Hiện có 4 người xem / 2521151 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 13/8/2016

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Để mở đầu phiên họp, như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn quý thư tương đối cũ mà ông có, một cuốn bằng Việt văn xuất bản năm 1962 (54 năm trước) và một cuốn bằng Pháp văn xuất bản năm 1955 (61 năm trước).

Cuốn bằng Pháp văn là một cuốn “Những Người Khốn Khổ” (Les Misérables) của đại văn hào Victor Hugo, thuộc loại rút ngắn (chỉ có cốt truyện) của nhà xuất bản thời danh Fernand Nathan. Cuốn sách chỉ d ày có 192 trang, nhưng chứa đựng rất nhiều minh họa nguyên trang bằng màu cũng như đen trắng cực đẹp. Cuốn sách là một kỷ niệm của thời trai trẻ của ông, vì ông đã gặp tác phẩm tuyệt vời này năm 18 tuổi, và đã bị lôi cuốn bởi cốt truyện tuyệt hay, nên sau này ông đã đọc đi đọc lại nguyên bản (texte intégral), dày trên 1400 trang tới 3 lần, và nhớ mãi mấy chương mà ông cực kỳ yêu thích. Đây là một danh tác mà ông cho rằng sẽ tồn tại mãi trong nhân gian, và sẽ chẳng bao giờ hết độc giả, vì cốt truyện cực kỳ lôi cuốn, cực kỳ nhân văn, có thể giúp người đọc hướng thiện một cách tích cực. Trong lúc giới thiệu Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã cho các thành viên xem những tranh minh họa bằng màu cực đẹp khiến ai cũng phải thích.


Cuốn bằng tiếng Việt được xuất bản năm 1962 là một bản dịch nguyên văn đề tài “Cuốn Sách” (Le Livre) trong tập 18 của bộ Bách Khoa Toàn Thư Pháp, do một Dịch giả tên là Lê Thái Bằng dịch, và do Viện Đại Học Huế in năm 1962. Tên tiếng Việt của cuốn sách là “Quyển Sách Nghề Xuất Bản và Nghề Bán Sách”, và đây là cả một Giáo Trình tuyệt vời về đề tài nói trên được trình bày thật đầy đủ rõ ràng qua 662 trang sách. Ôi thật là tuyệt vời khi tất cả mọi ngóc ngách, chi tiết về Sách được trình bày thật rõ ràng, trong sáng; nói tuyệt vời là không ngoa, vì nếu bạn hỏi một nhà trí thức, chứ đừng nói người bình thưởng, là ông ta có thể viết ra bao nhiêu trang sách về những kiến thức của ông ta liên quan tới sách, thì người viết được nhiều nhất cũng chỉ được hai ba chục trang là cùng, trong khi trong tác phẩm này mọi thông tin về sách, về nghề xuất bản và bán sách, được trình bày trên những 662 trang sách. Đây quả là một quý thư khi cần tham khảo về đề tài sách. Sau khi được giới thiệu xong, một số thành viên đã chuyền tay nhau để lướt qua hai quý thư một cách thích thú.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu hai quý thư, anh Phạm Vũ đã lên nói về Saigon và Hà Nội và so sánh một số đặc điểm của thủ phủ hai miền Bắc Nam. Anh Phạm Vũ nói xong, anh Dương L ê h tiếp lời và nói về những bài thơ bằng tiếng Pháp đã được bà Tâm Nguyện, một thành viên CLB hôm nay vắng mặt, dịch ra tiếng Việt rất hay, rất thoát, nhưng không thiếu phần chính xác. Phần lớn những bài thơ này đã vượt qua được sự thử thách của thời gian và đã và sẽ tồn tại mãi trong lòng các độc giả, chứ không như những loại thơ thẩn nhăng nhít chỉ lóe sáng một cách yếu ớt trên b ầ u trời văn học rồi tắt ngúm, chả ai quan tâm nhớ tới. Tiếp lời anh Dương Lêh, anh Nhựt Thanh đăng đàn nói về “Tục Thờ Cúng trong Gia Đình Việt Nam”. Anh Nhựt Thanh trình bày xong, anh Bá Mạnh lên kể truyện vui về đề tài “Nói Chữ”. Tiếp lời anh Bá Mạnh, hai anh Lê Nguyên và Phùng Chí Tâm, với giọng ca điêu luyện lên hát tặng các thành viên bài Mùa Thu Mùa Yêu do chính anh Lê Nguyên sáng tác. Sau đó anh Phùng Chí Tâm hát tặng thêm các thành viên một bài hát của nhạc sĩ thời danh Tô Hải. Sau hai anh Lê Nguyên và Phùng Chí Tâm, cô Cúc, một khách mời, lên nói về cuốn sách nhỏ của Lm. Triết và đọc tặng các thành viên một bài vè do cô sáng tác về vấn đề ô nhiễm môi trường, độc tố tràn lan. Tiếp lời cô Cúc, cô Thùy Hương lên hát tặng các thành viên bài “Vọng về quê cũ” là xứ Huế của cô. Sau cô Thùy Hương, cô Kim Sơn lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Đàn bà cũ”. Tiếp lời cô Kim Sơn, cô Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Mai em về”. Sau đó, anh Thanh Châu, với “tiếng hát át tiếng bom” đăng đàn hát tặng các thành viên bài “Lòng Mẹ”. Cuối cùng nhà thơ nữ PT Minh Hưng lên giới thiệu với các thành viên hai tập thơ “Mong Manh Thu Vàng” và “Đêm Hoa Lửa” mà cô viết chung với nhà văn Đàm Lan ở Ban Mê Thuột, là một thành viên tuy không đi họp được, nhưng kỳ nào cũng có bài viết trên Bản Tin hàng tháng của CLB Sách Xưa & Nay được khá nhiều độc giả ưa thích.

Buổi họp thật vui, thật hào hứng, kết thúc lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI KỶ NIỆM BUỒN VUI VỚI

BS NGUYỄN LÂN-ĐÍNH

MỘT THÀNH VIÊN CLB SÁCH XƯA & NAY,

ĐỒNG THỜI LÀ MỘT THÂN HỮU VỪA RA ĐI

Bác sĩ Nguyễn Lân Đính, cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh

(1931-2016)


CLB Sách Xưa & Nay của chúng tôi vừa mất đi một thành viên cốt cán, BS Nguyễn Lân-Đính, một thân hữu đã cùng chia sẻ tình yêu sách với chúng tôi trong suốt 10 năm nay. Thay mặt các thành viên CLB, tôi viết bài này để chia buồn với gia quyến BS Đính, đồng thời để nhớ lại vài kỷ niệm buồn, vui mà tôi đã chia sẻ với ông trong thời gian cùng tham gia CLB.

Tôi và BS Đính, ngoài các kỳ họp của CLB, chỉ gặp nhau tổng cộng 10 lần trong 10 năm, tuy nhiên chúng tôi rất hợp nhau vì cả hai chúng tôi cùng thích một ngoại ngữ là Pháp văn. Tôi thì học tiếng Pha lang sa từ bé, còn BS Đính thì học mấy Đại Học ở Pháp trong trên 10 năm và đỗ Tiến Sĩ - Bác Sĩ ở Pháp luôn. Trong 10 lần hai chúng tôi gặp gỡ thì tôi ghé thăm nhà ông tất cả là 6 lần, và ông ghé thăm tôi và thư viện sách Pháp của tôi 4 lần tất cả. Khi tôi gặp BS Đính thì ông đã nghỉ hưu và được hoàn toàn tự do, an nhiên tự tại, chả phải làm cho ai, còn tôi thì từ 30-4-75 cũng chẳng làm cho ai, chẳng có anh chủ chị chủ nào, nên hai kẻ giống nhau thì thích nhau là đúng quá rồi! Hơn nữa vì tôi có một nghề tự do và có một số tác phẩm mà BS Đính rất thích mà tôi đã tặng ông vài cuốn, cũng như tôi cũng rất thích số tác phẩm gần 20 cuốn của ông về đề tài Dinh Dưỡng, và đã được thấy tận mắt 6 cuốn hôm ông đem triển lãm trong lần Triển Lãm Các Tác Phẩm của Các Thành Viên CLB Sách Xưa & Nay được tổ chức nhiều năm trước. Từ năm 1989 tới 1994, BS Đính đã là Giám Đốc Trung Tâm Dinh Dưỡng Trẻ Em thuộc Sở Y Tế thành phố HCM, và ông cũng đã là người đạt kỷ lục Guinness về “người lên tivi nhiều nhất” để thuyết giảng về vấn đề dinh dưỡng. Khi gặp nhau, ông còn rất khoái tôi ở chỗ có nhiều tác phẩm của cụ Nguyễn Văn Vĩnh là ông nội của ông, như Truyện Kiều (2 tập) dịch ra Pháp văn, như cuốn Sử Ký Thanh Hoa (Le parfum des humanités) mà cụ Vĩnh dịch của tác giả Pháp Émile Vayrac, như bản dịch song ngữ (10 tập) bộ Những Kẻ Khốn Nạn (Les Misérables) của đại văn hào Pháp Victor Hugo vv... Qua những lần gặp gỡ, và theo như ông tâm sự, tôi nghĩ điều mà ông cho là vinh hạnh nhất chính là vì ông là cháu nội của cụ Vĩnh, và đã được sống rất lâu bên cụ Vĩnh. Tóm lại, có thể nói là BS Đính đã có một cuộc sống thật tốt đẹp, được học và tốt nghiệp ở Pháp, được có một cuộc sống phong lưu, đầy đủ, hanh thông, được suốt đời phục vụ, giúp đỡ đồng bào một cách đắc lực hiệu quả, được nổi danh, vì năm 2012 ông được trao Giải Thưởng Dinh Dưỡng VINUTAS-DUTCH LADY, được là tác giả gần 20 cuốn sách về Dinh Dưỡng mà ông để lại cho đời để đánh dấu chuyến du hành qua cuộc đời này của ông, và gần đây lại mới được làm một chuyến Mỹ du trong 3 tháng. Như vậy, giờ này khi ông ra đi, ông quả thực đã gia nhập được vào lớp người hiếm hoi được… muôn thuở, thay vì bị… vạn niên như nhiều kẻ tiền rừng bạc biển, chức trọng quyền cao. Những gì tôi vừa kể ở trên chỉ là những chuyện thực 100% vì con người tôi, suốt 82 năm sống ở trên đời, chưa hề biết ca tụng ai dù chỉ một lần!

Thế là BS Đính đã ra đi, và tang lễ của ông cũng đã được cử hành. Chuyện buồn đến đây xin được khép lại, và giờ đây tôi xin phép được kể một chuyện vui không nhỏ có liên quan tới ông. Như quý vị đều biết, BS Đính mất vào sáng ngày 23 tháng Tám.

Ba ngày trước, vào ngày 20 tháng Tám, lúc 6 giờ sáng, mới bảnh mắt, tôi đã gõ cửa nhà BS Đính để đưa cho ông Bản Tin số 123 là Bản Tin mới nhất, vì trong kỳ họp vừa qua ông vắng mặt. Thế rồi đêm 28 tháng Tám, tức là 5 ngày sau khi BS Đính mất, trong giấc ngủ tôi mơ thấy cụ Vĩnh về gặp tôi, nét mặt tươi cười, tay cầm Bản Tin số 123, và bảo tôi: “Tuấn ạ, Bản Tin của các cháu hay lắm”, tôi hét lên: “Cảm ơn cụ!” và vụt thức giậy, nhìn đồng hồ thấy là 2 giờ khuya. Tôi mừng quá, VÌ ĐÂY LÀ BẰNG CHỨNG RÕ RÀNG LÀ BS ĐÍNH CỦA CHÚNG TA ĐÃ BAY THẲNG LÊN THIÊN ĐÀNG, ĐÃ GẶP ÔNG NỘI CỦA MÌNH, ĐÃ KHOE VÀ ĐƯA CUỐN BẢN TIN CHO CỤ VĨNH NÊN CỤ MỚI CÓ NÓ TRONG TAY KHI HIỆN VỀ GẶP TÔI. Có một điều mà tôi tin chắc như 2 lần 4 là 8, là những người giỏi giang, hiền lương, có sự nghiệp văn học vĩ đại như cụ Vĩnh thì khi ra đi CHỈ CÓ THỂ LÊN THIÊN ĐÀNG chứ chẳng thể đi nơi nào khác, và như vậy thì đây cũng là bằng chứng rõ rệt nhất là BS Đính của chúng ta CŨNG ĐÃ BAY THẲNG LÊN THIÊN ĐÀNG, NÊN MỚI GẶP CỤ VĨNH VÀ ĐƯA BẢN TIN SỐ 123 CHO CỤ…

Dịch giả VŨ ANH TUẤN

Chủ nhiệm CLB Sách Xưa & Nay

VÀI CHI TIẾT VỀ MỘT CUỐN SÁCH HAY

DO DUYÊN MAY TÔI MỚI CÓ

Từ hai năm nay tôi đã thật sự “giã từ vật dụng”, nghĩa là giã từ hai ngôn ngữ Anh và Pháp văn, không còn hành nghề dịch thuật ngược (từ Việt ra Anh và Pháp văn) nữa. Tôi đã phải khéo léo từ chối 5 đề nghị dịch hai cuốn hồi ký và 3 tập thơ, để chỉ cả ngày ngồi ôm Em Vi thị Tính, và đọc những cuốn sách tôi chưa được đọc, hoặc chưa đọc kỹ, trong những ngày bận rộn làm việc dịch tổng cộng 24 cuốn và bộ, trong đó 19 cuốn đã được xuất bản và bán hết. Tuy nhiên mới trong tháng trước, tôi đã lại phải trở lại dịch một tập sách nhỏ cho một tác giả tôi vô phương từ chối là Lm. Triết, Cố vấn CLB Sách Xưa & Nay của chúng tôi. Trong hai năm nghỉ ngơi vừa qua, tôi cũng nghỉ luôn việc đi viếng các tiệm sách cũ quen thuộc trong mấy thập kỷ đã qua, từ đời cha tới đời con của các quý vị chủ nhà sách cũ, trái hẳn với lúc trước, chả ngày nào là tôi không ghé thăm họ. Tuy nhiên, tôi với các nàng sách vẫn còn chút duyên nên gần đây tôi nhận được điện thư của cháu Hoan, một nữ sinh viên đang du học ở Úc và là con một bà bạn thân của tôi. Cháu Hoan và các bạn cháu du học ở Úc rất ưa thích bản tin của CLB Sách Xưa & Nay, nên ra số nào là tôi gửi cho cháu số đó và các cháu đã in ra và thi nhau đọc. Vì Hoan có công phổ biến bản tin, nên cháu nhờ gì tôi cũng khó từ chối không giúp. Và điện thư mới đây của cháu nhờ tôi tìm một bản dịch của bác Nguyễn Hiến Lê mà cháu cần, và thế là tôi lại phải cất công ghé các tiệm sách cũ, và sau hai ngày tìm kiếm tôi đã tìm được bản dịch cháu nhờ tại một tiệm sách cũ trên đường Trần Nhân Tôn, đồng thời cũng bắt gặp cuốn quý thư mà tôi muốn lê văn khoe với các bạn đọc hôm nay.

Chúng ta, trong khi đọc sách thường gặp rất nhiều chữ viết tắt (Abbreviations) mà không phải trong tự điển nào cũng có định nghĩa chính xác (các tự điển ngoại, chứ tự điển trong nước thì hầu hết đều có rất ít định nghĩa cho các từ viết tắt), nên buổi sáng hôm đó trong lúc tìm cuốn sách dịch của bác Lê, tôi đã tình cờ có duyên may gặp cuốn Tự Điển Từ Viết Tắt của nhà Oxford (Dictionary of Abbreviations) này. Cuốn sách nhỏ dày 410 trang rất dễ thương này chứa đựng gần 20.000 từ viết tắt cần thiết. Xin chia sẻ với các bạn một vài từ như dưới đây:

A.F.A.S = Hiệp Hội Phát Triển Khoa Học của Pháp

AFB = Căn Cứ Không Quân

– đồng thời cũng có thể là Hội Người Mù của Mỹ

Brit.Mus = Bảo Tàng Anh Quốc

Budpst = Thành phố Budapest ở Hung Gia Lợi

Fla. = Bang Florida của Mỹ

LitD = Tiến Sĩ Văn Chương

Thai. = Thái Lan

Tóm lại còn cả mấy ngàn từ viết tắt nữa mà khi gặp, chúng ta có thể tin chắc là sẽ tìm được định nghĩa chính xác trong cuốn Tự Điển dễ thương này. Tôi nói chính xác vì nhà Oxford là nơi ta có thể tin tưởng tuyệt đối vào họ, không còn mảy may lo sợ những định nghĩa láo lếu lăng nhăng, kiểu chủ nghĩa Chauvin là Vô sanh như trong một cuốn nào đó mà tôi đã quên mất cái tên chết tiệt của nó rồi. Đúng là cơ duyên, vì nếu cháu Hoan không nhờ tìm bản dịch của bác Lê, vì nếu tôi lười như thường lệ không ghé tiệm sách cũ nữa, thì làm sao mà có được cuốn Tự Điển dễ thương này chỉ với 80 đô mít. Ngay lúc này tôi đang phải làm một tủ sách riêng mà tôi sẽ đặt tên là “Tủ Sách Cuối Đời của Người Yêu Sách” để chỉ giữ lại “những cuốn hay nhất, quý nhất, cần thiết nhất, phải tra cứu thường xuyên nhất” để giữ các nàng sách này bên tôi cho tới ngày tôi đi hành hiệp. Còn mấy ngàn cuốn còn lại thì tôi sẽ, trong những ngày tới, lưu tâm tìm các bạn bè để nhờ… chơi tiếp, vì mấy chục anh chị Mỹ bất đắc dĩ, mà tôi “vừa là ông, lại vừa là cha” đều không quan tâm gì tới sách, vì họ đều cho tôi biết là, lúc này cần cuốn nào, họ chỉ cần “đao lốt” là có liền…

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI

VŨ ANH TUẤN


THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG”

Bản dịch của L inh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 123 )

V. MỘT CỘNG ĐỒNG TOÀN CẦU

89. Các thụ tạo trong thế giới này không thể nào được xem như một điều thiện hảo mà không có chủ: “Lạy Chúa, tất cả đều là gia tài của Ngài, Ngài là niềm vui của cuộc đời” (x Kn 11,26). Từ đó, đưa đến xác tín tất cả thụ tạo trong vũ trụ đều do một Cha sáng tạo, nên đã liên kết với nhau bằng một liên hệ vô hình và chúng ta, một cách nào đó. Cùng với các thụ tạo thành một gia đình, một cộng đoàn cao thượng thúc đẩy chúng ta đi đến một sự tôn trọng mang sắc thái linh thiêng, yêu thương và khiêm tốn. Tôi muốn nhắc rằng: “Thiên Chúa nối kết chúng ta thật mật thiết với thế giới quanh ta, đến độ việc hoang hóa mặt đất thì cũng như một bệnh tật đối với từng người, và chúng ta […] phải khóc than trước việc thất thoát một loài, như thể một việc chia cắt thân thể”[67] .

90. Điều này không có nghĩa là, mọi thứ hữu sinh đều như nhau và có một giá trị đặc biệt đối với con người, đòi buộc con người phải chịu trách nhiệm lớn lao. Điều này cũng giảm bớt việc thần hóa trái đất, giảm bớt mệnh lệnh cùng lao động với chúng và bảo vệ sự mong manh của chúng. Những quan niệm này cuối cùng tạo ra những liên hệ lệch lạc mới để thoát khỏi thực tế đang mời gọi chúng ta[68]. Đôi khi người ta nhận ra một định kiến phủ nhận quyền ưu tiên của con người, và đưa đến một cuộc tranh chấp với các loài khác mà chúng ta không dấn thân để bảo vệ phẩm giá ngang tầm giữa con người. Thật vậy, chúng ta phải lo lắng để các hữu sinh khác không bị đối xử một cách vô trách nhiệm. Nhưng những sự bất bình đẳng lớn lao hiện diện giữa chúng ta làm chúng ta phẫn nộ, nếu như chúng ta cứ để cho một số người cho mình có phẩm giá cao hơn các kẻ khác. Chúng ta sẽ không còn nhìn thấy, một số người chết gí trong sự nghèo khổ, không có khả năng để thoát ra, trong khi những kẻ khác không biết làm gì với của cải của mình, kiêu hãnh vì vị trí trên trước của mình, để lại đàng sau lưng một lượng phung phí không đếm xuể, có thể tàn phá cả hành tinh này. Chúng ta tiếp tục chấp nhận thực hành, như một số cảm thấy mình nhiều nhân bản hơn những kẻ khác, làm như họ được sinh ra với những quyền lợi lớn lao.

91. Cảm nghiệm về một sự liên kết mật thiết với những hữu thể khác trong thiên nhiên sẽ không đích thực, nếu như đồng thời trong thâm tâm của chúng ta không có sự trìu mến, cảm thông và một sự lo lắng cho con người. Sự rời rạc của người chiến đấu chống lại sự tiêu diệt các con thú bị hăm dọa, nhưng vẫn dửng dưng trước hành động của con người, không chú ý đến kẻ nghèo hay tìm cách triệt hạ một người mà họ không thích, sự rời rạc này sẽ bộc lộ rõ ràng. Điều này sẽ làm ý nghĩa của sự chiến đấu cho môi trường gặp nguy hiểm. Không phải tình cờ mà thánh Phanxicô đã ca tụng Thiên Chúa trong bài thánh ca của mình vì các tạo vật; ngài đã thêm vào: “Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa của con, vì những ai tha thứ vì tình yêu của Ngài”. Tất cả đều liên kết với nhau. Vì thế một sự chăm sóc môi trường đòi buộc một tình yêu chân thành đối với con người và một sự dấn thân kiên vững đối với những vấn đề xã hội.

92. Mặt khác, khi trái tim đích thực mở ra cho cả cộng đoàn toàn cầu, sẽ không có gì và cũng không có ai bị loại ra khỏi tình huynh đệ. Vì thế, sự dửng dưng hay độc ác đối với các tạo vật khác trong thế giới, cuối cùng rồi cũng theo cách đó chúng ta sẽ đối xử với những người khác. Trái tim chỉ có một, và cùng sự đau xót khi chúng ta hành hạ một con vật, thì cũng sẽ bộc lộ trong cách đối xử của chúng ta với những người khác. Mọi thứ độc ác đối với bất cứ thụ tạo nào “đều nghịch lại với phẩm giá con người”[69]. Chúng ta đừng cho chúng ta yêu nhiều, nếu chúng ta vì lợi ích của chúng ta đã loại một phần nào thực tại. “Bình an, công bằng và bảo quản sáng tạo là ba đề tài tuyệt đối liên kết với nhau, không thể tách biệt và nếu chỉ trình bày từng phần có thể lại rơi vào chủ thuyết đúc kết mới (Reduktionismus)[70]. Tất cả đều liên kết với nhau, và tất cả mọi người đều là anh em, chị em với nhau trong một cuộc hành trình tuyệt diệu, được tình yêu của Thiên Chúa nối kết vào nhau, tình yêu mà Thiên Chúa đem đến cho từng thụ tạo và nối kết chúng ta trong một tình yêu dịu dàng với “anh mặt trời”, “chị mặt trăng”, “chị sông suối” và “bà mẹ trái đất”.

VI. VIỆC XÁC ĐỊNH CHUNG CÁC CỦA CẢI

93. Ngày hôm nay, người tin cũng như kẻ không tin đều nhất trí cho rằng trái đất tất yếu là gia sản chung, hoa lợi của trái đất phải dành cho mọi người. Đối với người tín hữu điều này trở thành câu hỏi về sự trung tín đối với Đấng Sáng Tạo, chỉ vì Thiên Chúa đã tạo dựng thế giới này cho tất cả mọi người. Vì thế, tất cả mọi sự tiếp cận về môi trường phải được hội nhập vào viễn cảnh xã hội, viễn cảnh này phải chú ý đến quyền lợi căn bản của những người thật bất lợi. Nguyên tắc lệ thuộc của tài sản cá nhân dựa vào xác định chung về tài sản và từ đó luật lệ toàn cầu về việc sử dụng là “luật vàng” cho sự liên hệ xã hội và là “nguyên tắc đầu tiên cho trật tự toàn xã hội”[71]. Truyền thống Kitô giáo không bao giờ công nhận quyền tài sản cá nhân là tuyệt đối và không thể đụng chạm tới và phận vụ xã hội nhấn mạnh đến mọi hình thức của tài sản cá nhân. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nhắc nhớ một cách mạnh mẽ giáo lý này khi xác định rằng: “Thiên Chúa đã tặng cho toàn thể nhân loại trái đất này để trái đất có thể nuôi sống tất cả, không loại trừ ai và cũng không ưu tiên cho ai” [72]. Đó là những lời có nội dung thật cô đọng và mạnh mẽ. Ngài nhấn mạnh “một mẫu phát triển mà không tôn trọng và động viên quyền con người, cá nhân và xã hội, kinh tế và chính trị, bao gồm các quyền của các quốc gia và dân tộc, sẽ không xứng đáng với con người”[73]. Một cách rõ ràng hơn, Ngài giải thích rằng: “Chắc chắn, Giáo hội bảo vệ quyền tư hữu, nhưng cũng dạy rõ ràng rằng, mỗi tài sản cá nhân phải dựa vào “một giả thuyết xã hội”, để có thể phục vụ cho xác định chung mà Thiên Chúa muốn ban cho họ”[74]. Và Ngài nhấn mạnh: “Đây không phải là ý muốn của Thiên Chúa để quản lý quà tặng này theo cách chỉ làm lợi cho một số người”[75]. Điều này sẽ đặt ra câu hỏi về những thói quen bất công của một số người trên thế giới[76].

94. Người giàu cũng như người nghèo đều có cùng một phẩm giá, vì “Chúa đã dựng nên tất cả” (Cn 22,2), “Người đã dựng nên lớn cũng như nhỏ” (Kn 6,7) và “đã để mặt trời chiếu soi trên người lành cũng như kẻ dữ” (Mt 5,45). Hệ quả thực tiễn theo như lời của các vị Giám Mục Paraguay trình bày: “Mọi người nông dân đều có quyền tự nhiên một mảnh đất hợp lý, nơi anh ta có thể dựng nơi trú ngụ, làm việc để nuôi sống gia đình và có thể bảo đảm được cuộc sống của mình. Quyền lợi này phải được bảo đảm, để không thể trở thành ảo tưởng, nhưng được áp dụng cụ thể. Điều này có nghĩa là, người nông dân ngoài chứng chỉ sở hữu, còn phải có được các phương tiện như học kỹ thuật, tín dụng, bảo hiểm và thương phẩm”[77].

95. Môi trường là điều thiện hảo chung, gia tài của toàn thể nhân loại và một trách nhiệm chung cho mọi người. Nếu một người chiếm hữu một điều gì đó, thì phải quản lý vì ích lợi cho mọi người. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ làm khổ lương tâm của chúng ta vì phủ nhận sự hiện sinh của những người khác. Vì thế, các vị Giám Mục của Tân Tây Lan tự hỏi giới luật “chớ giết người” có nghĩa gì, khi “hai mươi phần trăm dân số địa cầu sử dụng các tài nguyên với một mức độ phải cướp đi từ những nước nghèo và cả những thế hệ tương lai, những gì cần thiết để tồn tại”[78].

VII. CÁI NHÌN CỦA ĐỨC GIÊSU

96. Đức Giêsu lấy lại niềm tin Thánh Kinh về Thiên Chúa Sáng Tạo và nhấn mạnh điều căn bản: Thiên Chúa là Cha (x Mt 11,25). Khi đối thoại với các môn đệ, Đức Giêsu mời gọi họ nhận thực liên hệ phụ tử mà Người đã ban cho tất cả thụ tạo, và nhắc nhớ họ với một sự âu yếm thật cảm động, mỗi thụ tạo rất quan trọng trong mắt Người: “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,6). “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không tích thu vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng” (Mt 6,26).

97. Chúa cũng có thể kêu mời những kẻ khác chăm sóc vẻ đẹp trong thế giới, chỉ vì Người luôn liên hệ với thiên nhiên và luôn chú tâm với một tình yêu và sự kinh ngạc. Khi Người đi qua một mảnh đất, Người dừng lại để chiêm ngắm vẻ đẹp mà Cha Người ra tung rải khắp nơi, và mời các môn đệ nhận ra sứ điệp của Thiên Chúa trong vạn vật: “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái” (Ga 4,35). “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loài nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành một cây” (Mt 13,31-32).

98. Đức Giêsu sống hòa hợp trọn vẹn với sáng tạo, và mọi kẻ khác đều ngạc nhiên: “Ông này là người thế nào mà cả gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mt 8,27). Người không xuất hiện như một ẩn tu xa lìa thế giới hay thù ghét những gì thích hợp cho cuộc sống. Người nói về chính mình: “Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu” (Mt 11,19). Người tách khỏi các triết thuyết khinh rẻ thân xác, vật chất và mọi thứ ở trần gian. Dù vậy, các thuyết Nhị Nguyên vô bổ trong dòng lịch sử đã ảnh hưởng nhiều trên một số nhà tư tưởng Kitô giáo và làm lệch lạc Tin Mừng. Đức Giêsu đã lao động với đôi bàn tay, va chạm trực tiếp hằng ngày với vật chất được Thiên Chúa tạo thành, để với tay nghề của mình tạo dáng cho chúng. Thật đáng kinh ngạc, phần lớn cuộc đời Người đã dành cho nghề nghiệp này trong một cuộc sống đơn sơ, không có chi gây kinh ngạc: “Đây không phải là anh thợ mộc, con bà Maria sao?”(Mc 6,3). Và như thế, Người đã thánh hiến lao động và trao cho chúng một giá trị đặc biệt cho việc trưởng thành của chúng ta. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II dạy: “Ngay khi con người mang lấy gánh nặng của lao động trong sự hiệp nhất với Chúa bị đóng đinh, thì một cách nào đó con người, theo cách của mình, cộng tác với Con Thiên Chúa vào việc cứu độ nhân loại”[79].

99. Theo cách hiểu về thực tại của suy tư Kitô giáo, sự xác định toàn thể sáng tạo đã được hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, ngay từ thuở ban đầu: “Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1,16). Tiền đề của Phúc Âm thánh Gioan (1,1-18) cho thấy hành động sáng tạo của Đức Kitô như Lời của Thiên Chúa (Logos). Thế nhưng tiền đề này gây kinh ngạc khi xác nhận rằng Lời “đã hóa thành xác thể” (Ga 1,14). Một Ngôi Vị của Ba Ngôi Thiên Chúa tự hội nhập vào vũ trụ được tạo thành và đã liên kết với tạo thành cho đến thập giá. Từ khởi đầu thế giới, nhưng với một cách thức đặc biệt từ mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Chúa Kitô thực hiện một cách bí mật trong toàn thể thực tại, mà không ảnh hưởng gì đến sự độc lập của chúng.

100. Tân Ước không những nói với chúng ta về Đức Giêsu lịch sử với sự liên lạc cụ thể và ưu ái với thế giới; nhưng còn cho thấy Người như Đấng Phục sinh đầy vinh quang hiện diện với vương quyền tròn đầy trên toàn thể sáng tạo: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”(x. Cl 1,19-20). Điều này đưa chúng ta vào cuối thời gian, khi Chúa Con trao trả lại mọi sự cho Chúa Cha và “như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (x. Cr 15, 28). Theo cách thức này, mọi tạo vật trên trần gian xuất hiện trước mặt chúng ta không phải như những thực tại tự nhiên, nhưng Đấng Phục Sinh ôm lấy chúng và hướng chúng đến một định mệnh tròn đầy. Cũng như cánh hoa ngoài đồng và các chim chóc, được nhìn với con mắt đầy kinh ngạc, thì bây giờ lại được tràn đầy sự hiện diện sáng chói của Người.

CHƯƠNG III

NGUỒN GỐC NHÂN BẢN

CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG SINH THÁI

101. Thực sự không ích lợi gì nếu chỉ diễn tả các hiện tượng của cơn khủng hoảng sinh thái, mà không nhận thức được nguyên do nhân bản của nó. Có một cách hiểu đời sống và hoạt động con người đi vào sai lạc và nghịch lại với thực tại đến độ gây tai hại cho chúng. Tại sao chúng ta không dừng lại để suy nghĩ điều này? Trong suy nghĩ này, Tôi xin đề nghị chúng ta nên tập trung vào sự thực dụng kỹ thuật hiện tại và vào vị trí con người và hoạt động của họ trong thế giới.

I. CÔNG NGHỆ: NĂNG LỰC SÁNG TẠO

VÀ QUYỀN LỰC

102. Nhân loại đã bước vào một thời kỳ mới, trong đó sức mạnh kỹ thuật đặt chúng ta trước mỗi giao lộ. Chúng ta là những người thừa kế làn sóng thay đổi của hai thế kỷ: máy chạy hơi nước, xe lửa, điện tín, điện khí, xe hơi, máy bay, kỹ nghệ hóa chất, y khoa tân tiến, thông tin học, và mới hơn, cách mạng tin học, rô-bốt, kỹ nghệ sinh học và kỹ thuật siêu nhỏ. Thực sự phải vui mừng vì những phát triển đó và trước những khả năng mở ra những điều mới lạ, vì “khoa học và kỹ thuật là một sản phẩm kỳ diệu hoạt động sáng tạo của con người, một quà tặng của Thiên Chúa”[81]. Việc biến đổi thiên nhiên cho mục đích sử dụng là một đặc thù của nhân loại ngay từ thuở ban đầu, và như thế, kỹ thuật “diễn tả xu hướng của tâm trí con người từng bước lướt thắng những điều kiện vật chất”[82]. Kỹ thuật đã đem những phương dược chữa trị cho không biết bao nhiêu đau khổ làm hại con người và ngăn cản họ. Chúng ta chỉ có thể đánh giá và cám ơn những tiến triển kỹ thuật, nhất là trong lãnh vực y khoa, xây dựng và giao thông. Chúng ta phải công nhận những cố gắng của biết bao nhà khoa học và kỹ sư, mang đến sự đa dạng cho một sự phát triển lâu dài.

103. Khoa học kỹ thuật được định hướng tốt đẹp, không những sản xuất nhiều vật có giá trị để giúp làm tốt đẹp cho phẩm chất sống của con người, từ các đối tượng được sử dụng trong gia đình cho đến những phương tiện giao thông, những cây cầu, nhà cửa, những nơi công cộng, nhưng còn có khả năng sản sinh những gì tốt đẹp và còn đưa ra những “dự phóng” trong lãnh vực làm đẹp cho con người đang nằm trong thế giới vật chất. Người ta có thể phủ nhận vẻ đẹp của một chiếc máy bay hay những tòa nhà chọc trời hay không? Có nhiều tác phẩm tuyệt vời trong mỹ thuật và âm nhạc, nhờ áp dụng các phương tiện kỹ thuật mới. Cũng như trong việc tìm tòi vẻ đẹp về phần người sản sinh kỹ thuật và người chiêm ngắm vẻ đẹp này như một bước nhảy vào sự tròn đầy nhân bản.

104. Chúng ta cũng không thể nào không chú ý đến năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học, thông tin học, nhận thức về ADN của chúng ta và những khả năng khác mà chúng ta thu nhận được, đã trao cho chúng ta một quyền lực khủng khiếp. Nói rõ hơn, chúng ban cho những ai có kiến thức và nhất là quyền lực kinh tế, sử dụng chúng như một quyền lực thật ấn tượng trên cả nhân loại lẫn cả thế giới. Chưa bao giờ nhân loại có được quyền lực như thế trên chính mình, và không có gì bảo đảm rằng chúng được sử dụng đúng đắn, nhất là khi người ta nghĩ đến cách chúng được sử dụng ngay trong lúc này. Chỉ cần nhớ đến những quả bom nguyên tử được thả ngay trong thế kỷ XX, cũng như việc sử dụng kỹ thuật của nhóm chủ nghĩa Phát xít, những chế độ độc tài sử dụng để tiêu diệt hằng triệu người, và cũng không nên quên rằng, ngày nay chiến tranh sẽ sử dụng những phương tiện giết người còn cao độ. Quyền lực này sẽ nằm trong tay ai? Thật là nguy hiểm khi quyền lực nằm trong tay một nhóm nhỏ!

(còn tiếp)

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)

ĐỌC LẠI

HÀNH TRÌNH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG

Lời nói đầu : Đây là một quyển sách nổi tiếng, được rất nhiều người hâm mộ, do một vị Giáo Sư của một Đại Học danh tiếng viết lại về những gì ông và nhiều học giả tên tuổi đã được phái sang Ấn Độ để quan sát, sưu tầm và giải thích những sự kiện huyền bí với một tinh thần khoa học tuyệt đối, với những điều kiện khắt khe, nhằm đạt mức chuẩn xác nhất sau khi đã tận mắt chứng kiến những điều huyền bí do những đạo sĩ của Ấn Độ được một Tiểu Vương đưa sang thăm Anh Quốc biểu diễn. Các Đạo Sĩ đã biểu diễn uống các chất cực độc mà không chết. Nhịn thở hàng giờ dưới đáy hồ. Cho vô quan tài rồi chôn sống trong 48 ngày mà không sao.

Lúc ra đi thì các nhà khoa học không mấy tin tưởng, nhưng khi về đã đổi khác. Gs. Spalding với tư cách là Trưởng Phái Đoàn cho biết: “Phương Đông có những chân lý quan trọng để cho người Tây Phương nghiên cứu học hỏi. Đã đến lúc người Tây Phương phải quay về với Đông Phương để trở về quê hương tinh thần”.

Điều đáng tiếc là phái đoàn gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Họ đã bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm những gì đã chứng kiến. Sau đó ít lâu, Gs. Spalding cho xuất bản bộ sách “Journey to the East” và nó gây ngay một dư luận hết sức sôi nổi. Nhiều người tìm đến những người trong phái đoàn thì được biết họ đã rời bỏ Âu Châu để sang Ấn Độ sống đời tu sĩ trên dãy Tuyết Sơn. Nhưng quyển sách đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác qua Ấn Độ để kiểm chứng. Thiên ký sự của Sir Walter Blaker đã đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của ký giả Paul Brenton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí Đông Phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này.

Cuối cùng là nhận xét của người đọc về tất cả những gì được đề cập trong quyển Hành trình về Phương Đông đối chiếu với Đạo Phật theo Đại Thừa, vì những gì được viết trong đây, kể cả những gì các vị Chân Sư và các Đạo Sư đang tu hành. Bởi mọi hoạt động của họ đều được cho là nhằm phục vụ cho Đạo Phật vì đều mong chờ Đức Di Lặc tái sinh theo tài liệu cổ ghi lại.

Tóm lược quyển Hành trình về Phuơng Đông như sau : Sau hai năm du hành khắp Ấn Độ, viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn cũng không học hỏi được điều gì mới lạ, vì phần lớn giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm vào đó mê tín, dị đoan, thần thánh hóa vài huyền thoại để đề cao xứ sở của họ. Không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng có thể tự xưng là Hiền Triết (Rishi), Sư Tổ (Guru) hay Đại Đức (Swami), thậm chí là xưng Thánh Nhân giáng thế…

Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả, Giáo Sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares, nơi có một đạo sĩ đang trổ tài thổi kèn gọi rắn thì có một người Ấn to lớn, phong độ khác thường nhìn ông và mỉm cười, rồi lễ phép chào ông bằng m ột tiếng Anh hết sức đúng giọng. Ông cũng đáp lễ lại. Gs. Spalding bắt đầu hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm, thì người Ấn nói rằng: “Phải chăng phái đoàn đã thất vọng vì những đạo sĩ đã gặp, và bàn với nhau là cuối tháng này nếu không thu thập được gì thêm sẽ trở về Châu Âu và kết luận rằng Á Châu chả có điều gì đáng để học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á Châu?”.

Giáo Sư Spalding rất ngạc nhiên, bởi vì điều đó họ mới vừa bàn với nhau, thậm chí nhiều người trong phải đoàn còn chưa biết. Nhưng người Ấn cho biết là ông tới đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi thuộc Thánh Kinh của một vị Chân Sư: “Hãy gõ cửa rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi ngươi sẽ gặp”. Gs. Spalding ngạc nhiên hỏi làm sao biết các ngài ở đâu mà tìm - chúng tôi đã bỏ ra cả 2 năm trời đi gần hết các đô thị - thì được hướng dẫn hãy đến Rishikesh.

Giáo sư Spalding được giải thích về các từ Chân Sư và Đạo Sĩ. Chân Sư là người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hóa, trong khi Đạo Sĩ mới bắt đầu, cũng như giải thích: “Phép thuật, thần thông không phải là mục đích tối hậu của con đường đạo mà chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí, mục đích con đường Đạo là Giải thoát, trở nên toàn thiện như Đấng cao cả mà Chúa Jesus là một”. Gs. Spalding lại thêm ngạc nhiên về người Ấn lại nói về một đấng Giáo Chủ mà mọi người Tây Phương đều biết đến, và hỏi sao các Đấng Chân Sư không xuất hiện để dạy dỗ quần chúng thì được trả lời rằng: Nếu Đấng Christ hay Đức Phật hiện ra tuyên bố các giáo điều ông có chịu tin không hay phải biểu diễn thần thông như đi trên mặt nước hoặc làm ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì mới tin? Người Ấn cho rằng các Chân Sư vẫn âm thầm lặng lẽ phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái tốt lành, là sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian, tuy mắt ta không thấy, nhưng hiệu lực vô cùng mạnh mẽ. Giáo Sư hỏi xin địa chỉ của vị Chân Sư nhưng người Ấn cho biết khi đủ duyên sẽ gặp, rồi cúi chào và biến mất trong đám đông.

Thế rồi khi đoàn đang quay phim thì Gs. Spalding thong thả dạo ngoài bờ sông, thấy một vị đạo sĩ lực lưỡng đang đi gần đó nên ông muốn nhìn cho rõ không ngờ bị một con rắn hổ mang chặn lối. Bất ngờ đạo sĩ bước tới giữa con rắn và Gs. Spalding. Tự nhiên con rắn hung dữ bỗng nằm yên không nhúc nhích. Vị đạo sư dơ tay vuốt nhẹ, con rắn từ từ bò vào bụi rậm rồi mất hút. Đạo Sư giải thích rằng đó là cái Ngã thâm diệu, cái mà ta gọi là Thượng Đế ngự trong ông đã khiến cho con rắn bỏ đi. Theo ông, khi ta hoàn toàn gạt bỏ cái phàm ngã bên ngoài để cho cái Chân Ngã tự biểu lộ thì không có chuyện gì có thể xảy ra. Bằng cách phát triển toàn vẹn tình thương qua mình và ban rải cho muôn loài ta sẽ cảm hóa được thú dữ. Ông cũng hỏi là hình như Giáo Sư có ý muốn gặp ông? Rồi ông cho biết là trong cơn Thiền Định sáng nay ông đã nhận được thông điệp về phái đoàn nên mới rời am thất và hỏi phải chăng Giáo Sư muốn hiểu về phép tu Yoga?

Chỉ qua hai cuộc tiếp xúc với những Đạo Sư được sắp xếp, Gs. Spalding thấy dần dần hé lộ những gì phái đoàn cần biết đang tiềm ẩn đâu đó khi được nghe giải thích về những điều được cho là huyền bí, văn minh cổ của Ấn Độ, biết rằng chúng vẫn được lưu giữ do những bậc Chân Sư, minh triết đúng như lời đồn đãi. Thí dụ như lời giải thích về YOGA của Đạo Sư Yoga: “Yoga là một khoa học bao gồm nhiều thứ, từ Thiên Văn, Địa Lý, Triết Học, Toán Học v.v... Do nhân loại sa vào hố thẳm của sa đọa, vật chất, bị lôi cuốn vào các cám dỗ của xác thịt. Để chống lại sự phá sản tâm linh, các hiền triết đã hội thảo tìm một giải pháp cho giai đoạn lúc đó. Phần được truyền dạy trích ở chương Yuj (cái ách) là các phương pháp trói buộc tinh thần lẫn thể xác nhằm mục đích tập trung Thân và Tâm làm một với bản thể của trời đất. Vì trích ở chương Yuj nên được gọi là Yoga. Đây chỉ là phần nhỏ của Yoga nguyên thủy mà rất ít người hiểu cho đúng đắn. Đa số hiểu sai nên mới có lối luyện tập kỳ dị, các lối tu hành khổ hạnh điên rồ, các tư thế lố bịch như các đạo sĩ nằm bàn đinh, dơ cánh tay lên trời cho đến khi nó khô liệt. Sự luyện tập như thế chả mang lại lợi ích gì. Đó là những kẻ làm hoen ố danh dự một khoa học như Yoga. Đối với đa số, Yoga đã bị hạ thấp xuống thành một môn thể dục để thân thể khỏe mạnh, cường tráng. Tuy nhiên, nếu luyện đúng cách nó vẫn mang lại kết quả tốt cho thể xác. Các đạo sĩ Yoga lại khác, họ luyện tập để khám phá các năng lục tiềm tàng, mầu nhiệm, đạt tới phép thần thông biến hóa…

Đạo sư Yoga cho biết có bốn cách thức căn bản: “Nghỉ Ngơi làm xoa dịu thần kinh. Tĩnh Tọa để tập trung ý chí. Điều Tức để tẩy uế thân thể, khu trục các chất cặn bã và Khí Công để kiểm soát hơi thở. Ông hướng dẫn 2 phương pháp Ngồi, hoặc Nằm để giúp luồng chân khí được lưu thông khắp cơ thể, từ đó điều chỉnh những chỗ bế tắc, ứ đọng trong châu thân, không phải là những tư thế vặn vẹo. Đạo Sư Yoga cũng cho rằng mục đích của Yoga không phải là để sống lâu, vì sống khổ hạnh mà không ý nghĩa thì để làm gì? Vì thế, chinh phục thể xác chỉ là bước đầu để đưa con người đến việc chinh phục tinh thần, vì giữ cho tâm không nghĩ xấu đòi hỏi nỗ lực phi thường hơn là giữ cho Thân không hành động xấu. Ông cho là người tìm đạo phải biết kiểm soát tư tưởng và sử dụng chúng một cách hợp lý, và kiểm soát tư tưởng là mục đích của môn Raja Yoga. Nhưng Haitha Yoga hay Raja Yoga hay bất cứ con đường nào, không tôn giáo nào có thể là duy nhất dẫn đến kết quả tiên thánh. Thay vì tìm một chân lý tuyệt đối hãy tìm sự tuyệt đối nơi mình để sống chớ không phải để dạy”. Đạo Sư nhận xét về những người tu hành chân chính “Không một vị thánh nào nỗ lực xưng danh, mà chỉ có kẻ còn u mê trong bản ngã mới tha thiết đến danh vọng, địa vị”. “Thầy nào, trò nấy, một tu sĩ chân chính không có đệ tử bất hảo và một đệ tử thông minh không tìm thầy bất lương”. “Một tu sĩ hiểu biết phải lo làm chủ chính mình để cầu giải thoát chứ đâu phải lôi kéo đệ tử cho đông, xây cất các đền đài cho đẹp để tự hào về các thành quả này. Như thế là phô trương bản ngã, kiêu căng, ngã mạn, làm sao giải thoát được?”.

Lần khác, một thành viên trong phải đoàn, Gs. Olivers được một chiêm tinh gia nổi tiếng Ấn Độ lấy số Tử Vi cho. Ban đầu thì các Giáo Sư cho rằng họ muốn nghiên cứu về văn minh Ấn chớ không muốn xem vận mạng hên xui, tốt xấu, nhưng chỉ qua vài câu hỏi về ngày sinh, ông được chiêm tinh gia nói cả một quá khứ từ chuyện cha mẹ ép học rồi bị phản đối nên không giúp đỡ, cho đến lúc ông trở thành nhà khoa học thì bắt ông đi vào con đường chính trị và làm áp lực để ông cưới một người vợ theo ý gia đình. Nhưng cuộc hôn nhân bất hạnh làm cho ông thất vọng, chính người cha cũng buồn phiền rồi qua đời, và ông gia nhập phái đoàn nhằm mục đích xa rời Luân Đôn để thỏa mãn giấc mộng hải hồ…

Chiêm tinh gia nói rằng tinh tú không ăn nhập gì đến chúng ta, mà chính là dĩ vãng ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại. Tinh tú chỉ phản chiếu cái ảnh hưởng đó mà thôi. Con người chết và tái sinh trở lại trong nhiều kiếp. Định mệnh mỗi người theo dõi họ theo Luật Nhân Quả. Khi qua đời, thể xác hư thối, nhưng dục vọng và ý chí vẫn còn nguyên, cho đến khi đầu thai thì nó sẽ trở thành cá tính của kiếp sau. Nhà chiêm tinh cho biết cuộc đời của Giáo Sư đang bước vào một khúc quanh quan trọng, đã đến bên thềm đạo và sẽ được dìu dắt bởi một hiền giả. Ông đưa Phái đoàn đi xem những căn phòng chứa sách với những chiếc tủ lớn chứa hàng ngàn cuốn sách cổ mà Gs. Mortimer, một nhà Khảo Cổ Học của trường Harvard cũng phải kinh ngạc trước kho tàng sách vở vô giá này. Có những sách viết trên lá Buông (Papyrus) cả ngàn năm trước xen lẫn tài liệu khắc trên gỗ thế kỷ thứ sáu. Toàn thể phái đoàn có cảm tưởng kho Minh Triết Ấn Độ phần lớn tập trung ở đây.

Chỉ cần một Chiêm Tinh Gia đã có thể thao thao nói với các nhà Khoa Học hàng đầu của nước Anh về trục của trái đất, mặt trời, mặt trăng, những hiện tượng thiên nhiên dưới cái nhìn của khoa Sinh Vật học, về yếu tố di truyền… với một kiến thức uyên bác mà theo ông là đã nghiên cứu trong các sách vở bí truyền và trong Thiền. Theo chiêm tinh gia, quan niệm Thượng Đế là một ông già ngồi trên cao, nắm toàn quyền sinh sát, định đoạt số phần cho con người là ấu trĩ, vì Thượng Đế sáng tạo và đặt tất cả vào trật tự vũ trụ, làm gì có việc định đoạt số phận cho từng con người, mà tất cả diễn tiến theo luật vũ trụ. Nhân nào, Quả nấy. Lực nào cũng có một phản lực đi kèm. Đó là Khoa Học Vật Lý chớ đâu có gì lạ! Ông giải thích rằng con người có thể cải số nếu làm các việc tốt đẹp. Ông còn lưu giữ một quyển sách cổ của Hiền Triết Bhrigu và cho rằng mất 20 năm nghiên cứu nhưng chỉ hiểu chút ít mà thôi.

Nhà Chiêm Tinh dùng cả danh từ Thiên Chúa Giáo để giải thích về tiến hóa của con người và cho rằng không thấy có sự khác biệt giữa các giáo lý của các tôn giáo. Ông dẫn chứng cả những phong trào phục hưng văn hóa ở Âu Châu, đến việc phát minh máy in kỹ thuật ấn loát, cả cuộc Cách Mạng Pháp thay đổi Lịch Sử Âu Châu vào 25 năm cuối của thế kỷ 17 và 18. Càng đi sâu vào các cuộc tiếp xúc, Gs. Spalding càng thấy rằng sự hiểu biết về các mặt của Đạo Sư chân chính quả là khoa học với đầy đủ tính thuyết phục. Ông ta kể về lịch sử Châu Âu đã thiêu sống những người thông minh do có cái hiểu khác họ, và cho rằng đó cũng là lý do để các bậc danh sư không xuất hiện và các phương pháp tu hành được giữ gìn cẩn thận, bí mật, chỉ người thành tâm mới được dạy bảo.

Kiến thức của chiêm tinh gia không những đã chinh phục tất cả mọi người trong phái đoàn, mà còn làm mọi người bắt đầu cởi bỏ thành kiến dị biệt, các quan niệm bảo thủ và lòng tự hào của người Âu để bắt đầu quan sát, học hỏi.

Phái đoàn đến Rishikesh, một thành phố của các vị thánh mà tất cả những ai cầu đạo đều phải đến để đắm mình trong bầu không khí thiêng liêng. Nhưng nơi đây giờ không còn là thành phố của các bậc chân tu đạo hạnh như xưa, mà quy tụ nhiều thành phần hỗn tạp, vì ở một quốc gia chậm tiến như Ấn Độ thì chỉ cần mặc áo tu, thuộc vài câu Kinh là có thể xưng là Đạo sĩ, thánh nhân được rồi. Giai cấp tu sĩ ở Ấn Độ không phải làm gì, chỉ hưởng thụ và các giai cấp khác có bổn phận phải chu cấp mọi đòi hỏi cho các tu sĩ. Cũng vì xã hội nghèo đói, rối ren, tinh thần lại bị điên đảo bởi các tà thuyết nên Ấn Độ không sao trở thành quốc gia hùng cường thịnh vượng như các xứ khác được. Nhưng ẩn sâu trong đó, vẫn tồn tại những bậc chân tu, đạo hạnh, lưu giữ gia tài minh triết, giữ ngọn lửa tâm linh luôn cháy sáng, và vẫn có người chấp nhận từ bỏ tất cả để đi tìm chân lý là điều người Âu Châu khó chấp nhận được. Nhưng đến khi người Âu Châu đặt câu hỏi về cuộc sống, cái chết mà không tìm được câu trả lời thì thấy rằng người Á Châu đã có câu trả lời về vấn đề này từ nhiều ngàn năm rồi. Chính Đại Đế Alexande của xứ Hy Lạp, bách chiến bách thắng, dẹp tan Ai Cập, quét sạch Ba Tư, mở rộng bờ cõi đến tận Ấn Độ, nhưng khi trở về nước lại trở thành một triết gia khiêm tốn, nhã nhặn. Đó là nhờ học hỏi, đàm luận với các nhà hiền triết Ấn Độ.

Phái đoàn đến viếng Đức Mahasaya là đệ tử của Đức Ramakrisna, người được coi như một vị Thánh của Ấn Giáo, danh tiếng truyền đến Âu Châu. Vị này không để lại sách vở, chỉ dạy đạo qua cử chỉ yên lặng và vài câu nói giản dị như: “Muốn có hạnh phúc thật sự phải vượt lên sợ hãi và ham muốn”. “Phát giác và trừ diệt cái sai lầm căn bản là phương thuốc chánh, tất cả phương tiện khác đều chỉ là tạm bợ”. Tóm lại, theo Ramakrisna thì “nguyên nhân của sợ hãi, dục vọng, ham muốn do sai lầm đầu tiên, tự cho mình là xác thân này, vì sợ hãi hay ham muốn đều bắt đầu từ thể xác này”.

Phái đoàn được đưa đến một Đạo Sư có khả năng làm một số phép thuật. Họ được chứng kiến việc dùng một chiếc kính lúp và một chiếc khăn tay để thu hút các mùi hương trong không khí theo yêu cầu của các nhà khoa học, từ mùi hoa Lài cho tới mùi hoa Tullip, kể cả mùi thuốc hóa học, mùi Acid trong phòng thí nghiệm… Làm cho bông hoa đang khô héo tươi lại, làm xuất hiện một chùm nho ở rất xa. Họ có thể cho vô miệng để thưởng thức để thấy đó là trái nho thật. Ông ta còn làm xuất hiện một ổ bánh mì rồi làm biến mất và cho rằng không được lạm dụng quyền năng.

Họ được gặp một Đạo Sư về âm nhạc có tên là Harish Chandra để được nghe thuyết trình về nghệ thuật sáng tác, thưởng thức khi cái bản ngã vắng lặng và được thưởng thức âm thanh của sự bình an…

Phái đoàn cũng được tiếp xúc với Bác sĩ Bandyo, trước kia là Giám Đốc của một Bệnh Viện, đã từng điều trị hàng trăm bệnh khó mà các Bs. khác bó tay. Ông cũng từng được đề cử giải Nobel. Nhưng theo Bs. này, thì bệnh án được đề cử giải Nobel không phải do ông tìm ra, mà do Đức Mẹ làm phép, nên sau đó ông bị thất sủng và rời bệnh viện. Ông có thần nhãn, nhìn thấy thế giới bên kia. Thấy được các sinh vật vô hình, các Thiên Thần chăm lo sức khỏe cho con người. Ông cũng cho rằng một đứa trẻ con không chỉ được chăm lo về mặt vật chất, mà mặt tinh thần cũng rất là quan trọng, chính tình thương là yếu tố dinh dưỡng cần thiết để đứa bé lớn lên có cuộc sống khỏe mạnh, bình thường. Ông cũng cho rằng chết không phải là hết, chỉ là sự rời bỏ thể xác mà thôi. Ông dành cả đời còn lại để hoàn toàn phụng sự cho Đức Mẹ và chuyên điều trị cho các bệnh nhân nghèo.

Ấn Độ còn có Đạo Sư Ram Gobla có thể chữa những bệnh nan y mà không cần dùng thuốc. Cách chữa cũng giản dị. Việc đầu tiên phải làm là quyết định có theo phương pháp này được không? Nếu nhất quyết thì phải từ bỏ tất cả sự nghiệp, gia đình để gia nhập Đạo Viện cho đến khi hết bệnh. Cách điều trị chỉ là ăn rất ít, thời gian đầu chỉ là uống nước suối và ăn cơm nhạt thôi. Hoàn toàn không nêm muối hay đường gì hết. Mỗi ngày ăn 1 buổi trước trưa và uống ít nước. Cứ thế trong khoảng 2 tuần là đa số độc tố sẽ bị khu trục cả. Chỉ cần ăn thử 1 tuần là cơ thể đổi khác ngay.

(Còn tiếp)

Tâm Nguyện

(Tháng 11/2015)

Phụ Bản I

Đại văn hào Pháp

VICTOR HUGO

(1802-1885)

Victor Hugo

Sinh ngày 26/02/1802 tại Besançon, mất ngày 22/5/1885 tại Paris.

Ông là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp. Thành công vang dội của hai tác phẩm “Nhà thờ Đức Bà Paris” và “Những người khốn khổ” đã đưa Victor Hugo trở thành tiểu thuyết gia của công chúng.

Nhà văn, nhà thơ vĩ đại nhất của nước Pháp

Sự rộng lượng trong các tư tưởng của ông, sự ân cần trong cách diễn tả đã làm rung động tâm hồn người đọc bởi vì ông là nhà thơ của người bình dân, đã viết ra văn, làm ra thơ với đặc tính giản dị nhưng bao hàm bên trong sức mạnh, đề cập cả về niềm vui lẫn nỗi buồn của nhiều người. Khi được hỏi ai là nhà thơ lớn nhất của nước Pháp, Văn Hào André Gide đã trả lời: “Vẫn là Victor Hugo”. Victor Hugo có thể bị chỉ trích về sự nông cạn của tâm hồn tác giả và sự tầm thường của các nhân vật trong chuyện, nhưng tầm vóc tài năng của ông về văn chương, bao gồm cả kịch nghệ và thơ phú, thật là bao la, không có ai sánh kịp trong lịch sử văn học kể từ thời Shakespeare và Goethe. Mặc dù không phải là nhà tư tưởng sâu sắc, Victor Hugo vẫn là nhà văn chân thành, hiến mình cho “Chân, Thiện, Mỹ” và ông là Văn Hào được dân chúng Pháp yêu chuộng nhất.

Về kịch nghệ

Victor Hugo là người phát ngôn của trường phái Lãng Mạn, ông đã lên án sự cứng rắn về ngôn ngữ và hình thức của trường phái Cổ Điển, chỉ quen dùng đề tài là các vua chúa Hy Lạp hay các anh hùng La Mã. Victor Hugo đề nghị dùng lịch sử cận đại với nhân vật trong các vở kịch có thể là một người tư sản, một tên cướp… nhưng vẫn mang vẻ cao thượng trên kịch trường và như vậy đã chuyển hướng Kịch Nghệ về đường lối Hiện Thực.

Về phương diện tiểu thuyết

Victor Hugo đã đề cập tới các vấn đề luân lý với các nhân vật trong truyện làm các hành động đơn giản nhưng không thể quên được. Cuốn truyện “Nhà Thờ Đức Bà” là một tiểu thuyết lịch sử, với thời điểm là các năm 1400 tại thành phố Paris. Cuốn tiểu thuyết “Chín Mươi Ba” nói về các biến cố của cuộc Cách Mạng Pháp, còn cuốn “Các Kẻ Khốn Cùng” được đặt vào trong khung cảnh của nước Pháp cùng thời đại với nhà văn, với nhân vật Jean Valjean phấn đấu để có thể thực hiện một đời sống hữu ích mặc dù các thành kiến của một xã hội tàn ác. Như vậy cuốn truyện đã phản ánh niềm tin của tác giả vào khả năng tự quyết của cá nhân đối với các thói đời. Cuốn truyện đã mô tả bản chất của xã hội và bản chất của con người. Victor Hugo cho rằng các điều kiện xã hội phải thay đổi để cho các trẻ em được nuôi dưỡng đầy đủ, đàn ông có công việc làm ăn, đàn bà được che chở, nền giáo dục nên dành cho mọi người, cơ hội phải công bằng và giữa con người với nhau phải có tình huynh đệ. Cuốn tiểu thuyết “Các Kẻ Khốn Cùng” đã đặt ra nhiều vấn đề liên quan tới chính trị, xã hội, văn chương, lý tưởng nhân đạo và hướng thiện.

Ngoài ra, nhiều tác phẩm của Victor Hugo còn được coi là xuất sắc vì cách canh tân về ngôn ngữ và hình thức văn chương, vì cách vận dụng chủ đề theo trừu tượng. Ông xứng đáng được kể là nhà văn đại diện lớn nhất cho Tinh Thần của nước Pháp và châu Âu vào Thế kỷ 19.

Các tác phẩm của ông rất đa dạng như: tiểu thuyết, thơ, kịch, các bài diễn văn chính trị,... Tiêu biểu cho các tác phẩm của ông là hai tác phẩm mang đậm tính nhân bản: Những người khốn khổ và Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris).

1. Tuyệt phẩm “Nhà thờ Đức Bà Paris” (1831)

Xuất phát từ việc tác giả muốn viết một cuốn tiểu thuyết về ngôi nhà thờ nổi tiếng ở thủ đô Paris vào năm 1828.

Ông đã nhiều lần đến nhà thờ Đức Bà Paris để ngắm kiến trúc cổ của ngôi nhà thờ và nảy ra ý tưởng viết một cuốn tiểu thuyết có tính chất lịch sử lấy bối cảnh Paris thời Trung cổ.

Victor Hugo muốn ngôi nhà thờ cổ kính tráng lệ vượt lên trên thời gian và tất cả những biến cố. Tác phẩm đã thể hiện được sự vươn đến một tầm cao triết lý, qua cách mô tả một định mệnh đã dẫn các nhân vật gắn liền với ngôi nhà thờ này cho đến chỗ chết, chỗ hủy diệt.

Tính cách của các nhân vật trong tuyệt phẩm được khắc họa đậm nét. Mối tình đau khổ dẫn đến ghen tuông của Đức Cha Frollo biến ông thành kẻ ích kỷ, độc ác. Viên Đại úy Phoebus với nét hào hoa, đỏm dáng nhưng tâm hồn vô cùng hời hợt. Người đẹp Digan Esméralda trong trắng, ngây thơ và có số phận bất hạnh. Còn Quasimodo, một tên gù mồ côi giữ nhiệm vụ kéo chuông tại Nhà thờ Đức Bà Paris, là một tâm hồn đầy thống khổ với nỗi cô đơn và tình yêu, sự hy sinh cao cả dành cho người con gái mà mình tôn thờ.

Mối tình si trong câm nín của thằng gù Quasimodo

Nổi bật nhất trong tác phẩm có lẽ là tình yêu câm nín đầy thống khổ của thằng gù Quasimodo và Esméralda trong trắng, thơ ngây.

Ai đó đã ví, tình yêu của Quasimodo với nàng Esméralda xinh đẹp như “Quái thú và Người đẹp”. Chỉ khác nhau ở cái kết quá bi thảm trong bối cảnh xã hội Pháp mà Hugo muốn làm nổi bật lên.

Đó gần như là tình yêu vô vọng, câm nín, đầy thống khổ. Nhưng thứ mà chúng ta cảm nhận được là chính mối tình ấy là sự cứu rỗi vô cùng với tâm hồn Quasimodo, để hắn biết yêu, biết khóc, biết hận thù, và đi đến tận cùng của những cảm xúc loài người.

Quasimodo là một thằng gù xấu xí, mồ côi khốn khổ được người ta đưa về nhà thờ nuôi dưỡng và trở thành người đánh chuông cho nhà thờ. Một thằng gù sống hoang dại, trơ lỳ, tưởng như trái tim đã bị đánh cắp, tưởng rằng không còn điều gì có thể đánh động nổi trái tim ấy nữa. Vậy mà thằng gù xấu xa đó đã biết yêu, yêu một tình yêu say đắm, cuồng nhiệt. Hắn yêu nàng Esméralda, trong khi nàng lại sợ sệt cái hình dạng xấu xí của hắn. Nàng thiếu nữ Bohemien xinh đẹp ấy đã đem lòng yêu một con người khác.

Tình yêu chính là nguyên nhân của tất cả những điều mà Quasimodo đã làm. Hắn chấp nhận đánh đổi tất cả những gì đã tồn tại trước đây để có được những khoảnh khắc sống thật với tình yêu của mình. Và đó là con đường mà hắn lựa chọn từ đầu cho tới khi kết thúc tác phẩm. Khi hắn đã dám giết chết người đã cưu mang hắn từ nhỏ, để giải thoát cho nàng Esmerald, và cũng tự giây phút ấy, hắn kết thúc cuộc sống của mình.

Tác phẩm của Victor Hugo kết thúc, cũng là khi mọi mâu thuẫn, bi kịch được giải thoát - giải thoát bằng những cái chết đau đớn, để những con đường Paris còn vương mãi những tiếng khóc, những tiếng oán hờn, và những cơn gió buồn đến xác xơ lòng người.

Đó phải chăng là sự cuốn hút vượt thời gian trong những phóng tác của Victor Hugo trong “Nhà thờ Đức Bà Paris”. Tình yêu vốn luôn tiềm ẩn sự bí ẩn, bằng cách này hay cách khác, nó có một hấp lực mạnh mẽ không thể cưỡng nổi của loài người dù ở thời nào đi nữa, dù ở số phận nào đi chăng nữa!

2. Tiểu thuyết “Những người khốn khổ”

Nếu như “Leon Tolstoi được coi là tấm gương phản chiếu cách mạng Nga”(V.I.Lênin) thì Victor Hugo cũng được coi là tấm gương phản chiếu của cách mạng Pháp.

“Những người khốn khổ” là tác phẩm xuất sắc nhất của Victor Hugo. Chính vì vậy mà: “Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ XIX”. Tác phẩm ghi lại dấu mốc đáng kể trên con đường phát triển mạnh mẽ của loại tiểu thuyết xã hội Pháp. Đây được coi là tác phẩm chan chứa tình lãng mạn. Tác phẩm này là đỉnh cao nghệ thuật văn xuôi, tác phẩm đã kết tinh nhất thiên tài của văn chương thế giới.

Tác phẩm này là câu chuyện về xã hội nước Pháp trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ XIX kể từ thời điểm Napoléon I lên ngôi và vài thập niên sau đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Jean Valjean, một cựu tù khổ sai tìm cách chuộc lại những lỗi lầm gây ra thời trai trẻ. Bộ tiểu thuyết không chỉ nói tới bản chất của cái tốt, cái xấu trong luật pháp, mà tác phẩm còn là cuốn bách khoa thư đồ sộ về lịch sử, kiến trúc của Paris, nền chính trị, triết lý, luật pháp, công lý, tín ngưỡng của nước Pháp nửa đầu thế kỷ XIX. Chính nhà văn Victor Hugo cũng đã viết cho người biên tập rằng: “Tôi có niềm tin rằng đây sẽ là một trong những tác phẩm đỉnh cao, nếu không nói là tác phẩm lớn nhất, trong sự nghiệp cầm bút của mình”.

Đây vừa là một tiểu thuyết hiện thực, vừa là một tiểu thuyết sử thi, tiểu thuyết xã hội và cũng là một bài ca về tình yêu.

Trên khía cạnh hiện thực, tiểu thuyết này đã miêu tả cả một thế giới của những con người nghèo khổ, đó là bức tranh cực kỳ chân thực về cuộc sống ở nước Pháp nói chung và ở Paris nghèo khổ nói riêng vào nửa đầu thế kỷ XIX.

Trên khía cạnh là một tiểu thuyết sử thi, tác phẩm đã miêu tả ít nhất ba bức tranh chân thực của lịch sử nước Pháp, đó là - trận Waterloo - cuộc nổi dậy của những người cộng hòa ở Paris năm 1832 - và cuộc chạy trốn trong cống ngầm của Jean Valjean. Tính sử thi của tiểu thuyết cũng thể hiện qua việc miêu tả những xung đột bên trong tâm hồn con người, đó là sự xung đột giữa cái thiện và cái ác bên trong Jean Valjean, đó cũng là sự xung đột trong suy nghĩ của thanh tra Javert trước sự tôn trọng luật pháp và sự tôn trọng đạo lý con người.

Tác phẩm này cũng là tác phẩm ca ngợi tình yêu: Tình yêu đối với các con chiên của linh mục Myriel, tình yêu tuyệt vọng của Fantine, tình phụ tử của Jean Valjean với Cosette. Bên cạnh đó, “Những người khốn khổ” cũng là một trong những tác phẩm hay nhất của văn học Pháp khi thể hiện tình yêu Tổ quốc.

Tư tưởng của tác phẩm có thể tóm tắt bằng lời tựa của Victor Hugo trong tác phẩm này: “Khi pháp luật và phong hóa còn đầy đọa con người, còn dựng nên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sự tha hóa của đàn ông vì bán sức lao động, sự sa đọa của đàn bà vì miếng cơm manh áo, sự cằn cỗi của trẻ nhỏ vì tối tăm thất học còn chưa được giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn ngạt thở; nói khác đi và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất, dốt nát và đau khổ còn tồn tại thì những quyển sách như loại này còn có thể có ích”.

Mặc dù trong tác phẩm này vẫn còn một số hạn chế trong tư tưởng của tác giả nhưng đây vẫn là một bộ tiểu thuyết lớn mang đậm sắc thái lãng mạn, thấm nhuần một tinh thần nhân đạo cao cả tiến bộ rõ rệt và có giá trị lâu dài.

Bức thư tình tuyệt hay của Victor Hugo

Bức thư với những lời nồng nàn yêu thương này được viết sau khi Victor Hugo và Adele Foucher có cuộc hẹn hò ngắn ngủi trong hai ngày.

Victor Hugo, đại văn hào vĩ đại của thế giới, không chỉ nổi tiếng với những tác phẩm lừng lẫy , mà còn được biết đến như tác giả của những bức thư tình khiến trái tim của mọi phụ nữ ở mọi thời đại phải tan chảy, dù có đem lòng yêu mến ông hay không. Hugo là người chung tình, nhưng cũng hết sức… đa tình. Ông có thể yêu cuồng nhiệt một người phụ nữ, và cũng có thể dành trọn con tim mình cho nhiều cô gái cùng một lúc, không phân biệt hơn kém, ai cũng thật lòng, đắm say.

Hugo biết rung động từ khi mười mấy tuổi, và mối tình đầu của ông là cô bé hàng xóm Adele. Từ tình bạn thanh mai trúc mã, cả hai đã phải lòng nhau với tất cả xúc cảm trong sáng và nồng nhiệt là tình đầu. Tuy nhiên, cả hai gia đình đều phản đối mối quan hệ này. Mẹ của Hugo cho rằng, Adele không đủ tiêu chuẩn về sự môn đăng hộ đối, còn gia đình của Adele thì cảm nhận chàng trai trẻ này quá ư bay bướm và thiếu cảm giác an toàn. Dù vậy, càng bị phản đối, họ càng yêu thương mãnh liệt. Cả hai bí mật nói lời hẹn ước và bí mật đính hôn. Tuy nhiên, thể hiện sự tôn trọng với mẹ mình, nên Hugo chỉ chính thức cưới Adele sau cái chết của mẹ vào năm 1822. Hàng trăm bức thư tình được trao đổi giữa hai người, và không khó để hình dung chàng trai trẻ Victor Hugo đã dồn bao nhiêu tâm tư, công sức để viết những lời lẽ có cánh dành cho tình yêu đầu đời của mình.

Danh ngôn của Victor Hugo

Hugo được biết đến như một đại văn hào, một người chép sử bằng thơ, kịch; một nhà phê bình văn học, một tiểu thuyết gia. Ông đã có công phản ánh trung thực những bước chuyển mình vĩ đại trong lịch sử nước Pháp. Cái bóng của ông đã “tỏa” rợp khu vườn nghệ thuật toàn thế giới. Trải qua tám mươi ba năm cuộc đời, hơn sáu mươi năm sự nghiệp cầm bút Hugo đã chiêm nghiệm ra rằng: “Trên đời này chỉ có một thứ mà ta phải cúi đầu thán phục đó là tài năng và chỉ có một thứ mà ta phải quỳ gối tôn trọng đó là lòng tốt”. Câu nói này tuy có phần chủ quan nhưng có thể coi là kim chỉ nam cho chúng ta trên bước đường đời, là tấm bia đá cao quý, đề cao tài năng, lòng tốt của con người.

Qua câu nói của Hugo thì tài năng là gì mà có sức mạnh khiến người ta phải cúi đầu thán phục? Lòng tốt là gì mà ta phải quỳ gối tôn trọng?

Định nghĩa một cách đơn giản thì “tài năng” có nghĩa là khả năng đặc biệt, sự khéo léo hơn người, sự sáng tạo vượt bậc khó gì có thể sánh được, còn “lòng tốt” tức là lòng vị tha, khoan dung, nhân hậu. Đây chính là hai phẩm chất đặc biệt quý giá của con người.

“Qùy gối tôn trọng” hay “cúi đầu thán phục” là cách nói hình ảnh thể hiện sự đánh giá rất cao trước tài năng và lòng tốt của con người. Hành động “quỳ gối tôn trọng” và “cúi đầu thán phục” cũng thể hiện quan niệm, cách đánh giá con người trong cuộc sống là chỉ đề cao coi trọng, tôn vinh những gì đẹp đẽ về trí tuệ, phẩm chất con người mà thôi, còn tiền bạc, uy quyền sẽ không làm khuất phục được con người. Đó cũng là triết lý sống đẹp của người xưa mà Cao Bá Quát đã từng thể hiện:

“Nhất sinh đệ thủ bái mai hoa”.

“Trên đời này chỉ có một thứ mà ta phải cúi đầu thán phục đó là tài năng’’. Vâng, bạn ạ! Tài năng là biểu tượng cao nhất, là khả năng trí tuệ của con người...

Tài năng, ấy là kết quả quá trình rèn luyện của những con người có bản lĩnh, lòng kiên trì, nhẫn nại mà không phải ai cũng đủ sức chịu đựng, chấp nhận.

Tài năng giúp con người khẳng định giá trị bản thân, đóng góp cho cuộc sống cộng đồng. Đối diện với người tài năng ta không chỉ được chiêm ngưỡng mà còn được mở rộng tầm hiểu biết, nâng cao nhận thức để tự hoàn thiện bản thân.

Hành động ‘‘cúi đầu thán phục’’ đòi hỏi người ta phải có nhận thức đúng cũng như có trí tuệ, đó là hành động của những người thành công vì họ chịu tiếp nhận cái sai cái đúng của chính mình và của người khác, biết lắng nghe và vượt qua cái tôi của bản thân.

Tuy nhiên chúng ta đừng quá khuôn phép cho rằng tài năng là phải giỏi toàn diện trên mọi lĩnh vực. Bởi lẽ con người là một chỉnh thể không hoàn hảo. Ngay cả vị thần Asin dũng mãnh, sức mạnh vô song, chạy nhanh hơn gió cũng có nhược điểm là gót chân thì sao con người có thể toàn diện. Dù là tài năng ở bất kì phương diện nào cũng đủ để chúng ta ‘‘cúi đầu thán phục’’.

‘‘Chỉ có một thứ mà ta phải quỳ gối tôn trọng đó là lòng tốt”. Lòng tốt xét tới cùng là sự hy sinh dâng hiến cho đời, là phương diện tâm hồn, liều thuốc thần kỳ có thể cảm hóa quỷ dữ, xua tan bóng đêm, đưa con người ta hoàn lương trở về cái thiện với cuộc đời. Người có lòng tốt nghĩa là họ đã bỏ qua hoàn toàn những suy nghĩ vụ lợi, cá nhân, nghị lực để bỏ qua những thứ trần tục vương nặng là điều khó ai có thể làm được.

Thiên tai, bão lũ hàng năm đều nhận được những lời kêu gọi ủng hộ từ nhân dân. Có thể là tiền là vật phẩm cứu trợ. Lòng tốt của mỗi người chúng ta sẽ trỗi dậy - giúp đỡ đồng bào thiên tai. Nhưng không biết nó có đến tận tay người bị nạn không nhỉ? Đó còn tùy thuộc vào lòng tốt của các cấp chính quyền. Mọi cố gắng nỗ lực vì người khác bao giờ cũng đáng được trân trọng, xuất phát từ lòng tốt thì càng đáng trân trọng hơn.

Lại nói về tài năng. Tài năng xứng đáng được ngưỡng mộ nhưng nếu tài năng ấy được dùng vào mục đích xấu xa, phản tự do, nhân dân thì nhất định phải bị lên án. Ví như những nhà khoa học đã phục vụ đắc lực cho độc tài phátxít đã gây nên nỗi đau cho nhiều người.

Tài năng phải phục vụ lợi ích cộng đồng xã hội. Người có tài năng có lòng vị tha, khoan dung, luôn mang lại niềm vui niềm hạnh phúc cho cộng đồng, xứng đáng được tôn vinh.

Cuộc đời này luôn tồn tại cái xấu, ác, thấp hèn bên cạnh cái tốt, thiện, cao thượng. Lòng tốt thường mong manh dễ vỡ còn xấu xa độc ác thường ngang nhiên trắng trợn. Trong cuộc đời đầy bất trắc này con người cần có tấm lòng, tình yêu thương, sự chân thành, thái độ tôn trọng sẽ luôn tạo ra niềm tin trọng cuộc sống, an ủi vỗ về chúng ta.

Tóm lại câu nói: “Trên đời này chỉ có một thứ mà ta phải cúi đầu thán phục đó là tài năng và chỉ có một thứ mà ta phải quỳ gối tôn trọng đó là lòng tốt” đã gợi cho tôi con đường để mình vươn tới. Chưa đủ tài năng cách tốt nhất là làm tốt công việc của mình, sống hướng thiện, có trách nhiệm và đừng bao giờ vô cảm.

LỜI KẾT

Victor Hugo, đại diện xuất sắc của phong trào văn học lãng mạn thế kỷ 19, là niềm tự hào của người dân Pháp. Tư tưởng chủ đạo trong cuộc đời và sự nghiệp của ông là chủ nghĩa nhân đạo, ông phản đối bạo lực, chủ trương dùng tình yêu để hóa giải cái ác.

Qua thơ, văn của Victor Hugo đã cho chúng ta một cái nhìn sáng tỏ, Hugo đã dựa trên những chứng thực của con người để làm nền tảng cho chính cuộc đời của Hugo. Truyện thường lên án hệ thống xã hội, đối xử bất công với kẻ thiệt thòi, điều đó đem lại những tác phẩm của Hugo trở nên thần tượng, một huyền thoại nói lên ‘Cách mạng Công nghiệp’ và cái tương quan giữa con người và Thượng đế. Đó là chân dung trọn vẹn của thế kỷ mà Victor Hugo đã sống và ông sống mãi cho tới ngày nay.

Bài hát: BELLE / Tuyệt Sắc

(trong phim Notre Dame de Paris) - Garou

Belle:

C’est un mot qu’on dirait inventé pour elle

Quand elle danse et qu’elle met son corps à jour, tel

Un oiseau qui étend ses ailes pour s’envoler

Alors je sens l’enfer s’ouvrir sous mes pieds

J’ai posé mes yeux sous sa robe de gitane

A quoi me sert encore de prier Notre-Dame ?

Quel

Est celui qui lui jettera la première pierre ?

Celui-là ne mérite pas d’être sur terre.

Oh Lucifer!

Oh! Laisse-moi rien qu’une fois

Glisser mes doigts dans les cheveux d’Esmeralda…

Belle (Tuyệt Sắc) - bài hát nhạc phim “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà” - l ời Việt: Thái Thịnh.

Thằng Gù :

Nàng, là một nhan sắc tuyệt thế giữa nhân gian/ Nàng, là bông hoa mỹ miều Hóa công đã ban tặng/ Ôi, như cánh chim tuyệt vời giữa xuân ngời rực rỡ khung trời

Tôi thấy đang mở rộng dưới chân mình địa ngục tăm tối…

Vị linh mục:

Nàng, là phàm nhân hay là thế thân lũ yêu ma/ Nàng, làm cho tôi đã bội ước trước ngai thiêng tòa Chúa/ Tôi đã nghe lòng mình khát khao phàm trần đến không ngờ

Bên Thánh Nhan cực trọng mắt tôi chẳng còn nhận ra nữa…

Người lính:

Nàng, từ trong đôi mắt ấn chứa biết bao mê hoặc/ Nàng, từ thâm sâu có còn đó khiết trinh nguyên vẹn/ Ôi, đôi gót chân nàng dày xéo lên địa ngục lẫn thiên đàng

Tôi thấy thiên thần, quỷ dữ đang cùng dìu nhau đi tới…

Cả ba người :

Hồn tôi đắm đuối với nét khoe tươi gợn trên áo nàng/ Ngàn muôn giáo huấn tín ngưỡng đức tin bỗng dưng phai tàn/ Ai, nào ai dám nói đứng trước dung nhan nàng không rung động .

Là đang nói dối, giấu diếm con tim khát khao vô vọng/ Tôi ước ao một lần bước chân thật gần đến bên nàng/ Đan ngón tay vào dòng tóc êm đềm tựa suối thiên đàng...

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)


TÌNH SỬ CỦA EDGAR POE

BÙI NGHI TRANG Constellation

Với Walt Whitman, Edgar Poe là một trong những nhà thơ lớn của nền thi ca Mỹ. Lần đầu tiên tại Pháp, Charles Baudelaire đã nhìn thấy giá trị và tuyển chọn dịch ra Pháp văn. Nhưng cuộc đời của Edgar ra sao? Là thiên tài hay quỷ dữ?

Chuỗi ngày ấu thơ đầy bất hạnh

RICHMOND! Vâng, nơi đây muôn đời vẫn xinh tươi, vẫn dịu dàng với những ngôi nhà mầu trắng như hãnh diện về sự sạch sẽ của mình đứng dọc theo hai bên bờ sông lặng lờ mang những chiếc thuyền nhỏ trôi xuôi.

Richmond với những cây mộc lan đơm hoa dưới bầu trời đầy nắng. Đối với Elisabeth Poe vào một buổi sáng huy hoàng của bầu trời tháng 8-1811, thủ phủ của Virginie xuất hiện như một cửa ngõ hòa bình. Kể từ mấy tháng nay, Virginia Players, nhóm kịch lưu động đã mang người đàn bà trẻ đầy nhựa sống, hăm hở tưởng chừng như không bao giờ dứt trong giòng máu nghệ sĩ lê bước trên con đường cái quan đầy bụi phong trần xuống miền Nam Mỹ Quốc. Nhưng Elisabeth chẳng thấy một một nữ nghệ sĩ nào được giới trung lưu tại Richmond hoan hô, ngưỡng mộ họ. Nàng chẳng hưởng được những giây phút đó. Mới 25 tuổi đầu sức khỏe của nàng đã bị đe dọa. Và nỗi bất hạnh đó kéo lê từ tỉnh này qua tỉnh khác từ mấy năm nay. Richmond! Nàng biết rõ đây là nơi chốn cuối cùng để nàng vĩnh viễn về với cát bụi.

Năm trước 1810, David Poe, chồng nàng đã bỏ nàng mà đi khi họ cùng đóng chung một vở kịch của Shakespeare ở Nữu Ước. David là một kịch sĩ tồi, tính tình yếu đuối và bất định say sưa suốt ngày, thâm căn cố đế với chai rượu. Chàng bỏ đi biệt, không hề để lại cho nàng một dấu tích nào. Kể từ đó người ta hoàn toàn mù tịt về cuộc sống của David. Bây giờ thì chỉ còn nàng dạy dỗ con thơ. Nhưng khốn nỗi nàng làm không đủ để nuôi sống ba con. Nàng phải gởi đứa con đầu về cha mẹ ruột ở Baltimore. Elisabeth chỉ còn nuôi Edgar Poe, đứa con mà nàng thương nhất cùng với đứa con gái cuối cùng.

Ngày 29-10, báo chí ở Richmond loan tin và kêu gọi lòng từ thiện của mọi người:

“Đêm nay, bà Poe đang kéo lê cuộc sống khổ cực trên giường bệnh. Bà sắp từ giã cõi đời và kêu gọi lòng từ thiện của chúng ta, lời kêu gọi cuối cùng”.

Ngày 10-12, cũng tờ báo đó đã loan báo cái chết của nữ nghệ sĩ trẻ, người vợ sầu khổ. Người mẹ của đàn con bất hạnh suốt chuỗi ngày tàn.

Đối với cậu bé Edgar, tấn bi kịch đã thực sự mở màn. Lúc mẹ mất, chú mới lên ba. Hoàn toàn Edgar không hiểu gì cả. Chết. Chết là cái gì mới được chứ? Edgar không chịu nhận rằng mẹ đã chết. Vài ngày sau cái chết của mẹ, rạp hát đóng chặt cánh cửa khép kín kỷ niệm suốt khoảng đời của một đứa trẻ ngây thơ.

“Edgar và em gái bắt đầu cuộc sống lạc loài. Chúng lang thang ngoài đường phố, không thức ăn thức uống. Không tiền bạc. Không một vật gì để có thể cầm cố sống qua ngày. Không cả giấy tờ tùy thân, áo quần thì bẩn thỉu dơ dáy. Hai đứa trẻ đói lả người. Chúng sắp chết đói. Người chúng khô khan da bọc xương. Bé gái đang trong cơn hấp hối. Phải gấp rút cứu cấp chúng”.

Sau khi tờ báo đăng lời kêu gọi, bà Mac Kensie nhận Rosalie về nuôi dưỡng, và bà Allan nhận Edgar làm con nuôi.

Allan là một người đàn bà trẻ, 27 tuổi, không có con và vợ của một đại thương gia ở Richmond.

Bà Allan dẫn Edgar về ngôi nhà nguy nga, tráng lệ, một ngôi nhà thơm sặc mùi rượu quế sâm. Edgar Poe bây giờ trở thành Edgar Allan Poe!

Người ta có thể tin rằng đối với Edgar Allan Poe đó là chuỗi ngày sung sướng hạnh phúc nhất trong tuổi ấu thơ. Nơi đây Edgar không còn sống cực khổ như đã sống trong rạp hát nghèo nàn, chui rúc. Nơi đây Edgar được nuôi nấng như con trai cưng của nhà giàu. Ăn uống dư thừa. Ăn mặc chọn lựa và hoàn toàn được cưng chiều.

Cha mẹ nuôi Edgar không ngừng thán phục tài đọc sách và vẽ của cậu trước những đứa trẻ cùng lứa tuổi. Edgar còn có tài hát và kể chuyện nữa. Giờ đây Edgar đã có tiền, lại có thêm tình thương và sự thán phục đặc biệt. Lại là con một nữa nên Edgar ngự trị trên sự cưng chiều đặc biệt của gia đình Allan. Sau này Edgar có ghi lại:

“Ý kiến của tôi là ý kiến của gia đình, và vì tuổi còn nhỏ nên tôi thường không rời khỏi gấu váy của mẹ nuôi tôi. Nhưng dù vậy tôi vẫn làm việc theo sự thúc đẩy của năng khiếu riêng tư nên tôi trở thành kẻ chủ động trong công việc làm”.

Nhưng Edgar Allan Poe có sung sướng thật chăng? Định mệnh của chú bé lang bạt này chưa hẳn chỉ có thế. Edgar đang ở trong một mê lộ khúc mắc. Chú bé đang làm những chuyện quỷ quái, đáng nguyền rủa. Con người của Edgar Allan Poe mang hai khuôn mặt. Khuôn mặt của người học trò dễ thương, ngoan ngoãn, đẹp trai, học giỏi… và khuôn mặt ma quái, dị hợm. Edgar say mê rượu chè tuy không lang bạt kỳ hồ, và chìm sâu vào nỗi buồn rầu. Hầu như lúc nào Edgar cũng để lộ nỗi buồn trên khuôn mặt. Chính sự đau khổ này đã khép kín đời Poe, là chìa khóa mở cửa địa ngục cho Edgar vào và là chìa khóa thành công của chàng trong tác phẩm. Người ta thường nghe trẻ con trong vùng kháo nhau rằng Edgar Poe thường nghĩ đến khuôn mặt như thiên thần của mẹ, còn đẹp hơn bà hoàng trong vở kịch của Shakespeare. Chính vì chuyện này mà Edgar đã bị thiên hạ nguyền rủa.

Xung đột với cha nuôi

Mùa hè năm 1815, trong chuyến đi lo việc cải thiện buôn bán với Anh quốc, ông Allan mang vợ và con nuôi đi theo. Cả hai vợ chồng Allan đều đồng ý gởi Edgar vào một ký túc xá. Đầu tiên họ gởi cậu vào một trường nội trú ở Ecosse, rồi sau đó lại dời qua một ngôi trường khác ở ngoại ô Luân Đôn trong khu “Manor house School” của các nữ tu sĩ Bransby.

Trong tâm hồn Edgar, tiền trọ do cha mẹ nuôi trả và sự xa cách này có một hậu quả thật kinh khủng. Đây là lần đầu tiên Edgar rời cha mẹ nuôi mà chàng đã thương yêu. Trong khung cảnh mới này Edgar đã nảy sinh ra cảm giác mới, đấy là cảm giác của một người con trai không còn thấy mình là một đứa con nuôi.

Bầu trời trong sáng của Richmond thực sự đã khép chặt trong lòng Edgar. Sương mù, quạ và những tình cảm mới làm Edgar chìm đắm trong cơn lốc hoang tàn sầu khổ.

Edgar ở Anh được non 4 năm. Vào năm 1820 John Allan bị buộc phải đóng cửa chi nhánh ở Anh.

Cả gia đình lại trở về Richmond. Edgar sung sướng vô cùng vì chàng sẽ tìm gặp lại đứa em gái ruột thịt Rosalie. Nhưng một tin buồn giáng xuống sự hăm hở của Edgar khi chàng đến nhà ông bà Mac Kensie, cha mẹ nuôi của em gái: Rosalie không lớn bao nhiêu và bệnh điên loạn đang xâm nhập cơ thể nàng. Đối với Edgar, đó là một dấu hiệu rõ ràng của định mệnh tàn nhẫn dành cho anh em chàng.

Hạnh phúc không còn ngự trị trong chàng ở Richmond nữa. Nơi đây, bây giờ trở thành bầu trời khốn khổ của Edgar dù có sang trọng, quý phái lúc đến học ở trường Clarke. “Người ta biết rằng cha mẹ của nó trước kia là hai nghệ sĩ”, một trong những người điều khiển đã ghi vào lý lịch của Edgar, “và đời sống của đương sự giờ đây tùy thuộc vào cha nuôi”.

Từ lời tuyên bố đó của những kẻ vô trách nhiệm làm tình thương yêu giữa Edgar và người cha nuôi càng ngày càng sứt mẻ và trở nên căng thẳng đến độ Edgar trở thành kẻ biển lận, vô ơn. Edgar càng ngày càng đi sâu vào sự bội phản, cho tới một ngày chính miệng Edgar đã thốt lên câu nói không ai ngờ trước được đối với cha nuôi: “Tôi có cần đến lòng từ thiện của ông đâu!”. Chỉ vì ông Allan đã đánh giá sự phí bỏ thì giờ quá lớn lao trong việc làm thơ mà không chịu học hành của Edgar.

Cũng trong thời gian này, một trong những người bạn của Edgar là Bob Stanard đã mang chàng về giới thiệu với mẹ. Edgar lấy làm hãnh diện vô cùng. Bà Stanard, mẹ của Bob tuy đã già nhưng sắc đẹp vẫn còn mặn mà, quyến rũ.

Chúng ta cũng nên biết thêm về tính tình của Edgar Allan Poe. Hầu như đối với Edgar, người đàn bà nào đẹp mà chàng gặp chàng cũng có thể mơ mộng được. Chính vì lòng nhạy cảm đó mà Edgar đã mơ đến một thế giới không tưởng khác, tự do hơn, nơi đó không có lằn ranh nào ngăn cản sự yêu thương giữa đàn ông và đàn bà. Cũng chính vì sự bừa bãi đó mà người đời đã kết án nhà thơ lớn này có tư tưởng loạn luân.

Cha của Bob, thẩm phán Stanard không hề hay biết sự liên lạc này. Edgar lại say mê làm thơ tặng. Chính Edgar đặt cho bà cái tên Hélène. Đến tháng 4-1824, Hélène chết. Người ta thường thấy Edgar một mình trong đêm khuya thanh vắng đến nghĩa trang thăm người dưới lòng mộ sâu.

Tại trường Đại học Virginie, nơi Edgar đến ghi danh học vào tháng 2-1826, Edgar dường như thay đổi hẳn khuôn mặt. Chàng sống một mình và suốt ngày không điểm nụ cười nào trên môi.

Một buổi chiều mùa đông trong căn phòng của Edgar, vì hết củi, lửa sắp tắt, Edgar phá tủ đốt. Sau đó Edgar lại bắt đầu uống rượu. “Uống tàn bạo, uống hung dữ, uống man rợ”, Edgar đã nói thế. Con trai của David Poe, một gã sâu rượu đã trở thành kẻ sâu rượu. Hổ phụ sinh hổ tử. Bởi sự trác táng quá độ đó, Edgar đã rơi vào trạng thái lâng lâng xuất thần và kinh hãi cùng một lúc. Edgar bắt đầu đùa với cuồng nộ. Căn phòng của chàng - căn phòng mang số 13 chẳng khác gì sào huyệt của kẻ làm chuyện bất lương. Và khi chàng trở lại Richmond trong lần nghỉ lễ Giáng sinh, tính ra chàng đã tiêu 2.000 đô la và cả chục thùng Champagne.

Lao vào trác táng, suy nhược

Sau khi gây gổ với cha nuôi, bây giờ muốn nối lại tình thân cũng khó. Thế là ngày 24-3-1827, Edgar quyết định lìa bỏ tổ ấm thứ hai nầy. Đấy là sự chạy trốn lớn lao có ý thức đầu đời mà Edgar quyết định. Trong thời gian này Edgar sáng tác rất nhiều thơ. Chàng cho xuất bản tập “Tamerlan et autres poèmes” khá thành công. Chàng được dư luận chú ý nhứt là trong giới sinh viên học sinh. Lúc này đây Edgar vẫn còn nuôi dưỡng ý định trở lại địa vị đứa con nuôi trong gia đình. Trong phần lý lịch ghi khi Edgar đăng vào lính sang chiến đấu ở Hy Lạp và làm lính kỵ binh vào ngày 26-5-1827 chàng ghi tên mới là Edgar A. Peny, công nhân ở Boston, mắt xám, tóc hung, thích những công tác bí mật.

Ngày 28-2-1829, bà Frances Allan chết, Edgar cũng không về thăm mẹ dù trong tim chàng vẫn còn ý tưởng một đứa con nuôi.

Đến tháng 8-1830, Edgar xin vào trường võ bị West Point. Nhưng sau một thời gian chịu đựng, Edgar lại trở thành thói quen cũ, mất trật tự, vô kỷ luật. Trong khoảng 20 ngày, Edgar vắng mặt 21 lần tập họp và hai lần bất tuân thượng lệnh.

Ngày 28-1-1831, nhà trường họp Hội Đồng kỷ luật và Edgar bị loại khỏi trường võ bị West Point.

Sau khi bị loại khỏi nơi đây Edgar trở nên người bi đát, buồn khổ nhưng vẫn ham sống. Chàng không tiền không bạc, lại không thể nào trở lại Richmond. Edgar sống tứ cố vô thân, chàng lại phải mò về Baltimore nương nhà bà dì Maria Clemm để sống.

Trước đó Edgar đã từng tuyên bố: tôi sống còn hơn cả loài vật. Cũng trong thời gian này Edgar bắt đầu viết chuyện kể và chàng đã thành công thật nhanh chóng.

Vào năm 1833, Edgar gởi một lúc 5 truyện ngắn dự thi do một nhật báo tổ chức, tờ Baltimore Visiter và đã đoạt giải nhất với truyện “Manuscrit trouvé dans une bouteille” (Bản thảo tìm thấy trong chai). Cũng nhờ sự thành công nhanh chóng này mà Edgar được mời ra trông nom một tạp chí ở Richmond. Edgar có viết:

“Bây giờ tôi đã được mọi người nể vì khá quan trọng và sung sướng. Tôi sẽ thành công rực rỡ trong tương lai. Và tóm lại, tôi sẽ là một người sung sướng”.

Nhưng cùng với sự thành công đó, Edgar lại trở thành bợm nhậu ghê gớm hơn. Rượu đã đẩy chàng vào bệnh lao và mất cảm giác. Chàng suy nhược. Chỉ ba tháng sau chàng đã trở thành kẻ khốn khổ nhất trần đời.

Và rồi chàng bỏ tất cả để đi giao du. Từ Richmond chàng đến Philadelphie. Từ Philadelphie chàng lại qua Nữu Ước. Luôn luôn chàng giữ phong thái, tư cách giám đốc của một tạp chí danh tiếng ở Richmond. Đi đâu chàng cũng nghe tiếng tăm mình vang dội.

Tình yêu mới trong đời

Và vào năm đó, 1836, một biến cố tình yêu xảy đến trong đời Poe, chàng cưới con người bạn dì làm vợ, nàng Virginia Clemm. Nàng chỉ là một cô gái mới 14 tuổi đầu, đẹp thần tiên, Edgar đã tả nàng:

“Nàng có cặp mắt lớn như mắt nai, nước da trắng hồng khuôn mặt xanh xao và mái tóc dài mượt. Ở nàng là một bài thơ tuyệt cú”.

Tuần trăng mật kéo dài đến 14 ngày. Hai người sống trong hạnh phúc. Edgar tâm sự:

Tôi yêu nàng như yêu một em bé. Tôi cũng nghĩ rằng nàng là người vợ chánh thức của tôi.

Nhưng trời xanh vẫn cắc cớ, Virginia cũng mắc bệnh lao như mẹ chàng và chết trẻ.

Đối với Poe, đó là một tiếng sét điếng người. Sâu trong tâm khảm chàng, chàng đang chờ đợi một cơn bạo bệnh. Cơn bệnh nầy đánh thức con quỷ đã nằm yên trong người Poe. Chàng quyết định uống thêm rượu. Uống rượu là uống hết những khổ đau chồng chất. Và sau đó chàng say sưa viết. Nhờ Virginia, chàng đã làm được một bài thơ bất hủ: Annabel Lee

Đã có nhiều năm, rất nhiều năm

Trong vương quốc gần biển xanh

Cô gái tròn xuân say sưa sống

Người gọi tên nàng Annabel

Annabel ơi em sống ngập tình

Nàng là biển tình yêu cho đời tôi vùng vẫy

Edgar sống trong cơn say của thơ, của rượu và đợi chờ cái chết đến với mình - sau khi Virginia vợ chàng qua đời ở Fordhome ngày 30-1-1847 trong một túp lều tranh ở ngoại ô thành phố Nữu Ước.

Năm 1849, sau thời gian say sưa với bầu rượu, thuốc phiện túi thơ, Poe lại trở về Richmond. Lần trở lại này chàng chối từ ra trước công chúng và bỏ rượu nhưng không được bao lâu.

Ngày 17-9-1849, chàng lại trở về Nữu Ước. Ngày 3-10, người ta tìm thấy chàng bất tỉnh trên đường rầy xe lửa ở Baltimore. Người ta chở Edgar vào bệnh viện, nhưng qua cơn đau kéo dài 4 ngày trời, chàng tắt thở vĩnh biệt cuộc đời đầy bất hạnh dành cho chàng.

Lúc đó Edgar chỉ mới ở lứa tuổi 40.

HOÀNG KIM THƯ st.

XÍCH LIÊN (1898-1974) LÀ AI ?

Trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại, do Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản năm 1992, ở trang 77 giữa hai mục A159 nói về nhà thơ Vương Linh và A161 nói về nhà thơ Xuân Diệu, là mục A160 chỉ có một cái tên Xích Liên, ngoài ra không có thêm một thông tin gì khác. Vậy Xích Liên là ai? Nếu chú tâm một chút sẽ thấy, ngay trong cuốn sách này ta có thể biết thêm một chút về Xích Liên. Ở trang 230, trong mục Giải thưởng Văn học Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955 ta được biết Xích Liên được giải ba, vì bản dịch Bản thoại Lý Hữu Tài (tác giả Triệu Thu Lý). Vậy Xích Liên là cây bút hoạt động trong lĩnh vực dịch văn học.

Xích Liên là một dịch giả người Nam Bộ. Ông tên thật là Nguyễn Văn Tài (anh của họa sĩ Nguyễn Văn Mười), sinh năm 1898 tại làng Long Vĩnh Hựu, Lương Hựu, Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Là một trí thức nông thôn, ông đã có thời kỳ đi tu, mang pháp danh là Sư Thiện Chiếu. Nhà sư Thiện Chiếu đã tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, làm công tác văn hóa tuyên truyền. Đặc biệt ông dịch nhiều tài liệu và tác phẩm văn học tiên tiến trên thế giới, in trên sách báo kháng chiến. Hiện nay trong tay tôi có những tập Vệ quốc chiến (chuyện kháng chiến) của phòng chính trị khu 8, in trên giấy rơm xù xì, mỗi tập 6-100 trang khổ nhỏ 10x15 gồm từ bốn đến năm truyện dịch trở lên, tác phẩm của nhiều nhà văn Xôviết: L.Xôbôlév, A.Platônốv, Bôrit Laverenév, Vax. Grotxman, P.Pavlencô, B.Kavơrin, v.v…

Hòa bình lập lại, năm 1954, dịch giả Xích Liên tập kết ra Bắc. Lúc này ông đã nhiều tuổi. Ông mất năm 1974, được mai táng tại khu A nghĩa trang Văn Điển. Sau khi đất nước thống nhất, di hài ông đã được cải táng đưa về quê xây mộ.

THÚY TOÀN

NHẬT TRAO GƯƠM

CHO ĐỒNG MINH

TRONG THẾ CHIẾN 2

Trận Đệ nhị thế chiến hạ màn với buổi lễ lạ lùng được tổ chức tại Dinh Gia Long vào một buổi chiều cuối năm 1945.

Sau khi bại trận, tất cả tướng lãnh Nhựt phải trao hết gươm báu võ sĩ đạo cho Phó Vương Đề Đốc Anh Mounbatten. Lễ trao gươm nầy được tổ chức ngay tại tổng hành dinh quân đội Đồng minh ở Singapour. Nói là tất cả tướng lãnh, nhưng thật sự trong lễ nầy không có mặt vị tướng lãnh lừng danh của Nhựt: Tổng Tư lệnh Thủy Lục Không quân Hoàng gia là Bá Tước Thống Chế Hisaichi Terauchi.

Trong một cử chỉ anh hùng mã thượng, Đề Đốc Mounbatten miễn cho Thống Chế Nhựt khỏi phải đi Singapour vì Thống Chế nhuốm bịnh ngay khi hay tin Nhựt đầu hàng vô điều kiện.

TẠI DINH GIA LONG

Đề Đốc Phó Vương thân hành qua Saigon là nơi Thống Chế Bá Tước nằm dưỡng bịnh để nhận kiếm báu. Buổi lễ được tổ chức tại sân quần vợt sau Dinh Gia Long mà tướng Douglas Gracey vừa mới lấy được trong tay Trần Văn Giàu rút về đóng ở Chợ Đệm.

Chuyện mỉa mai là bạn Đồng minh Pháp Đề Đốc Thierry d’Argenlien hiện ngự trị ở Dinh Toàn quyền (nay là Dinh Độc Lập) không hay biết gì hết. Nghi lễ hoàn toàn theo phong tục Nhựt, Anh. Đề Đốc Phó Vương trong bộ quân phục trắng của Hải quân Hoàng gia Anh nghi vệ từ trên tam cấp Dinh bước xuống, đi trên một tấm thảm dài màu vàng ra sân quần vợt. Ở đây trên một tấm thảm đỏ, một bàn dài được đặt lên và đầu bàn có vẻn vẹn một chiếc ghế. Đề Đốc tiến tới và an tọa. Cùng đi có một số sỹ quan cao cấp trong bộ Tổng Tham mưu và độ mươi ký giả Đồng minh thân tín đã theo gót Đề Đốc trên các chiến trường.

Đề Đốc Louis nghiêm nghị ngồi chờ, trên đầu một lá cờ Anh to tướng phất phới bay.

ĐI KIỆU VÀO DỰ LỄ

Trong góc vườn ở đường D’Espagne (Lê Thánh Tôn) một cánh cửa mở ra và người ta thấy một vị tướng già 70 tuổi râu bạc trắng ngồi trên một cái ghế bành, 4 người lính Nhựt kẹp vào 2 cái cáng làm thành cái kiệu và khiêng vị tướng tiến đến chỗ Đề Đốc Louis.

Đến nơi vị anh hùng bại trận đất Phù Tang xuống kiệu, bước một cách khó khăn đến trước mặt kẻ thắng trận, chào theo lễ nghi Nhựt.

Và chỉ trong hai phút vị tướng lãnh số một của Nhựt chào đại diện Anh hoàng đến 10 lần. Lễ trao kiếm báu không tiền khoáng hậu chấm dứt và Thống Chế Terauchi lên kiệu về.

BẢO VẬT GIA TRUYỀN

Hai chiếc gươm báu được trao cho Đề Đốc ngày hôm nay là những bảo vật gia truyền của dòng dõi Bá Tước Terauchi.

Những kiếm báu ấy Thống Chế không mang theo ra chiến trường mà để ở nhà coi như vật để tôn thờ. Vì vậy mà Đề Đốc Anh phải bay cùng một viên sỹ quan đi theo bí thơ của Bá Tước qua Nhật để đem hai bảo vật ấy về Saigon.

Hai kiếm báu nầy một dài, một ngắn, cái dài có từ năm 1292 và cái ngắn từ thế kỷ 16, cả hai đều chạm trổ rất công phu.

Trong buổi lễ không ai được thấy hai kiếm báu ấy hết vì nó được đựng trong hai cái hộp bao bọc bằng hàng màu nâu mà Thống Chế trao cho Đề Đốc. Ông này nói vài tiếng chấp nhận kiếm báu.

NHÀ BÁO BÁO HẠI

Sau khi buổi lễ hy hữu nầy kết thúc, các ký giả Đồng minh đồng thanh yêu cầu Phó Vương cho được xem chiến lợi phẩm. Ban đầu Phó Vương không chịu nhưng khi viên sỹ quan liên lạc báo chí Wordell năn nỉ, ông ưng thuận và tất cả được đưa vào phòng khánh tiết để được xem hai bảo vật.

Lúc mở hộp ra ai ai cũng trầm trồ khen ngợi gươm được chạm trổ khéo léo mỹ thuật. Khi Đề Đốc đứng cùng tướng Gracey ngắm nghía thì có người phác giác là gươm này chỉ là gươm gỗ, coi kỹ lại thì gươm thiệt nằm dưới để trên một cái đế bằng tre. Nhiều tiếng xầm xì của các nhà báo. Thông tín viên Pháp tấn xã Michel Peutin lại xía vô nói với Đề Đốc rằng lúc ra về bọn Nhựt cười khúc khích sau khi nghe lời nói rất nhỏ của Thống Chế bại trận.

Lời thuật của nhà báo, báo hại làm cho Đề Đốc thắng trận sa sầm nét mặt và hỏi lại ký giả Peutin nghĩ sao về sự kiện nầy. Lúc ấy, một thông tín viên khác Frank Bauer xen vào và bảo rằng nghi thức nầy không đúng vì kẻ bại trận phải trao kiếm cho người thắng trận chớ không được trao kiếm để trong hộp. Nghe vậy Đề Đốc lại càng sùng và hỏi các ký giả như vậy có phải bọn Nhựt muốn nhạo báng mình không? Ông lại thêm “Tôi cho các anh đặc ân đến đây dự lễ hoàn toàn có tánh cách riêng biệt nầy. Bây giờ các anh lại đăng tin Đồng minh bị Nhựt gạt. Các anh suy nghĩ như vậy có lợi cho chúng ta không?”.

NGẠO MẠN HAY TÔN KÍNH

Nhà báo báo hại gây hoang mang trong đầu óc mọi người chứng kiến lễ lạ lùng ấy: người Nhựt tỏ ra khinh bỉ Đề Đốc Anh - kẻ lại bảo đó là một cử chỉ đúng theo phong tục xứ Hoa Đào có ý tôn trọng người chiến thắng mình.

Có một lúc Lord Mounbatten tính diễn lại buổi lễ, cũng như nhà quay phim không vừa ý, bỏ hết phim đã quay, dàn cảnh và quay lại.

Hai ký giả Pháp là những “thủ phạm” đã gây ra cuộc xáo trộn nầy khi từ giã Đề Đốc, không về phòng ở Continental mà đến nhà bạn đồng nghiệp Jacques Dauphin, một người thông dịch viên chuyên môn về các vấn đề Nhựt Bổn, để hỏi ý kiến. anh nầy xác nhận rằng những bảo vật ấy phải được cất giữ trong hộp vì sợ bụi bậm và không khí làm hư sét. Gươm báu nầy chỉ được đem ra một năm một lần để Thống Chế mang đi dự lễ Vạn Thọ (mừng sinh nhựt vua) mà thôi.

NGHI VẤN CHẤM DỨT

Michel Peutin sau khi được Dauphin giải thích về phong tục giữ gìn gươm báu ở Phù Tang, liền đến Dinh Gia Long cho Đề Đốc Mounbatten hay và mọi người đều hài lòng thích thú.

Và sau đó độ 15 phút, tướng Anh phụ trách báo chí cũng bước vào phòng xác nhận là lễ trao kiếm đúng với nghi thức cổ truyền - sau khi điện về Londres tham khảo ý kiến các giới phụ trách về Nhựt Bổn. Hai gươm báu nầy về sau Đề Đốc Phó Vương trao lại cho Anh hoàng George đệ lục và hiện trưng bày tại Bảo tàng viện lâu đài Windsor.

B.Đ. st.


Phụ Bản II

THỜ VÀ CÚNG

Tục thờ cúng của người Việt thì thế nào? Có lẽ nó đã lai rất nhiều sau một ngàn năm bị Trung Quấc đô hộ. Ngày nay, nhà ở thành thị thì khó khăn. Số người ở nhà có diện tích 3m x 7m cũng nhiều lắm và họ có đặt bàn thờ. Nhưng những người ở nhà mướn cũng với diện tích nầy hay nhỏ hơn, những người ở phòng trọ, tôi không thấy họ đặt bàn thờ. Khi đám giỗ, họ dọn lên một chiếc bàn, cúng xong thì dẹp đi. Sách Thời đại Hùng Vương của Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn An, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng, trang 256 ghi: “Một đặc trưng của Văn hóa Lạc Việt trong thời đại Hùng Vương là thờ cúng tổ tiên và sùng bái anh hùng cứu nước”. Trong nhà người Việt thì có mấy bàn thờ, thờ những ai và bao nhiêu trang thờ? Tới nhà người bạn là cựu đại điền chủ ở Cần Giuộc, tôi thấy nhà ông có năm bàn thờ để một hàng ngang sát vách buồng nhưng rất tiếc là tôi không hỏi những bàn thờ ấy thờ những ai. Nay ông ấy qua đời rồi nên không hỏi được. Ngày nay, trong nhà người Việt có những bàn thờ và trang thờ nào? Tôi thấy:

1. Bàn thờ ông bà, tổ tiên gồm:

- Một bàn thờ tổ tiên đặt ở gian giữa trong nhà

- Một bàn thờ cha mẹ đặt bên trái (trong nhìn ra)

- Một bàn thờ anh chị em ngang hàng với gia chủ đặt bên phải. Vợ gia chủ nếu qua đời sớm cũng thờ ở bàn thờ nầy nhưng tên gia chủ dán lại, khi ông qua đời mới mở ra để thờ. Tuy nhiên tôi thấy cũng có người lập một bàn thờ riêng đặt phía trước bàn thờ tổ tiên.

2. Bàn thờ ông Địa đặt dưới đất, đó là cái trang nhỏ thôi.

3. Bàn thờ ông Thần Tài cũng đặt dưới đất. Thường thì ông Địa và ông Thần Tài thờ chung một trang. Ông Thần Tài thì có bài vị, ông Địa thì không.

4. Bàn thờ ông Thiên, thường gọi là Bàn Thiên để thờ Trời. Nó là một viên gạch độ ba bốn tấc vuông đặt trên một trụ cao chừng hơn một thước. Trên đó chỉ đặt một lư hương để mỗi tối thắp hương. Ngày nay, nhiều nhà không có sân nên họ đặt một cái trang trên vách hàng tư để thờ. Xưa khi ông nội tôi còn sống, tôi hỏi sao nhà mình không có Bàn Thiên? Ông tôi nói Bàn Thiên thờ Trời nên đốt nhang và cúng lạy phải day mặt ra ngoài nên không đặt được. Khi nào cúng Trời thì đặt một mâm trên ghế, đem ra trước mà cúng. Cúng xong thì dẹp là xong.

5. Thờ Phật Thích Ca hay Phật Bà Quan Âm, thờ Chúa, thờ Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc thì thờ trên một cái trang riêng tùy theo tín ngưỡng của gia đình. Tuy nhiên người theo đạo Cao Đài thì trên bàn thờ ông bà tổ tiên, trên vách có hình một mắt thật to. Còn người theo đạo Hòa Hảo thì chỉ thấy trên bàn thờ, phía sát vách có một cái hộp hình chữ nhựt hơi dài, có quấn tấm vải nâu che kín bốn mặt.

6. Thờ ông Táo, ông Tổ thầy thuốc, Tổ thợ may, Tổ thợ mộc… Ai làm nghề nào thì thờ ông Tổ đó. Ngoài ra người ta còn thờ ông Quan Công, thờ bà Mẹ Sanh Mẹ Độ nữa. Tất cả thờ trên một cái trang dài ở giữa nhà hay sát vách buồng, bên trên bàn thờ ông bà tổ tiên. Mỗi vị một ô nhưng chỉ có một lư hương. Khi cúng thì sắp một hai dĩa bánh trái, nước rồi đốt một cây nhang là xong.

Bà Mẹ Sanh Mẹ Độ là ai? Bà với bà Cửu Thiên Huyền Nữ là một hay hai? Hỏi bà Mẹ Sanh Mẹ Độ, các bạn già cỡ tôi không ai biết. Lớn hơn tôi nghĩa là ở hàng tám mươi, trí nhớ các vị có khi hạn chế đấy. Tôi cũng chưa thấy nhà ai thờ. Tuy nhiên nhà tôi có thờ. Lý do nhà tôi thờ là sau khi ông nội tôi qua đời, tôi cho rằng nhà không ai làm thầy thuốc nên xé bài vị thờ Tổ thầy thuốc đi, nó rách lan qua bài vị thờ ông Táo. Vì thấy nhiều nhà thờ ông Táo dưới bếp nên tôi xé luôn bài vị thờ ông Táo. Khi cúng tuần cho ông nội tôi, ông Sư nói bổn mạng ba tôi có ông tức là ông Quan Công phò hộ nên phải thờ Ông. Má tôi cao niên nên cũng phải thờ bà Mẹ Sanh Mẹ Độ. Gia đình cũng tin và nhờ ông viết luôn cho hai bài vị để thờ và thế chỗ của ông Tổ thầy thuốc và ông Táo.

Khi ba tôi bị ma phá, cụ nói có một đám lính đông lắm, có ba tên tới mời cụ đi, cụ nói không đi thì hai tên xông vô kéo đi, cụ phải đánh một hồi nó mới dang ra. Khi ông thầy trị bịnh ma cho ba tôi đưa một bài vị Phật bảo phải thờ thì cụ mới yên ổn. Nghĩ rằng thờ ông Quan Công, một vị tướng lừng danh mà một nhóm âm binh ông không cản được, tôi xé bài vị thờ Ông bỏ đi và thế vào đó là bài vị thờ Phật.

Việc thờ cúng, nguyên nhân là do truyền thống thờ cúng, do bắt chước người xung quanh, thấy người ta thờ thì mình cũng thờ, do các ông Sư bày vẽ. Ngày nay việc cúng lại do mấy người bán giấy tiền vàng bạc bày vẽ. Họ xếp thành từng xấp và ghi cái nầy là cúng đám giỗ, cái nầy là cúng đất đai… Phải có những thứ giấy nầy vong mới vô nhà dự lễ cúng được. Họ hù dọa là nếu không mua những thứ giấy nầy thì cúng vô ích vì vong không về, không vô nhà được… Cúng giao thừa, họ ghi cả lời vái kèm vô đó. Ngày nay trên mạng cũng có chỉ vẽ việc thờ cúng, họ nêu tất cả phong tục Việt Nam nữa đó. Nhưng họ là ai? Có đáng tin cậy không? Coi chừng bị sai lầm đó.

Tóm lại, ngày nay ta cần giữ:

1. Bàn thờ tổ tiên gồm tất cả những người trong gia đình đã qua đời.

2. Bàn thờ ông Thiên hay Bàn Thiên, có hay không cũng được.

3. Bàn thờ ông Địa.

Trong trường hợp nhà hẹp, ta đối phó bằng lập bàn thờ như trang thờ. Nếu bên ngoại không có con trai để thờ cúng thì ta lập luôn một trang thờ bên ngoại để mỗi tối đốt nhang tưởng nhớ. Khi giỗ thì đặt một bàn lớn phía trước để để thức cúng.

Còn ông Táo, theo tôi thì thờ trên trang ở nhà trên chớ không thờ theo Trung Hoa mà đặt dưới bếp. Mỗi năm ta còn cúng đưa và rước ông Táo nên cần giữ. Ngoài ra thì tùy nghi.

Cúng ông Thiên, ông Địa và các vị khác thì khi có đám giỗ, trên trang thờ các vị ấy, ta sắp một đĩa bánh hay trái, rót nước, sau đó đốt nhang là xong. Rất đơn giản.

Quận Tư - Khánh Hội Saigòn 16-9-2015

PHẠM HIẾU NGHĨA


BÀI VÈ:

ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

& BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG


Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè khí hậu

Trên khắp toàn cầu

Nước biển dâng cao

Đường nào không ngập

Nước biển xâm nhập

Vào tận nội đồng

Báo hại nhà nông

Nhiều lần khốn khó

Nước còn lấp ló

Qua khỏi bờ bao

Đường phố ngày nào

Giờ mênh mông nước

Người người xuôi ngược

Lao đao giữa dòng

Té lọt xuống sông

Dòng kênh, miệng cống

Thế là cuộc sống

Đảo lộn khắp nơi

Dân chúng kêu trời

Khổ ơi là khổ !

Biến đổi khí hậu

Ô nhiễm bầu trời

Khí độc khắp nơi

Mặt trời thiêu đốt

Đất khô nứt nẻ

Mạch sống cạn dần

Nước ở kênh, sông

Đặc dòng đen chảy

Triều cường dâng mãi

Giông bão đùng đùng

Mưa lũ sau cùng

Kéo về dịch bệnh

Môi trường ô nhiễm

Dân sống lầm than

Chỉ biết la làng

Khổ ơi là khổ !

Biến đổi khí hậu

Do người vô tâm

Hoạt động sai lầm

Thải khí nhà kính

Làm mà không tính

Phá hoại bầu trời

Đốt, phá khắp nơi

Rừng già đặc dụng

Khai thác bừa bãi

Tận diệt tài nguyên

Nguồn lợi thiên nhiên

Từ trong lòng đất

Con người sinh tật

Vứt rác khắp nơi

Hám lợi, sinh lời

Thải chất độc hại

Ra thẳng môi trường

Hủy diệt màu xanh

Trái đất tan tành

Người ta cũng chết

Biến đổi khí hậu

Muốn cho bớt khổ

Xin hãy nhanh tay

Nhận thức hằng ngày

Cùng nhau hành động

Tiết kiệm điện năng

Sử dụng trong nhà

Giữ gìn nước sạch

Đừng để tràn lan

Đi chợ mua hàng

Nhớ dùng giỏ xách

Ni lông không nhận

Ni lông không xài

Giao thông ra ngoài

Cần nên hạn chế

Là người tử tế

Hãy nhớ mấy điều

Vứt rác bao nhiêu

Phải nên phân loại

Cái nào tái chế

Cái nào hủy đi

Khi cần xài gì

Nên mua vừa đủ

Không để thừa thãi

Bỏ ra môi trường

Người biết yêu thương

Hãy nên suy nghĩ

Suy nghĩ, suy nghĩ.


TRẦN THỊ CÚC

CHÀO MỪNG KỶ NIỆM

(10 năm thành lập CBL)

Mừng Câu lạc bộ Sách Xưa Nay

Hoạt động vừa qua một chặng dài

Biên tập Bản tin ra mỗi tháng

Họp hành thứ bảy sáng tuần hai

Hát hò ngâm vịnh thơ ca đẹp

Giới thiệu trình bày sách quý hay

Hòa hợp bác Đoàn cùng bác Tuấn

Cả hai hội đủ đức và tài.

THANH VĨNH

BÓNG XUÂN CHIỀU

(Nhị thủ liên hoàn)

Tỉnh giấc hoàng lương mộng chửa rồi

Muốn xin thêm chút lộc trời thôi

Kiệm cần đơn giản bề ăn ở

Hòa nhã khiêm cung lúc đứng ngồi

Cuộc thế nào lo dâu biển đổi

Tuổi xuân chẳng thẹn tháng ngày trôi

Đường chiều bóng ngả còn tươi sáng

*

Cặp với nàng thơ thả bước chơi

Cặp với nàng thơ thả bước chơi

Đến vườn tao ngộ hái hoa đời

Gặp người đồng điệu tình khôn lảng

Dệt áng văn chương bút khó lơi

Thù tạc vãng lai không đợi hẹn

Giao lưu xướng họa chẳng chờ mời

Trang lòng lật tiếp mừng xuân mới

Nguồn cảm dâng trào mộng thắm khơi.

THANH VĨNH

NHỚ NGHE ANH

Em giận anh vì tình anh giả dối

Anh sai đường thì em không chịu nổi

Không đồng tình sao bảo em có tội

Trước tiên anh - Hãy tự trách mình

*

Anh sẽ mất em, đời mất đi một nửa

Đã biết sai mà vẫn không chịu sửa

Có nói chi không còn ai tin nữa

Phải không anh - Hãy tự trách mình

*

Vì hạnh phúc chung, mong anh phải đạo

Em ôn hòa thì anh càng hung bạo

Ai gieo gió, tất có ngày gặt bão

Nhớ nghe anh - Hãy tự trách mình.

LÊ MINH CHỬ

“Ôn cố tri tân”

LÒNG NGƯỜI

Nước mất mà lòng người chưa mất

Thì nước tất có ngày lại còn

*

Nước còn mà lòng người không còn

Thì nước tất có ngày phải mất

*

Nhà hợp mà lòng không hợp

Thì tất có ngày phải tan

Ta ngẫm:

Nước mất nhà tan không sợ

Mà chỉ sợ lòng người tan mất

Mới hay:

Nước thịnh hay suy

Chỉ trông cậy ở lòng người.

LÊ MINH CHỬ

TÌNH BAO LA

Thương nhau, mấy núi cũng tìm hoa

Kết nghĩa trầu cau, dâng lễ quà

Trải nghiệm nồng nàn khi nắng chiếu

Nương che lạnh lẽo lúc sương sa

Dù cho ngọn núi phơ màu tuyết

Vẫn có vầng trăng dõi bóng ngà

Hạnh phúc duyên lành luôn gắn bó

Tâm tình mật thiết thật bao la !...

Thanh Châu

MƠ TIÊN

Lời thơ viết mãi, biết ai đưa

Mấy dịp cầu duyên nối có vừa

Ngại nỗi gieo vần, vần lệch ý

E khi giáp nắng, nắng gầm mưa

Tâm tình muốn tỏ, lần mai mốt

Cảm nghĩ chờ trao, hẹn sáng trưa

Hồn bướm mơ tiên, trong ảo mộng

Ngẩn ngơ cánh nhạn, kết hay chưa !...

Thanh Châu

Em đi

Em đi hôm ấy mưa nhiều quá
Cái gạt lòng tay cũng nhạt nhòa
Hàng cây đêm rủ trong màn nước
Một ánh đèn vàng man mác xa

Em đi về cuối trời xa vội
Mái tóc huyền bay giữa ngậm ngùi
Có tiếng xe đêm vừa thảng thốt
Gót buồn se sắt những hè côi

Soát lại lòng tay ấm mấy lần
Khúc ve ngày cũ vẫn còn ngân
Mùa xanh ai khát mà hương ngậm
Khe khẽ lời hoa gió tần ngần

Phương ấy mai rồi say mắt em
Câu thơ vụng dại sẽ vùi quên
Còn nghe nao nuối bờ môi mặn
Sương buồn âm vọng với mưa đêm.

ĐÀM LAN

Trăng

Đêm nay, trăng một mình tư lự
Giữa thinh không là ánh sáng trong ngần
Ngay cả mây cũng ngơ ngẩn, phân vân
Xa xa đứng cho trăng không nhìn thấy

Ngay cả sao, lén tụm nhau hấp háy
Chơi năm mười qua gió thoảng bên song
Mấy cánh hoa khép nép vẫy bên thềm
Giá có hỏi, hoa rằng đang gọi nhớ…

Vâng, đúng rồi: trăng lâu nay ngưng thở
Chỉ kéo lê tà áo khóc mưa đêm
Chỉ vội vàng le lói cánh mi nhung
Rồi sướt mướt nấp sau lùm mây nặng…

Vâng, đúng rồi: trăng khiến sao cô quạnh
Để nhiều đêm tiếng nhái hát đưa tang
Để nhiều khi đôi lứa bỗng bàng hoàng
Chợt nhận ra không còn cần nhau nữa…

Vâng, đúng rồi: trong ánh đèn loang lổ
Là bước chân nặng trĩu gánh hàng đêm
Là nước mắt nuốt trong những muộn phiền
Là bối rối vì tương lai tù túng…

Vâng, đúng rồi: ê a bên ánh nến
Đứa trẻ thơ bỗng bặt tiếng học bài
Đầu gục trên bàn, ú ớ rất say
Khi mơ thấy Hằng Nga tròn vành vạnh…

Đó, trăng đêm nay không còn là trăng lạnh
Dù lặng yên chờ nhân thế reo vui
Thì cũng chẳng có ai ồn ã bên trời
Làm vấy bẩn áo trăng ngời thanh tịnh!

LAM TRẦN 16.08.2016

GÓC QUÊ HƯƠNG

Tôi lớn lên bên đồng lúa mạ

Nơi chiều chiều la lả cánh cò bay

Nơi dòng sông con nước lớn ròng

Hoa rong nở tím, vàng bên gốc rạ

Nơi ấy không phải thiên đường với bao nhiêu cảnh lạ

Mà cả một góc trời sắc đỏ lá cà na

Màu đỏ hồng hồng tươi thắm mặn mà

Như cô gái tuổi vừa mười sáu

Đêm trăng sáng con cá trào trừng lên đớp bóng

Tiếng vạc kêu trăn trở suốt canh trường

Nơi mà tôi tha thiết gọi quê hương

In trong não với tên làng An Tịnh

Trời mưa giông mẹ cùng cha thả câu giăng vó

Nước trên nguồn đổ xuống cá và tôm

Tôi chèo xuồng làm mẹ hết hồn

Chiếc xuồng cứ quây tròn rồi lật úp

Mẹ với con cùng nhau lặn hụp

Đưa tôi vào bờ mẹ căn dặn: “Con ơi

Muốn chèo xuồng con phải biết bơi

Đã xuất phát phải yên bình đến bến”

Chiếc dầm nhỏ mẹ cùng tôi tập tễnh.

*

Dòng đời như dòng sông

Yên bình rồi sóng gió

Tôi như chiếc xuồng kia bé nhỏ

Giông bão cuộc đời tôi lạc giữa dòng khơi

Đã nhiều lần trăn trở gọi: “Mẹ ơi!”

Mẹ như đã trả lời: “Can đảm lên đừng sợ!”

Tôi bước đi với bóng hình của mẹ

“Vững nghe con hãy làm chủ cuộc đời

Bay lên con khắp chốn muôn nơi

Trời đất rộng thỏa cánh bằng tung gió”.

NGUYÊN LÊ 24/3/2016

TÌNH GỐI

Đêm nằm ôm gối thở than

Gối ơi hỡi gối em lang đâu rồi ?

Trả lời anh rất dễ thôi

Tại trời mưa gió nên người bỏ đi

Muốn cho sống lại chắc gì

Nếu anh thay thế cây chi vẫn thừa

Cây chi nào giống như xưa

Ý đây nối nhịp tình chưa khó gì

Cây nào gãy đổ bỏ đi

Cuộc đời dâu bể sầu bi kiếp tằm

Vì chưng trời đất uyên thâm

Tiện đây xin gởi lang quân mấy lời

Càn khôn vật đổi sao dời

Thế thời theo thế cuộc đời an tâm

Người ngoan chẳng nói chẳng rằng

Cứ chờ hết tối đợi rằm sáng trăng.

LANG NGUYÊN

TÌNH NGHĨA CÂY CHUỐI

Vươn cao ngọn búp chẳng xiêu lòng

Cây chuối trọn đời với núi sông

“Lá móng tung trời đùa nhật nguyệt

Thân tròn trụ đất dự càn khôn”

Năm canh kêu gọi tình nam bắc

Sáu khắc vun bồi nghĩa nước non

Nắng táp mưa sa cùng bão tố

Mà em lớn mãi dưỡng nuôi con.

LANG NGUYÊN

CÁI BÓNG

Tạo hóa sanh ra tự thuở nào

Vì duyên khắng khít chẳng xa nhau

Thưởng hoa dưới nguyệt lăng xăng đến

Xem sách bên đèn luẩn quẩn theo

Mất dạng ra vào cơn bóng tắt

Mang thân đưa đón lúc mưa rào

Về đêm cùng với người khuê các

Ghen tức chàng Trương nổi giận trào.

LANG NGUYÊN

NHỚ ĐỨC LINH

Khách về hãy nhớ Đức Linh

Quê hương giàu đẹp, hữu tình biết bao

Rừng vàng, biển lúa dạt dào

Cao su bát ngát, đón chào tương lai

*

Ru Mô Đức Hạnh thi tài

Cà phê trắng nõn, khoe màu sắc hoa

Gia Huynh chạy đến Tân Hà

Rừng điều trùng điệp, đậm đà tình ai

*

Thẳng lên thị trấn Đức Tài

Thủ công kỹ nghệ miệt mài bán buôn

Xa xa dòng nước xuôi nguồn

La Ngà uốn khúc nhớ thương bao người

*

Nam thanh nữ tú đôi mươi

Thác Reo quyến rũ, vui tươi hẹn hò

Kẻ đi người ở mong chờ

Vỏ Xu Cầu Đỏ mộng mơ tâm tình

*

Núi Dinh cao ngất tầng xanh

Bảo Đại thơ mộng, trữ tình ước ao

Xanh tươi vú sữa ngọt ngào

Xuân về mỗi độ, đón chào khách du

*

Quê hương rừng núi trung du

Nín Thở đồi đá chiến khu oai hùng

Phía sau Ba Ngọn lẫy lừng

Bên anh bên bạn bừng bừng lửa than

*

Đường rừng quanh quẹo dọc ngang

Thác Mơ, suối Mộng bên chàng có em

Quê hương cuộc sống êm đềm

Điện về thắp sáng mọi miền nông thôn

*

Hân hoan phấn khởi tâm hồn

Nhà nhà hạnh phúc xây đời tình duyên

Dân cư kết hợp ba miền

Ai về lập nghiệp, làm nên cơ đồ.

NGÔ BÁ MẠNH

CÓ MỘT NGÀY ĐẦU THU

Ngày đầu thu sáng nay đẹp quá

Gió mát trong nghe lá thu rơi

Mây nhởn nhơ bay với lá vàng rơi

Chưa chạm ly đã lâng lâng say thế

Tâm vô lụy nên lòng thanh nhẹ

Bởi hữu duyên nên có bạn tri âm

Mười năm xa cách vẫn gần

Phút vui òa vỡ thỏa lòng khát khao

Nụ cười rạng rỡ em trao

Còn hơn mọi thứ ước ao trên đời

Vừa gặp nhau đã chia tay rồi

Ôm em như cả đất trời ngả nghiêng.

LÊ NGUYÊN 10.11.2013

THỔN THỨC

Phòng em vắng lặng một mình

Có anh rau muống linh đình làm sao

Anh đi lòng thấy nao nao

Mong mau gặp lại làm sao hỡi người

VŨ THÙY HƯƠNG

NHẮC NHỞ

Thương yêu mình hãy giữ gìn

Dù bao nhung nhớ trộm nhìn mà thôi

Cho dù run rẩy đôi môi

Cũng xin giữ kín làm nôi cuộc tình

VŨ THÙY HƯƠNG

TIỄN BIỆT

Ly cà phê sáng nầy sao đắng lạ

Có phải vì pha thiếu chất đường

Đừng nhìn em nữa anh ơi

Uống đi kẻo trễ giờ ra phi trường.

VŨ THÙY HƯƠNG

BIỂN NHỚ

Đến Tao Phùng thỏa nỗi hoài mong

Xướng họa Đường thi dịu tấc lòng

Trăng mộng sáng soi đồi Vọng Nguyệt

Gió ngàn ve vuốt bãi Nghinh Phong

Non xanh chỉ lối - dâng tràn ý

Sóng biếc dang tay - chẳng cạn dòng

Tiếng nhạc thùy dương ru điệu nhớ

Vũng Tàu thao thức trắng đêm đông.

NGÀN PHƯƠNG

CẠN LỜI

Ngắm nửa vầng trăng - chạnh ước mơ

Người nương lối bướm giữa trời thơ

Gặp nhau cho thỏa lòng mong nhớ

Xa vắng nào nguôi nỗi đợi chờ

Siết chặt bàn tay - niềm thắm thiết

Thầm trao ánh mắt - mộng đơn sơ

Ngàn đời nuối tiếc tình tri kỷ

Gió siết mặt hè chợt ngẩn ngơ.

NGÀN PHƯƠNG

TÂM SỰ CHIỀU THU

Bước chân say giấc mộng ngàn phương

Đắm đuối - si mê nụ Cát Tường

Thơ dệt mỏi mòn khơi tiếc nhớ

Trăng treo hờ hững gợi niềm thương

Sáo diều trong gió ngân xao xuyến

Nhạc dế bên hè trổi vấn vương

U ẩn - chìm vào cơn lốc xoáy

Nương mây nhẹ lướt sóng trùng dương

NGÀN PHƯƠNG

KHÓC BẠN

Bồi hồi mây trắng bỏ đi hoang

Cánh gió heo may rắc lá vàng

Quạnh quẽ bờ lau - tia nắng nhạt

Đơn côi nấm mộ - nén hương tàn

Công danh sự nghiệp - đôi tay trắng

Nhân ái - ân tình - góc nghĩa trang

Nhắm mắt xuôi tay về chín suối

Tiếc thương - hoài vọng - nhuốm màu tang.

NGÀN PHƯƠNG

MAI EM VỀ

Tặng Cẩm Vân

Mai em về lại quê nhà

Bóng tre ngã xuống lá ngà đường trăng

Mây đêm giờ phủ giăng giăng

Chờ nghe mưa xuống mấy lần lạnh run

Nghe như xa cách ngàn trùng

Anh nơi xa đó mịt mùng cánh chim

Tình xưa nay đã lắng chìm

Có chăng một bóng riêng em một mình.

HOÀI LY

SỨC MẠNH CỦA THƠ

Nắng vàng cát mịn chiều mơ

Bên nhau vẫn cứ hững hờ mãi sao

Lời thương vừa định gởi trao

Đã nghe trống đập rào rào trong tim

Muốn nhiều mà cứ lặng im

Muốn ôm hôn lại thấy mềm chân tay

Mạnh lên cố nữa ô hay

Cái chân nặng trĩu cái tay cứng đờ

Thôi về gởi mấy vần thơ

May ra bừng dậy ánh mờ sao đêm

Thơ hay đá cũng hóa mềm

Tình đâu thơ đó đẹp thêm trang đài

BS. DOANLINH

BẼN LẼN

Như đóa hoa kia cứ ngỡ ngàng

Khi vừa hé nhụy đón xuân sang

Em tôi chỉ mới trăng tròn lẻ

Bẽn lẽn làm sao trước quý chàng

Nguây nguẩy quay đầu em chạy mất

Vô tình để lại khách mùi hương

Vườn xuân hoa nép mình bên lá

Nhìn khách quay đi nghẹn bước đường.

BS. DOANLINH (13/8/16)

ĐỨT DÂY…

Thế gian lắm chuyện nực cười

Kẻ thì trục lợi người thì bị oan

Nước đang có nạn quan tham

Loại người thất đức làm quan bất tài

Dân tình biết dựa vào ai

Luôn luôn cầu nguyện “Thiên Ngài” đày cho

Đày cho hết nạn tham ô

Đày cho hết bọn chạy xô quyền hành

Dân nghèo lao động mưu sinh

Đói cơm rách áo bệnh tình khổ đau

Người giàu giàu quá là giàu

Ông hoàng bà chúa kẻ hầu dạ vâng

Đứt dây thì động tới rừng

Hại dân hại nước phải trừng trị ngay

Muốn cho xã hội đẹp thay

Phải luôn trọng dụng người hay đức tài

ÁI THƠ

BIỂN NHỚ

Tôi vẫn chơi vơi trong cõi buồn

Đi tìm nắng ấm buổi hoàng hôn

Tháng bảy mưa rơi đầy ngõ vắng

Như giọt sầu ray rứt tâm hồn

*

Sài Gòn bỗng dưng mưa triền miên

Mưa nhạt nhòa bồng bềnh kỷ niệm

Tình bơ vơ trống vắng chênh vênh

Thương nhớ biển, sầu lắng nỗi niềm

*

Ta với biển giờ đây đôi ngả

Sóng âm thầm sóng đổ về đâu

Làm sao có những ngày êm ả

Ta-Biển vui đùa ấm áp đậm sâu

*

Giọt mưa buồn bâng khuâng tả tơi

Biển lạnh lùng bao nỗi ngậm ngùi

Còn thoi thóp chút hơi tàn úa

Biển võ vàng - Thuyền lặng nhớ trùng khơi !...

Phạm Thị Minh-Hưng

Hờ hững tình thu

Bâng khuâng một cõi mưa sầu

Sóng ơi sóng đổ về đâu biển chiều

Ngỡ ngàng tỉnh giấc cô liêu

Tình xa như một cánh diều vụt bay...

*

Vì đâu lạc bước - Tình phai

Thoảng cơn gió chướng sầu lay bóng tà

Tiếc thương ngày tháng phôi pha

Buồn như sợi tóc nhạt nhòa mộng xưa

*

Âm thầm nhớ bóng trăng mơ

Rừng thu lay lắt, ơ hờ sầu khơi

Lá rơi tàn tạ chơi vơi

Lao xao tiếng gió buông lơi đường chiều !

*

Về đâu chiếc lá liêu xiêu

Đông sang buốt giá quạnh hiu mịt mù

Tình mong manh giấc mộng du

Chập chùng nỗi nhớ chiều thu, dỗi hờn...

Phạm Thị Minh-Hưng

BẾN ĐỢI

Nhìn thấy sông Tiền đẹp bến bờ

Màn đêm buông xuống nắng chiều lơ

Bầu trời lấp lánh chùm mây tím

Mặt nước lung linh ánh nguyệt mờ

Dạo bước vườn hoa cây cảnh đẹp

Tâm tư cảm hứng tả câu thơ

Thuyền ai neo đậu bên sông nước

Lỡ bước sang ngang đón khách chờ.

QUANG BỈNH

BẠN HỌC

Ngày đó có hai đứa chúng mình

Tuổi thơ ngây vẫn nét trung trinh

Dạo qua đường phố nắng mai sáng

Đôi bạn đi về qua trúc xinh

Đến ngã ba là hai lối rẽ

Em còn e thẹn anh tưởng hình

Về nhà còn ngó ngoái nhìn lại

Tuổi mới lớn mơ ước cảm tình.

QUANG BỈNH

VỀ CÔN ĐẢO

Côn Đảo bình minh, tôi đến

Biển reo những tiếng rầm rì

Chào khách, hải âu quyến luyến

Lượn vòng, không muốn bay đi

*

Côn Đảo trập trùng núi đá

Bụi cây lúp xúp xanh, vàng

Máu đổ trăm năm* thấm cả

Vào vầng hoa phượng chói chang.

Côn Đảo 01.5.2003

VŨ ĐÌNH HUY

* Trong 113 năm (1862-1975), thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã biến Côn Đảo thành “Địa ngục trần gian”, giết chết hàng vạn người yêu nước.

MẶT TRỜI NGÂN NGẤN NƯỚC

Kính viếng hương hồn chị Võ Thị Sáu

Hái hoa cài lên tóc

Hát vang trước súng thù

Mặt trời ngân ngấn nước

Tiễn Chị vào ngàn thu !...

Côn Đảo 01.5.2003

VŨ ĐÌNH HUY

BACK TO CON DAO (POULO CONDOR)

To Con Dao I came at dawn

The sea roared with whispering sounds

Saluting the guests, the sea gulls felt attached to them

Hovering around, not wanting to fly away.

Con Dao has so many mountains overriding one another

Yellow and blue brushwood grow in a hustle

A hundred years bloodshed* have permeated

Even into the bright flamboyants.

Con Dao 01.5.2003

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN

* During 113 years (1862-1975) the French colonialists and the American imperialists have transformed Con Dao into a “Hell on earth”, killing thousands of patriots.

THE LIGHTLY WET SUN

Paying my last respects to the sacred soul of heroine Vo Thi Sau

Picking flowers and fastening them on her hair

Singing aloud upon facing the enemies’ guns

The sun was lightly wet

Seeing You off into eternity…

Con Dao 01.5.2003

VŨ ĐÌNH HUY - Translated by VŨ ANH TUẤN


Phụ Bản III


Dương Lêh

Đợi cho khách về hết, âm thanh ồm ồm của ông bác mất đi trong cái tĩnh lặng ở hẻm sâu của khu chợ Ông Tạ này, cô Lan lững thững bước xuống lầu. Mẹ cô, bà Phấn, đang loay hoay rửa những ly uống trà vừa rồi mang ra đãi khách. Bà nhìn cô con gái lớn nói nhè nhẹ:

- Lúc nãy có mấy đứa muốn chạy lên lầu gặp con, mẹ nói con bị nhức đầu đang ngủ, tối qua họp mặt bạn bè về khuya.

- Con biết bác ấy muốn hỏi gì nên con phải tránh cho khỏe.

- Thì ai chả thế. Bậc làm cha mẹ chú bác thấy con cháu lớn rồi cũng muốn biết chuyện nhân duyên của chúng nó như thế nào, chứ có ý gì khác đâu.

- Nhưng cứ gặp mặt là hỏi cái câu “chừng nào cô lấy chồng? Bao giờ cho tôi uống… ziệu”, nghe sao mà quê quá.

Cô kéo dài chữ “ziệu” ra như để chế diễu.

Bà mẹ không nói gì chỉ đưa ra tiếng thở dài nhè nhẹ.

Ở cái tuổi này, cũng đã gần sáu mươi, bà đã bắt đầu mong có đứa cháu ngoại để bồng ẵm với cho giống mấy bà già trong xóm. Tuy nhiên theo cái số trời định, bà chỉ mong được có cháu ngoại vì người con kế tiếp, em của cô Lan này, cũng là một cô gái đã xong đại học và đang làm việc tại một công ty tàu biển. Từ khi cô Lan vào đại học bà khấp khởi mừng thầm là con gái bà sẽ có tương lai sáng sủa về chuyện gia đình sau này. Bà hy vọng con bà sẽ có được một người chồng ít ra có học vị tương xứng. Điều đó có nghĩa là bà sẽ có một chàng rể tốt đối với gia đình của bà. Ở khu nhà thờ có bà Tín có cô con gái độc nhứt học hành giỏi giang, thành đạt, đã có được ông chồng là kỹ sư và sau hai năm sau đám cưới hai người đã có được một đứa con trai kháu khỉnh.

Một buổi sáng bà đi chợ, đến một quầy hàng bán gia vị hành, tiêu, tỏi, ớt của một người đàn ông khoảng gần năm mươi, bà Phấn thường ghé mua, thấy có một cô gái trẻ xinh xắn xuất hiện, bà vui miệng hỏi thăm:

- Cô này là con gái ông chủ phải không?

- Dạ, con gái lớn đó chị.

- Con gái xinh quá! Học đến đâu rồi?

- Vừa tốt nghiệp lớp 12. Tôi cho nghỉ học ra đây bán hàng với bố.

- Thế à! Sao không cho cháu học lên nữa? Cháu có muốn học nữa không?

Cô gái khẽ lắc đầu, liếc nhanh về phía ông bố, trong khi ông bố nói vọng ra:

- Thôi đủ rồi chị ơi! Học nữa sau này ra làm thuê làm mướn chi bằng ở nhà làm nghề tự do.

Đến đây bà Phấn không dám nói gì thêm, trả tiền hàng rồi đi. Bà thấu hiểu hoàn cảnh những con người có văn hóa, cũng như hệ thống tư duy tương đối hạn chế nên sẵn sàng chấp nhận cảnh “con sãi ở chùa phải chịu quét lá đa”. Tương lai về chuyện chồng con của cô gái này sẽ như thế nào khi mà chung quanh cô có những chàng trai đang làm những công việc bốc vác, những anh chạy xe ba gác (loại ba bánh chở hàng của Trung Quốc), xe ôm… và rồi cha cô, người đang ngồi phía trong cũng sẽ phải đồng ý “týp” người này để chọn làm rể đông sàng vì trình độ văn hóa của họ cũng không có gì khác biệt với cha cô. Trong đầu cô có lẽ cũng không có ý muốn đổi đời, không vẽ ra được trong trí óc của người con gái mới học xong lớp 12, hình ảnh một cô sinh viên đại học, ra trường làm việc tại một công ty, trong phòng máy lạnh và một điều chắc chắn là tiền lương phải nhiều hơn tiền cô kiếm được với công việc này. Nhưng biết đâu cô gái trẻ này cũng lại gặp cảnh tơ duyên chậm chạp như con gái của bà và cũng có thể một hai năm nữa cô sẽ có chồng rồi cứ năm một sinh con.

Ở thế hệ của bà Phấn, bà cũng thấy có nhiều phụ nữ nay đã cao tuổi rồi vẫn phải cam chịu cuộc sống cô đơn từ nhỏ. Ông Trời còn chơi ác chọn một gia đình gồm mấy chị em bắt phải cùng chịu cảnh duyên phận lỡ làng đến già và chắc chắn là sẽ đến chết. Đó là gia đình bà Minh ở khu Vườn Xoài, bà Phấn tình cờ quen được trong lần đi chùa, sau đó lại đi chung trong hai lần phát quà từ thiện ở một vùng ven đô. Bà Minh ở trong một gia đình có ba chị em hiện đã trên tuổi sáu mươi, bà Minh là em út. Bà Minh kể bà có người anh trai đã ra nước ngoài sống từ lâu, nay đã có vợ con sống sung túc. Ông này là suối nguồn kinh tế hỗ trợ cho ba chị em ở lại Việt Nam sống thoải mái. Bà chị cả hiện suýt soát bảy mươi hằng ngày vô chùa làm công quả, bà chị kế cũng có công việc là thường xuyên đến phụ giúp một quán cơm từ thiện. Bà quán xuyến nhiều công việc từ đi chợ, nấu nướng kiêm cả phục vụ và dọn dẹp nếu có đủ thời gian. Đây có lẽ là phương pháp giết thời gian trong ngày cho gọn nhẹ để rồi sau khi về nhà bà chỉ còn biết phóng lên giường đánh một giấc đến sáng hôm sau. Đến bà Minh, người em út có phần linh hoạt hơn trong việc giữ gìn sức khỏe cho bản thân. Bà chăm chú theo học Thái cực quyền, Yoga cốt để rèn luyện cho có được tinh thần minh mẫn. Sôi động hơn bà Minh còn theo học một lớp khiêu vũ. Trong môi trường này bà Minh có mối quan hệ thân mật với cánh đàn ông. Cánh này cũng là mấy ông già trên dưới 70 còn yêu đời đã thoát vòng kiềm tỏa của vợ con. Đa số mấy bà vợ của những bô lão này đều thông cảm thả rong cho mấy ông này tự tung tự tác thay vì bắt mấy ổng ngồi một cục ở nhà, uể oải hết nghe nhạc rồi đọc sách, đọc báo rồi thơ thẩn đi tới đi lui vì không có việc gì nữa để làm. Mấy bả cũng sợ nếu bắt mấy ông chồng phải chịu cảnh kín cổng cao tường như vậy có ngày mấy ổng trở thành “hâm” thì không biết làm sao mà chữa.

Trong số mấy cụ ông này bà Minh chơi thân với một ông lớn hơn bà Minh vài tuổi. Bà Minh rất thích ông này qua cái bề ngoài giản dị mà tươm tất. Ông giống bà Minh ở chỗ không bao giờ sử dụng nước hoa, cái thứ mỹ phẩm mà bà Minh rất ghét, còn ông già này thì bị chứng dị ứng, nếu đứng gần một người có mùi nước hoa ngào ngạt, ông sẽ nổi cơn hắt hơi liên tục có khi đến vài chục cái. Có lần bà Minh mời ông bạn về nhà chơi để làm quen với mấy bà chị, nhưng không ngờ, sau khi ông bạn ra về, bà chị cả nổi trận lôi đình la mắng bà Minh dữ dội. Kiểu cách của bà chị cả này y chang mấy bà mẹ có con gái vừa mới lớn đã lén lút có bạn trai. Bà Minh không thèm cãi lại vì bà rất thương bà chị cả này, một người chị mẫu mực từ xưa đến giờ luôn luôn thay mặt ông bà già, đã chết từ lâu, chăm sóc hai bà em. Bà Minh biết rất rõ tâm lý của bà chị cả này, bà đố kỵ khi thấy bà em út có bạn trai còn bà thì trơ trụi, nhìn tám hướng bốn phương trời mây, không có ông già nào đến làm bạn tri kỷ trước khi bà về cõi vĩnh hằng. Bà Minh thấy cũng tội nghiệp cho bà chị cả, không còn bao lâu nữa chính bà sẽ phải là người chăm sóc khi thể chất bà chị cả suy tàn. Có những buổi tối bà Minh hẹn đi uống cà phê với ông bạn già đó, khi về nhà đều được bà chị cả cho một bài “huấn tử cách ngôn”. Bà càm ràm như con chó già gầm gừ sợ cục xương của nó bị con chó khác tước đoạt:

- Mầy coi chừng có ngày vợ nó cho mày một lon a-xit thì đời tàn.

- Chuyện đó là của tôi. Bà không phải lo. Hơn nữa tôi đã có cách hóa giải.

- Mầy mà hóa giải cái gì?

- Thì ông bạn tôi đó, ông hứa sắp xếp vợ con cho êm thắm.

- Mầy tin nó hả?

- Sao không? Ai cũng gần đất xa trời hết, phải tin nhau để vui sống.

Bà chị cả gầm gừ được một lát, quay lại thấy cô em đã bỏ lên lầu mất dạng.

Chuyện của bà Minh là như vậy, bà Phấn nghiệm lại thấy thấy có nhiều phụ nữ từ xồn xồn đến cao tuổi sống một thân một mình nhiều quá. Tất cả họ đều ở trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, người thì độc thân từ nhỏ, người thì ly dị chồng, hoặc chồng lên thiên đường sớm…

Tuy nhiên bà Phấn thấy không muốn nghĩ đến những người phụ nữ cô đơn này. Coi như số phận đã an bài cho họ như vậy rồi. Quỹ thời gian của họ không còn dành cho họ cơ hội đón nhận duyên trời mà họ đã từng mong ước. Chuyện bà Minh có được một bạn già làm người tri kỷ khi tuổi già xế bóng là may lắm rồi dù rằng bà Minh không chiếm được một trăm phần trăm thời gian của ông bạn già đó.

Bà Phấn nghĩ lại hoàn cảnh con gái bà, theo cái nhìn chủ quan của bà thì cô Lan con gái bà đâu có xấu xa gì. Khi đi làm việc cô Lan ăn mặc trông cũng xinh xắn lắm. Cô lại còn là một người phụ nữ có học thức. Không lẽ vì vậy mà khó lấy chồng ư? Chắc là tại ông trời xe duyên hơi bị chậm đó thôi.

Một cậu em họ xa của bà Phấn ở quận 1, hiện là một ông chủ tiệm sửa chữa máy lạnh, tủ lạnh, công việc làm ăn phát triển cũng… mát lạnh luôn. Giàu lắm. Thằng con trai lớn của ông đã ra trường bẩy tám năm nay, hiện đang làm việc cho một công ty nước ngoài nào đó, lương bổng gần hai ngàn đô một tháng. Anh tự mướn nhà ăn ở riêng một mình, cả tháng hay hơn tháng anh ghé qua nhà thăm bố mẹ một tí rồi đi ngay. Cô con gái vừa ra trường đại học chưa kịp có ông bạn trai nào làm… thuốc thì bố bảo về phụ giúp quản lý cái doanh nghiệp sửa chữa máy lạnh tủ lạnh này gần hai năm nay. Công việc làm ăn ngày càng phát triển, ông bố nhận làm đại lý bảo hành cho một thương hiệu máy lạnh, tủ lạnh của Hàn quốc. Chẳng bao lâu ông bố tậu về một chiếc xe van bẩy chỗ bóng loáng chính hiệu của Nhật để thỉnh thoảng cô con gái tự lái xe đưa bố đi dự hội nghị khách hàng hay đi họp với đại diện công ty mẹ vừa mới sang. Có lần bà Phấn đến thăm thấy cậu em có vẻ hả hê với công việc làm ăn của mình và nhất là hiện nay có cô con gái trợ giúp một cách đắc lực.

Nhìn bao quát chỗ làm việc của cậu em với đông đảo công nhân sửa chữa vừa làm việc vừa nói chuyện oang oang, chửi thề ỏm tỏi, bà Phấn về nhà tự nhiên cảm thấy buồn rười rượi. Bà nghĩ con gái của cậu em sẽ phải “ở vậy” không biết cho đến khi nào mới có người con trai đến “rước nàng về dinh”. Cậu em cứ bi bô khoe khoang công việc làm ăn của mình mà không biết nghĩ đến tương lai con gái. Cậu ta cho rằng đã làm giống như các nhà tài phiệt ở Pháp ở Mỹ có con gái vừa tốt nghiệp ra trường liền được gọi về công ty của bố làm việc. Bà chị suy nghĩ thấy cậu em quả không nghĩ được đường xa, vì cậu xuất thân từ một anh thợ rồi sống lâu lên lão làng, có tiền nhảy lên làm chủ, ăn nên làm ra.

Theo bà Phấn đúng ra cậu em nên để cho con gái đi xin việc làm ở các công ty để phát triển khả năng chuyên môn đã học ở trường. Cô gái này còn có cơ hội rộng mở cho việc chồng con sau này khi cô ở trong môi trường làm việc chung với hàng ngũ trí thức, và không sớm thì muộn cô cũng có thể tìm được một người chồng tương xứng. Cậu em của bà quả là không hình dung ở một công ty nước ngoài cho dù đặt cơ sở ở Việt Nam đều phân biệt rõ ràng ban quản lý làm việc ở khu vực được phân chia cho từng người riêng biệt, công nhân thợ thuyền làm việc ở xưởng. Chỗ cậu em bà làm việc chỉ là một khu vực rộng bằng hai căn phố, chủ thợ kể cả người làm tạp dịch ngồi chung đụng một chỗ. Trong lúc làm việc thợ sửa chữa, thường có văn hóa kém, tha hồ nói chuyện ồn ào, nhiều khi thô tục hay nói leo chọc ghẹo con gái ông chủ. Bà Phấn thấy lâu ngày con gái của cậu em sẽ mất đi bản chất trí thức của một người đã tốt nghiệp đại học, và điều quan trọng khác là cô sẽ mất đi những kỹ năng chuyên môn, quý báu mà cô đã học ở trường.

Nghĩ đi, nghĩ lại bà Phấn thấy con gái của mình, cô Lan, đã đứng ra làm việc ở công ty mà bà cho là môi trường trí thức nhưng cơ hội sao vẫn chưa đến cô con gái trẻ trung của bà? Bà con hàng xóm mỗi lần đến thăm đều hỏi bằng những câu cũ rích. Đôi khi bà cũng lấy làm bực bội đối với những người không biết tí gì về vấn đề tâm lý đó. Điều bà mong mỏi bây giờ là con bà cứ yên tâm làm việc, vui vẻ sống chung với cha mẹ. Chẳng qua là ông Trời se duyên chậm đó thôi. Bà tự an ủi như vậy.

Dương Lêh


MIỀN QUÊ MƯỜI TÁM THÔN

(tiếp theo số 123)

CHƯƠNG II

Chuyện kể tiếp bây giờ

Tối hôm sau, cơm nước xong xuôi, bà Bích Châu cầm ly trà nóng bước ra phòng khách, vừa ngồi xuống sa lông là Bích Lan đã tót theo ngồi kế bên mẹ vẻ chờ đợi. Rồi Bích Hiền cũng đi ra đến tivi, loay hoay dò kênh yêu thích. Lúc đó Bích Lan kêu lên:

- Chị, đừng mở truyền hình, để má kể tiếp em nghe về miền quê và bà nội mình đi chị.

Nghe vậy, Bích Hiền tắt tivi cũng đến kéo ghế ngồi gần mẹ. Bà Bích Châu hớp một ngụm trà, nhẹ nhàng hỏi hai cô con gái:

- Sao hôm nay không ai vặn tivi hết vậy?

Bích Lan nói liền:

- Má, kể tiếp chuyện trên quê đi má, chuyện bà nội nữa má hé.

- Ủa, má đã kể hết tối hôm qua cho tụi con nghe rồi mà!

- Má ơi, má kể có chút xíu, kế anh Nhật Hào về tới nói lung tung beng cái má kêu đi ngủ thôi chứ đã kết thúc đâu.

Bích Hiền cũng lên tiếng:

- Thì má kể thêm về bà nội cho bé Lan nghe đi, chớ hông thôi nó mè nheo hoài, ai chịu cho nổi.

Bà Bích Châu ngẫm nghĩ, nói:

- Thì để má kể thêm về bà nội của tụi con cho tụi con hiểu hết về người phụ nữ thời xưa.

Đối với họ hàng trên quê, ai cũng đều quý mến bà nội và nhất là ông nội tụi con. Ông luôn luôn đối đãi với bà con bên vợ rất rộng rãi và thật tình, bất cứ ai có khó khăn cơ nhỡ gì tìm xuống cô dượng Tư nhờ giúp đỡ đều được ông nội mấy con giúp tiền bạc hoặc chỗ ở đậu hết, không từ chối một ai. Má nhớ hồi trước 1945, còn đánh Tây, ở Hóc Môn có rất nhiều bà con xuống lánh nạn ở nhà mình, ông nội đều cho đùm đậu hết, và lập ra lò kẹo đậu phộng ở cái chái bên hông nhà mình cho các chú bác, hiện giờ là căn nhà ngang của chú Sáu Tâm kế bên đó.

Bích Lan hỏi mẹ:

- Căn nhà của chú Tâm hồi đó là của mình hả má?

- Ừ, do thời cuộc, ông nội con bán bớt lấy tiền định cho ba má lập nghiệp dưới Tiền Giang, mà sau thất bại, lụt lội ngập nhà, hư lúa hết, ba má mới trở lên Sài Gòn ở lại, lúc đó còn dắt theo Nhật Hào, Bích Lan thiệt là gian nan cực khổ quá chừng!

Bích Hiền thở dài:

- May là hồi đó ông bà nội nhất định giữ con và Nhật Bảo lại đây, không cho theo ba má, chứ không thôi…

Bà Bích Châu vội nói:

- Thôi, nhớ lại cái thời kỳ đồ khổ đó làm chi. Để má nói tiếp về ông bà nội tụi con.

- Vì thế, bà con trên Hóc Môn rất quý ông bà, hễ có cúng đình kỳ yên gì năm nào cũng lễ mễ xuống mời cô dượng Tư về dự. Để đáp lại, dù bận đi làm việc, ông cũng xin nghỉ phép về dự một ít thời gian và gửi tiền cúng lễ. Còn hiện giờ, thì lâu rồi má không nghe ai nhắc đến tục lệ nầy, hoặc còn thì không có rầm rộ như xưa, có rước Ban hát bội từ Sài Gòn về nữa chăng?

Bích Hiền nối lời:

- Hèn chi, con nhớ hồi còn nhỏ xíu, nhà mình lúc nào cũng đông người ở chung. Cô Út Hạnh, chú Ba Sáng, chú thím Ba Tính rồi bà Năm Gương xuống ở lại giữ con nữa.

- Ừ, thì vậy đó, nhà lúc nào cũng đông vui. Ông nội tụi con luôn căn dặn má đi chợ mua thức ăn đầy đủ và gạo phải đầy lu, thiếu thì nói cho ông hay liền, tụi con coi ông tốt không? Hễ bà con Hóc Môn là gật đầu đồng ý ngay, mà nói theo chữ nghĩa của mấy con bây giờ là OK phải hôn? Chưa kể là cô Hai Mai, cô Tuyết, chú Thường con của bà cô Sáu, ông chú Bảy, em ruột ông nội nữa, ông bà nội đều thương như nhau và hết tình nuôi nấng trong nhà.

- Lúc đó, nhà đông người chắc má cực lắm hả?

Bà Bích Châu nhớ lại:

- Má nghĩ cũng không cực khổ lắm, vì má chỉ lo quán xuyến đi chợ, cơm nước, công việc nhà có bà nội, còn mấy đứa con thì có người giúp việc bồng ẵm, cho ăn uống dưới sự giám sát của bà nội (mỉm cười) vì không ai kỹ lưỡng, tinh tường bằng bà nội tụi con hết.

Đến đây, Bích Lan quay qua Bích Hiền khều tay chị:

- Nè, chị Hai, có phải bà nội thương chị nhứt nhà phải hôn? Phải hôn hả má?

Bích Hiền giả bộ không nghe làm thinh, còn bà Bích Châu nói:

- Ừ, phải đó, vì khi má sinh Hiền thì bị bệnh, mà nó cũng yếu nữa nên tự tay bà nội bồng bế, chăm sóc đến lớn, nên bà nội cưng Hiền nhứt mà. Kể cả Nhật Bảo nữa đó, hồi nhỏ cả hai đứa quấn quýt ông bà nội và ngủ chung với ông bà tới lớn. Do đó, mà đi đâu ông bà cũng cho đi theo hổng rời.

Bích Hiền nhắc mẹ:

- Má, bà nội gói bánh tét cũng ngon “bá cháy” hả má?

- Ừa, hồi bà nội còn mạnh giỏi, Tết nào bà cũng kêu má mua nếp tốt, đậu, mỡ thịt về cho bà gói bánh ăn Tết.

- Còn lá chuối và dây buộc sao má?

- Bà nhắn trên Hóc Môn rọc lá gửi xuống toàn tốt không, và bác Ba Tường thì chẻ dây lạt phơi khô đem xuống.

- Về sau thấy mất công quá, má đặt mua ở chợ về cho bà nội, nhưng bà hổng ưng bụng nữa là. Bà còn gói thêm bánh ít, bánh cấp cho cả nhà ăn nữa. Bánh tét bà gói toàn nhưn sống, nghĩa là nếp gút sạch để ráo, nhưn mỡ thật cứng trắng ướp hành lá giã dập. Không phải là thịt nạc như bánh chưng người Bắc, và đậu xanh đãi vỏ để sống, cứ lớp nếp trắng, lớp đậu xanh vàng ươm, rồi lớp mỡ ướp hành thơm phức và trên là nếp, gói phải chặt tay để bánh không bể đổ nhưn. Ông nội ngồi kế bên cột bánh, má yếu tay nên bà nội không cho má tham gia khâu nầy, chỉ xào nhưn gói bánh ít thì được. Sau này khi ông bà mất rồi, ba tụi con cũng gói bánh tét được, má thì chịu thua.

Bích Hiền chen vô nói:

- Hồi đó, bà nội cũng cho con và Nhật Bảo hai đòn bánh chuối (nhân chuối) nhỏ, nên con cứ thức theo ông bà để canh bánh chín. Bà nội nói, làm nếp và nhưn sống vậy bánh để lâu mới không thiu được từ 10 đến 15 ngày.

- Má nhớ hôn, bà nội có món cơm rượu ngon cực kỳ má hả?

- Ừa, năm nào vào ngay mùng 5 tháng 5 bà cũng làm cơm rượu để trong một thố đất, từng viên trắng muốt bọc trong lá chuối xanh thấy hấp dẫn quá trời. Vậy nên Hiền nó thấy ngon ngọt, ăn một hồi 5-6 viên, kế lăn ra ngủ đến gần nửa ngày trời làm má hết vía, nhưng mà bà nội nói hổng sao đâu, nó say rượu sẽ thức dậy thôi, má mới hoàn hồn. Ba la má quá trời, sao để Hiền ăn nhiều cơm rượu như vậy. Bà nội bênh Bích Hiền nói: “Có sao đâu, một năm có một lần, ăn để trừ sâu bọ”.

Nghe đến đây, Bích Lan có dịp cười lớn chọc chị mình:

- Đó, chị Hai cũng mê ăn như em vậy, ê lêu lêu…

Bích Hiền mắc cỡ, mặt đỏ bừng:

- Em cũng vậy chớ bộ, thua gì ai đâu nè!

Bà Bích Châu cố nín cười, vội vàng giảng hòa cả hai chị em:

- Thôi, khi còn con nít ai lại không thích ăn đồ ngọt, như nhau hết thôi mà. Bích Hiền hổng nhớ lâu lâu cứ buổi trưa bà không ngủ, lại lui cui nướng bánh bông lan bằng nồi gang trên lửa than và đánh trứng bằng tay cho cô nhỏ tham ăn của má xực nè nhớ hôn?

Bà nội tụi con rất siêng năng, cứ tìm việc làm luôn tay, không chịu nghỉ ngơi, vì vậy nên các chị giúp việc đâu dám làm biếng, lười nhác. Con cháu có lỗi lầm gì thì bà cũng rầy la nhưng dùng những lời phải trái khuyên răn nên không ai giận bà lâu được, trái với bà Bảy Thu hay xéo xắt lời nói nên con cháu không nể phục.

Bích Hiền lại hỏi mẹ:

- Sao phụ nữ thời xưa không được đi học hả má?

- Vì từ thuở rất xa xưa, người ta có quan niệm việc học hành, giao tiếp ngoài xã hội là của nam giới. Phụ nữ chỉ ở trong nhà lo tề gia nội trợ là được rồi, không cần học chữ nghĩa làm chi. Do đó, mà đa số phụ nữ của nước ta không được cho đi học chữ, trường học chỉ dành cho nam giới.

Bích Lan nói:

- Nhưng con đọc sách cũng thấy có người được học hành tử tế và giỏi văn chương thi phú lắm mà má.

- Ờ, thì cũng có các trường hợp hiếm hoi, các vị đó sinh ra trong gia đình Nho giáo, có tư tưởng tiến bộ, không trọng nam khinh nữ như Bà Huyện Thanh Quan, bà Hồ Xuân Hương đều là những nữ sĩ tài hoa đó, mà là số ít các con à.

Qua thời của má, nước mình đã là thuộc địa của Pháp, họ đem văn hóa phương Tây áp dụng nền giáo dục cho cả nam và nữ nên má được đi học tử tế, song vì lúc đó hoàn cảnh ông bà ngoại tụi con khó khăn nên má chỉ học đến bậc tiểu học rồi đi làm công nhân thôi, ba tụi con cũng vậy, mà thời bấy giờ có học cả tiếng Pháp nên má cũng còn nhớ đôi câu đàm thoại đó.

- Vậy hả má? - Bích Lan lên tiếng.

- Ừ, nhưng ba con thì giỏi hơn má, vì ba tụi con có mấy năm sang Pháp làm việc và học thêm ngoại ngữ. Ông bà nội đã phải làm việc cật lực và hy sinh cho ba mấy con nhiều lắm. Má rất thương và kính phục ông bà.

Bà Bích Châu lại nói tiếp:

- Việc học hành của tụi con được đến nơi đến chốn là cũng nhờ ông bà nội phụ một tay với ba má chớ không thì tụi con cũng không được bằng cấp này nọ như ngày hôm nay đâu. Ở quê bà nội, khi thấy Bích Hiền học cao thì lời ra tiếng vào xầm xì: “Con gái học chi cho nhiều?”, nhưng bà nội đã gạt ngang hết nói: “Đời mình không biết chữ đã khổ rồi, thì đến đời con cháu mình phải có chữ nghĩa đến nơi đến chốn chớ, còn phân biệt gái trai làm chi. Chúng nó học được bao nhiêu thì học chớ”.

Bà nội mấy con là vậy, thật là một nữ hào kiệt phải không các con?

Việc học hành của Bích Hiền và Nhật Bảo đều do một tay bà nội chăm lo quần áo, sách vở, cả về ăn uống, Ông nội thì cho tiền học phí cả hai chị em vì lúc ấy má đang ở cữ Bích Lê, rồi Bích Lựu. Kế tiếp ba tụi con lại đi tu nghiệp nước ngoài đến mấy năm lận, nên má rất biết ơn ông bà nội tụi con. Ông bà thương quý cháu nội nên dành hết các phần chăm sóc anh chị của Bích Lan cho má rảnh tay.

Bích Lan hỏi mẹ vẻ ngạc nhiên:

- Ủa, má kể có các chị Bích Lê, Lựu sao con hổng thấy?

Bà Bích Châu vẻ buồn buồn:

- Hai chị con đều mất cả rồi, có Nhật Minh anh của Hào nữa cũng chết lúc mới sinh được ba ngày vì bị bệnh sốt xuất huyết. Bà nội buồn và khóc nhiều, nói tụi nó không có duyên ở nhà mình để an ủi má đừng suy sụp tinh thần trước những việc đau lòng đó. Cũng nhờ bà nội mấy con khuyên lơn má mới thấy nguôi ngoai buồn phiền.

Bích Lan lại lên tiếng:

- Sao con thấy lớn lên không nghe nói đến mồ mả mấy anh chị đó ở đâu hết vậy má?

- Thì lúc đó chưa có việc thiêu hài cốt lấy tro đem vào chùa hay nhà thờ nên khi có lệnh giải tỏa nghĩa trang đất thánh, nhà mình không hay kịp nên chính quyền cho lấy cốt chôn tập thể nơi nào đó hoặc bị người ta cất nhà chồng lên mộ như của Bích Lê và sau thì san phẳng luôn các con à. Bà nội an ủi má: “Hổng sao đâu con, chính vì chết còn bé nên chắc đã lên cõi vĩnh hằng thành thần rồi”.

- Vì vậy nên Bích Lan không biết các anh chị. Má còn lưu hình trong album gia đình, Bích Hiền hôm nào rảnh rỗi lấy cho các em xem nghe con.

Bích Hiền dạ nhỏ. Bà Bích Châu lại tiếp:

- Trường hợp các anh chị của ba con cũng vậy. Chỗ đất chôn các ông bà ấy ngay ngã ba đường vào Tân Xuân bây giờ cũng đã san bằng mồ xiêu mả lạc hết rồi đó, đâu còn dấu vết gì đâu. Mà lúc đó bác Ba Tường mất rồi, không ai thông báo cho ba má hay hết. Vì má nhớ lần cuối cùng, cả nhà mình được ba chở xe về Hóc Môn cùng với ông bà nội (chưa có Nhật Hào) là 1.11.1963 để đốt đèn mã (nói theo tục lệ ông bà) vì ba tụi con được nghỉ phép đi thăm mộ ông bà, cô bác bên bà nội và các anh chị em của ba tụi con là ngày đảo chính thay đổi chế độ. Sau đó, việc thăm nom, giãy mả đều giao lại cho bác Ba Tường và bác Ba cũng thực hiện đầy đủ cho đến lúc mất, cô Út Hạnh lại tiếp tục đến lúc giải tỏa nghĩa trang này.

Bích Hiền nối lời mẹ:

- Cô Út Hạnh thấy vậy mà sướng hả má?

- Ừ, đời cô ấy cũng gian nan lận đận, má cũng không biết cô sướng hay khổ, nhưng hiện tại các con của cô đều hiếu thảo và thương yêu mẹ là được rồi, má nghĩ vậy.

- Mấy lần con lên Hóc Môn có ghé thăm cô, thấy cô tuy ở một mình nhưng thong thả, muốn làm gì tùy thích má à.

Bích Lan tò mò hỏi mẹ:

- Sao má nói các con của cô Út, mà con có thấy ai ở với cô đâu nè.

Bích Hiền rầy em:

- Nhỏ này nhiều chuyện dễ sợ, cô Út Hạnh biết được thì nhỏ chết nha.

Bích Lan cãi lại:

- Có sao đâu, em thương cô mà, nhưng tại em thấy sao thì em hỏi vậy.

Bà Bích Châu trả lời cô gái út:

- Thì các con của cô Út Hạnh đều turởng thành và lập gia đình cả rồi nên cô ở một mình chớ sao. Có Phượng là ở gần Hai Tân đó, cứ hai tuần đem đồ ăn cho cô Hạnh một lần, quét dọn trong ngoài cho cổ, còn như muốn dùng thêm gì thì cô ra chợ mua. Còn lại Như Thủy có chồng ở Gò Vấp, Minh Tuyền đang sống trên Ban Mê và thằng bé Út ở bên Pháp với ba nó. Được chưa cô bé tọc mạch của má.

- Ứ, sao má nói con vậy, con hổng chịu đâu - Bích Lan nhõng nhẽo.

Bích Hiền la em:

- Trời, lớn bằng con voi Thảo Cầm Viên rồi mà làm nũng thấy ghê chưa. Bữa nào chị gặp cô Hạnh, chị mét cho mà coi nha.

Bích Lan nói lại chị:

- Em hổng sợ, cô Hạnh hiền lắm, bất quá cô nghe chị mét em, cô chỉ cười thôi hà, em dám chắc vậy, phải hông má?

- Ừ, cô ấy hiền giống bà Năm Gương và cũng thương tụi con hết lòng vậy. Giờ cô ấy cũng đau khớp nhiều nên ít xuống Sài Gòn, chứ mấy năm trước nghe ba má bệnh hoạn là xuống thăm viếng liền. Bên dòng họ anh em của bà nội, bậc trưởng thượng chỉ còn cô Út Hạnh thôi đó. Tụi con đứa nào có dịp về trên Tân Xuân nhớ ghé thăm cô ấy với nghe. Mà nói đâu cho xa, ngày mốt về đám giỗ bác, Bích Lan nhớ chở má ghé thăm cô, đừng quên đó.

Bích Lan dạ một tiếng lớn. Nói đến đây bà Bích Châu ngừng lại, đưa mắt nhìn quanh, lầm bầm:

- Thằng bé Nhật Hào nầy lại “hô biến” rồi, chắc phải tính “chuyện trăm năm” gấp đây.

Hai cô con gái nhìn nhau lắc đầu cười: “Má lại lo nghĩ cho con trai út rồi”.

Không khí phòng khách bây giờ như lắng đọng, cả ba người phụ nữ già trẻ bỗng lặng yên để cùng hướng về miền quê ấy ngày xưa và bây giờ.

Một Bích Lan, lớp trẻ năng động của thời hiện tại nghe kể chuyện thì náo nức vui tươi trước một nông thôn mới thay đổi và thành thị hóa từng ngày.

Còn Bích Hiền và bà Bích Châu là thế hệ trung niên và cao tuổi thì tiếc nuối một miền quê yên lành trù phú với 18 thôn vườn trầu ngày xưa đã vang danh, là một địa điểm kháng Pháp lừng lẫy trong lịch sử Nam Bộ, và họ đã hoài niệm miền đất ấy: rau quả đầy vườn và lúa chín đầy bồ, người nông dân thật thà chất phác và chăm chỉ bên con trâu, cái cày.

Nhưng đó là một thời đã xa rồi.

HOÀI LY


THẰNG NHÓC

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG

Muốn đi đâu thì cũng phải có tiền.

Tiền vé xe lửa để đi đến Paris.

Tiền trả nợ các dịch vụ, tuy là nhỏ nhoi, nhưng mà rất to tát đối với tôi lúc đó.

Tôi cảm thấy một nỗi lo âu, thất vọng đắng cay.

Tìm đâu ra tiền bây giờ?

Làm sao mà đi đây?

Làm sao mà gặp lại anh Jacques?

Đầu óc tôi nóng bừng như lửa đốt.

Trong cơn khủng hoảng, tôi đi lang thang ra ngoài cánh đồng hoang, một cách điên khùng vô ý thức.

Hoàng hôn xuống. Tuyết trắng rơi. Tôi cũng không biết tâm sự buồn bã của tôi nó sâu lắng đến độ nào.

Cuối cùng rồi tôi phải ngã quỵ xuống một gốc cây vì kiệt sức, và tôi ở đó cho đến ngày hôm sau, mà không còn hơi sức đâu để nghĩ ngợi điều chi nữa. Thình lình có tiếng chuông đổ, tôi mới chợt tỉnh ra. Đó là tiếng chuông của trường học, kêu gọi học sinh vào lớp.

Tôi phải trở về để coi chừng lũ học sinh, trong giờ ra chơi, ở phòng thể thao… Vừa nghĩ đến phòng thể thao thì có một ý nghĩ chợt lóe lên. Lập tức nước mắt ngưng chảy. Tôi cảm thấy một sự an tâm mạnh mẽ. Tôi đứng dậy và cương quyết trở về trường.

Sau khi coi chừng lũ trẻ chơi đùa trong phòng thể thao xong, tôi vội vã đi về lớp học mà ngồi vào bục giảng. Tôi chăm chú viết một lá thư cho anh Jacques, mặc tình cho lũ học trò quậy phá.

Sarlande ngày,…

Anh Jacques,

Hãy tha lỗi cho tôi, anh Jacques thân mến, về sự đau buồn mà tôi đem đến cho anh. Bây giờ thì anh hết khóc rồi, nhưng mà tôi sẽ tạo cho anh một lần khóc cuối cùng. Vì rằng, khi anh nhận được lá thư này thì em của anh đã chết.

Anh Jacques ơi.

Tôi đau khổ quá nhiều rồi, và tôi không còn làm được điều gì khác hơn là tôi phải chết. Tương lai của tôi đã mất hết rồi. Người ta đã sa thải tôi vì một sự kiện vô lý…, mà nó dài dòng quá, tôi không thể kể lể cho anh nghe. Vả lại tôi còn đang mang nợ, và cũng không có tiền để đáp xe lửa mà đến với anh. Cuộc sống làm cho tôi lo sợ. Tôi phải ra đi thôi.

Vĩnh biệt anh Jacques. Tôi còn bao nhiêu chuyện để nói với anh, nhưng mà tôi sắp khóc đây, và lũ học trò đang nhìn tôi. Hãy nói với mẹ rằng tôi bị trợt chân đang lúc đi chơi ở một ghềnh thác nào đó, hoặc là anh bịa ra một chuyện gì để cho bà mẹ đau khổ không biết được sự thật. Anh hãy chăm sóc mẹ và cha thay tôi. Anh ráng sức làm việc để xây dựng lại gia đình.

Tôi thương anh nhiều lắm, anh Jacques ơi.

Hãy nhớ đến Daniel nhé.

Vĩnh biệt.

Daniel.

Lá thư này viết vừa xong, thì Thằng Nhóc lại tiếp tục viết một lá thư khác:

Sarlande ngày,…

Ông Linh mục khả kính,

Cầu xin ông làm ơn trao lá thư mà tôi đã viết xong cho anh Jacques, và đồng thời ông cũng làm ơn cắt mái tóc của tôi, rồi kết làm một lọn mà gởi về cho mẹ tôi.

Tôi xin lỗi ông. Tôi xin lỗi vì đã gây nhiều phiền lụy cho ông. Tôi phải chết đi vì không còn đủ can đảm để sống, bởi vì tôi quá đau khổ ở đây, và tôi cũng không thể sống ở đâu khác hạnh phúc được. Những điều tôi làm thì hoàn toàn sai quấy, nhưng mà tôi không còn đủ sức chịu đựng được nữa rồi. Xin cầu nguyện Thượng Đế tha thứ cho tôi.

Tôi chỉ có một mình ông thôi. Ông lúc nào cũng tốt với tôi, và điều này làm cho tôi mạnh dạn mà nói lên rằng, tôi rất cảm ơn ông.

Kính chào ông Linh mục Germane khả kính.

Daniel Eyssette.

Sau đó Thằng Nhóc để lá thư này cùng với lá thư của anh Jacques vào một phong bì lớn, với dòng chữ ở bên ngoài “Người nào lượm được bao thư này, xin vui lòng trao lại cho ông Linh mục Germane”. Như vậy, công việc đã xong. Thằng Nhóc chờ đợi mãn lớp học.

Mọi người đi ăn cơm chiều.

Mọi người đi cầu nguyện.

Mọi người lên phòng ngủ.

Lũ học sinh cũng lên giường nằm.

Thằng Nhóc đi tới, đi lui, đợi cho tất cả đều ngủ say.

Bỗng nhiên, người ta nghe tiếng leng keng của xâu chìa khóa, và tiếng giầy nện trên nền. Giờ nầy ông Viot đi tuần tra tối.

Thằng Nhóc thì thầm:

- Xin chào ông Viot.

Ông Giám Thị trả lời:

- Xin chào.

Rồi ông ta đi mất hút trong bóng tối. Thằng Nhóc đứng một mình. Nó lắng tai nghe coi lũ học trò còn thức hay là đã ngủ. Tất cả đều im lặng. Thằng Nhóc e dè đi xuống cầu thang.

Gió bấc thổi lạnh lẽo, buồn bã.

Ở trên kia có một phòng còn chong đèn. Đó là ông Linh mục Germane đang ngồi biên soạn một tác phẩm vĩ đại của ông. Thằng Nhóc giơ tay gởi nụ hôn vĩnh biệt cuối cùng. Rồi nó đi vô phòng thể thao.

Phòng thể thao giờ này tràn ngập bóng đêm, lạnh lẽo, và ảm đạm. Ánh trăng xuyên qua cửa sổ, đang rọi sáng vào cái vòng sắt.

Ôi! Cái vòng sắt giải thoát này mà Thằng Nhóc chợt nghĩ đến, chỉ mới vài giờ đây thôi. Trong góc phòng, có một cái ghế cũ, vừa tầm với sự dự định của Thằng Nhóc. Nó xách cái ghế lại để ngay dưới cái vòng sắt. Rồi nó tháo cái cà vạt đeo cổ ra, một cái cà vạt dài màu tím. Nó làm thành một cái thòng lọng mà cột vào cái khoen sắt.

Đồng hồ gõ một giờ.

Với đôi tay run run, Thằng Nhóc nới cái thòng lọng cho rộng ra. Một luồng rét buốt chạy dài theo xương sống của nó. Vĩnh biệt anh Jacques, vĩnh biệt mẹ hiền. Xin Thượng Đế hãy tha lỗi cho Thằng Nhóc.

Trong lúc nó đang chần chờ, thì bỗng nhiên có một cánh tay thép cắp ngang hông của nó mà đặt xuống đất, và liền theo đó là một giọng nói hiền lành:

- Ô hay nhỉ. Giờ này mà còn có ý định tập thể dục nữa à?

Thằng Nhóc giựt mình quay lại, thì ra là ông Linh mục Germane với nụ cười nhân hậu. Với một cánh tay ông cũng đủ sức cặp ngang hông Thằng Nhóc đặt xuống đất, còn tay kia đang xách một bình nước vừa mới hứng đầy ở vòi nước ngoài sân.

Nhìn thấy dáng thiểu não của Thằng Nhóc đầy nước mắt, ông Linh mục an ủi:

- Sao con khờ khạo quá vậy, Daniel. Đâu phải tập thể dục vào giờ này. Con hãy đi theo ta.

Thằng Nhóc cưỡng lời, và chỉ vào cái vòng sắt có cái cà vạt còn treo lủng lẳng. Ông Linh mục vội nắm lấy cánh tay nó mà kéo đi:

- Đây không phải là lời năn nỉ, mà là một mệnh lệnh của ta. Hãy đi lên phòng, ở đó có ánh lửa ấm áp. Nào chúng ta đi thôi.

Thằng Nhóc chống cự:

- Cứ để cho tôi chết đi, ông Linh mục ạ. Ông có quyền gì mà cấm cản tôi chết.

Một nỗi giận dữ thoáng qua ánh mắt của ông Linh mục: “A! Đến mức độ này à!”. Ông Linh mục cất tiếng than, rồi đưa tay cắp ngang hông Thằng Nhóc mà mang đi như một món hàng, mặc dầu Thằng Nhóc vùng vẫy, cầu khẩn, van nài.

Sau cùng, chúng tôi cũng đến phòng của ông Linh mục Germane. Một ngọn lửa đang cháy bừng trong lò sưởi ấm áp. Gần bên lửa, là một cái bàn viết, có đèn sáng, và một xấp bản thảo đầy chữ viết ngoằn ngoèo.

Thằng Nhóc ngồi vào một góc của lò sưởi. Nó có vẻ rất đỗi bối rối. Nó nói chuyện nhiều lắm. Nó kể lể về cuộc đời khốn khổ mà nó không còn muốn sống nữa. Ông Linh mục thì mỉm cười mà nghe nó nói. Rồi đến khi Thằng Nhóc nói đã, khóc đã, phô bày hết cái trái tim bệnh hoạn của nó thì ông Linh mục dũng cảm này mới nắm lấy tay nó mà nói nhỏ nhẹ rằng:

- Con ạ! Tất cả câu chuyện đó có chi đâu mà to tát. Tại sao con cứ tự làm khổ mình. Câu chuyện của con thì đơn giản thôi. Người ta đuổi con đi khỏi trường, thì đó cũng là điều tốt cho con. Ừ, phải đi thôi. Phải đi ngay bây giờ, mà không cần chờ đợi đến tám ngày. Con đâu phải là người ở đợ. Con cũng không phải nghĩ ngợi gì về tiền bạc. Ta sẽ tạm ứng tất cả cho con, tiền xe cũng như tiền nợ. Chúng ta sẽ tính toán vào ngày mai. Bây giờ thì không nói chuyện nữa. Ta có việc cần phải làm. Con thì cần phải ngủ nghê cho khỏe. Có điều là ta muốn con nằm ngủ tại đây, trên giường nệm của ta, vừa mới thay ra mới. Ta viết lách suốt đêm, và nếu có buồn ngủ thì ta ngủ trên ghế trường kỷ vậy. Chúc con ngủ ngon. Đừng nói chuyện nữa nhé.

Thằng Nhóc lên giường nằm ngủ. Nó không chống cự nữa. Bao nhiêu tình tiết đã xảy ra trong ngày, cũng giống như trong cơn mê. Bây giờ, Thằng Nhóc cảm thấy thoải mái, dễ chịu, trong căn phòng ấm cúng. Thỉnh thoảng, nó mở mắt ra, nhìn thấy ông Linh mục đang ngồi làm việc dưới ánh đèn vừa phì phà điếu thuốc lá.

Ngày mai, ông Linh mục vỗ vai đánh thức tôi dậy. Tôi quên tất cả, làm cho ông Linh mục cười xòa.

Ông bảo tôi:

- Ta biết con là người tốt, nên không thể dửng dưng được trước nghịch cảnh, để cho cơn đau khổ xui khiến làm càn, làm bậy. Đi thôi. Chuông đổ rồi kìa. Con cứ đi dạy học như thường lệ. Đến giờ ra chơi, thì con hãy đến đây để gặp ta. Nhớ, là đừng nói cho ai biết điều gì cả.

Tôi bỗng sực nhớ lại mọi việc. Tôi muốn ôm ông Linh mục để cám ơn, nhưng mà ông đã đẩy tôi ra cửa.

Buổi dạy học, nó lâu làm sao ấy. Học sinh vừa ra sân chơi, là tôi đã đến gõ cửa phòng ông Linh mục Germane. Tôi thấy ông ngồi trước bàn, đang cẩn thận đếm mấy đồng tiền vàng. Nghe tôi bước vào, ông Linh Mục ngẩng lên nhìn, rồi cúi xuống làm việc mà không nói lời nào. Sau khi đã đếm tiền xong, ông vui vẻ bảo tôi:

- Tất cả số tiền này là của con. Ta tính đủ cho con rồi. Đây là tiền để đi xe. Đây là tiền để trả nợ.

Tôi muốn nói chuyện, nhưng mà ông Linh mục hào hiệp không để cho tôi có thời gian.

- Bây giờ con hãy nói lời tạm biệt đi. Ta phải đi đến lớp ngay bây giờ. Khi trở về, ta không muốn thấy con lảng vảng ở đây. Không khí ở nhà trường này không tốt cho con. Hãy vọt mau về Paris mà làm việc. Nhớ cầu nguyện Thượng Đế sớm và tối nhé. Và cố gắng làm người trưởng thành. Làm người trưởng thành, nhớ không?

Rồi ông dang rộng hai cánh tay với nụ cười thần thánh. Còn tôi thì chỉ biết quỳ gối xuống hôn chân ông mà khóc. Ông Linh mục vội nâng tôi lên, và cầu nguyện Trời Đất ban phúc cho tôi.

Chuông đổ hồi chót.

- Tốt, ta trễ giờ dạy rồi. Vừa nói, ông Linh mục vừa xách cặp đi xuống cầu thang.

- Ôi, ông Linh mục thật là hào hiệp.

Trước khi ra đi, tôi thoáng nhìn quanh căn phòng ấm cúng. Cái lò sưởi mà tôi đã ngồi khóc, đã tâm sự với ông Linh mục Germane, cái bàn làm việc, cái giường ngủ mà tôi có một đêm ngon giấc. Rồi tôi liên tưởng đến vị Linh mục, có cuộc sống kiên cường, nhân ái, đầy vẻ huyền bí nhẫn nại, rồi tôi bỗng nhận ra sự hèn nhát của tôi. Tôi nguyện thề rằng, tôi luôn luôn ghi nhớ lời dạy bảo của ông Linh mục Germane.

(Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật

TRÍ NHỚ,

CUỘC HÀNH TRÌNH VÀO DĨ VÃNG

…Có nhiều lúc, bạn cố nặn óc nhớ một khuôn mặt, một cái tên, một mùi hương mà vẫn không sao nhớ được. Bạn lắc đầu tự nhủ: “Mình đã già mất rồi!”. Nhưng chỉ vài giờ hay vài ngày sau, những gì bạn cố nhớ ồ ạt trở về một cách bất ngờ. Trí nhớ và sự hồi tưởng là một hoạt động lạ lùng của trí não con người khiến các nhà khoa học phải mất nhiều thời gian nghiên cứu. Mới đây người ta đã khám phá được nhiều điều mới lạ.

Não bộ “xây dựng trở lại” quá khứ

Ở Pháp, bất cứ học sinh trung học nào cũng biết đoạn văn của Marcel Proust trong tập 1 của bộ tiểu thuyết “Đi tìm thời gian đã mất”: “Tôi đưa lên miệng muỗng trà trong đó tôi để tan một miếng bánh madeleine. Nhưng khi cái muỗng chạm vào lưỡi vẫn còn dư vị của bánh ngọt, tôi giật nẩy mình, chờ đợi một cảm giác phi thường diễn ra trong tôi. Một khoái cảm dịu dàng lan tỏa khắp cơ thể. Tôi thấy cô đơn trong nỗi sung sướng tột cùng mà vẫn không để ý đến nguyên nhân…”.

Bất kỳ ai đọc đến đây cũng thấy sống lại một quá khứ đã bị chôn vùi và đó là sức mạnh của bộ tiểu thuyết lừng danh “Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust. Đó là một đoạn văn trác tuyệt tả lại hoạt động của trí nhớ. Marcel Proust đã xây dựng tác phẩm của mình với những hồi ức, những hình ảnh của quá khứ được trí nhớ phục hồi; thế nhưng ông chỉ ghi lại những gì xuất hiện trong tâm trí của ông mà không giải thích cho người đọc hiểu bản chất của trí nhớ. Người ta không thể trách ông vì ngay cả các nhà bác học lỗi lạc nhất của thế kỷ 20 vẫn chỉ biết hơn ông có… chút đỉnh. Trí nhớ vẫn là một hiện tượng lạ lùng và bí mật.

Một vấn đề vẫn thường được đặt ra là con người có một trí nhớ hay nhiều trí nhớ? Sự khảo sát các dạng mất trí nhớ khác nhau cho thấy có 2 loại trí nhớ căn bản. Đầu tiên là các “nghề của trí óc” như nói, viết, vẽ, chơi đàn piano… được mô tả như một loạt các phản xạ và trí não đã được “phối trí” để trả lại ngay tiếng nói điều kiện hóa do thói quen. Một nhạc sĩ dương cầm không cần phải cố gắng ý thức bằng trí nhớ mới chơi lại được các bản nhạc đã bao lần tập dượt. Người ta thường để ý tới trường hợp các nhạc sĩ bị bệnh mất trí nhớ, không sao học thêm được bất cứ tác phẩm nào, lại có thể đánh được các bản nhạc trước đó họ đã “thuộc nằm lòng”.

Khoa học đã khám phá các hạch điều tiết loại trí nhớ tiềm ẩn này nằm ở phần gốc phía sau não bộ. Còn hệ điều khiển trí nhớ “bề mặt” thuộc các tuyến hippocampe, amygdale, cortex rhinal và thalamus. Khi các tuyến này bị thương tổn, con người sẽ bị rối loạn trí nhớ.

Như vậy khu vực tương ứng với trí nhớ đã được xác định nhưng cách thức hoạt động của nó vẫn chưa được soi sáng. Làm sao sự phối hợp của hơn 10 tỉ tế bào thần kinh lại là khu vực của trí nhớ, có khả năng hoạt động hàng trăm năm? Đó là chưa kể trí nhớ là một khả năng vô tận. Các cuộc thí nghiệm cho thấy con người có khả năng nhận ra đến 10.000 tấm ảnh thấy trước đó một tuần lễ, trong đống hỗn độn gồm 20.000 ảnh khác nhau. Khả năng kỳ diệu này cho thấy trí nhớ không giữ lại quá khứ giống như một thư viện khổng lồ lưu trữ hàng triệu cuốn sách. Ngay cả trí óc của một con voi, được xem là có trí nhớ “đáng sợ”, cũng không lưu trữ được ngần ấy thông tin.

Nếu dùng các loại máy móc tinh xảo nhất để ghi lại hoạt động của não bộ trong vòng 2 giờ, người ta sẽ thấy các “chùm” dữ kiện đã khuấy động nhiều vùng, nhiều triệu tế bào, đa số tập trung ở phần ngoài não bộ gọi là “néocortex”. Đó là vùng mà sự tiếp xúc giữa các tế bào thần kinh diễn ra mãnh liệt nhất. Nhưng không có một khu vực “lưu trữ” nào ghi lại các sự kiện. Vì vậy các nhà nghiên cứu kết luận là kỷ niệm đã không được lưu trữ, nhưng được “xây dựng trở lại” theo đơn đặt hàng do các tế bào thần kinh hoạt động trở lại. Không nhất thiết là các tế bào thần kinh trước đây đã truyền tải lại trí nhớ. Các kỷ niệm có thể đã được nhiều vùng não bộ khác nhau kích thích để xuất hiện trở lại. Một điều chắc chắn là những kỷ niệm được “tái phối trí” chưa hẳn là những kỷ niệm… có thật. Michael Billig, giáo sư xã hội học Viện đại học Loughborough (Anh quốc) cho hay: “Điều độc đáo nhất là bạn không cần phải sống qua một khoảnh khắc hay một cảm giác nào đó mới “nhớ” lại được. Con người có thể chia sẻ trí nhớ với đồng loại và đây là điểm khác biệt lớn lao giữa con người và loài vật”.

Xúc động là chất liệu của trí nhớ

Đây là cảnh cổ điển của một sự nhớ lại… trật lất. Người bố chiếu phim vidéo hoặc lật album gia đình và chỉ vào một bức ảnh, cảm động nói với con trai: “Con nhớ không, lúc đó gia đình ta ở Venise vào lễ Giáng sinh 1988, lúc ấy con được 3 tuổi”. Ông bố đã quên mất là vào lúc đó chú nhóc đang ở… Paris với bà dì. Vậy mà chỉ vài năm sau, chỉ cần nhắc lại hay nhìn lại tấm ảnh Venise, cậu bé sẽ “nhớ lại như thật” mình đã từng sang đó và sự xúc động cũng thật không kém. Qua dòng thời gian, kỷ niệm càng lúc càng thật. Chuyện khó tin mà có thật này khiến giới khoa học băn khoăn vì các hệ thống tế bào thần kinh đã thay đổi. Vùng tái hiện trí nhớ (système limbique) đã mờ nhạt và “giao công việc” cho các hệ thống tế bào thần kinh đơn giản hơn. Các hệ thống kỷ niệm tan dần vào các vùng khác nhau của não bộ.

Tính cơ động kỳ lạ này đã lôi cuốn sự chú ý của Steven Rose, một nhà hóa sinh ở Viện đại học Milton Keyne (Anh). Ông nhận thấy đôi lúc ta không sao nhớ lại được tên của một người đã gặp. “Trời ơi, tên của cô gái đó ẩn hiện mơ hồ trong óc tôi, sắp nhớ rồi lại quên”. Không phải việc gợi lại chữ đầu tiên của tên cô gái sẽ giúp bạn nhớ lại tên, mà chính là sự hồi tưởng một xúc động nào đó liên quan đến cô ta. Việc này trở nên hiển nhiên đối với các nhà khoa học: trí nhớ không tách rời khỏi sự xúc cảm. Miếng bánh madeleine của Marcel Proust là hình ảnh rõ nét của cơ chế “giải mã trí nhớ”: một chi tiết như một mùi hương, một vị giác, một tiếng động nào đó sẽ tái hiện khung cảnh của quá khứ và khi đó não bộ sẽ hoạt động hết công suất để đưa hình ảnh ngày xưa trở về. Hiện tượng này có lẽ đã cắt nghĩa được tại sao có lúc chúng ta thấy có những kỷ niệm tưởng như đã vĩnh viễn chôn vùi trong tiềm thức, đột nhiên trở lại, với tất cả mọi chi tiết, chỉ vì một nét nào đó đột nhiên xuất hiện trước mắt chúng ta. Có người đã không cầm được nước mắt vì loại kỷ niệm… không mời mà đến này.

Có bao nhiêu loại trí nhớ?

Các nhà khoa học đã xếp loại các giác quan cho phép chúng ta nhớ lại quá khứ từ dễ đến khó. Đầu tiên là “trí nhớ thị giác” với kết quả đến 100%, giúp ta nhận diện trở lại dễ dàng một vật gì ta đã chú ý (hoặc ham thích) nhìn kỹ ngày hôm qua. Nhưng loại trí nhớ này rất dễ phai nhòa với thời gian. Kỷ niệm do khứu giác mang đến, mờ nhạt hơn. Trong đến 2/3 các trường hợp, người ta không nhớ được mùi đã ngửi qua, dù cách đó chỉ có 1 giờ. Nhưng so với thị giác, khứu giác tồn đọng lâu hơn khi đã ngửi đi ngửi lại (với tất cả sự chú ý) và nhiều năm sau cảm giác vẫn còn lưu trữ ở não bộ. Vị giác và xúc giác tồn đọng còn lâu hơn, nhưng thính giác là nhà vô địch. Một người vợ có thể nhận ra tiếng nói của chồng sau bao năm xa cách, thậm chí tiếng bước chân của chồng lên cầu thang cũng được ghi nhận khác với mọi người: bằng trái tim.

Vai trò của cảm xúc rất quan trọng trong sự hồi tưởng. Nếu người ta cố tình ngăn chặn vai trò của cảm xúc bằng cách tiêm vào máu một chất như bétabloquant thì bệnh nhân sẽ nhớ lại kém rõ ràng hơn một tai nạn đã xảy ra trước đây. Các kỷ niệm đều có liên quan đến tình trạng cảm xúc lớn hay nhỏ. Bộ não không hoạt động như một máy điện toán; đúng hơn, nó hoạt động như một máy gây cảm giác. Cảm xúc và trí nhớ ràng buộc với nhau chặt chẽ nên các nhà khoa học tự hỏi phải chăng trí nhớ đã hoạt động khác nhau tùy theo tính chất của xúc động ban đầu (dễ chịu hay gây buồn bực). Câu trả lời đến từ các chú gà con của giáo sư Steven Rose. Thoạt đầu người ta cho các chú mổ các hạt thóc ngon lành, sau đó cho chúng mổ các hạt không ăn được, nhưng bề ngoài giống hệt các hạt thóc. Với các máy móc tối tân, người ta ghi nhận nhiều thay đổi hóa học lớn lao đã diễn ra trong não bộ con gà. Các bộ phận gọi là “neuro transmetteur” (truyền thông thần kinh) tiết ra chất hóa học thúc đẩy các kỳ tiếp hợp (synapse) của dây thần kinh liên lạc mạnh hơn với dây thần kinh kế tiếp đã thay đổi liều lượng tùy theo hạt thóc mổ ăn được hay không.

Dường như trí não thích ghi lại các kỷ niệm “tốt”, dù sự xúc động do mổ nhầm hạt không ăn được vẫn còn tồn đọng đâu đó trong não bộ, nhưng nó ít có cơ may tái xuất hiện hơn một kỷ niệm dễ chịu. Chỉ khi nào bị “lôi kéo, thôi thúc” nó mới chường mặt trở lại. Có vẻ như não bộ “khuyến khích” chúng ta nhớ lại những gì tốt đẹp bằng cách tạo ra cảm giác dễ chịu. Nó đã “tô hồng” quá khứ để mời gọi chúng ta quay về. Vậy thì tại sao chúng ta lại hồi tưởng quá khứ? Đó là một cách để trốn chạy và tố cáo hiện tại. Derek Edwards ở Viện đại học Loughborough đã vạch ra một bức tranh lạ lùng như sau: “Sự hồi tưởng là phương tiện “dàn xếp” với quá khứ và lo toan cho hiện tại. Khi nhớ lại quá khứ, người ta cũng đang lo toan cho hiện tại. Một trong những nhiệm vụ của sự hồi tưởng là ta thán hiện tại. Một người Cuba cứ mơ đến chân trời xa lạ mà anh ta cho là cực kỳ diễm lệ. Nhưng khi đã ra đi thật sự, anh ta mới “nhớ lại” và thật sự cảm nhận khoảng thời gian ở quê nhà mới tuyệt vời làm sao…

Trí nhớ là một bí ẩn của não bộ, cũng giống như các giấc mơ. Càng về già, hoạt động của các tế bào thần kinh giảm dần và con người “làm đâu quên đó” là việc bình thường. Bệnh Alzheimer là một căn bệnh quái ác chuyên tấn công tế bào thần kinh và đến năm 2000, ước tính sẽ có 23 triệu bệnh nhân loại này trên khắp thế giới. Hiện nay đã có bán loại thuốc Tacrine (THA) do “Parke-Davis” bào chế tỏ ra khá hữu hiệu. Nhưng không phải bệnh nhân nào cũng chữa trị được, đó là chưa kể độc tính của Tacrine gây cho gan khá cao. Lần đầu tiên, Anders Bjorklund và Walter Fisher, hai nhà khoa học Thụy Điển, đã thành công trong việc cấy vào não các con chuột già một loại hóa chất kích thích sự tăng trưởng trở lại của các dây thần kinh, tuyến hippocampe vốn có vai trò quan trọng trong trí nhớ.

Trong lúc chờ đợi thế kỷ 21 mang đến cho chúng ta những viên thuốc “con nhộng” giúp chúng ta hồi tưởng, có lẽ chúng ta không nên nhớ lại nhiều quá, hoặc đúng hơn nên loại bỏ những kỷ niệm không đáng nhớ. Cuộc sống luôn luôn đi tới, thời gian bao giờ cũng là phương thuốc hiệu nghiệm nhất chữa lành mọi vết thương tinh thần. Còn nếu phải “đột xuất” nhớ lại những gì đã qua, nhiều lúc không do ta chủ động, có lẽ hay nhất là thái độ của kẻ… si tình dịu dàng hiểu rằng mọi việc đều còn ở phía trước.

Nhớ ai không dám nhớ lâu

Nhớ qua một chút, đỡ sầu mà thôi…

LÊ LỘC

(Tổng hợp từ Réponse à tout,

Figaro Magazine và Discovery)

Cố Bs. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st.

SỐ 7 HUYỀN THOẠI

7 ngày trong một tuần

Thời xưa con số 7 được coi là con số huyền bí, nhiệm mầu! Bởi vì theo các nhà thiên văn cổ đại, họ cho rằng số 7 ứng với 7 hành tinh quay xung quanh trái đất là: mặt Trời, mặt Trăng, sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ. Vào thời đó, các nhà khoa học cũng mới chỉ biết có 7 nguyên tố kim loại là: vàng, bạc, sắt, đồng, chì, kẽm và thủy ngân.

Theo thế giới quan của người xưa, mỗi hành tinh tượng trưng cho một vị thần, và mỗi vị thần đó được đặc trưng bởi một nguyên tố kim loại.

Đã có 7 hành tinh (thần linh), lại có 7 nguyên tố thì lôgic của nó là những người làm lịch sẽ dùng con số 7 làm số ngày cho một tuần lễ và được ấn định như sau:

1. Ngày đầu tiên là của vị thần quan trọng nhất: mặt Trời (ứng với kim loại quý nhất là vàng). Đó là ngày Chủ nhật - ngày mặt trời. Tiếng Anh là Sunday. Tiếng Đức là Soontag.

2. Ngày Thứ hai thuộc về vị thần canh gác giấc ngủ ban đêm cho con người: mặt Trăng (ứng với kim loại quý thứ hai sau vàng là bạc).

3. Ngày Thứ ba. Tiếng Pháp là Mardi. Tiếng Tây Ban Nha là Martes có nghĩa là sao Hỏa (tương ứng với kim loại sắt). Bởi vì thần Sao Hỏa là thần chiến tranh. Vũ khí, áo giáp đều làm từ sắt và các chiến binh đều là đàn ông. Đó là nguyên nhân các nhà sinh học dùng ký hiệu sao Hỏa trong thiên văn học hay nguyên tố kim loại sắt trong hóa học để chỉ các động vật giống đực.

4. Ngày Thứ tư, thuộc về sao Thủy là vị thần tượng trưng cho thương mại (ứng với nguyên tố thủy ngân là thứ kim loại dễ bị di động). Tiếng Pháp là Mercredi; tiếng Tây Ban Nha là Mercoles cũng có nghĩa là ngày sao Thủy.

5. Ngày Thứ năm dành cho vị chúa tể của thần linh là sao Mộc (ứng với nguyên tố kẽm là kim loại không rỉ, đặc trưng cho sức mạnh vô địch của sao Mộc - vị thần sấm chớp). Có lẽ vì vậy mà Thứ Năm tiếng Đức gọi là Donnerstog (ngày sấm sét)

6. Ngày Thứ sáu là ngày sao Kim. Hành tinh gần gũi này tượng trưng cho nữ thần tình yêu, cho vẻ đẹp và tình yêu bất diệt. Nguyên tố kim loại tương ứng là đồng với tính mềm dẻo, phản xạ những tia sáng lấp lánh đầy quyến rũ. Do đó ngày nay ký hiệu của sao Kim và đồng còn dùng cho phái yếu trong sinh học.

Các dân tộc ở Bắc Âu gọi nữ thần tình yêu là Fray, vì thế mà Thứ Sáu tiếng Đức là Freitag và tiếng Anh là Friday.

7. Ngày Thứ bảy: ngày cuối cùng ứng với sao Thổ. Người xưa cho rằng sao Thổ là vị thần gây ra những nỗi bất hạnh, đau khổ cho con người. Vị thần này phải ứng với kim loại độc hại là chì.

Tiếng Anh gọi Thứ Bảy là Saturday nghĩa là ngày sao Thổ.

VĂN MINH

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

Kịch ngắn

ĐI MỘT NGÀY ĐÀNG

HỌC MỘT SÀNG KHÔN

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Nhân vật:

- Chị Hai 45 tuổi Mẹ của Hinh & Hạnh

- Hạnh 17 tuổi

- Hinh 18 tuổi

- Chủ nhà trọ 50 tuổi

- Một số người bán hàng (NBH nam, nữ)

(Tại bến xe, tiếng động ồn ào huyên náo, tiếng rao hàng)

- Bà con đi thành phố mua bánh tét, nem đem theo làm quà đi, mua vô mua vô.

Chị Hai:

Hạnh, con đứng đây coi chừng giỏ đồ, túi quần áo đeo ở vai. Bến xe đông người. Má vào mua vé.

Hạnh:

Dạ.

NBH:

Mua dùm vài chục nem đi cô bé.

NBH:

Mua dùm mấy đòn bánh tét đi cô.

NBH:

Vé số chiều xổ đây, mua hôn.

Hạnh:

Tôi không mua gì cả… không mua.

NBD:

Mua vé số trúng độc đắc làm triệu phú miệt vườn cho sướng, bộ muốn lên Sài Gòn bán cà phê đèn mờ hay kiếm chồng nước ngoài hả nhỏ? (cười hí hí) Anh đây đẹp trai. Ai ai cũng muốn làm quen…

Chị Hai:

Hạnh… Hạnh.

Hạnh:

Má, con vẫn đứng đây, con… con.

Chị Hai:

Trời, mấy người vây con nhỏ khiến nó sợ, mặt mày tái mét.

NBD:

Đi Sài Gòn thăm bà con mua dùm chục nem nghe chị.

Chị Hai:

Tôi không mua. Hạnh đưa giỏ đồ má xách, đi lên xe.

Nhạc (Tiếng động cơ xe chạy rì rầm)

Chị Hai:

Hạnh, xe chạy nhanh con có bị mệt không?

Hạnh:

Dạ không sao. Má ơi, ngó mặt con chắc họ biết lần đầu được đi thành phố hay sao mà họ trêu chọc con.

Chị Hai:

(cười) Làm gì có, họ thấy con nhỏ mặt ngơ ngác trêu đùa vài câu, con bận tâm làm gì. Lâu lắm rồi má cũng không đi Sài Gòn, nghe nói ở trển thay đổi nhiều lắm.

Hạnh:

Anh Hinh ghi địa chỉ, cả số điện thoại, tới bến xe mình gọi cho ảnh liền nghe má…

Chị Hai:

Ừ, tới bến xe rồi sẽ tính.

(Tiếng xe phanh thắng gấp… đón khách lên xe)

NBD:

Anh lơ đỡ giúp một bao đồ này coi. Chào cô bác đang ngồi trên chuyến xe đò. Công ty chúng tôi tiếp thị cho bà con mặt hàng áo thun, sản xuất phục vụ bà con lao động, vùng sâu vùng xa, giá rẻ, bền, đẹp, chỉ có hai mươi lăm ngàn… ở thành phố cửa hàng bán năm chục ngàn. Hàng còn mới nguyên trong bao nylon, nhãn mác đàng hoàng. Nè cô bé xem đi.

Hạnh:

(la lên) Sao anh dúi vào tay tôi vậy. Tui không mua.

NBD:

Anh mời em xem thử, đẹp như em bận vào càng đẹp thêm… A, anh bên này lựa xong rồi, mua hai cái… tặng ngay một cái khăn lông, cho người mở hàng.

Chị Hai:

Hạnh à, chắc hàng tốt rẻ, mua cho anh con hai cái, mới lên thành phố học, cũng phải có quần áo thay đổi há. Anh đưa tôi xem hai cái màu xanh dương và màu xám.

NBH:

Có ngay, có ngay, mua hai cái tặng thêm một cục xà bông thơm ngát. Vâng đưa đủ năm chục ngàn. Cảm ơn quý khách.

Nhạc

Chị Hai:

Đúng số nhà này rồi nè Hạnh. (gọi lớn) Có ai không cho hỏi thăm?

Chủ nhà:

Tôi đây, bà chị hỏi thăm ai?

Chị Hai:

Tôi có đứa con lên ở trọ cho số nhà này.

Chủ nhà:

Đúng rồi nhà tôi cho sinh viên ở trọ. Con chị tên gì?

Chị Hai:

Hinh.

Chủ nhà:

À, cậu Hinh. Mời bà chị vào nhà. Đây đi dọc bên hông nhà, vào dãy phòng phía sau. Bà chị và cháu ngồi ở hàng hiên chờ nghe. Cha! Đi từ quê lên, đường xa chắc mệt dữ a, cần rửa mặt tay chân, thì vào nhà tắm ở kia kìa, đầy đủ tiện nghi…

Chị Hai:

Dạ, cảm ơn ông. Chúng tôi sẽ dùng.

Hạnh:

A, anh Hinh về.

Hinh:

Má! Hạnh! Mới lên tới hả? Sao không gọi điện cho con biết trước ra bến xe đón. Tìm nhà dễ không?

Chị Hai:

Con ghi địa chỉ rõ ràng, kêu xe là họ đưa đến đúng ngay.

Hinh:

Thôi vào trong phòng… Trời! Má xách giỏ đồ có gì mà nặng trình trịch. Khổ thân em Hạnh.

Hạnh:

Có gì đâu anh. Má làm mấy món ăn mặn, thịt chà bông, chút trái cây ở vườn nhà, để anh bồi dưỡng. Ở nhà nghe nói anh ăn cơm bình dân cực lắm phải không?

Chị Hai:

Má có mua cho con hai cái áo thun nữa nè. Hạnh lấy cho anh con bận thử xem vừa không?

Hinh:

(la lên) Trời ơi! Má mua ở trên xe đò phải không?

Chị Hai:

Ừ.

Hinh:

Vậy thì má mắc bẫy mấy người bán hàng dỏm, cái áo này ngâm vào nước là loang màu, co dúm lại nhăn nheo…

Hạnh:

Tại sao anh rành quá vậy, để em đi nhúng nước thử nghe.

Hinh:

Mấy người bạn của anh lúc mới lên thành phố cũng mua, về không giặt bận đi học luôn, gặp trời mưa, mới tá hỏa tam tinh, áo loang lổ như lông con chó đốm, co dúm, bỏ làm nùi giẻ lau nhà luôn.

Chị Hai:

Tiếc quá! Mất toi năm chục ngàn.

Chủ nhà:

Bà chị ơi, tiếc làm gì. Bị gạt một lần để cảnh giác, thành phố lúc này xảy ra nhiều chuyện lường gạt, giựt dọc…

Hạnh:

Cháu mới đi thành phố lần đầu tiên, nhìn phố xá nhộn nhịp đông vui, nhiều cửa hàng mê lắm, nghe chú nói sợ lắm…

Hinh:

Anh sẽ đưa má và em đi, chẳng có gì phải lo.

Chủ nhà:

Chị và cháu định ở chơi bao lâu để tôi trình báo với Tổ trưởng dân phố?

Chị Hai:

Có lẽ vài ba hôm, ngày mai tôi đi khám bệnh, xem ý kiến của bác sĩ như thế nào.

Chủ nhà:

Được rồi. Hinh nè, bảo hai đứa ở chung sang ngủ tạm phòng bên cạnh nhường chỗ cho má và em cháu ở cho thoải mái nghe. Cần gì nói cho chú biết.

Chị Hai:

Cảm ơn ông. Con tôi từ quê lên đây gặp được chủ nhà trọ tốt như ông thật là may mắn.

Chủ nhà:

Không có chi. Tôi cũng gốc gác là dân quê. Lên Sài Gòn sinh sống mấy chục năm, nhà có chút đất, xây ba phòng trọ giúp đỡ các em ở quê lên. Đây, vừa tình nghĩa, vừa tăng thu nhập, có chút tiền dưỡng già.

Hạnh:

Năm tới cháu cũng sẽ lên đây ở trọ. Tới đây cháu thích lắm, sạch sẽ, rộng rãi. Không có cảnh xô bồ đông đúc như cháu có xem trên truyền hình.

Hinh:

Ừ, có nhiều chỗ trọ rất đông đúc phức tạp, anh đi nhiều nơi như vậy không thích.

Chủ nhà:

(cười) Nhà chú sẵn sàng đón nhận các em sinh viên siêng năng học hành đàng hoàng… Ở nhà chú mà dính vào mấy chuyện ăn chơi đua đòi thì a lê hấp mời đi chỗ khác.

Chị Hai:

Đi thành phố lần này tuy có gặp chút xíu chuyện mua lầm đồ dỏm nhưng biết được con trai tui ở một nơi đáng tin cậy như nhà ông anh thiệt là mừng. Nói thật ở dưới quê tuy không hiểu biết nhiều, đọc báo nghe đài, nghe mấy chuyện bọn trẻ dính vào phê phê lắc lắc, lo sợ cho con lắm.

Hinh:

Má và chú nói đúng, xã hội ngày nay phát triển văn minh tiến bộ, bên cạnh những mặt tốt đẹp, vẫn còn tồn tại những mặt trái “xã hội đen” rình rập giới trẻ, sơ sẩy là vấp ngã vào con đường sa đọa. Con biết như thế nên luôn cảnh giác tránh xa những nơi chốn “văn hóa nhạy cảm”. Con sẽ cố gắng học tập, không phụ lòng ba má đã lo cho con được học tập nên người hữu dụng.

Hạnh:

Đi thành phố lần đầu tiên, con học được nhiều điều hay. Đúng là “đi một ngày đàng học một sàng khôn”

Chủ nhà:

Ôi, con bé này dùng từ ngữ hay thiệt! (cười) Gắng học giỏi thi đậu nghe con.

Tháng 10-2005


Phụ Bản IV

Điểm sách

Anh TRẦN VĂN HỮU giới thiệu cuốn “Theo bước Tản Đà” tập VI. NXB Hội Nhà Văn Quý I/2016 gồm các bài thơ của Nguyễn Văn Đức, Chủ nhiệm CLB. DS TV TT Theo bước Tản Đà và nhiều tác giả.

Cô NGÀN PHƯƠNG giới thiệu cuốn “Những tấm gương đời thường” của Lê Hoài Thanh. NXB Hội Nhà Văn Quý I/2015. Gồm 65 bài thơ và 24 bài Thơ phổ Vọng cổ. Đặc biệt có một chặp cải lương theo ý thơ của cụ Đồ Chiểu.

Hàn Nguyên Nguyễn Nhã nói về chặp cải lương:

“Xem chặp cải lương, không khỏi cảm khái về thơ ca yêu nước thời chống Pháp xâm lược…

…Tấm gương của cụ Đồ Chiểu không chỉ làm tấm gương yêu nước mà còn là tấm gương đạo đức của một người thầy, một chí sĩ yêu nước”.

PHÙNG CHÍ TÂM: “Khoảng trời si” gồm những bài thơ và 3 bản nhạc của chính tác giả. NXB Văn nghệ 8/2005.

VŨ THÙY HƯƠNG: “Trải lòng” gồm thơ và ảnh của tác giả. Long Sơn Thi Quán ấn bản 2015.

LÊ NGUYÊN: Tháng 6/2016 tác giả Lê Nguyên đã tặng mỗi thành viên một tập thơ “Lê Nguyên thơ song ngữ Việt Pháp” do hội nhà văn xuất bản Quý II/2016 gồm 47 bài thơ song ngữ có nhiều phụ bản đẹp do họa sĩ Lê Thiết Cương trình bày và nhiều hình của tác giả. Báo VĂN NGHỆ (thứ bảy 16/7/2016) đã có bài “Tình ca không tuổi” khi nói về tập thơ thứ năm của nhà thơ, nhạc sĩ, nhà biên kịch Lê Nguyên.

Hà Mạnh Đoàn

LỜI THÌ THẦM CÙNG BẠN

Nụ cười

· Người nào vui tươi, đường đời đi trọn.

Ngạn ngữ Anh

· Nụ cười - đó là chiếc phao cứu hộ trong sóng gió cuộc đời.

W. Raabe

· Nhà nào luôn có tiếng cười, nhà đó sẽ gặp may.

Ngạn ngữ Nhật Bản

· Người nào không biết mỉm cười, đừng nên mở tiệm.

Ngạn ngữ Trung Quốc

· Ai giầu mà không có tiếng cười vẫn nghèo, còn kẻ nghèo mà sẵn có tiếng cười thì vẫn còn cái vốn vô tận.

Fletcher

· Nụ cười gây hạnh phúc gia đình, nó là nguồn gốc những ý tốt trong thương nghiệp và là dấu hiệu của tình bè bạn.

Fletcher

Tình yêu

· Bất cứ ai biết yêu đều có thể trở nên đáng yêu.

I.R. Segrais

· Kẻ thù có thể không làm cho trái tim bạn tan nát, nhưng chính những người mà bạn yêu quý có thể làm được điều đó.

John Gray

· Tình yêu không phải là tất cả. Và những mất mát của nó không có nghĩa là cuộc sống đã chấm hết.

Menandre

· Sự giận dữ trong tình yêu cũng như muối: không nên cho quá nhiều.

Ngạn ngữ Pháp

· Tình yêu tạo ra nhiều anh hùng, nhưng nó còn tạo ra nhiều thằng ngốc hơn.

Ngạn ngữ Thụy Điển

· Yêu ai chớ nên yêu hết

Ghét ai chớ ghét tới cùng.

Văn Tuế

· Người nào quá hào phóng với tình yêu, người đó sẽ bị tình yêu phản bội.

R. Ruaner

· Hôn nhân là trường học và thực hành đạo hạnh.

T. Fuller

· Hạnh phúc cũng như của cải, ta không có quyền chỉ dùng mà không sản xuất.

B. Shaw

· Hạnh phúc không phải là sở hữu nhiều mà là yêu thương và hy vọng nhiều.

F.R. Lamenais

Cuộc sống

· Trên đường đời, hành lý của con người cần mang theo là lòng kiên nhẫn và tính chịu đựng.

V. Maiacopxki

· Quyền lực và sự nổi tiếng giống như khối u: càng lớn nó càng giết dần những tình cảm của chủ nhân.

Adam

· Người ta chỉ thích những người thích mình.

O. Wilde

· Con cái làm dịu ngọt sự nhọc nhằn nhưng cũng có thể làm cho sự hoạn nạn trở nên cay đắng hơn.

F. Bacon

· Bạc nhược là khuyết điểm độc nhất mà người ta khó bế sửa được.

La Roche Foucauld

· Sự vô ơn còn man rợ hơn cả những cánh tay của kẻ phản bội.

W. Shakespeare

· Ngay đối với những bậc thiên tài, con đường độc tài cũng dẫn tới vực thẳm.

A.D. Pére

· Các thiếu nữ cần phải hiểu rằng: chỉ có khôn ngoan, nết na và đoan chính thì mới được mọi người kính trọng.

Orpit

· Đi với chó sói thì phải biết gào lên.

V.I. Lênin

· Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do và độc lập khi mà dân được ăn no mặc ấm.

Hồ Chí Minh

· Con phải là muối thì mới ướp được người khác mặn.

Kinh Thánh

· Ở nhà nương mẹ cha. Ra ngoài cậy bầu bạn.

Ngạn ngữ Trung Quốc

· Cái bất lợi của trí tuệ là ở chỗ: không ngừng phải học hỏi thêm.

B. Shaw

· Dù bạn anh có là mật ngọt thì cũng đừng uống cả bình.

L. Tônxtôi

· Mẹ hiền sinh con giỏi

Lúa tốt cho gạo ngon.

Ngạn ngữ Trung Quốc

· Tiền cho không sẽ làm người được hưởng trở nên vô trách nhiệm.

Bill Gates

· Lời nói đẹp: đó là cách chi phí thấp nhất để thu lợi cao nhất.

Ngạn ngữ Anh

· Gia đình là những người được phối hợp bởi một dòng máu, nhưng lại bất hòa bởi những vấn đề tiền bạc.

G. Rey

· Sự ghen tỵ ẩn núp trong trái tim con người giống như con rắn lục nằm trong hang của nó vậy.

H.D. Balzac

· Ta chưa thấy ai ưa đạo đức như ưa nhan sắc cả.

Khổng Tử

· Dối trá là việc làm hèn nhát. Muốn giữ được chân thực phải hết sức can đảm.

P. Doumer

· Đến đâu chẳng dùng tiền

Đến đấy bị người hiềm.

Ngạn ngữ Trung Quốc

· Lúc sa cơ mới thấy đức của con cái, nghĩa của bạn bè.

Văn Tuế

· Người càng sáng suốt thì ngôn ngữ dùng để diễn đạt càng giản dị.

L. Tônxtôi

· Thấy lợi chẳng bỏ nghĩa. Thấy chết chẳng đổi lòng. Đó là người quân tử.

Lễ Kỷ

· Nhận một ân huệ là phải bán đi cái tự do của mình.

P. Surus

· Người ta không mắc sai lầm vì dốt mà tưởng mình là giỏi. D. Granin

· Hãy tự lo liệu trên những cái mà mình có.

Làm giầu: đó là quyền được làm việc một mình.

Pierre Cardin

· Khoan dung là vị thuốc duy nhất để chữa những lỗi lầm của con người trên trái đất.

F. Voltaire

· Làm người mà không biết xấu hổ thì không thành người được.

Mạnh Tử

· Lấy tình thương mà dạy, thì con ta sau này lớn lên sẽ lấy tình thương mà ở với đời.

Đạm Phương nữ sử

· Tôi biết có một điều tốt đẹp hơn cả sự ngay thẳng, ấy là sự khoan dung.

V. Hugo

· Có hai điều mà ai cũng phải gánh chịu trong cuộc đời: sự phá hoại của thời gian và sự bất công của con người.

S. Chamfort

· Chấp nhận vận may cũng như tai họa mới là người có bản lĩnh.

Ngạn ngữ Anh

· Hãy đến với những người không ai đến

Hãy cho những người không ai cho.

Kinh Thánh

· Chỉ có những sản phẩm đích thực mới tạo ra đồng tiền đích thực.

Pierre Cardio

· Phúc hay họa của tuổi già là kết quả của cả quãng đời lúc trẻ.

Sainte Beuve

· Hiền dữ đâu phải là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên.

Hồ Chí Minh

· Vật trong thiên hạ chẳng có gì mềm bằng nước, thế mà to vô hạn, sâu vô cùng.

Hoài Nam Tử

· Nghệ thuật sống với nhau chính là nghệ thuật giữ khoảng cách.

O. Wilde

· Khôn ngoan là luôn khiêm tốn và chịu đựng.

Ngạn ngữ Trung Quốc

· Ai nhờ con mà có niềm vui mới là người được vui trọn vẹn.

Ngạn ngữ Anh

· Nhịn một câu: bớt tranh chấp

Nhường một việc: thêm hạnh phúc.

Ngạn ngữ Đài Loan

· Họa phúc có nguyên cớ, nào phải bỗng dưng. Khi thịnh mà chẳng nghĩ trước đến lúc suy, đắc thời mà không lo xa thất thế, trước sau chẳng giữ được chữ liêm, chính, vị tha thì rồi rốt cuộc chả trách khỏi cô đơn buồn khổ.

Nguyễn Trãi

· Muốn hiểu biết các xứ lạ, phải đi du lịch như một người nghèo.

Bec-tơ-răng Rút-xen

· Những cuộc đi du lịch làm cho người khôn thì khôn hơn và làm hư hỏng kẻ dại khờ.

Phương ngôn Anh

ALMANACH THẾ KỶ 21 - ĐỖ THIÊN THƯ st.

QUÊN !!!

“Quên”. Đó là một thứ đặc hữu tính mà tạo hóa đã “cấp phát” cho loài người. Tất yếu có nhiều góc nhìn với khái niệm của một sự quá vãng trong nhiều hình thức trạng huống, nhưng rõ ràng không thể phủ nhận rằng: “Nếu cuộc sống không có cái thứ đặc hữu tính là Quên này thì quả thật… vô cùng khó sống”. Thử ngẫm!

Cái quên thường gặp nhất là quên vặt hàng ngày. Tất cả mọi người không kể tuổi tác đều gặp phải, khác nhau là tần suất. Tuổi càng nhiều càng hay quên. Vừa định làm cái gì đấy đã quên ngay, vừa định nói câu gì đấy mà bẵng đi mất, cầm cái thứ gì đó mà bỏ đâu không nhớ… rất rất nhiều kiểu quên không hẹn trước ấy luôn gây những trở ngại trong sinh hoạt hàng ngày, có thể không có gì đáng kể nhưng cũng có thể gây hậu quả nghiêm trọng (như quên bếp đang nấu dẫn đến cháy nổ chẳng hạn). Kiểu quên này xem như một trò nghịch ngợm trẻ con của tạo hóa, nhưng chả biết làm thế nào khi thi thoảng ông lại giở trò lêu lổng đi chọc ghẹo người này người khác. Có điều, nếu “hệ điều hành sinh học” của ai bị cài đặt cái chứng hay quên này thì càng đến tuổi lão hóa càng nặng, dẫn đến đãng trí mất trí lẫn và mất kiểm soát bản thân. Khó khăn cho bản thân và cho cả những người chung quanh. Chính vì vậy mà khoa học luôn phải tìm ra những liệu pháp để hạn chế và điều trị.

Cái quên kế tiếp nữa là “Giàu quên bạn sang quên vợ”. Đúng câu là “đổi” nhưng trước khi muốn đổi thì phải quên đã. Thông thường người đời luôn đặt cái sự quên này dưới con mắt phán xét và lên án. “Hồi xưa thì… bây giờ mới ti toe một tí đã…”. Đương nhiên rồi, đứng về mặt giá trị nhân bản thì chả ai đồng ý với cái sự quên này cả. Nhưng xui một nỗi là đồng ý hay không đồng ý thì nó vẫn cứ hiển nhiên mà diễn ra, cả với những người mới hôm qua nheo nhẻo chửi người khác thì hôm nay đã tấp tểnh bước vào đúng cái lối ấy. Và điều duy nhất người ta có thể vận dụng và hàng tá lý do bao biện, và lý do nào thì cũng có vẻ có lý và chính đáng cả. Vì vậy mà ngẫm ra. Tất cả mọi con người luôn luôn ở trong xu hướng tìm cái mới hay hơn đẹp hơn hấp dẫn hơn. Nói kiểu tích cực là “phải biết hướng tới tương lai”, còn nói theo kiểu tiêu cực là “có mới nới cũ… có trăng quên đèn”. Luôn luôn có những mối bận tâm khác nhau chi phối con người ta theo từng điều kiện và hoàn cảnh đời sống. Khi đổi thay đi một cung bậc thì lẽ tất yếu sẽ dần đổi thay tâm thế để thích ứng, từ tâm thế dẫn đến sự hành xử, hành xử dẫn đến sự tương quan trong các đối tượng giao tiếp, từ các đối tượng giao tiếp sẽ nảy sinh những trạng huống cảm xúc… Cái ba-rem đường truyền dẫn mặc nhiên này là nguyên nhân cốt yếu của cái sự Quên đang đề cập đến. Nên khi trách móc người khác rằng tiểu nhân rằng bội bạc rằng mất lương tri nhân tính… rằng… rằng… rất nhiều cách nói thóa mạ những khi xảy ra chuyện “Quên và Đổi” ấy. Nhưng có vẻ như ít người nghĩ rằng, nếu họ đứng vào trường hợp ấy, chưa chắc họ đã làm khác, vấn đề là gây ít hay nhiều hệ lụy cho đối phương mà thôi.

Cái Quên song hành cùng cái Quên đã đề cập đến là cái Quên thuộc về đối tượng bị Quên. Ui choa choa cái ni mới là nhiêu khê lắm luôn à nghen. “Đòn đau nhớ đời”. Quá hẳn nhiên. Trẻ con đánh đau thì nhớ để chừa nghịch phá. Lớn một chút đánh đau để “biết mặt”… Và cái đau nào thì cũng để lại một chút di chứng, nhẹ nhẹ thì theo thời gian nhạt dần rồi biến mất. Nhưng cái đau vì bị ngược đãi bị bỏ rơi bị phản bội thì đó là một cái đau chìm, cái đau đã cắn cấu sâu vào gan ruột, không dễ phôi pha không dễ nhạt nhòa. Đau… đau lắm… đau đơn đau kép… làm sao quên… làm sao quên??? Nhưng mà nếu cứ mãi trĩu nặng sự đau đớn ấy thì làm sao mà sống. Sẽ có hai tiến trình gần như mặc định tùy theo tính cách.

Hướng thứ nhất với loại tính thâm trầm dai dẳng ăn miếng trả miếng không muốn chịu thua dù chỉ là phần nhỏ, nên không thể nói một cách nhẹ nhàng là bỏ đi là thôi là quên mà rất tự nhiên là ghim lại chờ cơ hội trả thù. Bằng mọi cách có thể, không kể thời gian hay bản chất, ít nhất là phải làm được gì cho hả, cho đối phương cũng phải nhận lãnh sự tổn thương đau đớn mà mình đã phải chịu. Những kiểu đòn thù này rất khốc liệt và kéo dài. Để rồi khi đã có cơ hội trả được thù, may ra mới quên được ít nhiều nỗi niềm cay xót ấy. Đó chỉ là cảm giác của sự thỏa thuê sòng phẳng của hai bên chứ không hẳn quên, cái cảm giác thù hằn vẫn trỗi dậy nếu có gì nhắc nhớ. Có những lúc họ cũng tự hiểu là tự mình nhốt mình, tự mình chất nặng mình nhưng họ không thể và mãi mãi không thể xóa bỏ nổi những điều tổn thương mà họ đã phải nhận, cho dù những gì họ đáp trả đối phương có khi còn nặng hơn gấp nhiều lần, nhưng với họ một lần là mãi mãi không có cơ hội bước qua. Không những chỉ tồn tại trong tâm can họ, mà họ còn luôn đem sự thù hận ấy gieo rắc cho những người liên quan hòng nhân lên gấp nhiều lần nỗi ác cảm cho đối phương đồng thời cũng như một cách chứng minh sự thương tổn của họ là quá nặng nề nghiêm trọng và tội lỗi của đối phương là không thể tha thứ. Và cái quên của họ, nếu có, sẽ dựa trên tần suất bất hạnh của đối phương, sự đau khổ mất mát của đối phương càng cao thì sự hả hê của họ càng lớn, và đến một lúc nào đó sự hả hê đã bão hòa được nỗi thù hận thì may ra cái sự quên mới có khả năng phát huy tác dụng.

Và đây là một hướng khác với tính cách và bản chất khác. Là sự phóng khoáng khoan dung xởi lởi lạc quan và chân tâm. Với tính cách bản chất này, những nỗi đau dù nặng nhẹ cũng chỉ gây được tác động trong một thời đoạn ngắn hoặc rất ngắn. Không phải họ không cay đắng không đau hận không nhớ không tái tê tận cùng gan ruột. Nhưng họ không thổi vấn đề lên thành sự thù hận, không mang tâm niệm trả thù, không chất nó thành những khối u trong bản thân. Họ luôn tìm cách lý giải vấn đề theo hướng giản đơn và rút nhẹ nhất có thể. Then chốt ở chỗ tâm lý họ không bị căn bệnh thắng thua không chế. Họ mặc nhiên xem như đó là những điều hiển nhiên cuộc đời mỗi người đều phải nhận lãnh, chỉ khác nhau về hình thức bởi một điều dễ hiểu “Một đời người luôn được trưởng thành khôn lớn bởi những trải nghiệm va chạm ấy.” Và mỗi một tổn thương lại cho họ một lần thấu hiểu chân lý cuộc sống, mỗi một lần bước qua được sự tổn thương ấy là một lần họ lớn hơn đối phương lớn hơn với cả chính mình hôm qua. Nếu cứ mãi bị chi phối trói buộc vào những điều không đáng thì cũng chỉ là sự nhỏ bé vụn vặt tương đồng. Phải biết cất mình lên đứng dậy và rời khỏi. Khi họ bước qua được với tâm thế nhẹ nhàng cân bằng và ổn định, thì họ lại đủ sinh phấn để tiếp nhận những giá trị sống tốt hơn đẹp hơn vui hơn trên nhiều bình diện khác. Vì vậy họ thường tâm niệm phải quên đi nên quên đi những gì đáng ghét đã đến với mình. Có thể những cái đau ấy cũng không quên đi hoàn toàn được, nhưng nó sẽ chìm dần theo tâm niệm và rồi như một niềm ẩn ức đi vào giấc ngủ yên, đôi lúc có gì nhắc nhớ, hẳn nhiên sự ẩn ức ấy cũng có động đậy, và họ lại điểm một nét cười buồn rồi ngước lên trời thả vào gió. Có thể với những cái nhìn hẹp lượng thì sẽ chê cười họ, cho rằng họ quá nhu nhược yếu đuối ngu ngốc không đủ mạnh mẽ bản lĩnh để đối chọi để đòi hỏi sự công bằng cho bản thân. Cứ cho đó là một nhận xét đúng thì những được mất hệ lụy kéo dài nào ai đã từng cân đong chi li được chưa? Những quan điểm trái chiều thường rất khó thỏa hiệp hay ảnh hưởng được nhau, bởi tạo hóa đã bày ra cuộc cờ mà những chiêu thức không thể rập khuôn, nhưng vẫn luôn tồn tại những định lý bất biến. Nhận diện và xử giải theo chiều hướng nào thì sẽ có những dở hay mất được theo chiều hướng đó.

Lân vân những kiểu quên ấy để nhớ đến một “loại hình quên” rất rất rất thường xuyên hiện diện. Cho dù khi nói đến thì quả thật thấy nó thật tệ mạt, nó tệ mạt đến nỗi biến mọi lòng tốt trên đời thành sự khờ khạo. Đó là… sự Quên Ơn. Chắc chắn nhiều nhiều và vô cùng nhiều người ngán ngẩm lắc đầu, những cũng chắn chắn rằng bấy nhiêu cái lắc đầu ấy còn cộng thêm rất nhiều lần là sự im lặng có ngụ ý là một sự thừa nhận đến không thể nào tìm ra dù một bao biện mơ hồ để không phải thừa nhận. Người làm ơn cho dù trong phạm vi rộng hẹp, (ngoại trừ làm ơn có trù tính lợi dụng về sau), thì đều là người tốt. Cho dù làm người tốt thì rất là khổ, mất công sức, mất tiền của, mất thời gian, còn bị cười chê là ngu ngốc dại dột. Nhưng tại sao họ sẵn sàng hồn nhiên giúp đỡ người khác khi có thể, và phần lớn họ quên ngay sau khi đã giúp? Cái này phải trách Ông Tạo khéo cợt đùa. Cứ như ông phái những người có lòng tử tế xuống cái chốn trần gian gian trần này chỉ để làm cái việc kê bậc cho người khác bước. Bản chất họ thế tính cách họ thế, dẫu có bao thương tích thì rốt đời họ vẫn không bước qua nổi cái sự trắc ẩn của lòng mình. Đa số những người hay giúp đỡ người khác thì phải biết tập cái tâm thế đừng đợi sự báo đáp. Không trông chờ không mong đợi thì sẽ không bị tổn thương khi vấp phải sự vô ơn phản bội. Là vì người chịu ơn thì phải nói chỉ có một số rất rất ít là biết ghi nhớ và biết trả ơn, nếu không có cách gì để trả thì họ cũng ráng làm người tử tế để chuyển cái đồng lần cho cuộc đời. Phần lớn khác thì quên ngay, quên ngay bởi khi được cái việc họ cần rồi thì họ lại bận tâm những chuyện khác, có lăn tăn chút chút thì lại khó chịu bởi cảm giác mình thua kém nhỏ bé bị thương hại, đầy tự ái và sĩ diện khi cho rằng nếu không vì thế này thế khác thì đã không phải nhờ vả, người giúp họ bất kể là ai, vai vị nào thì họ vẫn cố tình cho rằng người ấy có trách nhiệm bổn phận giúp họ, và rằng được giúp họ là phước lớn rồi vậy. Thế nên họ thản nhiên quên, thậm chí một số còn đá ngược, như để phủi cho sạch nỗi tì vết trong lòng họ. Quên ngay và quên hẳn đi cho thoải mái mà sống, nhớ mệt lắm, nhớ gì cũng mệt, nhớ ơn còn mệt gấp vạn lần. Bởi nhớ thì phải biết làm sao đáp lại, nhớ là biết mình phải đeo mang một khối ân tình nặng trong lòng, thế thì chết mất không thể sống được. Tốt nhất là quên càng nhanh càng tốt, xóa được rất nhiều thứ vướng bận. Còn một yếu tố nữa cũng cần phải nhắc đến, đó là hầu hết những sự giúp đỡ đều xuất phát từ tình nghĩa. Có tình cảm có lòng nhân nghĩa mới quan tâm đến sự khó khăn của người khác. Nên khi đã vô ơn thì cũng đồng nghĩa là vô tình vô nghĩa mới đồng bộ. Có những người cứ nghĩ rằng cả đời sẽ chẳng bao giờ mình phải nhờ vả ai, nên họ luôn bàng quan với tất cả những cảnh ngộ cần sự tiếp sức dù một mảy may, và rồi bất chợt một lúc nào đó, vì bất cứ một nguyên nhân nào đó, bản thân họ thấy bế tắc bất lực thì họ mới cuống cuồng chạy chỗ này chỗ khác mà cầu viện, và khi đã được việc họ lại sẵn sàng quay lưng phát một. Những người đã lỡ trắc ẩn mà xắn tay trong những trường hợp này thì cũng nên tặc lưỡi cười khì cho xong.

Chốt lại, trong cuộc sống không ai là không có lúc phải cậy nhờ, không ai mà không có lúc phải xắn tay. Nhưng cái thứ “đặc hữu tính” là Quên mà tạo hóa đã cấp phát cho loài người thì luôn xuất hiện. Cũng như nhiều khái niệm khác, Quên cũng là một loại có tính hai mặt, tiêu cực hay tích cực thì tùy vào nội dung bản chất và đối tượng. Chỉ biết rằng, tạo hóa luôn có một nguyên cớ khi thảy xuống cõi người này một vài quân xúc xắc.

ĐÀM LAN

Cho những người bạn của tôi

TẠI SAO BẠN LẠI LO LẮNG?

Trong cuộc sống, có 2 điều bạn phải lo lắng:

Một là bạn mạnh khoẻ. Hai là bạn ốm yếu.

Nếu bạn mạnh khoẻ, thì sẽ không có gì để lo lắng nữa.

Nhưng nếu bạn ốm yếu, bạn sẽ có 2 điều để lo lắng:

Một là bạn sẽ hồi phục trở lại, hai là bạn sẽ bệnh nặng và qua đời.

Nếu bạn hết bệnh, thì không có gì để lo lắng cả.

Nhưng nếu bạn qua đời, bạn sẽ lại có 2 điều lo lắng nữa:

Một là bạn sẽ lên thiên đàng. Hai là bạn sẽ xuống địa ngục.

Nếu bạn lên thiên đàng, thì sẽ không phải lo lắng rồi.

Nhưng nếu bạn bị xuống địa ngục, bạn cũng sẽ rất bận rộn, vì bạn sẽ gặp và bắt tay các bạn bè mình ở dưới đó... vì bạn bè của bạn người ta thường gọi là lũ quỉ sứ mà, hihi…

Nên bạn sẽ không có thời gian để lo lắng nữa!

Vậy thì tại sao bạn phải lo lắng, đúng không ?

Hãy vui lên !

Do not cry if the Sun sets at the end of the day, because the tears will not let you enjoy the beauty of the Stars.

Đừng khóc khi mặt trời lặn vào giờ tàn của một ngày, bởi nước mắt sẽ làm bạn không thể tận hưởng vẻ đẹp của những vì sao.

KIM SƠN st.

THỦY TRÚC

NGUYỄN THỊ MÂY

1.

Công chúa nghiêng nghiêng đầu nhìn vào vở. Nàng cố gắng hết sức mà vẫn không nhớ được chữ nào.

Quay sang tì nữ, nàng ra lệnh:

- Mi hãy nhắc ta chữ nầy, mau lên!

- Bẩm công chúa! Đó là chữ NHÂN

- Hừ, thôi, dẹp sách vở sang bên rồi đưa ta ra ngự uyển.

Gần nửa tháng học tập mà công chúa chỉ nhớ được có mấy chữ. Đức vua và hoàng hậu vừa lo lắng vừa xấu hổ. Chẳng hiểu sao cô Công chúa xinh đẹp đã mười lăm tuổi mà trí khôn còn thua một đứa bé lên mười. Nàng lại hống hách, thích du ngoạn, mê ăn uống và điểm trang rực rỡ. Biết được điều lo nghĩ của vua, một vị quan cao tuổi vượt đường xá xa xôi về triều xin yết kiến.

- Tâu đức vua! Hạ thần xin được chữa bệnh cho công chúa.

Nhà vua mừng rỡ bước xuống ngai rồng, đỡ vị quan đứng lên. Ngài phán:

- Hiền khanh hãy đứng lên! Khanh bảo là có thể chữa khỏi bệnh cho công chúa à?

- Tâu vâng! Thần sẽ giúp công chúa thoát khỏi vùng u tối và trở nên thông minh.

- Bằng cách nào?

- Xin đức vua cho công chúa về nơi thần cai quản, thần hứa trong vòng ba năm, công chúa sẽ trở thành một đóa hoa đầy hương sắc. Nhưng với điều kiện…

- Điều kiện gì?

- Trong suốt thời gian đó, bệ hạ và hoàng hậu đừng lui tới thăm viếng hoặc cho người theo dõi, tìm hiểu. Như thế mới hy vọng thành công.

Đức vua suy nghĩ hồi lâu rồi ra lệnh chuẩn bị hành trang cho công chúa lên đường.

2.

Công chúa được đưa vào một gian nhà lớn bày trí lạ mắt. Tường vôi trắng toát. Có hàng chục chiếc giường kê thành hai dãy dài. Bên cạnh mỗi chiếc giường là cái tủ con, một bộ bàn ghế nhỏ. Vị quan nghiêm nghị nói:

- Từ nay, con không còn là công chúa nữa. Phải gọi ta là thầy! Phải tuyệt đối tuân theo mọi quy định ở đây. Các bạn học sẽ gọi con là Thủy Trúc. Có gì chưa hiểu, hãy nhờ Hoàng Mai giúp đỡ. Ngừng lại một chút, ông tiếp:

- Cái giường số 10 kia là của con. Đồ dùng đã được xếp sẵn trong chiếc tủ nhỏ cạnh đó. Thôi, các con hãy sửa soạn chỗ ngủ. Khuya rồi! Ta về phòng đây!

Khi thầy đi khuất, Thủy Trúc đến bên chiếc tủ dành cho mình. Cô ngạc nhiên hết sức khi thấy mấy bộ đồ toàn trắng, giống hệt quần áo của các cô gái cùng phòng. Xiêm y rực rỡ của nàng đâu không thấy? Ngần ngừ giây lâu, Thủy Trúc chọn một bộ rồi dõng dạc ra lệnh:

- Tì nữ! Hãy thay đổi xiêm y cho ta!

Các cô gái đang dọn dẹp chỗ nghỉ của mình, nghe vậy, các cô ngừng tay, trố mắt nhìn. Thủy Trúc lại lên tiếng:

- Các ngươi hãy dọn giường cho ta!

Các cô gái bật cười. Một cô gái dáng người nhỏ nhắn nhưng có đôi mắt tuyệt đẹp đến trước mặt Thủy Trúc. Cô chơm chớp hàng mi dài, cong vút:

- Cái gì? Dọn giường cho mi? Đừng có mơ, cô bé ạ!

- Ai cãi lại, ta sẽ chém đầu.

Đưa hai tay lên ôm đầu, cô gái trợn mắt, le lưỡi:

- Ý ẹ… Đừng có hù! Công chúa lạc loài ơi! Hihi…

Cô bẹo má Thủy Trúc:

- Thay đồ lẹ lên, la om sòm, thầy ngủ không được, thầy phạt quì tàn cây nhang đó.

Thủy Trúc bừng đỏ cả mặt, cô thét lên:

- Ngươi phải thay đồ cho ta!

Cô gái trợn trừng mắt làm cho các bạn cười ầm ĩ:

- Cái gì? Bộ ngươi cùi hay sao mà không tự làm?

Chợt nghĩ ra điều gì, cô gái giả bộ hiền hậu:

- Thôi được, tâu công nương, để thần thay đổi xiêm y cho.

Cô gái mở tung hàng nút áo của Thủy Trúc rồi nghẻo đầu ngắm nghía:

- Chu choa ơi, trắng dễ sợ chứ bộ!

Thủy Trúc xấu hổ kêu lên:

- Mặc áo vào cho ta. Mẫu hậu ta mà biết, nhà ngươi sẽ bị chém đầu.

- Công chúa ơi, nhưng trước khi chém đầu thần thiếp thì công chúa phải tự mặc áo vào đi.

- Nhà ngươi sẽ bị tru di tam tộc!

- Ý ẹ! Công chúa lộn xộn thì bọn ta sẽ giấu áo không cho mặc. Bắt công chúa ở trần ngủ bây giờ!

Thủy Trúc tủi thân rơi nước mắt. Thấy vậy, Hoàng Mai quát:

- Hồng Hoa, đừng đùa nữa! Xê ra cho ta giúp Thủy Trúc.

Hoàng Mai khoác chiếc áo lên người bạn rồi chỉ dẫn cặn kẽ cách mặc, cách cởi. Sau đó, Hoàng Mai và các cô gái đưa Thủy Trúc trở lại chiếc giường của nàng. Hoàng Mai âu yếm nói:

- Chúc bạn ngủ ngon!

Ai về chỗ nấy. Thủy Trúc kéo chăn lên tận cổ, nàng thút thít khóc một hồi rồi thiếp đi.

3.

Công chúa ngỡ ngàng trước khung cảnh lớp học. Hai dãy bàn dài xếp hai bên cho học sinh nam nữ ngồi riêng biệt. Trước mặt họ là tấm bảng sơn đen bóng loáng. Vị quan cao tuổi đang đứng gần đó, ông gọi:

- Thủy Trúc! Con hãy đứng lên chào các bạn.

Nàng cảm thấy khó chịu. Một công chúa mà phải chào hỏi bọn nhóc nầy à!

Nàng làm lơ, ngồi lì ra. Có tiếng xầm xì:

- Thật vô lễ! Không biết vâng lời thầy.

Thầy quát lớn:

- Thủy Trúc, đứng lên!

Nàng giật nẩy mình, nhìn thấy ánh mắt giận dữ của thầy, nàng lật đật đứng lên. Thầy nghiêm nghị nói:

- Sau giờ học, nhà ngươi phải xách đầy một lu nước nghe chưa! Nếu trái lệnh, sẽ không được ăn trưa. Hoàng Mai sẽ cho ngươi biết sẽ phải nấu nướng vào những ngày nào trong tuần. Bây giờ thì ngồi xuống rồi nhìn lên bảng.

Ông viết một hàng chữ và đọc lớn:

- NGỌC BẤT TRÁC BẤT THÀNH KHÍ.

Ông giảng giải tỉ mỉ rồi gọi từng người đọc lại. Đến phiên Thủy Trúc, nàng đứng lên ấp úng:

- Ngọc bất… bất… bất, bất…

Tiếng cười rộ lên. Thầy nhắc lại và bảo Thủy Trúc đọc:

- Ngọc bất trác bất thành, thành… thành…

Cả lớp cười ồ. Vị quan kiên nhẫn nhắc lại nhiều lần rồi gọi nàng. Lần nầy, nàng đọc được hết câu. Cả lớp mừng rỡ vỗ tay vang dội. Nhưng nàng cảm thấy mệt mỏi đến độ muốn gục xuống bàn ngủ một giấc. May sao, thầy cho nghỉ sớm. Buổi học đầu tiên của nàng như thế. Hoàng Mai đến bên cạnh nhắc nhở nàng:

- Bạn đi xách nước đi!

- Ta không biết xách. Uống nước còn có người bưng tới chỗ cho ta nữa kìa. Ta không làm!

- Bạn sẽ bị phạt xách một tuần đó.

Thủy Trúc rùng mình nắm tay Hoàng Mai:

- Bạn làm ơn chỉ cho tôi nha!

Hoàng Mai khẽ gật. Hai người đến bên hồ nước. Hoàng Mai xắn quần, vén tay áo cho bạn rồi dẫn Thủy Trúc xuống cầu. Các bạn ùa theo trêu ghẹo. Thủy Trúc không sao kéo nổi cái thùng lên khỏi mặt nước. Cô chóng mặt rơi tỏm xuống nước. Các bạn kinh hoàng kêu cứu inh ỏi. Hồng Hoa vội phóng xuống nước, bơi ra cứu bạn. Thầy cũng vừa chạy tới, ông giúp Hồng Hoa đưa công chúa lên bờ. Hồ nước chỉ ngập tới lưng nhưng vì quá sợ hãi, Thủy Trúc đã bất tỉnh. Nhớ đến nỗi khổ tâm của đức vua và hoàng hậu, vị quan già bấm bụng bảo công chúa khi nàng hồi tỉnh:

- Mi vụng về quá! Hãy trở ra xách đầy lu nước cho ta.

Công chúa òa khóc nhưng thầy đã bỏ đi. Các bạn vây quanh an ủi. Không ai dám ra tay làm giúp nàng vì sợ bị phạt. Các cô chỉ còn cách đi theo khuyến khích mà thôi. Khi cái lu đã đầy nước thì Thủy Trúc cũng mệt gần nín thở. Nàng cảm thấy đói bụng khủng khiếp. Vào phòng ăn, nàng ăn một hơi hết sạch phần cơm dành cho mình, dù thức ăn chỉ có vài món đơn sơ mà hôm qua nàng bĩu môi khinh bỉ, không thèm đụng đến. Đêm ấy, nàng ngủ một giấc ngon lành đến khi tiếng chuông gọi thức ngân dài. Vừa bừng mắt, nàng nhớ Phụ vương, Mẫu hậu nhớ lầu vọng nguyệt nơi cung cấm. Cứ mỗi sáng, có hàng chục nữ tì quì sẵn chờ rửa mặt, tay chân cho nàng. Có khi nàng còn nhõng nhẽo đòi tắm ngay trong phòng ngủ. Vậy là một cái bồn tắm được khuân lên. Hàng chục người tất tả xách nước chạy lên những bậc thang ngoằn ngoèo. Nước được đổ đầy bồn chỉ trong vòng vài phút. Mồ hôi ướt đẫm lưng áo họ. Chắc họ phải mệt ghê lắm! Thủy Trúc ân hận rơi nước mắt. Nàng lấy hai tay che mặt khi chợt nghĩ rằng mình là một cô gái độc ác.

4.

Vị quan cao tuổi, người thầy của công chúa quì xuống trước mặt nàng. Ông cung kính tâu rằng:

- Bẩm công chúa! Chút nữa đây kiệu hoa sẽ đưa công chúa trở lại cung đình. Đây là những chiếc áo đẹp của công chúa và xin tha thứ cho hạ thần tội phạm thượng trong thời gian qua. Thủy Trúc vội quỳ xuống, đối diện thầy. Nàng nghẹn ngào:

- Xin thầy đừng làm thế mà con mang tội. Nhờ thầy, con đã trở nên một người khác. Có tri thức, biết sống như thế nào cho phải đạo và được mọi người yêu quý.

Quả thật, các bạn học của nàng đang sụt sùi trước giờ chia tay. Đã ba năm qua, họ cùng sống trong một mái ấm. Có những lúc giận hờn nhưng cũng có khi thương yêu, giúp đỡ nhau. Sợi dây thân ái đã buộc chặt họ từ lúc nào không biết. Vậy mà nàng sắp phải xa thầy, xa bạn. Đã đến ngày hẹn Thủy Trúc phải trở về triều nội. Nàng đã thông làu kinh sách thánh hiền. Thêu thùa, may vá, bếp núc nàng cũng không thua gì các bạn. Nàng đã trưởng thành. Và, tất nhiên địa vị công chúa rất xứng đáng với nàng.

5.

Cô ngừng kể, hỏi chúng tôi:

- Em nào biết vị quan đã dùng cách gì để chữa bệnh cho công chúa?

Chúng tôi nhao nhao lên:

- Ông đã cho nàng thành thường dân!

- Đúng rồi! Vị quan đã tập cho nàng sống bình đẳng trong học tập, làm việc. Biết vì mọi người khi mọi người đã vì mình mà cống hiến.

Tôi đứng lên xin phát biểu:

- Vì sao vị quan ấy không cho công chúa mặc những chiếc áo lộng lẫy của nàng?

- Vì với những bộ đồ ấy, nàng khó mà gần gũi với các bạn, với mọi người. Chính vì vậy, mà bây giờ khi đến lớp các em phải mặc đồng phục để không có phân chia giai cấp nghèo hèn hay quý tộc trong nhà trường. Tất cả học sinh đều phải được thương yêu như nhau.

Năm đứa: Tôi, Ngân, Thảo, Lài, Sen đã hiểu vì sao cô kể câu chuyện ấy. Rồi chúng tôi cũng cảm thấy xấu hổ hết sức khi giữa những người bạn đồng phục thì chúng tôi lại nổi bật vì những bộ đồ xanh đỏ, vàng, tím…

Tiếng kẻng tan học vang lên, các bạn đã về hết. Chỉ còn năm đứa chúng tôi tần ngần trong lớp. Cô ngạc nhiên hỏi:

- Sao các em không về đi?

Chúng tôi đến trước mặt cô, vòng tay thưa:

- Chúng em xin lỗi cô. Từ nay, chúng em xin nghe lời cô dạy!

Cô mỉm cười gật đầu. Ánh mắt cô làm chúng tôi chợt hiểu bầu trời xanh hơn. Có phải chính cô là vị quan già trong câu chuyện kể sáng nay không?

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 13.8.2016… .............................. Vũ Thư Hữu .... 01

Vài kỷ niệm vui buồn với Bs. Nguyễn Lân-Đính… ............. Vũ Anh Tuấn .... 05

Vài chi tiết về một cuốn sách hay… tôi mới có .................... Vũ Anh Tuấn .... 08

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch ... 11

Đọc lại Hành trình về Phương Đông ........................................ Tâm Nguyện .... 21

Đại văn hào Pháp Victor Hugo ....................................................... Phạm Vũ .... 31

Tình sử của Edgar Poe ...................................................... Hoàng Kim Thư st .... 45

Xích Liên (1898-1974) là ai? ........................................................ Thúy Toàn .... 53

Nhật trao gươm cho Đồng minh trong thế chiến 2 ........................... B.Đ. st. .... 55

Thờ và Cúng ........................................................................ Phạm Hiếu Nghĩa .... 60

Bài vè: Ứng phó biến đổi khí hậu & bảo vệ môi trường ...... Trần Thị Cúc .... 64

Chào mừng kỷ niệm (thơ) ........................................................... Thanh Vĩnh .... 65

Bóng Xuân chiều (thơ) ................................................................. Thanh Vĩnh .... 66

Nhớ nghe anh (thơ) .................................................................... Lê Minh Chử .... 67

Lòng người (thơ) ......................................................................... Lê Minh Chử .... 68

Tình bao la (thơ) ......................................................................... Thanh Châu .... 69

Mơ tiên (thơ) ................................................................................ Thanh Châu .... 69

Em đi (thơ) ......................................................................................... Đàm Lan .... 70

Trăng (thơ) ........................................................................................ Lam Trần .... 71

Góc quê hương (thơ) ....................................................................... Nguyên Lê .... 72

Tình gối (thơ) .............................................................................. Lang Nguyên .... 73

Tình nghĩa cây chuối (thơ) ....................................................... Lang Nguyên .... 74

Cái bóng (thơ) ............................................................................. Lang Nguyên .... 74

Nhớ Đức Linh (thơ) .................................................................. Ngô Bá Mạnh .... 75

Có một ngày đầu thu (thơ) ............................................................ Lê Nguyên .... 76

Thổn thức (thơ) ...................................................................... Vũ Thùy Hương .... 77

Nhắc nhở (thơ) ....................................................................... Vũ Thùy Hương .... 77

Tiễn biệt (thơ) ......................................................................... Vũ Thùy Hương .... 77

Biển nhớ (thơ) ............................................................................. Ngàn Phương .... 78

Cạn lời (thơ) ................................................................................ Ngàn Phương .... 78

Tâm sự chiều thu (thơ) .............................................................. Ngàn Phương .... 79

Khóc bạn (thơ) ........................................................................... Ngàn Phương .... 79

Mai em về (thơ) ................................................................................... Hoài Ly .... 80

Sức mạnh của thơ (thơ) ............................................................... Bs.Doanlinh .... 80

Bẽn lẽn (thơ) ................................................................................. Bs.Doanlinh .... 81

Đứt dây… (thơ) ...................................................................................... Ái Thơ .... 81

Biển nhớ (thơ) .............................................................. Phạm Thị Minh-Hưng .... 82

Hờ hững tình thu (thơ) ................................................ Phạm Thị Minh-Hưng .... 83

Bến đợi (thơ) ................................................................................. Quang Bỉnh .... 84

Bạn học (thơ) ................................................................................ Quang Bỉnh .... 84

Về Côn Đảo (thơ) ........................................................................ Vũ Đình Huy .... 85

Mặt trời ngân ngấn nước (thơ) ................................................. Vũ Đình Huy .... 85

Back to Con Dao (Poulo Condor) (thơ) ......................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 86

The lightly wet sun (thơ) ................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 86

Những tâm hồn lẻ bóng ................................................................. Dương Lêh .... 88

Miền quê 18 thôn (tt) ........................................................................... Hoài Ly .... 95

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ... Thanh Châu dịch thuật .. 105

Trí nhớ, cuộc hành trình vào dĩ vãng ........... Cố Bs. Nguyễn Lân-Đính st .. 112

Số 7 huyền thoại - 7 ngày trong tuần .................. Đào Minh Diệu Xuân st .. 119

Đi một ngày đàng học một sàng khôn .................... Huỳnh Thiên Kim Bội .. 121

Điểm sách ............................................................................... Hà Mạnh Đoàn .. 127

Lời thì thầm cùng bạn .......................................................... Đỗ Thiên Thư st. .. 128

Quên!!! ................................................................................................ Đàm Lan .. 133

Tại sao bạn lại lo lắng? ................................................................. Kim Sơn st. .. 140

Thủy Trúc ............................................................................. Nguyễn Thị Mây .. 141

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế