Hiện có 23 người xem / 2518881 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/10/2014

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn cổ thư mà ông mới có. Đây là hai cuốn cổ thư bằng tiếng Pháp mà ông mới mua được từ sưu tập cổ thư của cụ Dương Minh Thới, một người chơi sách cổ ở Miền Nam trước ngày 30/4/1975. Cuốn thứ nhất là một cuốn thơ viết bằng thứ tiếng Pháp miền Provence, và có bản dịch ra tiếng Pháp bình thường và bằng văn xuôi đi kèm. Tác phẩm này là của nhà văn người miền Provence Frédéric Mistral và nhà văn này cũng nhờ tác phẩm này mà được Giải Nobel Văn Chương năm 1904. Tên tác phẩm là MIREILLE và nội dung tác phẩm có thể tóm tắt lại như sau: Mireille là con gái một địa chủ và cô đã từ chối ba thanh niên con nhà giàu để đi say mê một thanh niên nghèo làm nghề đan mây (vannier), tên là Vincent. Cha mẹ cô cực lực phản đối mối tình của cô, nhưng Mireille vẫn không chịu từ bỏ người thanh niên nghèo mà mình yêu. Và cô đi tới miền Saintes-Maries-de-La-Mer để khấn vái mấy Nữ Thần của miền Provence gia ơn làm siêu lòng cha mẹ cô. Nào ngờ trên đường đi, cô quên đội mũ, nên bị cảm nắng, và chết trong vòng tay của Vincent, trước sự chứng kiến của cha mẹ cô.

Cuốn sách khổ 22x28 phân, và dày 254 trang được in bằng giấy dày cực đẹp, gáy mạ vàng, được minh họa bởi một họa sĩ minh họa nổi tiếng là họa sĩ Frédéric Montenard, và được in lại vào năm 1930 (84 năm trước).

Cuốn thứ nhì được giới thiệu, cũng đến từ tủ sách của cụ Dương Minh Thới là một cuốn Tự Điển Văn Phạm, Triết Học và Phê Bình và được in năm 1836 (178 năm trước) và dày trên 700 trang, của tác giả Victor-Augustin VANIER, một tác giả khá nổi tiếng hồi tiền bán thế kỷ thứ XIX. Sách giải thích hàng ngàn từ liên quan tới Văn Phạm, Triết Học và Phê Bình vào thời điểm đó. Đây là một cuốn chứa đựng rất nhiều tài liệu quý giá cho những ai quan tâm nghiên cứu sâu về tiếng Pháp. Sau khi được giới thiệu, hai cuốn cổ thư đã được một vài thành viên mượn xem qua một cách thích thú.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, bà Tâm Nguyện đã lên nói chuyện với các thành viên về việc bà đi chữa bệnh ở Bạc Liêu và biết về một ông lang có thực tài chữa bá bệnh cho người nghèo, vì khi chính bà tới nhờ chữa bệnh suy giãn tĩnh mạch thì sau vài ngày cũng thấy bớt hẳn.

Tiếp lời bà Tâm Nguyện, Bs Nguyễn Lân-Đính lên nói chuyện về “Một vài thứ lương thực có chức năng cung cấp năng lượng” vì các thành viên rất cần năng lượng để đọc sách, đi mua sách và… chơi sách!

Bác sĩ Đính nói xong, anh Phạm Vũ đã đăng đàn nói về một số các nhà văn Hà Nội như Nguyễn Khải, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi vv…

Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Chử đã lên hát thơ tặng các thành viên bài “Mẹ là Tất Cả” do chính anh sáng tác.

Kế đó anh Nhựt Thanh lên trình bày bài nghiên cứu về vấn đề “Bái Lạy” mà anh đã viết.

Tiếp lời anh Nhựt Thanh, một vị khách mới mang bút danh là “Học Trò” lên nói chuyện về vấn đề ăn uống, sử dụng các sinh tố vv…

Sau đó anh Hữu ngâm tặng các thành viên một bài thơ và giới thiệu cô Kim Sơn một MC ở Quận 10 lên ngâm một bài thơ của Huỳnh Thiên Kim Bội, cũng là một thành viên có mặt trong buổi họp. Sau đó cô hát tặng các thành viên một bài hát của Trịnh Công Sơn, bài “Mùa Thu Hà Nội”.

Cuối cùng, bằng giọng hát át tiếng bom, anh Thanh Châu đã hát tặng các thành viên bài “Lời Người Ra Đi”, và buổi họp kết thúc lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN QUÝ THƯ

“CÁC KHU VỰC Ở Á CHÂU THUỘC PHÁP

VÀ CÁC NHÀ VĂN Ở NHỮNG NƠI ĐÓ”

(L’ASIE FRANCAISE ET SES ECRIVAINS)

CỦA TÁC GIẢ RAPHAEL BARQUISSAU

Đây là cuốn quý thư thứ ba mà tôi tậu được từ tủ sách của cụ Thới. Vừa trông thấy cuốn sách tôi cảm thấy sung sướng quá, vì đây chính là vấn đề mà tôi muốn hiểu biết cho thật rõ. Lý do đơn giản là tôi rất thích đọc các tác giả Đông Dương, mà không bao giờ tìm thấy họ trong các Tự Điển Văn Học của Pháp ngày nay. Khi mình đang yêu thích một đề tài gì, mà tự nhiên thấy ngay trước mắt cả một kho tàng, thì hỏi làm sao mà tôi không sung sướng cho được! Hơn nữa vì cuốn sách lại bằng tiếng Pha Lang Sa nên giá cả nó rất hợp lý, hợp tình, chỉ có 300 đô mít.

Cuốn sách khổ 18x24 phân, dày 246 trang, được in năm 1947 (67 năm trước) và được chia làm 12 chương cộng với 27 trang về Thư Tịch Đông Dương. Đặc biệt nhất là mỗi chương lại gồm một số những bài viết ngắn gọn của các tác giả được nói tới, rút trong các tác phẩm của họ đã được in. Ôi! thực là tuyệt vời, và tôi xin giới thiệu dưới đây một số bài của từng chương một để chia sẻ với tất cả mọi người đồng sở thích với tôi… ở khắp mọi nơi, chứ không phải chi riêng trong CLB này.

- Chương I.- Từ trang 7-33 mang tựa đề là “Một Chút Lịch Sử” và gồm những bài viết dưới đây: Báo cáo của Giám Mục Pigneau de Béhaine trình lên Hoàng Đế Pháp – Ý kiến của Pierre Poivre về việc đặt một cơ sở làm ăn ở Nam Kỳ – Điếu văn dành cho Giám Mục Adran do Nguyễn Ánh viết – Lời tuyên bố của Francis Garnier với dân chúng Bắc Kỳ – Cái chết của Henri Rivière do Phó Đề Đốc de Marolles viết vv…

- Chương II.- Từ trang 34-50 mang tựa đề là: “Các xứ sở nói tiếng Annam” và gồm những bài viết đáng chú ý dưới đây: Xứ Nam Kỳ (Cochinchine) – Khí hậu và đất đai ở Nam Kỳ do Paul Doumer viết – Sài Gòn năm 1859 do Léopold Pallu viết – Sài Gòn năm 1927 do Maurice Hepp viết – Hội Nghiên Cứu Đông Dương do R. Barquissau viết vv…

- Chương III.- Từ trang 51-58 mang tựa đề là: Trung Kỳ (Annam) gồm các bài đáng chú ý dưới đây: Những suy tưởng ở Huế do Nguyễn Tiến Lãng viết bằng Pháp văn – Các lăng tẩm ở Huế do Roland Dorgelès viết – Một thành phố Pháp ở Trung Kỳ: thành phố Đà Lạt, do Francis de Croisset viết.

- Chương IV.- Từ trang 59-67 mang tựa đề là: Bắc Kỳ (Tonkin) gồm những bài đáng chú ý như: Khí hậu xứ Bắc Kỳ do Paul Doumer viết – Những người Bắc Kỳ của ngày xưa và ngày nay do Albert Sarraut viết – Mùa Đông ở Bắc Kỳ do Alfred Droin viết vv…

- Chương V.- Từ trang 68-93 mang tựa đề là: Phong Tục của người Annam và gồm các bài sau đây: Một ngôi làng Annam do Pierre Pasquier viết – Lễ Hội Annam cũng do Pierre Pasquier viết – Một đám cưới Annam do Jean Marquet viết – Lễ Hội Hoa Đăng ở Vịnh Hạ Long do Émile Nolly viết – Ông thầy đồ do G. Seiler viết – Nhà văn do Jean d’Esme viết vv…

- Chương VI.- Từ trang 94-111 mang tựa đề là: Tôn Giáo và Nghệ Thuật gồm các bài đáng lưu ý như: Tục thờ cúng tổ tiên và gia đình người Annam do André Coué viết – Một ngôi chùa do A. de Pouvourville viết – Nghệ thuật Annam do Georges Maspéro viết vv…

- Chương VII.- Từ trang 112-122 mang tựa đề là: Các loại dân cư khác ở Đông Dương: Cao Miên gồm các bài đáng chú ý như: Một ngôi chợ của người Cao Miên do Georges Groslier viết – Ngôi đền Ta Prohm ở Angkor do Henri Marchal viết – Nghệ Thuật Căm Bốt do Georges Maspéro viết vv…

- Chương VIII.- Từ trang 123-133 mang tựa đề là: Lào gồm các bài viết đáng chú ý như : Sông Mékong do Roland Meyer viết – Lễ Hội ban ngày do Jean Ajalbert viết – Lễ Hội ban đêm cũng do Jean Ajalbert viết – Một ngôi làng của người Lào do Ch. Rochet viết vv…

- Chương IX.- Từ trang 134-142 mang tựa đề là: Dân Vị khai gồm các bài đáng lưu ý như sau: Các Bộ lạc Mọi ở phía Nam Trung Kỳ do Marcel Ner viết – Ở Bộ lạc Mèo phía Bắc do Herbert Wild viết vv…

- Chương X.- Từ trang 143-150 mang tựa đề là : Người Trung Hoa gồm các bài như: Người Trung Hoa do Jean Ricquebourg viết – Những người cu li Trung Quốc do Henry Daguerches viết – và Trong một nhà hàng Trung Quốc do Léon Werth viết.

- Chương XI.- Từ trang 151-191 mang tựa đề là: Những người Pháp ở Đông Dương gồm các bài đáng lưu ý như: Quan cai trị do Raphael Barquissau viết – Viện Pasteur ở Đông Dương do hai tác giả Noel Bernard và Morin viết – Con đường của kẻ mạnh do Georges Groslier viết – Người tá điền và đất đai do hai tác giả J.Ponty và J. Cendrieux viết – Làng xóm do Pierre Rey viết vv…

- Chương XII.- Từ trang 192-220 mang tựa đề là: Tương lai phía trước gồm các bài đáng chú ý như: Việc phát triển kỹ nghệ ở Đông Dương do Charles Robequain viết – Tương lai kinh tế của xứ Bắc Kỳ do Pierre Gourou viết – Thấu hiểu người dân bản xứ do Eugène Pujarniscle viết – Ông Đồ già do Phạm Văn Ký viết và một vài bài về thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ.

Sau 12 chương rất phong phú nói trên là phần mà người thích sách như tôi có thể nói là tuyệt vời nhất là phần Thư Tịch Đông Dương thuộc Pháp gồm 26 trang từ trang 221 tới 246 qua đó người đọc có thể thấy được tên trên 200 tác giả Đông Dương và các tác phẩm chính yếu của họ. Thật là tuyệt vời, và người viết đã tự hứa sẽ khai thác đề tài này trong một bài viết khác trong một tương lai thật gần…

Tóm lại đây là một quý thư thật tuyệt, mà vận may đã mang lại cho người viết, vì nó chứa đựng những thông tin và tài liệu quý giá, mà nếu không có thiên duyên với sách thì khó mà có được.

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN


***

MỘT THOÁNG ĐẠO TRỜI

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT

 

(Tiếp theo)

PHẦN II: XIN HAY CẦU XIN
HOẶC CẦU NGUYỆN

(Việc làm thường xuyên của đạo Công giáo)

1. H. Cầu nguyện là gì?

T. Cầu nguyện là hầu chuyện Chúa, là tiếp xúc thân mật với Người Cha toàn năng yêu thương chăm sóc mình.

2. H. Cầu nguyện để làm gì?

T. Cầu nguyện để ca tụng ngợi khen Chúa; để cảm tạ ân huệ Chúa ban; để nói lên lòng sám hối lỗi lầm của mình; để xin trợ giúp những nhu cầu phần hồn phần xác.

3. H. Cầu nguyện bằng cách nào?

T. Có nhiều cách: Nhớ tới Chúa; thể hiện bằng tâm trí hay cử chỉ hoặc bằng lời:

- Lòng tin Chúa

- Niềm hy vọng nơi Chúa

- Sự phó thác cho Chúa

- Lòng yêu mến thiết tha

- Niềm tri ân sâu sắc

- Lời kêu cầu giúp đỡ, trợ lực xác hồn.

4. H. Cầu nguyện có cần không?

T. Rất cần, vì không có Chúa giúp không ai có thể sống và giữ đạo được: “Không có Thầy anh em không làm gì được” (Ga 15,5).

5. H. Cầu nguyện khi nào?

T. Phải cầu nguyện luôn, nhất là những khi hồn xác gặp nguy hiểm: “Các con hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ chán” (Lc 18,1).

6. H. Cầu nguyện được gì?

T. Chắc chắn được sự trợ lực (ân huệ) của Chúa cách này cách khác. Chính Chúa hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ, cửa sẽ mở cho” (Mt 7,7). Dĩ nhiên điều xin, người xin, cách xin phải tốt.

7. H. Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện thế nào?

T. Chúa Giêsu nêu gương cầu nguyện luôn và dạy ta cầu nguyện như sau: “Lạy Cha chúng con ở trên Trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ - Amen”.

(Lưu ý: Nợ có nghĩa là lỗi phạm)

8. H. Giáo hội dạy ta cầu nguyện như thế nào?

T. Giáo hội cũng sáng tác nhiều kinh khác giúp ta cầu nguyện, tùy hoàn cảnh (sách Kinh Toàn Niên).

PHẦN III: GIỮ

9. H. Đạo Công giáo giữ những điều luật nào?

T. Đạo Công giáo giữ Lời Chúa trong Thánh Kinh và Thánh Truyền. Cụ thể là:

- 8 mối phúc – Hiến chương Nước Trời

- 10 điều răn của Cựu Ước

- 5 điều răn của Hội Thánh

- 14 mối thương người

- 7 nhân đức đối lập với 7 mối tội đầu.

Tất cả những điều trên tóm lại trong hai điều: Mến Chúa và yêu người:

Mến Chúa chủ yếu là làm theo ý Chúa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

Yêu người chủ yếu là thi hành nguyên tắc: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì hãy làm cho người ta như vậy. Luật Môsê và lời các tiên tri là thế đó” (Mt 7,12).

PHẦN IV: NHẬN

1. H. Người Công giáo cần và có thể nhận được gì nhờ giữ Đạo?

T. Lãnh nhận ân huệ tức là tình thương, sức mạnh, sự phù trợ của Chúa Ba Ngôi.

2. H. Đâu là nền tảng niềm hy vọng nhận được ân huệ của Chúa?

T. Đó chính là Lời Chúa phán: “Đối với Chúa không gì là không có thể làm được” (Lc 1,37), và “Không có Thầy các con không thể làm gì được” (Ga 15,5).

3. H. Làm thế nào để lãnh được các ân huệ của Chúa?

T. Một là cầu nguyện, hai là làm việc lành phúc đức, ba là lãnh nhận các Bí tích (7 Bí tích Chúa Giêsu lập là 7 nguồn ân sủng tuôn trào).

PHẦN V:
VIỆC THỜ PHƯỢNG CHÚA

H. Lễ nghi thờ phượng Chúa của đạo Công giáo thế nào?

T. Lễ nghi thờ phượng trong Giáo hội như sau:

a. Cầu nguyện gồm cầu nguyện riêng (cá nhân) và chung (một gia đình, một nhóm người hay cả một cộng đoàn lớn – Thí dụ như Đại hội Giới Trẻ Thế giới ở Rio De Janeiro, Brazil, ba triệu người cùng đọc kinh, ca hát…). Trong phần cầu nguyện thì hình thức cao nhất là đọc hay hát kinh Phụng vụ là những bản kinh chính thức của cả Hội Thánh.

b. Tham dự việc cử hành các Bí tích là những dấu hiệu đặc biệt do chính Chúa Giêsu thiết lập và truyền cho Giáo hội liên tục cử hành cho đến tận thế. Có 7 Bí tích: Bí tích Rửa tội, Bí tích Thêm sức, Bí tích Thánh Thể, Bí tích Giải tội, Bí tích Xức dầu Bệnh nhân, Bí tích Truyền Chức Thánh và Bí tích Hôn phối – Trong 7 Bí tích thì Bí tích Thánh Thể là trung tâm và cao trọng nhất, được thể hiện qua Thánh lễ Chúa nhật và hàng ngày (trung bình mỗi giây có 5 Thánh lễ bắt đầu cử hành trên toàn thế giới). Cần lưu ý: Lễ Chúa nhật thì buộc mọi tín hữu có thể được phải đi dự, còn Lễ ngày thường thì không bó buộc – Nhà thờ, Nhà nguyện là những nơi dành riêng cho việc cử hành Thánh lễ và các Bí tích khác (trường hợp đặc biệt mới cử hành ngoài Nhà thờ).

PHẦN VI: TỔ CHỨC CỦA
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

1. H. Giáo hội Công giáo được tổ chức thế nào?

T. Hội Thánh Công giáo gồm Các Thánh trên trời, các linh hồn còn phải thanh luyện ở luyện ngục và những người có niềm tin ở trần gian. Về mặt trần thế, Giáo hội Công giáo là một cộng đoàn Đức Tin, là Dân Thiên Chúa gồm những con người thuộc mọi quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới nên phải có tổ chức gọi là Phẩm trật của Hội Thánh, lấy bộ Giáo luật làm cơ sở hiến định để điều hành mọi sinh hoạt.

- Đứng đầu là Đức Giáo hoàng, vị đầu tiên là Thánh Phêrô do chính Chúa Giêsu chọn và đặt: “Phêrô con là Đá, trên đá này Thầy xây Hội Thánh của Thầy, quyền lực Satan không thể thắng nổi…” (Mt 16,18). Những vị kế tiếp Thánh Phêrô thì được các lãnh đạo cao cấp trong Giáo hội bầu chọn. Vị đương kim là Đức Giáo hoàng Phanxicô là vị thứ 266.

- Sau Đức Giáo hoàng là các Giám mục, đó là những người kế vị các Thánh Tông đồ do Giáo hoàng chọn và tấn phong.

- Từ năm 1159 có chức Hồng Y do Đức Giáo hoàng Eugenio III thiết lập. Đây không phải chức Thánh mà chỉ là một tước hiệu danh dự với đặc quyền được làm đại cử tri bầu Giáo hoàng và được mặc y phục màu đỏ.

- Các Giám mục được trợ giúp bởi hàng Linh mục là những tu sĩ được các Giám mục tuyển chọn và phong chức.

- Các Phó tế là cấp bậc chót trong hàng giáo sĩ của GHCG. Phó tế có hai ngành, một là các Phó tế chuẩn bị lên chức Linh mục, những vị này độc thân. Hai là hàng Phó tế vĩnh viễn có gia đình nhưng có khả năng và thời giờ để vừa lo gia đình vừa giúp việc Hội Thánh, họ không lên chức LM (trừ những trường hợp đặc biệt).

- Bên cạnh hàng giáo sĩ còn có hàng tu sĩ, đó là những tín hữu nam nữ có lời khấn trong sạch, khó nghèo và vâng phục trong rất nhiều Dòng tu, mỗi Dòng có mục đích riêng và có hoạt động riêng. Thí dụ Dòng Lasan chuyên lo giáo dục, Dòng Chúa Chiên Lành chuyên lo cho những thiếu nữ lỡ lầm, Dòng Thừa Sai Bác Ái chuyên lo cho những người nghèo, vô gia cư, bệnh tật, phong cùi, những người lâm chung…

- Các Dòng nam cũng có Linh mục và nếu Hội Thánh cần họ có thể làm Giám mục và những chức vị cao hơn nữa – thí dụ Đức Giáo hoàng Phanxicô là thành viên của Dòng Tên.

2. H. Về phương diện hành chánh, tức là việc điều hành trong Giáo hội thì tổ chức như thế nào?

T. Về mặt này Giáo hội chia hai cấp: Trung ương và Địa phương.

3. H. Giáo quyền Trung ương được tổ chức thế nào?

T. Trung ương của GHCG đặt tại Vatican, một quốc gia độc lập nhỏ nhất thế giới với diện tích chỉ có 44 mẫu tây ở trong lòng thành phố Roma, thủ đô nước Ý, dân số hơn 800 người, đa số là nhân viên các văn phòng, nhưng có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới.

4. H. Tại sao Trung ương Giáo hội Công giáo lại là Roma mà không phải Giêrusalem, quê hương của vị lập đạo là Đức Giêsu?

T. Vì Roma là nơi Thánh Phêrô, vị Giáo hoàng thứ nhất đã tới giảng đạo và đã chết vì đạo tại đây vào khoảng năm 64-67, xác ngài được chôn trong lòng Đền thờ Thánh Phêrô hiện nay.

5. H. Cơ quan Trung ương Giáo hội được điều hành thế nào?

T. Giáo triều La Mã được Giáo hoàng ủy quyền để điều hành mọi việc. Giáo triều gồm Quốc Vụ Khanh, 9 Thánh bộ, 3 Tòa án, 11 Hội đồng và 3 Văn phòng hoạt động tương tự cơ chế lập pháp, hành pháp và tư pháp.

6. H. Về kinh tế và quốc phòng thì thế nào?

T. Về kinh tế, Vatican sử dụng đồng Euro với hệ thống tài chánh riêng. Thu nhập chủ yếu nhờ du lịch và phát hành tem. Còn về quốc phòng thì do nước Ý đảm nhiệm.

7. H. Vatican có gì nổi bật?

T. Có 3 điểm nổi bật: Một là kiến trúc hùng vĩ, nhất là Đền thờ Thánh Phêrô, hai là Bảo tàng Vatican, ba là Thư viện Vatican, một trong những bảo tàng và thư viện giá trị nhất thế giới.

(Còn tiếp)

CHÚNG TA HIỂU GÌ

về PHƯƠNG TIỆN

của ĐẠO PHẬT

Tâm Nguyện

Đã từ rất lâu, hầu như tất cả chúng ta đều quen thuộc với hình ảnh những nhà tu hành theo Đạo Phật. Đầu tròn, áo vuông, vàng hay nâu, mà cứ nhìn đến là mọi người đều nghĩ ngay rằng: Đó là những đệ tử của Đức Thích Ca, có nhiệm vụ giữ gìn và phát huy Đạo Phật.

Cũng như tất cả mọi người. Buổi đầu tôi cũng nhìn Đạo Phật qua những hình ảnh đơn giản như thế. Tôi cho rằng các vị thật dũng cảm, dám hy sinh những thú vui trần tục. Rời bỏ gia đình, cha mẹ, vợ, con, quyến thuộc. Bỏ hết tài sản, tiền bạc, công ăn, việc làm để có thể cống hiến toàn bộ cuộc đời cho Đạo Pháp. Tôi cũng cho rằng một khi dứt bỏ đời, bước vào Chùa là đã “Thoát Tục”, “Thoát phàm”. Không khác mọi người, tôi cũng chia hai ranh giới: Ở trong chùa là người tu. Ngoài đời là phàm phu tục tử, nên bao giờ cũng nhìn các vị từ xa với một sự kính ngưỡng, vì thấy rằng bản thân mình khó thể làm được như các vị.

Thế nhưng nhận định đó đã thay đổi, bắt đầu từ lần đầu tiên tôi được cầm trên tay quyển Kinh DUY MA CẬT. Một Chân trời mới dần hé lộ kể từ đó, vì nhiều lời hỏi, đáp trong Kinh đưa cái hiểu Đạo Phật của tôi từ mơ hồ, trở về thực tế của cuộc sống, không còn là những gì xa xôi huyền hoặc, người phàm không thể hiểu tới.

Thay vì trước kia tôi nhắm mắt Tin vào những gì đã được truyền từ bao thế hệ, coi như bất di bất dịch, thì tôi bắt đầu thắc mắc, thấy mình có nhu cầu tìm hiểu rồi bắt đầu tự đặt những câu hỏi. Thời gian Thầy tôi còn sống, thì tôi trực tiếp nhờ giải đáp. Khi ông qua đời rồi, thì tôi tìm câu trả lời trong các Bộ Chính Kinh, để thấy, hóa ra bấy lâu nay do không chịu tìm hiểu, cũng không nghe ai nói cho biết, nên hầu hết Phật tử - kể cả rất nhiều vị Xuất gia tu hành đã lâu - hoàn toàn bị ảnh hưởng của Văn Tự, tức là chỉ dựa vào NGỮ, không hề biết rằng ngoài NGỮ còn có NGHĨA, mà Phật đã cẩn thận dặn dò trong Phẩm TỨ Y của Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN. Đó là:

Y Pháp bất Y Nhân

Y Trí, bất y Thức

Y Nghĩa, bất Y Ngữ

Y Kinh liễu nghĩa, bất y Kinh vị liễu Nghĩa.

Chỉ cần tìm hiểu nghĩa của Tứ Y này thôi, là có biết bao nhiêu vấn đề cần phải đặt ra: Thí dụ thế nào là PHÁP? Thế nào là NHÂN? TRÍ là gì? THỨC là gì? Thế nào là Ngữ? Thế nào là Nghĩa? Kinh Liễu Nghĩa là Kinh nào? Nếu chưa minh định cho những điều đó thì người muốn tu hành sẽ hành trì như thế nào? Sẽ Y bên nào? Kết quả sẽ về đâu?

Nếu trước đây tôi tin rằng địa vị của Chư Phật là độc tôn, là những vị Thần Linh để cho con người thờ phụng, cầu xin, thì qua Phật Ngôn: “Ta là Phật đã thành. Tất cả Chúng Sinh là Phật sẽ thành” làm cho tôi thắc mắc. Nếu Phật là địa vị tối thượng. Ngoài các Ngài, những phàm phu không bao giờ hiểu nổi, đạt tới, tại sao Ngài bảo: “Tất cả chúng sinh đều là Phật sẽ thành”? Vậy thì cái nghĩa PHẬT đó ắt hẳn nếu ai hiểu, và nắm được cách thức đều có thể tự thành tựu cho mình. Rồi thì “Thành Phật” có phải là thành một vị “Có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, có thể cứu độ cho Tam thiên Đại Thiên Thế Giới”? 32 Tướng Tốt đó ở đâu ra? Hoặc làm thế nào để có? Bởi rõ ràng Đức Thích Ca được cha mẹ sinh ra như tất cả chúng ta. Thậm chí Ngài cũng có vợ, có con, chứng tỏ trước khi tu hành, thành Phật, Ngài cũng là một người đàn ông bình thường như tất cả những người đàn ông khác. Không có gì là siêu phàm, xuất chúng. Vậy thì:

l/- Ngài đã làm gì để gọi là “Đắc Đạo” để sau đó thì Thành Phật?

Theo lịch sử Đạo Phật còn ghi lại thì Ngài đã Ngồi Thiền 49 ngày đêm. Và “Đạo” mà Ngài “Đắc” đươc là “CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT KHỎI SINH LÃO BỆNH TỬ” hay còn gọi là THOÁT SINH TỬ LUÂN HỒI.

Ở đây lại có một câu hỏi được đặt ra: Nếu Đạo mà Đức Thích Ca Đắc, có khả năng làm cho người “Đắc” Thoát SINH LÃO BỆNH TỬ, tại sao trong Kinh ghi nhiều lần Đức Thích Ca bị bệnh, Ngài Anan phải mang bình đi xin sữa. Cuối đời Ngài cũng chết vì ngộ độc thực phẩm do Thuần Đà cúng dường? Như vậy, Ngài cũng Sinh, cũng Lão, cũng Bệnh, cũng Tử, cũng Trà Tỳ, sao nói rằng Ngài Thoát SINH TỬ?

2/- Nếu Thành Phật là có thể “Cứu Độ Tam Thiên Đại Thiên Thế giới” Thì cái Tam Thiên Đại Thiên thế Giới đó ở đâu? Kinh viết: Muốn Thành Phật thì phải “Độ Thoát tất cả Chúng Sinh”. Phật đã Thành Phật từ mấy ngàn năm rồi, có nghĩa là “Cứu Độ” xong tất cả Chúng Sinh. Như thế, nếu chúng ta là Chúng Sinh của Ngài thì lẽ ra đã được đưa về Niết Bàn, đâu còn KHỔ nữa? Nhưng hiện nay mọi người vẫn sống tại cảnh trần này, hàng ngày vẫn phải đối mặt với vô vàn nỗi khổ. Chưa hết, lại thêm chiến tranh, tai ách triền miên… Vậy rõ ràng Phật đâu có “Độ” cho ta? Kể cả nước Ấn Độ, là quê hương của Ngài mà Ngài có “Độ” được đâu? Vì ai cũng biết, giờ này vẫn tiếp tục đói nghèo, tệ nạn tràn lan. Như vậy thì cái Tam Thiên Đại Thiên mà Phật đã “Độ” đó, chắc chắn không phải là vũ trụ mà chúng ta đang ở. Nhưng thật ra Cõi đó ở đâu? Phật đã Độ Thoát Cõi đó như thế nào?

Tôi tin rằng, nếu ai chưa tự giải thích được những câu hỏi này thì người đó đã bước vào Đạo Phật một cách mơ hồ. Như vậy thì dù có tu đến bao nhiêu kiếp cũng sẽ chẳng đi đến đâu, nếu không nói là đã trở thành người Mê Tín. Vì Tin trong mê mờ, Tin mà không hiểu để trở thành người phỉ báng Đạo mà không hề hay biết!

Thật vậy. Đạo là Con Đường. Phật là Giải Thoát. Đạo Phật là CON ĐƯỜNG mà AI ĐI TRÊN ĐÓ CŨNG SẼ ĐƯỢC GIẢI THOÁT, TỰ MÌNH ĐỘ LẤY MÌNH NHƯ ĐỨC THÍCH CA VÀ CHƯ VỊ GIÁC NGỘ ĐI TRƯỚC. Như vậy, nếu ta không làm giống như các vị, lại thờ các vị để cầu xin ban ân, giáng phúc, cầu được “Độ” thì rõ ràng là ta đã làm ngược lại mong mỏi của đấng sáng lập Đạo rồi. Ngay cả tư tưởng quỳ lụy, cầu xin đã chứng tỏ không tin vào Nhân Quả thì còn làm sao xưng là Đệ Tử của Phật?

Chúng ta nên biết, Đạo Phật còn có một tên gọi khác nữa là Đạo Nhân Quả, vì theo Đức Thích Ca, chính NHÂN QUẢ quyết định cho điều tốt, xấu cho mọi người, không phải do đấng bề trên nào sắp đặt cho. Làm Tốt, sống tốt thì đương nhiên sẽ có kết quả tốt. Làm xấu, gây tội, gây Nghiệp thì phải Trả. Không có ai miễn giảm trao đổi cho. Đó là một thứ Luật chí công, vô tư nhất. Không do ai cầm cân, nẩy mực. Chỉ cần TIN NHÂN QUẢ, mọi người sẽ không dám hành động tùy tiện, vì biết rằng cuối cùng nó sẽ trả lại cho mình cả vốn, lẫn lời, không có thần linh, Thượng Đế nào có quyền đổi xấu lấy tốt cho ta.

Người đời vốn tin vào thế lực, tiền bạc, cho rằng “Thứ gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền”. Với Nhân Quả thì dứt khoát không thể. Vì nó như một cái boomerang. Ném đi chốc sau nó sẽ quay lại. Với Nhân Quả thì ném thứ gì đi thì thứ đó sẽ trả về. Chỉ có sớm hay muộn, kiếp này hoặc kiếp khác, không thể trốn tránh được. Đó mới là điều đáng sợ cho những ai nghĩ rằng việc mình làm chỉ có mình hay, chỉ cần né được Luật Pháp đời là ổn!

Một điều khác nữa, theo tôi, nếu thật sự ta mến mộ Đạo Phật, muốn tu hành theo đó thì quan trọng hơn hết là cần phải tìm hiểu xem Thành Phật để làm gì? Được lợi ích gì? Thành Phật phải làm gì? Nếu không phải là những người định vô Chùa để nương tựa, để khỏi phải vất vả mưu sinh, còn được ăn trên, ngồi trước, thì phải xét xem việc tu hành có lợi ích gì hay không? Nếu không, thì tu hành gian khổ, bỏ tất cả mọi thứ để làm chi? Muốn phụng sự cho Phật thì liệu Phật có cần ta phụng sự chăng? Phải phụng sự như thế nào? Muốn Tu thì phải Tu như thế nào mới đúng? Nếu không biết phải Tu như thế nào thì ta sẽ làm gì? Chẳng lẽ loanh quanh thắp hương, nhiễu Tháp, tụng Kinh, Niệm Phật, cầu An, Cầu siêu? Phật có hứa ai cầu xin thì sẽ “độ” cho hay không? Bởi đừng nghĩ rằng bỏ đời, vô Chùa là đã được phước. Hột cơm của bá tánh cúng cho người tu để làm việc Phật, mà ta lợi dụng e rằng không phải dễ trả. Chưa nói đến những người “điếc không sợ súng”, vô Chùa rồi dùng tiền bá tánh cúng dường để xây nhà riêng, để cho bà con, giòng họ, để hưởng thụ cho cá nhân, mà ta thấy không riêng nước ta, Thái Lan, Đài Loan, Hàn Quốc cũng có những vị nổi bật. Xài tiền “Chùa” còn sang hơn đại gia! Dùng tiền Chùa để sắm hàng hiệu, ăn nhậu, cờ bạc, bao gái! Đó là những vị tu Thật mà Giả. Thật là vì họ là chức sắc trong Chùa hẳn hoi. Giả là vì cuộc sống của họ không thể hiện chút gì là của người tu với hạnh “ít muốn, biết đủ”, vì chê danh lợi thế gian mà vô Chùa để tu hạnh thanh tịnh! Tôi tin rằng nếu có đọc Kinh VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN để thấy cái Quả của người lợi dụng sự cúng dường của bá tánh phải trả hẳn sẽ không dám ung dung tiếp tục ăn tiêu phè phỡn bằng tiền Chùa như thế.

Để có được sự hiểu biết tương đối đúng đắn về Đạo Phật, tôi phải mất bao nhiêu năm dài loay hoay với hàng trăm câu hỏi và đã phải bỏ ra gần như toàn bộ thời gian trong khá nhiều năm để đi tìm cho ra câu trả lời cho chính mình. Cũng không hiểu vì sao mà tôi có thể đọc Kinh một cách say mê, miệt mài. Ngủ thì thôi. Thức là ôm lấy bộ Kinh nào đó để đọc. Nửa khuya thức dậy cũng đọc. Nấu nướng xong lại đọc… Càng đọc, càng thấy mình sáng ra, hiểu thêm được nhiều điều. Tôi cứ đọc xong Quyển này lại sang Quyển khác, rồi vòng trở lại. Cứ mỗi bận lại thấy thêm một số điều để đi từ ngỡ ngàng này sang ngỡ ngàng khác. Hóa ra Đức Thích Ca sau khi công bố mục đích Đạo của Ngài tìm ra thì Ngài đã vận dụng rất nhiều Phương Tiện, để người tin theo dễ dàng bị thu nhiếp rồi dần dà sẽ dắt đến mục tiêu.

Qua kinh nghiệm đọc và tập thực hành theo những gì được hướng dẫn trong Kinh, tôi thấy có một điều mà những nhà nghiên cứu Đạo Phật hay vấp phải, là Đạo Phật không đơn thuần là một lý thuyết mà mọi người đều có thể đứng ngoài mà nghiên cứu, tìm hiểu. Trái lại, đó là một giáo trình, đòi hỏi thực hành. Như từng bậc thang, nếu không bước nấc trước, thì không thể đến bước kế tiếp. Người muốn hiểu Đạo Phật cho rõ phải là người trực tiếp hành trì để từng bước cảm nhận, chứng nghiệm những gì Phật đã dạy. Kinh Đại Bát Niết Bàn viết: “Như người dù nghe tên đầy đủ của các vị thuốc, nhưng nếu không trực tiếp uống, thì không thể khỏi bệnh được”. Hay Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Nói ăn thì không thể no”.

Nhưng thế nào là thực hành theo Đạo Phật? Có khó lắm không?

Theo tôi thì không cần trẻ, già, giới tính. Học nhiều hay học ít, thuộc giai cấp bần cùng hay cao sang. Chỉ cần có chút Nhân Thừa thì không có gì là khó. Bởi chỉ cần chấp hành 5 Giới đơn giản:

l/- Không Sát Sinh.

Đạo Phật dạy Phật Tử nên có đức Hiếu Sinh, bởi vì sinh vật tuy thấp kém hơn ta, nhưng cũng là loài Biết Sống. Chúng cũng biết quý mạng sống và yêu thương nhau. Cũng có đôi, có cặp, tức là cũng có vợ chồng, con cái. Dù là loài nào, thì Bố, Mẹ cũng yêu thương con. Phải chia lìa thì rất đau khổ. Giả sử chúng ta không ăn chay được thì nhiều nơi làm sẵn thịt, cá để bán. Chúng ta có thể mua lấy mà ăn, thì cũng chia một phần Nghiệp, nhưng không trực tiếp Giết để có miếng ăn tươi, ngon cho mình thì cũng nhẹ tội rồi. Không nên chấp Chay, Mặn, mà chỉ nên tránh Nghiệp Sát là cũng tốt rồi. Vì Đạo Phật cần người tu có Trí Huệ. Không buộc phải Ăn như thế nào. Dần dà tự mỗi người sẽ hiểu mà không Gây Nhân để khỏi lãnh Quả mà thôi.

2/- Không trộm, cắp .

Tức là không lấy bất cứ thứ gì không thuộc về mình mà không được phép của chủ nhân. Phải chăng bản thân ta có thứ gì đó thì cũng biết sợ mất, sao lại tranh giành trái phép với người khác? Đó là luật công bình, người hiểu biết đều giữ dễ dàng.

3/- Giới Dâm.

Dâm nghĩa chung là “ham muốn không biết đủ”. Một nghĩa khác nữa là nói về sắc dục. Điều này không có nghĩa là cấm tất cả người tu hành không được dính tới sắc dục. Giới này dành riêng cho Tu Sĩ Xuất Gia. Vì với người Xuất Gia, thì Sắc dục không được dính tới. Đạo cũng như đời đều đánh giá như thế. Riêng người Cư Sĩ thì trong Kinh có người hỏi Phật là khi chưa lập gia đình thì không dính tới nữ nhân. Nhưng sau khi lập gia đình rồi thì với vợ mình có bị Phá Giới không? Phật đáp: Không. Vì đó là vợ mình. Điều đó ta thấy: Những gì xã hội cho phép thì Đạo cũng không ngăn cấm. Hơn nữa, Đạo Phật không đòi hỏi người Cư Sĩ phải kiêng sắc dục, vì kiêng hay không cũng không có ích lợi gì cho Đạo. Không thể nhờ đó mà sinh Trí Huệ được.

4/- Giới Vọng Ngữ.

Là một người bình thường có chút nhân cách thì không ai “chuyện có nói không, không nói có” bao giờ, huống chi đã bước vào con đường tu hành. Nhưng cũng có một số người tu hành vẫn bị mắc phải, vì hiểu lầm lời dạy trong kinh LĂNG NGHIÊM: “Mình chưa được độ mà phát tâm độ người đó là Tâm Bồ Tát”! Ta nghĩ sao khi bản thân chưa biết rõ, chưa nắm vững về Đạo. Chưa biết Tu thế nào cho đúng. Bản thân mình còn chưa học hết Giáo Pháp. Chưa biết nghĩa của Bồ Tát mà đòi làm Hạnh Bồ Tát, mà mở ra dạy đạo, hướng dẫn cho người khác? Như vậy, rõ ràng là “Chồng Mê cho người”, lợi bật cập hại. Cái nguy hiểm là người đã nghe, đã tin rồi thì tương lai có ai nói khác họ sẽ không chấp nhận được mà Kinh cũng có viết là: “Phàm phu còn có tâm quay về, mà Thinh Văn thì không”. Vì họ thấy mình tu đã lâu, đã nghe Pháp nhiều năm!

Cũng có một số trường hợp vọng ngữ mà không bị Phạm Giới. Đó là trường hợp Bác sĩ nói dối để không cho bệnh nhân biết sự thật về bệnh trạng của họ. Hoặc có người đuổi giết nhau mà ta chỉ hướng khác.

Kinh dạy: Có những sự lý đáng dấu mà không nói sự thật cũng không phải là phá Giới. Chẳng lẽ cướp vô nhà hỏi tiền để đâu mà ta sợ Phạm Giới nên phải chỉ cho chúng lấy? Như thế là… thiếu I-ốt chớ đâu phải do sợ Phạm Giới. Lục Tổ ngày trước cũng phải dấu Y Bát đi chớ đâu có thật thà đưa cho bọn đi tranh cướp? Nếu Ngài đưa cho bọn họ thì Đạo Phật ngày nay sẽ ra sao? Do đó, ý thức đúng về Giới thì ta sẽ thấy không có gì trái với người đời. Người đời đánh giá thế nào là sai, đúng thì Đạo cũng không khác.

5/- Giới Tửu.

Để ngăn ngừa say sưa làm mất lý trí chớ không phải không được động đến Rượu. Trong kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên có kể việc Thái Tử uống rượu vui vẻ chung với các nước chư hầu. Nhờ đó mà các bên trở thành bằng hữu, không gây hấn với nhau. Mạt Lợi Phu Nhân uống rượu với vua để cho vua vui mà quên đã ra lệnh giết vị quan trù giám. Nhờ đó bà mới lén vua tha cho viên trù giám khỏi chết. Phật dạy: “Phá Giới như thế chẳng những không có tội mà còn có lợi ích”. Riêng người Xuất Gia thì Giới Tửu phải giữ tuyệt đối, vì ta nghĩ sao mà người mặc pháp phục lại uống rượu? Hình ảnh đó làm mất trang nghiêm của người tu.

(còn tiếp)

TỪ LÁY VÀ NHÂN VẬT

Phạm Đan Quế

(Tiếp theo)

II. TỪ LÁY VÀ NGÔN NGỮ NHÂN VẬT.

Là một phương tiện nghệ thuật thành công đặc sắc trong Truyện Kiều, ngôn ngữ nhân vật đã tham gia hữu hiệu vào việc thể hiện sự phát triển của các sự kiện và các tình tiết của câu chuyện. Đồng thời ngôn ngữ ấy cũng là nhân tố quan trọng nhằm tạo nên những tính cách nhân vật đa dạng và điển hình. So với văn học thời Trung đại nói chung cũng như các truyện Nôm, ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều có một đặc điểm nổi bật là sự cá tính hóa cao độ nên mỗi nhân vật đều có một lối nói riêng, một vốn từ riêng không hề lẫn lộn. Cũng như trong ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ thiên nhiên, từ láy đã góp một phần không nhỏ để thể hiện nội dung tư duy cảm xúc của các nhân vật thông qua ngôn ngữ của họ.

Trong Truyện Kiều, theo thống kê của chúng tôi, ngôn ngữ nhân vật có trong mấy trăm dòng thơ với từ láy được sử dụng, các từ láy xuất hiện tuy không nhiều so với tỉ lệ chung nhưng rất đa dạng với gần 1/3 từ láy dùng trong tác phẩm.

Trong Truyện Kiều, nhân vật chính nói nhiều nhất, tới 77 lượt lời với 516 dòng thơ và độc thoại 18 lần với 130 dòng thơ tức là ngôn ngữ của Kiều tới 616 câu thơ nên có rất nhiều từ láy. Thứ nhì là Kim Trọng tham gia 7 cuộc thoại với 18 lần nói và 90 câu, chàng cũng độc thoại 6 lần với 24 câu, nghĩa là ngôn ngữ của chàng gồm 114 dòng thơ nên cũng nhiều từ láy. Do khuôn khổ của bài viết, ta chỉ có thể xét những từ láy của hai nhân vật này trong cuộc tình đầu tiên.

1. Trước hết xin xét mấy trường hợp dùng từ láy trong ngôn ngữ của Thúy Kiều.

a. Sau khi được nghe Vương Quan kể lại về cuộc đời tội nghiệp của Đạm Tiên, Kiều đã không thể nén được cảm xúc của mình mà thốt lên những lời than ai oán:

0081. Lòng đâu sẵn mối thương tâm,

Thoắt nghe, Kiều đã đầm đầm châu sa:

0083. – “Đau đớn thay phận đàn bà!

“Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

0085. “Phũ phàng chi bấy hóa công.

“Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha.

Nguyễn Du đã đặt từ láy đau đớn, phũ phàng ở đầu câu để cố ý nhấn mạnh nỗi thương cảm nơi Kiều. Với vị trí mở đầu cho lời thoại, từ láy đau đớn có ý nghĩa như chủ đề của đoạn thơ.

0087. “Sống làm vợ khắp người ta,

“Hại thay thác xuống làm ma không chồng!

0089. “Nào người phượng chạ loan chung,

“Nào người tiếc lục tham hồng là ai?

Về mặt từ ngữ, đáng chú ý là từ láy chung chạ được tách đôi trong thành ngữ phượng chạ loan chung. Trong câu này có hai từ phượng loanchung chạ, gợi lên sự lang chạ, chung đụng xác thịt giữa nam và nữ, như oán trách sự bạc bẽo vô tình của những người tình cũ, lúc Đạm Tiên sống thì ve vãn nịnh bợ, nhưng rồi họ lãng quên ngay sau khi nàng chết. Khi dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện cho rằng:

“Từ chung chạ mới là chủ ý của câu thơ còn phượng loan chỉ là một kiểu nói mà thôi. Khi đọc câu thơ ấ y không một người Việt Nam nào liên tưởng đến loài chim huyền thoại, cứ mỗi ban mai lại tái sinh từ đống tro hỏa thiêu của thân xác mình. Chúng tôi gạt bỏ con chim phượng để chọn lối diễn đạt ít đông phương tính hơn nhiều: Giờ đây họ ở đâu rồi, những ai ngày xưa đã cùng nàng chung cuộc truy hoan? ”.

Và vì vậy hai câu thơ này được dịch thành:

Où sont maintenant ceux qui partageaient ses voluptés

Et ceux qui couraient après ses atours?

+ Ta hãy đọc tiếp lời Thúy Kiều:

0091. “Đã không kẻ đoái người hoài,

“Sẵn đây ta thắp một vài nén hương.

0093. “Gọi là gặp gỡ giữa đường,

“Họa là người dưới suối vàng biết cho?”

Cả đoạn lời thoại có 12 câu mà tới 7 từ láy trong đó có hai từ láy được tách ra sử dụng trong phượng chạ loan chung và kẻ đoái người hoài. Lời thơ vang lên như một lời xót xa ai oán, chất chứa nỗi phẫn nộ trước sự tàn nhẫn của Hóa công và sự lãnh đạm của người đời. Cảm xúc thơ ở đây dồn dập, mạnh mẽ, cảm xúc của một con người vốn có nhiều suy ngẫm về thân phận người phụ nữ đã dồn nén lâu ngày. Nguyễn Du đã diễn tả cảm xúc đó bằng cách sử dụng chủ yếu câu cảm thán và câu hỏi tu từ.

Ba thành ngữ phượng chạ loan chung, tiếc lục tham hồng kẻ đoái người hoài xuất hiện liền trong ba dòng thơ như điệp nhau, tạo nên một âm hưởng thơ mạnh, đanh và đoạn thơ xoáy vào người đọc như một câu hỏi lớn cũng như tạo cho đoạn thơ một ngữ điệu riêng. Đó là ngữ điệu cảm thán mà từ láy đã góp phần tạo nên.

b. Ngôn ngữ nhân vật còn in đậm sự suy nghĩ, nhận thức đánh giá của mỗi cá nhân qua những từ láy được Nguyễn Du sử dụng, như khi không muốn để Kim Trọng đi quá xa lúc chàng đã ở trạng thái “Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”, Thúy Kiều đã phải lấy lời đoan chính để giúp chàng bình tĩnh lại trong một đoạn dài đến 22 dòng thơ với hàng loạt từ láy:

0513. “Mây mưa đánh đổ đá vàng,

“Quá chiều nên đã chán chường yến anh.

0515. “Trong khi chắp cánh liền cành

“Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.

0517. “Mái Tây để lạnh hương nguyền,

“Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.

0519. “Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,

“Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?...”

c. Khi đã quyết định phải bán mình, lòng Kiều cũng biết bao đau đớn. Công trình mà Kim Trọng theo đuổi để đến được với tình yêu, nay nàng tự trách vì mình khăng khít, gắn bó chặt chẽ quá lại thành ra dở dang:

0697. Phận rầu dầu vậy cũng dầu,

Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời.

0699. Công trình kể biết mấy mươi,

Vì ta khăng khít cho người dở dang.

0701. Thề hoa chưa ráo chén vàng,

Lỗi thề, thôi đã phụ phàng với hoa!…

Những từ láy đã diễn tả đúng với nội tâm của Kiều. Xin chỉ nói về một từ đeo đẳng trong câu thơ trên. Đeo là mắc hay buộc vào thân thể hay vào một vật gì như Giác Duyên đeo bầu quảy níp hay với nghĩa trừu tượng là mang, vướng trong Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Lại có đeo đai là quyến luyến, vấn vương tả thái độ của Sở Khanh trong Trông nàng chàng cũng ra tình đeo đai. Rồi đeo đuổi là đeo lấy mà đuổi theo trong lời Kim Trọng nói để thuyết phục Thúy Kiều Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru? Kim Trọng mất công đeo đuổi nay Kiều nghĩ lại, lại dùng từ đeo đẳng. Đeo đẳng là đeo giữ lấy, mang lấy mãi, không rời ra (Từ điển Truyện Kiều), cũng là theo đuổi mãi không dứt bỏ ra được (Từ điển tiếng Việt). Chả lẽ Nguyễn Du viết từ đeo đẳng ở đây không nghĩ gì đến từ đeo đuổi ở trước hay sao?

d. Rồi đến đoạn Kiều trao duyên cho Thúy Vân với những từ láy cũng nói lên được những suy nghĩ và tâm sự của nàng:

0721. “Hở môi ra cũng thẹn thùng,

“Để lòng thì phụ tấm lòng với ai…

0743. “Trông ra ngọn cỏ lá cây,

“Thấy hiu hiu gió thì hay chị về…

0749. “Bây giờ trâm gãy bình tan,

“Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

0751. “Trăm nghìn gửi lạy tình quân.

“Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

0753. “Phận sao phận bạc như vôi!

“Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng…”

e. Từ láy trong ngôn ngữ Thúy Kiều thì rất nhiều, xin xét thêm một vài đoạn. Những nhận xét của Kiều với mẹ bằng 3 từ láy về hành động của Mã Giám Sinh cho thấy rõ nàng đã bắt đầu nghi ngờ tên lưu manh này:

0883. “Khi về bỏ vắng trong nhà,

“Khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng.

0885. “Khi ăn khi nói lỡ làng,

“Khi thầy khi tớ, xem thường xem khinh…”

f. Đây là những lời tâm sự và cũng là những lo toan, tính toán với Thúc Sinh khi Kiều muốn bảo vệ hạnh phúc của mình với 6 từ láy dùng rất đúng với tình cảnh của nàng:

1335. “Bình Khang nấn ná bấy lâu,

“Yêu hoa, yêu được một màu điểm trang.

1337. “Rồi ra nhạt phấn phai hương,

“Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?

1341. “Bấy lâu khăng khít dải đồng,

“Thêm người, người cũng chia lòng riêng tây.

1345. “Trăm điều ngang ngửa vì tôi,

“Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?

1347. “Như chàng có vững tay co,

“Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.

1357. “Lại càng dơ dáng dại hình,

“Đành thân phận thiếp, ngại danh giá chàng...”

2. Từ láy trong ngôn ngữ của Kim Trọng.

a. Kim Trọng gặp được Kiều nhờ chiếc thoa thì vội tiến tới ngay bằng những lời văn vẻ nhưng rất rõ ràng:

0325. “Xương mai tính đã rũ mòn,

“Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay.

0327. “Tháng tròn như gửi cung mây,

“Trần trần một phận ấp cây đã liều.

0329. “Tiện đây xin một hai điều,

“Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?”

Lần là lượt, lớp, tầng, phen - từ láy lần lần được dùng 4 lần trong Truyện Kiều là lần lượt, hết cái này đến cái khác, hết ngày này sang ngày khác. Còn lần lừa lại là có ý chờ đợi chán nản lâu ngày và hết ngày này sang ngày khác, Kim Trọng đã nói lên được cái ý của mình đến nay mới được gặp. Thực ra còn một từ láy nữa là lần lữa nói lên tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích đã nói đến ở trước trong: 1077. Những là lần lữa nắng mưa…

b. Có khi Kim Trọng dùng 3, 4 từ láy đi liền kết hợp với nhau, liên hội bổ sung các sắc thái ý nghĩa cho nhau và làm tăng sức mạnh của lời nói. Khi Kiều ngần ngừ muốn Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha, lúc đầu Kim Trọng chỉ dùng từ láy mối manh rồi sau đó là 3 từ láy liên tiếp hẹp hòi, đeo đuổi, thiệt thòi trong hai dòng thơ, như để dồn Thúy Kiều vào thế phải bước đầu chấp nhận:

0341. “Chút chi gắn bó một hai,

“Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.

0343. “Khuôn thiêng dầu phụ tấc thành,

“Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.

0345. “Lượng xuân dầu quyết hẹp hòi,

“Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!”

c. Mấy hôm sau, nhân ngày sinh nhật ngoại gia, vừa thấy Kiều, Kim Trọng lại dùng hai từ láy để trách Kiều:

0381. “Trách lòng hờ hững với lòng,

“Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu…”

Nghe Kiều đàn, Kim Trọng nhận xét cũng có hai từ láy:

0491. “Lựa chi những bậc tiêu tao?

“Dột lòng mình, cũng nao nao lòng người”.

d. Trong một số trường hợp, nhân vật Truyện Kiều lại bộc lộ những suy nghĩ tình cảm của mình qua những từ láy như khi phải chia tay Kiều về Liêu Dương hộ tang chú, Kim Trọng đã tâm sự và dặn dò với 5 từ láy trong 8 dòng thơ:

0539. – “Sự đâu chưa kịp đôi hồi,

“Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ.

0541. “Trăng thề còn đó trơ trơ,

“Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.

0543. “Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,

“Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy.

0545. “Gìn vàng giữ ngọc cho hay,

“Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”.

3. Từ láy trong lời thoại của mấy nhân vật khác.

a. Nhân vật trong Truyện Kiều nói ít, nhưng không phải chỉ là lối đối thoại thông thường trong giao tiếp, mà qua lời nói, ta có thể nhận diện được tính cách của nhân vật. Khi Kiều vừa đến Lâm Tri còn đang ngơ ngẩn chưa biết gì, thì đã thấy Tú Bà khấn ngay:

0941. “Cửa hàng buôn bán cho may,

“Đêm đêm Hàn thực, ngày ngày Nguyên tiêu.

0943. “Muôn nghìn người thấy cũng yêu,

“Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai.

0945. “Tin nhạn vẩn, lá thư bài,

“Đưa người cửa trước, rước người cửa sau”.

Lời khấn chỉ có 6 dòng thơ nhưng có tới 1 tiểu đối 3-3 ở câu lục và 3 câu bát đều là tiểu đối 4-4, trong đó có những từ láy ở vị trí đối trong Đêm đêm Hàn thực, ngày ngày Nguyên tiêu, và Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai.

0947. Lạ tai nghe chửa biết đâu,

Xem tình ra, cũng những màu dở dang.

Mụ Tú chắc chẳng có học hành gì, nhưng vì nghề buôn phấn bán hương vốn đã tồn tại lâu đời nên mọi thứ đã đi vào quy củ và vì đã lõi đời trong nghề nên mụ đã thuộc lòng, có lẽ chẳng cần phải suy nghĩ gì.

0963. – “Này này sự đã quả nhiên,

“Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!

0965. “Bảo rằng đi dạo lấy người,

“Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.

0967. “Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,

“Buồn mình, trước đã tần mần thử chơi…”

Đến khi phải dạy nghề cho Thúy Kiều, mụ cũng rất bài bản mà cũng dùng nhiều từ láy, đúng với hứng thú của mụ trong cái nghề này mà còn hay nữa là khác, bởi mụ đã sử dụng chúng nhiều lần rồi:

1209. – “Này con thuộc lấy làm lòng,

“Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.

1211. “Chơi cho liễu chán hoa chê,

“Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.

1213. “Khi khoé hạnh, khi nét ngài,

“Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa...”

b. Hoạn Bà chỉ nói có 7 dòng thơ nhưng đã lộ rõ con người của mụ:

1727. “Bất tình nổi trận mây mưa,

“Diếc rằng: “Những giống bơ thờ quen thân!

1729. “Con này chẳng phải thiện nhân,

“Chẳng phường trốn chúa, thì quân lộn chồng.

1731. “Ra tuồng mèo mả gà đồng,

“Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.

1733. “Đã đem mình bán cửa tao,

“Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!...”

Trong 7 dòng thơ này, mụ đã dùng 3 từ láy bơ thờ, lúng túng, khủng khỉnh rất dân gian, rất độc đáo và chỉ dùng những từ này có một lần. Mà cũng rất hợp với giọng lưỡi của một phu nhân Thiên quan trủng tể, có lẽ trước đây cũng ghê gớm và nanh nọc lắm. Mụ cho Kiều là kẻ thẫn thờ ngơ ngẩn, bất ổn, không sở cứ, loại mèo mả gà đồng ở vào tình trạng lúng túng không biết nói năng hành xử ra sao lại còn khủng khỉnh ra bộ làm cao, tỏ ra không ưa, không vừa ý. Chỉ bằng mấy dòng thơ qua một lần thoại của nhân vật này, Nguyễn Du đã cho ta nhận diện được phu nhân của một bậc lương đống triều đình.

c. Ngay cả Vương Bà nói rất ít nhưng chỉ với 2 câu hỏi Kiều vì sao thao thức cả đêm cũng có tới 2 từ láy:

0225. – “Cớ sao trằn trọc canh khuya,

“Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?

d. Còn hoa tì chỉ nói có một lần cũng có nhiều từ láy:

1995. Hoa rằng: - “Bà đến đã lâu,

“Dón chân đứng núp độ đâu nửa giờ.

1997. “Rành rành kẽ tóc chân tơ,

“Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.

Hoa tì cho rằng sự việc hai người tình tự đã hết sức rõ ràng, không ai không thấy nên đã dùng từ láy rành rành để mô tả lại việc Hoạn Thư đến và biết hết rồi nói tiếp:

1999. “Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,

“Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.

2001. “Ngăn tôi đứng lại một bên,

“Chán tai, rồi mới bước lên trên lầu”.

Nào chuyện Thúc Sinh vật mình lăn lộn vì đau đớn nào Thúy Kiều than thở, thổ lộ nỗi buồn rầu đau khổ của mình đều được Hoạn Thư nghe hết cho thấy cái ghen của Hoạn Thư là cực kỳ thâm hiểm, chỉ qua lời kể của Xuân Hoa. Người hoa tì này chỉ nói có 8 câu nhưng cũng dùng tới 4 từ láy rất chính xác, 2 từ về Hoạn Thư cho thấy cái nham hiểm của mụ, còn 2 từ về Thúc Sinh và Kiều lại càng cụ thể và sinh động: Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.

e. Ngay từ đầu truyện, Kiều đã được giới thiệu là sắc sảo mặn mà, nay trả lời Giác Duyên, nhà sư Tam Hợp lại dùng từ láy sắc sảo để đánh giá về nàng:

2659. “Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,

“Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.

2661. “Lại mang lấy một chữ tình,

“Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.

2663. “Vậy nên những chốn thong dong,

“Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng

Nhưng nhà sư còn cho rằng nàng mang lấy chữ tình và một mực giữ chặt lấy không chịu rời ra, không muốn cho ai đụng đến. Rồi khi đã đi tu, dù thảnh thơi không có gì phải vội vàng mà “ở” thì trong tình trạng như có gì đe doạ hay làm rối loạn, và “ngồi” cũng không được vững trước mọi tác động từ bên ngoài. Ta thấy rõ ràng đây là lời của nhà sư với cách đặt từ láy giữa những từ được chọn lọc dùng trong 2 câu bát có tiểu đối 4-4: “Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng” và “Duyên xưa tròn trặn, phúc sau dồi dào” trong những câu sau:

2687. “Thửa công đức ấy ai bằng.

“Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.

2689. “Khi nên trời cũng chiều người,

“Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau…

2723. “Còn nhiều hưởng thụ về lâu,

“Duyên xưa tròn trặn, phúc sau dồi dào…”

Những tội lỗi kiếp trước đã được rửa sạch hoàn toàn (lâng lâng) và nợ ở kiếp trước cũng đã qua trong trạng thái nhẹ nhõm và dễ chịu. Duyên xưa thì tròn vẹn và đầy đặn mà phúc sau thì phong phú, nhiều đến mức cần bao nhiêu cũng đủ. Ngôn ngữ của nhà sư ở đây được đặc trưng bằng hàng loạt từ láy để tổng kết cuộc đời Kiều: sắc sảo, khư khư, thong dong, yên ổn, vững vàng, lâng lâng, nhẹ nhàng, tròn trặn, dồi dào. Mà mỗi từ láy được dùng rất chính xác lại được đặt trong một văn cảnh phù hợp và đúng với cách đánh giá của nhà sư. Lần này nhà sư nói 16 câu thì trên đây là 12 câu nhận định về Thúy Kiều và tiếp theo là 4 câu dặn Giác Duyên đến sông Tiền Đường để cứu Kiều.

(Còn tiếp)

NGƯỜI BÁN SÁCH RONG Ở NGA

ÔNG GIÀ GUMBOLDT HUYỀN BÍ

Hóa ra là có một thời ở Nga cũng có những người đi bán sách rong, như những chú bé, cô bé các tổ bán báo “xa mẹ” ở ta mấy năm gần đây với hình thức bán sách rong phát triển nhan nhản khắp phố xá Hà Nội. Thoạt đầu các em nhỏ “xa mẹ” chủ yếu chỉ mang báo đi bán lẻ. Dần dần kèm theo báo chí các em nhỏ mang kèm thêm một vài cuốn sách coi bộ có thể để tiêu thụ: lịch vạn sự, truyện cười, truyện tiếu lâm, truyện cổ tích… Rồi các loại sách mang theo của các em nhỏ cứ phong phú thêm mãi. Đến nay nhiều em chủ yếu đã trở thành những “quầy sách lưu động” – mỗi em cắp một bìa hộp các tông xếp đầy mấy lượt sách thành hàng để lộ gáy. Hai ba em cùng đi với nhau dọc hè phố gặp những khách bộ hành đang dừng bước là xán lại đưa sách ra chào mời. Các em len lỏi giữa các dẫy bàn ăn uống trong quán giải khát, quán ăn bình dân. Tùy loại khách các em đon đả giới thiệu: “Thơ tình tuổi đang yêu” nhé!..., “Một trăm bài cúng lễ”, “Tự làm đẹp”, vv…

Ở Nga, vào những năm 70 thế kỷ XIX cũng đã từng có những người bán sách rong như vậy. Người Nga gọi họ là “Những người bán sách cũ” (“bukinixtư” đi chân). Đi chân thì đúng, nhưng không hiểu sao họ lại gọi đấy là “những người bán sách cũ”, bởi những người ấy đem bán đủ các loại sách mới nhất, chỉ có điều những người ấy không có cửa hàng, quầy bán, kiôt ở góc phố.

Phải gọi họ là những “nhà phát hành lưu động” hay những người “bán sách lang thang” mới đúng. Vào thời ấy, ở Peterburg cũng như ở Matxcơva – hai kinh thành cổ kính của nước Nga – ai cũng biết những người bán sách lang thang. Họ rất nổi tiếng. Từ sáng sớm đến tối khuya những người bán rong ấy mang trên vai cái túi vải gai đi lang thang khắp các nẻo phố xá. Những cái túi vải gai ấy rất dài, có các ngăn, xếp sách vào thành các ngăn trông chẳng khác nào các ngăn sách ở một quầy bán sách thực sự…

Mới đây tôi tìm ra một bài báo Liên Xô cũ còn kể về một người bán sách rong nổi tiếng đến mức để dấu ấn lại trong đời sống văn hóa Nga, như một huyền thoại. Đó là ông già Ximion Andreits có biệt hiệu Gumboldt1. Ông ta xuất hiện từ đâu? Tên họ thực là gì? Không ai biết. Có lẽ chính bản thân ông già cũng không trả lời được những câu hỏi ấy. Theo như người ta nói vào thời đó, thì ông được chính nhà văn Xaltưkov-Sedrin2 gán cho cái tên Gumboldt đó. Điều ấy có thể đúng lắm vì ông già chuyên cung cấp sách cho tất cả các thành viên của ban biên tập tạp chí “Người thời đại” (“Xovremennhic”)3. Trong thực tế Ximion Andreits quả thực lại rất giống học giả nổi tiếng người Đức Alexangdr Gumboldt (1769-1859). Giữa đám đồng nghiệp của mình ông già nổi bật lên bởi việc ông đặc biệt đọc nhiều, có một trí tuệ sắc sảo, ham hiểu biết, hay châm biếm sâu xa, thích trò chuyện với những người có chính kiến riêng về chính trị và về đủ các vấn đề quốc gia đại sự.

Ông già Gumboldt Nga thường tự nói ra là ông khinh thường “thể chế đời sống”. Theo quy định thời bấy giờ nếu không có giấy chứng minh không thể sống nổi một ngày tại Peterburg, vậy mà ông già Gumboldt sống ở đây suốt tám năm trời, không hề xuất trình giấy tờ cho một ai hết. Ông làm như vậy không phải vì ông không có giấy tờ, mà đơn giản là ông già coi việc đó là thừa, cũng như ông coi là thừa việc phải có một căn hộ hay một tài sản nào đó, ngoài sách ra. Khi ông đi tắm ở nhà tắm công cộng, bao giờ cũng mua đồ mới để thay, còn quần áo cũ vứt lại tại đấy. Ông già không có chỗ ở cố định: khi thì ở các khách sạn, khi ở các nhà trọ, nơi người ta quen biết ông, còn mùa hè ông thường ngả lưng ngay trên ghế băng trong công viên nào đó.

Ông già Gumboldt có một nhóm khách hàng cố định, chủ yếu nằm trong số các cây bút viết văn, các học giả và những người sưu tầm sách có tầm cỡ nhất. Ông không mở rộng nhóm khách hàng ra, mà chỉ quan hệ với những người quen biết. Nhưng có lẽ, thu nhập của ông không phải nhỏ. Ông già có niềm ham thích đặc biệt đối với trò chơi bi-a và việc đi xem các buổi trình diễn ở nhà hát. Một tối ông có thể thua như chơi hàng trăm rúp, cũng như ông không bỏ qua bất cứ một vở diễn ít nhiều có tiếng nào, trả tiền vé không tiếc. Và người ta nhớ lại một cách ngạc nhiên rằng, thường thấy ông ăn vận xuềnh xoàng ở giữa đám công chúng được lựa chọn trên hàng ghế đầu.

Trong văn học Nga còn một cuốn sách đầu thế này có ghi lại câu chuyện trên và một bài thơ nổi tiếng của Nhekraxov4 – “Người bán sách cũ và nhà thư tịch”, trong đó nhân vật người bán sách cũ chính là Gumboldt.

“Cha chả, Gumboldt, điều nói ra thật là thông tuệ”5

Theo như người đương thời nói lại, thì bấy giờ nhà thơ Nhekraxov đối với ông già bán sách rong Gumboldt rất có cảm tình.

Vào giữa những năm 80 thế kỷ XIX, khi “những người bán sách cũ đi chân” Nga không còn tiếp tục công việc buôn bán sách nữa, ông già Gumboldt cũng biến mất hút khỏi Peterburg một cách huyền bí như khi ông xuất hiện ở đây.

Trích từ “Kể chuyện Văn hóa Nga” viết dựa vào các tư liệu cũ trên báo chí Nga

THÚY TOÀN

1. Hai anh em Gumboldt (Humboldt) – Vilgheln (1767-1835) nhà ngữ văn, triết học, ngôn ngữ học, chính khách, ngoại giao Đức, và Alexangdr (1769-1859) nhà thực nghiệm tự nhiên học, nhà địa lý học, thám hiểm Đức, viện sĩ danh dự nước ngoài của Viện Hàn lâm khoa học Nga (1818), ở đây, có lẽ muốn liên hệ tới Gumboldt-Em.

2. Xaltưkov- (Xaltưkov-Sedrin) M.E. (Họ thật là Xaltưkov, bút danh-Sedrin) (1826-1889) – Nhà văn trào phúng, nhà chính luận, nhà khai sáng Dân chủ Nga, học trò tư tưởng của V.G.Belinxki và những nhà xã hội không tưởng Pháp Furie và Xanh Ximông.

3. Tên tạp chí văn học Nga do N.A.Nekraxov và I.I.Pansev thành lập (1847-1866) ở Peterburg quy tụ hầu hết các nhà văn có tên tuổi thời ấy như Bielinxki, Ghertxen, X.Turgheniev, Gontrarov, L.Tônxtôi, Xantưkov-Sedrin.

4. Nhekraxov (1821-1877/78) – nhà thơ Nga

5. Câu thơ trích trong bài thơ nổi tiếng của Nhekraxov nói ở trên.


Phụ Bản I

Hà Nội

duyên dáng trong mắt tôi

Hà Nội đang ngày một “thay da đổi thịt” mang dáng dấp của một đô thị hiện đại, văn minh. Bên cạnh những áp lực của một đô thị lớn trong quá trình phát triển, Hà Nội vẫn ẩn hiện nét duyên dáng đáng ngưỡng mộ của thủ đô ngàn năm văn hiến.


Hồ Hoàn Kiếm

Những hồ nước thơ mộng, quyến rũ của Hà Nội.

Hà Nội có đến hàng chục hồ lớn nhỏ bao quanh tạo nên không khí trong lành, mát mẻ, nơi đây còn mang dáng dấp hiền hòa giữa chốn thị thành hoa lệ.

Vẻ đẹp tự nhiên của Hà Nội gắn liền với những hồ nước, đó chính là một phần của tâm hồn Hà Nội, thủ đô nghìn năm văn hiến.

Trước tiên, ta phải kể đến Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Bảy Mẫu, hồ Hale, hồ Thủ Lệ và hàng chục hồ lớn nhỏ khác khắp nơi trong thành phố. Những hồ nước này là cỗ máy điều hòa môi trường, khí hậu và tạo nên cảnh quan thơ mộng trong nhịp sống hối hả chốn thị thành.

Rùa nổi trên Hồ Hoàn Kiếm :

- Khoảng 17g30 phút ngày 29-7-2012, tại bờ hồ đối diện với Đền Vua Lê (phố Lê Thái Tổ), một số người giật mình khi phát hiện Rùa nổi.

Vị trí Rùa nổi: ngay dưới tán cây phượng, cách bờ chừng ba mét. Sau đó Rùa bơi nhanh ra giữa hồ. Nhiều người nước ngoài đi du lịch cũng nhìn thấy Rùa. Rùa nổi trong ngày mát mẻ, sau trận mưa lớn tối 28-7.

- Chiều 14-2-2014, lúc 17g25 phút, trong cái rét ngọt ngào (hơn 15OC), Rùa hồ Hoàn Kiếm nổi ở khu vực đối diện Khu tượng đài Vua Lý Thái Tổ (phố Đinh Tiên Hoàng).

Rùa nổi đúng Ngày Valentine. Nhiều khách du lịch đã kịp ghi lại hình ảnh Rùa nổi. Do Rùa nổi sát bờ (cách bờ khoảng 30cm) cho nên mọi người nhìn thấy rõ cả mai Rùa. Toàn mai rùa mốc trắng, do ngâm lâu dưới bùn. Nhiều đôi bạn trẻ yêu nhau rất mãn nguyện khi được chứng kiến Rùa nổi đúng vào ngày ý nghĩa này.

Phóng sinh ở hồ Hoàn Kiếm .

Sáng 27-10-2013, khu vực bờ hồ ngã ba Bảo Khánh và Lê Thái Tổ tập trung rất nhiều người. Tại đây có hai nhóm đến phóng sinh cá, ốc, chim. Nhóm thứ nhất thường đến đây phóng sinh vào sáng Chủ nhật. Nhóm thứ hai mặc đồng phục, làm lễ quy củ hơn nhóm thứ nhất và lần đầu làm lễ tại đây. Việc phóng sinh cá, ốc, lươn, chim ở hồ Hoàn Kiếm được nhiều người đồng tình ủng hộ vì đó là những hành động thiết thực bảo vệ môi trường sống. Thể hiện lối sống thân thiện với môi trường của cha ông ta từ nhiều đời nay.

NHỚ VỀ HÀ NỘI.

- Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội...

Đây là lời mở đầu của ca khúc “Nhớ về Hà Nội” nổi tiếng của nhạc sĩ Hoàng Hiệp. Một cảm giác lạ lùng, man mác ẩn hiện trong lòng tôi, nhớ lại thời niên thiếu xa xưa ấy... Tôi sinh ra ở Pháp Vân, Thanh Trì, Hà Đông, rồi quê tôi sáp nhập vào Hà Nội, cách hồ Hoàn Kiếm khoảng bảy cây số. Đây là vùng nổi tiếng với Bánh cuốn Thanh Trì, Bún lươn, Bún ốc...

Đây là quê hương của danh tướng Phạm Tu (được tôn là Thượng Thủy tổ họ Phạm VN), đã từng giúp Lý Bí đánh thắng quân Lương. Sau chiến thắng, Lý Bí xưng là Lý Nam Đế, lập nên vương triều Tiền Lý cùa nhà nước Vạn Xuân độc lập, rồi chỉ hơn một năm thì nhà Lương phát binh xâm lược trở lại. Lý Nam Đế mất, giao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục. Ông xưng là Triệu Việt Vương, sau đó, một người trong họ của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã đoạt quyền của Triệu Việt Vương và tự xưng là Hậu Lý Nam Đế, tiếp tục bảo vệ nền tự chủ.

Đây cũng là quê hương của Chu An, (Chu Văn An) cao sĩ, học giả đời Trần. Đời Trần Minh Tông, ông làm Quốc tử giám Tư nghiệp và dạy các con vua. Đời Trần Dụ Tông, ông dâng sớ xin chém 7 tên quyền gian, vua không nghe, ông từ chức về Chí Linh, Hải Dương dạy học. Tuy từ quan song chỉ khi nào nhà nước có việc triệu hồi, ông mới chịu đến. Khi Chu An mất, ông được thờ nơi Văn Miếu - Quốc tử Giám Hà Nội.

Tôi nhớ về Hà Nội thời mới bỡ ngỡ cắp sách đi học lớp năm trường tiểu học Nguyễn Du, phố Bắc Ninh (Thân phụ tôi sống ở phố Hàng Mắm và phố Hàng Thùng). Thật là một ngôi trường uy nghi, bệ vệ với hai tầng, kiến trúc theo kiểu Pháp, điều này khiến cho một cậu học sinh bé bỏng càng run sợ, lúng túng trong buổi đầu tiên tôi đi học; như nhà văn Thanh Tịnh đã viết: “Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng...”.

- Hà Nội của ta, Thủ đô yêu dấu một thời đạn bom một thời hòa bình...

Với sự thăng trầm của lịch sử, Hà Nội đã trải qua biết bao thời kỳ đạn bom thời Toàn quốc Kháng chiến, qua 10 ngày chiến đấu, quân và dân Hà Nội đã giành thế chủ động, làm cho quân Pháp bị thiệt hại nặng, đã làm thất bại âm mưu “đánh chiếm thành phố của Pháp”. Sau khi đã giam chân địch được 2 tháng, thấy nhiệm vụ kìm chân, tiêu hao địch đã đạt yêu cầu và cần phải bảo vệ lực lượng, nên cấp trên quyết định để Trung đoàn Thủ đô rút lui ra ngoài.

Thời kỳ Mỹ thả bom Miền Bắc, Hà Nội đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, đã lập nên trận “Điện biên Phủ trên không”, làm chấn động dư luận thế giới, bị thất bại nặng nề, Mỹ phải ngừng ném bom và ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh. Cuối cùng, Hà Nội được sống trong thời kỳ hòa bình từ sau Hiệp định Genève và sau ngày Tổ quốc thống nhất cho tới nay.

- Nhớ phố Quang Trung, đường Nguyễn Du, những đêm Hoa Sữa thơm nồng...

Việc đi học của tôi ở trường Nguyễn Du đang dệt trong tôi biết bao ước mơ thời niên thiếu thì tôi phải chuyển sang trường Trần Nhật Duật - mới xây xong - nằm gần Ngã năm Cột Đồng hồ, sát cầu Long Biên. Thế là tôi đành chia tay với một số bạn, vì chỉ một số học sinh đang sống từ đoạn phố từ Hàng Thùng tới Trần Nhật Duật mới phải chuyển trường. Lần đầu tiên trong đời cậu học sinh lớp Ba mới biết thế nào là chia tay bạn bè, như nhạc sĩ Dzoãn Mẫn viết: “Biệt ly nhớ nhung từ đây. Chiếc lá rơi theo heo may, người về có hay?”.

Học ở trường mới được một niên khóa, vì gia đình Thân phụ dọn nhà (từ phố Bắc Ninh, rồi phố Hàng Điếu đến phố Trương Hán Siêu. Tất cả các nhà của Thân phụ đều nằm trong Quận Hoàn Kiếm) nên tôi lại phải chuyển về học tại trường tiểu học Quang Trung, tọa lạc gần góc phố Quang Trung và phố Nguyễn Du, nhìn ra hồ Thiền Quang. Trái tim tôi trải qua mấy cuộc chia tay, biệt ly nho nhỏ đó cũng khiến tôi bớt buồn bã, chán nản đôi chút. Chính trong lúc đang học lớp Nhất tại trường Quang Trung, thì ngày Giải phóng Hà Nội đến. Tất cả học sinh trường tôi đi bộ ra phố Huế để đón Bộ đội tiến về Hà Nội, không khí thật là tưng bừng, náo nhiệt vang khắp phố phường Hà Nội, một cảm giác lâng lâng, tự hào mà khó có thể tôi quên được. Tôi cứ tưởng tượng ra không khí vang lừng, hãnh diện đó, như trong bài hát ‘Tiến về Hà Nội’, nhạc sĩ tài hoa Văn Cao đã viết:

Trùng trùng quân đi như sóng.

Lớp lớp đoàn quân tiến về.

Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng,

cờ ngày nào tung bay trên phố...

…Năm Cửa Ô đón mừng đoàn quân tiến về.

Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào

chảy dọc sức sống long lanh...

Sau ngày vui đó khoảng 2 tháng, tôi cùng các bạn học sinh trường Quang Trung và các trường khác tại Hà Nội cùng nhau đến Vườn Bách thảo để dự Lễ mừng Cụ Hồ và Chính phủ trở về Thủ đô. Từ đây, Hà Nội sống trong thời kỳ hòa bình đầu tiên...

Khu vực phố Nguyễn Du nổi tiếng với những hàng cây hoa Sữa, có hoa màu trắng như sữa, mùi thơm nồng, đã là nguồn cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ có những sáng tác mang hoa sữa vào ca khúc của họ. Và hoa Sữa cũng từng chứng kiến biết bao những cặp đang yêu, đến tình tự, thề nguyện sẽ yêu nhau trọn đời...

- Và nhớ tiếng leng keng Tầu sớm khuya, hướng ra Đống Đa, Cầu Giấy…


Đối với tuổi niên thiếu của đa số học sinh chúng tôi là đi tầu điện, từ trạm đầu nằm ở cuối phố Bạch Mai, tầu điện chạy qua hết phố Bạch Mai, phố Huế, qua bờ hồ Hoàn Kiếm (phố Đinh Tiên Hoàng) tới phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường… Tầu điện cũng chạy đến khu vực Đống Đa và Cầu Giấy, lúc đó hai nơi này còn là khu ngoại ô của Hà Nội. Gia đình thân phụ tôi sống ở phố Hàng Mắm, phố Hàng Thùng, phố Bắc Ninh nên tôi thường cuối tuần nào cũng đi tầu điện về phố Bạch Mai (thăm Bà Nội tôi), lên tầu ở trạm Bờ Hồ, gần nhà Thủy tạ. Tiếng leng keng vang lên inh ỏi của tầu điện khi tài xế đạp lên còi để xe cộ, khách bộ hành tránh xa đường ray của tầu, vì đường tầu nằm ngay trên đường phố mà tầu điện chạy qua, đó cũng là lý do ngày nay tầu điện bị dẹp bỏ và tàu điện chỉ còn là một ký ức đẹp trong tâm khảm của người Hà Nội.

Khi thân phụ về sinh sống ở phố Trương Hán Siêu (ngay sau lưng trường Quang Trung, tôi đã học tại trường này), tôi cùng bạn bè rủ nhau đi bộ từ phố Quang Trung, rồi rẽ phố Thợ Nhuộm tới phố Hàng Bông và phố Cấm Chỉ, trước mắt là Vườn hoa Cửa Nam, tuy nhỏ nhưng chúng tôi được các vị lớn tuổi kể rằng chính tại Vườn hoa Cửa Nam có dựng một bức tượng Nữ thần Tự do. Cùng do Barthodie thiết kế như tượng Tự do nổi tiếng ở New York – một phiên bản tý hon do Pháp tặng Hà Nội sau một cuộc đấu xảo ở VN – được đặt ở Vườn hoa Chí Linh, rồi trên đỉnh Tháp Rùa và sau cùng ở Vườn hoa Cửa Nam tại Hà Nội (và một phiên bản tý hon tại đảo Thiên Nga, sông Seine tại Paris. Cả hai chỉ cao gần 3m thôi). Việc Pháp đặt tượng tại đây đã làm thay đổi cảnh quan xưa, gây nỗi hoài niệm cho các nhà nho qua bài thơ:

Nhớ Quảng Văn Đình tớ đến nghe,

Câu kệ chẳng thấy, thấy Đầm xòe (Tượng Tự do)

Thập điều bặt tiếng ê a giảng,

Choáng óc kèn tây rúc tí toe’

Khi Nhật hất cẳng Pháp, tượng Nữ thần Tự do bé nhỏ đó đã bị hạ bệ, lấy đồng để đúc tượng A-di-đà chùa Ngũ Xá. Thật là tiếc nuối làm sao. Đây là một sự ngộ nhận đau đớn vì Tượng Tự Do chỉ liên quan tới văn hóa mà thôi. Hà Nội đã đánh mất một thắng cảnh du lịch thế giới!

Tượng Nữ thần Tự do tại New York – Paris – Hà Nội:


1                             2                                          3

1- Đảo Liberty, New York (cao 46m, kể cả Bệ cao 93m)

2- Đảo Thiên nga, sông Seine, Paris (cao gần 3m)

3- Vườn Hoa Cửa Nam, Hà Nội (cao gần 3m) do Pháp tặng.

- Ôi nhớ Hồ Gươm xanh thắm, nơi Tháp Rùa nghiêng soi bóng...

Vì sống ở gần Hồ Hoàn Kiếm tức Hồ Gươm, tôi có rất nhiều kỷ niệm với Hồ Gươm, với đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc cùng với Tháp Bút và Đài Nghiên. Hai di tích này do Nguyễn Văn Siêu, một nhà văn hóa lớn của Hà Nội, đã xây một tháp đá mà đỉnh là hình ngọn bút lông, trên thân tháp có tạc ba chữ ‘Tả thanh thiên’ (viết lên trời xanh) và một đài Nghiên, là một cửa cuốn trên có đặt một cái nghiên bằng đá, tạc theo hình nửa quả đào. Qua Đài Nghiên là đến cầu Thê Húc (nơi đậu lại ánh sáng mặt trời ban mai). Đầu cầu bên kia là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) tức cũng là cổng đền Ngọc Sơn. Đền là nơi thờ Văn Xương, Quan Vũ và Trần Hưng Đạo. Trước mặt bái đường là Trấn Ba Đình (đình chắn sóng), tại đây, cậu bé học trò lớp Ba đã ra đây, leo ra bờ đất bao quanh Đình, để lấy đất sét về nặn tượng hình thú vật, hình lá cây, để nộp bài Thủ công cho thày giáo.

Xa trông, góc tây nam hồ là gò Tháp Rùa. Tôi nhớ lại là có một lần duy nhất, khoảng năm 1953, Hà Nội có tổ chức Chợ Phiên ngay tại phố Lê Thái Tổ, nằm ven bờ hồ, chính tại Chợ Phiên, khách tham quan có thể mua vé để đi qua chiếc cầu Rồng bằng phao làm dã chiến trên các thùng phuy nổi trên hồ, sang bên Gò, bước xuống thảm cỏ xanh mướt quanh Tháp Rùa cổ kính, để thăm nơi của các Cụ Rùa, lâu lâu bò lên nằm tắm nắng, đảo mắt ngắm hồ Gươm và thủ đô cùa chúng ta. Đây đúng là một dịp hy hữu mà tôi đã có cơ hội ra thăm Tháp Rùa. Hơn nữa, vì trường Nguyễn Du – nơi tôi theo học nằm ở gần Hồ Gươm, nên tôi đã có vài dịp, cùng các bạn học cùng trường, Rước Đèn màu sắc rực rỡ vòng quanh Hồ, với ánh nến lập lòe xuyên qua giấy bóng kính nhiều màu sáng loáng, vào đúng đêm Rằm trăng tròn của Tết Trung thu.

Biết bao kỷ niệm về Hồ Hoàn Kiếm đã khắc sâu vào trong lòng tôi một cậu bé học sinh tiểu học vô tư, ngây thơ cho đến nay, da dẻ nhăn nheo, tóc đã nhuốm hai màu, vẫn không bao giờ phai mờ theo năm tháng...

Cuối cùng, lời kết của Ca khúc:

Thành cũ Thăng Long, hồn nước non thiêng, còn lắng đâu đây, dấu xưa oai hùng, Hà Nội ơi!”.

Trước đây, thành phố này đã từng là kinh đô Cổ Loa, nước Âu Lạc đời An Dương Vương, kinh đô Mê Linh nước Hùng đời Trưng Nữ Vương, kinh đô Long Biên nước Vạn Xuân đời Tiền Lý, kinh đô Thăng Long nước Đại Việt đời Lý Thái Tổ, kinh đô Đông Đô đời Lê Sơ và đời nhà Mạc, kinh đô Đông Kinh đời Lê trung hưng và đổi là Bắc thành đời Tây Sơn và đời Nguyễn. (Vua Minh Mạng đổi tên là Hà Nội). Sau Cách mạng Tháng 8 thành công, Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Việt Nam cho đến ngày nay.

Một con đường thơ mộng nằm giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch.

Hà Nội có nhiều đường phố mang tên các danh nhân. Nhiều đường phố mang tên sản phẩm hàng hóa đất Kẻ Chợ, chỉ riêng một con đường thơ mộng mang tên đường Thanh Niên.

Đây là con đập đắp vào đầu thế kỷ thứ 17 để giữ cá nuôi trong hồ Trúc Bạch, lúc đầu mang tên “Cố Ngự” (giữ vững). Sau người dân đọc chệch thành “Cổ Ngư”. Đường dài gần 1km, từ dốc Yên Phụ đến phố Quán Thánh. Đoạn giữa có đảo Cá vàng nhô ra Hồ Tây với chùa Trấn Quốc nổi tiếng. Bên hồ Trúc Bạch có một gò nổi trên có đền Cẩu Nhi xây dựng từ đời nhà Lý. Cuối đường là đền Quán Thánh có pho tượng đồng lớn, thờ một vị trong Tứ trấn của Thăng Long thành. Cuối năm 1959, công việc sửa chữa, mở rộng con đường được giao cho thanh niên Hà Nội “độc quyền” đã xong, mọi người Hà Nội bàn nên đặt cho con đường một tên mới. Cái tên “Cổ ngư” nghe nó “cổ” quá, nên mang được mang tên mới là Thanh Niên từ đấy. Đây là một trong những con đường đẹp nhất của Thủ đô Hà Nội. Cái tên đường Thanh Niên tuyệt đẹp đã khắc sâu vào ký ức của bao lớp người, cần được gìn giữ cho mai sau.

TÓM TẮT:

- Mừng 60 năm giải phóng Hà Nội: nhớ phố Bắc Ninh (chạy qua phố Hàng Mắm, Hàng Thùng) và biết bao điều thú vị của Hà Nội mến yêu!

“Hà Nội 36 phố phường ” là một cách gọi không chính xác của khu phố cổ, vì 36 phố phường là một cách gọi ước lệ khu vực đô thị cổ, nằm bên trong và bên ngoài cả khu phố cổ.

Khu phố cổ Hà Nội hầu hết thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm tổng diện tích khoảng 100 ha , có 76 tuyến phố thuộc 10 phường : phường Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ.

Với khoảng 400 phố hiện nay, Hà Nội thưa thớt dăm ba cái tên phố là địa danh nơi khác. Và Hà Nội từng có một phố mang tên Bắc Ninh dài 448m, đi từ ngã ba Trần Nhật Duật - Lương Ngọc Quyến, chỗ ngã năm “Cột Đồng Hồ” đến ngã tư Lò Sũ, nối tiếp với phố Lý Thái Tổ, thuộc quận Hoàn Kiếm. Thời thuộc Pháp, có một phố mang tên thống chế Pétain, mang thêm tên phố Bắc Ninh, sau đổi thành phố Phan Thanh Giản và nay, tên chính thức là phố Nguyễn Hữu Huân.

Ngã ba trên có Trường tiểu học Trần Nhật Duật số 2 Chợ Gạo, Quận Hoàn Kiếm.

Chỗ đầu phố, trước khi có cây cầu Chương Dương đồ sộ, người Hà Nội quen gọi chỗ này là phố Cột Đồng Hồ vì có một cái đồng hồ công cộng. Còn hai bên phố có hai cái ngõ nhỏ, rất Hà Nội. Một là ngõ Phất Lộc (Thạch Lam có nhắc đến). Còn con ngõ nữa có tên chính thức là ngõ Nguyễn Hữu Huân, trước đây có tên là phố Bạch Thái Bưởi. Khi tên phố đổi, cái ngõ cũng phải đổi tên theo, Bạch Thái Bưởi chỉ còn là kỷ niệm trong lòng người Hà Nội.

Phố Nguyễn Hữu Huân nằm gọn trong khu phố cổ: nguyên lòng phố Nguyễn Hữu Huân nay phẳng lỳ, thẳng tắp, nằm sâu trong lòng đất Hà Nội; chứ khoảng trăm năm trước, đây còn là bờ sông, con đê chắn sóng còn nằm trên lòng con đường ngày nay. Nguyễn Hữu Huân là người tỉnh Tiền Giang, thi đỗ thủ khoa năm 1853, nên ông mang thêm tên Thủ Khoa Huân. Năm 1875, chúng bắt ông, tuyên án tử hình, ông tự cắn lưỡi chết không chịu để Pháp chặt đầu. Ông cũng để lại nhiều áng văn thơ giá trị, còn trong nhiều tuyển tập do đời sau sưu tầm.

Người viết lúc về thăm lại Hà Nội, khi đi trên hè phố Nguyễn Hữu Huân, cứ mang máng nhớ đây là phố Bắc Ninh xưa. Hàng cây xà cừ lực lưỡng mới trồng mấy chục năm nay, loáng thoáng reo vui, bóng lá thưa thớt chỉ đủ cho gió lướt qua nhè nhè…

Ngoài ra, trong tôi còn nhớ về Hà Nội với biết bao điều thú vị:

- Hà Nội đẹp lung linh thơ mộng ngày hè: hè Hà Nội có cái nắng vàng sánh như mật oi ả trên mặt Hồ Tây. Những tia nắng phản chiếu từng gợn sóng như dát bạc tạo ra một vẻ đẹp huyền ảo lung linh đến khó gần. Nắng hè có chút gì đó đặc trưng mang nét riêng của Hà Nội.

- Vẻ đẹp thơ mộng của vườn hoa bãi đá sông Hồng ( Nhật Tân quận Tây Hồ) : v ới những bãi cát trải dài, khung cảnh vườn hoa đủ sắc màu, thảm cỏ xanh mướt, là địa điểm lý tưởng cho những bạn trẻ đam mê chụp ảnh cũng như những cặp uyên ương trong mùa chụp ảnh cưới.

Đ ến đây bạn sẽ có cảm giác đi lạc vào một miền quê chứ không phải là chốn đô thị ồn ào, xa hoa, mang vẻ đẹp giản dị với những vườn hoa đủ màu sắc: hoa đào của vườn hoa Nhật Tân, hoa lay ơn, hoa hồng, hoa huệ... của vườn hoa Bách Nhật; cùng với vẻ đẹp tự nhiên của hoa cỏ còn là vẻ đẹp của sông, của cát vàng lẫn với vẻ đẹp nhân tạo của cối xay gió, của ghế đá, của xích đu.

- Mộng mơ Hà Nội khoác áo vàng rực rỡ: T rong thời kỳ giao mùa phố phường thủ đô đang được trải một màu vàng của lá, có lẽ Hà Nội mùa này là đẹp nhất, thơ mộng nhất. Những chiếc lá vàng rơi lất phất, thấp thoáng thiếu nữ nhẹ nhàng trong tà áo dài bước đi tạo nên một Hà Nội vô cùng đẹp và quyến rũ. Đây chính là thời gian mà người viết vô cùng thú vị lúc đến Hà Nội thật rất thơ mộng trong thời kỳ giao mùa, trở gió: thời tiết sáng sớm thì mát, nhưng đến trưa thì lạnh ơi là lạnh…

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo & Internet)


Tàu điện và xe kéo

*

NHỮNG TÊN GỌI KHÁC NHAU

CỦA THĂNG LONG-HÀ NỘI

Thăng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi khác nhau được chép trong sử sách Nhà nước Việt Nam:

1. Long Đỗ: Truyền thuyết kể rằng, lúc Cao Biền nhà Đường, năm 866, đang đắp thành Đại La, phát hiện thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do vậy, sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.

2. Tống Bình: Là tên đất trị sở của thế lực đô hộ phương Bắc thời Tùy (581-618), Đường (618-907).

3. Đại La: Theo kiến trúc xưa, kinh đô bao giờ cũng có “tam trùng thành quách”: trong cùng là Tử cấm thành (bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Năm 866, Cao Biền bồi đắp cho Đại La thành rộng và vững chãi hơn trước. Từ đó, có tên gọi là Đại La.

4. Thăng Long: Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010), vua từ thành Hoa Lư dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long”.

5. Đông Đô: Trong “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” giải thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô”.

6. Đông Quan: Quan quân nhà Minh gọi Thăng Long là Đông Quan với hàm nghĩa kỳ hị kinh đô của nước ta chỉ được ví là “cửa quan phía Đông” của nhà nước phong kiến Trung Hoa. Theo sử sách, năm 1408, quân Minh sau khi đánh bại cha con Hồ Quý Ly đã đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.

7. Đông Kinh: Thời Lê, vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh.

8. Bắc Thành: Đời Tây Sơn (1787-1802) vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (Huế), nên gọi Thăng Long là Bắc Thành.

9. Thăng Long: Năm 1802, vua Gia Long quyết định đóng đô ở Phú Xuân (Huế), không ra Thăng Long. Tên Thăng Long đã có từ lâu đời, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi, vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ Long là Rồng thành chữ Long là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ Long là rồng. Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805.

10. Hà Nội: “Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội”.

Hà Nội còn có nhiều các tên gọi không chính thức khác, chủ yếu xuất hiện trong văn thơ và dân gian: Trường An hay Tràng An (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An); Phượng Thành hay Phụng Thành (trong bài phú của Nguyễn Giản Thanh); Long Thành, Long Biên, Kẻ Chợ (trong dân gian); Thượng Kinh, Kinh Kỳ, Hà Thành, Hoàng Diệu. Năm 1945 Hà Nội được giải phóng và là nơi đặt các cơ quan của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ 1946 đến 1954, Hà Nội là chiến địa ác liệt giữa Việt Minh và quân đội Pháp. Sau khi được giải phóng vào ngày 10.10.1954, Hà Nội trở thành thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


HỒ HOÀN KIẾM – ĐỀN NGỌC SƠN:

KỲ QUAN CHÂU Á

Nếu du khách đến Hà Nội bằng đường hàng không, từ trên máy bay nhìn xuống những dòng sông Hồng, sông Đuống, sông Nhuệ như những dải lụa hồng từ xa quàng qua Hà Nội. Đặc biệt những mặt gương lam thủy (nước xanh) đó là Tây Hồ - Trúc Bạch nằm giữa Tây Bắc, Thiền Quang - Bảy Mẫu ở Đông Nam, Hoàn Kiếm (Hồ Gươm) nằm trung tâm của Thủ đô Hà Nội.

Nếu quả hồ Hoàn Kiếm của đoạn sông Hồng cũ sau khi đổi dòng để lại đến nay đã vài nghìn tuổi. Hồ có tên Lục Thủy - nước 4 mùa xanh ngắt. Tới thế kỷ 15 có tên Hoàn Kiếm do sự tích Lê Lợi trả gươm. Gươm ấy luôn ở bên ông suốt 10 năm chinh chiến. Khi dẹp xong giặc Minh, vua Lê về Thăng Long, một hôm ngự thuyền dạo chơi tên hồ Lục Thủy bỗng có con rùa nổi lên, ông rút gươm ra trỏ thì rùa liền đớp ngay thanh gươm mà lặn xuống. Như vậy là vua trả gươm lại cho trời. Vì vậy có tên là Hoàn Kiếm - Hồ Gươm.

Sau, thủy quân dùng hồ làm nơi luyện tập, nên có tên là hồ Thủy Quân. Theo truyền thuyết, đời Lê Thánh Tông (nửa sau thế kỷ 15) chỗ này là gò Tháp Rùa, từng là nơi vua ngồi câu cá, nên gọi Điếu Đài. Từ sau khi trung hưng chúa Trịnh mới bắt đầu trang điểm trong hồ. Đời Vĩnh Hựu, chúa Trịnh Giang lập cung Khánh Thụy ở Đảo Ngọc làm nơi hóng gió ngày hè. Sau đó, Trịnh Doanh cho đắp ở bờ hồ gò Ngọc Bội, để ghi chiến công đánh dẹp Quận Hẻo ở núi Ngọc Bội. Đầu thế kỷ 19, một ngôi chùa được dựng lên trên nền cung Khánh Thụy cũ - chùa Ngọc Sơn. Sau chùa không thờ Phật nữa, mà thờ Thánh Văn Xương - chủ về văn chương khoa cử và Đức Thánh Trần, tức anh hùng Trần Hưng Đạo, do vậy đổi tên đền Ngọc Sơn.

Năm 1864, nhà văn hóa Nguyễn Văn Siêu của Hà Nội đứng ra sửa sang lại toàn cảnh. Trên núi Ngọc Bội xây tháp Bút, hình bút lông, thân tháp tạc 3 chữ “Tả Thanh Thiên” (viết lên trời xanh).

Đi qua Tháp Bút, tới cửa cuốn - Đài Nghiên (trên đặt cái nghiên bằng đá). Quanh nghiên có khắc 1 bài “Minh” nói về công dụng cái nghiên, xét về mặt triết học. Qua Đài Nghiên đến cầu Thê Húc (nơi ánh mặt trời đậu lại). Cầu làm bằng gỗ uốn cong, sơn đỏ, soi mình trong nước xanh. Cầu dẫn đến lầu Đắc Nguyệt, cổng đền Ngọc Sơn. Đền có 3 gian, gian ngoài là bái đường, gian giữa thờ Văn Xương và gian sau thờ Trần Hưng Đạo. Trước gian Bái Đường là Trấn Ba Đình (đình trấn sóng). Nhìn thẳng về phái nam gò Tháp Rùa có từ thế kỷ 19, kiến trúc không có gì đặc sắc, nhưng đã trở thành biểu tượng quen thuộc của Hồ Gươm Hà Nội. Hồ có nhiều thủy sản, đặc biệt là rùa. Khi nào thời tiết thay đổi, chúng nổi lên mặt nước để thở, có con bò lên gò Tháp Rùa. Năm 1968, người ta bắt được 1 con rùa nặng tới 230kg, dài 2,10m, ngang 1,2m, có độ tuổi 400-500 năm (tương ứng với thời gian Lê Lợi trả gươm). Hồ còn là nơi đua thuyền lướt ván… Quanh hồ là đường đua xe đạp, chạy điền kinh, nhà hàng, khách sạn, quầy bán sách báo, hoa tươi, vật kỷ niệm… cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”.

Ngày nay, khu vực quanh hồ đã trở thành Bờ Hồ, nơi dạo chơi của nhân dân, nơi gặp gỡ cán bộ miền Nam tập kết, nơi nam thanh nữ tú trong quần áo nhiều màu sắc, khoác ngoài áo dạ, áo len, áo nhung… dắt tay nhau đi hái lộc (bằng hoa) trong đêm giao thừa. Không những dân Hà Nội mà cả các vị lãnh đạo Nhà nước, khách nước ngoài, có cả Hoàng thân Xihanúc và bà Monique cũng chung vui đón năm mới trong tiếng pháo xuân. Hàng năm nơi tổ chức hội hoa đăng, đèn hoa, pháo hoa trong dịp Quốc khánh - Hồ Gươm lộng lẫy muôn màu nghìn sắc từ các tràng pháo hoa từ không trung kéo xuống mặt hồ…

Hồ Gươm - chiếc “gương soi” trung thực về chiến công chống ngoại xâm, nhịp thở cuộc sống của người Hà Nội. Hồ Gươm - không còn in bóng chiếc xe điện cũ kỹ gõ “keng keng” từ mờ sáng đến tận đêm. Gương hồ - sáng, đông mờ sương bao phủ - trưa, hè xanh ngắt - tối, đèn màu rực rỡ. Đền Ngọc Sơn sáng lên như viên ngọc, được UNESCO công nhận là một trong những kỳ quan của Châu Á.

BÙI ĐẸP


HÀ NỘI

“THÀNH PHỐ VÌ HÒA BÌNH”

của UNESCO

Ngày 17.6.1999, Hà Nội được Ủy ban Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) quyết định trao giải thưởng “Thành phố vì hòa bình”. Đây là giải thưởng của Đại hội đồng UNESCO xét 2 năm một lần phong tặng cho 5 khu vực trên thế giới. Năm 1999, riêng khu vực châu Á - Thái Bình dương, UNESCO đã quyết định chọn Hà Nội - Thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, một thành phố đang phát triển có nhiều dự án khả thi hướng tới các tiêu chí mà Hội đồng UNESCO đặt ra (về bình đẳng trong cộng đồng, xây dựng đô thị, giữ gìn môi trường sống, thúc đẩy phát triển văn hóa giáo dục đặc biệt là chăm lo giáo dục công dân và thế hệ trẻ). Những thành tựu của 10 năm đổi mới đã nâng tầm cao và vị thế của Hà Nội để thành phố hội nhập với cộng đồng quốc tế, là cơ sở vững chắc để thành phố nhận giải thưởng cao quý của UNESCO “Thành phố vì hòa bình”. Giải thưởng được trao tặng cho thành phố Hà Nội vào đúng thời điểm Hà Nội chuẩn bị kỷ niệm 990 năm và 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đây chính là sự khích lệ, động viên kịp thời với nhân dân Thủ đô. Tiếp sức cho sự phấn đấu, xứng đáng với danh hiệu cao quý thành phố Hà Nội - “Thành phố vì hòa bình”.

BÙI ĐẸP

HÀN MẶC TỬ


( 22/9 / 1912 - 11/11/1940)

Tiểu sử:

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới , Quảng Bình ; lớn lên ở Quy Nhơn , tỉnh Bình Định .

Ông được rửa tội tại nhà thờ Tam Tòa - xây dựng từ năm 1886 tọa lạc tại đường Nguyễn Du, P.Đồng Mỹ, Tp. Đồng Hới, Tỉnh Quảng Bình - vào năm 1912 với tên thánh là François Nguyễn Trọng Trí.

Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, nên người con trai là Phạm Bồi phải trốn vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo họ mẹ. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y danh tiếng thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con:

Anh cả Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. Nguyễn Trọng Trí (tức nhà thơ Hàn Mặc Tử) là người con thứ tư sau 2 chị gái. Người em kế là Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13-02-1959). Và 3 người em trai nữa.

Do thân phụ Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nên Hàn Mặc Tử cũng theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1928-1930).

Bút danh Hàn MặcTử:

Nguyễn Trọng Trí làm thơ từ năm 16 tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh… Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử , sau đó ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử.

“Hàn Mạc Tử” nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. “Mặt Trăng khuyết” đã được “đặt vào” chữ “Mạc” thành ra chữ “Mặc”. Hàn Mặc Tử có nghĩa là “chàng trai bút nghiên”.


Tấm danh thiếp của Hàn Mặc Tử

Cuộc đời Học sinh.

Theo một Sư huynh dòng Lasan, học dưới thi sĩ một lớp. Ông cho biết: Hàn Mặc Tử thi vào lớp Đệ Nhất niên (bây giờ gọi là Lớp Sáu) trường Pellerin (Trường Bình Linh, số 1 Lê Lợi, Huế) năm học 1928-2929. Ông không giỏi về Toán và Sinh ngữ nên phải ở lại lớp (tại các trường dòng học sinh phải giỏi Toán và Sinh ngữ), nhưng đã có tiếng là “học sinh có nhiều năng khiếu về Việt văn”.

(Châu Hải Kỳ-Đặc san VĂN số 2 năm 1967)


Sao học bạ của Nguyễn Trọng Trí

Nhiễm bệnh:

Khoảng đầu năm 1933, gia đình đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông xuất bản tập “Gái quê”, rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi. Khi vào Sài Gòn lần thứ hai, Hàn Mặc Tử được mời làm chủ bút tờ Phụ nữ tân văn , bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình.

Lúc bấy giờ, y học chưa tìm ra DDS, một loại thuốc đặc trị bệnh này và cho rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bệnh nhân bị hắt hủi, cách ly, thậm chí bị ngược đãi, thì Hàn Mặc Tử cũng vậy. Gia đình ông đưa ông trốn tránh nhiều nơi, đã mời các lang y đến chữa bệnh. Hầu hết các loại thuốc mà Hàn Mặc Tử uống là độc dược chế từ nọc rắn mai gầm hay rắn hổ mang. Sau một thời gian chữa bệnh, bệnh trạng ngày một nặng thêm; tuy chưa bị tàn phế nhưng toàn thân gầy yếu, da bầm đen, dấu hiệu của ngộ độc thuốc lâu dài. Lẽ ra gia đình phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa…

Đến năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20/9/1940) mang số bệnh nhân 1134 và từ trần vào lúc 5g45 phút rạng sáng 11/11 / 1940 vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.

Bác sĩ Gour Vile nói rằng: theo kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.

Mộ Của Hàn Mặc Tử?

Những người dân sống gần đó kể lại: Hồi trước trong trại cùi Quy Hòa những người chết được chôn tại nghĩa trang của trại. Trên mỗi ngôi mộ đều có một thánh giá bằng cây, với một tấm bia bằng gỗ hay bìa cứng có ghi tên thánh và họ tên của người chết. Nghĩa địa là một bãi cát gần biển; những ngày biển động mưa gió thường san bằng nấm mộ nên thỉnh thoảng người ta lại đắp lại và mỗi lần lại sai lệch đi một ít. Lúc đó người săn sóc bệnh còn không có huống chi là chú ý đến người đã chết. Mộ phần của Hàn Mặc Tử cũng nằm trong những ngôi mộ không tên đó. Ngày gia đình Hàn Mặc Tử đến xin dời mộ (13-02-1959), cha Biên (linh mục trông coi trại cùi lúc đó) đã chỉ cho một ngôi mộ trong số các ngôi mộ vô danh đó và người ta dời lên vị trí hiện giờ.

Cuộc đời và Tác phẩm:

Cuộc đời Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc , Mai Đình , Mộng Cầm , Thương Thương , Ngọc Sương , Thanh Huy , Mỹ Thiện .

Gần 20 năm khi Hàn Mặc Tử mất đi ngoài tập “Thơ Hàn Mặc Tử” mỏng manh của NXB Tân Việt, Sài-gòn 1959 chúng ta có rất ít thi liệu. Chính Quách Tấn, bạn thân, ân nhân, người đã được nhà thơ ký thác trọn vẹn tác phẩm cũng không có nhiều tác phẩm hơn. Lý do rất giản dị: chiến tranh đã làm thất lạc hết tài liệu mặc dù Quách Tấn đã gìn giữ cẩn thận.

Tác phẩm của của ông còn lưu lại gồm có:

- Gái quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời).

Những tác phẩm khác chỉ là những bài thơ rời, mà những năm sau cuối của cuộc đời ông gom góp lại nhưng chưa xuất bản có thể kể:

- Đau thương (1937)

- Xuân như ý

- Thượng Thanh Khí (thơ)

- Cẩm Châu Duyên

- Duyên kỳ ngộ (kịch thơ - 1939)

- Quần tiên hội (kịch thơ, viết dở dang - 1940)

- Chơi Giữa Mùa Trăng (tập thơ - văn xuôi)

Ngoài ra còn có một số bài phóng sự, tạp văn, văn tế...

Tập “Thơ Hàn Mặc Tử” (1959) NXB Tân Việt ấn hành, Quách Tấn giữ bản quyền. Gồm có 50 bài thơ chia làm 4 phần:

Thơ Đường luật (Lệ Thanh thi tập)

Gái quê (1936)

Đau thương (Thơ điên - 1938)

Xuân như ý

Tại miền Nam có lẽ ông là thi sĩ được nhắc nhở nhiều nhất. Trước 1975 học sinh trung học Ban C (Văn chương) mới được học, ngày nay lớp 11 đã học rồi.

Một số bài thơ nổi tiếng:

Nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử đã được phổ nhạc vì tính lãng mạn của nó. Sau đây là một số bài được nhiều nhà phê bình đánh giá là hay và đã được đưa vào sách giáo khoa bậc trung học (lớp 11).

Đây thôn Vĩ Dạ

Mùa xuân chín

Bức thư cuối đời của nhà thơ Hàn Mặc Tử

Bài “Sự trong sạch của tâm hồn” được ông viết vào đêm 24/10/1940 nhằm ca ngợi công ơn các mẹ, các chị dòng Franciscain đã hết lòng chăm sóc ông và những người bạn ở Quy Hòa. Sau khi ông mất (11/11/1940) người ta tìm được trong túi áo của ông khi khâm liệm và trao lại cho các nữ tu sĩ.

Bài văn được viết bằng tiếng Pháp, bản dịch của ông Trần Thanh Mại.

“Hỡi các vị thiên thần của trời, thiên thần của Chúa, thiên thần của hòa bình và hoan lạc, xin hãy mang lại cho tôi một vòng hoa.

Tôi muốn tắm trong bể ánh sáng và lòng yêu kính thiêng liêng.

Bởi vì dưới cõi trần gian, đã thành tựu nhiều phép lạ, nó làm cho người ta phải nghẹn ngào vì khâm phục khi ngưỡng vọng cái sự nghiệp thần bí của đấng Tối Cao.

Hỡi các vị thiên thần của Trời, thiên thần của Chúa, thiên thần hòa bình và hoan lạc, các người có thấy cái ánh sáng trong mờ ngày càng rõ rệt, cái màu sắc trắng tuyết kia, cái hình hài không vết bợn kia, cái linh hồn hiện lên nơi cõi thế kia, ngay khi mới thấy, tôi đã chắc đó là cái hồn phách của các vị thánh, các thi tứ, cái tinh hoa của sự cầu nguyện đáng lẽ thì bốc lên hương thơm và tinh khí, nhưng đây chỉ khiêm tốn quyết định hóa ra Người.

Hỡi các vị thiên thần của Trời, thiên thần của Chúa, thiên thần hòa bình và hoan lạc, xin hãy vỗ tay lên: bởi vì đó là các Mẹ và các Chị dòng Saint François d’ Assise, xuống cõi trần gian để an ủi những đau khổ, lo âu của loài người yếu đuối, của các bệnh nhân tàn tật, của những kẻ phong hủi là chúng tôi đây.

Tôi muốn ca lên những bài ca khen ngợi, hứng uống cho thật đã những lời êm dịu của các bà, khi các bà đồng hát bài thánh ca: Hosanna! Hosanna! (xin cứu với, xin cứu với!)

Tôi muốn bao giờ cũng tán thưởng cái hình thể trắng tinh không vết ấy, sức tươi mát, nguồn ánh sáng, bầu thơ ấy, vì tất cả đó là biểu tượng của

TẤM LINH HỒN THANH KHIẾT

Hỡi các vị thiên thần của Trời, thiên thần của Chúa, thiên thần hòa bình và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau những đóa hoa hồng, hoa súng, những điệu hát réo rắt và những hơi nhạc thơm tho, và hãy xin rưới trúc cho tràn trề nào là đức hạnh, can đảm và hạnh phúc cho những vị nữ tỳ của Đức Chúa” .

Đêm thứ tư 24 tháng mười 1940

François Trí

Cảm tạ Thượng đế”

(Theo Báo Văn Nghệ)


Thơ Hàn đã được phổ nhạc:

Trường ca Ave Maria (Hải Linh và Cát Minh phổ nhạc)

Trường ca Hàn Mặc Tử (gồm 9 bài Phạm Duy viết cuối năm 1993 - Duy Cường Hòa âm 2011)

Ra đời (Hải Linh)

Duyên kỳ ngộ (Hải Linh)

Đà Lạt trăng mờ (Hải Linh)

Đây thôn Vĩ Dạ (Viết Chung)

Xuân như ý (Viết Chung)…

Đặc biệt bài hát về cuộc đời “Hàn Mặc Tử”:

Trần Thiện Thanh (sáng tác 1965)

Ai mua trăng, tôi bán trăng cho

Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ

Ai mua trăng, tôi bán trăng cho

Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò.

Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa

Lầu ông Hoàng đó thuở nao chân Hàn Mặc Tử đã qua

Ánh trăng treo nghiêng nghiêng, bờ cát dài thêm hoang vắng

Tiếng chim kêu đau thương như nức nở dưới trời sương

Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người

tìm về giữa đêm buồn

Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến

Tình yêu vừa chớm xót xa cho chàng cuộc sống phế nhân

Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết

Trách thay cho tơ duyên chưa thắm nồng đã vội tan

Hồn ngất ngư điên cuồng cho trời đất cũng tang thương,

mà khổ đau niềm riêng.

Hàn Mặc Tử xuôi về quê cũ, giấu thân nơi nhà hoang

Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi

Tình đã lỡ xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi

Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.

Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn gầy đón chân chàng đến

Người xưa nào biết, chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa

Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm nghe trăng vỡ

Xót thương thân bơ vơ, cho đến một buổi chiều kia

Trời đất như quay cuồng khi hồn phách vút lên cao

Mặc Tử nay còn đâu?

Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ

Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng.

Hà Mạnh Đoàn


Phụ Bản II

10 Bài thơ mới phát hiện

của thi sĩ Hàn Mặc Tử

Nguyễn Hữu Sơn - Lm. Trăng Thập Tự

Thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940), còn có các bút danh Hàn Mạc Tử, Minh Duệ Thị, P.T, Phong Trần, L.T, Lệ Thanh, Lệ Thanh nữ sĩ, Lệ Giang, Sông Lệ, Trật Sên, Cụt Hứng, Foong Tchan, Anh Hoa, Trọng Minh, Tinh Nhơn, Cô Đài Trang, Cô Bạch Bình Giang… từng cộng tác với các báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn, Thực nghiệp dân báo, Sài Gòn, Tân thời, Người mới, Đông Dương tuần báo (?) , Ngày nay, Tin tức, Công luận, Trong khuê phòng, Đông Á tân văn, Impartial, Opinion, La Lutte

Trong quá trình sưu tập tài liệu cho công trình “Người đương thời Thơ mới bàn về Thơ mới” và “Di sản văn học Quốc ngữ đến 1975”, chúng tôi vừa tìm thêm được số lượng lớn tác phẩm của Hàn Mặc Tử in trên báo Công luận ( CL , Sài Gòn, 1916-1939) ngoài số đã từng công bố.

Tất cả những tác phẩm trên góp phần cho phép chúng ta hình dung đầy đủ, sâu sắc, chuẩn mực, toàn diện hơn nữa chân dung con người, tư tưởng và sự nghiệp văn chương Hàn Mặc Tử.

Hình thức nghệ thuật những bài thơ này khá phong phú, phần lớn làm theo thể Đường luật, một số bài theo lối thơ tự do và các thể hồi văn, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn xen lục ngôn, thủ vĩ ngâm, song thanh, hát nói, từ khúc, lục bát, song thất lục bát… Về nội dung, phần nhiều các bài thơ hướng tới các giá trị nhân văn, xướng họa với chí sĩ Phan Bội Châu và bạn bè (Quách Tấn, Tùng Ngâm, Ngọc Hồ, Trần Bình Lộc, các bạn ở Phú Mỹ – Bình Định và cả những tứ thơ Gửi cho người không quen biết, Phút mơ màng, Tương tư, Canh khuya nhớ bạn …); mở rộng lối thơ du ký, đề vịnh thắng cảnh non sông đất nước: xứ Huế, Phan Thiết, chùa Ông Núi – Bình Định, thú chơi tao nhã và vẻ đẹp bốn mùa: Cầm, Kỳ, Thi, Tửu; Xuân, Hạ, Thu, Đông; Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt… tiếp nối dòng thơ hiện thực, phản ánh tâm trạng thi nhân trước hiện tình xã hội với các bài Đêm khuya ở nhà quê, Làm ruộng tự thuật, Than nghèo, Đau mới dậy, Đóng tuồng, Sống khổ và phấn đấu , vv…

Đến đây chúng tôi trân trọng giới thiệu 7 bài thơ mới phát hiện của Hàn với các bút danh Hàn Mặc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần, trong đó có bài Sống khổ và phấn đấu đã nêu trên.

(Nguyễn Hữu Sơn)

CẢNH PHAN THIẾT TRONG NGÀY TUẦN DU

HÀN MẶC TỬ

Chớp bể mưa nguồn chuyện đã qua,

Rày xem Phan Thiết khác xưa xa.

Cây còi cỏ úa tuy xơ xác,

Tủi kết hoa treo cũng mới nhà.

Đón chúa phất phơ cờ đỏ tựu,

Nha quan lược bược áo xanh cà.

Thái bình chợt nhớ ngày Nghiêu Thuấn,

Ngày Thuấn Nghiêu xưa cũng thế à!

( Công luận, số 2587, ngày 26+27-2-1933)

GỞI CHO NGƯỜI KHÔNG QUEN BIẾT

LỆ THANH

Tuy không quen biết bao giờ,

Mà trong thanh khí hững hờ sao đang.

Ra chi chọn đá thử vàng,

Ở trong thiên hạ ngang tàng mấy ai.

( Công luận, số 6766, ngày 23-2-1935)

NHÀN!

HÀN MẶC TỬ

Cổ nhơn hát: Vô sự tiểu thần tiên,

Trăng gió ấy nước non nầy thật hữu duyên.

Nước hồ sen thuyền lan bơi một lá,

Hái hoa sen đem về dâng cho ả.

Thú yên hà say tỉnh một đôi chung,

Chém lượng sóng nhớ đến khách anh hùng.

Phú Xích Bích ngâm nga hừng chí lạ,

Cầu thệ thủy mỹ nhân nào ngắm đó.

Quán thu phong còn hẹn gặp nhau kia,

Bước nhàn du chơi đã chán chê.

Vình nhớ lại mấy năm về trước,

Trời ghen ghét bắt làm cho được.

Hai bàn tay trắng trả nợ non sông,

Bây giờ đây lòng đã sạch lòng.

Túi thơ văn rờ lại thử còn bay mất,

Ờ ờ lưu lạc phong trần còn dính chặt.

Mở phăng ra đề vịnh một đôi chương,

Ngoảnh đầu xem: hoa ké ké, nguyệt chán chường.

Không lẽ thờ ơ thành phụ bạc,

Chưa hết công danh giả đò về Kiếm Các.

Ông Trần Đoàn mới thật tiêu dao,

Người nghiêm tử, khí tượng lại anh hào.

Giúp vực Hán sợi tơ còn để tiếng,

Không thèm vinh hoa, thích nhàn là sướng.

Danh lợi mà chi, phú quí ấy mà chi,

Bên hoa ngắm rượu, dưới nguyệt ngâm thi.

( Công luận, số 2587, ngày 26+27-2-1933)

ĐÊM KHUYA Ở NHÀ QUÊ

HÀN MẶC TỬ

Lều tranh lạnh lẽo mất canh thâu,

Lạnh cỏ cây trời lạnh đến đâu…

Hé cửa nhìn trăng trăng tái mặt,

Gài then thắp nến nến rơi châu.

Chiêm bao bóng lẩn Dao Trì động,

Mường tượng hồn chơi thệ thủy cầu.

Năm ngón đường tơ ngồi dậy bấm,

Gió quên than thở dế quên sầu.

( Công luận , số 2599, ngày 12+13-3-1933)

PHÚT MƠ MÀNG

LỆ THANH

Đêm hôm qua,

Giấc mộng sa đà;

Anh nằm trông thấy bông hoa tơi bời.

Sóng lòng vơi vơi,

Nỗi lòng chơi vơi;

Buồn tình anh nhớ đến người năm xưa.

Xuân đang vừa,

Duyên lứa đang vừa;

Ước ao ao ước em chờ “vu qui”.

Ôi, thời gian đi…

Lỡ mất giai kỳ;

Gặp anh buổi ấy em liền thương ngay.

Không rượu mà say,

Rứa mà say;

Đôi ta hớn hở với ngày xuân sang.

Tích tịch tình tang,

Tình tình tang…

Ai hay ly biệt đoạn tràng từ đây.

Mịt mù nước mây.

( Công luận, số 6790, ngày 23-3-1935)

HÌNH ẢNH XƯA

PHONG TRẦN

Nắng chiều nay bặt tiếng xuân tiêu

Thôi, hát cùng em điệu hát chiều.

(Yến Lan)

Tung ánh sáng, đốt tan bầu lặng lẽ,

Xé màn đêm xe đến bóng Tiên Nga.

Ta cảm thấy ma thiêng trong quạnh quẽ,

Moi tim gan than khóc giữa bầu hoa.

*

Máu ngàn xưa phun rơi trên màn thắm,

Trong hư vô, diêu động mảnh tim sầu.

Ta rung rẩy giương lên tầm mắt sáng,

Tìm trong không bức ảnh nhạt từ lâu.

*

Cảnh rùng rợn phai tình trong mê sảng,

Với ma thiêng dần hiện giữa màn hoa.

Giây hư huyễn gieo ra từng mảnh đạn,

Muôn lạy ngươi, mau kíp hãy dang ra,

Muôn lạy ngươi, mau lặng khỏi tim ta.

*

Van ngươi thôi! Vụt tắt bóng điêu tàn,

Đừng chôn ta mê man trong hỗn trận.

Ma thiêng hỡi! Giấu đi tia hốt hoảng,

Để ta cam trơ trẽn với số phần,

Để ta cam trơ trẽn phận Phong Trần…

( Công luận, số 7794, ngày 2-9-1938)

SỐNG KHỔ VÀ PHẤN ĐẤU

HÀN MẶC TỬ

Sao tôi thấy cuộc đời máu me lênh láng

Như bãi sa trường trong lúc hỗn loạn.

Sao tôi thấy dân chúng bị lầm than,

Dưới bóng mặt trời đầy rẫy hào quang.

Ngán thay! Cuộc đời sống khổ!

Nào non sông mưa mưa, gió gió,

Nào trời đất lơ láo, láo lơ.

Phủ màn mây ảm đạm, mịt mờ,

Như biến mất vào trong cõi mộng.

Kìa đại hải, kìa tràng giang ầm ỳ tiếng sóng,

Như bất bình tức tối đấng Cao xanh…

Nào những ai tự phụ bực tài danh,

Trong cảnh huống càng nên phấn đấu.

Phải, phấn đấu dầu đường đầy những máu,

Cứ hùng cường, dũng liệt bước lên.

Đạp cho bằng trở lực của thiên nhiên,

Là những sự chướng gai thường thế lộ.

Hãy tự mình bền gan tiến thủ,

Chí không lay thì trở lực phải lung lay.

Rồi bao nhiêu nỗi thống khổ đắng cay,

Lần lần sẽ phẳng lì tiêu tán.

Rồi trời đất quang minh sáng láng,

Đem về cho làn không khí trong xanh.

Nỗi bất bình bên cạnh sẽ thanh thanh,

Làn sóng hận lặng trang trên bãi ải,

Hết ta thán cõi đời là bể khổ,

Phải vậy chăng hỏi khách tài tình?

( Công luận , số 6802, ngày 6-4-1935)

Trong chiều hướng ấy, chúng tôi hân hoan giới thiệu ba bài thơ của Hàn Mạc Tử mới được nhà nghiên cứu Vũ Hà Tuệ tìm thấy trên báo Đông Á Tân Văn và báo Tràng An năm 1940. Thông tin này do Giáo sư Đặng Tiến ở Pháp gởi đến.

(Lm. Trăng Thập Tự)

(“Một di cảo của Hàn Mạc Tử” đăng liền sau bài báo tang, trên Báo Tràng An, 1940)

LƯỢNG VÀNG

Phải cẩm châu duyên

Ngồi xe cảm hứng

Chơi vườn ý riêng?

Nhu mì cho nên

Áo xiêm đa sầu…

Thơ lòng thương nhau;

Hoa thơm áy náy

Bến Hương-giang đầu.

Thêu thùa trong mơ

Thêu tâm hồn vờ…

Lượng vàng ai bán

Nửa đài cô tô.

HÀN MẠC TỬ

NHẠC BAY

Thơm như tiếng ngọc lưng chừng,

Mát như hơi mát của lòng đương tơ.

Áo xuân trong trắng ai ngờ,

Áo người quân-tử bây giờ nao nao.

Nhạc bay là nhạc còn cao,

Đố chàng lắng biết phương nào là phương.

Nhạc về quên nhớ quên thương,

Cho người nước Lỗ đo lường dư âm.

ĐÓN GIÓ

Thơ ra khỏi bút thơ buồn,

Ý tôi ra khỏi tâm hồn thì say.

Gió xa đón gió xa bay,

Tôi đang hóng mát dưới cây ngô đồng.

Lời chàng cao vót từng không,

Càng xa càng nhớ càng mong vô ngần.

Một mùa xuân với mùa Xuân,

Xuân xuân điểm chuyết hương ngần muôn hương.

HÀN MẠC TỬ

(báo Đông Á Tân Văn, 1940)

Hoàng Chúc Sưu tập

từ trang Web Giáo phận Quy Nhơn

Mừng lễ THẦY CÔ

Mừng lễ Thầy Cô, chốn học đường

20-11, vạn niềm thương

Công lao dạy dỗ, không nề khó

Kiến thức truyền trao rất tận tường

Đạo đức một chương khuyên học tập

Luân thường đôi lý bảo làm gương

Vinh quang, vạn đóa hoa dâng tặng

Nhất Tự Vi Sư, trọng kỷ cương...

Thanh Châu

CÂY TÙNG

Cội cành tươi tốt tợ như mơ

Quản ngại chi thời tiết xác xơ

Xuân đến nồng nàn tươi lá biếc

Đông về lạnh lẽo bạc đầu phơ

Chí hằng cứng, nắng mưa dầu dãi

Thân cũng mềm, trăng gió lẳng lơ

Tính chất cương nhu trong thế đứng

Vui cùng tuế nguyệt với trời thơ

Thanh Châu

Tâm tình

Tháng năm thắm thoát khó lo lường

Tợ sách đời người lật đếm chương

Tuổi trẻ tương lai luôn khát vọng

Năm già quá khứ mãi đeo vương

Bao nhiêu mộng ước chưa thành nguyện

Mấy thuở truân chuyên đã nhún nhường

Kẻ mến người thương lần vắng bóng

Giờ đây mái tóc đã pha sương...

Thanh Châu

LẶNG LẼ

Tháng ngày cứ thế dần trôi

Phút giây gần gũi để rồi chia xa

Thời gian lặng lẽ đi qua

Một miền ký ức bao la thăng trầm

Chắt chiu từng giọt nắng hồng

Từng làn hơi ấm mặn nồng thời gian

Cho đời bớt chút gian nan

Xóa nhòa cay đắng xua tan mây mù

Cho đời lặng lẽ vào thu

Tình yêu còn mãi lời ru ngọt ngào

VÕ THỊ TÂN VIỆT

Ngẫn ngơ

trước biển

Ta ngồi trước biển ngẩn ngơ

Đếm từng đợt sóng vỗ bờ xôn xao

Từng làn mây trắng trên cao

Từng cơn gió nhẹ bay vào hư không

*

Bâng khuâng đếm giọt nắng hồng

Xiên qua kẽ lá lòng vòng trên tay

Ta về thăm biển hôm nay

Bồi hồi nhớ lại những ngày xa xưa

*

Nhớ thương biết mấy cho vừa

Quê hương ơi ! biết bao mùa buồn vui

Quảng Bình, Nhật Lệ một thời

Gian lao vất vả không vơi nghĩa tình

*

Ta ngồi trước biển lặng thinh

Để cho ký ức mặc tình đi hoang

Hoàng hôn đã phủ nắng vàng

Lên từng cơn sóng lang thang rì rào

Qua rồi bão tố thương đau

Vẫn còn phượng đỏ lạc vào tháng năm

VÕ THỊ TÂN VIỆT

CÓ NỖI…

Có nỗi nhớ nao lòng của người vợ chờ chồng

Có nỗi nhớ ngậm ngùi về vất vả của người cha

Có nỗi nhớ ngấn lệ đôi mắt thâm quầng của mẹ

Có nỗi nhớ thẫn thờ một giọng hát dân ca.

Có nỗi ám ảnh len sâu vào trong tận giấc ngủ

Có nỗi buồn đau luôn giằng xé tâm hồn

Có nỗi mất mát gây nên vết thương lòng

Không thể hàn gắn và không gì bù đắp nổi

Có bao nỗi… hình hài hư ảo

Có bao nỗi… chớ vội hỏi tại sao ?

Có bao khái niệm hay định nghĩa nào

Diễn tả nổi sự thật vốn ẩn mình trong tiềm thức

Phải làm sao, làm sao…

chỉ giận mình bất lực

Đời người há phải vô dụng mãi

Họ chỉ có thể lấy đi cái bề ngoài dễ dãi

Mà tâm hồn ta vẫn còn lại vẹn nguyên.

Mặt trời đã lẩn trốn đi đâu

Để mọi thứ trên đời này đều dính vào nhau

Để dân đen cứ lầm than mãi

Bao nỗi niềm, bao nếm trải, đến bao giờ…?

LÊ MINH CHỬ

Quê Mẹ AN GIANG

Kính dâng Mẹ

Tuổi thơ dại hiện về run ký ức

Bâng khuâng lòng chạnh nhớ giấc mơ xưa

Thoáng câu hò văng vẳng gió xa đưa

Chuông trầm mặc từ ngôi chùa cổ kính

*

Làn khói ấm chập chờn ru viễn ảnh

Tiếng sáo diều sâu lắng cháy tâm tư

Mắt Mẹ buồn khơi gợi nẻo chân như

Khung trời nhớ nghiêng sầu đau lãng mạn

*

Tiếng gà gáy, những đêm dài đợi sáng

Thương ruộng mùa lúa chín trĩu vàng bông

Cô gái quê tần tảo má duyên hồng

Gánh thóc nặng oằn vai không mỏi mệt

*

Mặt sông vắng buồm nâu soi sóng biếc

Lũy tre xanh xào xạc ngỡ chiêm bao

Đường về thôn thơ mộng trắng hoa cau

Màu tóc Mẹ theo thời gian nhuốm bạc

*

Nơi phố thị mấy năm dài lưu lạc

Đời vẫn nghèo sụp đổ bước công danh

Thầm mơ về khói bếp mái nhà tranh

Mộng bình dị đơn sơ bên gối Mẹ.

NGÀN PHƯƠNG

TẠ ƠN

Kính tặng Mẹ

Tạ ơn lòng Mẹ bao la

Đưa con vững bước vượt qua thác ghềnh

Tạ ơn đời sống mông mênh

Vun bồi nghị lực vượt lên số phần

Tạ ơn bạn hữu xa gần

Cảm thông quý mến tình thân nồng nàn

Tạ ơn rừng núi ngút ngàn

Thông reo suối hát gió vàng mây xanh

Tạ ơn nắng sớm trong lành

Sáng soi sưởi ấm chân thành tin yêu

Tạ ơn lá đổ muôn chiều

Hát ru lắng tiếng thơ Kiều xa xưa

Tạ ơn vọng tiếng chuông chùa

Ngân nga thức tỉnh được thua cõi đời

Ta ơn mưa gió đất trời

Trăng sao hoa cỏ trùng khơi đậm tình

NGÀN PHƯƠNG


SÔNG TƯƠNG

Sông Tương người nói rằng sâu,

So ra bằng nửa nỗi sầu tương tư.

Sông Tương có đáy còn dư

Tương tư vô hạn ấy bờ vô biên.

Anh xa ở tận đầu tiền,

Em gần bởi chốn cuối miền sông Tương.

Tương tư chẳng thấy mặt nàng,

Cùng nhau uống nước một dòng sông Tương.

LANG NGUYÊN

TÂM SỰ BẠN GIÀ

Có mắt như đui nghĩ bực mình.

Anh em đến viếng trợn lên nhìn.

Nói năng lẩm cẩm không nhằm ý.

Đưa đón lôi thôi chẳng trọn tình.

Thơ phú gì đây bình lộn trắc.

Chủ đề nhớ đấy vẫn còn inh.

Vợ con lo lắng ngày buồn bực.

Thứ lỗi cho mình hỡi đệ huynh.

LANG NGUYÊN

TIẾNG HÁT EM

Tôi đắm mình trong tiếng hát em,
Âm thanh óng mượt tựa nhung mềm
Dìu dặt vọng vang từ quá khứ
Bao năm như thể - Nỗi niềm riêng

*
Trở lại Ban Mê, xứ quỳ vàng
Còn trong em, thuở ấy thênh thang
Tình vẫn đong đầy trong mộng tưởng
Hoa cà phê trắng thoảng sương tan
*

Ta gọi nhau từ bao, biết không
Mấy mươi năm vắng xa buồn trông
Vẫn của nhau thời xa xăm ấy
Thiên thanh áo lụa, thắm môi hồng
*

Có chút gì buồn, vương mắt cay
Trong lời hát ấy, ý sầu lây
Trở lại Ban Mê đầy mộng ước
Tiếng hát vút cao, lòng mơ say
*

Tôi đắm mình trong từng phút giây
Mơ màng đan lại những tháng ngày
Sân trường mùa hạ xôn xao nắng
Muồng vàng, phượng đỏ nhặt đầy tay
*

Tiếng hát em, tiếng hát chơi vơi
Mênh mang nỗi nhớ thuở xa xôi
Ban Mê xa lắm - Trời thơ cũ
Một thuở mộng đầy, trong nắng vơi

Phạm Thị Minh-Hưng - 15/4/2013.

TRĂNG CAO NGUYÊN

Kìa ánh trăng vàng soi bóng đêm

Ánh trăng huyền diệu, sợi tơ mềm

Hai phương, cách biệt khung trời cũ

Thương nhớ ngút ngàn thuở hồn nhiên

*

Trăng cao nguyên, ánh vàng ngọt lịm

Hoa cà phê thơm ngát hương đêm

Ta bên nhau - Trăng vàng âu yếm

Đếm sao trời, lòng bỗng dịu êm.

*

Trăng hỡi, đâu ngờ, Trăng kỷ niệm

Một thời áo trắng, tuổi ngây thơ

Làm sao tìm thấy ngôi sao cũ

Như mắt ai nhìn, thoáng giấc mơ...

*

Ánh trăng ngọt, gợi niềm nhung nhớ

Trăng nơi này, nhớ bóng Trăng xa

Trăng sáng lung linh, lòng băng giá

Một thời - Hương sắc đã phôi pha.

Phạm Thị Minh-Hưng 25/3/2013

HOA ƠI ĐỪNG CHỜ

Người chợt đến, mang tia nhìn ấp áp

Cuốn hồn tôi ra khỏi vũng đơn côi

Hoa Mười Giờ đỏ thắm đón chân người

Trên lối nhỏ vào ngôi nhà thơ mộng

*

Tôi ngu ngơ tôn người làm thần tượng

Rồi âm thầm ấp ủ giấc mơ tình

Và ngây thơ tôi phỉnh gạt chính mình

Dệt ảo mộng bằng từng đêm thức trắng…

*

Tình chưa nhóm, người quay đi thầm lặng

Tôi vô duyên nên chẳng giữ được người

Biết thương buồn, tiếc nuối cũng vậy thôi

Sao khó bảo con tim thôi lưu luyến

*

Từng viên sỏi giờ cũng thành kỷ niệm

Vắng người rồi nhà bỗng rộng mông mênh

MƯỜI GIỜ ơi, sao cứ đỏ bên thềm

Chờ chi nữa – chân quen không trở lại

Tâm Nguyện

8/2014

Mông Lung Mưa Chiều

Về thăm quê nội đồng bằng

Giữa mùa nước lũ giăng giăng mây mù

Mưa chiều vẳng tiếng hát ru

Mông lung sóng nước lúa thu dạt dào

Mưa rơi rớt hột lao xao

Chập chờn gió hát xôn xao tiếng gà

Dường như trong trái tim ta

Ấm nồng bếp lửa la đà khói rơm

Cơm chiều thơm gạo nàng thơm

Thương quê khắc khoải chiều hôm lặn tà

Dường như chợt thấy ta già

Trôi xuôi theo hạt phù sa quay về

Huỳnh Thiên Kim Bội

Cám Ơn Tình Yêu

Cám ơn anh đã yêu em

      Yêu như nắng sớm nối thêm đêm dài

Cám ơn anh đã yêu em

       Yêu mê say đắm êm đềm ngất ngây

Anh yêu nhất làn tóc mây

       Hương thơm hòa quyện cho đầy nhớ nhung

Cám ơn anh đã thủy chung

       Tình nồng say đắm tương phùng với nhau

Trời chiều bỗng đổ mưa mau

       Nụ hôn bất chợt, ôi! sao ngọt ngào

Tim em xao xuyến dạt dào

       Bướm hoa cành lá, xôn xao giật mình

Cám ơn nơi chốn tự tình

        Nụ hồng lay động, nhìn mình hôn nhau

Huỳnh Thiên Kim Bội

ÁNH ĐÈN PHỐ KHUYA

Những nhát chổi miết xuống mặt đường
Ánh đèn thấp thoáng soi bóng mẹ em cắm cúi
Quèn quẹt quèn quẹt rồi lại quèn quẹt
Con phố khuya dài nhẫn nại dáng lưng cong

Em không được ngủ trong vòng tay êm êm của mẹ
Em không được nghe giọng trầm mẹ kể chuyện như ru
Khi em mở mắt là nghe tiếng xối nước
Mẹ tắm gội kỹ càng rồi ôm em khi em còn ngái ngủ

Em xúng xinh trong áo trắng nơ xanh vòng tay chào mẹ
Em tung tăng trên con phố xanh sạch đẹp thơm
Người người đi qua họ cùng nhau cười rất vui vẻ
Em thật tự hào khi trong đó có những nhát chổi của mẹ em

Mẹ em không áo xanh váy đỏ tha thướt trên đường
Mẹ em không bàn giấy văn phòng không chức vị
Mẹ em đơn giản thôi chỉ là người quét rác
Khi con phố về khuya với thấp thoáng ánh đèn đường

Nhưng Mẹ vẫn luôn là tất cả với em
Và mẹ cũng luôn yêu em như bao người mẹ khác
Mẹ ơi con yêu mẹ vì mẹ của con đẹp nhất trên đời
Mẹ ơi con yêu mẹ vì mẹ của con thật là tuyệt vời

ĐÀM LAN

 


GIÁNG HỌA HỒNG TRẦN

Trời hờn sấm sét nổ ra

Sóng thần bão lụt phong ba cõi trần

Thiên tai thảm họa vô ngần

Trời long đất lở bâng khuâng lòng người

*

Nắng mưa công việc của trời

Bạo nguyền thưởng phạt lắm người trần gian

Ban cho vạn vật dịu dàng

Niềm vui cuộc sống vào hàng tầm cao

*

Đồng thời phán quyết lao đao

Gieo sầu nhân thế dâng trào thương tâm

Nắng mưa vô hạn quá tầm

Trần ai khổ nạn thâm trầm trời ơi !

*

Buồn đau khóc hận tơi bời

Vào đời lận đận nhứt thời gió mưa

Màn trời chiếu đất dây dưa

Giúp nhau hoạn nạn cho vừa người mang

*

Việt Nam mười nước tiếng vang

Môi trường báo động lên thang đề phòng

Chúng sanh bảo vệ giống dòng

Bình an sự sống cộng đồng nâng cao

*

Chính danh nghĩa cả đồng bào

Tương thân tương trợ đem vào ưu tiên

Ra công tiếp sức mọi miền

Che mưa chống bão thiên nhiên hoành hành.

NGUYỄN VĂN TỐT

CHẲNG CÓ GÌ PHA PHÔI

Chiều nay tôi sẽ về

Chốn xưa thăm trường cũ

Thỏa tháng năm lê thê

Nhớ bên đời phố chợ…

*

Chẳng biết cây phượng hồng

Có còn trổ nhiều bông

Như ngày xưa rấm rức

Những ngày hè nhớ nhung…

*

Và lũ bạn ngày xưa

Còn ai để gật gù

Bên chai bia lành lạnh

Nhắc kẻ chết chiều thu…

*

Có còn ai cô đơn

Để chung một nỗi niềm

(Có khi nào gắn bó

Sau ngày hội-thiên-duyên?)

*

Những ý tưởng vần xoay

Như nhánh lá miệt mài

Đu đưa trên cao ấy

Chẳng bao giờ chịu rơi!

*

Những tà áo ngày xưa

Tha thướt đến không ngờ

Còn đọng trong nỗi nhớ

Lấp lửng vội vần thơ…

*

Cái ánh mắt ngày nào

Có lẽ vẫn ngọt ngào

Bên cổng trường e lệ

Bên cổng đời xuyến xao

*

Thầy ơi, con đã lớn

Có lẽ sắp quy tiên

Nhưng sao con vẫn muốn

Bên Thầy để bé bỏng thêm!

*

Tôi sẽ cọc cạch như

Ngày xưa xe đạp ấy

Để đắm trong giấc mơ

ngày nào vui biết mấy…

*

Tôi sẽ chìa bàn tay

Dấu tích chiến tranh rồi

Chỉ còn lại ba ngón

Đủ để đùa tương lai…

*

Và mái tóc trắng tươi

Của ai đó miệng cười

So hàm răng trệu trạo

Mà buột tiếng “Trời ơi!”

*

Chiều nay tôi phải về

Có nhiều chuyện phải ghi

Vào tận trong tim vốn

đã đầy những si mê

*

Mãi mãi tôi sẽ về

Như trở lại quán xưa

Mơ màng khung trời lạ

Mà quen tự bao giờ!

*

Mãi mãi nhé bạn ơi

Hãy lắng nghe bồi hồi

không gian, thời gian nói:

“Chẳng có gì pha phôi!”

LAM TRẦN 04.07.2013

CUỐI NĂM

Giọt mưa tí tách

Tìm nhau ngoài thềm

Thời gian tích tắc

Gõ nhịp buồn tênh…

Cuối năm ít nắng

Nên thừa hoàng hôn.

Từ người xa vắng

Thừa trái tim buồn.

Trên phố xuôi ngược

Thấy thừa quạnh hiu

Thừa bờ mi ướt

Sáng sáng chiều chiều.

Trời se se lạnh

Thấy thừa đôi vai…

Thừa sách bụi bám

Chiếc ghế lạc loài.

Cuối năm nhìn lại

Mọi thứ đều thừa

Riêng thiếu mãi mãi:

Gót giày người xưa!

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

GIỌT NẮNG

Có phải em là giọt nắng

Nắng rất trong lọc bụi thời gian

Giữa dòng đời ồn ào rối bận

Nắng vẫn cùng hoa chia sẻ sắc vàng

Em không đi tìm hạnh phúc

Mà niềm vui tự đến mỗi ngày

Để lời ca dịu dàng đánh thức

Những trái tim còn ngủ vùi say

Chung một chuyến đò còn nên bạn

Bởi hữu duyên nên đã hóa tri âm

Em hãy cứ là thênh thang giọt nắng

Lọc bụi thời gian dưới những bước chân.

LÊ NGUYÊN

1 ngày đầu thu 2014

TÌNH VẪN CÒN NGUYÊN

Tự sự Sinh nhật

Tám mươi hơn vẫn chẳng chịu già

Chân còn dẻo bước dặm đường xa

Mắt còn xanh để tha hồ ngắm

Cúc vàng rạo rực với thu nga

Bỏ lại đằng sau bao ghềnh thác

Chỉ còn sóng nhạc với thơ ca

Tình vẫn còn nguyên em và bạn

Giữa mùa trăng đẹp ngát hương hoa.

LÊ NGUYÊN

Trung thu NHÂM THÌN 2014

TỪ GA ĐẦU CẦU

Ga Đầu Cầu – nơi chúng tôi trốn nhà đi bộ đội

Thôi, tạm biệt Hàng Thùng,

Hàng Tre mỗi góc phố quen thân

Mây trắng đầu ô có cùng ta lên biên giới

Hành trang nhẹ tênh, chân dép, đầu trần

Nhìn lần nữa, dưới kia Bãi Giữa sông Hồng

Nơi đã bao lần mình dựng lều cắm trại

Tuổi 15 mộng mơ đi tìm lẽ phải

Ngực buồm căng hòa khúc hát Thăng Long

Nơi biên cương trải bao mùa chiến dịch

Cậu thiếu niên thành người lính Sư đoàn

Đi hết cuộc trường kỳ lại trở về nơi xuất phát

Dừng chân dưới cầu ga xép Long Biên

Anh bộ đội không về nhà theo lối cũ

Để được qua chợ Đồng Xuân, Hàng Bạc, Hàng Đào

Đây rồi Hồ Gươm vẫn xanh xanh liễu rủ

Nét chữ rồng bay từ Tháp Bút vươn cao

Con đã trở về trong vòng tay mẹ

Bữa ăn đầu tiên cơm tám giò thơm

Chẳng miếng ngon nào tuyệt vời hơn thế

Dưới mái nhà xưa thành tiệc tâm hồn

Hà Nội 12 - 1954 – Sài Gòn, 5 - 2010

LÊ NGUYÊN

TÌM NHAU TRONG ĐỘNG PHONG NHA

Dòng sông Son biêng biếc

Bướm vàng bay la đà

Thuyền ngược xuôi liêng liếc

Phía Kẻ Bàng - Phong Nha.

*

Động lung linh thạch nhũ

Kỳ ảo bao sắc màu

Thiên Cung hay Địa Phủ ?

Biết lối nào tìm nhau ?...

Quảng Bình, 20.7.2010

VŨ ĐÌNH HUY

LOOKING FOR EACH OTHER

INSIDE THE PHONG NHA GROTTO

The bluish Son river

Yellow butterflies flew lurchingly

Boats sailed back and forth flashingly

Toward Ke Bang - Phong Nha direction.

*

The grotto is sparkling with stalactites

And so many marvellous colours

Heavenly Palace or Hades ?

Through which way should we look for each other ?...

Quang Binh, 20.7.2010

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

VIẾNG MỘ

HÀN MẶC TỬ

Lướt đến Quy Nhơn viếng mộ Hàn

Cúi đầu kính lạy tượng Thi nhân

Bảy mươi năm trước Người đi khuất*

Thơ vẫn thay Người vọng tiếng ngân!...

Ghềnh Đá-Quy Nhơn, 18.7.2010

VŨ ĐÌNH HUY

* Nhà thơ Hàn Mặc Tử sinh ngày 22.9.1912, mất ngày 11.11.1940.

VISITING HAN MAC TU’S GRAVE(*)

Darting up to Qui Nhon to visit Han Mac Tu’s grave

Bending my head, I respecfully kowtowed to the Statue of the great poet

Seventy years before, He passed away

Poetry still replaces Him to reverberate the modulation!...

Ghenh Đa-Quy Nhon, 18.7.2010

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

(*) Poet Han Mac Tu was born on September 22, 1912, and passed away on November 11, 1940.


Phụ Bản III

TIN VĂN

Có một số các bạn hỏi các bản dịch nôm hai bài thơ đời Đường “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi-Hạo và “Thu Hứng” của Đỗ-Phủ, nên xin sưu tầm sau đây, để cống hiến các bạn.

HOÀNG KIM THƯ st

HOÀNG HẠC LÂU

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng-hạc lâu !

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán dương thụ

Phương thảo thê thê Anh võ châu.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị ?

Yên ba giang thược sử nhân sầu !

THÔI-HẠO

Dịch:

1. Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?

Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ !

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay

Hán Dương sông lạnh cây bày

Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !

TẢN-ĐÀ

2. Người xưa cưỡi hạc đã lên mây

Lầu Hạc còn suông với chốn này

Một vắng, hạc vàng xa lánh hẳn

Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay

Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng

Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dày

Trời tối quê nhà, đâu tá nhỉ

Đầy sông khói sóng gợi niềm tây.

NGÔ-TẤT-TỐ

3. Người xưa cưỡi hạc vàng đi mất

Lầu hạc vàng trơ đứng chỗ này

Hạc vàng một đi không trở lại

Mây trắng ngàn năm vơ vẩn bay

San sát bóng sông cây Hán đó

Dầy dầy ngọn cỏ, bãi Anh đây

Quê nhà thời tối, nào đâu nhỉ

Sóng khói tuôn sầu nhớ chẳng khuây.

VÔ DANH

4. Hạc vàng ai cưỡi đi đâu

Mà đây Hoàng hạc tên lầu còn trơ

Hạc vàng nhẹ cánh từ xưa

Ngàn năm không lại, mây lờ mờ bay

Bờ Hán Dương vẫn hàng cây

Bãi châu Anh Vũ vẫn dầy cỏ hoa

Quê hương đâu tá, mờ xa,

Chiều tà khói sóng lòng ta vương sầu.

TÚ HÁT

THU HỨNG

Ngọc lộ điêu thuơng phong thụ lâm

Vu San, Vu Giáp khí tiêu sâm

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng

Tái thượng phong vân tiếp địa âm

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ

Cô chu nhất hệ cố viên tâm

Hàn y xứ xứ thôi đao xích

Bạch đế thành cao cấp mộ châm.

ĐỖ-PHỦ

Dịch:

1. Lác-đác rừng phong hạt móc sa

Ngàn lau hiu hắt khí thu mờ

Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm

Mặt đất mây đùn cửa ải xa

Khóm cúc tuôn rơi giòng lệ cũ

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà

Lạnh lùng giục kẻ tay đao xích

Thành quạnh dồn châm cảnh ác tà.

VÔ DANH

2. Vàng úa rừng phong hạt móc bay

Non vu hiu hắt phủ hơi may

Giòng sông cồn cộn, trời tung sóng

Ngọn ải mờ mờ, đất rợp mây

Lệ tủi sơ coi chùm cúc nở

Lòng quê mong buộc chiếc thuyền dầy

Giục ai kéo thuốc lo đồ lạnh

Đập vải trời hôm rộn tiếng chầy

NGÔ-TẤT-TỐ

3. Rừng phong xơ xác sương bay

Vu San, Vu Giáp hơi may lạnh lùng

Ngất trời sóng giội lòng sông

Mịt mù mặt đất mây lồng ải xa

Con thuyền buộc mối tình nhà

Hai lần cúc nở lệ sa hai hàng

Áo đông may cắt rộn ràng

Tiếng chày đập vải hôm vang Bạch-thành.

TRẦN-TRỌNG-KIM

BUỔI CHIỀU

TẬN THẾ

Sáng ngày ấy, nhân loại thức dậy trong bầu không khí êm đềm trong trẻo và tất cả đều ca ngợi cuộc sống. Trên cành lũ chim rộn ràng lăng líu và từng đàn ra sức múa lượn trên lưng trời như chào ánh thái dương. Các đường trong thành phố và ở làng mạc hoạt động nhộn nhịp. Tâm trí mọi người đều êm ả trong cái vui của một ngày báo hiệu thắm tươi.

Thì bỗng dưng ánh sáng dần dần giảm bớt, tuy nhiên trên nền trời vẫn không thấy một điểm hơi khói nào, dù nhỏ bé đến đâu. Nhưng trong những đại thung lũng kỹ-nghệ và dài theo con sông, dường như có một thể bụi loang loãng, mơ hồ không hình dáng, tràn lan không khí vài giờ thì có những sắc vàng nhạt ánh chạy trên tường vách nhà cửa trong thành. Trong bức màn êm diệu như bông ấy, sắc trời thoát trở nên xám ngắt và các vật thể khoác lấy một dáng dấp dị hình ma quái làm sống dậy trong óc người những mối kinh hoàng khủng khiếp phát sinh từ trong lòng sâu thẩm của những thời đại cổ sơ.

Nhân loại đã thấy xao xuyến trong một niềm lo sợ không tên không tuổi. Các con thú vơ vẩn trên đồng nhớn nhác tìm nơi chui trốn. Lũ thú rừng hối hả về hang.

Giờ phút nặng những niềm ý hoang mang đến rùng rợn. Và khí trời chở đầy điện, buông xuống một thảm tuyết dày, cùng lúc một khí lạnh của trời đêm dâng lên trùm khắp toàn thế giới. Trong bóng tối lan rộng dần ra; đám quần chúng tuôn ra khỏi nhà gặp nhau ở những nhà công cộng, sự chuyển động náo nhiệt ồn ào lên như cốt cho không nghe thấy cái im lặng đầy nặng nề và đầy hăm dọa của vũ trụ. Một tình tương thân tương ái rộng rãi như tràn ngập lòng mọi người.

Với giờ khắc qua, nhiệt độ xuống nhanh chóng. Những phản ánh lạ lùng mà màu tím quấn quít với màu xanh dợt gợi ảo giác một hành tinh nào nguội lạnh ở những vùng cùng cực tuyệt vời mà từ nơi đó mặt trời chỉ còn là một ngôi sao bé bỏng. Bọn đàn ông chạy rối ren, thét lên những lời hầu như vô nghĩa. Đàn bà dáng điệu hớt hải, run rẩy, lũ trẻ mặt mày xanh xám, bám riết vào mẹ, vài ông già quá xúc động lăn ra bất tỉnh. Đến giờ, qua các cửa sổ, ánh điện chiếu ra ngoài. Nhưng đột nhiên, không ai có thể đưa ra một lý giải khả cứ, bóng tối hoàn toàn trùm lấy thành phố, xóm làng. Một quang tuyến bí mật huyền diệu nào đã làm mất thăng bằng những máy móc quá mong manh của loài người. Giờ thì đêm tối hầu hoàn toàn. Người ta chỉ hơi đoán ra, do những phản ánh xanh xao của những bức tường, những con đường mà trên ấy, một đám loài người tràn lên không chủ đích, không biết về đâu, chẳng biết đi đâu. Đã bắt đầu có những tiếng kêu thét lên đầy vẻ man rợ, không phải của con người. Tiếng sấm nổ dồn dập thêm càng gây phần kinh khủng! Những chùm lửa tóe ra chỉ rằng nơi ấy sét rơi xuống. Những đám hỏa hoạn bùng lên phác họa một cảnh tượng thần bí với những ánh lửa chập chờn, mờ tỏ.

Trên mặt bể tiếng giông nổi dậy như điên cuồng. Những la bàn (boussole) chỉ một hướng bắc không còn phải là hướng bắc nữa. Những S.O.S. dồn dập chạy xuyên trong không gian … S.O.S... S.O.S... Nhưng không một ai đáp lại. Các bộ hải quân cố gắng để gởi những tàu chạy nhanh nhất đi cứu những chiếc lâm nạn, nhưng máy tàu lại ngừng chạy ở giữa khơi khiến cho bọn thủy thủ đến lượt họ bị rơi vào cảnh ngộ nguy ngập nhất trên một mặt biển mà những lượn sóng dần dần đứng im lại thành những đĩnh băng đá.

Ở những thành thị, người ta còn tìm cách chống lại cảnh tượng điên cuồng cứ tăng thêm mãi, cố để khám phá ra nguyên nhân khả hữu của một tình trạng nan giải là thế nào. Người thì lên án khoa học, người ta thóa mạ cái thiên tài của loài người (bởi vì, dù sao cũng phải tìm ra một tội nhân chứ) người ta cho là từ ở cái năng lực nguyên tử mà loài người đã khai cho tuôn ra những khổ hại hiện giờ đây. Manh mối đã tìm ra, lý do là đó, nguyên nhân là đó. Đừng tìm hơn: Sự hấp hối của trái đất, những tiếng rỉ rên rền rĩ của những kẻ sắp chết, cái hình phạt bị xích xiềng lại giữa băng đá và trong đêm tối, tất cả những thứ đó, chính là công tác của nguyên tử, sự báo thù của nguyên tử. Nó đã bị hành hạ, bị đem ra mổ xẻ, bị phân tán chia xé trong những phòng thí nghiệm bí mật… không cần phải nhiều hơn nữa, để gieo sự khủng khiếp và chết chóc.

Những con người, mới hôm qua đây còn thông minh sáng suốt, thì vào giờ nầy lại làm những cử chỉ của những kẻ mất trí khôn; có những kẻ run lên trong một tiếng cười ghê gớm, quăng mình ra ngoài trống không từ trên từng lầu thứ tư hay thứ sáu; những kẻ khác nhào đại xuống sông nhưng vì lớp tuyết rất dày đến khiến cho nhiều người chỗi dậy không có qua một thương tích nào, và họ bỏ chạy đi nơi khác vừa kêu thét lên, hớt hải, ngẩn ngơ, giận rung lên vì đã không chết được.

Đến giờ thì hàn-độ đã tuôn xuống đến 100 độ dưới số không gây nên những tàn phá chưa từng thấy bao giờ. Thân thể bại hoại, gân thịt co rút lại, mặt mày xám xịt một sắc máu bầm, giống người, cũng như giống thú rừng, chui ẩn thành những khóm đặc trong những nơi nào mà họ tưởng là có thể che chở họ có hiệu quả nhất khỏi cuộc tấn công tối đại của những nguyên tố. Chẳng mấy chốc, xác chết và người sống trộn lộn thân thể giá ngắt của họ vào nhau và có lắm thi thể không thể biết được là còn sống hay đã chết rồi. Hơi nước thoát ra từ phổi vừa ra đến ngoài là biến thành một thứ tiếng rào rào phủ lên những kẻ hấp hối một tấm vải liệm trắng. những con mắt trợn trừng lên, con ngươi muốn lọt ra ngoài, những nước mắt đông đặc lại trên mặt.

Thì giữa lúc ấy đột nhiên tiếng bão tố gần đã thấy như êm dịu. Tiếng gào thét của gió nhường cho một hơi khói mãnh liệt, nhưng điều hòa, kế đó là một giọng rì rào cực kỳ êm ả. Trên mặt biển vài hòn bông tuyết cuối cùng cùng chảy đi, trong một ánh sáng yếu ớt phục sinh. Trước mối hy vọng như hiện diện lúc ấy, những thân xác đã kiệt quệ đến cùng độ kia chỉ thấy hơi rung động. Ánh sáng? Có thể! Ảo giác chắc chắn hơi… Thế mà không. Một bình minh sắc đục và xanh xao dường như dâng lên ở khắp các góc chân trời, phát ra một ánh sáng còn là rất yếu đuối chợt ẩn chợt hiện trong các sắc trắng của tuyết và sắc u ám của nền trời, nhưng mỗi giờ qua, tràn lên xua dần bóng tối để sau đó chiếu rọi rõ ra trên cái phong cảnh tàn phá thảm đạm khôn tả. Những trận cuồng phong to tát nhất những cơn bão tố hung bạo nhất chỉ là những trò chơi con nít khi đem đối chiến với lực lượng vô danh vừa làm hại những cánh đồng trần giới, trên đó nẩy nở những cánh hoa người.

Từ trong cõi u mê, hôn ám tiếp cận cõi chết, những kẻ sống sót lần hồi tỉnh lại, với những nét nhìn lạ lùng, họ không tin cơn ác mộng mà họ vừa sống qua. Họ đã tự buông mình cho thần chết, và chính cái sống giờ đây làm họ ngạc nhiên. Họ đi mà họ không biết họ đi đâu và kiếm, không biết kiếm gì… Sau cùng cũng như ở vạn vật, sự thăng bằng dần dần trở lại trong trí não với những tia sáng đầu tiên của mặt trời mà những con mắt đã bị cái lạnh đốt phá kia thấy không chịu đựng nổi… Những ngày, và những tuần nhựt trôi qua. Bốn tháng sau cuộc biến động mà loài người không bao giờ quên ấy một bản báo cáo như sau được phát thanh. Người ta có thể ấn định được đích xác những nguyên nhân của cuộc bạo động kinh tợn mà thế giới vừa trải qua. Đất trời tối sầm lại và tiếp theo đó làn sóng giết người của cái lạnh là do một thứ bụi nằm xen vào giữa vũ trụ và giữa quả địa cầu của chúng ta và mặt trời lại đặc biệt dày ở nơi xích đạo. Vào giờ phút nầy, tính có 500 triệu người chết và 300 triệu hấp hối. Chỉ riêng những dân tộc ở Bắc-Cực và Nam-Cực chừng như họ không bị gì cả. Sự làm nên băng đá hãn hữu ấy, bởi tính cách rộng rãi và đột ngột của nó, gợi lại những thời kỳ băng hà mà tổ tiên của chúng ta đã được biết vào buổi đầu của nhân loại, cách đây lối vài trăm nghìn năm. Không có gì khiến chúng ta có thể quả quyết rằng tình trạng như thế sẽ không tái diễn…

Như thế là nhân loại suýt đã phải tiêu vong.

Từ ngày đó, bắt đầu một hệ thống quét dọn nền trời bằng ra đa trên khắp nẻo hướng không gian. Và mỗi chiều, mấy nhà quan sát chấm dứt bản thông cáo của chúng bằng một câu làm yên lòng mà tất cả các đài phát thanh truyền lại, và loài người hồi hộp đợi để nghe:

Trống trên xích đạo. Tốc lực đi: 30 cây số trong một giây. Nhân loại cứ ngủ yên. Loài người sẽ thức dậy ngày mai trong ánh sáng.

TRẦN-LANG

ĐỖ THIÊN THƯ st.

HÁT…

(Kính nhớ Thánh nữ Cécilia 22/11)

Vừa trải tấm bạt xuống vệ đường, bày những thứ lẩm cẩm để chờ người qua lại, có ai đó ghé vào, tìm tìm, bới bới rồi ngã giá mua giúp cho một đôi món hàng tuy cũ kỹ mà cũng có ít nhiều quý giá vào thời cấm vận. Thế là đã có chút tiền ăn sáng, và nếu may mắn, cho một ngày cơm đường cháo chợ.

- Chào anh!

Chẳng quay ra, tôi cũng thừa biết là những ai đang ghé vào “gian hàng” của tôi, gian hàng của một gã chợ trời, mà trên tấm bạt nhựa trải trên vỉa hè là linh tinh những món hàng ngày tôi lang thang khắp cái đất Sài gòn thời đói rách, cũng trên những vỉa hè, mua đi bán lại những thứ rồi sẽ có người cần đến. Các bạn của tôi ngồi xẹp cả xuống hè đường, đít kê lên mấy chiếc dép. Họ lịch sự gọi mấy ly cà phê đen con con, kèm theo chiếc ấm nhôm cũ kỹ đựng trà, một bạn phì phèo điếu thuốc, tàn gạt vào bụi cây ven hàng rào.

- Bắt đầu đi nhá, kẻo lại có ai tới!

Rồi chúng tôi mở ra những quyển sách tự làm, những tờ giấy cũ cũ mà đầy kỷ niệm, trên đó chi chít nào chữ, cái tuồng chữ của anh T đoàn trưởng từng rất cẩn thận nắn nót trên chiếc bàn, ngay cả khi đã tối trời và cúp điện. Và những nốt nhạc chằng chịt. Chính đây là cái mà bạn bè tôi đã rất chịu khó mò từ nhà ra đây cùng với tôi tạo nên một lớp học dã chiến. Vâng, họ chưa thỏa mãn với những giờ khắc tập tành trong cái phòng chật hơi người nơi giáo xứ chúng tôi phụ trách hát lễ hàng ngày. Và họ ghé vào đây, trên cái vỉa hè để gây nên cái tò mò cho người qua lại. Hết trang này tới trang khác, chúng tôi tập với nhau cho thật thành thạo, rồi mỗi đứa một bè, chúng tôi hàng ngày gân cổ lên giữa trời quang, những bài Thánh Ca có lẽ chẳng bao giờ có thể quên được. Thỉnh thoảng, bài ca ấy đột nhiên bé hẳn lại, vì có ai đó ghé vào, ngắm ngắm nghía nghía những vật dụng bày trên tấm bạt, mua mua bán bán gì đó, có khi chả được việc gì. Thỉnh thoảng người khách buột miệng, các cậu vui ghê nhỉ. Rồi làn khói thuốc lại bị dập đi, bài ca lại cất lên, trơn tru cũng có, mà thường bị ngắt quãng bởi cái giọng la lên, sai rồi, sai rồi… Và lại hát lại. Và gần như ngày nào cũng thế!

Bọn chúng tôi, ai cũng nghèo, và ai cũng ham hát. Mà hát ở nhà thờ làm gì có tiền! Mà có trả tiền thì chắc chúng tôi cũng chả dám hát nữa, vì việc hát sẽ mất đi cái tính thiêng liêng của nó. Bạn D, con của một sĩ quan cấp tá, sau khi bố đi học tập, gia đình trở nên khó khăn như bao bạn cùng trang lứa. D như chúng tôi cũng mê hát hò. Vào nhà cậu, tôi thấy trên mép bàn là những phím đàn piano… vẽ. Vì làm gì có tiền mà sắm organ với lại piano. Và D tập đàn trên cây đàn giả tạo ấy. Tôi chưa bao giờ thấy D chơi đàn thật ở nhà thờ, nhưng tôi nghĩ, tiếng đàn câm của D chắc là rất hay.

Sáng nào cũng thế, cứ 4g kém là đã có giọng “thầy” T ong óng réo chúng tôi đi lễ. Có khi cả bọn còn ngủ ở nhà anh T để đi lễ cho có bọn. Mấy cái micro cũ mèm hiệu Akai, vốn là dụng cụ thâu âm của chiếc máy xài băng cối cùng thương hiệu, được chúng tôi trưng dụng hát suốt bao năm trường trong ngôi thánh đường ngày ấy. Có hôm, chị N không đi lễ được, nên cây organ đành im tiếng, và anh T có dịp để đem cây guitar ra mà “khua” cho cả bọn cao rao lời hát tôn vinh Đấng Chí Tôn. Ngày Chúa Nhật, có khi tôi phải đi cả ba lễ sáng, trong đó có lễ của thiếu nhi. Tất nhiên, “hoành tráng” nhất vẫn là lễ nhì do ca đoàn chúng tôi đảm trách. Chúng tôi hay hát những bài nhiều bè cho… đã. Và vì vậy, có nhiều khi giờ tập hát chưa đủ để chúng tôi tiêu hóa hết những bài hát cần tập, nên các bạn lại lọ mọ ra nơi tôi bán hàng mà “rống” lên đủ những bài ca cho thật nhuyễn nhừ, vì sợ rằng bữa sau hát lễ sẽ bể te tua!

Chúng tôi hát suốt năm. Hát trong nhà thờ, trong đám tang, khi nhập quan, lúc đưa thi hài người quá cố ra nghĩa trang, đám cưới, đọc kinh đám giỗ, mà phần thưởng chính là được hát những bài hát đầy thánh thiện mà chúng tôi đã nhập tâm hồi nào không biết. Vào những dịp lễ Giáng Sinh, thì niềm vui được góp tiếng hát lại tăng lên gấp bội. Tuần Thánh với vô vàn bài hát tưởng nhớ Chúa lập phép Thánh Thể, tưởng niệm Chúa chịu chết treo trên Thập tự, và cùng hân hoan với việc Đức Kitô khải hoàn ra khỏi mồ… là cơ hội cho cả bọn cọ sát với những đại tác phẩm của những đại tác giả trên thế giới; là cơ hội cho các bạn đi tập hát trễ leo cột nhà để lên phòng tập hát, vì cửa đã khóa từ bên trong do e sợ mất mấy cái “xế guồng” để ở tầng trệt! Vui đáo để. Có khi chỉ có thêm thùng trà đá cho cơn khát bớt gay gắt. Thỉnh thoảng ai đó ủng hộ chút tiền, là a lê hấp! cả bọn kéo ra ngoài đường tự thưởng nhau ly sữa đậu nành, sữa đậu phộng, hay ly rau má xanh xanh mát cả mắt, mát cả lòng!

Mà rồi người có đạo cũng thích “dân” ca đoàn lắm. Có hôm, tôi đang cưỡi cái xe đạp đi đâu về, xe đang tà tà xuôi theo con hẻm đã vắng người vì trời đã tối. Bất chợt, một chú bé nhào ra, suýt đụng vào tôi. Tôi vừa thắng xe lại, thì đã nghe giọng một phụ nữ the thé, sao anh đụng con tôi (mà nào tôi có đụng đâu). Chị bế xốc thằng bé lên, mắt nhìn sang kẻ mà chị cho là đã gây tai nạn, rồi ú ớ, Ủa, anh gì ở Ca đoàn hả! Thôi thôi, không sao đâu! Anh cứ đi đi! Trời đất! nếu bả không biết cái bản mặt mình, dám bả ăn thịt mình quá! (Nè! Bà ơi, thịt tui zai lắm). Nghĩ lại thấy vui vui. Có lẽ lúc ấy vui cũng tràn che cái tức!

Anh chị em chúng tôi thuở đó, thỉnh thoảng có ai từ giã nước non mà ra đi. Đó là những ngày đầy thấm thía. Có những bài hát, hát đi hát lại để càng thấm thía hơn cái tiếc nuối của sự chia tay. Rồi cũng có khi, hai bạn nam nữ chúng tôi tìm hiểu nhau từ thuở nào chẳng ai hay, phát cho cái thiệp mời dự đám cưới. Lại tha hồ cho chúng tôi tìm ra và dựng những tác phẩm thật lớn để chia vui với đôi bạn hạnh phúc ấy. Phần tôi, trong đám cưới của chính mình cùng một ca viên cùng ca đoàn, đã được anh chị em dành hát cho bài Halleluia lừng danh của Handel, tác giả mà nghe tiếng thôi đã phải ngả mũ khâm phục.

Nói tới đám cưới. Tôi từng tham gia ca đoàn có cả trên dưới 30 cặp ca viên trong cùng ca đoàn thành hôn với nhau trong cái rạng rỡ chung của anh chị em. Trong đó có vợ chồng chúng tôi. Và tất cả những gia đình này đều hạnh phúc! Dường như đó cũng là điều Chúa Trời tưởng thưởng cho cái công bao ngày góp tiếng hát vô danh trong Nhà Ngài!

Cũng có khi, Chúa chắc là nhăn nhó vì cái kiểu hát của chúng tôi! Có lần, trời mưa, tôi ngại đi lễ vì nghĩ rằng, chắc chẳng có mấy ma nào đi hát lễ trong cái chiều mưa gió này. Rồi chợt nhớ đến những ca viên mới gia nhập nhưng rất chăm chỉ, nghĩ rằng giờ đây họ đang chờ mình để cùng hát trên lầu ngôi thánh đường cổ kính, nơi chiếc harmonium xưa xửa xừa xưa cứ ẽo ọt mỗi lần V chân đạp cho đầy hơi, tay múa trên dàn phím để làn âm thanh vang trong ngôi giáo đường. Nghĩ vậy, tôi vội đạp xe đến nhà thờ. Quẳng vội cái xe ngoài sân, tôi nhào vào nhà thờ với bộ quần áo và mái tóc ướt nhẹp. Cha đang giảng! Tôi leo lên lầu. Hơn chục con mắt đổ vào tôi khi tôi vừa ló cái đầu còn lách nhách những giọt mưa. Hình như trong mắt họ có cái gì chế giễu (Hm, ca trưởng gì mà tới trễ vậy!). Chẳng có V đánh đàn, chẳng có sách vì sách để ở nhà một ca viên gần đó, mà vì mưa nên không ai đi lấy. Vậy là họ hát chay bài đầu lễ. Chúng tôi hát bài dâng lễ cũng khá trơn tru vì là bài đã rất quen. Đến lúc rước lễ, chúng tôi cũng cứ bài quen mà hát vì có sách đâu mà xem. Chia làm 2 bè như vẫn thế. Tôi và cô bé kia bè trên, 2 cậu còn lại “đi” bè dưới. Đang hát dở chừng, cô bé hát chung bè với tôi bị… ho nên tạm ngừng tiếng. Rồi chẳng hiểu sao mà nhè ngay cái bài quen thuộc đến thế, cái bài mà tôi nhắm mắt cũng biết rõ từng nốt nhạc. Vâng chẳng hiểu sao mà tôi quên béng mất lời ca khi bài hát đang còn dang dở. Vậy là bè chính tắt ngấm, 2 cậu bè phụ cứ thế mà… kéo, và kéo bè mình rất gọn gàng, chẳng cần biết mình hát cái gì mà ngang như cua vậy. Chúng tôi nín cười. Và ra về mà chỉ muốn độn thổ…

Rồi nhiều năm trôi qua, anh em tứ tán, thỉnh thoảng lại gặp nhau ở đâu đó, lại tay bắt mặt mừng, và vui hơn nữa khi biết nhiều người vẫn còn ca ca hát hát ở đâu đó. Có kẻ ngày xưa bé tí, ngồi trên ghế mà phải đôn lên để tay giang đủ rộng hết phím đàn, giờ đây lại chễm chệ trên cây đàn ở 1 nhà thờ lớn. Có kẻ ra nước ngoài rồi cũng loay hoay gia nhập vào ca đoàn nào đó, thậm chí tấm hình cho thấy đương sự đang quơ tay vẫy nhịp cho ca đoàn say sưa những lời thánh thót. Lâu lâu, có cái thiệp mời dự đám cưới của con anh A, con chị B, xưa từng chen vai thích cánh với tôi trong ngôi thánh đường nào đó. Đi lễ nghe con cháu mình hát mà lòng ấm áp. Rồi ai đó gọi điện thoại đến nhà gợi ý có đi viếng bố anh nọ mới qua đời? Quái lạ! sao họ biết số điện thoại của mình vậy ta? Dĩ nhiên là phải đi thôi, vì anh ta từng là người mang trọng trách khua chúng tôi hát lễ 4g sáng những năm xưa. Bọn tôi cùng dâng nén hương, hát vài bài hát mà tự nhiên lại chia bè ra, làm bài ca thêm phần kính cẩn và long trọng. Bạn bè gặp lại nhau, chẳng mấy chốc lại rủ rỉ rù rì hẹn nhau hôm nào ngồi ôn lại ngày xưa thân ái, quên đi hết những lúc cáu sườn nhau mà giờ đây đã trở thành kỷ niệm.

Vị Linh Mục trên bục giảng nhắc nhở rằng, có khi nào chúng ta tự đặt cho mình một câu hỏi: “Anh hay chị đã bao giờ đem linh hồn nào về với Chúa chưa?”. Tôi giật mình vì câu trả lời rất chân thật là “Chưa!”. Nhưng, chúng tôi tin rằng, trong đôi phút thực sự hướng lòng về Đấng Toàn Năng, tiếng hát dù nhỏ nhoi của chúng tôi cũng giúp cho ai đó một chút ngoái nhìn lên Thượng Giới. Biết làm sao hơn, khi cả đời chỉ có tiếng hát là thực sự cố gắng với cả linh hồn, cả trí khôn, và cả cái thân xác mong manh như cỏ…

LAM TRẦN 1.12.2013


Ông Phùng đưa tay bấm nút remote để tắt cái TV. Ông vừa xem xong một trận tennis của một giải nhỏ đang thi đấu ở Nhật Bản. Tuy là giải nhỏ nhưng cũng bao gồm nhiều tay vợt thượng hạng trên khắp thế giới. Ông cảm thấy thoải mái vì anh chàng đấu thủ người Serbia vừa thắng trận tương đối nhẹ nhàng. Ông bước lần ra ban-công nhìn lơ mơ xuống đường. Tối thứ bẩy người ta đi chơi đầy nghẹt. Xe hơi các loại kéo hai dãy dài nghịch hướng nhau giữa một rừng xe máy đủ loại. Có lẽ trên thế giới không có thành phố nào có nhiều xe máy như cái đất Saigon này. Tiếp theo là tiếng ồn. Từ trên ban-công lầu hai, ông Phùng nghe được đủ loại âm thanh. Tiếng động cơ xe, tiếng kèn lớn nhỏ thi nhau kêu inh ỏi. Người Việt Nam lái xe có vẻ thích dùng kèn. Có thể không hẳn như vậy, nhưng vì có quá nhiều người sử dụng giao thông không có trật tự nên người ta phải dùng kèn. Cũng có khi người ta thích tranh đua nhau ở tiếng kèn. Xe này nhấn kèn một tiếng, xe bên cạnh nhấn hai tiếng. Thỉnh thoảng một xe cứu thương mở kèn với âm thanh rất lớn len lỏi trong rừng xe máy và xe hơi. Tất cả hòa điệu thành một giàn kèn khổng lồ. Tham gia với giàn kèn vĩ đại này là giàn loa nhạc từ các tiệm bán quần áo thời trang, các cửa hàng bán điện thoại di động. Đây là một cách lôi kéo khách hàng, mới có chừng mười năm trở lại đây. Người ta sử dụng loa công suất thật lớn để phát ra một thứ âm nhạc không giống ai. Rồi những tiệm gần nhau thì tha hồ cạnh tranh, bên này phải lớn hơn bên kia, khiến cho người đi đường gần đó cảm thấy tức ngực choáng váng, chân đi không vững vàng. Không biết có phải vì đường sá ồn ào như vậy cho nên có một bộ phận người dân Saigon hay nói lớn tiếng. Hai người đứng gần nhau nói chuyện nhưng một người khác đứng xa năm mười thước cũng có thể nghe được. Người ta nói lớn tiếng ngay cả khi đi vào hành lang bệnh viện. Trong khi ở nước ngoài người ta coi tiếng ồn là một thứ ô nhiễm môi trường sống rất trầm trọng, thì người dân ở đây chỉ biết khuyên nhủ sống chung hòa bình với tiếng ồn. Không sống chung sao được khi mà quan trên chẳng trông xuống, và người ta chẳng chịu trông vào. Kệ nó! Cứ để cho tiếng ồn phát triển đến đâu cũng được. Trên bẩy mươi rồi, ông Phùng chợt nghĩ thời gian sống chung với tiếng ồn của ông không còn bao lâu nữa. Có gì quan trọng đâu mà phải quan tâm.

Khi nghĩ đến thời gian còn lại ngắn ngủi của mình. Ông thấy như có một cái gì đó xao xuyến trong lòng. Hiện giờ ông sống một mình một cõi trong một khoảng không gian chừng mười mấy thước vuông. Phía bên ngoài và tầng dưới là gia đình cô em gái nhỏ hơn ông bốn tuổi đang sống chung với chồng và hai cậu con trai đã tốt nghiệp đại học, có công việc làm ngon lành nhưng chưa đứa nào chịu lấy vợ. Vì tính ông hay lang thang đi trưa về tối nên ông nói với cô em gái để cho ông tự lo vấn đề ăn uống. Ông có thể sử dụng bếp núc chung với gia đình cô em nhưng ông cũng sắm riêng một cái bếp gas nhỏ để ông nấu nước pha trà, cà phê hay nấu một vài món ăn riêng để ông dùng. Trong phòng ông cũng có toilet riêng cho ông sử dụng. Vậy là quá đủ để ông sống thoải mái trong quãng đời còn lại rồi. Cái hay của ông là không gây ra một điều gì phiền muộn cho gia đình cô em gái của ông. Một điều đặc biệt là sức khỏe ông còn rất tốt. Mỗi sáng ông đi bộ hai vòng Dinh Độc Lập rồi tà tà thả bộ về nhà sau khi ghé qua bà bán xôi mặn mua một gói với đủ thứ lạp xưởng, chà bông, mỡ hành, đậu phọng và ghé ông già bán báo mua một tờ kẹp vào nách rồi băng qua ngã tư, đi thêm một đoạn đường nữa mới tới nhà. Ông có thói quen mỗi khi gặp món vừa ý, ông có thể ăn liên tục vào mỗi buổi sáng và kéo dài cả tuần lễ như vậy. Cho nên sáng nào ông cũng nhấm nháp một gói xôi mặn của bà bán hàng trước Câu lạc bộ Lao Động. Một hôm, sau khi làm hai vòng Dinh Độc Lập ông ghé lại lên tiếng bảo bà hàng bán cho một gói xôi mặn. Bà trả lời tỉnh rụi:

- Xôi chưa chín, ông ơi!

Ông giật mình:

- Vậy à?

Rồi ông bỏ đi một nước.Vô lý! Xôi đã đem ra bán cho khách mà lại nói “chưa chín”. Ông hiểu liền. Chắc là hôm trước đó ông đã là người mở hàng và suốt buổi sáng đó bà ta bán không được nhiều. Vậy chính ông là người đem đến xui xẻo. Rồi sáng nay ông lại mở hàng, bà ta không muốn bán viện cớ là xôi chưa chín. Hợp lý rồi! Mấy người bán hàng rong ngoài đường có kiểu tin dị đoan quái gở như vậy. Ông cũng không vừa. Ông trả đũa bằng cách chấm dứt không bao giờ ăn xôi mặn của bà nầy nữa. Ông đổi qua ăn sáng với bánh mì “xăng-úyt”. Xe bánh mì này bán ngon nổi tiếng từ trước đến giờ. Hồi xưa, tính từ cái thuở đổi tiền đến nay, chính cái xe bánh mì này nghe đâu đã giúp bà mua hai ba căn nhà mỗi căn cũng được ba, bốn tấm. Ai cũng nói bà này có thời. Đúng vậy. “Bôn ba không qua thời vận”. Lâu lâu thấy ông bà mình nói một câu đúng quá! Đừng ham làm lớn, rình rang, cơ ngơi vĩ đại nhưng ăn không nên, làm không ra, rốt cuộc, cơ ngơi chỉ để thế chấp vay ngân hàng rồi… biến. Ở xóm trên có một quán nhỏ bán chuối bọc nếp nướng. Quán sá ọp ẹp nhưng có được hai thùng nướng vĩ đại. Chuối sắp lên trên lò hàng hàng lớp lớp như một đoàn quân đi diễu hành trong ngày lễ lớn, vẫn không kịp bán cho khách lúc nào cũng bu đông đen. Khách hàng thường khen quán chuối bọc nếp nướng này ngon nhờ cái món nước cốt dừa. Món chính là chuối hoặc nếp không được khen, món phụ là món nước cốt dừa, giống như một món gia vị ăn theo lại được khen nức nở và cũng chính món phụ này làm nên nhà nên cửa không bao lâu về sau. Không chừng họ đã có rồi, bây giờ làm thêm vài căn nhà nữa cất theo kiểu lâu đài cho hợp thời trang.

Chợt có một luồng gió man mát thổi nhẹ về phía ông. Mấy sợi tóc phất phơ trên trán khiến ông cảm thấy nhột nhột. Trời tối không thấy được tóc ông đã ngả sang bạc. Muối nhiều hơn tiêu. Một nỗi buồn cô quạnh xâm chiếm tâm hồn ông già vừa hơn bẩy bó tuổi đời. Bạn bè cùng thời với ông hồi học ở trường Tây bây giờ đã có cháu nội ngoại lủ khủ. Người bạn lấy vợ trễ nhất hồi xưa giờ cũng đã có một cặp cháu, một cháu nội và một cháu ngoại vừa qua khỏi lớp mẫu giáo.

Mới hôm qua, một người bạn ở Mỹ về kéo ông và một vài người bạn khác ra quán nhậu lai rai. Ông bạn cho biết lần này về là để cưới vợ và anh đang làm thủ tục để đưa bà vợ mới cưới về Mỹ. Ông Phùng rất đỗi ngạc nhiên hỏi:

- Mầy vợ con đùm đề, cháu nội ngoại tùm lum mà còn cưới vợ cái nỗi gì?

- Vợ tao tan hàng từ khuya rồi mầy không nhớ sao?

- Ờ há!

- Con, cháu của tao lớn rồi, đi làm ăn ở các thành phố khác…

Rồi nó cà kê nào là nó phải ở nhà thui thủi một mình. Sáng ra quán uống ly cà phê đấu láo với bạn bè, dõi mắt tìm người quen, chừng hơn một tiếng đồng hồ rồi quay về nhà hết đi ra rồi lại đi vào, hết xem TV, nghe nhạc rồi lại “chéc meo”, ôm cái máy vi tính như ôm “người tình… không chân dung” cho đến giờ cơm. Bữa cơm thì lại tùy hứng, hôm nào siêng thì nấu một lon gạo ăn từ sáng đến chiều, hôm nào không siêng thì mì gói làm chuẩn. Nó kết luận:

- Đấy cuộc sống của tao như vậy có chán như cơm nếp nát không? Tao cưới vợ để cho có người nghe tao nói chuyện, cho dù hơi hám biết còn đủ để nói được bao nhiêu năm nữa đây.

- Xí-quách mày còn tốt không?

- Mấy muốn nói cái “chuyện kia” hả? Yên tâm đi bạn hiền! Tớ còn đủ bản lĩnh để phục vụ bà xã. Mầy cũng nên kiếm lấy một bà, chứ “tu tiên” theo kiểu như mầy rồi thì cũng chán đời mà chết.

Ông mang lời khuyên của người bạn già mới cưới vợ về nhà tập trung suy nghĩ. Mười năm về trước khi ông vừa qua tuổi sáu mươi, có người khuyên ông nên cưới người vợ để lấp đi khoảng trống trải trong tâm hồn của một người đang ở bên kia triền núi của tuổi tác. Hồi ở tuổi trưởng thành, ông cũng có một gia đình nho nhỏ, nhưng khi đứa con trai vừa được bốn tuổi, ông nhận thấy người phụ nữ này không muốn cùng ông ăn đời ở kiếp. Xung đột nổi lên. Chia tay! Người đàn bà đó ôm con về ở với cha mẹ và sau đó sang Pháp định cư. Lâu quá rồi, hình ảnh người đàn bà đó đã đi ra khỏi tâm trí của ông. Ngay cả đứa nhỏ ông cũng hầu như quên lãng vì hồi đó ông thấy nó không có vẻ gì giống ông.

Hiện tại, tuy không phải Việt kiều nhưng ông cũng thừa khả năng tài chánh để cưới một người vợ. Nhưng cưới ai? Ông chưa xác định người phụ nữ “trong mộng” của ông sẽ như thế nào? “Nàng” sẽ ở vào khoảng tuổi nào đây, U40 hay U50? Ông không thích nhắm vào lớp U30. Lớp tuổi này còn quá trẻ đối với ông, thuộc vào hàng con cháu. Chướng quá đi! Thêm vào đó, người ta lại có thể nói ông “già mà còn ham trống bỏi”. Mấy ngày trước, ông Phùng lên mạng thấy một anh chàng đại gia nào đó 73, 74 tuổi, tức là còn lớn tuổi hơn ông bây giờ, cưới một cô vợ mới 21, 22 tuổi. Đám cưới được tổ chức “hoành tráng”, nói theo ngôn ngữ “hiện đại hóa” thời nay, có xe đời mới rước cô dâu về nhà cất theo kiểu lâu đài trong phim “Bạch Tuyết và bẩy chú lùn”. “Ông rể”, không dám gọi bằng “chú rể”, mặc bộ “côm-lê” trắng tinh, giống hệt một anh chàng ca sĩ “pê-đê” trên sân khấu đám cưới. Nhiều ông bạn già đi tập thể dục buổi sáng với ông Phùng có vẻ ngưỡng mộ anh chàng đại gia này và có lẽ cũng thầm ao ước có nhiều tiền để cưới được một cô gái trẻ măng và còn…”zin” như em này. Như vậy, theo quan niệm của mấy ông bạn già thì anh chàng đại gia này cưới vợ tức là “mua” được một người con gái trẻ và còn trong trắng, thứ nhất, để lấy “hên” cho công việc làm ăn, và thứ hai là chứng tỏ gân cốt còn ngon cơm dư sức phục vụ công việc phòng the cho nàng tiên bé bỏng còn mới keng, chưa từng có một anh con trai nào chạm đến cái lớp biểu bì trên da của nàng. Ông Phùng lại suy nghĩ không biết cái “ngon cơm” của anh chàng đại gia này kéo dài đến bao lâu nữa? Cho dù ông Trời tặng cho anh chàng này thêm mười năm nữa lúc đó cơm của anh biến thành “cháo lỏng” không còn hơi sức đâu mà phục vụ khi nàng đang ở vào độ xuân thì đầy sung mãn. Nàng chỉ cần đợi ông già này khăn gói đi về cõi vĩnh hằng để ôm một số vốn không phải nhỏ dư sức “mua” một ông chồng cùng trang lứa kết duyên tóc tơ đến hồi răng long đầu bạc. Cha mẹ và gia đình của nàng cũng được hưởng vinh hoa phú quý. Quả là một sự hy sinh vĩ đại!

Thật ra ông đại gia này chắc chắn cũng biết cái tương lai nó như vậy rồi. Nhưng ông cần gì nữa, hiện tại ông có tiền nhiều quá không làm gì cho hết, đương nhiên ông có quyền sử dụng đồng tiền đó và làm bất cứ cái gì ông thích miễn không vi phạm pháp luật. Ông có thể cưới cô này về sống một hai năm rồi thỏa thuận li dị, sau đó cưới cô khác coi như thay đổi món ngon, và cứ thế tiếp tục cho đến khi ông từ giã cõi đời.

Nhưng đối với ông Phùng thì khác. Một người độc thân lớn tuổi. Ông nghĩ giờ này tìm người phụ nữ để làm bà xã cho mình tức là tìm một người bạn tri kỷ, một người phụ nữ ít nhất có một trình độ văn hóa dù không bằng ông nhưng cũng có thể trao đổi với những kiến thức về đời sống về xã hội nhân văn. Ông muốn có một người phụ nữ nào đó có thể ngồi nghe ông trao đổi về thân phận hẩm hiu của những người đàn bà ở tận… Trung Đông. Hoặc người phụ nữ đó có thể nói cho ông nghe về một làng nghề ở vùng sông nước Cửu Long.

Cách đây mấy năm ông có quen một cô bạn cùng tập môn Thái Cực Quyền ở một Nhà văn hóa. Cô cho biết cô đã tốt nghiệp đại học từ lâu nhưng không đi làm việc ở đâu cả vì cô phải chăm sóc cha mẹ gần tám mươi lại thêm bà mẹ bị tai biến dù không nằm yên bất động, nhưng còn đi lại với cái gậy bốn chân. Cũng vì phải lo chăm sóc cha mẹ già nên cô không buồn nghĩ đến chuyện chồng con, và theo cô nói thì bây giờ gần năm mươi rồi, có nghĩ đến chuyện lập gia đình cũng đã quá muộn. Ông tò mò hỏi thêm về quan niệm sống của cô, về sinh hoạt hằng ngày, hay những cách tiêu khiển giải trí, cô cho biết cô là lao động chính trong nhà không lương. Tất cả mọi công việc nội trợ và chăm sóc ông bà già do cô phụ trách, người em gái ở nơi khác có chồng con và có công việc tốt, lương cao còn ông chồng là giám đốc một công ty, cho nên gia đình rất khá giả. Chính người em gái này “hân hạnh là nguồn tài trợ chính” cho cô và ông bà già. Cô không đọc báo, không đọc sách, buổi tối xem qua loa TV một chương trình ca nhạc nào đó chừng hai chục phút rồi đi ngủ sau khi ông bà già đã an giấc. Thật tình mà nói cô đã tự cô lập mình, đã tự tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội. Ông thử hỏi cô về một vài hoạt động xã hội, hay những sự kiện khoa học hoặc giáo dục mà báo chí vừa nêu, cô hoàn toàn không biết. Cô cũng không biết một tí gì về vi tính. Ông Phùng suy nghĩ những người phụ nữ theo kiểu này không thể trở thành người bạn tri kỷ của ông cho dù cô đã có trình độ học vấn cấp đại học. Nếu cưới về họ chỉ là một bà nội trợ đúng nghĩa. Ông thấy không cần thiết phải đi tìm những người phụ nữ kiểu đó.

Xe cộ dưới đường thêm phần đông đúc. Ánh sáng rực rỡ của các loại đèn xe và đèn từ các tấm bảng hiệu dễ làm cho người ta lóa mắt. Nhưng ông Phùng không bận bịu với cảnh rộn rịp dưới đường. Ông chỉ nhìn lơ mơ vào vùng ánh sáng đang trải rộng phía dưới kia để cho đầu óc ông tự do phiêu lãng vào một nơi xa xăm nào đó có một người phụ nữ mà ông muốn tìm.

Có rồi! Ông đã tìm được rồi! Vậy mà qua bao nhiêu năm ông tự nhiên quên bẳng đi. Người ta còn sờ sờ đó. Cô giáo mà ngày xưa ông thường nói chuyện tếu trong những giờ giải lao. Đúng rồi. Kim. Cô giáo xinh xắn như vậy sao lúc đó vẫn cứ độc thân. Có lần cô tâm sự với ông:

- Buồn lắm thầy Phùng ơi! “Buồn… tàn thu” chứ không phải vừa. Thứ bẩy, Chủ nhật chẳng có ai đến đưa mình đi uống cà phê hay nghe nhạc bá láp gì hết.

Lúc bấy giờ ông Phùng thấy tội nghiệp chứ không hề có ý định gì cả. Ông xem cô như một em gái, rủi ro duyên phận lỡ làng. Ông còn mong muốn có ông Việt kiều nào đó đến rước nàng về dinh, rồi đưa nàng về bên kia bờ Thái Bình Dương. Ông có ý chờ xem, nhưng rồi chờ mãi không thấy tăm hơi một bóng dáng người đàn ông nào đến rước cô lên đường. Rồi đến ngày cô về hưu. Buổi tiệc tiễn đưa cô “phục viên” sao mà buồn vậy. Ông Phùng cũng được mời đến dự và đã có vài lời tiễn đưa:

- Cô nghỉ hưu rồi sẽ có nhiều người nhớ đến cô.

Ông không nói thêm: “trong đó có tôi” nhưng chắc cô sẽ nghĩ vậy.

Bây giờ, ông Phùng nhận thấy rõ ràng. Đây. Đây là đối tượng mà ông cần phải tìm.

Ông quay trở vô đến bàn làm việc của mình, mở cuốn sổ tay tìm số điện thoại của Kim. Có rồi đây. Ông lấy điện thoại di động ra nhìn vào sổ tay, bấm số…

Dương Lêh


NĂM TUẦN LỄ

(Cinq Semaines En Ballon)

của Jules Verne

CẶP ĐÔI SƯ TỬ

(Nhờ Trời, con tàu Khải Hoàn bị gió bão thổi bay đến một ốc đảo có cây cối xanh tươi)

Liền đó, bác sĩ mở cái van hơi ở phía trên, con tàu từ từ đáp xuống cạnh ốc đảo. Con tàu được tái lập cân bằng lập tức. Joe và Kennedy nhảy xuống đất.

Bác sĩ bảo:

- Mang súng theo, mang súng theo. Hãy cẩn thận đấy.

Dick cầm cây súng carabine, Joe cầm cây súng săn.

Họ tiến nhanh vào rặng cây xanh tươi, nơi báo hiệu một nguồn nước dồi dào, nên họ không kịp chú ý đến dấu chân thú còn in rành rành trên cát ướt.

Thình lình một tiếng rống vang lên, cách hai mươi thước.

- Tiếng rống sư tử - Joe bảo.

- Tốt thôi, - Gã thợ săn nói - Chúng ta chiến đấu. Không gì mạnh bằng chiến đấu.

- Hãy cẩn thận nghe bạn Dick... Cuộc sống của người nầy là tùy thuộc vào cuộc sống của người kía đó.

Nhưng mà Kennedy không nghe. Gã tiến tới bằng cặp mắt nẩy lửa, với cây súng trong tay đã lên đạn nòng. Dưới một tàn cây, một con sư tử gáy đen đang phục thế tấn công. Vừa thấy gã là nó nhảy bổ tới, trong khi một viên đạn bay ghim vào tim, làm nó ngã lăn ra chết tốt.

- Hoan hô - Joe la lên.

Kennedy liền chạy đến cái khe nước, tuột xuống mấy bực thang ẩm ướt, đến bên bờ suối rồi gục đầu vào dòng nước mà uống lấy uống để cho đã khát.

- Hãy cẩn thận đấy bạn Dick - Joe vừa nói vừa thở hổn hển - Đừng uống nước nhiều quá.

Nhưng mà Dick không trả lời, cứ uống mãi cái dòng nước ngon lành ấy. Gã say uống rồi.

- Còn ông bác sĩ nữa kìa - Joe nói.

Chỉ có tiếng nói đó mới lôi kéo Kennedy về sự thật. Gã múc đầy một chai nước, rồi lên bức thang. Ngạc nhiên thay, một bóng đen to lớn đang đứng án ngữ trước cửa.

Joe và Dick phải lùi lại:

- Chúng ta bị nhốt rồi.

- Không lẽ, như vậy là cái gì?

Dick chưa kịp nói hết lời, thì một tiếng rống kinh khủng vang lên, báo hiệu một kẻ thù mới mà họ phải đương đầu.

- Một con sư tử khác - Joe nói.

- Một con sư tử cái. A, cái con quỷ nầy, hãy đợi đấy!

Gã thợ săn lên đạn và khai hỏa. Con thú biến mất.

- Đi lên!

- Không được đâu bạn Dick. Bạn vẫn chưa giết được nó, thì người nào xuất hiện đầu tiên, là người đó sẽ chết.

- Làm sao đi ra, bác sĩ Samuel đang chờ đợi chúng ta.

- Để tôi làm mồi dụ nó, còn bạn thì bắn nghe.

Joe cởi cái áo ra và máng vào đầu súng, rồi đưa ra cửa hang. Con thú hung dữ nhảy chồm tới. Kennedy rình sẵn, bắn một phát vào vai. Con thú rống lên một tiếng rồi ngã lăn xuống, đè lên Joe. Một phát súng thứ nhì vang lên, kết liễu đời con vật. Ông bác sĩ hiện ra, với cây súng trong tay còn bốc khói nòng.

Joe nhanh nhẹn đứng dậy, nhảy qua mình con thú và trao chai nước đầy cho ông thầy. Bác sĩ vội cầm cái chai nước, mà uống một hơi, hết phân nửa.

Ba người bạn ôm nhau, thầm cảm ơn Thượng Đế đã cứu vớt họ một cách thần kỳ.

Một buổi chiều êm ả dưới vòm vây, họ ăn uống phủ phê để lấy lại sức khỏe. Kennedy đi lùng kiếm khắp nơi, mà không thấy một con thú nào nữa. Chỉ có họ là nhơn vật quan trọng ở nơi ốc đảo thiên đàng nầy thôi. Họ nằm dài xuống tấm ra, và ngủ yên ổn qua đêm.

Sáng hôm sau, mặt trời chiếu gay gắt xuống, nhưng vẫn không xuyên qua được vòm cây dầy đặc. Bác sĩ chờ đợi cơn gió thuận lợi để lên đường. Joe thì mang cái bếp cá nhân đến để nấu ăn, và phung phí nước tối đa mà không còn ngần ngại gì nữa.

Kennedy ngồi không nói triết lý:

- Thật là một sự nối tiếp kỳ lạ; từ sự buồn bã đến sự vui vẻ; từ sự thiếu thốn đến sự phong phú; từ sự bần cùng đến sự xa hoa. A, đến cả tôi cũng phát điên mất.

- Nầy bạn Dick thân mến, - bác sĩ bảo - nếu không có bạn Joe, thì bạn cũng không có dịp ở đây để triết lý về sự vô thường của đời người.

Dick chìa tay qua Joe mà nói:

- Xin cám ơn bạn hữu.

- Không có chi - Joe bắt tay trả lời - Không có chi. Chỉ là một sự thay phiên nhau mà thôi. Có một lúc nào đó, bạn sẽ giúp đỡ tôi cũng giống như vậy.

- Chúng ta là một sinh vật yếu đuối, dễ sa ngã vì một điều nhỏ nhặt.

- Thầy ơi, thầy bảo một chút nước uống là điều nhỏ nhặt sao? Cái chút nước uống nầy là rất cần thiết cho sự sống đó.

- Chắc chắn rồi, người ta thiếu ăn thì sống lâu hơn thiếu uống.

Joe thì khoái trá với cái nơi trú ẩn thần tiên nầy. Đó là lãnh địa của giấc mơ. Gã nhờ ông thầy chấm cho tọa độ, để sau nầy có dịp nào thuận lợi mà quay trở lại.

Họ ở đây mấy bữa mà chẳng thấy một miếng gió nào hết. Bác sĩ đâm ra lo ngại. Sau khi điêu đứng vì thiếu nước, người ta sẽ đi đến chết đói vì thiếu ăn.

Nhưng mà bác sĩ cũng được an lòng, khi thấy mực thủy ngân hạ thấp xuống. Đó là dấu hiệu của một sự thay đổi thời tiết. Ông chuẩn bị các điều kiện cần thiết để lên đường. Thức ăn, nước uống được dự trữ đầy đủ.

Bác sĩ Fergusson phải thiết lập lại cân bằng cho khinh khí cầu, và Joe phải hy sinh một mớ đáng kể về cái gia tài thâu lượm được ở hầm vàng. Gã nhăn mặt nhăn mày khi nghe ông thầy nói. Vị thầy nầy chứng minh rằng gã ta phải bỏ lại một số lượng vàng lớn để đổi lấy nước uống. Giữa vàng và nước gã chọn cái nào? Rốt cuộc rồi, Joe cũng phải quăng bỏ xuống cát một số lượng vàng quý báu đáng kể.

Gã bèn nói an ủi:

- Để xem coi ai đó đến sau chúng ta, và họ sẽ ngạc nhiên khi tìm thấy một đống vàng ở nơi cõi hoang vu nầy.

Kennedy nói tiếp:

- Nếu có một nhà khoa học nào đi ngang qua đây, và họ bắt gặp những mẫu vàng nầy.

- Không sai đó Dick - Bác sĩ nói - Họ sẽ rất đỗi ngạc nhiên. Khi về nhà, họ sẽ đăng tải lên nhiều tờ bướm rơi… Rồi sau đó chúng ta nghe đồn đại về một mỏ vàng ở ngay giữa sa mạc.

Cái ý nghĩ gạt gẫm các nhà khoa học, cũng an ủi cho Joe nhiều. Gã mỉm cười.

Trong phần thời gian còn lại, vẫn chưa có dấu hiệu gì thay đổi. Nhiệt độ ngoài trời lên đến 45OC. Thật là một cơn nắng lửa rớt xuống.

Về đêm thì dễ chịu hơn.

Ba thầy trò chia ca trực đêm để đề phòng bất trắc.

Trong ca gác của bác sĩ và Kennedy, thì không có việc gì xảy ra. Nhưng vào ca gác của Joe thì có biến động.

Khoảng 3 giờ khuya, Joe nhìn thấy mức thủy ngân hạ thấp đột ngột, trời thì tối sầm lại. Joe vội đánh thức hai bạn:

- Báo động, báo động. Gió đến rồi. Gió đến rồi.

Bác sĩ nhìn trời rồi nói:

- Bão tới. Bão tới. Lên tàu mau. Lên tàu mau.

Mọi người đều lên tàu kịp lúc, và quăng bỏ bớt đi một số vàng nữa để cho con tàu được nhẹ nhàng bay lên.

Các nhà du hành nhìn lại lần cuối cái ốc đảo cứu nạn đang trong cơn dông. Chẳng bao lâu sau nó mất hút trong đêm tối.

Thanh Châu dịch thuật

LẠY

Vì sao có phong cách lạy để tỏ niềm tôn kính? Tôi có đọc thấy nói về cách tôn kính của một số bộ tộc thiểu số là họ mọp đầu xuống trước mặt, đưa hai tay lấy chưn người họ tôn kính đặt lên đầu họ. Có phải từ đây nảy sanh ra việc lạy đó chăng? Với hình thức lạy tôn kính thì lạy mấy lạy? Theo tôi thì chỉ lạy một lạy thôi. Việc mọp đầu đặt chưn người tôn kính lên có lẽ chỉ một lần là đủ, chớ không lẽ xô ra ngồi dậy rồi mọp xuống kéo đặt tiếp thì khó coi lắm. Sau nầy, do sự suy nghĩ về cách tôn kính người ta đặt ra phải lạy mấy lạy vì lý do nầy, lý do khác.

Giờ đây tôi bàn đến hình thức lạy. Khi quỳ mọp xuống, muốn đứng lên, ta đưa một chưn tới trước, hai tay chống lên đầu gối đứng lên mới dễ. Từ đó hình thành và thành hình cách lạy. Sau đó người ta tạo hình thức lạy sao cho đẹp. Thuở nhỏ, tôi thấy người Campuchia lạy, họ chấp hai tay xoay qua trái rồi xoay qua phải với sự uốn mình, sau đó xoay ngay lại chính diện rồi mọp xuống đất. Người Trung Hoa thì hai tay đánh đòng xa mấy cái rồi khuỳnh hai tay, đầu hai bàn tay, các ngón chạm nhau rồi quỳ xuống, tay để sát đất, trán đặt lên hai bàn tay. Đứng lên, tất cả mọi cách đều giống nhau. Người Việt Nam thì chấp hai tay cúi thẳng xuống. Cách thức lạy thì giống nhau chỉ có hình thức thì khác đôi chút.

Đàn ông thì đứng lên, mọp xuống, cứ thế cho đến xong. Ngày nay tôi thấy một số người, sau khi mọp xuống, họ quỳ gối và lạy cho tới xong.

Đàn bà thì hình như chỉ có một cách là sau khi mọp xuống, họ ngồi bẹp và lạy cho tới xong. Trước khi mọp xuống lần đầu, đàn ông cũng như đàn bà đều xá một, hai hoặc ba xá rồi mới lạy.

Từ cái lạy biểu hiện sự tôn kính, về sau, người ta đặt thêm một số quy cách lạy. Có hai cách lạy chính là lạy đám cưới và lạy cúng kiến.

Lạy đám cưới, đây là lễ ra mắt gia tiên. Cô dâu chú rể lạy gia tiên, ông, bà, cha, mẹ… Người ta cho rằng đây là lễ vui nên cô dâu, chú rể chấp tay lại bằng cách tay nầy nắm tay kia để thể hiện việc tay nắm tay đi trọn cuộc đời mà cũng là thể hiện sự tròn trịa, mọi việc đều diễn tiến suôn sẻ. Tôi cho rằng như vậy cũng tốt.

Lạy cúng kiến, lạy Phật, Thánh, Thần… Thường người ta chấp hai bàn tay lại, ngón duỗi thẳng. Đây là lễ kèm theo sự cầu nguyện nên tưởng chừng như sự cầu nguyện đó thoát ra từ trán tới hai bàn tay và được đưa lên các bực, các đấng mà ta cầu nguyện.

Cách lạy:

Nhìn thấy cách chào của người Thái Lan, đối với người tôn kính nhứt như ông, bà, vua… họ chấp hai tay giơ lên khỏi đầu; với người đáng kính một chút, hai tay giơ lên khỏi trán một chút… và hạ xuống lần. Đối với người nhỏ, cấp bực thấp, họ chấp hai tay ngang ngực và nói câu chào hình như là Sa-va-na-kháp, tôi nhớ không rõ.

Cách lạy của người Việt, tôi thấy thường người ta chấp tay ngang mặt để xá một, hai hay ba xá rồi giơ nhô lên khỏi trán hay khỏi đầu rồi xá xuống. Tới đất, nhiều người chống hai bàn tay xuống đất, cúi đầu gần sát đất rồi nhỏm lên lạy tiếp; có người đâu thẳng hai bàn tay, các ngón vừa chạm nhau và đặt xuống đất rồi cúi đầu, trán sát hai bàn tay rồi nhỏm lên lạy tiếp.

Theo tôi, hình thức cúi đầu thì sao cũng được. Còn hai tay chấp nhô lên khỏi trán hay khỏi đầu cũng được vì tôi chưa nghe ai nói sự nhô lên này là tỏ sự tôn kính cả.

Trước khi lạy chính diện thì lạy bên phải, bên trái, sau lưng trước vì người ta cho rằng khi cầu xin Trời, Phật, Thần, Thánh… phải cầu ở bốn phương nghĩa là cầu ở khắp nơi phò hộ. Đức Khổng Tử thì cho rằng Trời, Thần, Thánh… không ban phước khi được cầu xin, không giáng họa khi không được cầu. Theo tôi, lạy là lễ với nghi thức trân trọng, tôn kính mà thôi. Tác dụng của lời cầu, theo tôi, cũng có đôi chút vì khi nghĩ, nói lời cầu xin, bản thân tung ra những vi điện với ý tốt, nó trung hòa bớt những vi điện xấu xung quanh. Nhưng những người tàn ác thì những mảng vi điện ác kết chặt vào cầu điện (linh hồn)1 của họ để khi dòng điện vòng về, họ chịu cái đau đớn mà họ đã gây ra chớ khó giải tỏa được. Đức Phật dạy rằng ta tu cho ta chớ không tu giúp kẻ khác. Tóm lại, khi lạy, theo tôi, ta chỉ cần lạy vào chính diện mà thôi.

Số lạy:

Có nhiều người cho rằng khi lạy, một lạy đầu là lạy trời, một lạy kế là lạy đất. Lạy thứ ba là lạy ông, bà hay thần thánh… Hoàng tộc nhà Nguyễn họ nói rằng lạy vua, họ lạy năm lạy. Những vị đi viếng đền Hùng, họ nói họ cũng lạy năm lạy. Có người nói lạy thần thì lạy bảy lạy. Đi đám ma nếu lạy hai lạy là có đi đưa, lạy bốn lạy thì không đi đưa. Lễ mừng thọ, lễ ra mắt trong đám cưới, dâu, rể lạy ông bà cha mẹ hai lạy. Một số người cao niên ở Bến Lức, Long An… lại nói rằng lạy người sống một lạy, người chết hai lạy, bàn thờ ông bà thì lạy bốn lạy. Từ đó tôi cho rằng lạy thì mấy lạy cũng được, không có việc đúng hay sai. Quy định nầy do người đặt ra thì người hay ta cũng có quyền xóa đi mà đặt lại.

Tôi cho rằng:

1. Lạy người sống thì lạy một lạy trong lễ mừng thọ, lễ cưới do con dâu lạy. Có người nói rằng phải lạy hai lạy, họ lý luận rằng một lạy là lạy cho người có mặt, một lạy thứ hai là lạy ông hay bà vắng mặt. Như vậy thì cả hai ông bà có mặt thì sao? Người độc thân, dù già nhưng chưa bao giờ lập gia đình thì lạy thứ hai là lạy ai?

Do đó, theo tôi, ta chỉ lạy kính cho người có mặt một lạy thôi, không nói lôi thôi gì hết.

2. Lạy người chết ở đám ma thì lạy hai lạy là đủ kính tiễn biệt rồi không cần biết có đi đưa hay không.

3. Lạy ông bà… trước bàn thờ thì lạy bốn lạy. Người ta lý giải rằng trên bàn thờ thì thờ ông bà. Bên ông hai lạy, bên bà hai lạy vì ông hay bà đều có cha mẹ cả.

4. Lạy Phật, Tiên, Thánh: 3 lạy vì một lạy là lạy trời, một lạy đất, lạy thứ ba là lạy Phật, Tiên, hayThánh.

5. Lạy vua hay lạy các vị trong đền thờ vua: Triều vua nhà Nguyễn quy định lạy năm lạy thì cứ giữ nguyên.

6. Lạy thần, thánh: lạy ba lạy hay bảy lạy.

Nếu lạy ba lạy thì coi như Thần ngang hàng với các đấng siêu nhiên Phật, Tiên, Thánh thì không ổn vì Thần do vua phong cho làm Thần ở một địa phương hay vì linh hiển, dân tôn lên làm Thần. Thần phải nhỏ hơn Phật…

Nếu lạy bốn lạy như lạy ông bà thì không ổn vì Thần cai quản một địa phương nên lớn hơn ông bà. Nếu lạy năm lạy với lý luận: Trời một lạy, Đất một lạy, Phật, Tiên, Thánh một lạy là ba. Thần do vua phong nên phải kính vua một lạy là bốn, lạy thứ năm là lạy Thần, coi như Thần ngang với vua là không ổn nên lạy sáu lạy.

Người ta thường nói: Ngũ quỷ, Lục tặc, Thất hiền, Bát tiên. Nói đến “Tặc” người ta thường cho là kẻ xấu đáng khinh. Như vậy sáu lạy thì không ổn nên thêm một lạy nữa là bảy.

Nhưng lạy vua năm lạy thì thế nào? Ai có năm cậu con trai thì nói là ngũ quỷ, có năm cô con gái thì là ngũ long công chúa. Vậy ngũ quỷ hay ngũ long đều là bậc siêu phàm cả nên lạy vua năm lạy.

Trong lần cúng ở lăng ông Lê Văn Duyệt, tôi thấy hành lễ họ lạy ba lạy. Hỏi Tiến sĩ Trần Văn Khê, ông nói là lạy ba lạy. Nhưng ông là Tiến sĩ về âm nhạc!

Vậy lạy Thần thì ba lạy hay bảy lạy tùy tập tục của đình hay miễu ở địa phương đó. Nhưng mỗi năm trình diễn lạy cúng một lần thì không sợ mất thì giờ. Lạy bảy lạy cũng được.

Tân Bình ngày 11.10.2014

NHỰT THANH

(Phạm Hiếu Nghĩa)

----------------

1. Nhựt Thanh gọi linh hồn là cầu điện. Nó gồm những vi điện li ti kết hợp thành. Nó là nguồn điện điều hành mọi cơ quan trong cơ thể hoạt động.


Phụ Bản IV

CÁI ĐỊA VỊ

của VĂN KHÔI HÀI

TRÊN ĐÀN VĂN HỌC

PHAN-KHÔI

Nước ta từ xưa nay trên làng văn học có đều hà khắc quá, là sự đối đãi cùng những người có tài khôi hài và những văn thể khôi hài. Tức như ông Cống Quỳnh, tuy là có tiếng khen để lại đời nay, người đời vẫn lấy làm thích, nhưng thích là thích một cách khác, có ai khen ông cũng khen một cách khác. Người nước ta khen ông Cống Quỳnh cũng như khen một vai hề trong rạp hát, khen ông là khen cái tài mồm mép mà thôi; chớ trong lòng vẫn khinh, khinh cũng như khinh mấy chú hề trong một gánh hát tuồng.

Người mình chưa nghĩ đến cái hay trong việc khôi hài là dường nào; cũng chưa hiểu đến cái ích lợi của văn khôi hài và người tài khôi hài ra sao. Vì vậy cho nên ít ai biểu đồng tình cùng họ, không để vào con mắt, cũng loại hết cả hài văn ra ngoài nền văn-học, là phải lắm, không trách đặng.

Nhưng phải biết rằng ai có tài thông minh tuyệt thế thì mới nói được chuyện diễu có duyên hay làm được bài văn bông lơn có duyên, chớ không phải dễ gì đâu mà hòng khinh thị. Làm một bài văn trang hoàn diển nhả, trong mười tay văn, tay nào cũng làm được hết, chớ làm một bài văn khôi hài cho hay, đọc lên cho ai cũng mở miệng cười và lấy làm thích ý, thì trong mười tay ấy chưa chắc là đã có một tay làm được đâu.

Văn khôi hài nó thường làm cảm động người ta một cách rất mạnh, mà người ta không tự biết. Giả như tôi có một tật gì xấu, có kẻ làm bài văn đế ám chỉ vào cái tật xấu ấy của tôi; trong khi tôi đọc đến, tôi phải tức cười nôn ruột mà tôi không giận được, rồi lần lần tự nhiên tôi bỏ cái tật xấu ấy bao giờ, mà chính tôi cũng không hay. Đó, mới thật là một bài hài văn hay đó, và cái công dụng của nó là như thế.

Sở dĩ ông Molière nổi danh trên văn đàn Pháp và cũng nổi danh trên văn đàn thế giới nữa, là chỉ nhờ cái tài khôi hài ấy mà thôi. Coi đó thì biết trong làng văn bên Âu-châu, người ta biết trọng đãi kẻ khôi hài lắm, chớ không như bên mình.

Chúng ta phải phục ông Tư-mã-Thiên là ông thánh sư về sử học và văn học. Trước hai ngàn năm nay, mà ông đã nhận rõ cái sự khôi hài là có quan hệ đến thế đạo nhân tâm, văn khôi hài là một thứ văn có điệu dụng phi thường, và nhân vật khôi hài cũng là hạng nhân vật siêu phàm xuất chúng, cho nên trong Sử ký của ông, ông đã luyện riêng ra một thiên “Liệt truyện” kêu bằng “Hoạt kê”, hoạt kê cũng tức là khôi hài, - trong đó ông kể ra nhiều người có tài hoặc khéo nói, hoặc hay văn như Đông-phương-Sóc, Thuần-vu-Khôn đều là người thiên hạ xem thường mà ông đem lưu danh vào thanh sử vậy.

Kể ra bọn hoạt kê, tức là người hay khôi hài, lại còn có cái đặc tánh nầy đáng quý lắm nữa là trong đám họ, người nào cũng có cái vẻ tự cao và khinh đời, có người trong con mắt họ chẳng coi quyền thế ra chi, chẳng coi công danh phú quý ra gì, mà cả đời chỉ nói bông đùa, cốt để nhẻ đời hay răn đời, chớ không thèm cần ích gì hết thảy. Cái tư tưởng tự do ấy, cái khí phách độc lập ấy, hỏi trong đám đọc sách muôn pho, làm sách ra đầy tủ, đã có mấy người được ư?

Theo như những dật sự của ông Cống Quỳnh mà tương truyền lâu nay thì thấy ông ấy trong nghề khôi hài, chẳng lấy gì làm lỗi lạc lắm. So với bọn Đông-phương-Sóc, Thuần-vu-Khôn đời xưa bên Tàu thì có chỗ kém nhiều. nhưng, đều đó ta có nên đem ra mà trách ông Cống Quỳnh đâu. Một xã hội đã không biết thưởng thức cái thứ khôi hài, không trọng hài văn đối với những người hay khôi hài, chỉ coi như thằng hề hát bộ, thì bảo ông Cống Quỳnh lỗi lạc sao cho đặng chớ?

Trong nghề khôi hài, kỵ nhứt là sự quá thô tục. Những tay hoạt kê giỏi đời xưa, không khi nào văng câu tục tiểu từ mồm mình ra bao giờ. Ông Cống Quỳnh ta, thì có hơi tục một chút, hoặc giả vì đó mà ông không được liệt vào hạng khôi hài xuất sắc.

Ở nước ta xưa nay, những tay khôi hài có phải một mình ông Cống Quỳnh mà hôi đâu. Người ta còn kể ra như ông Tú Xuất ở Nghệ an, ông Ba Giai ở Hà nội, lại trong Nam Việt cũng có một vài người đương sống nữa, không muốn nói tên ra đây làm chi. Nhưng tiếc thay, đời đã không thấy người biết trọng, thành ra hạng nhân tài ấy cũng đành tên họ chôn trước khi mình qua đời, rồi dần dần cùng rụi với cỏ cây mà chớ!

Tôi lại từng đọc sách thấy người ta nói dân tộc nào phổ thông cái tính hay khôi hài, ấy là biểu lộ ra dân tộc ấy có tư chất thông minh. Mà giọng khôi hài càng sâu sắc chừng nào thì càng tỏ ra cái trình độ thông minh cao chừng nấy.

Phải lắm! Có thông minh mới nói ra câu bông lơn có thú vị, mà cũng duy thông minh lắm mới biết ngửi lấy cái thú vị của câu bông lơn hay. Chớ còn “nói chơi không biết, nói thiệt không hay”, thì duy có ngu đần mới như vậy, dân ấy là bỏ xó! Bởi vậy bên Ấn-độ có một bác sĩ xuất bản một cuốn sách toàn là chuyện khôi hài của nước mình, mà để tên sách là “Thông minh tài trí của người Ấn-độ”, thế cũng đủ nhận thấy cái giá trị của sự khôi hài là dường nào.

Theo tư trào văn học của thế giới ngày nay, tôi muốn nhắc cái địa vị khôi hài lên cao một chút trên văn đàn ta. Từ nay ta hãy coi trọng nhân tài khôi hài và hài văn, rồi thì nhân tài và hài văn ấy mới sản xuất ra được.

“Làm nghiêm ai dám lại gần?”

Người ta đã vậy, mà văn cũng vậy. Cứ giữ mực khăn đen áo rộng quá, thì nhiều khi làm cho kẻ đọc mình phải chán. Trong nhiều bài văn của tôi có giọng pha trò là vì tôi nghĩ như thế, chớ không phải tôi làm ra khinh bạc đâu. Ai khăn đen áo rộng được, thì tôi há lại không khăn đen áo rộng được như ai sao?

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st

Cúc Trắng Mong Manh

1.

Đồng Dao mở cửa bước vào nhà, phòng khách tối mờ mờ. Cô đi đến mở toang hai cánh cửa sổ, ánh nắng lùa vào căn phòng sáng bừng lên. Bàn viết đặt cạnh cửa sổ, trên bàn thật bừa bộn, gói thuốc lá để cạnh cái gạt tàn đầy ắp những đầu thuốc lá và tàn hương. Phin cà phê trên chiếc ly còn đọng lại một màu nâu nhạt của cà phê sữa. Những bông hoa cúc trắng trên chiếc bình pha lê héo tàn rũ xuống, vài cánh hoa rơi rớt nằm trên trang bản thảo.

Công việc của Đồng Dao khi đến căn nhà này vào những giờ giấc nhất định là giúp việc nhà, dọn dẹp nhà cửa. Người chủ nhà là một nhà văn góa vợ, ông sống với người con trai, coi như Đồng Dao giúp việc cho hai người đàn ông độc thân. Thường khi cô đến cả hai cha con đều đi làm ở cơ quan.

Đồng Dao bưng bình hoa và phin đi vào nhà trong. Cô bắt đầu công việc của mình. Vào nhà tắm thu dọn quần áo cho vào máy giặt, rửa chén bát ở kệ bếp, ông nhà văn ăn cơm tháng do người hàng xóm cạnh nhà nấu, thức ăn đựng trong mấy gà-mên đến giờ đưa sang. Ngôi nhà không có đàn bà nhưng ngăn nắp trật tự, hai cha con ông nhà văn là người có học thức và khó tính, Đồng Dao hiểu rõ điều này. Cô làm đúng như những gì ông nhà văn yêu cầu, quần áo giặt xong phơi trên móc, hôm sau ủi treo vào ngăn tủ chung trong căn phòng nhỏ dành cho khách. Việc cuối cùng là quét dọn lau nhà cửa bàn ghế. Trong căn nhà vắng lặng, Đồng Dao làm việc nhanh nhẹn chu đáo, đi ra đi vào sắp xếp mọi thứ như làm việc cho chính mình. Từ khi mới đến giúp việc, ông nhà văn còn nhờ cô giúp cả những việc mua sắm thực phẩm như đường, sữa, trà, cà phê, những thứ ông thường dùng ban đêm và để mời khách. Đồng Dao đi siêu thị mua sắm các thứ về sắp xếp trong tủ thức ăn. Cô để hóa đơn ở bàn viết. Lần đầu tiên, ông nhà văn để tiền vào bao thơ với tờ giấy viết mấy chữ “cảm ơn cô”. Cứ như thế khi thực phẩm và các thứ cần dùng trong nhà hết Đồng Dao lại đi mua sắm. Cô rất vui khi làm công việc này, và cũng vui khi làm xong mọi việc cô len lén ngồi vào bàn viết đọc những câu chuyện ông nhà văn viết.

Đặt bình hoa xuống bàn. Đồng Dao ngồi vào ghế, cô giở từng trang bản thảo, ngó đăm đăm vào trang giấy trắng:

- Vẫn không viết được sao? Hình như đêm qua ông ấy mất ngủ hút thuốc lá nhiều hơn.

- Hay là ông ấy gặp chuyện gì bất an? Hay là chuyện tình cảm? Người đàn ông sáu mươi tuổi góa vợ đã năm năm. Sống cô đơn nay gặp được tình yêu?

- Dao ơi. Mi nghĩ chuyện gì lẩn thẩn thế. Không liên quan gì đến mi.

Không biết tự lúc nào từ khi giúp việc trong căn nhà này, một mình một bóng, không trò chuyện với ai, Đồng Dao thấy tự nhiên hay thành thói quen cứ nói chuyện một mình. Có lẽ cũng là phản xạ tự nhiên của con người.

Ngoài cửa có tiếng bước chân, ông nhà văn bước vào. Đồng Dao giật mình ngẩng lên. Cô bối rối chưa biết phải xử trí ra sao khi bị ông nhà văn bắt gặp đang đọc trang bản thảo. Cô vội gấp lại để cây viết lên trên. Ông nhà văn ngồi xuống salon, lên tiếng giọng nói nhỏ nhẹ chậm rãi:

- Cô đọc câu chuyện tôi đang viết dở dang phải không?

Đồng Dao đứng lên hơi cúi chào, mỉm cười:

- Hôm nay ông về sớm. Dạ, xin lỗi vì đã đọc trang bản thảo.

- Có gì mà xin lỗi. Ông nhà văn cười độ lượng. Viết văn là để cho mọi người đọc. Nếu cô là người đọc đầu tiên và thích câu chuyện này… ông bỏ lửng câu nói.

Đồng Dao cảm thấy ông nhà văn có vẻ vui nên bạo dạn hỏi:

- Thế sao cả tuần nay ông không viết tiếp.

Ông nhà văn nhìn Đồng Dao chăm chú, ông không quan tâm đến câu hỏi, ngược lại ông quan tâm đến sự kiện Đồng Dao nêu ra:

- Tôi đã không viết tiếp hơn tuần nay à. Cô nhớ chính xác chớ.

Đồng Dao bối rối trước ánh mắt của ông nhà văn:

- Dạ, có lẽ hơn một tuần.

- Cô thích câu chuyện này thật không? Ông nhà văn đột ngột hỏi.

- Dạ, tôi thích đọc văn của ông.

- Tôi hỏi cô thích câu chuyện này chứ không hỏi thích văn chương của tôi.

Cảm thấy cuộc trò chuyện đi xa đề với thân phận của mình, Đồng Dao lễ phép trả lời:

- Dạ, câu chuyện rất xúc động.

Ông nhà văn đứng lên bước tới cạnh Đồng Dao nhìn cô với ánh mắt xa vắng.

- Cô có tin đây là câu chuyện thật hay không? Đoạn kết đau thương buồn thảm…

Nhìn vẻ mặt u buồn của ông nhà văn, Đồng Dao nói nhỏ nhẹ:

- Ông có vẻ mệt, nên vào nghỉ ngơi. Tôi đã làm xong việc xin phép ra về.

Ông nhà văn giơ tay cho Đồng Dao, cô ngạc nhiên trước cử chỉ này. Nhưng không thể làm gì khác cô rụt rè đưa tay, ông nhà văn nắm lấy bàn tay cô xiết nhẹ, bàn tay ông mềm mại ấm áp. Khi ông buông tay ra, Đồng Dao nói nhanh:

- Chào ông, tôi về.

Đồng Dao quay lưng đi nhanh ra cửa cô không nhìn thấy ánh mắt ông nhà văn nhìn theo cô đắm đuối nồng nàn.

2.

Đồng Dao mở cửa bước vào nhà. Cô đi ngay đến bàn viết, đặt bó hoa cúc xuống bàn. Cô nhìn các thứ trên bàn đều ngăn nắp như nhiều ngày qua. Tập bản thảo nằm đó cây viết đặt ngay ngắn lên trên. Gói thuốc lá nguyên vẹn. Cái gạt tàn trống không. Đồng Dao cầm tập bản thảo giở vài trang, vẻ thất vọng cô đặt trả lại chỗ cũ.

Vẫn không viết tiếp. Nhìn bình hoa cúc còn tươi roi rói trên bàn, Đồng Dao cầm bó hoa cúc mới mua quay lưng đi vào nhà trong. Cùng lúc con trai ông nhà văn đẩy cửa bước vào nhà.

- Chào cô Đồng Dao.

Đồng Dao dừng lại:

- Chào cậu, hôm nay cậu về sớm.

Con trai ông nhà văn vừa đi thẳng về phòng mình, mở cửa vừa trả lời:

- Tôi cần vài tư liệu trên máy tính. Cửa phòng khép lại ngay.

Đồng Dao đứng im lặng ngó cánh cửa phòng khép kín, tự nhiên có cảm giác ấm ức. Đồng Dao đi thẳng vào nhà bếp, cô làm công việc của mình với một tâm trạng không vui. Và có chút e dè bối rối, cô làm việc thật nhẹ nhàng sợ gây ra tiếng động ảnh hưởng đến công việc của con trai ông nhà văn. Trước thái độ của anh ta cô cảm thấy tự ti mặc cảm. Cô cũng ít tiếp xúc trò chuyện với anh ta. Việc dọn dọn dẹp trong phòng riêng tự anh ta làm lấy. Một con người “cao ngạo khó khăn” Đồng Dao vẫn nghĩ về anh ta như thế. Xong việc ở nhà bếp, Đồng Dao bưng bình hoa cúc trở lên phòng khách đặt bình hoa ở bàn salon. Con trai ông nhà văn từ trong phòng đi ra ngồi xuống salon trong lúc Đồng Dao còn đứng đó. Anh ta hỏi một cách hững hờ:

- Tại sao để bình hoa ở đây?

Đồng Dao hơi ngạc nhiên ngập ngừng trả lời:

- Bình hoa ở bàn làm việc của ông chủ còn tươi, nên tôi không thay hoa mới. Nên để bình hoa ở đây.

- Mời cô ngồi tôi có chút chuyện cần nói.

Đồng Dao nhìn vẻ mặt anh ta lạnh lùng, giọng nói như ra lệnh tuy bất ngờ nhưng cô giữ thái độ bình tĩnh cô ngồi xuông ghế salon đối diện, ngồi thẳng lưng, nhìn anh ta không một chút e dè. Anh ta có vẻ ngạc nhiên trước thái độ đàng hoàng của cô, có vẻ suy nghĩ trước khi bắt đầu câu chuyện.

- Cô đến làm việc cho nhà tôi bao lâu rồi?

- Dạ, gần một năm.

- Công việc ở đây phù hợp với cô phải không?

- Dạ.

Người con trai ông nhà văn im lặng một lúc rồi hỏi tiếp:

- Cô biết ba tôi sắp nghỉ hưu, sẽ ở nhà thường xuyên chưa?

Đồng Dao bất ngờ trước tin này trả lời ấp úng:

- Dạ chưa. Ông chủ chưa nói gì cả.

- Tháng tới là nghỉ hẳn ở nhà, ba tôi chưa cho cô biết vì ông vẫn cần cô đến giúp việc nhà.

- Vâng.

Người con trai ông nhà văn nhìn Đồng Dao chăm chú, hỏi với giọng nhỏ nhẹ:

- Xin lỗi cô. Tôi nghe nói cô sống một mình, xuất thân từ trẻ mồ côi.

- Vâng tôi là trẻ mồ côi. Giữ vẻ thản nhiên trả lời nhưng tim Đồng Dao nhói lên.

- Tôi đi đây. Cô làm xong việc thì về nhé.

Con trai ông nhà văn đứng lên đi ra cửa. Anh ta không nhìn thấy vẻ mặt Đồng Dao ngơ ngác. Căn nhà dường như vắng lặng hơn. Tim cô đập nhanh hơn. Không hiểu tin ông nhà văn sắp nghỉ hưu hay do người con trai ông nhà văn chạm vào nỗi đau về thân phận khiến cô đau đớn khổ sở. Không dằn được Đồng Dao khóc nức nở.

3.

Đồng Dao xuất thân từ trẻ mồ côi, cô nghe các ni sư kể lại, cô bị bỏ rơi trước cổng chùa, trong người được quấn bằng một khăn bông màu cỏ và mảnh giấy ghi hai chữ Đồng Dao.

Đồng Dao dược nuôi dưỡng và lớn lên cùng một số trẻ bị bỏ rơi khác trong chùa. Cô được các ni sư cho đi học đến hết cấp hai. Vào năm mười tám tuổi có một gia đình khá giả cần một người chăm sóc người thân già yếu. Gia đình này viếng chùa trông thấy Đồng Dao hiền lành, dáng vẻ như con nhà gia giáo nên ngỏ ý xin các ni sư cho Đồng Dao nhận công việc chăm sóc người già, ở luôn nhà chủ. Cô sống với gia đình này suốt ba năm cho đến khi người này qua đời. Được sống trong một gia đình tử tế nhân hậu, bước vào tuổi hai mươi mốt Đồng Dao trở thành một cô thiếu nữ dịu dàng, xinh đẹp, cư xử giao tiếp với mọi người rất chừng mực lễ độ. Nếu không biết quá khứ của cô, không thể tin cô là trẻ bị bỏ rơi không có gốc gác gia đình người thân.

Khi Đồng Dao có ý định trở về chùa giúp các ni sư chăm sóc các em mồ côi. Ni sư và người chủ nhà đều khuyên Đồng Dao nên sống ngoài xã hội, tự tạo lập cuộc sống cho riêng mình. May mắn người chủ nhà tìm được cho cô một công việc mới, giữ trẻ cho một gia đình người bạn. Đồng Dao đến sống tại gia đình người chủ mới. Hai vợ chồng người chủ nhà suốt ngày bận việc kinh doanh, ở nhà chỉ có bà mẹ già sáu mươi tuổi và hai đứa trẻ, một mới sinh một ba tuổi đi học mẫu giáo. Xuất phát từ chính hoàn cảnh côi cút của mình thiếu vắng tình mẫu tử, Đồng Dao nuôi nấng chăm sóc hai đứa trẻ chu đáo. Người chủ nhà rất vừa ý. Ngày tháng trôi qua, khi em bé mừng sinh nhật ba tuổi, người chủ quyết định cho đi học trường mầm non. Biết rõ hoàn cảnh của Đồng Dao, người chủ nhà giới thiệu cho cô một công việc mới. Giúp việc nhà cho ông nhà văn theo giờ. Từ đây Đồng Dao thực sự sống tự lập. Hai mươi bốn tuổi và có một số tiền dành dụm được cô gởi vào ngân hàng. Buổi tối cô ghi danh học bổ túc văn hóa cấp ba. Quyết định đi học vào ban đêm đến với Đồng Dao từ ngày cô bước chân vào ngôi nhà của ông nhà văn. Trong ngôi nhà này cô được tự do làm việc, được đọc những câu chuyện ông nhà văn viết, cô ngưỡng vọng tài năng của ông cũng như quý mến nhân cách đạo đức của một người trí thức. Ông đối xử với cô như một người cùng giai cấp, trò chuyện với cô một cách thân tình cởi mở. Thế mà hôm nay con trai ông nhà văn có thái độ kiêu ngạo, khơi gợi lại quá khứ cô là trẻ bị bỏ rơi.

Đồng Dao suy nghĩ miên man từ chuyện này sang chuyện khác. Tâm trí cô rối bời. Từ khi rời khỏi chùa đây là lần đầu tiên cô va chạm với thực tế cuộc sống, quá khứ của cô là trẻ mồ côi, không biết rõ cội nguồn, anh ta chỉ nói lên sự thật đâu có xúc phạm gì đến cô. Hiện tại cô là người giúp việc cho gia đình anh ta đương nhiên là thuộc giai cấp nghèo khổ. Nghĩ đến tương lai phải xa ngôi nhà này cô thấy chạnh lòng. Đồng Dao yêu mến ngôi nhà này, yêu cả loài hoa cúc trắng dù trước đây cô không thích. Cô nghĩ màu trắng là màu tang tóc buồn thảm. Chợt nghĩ đến câu chuyện ông nhà văn đang viết dở dang, Đồng Dao nhìn lên bàn thờ người vợ quá cố của ông, chỉ có ảnh và lư hương không có bình hoa. Đồng Dao ngắm nhìn bức ảnh, người con trai giống mẹ nhiều hơn, vì thế tính tình cũng khác hẳn cha mình. Phát hiện ra điều này Đồng Dao như bừng tỉnh trở về với thực tại:

- Dao ơi. Làm xong công việc hãy rời khỏi ngôi nhà, trở về với chính mình. Đừng ảo tưởng.

- Ảo tưởng? Cô đang suy nghĩ chuyện gì thế Đồng Dao? Tôi không nghe lầm phải không? Ông nhà văn vừa nói vừa đi thẳng đến ngồi xuống salon.

Đồng Dao giật mình vội đứng lên. Ông nhà văn mỉm cười giơ tay.

- Ngồi xuống. Nói cho tôi biết cô nghĩ gì, ảo tưởng hai chữ này không phù hợp với tính cách của cô.

Đồng Dao quyết định nói đúng như ý nghĩ của mình:

- Tôi ảo tưởng về thân phận của mình.

- Thân phận của cô thì sao nào, con người đều bình đẳng trong xã hội, ai cũng có quyền tự do quyết định cuộc đời mình. Cô hiểu chứ.

- Không phải ai cũng có tư tưởng và quan điểm phóng khoáng như ông. Vết đen của cuộc đời tôi, tôi không chịu đựng được khi nghe người ta bảo tôi là trẻ mồ côi. Tôi khao khát muốn biết cha mẹ tôi là ai. Thuộc thành phần giai cấp nào trong xã hội. Tại sao lại bỏ rơi tôi? Tại sao?

Giọng nói của Đồng Dao uất nghẹn, khuôn mặt ràn rụa nước mắt. Ông nhà văn đứng lên, với một cử chỉ dịu dàng ôm cô trong vòng tay cả khuôn mặt cô tựa vào vai ông nhà văn. Đồng Dao nghe ông thì thầm:

- Khóc đi. Rồi hãy quên tất cả. Mọi việc sẽ tốt đẹp.

Bất ngờ trước sự việc xảy ra, khi thân thể cô được nâng lên, người và ngực cô áp sát vào người ông, vòng tay xiết chặt hơn sau lưng cô, tỏa ra một luồng hơi nóng như luồng điện chạy qua người cô. Phản xạ tự nhiên của người con gái trinh nguyên, Đồng Dao vùng khỏi tay ông nhà văn. Cô im lặng cúi mặt.

- Xin lỗi…

Ông nhà văn không tỏ gì ngạc nhiên trước phản ứng của Đồng Dao. Điềm nhiên bình tĩnh ngồi xuống salon. Ông nói như ra lệnh:

- Cô ngồi xuống, tôi có chuyện cần nói.

- Vâng. Đồng Dao khép nép ngồi xuống ghế.

- Tháng tới tôi nghỉ hưu. Tôi muốn hỏi ý cô, nếu được cô sẽ làm việc cả ngày, lo cả việc cơm nước. Một ngày làm việc từ 7g sáng đến 6g chiều. Tiền lương tăng gấp đôi. Cô thấy thế nào? Ông nhà văn nói thẳng vấn đề một cách rành mạch.

Đồng Dao chưa hết xúc động, nghe một lời đề nghị thuận lợi như thế, lẽ ra cô nhận lời ngay. Chợt một ý nghĩ loé lên trong đầu cô:

- Không. Không nên nhận lời. Cảnh giác đừng để bị lợi dụng.

Hình như đọc được suy nghĩ của cô, ông nhà văn nói từ tốn:

- Đừng suy nghĩ việc vừa rồi cô bé. Nếu cô thấy không tiện thì thôi vậy.

- Vâng. Thưa ông việc hôm nay đã xong. Tôi xin phép ra về.

Đồng Dao đứng lên cầm lấy túi sách để ở salon, hơi cúi chào ông nhà văn. Cô bước đi những bước chân dài, thân hình uyển chuyển đung đưa theo nhịp bước. Đồng Dao đi khuất, ông nhà văn buông một tiếng thở dài. Nhìn thấy bình hoa cúc, ông rút một cành hoa đưa lên môi hôn, thì thầm với hoa:

- Bạch ơi. Anh vừa trông thấy em hiện về với khuôn mặt ràn rụa nước mắt.

4.

Ông nhà văn ngồi ngã người ở ghế salon. Điếu thuốc lá trên tay. Ông rít vào một hơi rồi thở ra, một làn khói lượn lờ trước mặt tỏa ra một vòng tròn trắng mờ mờ phút chốc tan loãng vào không khí. Ông cứ hít vào thở ra, điếu thuốc tàn lại đốt điếu thuốc khác. Gian phòng mờ mờ tối và ngập tràn mùi thuốc lá, ông không bật đèn cũng không mở cửa sổ. Ông ngồi im bất động. Ngồi nhà yên ắng không một tiếng động.

Đồng Dao mở cửa bước vào:

- Chào ông tôi mới đến.

- Cô vào đi.

- Xin lỗi ông, tôi mở cửa sổ nhé.

- Được, cô vào làm việc. Tôi đi dạo ngoài vườn.

Ông nhà văn đứng lên đi thẳng ra cửa, bước đi khoan thai chậm chạp của người đứng tuổi. Đồng Dao đi đến bàn viết. Trang bản thảo vẫn khép, cây viết đặt ngay. Đồng Dao nhìn bình hoa chỉ còn trơ trọi một bông. Cô ngó xuống sọt rác để dưới góc bàn, nhiều bông hoa nằm chơ vơ tàn úa.

- Tại sao vứt hoa đi? Tại sao không viết?

Ông nhà văn nghỉ hưu ở nhà đã hơn một tuần lễ. Khi Đồng Dao đến ông đi dạo ngoài vườn, khi thì ngồi ở salon đọc sách. Người con trai ông nhà văn có một lần về nhà làm việc, có lẽ ông ta muốn giám sát tình hình. Lúc anh ta về người cha đang ở ngoài đường. Đồng Dao đang ủi đồ trong gian phòng nhỏ. Anh ta vào phòng riêng một lúc rồi đi ra đường. Hai cha con trò chuyện với nhau có vẻ thân mật rồi lại đi. Với Đồng Dao anh ta không nói gì ngoài hai chữ “chào cô”. Tình hình như thế Đồng Dao không còn lo lắng phải mất việc làm.

Hôm hay làm xong công việc chuẩn bị ra về, vừa ra tới cửa đúng lúc ông nhà văn đi vào. Đồng Dao nhường lối. Ông nhà văn nói:

- Tôi cần cô ở lại có chút chuyện được không?

- Vâng. Đồng Dao đáp ngắn gọn.

- Chúng ta vào bàn làm việc.

Ông nhà văn đi ngay đến bàn viết, giơ tay mời:

- Cô ngồi xuống đi.

Hai người ngồi xuống ghế. Ông nhà văn lấy ra chiếc chìa khóa mở ngăn tủ bàn viết. Ông lấy ra một chiếc hộp gỗ màu nâu, ông cầm có vẻ nâng niu, mở chiêc hộp gỗ bên trong có một tấm ảnh và chiếc khăn tay trắng. Ông cầm tấm ảnh đưa cho Đồng Dao. Cô cầm lấy, vừa nhìn người trong ảnh cô run rẩy làm rơi xuống đất. Ông nhà văn cúi xuống lượm tấm ảnh để lên bàn Đồng Dao lấy lại bình tỉnh, cô nhìn tấm ảnh kỹ hơn.

- Thưa ông người trong ảnh là ai?

- Cô không thấy mình rất giống người trong ảnh sao?

- Vâng, thưa ông người trong ảnh là ai? Đồng Dao nhắc lại câu hỏi.

Ông nhà văn cầm tấm ảnh áp vào ngực nói thì thầm:

- Cô ấy là người yêu của tôi. Cô ấy chết trong vòng tay của tôi.

- Tôi hiểu. Trong chiến tranh giữa vùng lửa đạn việc hy sinh khó mà tránh được.

- Cô biết không? Cô ấy trong trắng trinh nguyên như loài hoa cúc bạch.

Đồng Dao cảm thấy ông nhà văn như chìm đắm trong cơn mê. Cô rụt rè lên tiếng:

- Thưa ông, ông cần tôi giúp việc gì?

Ông nhà văn như bình tỉnh, ông nhìn Đồng Dao với ánh mắt say đắm đặt tay lên trang bản thảo:

- Vì cô tôi mới viết câu chuyện này.

- Vì tôi giống cô ấy.

- Không. Tôi yêu cô.

Đồng Dao đứng bật dậy, ông nhà văn đứng lên theo nắm chặt tay cô:

- Cô hãy nghe tôi nói hết câu chuyện. Tôi yêu cô. Tôi không thể nào quên được lúc nhìn cô khóc. Tôi muốn tạo cho cô một gia đình… ông ta buông tay Đồng Dao, ôm ghì cô vào lòng.

Hình như số phận đã tìm cho Đồng Dao một câu trả lời. Người con trai ông nhà văn đẩy cửa bước vào. Nhìn cảnh tượng trước mắt, buông ra một câu đầy ác ý:

- Đúng như tôi nghĩ, cô là một con người giai cấp cùng đinh hạ lưu, cô lợi dụng quyến rũ người đàn ông đáng tuổi cha mình.

Anh ta quay người đi ra cửa, đóng sập cánh cửa một tiếng rầm chói tai. Đồng Dao vùng khỏi tay ông nhà văn, không nói một lời, chạy nhanh ra khỏi nhà.

Một mình ông nhà văn đứng trơ trơ như tượng đá.

5.

Từ hôm đó Đồng Dao không trở lại ngôi nhà của ông nhà văn. Cô xin các ni sư giúp đỡ cho rời thành phố, đến nương náu ở một ngôi chùa xứ sở cao nguyên. Sau đó tìm việc làm, vẫn là công việc chăm sóc người già, sống cùng gia đình chủ. Cô tự nhủ lòng an phận với cuộc sống mới: công việc của người cùng đinh nghèo khổ nhưng lương thiện. Buổi tối cô xin phép chủ nhà cho đi học bổ túc văn hóa. Khi tốt nghiệp cấp ba và thi đậu vào đại học Đồng Dao quyết định nghỉ làm ra sống tự lập và tập trung vào việc học. Dù đã rời xa ngôi nhà ấy nhưng trong tâm trí cô chưa quên được câu nói mỉa mai của con trai ông nhà văn, cũng là động lực khiến cô mong muốn đổi đời, thay đổi thành phần giai cấp, cô sẽ là người có học có bằng cấp như anh ta. Từ trong sâu thẳm trái tim cô còn mong ước được trở thành nhà văn.

Đồng Dao đang ngồi trên bãi cỏ dưới gốc cây thông già. Chiều tà nắng nhạt dần, gió hiu hiu thổi, rì rào vi vu tiếng lá thông nghe thật du dương. Sau giờ tan học Đồng Dao thả bộ trên những con đường dốc dài trở về căn phòng trọ. Cô sống đơn độc ít bạn bè, chiều nào cô cũng ngồi ở đây đọc báo hay học bài. Giở tờ báo mới mua, Đồng Dao sững sờ trước tin ông nhà văn đã từ trần bên cạnh trang báo còn in truyện ngắn của ông. Vẫn là câu chuyện ngày xưa cô đọc trên trang bản thảo dở dang. Đoạn kết ông viết:

“Em đã lấy thân mình đỡ viên đạn cứu anh. Em đã chết trong vòng tay anh. Với lời cuối cùng… mộ em trồng hoa cúc trắng… Anh nghĩ rằng linh hồn em hóa thành hoa cúc trắng sống mãi trong trái tim anh, hiện hữu trên những trang bản thảo của anh. Hơn ba mươi lăm năm qua anh vẫn giữ những kỷ niệm về tình yêu của em, hình bóng của em trong trái tim anh. Cho đến ngày hôm nay anh gặp lại hình ảnh em qua dáng hình cô gái khác. Cô ấy có khuôn mặt rất giống em. Bất chợt làm trái tim anh xao động. Anh yêu cô ấy từ giây phút đầu tiên gặp gỡ. Tình yêu không có lý trí chăng? Vì cô ấy mới ngoài hai mươi tuổi trong khi anh đã lục tuần. Anh yêu em, em là đóa hoa cúc trắng trinh nguyên. Anh yêu cô ấy như yêu một cành hoa cúc tím buồn lẻ loi đơn độc giữa cuộc đời. Cũng như em đã rời xa anh khi chúng mình chưa kịp làm lễ cưới. Cô ấy cũng rời xa anh không một lời từ biệt. Hai người con gái. Hai đóa cúc trắng mong manh làm tim anh băng giá trọn đời. Chỉ có một điều khiến anh ân hận, dằn vặt, đau khổ suốt trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời là cô ấy có hiểu được điều kỳ diệu của tình yêu trong trái tim anh dành cho cô ấy…”.

Đồng Dao rơi nước mắt.

- Vâng, em đã hiểu. Em cám ơn ông, cảm ơn tình yêu của ông. Ông đã nâng niu một cành hoa cúc tím lẻ loi, trong khi em nghĩ mình là một cỏ dại ven đường. Em mãi mãi yêu văn chương của ông. Vĩnh biệt! Vĩnh biệt đời đời!

Tháng 11 năm 2007

Huỳnh Thiên Kim Bội

BÍ QUYẾT MẠNH KHOẺ SỐNG LÂU

Mỗi ngày nhiều lượt chải đầu.

Lưu thông khí huyết, nhớ lâu, giảm phiền.

Thường xuyên xát huyệt dũng tuyền (giữa lòng bàn chân).

Chữa được nhiều bệnh càng yên nỗi lòng.

Nuốt nước bọt tưởng lạ lùng.

Nước thần tiêu độc diệt trùng thật hay.

Xoa bụng dưới rốn hàng ngày.

Tiểu đường, tim mạch, dạ dày bớt đau.

Hai hàm răng đánh vào nhau.

Chắc cơ răng khoẻ dài lâu đẹp bền.

Muốn thẳng cột sống dướn mình.

Tinh thần phấn chấn, ngoại hình đẹp thêm.

Kéo tai nhiều lượt mỗi bên,

Vòng tay sang kéo lên đỉnh đầu.

Co thắt hậu môn giảm đau,

Bệnh trĩ viêm ruột nhắc nhau nên làm.

SÁNG XOA MẶT TỐI XOA CHÂN

Ngủ dậy khoan xuống đất,

xoa nóng hai bàn tay

Rồi úp lên hai mắt,

lên mũi, lên vành tai.

Lại tiếp tục xoa tay,

rồi xoa đều gáy, mặt.

Ấn ngón tay day day.

Những chỗ đau liên tục.

Thường ngày xoa quanh mắt,

hai bên mũi, sau tai.

Gõ ngón tay giữa trán,

vài mươi cái mới thôi.

Trước khi ngủ rửa chân

Lau khô cho sạch,

Áp bàn chân với nhau,

rồi cứ xoa liên tục

Rồi tiếp thay đổi lại,

Mu bàn chân với lòng,

Rồi ngược lại xoa mãi.

Khoảng mười phút là xong.

Đơn giản mà hiệu nghiệm,

Hạ huyết áp khoẻ tim,

Dễ ngủ, giảm đi tiểu,

Mười ngày sức khoẻ lên.

Bs. Nguyễn Lân-Đính st

BỨC THƯ ĐI LẠC

Tôi không biết bằng cách nào mà lá thư ấy lạc đến tay tôi, và đến từ bao giờ nữa. “Lạc đến”. Đúng là lạc đến, vì lá thư ấy không phải gửi cho tôi, vì bây giờ nó không còn cả tấm áo mỏng là chiếc phong bì, để tôi có thể có chút mấu chốt, cơ sở nào đó mà phán đoán ra nguồn gốc, nhưng chỉ từ nội dung mà tôi biết, lá thư ấy không phải viết cho tôi, nhưng dòng chữ đầy tâm cảm ấy không gửi về tôi, mà gửi về một người, một người đàn ông nào đó, mà chắc rằng, người đàn ông ấy cũng không đọc được, vì nếu anh ta đã đọc được thì làm gì nó ẩn náu trong bộn bề giấy má hầm bà lằng mà tôi dành riêng một cái thùng bằng thiếc để cất giữ. Phải là cái thùng thiếc cho những thứ giấy tờ để lâu ngày, nếu không thì mối mọt đã tìm đến làm nơi trú ẩn lý tưởng. Cái thùng thiếc này thì cũng đã lâu, lâu lắm rồi tôi mới mở ra khi cần tìm lại một tư liệu của một ngày xa xa về trước. Bất chợt một trang giấy mở ra với hai chữ “Gửi Anh”. Bức thư không ngày tháng, không mỹ danh, chỉ hai ngôi chủ thể và khách thể là “Em” và “Anh”. Tò mò, tôi đi hết những con chữ nhỏ mà gọn đều đều suốt gần hết bốn trang giấy. “…Anh. Em xin bắt đầu gọi anh như thế, thay cho một cái tên mà em đã hồn nhiên gọi suốt mười mấy năm qua. Em cũng không từng nghĩ lại có ngày em muốn thay đổi một cách xưng hô. Có thể anh cho rằng không cần thiết phải thay đổi, chỉ cần sự cảm nhận trong nhau là đủ. Nhưng em lại muốn, rất muốn, khi em nhận ra thứ tình cảm trong em về anh là gì. Em đã rất bàng hoàng như một sự đánh thức “Em yêu Anh”. Em không biết được tình cảm này đã nảy sinh, đã tiềm ẩn trong em từ bao giờ, chỉ biết khi phát hiện ra, nhận diện được nó, thì em chợt hiểu rằng, em đã yêu anh từ lâu lắm rồi, và anh, anh cũng thế, chút tình cảm anh dành cho em, đã phảng phất màu sắc của Tình yêu, nhưng nó đã không có cơ hội phát triển, nó đã luôn ẩn giấu, ẩn giấu trong một tình bạn, ẩn giấu trong những sự quan tâm dù nhỏ nhặt. Còn em, trong vô thức, mỗi khi buồn, chông chênh, trống trải, em lại bật lên tiếng gọi thầm tên anh. Em gọi nhưng rồi lại tự cười mình, em gọi anh để làm gì. Anh đâu phải là người dành cho em gọi. Nhất là sau khi anh báo cho em một tin vui, một cái tin mà anh gọi đó là “Một tin lạ lùng”, phải chăng lúc ấy anh muốn được nhận thấy ở em một chút gì hoảng hốt, một chút gì hụt hẫng, nhưng không, em lại rất hồn nhiên mà chúc mừng anh. Chúc mừng thật sự, có ai lại không chúc mừng bạn mình trong một ngày mà tất cả mọi người trên thế gian này đều gọi là “Ngày Hạnh Phúc”. Và cũng thật sự em mong anh có được thứ hạnh phúc ấy. Thứ hạnh phúc êm đềm, ấm áp mà tạo hóa đã xếp đặt cho cuộc sống của con người. Cho dù, đã có rất rất nhiều người không có được nó, hay để vuột mất nó. Như em vậy. Em không biết có phải em sinh ra đời trong một nghịch cảnh, để rồi em trở thành một con người biết mang những cái mặt nạ vậy hay không? Nhưng nếu em không mang những chiếc mặt nạ, mà nhiều lúc nó hiển nhiên là một gương mặt thật của em, thì làm sao em lớn lên và trưởng thành, trưởng thành một cách cứng cáp từ một cô bé mồ côi, một cô bé được người đời thương xót nhặt về khi đã bị kiến bu đến tím ngắt. Người ta cũng chẳng có lý do gì để giấu đi nguồn gốc sự có mặt của em trên đời này. Mà thôi, biết thế cũng dễ chịu hơn là không biết. Em đã sống trong sự nhân đạo cần phải có của xã hội. Những thứ tình cảm mà con người ta cần có cho một cuộc đời hạnh phúc thì em không có. Để rồi khi có nhận thức, em đã tự hiểu mà trang bị cho mình một phong cách sống. Một phong cách như anh đã thấy. Mà thật, nhiều lúc em cũng nhận ra, em quả là mạnh mẽ, có khi bất cần, ngạo mạn nữa. Có phải khi bị nhận quá nhiều sự thương hại của người đời mà em đã trở nên như vậy không. Không những thế, em cần phải như vậy để khỏa lấp những thiếu kém của mình. So với một mặt bằng tương ứng của xã hội, em biết mình thiếu kém nhiều lắm chứ. Thiếu kém về ngoại hình, về học thức, về hoàn cảnh… Đã vậy, em lại còn gặp phải những người chỉ vì những mục đích riêng của cá nhân mà đến với em. Để rồi khi biết ra, em đắng cay, em đau đớn, em suy sụp, và rồi em lại tự đứng lên, tự bước qua. Cứ mỗi lần như thế em lại thấy mình cứng cỏi thêm lên, bất cần và ngạo mạn thêm lên. Không ít người khó chịu với tính cách này của em. Có lẽ họ cho rằng em không tự biết mình, đã thế lại không hiền lành dịu dàng cho người ta thương. Nhưng em không thế làm sao em chống chọi nổi với những va đập của cuộc đời này mà tồn tại. Chỉ có Anh. Chỉ có anh là hiểu rõ bản chất thật của em. Trong khi rất nhiều người lướt qua em, rời bỏ em, thậm chí khinh thị em, thì anh, anh vẫn nhẹ nhàng lặng lẽ bên em. Vẫn cho em những câu gây cười, vẫn quan tâm em với những gần xa. Nhưng anh không đủ điều kiện để giúp em sống thật với chính mình. Em rất hiểu vì sao. Làm sao ba mẹ anh có thể yên tâm, nếu một ngày anh dẫn em về giới thiệu với ba mẹ anh với ý nghĩa là con dâu độc nhất. Anh là một người con có hiếu mà. Anh biết ba mẹ anh kỳ vọng ở anh những gì. Trong hết sức khả năng có thể, anh không muốn làm ba mẹ anh buồn. Bởi nỗi buồn đó, nếu có, thì cũng không ai có thể bù lấp được thay anh. Anh biết rõ cuộc đời không chỉ dành cho mỗi bản thân mình. Trong cuộc đời mình luôn có bóng hình của những người thân thương. Vậy thì làm sao anh có thể… Mà chính em cũng chẳng cho anh có cơ hội để thực hiện điều đó. Bởi vì, nếu em biết thật sự tình cảm của chúng ta là thế nào từ ngày đó, thì em cũng sẽ ém nhẹm nó đi, sẽ trốn chạy, sẽ cố tình làm ra những chuyện cho anh ghét bỏ em, xa em, vì em biết mình không xứng đáng với anh. Để rồi, người trăm năm với anh, có một tính cánh tương tự như em, nhưng khác em nhiều về mọi mặt. Em biết, gia đình anh rất vui, rất mãn nguyện, nhất là khi anh có cậu con trai đầu lòng. Và anh đã nói rằng “Nếu có thêm một cô con gái, mình sẽ lấy tên bạn đặt cho nó”. “Để làm gì? Cái tên này có hay ho, ý nghĩa gì đâu. Thôi đừng, kẻo mà xui xẻo lây”.

Bây giờ ngẫm lại tất cả những vu vơ, những nhỏ nhặt nhắc nhở, em mới hiểu ra, anh đã dành một góc tim mình cho em. Và em, với những cảm xúc dễ chịu khi nói chuyện với anh, khi nghe những lời nhắc nhở của anh trong những sinh hoạt hàng ngày qua điện thoại mỗi lúc anh đang ở xa, thì em mới hiểu, em cũng đã dành một góc tim mình cho anh. Bây giờ thì không phải là một góc nữa, mà là cả một trái tim. Nhưng đã quá trễ, quá muộn, khi một người bạn vừa báo tin cho em, anh đã có thêm một cô con gái, nhưng vợ anh đã thích đặt một cái tên khác. Tốt. Tốt hơn tên em nhiều. Em hình dung niềm vui rờ rỡ trên gương mặt anh trong niềm hạnh phúc ấy. Em mừng cho anh. Thật lòng mừng cho anh. Những gì anh đang có, anh thật xứng đáng được có. Cuộc đời đã rất công bằng với một người có tâm có tình có nghĩa như anh. Còn em, lúc này, đang nhớ anh, nỗi nhớ cồn cào mà em chưa từng thấy trong mình. Em nhớ hết những đường nét khuôn mặt anh khi cười khi nói, khi tỏ ra âu lo. Em đang rất muốn được ấp iu khuôn mặt ấy trong đôi tay mình. Khuôn mặt mà em đã không biết níu giữ, đã ơ hờ mà đánh mất đi. Em nhớ hết những gì chúng ta đã có cùng nhau. Nỗi nhớ đang dày vò em, nhấn chìm em, khiến em không chịu nổi mà phải viết thư này cho anh. Em cũng không biết vì sao em lại muốn viết nữa. Nói với anh những điều này bây giờ để làm gì? Chỉ làm anh thêm khó xử, bận tâm nhọc lòng mà thôi. Em cũng không biết vì sao lúc này em thấy mình vô cùng yếu đuối, bao nhiêu mạnh mẽ cứng cáp trong em đâu hết rồi? Lẽ ra, em nên giữ cảm xúc này cho riêng mình thôi, để anh yên tâm với cuộc sống của anh, với hạnh phúc đang hiện hữu của anh. Nhưng không phải em muốn kêu đòi ở anh những gì. Em chỉ muốn nói lên một lần những ray rứt, những khát vọng, những nỗi niềm của em về anh. Chỉ một lần này rồi em sẽ mãi mãi xa anh. Em không muốn anh phải mất mát bất kỳ một thứ gì trong cuộc sống của anh cả. Nếu vì em mà anh phải chịu một tổn thất nào đó, thì em sẽ không thể nào tha thứ cho mình.

Chắc anh đang hỏi, nếu vậy thì em nói cho anh biết để làm gì? Chính em cũng không trả lời được câu hỏi này anh ạ. Có lẽ, em chỉ muốn, ít nhất một lần trong đời em được sống thật với tình cảm của mình, được là một người đàn bà yếu mềm, được khát khao một hạnh phúc nhẹ nhàng bình dị như bao người đàn bà khác, Em không giấu rằng, em đang rất muốn một lần trong tay anh, một lần nhận một nụ hôn ngọt ngào của anh, một lần được thấy mình sống trong cảm giác yêu thương, một lần không phải mang chiếc mặt nạ chống chọi, một lần được thấy mình thật sự bình yên. Nhưng em biết, ước muốn này, dẫu thật nhỏ nhoi, nhỏ nhoi vô cùng, nhưng sẽ không bao giờ em có được. Bởi anh không bao giờ trở thành một người đàn ông chỉ biết có đi qua cảm xúc nhất thời. Bởi vì anh là một người đàn ông biết trân trọng tình cảm, biết nhận và biết trao. Nếu để một lần em trong tay anh thì cả đời anh vương mắc. Vương mắc vì anh không thể làm gì cho em, vương mắc vì anh đã có lỗi với vợ con. Em không muốn anh có những gút mắc khó chịu như thế trong cuộc sống. Nhưng nếu cả cuộc đời này, em không có được điều em ước muốn ấy, thì em sẽ sống ra sao đây? Không phải em đang trách móc anh, em không có quyền, chỉ là em đang hối tiếc, hối tiếc vô vàn. Nhưng biết làm sao được, thôi thì cứ cho rằng em mỏng duyên vậy. Trời ơi! Em biết phải làm sao bây giờ? Sao em lại trở nên tồi tệ thế này chứ? Bao lâu nay, em chưa từng phải chịu đựng thứ cảm xúc lạ lùng này. Không phải em chưa từng có những người đàn ông bên mình, nhưng thật tình là chưa bao giờ em cảm nhận được cảm xúc tình yêu thật sự. Nó chỉ trượt qua em như chưa hề có. Vậy mà bây giờ nó đang cuộn trào hối thúc trong em. Em không biết, nếu anh có mặt bên em lúc này thì sẽ xảy ra những chuyện gì nữa. Mà cả anh, liệu khi anh đọc những dòng chữ này, anh sẽ thế nào? Nếu anh không kềm chế được một thứ tình tiềm ẩn trong anh, thì liệu rồi… Nghĩ đến những khả năng nguy hại có thể xảy ra cho anh, em lại không muốn gửi thư này đến anh nữa. Chắc em phải hủy nó đi, đốt nó đi, và khôn ngoan nhất là đừng bao giờ em cho anh biết những điều này. Trời ơi! Em không biết phải làm sao nữa? Không biết phải hỏi ai là mình nên làm thế nào nữa? Không biết có cách gì để bôi xóa anh trong em? Lý trí nói cho em biết là em phải quên anh, phải lánh xa anh, đừng quấy rầy gây phiền toái cho anh. Nhưng trái tim em thì đang rên siết muốn có anh. Những mâu thuẫn đang giằng xé em. Em phải làm sao đây anh ơi…”.

Đọc xong bức thư, tôi ngồi thẫn thờ rất lâu. Tâm tư tình cảm của người viết cứ cuộn xoáy lẫn vào cảm trạng của tôi, khiến tôi thấy như mình đang là người ấy vậy. Tôi cũng là một người không gặp may trong chuyện tình cảm, phải chăng vì thế mà đồng cảm cùng người? Một lá thư chất chứa một nguồn cơn thống thiết của một trái tim đang ước muốn được yêu thương. Cái ước muốn ấy đâu có gì sai trái, cũng không có gì lớn lao, vậy mà sao lại nhiêu khê đến thế với một số người. Tình yêu! Một thứ tình ma quái, một thứ tình mà có cố khước từ thì nó vẫn cứ lẩn quất, thao thiết trong tâm cảm. Nó không hình thù, không hương vị, không màu sắc, nhưng dường như nó mang tất cả những hình hài trầm thăng hỉ nộ của thế gian. Nó như một thứ quyền năng bất diệt mà bất kỳ ai trên đời ít nhất cũng đôi lần bị khuất phục trước sự định chế của nó. Con người còn hơi thở là còn mong ước, khao khát được yêu thương. Ngay cả những người đã bạc phơ râu tóc, đã răn reo làn da, chỉ vì e sợ những thói điều miệng tiếng mà người ta gìm trấn nó lại. Huống chi là một người phụ nữ đang độ… Tôi phỏng đoán thế, căn cứ vào những chi tiết của lá thư. Nhưng sao bức thư này lại lạc đến tay tôi? Đến tay tôi là có nghĩa không đến tay nguời đúng ra đã nhận. Và ai là người đã viết ra những dòng chữ ấy? Tôi lan man suy luận, đặt giả thiết. Cuối cùng, tôi cho là một giả thiết có khả năng cao nhất. Đó là người viết bức thư này, rốt cùng vẫn không đủ can đảm để gửi đến người nhận, biết tôi làm cái việc thương vay khóc mướn, nên đã bằng cách nào đó, chuyển đến cho tôi. Để tôi sẽ nói hộ lên một nỗi lòng. Trời ạ! Để nói lên một lời yêu thương thôi mà khó đến vậy sao? Trong khi tình yêu thương luôn là điều tốt đẹp nhất với muôn loài, vậy mà với con người, nhất là người phụ nữ, để yêu thương và được yêu thương, không phải là chuyện đơn giản. Vậy người phụ nữ này là ai nhỉ? Có thể nào là một trong những người bạn của tôi không? Và hiện giờ thì người ấy ra sao rồi? Với tính cách ấy, chắc rằng cô ấy đã tìm cách thu xếp lấy mình để không làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của gia đình người đàn ông kia. Nếu là tôi, chắc tôi cũng chọn giải pháp ấy. Là bởi nếu làm gia đình người ta xào xáo vì mình, thì cũng chẳng sung sướng gì. Nhưng không thể nói lên một lời thổ lộ mà phải lặng lẽ chia xa thì cũng thật là… Còn người đàn ông ấy, anh có chút cảm nhận gì không? Có biết rằng có một tấm lòng, một trái tim hướng về mình với một nỗi mong chờ khắc khoải? Cũng có thể anh ấy không biết thì hay hơn. Nếu để người đàn ông trong bức thư này biết đến một tâm can, có lẽ anh ấy sẽ không thể có một cuộc sống bình yên bởi những ưu tư mà anh không thể chu toàn. Tôi biết một số ít đàn ông không tùy tiện trong tình cảm. Họ là những người có lương tâm và trách nhiệm cao. Họ mới đúng là những người đàn ông thực sự đáng để cánh phụ nữ chúng tôi ao ước. Rất tiếc con số ấy quá chênh lệch so với tổng thể. Những người phụ nữ nào có được một người đàn ông như thế suốt đời thì đó là người đại phúc. Mà thôi, ai gặp được ai, ai không gặp được ai cũng đều có phần số cả. Tất tật mọi mối quan hệ trên đời này đều phải có đủ cả duyên lẫn nợ. Có mơ cũng chẳng được mà có chối cũng chẳng xong. Còn số phận bức thư này đã đến tay tôi, thì có nghĩa tôi phải làm cái nhiệm vụ đã gián tiếp được ủy thác. Nếu người trong cuộc đâu đó đọc được, liên cảm được thì cũng không phải là vô nghĩa. Nghĩ mà không kềm nổi một tiếng thở ra cho hai chữ “tình đời”. Sao mà ngang trái oan khiên lắm nỗi.

ĐÀM LAN

THÁM TỬ TÌNH

“Thám Tử Tình”. Đó là biệt hiệu mới nhất mà chị Hai dùng để gọi tôi.

Mỗi thời điểm, tùy theo “chức năng”, tôi được phong tặng một tên riêng.

Lúc còn bé, ở lớp, lũ bạn gọi tôi là Yên Méc. Chúng bảo: Méc là nghề của tôi. Cái gì tôi cùng... méc. Từ chuyện lật tập xem bài trong giờ kiểm tra, vào lớp bằng đường cửa sổ, nói chuyện trong lúc cô giảng bài, vv... thậm chí cho đến chuyện có đứa “ách xì”, tôi cũng méc. Chúng bảo chừng nào cả lớp đều được nếm mùi méc, tôi mới vừa lòng. Nhưng, khi tôi sắp “hành tội” người thứ ba mươi thì bị “dị ứng”. Nhờ tôi... méc, cô chủ nhiệm đã bắt quả tang Tuấn đang dán tờ giấy có hai chữ “của nợ” lên lưng Thái. Cô bắt Tuấn quì gối. Giờ về, nó đuổi theo tôi và dùng thước quất một cái vào mông tôi như... trời đánh. Mặc tôi kêu khóc ầm ĩ, trước khi bỏ đi, nó còn hăm dọa:

- Còn méc, thì... tới số với tao!

Nhưng, tôi vẫn... méc bà nội. Bà chạy qua bên nhà Tuấn mắng vốn. Tuấn bị mẹ đánh hết mấy cây. Nó hết dám hung dữ. Dù vậy, miếng đòn ấy vẫn trị tuyệt căn bịnh... méc của tôi. Vào lớp, có sự cố gì, ai hỏi, tôi cũng lắc đầu: “Không biết”. Thế là lũ bạn đặt tên mới cho tôi là: Yên Ngố.

Tại nhà, tôi cũng có nhiều tên độc đáo “Yên Mộng Du”, “Yên Ung Vặn”.

Đang ngủ, thỉnh thoảng tôi bật dậy đi ra bàn học. Tôi mở tập, đọc một tràng rồi quay về giường... ngủ tiếp. Có khi, tôi ra sau bếp, quét dọn lia lịa rồi trở vô... mùng tiếp tục ngáy. Sợ quá, ba mẹ đưa tôi đi khám bệnh. Bác sĩ bảo chẳng hề gì, cứ để tôi vừa ngủ vừa đi tùm lum.

Ngoài ra, tôi còn có thói quen ăn vụng. Đi học về, vừa đặt cặp da xuống là tôi lẻn ra sau bếp, mở tủ, đút đầu vào tìm thức ăn. Tôi sẵn sàng bốc trộm một con tép rang hay miếng cá kho hoặc vài cọng đậu xào, mặc cho bà nội ca cẩm:

- Con gái gì không nên nết.

Tôi vẫn cứ... ăn vụng. Bởi lẽ, cái gì cấm, thông thường quyến rũ hơn cả. Món gì lén nếm thử đều ngon hơn được tự do ăn uống. Riết rồi bà tôi chịu thua, bà tiên đoán:

- Thế nào con Yên cũng ở giá. Cưới nó như rước con mèo hai chân về ăn vụng rồi ngủ. Mà ngủ nó cũng làm cho người ta hết vía.

Nhưng, bây giờ, bà đã cảm thấy sự có mặt của tôi là cần thiết. Bà biến tôi thành cánh tay đắc lực của bà để chặn đứng phần nào sự bồng bột của chị Hai tôi khi chớm yêu. Chị Hai có bồ! Bắt được tin ấy, bà bủn rủn cả người. Bà rên rỉ suốt ngày:

- Nó giống mẹ nó, chỉ biết yêu!

Bà quả quyết thế nào chị Hai tôi cũng đã tỏ tình trước với người ta, như mẹ tôi ngày xưa. Mặc dù, đã có biết bao lần ba tôi đính chánh rằng chính ông đã nói “Anh yêu em” rồi mẹ tôi mới đáp là “Em yêu anh”. Nội kết luận:

- “Gien” nào... giống nấy mà!

Do vậy, bà phân công cho tôi theo dõi chị Hai: “Bám sát, lắng nghe, ghi nhớ và... méc với bà”. Tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Vì thế, chị Hai giận dỗi, ban cho tôi cái tên ác ôn “Thám Tử Tình”. Thật chẳng oan ức chút nào. Vừa thấy bóng anh Thạch, anh chàng sinh viên Văn Khoa lấp ló ngoài rào, tôi đã chuẩn bị... công tác. Chị Hai chạy ra mở cổng. Hai người không vào nhà mà ngồi đối diện nhau dưới gốc cây hoàng điệp trong vườn. Anh Thạch ngắt một cánh hoa đưa lên mũi rồi âu yếm trao cho chị Hai là tôi... xuất hiện. Tôi ung dung ngồi bên anh Thạch, mở tập ra, đọc um sùm. Anh có vẻ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn “người yêu”. Chị tôi bực bội gắt:

- Con quỉ! Mầy làm gì vậy hả?

Tôi thản nhiên đáp:

- Em học bài.

- Hết chỗ mầy học rồi sao?

- Còn, nhưng...

Anh Thạch bẹo má tôi:

- Định phá anh phải không?

Đỏ mặt, tôi bào chữa:

- Ơ, tại bà nội... biểu em theo dõi chị Hai.

Trố mắt nhìn tôi, anh Thạch gạn hỏi:

- Chi vậy?

- Nội sợ... chị Hai nói “Em yêu anh” trước khi anh nói “Anh yêu em”.

Cả hai cùng cười. Anh Thạch xoa đầu tôi:

- Vậy thì em nói với nội là anh đã nói anh yêu chị Hai trước nha.

Chị Hai càu nhàu:

- Bây giờ, mầy có chịu đi chỗ khác chưa?

- Đâu được! Em phải nghe chị với anh Thạch nói chuyện đặng chút nữa kể lại cho bà nghe.

Anh Thạch bật cười:

- Nhưng, em đọc um sùm thì làm sao nghe được. Phải im lặng mới tiếp thu đầy đủ chứ.

Nghĩ cũng đúng, tôi không còn gào lên nữa mà nín thinh theo dõi.

Anh Thạch ngửa mặt nhìn trời. Giây lâu, anh mới chịu mở miệng.

- Bình Minh, tên của em làm cho buổi chiều không còn thi vị đối với anh.

Cười mím chi, chị Hai liếc mắt tình tứ:

- Xí, trời chiều mới đẹp chứ.

- Nắng sáng tuyệt hơn!

- Mùa nầy mưa nhiều hơn nắng.

- Ừ, mùa thu phải thế. Nắng hiếm mới quý.

Bực quá, tôi chen vào:

- Thôi, anh chị nói chuyện khác đi, mưa với nắng mãi.

Cả hai giật mình. Có lẽ họ nhớ ra còn có tôi ngồi bên. Anh Thạch cười to:

- Em thích anh nói chuyện gì nè?

Tôi chớp mắt:

- Chuyện tình yêu ấy!

Hai má của chị tôi bừng đó, chị chồm tới cốc vào đầu tôi một cái:

- Con quỉ! Mầy xúi lát nữa... méc phải không?

Tôi chưa biết trả lời sao thì anh Thạch đã lên tiếng:

- Ừ, vậy thì anh sẽ nói chuyện tình. Cô bé Bình Yên ơi, cô có biết ngày xưa, cây hoàng điệp này chính là hiện thân của một nàng công chúa sắc nước hương trời không?

Tôi xuýt xoa:

- Sướng quá hén, nàng vừa đẹp lại vừa... giàu.

- Không đâu, đời nàng đầy bất hạnh vì lỡ yêu một kẻ thường dân. Một anh chàng nho sinh vô danh, nghèo khổ. Biết được, nhà vua ngăn cấm, ông giam giữ nàng trong điện ngọc nguy nga, lộng lẫy. Quanh nàng là một hàng rào tàn nhẫn. Đó là các nàng cung nữ và bọn thái giám. Công chúa không có cách gì gặp người yêu. Nàng võ vàng vì nhớ và tuyệt vọng. Công chúa đã chết vì yêu và linh hồn nàng biến thành một loại cây trổ hoa vàng tuyền. Người ta gọi là “hoàng điệp” để tiếc nhớ nàng công chúa đã qua đời.

Tôi sốt ruột ngắt lời anh:

- Còn chàng trai thì sao?

- Chàng nào biết người yêu đã chết nên cứ chờ cho đến khi hóa đá.

Tôi chắc lưỡi:

- Tội nghiệp ghê! Không ai giúp họ sao anh Thạch?

- Không. Người ta còn... theo dõi để tâu lại đức vua nếu họ hẹn hò.

Chị Hai cười cười:

- Bình Yên, mầy hợp với chức... thái giám lắm. Chuyên môn giết tình yêu!

Biết là hai người chế giễu tôi, vừa xấu hổ vừa giận dỗi, trước khi bỏ chạy vào nhà, tôi hăm he:

- Em sẽ méc nội là chị nói “Em yêu anh” trước khi anh Thạch tỏ tình.

Dù dọa dẫm thế nhưng tôi đâu nỡ xuống tay. Khi nội thăm dò, tôi chỉ kể lại chuyện nắng mưa mà hai người trao đổi. Bà lại nghi ngờ, bà sợ họ sẽ nói “bậy bạ” nếu có dịp đi chơi xa. Và, bà liền phân công cho tôi tiếp tục bám sát đối tượng bất cứ khi nào, ở đâu. Vì vậy, khi anh Thạch xin phép ba mẹ tôi cho anh đưa chi Hai đi Mỹ Long xem cúng biển, bà liền phái tôi... cùng đi.

Nhưng, bà tôi đã tính sai nước cờ. Anh Thạch không đi một mình mà dẫn theo một ông bạn. Chàng sinh viên nầy có vẻ là vận động viên hơn. Bộ tướng “bậm trợn” còn hơn... tôi. Mái tóc của hắn xoăn tít, đen mun, trông giống như lông cừu. Cặp mắt tròng đen ít hơn tròng trắng. Mỗi khi hắn nhướng mắt lên, tôi nổi gai ốc cùng mình. Sóng mũi dọc dừa hẳn hoi. Cả khuôn mặt hắn chỉ có hàm răng là sáng giá. Mấy cây răng trắng bóng đứng xếp hàng đều tăm tắp, khiến cho nụ cười của hắn có duyên chi lạ. Nhưng, hắn lại chào tôi một câu vô duyên hết biết:

- Chào Thám Tử Tình!

Không thèm ngó tới bản mặt hắn, tôi “xì” một tiếng thật dài rồi leo lên xe một nước. Đây là chiếc xe được nhóm sinh viên thuê bao để đi tham quan cảnh cúng biển. Nó chỉ có khả năng mang mười hai người nhưng có lẽ ai cũng có mang “Thám Tử” theo nên có tới gần hai chục mạng. Chúng tôi phải ngồi ép sát nhau như nhận mắm. Chẳng biết vô tình hay cố ý mà con mắm “tóc quăn” ngồi gần con mắm... thám tử. Hắn trở thành bức rào chắn giữa chị Hai và tôi. Tôi không còn cách gì nghe anh Thạch rù rì với bà chị của mình mà phải lắng nghe hắn nói xàm:

- Bình Yên nè, tên nhỏ đẹp ghê!

Y chang ông Thạch lúc tán chị tôi. Đang lâng lâng vì lời khen ấy thì hắn tiếp:

- Nhưng, không hợp với nhỏ.

Tôi trừng mắt:

- Sao vậy?

- Nhỏ sôi nổi, thích gây sóng gió. Đáng lẽ phải tên Phong Ba mới đúng.

Quay mặt ra chỗ khác, tôi nhìn hàng cây chạy ngược chiều ngoài cửa xe, làm bộ không nghe. Nhưng hắn nào chịu để tôi yên:

- Bình Yên, em dễ thương tựa vạt nắng ban trưa.

- Xí.

- Anh thích nắng ấm như thế, vàng cháy, uốn cong mấy sợi tóc của anh. Em còn giống cơn mưa bóng mây chợt đến, ào ạt mà hiền dịu.

- Lại mưa với nắng. Con trai một duộc như nhau! Anh có chuyện gì lạ hơn không?

- Nhỏ thích anh nói chuyện gì?

- Như tên anh chẳng hạn?

- À, tên anh đẹp lắm. Công Bằng, một mơ ước của mọi người.

- Trừ tôi.

- Vậy nhỏ thích bất công sao?

- Không phải, nhưng cái gì mình có rồi còn mơ ước làm gì.

- Tuyệt quá! Vậy, quanh nhỏ toàn là những người tốt. Một môi trường hiếm có.

Thật là lẩn thẩn, làm gì được như anh nói. Mấy từ “Công bằng, bác ái, chí công, vô tư” mãi mãi là những điều cần phải được nhắc nhở. Nhưng tội gì tôi chẳng tô hồng cuộc đời mình.

Chiếc xe thắng gấp, xô ngã tôi vào vai anh. Cả hai cùng cười. Có tiếng reo:

- Tới rồi! Ôi, đông vui quá!

Mỹ Long rộn ràng, nhộn nhịp. Người qua kẻ lại tấp nập. Những khuôn mặt háo hức nhìn ngắm biển và biết bao đôi mắt tò mò dòm ngó du khách chúng tôi. Công Bằng kéo tay tôi chạy đuổi theo đoàn người phía trước. Một đám rước sắp khởi hành. Tiếng chiêng, trống, phèng la vang lên inh ỏi, gợi cảm giác hồi hộp, náo nức khác thường. Bằng giải thích:

- Đây là lễ “Nghinh Ngũ Phương” tương tự như lễ “Nghinh Nam Hải” nhưng thay vì làm lễ dưới thuyền thì người ta sẽ... đi vòng vòng trên bờ.

Nhón chân, nhìn phía trước, tôi hỏi:

- Nghinh Ngũ Phương là gì vậy anh?

- Nghe đâu, Ngũ Phương là chỉ Ngũ hành nương nương tức là năm bà: Thủy, Hỏa, Mộc, Thổ, Kim đó mà.

Chỉ về phía chiếc kiệu có một người hóa trang Quan Thánh ngồi trong đó, tôi hỏi:

- Nhưng sao trong kiệu lại là một ông chứ không phải năm bà?

Bằng cười rúc rích:

- Có lẽ Quan Thánh đi rước năm bà.

Tôi che miệng cười theo:

- Bậy bạ, tội chết, anh rước năm bà thì có.

Một người đàn ông lớn tuổi đứng gần chúng tôi xen vào:

- Không phải đâu cô cậu ơi! Nghinh Ngũ Phương là lễ rước những vong linh mồ xiêu mả lạc ở khắp nơi về nhận “Diêm mễ”.

- Diêm mễ là gì vậy ông? Tôi kinh ngạc hỏi.

- Là gạo muối hay bất cứ thứ gì dân vùng biển đem cúng.

- Người sống cũng có lòng với người đã khuất ghê hả anh?

Bằng gật gù:

- Vậy mới... công bằng.

- Xí! Tôi nguýt dài gã con trai “cơ hội”.

Nắng đổ lấp lóa trên mặt đường, đốt nóng khí trời và hong khô môi tôi. Chắc lưỡi, tôi than:

- Khát nước quá!

- Đừng đi theo họ nữa, mình ghé quán uống nước đi Bình Yên. Bằng đề nghị.

Chợt nhớ tới chị Hai, tôi đưa mắt nhìn quanh. Chẳng thấy ai quen ngoài Bằng. Tôi kêu lên:

- Chết rồi. Chị Hai đi lạc!

Bằng phì cười:

- Mình lạc thì có.

- Rồi làm sao?

Bằng cười hóm hỉnh:

- Đôi bên cùng có lợi chứ sao. Chiều, ra bến xe sẽ gặp lại. Lo gì!

Cấu mạnh vào vai anh, tôi trợn mắt:

- Ạ, ạ ... Thì ra nhà ngươi có âm mưu “ám muội” phải không?

Bằng nắm lấy tay tôi:

- Em hãy là Bình Yên chứ đừng làm Thám Tử Tình, bé cưng!

Xa xa, sóng vỗ rì rầm, ào ạt xô bờ. Dòng người đông đúc nhưng bé nhỏ trước đại dương. Họ đưa chiếc thuyền con kết bằng bẹ chuối ra mí nước. Trên đó, một chú heo quay kiêu hãnh khoe màu da vàng cháy, giòn rụm. Quà tặng của con người gởi về biển cả! Chút nữa người ta sẽ “tống tàu”. Họ sẽ đứng nhìn bóng “tàu” ra khơi, dần khuất và an lòng với ý nghĩ người và biển gần gũi, thân thiết làm sao. Lòng tôi bỗng dưng xao động. Những đợt sóng lòng hòa nhịp cùng tiếng hát muôn đời của biển, vừa êm đềm, vừa kỳ bí, vừa dữ dội vừa quyến rũ lạ lùng. Tôi len lén rút tay về. Nhưng, tôi biết, có một cái gì vô hình đã buộc chặt tôi vào anh. Và tôi tưởng tượng:

Chiều, nội ra ngõ đón với câu hỏi:

- Mầy có thấy gì lạ không? Bình Yên.

- Nội ơi, con thấy một điều lạ lắm. Tình yêu thật tuyệt vời dù không ai nói “Anh yêu em” hay “Em yêu anh”.

Thế nào nội cũng kinh hoàng kêu lên:

- Trời! Vậy chắc tao phải đích thân theo dõi bọn bây mới được.

Và, lúc bấy giờ, “Thám Tử Tình” sẽ là... Bà nội.

NGUYỄN THỊ MÂY


THÀNH VIÊN MỚI (9-10/2014)

của CLB Sách XƯA & NAY

1- Lm. Fx. CHÂN LÝ

171 Đường Chấn Hưng P.6, Q.TB, Tp.HCM

Email: npclfr@yahoo.fr

Mobile: 01265544221

2- Quang Bỉnh

414/3 Nguyễn Tri Phương Q.10, Tp.HCM

Dđ: 0907089929

3- Lữ Thị Kim Sơn

70 Tôn Thất Thuyết P.16, Q.4, Tp.HCM

Dđ: 01693868111

4- Võ Kim Cương

Số 21 Đường 17, Ấp 4A,

Bình Hưng, Bình Chánh, Tp.HCM

vokimcuong@yahoo.com.vn

Dđ: 0903700376

5- Nguyễn Văn Tốt

TK 37/3 Đường Nguyễn Cảnh Chân

P.Cầu Kho, Q.1 Tp. HCM

Dđ: 0909068779


|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế