Hiện có 4 người xem / 2521160 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 10/01/2015

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn quý thư mà ông có. Đây là 2 cuốn trong sưu tập gần 500 cuốn cổ thư được xuất bản hồi thế kỷ thứ XIX và tiền bán thế kỷ thứ XX (1900 tới 1949) mà ông đã chơi trong gần 40 năm nay. Cả hai cuốn đều bằng Pháp văn. Cuốn thứ nhất được xuất bản năm 1874 (141 năm trước), mang tựa đề là Thánh Đường Đức Mẹ Lộ Đức (Notre-Dame de Lourdes) và là một cổ thư viết về cuộc đời nữ thánh Bernadette Soubirous sinh ngày 07-01-1844 và mất ngày 16-4-1879, năm 35 tuổi (được phong thánh ngày 08-12-1933 dưới thời Đức Giáo Hoàng Pius XI), và tất cả mọi chuyện liên quan tới việc khi mới 14 tuổi, và chưa đi tu, Đức Mẹ đã hiện ra với nữ thánh này tất cả 18 lần trong vòng 5 tháng. Với bà thánh Bernadette này còn một chuyện lạ khác là: sau khi đã mất rất lâu, thân xác bà không hề tan rữa như mọi người đồng loại và việc này đã được Tòa Thánh cho xét nghiệm và xác nhận. Cuốn sách khổ 11x18cm này dày 464 trang và là một cuốn sách thật hấp dẫn với những ai muốn tìm hiểu về Đức Mẹ Lộ Đức và những lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức (Lourdes). Cuốn thứ hai được xuất bản năm 1922 (93 năm trước), cũng khổ 11x18cm, và dày 327 trang với nhiều hình ảnh minh họa, mang tựa đề là “Những Bí Mật về Sức Hấp Dẫn và Thuật Thôi Miên được Tiết Lộ” (Les Secrets du Magnétisme et de l’Hypnotisme dévoilés). Đây là một cuốn sách tiết lộ hết mọi khía cạnh của Từ Học và Thuật Thôi Miên. Sách nói về những đề tài thật hấp dẫn như Thuật Thôi Miên, Mộng Du, Thần Giao Cách Cảm, Từ học, và Thông Linh học, ngoài ra còn được minh họa bằng bút sắt thật đẹp. Ngoài ra sách cũng nói về các nhân vật kỳ bí như Bá Tước Cagliostro, Bác sĩ Mesmer, James Braid, người khám phá ra thuật Thôi Miên, Francois-Joseph Gall, nhà Thần Linh học danh tiếng Alan Kardec vv… Thật là một quý thư tuyệt vời cho những ai yêu thích các điều huyền bí. Giới thiệu xong, hai cuốn sách được một số thành viên thích thú chuyền tay nhau xem.

Sau phần giới thiệu sách, anh Nhựt Thanh đã lên nói chuyện về đề tài “Cúng Giao Thừa”. Tiếp lời anh Nhựt Thanh, anh Dương lên nói về đề tài “Phạm Duy phổ nhạc bài Ngày Xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư và nói về Phạm Thiên Thư và nhân vật Hoàng Thị Ngọ mà ngày nay có người để tâm tìm xem đang sống ở đâu vì nghe đâu bên Mỹ có người tự nhận mình là nhân vật đó.

Sau anh Dương, anh Hữu lên nói vài chuyện nhỏ về Phạm Duy và Duy Quang là người con đã mất trước cha mình, và theo anh Hữu cái chết của Duy Quang đã phần nào ảnh hưởng đến sự ra đi của nhạc sĩ Phạm Duy một thời gian sau.

Anh Hữu nói xong, hai anh Lê Nguyên và Phùng Chí Tâm lên vừa hát vừa đàn, bằng giọng ca rất hay và điêu luyện hai ca khúc “Em cho tôi” và “Hà Nội ơi”.

Kế đó anh Chử lên hát thơ tặng các thành viên bài hát “Đất Nước vào Xuân” do chính anh sáng tác theo điệu dân ca Chèo.

Anh Chử hát xong, anh Dương Lêh vừa đàn vừa ca lại bài Ngày Xưa Hoàng Thị (thơ Phạm Thiên Thư, Phạm Duy phổ nhạc) tặng các thành viên.

Sau khi anh Dương hát, anh Phạm Vũ lên nói chuyện về Bài Ca Giáng Sinh Jingle Bells và nói về Boston, thủ đô văn hóa của Mỹ.

Anh Phạm Vũ nói xong, cô Kim Sơn, một người ái mộ CLB và cố gắng thu xếp tới họp, đã chia sẻ với các thành viên một bài viết liên quan tới Tình Bạn, có ý khuyên mọi người là “Khi hờn oán thì nên viết trên cát cho gió xóa đi, và khi nhớ ơn ai thì nên khắc trên đá để mà nhớ mãi”.

Một chuyện đặc biệt đáng ghi nhớ trong buổi họp hôm nay là ngay sau khi buổi họp khai mạc, tác giả Tâm Nguyện, một thành viên CLB chuyên viết về Phật giáo, đã có ký tặng mỗi thành viên một tác phẩm mới của bà vừa được ra mắt là cuốn: “Pháp Bảo Đàn Kinh và Vấn Đề Thấy Tánh” (Còn 2 cuốn khác đang được in và cũng sẽ được đem tặng các thành viên). Cả ba cuốn sách về Phật Giáo này đều chỉ để tặng (ấn tống) chứ không bán, vì chúng được in là do bà và các thân nhân của ông Thầy của bà (Cố Cư Sĩ Nguyễn Quang Lượng) chung nhau cho in để kỷ niệm và ấn tống (bất cứ ai muốn đọc và muốn có sách thì chỉ việc liên hệ với tác giả). Sách do nhà xuất bản Tôn Giáo in rất trang trọng và khá đẹp.

Vì ngày Tết đã cận kề nên kỳ họp tới được họp trước một tuần vào ngày 07-02-2015 và sau khi họp sẽ là bữa tiệc Tất Niên mà tất cả các thành viên sẽ tham dự. Buổi họp kết thúc trong sự hào hứng và vui vẻ vào lúc 11 giờ 15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN CỔ THƯ

“BA ĐẠO QUÂN Ở BẮC KỲ”

(TROIS COLONNES AU TONKIN – 1894-1895)

CỦA TƯỚNG GALLIENI

– Cựu Chỉ Huy Trưởng Quân Khu II ở Bắc Kỳ

Trước khi viết về cuốn sách, người viết thấy cần phải cho độc giả biết qua về tác giả là tướng Gallieni – Cựu Chỉ Huy Trưởng Quân Khu II ở Bắc Kỳ trong thời gian từ 1892 tới 1896. Joseph Simon Gallieni sinh ngày 24-4-1849 ở vùng Haute Garonne và mất ngày 27-5-1916 ở Versailles. Ông chỉ được cử sang làm việc ở Đông Dương trong 4 năm, từ 1892 tới 1896, lúc mới mang cấp bậc Đại Tá lục quân, và trở thành Chỉ Huy Trưởng Quân Khu II ở Bắc Kỳ, sau mới lên Thiếu Tướng. Sau khi ông qua đời, vào năm 1921, Gellieni được truy thăng lên cấp bậc Thống Chế.

Cuốn sách “Ba Đạo Quân ở Bắc Kỳ” dày 164 trang được in vào năm 1899 (116 năm trước) ở Ba Lê có một trang Lời Nói Đầu và được chia ra làm 3 phần:

Phần I.- Mang tiểu tựa là “Chiến dịch ở Cai-Kinh (Tháng 12 năm 1893 tới tháng Giêng năm 1894) gồm IX chương như sau đây:

Chương I.- Trần thuật về địa dư và chính trị.

Chương II.- Đường hướng chung phải áp dụng.

Chương III.- Tình hình chung ở vùng Cai-Kinh.

Chương IV.- Các chiến dịch đầu tiên

và vấn đề quân tiếp vụ.

Chương V.- Việc thành lập ba đạo quân.

Chương VI.- Khởi động xuất phát các đạo quân

– Vây hãm Lung La.

Chương VII.- Bọn giặc cướp tháo chạy – Truy kích

– Lục soát sào huyệt.

Chương VIII.- Lập đồn lũy và giải tán các toán quân.

Chương IX.- Kết luận.

Phần II.- Mang tiểu tựa là “Chiến dịch đánh Ba Ky và miền Thượng Sông Cầu” (Tháng Tư 1895) gồm X chương như sau:

Chương I.- Những lời nói đầu.

Chương II.- Tổ chức các đạo quân.

Chương III.- Vấn đề quân lương và tổ chức truyền thông.

Chương IV.- Lệnh xuất phát.

Chương V.- Các vụ việc rắc rối – Cố gắng tổng quát

và các liên kết của quân giặc cướp (quân Tàu).

Chương VI.- Các cuộc tiến quân tập trung.

Chương VII.- Đánh chiếm Kê-Thượng.

Chương VIII.- Từ Kê-Thượng tới Bắc Kạn.

Chương IX,- Cần phải đưa quân về phía tây

– Kết thúc các chiến dịch.

Chương X.- Kết luận.

Phần III.- Mang tiểu tựa là “Chiến dịch ở vùng Yên Thế” (Tháng 10 tới 12 năm 1895) gồm XIV chương như sau:

Chương I.- Những lời nói đầu.

Chương II.- Xứ sở - Địch thủ - Chiến thuật phải áp dụng.

Chương III.- Các chương trình phải hoàn tất

- Tình hình ngày 20 tháng 10.

Chương IV.- Các biện pháp mới phải được áp dụng từ ngày 20 tháng 10 để tăng cường các lực lượng chiếm đóng ở Yên Thế, và để đầu tư vào tam giác Bố Hạ - Mỏ Tràng - Nhã Nam.

Chương V.- Y tế - Quân Nhu và Truyền Thông.

Chương VI.- Tình hình từ ngày 5 tới ngày 20 tháng 11 – Thành lập thêm nhiều toán quân – Vấn đề đầu tư.

Chương VII.- Thám sát trong tam giác Bố Hạ -

- Mỏ Tràng - Nhã Nam.

Chương VIII.- Chuẩn bị tiến quân.

Chương IX.- Các biện pháp phải áp dụng quanh vùng Yên Thế: trong phạm vi Chợ Phong – trên đường hỏa xa – trên sông Thương vv…

Chương X.- Tiến quân về phía trước.

Chương XI.- Ngày 30 tháng 11 – Các đồn giặc tháo chạy – Đề Thám tháo chạy.

Chương XII.- Truy kích băng đảng cướp

và giải tỏa các đạo quân.

Chương XIII.- Chiếm đóng Yên Thế.

Chương XIV.- Kết luận.

TỔNG KẾT LUẬN

Trang bị quân sĩ.

Tổ chức và di chuyển các đoàn xe.

Các nguyên tắc về bình định và tổ chức cai trị

Cuốn sách tuy không thực đặc biệt nhưng cũng là một nguồn tài liệu quý cho các nhà nghiên cứu lịch sử khi nghiên cứu về nhân vật Đề Thám lừng danh, đồng thời cũng là một cổ thư đã hơn bách tuế rất đáng được… chơi!

Trích Hồi Ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN

TỪ LÁY VÀ NHÂN VẬT

Phạm Đan Quế

(Tiếp theo và hết)

V. TỪ LÁY VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÂN VẬT TỪ HẢI

Từ Kim Trọng tới Thúc Sinh rồi đến Từ Hải, Thúy Kiều luôn luôn vươn tới tình yêu để cố gắng vượt lên khỏi cuộc sống nhục nhã, khổ đau mà số mệnh đã dành cho nàng. Tình yêu đã đem lại cho Kiều những phút giây hạnh phúc nhất của đời nàng, vì chỉ có tình yêu mới đem lại được hạnh phúc cho người con gái luôn mang khát vọng rực cháy về một tình yêu tự do. Nàng đã đến được với hai mối tình chân chính của Kim Trọng và Từ Hải. Cả hai đều là những nhân vật lý tưởng tuyệt vời, nhưng quan hệ giữa Thúy Kiều và hai người yêu trong mộng tưởng này lại rất khác nhau, cả hai đều rất xứng đáng với Kiều, tuy ở những bình diện khác nhau. Họ đều đã đáp lại được niềm mơ ước của nàng ở những đoạn đời khác nhau nhưng mỗi người một mặt, không thể thay thế mà bổ sung cho nhau. Bên cạnh đó nàng còn có một mối tình rất thực tế, tính toán, trông đợi sự nương tựa khi ở lầu xanh của Tú Bà, “bình thường” như bao mối tình khác của một khách làng chơi, nếu không nói là tầm thường của chàng Thúc Sinh quen thói bốc rời. Chúng tôi muốn cùng bạn đọc nhận diện Từ Hải qua một lớp từ đặc biệt là từ láy.

1. Từ láy với Từ Hải cho đến lúc triều đình riêng một góc trời.

Chúng ta đều biết Từ Hải đã đến với cuộc đời Kiều như một vì sao lạ, một vị cứu tinh. Nét tiêu biểu của Từ Hải là tính ngang tàng, lòng kiêu hãnh, tình yêu đắm đuối, ba tính cách nền tảng trong tâm hồn của người anh hùng. Chàng xuất hiện đột ngột với phụ từ bỗng đâu trong đoạn thơ sau:

2165.  Lần thâu gió mát trăng thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.

2167.  Râu hùm, hàm én, mày ngài,

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao,

2169.  Đường đường một đấng anh hào,(1)

Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài,

2171.  Đội trời đạp đất ở đời,

Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.

2173.  Giang hồ quen thú vẫy vùng,(2)

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.

Chỉ bằng hai từ láy đường đường, vẫy vùng, Nguyễn Du đã nói lên cái sức mạnh tinh thần được biểu hiện cụ thể thành hành động của Từ Hải, khí phách của một người anh hùng mà ông yêu quý. Chàng đã có tất cả những biểu hiện bên ngoài khiến mọi người phải kính trọng và có năng lực hoạt động một cách tự do, không chịu một sự kiềm chế nào.

Đến khi chàng dứt áo ra đi thì trời bể cũng trở thành rộng lớn đến mức gây cảm giác mung lung, mờ mịt mà Nguyễn Du đã phải dùng từ láy mênh mang trong câu:

2215.  Trông vời trời bể mênh mang,(3)

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong.

Kiều nhớ đến Từ, nhìn mãi về phía chân trời nơi chàng đã ra đi, có ý trông chờ và nhớ mong mãi mãi:

2247.  Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.(4)

2249.  Đêm ngày luống những âm thầm,(5)

Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương.(6)

2251.  Ngất trời sát khí mơ màng,(7)

Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.

Qua những từ láy: đăm đăm, âm thầm, ầm ầm, mơ màng, ta không chỉ thấy cái nhìn về phía xa xăm của Kiều, mối phiền muộn ngấm ngầm chỉ một mình nàng biết, mà cả tiếng người ồn ào, tiếng súng gươm vang động nghe như tiếng sấm ầm ầm đến trạng thái nửa tỉnh nửa mơ như mơ màng trong cảnh ngất trời sát khí...

Khi Từ đã lập được sự nghiệp, vẻ vang trở về đón Kiều thì bằng phượng liễn loan nghi... Kiệu trang sức bằng hình chim phượng (Liễn là xe, kiệu của vua đi) và đồ nghi trượng (binh khí và đồ vật quý giá bày biện trang trí hoặc để thờ) thì bằng hình chim loan. Cùng là những từ láy sẵn sàng, giấp giới, rỡ ràng như lễ thành hôn của một bậc đế vương:

2265.  Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,(8)

Hoa quan giấp giới, hà y rỡ ràng.(9,10)

Mũ hoa, trang sức bằng vàng ngọc lóng lánh rực rỡ (Hoa quan giấp giới) và áo màu vàng của ráng chiều (Hà y) thì đầy màu sắc tươi đẹp nổi bật hẳn lên (rỡ ràng). Hai từ láy với chức năng trạng ngữ cùng ở vị trí bình thường cuối mỗi nhịp trong tiểu đối 4-4 ở câu bát đặt sau danh từ cho ta thấy cái trang trọng, uy nghi của cuộc rước dâu.

Chúng ta cũng cần nhận xét rằng trong hai câu thơ trên có tới 4 từ Hán Việt là những nghi trượng của một bậc vua chúa: “phượng liễn” (kiệu chạm hình chim phượng) “loan nghi” (màn thêu hình chim loan), “hoa quan” (mũ giát ngọc lóng lánh) “hà y” (trang phục rực rỡ lộng lẫy như ráng trời). Những nghi trượng này hoàn toàn tương xứng với địa vị của Từ Hải. Chính những từ ghép Hán Việt này đã làm cho chàng thêm oai vệ, những từ Hán Việt này cùng với ba từ láy sẵn sàng, giấp giới, rỡ ràng vừa hoành tráng, vừa chính xác, lại có tính khoa trương, với dáng vẻ thể hiện một uy lực mạnh mẽ, khiến người ta phải kính sợ, nể vì. Những từ láy đầy hình ảnh giấp giới, rỡ ràng làm cho cảnh tượng cuộc rước dâu càng thêm uy nghi, trang trọng. Hai câu thơ gồm 4 từ Hán Việt (8 chữ), và 3 từ láy (6 chữ) đủ 14 chữ trong một khổ thơ là sự kết hợp tuyệt vời trong cách dùng từ Hán Việt và từ thuần Việt.

Rồi khi về đến trướng mai là những từ láy rộn ràng đầy âm hưởng thì thùng, rập rình của trống trận, nhạc quân:

2285.  Tiệc bày thưởng tướng khao binh,

Thì thùng trống trận, rập rình nhạc quân.(11,12)

Nếu hai từ láy ở câu 2266 (Hoa quan giấp giới, hà y rỡ ràng) đứng cuối mỗi nhịp thì ở đây hai từ láy tượng thanh lại đứng ở đầu mỗi nhịp cũng trong tiểu đối 4-4 với chức năng trạng ngữ được đảo lên đầu nhịp cho ta thấy cuộc khao thưởng quân sĩ này được nhấn mạnh và tăng thêm giá trị biểu cảm lên gấp bội.

Đến khi nghe Kiều kể lại cuộc đời gian truân, lưu lạc của mình thì Từ nổi giận một cách dữ dội được diễn tả bằng từ láy đùng đùng để tiếp theo là 5 từ láy khác trong 10 dòng thơ với 12 từ Hán Việt vừa cho thấy tình cảm của Từ dành cho Kiều, vừa cho thấy cái uy thế của chàng trong những câu:

2295.  Từ công nghe nói thủy chung,

Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.(13)

2297.  Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,(14)

Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao…(15)

2303.  Lại sai lệnh tiễn truyền qua,

Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên…(16)

2307. Thệ sư kể hết mọi lời,

Lòng lòng cũng giận,

người người chấp uy…(17,18)

2313.  Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,(19)

Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân…

Từ láy đùng đùng này đã giúp Kiều thực hiện xong việc báo ân, báo oán và Từ Hải vốn không biết kiêng sợ gì ai, ngang nhiên làm việc theo ý của mình bởi đã có riêng một cõi biên thùy với từ láy nghênh ngang:

2447.  Nghênh ngang một cõi biên thùy,(20)

Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.

Trong ngôn ngữ của Từ thì ngay từ khi mới gặp Kiều chàng đã coi khinh những đôi trai gái yêu nhau mà không có hướng nhất định trong cuộc đời, những kẻ trăng gió vật vờ và tâm sự:

2179.  Từ rằng: Tâm phúc tương cờ,

Phải người trăng gió vật vờ hay sao.(21)

Quả là Nguyễn Du đã ưu ái dành cho Từ Hải đến 21 từ láy đặc biệt chỉ trong đoạn đầu của cuộc sống với Thúy Kiều, tất cả đều trong một tâm trạng phấn chấn, tình thế tràn ngập lạc quan của một cuộc sống vinh hiển, sáng tươi đầy hạnh phúc.

2. Từ láy cho đến những ngày cuối của Từ.

Cuộc sống ngập tràn hạnh phúc của Thúy Kiều và Từ Hải đã rẽ sang bước ngoặt tai hại khi xuất hiện tên Tổng đốc trọng thần. Hồ Tôn Hiến biết Từ là đấng anh hùng nên tìm mọi cách lừa gạt Kiều. Đến khi bàn đến việc ra hàng, Từ vẫn kiên quyết không chịu vì biết rằng như vậy rồi sẽ cảm thấy xung quanh xa lạ và gây cho mình một sự sợ hãi mơ hồ được diễn tả bằng từ láy lơ láo trong một đoạn nội tâm của Từ dài đến 10 dòng thơ:

2465.  Bó thân về với triều đình,

Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu.(22)

Nhưng chàng đã không phân biệt được rõ ràng, đã lẫn lộn giữa đúng và sai trong hành xử của mình trước tên Hồ Tôn Hiến quỷ quyệt và Nguyễn Du đã rất chính xác khi dùng từ láy hồ đồ tả tâm trạng của Từ lúc đó:

2461.  Tin vào gửi trước trung quân,

Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.(23)

Vì vậy khi nghe lời nàng nói mặn mà, thế công Từ mới trở ra thế hàng dẫn đến những trễ tràng trong quân ngũ:

2503.  Tin lời thành hạ yêu minh,

Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.(24,25)

2505.  Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,(26)

Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.

Từ láy ngơ ngác dành cho ngọn cờ của quân quan Từ Hải thật là sáng tạo, ngọn cờ được nhân cách hóa như không định thần được trước sự việc diễn biến quá bất ngờ. Trong khi tiếng trống đánh cầm canh chỉ sự canh gác của quân lính thì trễ nải, chậm trễ, muộn màng dành cho từ láy sau trễ tràng, biểu hiện việc binh không gìn giữ gì nữa, nhiều sơ suất mà Nguyễn Du đã sử dụng bằng từ láy giữ giàng, và cả ba từ láy này đều được dùng ở vị trí vị ngữ trong một thế ngữ pháp bình thường như một lời miêu tả khách quan.

Rồi đến cái hờ hững của Từ Hải, coi việc quân chỉ ở mức làm lấy có, không có sự chú ý nào để ra đầu cửa viên:

2511.  Từ công hờ hững biết đâu,(27)

Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.

Ngay cả khi đã sa vào bẫy của Hồ Tôn Hiến, chàng vẫn là một con người có khí phách qua hai từ láy dạn dàynhơn nhơn:

2517.  Tử sinh liều giữa trận tiền

Dạn dày cho biết gan liền tướng quân.(28)

2519.  Khí thiêng khi đã về thần,

Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.(29)

2521.  Trơ như đá, vững như đồng,

Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời.

Trong cảnh hằm hằm sát khí, hào lũy tan hoang, Kiều đến nơi thì vẫn còn hai từ láy hoàn toàn nữa bời bời, trơ trơ nói lên chí khí anh hùng của chàng:

2527.  Trong vòng tên đá bời bời,(30)

Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.(31)

Sau đó khi phải đối diện với Hồ Tôn Hiến, kẻ phản phúc đã hèn nhát lừa giết chồng mình, Thúy Kiều đã ngang nhiên ca ngợi Từ Hải lại bằng từ láy nói lên khí phách của Từ: vẫy vùngngang tàng. Nàng cũng nhắc đến cái chết của chàng bằng từ láy có âm hưởng mạnh tan tành thịt xương, trời bể ngang tàng:

2549.  Rằng: Từ là đấng anh hùng,

Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi.(32)

2551.  Tin tôi nên quá nghe lời,

Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.

2553.  Ngỡ là phu quý, phụ vinh,

Ai ngờ một phút tan tành thịt xương.(33)

2555.  Năm năm trời bể ngang tàng, (34)

Dẫn mình đi bỏ chiến trường như không…

Cuối cùng xin cho Từ Hải một mảnh đất nhỏ nhô ra sông bằng từ thiển thổ một doi để che đậy chôn cất cho kín với từ láy đắp điếm kết thúc cuộc đời oanh liệt của người anh hùng trong đớn đau và tủi hổ của nàng Kiều:

2561.  Xin cho thiển thổ một doi,

Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh.(35)

Về sau, trong đoạn Tái hồi Kim Trọng, Kim được ông già họ Đô kể lại đến lúc Kiều gặp được Từ Hải và nói phải tìm hỏi tiếp Thúc Sinh thì mới biết rõ câu chuyện về sau… Và Thúc Sinh đã ca ngợi Từ bằng hai từ láy vẫy vùng, đùng đùng để diễn tả khí phách của chàng:

2921.  Gặp nàng thì ở Châu Thai,

Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên.

2923.  Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,(36)

Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.(37)

2925.  Đại quân đồn đóng cõi đông,

Về sau chẳng biết vân mồng làm sao.

Đùng là từ mô phỏng tiếng nổ to gọn và đanh như tiếng súng, tiếng pháo, nhưng khi thành từ láy Đùng đùng biểu thị tiếng nổ liên tiếp với nghĩa rộng như giông tố sấm sét, miêu tả hành động anh hùng của Từ. Đây là những từ láy cuối cùng Nguyễn Du viết về Từ Hải. Riêng từ vẫy vùng nói về một con người có thói quen hành động tự do, tùy thích, không chịu một sự kiềm chế nào đã được dùng ba lần trong Truyện Kiều thì đều tập trung vào một mình Từ Hải. Một lần trong lời tác giả khi giới thiệu chàng, một lần khi Kiều ca ngợi chàng trước Hồ Tôn Hiến, và một lần trong lời Thúc Sinh kể lại với Kim Trọng ở trên. Điều đáng nói nữa ở đây là tuy từ vẫy vùng được dùng đến ba lần nhưng ở những vị trí khác nhau:

+ Khi ở cuối câu trong lời giới thiệu: “Giang hồ quen thú vẫy vùng” - vẫy vùng tuy là động từ nhưng được dùng bổ nghĩa cho danh từ thú thành một cụm từ đặc biệt để giới thiệu người anh hùng nghệ sĩ trong Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.

+ Khi ở giữa câu “Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi” thì từ láy này đúng là một động từ có nghĩa đen chỉ sự bơi lội tự do của loài sống dưới nước mà nghĩa bóng là tự do hoạt động, mặc sức tung hoành theo cách nói của Kiều để ca ngợi Từ Hải.

+ Khi thì ở đầu câu “Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên”, từ láy này với chức năng trạng ngữ được đảo lên đầu để nhấn mạnh tạo thêm sức biểu cảm của câu thơ.

Ba lần dùng một từ nhưng không lần nào giống lần nào, ở mỗi vị trí trong câu bát, từ láy này đều phát huy được hết sức mạnh của mình, chính điều này đã góp phần làm nên sức cuốn hút kỳ diệu ở Truyện Kiều, đọc mãi vẫn còn có thể tìm ra nhiều điều cần khám phá. Đó cũng là một nét ưu ái của Nguyễn Du đối với người anh hùng của mình. Từ láy vẫy vùng cùng với một loạt từ láy khác như: đường đường, mênh mang, đùng đùng, nghênh ngang, ngang tàng… quả đã giúp nói lên cái khí phách của Từ.

Nhưng cũng thật đáng tiếc vì những từ láy xuất hiện sau chữ hồ đồ là những từ: ngơ ngác, hờ hững… đã dẫn đến cái chết đầy phẫn uất của Từ, dù đã được cứu lại bằng những từ dạn dày, nhơn nhơn, rồi đứng giữa trời trơ trơ trong những lời ca ngợi của Thúy Kiều. Ta hãy cùng xem những từ láy nào dẫn đến cái chết của Từ. Trước hết là tâm lý mười phân hồ đồ. Từ Hải tưởng rằng đầu hàng chỉ là hàng thần lơ láo của kẻ lạc lõng bỡ ngỡ trong quan trường, chứ có biết đâu đầu hàng là chết. Đó là hai từ láy đầu tiên đưa chàng đến chỗ chết. Đến khi nghe lời Kiều nói mặn mà để chàng hờ hững biết đâu rồi từ đó là cảnh ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng và việc binh bỏ chẳng giữ giàng… Do đấy Hồ Tôn Hiến mới quyết kế thừa cơ. Vậy là chính những từ láy trên đây đã hủy hoại sự nghiệp của Từ.

Dành 37 từ láy rất đúng việc, đúng người, đúng chỗ, để vẽ ra được tính cách, hành động, đời sống riêng cũng như lột tả được nét tâm lý sâu xa của Từ Hải chứng tỏ Nguyễn Du không chỉ có một vốn từ láy thật là dồi dào, phong phú mà còn biết vận dụng chúng một cách linh hoạt đến tài tình. Chúng ta cũng nên để ý rằng 21/37 tức là quá nửa số từ láy được sử dụng ở đây thuộc về giai đoạn đầu vinh hoa phú quý của Thúy Kiều, cũng là điều Nguyễn Du ưu ái dành cho Từ. Nghiên cứu mối quan hệ của từ láy với câu thơ Truyện Kiều, ta hiểu thêm vì sao người Việt ta lại quen thuộc và yêu quý Truyện Kiều đến thế.

Phạm Đan Quế - phamdanque@yahoo.com

(Trong THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRUYỆN KIỀU

Nhà xuất bản Thanh Niên – 2013)


Truyện Thúy Kiều do Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim chú giải,

Vĩnh Hưng Long thư quán xuất bản lần đầu 1925.

ĐẠI THI HÀO

NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU

TRONG TÂM HỒN MỘT NGƯỜI CHƠI SÁCH

 


VŨ ANH TUẤN

Nhận được lời mời viết về Đại Thi Hào NGUYỄN DU và về truyện KIỀU nhân dịp Kỷ Niệm 250 năm ngày sinh của Cụ, tôi phân vân không biết mình nên viết gì, và nên viết thế nào, khi mình chỉ là một người yêu sách, chơi sách, chứ không phải là nhà nghiên cứu hoặc phê bình. Hơn nữa, về việc nghiên cứu và phê bình, thì trong thiên hạ đã có hàng vạn hàng triệu người đã làm trong cả trăm năm đã qua, hiện đang làm, và sẽ còn làm dài dài cho tới ngày… tận thế; vậy thì những việc đó, do đã có quá nhiều người làm rồi, nên tôi không ham. Tôi còn nhớ rất rõ là tôi đã đến với Cụ NGUYỄN DU và truyện KIỀU đúng 60 năm trước, khi tôi vừa 20 tuổi lần thứ nhất. Cuốn KIỀU tôi đọc nằm trong tủ sách của Cụ thân sinh ra tôi, cũng là một người rất thích sách và chơi sách. Đó là một cuốn KIỀU được dịch ra Pháp văn bởi Cụ NGUYỄN VĂN VĨNH, một Dịch giả đáng tin cậy, và bản dịch, ngoài những câu được dịch nguyên câu, còn có những câu được dịch từng chữ một, rất có lợi cho người thích học Pháp ngữ. Tôi đã đọc kỹ và rất thích vì thấy Cụ NGUYỄN DU đã viết truyện KIỀU bằng thơ lục bát hay quá. Vào lúc đó tôi chỉ đọc và thích, chứ chưa hề nghĩ tới xuất xứ của truyện KIỀU là một truyện bằng văn xuôi của một tác giả người Hoa là Thanh Tâm Tài Nhân. Sau này trong những ngày tháng chơi sách tôi mới để tâm tìm hiểu thêm về truyện KIỀU. Mới đây, sau khi nhận được lời mời viết, và trong lúc tôi đang phân vân không biết nên viết gì, thì tình cờ, trong lúc đảo mắt qua mấy tủ sách đầy ắp cổ thư trong thư phòng, tôi chợt bắt gặp bộ “TỰ ĐIỂN CÁC TÁC PHẨM CỦA CÁC THỜI ĐẠI VÀ CÁC XỨ SỞ” và trong đầu tôi bỗng nảy sinh ý tưởng muốn viết về đề tài “Cụ NGUYỄN DU và truyện KIỀU đã được người đời biết đến như thế nào?”. Đồng thời tôi cũng nghĩ tới chuyện viết thêm về “Cách làm một sưu tập KIỀU” để chia sẻ những kinh nghiệm về việc sưu tập của tôi với những ai có cùng với tôi một sở thích.

Có được đề tài thích hợp rồi tôi liền bỏ ra vài ngày để tìm một số tài liệu và để tham khảo một số bạn bè nhằm rủ họ chia sẻ những ý kiến, quan niệm của họ về Cụ NGUYỄN DU và danh tác của Cụ.

Tình cờ, đúng lúc đó lại là ngày họp của CLB Sách Xưa & Nay mà tôi là Chủ nhiệm, tôi liền đem vấn đề ra trình bày trong phiên họp, thì ôi thôi, thật là vui, vì các thành viên người nào cũng có ý kiến riêng, chẳng ai chịu ai, và trong số các ý kiến được đưa ra có những ý kiến rất vui, mà tôi chỉ xin kể ra sau đây hai ý kiến để mọi người cùng thưởng thức, đại khái có một thành viên đã cho rằng “Cụ NGUYỄN DU đã vi phạm bản quyền cuốn Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân”. Ôi thật quá vui, vì khi phát biểu như vậy, vị đó đã quên không nhớ ra rằng trên đời này làm quái gì có thứ bản quyền gì trên cả 100 năm, nhất là Công Ước Berne về quyền tác giả, mãi tới năm 1886 mới ra đời! Một vị thứ nhì thì nhất định khẳng định là Cụ NGUYỄN DU đã “dịch Kim Vân Kiều Truyện (văn xuôi) của Thanh Tâm Tài Nhân”. Người viết liền trả lời là “với dịch thì nguyên tắc cơ bản là phải chuyển tải thật chính xác nguyên tác từ một thứ tiếng này sang một thứ tiếng khác” chứ không thể nào dịch khác đi được. Khi nghe người viết nói vậy, vị đó khẳng định rằng Cụ Nguyễn Du của chúng ta đã dịch y nguyên Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, có khác thì chỉ khác ở chỗ cụ dịch thành thơ lục bát thay vì văn xuôi, và thách người viết đưa ra một bằng chứng là “có chỗ dịch không chính xác theo nguyên tác”. Rất may là tôi đã nhớ kịp một chi tiết rất thuyết phục. Đó là thực ra, Thanh Tâm Tài Nhân cũng đã lấy cảm hứng từ một truyện Vương Thúy Kiều ở trong tác phẩm Ngu Sơ Tân Chí của một tác giả khác tên là Dư Hoài, và theo tác giả Dư Hoài này thì các nhân vật Vương Thúy Kiều, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến là những nhân vật có thật trong đời chứ không phải chỉ là những nhân vật tiểu thuyết. Và trong truyện Vương Thúy Kiều của Dư Hoài thì Thúy Kiều đã tự vẫn và chết ở sông Tiền Đường, chỉ khi Thanh Tâm Tài Nhân viết thì Kiều mới được Vãi Giác Duyên cứu sống để sau này “tái hồi Kim Trọng”. Và đúng là truyện KIỀU của Cụ NGUYỄN DU cũng viết đúng vậy, tuy nhiên trong truyện KIỀU của Thanh Tâm Tài Nhân và truyện KIỀU của Cụ NGUYỄN DU vẫn có một điểm khác nhau không giống tí gì cả, và đó là ở đoạn Kiều xử án Hoạn Thư. Trong đoạn này theo bản của Cụ NGUYỄN DU của chúng ta thì Kiều tha bổng Hoạn Thư, trong khi trong bản của Thanh Tâm Tài Nhân thì tuy tha chết nhưng phạt 100 hèo khiến Hoạn Thư tơi tả gần chết. Do đó nói Cụ NGUYỄN DU dịch là không đúng mà đúng ra là Cụ chỉ đọc và phỏng theo cốt truyện để đã để lại cho đời 3254 câu thơ lục bát tuyệt vời, đã khiến Cụ được muôn thuở lưu danh, và được người đời ở khắp nơi biết tiếng.

Sau vài ngày đọc lại và tham khảo ý kiến bạn bè, người viết có tiếp nhận được vài ý kiến và quan niệm sau đây về Cụ NGUYỄN DU và truyện KIỀU rất là đơn giản, tổng quát, và không kém phần chính xác:

A/ Truyện KIỀU là một truyện kể bằng thơ tiêu biểu nhất trong nền văn học nước ta, có thể nói là chưa thấy truyện thơ nào tuyệt vời bằng.

B/ Đây là một truyện bằng thơ được viết bằng thể lục bát truyền thống và thành công nhất, từ cách gieo vần đến cách sử dụng từ ngữ, vừa phong phú vừa điêu luyện. Đặc biệt nhất là cách sử dụng từ láy nhiều nhất trong các danh tác của nước ta.

C/ Truyện KIỀU đã vượt qua được sự thử thách của thời gian, đã đi sâu vào lòng người, và có ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả mọi tầng lớp người Việt chúng ta, từ người bình dân cho đến các người trí thức, chẳng có ai là không biết về truyện KIỀU và thuộc vài câu KIỀU. Ngoài ra nhiều người còn sử dụng truyện KIỀU theo cách mê tín… để Bói Kiều nữa.

D/ Thông thường thì các nhà văn, nhà thơ khi viết truyện hoặc làm thơ đều cố gắng mô tả tính cách các nhân vật để người đọc hiểu và cảm thụ. Riêng đối với truyện KIỀU thì điểm này rất độc đáo, vì người đọc có thể dùng những nhân vật truyện KIỀU để mô tả những tính cách của người đời ví dụ như Sở Khanh để tả kẻ không chung tình, xong việc là quất ngựa truy phong, như Hoạn Thư để tả các quý bà hơi bị quá ghen vv…

E/ Cụ NGUYỄN DU xứng đáng là một Đại Văn Hào vì, qua truyện KIỀU, ngoài những ưu điểm về văn học, Cụ đồng thời còn là một danh họa vẽ nên những bức tranh, những cảnh đời, qua những câu thơ. (Nhà văn NTM)

Qua mấy ý nghĩ và quan điểm trên, chúng ta đã thấy Cụ NGUYỄN DU và truyện KIỀU được người Việt chúng ta biết đến và quý trọng như thế nào, ngay sau đây tôi sẽ chứng tỏ và đưa ra những bằng chứng là Cụ NGUYỄN DU và truyện KIỀU của chúng ta cũng được Tây Phương biết đến và trân trọng đến mức nào.

Bằng chứng mà người viết muốn nói đến là việc danh tính và tác phẩm KIM VÂN KIỀU của Cụ được người Pháp trang trọng đưa vào BỘ TỰ ĐIỂN CÁC TÁC PHẨM CỦA TẤT CẢ CÁC THỜI ĐẠI VÀ CÁC XỨ SỞ (DICTIONNAIRE DES OEUVRES de Tous les Temps et de Tous les Pays) rất nổi tiếng của họ. Bộ Tự Điển này được Hiệp hội biên soạn Tự điển và Bách khoa toàn thư xuất bản ở Paris vào năm 1953, thoạt đầu gồm 4 cuốn trên 3000 ngàn trang (khổ 22x30cm) với 16.000 danh tác thuộc tất cả mọi lãnh vực của cuộc sống. Tới năm 1962, bộ Tự Điển này được tái bản lần thứ tư (người viết có trong tay bộ tái bản lần thứ tư này), và sau đó vào năm 1968 được bổ sung thêm một cuốn thứ 5 (in lần thứ nhất, cùng khổ 22x30cm và dày 765 trang). Thực ra bộ Từ điển tuyệt vời này không chỉ giới thiệu có các tác phẩm được coi là các danh tác của thế giới, vì đi cùng với bộ này và được xuất bản cùng thời gian còn có bộ TỰ ĐIỂN CÁC TÁC GIẢ (DICTIONNAIRE DES AUTEURS) gồm 2 cuốn, cùng khổ với số trang gần bằng số trang của mỗi cuốn trong bộ về các tác phẩm. Và sau cùng còn có Cuốn TỰ ĐIỂN CÁC NHÂN VẬT, được xuất bản cùng thời gian với hai bộ trên (1 cuốn duy nhất cùng kích cỡ và số trang gần bằng với số trang của mỗi quyển của 2 bộ nói trên). Tóm lại cả 3 bộ nói trên là 8 cuốn cộng với một cuốn Thư Mục (Index) của bộ Các Tác Phẩm, tổng cộng là 9 cuốn, mà người viết lại may mắn có đủ cả 9 cuốn trong tủ sách chơi sách của mình. Tất cả 8 cuốn của ba bộ nói trên (trừ cuốn thứ 9 là cuốn Thư Mục) đều được minh họa bằng gần 10.000 minh họa, hình ảnh, tranh vẽ, đen trắng và có màu thật tuyệt vời (mời xem các hình phụ bản). Nhưng vẫn chưa hết, vì tới năm 1980, với sự đồng ý của người chủ xướng làm ra mấy bộ Tự điển nói trên, Valentino Bompiani (1898-1992), một người Ý, chủ một nhà xuất bản lớn ở Ý, và của nhà xuất bản Robert Laffont ở Pháp, CLB Pháp Quốc Nhàn Hạ (Club France Loisirs) đã cho ra đời bộ TÂN TỰ ĐIỂN CÁC TÁC PHẨM CỦA TẤT CẢ CÁC THỜI ĐẠI VÀ CÁC XỨ SỞ (NOUVEAU DICTIONNAIRE DES OEUVRES de Tous les Temps et de Tous les Pays), lần này gồm 4 cuốn, khổ 13x21cm, dày tổng cộng cả 4 cuốn là 7682 trang và 407 trang Thư Mục, đi cùng với 2 cuốn TÂN TỰ ĐIỂN TÁC GIẢ CỦA TẤT CẢ CÁC THỜI ĐẠI VÀ CÁC XỨ SỞ (NOUVEAU DICTIONNAIRE DES AUTEURS de Tous les Temps et de Tous les Pays) cũng cùng kích cỡ và dày gần 4000 trang cho cả 2 cuốn. Điểm đặc thù đáng chú ý là tất cả 6 cuốn của hai bộ mới này đều không có minh họa nào, mà chỉ có chữ, và được in bằng thứ giấy Thánh kinh (Papier Bible) tuyệt vời nhất từ xưa đến nay. Một điểm đáng chú ý nữa là bộ Tân Tự Điển này bổ sung thêm 4.600 tác phẩm, đưa tổng số các tác phẩm danh tiếng của thế giới lên thành 20.600 tác phẩm. Ra đời năm 1980, Bộ Tân Tự Điển này đã được nhanh chóng bán hết, và được tái bản liên tiếp 8 lần trong các năm 1981, 1983, 1984, 1986, 1987, 1989, 1990 và ấn bản được hiện đại hóa năm 1994. Người viết lại cũng có may mắn có được ấn bản được hiện đại hóa in năm 1994 gồm 4 cuốn Tác Phẩm và 2 cuốn Tác Giả này (mời xem hình phụ bản). Trong cả hai Bộ Tự Điển này (Bộ cũ và bộ mới), nhất là trong bộ cũ (khổ lớn, có minh họa) Cụ Nguyễn Du của chúng ta được dành gần nguyên một cột trong một trang để trình bày phần tiểu sử, và tác phẩm Kim Vân Kiều của Cụ được dành nguyên một trang và một cột ở trang kế tiếp với một bài giới thiệu và nhận định thật trang trọng. Và sau đây là phần tóm lược truyện KIỀU trong bộ cũ:

“(…)” KIM VÂN KIỀU được sáng tác (phóng tác) từ đầu thế kỷ trước (thế kỷ XIX), vậy mà đến nay vẫn nguyên vẹn chất tươi mát kỳ lạ, vẫn là kiệt tác ở đỉnh điểm nền văn học Việt Nam. Nghệ thuật tuyệt vời của NGUYỄN DU đã khắc họa được những nhân vật điển hình có giá trị vĩnh cửu (Tú Bà, Sở Khanh…) với ngôn từ đặc biệt trong sáng và dáng dấp tuyệt mỹ của từng câu thơ.

“Tùy theo từng hoàn cảnh, từng số phận, người ta dễ dàng tìm được một câu Kiều hoặc một đoạn Kiều để bình giải, cho dù đó là một người bình dân hay một nhà trí thức…

“Hẳn rằng trong kho tàng ngôn ngữ của nhân loại, chưa hề có hoặc hiếm có một tác phẩm nào lại rất đỗi thân quen và sống mãi với dân gian như KIM VÂN KIỀU của NGUYỄN DU. Bất cứ người Việt Nam nào cũng thuộc lòng nhiều câu lục bát, thậm chí nhiều chương, đoạn KIM VÂN KIỀU, và trên thực tế nhiều câu Kiều đã trở thành ngạn ngữ” (Bản dịch của GSNPQ).

Giới thiệu và nhận định như vậy về truyện Kiều, người Pháp và người Ý đã thực sự trân trọng tác phẩm của Cụ, một tác phẩm sẽ tồn tại mãi mãi với nhân gian.

VŨ ANH TUẤN


VINH DANH

ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU

(1768 - 2015)

Unesco Kỷ niệm Nguyễn Du

Hai trăm năm chục năm dư vẹn toàn

Vinh danh văn hóa hân hoan

Việt Nam thế giới đầy tràn mừng vui

Unesco đến tận nơi

Nghệ An Hà Tĩnh quê người tiên sinh

Ngay khu di tích mến tình

Unesco Kiều học(1) tôn vinh thi hào

Văn phòng đại diện(2) thế nào ?

Hiệp thông kỷ niệm thi hào Nguyễn Du

Cát lầm Ngọc trắng mặc dù

Danh nhân văn hóa đã thu lòng người

Bây giờ ngọc đã sáng ngời

Toàn văn thế giới học đời Kiều nhi.

BÁ KHOÁT (Xuân 2015)


Cụ Bá Khoát đọc Công bố quyết định thành lập VPĐD

Hôi Kiều học VN tại Vườn Kiều (Đồng Nai) ngày 24/01/2015.

(1) Kiều học: Hội Kiều học Việt Nam

(2) Văn phòng đại diện HKHVN tại tỉnh Đồng Nai

TẢN MẠN ĐẦU XUÂN

Có lẽ chỉ những người ở miền Nam ở lứa tuổi trên 50 mới thấy được hết không khí của Phút Giao Thừa thời còn cho đốt pháo ngày Tết. Việc đốt pháo chỉ có tuổi trẻ thích, vì nó quá ồn, nhưng chuỗi âm thanh dòn dã của nó cũng góp phần không nhỏ làm cho không khí của ngày Tết thêm tưng bừng, rộn rã.

Trước Tết là người thích pháo sẽ tùy theo túi tiền mà chọn mua những xâu pháo dài, ngắn, treo sẵn trước nhà. Đúng 12 giờ khuya, lúc chuông Chùa, chuông Nhà Thờ đồng loạt đổ, là họ cũng châm ngòi cho pháo cùng rầm rộ nổ từng tràng dài, kết thúc bằng mấy tiếng pháo đại rời rạc. Lúc đó những đứa trẻ còn thức để canh sẽ tranh nhau nhặt những viên pháo điếc, tức là những viên pháo không nổ kịp mà rớt xuống đất, rồi tiếp tục đốt thành những tiếng pháo lẻ tẻ. Sau những tràng chuông, pháo, là không khí trầm lắng hẳn xuống. Đám trẻ cũng đã mệt mỏi bỏ đi ngủ, chỉ còn những người nhiều tuổi, sau khi thắp những nén hương trên bàn thờ bày sẵn hoa, trái, tiếp tục ngồi trầm ngâm bên những tách trà nóng hổi vừa châm.

Phải nói cảm ơn ông bà xa xưa nào đó đã nghĩ ra cái Tết như một sự kết thúc cho một năm nhọc nhằn đã trôi qua, để trông mong một năm mới đến sẽ mang lại nhiều niềm vui hơn. Trước đó cả tháng, những công nhân, những người con làm ăn xa nhà, xa xứ cũng đã chuẩn bị mua sắm và háo hức mang, xách lùm đùm theo những chuyến tàu, xe về xứ. Những nỗi nhọc nhằn của họ sẽ tan biến khi thấy ông bà, cha mẹ, anh, chị, em, hài lòng với những gì được tặng.

Trong khi đó, những người ở nhà cũng đã chuẩn bị sẵn. Nhà nào cũng làm một nồi thịt kho trứng to đùng. Món này thường ăn kèm với dưa giá và bánh tráng, vì ngày Tết nhiều người thích gói ăn cho đỡ ngán, nên hai thứ này không thể thiếu. Bánh Tét thì nhà nào ít ra cũng có mươi đòn treo lủng lẳng trong bếp. Với người miền Bắc thì là Bánh Chưng. Đó là những món nhất định phải có. Nếu là ở quê miền Nam có khi còn quết bánh Phồng, làm mứt dừa, mứt bí. Để nhâm nhi, ngoài tôm khô, họ còn làm dưa kiệu, dưa hành, dưa tỏi, Lỗ Tai heo ngâm chua, cho một ngày Tết thật phong phú. Người ở thành thị không có thì giờ để làm Mứt thì ra chợ hay các Siêu Thị mà khuân về. Từ mứt hạt sen cho tới mứt gừng, mứt bí, mứt khoai, mứt dừa, mứt thơm, mức tắc... được cho vô hộp trình bày rất là hấp dẫn. Về sau này, những tiểu thương nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu của người sắm Tết, nên họ làm sẵn những giỏ quà để biếu Tết, từ vài trăm cho đến vài triệu đều được đóng gói, trang trí rất đẹp mắt. Tha hồ chọn lựa để tỏ lòng thành. Theo mọi người, ngày Tết càng dồi dào thức ăn thì cả năm mới sẽ sung túc, cho nên có thể ngày thường họ ăn tiêu dè sẻn, tính toán từng đồng, nhưng với ngày Tết thì họ không tiếc tiền để sắm sửa, từ thức ăn cho đến trái cây, bông hoa chưng bày.

Ngày Tết, đến nhà nào cũng thấy rực rỡ hoa trái. Nào là mâm Ngũ Quả với: Cầu, Dừa, Đủ, Xoài, Thơm hay Thanh Long, và Bưởi, Quýt, Hạnh hay Quất... là những loại trái cây mang tên đẹp hoặc có mùi hương. Thêm vào đó, nhà nào cũng không thể thiếu cặp dưa hấu to trên bàn thờ có dán mẩu giấy đỏ mang chữ Phúc. Mọi người tin rằng dưa hấu chưng Tết, khi xẻ ra có màu càng đỏ chừng nào thì năm đó càng hên chừng đó. Đặc biệt, ngày Tết không ai dám để Chuối ở trong nhà, vì tên gọi gần giống như “chúi”, có nghĩa là đi xuống, không cất đầu lên được! Có nhà còn cữ ăn Hạt Tiêu. Vì Tiêu có nghĩa là tiêu điều, tiêu diêu, mà mọi người hay dùng hai tiếng “tiêu rồi” có nghĩa là chẳng còn gì nữa, hết hy vọng vào cái gì đó rồi! Khổ Qua là trái đắng nhưng nhiều người thích dồn thịt và hầm để ăn dần trong mấy ngày Tết, vì tên của nó có nghĩa là cái KHỔ đã QUA rồi. Ngoài ra thì nó còn giữ được lâu. Cứ hâm lại là để cả tuần không sao.

Khỏi nói thì Hoa Mai cũng là chủ đạo, ngày Tết nhất định không thể thiếu đối với người miền Nam. Nó thường được chưng ở bàn thờ hoặc giữa nhà. Nhiều nhà giàu còn sắm cây Mai khổng lồ cả chục triệu để giữa sân lấy hên. Với người miền Bắc thì nhất định phải có Hoa Đào. Trước 75 thì hai miền chia cắt, nên miền Nam không có Hoa Đào. Sau này thì những ngày gần cuối năm, Hoa Đào từ miền Bắc được mang vào đủ thứ, từ nguyên gốc cho đến cành lẻ, bày bán tràn lan. Người Bắc sinh sống ở Nam cũng khỏi lo thiếu. Ngoài ra, Mãn Đình Hồng cũng rất được ưa chuộng, vì cái tên quá đẹp. Rồi thì Cúc Vạn Thọ, Cúc Mâm Xôi, Hướng Dương cũng được ái mộ, vì có màu vàng tươi tắn. Hoa ngoại như Glaieul cũng được chọn để chưng, vì giống như bó đuốc đỏ rực. Lyly thì ngoài hương thơm thoang thoảng còn cả 2 tuần mới tàn. Nhà càng chưng nhiều hoa, nhiều sắc vàng, sắc đỏ càng tốt, bày trong những bình hay chậu có dán giấy đỏ bên ngoài, tượng trưng cho tài lộc.

Nhiều người có vẻ khó hiểu chẳng biết Tết có gì đâu mà phải chen chúc nhau về quê để tàu xe mặc tình lên giá chặt chém, lại còn phải ép mình ngồi chật như nêm, vì sợ lỡ chuyến, không có xe để về kịp đón Giao Thừa? Đó là những người trẻ, chưa hiểu hết mối liên hệ thiêng liêng tiềm ẩn sâu xa trong máu, thịt của mỗi người từ lúc chào đời. Ngày thường thì mạnh ai nấy tất bật với công việc đồng áng hay làm ăn, không có thì giờ để nghĩ đến nhau. Nhưng ngày Tết thì mọi việc đều ngưng nghỉ, là lúc mà mọi người cảm thấy cần ở bên nhau hơn bao giờ hết, nên nghèo gì cũng ráng để dành tiền mà đi về quê ăn Tết sum vầy với gia đình, với họ hàng. Người không đủ tiền để về thì thấy rất lẻ loi, buồn tủi nơi xứ người, khi thấy Thành Phố nhộn nhịp trước đây những ngày Tết lại vắng vẻ hẳn!

Những ngày cuối năm, mọi người tống tiễn năm cũ, tống tiễn những gì xúi quẩy đi, mong năm mới sẽ mang lại những điều tốt lành. Ngày đó, khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, từ trong nhà ra tới ngoài sân, đều bày la liệt những chậu hoa. Tất cả đều khoác lên một hình ảnh mới mẻ, tinh tươm, khác hẳn ngày thường. Mọi người ăn mặc lịch sự đến nhà để chúc Tết nhau. Câu chúc bao giờ cũng là cầu mong những điều an lành, thịnh vượng, làm ăn thuận lợi, gặp nhiều may mắn, tốt lành, hanh thông cho một năm mới. Trẻ con còn được nhận những phong bao lì xì tượng trưng cho chút lộc đầu năm.

Mừng tuổi ông bà, cha mẹ xong thì đám trẻ thì tìm những thú vui. Sẵn tiền lì xì, chúng túm tụm đánh bài ăn thua nho nhỏ, hay lắc bầu cua. Chán chê rồi thì rủ nhau đi Chùa hay đi đến những tụ điểm có nhiều trò vui chơi. Lứa lớn hơn một chút thì họp bạn, kiếm chút gì đó ăn uống với nhau. Thức ăn thì nhà nào cũng đầy ắp, chỉ cần xuống bếp lôi ra. Họ cụng ly để chào đón mùa Xuân cho có khí thế. Chỉ riêng những người lớn tuổi, vui thì có vui, nhưng có vẻ trầm ngâm hơn mọi ngày, khi nhìn hình ảnh đàn con cháu ngày càng lớn, người thân ngày càng vắng mà lại xuất hiện đông đảo hơn qua khói hương lung linh. Những cuộc đời lần lượt đi qua mà chính họ đã chứng kiến, có khi chỉ là những chuỗi ngày mưu sinh vất vả. Lớn lên, lập gia đình, sinh con, đẻ cháu, tất bật với cuộc sống để rồi ngày nào đó mọi vui buồn cũng kết thúc, phủi tay lên ngồi chễm chệ trên bàn thờ, hờ hững nhìn thời gian trôi đi một cách vô nghĩa!

Nếu Mùa Xuân hào phóng với thiên nhiên và giới trẻ. Với cỏ cây thì ban cho lộc non, chồi biếc, hoa đủ các màu đua chen khoe sắc. Trẻ con thì ngày càng thêm phổng phao, đáng yêu. Tô hồng lên má các thiếu nữ đang xuân, cho thêm đẹp, thêm mặn mà, duyên dáng bao nhiêu… thì đối với tuổi già lại cay nghiệt bấy nhiêu! Mỗi Mùa Xuân đến lại lấy bớt đi của họ một phần sức sống. Mới năm trước thôi, quý ông vẫn còn phong độ, lịch lãm, đi đứng còn hiên ngang, hùng dũng. Quý bà vẫn còn chút nét xuân muộn màng, nụ cười vẫn còn lấp lánh sau khóe mắt, dù làn da đã bắt đầu nhăn… Nhưng năm nay thì ai nấy có vẻ đang trên đà “xuống cấp”! Đi đứng chẳng còn mạnh dạn, vì tim mạch, khớp, huyết áp... bắt đầu tấn công. Tần suất bệnh coi bộ tăng lên dày hơn. Bệnh này chưa chữa xong đã xuất hiện bệnh mới. Tủ thuốc cứ tăng chủng loại, số lượng. Cách vài tiếng là phải uống một loại để khỏi bị xung khắc. Có lúc quên còn bỏ sót cữ! Răng cỏ thì xệu xạo. Có khi thấy đều trân như hạt bắp đó mà chỉ là hàng dỏm, có tác dụng trang trí nhiều hơn, khi ăn thì cố mà trệu trạo nuốt cho khỏi đói. Vì vậy, dù có cao lương, mỹ vị đi nữa cũng chưa chắc hấp dẫn được người già.

Chẳng lẽ đợi tới lúc đó mới thấy mình không còn trẻ nữa? Sự thật thì tuổi trẻ đã xa rời chúng ta từ lâu lắm rồi, may ra còn giữ được tâm hồn trẻ trung đã là quá hiếm giữa thời buổi nhìn đâu, đọc báo nào cũng thấy con người hoặc quá hung dữ, chỉ cần chút chuyện nhỏ là sẵn sàng ăn thua đủ với nhau, bất kể là ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, anh em ruột thịt với nhau! Hoặc sống giả dối, nói một đường, làm một nẻo, từ những vị khoác áo tu hành đạo mạo, trang nghiêm, cho tới quan chức cao cấp được mọi người nể trọng, hét ra lửa một thời. Báo chí đã lên tiếng là đạo đức con người xuống cấp một cách trầm trọng, không biết những vị có trách nhiệm đã nghĩ ra biện pháp nào chưa?

Gạt hết mọi rắc rối phức tạp của cuộc đời, khắp nơi, nhà nhà quây quần đoàn tụ với nhau trong mấy ngày Tết. Chính sự sum vầy của gia đình cũng là điều nhắc nhở đến những người đã đi xa. Tuổi trẻ thì buồn đó rồi quên đó, nhưng người già thì đâu dễ dàng quên. Chỉ cần một chút gì đó cũng gợi nhớ. Một món ăn, một màu áo, một thói quen, một chậu cây, một con vật… liên quan đến người quá cố cũng làm cho họ rưng rưng nhớ đến người đã ra đi, để cứ ray rứt, tiếc nuối mãi không thôi. Nhưng nhớ để rồi làm được gì? Mang vàng hương đến Chùa nhờ Cầu Siêu chăng? Nếu tin Đạo Phật là Nhân Quả thì nên biết rằng không thể do Cầu mà Siêu. Những việc làm đó chỉ có giá trị là làm an lòng của người ở lại mà thôi. Mọi người vẫn làm thế để kể như là đã gởi gấm người thân cho bề trên, còn họ có Siêu hay không chỉ có trời mới biết! Chính những người khởi xướng còn chưa biết, nói chi là ta. Bằng chứng là năm nào việc đó cũng được nhắc nhở lập lại! Một Họa Sĩ, bạn của tôi đã qua đời. Lúc sống ông rất khôi hài. Ông đã nêu ra một vấn đề xem ra không phải là không có lý. Ông nói: “Ông bà tôi chết lâu lắm rồi mà năm nào Chùa cũng nhắc cúng cầu Siêu cho họ. Không biết bao giờ mới Siêu đây? Nếu những năm qua Cầu mà đã Siêu rồi thì cần gì cầu tiếp? Còn nếu cứ tiếp tục thì chứng tỏ lời Cầu không linh ứng!”. Ông bạn đó đã “tiêu diêu nơi miền Cực Lạc” mấy năm rồi, chắc đã có cơ hội kiểm chứng, tiếc một điều là không thể nói cho ai biết kết quả thế nào!

Do vậy, theo tôi, nếu ta muốn tích phước hồi hướng cho người quá cố thì hay nhất là nên mang tiền giúp đỡ cho những người thật sự cần, vì Kinh dạy họ cũng là những vị “Phật sẽ thành” nhưng còn đang trả nghiệp. Giúp cho họ cũng không khác gì giúp cho Phật. Việc Phóng Sinh cũng tốt, dạy cho ta biết yêu thương loài vật, cứu đi một mạng cho chúng. Nhưng tốt nhất cũng đừng tự biến mình thành nạn nhân ngây thơ của những người bán chim để Phóng Sinh chuyên nghiệp.

Thật sự ra, việc PHÓNG SINH, BỐ THÍ mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. BỐ THÍ và PHÓNG SINH mà Đạo Phật muốn dạy cho ta làm, đó là XẢ ĐI LÒNG THAM LAM, SÂN HẬN, SI MÊ, ĐỐ KỴ, GANH GHÉT, GIẬN HỜN. Đạo Phật cho là chúng ta đã nuôi dưỡng, giam hãm chúng từ biết bao đời rồi. THẢ chúng đi, XẢ những thứ đó đi, là ta đã PHÓNG SINH hay là “ĐỘ SINH”. Qua đó, cái Tâm ta cũng sẽ được nhẹ nhàng, được Giải Thoát khỏi phiền não. Rõ ràng nếu ta giận hờn, oán ghét, căm thù ai không thôi, thì tâm của ta đâu có được yên. Rốt cuộc là chẳng những không làm gì được họ mà bản thân mình thì tự đày đọa mình bởi cay đắng, tức tối, đôi khi còn lên máu vì nó! Rồi thì có người không đủ kiên nhẫn để chờ pháp luật xử lý, tự mang hung khí đi trả thù, muốn đòi mạng kẻ thù ngay lập tức, để rồi đôi khi vì đó mà đưa thân vào tù! Hậu quả là sau đó, không chỉ riêng người hành động lỗ mãng, mà người thân của họ cũng bị họa lây. Vừa phải nuôi con cho họ, vừa phải đi thăm nuôi họ! Khổ chồng chất Khổ! Suy ra thì bị người hại còn chưa đủ, chính ta còn tiếp tay để tự hại thêm! Đợi đến khi nhận ra thì hối hận cũng đã muộn! Do đó, Đạo Phật cho người nuôi dưỡng Sân Hận là tạo một cái Địa Ngục trong tâm, lúc nào cũng sùng sục, nung đốt chính người chứa nó. Đàng nào quá khứ cũng đã qua, đâu thể quay lại được. Nhưng mấy ai thấy được để tìm cách dập tắt Sân Hận đi cho cái tâm được nhẹ nhàng! Chính vì vậy mà Đạo Phật đặt nặng về Tư Duy. Kinh Đại Bát Niết Bàn viết: “Dù có người trải qua vô lượng vô số kiếp chuyên tâm thính Pháp. Nhưng nếu không Tư Duy thì không thể đạt Vô Thượng Bồ Đề”. Đúng thế, năm năm, tháng tháng siêng năng đi Chùa, nghe pháp, không bằng một giờ ta lắng lòng tư duy.

Nói Tư Duy cho nó cao cấp, thật ra chỉ là chịu khó suy nghĩ về vấn đề nào đó. Mọi người đã quá quen với thời biểu thường ngày đã trở thành nếp. Làm việc, ngủ nghỉ, giải trí. Ít ai chịu nghĩ rằng hiện giờ chúng ta đang tồn tại đây, có vẻ mạnh khỏe là vậy, nhưng chỉ cần một tai nạn bất ngờ, hay bệnh tật nào đó ập đến là cái Thân mong manh này có thể dễ dàng đổ gục. Do vậy, ngày xưa Đức Thích Ca phải dẫn Đệ Tử tới những chỗ bỏ thây người chết, cho nhìn những cái xác đang chương sình, hôi thối, ruồi nhặng bu quanh để dạy cho họ Quán Vô Thường mà rời bỏ sự đắm nhiễm vào cái Thân. Nhưng thật ra cũng chẳng cần nhọc sức đến như vậy, chỉ cần hình ảnh người thân đã lên bàn thờ thôi. Nếu phút nào đó, chịu khó lắng lòng, ta sẽ thấy ra biết bao nhiêu điều cần thấy. Nào xinh đẹp, tài hoa, giỏi giang, giàu sang, địa vị, chức quyền, vinh hoa phú quý, lầu đài, dinh thự, ruộng đất bao la, xe cộ đời mới… giờ còn lại gì đâu? Một bài vị, một nắm mồ, hay chút tro cốt nằm trong hũ lạnh lẽo! Chỉ có bấy nhiêu đó thôi! Sang, hèn, giàu, nghèo, giỏi, dở… đều bình đẳng như nhau. Sắm được một mộ phần trong khu đất vàng. Tốn tỷ nọ sang tỷ kia, trần thiết rồng chầu, phụng múa để báo hiếu cho ông bà, cha mẹ, thì nắm xương tàn nằm trong đó cũng có ngắm được đâu! Con cháu về sau biết có thì giờ để tới đó mà vãng cảnh, hay mỗi năm một lần, sắm chút hương hoa, đến thăm rồi chưa tàn cây hương đã vội vàng quay về, vì người chết thì đã yên phần với mồ yên mả đẹp rồi, người sống còn bao nhiêu việc phải giải quyết!

Một người bạn vừa gởi cho tôi một ký sự bằng hình ảnh về chuyến du lịch hành hương ở Miến Điện, nơi được gọi là Đất Phật với 90% dân số theo Đạo Phật và những ngôi Chùa lộng lẫy được đánh giá thuộc bậc nhất thế giới. Cảm giác của tôi sau khi xem là thấy bùi ngùi! Thật vậy, theo người thuyết minh và hình ảnh được quay trong đó thì đất nước Miến Điện còn nghèo. Xe hơi lưu thông trên đường đa số là đời cũ, những chiếc từ đời 50 và thập niên 80. Thành phố thì không có nhà cao tầng nhiều, và nổi bật nhất là những ngôi Chùa. Chùa Tháp Vàng thì được đúc từ thế kỷ thứ 6, bằng cả 60 tấn vàng. Vương miện của Phật được đính kim cương và các loại đá quý. Có cái được gắn cả 84.900 viên ngọc quý, có cái là 1.600 viên hồng ngọc, viên to nhất đến 76 ca ra. Chùa nào cũng lấp lánh ánh vàng. Hoàng cung so ra quá nhỏ bé đối với các Chùa! Tóm lại thì những gì quý nhất, sang nhất, đẹp nhất đều tập trung nơi các ngôi Chùa. Trong khi đó, đường lên Chùa Đá khúc khuỷu, quanh co cả 4, 5 cây số đường dốc, mà xe đưa khách tham quan lên Chùa là loại xe tải cổ lỗ xĩ, băng để ngồi được đóng bằng những thanh gỗ. Khách nhiều tuổi hoặc thiếu sức khỏe, đi bộ không nổi thì trả tiền thuê 4 thanh niên khiêng trên những chiếc kiệu làm bằng hai cây tre dài, trên đó là chiếc ghế ngồi rất thô sơ, như vật dụng của từ thế kỷ trước! Ở Miến Điện vẫn tồn tại một số ngôi làng rất nghèo, người dân làm thuê kiếm ăn từng bữa. Nhà cửa thì trống hoác, xơ xác, trong nhà không có vật gì đáng giá!

Có lẽ nhận xét của tôi trái với những người sùng bái Đạo Phật một cách mù quáng. Nhưng không riêng gì tôi mà có lẽ ai cũng thấy: Đối với một đất nước mến mộ Đạo Phật đến dồn hết mọi thứ quý giá nhất cho Chùa như thế, chứng tỏ lòng thành của họ rất cao. Chùa cất cũng đã trên ngàn năm. Người dân xứ đó vẫn thành khẩn cầu xin và tiếp tục dùng vàng dát mỏng để thường xuyên tôn tạo Chùa, Tháp. Nếu cứu độ được hẳn Phật đã không thể làm ngơ rồi! Nhưng đến thời này rồi mà dân ở đó cũng vẫn còn lạc hậu, đói nghèo, chứng tỏ Đạo Phật chân chính nói đúng: Không thể dựa vào lời cầu xin, mà chỉ nên tin vào Nhân Quả. Chỉ có bằng những kế hoạch, hành động thực tiễn mới đưa dân nước đi lên. Bởi so với các nước không sùng bái Đạo Phật như Châu Âu, không hề biết đến Phật, không mong chờ sự cứu độ của Phật, mọi người chỉ tin vào thành quả của việc lao động bằng tay chân hay trí óc của bản thân. Họ nâng cao trình độ dân trí, không ngừng phát huy khoa học, kỹ thuật, thì người dân của họ lại có mức sống rất cao. Vô tình họ đi đúng đường hướng của Đạo Phật là chỉ tin vào Nhân Quả.

Người thuyết minh có nêu ra trường hợp Chùa rất đông người tới cầu nguyện, họ đều bỏ dép bên ngoài, nhưng dù giày dép mắc bao nhiêu cũng không hề bị mất, để kết luận: “đất nước nào có sự giáo hóa của Đạo Phật thì người dân sống tốt đẹp, không gian tham”. Trên thực tế, chưa hẳn chỉ những nước chịu sự giáo hóa của Đạo Phật mới không gian tham. Ở nước Mỹ đâu có bao nhiêu người theo Đạo Phật, nhưng nhân viên Bưu Điện vẫn thường phát bưu kiện bằng cách để ngay cửa của địa chỉ nhận thư. Họ tới nhà, bấm chuông, chẳng cần biết nhà có người ra nhận hay không, cũng để ngay cửa rồi đi. Chủ nhà đi làm về thấy bưu kiện để ngay cửa là chuyện bình thường. Nếu hiện tượng bị lấy mất thường xuyên diễn ra chắc là họ phải thay đổi cách phát rồi! Nhiều nước còn có cả một trung tâm tiếp nhận hàng bị thất lạc, chờ chủ tới nhận. Vì vậy, theo tôi, nếu chúng ta chỉ giáo dục con người có đạo đức, không gian tham, mà đất nước vẫn còn lạc hậu, người dân vẫn còn nghèo đói thì không có gì đáng để hãnh diện. Đạo Phật đâu có khuyến khích nghèo đói. Kinh DUY MA CẬT mô tả ngài là một trưởng giả, của cải nhiều vô số, làm ăn, quen biết lớn để có cơ hội tiếp xúc mà giáo hóa mọi người. Con người phải làm ra của cải, phải làm giàu cho đất nước, tạo điều kiện cho nhiều người nghèo có công ăn, việc làm, miễn là không gian tham, lừa đảo, tàn sát lẫn nhau.

Phải chăng nghĩa của PHẬT, BỒ TÁT là cứu khổ, ban vui cho chúng sinh? Do chúng ta quen nghĩ rằng chỉ những vị được nêu tên trong Kinh như Ngài Quán Thế Âm, Địa Tạng, Phổ Hiền vv… mới là Bồ Tát, không biết rằng những ai quên mình, giúp đỡ, cứu khổ, ban vui cho người khác thì rõ ràng là đang hành “Hạnh Bồ Tát”? Như vậy họ chẳng phải Bồ Tát là gì? Như thế, nhìn vào hiện đời có biết bao nhiêu là Bồ Tát đang hành nguyện. Đó là những người trực tiếp hay gián tiếp, cách này, cách khác, san sẻ những lo âu, phiền muộn, đau khổ cho con người. Giúp cho con người tiến bộ hơn, hạnh phúc hơn. Đó mới thật sự là Đạo Phật đi vào hành dụng. Cần gì phải Quy Y? Cần gì phải có sắc phục? Cũng đâu cần phân biệt tôn giáo, dân tộc, hay trình độ nào?

Đạo Phật đâu chỉ dạy cho con người bỏ Tham, Sân, Si đi, để sống hòa bình với nhau, mà còn dạy Nhân Quả, tức là phải gieo Nhân Thiện để gặt Quả Lành cho bản thân, đồng thời qua đó cũng góp phần làm ích lợi cho cộng đồng, cho xã hội. Trong khi xã hội còn cần biết bao nhiêu bàn tay đóng góp, xây dựng các mặt. Mọi người tùy tài, sức mà tham gia. Nếu ta đang tuổi thanh xuân, sức khỏe dồi dào, thể lực cường tráng mà lại nhân danh con đường tu hành, rồi ngồi yên, sống thụ động, cả suy nghĩ cũng không dám, vì sợ thất niệm thì rõ ràng ta đã hiểu sai cách thức tu hành. Lục Tổ Huệ Năng dạy:

“Có tình hiểu biết đương nhiên động

Không động là loài chẳng có tình

Học đạo nếu tu hạnh chẳng động

Giống loài chẳng động tức không tình”

Do đó, Ngài dạy:

Muốn tìm cảnh thiệt Tâm không động

Trong lúc động mà Tánh chẳng lay.

Chẳng động, thiệt ròng tâm chẳng động.

Không tình đâu có giống Như Lai”

Hiểu cho rõ, để hành cho đúng. Việc người tu cần làm là Xả bỏ Ngã Chấp, Pháp Chấp để Hết Khổ. Việc Xả đó đâu nhất thiết phải ngồi yên, bất động, không được suy nghĩ gì hết thì mới làm được? Nếu có đọc Kinh thì ta phải thấy là Ngài Huệ Năng được Truyền Y Bát trong khi chưa hề Xuất Gia, Cạo Tóc, Đắp Y… và cả ngày phải làm việc chẻ củi, giã gạo. Mãi sau 15 năm trốn lánh, ở chung với đám thợ săn, khi cần phổ biến Chánh Pháp mới vô Chùa xuống tóc, thọ Giới với Pháp Sư Ấn Tông. Người tu cũng không phải bỏ việc đời để mơ màng Tây Phương, Đông Phương, vì những cõi đó là ở trong Tâm của mỗi người, được Phật phương tiện diễn tả nhằm dẫn dụ cho con người vì ham được về đó mà cải ác, hành thiện, để cuộc sống được tốt đẹp hơn mà thôi.

Cuộc sống dù cho là giả tạm nhưng cũng kéo dài cả trăm năm. Thời gian tồn tại mọi người đều hưởng dụng thành quả của người khác, vì vậy mỗi người phải có nhiệm vụ đóng góp cho xã hội, để vừa đáp đền Tứ Ân, vừa trả nợ cuộc đời, nhưng nhờ học hỏi, thực hành theo Giáo Pháp của Đạo Phật mà được Thoát Phiền Não, được như Hoa Sen mà Đạo Phật dùng làm biểu tượng. Như thế mới thực sự là mục đích mà Đạo Phật muốn mọi người đạt tới. Nếu bỏ đời, trốn đời, xây tường rào để các pháp không chạm tới được thì Giải Thoát đâu còn ý nghĩa gì nữa!

Nếu chỉ cuốn theo công việc mưu sinh, nhìn thấy mọi việc trước mắt thì không bao giờ chúng ta có thể nghỉ ngơi được. Nếu ngày tháng cứ trôi tuột đi, không có điểm dừng như ngày Tết, hẳn là mọi người sẽ quay cuồng trong vòng quay bất tận. Vì vậy, Giao Thừa là khoảnh khắc giao thoa giữa năm cũ và năm mới, là lúc ta buông bỏ mọi bon chen, tính toán để có thể nhìn lại nhiều thứ. Cắm cúi làm, vắt hết sức kiếm tiền rồi sẽ đi tới đâu? “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”. Câu nói này cũng nhắc nhở được một số người mải mê xông pha vào vòng danh lợi để giật mình mà sắp xếp cuộc sống sao cho vừa phải. Cái Thân Vô Thường, biết nó có sống chờ đến lúc ta về hưu chăng? Hay quan chưa tha thì ma đã bắt?

Có một đoạn trong quyển “Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới”, là một best seller của tác giả Og Mandino mà tôi rất tâm đắc: “Tôi sẽ sống hôm nay như là ngày cuối cùng của đời tôi. Tôi sẽ ôm hôn vợ tôi, nâng niu các con tôi khi chúng còn trẻ dại và đang còn ở cạnh tôi. Ngày mai chúng sẽ lớn lên và đi mất, tôi đâu còn có thể ve vuốt chúng nữa. Tôi sẽ giúp đỡ bạn bè khi họ cần, vì ngày mai họ sẽ không còn cần đến sự trợ giúp của tôi, và tôi cũng không còn nghe tiếng họ cầu cứu nữa. Họ sẽ ra đi, và tôi cũng thế…”.

Mọi người quen nhìn Phật Pháp như những gì xa xôi, tưởng như mang đầy tính chất huyền bí, nên không thấy liên quan, không thấy dính dáng gì đến đời thường, trong khi Vô Thường đã tác động trên mọi lãnh vực, mọi khía cạnh của cuộc đời và luôn diễn ra trước mắt chúng ta: Một đóa hoa nở rồi tàn. Một chiếc lá rơi. Bình minh lên. Hoàng hôn xuống. Mùa Đông qua. Mùa Xuân lại. Con người trẻ rồi già. Năm rồi người thân chúng ta còn sum họp với gia đinh. Năm nay đã ra người thiên cổ…

Chính vì không nghĩ đến Vô Thường sẽ mang ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, ngay cả bản thân ta đi bất cứ giờ phút nào, nên chúng ta đã sống hờ hững bên mọi người. Thiếu sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc, đợi đến lúc họ ra đi mới giật mình, hối tiếc, rồi có khóc lóc, kể lể thì cũng chẳng làm được gì nữa! Cũng chính vì không nghĩ đến Vô Thường, không nghĩ rằng có một ngày mình sẽ ra đi, bỏ lại tất cả nên mọi người đã tranh giành với nhau. Nước này với nước khác. Nhóm này với nhóm nọ. Cá nhân này với cá nhân kia. Chỉ cần nghĩ rằng hôm nay là ngày cuối của đời mình, tôi tin rằng thế giới sẽ có hòa bình ngay lập tức. Sẽ không còn ai khuyến khích đánh giết nhau. Vì đánh nhau, tranh giành tài nguyên, đất cát để lại cho ai? Mọi người sẽ thôi không còn tìm cách để tiêu diệt đối thủ nữa, mà buông vũ khí chạy ngay về nhà để gần gũi, thương yêu vợ con. Người giàu sẽ chia bớt của cải cho người nghèo, vì ngày mai chết đi họ cũng đâu có mang theo được. Vợ chồng sẽ yêu nhau thắm thiết hơn bao giờ hết, vì họ biết rằng chỉ ngày mai thôi, là sẽ mất nhau vĩnh viễn. Anh em cũng thôi xâu xé nhau vì chút gia tài. Con cái quan tâm chăm sóc cha mẹ hơn. Cha mẹ cũng thôi lo mê mải kiếm tiền, để cận kề, yêu thương con cái, biết quý trọng những ngày tháng còn sống bên nhau. Những người chủ gia đình sẽ không còn khề khà bên bia, rượu, mà tích cực làm ăn để rủi ngày mai mình ra đi thì không còn ai lo cho họ…

Trong ngày Xuân được hưởng bầu không khí ấp áp, tốt đẹp, an lành, sum vầy bên gia đình, chúng ta không thể không tri ân rất nhiều người. Từ những bậc tiền nhân đã dựng nước, bảo tồn đến nay đến ông bà, cha mẹ, thầy, cô. Người làm ra hạt gạo, củ khoai, rau, trái để cho ta bồi dưỡng, duy trì tấm thân. Người thầy thuốc, miệt mài tìm những phương thức mới để giúp con người giữ được sức khỏe. Đấu tranh, dành lại mạng sống của con người khi bị đe dọa. Người lao động bỏ công sức, mồ hôi để ta có được nhà cửa kiên cố, quần áo tốt đẹp, vật dụng, phương tiện ngày càng tinh xảo… Thậm chí, Đạo Phật còn dạy cho ta biết ân những nghịch pháp, vì đã làm cho ta trưởng thành hơn. Để có được một thân người toàn vẹn, thoát qua bao nhiêu ách nạn như hôm nay, chúng ta thọ ân biết bao nhiêu người. Vì thế, còn một ngày sống là còn một ngày trả nợ cho đời, cần sống cho xứng đáng.

Rồi nếu có nhìn ra thế giới chúng ta sẽ thấy: Trong khi hiện tại nhiều nước đang còn chiến tranh, khủng bố, tật ách, tai họa thiên nhiên giáng xuống, nhiều nơi thậm chí nước không có đủ mà dùng, thì chúng ta được sống trong hòa bình. Mưa thuận, gió hòa. Mọi người yên ổn làm ăn. Đó là cái phước rất lớn, chúng ta nên trân trọng giữ gìn, vì theo Kinh viết thì phải là người tu nhiều kiếp mới được sinh ra trong thời thái bình, không bị thiên tai, nhân tai làm cho điêu đứng khốn đốn.

Ngày Mồng Một Tết theo các Chùa thì đó là lễ Vía Đức Di Lặc. Theo truyền thuyết thì Đức Thích Ca có nói rằng thời sau sẽ có Đức Di Lặc hạ sanh để cứu đời, cho nên nhiều Giáo Phái cũng dựa theo đó để mong đợi một ngày Đức Di Lặc sẽ từ trên trời hay ở nước nào đó ra đời để cứu độ chúng sinh. Lời Đức Phật Thích Ca có rất nhiều ẩn dụ, nếu ta không hiểu rõ có khi trở thành Nhị Thừa, mong đợi sự cứu độ của ngoại Phật. Trong khi đó, theo chính Kinh giải thích thì PHẬT không phải là Ông Phật - theo nghĩa là một vị Thần linh - mà đó là nói về tình trạng Giải Thoát khỏi Phiền Não. Người giải thoát khỏi Phiền Não thì được gọi là Phật. Nếu nói về cứu độ thì ngay cả con của Đức Phật Thích Ca là La Hầu La cũng phải tự tu để Tự Độ. Lẽ nào Ngài lại cứu độ cho ta? Nếu Phật cứu độ được thì nhân loại hẳn không còn chiến tranh, tật ách, đói nghèo, mà được hưởng hòa bình, an lạc từ lâu rồi. Lẽ nào tới thời này chúng ta còn chưa nhận ra điều đó?

Nhiều người thắc mắc không biết đến bao giờ thì Chánh Pháp hay Phật Di Lặc ra đời? Kinh dạy: Những người quay vô, năng tịnh, tự điều phục Lục Căn của mình, để Lục Tặc biến thành Lục Hộ Pháp. Tham Sân Si biến thành Giới, Định, Huệ. Phiền Não biến thành Giải Thoát. Địa Ngục biến thành Ao Sen. Lúc đó cái Tâm của họ đã được thanh tịnh, an vui, được Đức Thích Ca phương tiện gọi là Đức Di Lặc ra đời. Do đó, đâu cần ngóng lên trời hay hành hương sang nước nọ nước kia mong gặp được Phật? Đức Thích Ca và Chư Vị Giác Ngộ cũng là những con người bình thường như tất cả chúng ta. Do vậy, những gì các Ngài đã thực hành, đã thành tựu được thì chúng ta cũng sẽ làm được. Mấy ngàn năm về trước hay vô lượng đời sau cũng giống nhau. Vì vậy, thay vì quay ra, tìm ngoài, chờ đợi Phật nào bên ngoài sẽ đến để cứu độ, là điều không thể có, thì mọi người cứ quay vô Tâm mình. Chuyển hóa nó. Dùng 32 Tướng Tốt để hình thành vị Phật của mình. Không cần tìm kiếm đâu xa. Không cần quỳ lạy Phật nào, tượng nào. Tổ Đạt Ma dạy: “Đừng mang Phật ra mà lạy Phật”. Lục Tổ Huệ Năng thì dạy: “Muốn kiếm Phật phải ngó trong Tánh mình mà tìm. Đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm”. Vậy tại sao ta không áp dụng theo lời các Ngài mà tìm đâu cho xa vời? Theo những gì tôi đọc được trong Chính Kinh, thì không cần phải đợi đến 3.000 năm, mà bất cứ thời điểm nào, nếu nơi Tâm của ai đã trừ hết Phiền Não, được Giải Thoát, thì Chánh Pháp hay Phật Di Lặc đã ra đời nơi quốc độ đó vậy.

Tháng 1/2015 Tâm Nguyện

 


Phụ bản I

NHẠC XUÂN

của PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG

PHẠM DUY & VĂN CAO


PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG

(14/11/1929 – 22/8/1991) với Ly Rượu Mừng.

Nhớ trước hết và hơn cả, vì không có Tết nếu không có Ly Rượu Mừng. Khởi đầu cho chương trình bao giờ cũng bằng ca khúc này. Không có lời chúc tụng nào đầy đủ cho mọi ngành mọi giới bằng sáng tác bất hủ này. Nếu Tây phương có bài Auld Lang Syne, được Pháp hóa thành Ce n’est qu’un au revoir, là biểu tượng của giờ phút cuối của một năm, thì Ly Rượu Mừng đánh dấu một khởi đầu đầy hy vọng của năm mới với nét nhạc cung Fa trưởng tươi sáng, rộn rã.

Khi còn đủ cả năm người trình bầy ca khúc, Ban hợp ca Thăng Long là một kết hợp tuyệt diệu. Ba giọng nữ Thái Thanh, Thái Hằng, và Khánh Ngọc quyện nhau như một. Giọng cao nam của Hoài Trung vững vàng dũng mãnh hòa với giọng Hoài Bắc (tức tác giả) giữ bè ba rất điêu luyện.

Với nghệ danh Hoài Bắc , Phạm Đình Chương (là tên thật) cùng: anh Hoài Trung ( Phạm Đình Viêm ), và các em Thái Thanh ( Phạm Thị Băng Thanh ), Thái Hằng ( Phạm Thị Quang Thái vợ nhạc sĩ Phạm Duy ) và về sau có Khánh Ngọc (vợ cũ của Phạm Đình Chương ) lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng.

Đặc biệt hơn hết là lúc coda tức là đoạn kết, Hoài Trung hát Ad lib câu “ước mơ hạnh phúc nơi nơi”... thật sung mãn và nghệ thuật. Những giọng kim nam dù có mạnh và điêu luyện đến đâu cũng không địch nổi một Hoài Trung ở câu này, như được viết cho riêng Hoài Trung. Cái chất giọng vang vang, ngời ngời tỏa sáng đó thật hợp với lời chúc hạnh phúc gửi đến mọi người…

Bài hát: Ly Rượu mừng

Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi

Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi

Người thương gia lợi tức, Người công nhân ấm no

Thoát ly đời gian lao nghèo khó

Á a a a

Nhấp chén đầy vơi Chúc người người vui

Á a a a…

Muôn lòng xao xuyến duyên đời

….

Bạn hỡi, vang lên

Lời ước thiêng liêng

Chúc non sông hoà bình, hoà bình

Ngày máu xương thôi tuôn rơi

Ngày ấy quê hương yên vui

Đợi anh về trong chén tình đầy vơi

Nhấc cao ly này

Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do

Nước non thanh bình

Muôn người hạnh phúc chan hoà

Ước mơ hạnh phúc nơi nơi

Hương thanh bình đang phơi phớị...

Phạm Đình Chương còn một bài viết về Xuân vui tươi là Đón Xuân nhịp Swing rất Mỹ. Lời ca trong bài là những ước vọng một mùa Xuân thái hòa, tái dựng lại một cuộc sống vui tươi, xóa đi những đau thương buồn khổ. Ngày nay, chúng ta thường nghe bài này trong khiêu vũ trường.

Nhưng, đã nhớ xuân xưa thì phải nhắc đến Xuân Tha Hương, cũng của Phạm Đình Chương. Nhạc phẩm được viết trước năm 1954 mà đã mang tâm sự kẻ tha hương thấy khao khát trở về đón Xuân nơi quê mẹ. Ca khúc được viết trên nhịp Boston chậm buồn. Cung nhạc Ré trưởng làm nét buồn bâng khuâng luyến nhớ chứ không ủ ê như trên cung thứ. Phạm Đình Chương viết bản nhạc rất công phu. Bình thường, bản nhạc có một điệp khúc, mà trong bài này, ông viết hai điệp khúc. Như Dương Thiệu Tước khi viết Ngọc Lan vậy. Vì thế ca khúc khá dài, ít khi được hát nguyên bài hai lần mà chỉ một lần rưỡi là tối đa. Xuân Tha Hương còn là nhạc đề của cuốn phim Người Mỹ Trầm Lặng (The Quiet American Man) từ cốt truyện của Graham Greene.

Ngoài ra Phạm Đình Chương còn sáng tác một bài về Xuân mang tựa đề Lá Thư Mùa Xuân. Bài hát có lời ca hơi “chiến dịch” vì ông viết vào khoảng năm 1956 khi phong trào nhập ngũ được phát động. Lời ca diễn tả tâm trạng người vợ trẻ khi Xuân về nhớ đến chồng đang gìn giữ biên cương nơi xa xôi. Nàng ước mong Xuân về mang lại thanh bình yên ấm cho quê hương và nhắn nhủ người yêu bền tâm chiến đấu. Như những bài thơ xưa của Hoàng Cầm, nàng nhắc đến con thơ mới thôi bầu sữa (tức là còn bé lắm) để chồng thêm nhiệt huyết có ngày trở về...

PHẠM DUY tên thật là Phạm Duy Cẩn

(5/10/1921 - 27/01/2013) với Hoa Xuân.

Người nhạc sĩ đem cuộc đời mình hiến dâng cho âm nhạc và đem âm nhạc gắn liền với quê hương như một định mệnh là Phạm Duy. Ông có nhiều ca khúc trác tuyệt về Xuân.

Phổ biến là Hoa Xuân, viết năm 1953 trên nhịp Slow tha thiết. Lời ca xưng tụng mùa Xuân nơi thôn quê. Có đàn em bé ngoài đê, có chàng trai ngắt bông hoa biếu người thiếu nữ tuổi xuân thì. Xuân trong hồn người tỏa hương với đất trời. Đây là một trong những ca khúc hát dễ hay, người dễ nghe. Bài hát nào của Phạm Duy hát nghe cũng thuận, điều này dễ hiểu, vì ngoài lãnh vực sáng tác ông là một ca sĩ.

Xuân Thì là bài Xuân ca đáng nhớ khác của Phạm Duy. Nhịp Luân vũ 3/4 chầm chậm, khoan thai dìu dặt rất thích hợp với cấu trúc lục bát của lời ca. Phạm Duy viết bài này năm 1952, có lẽ do chiến sự tạm lắng đọng trước khi kết thúc thảm khốc, nên lời ca về Xuân mà vẫn nặng không khí chiến tranh với hình ảnh hoa đào nở trên vết mòn chiến xa và nét nhạc mang âm hưởng Nhật Bản man mác.

Khi viết Xuân Ca thì tâm trạng tác giả đã khác. Ca khúc là niềm vui trọn vẹn giữa Đất trời. Xuân từ trong lòng mẹ cha, và từ đó góp chung lời kêu gào thiết tha cho một mùa Xuân vĩnh cửu. Xuân ca soạn theo ngũ cung Việt Nam.

Có lẽ mùa Xuân của Phạm Duy đẹp nhất là... về đêm. Một bài Xuân ca rất sớm viết từ năm 1948 tại chợ Neo, Thanh Hóa, là để tặng Thái Hằng, người bạn trăm năm. Đó là Đêm Xuân, một bài ca xưng tụng tình yêu. Bàng bạc trong toàn bài là một xúc cảm chân thành, tha thiết và còn có ý vỗ về nữa. Từ hình ảnh đôi chim uyên đến báo tin Xuân đã về đến tiếng câu hát buồn và tiếng đàn ru hồn… tất cả đưa đến tình yêu, và yêu rồi thì xin đừng nhạt phai…

Không hiểu vì sao trong những ca khúc viết tặng vợ, nhạc sĩ Phạm Duy hay đề cập đến cây đàn. Từ cây đàn trong Đêm Xuân khiến lòng thiếu nữ xốn xang đến cây đàn dâng cho người yêu góa bơ vơ trong Tạ Ơn Đời… Chính Phạm Duy cũng không ngờ “nàng” lại đi trước. Hình ảnh góa phụ ôm cây đàn bơ vơ là hình ảnh của chính mình. Ngậm ngùi biết bao.

Lời bài hát: Hoa xuân

Xuân vừa về trên bãi cỏ non

Gió Xuân đưa lá vàng xuôi nguồn

Hoa cười cùng tia nắng vàng son

Lũ ong lên đường cánh tung tròn

Hoa chẳng yêu lũ bướm lả lơi

Muốn yêu anh vác cầy trên đồi

Hay là yêu chiến sĩ ngàn nơi

Thấy hoa tươi cuời bỗng thương đời

Xuân! Hoa còn tươi mãi

Hoa vì nhân thế biết sum vầy cuộc vui

Xuân! Hoa nở vì ai

Tay nhịp bàn tay cùng đắp xây ngày mai

Có một chàng thi sĩ miền quê

Ngắt bông hoa biếu người xuân thì

Có một đàn em bé ngoài đê

Hát câu i tờ đón Xuân về

Những đoàn người trên luống cầy nâu

Thấy hoa xuân phép lạ ra màu

Bỗng nhủ lòng ra sức cầy sâu

Tiếng ca như thể tiếng kinh cầu

Hoa bèn yêu bóng dáng cần lao

Bắt tay nhau tránh cuộc cơ cầu

Người cùng mùa đã thoát vực sâu

Sức reo hoa nở lúc Xuân đầu

Xuân! Hoa tỏa hương mới

Nhân quần ân ái đã kêu đòi niềm vui

Xuân! Hoa là tình tôi

Đua nở cùng ai cùng quyến luyến mọi nơi

Có một bầy thôn nữ nhìn hoa

Chúc cho Xuân vui vẻ thái hòa

Có một vài tóc trắng thầm mơ

Ước cho hoa nở mãi không già

VĂN CAO tên thật Nguyễn Văn Cao

(15 tháng 11, 1923 – 10 tháng 7, 1995)

-người tiên tri của thời đại với “Mùa xuân đầu tiên”.
Bài hát được viết mừng mùa xuân độc lập đầu tiên của dân tộc cũng chính tác phẩm gần cuối trong sự nghiệp sáng tác của cố nhạc sĩ tài hoa Văn Cao.

Vào một ngày giáp Tết Bính Thìn (1976), họa sĩ Văn Thao (con trưởng nhạc sĩ Văn Cao) trở về nhà, sững sờ với tiếng đàn dương cầm vọng ra từ căn gác nhỏ số 108 Yết Kiêu. Đó là một điệu valse mượt mà, dìu dặt theo như ông kể lại. Cùng với đó là cảnh tượng mà lâu lắm rồi ông không được chứng kiến: “Cha ngồi bên đàn. Đôi bàn tay khô gầy của ông đang lướt trên những phím đàn ố vàng, loang lổ. Tiếng đàn ấm áp, ngọt ngào âm vang đầy ắp căn phòng”.

Sau 20 năm kể từ lần cuối cùng Văn Cao tuyên bố gác bút, từ bỏ sự nghiệp sáng tác, ông mới say sưa như vậy bên phím đàn. “Cha sáng tác bài hát này mừng xuân đầu tiên đất nước mình thống nhất” - Văn Cao đáp lại con trai ông bằng đôi mắt sáng lấp lánh. Và Mùa xuân đầu tiên - mùa xuân hòa bình độc lập đã ra đời.

Khác với những ca khúc có cấu trúc phức tạp, ca từ hào sảng như Trường ca sông Lô, Tình ca trung du, Mùa xuân đầu tiên dẫn dắt người nghe vào một không gian âm nhạc giản dị, trong lành bằng một điệu valse khoan thai, dìu dặt mở đầu:

“… Rồi dặt dìu, mùa xuân theo én về

Mùa bình thường, mùa vui nay đã về…”

Nhịp 3/4 đưa đẩy, chậm rãi, nhịp nhàng đón bước người trở về trong niềm hân hoan ngày hội ngộ. Mùa xuân - mùa vui đã về trọn vẹn khi đất nước lần đầu tiên được đón Tết cổ truyền trong hòa bình độc lập. Niềm xúc động ấy trào dâng trong tất thảy mọi người khi nghe đến hai chữ “đầu tiên” thiêng liêng đầy xót xa, thấm thía.

Tuy nhiên, so với các bài hát khác cũng ra đời ở cùng thời điểm này, Mùa xuân đầu tiên của Văn Cao từng bị coi là “lạc điệu”. Nếu như hầu hết bài hát lúc bấy giờ như Đất nước trọn niềm vui của Hoàng Hà, Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng của Phạm Tuyên, Tiếng hát từ thành phố mang tên Người của Cao Việt Bách đều được viết bởi giọng trưởng, âm hưởng hào hùng, sảng khoái, ca từ hân hoan, hừng hực khí thế chiến thắng thì Mùa xuân đầu tiên không nằm trong mạch cảm hứng ấy.

Cũng nói về mùa xuân, về đất nước, về tình yêu nhưng mùa của Văn Cao là “mùa bình thường”, đất nước của Văn Cao là “tiếng gà gáy trưa bên sông” và tình yêu dâng tràn trong mắt ông là khoảnh khắc “nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh” ngày hội ngộ.

Chính vì sự “lạc điệu ấy” mà mặc dù khi hoàn tất, ca khúc được đăng ngay lần đầu tiên trên báo Sài Gòn Giải Phóng số mừng xuân Bính Thìn, đồng thời lập tức được dịch lời và in ở Nga nhưng phải rất lâu sau đó mới được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Nhiều người cho rằng ca khúc gì mà “nghe mơ hồ rắc rối, kêu gọi tình thương một cách chung chung, thiếu tính giai cấp” (Từ đây người biết quê người… Từ đây người biết thương người… Từ đây người biết yêu người). Có ý kiến chỉ trích tính chất ủy mị, yếu đuối (nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh) của bài hát không hợp với khí thế tưng bừng trong ngày vui toàn thắng của dân tộc.

Nhưng cũng chính vì thế mà Mùa xuân đầu tiên ở lại lâu hơn trong lòng khán giả khi tất cả những ồn ào, rực rỡ qua đi. Bởi lẽ, nó đi xa hơn niềm vui tức thì, khi chạm đến những xót xa, thấm thía của một dân tộc bước ra từ đau thương, mất mát của chiến tranh.

Không sử dụng gì nhiều ngoài chất liệu hiện thực, bức tranh mùa xuân của Văn Cao ở đây gần gũi và bình dị như hơi thở, sự sống của những người dân nghèo trên khắp đất nước. Đó là tiếng gà trưa, là giọt nước mắt của bà mẹ “ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ”, là “khói bay trên sông”, là tất cả những đau thương, mất mát lẫn hạnh phúc, tin yêu về một mùa xuân mới.

Văn Cao “đi trước” thời đại có lẽ ở chỗ đó. Ở cái nhìn sâu đằng sau một chiến thắng vang dội là những gì dân tộc này đã phải đánh đổi, hy sinh. Ở cái nhìn xa đằng sau niềm hân hoan phút chốc này là bao nỗi lo về một cuộc đời mới, một cuộc dựng xây mới. Vì thế mà ông vừa bồi hồi, vừa trăn trở:

“… Từ đây người biết quê người

Từ đây người biết thương người

Từ đây người biết yêu người…”

Như một niềm tin vừa được khẳng định nhưng cũng như một băn khoăn, suy tư về tương lai:

“… Từ đây người biết quê người?

Từ đây người biết thương người?

Từ đây người biết yêu người?”

Luôn do dự và hồ nghi là tâm thế một người mang cảm thức của cả dân tộc vừa bước ra từ trong chiến tranh, nâng niu trên tay một niềm hạnh phúc diệu kỳ và mong manh như nằm ngoài sự thật. Tâm thế ấy đã vượt lên trên niềm vui thoáng chốc để dự cảm, để xót xa và để thấm thía về con đường dài phía trước mà dân tộc sẽ phải gồng mình bước qua. Với đầy rẫy những đau thương, mất mát, ly tan hay những vách ngăn không cùng giữa quá khứ và tương lai, giữa thế hệ đã hy sinh và thế hệ được hưởng trái ngọt ngày hôm nay.

Thời gian đã là câu trả lời hùng hồn nhất cho những người từng phủ nhận Mùa xuân đầu tiên của Văn Cao. Đến nay, những giai điệu dìu dặt, khoan thai theo đàn chim én bay trong bài hát vẫn làm ấm lòng người Việt Nam khi Tết đến, xuân về. Nói về những giai điệu đẹp đến nao lòng ấy, nhà thơ Thanh Thảo từng ví: “Cả một dòng sông vui nhưng không trào cuộn ồn ào mà như lắng lại, nghe kỹ thấy những lượn sóng đang run run, những lượn sóng như nhắn nhủ cái gì, báo trước điều gì”.

Chúng ta cũng chia sẻ niềm đồng cảm trong một nhận xét khác: “Giai điệu và ca từ mới nếm vào thì thấy dịu ngọt nhưng cái ý, cái hồn cứ ngấm dần, nghe đắng quanh cổ xuống tận tim gan…”.

Mùa xuân đầu tiên , ý chỉ mùa xuân hòa bình, độc lập đầu tiên của dân tộc nhưng cũng chính là mùa xuân cuối cùng, một trong các bài hát cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác của cố nhạc sĩ Văn Cao . Như một cơ duyên, bài hát cũng phải chịu số phận kỳ lạ, nhiều truân chuyên, trắc trở như chính cuộc đời người nhạc sĩ tài hoa ấy. Có nhiều ca sĩ đã thể hiện thành công bài hát này như nhóm 5 Dòng Kẻ, Tam ca Áo trắng nhưng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả có lẽ là giọng ca Thanh Thúy trong bản hòa âm của nhạc sĩ Bảo Phúc.

Một ngày đầu xuân mới, hãy cùng nhìn lại hình ảnh của người nhạc sĩ tài hoa, râu tóc bạc phơ, thong thả bước xuống chợ Tết trong một mùa xuân xưa cũ năm nào để sống lại những khoảnh khắc “đầu tiên” thiêng liêng, xúc động ấy một lần nữa khi mùa xuân đang về…

Lời bài hát: Mùa xuân đầu tiên

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường mùa vui nay đã về

mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

một trưa nắng cho bao tâm hồn.

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về

Người mẹ nhìn đàn con nay đã về

Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh

Niềm vui phút giây như đang long lanh.

Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.

Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.

Từ đây người biết quê người

Từ đây người biết thương người

Từ đây người biết yêu người.

Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.

Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu

với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.

LỜI KẾT

Hai nhạc sĩ Phạm Duy và Phạm Đình Chương đã sáng tác biết bao ca khúc về Xuân. Thế mà nhạc sĩ Văn Cao chỉ có duy nhất một bài hát Xuân, đặc biệt là Văn Cao đã “đi trước” thời đại vì cái nhìn sâu đằng sau một chiến thắng vang dội là những gì dân tộc này đã phải đánh đổi, hy sinh. Ở cái nhìn xa đằng sau niềm hân hoan phút chốc này là bao nỗi lo về một cuộc đời mới, một cuộc dựng xây mới. Chúng ta thật hết sức cảm phục “thiên lý nhãn” của người nhạc sĩ tài hoa, nhưng lận đận.

Trước thềm Năm mới Xuân Ất Mùi - 2015, người viết xin kính chúc Quý vị Thân hữu và gia quyến:

Một Năm Mới Thân Tâm An Lạc

PHẠM VŨ

CHỢ HOA TẾT

Mỗi độ xuân về đón Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam, đã thành thông lệ Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh có chợ hoa tết. Từ nhiều thập niên trước là chợ hoa Tết Nguyễn Huệ, vài năm gần đây chợ hoa tết được tổ chức tại nhiều nơi như công viên 23-9, công viên Lê văn Tám, Hội hoa xuân Tao Đàn. Chợ hoa tết là một nét đẹp văn hóa của thành phố, người dân Sài Gòn đi chợ hoa vào những ngày cuối năm, dạo chơi, ngắm hoa, chụp ảnh lưu niệm và chọn mua vài chậu hoa đẹp ưng ý về trang hoàng nhà cửa đón xuân.

Với nhiều người, chơi hoa là một thú vui tao nhã mang tính văn hóa và nghệ thuật, mỗi loài hoa có một ý nghĩa riêng, hương sắc riêng của một đời hoa. Có nhiều loài hoa lâu tàn được ưa chuộng như đào, mai, cúc. Có loài hoa đẹp nhưng sớm nở tối tàn như hoa phù dung. Cũng như có loài hoa chỉ nở vào ban đêm là hoa quỳnh được người yêu hoa thức trắng đêm, bên chén trà thơm chờ xem hoa quỳnh nở. Hương hoa quỳnh thơm ngát hòa quyện giữa đêm trong khoảnh khắc vài giờ đêm chưa tàn cánh hoa từ từ khép lại ủ rũ lụi tàn, đọng lại trong lòng người thưởng ngoạn một chút ngậm ngùi “thương hoa tiếc ngọc”. Những người thực tế bận rộn thường chọn hoa Tết là những chậu hoa cúc mâm xôi, chậu quất trái trĩu cành hoặc là loại hoa kiểng bonsai, chậu hoa xương rồng… sang trọng lãng mạn chọn hoa hồng, hoa phong lan. Người cao tuổi thích chọn hoa huệ, hoa vạn thọ chưng bàn thờ tổ tiên. Và còn biết bao loài hoa mới được du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam. Hoa không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Hoa thay lời muốn nói tỏ bày tình cảm cho nhau. Mùa xuân là mùa hoa khoe sắc thắm, bừng lên sức sống mới.

Nguyễn Huệ, choáng ngợp giữa một rừng hoa, thuyền hoa… phố hoa đẹp lộng lẫy, là một công trình văn hóa mang nhiều ý nghĩa trọng đại, được người dân trân trọng. Sau một năm làm việc mưu sinh, đón mùa xuân mới yên bình thịnh vượng, đi giữa phố hoa, tận hưởng thiên nhiên ngắm hoa, niềm vui này là lời chúc xuân hạnh phúc cho mọi người. Có một phố hoa trong mùa xuân về… chúc cho muôn loài hoa luôn tươi thắm tô điểm cho cuộc đời.

Riêng tôi, phố hoa Nguyễn Huệ mãi mãi còn trong nỗi nhớ. Hôm nay được quay về chốn xưa, giữa ngàn hoa đọng trong lòng là những hoài niệm về một thời thanh xuân tươi đẹp. Phố hoa ơi! Chào xuân!

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

CÚNG GIAO THỪA

Mừng năm mới

Để báo hiệu một năm mới bắt đầu thì người Việt Nam có bày ra lễ cúng giao thừa mừng Năm mới bắt đầu từ lúc nào? Có lẽ ai cũng cho rằng nó bắt đầu từ mùa xuân sau khi qua một chu kỳ Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa xuân của một số nước ở Châu Á và Việt Nam bắt đầu từ tháng giêng âm lịch, nó đi sau dương lịch khoảng một tháng trở đi. Năm 2014 nầy, âm lịch có nhuần một tháng thì âm lịch đi sau dương lịch gần hai tháng (mùng một Tết là 19.02.2014 dương lịch). Người Cambodia lại tính bắt đầu năm mới trong tháng ba, từ ngày 20-3 âm lịch trở đi. Giờ cúng thì có năm vào 8 giờ sáng, có năm vào lúc 12 giờ trưa hay một giờ nào đó. Tính năm mới như vậy, có lẽ mùa xuân sắp chấm dứt rồi. Cambodia ở cùng vĩ độ với Việt Nam và ở sát bên thì mùa ở Việt Nam và Cambodia có lẽ không khác mấy nên tính năm mới và cúng giao thừa có lẽ do một sự kiện nào đó quan trọng đối với dân tộc đó mà thôi. Nếu nói đầu mùa xuân bắt đầu từ ngày Lập xuân thì ngày Lập xuân tính theo âm lịch của Việt Nam, tôi nhớ hình như trong khoảng thượng tuần tháng giêng mà thôi. Vậy việc bắt đầu năm mới thì tùy nghi. Người Tây phương thì từ 0 giờ khuya 01-01 dương lịch, người Việt thì 01-01 âm lịch.

Cúng giao thừa của người Việt Nam thì thế nào? Để cho dễ tính, cứ đúng không giờ ngày mùng một tháng giêng âm lịch hay 12 giờ khuya 30 tháng chạp hay 29 tháng chạp nếu tháng thiếu, nhà người Việt Nam nào cũng bày ra một mâm ở trước nhà với hương, hoa, quả để cúng giao thừa. Nếu nhà nào có bàn Thiên thì trên bàn Thiên cũng có bông, trái, bánh, nước và đốt nhang đèn để cúng mà người ta gọi đó là lễ KIẾN. Trong nhà nếu có trang thờ Phật, bàn thờ ông Địa, ông thần Tài… mỗi nơi đều có kiến cả. Riêng trên bàn thờ thì không kiến gì. Tuy nhiên trước khi rước ông bà, trên bàn thờ cũng đã chưng bánh, trái cây, bình bông, hộp trà và các chai rượu nữa.

Lễ cúng gồm:

- Một bình bông

- Nhang, đèn (2 cây), nước

- Một dĩa trái cây (có người chưng ngũ quả)

- Một dĩa mứt, bánh. Có người để một cái bánh chưng hay một đòn bánh tét.

- Một dĩa gạo + Muối (không trộn lộn với nhau)

- Một ly trà (có người để ba ly, còn gọi là bông trà)

- Một bộ đồ thế, đó là hình:

· Hình nam: nhà có mấy nam (từ trẻ tới già) thì để mấy hình.

· Hình nữ: nhà có mấy nữ thì để mấy hình.

- Một hình ông Hổ với bùa bát quái (đó là hình bát giác có vẽ tám quẻ là Càn, Khôn, Cấn, Chấn,…).

Sau khi cúng giao thừa xong thì hình nầy dán ở cửa ra vô (cửa cái) với ý nghĩa là không cho tà ma vô nhà. Tuy nhiên nếu có tà ma vô nhà quấy phá thì nó cứ vô thôi. Ba tôi bị ma quấy phá trong đêm mùng một Tết.

Sau khi đốt nhang, đèn, người chủ trong nhà cúng vái. Lời vái thì mỗi người một cách nhưng chung chung là: Hôm nay năm cũ bước qua, năm mới bắt đầu. Cầu Trời, Phật, Ông Bà phò hộ cho trong nhà trong cửa được yên lành, mạnh giỏi và làm ăn phát đạt.

Cũng có người vái là cung thỉnh nhị vị linh thần:

- Ông Tấn Vương hành khiển,

- Ông Thiên Hạo Vương Tào hành binh về chứng giám lễ cúng giao thừa. Cầu nhị vị phò hộ cho nhơn dân an cư lạc nghiệp, mưa thuận gió hòa. Cầu nhị vị phò hộ mọi người trong nhà được mạnh giỏi và làm ăn phát đạt.

Có lẽ cách vái nầy phải bỏ đi.

- Một là nó mang tính địa phương. Người Việt thì trong tháng giêng có lễ cúng Kỳ Yên ở đình làng tức là cúng cầu an.

- Hai là nhị vị thần linh nầy là ai? Việt tộc là giống độc thần nên chỉ có thờ thần Mặt Trời thôi. Tất cả do ông Thiên quyết định chớ không có ông thần linh nào cả.

Nếu như theo đạo Công giáo hay Thiên Chúa giáo nói chung, tôi thấy ở nước Trời chỉ có Đức Chúa Cha cai quản thôi chớ không thấy nói địa phận nào với ông Thánh nào cả. Mọi việc chỉ có Đức Chúa Cha quyết định thôi. Mừng năm mới của người Công giáo thì:

- Chiều 30 Tết tới nhà thờ cầu nguyện.

- Khuya 30 tết tức là lúc bắt đầu mùng một Tết, ở nhà đốt đèn và đọc kinh trước tượng Đức Chúa, đó là hình thức cúng giao thừa chớ không bày gì để cúng ở ngoài sân cả.

Người Cambodia ở trong lòng miền Nam nước Việt, họ cũng cúng giao thừa ở ngoài sân với 1 bình bông, 1 dĩa trái cây với nhang, đèn, hai ly nước và hình cầm tinh năm đó để dán ở cửa chớ không dán hình ông Hổ với bùa bát quái. Họ vái thì: Vái ông Trời phò hộ cho năm mới mạnh giỏi, làm ăn phát đạt. Lạy lần 1, sau đó vái điều mình cần, lạy lần 2, sau đó vái lời cầu cho con cháu và mọi người trong nhà, lạy lần 3 rồi cúng nước là xong.

Nhìn chung, theo tôi, cúng giao thừa thì:

- Về thực vật cúng, phong tục cổ xưa nay là thế thì giữ lại cũng tốt thôi. Nếu chiết giảm cho gọn trong một mâm cũng được nhưng dĩa trái cây thì vẫn giữ còn mứt bánh thì tùy nghi. Nếu có các đấng thiêng liêng về dự thì bánh mứt do người trần thế chế biến chưa chắc đã hợp khẩu vị của họ. Còn trà, gạo, muối không choán chỗ bao nhiêu thì nên giữ. Gạo vói muối tương trưng cho thức ăn để sống đấy.

- Về lời vái thì tùy nghi, có lẽ vái là năm mới cầu Trời, Đất, Phật, Thánh Thần, Ông Bà phò hộ trong nhà trong cửa được yên ổn, mạnh giỏi và làm ăn phát đạt là đủ. Lạy thì chỉ một lần thôi.

- Sau khi cúng giao thừa xong, nếu cúng trái cây là trái dưa hấu hay nếu không cúng bằng dưa hấu thì cũng lấy một trái trên bàn thờ ông bà đem ra xẻ để bói may rủi. Nếu dưa đỏ thì vui, cho là may. Nhưng ngày nay dưa nào cũng đỏ cả. Sau đó, mọi người ngồi quây quần ăn bánh trái uống nước và lắng nghe cầm tinh xuất thế để bói tốt xấu. Cầm tinh xuất thế là tiếng kêu đầu tiên của bất cứ con vật nào: con ve sầu, con gà, con chó…

Trong mấy ngày Tết, mọi người cố giữ gìn để không có gì không hay xảy đến để mong trọn năm mọi việc được hanh thông. Về mặt kiêng cử nầy tôi cho là không cần thiết vì người Nhựt xưa kia ăn Tết vào ngày mùng một tháng giêng âm lịch, nay họ đã bỏ và ăn Tết vào ngày 01-01 dương lịch thì những cái kiêng cử trong các ngày mùng một, hai, ba và bốn tháng giêng âm lịch, dân Nhựt không còn biết tới nữa.

Quận Tư-Khánh Hội Saigòn 26-12-2014

PHẠM HIẾU NGHĨA

BA MẨU CHUYỆN VỀ VĂN HÓA NGA

QUẢ CỦA QUỶ SA–TĂNG”

Hình như món ăn Nga nào cũng làm từ khoai tây hoặc điểm xuyết khoai tây vậy! Mà quả có thế thì phải. Đối với người Nga khoai tây được coi như thứ bánh mì thứ hai. Bữa ăn của người Nga không thể thiếu khoai tây. Trong những năm chiến tranh vệ quốc gian khổ có nhiều nơi người Nga sống qua được chỉ nhờ vào khoai tây. Anh mugich Nga uống rượu vôtka có được vài củ khoai tây luộc để cả vỏ trong tiếng Nga được gọi bằng thành ngữ “khoai tây mặc chế phục” là hoàn toàn hả hê. Ở nông thôn Nga, nhà người dân nào chẳng có một hầm cất khoai tây để ăn quanh năm ngày tháng. Bếp ăn Nga có tới 80 món làm từ khoai tây.

Ngay ở thế kỷ XVIII, báo chí Nga cũng đã từng ca tụng khoai tây, thậm chí ca tụng đến quá mức. Nào là đó là thứ hoa trang trí, đó là thuốc lá nhồi tẩu, nào là khoai tây có thể chữa bệnh, cũng là chất độc diệt trừ côn trùng, là thứ thuốc tẩy sạch các vết bẩn, là phân bón tổng hợp, là thực phẩm làm ra cả bánh mì, bột lọc, dầu ăn, rượu, cà phê, bột nở, cacao…

Vậy mà thực ra khoai tây mới chỉ được đưa đến nước Nga trước đó không bao lâu: Đại đế Pyotr Đệ nhất mới đưa khoai tây từ Hà Lan về Nga vào cuối thế kỷ XVII. Và trước khi chiếm được vị trí xứng đáng trong ẩm thực Nga, khoai tây đã phải trải qua một giai đoạn chống trả quyết liệt của những kẻ bảo thủ ngay trong giới quý tộc Nga.

Lệnh Sa hoàng bắt dân chúng phải trồng khoai tây, ăn khoai tây… Nhưng có kẻ lại loan truyền câu chuyện hoang đường: cụm khoai tây đầu tiên đã mọc lên từ nấm mộ của một mụ dâm đãng, trụy lạc con ngoài giá thú của ông vua Mamersơ nào đó.

Theo sự xúi giục của quỷ sa-tăng mụ đã sống một cuộc đời tội lỗi sa đọa. Vì thế kẻ nào ăn thứ “quả của quỷ sa-tăng”, chết đi sẽ phải xuống địa ngục. Đã có người hoang mang sợ hãi, hủy bỏ cả những ruộng khoai tây bắt đầu lên xanh tốt trên cánh đồng đất đen Nga mầu mỡ… Song nhờ ý chí kiên quyết của vị Sa hoàng sáng suốt tài ba Pyotr vĩ đại, nhờ vào sức sống và phát triển mạnh mẽ của giống cây của mới tuyệt diệu- khoai tây, cũng như thực tế khoai tây đã cứu sống bao nhiêu con người không chỉ qua một vụ thiên tai, địch họa…Khoai tây đã được công nhận là thứ bánh mì thứ hai của người Nga.

MÓN ĂN NGA

ĐÃ CỨU THOÁT CẢ MỘT THÀNH TRÌ

Ở Nga, cuối một bữa ăn người ta thường được mời một thứ tráng miệng. Một thứ nước quanh quánh, mầu hồng, có vị ngọt ngọt-chua chua, được gọi là “ki-xen”. Đó là nước bột quả, thứ bột quả đông lạnh, được nấu từ nước quả rừng hoặc quả vườn, pha thêm tinh bột.

Bên cạnh cái nghĩa đen chỉ món ấy, từ “ki-xen” còn có hai nghĩa khác nữa: nào chỉ thứ đất bùn nhão nhoét, nào chỉ con người không có nghị lực, ẽo ợt… Đọc sách báo Nga ta thường gặp nhiều thành ngữ rất thú vị có cái từ “ki-xen” đi kèm. Chẳng hạn, “nước thứ bảy tráng ki-xen”- chỉ họ hàng xa lắc xa lơ, bắn đại bác không tới. Trong một tiểu thuyết lịch sử Emilian Pugachev nhà văn Siskốp có đoạn tả: Khách khứa đuổi theo nhau… người nọ trắng trợn cho kẻ kia một cú “ki-xen” - ở đây ý nói một cú thúc đầu gối vào sau lưng. Trong truyện dài Step – (Thảo nguyên) nhà văn Tsekhốp lại có câu “Dù sao đi nữa anh đi cũng vô ích, chỉ là húp “ki-xen” cách bảy dặm đường. Trong các chuyện cổ tích Nga, nếu để ý, ta lại thường gặp thành ngữ “những dòng sông sữa giữa các dải bờ “ki-xen” - chỉ cuộc sống sung túc, phóng khoáng. Cả trong tác phẩm văn học sáng tác ta cũng gặp thành ngữ ấy, chẳng hạn trong tiểu thuyết Trên dãy Thiên Sơn của nhà văn Xôkôlôv Mikitôv có câu: Những con người không có mẩu đất, đói khổ bị hấp dẫn bởi niềm mơ ước về những dòng sông sữa và những dải bờ “ki-xen”…

Còn có thể kể ra rất nhiều thành ngữ Nga lý thú khác và đều gắn với từ ki-xen đã xẩy ra trong lịch sử nước Nga.

Nghìn năm về trước, nước Nga còn bé nhỏ bị bao vây tứ phía bởi những bộ lạc thù địch hung dữ, luôn xông đến cướp nhà. Trong số đó có bộ tộc Petsenhighi, ở ngay bên kia sông Volga. Vào thế kỷ thứ VIII-IX, dân Pesenhighi luôn luôn mở các cuộc tấn công cướp phá làng mạc, thị thành của Nga.

Một lần, dân Petsenhighi đã kéo quân đến định đánh chiếm thành Belôgôrốt – một thành phố pháo đài ở miền Nam nước Nga gần kinh thành Kiev. Vì không xông được vào thành, quân Petsenhighi hạ trại dưới chân thành, mở cuộc vây hãm lâu dài. Chúng cứ ở lì đó cho tới khi dân trong thành bắt đầu lâm vào cảnh đói khát.

Bấy giờ quân dân thành phố Bolôgôrốt phải tụ tập lại ở quảng trường thành phố để thảo luận tìm cách thoát khỏi thảm cảnh của mình. Có người nói: mở cổng thành, nhất loạt xông ra quyết sống chết với quân thù một trận. Có người đã đề nghị: Thà cam chịu bó tay đầu hàng! Chỉ có một cụ già lên tiếng: “Cần phải làm món ki-xen mời đại diện bên địch vào thành nếm thử…”

Không phải nhiều người hiểu được thâm ý cụ già. Nhưng trong tình thế tuyệt vọng thà làm một việc gì đó còn hơn không. Theo lệnh cụ già cánh đàn ông bắt tay vào đào hai hố sâu như hai cái giếng ngay trên quảng trường. Sau đó họ thả hai thùng gỗ lớn xuống đáy giếng. Trong khi đó những người vợ của họ đi khắp mọi nơi trong thành thu thập số lúa mạch và cám xay còn lại, cùng hai thùng to tướng mật ong.

Lúa mạch được nghiền với cám xay thành bột, nhào với nước thành một thứ nước bột lõng bõng, đổ xuống một hố giếng. Thùng gỗ thứ hai ở đáy giếng bên được đổ đầy nước hòa mật ong. Khi mọi thứ được chuẩn bị xong, phía quân vây thành được mời cử người vào.

Cụ già bảo với bọn lính Petsenhighi: “Các người tự hành hạ bản thân mình dưới chân thành mà làm gì. Uổng công vô ích thôi! Cứ việc ở đấy hàng chục năm cũng chẳng làm gì nổi bọn ta đâu. Bởi vì chúng ta có nguồn sống ngay từ trong lòng đất. Các người không tin thì đây, tự mắt các người sẽ nhìn thấy”

Nói rồi, dân Belôgôrốt đưa bọn lính Petsenhighi đến bên hai bờ giếng. Họ thả gầu múc hai thứ chất lỏng lên đem nấu thành món có tên là ki-xen. Họ chia nhau ăn và cho bọn lính Petsenhighi cùng nếm thử. Sau đó họ biếu cho chúng một bình lớn đem về cho thủ lĩnh của chúng và bảo kể lại cho thủ lĩnh nghe về những nguồn sống từ lòng đất mà tận mắt chúng đã nhìn thấy…

Bọn vương hầu cầm đầu quân Petsenhighi sau khi nếm món ki-xen liền hạ lệnh lui quân, mở vòng vây. Bởi vì một thành trì kiên cố lại có nguồn sống “trời cho” như thế, thì quả thực có thể trụ vững không biết đến bao giờ…

Cái món ki-xen đã cứu thoát cả một thành trì như vậy đó. Sau sự kiện này, năm 1036, quân Nga đã phản công và đánh cho Petsenhighi đại bại. Thành Belôgôrốt trụ vững và còn tồn tại trên mảnh đất xưa mãi đến tận hôm nay…

XAMÔVA

– KIỂU UỐNG TRÀ NGA

Lần đầu tiên tôi được thấy cảnh uống trà Nga và cái ấm xamôva là trên màn ảnh: ở bộ phim về thời thơ ấu của nhà văn Nga Macxim Gorki. Gia đình ông bà chú bé Aliôsa, thương gia ở thành phố Nijơni Nôvôgôrốt trên bờ sông Volga, tối tối quây quần bên bàn trà. Giữa bàn đặt một chiếc bình kim loại sáng loáng hình ống (Sau này tôi còn thấy xamôva có đủ các hình dáng khác nhau: hình bầu dục dưa hấu đặt đứng, hình tròn như trái bóng, hình lục lăng, hình bát giác dưới thắt trên phình…) có vòi mở nước, có ba chân quỳ, hình trụ có đế tròn như cái đĩa con úp ngược hay biến dạng như cái chân vịt hoặc chân gà… Ngồi vào bàn, mỗi người tự mở vòi hứng nước sôi ra cái tách to đặt trên đĩa, rồi nhấc cái ấm bằng sứ để trên đỉnh nắp bình kim loại xuống, rót trà pha vào tách nước sôi. Người người bưng tách của mình lên uống, vừa uống vừa hả hê thổi phù phù, nhấm nháp cục đường, bánh mì vòng.

Cái ấm sứ đựng trà đặc, tiếng Nga gọi là zavarca (nước cốt để pha), còn cái bình kim loại đun nước sôi bằng than nhồi trong ống rỗng giữa lòng bình ta gọi là ấm xamôva (ấm tự đun). Kiểu pha trà như thế khác hẳn kiểu pha trà chúng ta vẫn quen và hình như chỉ có ở Nga.

Ấm xamôva có ở Nga từ bao giờ? Nghe nói xamôva đầu tiên xuất hiện ở Nga là vào cuối thế kỷ XVIII. Đến nay còn giữ được rất ít tư liệu về nó. Chỉ biết rằng vào khoảng thời gian này ở thành phố Tula đã ra đời một xưởng sản xuất như vậy, và đến giữa thế kỷ XIX thì đã có tới 30 xưởng tương tự.

Chiếc ấm xamôva bắt đầu đi cả vào văn thơ Nga: trong tiểu thuyết bằng thơ Epgheni Oneghin của A.Puskin, trong truyện của N.Gôgôl, vv… chẳng hạn mấy câu thơ dưới đây của Puskin:

Trời xẩm tối, trên chiếc bàn quen thuộc

Xamôva đang sôi réo hiền lành

Để hâm nóng chiếc bình trà Trung Quốc

Xamôva được phổ biến rất nhanh ở khắp nước Nga. Các xưởng sản xuất ra xamôva thi nhau mọc lên không chỉ ở Tula, mà cả ở nhiều nơi khác: Matxcơva, Vladimia, Permx, Laroxla, vv... Nhưng về quy mô cũng như tài nghệ trong nghề này khắp nơi đều chịu thua Tula. Trên các sản phẩm hầu như bao giờ cũng có nhãn của xưởng sản xuất và họ tên người chủ xưởng, chứ không phải họ tên của các nghệ nhân. Chỉ họa hoằn lắm trên một đôi chiếc xamôva riêng biệt mới có tên của họ.

Thường xuyên có thể thấy trên các ấm xamôva họ tên nhà Batasev. Họ này nối tiếp nhau cả một triều đại chủ xưởng. Ngoài ra còn có những họ tên nổi tiếng khác: Vanưkin, Fedurkin, Rudacov, Vorontxov, Remov. Họ đều là chủ các xưởng sản xuất xamôva, ở đó để lại các mẫu hàng tuyệt vời. Nhưng sản phẩm của họ Batasev đã nhận được nhiều huy chương ở các cuộc triển lãm hội chợ khác nhau tổ chức ở nước Nga cũng như ở nước ngoài. Họ nhà Batasev còn cung cấp xamôva cho cả hoàng tộc sa hoàng Nga.

“Triều đại” Batasev kéo dài suốt từ năm 1825 đến năm 1916. Sau đó cơn sốt xamôva bắt đầu lắng xuống. Tuy nhiên, xamôva vẫn không biến mất, người Nga còn lâu mới thôi uống trà từ ấm xamôva. Việc uống trà với ấm xamôva vẫn là tập quán trong các gia đình Nga. Tuy nhiên cuộc sống trở nên bận rộn, hối hả, thói quen thư thái, không khí ấm áp quanh ấm trà xamôva của mỗi gia đình Nga trở nên thưa lạt…

Giờ đây uống trà với cái ấm xamôva đã trở thành “công nghiệp hóa”. Xamôva không đun bằng than nữa mà được đun bằng phích cắm điện. Chiếc ấm xamôva được sản xuất hàng loạt bằng máy móc, ít dáng vẻ độc đáo. Những chiếc xamôva lạ mắt một chút cũng được sản xuất hàng loạt nhưng chủ yếu dùng làm hàng lưu niệm, làm quà biếu, quà tặng, bầy chơi…

Thúy Toàn

Trích: Chuyện kể về Văn hóa Nga,

viết dựa các tư liệu trên báo chí Nga cũ


BÓI QUẺ ĐẦU NĂM

Cái lỗ mũi (Trung Sơn)

Vào năm 1972 trên chuyến bay từ Tokyo về Saigon có tin báo bão nên máy bay phải hạ cánh khẩn cấp xuống phi trường “Đài Trung Đài Loan” để tránh bão, hai ngày sau, trời quang đãng chúng tôi tiếp tục lên máy bay trở về Saigon, ngồi bên cạnh tôi là một người đàn ông trung niên tuổi khoảng 50 tướng khá sang trọng, thấy ông đang chăm chú vào cuốn sách tôi nhìn vào hình vẽ có lẽ là cuốn sách xem tướng (chữ Tàu nên tôi không biết) nhìn ông đang cầm bút ghi ghi chép chép. Tôi không ưa bói toán, nên ngả lưng vào ghế mơ màng ngủ. Tới khi cô tiếp viên hàng không gọi dậy dùng điểm tâm, chúng tôi mới bắt đầu chào hỏi tiếp chuyện cùng nhau bằng vài câu xã giao tiếng “Anh Sến”; được biết ông ở Chợ Lớn đường Lão Tử, chúng tôi đều cười, trở qua nói tiếng Việt, tôi hỏi ông, ông có phải là nhà tướng số không? Ông đáp, không, tôi làm tổng biên tập cho báo “Dì Chúng Bô” (xin lỗi tôi đọc sợ sai từ) tại Chợ Lớn.

Tôi nói tử vi có chi hay đâu mà ông chăm chỉ đọc mê vậy? Hỏi tiếp theo, ông có biết ông Huỳnh Liên nhà tướng số V.N (chế độ cũ) nổi tiếng một thời, xem tướng người thì hay khi xem mình không biết, bị bọn cướp giết chết, lấy hết tài sản, thì ông nghĩ sao?

Sau câu chuyện hàn huyên (ông biết tôi hỏi kháy) ông cười nhạt ôn tồn trả lời, tôi xem là nhìn cho biết tướng người để tránh người xấu, nhìn biết người tốt mà giao tiếp, có thể hùn hạp làm ăn chân thật với nhau khi trao đổi vài câu chuyện, nhìn sắc mặt, cử chỉ, lời nói của họ thì mình đoán biết một phần mà họ muốn gì, chứ không phải để đi xem bói nói lừa thiên hạ, ông đừng nghĩ lầm tôi như thế, tôi đứng yên lặng mà có vẻ ngượng, ông hỏi lại tôi, anh đi du lịch Nhật về à? Tôi đáp tôi đi tu nghiệp ở hãng “AKAI Électronique Compagnie” và nhận linh kiện về để thiết kế phòng thính thị (Centre Audio Visuel) cho trường Đại Học Bách Khoa Saigon.

Máy bay vừa hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất, ông lấy trong cặp ra một quyển sách mỏng tặng tôi mà ông đã dịch sẵn (tiếng Trung Quốc dịch ra tiếng Việt) tôi cảm ơn và xin lỗi ông khi nãy có nói lỡ lời với ông, ông cười rồi nói, có gì đâu anh đừng để bụng cái nầy “xín xáng hà” hai đứa chúng tôi cùng cười.

Mãi đến năm 1980 thời thế thay đổi tạm yên ổn, có những người bạn hồi đó họ thấy mình nghèo họ ngó lơ, mà xưa kia đã nhờ cậy mình, nghĩ lại thấy vui vui hôm nay ngày chủ nhật rảnh rỗi nhìn lên kệ sách tình cờ thấy quyển sách coi tướng, mà ông bạn người Tàu đã tặng cho mình, vói tay lấy xuống xem, sách tựa đề: Ma Y Thần Tướng (về sau tôi được biết người Trung Hoa họ rất mê quyển sách xem tướng nầy) càng xem càng thấy thích, cái mặt của mỗi người mỗi vẻ, đầu năm con “Dê” 2015, xin viết cái “lỗ Mũi” để quý vị xem, và xét đoán cùng tôi cho vui khi xuân sắp về.

Sách tướng học của Tàu nói: cái Mũi thuộc về Trung Sơn, nó là trung tâm của năm ngọn núi, Hành Sơn, Hằng Sơn, Thái Sơn, Hoa Sơn, và Trung Sơn. Trán là Nam nhạc, Cằm là Bắc nhạc, Má phải là Tây nhạc, Má trái là Đông nhạc.

Tướng sợ vợ: sau đây là một câu chuyện “Cái Lỗ Mũi”

DANH SỸ: HỨA DOÃN

Vào đời Xuân Thu Chiến Quốc: có một danh sỹ tên là Hứa Doãn, ông làm tới chức Khánh Khanh (tương đương với chức Thủ tướng bây giờ) lấy một người vợ họ Nguyễn dòng dõi thư hương, văn tài xuất chúng, chỉ có cái mặt xấu xí khó coi, ai cũng nghĩ Nguyễn thị khắc phu, vì cả hai nhà rất thân thiết, nên hôn phối vẫn kết thành, như thường.

Có một vị tướng sư bảo, Nguyễn thị bên trong lẫn bên ngoài, trợ giúp chồng. Hứa Doãn không tin, tự cho mình là một kẻ đa tài, đa năng lại đẹp trai, còn vợ mình nó xấu như ma lem, thế thì nó giúp mình được cái gì?! ngoài nội trợ, Hứa Doãn căm tức ghim trong bụng, chờ ngày kiếm chuyện (to say goodbye “nói lời chia tay”). Về nhà được ít hôm tân lang Hứa Doãn mới hỏi Nguyễn Thị rằng, tôi nghe cha mẹ tôi nói có người thầy tướng nói cô có “tướng phu chi tướng” cô có tin không?

Nguyễn thị đáp: Em không tin, nhưng em có tướng phu chi tướng, nên em tin là em có phước. Hứa Doãn hỏi: Cô có phước gì? Nguyễn thị đáp: Em có phước được nương tựa vào chồng. Hứa Doãn hỏi tiếp, nương tựa thế nào? Nguyễn thị đáp: Là được chồng yêu thương chia sẻ vinh hoa phú quý của chồng, em xấu xí thế nầy mà lấy được người chồng tài giỏi như anh chẳng phải là có phước sao? Hứa Doãn hỏi: Xấu xí có phước của xấu xí, nương tựa chồng là nương tựa chồng, tôi đồng ý với cô, nhưng về tướng của cô, thầy tướng tìm thấy hữu phước ở chỗ nào? Ở mắt ở trán hay ở đôi tai? Nguyễn thị xấu xí, nhưng trí tuệ lại rất thông minh, biết chồng bất mãn với cái bộ mặt xấu của mình, nàng đành nhẫn nhịn nhỏ nhẹ đáp: Không phải em nghe thầy tướng nói, nhưng em cũng tự hiểu Mắt, Chân Mày, Môi Miệng của em thật khó coi, nhưng em chỉ có được một bộ vị đó là phu tin. Hứa Doãn hỏi: Bộ vị nào là “Phu tin” vì chồng cô là tôi? Nguyễn thị đáp: Em nghe thầy tướng nói “Mũi là phu tin” của nữ nhân, Mũi cũng là “Thê cung” của “Nam nhân”. Ông ấy nói, em chỉ có cái “Mũi đẹp” mà thôi, vừa đầy đặn vừa thẳng, sơn căn bất hãm, lỗ mũi không lộ ra, thế là phu tin rất tốt, bây giờ em thấy thật là đúng quá, vì em lấy được anh chẳng là phu tin hảo đó sao?

Hứa Doãn nghe vợ nói xong, thuận tay lấy cái gương soi mặt, nhất là chú ý tới cái “Mũi” mình, tuy thẳng thật, nhưng sơn căn lại gãy, chứ không bình khởi hữu lục, lỗ mũi lộ không kín như Nguyễn thị, bèn nói: “Nếu xem như vậy là mũi cô đẹp tất là mũi tôi xấu, cô cho mũi tôi thẳng, nhưng thiếu đầy đặn, sơn căn tuy không hãm, nhưng chưa được cao, mũi tuy không toác hoác, nhưng vẫn lộ, nên tôi phải nương tựa vào cô sao!? Hứa Doãn nói xong bỏ đi tỏ vẻ nghi ngờ, đúng ra tướng mình phải hơn tướng Nguyễn thị, rõ ràng cô vợ mình xấu quá, vô ra nhìn thấy nhau, thì làm sao chịu được! Thầm nghĩ như ta đây, là một tay hào hoa phong nhã, con trai độc nhất của một nhà quý tộc, tự cho mình trên hết mọi người, “lời lẽ kiêu căng nhìn thiên hạ thập mục vô nhân”.

Nguyễn thị thấy chồng có vẻ suy tư, nàng đoán biết chàng chê mình xấu, bèn cười nói: Tôi thấy anh điều gì cũng thông minh, chỉ việc xem tướng là không hay. Hứa Doãn hỏi: Tại sao gọi là không hay, tôi căn cứ vào lời cô bảo, mũi cô như thế là đẹp, còn mũi tôi không được như thế dĩ nhiên là xấu, còn “Thông Minh với không Thông Minh chi nữa?”.

Nguyễn thị cười nói: Thế là không Thông Minh rồi đó, em đã bảo thầy tướng nói rằng, Mũi đàn bà là “Phu Tin”, Mũi đàn ông là “Thê Cung” nay mũi em tốt nên lấy được người chồng đa tài đa năng vinh hoa phú quý, mũi anh xấu đâu phải anh tồi, mà là thê cung của anh hỏng, nên anh lấy người vợ vô tài xấu xí như em, vợ chồng chúng ta lấy nhau là duyên tiền định, anh cứ nghi ngờ chi cho bận lòng.

Qua lần đàm thoại nầy, Hứa Doãn hơi ngại cô vợ xấu, nhưng trái lại rất thông minh, ngẫm nghĩ, chắc tại cái lỗ mũi mình nên không lấy được người vợ đẹp, nhưng Hứa Doãn vẫn mặc cảm, mỗi lần vô ra nhìn thấy mặt xấu xí của vợ mình, thì không chịu được, nên chờ cơ hội kiếm chuyện để chia tay.

Một hôm hai vợ chồng ngồi đàm đạo, rồi đi đến tranh luận về chuyện phu thê tương phối, Hứa Doãn hỏi: Đàn bà có “Tứ Đức”, vậy cô có được mấy đức? (tứ đức gồm có: Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Hạnh là trinh tiết, Ngôn là lời nói đoan trang, Dung là nhan sắc, Công là bếp núc thêu thùa).

Nguyễn thị biết chồng chế giễu mình xấu, bèn đáp lại, trong tứ đức của phụ nhân em chỉ thiếu có một đức, nhưng đó là do cha mẹ sinh thành, em làm sao mà cải đổi!

Hứa Doãn vội nói: Nầy cô ơi, phụ nhân phải đủ tứ đức mới hoàn toàn, nay cô thiếu một đức là thiếu một phần tư mà cô có được “tướng phu” để nương tựa chồng, vậy nên hưởng ba phần tư thôi.

Nguyễn thị cúi đầu nói: Thực đúng như lời anh nói, vô luận nam nữ trên đời nầy nào ai được thập toàn thập mỹ đâu? Em có được ba phần tư cũng là mãn nguyện lắm rồi, nào dám mong gì hơn nữa.

Hứa Doãn nói cạnh, không xong đâu cô ơi, phu thê cần tương phối, đối với tôi sắc đẹp là quan trọng nhất, cho nên tôi cần có vợ “Tề Toàn Tứ Đức”. Nguyễn thị nhẫn nhịn không nổi nữa, nàng thấy chồng kiêu ngạo khinh người thái quá cần có sự phản kháng quyết liệt mới xong, nghĩ vậy Nguyễn thị liền nói: “Anh dạy rất phải, nguyện vọng anh rất hợp lý, nhưng có bao giờ anh tự hỏi, mình được thập toàn thập mỹ chăng? Phụ cần tứ đức, em thiếu một, còn sỹ hữu bách hạnh, thì anh có được bao nhiêu?”

Hứa Doãn trả lời: Tôi đủ cả “Bách Hạnh”.

Nguyễn thị hỏi: Anh cho phép em kể rõ không?

Hứa Doãn: Đương nhiên tôi chấp nhận.

Nguyễn thị nhỏ nhẹ nói: Bách Hạnh của kẻ sỹ, lấy đức làm đầu, anh bảo chỉ trọng nhan sắc, như thế là hiếu sắc, khiếm khuyết hẳn cái đức “Đứng Đầu Bách Hạnh” làm sao dám nói đủ hết “Bách Hạnh” anh bảo em thiếu “Phụ Dung Chi Đức”, nên nhân phẩm chỉ có ba phần tư, nay anh thiếu cái Đức, bao trùm “Bách Hạnh” thì nhân đức anh còn những gì?

Hứa Doãn ngồi như trời trồng, mặt đỏ như gấc chín, “tắc tị” không nói nên lời, có ý xấu hổ, từ đó đâm ra ngài ngại cô vợ, rồi dần dần đến nể sợ vợ mỗi lần hàn huyên, tạo thành một giai thoại “Cụ Nội” (sợ vợ) để lại tiếng đời về sau.

Trong một bữa tiệc, bạn bè Hứa Doãn ngồi đông đủ, “có cả thầy xem tướng” một trong số bạn bè của Hứa Doãn hỏi người thầy tướng, Hứa Doãn vừa đẹp trai lại vừa có tài, còn Nguyễn thị xấu xí sao bảo là đẹp đôi, cổ nhân bảo trai tài gái sắc, ông quên rồi sao? Nếu thế là đẹp đôi, thời chẳng có cặp nào trên thế gian này không đẹp đôi.

Vị thầy tướng ôn tồn đáp: Tôi xem tướng chớ không thưởng ngoạn, (các ông cũng dư biết sự bảnh trai của Hứa Doãn) tôi xem tướng là tìm những điểm quý, điểm phúc, để xem người đàn bà có trợ giúp được gì cho người chồng hay không? Chứ đâu phải đi thưởng ngoạn mà so đo đẹp với xấu. Tôi thấy Nguyễn thị có tướng cách (TỴ) Mũi thông thiên đình, phẩm đức kiên trinh, tính tình sản trực, chẳng những nội trợ giỏi, đến ngoại trợ cũng hay đẹp, cái nghĩa đẹp đôi là chỉ vào nàng dâu hiền ngoan giỏi hợp tướng cách.

Còn Hứa Doãn, tuy tài giỏi thật, đẹp trai thật nhưng tánh nết hay kiêu căng, khinh người, tự cho mình hơn hết, thập mục vô nhân, nếu không có tướng cách của Nguyễn thị khắc phục lại, thì e công danh của Hứa Doãn bị gãy đổ mà còn gây tai họa về sau, với tính nết tự cao tự đại của Hứa Doãn. Nếu bất hợp tướng cách thì cái chuyện trai tài gái sắc chắc chắn trở thành vô nghĩa, cậu Hứa Doãn “Bị” (phô ra ngoài), trông anh tuấn, nhưng sơn căn hỏng, bước đường hoạn lộ chỉ có hạn, nếu lấy Nguyễn thị làm vợ, nàng có sơn căn thông thiên đình, đại quý sẽ bổ khuyết cho cái tướng hãm của Hứa Doãn, thêm nữa mũi Hứa Doãn, sơn căn đoạn tỵ bất lương phong, không thể nào lấy được vợ đẹp, chỉ lấy được người vợ hiền đức thôi.

Có một quan khách hỏi: Tục ngữ nói trai tài gái sắc, mới đẹp đôi, nếu chênh lệch như vậy liệu có xẩy ra chuyện thay vợ không? Thầy tướng từ tốn đáp: Tướng Hứa Doãn thê cung bất mỹ, mà tính tình lại háo sắc, nếu như cậu ấy lấy người đàn bà tầm thường, thì đương nhiên xẩy ra chuyện tìm hoa hỏi liễu đưa đến cảnh thay vợ đổi chồng, còn nếu lấy Nguyễn thị thì không, tuy cô ta dung mạo xấu nhưng trên tướng cách là một nữ tử, có oai quyền chắc Hứa Doãn chẳng dám hiếu sắc đâu.

Nội trợ hiểu theo tướng mệnh học, không phải chỉ là quán xuyến bếp nước nhà cửa mà còn giúp chồng nên nhiều mặt khác nữa, về tính tình về sinh lý, chồng hiếu sắc thì có thuật chế ngự chồng, chồng hung hãn thì lấy sự ôn nhu sửa đổi, đó mới là những việc quan trọng hơn việc bếp nước nhà cửa.

Xưa có Hứa Doãn, hiện đại có Uông Tinh Vệ và Ngô Bội Phu, cả hai có ít nhiều sợ vợ.

Tướng Mũi thông thiên đình, cần phải phối hợp với lưỡng quyền (gò má) tháp thiên vương (chạy lên thái dương) đàn ông được như vậy là quý, nắm quyền sinh sát, nhiều bậc cân quắc anh hùng hay nữ kiệt, hoặc những bà hoàng hậu hiếu sát nắm quyền, không ai là không có tướng cách vừa kể: Từ Hy Thái Hậu là một điển hình.

Đàn bà lưỡng quyền cao lớn, không lộ cốt, phối hợp với mũi cao nhất định làm cho chồng phải nể sợ, gọi là “tướng phu chi tướng”. Nếu cao quá, lớn quá thì lại trở thành hại phu chi tướng.

Đàn bà mũi cao thông thiên đình thường thường chết sau chồng, “niên lão khốc phu” Từ Hy Thái Hậu, vợ Ngô Bội Phu, vợ Uông Tinh Vệ, đều gặp cảnh nầy, bởi vậy sách tướng học nói, cái mũi sơn căn thông thiên đình đối với đàn bà là loại tướng cách: “Mỹ Trung Bất Túc”.

Tất cả quan khách đều ngồi im lặng mà không hỏi thêm nột lời nào nữa cả.

TRẦN VĂN HỮU


Dương Lêh

Thực tình trong năm nay Ông Trần không hề trông đợi đến cuối năm, Tết đến. Rõ ràng, khác với những năm trước, năm nào ông Trần cũng mong mau đến Tết để ông chuẩn bị những bài viết về Tết cho thật vui, và ông đã làm được những gì ông mong ước. Những bài viết này đều được đăng trên một tạp chí thân quen và được làm đề tài để ông nói chuyện với bạn bè trong lúc trà dư tửu hậu. Nhưng năm nay thì khác. Vừa “ăn” xong cái Tết năm ngoái “no cành hông” thì được tin cô cháu gái của bà Trần chuẩn bị làm đám cưới vào dịp cuối năm, và rất có thể ông Trần sẽ làm chủ hôn bởi vì chú rể là một ông thầy giáo trẻ tuổi đẹp trai lại là người nước ngoài sử dụng ngôn ngữ mà ông Trần còn đang giảng dạy kiếm cơm. Ông Trần thầm nghĩ đến ngày đó ông sẽ làm một ông chủ hôn rất sinh động và ông bắt đầu soạn kịch bản cho buổi lễ thành hôn để đến ngày đó ông điều khiển buổi lễ cho được trôi chảy...

Ông Trần còn đang mơ màng nghĩ đến những nghi thức sẽ có trong buổi lễ cưới, thì một tin vui thứ hai tiếp đến. Bà Trần vừa được con gái đang ở xứ Cờ Hoa báo qua email cho biết cô sắp có em bé thứ hai. Ông Bà Trần quá đỗi vui mừng nhưng cũng không kém phần âu lo cho sức khỏe của con gái. Từ đó, dựa theo thông lệ, khi ngồi trước máy vi tính chờ con gái gọi về để chat, bà Trần thường quan tâm đến tình trạng thai nghén của con gái. Bà cứ phải sốt ruột khi nghe con cho biết “nó” quậy quá, bắt nôn ọe hoài không ăn uống gì được. Bà Trần quay qua than thở với ông. Ông Trần cũng thấy xót xa thương cho con gái sống xa nhà không gần cha mẹ để cùng… than thở. Thật sự, ông bà cũng biết, có ở gần cũng không biết làm gì hơn. Than thở xong, qua màn hình hai mẹ con tràn lan tâm sự, nhiều nhất vẫn là câu chuyện về đứa cháu ngoại đầu tiên gần được hai tuổi đang quậy phá. Chị nhỏ này thường hiện trên màn hình lấy tay đập lên bàn phím. Bà Trần chuẩn bị cái máy hình để đưa lên chụp khi thấy con bé ở vào vị trí thích hợp và đẹp mắt. Mới đây nhân dịp Giáng Sinh, nhà trường cho lớp của chị mặc đồng phục ông già Noel lên sân khấu biểu diễn văn nghệ. Thế là thêm mấy người lớn kéo đến trường xem các nghệ sĩ tí hon biểu diễn. Ông nội cũng đi theo làm nhiệm vụ chụp hình. Vừa hơn hai tuổi nói chưa rõ nên có hát được bao nhiêu đâu, chỉ đứng uốn éo chạy qua chạy lại rồi nhận quà mang về. Chỉ có chừng đó mà từ mấy đứa nhóc tì cho đến người lớn đều cảm thấy hạnh phúc, hân hoan ra về. Hình ảnh sau đó được gửi về đây, ông bà Trần xem cũng cảm thấy vô cùng vui sướng.

Đó rồi thời gian cứ trôi qua. Vèo một cái là đến ngày đám cưới cô cháu. Ông Bà Trần cũng lên khuôn đi họ. Buổi sáng đó ông Trần trong bộ côm-lê đứng ra điều khiển buổi lễ thành hôn của cô cháu được thành công mỹ mãn. Cũng trong thời điểm này, bà Trần trong vẻ rực rỡ của chiếc áo dài mới may cho ngày đám cưới của con cháu, đang thấp thỏm đi tới đi lui vì cô con gái ở bên kia nửa vòng trái đất đã báo động sẽ sinh em bé trong nay mai. Hai ngày nay cô không gọi về chat với bà.

Rồi thì sự mong đợi của bà Trần, và cả ông Trần, cũng đã đơm được hoa thơm trái ngọt. Con gái của ông bà đã gọi về báo cho biết cô đã sinh một em bé trai, mẹ tròn con vuông, cách đó mấy tiếng đồng hồ.

Khi mọi việc xong xuôi, họ nhà trai đã lục tục kéo nhau về nước, ông bà Trần cũng đã nhận được hình ảnh của em bé mới ra đời bụ bẫm xinh xắn, rồi ngay buổi chiều hôm đó ông đưa bà ra nhà thờ để tạ ơn.

Bây giờ ông Trần sực nhớ ra là sắp hết năm rồi. Trời bắt đầu se lạnh, nắng đã chuyển sang màu vàng nhẹ của một tách nước trà pha loãng. Lá vàng rơi từng mảng xuống đường, xuống những chiếc xe hơi bóng loáng. Bà Trần nhắc:

- Làm sao tẩy hết mấy thùng CPU cũ xì này đi cho rồi!

- Từ từ đi ma-đam anh định mua mấy cây RAM mới về thay là chạy được liền.

- Thôi xin can ông đi, cái gì chạy đâu không thấy chứ chuột chạy vô làm ổ đầy nhóc ở trong đó.

- Được, để vài bữa nữa anh kêu ve chai vô hốt đi cho rồi.

- Còn đống báo cũ nữa kìa, đây một mớ, đàng kia một mớ. Ngán luôn!

- Để anh “xử lý”, ma-đam yên tâm.

Rồi ông nhìn cửa nẻo trong nhà, ông hỏi:

- Bà có muốn sơn mấy giàn cửa này không?

- Giàn cửa cao nghệu. Sức ông còn đâu nữa mà leo lên cao để sơn.

- Đúng. Lau rửa, quét bụi sơ sơ cũng được rồi!

Đó là những công việc lặt vặt mà ông cần phải giải quyết để chuẩn bị cho những ngày đầu năm sắp tới. Con cái ở xa, hai ông bà phải tự lo dọn dẹp tô điểm cho căn nhà thêm phần sáng sủa để đón chào năm mới. Ông Trần nghĩ may mà hồi xưa ông bà chỉ có đủ khả năng mua căn hộ nhỏ xíu này để giờ này con cái đi làm ăn xa, ông bà còn đủ sức coi sóc nhà cửa. Giá như ngày xưa, ông bà trúng số xây nhà ba bốn tấm, đến giờ này chỉ còn hai ông bà cu ky, nhà rộng thênh thang, sức lực đâu mà chăm sóc, dọn dẹp. Cho nên ông Trần mua căn hộ này vậy mà hay, con cái lớn lên tách ra tự tạo lấy nhà cửa, tạo lấy gia đình mới, sống một cuộc sống riêng tư, tự do vùng vẫy. Nếu sau này ông bà có quy tiên thì bán đi lấy tiền chia cho con cái. Với cái đà này nhà cửa trong thành phố sẽ từ từ teo hẹp lại, các đại gia sẽ không còn muốn xây nhà theo kiểu lâu đài để rồi sau này về già ngồi nhìn cái lâu đài đó trống trước vắng sau, con cháu không còn ai muốn chung sống, ai cũng muốn bung ra ngoài xã hội, đánh võ tự do.

Ở bên Nhật, thanh niên nam nữ trưởng thành tự tìm công việc làm để nuôi sống bản thân. Họ say mê làm việc không buồn nghĩ đến việc lập gia đình sinh con sinh cái. Hết giờ làm việc họ đến câu lạc bộ giải trí, tắm rửa, ăn uống, giao lưu với bè bạn. Đến khuya họ về cái “tủ ngủ” đã thuê từ trước, đánh một giấc đến sáng hôm sau, họ trở về với niềm vui trong công việc. Tinh thần yêu thích làm việc của người Nhật mới thấy đáng nể. Có lần Nhật hoàng phải khuyên bảo thần dân của ngài nên giảm bớt thời gian làm việc để đi du lịch, để giảm “xì-chét” và nhất là để cho đồng tiền luân chuyển, có như vậy lợi tức quốc gia lại gia tăng.

Nhìn về Việt Nam thì mới hôm qua báo Tuổi Trẻ ngày 24-12-2014 đăng lời ông Miura, người Nhật Bản, huấn luyện viên đội tuyển Việt Nam cho biết: “giờ làm việc quy định 8g30. Nhưng đến 9 giờ mọi người mới lục tục đến đủ”. Bài báo nói thêm, ông Miura “mới biết được phía Bắc có thói quen uống bia cật lực vào buổi trưa, chứ ông chưa biết ở phía Nam người mình uống cật lực từ chiều cho đến tối nữa chứ. Không uống cật lực như thế thì làm sao thành cường quốc tiêu thụ bia được”. Hay! Ít ra ta cũng có một điều gì đó để hãnh diện. Cuối bài, tác giả bài viết kết luận “chuyện ông Miura nói chẳng có chi lạ để mà ầm ĩ”.

Nghĩ đến đây, ông Trần sực nhớ năm nào gần đến ngày Tết âm lịch, ông sui gia đều cho người mang đến cho ông một thùng bia để ông nhâm nhi hoặc đãi khách trong mấy ngày Tết. Thực sự, một thùng bia để ông Trần đãi khách thì chỉ được có buổi trưa mùng ba khi nhà ông “hóa vàng”. Chi cần ba ông bạn già đến dự thì thùng bia sẽ nhanh chóng được “hoá kiếp”. Mỗi lần như vậy, ông Trần thường đính kèm cho mấy ông bạn vài ly rượu tây để kết thúc bữa tiệc một cách êm thắm. Như vậy chương trình sắm Tết của ông chắc phải có vài chai rượu tây để dự trữ phòng khi bia đã cạn. Nhưng mua thì phải mua còn bạn tặng thì cũng phải nhận và cám ơn rối rít, chứ thực ra ông Trần không thích uống rượu tây chút nào. Hồi còn trẻ ông cũng chạy theo phong trào cho rằng uống rượu tây mới là người đàn ông “đích thực”, một người đàn ông lịch lãm. Bởi vậy ở nhà mấy ông đại gia đều có một tủ rượu, có người thích sưu tầm tìm mua được những chai rượu có nhãn ghi sản xuất cách đây sáu bảy chục năm. Ông Trần hồi còn trẻ cũng theo phong trào, thường đi uống rượu tây với bạn bè. Buổi chiều tan sở, ông cùng hai người bạn ghé vào một nhà hàng gần chợ Cũ Saigon làm một dĩa “đồ nguội” và “cưa” một chai “Na-pồ” hoặc một chai “Mạc-tel” nhãn màu xanh ở cổ chai. Hồi đó người ta thường uống rượu tây với sô-đa, gọi là “cồng-xôm”. Sau này người ta đổi qua uống “séc” tức là không pha sô-đa theo kiểu Mỹ. Nhưng đối với đa số người Việt Nam uống “séc” nóng cổ quá nên cần phải “chữa lửa” tức là sau khi uống một ly rượu tây người ta phải uống thêm vài ngụm nước lạnh hay trà đá. Ông Trần thấy uống kiểu này có vẻ phàm phu tục tử quá. Ông thích uống “cồng-xôm” vì khi uống, mùi thơm của rượu phảng phất bay lên theo “ga” của sô-đa. Có người cũng trưng bày trong nhà một tủ rượu nho nhỏ chứa được năm ba chai để chứng tỏ mình là dân “nốp”, sang trọng, anh ta thường khoe nhà anh có rượu tây thứ xịn có cả X.O. hoặc V.S.O.P. nhưng anh ta không uống được rượu, cho dù một giọt, còn bia thì uống chưa được nửa chai mặt đã đỏ lên như ông tướng hát bội. Gần nhà ông Trần có một bà giám đốc cũng sính trưng bày rượu tây trong nhà. Không biết bà có uống được nhiều không chứ trên những kệ gỗ sát tường có hơn một chục chai rượu tây các loại.

Ông Trần đã bỏ rượu tây gần cả chục năm nay vì ông sợ cái bao tử của ông không tiêu thụ được số lượng cồn trong rượu. Một ông bác sĩ đã cho biết rượu tây, nhất là rượu mạnh hay các thứ rượu đế đều chỉ là cồn mà thôi. Không có một thứ sinh tố nào có thể sống được trong cồn của rượu. Hồi trẻ ông còn khỏe mạnh “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”, nên uống hăng lắm, dù lúc đó ông đã chứng kiến ba người bạn cùng cơ quan lên thiên đường ở tuổi ngoài bốn mươi vì chứng bệnh sơ gan. Trong đó có một người bạn thân nhất trong đám lưu linh của ông Trần, khi quan tài còn đang quàn ở nhà, bà vợ trẻ của anh trong bộ tang phục trắng tinh bước ra tiễn mọi người và nói thêm:

- Thôi nhé. Mấy anh không còn dịp rủ ông nhà tôi đi uống nữa rồi.

Lúc bấy giờ ông Trần và mấy người bạn cảm thấy xấu hổ vô cùng đành phải làm bộ không nghe nhanh chóng chào chị ấy ra về…

Công tác chuẩn bị của ông Trần còn cái mục gửi quà Tết cho hai gia đình sui gia. Một gia đình còn ở Việt Nam, mà có lẽ gia đình này cũng chẳng có tính đi đâu cả, nên việc tặng quà cũng dễ thôi. Còn gia đình sui gia thứ hai thì đang ở cách đây nửa vòng trái đất. Muốn tặng quà phải gửi trước Tết gần cả tháng trời. Năm nào cũng vậy hai ông bà chỉ việc ra chợ Saigon mua mấy món cần thiết rồi nhờ người ta hút chân không, đóng gói, sau đó ông bà ôm thẳng ra bưu điện gửi đi, vậy là xong trong vòng buổi sáng.

Một công việc mà cả ông lẫn bà phải tốn nhiều thời gian đó là mua hoa về để trang trí nhà cửa. Ông bà không có mục đích mua nhiều hoa để trưng bày trong dịp Tết mà chủ yếu là đi xem khắp nơi nếu gặp chậu hoa nào vừa ý mới mua về. Bà thường xem báo hoặc lên mạng thấy ở đâu có bày bán một loài hoa quý nhà vườn vừa nhân giống thành công, bà ghi nhớ địa chỉ đó để chỉ đường cho ông chở bà đi đến tận nơi tìm mua cho được. Năm nay, bà biết ở làng hoa Gò Vấp mới về loại hoa Đỗ Quyên rất đẹp, bà giải thích:

- Loại hoa này ở bên Trung Quốc người ta thường trưng bày rất nhiều tại các buổi lễ lớn, xung quanh khu vực quan khách ngồi.

Thế là sáng hôm sau, bà chuẩn bị thật sớm, chờ ông tập thể dục về, ăn sáng rồi hối ông lên xe chở bà đi về hướng làng hoa Gò Vấp trong khi không khí lạnh vẫn còn phơn phớt trên đường đi. Chỗ bán hoa là một khu vực rộng lớn nằm gần con rạch Tham Lương. Thôi thì trăm thứ, từ loại Cứt Lợn, Mười giờ, cho đến loại sang trọng dùng để trang trí trong các lâu đài của các đại gia bên quận 7 như Tulip, Lily, hay các giống hoa lan đắt tiền như Cát-lia với những đóa hoa màu sắc rực rỡ, to gần bằng cái đĩa ăn cơm, bày đầy ra cho khách chọn lựa. Khi tham quan nơi này đã mãn nhãn, bà bảo ông:

- Qua làng hoa bên kia một tí xem!

Làng hoa bên kia, nằm phía đường Quang Trung, rẽ vào đường Lê Văn Thọ đến ngã tư Cây Trâm, bà thong thả đi dạo qua các gian hàng bán hoa, ông rút điện thoại ra bấm cho phát những bản nhạc xuân. Ông vừa thưởng thức vừa chờ đợi. Khoảng nửa giờ sau, bà lững thững đi ra tay xách một chậu hoa nho nhỏ, Nhìn kỹ ông nhận ra đó là một chậu hoa Mười giờ. Ông “còm-men” liền:

- Bỏ công đi mười mấy cây số chỉ mua được chậu hoa Mười giờ.

- Quý lắm đó anh! Ở đây mua chỉ có bẩy đồng, dưới Saigon hai chục! Thôi, ghé ngoài trước mua một miếng bê thui rồi về.

Bà Trần quả là rành tâm lý. Mấy lần trước sau khi đưa bà đi dạo qua hai khu làng hoa của quận Gò Vấp này, lúc về, ông Trần thường ghé vào một quầy bán bê thui mua ba lạng đem về để lai rai với bia. Cho nên Bà Trần muốn xóa cơn mệt của ông không gì hay hơn là nhắc ông mua bê thui về nhậu!♥

Dương Lêh


Phụ bản II

CA DAO ĐỒNG QUÊ

Ngày xuân, ngày Tết cổ truyền Việt Nam gia đình nào cũng chuẩn bị mâm cỗ Tết, đôi đòn bánh tét, quả dưa hấu đỏ “xanh vỏ đỏ lòng” để chưng bàn thờ cúng ông bà tổ tiên. Từ đòn bánh tét ở miền Nam nhớ câu chuyện hoàng tử Lang Liêu đã dâng vua Hùng hai món bánh làm từ gạo nếp là bánh dày và bánh chưng. Từ thời xa xưa ấy đã hình thành một tình cảm giữa người và đất đai, tôn trọng nghề nông. Nên chăng phải ngẫu nhiên qua những câu ca dao đã thể hiện thật sinh động toàn cảnh bức tranh đồng quê của nước Việt Nam. Từ hình ảnh người nông dân chân lấm tay bùn dầm mưa dãi nắng trên ruộng đồng đến những cảnh nghèo lam lũ, những món ăn dân dã đạm bạc là cây cỏ mọc lên từ đất, con ốc con cá trong bùn sình sông nước nuôi sống người nông dân.

Ca dao bắt đầu từ hình ảnh vợ chồng người nông dân nghèo:

“Mặt trời tang tảng rạng đông,

Chàng ơi trở dậy ra đồng kẻo trưa.”

Công việc đồng áng của hai vợ chồng:

“Trên đồng cạn dưới đồng sâu,

Chồng cầy vợ cấy con trâu đi bừa.”

“Thương anh dầu dãi nắng mưa,

Hết khơi ruộng thấp cày bừa ruộng cao”

“Trời Đông nước đã phơi đồng,

Em về nhổ mạ, anh bừa ruộng chiêm.

Nông thì xén áo xăn quần,

Sâu thì phải dấn cả thân ướt dầm”.

Không chỉ là lao động miệt mài, người nông dân phải biết xem thời tiết, tính toán cho vụ mùa, cày bừa, nhổ cỏ năng cỏ nước…

“Sáng ngày đem lúa ra ngâm,

Bao giờ mọc mầm ta lại vớt ra”

“Tháng ba cày bở ruộng ra,

Tháng tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi”

“Tháng ba ngày tám rỗi ràng,

Làm sao đủ gạo mùa màng khỏi lo”

“Mồng chín tháng chín có mưa,

Mẹ con sắm sửa cày bừa làm ăn”

“Mùa chiêm xem trăng rằm tháng tám.

Mùa ré xem trăng mồng tám tháng tư”

“Lúa mùa thì cấy cày sâu,

Lúa chiêm thì gãy cành dâu mới vừa”

Mưa thuận gió hòa ruộng lúa trổ bông, người nông dân vui mừng chờ ngày thu hoạch. Không khí náo nức của những người gặt lúa giã gạo dưới làn gió mát trăng thanh, vang vang câu hò câu hát:

“Ơn trời mưa nắng phải thì,

Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu”

“Rủ nhau đi cấy đi cày,

Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu.

Nữa mai lúa tốt đầy đồng,

Gặt đập sàng sẩy bõ công cấy cày”

"Người ta đi cấy lấy công,

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề”

“Đến đây không lẽ ngồi không,

Mượn chày giã gạo cho đông tiếng hò”

Năm nào gặp cảnh thiên tai lũ lụt, người nông dân lâm vào cảnh thất mùa đói khổ, buông tiếng than thở thật não nề:

“Được mùa kén những tám xoan,

Đến khi cơ hàn ré cũng như chiêm”

“Đói thì ăn củ khoai lang,

Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng”

“Lếu láo như cháo gạo lương,

Nợ trả lần hồi húp cháo quanh năm”

“Ngô khoai chẳng được thì đừng,

Có nếp có tẻ trông chừng có ăn”

Sau những nhọc mệt vất vả của việc đồng áng, người nông dân lại lui cui ra đồng hái rau, lội xuống ao bắt cá bắt ốc… trong cảnh sống đạm bạc bữa cơm của người dân quê chỉ có cơm canh là chính, vợ chồng con cái quây quần bên nhau vừa chan vừa húp, và ca dao đi vào món cơm canh thật ngọt ngào dung dị:

“Cá rô canh cải nấu gừng.

Ăn thì ăn chớ xin đừng mỉa mai”

“Khế xanh nấu với ốc nhồi,

Tuy nước nó xám nhưng mùi nó ngon”

“Râu tôm nấu với ruột bầu,

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”

Món cơm canh trong ca dao còn thể hiện được lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, nỗi nhớ của người xa quê:

“Có con mà gả chồng gần,

Có bát canh cần nó cũng đem cho”

“Mẹ mong gả thiếp về vườn,

Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh”

“Anh đi anh nhớ quê nhà,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”

Mặc dù quanh năm vất vả lam lũ với công việc đồng áng, người nông dân có những ngày Tết an nhàn thảnh thơi, gia đình quây quần bên bếp lửa chuẩn bị bữa ăn để cúng tổ tiên:

“Tháng giêng là tháng ăn chơi,

Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè

Tháng tư đong đậu nấu chè,

Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm”

“Măng giang nấu cá ngạch ngầm,

Đi thì lại nhớ cá mòi nấu măng”

Ca dao ngọt ngào sâu lắng phong phú gần gũi trong cuộc sống. Ca dao đồng quê càng thắm thiết tình yêu quê hương. Trên bước đường quê của đất nước Việt Nam câu hát ca dao dân gian gợi lên trong lòng người sự gắn bó với quê hương:

“Cây đa bến cũ đò xưa,

Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ”

“Thuyền ơi có nhớ bến không?

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

CHỜ XUÂN 

Mùa xuân em mặc áo hoa cà

Gió xuân lay động gió xôn xao

Nắng xuân đọng lại trên môi thắm

Lúng liếng em cười đôi mắt trong

*

Anh đón mùa xuân trong mắt em

Mùa xuân chở nặng trái tim buồn

Yêu em anh chỉ yêu thầm lặng

Anh chỉ nhìn thôi không nói năng

*

Em tự nhủ lòng thôi đừng nhớ

Ánh mắt ai kia quá hững hờ

Em đón mùa xuân và chờ đợi

Xuân thì thiếu nữ đón chờ xuân

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

CON ĐƯỜNG

mùa Xuân

Vẫn là con đường của hôm qua

Mùa xuân về. Ôi! Con đường hoa

Chở mùa xuân rộn ràng bay xa

Hoa và hoa giữa phố phường vui

*

Nắng xuân màu nắng quá tưng bừng

Gió xuân lượn lờ gió phất phơ

Nắng trải vờn hoa hoa đua nở

Hoa cười gió hát nắng lung linh

*

Người người nô nức giữa đường xuân

Xuân về đong đầy trong mắt ai

Ngập ngừng bước chậm áo vờn bay

Đường xưa phố cũ mùa xuân xưa

*

Hoa tím mong chờ hoa rung rinh

Tôi lạc lối giữa rừng hoa xuân

Tôi biết tìm ai đợi ai đây ?

Xuân hồng đang tới giữa lòng tôi

*

Ngày hôm nay. Ôi! Ngày hôm nay

Con đường bỗng lạ con đường vui

Hoa lá giao mùa đón xuân tươi

Lòng nghe xao động nhớ một người

HUỲNH THIÊN KIM BỘI


Có phải mùa xuân đang trôi qua bên khung cửa sổ

Trên cành xanh văng vẳng tiếng chim kêu ?

Nhưng vẫn có một mùa xuân trong tâm tưởng

Mùa xuân vẫn tươi xanh như trẻ mãi không già

*

Mùa xuân của em, mùa xuân của anh

Mùa xuân của những người yêu nhau trên trái đất

Lời mùa xuân thầm thì bất tận

Nghe điệu đàng như tiếng dế vang ngân

*

Một năm có phải bắt đầu từ mùa xuân

Tình yêu đâu chỉ khởi đi từ tuổi trẻ

Mùa xuân là món quà vô giá

Trời đất dành cho những người còn biết yêu nhau.

Đinh Xuân Hảo


Mùa Xuân là tiếng chim ca

Lời chim thánh thót giao hòa tình Xuân

Mùa Xuân là gió vang ngân.

Là hoa rực rỡ gọi ngàn bướm vui.

Mùa Xuân là gió reo cười

Là người lũ lượt xinh tươi đi về

Mùa Xuân náo nức hội hè

Mùa Xuân là bức tranh quê tuyệt vời

Đinh Xuân Hảo

THƠ XUÂN

Mai vàng đã nở rộ hoa xuân

Nắng ấm chan hòa đẹp tiết xuân

Cánh én lưng trời đùa gió tết

Đàn em trước ngõ đón quà xuân

Nén nhang phúc lộc cầu an tết

Ly rượu liên hoan chúc tụng xuân

Thắng lợi năm nay mừng đón tết

Quê hương rạng rỡ thái hòa xuân

Thanh Châu

TRÁI DƯA HẤU

Tết đến nhà nhà rất thích mua

Trái to kỉnh lễ cúng giao thừa

Da xanh bóng láng nhìn ham chuộng

Ruột đỏ xinh tươi thấy mến ưa

Vị ngọt ông bà dùng lấy thảo

Hương thơm trai gái nếm say sưa

An Tiêm trồng trọt nơi hoang đảo

Hiếu nghĩa xuân về gởi biếu vua...

Thanh Châu

HOA NGUYỆT

( Viết theo điệu thơ của vua Tự Đức )

Hoa khoe nét thắm, Nguyệt hằng nga

Nguyệt sáng, Hoa tươi, dáng mượt mà

Hoa cảm Nguyệt quang, Hoa sắc xảo

Nguyệt nhường Hoa điệu, Nguyệt bao la

Đêm về lạnh lẽo, Hoa trông Nguyệt

Ngày đến nồng nàn, Nguyệt đợi Hoa

Kết nối Hoa tình, duyên hảo Nguyệt

Nguyệt Hoa, Hoa Nguyệt đẹp đời ta ...

Thanh Châu

HOA ĐÀO

NỞ CHỐN VIỄN PHƯƠNG

Chà cay ! Nhắp chén rượu đào

Rượu trong khói pháo, lòng sao gợn buồn

*

Xuân này, xa cách cố hương

hơi men quán trọ, ôi buồn nhớ nhung !

Phút giây xao-xuyến, trạnh lòng

vang vang khúc hát hào-hùng, lại ca

*

Đời còn những bước gió mưa

vì chưng còn hẹn hải hồ - đã sao ?

*

Chà cay ! Nhấp chén rượu đào

Rượu hương xuân ướp, lòng sao vẫn buồn

*

Hoa đào nở chốn viễn phương

Vì Xuân, gót dạn gió sương tạm ngừng

Mang mang lòng nhủ lại lòng :

Tuổi thêm một tuổi, đời không thêm gì !

*

Ồ nhưng thôi, có sá chi

năm châu đất rộng gót đi chưa mòn

chí mình nguyện với nước non

đầu xanh máu nóng tất còn có phen

*

mỉm cười, gõ dịp hát lên

Đời trong sáng lắm, thiếu niên chớ sầu.

TUỆ MAI

Ngày xuân chơi Oản tù tì

Trong tay, anh có cái gì thì ra…

Anh có mười cái bánh đa

Một chai rượu nếp với ba củ riềng

Ngoài đồng, anh có cô Tiên

Cưỡi con trâu đỏ làm nên mùa vàng

Trong nhà, anh có cây đàn

Gảy lên một tiếng cả làng cùng nghe…

*

Ngày xuân chơi Oản tù tì

Trong tay, em có cái gì thì ra…

Em có một con thuyền hoa

Theo sông Ngân chở trăng tà về chơi

Có cái thúng hứng sao rơi

Tung lên thành bóng điện soi phố phường

Bên mình, em có chiếc gương

Khi soi, da thịt tỏa hương thơm lừng…

Trần Nhuận Minh

A SPRINGTIME DAY…

On a springtime day, let’s play one, two, three

I’ll show what I have in my hand

I’ve ten dry pancakes

A bottle of fermented sticky-rice wine

                                      and three galingales

Out in the field I have a Fairy

Riding on a red buffalo and producing

                                      a golden season

At home, I’ve a musical instrument

Twanging a sound the whole village can hear…

*

On a springtime day, let’s play one, two, three

Show what you have in you hand

You’ve a flower-boat

Sailing on the Ngân (Silver) river carrying

                                   the moon to our place

You’ve a basket to collect falling stars,

When thrown up they turn into electric light

                                   bulbs illuminating our streets

You have beside you a mirror

Upon mirroring your skin

and flesh send out fragrance…

Trần Nhuận Minh

Translated by Vũ Anh Tuấn

Bên Mẹ MÙA XUÂN

Chắt chiu dệt mộng ngày mai

Mong con vững bước

tương lai sáng ngời

Âm thầm bên dậu mồng tơi

Mẹ tần tảo

suốt một đời – vì con

Sá chi biển cạn non mòn

Một sương hai nắng

chon von tháng ngày

Ngọt bùi mặn đắng chua cay

Mẹ không quản ngại

dặm dài đường xa.

Lo toan – nửa gánh sơn hà

Nặng oằn vai Mẹ

đậm đà hương Xuân

Hồng lên –

Sắc lá Trung quân

Dạt dào hy vọng

xoay vần – đổi thay

Nhện giăng lưới

mê say

Mồ hôi Mẹ

đẫm lưng gầy

xác xơ…

Mùa Xuân

chim hót ra thơ

Mẹ thâu canh

dệt giấc mơ chưa thành

Tiếng chuông chùa

ngã màu xanh

Ngân nga thức tỉnh

mỏng manh chuyện đời

Mùa Xuân bên Mẹ

Mẹ ơi!

Soi vào mắt Mẹ

sáng ngời niềm tin.

Ngàn Phương

MỖI ĐỘ XUÂN VỀ

Nắng ấm Xuân sang ngấn lệ sa

Nhớ ơn phụ mẫu nhớ quê nhà

Tình cha diệu vợi như trời biển

Nghĩa mẹ nghìn trùng tựa gấm hoa

Chinh chiến gian lao mà gắn bó

Hòa bình no ấm lại chia xa

Khói trầm tưởng niệm người thiên cổ

Chữ hiếu tâm thành – dạ thiết tha

NGÀN PHƯƠNG

NHỮNG NGÀY CUỐI NĂM

Những ngày cuối năm

Người ta lật bật trên từng đốt ngón tay,

ngỡ ngàng những tờ lịch

Chiếc kim đồng hồ như hối hả hơn bao giờ hết

Những con đường mù mịt từng vốc bụi ngược xuôi tất tả

Những ngày cuối năm

Vồi vội đến, vồi vội đi,

vồi vội đuổi theo từng nấc thời gian đang ngắn lại

Cứ như ngày mai tất cả sẽ không còn trong tay nữa

Cứ như tất cả không còn nữa hôm nay và cả hôm qua

Lẽ tất nhiên là chẳng thể lập lại cho dù đẹp đẽ hay xấu xa nhất

Nhưng mỗi người như cõng tất tật trên lưng

triệu triệu đã qua và cả triệu triệu sẽ đến.

Những ngày cuối năm

Lật bật những bước nhảy

Lật bật những tồn tại và cả những không tồn tại

Người ta vẫn luôn loay hoay với những bước nhảy

Cho dù đó là những bước nhảy điềm tĩnh nhất

Điềm tĩnh như điệu Valse,

Slow trong căn phòng nhè nhẹ những chùm đèn

Nhưng vẫn là những bước nhảy

Chiếc kim giây có thể gọi là khoảnh khắc

chậm nhất trong chiếc đồng hồ

Thế mà nó cũng lật bật nhảy

Chẳng ai có thể thoát khỏi những lật bật nhảy

như không thể thoát khỏi cái ngục của chính mình.

Cho dù cửa ngục không hề đóng

Cái ngục ấy như càng hẹp hơn,

tối hơn vào những ngày cuối năm.

Khi người ta nhìn rõ nhất sự dồn đuổi của thời gian

Khi người ta những muốn xếp cất đi bao thứ đồ cổ,

gãy vỡ hoặc mốc meo

Nhưng lại vụng về làm đổ tóe ra khắp nhà

Để rồi tỉ mẩn ngồi nhặt lại

Và tỉ mẩn gói ghém vào chiếc bao da những giấc mơ ngày cũ

Những ngày cuối năm

Dồn tức trong từng hơi thở

Những ánh mắt chong lên

Những khóe môi chong lên

Lật bật xòe một que diêm

Chập chờn nín thở

Chập chờn mộng mị trong đốm lửa

ngẩn ngơ… phút giao mùa.

ĐÀM LAN

KHÚC XUÂN

Xuân đến rồi đây giữa sắc hoa
Đất trời bừng dậy khúc hoan ca
Người khoe áo mới đi tung tẩy
Cảnh khoác chồi non đứng điệu đà
Lạc phách người thơ bao kỷ trước
Xiêu hồn khách họa những đời qua
Dừng đây Xuân nhé, đừng đi nữa
Để bản đàn Xuân mãi thiết tha

Tâm Nguyện

CHỐN BÌNH YÊN

Nếp sống nhà quê thật nhẹ nhàng

Khách thương lai vãng : Gió và Trăng

Bên tai, ríu rít đàn chim Sẻ

Trước mắt, tung tăng lũ Cá vàng

Sáng sáng, ngoài sân đi mấy lượt,

Chiều chiều, trong sảnh lướt mươi trang

Lợi, Danh, quên hết, Tình không vướng

Chẳng đợi Cầu An, cũng cứ an.

Tháng 01/2015

Tâm Nguyện

GỌI XUÂN

Nàng xuân ơi cả đất trời mong đợi

Muôn cánh hoa dâng hết nét rạng ngời

Cành lá thắm căng đầy xanh mượt lộc

Hạt sương mai lấp lánh cỏ non tươi

*

Nàng xuân ơi lòng người như gió mới

Đón mừng Xuân sắm sửa rộn ràng vui

Thời gian nghe chầm chậm phút chia phôi

Đang đếm ngược còn đâu ngày tháng cũ

Một chút chơi vơi trong giờ sau cuối

*

Chút ngậm ngùi tiễn bước tháng năm đi

Chút dư hương thăm thẳm xót xa gì

Như pha lẫn trong niềm vui hớn hở

Xuân đến, ban cho đời bao mơ ước

*

Xuân thắm ngời rực rỡ vạn niềm vui

Xuân, xuân ơi muôn hoa tươi khoe sắc

Đón chào xuân bừng nở khắp nơi nơi

Năm cũ – Hai lẻ mười bốn lui vào dĩ vãng.

*

Đón Chúa Xuân khắp chốn mừng reo vui

Cùng hát bài ca “Xuân đã đến rồi”

Vang vang tiếng cười lả lơi muôn nơi,

Nàng Xuân ơi…

Phạm Thị Minh Hưng

CÒN MÃI ĐỜI VUI

Mấy ai còn mãi với thời gian,

Hai sáu lần ba, chẳng úa tàn,

Như vầng trăng sáng soi đêm hạ,

Ánh vàng dẫn lối, bước đường xa…

Hai sáu, bên đời vẫn ước mơ,

Bao nhiêu sương gió chẳng phai mờ,

Dòng đời giông bão chưa mòn mỏi,

Lộng lẫy văn chương vạn nẻo đời.

Hai sáu nên lòng mãi thiết tha,

Yêu đời, yêu nét họa, vần thơ,

Yêu Sách-Xưa-Nay muôn vẻ đẹp.

Góp nắng gom mây, mơ giấc hoa.

Bao la thế giới sánh cùng ai,

Văn chương thơ phú, bậc anh tài,

Tâm hồn trong sáng, tình muôn lối,

Mỗi ngày, một nốt nhạc – Đời vui…

Phạm Thị Minh Hưng


HẠNH PHÚC ƠI !

HÃY VỀ VỚI ANH

Hạnh phúc ơi !

Ta hằng ước mơ,

mong chờ, bối rối

sao không cùng lối

Bao tháng năm qua

chúng ta đã làm khổ nhau

Hai trái tim đau

anh đâu muốn thế

Không biết bảo vệ mình

Lầm lẫn vô minh

như bóng mây mờ che

Nhưng, tình yêu thương vẫn còn đó - em

Hãy ngẫm xem

Hạnh phúc của vợ là hạnh phúc của chồng

Hạnh phúc của con là hạnh phúc của mẹ cha

Hạnh phúc muôn người là hạnh phúc của chúng ta

Và anh cũng hiểu ra

Có đau khổ, mới biết

thế nào là hạnh phúc

Giây phút xa nhau

Sống trong buồn đau

anh không thể thiếu em

Hạnh phúc ơi ! Em ở đâu

Hãy về với anh

Hạnh phúc ơi ! Em ở đâu

Ta mau về với nhau.

LÊ MINH CHỬ

Đón Năm Mới

Đón năm mới, ta đón mừng xuân mới

Xuân ơi xuân vời vợi đất trời

Em mang theo bao niềm tin, hy vọng

Đậu vào trang thơ tô đẹp cuộc đời.

LÊ MINH CHỬ

BỐN MÙA YÊU NHAU

Anh nhé mình yêu giữa tiết Xuân

Ngoài hiên mai nở đón năm tân

Rì rào hoa lá bên hiên vắng

Kể chuyện đôi ta duyên kết duyên.

*

Anh hỡi Hè sang biển sóng dâng

Lặng lờ mây trắng nắng bâng khuâng

Hàng phi lao đứng bên bờ cát

Là khúc tình ta vẳng tiếng ngân.

*

Anh ạ mùa Thu sang gió lay

Tím lên nỗi nhớ thấm tim này

Trên cành lá úa rung rung thẹn

Mong tấm lòng ta vẹn đắm say.

*

Anh ơi Đông đã xám chân trời

Ngập đường mây phủ khói sương rơi

Song le ta vẫn chơi vơi nhớ

Để mối tình ta ngỡ thăng hoa.

KIM SƠN

NẰN NÌ

Năm trước Xuân đến thăm nhà

Lược gương phụng phịu: tóc hoa râm rồi !

Bẵng dần, ngày tháng mải trôi

Gương mờ mái hói, lược thôi tóc chiều…

Ta nói mãi, thôi xuân đừng đến nữa

Chút rượu vui có bù được thời gian ?

Chút pháo tươi có gợi được huy hoàng

Không còn nữa khi đầu xanh rụng lá !

Ta van nài, vì đường đời ngắn ngủi

Mỗi ngày qua lại nuối tiếc ngày qua

Mỗi cuộc vui lại rất đỗi đậm đà

Khi quanh quẩn người thân dần xa khuất…

Đừng vội đến, để ta còn nhớ tiếc

Tuổi thơ ngây, xuân đến vạn niềm vui

Áo mới tinh pha lẫn khói lam trời

Loang sắc đỏ pháo ầm ì ù chạy…

Đừng vội đến, để lòng còn khoan khoái

Áo thư sinh một sớm bén thương yêu

Mực học trò len lén lá thư đầu

Khe khẽ hát bài tình ca chẳng ai mà không thuộc…

Đừng vội đến, cho đàn rung tiễn biệt

Vì sao băng dẫu cách mãi phương trời

Cho lòng ta đan trọn mảng thơ rơi

Đang nhiễu xuống con tim buồn nhoi nhói…

Đừng đến nữa, Xuân có chi là mới ?

Ngoại trừ ra những trau chuốt sau cùng

Trước khi sang một cõi mới mông lung

Ngày tháng cũ có còn trong ai đó ?

Xuân là vụn vỡ

Là khóe hoa sầu

Vui ôi có được là bao

Mà Xuân lải nhải, hắt hiu đông tàn ?

Lam Trần

CẢNH THANH TÂN

Nước non chào đón cảnh thanh tân.

Ngày tháng đông rồi lại có xuân.

Phật đã dạy rằng nhân ấy quả.

Người đừng mang lấy nghiệp vào thân.

Sanh linh đang chịu trăm bề khổ.

Chánh trị chi bằng một chữ nhân.

Mong ngọn gió Xuân mau thổi mạnh.

Đem tình đoàn kết đến toàn dân.

LANG NGUYÊN

CHỚ THỜ Ơ

Xuân đến đẹp đời ai cũng mơ

Nỗi niềm đất nước khó thờ ơ

Giặc ngoài biên giới luôn gây rối

Thù xấu bên trong chúng sẵn chờ

Kinh tế đang hồi ươm nẩy lộc

Gian manh mỗi lúc chực dương cơ

Trai hùng tiền tuyến đua ngăn chặn

Gái giỏi hậu phương cũng bận lo

Trách nhiệm toàn dân ai chẳng có

Mạnh giàu tổ quốc nước đang chờ

LANG NGUYÊN

Trăng mật ngọt ngào

Hương thơm lê táo

Trăng mật huyền ảo

Thơm cả trời si

Trăng mật mê ly

Chân trời góc biển

Trăng mật bịn rịn

Chẳng muốn rời xa

Trăng mật dâng hoa

Làm say ong bướm

Trăng mật dâng hiến

Ngất ngây thuyền biển

Trăng mật sinh sôi

Bao huyền thoại mới

Trăng mật lên ngôi

Tình yêu trẻ mãi

Tôi yêu trăng mật

Hạnh phúc tuyệt vời

Tôi yêu trăng mật

Trăng mật tuyệt vời.

Sài Gòn 2006

PHÙNG CHÍ TÂM

TÌNH KHÚC

YANG BAY

Nha Trang, Nha Trang

Tự hào đất mẹ

Biển trời xanh thắm

Thế giới ngợi ca

Nơi du khách đến

Tình nghiã bao la

Suối trời nguyên sinh

Vang khúc tình ca

Kìa thác Yang Bay

Gửi vào nỗi nhớ

Đắm mình trong suối

Hòa với đất trời

Yang Bay, Yang Bay

Rồng thiêng ẩn hiện

Đại ngàn bừng lên

Tình khúc Yang Bay

Yang Bay, Yang Bay

Cội nguồn tuyệt diệu

Nha Trang tự hào

Tình khúc Yang Bay

PHÙNG CHÍ TÂM


ĐI TRƯỚC MÙA XUÂN

Trời vào xuân ta cũng đang xuân

Chẳng đợi đến giao thừa mồng một

Em có thấy bước chân mình đi trước

Cùng ngọn lửa nào đang thiêu đốt con tim

Ta đi trước thời gian, đi trước mùa xuân

Vào tiệc tâm hồn nâng ly khai vị

Men rượu nào làm ta say thế

Nghe trào dâng dòng nhựa cây đời

Nắng mới lên rồi, lấp lánh niềm vui

Ta trao cho nhau lẵng hoa đẹp nhất

Mang sắc hương cội nguồn của đất

Nụ môi thơm anh nhận em trao

Giữa vườn xuân bừng nở thắm mai đào

Hạnh phúc giản đơn trong tay ta đó

Xin lửa mặt trời chia đều cho hoa cỏ

Và một phần nhỏ cho ta

Để sức XUÂN mãi chẳng phôi pha !

Trước XUÂN 2015

LÊ NGUYÊN


THẮM MÃI HOA NGƯỜI

Lẵng hoa em trao trên thềm năm mới

Cánh hoa mang theo hồn xuân phơi phới

Còn gì hơn nữa đẹp nhất trên đời

Là sắc hương hoa nồng ấm tình người

*

Chúc cho nhau thêm một mùa xuân mới

Chúc nhau băng qua bao điều ngang trái

Giữ luôn trên môi nụ cười thân ái

Thắm mãi hoa người chẳng bao giờ phai !

27-12-2014

LÊ NGUYÊN


BỬA ĐÓ

Bữa đó rừng xanh vừa rửa mặt

Trời mới tinh hớn hở ở trên cao

Tha cọng cỏ con chim về xếp đặt

Chỗ ăn nằm trong cành lá chi ê m bao

*

Trời bữa đó bữa nay ta vẫn nhớ

Như con nai nằm mộng nhớ thu xa

Vì bữa đó lòng ta vàng lót ngõ

Gấm trải đàng nghênh đón bước em qua

*

Ta cuống quít nhắm nghiền hai con mắt

Say trên môi mà run rẩy ở trong lòng

Ta ứa lệ nói miên man ngây ngất

Em ở nơi này vĩnh viễn nghe không?

*

Mở con mắt – Đất trời còn ở đó

Người với người hoa và lá quen thân

Ngày tươi rói giữa cuộc đời niềm nỡ

Ngõ nhà ai ta cũng muốn vào thăm

*

Từ bữa đó đời đã thay niên lịch

Ta bắt đầu tính một tuổi xuân xanh

Em chưa phấn son

nghiêng lòng nguyệt bạch

Nghe lòng ta âu yếm gọi Kim Anh!

Thiếu Khanh

(Ngân Khánh Tình Ta)

XUÂN VỀ

Lại một mùa đông qua,

Xuân về, anh vẫn lạnh.

Say chén tình sóng sánh,

Em nhớ gì người xa?

Dù tuổi xuân anh qua,

Dù đất bằng nghiêng ngả,

Dù núi thành biển cả,

Anh còn yêu thiết tha !

Nếu lòng em phôi pha,

Quên tình ta trong trắng,

Mà đời buồn cay đắng,

Hãy gọi người xưa xa…

6-1974

VŨ ĐÌNH HUY

SPRINGTIME IS COMING BACK

Another winter time has gone by

Springtime is coming back, while I still feel cool

Drunk with the shaky love cup

Did you ever remember the far away chap ?

Although my youth had gone by

Although the ground oscillated

Although mountains turned into the high sea

I still love you so keenly !

Were your heart to wither

Forgetting our pure love

While life turned bitterly sad

Just call the man of yore…

6-1974

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

ĐẾN HẸN

Cây im lìm ngủ, bóng co tròn

Chim đậu mơ màng không véo von.

Nắng lóa, trời xanh, anh đến hẹn

Đường xa, hối hả bánh xe bon.

Bóng cây dài mãi với mong chờ,

Anh gạt mồ hôi, đứng thẫn thờ.

Đâu đó lời em êm ái hẹn

Chỉ còn trong gió, có trong mơ…

Hà Nội, 7-1974

VŨ ĐÌNH HUY

KEEPING ONE’S LOVER TRYST

Trees silently slept, their shades curled up round

Birds perched dreamingly with no chirping

Dazzled sunlight, blue sky, I kept my lover’s tryst

Riding hastily on the far away road.

Trees’ shadows spread quite long with waiting

Brushing away my sweat, I stood haggardly

Somewhere flown your sweet dating words

That now exist only in the wind, and in a dream…

Hà Nội, 7-1974

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

RONG CHƠI MỘT TỐI

Trời nhá nhem tối, và không khí thì nóng nực. Loạng quạng ra đường với hy vọng có chút gió nào chăng. Ơ kìa, đường phố vui đáo để. Xe cộ chạy loạn xà ngầu, chả ai thèm coi mấy cái biển báo giao thông. Này, cái bảng cấm quẹo chữ U to đùng mà có ai thấy đâu. Chữ U hay Z gì gì cũng chẳng quan trọng, vì tự do là num bờ oăn mà. Không hiểu người ta buôn bán những thứ gì mà lắm thế! Cửa hàng sáng choang ánh đèn. Thực khách trong cửa tiệm mới mở đang xì xụp với nào tô nào ly chén; phía ngoài vỉa hè là lền khên xe xếp lớp. Hết chỗ trên vỉa hè, người ta tự nhiên để xuống vệ đường, cả bên hông hẻm cũng thấy mấy chú bảo vệ hí húi hết dựng xe lên lại lùa xe ra cho khách, cứ y như chỗ ấy là của riêng mình vậy. Quả là có tinh thần độc lập tự do! Xích lên một chút, là cửa hàng bán băng đĩa nhạc: Mấy cái loa tha hồ gào cho khách đi đường những bài hát thời thượng, nghe chả ra làm sao cả, trừ cái giọng thích ẹo là ẹo, thích cà ệt thì cà ệt...

Rồi cái xe hủ tíu gõ cũng ngang nhiên trấn giữ cái cột đèn, mà trên đó có treo từ thuở ông Bành Tổ tấm bảng “Cấm lại gần, nguy hiểm”. Lại gần hồi nào? Người ta ngồi ngay đấy thì có, mà nào thấy nguy với chả hiểm. Chả biết tin đồn người ta nấu nước lèo bằng chuột chính xác được nhiêu phần trăm mà mấy bà mấy cô, có cả mấy ông xe ôm cứ xì xà xì xụp trên chiếc tô khói nghi ngút. Cạnh đó là bà già mát dây tối ngày cứ đấm thùm thụp vào cái sô cáu bẩn, miệng mày tao không ngớt với ai đó vô hình trong không khí.

Hai chàng thanh niên đang gầm ghè với nhau vì chắc là có va quẹt chút đỉnh, rồi đột nhiên chia tay đôi ngả vì cả chục chiếc xe khác đang lù lù tiến tới với cả chục cái họng hả ra: “Dẹp đi mấy cha cho tụi con đi nhờ với...”

Tiếng bánh xe lết trên mặt đường còn nóng hổi cái hơi mùa hè cộng tiếng rủa xả của cái bà phì nộn vào mặt chị em con bé bán vé số cứ chìa chìa mấy vuông giấy vào mặt bả. Mé bên kia, hai gian hàng bán quần áo cũng ra sức mời chào bằng mấy cái loa to chà bá làm lay động cả một khoảng trời.

Mấy tay bợm nhậu ngồi trên vuông nắp cống to đùng, mặt mũi đỏ lự dưới ánh đèn đường cũng đỏ không kém. Mấy chả tràn đầy tinh thần văn nghệ quần chúng, nên gã thì ôm cây guitar gào khan cả cần cổ: “Em ơi có bao nhiêu, sáu mươi năm cuộc đời...”; gã thì hai tay hai cái thìa còn dính cái gì như tương ớt gõ liên hồi vào cái tô nhôm đựng điếu thuốc lào, thỉnh thoảng gõ lộn xuống chiếc bàn rụng răng, làm bài nhạc ngày càng đầy kinh ngạc...

Bên đây đường, có chiếc xe cảnh sát, với mấy ông dân phòng đang nhe răng ra cười với đám bạn hàng dạt sang mé bên kia thuộc phường khác, cứ như con đường là biên giới dễ thương giữa hai quốc gia láng giềng. Mẹ ơi! không biết họ bán cái quái gì mà nhiều thế! Cả trăm cái xe đẩy tay, treo hầm bà lằng mọi thứ trên đời, trang bị cả đàn néon cho sáng cuộc đời. Có cả mấy cái xe bán khô mực, với lò than hồng hồng và cái mùi cá nướng nghe cũng sướng cái lỗ mũi. Họ í ới chào mời, chọc ghẹo lẫn nhau. Dĩ nhiên là nói tiếng Đức hết chỗ chê. Chả ai thắc mắc gì. Cảnh sát còn chưa thắc mắc thì mình là cái đinh gì cơ chứ.

Lủi đại vào cái xe đẩy với ý định mua cái bao da đựng điện thoại, vì cái cũ đã te tua rồi.

- Cái này nhiêu vậy?

- Dạ năm chục, chú!

- Bớt không?

- Bèo quá rồi chú ơi!

Nghĩ bụng, thôi thì mua mẹ nó đi, kẻo người đàng sau đang tin tin bấm còi sốt cả ruột. Thò tay vào túi sau định móc bóp ra trả tiền, thì ô hay! Cái bóp mình đã bốc hơi từ đời nảo đời nao rồi...

LAM TRẦN 29.03.2014

CÔNG TỬ HÀ NỘI

CỦA NHỮNG NĂM 30

PHAN NGHỊ

Đó là thời điểm đang manh nha một phong trào Âu hóa. Các công tử trút bỏ cái áo lương (hoặc áo đoạn, áo the, áo gấm tùy theo mùa), cái quần bằng vải chúc bâu trắng, và cái mũ “casque” hay khăn xếp, với đôi giày Gia Định, để thay vào đó một bộ Âu phục. Còn các tiểu thư cũng nhất quyết không nhuộm răng đen, không vấn khăn và để tóc đuôi gà. Họ ăn mặc kiểu tân thời: đi giầy cườm hay giầy mang cá, mặc áo Le Mur và quần lụa trắng; nhưng có những cô vì sợ rằng “lụa mỏng khôn ngăn trận gió si, quần hồng thịt lẳn búp hoa quì”, thì thay vì lụa đã dùng satin cho kín đáo hơn.

Chỉ mấy năm trước đó thôi, nếu ăn mặc như thế mà đi ra phố, họ sẽ bị người ta kết án là “đồ me Tây?”. Bởi vì chính các cô me Tây, các cô khâu đầm (couturière: chỉ các nữ gia nhân làm ở trong các gia đình quan chức Tây thuộc địa. Phần lớn họ là dân làng Tám, ngoại thành Hà Nội) mới là những người đi tiên phong trong vấn đề Âu hóa bằng cách để răng trắng, mặc quần lụa trắng và phi-dê tóc.

NHÓM 15 NGƯỜI

Thuở ấy, một số thanh niên Hà Nội sang Tây du học, khi trở về nước đã thành lập Club des XV, gồm 15 người trong đó có 8 ông ta, 7 ông Tây. Hội chủ trương không kết nạp Tây thuộc địa và giới quan lại. Các thành viên của hội đều còn trẻ, lại là con nhà giàu và chưa vợ. Dù là Tây hay ta, tất cả đều rất “chịu chơi”, và một khi đã chơi thì phải chơi ngông.

Hàng ngày họ thường tụ họp ở Taverne Royale (Tửu quán Đế vương), kế cận Crédit Foncier, trông sang chợ hàng hoa ở phía hồ Hoàn Kiếm. Khách sạn Métropole và tiệm cao lâu Asia đã dành một phòng riêng cho các vị thượng khách ấy.

Một trong những linh hồn của Club des XV là Chu Mậu (viết theo tiếng Tây: Ch. Mau’s). Được sự hỗ trợ của những người bạn Pháp tiến bộ, Mậu xuất bản tờ Dân Mới, lập Câu lạc bộ Dân Mới, mở Auberge (quán ăn) Dân Mới để chiêu mộ quần hùng. Báo của Mậu mở hẳn một chiến dịch chửi bới quan lại cốt để gây xì-căng-đan. Và một cuộc bút chiến đã bùng nổ giữa tờ Dân Mới và tờ P.T. của nhóm quan lại. “Miệng nhà quan có gang có thép”, cho nên tờ P.T. đã sử dụng ngôn ngữ của chị em chợ Đồng Xuân để chửi lại. Không muốn kéo dài cuộc bút chiến, Mậu nghe theo sự gợi ý của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, nhân viên tòa soạn, gửi cho X., chủ báo P.T. một bức thư thách… đấu kiếm, để giải quyết nội vụ, theo đúng tinh thần mã thượng của… Tây. Nhưng X. lánh mặt không chịu đấu.

Như vậy, trong quá trình Pháp thuộc, tại Hà Nội diễn ra hai trận đấu kiếm bằng… mồm. Trận thứ nhất, trước những năm 30, Clémenti, chủ báo Argus, sau khi bị toàn quyền Albert Sarraut “chỉnh đốn tư tưởng” vì một bài báo viết sai lập trường, đã thách Sarraut đấu kiếm. Nhưng Sarraut đã từ chối với giọng điệu kẻ bề trên: “Toàn quyền Đông Dương, đại diện cho nước Pháp, không có quyền đấu kiếm với ai cả”.

Sau đó, để tránh mọi sự rắc rối có thể xẩy ra, nhà cầm quyền tìm cách đóng cửa tờ Dân Mới. Nhưng thua canh này bầy canh khác, Mậu bàn với Club des XV ra một tờ báo tiếng Pháp để cho những người bạn Pháp có thể tham dự. Vốn liếng sẽ do anh em đóng góp. Tờ báo lấy tên là Le Cri de Hanoi (Tiếng kêu của Hà Nội), Chu Mậu, sáng lập viên, Lãng Nhân, chủ nhiệm. Đó là tờ báo trào phúng đầu tiên bằng tiếng Pháp ở Bắc Hà do những người Việt chủ trương. Về cả hình thức lẫn nội dung, nó được coi như một sự sao chép của tờ Canard enchainé ở bên Tây.

Le cri de Hanoi được dân Đông Đô ủng hộ hết mình, có nhiều bữa, nhờ những tin tức giật gân, hoặc những phiếm luận kiểu Les Potins de la Commère (Những lời đồn của con mẹ lắm điều), báo không có đủ để bán. Nhưng rồi chỉ trong thời gian ngắn, nó cũng bị đóng cửa. Người Tây không muốn có những sóng gió trong dư luận.

Chu Mậu đành “xếp bút nghiên” để trở về với cái nghề… thợ may, chứ không thèm làm ông thông, ông phán. Nguyễn Bỉnh Nam, cây bút phúng thích số 1 của Le cri de Hanoi, cũng quẳng bút để cầm cái thước dây và cái kéo: mở tiệm may Gris-Mauve. Cần biết là trước đây Nam sang Hongkong du học. Sau khi đỗ tú tài Anh, Nam qua Paris học tiếp, cho tới khi tốt nghiệp đại học Sorbonne mới trở về nước và tham gia Club des XV.

Trong Club des XV còn một nhân vật nữa cũng thuộc loại “quái chiêu”: Nguyễn Đình Thấu, con một vị tổng đốc. “Công tử” Thấu được ông bố cho sang Tây học. Đáng lẽ phải thi vào H.E.C hay Science Po hay Sorbonne thì công tử lại thi vào đại học… Pigale(1) để rồi học được cách pha chế các thứ cocktail, rồi học đánh bốc. Trước khi gia nhập Club des XV, “công tử” Thấu làm một cái lễ ra mắt bằng cách: đoạt giải nhất trong cuộc đua xe ô tô Hà Nội - Tam Đảo. Chàng lái chiếc Bugatti nhanh như gió khiến cho các ông Tây bà Đầm khiếp vía; sau đó, chàng lại thượng đài, hạ nốc-ao võ sĩ De Lannaye, con gà nòi của Đệ tam Binh đoàn Pháo thủ thuộc địa (3ème R.A.C.).

“Công tử” Thấu cao 1m78, to con và rất “bô” trai. Chàng được các nữ sinh trường đầm Félix Faure ái mộ, coi như một thần tượng và đặt cho cái danh hiệu là “Gari Cộp” (nam nữ thanh niên Hà Nội thời ấy rất thích các tài tử Gary Cooper, Clark Gable, Greta Garbo, Marlène Dietrich, Dorothy Lamour).

Bữa Thấu gặp Chu Mậu ở Taverne Royal thì tờ Le cri de Hanoi còn đang ăn nên làm ra.

- Bây giờ “toa” định làm gì? Có thích làm báo không? Mậu hỏi.

- Viết lách không phải là nghề của “moa”. Cho “moa” làm barman kiêm videur(2) ở Auberge Dân Mới, như thế hợp với “moa” hơn.

Những người khác nghe câu nói ấy chắc sẽ không thể không ngạc nhiên. Một công tử con quan, sang Tây học về nước lại xin làm bồi, ai mà tin được? Nhưng với Mậu, thì đó là chuyện rất bình thường. Có vậy mới là… công tử Hà Nội!

CÔNG TỬ SAIGON NUÔI CÔNG TỬ HÀ NỘI

Nhưng Chu Mậu là người như thế nào?

Nghịch ngợm và quậy phá lung tung, đó là đặc tính của chàng. Học ở Albert Sarraut, sau khi đỗ tú tài I, chàng bỏ học, đi Hải Phòng để tìm cách sang Tây. Chàng được một bạn học cũ làm thư ký ở tầu André Lebon xin cho cuốn sổ ghi danh hàng hải. Có sổ ấy, chàng có thể xin được việc làm dưới tàu, không cần phải đi “chui”.

Từ đất Cảng vào tới Saigon không có chuyện gì xẩy ra. Nhưng khi chàng vừa đặt chân lên bờ thì bị công an bắt giữ, rồi lại giải xuống tàu Onéroque để giao trả về Hải Phòng. Số là gia đình chàng đã đi cớ bót để nhờ… tìm bắt hộ!

Năm sau, Hoàng Tích Chu ở Pháp về nghe được chuyện ấy bèn tới nhà Mậu chơi, rồi thuyết phục được các cụ cho Mậu đi du học. Nhưng gia đình chỉ có thể đài thọ mỗi tháng 100 đồng, sang bên ấy Mậu phải tìm cách xoay xở. Cũng nên biết rằng, thời ấy 100 đồng Đông Dương giá trị rất lớn, ngang với lương tháng của một tri huyện. Một bát phở giá có 2 xu.

Cũng như Nguyễn Đình Thấu, tới Paris, công tử Mậu không học chữ nữa, mà học nghề. Nghề thợ may. Chàng quan niệm rằng, mình là một tay chơi, thì ăn mặc phải hạng nhất. Và cái mốt của Paris bao giờ cũng là mẫu mực để các nơi noi theo. Chàng tới thụ huấn James York, nhà thời trang nổi tiếng đương thời. Ít lâu sau, James giới thiệu Mậu vào làm phụ cắt cho một tiệm may ở Versailles.

Là một chàng trai “thích-đủ-thứ”, lại sống ở kinh đô ăn chơi mà không có tiền thì không còn gì khổ bằng! May sao chàng lại vớ được một Mạnh Thường Quân từ Saigon qua. Đó là “Bạch công tử” Georges Phước. “Công tử” Hà Nội gặp “công tử” Saigon trong một buổi trà vũ. Và hai người kết bạn.

“Bạch công tử” mướn một “appartement” ở khu Pigale cho tiện việc du hí. Cậu mang một đầu bếp từ Saigon qua để nấu cho cậu ăn mỗi ngày một bữa trưa, còn thì đi ăn tiệm. Chu Mậu đi chơi khắp nơi với “Bạch công tử”. Mùa hè, ra bãi biển. Mùa đông, lên núi. Các cô đầm tưng bừng theo hai cậu, và tôn xưng các cậu là “Monseigneur” (đức ông).

Sau đó “Bạch công tử” về Saigon để lập hai gánh cải lương Phước Cương và Huỳnh Kỳ. Chu Mậu ở lại Paris để hoàn chỉnh nghề may cắt.

Trở về Hà Nội, Mậu mở tiệm may Ch. Mau’s ở phố Tràng Tiền. Lúc bấy giờ là mùa đông. Đi qua Hàng Ngang, hàng Đào: một không gian sực nức mùi len dạ, nước hoa và son phấn. Các vị phu nhân, các tiểu thư mặc áo dài bằng nhung hay dạ Mông Tự, và áo lông thú, quần lụa (hoặc satin) trắng, đi giầy cườm mũi cong hay giầy mang cá. Những cái áo lông thú ấy nguyên là sản phẩm của những chú khách Cao Ly mang bán dạo ở phố phường. họ vừa đi vừa rao hàng: “Lề pố! Lề pố!”. Xin đừng vội nghĩ rằng đó là tiếng Cao Ly. Tiếng Tây đấy: La peau (da). Các tiệm may mua lông thú của họ về cắt thành áo.

Các “công tử” Hà Nội” cũng ăn mặc đúng mốt đương thời. Áo “Patte-poule không có revers”, quần golf, cổ quấn phu-la, đi giầy “dôn” (jaune) hay “đơ cu lơ” (deux couleurs). Ngôn từ thời ấy như vậy. Nó đã biến thành tiếng Việt. Như cái cùi dìa, cái soong.

Riêng Chu Mậu thì ăn mặc không giống ai: đội mũ quả dưa, cầm ô (để chống thay cho ba toong), đi giầy có cổ, áo ba-đờ-xuy cổ viền nhung đen. Chàng không theo mốt Hà Nội mà chơi theo đúng phong cách quý tộc Anh, Pháp. Mỗi chiều thứ bẩy chàng chống ô lừng khừng đi bát phố. Bọn Tây thấy ngứa mắt bèn buông lời châm chọc: “Xin có lời chào ông Hoàng!” (Prince, je te salue).

Công tử Mậu phớt tỉnh, tiến lại phía họ lúc ấy đang ngồi uống rượu dưới mái hiên nhà hàng Coq d’Or, rồi phát cho mỗi anh một cái danh thiếp:

Ma î tre Ch. Mau’s

Tailleur des Champs-Elysées

PARIS.

Trong số các tửu đồ có mấy anh Tây nhận ra Mậu là bạn học với mình ở Albert Sarraut. Thế là họ ôm chầm lấy nhau, cười đùa vui vẻ. Và sâm-banh nổ đôm đốp. Một dịp may hiếm có để Mậu quảng cáo cho tiệm may của chàng.

Vài ngày sau, một viên công sứ tới may một lúc năm sáu bộ quần áo và căn dặn: “Tôi muốn ăn mặc đúng như anh. Nếu có thể được, anh mua giùm tôi cái mũ quả dưa, vì ở Hà Nội không có bán”.

Từ đó, tất cả Tây ở Hà Nội, kể cả Đốc lý Tholance, đều là khách hàng quen thuộc của tiệm may Ch. Mau’s. Nếu là người nào khác, thì đã có thể giàu to. Nhưng với công tử Mậu thì không. Bao nhiêu lãi lời của tiệm may chàng đã phải bù đắp cho hai tờ báo: Dân Mới và Le cri de Hanoi. Cái Auberge Dân Mới của “công tử” Thấu cũng không thể ngóc cổ lên được. Bởi để chứng tỏ rằng mình là một tay “videur” có hạng, bất cứ một anh Tây nào tới nhậu mà giở trò quậy phá đều bị công tử tóm cổ quẳng ra đường.

Thấu’s Cocktail ngon nhất hạng. Các ông Tây bà Đầm tới uống một lần là nhớ mãi. Nhưng sau những vụ lộn xộn, họ đã xa lánh dần.

NHỮNG CÔ LOLO VÀ DẠ HỘI THỜI TRANG

Những năm đầu của thập niên 30, người ta bắt đầu quen thuộc với các từ ngữ “kermesse” (chợ phiên), “confetti” (hoa giấy hay giấy bướm) và “serpentin” (một loại hoa giấy giống như cuộn ru-băng, có thể ném đi xa tới chục thước).

Năm ấy, các ông nghị trong Hội đồng thành phố thấy rằng, nếu cứ ngồi gật gù mãi thì cũng buồn, bèn đề nghị lên ông Đốc lý cho mở chợ phiên, để trước là mua vui, sau làm việc nghĩa. Nhưng sau ngày khai mạc, chợ phiên chẳng khác gì chợ… chiều. Nhóm Club des XV bàn với công tử Mậu, nhân dịp này giở trò quậy phá, vừa để cho vua biết mặt chúa biết tên, vừa để quảng cáo cho tờ Le cri de Hanoi.

Thế rồi người ta dàn dựng một vở kịch. Một trong những người bạn của Club des XV, họa sĩ Jordan, mới ở Paris qua, chưa ai biết mặt, nhận đóng vai thanh tra mật thám. Jordan đích thân tới báo cho Ban tổ chức chợ phiên biết rằng, ông Hoàng Ấn Độ và phu nhân sẽ tới thăm chợ phiên. Ngoài ra sẽ còn có nhiều nhân vật quan trọng Pháp, Nam cùng sĩ quan người Xiêm tháp tùng.

Tin này được tung ra. Nó khêu gợi sự tò mò của dân Hà Nội. Dù sao người ta cũng muốn so sánh xem giữa ông Hoàng Ấn Độ với các chú Tây Đen bán vải ở Hàng Ngang, Hàng Đào có gì khác biệt không. Và thiên hạ ùn ùn kéo tới chợ phiên đông như trẩy hội. Công tử Mậu mặc com-lê, đội mũ chà-và đỏ chói với cái tua đen trên chóp, đóng vai ông Hoàng, ngồi trên ô tô cho tài xế Tây lái. Ban tổ chức hướng dẫn ông Hoàng vào phòng khách danh dự. Người ta bắt đầu tung “confetti”. Một trận mưa hoa giấy trông như hàng ngàn hàng vạn những con bướm nhỏ từ trong hồ điệp cốc vỡ tổ bay ra. Và những cuộn “serpentin” từ những bàn tay điệu nghệ ném ra, đan thành một cái lưới khổng lồ với đủ màu sắc của một chiếc cầu vồng.

Nhưng tới khi vào tiệc sâm-banh thì công tử Mậu bị lộ tẩy. Người ta phát giác chàng là một ông Hoàng “dỏm”! Những tiếng la ó nổi lên. Bởi những người bạn Pháp trong Club des XV đã sắp xếp từ trước, nên viên chánh cẩm bốt Hàng Đậu đã mở một lối thoát cho “công tử” rút lui an toàn.

Hôm sau, báo Le cri de Hanoi đăng trên trang nhất bức hí họa vẽ “công tử” Mậu đội mũ chà-và cầm bút, bỏ lại sau lưng cái thước dây và cái kéo; và còn ở trang ruột thì viết về chợ phiên gồm cả những tin thật và tin… vịt.

Đúng như ước muốn, từ đấy, chàng đã được “vua biết mặt, chúa biết tên”.

Vào một dịp xuân năm 193… phủ Thống sứ mời Ch. Mau’s tới để giao cho việc tổ chức một chợ phiên mừng xuân. Thống sứ Bắc Kỳ thời bấy giờ là Yves Chatel. Có thể một người nào đó đã giới thiệu với ông ta về sự chơi ngông của Mậu, và cũng có thể ông ta nghĩ rằng, “dụng nhân như dụng mộc”. Gỗ cong thì ta dùng vào việc cong.

Chu Mậu nhận lời cộng tác. Chàng không muốn bỏ lỡ một cơ hội để thi thố cái tài ăn chơi của mình. Sau khi lên phương án và được phủ Thống sứ chuẩn y, chàng phân công cho các bằng hữu - tùy theo khả năng của từng người - mỗi người phụ trách một bộ môn. Kiến trúc sư Võ Đức Diên nhận trách nhiệm xây cất vũ trường Lolo trên đỉnh núi Nùng trong vườn Bách thảo. Họa sĩ Le Mur (tên ông ta là Tường, dịch ra tiếng Tây: le mur) trông coi dạ hội thời trang. Bởi cái “đinh” của chợ phiên là những cô Lolo người Thái trắng, nên công tử Thấu đã phải lên miền thược du, giao thiệp với các quan lang, các thổ ti để mời một số hoa khôi vùng sơn cước về Hà Nội.

Bữa khai mạc, Thống sứ Chatel mặc lễ phục tới cắt băng khánh thành. Bà hiệu trưởng trường Hàng Cót hướng dẫn 20 nữ sinh cải trang thành những cô Lolo đi bán hoa và gắn huy hiệu Chợ phiên tưng bừng trong tiếng pháo đón xuân. “Serpentin” dăng lưới trên các lùm cây. “Confetti” và xác pháo ngập lối đi. Các cô Lolo ở vùng cao và Lolo Hà Nội chen vai thích cánh cùng các công tử của đất ngàn năm văn vật, leo lên những bậc tam cấp của núi Nùng để tiến vào vũ trường hoặc đi sang khu dạ hội thời trang, hay tới tham dự một cuộc bán đấu giá theo kiểu Mỹ.

Các loa phóng thnah truyền đi một bài hát nói về các nàng Lolo để quảng cáo cho chợ phiên. Đó là một bài hát ta theo điệu Tây. Điệu “Celle que j’aime éperdument”. Lời Việt mở đầu bằng hai câu:

“Như in trong trí những khi ta thấy

“Lolo như tắm dưới mưa hoa giấy….

Phong trào Lolo cũng kết thúc cùng chợ phiên. Những cái gì của núi rừng lại được trả về cho rừng núi.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua. Các “công tử” Hà nội của những năm 30, hầu hết đều đã qua đời. Thế hệ tiếp nối, “công tử” Hà Nội của những năm 40, về mặt học vấn có thể thua sút lớp người trước, vì chiến tranh làm gián đoạn, nhưng ở một khía cạnh khác, họ đã vượt xa các bậc đàn anh. Giữa thập niên 40, họ đã mở đầu cho những khúc ca chính khí:

…Nhớ thuở ra đi đất trời bốc lửa

Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…(3)

(Bài viết này dựa theo một số tư liệu của ông Dương Thiệu Thanh, một trong những bằng hữu của Club des XV).

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st

------------

(1) Pigale: Khu phố ăn chơi ở Paris.

(2) Các quán rượu ở châu Âu thường có những “videur” có nhiệm vụ thu xếp các vụ ẩu đả trong quán.

(3) Thơ Chính Hữu.


Phụ bản III

Cà dái dê

Bà bạn đến nhờ coi bệnh cho người quen. Đó là một phụ nữ trang bị “nhiều đồ phụ tùng”. Cẳng tay bị che mất 1/3 bởi vòng vàng gây trở ngại cho bắt mạch. Sau khi khám bệnh, tôi nói:

- Xin lỗi. Chị đi cầu Phân màu gì, mặt phân có láng không?

- Không biết.

- Khi đi cầu, cục phân đầu tiên khô cứng như hòn sỏi. Nhưng sau đó phân còn cứng hay mềm?

- Không biết.

- Trời đất, hỏi gì chị cũng không biết. Chị chỉ lo cái vỏ là săn sóc sắc đẹp và đeo nữ trang còn “bộ đồ lòng” thì bỏ phế, nát bấy, đủ thứ bệnh. “Ăn thua ở cái lòng”, “xấu bụng” thì bên ngoài làm sao tốt đẹp được. Mỗi ngày đi cầu nhớ quan sát phân cho kỹ: màu sắc, khô hay láng, cứng mềm và nhất là có mùi thối không. Trước mắt ăn nhiều cà dái dê. Tuần sau trở lại cho biết chi tiết.

Sau khi thiếu phụ ra về, bà bạn cự nự:

- Ông này bất lịch sự. Người ta làm ăn lớn, tiền của bạc tỷ mà ông bảo xem phân, ngửi phân có thối không.

- Ngửi phân và xem phân là cách xét nghiệm gan mật chính xác nhất.

- Thế sao không kê toa cho người ta đi “bốc” mà tục tĩu dặn ăn Cà dái dê.

- Đã chẩn bệnh xong đâu mà đề cập “toa” với “bốc”. Tạm thời cho ăn cà dái dê để mát gan, thông mật. Tôi có nói bậy gì đâu mà chị cự tôi?

- Nói khéo một chút, thay vì cà dái dê thì bảo cà tím.

- Thôi đi bà ơi. Bảo cà tím, nhỡ chị ta ăn cà pháo tím là “vỡ nợ”.

Cà dái dê hay cà tím có tên khoa học là Solanum melongena, họ Cà. Quả dài lòng thòng với hình dáng như tinh hoàn dê dực nên có tên Cà dái dê. Gọi tên cà tím là không chính xác vì một vài loại cà khác cũng màu tím.

Hơn nữa Cà dái dê có hai loài: quả xanh ánh tím và quả tím.

Có người nói ăn cà dái dê bị nhức mỏi. Đúng thôi, đó là ăn quả cà còn xanh non nên nhiều solanin; lượng solanin giảm khi chín. Cà dái dê nướng có mùi thơm hấp dẫn do solanin.

Hãy chọn quả vừa chín tới nghĩa là không còn cứng nữa. Hãy lựa quả có da bóng mượt và đồng màu, không có vết trầy. Dùng ngón tay ấn vào rồi buông ra, vỏ quả phồng trở lại là quả còn tươi. Vỏ nhăn nhúm là bị héo.

100g cà tím sinh 23 calori, có thành phần như sau:

92% nước,

5,5% glucid,

1,3% protein,

220mg kali,

15mg photpho,

12mg manhê,

10ng calci,

15mg lưu huỳnh,

0,5mg sắt,

0,2mg mangan,

0,2mg kẽm,

rất ít vitamin.

Ruột quả nhiều chất nhày. Vỏ quả có violantine, một chất thuộc nhóm anthocyanosid.

Theo Y học dân gian, cà dái dê có tính mát gan, thông mật, nhuận tràng, thông tiểu, điều hòa tiêu hóa.

Thức ăn thường làm là nướng, xào mỡ, bung, um, xào thịt… Nóng quá làm cà nhão mất ngon. Ruột cà nhầy nhão lại tưởng là có chất dầu, thật ra cà dái dê không có dầu mỡ.

Khi ăn cà dái dê nên ăn cả vỏ vì villantine ở vỏ quả có tính chống oxy-hóa.

1-Tăng tiết dịch tiêu hóa.

Cà dái dê làm tăng tiết mật và dịch tụy, giúp tiêu hóa thức ăn. Cholesterol trong mật nhũ hóa chất béo để có thể hấp thụ qua thành ruột. Trypsin trong dịch tụy thủy phân protein thành albumin và aminoacid. Mật còn làm tăng nhu động ruột.

Cà này trị ăn không tiêu, đầy bụng.

Nếu tiêu hóa tốt thì phân có mùi thối. Khi phân không thối là tiêu hóa có vấn đề, có thể do tạp khuẩn ruột thiếu men xình thối.

2-Trị táo bón.

Đông y cho rằng táo bón có nhiều nguyên nhân nhưng thường do âm suy nên rút hết nước vào cơ thể, phân khô cứng.

- Chất xơ làm phân tăng thể tích và không đóng tảng.

- Chất nhầy làm phân trơn nhuận.

Người âm suy và táo bón thì da không trơn nhuận. Nếu chỉ dùng mỹ phẩm chăm sóc cái vỏ ngoài mà không ngăn chặn táo bón thì da không thể mịn màng tươi mát.

3- Giảm cholesterol, giảm thân trọng.

Gan tiết mật, cholesterol là thành phần quan trọng của mật. Ruột có cholesterol của mật và trong thực phẩm (thịt, trứng). - Chất béo cần nhờ cholesterol nhũ hóa mới ngấm được vào máu. Chất nhày của cà dái dê ngoại hấp cholesterol. Chất này bị khóa hoạt tính nên không hoàn thành chức năng, chất béo không được nhũ hóa nên ở lại ruột.

Cả cholesterol và chất béo lưu lại trong ruột để rồi di chuyển xuống ruột già và bài xuất theo phân. Cơ thể không được tiếp tế cholesterol và chất béo, chẳng những thế mật còn kéo theo cholesterol. Kết quả là cholesterol và chất béo trong máu đều giảm. Ăn Cà dái dê chính là cách giảm cholesterol - huyết và triglycerid - huyết an toàn nhất. Một quả cà tím nướng có khả năng hấp thụ 83g chất béo trong 70 giây, cao gấp 4 lần khoai.

Không được tiếp tế thêm, cơ thể tiêu thụ mỡ dự trữ nên thân trọng giảm. Điều cần biết là nên giảm thân trọng từ từ để cơ thể có thời gian thích nghi. Nếu giảm càng nhanh thì sẽ lên cân trở lại mấy hồi. Thân trọng tăng giảm nhanh và nhiều lần sẽ gây xáo trộn sinh lý.

Cà dái dê có khả năng sinh nhiệt thấp kèm với chất xơ và chất nhày nên giảm cân tốt. Nên thêm cà dái dê vào thực đơn của người mập phì, cao huyết áp, tiểu đường.

4-Phụ trị bệnh tim mạch.

Chất béo không tan trong huyết tương nên phải núp dưới dạng kết hợp với cholesterol và apoprotein gọi là lipoprotein. Lipoprotein lại chia ra nhiều loại nhưng chỉ có 2 loại làm chúng ta lưu tâm là lipoprotein LDL (low density) và HDL (hignh density).

Lipoprotein LDL dư thừa (nhân dân gọi là máu nhiễm mỡ) dễ bị oxy-hóa, tăng kết đọng tiểu cầu (tạo cục máu) và gây xơ động mạch. Động mạch bị giòn cứng và giảm khẩu độ, dẫn tới cao huyết áp, thiểu năng động mạch vành. Nếu tảng xơ động mạch hoặc cục máu di chuyển tới tim gây gây đột tử (nhân dân gọi là chết không kịp ngáp), nếu lên não sẽ gây tai biến não. Chất nhày của cà dái dê làm giảm triglycerid và cholesterol cũng làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch.

Các tài liệu của Đại học Berkeley, Johns Hopkins, Harvard, Tufts gần đây còn cho biết, thực đơn nhiều chất xơ và kali cũng giảm nguy cơ đột tử và tai biến não (xem bài Chuối, Món ăn-bài thuốc).

Chất chống oxy-hoá (violantine) trong Cà dái dê cũng tham gia ngăn chặn sự oxy-hóa lipoprotein LDL.

Đa số thuốc giảm cholesterol đều đắt tiền và có độc tính. Với căn bệnh này phải uống thuốc dài hạn nên cần tính chi li chi phí trị liệu. Ăn Cà dái dê là cách dùng thuốc hay nhất: an toàn, rẻ tiền, dễ kiếm và còn khoái khẩu nữa.

Cà dái dê đạt những tiêu chuẩn biên soạn sách Món ăn-bài thuốc.

Hãy ăn cà dái dê nướng. Nhớ đừng tưới thêm dầu mỡ. Cũng không ăn cà dái dê xào mỡ.

Món cà tím bung với đậu hủ, thịt nạc cũng thích hợp với trường hợp này.

Món cà dái dê lăn bột chiên chỉ nên ăn ít thôi vì có chất béo và trứng.

5-Thông tiểu và thải urê.

Thực đơn nhiều thịt làm tăng urê-huyết. Purine trong thịt và đậu nành tích tụ gây bệnh thống phong với triệu chứng đau khớp; điểm đau di chuyển từ khớp này sang khớp khác chứ không ở một vị trí như bệnh thấp khớp.

Cà dái dê thông tiểu, tăng thải urê và acid uric.

Bs. Nguyễn Lân-Đính st

CUỘC ĐỜI TÌNH ÁI

CỦA NGƯỜI CHA ĐẺ PHÂN TÂM HỌC

FREUD ĐA TÌNH

Nhà phân tâm học lừng danh quốc tế thời trẻ là một gã thèm yêu, nhát gái, một vị hôn phu ghen tương trong bốn năm và sau đó, một người chồng gương mẫu…

MẶC TƯỜNG LY

ROLAND JACCARD

Cuộc đời tình cảm của người cha đẻ phương pháp phân tách tâm lý rất được mọi người trên thế giới muốn biết. Nhưng không ai được hiểu gì nhiều về Bác sĩ Freud trước cuộc gặp gỡ của ông với người con gái mà sau này (ngày 14-9-1886) trở thành vợ ông: Martha Bernays. Trong một bài viết về những kỷ niệm bình phong, nhà phân tâm học S.Bernfeld nói về một đoạn tự tìm hiểu của Freud cho thấy đó là kinh nghiệm yêu đương đầu tiên của Sigismund (Freud đổi lại là Sigimund năm ông 22 tuổi).

Tưởng là đã yêu…

Được gia đình Fluss, buôn bán tơ lụa và là bạn thân của cha mẹ ông mời về nghỉ hè tại Freiberg (cố hương của ông), Freud đã cảm ngay Gisela, con gái của họ, nhỏ hơn ông 2 tuổi. Như tất cả những chàng trai 16 tuổi thời đó, Freud đã nhút nhát không dám tỏ tình mà cũng không dám nói lời nào với Gisela. Một vài ngày sau, Gisela được đưa vào nội trú.

Freud thất vọng vô cùng. Ông không biết làm gì khác hơn là thơ thẩn trong rừng, thầm nghĩ ngợi là cuộc đời ông sẽ sung sướng biết bao nếu gia đình ông không rời khỏi tỉnh lỵ này!

Freud đã viết:

“Tôi đi thơ thẩn trong góc rừng đó, xây cất nhiều lâu đài Tây ban Nha không ích lợi gì cho tương lai mà chỉ cốt để làm cho dĩ vãng trở thành tốt đẹp. Nếu gia đình tôi không sa sút đến phải dời khỏi nơi đây, nếu tôi đã sanh trưởng nơi đây và được mạnh khoẻ như anh em của người tôi yêu… Nếu tôi theo nghề nghiệp của cha tôi và cưới được người con gái mà tôi vừa gặp…”

Nhưng ba năm sau, trong một chuyến đi Manchester, Freud có dịp gặp lại Gisela. Người con gái này không còn gây cho Freud một xúc động cỏn con nào. Tưởng là đã yêu nhưng thật ra, Freud đâu đã biết yêu…

Gặp người bạn đời

Đời sống sinh lý của Freud trong suốt 10 năm sau mối tình trong mộng đối với Gisela cho đến khi gặp Martha, không ai biết ra sao cả. Ernest Jones, tác giả Cuộc đời và tác phẩm của Freud cho là cho đến khi gặp người bạn đời, không có mối tình nào khác đã đến với Freud. Trong một bức thư của Freud gởi cho Martha, ông nhấn mạnh là từ trước những người con gái không làm ông bận tâm nghĩ đến nhưng bây giờ, đối với Martha lại khác…

Theo E. Jones thì có lẽ Freud chỉ có thỉnh thoảng những trường hợp giải quyết sinh lý thôi. Trong một bức thư gởi bác sĩ J. Putnam, hồi năm 1915, Freud đề cập đến việc chấp nhận cho tuổi trẻ được tự do trong địa hạt này và nhìn nhận: “Chính tôi cũng đã tự cho phép tôi được quyền hành động như vậy”.

Những gì người ta biết về mối tình của Freud với Martha hầu hết do thư từ trao đổi giữa hai người trong suốt thời gian bốn năm (1882-1886) trước cuộc hôn nhơn của họ. Nhưng Freud không khi nào đề cập đến vấn đề này trong khi trò chuyện hay trong sách vở. Mãi đến năm 1951, Ernest Jones mới được cho xem khoảng 1.500 bức thơ (mỗi bức trung bình 12 trang của Freud gởi cho “Nữ hoàng của lòng anh” (theo ngôn ngữ của Freud). Các thư này quả là một kho tàng phong phú về “tình thư” đẹp nhứt thế giới qua các thời đại.

Không nịnh nọt nhưng mỗi ngày một bông hồng

Freud gặp Martha lần đầu tiên khi nàng cùng chị là Minna đến thăm gia đình Freud vào một chiều tháng 4-1882. Nàng ngồi nói chuyện vui vẻ với mọi người trong khi tay gọt một trái bom. Điều làm cả nhà phải ngạc nhiên là Freud cũng đến ngồi góp chuyện với mọi người. Vài tuần sau, dọ hỏi lòng mình, Freud thấy lần này chắc chắn đã yêu nên không do dự nữa. Từ đó, không ngày nào ông không gởi tặng nàng một bông hồng đỏ kèm theo câu châm ngôn Tây ban Nha, La Tinh, Anh hoặc Đức. Ông ví nàng như vị Công chúa trong chuyện thần tiên mà mỗi lời nói là một bông hồng hay một hạt kim cương.

Nhưng Martha là người thế nào mà đã gây xúc động sâu xa trong lòng Freud như vậy?

Martha Bernays sanh ngày 26-7-1861 tại Hambourg (nhỏ hơn Freud 5 tuổi) trong một gia đình thâm cảm sâu xa về văn hóa Do Thái. Ông nội nàng Tiến sĩ Isaac được coi như vị lãnh đạo tinh thần tối cao trong các giới Do Thái.

Theo Ernest Jones thì Martha nhỏ người, mảnh mai, trắng xanh và có cử chỉ dịu dàng, rất được nhiều người chú ý, mến mộ. Nhưng Freud không bợ đỡ, phỉnh nịnh nàng chút nào:

“Anh biết là em không đẹp theo quan niệm các họa sĩ hay điêu khắc. Nếu em muốn nghe những lời nói thẳng thì anh thành thật mà nói em không phải là một Sắc Đẹp…”

Trong một bức thư khác, những nhận định của Freud thật không làm khoái tai một thiếu nữ 22 tuổi chút nào:

“Em đừng quên là Sắc Đẹp chỉ thoảng qua mà chúng ta còn ăn đời, ở kiếp lâu dài với nhau. Một khi mà nhan sắc và vẻ tươi mát của tuổi trẻ trôi qua, cái đẹp duy nhất còn lại là lòng tốt và sự hiểu biết mọi việc đã đổi thay. Em hơn người là ở chỗ đó…”.

Hai năm sau, nhơn dịp Martha gởi cho Freud một bức ảnh của bà mới chụp, ông đã nhận xét:

“Cái nổi bật nhứt trong hầu hết các bức ảnh của em là sự khiết bạch và cái đẹp cao quý của vầng trán và đôi mắt của em. Hình như tạo vật muốn cho em thoát cái hiểm nguy chỉ là một người đẹp, ban cho em cái mũi và cái miệng đầy cương nghị không có vẻ đàn bà chút nào cả…”.

Tưởng cũng nên nói thêm, Martha, là một thiếu nữ có giáo dục thông minh nhưng không như Minna một thiếu nữ được coi là trí thức. Khi lập gia đình, những nỗi âu lo hàng ngày về đời sống, việc săn sóc 6 con thơ đã chiếm hết thì giờ của bà.

Thời kỳ đính hôn kéo dài

Họ làm lễ đính hôn ngày 17-6-1882. Cả hai đã coi đó là ngày trọng đại nhứt trong đời họ và hằng tháng đều nhắc nhở. Theo E. Jones thì chỉ có hồi tháng 2-1885, vì có nhiều việc nên họ mới quên không nhắc đến ngày này lần thứ nhứt trong thư của họ.

Mỗi tháng mỗi nhớ tới kỷ niệm ngày đính hôn trong bao nhiêu năm trời. Kể đôi bạn tình này cũng hy hữu vậy!

Sau khi làm lễ đính hôn ít lâu, Martha dời Vienne đi Wandsbeck, một thị trấn nhỏ gần Hambourg. Nhựt ký của Freud đã ghi trong hai ngày trước khi Martha lên đường, ông đã hôn bà nhiều hơn là hôn các chị, em của ông trong 20 năm. Ông cũng chỉ gặp lại Martha 6 lần trong thời gian đính hôn kéo dài 4 năm ba tháng.

Thời gian đính hôn quá dài đó (dưới mắt chúng ta hiện nay chớ hồi thế kỷ XIX là chuyện thường) chỉ vì tình trạng tài chánh của Freud. Ông không thể cưới vợ trong lúc không có tiền.

Chính bà mẹ của Martha trước kia cũng đã phải kéo dài thời kỳ đính hôn đến 9 năm. Ngày 27-6-1886 sau 4 năm đính hôn, bà mẹ của Martha đã trách ông quá coi thường và khó tin khi ông nói sẽ cử hành hôn lễ vào tháng 9 năm đó!

Bà viết:

“Muốn làm chủ một gia đình khi không có đủ điều kiện bảo đảm, thật là một tai hại. Còn mướn một căn nhà vào tháng 8, đúng vào lúc ngày ta vắng nhà trong 5 hay 6 tuần lễ là liệng tiền qua cửa sổ…

“…Cậu không có gì phải khó chịu. Hãy tỏ ra hợp lý hơn. Hiện nay cậu có vẻ như một đứa con cưng đang khóc vì người ta không cho nó những gì nó đòi hỏi và tưởng rằng có thể đòi được bằng cách đó”.

Phải kiếm cho ra tiền

Trước đây, bà mẹ của Martha đã do dự khá lâu mới đồng ý cho con gái tự ý chọn người bạn trăm năm. Theo bà, Freud là một thanh niên không có tiền bạc mà cũng không có tương lai. Quan trọng hơn nữa, Freud lại không cùng một tôn giáo với gia đình bà.

Phần Freud thì thấy bà có vẻ độc đoán quá (bà đã góa chồng từ 1879 và xử sự như đàn ông). Bà là một tín đồ cuồng tín Do Thái Giáo lại quá lệ thuộc một đời sống tiện nghi. Freud muốn kéo Martha ra khỏi ảnh hưởng của bà. Theo E. Jones thì Freud đã làm được việc đó.

Nhưng họ cần bao nhiêu tiền để cử hành hôn lễ? Ngày 18-8-1882, Freud viết:

“…Chúng ta chỉ cần hai hay ba phòng nhỏ để ở và tiếp bạn bè…”.

Freud cố gắng tính toán, giản đơn rất nhiều nhưng tất cả cũng phải ít lắm là hai ngàn năm trăm đồng guldens. Ngoài ra còn những tiêu tốn cần thiết trong thời gian mới cưới. Thế mà mãi đến 1886, Freud chỉ mới có hơn một ngàn đồng guldens. Chính Breuer một bậc đàn anh của Freud đã khuyên Freud nên đi làm bồi nhà hàng để kiếm thêm tiền (Breuer lớn hơn Freud 14 tuổi, đã gặp Freud ở viện Thần kinh học. Năm 1882, khi chữa một chứng loạn thần kinh, Breuer khám phá những phương pháp sau này là khởi điểm của phân tâm học). Nhưng dầu có làm thêm như vậy, món tiền kia cũng không thể kiếm mau được.

Cũng trong thơ Freud có đoạn:

“Tại sao chúng ta lại để mất những năm tốt đẹp của xuân thì? Tại sao chúng ta không cứ thành hôn với nhau, sống trong nghèo khổ, bằng lòng với hai phòng nhỏ, và buổi tối, chia nhau gặm miếng bánh mì khô?...”

Nói thì nói vậy chớ làm sao họ thoát khỏi những lề thói trưởng giả bắt buộc của thời đại? Freud chỉ còn có một giải pháp là lăn xả vào nghề thầy thuốc của ông để kiếm tiền… cưới vợ.

Những cơn ghen khủng khiếp

Theo E. Jones trong thời gian bốn năm dài đằng đẵng đính hôn giữa Freud và Martha, Freud đã ghen kinh khủng.

Người đầu tiên là Max Mayer, anh họ của Martha, vốn là một nhạc sĩ và sống ở Hambourg. Trước khi gặp Freud, Max là người thân nhứt của Martha. Thời gian sau này, hai người cũng thỉnh thoảng có gặp lại nhau. Chính vì vậy mà Freud ghen!

Nhưng Freud không phải ghen lâu với Max Mayer. Một người bạn của Max, Fritz Wahle xuất hiện. Fritz cũng là nghệ sĩ và rất được nữ giới ái mộ. Nhiều nguồn tin cho là Fritz là một tay tán gái rất cừ và Fritz thường thâu được nhiều thắng lợi trước những tình địch lợi hại. Người ta có thể thấy qua các sự việc này, quan niệm của Freud đối với nghệ sĩ và nghệ thuật bị ảnh hưởng rất nhiều. Freud cũng viết cho Martha:

“…Anh nghĩ có một sự thù nghịch bao quát giữa những người nghệ sĩ và những kẻ vùi đầu nghiên cứu khoa học. Chúng tôi hiểu rằng nghệ thuật đã giúp những người đó chìa khóa để mở những quả tim phụ nữ trong khi chúng tôi thấy bỡ ngỡ trước ống khóa đó, phải loay hoay mãi mà chưa tìm được chìa khóa…”.

Fritz Wahle đã đính hôn với một người chị họ của Martha, Fritz cũng quen với Martha từ lâu. Cả hai rất có cảm tình với nhau. Martha cũng đã có ít nhứt một lần để cho Fritz hôn. Khi nghe việc Martha đính hôn với Freud, Fritz đã òa lên khóc. Fritz cũng yêu cầu Martha hãy hủy bỏ việc đính hôn này. Dĩ nhiên là Martha không thể nghe theo lời Fritz. Về mặt Freud, ông cũng đã cấm Martha không được gặp lại người bạn nguy hiểm này nếu không cuộc tình duyên của họ có thể đổ vỡ.

Ba năm sau, nhắc lại kỷ niệm này, Freud còn thấy bực. Một trong những bức thư của ông cũng có ghi:

“…Khi kỷ niệm về ngày mà chúng tôi đã trải qua ở Kahlenberg sống lại trong trí óc tôi, tôi không còn bình tĩnh được nữa và nếu như tôi có quyền lực nào đó, tôi sẽ hủy diệt hết vũ trụ… cả tôi và Martha nữa…”.

Freud cũng nói là ông có thể hy sinh bàn tay mặt để có thể loại khỏi óc ông ý nghĩ Max và Fritz đều quá thân mật với Martha. Những gì mà Freud mô tả sau này dưới danh xưng “bịnh thần kinh thời kỳ hứa hôn” là những gì ông đã sống qua. Những trạng thái ghen tuông dữ dội, muốn chết v.v… đều là những gì ông đã từng sống qua.

Mùa hè 1885, Martha định đến thăm một người bạn gái đã có chồng mà trước kia bà có nói là đã “ăn nằm với nhau trước ngày cưới”. Freud nghiêm khắc cấm không cho Martha đi và nhấn mạnh là không muốn bà đến gần một nơi nhơ nhuốc như vậy. Freud cũng cấm Martha trượt thiết hài để khỏi bị một người đàn ông khác nắm tay hoặc đụng chạm vào người.

Trong một bức thư viết cho Martha khi nghe tin nàng ốm, Freud đã nói rõ:

“Anh hết biết gì khi có những lo ngại vẩn vơ về em. Anh mất cả lý trí và nhiều khi một sự hãi hùng xâm chiếm tâm hồn anh… Anh như điên lên đến không còn có thể viết tiếp!!”.

Freud hoàn toàn tán đồng những thành kiến và tập tục, lễ nghi cổ truyền về phẩm cách người con gái, người đàn bà có chồng và nếp sống tuổi trẻ. Ông cũng tỏ ra nhờm gớm trước những khám phá của ông về tình dục. Chính các con của ông, ông đã phải gởi đến nhờ một bác sĩ khác dẫn giải cho biết chớ ông không thể nói ra với chúng vấn đề này.

Cái lẫn lộn giữa đam mê và thù nghịch, hờn ghen trong thời kỳ đính hôn đã trở thành một tình yêu say đắm nồng nàn khi họ cử hành hôn lễ. Một tình yêu ích kỷ, độc đoán, Freud đã thú nhận là khi nghe tin bạn thân của ông là Schonberg gặp hoàn cảnh khó khăn, tuyệt vọng, ông cũng không lo lắng bằng khi thấy mắt Martha có quầng thâm… Nhưng theo E. Jones thì vẻ xanh xao và đôi mắt có quầng thâm của Martha là do sự ái ân cuồng nhiệt, không biết chán của Freud.

Trong suốt thời kỳ còn đính hôn, vấn đề con cái không được đề cập đến hay nếu có nói đến thì cũng chỉ là một chướng ngại cho tình yêu… Freud viết:

“Tôi nghĩ là trong nhiều trường hợp, một khi đã thành hôn với nhau, người ta không còn sống cho nhau như trong thời kỳ còn đính hôn nữa. Người ta sẽ sống cho những kẻ thứ ba: “những đứa con”. Giữa đôi vợ chồng cũng lần lần có một sự ngăn cách. Người chồng thỉnh thoảng lại đi tìm bạn bè, quán cà phê và có thể sẽ tìm thấy những nguồn vui khác ngoài gia đình”.

Nhìn cảnh cưới hỏi của nhiều người, Freud đã viết cho Martha:

“Em có bằng lòng làm lễ cưới không cần nhẫn, không cần tặng vật, không cần những lời khen, chúc tụng, không bị nhìn ngó và phê bình, không áo cưới và chiếc xe mà kẻ đi đường sẽ ngẩng lên nhìn rồi buột miệng kêu lên: “A…” ngạc nhiên hay ngạo nghễ? Em có thể nghĩ khác nhưng tôi thì không thích chút nào…”.

Trong một bức thư 16 trang sau khi chứng kiến lễ cưới của Paneth, một người bạn thân, Freud đã viết cho Martha biết những gì khó chịu mà ông đã nhận thấy trong cuộc hôn lễ. Nhưng ở Áo bắt buộc phải làm lễ cưới theo đạo giáo mới được. Freud đành phải tuân theo. Họ thành hôn ngày 13-9-1886 tại Wandsbeck.

Freud đã nói đùa với Martha là họ sẽ cãi nhau ít nhứt một lần mỗi tuần. Nhưng làm gì có chuyện đó? Họ không hề cãi nhau mỗi tuần. Và suốt cuộc đời chung sống vói nhau họ chỉ có một lần cãi nhau về chuyện nên nấu nấm cả chơn hay bỏ chơn?

Những gì Freud viết cho Martha trước kia về hạnh phúc của vợ chồng và việc sanh con cái rốt cuộc đã trái ngược hết. Họ đã có với nhau sáu con. Việc phải nuôi sáu con và chăm sóc công việc nhà cửa đã làm Martha héo mòn rất sớm. Nhưng Martha là một người vợ tận tụy, một người mẹ hiền, Martha đã quên mình để bận rộn suốt cả đời lo cho chồng, cho con. Martha cũng khác hẳn với chị là Minna. Bà không giúp cho chồng được gì về mặt trí tuệ.

Hình như sự gần gũi chăn gối giữa Freud và vợ chấm dứt rất sớm. Nhiều bằng chứng cũng cho thấy là khoảng 40 tuổi họ không ăn nằm với nhau nữa. Sức mạnh của Freud đã ảnh hưởng nhiều đến việc này. Martha lại dễ thọ thai. Sáu con cũng quá đủ rồi…

Vợ chồng Freud, Martha là một lứa đôi trưởng giả đúng theo mẫu người của thời đại họ. Nhưng con người của Freud lại có những cái khác thường, không thể dung hòa được với nếp sống chung quanh khiến ông cứ mãi suy tư, nghĩ ngợi, thắc mắc tìm tòi và cuối cùng tìm ra phân tâm học. Tên Freud dính liền với môn học mới này: môn học mà bản thân ông đã góp phần nhiều hơn những kinh nghiệm bên ngoài đưa đến.

HOÀNG KIM THƯ st

NĂM TUẦN LỄ

(Cinq Semaines En Ballon)

của Jules Verne

BƯỚC ĐƯỜNG LƯU LẠC

(Trong khi ông bác sĩ và tay thợ săn đang ra sức tìm kiếm..., thì bạn Joe đã ra sao, khi rơi xuống biển hồ Tchad!)

Lúc rơi xuống nước, cái hành động đầu tiên của Joe là ngước mặt lên bầu trời. Gã nhìn thấy con tàu Khải Hoàn bay vọt lên không trung, và bay đi xa rồi vì sức gió. Gã cảm thấy hạnh phúc vì đã cứu được hai người bạn thân mến.

Yên chí về điều đó, Joe quay lại nghĩ đến thân phận mình. Hiện giờ gã đang ở giữa một biển hồ mênh mông nước, bao bọc bởi những bộ lạc mọi rợ dã man. Thêm một lý do nữa là phải hết sức bình tĩnh, và sáng suốt để giải quyết vấn đề. Gã nhìn thấy một hòn đảo ở chân trời.

Gã quyết định phải đến đó, và bắt đầu sử dụng hết khả năng bơi lội của mình. Mấy cái quần áo vướng bận tay chân được tháo bỏ đi. Mặc dầu là ở giữa biển nước, gã cũng không ngần ngại cho một đường bơi dài khoảng ba ngàn mét...

Gã chỉ nghĩ đến bơi lội trực chỉ, và dũng mãnh.

Sau một tiếng rưỡi đồng hồ, khoảng cách đã thâu ngắn lại.

Khi mà gã đã đến được gần bờ bãi, thì có một ý nghĩ ngoan cố luôn diễn ra trong trí gã. Thông thường ở các bờ bãi là nơi hội tụ của các bầy cá sấu rất hung dữ và phàm ăn!

Tuy là có cái tánh hay xem thường mọi việc, gã cũng cảm thấy lo ngại cho cái mảnh da trắng, phải làm mồi ngon của bầy cá sấu.

Gã tiến tới một cách rất thận trọng.

Chỉ còn cách bờ chừng một trăm sải, thì có một mùi xạ hương xông lên. Gã tự nhủ:

- Đây là điều ta lo ngại. Bầy cá sấu ắt là đang ở đâu đây.

Gã vội lặn nhanh để tránh sự va chạm vào một khối vẩy khổng lồ vừa mới lướt qua, mà gã cảm thấy tiêu đời rồi. Gã bắt đầu bơi lội với một tốc độ tuyệt vọng.

Gã nổi lên lấy hơi thở, rồi lặn xuống ngay. Trong mười lăm phút đau khổ như vậy, mà cả cái triết lý cứng rắn của gã cũng đành tan biến mất như mây khói. Gã vẫn nghe như có hai hàm răng hả to đang sẵn sàng táp phập ở phía sau lưng.

Bỗng nhiên, gã cảm thấy bị bắt lấy tay, rồi bị bắt lấy hông. Gã vùng vẫy cũng vô ich. Gã bị đưa lên mặt nước.

- Thật là lạ.-Joe tự nhủ - Tại sao cá sấu không lôi xuống đáy hồ như theo thói thường?

Lên tới mặt nước, gã mới biết mình bị bắt bởi hai tên mọi rợ. Chúng nó la lối với nhau bằng một thứ tiếng gì đó rất lạ lùng. Joe không khỏi buông ra một tiếng thở dài:

- Ôi chao, những thằng mọi da đen, thay vì những con cá sấu. Nhưng mà làm cách nào, những tên mọi chịu chơi nầy dám ngâm mình trong vùng nước ô nhiễm dẫy đầy cá sấu đó.

Joe không biết rằng, những dân cư sống trên các đảo của biển hồ Tchad thì lặn lội vô tội vạ trong nước đầy cá sấu mà không phải lo lắng gì hết. Tất cả những con cá sấu ở đây đều là vô hại đối với người.

Nhưng mà, Joe đã tránh khỏi cái tai họa nầy, thì lại rớt vào cái tai họa khác, mà cái tai họa nào cũng đều nguy hiểm như nhau.

Gã lên bờ, trước đám đông đang la ó.

Gã không còn biết xấu hổ gì, bởi quần áo thiếu thốn của gã. Hiện tại là gã đang trình diễn một màn sexy độc đáo ở vào điểm cuối thời đại.

Dẫu sao, trước khi nhận định ra thời cuộc, thì gã cũng tự hào về một sự tôn sùng thiêng liêng mà gã là mục tiêu duy nhất. Điều nầy làm cho gã yên tâm hơn.

- Ta có cảm tưởng là mình tự nhiên lại trở nên một bậc thần thánh thật sự. Một người con của thần Mặt Trăng nào đó. Vậy thì ta hãy cố gắng làm cho tốt cái vai trò nầy, khi mà người ta không có quyền chọn lựa gì nữa. Điều quan trọng là cần phải có thời gian. Nếu như con tàu Khải Hoàn có trở lại, thì ta sẽ cho những người bạn mê tín nầy lĩnh hội một sự trình diễn thăng thiên ngoạn mục.

Trong khi Joe suy nghĩ miên man như vậy, thì đám đông đang bu quanh gã. Họ nhảy múa, họ la ó, họ quỳ lạy, họ vuốt ve, họ thân thiện. Rồi kế tiếp là họ thết đãi cho gã một bữa tiệc hoành tráng, gồm có sữa chua, cơm chan mật ong, trái cây, mà chàng trai ta tiếp thu tất cả, một bữa ăn ngon lành nhất trong đời, và cũng làm cho bộ tộc ở đây có ý thức cao cả về sự ăn uống của bậc thần thánh trong lễ hội long trọng nầy.

Tối đến, những tên phù thủy trân trọng đến nắm tay gã, và dẫn đến một cái nhà chòi lá có dán đầy bùa chú, với những đống xương nằm lăn lóc. Gã có thừa thời gian để suy nghĩ đến tình cảnh đương thời và mai sau.

Ngoài ra, gã có thể tin tưởng vào sự tôn thờ mà gã là đối tượng, và sự tôn thờ nầy sẽ có bao giờ đưa đẩy đến một quyết định tối hậu là làm thịt gã không?

Sau nhiều giờ suy nghĩ về cái viễn ảnh đen tối đó, thì gã ngủ thiếp đi cho đến khi một lạch nước tình cờ đánh thức gã dậy. Và nước dâng lên nhanh. Gã tự bảo:

- Cái gì vậy? Ngập lụt à? Hay là một hình phạt của quân mọi rợ? Ta không thể chờ cho đến khi nước lên đến cổ.

Gã ta bèn dùng vai huých mạnh vào vách, và lọt ra ngoài giữa biển khơi. Không còn thấy đảo ở đâu nữa. Đảo đã bị chìm mất, trả lại mặt nước mênh mông cho biển hồ Tchad. Một hiện tượng thường xuyên xảy ra ở đây.

Joe suy nghĩ:

- Xứ sở gì mà ảm đạm quá.

Gã nhờ tình cảnh nầy mà thoát hiểm.

Gã lại tiếp tục phô trương nghệ thuật bơi lội được một lúc, thì bắt gặp một chiếc xuồng trôi dạt. Gã đến tiếp cận, thì ra đó là một thân cây móc bọng với hai mái dầm.

May mắn thay, gã bơi lọt được vào một dòng nước chảy về phương bắc, và cứ để vậy cho nước nó cuốn trôi đi.

Đến khi tiếp được đất liền thì trời đã sáng.

Thanh Châu dịch thuật


CHUYỆN LẠ VỀ CƯỜI

DỊCH CƯỜI

Ngày 3/1/1962, một dịch cười kỳ lạ bộc phát trong một trường học do các nhà truyền giáo phụ trách, tại một ngôi làng gần Bukoba, Tanganyka (hiện nay là nước Tanzanie), gần hồ Victoria. Những triệu chứng đầu tiên (cười và khóc) xuất hiện ở những học sinh nam và nữ trong độ tuổi thiếu niên. Dịch bệnh phát ra đột ngột, với những tràng cười dài từ vài phút đến nhiều giờ, thậm chí kéo dài đến 16 ngày, bị ngắt quãng bởi những đợt lắng dịu tạm thời. Ngay cả khi không cười, các bệnh nhân cũng tỏ ra khích động, không thể tập trung chú ý. Những tiếng cười cuồng loạn gây xáo trộn đến độ trường học phải đóng cửa vào cuối tháng 6. Khi trở về làng, các bệnh nhân nữ lây truyền bệnh cười cho bạn bè và người thân. Chỉ có những người đàn ông trưởng thành và dân làng có học vấn cao chống lại được sự lây nhiễm này. Dù không làm chết người, căn bệnh cười ấy lan khắp vùng trong khoảng 2 năm rưỡi. Do không tìm ra một triệu chứng nào thuộc về thể xác, những viên chức thuộc Cơ quan y tế công cộng loại bỏ nguyên nhân nhiễm trùng và đầu độc qua thực phẩm. Họ kết luận bệnh có nguồn gốc tâm lý: có thể đây là trường hợp “hystérie (cuồng) tập thể”.

Những dịch bệnh tương tự từng bộc phát vào thời Trung cổ ở châu Âu. Liệu chúng ta có được miễn dịch chống lại sự lây nhiễm của tiếng cười? Có lẽ hầu như không ai có thể nín cười trước một màn trình diễn hài hước hay một vở hài kịch trên truyền hình. Cái cười tước đi lớp vỏ bọc xã hội - văn hóa và khiến ta để lộ ra nền tảng sinh học đầu tiên trong sinh hoạt xã hội.

LIỆU PHÁP CƯỜI

Vào thế kỷ thứ II, danh y Galien đã nhận xét: “Những phụ nữ vui tính lành bệnh nhanh hơn những phụ nữ u sầu”. Hiện nay, những nhà sinh lý học thừa nhận một số tác dụng tích cực của tiếng cười (thư giãn, xoa bóp nội tạng,…). Vì vậy, hiện nay “liệu pháp cười” có thể giúp các bệnh nhân tìm lại sức khỏe thể chất và tinh thần. Một số người còn gán cho tiếng cười những tính chất trị liệu. Chẳng hạn như nhà báo Mỹ Norman Cousins khẳng định ông chữa được bệnh cứng khớp đốt sống nhờ những màn hài hước. Mặc dù chưa có bằng chứng nào về hiệu quả của tiếng cười, ở Mỹ, một số bệnh viện vẫn chỉ định dùng… “thuốc cười”!

VÙNG GÂY CƯỜI Ở NÃO

Có một vùng ở não bộ con người liên quan đến cái cười? Những thí nghiệm gần đây, dưới sự điều hành của Itzhak Fried, giáo sư thần kinh học thuộc Trường y khoa Los Angeles cho thấy rằng những xung động tác động trên một vùng rõ rệt của vỏ não có thể gây ra tâm trạng vui vẻ và khiến người ta bật cười. Để xác định vị trí trung tâm của các cơn co giật của một bệnh nhân động kinh 16 tuổi, nhiều vùng thuộc thùy trán trái bị kích thích với sự trợ giúp của những điện cực. Tại một số điểm, dòng điện yếu khiến bệnh nhân mỉm cười, dòng điện mạnh hơn khiến bệnh nhân cười rũ ra, ức chế cử động và lời nói. Bệnh nhân cũng nêu ý kiến về một chủ đề gây ra cảm giác vui vẻ. Trung tâm não khởi phát tiếng cười này nằm trong một vùng nhỏ 4cm2, ở ranh giới dưới vùng vận động phụ, đã được biết đến trước đó vì có liên quan đến hoạt động ngôn ngữ. Tuy vậy, không nên kết luận vội vã: những kiến thức hiện nay về thần kinh học chưa cho phép người ta thiết lập một bản đồ chính xác về những chức năng của não. Vả lại, những kết quả nói trên chỉ có được từ một đối tượng duy nhất, lại mắc bệnh động kinh. Theo Itzhak Fried, có những mối liên hệ chặt chẽ giữa những thành phần vận động, cảm xúc và khả năng cười.

14 KIỂU CƯỜI

· Cười khẩy: Trung tâm của môi trên nhô cao hơn 2 mép. Đây không phải là cái cười nhẹ mà là một hình thức biểu lộ sự chế nhạo hay sự cao ngạo.

· Cười khiêu khích: Không liên quan gì đến niềm vui hay sự thích thú, cái cười này biểu lộ ý muốn gây hấn với người khác. Chủ thể phát ra một chuỗi âm trầm và đứt quãng.

· Cười chảy nước mắt: Trong khi cười, tuyến nước mắt hoạt động, mắt càng ướt nhiều khi cười càng mạnh và kéo dài. Nước mắt chảy khi cười loãng hơn nước mắt chảy khi khóc. Sự căng thẳng thần kinh nơi chủ thể giảm đi.

· Cười gượng: Các cơ vành dưới (dưới mi mắt) co chưa đủ tạo cảm giác cái cười có vẻ giả tạo. Chủ thể muốn giữ vẻ chững chạc, bình tĩnh bằng cách che giấu nỗi xúc động, sự bối rối sau bộ mặt vui vẻ.

· Cười ngặt nghẽo, cười không nhịn được: Đây là một phản xạ, luôn xảy ra trong một tình huống không thích hợp như một nghi lễ long trọng hay một khung cảnh trang nghiêm. Cái cười mãnh liệt và kéo dài, không thể kiểm soát được.

· Cười khà: Tiếng cười phát ra từ phần thấp của thanh quản, thường để đáp lại những lời đùa cợt thông tục hay những chuyện tiếu lâm.

· Cười chiến thắng: Chủ thể cười thực lòng, cơ mặt co nhưng không quá mức, tiếng cười vang vừa phải.

· Cười ngớ ngẩn: Hàm dưới trễ xuống, để lộ lưỡi, mặt ngớ ra. Cái cười này được biểu lộ trong một lúc không tự chủ, khi chủ thể cảm thấy vui mà không có lý do nào đặc biệt.

· Cười mỉm: Môi trên uốn cong làm xuất hiện những nếp nhăn nhó dưới mũi và quanh mắt. Sự phân biệt rõ rệt giữa mỉm cười và cười chỉ có tính cách gượng ép. Mỉm cười có thể biến thành cười vào bất cứ lúc nào khi cảm xúc đủ mạnh và tuôn tràn.

· Cười phá lên: Hai mép giãn ra, miệng mở rộng và đầu ngả ra phía sau, tiếng cười được biểu lộ bằng những âm thanh ồn ào. Cái cười này là hệ quả của một nhận thức bất ngờ về một điều không thích đáng.

· Cười lặng lẽ: Ở trẻ em, cái cười lặng lẽ với gương mặt giãn ra, để hở răng, rất gần với điệu bộ của loài khỉ khi chơi đùa. Ở người lớn, lối thở ra bằng mũi một hơi dài cho thấy tiếng cười bị nén lại do nhút nhát, hoặc vì lịch sự.

· Cười lấy lòng: Miệng vẫn khép, đôi khi một bên mép nhếch lên. Cười càng gượng gạo, âm thanh càng cao. Chủ thể tìm cách làm vui lòng người đối diện hoặc tuân theo một lề thói xã hội.

· Cười tâm thần (cái cười của người điên): Cười vang lạc điệu, có tính cách bệnh lý. Tiếng cười luôn nổi lên trong một bối cảnh không thích hợp, không có sự kiểm soát của ý thức. Một số bệnh tâm thần, như bệnh tâm thần phân liệt, làm xuất hiện những cơn cười đột ngột.

· Cười lão suy: Trong trường hợp sa sút trí tuệ trước tuổi già, như trong bệnh Alzheimer hay bệnh Pick, người bệnh thường cười không có lý do. Nét mặt hầu như không biến đổi, chỉ có âm thanh phát ra cho phép nhận định những biểu hiện ấy là tiếng cười.

(Theo Sciences et Avenir – 115/1998)

BĐ st


VÀI MẨU CHUYỆN VUI

VỀ TIẾNG PHÁP

QUANG HÙNG

20-3 được chọn là “Ngày Cộng đồng nói tiếng Pháp”. Nhân kỷ niệm ngày này, chúng tôi giới thiệu bài viết vui sau đây về tiếng Pháp một thời được “Việt hóa”.

Thơ bằng hai thứ tiếng

Những người lớn tuổi, cỡ “U60” trở lên, hẳn ít nhiều còn nhớ những bài thơ xen lẫn hai thứ tiếng Pháp - Việt như kiểu:

Chiều chiều đi dạo chốn la rue,(1)

Thấy ở đàng kia có một fille,(2)

Tuổi tác tuy còn đang petite,(3)

Xem ra đã thấy cái jolie.(4)

Hoặc:

Đầu phố đàng kia có một fille,(2)

Nay moa muốn kết mari(5) cùng nàng.

Lorsque(6) moa gởi thư sang,

J’écris une lettre(7) cho nàng savoir.(8)

Đặc biệt, có một câu đố: Làm hai câu thơ vịnh cây cầu toàn bằng sắt, tàu chạy ở giữa, người đi hai bên lề. Kết quả là có hai câu lục bát “thịt ba rọi” (nửa nạc nửa mỡ) ra đời như sau:

Le pont est tout en fer,(9)

Ở giữa tàu chạy, hai lề người đi.

Độc đáo hơn nữa là bài thơ vịnh tâm sự của một “me tây” khi đức ông chồng chia tay lên tàu thủy trở về cố quốc sau sáu - bảy năm chung sống. Có điều bài thơ này toàn bằng tiếng Pháp - ngay người viết bài này cũng chỉ nghe đọc và viết lại nên không dám chắc có đúng nguyên bản gốc hay không vì đôi chỗ hơi không đúng từ vựng và văn phạm. Tuy nhiên, có thể việc không đúng này do… trình độ tiếng Pháp của người vợ ông chồng Tây kia chỉ có bấy nhiêu.

Xin vừa chép vừa “cố” chú thích:

Đờ-puy cờ giơ tơ cổn nét,

Giuýt-ki-xì xít, xết an-nê,

Ẳng-tăng-đồng xíp-lê sà-lúp,

Tú xơ-là xà cúp mông cơ.

(Depuis que je te conna î s,

Jusqu’ici six, sept années,

Entendons siffler chaloupe,

Tout cela ca coupe mon coeur.

Từ khi em quen biết anh đến nay đã sáu, bảy năm. Nghe tiếng tàu hụ còi, tất cả điều này cắt tim em).

Đọc bài thơ trên, tôi không khỏi liên tưởng tới câu dịch từ tiếng Việt ra tiếng Pháp “Này anh bạn Khóa thân mến ơi, tôi tiễn chân anh đến tận nhà ga” như sau: “Oh mon cher Clé, je coupe vos pieds jusqu’à la gare”.

Học trò trong Nam ra Hà Nội

Chuyện kể rằng hồi đầu thế kỷ 20 có một học sinh từ miền Nam ra Hà Nội thi tú tài Tây (khi ấy chỉ ở Hà Nội mới có tổ chức kỳ thi này). Anh ta đậu thi viết, vào thi ô-ran (vấn đáp). Thầy giáo hỏi anh là một người Pháp, ra câu hỏi về kiến thức như sau:

- Anh có biết một công trình kiến trúc lớn nào vừa được xây dựng xong tại Việt Nam hay không?

Học sinh đỏ mặt tía tai vì không biết trả lời sao ngoài mấy tiếng “Je ne sais pas” (Tôi không biết). Thầy giáo đuổi anh về chỗ và cho không điểm. Học sinh giận quá mất khôn, buông tiếng chửi thề, nhưng còn biết kềm chế khi chỉ chửi thề bằng tiếng Việt theo đúng giọng miền Nam “Đu me!”.

Ai ngờ thầy vừa nghe xong, liền gọi anh ta trở lại, khen lấy khen để:

- Très bien! Très bien! Je vous donne dix points! (Giỏi lắm! Giỏi lắm! Tôi cho trò điểm 10!).

Thì ra công trình kiến trúc đó là cây cầu Long Biên bắc qua sông Hồng, được đặt theo tên quan toàn quyền Đông Dương khi ấy là… Paul Doumer!

Tiếng Tây bồi

Có vài câu chuyện vui về tiếng Tây bồi mà hẳn nhiều người đã nghe, nhưng cũng không ít người chưa biết rõ.

* Thứ nhứt là chuyện anh bồi Tây cố tả con cọp cho ông chủ hiểu, mà theo anh:

Lúy cẩm bớp me ba bớp.

Tí tí giôn.

Tí tí noa.

Lúy gầm, lúy gừ.

Lúy măng-giê me-xừ.

Lúy măng-giê cả moa.

(Nó giống con bò nhưng không phải bò.

Tí tí vàng,

Tí tí đen.

Nó gầm, nó gừ.

Nó ăn ông.

Nó ăn cả tôi).

* Thứ nhì là anh bồi Tây tả món cua chiên theo khả năng tiếng Tây của anh:

Lúy to cẩm manh.

Lúy a uýt cẳng đơ càng.

Lúy cắp đau chết cha.

Rô-ti lúy thơm cẩm nước hoa.

Măng-giê lúy bố-cu bồng quên chết.

(Nó to bằng bàn tay.

Nó có tám cẳng hai càng.

Nó cắp (kẹp) đau chết cha.

Chiên nó thơm như nước hoa.

Ăn nó rất ngon quên chết).

Tiếng Tây nói lái và… hơn thế nữa

* Xin đừng tưởng lầm chỉ tiếng Việt của chúng ta mới có thể nói lái nhờ gồm toàn từ đơn. Đôi khi tiếng Pháp cũng có thể nói lái, mà “chuyện có thực” sau đây là một minh chứng:

Ông Tây đưa bà vợ người Việt vô cửa hàng bán quạt máy để mua. Chủ cửa hàng ra giá quá mắc, nhưng kẹt nỗi bà với chủ cửa hàng vốn là chỗ quen biết nên không tiện từ chối thẳng, bà liền nói với chồng:

- C’est très chaud! Très chaud!

Chồng lập tức trả tiền lấy quạt mang về. Tới nhà, vợ cằn nhằn:

- Khi nãy tui nói rồi mà sao ông vẫn mua quạt?

- Ủa, bà nói “Très chaud”, tôi nghĩ bà than trời nóng qáu, tức là cần mua quạt.

- Đâu phải! Tui nói “Très chaud” tức là “Trop cher”, mắc quá. Có vậy mà ông cũng không hiểu!

Thì ra Tây dễ gì hiểu kiểu nói lái của Việt Nam!

* Còn chuyện vui sau đây lại xảy ra tận bên… Tây.

Hai ông bạn người Việt Nam sang Paris du lịch, nhưng cả hai đều không biết tiếng Pháp. Vô tiệm ăn, một anh chàng bảo bạn: “Mình có thể nói tiếng Tây được, để mình gọi thức ăn thử xem Tây nó có hiểu không”. Và anh gọi:

- Bồi!

Tức thì phục vụ bàn ăn chạy tới. Anh ta nháy mắt ra hiệu với bạn, nói với “bồi”:

- Cho dĩa “lơ xà-lách”!

Một dĩa rau được mang ra. Anh cao hứng gọi tiếp:

- Cho “lơ gà rô-ti”!

Quả nhiên phục vụ đem gà rô-ti đến. Anh tiếp tục:

- “Lơ bánh mì”!

Lại có ngay ổ bánh mì. Và cứ thế, anh gọi cả “lơ cá xốt cà chua”, “lơ phó mát”, “lơ trái cây”,…

Đến cuối bữa, anh bạn nóng mũi:

- Tưởng gì, tiếng Tây nói dễ ợt! Chỉ việc thêm chữ “lơ” ở phía trước là xong ngay! Để mình kêu tính tiền thử.

Nói là làm. Anh ta búng ngón tay điệu nghệ, kêu lớn “Bồi!” rồi lớn giọng ra vẻ ta đây khi phục vụ tiến tới:

- “Lơ tính tiền”!

Ai dè anh vừa dứt câu, bồi thẳng tay tát anh ta một cái như trời giáng, chửi thề:

- Tao ở Việt Nam mấy năm, biết tiếng Việt nên nãy giờ gọi gì tao mang ra đúng thứ nấy. Bây giờ lại toan “lơ tính tiền” tức không tính tiền, bộ muốn ăn quịt hả?

ĐỖ THIÊN THƯ st

--------------

(1) La rue: đường phố; (2) Fille: cô gái; (3) Petite: nhỏ; (4) Jolie: đẹp; (5) Mari: vợ chồng; (6) Lorsque: thế là; (7) J’écris une lettre: tôi viết một lá thư; (8) Savoir: biết; (9) Le pont est tout en fer: cầu làm toàn bằng sắt.


Nói lái tổng hợp

- Nghệ sĩ tránh ăn cá kho vì sợ khó ca.

- Người gian không thích sấm, người dâm không thích sáng.

- Làm dấm thì chua mà làm chúa thì dâm.

- Người nhiều mộng vào đời để rồi mời nhiều người vào động...

- Nhà vua khi ngồi trên ngai là khi ngài trên ngôi.

- Không nên giỡn quá lố trong ngày giỗ quá lớn.

- Có những người chỉ đi mưachưa đi Mỹ.

- Các cô thích anh chàng ngông mà không thích anh chồng ngang.

- Da nhăn thì kéo, da nhéo thì căng.

- Bọn tham nhũng sống trên thảm nhung và mọi người giành nhau làm giàu nhanh.

- Cây sầu đông mọc ở đồng sâu hay ở đầu sông.

- Say để đỡ nhớ ngày xưađỡ ngứa nhờ say.

- Chơi hụi thì chết, chơi hết thì trụi.

Người lao động bao giờ cũng thiệt thòi so với người linh động, thí dụ như:

- Người lao động chân chính còn người linh động trân tráo.

- Người lao động cầu kinh còn người linh động cầu cao.

- Người lao động làm lính còn người linh động làm láo.

- Người lao động hay bịnh còn người linh động hay bạo.

- Người lao động cầm đinh còn người linh động cầm đao.

- Tình em theo đám mây đenmình em theo đám Tây đen.

- Không phải ăn cơm chay là thành thiềnăn cơm chiên là thành thày.

- Người già ngồi câu còn người giầu ngồi ca.

- Nhiều người năng làm việc thiện mà không thiên làm việc nặng.

- Cái gì thẳng thì không cong còn cái gì thỏng thì không căng.

- Tình chan chứa là tình chưa chán.

- Nhiều cô gái ngây thơ ôm mộng ban đầu để rồi ôm bầu đan mộng.

- Từ đâu có chữ đầu tư ?

- Đàn ông có người trên răng dưới dế và có người trên dê dưới rắn.

- Thà ăn cháo với muối còn hơn ăn chuối với máu.

- Điếc không sợ súngĐúng không sợ xiết.

- Người có lông mép thường có mông lép.

- Có nhiều người Mỹ lai gốc Á hơn người Mã Lai gốc Ý.

- Thầy tu thù Tâythằng Tây giết thầy tăng.

- Chuyện đau lòng nghĩ đến lại long đầu.

- Tâm không đầy như Tây không Đầm.

- Củ không đứng cứng không đủ

- Người có chỗ đứng sẽ cứng chỗ đó.

- Người đầy bạo tính thích người tình bạo đấy.

- Người bí ẩn thường có ý bẩn

- Có thánh tâm thì không có tánh thâm

- Lời tạ từ của lính trong lời tự tình c ủa lá

- Dù chết không tấm hình nhưng tình không chấm hết

Dương Lêh st


ĐI TÌM

BÍ QUYẾT SỐNG LÂU

Một nhà báo được tổng biên tập giao cho đi viết bài về tuổi thọ. Anh đi tìm gặp các cụ già để phỏng vấn kinh nghiệm làm thế nào để sống lâu.

Gặp một cụ già đầu tiên, nhà báo hỏi:

- Thưa cụ, cụ có nghiện rượu không ạ?

- Ồ, không bao giờ. – Cụ già đáp.

- Thế cụ có hút thuốc lào hay thuốc lá không ạ?

- Tôi chúa ghét hút thuốc.

- Thưa, cụ có rèn luyện thân thể thường xuyên không?

Cụ già linh hoạt trả lời:

- Sáng nào tôi cũng tập chạy. Tôi còn rèn luyện theo phép dưỡng sinh nữa.

- Năm nay cụ bao nhiêu tuổi ạ?

- Tôi đã 80.

Nhà báo rất hài lòng. Nhưng dù sao, những kinh nghiệm của cụ già này cũng chưa có gì mới lạ cả. Anh tìm đến gặp một cụ khác và cũng hỏi như trên.

Cụ già trả lời:

- Vâng, tôi có kiêng rượu và thuốc lá. Ngoài ra, tôi thấy cứ nghỉ ngơi là hay hơn cả.

- Xin cụ cho biết tuổi ạ?

- Tôi gần 60 rồi.

Nhà báo nghĩ thầm: kinh nghiệm của cụ trước vẫn có hiệu quả hơn. Cần phải đi hỏi han thêm.

Nhà báo đi mãi, cuối cùng gặp một cụ già chống gậy, trông cụ lụ khụ già nua hơn hai cụ trước. Được hỏi, cụ già ho khan một lúc rồi hăng hái đáp:

- Rượu chè, thuốc lá tôi đều nghiện, hút thả dàn. Việc gì phải kiêng nhịn cho khổ thân. Đêm nào tôi cũng chơi bài bạc. Sáng ra ngủ đến tận trưa, lấy thì giờ đâu mà tập thể dục, thể thao.

Nhà báo nhìn cụ già một cách khâm phục, sống thoải mái thế mà vẫn sống lâu. Thế mới lạ chứ. Anh bèn lễ phép hỏi:

- Thưa, xin cụ cho biết tuổi ạ?

Ông cụ thều thào đáp:

- Ồ, năm nay tôi vừa chẵn ba mươi.

Bs. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st

Là em cả

Đầu năm Mùi dê sư mẫu tỉ tê với dê sư phụ:

- Này lão dê cụ người lão đầy mùi đừng có mà dương dương tự đắc.

- Dê bà xinh đẹp của ta ơi! Dòng họ Dương nhà ta khi nào mà chả có mùi. Vì đó chính mới là em mà.*

* Dương Dê Mùi đều là nói về dê nhưng cách dùng có khác nhau:

- Ăn nhậu thịt dê, chê ai đó là đồ dê cụ…

- Tên của một dòng họ, tên một loài dê núi – sơn dương…

- Cầm tinh con Dê hay tuổi Mùi chứ chẳng ai gọi tuổi Dương cả…

Hà Mạnh Đoàn


Phụ bản IV

CHUYỆN TÌNH CỦA HẠ

Cơn mưa xối xả suốt từ đầu giờ chiều, nó chỉ ngắt quãng trong một khoảng thời gian ngắn, rồi lại ấm ức tuôn không ngừng. Những con đường lõng bõng nước, nước dềnh lên khắp ngõ ngách, lềnh bềnh những thứ rác rưởi. Những chiếc xe may mắn còn động cơ xé làn nước thành nhiều mảnh, vuột đi vuột đi. Hạ khật khừ với cái xe chết máy. Chiếc áo mưa mỏng không đủ che chắn, khiến cô lạnh run với nước thấm vào người. Không còn cách nào khác, phải cố thôi. Hai cái bánh xe nhẫn nại quay từng vòng theo mỗi bước chân gắng gỏi của cô. Hai bàn chân dìm trong dòng nước đến ngang ống, dọ dẫm dọ dẫm. Những sợi tóc bết trên khuôn mặt tái mét. Cô run rẩy run rẩy… chiếc xe vẫn cố trôi đi.

- Cô ơi! Cô mệt lắm rồi hả? Có cố được không?

Câu nói vọng vào tai Hạ nghe lùng bùng sau lớp áo mưa. Hạ muốn trả lời nhưng miệng cô như cứng lại. Cô khựng lại, chiếc xe muốn chao về một bên. Nó kịp giữ lại được thăng bằng nhờ một đôi tay chụp vội. Đôi tay ấy nắm luôn tay lái kéo về phía mình.

- Cô để tôi dắt cho. Gần đây có tiệm sửa xe.

Một chút lo ngại khiến Hạ muốn giằng chiếc xe lại, nhưng sức lực cô không cho phép, cô đành níu tay vào càng xe bước theo. May cho cô, đó không phải là người cô đã sợ. Chiếc xe được tấp vào một bờ lề, trên bờ lề ấy cũng đã mấy chiếc chống chân chờ đến lượt. Chờ đến mấy cũng phải chờ thôi, biết làm gì hơn được nữa. Hạ bám lấy cái cột, cô chỉ muốn ngã ngồi xuống.

- Cô sao thế? Ôi, người lạnh ngắt thế này. Chị chủ nhà ơi, có chai dầu không, cho tôi mượn đi. Cô này sắp ngất đến nơi rồi. Khổ vì mưa với gió.

- Tôi… tôi không sao…

Ngại ngùng, Hạ cố phều phào.

- Cô đừng ngại, xoa dầu vào cho nóng người lên, nhà cô ở đâu?

- Nhà em ở…

Hạ không nói được hết câu, cô buông người xuống cái ghế, và phó mặc mình cho bàn tay ấy. Dầu nóng cộng với sức chà sát làm nóng lên làn da lưng, và trán cô tay cô cũng đều được nóng lên bởi động tác ấy. Hạ cảm giác khỏe lên được một chút. Do lạnh mệt quá đấy mà. Tan giờ làm, chần chừ mãi không có dấu hiệu tạnh mưa, cô đành ào ra đường, nếu xe không bị chết máy thì cũng không đến nỗi thế này. Một lúc sau, người cũng đã ấm lên, xe cũng đã sửa xong, Hạ cảm thấy mình đã tạm đủ sức để đi tiếp. Cô nhìn quanh tìm người vừa giúp cô, không thấy đâu, lúc nãy sau khi xoa dầu xong thì người ấy lại quay quả đi, cô ngơ ngác, cảm thấy mình thật có lỗi khi chưa kịp nói một lời cảm ơn, và cũng không kịp nhìn mặt, liệu có lần gặp lại?

- May quá, cô đã khỏe rồi à, cô uống chút sữa nóng đi này.

- Ôi chị. Em đang tìm chị, em có lỗi quá đã làm phiền chị.

- Không sao, chuyện bình thường ấy mà, cô uống ngay đi cho nóng.

Đón ly sữa với ánh mắt hàm ơn, Hạ nhấp từng ngụm từng ngụm cho đến hết ly sữa. Dòng sữa nóng vào đến đâu biết đến đấy, thật là thần dược, cơn mệt đã giảm đi rất nhiều.

- Chị mua ở đâu để em đi trả ly ạ?

- Thôi khỏi, tôi có nói họ qua đây lấy giùm rồi. Cô khỏe nhiều chưa?

- Dạ em khỏe lên nhiều rồi, em cảm ơn chị nhiều lắm, không có chị...

- Thôi mà, ơn huệ gì đâu, nhà cô ở đâu? Có đi được xe về không?

- Dạ nhà em ở… lúc nào rảnh mời chị ghé chơi. À chị cho em số điện thoại và địa chỉ nhà chị luôn được không ạ.

Cả hai trao đổi số điện thọai cho nhau, rồi chia tay nhau trong lưu luyến. Hạ cho xe chạy chầm chậm trong cảm giác bồi hồi “đời nay vẫn còn có người tốt thế nhỉ? Nếu không gặp chị ấy không biết mình ra sao nữa”. Trong thâm tâm, Hạ tự hứa sẽ giữ mãi mối quan hệ này. Cuộc đời có những hữu duyên không hẹn trước, nên được gặp một thiện duyên là điều may mắn và hạnh phúc, và chắn chắc chẳng có ai từ bỏ niềm hạnh phúc và may mắn của mình cả.

- Mẹ ơi! Cô Hạ đến rồi.

Tiếng reo của bé Họa Mi như một làn gió mát ùa vào tâm hồn, khiến người nghe như tở mở cả cõi lòng. Đó không chỉ là tiếng reo chào đón của một đứa trẻ, mà nó còn là một hiện chứng của một thứ tình cảm thân thiết đã được đắp xây tự bao giờ. Hạ vừa cười xoa đầu bé Họa Mi, vừa đặt mấy cái túi xách lên bàn. Diệu Hồng đon đả từ nhà sau lên:

- Nó thấy cô Hạ đến nó còn mừng hơn mẹ nó đi chợ về nữa.

- Đây cái này cho con nè.

- Đó thấy chưa? Lần nào cô Hạ đến cũng có quà sao không mừng được. Con cám ơn cô chưa?

- Con cám ơn cô Hạ.

- Chị Hồng, bữa nay chị em mình làm bún chả giò đi. Em mua đồ đủ hết rồi nè.

- May mà chị chưa đi chợ. Đâu đưa chị coi.

Hai chị em lúi húi rồi xách cả mấy cái túi xuống bếp. Nơi ấy rộn lên một không khí ấm áp và tươi trẻ nhờ những tiếng va của dao thớt nồi xoong cộng tiếng nói cười rôm rả. Họ đã trở thành những người chị em thân tình của nhau từ ngày đó. Cứ cuối tuần, họ lại bày ra một món ăn, và trên bàn ăn của những ngày ấy là một bữa ăn nhiều phong vị. Hai đứa con của Diệu Hồng, một trai mười tám và một gái hơn mười, nhanh chóng chiếm cảm tình của Hạ. Hạ là một cô gái xấp xỉ ba mươi. Cái tuổi xon ven chợ chiều của những câu chuyện tình ái. Là một công chức có chuyên môn có nghiệp vụ khá vững trong một công ty, ngoại hình thuộc dạng trung bình khá, Hạ không phải típ phụ nữ bị bỏ quên, nhưng với bản tính căn chỉ mực thước và trầm tĩnh, Hạ không dễ dãi trong những mối quan hệ nam nữ. Thời tuổi trẻ Hạ cũng lớt phớt vài mối tình đông sang hè về. Và cô thấy tìm được người phù hợp với mình thật không dễ. Bởi những đối tượng ngang hoặc hơn cô vài ba tuổi, cô cảm thấy họ còn non trẻ. Bạn bè bảo cô dở hơi “thế mày định lấy ông già à, người đâu mới tí tuổi đã như cụ non ấy”. Hạ chỉ cười, biết làm sao được trời sinh mỗi người mỗi tính, từ tính mà dẫn đến cách, và người ta chỉ có thể sống với cách của chính mình chứ không thể ai bày biểu được. Ba mẹ giục giã mãi mỏi mồm, Hạ cười trừ, không thì “Ba mẹ đừng lo, thời buổi này không chồng con có khi lại là phúc, người ta sống độc thân đầy ra kìa, có sao đâu, nếu con không gặp được người hợp ý thì thà sống độc thân cho sướng, chứ chả tội gì mang cái gông to đùng vào cổ rồi than thở rồi héo mòn”. Dù ăn mấy cái cốc vào đầu, nhưng nhiều người phải thừa nhận Hạ nói đúng. Thế nên ông ba bà mẹ cũng chép miệng “Thôi đành duyên phận vậy, không đủ duyên đủ phận thì có ép vào nó cũng chuồi ra”. Vậy nên Hạ tha hồ tung tẩy, có cơ hội nuôi dưỡng cái tính hồn nhiên vui vẻ khoáng hoạt. Nhờ vậy mà cô có một đời sống khá phong phú thú vị. Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, mẫu phụ nữ như cô khá phổ biến, và họ là kiểu người dễ thu hút, khiến đàn ông thích nhưng lại e dè. Họ có đủ tự tin, đủ bản lĩnh, đủ điều kiện để tự lo cho cuộc sống bản thân mà không cần nghĩ đến chuyện phải lệ thuộc vào ai. Và như vậy, con đường để họ bước vào hôn nhân chỉ có một khả năng: “Yêu”. Đúng vậy, chỉ khi họ buộc phải tuân thủ mệnh lệnh trái tim thì người đàn ông may mắn nào đó mới có cơ hội chi phối đời sống họ.

Chiếc bàn ăn sáng rực bởi những gì nó được tô điểm. Một bản giao hưởng màu sắc nhiều cung bậc từ rau xanh bún trắng chả ram vàng, tô nước mắm với những lát vụn ớt tỏi băm nhuyễn như một tiểu họa phẩm, từ những chiếc bát sứ hoa văn tinh tế những đôi đũa màu ngà sang trọng, cả những chiếc ly kiểu dáng thon gọn với vài lá cỏ trang trí, nó sẽ long lanh hơn khi chứa trong mình vài viên đá và một màu vàng óng sủi bọt, trang nhã thêm một chút là những chiếc khăn ăn xếp gọn màu xanh lơ. Diệu Hồng xoa tay đứng im chiêm ngưỡng công trình của hai chị em suốt từ xế sáng tới giờ. Một công trình với những niềm say mê riêng của những người phụ nữ sống cho nhịp đập trái tim. Bữa ăn, không đơn giản chỉ là những công thức đơn thuần để đưa dưỡng chất vào cơ thể, mà nó còn là một liệu pháp bồi bổ tinh thần đặc hiệu cho những tâm hồn gắn bó trong một mái nhà, nó càng trở nên lung linh hơn khi những ánh mắt yêu thương đằm thắm trao gửi về nhau. Và kia. Một chú mèo mũm mĩm xinh xinh trong bộ lông trắng điểm vàng đang ngồi lim dim ngoan ngoãn trên một chiếc ghế, và chú thật xứng đáng với một cái vuốt tay âu yếm của chủ. Chú mèo dễ thương sau khi nhận cái vuốt ve vươn vai đứng cong vổng lưng dáng vẻ sảng khoái rồi lại xếp chân ngồi xuống khi chủ nó vung vẩy đôi tay vừa đi vừa gọi:

- Hạ ơi, xong chưa? Thôi để đó đi lát nữa dọn rửa luôn. Lên đi.

- Chờ anh và cháu Hiếu Khanh về đã chị.

- Cũng về ngay giờ đó. Đó, vừa nhắc tới đã nghe tiếng xe rồi kìa.

Hiếu Khanh dựng cái xe xong chạy bổ vào nhà, mũi thì hít miệng thì la:

- Thơm quá thơm quá, bữa nay má làm gì mà thơm ác, đói bụng ghê luôn. A… quá đã…

Tiếng reo ngắt ngang bởi một cuốn chả ram đã ngồm ngoàm trong miệng cậu.

- Cái thằng háu đói, đi rửa mặt rửa tay đi đã rồi ăn. Cô Hạ đang cười cho kìa.

- A, có cô Hạ đến ạ. Dzui quá ta. Cháu chào cô. Cô xinh ghê cơ.

- Cái miệng lém không ai bằng. Kiểu này mấy cô đổ xô vô hết quá.

Hạ cười cầm khăn lau tay, nhìn cậu trai mười tám tuổi trẻ trung hoạt bát. Hiếu Khanh vừa năm đầu Đại học Hàng Không, cậu nuôi ước mơ trở thành phi công từ khi còn rất bé, hình ảnh một anh phi công hào hoa uy phong trong bộ trang phục đặc trưng đã gieo cho cậu bé một ấn tượng khó phai từ khi hơn mười tuổi. Và hình ảnh ấy đi vào một giấc mơ đang dần trở thành hiện thực. Được cái cậu giống cha ở tướng tá cao to, khi mười sáu tuổi cậu đã dềnh dàng một dáng vóc, vì vậy mà cậu đạt yêu cầu đầu tiên khi dự tuyển sinh của trường. Với sức học tương đối khá, tương lai cho ước mơ không quá tầm tay, cậu càng thêm hưng phấn khi được sự ủng hộ của gia đình. Có thể nói, con đường của cậu cho tới giờ phút này khá trơn tru.

- A ba về.

Đang ngồi chống cằm ngóng ra cửa, bé Họa Mi nhảy ngay xuống đất chạy tưng tưng ra mừng ba. Trần Đình dựng xe rồi bế thốc con gái lên hôn chụt vào má, cô bé thích chí cười khanh khách. Tiếng reo của bé Họa Mi khiến Hạ đột nhiên một cảm giác choáng nhẹ. Cô ngạc nhiên với chính mình, nhưng nhanh chóng lướt qua khi có tiếng Diệu Hồng í ới. Lát sau, tất cả ngồi vào bàn, vô tình Hạ ngồi đối diện với Trần Đình, khi so đũa đưa cho anh, hai ánh mắt chập vào nhau một khắc, như một luồng điện chạm vào người, Hạ bất ngờ và bối rối. Những tiếng nói cười và chạm ly đã xua tan trong Hạ cảm giác lạ ấy, nhưng cô vẫn cảm thấy có gì bất an trong suốt bữa ăn. Những ngày kế tiếp, đôi lúc cô lại bồi hồi khi nhớ lại khoảnh khắc ấy. Dường như có một cái gì ẩn ẩn hiện hiện, nhưng nó còn khá mông lung khi cô muốn nhận diện đó là gì. Thế rồi điều mơ mơ hồ hồ ấy cũng có vẻ như tan loãng đi, khi công việc và một chuyến công tác xa choán hết tâm trí Hạ.

- Dạ em vừa về sáng nay chị ạ. Dạ… dạ mai em qua. Có chứ, làm sao quên được… hì hì… vậy chị nha.

Hạ buông máy trong nụ cười phấn chấn. Sau một chuyến công tác nước ngoài, điều đầu tiên mà Hạ nghĩ đến khi bước chân xuống máy bay là gia đình Diệu Hồng. Lâu nay, hình ảnh của gia đình này trở thành một yếu tố thân thuộc tự nhiên trong trái tim cô. Đôi lúc cô mơ hồ cảm giác một cái gì đó thật gần gũi, thật ân tình cứ như một thủy mực dâng dần trong tâm cảm. Và trong cái vạch thủy mực ấy, có một thứ gần như hữu hình thi thoảng trồi lên va đập. Đó là đôi mắt của một người đàn ông. Những lúc ấy, cô thường hít một hơi thở sâu để dằn xuống.

Gần như cả nhà túm quanh đống quà mà Hạ đem đến. Bé Họa Mi cười ré với chiếc áo đầm, với con thỏ bông, và cả một búp bê xinh xắn. Hiếu Khanh thì mê tơi với mô hình anh phi công đứng chống nạnh bên chiếc máy bay. Còn Diệu Hồng thì thích thú với chiếc khăn choàng voan màu nhẹ với chiếc áo váy xám nhạt. Trần Đình ngồi trên một cái ghế gần đó mỉm cười, anh có một cái bút máy trong chiếc hộp sang trọng. Hạ ngồi xệp nhìn mọi người vui thích với những thứ cô tặng. Hạnh phúc của người cho và người nhận có lẽ sánh ngang nhau. Và má cô nóng lên khi bất chợt ngẩng lên thấy Trần Đình đang nhìn mình với nụ cười ấm. Sau lúc nhận quà là một cuộc vui quanh chiếc bàn ăn. Việc có mặt của Hạ trong không khí gia đình đã như một lẽ tất nhiên vậy. Sau bữa ăn là một cuộc hát karaoke, niềm hưng phấn hạnh phúc rờ rỡ trên gương mặt mỗi người. Có vẻ như hạnh phúc của gia đình này là điều vĩnh cửu. Trời về khuya, Hạ ra về vì mai cô phải đi làm. Dắt chiếc xe Hạ cảm thấy chiếc xe như nặng hơn, thôi rồi, bánh sau xẹp lép rồi. Giờ này làm gì còn ai vá xe. Diệu Hồng nhanh miệng:

- Thôi em để nó lại đây, mai Khanh nó dắt đi vá cho. Để chị bảo anh Đình chở em về.

- Thôi, phiền anh ấy, hay để em gọi taxi.

- Phiền hà gì cái cô này. Anh Đình ơi! Anh giúp em chở Hạ về tí, xe cô ấy xẹp lốp rồi.

- Ừ, chờ anh chút.

Trần Đình nhanh chóng khoác thêm chiếc áo ngoài rồi dắt xe ra. Hạ ngại ngùng ngồi lên yên. Chiếc xe bon nhanh, Diệu Hồng còn đứng nhìn theo cho đến khuất. Phố về đêm yên tĩnh mát rượi. Không gian nhẹ nhõm hẳn khi không còn cái nóng bức đông đúc của buổi ngày. Hạ ngây ngây không chỉ vì sự dễ chịu ấy, mà còn vì một thứ mùi nhè nhẹ toát ra từ lưng áo Trần Đình. Cô khẽ nhắm mắt thả cảm xúc mình trong một tâm thái mơn man dìu dịu. Dọc đường Trần Đình cũng không nói một tiếng nào, có vẻ anh chỉ thực thi nhiệm vụ một cách tận tình mà thôi. Khi xe dừng trước cửa nhà Hạ, cô bước xuống với hơi một chút tiếc nuối, nhưng mỉm cười với một lời cảm ơn, và Hạ bất ngờ khi Trần Đình đưa bàn tay:

- Chào tạm biệt.

Hơi một chút lần chần khi nắm bàn tay của anh, Hạ cười nhẹ:

- Vâng, em chúc anh ngủ ngon.

Trần Đình siết chặt bàn tay cô trước khi cho xe chạy. Hạ ngây người nhìn theo. Cảm giác bàn tay ấm nóng vẫn lan trong cô, và một đêm nữa, cô chập chờn giấc ngủ với một hình bóng và những nỗi niềm tâm can.

Chiếc xe truờn nhẹ vào sân vì cổng đã mở sẵn. Hạ bước xuống, tháo mũ và khẩu trang, rồi gỡ những chiếc túi treo bên sườn xe. Rồi cô đi vào nhà, một không gian vắng vẻ làm cô lẩm bẩm: “Đi đâu hết mở để cửa cổng thế này?”. Cô thẳng đưòng đến tận nhà sau, vẫn không thấy ai. Có lẽ chị Hồng chạy quanh đâu đấy, Hạ đi trở lên, ngang qua phòng giữa một thứ âm thanh mơ hồ vọng vào tai khiến cô dừng chân. Một giây cho sự kinh ngạc vì thứ âm thanh đó rõ dần, cô thận trọng ghé mắt qua khe cửa, một cảnh tượng trước mắt làm cô nhói tim và sững sờ. Diệu Hồng đang khóc trong tay chồng, Trần Đình thì ôm vợ và vỗ liên tục vào lưng, miệng thì thầm những lời gì ấy, nhưng Diệu Hồng thì không dằn được cơn thổn thức, cô cứ nấc lên nấc lên. Hạ thần người ra, và cô rón rén đi ra cửa, nhẹ dắt cái xe ra ngoài. Nỗi lo lắng lẫn ngại ngùng lẫn một cảm xúc khang khác chen lẫn, khiến cô ngồi thừ một hồi trên xe. Có chuyện gì đang xảy ra với gia đình này? Xưa nay chị Hồng không phải là người yếu đuối, chị có tính cách xông xáo mạnh mẽ và sôi nổi. Với chị, những chuyện có thể làm chị đau khổ đến mức ấy phải là chuyện nghiêm trọng, chuyện có một mức độ ảnh hưởng lớn. Nhưng đó là chuyện gì? Với một người phụ nữ đã làm vợ làm mẹ lâu năm, thì mối quan tâm lớn nhất của họ là chồng và con. Xét theo diễn biến lâu nay trong gia đình mà Hạ được biết, thì chồng và con chị hầu như không có vấn đề lớn gì. Hơn nữa, chị khóc trong tay chồng, thì rõ ràng vấn đề không ở anh ấy. Vậy con cái thì sao? Hiếu Khanh đang đi học, và thành tích học tập rất khá, bé Họa Mi cũng đang ăn học bình thường, nếu có chuyện gì hẳn chị đã phôn ngay cho Hạ rồi. Sự chia sẻ những vui buồn lâu nay giữa hai chị em là điều hẳn nhiên hàng ngày. Vậy thì chuyện gì chứ? Hay có dính líu đến mình? Hạ giật thót mình khi nghĩ đến khả năng này. Bất giác cô nổ máy và chạy vụt đi. Cảm giác có lỗi làm cô bứt rứt. Ghé vào một quán cà phê ven đường, cô đắm chìm vào miên man ngẫm ngợi. Trần Đình. Cái tên ấy một lần nữa trồi lên trong cô một nỗi cồn cào. Lần này thì cô không thể dằn nó xuống được nữa, nó như đang kêu đòi một sự hiện hữu. Từ sau cái siết tay của đêm hôm ấy, Hạ đã nhận diện rõ cảm xúc của mình. Chính điều này làm tăng nỗi lo sợ và tâm trạng mặc cảm tội lỗi. Hình ảnh Diệu Hồng khóc nức lại càng làm Hạ rối lòng hơn. Chẳng lẽ chị ấy đã biết những điều sâu kín trong cô? Nhưng làm sao chị ấy có thể biết được? Cô kiểm điểm lại những hành vi của mình, và nghĩ chưa có biểu hiện nào khiến Hồng có thể nghi ngờ. Nhưng người ta vẫn nói, tình yêu là điều cho dẫu muốn giấu nó vẫn cứ hiện ra. Có khi chỉ thoáng một ánh mắt cũng đã đủ cho một hoài nghi. Không. Không thể. Mình không thể có lỗi với chị ấy, chị ấy tốt với mình thế cơ mà. Phải bằng mọi cách mà chôn dấu đi cảm xúc của mình. Mình không thể là kẻ đánh cắp hạnh phúc đang có thật trong gia đình này. Nếu thế thì mình thật là đồ tồi, rất tồi. Nhưng liệu mình có thể quên được anh ấy không? Có thể không đến ngôi nhà ấy nữa không? Trời ơi trời! Biết làm sao bây giờ? Tâm trạng hỗn loạn ấy cứ đeo đẳng Hạ mãi. Cô không dám gọi điện thăm hỏi, cũng không dám đến nhà. Cô luôn giật mình khi nhận điện của Hồng, nhưng cũng chỉ là hỏi han vu vơ, và cô cũng quấy quá rồi cáo bận để cúp máy. Cô sợ phải đối diện với Diệu Hồng, cô vẫn biết những người phụ nữ có gia đình rất nhạy cảm. Bởi nỗi ám ảnh về người chồng không chung thủy là thường trực. Người ta vẫn luôn có những ánh nhìn hoài nghi bâng quơ huống chi là… Cuối cùng, giải pháp của Hạ là bằng mọi giá cô phải thu xếp lấy chính mình. Và có lẽ Hạ đã có thể làm được…

- Cô Hạ ơi! Má con vô bệnh viện rồi.

- Sao? Má con bị sao? Vô viện hồi nào?

Những câu trả lời ngắt quãng của Hiếu Khanh làm Hạ tức tốc chạy ngay đến nhà. Nhưng cô cũng không biết được gì nhiều hơn tâm trạng hoảng hốt bấn loạn của hai anh em kể từ lúc Diệu Hồng đột ngột ngã ngất và Trần Đình vội vã đưa vợ đi bệnh viện.

Hạ rụng rời khi nghe Trần Đình nói địa chỉ mà cô phải đến trong bệnh viện là khoa não thần kinh. Hai bộ phận cực kỳ nguy hiểm trong cơ thể người là não và tim, nên vướng một trong hai có nghĩa… Hạ tất tưởi len giữa đám người ngổn ngang nằm ngồi trên hành lang bệnh viện. Cô nhớn nhác tìm gương mặt một người đàn ông, kia rồi, Trần Đình đang phờ phạc ngồi ở một góc ghế chờ trước một cửa phòng. Hạ đến sát bên gọi, Trần Đình mới bật nhìn lên. Hai mắt anh hoe đỏ và nặng trĩu. Anh định đứng dậy nhường chỗ cho Hạ, nhưng cô ấn anh ngồi trở lại.

- Chị bị sao hở anh?

- U não.

- Trời!

Hạ lặng người khi nghe, đó là một kết cuộc được báo trước. Nhưng từ bao giờ? Bất giác trong tâm trí Hạ, hình ảnh Diệu Hồng khóc nấc hiện ra, vậy là chuyện này sao? Và cô càng thấy mình có lỗi nhiều hơn khi trong suốt thời gian qua tránh mặt Diệu Hồng. Hơn hai năm trước, Diệu Hồng thi thoảng bị cơn choáng nhẹ, sau nữa là những cơn đau đầu, cho là những chứng bệnh vặt, chị chỉ đi khám thường bên ngoài, và uống những đơn thuốc nhì nhằng. Khoảng gần một năm trở lại, những cơn đau đầu thường xuyên hơn và kéo dài hơn. Trần Đình thúc giục chị đi khám chuyên khoa. Và rồi cả hai choáng váng với kết quả chẩn đoán. Khối u chèn dây thần kinh là thủ phạm của những cơn đau, nhưng rất phức tạp để can thiệp bằng phẫu thuật, xác suất thành công không đến 50%. Đau đớn, nhưng rồi Trần Đình cũng buộc phải đồng ý với vợ, rằng đây là một căn bệnh không thể chữa, rằng không nên tốn kém tiền bạc vào điều mà biết trước là không mang lại kết quả, trong khi hai con còn cần lắm những điều kiện vật chất. Lòng can nghị của Hồng đã biến một không khí gia đình lẽ ra là đau thương khổ ải thành một thiên đường hạnh phúc có thật. Chị luôn tìm mọi cách để tạo ra những niềm vui cho con trẻ. Hai anh em nào biết rằng có những lúc bố mẹ mình khóc vùi trong nhau với nỗi đau rát ruột. Hạ đã xuất hiện vào thời điểm đó, cũng thêm một góp sức tự nhiên cho không khí vui vẻ của gia đình. Nghe qua, Hạ càng tự trách mình, vì sao trong suốt thời gian ấy, cô lại không hề biết Diệu Hồng đang mang trọng bệnh. Vì chị giấu quá tài hay vì cô quá vô tâm? Hạ đã không còn cơ hội để giải tỏa niềm ân hận dẫu chỉ một phần. Những cơn đau cuối cùng đã nhanh chóng đem Diệu Hồng đi rất xa.

Hai anh em Hiếu Khanh và Họa Mi thất thần ngơ ngác, nhất là Hiếu Khanh, cậu đã đủ suy nghĩ để hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng cậu như không tin đó là sự thật. Không thể tin người mẹ thân yêu luôn cười nói và nấu cho cả nhà những bữa ăn ngon, dành cho anh em cậu một tình thương yêu vô bờ bến mà cậu luôn cảm nhận được thật rõ rệt từ thuở bé, giờ đây đã không còn. Cậu càng không tin mẹ cậu đã mang một căn bệnh nan y từ lâu nay. Sao cậu không hề thấy mẹ nhăn nhó kêu ca? Sao cậu chưa hề thấy mẹ tỏ ra đau đớn mỏi mệt? Có phải cậu đã quá ít thời gian dành cho mẹ? Mà đúng là vậy, chuyện học, chuyện vui chơi bạn bè, ngoài lúc ngồi vào bàn ăn thì có mấy khi cậu trò chuyện hỏi han mẹ, có thêm nữa thì chỉ là những lúc cần xin mẹ tiền, cần mẹ mua cho những thứ gì đó. Bé Họa Mi lại càng không thể biết. Cô bé tung tăng với cái tuổi hồn nhiên, làm sao có thể nhận ra được chút gì khác thường nơi mẹ. Chỉ có bố, bố đã biết tất cả, và cũng như mẹ, bố đã giấu tất cả. Nỗi đau âm ỉ trong người đàn ông lâu nay giờ đã bộc lộ trên một thân xác sọm đi cả chục tuổi. Dù đã biết ngày này sẽ đến, nhưng để chấp nhận được một sự thật đau lòng như thế này có là người đàn ông sắt đá mấy cũng đã không phải là chuyện dễ, huống chi Trần Đình là một người đàn ông luôn đặt tình yêu gia đình lên trên hết. Cho dù anh là một người đàn ông có một phong thái, một tính cách, một vị trí xã hội vào hạng có tầm. Giữ được một nhịp độ cân bằng giữa gia đình và xã hội bằng một bản lĩnh người đàn ông thời hiện đại là một điều thật khó khăn. Nhưng anh vẫn có một hạn định vừa phải cho mọi sự, vì anh hiểu, tất cả đều có một cái giá nhất định, nên không thể đánh đổi một cách tùy tiện. Vậy mà giờ đây…

Hạ ngồi dựa lưng vào tường, căn phòng đã sẫm tối, cô không buồn nhúc nhích, những chuyện vừa xảy ra khiến Hạ bời bời lòng dạ. Cô không biết mình phải làm gì, nên làm gì? Nhìn ba cha con Trần Đình, rồi lại nhìn di ảnh của Diệu Hồng, Hạ cảm thấy mình như đang rơi vào một vũng sâu mờ tối. Cảm giác lỗi lệch cứ đeo bám mãi tâm khảm, một câu hỏi cứ ray rứt mãi mà cô không thể tự trả lời “Liệu Diệu Hồng có biết gì không? Và liệu có phải điều đó đã làm chị ấy thêm buồn khổ mà mất sớm vậy không?”. Cho dù có một thoáng lướt qua như mách cô đang có một cơ hội cho tình cảm của mình. Nhưng đó cũng là một sự mắng mỏ khi cái giá đánh đổi là sinh mạng của người khác. Nhưng điều đau xót trong cô hơn cả là sự mất mát, cô đã mất đi một người bạn, một người chị mà giờ phút này cô cảm nhận rất rõ là một người thật sự thân thiết với cô. Những hình ảnh của chiều mưa hôm ấy, cái buổi đầu tiên của hai chị em, như một thước phim quay ngược thời gian. Tại sao vậy chứ? Tại sao một người tốt bụng nhiệt tình với cuộc sống như chị mà phải giã từ quá sớm với cuộc đời? Mới ngoài bốn mươi, chị còn ngời ngời những năm tháng hạnh phúc với một gia đình ăm ắp yêu thương ấy. Vậy mà ông Trời nỡ… thực ra thì chẳng có ông Trời nào cả. Con người chỉ dựng lên một hình tượng để mà tháo trút, mà giải tỏa, mà cấy gửi, mà biện luận cho những gì không thể tìm ra cho rõ căn nguyên. May cũng bảo nhờ Trời, rủi cũng đổ tại Trời. Thực sự thì tất cả những con người đã có mặt trong cuộc sống này, đều phải chịu mọi hệ lụy được mất dở hay cả. Bằng cách này hay cách khác, hình thái mỗi người tiếp nhận có khác nhau, nhưng về mặt ý nghĩa vòng quay cuộc sống thì không khác. Và sự dài ngắn của một đời người là kiếp phận. Biết thế, nhưng mỗi khi thấy một người cất bước đi xa, nhất lại là một người đáng yêu đáng quý thì lòng đau xót than trách điều bạc mệnh. Để người ở lại chơ vơ chống chếnh nỗi hư hoai.

Trần Đình ngồi gục đầu bên mộ vợ. Hôm nay là bốn chín ngày của Diệu Hồng. Anh ngồi gục ở đây không chỉ với một nỗi tiếc thương vợ, mà còn bởi một lời trăn trối của Hồng. Trong túi áo anh là một cái phong bì cồm cộm. Trong đầu anh là một mớ suy tư rối rắm. Trong tim anh là một nỗi bi thiết khôn cùng. Vẫn như vừa đây đôi mắt đẫm lệ của Diệu Hồng tha thiết nhìn anh “Anh, xin anh hãy nghe em, vì con và vì cả anh nữa, hãy hứa với em để em được yên lòng ra đi, hứa đi anh…”. Trần Đình bật lên một tiếng rên “Hồng ơi, anh làm sao có thể làm như vậy chứ? Làm sao anh có thể khi em vừa mới ra đi?”. Đôi vai anh khẽ rung lên, cơn khóc tức của một người đàn ông bên nấm mộ còn mới tinh của vợ thật ray rứt đến cháy lòng. Anh ngồi lặng mãi như thế, nếu không có hồi chuông điện thọai của ai đó gọi, chắc anh quên cả mình đang còn phải sống. Nghe xong cuộc điện, anh liêu xiêu đứng dậy, bàn tay rời dần thành mộ, mấy nén nhang vẫn còn một nửa lênh loang ngọn khói. Trần Đình ủ rũ đi ra xe, anh không biết đằng sau một bức tường cũng có một cặp mắt ẩm đục giàn giụa. Đợi Trần Đình đi khuất, Hạ mới bước đến ngôi mộ mới xây của Diệu Hồng, cô bật khóc nức nở khi nhìn tấm ảnh của người quá cố. Vẫn nét cười vui tươi ấy, vẫn ánh mắt thân tình ấy, mà giờ đây thân xác chị đã vùi sâu trong lòng đất. Thắp ba nén nhang, Hạ run run vái van trước tấm ảnh “Chị ơi! xin chị hãy tha thứ cho em, dù chị có biết hay không thì em cũng thật sự có lỗi với chị. Em đâu ngờ duyên phận chị em mình lại ngắn ngủi đến thế. Chỉ vừa mới đây thôi mà… chị ơi… Em biết làm sao bây giờ hở chị? Nhìn anh ấy em đau thắt lòng, cả hai đứa nhỏ nữa, chúng nó cứ khóc gọi chị mãi thôi, sao chị lại sớm ra đi để lại một gia đình chênh vênh trống vắng thế chị ơi…”. Sụt sùi thêm lúc nữa rồi Hạ lau nước mắt quay về, cô ghé vào chợ mua một số thực phẩm. Từ ngày Hồng mất, những người thân ở xa đến chia buồn tiễn đưa rồi về, nhà chỉ có ba cha con, nên vào ngày cúng tuần Hạ thường đến để phụ giúp bữa cơm chay và lễ lạt. Hôm nay, có mời các sư thầy đến làm lễ nên cô mua nhiều hơn. Lẽ ra cô đã đi chợ từ sớm, nhưng cô muốn đến thăm mộ và thắp hương cho chị, nào ngờ khi đến đã thấy Trần Đình ở đó, nên cô nấp vào một chỗ. Nhìn sự đau khổ của anh cô hiểu tình yêu anh dành cho chị là rất lớn, nên nỗi đau mất mát này anh sẽ rất khó nguôi ngoai. Tình yêu của cô giờ đây thêm phần thưong cảm, và một góc thâm tâm cô biết rằng mình đã âm thầm là một chiếc bóng bên anh.

Đã xong những nghi thức cần thiết của buổi lễ, Hiếu Khanh đứng dậy nắn nắn hai đầu gối vì quỳ lâu, bé Họa Mi đỏ hoe mắt với mảnh khăn trắng trên đầu. Đến hôm nay thì bé cũng đã quen phần nào với sự cúng lễ, và thật sự hiểu rõ mẹ sẽ không trở về được nữa. Mâm cơm có bốn người với một sự lặng lẽ. Hạ dọn rửa chén đĩa xong xuôi rồi bần thần nhìn gian bếp. Những ngày hai chị em tíu tít nấu nướng cười đùa đã không còn. Cô khẽ thở một hơi dài, mắt lại ngấn lệ. Trở lên để chuẩn bị ra về thì cô thấy Trần Đình ngồi ôm đầu ở ghế xalông. Theo phản xạ, cô định tránh đi thì bất ngờ anh ngẩng lên nhìn cô, khẽ giọng:

- Em ngồi đây đi.

Cô rón rén bước vào chiếc ghế ngồi xuống. Rót ly nước đẩy về phía Hạ, Trần Đình nén một hơi thở ra:

- Em uống đi.

- Dạ.

Hạ cúi đầu, hai bàn tay vặn vào nhau, lần đầu tiên họ đối diện trong một không gian vắng lặng thế này. Hiếu Khanh và bé Họa Mi đâu nhỉ?

- Hạ à.

- Dạ.

Trần Đình ngập ngừng rồi tiếp:

- Anh rất cảm ơn em những ngày qua đã giúp đỡ cha con anh. Không có em thì anh cũng không biết phải làm sao nữa.

- Anh đừng nói vậy, Cũng là việc em nên làm mà, chị…

Hạ ngưng ngang vì nghẹn lời, Trần Đình thở dài rồi nói:

- Thôi thì chị ngắn số phải chịu vậy, anh cũng không ngờ…

Lại một khoảng trống rơi ngang, Hạ phập phồng “có khi nào anh ấy sẽ bảo mình đừng đến nữa không? Mà cũng đúng thôi, mình có tư cách gì mà ra vào đây nữa, không khéo anh ấy lại mang tiếng là vợ vừa mới…”

Hít một hơi thở sâu, Trần Đình lấy chiếc phong bì trong túi áo đặt xuống mặt bàn rồi đẩy nhẹ về phía Hạ.

- Có cái này, chị Hồng dặn anh đưa cho em vào ngày hôm nay.

- Đưa cho em?

Hạ mở lớn mắt kinh ngạc. Trần Đình khẽ gật. Hạ run tay cầm chiếc phong bì được dán kín. Cái gì trong này? Nhưng cô không thể bóc ra e có gì bất tiện. Trần Đình chợt nói:

- Không biết bé Mi đi ngủ có mắc mùng không nữa?

Nói xong, anh dợm đứng lên thì Hạ vội vã:

- Thôi em về để anh còn đi nghỉ.

- Ừ, em về nhé.

Tiễn Hạ ra cổng xong, Trần Đình vào ngồi lại chỗ cũ, một lúc sau, anh đứng dậy đi lấy một cái ly và một chai rượu.

Hạ dựng xong cái xe thì gần như cô đâm bổ vào nhà, không nghe cả câu hỏi của mẹ, cô lao vào phòng chốt cửa lại rồi hấp tấp lấy cái phong bì mở ra. Sự nhạy cảm báo cho cô biết, trong phong bì ấy chứa đựng một điều thật quan trọng. Những dòng chữ nghiêng nghiêng của Diệu Hồng hiện ra:

“Hạ thân yêu của chị.

Khi em đọc những dòng chữ này thì em đã biết chuyện gì xảy ra. Chị đã nhìn thấy trước ngày này từ rất lâu rồi, nó lâu không phải vì con số của ngày tháng, mà nó lâu vì sự thắc thỏm, khắc khoải của chị với từng ngày từng ngày còn lại. Em biết không? Chị đã rất rất đau cả thể xác lẫn tinh thần. Làm sao không đau khi thấy cuộc đời mình mỗi ngày đều có thể là mỗi ngày cuối cùng. Làm sao không đau khi nhìn những người mình yêu thương nhất đang xa dần xa dần khỏi tầm tay. Làm sao không đau khi trước mắt còn biết bao ước vọng cho chính mình và cả những người thân, nhưng lại đang phải khép dần lại. Trước mắt chị lúc này đang nhòa nhạt hình bóng cậu con trai và cô con gái bé bỏng mà chị đã luôn đem hết tâm sức mình để yêu thương và bảo bọc. Rồi đây chúng sẽ ra sao? Các con chị, chúng còn quá bé, còn quá non nớt giữa cuộc đời này, chúng đang cần lắm sự yêu thương chăm sóc và dạy dỗ, một mình anh Đình có lo liệu hết được không? Có lẽ sẽ được cả thôi, vì cái gì cũng có thể tìm ra cách mà. Nhưng chị biết chắc rằng, không thể có cách nào để bù đắp sự mất mát trống vắng tình cảm của một người mẹ cho chúng. Hạ ơi! Chị đang đau quặn lòng, đang nghe tim gan mình buốt nhói, đau đến từng tế bào cơ thể, đau hết cả tâm tư tình cảm, chị cảm thấy tất cả mình đang tan rã ra từng mảnh nhỏ vậy. Đau quá em ơi! Sao ông Trời lại khắc nghiệt với chị thế chứ? Đã cho chị rất nhiều nhưng rồi lại lấy đi tất cả…

Hạ gục đầu khóc rưng rức, trong cô nghe như nỗi đau của Diệu Hồng lan sang. Một phần tâm thức cô đặt mình vào tâm trạng của chị. Đúng là quá đau, còn nỗi đau nào hơn thế nữa không? Phải nhìn thấy trước ngày mình từ giã cõi đời, phải nhìn thấy những đứa con thân yêu của mình bơ vơ ngay khi mẹ nó đang còn sống, phải nhìn thấy người chồng thân yêu của mình vật vã thay mình trong cuộc sống ngày sau. Có người đàn bà nào đủ can đảm để chịu đựng nỗi đau ấy? Vậy mà chị…

“Hạ yêu thương của chị. Chị muốn gọi em như thế nhiều nhiều lần hơn nữa. Chị đã thầm cảm ơn cuộc đời đã cho chị gặp em, nếu chị có nhiều thời gian hơn nữa, chắc hẳn chị sẽ nói với em được rất nhiều, và chị tin cho dù thế nào thì chị em mình vẫn luôn giữ mãi trong nhau một tình cảm tốt đẹp và bền vững, phải không em? Nhưng tiếc thay, chị đã không có đủ thời gian để chia sẻ cùng em, mà giờ đây, chị chỉ có thể nói với em vài điều qua trang giấy này. Như em biết đấy, ba mẹ và anh của chị đều ở xa, nên từ lâu chị thật sự xem em như là em gái của chị, và em cũng dành cho chị một tình cảm tốt phải không? Không chỉ có chị, mà chị biết, em cũng rất yêu thương hai cháu Khanh và Họa Mi, đó là điều mà chị rất cảm ơn em. Hơn thế nữa, Hạ à, em đừng giận khi chị nói lời này với em nhé, em cũng rất quý mến anh Đình phải không? Chị đã nhận ra điều này từ lâu, em đừng lo ngại gì, chị nói thật lòng, chị rất vui vì nhận ra điều ấy. Chắc em đang bảo chị điên, ai lại vui khi có một tình cảm khác chen vào gia đình mình, nhưng đúng thật là chị vui em ạ, tuy niềm vui ấy có pha lẫn chút ngậm ngùi. Lúc đầu quả là chị cũng có chút buồn và nghĩ ngợi, nhưng rồi chị nhận ra, đó là một điều hết sức hợp tình hợp lý trong trường hợp này. Hạ em. Nếu chị không phải là người đang ngấp nghé giữa một lằn ranh, thì hẳn câu chuyện này đã khác đi rất nhiều. Nhưng chỉ có ai ở vào hoàn cảnh như chị, mới có thể hiểu hết lòng dạ của một ngươi biết mình sắp chết là thế nào. Và trong lúc chị đang ngổn ngang tâm tưởng vì chồng vì con, thì em xuất hiện. Sự xuất hiện của em ngay từ lúc ban đầu đó mơ hồ cho chị một manh nha nào đó, về sau, hiểu em hơn, chị vừa yêu thương vừa tin cậy, rồi đến khi chị nhận ra một ánh nhìn khác trong mắt em với anh Đình, thì chị biết, em sẽ là cái phao của gia đình chị. Em còn nhớ buổi tối hôm xe em bị xẹp lốp và chị đã bảo anh Đình chở em về không? Chắc em không thể ngờ rằng đó là chị chủ động tạo ra. Chị biết anh Đình cũng có chút cảm mến em, nói thật, phụ nữ như em, chiếm tình cảm đàn ông không khó, em rất rõ mà, đúng không? Nên anh Đình có chút lao xao cũng phải thôi, đúng là chị có buồn, như chị đã nói, chuyện thường tình của phụ nữ mà. Nhưng chị đã gợi ý cho anh, để anh có thể bày tỏ với em. Chị không rõ đã có gì trong buổi tối ấy không, vì anh ấy không nói lại, nhưng sự lánh mặt của em đã cho chị đoán hiểu, dù sao thì diễn tiến cũng đúng như mong muốn của chị. Những ngày em không đến, lại là những ngày chị mong em nhiều nhất, vì bệnh tình chị đã xấu đi nhiều, chị biết rõ là vậy, chị rất mong gặp em để nói với em một lời, nhưng không được. Có khi thế này lại tốt hơn, vì đối diện nhau, chưa chắc chị đã có thể nói được ra lời, và em nữa, cũng chưa được chuẩn bị để tiếp nhận vấn đề. Nên giờ phút này, viết cho em những dòng chữ này đây, tâm trạng chị thật phức tạp, nhưng rất rõ là chị đang rất bình tĩnh và thanh thản. Em ạ, một khi đã chấp nhận thực tế, thì cho dù nghiệt ngã mấy người ta cũng vẫn có thể bước qua. Bây giờ chị có thể an bằng được với chính mình vì hiểu số phận mình chỉ được đến đây, và chị chắc sẽ nhẹ lòng hơn rất nhiều khi đạt được mong ước cuối cùng. Điều mong ước cuối cùng này, chỉ có em mới giúp chị hoàn thành. Em có thể giúp chị không hở Hạ? Chắc em đã đoán ra chị định nói gì rồi phải không? Chị nhờ em, chị khẩn thiết nhờ em thay chị chăm sóc anh Đình và hai cháu. Chị tin em với bản chất nhân hậu và tình cảm của mình, sẽ đem lại niềm vui sống cho gia đình chị. Em sẽ là một người mẹ tốt cho hai cháu, em sẽ là một người vợ tốt cho anh ấy. Chị thật lòng mong như thế. Em ơi! Em có hiểu cho chị không?

Hạ thẫn thờ buông rơi tập giấy, đây là điều cô không hề nghĩ tới. Làm gì có người phụ nữ thời hiện đại này cam tâm tìm vợ cho chồng, tìm mẹ cho con mình chứ? Nhưng như chị ấy nói, có ở trong tâm trạng hoàn cảnh ấy thì mới rõ. Trời ơi! Chắc là chị ấy đau đớn lắm khi buộc phải làm một việc khó khăn như thế. Phải là một người mẹ hết lòng vì con, phải là một người vợ hết lòng yêu chồng, mới đủ ý chí cho một quyết định. Hạ nhắm mắt, cô cảm nhận một cái gì như làn sóng dợn nhẹ dâng lên. Cảm giác lỗi lệch đeo đẳng cô suốt thời gian qua đã biến mất. Bức thư như một tấm giấy phép cho cô bước qua một ngưỡng cửa. Như một bàn tay ấm áp dắt cô vào miền cỏ xanh ngun ngút. Nhưng sao nghe thống thiết ngậm ngùi đến vậy? Một người đàn bà trước lúc đi xa, cắn răng đứt ruột mà trao lại chồng con cho một người đàn bà khác. Làm sao không lo toan khắc khoải về nỗi an nguy với con mình về sau. Thói thường cuộc sống, có mấy ai thương con người như con mình, lại lòng dạ nổi nông của đàn bà, có những khúc nôi không dễ biết trước. Nhưng còn cách nào hơn là vin vào một lòng tin, vin vào một tình cảm, và một niềm hy vọng xa xôi.

“…Hạ thân yêu. Chị biết hai đứa trẻ còn lắm ngây ngô, chắc chắn chúng sẽ luôn làm em phiền lòng. Hiếu Khanh có lớn mà chưa có khôn, lứa tuổi ấy lại rất nhiều biến đổi thất thường, lại trong bối cảnh xã hội hiện nay, phức tạp và xô bồ, liệu rồi cháu nó sẽ gây cho em bao điều rắc rối phiền hà. Còn bé Họa Mi lại càng vất vả, có những điều cháu nó chưa đủ sức để hiểu, chắc sẽ rất khó khăn khi chấp nhận một người phụ nữ thay thế mẹ mình, bé lại hay nhõng nhẽo vòi vĩnh, đương nhiên sẽ làm khổ em rất nhiều. Với một người con gái chưa hề mang nặng đẻ đau, mà bỗng chốc lại phải cáng đáng hai đứa trẻ như thế, hẳn là một thiệt thòi rất lớn cho em. Chị biết, chị rất biết, vì chị là mẹ ruột chúng mà nhiều khi còn khốn khổ lo toan, ngay cả chuyện ăn uống của chúng cũng là một vấn đề, đứa thích món này, đứa đòi món kia, đứa đang tuổi trai tráng thì khác, đứa còn bé không thể ăn như nhau. Rồi lại suốt ngày bao thứ linh tinh vụn vặt nhũng nhiễu. Vì sao tạo hóa lại ban cho con người cảm xúc của tình thương. Bởi chỉ có tình thương thì vợ chồng con cái mới có thể chịu đựng và chấp nhận vô vàn nỗi khổ mà cuộc sống bày ra. Vì vậy mà đòi hỏi một tình thưong giữa những người bàng quan là rất khó. Chị không dám đòi hỏi em, chỉ chỉ xin em, mong đợi ở em, van cầu ở em, em hãy thương các con chị bằng một tình thương mà em có thể, để may ra phần nào bù đắp cho chúng chút gì nỗi bất hạnh vì phải mất mẹ quá sớm. Nếu không phải là em, chị không biết các con mình rồi sẽ ra sao? Em ơi! Em có thử hình dung không? Nếu con mình phải chịu nỗi bất hạnh hay uất ức nào đó, mà bản thân mình thì bất lực vì không thể bênh vực chở che. Chỉ thử nghĩ đến thôi mà chị đã đau tức hết cả ngực, đã thấy ruột gan mình như bị xé ra từng mảnh. Ôi con tôi…”.

Hạ chong đôi mắt đỏ hoe nhìn lên trần nhà. Cô hiểu vì sao Diệu Hồng phải nặng lòng lo toan đến thế. Cuộc đời đã quá nhiều mình chứng cho cảnh mẹ ghẻ con chồng. Cho dù không phải tất cả mọi trường hợp đều có chung một cảnh ngộ. Cũng đã có những người phụ nữ rộng lòng, họ bước qua được sự nhỏ nhen vị kỷ hờn ghen để tiếp nhận những đứa trẻ vô tội đang rất cần một bàn tay, một tấm lòng người mẹ chăm sóc. Một trái tim. Một tình thương. Nếu chỉ nói ra một cụm từ thì thật quá dễ, nhưng thực hiện được đúng ý nghĩa của cụm từ ấy không phải là chuyện giản đơn. Liệu cô có thể thực sự yêu thương hai đứa trẻ như con ruột của mình? Cứ cho là có thể đi, nhưng khi cô sinh ra đứa con của chính mình, thì trách nào không có sự thiên lệch. Vốn dân gian vẫn dãi dầu “bánh đúc có xương”, liệu với cõi tâm tư thường tình, con người trên phận đời đưa đẩy, lẽ tự nhiên có làm cô thành ích kỷ?

“Em ạ! Khi đã qua cơn sốc phát hiện mình mắc bệnh, khi đã bình ổn được một tâm thế tiếp nhận, chị đã dần nhận ra hai từ “duyên mệnh”. Quả là vậy, mỗi người trong chúng ta khi sinh ra, nào có ai được biết những gì sẽ xảy đến với cuộc đời mình, cứ đi qua hôm nay thì đến ngày mai, cứ tiếp nối nhau từng sự kiện lớn nhỏ, và mỗi ngày lại đến với ta những điều không báo trước. Bởi nếu như chị biết trước sẽ một ngày mình không còn tồn tại, thì chắc chị sẽ không chọn lấy một người chồng, chị sẽ không sinh ra những đứa con, để bây giờ chị không phải tan nát cả ruột gan bởi nỗi đau chia lìa. Nhưng nếu cuộc đời mà cứ biết trước thì chẳng còn ai hứng thú sống với những ước mơ hoài bão nữa phải không em? Thôi thì, sống cứ sống, mơ cứ mơ, và như chị bây giờ, vẫn tiếp tục mơ cho một ngày mai với những người thân yêu của mình. Trong đó có em, em thân yêu của chị ạ…

“Duyên mệnh”. Trong đầu Hạ vụt ra hai từ như vết khắc. Phải rồi, duyên mệnh. Chỉ có nó mới bày ra và dẫn dắt mỗi chúng ta đi từng bước trong cuộc đời này. Vậy có nghĩa, cuộc gặp gỡ của hai chị em ngày ấy không phải là sự ngẫu nhiên tình cờ, mà đã là sự sắp xếp của duyên mệnh. Vậy có nghĩa số phận của cô và gia đình này có một sự gắn bó. Vậy có nghĩa, khi cô yêu một Trần Đình, thì không phải chỉ có một anh trong cuộc đời cô. Thì vẫn là những câu chuyện đời tương tự thôi mà. Khi yêu là chuyện chỉ hai người, nhưng khi lấy nhau lại là chuyện của nhiều người. Và người ta vốn không thể có một đời sống riêng lẻ chỉ với bản thân mình. Cuộc sống luôn là một sự thử thách và phấn đấu. Tình yêu cũng vậy. Nó chỉ được bền vững khi vượt qua được những yêu cầu của thực tế.

“Hạ em, em có biết vì sao chị bảo anh Đình đưa cho em lá thư này vào bốn chín ngày của chị? Theo thuyết nhà Phật, sau bốn chín ngày, là lúc linh hồn con người sẽ đi vào một cảnh giới khác. Chị không biết điều đó có thật? Hay chỉ là một cách hình tượng mà giáo pháp đưa ra để giáo huấn người đời. Thiên đường. Địa ngục. Hay một chốn nào đâu đó mà người ta gọi là Lục ngạ. Trước sáu ngả siêu linh chốn mênh mông bờ giác ấy, chị không biết sẽ đi về đâu? Mà cho dù có đi về đâu thì cũng là không còn nương náu chốn nhân gian này nữa. Nên chị mong được gửi gắm đến em những lời gan ruột tâm tư, nếu được sự chấp thuận của em chắc chị sẽ an lòng thanh thản mà đi về cõi khác. Chị không dám nài ép em, em có sự chọn lựa của riêng mình, nếu em có một con đường khác thì cũng là lẽ tất nhiên thôi. Và cho dù thế nào, chị cũng rất thật lòng cầu mong cho em được thật nhiều hạnh phúc. Vì em rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Cuộc đời mỗi người có giá trị hay không là ở chỗ có tìm được cho mình một niềm hạnh phúc thực sự. Nếu có kiếp sau, chị em mình sẽ gặp lại, sẽ là những người thân yêu nhất của nhau, em nhé”.

Đọc lại rồi đọc lại. Bức thư nhòe nhoẹt những giọt lệ của cả người viết lẫn người đọc. Và rồi, mặc bao ngăn cản, ngẩn ngơ khó hiểu của gia đình và bạn bè. Hạ lặng lẽ bước vào một cuộc sống mới. Cô nhìn về phía trước với một tâm niệm “Hãy cứ yêu thương thật lòng đi đã, cho dù ngày mai có thế nào, thì ít nhất hôm nay mình cũng đã chạm được một tay vào hạnh phúc. Chị ơi! Em không dám hứa với chị là em sẽ làm tốt được tất cả, nhưng ít nhất em sẽ làm với tất cả lòng minh. Chị hãy phù hộ cho em, chị nhé”.

Thời gian là một sự chứng thực cụ thể nhất với mọi ước muốn. Kể ra thì Hạ cũng không gặp nhiều khó khăn lắm, nhờ vào những gì đã được xây đắp tự thuở ban đầu, bên cạnh đó là sự trợ giúp của Trần Đình. Anh luôn tôn trọng ý kiến và tình cảm của hai con, nên hai anh em cũng không cảm thấy có sự ép buộc, lại cả hai cũng sẵn đã quý mến Hạ từ lâu. Và câu chuyện dần ngả theo chiều hướng êm đềm tự nhiên.

- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con được nhận vào phi đội rồi.

Hiếu Khanh đã là một thanh niên chững chạc dềnh dàng, nhưng với niềm vui thì vẫn hồ hởi như một đứa trẻ. Hạ vội chùi tay vào vạt áo, chạy ùa lên, miệng tíu tít:

- Đâu đâu, đưa mẹ xem nào? Ồ đúng rồi, con trai của mẹ giỏi quá.

Thế thì mẹ phải đi chợ để cả nhà ăn mừng mới được.

- Mẹ làm món chả rán nhá, mẹ làm món ấy là ngon nhất.

- Được rồi. Mẹ làm cả cá hấp nữa được chưa?

- Dạ được. Ba con đâu hả mẹ?

- Ba con đi đón bé Mi rồi, chắc về bây giờ đấy. Thôi con ở nhà, mẹ đi chợ đây.

Thay vội bộ đồ, Hạ tất tưởi cầm cái giỏ mắc vào tay xe. Cô vừa ra cổng thì cha con bé Họa Mi về. Cô chỉ kịp quay tay chỉ vào nhà rồi đi thẳng. Một bữa trưa ngon miệng và vui vẻ với những gương mặt ngời ngời nụ cười.

- Mẹ ơi! Mẹ may cho con một cái áo dài mới đi, mấy cái này muốn chật hết rồi.

- Ừ để mẹ đi mua vải rồi chủ nhật này mình đi may nha.

Nhìn Họa Mi đã trở thành một cô thiếu nữ thướt tha, cô bé rất giống mẹ, Hạ chợt nghĩ đến người đã vắng mặt. Cô thì thầm “Chị ơi! Em đã không phụ lòng chị, đúng không? Các con rất ngoan và rất yêu quý em. Ở nơi ấy, hãy yên lòng an nghỉ, chị thân yêu nhé”. Dọn dẹp xong, Hạ đi vào phòng, ngang qua phòng của Diệu Hồng, Hạ thấy Trần Đình đang đứng trước bàn thờ vợ. Chắc anh đang báo tin mừng cho chị. Ngày đó, khi vừa mãn tang Diệu Hồng, Hạ chính thức thay thế chị trong ngôi nhà này, tôn trọng người đã khuất, Hạ bảo Trần Đình dành phòng riêng của vợ chồng anh lúc trước làm phòng thờ vợ, và cũng là một khoảng riêng mỗi khi anh có tâm sự. Trần Đình thầm cảm ơn Hạ vì sự tế nhị ấy. Cho đến bây giờ, anh thực sự cảm ơn số phận đã quá ưu đãi mà ban cho anh hai người vợ thật tuyệt vời. Thắp ba nén nhang cắm vào bát hương, Trần Đình thì thầm: “Cảm ơn em”.

ĐÀM LAN


KHI TÌNH YÊU ĐẾN

Bây giờ, cả trường đều biết tôi thất tình, đòi nghỉ dạy. Không ai hoảng hốt hoặc ngăn cản mà lại cười. Trước tiên là ông hiệu trưởng. Cầm tờ đơn xin thôi việc trên tay, ông thoáng ngạc nhiên. Đọc lướt qua, ông phì cười. Quay sang tôi, ông vỗ vai thân mật:

- Thôi đi cậu ơi! Khó khăn… cái mốc xì! Lý do nầy không ổn đâu. Thú thật đi!

Tuy tuổi khá cao nhưng tính tình của hiệu trưởng trường tôi rất trẻ trung, vui vẻ, dễ gần. Ông nhìn sự việc gì cũng với ánh mắt khôi hài. Nhờ vậy, bức tường ngăn cách giữa ban giám hiệu và giáo viên đã bị san phẳng. Mọi người yêu quý nhau như người thân. Họ làm việc vì tình cảm chứ không vì nguyên tắc. Ngày chủ nhật, lễ, tết, nhóm giáo viên nam thường kéo nhau đi chơi hoặc viếng thăm… giáo viên nữ. Những cuộc du ngoạn lý thú ấy đã làm nẩy nở biết bao mối tình nồng thắm và luôn có kết thúc tốt đẹp. Duy chỉ có tôi là người bất hạnh. Tôi yêu một mình.

Ngày đầu Thoa tới trường nhận việc, trời mưa dầm rả rích. Gió cuốn bụi mưa bay lãng đãng vào khung cửa. Chút se se buôn buốt làm cho thầy trò tôi muốn ngủ hơn là dạy học. Sau khi viết một lô bài tập lên bảng, tôi ra lệnh cho học sinh làm bài rồi lẻn sang văn phòng trường tìm người tán dóc cho đỡ buồn. Không có ai ở đó. Có lẽ thầy hiệu trưởng đã trùm áo mưa đi… canh giáo viên ở điểm Chùa Chim. Ông thừa biết tính tình giáo viên trẻ thường năng nổ, xông xáo nhưng ham vui và lơ đễnh. Nhất là những lúc mưa dầm. Một phần ở điểm nầy mái tôn đã đến tuổi về hưu. Chúng rúm ró, xộc xệch để lộ những khe hở cho nắng tha hồ giọi xuống, mưa mặc sức nhỏ giọt. Trời quang, dạy tốt, học tốt. Trời mưa, muốn hoàn tất công việc phải gân cổ gào học trò mới nghe rõ. Ngồi phía dưới, học trò chen chúc nhau tránh chỗ dột. Có đứa lấy nón đội lên đầu cho chắc ăn. Vui như tết. Nhưng chất lượng ngày đó đi đời. Ông hiệu trưởng đành phải đội mưa đi thăm lớp và để giáo viên nhìn thấy ông lạnh run, hai hàm răng va vào nhau nghe cầm cập, mặt mày xám ngoét chỉ vì… sự nghiệp giáo dục. Họ sẽ bắt chước ông, bất kể nắng mưa, trong lớp cứ dạy và học.

Tôi ngồi phịch xuống cái ghế dành cho hiệu trưởng, mơ màng nhìn mưa giăng trắng xóa. Bỗng dưng khung cửa tối sầm. Một dáng người quái dị chắn ngang, thản nhiên giũ nước tuôn thành giọt, đọng vũng trước cửa văn phòng. Một cô bé chui ra khỏi cái áo đi mưa kiểu cánh dơi, nhoẻn miệng cười với tôi. Bao nhiêu lạnh lẽo, bực bội biến mất, trống ngực tôi đánh liên hồi, máu chảy rần rật trên thái dương và không gian ấm hẳn.

Em lại mỉm cười. nụ cười có duyên đáo để, hớp một nửa hồn tôi ném phăng đâu mất. Tôi ấp úng hồi lâu mới nói được một câu vô duyên chưa từng thấy:

- Cô, cô muốn gì?

Mặt em bừng đỏ, môi mím lại:

- Thưa thầy hiệu trưởng, em tới trình diện.

Có lẽ em thấy cái bảng kẻ chữ Hiệu trưởng ngay trước mặt tôi nên em lầm. Được dịp, tôi lên giọng:

- Vậy sao! Đâu, đưa quyết định coi!

Em lấm lét đưa tờ giấy bằng hai tay. Trước khi đọc, tôi đảo mắt một vòng oai vệ - khiến em phát khiếp, siết chặt cái túi xách vào lòng. Nét mặt lộ vẻ bất mãn. Tôi làm tỉnh, nhướng mắt:

- Được rồi! bây giờ cô qua lớp kế bên… dạy thử đi!

Thấy cô bé cứ chần chờ, chưa chịu dời chân, tôi ra lệnh:

- Sao chưa chịu đi, còn chờ gì nữa?

Em ấp úng:

- Nhưng khi không vào lớp mà không có ai giới thiệu… kỳ quá hà!

- Lên lớp chứ bộ trình diễn văn nghệ sao mà phải giới thiệu.

Đỏ mặt! Cô bé quày quả bỏ đi vào lớp. Tôi thích chí úp mặt vào lòng bàn tay cười một mình, nhủ thầm:

- Có thế chứ! Xem ra mình cũng oai… như hiệu trưởng chứ bộ.

Bỗng:

- Sao không lên lớp mà nằm dài trên bàn vậy hả?

Giật mình, tôi ngẩng lên, ông hiệu trưởng đã về tự lúc nào. Ông đứng chống nạnh oai vệ trước mặt tôi. Bật dậy, tôi cười lõn lẽn:

- Ủa, thầy về rồi hả? Sao đi… nhanh quá vậy?

- Vì tôi sợ ở đây có người ngủ gục, phải về để đôn đốc. Dạy như mấy cậu thì biết bao giờ học trò mới giỏi!

- Thầy đừng lo! Dù em ngồi đây nhưng có người thế lớp.

Thầy hiệu trưởng trố mắt nhìn, tôi liền giải thích:

- Có cô giáo mới về trường. Em… phân công dạy thử rồi.

- Trời đất!

…Từ đó tôi trở thành một giáo viên siêng năng lạ lùng. Trời chưa kịp sáng rõ, cây cỏ còn ướt đẫm sương đêm, tôi đã đến trường. Đồng phục chỉnh tề, không đợi ai nhắc nhở. Tóc tai bóng mượt. Cái thuở đầu bù tốc rối tôi đã cho nó lùi về dĩ vãng. Tôi chăm chút bề ngoài kỹ lưỡng đến độ thầy hiệu trưởng phải buột miệng: “Gớm! Dạo nầy láng lẫy. Ruồi đậu còn phải chống gậy cho khỏi ngã”.

Ai cũng để ý tôi, trừ Thoa. Em ít chịu nhìn tôi, dù mỗi buổi dạy tôi lạng qua, lạng lại trước mắt em có đến hàng chục lần. Hình như em chẳng ưa tôi chút nào. Bảo là ghét thì đúng hơn. Em trách tôi là ma cũ ăn hiếp ma mới. Đến nhà chơi, chỉ lo ngó Thoa chăm bẳm chứ không để ý bà của em ngồi sờ sờ đó. Chuyện dạy học không nói, nói chuyện yêu đương cho em bị bà rầy. Tỏ tình gì mà… trắng trợn quá trời, chẳng chút mộng mơ, lãng mạn. Đã vậy còn vụng về đem kết nước ngọt tới nhà biếu em hôm sau đã tới đòi chai, làm như em là… hạm không bằng. Khát nước ngọt từ kiếp trước. Chẳng lẽ trong một ngày, em uống sạch sành sanh bây nhiêu đó.

Ban đầu, tôi đùng đùng nổi giận, tuyên bố “Không yêu nữa”. Nhưng, suy nghĩ lại thấy mình cũng bậy bạ quá trời. Tình yêu chứ đâu phải… bánh trái mà muốn là có. Tôi cảm thấy em càng xa lánh tôi, tôi càng… yêu em tha thiết và càng đau khổ.

Tôi không còn muốn đến trường nữa. Ở đó, mỗi sáng em tươi tắn hồn nhiên bên lũ học trò. Suốt buổi dạy, em chỉ lo lên lớp. Giờ ra chơi, em chẳng chịu lên văn phòng nói chuyện mà ngồi lì tại lớp… nói chuyện với học trò. Thỉnh thoảng, em dạo quanh sân cùng với một cô giáo khác. Mặc cho tôi se sắt ruột gan. Tôi không còn yêu nghề, muốn bỏ đi thật xa để tìm… quên. Và cũng để đo lường mức độ tình cảm của Thoa.

Tin đồn tôi nộp đơn xin nghỉ dạy lan ra nhanh chóng. Giờ ra chơi, thầy cô trong trường ào lên văn phòng… trêu cợt, mỗi người một câu:

- Thuận nè, chuyện đâu còn có đó… Từ từ mà. Chưa chi đã vội nản lòng.

- Thầy giáo trẻ ơi! Tình yêu như trái phá, con tim mù lòa…

Thầy Tuấn, giáo viên lớn tuổi nhất trường, thân mật bảo:

- Mình nói thật cậu đừng buồn chứ làm vậy thật là oan cho ngành Giáo dục. Chuyện dạy dỗ đâu có dính dáng gì với chuyện tình yêu của cậu. Buồn người này lại bỏ bao người thân thuộc khác mà đi. Làm như vậy… trớt lắm cậu ơi!

Có tiếng cười khúc khích vang lên. Tôi xấu hổ huơ tay, nói lớn:

- Kệ tôi! Hãy để tôi yên!

Gian phòng chợt lặng đi. Không khí dường như bị nén lại, gây ngột ngạt, khó thở:

- Hung dữ quá trời! Ai thương cho nổi!

Tiếng cười lại vỡ òa, xua tan bực bội trong lòng mọi người. Thoa vào văn phòng tự bao giờ. Trái với lệ thường, em đang ngồi bên cửa sổ, mắt nhìn tôi đăm đắm. Sượng sùng, tôi đưa tay gãi đầu. Mấy sợi tóc rối bời lại được dịp bù xù. Thầy hiệu trưởng bật cười, góp ý:

- Thầy Tuấn khuyên cậu đúng lắm. Chẳng lẽ mỗi lần yêu không thành là bỏ việc. Nếu ai cũng như cậu thì chắc chẳng còn mấy người lao động. Ở đây, ai cũng quý mến cậu. Đi nơi khác liệu hoàn cảnh có tốt hơn không? Hay cứ đi đến cùng trời cuối đất để tìm kiếm tình yêu. Cậu không nghĩ là mình có thể tạo được nó hay sao?

Thoa bỗng chen vào câu chuyện:

- Sao anh không tìm hiểu tại sao người ta… sợ mình? Để tìm cách làm cho người ta… thích mình. Chưa chi đã…

Cả phòng cười rộ. Lòng tôi vui như hội. Đúng rồi, sao tôi khờ khạo đến thế không biết! Tình yêu là một cái gì rất riêng tư, thiêng liêng vô cùng. Vậy mà tôi cứ vờn như mèo vờn chuột. Tôi đưa những cái móng nhọn ra để nhát em. Thay vì tạo cho mình một tính cách độc đáo, dáng vẻ đáng kính của một người thầy thì tôi lại cứ như… trẻ con háu đói. Bảo sao em không phát sợ. May mà quanh tôi còn có những người thân thuộc quý mến, giúp tôi nhận ra… chân tướng. Và, em rất đáng yêu. Tôi hấp tấp nói:

- Ừ, đúng rồi! tôi không nghỉ việc, không bỏ đi đâu hết. tôi sẽ tìm hiểu… tôi. Ôi, em có biết là em đáng yêu lắm không? Tôi yêu em thật không uổng tí nào.

Tiếng cười ầm ĩ vang lên. Em đỏ mặt tía tai. Còn tôi, trống ngực rộn rã như tiếng trống trường vừa điểm, báo giờ vào học.

Nguyễn Thị Mây

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 10.01.2015… ..................................... Vũ Thư Hữu .... 01

Vài chi tiết về cuốn cổ thư “Ba đạo quân ở Bắc Kỳ”

(Trois colonnes au Tonkin – 1894-1895) của tướng Gallieni -

Cựu Chỉ Huy Trưởng Quân Khu II ở Bắc Kỳ ....................... Vũ Anh Tuấn .... 05

Từ láy và nhân vật (tt & hết) ...................................................... Phạm Đan Quế .... 09

Đại Thi Hào Nguyễn Du & Truyện Kiều

trong tâm hồn một người chơi sách .................. Vũ Anh Tuấn .... 18

Vinh danh Đại Thi Hào Nguyễn Du (1768-2015) ............................. Bá Khoát .... 28

Tản mạn đầu Xuân .......................................................................... Tâm Nguyện .... 29

Nhạc Xuân của Phạm Đình Chương, Phạm Duy & Văn Cao ......... Phạm Vũ .... 43

Chợ hoa Tết ........................................................................ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 53

Cúng giao thừa mừng năm mới .............................................. Phạm Hiếu Nghĩa .... 54

Ba mẩu chuyện về văn hóa Nga “Quả của Quỷ Sa-Tăng” .......... Thúy Toàn .... 58

Bói quẻ đầu năm: Cái lỗ mũi (Trung Sơn) ................................. Trần Văn Hữu .... 64

Cũng chờ đón ngày Xuân .................................................................... Dương Lêh .... 71

Ca dao đồng quê .............................................................. Huỳnh Thiên Kim Bội .... 79

Chờ Xuân (thơ) ................................................................. Huỳnh Thiên Kim Bội .... 82

Con đường mùa Xuân (thơ) ........................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 83

Mùa Xuân & tình yêu (thơ) ....................................................... Đinh Xuân Hảo .... 84

Cảnh mùa Xuân (thơ) ............................................................... Đinh Xuân Hảo .... 85

Thơ Xuân (thơ) ................................................................................. Thanh Châu .... 85

Trái dưa hấu (thơ) .............................................................................. Thanh Châu ... 86

Hoa Nguyệt (thơ) ............................................................................... Thanh Châu .... 86

Hoa đào nở chốn viễn phương (thơ) .................................................... Tuệ Mai ... 87

Ngày Xuân… (thơ) .................................................................. Trần Nhuận Minh .... 88

A springtime day… (thơ) ....................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 89

Bên Mẹ mùa Xuân (thơ) ................................................................ Ngàn Phương .... 90

Mỗi độ Xuân về (thơ) ...................................................................... Ngàn Phương .... 91

Những ngày cuối năm (thơ) ................................................................. Đàm Lan .... 91

Khúc Xuân (thơ) ................................................................................ Tâm Nguyện .... 93

Chốn bình yên (thơ) .......................................................................... Tâm Nguyện .... 93

Gọi Xuân (thơ) .................................................................. Phạm Thị Minh Hưng .... 94

Còn mãi đời vui (thơ) ...................................................... Phạm Thị Minh Hưng .... 95

Hạnh phúc ơi ! Hãy về với anh (thơ) ............................................. Lê Minh Chử .... 96

Đón năm mới (thơ) ........................................................................... Lê Minh Chử .... 97

Bốn mùa yêu nhau (thơ) ......................................................................... Kim Sơn .... 97

Nằn nì (thơ) .............................................................................................. Lam Trần .... 98

Cảnh thanh tân (thơ) ........................................................................ Lang Nguyên .... 99

Chớ thờ ơ (thơ) .................................................................................. Lang Nguyên .... 99

Trăng mật (thơ) ............................................................................. Phùng Chí Tâm .. 100

Tình khúc Yang Bay (thơ) .......................................................... Phùng Chí Tâm .. 101

Đi trước mùa Xuân (thơ) ...................................................................... Lê Nguyên .. 102

Thắm mãi hoa Người (thơ) .................................................................. Lê Nguyên .. 103

Bữa đó (thơ) ........................................................................................ Thiếu Khanh .. 104

Xuân về (thơ) .................................................................................... Vũ Đình Huy .. 105

Springtime is coming back (thơ) ............................................ Vũ Anh Tuấn dịch .. 105

Đến hẹn (thơ) ................................................................................... Vũ Đình Huy .. 106

Keeping one’s lover tryst (thơ) ............................................... Vũ Anh Tuấn dịch .. 106

Rong chơi một tối .................................................................................... Lam Trần .. 107

Công tử Hà Nội của những năm 30 ............................ Đào Minh Diệu Xuân st .. 109

Cà dái dê ........................................................................ Bs. Nguyễn Lân-Đính st .. 119

Cuộc đời tình ái của người cha đẻ Phân tâm học

Freud đa tình ................... Hoàng Kim Thư st .. 124

Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (tt – kỳ 8) ................. Thanh Châu dịch thuật .. 133

Chuyện lạ về cười .......................................................................................... B.Đ. st .. 137

Vài mẩu chuyện vui về tiếng Pháp ........................................... Đỗ Thiên Thư st .. 141

Nói lái tổng hợp .................................................................................. Dương Lêh st .. 146

Đi tìm bí quyết sống lâu ................................................ Bs. Nguyễn Lân-Đính st .. 148

Là em cả ........................................................................................ Hà Mạnh Đoàn .. 149

Chuyện tình của Hạ ................................................................................ Đàm Lan .. 151

Khi tình yêu đến ......................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 171

Thông báo:

Kỳ họp tiếp theo của CLB sách Xưa & Nay

sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 14/3/2015

lúc 9 giờ tại nhà thờ Tân Sa Châu,

số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình.

Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về:

hamanhdoan69@yahoo.com

hoặc liên hệ với Hà Mạnh Đoàn - 0937 108489

Các bản tin trước có thể xem tại:

www.diendan.songhuong.com.vn

www.sachvatranh.com

www.newvietart.com

www.vandanviet.net

www.hoamai-aus.org.au

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế