Hiện có 24 người xem / 2518884 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 07/02/2015

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 4 cuốn sách ông mới có. Cuốn thứ nhất là một cuốn sách chưa cổ, vì mới được in năm 1964 (51 năm trước), mang tựa đề là “200 Decorative Title-Pages” (200 Bìa Sách Trang Trí) - tựa đề này có nghĩa là 200 bìa sách đã được trang trí - nhưng điều đáng chú ý là những bìa sách này được coi như tiêu biểu và được chọn từ năm 1478 (thế kỷ 15) và chúng được chia làm 3 loại. Loại thứ nhất là từ thời kỳ khắc gỗ (woodcut), loại thứ hai ở thời kỳ in khắc (etched or engraved) và loại cuối cùng là từ thế kỷ 19 và sau đó (hình bìa thứ 200 là vào năm 1924). Cuốn sách khổ 21x28 phân, dày trên 200 trang, cho người đọc được chiêm ngưỡng những tấm bìa sách từ trên năm thế kỷ trước (1478) với đủ mọi hình thức trang trí rất đẹp, rất lạ, rất cầu kỳ; quả là một kỳ thư, bởi vì nếu không có cơ duyên gặp được nó, thì khó mà có dịp xem những hình bìa đó ở đâu. Cuốn sách thứ nhì được giới thiệu là một cuốn sách do một tác giả người Việt - cụ La Giang Vũ Ngọc Liễn - viết bằng Pháp văn mang tựa đề là Phong Hóa và Phong Tục của Người Việt Nam (Mœurs et Coutumes du Vietnam). Đây là một cuốn sách khổ 15x22 phân được xuất bản năm 1942 (73 năm trước) mà nội dung là hầu hết những phong tục chính yếu của người Việt chúng ta đã được tác giả nghiên cứu và viết ra bằng Pháp văn. Đây là một cuốn sách rất hay vì nó có thể coi như là một giáo trình khá đầy đủ dạy cho người đọc những điều cần biết về phong hóa và phong tục của dân ta, chỉ tiếc là nó được viết bằng Pháp văn là thứ ngoại ngữ mà ở ta số người thông thạo lúc này hơi bị hạn chế (vì là sách hay nên cuốn này sẽ được giới thiệu chi tiết trong Hồi ký 60 năm chơi sách của Dịch giả Vũ Anh Tuấn cũng sẽ được đăng trong cùng Bản Tin này).


Cuốn sách thứ ba được giới thiệu nhan đề là Truyện Cổ Tích Việt Nam (Légendes du Vietnam) cũng được viết bằng Pháp văn, khổ 15x24 phân, và dày 344 trang, tiếc rằng bị mất 10 trang đầu nên không biết tác giả là ai, người Pháp hay người Việt. Nội dung của sách là 31 huyền thoại của Việt Nam như truyện anh Trương Chi, truyện Thánh Gióng, truyện Chử Đồng Tử, truyện Tú Uyên, truyện Bà Đế vv… Cuốn sách còn chứa đựng trên một chục minh họa nguyên trang rất đẹp.

Cuốn sách cuối cùng được giới thiệu cũng là một cuốn sách viết bằng Pháp văn mang tựa đề là “Chúng ta hãy đừng sợ những con chữ” (n’ayons pas peur des MOTS) của một tác giả Pháp tên là François Caradec và thực chất là một cuốn Tự Điển Tiếng Lóng và từ Bình Dân của Pháp (Dictionnaire du Français argotique et populaire). Cuốn sách khổ 15x21 phân, dày 320 trang, được in năm 1991 (mới 24 năm trước) bởi nhà xuất bản lừng danh Larousse nên sách tuyệt đẹp. Là người được học tiếng Pháp từ lớp mẫu giáo và là người yêu tiếng Pháp nhất (chỉ sau tiếng Mẹ Âu Cơ), nên người viết cực kỳ thích cuốn này vì nó giúp cho người viết biết được những tiếng lóng, tiếng bình dân, tiếng địa phương của người Pháp khi đọc các sách Pháp mà người viết có hơi bị nhiều. Chỉ xin đưa ra một thí dụ về Sở Cảnh sát – nhờ cuốn sách này mà người viết được biết ngoài chữ La Police thông thường, Sở Cảnh Sát còn được gọi bằng những tên như: la Rousse, la Poule, la maison Poulaga, la maison Poulemane, la maison Parapluie (chả có thể tìm thấy trong tự điển nào cả); và những Nhân Viên Cảnh Sát ngoài chữ Les Policiers thông thường mà những người biết tiếng Pháp đều biết, còn được gọi bằng trên 20 tên khác như La flicaille, la renifle, Anges gardiens, archers, bignolons, bourres, cognes, condés, draupères, enballeurs, en-bourgeois, flics (chữ này nhiều người biết), flicards, keufs, lardus, matuches, perdreaux, poulagas, poulardins, poulets (chữ này cũng nhiều người biết), roussins và vaches. Thật là một quý thư cho người yêu thích tiếng Pháp như người viết. Sau khi được giới thiệu, cả bốn cuốn sách đã được một số thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu xong, Lm. Nguyễn Hữu Triết đã lên giới thiệu cuốn tự điển Anamitico-Latinum viết tay của Đức Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) vừa được in lại năm 2001 nhưng chỉ được in tổng cộng 200 bản. Cuốn tự điển viết tay này cũng là một đại kỳ thư vì từ trước đến nay rất ít ai được biết đến nó.

Sau khi Lm. Triết giới thiệu cuốn sách, bà Tâm Nguyện đã lên giới thiệu tác phẩm nghiên cứu về Phật Giáo mới được xuất bản của bà là cuốn Kinh Duy Ma Cật, và sau khi giới thiệu bà đã quý tặng các thành viên mỗi người một bản với lời đề tặng cho mỗi người.

Bà Tâm Nguyện tặng sách xong, anh Phạm Vũ đã lên nói chuyện về Nhạc Xuân của Phạm Đình Chương, Văn Cao và Phạm Duy.

Sau anh Phạm Vũ, anh Dương Lêh đã lên nói chuyện về nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên và giới thiệu một số tác phẩm của nhà thơ đó. Tiếp lời anh Phạm Vũ, một khách mời cô Kim Sơn đã lên hát tặng các thành viên một bài minh họa nhạc Xuân của ba nhạc sĩ nói trên.

Cô Kim Sơn hát xong, anh Võ Kim Cương đã lên giới thiệu tập thơ đã in của anh nhan đề là Miền Say và có nói qua về một số đường phố Saigon cũ mà anh không biết tên lúc trước là gì. Anh Cương nói xong, anh Vũ Đình Huy có đứng lên nói vài lời giới thiệu thêm về anh Võ Kim Cương với các thành viên.

Anh Huy nói xong, anh Chử đã lên hát tặng các thành viên một bài hát thơ quen thuộc do chính anh sáng tác.

Anh Chử hát xong, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã lên kể lại một vài hồi ức về đường phố Saigon cũ thời Tây ví dụ như con đường đi vào Phi Trường Tân Sơn Nhất (thời Diệm gọi là đường Công Lý, nay là Nguyễn Văn Trỗi và Nam Kỳ Khởi Nghĩa) thời Tây mang tên một viên Thống Chế Pháp tên là Mac Mahon liền được người mình gọi là đường Bạc Má Hồng, một cái tên rất ư là dễ thương. Còn con đường Lý Chính Thắng ngày nay (thời Diệm gọi là đường Yên Đổ) thời Tây gọi là Đường Champagne (rue Champagne) liền được người mình gọi là Đường Sâm Banh (nhưng không phải rượu như nhiều người nhầm tưởng, vì trên thực tế từ Champagne là một địa danh ở Pháp).

Dịch giả Vũ Anh Tuấn kể xong, anh Hữu lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ bằng giọng ngâm rất truyền cảm của anh.

Sau anh Hữu, hai anh Lê Nguyên và Phùng Chí Tâm đã lên song ca bằng giọng ca rất điêu luyện của hai anh, hai bài hát do chính hai anh đã sáng tác để tặng các thành viên.

Hai anh Lê Nguyên và Phùng Chí Tâm hát xong, anh Vũ Đình Huy có ngâm tặng CLB Sách Xưa & Nay 4 câu thơ nói về việc CLB đã được gần 9 năm tuổi, đã vững vàng hoạt động trong gần 9 năm trời.

Cuối cùng anh Thanh Châu đã lên hát tặng các thành viên bằng giọng hát át tiếng bom quen thuộc của anh một bài ca Xuân.

Buổi họp kết thúc lúc 11g15 và toàn thể các thành viên đã cùng nhau tham dự một bữa tiệc tất niên rất vui, rất nhộn nhịp, và cũng rất thân mật. Trong tiệc các thành viên đã có lời chúc tụng lẫn nhau cho năm mới và bữa tiệc tất niên kéo dài tới 1 giờ rưỡi trưa mới kết thúc và mọi người vui vẻ, hân hoan ra về để chào đón… năm Mr. Dê đang lừ lừ tiến tới…

VŨ THƯ HỮU


CUỐN PHONG HÓA VÀ PHONG TỤC

CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

(MŒURS ET COUTUMES DU VIETNAM)

của La Giang VŨ NGỌC LIÊN

Trong nghiệp chơi sách, có thể nói chắc là không phải người tìm ra sách, mà trong phần lớn các trường hợp, do một cơ duyên nào đó, chính sách lại tìm đến với người biết yêu thương trân quý nó. Trường hợp cuốn quý thư này cũng vậy. Khoảng sáu tháng trước, tôi được các người bán sách thân với tôi cho biết về tủ sách của cụ Dương Minh Thới đang bị tản mác ở nhiều nơi, tôi đã chịu khó đến từng nơi một và đã tìm được quý thư này, tại một nơi thật hẻo lánh, và khi thấy cuốn sách, tôi có linh cảm như là nó đang nằm chờ tôi tới rước về.

Trong những năm tháng đọc sách, tôi cũng cảm thấy thích khi tìm hiểu về phong hóa, phong tục của người mình, nhưng tuy có lưu tâm, tôi gần như không gặp cuốn nào có chuyên đề là phong tục của người mình. Nay gặp cuốn này, tuy sách viết bằng Pháp văn, nhưng tôi cũng vẫn rất thích, và sau khi có nó, tôi đã bỏ ra 2 ngày để đọc lướt qua và thấy nó rất hay, nên tôi xin viết mấy lời giới thiệu nó với các bạn yêu sách ở khắp mọi nơi.

Cuốn sách này khổ 15x22 phân, dày 219 trang và được xuất bản năm 1942, bởi nhà in Hà Nội ở số 85, phố Hàng Bông. Sách được viết bằng Pháp văn, một thứ Pháp văn tin tưởng được và cẩn trọng. Sách được chia làm 4 chương và một Phụ Lục ở cuối sách.

Sau Lời Nói Đầu từ trang 1 tới trang 4.

Chương 1 từ trang 5 - 29 viết về các đề tài sau đây:

Chương này được nói về vấn đề Sinh Sản của người Việt gồm những đề tài:

Sự mắn đẻ và sự hiếm muộn – Lễ Cầu tự – Việc mang thai – Việc sinh đẻ – Việc săn sóc đứa trẻ sơ sinh – Lễ “Đầy cữ” – Việc đặt tên cho đứa trẻ – Việc kiêng tên – Những tên khác nhau của một người.

Chương II.- Từ trang 30 - 85, được viết về hai vấn đề:

“Tuổi thơ và thiếu thời của đứa trẻ” và “Các cuộc thi cử chính thức” gồm các đề tài:

Việc bảo vệ đứa trẻ – Việc bán đứa trẻ cho thần thánh hay cho Đức Phật – Tục “bỏ chợ” – Việc nhận con nuôi – Công việc giáo dục sơ khởi cho đứa trẻ – Việc dạy dỗ các đứa trẻ – Lễ “khai tâm” – Các Ông Đồ – Thầy Đồ – Các Đồng Môn – Các cấp bậc khác nhau trong việc giáo dục truyền thống – Người sinh viên trong xã hội Việt Nam.

Đoạn viết về “Các Cuộc Thi Cử chính thức gồm các đề tài sau đây:

Thi Hương – Thi Hội – Thi Đình – Các cuộc Sơ Khảo – Việc tổ chức Thi Hương – Thành phần Giám Khảo – Trường Thi – Các thí sinh vào Trường Thi – Việc loan báo tên các Tân Khoa – Lễ “bái mạng” và yến tiệc mừng các Tân Khoa – Việc Tổ chức Thi Hội và Thi Đình – Việc diễn hành qua vườn hoa cung đình và qua thành phố – Lễ Vinh Quy Bái Tổ và việc thờ cúng trước bàn thờ tổ tiên – Việc Thi Võ.

Chương III.- Từ trang 86 - 131 vẫn tiếp tục viết về Tuổi Thơ và thời kỳ Niên Thiếu, và viết về các Nghi Thức về việc Cưới Xin gồm các đề tài như:

Việc cưới xin – Tuổi trẻ Việt Nam và chuyện cưới hỏi – Những tình thư và những lời thề thốt – Các nghi thức cưới hỏi – Chạm ngõ – Ăn giạm hay Vấn danh – Ăn hỏi hay Nạp thái – Đón dâu hay Nghinh hôn – Nhị hỷ hay Tứ hỷ – Việc chính thức thừa nhận hôn lễ – Thê thiếp và những đứa con riêng – Chuyện Đa thê – Việc làm đám cưới với ngoại nhân.

Chương IV.- Từ trang 132 - 176 viết về hai vấn đề:

1/ Tuổi già và việc qua đời.

2/ Các nghi thức về việc chôn cất gồm các đề tài sau đây:

Việc thọ lâu – Lễ Thượng thọ – Lễ Yến Lão – Những điều bận rộn của những người già cả ở Việt Nam – Quan niệm của người Việt về cái chết – Các Nghi thức về việc chôn cất – Nhập quan – Các tục lệ về tang lễ – Lễ “thành phục” – Lễ tang – Việc chọn lựa nơi chốn để đặt mồ mả – Tục lệ “quàn than” – Các lời thăm hỏi và điếu văn – Các bữa ăn trong tang lễ – Các nghi lễ “chuyển cữu” và “yết tổ” – Đám tang và việc chôn cất – Nhà trạm và đề chủ – Lễ Hạ huyệt – Lễ Ngu tế – Lễ Tứ cửu – Lễ làm chay – Lễ trừ phục và những lễ giỗ – Lễ đốt mã – Sự cải táng.

Phần Phụ Lục từ trang 177 - 202 viết về các đề tài:

Nguyệt Lão, thần linh của việc cưới hỏi – Bài Văn tế tơ hồng – Truyền thuyết về nhai trầu – Văn tế đám ma – và cuối cùng là Văn Chúc thọ.

Cuốn sách có thể được coi như một giáo trình giúp cho người đọc hiểu được một số phong tục của người mình, và người viết rất thích và coi nó như là một quý thư đáng được trang trọng.

Trich Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN

HƯƠNG TƯỚNG – HƯƠNG TÂM

Không biết từ bao giờ người dân Châu Á có thói quen thắp hương để cúng kiến Phật và thần linh, mà nơi thắp nhiều hương nhất là các Chùa. Ngày nào cũng hương khói nghi ngút, nhất là những ngày lễ lớn. Sau Hương là tới vàng mã đốt để gởi cho người đã qua đời. Hậu quả là nhiều năm qua, cứ vào mùa sắp tết, cúng kiến, đưa ông Táo, đốt vàng mã là những đám cháy cũng kéo theo, tác hại kinh khủng! Sáng Mồng một Tết Ất Mùi vừa qua là 1 căn nhà và toàn bộ đồ đạc ở Phường Trường Thọ, Quận Thủ Đức. Ngày Mồng 4 Tết là gần 100 ki-ốt ở Huyện Kinh Môn, Hải Dương bị thiêu rụi làm bao nhiêu tiểu thương điêu đứng! Cũng vì đốt vàng mã mà năm 2013 cháy 8 căn nhà ở Quận Bình Tân TP. HCM. Năm 2014, cháy rừng vành đai phòng hộ ở Quy Nhơn phải huy động cả 800 người để dập lửa. Tháng 12 năm 2014, cả 3 người trong gia đình làm vàng mã bị chết cháy! Đó là mới tính sơ tai nạn do đốt vàng mã trong 2, 3 năm gần đây thôi! Những người đốt đó đã “hóa vàng” tất cả sản nghiệp mồ hôi nước mắt của mình và của nhiều người khác mà cả đời còn lại chưa chắc đã phục hồi nổi!

Vàng mã ngày càng phát triển, họ làm cả nhà lầu, biệt thự, xe hơi, máy tính, xe máy… thậm chí tháng 8 năm vừa qua, cộng đồng mạng hết sức bất bình trước hình ảnh của những nhà Sư và Tăng Ni, Phật tử đứng vây quanh và một vị tu sĩ đắp y màu mè châm lửa đốt mã Phật ngồi Tòa Sen trên một đài cao cả mét, mà theo diễn đàn đó là hình ảnh của Đức Đại Nhật Như Lai. Đành rằng hình ảnh đó chỉ là tượng trưng, nhưng mọi người đều thấy đó là một sự xúc phạm, khó thể chấp nhận!

Ai cũng biết là sở dĩ con người thắp Hương là vì nghĩ rằng phải có những nén hương mới chứng rõ lòng thành. Vàng mã là để gởi cho người cõi Âm, không hề biết là những việc làm đó không dính dáng gì đến Đạo Phật chân chính mà là một hủ tục được bày ra bởi những người sản xuất vàng mã ở Trung Quốc từ cách đây cả mấy ngàn năm. Xin trích bài từ Phatgiao.org/vanhoa do Hòa Thượng Tố Liên ở Miền Bắc đã viết từ hơn 50 năm trước về việc đốt vàng mã:

Theo Kinh Dịch của Nhà Nho thì tục chôn người chết của Trung Hoa thời thượng cổ thì không áo quan, không phần mộ. Nhưng đến đời vua Hoàng Đế (2697 trước Tây lịch) cho rằng con cháu đối với ông bà, cha mẹ như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Dương chế ra quan, quách để chôn cất. Đến đời nhà Hạ (2205 trước Tây lịch), người Trung Hoa mới dùng đất sét nặn mâm, bát, dùng tre, gỗ làm nhạc khí để đem theo cho người chết, và chế bù nhìn bằng gỗ đem theo để hầu hạ người chết.

Đến đời nhà Chu (1122 trước Tây lịch) người Trung Quốc bắt đầu sử dụng lễ nhạc cho người chết và phân ra giai cấp sang hèn trong lễ nghi chôn cất. Vua và các quan lớn sẽ được mang theo những đồ dùng thật. Họ còn bịa ra lệ dã man là vợ, con, bộ hạ yêu quý của họ cũng phải được chôn sống theo họ. Vua Tần Mục Công tên là Hiếu Nhân chết, ba anh em họ là Yếm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn sống theo. Về sau, người ta thấy rằng việc đem chôn người sống theo người chết là vô nhân đạo nên mới chế ra người gỗ để thay.

Đức Khổng Tử đọc thấy chuyện đó nên phẫn uất mà cho rằng kẻ nào chế ra tục chôn người gỗ theo người chết là bất nhân. Thầy Mạnh Tử cũng ác cảm tục hình nhân thế mệnh nên đã nguyền rằng: “Kẻ nào dùng người bù nhìn là tuyệt tự”.

Đến đời nhà Hán, giới Nho học cảm động với lời phản đối của Ngài Khổng, Mạnh trong tục chôn người sống theo người chết, nhưng làm ra nhà mồ để cho vợ, con, tôi tớ người chết ra để ấp mộ. Để cho nhà mồ thêm oai phong, họ đục phỗng đá, voi, ngựa để bài trí quanh phần mộ.

Đến đời nhà Hán, năm Nguyên Hưng Nguyên Niên (105) ông Thái Linh bắt đầu lấy vỏ cây, giẻ rách, lưới rách chế ra giấy. Khi đã có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng, bạc, quần áo... bằng giấy để cúng rồi đốt thay thế cho đồ thật. Sách Thông Giám Cương Mục chép: “Vị Vua Huyền Tôn mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan”.

Đến triều đại của Đại Tôn nhà Đường (762) lúc Phật Giáo cực thịnh ở Trung Quốc. Vị sư tên Đạo Tăng lợi dụng việc đốt vàng mã của nhân dân Trung Quốc nên tâu với vua ngày Rằm tháng Bảy là ngày Diêm Vương ở Âm Phủ xét tội phúc, nên cho thiên hạ đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân. Vua Đại Tông hạ chiếu cho thiên hạ, nên mọi người thi nhau đốt vàng mã vào dịp Rằm tháng Bảy. Nhưng không bao lâu, bị Chư Tăng bài trừ nên cũng bỏ dần làm cho những người sống bằng nghề làm vàng mã bị thất nghiệp. Vương Luân là dòng dõi của Vương Dũ, người đã bịa ra việc chế đồ vàng mã, bàn với nhau để phục hưng nghề nghiệp của họ.

Họ cho người giả ốm, rồi báo tin đã qua đời. Người giả chết được liệm vào quan tài, nhưng có chừa lỗ hổng để đưa thức ăn, nước uống vào. Rồi trong khi họ hàng, xóm làng đến viếng, Vương Luân liền mang vàng mã, hình nhân thế mạng ra đốt. Trong lúc mọi người đang khấn thì cỗ quan tài rung lên, người chết sống lại, kể rằng thần thánh đã nhận hình thế mạng và đồ mã nên tha cho ông ta được trở về nhân thế. Từ đó, hàng mã được phục hưng nhanh chóng”.

Hòa Thượng Tố Liên cho rằng do người Trung Quốc đô hộ chúng ta cả ngàn năm, nên chúng ta bị nhiễm phong tục của họ. Tinh thần của dân tộc chúng ta đều nhờ vào Phật Giáo và Nho Giáo, nhưng chưa hề thấy kinh sách nào của Phật Giáo và Nho Giáo dạy về việc đốt vàng mã. Nếu có thấy, Ngài xin cam tâm vào Địa Ngục, để khuyên mọi người đừng bị đầu độc bởi Vương Dũ và Vương Luân theo người dân Trung Quốc.

Kể cả việc Đúc hình tạc tượng Phật, việc dâng cúng Hoa và Hương theo đúng Chánh Pháp cũng không phải “y Kinh giải nghĩa” là dùng vàng, đồng, gỗ hay xi măng, đá, để tạc hình Phật và bứt cành, bẻ lá, bông hoa, hay thắp hương làm bằng bột gỗ của trần tục. Tổ Đạt Ma giải thích trong Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất như sau:

“Nói ‘Đúc hình tạc tượng’, tức đó là tất cả chúng sanh cầu Phật Đạo cần tu các giác hạnh phỏng theo chân dung diệu tướng của Như Lai, há đâu chỉ là việc đúc vàng đồng tầm thường vậy thôi ru! Bởi vậy, người cầu đạo Giải Thoát phải lấy Thân mình làm lò, lấy Pháp làm lửa, lấy Trí Huệ làm tay thợ khéo, lấy ba Giới tu tịnh, sáu Ba La Mật làm khuôn phép, nấu chảy và rèn đúc chất Chân Như Phật Tánh ở trong Thân cho thâm nhập khắp tất cả hình thức Giới Luật, y lời dạy đó mà vâng làm, mỗi mỗi không hở sót thì tự nhiên thành tựu hình tướng của chân dung. Hình tướng đó đích thực là Pháp Thân Thường Trụ vi diệu và cùng tột, há phải là pháp hữu vi hư đốn sao?

Còn việc đốt hương ấy, nào phải hương hình tướng của thế gian, mà chính là hương của Pháp Vô Vi vậy, xông lên các thứ dơ, xấu khiến cho nghiệp Vô Minh thảy đều tiêu mất.

Hương Chánh Pháp có năm thứ:

- Một là HƯƠNG GIỚI, gọi thế vì nó có thể dứt mọi điều dữ, tu mọi điều lành.

- Hai là HƯƠNG ĐỊNH, gọi thế vì nó tin sâu phép Đại thừa, lòng không chùng nản.

- Ba là HƯƠNG HUỆ, gọi thế vì lúc nào ở bên trong cũng tự Tâm quán xét.

- Bốn là HƯƠNG GIẢI THOÁT, gọi thế vì có thể dứt tất cả mê mờ trói buộc.

- Năm là HƯƠNG GIẢI THOÁT TRI KIẾN, gọi thế vì lúc nào nó cũng quán chiếu sáng soi, suốt thông không ngại.

Đó là Năm thứ Hương, gọi là Hương Tối Thượng, thế gian không gì sánh được.

Khi còn tại thế, Phật khiến các đệ tử lấy LỬA TRÍ HUỆ đốt thứ hương báu vô giá ấy để dưng cúng Chư Phật Mười Phương. Chúng sanh ngày nay không rõ nghĩa chân thực của Như Lai, chỉ đem lửa ngoài đốt gỗ trầm của thế tục, xông thứ hương vật chất lên, mong cầu phước thánh thì sao được ru?

Còn việc rắc hoa ấy, nghĩa cũng vậy. Ấy là diễn nói Pháp Tánh. Hoa Công Đức ấy gây lợi ích nhiều cho giống hữu tình, gieo rắc thấm nhuần tất cả, tự nơi Tánh Chơn Như bố thí khắp cùng, khiến cho tất cả trang nghiêm.

Ai rắc thứ Hoa ấy thì được phước không cùng. Bằng nói Như Lai bảo chúng sanh chặt cành, bứt nhánh, lấy hoa cúng Phật, làm tổn hại đến cỏ cây, điều ấy không đâu có được.

Vì đã giữ Tịnh Giới thì muôn tượng um tùm trong trời đất đều chẳng nên đụng chạm đến. Nếu lầm chạm phải đã mắc tội nặng rồi, huống nữa nay còn cố ý phá Tịnh Giới, gây hại muôn vật để cầu phước báo, muốn được thêm cho mình lại hóa thành mất bớt đi, há có thể như vậy được sao?”.

Lời Tổ đã dạy như thế, nhưng bao đời nay mọi người cứ hình tướng mà làm, cứ dùng bột mạt cưa, tẩm hóa chất đốt lên để cúng Phật năm này sang tháng nọ. Họ không hiểu rằng làm như thế chẳng những không được phước mà còn không biết rằng tự mình đang chuốc họa vào thân.

Theo thông tin trên tờ MIGnews, nghiên cứu của các nhà Khoa Học Đan Mạch nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của một số loại hương đến sức khỏe của con người thì việc thắp hương ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người. Người thường xuyên tiếp xúc với khói hương có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi và đường hô hấp; vì khi hương cháy, thành phần tạo mùi thơm, những hợp chất hữu cơ như benzen, những hợp chất carbonyl và những hợp chất hydrocarbon sẽ kích thích tác động liên kết bề mặt của đường hô hấp đến viêm hô hấp mãn tính, phá hủy các tổ chức cơ thể dẫn đến biến đổi tế bào, biến đổi gen gây ra các hiện tượng dị sản, loạn sản. Khi là tế bào ác tính chúng sẽ biến thành tế bào ung thư.

Người đốt hương tin rằng tàn hương càng cong thì thần linh càng chứng giám. Trong khi đó, Bs. Đặng Văn Nguyên, cựu cố vấn chuyên môn của Bệnh Viện Nguyễn Trãi cho biết: Để có được tàn hương uốn cong, người sản xuất phải tẩm hóa chất phosphoric acid (H3PO4) để ngâm tăm hương. Càng ngâm lâu thì tàn hương càng cong. Việc cắm chân hương vào đồ cúng cũng khiến cho hóa chất tẩm vào thức ăn, gây tác hại cho sức khỏe.

(Nguồn: www.nguoiduatin)

Chúng ta thấy, Đạo Phật chân chính không dạy điều gì sai lầm, chỉ vì Phật Tử không chịu đọc kỹ lời dạy trong Kinh, cứ tin theo những gì được nghe mà không cần kiểm chứng. Cứ tin vào thần linh, tin vào những người có hình tướng tu hành, không biết rằng việc tu hành cũng có năm bảy đường, đâu phải bất cứ vị nào có hình tướng tu hành hay tu lâu năm là đã tinh thông Phật Pháp, lời họ giảng đều đúng với Chánh Pháp. Ngay Phật Ngôn cũng đã dặn kỹ:

“Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy ta đã nghe thấy có người nói một lần rồi. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được truyền lại từ xưa. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy được đồn từ phương xa đến. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy được viết ra từ trong Kinh sách. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì chính chúng ta đã suy diễn và nói ra như thế. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy bề ngoài tỏ ra như thế. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến của ta. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì tính cách có thể chấp nhận của các điều ấy. Đừng chấp nhận điều gì chỉ vì sự kính trọng của ta đối với người đã nói ra điều ấy.

Nhưng khi tự các con, các con đã hiểu rõ ràng có một điều gì đúng với đạo lý, không thể bị chê trách, được các bậc thiện tri thức thiện tâm tán đồng và có thể mang lại hạnh phúc an vui. Các con phải thực hành điều đó”.

Những kiểu cúng kiến, đốt giấy tiền, vàng mã đều xuất phát từ những Phật Tử. Nhưng ngay cả những điều được viết ra từ trong Kinh sách mà Phật còn dặn dò không nên tin, huống là chỉ nghe đồn, thấy nhiều người làm mà ta vội tin, vội làm theo. Phật, thánh thần là những vị linh thiêng, vô tướng, đâu có hưởng nhang khói làm chi mà chúng ta phải đốt để tiến cúng đến các vị? Tiền, âm phủ mà được sản xuất bởi người dương gian, làm sao có giá trị để âm phủ chấp nhận tiêu xài? Vàng mã đốt đi làm sao tới được với người ở cõi Âm? Tại sao lúc mọi người còn sống không đối tốt với người thân, với ông bà, cha mẹ, đợi họ chết rồi, lại đốt quần áo, xe cộ, nhà lầu để cho họ? Vừa hao tổn tiền bạc vô ích, lại gây ra nhiều cuộc hỏa hoạn, vạ lây cho hàng xóm, láng giềng vô tội. Mỗi lần có đám ma lại rải giấy tiền, vàng bạc khắp đường, làm cho đường phố thêm dơ bẩn, những công nhân quét đường lại phải vất vả quét, hốt! Nhiều Chùa cũng đã khuyến cáo Phật Tử về việc rải, đốt giấy tiền vàng mã rồi.

Trong khi Đạo Phật chân chính dạy chúng ta nên làm các thiện pháp. Giữ Giới, Định, Huệ, hành theo con đường Giải Thoát như đó là Hương để dâng cúng Phật Tâm của ta. Thì chúng ta cứ tiếp tục tạo Nghiệp, lại dùng Hương, Hoa trần tục đốt lên trước hình tướng các vị Phật ngoài, để mong các các vị nhận mà ban cho chúng ta đủ thứ theo lời cầu xin. Xá cho chúng ta và người thân đủ thứ tội! Nếu Cầu xin mà được thì trần gian đã không còn Khổ, thế giới đã Hòa Bình lâu rồi! Bao giờ chúng ta mới nhận ra điều đó? Các nhà Khoa học cũng đã lên tiếng về các bệnh có thể gặp phải nếu cứ tiếp tục đốt và hít vào những khói hương. Nếu chúng ta lại tiếp tục làm chuyện vô ích thì rõ ràng tự mình trở thành nạn nhân của mê tín, hủ tục, không thể tiến bộ được. Chúng ta cứ nhìn vào những nước văn minh mà xem, họ đâu có nương tựa thần thánh, đâu có cúng bái, hương, khói, mà dân họ thì văn minh, đất nước họ thì giàu mạnh. Thần thánh nào phù hộ cho họ, vì họ đâu có xì xụp van vái cầu xin thành khẩn như ta? Trái lại họ cứ phát minh khoa học, kỹ thuật, tôn trọng luật pháp mà sống. Giới chức cầm quyền thì không tham nhũng. Dân thì trật tự, kỷ cương. Biết tự trọng. Đời sống có văn hóa. Láng giềng không xâm phạm nhau. Những chỗ vui chơi đông người cũng không nói, cười ồn ào. Không có cảnh bia rượu như suối, mỗi năm uống cả 3 tỷ lít bia tính ra là 3 tỷ đô, và gần 68 triệu lít rượu như dân ta để rồi hệ lụy là tai nạn giao thông, bạo hành gia đình, bệnh xơ gan hoành hành! Ngay cả đi mua sắm mà họ cũng theo thứ tự, xếp hàng đợi đến lượt, không tranh giành, nói lên văn hóa ứng xử của họ rất cao, dù đất nước của họ không lâu đời, không có cả mấy ngàn năm văn hiến như nước ta. Bao nhiêu đời nữa chúng ta mới tiến bộ được như họ? Những điều như vậy đâu phải chúng ta không làm được, nhưng tại sao không thể làm?

Theo tôi, có lẽ đến lúc người Phật Tử chúng ta nên xem lại cách sống, cách Tin Phật, tin thần thánh của mình để tiến bộ hơn về mặt tâm linh. Phật, thần nào có thể phù hộ khi ta sống thiếu đạo đức, làm những việc bất chính rồi hối lộ các Ngài bằng hương khói, hoa quả, hoặc bằng cách nhờ Chùa cúng để Cầu An? Nếu thật sự là Phật Tử, thì chúng ta nên tin Nhân Quả, đừng nghĩ rằng “có thờ, có thiêng, có kiêng, có lành” rồi giao khoán cho các Ngài phải có nhiệm vụ cứu độ cho chúng ta rồi tha hồ làm quấy! Nếu làm được như vậy hẳn Đạo Phật trở thành một nơi để trao đổi, xin xỏ, không cần phải nhọc sức tu hành, sửa đổi gì nữa. Trong Đạo Phật, qua thời gian, qua những người bị ảnh hưởng các hủ tục từ Trung Quốc truyền lại, rồi những người Phật Tử đời nay thiếu suy xét cũng đã làm cho hình ảnh Phật, thần linh bị ô uế ít nhiều. Trong những ngày lễ lớn, hình ảnh các Tượng ở Chùa bị nhét tiền lẻ vô tay, để tràn đầy trước mặt thấy thật là phản cảm. Chẳng lẽ thần thánh lại cần những đồng lẻ mà cho ăn mày họ cũng không thèm lấy? Ta đang cầu xin sự phù trợ hay đang coi thường các Ngài?

Những tưởng rằng đời sống càng văn minh thì sự hiểu biết của con người ngày càng tiến bộ. Nhưng theo báo chí đưa tin, ở Hà Nội mỗi năm đốt khoảng 50.000 tấn hàng mã, trị giá khoảng 400 tỷ đồng! Riêng đền Bà Chúa Kho, lượng vàng mã mỗi ngày lễ “hóa” lên đến hàng tạ, tương đương 80 đến 100 triệu tiền thật. Quả là con số quá lãng phí, là tội ác, trong khi người nghèo một bữa ăn no lòng còn chưa có. Rõ ràng những người làm theo những hủ tục đó cái Tâm Tham của họ quá lớn, muốn mua chuộc thần thánh, đồng hóa thần thánh với tham quan. Nhận của cúng thì phải làm theo lời thỉnh cầu của họ! Quan trần tục mà tham nhũng còn bị mất ghế. Thần thánh làm sai lẽ nào vẫn được ngồi yên? Nếu cầu xin mà được thì chúng ta cần gì học hành, làm ăn, mua bán, sản xuất, cứ nhang khói mà cầu thôi. Nếu vừa cầu, vừa trao đổi mà vẫn phải làm ăn. Sự hộ trì ở đâu không thấy mà cứ phải bon chen đầu tắt, mặt tối thì chúng ta nên học hỏi người nước ngoài. Họ chỉ gây Nhân Thiện, là học hỏi, làm ăn theo đúng khoa học, kỹ thuật, thì Quả Lành tự nhiên đến. Đời sống của họ, đất nước của họ cũng phồn thịnh hơn. Đó cũng là điều mà Đạo Phật chân chính hướng người tin theo, vì Đạo Phật còn được gọi là Đạo Nhân Quả, vì đem Nhân Quả để giáo dục con người. Không biết bao giờ người Phật Tử của chúng ta mới thực sự tin Nhân Quả để bỏ đi những mê tín, thần quyền, những hủ tục kéo dân trí ngày càng thấp xuống đây?

Tâm Nguyện

(Tháng 2/2015)


NGƯỢC DÒNG


Thánh Kinh được trích dẫn
theo bản dịch của Nhóm phiên dịch
Các Giờ Kinh Phụng Vụ
.

Ghi ơn: Vì hoàn cảnh không thể liên lạc được với các tác giả (báo chí, Internet...) của những trích đoạn được trưng dẫn ở đây để làm rõ một điểm luân lý nào đó. Xin quý vị thông cảm, miễn thứ và xin nhận lời cám ơn chân thành của chúng tôi.

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT 

Lời đầu

Đọc tên tập sách, người ta phải nghĩ ngay, tưởng tượng ngay ra những gì trúc trắc trục trặc, đầu chẳng xuôi, đuôi chẳng lọt của cuộc sống hàng ngày.

Ở đây còn hơn thế nữa, vì dù sao những khúc mắc của đời sống còn có thể được giải quyết bằng những biện pháp dung hòa: cắt bên này một tí, xén bên kia một tẹo để rồi cuối cùng cũng đạt yêu cầu, chẳng được 100% thì cũng 60%, chí ít cũng vớt vát được 30%. Nhưng những vướng mắc trong đời sống tâm linh, cụ thể là đời sống đạo Công giáo, đời sống đức tin của con cái Chúa, của môn đệ Đức Giêsu thì phải dứt khoát trong lựa chọn theo nguyên tắc ngàn đời của Đức Giêsu: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc nó sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc nó sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Mt 6,24).

Ví dụ trong đời sống gia đình có những lúc người ta bị áp lực phải nói dối để “êm cửa êm nhà”, bác sĩ phải nói không đúng sự thật để bệnh nhân “an lòng”… Làm như thế thì “được” lòng người nhưng lại “mất” lòng Chúa vì nguyên tắc ngàn đời của Chúa Giêsu: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). Chính thánh Phaolô cũng đã nói rõ lập trường của mình: “Nếu tôi chỉ lo làm đẹp lòng người đời, thì tôi không còn là môn đệ của Đức Kitô” (Gl 1,10).

Những điều sẽ nói sau đây đương nhiên không phải những gì bất hợp pháp, không ai được phép làm mà là những điều luật thành văn cho phép mọi công dân, đồng thời luật bất thành văn, tức là thói quen xã hội cũng tán đồng và hơn nữa còn tán dương. Người tín hữu có quyền làm như mọi người với tư cách là công dân nhưng lại không được phép làm vì là môn đệ Đức Kitô. Rõ là ngược đời!

Trong hành trình đức tin hẳn không ít lần người tín hữu rơi vào tình trạng bức bối như khách lạ giữa ngã ba đường không biết xử trí ra sao, muốn trung thành với lý tưởng của Tin Mừng thì phải can đảm sống ngược với đời: “Người đời làm được, người Công giáo không được làm”. Quả thật ở thời đại này, người tín hữu Công giáo phải có sức mạnh của một vị anh hùng tử vì đạo, mới có thể sống đúng lý tưởng Tin Mừng: Ngược đời là như thế đó.

Nói về một khuynh hướng trong Giáo hội đòi cho những người đã ly dị và tái hôn được phép xưng tội, rước lễ, Đức Hồng Y Muller – Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin tuyên bố: “Các lý thuyết ấy sai lầm triệt để”, ngài tiếp tục phát biểu: “Chỉ một việc ‘thích nghi’ đơn giản thực tại hôn nhân cho phù hợp với những niềm mong chờ của thế giới sẽ không mang lại kết quả nào, trái lại còn phản tác dụng: Giáo hội không thể đáp ứng những thách đố của thế giới hiện nay bằng một việc thích nghi mang tính thực dụng. Bởi vì khi chúng ta chống lại sự thích nghi dễ dãi và thực dụng này, chúng ta sẽ lấy Tin Mừng làm chứng cho sự thánh thiện của hôn nhân. Hơn nữa, một ngôn sứ không nhiệt tâm với Thiên Chúa lẫn Giáo hội, và muốn sống phù hợp với tinh thần của thời đại, người ấy sẽ tìm kiếm sự giải cứu cho riêng mình, chứ không phải ơn cứu độ mà chỉ Thiên Chúa mới ban tặng cho chúng ta

(Viết Hiệp – Báo CG&DT số 1973 ngày 6-11/9/2014)

Thượng Hội đồng Giám mục Roma về những thách đố trong đời sống gia đình (từ ngày 5-19/10/2014), cũng đã bác bỏ yêu cầu cho người ly dị tái hôn được xưng tội rước lễ, dù rất cảm thông và ngăn cấm thái độ kỳ thị, loại trừ.

Tân Bình, ngày 25/12/2014

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết


1. NGUYỄN TẮC LUÂN LÝ CÔNG GIÁO

Nguyên tắc luân lý Công giáo cơ bản: “Muốn đạt mục đích tốt phải dùng phương tiện tốt”. Mục đích và phương tiện phải luôn tương hợp với nhau. Không bao giờ được dùng những phương tiện xấu để đạt mục đích tốt. Đây là nguyên tắc luân lý căn bản mà người tín hữu phải tuân thủ nếu muốn làm môn đệ trung tín của Chúa Giêsu.

Nguyên tắc này dường như không phù hợp với trào lưu thực dụng của xã hội ngày nay. Con người ngày nay đồng ý trên nguyên tắc với quy luật “phải dùng phương tiện tốt để đạt mục đích tốt”, thế nhưng trong rất nhiều hoàn cảnh, luật xã hội cũng cho phép sử dụng nguyên tắc: “Mục đích biện minh cho phương tiện”, nghĩa là trong nhiều trường hợp luật thành văn cũng như luật bất thành văn (thói quen) cho phép dùng phương tiện trái luân lý để đạt một mục đích tốt nào đó. Ví dụ chẳng có cặp vợ chồng nào mà tránh được câu nói dối nhau hay nói dối con cái để cho êm cửa êm nhà cho mọi người vui vẻ.

Cái khó khăn, cái cám dỗ của người Công giáo là ở chỗ luật pháp thì mở cửa cho phép, thiên hạ thì cứ theo nhau mà thực hành, người Công giáo chuyên chăm giữ luật Chúa thì làm ngược lại, họ cứ như là kẻ độc hành, đơn côi, lội (bơi) ngược dòng chẳng giống ai, cho nên phải chân thật mà nhận rằng nhiều người Công giáo sa chước cám dỗ:

Cũng liều nhắm mắt đưa chân

Mà xem Con Tạo xoay vần đến đâu

(Kiều)

Ví dụ một cặp vợ chồng Công giáo ban đầu thì sống tốt đẹp, ít năm sau nảy sinh mâu thuẫn rồi “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, họ muốn tìm lại bình an, hạnh phúc cho mình, đó là mục đích tốt nhưng không phải bằng phương tiện tốt là thương lượng, nhường nhịn, tu sửa, mà bằng những phương tiện không tốt, quá tầm thường, quá dễ dàng, luật pháp xã hội cho phép đó là ly dị, họ dễ dàng chấp nhận lý luận của người đời: Hôn nhân dựa trên tình yêu, còn yêu thì còn hôn nhân, hết yêu thì cũng hết hôn nhân. Xã hội mở rộng cửa cho họ tìm lại hạnh phúc đó là ly dị và tái hôn.

Kinh nghiệm mục vụ của các mục tử cho hay càng ngày số vợ chồng Công giáo ly dị càng nhiều, bất chấp hậu quả vô cùng khốc liệt, bất chấp lời thề long trọng trước Bàn thờ Chúa và cộng đoàn phụng vụ (dự Lễ cưới). Bất chấp lý tưởng của Tin Mừng là câu Lời Chúa thường được in trên thiệp cưới làm châm ngôn, ý lực sống: “Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).

2. BẰNG CHỨNG CỤ THỂ

Trong lãnh vực hôn nhân và gia đình.

2.1 Vấn đề đa thê:

Thời đại “bộ lạc” xa xưa, dân số là vấn đề sống còn, bộ lạc nào đông dân nhất là “suất đinh” (con trai) thì bộ lạc đó tồn tại và có cơ phát triển thành quốc gia, bộ lạc nào ít người thì có nguy cơ bị xóa sổ. Trong những cuộc chiến, bộ lạc, dòng họ nào bại trận thường bị “thần tru”, nghĩa là bị hủy diệt hoàn toàn, hiến tế cho Thần cả người lẫn vật. Bộ lạc nào thắng trận mà nhân đạo hơn thì giết hết đàn ông, con trai, còn phụ nữ thì cho sống để làm vợ các chiến binh. Cho nên dân số là nhu cầu hàng đầu. Chính vì thế mà mọi xã hội thời xưa đều đa thê nhằm mục đích đẻ thật nhiều để tồn tại lâu dài.

Bước sang thời hái lượm, trồng trọt, tức là thời nông nghiệp nguyên thủy kéo dài tới đầu thế kỷ 20 thì nhu cầu bức thiết là lao động, gia đình nào có nhiều lao động sẽ giàu có, vững mạnh. Muốn có nhiều lao động cần sinh nhiều con, muốn thật nhiều con thì cũng phải đa thê: “Trai năm thê bảy thiếp”.

Nói về nhu cầu thêm nhiều lao động để tồn tại nơi núi rừng heo hút, anh Đỗ Ngọc Nam và chị Huỳnh Thị Lạc, ở thôn Ba Hương, xã Trà Đông, huyện Bắc Trà My (Quảng Nam), dù chỉ một vợ một chồng (theo luật hôn nhân và gia đình), chỉ tiêu của nhà nước được có 2 con, nhưng anh chị đã “vượt rào” đẻ một hơi 14 đứa con. Anh Nam nói: “bởi vì ở cái đất ni nhà ai thiếu sức người thì khó làm ăn lắm” (Huỳnh Văn Mỹ, báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần số 1585, ngày 20/4/2014).

Cho tới cuối thời nhà Nguyễn (1945), giấy giá thú vẫn còn để những dòng chữ bằng ba thứ tiếng: Hán, Việt, Pháp:

- Vợ chính hay vợ lẽ.

- Nếu là vợ lẽ thì vợ chính có đồng ý không?

Và cho tới ngày nay, luật pháp của các nước Hồi giáo vẫn cho phép một người đàn ông được cưới 4 vợ chính thức!

Người Công giáo sống trong các nước Hồi giáo hoặc sống trong thời đại phong kiến xa xưa thì dù luật pháp có cho phép họ cũng vẫn sống lý tưởng của đạo là một vợ một chồng cho dù có rơi vào những hoàn cảnh éo le như là không có con hoặc chỉ có con gái cũng không được phép lấy thêm vợ.

Một trong những trở ngại lớn cho vấn đề truyền giáo tại Việt Nam nói riêng và các nước Đông Nam Á nói chung là vấn đề những người đa thê mà trở lại đạo Công giáo thì buộc phải bỏ các vợ khác, chỉ chọn một vợ chính thức mà thôi. Đúng là ngược đời!

2.2 Vấn đề ly dị và tái hôn:

Đã có hôn nhân thì cũng nảy sinh ly dị, xã hội nào cũng có và ngày nay luật pháp của tất cả các nước trên thế giới (trừ nước Vatican), đều chấp nhận ly dị và tái hôn. Ngôi sao điện ảnh nổi danh Liz Taylor đã ly dị và tái hôn tới 8 lần! Người Công giáo chân chính thì dù hoàn cảnh nào đi nữa cũng không ly dị và tái hôn, vì “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Đúng là ngược đời!

2.3 Vấn đề hôn nhân đồng tính:

Một số nước trên thế giới đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính. Việt Nam thì còn đang thăm dò, chính thức thì chưa cho phép nhưng nơi này nơi kia tổ chức những đám cưới đồng tính thì chính quyền làm thinh, xã hội thì có người phản đối, có người ủng hộ mà xem ra phe ủng hộ thắng thế. Trong một chương trình trên truyền hình cách nay vài năm, người viết có theo dõi, sau đám cưới hai người đồng tính nữ tổ chức rình rang ở Hà Nội (đám cưới đồng tính nữ công khai đầu tiên), một bà thạc sĩ tâm lý chuyên tư vấn hôn nhân và gia đình đã phát biểu trên truyền hình lập trường ủng hộ của mình, bà không tiếc lời ca ngợi đôi hôn nhân đồng tính đó đã mạnh mẽ, can đảm vượt qua mọi rào cản của gia đình và dư luận xã hội,… (đại khái là như vậy, hẳn trên cả nước và cả thế giới nhiều người xem buổi tường thuật này chứ không chỉ mình người viết).

Hôn nhân đồng tính, một vấn đề mà luật hôn nhân và gia đình Việt Nam chưa chính thức thừa nhận nhưng đã chấp nhận tình trạng sống chung như một hợp đồng. Trong Nam, ngoài Bắc báo chí có đưa tin những cuộc hôn nhân đồng tính được tổ chức công khai. Btv. Nguyễn Huệ và Trung Hiếu (báo Công Lý Trái Tim số 23 ngày 29/9/2014) cho biết: Đám cưới đồng tính nam đầu tiên giữa Nguyễn Hoàng Bảo K. và Trương Văn H. được tổ chức tại Hà Tiên (Kiên Giang) ngày 16/5/2012. Sau đó nơi này, nơi kia vẫn tổ chức đám cưới đồng tính nam hay nữ, cũng không thấy ai tới “dẹp”, có nghĩa là vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ.

Kể từ ngày 12/11/2013, Chính phủ đã chính thức mở cửa cho việc sống chung giữa những người đồng giới. Theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật hôn nhân và gia đình khi đề cập tới hôn nhân đồng giới thì sẽ không còn việc loại bỏ kết hôn giữa người cùng giới tính. Điều này đồng nghĩa với việc tổ chức tiệc cưới (nhưng không đăng ký kết hôn) giữa những người thuộc giới tính thứ ba là hoàn toàn hợp pháp và không bị xử phạt hành chính như trước đây. Thêm vào đó, những cặp vợ chồng đồng tính sẽ có quyền sống chung và tự do sinh hoạt trong cộng đồng.

Ngày 19/6/2014, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự thảo Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi). Đạo luật vừa được thông qua đã bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Và trong luật cũng quy định rõ Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Tuy nhiên, đây là một điều đáng mừng cho những người thuộc giới tính thứ ba. (Nguyễn Huệ - Trung Hiếu, báo Công Lý Trái Tim số 23 ngày 29/9/2014).

Một vài nơi còn đối xử rất khắc nghiệt với người đồng tính. Tại Uganda (châu Phi), trước đây quan hệ đồng tính bị kết án tử hình. Ngày 24/2/2014, tổng thống Uganda, Yoweri Museveni ký luật phạt tù chung thân những người quan hệ đồng tính (Báo KTNN số 872, ngày 01/11/14).

Người Công giáo chân chính không bao giờ đặt vấn đề hôn nhân đồng tính, vì nó trái với luật tự nhiên của Chúa và luật Giáo hội. Không bao giờ được phép có lời lẽ, bài viết hay thái độ ủng hộ hôn nhân đồng tính nói riêng, và tất cả những gì trái với luật lệ và truyền thống của Hội thánh nói chung.

Nửa đêm 24/6/2011, Thống đốc bang New York, Andrew Cuomo người Công giáo, chính thức ký thành luật hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính. Ngày 26/6, hàng ngàn người xuống đường ăn mừng. Theo Reuters, sẽ có 21.000 đôi kết hôn đồng tính ở các nơi khác đến New York để kết hôn. Bà Laura Fotusky, người Công giáo, thư ký tòa án quận hạt Barker thuộc phía tây New York, chính thức từ chức để phản đối luật này. Bà không muốn chữ ký của bà trên tờ hôn thú đồng tính: “Nếu tôi tham gia vào tiến trình cấp giấy phép, tôi phải dung hòa nguyên tắc luân lý của tôi” (Lm. Bùi Công Huy – Ns. CG&DT số 239 tháng 11/2014, trang 21).

Trường hợp một người Công giáo chẳng may rơi vào tình trạng á nam, á nữ thì có thể nhờ y học giải phẩu để xác định rõ phái tính (đây chỉ là làm rõ phái tính chứ không phải chuyển giới theo nghĩa đen). Vạn bất đắc dĩ không thể giải quyết được thì tự nguyện chấp nhận cuộc sống độc thân theo tinh thần của Tin Mừng: “Có những người không thể lập gia đình vì khuyết tật bẩm sinh, vì bị người ta thiến, nhưng cũng có những người tự nguyện sống độc thân vì Nước Trời” (Mt 19,10-13).

Họ có thể hiến thân cho các công việc từ thiện bác ái (tất cả Ban Giám đốc và các nhân viên phục vụ tổ chức làng SOS trên toàn thế giới, một tổ chức chăm sóc các trẻ mồ côi phải nói là tốt nhất, uy tín nhất trên thế giới, toàn là những người tự nguyện độc thân). Họ có thể nhận một, hai đứa con nuôi, liên hệ bạn bè gần xa, sinh hoạt trong các nhóm văn hóa nghệ thuật… chứ không giải quyết cuộc đời bằng hôn nhân đồng tính. Đây cũng sẽ là điều ngược đời!

2.4 Vấn đề chuyển giới tính:

Đó là một chuyện một người con trai 100% nay muốn trở thành con gái, hoặc ngược lại. Họ sẽ nhờ phẫu thuật để thực hiện điều đó. Các nước tiên tiến trên thế giới đều có dịch vụ này. Việt Nam hiện nay chưa có nhưng Thái Lan là “Thiên Đường” của dịch vụ chuyển giới. Việt Nam hiện nay có nhiều người chuyển giới nhờ các dịch vụ ở Thái Lan, họ đang gặp rắc rối về vấn đề lý lịch. Báo Thanh Niên ngày 30/8/2014, trang 14-15 có bài “Những công dân bốn không” của Btv. Như Lịch – Ngọc Bi, trong đó có đoạn viết như sau: “Ngoài những người chuyển giới hoạt động trong lãnh vực nghệ thuật, không ít thanh thiếu niên đường phố là người đồng tính, chuyển giới lo âu về tình trạng không có giấy tờ tùy thân, không việc làm, không nơi tạm trú, không được đi học”.

Ca sĩ chuyển giới Cindy Thái Tài trải lòng: “Từ những năm 14-16 tuổi, tôi không dám đi làm CMND vì nghĩ rằng mình nam không ra nam, nữ không ra nữ, sau đó tôi nhận thấy phải có CMND mới có được quyền nhân thân”. Còn người mẫu, diễn viên Lan Phương thì tâm sự: “Việc mang ngoại hình phụ nữ nhưng giấy tờ lại là đàn ông khiến chúng tôi hết sức bất lợi”.

Cũng trên báo Thanh Niên nói trên, Btv. Thái Sơn cho biết: “Một trong những tín hiệu vui cho người chuyển giới là trong dự thảo sửa đổi bộ luật dân sự năm 2005 do Bộ Tư pháp chủ trì đã đưa ra quy định cho phép thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới tính, và dự kiến sẽ trình Quốc hội cho ý kiến vào tháng 10 tới”.

Trên báo Đời Sống Hôn Nhân ngày 21/8/2014, trang 18, Btv. Đường Thảo có bài: Người đầu tiên được công nhận thay đổi giới tính ở Việt Nam: “Phạm Lê Quỳnh Trâm (30 tuổi) quê ở Bình Phước… gần 3 năm sau khi phẫu thuật chuyển giới, cô được UBND tỉnh Bình Phước ra quyết định xác định lại giới tính từ nam thành nữ và chuyển từ tên Phạm Văn Hiệp sang tên Phạm Lê Quỳnh Trâm ”.

Nhận định:

Theo lương tâm Công giáo thì trường hợp một trẻ sinh ra “á nam, á nữ”, cha mẹ có thể nhờ y khoa xác định xem em bé nghiêng về giới tính nào nhiều hơn rồi dùng phẫu thuật, dùng các hormon để xác định hẳn giới tính là nam hay nữ. Còn trường hợp đã rõ ràng là nam hay nữ 100%, bây giờ thích đổi giới tính nên nhờ phẫu thuật tạo bộ phận sinh dục giả để đạt sở thích thì vi phạm luật Chúa: hủy hoại thân thể toàn vẹn, lành lặn đổi lấy những bộ phận giả tạo mà không có lý do chính đáng, đồng thời những người này có kết hôn thì hôn phối cũng không thành.

2.5 Vấn đề hiến tặng và kinh doanh mầm sống là trứng và tinh trùng:

Báo Thanh Niên ngày 12/8/2014: Theo bác sĩ Hồ Mạnh Tường, về quy định, người cho trứng không quá 35 tuổi (nhằm đảm bảo trứng tốt, khỏe), không có bệnh truyền qua đường tình dục, bệnh truyền nhiễm, có sức khỏe tốt… Việc lấy trứng phải vào bệnh viện hoặc các trung tâm có chuyên khoa điều trị hiếm muộn vô sinh để làm các thủ tục, và các thủ thuật đúng quy định, quy trình, trong đó có việc hai bên làm cam kết việc cho – nhận trên tinh thần tự nguyện, không mua bán. Các phòng mạch, ngay cả phòng mạch của bác sĩ sản khoa, cũng không được lấy trứng. Hai người cho và nhận trứng được phép biết nhau (khác với cho tinh trùng, người cho và nhận quy định không được biết nhau) . (Đỗ Trường – Thanh Tùng).

Việt Nam chưa có ngân hàng trứng phụ nữ nhưng đã có ngân hàng tinh trùng từ lâu rồi. Đã có ngân hàng tức là luật pháp đã cho phép lưu trữ tinh trùng để thực hiện thụ thai trong ống nghiệm. Tại Việt Nam có cả ngàn trẻ đã chào đời do kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Đối với người Công giáo chân chính, việc hiến, tặng trứng, tinh trùng hoặc việc ký gửi ngân hàng để sử dụng lúc nào tùy ý là sai luật Chúa và Hội thánh. Kinh doanh mầm sống (mua, bán) càng nặng tội hơn.

Luân lý đạo Chúa dạy: Chúa là chủ của sự sống, “Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử”, việc sinh sản phải theo tiến trình tự nhiên là vợ chồng kết hợp rồi sinh con. Không thể dùng kỹ thuật khoa học tạo bào thai mà loại bỏ sự kết hợp vợ chồng: Giới hạn khoa học kỹ thuật chỉ dừng lại ở việc giúp khai thông những bế tắc của tiến trình tự nhiên. Ví dụ người vợ tắc vòi dẫn trứng, có thể phẫu thuật khai thông, bị u nang buồng trứng có thể phẫu thuật cắt bỏ u nang và chữa lành buồng trứng. Người chồng tinh yếu có thể dùng thuốc kích thích cho mạnh, để rồi vợ chồng ăn ở tự nhiên mà sinh con. Tất cả những việc thụ tinh ống nghiệm dù noãn, tinh là của chính vợ chồng, việc sử dụng tinh của người khác hay noãn của người khác đều bị cấm ngặt, kể cả những bác sĩ, những y tá thực hiện việc thụ tinh ống nghiệm đều mắc lỗi.

Có con là mục đích tốt nhưng đòi phương tiện phải tốt là sự kết hợp vợ chồng. Ngoài phương tiện này, tất cả đều phi luân lý Công giáo.

Nhận định:

o Trong hôn nhân, ngoại tình là một tội rất nặng, đối với Do Thái và Hồi giáo, tội ngoại tình bị kết án tử hình bằng cách ném đá cho chết.

Một phụ nữ có chồng mà có thai với người đàn ông không phải chồng mình tức là ngoại tình, đứa con đó là con ngoại hôn. Trường hợp ngược lại cũng tương tự, tinh trùng của chồng nhưng trứng của người phụ nữ không phải vợ mình thì cũng là một hình thức ngoại tình. Trường hợp dùng một phôi mà trứng và tinh đều của người khác, không phải của vợ hay chồng thì người vợ đó chỉ là người đẻ mướn.

o Trường hợp thụ tinh ống nghiệm mà “chất liệu” hoàn toàn của đôi vợ chồng cũng vẫn không được phép vì trái luật tự nhiên của Chúa, hơn nữa còn có yếu tố giết người trong quá trình thụ tinh ống nghiệm. Vì thụ tinh ống nghiệm luôn đa phôi, cần phải chọn lọc phôi nào mạnh thì cấy vào tử cung người mẹ, các phôi khác phải hủy đi. Giáo lý đạo Chúa dạy ngay từ khi tinh và noãn kết hợp phát triển thành phôi thì đã là người có linh hồn và thân xác rồi. Hủy phôi dư, yếu là phá thai, là giết người. Để sinh một đứa con mà lại giết đi bốn hoặc năm đứa khác, lương tâm ngay chính cho phép làm như vậy không?

o Vấn đề thụ tinh ống nghiệm làm nảy sinh nhiều chuyện tiêu cực khác, cụ thể là chuyện mua bán tinh, trứng:

Báo Thanh Niên ngày 12/8/2014 có bài “Điều tra vụ mua bán trứng phụ nữ” của Btv. Đỗ Trường & Thanh Tùng: Ngày 11/8/2014, công an thị xã Thuận An (Bình Dương) cho biết đang tạm giữ hình sự Nguyễn Thị Phương Thảo (32 tuổi ngụ tại Tp.HCM), để điều tra về hành vi chống người thi hành công vụ đồng thời mở rộng điều tra hành vi môi giới mua bán trứng phụ nữ.

Báo Thanh Niên ngày 26/8/2014 có bài “Hoa hậu cũng bán trứng” của Btv. Vinh Sơn: Bên cạnh mang thai và sinh hộ, bán trứng hoặc tinh trùng cũng là “ngành” ăn nên làm ra trong dịch vụ đẻ thuê ở Thái Lan. Khách hàng rất đa dạng: các cặp vợ chồng hiếm muộn, những người muốn đơn thân có con, các cặp đồng tính… Theo tờ The Nation, khách hàng đặc biệt là người nước ngoài rất thích trứng của “hot girl” người đẹp vì muốn con sau này sẽ đẹp giống họ trong khi tinh trùng thì phải của người tốt nghiệp đại học trở lên.

Trứng hoa hậu giá 700 triệu (theo tờ báo The Nation). The Nation dẫn lời một cô gái 25 tuổi giấu tên cho hay, thông qua một đường dây trọn gói, cô đã (bán trứng) góp phần sinh ra 7 đứa trẻ có cha đến từ Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Nhật Bản và cả Việt Nam, giờ thì cô đã ngưng bán trứng vì sợ… hết và chuyển sang làm cò, dắt mối cho các mỹ nhân khác cung cấp hàng cho các khách nước ngoài. Lại còn chuyện hàng giả, lừa gạt… Tờ báo Asian One dẫn lời một cô gái khác tự xưng tên là Irene cho biết nhờ khuôn mặt đẹp, thân hình thon gọn, cô chuyên làm đại diện nhãn hàng cho các Công ty kiêm bán trứng, cô từng bị một cựu y tá cầm đầu dịch vụ lừa đảo, quỵt tiền, bà này còn lợi dụng hình ảnh của cô để làm “hàng mẫu”. Cũng theo cô này, chuyện lừa gạt tráo trứng cũng đã từng xảy ra.

o Chuyện dùng tinh, trứng từ ngân hàng hoặc qua dịch vụ mua bán như vừa nêu trên, còn vi phạm trắng trợn nhân quyền và quyền của trẻ em. Đứa trẻ chào đời có quyền được hưởng tình cha nghĩa mẹ, mồ côi cha hay mẹ hoặc cả hai là nỗi bất hạnh lớn nhất mà nó phải chịu ngoài ý muốn của nó và của mọi người.

Ví dụ bố chết sớm, mẹ chết sớm hay cả bố và mẹ chết sớm do tai nạn, bệnh tật, chiến tranh… là nỗi đau, sự mất mát không gì bù đắp được nhưng ngoài ý muốn của đương sự và của mọi người. Không ai muốn một đứa trẻ phải sống cảnh mồ côi. Trẻ con còn quyền được giáo dục trong sự chân thật. Trường hợp xin trứng, mua tinh, thụ tinh nhân tạo… không đáp ứng được các quyền của đứa trẻ. Mua trứng, tinh ở ngân hàng cho thụ tinh rồi đẻ thì đứa trẻ bị người ta cố ý áp đặt tình trạng mồ côi của nó trước khi nó chào đời, và ngay cả những người liên hệ cũng không biết bố mẹ nó là ai. Suốt đời nó sẽ không được biết sự thật về nguồn cội của mình, nó luôn phải sống trong sự lừa gạt của kẻ được gọi là “cha, mẹ” nó và những người khác.

Trường hợp mẹ có trứng mà đi xin tinh người khác hay mua tại ngân hàng là tình trạng đứa bé bị áp đặt cảnh mồ côi cha. Trường hợp bố có tinh mà mua trứng của người khác là tình trạng đứa bé bị áp đặt cảnh mồ côi mẹ ngay từ giây phút đầu đời… đứa trẻ đó suốt đời sẽ sống trong sự lừa dối của người lớn. Đặt trường hợp sau này nó lớn lên, bằng cách nào đó nó biết được tình cảnh thật của nó, nó sẽ nghĩ gì và tâm lý nó sẽ ra sao?

Kết luận vấn đề thụ tinh ống nghiệm để giúp cho các đôi vợ chồng hiếm muộn có một mụn con xem ra có vẻ nhân đạo được xã hội ủng hộ nhưng sự thật đó là một điều trái đạo Chúa và trái đạo lý làm người. Do đó người tín hữu chân chính không bao giờ làm cho dù cả thế giới vẫn làm. Rõ là ngược đời!

Đài truyền hình VTV1, 12g ngày 18/10/2014 đưa tin: Hai tập đoàn Apple và Facebook đã bắt đầu thực hiện chương trình hỗ trợ 20.000USD cho nữ công nhân để đông lạnh trứng hầu có thể sinh con vào thời điểm mình muốn nhờ thụ tinh ống nghiệm. Mục đích của các Công ty này là để các công nhân nữ yên tâm cống hiến sức lao động cho Công ty không còn phải bận tâm về vấn đề sinh đẻ và nuôi con.

(Đây chẳng qua là một hình thức vắt kiệt sức lao động nữ để làm lợi cho Công ty).

Người Công giáo không thể nhận hỗ trợ kiểu này.

2.6 Vấn đề ngừa thai:

Theo Thông điệp “Sự sống con người” (Humanae Vitae) của Đức Thánh Cha Phaolô VI, các vợ chồng Công giáo phải sinh đẻ có trách nhiệm và phải tuyệt đối tôn trọng sự sống ngay từ những giây phút đầu tiên.

Ai cũng đồng ý rằng thời buổi này khó khăn nhiều mặt: dân số tăng nhanh, lương thực cạn kiệt, không gian sống và sinh hoạt bị hạn chế và muôn vàn vấn đề xã hội khác phát sinh khi người ta quá đông, nơi ở lại chật chội... Sinh con là một việc cần thiết nhưng nuôi con khỏe, dạy con ngoan sau này thành công dân tốt và tín hữu tốt là việc quan trọng hơn.

Vợ chồng tính toán dự trù số con phù hợp với khả năng nuôi dạy của mình là điều tốt đẹp phải làm nhưng phương thế nào đây để không vỡ kế hoạch là điều dằn vặt lương tâm vợ chồng.

Theo xã hội thì quá đơn giản và dễ dàng chỉ cần sử dụng những phương tiện khoa học cung cấp là bảo đảm đúng dự trù, đối đế có vỡ kế hoạch thì đã có những biện pháp phá thai đủ kiểu từ viên thuốc postinor cho tới điều hòa rồi hút nạo... (hoàn toàn hợp pháp).

Còn theo Chúa và Giáo hội thì chỉ được dùng phương pháp hợp với tiến trình tự nhiên mà thôi. Dĩ nhiên phương pháp tự nhiên tốt cho sức khỏe nhưng lại không hiệu quả lắm. Muốn hiệu quả 90% thì những ngày “kiêng khem” hơi bị nhiều, mấy vợ chồng nào giữ được!

Ngày thứ tư trong Thượng Hội đồng các Giám mục Roma về gia đình (từ 5-19/10/2014) các nghị phụ đã nghe cặp vợ chồng Arturo – Hermelinda As Zamberline (Brazil) chia sẻ về những khó khăn trong việc áp dụng phương pháp tự nhiên nhằm sinh đẻ có kế hoạch nên nhiều cặp vợ chồng trẻ đã tìm đến biện pháp khác mà không lưu tâm đến khía cạnh luân lý của việc sử dụng này. Ông bà có 3 con và 1 cháu nội, hiện ông bà đang hoạt động trong Hội Đức Bà ở Brazil. Hội này có mặt tại 70 quốc gia, số hội viên là 137.000 người, riêng tại Brazil là 45.500 người. Hội Đức Bà là một phong trào thăng tiến hôn nhân và gia đình có mục đích cổ võ việc học hỏi và thực hành những nguyên tắc trình bày trong thông điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae).

Ông bà Oliver Christilla Roussy (Pháp) kết hôn 20 năm hiện có 7 con. Họ đã trải qua những ngày tháng rất khó khăn trong việc chọn biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Ông bà rút ra kết luận: “Ta có thể sống đời sống tính dục và sinh con theo chương trình của Thiên Chúa đã xếp đặt (biện pháp tự nhiên) trong niềm tin và phó thác nơi Chúa, không theo cái logic của chủ nghĩa tiêu thụ và ích kỷ của thế gian”.

(Kế hoạch theo tự nhiên là điều khó vì đòi vợ chồng phải tiết dục cách nghiêm ngặt nhưng là Kitô hữu chân chính, chúng ta sẵn sàng chấp nhận, không có lựa chọn nào khác).

2.7 Vấn đề phá thai:

A. Khi nào phôi là người?

Đây là vấn đề lớn, ngay trong giới khoa học cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo giáo huấn của Giáo hội Công giáo thì phôi người ngay từ lúc trứng thụ tinh đã khởi đầu sự sống của một con người, là một thụ tạo đặc biệt cao quý gồm hai phần: xác do tinh của cha và noãn của mẹ kết hợp với nhau mà tạo ra. Còn linh hồn được Chúa trực tiếp dựng nên cho kết hợp với xác đó. Vì thế phôi phải được tôn trọng và đối xử như một con người, nhân quyền của phôi phải được nhìn nhận.

Bộ Giáo Lý Đức Tin dạy: “Từ lúc trứng thụ tinh một đời sống mới bắt đầu, không phải của người cha cũng không phải của người mẹ, đúng hơn là một con người mới với khả năng tăng trưởng riêng của mình. Hữu thể người này không bao giờ có thể là người nếu nó không phải đã là người” (Declaration on Procured Abortion, 12). “Khoa sinh học con người nhìn nhận rằng trong hợp tử phát xuất từ trứng thụ tinh, căn tính sinh học của một cá thể người mới đã được cấu thành” (Huấn Thị Donum Vitae – DV.1,1). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích thêm: “Bộ gen di truyền xuất hiện như yếu tố cấu thành và tổ chức của cơ thể... nó có ảnh hưởng quyết định trên cấu trúc của sự hiện hữu thể lý từ lúc khởi đầu thụ tinh cho đến lúc chết tự nhiên (người mẹ chỉ bảo vệ và cung cấp chất dinh dưỡng cho phôi chứ không chủ động tạo ra mắt, mũi, tim, gan, tay, chân, móng tay, móng chân của thai nhi). Chính vì vậy mà Giáo hội có bổn phận bảo vệ phẩm giá của mỗi người ngay từ lúc khởi đầu sự hiện hữu của người ấy” (L'Observatore Romano 25/2/1998, 5).

B. Định nghĩa phá thai.

Phá thai là sự giết cố ý và trực tiếp một con người trong giai đoạn khởi đầu sự hiện hữu từ khi thụ thai cho đến khi sinh ra, thực hiện bằng bất cứ phương tiện nào” (Evangelium Vitae – EV.S.58).

Việc phá thai trong bối cảnh luân lý của nó bao gồm cả giai đoạn giữa khi trứng thụ tinh và phôi thai làm tổ” (S.45).

Theo Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ: “Phá thai là việc trực tiếp và cố ý kết thúc việc mang thai” (Các chỉ dẫn đạo đức và tôn giáo cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe Công giáo).

Có hai loại chấm dứt thai kỳ:

§ Loại 1 : trực tiếp giết phôi thai bằng bất cứ phương tiện nào để chấm dứt thai kỳ như đã định nghĩa ở trên.

§ Loại 2 : do ảnh hưởng của thuốc chữa bệnh người mẹ mang thai hay do tác động chữa trị (như cắt u, xơ...) mà phôi thai bị ảnh hưởng, thai kỳ phải chấm dứt (chủ ý chữa bệnh chứ không chủ ý giết phôi thai, cũng không phải cố ý lựa chọn giết con để cứu mẹ).

Trường hợp này có thể xảy ra khi người mẹ đang mang thai mà bị bệnh nguy hiểm như ung thư máu, ung thư vú, u xơ buồng trứng, tử cung... cần phải dùng thuốc đặc trị ung thư, nhưng thuốc đặc trị lại có ảnh hưởng xấu tới phôi thai.

Trường hợp này cũng có thể xảy ra khi thai ngoài tử cung mà lại gây viêm nhiễm, vỡ, bể đến nỗi phải cắt bỏ những bộ phận ấy, như trường hợp thai làm tổ ở ống dẫn trứng gây vỡ ống, thay vì làm tổ ở niêm mạc tử cung. Có khi thai ở cổ tử cung, thai ở buồng trứng, thai trong ổ bụng và có cả trường hợp trong gan (rất hiếm, tỷ lệ 1/10.000 ca thai ngoài tử cung. Việt Nam cho tới nay ghi nhận 3 ca: 1 ở Huế, 1 ở Tp.HCM sản phụ được cứu sống do phát hiện sớm, 1 ca ở Kiên Giang tử vong trong khi phẫu thuật lấy thai. Năm 2003 một thai nhi người Nam Phi đã lớn lên trong gan mẹ đến lúc ra đời song cho đến nay đây là trường hợp may mắn đầu tiên và duy nhất).

C. Quan điểm của Giáo hội Công giáo

về vấn đề phá thai.

1. Phá thai trực tiếp, chủ ý bất cứ bằng phương tiện nào đều là tội ác chống lại Thiên Chúa và loài người. Tình trạng phá thai trên thế giới càng ngày càng gia tăng. Việt Nam là đất nước vốn có truyền thống hiếu sinh lâu đời của Phật giáo nhưng rất tiếc ngày nay cũng theo trào lưu thế giới phá thai rất nhiều và với đủ mọi lý do.

Theo báo cáo ngày 11/7/2014 của Hội Kế hoạch hóa gia đình VN, tỷ lệ phá thai sớm là 300.000 ca/năm, chiếm 20%, còn 80% là phá thai muộn, cao nhất so với các nước Đông Nam Á và xếp thứ 5 so với thế giới (Hoàng Mai – “Tỷ lệ phá thai VN cao nhất Đông Nam Á”, 11/7/2013, http.tuoitre.vn/chinhtrixahoi/song-khoe/558619/300.000-ca-nam-ti-le-pha-thai-cua-VN-cao-nhat-dong-nam-a.html). Những con số “biết nói” này khiến những ai “có cái tâm” cũng phải băn khoăn.

2. Phá thai trực tiếp với các lý do sau:

ü Phá thai trị liệu tức là chấm dứt thai kỳ do sức khỏe của thai phụ cũng gọi là vì ly do y khoa. Hành động này thường được hiểu là phá thai để bảo tồn sức khỏe và tính mạng của mẹ.

Phải nhìn nhận khuynh hướng thông thường khi có nguy cơ không cứu được cả mẹ lẫn con thì người ta thường chọn giết con để cứu mẹ. Kiểu này cũng được gọi là phá thai “trị liệu”.

ü Phá thai kế hoạch: Nghiêm trọng hơn nữa phá thai được tuyên truyền giảng dạy chính thức như là một trong những biện pháp kiểm soát dân số, gọi là “phá thai kế hoạch”. Người ta còn “phá thai kế hoạch” trong trường hợp có thai ngoài ý muốn do lỡ lầm, quan hệ ngoài hôn nhân, khó khăn kinh tế, thai phụ nhỏ tuổi hay bị hiếp dâm... (sách Sản Phụ Khoa, Nxb. Y Học chi nhánh Tp.HCM, 2011, tập 2, trang 1013-23). Có khi phá thai vì chưa muốn (do học tập, công tác, thăng tiến nghề nghiệp...) (Sản Phụ Khoa, tập 2, trang 1013-23).

ü Phá thai chọn lọc hay ưu sinh: Các nước trên thế giới cũng như VN ngày nay chấp nhận và ngay cả khuyến khích phá thai khi phát hiện khuyết tật, có khi chọn lọc giới tính (ở VN, Trung Quốc, Ấn Độ... hàng triệu thai nhi gái bị giết mỗi năm).

Chương trình truyền hình VTV1 lúc 12g ngày 28/9/2014 chiếu hình ảnh một cuộc tuần hành lớn chống mất cân bằng giới đòi quyền bình đẳng của con trai hay con gái được sinh ra “cách tự nhiên” (không có lựa chọn giới tính) được nuôi dưỡng và được giáo dục.

Thống kê tỷ lệ nam/nữ hiện nay là 114 bé trai/100 bé gái. Dự báo tới năm 2050 sẽ có hơn 3 triệu thanh niên không tìm được vợ và sẽ nảy sinh nạn buôn bán phụ nữ, bắt cóc và nhiều tệ nạn khác.

Báo Thanh Niên ngày 14/9/2014 cũng đưa tin tương tự và dự báo số đàn ông dư thừa từ 2,3 – 4,3 triệu người vào năm 2050. Trung Quốc đi đầu với chính sách nghiêm ngặt mỗi gia đình 1 con. Với tâm lý chung cần con trai nối dõi tông đường “rất nhiều gia đình Trung Quốc đã lựa chọn giải pháp phá thai khi xác định được thai nhi là gái” (Lan Chi).

Số liệu cho biết đồng bằng sông Hồng 115,4 trai/100 gái, Trung Quốc 117,6 trai/100 gái. Có nơi 130 trai/100 gái.

Ngoài ra ngày nay “bùng nổ” việc thụ tinh ống nghiệm. Đa thai là hậu quả của thụ tinh nhân tạo, để bảo đảm thai phát triển tốt, người ta đã loại bỏ các phôi yếu hay khuyết tật, thậm chí phải hủy bớt những phôi khỏe mạnh để bảo đảm sự phát triển tốt của một thai còn lại, người ta quen gọi “phá thai chọn lọc”.

ü Phá thai ngoài tử cung: Thông thường phôi làm tổ và lớn lên ở nội mạc thân tử cung, nếu phôi làm tổ ở bất cứ nơi nào ngoài tử cung là thai ngoài tử cung. Y khoa xử lý thai ngoài tử cung bằng cách loại bỏ bào thai nhằm mục đích giảm tối đa tỷ lệ tử vong cho thai phụ (các trường hợp thai ngoài tử cung đã nói ở trên).

Luân lý Công giáo không cho phép chọn lựa giết con để cứu mẹ hay giết mẹ để cứu con, trường hợp song sinh dính nhau cũng không được phép giết một đứa trẻ để cứu đứa kia.

Với các trường hợp thai ngoài tử cung cũng không được phép trực tiếp, chủ ý giết phôi thai bằng cách chích thuốc methotrexate hoặc dùng phẫu thuật cắt bỏ phôi thai.

Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ tóm kết nguyên tắc xử trí thai ngoài tử cung như sau: “Không can thiệp nào được coi là hợp luân lý nếu như gây ra việc phá thai trực tiếp” (HĐGM Hoa Kỳ, Ethical and religious Directives for Catholic Health cara services fifth Edition, tháng 11/2009, n.48).

Nhưng nếu vì chữa bệnh cho thai phụ mà do tác dụng phụ của thuốc đặc trị (thí dụ thai phụ bị ung thư buộc phải xạ trị hay hóa trị) mà phôi thai bị sẩy hay trường hợp tử cung bị ung thư mà buộc phải cắt bỏ, trong đó có phôi thai, phần vòi dẫn trứng bị bể phải cắt đi trong đó có phôi... thì không phải là trực tiếp giết thai nhi mà chủ đích là chữa bệnh và cắt đi một phần cơ thể nhiễm bệnh đến độ không thể duy trì được. Đây là việc chấm dứt thai kỳ cách gián tiếp và được luân lý Công giáo chấp nhận (trường hợp thai dị tật, không bao giờ được phép phá bỏ).

Thông thường các bác sĩ hiện nay hễ phát hiện thai bị dị tật, thai ngoài tử cung là họ yêu cầu hủy thai. Người Công giáo phải tỉnh táo phân biệt giải pháp nào có thể chấp nhận, giải pháp nào không thể chấp nhận. Nếu bối rối không phân biệt được hãy tìm đến các linh mục và những chuyên gia Công giáo để tư vấn.

Dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn đến đâu, chính sự kiện phá hủy sự sống con người vô tội, đặc biệt là khi sự sống ấy còn chưa có khả năng bảo vệ chính mình, vẫn luôn là sự xấu nghiêm trọng” (x. EV 18,58).

Đồng cảm với thử thách mà nhiều cặp vợ chồng phải đối phó, Giáo hội thừa nhận đôi khi cần nhân đức “anh hùng” để tuân giữ các chân lý luân lý vốn gắn liền với Đức tin về phẩm giá nội tại của con người.

Điều đáng lo ngại hơn ở đây là ngày nay vấn đề vượt ra ngoài khuôn khổ các hoàn cảnh tự nhiên riêng tư mà tồn tại ở tầm mức văn hóa, xã hội, chính trị và ở triết lý sống nền tảng, quan niệm về tự do. Thái độ chọn lựa chống lại sự sống ngày nay càng được chấp nhận như là tự do cá nhân (x. EV 18).

Hệ thống giá trị luân lý đã và đang bị đảo lộn, giá trị vật chất, tiện lợi được đặt lên trên giá trị tinh thần và giá trị thiêng liêng.

Chúng ta đang đứng trước đe dọa khổng lồ về khuynh hướng chống lại sự sống: Không chỉ sự sống cá nhân mà còn của chính nền văn minh”. Chúng ta đang đứng trước những điều có thể gọi là “cơ cấu của tội lỗi chống lại sự sống con người chưa sinh ra” (EV 3.39).

Giáo hội ủng hộ các tiến bộ y khoa phục vụ sự sống tuy nhiên lịch sử y khoa cho thấy nhiều lần các tiến bộ sinh học thay vì phục vụ sự sống lại quay ra hủy hoại sự sống nhân danh một cuộc sống hạnh phúc hơn. Thí dụ việc chẩn đoán tiền sản thay vì phát hiện sớm khiếm khuyết của bào thai để chữa trị lại trở thành cơ sở sàng lọc chỉ chấp nhận bào thai khỏe mạnh, loại bỏ ngay sự sống bị khiếm khuyết, tật nguyền hay bệnh tật nào đó” (EV 14).

Ngày nay các cặp vợ chồng có khuynh hướng chọn lựa phương pháp ngừa thai khoa học nhân tạo; Kể cả những biện pháp phá thai sớm nhất như là vòng xoắn postinor RU 486 (mifestad 5mg) hoặc “điều hòa” để tận hưởng “hạnh phúc lứa đôi” không bận tâm vấn đề thai nghén.

Về trách nhiệm luân lý của việc cố ý phá thai hiệu quả. Những người Công giáo tham gia trực tiếp hay gián tiếp đều phạm tội nặng và bị vạ tuyệt thông tiền kết.

Tại Tây Ban Nha: Nhiều luật sư ký tuyên bố ủng hộ quyền của thai nhi – Trong những ngày vừa qua hơn 280 luật gia Tây Ban Nha ký tên kêu gọi bảo vệ quyền căn bản của các thai nhi. Lời kêu gọi trong tuyên bố nói trên đã được đề ra trong khuôn khổ các giới trí thức tại Madrid và Barcelona, được truyền đi qua mạng Internet. Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, đã có hơn 280 luật gia tên tuổi ký tên ủng hộ. Trong số này, có hơn 100 giáo sư thuộc 39 đại học Tây Ban Nha, cùng với nhiều nghị sĩ và nhân vật nổi bật trong ngành lập pháp và hành pháp. Các luật gia yêu cầu chú trọng đến việc nhìn nhận và bảo vệ các quyền căn bản của sự sống con người ngay cả trong giai đoạn tiên khởi của nó, khi còn trong lòng mẹ (Tuần báo Người Công Giáo VN số 1429 ngày 14/9/2014).

Báo Dân Chúa Âu Châu số tháng 5/2010 đưa tin về sự kiện bà Gioanna Molla được phong Hiển thánh. Thánh nhân sinh vào gần giữa thế kỷ 20, tháng 9/1955 thành hôn với P. Molla, một tín hữu đạo đức, 18 tháng sau sinh con đầu lòng. Năm 1957 sinh con thứ hai, năm 1959 sinh con thứ ba và cuối năm 1961 mang thai con thứ tư đồng thời có bướu trong tử cung. Bà từ chối giải pháp “bỏ thai”, và khước từ thuốc men và cách chữa trị có hại cho thai nhi. Bà phó thác hoàn toàn cho Chúa, chấp nhận đau đớn, nguy hiểm tính mạng, bằng mọi giá bảo vệ sự sống của con. Tháng 4/1962 Gioanna Emanuela chào đời mạnh khỏe nhưng 1 tuần sau người mẹ Joanna Molla qua đời. Giáo hội đã ghi nhận đời sống thánh thiện và đức can đảm anh hùng của bà trong việc bảo vệ sự sống, chống lại văn minh sự chết, đã tôn phong Chân phước cho bà vào năm 1994 và 2004 thì tuyên phong Hiển thánh, trước sự hiện diện của chồng và các con.

Tấm gương hy sinh của cô Caroline Aigle làm xúc động lòng người: Caroline, nữ phi công lái máy bay chiến đấu đầu tiên của không lực Pháp, đang được huấn luyện để trở thành phi hành gia vũ trụ, đã qua đời ở tuổi 33 còn nhiều mộng ước. Cô mang thai 5 tháng thì được biết mình bị ung thư, là một người Công giáo sống đức tin mạnh mẽ cô đã cầu nguyện cùng với chồng, anh Christopher Deketelaere. Caroline đã gạt bỏ lời khuyên phá thai của các bác sĩ, hơn nữa cô còn lựa chọn hoãn trị bệnh ung thư để không ảnh hưởng tới sự sống của thai nhi. Đầu tháng 8/2010 Caroline cho đứa bé chào đời sớm 3 tháng rưỡi tuy nhiên đứa bé vẫn phát triển tốt. Người chồng cho biết: “Caroline không thể ngưng một sự sống mà nàng đã cưu mang 5 tháng, nàng nói với tôi rằng: Đứa bé phải có cơ may mà em đã có”. Anh mô tả việc mang thai của Caroline như trận chiến sau cùng của cô và cô đã chiến thắng (Vietcatholic News 1/10/2007).

(Những gì liên quan tới thai, phá thai, được viết theo tư liệu của Nữ tu bác sĩ Trần Ý Lan, Hiệp Thông số 84 tháng 9-10/2014, trang 99-114).

Tại Thượng Hội đồng giám mục Roma (5-19/10/2014) ông bà George và Cynthia Campos (Philippines) chia sẻ khó khăn trong đời sống vợ chồng: “Khi mang thai đứa con thứ tư, các bác sĩ chuẩn thai bị tiểu đường và nhiễm độc máu, phải lựa chọn phá thai hay chịu nguy hiểm mạng sống của hai mẹ con, chúng con đã chọn theo ý Chúa. Cám ơn Chúa; mẹ tròn còn vuông và cháu Christen hiện nay khỏe mạnh, đầy sức sống” (Internet 18g, 20/10/2014).

(Còn tiếp)


Phụ Bản I

TỨ THƯ

Tứ thư và Ngũ kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách nầy vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ ở nước Trung Quốc.

Tứ thư (bốn sách) gồm có Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh tử.

1. Đại học là sách của bực “đại học” cốt dạy cái đạo của người quân tử. Sách chia làm hai phần:

- Phần đầu gọi là Kinh, chép lời đức Khổng tử!(1) có 1 chương.

- Phần cuối gọi là Truyện, lời giảng giải của Tăng tử!(2) là môn đệ của Khổng tử có 10 chương.

Mục đích của bực đại học hay tôn chỉ của người quân tử, đã tóm tắt ở câu đầu sách là: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Nghĩa là: “Cái đạo của người theo bực đại học là cốt làm sáng cái đức sáng (đức tốt) của mình, cốt làm mới (ý nói cải hóa) người dân, cốt dừng lại ở cõi chí thiện”. Vậy người quân tử trước phải sửa sang đức tính mình cho hay, rồi lo dạy người khác nên hay, và lấy sự chí thiện làm cứu cánh.

Mục đích đã vậy, phương pháp phải thế nào? Con người phải sửa mình trước (tu thân), rồi mới chỉnh đốn việc nhà (tề gia), cai trị việc nước (trị quốc) và làm cho cả thiên hạ được bình yên (bình thiên hạ). Phương pháp này phải tuần tự tiến hành là tự mình đến người ngoài, mà điều cốt yếu nhứt là việc sửa mình. Vì vậy trong Đại học có câu: “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bản”. (Từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy việc sửa mình làm gốc).

Vậy muốn sửa mình phải thực hành cách nào? Trước hết phải cách vật (thấu lẽ mọi sự vật), rồi phải trí tri (biết cho đến cùng), thành ý (phải thành thực), chánh tâm (lòng phải ngay thẳng). Thực hành bốn điều này thì sẽ tu được thân, rồi tề được nhà, trị được nước và bình được thiên hạ, mà làm tròn được cái đạo của người quân tử.

2. Trung dung là sách gồm những lời tâm pháp!(3) của đức Khổng tử do học trò ngài truyền lại, rồi sau thầy Tử Tư là cháu của ngài chép thành sách, gồm có 33 chương.

Thầy Tử Tư dẫn những lời Khổng Phu tử đã giảng về đạo trung dung, có cho rằng: Trung hòa là tính tình tự nhiên của trời đất mà trung dung là đức hạnh của con người. Trung là giữa, không lệch về bên nào; dung là thường, nghĩa là dùng đạo trung làm đạo thường(4). Muốn theo đạo này cốt phải có cái đạt đức: trí, nhân và dũng. Trí để biết rõ các sự lý, nhân để hiểu điều lành mà làm, dũng là có cái khí cường kiện mà thực hành theo điều lành cho đến cùng.

Đạo người là phải cố gắng để đạt đến bực chí thánh. Phải học cho rộng, xét hỏi cho kỹ, nghĩ ngợi cho sâu, biện biệt điều phải trái cho rõ và dốc lòng làm điều thiện cho đến cùng. Nếu ai làm được như thế thì ngu thành sáng, yếu thành mạnh, tức là dần lên đến bực chí thánh. Trong thiên hạ chỉ có bực chí thánh mới hiểu rõ cái tính của Trời. Biết rõ cái tính của Trời thì biết được cái tính của người. Biết rõ cái tính của người thì biết rõ cái tính của vạn vật. Biết rõ cái tính của vạn vật thì khả dĩ giúp được sự hóa dục của trời đất và có công ngang với trời đất vậy.

Sách Trung dung nói về đạo của thánh hiền vốn căn bản ở Trời, rồi giải diễn ra hết mọi lẽ, khiến cho con người phải giữ mình cho kính cẩn trong khi hành động và khi im lặng một mình.

Tóm lại, Trung dung thuộc về loại sách triết lý rất cao.

3. Luận ngữ là quyển sách chép những lời nói của đức Khổng tử khuyên dạy học trò, hoặc những câu chuyện của ngài nói với những người đương thời về nhiều vấn đề (luân lý, triết lý, chính trị, học thuật) do các môn đệ của ngài sưu tập lại.

Sách chia làm 2 quyển (thượng, hạ) gồm có 20 thiên (mỗi thiên lấy 2 chữ đầu đặt tên). Các chương không có liên lạc, hệ thống gì nhau.

Sách Luận ngữ có thể cho là quyển sách dạy đạo người quân tử một cách thực tiễn và mô tả tính tình, cử chỉ, đức độ của một đức Khổng tử, như phác họa một mẫu mực hoạt động cho người đời sau noi theo.

Sách nầy cho ta biết được nhiều câu cách ngôn xác đáng về đạo người quân tử. Còn cho ta thấy phẩm cách cao thượng (hồn hậu, thành thực, khiêm cung, khoái hoạt) của đức Khổng tử biểu lộ qua những chuyện ngài nói với học trò. Sách này chẳng những cho ta thấy được tình cảm phong phú và lòng ái mỹ mà còn là khoa sư phạm của Khổng tử. Trong những lời khuyên dạy chuyện trò với học trò, ngài tỏ ra là một ông thầy hiểu thấu tâm lý học trò và khéo làm cho lời dạy bảo của mình thích hợp với trình độ, cảnh ngộ của mỗi người. Có khi cùng là một câu hỏi mà ngài trả lời khác, tùy theo tư chất và khí hướng của từng người.

4. Mạnh tử là tên bộ sách do Mạnh tử(5) viết. Sách gồm có 7 thiên. Các chương trong mỗi thiên thường có liên lạc với nhau và cùng bàn một vấn đề.

Sách nầy cho ta nhận thức được tư tưởng Mạnh tử về các vấn đề:

Về luân lý, ông xướng lên thuyết tính thiện để đánh đổ cái thuyết của người đương thời (như Cáo tử) cho rằng tính người không thiện không ác. Theo ý ông, thiên tính con người vốn thiện, ví như tính nước vốn chảy xuống chỗ thấp; sở dĩ thành ác là vì làm trái thiên tính, ví như ngăn nước cho nó chảy lên chỗ cao.

Tính người vốn thiện nhưng vì tập quán, vì hoàn cảnh, vì vật dục làm sai lạc đi, hư hỏng đi, vậy cần phải có giáo dục để nuôi lấy lòng thiện, giữ lấy bản tính. Những điều cốt yếu trong việc giáo dục là: dưỡng tính (giữ lấy tính thiện), tồn tâm (giữ lấy lòng thanh), trì chí (giữ chí hướng cho vững), dưỡng khí (nuôi lấy khí phách cho mạnh). Và, ông thường nói đến phẩm cách của người quân tử mà gọi là đại trượng phu hoặc đại nhân. Bực này phải có bốn điều là: nhân, nghĩa, lễ và trí.

Về chính trị, ông cho rằng bực làm vua trị dân phải trọng nhân nghĩa chớ đừng trọng tài lợi thì mới tránh được sự biến loạn và chiến tranh. Ông cũng lưu tâm đến vấn đề kinh tế. Ông cho rằng người có hằng sản rồi mới có hằng tâm, nghĩa là người ta có của cải đủ sống một cách sung túc thì mới sinh ra có lòng tốt muốn làm điều thiện, và có phương tiện để thực hiện điều thiện ấy. Vậy bổn phận kẻ bề trên là phải trù tính sao cho tài sản của dân được phong phú, rồi mới nghĩ đến điều dạy dân và bắt dân làm điều hay được. Ông lại chỉ cho các vua chúa những phương lược để làm cho việc canh nông, mục súc, công nghệ của dân được phát đạt.

Mạnh tử không những là một nhà tư tưởng lỗi lạc mà còn là một văn gia đại tài. Văn của ông rất hùng hồn và khúc chiết. Ông biện luận điều gì cũng rạch ròi, sắc cạnh. Ông hay nói thí dụ. Muốn cho ai hiểu điều gì, muốn bắt ai chịu phục lẽ gì, ông thường dẫn những thí dụ mượn ở sự vật cho người ta dễ nhận xét. Ông lại thường dùng thể ngụ ngôn hoặc kể những câu truyện ngắn để diễn đạt tư tưởng cho người nghe vui thích và dễ nhận cái hàm ý của ông.

Tóm lại, bộ Tứ thư là bộ sách gồm những điều cốt yếu của Nho giáo. Ai muốn hiểu rõ đạo giáo ấy tất phải nghiên cứu.

NGUYỄN TỬ QUANG

ĐỖ THIÊN THƯ st.

_____________

(1) Khổng Tử (551 - 479 trước CN), chính tên là Khâu, người nước Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), trước làm quan Đại tu khấu (coi việc hình) ở nước Lỗ, sau được cất lên Nhiếp tướng sự. Sau vì vua Lỗ không muốn dùng ngài, ngài đi chu du các nước chư hầu (Vệ, Tống, Trần vv…) trong 14 năm không ông vua nào biết dùng ngài. Ngài trở về nước Lỗ dạy học trò, sau dịch các Kinh, làm sách Xuân thu để bày tỏ cái đạo của ngài. Tuy ngài không phải là người sáng lập ra đạo Nho vì như ngài đã nói: “Thuật nhi bất tác”, ngài chỉ thuật lại đạo giáo của cổ nhân mà không sáng tác ra gì, nhưng ngài rất có công lớn đem cái đạo của thánh hiền mà phát huy ra và lập thành hệ thống để truyền cho đời sau. Bởi thế ngài vẫn được coi là ông tổ của Nho giáo.

(2) Tăng Tử tên Sâm Tử Dư, học trò của đức Khổng tử.

(3) Tâm pháp là những điều giáo lý giữa thầy trò dạy bảo truyền thụ cho nhau.

(4) Trung dung là ăn ở đúng mực, không thái quá, không bất cập. Chữ dung có nghĩa không thay đổi.

(5) Mạnh Tử (372 – 289 trước CN) tên là Kha, người đất Châu (nay thuộc tỉnh Sơn đông) thời Chiến quốc, học trò của Tử Tư (cháu đích tôn Khổng Tử). Ông hiểu rõ đạo của Khổng tử, lại có tài hùng biện, thường đi du lịch các nước chư hầu (Tề, Lương, Tống, Đằng), muốn đem cái đạo của thánh nhân ra cứu đời, nhưng không được ông vua nào biết dùng. Sau, lúc gần già, thấy đạo không thực hành được, ông về nhà dạy học trò và soạn ra sách Mạnh tử. Ông là người có công to nhất trong việc làm sáng tỏ đạo lý Nho giáo và binh vực đạo nầy để chống với các học thuyết khác về đời Chiến quốc, nên vẫn được tôn trọng là bực á thánh (dưới thánh nhân một bực).


NGŨ KINH

Ngũ kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy hoàng (246 - 209 trước CN), một kinh là kinh Nhạc (âm nhạc) bị mất đi. Kinh này chỉ còn lại có một thiên, sau đem vào sách Lễ ký (kinh Lễ), đặt là thiên Nhạc ký.

Ngũ kinh là:

1. Thi (thơ) do đức Khổng tử sưu tập và lựa chọn. Kinh này vốn là những bài ca dao ở nơi thôn quê và nhạc chương nơi triều miếu của nước Trung Quốc về đời thượng cổ.

Nguyên trước có đến 3 ngàn thiên. Sau đức Khổng tử san định lại hơn 3 trăm trương và theo ý nghĩa các thiên, sắp đặt làm bốn phần. Đến đời Tần Thủy hoàng, kinh Thi cũng như các kinh khác, bị đốt nhưng có nhiều nhà nho còn nhớ. Đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, về đời nhà Hán có 4 bản kinh Thi xuất hiện, đại thể giống nhau, duy chữ viết có khác. Truyền lại đến nay là bản của Mao công (tức Mao Trường).

Kinh Thi có bốn phần gồm 305 thiên (bài thơ). Trong đó có 6 thiên chỉ truyền lại đề mục mà không còn bài. Mỗi thiên lấy vài chữ chính trong thiên làm đề mục và chia làm nhiều chương. Bốn phần trong kinh Thi là: Quốc phong, Tiểu nhã, Đại nhã và Tụng.

Quốc phong là những bài ca dao của dân các nước chư hầu đã được nhạc quan của nhà vua sưu tập lại: Quốc là nước (đây là các nước chư hầu về đời nhà Chu); phong nghĩa đen là gió, ý nói các bài hát có thể gợi cảm con người như gió làm rung động các vật.

Quốc phong gồm có Chính phong và Biến phong. Chính phong phân làm 2 quyển Chu nam và Thiệu nam(1), gồm những bài hát từ trong cung điện nhà vua truyền ra khắp dân quân. Biến phong gồm những bài hát của 13 nước chư hầu khác.

Tiểu nhã gồm những bài hát dùng ở nơi triều đình, nhưng chỉ dùng trong những trường hợp thường như khi có yến tiệc.

Đại nhã chỉ những bài hát dùng trong những trường hợp quan trọng như thiên tử họp các vua chư hầu hoặc tế ở miếu đường.

Tụng nghĩa là khen, gồm những bài ngợi khen các vua đời trước và dùng để hát ở nơi miếu đường.

Các bài trong kinh Thi thường viết theo thể thơ 4 chữ (thỉnh thoảng có câu 3 chữ hoặc 5 chữ). Cách kết cấu các bài làm theo ba thể: phú, tỉ, hứng.

Đọc Kinh Thi, ta biết được tính tình, phong tục của người dân và chính trị các đời vua cùng các nước chư hầu ở nước Trung Quốc về đời thượng cổ. Đọc Mân phong, ta biết được tính đức cần kiệm người dân đất Mân. Đọc Vệ phong, ta biết được thói dâm bôn của người dân nước Vệ. Đọc Tấn phong, ta biết được sự hối quá của người dân nước Tần. Đọc Đại nhã, Tiểu nhã ta biết được chính trị của nhà Chu thịnh suy thế nào.

Kinh Thi là một nguồn thi hứng: các thi sĩ thường mượn đề mục. Kinh Thi còn là một kho điển tích. Các nhà làm văn thường lấy điển hoặc lấy chữ ở đây. Cũng như ca dao của Việt Nam, Kinh Thi là nền tảng thơ tối cổ của Trung Hoa. Trong đó có nhiều bài mô tả tính tình phong tục dân Trung Quốc một cách chất phác, hồn nhiên.

2. Thư (nghĩa đen là ghi chép), do đức Khổng tử sưu tập. Kinh này chép những điển (phép tắc), mô (mưu mẹo, kế sách), huấn (lời dạy dỗ), cáo (lời truyền bảo), thệ (lời răn bảo tướng sĩ), mệnh (mạng lịnh) của các vua tôi bên Trung Hoa từ đời Nghiêu, Thuấn đến đời Đông Chu (từ năm 2357 đến năm 771 trước CN).

3. Dịch (nghĩa đen là thay đổi) là bộ sách tượng số dùng về việc bói toán và sách lý học cốt giải thích lẽ biến hóa của trời đất và sự hành động của muôn vật. Nguyên vua Phục Hy (4480 - 4365 trước CN) đặt ra bát quái (tám quẻ, tức là 8 hình vẽ); tám quẻ ấy lại lần lượt đặt chồng lên nhau thành ra 64 trùng quái (quẻ kép). Mỗi trùng quái có 6 nét vạch (hoặc vạch liền biểu thị lẽ “dương”, hoặc vạch đứt biểu thị lẽ “âm”) gọi là hào, thành ra 384 hào. Đức Khổng tử nhân đó mà giải nghĩa các quái, các trùng quái và các hào.

4. Lễ ký (chép về lễ) là sách chép các nghi lễ trong gia đình, hương đảng và triều đình. Hiện kinh Lễ (Lễ ký) còn truyền lại cho đến giờ phần nhiều là văn của Hán nho, chớ chính văn do đức Khổng tử san định về đời Xuân thu không còn mấy.

5. Xuân thu (mùa xuân và mùa thu) nguyên là sử ký nước Lỗ, do đức Khổng tử san định lại, chép công việc theo lối biên niên từ năm đầu đời Lỗ Ân công đến năm thứ 15 đời Lỗ Ai công (từ năm 772 đến năm 481 tước CN). Kinh Xuân thu cũng gọi là kinh Lân, vì đức Khổng tử chép lúc nước Lỗ săn được con lân què thì ngài dừng bút. (Loan rằng: “Sử Mã kinh Lân” – Cụ Nguyễn Đình Chiểu).

NGUYỄN TỬ QUANG

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st

(1) Chu và Thiệu là tên đất (nay là đất huyện Kỳ sơn, tỉnh Thiểm tây); nam là nước chư hầu ở phương nam. Đất Chu, đất Thiệu nguyên là cổ ấp của nhà Chu. Chu Văn vương chia cho 2 con là Đán và Thích. Đán được phần đất Chu nên gọi là Chu công. Thích được phần đất Thiệu nên gọi là Thiệu công.

BẾN XUÂN &

Giai thoại về Mối tình Cao thượng, Dang dở

Mối tình giữa Văn Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh .

Lắng nghe Bến Xuân, có lẽ mỗi người không thể không nhớ đến mối tình giữa Văn Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh. Một chuyện tình lãng mạn, nên thơ nhưng éo le trắc trở, khiến cho những câu ca của bài hát càng da diết, ám ảnh hơn bao giờ hết.

Những giai thoại xung quanh những tác phẩm trữ tình bao giờ cũng lãng mạn như chính những tác phẩm tuyệt vời ấy. Với những người yêu nhạc Văn Cao, có lẽ câu chuyện xung quanh sự ra đời của Bến Xuân sẽ còn được nhớ mãi, bởi nó đẹp và nên thơ quá. Thêm nữa, có lẽ những điều mãi dang dở thường trở nên lung linh huyền ảo hơn chăng?

Trong những tài liệu nói về nhạc sĩ Văn Cao thuở trước, những người sưu tầm thường “ngại” nói ra tên thật của người thiếu nữ ẩn sau bài hát Bến Xuân. Ngay cả tên nhạc sĩ - bạn thân của Văn Cao, người sau này trở thành chồng của cô gái ấy cũng không mấy được đề cập đến...

Trong những năm đầu thập kỷ 40, Văn Cao có chơi rất thân với hai người bạn. Một người là ca sĩ Kim Tiêu, người còn lại là nhạc sĩ Hoàng Quý, người thành lập ra nhóm nhạc Đồng Vọng nổi tiếng đất Hải Phòng. Văn Cao trong một lần đến nhà Kim Tiêu chơi tình cờ gặp cô thiếu nữ đang độ tuổi trăng tròn tên Hoàng Oanh, và gần như ngay lập tức hai người phải lòng nhau ngay từ ánh mắt đầu tiên.

Sau khi Hoàng Oanh biết được Văn Cao chính là tác giả của những ca khúc lãng mạn nổi tiếng thì lòng ngưỡng mộ của nàng dành cho Văn Cao càng tăng lên. Có lẽ ai cũng biết tình cảm người kia dành cho mình, chỉ có điều “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Nhưng, éo le một nỗi: Văn Cao biết hai người bạn thân của mình - Kim Tiêu và Hoàng Quý cũng đều đem lòng yêu mến Hoàng Oanh, và hai người đều tâm sự điều này với Văn Cao.

Hoàng Oanh đến thăm Văn Cao một lần duy nhất, khi đó Văn Cao còn đang ở Hải Phòng. Lần đến thăm đầu tiên đó đã được ông nhớ suốt đời, ông đã ghi cả vào những câu ca mở đầu cho bài hát Bến Xuân - bài hát viết tặng riêng cho Hoàng Oanh:

Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước

Em đến tôi một lần

Câu hát “Em đến tôi một lần” sao mà hay và đi vào lòng người đến thế. Cái ngày hôm ấy, trời nóng, Văn Cao cởi trần nằm bò ra sáng tác. Trong căn nhà chật chội, Hoàng Oanh ngồi quạt cho chàng nhạc sĩ, và Văn Cao đã thổ lộ với cô: “Ước gì anh có em để hằng ngày em quạt cho anh sáng tác, em vá quần thủng cho anh, làm mẫu cho anh vẽ".

Đó là câu tỏ tình duy nhất mà Văn Cao dành cho Hoàng Oanh – giản dị mà chân thành, nhưng ông cũng biết là hai người không thể thuộc về nhau. Là một con người tài hoa, Văn Cao còn đề nghị Hoàng Oanh làm người mẫu cho những bức tranh của mình, và hình bóng của nàng đi vào từng nốt nhạc lời ca trong bài hát Bến Xuân.

Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác

Em vắng tôi một chiều

Bến nước tiêu điều còn hằn in nét dáng yêu

Từng đôi chim trong nắng khe khẽ ru u ú ù u ú

Lệ mùa rơi lá chan hoà!

Mối tình của Văn Cao và Hoàng Oanh không thành cũng một phần bởi Văn Cao – vốn là một con người cao thượng, luôn nghĩ đến hai người bạn thân của mình, ông không muốn làm “kẻ ngáng đường”. Một thời gian sau, gia đình ca sĩ Kim Tiêu mang lễ vật đến ăn hỏi Hoàng Oanh, nhưng không thành bởi vì nhà gái thách cưới cao quá.

Cô tiểu thư Hoàng Oanh sau đó lên xe hoa với nhạc sĩ Hoàng Quý, tuy nhiên ông trời thật phũ phàng, chỉ được ít lâu thì Hoàng Quý mắc bệnh viêm phổi và qua đời.

Chuyện tình giữa Văn Cao và Hoàng Oanh có lẽ thực sự chấm dứt sau khi Văn Cao yêu và lập gia đình với một cô tiểu thư xinh đẹp khác, cũng là con gái nhà giàu, là nàng thiếu nữ Nghiêm Thúy Băng, và bà cũng là người vợ hiền bên ông tận đến những ngày cuối cùng của cuộc đời.

Lắng nghe Bến Xuân, có lẽ mỗi người không thể không nhớ đến mối tình giữa Văn Cao và cô tiểu thư Hoàng Oanh. Một chuyện tình lãng mạn, nên thơ nhưng éo le trắc trở, khiến cho những câu ca của bài hát càng da diết, ám ảnh hơn bao giờ hết.

Bài hát Bến xuân là một trong những sáng tác của nhạc sỹ Văn Cao năm 1942 với sự tham gia viết lời của nhạc sỹ Phạm Duy . Về sau Văn Cao đặt lời 2 cho bài hát và lấy tên Đàn chim Việt.

Từ Bến Xuân đến Cô láng giềng.


Bìa bản nhạc Cô láng giềng của Hoàng Quý

Trong dòng nhạc tiền chiến, 2 ca khúc Bến xuân (của Văn Cao) và Cô láng giềng (của Hoàng Quý) chẳng có chút liên hệ. Tuy nhiên, hẳn ít ai biết đã có một “bóng hồng” chen vào giữa cuộc đời của họ.

Em đến tôi một lần

Không ai có thể phủ nhận sự tài hoa của nhạc sĩ Văn Cao – cây đại thụ của nền tân nhạc. 16 tuổi đã có sáng tác đầu tay (Buồn tàn thu, năm 1939) và các tình khúc tiếp theo của ông được sánh vào hàng “siêu phẩm”: Suối mơ, Thiên thai, Cung đàn xưa, Bến xuân, Thu cô liêu, Trương Chi… Vào đầu những năm 40 của thế kỷ trước, những bài hát của Văn Cao đã lan tỏa từ Bắc chí Nam. Người có công đầu là Phạm Duy, lúc đó chưa sáng tác nhạc mà đi theo đoàn cải lương Đức Huy – Charlie Miều lưu diễn xuyên Việt, Phạm Duy chuyên hát “phụ diễn”, bài hát ruột là Buồn tàn thu. Tri âm đến nỗi Văn Cao đã đề tặng dưới cái tựa Buồn tàn thu trong bản nhạc: “Tương tiến Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn”. Còn những người hát nhạc Văn Cao ở phía Bắc là ca sĩ Kim Tiêu (nam), Thương Huyền, Thái Thanh (nữ)… Văn Cao sinh năm 1923 tại Lạch Tray (Hải Phòng) nên tham gia vào nhóm Đồng Vọng của nhạc sĩ Hoàng Quý. Cũng chính ở thành phố biển này, Văn Cao đã gặp một giai nhân để rồi dòng nhạc tiền chiến có thêm một viên ngọc lấp lánh: ca khúc Bến xuân (đồng sáng tác với nhạc sĩ Phạm Duy).

Trong cuốn băng video Văn Cao - Giấc mơ đời người (đạo diễn Đinh Anh Dũng, Hãng phim Trẻ sản xuất năm 1995, tái bản năm 2009), trong phần giới thiệu ca khúc Đàn chim Việt (tức Bến xuân), nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: “Ngày xưa tôi có thầm yêu một người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi. Vì thế nên mới có câu hát ‘Em đến tôi một lần’ và có bài hát này”… Người con gái ấy chính là Hoàng Oanh, nữ ca sĩ ở Hải Phòng (sau này trong miền Nam cũng có nữ ca sĩ Hoàng Oanh hiện ở hải ngoại, không phải Hoàng Oanh trong bài viết). Nhưng tại sao nhạc sĩ Văn Cao yêu mà không dám nói? Là bởi con tim của nhạc sĩ “chậm xao động” hơn hai ông bạn thân. Biết được cả Kim Tiêu lẫn Hoàng Quý đều đem lòng yêu thương Hoàng Oanh, chàng nhạc sĩ trẻ đành nín lặng, ôm mối tình đơn phương… Tuy thế, sau những lần gặp gỡ, qua ánh mắt, nụ cười nàng đã hiểu tấm chân tình của chàng. Rồi một hôm, Văn Cao đang ở Hải Phòng thì nàng tìm đến. Không chỉ thăm suông mà nàng còn ngồi làm mẫu cho chàng vẽ (Văn Cao còn là một nhà thơ kiêm họa sĩ), rồi ân cần ngồi quạt cho chàng sáng tác nhạc… Có thể nói ca khúc Bến xuân không chỉ là một bài hát làm xuyến xao lòng người mà còn là một bức tranh hết sức sống động, một bài thơ với những ca từ đầy biểu cảm. Tóm lại cả ba năng khiếu (thơ, nhạc, họa) tài hoa của Văn Cao đều dồn vào Bến xuân:

Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần,

Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân .

Hình ảnh thẹn thùng, khép nép của giai nhân trong nhạc của Văn Cao sao mà đáng yêu chi lạ:

Mắt em như dáng thuyền soi nước

Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân .

Hôm đó có lẽ nàng cũng có hát nữa nên mới “nghe réo rắt tiếng Oanh ca”. Bản nhạc được NXB Tinh Hoa ấn hành năm 1942 với lời ghi “Nhạc: Văn Cao, Lời: Văn Cao - Phạm Duy” (sau này nhạc sĩ Văn Cao đặt lời 2 và đổi tựa thành Đàn chim Việt). Chẳng biết nhạc sĩ Phạm Duy “đóng góp” như thế nào trong phần lời nhưng ở đoạn cuối, rõ ràng là tâm trạng của Văn Cao:

Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác .

Em vắng tôi một chiều .

Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu .

Từng đôi chim trong nắng khe khẽ ru u ù u ú .

Lệ mùa rơi lá chan hòa ” (dùng chữ “lệ mùa rơi lá” quá hay!).

Cái cảnh chàng gột áo phong sương trở về bến cũ sao mà buồn đến nao lòng:

Người đi theo mưa gió xa muôn trùng.

Lần bước phiêu du về chốn cũ.

Tới đây mây núi đồi chập chùng.

Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng.

Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xưa .

Nàng đến thăm chàng một lần, rồi… thôi, chừng đó cũng đủ hiểu lòng nhau và đã quá lãng mạn. Sau này gia đình ca sĩ Kim Tiêu có dạm hỏi Hoàng Oanh nhưng hôn sự bất thành vì gia đình nhà gái thách cưới cao quá. Bản thân Kim Tiêu cũng gặp phải nhiều sóng gió và nghe nói chết trong nghèo đói ở thềm ga Hàng Cỏ (Hà Nội). Rồi Hoàng Oanh lên xe hoa, trở thành vợ của nhạc sĩ Hoàng Quý.

Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về .

Nhạc sĩ Hoàng Quý sinh năm 1920 (lớn hơn Văn Cao 3 tuổi) và là thủ lĩnh nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng. Ông được biết tới như là một nhạc sĩ tiên phong sáng tác thể loại nhạc hùng, hát cộng đồng (tráng ca) với các ca khúc: Bên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Bóng cờ lau, Tiếng chim gọi đàn... Tuy nhiên, người ta nhớ đến Hoàng Quý nhiều nhất bởi ông là tác giả của ca khúc Cô láng giềng bất hủ.

Thời điểm nhạc sĩ sáng tác Cô láng giềng cũng gần như cùng lúc với Văn Cao viết ca khúc Bến xuân (khoảng năm 1942, 1943). Lúc này Hoàng Quý phải rời Hải Phòng để lên Sơn Tây làm thư ký cho một trang trại nuôi bò. Chuyến đi khiến ông phải chia tay với người yêu (rất có thể là Hoàng Oanh). Ở Sơn Tây, Hoàng Quý luôn nhớ đến người yêu và mơ một ngày trở về. Đó là chất liệu để ông viết Cô láng giềng:

Hôm nay trời xuân bao tươi thắm.

Dừng bước phiêu du về thăm nhà.

Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi,

Tôi đã hình dung nét ai đang cười…

Tôi mơ trời xuân đôi môi thắm.

Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền.

Làn tóc mây cùng gió ngàn dâng sóng.

Xao xuyến nỗi niềm yêu…

Cô láng giềng ơi! Tuy cách xa phương trời tôi không hề.

Quên bóng ai bên bờ đường quê.

Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về

Năm 2002, báo chí có phỏng vấn nhạc sĩ Tô Vũ (em ruột nhạc sĩ Hoàng Quý), ông cho biết nhạc sĩ Hoàng Quý chỉ ở Sơn Tây 6 tháng rồi về quê. Trên đường về, ông có ghé Hà Nội thăm Tô Vũ (lúc đó còn dùng tên thật là Hoàng Phú) và đưa bản nhạc ra khoe với người em. Ông em (Tô Vũ) rất thích giai điệu của ca khúc này, liền xin phép đặt lời 2 cho bản nhạc. Đó là cảnh tượng và tâm trạng của chàng trai khi về tới đầu ngõ thì nghe tiếng pháo vu quy tiễn người yêu đi lấy chồng:

Trước ngõ vào sân vang tiếng pháo.

Chân bước phân vân lòng ngập ngừng.

Tai lắng nghe tiếng người nói cười xôn xao.

Tôi biết người ta đón em tưng bừng…

Đành lòng nay tôi bước chân ra đi.

Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi.

Ghi chút tình em nói chờ đợi tôi.

Đừng nói đến phân ly…

Cô láng giềng ơi! Nay mối duyên thơ đành lỡ rồi.

Chân bước xa xa dần miền quê. Ai biết cho bao giờ tôi về ?

Hoàng Quý tham gia Việt Minh từ rất sớm và hoạt động tích cực trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Tiếc rằng tài hoa yểu mệnh, ông mất năm 1946 vì bệnh lao, khi mới 26 tuổi. Người góa phụ trẻ Hoàng Oanh nửa đường gãy gánh không biết số phận sau này thế nào. (Hà Đình Nguyên) .

LỜI KẾT

Chữ Xuân định nghĩa theo danh từ là một mùa đầu tiên trong năm. Khi dùng trong nghĩa văn chương nó là một năm. Theo tính từ Xuân là trẻ đẹp như “tuổi xuân hoa mộng”. Bến Xuân của Văn Cao chính là cảnh “Thiên thai thu nhỏ”, như lời bài hát Thiên Thai nổi tiếng của Văn Cao:

Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng

Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên

Kìa đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên

Theo gió tiếng đàn xao xuyến

Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền

Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền.

Âm ba thoáng rung cánh đào rơi

Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời

Văn Cao nhớ về người yêu Hoàng Oanh trong bầu trời trong xanh, cỏ hoa tươi thắm của Bến Xuân (tiểu Đào Nguyên và Thiên thai thu nhỏ):

Cành đào hoen nắng chan hòa

Chim ca thương mến, chim ngân xa u ú ù u ú

Mắt em như dáng thuyền soi nước

Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân

Sương mênh mông che lấp kín non xanh

Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân

Ai tha hương nghe ríu rít Oanh ca (tiếng ca của người yêu(?)

Cánh nhạn vào mây thiết tha lưu luyến tình vừa qua.

Hay ông nhớ da diết mối tình nên thơ của mình cùng người yêu trong Bến Xuân – chính là cảnh “tiểu Đào Nguyên, Thiên thai thu nhỏ” với “cành đào… chim ca… thuyền soi nước… sương mênh mông… non xanh… lớp sóng Xuân… Oanh ca… cánh nhạn… tức là Xuân trong mơ” của riêng mình… chứ chưa hẳn một mùa Xuân cụ thể nào đó.

Tiếp nối Xuân trong mơ, năm 1976, Văn Cao sáng tác “Mùa Xuân đầu tiên” – đây mới chính là mùa Xuân cụ thể của chính Văn Cao – ông đã “đi trước” thời đại ở cái nhìn sâu đằng sau một chiến thắng vang dội là những gì dân tộc này đã phải đánh đổi, hy sinh. Ở cái nhìn xa đằng sau niềm hân hoan phút chốc này là bao nỗi lo về một cuộc đời mới, một cuộc dựng xây mới.

Mùa Xuân đầu tiên , ý chỉ mùa xuân hòa bình, độc lập đầu tiên của dân tộc nhưng cũng chính là mùa xuân cuối cùng, một trong các bài hát cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác của cố nhạc sĩ Văn Cao. Như một cơ duyên, bài hát cũng phải chịu số phận kỳ lạ, nhiều truân chuyên, trắc trở như chính cuộc đời người nhạc sĩ tài hoa ấy. Đây là một cảm nghĩ từ tấm lòng Văn Cao về một mùa Xuân đầu tiên của Quê hương yêu dấu của chính ông và của mọi người cùng sống trên non sông gấm vóc này!

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo – Internet)


NGÀY QUỐC TẾ THI CA 21.3

Trước đây chưa có, nhưng từ phiên họp thứ 30 tại Paris tháng 11.1999, Tổ chức Giáo dục – Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã quyết định tuyên bố ngày 21.3 hằng năm sẽ là Ngày quốc tế thi ca.

UNESCO đã đưa ra một phân tích về tình hình thi ca vào lúc kết thúc thế kỷ này: trong thế giới ngày nay có những nhu cầu về thẩm mỹ chưa được đong đầy. Thi ca có thể đáp ứng nhu cầu này nếu mọi người nhận thức được vai trò xã hội của nó về giao tiếp giữa con người với nhau. Thi ca là một nhu cầu xã hội, nó đưa đường cho đặc biệt là giới trẻ trở về với nguồn gốc của mình, nó là một phương tiện nhờ đó giới trẻ có thể soi rọi vào nội tâm trong một thời kỳ mà thế giới xáo động bên ngoài không ngừng lôi kéo những người trẻ tuổi ra khỏi chính họ. Những ngày xa xưa, trên đường phố có những thi nhân đăng đàn đã lôi kéo những đám đông người hâm mộ, và Shakespeare cũng đã từng tìm thấy công chúng của mình bằng cách ấy. 20 năm trở lại đây, ở nhiều quốc gia đã thấy lại những buổi đọc thơ trong khán phòng, UNESCO nói đó chính là một hình thức nhận chân lại những giá trị cũ xưa và cái cách nói thơ ấy cũng vừa cấu trúc nên vừa xã hội hóa cá nhân. Tuy nhiên, trong báo chí và công chúng nói chung còn tồn tại một xu hướng là từ chối nhìn nhận thi ca một cách nghiêm túc. Cho nên cần phải hành động để giải phóng chính chúng ta khỏi những suy nghĩ già nua và nhằm mang lại cho thi ca một chỗ đứng đúng trong đời sống xã hội.

Đó là lý do UNESCO đã phát động một ngày thi ca trên cả thế giới và tổ chức một thế vận hội văn hóa tại Delphi (một thành phố cổ ở Hy Lạp, nơi có đền thần Apollo huyền thoại) bắt đầu vào đúng ngày này năm 2001.

TH.TU. (Theo website của UNESCO)

LÊ NGUYÊN st.


Phụ Bản II

CUỘC THI TIỂU THUYẾT ĐẦU TIÊN

TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC QUỐC NGỮ

CAO XUÂN MỸ

Tháng 9 năm 1906, Gilbert Trần Chánh Chiếu (*) thay Lương Khắc Ninh làm chủ bút báo Nông cổ mín đàm (**). Với tinh thần duy tân tích cực, nhằm tạo điều kiện khuyến khích những người An Nam viết “về việc trong xứ mình” cho người mình đọc, ngày 23 tháng 10 năm 1906, trên tờ Nông cổ mín đàm số 262 đã công bố cuộc “thi đặt đề” (sáng tác) với nội dung như sau:

“QUỐC ÂM THÍ CUỘC

Trong Lục tỉnh càng ngày nhơn dân bỏ dần chữ nho, đâu đâu cũng dùng chữ quốc ngữ mà thôi. Phải nhờ có chữ nho thì nói tiếng An Nam mới thông, cho nên phần đông hãy còn nói nhiều tiếng sái, trậc. Vậy muốn cho lê thứ gội nhuần ơn giáo huấn của chữ nho còn lại trong lục châu thì Nhà Nông cổ mín đàm không tiếc công, chẳng tiếc của, một xin nho gia công dư mà trợ lực thì có lẽ hóa dân thành tục mau được.

Bởi vậy cho nên bổn quán bày cuộc thi này ra phụng bạc 150 đồng, sách vị nào điểm dượt được:

1. Đậu đầu thì thưởng 100 $;

2. Đậu thứ nhì thì thưởng 30 $;

3. Đậu thứ ba thì thưởng 1 năm nhật trình.

Các cuốn đậu sau thì sẽ thưởng bằng cấp mà thôi. Sách nào điểm đậu thì bổn quán sẽ ấn hành vào đây, hoặc in riêng mà bán lấy tiền phòng mở hội thi khác. Khi in bán thì ngoài bìa sách cứ vị nào đề tên vị ấy chẳng sai.

Nay bổn quán xin ra đề:

TIỀN CĂNG BÁO HẬU (về việc tình)

(Người Lang-sa gọi là Roman nghĩa là lấy trí riêng mình mà đặt ra một truyện tùy theo nhân vật phong tục trong xứ, dường như truyện có thiệt vậy).

Diễn dẫn ra một cuốn chừng 50 tờ giấy lớn.

Chia làm 3 thứ:

- Thứ nhất: gầy đầu, căn ngươn, lý lịch, kiết cấu, vân vân…

- Thứ nhì: ân oán, sanh sự, buôn lung, trần ai, lưu lạc, vân vân…

- Thứ ba: cha con, vợ chồng hòa hiệp, ân báo ân, oán báo oán, vân vân…

Phải giữ cho đừng lạc đề.

Đặt tiếng thường, thanh nhã dễ hiểu như truyện vậy.

Trong cuộc đời, phải đem hết các việc quan, hôn, tang, tế, thầy thuốc, thầy chùa, thầy pháp, vân vân… Tốt khen xấu chê. Phải có can thường luân lý, nhơn duyên, thiện ác.

Không đặng dùng việc dị đoan, hễ chết mà còn muốn sống lại thì nhờ thuốc hay, thầy giỏi chớ nói đến quỷ thần; còn muốn phạt thì đau bịnh mà chết, hoặc lôi đả, súng xạ, gươm máy, vân vân…

Cách nạp đơn

Kể từ ngày nay cho đến ngày 15 tháng Novembre 1906, vị nào chịu ra thi thì phải vào đơn cho Bổn quán chấp.

Quá hạn thì không chấp đơn nữa. vào đơn rồi phải ra công diễn dẫn, hạn đến 15 Février 1907, nạp vở.

Cách nạp vở

Phải phong cuốn sách mình lại cho kỹ. Ngoại bì, trên đầu đề một câu chữ riêng của mình ngụ ý, kế đó đề:

“Nhựt trình Nông cổ mín đàm, No 199 đường Bourdais Sài Gòn”.

Gởi theo nhà thơ lấy biên lai.

Đoạn phải lấy một cái thiệp đề tên họ, chỗ ở cho rõ ràng, bỏ vào bao thơ niêm lại.

Ngoài bao thơ cũng đề như mình đề ngoài bìa cuốn sách vậy rồi gởi theo. Đến kỳ, Bổn quán sẽ mời các ông danh sĩ trong Nam Kỳ đến mà khảo chánh. Điểm dượt rồi mới gỡ thơ ra coi tên họ người đậu, người rớt, đấy là việc văn hoành công khí đó.

Vậy Bổn quan khuyên chư nho Lục tỉnh phải ráng ra công mà giúp cho thành việc thì rất toại chí với nhau.

Vở đậu, vở rớt đều thuộc về Nhà Nông cổ không trả lại cho ai. Như trong liệc quý cô, mà cô nào muốn vào thi cũng được.

Gilbert Chiếu cẩn khái”.

Như vậy, đây chính là cuộc thi sáng tác truyện (tiểu thuyết) đầu tiên trong lịch sử văn học Quốc ngữ nước ta. Trong nội dung, phần những quy định của cuộc thi cho ta thấy trình độ tổ chức chặt chẽ, có phương pháp, tư tưởng tiến bộ của người đề xướng; phần đề tài thể hiện rõ nét những đặc trưng của tiểu thuyết Việt Nam buổi giao thời, vừa mang tính truyền thống, vừa có những cách tân. Tiếc là cuộc thi ra đời quá sớm so với sự phát triển của tiểu thuyết lúc đó nên được quá ít người hưởng ứng. Cuối cùng, ngày 5 tháng 3 năm 1907 (báo số 280) kết quả cuộc thi được công bố với một tác phẩm dự thi duy nhất “Lương Hoa truyện” của M.Pierre Eugène Nguyễn Khánh Nhương “cho nên Bổn quán quyết thưởng “khuyến công” cho M.N.K là 25 viên bạc và một năm nhật trình…”, đồng thời liên tục sau đó “Lương Hoa truyện” đã được đăng trên các số báo của N.C.M.Đ.

ĐỖ THIÊN THƯ st

________

(*) Trần Chánh Chiếu (1867-1919) tác giả tiểu thuyết Hoàng Tố Oanh hàm oan (1910).

(**) Tờ báo này ra đời 1-8-1901 và tồn tại đến 4-11-1924, chủ nhân là Canavaggio.

Tình Xuân

Cánh bướm la đà bên khóm hoa
Vàng xanh đỏ tím lẫn hoa cà
Hoa bướm - bướm hoa Xuân cuống quít
Mơ màng hoa bướm, bản tình ca...

Vườn Xuân nao nức thiết tha tình
Hoa cười trước ngõ, nắng lung linh
Khoe sắc muôn màu xanh lộc mới
Lộng lẫy Nàng Xuân tươi đẹp xinh

Lụa là tha thướt bóng giai nhân
Đâu đây vang khúc hát mừng xuân
Rộn rã lòng người như mở hội
Đón Xuân đằm thắm, mộng tràn dâng

Xuân ơi hãy ở mãi nơi đây
Hoa bướm tưng bừng mộng ngất ngây
Bên nhau Xuân nhé, đừng xa cách
Muôn thuở tình xuân, tình đắm say...

Phạm Thị Minh-Hưng

7 Tết Ất Mùi - 25/2/2015

CÓ KỊP GIẤC XUÂN

Âm thầm lặng lẽ ngóng trông ai
Trời đêm lạnh lẽo gió hiên ngoài
Chờ đợi ai lòng hoài ước mộng
Nến đỏ rượu hồng với nhớ nhung !

Mùa đông giá rét sắt se lòng
Sao trời ẩn khuất thiếu trăng trong
Khung cửa hững hờ đầy sương phủ
Hồng hoa trước gió cánh rưng rưng...

Có nhớ gì không lời hẹn xưa
Mùa thương ngày cũ đã xa mờ
Xuân hạ thu đông buồn tuyết đổ
Muộn màng – Tình đã chẳng như mơ !

Mùa xuân đang đến thoáng bâng khuâng
Gió khuya xào xạc ngỡ bước chân
Người yêu xa vắng hoài trông ngóng
Tình hỡi có về kịp giấc Xuân ?

Phạm Thị Minh-Hưng

CHÂN LÝ

Chơn Tâm quả thật vốn hư không

Mới biết đường Tu tại tấm lòng

Gõ mõ, tụng kinh hành tướng có

Hồi quang, phản chiếu luyện tinh không

Phô trương Vạn Vật nhờ duyên có

Ẩn khuất Như Lai cậy pháp không

Chẳng thấy, không tường mà vẫn có

Chơn Tâm quả thật vốn hư không

Thanh Châu

CON DÊ MÙI

35 tướng số gọi là dê

Râu mõm, sừng đầu đẹp khỏi chê

Lên núi, xuống đồi tài chạy nhảy

Vào chuồng, xuất trại tiếng đa thê

Miệng ăn bá thảo lòng sung mãn

Vú chảy đôi dòng sữa phủ phê

Sức lực dẻo dai, bền chiến đấu

Đào hoa giáng phúc cứ bê hê...

Thanh Châu

ƯỚC MƠ MÙA XUÂN

Tôi mơ ước từ Mùa Xuân nay sẽ

Là Mùa Xuân nối tiếp những Mùa Xuân

Xóa tan đi chuỗi quá khứ đau thương

Nội, ngoại chiến, làm quê hương tan tác

*

Khúc thanh bình từ đây lên tiếng hát

Mưa Yêu Thương dập tắt lửa binh đao

Giọt lệ mừng thay giọt khổ nghẹn ngào

Đời an lạc, người người vui hạnh phúc

*

Tôi mơ ước một ngày trên trái đất

Không còn ai nghe nói đến chiến tranh

Khắp nơi nơi đều chung sống Hòa Bình

Không phân biệt màu da hay tiếng nói

*

Những đường hoa sẽ thay đường biên giới

Người thương người, san sẻ những niềm đau

Rồi chung tay làm trái đất mỡ mầu

Mút tầm mắt, những vườn xanh trĩu trái

*

Tâm mỗi người nở đầy hoa nhân ái

Không còn ai chỉ biết nghĩ riêng mình

Xã hội không còn những nỗi bất bình

Để tất cả hòa đồng cùng vui sống

*

Mỗi gia đình là khung trời thơ mộng

Ông bà vui, bên con, cháu sum vầy

Mỗi ngày qua thêm nồng ấm đong đầy

Để vĩnh viễn là Mùa Xuân bất diệt.

Tâm Nguyện

(Xuân Ất Mùi)

XUÂN ĐỢI CHỜ

Mỗi lúc xuân sang, lòng thêm hận.
Người xưa vẫn mãi biệt tăm rồi
Ở đây, em đếm lá vàng rơi
Như đếm bước chân anh trở lại

Mỗi lúc mai vàng, lòng thêm héo
Nắng hồng mà lạnh lúc bão giông
Pháo gọi sao tim hoài nín lặng
Chỉ chờ mỗi giọng nói mình anh…

Mỗi bóng ai qua hồn ngơ ngẩn
Phập phồng và thất vọng đan xen
Cánh rèm lay lắt, em đứng đó
Cửa mắt nhìn rơi giọt ưu phiền.

Nghe gót chân đi, trời im nắng
Mãi mà vẫn vắng tiếng chân anh
Hẳn rằng khi đêm gieo câm lặng
Tiếng gõ lòng em lại độc hành.

Chẳng thà gửi cho em tin nhắn
Rằng anh đã chết cõi lòng riêng
Còn hơn ngày tháng đẫm muộn phiền
Ai mãi đổ dù xuân lại tới.

LAM TRẦN

NHỚ THƯƠNG

Anh định cưỡi rùa để ngao du trời đất

Cho đủ thời gian chọn lọc đóa hoa rừng

Mà tặng em khi trời xuân vừa sáng

Em chói lòa trong sắc nắng thênh thang

*

Anh muốn em nghe khung trời vi vút gió

Có đôi khi là loạng choạng bão giông

Tất cả chúng, anh lùa trong sách vở

Ép thành bài ca về hát tặng em…

*

Anh từng đi qua nhiều cảnh đèo heo hút

Lưng chừng trên vách đá ngả hoàng hôn

Cheo leo rướn mà thấp thỏm linh hồn

Sợ rơi tõm vào biển loang loáng sóng

*

Anh sẽ ngâm mưa, những cơn mưa thầm lặng

Giữa rừng sâu khóc tàn tạ phượng hồng

Khóc màu đỏ rực, áo trắng rưng rưng

Thành suối nhớ mời em rồi khao khát…

*

Anh ước mùa đông có những đêm trăng nhạt

Ánh mờ mờ em chiếm lĩnh cả bao la

Những lúc ấy trong anh mãi vỡ òa

Niềm nhung nhớ vì quả chờ chín rục

*

Có lẽ anh đành đi phản lực

Để chóng về ngắm lại vẻ lan man

Của mái tóc, của làn da mịn màng

Của đôi mắt long lanh em nhốt anh từ đó

*

Có lẽ anh quên vó câu rong ruổi

Mà cưỡi bằng chiếc chổi phù thủy xưa…

Hẹn em, tích tắc giao thừa

Hôn nhau ngàn nụ cho vừa nhớ thương.

LAM TRẦN

LÒNG EM

Giả dụ lòng em hình chữ nhật
Anh sẽ nhân chiều rộng với chiều dài
Nhưng đâu biết lòng em bao dài bao rộng
Nên ngần ngừ anh sợ nhân sai

Giả dụ lòng em như quyển vở
Ở bên trong ruột giấy trắng ngần
Anh do dự lâu rồi chưa dám mở
E có bài thơ nào chép trước rồi chăng

Và giả dụ một đêm vàng tẩm mật
Lòng em vừa mở cửa gặp lòng anh
Giữa vũ hội hai lòng cùng múa hát
Không thơ anh hoa lá cũng chung tình

Lòng anh chín mời lòng em cắn nhé
(Hãy yêu anh kẻo uổng cả lòng nhau!)
Vui biết mấy khi về nhà dối mẹ
Rằng lòng em bay nón lúc qua cầu.

Thiếu Khanh

(Nghìn Xưa Để Lại)

Ý NGHĨA TỪNG LOẠI HOA

Bông hoa Cúc Tím chia xa

Trao nhau lưu luyến đậm đà tình thân

Cúc Vàng tỏ nỗi hân hoan

Kính yêu quý mến thực tâm tỏ bày

Còn hoa Vạn Thọ Cúc đây

Buồn đau thất vọng tràn đầy ghét ghen

Cúc Zinnia ngẫm mà thèm

Hoa thương nhớ bạn nơi miền xa xôi

Bông hoa Thủy Cúc thắm tươi

Nỗi lo xa vắng nhớ hồi ngày xưa

Cúc Ba Tư thật vẹn vừa

Sự trong trắng với ngày mùa thơ ngây

Bông hoa tươi Cúc Mũi Hài

Sự lo bảo vệ cho dài ngày xuân

Đồng Tiền Hoa Cúc săn gân

Sống lâu vui thỏa cõi trần thắm tươi

Dạ Lan Hương, sự vui chơi

Đêm khuya ngào ngạt nụ cười dậy hương

Hoa Đinh Tử, màu lửa hồng

Như tim cháy bỏng ấm nồng yêu em

Hoa Đinh Tử đỏ xẫm thêm

Lòng anh chẳng đổi trọn niềm khát khao

Hoa Đồng Tiền nóng bỏng cao

Vững niềm tin tưởng không xao tấc lòng

Hoa Făng hàn gắn vết thương

Xóa đi sầu não đang vương mỗi chiều

Hoa Lưu Ly nói lời yêu

Đừng quên em nhé, nhớ điều vấn vương

Tỏ lòng ái mộ Hoa Hồng

Đem niềm hạnh phúc thắm nồng vinh quang

Hoa Hồng Gai tỏ cao sang

Nói tâm lòng tốt đa mang sớm chiều

Bông Hoa Hồng Đỏ yêu nhiều

Đậm đà mãnh liệt làm xiêu bóng hồng

Hoa Hồng Trắng thật sáng trong

Nâng hồn cao thượng với lòng thủy chung

Hồng Baby trái tim rung

Ngày đầu gặp gỡ nối cung duyên cầu

Hoa Hồng Bạch nhỏ nhẹ câu

Ngây thơ duyên dáng lắng sâu dịu dàng

Hồng Nhung say đắm nồng nàn

Sắc hồng nồng nhiệt ngập tràn con tim

Hồng Vàng rực rỡ mối tình

Đôi khi sút giảm trùng trình nhạt phai

Hoa Hồng Phớt mộng mơ hoài

Mở trang hạnh phúc đường dài khắc ghi

Hoa Hồng Đậm thật kiêu kỳ

Cho người diễm tuyệt chân đi nhẹ nhàng

Hoa Hồng Thắm cháy tỏa lan

Lửa tim rực đỏ sôi gan cháy lòng

Hồng Cam yêu trộn ghen tuông

Tình yêu mãnh liệt giận hờn trỗi len

Hoa Hồng Viền Trắng lặng êm

Hy sinh kín đáo sâu bền trọn duyên

Hoa Hồng Phấn đượm dịu hiền

Tấm lòng trìu mến tay tiên nhẹ nhàng

Hoa Hồng Tỉ Muội khẽ khàng

Dành em gái nhỏ dịu dàng quý ngoan

Bông Hoa Huệ ngát hương lan

Nói niềm trong sạch vút ngàn thanh tao

VŨ THỦY

LỘC TÌNH

Trời xuân nảy lộc xanh mầm

Cho căng nhựa sống cho tràn hồn thơ

Để lòng thỏa những mộng mơ

Thả hồn bay bổng duyên tơ tình nồng

Sao cho gặp những bông hồng

Ngắm tà áo tím đang bồng bềnh bay

Để cho tim rộn máu say

Đêm thâu thao thức sáng ngày đợi trông

Bông hoa lộng ánh trăng lồng

Hương bay ngào ngạt tơ lòng vấn vương

Thơ anh gửi gắm yêu thương.

VŨ THỦY

ĐẾN XUÂN

Sương lạnh mùa Xuân mới lại về

Hương thơm tỏa ngát mọi miền quê

Nhởn nhơ ong bướm cùng vui tết

Rực rỡ đào mai nở bốn bề

Hoa nở mừng Xuân vờn đây đó

Nắng hồng phơi phới – gió tỉ tê

Chim bay én lượn, trong chiều gió

Vui với mùa Xuân – đôi chúc phê

QUANG BỈNH

CHÚC

CHÚC cho con cháu kiếm nhiều tiền

CHÚC của vào như nước Suối Tiên

CHÚC bạn yêu thơ nên hà tiện

CHÚC tiền ra như giọt phê fin

CHÚC nhau tình thương cùng giữ trọn

CHÚC gia đình hạnh phúc bình yên

CHÚC người bốn phương đồng hội tụ

CHÚC nhiều mạnh khỏe cả ba miền.

QUANG BỈNH

MẤY LỜI CÁM ƠN

(Tặng Thi sĩ Nguyễn Quang Cương)

Nhận quà xuân của thi nhân

“Tiếng lòng mài gọt thành vần thơ hay”

Tâm hồn “phượng múa rồng bay”

“Căn nhà ngõ vắng”(1) tràn đầy tình thương

*

Kiếp người bãi biển nương dâu

Phong trần từng trải, nỗi đau nhân tình

Bây giờ ta lại gặp mình

Thắm duyên thi hữu, thắm tình thi nhân

*

Mấy lời cảm tạ tri ân

Tấm lòng vàng với những vần thơ hay

Nhân dịp xuân mới năm nay

Chúc mừng thi sĩ càng ngày càng Xuân

LÊ MINH CHỬ

(1) Tập thơ “Căn nhà ngõ vắng”

Lộc Tình 2

Nắng hồng rơi ngập đường xuân

Mùa yêu đôi lứa bâng khuâng ngại ngùng

Lòng hồi hộp giữa mung lung

Cánh diều lượn khoảng không trung điệu đàng

Lộc xanh loáng thoáng ngỡ ngàng

Bướm ong hớn hở vội vàng tìm hoa

Hồn tôi chạnh thấy mượt mà

Tình xuân diệu vợi chan hòa xôn xao

Tim ngân khúc hát ngọt ngào

Hồn thơ rộng mở đón chào chúa xuân

Chợt nghe gió nhẹ lâng lâng

Hôn lên mái tóc tần ngần xõa vai

Tình xuân gieo nỗi cảm hoài

Trăng soi song cửa ngỡ ai gọi mình

Đổi chiều rơi, lấy bình minh

Đổi ưu tư lấy lộc tình mênh mang

NGÀN PHƯƠNG

Bắt chước CAO BÁ QUÁT

ƯỚC MƠ

Xin ngụm nước cho qua cơn khát

Thả hồn theo khúc hát dân ca

Mùa xuân tươi thắm mượt mà

Ong bướm lượn vờn quanh chim ríu rít

*

Nếu chìm giữa màn đêm u tịch

Xin que diêm nghị lực sống làm người

Nuốt lệ rơi môi hé nở nụ cười

Bôi xóa hết bao nhiêu niềm cay đắng

*

Hạt muối nhỏ biết cuộc đời còn mặn

Giữa trùng dương thao thức nỗi hoài mong

Được trao ai hạnh phúc ấm hương lòng

Được góp sức tô đời thêm sắc thắm

*

Vần thơ nhỏ ươm dịu dàng say đắm

Cũng mong mình thêu dệt chút niềm vui

Nước mắt rơi, chan võng bát ngậm ngùi

Sẽ gợi nhớ: Phải kiên cường phấn đấu

NGÀN PHƯƠNG

· Chữ in đậm là thơ của Cao Bá Quát

Mừng xuân mới

Cánh mai vàng tống cựu nghinh tân

Én báo tin vui Tết đến gần

Tâm đắc dịu dàng trao nỗi nhớ

Hòa đồng vui vẻ đón nàng Xuân

Trèo non vượt dốc qua gian khổ

Lướt sóng ra khơi chẳng ngại ngần

Thân ái chúc mừng nhau hạnh phúc

Nguồn thơ rực sáng đỉnh phù vân

NGÀN PHƯƠNG

THI VỊNH TRUYỆN KIỀU

Đoạn trường tân thanh, khúc đoạn trường

Tài hoa bạc mệnh khéo vấn vương

Thúy Kiều tài nữ trang quốc sắc

Đa tình đa cảm giỏi cung thương

Vườn Thúy trao thoa tình Kim Trọng

Lưu lạc giang hồ khắp tứ phương

Tiền Đường rửa sạch kiếp phong sương

Duyên xưa nối lại khúc đàn năm cung

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

MỘT NGÀY

THÁNG BA

Mùa Xuân rộn ràng đi qua

Đón chào tháng ba

Một ngày bình thường

Như vẫn bình thường

Sớm mai thức dậy

Mỉm cười soi gương

Bàn tay vén sợi tóc mây

Tóc mai sợi vắn sợi dài

Lấp lánh vài sợi bạc

Bàn tay ngập ngừng buông lơi

Giật mình nhìn lại

Lặng buồn ngó xuống ngón tay

Ngón tay đeo nhẫn vẫn không có gì

Một ngày sinh nhật lẻ loi

Lòng xôn xao mà lòng không dám hỏi

Có gì vui khi đời già thêm tuổi

Có gì vui khi hạnh phúc chưa gần

Những đợi chờ tàn hết thời xuân

Không ánh nến không hoa hồng đỏ thắm

Cúi mặt xuống che nỗi sầu thấm đẫm

Một mình và nước mắt rưng rưng

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

SỢI DÂY

Gặp nhau trong thung lũng buồn

Trong tay em có lòng thành

Trong tay anh có niềm hy vọng

Ta bện vào nhau thành sợi dây thơ mộng

Quẳng lên đỉnh trời

Rồi ta níu sợi dây trèo lên tới đỉnh

Bầu trời yên tĩnh, gió ngàn đưa hương…

Nhưng rồi mây đen

Nhưng rồi bão tố

Mưa tuôn thác đổ

Em lỡ trượt chân

Em cố níu sợi dây

Anh cố giữ sợi dây

Cheo leo trời thẳm đất dày.

Người hỡi ! xin đừng buông tay

Dưới kia là thung lũng…

VÕ KIM CƯƠNG

VŨ TRỤ

Chẳng có năng lượng nào cho ta tốc độ cấp hai

Đành an phận với thân rùa bò qua thế kỷ

Dẫu ngoài kia là mênh mông kỳ vĩ

Với muôn ngàn khát vọng cao xa

Dẫu ngoài kia là vạn bản tình ca

Đã ru gọi suốt đời ta ngắn ngủi

Vũ trụ tim em là bầu trời đêm tối

Với ngàn triệu ngôi sao và cả dải ngân hà

Chẳng lạ lẫm gì với khát vọng trong ta

Nhưng đành vậy !

Với thân rùa xưa cũ

Chịu sức hút này trong màn đêm vũ trụ

Triền miên trôi theo nghịch lý cũ mèm:

Không vượt được đến em lại vẫn ở trong em…

VÕ KIM CƯƠNG

HOA SỮA

Chỉ như hạt tấm nhỏ thôi

Một vùng thơm ngát hoa rơi dịu dàng

Không lộng lẫy, chẳng cao sang

Hoa thơm, thơm cả mỗi làn gió thu

Đường Bà Triệu nối Nguyễn Du

Không gian chợt mở mặt hồ trăng soi

Hương nồng lặng lẽ thay lời

Lối quen đã thuộc ta ngồi dưới hoa

Tên hoa ai đặt bao giờ

Bởi dòng nhựa chảy hay là sữa dâng

Hay vì hoa nở trắng ngần

In vào thuở ấy những lần gặp nhau

Để cho nỗi nhớ dài lâu

Đượm hương hoa ngát một màu trinh nguyên

Tôi đi kể đã khắp miền

Vào nam, xuống biển, lại lên đất rừng

Chẳng bao giờ được một lần

Gặp cây hoa sữa – một phần quê hương

LÊ NGUYÊN

EM LÀ HƯƠNG

LÀ HOA HÀ NỘI

Tuổi đôi mươi em là hương, là hoa Hà Nội

Cho tôi hình dung em một thời xa vời vợi

Trong bão giông, nắng lửa, mưa dầm

Em vẫn là em, bốn mùa xuân

Để hôm nay em còn xuân mãi

Cái nắng Sài Gòn gắt gay, có phải

Đã dịu bớt đi bởi có bóng em

Bông hồng ngày Tình Nhân như thắm hồng thêm

Từ bàn tay em đón nhận

Còn đây mãi chất thanh lịch Tràng An sâu đậm

Nên vẫn xanh tươi trong ánh mắt xanh

Tôi không biết em ở phố nào Hà Nội

Chỉ nghe giọng em nói, tiếng em cười

Đủ thấy người Hà Thành không giấu được trên môi

Như được gặp lại chính mình giữa lòng Hà Nội

Như được trở về giữa lòng Thăng Long, Hà Nội ơi !

LÊ NGUYÊN

TỰ DO

Muốn khóc thì cứ khóc

Thích cười thì được cười

Vì điều đơn giản ấy

Máu bây giờ

Vẫn rơi…

Trần Nhuận Minh

(03-02-1986)

FREEDOM

Cry when wanting to cry

Laugh when wishing to laugh

Because of that simple matter

Blood now

Still sheds…

Trần Nhuận Minh

(03-02-1986)

Translated by Vũ Anh Tuấn

VẨN VƠ RA ĐỨNG

Vẩn vơ ra đứng trước nhà

Người qua mà chẳng thấy qua một người

Buồn xưa – Vàng vạt nắng rơi

Nhớ xưa – Gió biếc chân trời mong manh

Chiều nghiêng một sắc vô tình

Tự nhiên, mình chả biết mình là ai…

Trần Nhuận Minh (1996)

AIMLESSLY STANDING…

Aimlessly standing in front of one’s house

So many people went by but one doesn’t see

anyone going by

Sadness of yore – The yellow falling sunlight

Thinking of days past – The wind blew

in the blue vague horizon

The fading evening bore an indifferent shade

Without reason, one doesn’t know who one is…

Trần Nhuận Minh (1996)

Translated by Vũ Anh Tuấn


Dương Lêh

Sáng mồng một, ông Năm không bỏ cái lệ phải đi bộ một tiếng đồng hồ, hai vòng xung quanh Dinh Độc Lập. Đồng hồ báo thức ở cái điện thoại di động mua cách nay bốn, năm năm, được chuyển mục tiêu sử dụng sang báo thức gần một năm nay, reo lên, ông Năm choàng dậy gọn gàng làm công việc vệ sinh buổi sáng. Bà Năm chắc cũng thức rồi nhưng theo thói quen nằm lại chừng nửa giờ nữa mới ngồi dậy, mở máy vào “phây” sẵn sàng cho buổi chat đầu năm. Tối qua, cúng giao thừa xong, hai ông bà bước ra ban-công nhìn xuống bên kia đường, chùa “A Phò”, tục gọi là “miếu Bà” đã tấp nập người đến cúng, trong khi pháo hoa nổ lụp bụp ở hướng bến Bạch Đằng, nhưng chung cư này ngó về hướng tây nên ông bà không thấy hoa pháo hiện ở trên bầu trời, và ông bà cũng không quan tâm vì biết rằng pháo hoa nhà ta đì đẹt mươi mười lăm phút là xong. Ngay cả những người đang đi cúng chùa bên kia đường, họ cũng không đoái hoài nhìn về hướng có pháo hoa đang tỏa sáng. Chùa này nghe người ta nói cũng linh thiêng lắm. Đa số người Hoa rất tin tưởng, năm nào cũng đến đây cúng rất đông. Mấy năm về trước ông bà Năm cũng có qua chùa này để cúng và rước về một cây nhang khổng lồ cao gần một mét gọi là mua lộc đầu năm, đem về cắm vào một cái lư hương để trên cái bàn nhỏ ngoài ban-công. Cây nhang đó rỉ rả cháy qua tới ngày hôm sau. Năm nay hai ông bà không dám sang chùa cúng vì sợ khói. Người ta đốt nhang khủng khiếp. Mỗi người một bó to như cây đuốc, khói tỏa mù mịt, tầm nhìn chỉ còn chừng một mét. Bước ra khỏi chùa nước mắt ràn rụa. Đi chùa khổ quá vậy! Mới hồi cuối năm ông bà Năm trở lại chùa trên núi Châu Thới trên đó người ta ghi vào giấy dán trên tường yêu cầu đốt và cắm một cây nhang mà thôi. Có như vậy mới dễ dàng cho người ta vô chùa chiêm bái. Ông Năm nghĩ nếu đã có niềm tin thì khi vào chùa ngoài cái thú ngắm nhìn phong cảnh rồi vừa đi vừa lâm râm cầu nguyện, như vậy chắc cũng tới tai các vị thần linh rồi, không cần phải đốt nhang.

Chợt có một làn gió lành lạnh thổi tới, ông Năm cất tiếng:

- Thôi vô ngủ. Khói “lan tỏa” ra cửa chùa rồi kìa. Chúc mừng năm mới, ma-đam.

Bà Năm cười về từ ngữ kiểu cọ này mà hiện nay người ta đang sính dùng trên TV, rồi nắm lấy tay ông:

- Chúc mừng anh năm mới!

Giấc ngủ muộn đã nhanh chóng đến với hai ông bà già…

…Ông Năm bước xuống lầu tới cổng đúng vào giờ giấc quy định nhưng khóa đã mở ra tự bao giờ. Có lẽ bảo vệ đã để như vậy suốt đêm trong mấy ngày Tết cho bà con đi lại dễ dàng, thay vì khóa lại như những ngày thường.

Theo chu kỳ trái đất nghiêng qua nghiêng lại làm sao đó nên mùa này ngày vắn đêm dài, năm giờ rưỡi rồi mà trời vẫn còn tối, đèn đường sáng trưng. Ngày Tết, đường càng vắng lặng. Lâu lâu mới có một chiếc xe con chạy qua. Người ta ai cũng đang ở nhà có lẽ còn “ngủ bù” để lấy lại sức lực sau một năm làm việc cực nhọc. Nghĩ đến đây ông Năm thấy mình đi bộ vào ngày mồng một Tết như thế này coi bộ không giống ai. Tuy nhiên ông thấy đi bộ là tập thể dục, cũng như ăn uống, vậy thì ngày nào cũng phải đi tập sao lại phải nghỉ tập vào ngày Tết? Ngày Tết người ta cũng phải ăn để sống, ông Năm cũng phải tập để giữ gìn sức khoẻ, đó là chuyện bình thường!

Khi đi ngang trước công viên Tao Đàn ông Năm thấy có rải rác một số người vẫn đi tập buổi sáng như thường lệ. Nhưng hôm nay họ chỉ được tập vòng ngoài vì bên trong người ta đang làm Hội Hoa Xuân. Gần cổng chánh có ba, bốn người lớn tuổi đang nói chuyện vui vẻ. Trước đây có lần ông Năm đi ngang qua chỗ mấy ông đang thảo luận những vấn đề liên quan đến sức khỏe người lớn tuổi. Hết ông này đến ông khác, ông nào cũng có vẻ rành về thuốc men nhất là những bài thuốc đông y, hoặc các loại trái cây có đặc tính trị bệnh. Ông thì nói trái mãng cầu trị bệnh ung thư, ông thì nói uống nước trái lựu thì bổ dương. Một ông cãi lại:

- Già thế này rồi còn bổ dương gì nữa cha?

- Cũng phải kể để cha nào đó cao hứng đi cưới vợ như cái thằng cha đại gia gì đó…

Có ông nói ăn đu đủ trị táo bón, ăn khổ qua làm lợi tiểu, và làm cho làn da phụ nữ trơn láng… Tóm lại nghe mấy ông này nói chuyện xong, ai cũng nghĩ trái cây nào cũng có dược tính, cũng trị được bệnh, thậm chí trái… trứng cá dần dần cũng sẽ được mấy ông này cho vào danh sách dược liệu. Ông Năm cũng thấy như vậy và ông sợ đứng gần sẽ trở thành… bệnh nhân. Ông lẳng lặng đi về phía khác để các ông tự do biểu diễn kiến thức tổng quát. Đây cũng là một biểu hiện về mặt tâm lý dành cho một số những quý ông có tuổi đời đã qua khỏi lằn vôi sáu bó. Nhiều ông hay giảng về các loại bệnh tật, thông thường là các bệnh huyết áp, tim mạch, tiểu đường, gút, khớp vv... và những loại thuốc đặc trị cho các chứng bệnh này. Có ông khen đông y rất có hiệu quả với những bài thuốc gia truyền, có khi bí truyền, trị đâu trúng đó. Có ông đọc kiếm hiệp nhiều bây giờ nói chuyện bệnh tật, kể ra những cách trị bệnh bằng bấm huyệt, châm cứu, nhân điện rồi giải thích trên cơ thể người ta có rất nhiều huyệt đạo chằng chịt như màng nhện. Khi có bệnh người ta chỉ cần châm cứu hay bấm huyệt vào những điểm nào đó trên cơ thể là khỏi bệnh ngay. Một ông bạn già đứng cạnh ngắt lời hỏi đại:

- Vậy chớ cái huyệt đạo đó ra sao, nằm ở chỗ nào trên cơ thể?

- Thì mấy ông thầy thuốc biết chứ mình làm sao biết được.

- Sao hồi nhỏ học môn Cách Trí về thân thể người ta thầy giáo đâu có nói tới huyệt lớn huyệt nhỏ gì đâu?

- Ông không thấy trong phim kiếm hiệp cha này xỉa hai ngón tay vào ba sườn cha kia, cha kia đứng chết trân như trời trồng đó sao?

- Trời ơi, coi cho vui chứ mấy Chú Ba hút á phiện tưởng tượng ra chuyện trên trời dưới đất đó cha.

Ông già kia tức quá cự lại:

- Dẹp ông đi. Không biết chi cả!

Có ông khen thuốc tây y có hiệu quả hơn. Người ta trích ly từ những loại thảo dược lấy những chất tinh túy cộng thêm những hóa chất cần thiết để chế ra những viên thuốc nhỏ xíu uống vô một viên hết bệnh liền. Còn cái này, người bệnh phải mua cả đống rễ, thân, lá cây… đem về nấu, người bệnh uống một lần một chén nước thuốc đắng nghét. So với viên thuốc nhỏ xíu cái nào hiệu quả hơn?

Mấy ông già kia thấy coi bộ cãi không tới đâu, rõ ràng hai ông mù sờ voi đi cãi nhau về hình dáng con voi, bỏ đi về vị trí tập luyện của mình.

Trời còn tối, con đường vòng quanh Dinh Độc Lập được lót gạch phẳng phiu, nhiều người đã phải bỏ công viên Tao đàn để qua đây đi bộ. Sáng sớm hôm nay thời tiết mát dịu. Mấy hôm trước trời lạnh, người ta vẫn phải đi cho đủ chỉ tiêu.

Ông Năm đi bộ ở đây cũng đã hơn một năm. Mỗi ngày đều đều như vậy, ông Năm lủi thủi chân bước đều, tai nghe nhạc đúng một tiếng đồng hồ về đến nhà. Coi như xong công việc tập thể dục buổi sáng. Sau đó ông thoải mái làm những công việc khác trong ngày. Nhưng chừng hai tháng trở lại đây ông Năm đi bộ thấy phấn chấn hơn. Ông chỉnh cái điện thoại “đập nước đá” lâu đời cho reo đúng giờ thức giấc để ông thực hiện cái công việc đi bộ buổi sáng không được chểnh mảng.

Cái gì làm cho ông Năm quyết tâm tập thể dục đúng giờ giấc như vậy? Một bóng hình! Không! “Người thật việc thật” đàng hoàng chứ không phải chỉ là bóng với hình. Đó là cái dáng dấp của một người phụ nữ mà ông Năm đã phát hiện vào một buổi sáng, sau khi bẻ cua ở một góc hàng rào Dinh Độc Lập. Ông vẫn đều bước để quan sát trong khi người phụ nữ đó vẫn bước đi nhưng tốc độ có phần cao hơn nên khoảng cách xa dần. Nhìn từ phía sau lưng ông Năm thấy người phụ nữ này “toát” ra cái vẻ sang trọng và duyên dáng. Hôm đó trời còn sáng ông Năm thấy cô mặc một chiếc váy dài gần đến gối, màu xam xám, hình như có sọc ca-rô, với chiếc áo pull màu cà phê sữa gọn gàng trên vai và cái lưng xinh xắn. Người phụ nữ đó đi đến đầu đường phía trước đột nhiên quay lại đi ngược về hướng ông Năm. Vì cùng đi ngược chiều nên chẳng mấy chốc hai người gần như đối điện nhau. Ông Năm kịp thời nhìn thấy một nét mặt nghiêm trang mà ông thấy thấp thoáng hao hao giống như một cô giáo nào đó ở nơi ông Năm từng giảng dạy ngày xưa.

Người phụ nữ đó đã đi qua rồi, ông Năm không dám ngoái nhìn theo sợ có ai đó đi sau lưng thấy được cho ông già rồi mà còn thích nhìn người đẹp. Thực sự, ở tại đất nước này không hề có một điều luật nào cấm một ông già như ông Năm ngắm nhìn một người phụ nữ xinh đẹp, nhưng ông vẫn cứ ngại ngùng và tiếp tục bước đi về phía trước trong khi một bài hát vui tươi dang vang vọng bên tai ông… Nhưng có một điều ông hơi ngờ ngợ… Rất nhiều khả năng người phụ nữ xinh xắn này đang ở trong tình trạng độc thân. Ông Năm rất tin vào khả năng suy luận của mình. Nếu người đẹp này đang có đức lang quân bên cạnh thì cô nàng không thể rời nhà để đi bộ một mình vào lúc sáng sớm tinh mơ như thế này. Còn gì hạnh phúc hơn là giờ này được nằm bên cạnh phu quân để được sưởi ấm. Ai cũng biết vợ chồng vào khoảng tuổi U40, U50 thì tình cảm đậm đà lắm. Có lẽ cả trên thế giới này khó mà có ông xã nào để cho bà xã xinh đẹp như thế này sáng sớm đơn thân độc mã bỏ chồng nằm chèo queo ở nhà để ra công viên đi bộ một mình. Ông Năm lại nghĩ, người đẹp này cũng không bị ràng buộc bởi con cái, vì nếu cô có cái rờ-moóc với một, hai nhóc nhi đồng thì giờ này cô phải bận bịu lo cho chúng ăn sáng và chuẩn bị đưa chúng đến trường.

Ông Năm cũng đã từng thăm hỏi dăm ba vị phu nhân sáng sớm đi tập thể dục một mình thì được biết có bà đã đưa chồng lên dặm trường thiên lý về cõi tây phương cực lạc. Có vị phải sắp xếp thời gian đi bộ vào buổi sáng sớm để rồi trở về chăm sóc ông chồng đang chờ “hỗ trợ kỹ thuật” vì hệ thống dây thần kinh có nơi bị gián đoạn. Có bà thì “đôi ngả chia ly”, “tại trời xui khiến nên chúng mình chia tay”. Rồi cũng có bà không chia tay đi đâu hết, hai người vẫn ở chung một nhà nhưng mỗi người một tầng lầu, hay mỗi người một gian phòng cách biệt. Sau cùng có bà đã từng “ở vậy” từ hồi còn son trẻ phải chịu cảnh cung đàn lỗi nhịp, lỡ bước tơ duyên. Chừng đó hoàn cảnh đã làm cho công viên này ngày càng thêm đông đúc với những vị phu nhân một thân một mình đến tập thể dục.

Qua ngày hôm sau cũng với lộ trình giống hệt như vậy, nhưng vì ông Năm đã có chuẩn bị rồi nên khi hai người đối diện nhau, ông Năm giơ tay lên vẫy và nói “hello” vừa đủ cho cô ấy nghe. Một cử chỉ đáp lại làm ông Năm cảm thấy vô cùng ấm áp. Cô gật đầu nhìn về phía ông nói nho nhỏ:

- Chào anh.

Rồi hai người lại tiếp tục đi về hai hướng khác nhau. Rồi những ngày tiếp theo đều giống như vậy, tuy câu chào phía ông Năm có phần thay đổi như “chào buổi sáng” hoặc “xin chào”. Phía bên kia thì có hôm cô chỉ gật đầu chào trong khi đưa mắt thật nhanh nhìn ông rồi trở vẻ dáng vẻ nghiêm trang cố hữu.

Ông Năm thực tình muốn làm quen nhưng rồi ông tự hỏi “để làm gì?”. Câu trả lởi có thể là, thứ nhất, cùng đi chung nói chuyện trên trời dưới đất cho thời gian tập thể dục qua nhanh, thứ hai, để đi lần đến chỗ thân mật xem như một cô bạn gái. Ông thấy cả hai câu trả lời đều không ổn. Nhiều người coi buổi tập thể dục là một công việc phải làm để giữ gìn sức khỏe cho nên phải tập đầy đủ các động tác và đúng thời lượng, không muốn ai quấy rầy khiến họ làm sai cam kết với bản thân. Một bạn già của ông Năm trong một lần đi bộ tình cờ nhận ra phía trước mặt là một ông bác sĩ tương đối có tiếng tăm trong thành phố. Ông bạn bèn dùng chiến thuật “thấy sang bắt quàng làm họ”, rồi rảo bước đi lên ngang hàng với ông bác sĩ đó:

- Chào bác sĩ. Bác sĩ cho hỏi thăm tôi có đứa cháu nó bị…

- Thôi đi. Ông đi tập nhanh rồi về làm việc khác hay là đưa cháu ra bệnh viện tôi khám cho.

Ông bạn lỡ bộ, thấy quê quá, nói lí nhí trong miệng: “Xin lỗi bác sĩ” rồi đi lùi lại phía sau. Ông bác sĩ kia có lẽ gặp cái “ca” hỏi bệnh kiểu này này nhiều quá nên trả lời để ông bạn này đi cho rồi. Người phụ nữ này có lẽ cũng vậy. Biết đâu nhỡ khi ông rảo bước lên “chào cô” một phát, cô dịu dàng cho ông một câu lạnh lùng:

- Ông tập nhanh rồi sớm về với vợ con.

Ông Năm lại nghĩ:

- Không lẽ trông người thanh cảnh, tao nhã như thế kia lại có thể “đốp chát” được vậy à?

Ông Năm định qua ngày hôm sau sẽ nói với cô một câu gì đó, thử xem phản ứng cô ra làm sao.

Rồi buổi sáng hôm sau đó đã đến. Khi hai người đi đối mặt ngang nhau, Ông Năm giơ tay:

- Xin chào!

Và nói tiếp liền như sợ không kịp:

- Xin lỗi cho hỏi thăm một câu duy nhất.

- Dạ.

- Cô giáo phải không?

- Ý! Dạ không phải!

- Tôi thấy dáng dấp giống những nữ đồng nghiệp của tôi.

- Dạ, em bán quần áo thời trang.

- Hèn gì cô ăn mặc đẹp quá!

Thoáng thấy cô ta có vẻ bối rối, ông Năm tiếp liền:

- Thôi xin chào nghe!

Cô gật đầu nhẹ và rồi hai người đi ngược về hai hướng khác nhau.

Ông Năm thấy đã thành công khi khoe được nghề nghiệp của mình. Một nghề mà một người lạ mới nghe qua chắc chắn cũng có chút ít cảm tình. Nhưng rồi ông Năm tự hỏi thực sự cô ta có cảm tình với ông không? Trời biết. Nhưng ông tin là có, không nhiều cũng được chút chút. Nhưng được chút chút để làm gì đây? Ông không muốn suy nghĩ thêm. Ông bắt chước những người tu thiền vừa đi vừa loại tất cả những suy nghĩ ra khỏi đầu và làm cho nó trống không. Dễ dàng thôi!

Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa hai người vẫn còn đi về hướng đối diện nhau. Vẫn với câu chào đơn giản, ngắn gọn và vẫn với cái gật đầu nhè nhẹ rất mực lễ phép. Nhưng sau đó ông Năm không còn gặp nữa, người phụ nữ đó đã vắng bóng mãi cho tới ngày hôm nay, ngày đầu năm của một cái tết cổ truyền...

Dương Lêh


Phụ Bản III

KINH NGHIỆM HỌC NGOẠI NGỮ

BÀI HỌC THỨ 100

ĐẮC LÊ

Trong thời đại “bùng nổ” thông tin hiện nay, việc học ngoại ngữ trở nên rất cấp bách, ngày càng có nhiều người tham gia. Ngay ở nước ta hiện nay, nhiều em học tiếng Anh, tiếng Nga như học chữ quốc ngữ, nhiều người sau khi nhận sổ hưu còn dành nhiều thời gian và sức lực cho tiếng nước ngoài… Các sách học và dạy ngoại ngữ ngày càng nhiều, kể cả do tác giả trong nước viết, cũng như của các tác giả nước ngoài. Tất nhiên ngày càng có nhiều sách hay hơn và hiện đại hơn về mọi mặt để cùng với các phương tiện hiện đại phục vụ đắc lực mục tiêu học ngoại ngữ của tất cả các đối tượng “nam, phụ, lão, ấu”: thời gian bỏ ra ít nhất, thu được kết quả nhiều nhất và nhanh nhất, nhất là trong lĩnh vực được chú trọng nhất: nói tiếng nước ngoài. Xin chỉ nhắc tới một cách ngẫu nhiên và không đầy đủ vài cuốn sách học tiếng Anh của các tác giả nước ngoài khá quen thuộc đối với nhiều bạn học “nghiệp dư” ở Hà Nội. Giáo trình L’Anglais sans peine… có thâm niên một nửa thế kỷ nay rồi. Trước ngày giải phóng thủ đô, cuốn sách được thông dụng nhất là L’Anglais vivant, gần đây vẫn được tái bản ở Paris với nhiều cải tiến, hiện đại hơn tên nhiều. Sau ngày giải phóng miền Nam, 6 tập English for today khá hấp dẫn… Rồi tới New concept English, và hiện nay đã có người cho L.G.Alexander là cũ, để bước sang Kernel, sang Streamline, hoặc loại Stories for reproduction của L.A.Hill…

Phương pháp học và dạy ngày càng hiện đại. Dường như phương pháp mới là điều chủ yếu. Đó là đề tài nghiên cứu quan trọng và được nhiều chuyên gia lưu tâm. Còn trong bài viết ngắn này chỉ xin giới thiệu bài học thứ 100 của cuốn sách học tiếng Anh có thâm niên nửa thế kỷ gồm 154 bài ngắn. Một điểm đáng lưu ý là cuốn sách cũ này kèm với bộ đĩa vòng quay 78 để luyện nói, nhưng những năm gần đây sách vẫn còn được tái bản ở Pháp, tất nhiên in đẹp hơn rất nhiều, song nội dung hầu như không thay đổi, và tất nhiên kèm theo băng caxet. Và đây là bài học thứ 100, xin giới thiệu để các bạn đang học ngoại ngữ tham khảo, chắc cũng có đôi chút bổ ích:

Đây là bài học thứ 100 của chúng ta. Nếu mỗi bài trước, bạn học mất trung bình nửa giờ, thì tổng cộng gần 50 giờ. Bạn có bằng lòng với kết quả làm việc của bạn không? Bạn không thuộc lòng mọi từ và mọi thành ngữ chúng ta đã gặp, giá làm được như thế thì hầu như quá hoàn hảo. Học một ngoại ngữ là một việc làm kiên nhẫn, lặp lại thường xuyên hằng ngày, và lạc quan. Bạn đã từng quan sát thủy triều lên? Làn sóng này tiếp làn sóng khác tan đi trên cát, dường như mỗi làn sóng đều không tiến vào gần hơn làn sóng trước. Đôi khi có vẻ như chúng thoái lui. Tuy vậy, chầm chậm nhưng chắc chắn, nước triều lên. Trang này tiếp trang khác, bạn đang tiến gần hơn với một sự hiểu biết đầy đủ về tiếng Anh. Bạn học những từ mới, và quên chúng; bạn học lại, và lại quên chúng lần nữa. Song bạn vẫn đang tiến bộ, chắc chắn đấy”.

Đã có người học ngoài giờ cuốn sách này, và với vốn cơ bản đó, dần dần đã trở thành người chuyên dịch sách và phiên dịch tiếng Anh. Xin lặp lại: “Học ngoại ngữ là một việc làm kiên nhẫn, lặp lại thường xuyên hằng ngày và lạc quan”. “Bạn học những từ mới, và quên chúng…

HOÀNG KIM THƯ st

NHÂN VẬT SỬ VIỆT NAM

NGUYỄN BỈNH KHIÊM

(1491-1585)

Nguyễn-bỉnh-Khiêm tự là Hanh-Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, đời tôn là Tuyết-Giang phu tử, người Tàu gọi ông là Trình Toàn, lời tục gọi là Trạng Trình, quán làng Trung Am (nay là Cổ Am), huyện Vĩnh Lại (nay là phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương). Thân phụ ông là Nghiễm quận công Văn Định, thân mẫu ông, không biết tên là gì, họ Nhữ, hiệu là Từ thục phu nhơn.

Nguyễn-bỉnh-Khiêm sanh năm 1491, thông minh, đĩnh ngộ, mới lên 4 tuổi mà đã học truyền khẩu văn thơ, và học đến đâu nhớ đến đấy. Lớn lên ngoài khoa văn chương, ông còn được ông Lương-đắc-Bằng truyền dạy môn “Thái Ất thần kinh” nên tinh thông lý số để lại cho đời nhiều câu sấm tiên tri rất ứng nghiệm, không sai chạy mảy may.

Gặp buổi Lê vong Mạc khởi nên ông ẩn náu ở quê nhà, mãi đến năm Ất Mùi (1535) là năm Mạc-đăng-Doanh niên hiệu Đại Chánh thứ 6, ông đã 44 tuổi mới ra thi, đậu Trạng-ngươn, làm quan đến Lại bộ tả thị lang, kiêm Đông-Các đại học sĩ. Ở triều 8 năm, ông dâng sớ hạch 18 người lộng thần.

Năm 1542, ông xin về trí sĩ làm nhà ở làng gọi là Bạch vân am để ở, lại bắt hai cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân, dựng quán Trung Tâm ở bến Tuyết (một bến trên sông Thái Bình. Tuyết giang là khúc sông Thái Bình chảy qua miền Vĩnh Bảo) rồi đi chơi những nơi núi non sông biển để thưởng ngoạn phong cảnh và ngâm vịnh thơ văn.

Tuy ông ở nhà, nhưng vua Mạc vẫn tôn trọng ông lắm, có công việc lớn lao vẫn phải hỏi đến ông. Hai năm sau, ông được phong tước Trình tuyền hầu sau lại được thăng Lại bộ và phong tước Trình quốc công.

Những lời thơ của ông rất bình đạm mà có ý vị. Những bài vịnh cảnh nhàn thì phóng khoáng thanh tao, rõ ra phẩm cách một bậc quân tử đã thoát vòng danh lợi mà biết thưởng thức cảnh vật thiên nhiên. Còn những bài răn đời đều có giọng trào phúng nhẹ nhàng, kín đáo, tỏ rõ một bậc triết nhơn đã từng trải thế sự và am hiểu tâm lý người đời.

Xin kể ra đây vài trường hợp về sấm tiên tri của ông mà khi việc xảy ra rồi người đời mới rõ:

Kìa cơn gió thổi lá rung cây,

Rung Bắc sang Nam, Đông tới Tây.

Tan tác KIẾN kiều AN đất nước,

Xác xơ CỔ thụ sạch AM mây;

Sơn Lâm nổi sóng mù Thao cát

HƯNG địa tràn dâng HÓA nước đầy,

Một ngựa một YÊN ai sùng BÁI ?

Cha con ngươi VĨNH, BẢO cho hay !...

Mấy câu thơ nầy như tả một cuộc giông tố mờ cát bụi, sóng nước đầy sông, nhưng thật ra là nói về cuộc cách mạng của các chiến sĩ quốc gia trong “Việt Nam Quốc Dân Đảng” của Nguyễn-thái-Học chống Pháp hồi năm 1930. Quân cách mạng đã nổi lên đánh phá các tỉnh Kiến An, Hưng Hóa, Yên Bái, phủ Lâm Thao và giết ông Hoàng-gia-Mô làm tri huyện Vĩnh Bảo. nhà chức trách Pháp liền cho dội bom xuống làng Cổ Am. Làng nầy bị tàn phá không còn một căn nhà.

Lúc đó, giữa đống gạch vụn, người ta thấy lộ ra một tấm bia đá, có bài thơ trên đây trong đó có ẩn tên những nơi bị đánh phá và hai câu nầy:

Giữa năm hai bảy mười ba,

Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây !

Câu thơ nghe thật… vu vơ và còn trật về toán học nữa. người ta thường tính 2 lần 7 là 14 nhưng Nguyễn-bỉnh-Khiêm chỉ tính có 13 thôi! Thì ra năm ấy nhuận hai tháng bảy âm lịch, thành 13 tháng. Và “tám gà” không có nghĩa là… tám con gà. Phải chuyển nôm thành tự mới rõ: “tám” là “bát”, “gà” là “kê”. “Tám gà” là “Bát kê” tức là Trạng-Trình kêu đích danh ông Pasquier (Bát-kê) làm Toàn quyền Đông Dương hồi ấy, đáp phi cơ về Pháp với một sứ mạng, nào dè máy bay phát hỏa khiến ông Pierre Pasquier bị cháy thành than. Vì vậy mà Trạng-Trình hỏi “Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây?”.

Lại hồi năm Minh Mạng thứ 14, chẳng rõ vì duyên cớ gì mà vua Minh Mạng hạ chỉ sai ông Nguyễn-Công-Trứ phá đền thờ của Trạng-Trình. Tuân thượng lịnh ông Trứ thi hành phận sự. Nhưng khi phá tới nóc đền, thì gặp ở cây đòn dông có hàng chữ khắc sẵn từ lâu rằng:

Minh Mạng thập tứ,

Thằng Trứ phá đền !

Phá đền thì lại làm đền,

Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai ?!

Ông Trứ hoảng sợ, tâu vua sự thể như vậy, vua lại cho lịnh làm trả đền thờ của Trạng-Trình!

Về nhơn tình thế thái, dưới mắt Nguyễn-bỉnh-Khiêm:

Thế gian biến cải vũng nên đồi,

Mặn lạt chua cay lẫn ngọt bùi.

Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử,

Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.

Xưa nay đều trọng người chân thực.

Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.

Ở thế mới hay người bạc ác,

Giàu thì tìm đến, khó tìm lui !

Trạng-Trình chẳng những là một thi gia nổi tiếng trong thế kỷ thứ 16 mà còn là một nhà tiên tri hiếm có của thế giới.

Phê bình về nhơn vật Việt-Nam, người Tàu có câu rằng: “An-Nam lý học hữu Trình Toàn”. Nói về các bậc tiên tri thì mấy ngàn năm trước có vị thánh Ai-Cập, kế đến Khổng Minh Gia cát Lượng đời Tam Quốc khoảng thế kỷ thứ ba, rồi đến Trạng-Trình (thế kỷ thứ 15).

Nguyễn-bỉnh-Khiêm từ trần năm 1585, hưởng thọ 95 tuổi.

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

HOA TÍM MONG CHỜ

Chia tay mùa Xuân cùng với tháng giêng, tháng hai rộn ràng của những ngày đầu năm mới Dương Lịch, Ngày Tết Nguyên Đán. Tháng 3 đã đến. Tháng 3, và ngày lễ 8 tháng 3 của giới nữ, của những người tuổi trẻ và đương nhiên là của tất cả mọi người từ nam đến nữ, từ già đến trẻ. Ai cũng có một ngày 8 tháng 3 của riêng mình để háo hức mong chờ. Ngày của tình yêu thương. Ngày của hoa và tình yêu.

Như người ta thường nói mỗi loài hoa mang một ý nghĩa riêng tượng trưng cho hương sắc của loài hoa, ẩn ngữ của hoa đượm màu sắc lãng mạn ngọt ngào hương vị của tình yêu say đắm, không biết tự bao giờ từ thuở mới quen nhau người ta thích tặng hoa tường vi có ý nghĩa tình yêu vừa chớm nở. Hoa cúc trắng tượng trưng tình trong trắng thơ ngây. Hoa Glaieul là hò hẹn và niềm vui. Hoa thược dược tỏ tình tươi thắm nồng nàn. Hoa hồng thay lời tỏ tình yêu say đắm. Khi tình yêu đơn phương, hoa pensée tượng trưng cho sự tương tư mong chờ. Hoa cẩm chướng mang ý nghĩa nô lệ vì tình yêu. Hoa Forget me not với mong ước đừng bao giờ quên nhau.

Riêng tôi, tháng 3 có ý nghĩa riêng tư. Sinh nhật của tôi vào giữa tháng 3, tôi gặp anh cũng vào tháng 3. Tôi đã có những ngày lễ 8.3, ngày sinh nhật dễ thương tuyệt vời. Mối tình đầu êm đềm lãng mạn, kỷ niệm tình yêu là những lần hò hẹn bên nhau ngày chủ nhật. Nơi chốn thân quen là ghế đá và bãi cỏ xanh nơi quảng trường đông vui người qua kẻ lại, quán cà phê ven đường, gian hàng hoa góc phố. Anh thường bảo: “Sống giữa phồn hoa, người sinh viên nghèo chỉ có thể tặng cô bạn gái những bông hoa và một trái tim chân thành”. Ngày chủ nhật bên nhau khi chia tay anh ghé gian hàng hoa, anh cười đùa: “Cắm hoa ở bàn học, thoang thoảng hương qua học bài mau thuộc”. Tôi cảm nhận được ở anh sự tự tin, chấp nhận hoàn cảnh sống thiếu thốn trong gian phòng trọ trên giòng kênh đen phấn đấu học tập, xây dựng tương lai. Tôi tự hỏi: “Chỉ một bông hoa thoảng hương có đủ át đi mùi sình rác bẩn”. Tôi trở về cắm hoa trong bình pha lê trắng cạnh tấm gương soi. Hoa mong manh sớm nở tối tàn, chỉ được một hai ngày rồi bình hoa trống không, chờ đợi cuộc hẹn lần sau.

Kỷ niệm năm đầu tiên yêu nhau, vào ngày sinh nhật anh tặng tôi hoa cúc trắng và quyển sách. Năm thứ hai tặng hoa cẩm chướng. Chưa kịp có kỷ niệm lần thứ ba, chúng tôi đã xa nhau. Anh chưa tặng tôi hoa hồng. Khi một mình trong ngày sinh nhật, tôi trải qua những giây phút chạnh lòng, buồn vu vơ… tình yêu đã chia xa, anh đã xa khuất trong đời. Trong tim tôi vẫn vấn vương những đóa hồng, hoa hồng của lời tỏ tình, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu hạnh phúc.

Cuộc sống vẫn còn mãi những ngày 8 tháng 3.

Lại thêm một lần sinh nhật. Một mình tôi lang thang trên phố. Chiều xuống giữa phố xá đông vui tấp nập người. Gian hàng hoa lộng lẫy nhiều sắc hoa, người mua đông quá! Tôi ghé vào chọn vài hoa cúc trắng, hoa cẩm chướng, hoa pensée. Màu hoa tím thương nhớ mong chờ. Hoa chia sẻ cùng tôi nỗi buồn nỗi nhớ.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI


CÁCH VIẾT & CÁCH ĐỌC

TÊN RIÊNG NƯỚC NGOÀI

TRÊN VĂN BẢN TIẾNG VIỆT

Gs. CAO XUÂN HẠO

Trên tạp chí Văn học nước ngoài số 3/1996 có đăng một bài ngắn của Đặng Yên Hòa đặt lại vấn đề cách viết tên riêng nước ngoài bằng tiếng Việt. Theo tác giả “đã từng có quá nhiều ý kiến về vấn đề này, nhưng vẫn chưa có được một sự nhất trí trong cách giải quyết vấn đề trong thực tế”, cho nên đem nó ra bàn kỹ lại một lần nữa tưởng không phải là thừa.

Thật ra, năm 1981 Phủ Thủ tướng đã ban hành một nghị định về vấn đề này, đề ra những nguyên tắc hoàn toàn minh xác có thể làm chuẩn mực cho việc thống nhất cách giải quyết vấn đề. Tinh thần của bản nghị định, trình bày vắn tắt, là như sau:

- Những tên địa lý đã Việt hóa (như tên các châu lục, các đại dương, tên một số nước như Pháp, Mỹ, Đức, Ý) vẫn giữ nguyên như cũ.

- Ngoài ra, những tên địa lý khác và những tên người thì để nguyên dạng nếu bản ngữ dùng chữ La-tinh, chuyển tự sang chữ La-tinh (theo cách chuyển tự do chính phủ của nước hữu quan ấn định) nếu bản ngữ dùng một thứ chữ khác. Ngoại lệ duy nhất cho nguyên tắc này là các tên người và tên đất của Trung quốc, vốn đã từ xưa được đọc theo âm Hán Việt, và từ khi có chữ “quốc ngữ”, vẫn được viết theo cách phát âm này.

- Trong khi chuyển tự, vần “quốc ngữ” cần được bổ sung thêm các chữ cái thông dụng trong khối cộng đồng của các nước dùng chữ La-tinh như: F, Z, J, W. Ngoài ra, những chữ và những dấu khu biệt không có trong vốn chữ cái của nhà in có thể được bỏ qua hoặc thay thế bằng những chữ gần tương tự.

Những nguyên tắc trên đây hoàn toàn phù hợp với truyền thống của các nước dùng chữ La-tinh, và là cách duy nhất để quy chế hóa và thống nhất cách viết tên nước ngoài trên văn bản tiếng Việt.

Thế nhưng, khi nghị định nói trên ra đời, đã có những cơ quan và tác giả không chịu thực hiện, viện những lý lẽ sau đây:

- Tiếng Việt tuy viết bằng chữ La-tinh, nhưng vẫn có những quy tắc đánh vần riêng. Một cái tên riêng của tiếng nước ngoài khi đưa vào tiếng Việt phải “nhập gia tùy tục”.

- Cần phải phiên âm theo cách đọc, vì tiếng nói (mặt ngữ âm) quan trọng hơn chữ viết (mặt chính tả).

- Quần chúng xét đại đa số không thể đọc được các tên riêng ngoại quốc viết theo nguyên dạng. Vấn đề phải được xử lý trên quan điểm đại chúng.

Bây giờ ta thử xét vấn đề trên hai phương diện lý thuyết và thực tiễn, nhất là trên phương diện thứ hai vì từ Cách mạng tháng Tám đến nay, kinh nghiệm viết lách và in ấn đã tích lũy khá đủ để ta có thể rút ra những bài học bổ ích. Chúng tôi xin trình bày và cân nhắc chỗ mạnh và chỗ yếu của các giải pháp đã từng được sử dụng:

1. Ưu thế lớn nhất của “chữ quốc ngữ” là ở chỗ nó phân tích các từ hay các “tiếng” của tiếng Việt ra thành những đơn vị tương ứng với các âm vị của tiếng châu Âu, và do đó nó cho phép sắp xếp các chữ cái theo một trật tự hoàn toàn tự do. Nó làm cho nước ta gia nhập vào cái khối cộng đồng lớn của những nước dùng chữ La-tinh, thứ chữ có lĩnh vực phổ biến rộng nhất và có địa vị chủ đạo rõ ràng so với tất cả các thứ chữ khác. Cái ưu thế nói trên sẽ không được phát huy nếu ta buộc các tên riêng nước ngoài theo đúng các quy tắc cấu tạo vần của tiếng Việt.

2. Trong sinh hoạt văn hóa của một nước văn minh ngày nay, chữ viết quan trọng hơn cách phát âm rất nhiều. Không có ai biết hết cách phát âm của các tên riêng thuộc mấy trăm ngôn ngữ quốc gia lớn nhất hiện nay. Hơn nữa, chính người bản ngữ cũng không thể biết hết. Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống của Pháp mỗi số đều có mục “Cách đọc các tên họ của người Pháp” đăng một danh sách mấy chục tên họ Pháp có mặt trong các số trước bạ, một cái mục mà chẳng mấy ai đọc vì chưa bao giờ có ai trách nhau vì đọc không đúng một tên người. (Hôm gặp nhà ngữ học Pháp M.Ferlus, một đồng chí lãnh đạo của Viện, chúng tôi hỏi xem Ferlus đọc là “ferluss” hay là “ferlu”, thì ông trả lời: “Tôi không biết. Tôi có hỏi cha tôi, nhưng cha tôi cũng không biết. Tôi nghĩ là đọc thế nào cũng được. Nhưng viết thư, và nhất là… gửi tiền, thì nhớ viết cho đúng chính tả, chứ không thì không đến nơi đâu!”).

3. Trong thực tiễn, theo thống kê của một chuyên gia ở Viện ngôn ngữ, các tên nước ngoài trên các sách báo bị phiên âm sai (so với cách đọc bản ngữ) đến 93% vì người viết không biết cách đọc, chứ không phải vì vần chữ quốc ngữ không cho phép, kể cả các tên Pháp, vốn quen thuộc hơn các tên ngoại quốc khác. Chẳng hạn tên Lassalle bị phiên âm thành Lát-xan-lơ (lẽ ra phải phiên là La-xan), tên Reagan bị phiên thành Ri-gân (lẽ ra phải phiên là Rêi-gơn), tên Engels bị phiên thành Ăng-ghen (lẽ ra phải phiên là En-ghen hay Anh-ghen), tên Diesel bị phiên thành Đi-ê-den (lẽ ra phải phiên là Đi-dơn), v.v. Những sự nhầm lẫn như thế âu cũng không ai tránh khỏi, vì như đã nói trên, không ai có thể biết hết cách đọc, nhất là cách đọc tên riêng, của hàng trăm thứ tiếng. Như vậy, chủ trương phiên âm đưa đến một kết quả đáng buồn là người đọc sách bị bắt buộc phải vừa viết sai lại vừa đọc sai. Nếu viết nguyên dạng, ít ra ta cũng có được một mặt chắc chắn đúng: mặt chính tả, tức mặt quan trọng nhất. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những ai cần phải tra cứu thêm trong sách vở. Chẳng hạn một người làm thư viện hay bán sách, nếu đã quen với cách viết “Ăng-ghen”, làm sao có thể tìm ra những tác phẩm của ENGELS viết bằng tiếng nước ngoài?

4. Nhưng việc phiên âm sai chưa phải là cái hại lớn nhất của biện pháp phiên âm. Quan trọng hơn nhiều là cách phiên âm như hiện nay không thể đưa đến sự thống nhất và tính nhất quán được. Sở dĩ như vậy là vì mặc dầu đưa ra nguyên tắc “nhập gia tùy tục”, nghĩa là bắt các tên nước ngoài phải tuân theo quy tắc ghép vần của tiếng Việt, những người thực hiện nguyên tắc trên lại chấp thuận một cách làm hoàn toàn mâu thuẫn với nguyên tắc đó: chẳng hạn, họ cho phép dùng những phụ âm đôi không thể có trong tiếng Việt như xt, kl, pr, v.v., yêu cầu viết liền các từ đa âm tiết, bỏ các dấu thanh ở những chỗ bắt buộc phải có như trong các vần -ác, -úc: như thế thì còn gì là chính tả tiếng Việt? Từ đó trở đi, các tên riêng ngoại quốc được mỗi người phiên âm một cách, vì không ai còn biết quy tắc nào của chính tả tiếng Việt phải được tôn trọng, quy tắc nào không.

5. Vào những năm 40, lối viết tên Karl Marx thành Các Mác tạm chấp nhận được. Nhưng ngày nay, khi người ta còn phải viết về những người tên là Mac, là Mach, là Mars, là Marc, là Max, là March, là Marsch, là Makh, là Macht, thì không còn cách gì dung thứ một cách phiên âm vừa thiếu chính xác, vừa thiếu sự tôn trọng tối thiểu đối với người được nhắc tới nữa. Tên riêng, nhất là tên người, vốn thuộc vốn từ vựng của thứ tiếng hữu quan, nó tuyệt nhiên không phải là từ tiếng Việt, vậy thì tại sao lại bắt nó phải tuân theo những quy tắc chính tả của các từ tiếng Việt? Những tên riêng của người Việt bao giờ cũng được giữ nguyên dạng trong các văn bản nước ngoài viết bằng chữ La-tinh (dĩ nhiên là trong chừng mực máy in của họ có thể thực hiện). Đọc có đúng hay không thì còn tùy ở trình độ hiểu biết của người đọc. Người đọc có đọc sai, thì cũng chẳng có gì đáng trách. Dù sao, ít nhất họ cũng viết đúng, và đó mới là điều quan trọng nhất. Về cách đọc, họ có thể hỏi những người biết tiếng, hoặc tra từ điển. Dù sao, không thể đòi hỏi người ta đọc thật đúng một tên ngoại quốc. Dù có ai đọc tên Marx là Mác, đọc tên Reagan là Rê-a-gan, đọc tên Shakespeare là Sờ-ha-kes-pe-a-re, thì cũng chẳng có hại gì. Trái lại, ta nên mừng cho người ấy là họ đã nhớ được cách viết chữ Shakespeare và sẽ nhận ra tên của đại văn hào này trên bất cứ văn bản nào.

Ở đây cũng cần phải nói thêm là cái luận điểm cho rằng quần chúng “không thể đọc được những tên nước ngoài viết nguyên dạng chữ La-tinh” không hề dựa trên một công trình nghiên cứu nào, trên một cuộc thử nghiệm nào: nó chỉ dựa trên một sự khinh miệt đáng lấy làm lạ đối với cái “quần chúng” mà người ta làm ra vẻ quý trọng. Riêng tôi, tôi đã thử bắt chước mấy anh bạn dạy cho con viết đúng những tên riêng của các nhà khoa học như Volt, Watt, Ampère, Ohm mà các cháu đã làm quen trong chương trình học của chúng: chỉ 3 phút đã đủ cho chúng học viết đúng một tên. Và sau đó chỉ cần hỏi lại chúng ba bốn lần cách nhau vài tuần là chúng nhớ suốt đời cách viết tên các nhà khoa học đó.

6. Trình độ văn hóa của quần chúng càng cao, sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa với thế giới càng phát triển, thì việc viết đúng chính tả các tên riêng của nước ngoài càng quan trọng. Học sinh và người có trình độ văn hóa trung bình sẽ dần dần nhận ra rằng mỗi tên riêng có một diện mạo chính tả cho phép nhận ra quốc tịch, gốc gác của nhân vật hữu quan, nhận ra những sắc thái tu từ của cách gọi tên (kính trọng, thân mật, âu yếm, v.v.), một nhân tố khá quan trọng trong việc thưởng thức văn bản, nhất là văn bản nghệ thuật. Đồng thời, sách vở báo chí cũng tránh được những dạng chữ gây những liên tưởng khó chịu vì cách phiên âm quá giống những từ có nghĩa trong tiếng Việt, chẳng hạn như cách viết Ôm (Ohm), Run hay Giun (Joule), A-đít (Adis), Bô-mông (Beaumont), v.v.

7. Việc phân biệt những tên riêng đã Việt hóa với những tên khác là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, những tên nước như Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ đã từ lâu trở thành những từ của tiếng Việt. Cũng như các tên nước của tất cả các thứ tiếng khác, đó là cách người bản ngữ đã quen gọi tên các nước ngoài. Cái tên đó có thể không thật chính xác, điển hình là tên của nước Trung Hoa trong các thứ tiếng khác nhau: Chine, China (đọc là Tshaina), Tàu, Kitai, Cathay, Sera, v.v., nhưng người Trung quốc, kể cả các chính phủ và vua chúa đã từng thay nhau cai trị nước này, chưa bao giờ có ý đính chính vì họ biết rằng đó là những danh từ riêng của các thứ tiếng hữu quan, và Trung quốc không có lý do gì để can thiệp vào ngôn ngữ của các nước, vốn là việc nội bộ của họ. Một người bạn Ba Lan nói với tôi: “Tôi rất lấy làm vinh dự là nước tôi ở trong số các nước có một cái tên Việt Nam. Điều đó chứng tỏ rằng Ba Lan đã đi vào văn hóa của các bạn từ xưa, cũng như Pháp, Anh, Đức, Ý, Nga, Mỹ, tuy còn thua các nước này ở chỗ chưa được đơn tiết hóa. Nhưng tôi biết sở dĩ như vậy chỉ là vì chữ Ba, nếu không có chữ Lan, sẽ trùng với quá nhiều từ thông dụng của tiếng Việt”. Quả đúng như thế. Nghe đâu có một số chính phủ nước ngoài như Ý, Úc, Miến Điện, yêu cầu ta đổi cách gọi nước họ thành Italia, Australia, Mianmar. Tôi không tin lắm là chuyện đó có thật, vì nó cho thấy một vốn hiểu biết quá ít ỏi về văn hóa.

Còn tên riêng của người nước ngoài là một chuyện khác hẳn. Đó không phải là những từ của tiếng Việt. Người Việt không cần phải đọc cho đúng những tên ấy, chỉ cần biết cách viết là đủ. Tuyệt đại đa số người Việt rất ít khi phải đọc thành tiếng một trang sách hay một bài báo có những tên riêng nước ngoài. Trong những hoàn cảnh thông thường, họ chỉ đọc bằng mắt. Vậy cái quan trọng nhất đối với họ vẫn là dạng chữ. Duy chỉ có một số ít người, do nghề nghiệp, cần biết đọc các tên nước ngoài cho đúng, hoặc ít ra cũng đừng quá sai: đó là các phát thanh viên.

Những người làm công việc nói trước công chúng, đặc biệt là các phát thanh viên, đều có bổn phận phát âm đúng các văn bản. Khác với người bình thường, họ cần biết cách phát âm các tên riêng nước ngoài, ít nhất là một cách tương đối đúng để người nghe có thể nhận ra được. Họ chính là một trong mẫu mực để cho quần chúng bắt chước, một trong những cội nguồn cung cấp cho quần chúng những tri thức về cách phát âm những tên riêng tiếng nước ngoài. Thế nhưng một số không nhỏ phát thanh viên còn chưa có đầy đủ ý thức về vai trò quan trọng đó của mình.

Phải nói ngay rằng đó không phải là lỗi cá nhân họ, mà lỗi của những cơ quan có trách nhiệm huấn luyện và bồi dưỡng cho họ. Họ không hề được cung cấp những tri thức cần thiết và những tài liệu tra cứu tối thiểu để làm nhiệm vụ. Cho nên những sự nhầm lẫn của họ là điều gần như không thể tránh khỏi.

Trước hết, họ là những nạn nhân đầu tiên của lối “phiên âm” viết liền. Chẳng hạn khi trong văn bản họ gặp những từ như Xécbia hay Zaia, họ khó lòng có thể biết phải đọc là Xéc-bia hay Xéc-bi-a, Za-ia hay Zai-a (hai từ này mỗi phát thanh viên đọc một cách, mặc dù Serbia chỉ có thể đọc là Xéc-bi-a còn Zair chỉ có thể đọc là Za-ia. Thứ đến, khi phải đọc những tên viết nguyên dạng, họ thường đọc theo cách một ngoại ngữ nào quen thuộc nhất với họ (thường là tiếng Pháp hay tiếng Anh), và khi gặp một chữ hay một dấu khu biệt nào đó của một thứ tiếng khác, họ đọc như thể không hề có cái dấu đó, hay như một chữ tương tự trong tiếng Anh hay tiếng Pháp, không hề tìm hỏi xem ä , ö , eh, ue, oe trong tiếng Đức chẳng hạn đọc như thế nào, tại sao lại phải đánh những cái dấu như vậy. Từ đó sinh ra những cách đọc sai đôi khi có nhiều chất hài hước như cách đọc tên cầu thủ Đức V ö hler như từ Pháp voleur (“kẻ cắp”), trong khi chữ V phải đọc là “f”, chữ ö đọc như Ê tròn môi, v.v. Vào khoảng những năm 70, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam có cho xuất bản một cuốn sách chỉ dẫn cách đọc và cách chuyển tự (chứ không phải phiên âm) một số đáng kể những thứ tiếng nước ngoài quan trọng. Loại sách này có thể giúp ích rất nhiều cho các phát thanh viên. Nhưng quan trọng nhất vẫn là ý thức của họ về nghiệp vụ: đi hỏi những người thông thạo thứ tiếng hữu quan không phải là một việc quá khó khăn.

Vấn đề cuối cùng không thể không nói tới là ngữ điệu. Trong một văn bản bằng tiếng Việt, các câu đều phải mang ngữ điệu tiếng Việt và tuân theo những quy luật có liên quan đến trọng âm của tiếng Việt. Đó là điều có tính nguyên tắc trong bất cứ thứ tiếng nào khi trong văn bản có những từ ngoại quốc. Do đó một tên như Moskva phải đọc là “moskva” chứ không phải là “maskva”, vì cách phát âm o chuyển thành a là một quy tắc có liên quan đến vị trí của trọng âm trong tiếng Nga, chứ không phải trong tiếng Việt (không có một thứ tiếng nào trên thế giới viết o của Moskva là “a” cả). Có một phát thanh viên của đài truyền hình hễ gặp một tên ngoại quốc là đổi ngay sang giọng ngoại quốc, kể cả trọng âm lẫn ngữ điệu. Chẳng hạn Alabama được đọc là É-lờ-bé-mờ, London thì đọc là Lắn-đẩn (khi có dấu phẩy ở sau), trong khi cách đọc tên nước ngoài tự nhiên nhất trên một văn bản tiếng Việt là đọc như thể không có dấu thanh (chẳng hạn Alabama, Lanđơn hay Lănđân) tuy có thể đọc như có dấu sắc trên các vần khép có âm cuối -p, -t, -c hay -s, -r, -f, -r (Hópper, Rádclíff, Chésterfield, Kárl Márx). Cũng có thể giữ trọng âm của nguyên ngữ bằng cách kéo dài âm tiết có trọng âm ra một chút (chứ không phải cao giọng lên như có thanh sắc), chẳng hạn như Alabaama, Chaikoovski, Warszaawa (đọc như Varshaava). Những vần có âm tiết mở (không có phụ âm cùng vần đi sau, như a trong Croatia (gồm có ba âm tiết crô-a-tia) thì không có lý do gì để đọc như có dấu sắc (như hầu hết các phát thanh viên hiện nay đều đọc: Crô-át-chi-a).

HOÀNG KIM THƯ st.


Phụ Bản IV

Chuyện ngày xưa

Năm ấy khi tôi lên 11 tuổi, chỉ vì thích đi xe thế là với vài bộ quần áo tôi leo lên chiếc xe tải về quê ăn tết, một cái tết xa gia đình đầu tiên, Một cái tết thật nhiều kỷ niệm mà giờ đây mỗi khi nhớ lại tôi vẫn thấy nó như còn đang ở ngay trước mặt.

Chiếc xe từ từ tiến ra khỏi thành phố và hướng về Phước Thành, bây giờ là Tân Uyên, Bình Dương gần xịt. Nhưng lúc bấy giờ sao mà nó xa thế vì phương tiện chỉ là xe đò, mỗi ngày vài chuyến chỉ đi ban sáng không dám đi chiều và ban đêm lại càng không thể. Đường đi thì xóc lên xóc xuống, lắc qua lắc lại. Chẳng hiểu tại sao lúc bấy giờ má tôi lại cho tôi đi vì từ bé tới lúc ấy anh em chúng tôi đâu có đi đâu xa. Ba tôi là lính nên đã biết thế nào là chiến tranh nên không muốn cho ai đi đâu cả…

Một mình trong thùng xe rộng rãi nhưng hơi dơ do chở than lên thành phố cho các vựa và bây giờ là xe không đi về. Tôi háo hức đón gió lùa từ hai cửa sổ và nhìn qua hai bên đường, những cây cột đèn vùn vụt lao ngược về phía tôi. Những cánh đồng xanh mơn mởn, con trâu con bò mọi thứ đều là những khám phá mới lạ đối với tôi. Nhưng xem mãi cũng chán, tôi thản nhiên nằm xuống sàn đánh một giấc ngon lành. Chẳng biết là trôi qua bao lâu cuối cùng cũng đến nơi.

À thì ra miền quê là đây, nhà nhà là mái tranh vách đất, thỉnh thoảng có căn nhà gỗ mái tôn. Nhà chú tôi lại là nhà xây nền xi măng trông thật là tươm tất. Chung quanh là những bụi chuối, chuồng heo… nên có mùi phân heo thoang thoảng, nhà này cách xa nhà kia không giống như trên tôi nhà nhà san sát nhau.

Khi tôi đến thì nồi bánh chưng đã nấu xong, ở một góc bàn thờ có cả 3 bánh pháo cho những ngày tết. Ăn chiều vội vã xong tôi liền leo lên giường thiếp đi lúc nào không hay. Có lẽ do đường đi bị xóc nên theo đà mệt mỏi được một giấc ngủ thẳng cẳng. Sáng sớm nghe tiếng gà, tiếng dế gáy vang đầu hè tôi nhủ thầm mai tao sẽ bắt mày chơi cho đã. Ở Sài Gòn những thứ này đều phải nhịn ăn quà mua đấy chứ. Sau này có những đêm tôi và anh tôi trốn nhà đi suốt đêm leo cả vào các biệt thự để đi bắt dế. Khi má tôi phát hiện bà lo hết sức sợ bị người ta bắt rồi đánh đập… nhưng lúc bấy giờ thực sự là an bình chẳng sao cả.

Sáng sớm chú tôi dẫn tôi ra rừng thăm lò than của ông tôi. Lần đâu tiên tôi biết thế nào là đốt củi để lấy than. Củi phải là những cây thật chắc mới có than nhiều. Chất củi phải đúng nó mới cháy hết cho than đẹp. Sau bao nhiêu ngày tôi cũng chẳng nhớ phải đốt bao nhiêu ngày mới có than cho chú tôi mang lên thành phố tiêu thụ. Ấn tượng nhất có lẽ là khuôn mặt của ông tôi, nó đen thủi đen thui mãi tôi mới nhận ra được. Ông cháu cười hể hả và ông chỉ cho tôi xem đâu là cửa lò, đâu là ống khói xì ra như hỏa diệm sơn... phụ tá của ông tôi là cô con gái út đang vác những khúc cây dài khoảng 1 thước đưa vào lò. Gần đó là một anh chàng sau này là rể của ông tôi tức là chú Thắng bây giờ. Chú Thắng mang súng theo chỉ cho tôi và Vinh con của chú cách ngắm chim như thế nào? Tôi cũng thử đưa lên trời và ngắm cái đầu ruồi vào một cành cây xa xa thật thích thú. Đó đây cũng có những tiếng súng nổ thay pháo có khi cả tràng có khi lẹt đẹt vài viên, thỉnh thoảng ầm lớn lên một tiếng. Chẳng ai sợ cả có lẽ quen quá rồi.

Công việc kế tiếp của tôi là được vinh dự thay cho ba má tôi đi tết các ông bà lớn tuổi trong dòng họ. Trước tiên là bà ngoại tôi. Một khu vườn cỏ mọc nhiều hơn các nhà khác, cửa hàng rào thì mở toang cho thấy bên trong là một ngôi nhà mái lá. Có con chó con sủa tới tấp nhưng chẳng thấy ai ra cả. Có lẽ bà tôi lân la bên hàng xóm để vui xuân rồi. Căn nhà và khu vườn nằm im ắng chẳng thấy gì là mong chờ xuân đến huống hồ đón chào thằng cháu ngoại lần đầu tiên đến thăm cơ ngơi của bà. Vườn tược chung quanh cũng chẳng thấy có bàn tay chăm bón. Bà tôi chỉ có mỗi mình cậu tôi sống chung nhưng cũng phải đi lính gần nhà nên cũng chẳng chăm sóc được. Bên cạnh nhà là bụi chuối có quầy chuối chín chẳng ai hái thế là mấy chú chim ta được bữa thưởng xuân no nê. Dạo hết một vòng nhà bà, tôi bèn qua những nhà khác, mỗi nhà má tôi đều biếu 1 chai rượu nếp than do chính má tôi làm.

Chiều 30 rồi cũng đến, mọi cái diễn ra cũng đặc biệt hơn ngày thường một chút. Ăn uống thịnh soạn hơn. Mọi người tề tựu đông đủ bên mâm cơm gia đình thật là vui vẻ. Ở quê không có điện chỉ thắp đèn dầu, nhà nào sang có đèn măng-sông nên đa số là đi ngủ sớm và do tình hình an ninh không có lễ giao thừa, phải sáng hôm sau mới có lễ sáng từ 5g. Trời còn tối thui chúng tôi đã bị đánh thức để đi lễ Mùng Một. Lạnh quá co dúm cả người lại, tôi đâu có đem áo ấm theo vì nghĩ giống như ở Sài Gòn cần gì áo ấm. Rồi cũng xong lễ, trên đường về nhà nào đó bật radio:

Trên đường đi lễ Xuân đầu năm

Qua một năm ruột rối tơ tằm

May nhiều rủi ít ngóng trông

Vui cùng pháo đỏ rượu hồng…

Đến giờ cứ nghe bài Câu chuyện Đầu năm là tôi lại nhớ mùa Xuân đầu tiên xa gia đình.

Và đây mới là những âm thanh tôi ngóng chờ đã lâu: tiếng pháo thi nhau nổ tạch tạch một lúc rồi… hết, chẳng bằng một phần của Sài Gòn khiến tôi thất vọng. Nhà nào cũng đốt ít mà lại tận bên trong sân làm sao mình có thể lượm pháo xì đây?

Nhớ lại cảnh lượm những viên pháo chưa nổ nhét vào hai túi quần (má tôi và chị tôi khổ khi giặt quần áo) sau đó mới lựa ra viên nào còn ngòi để riêng chơi sau, viên nào xì chơi trước bằng cách tháo những viên pháo xì lấy thuốc sau đó cầm cục đá xanh ném vào một tiếng nổ to đã cái tai làm cho hàng xóm giật mình.

Hoặc nghịch ngợm hơn thì chế một cái hỏa tiễn gồm có 1 van xe đạp, một đinh 5 phân cắt đi một nửa làm như kim hỏa đút vào cái van cột dây thun cẩn thận. Phía đuôi thêm vài con tán để tăng thêm sức nặng và làm vài cái tua vải khoảng 2, 3 tấc để cầm mà tung lên. Cũng lấy pháo xì gỡ ra lấy thuốc đổ vào van xe, xé một miếng bao quẹt nhét vào làm mồi sau đó đậy lại bằng cây đinh cột dây thun cẩn thận kẻo nó bắn đi mất công tìm. Chế xong hỏa tiễn rồi bây giờ cầm đuôi nó tung lên cao rơi xuống nổ 1 phát đã đời cái hỏa tiễn dội lên cả thước tùy theo số thuốc đã được nhồi.

Những viên pháo còn ngòi thì kiếm cây nhang mồi lửa rồi châm cho nó nổ. Lì hơn thì cầm trên tay khi nó xịt xịt là ném liền. Cái này thì anh tôi liều lắm, còn tôi thì chỉ để một chỗ rồi đốt thôi. Nghe thấy tiếng pháo nổ ở nhà nào đó là thi nhau ùa lại như là giựt cô hồn vậy. Sao thuở ấy nó vui quá chừng chừng. Đến khi nhang tắt tôi vào nhà ông Hai bên cạnh xin tí lửa, vì biết ông hút thuốc lúc nào chả có lửa, nhưng lại bị chửi quá xá quà xa. Khi biết chuyện má tôi nói đầu năm ai mà đi xin lửa. Thế là tôi có kinh nghiệm bản thân trong vụ này.

Thuở nhỏ chúng tôi nghĩ ra nhiều cách để chơi với pháo lắm: có khi rải thuốc pháo chạy ngoằn ngoèo mà đích đến là một chùm pháo còn ngòi cho nổ. Nhiều nhà xung quanh cằn nhằn: “Đốt mẹ nó một tràng cho rồi lắt nhắt chỉ tổ giật mình”.

Vừa nghĩ đến đấy thì tràng pháo tại cổng nhà chú tôi nổ vang kéo tôi lại thực tại. Tôi vội vàng chạy lại xem còn viên nào không. À xí được vài viên và châm lửa đốt liền: có viên nổ có viên chẳng bảo sao cả. Tức quá bẻ đôi cho gãy lòi thuốc ra châm tiếp. Nó xịt ra như pháo bông. Cầm lấy dép đập nhanh nó còn nổ cái bộp thiệt là khoái.

Những ngày xuân trôi qua nhanh, tiếng súng chen lẫn tiếng pháo quê lẹt đẹt càng làm tôi nhớ nhà buồn não ruột. Nhớ ba má, nhớ anh chị em bất chợt giọt lệ tràn ra, tôi vội vàng chùi ngay kẻo mấy đứa em trông thấy nó cười cho. Và cũng đã đến chuyến hàng kế tiếp chú tôi phải giao hàng cho khách. Lần này tôi được ngồi trên cabin vì đằng sau than đã được xếp đầy không còn chỗ cho tôi nữa. Một niềm háo hức khôn tả trên đường về, háo hức gặp lại người thân. Có rất nhiều điều muốn kể:

Cảnh nhà bà ngoại ra sao?

Cách đốt hầm lò như thế nào?

Ngắm bắn chim chỗ nào cho trúng?

Và nhất là không quên bài hát “Câu chuyện đầu năm” của nhạc sĩ Hoài An:

Trên đường đi lễ Xuân đầu năm

Qua một năm ruột rối tơ tằm…

Xuân Ất Mùi

HÀ MẠNH ĐOÀN


NĂM TUẦN LỄ

(Cinq Semaines En Ballon)

của Jules Verne

CUỘC HỘI NGỘ

(Vị bác sỹ và bạn Kennedy đang trên đường tìm kiếm bạn Joe...)

Từ khi đã vào vị trí quan sát trước giỏ tàu, Kennedy không ngừng nhìn chăm chú vào chân trời. Một đỗi sau, gã xoay qua bên bác sỹ và bảo:

- Nếu tôi không lầm, thì trước đằng trước kia có một đoàn người, hay là thú vật gì đó, không rõ... Thật ra, nó đang xao động dữ dội lắm, bởi vì bụi mù cứ bốc lên tung tóe.

- Có phải đó là một làn gió cuốn, - Bác sỹ hỏi - hay là một cơn gió lốc đưa đẩy chúng ta về phương bắc.

Bác sỹ đứng lên quan sát chân trời.

Kennedy vội nói:

- Tôi không tin là như vậy. Có lẽ đó là là một bầy sơn dương, hoặc là một bầy bò rừng gì đó.

- Có thể đó bạn Dick. Với tầm nhìn xa 5-6 cây số, chúng ta không tin tưởng vào viễn vọng kính được. Tôi không biết gì cả.

- Dẫu sao, tôi cũng không bỏ qua tầm nhìn. Có cái gì đó rất lạ lùng làm cho tôi bồn chồn, không yên tâm. Người ta có thể nói nói đó là một đoàn kỵ mã. Nếu tôi không lầm, thì đó quả thật là một đoàn kỵ mã. Nầy, ông hãy xem đi bác sỹ.

Bác sỹ quan sát cảnh tượng hồi lâu, rồi bảo:

- Bạn nói có lý. Đó là một phân đội Arabes hay là Tibbous đang chạy trốn trước chúng ta. Nhưng mà, chúng ta còn bay nhanh hơn, Chúng ta có thể bắt kịp họ dễ dàng. Trong nửa giờ nữa, chúng ta sẽ thấy họ đang làm gì mà.

Kennedy cầm lấy viễn vọng kính, và quan sát kỹ lưỡng. Bây giờ, đoàn kỵ mã hiện ra rõ ràng hơn, vài người trong họ chạy tách ra.

Kennedy bảo:

- Đúng là một cuộc tập dượt, hay là một cuộc săn bắn đây? Dường như họ đang rượt đuổi một cái gì đó.

- Hãy kiên nhẫn một chút đi, bạn Dick ạ!. Chúng ta sẽ bắt kịp họ dễ dàng, và vượt qua họ nữa. Chúng ta bay trên 40 cây số giờ. Không có con ngựa nào chạy qua tốc độ đó đâu.

Kennedy trở lại vị trí quan sát, và vài phút sau gã bảo:

- Đây là một đoàn người Arabes đang chạy hết tốc lực. Tôi đã nhìn thấy họ. Họ có cả thảy 50 người. Tôi thấy cái áo choàng của họ bay phập phòng trong gió. Đây là một cuộc tập dượt kỵ mã thì phải. Chủ của họ chạy trước 50 mét, và họ sải ngựa theo sau.

- Mặc dầu họ là gì đi nữa, bạn Dick ạ, họ cũng không đáng e ngại đâu. Nếu cần tôi sẽ cho bay lên cao.

- Hãy khoan, đợi đã bác sỹ ơi. - Dick nói - Sao lạ quá, có cái gì đó mà tôi chưa hiểu rõ được. Cái sự hỗn độn trong hàng ngũ của họ có vẻ như là một cuộc rượt đuổi...

- Có chắc là như vậy không Dick?

- Dĩ nhiên rồi. Tôi không lầm đâu, đây là một cuộc rượt bắt con người. Không phải là người chủ dẫn đầu, mà là một người đào tẩu.

Bác sỹ cảm động bảo:

- Một người đào tẩu.

- Vâng, một người đào tẩu.

- Vậy thì hãy theo dõi xem động tịnh ra sao?

Bốn cây số đường dài, mà khinh khí cầu cũng mau chóng bắt kịp đoàn kỵ mã.

Bỗng nhiên Kennedy la lên:

- Bác sỹ ơi, bác sỹ ơi.

- Cái gì vậy Dick?

- Ảo ảnh. Có phải là ảo ảnh không?

- Bạn nói gì?

- Đợi đã.

Gã thợ săn lấy khăn lau tròng kính, rồi tiếp tục quan sát. Bác sỹ vội hỏi:

- Sao rồi?

- Hắn.

- Hắn.

- Chính thật là hắn rồi đó bác sỹ.

- Hắn à.

Cả hai đồng thốt ra tiếng “Hắn” mà không cần nói ra danh tánh, cũng hiểu được.

- Hắn rồi, hắn cỡi ngựa, chạy trốn trước quân thù.

- Đúng là Joe rồi. - Vị bác sỹ vừa nói vừa xanh mặt.

- Bận chạy trốn, hắn không làm sao trông thấy chúng ta được.

- Rồi hắn sẽ trông thấy chúng ta. - Bác sỹ vừa nói vừa hạ đèn khò - Trong vòng 15 phút nữa, thì chúng ta sẽ đến với hắn.

- Phải báo hiệu cho gã bằng một phát súng.

- Không được đâu. Trở lui, hắn sẽ chết.

- Làm sao bây giờ.

Bác sỹ bảo:

- Đợi đã.

- Đợi sao, còn quân Arabes?

- Chúng ta sẽ vượt qua họ. Chúng ta còn cách khoảng 1.000 mét nữa thôi. Miễn là con ngựa của hắn còn sức chịu đựng.

- Trời đất. - Kennedy la lên.

- Cái gì vậy?

Kennedy la lên một tiếng thất vọng, khi thấy Joe té xuống vì con ngựa của hắn đã mệt mỏi ngã quỵ.

Bác sỹ cũng la lên

- Hắn đã nhìn thấy chúng ta, hắn đứng dậy và ra dấu cho chúng ta.

Đến lượt Kennedy cũng la lên:

- A, quân Arabes sắp đến, hắn còn chần chờ gì nữa? A, cái thằng gan dạ. Hoan nghênh.

Joe đứng lên sau khi ngã. Trong khi một thằng Arabes chạy phóng tới như con báo. Hắn lách mình tránh, và nhảy lên lưng ngựa mà cặp cổ tên mọi, rồi quăng nó xuống đất, và tiếp tục chạy. Quân Arabes la ó vang dội không gian.

Bọn chúng tiếp tục đuổi theo, mà không trông thấy cái giỏ tàu ở phía sau. Có đứa chạy nhanh gần bắt kịp Joe, có ý định phóng lao, nên bị Kennedy cho một phát đạn té nhào xuống đất.

Joe vẫn tiếp tục chạy tới.

Một phần của đoàn kỵ mã dừng lại, và quỳ mọp xuống đất, khi trông thấy cái giỏ tàu Khải hoàn bay trong không trung. Một phần khác vẫn tiếp tục truy đuổi.

- Bạn Joe làm sao vậy? - Kennedy hỏi - Sao hắn không dừng lại?

- Hắn còn phải chạy cho nhanh hơn nữa kìa, bạn Dick ạ. Nếu chậm trể thì hắn sẽ bị bắt. Tôi đã hiểu, hắn cố gắng chạy theo hướng khinh khí cầu. Hắn tin tưởng vào sự khôn khéo của chúng ta. A, cái thằng gan dạ. Chúng ta sẽ cứu hắn trước mắt của bọn Arabes. Chúng ta còn cách khoảng 100 mét.

- Vậy thì phải làm sao đây? - Kennedy hỏi.

- Bạn để cây súng sang bên đi.

- Xong rồi.

- Bạn có thể bưng nổi 80 ký bao bì không?

- Hơn nữa cũng được.

- Không cần, bấy nhiêu cũng đủ rồi.- Bác sỹ bảo.

Và những bao cát được chồng chất vào tay của gã thợ săn.

- Bạn ở phía sau con tàu, và chuẩn bị quăng hết bao bì một lần. Nhưng mà phải đợi lệnh tôi nhé.

- Yên chí!

- Nếu không làm đúng như vậy thì khó lòng mà cứu được bạn Joe đó.

- Ông hãy tin nơi tôi.

Con tàu Khải Hoàn đã đến trên đoàn kỵ mã. Ông bác sỹ cầm khoanh dây sẵn sàng quăng ra khi cần thiết.

Lúc bấy giờ con tàu đã vượt qua đoàn kỵ mã.

- Chú ý Kennedy.

- Tôi sẵn sàng.

Ông bác sỹ la vang dội, trong khi cái bậc thang cuối cùng rà đất bốc bụi mù.

- Joe, hãy cẩn thận bám vào thang.

Khi nghe tiếng của bác sỹ, Joe xoay qua thì cái thang cũng vừa tới, vội bám nhanh vào thang.

Bác sỹ la to:

- Quăng bao bì.

- Xong rồi.

Nhẹ gánh, con tàu Khải Hoàn bay vọt lên cao cả 50 mét trong không gian.

Joe nắm chặt lấy cái thang dây đang đong đưa mạnh, đưa tay chào bọn Arabes, và lanh lẹ leo lên tàu.

Ba người bạn đón tiếp nhau trong vòng tay thân ái.

Thanh Châu dịch thuật

MỘT

LẦN

LÀM

VỢ

Cô ngồi im lặng bên mép giường, hai mắt cô nhắm nghiền, hơi thở cô dồn dập, đôi môi cô máy động run run, hai bàn tay bấu chặt vào tấm drap giường. Cô đang cố hết sức để ghìm nỗi hồi hộp phập phồng của sự chờ đợi. “Liệu anh có đến được không? Liệu anh có đổi ý? Liệu anh có gặp trở ngại gì? Liệu anh có đủ can đảm? Liệu anh có…? Những câu hỏi chen ngang những hình ảnh cô mường tượng sắp xảy ra. Anh sẽ đến. Anh đã hứa chắc thế mà. Anh là người luôn tôn trọng lời hứa. Huống chi đây lại là một lời hứa hết sức đặc biệt, hết sức quan trọng, lời hứa đã được thốt ra với sự khẩn nài thống thiết của cô. Lời hứa mà cô đã trông mong suốt bao đêm ngày từ khi cô phát hiện hình bóng anh lừng lững trong tim mình. Cô nhói lòng khi một ý nghĩ lởn vởn. Nó đã luôn lởn vởn trong cô bấy lâu nay. Và cô cũng đã không biết bao lần phủ lên nó những biện hộ. Những biện hộ mà dù có cố lướt qua thế nào thì vẫn cộn lên trong cô một cảm giác bất an. Bất an là đúng. Bất an là phải. Bởi chính xác là cô đang xâm phạm vào một vùng cấm. Vùng cấm của một chủ quyền hiện hữu. Vùng cấm được sự bảo vệ của thanh thiên bạch nhật. Nhưng mà cô không thể chối bỏ được niềm khao khát của mình. Niềm khao khát mỗi khi trỗi dậy như thiêu cháy cô, nó đủ sức đạp đổ hết những thành trì luân lý, những rào cản khuôn phép, những vành đai sĩ diện. Nó đã luôn kêu cầu cào cấu tâm can cô, cho đến khi cô không thể nào áp chế nổi mà phải phát ra thành lời. Cho dù khoảnh khắc ấy đã làm cô sụp đổ, đã làm cô trở thành một con người hèn hạ khốn khổ. Nhưng tất cả mọi suy xét cân đong, mọi lo âu rụt rè, mọi ngượng ngùng ngần ngại, đều tan biến nhường chỗ cho một khao khát duy nhất. Một khao khát xét cho cùng thì thật chính đáng với một kiếp người, thật tự nhiên với tạo luật, thật cần thiết với một nhu cầu. Nhưng chỉ vì một lý do bất thuận mà nó trở thành sự lỗi lệch. Nó khiến cô trở thành một kẻ cắp. Một kẻ cắp tồi tệ nhất trong mọi kẻ cắp. Nhưng cô không thể vùng thoát khỏi nó, nó trở thành một thứ quyền uy bất diệt buộc cô phải tuân phục. Thứ quyền uy ấy đã đặt để cô vào ngày giờ này, vào một nơi thế này, vào một tâm trạng phức tạp nhường này, và cô, cuối cùng chỉ còn một thứ cảm xúc duy nhất, sự trông mong một dáng người, một dáng người mà khi xuất hiện sẽ đem đến cho cô những gì là ý nghĩa nhất với cuộc đời mình. Và nhịp thở cô như dập dồn hơn…

Tiếng mở chốt cửa làm cô giật thót người, cô cắn chặt hàm răng, mắt càng nhắm chặt, trái tim cô như ngừng đập. Cô cố nén nhịp thở, lắng nghe lắng nghe bước chân nhè nhẹ bước vào, bước chân đến gần đến gần, và bước chân dừng lại trước mặt cô. Cô không cần phải mở mắt, cô vòng tay ôm choàng lấy người ấy, cô ôm siết, siết chặt thêm nữa, cô dụi mặt vào người ấy, cô dụi mãi dụi mãi, nước mắt cô tràn ra ướt đẫm cả một vùng ngực áo người ấy. Vòng tay người ấy cũng khép gọn bờ vai cô, và đôi chân buông thõng của cô được nhấc lên, cô tê lịm người trong bờ môi và vòng tay ấm nóng ấy. Cả thế giới bây giờ không còn gì hiện hữu, mọi đấu tranh vật vã tâm tưởng cũng không còn gì hiện hữu. Chỉ còn một thứ cảm xúc duy nhất choáng ngộp. Cả cuộc đời cô duy nhất lúc này là vô giá. Mặc kệ ngày mai. Mặc kệ hậu quả. Mặc kệ… mặc kệ… mặc kệ tất cả… Hạnh Phúc. Đó là một cảm trạng hiện thực mà vì nó cô sẵn sàng đánh đổi mọi giá trị có thể. Mê man trong thinh lặng. Mê man trong cuồng nhiệt. Mê man đến tuyệt cùng. Thời gian trôi đi trôi đi…

Tiếng mở chốt cửa thật khẽ, thật nhẹ, thật âm thầm. Cánh cửa hé ra cũng thật khẽ, thật nhẹ, thật âm thầm. Bóng người đàn bà len vào cũng thật khẽ, thật nhẹ, thật âm thầm. Bóng người ấy đứng sững sờ, đứng ngây đờ, hai tròng mắt mở to, hai hàm răng cắn chặt, hai bàn tay nắm cứng nổi cả gân xanh, toàn thân căng lên như một khối thuốc nổ. Cái khối thuốc nổ ấy những muốn lao vào giữa hai con người kia mà nổ tung, mà giằng xé, mà la thét lên những lời phẫn uất nhất. Nhưng sự cố ghìm mình, cố dằn lại bao hành vi hung hãn, cố ngăn lại những thanh âm chực bật ra khỏi cổ họng làm toàn thân rung lên bần bật.

Trực giác. Chỉ có trực giác mới lay động được tâm thức đang chìm ngập trong cơn xúc cảm. Lay động được hai thân xác đang cuộn ngập vào nhau. Không phải là hai tròng mắt mở to nữa, mà là sáu tròng mắt. Sáu cái tròng mắt dán vào nhau trong những giây khốc liệt. Sự bất động trong một cảnh huống bất khả kháng. Bất chợt người đàn bà vụt quay lưng bỏ chạy. Cánh cửa mở toang trống hoác một gian phòng. Trống hoác cả những mảnh hồn. Chỉ còn một điều duy nhất là nỗi hơ hoảng, rã rời, tê dại của cảm giác tội đồ. Như sau một cơn dư chấn, những mảnh vụn lả tả rơi lả tả rơi trên một đống hoang tàn đổ nát.

Cô vẫn nằm nguyên trong một tư thế, sau khi anh đã vội vàng trang phục và lao ra cửa. Cô biết anh đi đâu. Cô biết anh đang phải chịu những gì. Đó là những điều cô không hề muốn. Đó là cái giá phải trả cho một khẩn cầu bức bách của cô. Cô vẫn nghĩ rằng, chỉ một lần êm xuôi cho cô được thỏa nguyện, cho cô được dịu cơn cháy khát lòng mình, cho cô có một chút gì dù bé mọn cho mai sau. Ít ra đó cũng là một mảnh ván bè cho cô níu trên con sông đời dềnh dập. Và quan trọng hơn, một bằng chứng hiện thực về một thứ hạnh phúc mà cô đã được một lần trải qua, cho dù đó là sự đánh cắp. Nhưng dù có tự sỉ vả mình thế nào thì cô cũng bằng lòng làm một kẻ cắp, một kẻ cắp mà vô hình chung con tạo đã đóng dấu vào cô khi buộc cô ra đời trong một trớ trêu. Giờ phút này, cô không cảm thấy sợ những gì sẽ xảy đến với mình, bởi phần nào đó cô đã lường trước và cũng phần nào đó cô sẵn sàng chấp nhận. Cùng lắm là những lời thóa mạ, cùng lắm là một trận đòn tơi tả, cùng lắm là những ánh mắt rẻ khinh, cô chấp nhận, chấp nhận hết, và đó cũng như một cách nộp lệ phí vậy. Cô sẽ thanh thản hơn khi bị đối xử như thế, và sau đó… con đường sau đó cô cũng đã âm thầm xếp đặt. Và có lẽ nó sẽ đến sớm hơn so với dự liệu. Nhưng còn anh… cô chưa từng nghĩ đến anh cũng bị nhận lãnh một hậu quả không tốt đẹp gì hơn cô. Bởi cô không một mảy may nghĩ rằng câu chuyện sẽ bị vỡ lở, tồi tệ hơn là bị vỡ lở vào đúng lúc không nên một chút nào. Bằng cách nào mà chị ấy đã biết? Khi cô đã tính toán rất kỹ thời gian và không gian, cô đã đoan chắc là an toàn tuyệt đối khi ánh mắt anh lo lắng ngần ngại. Cô vẫn nghĩ mọi sự xếp đặt của cô đã thật là hoàn hảo. Vậy mà sao…

Cô nhắm nghiền mắt khi úp mặt vào nơi anh vừa nằm. Cô muốn thu cho bằng hết hơi ấm của anh vào mình, khi từng giây từng giây nó đang tan loãng dần đi, như từng giây từng giây anh đang xa cô mãi mãi. Cô lịm người trong sự hồi tưởng cảm xúc mà cô vừa được trải qua. Cô cảm nhận rõ một điều hiển hiện, thật vô cùng hạnh phúc khi được ân cần với người mình yêu. Cô đã từng nghe: nỗi cực nhục nhất của một người đàn bà là phải trao sự quý giá nhất của mình cho kẻ thù, nỗi đau đớn nhất của người đàn bà là phải trao sự quý giá nhất của mình cho người mình không yêu, và niềm hạnh phúc tuyệt vời nhất của một người đàn bà là được trao trọn vẹn cho người mình yêu. Cô đã có được điều tuyệt vời nhất ấy, cô sẽ không bao giờ hối tiếc cho dù ngày mai với cô có đau khổ dằn vặt đến thế nào. Giây phút này, cô chỉ có một mong mỏi duy nhất: là cô kịp giữ được từ anh một mầm sống. Đó sẽ là chiếc neo cho cô bám vào cuộc đời, đó sẽ là tất cả ước vọng cô gửi gắm và xây đắp. Ngày mai có thể là một chặng hành trình đầy gian nan khúc khuỷu, thì giờ phút này đây, hiện thực này đây, là một cụ thể cô đang nắm bắt. Đó là vệt máu trinh nguyên. Đó là hơi ấm rộn rực. Đó là dư âm tất cả những gì anh vừa để lại trên thân thể cô. Cô nhắm nghiền mắt đắm chìm trong hiện thực đang trở dần vào miền ký ức.

Chị ngồi thinh lặng như một khối đông đặc bất động. Đôi mắt chị như hai hố trũng vô hồn. Lẽ ra chị phải thét phải gào, phải cào phải cấu, phải bấu phải xé cho hả hê cơn uất ức, cho vỡ toang cái thứ cảm giác chết tiệt đang ngồn ngộn trong chị, như chèn cứng đến từng milimet tế bào, như bơm căng buồng tim đến tức thở. Nhưng chị lại không thể, hoàn toàn vô phương trong việc tỏ ra mình là nạn nhân của một sự phản bội. Cái mớ não bé tí trong đầu chị cứ ong ong ong ong những thanh âm hỗn độn. “Chị ơi! Em thật ghen với chị quá, sao mà chị hạnh phúc đến thế. Giá như em chỉ được một phần ngàn thứ hạnh phúc chị đang có cũng tốt lắm rồi”. “Rồi sẽ có một chàng trai tốt bụng đẹp đẽ sẽ đem đến cho em niềm hạnh phúc ấy thôi mà. Em phải tự tin vào chính mình chứ”. “Làm gì có hả chị. Người như em ai thèm. Mà nếu có thì cũng là một kiểu dặt dẹo như em mà thôi, làm sao được như chị chứ”. “Thật ra ngoại hình chỉ là thứ yếu thôi em ạ, quan trọng là tấm lòng kia”. “Nhưng nếu chồng chị không phải là một người như thế liệu chị có lấy không? Nói theo lý thuyết thì vậy, chứ thực tế thì hầu hết ngoại hình là thứ người ta chú trọng đầu tiên đấy chị ạ. Em đủ thực tế để cảm nhận được điều đó mà”… “Chị ơi! Nếu như em yêu một người có vợ thì sao hở chị?”. “Đừng, đừng bao giờ. Em sẽ đau khổ thôi. Nếu đó là một người đàn ông không tốt, thì lại càng tệ hại cho em”. “Không, đó là một người tốt chị ạ. Tốt thật sự, vô cùng tốt nữa ấy chứ”. “Nếu họ thật sự là một người tốt thì không bao giờ họ nhân cơ hội lợi dụng em. Và họ cũng không dễ gì phản bội vợ họ. Tốt nhất là em đừng nghĩ đến người ấy nữa. Mà là ai thế? Cho chị biết được không?”. “Chị… chị không biết người này đâu. Người này ở xa lắm”. “Ở xa làm sao em quen, em có đi đến đâu đâu mà gặp”. “Em gặp ở trên mạng chị ạ”. “Ôi trời ơi. Khổ thân em tôi. Sao em lại đi tin vào sự gặp gỡ linh tinh ấy. Đa phần trên mạng là người ta đùa cho vui vậy thôi. Mà qua mạng làm sao em biết được đó là người tốt? Đừng có tin vớ vẩn rồi khổ à nha”… “Sao ngồi thần mặt ra thế? Em vẫn đang nghĩ đến tay nào trên mạng đó hả? Chị đã nói rồi, em đừng có dại dột thế?”. “Chị ơi! em không cần người ấy phải yêu em, phải sống đời với em, em chỉ muốn đến với người ấy một lần thôi, và tốt nhất là được một đứa con để em được làm mẹ”. “Trời ơi! Em đừng có điên như vậy chứ. Em có biết làm vậy là tự chuốc khổ một đời không? Làm sao em có thể nuôi con một mình được? Mà em đã thổ lộ gì với người ấy chưa?”. “Dạ chưa… vì… vì người ấy đã có vợ chị ạ”. “Trời đất. Vậy thì em phải thôi ngay ý định điên khùng ấy đi. Nếu vợ người ta biết thì em sẽ thế nào em biết không? Chị không muốn em bị làm nhục, mà sao em lại có tình cảm với một người đã có vợ chứ? Bậy, bậy hết sức. Chắc chị phải dẹp cái máy này đi mới được”. “Đừng, đừng mà chị, em xin chị đấy. Em chỉ có niềm vui ấy thôi mà”. “Nhưng mà em đang tự chuốc khổ vào mình, rồi lỡ xảy ra chuyện nghiêm trọng gì làm sao chị ăn nói với mẹ em đây. Em hứa với chị là không được nghĩ bậy vậy nữa nghe. Nghe không? Em hứa đi…”. Im lặng. Im lặng. Chị có ngờ đâu…

Anh lại nghiêng cái chai, bọt trắng sủi tràn ly, anh lại đưa chiếc ly lên môi nốc một hơi. Những chiếc vỏ chai lổng chổng chập chờn trước mắt anh, không phải là những giọt nồng mà là những giọt đắng đang trôi vào cổ anh. Đắng. Đắng lắm. Đắng thật là đắng. Những giợt đắng ấy cứ như chẹn ngang cổ họng anh. Chẹn ngang mà không cho anh có thể nói được một lời nào. Anh biết phải nói gì bây giờ. Tất cả, nếu có thể thì chỉ là một lời “xin lỗi em”. Nhưng một lời xin lỗi thì không đủ để giải quyết, không đủ để trả lại một mái gia đình như xưa. Mà nói gì hơn nữa thì lại càng không thể. Cho dù, chỉ bằng một cách giản đơn nhất, là cho chị đọc tất cả những email mà anh đã nhận trong suốt một thời gian dài đã qua. Chỉ cần đọc, đọc hết và đọc kỹ, thì mọi chuyện cho dù không dễ lành hẳn vết thương, nhưng phần nào đó sẽ giảm bớt sự nhức nhối. Nhưng anh không thể. Hoàn toàn không thể dùng cách đó. Anh không thể vì lý giải hành vi của mình mà đẩy một cô gái vào một tình cảnh… những gì cô ấy phải chịu đựng với cuộc đời này đã là khốn khổ lắm rồi. Những email đã làm anh từ bất ngờ đến lúng túng, đến cảm thông và cuối cùng là chấp nhận. Anh làm sao biết được chỉ từ những sự giúp đỡ nhỏ nhất, thường tình nhất, từ những nụ cười và lời nói ân cần thuần như người anh trai đối với một cô em gái nhỏ, đã đẩy dần một trái tim rụt rè non nớt thành một nỗi lòng khát khao bùng cháy. Là bởi anh không hề biết đến một thứ cảm trạng đơn thuần: Là khi người ta phải chịu nhiều điều bức bách của cuộc đời, thì chỉ cần một bàn tay nhẹ nhàng đưa cho người ta nắm, thì lập tức người ta tìm thấy nơi bàn tay ấy sự tin cậy, từ tin cậy đến quý mến, đến yêu thương là những lằn ranh rất mờ nhạt. Huống chi cô ấy không phải là em gái anh, mà là cô em họ của vợ anh, với anh cô ấy không có sự phân cách nào ngoài ngôi vị anh rể họ. Có chăng là thứ rào cản đạo lý thông thuờng mà chế pháp đã đặt ra. Nhưng rất tệ là khi ngọn lửa tình yêu đã bốc cháy ngùn ngụt, thì nó đủ sức thiêu rụi tất cả những vật cản. “Nếu anh không thương xót lấy chút mảnh đời em, thì một là em không thể sống tiếp nữa, vì sống mà làm gì trong sự đau đớn chất ngất suốt ngày này qua tháng khác, còn nếu vì không muốn để anh phải ray rứt cả đời, thì em sẽ đến với bất kỳ một người đàn ông tồi tệ nào đó, và trong mỗi lúc cùng họ, em sẽ chỉ gọi tên anh, gọi mãi gọi mãi thôi”. Còn nhiều nữa, nhiều những lời mà anh đã hết sức bất an khi đọc. Tình yêu là một thứ tình cảm mà con người ta luôn cần đến, trong những bối cảnh bất khả kháng thì nó lại càng thôi thúc hơn, và rất nhiều khi, vì tình yêu tuyệt vọng mà con người ta gây ra những chuyện không thể lường trước được. “Em van xin anh, em chỉ cần anh đến với em một lần duy nhất thôi, và rồi em sẽ đi xa khỏi nơi này, và em xin hứa rằng không hề có một sự vướng mắc nào làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của anh. Anh. Hãy cho em được một lần… chỉ một lần duy nhất mà thôi... Lẽ nào anh nỡ lòng… Trời ơi! em biết phải làm sao bây giờ?”. Anh không phải là sắt đá. Anh là một người đàn ông biết thương yêu, không chỉ thương yêu vợ con anh, mà anh biết thương yêu cả những mảnh đời nhiều bất hạnh qua những cuộc đi làm từ thiện, qua những con số đóng góp mỗi khi có sự kêu gọi đâu đó. Anh vẫn thường tâm niệm, mình thật là may mắn khi có được những điều mà rất rất nhiều người khác không thể có. Cuộc đời đã thật ưu đãi anh từ vóc dáng đến bản chất, cả con đường sự nghiệp và hôn nhân của anh cũng không quá chật vật khó khăn. Ý thức được sự may mắn của mình, anh vẫn luôn san sẻ và giúp đỡ mọi người mỗi khi có dịp. Vậy thì làm sao anh có thể bình tâm trước những lời kêu gọi riết róng ấy. Không phải anh chưa từng nghĩ đến một tình huống, chưa từng nghĩ mình có lỗi với vợ. Anh nghĩ chứ, nghĩ nhiều nữa, những ý nghĩ cứ chồng chéo nhau, làm sao có thể chu toàn trọn vẹn được cả hai trong tình cảnh này. Hơn nữa, họ vẫn đối mặt ngày ngày trước anh, sự lẫn lộn giữa cảm tính và lý trí không thể tách bạch một cách rõ ràng. Tình cảm con người là một điều kỳ lạ, càng lỳ lạ hơn trong một người đàn ông. Nếu chỉ thuần là những cuộc vui vơ vẩn, người ta sẵn sàng quên rất nhanh, nhưng khi đã xuất hiện yếu tố tình cảm thì sự thể đã bắt đầu phức tạp, càng khó khăn hơn khi tình cảm ấy lồng trong lương tâm và trách nhiệm. Anh đã hết sức tránh né, tránh né để không làm tổn thương đến cả hai người. Anh biết, dù với bất kỳ sự biện luận thế nào đi nữa, thì cũng là sự tổn thương không thể bào chữa. Nhưng không thể né tránh mãi, trước mắt anh ngày ngày nhìn cô ấy xao xác, nhìn cô ấy như một bông hoa rũ từng cánh, nhìn cô ấy cứ phải viện cớ ốm đau mệt nhọc mà không dám ngồi cùng bàn ăn, nhin cô ấy luôn phải cố nín lại những giọt lệ trong đôi mi đỏ mọng, làm sao anh chịu nổi, thà xa tít đâu đó. Để rồi một ngày… “Em… đừng thế, buông tay anh ra đi, để chị nhìn thấy bây giờ thì khổ cho em lắm”. “Anh, em biết, nhưng em không thể mãi thế này, em phải đi, phải đi một nơi thật xa, nhưng trước khi đi… anh, hãy chấp nhận em một lần thôi, em cầu xin anh mà…”. Giọng nói sũng sịu, gương mặt nhoè nhoẹt, lòng anh như khối băng tan chảy dưới ánh mặt trời. Có người đàn ông nào sắt đá nổi trước những giọt nước mắt thống thiết của phụ nữ, huống đây lại là một người con gái phải mang nỗi bất hạnh của tạo hóa. Và rồi… cũng tưởng cẩn thận thế thì nào ai biết, nhưng vì sao?

Anh đâu biết rằng chính sự che giấu một cách vụng về, thái độ lúng túng vì không quen dối trá đã khiến cho tính nhạy cảm của người vợ động đậy. Anh không biết mình phải đối mặt thế nào với cả hai người phụ nữ trong hoàn cảnh này. Anh có lỗi với cả hai. Anh không thể làm một người đàn ông tốt như anh nghĩ, mặc dù anh không hề muốn làm người xấu. Có ai không bảo rằng yêu thương là có tội. Nhưng trên thực tế thì đúng là đang có tội. Một cái tội được kết nên giữa hai cái ngoặc trái chiều: Tạo hóa và pháp lý. Vẫn biết pháp lý đề ra là để hạn chế những hậu quả của bản năng đơn thuần. Bởi “Bản năng như những phương tiện tham gia giao thông. Lý trí là anh cảnh sát cầm còi. Nhưng không phải lúc nào cũng kịp thổi”. Đúng là không kịp thổi thật. Bởi không chỉ đơn giản là giải quyết một nhu cầu bản năng tức thời, mà thứ bản năng này nó cộng hợp cả tâm tư tình cảm và kéo theo là một ước vọng chính đáng của người phụ nữ là muốn được làm vợ và làm mẹ. Một ước vọng bình thường và trong tầm tay của hàng triệu hàng triệu phụ nữ, nhưng lại hết sức ngặt nghèo, trớ trêu với những người phụ nữ không may bị sinh ra trong một cơ thể khiếm khuyết. Vì mỹ cảm tự nhiên của con người, mà họ không được chấp nhận một cách hẳn nhiên trong cung bậc tình cảm an hòa của sự yêu thương. Biết mình thua sút thiệt thòi trong mặt bằng tâm cảm xã hội, một số thì mặc cảm cam chịu khép mình trong thinh lặng, trốn chạy những cơn xúc cảm căng trào, chạy trốn những bóng hình lỡ đa mang đến tận cùng yêu dấu, một số khác bằng lòng với một chút tâm tư từ một mênh mang nhẹ nhàng âm điệu vọng thầm, lấy một ánh mắt xa xôi làm điểm tựa, lấy một thanh âm trầm ấm làm khúc nhạc lòng, lấy một đam mê sáng tạo làm lẽ sống, nhưng có một số khác thì nổi loạn, không áp chế được khát vọng của mình, và sẽ cố đạt được bằng mọi giá, dù biết hậu cảnh sẽ là tất cả đau thương cho mình, nhưng cái lý của sự đánh đổi là không thể phủ nhận “Thà được một lần còn hơn không có cả đời”, và rằng, may ra có một đứa con thì cũng có nơi nương cậy tuổi già. Không sai. Chẳng có gì sai cả. Cái sai nếu có chăng là sự chọn lựa đối tượng. Nhưng đã gọi là quyền năng tối thượng của tình cảm thì không thể nói đến chọn lựa. Lại trong tâm tưởng chỉ một lần cho mãi mãi, thì rõ ràng những người đàn ông có nhiều ưu điểm là những người đàn ông được mong cầu cao nhất. Hơn nữa, mỹ cảm tự nhiên không có chuỵên thương lượng với hình hài. Chả thế mà nhân gian không hiếm những mối tình tưởng chừng vô lý. Vấn đề là ở chỗ, những người đàn ông tốt lẫn đẹp đều không dễ, hay nói chính xác hơn là không bao giờ có thể thuộc về những người phụ nữ khiếm khuyết, vậy thì chỉ còn mỗi cách: ăn cắp. Cũng như muôn triệu sự đánh cắp khác thôi, khi bị phát hiện, đồng nghĩa với một sự trừng phạt. Mà cái sự đánh cắp này lại càng bị liệt vào hàng thứ cấp hơn hết, với những từ ngữ ám chỉ hết sức tệ hại. Và vì thế, sự trừng phạt nặng nề hơn gấp nhiều lần. Người ta có thể thừa rất nhiều thứ, nhưng thường luôn thiếu một thứ: Sự cảm thông. Nhất là người trong cuộc, người trực tiếp hệ lụy với sự vụ. Còn những người có thể nói lời cảm thông thì cũng vẫn kèm theo một cái tặc lưỡi “Cũng tội, nhưng đã thế rồi sao không biết thân biết phận, đeo mang làm chi cho khổ vậy”. Thế đấy.

Người mẹ ngồi rũ rượi trên chiếc ghế như quá rộng với bà. Nước mắt cứ rịn ra liên hồi, bà không dám khóc to, không dám la hét, không dám bắt đền, nếu như ở vào một hoàn cảnh khác, chắc hẳn bà không phải ngồi bó gối mà đau thắt cả ruột gan thế này. Từ khi nghe tin, cô con gái tội nghiệp của bà đã gây ra điều xấu hỏ, và đã lẳng lặng bỏ đi đến một nơi xa lạ nào đó, thì bà rơi vào một trạng thái thật phức tạp. Bởi những cảm trạng hỗn độn, xấu hổ, ngượng ngùng, và hơn hết là lo lắng, lo lắng đến cháy ruột cháy gan vì cô con gái chân không ra chân tay không ra tay ấy đang trôi dạt về đâu đó, vẫn còn sống hay đã nghĩ quẩn mà tự tử mất rồi. Con ơi! Sao con lại dại dột cạn nghĩ thế hở con? Con phải biết mình là ai chứ? Mẹ cho con lên ăn nhờ ở đậu anh chị để mà học một cái nghề, đề mà sau này mẹ không còn lo cho con được nữa thì cũng có cái mà nuôi thân. Sao con lại hành động sai trái thế hở? Có phải người đàn ông ấy đã dụ dỗ con? Ôi giá như đó không phải là cháu rể mẹ, thì hẳn mẹ sẽ không để câu chuyện ra thế này, mẹ sẽ… nhưng mà bây giờ thì mẹ nói được gì chứ? Bởi mẹ hiểu con, làm sao mẹ không hiểu con chứ, con đã lớn lên trong vòng tay của mẹ, tâm tính con thế nào mẹ là người biết rõ hơn ai hết. Con ơi ! Sinh con ra với một nông nỗi như thế mẹ đã đau khổ lắm rồi, mẹ những muốn bù đắp cho con bằng mọi thứ có thể, nhưng mà cái điều con mong ước nhất thì mẹ lại không thể cho con. Nhưng sao không phải là người nào đó ngoại tộc, nếu vậy thì còn dễ liệu cách xử sự, đằng này… Trời ơi con ơi. Con đang ở đâu? Con còn sống hay đã chết? Đừng, đừng nghỉ quẩn thế con ơi! Dù thế nào thì con vẫn còn có mẹ đây mà. Có nhục nhã gì thì mẹ cũng cùng chịu nhục với con, có khổ cực mấy thì mẹ cũng cùng khổ cực với con, nếu như con có thai, thì mẹ sẽ chăm sóc con đến nơi đến chốn, chỉ cần con cho mẹ biết, bây giờ con đang ở đâu? Con ơi! Con đang ở đâu? Cháu ơi! Dì ngàn lần xin lỗi cháu, dì đâu có ngờ lại xảy ra một chuyện đốn mạt khốn khổ thế này. Con dì hư hỏng, dì không biết dạy, dì chỉ biết xin lỗi cháu thôi, nhưng mà cháu ơi, cháu hãy giúp dì tìm em nó. Dù sao thì em nó cũng là dòng họ máu mủ nhà mình, lẽ nào…

Vâng, dù sao cùng là nhành trên nhánh dưới của cùng một cội, chị cũng không thể đành lòng coi là kẻ xa người lạ. Và anh nữa, suốt mấy hôm rồi, anh như cái bóng, lặng lẽ ra khỏi nhà đến cơ quan, rồi lặng lẽ từ cơ quan về nhà. Anh như sọp hẳn đi, anh không dám nhìn thẳng chị. Chị đau, chị giận, nhưng chị cũng thương anh xiết bao. Hẳn anh không phải là người tệ bạc, bởi nếu muốn, biết bao người phụ nữ đang vây quanh anh kia, lẽ nào anh lại… Nhưng dẫu sao cảm xúc đắng đót, tê tái vì bị xúc phạm, bị lừa dối thì vẫn cứ canh cánh trong lòng. Đương nhiên rồi, làm sao có thể gạt bỏ ngay được tất cả khi sự thể còn như trước mắt, vết thương trên da cũng cần thời gian để lành, và vết thương trong lòng thì còn cần nhiều hơn hơn thế. Bởi một khi đã là sự ám ảnh, mất niềm tin, giảm sút tình cảm, thì vô cùng khó cho sự khôi phục, mãi mãi về sau vẫn luôn là một tì vết trong lòng mỗi người. Tình yêu lại là một thứ tình cảm ích kỷ đến tuyệt đối. Giả sử có bằng mọi cách để đi qua, và tưởng chừng như đã đi qua được, thì bỗng bất kỳ một lúc nào đó, tự nhiên nhắc lại, trong giọng nói vẫn còn mang vẻ hờn oán. Đó là nói về khía cạnh được bao dung, còn không hiếm trường hợp thì đổi thành thù hận. Nặng nhẹ thế nào thì cũng là một hệ lụy kéo dài suốt cả cuộc đời. Từ ngày yêu anh, cũng như bao người phụ nữ khác, chị cũng có những lúc hoài nghi, đó là một cảm giác như là bản năng thường trực trong mỗi người phụ nữ. Cho đến lúc lấy nhau, có con rồi, niềm tin cũng đã được củng cố kha khá, nhưng nếu hỏi chị có tin tuyệt đối vào chồng không thì chị cũng khó trả lời. Bây giờ xảy ra sự vụ, chị nghiễm nhiên phải là người tháo chốt. Chị không nghĩ cô ấy sẽ bỏ đi sớm thế, và bằng cách nào? Chỉ biết sau hai ngày không thấy mặt kể từ hôm đó, thì cô bỗng trở về, chị chưa thể đối mặt nên lui vào phòng đóng cửa. Cho đến tận chiều chị mới ra, thì một phong thư đã để sẵn ở bàn, nội dung là những lời xin lỗi, và bảo rằng tất cả là do sự chủ động của cô ấy, không phải lỗi của anh, và rằng mọi người đừng lo cho cô ấy. Có vẻ như cô ấy đã có sự sắp đặt trước, hỏi anh, anh cũng không thể biết cô ấy đi đâu. Đến lúc ấy chị mới phải báo cho mẹ cô ấy cũng là dì ruột của chị. Sự đau khổ và lo lắng của người mẹ đã làm chị mềm lòng. Chị cất công rà soát mọi mối quan hệ để mong tìm ra manh mối nơi cô đến.

Cô mân mê tờ giấy bưu phiếu. Tờ giấy hàng thứ bao nhiêu thì cô không thể nhớ, nhưng ở một nơi nào đó vẫn đều đặn gửi đến cô từ khi cô đến cơ sở dạy nghề cho trẻ khuyết tật này được mấy tháng, có lẽ đúng hơn là từ khi cô không giấu được độ phình ra dần của khoang bụng. Cô đã hết sức vui mừng và tạ ơn trời phật khi được thông báo cô đã có thai. Điều mong mỏi của cô đã đạt được, cô thấy thật bằng lòng với những gì cô đã quyết định và hành động. Cô nhận nhiều email, điện thoại của anh và cả của chị, nhưng cô không trả lời. Cô im lặng để trả lại sự yên bình cho hai người, tuy rất nhiều lúc cô dậy lên nỗi nhớ anh đến hơ hoảng, rát buốt, những lúc ấy cô lại muốn gọi điện cho anh, email cho anh, nhưng nghĩ đến chị, nghĩ đến điều mình đã gây ra cho cái gia đình vốn rất yên ấm hạnh phúc ấy, nghĩ đến cái tội rất lớn của mình thì cô lại cố dằn lòng, và lâu dần mọi sự cũng lắng đi. Cô chỉ gửi một lời nhắn đến cho mẹ cô để mẹ cô yên lòng, và cô, cô cũng yên lòng với nơi đã bắt đầu là ngôi nhà mới cho mẹ con cô. Lần đầu tiên nhận giấy báo chuyển tiền, cô hết sức ngạc nhiên và không thể biết ai là người gửi, và vì sao lại biết nơi cư trú của cô? Bưu điện không thể trả lời cho thắc mắc của cô vì đã được yêu cầu giấu tên người gửi. Rồi lần thứ hai, thứ ba, thì cô cho rằng anh gửi, không những chỉ là những đồng tiền, mà cô nghĩ rằng anh đang biết rất rõ về cuộc sống của cô, và động thái này là biểu hiện tình cảm và sự quan tâm của anh với mẹ con cô. Cô thật sự thấy hạnh phúc, cô biết mình đã không nhầm khi chọn anh. Và thế là đều đặn hàng tháng, cô nhận tấm bưu phiếu. Một khoản tiền vừa phải cộng với tiền lương cũng đủ cho cuộc sống cô tạm bình ổn. Cho đến bây giờ thì những tấm bưu phiếu ấy đã hiện diện thành một thực thể biết đi đứng, biết bi bô. Nhiều lúc cô nghĩ, không lẽ mãi mãi anh là một người bố giấu mặt. Nếu một ngày đứa trẻ kia hỏi cô một câu thì cô sẽ trả lời nó như thế nào? Quyền có bố là quyền chính đáng của một đứa trẻ, không có lý do gì cô lại có thể tước đi cái quyền đó của nó. Đến một tuổi nào đó, nó đủ khôn lớn để hiểu về hoàn cảnh của mình. Nó đương nhiên sẽ truy cứu nguồn gốc, có thể nó trầm tính mà lặng lẽ tìm hiểu, cũng có thể nó xốc nổi quyết liệt khi đối diện vấn đề. Vậy cô phải làm sao? Bây giờ cô mới nghĩ đến một điều thật can hệ. Cô đã đem câu chuyện của chính cuộc đời mình đặt lên đôi vai bé bỏng mà con cô phải gánh. Rồi cuộc đời nó sẽ diễn tiến ra sao khi nó phải chịu phân lệch cả tình cảm lẫn sự giáo dục. Nó tuy là con gái, nhưng dù thế nào thì một đứa trẻ chỉ có thể phát triển bình thường cả về tâm lý lẫn thể chất khi nó được tình thương yêu và chăm sóc của cả cha lẫn mẹ. Đằng này, nó đã không có cha, lại bản thân cô không đủ điều kiện, trong những sinh hoạt hàng ngày, cô luôn phải nhờ vào sự trợ giúp của những người chung quanh. Tuy nhiều người khá sẵn sàng, những một số người cũng tỏ ra lãnh đạm và hơi khó chịu khi bị làm phiền nhiều. Cô đủ nhạy cảm để đọc được những ý nghĩ ấy, và cũng không ít lần cô khóc thầm vì tủi thân. Vậy đó, với những hạn chế của bản thân như vậy, liệu cô có đủ khả năng để nuôi dạy nó thành người. Tại sao lúc đó cô không nghĩ đến? Mà làm gì có thời gian cho sự cân nhắc mọi điều khi sự khát khao trong cô đã choán hết tâm cảm và lý trí. Xét về nhu cầu và khát vọng bản thân, cô không có gì phải hối tiếc, nhưng về tất cả những người liên quan mật thiết trong chuyện này đều bất ổn cả. Nhưng giờ thì đã muộn cho cân đo hệ quả. Chỉ biết nhắm mắt mà đi tiếp, khắc phục được cái gì hay cái đó, còn thì…

Nó đi lang thang trên hè phố, hết phố này sang phố khác. Nó chỉ muốn đi đi mãi, đi đến đâu cũng được miễn không phải là về nhà. Đôi lúc nó lại quệt vội những giọt nước mắt vừa rơi ra. Nó bây giờ đã là một cô gái mười sáu tuổi. Nó không muốn về nhà vì không muốn nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ nó. Thứ mà nó đã phải thấy quá nhiều trong suốt những năm tháng qua. Lúc còn nhỏ, nó mải chơi, mẹ nó gọi không được, mắng không xong, khóc. Khi nó ốm, mẹ nó không ôm vác được, phải nhờ người nọ người kia đưa nó đi bệnh viện, nhờ chưa được ai, khóc. Khi nó đi học muộn vì không nhờ được ai chở đến trường, bị cô giáo mắng, phê vào sổ, nó khóc, mẹ nó cũng khóc. Nó đòi mua thứ nọ thứ kia, mẹ nó không dắt nó đi mua được, lại phải nhờ người nọ người kia, họ quên hoặc mua không đúng thứ nó cần, nó lăn ra khóc, mẹ nó cũng khóc. Nó thấy bạn nó có ba có mẹ đưa đến trường, bằng xe máy đẹp, bằng xe hơi đẹp, nó hỏi ba đâu, mẹ nó lại khóc. Rồi một ngày vào năm nó mười tuổi, có hai người từ xa đến nhà nó, nói với mẹ nó chuyện gì đó. Lâu lắm, mẹ nó chỉ khóc, và sau đó bảo nó gọi hai người ấy là ba nuôi, mẹ nuôi. Nó không biết ba mẹ nuôi nó ở tận đâu, chỉ thỉnh thoảng thấy mẹ nuôi đến cho nó quần áo đẹp, bánh quà, và cả tiền nữa. Những lúc ấy nó thích lắm, nhưng mẹ nó thì… vẫn khóc. Nó không muốn bạn nó đến nhà, nó không muốn bạn nó nhìn thấy dáng lê lết trên hai chiếc ghế đòn làm phương tiện di chuyển trong nhà của mẹ nó, lúc trước nó còn thấy mẹ nó thi thoảng chống nạng, sau đó hay bị té quá, nên cũng không chống được nạng nữa, chỉ đi bằng hai tay là chính, nhiều lúc bị những người bạn ác ý, giễu nhại dáng đi lê lết của mẹ nó, nó ức quá đánh nhau với bạn xong về nhà mách với mẹ, mẹ nó khóc. Nó chẳng mấy khi nhìn thấy mẹ nó cười, nhiều khi chẳng có chuyện gì, nó cũng thấy mắt mẹ nó đỏ hoe nhìn nó, rồi lén quay đi chùi vào tay áo. Nó không muốn về nhà vì chỉ ít ngày nữa là sinh nhật của nó. Nó đã dự mấy cái sinh nhật của lũ bạn nó, rôm rả lắm, vui vẻ lắm, ba mẹ các bạn ấy người ta nói sinh nhật thứ mười sáu với con gái là nhiều ý nghĩa lắm, đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong cuộc đời một cô thiếu nữ. Vậy mà nó… nó biết, nếu nói với mẹ nó, thì mẹ nó lại chỉ khóc thôi. Thời gian gần đây, nó như nhiễm cái khóc của mẹ nó thì phải, nhưng chỉ khóc một mình thôi, nó đã biết giảm bớt những giọt nước mắt của mẹ nó bằng những câu đùa tếu hài, đã biết không thể đòi hỏi những điều mà đám bạn nó thật đơn giản để có, nó đã biết nấu nồi cháo và dỗ cho mẹ nó ăn khi mẹ nó ốm, mà khi ốm, mẹ nó cũng hay đỏ mắt lắm. Ngày còn nhỏ có lúc nó thắc mắc “sao mẹ nhiều nước mắt thế, chắc ăn bao nhiêu uống bao nhiêu thành nước mắt hết”. Giờ thì nó hiểu được phần nào những gì làm mẹ nó khóc. Nhất là những lúc nhìn mẹ nó di chuyển bằng tay cùng hai chiếc ghế, cứ ngồi lên cái này thì nhích cái kia lên phía trước, và lại tiếp tục tiếp tục, có lần trượt ngã sõng xoài ra. Bây giờ nó hiểu biết hơn một chút, nó tự hỏi: Làm sao mà mẹ nó lại mang bầu và sinh ra được nó nhỉ? Rồi làm sao mà ẵm bồng lo lắng cho nó hàng đống việc lặt vặt? Những câu hỏi đó được giải đáp từ một vài người bạn của mẹ nó. Và người ta còn nói thêm rằng “Con phải học hành và làm việc cho tốt để sau này lo cho mẹ con nhá. Mẹ con chỉ trông vào con đấy thôi”. Tất nhiên là bây giờ nó đã đủ hiểu những gì đã đặt lên đôi vai của nó. Nó lại tự hỏi: Vậy bố nó là ai? sao lại sinh ra nó rồi không ngó ngàng gì cả? Liệu bố nó có biết đến sự có mặt của nó trên đời này không? Cho dù nó cũng đã gọi một tiếng bố, nhưng đó là bố nuôi, tuy người bố nuôi ấy cũng tỏ ra rất thương yêu nó, những nó không được thường xuyên gặp. Nó cũng biết, bố nuôi làm sao bằng bố thật được. Giá như nó có người bố thật nhỉ? Chắc bây giờ nó không phải khóc thế này.

Anh lặng người đi trong cảm xúc khi thắp những ngọn nến trên ổ bánh sinh nhật cho con gái. Thâm tâm anh đang thốt lên một lời ân cảm đến một người. Một người mà giờ đây anh không biết phải định nghĩa thế nào cho đúng. Người ấy đã dẫn anh đi hết cảm xúc này đến cảm xúc khác. Những thứ cảm xúc mà một người đàn ông có thể được cảm nhận trong đời nếu có được bên mình một người như thế. Từ sau cái ngày ấy, tâm thế anh luôn mất tự tin trước chị, luôn có một nỗi tự vấn và ray rứt với cả cô ấy nữa. Giá như anh đừng mềm lòng mà chìu theo mong muốn của cố ấy một cách cảm tính, thì có lẽ anh đã không gián tiếp đẩy một người phụ nữ bất hạnh ấy vào một tình cảnh đáng tiếc. Nhưng không thể quay ngược lại con đường mình dã đi qua. Anh âm thầm tìm hiểu đâu là nơi cô đến. Không mấy khó khăn, vì anh đã có thể đoán được nơi ấy qua một vài phương hướng từ những email của cô trước đó. Và khi tìm được, anh âm thầm kết giao với một vài người nơi ấy, để nắm thông tin về cô và những trợ giúp khi cần. Anh không ngờ có một người cũng làm cái việc tương tự như anh. Anh đã chết lặng khi tình cờ phát hiện xấp giấy biên nhận chuyển tiền trong tủ áo của chị, đến một địa chỉ. Anh càng nể trọng chị hơn, và chỉ biết âm thầm tạ ơn chị bằng tất cả tình yêu thương chăm sóc có thể. Cuộc sống gia đình anh chị đã dần trở lại sự êm ấm và còn có phần thắm thiết hơn. Và rồi một ngày chị nói với anh một ý định. Không còn ý định nào tuyệt vời hơn thế, hợp tình hợp lý hơn thế, nó đã đóng vai trò công khai hóa một mối quan hệ cha con, và cũng là một bước chuyển tiếp đáng kể. Anh đã có thể chăm sóc hai mẹ con cô ấy dễ dàng hơn, nhưng dẫu sao vẫn còn một khía cạnh khá tế nhị. Và chị lại là người đủ tinh tế để giải quyết sự tế nhị ấy. Cô con gái nuôi được nhận một thứ tình cảm không khác mẹ ruột là mấy. Một số khả năng hạn chế của người mẹ ruột đối với con gái đã được mẹ nuôi bù đắp. Phần nào đó cũng làm cho tâm lý của một cô con gái mới lớn được cân bằng và thoải mái hơn. Và một điều cả hai mẹ con cô đều không nghĩ đến, lại đang xảy ra trong một không gian hiện thực. Không gian ấy đủ lung linh trong những ánh nến, đủ ấm áp trong chan hòa tình thân, đủ tươi vui với những tiếng cười bè bạn, và cả hoa cả nhạc cả quà. Không gian ấy đã làm cho một cô bé lâng lâng trong niềm hạnh phúc. Điều mà trước đó ít lâu những tưởng không thể xảy ra, những tưởng là nỗi tự ti buồn tủi. Ngờ đâu một cuộc điện thoại ngắn gọn “Con gái ơi! Con hãy ghi thiệp mời sinh nhật đến bạn bè với địa chỉ này nhé”. Một nhà hàng tương đối khang trang lich sự, một bữa tiệc tương đối đầy đủ và màu sắc. Khi những tấm thiệp mời được bay đi trên môi cười rạng rỡ của chủ nhân, thì môi cười rạng rỡ ấy cũng tươi nở trên một gương mặt, một gương mặt đã nhiều nếp suy tư sầu muộn.

Nó hồi hộp mở món quà mà mẹ nuôi nó nói là món quà đặc biệt nhất của ngày này. Nó hơi ngạc nhiên thắc mắc sao cái hộp được bao bằng tờ giấy hoa ấy lại nhẹ thế. Món quà trong ấy là gì nhỉ? Hay là mấy tờ giấy có mệnh giá cao nhất để nó có thể thỏa thuê mua sắm những thứ theo ý thích. Nhưng nó khá thất vọng khi chiếc hộp được mở ra, cũng là giấy, nhưng không phải loại giấy nó phỏng đoán. Nó mở tờ giấy ra. Người thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc và vui sướng không phải là nó. Cô vụt ôm lấy miệng để kìm mình lại sau tiếng kêu bật ra. Mảnh giấy ấy là niềm khoắc khoải lo lắng của cô bao lâu nay. Khi con cô đến tuổi đi học, người ta chiếu cố cảnh nhà đặc biệt nên không yêu cầu đầy đủ thủ tục. Nhưng trong lòng cô vẫn luôn canh cánh, mai kia, ngày càng lớn, con gái cô phải va đập với nhiều mặt trong xã hội, không phải ở đâu người ta cũng có thể linh động thủ tục hồ sơ. Vậy rồi nó sẽ ra sao? Bây giờ thì nó hiển hiện trước mắt cô. Và cô cũng không biết vì sao mà có được nó? Cô nhìn anh. Anh hất nhẹ cái nhìn sang chị. Chị chỉ mỉm cười. Anh nhìn chị với một ánh nhìn chan chứa không giấu giếm. Vâng, có được mảnh giấy đó cũng là nhờ chị. Không biết chị mày mò tìm hiểu thế nào, mà một ngày chị nói với anh một phương thức. Rằng người cha có thể làm được giấy khai sinh cho con mà không cần phải có hôn thú với người mẹ. Bằng một đơn xin nhận con, với sự đồng thuận của người vợ chính thức, nếu có, với sự xác nhận hộ tịch của địa phương. Hôm ấy, anh đã ôm chặt chị, nói bên tai chị một lời cảm ơn chân thành. Bởi hành động của chị không chỉ mang đến một ý nghĩa thiết thực cho một cuộc đời, mà thực sự xoa dịu và làm ấm lên những trái tim còn mang nặng những nỗi niềm. Nó ngơ ngác hết nhìn người này đến người khác. Mảnh giấy trong tay nó có ý nghĩa gì mà gọi là món quà đặc biệt? Và vì sao vẻ mặt của những người lớn lại khó hiểu thế kia? Mẹ nuôi nó cầm tay nó hướng nó về phía ba nuôi, giọng trầm ấm nhỏ nhẹ “Con gái. Đây không phải là ba nuôi của con, nhưng con vẫn mãi mãi gọi là ba, vì đây chính là ba ruột của con”. Mẹ nó bật khóc, nó hiểu ra và cũng bật khóc, nhưng những giọt nước mắt bây giờ khác trước rất nhiều. Nó run run thốt một tiếng gọi “BA”. Anh cũng nghe mắt mình ướt nóng khi ôm chặt con gái vào lòng.

Vậy đó. Tình yêu quả thực là ích kỷ, nhưng Hạnh phúc thì có thể sớt chia.

ĐÀM LAN


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 07.02.2015… ................................ Vũ Thư Hữu .... 01

Cuốn Phong Hóa và Phong Tục của người Việt Nam

(M œ urs et Coutumes du Vietnam) của La Giang Vũ Ngọc Liễn .. Vũ Anh Tuấn .... 08

Hương Tướng – Hương Tâm .......................................................... Tâm Nguyện .... 11

Ngược dòng ............................................................. Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 20

Tứ Thư .......................................................................................... Đỗ Thiên Thư st ... 44

Ngũ Kinh ........................................................................... Đào Minh Diệu Xuân st .... 49

Bến Xuân & giai thoại về mối tình cao thương, dang dở ................ Phạm Vũ .... 52

Ngày quốc tế thi ca 21.3 .................................................................. Lê Nguyên st .... 61

Cuộc thi tiểu thuyết đầu tiên

trong lịch sử văn học quốc ngữ ........................... Đỗ Thiên Thư st ... 63

Tình Xuân (thơ) .................................................................. Phạm Thị Minh Hưng .... 66

Có kịp giấc Xuân (thơ) ...................................................... Phạm Thị Minh Hưng .... 67

Chân lý (thơ) ....................................................................................... Thanh Châu ... 68

Con Dê Mùi (thơ) ............................................................................... Thanh Châu .... 68

Ước mơ mùa Xuân (thơ) .................................................................. Tâm Nguyện .... 69

Xuân đợi chờ (thơ) ................................................................................ Lam Trần ... 70

Nhớ thương (thơ) ................................................................................... Lam Trần ... 71

Lòng em (thơ) ..................................................................................... Thiếu Khanh .... 72

Ý nghĩa từng loại hoa (thơ) .................................................................. Vũ Thủy .... 73

Lộc tình (thơ) ............................................................................................. Vũ Thủy .... 74

Đến Xuân (thơ) .................................................................................... Quang Bỉnh .... 75

Chúc (thơ) ............................................................................................. Quang Bỉnh .... 75

Mấy lời cám ơn (thơ) ........................................................................ Lê Minh Chử .... 77

Lộc tình 2 (thơ) ................................................................................ Ngàn Phương .... 78

Ước mơ (thơ) ..................................................................................... Ngàn Phương .... 79

Mừng Xuân mới (thơ) ...................................................................... Ngàn Phương .... 80

Thi vịnh truyện Kiều (thơ) ................................................ Huỳnh Thiên Kim Bội .... 80

Một ngày tháng 3 (thơ) .................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 81

Sợi dây (thơ) .................................................................................... Võ Kim Cương .... 82

Vũ trụ (thơ) ...................................................................................... Võ Kim Cương .... 83

Hoa sữa (thơ) ......................................................................................... Lê Nguyên ... 84

Em là hương là hoa Hà Nội (thơ) ....................................................... Lê Nguyên ... 85

Tự do (thơ) ................................................................................ Trần Nhuận Minh .... 86

Freedom (thơ) ........................................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 86

Vẩn vơ ra đứng… (thơ) .......................................................... Trần Nhuận Minh .... 87

Aimlessly standing… (thơ) ..................................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 87

Buổi sáng sớm đầu năm ...................................................................... Dương Lêh .... 86

Bài học thứ 100 ...................................................................... Hoàng Kim Thư st ... 97

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) ............................... Đào Minh Diệu Xuân st .... 99

Hoa tím mong chờ ............................................................ Huỳnh Thiên Kim Bội .. 102

Cách viết & cách đọc tên riêng nước ngoài

trên văn bản tiếng Việt .................... Hoàng Kim Thư st . 104

Chuyện ngày xưa ....................................................................... Hà Mạnh Đoàn .. 113

Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (tt – kỳ 8) ................. Thanh Châu dịch thuật .. 118

Một lần làm vợ ........................................................................................ Đàm Lan .. 123

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế