Hiện có 14 người xem / 2518836 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 12/8/2017

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Kỳ họp này có mấy vị khách mới tham dự lần đầu nên mỗi vị đã được mời lên tự giới thiệu vắn tắt về bản thân với các thành viên. Sau khi hai vị khách mới là cô Đỗ Phượng và người bạn Việt kiều tên Minh tự giới thiệu, như thường lệ Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư mà ông mới có, một bằng tiếng Việt, một bằng Pháp văn. Cuốn tiếng Việt là một cuốn khảo luận văn chương về danh sĩ, nghệ sĩ tài hoa Hà Đình Nguyễn Thuật (1842-1911) mang tựa đề là “Sống đẹp với Hà Đình” của tác giả Nguyễn Q. Thắng, do nhà xuất bản Văn Học xuất bản năm 2009. Cuốn sách khổ 14x20 phân, dày 380 trang, mô tả một cách sinh động cuộc đời tốt đẹp và sự nghiệp văn học của một danh sĩ kiêm nghệ sĩ tài hoa có nhiều công trình văn học, sử học, đồng thời còn là một họa sĩ và một nhà thư pháp Việt Nam thời cận đại. Cuốn sách được in khá đẹp và vừa được tác giả Nguyễn Q. Thắng mang tặng cho Dịch giả Vũ Anh Tuấn vào tháng 7, 2017. Cuốn thứ nhì, bằng Pháp văn, mà Dịch giả Vũ Anh Tuấn mới có duyên gặp được, và chỉ phải chi một giá tiền thật quá bèo, so với cuốn quý thư, là 40.000 đô Mít, mang tựa đề là “Các Đại Văn Hào qua 250 câu hỏi - Les grands écrivains en 250 quiz”. Cuốn sách khổ 15x21 phân, dày có 94 trang, chứa đựng 250 câu hỏi mà những câu trả lời là những thông tin quý giá về cuộc đời và sự nghiệp của các đại văn hào từ thời Trung cổ tới nay (95% là các đại văn hào Pháp, chỉ có vài vị khác là người Anh, Đức và Nga), những thông tin cực kỳ quý hiếm, mà người đọc được thụ hưởng cùng với hàng ngàn hình ảnh minh họa vừa màu vừa đen trắng. Và điều cực kỳ hấp dẫn là cuốn sách do nhóm Le Monde là một nhật bào bằng tiếng Pháp, ra vào buổi tối, từ năm 1944 tới nay, cực kỳ nổi tiếng và mỗi số đều được in tới trên 300.000 bản. Đối với một người yêu thích tiếng Pháp từ bé như người viết, cuốn sách nhỏ và cực đẹp này là cả một kho tàng mà anh ta đã có cơ duyên gặp được. Sau khi được giới thiệu, hai cuốn sách đã được một số thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.


Sau phần giới thiệu sách, anh Phạm Vũ đã lên và có một bài nói ngắn về nhà văn Lan Khai cuộc đời và sự nghiệp. Anh Phạm Vũ nói xong, bà Tâm Nguyện giới thiệu với các thành viên một thứ thuốc Suyễn rất hữu hiệu mà bà đã dùng và thấy là tốt. Tiếp lời bà Tâm Nguyện, anh Nhựt Thanh đã lên nói về mấy cổ tục về tang lễ của người Việt chúng ta. Sau khi anh Nhựt Thanh nói xong, Anh Phước Hải ngâm tặng các thành viên hai bài thơ. Sau anh Phước Hải, nhà thơ Hải Âu cũng lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ tình. Tiếp lời nhà thơ Hải Âu, cô Thùy Hương hát tặng các thành viên một bài hát về Huế. Cô Thùy Hương hát xong, anh Chử “hát thơ” tặng các thành viên một bài thơ do chính anh sáng tác. Sau anh Chử , anh Lê Nguyên lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ của chính anh. Tiếp lời anh Lê Nguyên, anh Phùng Chí Tâm, với giọng ca hùng dũng và điêu luyện của anh, đã hát tặng các thành viên một bài hát. Sau anh Phùng Chí Tâm, anh Tấn Thuận cũng đã ca một bài tặng các thành viên. Sau anh Tấn Thuận, thành viên Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên hai bài thơ, và sau khi Hoài Ly ngâm thơ xong, Bs Doan Linh cũng ngâm tặng các thành viên hai bài thơ. Tiếp lời Bs. Doan Linh, anh Minh lên hát tặng các thành viên một bài ca bằng Pháp văn. Anh Minh hát xong, thành viên Kim Sơn hát tặng mọi người một bài ca phỏng theo ca dao mang tên là “Nụ T ầm Xuân”. Cuối cùng, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc của anh cũng tặng các thành viên một bài hát được mọi người yêu thích. Trước khi ra về Dịch giả Vũ Anh Tuấn có thông báo là vào cuối buổi họp ngày 0 9/9/2017, sẽ có một bữa tiệc kỷ niệm “Lần truy cập thứ 1 triệu đầu tiên của trang mạng Sachvatranh.com” của Dịch giả Vũ Anh Tuấn, và đề nghị những ai có thể tham dự thì xin cho biết và ghi tên. Buổi họp kết thúc lúc 11g15 cùng ngày, và các thành viên vui vẻ ra về hẹn gặp lại nhau trong kỳ họp tới.

VŨ THƯ HỮU


MỘT SIÊU QUÝ THƯ

MÀ TÔI MỚI CÓ DUYÊN MAY GẶP ĐƯỢC

Lúc này tôi rất lười đi mua sách, lý do đơn giản là trong thư phòng chả còn chỗ nào để chứa sách, hơn nữa tôi còn chưa biết làm gì với gần 4 ngàn cuốn sách choán gần hết chỗ trong thư phòng nhỏ bé của tôi, và tôi thực sự đang muốn giải tỏa bớt những cuốn không mấy thích để cho rộng chỗ một tí. Nhưng khốn nỗi là chẳng có mấy cuốn không mấy thích, vì khi mua bao giờ tôi cũng chọn lựa thật kỹ, chứ chưa hề mua một cách bừa bãi. Có khi mua cả một thư viện nhỏ của một người bạn, tôi chỉ giữ những cuốn tôi thích, còn những cuốn còn lại tôi b á n tống bán tháo cho rảnh nợ, tuy nhiên, ngay lúc này tôi vẫn còn bị những quý thư thu hút một cách mãnh liệt, nên tôi cảm thấy tốt hơn hết là nên tránh không ghé các tiệm sách hàng ngày nữa, và chỉ ngồi chờ các bạn có sách quý gọi thì… dạ liền! Tôi luôn tin là sách cũng có hồn, cũng rất thông minh, biết tìm đến với những người thực sự yêu mến chúng như tôi, và sau đây là một thí dụ khá cụ thể. Sáng hôm qua, tôi cần có 180 ngàn để trả cho một cô bạn mới bán cho tôi mấy số báo thời tiền chiến mà tôi đã thanh toán nhưng còn thiếu lại 180 ngàn, trong khi tôi chỉ có trong tay hai tờ 500 ngàn, mà cô bạn thì cũng không có tiền thối. Tôi đành phải sang anh bạn bán sách ngay trước c ử a nhà tôi để xin đổi. Trong lúc chờ bà xã anh ấy lên lấy tiền ở trên lầu, một em học sinh đứng trên một c á i ghế đẩu đang với tay lấy một chồng sách ở trên cao, thì bỗng làm rớt một mớ 4, 5 cuốn xuống đất, có một cuốn s uýt rơi trúng đầu tôi. Tôi ph ả i né sang một bên và ngay lúc đó cuốn quý thư tôi muốn nói tới hôm nay nằm chình ình ngay trước mắt tôi. Tôi vội nhặt lên và hỏi giá anh bạn thì được anh cho biết là 90 ngàn đô mít. Ôi thật tuyệt vời, đúng là cơ duyên, vì nếu tôi không cần đổi tiền thì đâu có ghé nhà sách, và nếu em học sinh không làm rớt, thì cuốn quý thư nằm yên trên cao chứ đâu có đến với tôi! Đây là một cuốn sách bằng Anh Ngữ mang tựa đề là “Đời sống ở Anh quốc từ A tới Z” (An A to Z of British Life) và ở mé dưới còn có hàng chữ “Tự Điển về Anh Quốc” (Dictionary of Britain). Cuốn sách khổ 13x20 phân, dày 476 trang của một tác giả tên là Adrian Room, được nhà xuất bản thời danh Oxford xuất bản năm 1995 và là bản được cập nhật lần thứ 5. Cuốn sách được in như một cuốn tự điển và chứa đựng 3000 mục từ liên quan t ớ i đủ mọi đề tài như các nhân vật nổi tiếng, các tổ chức thuộc đủ mọi lãnh vực trong xã hội như du lịch, địa dư, chính trị, lịch sử, truyền thông, lương thực, văn hóa, văn học, điện ảnh, kịch nghệ, quân sự, thể thao vv… Ngoài các thông tin, các định nghĩa, các giải thích rất đáng tin cậy, vì do nhà Oxford xuất bản, còn có khoảng trên 300 hình minh họa đen trắng cực đẹp.

Ẵm được cuốn quý thư về nhà, tôi bỏ ra liền 3 giờ đồng hồ để “cưỡi ngựa thưởng hoa” và thấy là cuốn sách hay tuyệt, vì các định nghĩa đều rất rõ ràng, chính xác, và rất dễ hiểu, rất chi tiết. Với cuốn sách, tôi chỉ mất có 90 ngàn đô m í t, mà có trong tầm tay những hiểu biết nhiều gấp mấy những hiểu biết của những kẻ mất thật nhiều tiền đi du lịch Anh quốc. Ngay cả những người đã sinh sống nhiều năm ở Anh quốc cũng chưa chắc đã hiểu nhiều bằng vài phần c ủ a cuốn quý thư này. Tôi tự nhủ sẽ dành thời giờ để moi ra những điểm mình thích nhất ở nước Anh, để biết được những điều đáng biết nhất ở cường quốc này, và để… chỉ nằm khểnh ở nhà mà được thăm ảo tất cả mọi danh thắng của Anh quốc, mà chẳng mất xu teng nào. Và rồi, do có cuốn quý thư mà tôi còn làm một chuyện vui vui, là tôi đã lại thăm, và cảm ơn cô bạn bán báo khiến cô ngẩn cả người không hiểu tôi cám ơn cô ta về vụ gì? Sau khi nghe tôi giải thích là nhờ cô ta lại đòi 180 ngàn tôi thiếu, mà tôi sang tiệm sách đổi tiền, và gặp được nàng quý thư, cô ta phát phì cười và khen tôi là “anh tếu quá đi!”…

Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI”

VŨ ANH TUẤN


LƯỢT TRUY CẬP THỨ MỘT TRIỆU

CỦA BẢN TIN CLB SÁCH XƯA & NAY

Lượt truy cập thứ một triệu của Bản Tin CLB SÁCH XƯA & NAY vào lúc 3g sáng ngày thứ bảy 19/8/2017, là niềm vui không chỉ của Ban Chủ Nhiệm, của tất cả những thành viên, mà tôi tin cũng là của những bạn bè xa gần có cảm tình với CLB. Điều đó nói lên là ngoài những người vẫn nhận được Bản Tin hàng tháng, trên mạng cũng có một số không ít thân hữu gần và xa theo dõi hàng ngày. Xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình của các trang Web newvietart.com ở Pháp, hoamai-aus.org.au ở Úc, nguoibanduong ở Nga, vandanviet.net, trieuxuan.info, và diendansonghuong.com.vn, vì cũng nhờ những trang Web nói trên chấp cánh mà Bản Tin nhỏ bé được vươn tầm ra thế giới, góp mặt với những báo mạng tràn ngập thông tin về đủ mọi vấn đề như hiện nay.

Cũng do sau hơn 4 năm thành lập CLB thì Ô. Chủ nhiệm mới lập trang Web, rồi một thời gian dài sau mới nghĩ đến việc đếm số lượt người vào truy cập. Nếu làm sớm hơn ắt hẳn con số một triệu không đợi đến hôm nay.

Kể ra thì vui cũng đúng, vì bản thân Bản Tin cũng có một sự tiến bộ rõ rệt. Từ những số đầu tiên mỏng manh chỉ vài chục trang với những thông tin sơ sài về sách. Qua thời gian, Bản Tin càng lúc càng chứng tỏ sự trưởng thành, phong phú, với nhiều bài vở đa dạng như Truyện ngắn, Thơ, công trình nghiên cứu hữu ích, những bài dịch từ văn học nước ngoài, những bài sưu tập giá trị. Dù không mang tính chuyên nghiệp, chỉ do các thành viên, hay bạn bè có cảm tình mà tham gia vô điều kiện, nhưng là những bài viết độc đáo, tâm huyết, không thể tìm thấy trong bất cứ tạp chí nào khác. Mảng Thơ thì ngoài những nhà thơ Thành Viên đã có tên tuổi trong thi đàn là cây nhà lá vườn, nhiều Nhà Thơ nổi tiếng cũng tham gia làm tăng thêm phần hấp dẫn. Điểm độc đáo của Bản Tin là trong đó song hành hai bài viết về hai Tôn Giáo: Thiên Chúa và Phật Giáo nhưng người đọc không hề thấy những bài thuyết giáo nặng mùi đạo, hay những lời kêu gọi đóng góp xây Chùa, đúc Tượng nhân danh để tôn vinh Phật! Phía Thiên Chúa Giáo thì chỉ đề cập đến cách ứng xử với cuộc sống của người Ki Tô Giáo đối với môi trường, với xã hội, cộng đồng, kêu gọi mọi người cùng chung tay gìn giữ ngôi nhà chung mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Nhẹ nhàng định hướng cho giáo dân để cuộc sống ngày càng hướng về Thượng Đế, về phía Chân, Thiện, Mỹ để tốt Đạo, đẹp đời. Phía Đạo Phật là những bài phân tích, soi rọi những gì được đề cập trong Chính Kinh, để người Phật Tử không có cơ hội đọc Kinh qua đó thấy thế nào là cách hành trì đúng của người Phật Tử chân chính để có dịp so sánh. Vì nếu ai có đọc Chính Kinh thì sẽ thấy, không riêng Việt Nam ta mà cả thế giới, người Phật Tử đã bị dắt đi quá xa so với Đạo Phật mà Đức Thích Ca và Chư Tổ hướng dẫn. Thay vì áp dụng Đạo Phật như một Con Đường, theo đó, tự thực hành để Tự Độ, để Thành Phật như Đức Thích Ca mong mỏi, lại biến thành Thần Quyền, Nhị Thừa, nương tựa, cầu xin được hộ trì, mà người hành trì như thế không hay biết, cứ tưởng rằng mình đang theo đúng Chánh Pháp.

Hơn 11 năm rồi, với những buổi họp mặt vào các ngày Thứ Bảy, tuần thứ hai hàng tháng đều đặn diễn ra cho thấy một sự gắn bó giữa các Thành Viên với nhau, và ngày càng thêm nhiều người tham dự đã chứng minh được sự hấp dẫn âm thầm của CLB. Ai đến đó cũng thấy có được một số giờ thanh thản, hữu ích, giao lưu với nhau trong tinh thần đoàn kết, thoải mái, không phân biệt mới cũ, không có cạnh tranh hơn thua, cao thấp nên có sự gắn bó, quyến luyến với nhau. Tuy rằng mọi người ít khi có thì giờ để trò chuyện riêng tư, nhưng vẫn thấy ngày càng thấy gần gũi, thân thương, đều mong đến ngày họp, được gặp nhau để mừng nhau vẫn mạnh khỏe, an khang.

Trong bối cảnh xã hội đầy dẫy những bon chen, tranh giành, đấu đá, giật dọc, bất an… thì ở một góc nhỏ của Quận Tân Bình, trong khuôn viên êm ả của Nhà thờ Tân Sa Châu, hàng tháng vẫn diễn ra những buổi sinh hoạt như thế. Dù chỉ trong hai giờ ngắn ngủi, từ 9 đến 11 giờ, nhưng người tham dự cũng cảm nhận được một bầu không khí ấm áp, nhẹ nhõm. Mọi người ngoài xả stress còn được tiếp thu một số kiến thức được chắt lọc từ tinh hoa sách xưa, sách nay, tập trung hướng về tính nhân văn, tình yêu thương, ca tụng cái hay, cái đẹp của cuộc sống, của tình người. Chẳng những gạt bỏ mọi xu thế chánh trị, mọi hiềm khích, đố kỵ, phe phái, mà những thành viên còn góp vui bằng lời ca tiếng hát, giọng ngâm thơ làm cho không khí thêm vui tươi, mọi người thấy mình như trẻ ra, như được nạp thêm năng lượng sạch để hành trình tuổi già được tiếp tục êm ả trôi trong thanh thản, nhẹ nhàng...

CLB cũng có được những điểm rất “lạ” mà chắc rằng không nơi nào có được: Nhà Thờ được xem là Đất Chúa mà nở được Đóa Vô Ưu của bên Đạo Phật. Linh mục Chánh Xứ uyên bác, mấy bằng Tiến Sĩ Thần Học, lại rất bình dân, sẵn sàng vui vẻ tự tay rót trà thiết đãi khách. Những Nhà Thơ nổi tiếng như Trần Nhuận Minh, Nhà Thơ Tiến Sĩ Vũ Đình Huy, Nhà Thơ Tiến Sĩ Võ Kim Cương, không ngại ngần ngồi chung chiếu với Nhà Thơ Nguyên Lê, một giáo viên hồi hưu nay bán sữa đậu nành, đậu hũ dạo, cùng với những nhà thơ tay ngang trong CLB! Nhà Văn Nam Bộ lão thành, Gs. Nguyễn Văn Sâm mà tên tuổi được ghi trong các quyển sách văn học, hay nhà văn Thúy Toàn, một tên tuổi lớn ở miền Bắc cũng không thấy khó chịu khi bài viết của mình xuất hiện chung với những cây bút non trẻ, trưởng thành từ CLB. Rồi thì không kể những người gốc gác Saigon, do ở gần nhà nên tham gia, hai công tử hào hoa của đất Hà Thành, là Nhà Thơ, Đạo Diễn, Nhạc Sĩ Lê Nguyên, Nhà Thơ Phùng Chí Tâm, hai người lính Điện Biên năm nào mà đôi chân lãng du đã in khắp mọi miền đất nước nay cũng dừng chân tại đây, sinh hoạt với các thành viên CLB vì “Đất lành chim đậu”. Mọi người tìm được tiếng nói chung trong tinh thần hòa đồng với nhau. Quý mến nhau trong tình yêu thương những điều cao đẹp của văn chương, của con người.

Như mưa dầm thấm lâu, 11 năm qua, CLB SÁCH XƯA & NAY chẳng những đã níu chân những Thành Viên và những bạn bè tham gia từ buổi đầu, mà người đến về sau cũng gắn bó và còn rủ thêm bạn bè đến tham gia. Đa phần những người tham gia CLB đều đã nhiều tuổi. Chủ Nhiệm nay đã vào hàng U90, Lm. Triết cố vấn cũng đã vào lứa U80. Những thành viên khác trẻ nhất cũng là U60, nhưng mỗi lần đến tham gia đều hăng say phát biểu, ca hát, hoặc ngâm những bài thơ do chính họ sáng tác một cách sảng khoái, để chính người ca, ngâm cũng như người nghe đều thấy cuộc sống sao mà đáng yêu! Thời khắc đó, tuổi già, phiền muộn, lo toan... hầu như quên hết, chỉ còn trao đổi, đồng cảm, lắng nghe, chia sẻ chân thành. Chả trách Nhà Văn Nam Bộ lão thành, Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm hiện đang sống ở Mỹ, khi nhận được Bản Tin qua mail, đã hồi âm, xin mạn phép trích đăng: “Cảm ơn anh Tuấn nhiều. Xa xôi hàng tháng có Bản Tin - thiệt ra là một số của tờ tạp chí - thì vui quá lẽ và nhớ cái không khí của CLB quá lẽ”. Có lẽ chỉ hai cụm từ “vui quá lẽ”“nhớ quá lẽ” cũng đủ để chúng ta liên tưởng đến những gì mà Giáo Sư cảm nhận được từ CLB.

Xin được đại diện CLB để chia sẻ với tất cả anh em xa gần. Rõ ràng niềm vui đạt mốc một triệu lượt không mang lại lợi ích nào về mặt vật chất, nhưng về mặt tinh thần thì quả là vô giá, là một khích lệ lớn lao cho các Thành Viên CLB. Qua số lượt truy cập hàng ngày, mọi người biết rằng những gì mình vắt óc suy nghĩ, diễn tả, những gì anh em hợp lực đóng góp có được sự đồng cảm của một số thân hữu, dù chưa lần gặp mặt, nhưng sự theo dõi của các bạn chứng tỏ rằng chúng tôi không đơn độc giữa thế giới bao la, rộng lớn này, để thấy rằng cuộc đời không bao giờ thiếu vắng những tâm hồn đồng điệu, luôn cổ vũ cái đẹp, cái thanh cao của tâm hồn, hướng đến xã hội ngày càng bình yên, vũ trụ nở đầy hoa nhân ái, mọi người yêu thương nhau hơn, để cuộc đời vơi đi những nỗi khổ. Chợt nhận ra chúng tôi hạnh phúc biết bao nhiêu vì thấy rằng trong chuỗi ngày ân sủng mình vẫn còn sống có ích.

Xin trân trọng cảm ơn vì điều đó.

Tháng 8/2017

Tâm Nguyện

Các bản tin trước có thể xem tại:

www.diendan.songhuong.com.vn

www.giaimakinhphat.com

www.sachvatranh.com

www.newvietart.com

www.vandanviet.net

www.hoamai-aus.org.au

CÓ TẬN THẾ KHÔNG?

(Tập 11 - tiếp theo)

NGUỒN NƯỚC TP.HCM Ô NHIỄM NẶNG

(Báo Thanh Niên số 294 ngày 21/10/2011 - Trung Hiếu):

Tại hội thảo phát triển đô thị do Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức từ 19-21/10 tại Tp.HCM, vấn đề ô nhiễm nước, sử dụng lãng phí tài nguyên nước được giới chức thành phố và các chuyên gia mổ xẻ.

Chất và lượng giảm

Phó chủ tịch UBND Tp.HCM Lê Minh Trí cho biết hiện mỗi ngày thành phố tiêu thụ khoảng 1,7-2 triệu m3 nước. Dự báo năm 2015 là 2,7 triệu m3 nước/ngày và năm 2025 khoảng 3,55 triệu m3/ngày. Để đáp ứng nhu cầu trên, hiện có hai nguồn cung cấp nước chủ yếu là nguồn nước mặt (chiếm 60%) và nước ngầm (40%). Nguồn nước mặt được khai thác chủ yếu từ sông Sàigòn và sông Đồng Nai. Nhưng do Tp.HCM nằm ở hạ lưu hai con sông này nên nguồn nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Sông Sàigòn đang ô nhiễm nghiêm trọng.

Theo ông Trí, việc quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng nguồn nước Tp.HCM gặp thách thức như ô nhiễm và biến đổi khí hậu đã làm giảm số lượng và chất lượng của nguồn cấp nước. Hiện lưu vực sông Sàigòn, Đồng Nai đang là nơi tiếp nhận gần 3 triệu m3 nước thải sinh hoạt và công nghiệp (hầu hết chưa xử lý) và hàng trăm tấn thải rắn mỗi ngày.

Đối với nước ngầm, chất lượng nước tại các tầng chính đang có xu hướng xấu đi. Đặc biệt là lượng nước ngầm gần các khu công nghiệp, khu dân cư và các tầng chứa nước gần mặt đất. Ngoài ra, mực nước của một số tầng chứa nước hạ thấp nhanh, đang có nguy cơ cạn kiệt tầng chứa nước. Việc khai thác và sử dụng nguồn nước ở Tp.HCM còn rất lãng phí. Hệ thống cấp nước của Tp.HCM được xây dựng cách đây hơn 100 năm và Nhà máy nước Thủ Đức được xây dựng từ năm 1963, cho nên công nghệ xử lý đã lạc hậu.

Báo Thanh Niên số ngày 8/6/2015: Gần 100% mẫu nước ngầm tại Tp.HCM bị ô nhiễm: Một điều đáng lo ngại là nguồn nước ngầm đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Qua kiểm tra chất lượng nước đối với các hộ dân chưa được sử dụng nước sạch tại 1.400 vị trí thuộc 4 huyện: Hóc Môn, Củ Chi, Nhà Bè và 3 quận: Bình Tân, Thủ Đức, 12 thì chỉ có 45 mẫu (tỷ lệ 3,21%) đạt các chỉ tiêu hóa lý và vi sinh theo Quy chuẩn VN 02:2009/BYT của Bộ Y tế, còn lại đều không đạt chất lượng và bị ô nhiễm (Đình Phú).

Báo Thanh Niên ngày 11/12/2015: Phát hiện công ty xả nước thải lậu ra kênh An Hạ: Ngày 10/12, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (PC49 - Công an Tp.HCM) tiến hành kiểm tra nhà xưởng rộng khoảng 5.000m2 của Công ty TNHH Athena (ấp Tiền, Tân Thông Hội, Củ Chi, Tp.HCM) và phát hiện nước thải trong quá trình sản xuất vải thành phẩm chưa qua xử lý được xả thẳng ra kênh An Hạ theo đường ống cống dẫn nước (rộng khoảng nửa mét), xả trực tiếp với lưu lượng 23m3/ngày (Đức Tiến).

Báo Thanh Niên số 5 ngày 5/1/2016: “Cá bè trên sông Đồng Nai lại chết hàng loạt”: Rạng sáng 4/1, cá bè trên sông Cái (một nhánh của sông Đồng Nai, đoạn chảy qua Tp.Biên Hòa) lại chết hàng loạt. Hộ dân bị thiệt hại nhiều nhất lên đến cả chục tấn cá. Xác cá chết nổi kín mặt bè, trắng xóa cả một đoạn sông. Theo thống kê sơ bộ của Phòng Kinh tế Tp. Biên Hòa, tất cả có 241 hộ nuôi cá trên sông đều bị thiệt hại, người ít thì vài chục ký, người nhiều lên đến 10 tấn cá các loại. Theo kinh nghiệm hàng chục năm nuôi cá của những hộ dân nơi đây, nguyên nhân cá chết là do ô nhiễm dòng nước. Người dân khẳng định do nhà máy xả thải, bởi vì chỉ có dòng nước ô nhiễm hóa chất thì cá mới chết nhanh và nhiều đến như vậy, kể cả cá ngoài sông cũng không sống nổi (Lê Lâm).

Báo Thanh Niên số 346 ngày 12/2/2016: Đối xử tàn tệ với sông: Các dòng sông lớn ở nước ta đang bị xâm hại nặng nề là vấn đề được các chuyên gia đưa ra tại tọa đàm “Sông ngòi và những thách thức” do Mạng lưới sông ngòi Việt Nam (VNR) tổ chức ngày 11/2. Bà Trần Thị Lệ Anh, đại diện Tổng cục Môi trường (Bộ TN-MT) cho biết, tình trạng ô nhiễm nặng nề nhất là ở các dòng sông Cầu, sông Nhuệ, sông Đáy và hệ thống sông Đồng Nai. Nguồn gây ô nhiễm chủ yếu là từ nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, khai khoáng, giao thông vận tải thủy, nuôi trồng thủy hải sản...

Đặc biệt, sông Cầu đoạn chảy qua tỉnh Bắc Ninh bị ô nhiễm trầm trọng do có nhiều làng nghề tập trung. Còn ở lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy cũng đang chịu sự tác động mạnh của nước thải sinh hoạt và các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản khiến chất lượng nước đến mức báo động, vào mùa khô thì càng nghiêm trọng hơn. Biểu hiện rõ nhất là đoạn sông Tô Lịch - sông Lừ - sông Sét - sông Kim Ngưu... bốc mùi hôi thối nồng nặc.

Hệ thống sông Đồng Nai chảy qua 11 tỉnh nhưng nguồn nước đang bị ô nhiễm trên diện rộng, mức độ ngày càng gia tăng từ thượng lưu đến hạ lưu. Các điểm nóng nhất là ở các vùng trung lưu và hạ lưu sông Sài Gòn, Đồng Nai, Thị Vải, một số kênh rạch ở Tp.HCM. Năm 2015, sông Sài Gòn đoạn chảy qua cầu Phú Cường, Thị xã Thủ Dầu Một, cầu Phú Long bị ô nhiễm vi sinh tăng nhiều lần so với năm 2014...

Xẻ thịt bãi bồi làm sân tennis, biệt thự

Ông Tứ, Giám đốc CEWAREC đã bỏ nhiều công sức đi ngược xuôi dòng sông Hồng đoạn chảy qua trung tâm Tp.Hà Nội dài khoảng 40 km từ địa phận xã Thượng Cát (Q.Bắc Từ Liêm) đến xã Vạn Phúc (H.Thanh Trì) để “mục sở thị” những thay đổi theo chiều hướng xấu đi của dòng sông trong những năm gần đây. Xâm hại phổ biến nhất là tình trạng người dân ở ven sông đổ rác thải, chất thải xây dựng tạo mặt bằng rồi làm nhà diễn ra khá phổ biến, không theo quy hoạch nào. Cùng với đó, bãi bồi ven sông thuộc hành lang thoát lũ, đặc biệt ở phía bờ gần trung tâm thành phố bị xẻ thịt làm sân bóng đá, sân tennis, khu sinh thái, trang trại, thậm chí là biệt thự nhà vườn... (Lê Quân).

QUYẾT BẢO VỆ SÔNG

Cần quyết tâm bảo vệ các dòng sông, nguồn sống của toàn dân.

Báo Thanh Niên 30/10/2015 có bài Buộc “vét” hơn 30.000 m3 đất thải: Chiều ngày 29/10, ông Nguyễn Nhuần, Phó Chủ tịch UBND H. Bắc Trà My (Quảng Nam), cho biết chính quyền địa phương đã buộc BQL dự án đường nam Quảng Nam và Công ty TNHH MTV Hữu Hay, doanh nghiệp thi công tuyến đường, phải “vét” hết 30.000 m3 đất thải bị doanh nghiệp đổ xuống sông Trường… Chính quyền địa phương đã phản ứng mạnh do hành vi này gây nguy cơ làm biến dạng dòng chảy… UBND H. Bắc Trà My đã ra thời hạn đến ngày 15/11 phải “vét” hết lượng đất thải đã đổ xuống sông Trường… (H.X. Huỳnh).

(Lời người viết: Sông Trường bị “lãnh” 30.000 m3 đất thải. Sông Đồng Nai đã “lãnh” bao nhiêu ngàn khối? Không thể tránh khỏi việc lòng sông bị bồi lên và dòng chảy bị ảnh hưởng).

Báo Thanh Niên ngày 12/12/2015 có bài Tốt nhất là dừng dự án lấn sông Đồng Nai: Bên lề cuộc tọa đàm, Ts. Vũ Ngọc Long, Viện trưởng Viện Sinh thái học miền Nam cho biết, sau khi Hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) dự án lấn sông Đồng Nai do Bộ TN-MT chủ trì không đồng ý với bản ĐTM do tỉnh Đồng Nai làm lại đã thống nhất chỉ đạo cho Trường ĐH Thủy lợi chủ trì làm lại ĐTM cho dự án. “Đề cương thực hiện ĐTM dự án lấn sông Đồng Nai đã gửi lên Bộ TN-MT thẩm định, phê duyệt. Theo tiến độ, lẽ ra đến nay (10/12/2015) đoàn khảo sát phải bắt đầu đi khảo sát thực tế nhưng Bộ vẫn chưa phê duyệt xong đề cương, nên chưa thể bắt đầu”, Ts. Long nói. Bà Đào Thị Việt Nga, người điều hành VNR chia sẻ cảm thấy rất buồn khi biết thông tin Bộ TN-MT không dứt khoát, giao các nơi làm đi làm lại ĐTM cho dự án này… “Ở góc độ là người quan tâm, chúng tôi mong muốn các cơ quan chức năng được giao làm lại ĐTM lần này công khai rộng rãi thông tin để xã hội cùng biết, góp ý. Tuy nhiên, quan điểm của VNR là cần dừng dự án lấn sông Đồng Nai lại, không cần phải thực hiện ĐTM nào nữa, tránh tốn kém nguồn lực xã hội. Thực sự mà nói, nếu cơ quan chức năng vẫn có chủ trương ủng hộ cho doanh nghiệp làm dự án thì dù có làm lại hay không làm lại ĐTM chỉ mang tính chất hình thức”, bà Nga nêu ý kiến.

Mục Tôi có ý kiến trên báo Thanh Niên ngày 13/12/2015 (btv T.T - Duy Khang, thực hiện), anh Trần Hải Triều (Q.8 Tp.HCM): Thời gian gần đây người dân không hề biết các thông tin về dự án lấp sông Đồng Nai tiến triển ra sao. Dự án vẫn đang tiếp tục hay bị dừng hay như thế nào thì người dân hoàn toàn “mù tịt”. Nếu dự án này vẫn còn tiếp tục thì tình trạng bức tử dòng sông chắc chắn còn diễn ra ở nhiều nơi khác, bởi nơi này làm được thì nơi kia cũng làm được.

Báo Thanh Niên ngày 29/12/2015 có bài Thủ tướng trả lời chất vấn về dự án lấp sông Đồng Nai: Ngày 28/12, báo Điện tử Chính phủ (chinhphu.vn) đã đăng tải thông tin Thủ tướng vừa có văn bản trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội về dự án lấp sông Đồng Nai: Đây là vấn đề khoa học phức tạp, để bảo đảm tính độc lập, khách quan, chính xác, khoa học, Thủ tướng đã giao cho Bộ TN-MT chỉ đạo Hội đồng thẩm định khẩn trương lựa chọn các đơn vị tư vấn đủ năng lực, uy tín để thực hiện nghiên cứu, đánh giá bổ sung, định lượng các tác động của dự án. Sau khi các đơn vị tư vấn hoàn thành, Hội đồng thẩm định tiếp tục xem xét, đề xuất phương án xử lý cụ thể nhằm hạn chế tác động tiêu cực của dự án, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật (có nghĩa là chưa giải quyết, để nghiên cứu thêm) (C.N theo chinhphu.vn).

Báo Thanh Niên ngày 30/12/2015 có bài Dự án lấp sông Đồng Nai “hổng” khâu pháp lý: Ngay sau khi Thủ tướng có văn bản trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội về dự án lấp sông Đồng Nai, trao đổi với Thanh Niên, hầu hết chuyên gia vẫn bảo lưu ý kiến: Vụ lấp sông Đồng Nai làm dự án đã vi phạm về cả pháp lý lẫn kỹ thuật quá rõ ràng, nên không cần thiết phải làm lại báo cáo đánh giá tác động môi trường mới.

Ts. Đào Trọng Tứ, Giám đốc Trung tâm tư vấn phát triển bền vững tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu (CEWAREC), cho biết: Đầu tiên tôi cảm thấy rất mừng vì Chính phủ và Thủ tướng rất quan tâm đến vụ việc này nói riêng và vấn đề môi trường nói chung. Chính Thủ tướng là người đã ra quyết định hủy dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A. Vụ lấp sông Đồng Nai làm dự án gây bức xúc trong dư luận trong một thời gian dài vừa qua; việc Thủ tướng có văn bản trả lời đại biểu Quốc hội là trả lời cử tri và nó thể hiện sự tôn trọng dư luận của Thủ tướng cũng như Chính phủ.

Vi phạm nhiều Luật - Tuy nhiên, Ts. Tứ nhận xét: “Điều quan trọng đầu tiên chính là tính pháp lý. Khi yếu tố đầu tiên là pháp lý đã vi phạm thì bàn đến những hệ quả, yếu tố phía sau đó như Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) để làm gì?”.

Đẩy cả khối bê tông ra bề mặt sông – Bên cạnh đó, TS Tứ cho biết: “Tôi vẫn cho rằng vụ việc ở Đồng Nai này chính là lấp sông để làm dự án phát triển đô thị. Điều này hoàn toàn khác với việc chỉnh trị sông như một số người vẫn nói. Người ta đã đẩy cả một khu phố ra bề mặt sông, lấp, lấn một đoạn sông như vậy thì không thể nói là chỉnh trị sông được. Và người ta dùng lý lẽ chỉnh trị sông để lờ đi yếu tố pháp lý mà hướng chủ yếu vào khía cạnh tác động dòng chảy. Nếu chỉ nhìn vấn đề ở góc độ hẹp, đơn giản như vậy thì người ta có thể lấp, lấn sông ở bất cứ đâu, bất cứ con sông nào mà họ muốn” (Chí Nhân).

Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC TỪ TRUNG RA BẮC

* Báo điện tử Tin Tức Việt Nam - Xã hội ngày 2/7/2015: Làng ung thư:

- Làng Thống Nhất, xã Đông Lô, huyện Ứng Hòa (Hà Nội) đứng đầu 10 làng ung thư do nguồn nước ô nhiễm.

- Làng Yên Lão, xã Hoàng Tây, huyện Kim Bảng (Hà Nam) vừa chôn anh Vũ Văn Dương, ung thư gan. Đây là trường hợp thứ tư chết vì ung thư trong vòng 5 tháng đầu năm nay do Trạm Y tế xã Hoàng Tây ghi nhận. Bà Vũ Thị Bút, 51 tuổi làng Yên Lão bị ung thư, chồng bị tâm thần, hai chị ruột bà Bút 47 và 49 tuổi cũng đã chết. Các nhà khoa học đánh giá nguồn nước ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống dân làng.

Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Việt Nam có tỉ lệ ung thư cao nhất thế giới với 150.000 ca mới một năm, 75.000 người đã chết/năm vì ung thư.

* Báo Thanh Niên 28/11/2015: Một thôn có quá nhiều người chết vì ung thư.

Chỉ trong vòng 2 năm 2014 và 2015 đã có đến 50 người chết vì bệnh ung thư ở thôn Lâm Xuân (xã Gio Mai, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị). Theo UBND huyện Gio Linh, thôn Lâm Xuân có khoảng 400 hộ dân, làm nghề nông, chỉ trong năm 2014, 2015 đã có 50 người chết vì ung thư. Những năm trước thôn cũng có nhiều người chết vì các căn bệnh hiểm nghèo… Đã từ lâu người dân nghi ngờ thủ phạm chính là nguồn nước. Hiện Lâm Xuân chưa có nước máy, dân phải khoan giếng để dùng nhưng vùng này nhiễm phèn rất nặng, nước bơm lên có mùi rất tanh… lọc xong vẫn còn tanh nhưng không có lựa chọn nào nên dân vẫn phải dùng nấu ăn, sinh hoạt… Ngày 19/11 Chủ tịch UBND huyện Gio Linh đề nghị UBND tỉnh Quảng Trị khẩn trương chỉ đạo các ban ngành lấy mẫu phân tích nước sinh hoạt… (Nguyễn Phúc).

* Báo Tuổi Trẻ cuối tuần 28/12/2015 (số liệu của Bộ Y tế và Bộ TN-MT - Btv Trần Mai) có bài Nỗi niềm Phước Thiện.

Khi các chuyên gia y tế đầu ngành kết luận thôn Phước Thiện (xã Bình Hải, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) được xếp thứ 8 trong 37 làng ung thư ở Việt Nam, người dân thật sự lo lắng, có người đã muốn rời làng…

Nỗi ám ảnh: Trong hơn 1 tuần mà ông Tu Đình Nhựt 53 tuổi chết vì ung thư lưỡi, ông Lê Đắc Hòa chết vì ung thư phổi, cùng ngày một người nữa chết vì ung thư gan. Mới đây các chuyên gia đầu ngành về nguồn nước và môi trường do Bộ TN-MT phái tới kiểm định cho biết: Nguồn nước ở Phước Thiện có mức ô nhiễm vượt tiêu chuẩn, xếp thứ 8 trong 10 làng ung thư ở Việt Nam có nguồn nước ô nhiễm nặng nhất. Giám đốc Sở Y tế Quảng Ngãi cho biết sự xuất hiện và tăng nhanh bệnh ung thư ở Phước Thiện đã diễn ra nhiều năm qua. Số thống kê: Trung bình cả nước mỗi năm có 9.000 trường hợp phát hiện ung thư mà nguyên nhân là do sử dụng nguồn nước ô nhiễm.

* Báo Thanh Niên 22/6/2015: Sông “chết” bao vây Hà Nội (Btv Hà An):

Với chiều dài gần 20 km chảy qua địa bàn thủ đô (điểm đầu ở Q. Bắc Từ Liêm, điểm cuối tại H. Phú Xuyên), nhiều khúc của sông Nhuệ nước đen kịt, đặc quánh, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc và gần như không còn xuất hiện sự sống dưới lòng sông.

Tôm cá chết trắng, người mang bệnh: Tại đây, có những thời điểm lòng sông gần như cạn khô, xác các loài động vật trương phình, thối rữa, bốc mùi cực kỳ khó chịu... Theo các hộ dân sinh sống dọc hai bên bờ, thực trạng ô nhiễm trên sông diễn ra đã lâu và ngày một tăng theo sự xuất hiện của hàng loạt những khu đô thị, khu chung cư… Nhiều đoàn kiểm tra vệ sinh môi trường H. Thanh Oai về lấy mẫu nước giếng đi xét nghiệm, và kết quả cho thấy nước giếng ở Cự Khê bị nhiễm asen ở mức độ cao vượt ngưỡng cho phép.

Sông “chết” hàng loạt vì nước thải : Không riêng sông Nhuệ, những người dân sinh sống dọc hai bên bờ sông Tô Lịch, đoạn chảy qua hai quận Cầu Giấy và Thanh Xuân, nhiều năm phải “chống chọi” với cảnh ô nhiễm của dòng sông. Qua nhiều lần cải tạo và không ít giải pháp khắc phục nhưng hiện dòng sông này vẫn ô nhiễm nặng nề: nước sông càng lúc càng cạn, màu nước càng ngày càng đen và bốc mùi hôi thối nặng. Thậm chí dòng sông hiện nay trông chẳng khác nào một hồ chứa nước thải mà chẳng còn loài sinh vật nào có thể sống được. Qua tìm hiểu, mỗi ngày có tới gần 250.000m3 nước thải xả thẳng xuống dòng sông mà không hề qua xử lý. Dòng sông này từ lâu đã thực sự là nỗi kinh hoàng của các hộ dân sinh sống dọc hai bên bờ… Theo khảo sát của PV, tại các sông thoát nước chính khác của Hà Nội như sông Lừ, sông Sét và sông Kim Ngưu... tình trạng ô nhiễm cũng đang ở mức báo động đỏ. Ở nhiều đoạn, lòng sông chẳng khác cái ao tù, nước đen đặc, nổi váng, bốc mùi xú uế nặng, ruồi nhặng bu kín. Có lẽ, cũng khó mà “sống” được khi mỗi ngày, 3 con sông này đang phải hứng chịu hàng nghìn mét khối nước thải từ hệ thống thoát nước chung của thành phố, bao gồm nước sinh hoạt, nước thải công nghiệp và thậm chí là nước thải bệnh viện...

Đáng báo động: Theo Chi cục Bảo vệ môi trường (Sở Tài Nguyên - Môi Trường Hà Nội), chất lượng nước ở các con sông chảy qua địa bàn thủ đô như sông Tô Lịch, sông Sét, sông Lừ, sông Nhuệ, sông Kim Ngưu đều trong tình trạng đáng báo động, nhiều hàm lượng vượt quy chuẩn của Bộ Tài Nguyên - Môi Trường. Cụ thể như hàm lượng: BOD vượt 2 - 5 lần, COD vượt 2 - 6 lần, Phosphat vượt 4 - 5 lần, Sắt vượt 1,5 - 2 lần, Amoni vượt 18 - 40 lần, Coliform vượt 2 - 100 lần. Nguyên nhân là do các nguồn nước thải trực tiếp ra sông hồ không được xử lý triệt để. Từ đây, sản xuất nông nghiệp, môi trường sống bị ảnh hưởng, đặc biệt là những người dân sinh sống dọc hai bên bờ sông.

Nguồn bệnh nan y: Theo PGS-TS Trần Đức Hạ - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu cấp thoát nước và môi trường thuộc Hội Cấp thoát nước VN, hiện nguồn nước ngầm của Hà Nội đang có nguy cơ bị ô nhiễm nặng. Nguyên nhân là do lượng nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường quá lớn. Chỉ tính riêng trong khu vực nội đô, mỗi ngày lượng nước thải xả thẳng ra hệ thống sông hồ vào khoảng 650.000 m3/ngày/đêm. Tuy nhiên, hiện tại mới chỉ có 3 nhà máy xử lý nước thải đi vào hoạt động với tổng công suất chỉ trên 206.000 m3/ngày/đêm. Do vậy gần phần lớn lượng nước thải ở khu vực nội đô vẫn chưa được xử lý triệt để. PGS-TS Hạ cảnh báo, nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra sông hồ sẽ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, ảnh hưởng tới đời sống, sức khỏe cộng đồng người dân. Đặc biệt đáng lo ngại là hiện nhiều khu vực ở Hà Nội nước ngầm bị nhiễm các độc tố chính như măng gan, sắt, asen và amoni... Riêng độc tố amoni, khi đi vào cơ thể người sẽ làm thay đổi hồng cầu, gây ra một số bệnh nan y (Hà An).

* Báo Thanh Niên 23/6/2015, mục Tôi Có Ý Kiến (Ban CTBĐ tổng hợp)

Hãy biết bảo vệ những dòng sông, bài viết Sông “chết” bao vây Hà Nội trên Thanh Niên ngày 22/6 nhận được rất nhiều ý kiến phản hồi từ bạn đọc:

- Kinh hoàng : Nhìn hình ảnh những dòng sông “chết” cũng như thông tin phản ánh qua bài viết mà tôi thấy kinh hoàng. Chính con người đang dần dần tự hủy hoại môi trường sống chung quanh mình. Đó là nguồn cơn của bệnh tật, những tai ương sẽ ập đến với con người khi môi trường bị ô nhiễm ngày càng nặng nề. (Võ Tân Phúc - votanphuc@gmail.com ).

- Phải thay đổi cách hành xử với sông : Cả nước có hàng ngàn con sông nhưng vẫn thiếu nước, đến nay thì sông ở Hà Nội đang dần “chết”, các dòng sông ở Tp.HCM cũng trong tình trạng tương tự. Còn ở Đồng Nai, người ta lại cho phép lấp sông để xây nhà. Chúng ta đang làm gì, đối xử như thế nào với các dòng sông - mạch sống của chúng ta? Nếu không thay đổi quan điểm, cách ứng xử với những con sông, chắc chắn chúng ta sẽ nhận lãnh những hậu quả khủng khiếp trong tương lai rất gần. (Vũ Trọng Nghĩa - trongnghia43@ yahoo.com)

- Ai cũng thấy ích lợi từ những dòng sông, nhất là ở các đô thị. Thế nhưng ít ai bảo vệ, mạnh ai người ấy cứ cố tình xả rác khiến cho các dòng sông ngày càng chết dần, chết mòn. (Phan Hoài Phương - Q.7, Tp.HCM)

- Nếu con người không dừng ngay những hành động phá hoại như xả rác, thay đổi dòng chảy thì sẽ lãnh nhiều hậu quả khủng khiếp hơn. (Nguyễn Thị Hương, H. Bù Gia Mập, Bình Phước ; T.T - Duy Khang thực hiện)

- Chung tay bảo vệ : Phát triển bền vững luôn đi liền với việc bảo vệ môi trường sống, môi trường tự nhiên. Nạn xả thải trực tiếp ra sông của các công ty, xí nghiệp cũng như của người dân đã đến tình trạng báo động khiến các dòng sông “chết” dần. Chúng ta cần sớm thức tỉnh, chung tay bảo vệ các dòng sông. (Điểu Minh - dieuminhvn@yahoo.com ).

* Báo Thanh Niên ngày 13/12/2015, mục Tôi Có Ý Kiến (Ban CTBĐ tổng hợp)

Sông là sinh mệnh hàng triệu người: Bảo vệ các dòng sông cũng chính là bảo vệ cuộc sống của con người… là ý kiến của nhiều bạn đọc về bài viết Đối xử tệ với sông trên Thanh Niên 12/12/2015:

- Tình trạng ô nhiễm trên sông ngòi đã được phản ánh từ rất lâu. Tác hại của ô nhiễm sông ngòi cũng được nhìn thấy trước. Thế nhưng, một giải pháp hữu hiệu vẫn còn nằm ở đâu đó, chưa được triển khai trên thực tế. Nếu chúng ta không hành động ngay từ bây giờ để bảo vệ sông, trong tương lai không xa, chúng ta sẽ nhận lãnh hậu quả rất khốc liệt - Nguyễn Đình Phước (Bình Thạnh, Tp.HCM).

- Phải trả giá cho việc làm trái tự nhiên - Nguyễn Phong Hồng (H. Phú Riềng, Bình Phước).

- Hủy hoại tự nhiên - Bùi Hoàng Long (Q.5, Tp.HCM).

- Dừng ngay vì đã quá muộn - Phạm Thu Thủy (Q.3, Tp.HCM).

- Tình hình đáng báo động - Cao Văn Kiến (Q.7, Tp.HCM).

- Hãy trả lại các con sông như ban đầu - Mai Thanh Huy (Tx.Long Khánh, Đồng Nai).

- Dân cần được tham gia bảo vệ sông - Bùi Trọng Dũng (Tp.Phan Thiết, Bình Thuận).

* Báo Thanh Niên 22/4/2016: Nghi vấn ống xả thải khổng lồ dưới biển Vũng Áng (btv Thanh Niên):

Ngày 21/4, ông Phạm Khánh Ly, Vụ phó Vụ Nuôi trồng thủy sản (Tổng cục Thủy sản), xác nhận ngư dân Hà Tĩnh trình báo đã phát hiện một đường ống nghi là hệ thống xả thải từ dự án Formosa “cắm” xuống đáy biển Vũng Áng. Chiều dài của đường ống khoảng 1,5 km; đường kính 1,1 m. Một đầu của đường ống nối từ khu vực dự án Formosa (khu kinh tế Vũng Áng, Tx. Kỳ Anh), đầu còn lại nối liền với 3 đoạn đường ống nhỏ (mỗi đoạn dài khoảng 2m, đường kính khoảng 40cm). “Vào thời điểm phát hiện, tôi thấy đường ống này phun nước rất mạnh. Nước phun từ đường ống ra có màu vàng đục, nhừa nhựa, mùi hôi thối, khi ngửi thì cảm thấy rất ngạt thở”, anh Thành nói.

Sau khi phát hiện đường ống trên, anh Thành đã tới Đồn biên phòng Đèo Ngang (thuộc Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh) trình báo, đồng thời vẽ lại sơ đồ và vị trí của đường ống cho đơn vị này nắm được. Trung tá Nguyễn Khắc Minh, Đồn phó Đồn biên phòng Đèo Ngang, xác nhận đơn vị đã nhận được thông tin về việc có một đường ống khổng lồ nghi được sử dụng để xả thải, nối liền từ khu vực dự án Formosa ra đáy biển như anh Thành đã trình báo. “Chúng tôi đã trình báo vụ việc này cho cấp trên là Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh và đang chờ ý kiến chỉ đạo”, Trung tá Minh nói.

(còn tiếp)

Lm. Joseph NGUYỄN HỮU TRIẾT

TÔN VINH PHẬT

Có thể nói là chưa bao giờ nước ta Chùa chiền lại phát triển nhiều như bây giờ, Chùa sau luôn hoành tráng hơn Chùa trước, thậm chí không thèm so sánh với Chùa trong nước, mà phải lớn hơn, hoành tráng hơn các Chùa ở Đông Nam Á. Phải chăng mức độ kính ngưỡng Phật của dân tộc mình đã đạt tới đỉnh cao? Hiện tượng đó nói lên được điều gì so với Đạo Phật chân chính? Đó có phải là niềm vui và là sự hãnh diện cho Phật Tử? Có nói lên là Chánh Pháp đã đến thời kỳ hiển lộ hay không?

Quả thật trong khi xã hội ngày càng bất an. Các nhà phê bình cũng đã lên tiếng là đạo đức suy đồi. Nạn trộm cắp, giựt dọc, giết người ở đâu cũng có, và mức độ ngày càng tàn bạo, tinh vi hơn. Con người của thời đại mới ngày càng hung bạo hơn, chỉ cần va chạm nhau một chút, hay vô tình làm mất lòng ai đó, có khi chỉ là một ánh nhìn, một câu nói xúc phạm, thì coi chừng lúc sau có cả băng nhóm kéo tới để bao vây, truy sát. Lường gạt ngày càng tinh vi, vì thế, không chỉ làm cho giới trẻ quên mất mục tiêu phấn đấu bằng cách chịu khó học hỏi mà lại muốn làm giàu nhanh chóng nên một số đã sa vào bẫy bán hàng đa cấp rồi làm khổ gia đình, họ hàng. Người già, về hưu cũng không thoát, vì những lời hứa hẹn có cánh, không cần làm gì, chỉ bỏ vô một ít là tự nó sinh sôi gấp nhiều lần chỉ trong một thời gian ngắn, ai mà chẳng ham! Học sinh thì đua đòi, ỷ mạnh hiếp yếu, cả băng nhóm hùa nhau đánh đập một đứa bạn nào đó rồi quay clip, tải lên mạng để hạ nhục! Những người đó chỉ hối hận khi đối mặt với pháp luật và lãnh bản án mà thôi.

Nhìn hiện tượng xã hội, ta thấy, một mặt thì cái ác đang càng bành trướng, mặt khác là chùa chiền mọc thêm lên. Hai phía Thiện, Ác làm như đang nỗ lực để chứng minh sự hiện diện của mình, trong khi đó thì người lương thiện ai mà chẳng mong một xã hội yên bình, mọi người vui vẻ sống với nhau, chiến tranh, thù hận, ganh ghét, đàn áp nhau không còn nữa…

Xã hội là một ngôi nhà chung, gia đình và nhà trường có trách nhiệm lớn nhất. Nhưng các bậc phụ huynh hiện nay, do cuộc sống khó khăn nên không có thì giờ quan tâm đến con cái, phó mặc cho nhà trường đào tạo được gì hay nấy. Nhà trường là nơi để trẻ con tiếp thu thêm kiến thức chuyên môn, làm vốn kiếm sống khi vào đời. Nhưng do bài vở quá nặng, nên việc trau dồi đạo đức đã bị xem nhẹ, quên rằng ngoài kiến thức, trẻ con rất cần rèn luyện đạo đức, bởi có đạo đức thì xã hội mới yên bình được. Học giỏi bao nhiêu mà thiếu đạo đức thì làm việc nào cũng gây tổn thất nơi đó, bởi chỉ biết vơ vét càng nhiều càng tốt để lo cho bản thân, không nghĩ đến lợi ích chung. Nếu gia đình, nhà trường gieo được cho những đứa trẻ hạt mầm đạo đức, nó đã in sâu vào đầu óc, thì khi trưởng thành hẳn không cần luật pháp nhắc nhở mà vẫn không quên trách nhiệm của mình đối với xã hội, với cuộc đời. Ngoài gia đình, nhà trường, thì có một lực lượng thứ ba góp phần không nhỏ cho việc hướng thiện con người đó là Tôn Giáo. Tôn Giáo không chỉ có ích lợi rất lớn cho việc hướng con người đến những điều tốt lành, mà hàng tuần, hàng tháng, những bài thuyết giảng của các Linh Mục hay các Tu sĩ Phật Giáo luôn dạy con người tránh ác, hành Thiện. Vì thế, Tôn Giáo nào có các điều khoản, giới, luật để nhắc nhở, hướng thiện cho mọi người, hướng dẫn con người biết yêu thương ông bà cha mẹ, yêu thương dân tộc, quê hương, đất nước, không xâm phạm tiền bạc, tài sản của người khác thì đó mới là Tôn Giáo chân chính.

Thật vậy, thoạt nhìn các Tôn Giáo ta sẽ tưởng là chỉ là hướng con người về việc Tôn Thờ, kính mến Giáo Chủ và chịu sự thưởng phạt từ Người. Nhưng nếu chịu khó xét cho kỹ, thì sẽ thấy trong đó các vị Giáo Chủ đã khéo léo cài đặt một số điều kiện để tín đồ phải chấp hành nếu theo mình. Đó là Giới, Luật mà Tín đồ phải tuân giữ.

Có hai Tôn Giáo được cho là có số lượng tín đồ đông nhất là Đạo Thiên Chúa và Đạo Phật. Bên Thiên Chúa Giáo có 10 Điều Răn của Chúa và Sáu Điều Răn của Hội Thánh. Điều Răn thứ Bốn của Chúa là phải “Thảo Kính cha mẹ”, Thứ Năm là “Chớ giết người”. Thứ Sáu “Chớ làm sự Dâm Dục”. Thứ Bảy “Chớ lấy của người. Thứ Tám “Chớ làm chứng dối”. Thứ Chín “Chớ muốn vợ chồng người”. Thứ Mười “Chớ tham của người”. Mười Điều Răn ấy tóm về hai điều: “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”. Như vậy, nếu người giáo dân chỉ một bề đi nhà thờ, thành kính xưng tội, rước lễ đều đặn mà bất hiếu với cha mẹ, thiếu quan tâm đến người khác, bỏ mặc cho họ nghèo đói, thiếu thốn, trong khi ta thừa thãi thì liệu đã giữ đúng, giữ đủ Điều Răn của Chúa chưa?

Bên Đạo Phật cũng không khác: Trong Năm Giới cũng là cấm Giết, Trộm Cắp, Dâm Dục, Nói Dối, thêm điều khoản không được uống rượu, vì Đạo Phật cho rằng khi con người say sưa, đánh mất lý trí rồi thì Giới nào cũng có thể phạm qua câu chuyện sau: Có một Thầy Tu, giữ Giới rất là nghiêm chỉnh. Một lần nọ, đi đường xa quá mệt, vừa đói là vừa khát. Ông ta ghé vào một ngôi nhà bên đường để xin nước. Không thấy chủ nhà, nhưng có một cái lu đựng rượu mà ông ta tưởng là nước, bèn múc một gáo to, uống một hơi. Khi say rượu, ông ta bèn bắt con gà của chủ nhà làm thịt để ăn. Lúc chủ nhà về phát hiện, hỏi thì ông ta chối. Câu chuyện cho rằng chỉ cần phạm một Giới Tửu thôi, là dễ dàng phạm luôn những Giới khác, vì khi say rồi thì không còn lý trí, không còn làm chủ được hành vi nữa.

Dù rằng trong Năm Giới của Đạo Phật không có đề cập đến việc phải thảo kính cha mẹ như Điều Răn Chúa của Đạo Thiên Chúa, nhưng không phải là sơ sót trong việc nhắc nhở người tu về đạo làm, con, làm người, bởi cuối cùng, khi người tu đã làm xong cho mình thì phải đền TỨ ÂN. Trong đó, Ân đầu tiên phải báo đền là Ân Cha Mẹ, rồi đến Ân Đất Nước đã che chở cho mình. Ân Thầy, Ân Phật dạy Đạo cho mình và Ân của mọi người, của chúng sinh, vì góp phần cho mình thành tựu con đường tu hành.

Con đường tu Phật chân chính chỉ là mỗi người tự quay vô để Sửa Cái Tâm - cái đã điều khiển cho cái Thân mọi hành vi - để nó không còn dẫn dắt cho cái Thân hành động sai quấy, là nguyên nhân phải lãnh bao nhiêu Nghiệp xấu, bởi đôi khi phạm tội quá nặng thì không được làm người, mà phải đọa vào kiếp cầm thú. Theo Đức Thích Ca, để có được một thân người toàn vẹn đã là rất khó, nhưng để không phải làm một con người mà phải Khổ vì nghịch cảnh thì cũng là nhờ đã tích phước hay không tạo ác nghiệp từ kiếp xa xưa. Đã vậy, mỗi người không chỉ sống hết kiếp này là xong, vì cái Thân hết Nghiệp thì Chết, nhưng Chân Tánh thì Bất Sinh, Bất Tử, vì thế, cuộc sống lại sẽ được tiếp nối dưới một dạng khác. Có thể tạm ví Chân Tánh như nguồn điện, mà những cái Thân như là những chiếc bóng đèn mà Nghiệp, Duyên của quá khứ làm ra hình dáng, màu sắc, tuổi thọ của nó. Bóng đèn thì có tuổi thọ nhất định, đến thời điểm nào đó thì sẽ đứt tim hoặc vỡ. Nhưng nguồn điện thì vẫn còn, khi được thay bóng khác thì lại sẽ tiếp tục chiếu sáng…

Đạo Phật không trở về quá khứ để cho rằng Thần Linh hay Thượng Đế đã tạo ra con người hay vũ trụ, chỉ chú trọng giải quyết cuộc sống bắt đầu từ hiện kiếp, vì Đạo Phật luận theo Nhân Quả nên cho rằng cái Thân mỗi chúng ta đang mang hiện tại đây, là chính do Nghiệp Thiện hay Ác mà chúng ta đã làm từ kiếp trước. Rồi cũng tương tự như thế mà có cái Thân của kiếp sau. Do vậy, học Đạo Phật là học cho biết nguyên nhân của Sinh Tử Luân Hồi, của Nghiệp Quả và cách thức hóa giải, rồi thực hành theo. Đức Thích Ca không thể cứu độ hay trừng phạt chúng ta. Đọc kỹ cuộc đời của Ngài từ lúc sinh ra, trưởng thành, đi tu và những gì Ngài thấy được gọi là Đắc Đạo rồi truyền lại, ta thấy Ngài chỉ là người đi trước, thấy được cách thức để Thoát Khổ, rồi vì lòng Từ Bi nên đã dùng cả cuộc đời còn lại để thuyết giảng, ai tin thì làm theo đó để được Thoát Khổ mà thôi. Chính vì vậy mà Đạo Phật được gọi là Đạo ĐỘ KHỔ. Đạo Phật cũng cho là mỗi hành vi của chúng ta, từ nghĩ tưởng cho tới thực hiện đều là cái NHÂN, đến lúc nào đó nó sẽ hình thành, gọi là Quả, và dùng đó để giáo dục cho con người sợ phải gặp Quả Báo mà Cải Ác, Hành Thiện, vì thế Đạo Phật còn được gọi là Đạo Nhân Quả. Vì thế, người tin rằng Phật là Thần Linh, có quyền phép vô biên để cứu độ hay ban ân, giáng họa cho tất cả mọi người rồi tôn thờ, cầu xin thì đó là người hiểu lầm phương tiện mà Đạo Phật đã dùng.

Hoàn toàn khác với với bên Đạo Thiên Chúa, vì Đạo này cho rằng Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo ra tất cả, toàn quyền thưởng phạt khi con người làm lành hay làm ác, do đó, việc thờ phụng, cầu xin Chúa là điều cần làm. Bên Đạo Phật, trái lại, Giáo Chủ là Đức Thích Ca chỉ là một con người bình thường như tất cả mọi người. Ngài chỉ là người khám phá ra cách thức để Thoát Khổ rồi hệ thống lại trong Giáo Pháp gồm những lý thuyết, những bài học, bài tập để người tu tự Quán sát, Tư Duy, thực hành, rồi nhận lấy kết quả của việc mình làm. Đức Thích Ca không có quyền can thiệp vào số phận của chúng ta hay của vũ trụ, vì Ngài không phải là Thần Linh. Chính mỗi chúng ta sẽ là người quyết định số phận cho mình theo Luật Nhân Quả. Làm Lành có Quả Lành, Làm Ác gặp Quả Ác. Phật không thể bao che, tha thứ, cứu độ cho chúng ta được, nên chỉ những người không hiểu hết về Phật mới cầu xin Ngài.

Dù Đức Thích Ca có ân lớn đối với con người, là đưa ra một phương pháp để cứu cho con người Thoát Khổ, nên chúng ta tri ân Ngài là điều cần làm. Thế nhưng, ai cũng biết, để tỏ lòng quý mến một ai đó, thì công thức chung là tặng cho họ những vật dụng hay những thứ mà họ yêu thích. Với phụ nữ thì tùy theo khả năng mà người yêu thích nàng sẽ tặng nữ trang, xe hơi, vật dụng, biệt thự v.v... Trước đó còn phải hỏi ý kiến xem nàng thích loại nào, kiểu nào, không thể tùy tiện mua tặng. Với cấp trên cũng thế, người nhân viên muốn tặng quà còn phải cất công đi dò hỏi những ngày kỷ niệm của gia đình sếp, ngày sinh nhật, ngày cưới v.v... để mua quà cho phù hợp, lại phải biết ý sếp thích được tặng những món gì? Đi ăn thì ở nhà hàng nào? Du lịch thì nước nào v.v… để món quà làm hài lòng người được tặng. Cúng Giỗ cho ông bà cha mẹ cũng thế. Con cháu thường cúng những thứ ông bà yêu thích lúc sinh tiền. Ông bà ăn chay thì không bao giờ cúng mặn. Ông bà hay bố thí cho người nghèo thì lúc đó họ cũng làm như thế để tỏ lòng thương nhớ. Thế nhưng để tôn vinh Phật thì chúng ta thấy đa phần có vẻ hay làm ngược lại với những gì lúc sinh tiền Ngài đã làm. Sinh thời, Ngài bỏ cung vàng, điện ngọc, xa mã để đi làm Du Tăng Khất Sĩ, cư ngụ trong rừng hay dưới cội cây. Cả cuộc đời Đức Phật từ khi tu hành là sống thanh đạm, nuôi thân bằng Khất thực, ai bố thí cho thứ gì thì ăn thứ đó, không đòi hỏi mâm cao, cỗ đầy, không cần biết món chay hay mặn. Đi thì đi bộ, chân trần. Y phục thì chỉ nhằm mục đích che thân nên dùng vải liệm thi là thứ thiên hạ vất đi, hoặc vải thô, còn mang hoại sắc đi. Không chỉ có lòng từ bi đối với đồng loại, thậm chí thời điểm mà thú rừng sinh sôi, Ngài còn dạy Chư Đệ Tử phải an cư để tránh dẫm phải, làm tổn hại đến những sinh vật bé nhỏ.

Vậy mà, từ nhiều thời cho đến hiện nay, để tôn vinh Phật thì chúng ta thường hô hào nhau cất chùa cho to, trang hoàng lộng lẫy, dùng vàng, bạc hay chất liệu quý để đúc tượng cho lớn, rồi khói hương thờ lạy! Những nước như Miến Điện, Thái Lan, Campuchia còn dùng vàng để đúc mái Chùa, đúc Tượng, cẩn ngọc quý lên đó mà cho tới thời này trở thành những điểm du lịch thu hút du khách khắp nơi đến chiêm bái. Số người Xuất Gia ngày càng đông nhưng đa phần là Thờ Phật, không phải là tu Phật, nên vắng hẳn những bài Kệ như của các vị Giác Ngộ thời xưa, chỉ tập trung vào việc Tụng Kinh, Niệm Phật, tổ chức lễ hội cho đình đám. Chùa chiền cũng mất đi nét thanh tịnh, u nhàn, mà cũng rộn ràng xe cộ màu sắc! Việc đào tạo bậc giác ngộ không thấy nói đến mà chỉ chú trọng đến thu nạp đệ tử cho đông, cất thêm nhiều chi nhánh, kêu gọi tín đồ quy y cho nhiều, cho rằng như vậy là hoằng dương Chánh Pháp. Theo tôi, lẽ ra như thế gian thường tình, chúng ta muốn tôn vinh ai thì cách hay nhất là làm cho họ hài lòng. Điều Đức Thích Ca mong mỏi không phải là những Chùa Chiền to lớn, trang hoàng lộng lẫy, lễ hội hoành tráng, đông đảo tín đồ, mà là tất cả mọi người sẽ Thành Phật như ngài. Điều mong mỏi đó được thể hiện qua lời Thọ Ký: “Ta là Phật đã thành. Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”, hoặc câu Kệ Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa:“Xá Lợi Phất nên biết. Ta muốn tất cả chúng. Bằng như ta không khác” sao chúng ta không nghiên cứu để thực hiện điều đó?

Đạo Phật ra đời cũng gần được 3.000 năm rồi, Phật Tử có vẻ như ngày càng đi vào thờ cúng, cầu xin càng nhiều, khác hẳn những gì Đức Thích Ca dạy đến nỗi những nhà Khảo Cổ, khi đến Ấn Độ để khảo sát những địa danh nơi Đức Phật sinh ra và giảng đạo đã thốt lên câu đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Trớ trêu thay, sau cái chết của Đức Phật - người đã giảng về sự vô ích của những nghi lễ thờ cúng và sự sùng bái cá nhân - lại trở thành đối tượng được thờ cúng và sùng bái nhiều nhất trong lịch sử”! Theo những gì mà Đạo Phật đặt ra cho mỗi người ngay khi bước vào quy y và suốt đời phải giữ, là Ngũ Giới, trong đó thể hiện sự tôn trọng tự do, tư hữu của người và vật chung quanh, lời nói phải trung thực, và đền đáp Tứ Ân qua cách sống. Vì vậy, nếu chúng ta cho rằng mình là đệ tử Phật, mà không hiếu kính ông bà cha mẹ, sống cho có đức độ, hành theo những gì Phật mong mỏi, chỉ chú trọng vào hình thức bên ngoài, thì e rằng chưa xứng đáng là đệ tử của Ngài, vì Phật Ngôn có câu: “Kẻ nào ca ngợi ta, tán thán ta mà không hành theo lời ta chỉ dạy. Kẻ đó đang phỉ báng nặng nề ta”.

Tháng 8/ 2017

Tâm Nguyện


Phụ Bản I

THÊM NHỮNG KỶ VẬT QUÝ HIẾM…

Nhà Lưu niệm “Văn học Nga ở Việt Nam” khai trương cách đây hơn 2 năm, 23 tháng 5 năm 2015, vào dịp kỷ niệm 65 năm thành lập Hội hữu nghị Việt - Xô, Việt - Nga trên đất Chợ Giầu, Từ Sơn, Bắc Ninh ngay bên tay phải đường quốc lộ số Một hướng lên phía Bắc, hiện đang được củng cố và tiếp tục hoàn thiện.

Quy mô Nhà Lưu niệm vẫn chỉ khuôn trong hai gian nhà gác hai tầng: tầng một mang tên chủ đề NHỮNG TRANG TÌNH NGHĨA và tầng hai dành trọn giới thiệu quá trình Văn học Nga ở Việt Nam. Bước sang năm thứ ba tồn tại, năm 2017, mang một ý nghĩa đặc biệt với sự kiện “năm Kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Mười Nga”, Nhà Lưu niệm được xếp sắp thêm các mảng chuyên đề với những hiện vật mới quý hiếm. Ngoài các tủ riêng dành cho các chuyên đề Hơn nửa thế kỷ thơ Nga ở Việt Nam, Puskin ở Việt Nam, Những tác phẩm văn học Nga điển hình…, bước đầu tập hợp và hình thành góc: Tác phẩm viết cho thiếu niên, nhi đồng của văn học Nga, văn học Xô viết. Những người truyền bá văn học Nga, văn học Xô viết ở Việt Nam: Các nhà giáo, các nhà nghiên cứu, các dịch giả và sách giáo khoa và nghiên cứu về văn học Nga, văn học Xô viết. Đặc biệt đang hình thành tủ bản thảo, di cảo của các thế hệ dịch giả văn học Nga, văn học Xô viết. Có những bản thảo quý của những nhà văn, nhà thơ từ thế hệ đàn anh dịch qua bản dịch ngôn ngữ trung gian như Pháp, Anh, Trung Quốc hoặc theo bản dịch nghĩa từ nguyên bản tiếng Nga, như các bản thảo của Xuân Diệu, Tế Hanh, Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Trung Thông, Hoàng Yến, Ý Nhi, Nguyễn Quang Thân,… nhiều bản thảo của lớp dịch giả dịch trực tiếp từ nguyên bản tiếng Nga.

Trong số đó phải kể có những bản thảo cực kỳ quý hiếm. Trước hết phải kể đến bản dịch qua tiếng Pháp của nhà báo - nhà văn, cũng là một dịch giả nổi tiếng Phan Quang - dịch tác phẩm (truyện vừa) Mùa hè thứ ba của nhà văn - nhà thơ Nga Xô viết từ lâu đã quen thân với nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam, kể từ hơn nửa thế kỷ trước sau khi 2 bài thơ của ông được nhà thơ Việt Nam hàng đầu Tố Hữu dịch, công bố trên hai số tạp chí Văn nghệ mới ra đời dưới tán rừng Việt Bắc vào những năm 1949-1950. Bản dịch được đánh máy trên 45 trang giấy pơ-luya đã ngả màu sản xuất từ tre nứa. Nhân dịp kỷ niệm 90 năm Cách mạng tháng Mười Nga, năm 2007, dịch giả Phan Quang bấy giờ đã bước vào tuổi 80, đã trao tặng cho chúng tôi một trong 3 bản còn giữ được từ sau khi hoàn thành bản dịch cuối năm 1950. Được nghe câu chuyện của dịch giả kể lại vắn tắt về lai lịch bản dịch có lẽ ai cũng phải xúc động…

Bấy giờ vào khoảng tháng 9 năm 1950 một số văn nghệ sĩ về tập trung tại an toàn khu của mặt trận Nam Trung bộ. Một bữa nhà báo Phan Quang còn trẻ măng, một chàng trai chưa có vợ mới hơn hai mươi tuổi thanh xuân, được nhà văn Bùi Hiển, từng nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng Tám 45, thuộc lớp đàn anh, nhưng cũng còn đang sung sức tráng kiện, rủ nhau nhân lời mời của ông Trưởng Ty công an Thừa Thiên Huế lên chơi đọc sách tại cơ sở của ông gần cố đô Huế. Ông có cả một thư viện sách mới do cơ sở nội thành Huế đặt mua tận Paris nhận về, vừa chở ra tận chiến khu. Một căn nhà lá tre nứa được ông cho dựng lên còn chưa hết màu xanh của thân tre, khá rộng rãi ẩn dưới tán rừng lồ ô… Quanh nhà có những hàng giá đơn sơ nhưng xếp đầy sách mới và báo chí. Nhà văn - nhà báo như “chuột sa chĩnh gạo”, được thết đãi như thượng khách, cơm bưng nước rót, thảnh thơi thỏa sức chúi mũi vào đọc. Sách mới còn thơm mùi mực in, các trang giấy gấp còn chưa rọc. Có khá nhiều sách của các tác giả Nga - Xô viết đã được dịch và xuất bản sang tiếng Pháp: Paris thất thủ của Ilya Ehrenburg, Những người bất khuất, của Boris Gorbatov, Những câu chuyện chiến tranh, của Konstantin Simonov…

Nhưng thật đáng tiếc, đang say sưa với bữa tiệc sách, thì nghe tiếng rít lạ. Rồi hai chiếc máy bay Spitfire từ đâu xộc đến gầm rú… Căn cứ bí mật của ông Trưởng Ty bị lộ mất rồi. May mà khách kịp xuống hầm. Nhưng thư viện tan hoang và cái ba lô của nhà văn Bùi Hiển bị dính đạn, (đến khi đi tắm lấy quần áo ra thay, thì nhà văn phát hiện ra -chiếc áo nâu mồi của nhà văn gấp vuông vắn gọn gàng trong ba lô, giở ra mặc lỗ chỗ hàng loạt lỗ thủng xuyên khoai loang lổ.

Ít lâu sau ra hậu phương gặp nhau lại ở cơ quan, nhà báo Phan Quang lại bắt gặp tập sách Những câu chuyện chiến tranh (“Recits de guerre”) của Konstantin Simonov, mà anh đã nhìn thấy nơi “thư viện” của ông Châu Trưởng Ty công an tại an toàn khu Thừa Thiên mà anh chưa kịp đọc. Nhà báo đã lấy đọc, “xem người ta viết chuyện chiến tranh như thế nào, may ra mình học tập”, Phan Quang đã chọn truyện thích nhất và cũng dài nhất trong tập: Mùa hè thứ ba, và thế là anh có được bản dịch này của mình.

Bản dịch anh đã chữa đi chữa lại, băn khoăn cân nhắc từng chữ. Trong tập bút ký dựa trên những trang Nhật ký kháng chiến của mình được hiệu chỉnh in thành sách ra cuối năm 2016 vừa qua, anh lại có nhã ý dành cho tôi một bản, anh cho biết thêm trong cuốn sách mới ra của anh: “13.1.1951. Gặp một chữ cứ đắn đo hoài, không biết nên dịch thế nào. Canon autotraté khẩu đại bác tự kéo. Có nghĩa là không phải móc vào đuôi chiếc xe GMC to tướng như đại bác Tây mình vẫn nhìn thấy nó chạy trên đường quốc lộ 1 trong chiến dịch Phan Đình Phùng. Mắc vào đuôi xe thì đương nhiên nòng khẩu súng phải chĩa về sau. Nhưng đây là pháo của Hồng quân Liên xô, chắc chắn hiện đại hơn súng đạn thực dân lỗi thời. Autotracté. Vậy thì nòng súng phải chĩa về phía trước, luôn luôn sẵn sàng nhả đạn. Hay là ta dịch “khẩu đại bác tự đẩy”? Nghe thế nào ấy. Băn khoăn mà chẳng biết hỏi ai. Anh Sơn, vốn là học trò của thầy Đặng Thai Mai, giỏi tiếng Tây nhất tòa soạn thì biến đâu mất, từ hôm từ trong ấy ra tôi chưa gặp. Tự kéo… tự đẩy... Cách nào hay hơn, mà vẫn đúng?” [1]

Đọc bản dịch đã được đánh máy ta thấy chữ mà dịch giả “đắn đo hoài” đã được chính thức dịch là trọng pháo tự chuyển (rồi đây trong nhiều bản thảo khác người ta dùng chữ: pháo tự hành). Bản đánh máy được người dịch sửa chữa khá nhiều, mỗi trang hầu như đều có ba bốn chỗ đảo dòng, thay chữ, nhiều chỗ xóa dập… Cho thấy người dịch rất cẩn trọng trong việc hoàn tất công việc của mình. Là một người cùng theo đuổi nghề dịch, đọc bản dịch anh Phan Quang cho, tôi nhận ra được khá nhiều kinh nghiệm lý thú.

Một kỷ vật khác, Nhà Lưu niệm, được bổ sung cũng không kém phần đặc sắc. Ấy là bản scan bản dịch có một không hai Người quả phụ Nga của nhà văn Nga Xô viết Valentin Kataev, cũng là một tác giả Nga Xô viết mà các thế hệ bạn đọc Việt Nam đã từng bắt đầu được quen biết qua bài viết của nhà văn Phan Khôi giới thiệu sách “Thời gian tiến lên! của Kataev” đăng trên số tạp chí Văn nghệ số 22 ra từ tháng 4 năm 1950 (cách đây 67 năm), do một nhóm sinh viên y khoa 14 người chia nhau cùng dịch từ bản tiếng Pháp, chép tay thành 2 bản, một gửi cho Bộ Giáo dục quốc gia Việt Nam dân chủ cộng hòa và một lưu hành nội bộ sinh viên trường Đại học Y khoa tái lập trong kháng chiến năm 1948 tại Việt Bắc.

Nhà Lưu niệm “Văn học Nga ở Việt Nam” sau khi khai trương tháng 5 năm 2015 đã được vinh dự đón tiếp nhiều đoàn khách trong nước và nước ngoài, trong đó có đoàn của gia đình các con cháu của cố Bộ trưởng Bộ giáo dục Nguyễn Văn Huyên thăm. Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Huy, nguyên người khởi lập Viện bảo tàng Dân tộc Việt Nam, đi trong đoàn, sau khi về đã nhờ các cán bộ Viện Nhân tài nhân lực, mà hiện ông là một trong những người lãnh đạo, scan ra một bản và nhã ý gửi biếu Nhà Lưu niệm một bản và một bản đánh máy lại bản dịch quý hiếm, có một không hai, hiện còn giữ được: 14 dịch giả - các sinh viên Đại học Y khoa kháng chiến năm ấy, ra trường đều tỏa đi các mặt trận, về các cơ sở y tế khắp cả nước và đều trưởng thành sau là những chuyên gia hàng đầu của y tế Việt Nam, nổi tiếng cả nước, như Nguyễn Quang Quýnh, Đỗ Văn Lạc, Nguyễn Anh Thục, Nguyễn Báu, Đỗ Doãn Đại, Vũ Trọng Kính, Nguyễn H. Phan, Đỗ Nguyệt, Lê N. Mỗ, Nguyễn Văn Quý, Nguyễn Văn Thụ, P.T.Giang, Nguyễn Văn Hai, Nguyễn Đ.Tuấn.

Đến nay trong số các bác sĩ hàng đầu - dịch giả trên còn lại có ba vị. Giáo sư Nguyễn Văn Huy đã tận tình bố trí cho chúng tôi được đến thăm giáo sư bác sĩ Đỗ Doãn Đại, nguyên là bệnh viện trưởng bệnh viện Bạch Mai trong kháng chiến chống chiến tranh phá hoại Mỹ. Giáo sư Đỗ Doãn Đại năm nay đã 94 tuổi, nhưng vẫn minh mẫn, tinh tường và hoạt bát. Bên cạnh kỷ vật tuyệt vời bản dịch “Người quả phụ Nga” Nhà Lưu niệm “Văn học Nga ở Việt Nam” được hân hạnh lưu giữ tấm ảnh có hình bác sĩ giáo sư Đỗ Doãn Đại - một trong 14 dịch giả bên cạnh kỷ vật vô giá kia…

Thúy Toàn

EINSTEIN

ĐÃ LẬP NGHIỆP CÁCH NÀO ?

Một hôm cách đây mấy năm, tôi đi chơi trong một châu thành nhỏ tại miền Nam nước Đức, thì một ông bạn cùng đi với tôi bỗng ngừng lại, chỉ một cửa sổ ở trên lầu một tiệm tạp hóa và bảo: “Anh thấy căn phòng nhỏ ở trên kia không? Einstein ra đời tại đó”.

Chiều tối hôm đó tôi gặp Einstein tại nhà một ông chú của ông, và tôi không có cảm tưởng rằng ông là một bực siêu quần. Điều đó không có gì lạ, vì ngay hồi ông nhỏ cũng không ai tin rằng ông có tài gì lớn. Bây giờ người ta nhận rằng ông là một vị tuyệt thế thông minh, một vị khổng-lồ trong thế-hệ nầy, một trong những nhà tư-tưởng sâu sắc nhất cổ kim; vậy mà năm chục năm trước, ông là một em nhỏ chậm chạp, nhút nhát, đần độn, tập nói một cách cực-kỳ khó khăn. Ông tối dạ đến nỗi thầy học của ông phải bực mình và song thân ông sợ rằng ông vào hạng hạ nhân.

Ít năm trước đây một buổi sáng, ông thức dậy, ngạc nhiên thấy mình thành danh-nhân bực nhất thế-giới. Không thể tin được rằng một giáo-sư toán mà lại được báo chí khắp hoàn-cầu in tên bằng chữ lớn lên trang đầu như vậy. Ông là một nhà khoa-học, chứ đâu phải là một nhà quyền-thuật hạng Jack Dempsey(1). Ông thú rằng không thể hiểu đươc điều đó. Mà cũng không ai hiểu được điều đó. Vì một chuyện như vậy chưa hề xảy ra trong lịch-sử loài người.

Con người của ông cũng lạ lùng như thuyết Tương-đối của ông vậy. Ông khinh những cái mà phần đông loài người mơ-ước như danh-vọng, của cải, xa hoa. Chẳng hạn thuyền trưởng một chiếc tàu biển nọ dành cho ông dẫy phòng sang trọng nhất dưới tàu; ông từ chối, bảo rằng đi hạng chót còn thích hơn là nhận bất kỳ một đặc ân gì.

Ngày ngũ tuần của ông, chính-phủ Đức ban cho ông đủ các ân huệ, dựng một tượng bán thân của ông ở Potsdam, tặng ông một dinh thự và một chiếc tàu buồm, gọi là tỏ lòng quý mến và ngưỡng mộ bất tuyệt của dân-tộc.

Nhưng chỉ ít năm sau, người ta lấy lại hết những cái đó và ông sợ, không dám trở về quê-quán nữa. Trong mấy tuần lễ, ông trốn trong một nhà có cửa song sắt ở nước Bỉ và đêm nào cũng có một người lính canh cho ông ngủ(2).

Khi ông tới Nữu-Ước để làm giáo-sư toán ở trường đại-học Princeton, ông sợ các nhà báo phỏng-vấn và dân chúng hoan hô, nên các bạn thân của ông phải bí mật cho ông xuống thuyền đưa lên bờ trước khi tàu ghé bến rồi chở ông đi bằng xe hơi.

Ông nói rằng khắp thế giới chỉ có mười hai người hiểu được thuyết Tương-đối của ông, mặc dầu đã có trên chín trăm cuốn sách ráng giảng-giải nó.

Chính ông giải thuyết đó bằng thí dụ dễ dàng và hóm-hỉnh này: "Khi anh ngồi với một mỹ nhân, thì một giờ anh tưởng chừng chỉ bằng một phút, nhưng khi anh ngồi trên một lò lửa nóng thì một phút anh coi là một giờ".

Tương đối là vậy, chứ có gì đâu. Tôi cho nó đúng; còn nếu bạn ngờ nó sai thì xin bạn cứ thí nghiệm, nhưng xin bạn ngồi trên lò nóng còn để tôi ngồi với mỹ-nhân nhé.

Bà Einstein nói rằng bà không hiểu thuyết Tương-đối là cái quái gì cả, nhưng bà hiểu một cái gì quan trọng đối với đàn-bà hơn, là hiểu chồng bà.

Một đôi khi có khách khứa lại uống trà và bà lên lầu mời Giáo-sư xuống chuyện trò ít câu. Ông la bể nhà lên: "Không! Không! Tôi không xuống! Không xuống! Tôi phải đi khỏi nhà nầy mới được. Làm việc ở đây không được. Cấm đấy, không được làm ngưng công việc của tôi như vậy được nữa đa".

Bị ông la như vậy, bà cứ điềm-tĩnh, để ông tung hết cơn giận của ông ra, rồi bà khéo léo ngoại-giao làm sao mà ông cũng xuống nhà dưới uống trà và xả hơi một chút. Bà làm vậy chỉ vì thấy ông làm việc quá mà muốn cho ông nghỉ.

Bà bảo rằng chồng bà thích sự thứ tự trong tư tưởng mà không thích sự thứ tự trong đời sống. Ông muốn làm cái gì là làm, chẳng kể giờ giấc gì cả. Ông hành động chỉ theo hai quy-tắc. Quy-tắc thứ nhất là không có quy-tắc nào cả. Và quy-tắc thứ nhì là bất chấp dư-luận.

Ông sống cực kỳ giản dị, đi đâu cũng chỉ bận áo cũ, nhàu nát, ít khi đội nón; vào phòng tắm thì ca hát, huýt còi vang lên. Xà bông để tắm thì ông dùng để cạo râu. Con người ráng giải-quyết những bí ẩn phức tạp nhất của vũ trụ đó, bảo rằng dùng hai thứ xà-bông chỉ làm cho đời thêm phức tạp. Nhìn ông tôi có cảm tưởng rằng ông rất sung sướng. Triết lý về hạnh phúc của ông giúp cho tôi nhiều hơn thuyết Tương-đối của ông. Mà tôi cho rằng triết lý hạnh phúc đó rất cao đẹp. Ông bảo rằng ông sung sướng vì ông không cần một thứ gì của bất kỳ người nào. Ông không cần tiền, không cần chức tước, không cần lời khen. Ông tìm hạnh-phúc cho ông trong những việc rất giản dị là làm việc, chơi vĩ-cầm và thả thuyền.

Cây đờn vĩ-cầm làm cho ông vui nhất. Ông bảo rằng ông thường suy nghĩ bằng âm-nhạc, và mơ mộng bằng âm-nhạc.

Một lần, đi xe điện ở Bá-Linh, ông bảo người bán giấy đã tính lộn khi thối tiền cho ông. Người đó đếm lại, thấy đúng, đưa tiền cho ông, nói: "Cái tai hại của ông là ông không biết đọc con số".

BÙI ĐẸP st.

--------------------

(1) Một nhà vô địch hạng nặng về quyền thuật hồi trước.

(2) Ông không chịu chế độ độc tài của Hitler nên trốn ra ngoại quốc.


Hai nhạc sĩ tiên phong của Tân nhạc Việt

LÊ THƯƠNG & DƯƠNG THIỆU TƯỚC


LÊ THƯƠNG (8/1/1914 - 17/9/1996)

Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ , sinh ngày 8/1 / 1914 tại phố Hàm Long, Hà Nội , trong một gia đình bố mẹ là những nghệ sĩ cổ nhạc . Một bài viết khác cho rằng Lê Thương sinh tại Nam Định . Chi tiết về cuộc đời ông rất ít được nhắc tới. Ông sống tại quê ngoại có dòng sông Thương thơ mộng mà ông rất thích thú nên ông lấy nghệ danh “Lê Thương” (Lê là họ ngoại). Ông là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất cho thời kỳ tiền chiến của tân nhạc Việt Nam . Theo hồi ký của Phạm Duy , Lê Thương sinh năm 1913 , là nhạc sĩ thế hệ đầu tiên, tiền bối của Phạm Duy, Văn Cao và là một thầy tu nhà dòng hoàn tục.

Năm 1935, Lê Thương hành nghề dạy học ở Hà Nội, sau đó ông chuyển về dạy ở Hải Phòng . Lê Thương cùng Hoàng Quý , Hoàng Phú ( Tô Vũ ), Phạm Ngữ , Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên . Ông và bạn bè cũng là những hướng đạo sinh và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.

Năm 1941 , Lê Thương vào miền Nam . Ban đầu ông ở An Hóa , tỉnh Bến Tre , sau đó ông chuyển về sống tại Sài Gòn . Tuy là một nhạc sĩ tài danh, nhưng nghề chính là dạy học. Ông từng là giáo sư Sử Địa, có một thời gian giảng dạy tại một số trường trung học tư ở Sài Gòn. Ông cũng từng là giáo sư Pháp ngữ tại trường trung học Pétrus Ký vào thập niên 60. Lê Thương cũng từng làm công chức ở Trung tâm Học liệu, Bộ QG Giáo dục và là giảng viên Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ thời VNC H.

Âm nhạc

Lê Thương là một trong những nhạc sĩ Việt Nam tiên phong viết tân nhạc với bài Bản đàn xuân. Ngoài Bản đàn xuân, trong thời kỳ ở miền Bắc, Lê Thương còn sáng tác những tác phẩm khác như Tiếng đàn đêm khuya, Một ngày xanh, Trên sông Dương Tử, Thu trên đảo Kinh Châu...

Từ khi vào miền Nam năm 1941 , Lê Thương phổ thơ nhiều bài như Lời kỹ nữ (thơ Xuân Diệu ), Lời vũ nữ (thơ Nguyễn Hoàng Tư ), Bông hoa rừng (thơ Thế Lữ ), Tiếng thùy dương (tức Ngậm ngùi thơ Huy Cận ) và Tiếng thu (thơ Lưu Trọng Lư )...

Lê Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc.

Thời kỳ kháng chiến , ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng Lòng mẹ Việt Nam hay Bà Tư bán hàng nói về một bà mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những lý do Lê Thương bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng Phạm Duy Trần Văn Trạch năm 1951 .

Lê Thương thuộc những người đầu tiên viết truyện ca và đã để lại những bản truyện ca hay nhất như Nàng Hà Tiên, Lịch sử loài người, Hoa thủy tiên... Đặc biệt hơn cả là bộ ba Hòn vọng phu , được xem như một trong những tác phẩm nổi tiếng của tân nhạc Việt Nam. Văn Cao cũng từng thừa nhận ảnh hưởng bởi Lê Thương với phong cách âm nhạc bắt nguồn từ âm nhạc cổ truyền Việt Nam.

Lê Thương cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết nhạc hài hước với những bản Hòa bình 48 (phê phán sự mị dân đội lốt hòa bình), Làng báo Sài Gòn (đả kích báo giới bồi bút, bất tài và ham tiền), Đốt hay không đốt (châm biếm máu Hoạn Thư ), Liên Hiệp Quốc... Những bản này được nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn nhiều lần vào thập niên 1940 .

Lê Thương còn đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn như Nhớ Lào (nhạc Lào ), Bông hoa dại tức Ô Đuồng Chăm Pá (nhạc Lào), Lòng trẻ trai (nhạc Hoa Kỳ ), Hoa anh đào tức Sakura (cổ nhạc Nhật Bản ), Màn Brúc đánh giặc (dân ca Pháp )...

Một thời gian, Lê Thương có cùng nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh các truyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng. Và cùng Nguyễn Xuân Khoát , Lê Thương được xem như những nhạc sĩ mở đầu của dòng nhạc dành cho thiếu nhi với những bản Tuổi thơ, Cô bán bánh, Con mèo trèo cây cau, Thằng bé Tí Non, Ông Nhang bà Nhang, Truyền kỳ Việt sử, Học sinh hành khúc... Nổi tiếng hơn cả là bài Thằng Cuội thường được trẻ em hát trong mỗi dịp tết Trung Thu , mặc dù nhiều người không biết đó là một ca khúc của nhạc sĩ Lê Thương:

Bóng trăng trắng ngà / Có cây đa to

Có thằng Cuội già / Ôm một mối mơ

Lặng yên ta nói Cuội nghe / Ở cung trăng mãi làm chi

Bóng trăng trắng ngà / Có cây đa to

Có thằng Cuội già / Ôm một mối mơ...

Ngoài âm nhạc, Lê Thương còn gia nhập vào ban kịch của Thế Lữ vào những năm thập niên 1930 , và ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch khi ông sống ở Sài Gòn. Lê Thương đã sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, và viết nhạc phim cho hãng phim Mỹ Vân.

Lê Thương lập gia đình cùng một phụ nữ học ở Pháp về và họ có 9 người con. Ông cũng có hai người tình, người tình đầu là một cô hát ả đào nổi tiếng ở Hà Nội. Người thứ hai là một vũ nữ tại Chợ Vườn Chuối Sài Gòn.

Sau 1975 , ông không tham gia hoạt động văn nghệ. Vào thập niên 1990 , ông bị mất hẳn trí nhớ và qua đời ngày 17/9 / 1996 tại Tp. HCM .

Nhạc Lê Thương và Trường ca Hòn Vọng Phu bất hủ với những âm điệu gần gũi âm giai ngũ cung của dân ca Việt Nam và ảnh hưởng của Chinh phụ ngâm khúc. Trường Ca Hòn Vọng Phu đã làm nổi bật tên tuổi của nhạc sĩ Lê Thương trong lịch sử âm nhạc Việt Nam...

Hòn Vọng Phu 1

được ông viết tại Bến Tre, khoảng năm 1943.

Mở đầu bài hát với tiếng trống trận thúc dục:

Lệnh vua hành quân trống kêu dồn/

Quan với quân lên đường

Đoàn ngựa xe cuối cùng/ Vừa đuổi theo lối sông

Phía cách quan xa trường/ Quan với quân lên đường

Hàng cờ theo trống dồn/ Ngoài sườn non cuối thôn

Phất phơ ngậm ngùi bay...

Hòn Vọng Phu 2 tức Ai xuôi vạn lý

ông sáng tác khoảng năm 1946.

Người hóa đá vẫn chờ mong, giai điệu nhạc thật buồn:

Người vọng phu trong lúc gió mưa

Bế con đã hoài công để đứng chờ

Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về

Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ...

...

Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu giúp nàng

Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng...

Hòn Vọng Phu 3 tức Người chinh phu về

viết xong năm 1947.

Cuối cùng người chinh phu trở về, nhưng cuộc trở về đã quá muộn màng, ai oán:

...Nhớ cố hương lưu luyến tấc lòng mau dồn chân

Vết bước đi trên phiến đá mòn còn in dấu

Từ bóng cây ngôi mộ bên đường

Từ mái tranh bên đình trong làng

Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống

Bao mối thương vang động trong lòng.

DƯƠNG THIỆU TƯỚC (1915 - 01/8/1995)

Dương Thiệu Tước sinh năm 1915 tại làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Ông là con quan Bố chánh Dương Tự Nhu, cháu nội của cụ nghè Dương Khuê. Ở giai đoạn phôi thai của nền tân nhạc Việt, trong khi nhiều người mượn những bài hát phương Tây rồi đặt lời Việt cho dễ hát thì ông lại cả gan viết “lời Tây theo điệu ta”. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước được ghi nhận là một trong những người đặt nền móng cho nền tân nhạc Việt.

Dương Thiệu Tước đánh đàn guitar hawaienne rất giỏi, ông còn là chủ nhân của một cửa tiệm bán đàn ở phố Hàng Gai, Hà Nội và có mở cả lớp dạy đàn. Trong sinh hoạt hằng tuần với các bạn nhạc sĩ tài tử của mình, ông đã sáng tác mấy bài mang những đầu đề bằng tiếng Pháp, như Joie d’aimer (Thú yêu đương), Souvenance (Hồi niệm), Ton Doux Sourire (Nụ cười êm ái của em)... Lời ca của những bài này do Thẩm Bích (anh ruột của Thẩm Oánh) soạn bằng Pháp ngữ. Ông từng tuyên bố: “Nếu đã có nhà văn Việt Nam viết văn bằng tiếng Pháp, thì nhà soạn nhạc Việt Nam cũng có thể viết được những bản nhạc có âm điệu Tây phương” (Báo Việt Nhạc số 5, ngày 16.10.1948)...

Tiếng hát “lá ngọc cành vàng”

Trước khi gặp nhau, Dương Thiệu Tước và Nguyễn Thị Ngọc Trâm (tên thật của Minh Trang) đều xuất thân từ những gia đình “danh gia vọng tộc”. Cô là con gái của quan Tổng đốc Bình Định Nguyễn Hy (sau này ông còn làm Tổng đốc Thanh Hóa, rồi Thượng thư Bộ Hình). Ngọc Trâm còn là cháu ngoại của công chúa Mỹ Luông (còn gọi là Bà Chúa Nhất) - em ruột vua Thành Thái... Ngọc Trâm chào đời năm 1921 trong một nhà hộ sinh nằm ngay trên Bến Ngự (Huế). Như một định mệnh, 25 năm sau, một bài hát bất hủ mang tên Đêm tàn Bến Ngự của một nhạc sĩ tài hoa ra đời mà tên tuổi của ông sẽ gắn liền với cuộc đời của cô bé Ngọc Trâm sau này - ca sĩ Minh Trang - cũng được cho là một trong những ca sĩ tiên phong của làng ca nhạc Việt.

Thời thiếu nữ, ngoài sắc đẹp trời cho, Ngọc Trâm còn sở hữu một giọng hát thiên phú. Những năm học tiểu học ở trường dòng Jeanne d’Arc, rồi trung học ở Lycée Khải Định (Huế) thập niên 1930, tiếng hát của cô làm cho biết bao thầy cô, bạn bè cùng trường ngây ngất. Dĩ nhiên, đó là những bài hát Pháp, bởi lúc đó chưa có bài hát nào mà bây giờ chúng ta gọi là “nhạc tiền chiến”… Năm 1942, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần (nên nhớ vào lúc đó rất hiếm phụ nữ đỗ đạt như thế), Ngọc Trâm kết hôn với một giáo sư nổi tiếng của đất thần kinh: giáo sư Ưng Quả (cháu nội của Tuy Lý vương Miên Trinh)… Nhưng chỉ mấy năm hương lửa mặn nồng, giáo sư Ưng Quả qua đời trong giai đoạn chuyển mình của đất nước, chế độ phong kiến cáo chung. Lúc này, giai cấp quan lại, thượng lưu không còn được ưu đãi, cuộc sống của họ trở nên khó khăn… Năm 1948, Ngọc Trâm đưa 2 người con vào Sài Gòn dự thi và trúng tuyển vai trò xướng ngôn viên cho Đài phát thanh Pháp Á. Công việc của cô là dịch những bản tin từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và đọc những bản tin đó trên làn sóng. Trong những lần dịch tin, Ngọc Trâm thường nghêu ngao những bài hát Việt mới thịnh hành gần đây như Giọt mưa thu, Con thuyền không bến (Đặng Thế Phong, sáng tác năm 1939), Tiếng xưa (1940), Đêm tàn Bến Ngự (1946 của Dương Thiệu Tước)... Hát chơi vớ vẩn thế thôi, vậy mà tiếng hát ấy đã làm cả đài phát thanh ngẩn ngơ. Một hôm, ông Hoàng Cao Tăng - chủ sự Phòng Văn nghệ chợt đề nghị Ngọc Trâm thử hát trên sóng phát thanh một bài. Sau những đắn đo và cả những lời khuyến khích, tiếng hát của… nữ ca sĩ Minh Trang lần đầu tiên gửi đến quý thính giả Đài Pháp Á qua ca khúc Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong. Minh Trang hát hay đến nỗi đài phát thanh quyết định trả “cát sê” ngay, không kể tiền lương...

Cũng cần nói thêm, do ngại ngùng nên Ngọc Trâm không dám hát với tên thật mà ghép tên của hai người con (Bửu Minh và Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang) thành nghệ danh (Đoan Trang sau này trở thành nữ ca sĩ Quỳnh Giao ở hải ngoại).

Từ đó, tiếng hát của nữ ca sĩ Minh Trang theo sóng phát thanh của Đài Pháp Á lan tỏa khắp nơi. Năm 1949, chính Thủ hiến Bắc kỳ Nguyễn Hữu Trí gửi công văn mời đích danh ca sĩ Minh Trang tham dự Hội chợ đấu xảo tại Hà Nội. Đây là dịp để các nhạc sĩ hào hoa xứ Bắc kéo nhau đến chiêm ngưỡng nhan sắc của “giọng hát vàng phương Nam”. Và định mệnh đã xuống tay khi trong số những tài tử ấy có mặt Dương Thiệu Tước. Tuy đã có hai mặt con nhưng Minh Trang lúc ấy vẫn giữ được một vẻ đẹp quý phái “chim sa, cá lặn”.

Duyên nợ ba sinh

Đúng 60 năm sau (2009), ở tuổi chín mươi, bà Minh Trang kể lại với nhà thơ Du Tử Lê rằng: “Mặc cho các bạn Thẩm Oánh, Nguyễn Thiện Tơ, Dzoãn Mẫn… lăng xăng, líu lo, rối rít, ông ấy (Dương Thiệu Tước) im lặng từ đầu đến cuối. Chỉ nhìn thôi. Lâu lâu mới mỉm cười. Sự xa cách, lặng lẽ này khiến tôi càng thêm chú ý. Trước khi gặp gỡ, tôi đã từng hát nhạc của ông ấy nên tôi cũng rất ao ước được gặp mặt con người tài hoa này”. Thế rồi “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”...

Khi Minh Trang trở lại Sài Gòn, chỉ ít ngày sau nàng nhận được thư tỏ tình của tác giả Tiếng xưa. Có lẽ vẻ lạnh lùng, ít nói của ông khi cùng các bạn vây quanh Minh Trang là do ông tự mặc cảm mình đã có vợ (19 tuổi, ông lập gia đình với bà Lương Thị Thuần, cũng xuất thân từ một dòng họ khoa bảng. Thời đó việc kết hôn thường được các cụ dàn xếp theo truyền thống “môn đăng hộ đối”. Ông bà đã có 3 con gái và 2 con trai). Thế nhưng khi Minh Trang như cánh chim vút bay xa thì ông không thể dối lòng được nữa, ông thật sự bị “hớp hồn” bởi vẻ đẹp và giọng hát của nàng. Những cánh thư liên tiếp qua lại giữa hai miền. Những ca khúc ông sáng tác trong giai đoạn này do Nhà xuất bản Tinh Hoa (Huế) xuất bản, ông không còn đứng tên đơn lẻ nữa, mà ghi “Nhạc và lời: Dương Thiệu Tước - Minh Trang”.

Đó là những ca khúc bất hủ, tiêu biểu như Ngọc Lan, Bóng chiều xưa, Buồn xa vắng, Khúc nhạc dưới trăng, Ôi quê xưa, Vui xuân, Đêm tàn bến Ngự, Ơn nghĩa sinh thành, Tiếng xưa, Chiều (thơ Hồ Dzếnh )…

Nữ ca sĩ Minh Trang cũng kể lại rằng, trước khi nhận lời cầu hôn của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, chính bà đã bay ra Hà Nội để gặp người vợ trước của ông này và thông báo quyết định của hai người. “Có thể không có một người phụ nữ thứ hai, nhất là ở thời đó, hành xử như tôi. Nhưng đó là tôi, cách của tôi: tự tin và tự trọng!” - bà nói.

Dương Thiệu Tước với bài “Ngọc Lan”

Tại Hưng Yên, xảy ra mối tình đầu giữa chàng và nàng Vi Kim Ngọc, con gái Tổng đốc Vi Văn Định. Gia đình quan Bố chánh Dương Tự Nhu bèn đem trầu cau sang đính ước. Vì chàng chỉ có bằng Diplôme, thi rớt Tú tài, nên nhà gái chê bai, muốn ông đi làm quan, ông không chịu, tiếp tục với âm nhạc, nhà gái bèn từ hôn.

Rồi họ Vi chuyển từ Hưng Yên sang làm Tổng đốc Thái Bình. Xa mặt cách lòng, đúng lúc ấy thì “tiến sĩ Pháp Nguyễn Văn Huyên” có sự gặp gỡ. Và rồi, ngày 14/02/1936 nàng lên xe hoa về nhà chồng. Lúc ấy nàng 20 tuổi còn chàng 21 tuổi. Ông Huyên là Bộ trưởng giáo dục chính phủ P.V.Đồng trong 30 năm. Chàng buồn, bèn đem tâm hồn mình viết thành bản nhạc “Ngọc Lan” bất hủ . Như vậy, chàng yêu Vi Kim Ngọc năm 1934, tan vỡ năm 1935.

Khi chàng chính thức chung sống với Minh Trang ở Sài Gòn, chàng mới đem ca khúc Ngọc Lan ra phổ biến năm 1953. Ngẫu nhiên “Ngọc Lan” cũng được hiểu là sáng tác dành cho bà, vì do tên Ngọc Trâm của bà. Nếu ai có bản gốc của Nhà xuất bản Tinh Hoa (1953) sẽ thấy tất cả những chữ Ngọc Lan trong bài hát đều được viết hoa, để phân biệt đây là tên người chứ không phải là tên loài hoa :

Bài hát: Ngọc Lan (Dương Thiệu Tước)

Ngọc Lan, giòng suối tơ vương, mắt thu hồ dịu ánh vàng.

Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng,

Tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song.

Nét thắm tô bóng chiều, giấc xuân yêu kiều,

nền gấm cô liêu.

Gió rung mờ suối biếc, ý thơ phiêu diêu!

Ngón tơ mềm chờ phím ngân trùng, mạch tương lai láng.

Dáng tiên nga giấc mơ nghệ thường lỡ làng.

Ngọc Lan, giọng ướp men thơ, mát êm làn lụa bông là.

Ngọc Lan, trầm ngát thu hương.

Bờ xanh bóng dương phút giây chìm sương.

Bông hoa đời ngàn xưa tới nay.

Rung nhạc đó đây cho đời ngất ngây,

Cho tơ trùng đờn hờ phím loan.

Thê lương mây nước sắt se cung đàn.

Ôi tâm hồn nghệ sĩ chìm trong sương thắm.

Nhớ phút khuê ly, hôn mê tuyết hoa

Ngọc Lan. Mờ mờ trong mây khói,

men nồng u ấp duyên hững hờ

Dần dần vương theo gió,

tơ lòng dâng bao cùng thương nhớ.

Sau năm 1975, bà Minh Trang và các con sang định cư ở Mỹ. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước ở lại và qua đời vào ngày 01.8.1995 tại Tp.HCM, thọ 80 tuổi. Sau khi chồng chết, bà Minh Trang trả lời báo chí:Ngọc Lan” là D.T. Tước viết cho bà (Ngọc Trâm) hay Vi Kim Ngọc (mối tình đầu với D.T.Tước)… Bà mất ngày 17.8.2010 tại California (Mỹ), thọ 90 tuổi.

LỜI KẾT

Lê Thương là một trong những nhạc sĩ Việt Nam tiên phong về nhiều lãnh vực:

- Viết tân nhạc với bài Bản đàn xuân

- Nhạc sĩ mở đầu của dòng nhạc dành cho thiếu nhi

- Sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản và viết nhạc phim

- Thành lập nhóm ca nhạc sĩ trẻ, cùng bạn bè

- Là một trong những hướng đạo sinh đầu tiên của phong trào hướng đạo VN

- Viết Trường ca đầu tiên. Đó là Trường ca Hòn Vọng Phu , được xem như một trong những tác phẩm nổi tiếng của tân nhạc Việt Nam.

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và nhạc sĩ Lê Thương được ghi nhận là những người đặt nền móng cho nền Âm nhạc Cải cách (tức Tân nhạc) Việt, cả hai thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong của nền tân nhạc đầu tiên.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)


Phụ Bản II

TRÍ NHỚ TẦM THƯỜNG

CŨNG CÓ THỂ THÀNH THIÊN TÀI

Một hôm ăn cơm trưa tại khách sạn Vanderbilt, ở Nữu-Ước, tôi lấy làm lạ rằng sao cô coi phòng gởi áo, dỡ nón của tôi cất đi mà không đưa cho tôi một cái vé. Tôi hơi ngạc nhiên, hỏi cô tại sao vậy; cô đáp là không cần, vì cô nhớ mặt tôi rồi, mà quả thực vậy. Cô bảo đã thường cất nón và áo cho hai trăm người khách, chất đống một chỗ, và khi khách ra về, nón, áo của ai cô trả cho người đó, không hề lầm lộn bao giờ. Tôi hỏi lại người quản lý khách sạn, ông nầy nhận rằng đã mười lăm năm, ông ta chưa thấy cô ấy nhớ lộn lần nào.

Tôi ngờ rằng ông Thomas Edison không nhớ nổi như vậy, và bạn có tặng cho ông một triệu Anh kim, ông cũng đành chịu. Trí nhớ của ông kém lắm, nhất là hồi ông trẻ. Ở trường, học đâu quên đấy, luôn luôn phải đội bảng, làm cho các thầy học đều thất vọng, cho óc ông là rỗng không, đần độn quá không học được. Các bác sĩ cũng bảo ông sau này tất đau óc vì hình dáng đầu ông kỳ cục quá. Sự thực, suốt đời ông, ông chỉ đi học có ba tháng. Rồi ông về nhà, bà thân ông dạy ông; và chúng ta phải mang ơn cụ vì nhờ cụ mà Thomas Edison đã biến đổi hẳn thế giới chúng ta đương sống đây.

Nhưng sau nầy, Thomas Edison đã luyện một trí nhớ đáng phục về những sự kiện khoa học, thuộc hết những sách khoa học trong thư viện mênh mông của ông. Ông tập được tài tập trung tư tưởng một cách kỳ dị, quên hết được mọi việc trừ công việc ông đương làm.

Một hôm, ông đem hết tâm trí để giải một bài toán khoa học trong khi ông lại tòa đóng thuế. Ông phải đứng nối hàng một lúc, và khi phiên ông tới thì ông quên bẵng tên ông đi. Một người đứng bên, thấy ông lúng túng, nhắc cho ông rằng tên ông là Thomas Edison. Sau ông kể lại rằng, những lúc như vậy, dù gặp việc nguy cấp đi nữa ông cũng không sao nhớ ngay tên ông được, phải đợi một chút mới lần lần nhớ ra.

Ông thường làm việc suốt đêm trong phòng thí nghiệm. Một buổi sáng, trong khi đợi điểm tâm, ông buồn ngủ quá, gục xuống ngủ. Một người giúp việc ông, vui tính muốn phá ông, đặt những chén đĩa dơ của mình mới ăn xong ở trước mặt ông. Ít phút sau, ông tỉnh dậy, giụi mắt, thấy những miếng bánh vụn bên cạnh một đĩa hết nhẵn đồ ăn và một ly cà phê cạn, suy nghĩ một chút rồi cho rằng trước khi ngủ mình đã ăn rồi, bèn đứng dậy, châm một điếu xì-gà, hút và bắt đầu làm việc, không hay gì hết, cho tới khi các người giúp việc cười ồ lên, ông mới biết rằng mình bị gạt.

Asa Grey, nhà thực vật học trứ danh ở Mỹ, có thể đọc thuộc lòng tên của hai mươi lăm ngàn giống cây; và theo sách chép thì Jules César có thể nhớ được tên của hàng ngàn quân lính.

Trường đại học lớn thứ nhì ở thế giới, là một trường của tín đồ Hồi giáo tại Caire, kinh đô Ai-Cập. Muốn được vô học, thí sinh phải đọc thuộc lòng được trọn kinh Coran. Kinh đó dài bằng kinh Tân-Ước và đọc ba ngày mới hết. Vậy mà có trên hai chục ngàn sinh viên thuộc lòng nó được.

Byron khoe rằng có thể nhớ hết thảy những bài thơ của ông. Nhưng Walter Scott lại nhớ dở lắm: một bài thơ chính ông làm mà ông cứ tưởng là của Byron, thành thử khen nó nhiệt liệt.

Francis Bacon thuộc lòng một trong những cuốn nổi danh nhất của ông; còn Joseph Jefferson, luôn trong mười hai năm, gần như đêm nào cũng diễn kịch Rip Van Winkle mà cũng vẫn quên hoài.

Sử gia Macaulay có lẽ nhớ giỏi nhất, từ xưa tới nay không ai bằng. Ông chỉ nhìn một lần một trang giấy nào là óc ông như chụp hình trang giấy đó rồi. Ông chỉ đọc một lần một chương sách là thuộc. Cho nên ông viết sử mà không cần thu thập sách để tra cứu; vì bao nhiêu sách để ở cả trong óc ông. Tương truyền có lần muốn thắng cuộc, ông học một đêm mà thuộc tập Paradise Lost(1).

Calvin Coolidge mỗi đêm thường đọc ít trang Paradise Lost trước khi đi ngủ. Nhưng nếu bạn mất ngủ thì nên đọc nó: công hiệu hơn thuốc ngủ đấy.

Nhiều người có một trí nhớ lạ lùng. George Bidder là một người Anh phong lưu, mất trên sáu chục năm trước. Khi mới mười tuổi, chỉ mất hai phút, ông ta đã tính nhẩm được tiền lời của 4444 Anh kim, đặt lãi 4 phân rưỡi mỗi năm, trong 4444 ngày.

Cách đây không bao lâu, một người kỳ dị, chết ở Coldwater, xứ Michigan. Người ta gọi ông là “Đường rầy Jack”. Ký tính của ông lạ lùng; trong hai chục năm, ông lại khắp các trường đại học khoe tài với các sinh viên. Ông thường lại một khách sạn mà các sinh viên hay lui tới ăn uống, bảo: “Tôi là "Đường rầy Jack" đây. Cho các anh hỏi tôi bất kỳ điều gì về Sử-Ký, tôi sẽ đáp đúng cho mà coi”. Họ bèn hỏi ông những câu bí hiểm như: “Bà Socrate cưới ông Socrate hồi bao nhiêu tuổi?”. Và ông ta trả lời tức thì: “Ông Socrate bốn chục tuổi mà chưa lập gia đình; rồi mặc dầu ông hiền triết làm vậy, mà cưới một cô dưới mình mười chín cái xuân xanh”. Hoặc họ hỏi người ta dùng lưỡi lê lần đầu tiên ở trận nào, ông đáp ngay là trong trận Killiecrakie ở Scotland, ngày 27 tháng 7 năm 1689. Tất nhiên các cậu sinh viên phải tặng ông ta một bữa cơm và góp tiền để mua cho ông ta một bộ áo.

“Đường rầy Jack” mất năm bảy mươi chín tuổi trong một ngôi nhà cũ, bỏ hoang. Ông để di chúc lại, tặng xác ông cho đại-học-đường Michigan để ban y-khoa xem-xét bộ óc ông mà tìm nguyên do tại đâu ký-tính ông lạ-lùng như vậy. Tôi đã viết thư hỏi Giáo-Sư W. B. Pillsbury, khoa trưởng ban Tâm-Lý ở trường đại-học đó, ông đáp rằng: “Đường trầy Jack” đã tốn công luyện ký-tính và chuyên học Sử mà được vậy. Ông lại nói rằng khoa học đã xét nhiều người có ký-tính lạ-lùng thì thấy một số cực-kỳ thông-minh, còn một số khác gần như ngu đần.

Như vậy nghĩa là nếu bạn có một ký tính phi thường thì một là bạn gần bậc thiên tài, hai là bạn gần bọn điên. Xin bạn tự xét lấy xem mình ở hạng nào.

Còn nếu như ký-tính của bạn tệ như của tôi, thì xin bạn cũng đừng buồn, vì Léonard de Vinci, một danh-nhân bực nhất cổ kim, mà muốn nhớ điều gì, luôn luôn phải ghi vào sổ tay - và hễ ghi xong là đánh mất, kiếm lại không ra, như bạn và tôi vậy.

Hoàng Kim Thư st.

----------------

(1) Một tập thơ dày gần bằng truyện Kiều của ta.

Ngày mở đầu

Một ngày mở đầu bằng khúc nhạc

Bằng email của những anh em

Thấy tâm hồn thư thái hơn lên

Và bỗng thấy một ngày thật đẹp quá

Cuộc sống cho ta những ngày yên ả

Những thênh thang nắng gió khắp phương trời

Cho ta luôn thanh thoát những tiếng cười

Và bỗng thấy trần gian là mật ngọt

Hãy với ta hãy từng ngày như thế

Để trái tim rung những nhịp bồi hồi

Để rưng lòng những khoảnh khắc chơi vơi

Để biết khóc biết cười cùng nhân thế

Nếu ngày sau có những lời vui kể

Hẳn cõi trần thêm một phút hương hoa

Hẳn sông đời thêm một khúc tình ca

Và như thế chan hoà là lẽ sống.

ĐÀM LAN

Tháng Chín trời mưa

Mưa tháng Chín thì thầm

Như lời yêu chưa ngỏ

Như niềm thương nỗi nhớ

Không thoát khỏi bờ môi.

Mưa tháng Chín bồi hồi

Cơn mưa sầu nức nở

Cho đời thôi cách trở

Cho anh quên đường về.

Mưa tháng Chín tái tê

Tình đơn phương lặng lẽ

Gió cuối thu rất khẽ

Như nụ hôn ngọt ngào.

Mưa tháng Chín dạt dào

Như ta nhìn say đắm

Như bàn tay đằm thắm

Vuốt ve suối tóc mềm.

Mưa tháng Chín êm đềm

Như lời ru tha thiết

Như cung đàn diễm tuyệt

Như tiếng sáo “ngày xưa”.

Xin trời đừng thôi mưa

Xin thời gian vô tận

Xin cao xanh chứng nhận

Mình bên nhau suốt đời.

NGÀN PHƯƠNG

Cạn lời

Ngắm nửa vầng trăng - chạnh ước mơ

Người nương lối bướm giữa trời thơ

Gặp nhau cho thỏa lòng mong nhớ

Xa vắng nào nguôi nỗi đợi chờ

Siết chặt bàn tay - niềm thắm thiết

Thầm trao ánh mắt - mộng đơn sơ

Ngàn đời nuối tiếc tình tri kỷ

Gió siết mặt hè chợt ngẩn ngơ.

NGÀN PHƯƠNG

Mơ ước bâng quơ

Chợt thèm vị đắng lá sầu đâu

Sương tuyết ưu tư bạc mái đầu

Hạ đến - tiếng ve gào khắc khoải

Thu qua nhạc gió rợn canh thâu

Vài câu xướng họa thêm rôm rả

Mấy vận giao lưu bớt dãi dầu

Tâm sự sẻ chia - duyên thắm thiết

Mong tình bằng hữu được bền lâu.

NGÀN PHƯƠNG

TRẢ LẠI CHO TÔI

Trả lại cho tôi bầu trời xanh thăm thẳm

Ánh mắt trong veo của lũ nhỏ đến trường

Tà áo dài tinh trắng thật dễ thương

Má lúm đồng tiền trăm năm mua chỉ được một !

Trả lại cho tôi chiếc cầu tre chưa bao giờ rút ruột

Nhìn đơn sơ mà vững chãi gấp ngàn lần

Những chiếc cầu béton mà khách vẫn băn khoăn

Liệu có đổ ùm xuống sông vì ruột chỉ là dăm ba cọng thép!

Trả lại cho tôi bến đò xưa ngây ngất

Chẳng bị mờ che bởi bóng dáng khổng lồ

Của những chiếc tàu cũ kỹ, mại dzô

Vì nó chỉ xứng được gọi là mạt sắt !

Trả lại cho tôi những mái trường ngây ngất

Trong lời Thầy giảng giải áng sử xưa

Trong oai nghiêm, roi đôi lúc không thừa

Để làm nên những con người đầy trách nhiệm.

Trả lại cho tôi những dưỡng đường, bệnh viện

Nơi nụ cười thày thuốc là cái rất dĩ nhiên

Nơi ủi an cho ai phải muộn phiền

Nằm ở đấy, chung quanh những bức tường trắng toát…

Trả lại cho tôi lối xe tuy thoăn thoắt

Mà chẳng hề lấn trái, phải, trước, sau

Mà chẳng hề phải mắt trợn mày cau

Chẳng ai nỡ chửi thề mỗi khi vô tình va chạm.

Trả lại cho tôi tâm hồn không oán hận

Trái tim yêu thương và ánh mắt nồng nàn

Biết sớt chia cùng quên mọi dối gian

Chẳng phải đề phòng hay nghi ngờ chi cả.

Trả lại cho tôi niềm tin không sạt lở

Vào con người, vào tình nghĩa xóm giềng

Vào non sông, vào thế giới thiêng liêng

Để tôi thở khí trời, thong thả sống !

Trả lại cho tôi mắt buồn lệ ngấn

Mỗi khi có ai vĩnh viễn ra đi

Mỗi khi nhà ai gặp lúc chia lìa

Như chính tôi là người trong cuộc.

Trả lại cho tôi tình yêu đất nước

Trả lại cho tôi tay nắm bàn tay

Trả lại cho tôi ánh mắt ngời ngời

Sẵn sàng xung trận khi có kẻ nào cắm

dù chỉ một chiếc đinh vào non sông, quê hương tôi đó!

Trả lại đi, thôi đừng đứng ngó

Đừng bàng quan, đừng hy vọng hão huyền

Hãy xốc áo lên, và thật quyết tâm

Sống cho ra sống, để nếu phải chết thì cho ra chết !

LAM TRẦN 10.04.2014

GIỌT SƯƠNG MAI

Bông hoa lá đọng giọt sương mai

Ánh sáng đong đưa nắng trải dài

Lấp lánh muôn màu từng đẹp đẽ

Huy hoàng vạn nẻo cũng phôi phai

Vô thường vật chất sanh phiền não

Dục vọng tinh thần khiến lạc sai

Sắc tướng vàng son bày trước mắt

Để cho thế giới nhiễm trần ai !

THANH CHÂU

CON QUẠ VÀ CON CHỒN

Le Corbeau et le Renard

Fable de La Fontaine

Con quạ đậu trên cây cao

Mỏ ngậm bánh sữa tha đâu mới về

Bắt hơi chồn tới gần kề

Muốn ăn bánh sữa cà kê phỉnh rằng:

“Quạ ơi, cụ tốt ai bằng

“Láng ô lông lá, dịu dàng hình dung

“Tiếng cụ, khi cũng tốt hung

“Phải cụ kêu thử, vô cùng êm tai.”

Quạ nghe lời phỉnh mừng thay

Cất tiếng kêu lớn, bánh rày rớt đi

Con chồn được bánh lại khi:

“Quạ ơi mày chớ nghe chi lời xàm

“Lỡ lầm mầy phải nhọc tâm

“Tao ăn bánh sữa để làm gương sau !”

Hụt ăn vì tiếng chuốt trau

Quạ thề: “Lần khác thì tao không lầm !”

Cụ Nguyễn văn Vĩnh dịch thuật

( Thanh Châu st )

TÌNH CÓ DỞ DANG ?

“Tình ta tựa đóa Tường Vi

Nồng nàn say đắm tình si tuổi hồng”

Nhưng bỗng một hôm... Tình xa...!

...

Thôi đừng buồn, nức nở... tình xa

Hồn em mưa tầm tã nhạt nhòa

Tình xa, có lẽ tình tan vỡ

Cay đắng - bơ vơ - những hững hờ...!

Gọi mãi tình xa trong nát tan

Hoàng hôn về lạnh ngắt dung nhan

Bâng khuâng lạc bước hồn băng giá

Tình chẳng như mơ sao bẽ bàng ?

Ai hát lời tình buồn chia ly

Điệu nhạc sầu mênh mang... ướt mi

Lẻ loi chân bước, hồn tê dại

Ngõ nhỏ tiếc thầm, đóa Tường Vi!

Sao không nói lời yêu hò hẹn ?

Cánh hoa yêu héo úa võ vàng

Bao dấu ái còn đây tha thiết...

Tình hẹn trăm năm... sao dở dang !?

Phạm Thị Minh-Hưng

GIẤC MƠ HOA HỒNG

(Cảm tác "Nhan sắc tháng bảy"_Hư Vô)

Lòng nhạt nhòa bao lần Tháng Bảy
Làm sao dậy mộng gọi nhau về
Nhung nhớ tháng ngày chừng như đã
Vướng vất trong tim ước hẹn thề...

Giấu bóng hình nhau vào nhịp thở
Mùa Ngâu Tháng Bảy có mong chờ
Cầu vồng đậm sắc màu thương nhớ
Đêm vật vờ... lúc tỉnh, lúc mơ...

Đã nhạt phai màu môi một thuở
Cuộc tình xa vắng tấm hình hài
Vẫn còn say... ảo tình trong mắt
Lòng hắt hiu đâu bóng dáng ai ?

Run rẩy bài tình thơ Tháng Bảy
Giấc mơ hồng đằm thắm bên nhau
Để một lần ta cùng vượt biển
Cùng bước qua đỉnh sóng bạc đầu...

Phạm Thị Minh-Hưng

GỬI VỀ…!?

Gửi em một mối tình câm

Một lời hẹn ước trăm năm chưa thành

Rót trần nỗi nhớ năm canh

Câu thơ đuối sức núi vành trăng nghiêng

*

Gửi môi một đóa hồn nhiên

Qua thời trai trẻ vẫn nghiêng nồng nàn

Nhịp tim vẫn đập rộn ràng

Sớm Xuân bay áo mơ màng mắt trưa

*

Gửi em hương cốm cuối mùa

Gót tàn sen lục già nua úa tàn

Phấn son nô dịch đài trang

Áo che sao hết lỡ làng em ơi !...

12/8/2017

Bs. DOANLINH

LẶNG THẦM

Có những chiều gió Thu về

Lá Trầu rơi rụng tái tê cõi lòng

Nửa đời lẻ bóng phòng không

Thuyền quyên mắt lệ ngược giòng nhớ xa

Ngày xưa tuổi mộng ngọc ngà

Mắt nai ngơ ngác chưa qua bụi trần

Trang đời còn lắm thanh tân

Ngờ đâu số kiếp hồng trần trớ trêu

Tình ơi còn có bao nhiêu

Cho ta chút mộng nuông chiều dáng xưa

Tình ơi hỏi có quên chưa ?

Xin đừng để lại Diễm xưa bẽ bàng

Tình ơi hỏi có quên chưa ?

Xin đừng để lại Diễm xưa lỡ làng.

VŨ THÙY HƯƠNG

CHƠI VƠI

Lặng thầm nhìn lá vàng rơi

Hạ đi Thu đến chơi vơi lạc loài

Sao tôi vẫn mãi u hoài

Vào Nam chạnh nhớ quê ngoài miền Trung

Tháng năm câm nín lạnh lùng

Chăn đơn gối chiếc ngại ngùng mai sau

Cuộc đời đầy rẫy thương đau

Nếu là duyên nợ cùng nhau tỏ tường

Đời người lắm cảnh vô thường

Phân vân điểm tựa chung đường nên chăng ?

Thu về nhiều nỗi băn khoăn

Nhặt gom lá úa lăn tăn giọt sầu

Mưa rơi làm nước đục ngầu

Mong sao có phép nhiệm mầu HOAN CA.

VŨ THÙY HƯƠNG

SA MẠC HÓA

Trong cuộc sống

Tiền cần thật nhưng không phải là tất cả

vì ở đời còn nhiều thứ cần hơn

Muốn thoát khỏi cuộc sống giản đơn

Lại bị trói buộc vào những gì mình có

Ngày tháng trôi qua, nội tâm khô cằn, sỏi đá

và dần dần sa mạc hóa tâm hồn.

LÊ MINH CHỬ

LỜI HỨA

Có hiểu lời hứa ý nghĩa chi

Không làm thì hứa để làm gì ?

“Nói lời phải giữ lấy lời

Đừng như con bướm đậu rồi lại bay”

Nhân danh (…) mà hứa chẳng phải chơi

Trước toàn thiên hạ đã hứa rồi

Hứa rồi phải thực thi lời

Để giữ danh dự ở đời - Sao quên.

LÊ MINH CHỬ

XA

Tặng Hạ Du

Rồi mai

người sẽ đi xa

mình ta đối bóng

trăng già

ngẩn ngơ

không còn gì để đợi chờ

chỉ còn lặng lẽ

chút bơ vơ buồn

trách mình

sao ước mơ suông

có chăng

như giấc mộng vương

trong đời

từ nay

theo lối ngàn khơi

người đi

như cánh chim trời

bay cao.

(trích THƠ TÌNH MÙA THU)

HOÀI LY

TÌNH KHÚC CHO NGƯỜI

Yêu dấu tặng Tiến T.

Bây giờ người ở Phan Rang

Hồn em ngơ ngẩn trên hàng cây xanh

Nửa năm người bỏ kinh thành

Vào nơi xứ lạ vàng hanh bóng chiều

Còn đây với nỗi tịch liêu

Ngàn cơn sóng vỗ tiêu điều nhớ nhung

Người xa em đã muôn trùng

Cho sầu nét ngọc phai dung nhan buồn

Suối còn mơ bóng trăng suông

Người đi theo áng mây tuôn cuối trời

Em về ru giấc tình ơi

Mà người đâu biết đầy vơi nỗi niềm.

(trích THƠ TÌNH MÙA THU)

HOÀI LY

KHÔNG QUÊN

Đêm nằm trở giấc nhớ lời em

Những tiếng chung tình thủ thỉ đêm

Nhỏ nhẹ lời hay ru bạn ngọc

Bên nhau hòa hợp vui êm đềm

Vắng đi người ở mà thương nhớ

Ôm gối vào lòng thao thức thêm

Giấc ngủ nào quên đường lối mộng

Yên tâm dửng da dệt tơ tằm.

QUANG BỈNH 2017

MƯA ĐÊM

Ngoài hiên lách tách giọt rơi

Nhìn ra cửa sổ nhớ người thuở xưa

Màn sương gió lạnh chuyển mùa

Có người ướt lả lại mua thêm sầu

Mưa rơi đôi má thắm đầu

Nước sa nhỏ giọt thêm sâu nỗi lòng

Tí tách nổi phồng bòng bong

Chim bay về tổ tìm lòng cho nhau

Yêu thương đã lỡ nhịp đầu

Mưa bay gió thổi phai mầu tuổi xanh

Năm xưa đã lỡ bạn tình

Bao mùa cô quạnh tâm linh bồn chồn

Gieo chi cảm xúc tâm hồn

Cho lòng ray rứt nỗi buồn đêm mưa.

QUANG BỈNH 2017

VẪN NẶNG LÒNG

Hình ảnh ngày qua vẫn nặng lòng

Cho dù trải bấy lượt tàn đông

Xót xa cuối tháng nhìn trăng nhạt

Xao xuyến đầu năm ngắm nắng hồng

Bến nước sao mà luôn vắng lặng

Con đò lại cứ mãi thong dong

Vì đâu ta nhớ thương hồi ấy ?

Tấc dạ âm thầm nỗi ước mong.

LANG NGUYÊN

NGẮM SAO MAI

Đê mê thao thức nhớ thương ai

E ấp vầng trăng bóng ngã dài

Thề thốt năm nào mưa chửa tạnh

Tạ từ buổi ấy gió lung lay

Thê lương bến cũ xào tâm não

Ảm đạm đò xưa chạnh mối tây

Êm ấm bên trời duyên phận đẹp

Ước gì ôm trọn ngắm sao mai.

LANG NGUYÊN

MÌNH TÔI Ở LẠI

Một mình tôi ở lại

Giữa đồng bằng hoang vu

Cỏ cây bỗng rực cháy

Những bầu trời âm u

Một mình tôi ở lại

Giữa núi rừng quạnh hiu

Đá cây rừng sợ hãi

Những khối trắng tiêu điều

Một mình tôi ở lại

Giữa biển cả muôn trùng

Biển lặng màu quan tài

Những tảng băng lạnh lùng

Một mình tôi ở lại

Sa mạc nầy mênh mông

Cồn cát buồn cuộn xoáy

Tháp cổ vào hư không

Một mình tôi ở lại

Với sông buồn bao la

Một mình không bến bãi

Tôi tìm tôi nơi xa.

T.P.

Tôi biết đòi ai

Hàng cau se sẻ bay rồi

Biết đòi ai trả một thời ngây thơ

Chim non rớt tổ ngẩn ngơ

Tay ôm mà gởi ước mơ tung trời.

Trả chim về tổ anh ơi !

Cây cao quá trời trèo chẳng tới đâu !

Trèo lên tuột xuống tay đau

Con kêu mẹ khóc làm sao đành lòng

Bắc thang cao tận từng không

Bốn bên gió thổi mà lòng chẳng yên

Lắng nghe ríu rích tổ chim

Tựa đầu mình ngắm... trời thêm mây hồng.

Năm kia trời hóa cơn giông

Em bước theo chồng anh cũng lìa quê

Chân nhanh bước vội trên đê

Vẳng nghe chim gọi...

Anh về phải chăng ?

Dù bao nhiêu tháng nhiêu năm

Tóc mây dài ngắn vẫn thầm nhớ thương.

Nguyên Lê

ĐIỂM HẸN

Sàigòn và một chiều mưa bất chợt.

Hẹn nhau tại Nhà hàng MÓN HUẾ

58 Âu Cơ - Tân Bình.

Hẹn nhau… MÓN HUẾ chiều nay

Ơ kìa ! Mưa bỗng ngô ngây mỉm cười

Giăng tình hò hẹn trêu ngươi

Cho THÙY HƯƠNG ướt cả người trong mưa

Hải Âu ơi ! Có lạ chưa ?

Hẹn Em ! Sao lại để mưa tranh phần

Có phải mưa là giai nhân

Còn Em như bóng mây tần thoáng qua

Biết đền ai dáng ngọc ngà

Trời mưa ganh tỵ trêu hoa ghẹo tình

Còn Em đến hẹn một mình

Mắt huyền ướt đẫm lệ tình ai hay

Hải Âu ơi ! Có TỈNH - SAY ?

Để Em lạnh bóng thân gầy cô đơn

Nhặt gom từng dấu tình buồn

Đợi Anh hàn gắn vết thương trong lòng

Thùy Hương ơi ! Anh vẫn mong

Lưu trang tình sử XUÂN HỒNG YÊU EM.

HẢI ÂU

LƯU DẤU

Mừng Em môi vẫn còn XUÂN

Vẫn còn HƯƠNG SẮC THANH TÂN tuyệt vời.

HẢI ÂU

ĐỒNG CẢM

Nhớ thuở ban đầu ta gặp Em

Tưởng chừng như lạ… bỗng thân quen

Nhạc ! Thơ ! đồng cảm say mừng chúc

Nâng cốc tình yêu ta với Em

Ta vẫn nửa đời lắm truân chuyên

Còn Em lệ đổ phận thuyền quyên

Gặp nhau có phải duyên tiền kiếp

Lưu dấu trang đời mộng trinh nguyên.

HẢI ÂU

BẾP LỬA NĂM XƯA

Thân quý tặng các bạn CCB Tây Bắc

và các em Nhà hàng Hoa Ban

Dịu dàng lá ban khép mở

Vòng cọn bên dòng suối mơ

Hoa rừng vương trên lối cỏ

Đón người lính cũ, khách thơ

Ngôi nhà sàn thân thương đó

Bao lần dừng bước hành quân

Lại được trở về tiếp lửa

Bậc thang có còn dấu chân

Chào em cô gái bản mường

Mang hương duyên sắc hoa ban

Chén rượu ngô còn chưa cạn

Đã như lạc bước lên ngàn

Em cho tôi nắng mùa xuân

Bên hàng khuy bạc rất gần

Nghe giọt mưa trên mái đá

Cho cánh ban thêm trắng ngần

Tây Bắc giữa lòng thành phố

Để cho ai đến ngẩn ngơ

Gặp nhau một thời để nhớ

Ấm nồng bếp lửa năm xưa…

02.01.2009

LÊ NGUYÊN

CHƯA TRÒN CHỮ HIẾU

Tôn vinh chữ hiếu nhớ lại xưa

Thờ cha mẹ hiếu chưa hoàn thành

Nhớ ngày tuổi mới còn xanh

Cha sinh mẹ dưỡng ngọc lành trên tay

Công cha mẹ xem tày non Thái

Nghĩa sinh thành sơn hải mãi ghi

Mong con biết đứng biết đi

Trèo non lội suối quản gì vì con

Bao năm tháng mỏi mòn tất tả

Tấm thân gầy vất vả nuôi con

Cầu mong con lớn con khôn

Chân bùn tay lấm sớm hôm chẳng nề

Hồi tưởng lại tràn trề nước mắt

Tái tê lòng thức trắng năm canh

Những mong đền đáp sinh thành

Than ôi giờ nấm mồ xanh phương trời

Lòng quặn đau không vơi lệ đổ

Năm canh chày thức đủ năm canh

Mờ mờ ảo ảo bóng hình

Như cha mẹ đã anh linh hiện về

Trung hiếu nghĩa thảm thê chi quá

Nước mắt tràn lã chã không ngơi

Thảm thương xúc động bồi hồi

Sinh ly tử biệt ôi thôi còn gì

Thanh thiếu thành an chi lão giã

Lệ tuôn trào chan chứa tâm can

Trời ơi có thấu nguồn cơn

Hỡi người vương giả có buồn hay không

Thôi thì thôi cầu mong phổ độ

Cầu song thân nương cửa thiền đài

Con xin làm quốc kêu mai

Làm thân xe cát ở ngoài biển đông

Bất hiếu nhi nỗi lòng cạn tỏ

Tờ hoa này thổ lộ tâm can

Trải bao gió nội mưa ngàn

Tình thâm cốt nhục lệ tràn không ngưng

Ôi âm dương cách biệt ngàn trùng

Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.

Nay xin có đôi lời nhắn nhủ

Đạo làm người xin chớ bội vong

Trời cao thấu hết nỗi lòng

Dở hay sai đúng dấu không được nào

Đừng như cóc nép bờ ao

Đừng như chú cuội tựa vào gốc đa.

HOÀNG THỊ VINH

GƯƠNG TRONG SOI SÁNG

Gương trong soi sáng thuở còn xanh

Thuở ấu thơ xưa giữ ngọc lành

Lễ giáo gia nghiêm cha dạy bảo

Việc lề canh cửi mẹ khuyên răn

Bên thềm sớm tối rèn tâm trí

Dưới trướng đèn khuya luyện sử tình

Thắp sáng tông môn ghi nhớ mãi

An chi lão già mãi tươi xanh

“Thờ cha kính mẹ đạo làm con

Chữ hiếu khuyên ai giữ vẹn tròn”.

HOÀNG THỊ VINH

TÔI CHỌN ĐÀN BÀ ĐÃ CŨ

Bài thơ được chuyển thể từ một câu chuyện đã đọc !

Tặng những phụ nữ dang dở, ly hôn, single mom.

Tôi gọi đó là người đàn bà cũ.

Tôi đã chọn người đàn bà đã cũ

Bởi tâm hồn rách nát, chẳng vẹn nguyên

Dù con tim đã chai sạn tật nguyền

Trước cuộc đời chưa bao giờ gục ngã

Họ đã yêu, đã thương, trao người đã

Cả tấm lòng nhưng nước mắt lại rơi

Từng nỗi buồn đã chảy đẫm thân rơi

Họ đã mang trong cuộc đời chẳng ít

Chẳng vẹn nguyên, không còn gì nhiều ít

Họ cũ rồi…, đã cũ…, bởi từ lâu

Họ biết cách ngăn được những dòng châu

Và biết cười cho vừa và xứng đáng

Họ đã từng ôm niềm đau, dĩ vãng

Khiến con tim hằn vết cắt cuộc đời

Đã nhiều lúc họ từ bỏ cuộc chơi

Một tấm lòng đã nhuốm màu trầy xước

Họ đã khóc, khóc thật nhiều, tim ướt

Khóc hằng đêm khô nước mắt đi rồi

Khóc để rồi cho cạn những chơi vơi

Và quên đi những nỗi buồn giăng kín

Họ đã biết cười, mắt sầu đã nín

Họ biết cười tươi tắn trước bản thân

Họ đứng dậy và bước tiếp chẳng phân vân

Ừ, tình yêu chắc rằng, trao như vậy

Ừ thì tình yêu chắc là như vậy

Đâu thần tiên, cổ tích, phép nhiệm màu

Đâu tốt gì và có là gì đâu

Họ không xem cuộc đời là cổ tích

Họ thản nhiên sống cuộc đời họ thích

Chọn cho mình sống cô độc thân mang

Họ nhủ lòng ông trời đã đeo sang

Đã sắp đặt cho riêng bản thân họ

Để chạm tới trái tim phụ nữ đó

Không dễ dàng dù một chút nhỏ nhoi

Họ trải qua đau khổ với thiệt thòi

Nên thận trọng hơn, hơn bao giờ hết

Chẳng còn muốn là người bị bỏ vết

Day dứt trong suy nghĩ tại sai lầm

Tự hỏi rằng mình không tốt…? Bởi đâu

Thời điểm này đáng được trân trọng nhất

Và một khi họ mở lòng tim cất

Cho một người một lần nữa lại yêu

Một lòng tin họ tin tưởng rất nhiều

Khiến họ muốn họ yêu thêm lần nữa

Và nếu như được yêu, yêu lần nữa

Hãy thật lòng, hãy trân trọng, họ yêu

Họ để yêu và phải được yêu nhiều

Bằng niềm tin, chân thành và hạnh phúc.

KIM SƠN st.

NGẪU NHIÊN

Ngẫu nhiên, trời xếp đặt

Người ngồi sát bên tôi

Một “Thiên thần Hồi giáo”

Quê Libi bồi hồi

Khăn choàng êm mái tóc

Khuôn ngọc hiền trái xoan

Mơ màng trong khao khát

Ánh mắt tìm chứa chan

Mũi dọc dừa thon cánh

Môi hồng thoảng nét son

Đôi bòng tròn thơm mọng

Bồng bềnh áo choàng đen

Mịn màng da ngần trắng

Đôi tay búp ngọc ngà

Nụ cười trao nồng ấm

Rẽ sóng phương trời xa

Thời gian dành khao tặng

Mơn man mướt êm đềm

Cairô hồn thao thức

Phút giây này sao quên…

Tripôli-Cairô, ngày 3.5.2004

VŨ MÃO

FORTUITOUSLY

Fortuitously, through a heavenly arrangement

The lady who sat right beside me

Was “an Islamic angel”

Whose native land is the fretty Lybia

The shawl gently covered her hair

Her mild pearly oval face

Was dreamy with a craving

Her eyegleam was looking for overflowing joy

Her aquiline nose with tapered alae

Kissing lips with a flashy rouge

Her round and fragrant breasts

Bobbing in her black overcoat

Velvety was her snow white skin

Her jade-like pair of hands with tapering fingers

Her warm swapping smile

Cleaved the waves of a far away horizon

Time was saved for treating and giving

Gently, velvety and smoothly

I’ve spent a restless night in Cairo

How could I forget this fleeting moment…

Tripoli-Cairo May 3, 2004

VŨ MÃO - Translated by VŨ ANH TUẤN


Phụ Bản III

Nước Chảy Qua Cầu

Tặng Đời và những cô thầy giáo lớp đầu

những ngày đáng quên. NVS

1.

Chiếc xe quốc doanh độc nhất trong ngày ngừng lại bến vắng sau hơn mười giờ ọc ạch lê lết như lão tiều phu oằn lưng dưới gánh củi nặng quá sức già. Người tài xế vẫn để máy xe phì phọp than vãn cho những khó nhọc đã vượt qua trên chặng đường chập chùng, loang lổ chứng tích của chiến tranh, vẫn còn có mặt như sự thách đố từ mấy năm nay. Lớp dân kinh tế mới lục đục xuống xe trở lại chỗ đày ải sau mấy ngày về thành phố cũ quơ quào những thiết yếu cho cuộc sống mới. Vài người đàn ông cố lôi ra mấy món đồ nhật dụng được nhét chặt dưới băng ghế. Mấy người đàn bà hững hờ chờ đợi lơ xe chuyển xuống vài cái xách tay quần áo, nồi niêu. Trong nắng chiều vàng vọt giữa một khu đất đỏ bụi mù, tất cả lặng thinh, chậm rãi làm công việc mình, từ tốn đến chán chường. Sự ẩn nhẫn, chịu đựng nỗi đắng cay bất lực của đoạn đời mới bộc lộ rõ ràng qua hành vi và gương mặt của mỗi người. Họ nói bằng mắt nhiều hơn bằng lời. Bến xe không đem vui mừng tới một ai. Trạm ngừng cuối cùng của con đường không là trạm đến bắt đầu một cuộc du hành, chỉ là trở lại chuỗi ngày kham khổ, thiếu thốn, cam phận. Cuộc sống trong cánh rừng sâu nước độc đã tàn phá nét bình thường của mọi người, để lại nỗi chán chường trên những khuôn mặt càng ngày càng hằn thêm nét nhăn cơ cực...

Trinh ngạc nhiên trước cảnh đó. Trạm chót thường rộn rã tiếng cười nói chào mừng. Cảnh tượng ở đây trái hẳn. Một sự yên lặng nặng nề đặc sệt như rừng cây bao bọc chung quanh cái xã heo hút giữa hai ngọn đồi trước mặt. Nàng hỏi chú nhỏ lơ xe đang đánh đu trên cánh cửa xe để chuyển đồ đạc xuống:

- Ðây là huyện Bù Ðăng, quận Ðức Phong phải không cậu?

Có lẽ vì ngạc nhiên với cách xưng hô ít được nghe hơn là câu hỏi ngớ ngẩn, người lơ xe nhìn bọn Trinh trả lời giọng cởi mở:

- Dạ phải! Mà mấy cô muốn hỏi nhà ai?

Trinh nhìn sang mấy bạn đồng nghiệp mới gặp trên chuyến đi. Họ cũng bối rối như nàng. Bến chợ nghèo nàn, lác đác xa xa vài căn nhà lợp tranh phần nhiều chưa đủ bốn vách vây quanh. Thỉnh thoảng mới thấy một căn có vẻ khang trang hơn với cái thùng phuy sơn đen đựng nước trước nhà và giàn bầu bí le hoe vài trái èo uột, gượng gạo. Ðịa phương nhiệm sở của mình đó. Nơi mình đến để thực hành lý tưởng ước mơ sau mười mấy năm dùi mài đèn sách. Nơi mình bước bước đầu vào cuộc sống thiệt sự. Một vài cặp mắt hột nhãn tò mò của mấy đứa nhỏ ở trần đen đúa thập thò trong khung cửa trống, ngơ ngác nhìn mấy bộ áo màu mè của Sàigòn xa lạ. Ngây thơ đến tội nghiệp!

Trinh ấp úng:

- Chúng tôi muốn hỏi Phòng Giáo Dục Xã.

Người lơ xe bối rối gãi đầu:

- Xã kinh tế mới nầy chưa có trường học nên tôi không biết Phòng Giáo Dục ở đâu. Xã bên kia đồi có trường nhưng từ đây đến đó xa lắm đi bộ không được đâu. Ðâu mấy cô đi thẳng con đường nầy, tới căn nhà khuất sau đám cây cuối đường kia hỏi ông Thôn trưởng coi. Ông là người cầm đầu địa phận nầy đó.

Cậu ta cười giả lả phân bua:

- Tụi tôi cũng không rành ở đây lắm. Cô thấy đó, giờ nầy mới tới đây. Cơm nước tắm rửa thì tối mù rồi. Lo ngủ nghê để mai sớm trở về Sàigòn. Mấy cơ quan của mấy ổng ở đây tụi tôi bù trất.

Trinh nhìn con đường rồi nhìn ba cái túi xách của mình đang để dưới đất. Bây giờ chúng quả là một gánh nặng. Ðảo mắt nhìn về hai phía thật xa cố ý tìm kiếm một chiếc xe lam. Vắng lặng, nghèo nàn. Nắng đổ lửa. Ðất bụi mù. Trinh tự trách sự ngớ ngẩn của mình. Làm sao có thứ xe đó ở đây? Mình còn chịu ảnh hưởng của Sàigòn quá! Sửa soạn để thích ứng với hoàn cảnh mới là vừa. Ðâu có lý tưởng nào đạt được không bằng mồ hôi, nước mắt của người ôm ấp! Một cô bạn đường như ít dịp đối phó với những bất trắc của cuộc đời, nắm tay Trinh lo ngại:

- Sao giờ chị Trinh? Em thấy từ đây tới đó khoảng hai cây số, mình đồ đạc lỉnh ca lỉnh kỉnh làm sao mang tới đó được. Không biết tối nay mình ngủ ở đâu đây? Trời sắp tối rồi, họ mà hết giờ làm việc thì mình kẹt lắm đó!

- Rồi đâu cũng vô đó thôi! Nàng trấn tĩnh bạn. Em cũng chưa biết sao nữa. Nhưng em nghĩ chắc hành chánh ở đây đã biết hôm nay mình tới nhận nhiệm sở. Ít ra họ cũng đã sắp đặt cho mình nơi ăn chốn ở tạm thời rồi.

Tuy nói vậy, Trinh trong lòng cũng thấy e ngại. Một lũ đàn bà con gái giữa cảnh núi rừng xa lạ, nhà cửa thưa thớt, dân cư dửng dưng, lạnh lùng. Phía cuối xe một thanh niên đi về phía nhóm con gái còn đang đứng lớ ngớ. Trinh mừng rỡ, ít nhứt cũng vậy, có một người giống mình, thuộc phe mình, ít ra cũng ở bề ngoài và dáng đi điệu đứng. Trinh thở ra nhẹ nhõm yên bụng, cái yên bụng của một đứa nhỏ sợ ma phải đi qua cánh đồng vắng ban đêm thời may gặp một đứa khác. Nàng gật đầu chào thật thân thiện kèm theo nụ cười.

Trinh thấy mình lớn lên với cử chỉ đó. Từ trước tới giờ mình có như vậy đâu. Nhút nhát, thu mình lại trong vỏ ốc, yên lặng, tránh chào hỏi, phớt tỉnh trong sự thẹn thùng cố hữu của người con gái mới lớn.

- Chào mấy cô, nghe mấy cô nói chuyện, tôi biết chúng mình là đồng nghiệp. Tôi tên Ðời, được chỉ định đến đây để nhận công tác điều hành tạm thời ngôi trường sẽ thành lập của xã nầy trong mấy ngày tới!

Năm sáu cặp mắt nai con thán phục người hùng đến kịp lúc.

- Mấy cô khỏi đi, tạm thời mấy cô và mấy anh đứng tránh nắng ở căn nhà trước mặt. Tôi sẽ đi với anh Tiến liên hệ với Thôn trưởng và đại diện Phòng Giáo Dục để tìm chỗ nghỉ ngơi đêm nay. Thế nào cũng có... Nếu cùng quá, tôi sẽ ngoại giao gởi các cô ở tạm nhà dân. Ðàn ông con trai chúng tôi thì dễ thôi. Ngủ đâu lại không được.

Giọng Ðời chắc nịch, tự tin của một người điều khiển nắm vững vấn đề.

Những ánh mắt mừng rỡ, tin tưởng và những cái gật đầu biểu đồng tình. Trinh và cả bọn liếc nhìn về phía những đồng nghiệp nam. Mấy khuôn mặt trắng học trò. Mấy cặp mắt kiếng cận thị. Những cái áo tay dài sơ mi măng-xét-đúp. Những cái quần thời thượng bảy mươi lăm. Họ đứng đó. Bỡ ngỡ nhìn mặt trời gác núi xa xa và những căn nhà héo úa xám xịt chung quanh. Tất cả đều cùng lứa tuổi với Trinh. Lứa tuổi hai mươi. Có thể họ cũng như mình, học hành lỡ dở vì Cách mạng về không đúng lúc phải lên đây để giải quyết cuộc sống đồng thời tìm nguồn vui qua một lý tưởng giúp đời lờ mờ trong trí. Trông họ thật ngây thơ và thanh bình. Họ cũng như mình, chưa có một khái niệm đúng về nhiệm vụ và nhiệm sở. Họ ngỡ nơi đến như khu cư xá Thủ Ðức, Thanh Ða. Họ nghĩ đến một ngôi trường tường gạch nhiều phòng với hàng trăm học trò đồng phục trong những lớp đầy đủ tiện nghi. Bây giờ mọi người chắc đã lờ mờ thấy được sự khác biệt giữa hình ảnh trong trí và sự kiện thực tế. Xã nhỏ le hoe, thưa thớt. Dân chúng đen đúa, khắc khổ với những cặp mắt không sinh khí, yên phận chịu đựng.

Ðời chỉ về phía họ:

- Ðó, Tiến đó, anh mang kiếng, áo xanh đang khiêng rương sách đó. Tốt nghiệp lớp nghiệp vụ đặc biệt tháng rồi. Sinh viên năm thứ ba trường Luật trước ngày Giải phóng. Anh ta mang theo cả một rương tiểu thuyết mới cũ. Rồi mình tha hồ đọc.

Ðời cười, bắt chước đồng chí giảng viên môn nghiệp vụ và tình hình thực tế:

- Rồi tất cả sẽ ổn định thôi. Anh trầm ngâm cố tìm một ý để hỗ trợ lời xác định vừa rồi. Các cô cứ coi đây như là một cuộc cắm trại dài hạn thì sẽ thấy vui vẻ phấn khởi ngay. Trước đây mình ở thành phố có bao giờ hưởng được không khí trong lành của rừng núi đâu, có thưởng thức được cảnh đẹp đẽ hùng vĩ của thiên nhiên đâu! Ðây cũng là dịp để bù lại những thua thiệt đó. Có thể có anh chị ngại ngùng. Bà con ở được thì mình ở được. Ta còn có cái vui làm công việc giúp đời, giúp đồng bào xã hội...

Ðời nói nhiều. Anh đang cố gắng đánh bật đi sự thất vọng có thể đang bắt đầu manh nha trong đầu óc những người sẽ cộng sự với mình. Họ mà thất vọng bỏ về thì đời hiu hắt. Núi rừng nầy sẽ buồn hơn thuở hoang sơ. Có mấy cô ở đây, anh biết công việc mình sẽ nặng nhọc thêm vì sẽ có những vấn đề ngoài dự trù. Nhưng cũng nhờ mấy cô, chất sống sẽ nhiều hơn ở phía đồng nghiệp nam.

Trinh trố mắt nhìn người trưởng nhiệm sở. Cũng cách an ủi mình mới vừa dùng để trấn an các bạn. Rồi đâu sẽ vào đó. Sẽ ổn định thôi. Một cuộc cắm trại dài hạn. Làm mình nhớ đến người tình đã hy sinh vào Giờ Thứ Hai Mươi Lăm của cuộc chiến. Anh ấy từng ước ao hai đứa được hưởng một cuộc picnic dài năm ngày, một tuần. Mà có bao giờ được đâu. Một ngày, nửa buổi đi về, cuộc vui chưa tàn mặt trời đã xế. Những cái nắm tay níu kéo ánh mặt trời quá ít so với cuộc tình đậm đà của thời mới lớn. Tất cả tưởng chừng như bụi thời gian lấp chìm trong ký ức, bây giờ có người vô tình gợi lại. Nhưng tất cả phải chăng sẽ vô nghĩa vì vắng bóng một người? Phải chăng tất cả sẽ chỉ là một chuỗi dài đau khổ triền miên như một thi nhân đã nói. Anh, tại sao trước đây chúng ta không dám làm một cuộc cắm trại dài hạn, để bây giờ chỉ có mình em ở đây? Chúng ta giữ gìn, tưng tiu trái cấm của tình yêu, bây giờ nó trở thành một thứ trái dại vô giá trị. Anh giữ cho em nhưng bây giờ mọi giá trị đều đã đổi thay. Chỉ có mình anh là kẻ thiệt thòi.

Trinh nghe như xốn xang. Khung cảnh trước mắt bỗng mờ nhạt qua một làn mưa. Trên kính cửa sổ. Nàng nghe hết những câu dặn dò từ giã của người Trưởng nhiệm sở mới gặp, nhưng tất cả đều như vẳng lại từ cõi nào đó, trong một vũ trụ khác một hành tinh khác. Mơ hồ, thật mơ hồ...

2.

Trinh nhìn ba người bạn từ phía suối bước lên, cười trách thân mật:

- Tắm gì mà lâu vậy. Ðợi mấy bà sửa soạn dung nhan hoàng hậu cũng đủ mục xương.

Một cô mới tắm xong vừa dềnh dàng lau tóc vừa ngầy ngà trả lời:

- Thì chị Trinh với mấy chị xuống tắm ngay đi, ở đó rầy rà. Một hồi nữa về không kịp nấu cơm, người ta than đói lại xót ruột.

Những tiếng cười trong trẻo nổi lên. Trinh đập nhẹ vào vai bạn:

- Chị giỏi tài nói lảng. Ðói thì đói hết. Có riêng ai mà xót với không xót.

Nói xong Trinh lững thững đi xuống suối. Nước mát lạnh, trong veo, róc rách chảy lên lòng đá có sức hấp dẫn lạ lùng. Nàng muốn lội ra chỗ nước sâu dầm mình để trút bỏ những bực bội trong ngày nhưng lại sợ các bạn đợi chờ.

Mỗi lần tắm cả bọn rủ nhau đi, một nhóm tắm, một nhóm ngồi đợi ở vệ đường chận ngả đi xuống suối. Xong lại thay phiên nhau. Như vậy yên bụng hơn, tự do hơn và mọi người đều có dịp nghỉ ngơi. Dạy học xong phải lội bộ cả cây số xuống suối, nhiều bữa Trinh mệt đừ nằm dài bên bờ suối thở dốc. Ngoài giờ dạy học, thời gian đẫm mình dưới suối là khoảng thú vị nhất trong ngày. Trinh vốc nước lên mặt. Nước suối mát lạnh, đem lại sự thoải mái trên khắp thân thể. Giá những thiếu thốn ở đây đừng quá trầm trọng, giá những chuyện bực mình ít xảy ra hơn, cuộc sống cũng có thể gọi là thú vị. Xế tắm suối mát, chiều ăn ngoài trời, tối thức nhìn sao. Cuộc sống nhẹ nhàng như thời gian quy ẩn Côn Sơn của Nguyễn Trãi. Côn Sơn hữu tuyền kỳ thanh lãnh lãnh nhiên. Ngã dĩ cầm huyền. Côn Sơn hữu trúc.... Suối làm đờn. Rừng cây làm bàn. Trăng sao làm đèn. Cuộc sống có vẻ gì thơ thới, ngoài vòng cương tỏa...

Chưa từng xa nhà, chưa từng gặp những khó khăn mà chính mình phải lo liệu, nhiều khi Trinh cũng thấy buồn buồn mỗi lần nghe tiếng ve kêu rộn rã khi chiều xuống nhưng rồi nàng tự an ủi mình. Ở trong sự tù túng của thành phố, có bao giờ mình biết được cảnh nầy. Lần đi Ðà Lạt cách đây đã lâu cũng có những thú vui tương tợ, nhưng lúc đó mình lỏi tì, đi với gia đình cuộc vui không trọn vẹn. Những lần tắm biển Vũng Tàu thẹn thùng, mệt nhọc đường về, cả tuần da mặt còn rát.

Trinh nói với Hoa, cô bạn đang tắm gần:

- Không biết chừng nào họ khởi công cất nhà cho mình. Ở tập thể như thế nầy bất tiện quá. Nhiều lúc trời quá oi bức, muốn mặc áo cụt cũng không được. Nhiều bữa mệt nhoài muốn nghỉ đỡ lưng cũng ngại ngùng. Chỗ ở giống như trại lính. Trống phốc từ trước ra sau. Cả chục đàn ông với bảy cô gái! Còn thêm chuyện bếp núc, cơm nước. Ðể mấy ông rửa chén bát thì tội nghiệp, ôm đồm thì mệt muốn đứt hơi. Ðàn ông con trai họ chúa ghét rửa nồi niêu soong chảo.

Hoa không trả lời nàng, triền miên với ý tưởng Trinh vừa gợi ra:

- Phải phục đồng bào khéo tay, lúc mới khởi công xây trường em thấy miếng đất trống mà ngán ngẩm. Rồi cũng xong. Tổ đập lồ-ồ, tổ đóng bàn ghế, tổ đắp nền, tổ bện tranh. Học hồi lúc nào mà hay quá. Rồi nàng tắc lưỡi. Không có đồng bào giúp sức chẳng biết mình đến bao giờ mới dựng được ngôi trường!

Trinh nhại theo cách nói của ông Thôn Trưởng giọng tươi tắn như mới nhận được niềm vui:

- Thì nghề dạy nghề. Học hỏi trong lao động, trong nhân dân. Lao động là ông thầy thực tế nhứt. Nhân dân là ông thầy giỏi giang nhứt. Cán bộ cần, nhân dân giúp, nhân dân cần, cán bộ phục vụ. Bác Hồ có nói: “Cán bộ và nhân dân như cá...”

Thấy Hoa vừa đùa với nước vừa nhăn mặt, Trinh đổi ngay đề tài. Nàng cười hóm hỉnh:

- Mà Hoa thấy anh Tiến tài không? Anh mới tới mà đóng bàn ghế học trò giỏi ghê. Ðưa anh ta năm cây lồ-ồ, một lúc sau thì đã có một cái băng như là do thợ lành nghề đóng. Ba cây làm chỗ ngồi. Hai cây cưa ra làm chân. Ðâu phải anh ấy chỉ biết có luật và mấy cuốn tiểu thuyết chưởng thôi đâu. Vậy mà có người còn chê lên chê xuống rập rà rậm rì. Nào là mặt sữa SMA, nào là baby face.

Hoa biết bị chọc quê đánh trống lảng:

- Em coi bộ họ lợp tranh không được kỹ. Nhìn thấy mặt trời hết trơn hết trọi. Mùa nắng còn đỡ. Mùa mưa chắc hết dạy dỗ gì quá.

Câu nói của Hoa gợi Trinh nhớ đến câu phú học lúc nhỏ: Nắng lỗ chỗ trứng gà soi lên vách. Không gì đúng hơn. Nhiều bữa đứng dạy - ghế lồ-ồ không phải để mình ngồi, Trinh thường nói giỡn như vậy - nhìn mấy tia nắng tròn in trên tập mà nghe đau đau. Thời buổi gì mà tất cả đều phải tự túc, từ trường ốc, bàn ghế, sách vở đến văn phòng phẩm. Ðã vậy mà mua lại khó khăn, mắc mỏ. Ba bốn tờ giấy giới thiệu, đi lên đi xuống, chầu chực mất hết cả ngày giờ.

Trinh miên man xa hơn:

- Dân chúng bị sốt rét nhiều quá. Trông thiệt thảm hại. Tụi mình ăn ớt để ngừa rồi đứa nào đứa nấy sẽ lột lưỡi thành két hết. Em từ nhỏ đến giờ có biết ăn cay đâu. Mấy anh ấy bắt ép quá, bữa nào cũng phải ăn mấy trái, nước mắt nước mũi cứ tuôn như mưa, giống như lúc nhỏ ăn cơm đã no còn bị ép ăn thêm, ôm chén cơm khóc nũng.

Hoa hớt ngang, tánh Hoa vẫn vậy, trẻ con, lốp chốp:

- Thì bây giờ cũng khóc nũng đó, ớt cay một nước mắt chị chảy mười. Báo hại bữa cơm nào cũng có người đứng ngồi không yên. Ăn không được. Tối nào cũng than sao mau đói!

Trinh nín thinh, nàng biết tánh bạn, nếu chống chế càng bị trêu cợt thêm. Ở chung chạ đông đảo, sự săn sóc vồn vã, lo lắng cho nhau là chuyện phải có. Nếu nói rằng được để ý còn có thể chấp nhận, nói rằng được yêu e quá sớm. Còn mình, lòng mình cằn cỗi như cấu tạo địa chất ở đây, thiếu nước lành, thiếu phân bón, đã khép lại muôn đời sau cái tang lớn tình yêu đó, làm sao có thể đáp ứng sự mời gọi của ai. Tình yêu đầu đời đổ vỡ sau khi đã đượm hương đừng ai mong mỏi cửa vườn hoa mở nữa, bẽ bàng người đến, bẽ bàng vườn hoa.

Tiếng Hoa bỗng hậm hực:

- Chị Trinh biết không, hôm nay bà Thanh Tra giáo dục huyện sau khi dự thính lớp em nhận xét rằng em đủ tính chuyên, nghĩa là em dạy “được” nhưng bà ta cũng phê bình rằng em không có giáo án nên nhiều lúc nói xa đề tài, chưa liên hệ với thực tế, chưa phân phối thời lượng hợp lý. Còn quần áo của mình bà ta phê bình là không phù hợp với hoàn cảnh của nước mà cũng như chưa hòa đồng với dân chúng địa phương.

Trinh nói tiếp theo:

- Nghĩa là chưa đủ tính “hồng”... Cũng như không!

- Hồng sao được mà hồng. Muốn hồng cũng phải cả thế kỷ sau may ra. Còn bây giờ nếu có hồng chỉ là hồng giả mà thôi.

Trinh trở về thực tế của vấn đề:

- Ngày nay em có thấy khách nào tới viếng trường đâu? Chẳng lẽ cái cô bé khoảng 15, 16 tuổi kẹp tóc mang cái xách nylon Cách mạng, đi chiếc xe đạp cũ mèm tới trường lúc sáng nay lại là bà Thanh Tra?

- Bà ta đó, lúc đầu em tưởng mình sắp có thêm một em học trò. Ai dè đụng bà Thanh Tra. Không biết là bà ta học ở trường nào, có mấy năm trong nghề dạy.

Sau cái tắc lưỡi, giọng Hoa hằn học hơn:

- Em chắc bà ta thuộc gia đình cách mạng, nhờ có công thoát ly được bố trí vào chức đó thôi. Chứ trẻ như vậy làm sao dạy được ai? Em chỉ tức bà ta phê bình theo sách vở mà mặt cứ vác hất lên trời, tưởng chừng mình là người quan trọng nhứt trên trái đất nầy. Liên hệ với thực tế! Áp dụng vào hoàn cảnh địa phương! Hừ! Bà ta dạy giỏi lắm cũng như vậy thôi. Làm sao khác hơn được.

Trinh xoa dịu bạn:

- Mà thôi, tức làm gì. Miệng nhà quan có gang có thép. Nghe vậy thì hay vậy. Chừng nào họ làm quá mình nghỉ về nhà ăn chực cha mẹ. Thêm một miệng ăn nữa chắc cũng không đến nỗi nào... Chỉ buồn là bỏ lũ học trò bơ vơ ở đây thôi... Nói thì nói vậy chớ dầu sao mình cũng cố gắng chút nào hay chút nấy. Ðồng bào nghèo khổ, thiệt thòi.

Hoa vẫn ấm ức:

- Em tức mình nhứt chuyện bà ta phê bình về quần áo tụi mình. Phải chăng quần áo tươm tất là không hòa đồng? Quần áo rách rưới luộm thuộm là hòa đồng? Em cứ lại viện cớ là quần áo cũ ngày trước, có gì bận nấy chớ đâu phải mới may. Bây giờ tiền đâu mà may. Năm tháng lương chưa chắc mua đủ vải may một bộ đồ. Hơn nữa chỉ thị từ Huyện phải gọn ghẽ, thanh nhã, kín đáo. Em hỏi bà ta vậy chớ quần áo tụi nầy có hở hang cũn cỡn không, bà ta nín thinh không trả lời. Thấy không khí hơi căng, ông đại diện Phòng Giáo Dục hứa sẽ can thiệp với Phòng Thương Nghiệp cho mình mua vải đen để may mặc đi dạy. Hoa cười toe toét Em cứ tưởng tượng mình mặc quần áo cũn cỡn như bà ta đứng trước mặt học trò là em bắt cười hoài. Mười hai con giáp không giống con giáp nào.

Trinh phì cười vì câu nói của Hoa, tới giờ cô nàng vẫn còn giận. Châm chọc, mai mỉa, diễu cợt có bao nhiêu trong lòng nói hết ra. Trinh vuốt đuôi:

- Họ hứa vậy chớ còn lâu lắm mình mới mua được Hoa ơi! Hoa không nhớ chuyện mì gói phụ trội với thuốc hút cho mấy anh đó sao? Những gì có dính tới quyền lợi còn lâu mới tới tụi mình... Mà lạ quá, chuyện quần áo là chuyện chẳng đặng đừng với lại, có gì đâu mà đáng đặt thành vấn đề...! Tuần trước anh Ðời nói bên phe giáo chức giải phóng 72 đã bắn tiếng rồi, họ nói mình tư sản, điệu hạnh làm dáng đủ thứ. Bây giờ lại tới cô Thanh tra nầy.

Nói xong Trinh mới biết mình lỡ lời. Gần đây các bạn chế nhạo nàng hay nhắc đến Ðời, lúc nào cũng anh Ðời nói nầy, anh Ðời nói kia. Phải chăng đó là kết quả của một tình yêu chớm nở trong tiềm thức? May quá, trong lúc tức giận Hoa không thấy sự lỡ mồm lỡ miệng đó!

- Thì người ta có gì mặc nấy. Ai hơi sức nào mà se sua chi cho mệt. Ở đó mà thắc mắc! Em cũng rất muốn làm thân với họ, nhưng em thấy sao sao đó, khó quá! Chắc họ mặc cảm thua kém.

Trinh vuốt giận bạn, cố gắng nhích hai bên lại gần nhau:

- Hoa thấy đấy, họ mới học xong lớp Bảy, lớp Tám thì vùng họ bị mất rồi bị bắt đi làm thầy giáo. Học thức kém nên họ cảm thấy bất an, phải dằn mặt mình để yên bụng. Mình mới tới nhịn chút nào hay chút nấy để không khí thân thiện hơn mới dễ làm việc. Ở đây toàn Huyện chỉ có hai trường, tuy cách nhau khá xa, nhưng họp hành gặp nhau, hằn hộc, tranh cạnh với nhau khó nhìn mặt.

Ðược dịp Hoa nói cho hả hơi:

- Họ nhỏ mọn lắm, chắc chị nhớ trước đây anh Ðời trong bữa ăn than rằng chính trong một buổi họp hàng tháng họ đã phê bình đơn vị mình thiếu sinh hoạt tập thể chỉ chơi riêng? Ý họ muốn nói bọn mình chỉ chơi chung với nhau, thiếu thân thiện với họ. Họ còn nói mình liên hệ với nhân dân chưa gắn bó nữa chị biết không? Hừ! Chưa gắn bó mà bầu bí cha mẹ học sinh đem tới hoài, chưa gắn bó mà có cọng rau trái ớt gì họ cũng đem cho. Chưa gắn bó mà những gì cần thiết cho trường chúng mình đi xin, chứ mấy ông trên Huyện trên Phòng xuống xin để nghe chửi à! Họ mượn cớ phê bình xây dựng để nói xấu mình cho đỡ căm tức thì có... Dạy mệt không nản, nghe mấy chuyện nầy sao em nản quá!...

Trinh chưa biết nói sao. Tình trạng đã bắt đầu khó khăn. Sự chia rẽ ngấm ngầm trong tập thể giáo chức sẽ dễ dàng cho cơ quan hành chánh xiết chặt bàn tay sắt bọc nhung của họ. Ý niệm đoàn kết bọn nàng mang lên đây như một hành trang giờ va chạm thực tế đã dần dần tơi tả, rơi rớt. Chán nản. Mới ba tháng nhậm chức, công việc trường chỉ vừa vào nếp, chỗ ăn ở chưa ổn định mà nhiệt tình như ngọn lửa phất phơ trong cơn gió lốc bắt đầu tàn rụi do những phản động lực từ mọi phía. Một tiếng thét thất thanh từ bờ suối vọng lại. Cả hai ngơ ngác nhìn lên. Một cô bạn đang nhăn nhó vì mấy con đỉa đeo vào chân. Không ai bảo ai Trinh và Hoa lật đật chạy ù lên để giúp bạn. Tuy gớm ghiếc Trinh cũng cố gắng phun nước miếng giựt chúng ra khỏi bàn chân tội tình của người bạn xấu số. Mấy con đỉa hai vòi từ lâu không được hút máu giờ gặp dịp hút thỏa thích nên no tròn, bóng lưỡng, trông thật dễ sợ. Ba cô bạn đang ngồi nói chuyện trên đồi cũng tất tả chạy xuống. Cả bọn xít xoa bàn tán coi đó như là một biến cố quan trọng nhất trong khoảng thời gian mấy tháng ở đây.

Thấy không nên kéo dài hơn câu chuyện nàng hối các bạn:

- Mấy chị lạnh run hết kìa. Không lo thay quần áo, cứ đứng đó mà bàn, về bị cảm cho coi.

Bây giờ mọi người mới để ý đến sắc mặc Hoa và hai người kia, môi nhợt nhạt răng đánh bò cạp, tay chân run run, mấy đầu ngón tay săn tái... Một tấm nylon được giăng ra che về phía đường đi để làm màn cho bọn Trinh...

Trên đường về không ai nói với ai lời nào, mọi người miên man với ý nghĩ riêng. Chuyện đỉa đeo chân đối với những cô gái thành thị như họ kinh khủng hơn bất cứ khó khăn nào gặp phải trên xã đìu hiu nầy. Riêng Trinh, qua sự im lặng của các bạn, nàng lờ mờ cảm thấy rồi đây sẽ có người bỏ cuộc. Bỏ cuộc không phải vì họ thiếu thiện chí mà chỉ vì Nhà Nước đã tạo cho họ những chán nản vô ích, vì tình người thiếu thốn, vì núi rừng ác độc trong sự hiền hòa bên ngoài, vì không đủ điều kiện để thực hành lý tưởng ôm ấp trong lúc ra đi. Nhớ đến câu nói ban đầu của Ðời, nàng càng thêm thất vọng. Cuộc cắm trại dài hạn! Hay chỉ là sự lưu đày miên trường vĩnh viễn. Một chuyện đem con bỏ chợ không tiếc thương. Bổ người vào địa điểm để làm nhiệm vụ nhưng không tạo cho họ hoàn cảnh, không cung cấp phương tiện, chỉ tạo cho họ những khó khăn bực dọc thế mà còn đòi hỏi năng suất cao, kết quả tốt! Và Trinh như thấy trước mắt hình ảnh mình bị guồng máy bóc lột đó quay nghiền, vắt ép trở thành già nua cằn cỗi đang ngồi trong căn nhà mục nát, trước mắt bàn ghế xiêu vẹo với vài đứa học trò ốm o, ghẻ chốc. Mấy câu thơ của nhiều thế hệ thi nhân chợt ghép lại trong trí Trinh một cách tuyệt hảo: Rồi thời gian qua, sắc màu phai, hoa tươi rụng... Trong căn nhà nhỏ, thầy giáo một thầy một cô, một chó cái; học trò dăm bảy đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi... Con đường trước mặt như hun hút dịu vợi, ngút ngàn!

3.

Tiếng búa đập trên thiếc chan chát làm đinh tai nhức óc Trinh. Cảm giác nặng đầu, khó chịu tăng dần theo thời gian. Mỗi tiếng búa đập xuống như ai đóng đinh vào đầu nàng. Nặng chĩu, đau nhói. Trời nóng bức, bực bội. Mấy bữa nay trong mình khó chịu lạ, đau nhức, tay chân rã rượi, đắng miệng. Hộp thuốc cảm của người bà con từ Mỹ gởi về mẹ bỏ vào xách trước khi đi đã hết, bây giờ chỉ chờ căn bệnh tự rút lui. Nàng hỏi mấy đứa học trò cho có chuyện để bớt bực dọc:

- Thầy Ðời đập mấy tấm “tôn” để chi vậy mấy em?

Thằng Tâm nhanh nhẩu:

- Dạ thưa cô, thầy đập thẳng để làm bảng cho lớp của thầy. Tấm bảng làm bằng ván ba em cho hồi mới cất trường viết không ăn phấn. Thầy đã xin được tấm tôn vạt của chú Ba gần nhà em hồi sáng nay.

Trinh bực mình, càu nhàu trong trí: “Bảng không ăn phấn thì nói miệng, hay chờ Phòng Giáo Dục cung cấp, đồng bào đã nghèo mà cứ tối ngày xin xỏ, hà tiện tiền cho chính phủ. Rồi còn còng lưng đập gõ, nhức cả đầu.”

Trinh bước ra, đến bên Ðời, nói xa gần:

- Anh Ðời, giờ nghỉ của anh sao anh không nghỉ mà ở đó đập đập gõ gõ. Hồ hởi quá rồi than mệt. Anh đập nghe muốn điếc lỗ tai luôn.

Ðời vô tình:

- Làm gì có thì giờ nghỉ với lại ngày nghỉ. Làm ngày, không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ mà trường còn thiếu thốn đấy! Có thêm chút phương tiện nào thì các em học sinh đỡ chút nấy. Ở không cũng không làm gì.

Trinh nói rõ hơn:

- Tôi nhức đầu quá, tai lại ù ù. Thôi anh để mai đập vậy. Anh đập nữa chắc tôi điên luôn.

Nói xong Trinh bỏ về lớp mặc cho Ðời trố mắt ngạc nhiên. Tới lớp Trinh vẫn còn ấm ức. Cả tháng nay biết bao nhiêu chuyện buồn xảy ra. Hoa bị sốt rét nặng, chở đi lên nhà thương Sông Bé chưa biết tin tức ra sao. Tiến bị y tá chích gân không biết họ làm ăn thế nào mà chích vô thịt cánh tay anh lồi lên một cục to bằng cái trứng gà nhăn nhăn nhó nhó mấy ngày mới được phép đi bệnh viện hôm Chủ nhựt rồi. Hồi nãy lúc bắt đầu tiết thứ tư, ông Trưởng ban Thông Tin Văn Hóa xuống nói là chỉ thị Huyện nhờ giáo chức Chủ nhật nầy đi rảo lại trong xã làm kiểm kê lần nữa trình độ văn hóa của nhân dân trong xã. Như vậy là trung bình mỗi tháng phải kiểm kê một lần! Mỗi lần tốn hết ngày Chủ nhựt đi lên đi xuống và mấy buổi tối cộng cộng trừ trừ mấy con số trồi trụt như nước lớn nước ròng. Lại còn ông Trưởng Phòng Lương Thực đã xồn xồn, ho hen mà cứ cà rà kề rề bên mình hàng bữa bực bội vô cùng. Nếu phải lựa chọn, còn lâu mới tới chọn ông ta. Tưởng chức Trưởng phòng bự lắm, cứ hề hề hà hà trông khả ố không chịu được. Ðã chọn lầm đường đi rồi, đáng lẽ phải biết phận mình, đàng nầy cứ... Khoai lang xuống đất khoai lang sùng... Bao nhiêu là chuyện buồn! Bao nhiêu là công chuyện! Không bực sao được? Trinh nhìn xuống đám học trò thưa thớt. Lúc mới tới, lớp nầy có hơn năm mươi đứa. Tháng rồi còn không đầy hai chục. Hôm nay lèo tèo không tới mười đứa. Không cần hỏi cũng biết lý do: phải phụ cha mẹ thu hoạch hay phải bỏ lớp cày cuốc đào xới để đạt chỉ tiêu do trường, do xã đặt ra. Trinh thở dài. Cũng như bọn mình, mỗi người lãnh mười luống mì, không chăm sóc tới kỳ, cứ èo uột, không đủ chỉ tiêu mất công nghe kiểm thảo. Trinh thấy tội nghiệp mình và tội nghiệp học trò. Thầy cô mệt mỏi dạy không được như ý muốn, học trò học cho có lệ phân tâm nghĩ về giàn bầu luống khoai, về chỉ tiêu thu hoạch lần tới. Mọi người đều bị những con số hành hạ đến nỗi việc học, việc dạy đang là công tác chánh bị đẩy xuống hàng phụ. Thế hệ trẻ sau nầy sẽ ra sao? Chúng sẽ được hưởng gì trong những tháng ngày cắm cúi trồng trọt đó hay chỉ là tiết kiệm được cho Nhà Nước một số gạo để dùng vào những mục tiêu không phải phục vụ nhân dân, để xã có thêm tấm giấy ban khen không bù đắp gì được sự cực nhọc của những người dân không tên kém may mắn. Những đứa học trò cũng lần lượt vắng mặt hoặc lén lút hoặc công khai. Gia đình chúng trở lại Sàigòn. Có đứa đến từ giã Trinh nói không giấu diếm. Ba em nói về Sàigòn, ngủ hè ngủ chợ vậy mà có tự do và lâu chết đói hơn. Ở đây đợi lúa trổ bông, đợi cây ra trái không biết chừng nào mà lại thiếu thốn đủ thứ, bệnh tật dầu có tiền cũng không tìm được thuốc men. Mỗi lần mất một đứa học trò Trinh thấy sự gắn bó của mình với trường ốc lỏng lẻo hơn. Học trò là chất keo, là những con ốc nối kết nàng với nơi này. Chất keo càng ngày càng tan, ốc càng ngày càng sút mất, ý tưởng đầu hàng hoàn cảnh càng mạnh. Nàng chờ đợi một biến chuyển, nàng ước ao một chuyện đổi thay. Lắm lúc Trinh mong được nghe tin kế hoạch kinh tế mới giải tán, cán bộ được điều đi chỗ khác để nàng có lý do xin thôi. Tấm giấy chứng nhận nghỉ việc coi tầm thường nhưng rất quan trọng. Mâu thuẫn. Mâu thuẫn như mình và các bạn lên đây với mục tiêu phục vụ các em học sinh mà cuối cùng phải phục vụ những luống ngô luống sắn.

Có bóng người đạp xe đến trường trao bức điện tín cho Ðời. Trinh tò mò nhìn ra. Ðời tươi cười khi tiếp bức điện tín, đọc rồi trầm ngâm, buồn bã. Anh cho vào túi, nói mấy câu cám ơn rồi đi vào văn phòng. Trinh ước ao nhận được một bức điện tín như vậy. Ít ra cũng là cái cớ để mở được cái “van” an toàn cho những bực tức khỏi bùng nổ. Sàigòn bây giờ chỉ còn trong quá khứ. Sàigòn đã biến thể phần nào nhưng vẫn còn là thành phố của tuổi trẻ, của mình, của kỷ niệm. Xa nó, chôn chân trên vùng đất khô cằn thiếu thốn này mới thấy sợi dây vô hình nối liền với nó sao mà thần diệu. Sàigòn của những ngày tháng thần tiên tay trong tay lên xuống con đường dập dìu Lê Lợi, Nguyễn Huệ. Sàigòn của những buổi trưa nắng đỏ đèo nhau trên đường lá me Nguyễn Du, Ðồn Ðất. Tất cả chồm dậy níu kéo Trinh từ hiện tại để trở về. Trinh chợt cười một mình. Mới có mình là một, chờ một chuyện không may cho gia đình để được về Sàigòn. Rồi nàng chép miệng. Ở mãi trên này thế nào cũng phát điên thôi. Hơn nửa năm chưa được về. Phép hứa lên hứa xuống, nhân viên thì đông, đợi tới lượt mình chắc đã bỏ xác già nơi đây. Tuy khổ cực đi về. Một ngày đi, một ngày về nhưng cũng còn một ngày cho mình. Cũng được ở nhà với mẹ hai tối. Buổi sáng cho bạn bè. Buổi trưa cho những con đường thân thuộc, để sống lại tình xưa. Buổi chiều để khóc bên gối mẹ, cho cuộc tình không trọn, để nhìn chân dung anh ấy. Chắc mình sẽ được nghe những khuyên nhủ vì mình. Chắc mình sẽ khóc nhiều khi mẹ mở cho xem bộ đồ đại lễ của anh ấy ngày mãn khóa.

Những giọt nước mắt rơi xuống thấm ướt trang sách. Lớp học lặng lẽ. Học trò im lặng. Chúng ngó nhau ngạc nhiên. Tiếng một con ruồi lạc lõng bay vo ve nghe rõ mồn một, cả những tiếng thở dài buồn lây cố nén của vài đứa thương mến cô giáo cũng nghe rõ ràng như tiếng tàu lá chuối xào xạc trong đêm vắng...

Kẻng ấp chiến lược báo hiệu tan trường. Từng đứa một rón rén đi ra cửa sau khi liếc nhìn bức tượng xi măng cô giáo bất động trên băng ghế lồ ồ... Chiều xuống dần... Có tiếng gót giày vang trong phòng vắng, Trinh giật mình quay lại. Ðời đến bên cạnh, giọng thật buồn:

- Cô Trinh nầy, mai tôi về Sàigòn. Hơi lâu đó. Mong cô và các bạn ở lại bình yên. Tôi vừa nhận được điện tín...

Trinh nói như mất hồn:

- Tôi biết rồi. Ðồi núi không đủ sức cầm chân anh, những khó khăn ngu xuẩn vô ích đẩy anh rời xa nơi đây mau hơn. Nhưng thiệt không ngờ mau đến như vậy. Mới có sáu tháng.

Ðời thở dài:

- Sáu tháng quá đủ để thấy mình bị lợi dụng. Quá đủ để thấy những gì mình ôm ấp trước khi lên đây bị người ta bắt buộc vứt bỏ đi và đưa vào tay mình một thứ khác không quan hệ gì với lý tưởng đó hết.

Ngừng một chút Ðời nói thêm:

- Ra đi lành ít dữ nhiều, nhưng thà vậy. Canh bạc lớn nhất của cuộc đời mà ai có đủ điều kiện cũng phải đặt thôi. Héo mòn theo ngày tháng chỉ tự làm khổ mình.

Trinh không kềm chế được lòng mình:

- Nhưng anh sẽ để khổ cho những người thân yêu.

- Biết sao hơn. Bất lực trước hoàn cảnh chọn giải pháp không hoàn hảo còn hơn không chọn giải pháp nào! Biết đâu chuyện đời! Người thân, người quen nếu gặp lại được ở chân trời góc biển nào đó thì ý nghĩa biết bao! Vả lại biết đâu hoàn cảnh mới sẽ thuận tiện hơn cho việc thực hành những lý tưởng khác hữu hiệu hơn và nhất là không bị bẻ cong, bóp méo như hiện tại.

Ðời nhìn vào mắt Trinh, anh muốn nói thêm nhưng lại thôi, bao nhiêu đó đã đủ. Tự hứa còn quan trọng hơn thốt lời ra rồi buông trôi. Trinh thẫn thờ nhìn ra ngoài. Lác đác mấy con chim sẻ kiếm ăn giữa sân. Chúng cũng như mình có nhau hôm nay, chưa biết ngày mai ra sao! Một cái bẫy, một giàn ná sẽ chia lìa chúng ra. Dễ dàng như bức điện tín mật mã quái ác kia. Số mình vậy đó. Người tình một đời ra đi tức tưởi không lời từ biệt, không nhìn được nhau lần cuối. Ðể lại những nụ hôn đầu bờ môi vụng dại mãi mãi không quên. Mối tình mới chớm nụ nhẹ nhàng như sương mù rừng núi cũng tan theo cơn lốc cuộc đời. Ðến rồi đi. Một từ biệt để bảo vệ con thuyền chính nghĩa dân tộc trong sóng gió. Một sinh ly đem mộng lấp biển vá trời. Ðối với mình rồi hình bóng họ sẽ như nước chảy qua cầu. Qua mãi. Một lần bóng cầu in dưới nước. Rồi thôi. Hai bên không còn liên hệ gì nữa. Chỉ có chiếc cầu ở lại bất động. Ðợi chờ sự tàn phá của thời gian. Như mình sẽ chết già ở xó núi xẻo rừng để rồi được đắp mặt bằng những danh từ rỗng tuếch không bù lại chút mảy may những thiệt thòi.

Trinh cúi đầu nói thật nhỏ, như tự biện hộ:

- Phải chi mình là trai! Hay giàu có hơn... Hoặc bắt liên lạc được trở lại...

Ðời nhìn xuống, đường ngôi thẳng trắng nổi bật trên nền tóc đen. Ðầu Trinh thật tròn trịa, quý phái. Nàng ngẩng mặt lên định nói gì nhưng bắt gặp ánh mắt thương yêu, lân mẫn của Ðời nên lại thôi. Một vài sợi tóc lạc loài lòa xòa trước trán trông thật là xác xơ thảm hại. Ánh nắng chợt tạo một bóng đen trên quầng mắt Trinh. Nàng như già đi thêm 5, 6 tuổi.

Tiếng Ðời thật cảm động, âm vang trong buổi chiều tịch mịch:

- Tôi đã xin phép họ xong. Bức điện tín này không còn cần thiết nữa. Trinh giữ lấy như một kỷ niệm đánh dấu ngày chia tay đồng thời phủ nhận tình ý của tôi với Trinh.

Nàng thẫn thờ cầm bức điện tín, thở dài như nói với mình:

- Rồi tất cả sẽ qua đi. Như nước chảy qua cầu.

Ngoài kia mặt trời khuất hẳn sau rặng cây xa. Những tia nắng bướng bỉnh cuối cùng cũng tắt ngắm để lại một màn đen rừng núi dần dần lẫn với màu trời. Trong này bóng tối xuống thật nhanh trùm phủ ngôi trường kỷ niệm.

(San Antonio, USA, 1981, gần 2 năm sau ngày tới Mỹ)

NGUYỄN VĂN SÂM


ĐÊM GIÁNG SINH NĂM ẤY

Dù thời gian mấy mươi năm qua nhưng tôi vẫn không bao giờ quên kỷ niệm của đêm Giáng sinh năm ấy.

Vâng, không bao giờ quên.

- Minh Lý, kỳ này khóa 10 của tụi mình sẽ đi Đà Lạt đấy, bạn chuẩn bị đi nhé. Đi trong mùa Giáng sinh, bạn thích không? - Hoàng Thy báo tin.

Hoàng Thy là cô bạn cùng cộng tác cho tờ nội san Uyên Ương của Trung Tâm Gia Đình Mục vụ của Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản. Tôi với Thy tuy mới quen biết nhưng khá thân vì hai chúng tôi có nhiều điểm rất hợp nhau.

Thế là sau khi được ba mẹ cho phép, tôi đã sửa soạn hành trang theo nhóm bạn trong khóa 10 Dự Bị Hôn Nhân lên xứ lạnh du ngoạn mùa Noel 1973. Tôi rất vui mừng vì lần đầu tiên được tung tăng thỏa thích với bạn bè trên miền đất mù sương thơ mộng này.

Vượt qua mấy trăm cây số đường đèo ghềnh thác, tôi đã lên tới vùng đất ngàn hoa. Đoàn chúng tôi được hướng dẫn về trọ ở tu viện Franciscaine nằm trên ngọn đồi cao nhìn ra dãy Lang Biang chập chùng trong mây.

Đêm đầu tiên ở Đà Lạt, trời rất lạnh, gió rít qua những hàng thông, nói chuyện ra khói, chúng tôi ăn tối xong thì được xe đưa ra chợ Hòa Bình đi dạo tự do, chờ giờ về xem lễ nửa đêm ở tu viện.

Tôi và Hoàng Thy nắm tay nhau cùng dạo chơi loanh quanh, bỗng tôi nhìn lại thì cô bạn thân đã biến đâu mất, để mình tôi đứng ngơ ngác trên con đường lạ lẫm.

- Cô ơi, cô vui lòng chỉ đường xuống Hồ Xuân Hương.

Tôi giật mình quay về hướng tiếng nói vừa phát ra. Là một người thanh niên trẻ khoác perdessus màu xám trắng mỉm cười nhìn tôi.

Tôi lịch sự đáp lời:

- Dạ, thưa anh, tôi mới lên đây lần đầu, cũng không biết đường để chỉ dẫn cho anh đâu.

Chàng trai lại cười bảo:

- Thế thì mời cô cùng đi dạo quanh đây với tôi, có được không?

Tôi bối rối chưa biết trả lời sao, nhìn quanh thì thấy bao nhiêu là cặp đôi đi qua lại tay trong tay, mũ len, khăn quàng, áo khoác lịch lãm đầy ấm áp và bên cạnh tôi người ấy vẫn đang chờ đợi câu trả lời. Tôi đành gật đầu đồng ý vì mãi vẫn chưa thấy bóng dáng cô bạn thân đâu cả.

Thế rồi, chúng tôi hai người còn xa lạ cùng bước bên nhau dưới bầu trời đêm giá lạnh của mùa Giáng sinh Đà Lạt. Thật vậy, trời bấy giờ rất lạnh, dù tôi đã mặc chiếc áo dài nhung, áo choàng, khăn len quàng cổ mà vẫn cảm thấy rét run quá chừng và dường như cái lạnh của tôi cũng lây sang anh ấy.

Anh nắm tay tôi kéo sát vào anh để tôi đỡ lạnh hơn. Tôi bẽn lẽn muốn đi xa ra nhưng anh đã giữ tay tôi lại, nhỏ giọng:

- Em đừng ngại, không có gì đâu, anh sợ em lạnh thôi. Mà em chưa cho anh biết tên?

- Em tên Minh Lý, còn anh?

- Anh là Thuận, sĩ quan trường Võ Bị Đà Lạt, anh lên đây nghỉ thường niên.

Tôi chợt hiểu câu hỏi đường ban nãy chỉ là để làm quen mà thôi. Ngày ấy, tôi còn quá ngây thơ không hiểu biết nhiều, vì chỉ mới bước chân vào đời. Rồi Thuận cũng đã đưa tôi đến Hồ Xuân Hương, ngồi bên bậc đá ngắm vầng trăng khuyết, nghe gió thổi xào xạc trong những khóm cây tùng thông.

Tâm hồn tôi như bay bổng cùng trời đêm đông buốt giá và như lạc vào thế giới mộng ảo nào đó.

“Thẩn thơ dạo bước âm thầm

Sương khuya với gió lạnh nằm trong cây”.

(Thơ Hoài Ly)

Đó là tâm trạng của tôi lúc ấy.

Cả hai chúng tôi ngồi cạnh nhau mà không ai thốt lên lời nào vì mải say mê ngắm đất trời thơ mộng, huyền ảo ấy. Mãi một lúc lâu sau, tôi chợt sực tỉnh, kéo tay áo anh hỏi giờ thì đã trễ, quá giờ hẹn về tu viện dự lễ nửa đêm mất rồi.

Quả thế, lúc Thuận đưa tôi đến điểm xe đậu để đưa nhóm chúng tôi về lại nhà dòng Franciscaine thì xe đã chạy rồi, nhìn điểm đậu xe vắng tanh tôi suýt òa khóc vì sự sơ suất tệ hại của mình.

Thấy thế, Thuận vội an ủi:

- Không sao, anh sẽ đưa em đi lễ nhà thờ Chánh Tòa Đà Lạt. Sau đó, đón xe cho em về nhà dòng.

Đành phải vậy thôi, tôi nhủ thầm.

Rồi anh Thuận đưa tôi sang nhà thờ Chánh Tòa hay còn gọi là nhà thờ Con Gà (anh nói vì trên đỉnh tháp nhà thờ có gắn hình con gà nên có tên gọi như thế).

Cho đến bây giờ tôi vẫn như còn nghe vẳng lại lời bài Nguyện ca đêm Giáng sinh: “Đêm Thánh vô cùng” (Silent Night) trầm bổng với tiếng organ trong thánh đường.

“Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng. Đất vời Trời se chữ đồng…” của Ca đoàn. Tan lễ hai chúng tôi ra đường lớn trở về chợ Đà Lạt đón xe về tu viện. Nhưng đêm càng khuya, càng lạnh lẽo, không còn bóng xe nào chạy qua, chỉ còn những người về muộn bước vội vã về nhà mình.

Hai chúng tôi đành đi bộ dọc theo con đường dẫn về dòng tu mà nhóm bạn và tôi ở trọ, đường Phù Đổng Thiên Vương hình như dài ra mãi, đi hoài mà không đến nơi. Đoạn đường dốc dài đêm Noel năm ấy đầy những hỏa châu, soi sáng bước chân của Thuận và tôi. Tôi nhớ cạnh lề đường có những em bé mặc áo ấm đốt lửa sưởi cho bớt giá lạnh của đêm trường đã rất dễ thương mời gọi cả hai chúng tôi dừng lại cùng sưởi lửa nhưng tôi đã nói với các em bé ấy rằng:

- Anh chị phải về thôi, không cùng sưởi với các em được, khuya lắm rồi.

Thế là Thuận vẫn phải đi cùng tôi dưới những ánh hỏa châu trên bầu trời cao nguyên. Lạnh quá tôi phải giấu tay vào túi áo choàng của anh. Bỗng nhiên, Thuận dừng lại và cúi xuống trên môi tôi. Nỗi bàng hoàng lẫn ấm áp chợt vây lấy tôi. Ôi, nụ hôn đầu của đêm!

Chúng tôi vẫn đi và thỉnh thoảng dừng lại để hôn nhau. Đêm như dài vô tận và đường cũng dài thăm thẳm. Cuối cùng, hai người đành phải chia tay ở đầu một con dốc vì anh cũng phải trở lại quán trọ của mình.

Thuận nói:

- Minh Lý hẹn ngày mai ở Hòa Bình em nhé.

Tôi ngập ngừng, bảo nhỏ:

- Nếu mai chúng mình không gặp nhau thì sau Tết Dương Lịch anh về Sài Gòn tìm Lý ở cơ quan ở Trần Hưng Đạo nha anh.

Rồi hôn từ giã nhau giữa đêm Giáng sinh lạnh vô cùng, bên ngoài trời và trong tâm hồn cô gái trẻ.

Tôi trở về nơi trọ một mình trong tiếng gió hú trên đồi cao và tiếng bước chân độc hành vang vọng trên đường vắng. Đêm 25/12 kế tiếp sau đó, tôi đã không đến nơi hẹn với Thuận vì phải dự lễ đốt lửa trại với nhóm bạn.

Qua những ngày nghỉ đầy kỷ niệm vui tươi ở xứ sương mù, tôi về Sài Gòn, trở lại với công việc thường ngày và chờ đợi một người.

Như lời ước hẹn, Thuận cũng đã tìm gặp lại tôi ở nơi làm việc. Được cơ quan gọi điện thoại báo là có khách đến tìm, tôi vội ra tiếp. Nhưng khi gặp mặt, hình như anh ấy có vẻ bất ngờ, thái độ hơi lúng túng, nhưng lúc ấy tôi không cảm thấy điều gì khác thường vì đang mừng rỡ anh đã đúng hẹn với mình. Khi ấy Thuận ra vẻ bận rộn, nói có công việc phải đi và hẹn gặp nhau hôm sau tại…

Tôi đã đến điểm hẹn đó, chờ mãi, chờ mãi mà anh ấy không bao giờ đến, không bao giờ nữa. Và từ đó đến nay, tôi cũng không hề gặp lại anh.

Thời gian đầu, tôi không hiểu lý do tại sao anh lại không đến và thường tự hỏi mình hoài điều đó hàng trăm nghìn lần.

Nhưng rồi có một ngày, khi đã dần trưởng thành hơn, tôi tự soi gương và chợt hiểu ra lý do người ấy mãi mãi không đến như đã hẹn.

Mỗi mùa Giáng sinh đến, tôi lại nhớ về đêm Giáng sinh đầy kỷ niệm của năm cũ, dù lòng cứ nhủ lòng: “Lý ơi, hãy quên đi. Nhớ làm gì một chuyện thường tình”.

Cám ơn cuộc gặp gỡ ngắn ngủi ấy đã khắc sâu trong tâm hồn tôi dấu ấn tuyệt vời của một thời thiếu nữ.

Cám ơn anh, người quen trong đêm Giáng sinh thần tiên nhất của đời tôi.

HOÀI LY

BÍ MẬT VỀ MỰC IN

CỦA GUTENBERG (Gu-ten-béc)

Thế kỷ thứ XV, một người Đức là Johannes Gutenberg (Giô-han Gu-ten-béc) đã phát minh ra kiểu in châu Âu với bộ chữ kim loại. Trong công nghệ này, ông dùng mực in gốc dầu vì nó bám tốt với kim loại, khác với loại mực in bằng hỗn hợp nước được sử dụng trước đó. Một thời gian dài các nhà nghiên cứu cho rằng cấu tạo mực Gu-ten-béc gồm hỗn hợp dầu hạt lanh và muội đèn, được sử dụng rộng rãi tới cuối thể kỷ XVI.

Mới đây, các nhà khoa học Mỹ đã chứng minh rằng Gu-ten-béc sử dụng một hỗn hợp phức tạp, trong đó đồng và chì chiếm một lượng đáng kể. Họ phát hiện điều này khi chiếu một chùm tia pro-ton lên những trang kiệt tác còn lại của Gu-ten-béc - tập thánh kinh 42 dòng.

Sử dụng kim loại thay cho hắc ín có chất lượng như thuốc màu hiển nhiên được du nhập từ hội họa. Thật vậy, 500 năm trôi qua mà những ấn phẩm của ông vẫn giữ được độ bóng và màu đen sẫm như xưa, trong khi ấy bao nhiêu ấn phẩm khác bị thời gian xóa nhòa đi, thậm chí cả loại in sau này nữa. Ô-xít kim loại đồng và chì có độ bền rất cao, còn các-bon chứa trong muội đèn dần dần biến thành mô-nô-ô-xít các-bon và bay hơi.

Như vậy, sự xác lập thành phần hóa học mực in chấm dứt cuộc tranh luận dai dẳng về các vấn đề in ấn ngày xưa.

Theo Scientific American, NT

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

TỰU TRƯỜNG

Dù có nhớ sao là nhớ, thì chẳng còn ngày tựu trường khi tuổi đã… sồn sồn.

Ôi, làm sao quên được những tháng ngày đầy kỷ niệm êm đềm xa xôi ấy! Ngày tựu trường đầu tiên có thể có khóc nhè be bét khi “chia tay” với mẹ, nhưng ngay hôm sau, sự bịn rịn ấy ít nhiều cũng… tinh giản biên chế! Bằng cớ là chỉ hơi dụi dụi mắt rồi ù té vào với mấy đứa nhi đồng rất chóng vánh kết thân. Không nhớ ra ư? Thì cứ dắt cháu đi học thì cuộn phim ngày nào sẽ hiện lên không một vết xước!

Có thể thằng bạn ngày xưa vẫn trở lại trường bằng chiếc áo trắng đồng phục có vệt mực vắt xéo từ trên lưng vai thẳng băng xuống tận lưng quần. À! Đó là tác phẩm rất thú vị của ta sau một hôm ngẫu hứng, ta đã vẩy luôn một đường bút vừa chấm đầy mực, khiến ta bị thầy bắt quỳ cả giờ ngoài cửa lớp. Thằng quỷ ấy nào có vừa vặn gì, vì một hôm, nó giả bộ thúc cùi chỏ vào lọ mực của ta - mà ta quên béng mất nhãn hiệu rồi. Ái chà chà! Ta tặng cho nó chỉ một vệt, mà nó xơi ta cả một lọ đen đúa, đi luôn cả trang giấy khiến ta phải xé đi, làm quyển vở đã mỏng theo những chiếc tàu bay giấy lại càng mỏng lét. Dĩ nhiên, ta bù lu bù loa là đúng rồi! Vì có thế nó mới bị quỳ ít là phải… khệnh khạng mới đứng lên được khi thầy tha mạng. Ờ, mà chính vì quyển vở ngày càng mỏng khi ngoài bìa tập vở Cyclo rõ rành rành ghi “96” trang, mà cha ta bắt ta phải đánh số vào mép trang, khiến việc sản xuất tàu bay giấy của ta đành ngưng trệ…

Ngày tựu trường của những tháng năm râu ria bắt đầu lún phún, có thể là ngày chú mục vào một hình bóng đã đi vào con tim héo hon suốt “mỗi năm đến hè lòng man mác buồn…”. Ôi trời, sao người ấy hôm nay lạ thế, đẹp thế và nhìn hết hồn thế! Mặc xác tiếng trống thùng thùng, mặc xác nó có thể được thay bằng tiếng chuông reng reng lanh lảnh, mặc xác “đàng trước, thẳng!”, vài cái đầu cứ giữ vững hướng nhìn tỏ rõ lập trường nhất quán là, mục tiêu số một là cô nàng hôm nay có mái tóc demi garçon vừa mới mẻ, vừa tinh nghịch, lại vừa dễ… ghét gì đâu! Bỗng, có lẽ cổ nàng nóng ran, nên quay ngoắt lại nhanh như hỏa tiễn chứ không phải tên lửa Saturn, khiến kẻ nhìn trộm vừa bẽ bàng, vừa khoái trá, vừa thừa cơ hội nhay nháy mắt một phát với hy vọng cú mắt nhay nháy ấy cũng… đáng yêu lắm chứ!

Rồi đàn chim phải vỡ tổ thôi. Ngày tựu trường bây giờ là của lũ nhóc tì, của lũ thiếu niên nghịch ngợm, mà không còn là của những kẻ từng như thế. Tất cả đã bị giòng suối cuốn trôi ra biển cả bao la và lạ lẫm. Mọi sự dần nhạt phai vì thời gian đã pha loãng mọi thứ trong cái xô bồ và vô tình của nó. Thỉnh thoảng có gặp lại con nọ thằng kia, thì: “Ô hay! Hôm nay là ngày nó cưới vợ ấy mà”; hoặc: “Trời! Xấu như ma mà mày cũng lấy được chồng ư!”.

Đôi khi ở một ngã rẽ cuộc đời, bỗng có bà bán bắp vì mải gánh gồng mà đâm sầm vào kẻ nhàn du. Đến khi trắng con mắt bực, mới phát giác đứa gồng gánh ấy là con bạn ngày xưa chung lớp:

- Sao mày ra nông nỗi này?

- Tại… chồng chết!

Hm, chẳng lẽ hồng nhan đa truân lại một lần nhắc nhở…

Ở trước một quán cà phê khác, người khách đeo kính đen to bản bước xuống xe xích lô:

- Bao nhiêu đấy anh?

- Anh cho…

- Này!

Người khách dúi vào tay người phu xích lô cả cọc tiền, rồi lôi anh ta vào quán:

- Tao nè Hùng…

Vui ơi là vui mà cũng tủi sao là tủi khi kẻ thì giàu mà người thì mướp đắng. Nhưng dù sao, những trái tim ấy vẫn còn chứa ăm ắp những tháng ngày không quên nơi ghế nhà trường…

Ngày tựu trường bỗng một hôm nhớ lại sau những bước đời vội vàng. Bọn nghịch ngợm ngày nào hẹn hò ở bất cứ nơi nào nghĩ ra được. Một quán cà phê, một góc công viên, hay:

- Lại nhà tao đi, chồng tao thoải mái lắm

Thế là cái bọn sồn sồn lộn xộn ấy túm lại nơi nhà cái con “đen đen mà có duyên ấy”. Đám con của cặp vợ chồng gia chủ há hốc miệng nhìn bạn bè của mẹ nó hết ực bia lại láp nháp những chuyện xưa như trái đất, để rồi giới thiệu với ba nó, tay lôi xềnh xệch ông bạn đang cố trì đôi chân lại:

- Ông xã! Giới thiệu với ông xã, đây là Nguyên, bạn học của em.

Rồi bà ấy tí tởn với ông bạn ngày nào:

- Ông Nguyên! Giới thiệu với ông đây là ông xã đẹp trai của tớ! Giá mà ngày xưa ông yêu tớ như tớ ước mong ngày ấy, thì tớ… vuột mẹ nó mất ông xã bây giờ rồi…

Cũng có thể họ “tựu trường” nơi họ từng tựu trường ngày xưa với không khí không kém náo nhiệt là mấy. Mỗi năm, trong họ cũng thiếu đi người này, mà lại tăng thêm những học sinh đầu bạc mới toe và cực kỳ lạ lẫm, cực kỳ phấn khích. Họ tròn cả bốn mắt để “ồ” lên mọi thứ, mọi người quen mà lạ, lạ mà quen, xưa mà mới, mới mà nhớ lại ngày xưa rất xưa.

Có người chỉ thích nhâm nhi với mấy đứa thật thân, nhất là mấy đứa đã từng chung trường lại chung quân ngũ. Có người chỉ muốn ít bạn đến nhà chơi, ăn uống, ka-rao-kê, kể lể chuyện chồng con, thầm thì chuyện khó nói.

Có người lại tựu trường với đầy vẻ hoành tráng của nó. Họ móc ruột ra cho tràn trề mọi sự! Họ móc tiền ra cho niềm vui không dứt! Họ nhe cả hàm răng xiêu vẹo ra để cười nụ ngày nào! Họ hát những bài tình ca đã nửa thế kỷ với cái tự hào, tao chỉ thích thứ nhạc này và chúng là của tao! Họ có thể hôn chùn chụt người khác phái đã vừa khen họ là “trẻ quá”, cho dù họ biết lời khen ấy… không mấy thật. Nhưng bù lại, bàn tay bắt nhau sao mà chặt thế…

Nếu có ai tựu trường mà không nhận ra được một bóng hình ngày cũ, một vóc dáng quen thuộc, hay một giọng nói gợi nhớ nào đó, thì hẳn rằng, trong cõi nhân sinh lúc ấy, biết đâu cũng có ai đó, nhiều những ai đó cũng đang một mình xoay xoay cái ly mà tưởng tượng về một ngày xưa. Rồi dần dà, những hoài niệm, những cố nhân sẽ từng phút… hiện về rất rõ!

26.07.2017

LAM TRẦN


Phụ Bản IV

20 KỊCH BẢN SÂN KHẤU

NỔI TIẾNG TRÊN THẾ GIỚI

1. Âm mưu và tình yêu - bi kịch của Sin-le (Schiller 1759-1805, Đức). Kết thúc bi thảm của mối tình giữa Phéc-đi-năng và Lu-i-dơ, không phải do hằn thù giữa hai gia tộc hay những sự kiện ngẫu nhiên như trong Rô-mê-ô và Giuy-li-ét, mà do mưu mô thâm độc của những kẻ đặc quyền đặc lợi, xấu xa. Mác đánh giá đây là “vở kịch có khuynh hướng chính trị đầu tiên của nước Đức”.

2. Ăng-đrô-mác (Andromaque) - bi kịch cổ điển của Ra-xin (Jean Racine 1639-1699, Pháp). Về người vợ của Héc-to, dũng tướng thành Tơ-roa, sau khi chồng tử trận, bị bắt làm tù binh, nhưng nhất định không trao trái tim mình cho người khác.

3. Ăng-ti-gôn (Angtigone) - bi kịch cổ đại của Xô-phôc-lơ (Sophocle 496-406 tr. C.N., Cổ Hy Lạp). Con gái vua Ơ-đíp, đã dũng cảm chôn cất thi hài người anh ruột bất chấp lệnh cấm của vua Crê-ông đang trị vì.

4. Ba chị em - kiệt tác của Sê-khốp (Tchekhov 1860-1904, Nga). Bế tắc của những trí thức nhu nhược bị sa lầy trong môi trường tỉnh lẻ trì trệ và dung tục.

5. Bão táp (1612) - kịch hoang đường của Sếch-xpia (Shakespeare 1564-1616, Anh). Tác phẩm tổng kết cuộc đời tư duy của văn hào qua một câu chuyện đầy chất thơ. Pơ-rôx-pê-rô, nhà pháp thuật kiêm bác học thể hiện sự chiến thắng cuối cùng của trí tuệ và cải thiện.

6. Bảy người chống lại thành Te-bơ (Thèbes) (467 tr. C.N.) - bi kịch cổ đại của Et-sin (Eschyle 525-456, tr. C.N., Cổ Hy Lạp).

7. Bi kịch lạc quan (1933) - của Vis-nhép-xki (1900-1951, Liên Xô) tác phẩm tiêu biểu của nền biên kịch cách mạng vô sản. Nhân vật trung tâm là một Nữ chính ủy Hồng quân. Chị đã cải tạo được một đơn vị vô chính phủ thành một đơn vị chiến đấu có kỷ luật, và đã hiến dâng tính mệnh cho sự nghiệp.

8. Bóng người cầm súng (1923) của Ô-cây-xi (Sean O’casey 1884-1964, I-ếc-lăng). Thiên anh hùng ca đầy chất thơ và chất lãng mạn về cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân I-ếc-lăng.

9. Bô-rít Gô-đu-nốp (1931) - bi kịch lịch sử của Pu-skin (1799-1837, Nga) phản ảnh cuộc tranh cướp ngai vàng giữa những thế lực phong kiến, nhưng đã đưa nhân dân lên thành nhân vật chính. Quần chúng nhân dân mới là người quyết định diễn biến của lịch sử. Tất nhiên không phải bao giờ họ cũng sáng suốt. Bị lừa bịp, họ có thể ủng hộ kẻ xấu.

10. Bơ-răng (Brand-1866) - kịch thơ của Ip-xen (Ibsen 1828-1906, Na Uy) đề cập đến vấn đề tự do cá nhân và thiên hướng. Giáo sĩ Bơ-răng với chủ nghĩa cực đoan về mặt tinh thần đã nổi loạn chống lại tính phi nhân của xã hội tư bản.

11. Cái bóng (1940) - kịch hoang đường của Sư-vác (1896-1958, Liên Xô) phát triển chuyện của Ăng-đéc-xen.

12. Cái chết của người chào hàng (1949) - kịch của Mi-lơ (Arthur Miller 1915, Mỹ). Số phận bi thảm của Vi-li vốn mơ mộng và nhu nhược, hoàn toàn bất lực trước thực tế phũ phàng của xã hội thực dụng.

13. Ca-li-gu-la (1945) - của Ca-muy (Albert Camus 1913-1960, Pháp) mượn chuyện cổ để lên án những kẻ độc tài đã trở thành ác thú không còn chút tình người nào nữa.

14. Căng-đi-đa (1894) - của Sô (Bernard Shaw 1856-1950, Anh). Tác giả là người mở đầu cho dòng “kịch tư tưởng” ở châu Âu. Qua chuyện tình yêu giữa một phụ nữ đảm đang, thông minh và xinh đẹp với hai người đàn ông thực tế và mơ mộng, khẳng định lối sống mơ mộng viển vông tuy không đem lại lợi ích cụ thể, nhưng vô cùng cần thiết cho con người.

15. Câu chuyện mùa đông (1611) - kịch cổ tích của Sếch-xpia (x:5). Vua Xi-xin nghi oan Hoàng hậu ngoại tình, đã giết vợ cùng đứa con gái. Sau đó hiểu ra và hối hận. May Hoàng hậu và công chúa được một người tốt bụng cứu thoát. Cuối cùng họ lại đoàn tụ và hạnh phúc.

16. Cậu Va-ni-a (1896) - kiệt tác của Sê-khốp (x:4) vẽ lên một thần tượng giả, giáo sư Xê-rê-bri-a-cốp, và nỗi thất vọng của những người xung quanh. Đồng thời chế giễu những trí thức thiếu bản lĩnh, do bị động với quan niệm phổ biến nhưng sai lầm của dư luận, đã phải chịu hậu quả cay đắng.

17. Cô gái bướng bỉnh bị thuần phục (1593) - hài kịch của Sếch-xpia (x:5) ca ngợi thái độ tôn trọng phụ nữ trong tình yêu.

18. Cô gái điên ở Say-ô (1945) - của Gi-rô-đu (Jean Giraudoux 1882-1944, Pháp), nhà viết kịch tài năng bậc nhất thời đó ở Pháp. Vở lên án bọn kinh doanh tàn nhẫn và bọn quý tộc cam tâm làm tay sai cho tư bản.

19. Cô gái không hồi môn (1878) - của Ôx-trôp-xki (Alexandre Ostrovski 1823-1886, Nga). Cô gái xinh đẹp La-ri-xa đã nhận cái chết để khỏi bị biến thành “hàng hóa”.

20. Cỗ xe bằng đất nung - của Su-đra-ka (thế kỷ 5, Ấn Độ), một trong hai kiệt tác của sân khấu Ấn Độ cổ đại. Tả cuộc sống trong cung đình cũng như ngoài dân dã thời ấy.

LỆ NGỌC st.

CON GÁI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC

Từ xưa, người ta nói con gái mười hai bến nước. Tại sao mười hai bến nước? Nếu lấy chồng giàu sang quyền thế là tốt, lấy chồng nghèo hèn là xấu. Như vậy chỉ có hai bến nước là tốt là trong và đục là xấu thôi. Ngày xưa, cổ nhơn chia xã hội ra làm mười hai tầng lớp, kể từ giới sang cả có quyền thế trở xuống là: Công, hầu, khanh, tướng - Sĩ, nông, công, thương - Ngư, tiều, canh, mục.

- Mục đồng là kẻ coi trâu mướn, không tài năng và tài sản gì nên được coi là hạng người thấp nhứt trong xã hội,

- Canh là anh thợ cày, là người không tài sản gì, đem thân đi làm bạn cày cho địa chủ, sống nhờ vào địa chủ, anh ta vẫn là người nghèo có hạng.

- Tiều phu là người đốn củi. Tuy anh ta vẫn tự chủ mưu sinh nhưng ngày xưa một thân một mình hay đôi ba người cùng đi đốn củi, cuộc sống cũng bấp bênh. Đốn củi để hầm than, đốn củi để bán cho người ta chụm nấu nướng… thì thu nhập không có bao nhiêu. Đốn củi để làm cột, kèo… cất nhà thì lâu lâu mới có người mua và cũng cần nhiều người mới làm được.

- Ngư phủ là người đánh bắt tôm cá dưới sông, biển… cũng là thành phần tự chủ mưu sinh. Nhưng xưa kia dụng cụ còn thô sơ. Họ dùng đăng, lọp, vó… nên đánh bắt không được bao nhiêu. Có được một miệng đáy không phải là dễ. Do đó phải coi bốn hạng người nầy là tầng lớp nghèo nhứt của xã hội.

Người con gái có thể lấy chồng từ anh nghèo nhứt trong xã hội là mục đồng cho tới ông quan to đầu triều có tước Công. Vì xã hội chia mười hai lớp người nên gọi là mười hai bến nước.

Nhưng con gái có lấy chồng là vua được không? Vẫn được dù là người con gái nhà nghèo trong nhóm dân bình thường.

Vua Lý Thánh Tông đi cầu tự, qua làng Thổ Lội, dân xem đứng đầy đường. Có một người con gái đi hái dâu, thấy xe vua đi, cứ đứng dựa vào cây lan chớ không ra xem. Vua truyền đem vào cung và phong là Ỷ Lan phu nhân. Bà sanh con là Càn Đức, sau lên nối ngôi vua cha. Đó là vua Lý Nhân Tông.

Do đó, mười hai bến nước là Công, Hầu, Khanh, Tướng - Sĩ, Nông, Công, Thương - Ngư, Tiều, Canh, Mục cũng được đổi thành Vương Hầu Khanh Tướng…

Mười hai bến nước là như vậy.

Khánh Hội - Quận Tư Saigòn 06-4-2017

PHẠM HIẾU NGHĨA

(do ông nội tôi kể)

LỢI ÍCH SỨC KHỎE

TỪ KHOAI LANG

HẠ YÊN

Là thực phẩm hết sức phổ biến, khoai lang được chứng minh không chỉ ăn ngon mà còn có tác dụng như vị thuốc.

Giá trị dinh dưỡng cao. Trong củ khoai lang bao gồm một lượng lớn tinh bột, các axít amin, beta carotene, vitamin C, B1 và hơn 10 loại nguyên tố vi lượng cần thiết cho sức khỏe như canxi, phốt pho, kẽm, sắt, magiê, natri, kali... Vì vậy, các chuyên gia cho rằng khoai lang là loại thực phẩm cân bằng dinh dưỡng nhất.

Kích thích tiêu hóa, trị táo bón. Khoai lang chứa rất ít chất béo, không có cholesterol, nhiều chất xơ nên giúp nhuận tràng, phòng ngừa táo bón. Ăn khoai lang ở mức độ vừa phải rất có lợi cho hệ tiêu hóa vì thành phần vitamin C và các axít amin giúp kích thích nhu động ruột, làm quá trình tiêu hóa thức ăn trở nên dễ dàng hơn.

Giúp sáng mắt. Khoai lang rất giàu beta carotene. Theo Naturalnews, một củ khoai lang cỡ vừa chứa hơn 200% nhu cầu beta carotene hằng ngày. Beta carotene là một chất dinh dưỡng quan trọng được chuyển hóa thành vitamin A, giúp cải thiện hệ miễn dịch và duy trì đôi mắt sáng rõ.

Bảo vệ tim. Vitamin B6 và kali trong khoai lang rất tốt cho tim. Vitamin B6 là loại vitamin quan trọng giúp phá vỡ homocysteine - loại axít amin có thể gây bệnh tim. Ngoài ra, kali cũng có tác dụng hỗ trợ quá trình trao đổi chất của tim.

Chống viêm nhiễm. Thai phụ thường dễ mắc các bệnh viêm nhiễm, do sức đề kháng trong giai đoạn này giảm sút. Vì vậy, nên bổ sung khoai lang vào chế độ ăn, bởi khoai lang chứa nhiều vitamin C, vitamin B6, beta carotene và mangan có khả năng chống viêm nhiễm.

Cải thiện lượng đường trong máu. Mất cân bằng lượng đường trong máu và bài tiết insulin là những đặc điểm chính của bệnh tiểu đường. Khoai lang có thể cải thiện các triệu chứng tiểu đường, do có khả năng làm giảm glucose trong máu, giảm mức cholesterol xấu.

Chống ung thư. Beta carotene là tiền chất của vitamin A trong cơ thể người. Vitamin A duy trì đôi mắt sáng và làn da khỏe mạnh. Đồng thời, beta caroten còn được chứng minh có khả năng bảo vệ cơ thể khỏi những tác nhân gây ung thư. Khoai lang rất dồi dào dưỡng chất này. Một vài chất được tìm thấy trong khoai lang được chứng minh có khả năng kìm hãm sự tái phát của ung thư vú.

PHÙNG CHÍ TÂM st.

PHƯƠNG PHÁP ĐỌC NHANH

Ngày nay, khoa học đã tiến nhanh, máy tính điện tử và người máy đã giúp con người giải quyết nhiều vấn đề, nhưng nó không thể thay thế con người và con người vẫn là trung gian giữa tự nhiên và máy móc; con người đã vạch chương trình cho máy tính và xử lý các thông tin. Muốn làm công việc này, con người cần phải đọc để hiểu những điều người khác viết, tích lũy kiến thức và tiết kiệm thời gian nghiên cứu. Tính đến nay, trong 500 năm lịch sử của mình, ngành in thế giới đã xuất bản hơn 300 triệu đầu sách, hàng năm cho ra đời 600 triệu trang in. Vậy ta phải đọc như thế nào trước núi tư liệu này?

Nếu hàng ngày ta cứ đọc theo kiểu thông thường với tốc độ 150 - 200 từ/phút thì trong toàn bộ cuộc đời, ta chỉ đọc được 2 - 3 nghìn quyển sách. Con số này quá ít đối với những người muốn tiến kịp thời đại. Ngày nay, mỗi nhà nghiên cứu cần phải đọc 50 đến 100 nghìn cuốn sách trong cả cuộc đời. Rõ ràng cách đọc cũ không giải quyết được vấn đề.

Có nhiều cách đọc khác nhau. Cách đọc truyền thống là từ các chữ ta đọc thành vần, nhiều vần thành từ, và nhiều từ thành câu và khi đọc lại phải phát âm.

Ngoài ra, ta thấy có 2 phương pháp quan trọng nhất, đó là phương pháp đọc từ và phương pháp đọc ý. Với phương pháp thứ nhất, các từ được tiếp nhận như một tổng thể. Đó là cách đọc của nhiều người với tốc độ đạt từ 150 - 200 từ/phút.

Với cách đọc thứ hai, người đọc không đọc từng từ mà thu nhận ý. Họ đọc ý chung chứa trong bài viết qua các từ chủ yếu. Đây là phương pháp tiên tiến nhất vì nó cho phép ta thu nhận thông tin chứa trong một đoạn văn, một trang v.v… lọc bỏ những thông tin không cần thiết mà ta gọi là nước. Trong bất cứ bài viết nào, đều có số lớn là nước.

Có ba loại người đọc sách với cách đọc khác nhau. Người đọc bằng tai, nhìn chữ viết và đọc to, đọc rất chậm, tốc độ 150 từ/phút.

Người đọc bằng mắt không nhắc lại bằng miệng, tốc độ lên tới 600 - 800 từ/phút.

Người đọc bằng mũi (người ta gọi như thế) đọc từng khối một và hình như họ đoán nội dung. Tốc độ đạt 1.000 từ/phút.

Nhóm cuối cùng này là những người đọc nhanh, tiết kiệm thời gian, tăng lượng tiếp thu.

Để bỏ cách đọc cũ, nắm vững cách đọc mới, ta phải xóa bỏ một loạt các tật xấu bị tiêm nhiễm hồi còn là học sinh. Nhiều giáo viên cho rằng cần phải đọc to để tiếp thu bài tốt nhất. Trong những năm đầu đến trường, ta rất chú ý đọc to, đọc rõ ràng. Bằng cách đọc này, học sinh lớp ba đạt tốc độ 90 từ/phút và con số này không thay đổi cho đến những năm đi học cuối cùng.

Song, cách đọc này có thể gây ra hiện tượng đọc lặp từ, lặp câu và đôi khi lập cả đoạn văn. Phát âm và một số sai sót do các yếu tố khách quan làm chậm tốc độ. Những yếu tố khách quan là không chú ý vào đọc, trạng thái tinh thần, đặc tính tâm lý, hiểu biết ngôn ngữ.

Sau khi xóa bỏ tất cả các tật xấu, ta bước vào luyện tập để tăng tốc độ. Trước hết ta cần phải tạo một loạt năng lực bằng các bài luyện tập khác nhau như tăng vùng nhìn hoặc ít chú ý nhiều vào một trang sách.

Các đọc nhanh này còn gọi là cách đọc toàn bộ khối từ vì người đọc nắm vững nó, chỉ cần một cái nhìn đã bao trùm lên 6, 7 dòng, và đôi khi cả trang và như thế thu nhận thông tin nhiều mà tốn ít thời gian.

Những người nắm vững cách đọc nhanh, không đọc theo đường ngang mà mắt họ luôn chuyển động theo đường dích từ trên xuống dưới. Với cách đọc này, cơ mắt ít mỏi. Cách đọc nhanh này không giống kiểu đọc đường chéo góc hay kiểu đọc các dòng đầu của một đoạn văn. Với cách đọc mới, ta nhìn toàn bộ bài viết và tiếp thu toàn bộ nội dung. Phương pháp này ai cũng học được nhưng phải tập trung cao, có ý chí lớn.

Trong những ngày gần đây, các phương pháp đọc nhanh đã được phổ biến khá rộng nhưng nó không phải là điều mới lạ. Trong các thời kỳ khác nhau, các nhà chính trị, nhà văn lỗi lạc… đã phát triển nó và hoàn toàn nắm vững nó. Ví dụ: Na-pô-lê-ông đọc tốc độ 2.000 từ/phút, Ban-dắc đọc tốc độ 4.000 từ/phút, Mác-xim Goóc-ki đọc mỗi trang sách chỉ mất vài giây. Còn Lê-nin đọc sách như lướt qua nhưng Người nắm chắc nội dung. Nhận rõ tầm quan trọng của phương pháp đọc nhanh, ở Liên Xô, Mỹ và nhiều nước tiên tiến khác, các lớp dạy đọc nhanh đã được mở ngày càng nhiều. Sau khi dự các lớp này, họ đã đạt tốc độ kinh khủng 1.500 từ/phút, và đối với những bài viết nhẹ nhàng, đơn giản như truyện trinh thám, tốc độ đọc có thể lên tới 12.000 từ/phút.

HĐT.

ĐỖ THIÊN THƯ st.

SỰ TÍCH MỪNG ĐÁO TUẾ

Chuyện ngày xưa, ở bên Trung Quốc có tục lệ con người đến 61 tuổi gọi là “đáo tuế”.

Có một thời có một ông vua ra lệnh toàn dân nước Tàu đến tuổi 61 phải chịu “tử hình”. Có một ông quan trong triều thương cha, hai cha con mới bàn mưu kế, để cha lánh mặt, con đồng ý làm nơi bí mật để cho cha ẩn thân. Người cha cũng là quan cựu trong triều đình, người con đi báo với vua: “cha con bị ai bắt đi đâu mất, xin Bệ Hạ cho người tìm kiếm giùm con”. Vua ra lệnh toàn quan, quân, dân đi khắp nước tìm người, cố công tìm mà không được.

Rồi một thời gian sau, quân xâm lược sang chiếm đánh nước Trung Quốc, triều đình không có tướng tài chống giặc, vua mới ban chiếu chỉ toàn dân quân ai ra dẹp được giặc vua ban thưởng chức quyền, tài sản, nếu phạm tội chết vua cũng tha.

Người con ra thông báo cho mọi người trên toàn đất nước biết lệnh vua ban, rồi người con mới trình bày mọi sự việc cho cha. Cha rõ cội nguồn, mới lập trận đồ cho con đi dẹp giặc. Chẳng bao lâu giặc thua, người con chiến thắng, vua mừng lắm triệu người tài đến để ban thưởng. Người con mới tâu với vua rằng trận đồ thắng giặc là của cha con.

- Cha ngươi mất tích rồi mà ?

- Bẩm vua, trận đồ của cha con đó.

- Vậy ta mời cha khanh ra triều đình nhận thưởng “lập công chuộc tội”.

Nhân dịp nhận chức quyền, ngài mới xin vua bãi bỏ lệnh tử hình tuổi 61, vua đồng ý ngay. Kể từ hôm đó đến nay, con người mừng thoát tử, nên có tục “mừng lễ đáo tuế” đến bây giờ.

THẦY TỬ VI PHONG THỦY

ĐỐT SÁCH BỎ NGHỀ

Một sự tích đáng lưu ý, có một người thật giàu. Ông thầy tử vi muốn tìm hiểu tận tường mới tiếp chuyện với người, thấy tướng người không sang trọng, thầy xin xem chỉ tay, cũng không có tay cầm của, mới xin phép người cho xem gia cảnh nơi ở, cũng bình thường chẳng “địa lợi”. Không có “long ứng”, không hạp tuổi, hướng “họa hại”. Thầy mới nghĩ đến huyệt mộ “tổ phụ”, xin gia chủ xem nghĩa trang, gia chủ hướng dẫn thầy đi ra mộ cha mẹ ông bà. Khi đi đường vòng, khi về đi tắt.

Xem mộ nơi nghĩa trang không có hàm rồng long mạch mới làm lạ, vào nhà ngồi uống nước, mới nghĩ đến sự việc: đi ra đi vòng, đi về đi tắt? Mới hỏi gia chủ lý do, gia chủ nói khi đi ra tôi thấy có người đang trộm lúa của tôi nên tôi tránh để cho người ta không thấy tôi. Kẻ trộm đi rồi, tôi mới đi tắt vào nhà. Ông thầy lắc đầu, hỡi ôi! Quá từ bi đại từ bi,… bỏ nghề, đốt sách.

Phú tại tâm sanh - Bần tại tâm diệt

Kết luận: Xưa nay con người, vạn vật xoay vần, luân chuyển mãi thay đổi hoài.

Ngày 01 tháng 8 năm 2017 Đinh Dậu

PHƯỚC HẢI tường thuật

LĂNG TỬ ĐẠO

Đến La Vang không thể nào không đến Lăng Tử Đạo (khoảng 6 cây số).

Đây chính là nơi giáo dân Trí Bưu đã đổ máu tuyên xưng đức tin qua hai lần bắt bớ. Trên 600 thi hài các vị tử đạo được các linh mục và giáo dân kính cẩn xây một tháp cao 18 mét, tháp vẫn còn đứng mãi cho đến nay như một chứng tích lưu dấu muôn đời.

Năm 2007, Cha GB. Lê Quang Quý, quản sở Trí Bưu, cho phục chế Lăng một cách toàn diện: xây Nhà Bia (trước đó chưa có), tường thành xung quanh được trùng tu mới và cao hơn. Công trình trùng tu hoàn thành và khánh thành vào ngày 07.09.2007 do Đức Cha phụ tá FX. Lê Văn Hồng - người con của giáo xứ Trí Bưu - chủ lễ.

Đoàn Hành hương Tân Mai chúng tôi 16 năm liền đến La Vang và bao giờ cũng đến nơi này để hâm nóng lại lòng nhiệt huyết quyết tâm theo Chúa Kitô. Đứng bên cạnh tòa bảo tháp linh thiêng nơi ướt đẫm máu các anh hùng tử đạo chúng tôi như đang sống lại cảnh máu lửa ngút trời, tiếng rên la chắc cũng có vì là con người mà, nhưng lòng trung kiên thì thật là kiên vững, mọi người một lòng cùng theo chân Chúa, linh hồn họ như của lễ toàn thiêu theo làn khói lửa mịt mù bay lên cùng Đấng Tối Cao, Người như đang giang tay đón mời những người con trung kiên đã không chối bỏ Người trong những giây phút cuối. Và văng vẳng bên tai tôi nghe như có tiếng hợp xướng của ca đoàn các thánh trên trời đang hát lên những khúc nhạc chiến thắng mừng đón đoàn người mới được gia nhập vào hàng ngũ các thánh khải hoàn. Trong đoàn hành hương có những người mắt đã nhòa lệ, có những người ôm tòa bảo tháp như muốn thì thầm với những bậc tiền bối anh dũng bảo vệ đức tin truyền cho mình chút ít lửa nhiệt thành…

Từ tờ mờ sáng một số anh chị em đã chuẩn bị kiệu rước, thánh giá nến cao,… và cuộc rước bắt đầu tiến vào ngôi thánh đường linh thiêng với trên 600 người đã anh dũng chết cho niềm tin tại đó. Thật bất ngờ là giàn pháo hoa do các chuyên gia đã chuẩn bị từ bao giờ bừng lên đón rước kiệu Các Thánh Tử Đạo Việt Nam khiến cho bầu không khí càng thêm phần long trọng. Hai bên hành lang là chân dung của 15 thánh tử đạo như đang mỉm cười chào đón những người con phương xa đến kính viếng những người anh hùng, đã hy sinh hiến máu xương cho niềm tin của mình.

Mở đầu thánh lễ cha linh hướng của đoàn nói đôi lời về lịch sử của Gx. Trí Bưu, sự hình thành La Vang…

Lễ xong chúng tôi vào thăm cha xứ GB. Lê Quang Quý, ngài đau nên không ra đồng tế như mọi năm được

Sau cùng mọi người cùng chụp hình kỷ niệm và hân hoan ra về trong niềm tin son sắt khi biết rằng niềm tin của mình theo Chúa đã được củng cố hơn lên một bậc.

HÀ MẠNH ĐOÀN


Đọc sách giùm bạn

Về bên Mẹ

Cuốn sách Về bên Mẹ gồm có 220 trang khổ 20x26 toàn hình màu rất đẹp được NXB Phương Đông tái xuất bản tháng 10/2015.

Để Kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima (Bồ Đào Nha) 1917- 2017 với Thư giới thiệu của Lm. GB. Trần Thanh Cao và Lời khích lệ của ĐTGM Phao Lô Bùi Văn Đọc.

Do chị Anna Nguyễn Lệ Hằng - Cựu Giáo lý viên Gx. Đồng Tiến - đã âm thầm sưu tầm và cho ra đời với mong ước được giới thiệu đến với mọi người “Hành hương bằng hình ảnh và và tư liệu”. Sách đã đưa người xem từ Lộ Đức (Pháp) đến Linh địa Fatima (Bồ Đào Nha), từ những ngôi làng nhỏ bé đến những ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ, sự đơn sơ của 3 trẻ nhỏ chăn cừu, cái chết của 3 em và các Đức Giáo Hoàng với Fatima… càng xem càng thấy thích thú và thỏa lòng ước mơ khi không có điều kiện để đến được những nơi chính Đức Mẹ hiện ra.

HÀ MẠNH ĐOÀN


TRẦN VĂN KHÊ:

“NGÀI CHƠI VỚI AI

MÀ KHÔNG BIẾT MỘT ÁNG VĂN NÀO CỦA NƯỚC VIỆT?”


Giáo sư Trần Văn Khê được mời dự buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản, tổ chức tại Paris (Pháp). Tham dự hầu hết là người Nhật và người Pháp, duy chỉ mình ông là người Việt. Diễn giả hôm đó là một cựu Thủy sư Đề đốc người Pháp đã mở đầu bài thuyết trình bằng câu: “Thưa quý vị, tôi là thủy sư đề đốc đã sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể. Nhưng khi sang nước Nhật, chỉ trong vòng một, hai năm mà tôi đã thấy một rừng văn học, trong đó Tanka là một đóa hoa tuyệt đẹp, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm với chỉ 31 âm tiết. Chỉ hai điều này thôi, các nước khác không dễ có được...”.

Lời phát biểu đã chạm đến lòng tự trọng dân tộc của Giáo sư Trần Văn Khê. Khi đến phần giao lưu, ông xin phép đuợc bày tỏ:

“Thưa Ông Thủy sư Đề đốc, ông nói rằng ông đã ở Việt Nam cả 20 năm mà không thấy áng văn nào đáng kể. Tôi là người Việt, khi nghe câu đó tôi đã rất ngạc nhiên. Chẳng biết khi ngài qua Việt Nam, ngài chơi với ai mà chẳng biết một áng văn nào của nước Việt? Có lẽ ngài chỉ chơi với những người quan tâm đến chuyện ăn uống, chơi bời, hút xách... Phải chi ngài chơi với giáo sư Emile Gaspardone thì ngài sẽ biết đến một thư mục gồm 1300 sách báo về văn chương Việt Nam mà giáo sư đã in trên Tạp chí Viễn Đông Bác cổ của Pháp. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand thì sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông ấy đã cất công sưu tập... Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước tôi không chỉ có một, mà có đến hàng vạn áng văn kiệt tác...

Ngài nói trong thơ Tanka, chỉ cần một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm. Tôi chỉ là nhà nghiên cứu âm nhạc nhưng với kiến thức văn chương học thời trung học cũng đủ để trả lời ngài: Việt Nam có câu: “Đêm qua mận mới hỏi đào/Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”. Trai gái thường mượn hoa lá để bày tỏ tình cảm. Còn về số âm tiết, tôi nhớ sử Việt Nam chép rằng ông Mạc Đĩnh Chi thời nhà Trần đi sứ sang nhà Nguyên (Trung Quốc) gặp lúc bà phi của vua Nguyên vừa từ trần. Nhà Nguyên muốn thử tài sứ giả nước Việt nên mời đọc điếu văn. Mở bài điếu văn ra chỉ có 4 chữ “nhất”. Mạc Đĩnh Chi không hốt hoảng mà ứng tác đọc liền:

Thanh thiên nhất đóa vân

Hồng lô nhất điểm tuyết

Thượng uyển nhất chi hoa

Dao trì nhất phiến nguyệt

Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!

Nghĩa là:

Một đám mây giữa trời xanh

Một bông tuyết trong lò lửa

Một bông hoa giữa vườn thượng uyển

Một vầng trăng trên mặt nước ao

Than ôi! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!

- tất cả chỉ 29 âm chứ không cần đến 31 âm.

Khi giáo sư Khê dịch và giải nghĩa những câu thơ này thì khán giả vỗ tay nhiệt liệt.

Ông thủy sư đề đốc đỏ mặt: “Tôi chỉ biết ông là một nhà âm nhạc nhưng khi nghe ông dẫn giải, tôi biết mình đã sai khi vô tình làm tổn thương giá trị văn chương của dân tộc Việt Nam, tôi xin thành thật xin lỗi ông và xin lỗi cả dân tộc Việt Nam”.

HOÀNG CHÚC st.

ÁN KHÔNG TUYÊN

Ô ng Thuận Nghĩa bước vào nhà, vẻ mặt bơ phờ mệt mỏi chán nản, quẳng cái mũ lên bàn, ông thả phịch người xuống chiếc ghế. Ông ngồi dựa người, tựa đầu lên thành ghế, đôi mắt ngước ngược trần nhà, hai tay buông thõng, hơi thở liên tục dài thườn thuợt, và rồi từ khoé mắt ông rấn ra ánh nước. Bà Thuận Nghĩa từ nhà dưới đi lên, nhìn thấy ông trong trạng thái đó, bà đoán hiểu việc gì đã xảy đến với ông, bà dừng chân, nhìn ông và cũng thở ra một hơi dài rồi lặng lẽ quay trở xuống. Xuống đến bếp, bà không cầm nổi nỗi cay nhức trào lên trong lòng, bà gục đầu vào chiếc tủ lạnh, hai bờ vai rung lên rung lên. Gần một năm nay, gia đình bà rơi vào một thảm trạng, từ sau cái ngày ác nghiệt ấy. Bà thốt lên não nề trong tiếng nấc “Con ơi”. Tiếng xèo xèo của nồi canh hầm trào ra trên bếp khiến bà sực tỉnh, một tay quệt vội hai mắt, một tay nhấc cái nắp vung, nóng quá làm bà suýt làm rơi cái nắp. Nhìn nồi canh bà lại khóc. Đây là món cậu con trai bà rất thích.

Hồng Thủy chạy thẳng cái xe vào góc sân, cô không kịp thắc mắc vì sao hôm nay cổng lại mở sẵn, thường ngày cô về hay phải đợi mẹ cô ra mở cổng. Gạt chống xong, cô bước vội vào nhà, không nhìn thấy ba cô đang ngồi ở ghế, cô bước những bước chân cồm cộp về phòng, biểu hiện một trạng thái đang hết sức giận dữ. Đóng cửa phòng rồi, cô nằm úp lên giường bật khóc. Những thanh âm tức tưởi bùng bục trong cổ họng, không phải chỉ đến hôm nay cơn giận này mới xuất hiện, nó đã âm ỉ từ lâu, nhưng cô không được phép cho nó lộ ra mặt, cô vẫn cứ phải đè nén nó trong những cái cười, lời nói vui vẻ nhẹ nhàng, trong những tập hồ sơ cô cần mẫn hoàn thành mỗi ngày. Cô không thể để lộ vì không có lý do chính đáng cho nó lộ ra, vì những gì xào xạc chung quanh đã lẩn rất nhanh khi cô xuất hiện, cho dù chỉ với sự nhạy cảm, cô cũng đã nghe được, đọc được qua những ánh mắt vội vàng lảng tránh, qua những hành vi khỏa lấp miễn cưỡng. Cô không được để lộ vì cô hiểu rõ nguồn cơn của những biểu hiện đó. Ban đầu cô ấm ức và cố lắng mình chịu đựng, vì nghĩ rằng người ta cũng không phải vô cớ mà xử sự như thế. Những cảm nhận mơ hồ ấy rõ dần, và một vài người không cần phải giữ ý khi có những tranh cạnh ngấm ngầm với cô trong công việc, họ xa xôi bóng gió, họ mập mờ cạnh khoé. Cô có phải con ngốc đâu mà không hiểu. Hiểu nhưng vẫn cứ phải tỏ ra không hiểu. ức nhưng vẫn cứ phải hòa hoãn tươi tỉnh. Nhưng hôm nay thì mọi sự đã vỡ bung ra rồi. Khi người ta ném thẳng vào mặt cô những lời cay nghiệt, và cô không phản kháng được gì cho dù gốc gác sự thể không phải là lỗi của cô. Cô bỗng bật dậy, hai con mắt nhoè nhoẹt trừng trừng vào khoảng không, và cô nảy ra một quyết định. Cô quả quyết với quyết định ấy bằng những cái quẹt mắt thật nhanh, ngay lập tức cô ngồi vào bàn lấy giấy bút hý hoáy những dòng chữ.

Thuận Nhiên bước vào nhà, hơi khựng lại một chút khi nhìn thấy ba mình, cậu cất tiếng:

- Thưa ba con đi học về.

Ông Thuận Nghĩa như sực tỉnh, hơi ngọ nguậy, khẽ gật đầu rồi nhìn theo vóc dáng mảnh khảnh của cậu con trai, cậu lâu nay trở nên ít nói hẳn, không tí toét đùa cha giỡn mẹ, chọc phá anh chị nữa. Ngày trước, cứ thấy mặt cậu về nhà, là không khí gia đình khác hẳn, ồn ào náo nhiệt hơn, vì tiếng cười, tiếng cãi vã châm chọc, tiếng quan tòa bất đắc dĩ phải phân xử, những sự phân xử hầu như không chấm dứt cho đến bữa cơm. Vậy mà những thanh âm ấy đã vắng dần đi tự lúc nào. Thay vào đó là một sự lặng lẽ, và ánh nhìn ngơ ngác mênh mang trong mắt một cậu trai đang thời sôi nổi. Không phải chỉ ở nhà, mà cả ở trường, chính sự tác động nơi đây đã làm nên sự thay đổi ấy. Đầu tiên là những tiếng xầm xì từng tốp bạn nhỏ to, và vội vàng lảng tránh khi cậu đến gần, tiếp đến là những rụt rè có phần như sợ sệt khi có việc gì cần trao đổi với cậu, sau nữa là một cuộc họp ngắn trong đội bóng đá của trường, với biểu quyết khá cao chuyển cậu từ vị trí tiền đạo xuống hậu vệ cánh, sau nữa thì thời gian cậu ngồi trên ghế dự bị nhiều hơn. Trong bộ óc non nớt vô tư của cậu thì cần có thêm thời gian để hiểu vì sao lại thế. Cho dù câu chuyện xảy ra trong gia đình cậu cũng đã làm cậu chênh vênh mất tự tin vài phần. Và mọi sự trở nên rõ ràng hơn, khi một lần va chạm với cầu thủ đội bạn, có ai đó hét bảo cầu thủ kia là tránh xa cậu ngay kẻo… Cậu rời khỏi đội bóng ngay hôm ấy, và cảm nhận rõ hơn thái độ của bạn bè chung quanh, dù vẫn nhận được dăm cái vỗ vai, vài lời an ủi. Cùng với sự cảm nhận ấy là các điểm số cũng bắt đầu chệch choạc hơn. Cậu đã gây sự chú ý với thầy cô sau những buổi vắng mặt không phép. Có lẽ sẽ có một kết cục thực sự tồi tệ hơn thế, nếu mẹ cậu không nói một câu trong màn nước mắt nhoè nhoẹt “Con ơi, anh con đã vậy rồi, con mà bỏ học để thành một thằng như anh con nữa thì mẹ chết, mẹ cắn lưỡi mẹ chết ngay trước mắt con chứ mẹ không sống nổi trong sự nhục nhã đến tận cùng như vậy đâu con ạ, một mình anh con đã đủ dìm cái nhà này xuống bùn rồi, con phải cố gắng để cứu vãn lại chút danh dự cho mẹ cha chứ, mẹ xin con đấy con ơi”. Cùng một số động thái quan tâm của thầy cô mà cậu dần vững lại. Nhưng điều quan tâm nhất với cậu chỉ còn là những trang sách. Người lớn bảo nhau “Thôi được thế cũng là tốt lắm rồi, mong rằng thời gian…”

Bữa cơm diễn ra trong sự buồn tẻ nặng nề. Dường như mỗi người chỉ có mỗi một việc là chu cấp nhiên liệu cho cái dạ dày. Gần cuối bữa, ông Thuận Nghĩa mới chầm chậm nói:

- Tuần tới là đến ngày thăm nuôi nó phải không?

- Ừ.

- Lần này ai đi, bà hay tôi?

- Thôi để tôi đi, ông để thời gian mà lo công chuyện.

- Công chuyện. Còn được bao lâu nữa đâu.

- Thì ông cứ ráng đi, cầm cự qua đận này, dần dần người ta sẽ hiểu ra thôi mà. Không lẽ người đời không biết quên sao.

Ông Thuận Nghĩa thở dài buông đũa. Hồng Thủy nuốt xong miếng cơm, như cân nhắc chuyện gì, rồi nói:

- Ba má à, sắp tới con chuyển công tác.

- Chuyển công tác, con đi đâu?

- Có lẽ ra miền Trung.

- Sao đi xa vậy? Ờ mà…

Ông Thuận Nghĩa bỏ lửng câu nói, nó là con gái, nó nên đi xa khỏi chỗ này, may ra… nếu có cơ hội chắc ông cũng đi. Đi đến nơi chẳng ai biết mình, gây dựng lại có khi còn là hay, ở đây thế này, biết bao giờ…

Bà Thuận Nghĩa ngừng nhai, nhìn con với ánh nhìn khắc khoải:

- Con à đi xa một mình, con có tự lo liệu được không?

- Được mà, má đừng lo, có cơ quan bố trí nơi chỗ rồi. Con phải đi.

Hồng Thủy ngừng ngang, cô không thể nói tiếp được điều cần nói. Cô nuốt ực một cái rồi tiếp:

- Tuần tới con đi với má nha.

- Thôi, con gái đừng nên đến chỗ đó, để má nói chuyện cho nó nghe là được rồi.

Thuận Nhiên bỏ bát đứng dậy đi vào phòng cầm ra một thứ:

- Má, má đem cái này vô cho ảnh nghe má.

- Cái gì vậy? À, cục ru-bich à, biết công an họ có cho đem vô không?

- Thì má cứ đem đi, nếu họ không cho thì mang về.

- Không biết nó còn cần đến bao nhiêu cục ru-bich?

Cả nhà lại rơi vào im lặng. Bà Thuận Nghĩa cùng Hồng Thủy đứng lên dọn bàn. Tiếng lách cách bát đĩa va nhau cũng không làm thay đổi khoảng không yên lặng của gian phòng.

Thuận Kỷ ngồi chống cằm nhìn chăm chăm vào vách tường. Vách tường trước mắt không phải là một vách tường hiện hữu, mà nó như một cái màn ảnh rộng, nó đang trình chiếu một bộ phim dài tập chỉ dành cho một khán giả. Một khán giả đã từng là diễn viên chính của những thước phim. Những thước phim khá kịch tính, ào ạt như những con sóng lúc biển giông, hừng hực như những ngọn cuồng phong quét ngang khu rừng rào rào lá trút. Cảm giác vũ bão ấy sao mà sung sướng thế. Chỉ có điều, những con sóng ào ạt ấy, những ngọn cuồng phong vũ bão ấy đã cuốn đi chính cuộc đời của nhân vật chính. “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”. Nếu không thế thì có cha mẹ nào muốn sinh ra một đứa con ngỗ ngược hoang đàng thích lập bè tụ đảng, thích vỗ ngực xưng anh hùng, thích đi đến đâu người ta phải dạt ra đến đó, thích làm những việc mà ai nghe cũng muốn tháo mồ hôi. Khổ cái, không muốn mà vẫn có, không muốn mà vẫn phải, không muốn mà vẫn cứ… Để rồi năm trầy bảy trật đâu đóng đó. Mẹ cha đền bồi chỗ nọ đắp bù chỗ kia mãi cũng đành buông tay. Cái gì có mở đầu thì cũng phải có kết thúc. Và cái kết cho những thước phim ấy là một căn phòng ẩm thấp, một nơi có hoàn cảnh sống hoàn toàn khác biệt, có một thứ rào cản gần như không thể bước qua, và nó gần như đóng lại hết mọi cánh cửa, để một con đại bàng gãy cánh ngồi gặm nhấm một thời và cắn đắng một đời. Nỗi chờ trông duy nhất là một tháng một lần được gặp bóng dáng một người. Một người mà sau mỗi lần gặp Thuận Kỷ có cảm giác cái lưng ấy khòng thêm một chút, cái cổ như ngắn đi một chút, và đôi mắt như mờ đi một chút. Đôi lần là một bóng dáng khác, khác về hình thái nhưng không khác mấy về thần sắc, chỉ có những câu hỏi là giống nhau, và cảm xúc để lại trong lòng cậu sau khi bóng dáng ấy khuất sau cánh cửa cũng giống nhau.

Bà Thuận Nghĩa khép nép ngồi vào hàng ghế chờ sau khi đã nộp tờ giấy vào một ô cửa nhỏ. Cùng hàng ghế chờ với bà là một dãy người nhiều cỡ tuổi, nhiều dáng vẻ, nhưng dường như ánh mắt thì như nhau. Có gì như ngơ ngác, có gì như ẩn chứa, có gì như lảng tránh, mặc dù biết rằng ai đến chốn này cũng có cùng một lý do, nhưng người ta vẫn cố lảng tránh, vẫn ngượng ngùng không dám hỏi chuyện nhau. Nhiều người nhưng không có không khí sôi nổi huyên náo hay ít nhất cũng tự nhiên cười nói như ở bối cảnh khác. Người ta dùng thời gian của sự chờ đợi bằng nhìn cái nhìn đồng hồ, bằng những chiếc điện thoại nhấp nháy những dòng tin nhắn, bằng những cái giật mình khi từ trong ô cửa phát ra tiếng kêu một cái tên. Cứ như là một thứ ý thức tôn trọng trật tự được nâng cao tột cùng vậy.Và rồi, không ai bảo ai, khi một cái tên được xướng lên thì một dáng đi vẻ khúm núm sợ sệt e dè lấm lét, cho dù chẳng phải là tên trộm cắp, nhưng trước màu áo đồng phục kia thì cứ thấy mình như một tên tội phạm vậy. Rồi những thứ đồ vật mang theo bị bày ra săm soi khám xét tất tật một cách đáng xấu hổ. Và cuộc gặp mặt giữa một người vừa đến và một kẻ mặc áo sọc, cũng không thể diễn ra trong một không gian riêng tư trước một cặp mắt và đôi tai trách vụ. Thế nhưng được thế đã là tốt, còn một số người thì nhếch nhải van xin, thiếu điều lạy lục, nhưng trước những cái lắc đầu lạnh lùng thì đành thất thểu mà ra về. Đó là khi, kẻ mặc áo sọc đằng sau bức tường kia bị phạt, hoặc bị chuyển đi nơi khác, hoặc đang bị thẩm tra. Thế cho nên cái sự chờ đợi ấy cứ như một chiếc dây đàn kéo căng, mà một tiếng động mạnh e cũng bị chạm đứt.

Bà Thuận Nghĩa chăm chú nhìn con, mắt rưng rưng, Thuận Kỷ cúi đầu tránh ánh mắt mẹ, cậu miết ngón tay xuống mặt bàn, cậu muốn hỏi thật nhiều, những câu hỏi mà khi đối diện với vách tường nó nảy ra hàng loạt, nhưng lúc này nó chạy mất tiêu đâu cả. Và rồi cũng như mọi lần, rốt cuộc cậu lại là người chỉ biết trả lời, những câu trả lời cụt lủn:

- Con có đau ốm gì không?

- Không.

- Con có ăn được không?

- Được.

- Có ai đánh con không?

- Không

- Con có bị phạt không?

- Không

- Đêm ngủ con có lạnh không?

- Không

- Con đi lao động có vất vả lắm không?

- Không.

- Con có thích cái gì không, lần sau vào mẹ đem vào cho.

Cậu im lặng. Thích ư? Cậu thích nhiều thứ lắm, nhưng những điều cậu thích đâu thể lọt qua cánh cửa phòng giam. Bà Thuận Nghĩa cũng vừa nhận ra điều ấy, bà khẽ thở dài, đưa tay quệt mắt rồi nói cho cậu nghe những chuyện ở nhà. Bà nói nhiều, nhưng bà không thể nói cho cậu nghe rằng: Công ty của ba cậu đang trên đà phá sản, vì những đơn đặt hàng cứ giảm dần đi. Chị gái cậu thì phải tìm đến một nơi xa xôi để mong có một cuộc sống êm đẹp hơn, có một tương lai tốt lành hơn. Em trai cậu thì đã gần như mất đi cái hồn nhiên của lứa tuổi, nó đang dần trở thành một con người khác, ưu tư sầu muộn nhiều hơn, khép mình với xã hội nhiều hơn, và chẳng biết ngày sau rồi sẽ ra sao nữa. Bà cũng chẳng thể kể cho cậu nghe mỗi lúc đi chợ hay có việc ra ngoài với bà là cả một gánh nặng. Bà như nghe thấy hết những câu bàn soạn, những lời chỉ trích cho dù người ta vu vơ như thể là ai đâu xa lạ lắm. Bà không thể. Bà không thể nói với cậu rằng: Cái án chung thân của một kẻ sát nhân, không chỉ là cái giá phải trả cho chính thủ phạm, mà những người thân trong gia đình cậu cũng đang phải lãnh một cái án chung của cộng đồng mặc nhiên gán cho. Cái án tuy không được tuyên cáo tại phiên tòa nhưng nó nặng nề, dai dẳng và cũng khốc liệt không kém.

Bà Thuận Nghĩa rời khỏi cánh cổng sắt có trạm gác bằng những bước đi thất thểu. Cái giỏ nhẹ tênh lúc lắc đong đưa. Cái nón úp sụp nửa mặt, che đôi dòng lệ lã chã. Nắng lưng chiều soi bóng người mẹ tội nghiệp liêu xiêu trên đường. Sẽ còn bao lần liêu xiêu thế nữa hỡi chiếc bóng đời ngả nghiêng.

ĐÀM LAN

HẠNH PHÚC !

Kim, bạn tôi đã trở thành một nhà doanh nghiệp thành đạt. Bạn sở hữu mấy mảnh đất vườn, hai căn nhà mặt tiền tại khu vực sầm uất của thành phố, hai chiếc xe tải chở hàng hóa và một chiếc xe bảy chỗ ngổi cho gia đình du lịch đó đây. Thế nhưng bao giờ Kim cũng ủ rũ và thường than thở có một thứ bạn rất cần lại thiếu. Đó là hạnh phúc!

Tôi ngạc nhiên lắm! Bởi có biết bao người, kể cả tôi ao ước được bằng một nửa của Kim thôi cũng đủ hạnh phúc. Có nhiều bạn thường than thở với tôi rằng đã quần quật hơn nửa đời người mà vẫn ở nhà thuê, đi xe cà tàng và cái ví tiền thường xuyên lép kẹp. Vậy sao Kim lại bảo không hạnh phúc? Bạn làm tôi cứ trăn trở về hai chữ này. Hạnh phúc là gì? Làm sao để có hạnh phúc và chính tôi, tôi có hạnh phúc không?

Đôi khi tôi thấy mình có hạnh phúc. Mỗi sáng thức dậy, tôi tự pha cho mình một tách cà phê đặc quánh. Tôi nhấm nháp từng ngụm nhỏ rồi lắng nghe sự sảng khoái lan tỏa khắp cơ thể. Tôi cầm bút lên, viết một mạch hoặc thong thả lau sạch bàn ghế, tủ thờ, bộ máy tính cũ kỹ rồi quét dọn khoảnh sân nhà sau. Tôi hít đầy phổi hương hoa Nguyệt Quế nồng nàn. Lúc đó, tôi cảm thấy cực kỳ hạnh phúc. Tiếp đó, tôi tất tả chạy ra chợ mua các thứ để chuẩn bị bữa cơm trưa. Lúc đó, tôi cũng cảm thấy hạnh phúc thật gần. Tôi thích gặp những người bạn hàng quen thuộc, trả giá rồi lựa chọn hàng. Dù có lúc tôi chọn nhầm loại không ngon hay mua giá đắt. Sau khi ăn trưa xong, tôi thường ngả lưng trên chiếc giường cũng cũ xì nhưng êm ái bởi lớp nệm dầy cộp. Lúc đó, tôi hay thốt lên câu hân hoan rằng: “Cuộc sống thật là tươi đẹp!” rồi chìm trong giấc ngủ ngắn nhưng cũng đủ để khi mở mắt ra cảm giác khỏe khoắn khiến tôi tươi tỉnh hẳn. Tôi tự pha cho mình một tách cà phê rồi lại vừa nhâm nhi vừa viết. So với Kim, nhu cầu sống của tôi quá khiêm tốn. Hai tách cà phê cho mỗi ngày, một bữa ăn sáng nhẹ và hai bữa cơm cũng đạm bạc. Tôi ra phố bằng chiếc xe cà tàng sản xuất từ đời tám hoánh. Phải đạp gần cả chục cái nó mới chịu chậm rãi nổ phành phạch, phành phạch rồi rướn tới trước y như con ngựa già đi nước kiệu.

Còn Kim, khi bước ra đường đã có tài xế đưa rước. Những bữa ăn hoành tráng và thừa mứa chất bổ dưỡng. Nhưng bạn tôi thường ít khi ngồi yên chỗ để hưởng thụ mà chạy tới chạy lui nếu xe hàng về đúng lúc đó. Kim lùa vội thức ăn vào miệng rồi cầm lấy quyển sổ kiểm hàng. Kim bảo buổi trưa không bao giờ ngủ vì ai sẽ quản lý mọi thứ. Hai vợ chồng cũng ít có dịp ngồi lại bên nhau để trò chuyện. Mỗi người trông coi một căn nhà. Cuối tuần thì đảo qua mấy mảnh vườn để xem có bị trộm cây trái đang mùa thu hoạch không. Hai đứa con của Kim đã có gia đình. Kim tậu cho mỗi đứa một cơ ngơi riêng. Chúng được sinh ra trong hoàn cảnh sung túc nên bao giờ cũng có cách ứng xử và nhu cầu sống của người quý tộc. Thích hưởng thụ hơn là làm lụng hay chia sẻ.

Buổi chiều, khi việc buôn bán tạm dừng thì cũng là lúc bạn tôi cô đơn nhất. Bạn nằm với… chiếc ti vi to tướng. Còn chồng Kim bận dong xe đến tụ điểm ăn nhậu đến nửa đêm mới mò về. Hai đứa con chỉ đến nhà giờ đó khi chúng cãi nhau với chồng. Chúng khóc lóc xong rồi trở về cái tổ riêng. Để lại trong lòng người mẹ một nỗi buồn lo mới mẻ.

Thì ra hạnh phúc rất đa dạng. Đó là những điều mình ước có và mong chạm tới. Đôi khi hạnh phúc là hai tách cà phê, là những giờ tất bật nấu nướng… nhưng, đôi khi là cái áo đẹp mà phải chắt mót dành dụm cả tháng mới sắm được. Nhưng hạnh phúc có khi là tình yêu, là sự quan tâm của người thân dành cho mình, là tiếng nói, nụ cười của lũ con lớn đầu mà còn dại. Như vậy có phải mỗi người trong chúng ta đã có một nửa hạnh phúc. Người có hạnh phúc về vật chất. Kẻ có hạnh phúc về tinh thần. Có cái nầy lại thiếu cái kia. Hạnh phúc vì vậy mãi mãi là một điều bí ẩn mà ai cũng tìm kiếm và trông vời. Nói cho cùng, trong cuộc sống nếu có một nửa hạnh phúc đã là may mắn lắm rồi. Chúng ta hãy tận hưởng. Và hãy… hạnh phúc với hạnh phúc mình đang có, bạn nhé!

NGUYỄN THỊ MÂY


Tranh của danh họa Đỗ Duy Tuấn

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 12.8.2017… .................. Vũ Thư Hữu ... 01

Một siêu quý thư mà tôi mới có duyên may gặp được ... Vũ Anh Tuấn ... 05

Lượt truy cập thứ một triệu của Bản Tin CLB Sách Xưa & Nay ............ Tâm Nguyện ... 08

Có tận thế không? (tập 11 - tt) .......... Lm. Joseph Nguyễn Hữu Triết ... 13

Tôn vinh Phật ............................. Tâm Nguyện ... 27

Thêm những kỷ vật quý hiếm… ....................... Thúy Toàn .... 36

Einstein đã lập nghiệp cách nào? .................. Bùi Đẹp st. .... 41

Hai nhạc sỹ tiên phong của Tân nhạc Việt

Lê Thương & Dương Thiệu Tước ................. Phạm Vũ ... 45

Trí nhớ tầm thường cũng có thể thành thiên tài ...... Hoàng Kim Thư st. ... 57

Ngày mở đầu (thơ) ................................ Đàm Lan ... 61

Tháng Chín trời mưa (thơ) ..................... Ngàn Phương .... 62

Cạn lời (thơ) ............................ Ngàn Phương .... 63

Mơ ước bâng quơ (thơ) .................... Ngàn Phương .... 63

Trả lại cho tôi (thơ) ................... Lam Trần .... 64

Giọt sương mai (thơ) ............ Thanh Châu .... 65

Con quạ & con chồn (thơ Ng.V.Vĩnh dịch thuật) ......... Thanh Châu st. .... 66

Tình có dở dang (thơ) ............ Phạm Thị Minh-Hưng .... 67

Giấc mơ hoa hồng (thơ) ......... Phạm Thị Minh-Hưng .... 68

Gửi về…!? (thơ) ................. Bs.Doanlinh .... 69

Lặng thầm (thơ) .......... Vũ Thùy Hương .... 70

Chơi vơi (thơ) .............. Vũ Thùy Hương .... 71

Sa mạc hóa (thơ) .............. Lê Minh Chử .... 72

Lời hứa (thơ) ................. Lê Minh Chử .... 72

Xa (thơ) ............................. Hoài Ly .... 73

Tình khúc cho người (thơ) ............. Hoài Ly .... 74

Không quên (thơ) ............... Quang Bỉnh .... 74

Mưa đêm (thơ) .................. Quang Bỉnh .... 75

Vẫn nặng lòng (thơ) ............. Lang Nguyên .... 76

Ngắm sao mai (thơ) ............ Lang Nguyên .... 76

Mình tôi ở lại (thơ) .................. T.P. ... 77

Tôi biết đòi ai (thơ) .................... Nguyên Lê ... 78

Điểm hẹn (thơ) ................... Hải Âu ... 79

Lưu dấu (thơ) ................... Hải Âu ... 80

Đồng cảm (thơ) ...................... Hải Âu ... 80

Bếp lửa năm xưa (thơ) ................... Lê Nguyên ... 81

Chưa tròn chữ hiếu (thơ) ............ Hoàng Thị Vinh ... 82

Gương trong soi sáng (thơ) ................. Hoàng Thị Vinh ... 83

Tôi chọn đàn bà đã cũ (thơ) .............. Kim Sơn st. ... 84

Ngẫu nhiên (thơ) .......................... Vũ Mão .... 86

Fortuitously (thơ) ............... Vũ Anh Tuấn dịch .... 87

Nước chảy qua cầu ........... Nguyễn Văn Sâm .... 89

Đêm Giáng Sinh năm ấy ......................... Hoài Ly . 110

Bí mật về mực in của Gutenberg ...................... Đào Minh Diệu Xuân st. . 115

Tựu trường ...................................... Lam Trần . 116

20 kịch bản sân khấu nổi tiếng trên thế giới ........... Lệ Ngọc st. 121

Con gái mười hai bến nước ............ Phạm Hiếu Nghĩa . 124

Lợi ích sức khỏe từ khoai lang ........ Phùng Chí Tâm st. 126

Phương pháp đọc nhanh .............. Đỗ Thiên Thư st. . 128

Sự tích mừng Đáo Tuế ..................... Phước Hải . 131

Thầy tử vi phong thủy đốt sách bỏ nghề ............ Phước Hải . 132

Lăng Tử Đạo ........................ Hà Mạnh Đoàn . 133

Đọc sách giùm bạn: Về bên Mẹ ........... Hà Mạnh Đoàn 135

Trần Văn Khê: “Ngài chơi với ai mà không biết…” ..... Hoàng Chúc st. 136

Án không tuyên .................... Đàm Lan . 138

Hạnh phúc! ................... Nguyễn Thị Mây . 146

Thông báo:

Kỳ họp tiếp theo của CLB sách Xưa & Nay sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 14/10/2017 lúc 9giờ tại nhà thờ Tân Sa Châu, số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình.

Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về:

hamanhdoan69@yahoo.com 

Các bản tin trước có thể xem tại:

www.diendan.songhuong.com.vn 

www.giaimakinhphat.com

www.sachvatranh.com 

www.newvietart.com 

www.vandanviet.net 

www.hoamai-aus.org.au 



[1] Phan Quang. Từ nguồn Thạch Hãn đến bờ Hồ Gươm, NXB Trẻ, 2016, tr.165

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế