VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 14/01/2017 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Trong phiên họp tất niên này có hai khách mới, có khả năng sẽ trở thành thành viên, nên Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã dành cho hai vị khách mỗi vị mấy phút để tự giới thiệu. Sau đó, như thường lệ, ông đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư mà ông mới có: cuốn đầu là một cuốn tự điển hơi cổ được xuất bản năm 1997 (20 năm trước) bởi nhà xuất bản lừng danh Hachette, mang tựa đề là Tự Điển Phổ Thông về các Nước Sử Dụng Pháp Ngữ (Dictionnaire Universel Francophone). Đây là một cuốn Tự Điển cỡ 15x24 phân, dày 1554 trang, được in thật tuyệt vời bởi nhà xuất bản lừng danh Hachette. Cuốn Tự Điển đặc biệt này cho người dùng tất cả mọi thông tin thiết yếu cần biết về trên 30 chục nước nói tiếng Pháp mà Việt Nam chúng ta là một trong các nước đó. Người viết mua được liền để tâm tra cứu ngay về Việt Nam, thì thấy thật là tuyệt vời khi các văn nhân, thi sĩ, chính trị gia, nhân vật lịch sử của Việt Nam tự cổ chí kim đều có mặt. Cuốn tự điển này gồm 116 ngàn từ và 13 ngàn tên riêng, và với mỗi quốc gia thì có một bản đồ, một số hình ảnh và lá quốc kỳ. Vì là bằng Pháp văn là thứ tiếng ở nước ta càng ngày càng ít người thông thạo, nên người viết đã mua được quý thư với giá rẻ mạt là 300 đô mít (Annamese dollar). Cuốn thứ nhì cũng bằng Pháp văn là một cổ thư được xuất bản năm 1886 (131 năm trước) mang tựa đề là Hạm Đội của Đô Đốc Courbet (L’Escadre de l’ Amiral Courbet). Cuốn cổ thư này khổ 12x18 phân, dày 370 trang, chỉ có chân dung Đô Đốc Courbet ở ngay đầu sách và 10 tấm bản đồ cổ trong sách. Cuốn cổ thư này cũng chứa một số tài liệu lịch sử nhưng chỉ có 3 chương đầu có nói về Việt Nam, về việc oanh tạc thành Huế, oanh tạc Thuận An và về Hiệp ước ký ở Huế. Mười ba chương còn lại chỉ nói về những chiến tích của Hạm Đội này ở bên Tàu và về cái chết của viên Đô Đốc này. Tuy nhiên cuốn cổ thư này có một chi tiết đặc biệt hay là nó cho biết tất cả mọi chi tiết về nhân viên và thủy thủ của tất cả 35 con tàu trong hạm đội này, kể từ Thuyền trưởng cho tới tên anh thợ máy, và điều kỳ diệu là trong số 35 con tàu của Hạm Đ ội này có một con tàu (chuyên chở) mang tên là Annamite, và một con tàu khác mang tên là Tonkin. Sau khi được giới thiệu, hai cuốn quý thư đã được các thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú. Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, anh Phạm Vũ lên nói về cố nhạc sĩ Văn Cao và về hai bài hát “Anh cho em mùa Xuân” và “Mùa Xuân đầu tiên”. Anh Phạm Vũ nói xong, thành viên Kim Sơn đăng đàn ca minh họa bài ca “Anh cho em mùa Xuân” của Văn Cao bằng giọng ca mượt mà không thua gì ca sĩ thứ thiệt của nàng. Tiếp lời Kim Sơn, anh Nhựt Thanh lên nói chuyện về chùa chiền ở Cao Mên. Sau anh Nhựt Thanh, anh Dương L ê h lên nói về câu “Đời là vạn ngày sầu” trong một ca khúc của nhạc sĩ Lam Phương. Anh Dương L ê h nói xong, cô Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ “Đón Xuân với CLB Sách” và bài “Sách Xưa và Nay”. Tiếp lời cô Thùy Hương, cô Lệ Ngọc lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Mùa Xuân đầu tiên” của Tuấn Khanh. Cô Lệ Ngọc ngâm xong, anh Chử lên hát thơ tặng các thành viên bài “Đất nước say Xuân” do chính anh sáng tác. Sau anh Chử, anh Lê Nguyên lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Tuổi trốn đâu rồi” và hát tặng các thành viên bài “Vũ Khúc Xuân” hình như của chính anh viết. Tiếp lời anh Lê Nguyên, anh Bá Mạnh lên đọc tặng các thành viên bài vè “Báo cáo Thượng Đế”. Sau anh Bá Mạnh, anh Dương Lêh lên thổi Harmonica tặng các thành viên bài “Xuân và tuổi trẻ”. Sau đó thành viên Bs. Doan Linh lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Saigon vào Xuân”. Bs. Doan Linh ngâm xong, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc, lên hát tặng các thành viên bài “Ly rượu mừng”. Anh Thanh Châu hát xong, nhà Kiều học Phạm Đan Quế lên nói về các tác phẩm mà ông đã viết về Kiều và về việc ông khám phá ra là các cụ xưa của ta đã có cách đọc ngược toàn bộ 3254 câu thơ trong truyện Kiều bất hủ. Cuối cùng đôi song ca Thùy Hương và Bá Mạnh đã lên hát tặng các thành viên bài “Về dưới mái nhà” của Xuân Tiên. Buổi họp kết thúc thật vui lúc 11g15 cùng ngày, và các thành viên cùng nhau nhập tiệc, để chúc Xuân lẫn nhau, và cùng nhau chung hưởng một bữa ăn tất niên thật vui, đầy sắc Xuân và ý nghĩa. VŨ THƯ HỮU
VÀI CHI TIẾT VỀ MỘT QUÝ THƯ 1 3 0 NĂM TUỔI – CUỐN DƯ Đ Ồ THUYẾT LƯỢC (PRÉCIS DE GÉOGRAPHIE) CỦA CỤ P. J-B. TRƯƠNG VĨNH KÝ Đây là một cuốn sách chỉ vẻn vẹn có 115 trang, nhưng lại chứa đựng h ằ ng hà sa số những thông tin rất hấp dẫn với những người biết Pháp văn như tôi. Cuốn sách được nhà in Tân Định (Imprimerie de la Mission) in vào năm 1887 và mang tựa đề là Dư Đồ Thuyết Lược (Précis de Géographie). Tuy chỉ mua được bản photocopy, nhưng sau khi cưỡi ngựa xem hoa, tôi thấy cuốn sách hấp dẫn quá nên đã đọc một lèo trong 3 giờ liền. Đọc xong tôi cảm thấy nên viết vài dòng để giới thiệu quý thư này với các bạn đọc xa gần, vì nó rất đáng được những nhà nghiên cứu và những người có tiếng Pháp biết đến. Cuốn sách được chia ra làm 5 phần: 1/ Phần thứ nhất gồm 9 chương như dưới đây: Chương một nói về Phép Địa-dư Chương hai nói về Trái Đất Chương ba nói về Chân (cụ viết là Chơn) Trời và 4 Phương Trời Chương bốn nói về Trái-Cầu và Bản đồ Chương năm nói về Những đ ường gạch (đường ranh) bày ra mà phân Trái đất Chương sáu nói về Tên kêu các phần đất Chương bảy nói về Tên kêu các phần Biển (cụ viết là Nước Biển) Chương tám nói về Đất chia ra thế nào Chương chín nói v ề Nước Sông Biển 2/ Phần thứ hai “Nói lược qua về 5 phương Thiên hạ” và gồm 5 chương: Chương một nói về Phương Tây Chương hai nói về Phương Nam Chương ba nói về Phương Thế Giới mới (cụ viết là Thế Giái) Chương bốn nói về Phương Océanie Chương năm nói về Phương Đông 3/ Phần thứ ba gồm duy nhất một bài viết nói lược qua về nước Annam 4/ Phần thứ bốn gồm 3 đề tài Nam Kỳ Lục Tỉnh - Nam Kỳ buổi cựu trào - Annam - và Phép Trị dân đời cựu trào, và đề tài cuối cùng là Nam Kỳ đời Phang Sa (Français) gồm có 17 chương: Chương một nói về Địa thế đất Nam Kỳ Chương hai nói về Phép trị dân Chương ba nói về Kể ra từ tỉnh cho dễ nhớ Chương bốn nói về Những Sở hiệp lại cùng soái phủ Lại bộ Thượng Thư Chương năm nói về Tam Tòa đường Chương sáu nói về Tàu thơ; Trạm; Đường; Giây thép Chương bảy nói về Đường xe lửa Chương tám nói về Chợ búa Chương chín nói về Sông C ái Chương mười nói về Bốn Sông cái ấy nó thông với nhau làm sao? Chương mười một nói về Cửa biển Chương mười hai nói về Cù lao Chương mười ba nói về Các Sở thủy lợi Chương mười bốn nói về Kênh Chương mười lăm nói về Núi Chương mười sáu nói về Thổ sản và Chương mười bảy nói về Hộ Khẩu Đất Nam Kỳ 5/ Phần thứ năm nói về Nước Annam - Chia theo phần trị thì là 25 tỉnh Chung (Hết) Cuốn sách nhỏ này là cả một kho tài liệu cho những nhà nghiên cứu về đủ mọi mặt như Lịch sử, Xã hội, Dân tình, Hành chánh v.v… Người viết rất thích cuốn sách nhỏ này, vì cụ Trương Vĩnh Ký có đưa vào vài phần dịch ra Pháp đọc rất thích, xin trân trọng chia sẻ với các bạn độc giả xa gần. Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI VŨ ANH TUẤN
MÊ TÍN DỊ ĐOAN Nhân dịp Tết, xin nói về những chuyện mê tín dị đoan. 1. Quan điểm hay giáo lý của Giáo Hội Công giáo trước sau như một chống lại bói toán vì đó là hình thức mê tín dị đoan, vi phạm điều răn thứ nhất: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Tin thầy bói, đi coi bói tức là coi thầy bói thông biết mọi sự như Đức Chúa Trời, biết cả dĩ vãng, hiện tại, tương lai, có thể đưa ra những biện pháp hóa giải những vận hạn sẽ xảy ra trong đời người. Tin và nghe theo thầy bói như thế có nghĩa là không còn tin Thiên Chúa quyền năng, thông biết mọi sự, quan phòng mọi sự nữa mà coi thầy bói là Chúa của mình. Chúa Giêsu nói: “Đừng gọi ai dưới đất là thầy vì các ngươi chỉ có một thầy là Đức Kitô. Cũng đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha trên trời. Cũng đừng để ai gọi mình là người chỉ đạo vì các ngươi chỉ có một người lãnh đạo là Đức Kitô” (Mt 23,8-11). 2. Không tin bói toán nhưng cũng coi cho vui có được không? Người Công giáo có đức tin trưởng thành không bao giờ được phép làm như thế vì hành động của họ sẽ đưa tới hai hậu quả nghiêm trọng này: Một là liều mình dấn thân vào chỗ nguy hiểm có thể mất đức tin một cách dễ dàng. Ban đầu không tin, nhưng nghe thầy bói nói trúng một điểm nào đó là chấp nhận thầy hay, thầy giỏi, thầy nói đúng thế là tin theo thầy. Hậu quả tai hại thứ hai là trở nên gương mù gương xấu cho những người khác, nhất là những người còn yếu đức tin và còn non trẻ. Chúa Giêsu dạy: “Không thể không có gương mù gương xấu nhưng khốn cho kẻ nào làm gương mù gương xấu, thà lấy cối đá cột vào cổ nó mà quăng xuống biển thì hơn” (Mc 9,42). 3. Trong hôn nhân, bà con lương dân thường coi tử vi, coi tuổi, coi ngày lành tháng tốt. Người tín hữu không được tin theo vì đây cũng là hành động mê tín dị đoan. Tử vi căn cứ vào: Thập nhị địa chí (12 chi hình tượng là 12 con giáp); Thập thiên can (10 can); Ngũ hành tìm mạng; Bát quái tìm cung (kinh dịch) - mà tính tuổi hạp hay xung. Có tam hạp và tứ hành xung. Trong 12 con giáp có 4 bộ tam hạp: Tỵ-Dậu-Sửu (tạo thành Kim cuộc); Thân-Tý-Thìn (tạo thành Thủy cuộc); Dần-Ngọ-Tuất (tạo thành Thổ cuộc); Hợi-Mẹo-Mùi (tạo thành Mộc cuộc). Có 3 bộ tứ hành xung (không hạp): Dần-Thân-Tỵ-Hợi; Thìn-Tuất-Sửu-Mùi; Tý-Ngọ-Mẹo-Dậu. Mỗi cụm trong tứ hành xung còn phân ra “xung” và “khắc”. a. Tý-Ngọ khắc kỵ; Mẹo-Dậu cũng vậy. Nhưng Tý và Mẹo hay Dậu chỉ “xung” nhau chứ không “khắc”. Ngọ với Mẹo hay Dậu cũng chỉ “xung” chứ không “khắc” chế. b. Thìn-Tuất; Sửu-Mùi khắc chế. Thìn chỉ xung với Sửu, Mùi. Tuất chỉ xung với Sửu và Mùi. c. Dần khắc chế Thân; Tỵ khắc chế Hợi. Dần xung với Hợi; Thân cũng xung với Hợi. Ngoài tứ xung còn có lục hại nữa: a. Mùi-Tý gặp nhau lắm tai họa. b. Ngọ-Sửu gặp nhau thì không may. c. Tỵ-Dần gặp nhau thêm đau đớn. d. Thân-Hợi gặp nhau thêm đắng cay. e. Mão-Thìn gặp nhau càng khổ não. f. Dậu-Tuất gặp nhau lắm bi ai. Chúng ta tự hỏi: Ai đã tạo ra hay phú bẩm đặc tính hay nội lực cho mỗi con giáp, để rồi chúng gặp nhau thì hạp hay xung? Đây chỉ là chuyện bày đặt của những người thực hành mê tín dị đoan, hoàn toàn không có cơ sở khoa học và cũng không có cơ sở tâm linh, tôn giáo. Trên thực tế những bạn trẻ ngoài Công giáo lập gia đình, ai cũng coi thầy chọn tam hạp, chọn ngày lành tháng tốt, vậy tại sao từ 30 - 50% các đôi hôn phối xung đột, bạo hành và ly dị? Chỉ cần xét điểm này đủ biết đó là chuyện mê tín dị đoan. 4. Kinh Thánh có nói tới chuyện đồng bóng, bói toán: “Giữa anh em không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thủy, bỏ bùa, ngồi đồng cốt, chiêu hồn… Thiên Chúa của anh em không cho làm như vậy…” (Đnl 18,9-22). Đây là tệ nạn mà dân Israel đã lây nhiễm từ những dân ngoại xung quanh, Chúa đã nghiêm cấm, coi như sự xúc phạm đến Chúa. Tiên tri Samuel đã nói với vua Saun: “Phản nghịch cũng có tội như bói toán” (1S 15,23) - “Vua Saun đã trục xuất các người đồng bóng và bói toán ra khỏi xứ” (1S 28,3), nhưng vì quá sợ hãi quân Philitinh lại bị Thiên Chúa loại bỏ, nhà vua đã yêu cầu triều thần: “Hãy tìm cho ta một bà đồng bóng để ta thỉnh ý bà”, triều thần đáp: “Thưa có một bà đồng bóng ở Ênđô”. Vua đã cải trang đến thỉnh ý bà và kết cục là điềm báo về cái chết của vua cũng như sự thất trận của Israel trước quân Philitinh (1S 28,8-25). Câu chuyện bà đồng bóng gọi hồn cụ tiên tri Samuel lên đối đáp với vua Saun (theo thiển ý người viết) chắc chắn không phải là “biến cố lịch sử” mà chỉ là một giai thoại tác giả Thánh Kinh kể để minh họa cho việc Thiên Chúa loại bỏ vua Saun vì ông đã không tuân lệnh Chúa: “Tôi lâm cảnh ngặt nghèo, người Philitinh giao chiến với tôi và Thiên Chúa đã rời khỏi tôi, Người không trả lời tôi nữa” (1S 28,15). 5. Đã là mê tín dị đoan không có cơ sở khoa học cũng không có ai đủ thế giá để bảo đảm cho những phán quyết của thầy bói thì tin thế nào được, một vài điểm có thể đúng do “đoán mò theo tâm lý người đặt quẻ” thực chất thầy bói chẳng biết gì, chỉ lừa gạt mà thôi. Tục ngữ đã có câu: “Thầy bói nói dựa”. Nếu thầy biết tương lai xin chỉ cho biết độc đắc sổ số mỗi chiều là số nào? 6. + 7. Thầy bói thường là người “dẻo mép” và rành tâm lý, họ biết chắc kẻ đến coi bói phải có tâm sự rắc rối gì đó, chủ yếu là tình duyên, gia đình, trắc trở việc làm ăn, đôi khi vấn đề sức khỏe… nỗi lo âu hiện trên khuôn mặt, khóe mắt… qua vài câu thăm dò, chặn đầu này, đơm điều nọ, họ có thể đoán ra và “tán rộng”; thực ra thầy bói không thể biết gì về tương lai càng không thể có giải pháp tốt cho các biến động tương lai. Nếu thầy “tài” như vậy, sao không làm giàu và làm cho gia tộc giàu có? 8. Câu chuyện các nhà chiêm tinh ở phương Đông tìm thấy ánh sao dẫn đường được kể trong Tin Mừng theo Thánh Matthêu là một phép lạ của Chúa. Thực ra không thể có mối liên hệ nào giữa một vì sao với vận mệnh một con người như kiểu Khổng Minh trong Tam Quốc Chí, nhìn lên trời thấy ngôi sao sa, ông biết ngay Phượng Sồ đã chết. Thiên văn học ngày nay là một bộ môn khoa học thuần túy, không có liên hệ gì tới tâm linh nên ai nghiên cứu về vũ trụ học có thể tham vấn thoải mái. 9. Vấn đề phong thủy mỗi khi lập làng, lập ấp, xây nhà… người ta thường coi phong thủy. Cần phân biệt 2 phương diện khoa học và tâm linh: Về phương diện khoa học tự nhiên, chúng ta có thể tin theo - Thí dụ nhà quay hướng Đông Nam là tốt vì không bị mặt trời chiếu thẳng, còn quay hướng Tây thì không tốt vì buổi chiều nắng gắt lại chiếu thẳng vào nhà, chắc chắn ảnh hưởng xấu tới sức khỏe. Một cái trấn phong để ngăn những luồng gió mạnh thổi thẳng vào nhà cũng là hợp lý và có lợi cho sức khỏe, nhưng tin nó ngăn được tà mà, ám khí… là mê tín. Vị trí của một căn nhà mà bên cạnh, trước sau có vườn cây, ao cá… khí hậu sẽ dịu hơn đó cũng là tốt cho sức khỏe… Đây là những vấn đề thuộc lãnh vực khoa học thường thức, có thể và nên theo. Về phương diện tâm linh, các thầy phong thủy thường ghép vào cho có vẻ linh thiêng huyền bí - Thí dụ chủ nhà tuổi nào thì hợp hướng nào. Bếp, cổng cũng phải theo hướng hạp với tuổi. Cửa ra vào phải theo thước Lỗ Ban. Số lẻ là dương, số chẵn là âm - ngược với Thập nhị địa chí: số lẻ là âm, số chẵn là dương. Nếu đúng kích thước Lỗ Ban sẽ an toàn may mắn, ngược kích thước Lỗ Ban sẽ dễ bất ổn, xui xẻo… về điểm này người Công giáo không được tin theo vì có tính mê tín dị đoan. Một tấm gương treo trước nhà để phản hồi ác thần, xú khí cũng là mê tín dị đoan. 10. Vấn đề ngoại cảm trong việc tìm mộ thân nhân đã khuất không biết chôn ở đâu, đây cũng là mê tín dị đoan. Cứ xét hai sự kiện đình đám mới xảy ra thì đủ biết. a. Vụ thẩm mỹ viện Cát Tường gây cái chết cho chị Huyền, xác chị bị vứt xuống sông… tìm kiếm 2 năm chưa thấy… các nhà ngoại cảm được mời cũng bó tay. b. Vụ máy bay MH370 của hãng hàng không Mã Lai mất tích tháng 3/2014 cùng với gần 300 nhân mạng, nhiều nước đã lao vào tìm kiếm với những phương tiện hiện đại, dò tìm hàng triệu km2 đáy biển theo hành trình của máy bay, tốn kém hàng tỷ dollars mà kết quả không có gì. Ngày 17/01/2017 các nước Úc, Mã Lai, Trung Quốc đã tuyên bố ngưng tìm kiếm. Nếu ngoại cảm mà đúng sao không chỉ cho biết xác máy bay ở chỗ nào? Tóm lại người có đức tin trưởng thành thì luôn tránh xa mọi hình thức mê tín dị đoan, những điều không có thật để ta tin, bao nhiêu tiền bạc tốn cho bói toán khác nào ném tiền qua cửa sổ. Đi coi bói còn góp phần tạo nên gương mù gương xấu, và tạo nên một lớp người chuyên “nói dóc” lừa gạt mọi người, cản trở đà văn minh tiến bộ của xã hội. Tân Sa Châu, ngày 23 tháng 01 năm 2017 Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết
THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ “CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG” Bản dịch của L inh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh (Tiếp theo số 1 28 ) CHƯƠNG NĂM VÀI NÉT CHO ĐỊNH HƯỚNG VÀ HOẠT ĐỘNG 163. Tôi tìm cách để phân tích hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, và biết bao sự đổ vỡ có thể quan sát trên hành tinh chúng ta đang trú ngụ, và những nguyên nhân sâu xa do con người đưa đến việc tàn phá môi trường. Cho dù việc quan sát thực tế này cho chúng ta thấy sự cần thiết phải thay đổi định hướng, và gợi lên cho chúng ta một số hành động, chúng ta hãy cố vạch ra những đường nét chính của đối thoại, để giúp chúng ta bước ra khỏi vòng xoáy của việc tự hủy hoại chính mình mà chúng ta đang chết dí trong đó. I. CUỘC ĐỐI THOẠI VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG CHÍNH TRỊ TOÀN CẦU 164. Từ giữa thế kỷ cuối cùng và sau những vượt thắng nhiều khó khăn, người ta càng ngày càng ý thức, hành tinh này như quê hương và nhân loại là một dân cùng trú ngụ trong một ngôi nhà chung. Một thế giới phụ thuộc lẫn nhau không những phải nắm vững những hệ quả tai hại của cách sống, cách sản xuất và thái độ tiêu thụ… đều ảnh hưởng đến tất cả mọi người, nhưng nhất là phải lo sao để đề ra những cách giải quyết có viễn cảnh toàn cầu chứ không phải chỉ bảo vệ lợi ích cho vài quốc gia. Sự phụ thuộc lẫn nhau buộc chúng ta phải nghĩ đến một thế giới duy nhất, một chương trình chung với nhau. Cũng như tài năng khôn ngoan được sử dụng cho sự phát triển kỹ thuật lớn lao, cũng khó tìm được những hình thức hữu hiệu cho việc quản lý toàn cầu, để giải quyết các vấn đề khó khăn của môi trường và xã hội. Để đối mặt với các vấn đề nền tảng không thể giải quyết dựa theo các hoạt động của từng đất nước đơn độc, cần phải có một sự đồng thuận toàn cầu, tỉ dụ như, đưa ra một chương trình nông nghiệp lâu dài và đa dạng, triển khai những hình thức sử dụng năng lượng có thể tái tạo và ít ô nhiễm, đòi buộc có một cách sản xuất năng lượng thích hợp hơn, cố gắng quản lý tài sản của rừng, của biển và bảo đảm nước uống cho mọi người. 165. Chúng ta biết khoa học kỹ thuật dựa trên việc đốt cháy các quặng mỏ, làm ô nhiễm môi trường thật nhiều - nhất là than đá, cũng có dầu mỏ và một lượng ít hơn là khí đốt, cần phải thay đổi tiệm tiến và không thể chờ đợi được nữa. Bao lâu chưa tìm được cách phát triển những năng lượng có thể được tái chế, thì được phép lựa chọn điều ít xấu hơn hay phải lấy lại những giải pháp chuyển tiếp. Dù vậy, trong cộng đồng toàn cầu, khó mà đi đến sự hợp nhất tương đối về trách nhiệm của những người phải gánh lấy giá thành của việc chuyển tải năng lượng. Vào những thập niên cuối, những vấn đề về môi trường đã đưa đến nhiều cuộc tranh luận công khai, đã tạo nên trong cộng đồng xã hội những không gian cho một quyết tâm mạnh mẽ và một cuộc dấn thân quảng đại. Chính trị và doanh nghiệp phản ứng thật chậm, thật xa vời với những đòi hỏi toàn cầu. Theo nghĩa này, người ta có thể nói: trong khi nhân loại sống trong thời hậu kỹ nghệ có lẽ là một thời đại lịch sử vô trách nhiệm, người ta hy vọng rằng nhân loại vào đầu thế kỷ 21 có thể vẫn nhớ, để có thể đón nhận trách nhiệm khó khăn này với tấm lòng quảng đại. 166. Phong trào sinh thái đã có một quá trình lâu dài, được các cố gắng của nhiều tổ chức xã hội bồi đắp. Khó mà kể hết các tổ chức này, cũng như ghi lại lịch sử đóng góp của chúng. Nhưng nhờ vào một sự dấn thân mạnh mẽ mà những vấn đề môi sinh càng ngày càng được phổ biến trên các trang tin tức và luôn trở thành một lời mời để suy nghĩ lâu dài. Dù vậy, những cuộc gặp gỡ trao đổi về môi trường toàn cầu của năm cuối cùng không đáp ứng được nguyện vọng, vì thiếu quyết định chính trị, nên không đạt được thỏa thuận có ý nghĩa, có thể đem lại nhiều hiệu quả về môi trường. 167. Chỉ cần nêu lên Hội Nghị về trái đất tại Rio de Janeiro vào năm 1992. Hội nghị công bố: “Nhân loại đang đứng ngay trung tâm những cố gắng cho một cuộc phát triển lâu dài”[126]. Liên kết với nội dung các Tuyên Bố tại Stockholm (1972), Hội nghị đã phát biểu cách long trọng về việc cộng tác toàn cầu, để chăm sóc cho hệ thống môi sinh trên toàn trái đất, về trách nhiệm đóng góp tài chánh của những người tạo nên ô nhiễm môi trường; về trách nhiệm phải khảo sát tác động vào môi trường của từng công trình và dự án. Hội Nghị đề nghị phải xác định sự tập trung cao độ của việc phun khí thải vào trong bầu khí, hầu giảm bớt việc đun nóng bầu khí quyển. Hội Nghị cũng tạo ra một nhật ký với một chương trình hành động và một sự đồng thuận về sự khác biệt sinh thái cũng như tuyên bố những nguyên tắc về rừng rậm. Dù Hội Nghị đạt được mọi sự mong đợi và trong thời gian đó mang một tính chất tiên tri, các thỏa thuận cũng ít được đem ra thực hiện, chỉ vì không có guồng máy nào thích hợp để kiểm soát, để đánh giá từng giai đoạn và xử lý những hành động chống đối. Các nguyên tắc đề ra cần có những phương tiện vừa nhẹ nhàng, vừa có hiệu quả, để đem ra thực hiện cụ thể. 168. Giữa các kinh nghiệm tích cực, người ta có thể kể, tỉ như, Khế Ước Bâle về các thứ rác thải nguy hiểm với một hệ thống thông báo, luật tiêu chuẩn và kiểm soát; cũng như người ta nói đến Khế Ước về việc buôn bán trên toàn cầu, về các con thú và cây cỏ đang bị đe dọa tuyệt chủng, cùng với trách nhiệm phải tôn trọng có hiệu quả. Cám ơn sự thỏa thuận ở Vienne về việc bảo vệ tầng Ozon và bắt đầu được thực hiện qua bản báo cáo ở Montréal và nhờ các điều chỉnh, xem ra người ta cố gắng giải quyết vấn đề tầng khí quyển này đang bị giảm bớt. 169. Những tiến bộ về mặt bảo vệ sự đa dạng sinh học và việc hoang mạc hóa, xem ra không có bao nhiêu. Những tiến bộ về mặt biến đổi khí hậu lại càng ít hơn nữa. Việc giảm bớt khí thải đòi hỏi sự minh bạch, can đảm và trách nhiệm của các nước gây ô nhiễm nhiều và mạnh mẽ nhất cho môi trường. Hội nghị tại Hiệp chủng quốc về việc phát triển lâu dài, được gọi là Rio+20 (Rio de Janeiro 2012), đã đưa ra một tuyên bố bế mạc dài và không có hiệu quả. Việc trao đổi quốc tế không có bước tiến tốt đẹp nào cả, vì họ đặt quyền lợi quốc gia trên công ích. Những người phải đau khổ vì hậu quả mà chúng ta cố gắng che đậy, đều nhớ đến việc thiếu lương tâm và trách nhiệm. Trong khi Thông điệp này được soạn thảo, cuộc tranh luận đã được chú tâm cách đặc biệt. Chúng ta, những người tin, không được phép dừng lại cầu xin Thiên Chúa, để có những bước tiến tích cực trong các cuộc thảo luận hiện hành, để các thế hệ tương lai không phải đau khổ vì những hệ luận chậm trễ thật bất công. 170. Một vài chiến thuật cho việc loại bỏ những khí gây ô nhiễm môi trường, tìm cách quốc tế hóa các giá trị môi sinh đang gặp nguy hiểm vì áp đặt lên các nước có ít tài nguyên, những trách nhiệm nặng nề để thu hẹp lại việc thải khí gây ô nhiễm, so với những nước phát triển công nghiệp hơn. Việc áp đặt những gánh nặng trên các nước, cần được phát triển nhiều hơn. Theo cách này, đó là một sự bất công dưới chiêu bài bảo vệ môi sinh. Điều này luôn xảy ra cho những nước yếu kém nhất. Phải chấp nhận rằng, hậu quả của việc biến đổi khí hậu đã được cảm nhận từ lâu, hiện tại mức độ lại quá cao, một số quốc gia có ít tài nguyên, cần sự giúp đỡ, để có thể thích ứng với các hậu quả đã xuất hiện và gây tai hại cho nền kinh tế của họ. Trước cũng như sau, phải có những trách nhiệm chung, nhưng rất khác biệt, như các Giám Mục Bolivia đã nói: “Các nước được hưởng lợi với mức độ công nghiệp cao hơn, do việc thải khí gây hiện tượng nhà kính, phải có trách nhiệm nhiều hơn, để giải quyết vấn đề chính họ đã gây nên”[127]. 171. Chiến thuật của mua và bán “chứng chỉ khí thải” có thể trở thành cái cớ cho một hình thức tự biện, và điều này không thể sử dụng để đúc kết việc thải khí độc hại của toàn cầu. Hệ thống này xem ra là cách giải quyết nhanh gọn và dễ dàng, dưới vỏ bọc của một sự dấn thân nào đó cho môi trường, nhưng không đưa ra một cách thức nào cho sự thay đổi triệt để do hoàn cảnh đưa đến. Ngược lại, nó có thể xoay sở, làm quên đi điều chính yếu và cho phép nâng đỡ lượng quá tải của những quốc gia và các vùng. 172. Những nước nghèo cần phải loại trừ các đau khổ và ưu tiên cho một sự phát triển xã hội cho dân chúng; họ cần phải phân tích mức độ tiêu thụ quá đáng của những nhóm ưu đãi và kiểm soát tốt hơn sự hủy hoại. Thật sự, họ phải triển khai những hình thức ít ô nhiễm hơn về mặt sản xuất năng lượng, nhưng để đạt được họ phải dựa vào sự trợ giúp của những nước đã có sự phát triển mạnh mẽ, đối mặt với ô nhiễm hiện tại của hành tinh. Việc sử dụng trực tiếp năng lượng mặt trời cách phong phú, cũng cần đến máy móc và sự hỗ trợ, để các nước phát triển có thể nhận được kỹ thuật, các người trợ lý kỹ thuật và tài chánh, nhưng phải luôn chú ý đến những điều kiện cụ thể, vì “hạ tầng cơ sở không phải luôn thích hợp với những gì người ta quy hoạch”[128]. Giá thành sẽ bớt đi, nếu người ta so sánh với những nguy hiểm của việc thay đổi khí hậu. Nhưng trước tiên vẫn là một quyết định luân lý, dựa trên tình liên đới giữa các dân tộc. (còn tiếp) (Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)
Phụ Bản I BAO GIỜ THÌ CHÁNH PHÁP SẼ RA ĐỜI? Có lẽ câu hỏi này đã đeo đẳng người Phật Tử suốt mấy ngàn năm qua. Mọi người thi nhau cất nhiều Chùa, đúc nhiều Tượng để hướng về Chánh Pháp. Biết bao nhiêu người lớp người đã Xuất Gia, đã tập bao nhiêu Hạnh, Xả biết bao nhiêu vật chất, lìa ham muốn trần tục, một lòng hướng về Phật Pháp. Thế giới càng hỗn loạn, chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo dai dẳng, cuộc sống bất an… thì Chùa chiền ngày càng mọc lên nhiều thêm. Theo huyền ký thì vào khoảng năm 3.000 Chánh Pháp sẽ ra đời, thì ngày càng gần tới thời điểm đó rồi. Hoa Ưu Đàm đã nở ở nhiều nơi mà Chánh Pháp còn đang ở đâu? Phật Di Lặc chừng nào mới xuất hiện để “cứu thế độ đời”? Ngài sẽ xuất hiện tại Sa Mạc Gobi như lời của Ngài Krisnamurti? Hay ở một chốn linh thiêng nào đó? Hội Long Hoa để mừng Ngài sẽ diễn ra nơi đâu? Ai sẽ được diễm phúc chứng kiến giờ phút Phật Di Lặc ra đời? Lời Kinh chép lại có đáng tin cậy hay không? Phật Pháp có nhiệm mầu như những gì thuyết giảng hay không? Chúng ta sẽ hướng vào đâu để tìm Chánh Pháp? Theo tôi, lời Phật không thể là hư vọng, và 33 vị Tổ đã truyền nhau để xác tín. Tuy nhiên tin ai, tin như thế nào, là việc riêng của mỗi người, chúng ta không thể vay mượn niềm tin cũng như sự hiểu biết của người khác, mà mỗi người cần đặt câu hỏi cho chính mình rằng mình có Tin Đạo Phật đúng như những gì Đức Thích Ca hướng dẫn hay không? Nếu chưa biết thì có lẽ chúng ta nên bắt đầu lại từ đầu để có niềm tin cho riêng mình. Phật dạy: “Mỗi người nên tự thắp đuốc lên mà đi” thì lẽ nào ta cứ nương đuốc của người khác mãi? Nói đến Đạo Phật là mọi người thường nghĩ đến Chùa chiền, vì nơi đó từ bao đời được cho là giữ gìn và phổ biến Đạo Phật. Nhưng công tâm mà nhận xét, chính Chùa chiền là nơi đã truyền bá cho Phật Tử nhiều đời niềm tin vào sự hộ trì của Chư Phật, cho nên bao nhiêu thế hệ nối tiếp nhau ăn sâu vào tâm tưởng. Do đó, với hầu hết Phật Tử, Đạo Phật là một tôn giáo để phụng thờ Đức Thích Ca, A Di Đà, họ cầu mong được Độ, và chờ mong sự xuất hiện của Đức Di Lặc, mà theo giải thích của các Chùa thì đó là một trong Tam Thế Phật. Có lẽ do chúng ta quá thờ ơ với Đạo, và niềm tin đã che mờ tất cả, nên không quan tâm tới những gì được giảng dạy. Vì thế, dù rằng Đức Thích Ca đã nhập diệt cách đây gần 3.000 năm mà vẫn được giải thích đó là PHẬT HIỆN ĐỜI mà cũng không thắc mắc! Thế rồi biết bao nhiêu thế hệ đã nối tiếp nhau để cầu xin Phật. Chùa lớn, chùa nhỏ ngày càng mọc thêm, nhang khói ngày đêm không dứt mà cuộc đời cũng vẫn còn đầy dẫy nỗi khổ làm cho người tin theo đâm ra hoang mang. Nhiều người đã nêu lên nghi vấn là tại sao Phật quyền phép vô biên, “Độ cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới”, vậy mà chính những nước càng sùng bái Đạo Phật càng nghèo, hoặc nền văn minh, khoa học không phát triển? Thậm chí Ấn Độ là nơi mà Đức Phật đã sinh ra, đã lập Đạo, thì nhiều nơi người dân rất nghèo khổ, sống dưới mức trung bình. Có làng mà tất cả những thanh niên không có ai còn đủ hai quả thận vì phải bán đi một quả, lấy một số tiền ít ỏi để cất nhà, để rồi tất cả đều sụp đổ theo trận động đất năm vừa qua. Thiên tai này cũng cướp đi gần 9.000 sinh mạng con người và nhiều Tòa Tháp cổ. Trong khi đó, những nước Tây Âu không đặt niềm tin vào Tôn Giáo, không cầu xin Phật phù hộ thì ngày càng phát triển, dân chúng ngày càng có cuộc sống tốt đẹp hơn, xã hội cũng ổn định hơn, trở thành miền đất hứa của biết bao nhiêu con người ở nhiều quốc gia khác. Họ bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, để dùng xà lan, tàu thuyền để vượt biên. Số người chết vì mong đổi đời đã đánh động trái tim nhân loại! Nếu Phật linh thiêng sao không chứng minh bằng cách hộ trì cho đất nước, cho dân tộc của Ngài và những nước mến mộ Ngài? Phật quên lời hứa? Lời Phật không chân thật hay lời Ngài đã bị diễn giải sai? Tôi cho rằng đã đến lúc người Phật Tử cần sáng suốt để xét lại tất cả, vì nếu thật sự lời Đức Thích Ca không đúng thì không nên tiếp tục tin trong mê mờ. Ngược lại, nếu lời Ngài bị giải thích sai thì chúng ta càng cần làm cho sáng tỏ để trả lại cho Đạo Phật những gì đúng nghĩa của Đạo, chưa bị lai tạp bởi những tín ngưỡng địa phương khi du nhập. Chưa bị những người “Y Kinh giải nghĩa” làm cho “Tam thế Phật oan” làm sai lạc mục đích của Đạo Phật chân chính. Đó là điều mỗi người cần làm, trước hết là để phá mê cho chính mình, sau đó cũng một cách mà ta đền ân Đức Thích Ca, vì nếu chúng ta nhắm mắt tin theo lớp người đi trước mà thiếu sự sáng suốt thì rõ ràng không ích lợi gì cho Đạo mà cũng không lợi lạc cho bản thân mình. Đó không phải là điều mà Đức Thích Ca mong mỏi khi bỏ cả ngai vàng, sự nghiệp để khai mở Đạo Phật. Thật vậy, mấy ngàn năm là một chuỗi thời gian quá dài, trong đó có biết bao nhiêu thế hệ đã tu hành, biết bao nhiêu người đã nối tiếp nhau kỳ vọng vào lời Phật hứa hẹn. Lòng thành đã được chứng minh. Nhiều người không tiếc tiền của bỏ vô xây Chùa, đúc tượng, độ Tăng. Lực lượng xuất gia ngày càng đông, sớm chiều chuông mõ, chùa nào cũng nghi ngút khói hương với bao nhiêu lời cầu xin, mong rằng Phật hiển linh sẽ nhìn thấy mà ban cho bản thân, cho gia đình, dân tộc, cho đất nước ngày càng phồn thịnh. Nhưng rồi chờ mong ngày càng mỏi mòn, buộc người có hiểu biết phải xem lại niềm tin của mình, đối chiếu với thực tế để nhận ra một sự thật mà lẽ ra mọi người phải thấy từ rất lâu, rằng không phải bất cứ ai khoác vào người sắc phục tu hành thì đã là Tu Sĩ chân chính, cũng như không phải bất cứ ai Xuất Gia tu hành cũng đều Đắc Đạo, và trong bao nhiêu lớp người truyền Đạo với Chùa chiền ngày càng rầm rộ cất lên đó được bao nhiêu người hiểu đúng, truyền đúng lời Phật? Nếu cứ tiếp tục như thế thì niềm tin của ta sẽ về đâu? Thực tế đã chứng minh: Càng xa Chư Tổ được Truyền Y Bát bao nhiêu thì Đạo Phật càng bị pha trộn vào đó những cách hiểu, cách hành xa rời Chánh Đạo bấy nhiêu. Thật vậy, nếu Kinh dễ dàng để hiểu thì ĐẠI BÁT NIẾT BÀN đã không phải dặn dò: “Y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y Trí bất y thức. Y Kinh liễu nghĩa bất y kinh vị liễu nghĩa”. Không phải người Xuất Gia tu hành nào cũng do mộ đạo. Dù cho mộ đạo, nhưng không được người đã đắc đạo truyền dạy, lại không chịu đọc Kinh để xem lời nhắc nhở của Chư Tổ, mà cứ lớp người đi trước truyền lại cho người sau, lần hồi chỉ còn là nghi thức để cúng bái, cầu An, cầu Siêu, tụng niệm… thì Đạo Phật không còn là Đạo Phật nữa! Điều đó trong Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN có đề cập đến. Kinh viết rằng Đạo Phật như đề hồ, một chất quý nhất trong sữa, nhưng do những kẻ hám lợi cứ pha thêm nước lã vào đó, nên càng ngày cả vị sữa cũng không còn nữa! Từ đó, chúng ta sẽ hiểu vì sao mà trong Đạo Phật cần có việc Truyền Y BÁT. Nếu ta tin Đạo Phật mà kể cả những điều này còn chưa biết đến thì thử hỏi bao nhiêu lâu nay ta đã hiểu và hành theo Đạo Phật như thế nào? Những điều ta tin, hiểu, hành, có nằm trong dòng Chánh Pháp hay không? Tin trong mê mờ thì liệu có phải là mê tín hay không? Lẽ nào tới thời này với sự hiểu biết của con người quá cao, đã lên tận Sao Hỏa mà lại chấp nhận tin trong mơ hồ, không phân biệt chân, giả, vì đâu phải niềm tin như vậy là vô hại? Đa phần người Phật Tử ít ai chịu tự mình tìm hiểu, khoán việc đọc Kinh, giảng Kinh cho những Tu Sĩ. Chính vì thế mà ngày càng bị dắt đi xa mà không hay. Cụ thể nhất trường hợp các Tông Thiền gọi là NGŨ PHÁI THIỀN, gồm PHÁP NHÃN TÔNG, QUY NGƯỠNG TÔNG, VÂN MÔN TÔNG, TÀO ĐỘNG và LÂM TẾ, được khai mở bằng những đệ tử nhiều đời sau của Lục Tổ Huệ Năng. Dù xuất phát từ Tổ Huệ Năng là người cầm nắm Chánh Pháp, nhưng đến đời họ thì cái Chánh Pháp đó đã không còn nữa. Họ lại sáng chế ra nhiều kiểu tu hành mới lạ, khác hẳn những gì Đức Thích Ca và Chư Tổ giảng dạy, rồi tự cho là mình cao siêu! Thật vậy, Đức Thích Ca bày ra Đạo Phật có mục tiêu rõ ràng là Độ Khổ, là Giải Thoát. Trong đó, Ngài đưa ra nhiều phương tiện để hỗ trợ cho việc tu hành. Một trong những phương tiện là LỤC ĐỘ, gồm: BỐ THÍ, TRÌ GIỚI, NHẪN NHỤC, TINH TẤN, THIỀN ĐỊNH và TRÍ HUỆ thì họ trích riêng ra độ THIỀN ĐỊNH để mở ra dạy gọi là TU THIỀN, cho đó là “tu Đốn”, vin vào Đức Thích Ca đắc đạo do Thiền. Nhưng Đức Thích Ca Thiền thì đắc đạo, mà họ dạy Thiền thì sản sinh ra những kẻ ngông cuồng, ngạo mạn, báng Phật, nhạo Pháp! Những Tông Thiền đó làm mưa làm gió rầm rộ một thời, nhưng khi Ngài Nguyệt Khê đi sưu tầm đã đưa ra kết luận: “Pháp Nhãn Tông truyền sang Cao Ly. Vân Môn Tông đã thất truyền từ lâu, chỉ còn ba Tông là Quy Ngưỡng, Lâm Tế và Tào Động. Nhưng con cháu của các Tông chỉ lấy cội nguồn gia phổ để truyền thừa với nhau, ghi trong Pháp Quyển là Thiền Sư đời thứ mấy, mà hỏi về gia phong, tông chỉ thì ngơ ngác không thể trả lời”! (Cội Nguồn Truyền Thừa). Từ Tu Phật họ biến thành Tu Thiền để rồi cuối cùng cũng không biết về đâu! Thử hỏi cứ đưa ngón tay lên, cầm phất trần đưa xuống đưa lên, nhại lại câu hỏi, hét to hay im lặng... để trả lời cho người Tham vấn thì họ sẽ hiểu Đạo như thế nào? Đức Phật giảng suốt 49 năm. Chư Tổ là những người nối truyền thì người nào cũng giảng giải rõ ràng, Kinh chép lại cả mười mấy bộ mà người đọc còn chẳng hiểu. Dùng cây phất trần đưa lên đưa xuống, hay đưa ngón tay lên thì nói lên được điều gì? Bởi vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi thấy tự họ đi vào diệt vong. Người sau muốn nghiên cứu cũng tự hiểu theo mình mà thôi, vì đâu có sách vở, tài liệu, bài giảng lưu lại để mà kiểm chứng? Ở Nhật có Thiền Sư SUZUKI rất nổi tiếng, viết quyển THIỀN LUẬN dày đến mấy ngàn trang, ca tụng hết lời phương pháp hướng dẫn của THIỀN TÔNG. Ngài viết: “Ngón trỏ của Thiên Long chỉ cho thấy vẻ huyền bí của toàn vũ trụ, và trong tiếng hét của Lâm Tế, chúng ta nghe bản hòa âm thiên nhạc của toàn khối tinh cầu”, vậy mà sau khi luận Thiền đến mấy ngàn trang Ngài lại bảo: “Thiền là gì? Đó là một câu hỏi rất khó trả lời, không thể trả lời cho vừa ý người hỏi, vì Thiền từ khước tất cả, cả ý định mô tả hoặc định nghĩa Thiền. Vậy để thông hiểu Thiền, phương pháp hay nhất hẳn là phải học Thiền và hành Thiền ít nhất vài năm tại Thiền Đường. Thế nên, dầu đem hết tâm trí nghiền ngẫm thiên cảo luận này e bạn đọc vẫn không khỏi hoang mang về đại nghĩa của Thiền pháp”! Mọi người tưởng rằng đọc cả mấy ngàn trang Luận Thiền của Ngài hẳn nắm bắt được ý nghĩa của Thiền, nhưng cuối cùng, Ngài đưa ra kết luận: “Mục đích của bài này không nhắm chứng minh suông Thiền là cái gì không thể hiểu được, và như thế không ích gì bàn nói đến. Chú tâm của tôi, trái lại, là thử tận lực làm sáng tỏ ra, dầu kết quả phải thiếu sót và lệch lạc”! Tận lực làm sáng tỏ mà kết quả tự nhận là “thiếu sót và lệch lạc”. Vậy thì Ngài đã đắc cái pháp Thiền như thế nào để trở thành Thiền Sư? Câu trả lời xin dành cho người tìm hiểu tự kết luận lấy. Trong nhóm tu học Đạo Phật thời vừa sau 75, lớp chúng tôi có một Kỹ Sư, tốt nghiệp từ Pháp và Mỹ, là Kỹ Sư Trưởng của Nha Hàng Không, trước 75 từng sang Nhật học với Ngài Suzuki đến 17 năm. (Ông tên là N.K.Bửu). Theo lời ông kể, thì ngay lần đầu đến gặp Ngài Suzuki, vừa đến chân núi thì đã có đệ tử của Ngài đứng đợi sẵn để đón, vì Ngài biết trước ông sẽ đến. Vì là người có nhiệm vụ trông coi việc sửa máy bay, nên sửa xong là phải bay thử, vì vậy, ông dùng những chuyến bay thử đó để sẵn dịp sang Nhật học luôn. Không biết ông học được những gì, nhưng ông kể là mỗi lần Ngồi Thiền, chỉ cần xếp chân lại là bẵng đi mất, không còn biết gì nữa, lúc tỉnh dậy thì đã 2 tiếng đồng hồ trôi qua. Mấy người bạn kể lại, lần đầu gặp thầy tôi, ông nói huyên thuyên đến độ thầy tôi phải vỗ xuống bàn nói với ông: “Phật pháp tại thế gian. Tại đây nè”! Lúc vào tu học thì nhờ căn bản Ngồi Thiền nhiều năm, ông mở Thần Thông rất nhanh, biết trước được nhiều việc. Nhưng sau đó thầy tôi đóng lại cho ông và nói rằng Thần Thông không có lợi gì cho việc tu hành. Chính vợ chồng ông là ân nhân đã giúp đỡ để có chỗ cho chúng tôi hàng tuần đến nghe giảng pháp, vì thời đó tụ họp rất khó, không được quá 5 người. Nhưng Chủ Nhật nào chúng tôi cũng quy tụ cả 4, 5 mươi người tại nhà ông trong con hẻm ở gần Lăng Cha Cả trong suốt cả hai năm mà không bị chính quyền làm khó dễ quả là một kỳ tích. Ông cũng qua đời rất sớm khi vừa về hưu, chỉ hơn 60 tuổi. Nhắc đến một vị Thiền Sư nổi tiếng và người đệ tử theo học đến 17 năm mà không hiểu gì về Đạo Phật để chúng ta thấy Đức Thích Ca và Chư Tổ đã dạy không sai: Thiền chỉ là một phương tiện, một giai đoạn của công việc tu hành, không phải là cứu cánh. Đức Thích Ca chỉ Ngồi Thiền có 49 ngày rồi đắc đạo, không có ngồi suốt đời. Chư Tổ về sau cũng nói Thiền hay Thuyền cũng chỉ là phương tiện để qua sông. Qua sông rồi phải bỏ Thuyền. Do đó, những người xem Thiền như cứu cánh, tưởng rằng Ngồi càng lâu càng cao, hay mở được Thần Thông, thấy trước một số việc thì tưởng rằng mình đã đắc đạo, chứng tỏ họ không hiểu gì về Thiền của Đạo Phật. Nhiều người tưởng rằng Thành Phật là thành một vị Thần Linh, có quyền “Cứu độ cho Tam Thiên Đại thiên Thế Giới”. Với cái hiểu đó họ cho rằng Phật Tổ Như Lai quyền uy tối thượng, nên đọc trong Kinh, thấy có tên của vị Phật, Bồ Tát nào thì cho người đúc, tạc, chạm chân dung, rồi khói hương cúng kiến để cầu xin phù hộ, quên rằng những tượng đó do chính con người tạo ra thì linh ứng chỗ nào? Ai đã thấy được chân dung thật sự của các Ngài để tạc ra rồi thành khẩn cầu xin thì các Ngài sẽ động lòng mà cứu giúp? Thử dùng một thí dụ thực tế. Giả sử ta biết có một vị vua nào đó rất giàu, ta cho người tạc chân dung của Ngài rồi mỗi ngày thắp hương để cầu xin thì liệu vị vua đó có hay biết? Giả sử có biết thì liệu có đáp ứng những điều ta cầu xin hay không? Đó là nói về một người có thật, cùng thời với ta, huống chi Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát... chỉ là những danh xưng, những việc làm được Đức Thích Ca “hình tượng hóa” để con người nương theo đó mà làm, không phải là những vị Thần Linh có thật, thì làm sao phù hộ được cho ta? Quán Thế Âm là một thí dụ. Đó là Phật Thích Ca dùng để nói về sự tự lắng nghe những động tĩnh trong Tâm của ta để kịp thời hóa giải. Ngài gọi đó là cứu độ. Việc “Cứu Độ” đó diễn ra nơi Tâm của mỗi người. Mỗi người phải có những Bồ Tát đó trong tự tâm. Nếu trong những tên tội phạm có một Quán Thế Âm Bồ Tát để kịp thời ngăn cho họ đừng gây tội ác thì họ đã được cứu độ rồi. Vì cái thiện trong họ không có, nên cũng không có những tư tưởng thiện để trấn áp cái ác, tiêu diệt nó ngay từ khi nó manh nha khởi lên. Sự thức tỉnh kịp lúc là sự cứu độ trong mỗi chúng ta. Nếu thật sự có Ngài Quán Thế Âm trên cao để độ đời thì hẳn trần gian không còn tội ác, hay cứ lúc cần là Ngài xuất hiện như trong phim Tây Du Ký thì trần gian đâu còn đau khổ nữa! Vậy mà đến nay mọi người vẫn chưa hiểu ra! Ai cũng biết Đạo Phật được gọi là Đạo Độ Khổ hay Đạo Nhân Quả. Nhưng không phải Phật sẽ Độ cho mọi người, mà mỗi người phải làm một số công việc để Tự Độ, vì Phật chỉ là cái Tánh Giải Thoát nơi mỗi người, không phải là Thần linh nào đó ở bên ngoài. Nhưng đến nay thì số người Tự Độ không đông bằng số người cầu xin Phật rồi chờ được cứu độ. Lỗi đó do những người chưa học hết Giáo Pháp đã vội rao giảng Đạo. Vì vậy, muốn quay về với Chánh Đạo buộc người tu phải xem lại Kinh sách xem Chư Tổ đã dạy những gì. Tổ Đạt Ma dạy: - “Tức tâm tức Phật”, - “Muốn tìm Phật thà tìm tâm” Ngũ Tổ thì dạy: - “Nếu chẳng biết Bổn Tâm thì học pháp vô ích. Bằng biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh của mình, tức gọi là Trượng phu, là Phật, thầy cõi trời và cõi người vậy”. TÂM, TÁNH, liên quan gì đến Chúng Sinh, đến Thành Phật? Muốn Thành Phật thì phải “Độ tận Chúng Sinh”, bao giờ không Chúng Sinh nào còn đau khổ, được thanh tịnh, an ổn thì người độ mới Thành Phật được. Do đó người tu Phật phải biết Chúng Sinh là ai? Ở đâu? Trước lúc nhập diệt, Lục Tổ Huệ Năng nhấn mạnh: - “Chúng ngươi hãy chú tâm mà nghe cho rõ. Những người mê muội đời sau nếu biết cái Tâm chúng sanh tức là thấy đặng Phật Tánh. Bằng chẳng biết cái Tâm chúng sanh thì muôn kiếp tìm Phật ắt khó gặp. Nay ta dạy các ngươi phải biết chúng sanh ở tâm mình thì thấy Phật Tánh ở tâm mình. Muốn cầu thấy Phật thì phải biết cái Tâm chúng sanh. Chỉ vì tâm chúng sanh làm mê muội Phật Tánh, chớ chẳng phải Tánh Phật làm mê muội tâm chúng sanh. Nếu Tánh mình giác ngộ thì chúng sanh là Phật. Bằng Tánh mình mê muội thì Phật là chúng sanh. Tánh mình bình đẳng thì chúng sanh là Phật. Tánh mình tà hiểm thì Phật là chúng sanh. Nếu tâm chúng ngươi hiểm ác tức là Phật ở trong chúng sanh. Một niệm bình đẳng, ngay thật, tức là chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, Phật ở tâm mình mới thiệt là chơn Phật. Nếu tự mình không có tâm Phật thì tìm chơn Phật ở chỗ nào? Cái Tự Tâm của chúng ngươi là Phật chớ khá hồ nghi”. - “Muốn thấy Phật phải ngó vào trong Tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm. Tánh mình mê tức là chúng sanh. Tánh mình Giác tức là Phật”. Theo giải thích của các Tổ thì PHẬT và CHÚNG SINH chỉ là hai tình trạng MÊ và NGỘ ở nơi Tâm của mỗi người mà thôi. Hết Mê thì Ngộ, mà Ngộ chỉ là biết cuộc sống là giả tạm, cái thân không thật, không bền, rồi dùng Trí Huệ mà giáo hóa cái Tâm của mình để đừng vì cái Thân mà tạo ác nghiệp làm cho cuộc sống ngắn ngủi của mình phải khổ và làm khổ mọi người chung quanh mà thôi, không có gì ghê gớm, lớn lao như những người không hiểu đã quảng cáo rầm rộ, tưởng như Giác Ngộ là điều gì đó phi thường, không ai đạt tới được. Người tu Phật mà không biết Chúng Sinh là gì thì không thể nào tu cho thành công. Công năng tu hành là phải quay vô, phải “nội quang phản chiếu”, phải Tự Độ. Tìm Chúng Sinh ở đâu thì Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Chư Thiện Tri Thức. Chúng Sanh trong Tâm mình là lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ghen ghét, lòng ác độc. Các tâm này đều gọi là Chúng Sanh”. Chúng Sinh cũng là nguyên nhân của Phiền Não. Nó đã xuất phát từ cái Tâm thì phải tìm cho ra nó, rồi giáo hóa nó, vì nó không thể tự nhiên biến đi, hoặc trốn lên non cao, động vắng hay chui vào Chùa để né tránh, không phải tiếp xúc với các pháp là khỏi gặp nó. Trái lại phải đối trị nó, Đạo Phật gọi là “Điều Phục” hay “Chuyển Hóa” nó. Nói đến Đạo Phật là nói đến Phật và Chúng Sinh, vì Phật phải “Độ” hết Chúng Sinh thì mới thành Phật được. Nhưng khi khai triển hai từ này thì chúng ta sẽ thấy rõ ràng có hai hướng. Người Nhị Thừa thì cho rằng tất cả mọi người là Chúng Sinh của Phật. Phật có nhiệm vụ cứu độ cho ta để “Thành Phật”, nên cứ thành tâm mà cầu xin. Sống thì Cầu An, chết thì Cầu Siêu. Cầu Phật đưa về Niết Bàn, Tây Phương Cực Lạc. Khi tu hành thì thấy bá tánh là chúng sinh. Giảng Pháp hay Cầu An, Cầu Siêu thì thấy rằng “độ” cho họ. Nhưng nhìn thực tế cho thấy: Đức Thích Ca thành Phật đã mấy ngàn năm rồi mà chúng ta vẫn còn trầm luân trong bể khổ nơi đây. Do đó, đưa đến hai kết luận: Một là Đức Thích Ca chưa thành Phật. Hai là cho rằng mọi người là chúng sinh của Phật hoàn toàn sai. Vậy thì chúng ta có dám nói rằng Đức Thích Ca chưa Thành Phật hay không? Nếu không phải như vậy thì rõ ràng chúng ta đã hiểu sai về Chúng Sinh. Qua đó ta sẽ thấy Đạo Phật không phải là một mớ lý thuyết mơ hồ, cao siêu với những vị Phật, Bồ Tát quyền phép, bay lướt mười phương chờ nghe tiếng kêu cứu của chúng sinh để ra tay cứu giúp, mà những danh xưng đó tượng trưng cho những công việc gọi là những cái Hạnh mà người tu cần thực hiện cho bản thân để tự cứu. Việc mong chờ Đức Di Lặc giáng trần cũng thế. Đạo Phật dạy rằng mỗi người cần Tự Độ, cần quay vào tìm Phật - tức là sự Giải Thoát - nơi chính cái Tâm của mình. Thích Ca, Di Lặc cũng là danh xưng của một số Hạnh và sự thành tựu. Các Bồ Tát là tượng trưng cho những công việc mà người tu phải làm, không phải để ta cầu xin. Tả Tây Phương Cực lạc với Bảy Báu đầy khắp, để những người mong được về đó sẽ bỏ đi những ác tâm, tà tâm. Bỏ một Nghiệp là Bố Thí một món báu. Xả 7 Nghiệp nơi Thân, Khẩu là Bố Thí Bảy Báu. “Ao nước chứa tám công đức” là nói về kết quả hành theo Bát Chánh Đạo. Đó là những kết quả mà người tu thực hiện trong quá trình tu hành, Phật cho là tích lũy ở quốc độ đó, không phải là cảnh giới có thật để chúng ta ngày ngày thắp hương, tụng niệm để cầu mong được về, bỏ quên cuộc sống kéo dài cả 100 năm nơi cõi tạm. Tượng Ngài Di Lặc cũng là hình ảnh tượng trưng: Người mập mạp, vui cười thoải mái, tượng trưng cho không còn phiền não. Sáu đứa trẻ leo trèo khắp người là Lục Căn đã được điều phục. Khi chưa tu hành thì chúng là Lục Tặc, tức là sáu tên giặc, lúc nào cũng mang ngoại pháp vào tấn công mỗi chúng ta, làm cho phiền não. Khi tu hành, điều phục, chuyển hóa xong thì chúng không những trở thành vô hại như sáu đứa trẻ con mà còn trở thành là Lục Hộ Pháp, vì hỗ trợ đắc lực cho người tu. Có Tai mới nghe được lời giảng dạy. Có Mắt mới đọc được lời của Chư Vị Giác Ngộ đi trước. Có đầu óc mới suy nghĩ, cân nhắc để tìm hiểu nghĩa lý đúng… Cái Thân xưa là oán tặc, vì luôn đòi hỏi, ham muốn thôi thúc để người không đủ tự chủ thì sẽ tạo nghiệp, đưa vào phiền não, vào Sinh Tử Luân Hồi. Khi tu hành thì nó trở thành ân nhân, vì nhờ có nó mới có thể nghe pháp, học, hiểu, hành đưa đến kết quả Giải Thoát và làm được nhiều điều tốt đẹp trong kiếp sống. Do chưa hiểu rằng Giải Thoát chính là Phật. Mọi người đều có thể tu hành Thành Phật. Chưa biết rằng Chư Phật quá khứ dù đã làm xong cho bản thân cũng không thể “Độ” được cho người khác, nên nhiều người vẫn cứ hương, khói cầu mong Phật Độ. Số khác thì cho là nhất định phải Ly Gia, Cắt Ái theo đúng nghĩa văn tự thì mới tu được, không biết rằng Gia mà mọi người cần LY là “Nhà Lửa Tam Giới”, tức là Tham, Sân và Si bao đời thiêu đốt chúng ta chớ không phải là ngôi nhà trần gian. Ái không chỉ nói riêng về tình vợ chồng, mà nói về sự Ái Luyến đối với bản thân và những gì quanh nó. Do đó, nếu ta rời nhà thế tục mà còn giữ lại Tham, Sân, Si. Không Ái Luyến cha mẹ, vợ, chồng, con, cái, nhưng lại ái luyến những thứ khác như Danh, Lợi của đường tu thì chưa phải là người thật sự tu hành theo đúng nghĩa của Đạo Phật. Thật vậy, muốn tu hành thì chỉ cần giữ Giới, đi trong Bát Chánh Đạo và hành các Hạnh được hướng dẫn, đâu nhất thiết phải bỏ hết việc đời, cạo tóc, đắp y, ở trong Chùa, xa lánh cuộc thế thì mới tu được? Đức Thích Ca đâu có cần ta phụng sự bằng cách bỏ hết việc thế gian, vì “Phật Pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác”. Hơn nữa, Phật dạy người tu phải đền TỨ ÂN thì mỗi người phải tự thực hiện bằng những hành động cụ thể trong đời sống. Đền ân phụ mẫu là phải phụng dưỡng họ trong tuổi già, sức yếu. Đền ân đất nước bằng khả năng của mình, học hỏi, trau dồi kiến thức, kỹ thuật, khoa học để đưa đất nước tiến lên. Nhiều người nghĩ rằng bỏ đời vô Chùa phụng sự cho Phật rồi sẽ cầu xin Phật để Ngài gia hộ cho cha mẹ, cho đất nước. Với sự tu hành thanh tịnh của mình thì lời cầu xin sẽ hiệu quả hơn! Họ quên rằng Phật đâu có phải là Thần Linh để ta cầu xin Ngài gia hộ thay cho việc báo đền? Cho nên những người bỏ đời, nghĩ là làm theo đúng như những gì Đức Thích Ca và các Đại Đệ Tử ngày xưa đã làm thì tới thời này đã trở thành phí phạm, vì mọi thứ đã được Chư Tổ khai triển rõ ràng, in đầy đủ trong Kinh Sách, đâu có còn gì bí mật mà phải tập trung để chuyên tâm tư duy, quán tưởng? Muốn tu hành thì không cần thay cảnh, đổi tướng. Người làm bất cứ ngành nghề nào vẫn cứ tiếp tục trong đó chỉ cần tu sửa cái tâm, cứ theo 32 Tướng Tốt của Phật mà hành, cần gì phải vô chùa mới làm được những điều đó? Hình tướng chỉ nhằm mô tả những điều người tu cần thực hiện: “Đầu tròn” tượng trưng cho cái tâm ngay chính. “Áo Vuông” tượng trưng cho cái thân phải ngay thẳng, không quanh co, gian dối. “Y hoại sắc” tượng trưng cho Thân, Tâm được trùm phủ một màu thanh tịnh, không bị nhiễm trần. “Cạo tóc” tượng trưng cho việc cạo sạch phiền não. Nếu ta thực hành đúng ý nghĩa đó thì hình tướng, chiếc áo đâu còn cần thiết nữa. Ngược lại, nếu hình tướng đầy đủ mà không thực hiện các điều đó thì việc mang nó trên người đâu có ý nghĩa gì. Chính vì từ thời xa xưa, nhiều người chưa hiểu hết Đạo Phật mà lại phổ biến Đạo, và có ảnh hưởng lớn, cho nên từ bao nhiêu thế hệ qua nhiều người tin theo đã làm suy yếu tiềm năng của con người trong việc phục vụ đất nước. Thử hỏi bao nhiêu người đang tuổi thanh xuân, có những ngành nghề có thể giúp ích cho xã hội lại bỏ hết để đi tu, không biết Tu chỉ có nghĩa là Sửa. Ở đâu? Làm gì cũng đều tu được. Rồi thay vì tiếp tục hành các nghề theo chuyên môn của mình như Bác Sĩ, Kỹ Sư, Kiến Trúc Sư, Giáo Viên… hay ít nhất cũng sản xuất được vật dụng tiện ích cho cuộc sống, hoặc trồng được cây lúa, ngọn rau cũng góp phần cho xã hội, thì lại kéo nhau vô Chùa chỉ để ngày ngày tụng Kinh, niệm Phật chờ về Niết Bàn! Như thế đất nước mất bao nhiêu là sức người để dựng xây? Trong khi đó thì Kinh viết rất rõ: “Kẻ nào nương sắc thấy ta. Dùng âm thanh để cầu ta. Kẻ đó hành tà đạo. Không thể thấy Như Lai”. Một ngày sống trên đời là một ngày ta còn nợ biết bao nhiêu người. Từ cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng cho thành người. Đất nước, Xã hội bảo vệ, che chở, cho đến người nông dân làm ra hạt lúa, ngọn rau. Nếu ta chỉ hưởng dụng mà không làm gì để đền đáp lại là có lỗi rất lớn. Điều đáng sợ là Nhân Quả không mất. Hơn nữa, nếu ta không thực hiện lời dặn dò của Đức Thích Ca là đền Tứ Ân sao xứng đáng là đệ tử của Ngài? Phật có phải là Thần Linh, có phù hộ cho mọi người hay không thì chúng ta có thể kiểm chứng qua một vài thực tế sau: - Giáo Pháp cả Đại thừa và Phật Giáo Nguyên Thủy không hề nói rằng Phật là Thần Linh. Việc tu hành, đắc đạo của Phật chỉ là tìm ra được Con Đường Giải Thoát, không phải để trở thành thần linh. - Nếu Đức Thích Ca là Thần Linh thì đã không chết, không bị Trà tỳ. - Nếu mang nhiều tài sản quý giá để cúng Phật, cúng Chùa mà được “Độ” thì nước nào bằng Miến Điện với những ngôi chùa mái đúc bằng vàng ròng, nặng hàng mấy tấn! Tượng Phật bằng vàng, cẩn cả ngàn viên Hồng Ngọc, giá trị rất lớn. Vậy mà nước họ cho đến ngày nay, muốn đi lên núi để viếng Chùa, người nhiều tuổi phải thuê những thanh niên địa phương khiêng bằng kiệu làm bằng hai cây tre dài, trên là cái ghế bằng vải thô sơ, và phải đi bộ hàng mấy cây số đường dốc núi! Xe chở du khách lên núi để tham quan thì là loại xe giống xe quân đội của thập kỷ 70 với những băng ngồi bằng sắt, không có cả nệm để đỡ bị dằn xóc! - Nếu Phật là Thần Linh và có thể “Độ” được thì nước Ấn Độ của Ngài phải được Độ đầu tiên, vì Ngài dặn dò người tu phải đền Ân Đất Nước. Phật thì Đại Từ, Đại Bi, không thể thấy chết mà không cứu. Vậy mà người dân Ấn Độ vẫn lạc hậu, đói nghèo, thiên tai vẫn đe dọa, tội ác vẫn không giảm, chứng tỏ Ngài đâu có làm gì được cho họ! Tôi tin rằng những hình ảnh đó là câu trả lời cụ thể cho những ai còn ảo tưởng rằng Phật sẽ cứu độ để quay về với Chánh Pháp, tự tu để Tự Độ theo tinh thần Đạo Phật chân chính. Cả hai phái Chánh, Tà cũng đều nương Kinh điển của Phật, nhưng khác nhau ở chỗ: Một bên quay vô tìm Phật nơi tâm. Một bên quay ra tìm bên ngoài. - Phía Chánh Pháp thì tu hành Tự Độ mình để Thành Phật, phía kia thì thờ Phật và cổ xúy việc thờ Phật, cầu xin được Độ. - Sở dĩ thờ Phật mà là Tà Đạo vì Phật không phải là nhân vật có thật hay Thần Linh, mà Phật là nghĩa của Giải Thoát. Đức Thích Ca đã tự giải thoát cho bản thân nên Ngài xưng là Như Lai. Như Lai chỉ là “đến, đi không động”, tức là không bị các pháp làm cho điên đảo. Không phải là một Phật Tổ Như Lai quyền uy trùm khắp. Mọi người đều có thể tu hành để thành Phật, thành Như Lai. Chính vì vậy mà có Tam Thế Phật, tức là quá khứ đã có người Thành Phật. Hiện tại cũng có và tương lai cũng sẽ có, không phải là các Phật A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc, vì Giải Thoát không chỉ độc quyền dành cho Đức Thích Ca hay chư Phật quá khứ. Người cho rằng chỉ có các Ngài là Phật, không ai có thể tu hành thành Phật thì vô tình phủ nhận lời Thọ Ký: “Tất cả Chúng Sinh là Phật sẽ thành” có lẽ cần xem lại cái hiểu về Đạo của mình, để không bị mâu thuẫn với Đạo Phật hoặc trở thành người “xiển dương giáo pháp không phải của Đức Thích Ca”. - Những việc làm tốt đẹp tượng trưng cho Hương để cúng Phật mình, cũng gọi là lập Công Đức để hình thành Phật nơi mình, thì mọi người lại theo một nhà sư nào đó. Theo kể lại là có lần ông ta nhìn làn khỏi đưa lên, tưởng tượng rằng nó sẽ mang lời cầu xin đến bề trên rồi loan truyền ra. Thế là đời này sang đời kia, bắt chước dùng bột gỗ tẩm hóa chất để có nhiều khói bay lên, thấy là mình đang thành tâm cúng Phật. Phật sẽ trông thấy mà chứng giám. Dù các nhà Khoa Học đã chứng minh sự độc hại của khói hương, nhưng việc đó với các Chùa đã là thói quen khó thể bỏ! Thậm chí có nhiều nơi còn đốt cả vàng mã là sáng tạo của hai anh em chuyên sản xuất để kinh doanh bên Trung Quốc thời xưa. Chính họ đã bịa ra việc đốt hình nhân thế mạng! Tới ngày nay, con buôn còn sáng tạo thêm nhà, cửa, xe cộ, TV, tủ lạnh, giày, dép, áo quần để đốt. Cho là Dương sao Âm vậy. Nếu chỉ cần đốt thứ nào đó thì cõi Âm sẽ nhận được, sao tiếc gì mà không đốt cho người thân một đảo hay cả một nước để cho người nhà làm chúa đảo, làm vua cho oai? Thời này rồi mà con người vẫn chưa chịu bỏ những hủ tục, mê tín. Cứ nghe Phật, Thần linh nào có thể phù hộ được là theo cầu xin! Với cha mẹ hay người thân, lúc sống có khi còn hất hủi, không quan tâm. Chờ chết rồi mâm cao cỗ đầy để cúng kiến! Người chết có ăn được đâu? Việc đốt vàng mã là một hũ tục cần dẹp bỏ, vì không những đó là mê tín, lạc hậu, mà hậu quả của nó rất tai hại, vì nhiều năm qua đã gây ra bao nhiêu trận hỏa hoạn làm hại bao nhiêu người vô tội! Xây Chùa đúng nghĩa là biến cái Đất Tâm, từ gò, nỗng, ao, vũng, tức là đầy dẫy những tư tưởng đố kỵ, hận thù, ghen ghét, ác độc với những mưu mô, gian xảo, tìm cách hại người để trục lợi trở thành Thanh Tịnh Địa, chuyển nó thành Tâm Từ, Tâm Bi, Tâm Hỉ, Tâm Xả. Muốn có Tượng Phật thì chỉ cần Trừ Tham, Sân Si thì Phật của mình hiển lộ. Muốn đục, chạm, đúc Tượng Phật thì dùng 32 Hạnh gọi là Tướng Tốt của Phật để chạm, khắc cho Phật Tâm của mình có được những Tướng đó... Kinh đã viết rõ: “Phật là Vô Tướng, do vô lượng công đức mà thành”. Công Đức chính là những Hạnh vừa kể mà người tu cần thực hiện. Do đó, những người san bằng đất, cất Chùa bằng gạch, ngói, xi măng, dựng tượng Phật bằng các chất liệu hữu tướng thì không phải theo Chánh Đạo. Hoa Ưu Đàm như lời nhắc nhở mọi người về thời của Chánh Pháp đã tới. Muốn Chánh Pháp hiển lộ thì đừng tiếp tục chạy theo tà pháp. Muốn Đức Di Lặc giáng trần thì chỉ cần quay vô “Chính lấy Tâm mình”, thanh lọc Tâm của mình bằng Giới, Bát Chánh Đạo, Lục Độ, Vạn Hạnh, cho tới hoàn tất. Kinh có nói về Phật Di Lặc ra đời, và nói rằng sau thời Thích Ca là Di Lặc, có nghĩa là người năng tịnh cái tâm của mình. Khi cái Tâm đã thanh tịnh, thì sẽ được an lạc - lúc đó gọi là Phật Di Lặc ra đời, không phải nguyên văn theo Ngữ, là có một Đức Phật Di Lặc từ trên trời giáng thế. Cho nên, người quay ra ngoài, dùng hình tướng để thờ Phật. Nghĩ rằng Phật là Thần Linh để cúng kiến để cầu xin đổi xấu lấy tốt, cứu khổn, phò nguy, chuyển nghèo thành giàu, đưa người chết siêu thăng… mong Đức Phật Di Lặc từ cõi trời sẽ giáng trần để cứu độ trần gian là hiểu sai lời Phật, và là chờ mong vô vọng, vì điều đó không hề có trong Đạo Phật chân chính. Bởi tất cả những gì Đạo Phật hướng dẫn, từ Phật, Bồ Tát, Chúng Sinh, cho đến Niết Bàn, Tây Phương Cực Lạc đều nói về sự chuyển hóa và kết quả trong nội tâm của người tu Phật, để có kết quả là Thoát Khổ, không phải là cảnh giới trên trời hay bên ngoài. Đó là chỗ hiểu khác nhau giữa Nhất Thừa - là Chánh Pháp do Chư Tổ truyền đạt - và hàng Nhị Thừa, vì hiểu chưa đúng Nghĩa của Kinh, chỉ y theo Ngữ, nên dựa vào hình tướng để tìm và cầu xin Phật bên ngoài vậy. Tâm Nguyện Tháng 01/2017 BÀI PHỎNG VẤN CỦA CỔNG THÔNG TIN KỶ LỤC VIỆT NAM VỀ TRUYỆN KIỀU ĐỌC NGƯỢC NHÀ KIỀU HỌC VÀ PHÁT HIỆN MỚI KỲ THÚ VỀ TRUYỆN KIỀU ĐỌC NGƯỢC... (Kỷ lục - Vietkings) Người phát hiện ra điều này không ai khác hơn là Nhà nghiên cứu Truyện Kiều Phạm Đan Quế, ông được vinh danh là Nhà Kiều học, Kỷ lục gia với 4 kỷ lục Việt Nam bởi những công trình sách viết về Truyện Kiều. Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân” là cuốn sách mới nhất ông sắp xuất bản cùng với việc cho in 20 tác phẩm của mình, ông đã không ngần ngại cầm bút để phân tích việc đọc ngược Truyện Kiều đầy thú vị của cổ nhân cách đây hàng trăm năm… Cổng Thông tin Kỷ lục Việt Nam đã có cuộc gặp gỡ, trao đổi với ông xung quanh việc “đọc ngược Truyện Kiều” để giúp bạn đọc nắm vững cách thức đọc ngược Truyện Kiều của cổ nhân trước khi tiếp nhận sách vào cuối năm nay. Dưới đây là nội dung cuộc trò chuyện: - Thưa ông, được biết ông vừa phát hiện ra điều gì đó mới lạ ở kiệt tác Truyện Kiều bất hủ và sắp công bố một tác phẩm thú vị về Truyện Kiều? Nhà Kiều học Phạm Đan Quế: Đúng vậy, ngay sau khi quyển Truyện Kiều đọc ngược ra đời năm 2002, tôi đã phát hiện và nhận thấy rằng từ xưa, cách đây hàng trăm năm cổ nhân ta có thể biết cách đọc ngược Truyện Kiều chứ không phải sau này người đời mới phát hiện. Tuy nhiên đến nay, chuẩn bị cho in cả 20 quyển sách viết về Truyện Kiều, chúng tôi đã biên soạn và sắp cho ra mắt cuốn sách mới khá thú vị về đọc ngược Truyện Kiều. - Vì vậy, với cương vị là Nhà Kiều học, ông tiếp tục cho xuất bản cuốn Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân”? Nhà Kiều học Phạm Đan Quế: Phải, trong 50 năm nghiên cứu về Truyện Kiều tôi đã cho ra mắt trên 20 đầu sách về tác phẩm bất hủ này, cũng muốn dừng lại để nghỉ ngơi nhưng vừa qua, khi nhớ rằng cổ nhân đã biết đọc ngược Truyện Kiều từ lâu, trước đây không nghĩ đến việc viết sách nay tôi mới cầm bút viết cuốn Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân”. Theo tôi, quyển này rất hay và rất mới vì cho ta một cách đọc ngược Truyện Kiều rất thú vị và rất dễ nhớ. Không những thế, với cách đọc ngược này ta còn biết thêm một điều mà đến nay nhiều người vẫn không biết là mọi bài thơ lục bát đúng cách đều có thể đọc ngươc được, chỉ cần hoán vị 2 cặp chữ cuối của mỗi câu bát rồi đọc ngược bài thơ từ cuối trở lên đầu. - Cụ thể như thế nào, thưa ông? Nhà Kiều học Phạm Đan Quế: Cụ thể, chúng ta sẽ xem những đoạn trích ở phần sau. Riêng cuốn sách tôi sắp xuất bản này có đủ 3.254 câu Kiều đọc ngược, được phân đoạn theo văn bản của chúng tôi với 55 mục lược lại diễn biến của Truyện Kiều từ cuối trở lên đầu cho dễ theo dõi. Tôi nghĩ: Nếu đúng là các cụ ta xưa đọc theo kiểu này thì quả là quá tuyệt vời - Một phương pháp đọc ngược đơn giản và rất dễ nhớ, dễ thuộc mà cổ nhân vì yêu mến Truyện Kiều đã nghĩ ra. Thật là một sáng tạo, thú vị không ngờ! - Có nguyên tắc nào để đọc ngược Truyện Kiều theo quan điểm của cổ nhân không? Nhà Kiều học Phạm Đan Quế: Chỉ có một nguyên tắc cực kỳ đơn giản là: Giữ nguyên câu lục, và hoán vị 4 chữ cuối của câu bát mà đọc ngược từ dưới lên trên. Thực ra, tôi ý thức được cách đọc này từ lâu, nhưng lúc đầu chúng tôi chỉ định nêu nhận xét này khi tái bản quyển Truyện Kiều đọc ngược chứ chưa có ý định viết thành sách. Nay khi đã soạn xong sách, ngồi ngâm nga đọc lại mới thấy thêm nhiều điều kỳ thú mà trước đây không bao giờ ngờ tới, nhất là quyển này sẽ giúp cho các bạn trẻ và những ai yêu Kiều có thể dễ dàng thuộc nhiều đoạn Kiều đọc ngược. Nay nhân dịp có điều kiện cho in cùng toàn bộ 20 cuốn sách đã viết về Truyện Kiều, tôi xin được nói qua về cuốn sách mới với nhan đề: Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân”, với chữ của Cổ nhân trong ngoặc kép để nhấn mạnh rằng đây không phải là văn bản sưu tầm từ thư tịch cổ, mà là cuốn sách do chúng tôi biên soạn, nhưng có thể do người xưa đã nghĩ ra và thực hiện.
- Cuốn Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân” sắp phát hành so với cuốn “Truyện Kiều đọc ngược” xuất bản năm 2002 của ông có gì khác biệt? Nhà Kiều học Phạm Đan Quế: 1. Cả hai quyển đều có đủ 3.254 câu như Truyện Kiều và giữ nguyên các chữ của Nguyễn Du. 2. Quyển trước giữ nguyên từng khổ thơ nhưng thay đổi thứ tự các câu thơ theo quy cách của việc tập Kiều. Quyển sau chỉ giữ nguyên câu lục, còn câu bát thì hoán vị 4 chữ cuối câu mà vẫn giữ nguyên thứ tự của từng câu. 3. Với cách tập Kiều như quyển trước thì có vô số bản Truyện Kiều đọc ngược kiểu này, nhưng với quyển mới này thì chỉ có một quyển duy nhất mà thôi. 4. Quyển trước sắp xếp khó hơn và không thể thuộc được cả quyển dù chỉ vài trăm câu, còn quyển này thì quy tắc rất đơn giản, nên dễ nhớ và dễ thuộc - và chắc chắn với quyển này, sẽ có nhiều người có thể đọc ngược rất nhiều đoạn Kiều, thậm chí còn có khả năng đọc ngược cả cuốn Truyện Kiều mà không cần giở sách. Trong cuốn sách xuất bản trước, chúng tôi đã dành 50 trang nghiên cứu vấn đề đọc ngược Truyện Kiều và nêu rõ những cách thức khác nhau để đọc ngược Truyện Kiều, và khẳng định có vô số bản Truyện Kiều đọc ngược theo lối tập Kiều này. Khi đó, chúng tôi đã cho rằng chuyện người xưa có thể đọc ngược Truyện Kiều từ cuối trở lên đầu không cần giở sách là thậm xưng và có thể chỉ là truyền thuyết hay giai thoại. Sau khi sách ra mắt được ít lâu, qua nhiều ngày đêm nghiền ngẫm, chúng tôi nhận thấy ngay kết luận trên không chính xác vì còn có cách đọc ngược Truyện Kiều khác nữa, rất đơn giản, thú vị và tự nhiên hơn nhiều mà có thể các cụ ta xưa đã làm. Đó là chỉ cần hoán vị 2 cặp chữ cuối của mỗi câu bát rồi đọc ngược Truyện Kiều từ cuối trở lên đầu. Lúc cho in sách, chúng tôi còn chưa biết đến cách đọc này, nay xin giới thiệu ở đây. Trong quyển sách trên, chúng tôi chỉ đề cập đến cách đọc ngược bằng kiểu tập Kiều và giữ nguyên mỗi câu thơ. Chứ nếu có thể thay đổi chút ít thì thực ra, bài thơ lục bát nào đúng cách cũng có thể đọc ngược được từ câu cuối trở lên câu đầu bằng cách hoán vị hai cặp chữ cuối câu bát và giữ nguyên câu lục. Sở dĩ như vậy là vì chữ thứ 6 và thứ 8 của câu bát tuy cùng vần bằng nhưng chữ này không dấu thì chữ kia phải dấu huyền và ngược lại. Nên chú ý rằng một khổ thơ lục bát gồm hai câu thì câu lục thường nêu hoàn cảnh, câu bát mới chứa đựng thông báo chính vì chủ, vị, tân thường nằm ở đây. Đọc hai câu mở đầu Truyện Kiều thì câu đầu Trăm năm trong cõi người ta chỉ về hoàn cảnh, không gian và thời gian, câu sau Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau mới là thông báo chính. Hai câu tiếp cũng vậy, Trải qua một cuộc bể dâu là không gian, thời gian, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng mới là ý chính. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen thì câu lục là câu dẫn, cũng là tiền đề cho câu bát. Khi đọc ngược thơ lục bát như thế này, câu lục vẫn giữ nguyên, còn câu bát chỉ hoán vị hai cặp chữ cuối nên nội dung cơ bản không thay đổi bao nhiêu, chỉ là đổi thứ tự các cặp chữ 5-6 và 7-8, mà rất nhiều khi thứ tự hai cặp chữ này không ảnh hưởng gì đến ý nghĩa của câu thơ. Và như vậy đoạn thơ đọc ngược này hoàn toàn có thể chấp nhận được. Có nhiều khi câu lục là câu dẫn để đưa đẩy, chuẩn bị còn ý chính lại tập trung vào câu bát, hoặc có khi câu lục nêu ý trước, tiền đề và câu bát nêu ý sau thì việc đọc ngược kiểu này vẫn không có gì thay đổi. Thậm chí có trường hợp đọc ngược lại thuận nghĩa hơn, và có lý hơn như câu: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen, thì ta phải hiểu là Trời xanh quen thói đánh ghen má hồng, đúng như câu bát đọc ngược này, đọc ngược nghe thuận hơn thật. Còn những câu như 2757: Hỏi ông, ông mắc tụng đình, Lân la sẽ hỏi một hai sự tình - Đọc ngược lại thành 2757: Hỏi ông, ông mắc tụng đình, Lân la sẽ hỏi sự tình một hai - thì hoàn toàn không có gì là khác biệt. Hay câu 2015: Thân ta, ta phải lo âu, Cười này mới thực khôn lường hiểm sâu - Đọc ngược lại thành 2015: Thân ta, ta phải lo âu, Cười này mới thực hiểm sâu khôn lường - thì vẫn hay. - Mục đích và ý nghĩa khi viết cuốn Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân”? Nhà Kiều học Phạm Đan Quế: Mục đích của cuốn sách này là để các bạn yêu Kiều và nhất là các bạn trẻ có điều kiện làm quen và học cách đọc ngược của người xưa rối từ đó thêm yêu thích tác phẩm kỳ diệu này. Chúng ta hoàn toàn không có tư liệu gì về cách mà Cổ nhân đã thực hiện khi đọc ngược Truyện Kiều, mà chỉ là truyền thuyết không có gì là cụ thể. Tuy nhiên theo thiển ý của chúng tôi, cách đọc trong cuốn này là cách đọc dễ dàng và duy nhất mà ta có thể mau thuộc, vì vậy chúng tôi tạm lấy nhan đề cuốn sách là Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân”, với chữ của Cổ nhân trong ngoặc kép để nhấn mạnh rằng đây không phải là văn bản sưu tầm từ thư tịch cổ. Xin để quý vị cao minh xem xét. - Cho biết tóm tắt nội dung và bố cục của Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân”? Nhà Kiều học Phạm Đan Quế: Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân” được phân đoạn theo văn bản của chúng tôi với 55 mục lược lại diễn biến của Truyện Kiều từ cuối trở lên đầu cho dễ theo dõi. Trong quyển này, chúng tôi cũng cho in văn bản chính của Truyện Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) và giới thiệu mấy đoạn trong quyển Truyện Kiều đọc ngược trước của chúng tôi ở sau để bạn đọc có cơ sở tham khảo. Như trên đã nêu, trong quyển này, chúng tôi đã sửa 17 trường hợp nghe không thuận nếu chỉ đơn thuần hoán vị một kiểu hai cặp chữ 5-6 và 7-8 trong câu bát như: (0005). Lạ gì bỉ sắc tư phong, Những điều trông thấy đớn lòng mà đau. …đớn lòng mà đau nghe không được thuận, có thể đảo thành… mà lòng đớn đau. hoặc: (2771). Đánh liều lên tiếng ngoài tường, Càng ngao ngán nỗi, ngẩn dường càng ngơ. …ngẩn dường càng ngơ nghe không được thuận, nên đảo thành càng dường ngẩn ngơ. Và chúng ta lại càng thấy Truyện Kiều tuyệt vời biết bao khi đọc ngược cả quyển thơ dài tới 3.254 câu mà chỉ có 17 câu bát phải du di chút ít. - Chân thành cảm ơn Nhà Kiều học! Ông còn gởi gấm điều gì đến bạn đọc Cổng Thông tin Kỷ lục và bạn đọc sách Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân” trong nay mai? Nhà Kiều học Phạm Đan Quế: Tôi là người “mê” Kiều từ thời trẻ tuổi và đeo đuổi với Truyện Kiều đã 50 năm. Mỗi lần phát hiện điều gì mới lạ ở Truyện Kiều là tôi cầm bút viết, với mong ước giúp các bạn yêu “Kiều” như tôi tìm hiểu thêm tác phẩm bất hủ, nổi tiếng thế giới này. Để quý vị bước đầu làm quen với bản Kiều đọc ngược trong tác phẩm Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân” sắp ra đời này, xin hãy chậm rãi ngâm nga và thưởng thức 15 câu cuối và 15 câu đầu của cuốn sách như sau: 15 câu đầu quyển Truyện Kiều đọc ngược của Cổ nhân Mua vui cũng được trống canh một vài 3253. Lời quê góp nhặt dông dài Chữ tâm kia với chữ tài bằng ba 3251. Thiện căn ở tại lòng ta Cũng đừng trách lẫn trời xa, trời gần 3249. Đã mang lấy nghiệp vào thân Chữ tài liền với một vần chữ tai 3247. Có tài mà cậy chi tài Chữ tài chữ mệnh cả hai dồi dào 3245. Có đâu thiên vị người nào Cho thanh cao mới thanh cao được phần 3243. Bắt phong trần phải phong trần Trời kia đã bắt có thân làm người 3241. Ngẫm hay muôn sự tại trời Vườn xuân một cửa muôn đời để bia….
15 câu cuối quyển Truyện Kiều đọc ngược của Cổ nhân: 0015. Đầu lòng hai ả tố nga, Vương Quan là chữ, nho gia nối dòng. 0013. Một trai con thứ rốt lòng, Gia tư nghĩ cũng bậc trung thường thường. 0011. Có nhà viên ngoại họ Vương, Bốn phương phẳng lặng, vững vàng hai kinh. 0009. Rằng: Năm Gia Tĩnh, triều Minh, Phong tình cổ lục sử xanh còn truyền. 0007. Cảo thơm lần giở trước đèn, Trời xanh quen thói đánh ghen má hồng. 0005. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Những điều trông thấy mà lòng đớn đau. 0003. Trải qua một cuộc bể dâu, Chữ tài chữ mệnh ghét nhau khéo là. 0001. Trăm năm trong cõi người ta,
Và một đoạn quen thuộc: Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích 1053. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Chân mây mặt đất xanh xanh một màu. 1051. Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Hoa trôi man mác về đâu biết là. 1049. Buồn trông ngọn nước mới sa, Thuyền ai thấp thoáng xa xa cánh buồm. 1047. Buồn trông cửa bể chiều hôm, Có khi gốc tử người ôm đã vừa. 1045. Sân Lai cách mấy nắng mưa, Quạt nồng ấp lạnh đó giờ những ai. 1043. Xót người tựa cửa hôm mai, Tấm son gột rửa cho phai bao giờ. 1041. Chân trời góc bể bơ vơ, Tin sương luống những mai chờ rày trông. 1039. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Nửa tình nửa cảnh tấm lòng như chia. 1037. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Cát vàng cồn nọ, dặm kia bụi hồng. 1035. Bốn bề bát ngát xa trông, Vẻ non xa tấm ở chung trăng gần. 1033. Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Khá thú vị phải không các bạn? Như vậy, quả là mọi bài thơ lục bát đúng cách đều có thể đọc ngược được từ câu cuối trở lên câu đầu. Điều này chính là một minh chứng hùng hồn cho sự kỳ diệu của ngôn ngữ Việt và lại là một cách vinh danh tuyệt vời cho thể thơ lục bát dân tộc của chúng ta. Nếu các cụ ta ngày xưa có thể đã đọc ngược Truyện Kiều theo cách này thì quả là có cụ có thể đọc ngược từ cuối trở lên đầu theo kiểu này thật, không đến nỗi khó tin nên có người còn cho là thậm xưng hoặc chỉ xem là giai thoại. Như trên đã nói, dù biết cách đọc ngược này từ lâu, nhưng lúc đầu chúng tôi chưa có ý nghĩ viết thành sách mà chỉ định nêu lên nhận xét này khi tái bản quyển Truyện Kiều đọc ngược mà thôi. Soạn xong sách, tôi có gửi cho bạn bè ngâm nga đọc lại mới càng thấy hay và các bạn đều khuyên nên in ra cho mọi người cùng biết. Mong rằng sau khi quyển sách này ra đời sẽ có nhiều bạn trẻ có thể đọc ngược Truyện Kiều ở bất cứ đoạn nào, thậm chí có thể đọc ngược toàn truyện như người xưa. Chúng tôi vẫn muốn nhắc lại rằng: Đây là một phương pháp đọc ngược thật đơn giản và rất dễ nhớ, dễ thuộc mà cổ nhân vì yêu mến Truyện Kiều đã nghĩ ra. Quả là một sáng tạo, thú vị không ngờ! Trương Như Bá (thực hiện) THÊM MỘT CÁCH ĐỌC NGƯỢC TRUYỆN KIỀU VanVN.Net - Nhà Kiều học - thầy giáo toán Phạm Đan Quế lại có thêm một sách chuyên khảo Truyện Kiều, mang tên “Truyện Kiều đọc ngược của Cổ nhân”, khác với sách “Truyện Kiều đọc ngược” ông đã đưa tới bạn đọc từ năm 2002. Nhân việc này chúng tôi có cuộc phỏng vấn ông Phạm Đan Quế. PV: Thưa ông, “Truyện Kiều đọc ngược” - tên một cuốn sách do ông biên soạn, chỉ là tên sách ấy, hay còn là tên một lối chơi chữ từ Truyện Kiều, kiểu như tập Kiều, đố Kiều, nhại Kiều…? Ông Phạm Đan Quế: Chúng ta hoàn toàn không có tư liệu gì về cách mà cổ nhân đã thực hiện khi đọc ngược Truyện Kiều, từ chữ cuối tới chữ đầu. Trong cuốn “Truyện Kiều đọc ngược” (NXB Thanh niên 2002) chúng tôi đã dành 50 trang nghiên cứu vấn đề này và khẳng định, cũng có vô số bản Truyện Kiều đọc ngược đấy, nhưng chỉ là đọc theo lối tập Kiều, là lối chơi chữ theo cách lựa chọn một số câu Kiều ở những chỗ khác nhau trong 3254 câu của Truyện Kiều, những câu có thể nối vần với nhau để tạo thành bài lục bát mới, theo một chủ để nhất định nào đó. Nếu theo chủ đề đảo ngược thời gian, thì Truyện Kiều được “đọc ngược”, từ đoạn “tái hồi Kim Trọng”: 3253. Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh. 3145. Nàng rằng: Phận thiếp đã đành, Có làm chi nữa cái mình bỏ đi! 3185. Chở che đùm bọc thiếu gì, Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay. 3209. Tẻ vui bởi tại lòng này, Hay là khổ tận đến ngày cam lai? 3241. Ngẫm hay muôn sự tại Trời, Trời kia đã bắt làm người có thân….
Theo cách này, trong tác phẩm trên, chúng tôi đã dùng lại toàn bộ 3254 câu thơ của Nguyễn Du - dùng nguyên văn - để viết lại thành một câu chuyện có trình tự thời gian đi ngược lại câu chuyện nguyên tác, như đã thực hiện một cuốn phim quay ngược (nội dung thì không có gì mâu thuẫn với nguyên bản). Khi làm sách này, chúng tôi đã cho rằng chuyện người xưa có thể đọc ngược Truyện Kiều từ cuối trở lên đầu không cần giở sách là thậm xưng và có thể chỉ là truyền thuyết hay giai thoại. Nhưng sau khi sách ra mắt được ít lâu, qua nhiều ngày đêm nghiền ngẫm, chúng tôi nhận thấy, nhận định như trên không chính xác vì còn có cách đọc ngược Truyện Kiều khác nữa, rất đơn giản, thú vị và tự nhiên hơn nhiều mà có thể các cụ ta xưa đã làm. PV: Xin ông giới thiệu cách đọc ngược này! Ông Phạm Đan Quế: Đọc ngược cách này cực kỳ đơn giản: giữ nguyên câu lục, và hoán vị 4 chữ cuối của câu bát và đọc từ dưới lên trên. Mời bạn đọc nghe thử, Truyện Kiều đọc từ 8 âm tiết cuối cùng: 3524. Mua vui cũng được trống canh một vài 3253. Lời quê góp nhặt dông dài Chữ tâm kia với chữ tài bằng ba 3251. Thiện căn ở tại lòng ta Cũng đừng trách lẫn đất xa, trời gần 3249. Đã mang lấy nghiệp vào thân Chữ tài liền với một vần chữ tai 3247. Có tài mà cậy chi tài Chữ tài chữ mệnh cả hai dồi dào 3245. Có đâu thiên vị người nào Cho thanh cao mới thanh cao được phần 3243. Bắt phong trần phải phong trần Trời kia đã bắt có thân làm người 3241. Ngẫm hay muôn sự tại trời Vườn xuân một cửa muôn đời để bia…
Theo cách đọc trên, chúng tôi vừa biên soạn xong cuốn Truyện Kiều đọc ngược “của Cổ nhân” với đủ 3.254 câu. Cuốn mới này sẽ ra mắt trong quý IV-2016. Chúng tôi xin được nói qua về cuốn sách mới này. Với chữ “của Cổ nhân” trong ngoặc kép chúng tôi muốn nhấn mạnh, đây không phải là văn bản sưu tầm từ thư tịch cổ, mà là cuốn sách do chúng tôi biên soạn, nhưng có thể người xưa đã nghĩ ra và từng thực hiện. Khi đọc ngược thơ lục bát như thế này, nội dung cơ bản không thay đổi bao nhiêu, thậm chí có trường hợp đọc ngược lại thuận nghĩa hơn, và có lý hơn như câu “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, thì ta phải hiểu là “Trời xanh quen thói đánh ghen má hồng”, đúng như câu bát đọc ngược này. Và chúng ta lại càng thấy Truyện Kiều tuyệt vời biết bao khi đọc ngược cả quyển thơ dài tới 3.254 câu mà chỉ có 17 câu bát chưa thật thuận tai (11 chỗ là do từ láy bị tách đôi và 6 chỗ do văn lý). Như trường hợp câu 0005 “Lạ gì bỉ sắc tư phong/ Những điều trông thấy đớn lòng mà đau”. Gặp trường hợp này chúng tôi mạn phép động bút đổi thành “mà lòng đớn đau”. Từ cách đọc ngược Truyện Kiều có thể suy ra, mọi bài thơ lục bát đúng cách đều có thể đọc ngược như thế. Điều này chính là một minh chứng hùng hồn cho sự kỳ diệu của ngôn ngữ Việt và lại là một cách vinh danh tuyệt vời cho thể thơ lục bát dân tộc của chúng ta. Mong rằng sau khi quyển sách này ra đời sẽ có nhiều bạn trẻ thuộc Kiều tới mức có thể đọc ngược Truyện Kiều ở bất cứ đoạn nào nếu không phải là toàn truyện. PV: Nhân nói tới các bạn trẻ, nói tới tuổi học sinh, xin được hỏi các thầy cô giáo dạy văn nên dùng sách này như thế nào? Ông Phạm Đan Quế: Rất mong các thầy cô đón đọc sách này. Và tôi nghĩ, các buổi ngoại khóa môn Văn ở nhà trường có thể tổ chức thi đọc ngược những đoạn Kiều đã học hoặc những đoạn hay khác được chọn cho thêm phần hào hứng, bởi với quyển sách này trong tay, bạn nào cũng có thể đọc ngược một đoạn Kiều dù chỉ mươi, mười lăm câu. Tất nhiên để thuộc được đoạn đọc ngược nào, ta phải hiểu và thuộc được đoạn đọc xuôi tương ứng trong Truyện Kiều trước. Chắc chắn bạn nào say mê và quyết tâm sẽ có thể đọc ngược được khá nhiều đoạn Kiều mà mình thích, rồi có thể tiến xa hơn để có thể đọc ngược toàn bộ Truyện Kiều từ cuối trở lên đầu như các cụ ta ngày xưa. Nếu đúng là cổ nhân đọc theo kiểu này thì quả là quá tuyệt vời - Một phương pháp đọc ngược đơn giản và rất dễ nhớ, dễ thuộc mà cổ nhân vì yêu mến Truyện Kiều đã nghĩ ra. Thật là một sáng tạo, thú vị không ngờ mà mọi người yêu Kiều nên biết. PV: Xin hỏi câu cuối cùng, là nhà Kiều học, ông có ý kiến gì về việc học Kiều trong nhà trường vào dịp ngành giáo dục đang tiến hành soạn thảo bộ sách giáo khoa mới trong đó có sách văn học? Ông Phạm Đan Quế: Hiện nay khi dạy Truyện Kiều, sách giáo khoa đã chọn sẵn một số đoạn trích giảng nên giáo viên khó thoát khỏi những ràng buộc giấy trắng mực đen như thế. Nên chăng sách giáo khoa mới, ngoài mấy bài quy định, nên cho giáo viên tự chọn một số đoạn mà mình tâm đắc rồi truyền đạt cho học sinh để bài giảng có hồn hơn, cuốn hút hơn. Truyện Kiều đặc biệt ở chỗ đoạn nào giảng cũng tìm được nhiều cái hay, nếu làm như vậy thì thày trò sẽ cùng nhau tìm ra được nhiều cái hay của Truyện Kiều mà sự áp đặt theo lối cũ chưa thấy được. Xin cảm ơn ông! TRẦN QUỐC TOẢN thực hiện VÀI TRANG DU KÝ Từ Hà Nội tới Toulouse Anh Lê Tràng Kiều Tôi phải cảm ơn anh vẫn không quên một người bạn cũ của những báo anh chủ trương, nay vắng mặt ở Hà Nội. Tôi sang Pháp gần một năm, mà vẫn tưởng mới từ biệt Hà Nội có mấy hôm thôi. Xa Hà Nội mới gần chín tháng, tôi thấy nhơ nhớ, những phố Bờ Hồ, Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Trống lộn xộn… và xinh xinh của Hà Nội. Ngày mới sang đây, vì bận tìm nơi ở, và nhất là vì bận học, thành ra tôi không viết được gì về cho anh. Bây giờ đang nghỉ hè, tôi có nhiều thì giờ hơn. Nhưng biết viết gì cho anh được nhỉ? Hay là tôi chép ra đây mấy trang nhật ký đi đường có lẽ hay hay. Tôi từ biệt Hà Nội về trung tuần tháng Fe’vrier… Đêm 22 Fe’vrier. - Tàu Claude Chappe cập bến Sài Gòn. Tôi phải ở đây mấy hôm để chờ tàu Présideni Doumer. Bể Hồng Hải đêm 10 Mars.- Còn một hôm nữa, đêm mai, thì tàu qua kênh Suez. Tới Port Said, ghé bến một lần cuối trước khi tới Marseille. Nhưng ở Port Said phải chờ tàu chiến Pháp kèm đi. Bể Méditerrannée đã thiết quân luật, vì chiến tranh bên Y Pha Nho: mới mấy hôm trước, gần bờ bể Pháp ở đường Marseille-Maroc-Alge’rie có một trận thủy chiến giữa hai hạm đội phát xít và binh đoàn Y Pha Nho. Mấy chiếc thuyền chiến bị đánh đắm. Nhưng tàu đi sẽ không ngại gì, vì đường đi từ ven bể Y Pha Nho. Cũng như đường Hải Phòng vào Sài Gòn: đi qua đảo Hải Nam có quân đội Nhật đóng đấy mà có thấy gì đâu Trừ ở Singapore, xuống “ke” xem tụi tây đen và Mã Lai bán đồ tạp hóa, tôi không xuống bến nào hết. Ở Djibouti, mua một ít cartes postales cũng do họ đem lên tàu bán. Ở trên tàu vẫn thế: chẳng có sự gì lạ, trời bắt đầu lạnh từ Djibouti. Ai kêu mãi Phi châu và Djibouti nực thế nào. Nực mà đến Djibouti bắt đầu người ta phải đem chân vào couchelles. Hồng Hải, từ Djibouti tới kênh Suez, sóng to hơn trước. Gió lại thổi ngược. Tàu chạy có chậm đi một chút, trước chạy 420, 430, có khi 440 milles-marin một ngày. Bây giờ chạy có 400 mills thôi. Vẫn khỏe mạnh, vẫn ăn, vẫn ngủ như thường. Song buồn một chút, vì nhớ Hà Nội… Ừ! Lạ thật! Mọi khi ở nhà những phố phường, hồ Hoàn Kiếm, Bách Thú, Hàng Ngang, Hàng Đào… thì có nghĩa gì? Nhưng bây giờ đương lênh đênh ở xa tưởng tượng được đi ở những nơi ấy thì sung sướng nào bằng? Còn những người thích đi chơi xa, xem những cảnh lạ không hiểu tại sao họ thích. Nhìn mãi bể với giời, không gì không gì chán bằng và qua Singapore, Colomb, Djibouti, trông thấy bến, phố xá nhà cửa ở xứ lạ, chả thấy cái gì là thích cả. Họ xô nhau ra pont tàu xem, xuống bộ, chụp ảnh chỗ này chỗ nọ và cho là đẹp lắm. Tàu tới Suez 7 giờ tối, và 11 giờ rưỡi đêm, bắt đầu qua sông đào. Gió lạnh quá, tôi ngủ từ 9 giờ. Tàu trong sông đi chậm hơn. He’lice không quay nên tàu đã ém lại ém nữa… Tôi tỉnh dậy hết sức để ý mà không thấy một tý động đậy tưởng tàu làm sao phải dừng lại. Chạy lên pont xem mới biết là tàu vẫn chạy: Nhà cửa, cây cối vùn vụt lướt hai bên sông. Port Said 11 Mars - Tàu Présideni Doumer cập bến Port Said 11 giờ trưa. Tàu không đỗ sát bến, nhưng có một dẫy cầu nối liền vào “khe”. Như thế không mất tiền Chatoupe. Du khách xuống bến đông quá, trong đó có cả tôi. Port Said đẹp và náo nhiệt lắm. Người rất đông đúc, các cửa hiệu to và đẹp. Xe thì có taxis và ngựa giống xe độc mã của ta ngày trước. Đó là một tỉnh buôn bán. Và tới đây mới biết sự kém cỏi trong nghề buôn bán của mình. Những cửa hiệu đẹp hết sức. Tối thì các thứ đèn xanh, đỏ chiếu rất nổi. Các người bán, kể cả chủ, ăn mặc rất sang, chạy từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh chào khách. Không phải riêng người Ai Cập (dân bản xứ) thế đâu. Cả những người Anh, Pháp, Mỹ, Ý, Áo, Nga v.v… và kể cả chủ những hiệu buôn to. Ở nhà, thử tưởng tượng ông chủ hiệu Chabot, Gô đa từ Tràng Tiền chạy tới Hàng Bà chèo kéo một người khách tới hiệu của mình, rồi lục tung hòm xiểng lấy hàng chục cái áo, chính mình ép khách mặc thử… Một người Pháp và tôi nể lời một người chủ hiệu thợ may, theo lại cửa hiệu. Họ hẹn cái pardessus may trong hai giờ xong đem lên tàu cho, mà mình không phải đặt tiền. Họ đòi 150 quan, mà chúng tôi vì không muốn mua trả một giá hết sức buồn cười: 50 quan. Họ vẫn tươi cười như thường và vẫn lễ phép. Rồi làm mất thì giờ của họ chán, chúng tôi đi chơi vài phố, rồi quay lại tàu. Những người bán hoa quả, kẹo, thuốc lá, đồ e’mail v.v… chở bằng canot tới mạn tàu. Người trên tàu nghịch ác quá. Họ gọi mua để người bán ngửng mặt lên, rồi họ phun nước vào mặt. Tươi cười như thường, người bán thay áo và vẫn lễ phép mời mua. Các gái giang hồ người Ả Rập, người Ai Cập, người Âu, người Mỹ đầy phố mời chào vào các tiệm rất sang với một giá quá rẻ 20 quan, 10 quan. Tôi mượn một cái mũ Ai Cập đội và gọi thợ chụp chơi một bức ảnh. Ảnh chụp giữa đường, gần 6 giờ chiều, mà vừa chụp, vừa rửa hai phút xong (2 không phải 20 đâu!). 12 Mars - Tàu rời Port Said được vài giờ đồng hồ, một chiếc tàu chiến Pháp tới ra lệnh kéo cờ Pháp lên. (Vì thường, khi nào gần tới bến nào mới kéo). Tàu kéo cờ thật to, và đêm ngày, hai cái đèn pha mỗi đèn bốn ngọn chiếu vào cờ cho cẩn thận. Lệnh thứ hai là trỏ đường cho tàu đi một con đường có tàu chiến Pháp đi tuần. Ra lệnh, rồi tàu ấy đi. Bởi vậy tàu phải đi ngòng ngoèo một chút. Đáng lẽ từ Port Said đi thẳng đến Messine, giữa cù lao Siclile và Ý Đại Lợi, rồi thẳng từ đó tới giữa hai cù lao Corse và Sardaigne, và từ đó thẳng tới Marseille - Đằng này, phải từ Port Said đi men bờ bể Egypte, Libye, rồi qua cù lao Malte tới Messine; rồi từ Messine men bờ bể Ý Đại Lợi và bờ bể Pháp mà tới Marseille qua phía trên cù lao Corse. Trong bể Méditerrannée 13 Mars - Thủy thủ bảo ngay từ Port Said rằng sợ bị giời xấu trong bể Méditerrannée. Hành khách không tin vì thấy bể êm quá, giời xanh quá, gió nhẹ quá. Lúc đi không sao. Cả ngày hôm qua không có gì. Nhưng chiều bắt đầu rét, và gió thổi mạnh trên pont. Đêm, tàu bắt đầu lắc, song cũng vừa thôi, và tưởng tàu to và khỏe, sóng chẳng hề chi. 7 giờ sáng hôm nay, tôi điểm tâm vừa xong, và vừa lên khỏi cầu thang, ở buồng ăn bỗng có tiếng cười ầm lên: sóng đập lên hublots và ở hublots nước bể tràn vào. Một người hạ sĩ quan tàu bay ngồi gần tôi hồi nãy bị tắm sóng bể. Đến 11 giờ, giờ ăn, tàu bắt đầu lắc dữ. Gần 70 hành khách, chỉ có 20 người xuống ăn thôi. Bàn phải lật ngược lại, vì mặt ngược có những chỗ để chai, cốc, đĩa cho khỏi đổ khi sóng. Người Maitre d’hôtel cho là sóng vừa thôi nên không bắt bồi móc ghế xuống sàn. Ăn xong hors d’oeuvre, tàu bỗng chành mạnh một cái. Một người hạ sĩ quan thủy đang cắt thịt bị ghế băng tuột đi cách chỗ cũ chừng hai thước tây. Cả buồng cười ồ lên. Nhưng bỗng hết cười. Vì tàu chành một lần nữa, mạnh hơn trước. Một người tây đội khố xanh, béo lùn, đang vỗ tay cười đắc chí, bị ngã lộn ngược đi. Rồi trong mấy phút, buồng ăn hiện ra một cảnh hỗn độn ghê gớm. Những cái ghế mỗi cái nặng hơn 20 kilos lăn lông lốc từ bên này sang bên kia tàu. Người xô nhau chạy để tránh lũ ghế ầm ầm đẩy nhau. Đĩa, chai, cốc, cùi dìa, fourchette, dao bị văng đi như có người ném. Đàn bà rú lên ầm ỹ. Và nhiều người hoảng hốt níu lấy ghế, bị văng theo cả ghế. Người maitre d’hôtel định cản ghế lại bị xô ngã, và bao nhiêu người ngã đè lên. Người ta kéo maitre d’hôtel ra, gần ngất đi: tay bị toạc, gan bàn chân bị một mảnh cốc vỡ cắm vào. Tôi ngồi ngay sát sườn tàu: cái chành đầu tiên, ghế ngả vào sườn tàu, không việc gì. Cái thứ hai thì tôi đã để ý rồi và một tay nắm chặt lấy bàn tay (bàn đóng vào sàn), một tay đề phòng đỡ đĩa, cốc, dao văng vào mặt. Lúc tàu hơi đỡ lắc, tất cả xô nhau bỏ phòng ăn mà chạy như chạy giặc. Các hạng khác cũng thế hết. Ở hạng nhất, vừa ăn xong, mấy chồng đĩa bị quét xuống đất vỡ tan hết. Cái piano chạy khắp phòng khách và đầy sàn đổ lổng chổng bàn ghế - Ở hạng nhì, một người kể chuyện, sóng đánh vào cabine, ngập sàn. Một viên sĩ quan đứng trên pont “bị chạy” từ giữa pont tới bao lơn và suýt bị văng qua bao lơn: may có hai thủy thủ ôm lại: cả ba ướt như chuột - Ở hạng ba, phòng tôi, tôi đã kể ở trên. Còn pont dưới, nơi thủy thủ ăn, một làn sóng dữ dội đánh vào. Thủy thủ ướt hết, và bát, đĩa đồ ăn bị văng xuống biển!... Đến 4 giờ mới dịu. Một ít người lên pont lấy gió. Giờ mưa to. Nhưng hơi có mặt giời và có hai cầu vồng. Từ tối, sóng dịu dần, và tàu chỉ còn rung rinh. 15 Mars - Sáng sớm, người ta báo cho hành khách mừng là đã tới gần bến Ý Đại Lợi. Giời dịu, tuy gió rất lạnh. Người ta đã tính xong sự thiệt hại hôm bão: 27.000 quan. 17 Mars - Tàu cập bến Marseille. Thế là tôi đã tới Pháp. Tôi ở chơi Marseille có một hôm rưỡi ở nhà một người bạn. Hôm sau, tôi đáp tàu hỏa đi Toulouse. Đi hơi vất vả và nhọc mệt vì tới nơi vừa 4 giờ sáng. Đi đường không buồn ngắm phong cảnh nữa, vì buồn và nhọc. Tôi viết khá dài rồi. Anh chờ thư sau. Nhà thơ PHẠM HUY THÔNG – Đào Minh Diệu Xuân st.
Phụ Bản II Nhà thơ thần đồng Mỹ Mattie J.T. Stepanek
Thần đồng thơ Matthew J.T. Stepanek (Mỹ) Matthew Joseph Thaddeus Stepanek (tên đầy đủ) Sinh ngày 17-7-1990 tại thành phố Rockville, bang Maryland - Hoa Kỳ. Nhà thơ thuộc cung Cự Giải, cầm tinh con ngựa (Canh Ngọ 1990). Mattie Stepanek xếp hạng thứ 117 trong danh sách các Nhà thơ nổi tiếng. Ông sống tại Washington, DC và từ trần ngày 22/6/2004. Một tiếng nói rất trẻ thơ của đứa bé lên 5, lên 7, lên 10... Cậu “hoàng tử nhỏ” của thi đàn nước Mỹ nhìn thế giới sống động và đầy bất trắc quanh mình với tất cả sự tri ân, lòng khát sống và nỗi khắc khoải vì chiến tranh: Chúng ta không cần vũ khí làm gì Không dao nhọn, gươm dài Không súng ống, đạn bom Chỉ hòa bình Chỉ hòa bình thôi... Bạn đã bao giờ đọc thơ mà lòng cứ mãi kinh ngạc và nước mắt cứ muốn trào ra… Mà tiếng thơ ấy trong trẻo đến thế, ngơ ngác và nồng nàn đến thế. Cậu bé phải thở bằng ống oxy và đau đớn với hàng đống máy móc trên người có khát vọng trở thành một người kiến tạo hòa bình... Nhưng Mattie J.T. Stepanek không kịp sống hết tuổi 14, cậu mất năm 2004 vì căn bệnh “rối loạn chức năng dinh dưỡng cơ”, như hai anh trai và một chị gái của cậu đã mất trước đó... Cuộc đời của cậu bé Mattie J.T. Stepanek cũng là một bài thơ buồn mà đẹp đến ám ảnh lòng người. Mattie J.T. Stepanek sinh ra trong một gia đình mà cả ba người anh chị em ruột đều bị căn bệnh thiếu dinh dưỡng cơ cướp đi mạng sống. Mattie J.T. Stepanek cũng mang trong mình căn bệnh mà ngay cả nền y học tiên tiến ở nước Mỹ cũng phải bó tay. Cậu tự họa mình bằng thơ: “Da tôi trắng, máu đỏ, mắt xanh, còn tôi tóc vàng Vì tôi mắc bệnh thiếu dinh dưỡng cơ Nên tôi còn cả ống nội khí quản, quạt thông hơi và bình oxy Tôi đầy hồn thơ và khá thông minh đầu óc tôi luôn xáo động bao ý nghĩ hay chuyện lạ Tôi còn sống sót nhưng rồi một ngày kia tôi sẽ gặp lại hai anh trai và một chị gái của tôi ở thiên đường...” Năm 2001, cậu bé ngồi xe lăn này đã bị xuất huyết nặng và người mẹ đã khẩn cầu một NXB nhỏ ở bang Virginia cho in những bài thơ của Mattie J.T. Stepanek như một món quà tiễn biệt. Số lượng sách chỉ vẻn vẹn 200 cuốn. Và thật ngạc nhiên, buổi giới thiệu sách ở bệnh viện, 200 cuốn đó đã bán hết chỉ trong vòng 5 phút! Ngay lập tức, NXB cho in thêm 3.000 cuốn, rồi tiếp tục ấn hành tập thơ thứ hai của Mattie J.T. Stepanek mang tên: “Cuộc lữ hành qua tâm khúc”. Thông tin lan rộng, Mattie J.T. Stepanek nhanh chóng trở thành một thần đồng thơ và nổi tiếng trên toàn nước Mỹ. Số lượng sách của Mattie J.T. Stepanek vượt 500.000 bản, hai tuần liền đứng đầu bảng xếp hạng sách best seller của New York Time... Nhà thơ Hữu Việt dịch “Khúc hát trái tim” của Mattie J.T. Stepanek Khi Mattie J.T. Stepanek qua đời, nhà thơ Hữu Việt đã có bài giới thiệu “Thiên thần đoản mệnh của thi đàn Mỹ...” cùng với chùm thơ của em in trên báo Tiền Phong Chủ nhật số 32 ra ngày 8 tháng 8 năm 2004. Những câu thơ của cậu bé đã khiến NXB Kim Đồng quan tâm tìm hiểu để giới thiệu ở Việt Nam. Thông qua một số người bạn ở Mỹ, Hữu Việt đã có được 5 cuốn “Khúc hát trái tim” và càng đọc anh càng cảm thấy thú vị, say mê, xúc động trước một trí tuệ mẫn tiệp, được sinh ra ở một nước có nền công nghiệp phát triển. Hữu Việt quyết định dịch tập thơ không chỉ vì những rung động đó mà còn bởi anh nhận thấy giao lưu giữa hai nước Việt - Mỹ về kinh tế đang trên đà phát triển nhưng giao lưu về văn hóa vẫn còn thưa vắng, nhất là lĩnh vực văn học thiếu nhi. Tập thơ “Khúc hát trái tim” được dịch ra tiếng Việt chắc hẳn sẽ là một cầu nối cho thiếu nhi giữa hai nước cách nhau nửa vòng trái đất. Tiếp theo, đó là quá trình đàm phán mua bản quyền với Nhà xuất bản bên Mỹ. Cuối cùng thì bản hợp đồng dài 10 trang cũng được ký kết với những điều khoản hết sức chặt chẽ, trong đó NXB phía Mỹ yêu cầu phải giữ nguyên hình thức trình bày cuốn sách. Điều đặc biệt, cuốn sách này từ bìa đến minh họa bên trong đều cho chính cậu bé Mattie J.T. Stepanek tự vẽ. Chỉ riêng về mặt hội họa, cậu bé đoản mệnh này đã tỏ ra rất xuất sắc.
Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2007 đã được trao cho bản dịch tập thơ “Khúc hát trái tim” của tác giả Mattie J.T. Stepanek. Bản dịch của nhà thơ Hữu Việt. Có thể nói đó là một “bất ngờ được dự báo trước”, bởi cái tên Mattie J.T Stepanek và Hữu Việt đều hoàn toàn mới lạ trong giới văn học dịch Việt Nam. Ngay từ khi ra mắt , “Khúc hát trái tim” (NXB Kim Đồng, 2006) đã gây được những ấn tượng hết sức đặc biệt. Lúc đó, nhiều tờ báo lớn đều dành cho tập thơ “Khúc hát trái tim” những lời đánh giá như: “Ngạc nhiên và xúc động”, “Đọc mà không cầm được nước mắt”,... Tập thơ nguyên bản tiếng Anh có 300 bài , Hữu Việt chọn hơn 40 bài tiêu biểu nhất cho phong cách của Mattie J.T. Stepanek để dịch ra tiếng Việt. Hữu Việt bắt tay vào dịch với tâm thế của một nhà thơ dịch thơ. Có lẽ chính điều đó đã giúp anh vượt qua những rào cản của ngôn ngữ, để chuyển tải một cách đầy đủ nhất, những rung động tận sâu thẳm tâm hồn, những thông điệp đầy trí tuệ ẩn chứa đằng sau những con chữ mà “thiên thần đoản mệnh” muốn gửi gắm. Để làm được điều đó, chỉ biết tiếng Anh thôi, chưa đủ... Nhà thơ Hữu Việt tâm sự, khi đọc thơ Mattie J.T. Stepanek, anh đã bắt gặp một tâm hồn sống bằng Đức Tin, coi mỗi phút mình sống như món quà của tạo hóa. Chú bé bất hạnh ấy đã sống không phải như một người bệnh, mà sống như một nhà thơ, một con người của xã hội. Mattie J.T. Stepanek đã trở thành đại sứ Thiện chí của toàn nước Mỹ và được cựu Tổng thống Mỹ Jimmy Carter xem như một người bạn vong niên. Nhận được tin tập thơ dịch “Khúc hát trái tim” được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng của năm 2007, nhà thơ Hữu Việt cảm thấy rất bất ngờ. Vì văn học dịch ở thị trường sách Việt Nam đang chiếm thị phần rất lớn, và nhiều cuốn được dịch hết sức công phu bởi các dịch giả giàu kinh nghiệm.Vì dẫu sao đây cũng là lần đầu tiên Hữu Việt đi vào lĩnh vực dịch thuật... Như một cộng hưởng với giải thưởng này, tập thơ “Khúc hát trái tim” đang được NXB Kim Đồng tái bản... Đó là một cậu bé mang bệnh hiểm nghèo nhưng đã có những tứ thơ rất mới, trên mức trẻ con và khiến cho người lớn phải suy nghĩ về cuộc đời, về nhân sinh, chứ không chỉ thần đồng ở chỗ biết làm thơ. Hữu Việt đã có lòng với cậu bé thần đồng đó và dụng công tuyển chọn rồi dịch ra tiếng Việt rất tròn chữ, trong đó có những bài thơ rất ấn tượng như bài “Cốc nước triết học”. (Thúy Toàn - Chủ tịch Hội đồng văn học dịch, Hội Nhà văn Việt Nam) Thiên thần đoản mệnh của thi đàn Mỹ - Tác giả: Hữu Việt “Mattie Stepanek là người bạn nhỏ của tôi, cậu cũng là một trong những người trẻ tuổi xuất sắc nhất mà tôi từng gặp. Cậu bé muốn trở thành sứ giả hòa bình, qua những dòng thơ và bằng tấm gương can đảm hiếm có cậu đã chứng minh rằng, một người đấu tranh đơn độc cho hòa bình cũng có thể mang sự đồng điệu tới từng gia đình, cộng đồng và dân tộc. Bằng sự hiểu biết sâu sắc và một nhãn quan giản dị, Mattie đã nhắc nhở chúng ta rằng tha thứ cho người khác không phải là điều quá khó khăn, rằng sự kỳ diệu có thể được tìm thấy ngay cả ở những điều tầm thường nhất và rằng hãy biết ơn những món quà bé nhỏ mà cuộc sống hàng ngày trao tặng. Tôi tin rằng Cuộc lữ hành qua tâm khúc sẽ thu hút độc giả mọi lứa tuổi, bởi những cảm xúc và hình ảnh của nó sẽ mang đến cho chúng ta nước mắt và những trái tim rộng mở”. “Thiên thần” không phải chữ của tôi tự nghĩ ra để viết về Mattie Stepanek. Thơ của em bán được hàng triệu bản, một kỷ lục khó tưởng tượng của thơ nói chung trong thời buổi hiện nay. Thế nhưng thần đồng thơ trên thi đàn nước Mỹ đã phải chia tay với cuộc đời ngắn ngủi ngày khi em chưa kịp tròn 14 tuổi. Lứa tuổi mà nhiều người tin rằng khi chết sẽ hóa thành một thiên sứ trên vườn Chúa. Một độc giả Mỹ đã viết: “Trong cuộc đấu tranh với cái chết, Mattie đã trở thành một người thầy, mà thơ mang đến khả năng thấu hiểu thẩm mỹ sáng tạo cho tất cả chúng ta. Nếu gọi người phân phát những bức thông điệp này là thiên thần thì Mattie chính là thiên thần đó” Mattie tên thật là Matthew Joseph Thaddeus Stepanek, có thể đoán em là một người Mỹ gốc Do Thái. Như chúng ta đã biết Mattie sinh ra trong một gia đình có nhiều người mắc căn bệnh hiểm nghèo “rối loạn chức năng dinh dưỡng cơ”. 3 người anh chị em ruột của Mattie đã bị thần chết cướp đi, riêng em may mắn hơn, được sống, nhưng luôn phải thở bằng ống ô xy nối qua cổ. Không chịu đầu hàng số phận, Mattie bắt đầu viết thơ và sáng tác truyện ngắn từ năm lên 3 tuổi. Mattie viết: “Thơ xuất phát từ trái tim và cuộc đời tôi. Tôi làm thơ về những gì mình cảm thấy, về nỗi đau và niềm hạnh phúc, về ước mơ và sự sợ hãi, về nhận thức và sự thấu hiểu... Thơ là trải nghiệm của tôi về tật bệnh, cái chết và sự chia lìa... về sức mạnh, tương lai, hòa bình và rất nhiều thứ nữa. Đôi khi những dòng thơ chợt đến với tôi, ào ạt tới mức tôi không thể ghi lại hết ngay khi đó. Đôi khi ý tưởng lại đến trước và sau đó khá lâu những bài thơ mới ra đời. Và đôi khi thơ đến trong giờ lên lớp, trong một chuyến đi xa, từ một bài báo, một bài phát biểu. Nhưng trong tất cả mọi trường hợp, thơ luôn là khúc hát từ trái tim tôi, cho dù đó là thông điệp của nỗi buồn chán, lúc ốm đau hay căng thẳng tột cùng...” Thơ Mattie lần đầu được biết đến rộng rãi qua cuốn “Tâm khúc” phát hành năm 2001. Từ đó, cậu liên tục xuất hiện trên nhiều loại phương tiện thông tin đại chúng, trở thành khách mời thuyết trình tại nhiều cuộc hội thảo, hội nghị và trên truyền hình. Cậu được tặng giải thưởng về thơ mang tên Melinda Lawrence International Book Award. Mattie trở thành một trong những thiếu niên nổi tiếng nhất nước Mỹ. Là bạn vong niên của cựu TT Mỹ Jimmy Carter, bạn của nữ hoàng truyền hình Opra... Ngoài viết Mattie thích đọc sách, sưu tập đá, vỏ sò... và chơi xếp hình lego. Tuy bệnh nặng như vậy nhưng cậu vẫn luyện tập võ thuật và đạt trình độ nhất đẳng huyền đai. Năm 2001 Mattie là đại sứ thiện chí của bang Maryland... Đến năm 2002, cậu kiêm luôn danh hiệu Đại sứ thiện chí Liên bang. Quay trở lại với thơ Mattie, Mattie đã nói về xuất xứ của cái tên “Khúc hát trái tim”, tên bài thơ, cũng là tên tập thơ của em: “Lần đầu tiên tôi dùng từ ‘tâm khúc’ là khi tôi lên 5. Hôm ấy tôi đang mặc áo sơ mi, dưới lớp vải có cài một chiếc máy chơi nhạc loại nhỏ. Tôi ngồi dựa vào một vật gì đó và làm thơ. Thế rồi tiếng nhạc vang lên, có lẽ do tôi đã vô tình ấn vào nút mở. Tôi thì thào: “Mẹ ơi, nghe này, đó là những bài tâm khúc của con”. Ngay hôm đó, tôi hoàn thành bài Tâm khúc. Tâm khúc là một cái gì đó sâu thẳm luôn có trong mỗi chúng ta. Đó là sự linh cảm vì sao chúng ta có mặt trên thế gian này và làm thế nào để duy trì nó... Tâm khúc có thể dễ dàng nghe thấy khi ta còn trẻ. Cũng có khi chúng ta quá bận bịu, đau đớn, giận dữ để nghe nó, đó là lúc ta ngày một lớn lên. Giống như không biết giữ gìn cẩn thận món đồ chơi thời thơ ấu, ta quên đi cách lắng nghe những thông điệp đến từ mỗi bài hát trái tim. Nhưng cho dù bạn có quên hoàn toàn những bài Tâm khúc thì bạn vẫn có cơ hội tìm thấy nó bằng cách sẻ chia cùng mọi người, cho đến khi nó trở lại với bạn.” Cho dù là một thiên thần, một thần đồng thơ hay một hoàng tử nhỏ v.v... trên thi đàn nước Mỹ, Mattie vẫn không tránh khỏi có lúc sa đà vào sự dài dòng kể lể của một cậu bé làm thơ. Thơ Mattie có tầm phổ quát rộng lớn về đề tài. Cậu trò chuyện với biển, thời gian, hoa lá, cỏ cây... và bàn cả về chủ nghĩa khủng bố với TT Mỹ Bush, xót xa, suy tưởng trước đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam... về hòa bình, hy vọng. Điều đặc biệt là thơ của Mattie sử dụng thứ ngôn ngữ vô cùng giản dị, dễ hiểu. Với một người trình độ tiếng Anh trung bình hoàn toàn có thể đọc mà không cần tới tự điển. Có lẽ chính sự can đảm, tài năng thiên bẩm, tình yêu đồng loại, dám đối mặt với nỗi đau cuộc đời, vượt lên tuyệt vọng cùng sự đe doạ thường xuyên của cái chết để sống vì mình và vì mọi người mà “Những tâm khúc của Mattie đã khẽ chạm tới trái tim người đọc qua những dòng thơ uyên bác và dí dỏm, mang tới cho họ món quà bằng chữ có sức mạnh vượt thời gian và làm trái tim ta rung động mãi mãi” (Ann Armstrong). Làm thơ từ khi 5 tuổi thì trên thế giới cũng đã có và ở Việt Nam cũng có. Ngô Thị Bích Hiền ở đầu thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước làm thơ từ năm lên 4 tuổi, bài thơ “Ông mặt trời” của em đã được giải thơ nhi đồng quốc tế. Nhưng để trở thành thần đồng thơ thì ở Việt Nam thời hiện đại chỉ có Trần Đăng Khoa. Khoa làm thơ từ năm 8 tuổi và duy trì được sáng tác đều và hay suốt 10 năm. Thần đồng thơ Mỹ Mattie cũng có khối lượng và thời gian sáng tác tương tự, chất lượng thơ hay nhưng có điểm đặc biệt là em bị mắc căn bệnh hiểm nghèo và em chết khi mới 14 tuổi. Thơ hay là trên văn bản tác phẩm. Nhưng hoàn cảnh ra đời của tác phẩm cũng tạo nên một phần giá trị của tác phẩm ấy. “Ý nghĩ thật sự của giác quan” là một trong những sáng tác đầu tiên của Mattie: Mắt sinh ra để nhìn, nhưng mắt cũng sinh ra để khóc khi ta quá buồn và những lúc quá vui. Tai sinh ra để nghe, nhưng tim cũng để nghe. Mũi sinh ra để ngửi thức ăn, nhưng còn ngửi được gió, cỏ và nếu ta ráng hết sức mình - cả bướm nữa. Tay sinh ra để sờ nhưng tay cũng sinh ra để ôm và vuốt ve dịu dàng. Lưỡi và miệng sinh ra để nếm nhưng cũng để nói ra những từ như “Yêu mẹ, yêu cha” và “Tạ ơn Chúa vì tất cả những gì Người đã ban cho”. Quả thật không thể tưởng tượng nổi một chú bé 5 tuổi mà lại có những hình tượng thơ sâu sắc như vậy. Tất nhiên, Mattie đã có trong người cả một nền văn hóa Mỹ, nền văn hóa có đặc tính lý trí. Khác với thần đồng Trần Đăng Khoa khi làm bài thơ đầu tiên là “Con bướm vàng” thì cũng mang trong mình cả một nền văn hóa Việt Nam, nền văn hóa có đặc trưng tình cảm. Mỗi bông hoa có một vẻ đẹp riêng, không thể nói bông nào hơn bông nào. “Khúc hát trái tim” là chủ đề nổi bật của toàn bộ thơ Mattie. Với khoảng 250 bài thơ sáng tác trong gần mười năm, chủ đề ấy là xuyên suốt và nổi rõ ngay từ những năm đầu em làm thơ, tất nhiên là một cách tự nhiên không cố ý. Bài thơ mang tên tập thơ, mang chủ đề của toàn bộ thơ Mattie được em làm khi 6 tuổi: Tôi có một bài hát, ở nơi đáy trái tim và chỉ mình tôi nghe thấy. Nếu tôi nhắm mắt lại và ngồi thật im sẽ dễ dàng nghe khúc hát vang lên. Khi mắt mở và bận chạy tới, chạy lui nếu bớt chút thời gian và chăm chú lắng tai Tôi vẫn có thể nghe thấy khúc tâm ca đó. Bài hát làm tôi vui Tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết. Hạnh phúc, khắp mọi nơi hơn tất thảy mọi điều và tất cả mọi người trên thế giới rộng lớn. Hạnh phúc như được bay tới thiên đường, khi phải chết. Bài tâm ca của tôi thế này: “Hỡi mọi người! Tôi yêu các bạn! Các bạn có thể hạnh phúc biết bao!” Mattie J.T.Stepanek - Sứ giả của yêu thương Đó là câu chuyện khiến những người cứng rắn nhất cũng phải rơi nước mắt. Sứ giả yêu thương là câu chuyện cảm động về một cậu bé với phẩm chất tốt đẹp đã chạm đến hàng triệu trái tim. Di sản của cậu sẽ tiếp tục được lan tỏa khắp thế giới cho đến hôm nay và mai sau. Trong Sứ giả yêu thương, Jeni Stepanek chia sẻ những tình tiết cảm động và riêng tư về cuộc đời của con mình là Mattie Stepanek. Khi Mattie chào đời với một chứng bệnh “rối loạn chức năng dinh dưỡng cơ” hiếm gặp, người ta khuyên Jeni nên đưa con vào viện chăm sóc trẻ em và “đợi chuyện gì đến sẽ đến”. Thế nhưng, Jeni đã nuôi nấng một đứa trẻ sau này đã biến những khó khăn trắc trở trên đường đời thành thông điệp của hòa bình và hy vọng. Mặc dù phải đương đầu với hoàn cảnh bản thân bị bệnh nặng, bố mẹ ly hôn, anh chị mất sớm, nhưng Mattie chưa bao giờ nản lòng nhụt chí. “Dù đời có ép uổng, làm tổn thương và đe dọa tôi đến mức nào, tôi vẫn sống trọn vẹn với đời. Tôi sẽ tìm được cảm giác bình an trong cơn bạo bệnh. Tôi sẽ tìm được niềm vui trong tận cùng đớn đau. Tên tôi là Mattie Stepanek và tôi sẽ là sứ giả yêu thương”. Mattie Stepanek không lớn lên như cỏ dại, cậu vươn lên như một thân cây với gốc rễ vững vàng bám sâu vào lòng đất. Nữ hoàng truyền hình Oprah Winfrey đã gọi Mattie Stepanek là “niềm cảm hứng”; nhà thơ Mỹ Maya Angelou tài ba cảm thấy rất tâm đầu ý hợp với thi sĩ trẻ này; cựu Tổng thống Jimmy Carter đã miêu tả cậu bé là “con người xuất chúng nhất mà ông từng biết”. Giờ đây, cả thế giới sẽ có dịp thấu hiểu cuộc đời của một nhà thơ, một sứ giả hòa bình và một triết gia, qua tác phẩm Sứ giả yêu thương. Sách do hai dịch giả Uông Xuân Vy và Trần Đăng Khoa chuyển ngữ, bản quyền tiếng Việt của Sứ giả yêu thương thuộc TGM Books, NXB Phụ nữ ấn hành. LỜI KẾT “Khúc hát trái tim” : có thể nói đó là một tư tưởng lớn. Một nhân sinh quan được kết tinh bởi những yếu tố đẹp nhất trên con đường phát triển của nhân loại. Nhân sinh quan ấy thấm đẫm trong từng bài thơ, từng câu thơ bình dị, tự nhiên như không hề làm thơ gì cả. Có thể nói “Khúc hát trái tim” của Mattie đã nhận được sự đồng cảm của trái tim toàn nhân loại. Bởi “Khúc hát trái tim” đã nói rất nhiều điều thân thuộc và gần gũi đối với tất cả mọi người một cách bình dị và có nghệ thuật. Ở một khía cạnh khác, trung tâm của “Khúc hát trái tim” chính là những khúc hát hòa bình. Không hiểu sao mà người dân Mỹ trước đây (trước sự kiện 11/9/2001) lại khao khát hòa bình đến vậy? Còn hiện nay thì dễ hiểu rồi! Đến một cậu bé chưa đến mười tuổi mà cứ day dứt về hòa bình, dẫu hai trăm năm rồi nước Mỹ không có chiến tranh trên đất của mình. Chúng ta càng thông cảm và thêm yêu nhân dân Mỹ biết bao nhiêu! Nhân dân, bất cứ ở đâu cũng mang trong mình tất cả những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó và những vẻ đẹp văn hóa kết tinh được. Có thể nào vô tình chăng, trong 44 bài thơ của Mattie mà nhà thơ Hữu Việt chọn dịch đã có tới 3 bài trực tiếp nói về hòa bình: “Chỉ một”, “Chỉ cần hòa bình”, “Hòa bình”. Bài thơ “Chỉ một” là một thái độ khẳng định dứt khoát: Chỉ một vụ giết người, đủ làm nên tội ác. Chỉ một quả bom, đủ làm mọi thứ nổ tung. Ôi chỉ một nỗi đau thôi, đủ để kêu trời. Thêm một vụ giết người, thêm một quả bom, thêm một nỗi đau, Chẳng thay đổi được gì. Ngay cả khi nói “Bắt đầu khởi chiến!” Chỉ một trong những thứ đó thôi đã là quá đủ. Một thôi. Một thôi mà. Nhưng nếu chỉ một mình Sẽ không thể làm nên hòa bình trên thế giới. Cựu tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã nói về thần đồng Mattie Stepanek: “Mattie Stepanek là người bạn nhỏ của tôi, cậu cũng là một trong những người trẻ tuổi xuất sắc nhất mà tôi từng gặp. Cậu bé muốn trở thành sứ giả hòa bình, qua những dòng thơ và bằng tấm gương can đảm hiếm có, cậu đã chứng minh rằng, một người đấu tranh đơn độc cho hòa bình cũng có thể mang sự đồng điệu tới từng gia đình, cộng đồng và dân tộc…” PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo - Internet) TRỜI ĐÊM Ia.P.Polonski (1819-1898) Vì cớ gì, bầu trời đêm trong sáng ? Yêu xiết bao, đau đớn, ngắm nhìn em… Vì cớ gì tôi yêu em, bầu trời đêm tĩnh lặng ? Em không cho tôi - cho người khác bình yên. Là gì nhỉ với tôi: trăng, sao, chân trời, mây trắng ? Ánh sáng trườm lên đá hoa cương giá lạnh Và biến những giọt sương đêm thành những hạt kim cương Và trải một dải đường vàng mười qua mặt biển lam ?...
Ôi trời đêm ! Vì cớ gì yêu của em ánh bạc, Có làm dịu nỗi đau của những giọt lệ âm thầm bí mật.
Có câu trả lời mong mỏi cho trái tim khát thèm, Giải đáp chăng câu hỏi nặng nề day dứt con tim. Là gì nhỉ bóng tối của núi đồi, tiếng run rẩy của lá cây thiếp ngủ,
Tiếng vỗ bờ muôn thuở rì rào của biển cả, Tiếng rỉ rách của côn trùng trong bóng tối cây vườn, Tiếng thì thầm không ngơi nghỉ của dòng nước ngọn nguồn…
Ôi trời đêm !...Vì cớ gì tiếng nói của em huyền bí ? Có làm mát vực sâu oi nồng của tâm hồn tôi không nhỉ ?
Có dẹp yên bão tố khởi loạn bao trùm suy tưởng tâm tư -
Mọi cái đang nóng lên trong đêm tối, nghe rõ hơn trong thanh vắng lặng tờ ?!
Bản thân tôi đâu biết, hỡi trời đêm, tôi yêu em vì sao nhỉ ?
Yêu xiết bao, đau đớn ngắm nhìn em ! Bản thân tôi đâu biết, vì sao tôi yêu nữa - Có thể, bởi vì sự yên tĩnh của mình còn thăm thẳm xa xăm.
1850 Thúy Toàn dịch VỠ MỘNG Lá buồn rơi rụng lối đi Mới vừa thề hẹn đã ly tan rồi Phố chiều mát mẻ hàng cây Người xưa sao vắng còn đây ngắm nhìn Con đường nay đã thay tên Đang mùa mưa bão nước lên tràn trề Thương em có mái tóc thề Còn đâu những buổi cận kề yêu thương Sân trường vắng bạn u buồn Nghỉ hè đôi ngả vấn vương nỗi sầu Cố mà nén mối thương đau Mà sao vẫn nhớ hẹn nhau đôi lần Ước chi gặp lại tình nhân Biết bao kỷ niệm lại gần con tim. QUANG BỈNH 2016 XUÂN 4 MÙA Xuân còn đang ở đằng xa Mai vàng còn đang kết nụ Trời còn mênh mang sương giá Én chưa về lại cùng ta * Mà sao nghe lòng rạo rực Như là dòng nhựa trào dâng Mà sao trái tim náo nức Như đang dạo vũ khúc xuân * Có phải thế không em nhỉ Xuân ở trong ta bốn mùa Nụ mai lặng thầm hé nở Từ trong nguồn thơ em cho. LÊ NGUYÊN (trước xuân 2008) BẬN LÒNG CHI Đời chẳng có gì bất biến Như hoa sớm nở tối tàn Còn chút hương thầm Mỹ Thiện Mở ra khép lại sang trang * Chẳng ai tắm được hai lần Trên một bến nước dòng sông Sóng tình chỉ là ảo mộng Thật rồi lại hóa hư không * Xuân đi hoa vẫn nở Xuân ở hoa vẫn rơi Bận lòng chi rơi nở Tự tại lòng thảnh thơi… LÊ NGUYÊN 01.2010 TUYẾT XUÂN Ta về vun nắng cho hoa Say say một khúc tình ca với mùa Nghiêng nghiêng bóng lá đong đưa Lòng nghe khấp khởi đã vừa tiếng xuân Hiên mây lấp lánh trong ngần Ban mai khiết tỏa vạn phần xanh tươi Giai nhân môi biếc mắt cười Thênh thang gió lộng hạc trời xuân reo Ngoài khơi con sóng buông neo Mà lâng lâng nhẹ mái chèo nhặt khoan Mang mang một giãi tơ vàng Mà rung mê mẩn cung đàn thiết tha Môi xuân đã chớm hiên nhà Nhành mai e ấp nụ hoa đón mừng Râm ran chim hót vang lừng Uyên nhiên biếc thỏa khiết bừng tuyết xuân ĐÀM LAN Chợ kiệu quê tôi Gia Huỳnh lành lạnh gió heo may Hương xưa gợi nhớ phút giây này Hồi ấy chất đầ y cà , kiệ u , cải Mùi hương theo gió chút nồng cay Đâu đây lò bún đang gi ã bột Trời khuya nghe rõ bụp bum bum Âm thanh nhè nhẹ lời nhỏ nhẹ Tựa ong quầng tổ tiếng vo ve Khi ánh bình minh vừa ló dạng Bóng đêm theo chợ cũng dần tan Như chuyện liêu trai mình nghe kể Chợ nhóm đêm sương đến canh tàn Bồn kiệu vẫn đầy khi đón tết Cải chua vẫn muối dấm pha đường Nhưng đâu còn nữa ngày tháng cũ Chỉ còn khoắc khoải nỗi thầm thương Nguyên Lê 17/12/2016
NỤ MAI HỒNG Anh chỉ cần một nụ mai mồng một Để tặng em một năm mới tinh nguyên Để trong đôi mắt ấy thật yên lòng Là anh chỉ yêu mình em thôi nhé ! Anh chỉ cần một phút giây nhỏ bé Đừng ai quấy rầy làm hỏng bài thơ Anh viết chỉ cho em trong ánh sáng mờ mờ Của buổi sáng một mình anh thức giấc ! Anh chỉ cần chút vầng trăng khuya khoắt Và cả gầm trời đã ngập những chiêm bao Mình anh thôi, hát khúc hát ngọt ngào Chưa từng hiện hữu trong lối đi của gió ! Anh chỉ cần, sáng ra, em bỡ ngỡ Giữa hằng hà những nhánh lá khô khan Có nụ mai đang hé nở bần thần Và thì thầm với em rằng, mai chính là anh đó ! Anh chỉ cần, sáng mồng một, mai cười nụ Khoe ánh vàng rất kín đáo, rồi nở ra Như tim anh, nó lẩm cẩm mà thiết tha Có chút điệu bộ, mai và anh, là dành cho em mãi… Lam Trần Lá Thư Valentine Valentine này, em nhớ gì không em, Đã mấy thu qua, lá rụng bên thềm, Em đi mãi xa khung trời kỷ niệm, Mình anh ngồi, đong đếm dấu yêu xưa ! *** Trời đang mưa hay lòng anh lệ ứa, Nhớ rất nhiều ngày hai đứa bên nhau, Mùa Xuân cũ, ngất ngây tình yêu dấu Em nhẹ nhàng, khe khẽ tựa vai anh, Chúng mình như... mây trắng với trời xanh ! Tình trong sáng, ngây thơ như vạt nắng, Sưởi ấm lòng mình những buổi tàn đông, “Anh nhớ nhé, cứ yêu và hy vọng, Mộng ban đầu, hãy giữ mãi cho nhau...” Lời em nói, anh vội về ươm mộng, Xây lâu đài, ước vọng mai sau... Ai có đâu ngờ... thời gian qua mau, Bao thay đổi ! Ôi, dòng đời muôn sắc, Mùa Xuân ấy, có ngày, ta ly biệt. *** Em ra đi, còn đâu nữa, tình mơ, Thế mà anh cứ vơ vẩn đợi chờ, Cũng chẳng nghĩ... tình ta cơn sầu mộng... Hiu hắt, héo mòn, vời vợi ngóng trông, Ôm trái sầu, nhung nhớ mấy mùa đông ! *** Valentine này, Cali vui không em, Cành Hồng thắm trong mơ, anh vẫn muốn, Gởi tặng Em với nghìn nụ hôn đầu, Như ngày xưa, dấu yêu, ta bên nhau, *** Em nhớ nhé, dù cách xa diệu vợi, Vẫn yêu Em, thương nhớ chẳng hề vơi, Tình anh đó, vẫn còn Em mãi mãi, Vạt Nắng Hồng, Em... ...Sưởi ấm mãi lòng anh ! Phạm Thị Minh-Hưng DÒNG ĐỜI XUÔI NGƯỢC Ta đi hòa nhập với đời Mới hay cuộc sống đẹp tươi muôn màu Trải đời cảm xúc thêm giàu Càng cao hiểu biết, càng sâu tình người Mỗi bài thơ một mảnh đời Muôn ngàn số phận khắc nơi tâm mình Kẻ ưa tìm hiểu nhân sinh Ta nhìn thế thái nhân tình trái oan Cũng âu là lộc trời ban Dòng đời xuôi ngược gian nan, vô thường. Lê Minh Chử ĐẤT NƯỚC SANG XUÂN (hát theo điệu xẩm xoan) Đất nước sang xuân Khắp nơi xa gần Toàn dân nô nức đón mừng hoan ca. Lòng vui mở hội bồi hồi đón xuân Xóm dưới, thôn trên cờ hoa rực rỡ muôn màu Tang tinh tàng tình tang tính tang tinh * Rực rỡ muôn màu Xóm dưới, thôn trên cờ hoa rực rỡ muôn màu Mừng xuân hạnh phúc Bây giờ là đây Đón tết vui xuân Cùng nhau ca hát quây quần Tang tinh tàng tình tang tính tang tinh. LÊ MINH CHỮ SÀI GÒN VÀO XUÂN Tặng Anh Hoàng Thanh Sài-gòn sớm mai đầy sương lạnh Trời đã cuối đông rồi đó anh Gió lạnh phất phơ tà áo mỏng Em đi qua nắng chút vàng hanh Sài-gòn giờ đã chớm vào xuân Ngày ngày em ngắm dạ bâng khuâng Đóa mai tươi thắm trên cành biếc Lan đào rực rỡ đón nắng xuân
Đàn bướm rập rờn trên cánh hoa Vườn xuân rực rỡ tỏa hương xa Hà Nội nơi anh trời còn lạnh Nắng có chan hòa trên xứ xa Sài-gòn em chờ đón tân niên Chúc anh hạnh phúc hỡi bạn hiền Mong xuân mãi mãi đừng phai sắc Người người vui sống cảnh bình yên.
HOÀI LY
Lời chúc đầu năm Mến gửi đến bạn lời cầu chúc vừa đủ, vừa đủ thôi:
Vừa đủ Hạnh phúc để giữ tinh thần bạn luôn sinh động
Vừa đủ Thử thách để giữ cho bạn luôn kiên cường
Vừa đủ Khổ đau để bạn biết yêu quý cả những niềm vui nhỏ nhất
Vừa đủ Thất bại để giữ bạn mãi nhiệt tâm
Vừa đủ Bạn bè để cho bạn luôn được ủi an
Vừa đủ Vật chất để đáp ứng những nhu cầu cuộc sống của bạn
Vừa đủ Nhiệt tình để bạn có thể chờ đợi trong hân hoan
Vừa đủ Niềm tin để xua tan nghi nan những khi bạn chán nản ngã lòng
Vừa đủ Hy vọng để mỗi ngày của đời bạn sẽ tốt đẹp hơn ngày hôm trước
Và vừa đủ Tình yêu để bạn có thể thực hiện những điều này…”
Một mùa Xuân và mãi mãi là mùa Xuân BS. DOANLINH Xuân Đinh Dậu 2017 Công thức nấu món “ĐẶC SẢN THIÊN ĐƯỜNG” ĐÊM GIAO THỪA 1. Lấy toàn thể 12 tháng trong năm đem rửa sạch mùi cay đắng, ghen tỵ, hờn oán… rồi để cho ráo nước 2. Tuần tự cắt mỗi tháng ra 28, 30 hay 31 phần 3. Trộn đều với: Một chút Tin Yêu - một chút Kiên Nhẫn - một chút Can Đảm - một chút Cố Gắng - một chút Hy Vọng - một chút Trung Thành 4. Ướp thêm gia vị “Lạc Quan, Tự Tin và Hài Hước” 5. Rồi đem ngâm một lát trong dung dịch “Tha Thứ” 6. Vớt ra, xay nhỏ, đổ tất cả vào “Nồi Yêu Thương” và nấu với lửa “Vui Mừng” 7. Đem ra ăn với “Nụ Cười” trong chén “Bao Dung” Chúc bạn sang năm mới sẽ là một người rộng lượng - giá trị - hữu ích - thịnh vượng - sáng tạo - hiểu biết và thành công… BS. DOANLINH NGUYÊN TIÊU Ai còn nợ một nụ hôn Trang thơ lục bát trong hồn Nguyên Tiêu Thương ai như dải lụa điều Mùa sau ta hẹn Nguyên Tiêu ta về BS. DOANLINH CẢM TẠ THẦN MỘNG GIẤC NAM KHA: HÃO Đêm nằm giấc điệp thật huy hoàng Tựa mình thức dậy màn đêm phủ Nhập thần mộng đẹp nhủ thầm Không cầu duyên đến, thăng trầm thế ni. Có một đêm trong khi nằm ngủ Sao tôi lại thấy đủ mọi điều Thấy người ta tặng của nhiều Đến khi sực tỉnh, của tiền cũng không *** Tôi nằm mộng thấy có người tặng cho tôi Một cái nhà, ba căn hai chái rất đẹp Cột gõ cả ôm, hai bộ ván gáy một tấc, đánh bóng thấy mặt
Ở giữa có ba bộ bàn thờ bằng gỗ cẩn ốc xa cừ Chiếu lấp lánh, ba bộ bàn tròn chạm cẩn Đời tôi chưa bao giờ thấy được căn nhà đẹp như thế Ở trước nhà có sân bông sai hoa kiểng hòn non bộ cũng rộng
Hai bên nhà phía sau vườn có cây ăn trái ao hồ cá Một hôm có chánh quyền địa phương cử ban ngành đoàn thể đến - để bảo tôi kê khai tài sản
Tôi ở nhà nghe tiếng gõ cửa, vừa ra mở cửa Tôi thấy một số người khá đông Có một cô phụ nữ làm trưởng đoàn Thầm trách tôi, Cô chờ nãy giờ lâu Có một hôm tôi đến Ủy ban, tôi chờ ba tiếng đồng hồ, tôi không dám nói lâu
Sau khi vào nhà an tọa xong Cô liền đưa cho tôi một xấp hồ sơ có in sẵn “Kê khai tài sản” bảo tôi khai. Tôi trả lời rằng tôi không biết, khai làm sao được Có một vị Phụ lão, lớn tuổi đi trong đoàn nói với tôi là anh khai đại đi, như thế nào cũng được
Xin quý vị, muốn biết tài sản này ? Quý vị mở cuộc điều tra, bà con lối xóm thì biết, hỏi Ông trưởng ấp mới rõ.
Còn phần tôi thì tôi biết cái tài sản này của thằng Hải, cho thằng Hà mà thôi
Có một chú thanh niên đứng gần tôi nói nhỏ Hải tên Ông mà. Ừ Ừ Tôi chỉ biết tài sản này thằng Hải cho thằng Hà. Cô Phụ nữ mới bắt lỗi tôi Nãy giờ tôi nghe Ông nói thằng chẳng nói con Tôi liền xin lỗi Cô, Con có nhiều thứ con lắm. Có những con nhỏ ti ti ti tí như vầy Cả đoàn thấy thuyết phục tôi không được Liền đứng dậy kiếu từ ra về Không trống chẳng kèn chẳng nước, không trà. Phước Hải cảm tạ Thượng Đế Trọng Hạ Bính Thân 2016 HÙNG KÊ
Xuân Đinh Dậu Mừng xuân vui tết thú chơi gà Đinh Dậu hai linh một sáu, qua Đầu đội kim khôi uy lẫm liệt Thân mang bảo giáp thế xông pha Mắt trừng đối thủ chờ xung trận Miệng quát quân thù chớ chọc ta Chiến đấu oai hùng khi thắng cuộc Hiên ngang hát khúc khải hoàn ca. Phước Hải
NẾU CÓ EM Nếu có em: Trời thêm xuân, lời ca thêm quyến rũ Lòng nở hoa, hương phấn kết thành thơ Tay trong tay dâng hiến tuổi yêu đời Tình trong sáng, duyên vàng trăng đôi tám
Nếu có em: Thời gian ngừng trôi, cô đơn ảm đạm Gió đưa vèo phiêu lãng góc trời xa Cười thắm môi, tỏa sáng đẹp đường hoa Lóng lánh mắt, sao khuê ngời tia sáng
Nếu có em: Đường chiều nên thơ, nhìn mây lãng đãng Ta nghe lòng ấm vọng, thuở đôi mươi Ngồi bên nhau trao ánh mắt nụ cười Ôi ! Ngây ngất, nồng nàn trang lưu ký
Nếu có em: Nhịp cầu yêu đương, trải dài thế kỷ Ấn tượng tim mình, hình bóng thương thương Trần gian phiêu du, hóa cõi thiên đường Ta choáng ngợp, cảnh lâu đài tình ái
Nếu có em: Uyên ương hạnh ngộ, tơ lòng chuyển tải Lá xanh gieo dìu dặt suối thiên thai Ta gần nhau ngất lịm cả hình hài Chung nhịp thở, chung tiếng lòng say đắm
Nếu có em: Tình cảm thăng hoa, điệu hò duyên thắm Lẵng hoa lòng xin dâng tặng em yêu Môi mặt hồng son, vóc dáng diễm kiều Ôi ! Nhan sắc mượt mà ta đắm say.
NGÔ BÁ MẠNH
MẤY LỜI KHUYÊN NHỦ Đã là trai sao nhậu hoài nhậu mãi Thời đại này anh hãy cải tiến đi Chè rượu say sưa danh dự còn gì Khuyên anh hãy nghĩ suy đừng say nữa Cha mẹ, vợ con mong ngày ba bữa Chén cơm ngon cá ngọt bát canh lành Sáng, trưa, chiều thường nhắc hỏi tên anh Anh hãy nghĩ, hãy suy và thấy đó Các con anh tuổi hãy còn thơ nhỏ Mai lớn khôn còn xứng đáng với người Anh không còn ở lứa tuổi đôi mươi Anh phải biết, phải nghe và phải thấy Lời người xưa còn lưu lại hôm nay “Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây Cơm của cha, áo mẹ, chữ thầy” Làm người trung hiếu đủ đầy mới hay Có thức đêm anh mới thấy đêm dài Vợ chồng tình nghĩa một ngày đừng quên Nếu anh muốn cho hạnh phúc lâu bền Làm người có chí mới nên con người. NGÔ BÁ MẠNH 1998 XÚC CẢM Hội thơ quả thật quá xa Đường đi nhiều lối, vượt qua ổ gà Xung quanh nhiều cổ thụ già Mưa rơi gió giật la đà ngả nghiêng Cà phê, quán nhậu, công viên Sao mà đông quá triền miên đêm ngày Sầu riêng măng cụt trưng bày Ổi xoài nho mận bánh dày bánh chưng Người xe tấp nập chẳng ngưng Phồn hoa lỡ bước bỗng dưng nhớ nhà Bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào Giờ đây hồi tưởng như là chiêm bao Cố Đô sao lắm phong ba Đền đài lăng tẩm nguy nga xa rồi Suy đi ngẫm lại bồi hồi Huế thơ, Huế mộng núi đồi hào quang Giờ đây như vết dầu loang Về thăm quê cũ tan hoang tiêu điều Tìm đâu vóc dáng mỹ miều Hữu tình non nước bao điều nghĩ suy Sao lòng vẫn mãi tư duy Thiên Mụ hùng vỹ uy nghi rêu mờ Tâm tư sâu lắng thẫn thờ Chốn xưa tìm lại nào ngờ bi ai Tha phương cầu thực không sai Nỗi buồn nặng trĩu đôi vai gầy mòn Nhớ Thuận An, nhớ cầu Lòn Đông Ba đậu phụng vừa giòn vừa dai Xuôi về đến tận Cầu Hai Non xanh nước biếc bồng lai chạnh lòng Giờ đây ghi lại vài dòng Nhớ nơi quê cũ long đong hoang tàn Về thăm xứ Huế bàng hoàng Hồi ức sợi nhớ ngỡ ngàng biết bao. VŨ THÙY HƯƠNG
XUÂN TIỄN BIỆT Hôm qua Em đến Long Thành Tiễn đưa người bạn nỡ đành ra đi ! Ôi sao tê tái chia ly ! Kẻ còn người mất ướt mi ngại ngùng Anh nằm dưới đất lạnh lùng Em nơi trần thế não nùng bi ai ! Tình mình đâu thể nhạt phai Mà Anh sao nỡ làm sai lời thề Ra đi không hẹn ngày về Xuân này Tết đến ê chề thê lương Bao nhiêu kỷ niệm vấn vương Thuận An - Vỹ Dạ - Sông Huơng hẹn hò Xa kia thấp thoáng con đò Anh đi quên hết dặn dò gởi trao Xuân về Em biết làm sao Mồ Anh cỏ mọc như dao đâm vào Vong Anh u uất thì thào Ra đi Xuân đến nghẹn ngào tang thương. VŨ THÙY HƯƠNG Tuổi DẬU Gà khoe tiếng gáy ó ò o Năng động đôi chân, tạo lắm trò Gốc bưởi, luống rau, bươi tróc rễ Bàn thờ, bếp táo, nhảy văng tro Nuôi con, dưỡng cái, không cho bú Cập mái, ve tình, bận rộn lo Bôi mặt gà nhà, đem đấu cựa Tróc đầu, gãy cánh, vẫn so đo ! Thanh Châu Gà Vàng ĐINH DẬU Đinh Dậu hăng say đáo nhiệm kỳ Hoàng kê bận rộn trổ tài thi Tìm hơi kẻ ác mà đuổi bắt Chọn mặt người hiền để kết quy Tạo dựng gia đình con hiếu thảo Trang hoàng tổ quốc lá hồng kỳ O o tiếng gáy vang bờ cõi Gà đẻ trứng vàng mãi khắc ghi ! Thanh Châu XUÂN PHẤN ĐẤU Xuân đến đẹp đời ai cũng mơ Nỗi lòng đất nước khó thờ ơ Giặc ngoài biên giới luôn gây rối Thù cận bên trong mãi chực chờ Kinh tế đang hồi ươm nẩy lộc Gian manh mỗi lúc sẵn dương cơ Trai hùng tiền tuyến đua ngăn chặn Gái giỏi hậu phương cũng bận lo Trách nhiệm toàn dân ai chẳng có Mạnh giàu tổ quốc nước mong chờ . LANG NGUYÊN XUÂN ĐINH DẬU 2017 Xuân về vấn vít mối tình đầy Đinh Dậu tết nầy rạng rỡ đây Ngày đợi tin nhạn bay ải bắc Đêm trông bóng nguyệt lặn phương tây Ngâm câu thi tứ lòng hăng hái Nhắp chén rượu đào dạ cảm say Lòng tưởng nhớ ai, ai có biết Tâm tư gởi trọn hết đông nầy . LANG NGUYÊN Kính họa Xuân cửa Thiền Sương tuyết ưu tư trắng mái đầu Tháng ngày vùn vụt thoảng trôi mau Lòng luôn tu tỉnh ngời tâm Phật Cuộc sống nhân gian lắm đớn đau Xuân nhắc mọi người chẳng được quên Đắp bồi trau trí vững tâm bền Theo đường chân lý lo xây dựng Triệu đóa hoa thiền thơm ngát hương Tiễn bước nàng Xuân đón tuổi già Thời gian - vó ngựa lướt nhanh qua Mau mau thức tỉnh lo tu niệm Giúp đỡ mọi người - sống vị tha Tháng năm cuốn tuổi trẻ trôi mau Ta nên sống tốt sống thanh cao Chớ phí ngày xanh - đừng để lỡ Thiện tâm nhiệt huyết mãi dâng trào Đừng quên đời sống lẽ vô thường Thức tỉnh - linh hồn được náu nương Cửa Phật từ bi luôn đón đợi Bờ Mê xa lánh chớ phô trương Đồi núi đèo cao đá chập chồng Tâm niệm ghi lòng chữ sắc không Đừng để tháng ngày trôi uổng phí Giũa rèn tu sửa sẽ thành công Ghi lời khuyên dạy của Thầy Chớ ham tiền bạc chất đầy trong kho * Giữ gìn của cải ki-bo Lìa đời thể xác thành tro còn gì Tâm thành - bờ Giác chánh quy Từ bi hành thiện khắc ghi trọn đời Lòng thành ban rải khắp nơi Mau mau giúp đỡ - kịp thời mang xa Luôn luôn tự nhủ : chúng ta Góp công góp của chớ mà xuôi tay Cứu nhân độ thế mỗi ngày Làm lành lánh dữ sẽ hoài cao sang NGÀN PHƯƠNG GIỮA RANH GIỚI NGHÌN NĂM
Thêm một tuổi hành tinh thay áo mới
Ngước trông kìa con én cũng bâng khuâng
Đôi cánh vỗ nhịp thời gian thăm thẳm
Vượt qua lằn ranh giới của nghìn năm
NGÀN PHƯƠNG CUNG ĐÀN SÔ-PANH Kỷ niệm đến thăm ngôi nhà Sô-panh Ngôi nhà Sô-panh Trời xanh mát lành Một chiều phúc ân Thỏa lòng mong ước Phút giây thiên thần Vươn sầu lan xa Réo rắt cung đàn Một thiên tình sử Vượt trùng gió mưa Tự khúc buồn xưa
Hàng cây thẫm xanh Ánh mắt long lanh Đằm sâu ký ức Dâng tràn sóng thơ Dặt dìu bến mơ Ngôi nhà nhỏ xinh Giọt nắng lung linh Ngọt ru tình ái Ngàn thác đầy vơi Vọng ngân cuộc đời.
Warszawa, năm 2006 VŨ MÃO CHOPIN’S MELODY Commemorating the day I visited Chopin’s house The house of Chopin Gentle, blue and cool sky In one blessed evening I had my hope fulfilled In an angelical fleeting moment Sadness was spread far away So plaintive was the melody A great love story Passing beyone wind and rain Originating from an old melancholy
The so green rows of trees The sparkling eyegleams Deep in the memories Overflowing with poetical waves Now presto now largo on the dreamy wharf The small charming house The sparkling sunlight Sweetly lulling love Thousands of full and partly empty falls And the echo of life was modulating.
Warsaw 2006 VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN
Phụ Bản III TÌNH NON NƯỚC Văn chương thời nôm na Thú chơi có sơn hà Ba Vì ở trước mặt Hắc Giang bên cạnh nhà Tản Đà Tản Đà tiên sinh sinh trưởng ở chốn nguồn sông kẽ núi từ bé đã luôn luôn được thấy Ba Vì ở trước mắt, Hắc Giang bên cạnh nhà. Sau này khi ông đã trưởng thành ông vẫn luôn luôn nhớ đến những cảnh nó đã bao bọc ông khi còn ngây thơ. Ông vẫn tự cho là hơn người ở chỗ được sinh vào nơi ấy: “Sông Đà núi Tản đúc nên ai, Thân thế xưa nay được mấy người…”
Cái tình của ông đối với nước non, một phần nẩy ra từ bé. Ông lại còn là một nhà nho đã đọc nhiều sách Tàu và ta, ông chịu rất nhiều ảnh hưởng lãng mạn sáng suốt của họ. Sông núi, gió giăng là những vật có thể gợi cho các cụ những cái quá khứ hoặc êm đềm, hoặc cay đắng. Nhưng nó không được làm bận trí các cụ, khi các cụ không đứng vào những cảnh ấy. Sông núi đối với các cụ là biểu hiện quốc gia, biết bao nhiêu thi sĩ đã đem những nỗi đau thương vì nước để gửi vào non sông. Bao nhiêu người đã đứng lặng ngắm non sông mà không khỏi tưởng đến những cuộc tang thương ở đời, và gẩy những khúc nhạc ai oán. Ở cái tình đối với non nước của ông, tôi phải phân biệt tình tự nhiên do óc và tình do sự học đào tạo. Tình tự nhiên của ông rất phức tạp, khi nó man mác, khi nó đắm đuối, khi nó có vẻ không thành thực, có một điều chắc chắn nhất là cái tình đối với non nước của ông phần nhiều là do ở “lòng quê” mà ra. Mỗi khi ông nhắc đến sông Đà, núi Tản là ông nhắc đến cái quê hương của ông. Mà có lẽ ông chỉ nhắc đến là vì thế: “Từ đấy đến nay, tính ra đã bẩy tám năm trời, chưa từng về đến gia hương; mây non Tản, sóng sông Đà, chỉ tưởng xa. Xa trông mà nhận đó là nơi cố hương vậy…” Sóng dợn sông Đà, con cá nhẩy, Mây trùm non Tản, cái diểu bay.
Yêu non nước không phải vì non nước ấy đẹp mà vì non nước ấy là của quê hương; tình non nước phối hợp với lòng quê kể cũng là một cái đặc sắc trong cái tình đối với non nước của một nhà nho. Một đặc điểm nữa: có khi ông đứng trước một cảnh, ông thấy tâm hồn ông rung động mạnh, hình như có một tiếng huyền bí nó gọi ông, nó giục ông tan hòa vào với nó: “Đang khi dưới bóng tà dương, một mình lơ lửng trên con đường đê cao, bên nọ sông Đà, bên kia núi Tản. Một mối cảm tình thanh thoảng, lơ thơ như tơ liễu chiều xuân… “Lại đôi lúc sông Đà, mưa nước, nước rộng mênh mông, gió cuốn mất sóng, sông nhô dòng nước, cái cảm tình phẫn khích lại cùng muốn theo với nhũng sóng gió nước, mà tưởng như phá lãng thừa phong”. Gió hỡi gió, phong trần ta đã chán, Cánh chim bằng chín vạn những chờ mong.
Chịu ảnh hưởng của sách, ông Nguyễn Khắc Hiếu cũng có những tình non nước mà tôi đã gọi là tình tiểu thuyết. Những câu thơ, đoạn văn gợi cái tình ấy ra chỉ là những cái khung cho một bài thơ, hoặc một đoạn văn mở đầu rất tiện. Đỉnh non Tản mây giời man mác, Dải sông Đà bọt nước lênh đênh, Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình. Nước kia mây nọ như mình với ta.
Hoặc: Bước chân ra khỏi cổng Hàn, Nước mây man mác muôn ngàn dặm khơi Gánh tình nặng lắm ai ơi ! Tiền mang bạc dắt thuê ai đó cùng.
Nhưng đối với ông Tản Đà cái tình tiểu thuyết đã có vẻ thực hơn rồi: “Hỏi mây nước, mây xanh chẳng biết Hỏi cùng sông nước biết không hay Sông nước chảy núi mây bay, Mình ơi có biết ta đây nhớ mình”.
Hoặc: Lại như trong bài thơ tuyệt tác “Thề non nước” có mấy câu: Non cao những ngóng cùng trông Suối khô dòng lệ ngày mong tháng ngày Sương mai một nắm hao gầy, Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương Giời tây chiếu bóng tà dương, Càng phai vẻ ngọc nét vàng phôi pha, Non cao tuổi vẫn chưa già, Non thời nhớ nước, nước mà quên non…
Đọc mấy câu thơ này, ta thấy cái tình của non đối với nước nặng bao nhiêu thì cái tình của thi sĩ đối với non nước nặng bấy nhiêu. Tuy thế, ông Tản Đà cũng không khỏi rơi vào những cái xác của tiền nhân của ta, ông dùng thơ tả cảnh làm mầu cho bài thơ: Trông giăng lại nhớ đến người, Trông thấy giăng mà nhớ đến ai…
Nhưng đến khi ta xét cái tình của ông, ta có đôi chút quan niệm về lịch sử ta về hai mươi năm về trước, ta công nhận cách tả cảnh tổng hợp và tiền nhân, ta sẽ thấy ông có một ngọn bút tài tình: Con sông xuân nước chảy lờ đờ, Thuyền trôi lững thững, giăng tờ mờ soi… Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt. Đá hỏm hom đen tối mò mò, Dưới đường sóng bể nhảy reo, Như mừng bạn mới, như chào khách xa.
Khi ông tả cảnh cũng như ông gợi tình, ta nhận thấy cái đặc điểm “chơi” của nhà thi sĩ. Mà thật ra thì ông cũng như hầu hết các nhà nho, tả cảnh gợi tình chỉ để mà chơi thôi: Chơi cho biết mặt sơn hà, Cho sơn hà biết ai là mặt chơi.
Lê Thanh - Hoàng Kim Thư st.
The Birth of Vietnam DỊCH VÀ NGẪM NGHĨ (Thay lời dịch giả) (còn 1 kỳ) Xưng mình là Hoàng đế đầu tiên, Tần Thủy Hoàng đế mặc nhiên “xổ toẹt” tất cả truyền thống đã bị nhiễm văn hóa Việt trước đó để lập lại một truyền thống hoàn toàn mới của người Trung quốc. Sao vậy? Thì trong truyền thống cũ, các ông “đế” của chủng dân văn hóa du mục nhiễm văn hóa Việt và bắt chước người Việt xưng vương; các ông đế cũ trước đó được gọi tên theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt, những Đế Thuấn, Đế Nghiêu, Đế Minh, Đế Lai... không còn “thuần túy” nữa. Từ đó, từ sau nhà Tần trở đi, nước Tàu dù trải qua những thời kỳ chia năm xẻ bảy manh mún, (Tam quốc, Lục triều, Ngũ đại hay ngũ quý) các lãnh tụ chiến thắng lên ngôi đều xưng đế. Tất cả họ hiểu rõ mình không thuộc nền văn minh vương đạo nhu hòa của chủng người Lạc Việt. Vì Hùng vương (Pháp sư trưởng) không phải là vua, ông ấy không cai trị cho nên không có triều đình với bá quan văn võ rành mạch như của Tàu. Cho rằng “Các vua Hùng duy trì uy thế với một cuộc sống triều đình sung túc [1] ,” là không có cơ sở. Các “vua” Hùng có thể có những gia đình riêng sung túc, nhưng một triều đình với vua quan cai trị như triều đình của Tàu thì không hề có. Sử chép ngoài các con, trai gọi là Quan Lang, gái gọi là Mỵ Nương, và những người giúp việc cho ông ấy được gọi là Bố Chính, Hùng vương không có quan viên nào khác. Vì vậy, các lạc hầu, lạc tướng chỉ là do người Tàu bịa đặt theo quan niệm truyền thống với triều đình của họ mà thôi. Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim theo các cổ thư Tàu, viết: “Quyền chính trị [của các “vua” Hùng] thì cha truyền con nối, gọi là phụ đạo” [2] cũng là nói theo lời của các sử gia Tàu bịa đặt, chớ thời bấy giờ dân tộc Việt còn ở chế độ mẫu hệ, chưa chuyển qua phụ hệ, làm gì có chuyện “cha truyền con nối gọi là phụ đạo”! Những cuộc nổi dậy do phụ nữ lãnh đạo như ta đã thấy. Mỵ Nương đi chơi, gặp cậu thanh niên nghèo rớt mồng tơi trên bờ sông Chử (Chử Đồng tử), nàng lấy làm thích, bèn tự ý và chủ động “bắt” làm chồng mà chẳng thèm hỏi ý cha mẹ hay triều đình nào cả; chẳng phải đó là một bằng chứng rõ ràng của chế độ mẫu hệ và tình trạng Hùng Vương không có triều đình đó sao? Không những đến đầu Công nguyên, cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng vẫn mang đậm màu sắc và tinh thần mẫu hệ (“Các nguồn tư liệu Trung quốc nói rõ Thi Sách phục tùng sự lãnh đạo của vợ”) [3] , mà đến cuộc khởi nghĩa của bà Triệu trong thế kỷ II Công nguyên, tàn tích mẫu hệ vẫn còn. Nếu không phải do tàn dư của tinh thần mẫu hệ thì liệu hàng vạn người lính nam giới kia có chịu vâng lệnh một cô gái 23 tuổi không? Phải, lúc đó “bà” Triệu là một thiếu nữ chưa chồng, 23 tuổi. Khi bà Triệu đem binh giúp anh là Triệu Quốc Đạt, thì sử sách không nhắc đến tên Triệu Quốc Đạt nữa. Người anh đó đã phục tùng sự chỉ huy của em gái mình. Chúng ta biết dân tộc mình thuộc nền văn minh nông nghiệp nhưng thường quên rằng với nền văn minh có tính cách nhu hòa đó, tổ tiên người Việt thời tiền sử sống trong chế độ mẫu hệ. Sau hàng ngàn năm bị Tàu đô hộ, bị chúng “cưỡng bách cải đạo” một cách khắc nghiệt từ mẫu hệ sang phụ hệ, như chúng ta thấy tên thái thú Nhâm Diên thực hiện ở Cửu Chân, từ đó chúng ta quen nhìn lịch sử nước nhà qua lăng kính phụ hệ của người Tàu. Chúng ta luôn nói chuyện 18 ÔNG Hùng Vương, để đi đến kết luận về tính “cha truyền con nối gọi là phụ đạo”. Trong chế độ mẫu hệ, tại sao nhất thiết phải là 18 ÔNG Hùng Vương? Khi hiểu Hùng Vương là một Đại Pháp sư, hay một Pháp sư Trưởng của cả nước, tại sao không là các BÀ Hùng Vương nhỉ? Vì văn hóa Nho giáo của Tàu trọng nam khinh nữ, người phụ nữ trong xã hội Tàu không được phép có mặt ở những nơi thờ phượng tôn nghiêm hay tham dự các hoạt động xã hội hoặc các nghi lễ có tính tâm linh. Văn hóa Việt Nam hoàn toàn trái lại. Tiến sĩ K.W. Taylor nhận thấy tính song phương (bilateral) trong xã hội cổ Việt. Nghĩa là trong xã hội Việt Nam người phụ nữ có vị thế cao ngang bằng với nam giới. Cho đến thế kỷ đầu Công nguyên, “tinh thần mẫu hệ của thời này còn được xác nhận mạnh mẽ hơn nữa với sự kiện là mộ và đền thờ của thân mẫu bà Trưng Trắc vẫn còn đó mà tuyệt không thấy có di tích gì cả của phụ thân bà” [4] cho thấy vai trò người đàn ông trong xã hội còn ở đâu đâu và… chưa là cái đinh gì hết! “Hình luật của các triều đại Việt Nam trong các thế kỷ muộn về sau phản ảnh một vị thế tương đối cao của người phụ nữ, biểu thị sự đề kháng ảnh hưởng chế độ phụ quyền từ Trung quốc. Xã hội Việt Nam thời thượng cổ có thể là không phải chịu sự kiểm soát của phụ nữ, nhưng rõ ràng là phụ nữ có các quyền thừa kế cho phép họ đảm nhiệm các vai trò lãnh đạo chính trị” [5] . Thế thì rất có thể đã tồn tại các BÀ Hùng Vương! Sự xuất hiện của An Dương Vương sau đời Hùng Vương thứ 18 là một điều bí ẩn mà cho đến nay dường như chưa có một giả thuyết nào giải thích thỏa đáng. Người ta không biết ông ấy từ đâu đến. Các thuyết cho rằng ông ta từ xứ Thục bên Tứ Xuyên qua hay từ Cao Bằng xuống đều không ổn. Nếu ông ta từ một nơi nào đó ở ngoài Việt Nam đến đánh hạ “vua” Hùng, chiếm nước Văn Lang, ắt là ông ta phải để lại dấu vết nào đó để các nhà nghiên cứu nhận thấy. Nhưng “Không có bằng chứng cho thấy sự nổi dậy của An Dương Vương để lại dấu vết gì trong ngôn ngữ Việt Nam, và rõ ràng là không có sự thay đổi lớn nào về nhân số” [6] . Tức An Dương Vương không phải từ bên ngoài vào. Ông ta cứ như trên trời rớt xuống. Lặng lẽ và êm thấm; không gây ra một sự xáo trộn hay thêm bớt nào, cả trong dân số và ngôn ngữ. Có thể nào An Dương Vương chính là vị Hùng Vương thứ 19 không? Ông ta không hề lật đổ vị Hùng Vương 18. Hùng Vương 18 qua đời bao giờ không ai nhớ. Và một “Pháp sư” mới xuất hiện tại chỗ. Lần này là nam giới. Ông đổi quốc hiệu, xây dựng thành Cổ Loa, thành lập quân đội. Có thể do các hoạt động đó nặng tính cai trị thế tục, không hợp với truyền thống thiêng liêng của bậc vương, hoặc giả các Hùng Vương trước đó toàn phụ nữ, bây giờ An Dương Vương là nam giới cho nên chưa được xã hội tôn phong danh hiệu Hùng Vương cao quý ấy chăng? Nếu không phải vậy, mà cố chứng minh cho được rằng An Dương Vương là người ngoài ở đâu đó chưa rõ, mang ba vạn quân vào đánh chiếm nước Văn Lang, rồi sáp nhập Văn Lang vào nước Tây Âu để lập ra nước Âu Lạc, thì An Dương Vương có khác gì đối thủ của ông là Triệu Đà? Thế sao về sau các sử gia đố kỵ bài xích Triệu Đả mà kể An Dương Vương vào quốc thống Việt Nam? Dù sao, sau một ngàn năm nô lệ, Ngô Quyền - và dân tộc Việt Nam - vẫn nhớ truyền thống của dân tộc mình là Vương đạo. Ngô Quyền xưng vương là nối lại quốc thống. Tiến sĩ Keith Weller Taylor có thể chưa hiểu rõ nội dung nhưng đã nhận ra , và gọi đúng nó là truyền thống vương quyền của đất nước (a local tradition of kingship), tuy sau đó các sử gia của ta có lý do để sắp xếp lại, không đặt Ngô Quyền ở phần Bản Kỷ của sử ký nữa mà thay bằng Đinh Bộ Lĩnh (xưng đế). Do truyền thống Vương đạo trong đó xã hội chưa có vua, chỉ được đặt dưới sự lãnh đạo tinh thần của một nhà hiền triết, nên khi Ngô Quyền xưng vương để nối lại quốc thống, ông phải đối diện một thực tế khác. Sau một ngàn năm bị đô hộ, hoàn cảnh đất nước và xã hội đã thay đổi. Bản thân ông xuất thân là võ tướng, ông chưa hề là một pháp sư hay nhà minh triết bao giờ. Chính võ công hiển hách trời long đất lở đã đưa ông lên vị trí một ông vua cai trị. Rất có thể từ Vua đã xuất hiện trong tiếng Việt vào thời kỳ này, cùng lúc với sự phát sinh vị thế lãnh đạo chính trị của Ngô Quyền, khi ông không phải là bậc Vương truyền thống. Ông là Vua. Vua thì phải có một triều đình với bá quan văn võ. Cho đến đó, cả dân tộc Việt Nam chưa hề có kinh nghiệm về vua chúa như vậy. Thế nên tiến sĩ K. W. Taylor thấy “Triều đình do Ngô Quyền thiết lập là bắt chước theo các kiểu cách truyền thống của Tàu, ngay cả quy định về màu sắc phẩm phục cho các quan” [7] . Tuy Ngô Quyền có công quét sạch giặc ngoại xâm, giành lại độc lập và nối lại quốc thống cho đất nước, nhưng các sử gia của ta sau Ngô Sĩ Liên đã có lý do để không đặt ông ở phần Bản kỷ trong sách sử ký nữa, mà thay ông bằng Đinh Bộ Lĩnh, dù ông này xưng đế chớ không xưng vương, mở ra một truyền thống mới của Việt Nam. Vương là một hiền giả, một nhà minh triết, thậm chí có thể là một thánh nhân, nối thông tam tài, hiểu thấu các nguyên lý của trời đất và con người. Một bậc như thế phải có địa vị cao hơn các vua chúa trần gian. Thế nhưng, người Trung quốc, vốn biết rõ Vương là khái niệm mang giá trị tinh thần của riêng người Việt, chớ không phải của họ, nên họ không dành sự tôn trọng đặc biệt cho nó. Trong truyền thống của Trung quốc, con trai trưởng của hoàng đế được phong đông cung thái tử để sau này nối ngôi đế của cha. Vương trở thành một tước vị, chỉ được dùng để phong cho các con trai thứ của vua. Thế là từ Vương bị tước mất ý nghĩa tinh thần thiêng liêng và trở thành một tước hiệu thế tục. Những ông con trai thứ của hoàng đế thì minh triết cáí nỗi gì, và làm sao là người có thể nối thông tam tài Thiên Địa Nhân được! Mặt khác, Đinh Bộ Lĩnh với hùng tâm chia đôi thiên hạ với người Trung quốc, ngang nhiên đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, ngang nhiên xưng Hoàng đế đầu tiên của truyền thống Việt, ngang ngửa với Hoàng đế của Tàu, trong tinh thần “mỗi bên làm đế hùng cứ một phương”, để sau này Lý Thường Kiệt ung dung cất giọng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư!”. Đó là lý do khiến các sử gia triều đình sau Ngô Sĩ Liên không muốn tiếp tục truyền thống vương đạo để chịu thua kém Tàu, vua mình ngang hàng con cái của vua Tàu, nên đã dời mốc Bản Kỷ của sử ký vào sự nổi dậy của Đinh Bộ Lĩnh: Đinh Tiên hoàng đế của Việt Nam độc lập. Cuốn sách The Birth of Vietnam của giáo sư K.W. Taylor có chứa một điều gây tranh cãi lớn mà hơn ba mươi năm qua (từ khi sách ra đời) dường như chưa có nhà phê bình nào muốn đá động đến. Đó là việc ông ghép triều đại Triệu Đà với nước Nam Việt vào lịch sử Việt Nam và cho rằng “Các sử gia Việt Nam về sau ghi nhận Triệu Đà là một vị vua đã chống lại quân Trung quốc xâm lược để bảo toàn lãnh thổ. Ông được tôn thờ tại nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam” [8] . Và “Việc ông [Triệu Đà] nắm giữ cái móng của thần Kim Quy biểu thị sự hợp thức của ông trong tâm trí của người Việt Nam, và giải thích uy thế của ông cao hơn An Dương Vương” [9] . Người ta nghĩ Lê Văn Hưu là sử gia đầu tiên đưa Triệu Đà vào lịch sử truyền thống Việt Nam trong cuốn Đại Việt Sử Ký của ông mà về sau Ngô Sĩ Liên căn cứ vào đó để làm bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và đặt Triệu Đà ở phần Ngoại Kỷ. Thực ra, nó bắt nguồn từ một cuốn sử khác trước đó nữa. Khi quân Minh đô hộ nước ta vào cuối nhà Trần, chúng cướp hết sách vở của nước ta mang về bên Tàu, trong đó có một cuốn sử tên là Đại Việt Sử Lược. Về sau, một học giả Tàu phát hiện cuốn Đại Việt Sử Lược trong thư khố của triều đình của họ, bèn đem khắc in, nhưng chúng bỏ đi chữ Đại. Cuốn sách còn tên Việt Sử Lược. Trong Việt Sử Lược đã có Triệu Đà mở đầu trang sử nước ta ở đó rồi. Và người ta nhận ra cuốn Việt Sử Lược hay Đại Việt Sử Lược là bản tóm lược của cuốn Việt Chí (không còn) củaTrần Phổ, một sử quan dưới triều Trần Thánh Tông. Lê Văn Hưu được cho là đã hiệu đính cuốn Việt Chí nên đã đưa Triệu Đà từ đó vào bộ sách Đại Việt Sử Ký của mình. Trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi cũng kể Triệu Đà vào truyền thống lịch sử Việt Nam: 自 趙 丁 李 陳 之肇 造 我 國 , 與 漢 唐 宋元 而 各 帝 一 方 Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc, Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, gây nền độc-lập; Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương . (Trần Trọng Kim dịch) Dường như Ngô Thời Sỹ là người đầu tiên lên tiếng không công nhận Triệu Đà: Trong sách Việt Sử Tiêu Án, ông đặt Triệu Đà vào Kỷ Ngoại thuộc: “Xét sử cũ: An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: “Triệu Kỷ Vũ Đế”. Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta. Nếu coi là đã làm vua nước Việt, mà đến ở cai trị nước ta, thì sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi ở đất Bàn Dương, Hưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu, đều xưng là Nam Việt Vương, cũng cho theo Quốc kỷ được ư? Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nước Thục, nếu sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta cũng có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương. Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc để phân biệt với nội thuộc vậy” [10] . Học giả Đào Duy Anh, trong Lịch Sử Cổ Đại Việt Nam cùng ý kiến phản bác đó, viết rõ chữ lớn như một lời tuyên bố to tiếng: NHÀ TRIỆU KHÔNG PHẢI LÀ QUỐC TRIỀU” và có lời lẽ nặng nề hơn: “Các sử thần đời Lê kế tục phương pháp và quan điểm của Lê Văn Hưu ở đời Trần (quan điểm lịch sử phản dân tộc) không thấy rằng Triệu Đà làm vua nước Nam Việt ở miền Quảng Đông, Quảng Tây đối với nước Âu Lạc mà nghỉ xâm lược, chỉ là một tên giặc cướp nước chớ không phải một đế vương chính thống” [11] . Quan điểm của học giả Đào Duy Anh cũng được nhiều nhà sử học khác của Việt Nam chia sẻ. Sách Lịch Sử Việt Nam (tập I) của các tác giả Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, và Lương Ninh, sau khi kể ra một số chi tiết về “chính sách mị dân” của Triệu Đà, “dùng nhiều thủ đoạn và khôn khéo để tranh thủ các thủ lĩnh người Việt,” đã kết lại: “Và cũng chính cái thực tế Nam Việt phức tạp đó đã làm cho nhiều nhà viết sử của ta thời phong kiến ngộ nhận, coi nhà Triệu như một triều đại chính thống của nước ta và viết thành một Kỷ nhà Triệu trong chính sử” [12] . Không những thế, sách Lịch Sử Việt Nam (Tập 1) của Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, tức phản ảnh quan điểm chính thức của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cũng coi Triệu Đà là kẻ xâm lược, gọi ông ta bằng “y”. “Triệu Đà kéo quân sang xâm chiếm Âu Lạc lúc đầu bị thất bại, sau y phải dùng mưu mô quỷ quyệt kết hợp với hành động quân sự mới chiếm được” [13] . Thiếu Khanh
[1] The Hùng kings maintained their prestige with a prosperous court life… The Birth of Vietnam, page 13. [2] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, nxb Tân Việt, Saigon, in lần thứ 6, 1968, trang 24. [3] The Chinese sources make it clear that Thi Sách followed his wife’s leadership . The Birth of Vietnam, page 39. [4] The matriachal flavor of the time is further attested by the fact that Trưng Trắc’s mother’s tomb and spirit temple have survived , although nothing remains of her father. The Birth of Vietnam, page 39. [5] The law codes of Vietnamese dynasties in later centuries reflect a relatively high status for women, indicating resistance to patriarchal influence from China. Ancient Vietnamese society may not have been controlled by women, but it is clear the women enjoy hereditary rights that allowed them to assume roles of political leadership. The Birth of Vietnam, page 77. [6] There is no evidence that the rise of King An Dương left any mark on the Vietnamese language, and it is clear that there was no major demographic change. The Birth of Vietnam, page 17. [7] The court that Ngô Quyền established was based on traditional Chinese etiquette, even to the regulation of the color of garments to be worn by officials. The Birth of Vietnam, page 270. [8] Chao To was remembered by later Vietnamese historians as a king who defended their lands against Chinese aggression. His spirit cult was eventually honored in many parts of North Vietnam.The Birth of Vietnam, page 26 – 27. [9] His possession of the magic turtle claw signified his legitimacy in the minds of the Vietnamese and ascendancy over King An Dương. The Birth of Vietnam, page 27. [10] Ngô Thời Sỹ, Việt Sử Tiêu Án, Hội Việt Nam Liên lạc nghiên cứu Á Châu dịch, Nxb Văn Sử, 1991, trang 10, bản pdf. [11] Đào Duy Anh, Lịch Sử Cổ Đại Việt Nam, Nxb Văn Hóa Thông Tin, HN, 2005, trang 48. [12] Phan Huy Lê et al. Lịch Sử Việt Nam, (Tập 1) Nxb Đại học và Trung học Chuyên Nghiệp, HN, 1985, trang 154. [13] UBKHXHVN, Lịch Sử Việt Nam, Tập 1. Nxb Khoa Học Xã Hội, HN, 1971, ghi chú 1 ở trang 77.
Nhà Linh Thi là một tiệm bán hòm, xin nói rõ thêm đây là tiệm bán quan tài chứ không phải là cái rương của người miền nam, hay là cái hộp đựng thư theo cách nói “hòm thư” của người miền bắc. Theo Linh Thi được biết tiệm hòm này đã có từ đời ông cố của cô rồi lưu truyền từ đời này sang đời khác, đến đời này tiệm hòm do cha cô quản lý và thuê một nam nhân viên phụ giúp công việc kế toán và thuế khóa. Công việc của anh chàng này cũng nhiều vì cha Linh Thi còn quản lý một xưởng sản xuất nằm trong một quận khác gần sông để tiện việc nhận gỗ vận chuyển bằng đường thủy còn hòm sau khi hoàn thành được đưa bằng đường bộ về tiệm nhà của Linh Thi để bán. Linh Thi không tham gia vào công việc của cha cô mà đi làm cho một công ty nước ngoài. Khi tốt nghiệp đại học cha cô muốn khuyên cô ở nhà phụ giúp cha cô điều hành cơ sở kinh doanh này nhưng cô nhất định từ chối và tự đi xin việc làm tại một công ty nước ngoài. Lần đó cha cô than thở: - Con cái cha mẹ cho học hành thành đạt không chịu ở nhà phục giúp cha mẹ lại đi làm mướn cho người khác. - Làm cho người khác mới học hỏi thêm chứ ba. - Tập buôn bán cũng học hỏi thêm vậy. - Làm ở nhà coi như chôn cuộc đời vô mấy cái hòm này luôn. - Mấy cái hòm này nuôi con ăn học thành tài đó con à. - Nhưng mà đâu có gì bắt con phải phục vụ lại mấy cái hòm này đâu? Linh Thi còn muốn nói cho tất cả cha mẹ biết tất cả những suy nghĩ của cô về những gì mà cô phải chịu đựng từ nhỏ đến lớn trong cái trại hòm này. Khi những nhận thức đầu tiên đến với cô bé bốn năm tuổi cô đã thấy được những vật thể kỳ lạ ở trong nhà mà những nhà khác không có. Rồi cô lớn dần theo năm tháng. Có lần cha mẹ cô muốn tổ chức sinh nhật cho con gái và bảo cô mời bạn bè đến dự, cuối bữa tiệc sinh nhật đó có được ba người, cô và hai người bạn thân nhất một nam một nữ. Mẹ cô hỏi: - Sao con mời chỉ có hai người bạn thôi? - Hai đứa là nhiều rồi mẹ. - Mẹ làm đồ ăn nhiều, có ba đứa ăn không hết. - Mẹ chia cho mấy người thợ đưới xưởng ăn, bảo đảm hết liền. Linh Thi rất thương mẹ, ngược lại cô cũng biết mẹ cô rất thương đứa con gái độc nhất trong nhà. Từ nhỏ tới lớn cô chưa hề nghe mẹ gọi cô “mầy, tao” như mấy bà mẹ trong xóm. Mấy bà này nói chuyện với con cái như la hét, có khi còn cầm cây roi vung lên vụt xuống như mấy đứa chăn trâu ở nhà quê. Cô bé còn nhớ hồi nhỏ, buổi sáng, mỗi khi cô dậy trễ mẹ cô thường vỗ nhẹ vào vai và khe khẻ cho đến khi cô thức dậy. Có lần cô hỏi mẹ: - Sao mẹ không gọi lớn để con thức dây nhanh hơn? - Không được, gọi lớn dễ làm con giật mình không tốt. Mẹ cô còn tìm những câu nói khôi hài dí dõm, để cô bé cười lên vui vẻ trước khi cắp sách đến trường. Mẹ cô còn giải thích: - Mẹ muốn con phải vui tươi trước khi đến trường. Mẹ Linh Thi luôn luôn giữ thói quen này cho đến khi cô vào đại học và tới thời điểm này cô vẫn còn giữ được tình bạn thuở học trò với hai đứa bạn mà ngày xưa cô đã có lần mời đến ăn sinh nhật. Ở mấy năm cuối của bậc trung học cô rất ghét cái đám con trai, chúng nó thường tỏ ra khinh khỉnh cái nghề bán hòm mà cha mẹ cô đang theo đuổi. Đám con trai ở cuối lớp thường xầm xì to nhỏ rằng nhà Linh Thi bán hòm nên thường có ma. Một nhỏ học cùng lớp kể cho Linh Thi nghe: - Thằng Tín méo nó nói nhà mầy có ma. Nhà mầy bán hòm nên ma nó hay chun vô mấy cái hòm trống để trốn. - Sao nó rành quá vậy? - Thì nó tưởng tưởng tượng ra chứ biết cái gì? Nó còn nói nội cài tên của mầy cũng có vẽ gần gũi với cõi âm. - Tên tao làm sao mà gần với cõi âm? - Nó giải thích “Linh” là từ chữ “linh hồn” còn “Thi” là “thi thể người ta”. Khi người ta chết thi thể tiêu tan còn lại linh hồn rồi linh hồn biến thành ma. - Sao nó dốt quá. Đã dốt mà còn xạo nữa, hèn gì cái miệng của nó méo xẹo. - Nó nói miệng méo tại vì hồi xưa ông cố nó làm nghề đánh xe ngựa. - Đánh xe ngựa làm sao miệng bị méo? - Đó là do di truyền, nó nói như vậy, ông cố nó khi đánh xe ngựa miệng phải méo qua một bên để kêu “tróc, tróc” ra lệnh cho con ngựa chạy tới, quẹo phải, quẹo trái. Linh Thi phá ra cười. Nhỏ bạn cũng cười theo, rồi nói: - Vậy là phải nói “đời cố ăn mặn, đời cháu khát nước” - Ù! Rồi đột nhiên cô nghĩ dến cái tên của mình. Ông bà già sao cầu kỳ quá đặt cái tên không hề có một ý nghĩa gì cả. Có lẽ ông bà nghĩ rằng cái tên như thê này mới có tính văn chương thi phú. Người khác đọc tới cái tên con ông sẽ nghĩ rằng cha mẹ của em bé có tâm hồn văn nghệ. Nhưng khi lớn lên Linh Thi nghĩ rằng nếu một người nào khác thấy tên cô như vậy sẽ cho là cha mẹ cô thích phô trương, muốn lấy quyền bất khả xâm phạm đặt tên con cái của mình để gán cho con gái một cái tên thật kêu, làm thỏa mãn cái hoài bảo nào đó của mình mặc dù cái tên không mang một ý nghĩa gì cả. Linh Thi nhìn lại tên họ của những đứa bạn cùng lớp. Có đứa mang cái tên rất cầu kỳ mỗi khi thầy cô giáo kêu lên mọi người phải quay lại nhìn nó với cặp mắt dò xét. Giống như muốn tìm xem có phản ảnh đúng như con người của nó không? Hầu như không có cái tên cầu kỳ nào phản ảnh đúng con người mang tên đó, trái lại nó có thể cho biết tính tình của cha mẹ chúng nó, và hầu hết là cho thấy sự phô trương, muốn chứng tỏ cái gì đó ở cha mẹ chúng. Vào những năm cuối bậc trung học Linh Thi nhận thức được rằng khách hàng của cha cô là các nhà đòn thường xuyên hợp tác lâu dài với cha cô làm nguồn tiêu thụ của cửa hàng. Những người này chuyên đi tìm khách là những nhà có người thân qua đời để tiêu thụ hòm của cha cô. Họ có những mánh lới riêng để làm cho thân nhân có người chết phải nặng nhọc chi tiêu. Mỗi chút gì họ đều đưa thần linh ra hù dọa, như là con cháu sau này làm ăn không phát đạt, người thân thường xuyên bệnh hoạn. Nhiều gia đình mê tín trút cạn số tiền phúng điếu của bà con lối xóm. Linh Thi thấy rõ ràng lãnh vực kinh doanh này của cha cô không phải là môi trường để cô có thể tiếp xúc hoặc làm việc sau khi tốt nghiệp đại học. Từ đó cô nuôi dưỡng cái lý do không muốn làm việc cho cha cô mà tự đi xinviệc làm ở một công ty nước ngoài, và Linh Thi đã thành công! Nhờ phù hợp với chuyên môn nên công việc của Linh Thi phát triển tốt đẹp. Cô được đi nước ngoài để tu nghiệp và tiếp xúc với các chủ đại lý. Qua công tác cô được tiếp xúc với những người đàn ông nước ngoài thanh lịch, học giỏi. Đa số họ rất thích thú khi nghe cô nói gia đình chuyên kinh doanh những loại hòm danh cho người chết. Linh Thi hỏi họ có sợ khi trong nhà họ trưng bày la liệt những chiếc hòm để bán. Tất cả những câu trả lời đều là “không” và còn cho rằng đó là một ngành kinh doanh ổn định. Công việc làm của Linh Thi phát triển là vậy, người em trai của cô cũng đã ra trường và có việc làm tốt, cha mẹ cô đã bắt đầu nhắc nhở mong muống hai người phải tính đến chuyện lập gia đình. Trong một lần về nhà thăm cha mẹ, cậu em đã xòe bàn tay đưa về hướng cha mẹ rồi nói như một nhân vật nào đó trong một tuồng cải lương: - Khoan! (rồi nói tiếp với giọng bình thản) xin cha mẹ để cho con yên ổn làm ăn, chuyện vợ con chỉ làm bận bịu bước tiến của người trai… Linh Thi tự nghĩ: “Cậu em đã vậy, còn cô thì sao?” Cô phải tính rồi! Nhưng tính làm sao được khi mà tới nay cô chưa có mảnh tình nào dính túi mặc dù đã ra làm việc năm, sáu năm rồi. Cô còn có cơ hội ra nước ngoài tiếp xúc với những người đàn ông trí thức, lịch thiệp, nhưng sao ông Trời chưa dẫn dắt một người đàn ông nào đến với cô. Nhớ lại hồi ở đại học nhiều đứa trong lớp đã có nhưng “anh” theo hộ tống. Riêng đối với Linh Thi thì bạn trai gặp nhau vui đùa hay đi uống cà phê lần đầu rồi sau đó “lặn” luôn, không xuất hiện trong những lần đi chơi tập thể sau đó. Linh Thi biết chắc chắn rằng họ đã dị ứng với cái nghề cha mẹ cô đang theo đuổi, và không hề có anh chàng nào kiếm lý do vớ vẩn để đến nhà tìm Linh Thi. Sinh nhật của cô vào những năm đại học chỉ có người bạn gái năm xưa cô đã mời cùng với anh bạn trai cùng lớp thời trung học. Anh chàng kia sau khi tốt nghiệp 12 anh đã đi du học nước ngoài rồi mất tin tức luôn. Cô bạn thân này cũng đã có công việc làm tốt và vẫn còn phòng không chiếc bóng. Cô bạn kể có lần đi coi bói, thầy nói cô cao số lắm nên chậm lấy chồng. Nếu lấy chồng sớm sẽ bị đổ vỡ. Linh Thi cười và sửa lưng bạn: - Trời! mầy tin mấy ông thầy bói đó à? Chữ nghĩa mấy ổng không bằng cái lá mít, chuyên môn phán tầm bậy tầm bạ. Dẹp mấy cái vụ bói ra ma đó đi bạn ơi! Mặc dù không tin vào bói toán nhưng Linh Thi thấy ở lớp tuổi của cô có nhiều người còn bơ vơ chưa có dịp sờ tay vào chiếc xe hoa. Rồi cô nhìn lên các bậc đàn chị, cô thấy cũng có nhiều người đang ôm cái số phận lẻ loi. Linh Thi thấy tình hình này nguy đến nơi, cô tự hỏi các nhà xã hội học có thấy cái chỗ này chưa, có thống kê được bao nhiêu đàn ông độc thân, bao nhiêu đàn bà độc thân rồi báo lên ông Trời giúp họ đến với nhau để xoá đi cái cảnh hai người nam nữ cùng độc thân nhưng giống như ở hai phương trời cách biệt. … Sáng Chủ Nhật, trời Saigon nắng đẹp nhưng không có gió mát, vì xứ sở này đang ở vào mùa hè. Lát trưa thế nào trời cũng sẽ oi bức. Cô bạn đến ăn sinh nhật ngày xưa gọi điện đến, báo: - Ông Sang về! - Sang nào? - Thì thằng bạn hồi trung học tới nhà mày ăn sinh nhật đó. - Vậy à?Về hồi nào vậy? - Cả tháng nay rồi - Chắc lần này về để lấy vợ phải không? - Đúng vậy. - Biết lấy ai chưa? - Tao. Dương Lêh ĐÀI TIẾNG NÓI NAM BỘ Cách mạng tháng Tám thành công chưa được bao lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Để bảo vệ nền độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị các ngành, các cấp tranh thủ từng giờ, từng phút, tích cực chuẩn bị chiến đấu lâu dài. Ở miền Nam, đồng chí Phạm Văn Đồng - đại diện cho Chính phủ đóng tại Quảng Ngãi, chỉ thị thành lập một đài phát thanh để phục vụ cuộc chiến đấu của nhân dân Nam bộ và miền Nam Trung bộ. Giữa năm 1946, Đài tiếng nói Nam bộ chính thức được thành lập, Đài đóng tại Đình Thọ Lộc, làng Tôn Đính, huyện Trương Quang Trọng, tỉnh Lê Trung Đình (nay là xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Đài do đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn làm giám đốc, đồng chí Huỳnh Văn Tiểng làm Phó giám đốc. Đội ngũ kỹ thuật viên, biên tập viên, phát thanh viên gồm các anh: anh Quý - cán bộ kỹ thuật đầu tiên, Cao Văn Hóa, Vũ Chính Xương, Vũ Văn Thơ, Nguyễn Văn Thơm, Nguyễn Văn Nhẫn, Nguyễn Văn Liêng, Dương Đức Khôi, Nguyễn Văn Giỏi, Trần Châu, Lương Hưng, chị Cẩm Ba, Minh Lý, Tuyết Minh và anh Nguyễn Ngoan làm công tác bảo vệ đài. Ngày 20-7-1946 đài phát sóng buổi đầu tiên. Trong buổi phát sóng này đồng chí Nguyễn Văn Bạch - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ đọc lời hiệu triệu đồng bào kháng chiến chống quân xâm lược Pháp. Đài xưng là: “Đây là tiếng nói Nam bộ, tiếng nói đau đớn, tiếng nói căm hờn”, phát trên làn sóng 24th26 vào lúc 6 giờ sáng và 6 giờ chiều. Sau vài tháng thêm 4 chữ “tiếng nói chiến đấu” vào sau câu “tiếng nói căm hờn”. Buổi phát thanh được phát bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, gồm tin chiến sự trong nước và tin thế giới, phần bình luận chuyên vạch tội ác của thực dân Pháp… Giữa phần tin và bình luận có nhạc hoặc hát, các bài hát thường do anh em tập trung hát thẳng vào micrô vì lúc đó chưa có máy thu thanh. Để có tin tức và tư liệu bình luận đập lại luận điệu tuyên truyền lừa bịp của thực dân Pháp, Đài phải thường xuyên liên hệ với Đài trung ương, đồng thời phải nghe đài địch và bắt tin các hãng thông tấn nước ngoài. Các đồng chí cán bộ đài đã thay phiên nhau đeo ống nghe và cầm manyp ngày đêm để đảm bảo làn sóng điện được thông suốt. Đầu năm 1947 thực dân Pháp cho máy bay khu trục thả bom khu vực Đình Thọ Lộc. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối, Đài tiếng nói Nam bộ dời lên xã Sơn Tân, huyện Sơn Hà. Tại chiến khu này, đồng chí Phạm Văn Đồng đã lên thăm và động viên anh chị em cố gắng khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Đầu năm 1948 chiến sự lan tràn khắp các tỉnh Nam Trung bộ. Để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến, đài phát thêm sóng lấy tên là “Đài tiếng nói Đồng Tháp Mười, tiếng nói lưu động của bưng biền Nam bộ kháng chiến”. Đồng thời, đài đã phát thêm sóng các buổi phát thanh xưng là “Đài tiếng nói Việt Nam” bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp. Cuối tháng 3 năm 1948, Đài dời vào Nước Trong, thuộc xã Xuân Phong, huyện An Lão, tỉnh Bình Định. Đài xưng là “Đây miền Nam nước Việt, tiếng nói của miền Nam tự do”. Từ đây về sau, Đài tiếng nói miền Nam do Khu ủy, Ủy ban kháng chiến Liên Khu V lãnh đạo. Đài tiếng nói miền Nam phát sóng đến năm 1953 thì ngưng, để lại một bộ phận nhỏ để thu tin, cho đến năm 1954. Suốt 8 năm tồn tại Đài tiếng nói Nam bộ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, phát thanh không nghỉ một ngày, một buổi, với 4 làn sóng phát thanh: Đài tiếng nói Nam bộ, Đài tiếng nói Đồng Tháp Mười, (thay thế Đài tiếng nói Việt Nam trong một thời gian ngắn), Đài tiếng nói miền Nam. Tháng 7 năm 1950, Đài tiếng nói Nam bộ đã được Chính phủ tặng Huân chương kháng chiến. Di tích Đài tiếng nói Nam bộ, nơi phát sóng đầu tiên ngày 20-7-1946 tại Đình Thọ Lộc, là di tích lịch sử được Bộ Văn hóa công nhận năm 1995. Đây là niềm tự hào của nhân dân Quảng Ngãi, đồng thời là một trang vàng trong lịch sử truyền thống ngành phát thanh và truyền hình Việt Nam. LÊ CHUNG - BÙI ĐẸP st. KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ với - CÁC DÂN TỘC ANH EM TRONG NƯỚC - CÁC DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI I. Con người: Con người trong vũ trụ đều là một sanh thể như nhau cho nên tất cả đều có quyền sống trong cộng đồng nhơn loại như nhau. Vì sự sanh ra trong những hoàn cảnh không giống nhau trong đó có cả hoàn cảnh địa lý, do đó giữa người và người không giống nhau về nhiều mặt: da trắng, da vàng, da đen, da đỏ, mũi cao, mũi gãy, tóc đen, tóc vàng, tóc quăn… và cả tánh tình cũng khác nhau cho nên người nầy thích người kia mà không ưa người nọ. Bên cạnh hình dáng màu sắc thấy được lại còn có những cái không thấy được. Cùng một dân tộc nhưng người nầy có mùi hôi nách khó chịu, người kia có mùi hôi khi nói chuyện. Mùi hôi do bao tử thoát ra, mùi hôi do cấu tạo của nước miếng… Người thì thích mùi hôi nầy, người thì thích mùi hôi kia… nên ca dao có câu: Chim quyên ăn trái nhãn lồng Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi Người đàn ông có mùi hôi nách nồng nặc nghe phát nhức đầu nhưng vợ chồng đầu ấp tay gối rất hạnh phúc vì họ thích cái mùi đó của nhau. Mùi hôi của từng người gây khó chịu cho người khác không ai muốn nên trong giao lưu cùng sống trong xã hội, ta chỉ cần ngồi hay đứng cách nhau một cự ly vừa phải thì mùi hôi không làm cho ta khó chịu. Người với người cùng sống trong xã hội với nhau thì không nên gây phiền, buồn lòng cho nhau để cùng nhau vui sống. Nếu để ý, hình như mỗi dân tộc cũng có một mùi riêng đấy. II. Sự khác nhau giữa các bộ tộc, dân tộc: - Mùi: Mỗi người có một mùi riêng, mỗi bộ tộc, dân tộc lại cũng có một mùi riêng. Tôi ngồi gần một người da màu, tôi nghe có mùi khó chịu. Anh ta đi tắm ra, tôi nghe mùi xà bông thơm phức. Nhưng ngồi chơi chừng năm, mười phút thì mùi hôi cố hữu lại về. Như vậy thì thế nào? Không ai muốn mình có mùi hôi làm người khác khó chịu cả. - Ăn uống: Về cách ăn uống cũng khác nhau. Tôi lên Đà Lạt chơi, thấy người Thượng bắt những con sâu róm lơ lửng dưới tàn cây bỏ vô miệng ăn ngon lành. Tôi thì gớm lắm. Ta ăn nước mắm, mắm nêm, mắm tôm và nhứt là mắm ruốc. Người Tây phương thì gớm lắm. Mời họ ăn với nước chấm nêu trên, họ nể nang ăn mà nói: “Thúi lắm mà ngon lắm”, họ ăn nhiệt tình, một tay bịt mũi, một tay chấm hay múc ăn. - Cách sống: Cách ăn ở của từng dân tộc cũng khác. Trước đây tôi đọc sách thấy kể có bộ tộc ở đảo nào đó, khi cha mẹ già, họ cho leo lên cây để con cháu ở dưới rung. Nếu không té xuống thì sống tiếp. Nếu té chết thì thôi. Người Việt ta thì cho rằng đó là đồ bất hiếu. Ở Việt Nam ta, trước 1975, có anh lính đi hành quân vùng người Thượng ở Tây nguyên, đương nhiên không biết anh kể thiệt hay bịa đặt, anh kể rằng có lần gặp một đám tang tại nhà người Thượng, họ cột xác chết đứng, bên dưới có cái thau hứng nước từ xác chết rỉ xuống, bên cạnh có một mâm xôi. Người tới viếng thì bốc xôi chấm vô nước dưới thau ăn. Họ nói đó là tỏ lòng thương người chết nên đưa cái của người chết vô bụng. Như vậy thì thế nào? Trên đời có muôn ngàn tình huống đấy. Đó là những trường hợp thái quá. Thông thường ngày nay ta còn thấy là phụ nữ Hồi giáo thì ăn mặc kín đáo, che kín cả mặt; một số nước châu Á trước đây có quan niệm “Nam nữ thọ thọ bất thân” trong khi người Tây phương thì bạn bè trai gái mừng gặp nhau họ ôm chầm lấy nhau. Gia đình người Nhựt đi ăn nhà hàng, vợ chồng và con, mỗi người phải góp tiền trả phần ăn của mình. Con không nhứt thiết phải chu cấp tiền bạc để phụng dưỡng cha mẹ (ghi theo lời kể của một gnười Việt lập gia đình với người Nhựt một cách dè dặt). Có lẽ ai còn lao động được thì phải lao động để sống. Nhưng phần lớn người cao tuổi đều có lương hưu. III. Cách cư xử: Đối với các dân tộc trên thế giới, các bộ tộc anh em trong nước, thiết tưởng ta bỏ qua ranh giới nước nầy nước nọ và cũng bỏ qua sắc dân nầy sắc dân nọ… ta coi nhau là con người trong vũ trụ mà thôi. Với muôn ngàn tình huống trong cuộc sống thiết tưởng ta nên cư xử bằng cách tránh gây mích lòng để cùng nhau vui sống. 1. Ta chỉ giao thiệp với người khỏe mạnh bình thường. Nếu có pháp lịnh của nhà nước bắt hạn chế giao thiệp với người bịnh, người bịnh lao kháng thuốc thì tốt nhứt. 2. Người không cùng chủng tộc thì hạn chế tới nhà nhau để tránh được mời thức ăn ta không thích mà từ chối thì mích lòng. Vấn đề nầy cũng khá tế nhị, có thể bị coi là phân biệt đối xử cũng phiền lắm. Ngay cả người Việt với nhau, người không thích món ăn nầy người không thích món ăn kia mà ép nhau cũng mích lòng nữa đấy. Có lẽ Bộ Giáo dục phải quan tâm đến mặt nầy. 3. Bạn thân lắm thì mới mời tới nhà chơi và đãi đằng. Nhưng có lẽ tốt nhứt là mời nhau ra quán để vừa ăn uống vừa trò chuyện vui vẻ mà không phiền ai. 4. Không phê phán gì về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, sở thích của nhau. 5. Có thể giải thích một số nét vệ sinh căn bản nếu thấy bạn có ý muốn nghe. 6. Có thể nói vài nét đạo lý về người đối với người nếu thấy họ có vẻ muốn nghe. 7. Không được lợi dụng nhau bất cứ việc gì để người với người bình đẳng vui sống với nhau. 8. Ta đối xử với nhau trên căn bản người với người giúp nhau để cùng vui sống 9. Về chào hỏi, ta không nên quan tâm đến chào cách nầy là tỏ ra thân mật, chào cách kia là tỏ ra không ưa (kể cả bắt tay) vì lẽ có khi người chào vì lơ đãng hay không biết mà sơ thất. Chào người nước ngoài, nếu ta muốn bắt chước chào theo cách của họ thì cần hỏi cho rõ rồi mới chào. Ví dụ cách chào của người Cambodia thì: - Chào bạn bè: chắp tay ngang ngực - Chào người lớn tuổi: chắp tay ngang cằm - Chào cha mẹ: chắp tay ngang đầu sống mũi - Chào ông sư: chắp tay ngang ấn đường (chỗ giao nhau của chưn mày) - Chào vua: chắp tay ngang tránh - Chào chung quan khách nếu ta chắp tay ngang ngực có khi họ phiền đấy vì trong quan khách có người lớn tuổi hay chức tước cao. Ta nên chắp tay ngang cằm trở lên. Tóm lại, người với người ta nên đối xử với nhau trên căn bản tôn trọng nhau thì cuộc sống sẽ yên vui, tưởng đó là điều tốt đấy. Khánh Hội - Quận 4 Saigòn ngày 11-12-2016 PHẠM HIẾU NGHĨA (Nhựt Thanh) MẤY TRANG NHẬT KÝ 12 Avril 1936 Thời gian làm quên, làm phai nhạt, làm mất mát, làm rã rời vạn vật. Riêng ở tình tôi thời gian đã làm cho tôi yêu Nàng, thương nhớ Nàng thắm thiết, lâu bền và khăng khít thêm lên. Mỗi một lần mặt trời lặn xuống là cái “Ân ái biểu” của tôi dâng lên một độ. Mỗi một đêm qua đi, là cái lâu đài xây trong giấc mơ của tôi cao thêm một từng. Hôm nay lòng tôi sôi nổi vì Nàng quá! Thành ra như điên như cuồng, đứng không yên, ngồi không yên; chợt vui, chợt buồn. Ái tình đã làm sai lạc bản ngã của tôi lúc này. Ái tình đã hoàn toàn chiếm được tôi làm “thuộc địa”. Đi qua cửa nhà Nàng mà không nhìn thấy Nàng. Trời ơi! Sao mà lại buồn thế này? Không trông thấy Nàng thì còn trông thấy gì nữa? Không trông thấy Nàng thì chẳng thà mù đi cho rảnh chuyện. Nàng ơi Nàng! Hôm nay tôi định chọc mù đi hai mắt đấy Nàng ạ! 13 Avril - Chiều nay, giời âm u như muốn mưa. Tinh thần tôi cũng như có một áng mây đen bao phủ: nó bực tức, nó uất ức, nó buồn buồn thế nào ấy! Nỗi buồn ấy không biết tự đâu đến? Tự trên trời rớt xuống? Hay từ dưới đất xông lên? Tự gió đưa lại? Hay tự tiếng chuông chiêu mộ vọng vào? Nào tôi có biết. Tôi chỉ thấy nó như một làn sương lạnh, vô hình vô ảnh, nhè nhẹ thấm qua da thịt mà vào tận đáy trái tim tôi. Trái tim tôi đương bị ướp giữa lớp sương buồn. Nhưng chả phải là một nỗi buồn vô cớ đâu - người ta đừng dối lòng người ta quá - lúc này tôi đương nhớ đến Nàng (mà nói cho đúng, lúc nào tôi chả nghĩ đến Nàng?). Vậy thì nỗi buồn ấy há chả phải tự Nàng mang đến hay sao? Yêu Nàng, tôi có thể tự hào rằng: khắp trái đất này, không có người con trai nào lại yêu một người con gái đến thế. Nàng là cái ám ảnh làm vua lâu đời nhất trong tâm hồn tôi, nhưng là cái ám ảnh đáng mến. Lúc nào cũng có Nàng ở trong tôi. Khi tay tôi viết tên Nàng thì miệng tôi nhẩm tên Nàng, lúc nào miệng tôi không nhẩm tên Nàng thì óc tôi nghĩ đến Nàng. Mà có lẽ tim tôi đập cũng vì Nàng hay sao ấy? Mạch máu tôi thì hẳn là luân chuyển bởi Nàng rồi. Vì bây giờ, nếu tôi nghe tin Nàng đi lấy chồng, thì mạch máu tôi sẽ đứng cả lại, kết thành một hoa máu, chùm lên quan tài, rồi đặt trên phần mộ. Săng và mồ hạnh phúc đời tôi. Ý nghĩ ấy dằn vặt đay nghiến tôi quá! Tôi buồn như một người buồn nhất thế giới. Rồi đây đem thu góp tất cả nỗi thất vọng của nghìn xưa, và những niềm đau buồn hiện đương ban hành trên thế gian này, chưa chắc đã đánh đổi Nàng? Ghét Nàng? Ai lại ngu xuẩn dại dột như thế bao giờ? Ai mà lại đi ghét người mình đặt cả lẽ sống vào bao giờ? Ghét Nàng thì chẳng thà ra sông ra biển mà đâm đầu xuống cho rồi… Để được trọn đạo thờ Nàng như một trung thần trọn đạo thờ vua… 15 Avril Ngày nào mà chẳng biên nhật ký về Nàng. Bởi lúc nào cũng nghĩ đến Nàng, lúc nào cũng yêu Nàng. Trước khi đi ngủ đã giơ tay vẫy Nàng vào mộng, mà mở mắt dậy thì ôm ngay lấy hình ảnh Nàng. Bữa cơm mình ăn ngon thì thấy như Nàng ăn ngon, lúc nào mình vui sướng thì cảm thấy như Nàng được vui sướng. Thì ra thân mình đã bán cho Nàng lâu rồi. Tóc nàng hôm nay mượt quá! Và môi thì hồng hơn lên. 2 Mai Ốm… ốm… ốm liên miên… Nằm trên giường bệnh đã ba hôm nay rồi! Điên lên mất. Sao Nàng không đến thăm mình một tí? Nàng tệ thật! Giá Nàng đến đây thăm mình, để một bàn tay lên trán mình, cúi mặt sát mình, nói với mình độ một câu: “Tội nghiệp” thì có lẽ bệnh mình sẽ thuyên giảm ngay. Bệnh có nghĩa gì? Khi có cả một Oai quyền, một Thiêng Liêng đứng trước mặt. Ồ! Nhưng mà Nàng có biết mình là ai? Sao lại được trách Nàng tệ bạc? Có ai ở đây không? Mách hộ tôi tin ốm cho Nàng biết với! Cứ bảo tôi ốm tương tư nhé! Cho Nàng buồn một thể… Mệt quá. Chả viết nữa… Nàng ơi! Nàng! 3 Mai - Tôi nhớ Nàng… Tôi nhớ Nàng quá lắm!!! Tôi nhớ Nàng vô cùng!!! Vẫn ốm như thường. Nàng ơi! Nàng hãy để một bàn tay trên trán tôi đi! 4 Mai - Tối qua tôi đã mơ thấy Nàng đến thăm tôi Nàng đẹp quá! Tôi yêu Nàng quá! Và cảm ơn Nàng, dù Nàng chỉ đến với tôi trong giấc mơ. 6 Mai - Tối qua tôi lại mơ thấy Nàng đến thăm tôi Nàng đẹp quá! Tôi yêu Nàng quá! Và cảm ơn Nàng vô cùng, dù Nàng chỉ đến với tôi trong giấc mơ. 20 Juliet Đi thơ thẩn qua nhà thờ đạo nghe tiếng cầu kinh âm ỉ từ trong đưa ra. Mình tưởng tượng giá Nàng đi theo đạo, rồi Nàng vào nhà tu kín, suốt đời mình không được trông thấy mặt Nàng nữa… Nàng vào nhà tu kín! Nàng vào nhà tu kín! Ừ! Biết đâu, Nàng không vào nhà tu kín? Rồi đây, chiều chiều mình thơ thẩn qua đây, để nghe những tiếng cầu kinh âm ỉ, mà bảo là tiếng Nàng đấy… thì rồi ra sao? Thì mình buồn thảm đến bực nào? Thì rồi mình đến đập đầu vào tường nhà thờ mà chết mất… …Thật là lo vẩn lo vơ, mà buồn cũng buồn vẩn buồn vơ… Nhưng khi mà ta đã yêu ai, thì gặp một hoàn cảnh nào, một trường hợp nào, ta cũng muốn đặt người ta yêu vào đó, rồi tưởng tượng thêm ra. Nàng ơi! Tôi đã can tội giam Nàng vào nhà tu kín một lần. 21 Juliet - Dù bận đến đâu mình cũng phải biên hai chữ: “Yêu Nàng”. Cho tròn phận sự một kẻ chung tình (hay si tình cũng thế). 22 Juliet - Một ngày hôm nay gặp Nàng ba lần thì nguyền rủa Nàng ba lần. Đem hết những tiếng độc địa tàn nhẫn ra mà nguyền rủa Nàng: (nhưng chỉ nguyền rủa thầm thôi). Nào Nàng không đẹp, Nàng không giầu, Nàng không sang, Nàng không giỏi, Nàng không hiểu biết một tý gì. Thế mà Nàng làm bộ, Nàng khinh người… Nàng lo… Sao Nàng không chết? Chết trôi sông đắm đò? Còn nguyền rủa Nàng nhiều nữa… Nhưng Nàng ơi! Nàng đừng giận nhé, đó chỉ là cơn giở bệnh của Ái tình. Bởi quá yêu Nàng mà chẳng được Nàng yêu, nên mới ra cơ sự thế. Nàng ơi! Nàng! Ghen là một triệu chứng của yêu, thì nguyền rủa cũng là một triệu chứng của tình yêu sôi nổi đến cực điểm. 23 Juliet Ngày hôm nay suốt buổi ngồi rù để hối hận, và nguyền rủa mình vì hôm qua đã nguyền rủa Nàng. 4 Aout - Tình yêu chẳng qua là một cơn loạn óc, đặt hồn ta vào một người, rồi đem dây “tam cố” mà buộc hồn ta vào đó. Trái tim người ta có thể chia năm xẻ bẩy được đâu? Cho nên ta chỉ có thể yêu được một người. Những kẻ nào mà có hàng tập ảnh, hàng hòm thư của những tình nhân, ấy là kẻ không có trái tim. Họ đã nhẫn tâm băm nát trái tim họ mà phung phí đi rồi. Cái vật thiêng liêng nhất là trái tim ta này, nó sẽ trở nên dơ bẩn nhất, nếu cùng một lúc, ta đem cho năm bẩy người con gái nâng niu. Các bạn và tôi ơi! Chúng ta đừng trách người yêu chúng ta bạc. Chúng ta hãy cứ chung tình đi. Các bạn và tôi ơi! Chúng ta đừng phàn nàn người chúng ta yêu không yêu lại chúng ta. Vì “gõ cửa thì cửa sẽ mở, yêu người thì người sẽ yêu lại” kia mà! 5 Aout - Về nhà quê nửa tháng mới được phép lên. Gặp anh T., anh bảo ngay: - Nàng đau mắt nặng, có lẽ phải mổ mắt. Và không khéo…. Mình choáng người những tưởng chết ngất đi được? Mình thương Nàng quá! Tội nghiệp cho Nàng! Mình nghẹn lời… nước mắt mọng ở mí mắt. Anh T. hỏi mình: - Giá Nàng mù thì anh có yêu Nàng nữa không? Sao anh ấy lại hỏi mình câu ấy nhỉ? Mình buồn rầu trả lời: - Nếu Nàng mù, thì tôi coi đời ai cũng thừa hai mắt cả! Nhà thơ Nguyễn Bính - Đỗ Thiên Thư st. Xuân & Sách Mùng 2 tết, sau thánh lễ ca đoàn chúng tôi vào chúc tết Cha sở Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn được Cha lì xì tết mỗi người một cuốn sách đẹp mang tựa đề “Hành Hương - Khám phá những điểm hành hương của người Công giáo trên thế giới” của chính tác giả - Lm. Inhaxiô Hồ Văn Xuân. Sách dầy 550 trang khổ 16x24 do NXB Tôn Giáo phát hành quý I/2017. Cuốn sách ra đời để kỷ niệm 41 năm linh mục của cha và sắp bước vào tuổi thất thập cổ lai hy. Trong đó ghi lại những nơi cha đã đến hành hương: Rôma (Ý), Israel, Pháp, Fatima (Bồ Đào Nha), Bỉ, Jasna Góra (Ba Lan), Santiagô de Compôstêla… tất cả đều được lưu lại rất tỉ mỉ bằng lời văn và rõ ràng bằng hình ảnh. Chúng ta có thể hành hương từng bước theo cha đến tận nơi rất thú vị: 1. Bắt đầu từ Rôma (Ý): Thành phố vĩnh cửu Tổng quát về Rôma Những hang toại đạo Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành Nhà thờ Thánh Giá Giêrusalem Thang Thánh Bảo tàng viện Vatican 2. Israel: Bước theo Giêsu Galilê Bêlem Giêrusalem 3. Pháp: Những điểm hành hương Vương cung Thánh Đường Thánh Tâm Chúa Giêsu trên đồi Montmartre, Paris Nhà thờ Chính Tòa Đức Bà Paris Nhà nguyện Đức Bà với mẫu ảnh phép lạ Hội Thừa Sai Paris, hải ngoại Lisieux, nơi Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu chào đời và đi tu Đức Mẹ Pontmain Mont Saint Michel - Một kỳ quan của phương Tây - Tu viện hơn 1300 năm tại Mont Saint Michel Thánh Anna ở Auray, Giáo phận Vannes Paray-le-Monial, nơi Chúa Giêsu đã hiện ra với Thánh Margarita Maria Alacoque Thánh Gioan Maria Vianney tại Ars 18 lần Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức Nevers, nơi Thánh nữ Bernadette dâng mình cho Chúa 4. Fatima (Bồ Đào Nha): nơi đem lại an bình và hy vọng 5. Bỉ - Banneux, Đức Mẹ Của Người Nghèo 6. Jasna Góra: Đền Thánh Đức Mẹ Đen Częstochova (Ba Lan) Quen gọi là Đức Mẹ Đen 7. Santiagô de Compôstêla - Ngàn năm lịch sử (Tây Ban Nha) 8. Bước theo Thánh Phaolô (2009) nhân dịp kỷ niệm 2000 năm thánh Phaolô chào đời và nhân năm linh mục, do Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI phát động. Cầm cuốn sách trên tay tôi liên tưởng ngay đến cuốn “Từ Việt-Nam sang Roma” của Cha Fx. Lê Vĩnh Khương thuộc địa phận Sài Gòn. Cuốn này có khổ 16x23 dày 265 trang, xuất bản năm 1952 (không rõ NXB vì đã mất bìa). Những trang đầu có lời chúc lành của Đức Cha Cassaigne (Địa phận Sài Gòn) và lời giới thiệu của Cha Bề trên Fx. Khâm. Cuốn sách mô tả Năm Thánh 1950, lần đầu tiên giáo sĩ và giáo hữu Việt Nam đến viếng thủ đô công-giáo (Rôma) và được gặp Đức Piô XII ngày 9 Juin 1950 lúc 9g15. Với 3 phần được trình bày như sau: - Đức Giáo Hoàng Piô XII mở Năm Thánh 1950 - Từ Sài Gòn tới Paris - Qua Ý yết kiến Đức Giáo Hoàng Tuần tự cuốn sách kể lại từng chi tiết mở cửa Năm Thánh như thế nào? Các đời Giáo hoàng, các địa danh tại Rôma, từng phương tiện từ Sài Gòn đi, đến Rôma ra sao v.v… đều được kể lại từng chi tiết rõ ràng. Chỉ tiếc sách được in ấn đến giờ cũng đã lâu, không được bảo quản kỹ nên giấy đã vàng và đôi chỗ bị mọt gặm, mối ăn nham nhở, còn phần hình ảnh thì rất hiếm hoi vì lúc bấy giờ không có hình ảnh nhiều như bây giờ. Như vậy hai cuốn sách - “Hành Hương - Khám phá những điểm hành hương của người Công giáo trên thế giới” và “Từ Việt-Nam sang Roma” - tuy ra đời cách nhau 65 năm nhưng cùng chung một mục đích hướng dẫn mọi người tìm hiểu những nơi hành huơng, những địa danh trong Thánh Kinh mà bất cứ người công giáo nào cũng ước mong một lần được đặt chân đến. Cám ơn mùa xuân, cám ơn người đã tặng sách - một món quà thật đẹp, thật hay, nhiều ý nghĩa - và nhất là giờ đây trên kệ sách, hai người bạn tuy cách nhau 65 năm đã trở thành đôi bạn kề bên nhau để giúp những ai cần tìm hiểu về những địa danh, những nét mỹ thuật tôn giáo, tên các thánh thường gặp khi nghe Kinh Thánh, hoặc tìm hiểu về hành hương qua Rôma kinh thành muôn thuở của tín hữu Công Giáo. HÀ MẠNH ĐOÀN
YOGA DƯỠNG SINH CHO NGƯỜI CAO TUỔI ĐƠN GIẢN VÀ HIỆU QUẢ TRÍCH ĐOẠN “SUỐI NGUỒN TƯƠI TRÉ” …và luân xa thứ bẩy, luân xa đóng ở cao nhất, tập trung tại tuyến yên, nơi đáy trước của não. “Trong một cơ thể khỏe mạnh, cường tráng, hoạt động của những luân xa này thật mãnh liệt, giúp cho “prana”, sinh lực chủ yếu của sự sống hay còn được gọi là sinh lực hoàn vũ, được trôi chảy qua các tuyến nội tiết. Nhưng, nếu sự hoạt động của một hay nhiều luân xa đó bị trì trệ, thì dòng sinh lực của sự sống bị cản trở hoặc bế tắc và như thế đưa đến bệnh hoạn và già nua. Bảy trung tâm năng lực hay luân xa của cơ thể đóng tại bảy tuyến nội tiết là: 1. Tuyến sinh dục, 2. Tuyến tụy, 3. Tuyến thượng thận, 4. Tuyến ức, 5. Tuyến giáp trạng, 6. Tuyến tùng, 7. Tuyến yên. Với một người khỏe mạnh thì những luân xa đó làm lan tỏa sinh lực ra đến tận làn da bên ngoài, ngược lại với một cơ thể già nua bệnh hoạn thì những luân xa này hầu như không thể đẩy sinh lực lên đến bề mặt của thân thể. Vì thế, cách thức nhanh nhất để giành lại sự tươi trẻ, sức khỏe và sinh lực là làm sao để cho những luân xa này hoạt động bình thường trở lại. Ðể đạt đến mục đích này, chúng ta có 5 bài tập sau đây; mỗi một trong năm bài này tự nó rất hữu ích cho bạn, nhưng muốn có được những kết quả tối ưu thì bạn không nên bỏ sót một thức nào. Ở Himalaya, các Lạt Ma gọi chúng là những “thức” vì thế ở đây tôi cũng muốn dùng lại cái từ đó. Những trung tâm năng lực này là những chuyển động xoáy cực nhanh. Khi tất cả đều xoáy với một tốc độ cực nhanh như thế, thì cơ thể đang ở trong trạng thái toàn hảo. Khi có một hoặc nhiều luân xa bị chậm lại thì tuổi già và suy thoái bắt đầu tiến trình xâm thực. THỨC THỨ NHẤT Ông Bradfort nói tiếp: “Thức thứ nhất này là một phương pháp tập rất đơn giản. Mục đích cấp kỳ của nó là làm cho các luân xa xoáy nhanh trở lại. Bạn thường bắt gặp động tác này ở những trẻ em, khi chúng chơi đùa. “Trong thức thứ nhất này, tất cả những gì mà bạn cần làm là giương thẳng hai tay ra theo chiều ngang. Sau đó, bạn xoay tròn cho đến khi hơi chóng mặt. Một điều mà bạn phải lưu ý đó là: xoay tròn từ trái sang phải. Nói cách khác, nếu bạn để cái đồng hồ treo trên sàn nhà, trước mặt bạn, thì bạn phải quay theo chiều của kim đồng hồ. “Hầu hết những người lớn tuổi chỉ có thể xoay khoảng 6 lần trước khi cảm thấy chóng mặt. Vì mới bước vào luyện tâp, tôi khuyên bạn không nên vượt quá 6 vòng quay. Sau đó, nếu cảm thấy chóng mặt, thì bạn có thể ngồi hoặc nằm xuống để cho nó vơi đi. Lúc đầu, tôi cũng đã từng làm như thế. Nói tóm lại, để bắt đầu, bạn chỉ nên thực hành thức thứ nhất này cho đến khi hơi cảm thấy chóng mặt. Rồi dần dà, sau khi đã tập luyện cả năm thức, bãn sẽ có thể xoay tròn nhiều vòng hơn mà không chóng mặt. “Ngoài ra để giảm thiểu sự chóng mặt, bạn cũng có thể noi theo cách thức của các vũ công. Trước khi bắt đầu quay, bạn hãy tập trung tầm nhìn vào một điểm duy nhất trước mặt, và khi khởi sự quay, hãy hướng ánh mắt về cái điểm đó càng lâu càng tốt. Cuối cùng, bạn sẽ phải rời nó khỏi tầm mắt, để cho đầu bạn có thể cùng xoay theo thân. Khi điều này xảy ra, bạn hãy xoay đầu thật nhanh hầu có thể hướng tầm mắt càng sớm càng tốt về cái điểm đó. Chính cái điểm “chuẩn” này giúp bạn đỡ chóng mặt và không bị lúng túng. “Hồi còn ở Ấn Độ, tôi đã ngạc nhiên khi trông thấy các Maulawiyah - tu sĩ Hồi Giáo - không ngớt xoay tròn trong các vũ điệu tôn giáo của họ. Sau đó, khi đã thụ giáo của Lạt Ma về thức tập thứ nhất này, tôi bỗng nhớ lại hai điều có liên quan đến thức tập này. Một là, các tu sĩ này luôn xoay mình theo một hướng, từ trái sang phải, hoặc nói khác hơn là xoay theo chiều kim đồng hồ. Hai là, những tu sĩ già, vốn thường xuyên phải xoay mình trong các nghi lễ, thường có vẻ khỏe mạnh và tráng kiện hơn những người cùng lứa tuổi của họ. “Khi tôi nêu ra vấn đề này với Lạt Ma, ngài đã giải thích rằng cái động tác xoay người này có một tác dụng rất hữu ích, nhưng đồng thời nó cũng mang tính tác hại. Ngoài ra, ngài cũng cho biết sự xoay tròn thái quá đã kích thích quá mức một số những luân xa đến nỗi cuối cùng chúng bị cạn kiệt. Điều này đưa đến hệ lụy là trước tiên làm tăng nhanh dòng trôi chảy của prana, nguồn sinh lực chủ yếu của sự sống, và rồi làm bế tắc nó. Cái hành động xây dựng rồi xé toạc này khiến các giáo sĩ Hồi Giáo phải nếm trải một trạng thái “chấn động tâm thần” và khiến cho họ đi lệch ra khỏi con đường của tôn giáo và tinh thần”. Và ông Bradford nói tiếp: “Nhưng các Lạt Ma thì không bao giờ đưa thức xoay mình đến chỗ thái quá. Trong khi các giáo sĩ Hồi Giáo có thể xoay mình hàng trăm lần, thì các Lạt Ma chỉ thực hành nó khoảng chục lần hoặc nhiều hơn đôi chút, vừa đủ đưa các luân xa vào hoạt động”. THỨC THỨ HAI Ông Bradford nói tiếp: “Tiếp theo thức thứ nhất là thức thứ hai và mục tiêu của thức này là nhằm kích thích hơn nữa bảy luân xa. Thức này cũng đơn giản như thức thứ nhất. Trong thức này, người tập phải nằm dài trên sàn, mặt ngửng lên. Tốt nhất, bạn nên nằm trên một tấm thảm mà người Tây phươgn thường gọi là thảm cầu kinh; thảm làm bằng len khá dày và mục đích của nó là để ngăn không cho cơ thể bị thấm nhiễm bởi cái lạnh của sàn nhà. “Một khi bạn đã nằm duỗi lưng, thẳng người, hãy buông hai cánh tay dọc theo hông, gan bàn tay úp xuống sàn, giữ cho các ngón tay sát vào nhau. Tiếp đó, bạn hãy nhấc đầu lên, thu cằm vào ngực. Trong khi làm như thế, nhấc hai cẳng chân lên, đầu gối thẳng, trong tư thế thẳng đứng. Nếu có thể, bạn hãy để hai chân vươn ngược lên trên thân, về phía đầu, nhưng phải giữ cho hai gối thật thẳng. “Rồi từ từ thả đầu và hai cẳng chân xuống sàn trong khi đầu gối vẫn giữ thẳng. Hãy thư giãn toàn bộ các cơ bắp sau đó, thực hành lại thức tập này. “Trong khi thực hành, bạn hãy tuân theo nhịp thở như sau: hít vào thật sâu khi bạn nhấc đầu và hai cẳng lên; thở ra toàn bộ khi hạ đầu và hai chân xuống. Giữa những lần tập, trong khi bạn thư giãn các cơ bắp, bạn vẫn tiếp tục hít thở theo nhịp như vừa kể. Càng hít thở sâu thì càng tốt. “Nếu không thể giữ cho hai đâu gối được thật thẳng, thì bạn có thể cong chúng theo mức độ cần thiết. Tuy vậy, nếu bạn tiếp tục luyện tập thức này, thì hãy cố để giữ cho hai đầu gối càng thẳng càng tốt. “Một vị Lạt Ma đã kể với tôi rằng khi lần đầu tiên ngài thực hành cái thức luyện tập này, ngài đã quá già yếu và lụ khụ đến nỗi ngài không nhấc hai chân trong tư thế thẳng. Vì thế, ngài bắt đầu bằng cách đưa hai chân lên trong tư thế cong và với tư thế đó, đầu gối ngài thẳng tấp nhưng hai chân ngài thì tòn teng. Thế rồi từ từ, từng chút một, ngài có thể giương thẳng chân ra và ba tháng sau đó ngài đã có thể giương thẳng chúng một cách dễ dàng”. Ông Bradford cho biết tiếp: “Vị Lạt Ma lạ lùng này đã mang lại cho tôi khá nhiều ngạc nhiên. Khi kể lại cho tôi nghe về chuyện đó, ngài là một người hoàn toàn tươi trẻ và khỏ mạnh, tuy tôi biết rằng ngài đã lớn tuổi hơn tôi nhiều. Một trong những niềm vui của ngài là phấn đấu vác một thúng rau tươi nặng khoảng vài trăm cân Anh từ vườn để lên tu viện ở trên núi cao, cách đó vài trăm “foot” (bộ). Ngài vác đi như thế, không nóng vội nhưng đồng thời cũng không dừng chân nghỉ, và khi đến nơi ngài chẳng có vẻ gì là hụt hơi. Một lần, khi tôi cố theo ngài để ngược lên tu viện, tôi đã phải dừng lại ít nữa là mười hai lần để thở nhưng sau đó, tôi cũng có thể di chuyển dễ dàng như ngài và chẳng cần dùng đến chiếc gậy nữa. Nhưng đây lại là chuyện khác”. THỨC THỨ BA “Thức thứ ba này cần phải được thực hành ngay sau thức thứ hai. Tựa như thức trước, thức này cũng rất đơn giản. Tất cả những gì mà bạn phải làm là quì gối trên sàn và giữ cho thân mình thẳng đứng, hai bàn tay áp sát vào đùi. Sau đó, nghiêng đầu và cổ về phía trước, cằm thu vào ngực. Tiếp đến, ngửa đầu và cổ ra phía sau càng xa càng tốt; đồng thời ngã người ra sau, cong hẳn cột sống. Khi cong mình như thế, bạn hãy bám cánh tay và bàn tay lên đùi để làm điểm tựa. Cong người xong, hãy trở về với tư thế cũ và lặp lại toàn bộ thức thứ ba này lần nữa. “Cũng tựa như thức thứ hai, ở thức thứ ba này bạn cũng phải điều hòa nhịp thở đúng như qui định. Bạn phải hít vào thật sâu khi cong cột sống và thở ra khi quay về tư thế thẳng đứng. Hít thở sâu là điều rất hữu ích vì như thế bạn có thể đưa không khí vào buồng phổi càng nhiều càng tốt. “Tôi đã từng trông thấy cảnh hai trăm Lạt Ma đồng loạt luyện thức này. Để điều tâm hay nói khác hơn là tập trung tư tưởng, tất cả đều nhắm mắt lại để loại bỏ những ràng buộc của thế giới bên ngoài và có thể tập trung vào chính mình. “Từ hàng ngàn năm trước các Lạt Ma đã hiểu rằng mọi lời giải đáp cho những bí ẩn khôn lường của đời sống đều được tìm thấy ở bên trong chính mình. Họ đã phát hiện rằng tất cả những tính chất đã kết hợp lại để tạo thành đời sống chúng ta đều khởi phát từ bên trong cá nhân con người. Đây là một quan điểm mà người phương Tây chẳng thể nào am hiểu bởi theo họ thì đời sống vốn được khuôn đúc bởi những lực không thể kiểm soát được của thế giới vật chất. Chẳng hạn như, hầu hết những người phương Tây đều cho rằng cơ thể con người không tránh được phải lão hóa và suy thoái vì đó là quy luật tự nhiên. Vậy mà, khi hướng tầm nhìn vào nội giới, các Lạt Ma hiểu rằng điều đó chỉ là một ảo tưởng nhằm để tự an ủi chính mình. “Các Lạt Ma, nhất là các ngài đang sống trong tu viện mà tôi được may mắn đặt chân đến, đã cống hiến cho thế giới một điều vĩ đại và điều này được thực hiện trên tầm mức hoàn vũ. Từ tầm mức này, họ vượt lên trên những chuyển động của thế giới vật lý để có thể quan sát và theo dõi loài người trên toàn thế giới hầu mang đến cho nó nhiều điều tốt đẹp. THỨC THỨ TƯ Ông Bradford kể: “Lần đầu tiên thực hành thức thứ tư này, tôi đã cảm thấy rất khó khăn. Nhưng rồi một tuần sau, nó trở nên đơn giản như những thức khác. “Trước tiên, bạn hãy ngồi xuống trên sàn nhà, hai cẳng chân duỗi ra phía trước, hai bàn chân đặt cách nhau khoảng 20centimét, gan hai bàn tay úp xuống sàn, dọc theo mông. Sau đó, thu cằm về phía trước ngực. “Tiếp đến, bạn hãy ngả đầu ra phía sau, càng xa càng tốt đồng thời nhấc thân mình lên sao cho đầu gối cong lại trong khi hai cánh tay trở nên thẳng đứng. Với tư thế này, thân mình trở thành song song với sàn nhà và thẳng góc với hai cánh tay và hai cẳng chân. Rồi bạn hãy gồng căng mọi cơ bắp của cơ thể. Cuối cùng, khi quay trở lại với thế ngồi ban đầu, bạn hãy thư giãn các cơ bắp và nghỉ một lúc trước khi lặp lại các động tác của thức tập. “Cũng vậy, thở là điều quan trọng trong thức này. Bạn hãy hít vào thật sâu khi nhấc thân mình lên và thở ra thật dài hơi khi bạn hạ người xuống. Tiếp tục duy trì nhịp thở này khi bạn ngơi nghỉ giữa hai lần tập”. Rồi ông Bradford nói tiếp: “Sau khi rời tu viện, tôi đã chu du qua một số đô thị lớn của Ấn Độ, và để thử nghiệm, tôi đã mở một số lớp để hướng dẫn năm thức tập thể dục này cho những người Anh cũng như dân bản xứ. Tôi nhận thấy những người lớn tuổi trong cả hai nhóm này đều cho rằng họ không tài nào thực hành thức thứ tư bởi vì họ đã quá già. Đây là ý nghĩ sai lầm và đồng thời khiến cho tôi phải khó khăn khi thuyết phục họ. Cuối cùng, tôi khuyên họ hãy làm tất cả những gì có thể trong vòng một tháng để xem tiến triển thế nào. Và lời khuyên này của tôi đã mang lại nhiều kêt quả tốt đẹp hơn dự đoán. “Tôi còn nhớ có lần tôi hướng dẫn một lớp có một số ít người lớn tuổi và khi chuyển sang thức thứ tư này, những người đó hầu như không thể nhấc thân mình lên khỏi sàn và đương nhiên không thể đạt tới tư thế song song với sàn nhà. Cũng tại lớp này, có một số người trẻ đã thực hiện động tác này một cách dễ dàng, ngay trong buổi đầu tiên. Điều này làm cho những người cao tuổi cảm thấy chán nản nên vì thế tôi phải tách thành hai nhóm. Tôi đã giải thích cho những người cao tuổi rằng lần đầu tiên khi tập thức thứ tư này, tôi cũng chẳng hơn gì họ, nhưng giờ đây tôi có thể thực hành liên tục 50 lần thức này mà không hề thấy mệt mỏi hay căng thẳng cơ bắp. Và, để chứng minh cho điều đó, tôi đã thực hành ngay trước mắt họ. Kể từ đó, những người cao tuổi đã đạt được những tiến bộ vượt mức. “Bạn phải nhớ rằng sự khác biệt giữa trẻ trung và già nua, giữa khỏe mạnh và bệnh hoạn, chỉ đơn giản tùy thuộc ở tốc độ quay của luân xa. Đưa tốc độ quay của luân xa về với chuẩn mực thông thường của nó, thì một người già nua lại có thể trở nên trẻ trung và khỏe mạnh”. THỨC THỨ NĂM Ông Bradford nói tiếp: “Khi thực hành thức thứ năm, thân mình của bạn phải hướng xuống đất, được chống đỡ bởi hai tay, gan bàn tay áp xuống sàn và các ngón chân ở trong tư thế cong lại. Với thức tập này, bạn phải đặt hai bàn aty và hai chân cách nhau khoảng 60 centimét trong hki cánh tay và cẳng chân phải giữ thẳng. “Để bắt đầu, bạn hãy chống hai tay thẳng đứng xuống sàn và cong cột sống sao cho thân mình ở trong tư thế lún xuống. Tiếp đó, ngã đầu ra phía sau càng xa càng tốt rồi cong ở phần hông và đưa thân mình lên trên để tạo thành hình chữ V ngược. Đồng thời, bạn hãy đưa cằm tới trước và áp sát vào ngực. Tất cả chỉ có thế. Thực hành xong, bạn trở lại với tư thế ban đầu và lặp lại toàn bộ thức tập này. “Sau tuần lễ đầu tiên, thông thường bạn sẽ thấy đây là một trong những thức tập dễ nhất. Một khi đã thuần thục rồi, bạn hãy để cho thân mình rơi xuống tới một điểm hầu như là chạm sàn nhà, nhưng không hoàn toàn chạm hẳn. Hãy gồng căng các cơ bắp trong một lúc, kể cả khi thân bạn đang ở điểm cao cũng như khi hạ xuống thấp. “Tiếp tục hít thở sâu như đã áp dụng trong những thức trước đây. Hãy hít vào thật sâu khi bạn nâng người lên và thở ra hết khi bạn hạ người xuống”. Rồi ông Bradford giải thích: “Ở bất cứ nơi đâu, khi tôi turyền đạt những thức tập này, thì trước tiên người ta thường cho rằng chúng giúp làm giãn cơ bắp và các khớp bị xơ cứng, đồng thời giúp cho các cơ bắp trở nên rắn chắc. Tuy vậy, mục tiêu chủ yếu của những thức tập này là đưa tốc độ quay của các luân xa về với chuẩn mực thông thường nghĩa là phù hợp với tốc độ quay của các luân xa của một người khỏe mạnh ở độ tuổi 25. “Trong con người tất cả các luân xa đều có cùng một tốc độ xoay. Mặt khác, nếu bạn có thể trông thấy bảy luân xa của một người ở tuổi trung niên - nam hoặc nữ, thì bạn sẽ hiểu ngay rằng tốc độ quay của một số các luân xa trong cơ thể họ đã bị chậm lại rất nhiều. Tất cả chúng đều xoay với những tốc độ khác nhau và chẳng có luân xa nào có thể cùng vận hành một cách nhịp nhàng và hài hòa với luân xa khác. Luân xa quay chậm sẽ làm cho phần cơ thể nơi nó tập trung bị suy thoái trong khi luân xa quay nhanh tạo ra sự lo lắng, bồn chồn, căng thẳng và mệt mỏi. Vì thế, sự hoạt động bất thường của các luân xa mang lại sự suy yếu, bệnh hoạn và già nua. Nghe ông Bradford mô tả về năm thức luyện tập vừa kể, đầu óc tôi không ngừng thắc mắc. Vì thế giờ đây, khi ông đã nói xong, tôi không ngần ngại nêu lên một vài câu hỏi. Và câu hỏi đầu tiên của tôi là: - Với mỗi thức như thế thì chúng ta phải thực hành bao nhiêu lần? Ông Bradford nói: “Ðể bắt đầu, trong tuần lễ thứ nhất, tôi khuyên bạn nên thực hành mỗi ngày một buổi, với ba lần cho mỗi thức tập. Rồi trong những tuần kế tiếp, gia tăng thêm hai lần các buổi tập cho đến khi mỗi ngày bạn có thể thực hiện 21 lần cho mỗi thức. Nói cách khác, trong tuần lễ thứ hai, hãy thực hành năm lần cho mỗi thức, tuần thứ ba, bảy lần; tuần thứ tư, chín lần; và cứ thế tiếp tục. Như vậy, trong khoảng thời gian mười tuần, bạn sẽ có thể thực hiện đầy đủ 21 lần mỗi ngày cho toàn bộ năm thức. “Nếu bạn gặp khó khăn trong việc thực hiện thức thứ nhất - xoay tròn - theo cùng một số lần với những thức khác, thì như thế bạn có thể chia ra làm nhiều lần để thực hành, sao cho đủ 21 lần mà không phải chóng mặt. Và tôi tin rằng cuối cùng bạn cũng có thể xoay tròn 21 lần như đã định. “Tôi biết có một đã thực hiện những thức này trong hơn một năm ròng rã trước khi có thể xoay nhiều lần như đã quy định ở thức thứ nhất. Ông ta có thể dễ dàng thực hành những thức khác, nhưng với thức xoay tròn này thì tiến rất chậm và phải cần một thời gian dài mới có thể thực hiện 21 lần xoay trong một lúc. Và sau đó, ông đã đạt được những thành quả mỹ mãn. Tuy vậy, cũng có những người không hề cảm thấy khó khăn khi xoay tròn. Thông thường, họ là những người đã bỏ qua thức thứ nhất này để thực hành bốn thức còn lại trong vòng ba đến sáu tháng và rồi họ nhận r arằng mình có thể bắt đầu với thức thứ nhất”. Nghe giải thích xong, tôi hỏi tiếp: - Thế thì, ta nên tập luyện những thức này vào lúc nào trong ngày? Ông Bradford đáp: “Bạn có thể thực hành vào buổi sáng hoặc buổi tối, tùy theo giờ giấc thuận tiện. Riêng tôi, tôi thực hành trong cả hai buổi, sáng và tối; nhưng vì bạn là người mới tập tễnh bước vào con đường tập luyện nên tôi không muốn thôi thúc bạn. Sau khi đã tập luyện những thức này được 4 tháng, bạn có thể bắt đầu dành thời gian để thực hành nhiều lần vào buổi sáng, và buổi tối chỉ thực hành 3 lần cho mỗi thức. Hãy tuần tự gia tăng số lần tập luyện, như bạn đã làm trước đó, cho tới khi đủ 21 lần. Bạn không cần phải thực hành những thức này nhiều hơn 21 lần, vào buổi sáng cũng như buổi tối, trừ khi bạn cảm thấy thực sự bị thôi thúc bởi sự tập luyện”. Đến đây, câu hỏi kế tiếp của tôi là: - Tất cả những thức tập này đều có tầm quan trọng ngang nhau? Ông Bradford gật đầu: “Đúng, năm thức tập này liên kết nhau để tác động lên cơ thể bạn và chúng cùng có chung một tầm quan trọng. Sau một thời gian tập, nếu bạn thấy không thể cùng một lúc thực hành các thức này theo số lần qui định, thì bạn hãy tách chúng thành hai buổi tập, một vào ban sáng và một vào buổi tối. Nếu bạn cảm thấy khó khăn trong việc thực hành một thức nào đó trong năm thức thì hãy bỏ nó sang một bên để chú tâm vào việc thực hành bốn thức kia. Rồi, vài tháng sau đó, hãy tập lại cái thức mà bạn đã thấy khó khăn và bó qua đó. Với cách này, kết quả sẽ đến chậm hơn nhưng dẫu sao thì nó cũng đến. Khi tập luyện các thức này, bạn không bao giờ nên gắng sức để thực hiện cho bằng được. Điều đó sẽ không mang lại cho bạn một lợi ích nào. Đơn giản, bạn chỉ nên làm tất cả những gì bạn có thể rồi từ từ tiến lên và đừng bao giờ nản chí. Với thời gian và kiên trì, cuối cùng rồi, cũng như mọi người, bạn có thể thực hiện cả năm thức này 21 lần mỗi ngày”. Ái Liên st .
Phụ Bản IV VẾT THƯƠNG Hôm nay sao mẹ về muộn quá! Hoài dáo dác nhìn từng chiếc xe xuất hiện ở góc đường để nỗi thất vọng cùng bực bội ngày càng ùa vỡ trong tim. Chẳng là có hẹn với Hương đấy thôi. Mà hẹn với bạn gái thì ai lại tiết lộ cho “bà già”, kẻo sẽ bị lục vấn nọ kia! Nhà có 2 mẹ con nên cũng khá trống vắng. Nó chẳng biết cha nó là ai. Nhưng dù mẹ nó có lần thổ lộ rằng ông đã bỏ mẹ con nó mà đi với người phụ nữ khác, thì nó vẫn nghĩ rằng, có lẽ tại mẹ nó mà cha nó đã biến khỏi cuộc đời cô độc của mình! Nghĩ tới “cô độc”, Hoài bỗng mỉm cười rồi liếc vào tấm gương. Nó hài lòng vì thấy mình khá đẹp trai, có lẽ là giống bố, vì có như thế mới có chuyện ai đó yêu chiều mà bố đã dứt áo ra đi! Chuyện đẹp trai của nó chẳng có gì phải bàn cãi vì rõ ràng nhờ vậy mà Hương mới cặp kè với nó bấy lâu nay. Mẹ nó, dĩ nhiên là biết chuyện này vì bà cứ nhắc nhở đến sốt ruột: - Con lo mà học hành, chứ yêu sớm thì chỉ có... khổ thôi! - Sao lại khổ hở mẹ? Câu hỏi của con trai làm bà bỗng nhói lòng! Chính vì cái mã công tử mà bà đã vội vàng lấy gã đàn ông bội bạc ấy. Thật ra, gã lấy bà chỉ vì muốn dòm ngó căn nhà đồ sộ của cha mẹ bà mà thôi. Cơn bạo bệnh của bố không những đã khiến căn nhà ấy phải sang tay cho người khác, mà chính ông cũng từ giã cõi trần đầy gian dối. Rồi gã ra đi chẳng một lời từ biệt! Bà đắng cay nhận ra mình chỉ là nhịp cầu cho người khác bước lên. - Ừ! Yêu thì bỏ bê việc học, sau này chẳng làm được tích sự gì con ạ... Nói thế, nhưng bà cũng khá yên lòng về con trai, vì nó khá hiền lành lại chăm học. Thỉnh thoảng bà phân vân về tương lai của Hoài, liệu tính nết nó có giống “thằng cha” của nó hay không. Giá mà khuôn mặt của nó không giống kẻ vô tâm kia như đúc thì thật là... mừng cho bà quá. Ngày nào bà chẳng phải đạp chiếc xe lọc cọc ra khỏi nhà cả dăm cây số từ sáng sớm, rồi đẩy chiếc xe bán bánh mì ra khỏi cổng trường, nơi bà gửi “đồ nghề” của mình. Dĩ nhiên, bà phải lo thái thịt, dưa, hành... để chuẩn bị cho buổi bán hàng vất vả. Những ngày mưa mới là thê lương cho cuộc đời còn đầy sương gió của bà. Ngồi thu lu trên chiếc ghế nhựa, bà thấy đời mình như rơm rác trôi trong giòng nước mưa lũ lượt trên đường. Thỉnh thoảng cọng rác vớ vẩn vướng vào chỗ mấp mô nào đó, loay hoay mãi nó mới thoát ra chỗ vướng bận ấy. Bà nhận ra, nó thoát ra được lại nhờ vào giòng nước lập lờ chứ không hề nhờ vào chính bản thân. Giá mà chiếc lá trôi ấy có... máy thì ắt nó sẽ tự mình bước đi trên đường đời khúc khuỷu... Nhưng rồi bà lại “ngộ” ra một ý khác là, phải chăng chính cái nhẹ tênh của chiếc lá khiến nó còn có thể cục cựa trước cuộc đời? Bằng cớ là viên đá xanh nặng bụng kia cứ riu ríu dưới lòng nước mà không hề dịch chuyển được! Lẩn thẩn, bà lại tự cắc cớ, hay tại viên đá... thích ở đó chăng? Trước kia, bà bán ở gần nhà nên cũng khỏe. Còn bây giờ, việc đi lại đã chiếm biết bao thời gian. Ngày nào, bà cũng phải ba chân bốn cẳng mà hộc tốc chạy về nhà để kịp làm cơm tối cho hai mẹ con. Những hôm Hoài đi học thêm, bà thiếu điều thở không ra hơi khi về đến nhà. Tội nghiệp thằng nhỏ khi nó cứ thở dài cau có chờ cơm. Có hôm, bà chưa kịp đem xe vào nhà là nó đã dậm chân thình thịch, rồi chẳng nói chẳng rằng, phóc lên yên xe chạy mất, kệ cho bà đau đớn nhìn theo, la không thành tiếng: - Hoài, Hoài... Chẳng hiểu nó có biết lý do mẹ nó thay đổi chỗ kiếm cơm hay không, chứ việc ấy đã khiến bà buồn cả một thời gian dài, và nước mắt trào dâng không kém gì lúc bố Hoài dứt áo ra đi: Hôm ấy, đang loay hoay bán hàng, bà khách quen nhắc bà: - Kìa, có ai mua bánh mì kìa... Bà ngẩng lên. Một cô gái xinh xinh đang nói với ai đó: - Để Hương mua 2 ổ bánh mì đã... Kẻ cô nói với, hóa ra là Hoài. Nó nhăn nhăn cái mặt và tay thì níu lấy tay cô gái, kéo cô ra khỏi chiếc xe bánh mì cũ kỹ của mẹ nó. Tim bà như thảng thốt! Mắt bà như hoa lên! Rõ ràng là Hoài chẳng hề muốn cho cô bé ghé vào. Và chắc cũng không hề nói với cô gái rằng, bà bán bánh mì ấy là mẹ mình... Bà hiểu quá mà! Bố nó bỏ bà cũng chỉ vì bà thiếu cái hào nhoáng bề ngoài! Con bà hôm nay cũng “chối từ” bà vì bà không có thứ gì đáng để cho nó ngẩng mặt với đời, nhất là với người yêu của nó! Hôm ấy, hai mẹ con không nói với nhau nửa lời. Rồi bà nghỉ bán cả tuần lễ. Chẳng biết bà đi đâu, nhưng chiều chiều, bà về rất đúng giờ để lo cơm cho Hoài. Nó không dám hó hé dù chỉ một lời. Mẹ nó ngồi đó, cũng lặng yên như làn hương mỏng đang tan đi trên bàn thờ đặt di ảnh của ông bà ngoại nó. Mãi nó mới hỏi: - Sao mẹ không ăn cơm... - Ừ! Mẹ ăn rồi... Bà vừa buồn lại vừa có chút vui vì ít ra nó còn hỏi bà được một câu như vậy. Bà chẳng hề có ý định nhắc đến cái biến cố không đáng có ấy, chỉ vì bà đã nuốt nỗi buồn ấy vào đáy lòng ngay từ lúc Hoài kéo tay bạn gái nó ra khỏi nơi kiếm ăn của bà, và cả của nó nữa... Rồi bà kiếm được chỗ bán hàng khác xa nhà, để Hoài khỏi phải xấu hổ vì mẹ mình. Chỉ tội cho bà vì phải hết sức cố gắng mới có thể khớp với giờ giấc ngày càng khe khắt! Cũng tội cho Hoài, vì trước kia có bao giờ nó phải lo lắng vì sợ bị trễ học đâu... Hôm nay, cũng như mọi hôm rầy rà khác, mẹ lại chưa về! Cũng lỗi tại nó vì thật ra hôm nay không phải là tối đi học thêm, mà là tối hẹn Hương đi xem phim lần đầu tiên trong đời... Biết vậy, nhưng nó vẫn thấy mẹ mình thật kỳ cục, thật dở hơi khi bán hàng... rõ xa! Với lại, có ngày nào mẹ không về trễ đâu cơ chứ? Và chẳng hôm nào mà mẹ lại không có lý do này nọ: nào kẹt xe, nào bận bán hàng, nào để quên đồ ngoài chợ...! Cây kim đã nhích đến số 7 linh thiêng rồi bà già ơi! Sao bà không về đi cho con... nhờ! Điên tiết, nó đá mạnh vào cánh cửa. Cú đá đầy giận hờn ấy khiến không những làm cánh cửa bật tung ra, va vào tường như bị cơn lốc phũ phàng ập tới, mà còn khiến Hoài phải la lên đau đớn, vì ô kìa, chân nó túa máu vì cạnh cửa đâm vào. Một mình nó vật lộn với cái chân vô duyên. Lòng nó cuồng nộ vì thủ phạm cũng chính là mẹ mình. Nhìn vào gương, nó thấy mặt đứa nào đỏ au cùng đôi mắt tóe lửa. Nó bình tâm lại, rồi ngẫm nghĩ: - “Bả” chưa về thì đóng cửa đi chứ có sao đâu nhỉ! Khỏi phải chờ! Nghĩ là làm. Nó cà nhếch ra đầu hẻm gọi xe ôm, rồi mất hút cùng cái chân đã tạm băng cho cuộc gặp tối nay thêm... thú vị! Dĩ nhiên là nó vui lắm khi đi chơi với nàng. Rõ ràng là nó phải bịa ra cái lý do dễ thương gì đó để giải thích với Hương về cái tai nạn mà nó tự gây ra. Phim chắc là phải hay lắm, vì về đến đầu ngõ mà mặt nó còn tươi rói! Nhưng bực thì nó vẫn bực... cành hông, vì mẹ đã làm nó phải bồn chồn. Và chính bà là nguyên cớ khiến nó còn phải cà nhắc ít là mươi bữa chứ chẳng chơi! Nghĩ thế, mà mặt nó bỗng trở nên “hình sự”. Nó quyết định sẽ... lì lì, dù bà già nó có hỏi đến cả trăm câu... Ồ! Nhà mình sao... lạ thế! Mấy người hàng xóm đang bịn rịn gì đó ở trong! - Thằng Hoài về kìa... Hoài quên béng cái chân đau, nhảy bổ vào nhà. Mẹ nó đang nằm trên chiếc ghế dài, đầu băng trắng toát. Gương mặt xanh xao của bà bỗng ngạc nhiên: - Chân con... sao vậy? Hoài ú ớ hẳn. Nó cắn chặt môi để không phải khóc. Hít một hơi dài, Hoài run run hỏi lại bà: - Mẹ... làm sao vậy? - Mẹ không sao đâu con à... Còn con? - Dạ, tại con... đá vào cái cửa mẹ ơi! - Ừ! Tại mẹ về trễ... phải không... Nó thấy lòng đắng ngắt! Giá mà mấy người hàng xóm chửi, hay xỉ vả nó để nó được nhẹ lòng hơn. Nó nắm lấy tay mẹ. Lần đầu tiên nó thấy da tay bà đã có đồi mồi. Nó run lẩy bẩy khi bàn tay ấy xoa lên đầu nó. Bà âu yếm hơn bao giờ hết: - Gió mạnh quá con à! Thế là cái cánh xe bánh mì sập xuống vào đầu mẹ. Chỉ khâu ít mũi thôi mà... Bây giờ thì Hoài khóc, khóc thật sự... LAM TRẦN 25.09.2016 TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỨC PHẬT Thi thố tài năng Vua Tịnh Phạn Vương có vẻ lo âu! Thái Tử thấy vua cha âu sầu như vậy mới hỏi: - Vì sao Phụ Vương không được vui? Nhà vua mới phán rằng: - Ta e ngại cho con, khó lòng mà thắng nổi các tay võ sĩ kia, vì họ toàn là người tài giỏi. Nghe xong, Thái Tử vui vẻ mà tâu rằng: - Tưởng đâu có chuyện chi quan trọng. Chớ về nghề văn, nghiệp võ thì xin Phụ Vương hãy an tâm, con chưa có bất tài đến đỗi phải để làm mất mặt Phụ Vương đâu! Xin Phụ Vương hãy an tâm, cứ mở Hội Thi Tài, cho biết ai cao thấp. Đức Vua nghe Thái Tử nói chắc như vậy, mới vui lòng mà hạ lệnh rằng: - Bảy ngày nữa, Đức Vua có mở Hội Thi Thố Tài Năng, để chọn nhân tài… Vậy các Sĩ Phu Văn Võ khắp nơi, hãy đến tụ hội tại Đế Đô để thi tài cao thấp. Đến ngày thứ bảy, tất cả các anh tài của dòng Đế Thích, dòng Koliga, và tất cả các võ sĩ ở khắp nơi đều hội họp tại Đế Đô để tranh tài. Trong khi ấy cũng có Công Chúa Yasodara đến dự… Đầu tiên là môn thi bắn tên. Có bốn ứng viên tên tuổi tham dự, đó là: - Nanda, - Arajuna, - Dedatda, - Tất Đạt Ta. Mục tiêu là bốn cái trống đặt cách xa 50m. Ba người kia đều bắn trúng vào tâm điểm cái trống của mình. Tiếng hoan hô vang rền một góc thành. Đến lượt, Thái Tử Sĩ Đạt Ta cầm cây cung giương thử, thì hai đầu cung chụm lại. Ngài mới nói rằng: - Cây cung nầy để mà chơi, chớ không dùng được vào việc gì! Vậy, trong dòng Đế Thích, còn có cây cung nào tốt hơn không? Có một vị quan đứng gần đó tâu lên: - Có một cây cung ở đền Sinhaha. Không biết nó có tự bao giờ, mà chưa thấy ai sử dụng nổi. Thái Tử mới bảo: - Vậy thì, làm phiền đến nhà ngươi, hãy mang cây cung ấy cho ta. Khi quân lính mang cây cung đến, thì không có vị võ sĩ nào giương nổi. Thái Tử đi lại, cầm cung tay trái, tay mặt kéo thử dây đồng, thì tiếng kêu vang lên như sấm, làm cho mọi người phải ngạc nhiên, trầm trồ khen ngợi. Ngài bèn lắp tên vào cung, mà giương bắn một phát. Mũi tên xuyên trung tâm trống rồi bay ra xa mới cắm phập xuống đất, lút sâu tới chuôi. Không có ai nhổ lên nổi, chỉ có Thái Tử mới nhổ cây tên lên được mà thôi… Chỗ ấy biến thành cái giếng sâu, gọi là giếng Kupasara. Kế đến, hoàng tử Dedatda đề nghị mở cuộc thi chặt cây. Tức thì, những cây trong khu vườn đều bị các võ sĩ thi đua nhau chặt, ngã liệt địa… Chỉ có Nanda là chặt cây to hơn hết… Đến phiên Thái Tử Tất Đạt Ta, ngài nhìn quanh thì thấy chẳng còn cây nào nữa. Chỉ còn có hai cây mọc khít nhau mà mọi người chê bỏ lại, vì nó to cỡ cây Nanda đã chặt… Thái Tử bèn rút gươm ra mà chặt đứt hai cây một lượt, nhưng vì gươm bén mà chặt nhanh, nên cây chưa kịp ngã. Mọi người đều la lên rằng, Thái Tử đã thua cuộc rồi… Công Chúa Yasodara nghe qua, toát mồ hôi lạnh, mà thương hại cho Thái Tử. Cũng vừa lúc ấy, thì có một cơn gió thổi qua làm hai cây ngã một lượt… Tiếng hoan hô lại nhiệt liệt nổi lên, làm cho Công Chúa cũng vui mừng tỉnh lại. Bây giờ sang qua cuộc thi đua cưỡi ngựa. Thái Tử cưỡi con ngựa Kiền Trắc, chạy thắng tất cả các vương tôn công tử. Hoàng Tử Dedatda phải la lên rằng. - Nếu ta có con ngựa Kiền Trắc, thì ta chạy cũng thắng. Hiện giờ, đang có một con ngựa ô hung dữ ở trong chuồng. Vậy hãy mang nó ra đây. Ai mà điều khiển được con ngựa hung dữ đó, thì mới là người tài. Con ngựa ô này có màu lông đen huyền, dữ tợn như con sư tử, không chịu khuất phục một ai cả. Người nào lên cưỡi nó, đều bị nó quật chết, hoặc bị thương hay mang bệnh. Khi quân lính dẫn con ngựa ô đến, thì các võ sĩ tranh nhau cưỡi cho được, nhưng mà rốt cuộc họ chỉ chuốc lấy thất bại, vì bị ngựa quật ngã, hay bị cắn. Chỉ có một anh chàng tên Arguna, là ngồi lên lưng ngựa được một lúc, mà ngựa không chịu đi, kế nó lồng lên quăng gã xuống đất, còn toan giẫm đạp lên, may nhờ có quân lính đến tiếp cứu kịp lúc. Thấy vậy mọi người đều la: - Thôi thôi, đừng để Thái Tử Sĩ Đạt Ta lên cưỡi con ngựa này, nguy hiểm lắm. Tuy vậy, Thái Tử điềm nhiên nói rằng: - Các ngươi hãy để yên con ngựa cho ta xử lý. Rồi, Thái Tử đi lại vuốt ve trìu mến con ngựa, cũng như bà mẹ vuốt ve con cái vậy. Con ngựa có vẻ khuất phục. Thái Tử bèn tra yên cương cho ngựa, rồi lên cưỡi, cho ngựa chạy mấy vòng sân, giống như là con ngựa hiền thục thật sự vậy. Thái Tử cho ngựa dừng lại trước khán đài, trước sự hoan hô nhiệt liệt cùa quan khách. Thái Tử xuống ngựa, và trao trả con ngựa cho quân lính. Tất cả mọi người đều lấy làm ngạc nhiên về tài năng điều khiển của Thái Tử, và tánh nết trở nên thuần thục của con ngựa. Các võ sĩ đều bái phục Thái Tử, không còn ai muốn thách đố thi đua gì nữa. (còn tiếp) Thanh Châu sưu tập kể Người thân Người thân. Nói một cách trực diện về mặt ngôn ngữ, người thân là những người có mối quan hệ với nhau về mặt thân xác. Là cha mẹ con cái anh chị em họ hàng vợ chồng… Là những người có cùng một không gian một phạm vi đời sống hàng ngày. Và đương nhiên là những mối quan hệ có sự yêu thương, trách nhiệm, tương quan mật thiết, san sẻ cơm áo, hoạn nạn đỡ đần… (Những chuyện đó thì ai chả biết, nói chuyện gì khác đi). Vâng, thì nói những chuyện hơi khác đi một chút nhé. Đầu tiên là tư tưởng khá phổ biến trong thế giới người thân “Không cần tìm hiểu nhau”. Do cuộc sống thân cận hàng ngày, người ta thường nghiễm nhiên cho rằng đã biết rất rõ về nhau, và chẳng có lý do gì thúc đẩy sự chú tâm tìm hiểu về nhau cả. Kết quả là rẩt nhiều người thân không hề hiểu nhau, thậm chí nghĩ về nhau hoàn toàn sai lệch do sự chủ quan này. Từ đó hay nảy sinh những mâu thuẫn, đối chọi, gây gỗ và hành xử khắc nghiệt với nhau. Chính điều này làm cho những người thân xa cách dần, họ không tìm thấy sự nương dựa tin cậy và chia sẻ tâm tư tình cảm, họ khép dần lại những nhu cầu tương tác với người thân, và tìm đến sự chung chia với người ngoài nhiều hơn, không hiếm những người bạn bè mà sự tương quan thấu hiểu gan ruột nhau còn gấp mấy người nhà. Rồi khi nghe được câu chuyện riêng tư gì của người thân từ bên ngoài, họ tự ái “Sao không nói với người nhà mà đi nói với người ngoài?”. Họ bực tức vì thấy mình không phải là người được cần đến với chính người thân của mình, họ bức xúc khi nghĩ người nhà họ xem trọng người ngoài hơn mà không suy nghĩ xem vì sao lại thế? Đâm ra mang tiếng là người thân mà lại không thể thân nhau. Thứ nữa là chuyện xử sự với nhau hàng ngày. Vì cho rằng đã là người thân thì chẳng việc gì phải tế nhị lời ăn tiếng nói, chẳng việc gì phải ý nhị những nhỏ nhặt riêng tư. Là người thân thì có thể luông tuồng suồng sã đến mức thiếu tôn trọng nhau. Là có thể thoải mái xả phanh cảm trạng, muốn nói gì thì nói, bất kể những lời nói ấy có xúc phạm tổn thương nhau đến thế nào. Cứ việc nói cho thỏa những bực tức khó chịu bằng những ngôn từ nặng nề nghiệt ngã. Nhất là khi người nói là vai trên, và chủ quan rằng những gì mình nói đều đúng, không hiếm khi mang tính áp đặt vu khống, mặc người nghe có xúc cảm uất ức, mặc cho những vết thương lòng hằn sâu. Người ta khi va chạm với người ngoài có nghiêm trọng đến thế nào thì cái sự đau đớn cũng có thể trôi qua dễ hơn, nhưng với người nhà thì người ta sẽ nặng lòng hơn bởi ý nghĩ, là người ruột thịt mà còn đối xử với mình như thế thì trách chi… Người ta rất khó tìm lại được một niềm tin và tình cảm tốt đẹp nguyên vẹn cho dù cái tình thân nhiều khi cũng là một thứ thuốc chữa hiệu nghiệm. Đến khi người gây ra sự tổn thương có biết là mình sai, mình quá đáng, mình hiểu lầm thì cũng chẳng bao giờ dám nói một câu xin lỗi thật lòng, thậm chí không hề nghĩ đến, vì cho rằng người nhà mà việc gì phải khách sáo thế. Nên những nỗi oan của những người trong gia đình nếu không xả giải đi được thì nó cắm sâu tận gan ruột, để rồi rất nhiều người thân sống với nhau mà còn tệ hơn người xa lạ. Bởi với người ngoài người ta có thể không tiếp xúc không nghĩ đến không liên quan những sinh hoạt hàng ngày, người ta có thể quên đi chuyện không vui ấy, nhưng với người thân, vì những mối quan hệ ràng buộc, vì những lý do không thể thay đổi, mà dù không muốn người ta vẫn cứ phải gặp gỡ trao đổi và làm việc cùng nhau. Tuy cũng khá nhiều trường hợp người ta bước qua đuợc với tâm thế “Thôi thì đành vậy, người nhà mà chẳng vứt đi đâu được, biết làm sao”. Ừ thì việc đi qua thì cứ phải đi qua thôi, nhưng mà buồn lắm. Tiếp đến là không đánh giá đúng năng lực của nhau. Trong con mắt của người thân luôn có cái nhìn lệch về khả năng thực lực của người nhà mình. Yêu quá thì đánh giá cao một cách phiến diện “con tôi là giỏi nhất, anh em tôi là tốt nhất, bố mẹ tôi là hay nhất”. Những cái nhất này thường được biểu hiện một cách hùng hồn khi cần bảo vệ, biểu dương hay tự hào tự tôn trước một hay nhiều người khác. Nhưng vẫn có những cái nhìn ngược lại. Xem thường người nhà mình một cách tệ hại, luôn đề cao coi trọng người ở đẩu ở đâu. Nếu có ai nói về khả năng thực sự của người nhà mình thì tỏ ra hoài nghi, vì đa phần con người ta luôn thể hiện năng lực bản thân ở những nơi ngoài gia đình, và khi về nhà, không phải là môi trường để thể hiện và cũng không có nhu cầu để thể hiện, chính vì thế mà người thân trong gia đình không có nhiều cơ hội kiểm nghiệm. Mặt khác, do tâm thế thần tượng hóa những hình mẫu đâu đó, nên người thân không dễ tiếp nhận thành quả của người nhà mình, luôn đòi hỏi cao hơn cao hơn, cho dù sự đòi hỏi cao hơn ấy có ý tích cực tạo động lực, nhưng phần lớn nó lại là sự biếm nhẽ, xem thường, hạ thấp lòng tin và ý chí, làm thui chột khả năng phấn đấu. Nhất là những người thân có tình trạng sức khoẻ không được tốt lắm về mặt nào đó, hoặc diện mạo không được hài hòa sáng láng, thì sự coi thường tỏ ra rất rõ ràng. Bởi cũng như thói thường chung của con người, luôn đánh giá mọi điều qua hình thức, cho dù khá nhiều vấn đề về hiệu quả chất lượng không hề đạt dù ở mức tương đối qua cách đánh giá này. Một điều nữa cũng cần phải điểm qua, đó là sự lạm dụng nhau. Cứ cho rằng là người thân thì không cần phải rành mạch chuyện vay mượn nhờ vả. Là người thân thì cứ nghiễm nhiên được quyền tận dụng các khả năng điều kiện có thể cho nhu cầu bản thân. Nếu được người ngoài cho một chút gì hay giúp đỡ một việc gì thì lấy làm ơn huệ lắm. Cần phải tìm cách đền đáp lại. Nhưng là người thân thì có lấy bao nhiêu, có nhờ bao nhiêu cũng cứ coi như không có gì phải nghĩ ngợi. Cho dù với mặt bằng chung của cuộc sống thì bất kỳ ai cũng phải lo toan gánh vác chí ít là sự phục vụ nhu cầu cho chính mình. Nhưng quá nhiều người phải è vai sái cổ mà gánh vác chuyện nên hư của người thân, vì có quá nhiều người với tâm thức ỷ lại, chả việc gì phải lo, có người lo cho rồi. Họ mặc nhiên thụ hưởng công sức của người thân mà không hề nghĩ đến nghĩa vụ phải tương ứng sự hồi đáp. Không cứ con cái ỷ lại vào cha mẹ, mà anh chị em, vợ chồng cũng vậy. Trong suy nghĩ của những người này, họ xem người thân mà họ đang dựa dẫm ấy là người có bổn phận phải lo toan cho họ, chu cấp mọi yêu cầu của họ một cách vô điều kiện. Những khi không được thỏa mãn, họ sẵn sàng kêu đòi bằng cả những hành vi hung hãn vô lối, thậm chí gây thương tích trầm trọng cho người thân mà vẫn không áy náy gì. Chính vì vậy mà không ít gia đình không ít những con người khốn khổ khốn nạn vì người thân mà không có cách nào thoát ra, cứ phải cắn răng mà chịu, có khi là suốt cả cuộc đời. Đủ duyên đủ nợ mới được làm người thân của nhau. Với những người thân được yêu thương được chìu chuộng được xem trọng được tương trợ thì đó là những người duyên nhiều hơn nợ. Còn ngược lại thì không thể có cách gọi nào khác là nợ nhiều hơn duyên. Và cho dù duyên nhiều hay nợ nhiều, thì người thân là những hoa những lá mọc trên cùng một cội. Cùng trầm thăng với những dãi dầu sương gió, cùng đắng cay tê xót với sâu đau bệnh hại, cùng tươi xanh cùng khô héo cùng mặn cùng cay. Có nhọc nhằn hay thanh sắc thì cũng là hai tiếng người thân.
ĐÀM LAN
CHÙM BONG BÓNG MÙA XUÂN Mặt ao lồng bóng hàng cây. Những gốc dầu, gốc sao to lớn dị thường lung linh dưới nước. Chúng nhấp nhô nhún nhẩy không thôi. Cành lá rung rinh, chập chờn huyền hoặc. Từ bờ bên kia, mấy chú thiên nga khổng lồ rẽ sóng bơi ra. Chúng mang theo tiếng cười trong trẻo tựa pha lê của những đứa trẻ du lịch và âm thanh ì oạp, mệt nhọc của cánh quạt đẩy nước bởi mấy cặp chân xinh xắn. Sôthi giận dỗi, tiếc nuối khi thấy thuyền ung dung lướt bừa lên cây lá, vấy đục màu da trời biêng biếc. Chú ngoe nguẩy quay vào. Chọn một gốc cây giống như chiếc ngai vàng ngộ nghĩnh, Sôthi đặt khúc tầm vông có buộc chùm bong bóng bên cạnh rồi leo lên ngồi ngất ngưởng trên cái ghế thiên nhiên ấy. Mọi bực dọc ban nãy tan biến tự lúc nào. Sôthi thở ra khoan khoái. Chùm bong bóng cũng thế. Chúng cứ xoay trở như muốn bứt dây bay lên, cùng gió phiêu du. Sôthi đưa tay tát yêu từng cái. Bong bóng hụp xuống rồi vùng dậy, vút lên trời. Nhưng, sợi dây nhỏ đã kịp thời kéo ghì chúng lại. Chúng lắc lư, lắc lư trông như mấy cái đầu xanh, đỏ, vàng, trắng ngúng nguẩy, dỗi hờn. Sôthi mỉm cười một mình. Chú vòng tay ôm choàng chùm bong bóng. Bỗng, “bốp”. Một chiếc bong bóng vỡ. Mảnh cao su rách te tua rơi xuống, kéo theo sợi dây chùng rũ. Sôthi giật mình. Chú nhớ tới công việc buôn bán. Nhảy vội xuống đất, Sôthi vác cây cột bong bóng sang chỗ đông người. Chú cất giọng rao lanh lảnh: - Bong bóng đây! Ai mua bong bóng không? Dừng lại nơi du khách ngồi ngắm cảnh, chú chào mời: - Mua bong bóng không cô chú? Người ta cười thật tươi với Sôthi nhưng lại lắc đầu từ chối. Sôthi tới trước mặt một thiếu nữ: - Mua giùm em một cái bong bóng nha chị? Cô gái bật cười, nghiêng đầu nhìn Sôthi: - Chị lớn rồi, mua bong bóng làm gì? Sôthi cũng cười theo. Sao hôm nay chú lại ngớ ngẩn như vậy không biết! Con nít mới chơi bong bóng chứ! Sôthi chạy ào sang khu hàng quán, nơi có trẻ em tụ tập đông đúc. Nhưng, Sôthi thất vọng não nề. Ngày tết, trẻ em thường chỉ thích ăn uống và chơi đùa. Không đứa nào để ý đến Sôthi và những quả bóng bay Sôthi lo lắng nhìn quanh. Mặt trời đã ngã về tây. Nắng chênh chếch xuyên qua kẽ lá, giăng ngang mặt ao ánh vàng loang lỗ. Bây giờ, mặt ao dường như rộng ra, mênh mông. Gió lồng lộng, lắt lay cành nhánh già cỗi, ném những chiếc lá vàng xuống đất. Chúng nằm sóng soài bên xác lá khô, hòa nhập nhanh chóng với đồng loại và cát bụi. Sôthi cảm thấy se se lạnh và buồn da diết. Chú so vai, rụt cổ, đứng co ro giữa cảnh trời nước thơ mộng, tuyệt vời. Chú chua xót nghĩ đến thân mình, một đứa trẻ con nhà nghèo. Người ta đến đây để hưởng thụ, vui chơi, ngắm nhìn kỳ diệu của tạo hóa. Còn Sôthi, chú mang ước mơ no cơm, ấm áo trên vai, trong những quả bóng bay nhiều màu sắc. Thường lệ, Sôthi đem bong bóng đến trước cổng bệnh viện. Chú diễu qua chỗ những đứa trẻ ốm yếu, bệnh hoạn. Sôthi chờ đợi ánh mắt tươi vui và nét mặt bừng sáng bất ngờ của chúng khi được người thân mua cho cái bong bóng. Ở đó, Sôthi bán đắt hơn. Chú có thể kiếm đủ tiền để mua 2kg gạo mang về cho mẹ. Buổi chiều, Sôthi an tâm đến lớp. Chú học không giỏi lắm, chỉ được xếp loại trung bình. Số điểm học lực cũng giống như số tiền hàng ngày Sôthi kiếm được. Nó nhỏ nhoi, khiêm tốn làm sao! Nhưng chú vẫn vui vẻ bởi gia đình Sôthi chưa bị đói. Sôthi còn được đi học. Mẹ chú thường bảo rằng: - Bầy kiến nhỏ xíu như vậy còn khiêng nổi hạt gạo về ổ. Còn mình lớn như vầy, lo gì đói rách. Miễn đừng làm biếng là được. Một lần trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm, thầy đã ngâm thơ cho cả lớp nghe. Sôthi thích bài ấy lắm. Chú không bao giờ quên câu: “Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” (Hoàng Trung Thông) . Vì thế, lúc nào Sôthi cũng lạc quan, yêu đời. Nhưng hôm nay, ngày mồng một tết, Sôthi bắt đầu nghi ngờ mọi thứ. Chú đã đi bộ gần sáu cây số, lên tận Ao Bà Om để bán. Cứ ngỡ sẽ đắt như tôm tươi. Nào ngờ, ngoài chiếc bóng vỡ, còn lại bao nhiêu cứ oằn nặng trên vai của chú. Cổ họng khô khốc. Sôthi đang khát. Chú không dám mua một ly trà đá. Ngày tết, cái gì cũng lên giá. Số tiền ít ỏi chú mang theo để ăn uống giờ đây phải dành lại mua gạo. Ngần ngừ giây lâu, chú đi thẳng ra bờ ao. Sau khi nhìn quanh, thấy không ai để ý, Sôthi vốc nước đưa lên miệng. Vị mặn lờ lợ trôi qua cổ. Có chút gì nghèn nghẹn ở đó. Sôthi bắt gặp những giọt nước nhỏ từ mắt mình rơi xuống ao. Chú nấc lên khe khẽ khi nhìn thấy chùm bóng bay đong đưa dưới nước. Sôthi quay vội đi rồi cất giọng rao: - Ai mua bong bóng không? “Bốp, bốp, bốp!” Ba quả bóng vỡ toang. Sau lưng Sôthi có tiếng cười ha hả. Sôthi giận tím mặt khi thấy một gã thanh niên ăn mặc sang trọng ngồi vắt vẻo trên gốc cây lộ thiên gần đó. Tay gã còn cầm một nắm sỏi. Gã giễu cợt: - Ê nhỏ! Nếu mầy chịu đứng yên cho tao ném vỡ những quả bóng, tao sẽ trả cho mầy năm trăm ngàn đồng. Số tiền ấy quá lớn đối với Sôthi. Chú có thể nghỉ bán để ăn tết như mọi người. Nhưng nỗi tủi nhục như những ngón tay tàn nhẫn chặn lấy cổ khiến Sôthi nghẹn thở, không nói được. Chú đứng lặng, cố giữ cho những giọt nước mắt chực trào nằm yên trong khóe. Gã con trai cười nhăn nhở: - Thế nào, ông tướng? Bất ngờ, có tiếng thét của một cô gái: - Thật là xấu hổ! Tôi không ngờ anh lại độc ác như thế! Gã quay lại: - Ủa, chịu mở miệng rồi hả? Sao không giỏi giận nữa đi. Bước đến trước mặt gã, cô gái nói một mạch: - Từ nay, tôi và anh nên xem như chưa hề quen biết! Khuôn mặt gã bừng đỏ rồi chuyển sang tím tái. Gã nhìn cô gái đăm đăm rồi bất ngờ cất tiếng cười man dại. Trước khi nhẩy lên chiếc xe máy để phóng đi, gã ném mạnh nắm sỏi về phía những quả bóng. Sôthi hoảng hốt giật cây cột bong bóng về phía sau nhưng không còn kịp. Âm thanh lốp bốp của bóng vỡ vang vang. Những mảnh cao su vụn vằn, tả tơi như xác pháo bay tan tác. Sôthi òa khóc. Cô gái khuỵu xuống, quỳ trên xác lá khô. Cô úp mặt vào đôi tay, hai vai run nhẹ. Bỗng dưng Sôthi nhận thấy khóc cũng chẳng lợi ích gì. Nó kéo vạt áo lau mắt. Sôthi đến gần cô gái: - Chị ơi, chị…! Cô gái vẫn lặng im. Sôthi gọi to hơn: - Chị ơi! Đừng khóc nữa! Chiều rồi, đi về đi, kẻo hết xe. Cô gái đứng vụt lên, gượng cười với Sôthi: - Ừ, chiều rồi, chị quên mất. - Nhà chị ở đâu? Em đưa chị về nghen! Xoa đầu chú, cô gái ôn tồn: - Đừng lo! Chị về một mình được. Em về đi! Chợt nhớ, cô gái mở bóp lấy ra mấy tờ giấy bạc mới toanh dúi vào tay Sôthi: - Chị lì xì cho em. Chúc em mau lớn, học giỏi và… may mắn! Sôthi vừa mừng vừa ngại: - Em không dám nhận đâu. Em làm anh gì đó giận chị rồi. Em thật có lỗi… Cô gái lắc đầu: - Không đâu! Chị mới có lỗi với em. Vì giận chị, anh ấy đã làm vỡ bong bóng của em. Trước cặp mắt tròn xoe kinh ngạc của Sôthi, cô gái nói: - Chị cám ơn em lắm. Em đã giúp chị hiểu rõ anh ấy và chị hiểu lòng chị hơn. Ôi, những quả bóng mùa xuân đã vỡ. Nhưng không sao. Ngày mai chắc em lại có những quả bóng khác, xinh xắn hơn, phải không. Cô gái vẫy tay chào Sôthi. Cô đi về phía bến xe. Sôthi nhìn theo tà áo màu khói lam đến khi khuất hẳn. Chú săm soi những tờ giấy bạc một trăm nghìn rồi nhìn khúc cây cột bong bóng nằm trơ trên mặt đất. Sôthi chợt nhớ mùa xuân đang ở bên mình. Năm mới đã bắt đầu. Còn điều gì nữa sẽ xảy ra với chú? Sôthi hồi hộp đứng lên. Chú bé hối hả bước đi. Hàng cây và ao nước trông theo. Chúng lặng yên, trầm mặc lắng nghe tiếng chân xa dần của chú bé… NGUYỄN THỊ MÂY MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 14.01.2017… ............................... Vũ Thư Hữu ... 01 Vài chi tiết về một quý thư 130 năm tuổi - Cuốn Dư Đồ Thuyết Lược (Précis de Géographie) của cụ P.J.B. Trương Vĩnh Ký ......... Vũ Anh Tuấn ... 05 Mê tín dị đoan ....................................... Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 08 Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) .... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch ... 14 Bao giờ thì Chánh Pháp sẽ ra đời? ............................ Tâm Nguyện ... 21 Bài phỏng vấn của Cổng Thông tin kỷ lục VN về truyện Kiều đọc ngược .............. Trương Như Bá thực hiện .... 40 Thêm một cách đọc ngược Truyện Kiều .............. Trần Quốc Toàn thực hiện .... 50 Vài trang du ký Từ Hà Nội tới Toulouse (ký) ............ Đào Minh Diệu Xuân st .... 54 Nhà thơ thần đồng Mỹ: Mattie J.T.Stepanek .................. Phạm Vũ ... 61 Trời đêm (thơ) ................................................ Thúy Toàn dịch ... 74 Vỡ mộng (thơ) ........................................................ Quang Bỉnh .... 75 Xuân 4 mùa (thơ) .................................................... Lê Nguyên ... 76 Bận lòng chi (thơ) .......................................................... Lê Nguyên ... 76 Tuyết xuân (thơ) ......................................................... Đàm Lan ... 77 Chợ kiệu quê tôi (thơ) ............................................... Nguyên Lê .... 78 Nụ mai hồng (thơ) ................................................... Lam Trần .... 79 Lá thư Valentine (thơ) ...................................... Phạm Thị Minh-Hưng .... 80 Dòng đời xuôi ngược (thơ) ....................................... Lê Minh Chử .... 81 Đất nước sang Xuân (thơ) ....................................... Lê Minh Chử .... 82 Sài Gòn vào Xuân (thơ) ............................................ Hoài Ly .... 83 Lời chúc đầu năm (thơ) ........................................ Bs.Doanlinh .... 84 Công thức nấu món “Đặc sản thiên đường” đêm giao thừa ....... Bs.Doanlinh .... 85 Nguyên tiêu (thơ) .................................................... Bs.Doanlinh .... 85 Cảm tạ thần mộng giấc Nam Kha: Hão (thơ) ....................... Phước Hải ... 86 Hùng kê (thơ) ...................................................... Phước Hải ... 88 Nếu có em (thơ) ............................................... Ngô Bá Mạnh .... 88 Mấy lời khuyên nhủ (thơ) ...................................... Ngô Bá Mạnh .... 90 Xúc cảm (thơ) .................................................. Vũ Thùy Hương .... 91 Xuân tiễn biệt (thơ) ........................................... Vũ Thùy Hương .... 92 Tuổi Dậu (thơ) ................................................. Thanh Châu .... 93 Gà vàng Đinh Dậu (thơ) ...................................... Thanh Châu .... 93 Xuân phấn đấu (thơ) .......................................... Lang Nguyên .... 94 Xuân Đinh Dậu 2017 (thơ) .................................... Lang Nguyên .... 94 Kính họa: Xuân cửa thiền (thơ) ..................................... Ngàn Phương .... 95 Giữa ranh giới nghìn năm (thơ) ................................... Ngàn Phương .... 96 Cung đàn Sô-Panh (thơ) ................................................. Vũ Mão .... 97 Chopin’s melody (thơ) ...................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 98 Tình non nước .................................................. Hoàng Kim Thư st. . 100 The Birth of Vietnam - Dịch và Ngẫm nghĩ (tt) .......................... Thiếu Khanh .. 104 Duyên trời chưa đến ......................................................... Dương Lêh . 114 Đài tiếng nói Nam bộ .................................................... Bùi Đẹp st. .. 120 Không phân biệt đối xử với các dân tộc anh em trong nước & các dân tộc trên thế giới ............... Phạm Hiếu Nghĩa (Nhựt Thanh) . 123 Mấy trang nhật ký ....................................... Đỗ Thiên Thư st. .. 127 Xuân và Sách .............................................................. Hà Mạnh Đoàn . 133 Yoga dưỡng sinh cho người cao tuổi đơn giản & hiệu quả .......... Ái Liên st. .. 136 Vết thương ....................................................... Lam Trần .. 150 Truyền thuyết về Đức Phật: Thi thố tài năng ........... Thanh Châu sưu tập kể . 155 Người thân ................................................................ Đàm Lan .. 158 Chùm bong bóng mùa Xuân ................................... Nguyễn Thị Mây .. 163
|