm việc thiện, sẽ có cảm giác vui tươi và tự hào, giảm hormone áp lực, thúc đẩy hormone hưng phấn. Chuyên gia tâm lý và tâm thần học nói: duy trì thói quen giúp đỡ người khác là phương pháp phòng và điều trị trầm cảm. Gia đình hòa thuận là bí kíp sống lâu. Hai nhà tâm lý học người Mỹ công bố nghiên cứu trong vòng 20 năm: trong số các nhân tố quyết định tuổi thọ, đứng số 1 là “quan hệ người với người”. Họ cho rằng, quan hệ con người với con người quan trọng hơn rau cỏ hoa quả, việc thường xuyên luyện tập và rèn luyện trong thời gian dài. Liên hệ người với người không chỉ bao gồm bạn bè, còn bao gồm quan hệ gia đình. Vì thế, gia đình hòa thuận, bạn bè tốt là một trong những yếu tố quyết định tuổi thọ con người. Cho đi điều thiện sẽ nhận lại điều thiện. Khi chúng ta cười với người khác, người khác cũng sẽ cười lại với chúng ta. Bất luận là ở cùng bạn bè hay là cùng những ngư ờ i bạn cũ trò chuyện, hãy nhớ luôn giữ nụ cười, cho đi niềm vui. Tinh thần không thoải mái, sẽ dẫn đến bệnh gan. Có người từng làm thực nghiệm này: Sau khi tách nội tạng động vật, giữ nguyên liên kết tĩnh mạch gan và động mạch bụng, tim lập tức co bóp mạnh và tĩnh mạch máu bắt đầu lắng lại, động vật chết từ từ, có thể thấy gan có liên kết chặt chẽ trong việc điều tiết lưu lượng máu. Tinh thần không thoải mái, khi tức giận, sẽ ảnh hưởng tới hoạt động gan, dẫn đến tình trạng khô gan và khô máu ở gan. Không tức giận, không sinh bệnh. Tinh thần là thể năng của con người, nhưng trong cuộc sống bộn bề lo toan, áp lực tinh thần tự nhiên sẽ gia tăng, thế là các áp lực tinh thần sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Hiện nay, thống kê của bộ y tế thế giới, trên 90% bệnh đều có liên quan tới tinh thần. Chỉ cần chúng ta giữ tinh thần thoải mái, thì sẽ không mắc bệnh, không mắc bệnh nghiêm trọng, ít bệnh, muộn mới mắc bệnh. Tâm phải TĨNH, Thân phải ĐỘNG. Dưỡng tâm, an tâm, cải tâm, giữ tinh thần thoải mái, là một cách dưỡng sinh, có thể không được mọi người quan tâm, vì thế mới xuất hiện “những bệnh tiêu hóa khó chữa”, “bệnh viêm cả đời không khỏi”… Tâm Tĩnh thì Thân An, thân an thì khỏe mạnh, tâm an bách bệnh tiêu trừ… Hoạt động có thể sinh dương khí, đả thông âm khí, giúp tuần hoàn máu, cơ thịt phát triển, khoẻ gân cốt. Tâm phải Tĩnh, Thân phải Động, giữ cân bằng, đó là tam đại pháp bảo của bất cứ môn phái dưỡng sinh nào. Thực tế, quyết định tuổi thọ con người không chỉ là ăn uống và vận động, còn là tâm tính vui tươi, tâm thái tích cực cũng vô cùng quan trọng! Đào Minh Diệu Xuân st. MÙA XUÂN CỦA BÉ BÔNG (tiếp theo số 128) Giữa lúc vợ chồng Ngọc Hà đang trò chuyện thì bỗng trong xe có tiếng bắt giọng bài “Nối vòng tay lớn” (Trịnh Công Sơn) rồi tiếp đó là cả đoàn xe cùng hòa giọng theo thành bài hợp ca hùng hồn. Bất giác cả hai Hà và Thu cùng ngưng câu chuyện, bắt nhịp hát theo vui vẻ. Tiếng đồng ca vang lên trong không khí phấn khởi. Xe chạy đến trạm Ông Đồn thì ngừng lại, mời đoàn tạm giải lao dùng điểm tâm nghỉ ngơi khoảng 20 phút, sau đó mới tiếp tục lên đường ra thẳng thành phố Phan Thiết thăm các Trung Tâm Bảo trợ Xã Hội và Nhà Tình Thương theo chương trình dự định. Đường thiên lý dường như còn xa tắp, Ngọc Hà cảm thấy hơi mệt hai mắt như ríu lại. Việt Thu nhìn vợ nói khẽ: “Em mệt rồi đó, hãy nhắm mắt lại, dựa vào anh nghỉ một chút đi”. Hà ngoan ngoãn khép mắt lại, thả lỏng người và nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ tạm thời. Người chồng lặng nhìn vợ đầy vẻ trìu mến, nhẹ đưa tay đỡ lấy đầu nàng dựa vào vai mình, rồi đưa mắt nhìn ra xa con đường trước mặt đang và sẽ đi qua, chợt thấy hiển hiện một bóng dáng thanh xuân yêu kiều của một nàng thiếu nữ, đó là Ngọc Hà ở bờ biển Nha Trang. Mái tóc buông dài tha thướt với bộ áo trắng tinh trên bãi cát vàng, Việt Thu như thấy lại lần đầu tiên gặp Hà trong ánh hoàng hôn ngày ấy. Nàng bước đi thong dong trên bờ cát, đôi mắt mơ màng xa xăm, khi ngang qua chỗ Việt Thu đang ngồi, nhìn thấy Hà, chàng trai trẻ bỗng nghe như trái tim ngưng một nhịp đập, và sau đó lại đập liên hồi như gõ trống, “chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt” nầy biết là mình đã cảm mến người con gái ấy. Nhìn dáng nàng bước đi mà ngẩn ngơ chưa biết làm sao thì từ xa có tiếng gọi lớn: - Ngọc Hà, Ngọc Hà ơi! Người thiếu nữ giật mình quay lại nhìn về phía sau bước vội về phía tiếng gọi thì một chiếc dép dưới chân sút ra vướng trong cát làm nàng lảo đảo té sấp. Việt Thu vội vàng chạy đến đỡ nàng lên, tay phủi vội những mảng cát dính trên quần áo Hà miệng hỏi: - Cô có bị làm sao không? Cô có đau ở đâu không? Cô gái vội gắng đứng lên, mặt đỏ bừng xấu hổ lí nhí đáp: - Dạ, tôi không sao, cám ơn anh. Vừa lúc ấy, một cô gái trạc tuổi Hà đi tới, cất tiếng hỏi: - Hà sao vậy, bác gái bảo mình đi tìm Hà đó; chiều rồi, về thôi để bác trông, nói xong, cô gái quay sang Việt Thu nói: - Cám ơn anh đã giúp Ngọc Hà, giờ chúng tôi xin phép về nhé. Chào anh. Việt Thu gật đầu đáp lời: - Vâng, hai cô về nhé. Miệng nói mà mắt anh chàng cứ đăm đăm nhìn sang Ngọc Hà làm cô gái ngại ngùng quay đầu sang phía khác nhưng cũng nhỏ nhẹ nói cám ơn chàng trai trẻ lần nữa rồi bước nhanh theo nắm tay của cô bạn gái. Việt Thu đứng chôn chân nhìn theo bóng hai người thiếu nữ dần xa khuất mà ngẩn người cho đến khi có người bạn đến vỗ mạnh lên vai nói lớn tiếng, chàng mới như tỉnh mộng. - Này, Việt Thu, sao cứ đứng ngẩn tò te ra thế hả, nhìn gì mà dữ vậy? Người đẹp hay tàu thủy đấy? Chàng trai giật mình quay lại, đáp nhanh: - Ồ, không có gì đâu. Người bạn cười ranh mãnh, trêu chọc: - Ta biết tỏng bạn rồi đấy, đã thấy chàng ra tay giúp mỹ nhân rồi nghe, đừng chối bạn ơi! Việt Thu ngượng ngùng: - Có gì đâu nè, chuyện nhỏ thôi, bạn khéo làm to lên đấy. Anh Thy cười lớn: - Bạn tôi chắc đã phải lòng “người ta” rồi quá! Chàng trai Việt Thu nghe nói như bị trúng tim đen, đỏ mặt vội lấp liếm sang chuyện khác. - Anh Thy thật là… không có gì mà. Thôi chúng ta đi về đi nào. Người bạn của Việt Thu biết ý bạn còn ngại, vội cười xòa khỏa lấp: - Ừ, về thì về. Rồi hai chàng trai cùng quay về nơi trọ trong bóng hoàng hôn của biển Nha Trang, mặt trời chiếu sáng những tia rực rỡ cuối cùng và như lặn dần xuống đáy nước, nhưng dường như tâm hồn của Việt Thu vẫn còn lưu lại theo dấu một nàng con gái yểu điệu đang đi về một nơi nào đó, và chàng đang thầm mong gặp lại. Chiều hôm sau, Việt Thu lại thẩn thơ trên bãi biển nơi đã gặp Ngọc Hà và đưa mắt về hướng nàng đã đi qua và chờ đợi… nhưng cho đến khi tắt nắng chiều vẫn không thấy bóng người hôm trước. Một ngày, rồi hai ngày tiếp sau đó vẫn biệt mù tin tức của người ấy. Việt Thu lại phải trở về Sài Gòn để bổ sung giấy tờ vào làm việc tại Viện Hải Dương nên đành bỏ cuộc. Tuy Thu có nhờ cậy Anh Thy dò tin tức về Ngọc Hà nhưng cũng đành chịu vì bạn chàng không biết mặt Ngọc Hà nên “chàng thổ địa” xứ biển đành thất bại vì Nha Trang cũng rộng lớn lắm theo như Việt Thu nghĩ. Hai tháng trôi qua. Chiều nay Việt Thu lại trở về Nha Trang và đi dạo trên bãi biển đông người. Bỗng từ xa có một dáng người quen quen đang bước chậm rãi trước mặt, mừng rỡ, Việt Thu đi nhanh về phía người ấy, khi đến gần, chàng gọi khẽ: - Cô Ngọc Hà! Nàng thiếu nữ ngước lên thấy chàng mắt sáng lên vẻ vui tươi, thốt lời: - Kìa, anh… Chào anh Việt Thu vội tự giới thiệu: - Tôi là Việt Thu. Nguyễn Việt Thu. Chúng ta lại gặp nhau rồi, cô cho phép tôi được làm quen với cô nhé. Nàng thiếu nữ nghe Thu nói đến đây có vẻ thẹn thùng, e ngại làm sao. Cô đưa mắt nhìn quanh. Trên bãi biển hôm nay sao đông người qua lại thế! Việt Thu chợt nhận thấy mình ngỏ lời đường đột với Ngọc Hà, nên vội vàng nói nhanh: - Xin lỗi cô, tôi mừng vì gặp lại nhau nên nói lời đường đột. Vậy mời cô ghé quán nước gần đây để tôi mời cô ly nước tạ lỗi. Cô nhận lời nghe. Nói xong, Việt Thu quay bước đi trước, làm Ngọc Hà lúng túng không biết tính sao trước chàng trai, đành bước theo Việt Thu băng qua đường vào ngôi nhà hàng nhỏ nằm bên cạnh một khách sạn. Việt Thu đưa nàng vào bàn, kéo ghế cho nàng xong, hỏi ý kiến và gọi phục vụ mang thức uống cho cả hai. Đến lúc nầy Việt Thu vẫn thấy vẻ e thẹn còn đầy trên gương mặt thiếu nữ, nhưng đã “phóng lao thì phải theo lao”, chàng đành đánh liều hỏi tới về bản thân người trong mộng: - Ngọc Hà là người sinh trưởng ở đây phải không? - Dạ, vâng. - Cô còn đi học hay đã đi làm việc rồi? - Em vừa tốt nghiệp Tú tài, nhưng chưa đi làm ở đâu hết. - Tại sao vậy? Cô chưa chọn được việc làm phải không? Đã nộp đơn ở đâu chưa? - Dạ, vì gia đình cho là em còn kém sức khỏe sau thời gian học hành thi cử nên phải tạm nghỉ dưỡng một ít lâu mới tính. - À, ra vậy. Mời cô uống nước đi cho khỏe. Một lúc sau, Ngọc Hà ngập ngừng xin phép ra về. Nhân đó, Việt Thu đưa Ngọc Hà về tận nhà vì không thể để nàng đi một mình trên đường phố lúc trời đang tối dần. Ngọc Hà đi bên anh bằng những bước chân nhẹ nhàng, nàng nhỏ nhẹ đáp lời những câu hỏi của Việt Thu cho đến lúc về đến nhà. Ngôi nhà đơn sơ có giàn hoa giấy màu tím ở cổng nhà nằm cuối con đường Trần Phú, nàng sống với mẹ và cô em gái nhỏ. Đến nơi, người thiếu nữ lại ngập ngừng e lệ từ giã Việt Thu và đánh bạo hên lần sau nếu có gặp lại anh sẽ xin phép mẹ mời vào nhà chơi. Anh mỉm cười tạm biệt và ra về trong niềm vui vì được gặp lại và quen biết Ngọc Hà. (còn tiếp) HOÀI LY
Phụ Bản IV Ngụ ngôn mới CẢO THƠM LẦN GIỞ TRƯỚC ĐÈN… PHÙNG THÀNH CHỦNG Thời cụ Nguyễn Du, mỗi lần Cảo thơm lần giở trước đèn… hẳn là trước ngọn đèn… dầu lạc. Sang hơn thì đốt bạch lạp (nến) chứ dầu hỏa (mà dân gian vẫn thường quen gọi là dầu tây) thì còn lâu. Bởi cụ mất năm 1820 mà mãi đến năm 1858, nghĩa là đúng 38 năm sau, liên quân thực dân Pháp - Tây Ban Nha mới nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà, bắt đầu tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Còn thời của Tiểu Tử bây giờ là thời của nền văn minh công nghiệp, nghĩa là mỗi khi: Cảo thơm lần giở… đã có đèn… điện hẳn hoi, nhưng phải thú thật, đã từ lâu Tiểu Tử coi đó là những bài học luân lý xưa… như trái đất! Vậy mà không hiểu trời xui, đất khiến thế nào, một lần trong cơn Bĩ cực Tiểu Tử bỗng sực nhớ tới một câu thuộc loại kinh điển của cổ nhân: Vạn khoảnh lương điền, thiên kim dụng tử, bất như nhất kinh (nghĩa là: Vạn khoảnh ruộng tốt và nghìn vàng để lại cho con, không bằng để lại một cuốn sách…), Tiểu Tử liền vội vàng mở tráp, lấy đại một cuốn trong số cổ thư của ông cha, hầu tìm một chỗ dựa về tinh thần: Qua cơn bĩ cực (tất sẽ) đến ngày thái lai. Sau khi phủi bỏ lớp bụi thời gian trên tờ bìa bằng giấy cậy, Tiểu Tử đọc được hai chữ Gia ngữ là tên cuốn sách. Lại giở đại một trang kiểu bói Kiều, tình cờ thế nào lại đúng bài luận của người xưa, luận về sự được mất của người làm quan. Đó là đoạn đức Khổng Phu Tử - ông thánh của đạo Nho - hỏi cháu mình là Khổng Miệt: - Từ khi ngươi ra làm quan, được những điều gì, mất những điều gì? Khổng Miệt thưa: - Từ khi cháu ra làm quan chưa được điều gì mà đã mất ba điều: 1. Việc quan bận, không còn thì giờ học tập, vì thế mà học vấn không tấn tới. 2. Bổng lộc ít, không đủ chu cấp cho họ hàng, vì thế mà họ hàng không thân thiết. 3. Công việc nhiều không thể đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà ăn ở với bầu bạn không trọn vẹn. Khổng Tử nghe nói, không bằng lòng. Ngài tìm đến học trò là Bật Tử Tiện. Lại hỏi Bật Tử Tiện những điều như đã hỏi Khổng Miệt. Bật Tử Tiện thưa: - Từ khi trò ra làm quan chưa mất điều gì mà đã được ba điều: 1. Những điều trước học nay đem ra thực hành, vì thế mà học càng rõ. 2. Bổng lộc dù bạc, cũng có thể chu cấp ít nhiều cho họ hàng, vì thế mà họ hàng càng gần. 3.Việc quan tuy bận, song cũng bớt được ít thời giờ đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà bầu bạn càng thân. Khổng Tử nghe xong khen rằng: - Tử Tiện thật là người quân tử. Đọc đến đây, Tiểu Tử bỗng thấy bùi ngùi vì câu chuyện còn nóng… bỏng tính thời sự mà đức Khổng Phu Tử thì… đã ra người thiên cổ! Lại chạnh nhớ đến niềm tâm sự của ông đồ Vũ Đình Liên gửi gắm trong hai câu thơ: Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ?! Còn đang nghĩ ngợi vẩn vơ thì… như một điều linh ứng! Trời đang quang, mây đang tạnh, bỗng đâu Ào ào đổ lộc, rung cây… thấy ngay trước mặt là đức Khổng Phu Tử đang hỏi một vị hưu quan: - Từ khi ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì? Vị hưu quan nét mặt rầu rầu, thở dài mà rằng: - Từ khi tôi ra làm quan chưa được điều gì mà đã mất ba điều: 1. Thuở nhỏ được bố mẹ và thầy cô giáo dạy cho những điều hay lẽ phải: lớn lên đi thoát ly lại được Nhà nước đào tạo, bồi dưỡng để làm cho đúng, cho tốt. Vậy mà khi ra làm quan, học một đằng lại hành một nẻo, vì thế mà học vấn không tấn tới. 2. Con cái cậy thế bố chẳng chịu tu chí học hành; chỉ đàn đúm cờ bạc, rượu chè, hút sách, rồi làm những chuyện bậy bạ, vì thế đâm ra hư hỏng. 3. Khi còn đương chức, đương quyền, bị chữ lợi làm cho mù mắt, không phân biệt được người tốt, kẻ xấu: vì thế từ ngày về hưu không ai đến nhà. Nghe xong, Khổng Tử không nói một lời, rũ áo đứng dậy bỏ đi. Tình cờ gặp ngay vị tân quan. Khổng Tử lặp lại câu hỏi mà trước đó ngài đã hỏi vị hưu quan: - Từ khi ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì? Vị tân quan tươi cười: - Từ khi bản chức ra làm quan chưa mất điều gì mà đã được ba điều: 1. Được phân đất mặt đường; bổng lộc, quà cáp, biếu xén nhiều, vì thế mà có nhà cao, cửa rộng. 2. Con cái học hành lỡ có đứa nào ngu tối, bằng mọi cách, rồi vẫn mỗi năm một lớp. Học xong, ra trường đã có một công việc béo bở dấm sẵn đang chờ; vì thế mà được tiếng là hết lòng với con. 3. Song thân se mình, người đến quà cáp, thăm hỏi chật nhà; song thân nằm xuống người đến chia buồn, phúng viếng không dứt, vì thế mà được tiếng là có hiếu đối với bố mẹ. Nghe đến đây, Khổng Tử chỉ còn biết ngửa mặt lên trời mà rằng: - Hậu sinh khả ố! Hậu sinh khả ố… Tiểu Tử giật mình tỉnh dậy thì ra là một giấc mơ. Cuốn Gia ngữ vẫn nằm lăn lóc bên cạnh… P.T.C. - LỆ NGỌC st.
Xả STRESS ! Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng… không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chất và tâm thần, nên rất cần biết cách “xả” stress trong cuộc sống đầy căng thẳng, âu lo hiện nay. Stress là một phản ứng bảo vệ, khi cơ thể bị một mối đe dọa, mối nguy hiểm xảy đến cho nó. Người ta gọi nó là phản ứng (hay đáp ứng) “chiến đấu hoặc bỏ chạy” (fight or flight response), nghĩa là trong tình huống đó, chỉ có hai cách để chọn lựa: chiến đấu để sinh tồn hoặc bỏ chạy để… sinh tồn! Lúc đó, cơ thể phải huy động toàn lực để đối phó. Não thùy sẽ ra lệnh tiết các kích thích tố cần thiết, nào adrénaline, nào norepinephrine, cortisol… ồ ạt đổ vào máu. Tim đập nhanh để bơm máu về các cơ bắp lớn, phổi hổn hển tăng tốc bơm oxy, đường huyết vọt lên cao nhằm tăng cường khẩn cấp năng lượng, đồng tử mắt nở to để nhìn cho rõ, tai vểnh lên, mũi phồng ra… Tóm lại, mọi thứ đều phải trong tư thế sẵn sàng. Trong lúc các mạch máu lớn chuyển máu đến các bắp cơ thì mạch máu nhỏ ngoại biên co thắt lại, để nếu có bị thương thì máu cũng không bị mất nhiều… Vì thế mà Stress cấp tính có những phản ứng mạnh hơn ta tưởng. Một người đang đứng trước chuồng cọp, thấy cọp sổng chuồng thì… phân, nước tiểu tóe ra mà không hay, tay chân bủn rủn, ngất xỉu. Nguy cơ qua đi, hiểm họa chấm dứt thì mọi thứ lại trở về trật tự cũ. Tim đập chậm lại, hơi thở điều hòa, bắp cơ buông xả. Nếu sự đe dọa không mãnh liệt nhưng cứ dồn dập, hết lớp này tới lớp khác, đến một lúc vượt quá mức chịu đựng gọi là “mất bù” thì sẽ tạo ra những hiệu ứng âm thầm gây tác hại không lường được lên thể chất và tâm thần của ta. Thời đại ngày nay, con người ít có dịp chiến đấu một mất một còn trước thú dữ hay trước “hòn tên mũi đạn” như xưa. Nhưng con người ngày nay lại phải thường xuyên đối đầu với những “hòn tên mũi đạn” còn nguy hiểm hơn, kiểu “bề ngoài thơn thớt nói cười/ bề trong nham hiểm giết người không dao”. Stress vượt qua ngưỡng lúc nào không hay và dẫn tới vô số bệnh tật mà bác sĩ cũng phải bó tay, đành gắn cho những cái tên mơ hồ như “rối loạn chức năng”, “mệt mỏi kinh niên”, “rối loạn thần kinh thực vật”… Đại học Y khoa Harvard ước tính có từ 60% - 90% bệnh nhân (ở Mỹ) tìm đến bác sĩ là do stress. Stress liên quan đến rất nhiều bệnh lý như nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp, tiểu đường, suyễn, đau nhức kinh niên, mất ngủ, dị ứng, nhức đầu, đau thắt lưng, một số bệnh ngoài da, ung thư, tai nạn thương tích, tự tử, trầm cảm, giảm miễn dịch v.v… Tóm lại là rất phức tạp. Bác sĩ nếu không quan tâm đúng mức - đau đâu chữa đó - thì chỉ chữa được triệu chứng bên ngoài còn cái gốc sâu thẳm bên trong là stress vẫn không được giải tỏa, bệnh vẫn cứ luẩn quẩn loanh quanh, chuyển từ “bệnh” này qua “bệnh” khác, và do đó, chất lượng cuộc sống bị giảm sút rõ rệt. Nhiều khi ta tưởng cholesterol xấu tăng cao trong máu là do thức ăn, nhưng không phải, do stress nhiều hơn! Tiểu đường tưởng do ăn nhiều chất ngọt, thực ra do stress nhiều hơn. Ta thấy đời sống càng căng thẳng, bệnh tiểu đường càng phát triển mạnh! Ở nước ta mới mấy năm trước, tiểu đường chỉ lai rai, bây giờ thì… “năm sau cao hơn năm trước”, lan tràn cả ở thành thị lẫn nông thôn! Các nghiên cứu trên thế giới cũng cho thấy vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế, người làm việc ở những khu vực dễ bị sa thải thì chết vi tim mạch, tai biến mạch máu não cao gấp đôi các khu vực khác…! Stress thay đổi từ người này sang người khác. Cùng một sự việc, với người này thì nổi điên lên còn với người kia chỉ là một trò cười, với người này là cả một sự sụp đổ, với người kia là một bài học… Cùng là con ông bà “viên ngoại họ Vương”, cùng “sắm sửa bộ hành chơi xuân, mà Thúy Kiều thì khóc sướt mướt, thở than, nằm mộng, làm mười khúc đoạn trường đầy nước mắt trong khi Thúy Vân ngạc nhiên sao chị mình “kỳ cục” vậy! Hẳn là bên trong Thúy Kiều có cái gì đó khác với Thúy Vân, bởi bên ngoài thì cả hai đều “mười phân vẹn mười” cả. Người dễ bị stress là người thường có tính quá lo lắng, cầu toàn, hay tự chỉ trích, thiếu quyết đoán, hay do dự… Nếu bị thêm sức ép từ bên ngoài thì dễ suy sụp, dễ bị vượt ngưỡng! Nhiều học sinh học giỏi mà thi rớt cho là “học tài thi phận” một phần chính là do stress! Gia đình kỳ vọng nhiều quá, tạo một áp lực vô hình, khiến em không còn là chính mình nữa. Những dấu hiệu sớm để nhận biết stress là có vấn đề về trí nhớ như hay quên, mất định hướng, thường hoang mang… Về cảm xúc thì dễ dao động, bứt rứt, dễ bị kích động, tâm tính bất thường, hay cáu gắt, lúc nào cũng có cảm giác bị tràn ngập, rất khó tìm được sự thư giãn. Trong lúc nghỉ ngơi mà vẫn cứ lo lắng, thậm chí còn lo lắng nhiều hơn! Các triệu chứng về thể chất dễ nhận ra như nhức đầu, đau lưng, rối loạn tiêu hóa, buồn nôn, chóng mặt.. Đặc biệt đau cột sống cổ hay cột sống thắt lưng. Cứ tưởng là loãng xương, là gai cột sống, là thoát vị đĩa đệm gì gì đó, thực ra gốc ở stress. Người bị stress dễ bị bệnh vặt, cảm cúm triền miên vì sức đề kháng giảm sút đáng kể, dễ bị mất ngủ, tức ngực, tim đập nhanh và… dễ nổi mụn, nổi chàm trên da. Không có gì ngạc nhiên vì ở trong phôi thai, não và da vốn cùng xuất phát từ một lá mầm ngoại bì (ectoderme). Não mà bất an thì da cũng nhăn nhúm, nổi mụn, nổi chàm, chữa hoài không khỏi, thoa mỹ phẩm đắt tiền cũng vô ích. Não mà an vui thì da cũng tươi nhuận, hồng hào, sáng láng. Người bị stress còn hay có những hành vi bất thường như tự dưng thèm ăn, ăn hoài, lên cân đột ngột; hoặc bỗng nhiên bỏ ăn, sụt ký đột ngột… Có người còn đi qua đi lại, đi tới đi lui, cắn móng tay, nhai nhóp nhép. Các huấn luyện viện bóng đá, ông nào cũng hay đi qua đi lại, đi tới đi lui, nhai nhóp nhép “sinh-gom” hoặc phì phèo thuốc lá liên tục giữa lúc hai đội bóng vờn nhau trên sân. Họ bị stress. Nhưng đó là một thứ stress cấp, coi căng vậy mà hiền, chóng qua, hết trận đấu là xong, lại bắt tay nhau vui vẻ! Còn cái thứ stress nhai nhóp nhép kiểu “gặm một khối căm hờn trong cũi sắt”… mới là thứ stress nặng, mạn tính, triền miên, sinh đủ thứ chuyện. PHÒNG BỆNH HƠN CHỮA BỆNH. Nguyên tắc là đừng tự đòi hỏi mình phải luôn hoàn hảo, phải luôn luôn đúng! Cũng đừng bao giờ so sánh mình với người khác. Con vịt là con vịt mà con gà là… con gà. Con gà mà dại dột so với con vịt thì sẽ chìm nghỉm trong nước! Lục súc tranh công không thể nào vui đựơc! Một khi đã so sánh thì dù hơn, dù kém, dù ngang bằng cũng đều khổ! Nên tránh những kẻ chuyên “phun” nọc độc! Họ rất sung sướng khi “tiêm” được nọc độc cho kẻ khác. Tránh những kẻ nhỏ mọn, đố kỵ, “đâm bị thóc, thọc bị gạo” Bói ra ma quét nhà ra rác, dị đoan mê tín… làm ta căng thẳng lo lắng vô lối. Một lời nói, một cử chỉ của thầy thuốc cũng có thể gây stress trầm trọng không ngờ. Bác sĩ vừa xem phim X quang vừa lắc lắc cái đầu đủ cho bệnh nhân thót tim, nhưng thực ra chỉ vì bác sĩ mỏi cổ do cả đêm thức coi bóng đá. Bác sĩ chỉ cần “phán” một câu mơ hồ như tim hơi lớn, gan hơi yếu, phổi hơi dơ… đủ cho bệnh nhân sống trong hoang mang ám ảnh dài lâu. Lời nói của bác sĩ không chỉ mang thông tin, mà còn truyền cảm xúc, gây stress, bởi người bệnh luôn ở trong một trạng thái tâm lý rất nhạy cảm khi tiếp xúc với thầy thuốc. CÓ NHIỀU CÁCH “XẢ” STRESS! Nguyên tắc chung là phải làm một cái gì đó cho năng lượng bị dồn nén trong stress có chỗ “xì” ra, thoát ra. Nhậu nhẹt, hút thuốc lá, ma túy… cũng là một cách xả stress, nhưng rõ ràng là có hại, “chạy ô mồ mắc ô mả”! Nhảy múa, ca hát, viết nhật ký, viết blog… là những cách xả stress tốt. Nói chuyện tào lao (tám) cũng là một cách xả stress…, miễn là đừng có “chuyển lửa” từ người này qua người khác! Thực ra, nói ra được với ai đó, một bạn thân thiết, một người có khả năng lắng nghe, một người sẵn sàng làm “thùng rác” cho mình thì mình sẽ cảm thấy nhẹ gánh! Không có bạn bè để tâm sự thì có thể tâm sự cùng tượng đá. Trải lòng ra một lúc, tượng đá cũng xiêu. “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” là vậy! “Chửi chó mắng mèo”, “Giận cá chém thớt” cũng được. Đập bể mấy cái ly cái dĩa… cũng hay! Có điều nên chọn trước một ít ly tách, chén dĩa mẻ, để dành sẵn, khi nào cần thì đập nghe vừa rôm rã vừa đỡ tốn kém! Ta vẫn thường nói “xả xú bắp”, “xả hơi” đó thôi… Tóm lại, đừng có ngồi đó mà gậm nhấm, suy nghĩ vẩn vơ. Giặt đồ, nấu ăn, rửa chén, lau nhà gì cũng tốt. Chạy bộ, đánh đấm, la hét, khóc lóc… cũng được. Đọc sách, xem phim càng hay, miễn là biết chọn phim, chọn sách! Thấy người chồng trằn trọc mãi không ngủ được, lăn qua lộn lại cả đêm, người vợ hỏi có chuyện gì vậy anh? “Anh mắc nợ anh John hàng xóm một số tiền, hẹn ngày mai trả mà không có một xu dính túi!”. Người chồng đau khổ nói. Lập tức bà vợ tung mền dậy, chạy ra bờ rào gọi với sang nhà hàng xóm: “Anh John ơi, ngày mai chồng tôi chưa có tiền trả cho anh đâu nhé!”. Xong, bà quay vào bảo chồng: “Anh yên tâm ngủ đi, bây giờ là lúc để cho anh John trằn trọc”. Cô vợ đã rất thông minh! Cô đã “chuyển lửa” từ chồng mình sang… chồng hàng xóm. Chắc chắn anh John sẽ trằn trọc cho tới sáng, còn ông chồng cô sẽ ngủ ngon! “Chuyển” như vậy vẫn chỉ là ở bên ngoài. Chuyển bên trong hay hơn. Chuyện xưa kể bà mẹ già có hai cô con gái, một cô bán dù, một cô bán giày vải. Cô bán dù sống nhờ những ngày mưa, cô bán giày làm ăn khá nhờ những ngày nắng ấm. Bà mẹ lo buồn cho cô bán giày suốt những ngày mưa và đau khổ cho cô bán dù ngày nắng ráo. Có người biết chuyện khuyên bà sao không làm ngược lại, mừng cho cô bán dù ngày mưa và mừng cho cô bán giày ngày nắng? Não ta có một đặc điểm lý thú là không thể cùng lúc nghĩ tới hai việc. Đã nghĩ điều này thì quên điều kia. Và người ta đã “lợi dụng” đặc điểm này để dịch chuyển các điểm tập trung trên võ não từ vùng này sang vùng khác. Chẳng hạn đang giận sôi lên thì… xảy ra động đất hay cháy nhà, lập tức vùng “giận sôi” của vỏ não tắt ngấm để nhường chỗ cho vùng sợ hãi. Ta biết giận dữ hay sợ hãi đều tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Nó có thể làm ta kiệt sức, suy sụp, thở không ra hơi… Có thể chọn cách nào khác chuyển dịch hay hơn, có lợi cho sức khỏe hơn chăng? Có đó! Đó là cách thở sâu, thở bụng, đưa hơi xuống huyệt… đan điền (dưới rún chừng 4 cm). Nó giúp làm cho ta tĩnh tâm lại, nó chuyển dịch vùng căng thẳng ở vỏ não qua vùng êm ái của… cái rún, với điều kiện là phải để tâm quan sát xem cái hơi thở đó nó vào ra lên xuống ra sao. Khi chú tâm vào hơi thở, lắng nghe hơi thở , quan sát nó, dòm ngó nó, nghiền ngẫm nó… thì ta đã đánh “lạc hướng” cảm xúc ta rồi! Vỏ não khi đã tập trung vào hơi thở thì “quên” tập trung vào các chuyện linh tinh khác. Cách đơn giản này có khả năng giải stress rất tốt. Tập luyện đúng mức, não thùy sẽ tiết ra một kích thích tố gọi là endorphine, một thứ á-phiện nội sinh, làm cho dịu nhẹ toàn thân, tạo sự sảng khoái, lâng lâng, mà không gây tác dụng phụ. Thiền, yoga, dưỡng sinh, tài chí, khí công… đều là những cách làm cho thân tâm hợp nhất, làm cho ta quay trở lại với chính mình bằng cách lắng nghe hơi thở của chính mình (có thể kết hợp với động tác hay không cần động tác) đó thôi. Hiện nay các kỹ thuật này ngày càng được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi ở các Trung tâm y khoa lớn trên thế giới để trị liệu các bệnh do stress gây ra, các chứng trầm cảm, tâm thần, lo âu, đau nhức…, kể cả nghiện rượu, thuốc lá, ma túy… một cách rất có hiệu quả. HOÀNG KIM THƯ st. CHUỖI YÊU THƯƠNG Một ông nọ sau khi xưng tội xong về dõng dạc với vợ: - Hôm nay bà phải mua 5 duộc để tôi làm việc đền tội Vợ thắc mắc: - Làm gì có chuyện ấy , mà sức ông chỉ uống được có 1 duộc thôi chứ làm gì mà đến 5 duộc!!! - Ừ thì là việc đền tội mà phải làm thôi, không tin bà hỏi cha xem. Bà vợ tức tốc vào hỏi cha thì mới vỡ lẽ là 5 chục kinh chứ không phải là 5 duộc (5 xị) !!! Kể lại chuyện trên là vì em của một người bạn vừa mới qua đời. Anh em tụ lại tập hát và đề nghị 5 duộc hay 1 duộc, cuối cùng rút lại còn 3 kinh với một bài hát và kinh vực sâu… Đấy, anh em chúng tôi cứ gặp nhau là chỉ cười và huyên thuyên với nhau mãi không dứt. Hôm nay chúng tôi làm chuỗi gồm Vui, Thương và Mừng. Chuỗi vui Gần như theo thường lệ năm nào cha Đa Minh Nguyễn Đình Khanh cũng cho chúng tôi một bữa gặp mặt rất thân tình. Năm nay mừng cha về xứ mới đặc biệt có sự tham gia của Sh Đinh Đoài Hùng từ Mỹ trở về. 10g00 chúng tôi đã có mặt tại giáo xứ Trung Nghĩa và cứ thế những anh em khác lục tục kéo đến người đi bằng xe bus kẻ đi bằng xe hơi, người từ Sài Gòn, người từ Long Khánh tới nơi tay bắt mặt mừng. Tất cả cùng chung vui với người bạn của mình với người thầy hướng dẫn ngày xưa đã trên 30 nay mới gặp lại, niềm vui cứ thế nhân đôi và cùng nhau ghi lại những tấm hình kỷ niệm. Trong khi chờ đợi bữa cơm thân mật chúng tôi cùng tập hát 1 bài ca sinh hoạt và 1 bài ca ca tụng Chúa. Đến bữa cơm thì lại càng rôm rả hơn với đặc sản chính hiệu của dân Hố Nai nhưng mà nào có mà ăn được, ai ai cũng thi nhau kể lại những kỷ niệm xưa hoặc tra tấn Sh. Hùng về những ngày làm nhiệm vụ của cha bề trên giao phó… tiệc rồi cũng đến lúc chia tay chúng tôi bước qua chuỗi kế tiếp. Chuỗi thương Chia sẻ cùng anh Nguyễn Viết Hiệt sự mất mát của gia đình anh - 4 anh em trai nay chỉ còn lại mình anh Hiệt - Em anh Hiệt, Anh Nguyễn Viết Thanh ra đi khi 58 tuổi. Chúng tôi được cha Khanh đến đọc kinh nguyện và ban phép lành. Thật cảm động khi anh em cùng hát bài Kinh Hòa Bình. Nhớ lại xưa kia cứ 5g30 sáng mọi người cùng cất lên trong tình yêu của Chúa và tiếng ca cùng kết thúc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi thần linh thánh ái xin mở rộng lòng con xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí. Ơn An Bình”. Anh Hiệt rất tiếc khi bao nhiêu lâu mới gặp một lần nhưng vì sự đau thương xin cáo lỗi cùng anh em không chung vui được. Đôi lại hàn huyên một lúc mới lại chia tay được để cùng đến chuỗi thứ 3. Chuỗi mừng Cho dù mệt nhọc sau bữa ăn, trên con đường tìm nhà đám chúng tôi vẫn ghé Anh Xuyên, mừng người bạn nay đã có người con dâng mình cho Chúa trong Đại chủng viện Thánh Giuse. Thật hạnh phúc thay và nhân dịp này anh em cùng nhau bàn luận về những sinh hoạt tương lai của Cựu Nhà Chúa… Ra về mỗi người một nẻo nhưng trong tâm tư ai cũng hân hoan vì nghĩ rằng tình bạn của chúng ta tuy xa bao nhiêu năm đấy nhưng giờ gặp lại anh em vẫn một lòng trung thành với đức tin của mình, vẫn hăng say hoạt động trong việc Nhà Chúa tùy theo chức phận của mỗi người và hứa hẹn gặp nhau đầy đủ hơn trong những dịp kế tiếp.
HÀ MẠNH ĐOÀN
BẠN BÈ Vừa tọt vào cửa sau của gian bếp Thanh đã nghe cô bếp trưởng tóe lên: - Nhanh lên một chút đi mới vô làm mà hay đi trễ vậy coi chừng bị đuổi đó. - Dạ dạ con xong liền đây tại cái xe đạp của con bị đứt xích cô ạ. Vừa thay vội cái áo trong nhà tắm Thanh vừa phân trần: - Tui không c ầ n biết lý do làm chi chủ hỏi tới thì tui không có bao che được cho đâu. - Dạ mai con ráng đến đúng giờ bê cái gì đây hả cô? - Đó hai dĩa tôm cho bàn số 11 nhanh đi họ hối nãy giờ rồi. Con Hiền đâu đi tô gà hầm cho bàn số 3 nè. - Cho ly trà đá em ơi… đây thêm mấy chai bia lẹ lên coi… dọn cái bàn này đi nè Thanh… Cứ thế chỗ gọi món chỗ dọn bàn đôi chân của Thanh như không bén đất. Đã qua mấy ngày vào làm ở nhà hàng này Thanh đã tạm quen quen với nhịp độ công việc, hai hôm đầu cứ lúng ta lúng túng những tiếng kêu réo sai phái muốn hoa cả mắt ù cả tai chỉ năm tiếng đồng hồ làm con lật đật mà đến tối về đau muốn gãy lưng chỉ bám được cái giường là không biết trời trăng gì nữa. Ráng bắt mình phải quen không quen thì lại rã chân đi xin việc không quen thì lại mặt quắt mắt thô lố vì những con số ám ảnh suốt từ đầu hôm cho đến sớm mai. 500 ngàn đồng một tháng cho việc chạy bàn phụ bếp. Không lớn đối với nhiều người nhưng lại như là một cứu cánh cho những sinh viên làm thêm để kiếm tiền học. Làm gia sư nhàn hơn lương lại cao hơn nhưng chẳng thể nào bói ra được một chỗ nhận dạy kèm cơ bản là quá vượt mức của nhu cầu thực tế rồi đành phải tìm đến cái việc nhọc nhằn hơn vậy. Hôm xin được việc ở đây Thanh mừng đến phát khóc được nhưng mà cái nguy cơ bị mất việc bất cứ lúc nào thì cứ lơ lửng trên đầu. Chỉ cần tuột tay rơi vỡ một món ăn gì của khách thì con số lương sẽ bị ngoảng đi đáng kể. Thế nên cái công việc nói thì nghe rất tầm thường chẳng có gì đáng để vênh vác khoe khoang nhưng lại vận dụng đến sự hoạt động của toàn thân trong một mức độ căng thẳng nhất. Tai phải thính chân phải nhanh mắt phải tinh miệng phải lẹ tay phải khéo và bộ nhớ phải có một sức chứa một độ nhạy để cập nhật thông tin một cách nhanh nhất. Nhiều lúc nhìn những bàn thực khách đứng lên còn thừa mứa biết bao là thức ăn thì Thanh vừa thấy tiếc vừa thấy thương cho mình. Sao ở đâu ra mà họ có lắm tiền đến thế? Lắm đến nỗi những thứ bỏ đi của họ có thể nuôi sống được cả một gia đình nghèo khó. Thanh chợt dậy lên nỗi ước muốn sau này nếu Thanh làm ra được nhiều tiền dứt khoát là sẽ không bao giờ hoang phí vô tội vạ như thế mà cô sẽ góp phần làm vợi đi nỗi cay cực cho một số người. Nghĩ thế rồi Thanh tự cười mình, cái thân mình bây giờ còn lo chưa xong mà đã vội mơ chuyện đường xa thiên lý. Biết đâu đến lúc cuộc sống đã cho cô được hưởng chút ưu đãi cô sẽ chẳng còn nhớ gì đến cái ước muốc cỏn con này thì sao. Rất nhiều người đã từng như thế khi còn vất vả cực nhọc người ta lại dễ dàng động lòng trắc ẩn trước những hoàn cảnh như mình hoặc khổ hơn mình nhưng khi đã thoát khỏi được cảnh ngộ người ta lại trở nên dửng dưng trước những ánh nhìn van vỉ trước những bàn tay lem luốc những gương mặt bơ phờ. Người ta lại có quan điểm sống khác lại nghĩ rằng “mặn này phải bõ nhạt ngày xưa” người ta lại muốn bù đắp cho bản thân những gì đã từng phải chịu sự thiệt thòi những gì mà đã một thời vô cùng thèm khát. Thanh không biết rồi mình có ra người như thế không? Nhưng đó là chuyện của mai sau mai sau ấy sẽ còn lắm điều phải nghĩ trước mắt Thanh chỉ là một cô sinh viên nghèo cầm giấy báo trúng tuyển mà cả nhà nhìn nhau trong môi cười mắt lại ướt. Bố mẹ Thanh chỉ nói một câu ngắn gọn: - Nếu con muốn đi tiếp về phía trước thì chỉ còn mỗi một cách là con tự dọn đường cho mình đi thôi. - Vâng con hiểu điều đó v à xin bố mẹ hãy tin ở con. Không chỉ là lòng tin của bố mẹ mà còn là cả một tương lai dài dằng dặc mà Thanh phải tự quyết định cho mình. Không đi thì sẽ không thể đến thấp chân thì ta bước ngắn cứ đi rồi cũng sẽ có ngày đến. Với một tâm niệm như thế Thanh chuẩn bị cho mình một tư thế đối mặt với những thử thách. Trong cô có một thứ không bao giờ suy giảm đó là “Niềm tin”. - Bữa nào mày cũng về khuya vậy coi chừng lăn ra ốm đó. - Biết làm sao được công việc đòi hỏi thời gian vậy mà. Mày vặn chuông bốn giờ giùm tao chưa? - Rồi còn đợi mày nhắc nữa thì… thôi ngủ đi. Ngả lưng xuống giường là Thanh trĩu mi mắt xuống trong đầu một thoáng lướt cái thời khóa biểu của ngày mai. Để rồi cái thoáng lướt ấy sẽ được thực hành bắt đầu từ bốn giờ sáng. Thanh hơi giật mình ngỡ mình nhìn nhầm người cô nhướng mắt thì thấy rõ Bảo Trân vừa cùng một tốp bạn đi vào họ chọn một bàn trong tiếng nói cười vui vẻ. Thanh vội lánh ra chỗ khác, cô không muốn chường mặt ra trước cô bạn cùng lớp trong tình cảnh này, thầm mong sao mình không bị kêu phục vụ bàn ấy. Tuy là bạn cùng lớp nhưng hầu như không mấy khi tiếp xúc với nhau vì nói nôm na thì Thanh thuộc “xóm nhà lá” còn Trân thì thuộc “xóm nhà gạch”. Chỉ với sự khác biệt của trang phục đã là một phân ranh đáng kể lắm rồi. Nên vô hình chung mà chia thành những nhóm đồng cấp, nếu có lúc nào vô tình ngồi chung thì chủ đề của các câu chuyện hầu như không ăn nhập gì với nhau. Xóm nhà gạch thì nào chuyện quần áo son phấn đám nọ tiệc kia không nữa thì chuyện về những cái đuôi đeo bám suốt dọc đường. Còn xóm nhà lá thường là những chuyện làm thêm thi cử chọn ngành nghề không nữa thì chuyện “quê tao mùa này…” nên nếu phải chạm mặt nhau trong tình huống này thì thật là… - Thanh đâu? Cho cái lẩu này ra bàn cô chủ nè. - Cô chủ? Thanh ngạc nhiên vì không phải là một con số thứ tự nào của các bàn ai là “cô chủ” vậy? - Không biết cô chủ hả? Trời ơi! Làm cả hơn hai tháng nay rồi mà… cái bàn số 4 đó. Thanh giật bắn người bàn của Bảo Trân nhưng ai trong số đó là cô chủ? Ai thì cũng không cần biết cứ đưa ra rồi nhờ người khác đem đến đó cũng được. Thanh bê cái nồi lẩu ra nhưng nép bên cánh cửa chờ cho một người bạn phục vụ khác đi tới: - Nam Nam đưa hộ mình cái này ra bàn số 4 cái. - Mình đang lấy bia cho khách sao Thanh không đem ra luôn? - Để mình lấy bia cho đi giùm đi. Đưa nồi lẩu cho Nam xong Thanh thở phào đi nhanh về phía quầy giải khát. Lúc lâu sau Thanh đang lúi húi trong một góc bếp thì chợt nghe: - Chị Bảy ơi! Chị có thấy anh quản lý đâu không? - Dạ không cô chủ. Cô cần gì đó ạ? - À để nói ổng chuyện này thôi. Sau câu nói ấy là tiếng giày khua xa dần Thanh thở gấp mấy hơi thì ra Trân là con của bà chủ nhà hàng này. Gia đình nhà chủ ở tầng trên họ có cầu thang riêng phía ngoài hơn nữa từ lúc thay áo phục vụ vào cho đến lúc ra khỏi cửa Thanh làm gì có thời gian nghiêng ngó nọ kia. Thế này thì rồi cũng có lúc đụng độ cho mà xem. Thường là vậy cứ cái gì muốn tránh lại dễ bị gặp huống chi là ra vô chung một cái trần nhà thế này. Từ sau phát hiện đó khi lên lớp Thanh lại càng mất tự tin lại càng tăng thêm mặc cảm trước những cô bạn con nhà giàu mặc dù chưa ai biết nhưng Thanh cứ cảm thấy nhột nhạt mỗi khi vô tình chạm phải ánh mắt hay đứng gần chân. Cảm giác này khiến Thanh tự khó chịu cả với chính mình sao lại cứ như một kẻ phạm tội vậy? Mình có làm gì sai đâu? Mình không giàu có thì mình phải đi làm thuê mình kiếm tiền bằng chính sức lao động của mình mà. Sao lại phải xấu hổ chứ? Hay là nghỉ ở đó đi tìm việc khác. Cũng không được qua tháng thứ hai quen việc mình được tăng thêm 100 ngàn tiền lương nữa rồi nghỉ rồi lại rã cẳng đi tìm việc à? Mà làm ở đó thì… Thanh cứ trong tâm trạng bất an nửa ở nửa đi như vậy. Mỗi lúc đến làm việc Thanh lại cứ ngó trước ngó sau. Lạ kỳ thật biết là vô lý mà vẫn không dẹp được cái tâm lý tự ti chết tiệt này. Và rồi cũng trong cái cảnh mắt trước mắt sau đó mà thành ra chuyện. Tiếng người khách ré ầm lên vì một đĩa tôm chiên ụp vào người còn may chưa phải là một món ăn có nước nóng anh quản lý vội vàng chạy tới Thanh đang cuống cuồng lau vết dầu ăn bám trên quần áo khách miệng luôn xin lỗi. Người khách cau có một cách khó chịu cũng phải thôi tự nhiên mà bộ quần áo đẹp bị vấy những vết bẩn khó giặt thì bực mình quá đi chứ. Nhưng là việc lỡ tay chẳng lẽ cứ rầy rà mãi có ích gì cuối cùng rồi cũng dàn xếp xong nhưng nhìn ánh mắt người quản lý Thanh biết mình sắp phải nhận điều gì. Mặc cho Thanh đầm đìa nước mắt nài nỉ một lần độ lượng người quản lý vẫn lạnh lùng đẩp xấp tiền lương về phía Thanh: - Cô đừng nói nhiều chi vô ích ở đây không thể chấp nhận một phục vụ làm phật lòng khách như vậy được. Mất một người khách có nghĩa là sẽ mất thêm nhiều người nữa cô có biết không hả? Có nghĩa không thể có cái gọi là thông cảm trong một sự hạch toán cấp số nhân có nghĩa chỉ một lần sơ sẩy thì sẽ không còn cơ hội nữa và có nghĩa tốt nhất là đừng làm bận mắt người ta thêm nữa. Thanh nghẹn ngào cầm số tiền lủi thủi cúi mặt bước vội ra cửa bất ngờ cô va phải một người đang đi vào. Lí nhí một tiếng xin lỗi Thanh định đi một mạch cho xong chuyện thì… - Thanh… Thanh phải không? Một động tác quay đầu Thanh giật thót mình vội quay ngoắt bước nhanh hơn Bảo Trân chạy theo đuổi kịp Trân hấp tấp hỏi khi thấy Thanh khóc: - Sao vậy Thanh? Ai trong nhà hàng làm gì Thanh hả? Đi đi vào đây nói cho mình biết có chuyện gì. Thanh trì lại Trân cứ kéo áo bạn: - Không không có ai làm gì mình đâu Trân mình không sao mà để mình về thôi. - Không được đây là nhà hàng của nhà mình mà nếu có ai làm không tốt ba má mình đuổi ngay. Vừa nói Trân vừa lôi Thanh trở lại khi đã rõ chuyện Trân trợn mắt nhìn Thanh: - Trời đất! Thanh làm phục vụ ở đây ba tháng rồi sao? Thanh cúi gằm mặt mong mặt đất bỗng nhiên nứt ra. Trân lặng nhìn Thanh một lúc rồi quay qua người quản lý: - Cô ấy là bạn tôi phiền anh xếp cho cô ấy một việc khác phù hợp hơn nhé. - Dạ vâng cô chủ yên tâm tôi mà biết trước là bạn của cô chủ thì đâu có chuyện này. Đến lượt Thanh sửng sốt: - Trân… Bảo Trân… mình không… - Đừng suy nghĩ gì cả chúng ta là bạn bè mà. Sao không nói cho mình biết chứ? Thanh đỏ nhừ hai má vừa thẹn thùng xấu hổ vừa xúc động dạt dào bấy lâu vì sự phân ranh hiển nhiên mà cô không có dịp hiểu nhiều về bạn. Thanh lúng búng: - Mình xin lỗi… - Thôi đi lỗi gì chứ. Bây giờ lên phòng mình chơi cho biết đi. Anh nhớ nhé. Kéo tay Thanh đi Trân còn ngoái lại dặn dò anh quản lý cười rối rít gật đầu nhìn theo hai cô gái rồi thở phì một cái “Chà ai biết đâu họ là Bạn Bè chứ!”. ĐÀM LAN
NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐUỔI THEO VẦNG TRĂNG Đêm nay, biển cũng tràn ngập ánh trăng thu như ngày mẹ rượt đuổi vầng trăng ra phía khơi xa. Chỗ có cây cờ đen phấp phới, nước xoáy như có ai cầm cái dầm khuấy nước cuộn thành vòng xoắn. Bọt biển tung trắng xóa. Cây cờ đen lạnh lùng bay phần phật như lưỡi hái tử thần ẩn sâu đâu đó, báo trước sự chết chóc rình rập... Nắng đổ hối hả lên chóp tháp Hải Đăng, phủ vàng mái nhà lô xô cao thấp phía dưới chân đồi, len lỏi qua kẽ lá, làm cho buổi chiều khô cứng, hầm hập và Thư muốn phát sốt. Thư đưa chiếc máy ảnh hờ hững chụp vài cảnh vật phía xa. Thư như trôi đi trong không gian đầy ắp kỷ niệm. Ký ức tưởng ngủ yên bỗng ào ạt cuồn cuộn quay về. Như con sóng dưới kia làm chòng chành chiếc thuyền chài ai neo bên bến. Thư nhớ lắm ngày xưa. Nhà Thư nằm vắt vẻo ngay khúc quanh lối mòn trên sườn đồi, dẫn đến đỉnh núi có ngọn Hải đăng. Ngôi nhà bé tẹo mà chứa những bốn người và một cái quầy tạp hóa. Đêm. Cả nhà nằm sắp hàng ngủ trên một chiếc chiếu cũ mèm, trải lên nền nhà. Sáng. Mẹ dẹp nó để có chỗ đi lại và bày cái bàn ăn nhỏ. Vách nhà sau là sườn núi. Ba đã ra sức đục đẽo một khoảng bằng phẳng, đủ để mẹ kê bếp lò nấu ăn. Khói bếp chen qua kẽ vách bay lên bầu trời thoáng đãng. Một ít khói bếp lì lợm bám riết vách bếp, nhuộm đen một góc. Mỗi khi trời mưa, nước từ trên núi tràn xuống, dội lên mái nhà những tiếng rền ầm ĩ và cuốn trôi khói bếp dọc vách bếp xuống nền nhà nhớp nháp, bẩn thỉu. Lúc ấy, hàng hóa của mẹ ẩm mốc vì hơi nước. Mọi thứ trở nên ủ dột. Những cái bao bì ny lông phai màu. Còn đường đậu, muối… như có ai rưới vào đấy một lớp nước mỏng mảnh, biến chúng thành nỗi khổ cơm áo của mẹ. Tuổi thơ Thư quẩn quanh trong không gian chật hẹp nhưng mênh mông tình yêu thương của ba mẹ. Những ngày sống tưởng là khắc khoải vì cái ăn, cái mặc, chỗ ở nhưng là khoảng đời đẹp nhất của Thư. Những buổi đến trường phải leo dốc rồi tụt dốc với cái bụng rỗng nhưng hoa lá ven sườn đồi như thức ăn nuôi Thư chóng lớn. Chúng thổi vào hồn Thư cảm xúc dạt dào, nỗi vui thuần khiết, để lại trong trái tim bé nhỏ đầy ắp kỷ niệm và bây giờ đã trở thành tài sản quý báu vô cùng. Mọi thứ kết thúc chóng vánh, tàn nhẫn khi Thư mười ba tuổi. Một chiếc xe khách đã tông vào em trai Thư khi nó đứng sát bên lề nhà. Thằng bé không kịp kêu lên tiếng nào. Thân thể lập tức bị biến dạng thành hình người không có bề dầy. Mẹ gào lên thảm thiết, đánh rơi mớ hàng hóa đang bán xuống nền nhà. Những hạt đậu xanh tung tóe, vương vãi tựa như hy vọng của cuộc sống bị ném tan tác. Hạnh phúc biến khỏi ngôi nhà từ đó. Ba Thư không còn là người đàn ông hiền lành, cần cù, chăm chỉ làm việc, vun vén cuộc sống gia đình. Thời gian của ba bấy giờ dành cho việc la cà ở quán rượu. Ba chỉ trở về khi đêm gần tàn, người ướp nồng nặc hơi men. Ba đánh thức nỗi đau bằng giọng lè nhè cay độc “Con đàn bà thối tha! Có đứa con trai mà giữ cũng không xong, để nó chết thảm như thế. Đồ thối tha!...” hoặc là “Mụ vợ chết tiệt! Cút khỏi mắt tao, đồ ăn hại”. Ba cũng không buông tha Thư: “Đồ vô dụng! Cút hết! Cút hết!...”. Trăm ngàn câu khác nữa ba phun ra như nọc độc ám ảnh, giết chết dần mòn người đàn bà bất hạnh. Đêm đêm, nằm ôm Thư trong lòng, nước mắt mẹ tuôn ướt đầm một mảng tóc Thư, rỏ xuống môi mặn đắng như nước biển ngày trở gió. Mẹ rót vào tai Thư lời thở than đều đều như cầu kinh sám hối: “Lỗi tại mẹ tất cả. Nếu mẹ cương quyết khuyên ba con di dời nhà về khu tái định cư khi chính quyền họp dân yêu cầu giải tỏa khu vực này để làm cho con đường trở nên thông thoáng và tránh nguy hiểm cho người dân. Lỗi tại mẹ! Mẹ không chịu khuyên ba con rằng dù tiền đền bù chưa thỏa đáng nhưng về chỗ ở mới đất rộng hơn và chắc chắn em con không chết thảm. Con ơi! Mẹ nhu nhược quá! Tất cả lỗi tại mẹ!”. Thư sụt sùi khóc theo nhưng lúc ấy chưa hiểu hết những điều mẹ nói. Phải mất một thời gian dài Thư mới nhận ra cuộc sống có quá nhiều điều cay nghiệt khôn lường. Nhưng rồi mẹ Thư cũng chấm dứt nỗi đau của mình trong cơn mê sảng. Đêm đó, trăng tròn vành vạnh, nằm vắt vẻo bên ngọn Hải Đăng tỏa ánh sáng vàng ẽo lên cây cỏ, dát một lớp bạc long lánh lên mặt biển nhấp nhô con sóng nhỏ. Trăng cứ trôi chập chờn. Mẹ cứ đuổi theo vầng trăng thu. Hai bàn tay mẹ đưa ra phía trước, mái tóc búi gọn bị gió hất tung, bay dạt tơi tả sau lưng. Mẹ ngửa mặt hứng lấy dòng sáng huyền hoặc. Ánh trăng dịu dàng cuộn lấy mẹ bằng một làn sáng mỏng mảnh. Bộ đồ bạc màu bỗng chốc lấp lánh như dệt bằng tơ vàng rực rỡ. Mẹ đẹp tuyệt! Thư buột miệng kêu lên. Mẹ không nghe thấy. Bà cứ đuổi theo vầng trăng đến sát mí nước. Trăng tinh nghịch nhích ra xa. Mẹ lấn tới, lấn tới. Nước biển cũng không chịu thua, dâng lên ngang cườm chân mẹ, cao dần lên gối rồi đến tận cổ. Thư hãi hùng gào thét: “Mẹ ơi! Quay lại đi mẹ! Mẹ ơi…”. Nhưng mẹ Thư không còn nghe thấy gì nữa. Hình ảnh cuối cùng mãi mãi dày xéo Thư là mái tóc mẹ trôi nhấp nhô giữa hai bàn tay ngửa ra, từ từ chìm dần giữa đại dương bao la, vô tận. Sau cái chết của mẹ, ba Thư bỏ đi biệt xứ. Bà ngoại và dì Út từ Tp. Hồ Chí Minh ra thu xếp mọi việc rồi mang Thư theo. Thư được ở trong căn phòng trên tầng hai của mẹ ngày xưa. Bà ngoại bảo mọi thứ vẫn còn y nguyên như trước khi mẹ bỏ nhà theo ba. Chiếc tủ gỗ đầy ắp những bộ đồ đẹp của mẹ thuở đó, giờ sực nức mùi long não. Ngoại vẫn giữ chúng với hy vọng mẹ sẽ quay về khi cuộc sống quá quẫn bách. Những quyển sách xỉn màu đứng lặng lẽ trên chiếc kệ nâu đã phủ mờ mờ một lớp bụi thời gian. Trên chiếc bàn học, một tấm lịch bé xíu có in hình mười hai con giáp cách điệu cũng đã úa màu. Cái lọ hoa rỗng. Cạnh đó là tấm ảnh của mẹ đang ôm cặp, mẹ đẹp như một thiên thần áo trắng. Vật làm Thư chú ý nhất là cây đàn guitar treo trên tường. Nó nằm bất động lâu lắm rồi. Vẻ hờn tủi lộ trên những sợi dây đàn. Khi Thư rụt rè bấm nhẹ lên đó. Một âm thanh trầm đục, ngắn ngủn vang lên, xoáy vào lòng Thư và ngoại nỗi đau rất lạ. Bà không đứng vững nữa, phải ngồi xuống chiếc giường xinh xinh, ôm lấy mặt. Còn Thư, Thư đến bên cửa sổ nhìn xuống con đường nhộn nhịp dưới kia mong bắt gặp một tiếng cười để làm giảm đi nỗi buồn canh cánh lòng Thư. Bấy giờ, ngoại và Thư căm giận ba lắm. Ngoại bảo rằng ba đã quên mẹ từng là một tiểu thư danh giá, đã từng là một tay đàn nữ nổi tiếng của trường Đại học. Mẹ xinh đẹp, tài năng. Có biết bao người si mê mẹ. Vậy mà mẹ chọn một gã sinh viên nghèo kiết xác, mồ côi cha mẹ. Ba đã phải bỏ học giữa chừng vì không đủ tiền đóng học phí. Không có tiền để thuê một chỗ trọ cố định, phải trọ nhờ những người bạn cùng khóa. Ba phải làm đủ thứ nghề để có cơm ăn áo mặc. Vậy mà mẹ yêu ba! Mẹ rời bỏ tổ ấm của mình để đi xây một cái tổ trên sườn núi. Cái tổ chênh vênh như cái tổ chim. Gió bão cuộc đời đã vùi dập không thương tiếc. Để bây giờ Thư đau đáu nhớ thương một thời tuổi nhỏ bên mẹ. Dù ngoại và dì Út hết mực yêu thương Thư nhưng Thư vẫn có cảm giác mình đang lớn dần trong một cái lồng son rực rỡ, được bao bọc bằng phương tiện xa hoa. Thư tốt nghiệp Đại học Ngân hàng, có việc làm ổn định. Vậy mà Thư vẫn thèm lắm một ngày được nằm gối đầu lên tay mẹ, úp mặt vào ngực mẹ để tìm lại chút bình yên tuổi nhỏ. Hôm nay, ngày giỗ mẹ, Thư và dì Út về thăm chốn cũ. Mọi thứ đã đổi thay. Ngôi nhà xưa không còn dấu tích như thể chưa từng có trên cõi đời này. Thư buồn lắm! Hai dì cháu trở về khách sạn. Trong lúc dì Út say ngủ, Thư đi ra bờ biển, chỗ có cây cờ đen. Nơi mà ngày xưa tóc mẹ trôi bồng bềnh giữa đôi bàn tay ngửa lên cầu xin tình yêu và hạnh phúc. Đêm nay, biển cũng tràn ngập ánh trăng thu như ngày mẹ rượt đuổi vầng trăng ra phía khơi xa. Chỗ có cây cờ đen phấp phới, nước xoáy như có ai cầm cái dầm khuấy nước cuộn thành vòng xoắn. Bọt biển tung trắng xóa. Cây cờ đen lạnh lùng bay phần phật như lưỡi hái tử thần ẩn sâu đâu đó, báo trước sự chết chóc rình rập. Vậy mà ngày đó mẹ thản nhiên lao ra, mang theo tình yêu hòa vào biển, trải rộng khắp nơi. Thư khom người vốc một bụm nước đưa lên môi. Vị mặn tê đầu lưỡi. Có phải nước mắt mẹ đã làm cho nước biển ra nông nổi? Thư nhớ đến Lam, người Thư yêu say đắm. Anh đã giúp Thư hiểu vì sao mẹ đuổi theo hạnh phúc, dù tình yêu chông chênh, dễ vỡ như những quả bóng bay. Và, trong tình yêu, vật chất mãi mãi chẳng có giá trị gì hết! Bởi Thư cũng yêu một người nghèo. Sẵn sàng rời bỏ cái lồng son rực rỡ để đuổi theo tình yêu. Thư cũng sẵn sàng sống đời khốn khó và sẵn sàng đuổi theo vầng trăng như mẹ, nếu tình yêu tan vỡ… “Cháu à! Chỗ nầy nguy hiểm lắm! Đêm đã khuya. Con gái ở chỗ vắng không tiện đâu. Về đi cháu!”. Thư giật mình quay lại. Một người đàn ông tóc hoa râm, mặc bộ đồng phục người cứu hộ đã đứng cạnh Thư tự lúc nào. Khuôn mặt rất quen! Chính là ba! Vẻ già nua hằn rõ trên những nếp nhăn chằng chịt ở vầng trán, đuôi mắt và đôi môi khô héo. Đôi môi ngày xưa tuôn ra những mũi tên tẩm độc giết chết tình yêu và làm Thư mồ côi mẹ. Nhưng nhìn bộ đồ đồng phục của người cứu hộ khoác trên người ba làm tim Thư nhói buốt. Thư chợt hiểu vì sao ba mặc nó và đêm đêm đi dọc bờ biển để canh giữ sự sống, tình yêu và hạnh phúc của bất kỳ ai đến với biển. Bao nhiêu căm giận bỗng chốc vỡ tan như bọt biển. Thư ngã vào vòng tay mở rộng của người cứu hộ, thầm thì: “Ba ơi!”. Trên cao, vầng trăng ngẩn ngơ nhìn biển đêm hiền hòa lặng sóng. NGUYỄN THỊ MÂY
MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 12.5.2018… ......... Vũ Thư Hữu ... 01 Một bài viết nóng hổi nói về 1 tân quý thư mới có hôm qua ....... Vũ Anh Tuấn ... 05 Có tận thế không? (tt) .......... Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết ... 08 Nghĩ về Đại lễ Vesak ............. Tâm Nguyện ... 14 Buổi sáng (M.Gorki) ................ Thúy Toàn dịch .... 24 Chữ quốc ngữ & hội chứng nhảy cừu (tt) .............. Thiếu Khanh ... 28 Ăn chay! Thi hào Pháp Lamartin ăn chay trường ............ Phạm Vũ ... 36 Những hố chưn trong lòng người ........ Nguyễn Văn Sâm .... 45 Chánh tả Việt ngữ ................ Phạm Hi ếu Nghĩa ... 56 Nói chuyện sách đẹp .............. Vũ Anh Tuấn ... 63 Ngẫm chuyện Bút Tre ................. Đỗ Thiên Thư st. ... 68 Dừng lại (thơ) ................. Đàm Lan ... 77 Không đề (thơ) ................. H uỳnh Thiên Kim Bội .... 78 Bùa phép (thơ) ................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 79 Mơ ước tình xa (thơ) .............. Phạm Thị Minh-Hưng .... 80 Gió chuyển mùa thương (thơ) ................ Ngàn Phương .... 81 Sầu (thơ) ............................. Thanh Phong ... 82 Nhớ về em (thơ) ..................... Phùng Chí Tâm ... 83 Sen hồng thơm ngát (thơ) ............. Quan Thúy Mai .... 84 Đất mẹ (thơ) ................. Thanh Châu .... 85 Nhàn cư cảnh (thơ) ................. Phước Hải .... 86 Cảnh động đào (thơ) ....................... Phước Hải .... 86 Nhớ mẹ (thơ) .......................... Quang Bỉnh .... 87 Hội nguyên tiêu (thơ) .......... Thanh Vĩnh .... 88 Nhịp cầu thơ (thơ) .......... Thanh Vĩnh .... 88 Anh và tôi (thơ) ...................... Hoài Ly .... 89 Thực đơn trong ngày (thơ) ............ Kim Sơn st. ... 90 Tình thơ (thơ) ............ Thùy Hương - Hải Âu ... 91 Ước mong (thơ) .................... Vũ Thùy Hương .... 92 Xúc cảm (thơ) .............. Hải Âu – Thùy Hương .... 92 Phố núi mai xa (thơ) ........... Trần Thị Tố Nga ... 93 Phố núi mai xa (nhạc) ................... Lê Nguyên ... 94 Dễ gì… (thơ) ....................... Lê Nguyên ... 95 Phù vân (thơ) ..................... Lê Nguyên ... 95 Những ánh lửa (thơ) ............... Lam Trần .... 96 Vô đề (thơ) .......... Lê Minh Chử .... 97 Đêm xay thóc (thơ) ............... Vũ Đình Huy .... 98 Paddy husking night (thơ) ........ Vũ Anh Tuấn dịch .... 98 Ngày ra viện (thơ) .................. Vũ Đình Huy .... 99 The day I left the hospital (thơ) ........ Vũ Anh Tuấn dịch .... 99 Đời anh tình em (thơ) ............ Vũ Đình Huy .. 100 My life and your love (thơ) ............ Vũ Anh Tuấn dịch .. 100 Công viên địa chất non nước Cao Bằng… ........ Bùi Đẹp tổng hợp. .. 102 Cơn mưa giũ bụi ......................... Lam Trần .. 109 Bí quyết sống thọ ................... Đào Minh Diệu Xuân st. .. 115 Mùa xuân của bé Bông (tt) ............... Hoài Ly .. 119 Ngụ ngôn mới: Cảo thơm lần giở trước đèn… .............. Lệ Ngọc st. . 125 Xả stress! ................ Hoàng Kim Thư st. .. 129 Chuỗi yêu thương ................... Hà Mạnh Đoàn . 136 Tin buồn ............................... 138 Bạn bè ................. Đàm Lan .. 139 Người đàn bà đuổi theo vầng trăng ....... Nguyễn Thị Mây .. 146
|