Hiện có 5 người xem / 2521161 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 14/3/2015

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

VŨ THƯ HỮU

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn quý thư mà ông có trong tủ sách của ông. Lần này cả hai cuốn đều bằng tiếng Việt, và đều là sách mới. Cuốn đầu mang tựa đề là “Tự Điển Cười” của tác giả Phạm Thiên Thư và là một cuốn sách mà tác giả đã ký tặng cho Dịch giả Vũ Anh Tuấn vào năm 2006. Cuốn sách khổ 15x21, dày trên 900 trang do nhà xuất bản Thanh Niên in năm 2005. Tuy dày trên 900 trang nhưng cuốn sách mới được làm tới vần C và chứa đựng những từ và cụm từ được định nghĩa theo ý của tác giả bằng 4 câu thơ mang tính hài hước, thí dụ như: hai chữ “ái quốc” được định nghĩa là:

Tình yêu đất nước – rất thiêng liêng

Đồng chủng – ai không – giữ mối giềng

Xương bây giờ – từ xương người trước

Máu bây giờ – cũng máu Tổ Tiên

Và hai từ “bán vợ” được định nghĩa như sau:

Chôm vợ đàn em – sếp cặp rồi

Gọi chồng dàn xếp khỏi lôi thôi

“Chú nên thông cảm – tìm cô khác

Tiền bạc bao nhiêu – cứ nói tôi”

Từ trang đầu đến trang cuối của vần C có khoảng vài ngàn từ được định nghĩa bằng 4 câu thơ giọng điệu khôi hài tương tự như hai câu trên. Tuy không có gì đặc biệt lắm, nhưng cuốn Tự Điển Cười của nhà thơ Phạm Thiên Thư cũng là một ý tưởng có thể coi là mới, chưa ai làm.

Cuốn thứ hai được giới thiệu là một cuốn gồm 20 tập Truyện Phim của nhà Công Đàn in năm 1957 (58 năm trước) gồm những phim nổi tiếng như Suối Tình, Dòng Sông Hiểm Ác (Marylin Monroe đóng), Chiến Tranh và Hòa Bình (Audrey Hepbum đóng) vv… Cuốn sách được Dịch giả Vũ Anh Tuấn rất cưng vì, ông là một trong những người Việt xem và nhớ nhiều phim ngoại, cũng như các nữ tài tử ngoại nhất. Ông đã phải chịu chi 50 đô mít cho mỗi tập để được nhìn lại chân dung những nữ tài tử mà trong suốt tuổi trẻ ông đã yêu thích, thậm và chí yêu “ảo” như Marylin Monroe, Audrey Hepbum, Sophia Loren, Gina Lolobrigida, Jayne Mansfield vv… Sau khi được giới thiệu xong, hai cuốn quý thư đã được các thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú.

Tiếp lời Dịch giả Vũ Anh Tuấn, Bs. Nguyễn Lân-Đính đã lên giới thiệu cuốn sách viết về Cụ Nguyễn Văn Vĩnh mà ông là cháu nội, của tác giả Khúc Hà Linh. Vừa giới thiệu cuốn sách ông vừa kể cho các thành viên nghe về thời niên thiếu của ông khi ông được sống nhiều năm với Cụ Vĩnh nơi quê nhà, trong khi ông được sinh ra tại Pháp. Bác sĩ Đính nói xong, anh Dương lên nói về mấy dạng lễ hội như lễ hội chém heo ở miền Bắc.

Sau anh Dương, hai anh Nhựt Thanh và Quang Bỉnh lên nói về đề tài “Đờn ca tài tử” và anh Quang Bỉnh có hát tặng các thành viên một bài “cải lương Tiền Giang”. Tiếp lời hai anh Nhựt Thanh và Quang Bỉnh, anh Chử lên hát thơ tặng các thành viên bài “Xuân Nay” do chính anh sáng tác. Sau anh Chử, anh Lê Nguyên vừa đàn vừa hát tặng các thành viên hai bài “Có Em sau ngày Tết” và bài “Nơi viết tên anh”. Kế đó anh Phùng Chí Tâm và anh Lê Nguyên song ca bài “Kính dâng Mẹ”. Sau hai anh Tâm và Lê Nguyên, bà Tâm Nguyện lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ của bà nói về ngày 8 tháng 3. Sau bà Tâm Nguyện, anh Phạm Vũ đăng đàn nói về Hương Sơn cảnh Bụt và về Cụ Chu Mạnh Trinh.

Anh Phạm Vũ nói xong, anh Dương Leh lại lên vừa đàn vừa hát tặng các thành viên một bài hát bằng tiếng “Em” nghe rất ư là mùi mẫn.

Cuối cùng, với giọng hát “át tiếng bom” anh Thanh Châu đã hùng dũng hát tặng các thành viên bài Đón Xuân.

Để kết thúc một phiên họp tân niên thật vui, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã kể với các thành viên là ông được các bạn bè ngoài Hà Nội chất vấn là sao đã “chén tuần” mà vẫn giữ được phong thái nhanh nhẹn, đi đứng như thanh niên, và ông đã có một câu giải đáp khiến các bạn ông rất thích, đó là câu” “Âm vượng thì… Dương cường!”.

Buổi họp kết thúc lúc 11 giờ 15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU

VÀI ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ CUỐN CỔ THƯ

129 TUỔI ĐỜI (1886) MANG TỰA ĐỀ LÀ:

HẠM ĐỘI CỦA THỦY SƯ ĐÔ ĐỐC COURBET

của Đại Úy Hải Quân MAURICE LOIR

Đây là một cuốn cổ thư người viết mua được của anh bạn trung thương gia mang ở Pháp về. Lần này người viết chỉ bị anh cứa nhẹ có 200 đô mẽo, nên đã hí hửng rước cuốn cổ thư về vì rất thích biết các chuyện đã xảy ra trong lúc bọn thực dân Pháp xâm chiếm nước ta. Cuốn sách khổ 12x18, dày 371 trang được nhà xuất bản Berger Levrault xuất bản ở Paris vào năm 1886.

Ngay đầu cuốn sách có hình chân dung Thủy Sư Đô Đốc Courbet, người mà cái tên đã được thực dân Pháp dùng để đặt tên cho nhiều con phố ở các thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn v.v. Nội dung cuốn sách là những ghi nhận và hồi ức của tác giả là một Đại Úy Hải Quân vào thời điểm đó.

Sách được chia thành XVI (16) chương như sau đây:

Chương I.- Từ trang 1-12 được tác giả viết về đề tài “Từ lúc rời Hà Nội tới lúc bắn phá các thành lũy ở Huế”.

Chương II.- Từ trang 13-22 nói về việc bắn phá các thành lũy ở cửa Thuận An.

Chương III.- Từ trang 23-36 nói về đề tài “Từ Điều Ước ký kết ở Huế tới Hiệp Định Tien-Sin”.

Chương IV,- Từ trang 37-54 nói về đề tài “Trước và sau Hiệp Định Tien-Sin cho tới vụ Bắc Lệ”.

Chương V.- Từ trang 55-88 nói về đề tài “Từ vụ Bắc Lệ tới lúc hết hạn tối hậu thư”.

Chương VI.- Từ trang 89-116 nói về đề tài “Những gây hấn đầu tiên chống lại Trung Hoa. Vụ đánh phá Kelung. Những ngày đồn trú trên sông Min”.

Chương VII.- Từ trang 117-144 nói về “Trận hải chiến ở Fou-Chéou”.

Chương VIII.- Từ trang 145-168 nói về việc “Tiến chiếm sông Min”.

Chương IX.- Từ trang 169-188 nói về việc “Sau khi lấy Fou-Chéou, liền chiếm đóng Kelung”.

Chương X.- Từ trang 189-208 nói về các “Vụ việc xảy ra ở Tamsui”.

Chương XI.- Từ trang 209-244 nói về việc “Phong tỏa Formose”.

Chương XII.- Từ trang 245 - 264 nói về “Vụ Shei-poo”.

Chương XIII.- Từ trang 265 - 290 nói về việc “Phong tỏa lúa gạo”.

Chương XIV.- Từ trang 291 - 318 nói về “Việc đánh chiếm quần đảo Pescadores”.

Chương XV.- Từ trang 319-346 nói về “Thời gian đình chiến và cái chết của Thủy Sư Đô Đốc Courbet”.

Chương XVI.- Từ trang 347-358 nói về “Hiệp Ước tái lập hòa bình. Việc di tản khỏi Formose và quần đảo Pescadores, và việc giải tán hạm đội”.

Chương này có thêm một đoạn nữa từ trang 359 tới trang chót nói về “Thành phần của hạm đội ở Viễn Đông”.

Cuốn sách được viết bằng một văn phong trong sáng, sống động khiến người đọc có cảm tưởng như bản thân mình thực sự được dự cuộc trong các sự việc được kể trong sách. Tóm lại, ngoài việc là một “cụ” sách 129 tuổi, cuốn sách còn là một nguồn tài liệu cho những nhà nghiên cứu lịch sử của chúng ta.

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách. Chương VI.

VŨ ANH TUẤN

NGƯỢC DÒNG

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT

(Tiếp theo số 106)

2.8 Vấn đề đẻ mướn:

Báo Xa Lộ Pháp Luật ngày 21/6/2014 có bài “Chính thức cho phép mang thai hộ” của Đặng Kim: Nội dung “gai” nhất trong dự thảo luật Hôn nhân & Gia đình sửa đổi về việc cho phép mang thai hộ đã đủ số phiếu quá bán khi Quốc hội biểu quyết thông qua luật này chiều 19/6/2014. Vấn đề hôn nhân đồng giới được đưa ra ngoài phạm vi điều chỉnh của luật. Kết quả có 59,1% đại biểu tán thành việc cho phép mang thai hộ. Việc cho phép mang thai hộ là biện pháp nhân đạo giúp cho những cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai, sinh con được ngay cả khi đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản để có cơ hội làm cha mẹ. Các quy định đảm bảo việc mang thai hộ đúng với mục đích nhân đạo, không bị thương mại hóa, quy định về hợp đồng, về xử lý các tranh chấp phát sinh... được giao cho Chính phủ quy định chi tiết. Quốc hội cũng biểu quyết riêng về Điều 95 - Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (gồm 5 khoản) này. Kết quả, có 298/431 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (tương đương 59,64% tổng số đại biểu). Điều luật này như vậy đạt đủ điều kiện để được thông qua. Vấn đề gây nhiều tranh luận khác là việc không cấm hôn nhân đồng giới, báo cáo giải trình tiếp thu nêu nhận định, việc chung sống giữa hai người cùng giới tính không gọi là hôn nhân. Vì vậy, UB Thường vụ Quốc hội cho rằng việc này không thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án luật.

Điều kiện mang thai hộ gồm: điều 95 của luật mang thai hộ quy định:

- Phải thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và lập thành biên bản.

- Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai ngay cả khi có hỗ trợ bởi kỹ thuật sinh sản.

- Vợ chồng không có con chung, đã được tư vấn về y tế, pháp lý và tâm lý.

- Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện:

o Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hay bên chồng nhờ mang thai hộ.

o Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần.

o Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế thẩm quyền về khả năng mang thai hộ.

o Trường hợp người mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý của người chồng bằng văn bản.

o Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Ngoài ra luật Hôn nhân & Gia đình cũng quy định về việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con. Việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ. Quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ. Các quyền và nghĩa vụ khác có liên quan.

Điều 97 và 98 cũng quy định các nghĩa vụ và quyền lợi của hai bên, giải quyết các tranh chấp sẽ do tòa án. Nếu chưa giao con mà hai vợ chồng bên nhờ mất đi hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì bên mang thai hộ có quyền nhận nuôi đứa trẻ.

2.9 Những tiêu cực khôn lường phát sinh từ việc mang thai hộ:

a. Luật cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (cấm mua bán), người mang thai hộ phải là chị em bên vợ hay bên chồng (của cặp vô sinh) có cùng huyết thống. Luật này có bảo đảm tránh được “thỏa thuận ngầm” thuê mướn dưới danh nghĩa “bồi dưỡng” trong quá trình mang thai và sinh nở không?

Báo Đời Sống và Pháp Luật số 100 ngày 20/8/2014 có bài: Nhìn từ vụ điều tra hành vi môi giới mua bán noãn, trứng phụ nữ ở Bình Dương: “Nhân đạo và thương mại – Ranh giới mong manh”:

Nhu cầu của nhiều chị em phụ nữ cần noãn hay trứng để có con, ở nhiều cặp vợ chồng vô sinh hoặc hiếm muộn là có thật. Tuy nhiên, đây là nhu cầu không dễ đáp ứng và khả năng nảy sinh những biến tướng khó lường... Một số chuyên gia pháp lý cho rằng, sau hơn 10 năm thi hành, các quy định của Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/2/2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học đến nay bộc lộ bất cập, cần được rà soát để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay... Trên thực tế đã có nhiều trường hợp cho – nhận quá dễ dàng mà không có sự lựa chọn, sàng lọc. Khi có vấn đề phát sinh giữa hai bên hay những bất cập sau quá trình mua bán dẫn đến kiện cáo thì sẽ rất phức tạp.

Ts. Nguyễn Huy Bạo, nguyên Giám đốc bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho biết: “Nếu người phụ nữ không có khả năng sinh con và gặp các vấn đề như buồng trứng bị teo, mãn kinh sớm thì có thể xin noãn của người khác hiến tặng. Đây là việc đã được pháp luật cho phép nên không cần phải mua bán vì mua bán là trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu giữa hai bên có thỏa thuận mua bán ngầm với nhau thì rất khó kiểm soát”. Ông Bạo cũng cho rằng, việc xin noãn của một người khác đồng nghĩa với việc người cho sẽ phải chịu những tác động nhất định về mặt sinh học như phải được tiêm thuốc và can thiệp bằng biện pháp y học. Người cho noãn phải đến bệnh viện lấy máu làm những xét nghiệm cần thiết. Sau đó, các bác sĩ chuyên khoa sẽ dùng thuốc kích thích phóng noãn, theo dõi bằng siêu âm cho đến ngày đủ tiêu chuẩn lấy noãn thì phải dùng biện pháp nghiệp vụ để hút noãn ra. Chưa nói đến nguy cơ quá khích buồng trứng là rất lớn. Bởi vậy, trong vấn đề này, nếu nói mua bán rạch ròi cũng không thỏa đáng. Rõ ràng, việc nhờ đến một người để xin lấy noãn của người ta thì phải có sự bồi dưỡng. Sự bồi dưỡng ở đây là bồi dưỡng cho những thiệt thòi về mặt sinh học cơ thể. “Như vậy, việc bồi dưỡng theo tôi là việc làm quá bình thường. Tôi cho rằng chúng ta không nên làm rạch ròi trong chuyện này và kết luận nó thành chuyện mua bán”, ông Bạo nhấn mạnh.

Ông Quản Hoàng Lâm, Giám đốc Trung tâm Công nghệ phôi học viện Quân y cho biết, hiện nay, ngân hàng tinh trùng của nam giới đã có nhưng thực tế cũng còn nhiều người e ngại khi hiến tặng. Còn việc thành lập một ngân hàng noãn là khó vì noãn dễ chết, dễ hỏng không thể bảo quản lâu dài được.

VTV1, 6 giờ sáng ngày 08/8/2014 đưa tin: Thái Lan – Thiên đường mang thai hộ, các cặp vợ chồng đặt hàng thường đến từ Hồng Kông, Trung Quốc, và Úc. Thái Lan chưa hợp pháp hóa dịch vụ mang thai hộ, và hiện đang lúng túng về vụ việc một cặp vợ chồng người Úc từ chối đứa con đặt mang thai hộ bị hội chứng down, nhưng lại nhận đứa em song sinh của bé này, hiện bé bị down đang được mẹ mang thai hộ nuôi nhưng gia đình cô nhất định từ chối! Thái Lan đang phải đưa ra dự thảo luật: Liên hệ sinh lý sẽ xác nhận cha mẹ của đứa bé chứ không phải người mang thai hộ, cô Chanbua nói họ đòi cô phá thai nhưng cô giữ lại vì trái đạo Phật.

Internet BBC 14/8/2014: Vợ chồng người Úc David và Wendy Famell sẽ nhận đứa con bị down: bé Gammy về Úc.

Từ vụ này, các chuyên gia đã chỉ ra những lỗ hổng lớn trong luật về mang thai hộ của Thái, đặc biệt là liên quan tới quyền lợi của em bé và người mang thai hộ (Vinh Sơn – Thanh Niên ngày 25/8/2014, trang 19: “Những ngôi làng đẻ thuê ở Thái Lan”.

Báo Chuyện Đời số 66 ngày 16/8/14, Btv Anh Hiến có bài: Người đẻ thuê xuyên quốc gia kể chuyện bị khách hàng ép phá thai (trường hợp cô Mon Chanbua 21 tuổi với hợp đồng 16.000USD nói ở trên).

§ Bỏ trốn để bảo vệ thai nhi khuyết tật, cô Crystal Kelley 29 tuổi, ở bang Connecticut (Mỹ) được trả 22.000 USD để mang thai hộ một cặp vợ chồng lớn tuổi. Thai 5 tháng thì phát hiện dị tật, cô bị ép phá thai. Tuy nhiên cô Crystal là người Công giáo, quyết liệt phản đối. Họ khuyên cô nếu muốn làm đúng ý Chúa thì hãy cho nó đầu thai kiếp khác, thế nhưng dù thế nào “Tôi cũng không thể làm việc độc ác này”, cô Crystal nói. Để chạy trốn cuộc chiến pháp lý, Crystal đã trốn sang Michigan để có quyền được giám hộ hợp pháp... Ngày 25/6/2012, một bé gái đã chào đời, nặng 2,7 kg nhưng không thở được, các bác sĩ đã cứu sống bé, và một cặp vợ chồng tại Michigan đã đồng ý nhận bé Swift làm con nuôi.

§ Mang song thai bị đề nghị phá bỏ: Helen Beasley 26 tuổi, ở Midlands (Anh) đã nhận đẻ thuê cho một cặp vợ chồng hiếm muộn người Mỹ: Wheeler và Berma. Hợp đồng 14.000 bảng Anh. Cô đã mang thai (tinh của Wheeler, trứng của một người khác...). Thai được 8 tuần tuổi, cô phát hiện song thai và đã báo cho vợ chồng này, nhưng 13 tuần tuổi họ mới trả lời đòi phá thai, bởi theo hợp đồng đã ký nếu có hơn một quả trứng thụ tinh thì sẽ đồng ý phá bỏ. Cô đã sang sống ở San Diego và đã kiện vợ chồng này vì đã vi phạm hợp đồng. Cô nói: “tôi không thể phá thai, tôi không thể không gắn bó với các con tôi”.

§ Vụ thuê đẻ 21 đứa con của một doanh nhân Nhật Bản: Mitsutoki Shigeta 24 tuổi, đã thuê nhiều phụ nữ Thái Lan đẻ con. Theo tờ The Straitstime, giới điều tra Thái Lan phát hiện anh ta thuê đẻ 21 đứa trẻ chứ không phải 16 đứa như thông tin ban đầu, và đã đưa được 9 bé khỏi Thái Lan. Trứng để thụ tinh không phải của phụ nữ Thái mà đến từ những người cung cấp thuộc nhiều quốc gia như Thụy Điển, Tây Ban Nha, Malaysia, Brazil, Úc, Israel, Mỹ và Trung Quốc (Vinh Sơn, báo Thanh Niên ngày 26/8/2014).

§ Đức Hồng Y Angelo Scola, Tổng Giám mục Milano, khẳng định sự quan tâm của Giáo hội đối với xã hội: “Chúng tôi không thể không biểu lộ lập trường công khai. Ngày nay nguy cơ trầm trọng nhất là phá hủy sự sinh con do việc cho phép mang thai mướn. Điều này có nghĩa là sinh ra những đứa con mồ côi của những cha mẹ vẫn còn sống” (Tin vắn thế giới – CG&DT số 1987 tuần lễ từ 19-25/12/2014, trang 50).

2.10 Đẻ con với tinh người đã chết:

Báo Thanh Niên số 6581 ngày 29/12/2013 đưa tin: Hai bé trai ra đời nhờ tinh trùng của người bố đã mất – Ngày 28/12/2013, Ts. Vương Văn Vệ, Giám đốc bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội cho biết: hai bé trai sinh đôi nặng 2,4kg và 2,6kg là kết quả của tinh trùng người đã chết 3 năm trước và noãn của vợ anh này. Năm 2010, bố của hai đứa trẻ tử nạn vì tai nạn giao thông, theo yêu cầu của người vợ, bác sĩ Vệ lấy một tinh hoàn bảo quản đông lạnh... Sau 3 năm lấy ra làm thụ tinh ống nghiệm, kết quả hai bé trai ra đời. Nghe tin này một số gia đình có chồng mắc bệnh hiểm nghèo cũng đã đề nghị lấy tinh lưu trữ... (Nam Sơn).

Chuyện “người bệnh phòng xa” không phải mới có đây. Báo Người Công Giáo Việt Nam số 23 ngày 5/6/2004 đưa tin: Tại bệnh viện Saint Mary ở Manchester (Anh), một bé trai đã ra đời (sau 4 lần thụ tinh ống nghiệm thất bại) bởi tinh của người chồng để đông lạnh 21 năm. Người cha lúc 17 tuổi bị ung thư tinh hoàn, trước khi dùng thuốc điều trị đã lấy tinh cho đông lạnh (hóa trị sẽ ảnh hưởng tới tinh) khi đã khỏi bệnh anh lập gia đình và lấy “kho dự trữ” ra cho thụ tinh ống nghiệm và kết quả là một bé trai đã chào đời (Bích Khuê).

Nhận định :

Về việc sinh con bằng “chất liệu” của người chồng hoặc vợ đã chết nói chung chúng ta có nhận xét như sau: Sinh thêm con cho gia đình, dòng tộc với trách nhiệm là mục đích tốt, nhưng phương tiện thụ tinh ống nghiệm do tinh của người chồng hoặc noãn của người vợ đã chết nhiều năm trước, rồi cấy vào tử cung người vợ góa hoặc người mang thai hộ để sinh con là một việc trái luật tự nhiên của Chúa, Giáo Hội cấm con cái mình thực hiện dù xã hội đồng tình, ca ngợi, tung hô “quyền phép của khoa học, của loài người”. Rõ là ngược đời vậy!

Lý do người tín hữu không được làm là vì hành động trên đã theo nguyên tắc của xã hội “mục đích biện minh cho phương tiện”, chứ không theo nguyên tắc luân lý của đạo Chúa: “Mục đích tốt đòi phương tiện tốt”.

Ngoài ra cứ lương tâm ngay thẳng mà xét, chúng ta cũng thấy có cái gì đó không ổn.

a. Theo luật đời cũng như đạo, hai vợ chồng có hôn thú, có phép đạo mà một bên chết đi thì hôn nhân chấm dứt, không còn ràng buộc về pháp lý nữa. Người chồng có thể lấy vợ khác, người vợ có quyền lấy chồng khác, tất cả đều hợp pháp.

Cách nay khoảng gần 20 năm, một võ sĩ Hàn Quốc bị tử vong ngay trên võ đài tại Mỹ. Anh đã có người yêu đính hôn, cô này đưa xác anh về nước và tổ chức đám cưới, cũng rước dâu, tiệc tùng như thể anh còn sống. Báo chí cũng cảm thông với sự đau buồn của cô dâu, cũng khen ngợi như là một mẫu người chung thủy, nhưng thử hỏi chính quyền Hàn Quốc có dám cấp hôn thú cho cô này không?

Trở lại trường hợp nói ở trên, nếu đã không còn là vợ chồng nữa thì đứa con đẻ với chất liệu của xác họ có khác nào con ngoài hôn thú, đấy là tình trạng gốc pháp lý của đứa bé.

b. Trường hợp này hoàn toàn khác với trường hợp cấy ghép tạng của người chết hiến tặng. Thí dụ chị A phải cắt bỏ tử cung vì u xơ, sau đó may mắn đón nhận tử cung của chị B đã chết hiến tặng. Rồi chị A ăn ở với chồng và có con, thì đứa con này hoàn toàn là con của chị A và chồng chị vì phần thân thể được cấy ghép cho chị A đã sát nhập với ngôi vị của chị A, được nuôi dưỡng và hoạt động bằng sự sống của chị A (tử cung được ghép không phải là một trong hai yếu tố chính làm nên mạng sống như tinh và noãn).

c. Sinh con phải do tác động của tình yêu và ý thức trách nhiệm của cha mẹ mới thật sự tốt đẹp. Con cái là hoa quả tình yêu của cha mẹ, người ta vẫn nói như vậy. Nếu không có sự đồng thuận mà một bên buộc phải chịu vậy thì đứa con ra đời có khác gì do người nữ bị buộc làm nô lệ tình dục mà có, đứa bé đâu có vẻ vang gì?

Hành động thụ tinh ống nghiệm với chất liệu còn tươi của một xác chết thì đã tiên thiên loại bỏ ý thức tự do, tình cảm, tình yêu của một bên (cha hoặc mẹ). Chỉ theo ý muốn, tình cảm của một bên mà thôi, như thế việc sinh con này có đầy đủ tính nhân linh và nhân văn không?

(Một hành động gọi là nhân linh đòi phải có ý thức, tự do và tinh thần trách nhiệm. Người đã chết không còn ba khả năng đó).

d. Xét về nhân quyền nói chung và quyền trẻ em nói riêng, con cái có quyền được hưởng sự thương yêu, chăm sóc, dạy dỗ của cả cha lẫn mẹ từ khi tượng thai cho tới chết, trừ trường hợp rủi ro ngoài ý muốn mà bố, mẹ hay cả hai bên vì tai nạn, chiến tranh hay bệnh tật mà qua đời, đứa trẻ phải chịu cảnh mồ côi, chỉ biết sống nhờ người thân trong gia đình hay những tổ chức nhân đạo của xã hội.

Ở đây hành vi cho thụ tinh ống nghiệm với “chất liệu” của người đã chết hoặc với tinh, noãn lấy từ ngân hàng, chẳng biết của ai, thì tình trạng “mồ côi” của đứa bé đã được áp đặt từ trước khi nó thành hình. Như vậy có bất công với nó không? Có giá trị nào có thể bù thế được tình trạng này không?

Dựa vào khoa học để sinh con cho thỏa lòng mình mà không nghĩ tới quyền lợi căn bản, thiêng liêng, không gì bù đắp được của đứa trẻ, hỏi như thế có tốt không?

e. Ảnh hưởng về phương diện tâm lý, giáo dục, hình thành nhân cách và tương lai của đứa trẻ sẽ như thế nào khi sự thật về nguồn gốc đứa trẻ được phơi bày?

f. Xét về phẩm giá con người, dường như việc sinh sản theo khoa học hạ thấp phẩm giá cao quý của con người, khi thay thế việc giao phối với tình yêu ý thức tự do và trách nhiệm của cha mẹ bằng những hình thức khác. Đứa con lúc này trở nên một sản phẩm của công nghệ sinh sản theo khoa học. Những người làm công tác khoa học trong lãnh vực này như những ông chủ nhà máy, sẵn sàng đáp ứng đơn đặt hàng: Bao nhiêu trẻ cần sinh ra? Bao nhiêu con trai? Bao nhiêu con gái? Giữ cái phôi nào, bỏ những phôi nào? Không đạt yêu cầu? Bỏ đi làm lại... y như một quá trình công nghệ sản xuất sản phẩm tiêu dùng vậy.

Thành ngữ ngàn đời của nước ta vẫn nói “Cha sinh mẹ dưỡng”, sinh một đứa con tức là cha mẹ cộng tác với Chúa, với Ông Trời để tác sinh một con người, một ngôi vị độc nhất trong vũ trụ, không thể trùng lấp với bất kỳ một ngôi vị nào trên thế gian từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế. Địa vị con người cao quý như vậy, theo luật tự nhiên phải do hai ngôi vị: cha và mẹ hợp tác qua việc giao phối mà thành.

Tinh, trứng xin của người khác hoặc mua của ngân hàng nơi lưu trữ chỉ là “chất liệu người”, còn chính con người hiến tinh, bán noãn... cũng không được làm rõ lý lịch, họ vô trách nhiệm. Trứng hoặc tinh của một xác chết cũng chỉ là chất liệu của một thân xác đã chết còn tươi chứ không còn là một phần trong bản vị của một người đàn ông, đàn bà đang sống. Sự thụ tinh trong ống nghiệm chỉ là sự phối hợp vật lý, hóa học do một chuyên gia thao tác có tính máy móc nhờ chất liệu của người nam và người nữ, chứ không phải tác động của hai nhân vị nam và nữ thực hiện để sinh ra ngôi vị thứ ba là đứa con. Thực chất của việc thụ tinh ống nghiệm là như vậy!

2.11 Vấn đề người mẹ đơn thân:

Nhiều bài báo lên tiếng đòi quyền làm mẹ của bất cứ phụ nữ nào. Đó là những trường hợp phụ nữ “ế” chồng mà muốn có con. Phụ nữ không muốn bị ràng buộc với một người đàn ông dù có cơ hội lấy chồng, nhưng lại muốn có con. Họ sẽ tìm cách đạt nguyện vọng bằng việc xin tinh của một người hiến tặng hoặc mua ở ngân hàng, rồi dùng kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung để mang thai hoặc tự nguyện đến với một người đàn ông nào đó “tình một đêm”, xong rồi thôi, không có ràng buộc trách nhiệm gì hết, miễn là để lại cho họ một cái bầu! Đây là vấn đề đụng chạm tới luân lý, đạo đức xã hội và cũng phải đối đầu với tất cả những khúc mắc đã nêu trên. Đứa con không biết cha là ai phải kể như đứa con hoang, thật tội nghiệp! Ấy là chưa kể đến những trường hợp người mẹ đơn thân, không đủ sức nuôi con, lại phải bỏ rơi hoặc gởi con vào viện mồ côi, cũng không loại trừ trường hợp đứa con là nữ có thể sau này khi trưởng thành lại vô tình kết hôn với chính cha hay anh em của nó và trở thành loạn luân, đồng huyết hoặc ngược lại đứa con là nam sau này có thể kết hôn với chị em ruột của nó... Tham vọng, ích kỷ của bà mẹ đơn thân đã làm đứa con khổ sở biết chừng nào.

2.12 Sinh sản vô tính: Lấy nhân tế bào cơ thể thay cho tinh trùng.

Ngày 5/7/1996, một con cừu cái tên Dolly (đặt theo tên nữ ca sĩ đồng quê nổi tiếng của Mỹ, Dolly Parton, người có vòng 1 đồ sộ), đã ra đời theo công nghệ sinh sản vô tính tại Học viện Roslin của Scotland (United Kingdom). Quá trình sinh sản vô tính như sau:

Lấy nhân tế bào sinh dưỡng từ tuyến vú cừu cái giống Finnish Dorset bơm vào noãn chưa thụ tinh của cừu cái giống Blackface, sau khi phôi phát triển lại đặt vào tử cung cừu cái thứ ba – Dolly sinh ra giống hệt cừu mẹ Dorset. Người tạo ra Dolly là nhà sinh vật học Wilmut và Keith Campbell cùng với một số cộng sự viên tại Viện Roslin.

Trước khi Dolly ra đời đã có 300 quái vật ra đời qua nhân bản mà không con nào hoàn hảo và sống sót.

Trong quá trình sinh sản Dolly, 277 trứng đã được dùng chỉ có 29 phôi được tạo ra, 3 cừu con được sinh ra nhưng chỉ có Dolly là sống sót. Ngày 14/2/2003 Dolly chết vì bệnh phổi. Trong 7 năm sống tại Viện Roslin, Dolly sinh 3 lần được 6 con (giống cừu Dorset sống từ 12-15 năm, Dolly chỉ sống được 7 năm). Dù thành công với cừu Dolly, ông Wilmut tuyên bố không tạo ra phôi người. Các nhà khoa học cũng cho biết nhân bản người là công nghệ nguy hiểm và không phù hợp quan điểm đạo đức, không ai có thể bảo đảm rằng người vô tính sẽ không có khuyết tật lớn và sẽ có những lạm dụng công nghệ này. Hiện nay tất cả các nước trên thế giới đều cấm nhân bản vô tính người. Nhưng biết đâu lại chẳng có những bác học vẫn đang hì hục thử nghệm để hy vọng đạt danh hiệu “nhà bác học nhân bản vô tính người đầu tiên trên thế giới”!

Thực tế những lạm dụng đã bắt đầu và thật khó kiểm soát.

§ Sau 15 năm thất bại, các nhà sinh vật học Mỹ cuối cùng đã tìm ra cách nhân bản người vô tính, bằng cách tạo ra tế bào gốc của người với kỹ thuật giống như cừu Dolly 1996. Họ đã lấy gen của tế bào trưởng thành bơm vào trứng đã loại bỏ ADN để tạo phôi.

§ Cừu lai người: Các nhà khoa học Anh, Mỹ cho biết con quái vật Chimera của thần thoại Hy Lạp đã ra đời, đó là một con cừu có các cơ quan nội tạng phân nửa giống người. Giáo sư Esmail Zanjani Đại học Nevada (Mỹ), mất 7 năm và 5 triệu bảng Anh để thử nghiệm tiêm tế bào người vào bào thai cừu, sinh ra cừu lai người đầu tiên với 15% tế bào cơ thể là người, 85% tế bào là cừu. Tim, gan, phổi, não tương đối giống người, sẵn sàng cho việc cấy ghép ở người.

§ Dựa trên thành quả thụ tinh ống nghiệm sinh ra cô bé Louis Brown năm 1978 ở Anh, Giáo sư John Gurdon, nhà sinh học Anh vừa đoạt giải Nobel y học năm 2012 tuyên bố: “Nửa thế kỷ tới, những phụ huynh mất con từ tai nạn có thể chi tiền tạo một đứa con giống hệt đứa con đã chết... Phương pháp nhân bản vô tính người cũng sẽ được cả thế giới công nhận”.

§ Công ty công nghệ sinh học Act (Mỹ) vừa phát triển kỹ thuật có thể cho ra đời những em bé như ý muốn từ nhân noãn là tế bào da. Phương pháp được cho là hiệu quả hơn Dolly.

§ Các nhà khoa học Nhật Bản đã cho ra đời 581 chuột con từ một con chuột mẹ với 25 lần nhân bản vô tính (tư liệu Wikipedia – Internet).

§ Hiện nay các nhà khoa học nghiên cứu về nhân bản vô tính đều nhất trí rằng việc nhân bản người là một công nghệ nguy hiểm và không phù hợp với quan điểm đạo đức. Biết đâu trong tương lai gần người ta sẽ tuyên bố ngược lại và rồi theo “lương tâm đám đông”, Quốc hội cũng bỏ phiếu thuận cho một luật nhân bản vô tính người, như nhiều nơi đã chấp nhận hợp pháp hóa mại dâm, hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, hợp pháp hóa an tử...

§ Trong quá trình sinh sản vô tính cừu Dolly, Wilmut đã phải dùng tới 277 trứng cho thụ “nhân” thay vì tinh, kết quả duy nhất được cừu Dolly. Như thế thì để có một con cừu Dolly, các nhà khoa học đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của 276 con cừu.

§ Nếu nhân bản vô tính con người cũng như vậy, thì thử hỏi để có được một hài nhi mà phải hủy sinh mạng của 276 hài nhi khác, liệu có hợp với tiêu chuẩn đạo đức không? Hay người ta lại dựa vào nguyên tắc “Mục đích biện minh cho phương tiện”.

§ Người Công giáo chân chính tuyệt đối không thực hiện điều này, không cổ võ cũng không tham gia quá trình nhân bản vô tính, thụ tinh ống nghiệm người bất cứ dưới hình thức nào, danh nghĩa nào, dù là nhà khoa học hay chỉ là một nhân viên chuẩn bị dụng cụ, hay là một người làm công rửa bình, rửa lọ, rửa dụng cụ cho những người thực hiện nhân bản vô tính người, cho dù có bị đuổi việc cũng cam chịu chứ không làm. Rõ là ngược đời vậy!

Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5,11).

§ Tình trạng của đứa trẻ sinh ra do kỹ nghệ nhân bản vô tính, xét về nhân chủng học và tâm lý học còn tồi tệ hơn cả trường hợp con của người mẹ đơn thân hoặc những đứa con do xin trứng, xin tinh rồi thụ tinh ống nghiệm, vì ít ra những đứa trẻ này căn bản vẫn chính thức có cha có mẹ (dù thực tế chẳng biết cha mẹ là ai), còn đứa con do sinh sản vô tính thì duy nhất chỉ có mẹ. Cái ý niệm về người cha đã bị loại khỏi cuộc đời nó ngay từ khi tượng thai cho đến chết. Như vậy liệu có quá bất công đối với nó không? Có phải là một tội ác đối với nó không? Trên phương diện luân lý, bất cứ hành vi vô trách nhiệm nào trong việc hình thành và nuôi dạy đứa con đều là tội ác đối với Thiên Chúa và con người. Ví dụ trường hợp chơi điếm, hiếp dâm mà có bầu, xin tình “một đêm” để có con, ly dị bỏ mặc con, bỏ rơi con ở đầu đường xó chợ... Tất cả đều là tội ác chống lại Thiên Chúa và loài người. Người Công giáo chân chính tuyệt đối không làm, không tham gia dưới bất kỳ hình thức, danh nghĩa nào.

(còn tiếp)

Phụ Bản I

LỢI ÍCH

CỦA NGƯỜI TIN NHÂN QUẢ

Đạo Phật dù bàn rộng ra thì đến thiên kinh, vạn quyển hay tóm gọn chỉ là Giới, Định, Huệ, Bát Chánh Đạo, Lục Độ, Vạn Hạnh, 37 Phẩm Trợ Đạo… người Phật Tử có thể không cần biết đến những điều đó, thậm chí không cần biết đến Giới, Định, Huệ là gì, nhưng không thể không tin NHÂN QUẢ, vì Đạo Phật cũng được gọi là Đạo Nhân Quả.

Thật ra không phải Đức Thích Ca là người đặt ra Luật Nhân Quả để buộc người theo Đạo Phật phải tin, mà Ngài chỉ là người quán sát, thấy Nhân Quả tuy vô hình, vô tướng, mà tác động lên tất cả những gì có hiện tướng. Đã gieo Nhân là phải Lãnh Quả, không vì không biết, hay vô tình, mà không bị Nhân Quả giáng trả; cũng không có biệt lệ, nên lấy đó để giáo hóa, cảnh báo cho chúng ta. Người có tin Đạo Phật hay không cũng dễ dàng nhận ra điều đó. Thậm chí Nhân Quả đôi khi chẳng phải chờ thời gian lâu xa nào đó mới xảy ra, mà cấp thời, vừa gây tội xong đã phải trả quả, vì thế, ông bà ta từ thời xa xưa đã có câu: “Đời xưa quả báo thì chầy. Đời nay quả báo một giây nhãn tiền” nói về sự báo ứng của Nhân Quả để cho con người sợ mà bớt nghĩ ác, làm ác.

Nhưng cũng có những trường hợp có người cả đời sống ác đức, mà vẫn nhởn nhơ, vẫn bình yên vô sự, tiếp tục thăng quan, tiến chức, như không có điều gì xảy ra, làm cho đôi khi người bị hại chờ hoài không thấy họ bị báo ứng đã trách là “Ông trời không có mắt”, vì không chịu trừng phạt họ! Vì thế, chúng ta cũng cần biết Đạo Phật giải thích những hiện tượng đó như thế nào?

Đạo Phật cho rằng NHÂN QUẢ có ba thời: Báo ứng ngay lập tức. Quả sẽ trả trong một thời gian ngắn sau đó, hoặc kéo dài đến kiếp khác mới xảy ra.

Lý do vì sao, thì Đạo Phật cho rằng: Hiện tại những kẻ làm ác mà ta thấy không bị báo ứng là vì họ còn đang hưởng những điều họ đã làm tốt từ kiếp trước. Bao giờ hết phước báo thì sẽ tới chịu Quả mà họ đang làm. Chắc chắn không bao giờ có chuyện Vay mà không phải Trả. Do đó chúng ta không phải thắc mắc cho rằng hay là Nhân Quả đã bỏ sót họ? Luật đời còn có khi sai sót, do chạy chọt, do được bao che, nhưng với Nhân Quả thì hoàn toàn không thể, bởi ai biết Nhân Quả mặt ngang mũi dọc ra sao để mà đứng ra can thiệp giúp? Dù cho có biết đi nữa thì ai có khả năng xuyên thời gian, không gian để làm việc đó? Nhưng vẫn có một số không nhỏ những Phật Tử, do tin rằng Phật là Thần Linh, có toàn quyền ban ân, giáng họa, nên khi có việc cần sám hối, cần điều gì đó may mắn, tốt đẹp cho gia đình khi đang còn sống, hay với thân nhân đã qua đời thì đều chạy đến Chùa để nhờ giúp chuyển lời cầu của họ đến Phật. Nhất là lễ VU LAN thì mọi người vẫn đua nhau bắt chước Đại hiếu MỤC KIỀN LIÊN để Cúng Dường Trai Tăng, vì thấy Kinh VU LAN BỒN tả rằng Đại Hiếu Mục Kiền Liên, nhờ làm việc đó mà mẹ Ngài là Bà Thanh Đề, dù tội rất nặng, bị đọa Địa Ngục nhưng vẫn được xá tội, được sinh lên cõi Thiên.

Thật sự, buổi đầu khi đọc Kinh Vu Lan Bồn tôi cũng thấy lấn cấn, vì rõ ràng Kinh viết: “Lời Phật không hề hư vọng”, tại sao có việc thay đổi Nhân Quả chỉ bằng lời cầu nguyện của Chư Tăng trong khi cả Phật và Thánh Chúng cũng không làm được? Chẳng lẽ Đạo Phật nói lúc vầy lúc khác? Nếu như thế còn làm sao gọi là Chân Lý được nữa? Mãi cho đến khi tôi đọc được Kinh MỤC LIÊN thì mới thấy rõ ràng là tại vì mình chỉ mới đọc KINH VU LAN BỒN, là phần sau của câu chuyện, nên đưa đến hiểu lầm. Xin tóm lược nội dung Kinh MỤC LIÊN đã đề cập 2 lần trong những Bản Tin trước, vì có liên quan đến Kinh VU LAN BỒN và Nhân Quả của Đạo Phật.

“Trước khi đi tu theo Phật, Ngài Mục Kiền Liên có tên là La Bốc. Người cha tên là Phó Tướng qua đời, để lại một gia tài khá lớn. Chôn cất cha xong, La Bốc thưa với mẹ là Bà Thanh Đề, xin chia tài sản làm 3 phần: Một phần để mẹ dưỡng già, một phần cúng cho Chư Tăng, phần còn lại để mình làm vốn đi buôn.

Khi con trai đi rồi thì bà Thanh Đề không giữ lời hứa với con. Phần tiền hứa dành cúng Chư Tăng, Bà nói với gia nhân tội gì phải cúng cho họ, mà mua heo, gà, vịt, ngan, giết thịt rồi ăn cho sướng cái miệng. Bà dặn gia nhân, nếu có thấy Chư Tăng đến thì đánh đuổi họ đi.

Ba năm sau, buôn bán phát đạt, La Bốc quay về nhà. Lúc tới đầu làng thì ông dừng ở đó, chưa vội về nhà, mà sai thủ hạ về trước để xem mẹ có giữ lời đã hứa không? Bà Thanh Đề nghe có người báo là La Bốc đã quay về thì lật đật sai gia nhân dọn giường, chiếu, phan, phướng, chén bát ngổn ngang như vừa đãi tiệc. Khi gia nhân về nhà thấy như thế, trở ra báo lại với chủ nhân thì lúc đó La Bốc mới mừng rỡ về nhà, vừa đi vừa lạy.

Họ hàng trông thấy hỏi: “Trước mặt không có Phật, không có Tăng, ông lạy ai?”. La Bốc trả lời: “Tôi lạy mẹ tôi vì mẹ tôi cúng dường 500 vị Tăng”. Họ hàng mới cho biết khi ông đi rồi thì mẹ ông không có cúng dường Chư Tăng, mà sai gia nhân mua gà, vịt giết thịt để ăn, còn dặn gia nhân nếu có thấy Chư Tăng đến nhà thì đánh đuổi họ”. La Bốc nghe vậy hoảng kinh té xỉu. Bà Thanh Đề nghe vậy chạy tới cầm tay con thề: “Trời cao lồng lộng, đất rộng thênh thang. Khi con đi rồi thì mẹ có thết tiệc đãi 500 vị Trai Tăng. Nếu không đúng lời thì mẹ xin chịu chết, sau khi chết rồi phải đọa Địa Ngục”. Nghe vậy La Bốc mới chịu quay về nhà. Bảy ngày sau thì Bà Thanh Đề qua đời. La Bốc thọ tang mẹ, chôn cất mẹ xong rồi cất chòi ở cạnh mộ của mẹ suốt 3 năm để trả hiếu, sau đó xin Quy y với Phật, được Phật đặt tên cho là Mục Kiền Liên.

Ngài Mục Kiền Liên tu hành rất tinh tấn, đắc thần thông rất cao. Ngài nghĩ rằng mẹ cúng dường Tăng như thế ắt đã siêu thăng, nên bay lên trời để tìm mẹ, nhưng không thấy mẹ đâu. Xuống Địa Ngục tìm thì cũng không thấy, nên buồn rầu, khóc lóc hỏi Phật, thì Phật cho biết mẹ ông đang bị đọa Địa Ngục mà người thường không thể vào được. La Bốc mượn một cái áo và gậy của Phật, đến đó giộng cửa thì chủ ngục mở cửa ra hỏi làm sao Ngài tới đây được thì La Bốc nói mình đệ tử của Phật, xin được gặp mẹ đang bị nhốt ở đây.

Chủ ngục gọi Bà Thanh Đề, báo là có con trai bà tên là Mục Kiền Liên đến gặp. Nhưng Bà Thanh Đề im lặng không lên tiếng. Chủ Ngục hỏi vì sao không lên tiếng, thì bà Thanh Đề bảo rằng bà có một đứa con trai, nhưng tên khác, nên không dám nhận, sợ nói sai sẽ bị phạt nặng thêm. Lúc đó Ngài Mục Liên mới thưa với chủ ngục là trước khi đi tu, ông tên là La Bốc, nhưng sau khi mẹ qua đời rồi ông mới xuất gia, được Phật đặt tên cho là Mục Kiền Liên, Bà Thanh Đề biết đó đúng là con mình, mới dám bước ra.

La Bốc thấy mẹ mình mang gông sắt, lửa cháy toàn thân thì hoảng sợ khóc lóc thảm thiết, hai tay dâng cơm cho mẹ. Nhưng bà Thanh Đề vừa đưa cơm lên miệng, cơm lập tức biến thành lửa, không ăn được. Bà bảo Mục Liên về bạch Phật tìm cách cứu cho mẹ. Phật thương tình cùng thánh chúng bay lên hư không, dùng nước cam lồ rưới tắt Địa Ngục. Nhưng Bà Thanh Đề thoát ngục này liền sanh ngay vào ngục khác. Ngài Mục Liên lại khóc lóc bạch Phật tìm cách cứu mẹ. Phật bảo ông: “Ngày rằm Tháng Bảy là lúc Chư Tăng Tự Tứ thanh tịnh, ông nên mời 500 vị Tăng đến, cúng dường cho họ để nhờ họ chú nguyện cho. Sau khi Ngài Mục Liên làm theo lời Phật thì Bà Thanh Đề được thoát Địa Ngục, sinh lên cõi trời”.

Phải đọc cả hai quyển Kinh, ta mới thấy lý do vì sao Cúng Dường Trai Tăng mà Bà Thanh Đề thoát Địa Ngục. Cũng như nhiều người tu Phật rất thích có Thần Thông để biết trước những việc sẽ xảy ra, cho đó là một thành tựu của công năng tu hành, qua đó cũng được biết Thần Thông chẳng có lợi ích gì cả:

NHÂN QUẢ được giải thích một cách hết sức thực tế và rõ ràng:

1/- Dù Ngài Mục Liên là người tu hành rất cao, đắc Thần Thông, có thể vào được cả Địa Ngục, nhưng cũng không thể cứu được mẹ ruột của mình. Điều này cũng được viết rõ trong kinh qua lời Cai Ngục: “Tội ai làm nấy chịu, không ai có thể chịu thay cho ai, dù ngay cả mẹ con ruột”. Phần này cũng cho ta thấy: Thần Thông của người tu cũng không giúp gì được cho bản thân và cho người thân của họ. Dù có thấy cũng không thay đổi gì được. Vì thế, cái Thấy đó chỉ làm cho hành giả thêm bận tâm, mất thì giờ mà thôi. Ngài Mục Liên thấy mẹ bị hành hạ, bị đói khổ, mà cũng không thể dâng cơm cho mẹ, vì nghiệp lực của mỗi người phải tự chịu.

2/- Nhiều người hiểu lầm, nên khi lỡ gây Nghiệp thì tới Chùa Sám Hối với Phật để cầu xin được tha thứ. Nhưng theo Nhân Quả, người gây Nghiệp thì đó là họ tự làm cho mình phải chịu thiệt hại, không hề có lỗi với Phật hay thần thánh. Do đó, không cần Sám Hối hay xin chuộc lỗi với Trời, Phật hay thần thánh, mà là ý thức để không tái phạm nữa, vì người mai kia phải Trả Nghiệp cũng chính là bản thân họ. Không ai có quyền tha thứ hoặc chịu thế cho ai được.

3/- Cả Phật và Thánh chúng cũng không thể cứu được Bà Thanh Đề, vì bà không có nợ họ.

4/- Bà Thanh Đề đã hứa dùng 1/3 tài sản để cúng dường 500 vị Tăng, nhưng bà không thực hiện. Vì vậy, khi Ngài Mục Liên thực hiện việc cúng dường Chư Tăng thay cho mẹ, thì bà thấy mình hết nợ thì mới Thoát được Địa Ngục, sinh lên cõi trời.

Ngay cả Phật cũng không cứu được cho Bà Thanh Đề cho ta thấy NHÂN QUẢ được thực hiện một cách vô cùng công minh: Nợ ai thì phải trả nấy. Nợ thứ gì thì phải trả thứ đó.

Điều đó cũng giúp ta suy nghĩ thêm, là nếu ta muốn báo hiếu cho ông bà, cha, mẹ, thân nhân đã qua đời, thì cũng nên làm một cách sáng suốt. Thực hiện đúng việc, đúng người. Không làm một cách máy móc, thiếu suy nghĩ. Đâu phải ai muốn báo hiếu cho cha mẹ đều phải Cúng Dường Trai Tăng? Cha mẹ ta có hứa cúng Trai Tăng hay không, hay là nợ thứ khác, người khác? Chẳng lẽ ông bà ta giật đất, giật hụi, lừa đảo tiền bạc của ông C, ông B rồi sau đó con cháu mang tiền đến cúng Chùa, cúng Trai Tăng, là ông bà ta sẽ thoát nợ? Kinh viết rất rõ: Ngay cả con ruột còn không gánh nợ được cho mẹ ruột, làm sao Chư Tăng có thể gánh giúp cho người khác? Kinh viết rất rõ: Trường hợp bà Thanh Đề mà Chư Tăng cứu được, là vì Bà có lời hứa Cúng Dường Trai Tăng, nên sau khi con bà thay mẹ thực hiện, Trai Tăng thọ nhận sự cúng dường đó thì tự bà cũng thấy lời hứa đã giải tỏa nên mới hết bị lương tâm dày vò, được Giải Thoát. Trước đó, dù Phật và Thánh Chúng dập tắt lửa Địa Ngục, nhưng bà sinh ngay vào Địa Ngục khác.

Chúng ta nên biết, sở dĩ Phật đưa Luật Nhân Quả, đưa Ba đường Dưới (Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh) là để con người sợ mà ngưng nghĩ ác, lảm ác. Nhìn vào cuộc đời, chúng ta thấy: Xã hội sở dĩ loạn, một phần là cũng do con người ỷ thế, cậy quyền, cho là “điều gì không mua được bằng tiền, thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền”. Chính vì vậy mà họ lộng hành, ỷ thế, hiếp người, coi thường pháp luật, rồi đụng chuyện là tung tiền ra, nhờ người có thể lực để giải cứu. Đó là việc của đời, trong một xã hội thiếu kỷ cương. Ngay trong xã hội mà luật pháp được thực thi một cách nghiêm minh thì cũng không thể xảy ra những việc như thế. Và với Nhân Quả thì hoàn toàn khác:

1/- Nhân Quả là một báo ứng, không có một vị nào hay thần thánh nào đứng ra cầm cân, nảy mực, vì vậy, nói chuyện can gián, xin khất, xin giảm thì tôi e rằng không thể. Bởi Nhân Quả vô hình, vô ảnh, thì tìm ở đâu để mà can gián, xin xỏ, năn nỉ?

2/- Giả sử thì nếu điều đó thực hiện được, thì chẳng lẽ người hiền lương mai kia sẽ “ngồi cùng chiếu” với những kẻ lưu manh, bất lương, chỉ vì những tên đó mới có nhiều tiền để nhờ người cúng vái, cầu xin, nên Nhân Quả phải thay đổi vì đã trót nhận lời can thiệp của ai đó?

3/- Nếu nói rằng Chư Tăng dùng sức thanh tịnh để can thiệp thì chẳng lẽ Phật và Thánh Chúng không thanh tịnh bằng Chư Tăng?

4/- Ngay thế gian là xô bồ, mà người dùng tiền và nhận tiền để chạy án còn bị đánh giá thấp, huống là người tu làm sao có quyền nghĩ đến việc làm có tính cách bênh vực cho người xấu, việc xấu như thế. Phật làm sao có quyền để tha tội cho ai mà cầu xin Ngài Xá tội? Nếu Phật làm được điều đó thì Ngài khỏi cần dạy chúng ta tu hành, Tự Độ.

Do vậy, theo tôi, cùng là đọc và áp dụng kinh Phật, nhưng mỗi người có quyền cảm nhận theo mình. Không nên vội bài bác mà cũng không nên vội tin. Khi thấy có vấn đề trái ngược với nguyên tắc của đạo thì nên tìm thêm, có khi là chúng ta chưa đọc hết câu chuyện. Như Kinh VU LAN BỒN Và KINH MỤC LIÊN chẳng hạn, dù là 2 Kinh riêng biệt, nhưng là diễn tiến của hai mẹ con, ở hai giai đoạn: lúc sống và lúc chết. Trong đó nêu rõ lý do bà Thanh Đề bị đọa cũng như cách tháo gỡ đúng theo Luật Nhân Quả. Đồng thời cũng khẳng định: Phật dù có thương đệ tử đau khổ vì thấy mẹ bị đọa Địa Ngục, nhưng cũng không cứu được. Công đức tu hành cũng thế. Ngài Mục Kiền Liên dù tu hành rất cao những cũng không thể cứu được mẹ ruột của mình. Do đó, Chư Tăng làm sao có thể cứu được thân nhân người khác? Để chúng ta bỏ đi những hiểu lầm về Nhân Quả.

Điều đó, một lần nữa, xác nhận tính công minh tuyệt đối của Luật Nhân Quả, đồng thời là câu trả lời cho những người vẫn nghĩ Phật là thần linh. Lẽ nào Phật là thần linh, có thể “cứu độ Tam Thiên Đại thiên Thế Giới”, trong khi đó, chỉ một bà Thanh Đề, là mẹ của đệ tử mà Ngài cũng không cứu được? Do đó, người Phật Tử sáng suốt thì nên xem lại niềm tin của mình. Đạo Phật dạy mỗi người phải Tự Độ. Dạy Nhân Quả. Không có dạy cầu xin, nương tựa, vì chính Đức Thích Ca cũng là một con người bình thường như tất cả chúng ta, nhờ tu hành Giác Ngộ mà được Giải Thoát gọi là Thành Phật. Thành Phật cũng không phải là trở thành một vị Thần Linh, có quyền phù hộ, độ trì cho ai. Do đó, những nguời cúng kiến, dùng hương khói Cầu An, Cầu Siêu, vô tình biến Đạo Phật thành Nhị Thừa, Quyền Thừa giống y như những tôn giáo khác, không còn là Đạo Phật chân chính Tự Tu, Tự Độ nữa.

Về người tin rằng Chư Tăng có thể cứu độ cho vong linh người đã khuất thì cũng nên xem kỹ Kinh Mục Liên và kinh Vu Lan Bồn để thấy trường hợp bà Thanh Đề, sở dĩ mà Chư Tăng cứu được vì Bà Thanh Đề có lời hứa dùng 1/3 gia sản để cúng dường Tăng. Việc Cúng Dường đó là giải tỏa lời hứa chỉ riêng cho trường hợp của bà Thanh Đề, không phải bất cứ trường hợp nào Chư Tăng cũng cứu được. Do vậy, khi hành một pháp nào của Đạo Phật ta nên xét cho kỹ để đôi khi làm sai mục tiêu, sai đối tượng thì sẽ không có kết quả như mình mong đợi. Điều đó không phải Đạo Phật không có nói rõ. Chỉ tại bản thân mình chưa tìm hiểu cho kỹ mà thôi.

Tôi tin rằng người tin Nhân Quả không thay đổi thì sẽ không dám làm quấy. Hoặc đôi khi bị áp bức, bị người xử tệ ác, cũng nhờ tin vào Luật Nhân Quả Ba Thời để tự an ủi là “không bao giờ có việc bỗng dưng mà mình bị hại. Biết đâu kiếp nào đó mình đã hại người, nên bây giờ họ trả lại”. Nhờ đó mà cũng bớt đau khổ. Đó là một điều nên làm. Vì khi bị bức hại, không cách nào phản kháng được, mà có lý do để tự trấn an mình chẳng phải là lợi ích, so với để cho đau khổ, tức tối dày vò rồi oán trách thần thánh sao? Ngược lại, kẻ tin rằng có người bao che, xin tội giúp, thì chắc chắn sẽ không chịu dừng làm ác.

Nhìn cuộc đời, ta sẽ thấy: Phải chăng những kẻ ác dám lộng hành là vì họ ỷ có thế lực bao che. Chỉ cần tung tiền ra “chạy án”, khi sống cũng như lúc đã qua đời, vì tin rằng có những người, những nơi sẵn sàng nhận tiền để làm việc đó. Sống thì đút lót cho tham quan. Chết rồi thì cúng kiến cho Chùa Chiền! Chính vì vậy, theo tôi, người cho rằng Phât là thần linh, nên những người tu hành là Đệ Tử của Phật sẽ là người chịu thiệt thòi vì đứng ra can gián, bảo lãnh giùm cho Nhân Quả nới tay cho người khác, là người chưa hiểu lẽ công bằng tuyệt đối của Nhân Quả, không những không thực hiện được mà còn vô tình khuyến khích cái ác mà không hay. Vì vậy, khi nhân danh Đạo Pháp để khẳng định điều gì đó, người thuyết cần hết sức thận trọng, phải đối chiếu thật kỹ với chính Kinh, vì tự mình lầm thì không sao, kéo thêm nhiều người khác cũng hiểu lầm thì bản thân mình cũng khó tránh Nhân Quả. Tích “Con chồn hoang” của Mã Tổ Bách Trượng, kể chuyện một người tu, chỉ vì hạ sai một chuyển ngữ mà bị đọa làm thân chồn hoang là một bài học cho chúng ta, nhất là người đang giảng pháp cho mọi người. Càng đông đảo người tin theo thì trách nhiệm càng lớn. Không được quyền khinh suất.

Không chỉ có thế. Người biết rằng Nhân Quả tác động lên tất cả mọi việc thì khi làm bất cứ điều gì họ cũng sẽ tự vấn để không phí uổng công phu. Thí dụ như muốn bước vào Tu Phật vì nghe ca tụng Đạo Phật, Đức Phật quá nhiều, nếu không hấp tấp thì họ sẽ tự hỏi:

a)- Có thật Phật là một vị Thần Linh và mọi người có thể tu hành để đạt địa vị đó không? Tu Phật là gì? Tu Phật phải làm gì? Để được gì? Phải làm như thế nào? Làm đến bao giờ? Kết quả ra sao? Xét hết các mặt rồi nếu thấy điều đó cần thiết cho mình thì mới dấn thân, mới bỏ thì giờ, công sức ra mà làm. Như thế sẽ không bị rơi vào cái tưởng chứng đắc, cao, thấp, quả vị của Đạo.

b)- Cả khi muốn Ngồi Thiền thì họ cũng sẽ không chạy theo phong trào, mà tự hỏi: Tại sao cũng là Ngồi Thiền mà Đức Thích Ca chỉ Ngồi có 49 ngày mà Thành Phật? Tại sao người thời sau Ngồi mải miết năm này sang tháng kia mà không thấy ai Thành Phật? Họ đã sai điều gì? Thế Ngồi? Ngồi không đúng hướng? Không đúng cách? Phải làm gì trong lúc Ngồi đó? Đếm hơi thở? Dứt hết tư tưởng? Quán tưởng Phật hay cõi Phật? Có đến mấy loại Thiền: Thiền Yoga, Thiền Xuất Hồn, Thiền để tịnh Tâm, Thiền để điều khí, phàm phu Thiền, ngoại đạo Thiền, Như Lai Thiền…Thiền mà ta đang Ngồi thuộc loại nào? Phải Ngồi trong bao lâu?

c)- Rồi thì Chư Tổ nói rằng Đạo Phật nói Tu Phật là Tu Tâm, “Tức Tâm tức Phật. Muốn tìm Phật thà tìm Tâm”. Vậy thì Tâm là gì? Ở đâu? Tu Tâm là Tu như thế nào? Tại sao Tu Tâm mà lại thành Phật?

d)- Độ Sinh là gì? Chúng Sinh ở đâu? Độ như thế nào để thành Phật?

e)- Phật đã Thọ Ký: “ Tất cả Chúng Sinh là Phật sẽ thành ” vậy thì chừng nào chúng sanh sẽ thành Phật? Ta và mọi người có phải là chúng sanh không? Phải làm gì để thành? Tại sao bao nhiêu đời nay biết bao nhiêu người tu hoài vẫn chưa Thành? Phải tu bao nhiêu kiếp mới Thành?

Những câu hỏi xem ra có vẻ phức tạp, nhưng khi ta giải quyết được thì sau đó vấn đề còn lại là chỉ cần tinh tấn thực hành mà thôi. Cũng giống như người có căn nhà đang hư. Nếu họ xác định được chỗ cần sửa. Biết cần gọi thợ nào? Phí tổn độ bao nhiêu? Sau khi tính toán đâu vào đó mới bắt tay vào việc thì công việc sẽ được giài quyết một cách nhanh chóng. Việc tu hành cũng thế. Mọi người bảo nhau: “Tu mau kẻo trễ”, nhưng bỏ đời vô Chùa đã gọi là tu chưa? Tụng Kinh, Niệm Phật có phải là công năng tu hành? Nếu không phải thì làm thế nào mới gọi là Tu? Tu thế nào cho mau?

Còn rất nhiều vấn đề nữa mà tôi tin rằng nếu người nào chưa tự mình trả lời cho bản thân những câu hỏi đại loại như trên, thì dù có tu hành tinh tấn cách mấy trong bao nhiêu đời cũng sẽ chẳng có ích lợi gì. Bởi không chỉ mến mộ, kính ngưỡng, tôn thờ Phật, kêu gọi được nhiều người cũng làm như mình, hay cất được nhiều kiểng Chùa mà sẽ có kết quả là thành tựu con đường Tu Phật. Điển hình là Vua Lương Võ Đế, một mình xây dựng đến 72 kiểng Chùa mà kinh sách đâu có nói ông ta Thành Phật? NHÂN nào, QUẢ nấy. Nếu ta vào Đạo Phật một cách mơ hồ. Hành trì mà không biết kết quả về đâu, và khi chưa hiểu lời Kinh cho rõ ràng, cứ “Y Kinh giải nghĩa ” rồi theo đó mà làm thì chứng tỏ là ta chưa hiểu gì về NHÂN QUẢ vậy.

Tâm Nguyện

(Tháng 2/2015)

Á Nam TRẦN TUẤN KHẢI

Anh Khóa với những vần thơ nước non

Trần Tuấn Khải (04 tháng 11 năm 1895 – 07 tháng 3 năm 1983) là một nhà thơ Việt Nam, nổi danh từ thời tiền chiến.

Ông người làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Xuất thân là nhà nho nghèo, có truyền thống yêu nước. Cha ông là Trần Thụy Giáp, hiệu là Văn Hoán, đỗ cử nhân khoa thi Hương tại Nam Định năm Canh Tý (1900). Năm lên 6 tuổi, ông bắt đầu học chữ Hán với cha. Nhờ mẹ ông cũng là người thuộc nhiều ca dao, thi phú, lại hết lòng dạy dỗ con, vì vậy mới 12 tuổi, ông đã biết làm đủ các thể thơ bằng chữ Hán.

Mấy lần, Trần Tuấn Khải định xuất dương mà không thành: 1915-1916: dự định qua Đông Hưng (Trung Quốc), 1927: dự tính sang Pháp. Nhà cầm quyền Pháp dò la biết ông có ý định trên, đồng thời có đến liên hệ các nhà cách mạng, như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc KhángHuế và những nhà hoạt động lưu vong như Đào Trinh Nhất, Hoàng Tích Chu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Tường TamSài Gòn... nên cho người lùng bắt ông. Nhờ có người báo tin, ông lẻn ra ẩn trốn nơi động Huyền Không trong dãy Ngũ Hành Sơn (Quảng Nam).

Năm 1932, tác phẩm Chơi xuân năm Nhâm Thân được xuất bản, nhưng ngay sau đó bị Pháp ra lệnh tịch thu, khám nhà rồi bắt giam Trần Tuấn Khải và chủ nhà sách Nam Ký. Ông bị giam hơn 2 tháng rồi bị kêu án 2 tháng tù treo về tội viết sách “phá rối trị an, xúi dân nổi loạn”. Trong nhà giam Hỏa Lò, Trần Tuấn Khải gặp được Nghiêm Toản và nhiều nhà tri thức có tâm huyết khác.

TIỄN CHÂN ANH KHÓA XUỐNG TÀU

Nghe tiếng đàn nhị thánh thót rung lên quyện với tiếng hát mộc mạc thiết tha lòng ai mà không b ồi hồi, xúc động:

Anh Khóa ơi! Em tiễn chân anh xuống tận bến tàu

Đôi tay em đỡ cái khăn trầu, em lấy đưa anh

Tay cầm trầu giọt lệ chạy quanh

Anh xơi một miếng cho bõ chút tình em nhớ thương

Đó là một cuộc chia ly như tất cả những cuộc chia ly từ nghìn thuở trên đất nước Việt Nam, có người phụ nữ giữ khăn trầu, cầm một miếng trầu đưa cho người nam, nhưng ở đây đã có dấu vết của thời cơ khí hiện đại, báo hiệu chia ly không còn là tiếng ngựa hí, tiếng nhạc reo, tiếng nước róc rách và tiếng gió phần phật… mà là tiếng còi tàu tu tu như hồi chuông nghiệt ngã của số phận, cắt đứt tình duyên đôi lứa.

Anh Khóa ơi! Còi tu tu tàu sắp kéo cầu

Đường trần em sắp sửa gánh sầu từ đây

Trông anh, em chẳng nỡ rời tay

Nỗi riêng em dặn câu này anh chớ có quên

Anh Khóa ơi! Người ta lắm bạc nhiều tiền

Anh em ta phận kém duyên hèn mới phải long đong

Một mình anh nay Bắc lại mai Đông

Lấy ai trò chuyện cho khuây lòng lúc sớm khuya

Anh Khóa ơi! Chữ tương tư vai gánh nặng nề

Giang hồ anh sớm liệu trở về kẻo nữa em mong

Tính toan sao cho phỉ chí tang bồng

Ở nhà em cũng dốc một lòng giữ phận thuyền quyên…

Người làm bài “Tiễn chân anh Khóa xuống tàu” là nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải. Thân sinh Á Nam, cụ Cử nhân Văn Hoán là chỗ thanh khí với Tam nguyên Vị Xuyên Trần Bích San và Trần Tế Xương. Điều mọi người băn khoăn: Anh Khóa này là ai mà hoài bão chí khí lớn lao muốn làm sao cho “phỉ chí tang bồng”.

Chúng ta được biết: “Khoảng năm hai mươi tuổi, tác giả thường giao du với các nhà chí sĩ, những bậc lão thành, cũng như những người thiếu tráng, ngày đêm mài miệt ngâm vịnh văn chương, nghiên cứu các học thuyết đông tây kim cổ. Lúc đó trong đám anh em, có nhiều người vì mang lòng phẫn uất với bọn thực dân Pháp, trốn tránh đi ra nước ngoài để tìm phương kế cứu giang sơn Tổ quốc. Trong thời gian đó, tác giả cũng đã có phen lần ra tận biên thùy ở miền Móng Cái, mong lân la sang bên Trung Quốc để tìm kiếm bạn đồng tâm. Chẳng may công chuyện không thành, đành buồn bã quay về. Sau đó, còn có nhiều phen lần theo các đường khác để đi (như vào Trung Kỳ, Nam Kỳ) song cũng đều thất vọng”. Tuy vậy, trong đám bạn bè cùng chí hướng của ông, những người gặp được cơ hội len lỏi ra nước ngoài cũng không phải là ít. Vì thế, trong lúc tiễn đưa bạn hữu, tác giả đã chan chứa cảm xúc, viết ra bài hát trên để tả tấm lòng tha thiết của mình. Bài hát rất phổ biến trong Nam, ngoài Bắc hồi đó.

Dụng ý của Á Nam mượn thơ văn để khích động lòng yêu nước, gây chí tự lập, nghĩa hợp quần đã được người đương thời nhận ra .

- Tạp chí Nam Phong (Tháng 5.1921) viết: “Đã lâu nay, các văn thông được mấy quyển hay, nay mới lại được đọc tập “Duyên nợ Phù sinh” (Kim Sinh Lụy) của ông Trần Tuấn Khải này thật là văn chương có giá trị… Nhiều bài hát thật là hay, như bài “Tiễn chân anh Khóa xuống tàu” và thứ nhất là bài “Gánh nước đêm” lời giản dị mà ý tứ sâu xa biết bao nhiêu… Cả tập thơ chỉ được một bài này, cũng đáng khen, huống còn nhiều bài hay nữa”.

- Hoàng Ngọc Phách viết trong báo Trung Bắc Tân văn số 1282: “Tự bảo mình rằng lúc thơ phú tàn canh, mà còn có thơ này, lời lẽ thanh thoát, ý tứ dồi dào, cảm hoài những việc vẩn vơ mà cao thượng”… “Có người bảo văn ông có nhiều vẻ buồn, ký giả cũng tưởng như vậy”… “Nếu vì quốc văn, vì luân lý, vì hai vai thân thế, một gánh giang san, cuộc văn chương dẫu đến khi tàn, mà ngọn bút quan hoài biết bao giờ cho ráo mực” mà ông buồn, thì cái buồn ấy cũng có vẻ cao thượng”.

- Tú tài Nam Định Nguyễn Xuân Xứng viết: “Quyển ‘Duyên nợ Phù sinh’… văn chương mực thước, lời lẽ thâm trầm, chẳng khác chi một mảnh gương soi suốt nhân tình thế thái, so với bốn chữ nhan đề quả là thích hợp…”.

- Thiếu Sơn trong “Phê bình và cảo luận” (1933) đã nói rõ ràng hơn: “Ông Khải thường hay cảm về thời thế, mà nặng lòng với đất nước non sông, nên ông thường hay ngâm vịnh về lịch sử để dựa theo mà khóc cảnh tang thương…Vì ai? Độc giả cũng dư biết vì ai. Song lịch sử đã đầy những sự vẻ vang quá khứ, mà hiện nay trông lại, chỉ thấy rặt những cảnh thảm mục thương tâm, thì những nhà chí sĩ lo đời, há được bình an toạ thị?

Bởi vậy mà anh Khóa mới lên tiếng hô hào, rắp mong được nhiều người hưởng ứng”.

-Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” (1941) cũng viết: “Có lẽ ông (Trần Tuấn Khải) là một thi sĩ mà cách đây không lâu các bài ca đã được nhiều người hát nhất. Ở Bắc kỳ, hai bài “Anh Khóa” của ông, trong xóm bình khang, các đào nương lại thường hay hát lắm. Hai bài “Anh Khóa” phổ thông đến nỗi người ta đã lấy cả vào đĩa hát ở miệng những tay danh ca bậc nhất.

Những việc ấy đủ chứng ra rằng hai bài “Anh Khóa” đã hợp với tính tình của nhiều người, người học thức cũng như người ít học. Mà không cứ hai bài “Anh Khóa”, những thi ca của Trần Tuấn Khải hầu hết đều nhẹ nhàng, dễ hiểu, đều có tính cách phổ thông như thế cả”.

Trong sách không thấy nói đến việc bài “Anh Khóa” sở dĩ được hưởng ứng nhiệt liệt vì nó đáp ứng đúng tình cảm yêu nước của quần chúng. Nhưng sau này, khi đọc hồi ký “Những năm tháng ấy” (1987), được Vũ Ngọc Phan cho biết: “Bài Anh Khóa của Trần Tuấn Khải xẩm họ hát ơi ới khắp nơi thì không sao, nhưng đưa vào sách (Nhà văn hiện đại) thì bị xoá liền”, chúng ta mới hiểu đoạn nói về nội dung yêu nước của “Anh Khóa” đã bị kiểm duyệt thực dân xóa bỏ.

Hiện tượng “Anh Khóa” nói lên một biến chuyển kỳ lạ và đặc biệt của văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20, đó là sự xâm nhập mạnh mẽ của văn học dân gian vào văn học viết. Ý thức hệ nho sĩ phong kiến đã đến lúc tàn, không đủ sức gây dựng một luồng văn thơ có sinh khí và sức vang dội nữa. Nếu Á Nam chỉ làm những bài thơ hoài cổ như “Chơi thành Cổ Loa”, “Chơi núi Sài Sơn”, “Chơi thuyền Hồ Gươm”… thì ông cũng chỉ góp thêm vào tiếng thở dài của một thế hệ từ Nguyễn Khuyến cho đến Vũ Phạm Hàm, Chu Mạnh Trinh… hay nếu chỉ làm những bài thơ châm biếm trào phúng như “Lên chợ Giời”, “Trách đồng bạc”, “Vịnh ông Hộ Pháp”… thì ông cũng chỉ góp thêm vào tiếng cười mỉa mai cay độc của nhà nho thất thế như Từ Diễn Đồng, Trần Tế Xương… Sau khi Á Nam làm một số bài phong dao và câu hát vặt mang hơi thở lành mạnh, trong trẻo của dân gian, quần chúng nhân dân đã nhận ra người thi sĩ chân chính của mình, hà hơi tiếp sức cho ông, nâng thơ ông tới đỉnh cao, truyền bá thơ ông rộng rãi, choàng cho ông vòng nguyệt quế “ca sĩ của lớp người tấn công lên trời”. Trước sự ủng hộ và suy tôn nhiệt liệt của đông đảo quần chúng, giới văn học bác học đương thời không thể không dành cho ông một vị trí xứng đáng trong nền văn học. Bài “Anh Khóa” đã thổi một luồng gió trong lành, khỏe khoắn vào không khí văn học già nua lúc bấy giờ, khiến nó tiếp cận hơn với văn mạch dân tộc, nguồn gốc dân ca, chất trữ tình của nó là chất lãng mạn tích cực khác xa với chất lãng mạn tiêu cực ẻo lả, bạc nhược tràn ngập văn đàn thời ấy… Á Nam không coi đời toàn là bể thảm như Đoàn Như Khuê mà xác định ông là người ở giời Nam bể Á (do đó mới lấy hiệu là Á Nam). Trong bài “Hồn lụy” ông viết:

Giời Nam bể Á bao la

Nực cười vơ vẩn là ta với mình

Ham chi duyên nợ phù sinh?

Ngàn thu luống để vương tình nước non

Cái sầu này không phải là cái sầu vơ vẩn, vô cớ như Tản Đà “sầu không có mối, chém sao cho đứt, sầu không có khối, đập sao cho tan”, cũng không phải là sầu vì “duyên nợ phù sinh” như Tương Phố “Tình thu ai để duyên em bẽ bàng”, mà cái sầu có nguồn gốc rõ rệt “ngàn thu luống để vương tình nước non”. Tần số xuất hiện những chữ nước non, giang san, sơn hà, đất Việt, Hồng Lạc, biển Á, giời Nam, Nam Việt, Tổ quốc… chiếm đa số tuyệt đối, áp đảo trong văn bản của Á Nam, văn có non sông mới có hồn, là nguồn thơ chủ yếu hầu như duy nhất của Á Nam, thậm chí bài thơ khóc vợ “Non trách nước” (1932) cũng vẫn ngụ ý nói đến đất nước. Thiếu Sơn đã nhận xét: “Thơ ông Hiếu thì ngộ nghĩnh mà thần tình, còn thơ ông Khải thì trang nghiêm mà thống thiết”.

Sau loạt bài “Tiễn chân anh Khóa xuống tàu”, “Gửi thư cho anh Khóa”, “Mong anh Khóa”… Á Nam đã viết những bài có hàm ý kêu gọi đồng bào sớm tỉnh cơn mê giấc mộng, đoàn kết lại đứng lên chống Pháp như trong bài “Gọi đàn”:

Đời như nước mặt bể khơi

Người như chiếc lá ngược xuôi giữa dòng

Xiết bao sóng gió hãi hùng,

Chân sào tay lái ai cùng với ta?

Đừng theo con nhạn mới sa,

Thấy con sóng bạc tưởng là mồi ngon.

Lênh đênh bay lộn chập chờn

Biết bao hy vọng theo nguồn nước xuôi!...

Dầu sao bài này vẫn mang tính chất bóng gió, như bến giác có thể hiểu là giác ngộ cách mạng, nhưng đến những bài sau có nội dung yêu nước, cụ thể, mãnh liệt hơn, như “Văn tế Đức Trần Hưng Đạo” (in trong tập thơ “Với sơn hà 1” (1936) với lời kêu gọi hùng hồn: Hai mấy triệu nào con nào cháu, mài tim gan trông nếp cũ cùng theo, muôn nghìn năm nào gái nào trai, luyện vây cánh sấn đường mây thẳng trỏ, nghe như “Văn tế Phan Châu Trinh” của Phan Bội Châu. Trong bài “Hai chữ nước nhà” mượn lời Nguyễn Phi Khanh dặn Nguyễn Trãi, nhà thơ Á Nam viết:

Lời cha dặn khắc xương để dạ,

Mấy gian lao con chớ sai nguyền;

Tuốt gươm thề với sương thiên,

Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu.

Gan tráng sĩ vững sau như trước,

Chí nam nhi lấy nước làm nhà,

Tấm thân sẻ với sơn hà,

Tượng đồng bia đá họa là cam công.

Hơi văn bi hùng chẳng khác gì những bài ca của phong trào Việt Nam Quang Phục Hội thời bấy giờ. Bên cạnh sự hưởng ứng của quần chúng, còn có tác động của tình thế cách mạng sôi sục đương thời.

Chúng ta phải thông cảm, khi chưa rõ phong trào tân nhạc ra đời, các nhà thơ phải làm những bài ca cách mạng cho quần chúng hát. Những bài ca của Á Nam trong hai cuốn “Bút quan hoài” và “Hồn tự lập” đã bị thực dân tịch thu, cấm tàng trữ, lưu hành trong toàn quốc, và khi in cuốn “Sách chơi xuân năm Nhâm Thân” (1932) trong có 10 bài thơ mượn lời bà Trưng Trắc nhủ em là Trưng Nhị khi nổi quân đánh đuổi Tô Định, ông bị bắt giam vào Hoả Lò Hà Nội.

Cuốn “Hồn tự lập” tập II (1928) do Á Nam viết bằng văn xuôi , nội dung thuật chuyện ba nhà nữ cách mạng Nga, do Nhà in Nữ lưu thư quán, Gò Công, xuất bản. Bài thơ đề đầu cuốn sách như sau:

Lò vũ trụ đêm mù hiu hắt,

Cảnh muôn loài say giấc ngổn ngang.

Tiếng đâu kêu réo kinh hoàng

Nghe ra hùng tráng bi thương đến điều?

Mặt biển nọ nước reo chính khí

Đỉnh non kia mây hé tự do.

Ngọn đèn nhân loại khêu to,

Những ai soi rạng cơ đồ bấy nay?

Mở lịch sử đông tây coi thử,

Kìa anh hùng hiệp nữ là ai?

Mấy phen động đất kinh giời,

Máu hồng lai láng muôn đời còn in.

Lầu cố quốc khêu đèn tự lập

Chén hô quần mong nhấp cùng ai?

Phấn son ai cũng kiếp người,

Tình non nước, nghĩa giống nòi, sao đây?

Chúng ta thấy lời hô hào yêu nước của Á Nam không mang ý thức hệ sĩ phu phong kiến mà đã mang ý thức cách mạng tư sản dân quyền, nhiều câu trong bài “Hai chữ nước nhà” rất giống với những câu trong bài La Marseillaise, Quốc ca Pháp (1792). Thí dụ câu: Chí nam nhi lấy nước làm nhà, tấm thân sẻ với sơn hà, Tượng đồng bia đá họa là cam công,

Còn bài đề cuốn “Hồn tự lập II” thì lại phảng phất giọng văn của Lương Khải Siêu, người cha tinh thần của Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc. Trong cuốn “Hồn tự lập I” (1927), Á Nam nêu tấm gương đấu tranh của nhà yêu nước Ấn Độ Gandhi, chống thực dân Anh.

Chủ nghĩa yêu nước của Á Nam đã thấm nhuần tinh thần dân chủ và quốc tế .

- Á Nam không những đã đọc tân thư của Trung Quốc mà còn đọc cả sách chữ Pháp, ông đã dịch nhiều bài thơ của Alfred de Musset, Victor Hugo… sang tiếng Việt.

- Á Nam còn dịch những tiểu thuyết Trung Quốc ca ngợi những anh hùng khởi nghĩa nông dân như Thuỷ Hử, Hồng Tú Toàn…

- Á Nam còn viết bộ tiểu thuyết “Thiên thai lão hiệp” (1934 – 1935) lợi dụng phong trào kiếm hiệp thời ấy mà đưa ra những nhân vật dị kỳ, cổ quái nhằm hấp dẫn độc giả, nhưng cốt ý là để cổ xúy cách mạng.

Sau khi thực dân Pháp bắt giam tác giả và cấm lưu hành tác phẩm của Á Nam, không nhà xuất bản nào dám in sách của ông nữa. Lúc toàn quốc kháng chiến tháng 12.1946 nổ ra ở Hà Nội, ông mang được một rương đựng đầy bản thảo thơ văn cùng gia đình đi tản cư ba bốn chỗ, sau mới về ngụ ở làng Sơn Lộ, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, thì rủi bị giặc Pháp tới nơi đốt phá tan tành không còn sót được một mảnh chữ nào. Mãi sau này ông mới nhớ lại được một số bài đưa in trong cuốn “Với sơn hà” tập II (1949).

Lúc còn ở Bắc, ông đã theo kháng chiến ở Vân Đình Chợ Đại một thời gian. Nhưng kỳ diệu thay sức sống bất khuất của thành phố Sài Gòn, chính ở đây, Á Nam đã tìm được chỗ đứng xứng đáng trong cuộc chiến của nhân dân thành phố chống đế quốc Mỹ và tay sai. Ông đã tiếp xúc với nhiều hội đoàn dân chủ nhất là phong trào Tự quyết và thường đến họp với tổ chức này từ năm 1964.

Năm 1966, Trần Tuấn Khải được bầu làm Chủ tịch danh dự của Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc cùng với giáo sư Dương Minh Thới. Lời phát biểu mạnh mẽ của ông trong lễ ra mắt ngay trước “Hạ viện” Sài Gòn, được mọi người hết sức hoan nghênh.

Sau 30.4.1975, Trần Tuấn Khải làm cố vấn Hội Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. Khi hai nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận từ miền Bắc vào Nam, đến nhà thăm Á Nam, hôm ấy cụ còn yếu mệt, đang nằm giường bệnh, nghe anh Huy Cận cười hỏi: “Nay anh Khóa đã về, bà Khóa đã hả lòng chưa?”, thì cụ Á Nam bất giác tươi tỉnh, sau khi tiễn bạn ra về, cụ đã viết ngay bài “Mừng anh Khóa về” (1975)

Mấy tháng trước khi qua đời ngày 07.3.1983, cụ đã làm bài thơ “Tám mươi tám tuổi tự vịnh” (1982), như sau:

Ta nghĩ mình ta cũng nực cười,

Sống trong thanh bạch vẫn yên vui.

Lấy câu trung nghĩa khuyên con cháu,

Mượn tiếng văn chương gọi giống nòi

Nghĩa cả giang sơn ghi đáy dạ,

Chuyện đời danh lợi gác ngoài tai

Tám mươi tám tuổi xuân còn mãi,

Còn vững lòng son chẳng đổi dời.

LỜI KẾT

Phong dao là một trong những cống hiến đăc sắc của Á Nam. Hồn ca dao của dân tộc đã thấm sâu vào “anh Khóa” bình dân, khiến cho thi sĩ viết ra những bài ca như của một chị “nhà quê”, một anh trai cày đích thực:

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

(Bút quan hoài I)

hay:

Rủ nhau xuống bể tìm cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi chua ngọt đã từng

Non xanh nước bạc xin đừng quên nhau

(Duyên nợ phù sinh)

Từ thi pháp cho đến tâm tình đều thấm nhuần lời ăn tiếng nói, ca dao của người nông dân Việt Nam. Trách chi nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan lại chẳng lầm mà đưa hai bài ấy vào mục ca dao về “Tình yêu nam nữ” trong công trình Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của ông. Ngoài hai bài ấy ra, Á Nam còn nhiều bài phong dao khác nữa mà khi để cạnh ca dao người ta khó có thể phân biệt được đâu là Á Nam và đâu là dân gian.

Bài “Anh Khóa” là bài hát rất phổ biến trong Nam, ngoài Bắc hồi đó.

Dụng ý của Á Nam mượn thơ văn để khích động lòng yêu nước, gây chí tự lập, nghĩa hợp quần đã được người đương thời nhận ra .

Gần một thế kỷ cống hiến cho sự nghiệp của đất nước và văn học, Á Nam Trần Tuấn Khải đã thể hiện trọn vẹn đúng như tâm nguyện của cụ buổi đầu:

“Góp cùng kim cổ lưng bầu huyết,

Gửi với sơn hà một áng văn”.

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo - Internet)

Dương Lêh

Bà Kim Tỏa đưa tay bấm chuông. Người mở cửa không ai khác hơn là ông Khánh Tân, chồng bà:

- Sao Mama không gọi điện để anh ra bến xe đón? Vừa nói ông vừa đỡ lấy xách tay của bà đem vào phòng.

- Em thấy xe đông quá, đường sá chật cứng. Em gọi taxi về quách khỏi mắc công đứng lóng ngóng chờ papa.

- Mama mệt không? Ăn gì? Có sẵn thức ăn trong tủ.

- Bây giờ xe đò chạy bốn năm tiếng đồng hồ là tới, mệt mỏi gì.

- Vui không?

- Vui chứ. Tha hồ ngắm cảnh. Lúc này họ xây những khu nghỉ dưỡng đẹp mắt. Em đi tắm đây.

Ông Tân trở ra salon ngồi tiếp tục nghịch với cái ipad mới mua cách đây mấy ngày trong khi bà soạn quần áo để vào phòng tắm.

Saigon vừa qua khỏi cái Tết Nguyên Đán, thời tiết bắt đầu nóng lên như chuẩn bị đi vào mùa nóng của năm. Nắng cũng bắt đầu gay gắt. Màu nước trà của nắng trong những ngày cận Tết dần dần biến mất trả lại màu trắng chói chang của mùa khô hạn. Phòng khách được trang bị máy điều hòa không khí nên ông Tân thấy thoải mái như thường. Ông vào mạng chơi cờ tướng với máy. Thực ra ông chơi cờ không hay ho gì nhưng ông thích chơi với máy, tức là cái ipad của ông, vì cái phần mềm này cho ông đấu cờ với nhiều loại đấu thủ. Mỗi đấu thủ có thứ hạng cao thấp khác nhau. Ông thường chơi với đấu thủ áp chót, và có bức họa vẽ mặt đối thủ của ông như một lục lâm thảo khấu trong các truyện Tàu, râu ria xồm xoàm. Nhưng ông thích cái bản mặt của tên thảo khấu này. Mỗi khi nó thắng thì nhạc trổi lên ăn mừng một cách vui vẻ. Khi ông thắng cũng có nhạc mừng nhưng ông thấy nhạc của phe ông không vui bằng khi nó thắng ông. Hình như máy cũng biết thiên vị. Còn một lý do nữa để ông thích chơi cờ với máy là ông có thể… “chọc quê” nó nhưng nó vẫn im re, chứ nếu hai người chơi với bàn cờ thật thì dễ choảng nhau nếu có một bên chọc quê và bên kia dễ quạu. Chuyện xưa kể rằng có hai cha con đánh cờ. Ông tía bị thằng con cỡ chín mười tuổi chiếu bí hoài. Nổi sùng ông già ký đầu thằng con, nó khóc chạy ra cửa đứng lầu bầu gây lại:

- Chơi cờ thua rồi đánh người ta. Không thèm chơi nữa.

Ông già vừa sắp lại bàn cờ, vừa kêu thằng nhỏ:

- Ở đó khóc hả? mầy vô cho tao gỡ coi!...

…Chiều nay, ông Khánh Tân chơi cờ với máy cũng là để dợt tay nghề để lát nữa đây ông đến chơi cờ thật ở nhà bạn bè, cho nên khi thấy bà Kim Tỏa từ phòng tắm bước ra ông nói liền:

- Mama, lát nữa anh đi chơi cờ với bạn nghe.

- Dạ.

Bao giờ cũng vậy, ông Khánh Tân muốn đi đâu đều nói với bà với kiểu cách như vậy và bà cũng chỉ “dạ” một cách nhẹ nhàng, dịu ngọt để rồi bước vào cuộc sống cô độc trong căn nhà tuy nhỏ về kích thước nhưng với bà thấy nó rộng mênh mông.

Ông Khánh Tân đi rồi bà Kim Tỏa vô bếp làm một tô mì ăn liền Hồng Kông. Thực ra bà không đói lắm mặc dù thời gian đi xe mất bốn năm tiếng đồng hồ, nhưng bà muốn ăn để dằn bụng sợ nửa khuya đói rồi đường huyết tuột gây phiền phức cho bà. Mì ăn liền Hồng Kông này được một người bạn đi du lịch mang về tặng, bà để trong tủ ăn từ tuần trước, hôm nay đem ra dùng thử. Mùi vị khác với mì gói Việt Nam liền. Nói ra sợ người ta cho mình vọng ngoại, nhưng bà thấy cái gì của nước ngoài cũng ngon, cũng tốt hơn hàng Việt Nam “chất lượng cao”.

Ăn xong, bà vô phòng đóng cửa lại để tìm lại khoảng không gian quen thuộc nhỏ hẹp từ hơn mười năm nay.

Ông Khánh Tân có phòng riêng bên cạnh. Chiều Chủ nhật ông thường đi đánh cờ với bạn rồi anh em kéo nhau đi vào một nhà hàng nào đó ăn uống và lai rai vài chai bia. Đến hơn chín giờ ông Khánh Tân trở về nhà đi thẳng vào phòng của ông làm vài việc lặt vặt như sạc pin điện thoại, bật TV xem qua loa một trận tennis hay một vài pha bóng đá rồi lên giường ngủ. Ông không cần biết tới bà vợ ông đang ở phòng bên cạnh ngủ chưa hay làm gì đó? Màn đêm được phân chia rõ rệt cho hai người.

Nằm một mình trong phòng, bà không muốn bật đèn lên, để cho bóng tối tự do tràn ngập. Bà nhớ lại chuyến đi Đà Lạt vừa rồi mà bà đã nói với ông Khánh Tân là bà đi cùng với bà bạn chơi vũ cầu ở công viên. Thực ra bà đi một mình và nhờ ông chở ra bến xe, rồi ông quay về, yên chí bà vợ sẽ có một chuyến đi du lịch thoải mái.

Đến Đà Lạt bà gọi điện thoại cho người đàn ông đó và chỉ hai mươi phút sau hai người đã về đến một khách sạn trên một đồi thông có cái “viu” nhìn xuống hồ Than Thở. Phong cảnh ở đây rất đẹp mắt và nên thơ vô cùng. Thật ra người đàn ông đó đáp xe đò của một hãng khác và đến Đà Lạt gần cùng giờ với bà. Trong thời gian ở với anh ấy trên Đà Lạt bà thấy rất hạnh phúc. Anh ấy chứng tỏ là một người đàn ông rất lịch lãm biết cách chăm sóc vợ, có thể nói rằng anh ấy mới đúng là người chồng cho một người phụ nữ như bà để nương tựa. Nếu so sánh với ông chồng của bà, ông Khánh Tân thì thật tình mà nói anh ấy vượt trội hơn nhiều cho dù ông chồng của bà có địa vị xã hội tương đối cao hơn anh ấy. Ở bên anh ấy bà thấy có một sự an ủi vô cùng ấm áp. Anh ấy thường thấy trước được những suy nghĩ hay ý định của bà và đưa ra những dự đoán thật chính xác. Anh đưa bà về thời quá khứ với những người con gái tóc xõa ngang lưng với chiếc áo dài trắng học đường bằng những bài thơ anh đã in thành sách hay bằng những bài hát của thời xa xưa anh hát nho nhỏ riêng cho bà nghe. Anh cũng thường kể về những phim ảnh thời xa xưa mà anh ấy và bà đã có dịp xem qua trong quá khứ xa xăm. Bên cạnh anh, bà thấy như trẻ lại, bà có thể hồi tưởng đến thời còn sinh viên chơi đùa với những bạn cùng lớp, có khi đến những quán cà phê ngập tràn khói thuốc lá của đám con trai, hoặc đi dã ngoại đến các vùng đồng quê hẻo lánh.

Sau một ngày đi tour quanh quẩn thành phố Đà Lạt, hai người trở về khách sạn, bà thấy giống như đang đi hưởng tuần trăng mật mà người chồng mới cưới chính là anh ấy và hai đêm ở tại khách sạn bà tận hưởng vô vàn hạnh phúc. Bà đã đạt được khoái cảm tột cùng và nghĩ rằng sẽ không có cảm xúc nào to lớn hơn trong cuộc đời một người phụ nữ. Đây không phải là lần đầu tiên. Ở Saigon hai người cũng đã nhiều lần vô khách sạn và không lần nào bà không đạt được hạnh phúc tương tự. Nhớ lại ngày xưa bà và ông Khánh Tân yêu nhau thắm thiết gần hai năm trời trước khi làm đám cưới. Trong thời gian hẹn hò ông Khánh Tân đã bày tỏ tình cảm dồn dập, những cái hôn nồng cháy khiến bà chết lịm. Nhưng từ khi đám cưới cho đến nay bà không hề có được cảm xúc như từ khi bà đến với anh ấy sau này.

Trước kia bà nghĩ không lẽ hạnh phúc của một người phụ nữ khi có chồng chỉ có vậy? Rồi bà nghĩ cuộc đời bà chỉ đến đó mà thôi khi ông Khánh Tân mua căn nhà này và sắp xếp cho bà một phòng riêng biệt. Tuy nhiên hai người vẫn ăn chung, sinh hoạt bình thường. Ông vẫn sẵn sàng đưa bà đi đến những siêu thị sang trọng để bà tự do mua sắm. Ông chăm sóc bà rất chu đáo từ viên thuốc huyết áp cho đến ly cà phê buổi sáng ông mang đến tận nơi cho bà. Ông lấy hết những viên thuốc ra khỏi vỉ bỏ vào hộp nhựa có những ngăn riêng biệt để uống vào các buổi sáng, trưa, chiều, tối cho bảy ngày trong tuần. Ông bắt bà phải sử dụng điện thoại di động thứ xịn và thay đổi cho bà cái mới mỗi khi có một kiểu dáng, hay thương hiệu vừa được tung ra thị trường. Cái nào ông không đổi được thì ông bán rẻ cho người khác hoặc tặng cho những người quen biết đang sống khó khăn. Ông cũng mua cho bà ipad, laptop để vô mạng hoặc giao dịch email hay chat với bè bạn năm châu. Đặc biệt ông không bao giờ chịu đưa bà đi tản bộ, dạo phố hay đến những nơi cạnh bờ sông có trăng thanh gió mát để bà thưởng ngoạn như Bến Bạch Đằng, Quận 7 vv…

Buổi tối cơm nước xong, có khi hai người ngồi xem chung một chương trình thể thao hay tin tức trên TV thì nhận định của bà về một vấn đề gì đó đang chiếu trên màn ảnh luôn luôn bị ông bác bỏ. Nếu bà cãi lại thì ông mở hết volume cất giọng sang sảng để trấn áp. Mỗi khi có bạn bè đến chơi ông thường khoe có mua được mấy đĩa nhạc mới, nhạc cổ điển nước ngoài, rồi ông đọc tên nhạc sĩ đó, nhưng khi bạn bè hỏi thêm về ban nhạc đó thì ông bắt qua chuyện khác. Bà biết rõ khi rảnh rang ở nhà ông có đời nào nghe mấy bản nhạc này đâu. Ông mua về để chứng tỏ mình biết thưởng thức âm nhạc. Tóm lại, bà thấy rõ ràng buổi tối ở nhà hầu như hai người không có chuyện gì để nói với nhau. Bà luôn luôn giữ im lặng để âm thanh chát chúa của ổng không vang dội ra ngoài “làm phiền lòng hàng xóm đang cần sự yên lặng để nghỉ ngơi”. Đôi khi đang có ông ở nhà, bà sực nhớ ngày xưa khi hai người đang yêu nhau, bà và ông đi xem một phim nào đó hay quá, hoặc nghe nhạc có ca sĩ trình diễn một bài hát hay, bà muốn nhắc lại với ông những kỷ niệm êm đềm đó, may mắn thay, ông quên tất cả, quên sạch sẽ như chưa từng trải qua, nhưng ông vẫn cố nói để chứng tỏ mình còn nhớ:

- Úi chào!, con ca sĩ hát bài chi mà dở chi lạ. Nó hát bài chi đó Mama?

- Bài “Con tàu không bến” đó papa.

- Đúng rồi “Con tàu không bến” anh nhớ lắm mà!

Thực ra đó là bài hát “Con thuyền không bến” của Đặng Thế Phong. Bà biết ông không nhớ gì cả nên bịa một cái tên trật lất không ngờ ông tưởng thiệt nhảy vô bẫy của bà. Bài hát đó do một ca sĩ thượng hạng ở Saigon hát mà ông cho là dở. Hiện nay trong xã hội có rất nhiều người nhất là những người cao tuổi, nam cũng như nữ, họ sợ xã hội bỏ quên cho nên hay “nổ”, chứng tỏ mình tồn tại và cái gì cũng biết. Bà từng nghe một người bạn của ông hay nói câu “ ‘Moa’(1) cái gì ‘moa’ cũng rành”. Có ông thì hay khoe khoang ngày xưa quen ông sếp này ông sếp nọ. Đây là kiểu phô trương bản thân mình bằng cách cho người ta biết những người nổi tiếng chung quanh mình. Chưa chắc ngày xưa ông ta đã quen biết được những người này, và ông cũng không thể nào được ai tôn trọng vì từng quen biết họ. Một trường hợp nữa bà cũng phát hiện ở những người lớn tuổi, đó là hay chê bai người khác để nghĩ rằng mình ngồi ở chiếu trên, cao hơn người đó. Có một bà ngày xưa học hành không tới đâu, nửa chừng bỏ học đi làm ăn, buôn bán nơi xa, sau này trở về giàu có, nhưng những người bạn học chung ngày xưa, nay đã thành nhà giáo, kỹ sư, nhà nghiên cứu, họ vẫn tiếp tục giao du thân mật với bà này. Trong những lần họp mặt bà này thường lên mặt thầy đời, chê bai những nhà trí thức kia nào là nấu ăn dở, không biết buôn bán làm giàu, không biết giữ gìn sắc đẹp, không biết thế này, không biết thế nọ. Rõ ràng, đó là bà này muốn chê bai người khác để chứng tỏ bà giỏi giang hơn. Những người bạn kia thường im lặng để cho bà này có ngày được xã hội dạy dỗ cho. Bà Kim Tỏa cũng biết trường hợp này ở cánh đàn ông cũng có nhiều.

Nhiều năm trở lại đây bà thấy ông có vẻ lười đưa bà đi chỗ này chỗ nọ, nhưng bà cũng chẳng yêu cầu. Khi nào cần bà lấy xe đi một mình. Đến siêu thị bà thong thả đi ngắm nghía từng gian hàng một cách thoải mái như một khách nhàn du, hưởng thụ bầu không khí tự do vừa chọn lựa những loại thực phẩm cần thiết. Bà cũng thường lấy xe đi đến chỗ hẹn với anh ấy trong vài ba tiếng đồng hồ.

Buổi sáng bà Kim Tỏa cũng bỏ một khoảng thời gian để đi tản bộ tại một công viên cách nhà bà chừng vài trăm mét. Không khí mát lạnh của buổi sáng làm cho bà vô cùng sảng khoái, bà tự do hít thật sâu rồi thở từ từ ra theo cách luyện tập của những người theo trường phái yoga.

Cuộc sống bình lặng của bà đột nhiên gợn lên một làn sóng. Một buổi sáng bà đang đi bộ, đầu óc đang bềnh bồng những suy nghĩ miên man về những kỷ niệm thời xa xưa, bà bước vào một ổ gà mini làm bà loạng choạng ngã xuống. May mắn, một người đàn ông vừa đi tới xin phép đỡ bà lên và dìu bà đến ngồi ở một cái băng đá gần đó.

Người đàn ông đó chính là anh ấy bây giờ….

Dương Lêh

(1) Lối xưng hô của những người chịu ảnh hưởng Tây học.

TỪ NHÀ LAO HỎA LÒ

“KHÁCH SẠN HINTƠN HÀ NỘI”,

ĐẾN THÁP TRUNG TÂM

Chính sách nhà tù ở Đông Dương đã được hoạch định nghiêm chỉnh dưới thời toàn quyền De Lanessen. Năm 1896, vùng đất khoảng 11 nghìn mét vuông của làng An Tập và Phụ Khánh chuyên làm các loại ấm, siêu đất, hỏa lò bằng đất nung bị trưng dụng. Và từ đây mọc lên đường phố nhỏ chỉ có một nhà không có số với tên đường: phố Nhà tù (Rue de la Prison). Công trình được đấu thầu với ước tính chi phí khoảng 121.243,4 quan. Đó là một số tiền rất lớn vào thời đó.

Vào đúng ngày tết tây năm 1899, nhà lao Trung ương (Maison Centrale) mở cửa đón những vị khách đầu tiên đến tạm trú. Toàn quyền Paul Doumer đã chứng kiến hai biểu tượng của “công cuộc khai hóa” trong thời kỳ nắm quyền: Cầu sông Cái (cầu Long Biên) và Nhà lao Trung ương (nhà tù Hỏa Lò). Theo tinh thần nghị định, Hỏa Lò vừa là nhà giam vừa là nhà trừng giới. Quản lý nhà tù phải được giao cho một giám ngục trưởng hạng nhất với mức lương cao gấp đôi ở chính quốc là 6 nghìn quan một năm. Nhà tù rất kiên cố, được xây dựng với chất lượng cao. Điều 8 của bản đấu thầu quy định: gạch phải được thấm nước cho dễ bám vữa. Điều 17: kim loại, khóa bản lề, ve cửa phải nhập từ Pháp, loại hàng đầu. Còn các cánh cửa gỗ dày hàng chục phân từ những cánh rừng bạt ngàn nào phía Bắc nước ta mà bền tốt đến vậy? Mỗi nhà giam có hai sàn gỗ lim, dọc sàn có cùm sắt. Ngoài các ngục tối dưới đất còn có hai dãy xà-lim để giam tù án tử hình, 8 phòng trừng giới với các cửa sổ cao hai lớp, chấn song có lưới, toàn phòng giam sơn hắc ín. Mỗi xà-lim có hai bục xi-măng rộng 60 phân có cùm bằng gang. Ngoài ra, còn có nhà bếp, nhà tắm, phòng thuốc, phòng làm việc, nhà ở của giám thị…

Theo thiết kế ban đầu, Hỏa Lò chỉ đủ giam 460 người, nhưng vào những lúc cao nhất Hỏa Lò đã chứa tới 1.500 - 2 nghìn người. Đã 40 năm qua đi, chỉ tính riêng ở Hà Nội, vẫn còn lại gần 400 chiến sĩ cộng sản đã từng bị ở tù Hỏa Lò.

“Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Đấy là thời gian tâm lý, còn sự tồn tại của Hỏa Lò vẫn tính theo nhịp đời chung. Nó có “thâm niên nghề nghiệp” cao vào loại bậc nhất Đông Dương - có lẽ chỉ chịu đứng sau Khám lớn Sài Gòn.

Hỏa Lò là nhà tù. Hơn thế, nó là nhà tù lẫy lừng bởi những nhân vật cách mạng đã từng ngồi tù ở đây vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ là những nhà cách mạng của phong trào Đông Du (1905), phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), của vụ Hà Thành đầu độc (1908), khởi nghĩa Thái Nguyên (1917), Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội (1920-1929), khởi nghĩa Yên Bái (1930). Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Hỏa Lò tiếp tục đón nhận thêm những người con quang vinh của Đảng, mà sự có mặt của họ trong tù đã làm lừng lẫy cho Hỏa Lò có thể kể ra đầy đủ là: Nguyễn Phong Sắc, Tô Hiệu, Lương Khánh Thiện, Nguyễn Đức Cảnh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng, Trần Quốc Hoàn, Đỗ Mười, Xuân Thủy, Nguyễn Văn Trân, Khuất Duy Tiến, Trần Tử Bình… Trong thời gian chiến tranh phá hoại bằng không quân hàng trăm phi công Mỹ bị bắt giam tại nhà tù Hỏa Lò, “Khách sạn Hintơn Hà Nội” khách không mời mà đến.

Ngày 25.9.1993, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thu hồi toàn bộ 10.780 m2 đất của nhà tù Hỏa Lò để xây dựng một công trình kiến trúc nguy nga và hiện đại nhất ở Hà Nội. Sau gần 100 năm tồn tại, bắt đầu từ đêm 14 rạng 15.3.1994, Hỏa Lò được chuyển giao cho Sở Văn hóa-thông tin Hà Nội. Hỏa Lò mới được chia làm hai khu:

a). Trên diện tích 2.500 mét vuông, phía đông giáp Tòa án Tối cao, sẽ xây dựng khu di tích nhà tù Hỏa Lò thành phố Hà Nội. Khu di tích bao gồm:

- Phần giữ lại: nguyên hiện trạng cổng chính nhà tù, nhà giam ngục, một phần hệ thống tường bao (cao từ 4,2 mét đến 5,2 mét) và các tháp canh, khu nhà giam tù chính trị…

- Phần xây mới gồm phòng trưng bày các hiện vật (dụng cụ tra tấn, cùm, máy chém…), phòng làm việc, hội họp, phòng chiếu phim, phòng lưu trữ tài liệu; xây dựng tại đây một trung tâm nghiên cứu về các cuộc đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng trong nhà tù thời Pháp, sa bàn toàn cảnh Hỏa Lò và sa bàn về các cuộc vượt ngục bằng cống ngầm của các tù chính trị. Cũng có thể xây tượng đài và dựng phù điêu.

- Phần phục chế: sẽ phục chế có chọn lọc những điểm liên quan tới khu giam tù chính trị và các đồng chí lãnh đạo của Đảng.

b). Trên diện tích còn lại (7.500 m2), giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Tháp trung tâm Hà Nội. Đây là công ty liên doanh giữa Công ty xây dựng dân dụng Hà Nội và Công ty Burtin Engineering Pte. Ltd. Xing-ga-po có tổng số vốn đầu tư là 33.201.250 USD, vốn pháp định 20.281.000 USD. Phía Việt Nam góp 24% vốn bằng quyền sử dụng đất trong 45 năm.

Tháp trung tâm sẽ có hai nhà cao ốc 14 tầng và 22 tầng (tầng thứ 15 trở lên sẽ được lắp ráp bằng tháp đặc hiệu) để làm khách sạn, khu văn phòng cho thuê đạt tiêu chuẩn khách sạn 5 sao. Nơi đây tương lai sẽ là nơi lui tới của các nhà chính trị, ngoại giao, khoa học, vv… của thế giới qua các hội nghị quốc tế mà Việt Nam đăng cai tổ chức. Nó còn là nơi đặt các văn phòng làm việc hoặc nơi ăn ở của các “sứ thần” nước ngoài tại Việt Nam. Công trình kiến trúc này có tên là Tháp trung tâm.

Ngày 5.8.1994 có thể được coi là ngày chính thức lật trang sử mới của Hỏa Lò.

BÙI ĐẸP tập hợp từ nhiều tài liệu

Khu chính trị phạm

Phụ Bản II

TẢN MẠN VỀ VỌNG CỔ

& ĐỜN CA TÀI TỬ

Vào tuổi trên bảy mươi, những điều mà Phạm Hiếu Nghĩa tôi nghe nói và thấy có khi cũng còn ít người biết. Do đó, tôi thấy cần ghi lại để thức giả sau nầy rộng đường nghiên cứu.

1. Về Vọng cổ:

Vấn đề cần bàn ở đây là Vọng cổ có trước hay Đờn ca tài tử có trước. Theo tôi thì Đờn ca tài tử có trước. Không phải những nghệ sĩ thượng thặng của triều đình Huế vào Nam mở ra những lớp đờn ca rồi sau nầy nó hình thành và thành hình Đờn ca tài tử và Vọng cổ. Tôi nhớ hồi năm, sáu tuổi, mỗi lần có đám giỗ ở nhà Ông tôi thì có vài người ôm đờn tới đờn chơi. Cây đờn mà tôi không quên được đó là cây đờn cò, nghe nói có ông nọ đờn kiềm nhưng tôi không biết. Chỉ hai hay ba người đờn mà thôi. Một cây đờn mà tôi còn nhớ rõ là cây đờn có thùng tròn, không biết có mấy dây, hình như trên đầu chỉ có một hay hai cái chốt để lên dây mà thôi, không thấy ca.

Từ đó tôi suy ra rằng khi miền Nam mới thành lập, dân cư đông dần, một bộ phận người biết đờn ca ở miền Trung vô Nam. Đờn ca là ngón tiêu khiển giải buồn khi rảnh rỗi. Những đêm trăng, họ ra sân trải đệm ngồi bên bình trà, đờn và nhâm nhi nước trà. Nghe tiếng đờn, trẻ con gần đó tới ngồi nghe và cao hứng ông cụ cũng dạy đờn, dạy những nốt nhạc. Xang còng liu cóng liu… tôi không nhớ rõ. Tôi thì không thích đờn nên khi ông cụ dạy thì tôi phá đám mà đọc: “Xang còng liu cóng liu xáng vô cái đầu một cái thì tiêu…” để ông cụ om sòm mắng mỏ cho vui. Những đứa thích đờn thì học đàng hoàng, sau đó mượn đờn đờn thử rồi sau đó mua đờn mà đờn. Cái đờn ở miền Nam có lẽ bắt đầu là như vậy. Khi tiếng đờn mùi mẫn thì người ta cũng cất giọng ca cho vui. Theo tôi, đờn ca có rồi mới có Vọng cổ, sau đó mới có Đờn ca tài tử là không đúng. Vọng cổ xuất hiện năm 1915 ở Mỹ Tho (?) và Châu Đốc trước nhứt.

Năm 1915, một người đi lính cho Pháp ở Châu Đốc là ông Sáu Thành, trong một phiên gác nửa đêm, ông cảm thấy buồn nên cất tiếng ca lảnh lót. Bạn bè có người thức giấc ra nghe. Sáng hôm sau, trong tâm sự buồn của người lính xa nhà, họ ngồi trò chuyện và biểu ông Sáu Thành ca lại để cùng thưởng thức.

Đồng thời ở năm 1915 nầy, ở Mỹ Tho (?) cũng xuất hiện một tác giả thứ hai là ông Sáu Lầu, người Bạc Liêu. Có lẽ những bài ca đầu tiên nầy đều nhịp hai, đến năm 1918 tăng lên nhịp bốn. Từ đây hai phái ở Châu Đốc và Mỹ Tho cạnh tranh nhau ráo riết. Sau đó, nhịp ca tăng lên 8 năm 1925, nhịp 16 năm 1926, nhịp 32 năm 1932, nhịp 64 năm 1945. Ở Mỹ Tho thì có bài Hoài Lang xuất hiện. Các nghệ sĩ tu chỉnh cho hay hơn nên sau đó bài ca và bản nhạc đổi tên thành Dạ cổ hoài lang rồi thành Vọng cổ hoài lang. Với tựa và nội dung nầy, các nghệ sĩ thấy có vẻ cá biệt nên sửa lại sao cho có tính chất chung của cuộc sống nên họ bỏ ý hoài lang đi để tác phẩm chỉ nêu lên nỗi niềm vọng cổ mà thôi. Tác phẩm nầy trường tồn đến ngày nay và lối ca nầy được đặt tên là ca Vọng cổ.

Tác phẩm Văn, Thơ, Ca nhạc… muốn phát triển mạnh cũng cần có người đưa lên thì nó mới cao được. Môn Vọng cổ lên cao được phải nói là nhờ Út Trà Ôn. Ông là người địa phương nào? Nghe đâu ông ở Châu Đốc(1). Do là bài kể chuyện tản mạn nên tôi không nghiên cứu cho xác đáng. Phần nầy để thức giả sau nầy xác định lại. Nếu Út Trà Ôn là người Châu Đốc thì làn điệu ca của ông là làn điệu Châu Đốc kết hợp với Mỹ Tho mà thành.

Phái ông Sáu Thành ở Châu Đốc không nghe ai nhắc đến có lẽ vì không có bài ca nào độc đáo mang dấu ấn đậm trong lòng người nên nó mai một đi. Sau nầy, vì đã có tên Vọng cổ, tác phẩm vọng cổ nên ai sáng tác bài ca, hay ca với giọng, làn điệu nầy người ta cứ gọi là ca vọng cổ. Không ai còn phân biệt ranh giới Vọng cổ Mỹ Tho hay Vọng cổ Châu Đốc nữa. Ngày nay, mọi người đều cho rằng Vọng cổ là điệu hát của miền Nam mà thôi.

Tiếng đờn và lời ca của Vọng cổ có lẽ phải nói là giọng điệu đặc biệt của miền Nam. Tiếng đờn miền ngoài mang vào Nam, theo tôi, nó cũng phải cách điệu cho hợp với giọng nói, cách nói, cách thẩm âm của miền Nam. Đành rằng sau nầy, các nghệ sĩ ưu tú của cung đình Huế có vào Nam và có đem đờn ca cung đình vào truyền dạy, theo tôi thì họ dạy là để chỉnh về nghệ thuật mà thôi. Vọng cổ miền Nam là sự sáng tạo của dân miền Nam. Nó là một làn điệu độc đáo của miền Nam. Tôi đem thơ lục bát so sánh, thơ lục bát có điệu ngâm Kiều lẩy của miền ngoài nhưng thơ lục bát ở miền Nam cũng có cách ngâm độc đáo của nó là điệu Lục Vân Tiên. Nó là một nét riêng của miền Nam thôi.

Đi vào cuộc chiến khốc liệt 1945-1954, vọng cổ dậm chưn tại chỗ nhưng mở rộng tầm hoạt động là đi vào các tác phẩm cải lương và những bài ca ngợi tinh thần hiếu học, lòng hiếu thảo…

Sau năm 1954, Vọng cổ được đưa lên nhịp 128, nhưng với nhịp nầy, Vọng cổ chuyển sang một ngã rẽ mới: tính BI mất đi và chuyển sang tính HÀI. Tôi nhớ không rõ nhưng có lẽ từ đầu thập niên 1960, tính Hài của Vọng cổ được phát triển mạnh và Văn Hường là nghệ sĩ đưa dòng Vọng cổ nầy lên tầm cao. Hỏi Út Trà Ôn về Vọng cổ mà Văn Hường ca, ông nói các nghệ sĩ nào đó mà tôi quên tên có khuynh hướng chẻ và Văn Hường chỉ hát loại nầy thôi. Vọng cổ Hài nầy diễn biến mãi đến năm 1975 thì chấm dứt cho tới ngày nay dù Văn Hường còn sống (2014). Ngày nay, ta nghe Vọng cổ đậm chất Bi tức là nó trở về nhịp 64 của thời 1945. Nhưng có lẽ là Vọng cổ là mang chất Bi nên nó phải giới hạn ở nhịp 64 mà thôi chớ không cách tân được nữa.

2. Về Đờn ca tài tử

Theo tôi, Đờn ca tài tử có trước Vọng cổ. Dù gọi là Đờn ca tài tử nhưng đờn là chánh. Những người biết đờn ca ở miền Trung vô Nam, họ mang theo những bản ruột vào đờn ca cho vui. Có khi những bản nhạc và bài ca cũng đã mất. Họ đờn quen tay và nghe quen tai, chỗ nào quên thì họ tùy nghi sửa. Và tùy theo tính thẩm âm, họ cải biến cho hay. Với nỗi buồn xa quê, có khi họ chịu thêm ảnh hưởng của nhạc điệu, giọng ca của người Chăm nữa. Họ đờn mà chơi nhưng những lúc cao hứng họ cũng ca vài câu cho vui, câu ca không theo luật lệ nào cả. Điệu nhạc, lời ca nhen nhúm trong lòng người… đến năm 1915, với nỗi buồn vong quấc, lời ca phát lên là được những người lính xa nhà ca và phát huy. Lúc bấy giờ trong xã hội có hai mảng văn nghệ:

a. Một mảng được các nghệ sĩ đóng góp về nhạc điệu và cùng nhau sửa lời ca cho hay và biến thành nền vọng cổ độc đáo của miền Nam. Và từ bây giờ, các nhạc sĩ thượng thặng của cung đình Huế vào Nam mới có dịp góp phần vào để nó có bài bản đàng hoàng. Nếu nói Vọng cổ là do các nhạc sĩ thượng thặng ở cung đình Huế vào Nam xây dựng nên thì tôi cho là sai hoàn toàn vì nó tách biệt với giọng điệu ca nhạc đã có ở trong nước, trong toàn quấc. Phải khẳng định rằng Vọng cổ là làn điệu mới của Việt Nam, do nhơn dân miền Nam tạo ra.

b. Mảng thứ hai là Đờn ca tài tử, nó vẫn âm thầm đi song song với mảng Vọng cổ. Không biết chừng Đờn ca tài tử cổ sơ vẫn còn tồn tại và cũng có thể còn phát huy ở nơi xa xôi hẻo lánh. Những người đờn ca nầy chỉ thích đờn tiêu khiển cho vui thôi, khi cao hứng thì họ cất tiếng ca một cách tự do vô tội vạ, có khi âm điệu ngọt ngào cho đến khi kết thúc bài ca. Có khi nó bị lỗi nhịp, lạc giọng… nhưng họ vẫn cố ép để ca cho đến khi kết thúc được và cùng nhau cười cho vui mà cũng không cần ghi chép lại. Khi Vọng cổ phát triển mạnh thì các bài ca Vọng cổ len vào các nhóm Đờn ca tài tử nầy, họ tự chỉnh cho thích nghi để đờn ca cho vui. Có đờn, có bài ca sẵn thì Đờn ca tài tử phát huy lần.

Ngày nay Đờn ca tài tử trở thành báu vật của miền Nam nói riêng, và của Việt Nam nói chung. Từ đó tôi cho rằng các nghệ sĩ cần xét lại dàn đờn của Đờn ca tài tử, cái nào của Vọng cổ thì để riêng cho Vọng cổ còn Đờn ca tài tử thì giữ bản sắc đơn sơ mộc mạc và hồn nhiên của nó là hơn, nhưng những gì đã đem trình diễn và được UNESCO công nhận thì cứ giữ nguyên.

Mùng 5 Tết Ất Mùi (23.02.2015)

PHẠM HIẾU NGHĨA

(1) Ông sanh ở Trà Ôn - Vĩnh Long

PHỤC THÙ

Chiếc xe với bảng số Victoria ngưng lại trước văn phòng địa ốc của Tuấn. Không cần nhìn kỹ, Tuấn cũng hiểu rõ chủ nhân là người lạ tại cái thành phố nhỏ bé này.

Khi người lạ mặt vừa bước xuống xe, Tuấn nói với cô thư ký đang ngồi đọc sách một cách say mê:

- Cô Hoa, có lẽ mình có khách.

Hoa suýt giật mình, bỏ vội quyển sách vào ngăn kéo, lấy một tờ giấy đặt vào máy chữ giả vờ đánh lách cách.

Người lạ, với tờ báo cặp dưới nách, tiến tới trước cửa kiếng đứng nhìn những tấm hình quảng cáo.

Đó là một người đàn ông mập mạp trong bộ đồ lớn lợt màu, mồ hôi lấm tấm trên trán. Ông ta vào khoảng trên dưới năm mươi tuy nhiên tóc vẫn còn dầy và đen nhánh. Khuôn mặt ông ta hồng hào - có lẽ vì nóng - với đôi mắt ti hí lạnh lùng. Rồi ông ta xô cửa bước vào, liếc nhìn cô thư ký đang bận rộn đánh máy trước khi gật đầu chào Tuấn:

- Ông Tuấn?

Tuấn cười thật tươi:

- Dạ! Mời ông ngồi.

Người đàn ông ngồi xuống, giơ tờ báo lên:

- Tôi thấy có mấy căn nhà trong báo coi cũng tàm tạm.

- Dạ, chúng tôi thường đăng những căn nhà tốt với giá rẻ trên báo này với kết quả rất tốt.

Dạ thưa quý danh ông là...

- Tôi là Chiến.

Rồi Chiến móc túi lấy khăn tay ra lau mặt:

- Hôm nay trời nóng quá!

Tuấn lắc đầu chắc lưỡi:

- Dạ, hôm nay trời nóng một cách bất thường. Ở đây trời ít khi nóng lắm. Nhiệt độ trung bình chỉ vào khoảng trên dưới 20o... Dạ, mời ông hút thuốc.

- Cám ơn ông, tôi không hút. Tôi muốn coi căn nhà ông quảng cáo trong báo.

- Dạ, thưa ông ông muốn coi căn nào?

- Tôi cũng chưa quyết định... Nhưng có một căn nhà cũ ở gần ngoại ô, có lẽ khá yên tĩnh.

- Dạ thưa chắc là căn nhà màu trắng giá $420,000?

- Dạ đúng.

Tuấn lắc đầu:

- Thành thực mà nói với ông, đây là một căn nhà rất đặc biệt. Đáng lẽ chúng tôi không nhận bán nhưng chủ nhân nhất định năn nỉ và còn tự trả tiền quảng cáo nữa, thành ra....

Chiến ngắt lời:

- Căn nhà đó có gì mà ông gọi là đặc biệt.

Tuấn cười gượng:

- Dạ có lẽ tôi dùng chữ đặc biệt không được chính xác lắm. Đúng ra phải nói là căn nhà đó... mắc quá! Có lẽ ông sẽ không chấp nhận cái giá quá cao như vậy đâu!

- Tại sao?

Tuấn lục tìm trong tập hồ sơ, rút một tấm giấy ra đưa cho Chiến:

- Xin ông coi đây thì rõ.

Chiến cầm tờ giấy ghi một vài chi tiết của căn nhà: “Nhà fibro 3 phòng ngủ. Phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh riêng. Đất 12mx32m. Cách ga 5 cây số. Cách trường 8 cây. $420,000”. Bên dưới là ghi chú bằng mực đỏ “Nhà cũ, cần sửa chữa nhiều. Chỉ đáng $250,000”.

Chiến gật gù:

- À thì ra thế! Nhưng tại sao chủ nhân lại đòi cao quá như vậy?

Tuấn nhún vai:

- Có lẽ bà ta tưởng đất của bà là vàng chắc.

Chiến có vẻ ngạc nhiên:

- Chủ nhân là đàn bà? Bà ta ở với ai?

- Từ khi con bà ta chết cách đây khoảng trên ba năm, bà ta ở một mình. Chắc ông không muốn mất thì giờ đâu nhỉ? Ông muốn mua khoảng bao nhiêu, chúng tôi còn nhiều căn rất tốt và rất rẻ.

Chiến có vẻ ngần ngừ:

- Thực ta thì tôi rất thích vị trí của căn nhà này. Có lẽ mình có thể trả giá với bà chủ.

Tuấn lắc đầu:

- Bà ta đòi đúng giá, không bớt một xu.

Chiến lấy khăn lau mồ hôi:

- Hay ta cứ thử tới coi xem sao.

Rồi Chiến đứng dậy:

- Tôi đi bây giờ.

Tuấn có vẻ ngạc nhiên:

- Ông quyết định mua căn nhà đó hay sao?

- Dạ thì cứ tới thử xem sao, có mất mát gì đâu.

Tuấn thở dài, hỏi lại:

- Ông có tới đó ngay bây giờ không? Ông biết địa chỉ không?

- Dạ biết. Tấm bảng của ông cắm ngay sân trước ai mà chả thấy.

- Để tôi điện thoại cho bà chủ. Bà ta tên là Đào.

Mười lăm phút sau Chiến ngừng xe trước căn nhà cũ kỹ. Sân trước cỏ dại mọc đầy, tường nhà tróc sơn loang lổ. Rõ rệt là căn nhà không được chăm sóc từ nhiều năm qua. Chiến xuống xe, leo lên mấy bực thềm, gõ mạnh vào cánh cửa cũ kỹ. Người đàn bà ra mở cửa ốm yếu và thấp bé với mái tóc bạc phơ. Đôi mắt của bà như sáng lên khi hỏi Chiến:

- Ông là ông Chiến?

- Dạ.

- Chắc ông muốn coi nhà? Ông Tuấn vừa điện thoại cho tôi.

- Dạ.

Bà chủ nhà bước lui vài bước:

- Mời ông vào.

Vừa bước qua ngưỡng cửa, Chiến vừa lấy khăn tay lau mồ hôi:

- Nóng quá!

Bà chủ thản nhiên:

- Tôi có pha sẵn một ít nước chanh để trong tủ lạnh. Chỉ có điều là ông không nên hy vọng là tôi sẽ bớt một xu cho ông.

Trong nhà tối tăm ẩm thấp với những cánh cửa sổ cũ kỹ đóng kín. Đồ đạc trong nhà có lẽ cũng cùng tuổi với chủ nhân. Bà chủ lặng lẽ bước tới ngồi lên cái ghế bành cũ, nét mặt hoàn toàn không cảm xúc.

Chiến nhìn quanh trước khi lên tiếng:

- Tôi vừa nói chuyện với ông Tuấn...

Bà chủ ngắt lời:

- Tôi biết! Chắc ông ta lại nói là căn nhà này không đáng giá $420,000 phải không? Nếu ông không đồng ý, xin ông cứ tự nhiên ra khỏi nhà. Tôi không bớt một xu.

Chiến hắng giọng:

- Dạ, tôi không biết là tôi có nên trả giá hay không. Tuy nhiên mình có thể thảo luận một chút.

Chủ nhân ngửa mình vào lưng ghế:

- Ông muốn thảo luận điều gì xin cứ tự nhiên, nhưng đừng trả giá.

Chiến lại lau mồ hôi ướt đẫm trên mặt:

- Dạ... Tôi là dân buôn bán, còn độc thân. Tôi dành dụm được chút đỉnh và rất thích thành phố này sau khi có dịp đi ngang hồi mấy năm về trước nên tôi có ý định sẽ hồi hưu ở đây. Hôm nay nhân chạy ngang đây, tôi ghé vào văn phòng ông Tuấn hỏi xem ông có căn nhà nào vừa túi tiền hay không và ông ta gởi tôi tới đây. Không hiểu tại sao tôi cảm thấy thích căn nhà này ngay khi vừa bước vào cửa. Bởi thế tôi đề nghị bà nên bán với giá phải chăng.

- Giá phải chăng! Hừ, tôi đã nói ngay từ đầu là không có vấn đề trả giá rồi mà! Nếu ông không trả nổi giá tôi đòi, ông có thể tìm mua nơi khác.

Rồi chủ nhân đứng dậy lạnh lùng:

- Chào ông.

Chiến lúng túng:

- Thưa bà...

Chủ nhân vẫn lạnh lùng:

- Tôi xin nhắc lại là không có vấn đề trả giá. Tôi đã dặn đi dặn lại ông Tuấn hàng trăm lần rồi.

Chiến có vẻ bối rối:

- Thực ra thì... tôi không biết phải nói sao, nhưng... tôi đồng ý trả giá bà muốn.

Chủ nhân nhìn sững Chiến:

- Ông có chắc không?

- Chắc chắn! Tôi có đủ tiền. Nếu bà nhất định muốn bán với giá đó, tôi trả giá đó.

Khuôn mặt chủ nhân như dịu lại, nhưng đôi mắt bà như sáng lên:

- Có lẽ nước chanh đã đủ lạnh rồi. Để tôi lấy mời ông uống một chút cho đỡ khát.

Chiến đang lau mồ hôi khi chủ nhân trở lại với ly nước chanh mát lạnh. Chiến đỡ lấy uống một hơi gần nửa ly.

Chủ nhân lại ngồi xuống cái ghế bành. Lần này bà nói với vẻ trầm ngâm:

- Căn nhà này của gia đình tôi từ hơn một trăm năm nay. Tất cả những người trong nhà, ngoại trừ Long con trai tôi, đều ra đời trong căn phòng nhỏ kế bên nhà bếp. Chỉ có tôi là nhất định sanh Long tại nhà bảo sanh.

Bà chớp chớp đôi mắt, lúc này không còn trong sáng nữa:

- Tôi biết căn nhà này rất cũ. Ông Tuấn nói rằng căn nhà này còn bị mọt ăn nữa. Nhưng tôi vẫn thương căn nhà này. Chắc ông cũng hiểu?

- Dạ!

- Ba của Long mất khi nó mới lên chín. Long bỏ thành phố này lên ở Sydney trái ý muốn của tôi! Nhưng nó cũng giống như các thanh niên thời nay, đầy tham vọng nhưng không biết hướng đi.

Tôi không biết nó làm gì ở Sydney. Nhưng có lẽ nó thành công vì nó gởi tiền cho tôi đều đặn.

Bà đưa tay lên lau mắt:

- Tôi không gặp con tôi trong chín năm trời. Tôi buồn khổ lắm! Nhưng khi nó trở về, tôi còn buồn hơn... Nó về nhà vào lúc nửa đêm, mặt mày hốc hác, già hơn đến năm mười tuổi! Nó về nhà với một cái valise nhỏ màu đen. Khi tôi tính đỡ cho nó, nó hất mạnh khiến tôi suýt té. Tôi đưa nó vào giường như khi nó còn nhỏ, và tôi nghe nó rên rỉ suốt đêm. Sáng hôm sau nó nói rằng nó phải ra khỏi nhà trong vài tiếng đồng hồ để làm một cái gì rất quan trọng. Nó không cắt nghĩa gì thêm, chỉ xách chiếc valise đi. Chiều hôm đó nó trở về tay không, không có cái valise đen.

Đôi mắt Chiến như mở rộng:

- Thế nghĩa là gì?

- Tôi không biết. Nhưng tôi được người ta cho biết... Đêm hôm đó có người vào nhà tôi. Tôi không biết làm sao ông ta vào được. Tôi chỉ biết khi nghe tiếng ồn ào trong phòng con tôi. Tôi lắng nghe xem con tôi bị lôi thôi vì việc gì, nhưng chỉ nghe tiếng la hét và đe dọa... Rồi...

Bà già ngưng lại, đôi vai bà như xệ xuống:

- ...súng nổ. Khi tôi chạy sang, cửa sổ phòng con tôi mở toang, người lạ đã biến mất, và con tôi... thằng Long của tôi nằm dưới đất... Chết rồi!

Bà lắc đầu:

- Chuyện đó cách đây hơn ba năm rồi. Cảnh sát cho tôi hay rằng con tôi và người lạ mặt dính líu tới một vụ cướp... lên tới bạc triệu. Thằng Long ôm trọn số tiền toan chiếm lấy một mình. Nó giấu trong căn nhà này, mà cho tới bây giờ tôi vẫn không biết ở đâu. Người lạ mặt tới tìm nó đòi phần chia. Khi nó từ chối, ông ta bắn chết nó... thằng Long, con tôi...

Rồi chủ nhà ngước lên, nói thật chậm rãi:

- Đó là lý do tại sao tôi đăng bảng bán nhà đắt gần gấp đôi thực giá, vì tôi biết một ngày nào đó kẻ giết con tôi sẽ trở lại. Một ngày nào đó ông ta sẽ mua căn nhà mục nát này với bất cứ giá nào.

Bà ngưng lại một chút rồi nói bằng một giọng vô cùng thanh thản:

- Tôi chỉ cần kiên nhẫn đợi chờ với một ly nước chanh có pha thuốc độc...

Rồi bà tựa ngửa vào ghế nhìn Chiến với ánh mắt chợt như bừng sáng. Chiến run rẩy đặt cái ly không còn một giọt xuống bàn. Hắn không nghe rõ những lời nói cuối cùng của chủ nhân vì đôi mắt hắn đã trợn trừng, đầu hắn bật ngửa, tuy hắn vẫn cố lẩm bẩm:

- Nước... chanh... của bà... đắng quá!

Hoàng Kim Thư st

GIẢ SỬ

Giả sử như…

Xưa, trong bữa tiệc ly

Chúa chiên lành không hóa thân vào bánh miến

Mà lại chọn (ví dụ) đùi gà quay

                 hay miếng sườn cốt-lết

Thì hôm nay…

Dự lễ nhà thờ, tôi chỉ giành ngồi ghế đầu tiên

Để rước lễ rồi cứ quay xuống lại vòng lên…

Cha sở rất ngạc nhiên:

Mình Thánh sao buổi nào cũng thiếu?

***

Giả sử như…

Tôi là chị em cô Mát-ta

Khi Chúa cứu La-gia-rô sống dậy

Cơ hội tuyệt vời, dại gì tôi không chộp lấy?

Ai muốn vào thăm? Hãy mua vé đi nào!

Mỗi lần Chúa ghé nhà giảng dạy bao điều

Vị nào muốn nghe? Mời trả tiền vào cửa!

(Giá mềm thôi, không chợ đen chợ đỏ)…

Riêng khăn liệm La-gia-rô (linh thiêng lắm!)

                          lúc từ mộ đi ra

Để ai ai cũng giữ được chút hương hoa

Tôi xé nhỏ, quăng lên “face” mời gần xa đấu giá…

***

Giả sử như…

Tôi là chủ nhân tiệc cưới Ca-na

Đâu cần chi đến 6 chum rượu cưới?

Tôi chỉ xin Chúa một bình - một bình nhỏ thôi

Nhưng rót rồi, rượu lại đầy y như chưa rót

(Như nồi cơm Thạch Sanh

               vạn quân ăn hoài không hết!)

Chiến hữu đến nhà la liệt như lá mùa thu

“Tình thương mến thương”

                      từ sáng sớm tới trăng lu

Rượu không tốn tiền mua,

              vợ thôi không gầm gừ, hấm hứ…

***

Giả sử như…

Giả sử như…

Giả sử…

Nhưng như thế thì Chúa đâu phải là Chúa nữa

Còn tôi thì mãi mãi vẫn là tôi:

Của tối tăm và hủy diệt đời đời!

GIÁNG NGỌC (GĐ)

ĐỨC GIÊSU

Vượt tất cả không gian lẫn thời gian

Tiếng đã vang lên ơn rỗi nước Trời

Đức Giêsu bừng lên như ánh sáng

Như dòng sông êm dịu giữa hoang mang

*

Anh có sẵn sàng là tay leo núi

Ngắm hoa tươi nơi vách đá cheo leo ?

Em có nghe tiếng ầm ầm cây đổ

Vang dội lên để rồi lặng yên !

*

Khắp núi đồi muôn búp đọt mọc vương

Đã ngăn cản bao mưu cuồng gió loạn !

Đâu có phải nhà thơ hay tu viện

Mới có sự hiện diện Đức Kitô

*

Đâu có phải truyền thông hay khoa học

Giảng Giêsu là đã có Giêsu

Đức Giêsu là yêu thương thực tế

Không hận thù, không khởi xướng đấu tranh !

*

Đức Giêsu mênh mông như biển cả

Như bầu trời, như tất cả trăng sao

Đức Giêsu đầy tràn như không khí

Ai cũng cần để được sống chứa chan !

*

Hãy hít thở tự do nơi phòng kín

Nơi giảng đường, nơi phố chợ ngược xuôi

Mặc tất cả những vinh hoa phú quý

Của dòng đời, của thay đổi đảo điên !

*

Con cứ mến, cứ yêu trong thầm lặng

Con cứ tin, cứ hy vọng thương yêu

Chúa đã sống cuộc đời con đang sống

Chúa ngụ hồn xin Chúa sống thay con !...

Bs.Doanlinh

CON TÀU

Ta là chuyến tàu ngun ngút khói

Đón bao người từ viễn xứ hồi hương

Tiễn chân ai những bịn rịn lên đường

Đưa tay đỡ đôi tay mừng run rẩy.

*

Nghĩa là ta sống chân tình biết mấy

Nghĩa là ta buồn theo nước mắt tiễn đưa

Nghĩa là ta cười cùng, thí dụ, người xưa

Một hôm đẹp trời về thăm quê cũ

*

Có khi ta còn âu lo, vò võ…

Cả đêm trường cùng ai có vấn vương

Chờ đợi hung tin nát ngấu tâm hồn

Nghĩa là ta khóc như ta phải khóc !

*

Thử nghĩ đi, khi mặt trời thức giấc

Thì lòng ta đã đón đợi lâu rồi

Những người đến, kẻ đi, những bồi hồi

Ta đem tất cả mời vào từng ghế.

*

Rồi chân ta, âm thầm mà ngạo nghễ

Đưa từng người đến tận chốn ước ao

Ta xoa tay tận hưởng chút ngọt ngào

Lòng nhẹ nhõm khi từng người tản mác.

*

Cứ thế, cứ thế…, tình ta nào nhạt ?

Cứ thế, cứ thế…, chân ta nào lơi ?

Cứ thế, cứ thế…, ta vui thật rồi !

Cứ thế, cứ thế…, ngày qua tháng lại !

*

Nhưng thật ra có những đêm quằn quại

Ta một mình giữa sân cỏ mênh mông

Gọi chẳng ai nghe, khóc chẳng ai buồn

Ta chợt hiểu thế nào là cô quạnh !

*

Rồi ta mơ, thấy tàu ta chuyển bánh

Lại đón đưa, lại vui sướng, muộn phiền

Ngồi xen kẽ trên hàng ghế phong sương

Ta chợt hiểu, đời ta nơi khách lạ :

*

Dù kẻ phong lưu, dù người vội vã

Dù đấng nam nhi, dù bậc nữ lưu

Ai trong lòng ta, một sáng, một chiều

Hay xuống vội ? Thì ta cũng từng là bầu bạn…

LAM TRẦN 13.03.2015

CÂU THƠ GỬI BẠN

Ai cũng biết thơ không là cơm gạo
Càng lạ xa với đố kỵ bon chen
Thơ không khoác những sắc màu lộng lẫy
Trên bờ vai những kẻ tị hiềm

Thơ là tôi
Trăn trở với nỗi niềm
Yêu và tiếc
Con người và cuộc sống
Những câu thơ cháy lên từng khát vọng
Của một tấm lòng tha thiết những tơ vương

Yêu làm sao những gốc rạ quê hương
Con sông nhỏ với giọng hò thôn nữ
Tháng năm ơi !
Cuộc hành thân lữ thứ
Đẫm mồ hôi mặn hạt cát xứ người

Vẫn long lanh những ánh mắt cười
Câu thơ vụng thêm vòng tay bè bạn
Cõi nhân sinh dẫu có là cõi tạm
Vẫn vun đầy tay ấp lấy lòng tay

Để mắt đời chao chát lẫn mê say
Trong ánh nến trong hương trầm thanh thoát
Những câu thơ quyện ánh vàng man mác
Gửi đến bạn hiền bao khao khát lòng tôi

ĐÀM LAN

Phụ Nữ ngày 08/03

Chị em duyên dáng thật là xinh tươi

Giỏi giang nội trợ tuyệt vời

Trăm hoa đua nở một trời ngát hương

Nuôi con với cả niềm thương

Chiều chồng với cả nhịn nhường thủy chung

Đường đời sự nghiệp ung dung

Làm nên lịch sử sánh cùng nam nhân

Xuân qua, Xuân đến bao lần

Mà người Phụ Nữ luôn phần vinh hoa...

Thanh Châu

MỘT CUNG ĐƯỜNG

Đường Đạo như đường Đời

Ăn ở hợp lẽ Trời

Làm lành tạo duyên phước

Tâm ý đẹp như lời

*

Hôm nay ta gặp nhau

Là hữu duyên thuở nào

Bạn bè thêm gắn bó

Nụ cười luôn đổi trao

*

Nhiều kỷ niệm dễ thương

Một trời đẹp vấn vương

Tâm sự lời mật ngọt

Hoa nở rộ bước đường

Thanh Châu

LỜI NGƯỜI XA XỨ

Hà Nội ơi ta yêu

Đường Cổ Ngư trầm lặng

Áo lụa trắng em về

Chiều thu vàng nhạt nắng

*

Hà Nội ơi ta thương

Mắt em vời vợi buồn

Ngõ phố nằm im vắng

Hoa sữa vương mùi hương

*

Ai chờ ai cuối phố

Nghe thoảng tiếng dương cầm

Cho ta mơ áo lụa

Dệt mộng tình trăm năm

*

Quán cà phê tĩnh lặng

Tranh nét bụi thời gian

Đây ta thời tuổi nhỏ

Mơ dáng ai hoàng lan

*

Hà Nội ơi ta tiếc

Hàng cây nào bao dung

Chờ nhau chiều hạ biếc

Che dáng em phù dung

*

Đời ta thân lưu xứ

Mơ một buổi quay về

Tìm em trên lối cũ

Vàng lá bay chiều thu

*

Chiều nay trên phố cũ

Đớn đau cây giã từ

Ta nghìn dòng lệ ứa

Tiễn nhau vào thiên thu

*

Chiều nay trên lối cũ

Ai đi tìm ngày xưa

Hoang tàn rồi kỷ niệm

Lệ sầu ta như mưa

Lệ Hoa Trần Cali.

SEN HỒNG

Ơ kìa một búp Sen hồng

Cánh xinh rạng rỡ hương nồng dưới trăng

Mơ màng tắm ánh nguyệt hằng

Em là ước mộng hoang đàng tình tôi

Tháng Giêng bát ngát chơi vơi

Có ai hò hẹn rối bời giấc mơ

Hồn tôi quá đỗi ngu ngơ

Bàng hoàng viết vội vần thơ dại khờ...

Sen ơi sao nỡ hững hờ

Tình tôi cánh bướm lạc bờ trăng sao!

Sen hồng em, đoá thanh cao

Ru tình mộng ảo lao đao đá buồn...

Tình tôi bát ngát mưa nguồn

Mơ hồ ngọt lịm ngõ hồn giăng tơ...

Xuân về một cõi trời thơ

Tình Sen ấp ủ... bơ vơ mỏi mòn...

Phạm Thị Minh-Hưng.

TÌNH TA ĐẸP TỰA VẦN THƠ

Vui tươi nhắn gởi mấy vần thơ
Bạn mến bao lâu mãi đợi chờ
Gấm lụa mây bay xinh cõi mộng
Tình ta diễm tuyệt đẹp như mơ
Yêu thương dấu ái đâu là bến
Thắm thiết duyên tơ chẳng tưởng bờ
Mến gởi tình hân hoan, hoa nở
Tình ơi ! Mãi đẹp tựa vần thơ !

Phạm Thị Minh-Hưng

THIÊN NHIÊN

CUỒNG NỘ

Rừng sẽ hết thiên nhiên tràn phẫn nộ

Cây xác xơ thưa thớt quạnh hiu buồn

Không còn chi che chắn nước trên nguồn

Ào ạt đổ gây nên cơn lũ lụt

Nước trắng xóa khắp thôn làng heo hút

Nhà tan hoang – người chết ngập tai ương

Thiếu thuốc men – lương thực cảnh sầu thương

Phải ly tán, dạt trôi – chìm mất tích

Đời đen tối đường tương lai mù mịt

Cơn ốm đau dịch bệnh lại hoành hành

Mất mát nhiều hy vọng quá mong manh

Nỗi khốn khó đói nghèo đau xót quá

Rừng oán trách kẻ thẳng tay tàn phá

Hủy diệt rừng – giết thú – ngút sầu bi

Vì lòng tham không đáy mất lương tri

Gieo hoạn họa – thiên tai đầy nước mắt

Hoa tàn úa không gian sầu héo hắt

Miền sơn lâm ủ rũ trước phong ba

Mất trắng mùa màng khi lũ quét qua

Rừng sẽ hết – thiên nhiên tràn phẫn nộ.

NGÀN PHƯƠNG

TỦI HỜN

Tin nhạn thưa dần – chết ý thơ

Nửa khuya thức giấc – ngỡ còn mơ

Quanh nhà gió lộng – buồn hiu hắt

Trước ngõ mưa tràn – nhớ ngẩn ngơ

Mạch sống êm trôi – rơi lá thắm

Dòng đời lặng chảy – dứt đường tơ

Mộng đoàn viên tắt trong sương khói

Thuyền lạc chiều hoang chẳng bến bờ

NGÀN PHƯƠNG

ẢO VỌNG

Đời chỉ toàn mơ mộng hão huyền

Thầm mong một bến đỗ bình yên

Tình trôi muôn hướng về vô định

Bão nổi ngàn phương lỗi ước nguyền

Vòng tục lụy – u hoài – nghiệt ngã

Cõi nhân gian – lận đận – truân chuyên

Đoàn viên – ảo vọng đầy hoang tưởng

Kiếp sống đơn côi chẳng vẹn tuyền

NGÀN PHƯƠNG

EM BIẾT RỒI ĐÂY

CÓ MỘT NGÀY

Em biết rồi đây có một ngày

Ngoài hiên hoa nắng vắng chân anh

Sỏi đá xôn xao đành im lắng

Giàn hoa thiên lý đắng cơm canh

Em biết rồi đây có một ngày

Hiên nhà thôi loáng thoáng phong linh

Hắt hiu ngọn gió hình hư ảo

Vẳng tiếng ai vừa bảo xót xa

Em biết rồi đây có một ngày

Căn phòng lạnh lẽo đẫm cô liêu

Gối chăn đơn lẻ thêu dư vị

Của giấc yêu đương mộng mị đầy

Em biết rồi đây có một ngày

Đi giữa đường đời bước đắng cay

Một mình một bóng lay lắt ngỡ

Một nửa vui buồn lỡ vuột tay.

KIM SƠN

BỊNH TƯƠNG TƯ

Tương tư là cái nỗi gì

Mà sao nó cứ sầu bi tấm lòng

Sớm ngày ăn uống không xong

Lại thêm bịnh hoạn khó mong hết liền

May ra mà có bạn hiền

Nếu không phải chịu liên miên bịnh tình

Bạn khuyên cố gắng giữ mình

Đừng lo đừng nghĩ thì yên cảnh nhà

Ráng mà dạy dỗ con ta

Đừng ham nhậu nhẹt sớm ra nhị tỳ

Ngày sau gương đó làm ni

Các con bắt chước phước ghi đời đời

Khi xưa vợ đã ra khơi

Chim kêu vượn hót vẫn nơi suối vàng

Khuyên ta hãy rán bình na

Liệu mình liệu sức trời ban tuổi già.

LANG NGUYÊN

HAI CHỮ NHẪN KIÊN

Trau dồi hai chữ nhẫn kiên

Nhẫn thì rộng bước kiên thì an thân

Ai không có chí giận hờn

Giận người chẳng tốt hờn người chẳng hay

Giỏi chi trợn mắt ra tay

Làm tuồng hung bạo như là kẻ điên

Thấy xa người đã tránh liền

Để cho kẻ dữ đứng riêng một mình.

LANG NGUYÊN

TÌNH MẸ

Thương mẹ con muốn ở nhà

Vì con mẹ muốn con ra nước ngoài

Mong con rèn luyện thành tài

Mai này đất nước tương lai đang chờ

*

Lấy gì kỷ niệm bây giờ

Nghĩ ngày xa cách như tơ rối lòng

Ra chợ mua cuộn len hồng

Đan thành tấm áo ấm nồng tình quê

*

Biết bao giờ mới trở về

Lòng mẹ đau thắt tái tê thế này

Mẹ già hiu hắt gió lay

Lệ rơi từng giọt tính ngày mẹ mong.

LÊ MINH CHỬ

Ở TRỌ

Cho tôi ở trọ thế gian

Nghêu ngao lưng túi gió đàn câu thơ

Ôm cầm nhấn phím buông tơ

Tiếng khoan tiếng nhặt ngẩn ngơ lòng người

Bây giờ được trọ nhân gian

Cho tôi phổ một khúc đàn ly ca

Tiếng huyền văng vẳng ngân nga

Tiếng trong tiếng đục lúc xa lúc gần

Nửa đời tạm trọ thế gian

Bén giây từ thuở phối đàn tri âm

Mối tình ôm mối tình câm

Tơ vương mang nặng tiếng cầm thương ai ?

Phong trần xin trọ nhân gian

Nhạc từ ghi lại mấy hàng vào thơ

“Anh câu” hồn bướm ngẩn ngơ

Nhện còn giăng mối đón chờ lãng nhân

May còn tạm trọ thế gian

Phổ thơ vào nhạc bản đàn ly tao

Sóng lòng vỗ trái tim đau

Sóng tình theo gió chôn vào khoảng không !!!

TRẦN VĂN HỮU

----------

Ghi chú:

Anh Câu (tức Câu Anh)

Vua Tống Thái Tổ ví đời người thấm thoát rất mau

Như con ngựa câu trắng qua cửa sổ (nhân sanh nhất tế)

“Như bạch câu qua cửa sổ”

Kể chuyện

ÁO QUEN XƯA

Bởi xưa anh vốn chậm lời

Mà sông vẫn một dòng xuôi lặng lờ.

Lòng còn ấp úng câu thơ

Bỗng dưng sét đánh không chờ bưng tai

“Ba đồng một mớ trầu cay...”

Người ta chạm ngõ xin ngày đón em

Phố phường nhộn nhịp hẳn lên

Áo dài

khăn xếp

trầu têm

ruợu mời

Thét to chẳng vỡ cõi đời

Nhân gian lạ lẫm nói cười dửng dưng

Một cây làm chẳng nên rừng

Một anh làm trọn người dưng với tình.

Chẳng giang hồ bỗng lênh đênh

Em đang gần gũi bỗng thành cố nhân

Nhìn nhau lúng túng ngại ngần

Thì thôi anh tự làm thân lưu đày

Ôm lòng giong ruổi đông tây

Mười năm – chưa tỉnh cơn say chưa về

Nẻo đời nghĩ trớ trêu ghê

Loanh quanh đất hẹp người quê cụng đầu

Quê người chạm dấu chân nhau

Giữa nơi phố khách bay màu áo xưa

Chiêm bao sương khói còn ngờ

Hay đâu dáng lụa đến giờ vẫn xanh.

Vô tình em bước qua nhanh

Chỉ riêng vạt áo quen anh

ngoái nhìn.

THIẾU KHANH (Nghìn Xưa Để Lại)

BÀI CA CON ĐƯỜNG ĐI LÊN

Tangadiiin Galsan

(Nhà thơ nhân dân Mông Cổ)

Xin đừng trách tôi hỡi những ngọn đồi

Trên bình nguyên Gobi nằm lúp xúp

Thuở ấu thơ gót son chập chững bước

Tôi tưởng nhầm là núi cả quê tôi.

*

Xin đừng trách tôi ngọn núi dáng trùy

Vươn cao giữa đồi thảo nguyên rải rác,

Vì tôi tưởng nhầm là đỉnh non cao nhất

Khi còn chưa lên Otgon Thenger(1)

*

Xin đừng trách tôi Otgon Thenger

Núi thần, đá thiêng chồng chồng thang dốc,

Tôi đã nhầm là trụ trời lẫm liệt

Khi còn chửa lên đỉnh Al-thai(2)

*

Xin đừng trách tôi chót vót Al-thai

Cùng lịch sử trường tồn cùng tuyết bạc

Vì tôi đã nhầm núi cao nào sánh được,

Khi còn chưa qua Hymalaya.

*

Cứ trách tôi, những ngọn đồi quê tôi

Trên bình nguyên Gobi nằm rải rác

Nhìn từ trời cao mênh mang bát ngát

Cao nhất vẫn là những ngọn đồi quê tôi.

S. Đesheven-Viên và Thúy Toàn dịch

(1)Núi cao 4031m so với mặt biển, là núi thờ cúng dân tộc Mông Cổ

(2) Althai là núi cao 4653m so với mặt biển, là dãy núi chạy dài từ Nga qua Mông Cổ, Nội Mông Trung Quốc.

TRÁI TIM

BIẾT NÓI

Em không biết làm thơ

Nhưng trái tim em biết nói

Như bông hoa mang hương đồng nội

Như giọt nắng hồng long lanh

Hoa chỉ trao lời im lặng

Giọt sương có nói gì đâu

Làn hương ngát đùa trong nắng

Đủ thành yến tiệc cho nhau

Em không biết làm thơ

Nhưng trái tim em là nguồn thơ dào dạt

*

Ngân vang suối hát dâng đầy

Hãy cuốn đi, cuốn trôi đi bụi cát

Chỉ còn đây sóng nhạc hồn say

Chép lại – tháng Giêng Nhâm Thìn

LÊ NGUYÊN

NƠI VIẾT

TÊN ANH

Em không viết tên anh lên tờ giấy trắng

Sợ thời gian làm nét mực phai mờ

Em không viết tên anh lên bức tường cao

Sợ tường sập tên anh thành cát bụi

Em không viết tên anh lên đỉnh núi

Núi dù cao mưa gió sẽ bào mòn

Em không viết tên anh vào lá xanh non

Lá úa vàng tên anh nhòa mất

Em nghĩ hoài cố tìm nơi giữ cất

Rồi viết tên anh vào trái tim em !

11.3.2015

LÊ NGUYÊN

CẢ NHÀ SƠN CA

Mẹ là chim Sơn ca

Bố cũng là Sơn ca

Các con đang tập hát

Để cũng là Sơn ca

Chúc các con ở xa

Sớm luyện thành Sơn ca

Thổi hồng thêm ánh lửa

Cho cuộc đời nở hoa

Hãy luôn xây niềm vui

Để sống khỏe trong đời

Hãy dựng nên hạnh phúc

Ta sáng trong ý trời

PHÙNG CHÍ TÂM

ANH VỀ ĐÚNG GIỜ

Anh về đúng giờ, em mừng vô hạn

Như cây đâm chồi, nhú lộc nở hoa

Anh về đúng giờ, như tiếng hát tình ca

Như thức dậy trong em bài hát:

“Chàng trai khó tính”(*)

Anh về đúng giờ, em vui như Tết

Có anh giúp việc ở nhà

Con tim em rộn rã ngân nga

Anh về đúng giờ, mái nhà thêm ấm

Tiếng cười, tiếng hát thiết tha

Anh về đúng giờ, cây hoa tươi mát

Anh về đúng giờ, cây cũng reo ca

Anh về đúng giờ, cả nhà ấm áp

Chung quanh họ nhìn, thèm muốn tình ta

Anh về đúng giờ, cả nhà thêm khỏe

Các con vui – Em trẻ mãi ra

PHÙNG CHÍ TÂM

-----

(*) Một bài hát vui của Nga

BỮA ĐÓ

Bữa đó rừng xanh vừa rửa mặt

Trời mới tinh hớn hở ở trên cao

Tha cọng cỏ con chim về xếp đặt

Chỗ ăn nằm trong cành lá chi ê m bao

*

Trời bữa đó bữa nay ta vẫn nhớ

Như con nai nằm mộng nhớ thu xa

Vì bữa đó lòng ta vàng lót ngõ

Gấm trải đàng nghênh đón bước em qua

*

Ta cuống quít nhắm nghiền hai con mắt

Say trên môi mà run rẩy ở trong lòng

Ta ứa lệ nói miên man ngây ngất

Em ở nơi này vĩnh viễn nghe không?

*

Mở con mắt – Đất trời còn ở đó

Người với người hoa và lá quen thân

Ngày tươi rói giữa cuộc đời niềm nở

Ngõ nhà ai ta cũng muốn vào thăm

*

Từ bữa đó đời đã thay niên lịch

Ta bắt đầu tính một tuổi xuân xanh

Em chưa phấn son

           nghiêng lòng nguyệt bạch

Nghe lòng ta âu yếm gọi Kim Anh !

Thiếu Khanh

(Ngân Khánh Tình Ta)

DẶN CON

Chẳng ai muốn làm hành khất

Tội trời đày ở nhân gian

Con không được cười giễu họ

Dù họ hôi hám úa tàn

*

Nhà mình sát đường, họ đến

Có cho thì có là bao

Con không bao giờ được hỏi

Quê hương họ ở nơi nào

*

Con chó nhà mình rất hư

Cứ thấy ăn mày là cắn

Con phải răn dạy nó đi

Nếu không thì con đem bán

*

Mình tạm goi là no ấm

Ai biết cơ trời xoay vần

Lòng tốt gửi vào thiên hạ

Biết đâu nuôi bố sau này…

Cửa Lục Thủy 13.11.1991

TRẦN NHUẬN MINH

RECOMMENDATION

TO ONE’S CHILD

*

No one wants to be a beggar

A kind of God’s persecution in this world

You mustn’t laugh at them

Although they’re ill-smelling and crumbling

*

Our house is close to the road so they came

Were we to give something, it was not much

You should never ask them

Where is their homeland

*

Our dog is very naughty

As soon as he sees a beggar he bites

You should admonish him

If not go ahead to sell him

*

We can be called well fed and warmly clad

Who knows how the celestial artfulness revolves

Kind-heartedness entrusted to people

Might later on permit you to feed me…

Lục Thủy Gate 13.11.1991

TRẦN NHUẬN MINH

Translated by VŨ ANH TUẤN

Phụ Bản III

NGUỒN GỐC

TỪ OK TRONG TIẾNG ANH

Có vô vàn suy đoán về nguồn gốc của từ OK – cái từ mà người Mỹ dùng nhiều đến nỗi nó trở thành thương hiệu của riêng họ.

Allan Metcalf đã viết một quyển sách về từ OK. Ông nói OK không chỉ là một từ vĩ đại, nó còn là một từ quan trọng, một sản phẩm thành công nhất mà người Mỹ đã xuất khẩu đi khắp thế giới. Nó bao gồm cả triết lý sống và cách suy nghĩ của người Mỹ.

Từ OK ngắn gọn, đơn giản nhưng lại chứa nhiều ý nghĩa, đúng như cách trò chuyện của người Mỹ. Khi người ta nói “I’m OK”, nó có thể là một câu không biểu cảm hay cũng có thể là “Tôi thật sự ổn đấy”, đôi khi nó còn hàm ý: “Tôi không ổn chút nào đâu”.

Từ OK còn phản ánh cả triết lý “chuyện gì cũng có thể” của người Mỹ. Nếu chuyện gì đó được cho là OK, tức là nó sẽ ổn, cho dù nó không hoàn hảo, nhưng có thể chấp nhận được. Đó là cách mà đa số người Mỹ nhìn vào vấn đề.

Có nhiều giai thoại về sự ra đời của từ OK được người ta nhắc đến. Một trong những câu chuyện đó liên quan đến Boston. Người ta bắt gặp từ ngữ này lần đầu tiên trên tờ báo Boston Morning Post vào ngày 23 tháng 3 năm 1839, dưới hình thức một trò đùa. OK được giải thích là chữ viết tắt của “All Correct”.

Tuy nhiên, tại sao lại là OK mà không phải là AC? Cách giải thích duy nhất của người Mỹ: “orl korrekt”. Ngay từ đầu, những gì gọi là chính xác cũng chưa hẳn là chính xác, mà chỉ là OK!

Một năm sau, từ “OK” bắt đầu được Đảng Dân chủ dùng làm khẩu hiệu trong suốt thời gian bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1840. Ứng cử viên của họ, Martin Van Buren, xuất thân từ Kinderhood của New York, nên có biệt danh là “Old Kinderhood”. Những người ủng hộ ông vì thế đã thành lập câu lạc bộ tên là “OK Club”. Điều này chắc chắn đã giúp quảng bá thuật ngữ OK!

Tổng thống Andrew Jackson được cho là có thói quen phê từ “OK” vào các văn thư trình lên ông để tỏ ý chấp thuận. Mặc dù chỉ là tin đồn, điều này cũng đã tạo ra một phong trào trong các nhà lãnh đạo. Họ bắt chước lối phê này để ra điều mình cũng làm như tổng thống. Kết quả là: OK biến thành một từ thông dụng!

Những cụm từ như “och aye” (tiếng Scottish) hay “ola kala” (tiếng Hy Lạp), mang nghĩa là “tốt đấy, được đấy” cũng được dùng để giải thích cho nguồn gốc của từ OK. Tuy nhiên, theo những chứng cứ lịch sử và ngôn ngữ học thì có vẻ như OK không thể có xuất phát từ thành ngữ trên. Chính vì vậy mà OK đôi khi cũng làm đau đầu các nhà ngôn ngữ học.

Cho dù từ OK có xuất phát từ đâu đi chăng nữa, nó vẫn là một trong những “phát minh nổi tiếng” của người Mỹ. Bạn có thể dễ dàng nhận ra rằng OK được dùng ở hầu hết mọi nơi, kể cả những nơi tiếng Anh không phải là ngôn ngữ chính thức. Cũng như Thomas Harris và quyển sách của ông “I’m OK - You’re OK” đã chỉ ra: “I’m OK” có nghĩa là tôi có thể làm những gì tôi muốn. “You’re OK” có nghĩa là bạn có thể làm những gì bạn muốn. Có thể là chúng ta không làm giống nhau, nhưng như vậy cũng OK…

Đào Minh Diệu Xuân st

CÂU LẠC BỘ GIỠN CHƠI

Trời! Cờ xí treo quá chừng chừng! Băng rôn căng ngang dọc! À! Thì ra là cái Ngày Kỷ Niệm Kém 2 Ngày Là Ngày Thành Lập Câu Lạc Bộ Giỡn Chơi.

Bèn ghé vô… chơi cho biết…

8g13 phút mới khai mạc, dù ngoài kia người ta thông báo là 7g30! Dù sao dây thun cỡ đó cũng không đến nỗi… thun quá.

Cô MC xinh đẹp lướt qua chương trình:

Kính thưa quý khách cùng quý vị khách quý, hôm nay là ngày Kỷ Niệm Kém 2 Ngày Là Ngày Thành Lập Câu Lạc Bộ Giỡn Chơi. Chúng tôi rất lấy làm hân hoan và hân hạnh được chào đón quý vị trong không khí rất thân thương này. Đây là một ngày vô cùng trọng đại với những ai có tinh thần giỡn mặt, hay cười và khéo hài hước, nhất là với ai là thành viên của Câu Lạc Bộ Giỡn Chơi, kể cả với quý vị đi ngang, tuy không có vé mời mà vẫn nhiệt tình bước chân vào khán phòng này, để cùng với Câu Lạc Bộ (ho)… Giỡn Chơi kỷ niệm kém hai ngày là Ngày Kỷ Niệm Ngày Thành Lập (ho) CLB GC. Sở dĩ có vụ kỷ niệm sớm hai ngày là vì hôm nay là ngày chủ nhật dễ đi chơi nên Ban Chấp Hành CLB GC quyết định tổ chức cho được đông đảo í ạ… (hắng giọng) Em tên là Văn Thị Dài Chân, là MC trong ngày trọng… trọng đại này, xin giới thiệu ông chủ tịch CLB GC của chúng em lên có đôi lời phát biểu trước toàn thể quý khách và khách quý. Vâng, kính mời ông.

Rồi cô thướt tha, ẻo lả dời gót sen sang bên cạnh. Cô duyên dáng bước chậm rãi khiến cử tọa xuýt xoa khi thấy đôi chân dài như tên cô “hiện ra” dọc đường xẻ từ tít trên gần eo váy của cô, hạ tới guốc. Nom thật là hấp dẫn, nhất là cô liếc mắt theo cái kiểu ai cũng tưởng cái liếc mắt ấy là chỉ dành riêng cho mội mình mình. Ôi! Mình thật là thung thướng!

Ông chủ tịch thấy người ta xuýt xoa, lại có vỗ tay rào rào như mưa đá nên tưởng là dành cho ông, làm mũi ông phổng to thấy rõ. Ông trịnh trọng hắng giọng dễ đến mươi lần để người ta dịu cái cảm xúc xuống, rồi ông mới ho lên vài tiếng mà bắt đầu bài diễn văn khai mạc. Tất nhiên, ông chỉ nói lại những điều mà cô MC vừa kính gửi đến toàn thể quan khách. Có điều ông đọc chậm hơn, phần vì ông mắt kém nên có chỗ ông ậm ừ như bận nhai kẹo, vì còn phải… đánh vần. Có chỗ ông vốn đã thuộc, nhưng ông cứ ê a như thế để người ta có dịp mà vỗ tay.

Sốt cả ruột, nhưng rồi sau 2 vị kính thưa và kính gửi nói trên, thì cấp phó của ông lên báo cáo tình hình sinh hoạt và tình hình tiền bạc mà nói cho có chữ một tí là tình hình tài chánh. Dĩ nhiên là ông cũng ê a đến phát khiếp cả lên!

Thật ra, đáng lẽ là có phần kính gửi và kính thưa về tình hình ăn nhậu cho bá quan văn võ được biết, nhưng ông chủ tịch nháy mắt với cô MC (họ hay nháy mắt với nhau lắm cơ, việc này do bà vợ ông chủ tịch hay than thở với chú thư ký, rồi chú thư ký nói cho người ta biết, chứ ai mà biết được và được biết!). Phần vì ông đã dông dài rồi, ai dài… dông nữa thì hết bố nó cái phần ăn nhậu rồi cả làng sẽ phản đối mất.

Dĩ nhiên, sau đó là tuyên dương công trạng, ban phát huy chương, phát biểu linh tinh của đủ mọi loại cũng linh tinh không kém, như phát biểu của bà nguyên Nhà Sáng Lập CLB GC, như tuyên bố của khách quý là Tổng Thư Ký CLB Chơi Cùng Giỡn, hay cảm tưởng của thành viên Hoài A Tử, một người từ cõi chết sống lại sau vụ đụng xe sau vụ say xỉn rồi sau đó vào nhà thương rồi kế đó ra khỏi nhà thương ấy với hàng tiền đạo cả trên lẫn dưới bay ra khỏi hàm rồi kế kế nữa quyết định tuyên bố từ rày không cần ăn nữa mà chỉ cần uống thôi, vì uống thì không cần răng và nhất là Hoài A Tử không hề có vợ để mà ra lệnh thôi đừng uống nữa kẻo vợ bỏ về nhà má…

Thật là bệnh luôn sau khi nghe mọi thứ na ná, tương tự, giông giống như vậy tuôn ra từ cửa miệng của quý ngài miệng trơn như bôi mỡ…

Và người ta vỗ tay rõ to khi được nghe loa loa rằng thì là đã đến giờ khai tiệc dành cho các thành viên. Ai là kẻ ngoại cuộc mà muốn tham gia thì làm ơn làm phước cứ xìa tiền ra là OK ráo trọi. Vậy là với cái liếc mắt giả bộ đưa tình với một liền chị sồn sồn là ta nghiễm nhiên bước vào sảnh tiệc. Gớm! lúc này anh nào mà ba hoa thì chỉ có đói mà thôi! Người ta chỉ lo sao cho ly bia mình đầy, chén mình đừng để lại thứ gì đã gắp và được gắp. Kệ mặc bất cứ “đứa” nào trên sân khấu cứ ra rả cái bản họng ra mà hát với chả hò! Kẻ ưa hát thì chỉ cần chút hơi men gây hứng, thỉnh thoảng có ai đó lên tặng cho cái hoa ni lông thì cũng đủ cảm kích lắm lắm rồi. Ấy vậy không biết chừng cũng có cãi cọ nhau vì ai cũng muốn chứng tỏ ta đây hát hay không bằng hay hát. Buồn buồn thì cầm mi cờ rô phang nhau cho biết ta đây chưa từng biết sợ gì ai…

Rồi, kệ có “tăng” 2 , “tăng” 3 gì không, buổi họp mặt cũng kết thúc. Chú thư ký sau khi nhìn vợ của ông chủ tịch đến lác cả mắt cũng lết đôi chân nặng mùi bia lên sân khấu còn hai trự song ca đang cố ư ử. Giằng lấy cái mi cờ rô móp méo vì từng là vũ khí của 2 ca sĩ hăng tiết vịt, chú lê thê, thậm thượt, lải nhải, lèng èng những lời hay ý đẹp mà quý cô MC nói hồì sáng, chỉ để giới thiệu ông chủ tịch mà mọi người đã biết từ thuở khai thiên lập địa lên để cám ơn quý khách và khách quý đã hiện diện trong buổi tiệc hôm nay cũng như từng hiện diện trong suốt thời gian qua và sẽ mãi mãi còn gắn kết, cấu kết… với CLB những năm tháng triền miên sau này…

Ông chủ tịch CLB GC được sự dìu và dắt của cô MC, cố leo lên sân khấu, quên cả xỏ giày (có khi cố tình vì bỏ giày thì… mát chứ sao!) Cô đưa cho ông những 2 mi cờ rô lận, vì sợ bọn ca sĩ nửa mùa kia hát chen ngang làm kém vẻ đã vốn không còn nghiêm trang của ông, đang khi ông phát biểu trong giờ phút chia ly, quên, chia tay đầy cảm động này.

Quả là một MC đáng yêu! Cô khẽ kéo cho cái ca ra vát ngay ngắn lại trên cổ áo ông. Cô cẩn thận nhét cái ve áo vốn tuột ra khỏi lưng quần ông, cho nó vào chốn cũ. Rồi trên đôi môi nhễ nhãi mồ hôi và bia còn đóng trên ria mép, ông lập lại từng chữ MC rót vào tai ông. Dĩ nhiên vẫn là kính thưa và kính gửi nồng nàn, dĩ nhiên là cám ơn và cảm tạ kiểu cách đến rách cả tai. Chán thật! Nhưng chẳng biết người ta có nghe lộn không, chứ rõ ràng ổng lè nhè đến khó mà không tin:

- Dài Chân ơi, tí về với anh nhá, mụ vợ anh hôm nay đi đâu từ sáng nay lận…

Bà vợ ông nào nghe thấy lời ông nói qua bộ loa chà bá, vì chú thư ký đang rủ rỉ rủ rì, lẩm bẩm lầm bầm cái gì đó chẳng nghe cũng biết vào tai bà, cái tai lâu nay chỉ để dành nghe những lời dìu dịu, ngòn ngọt và mê ly của chàng thư ký…

- Hm…

Lam Trần

----

Lòng tốt kiểu...

Sài Gòn

Người Sài Gòn nói riêng và người phương Nam nói chung vốn bộc trực, hào phóng và giàu lòng nhân ái. Đó là tính cách đặc trưng đã có từ bao đời và vẫn đang tiếp tục được lưu giữ, phát triển. Chính những cư dân từ phương xa đến đã thốt lên rằng: “Ở Sài Gòn, hết tiền cũng không lo bị đói”. Điều này đúng, nhưng có lẽ sẽ thực tế hơn khi biết rõ vì sao như thế và không bị đói nhờ ở lẽ gì.

Khi hết tiền, cần biết…

Ông Hai năm nay 73 tuổi, quê ở Trảng Bàng, Tây Ninh. Thời gian biểu một ngày của ông như sau: Sáng, từ nhà trọ của con gái út ở quận Phú Nhuận đạp xe lang thang, ghé công viên, bờ kè, chùa… nói chung là những chỗ có bóng mát, có lúc tạt vào nhà một người quen nào đó uống trà. Đến chừng 11 giờ trưa ngày chẵn (thứ Hai, Tư, Sáu) thì ghé đến quán cơm 2000 ở cư xá Lữ Gia (quận 11) để ăn bữa duy nhất trong ngày. Nếu là ngày lẻ (thứ Ba, Năm, Bảy), ông sẽ ghé vào quán cơm chay miễn phí Thiện Tâm bên bờ kè Nhiêu Lộc, gần cầu Lê Văn Sỹ. Riêng ngày Chủ nhật, ông phải đi xa hơn một chút, qua chùa Diệu Pháp ở quận Bình Thạnh.

Chúng tôi gặp ông Hai ở quán Thiện Tâm vào một buổi trưa Sài Gòn nắng gắt. Sau khi ông đã dùng xong bữa trưa miễn phí với đậu hũ kho, canh rau… Ông Hai vui vẻ chuyện trò: “Già rồi, mỗi ngày ăn một bữa vậy là đủ. Ở đây là miễn phí, còn bên quán cơm 2000 thì thỉnh thoảng mấy người quen cho vài ngàn đồng để dành nên cũng có tiền trả cho bữa ăn (2.000 đồng một bữa). Đi ăn cơm từ thiện vậy vừa không tốn tiền, lại vừa có lợi cho sức khỏe”.

Cái gọi là lợi cho sức khỏe mà ông nói chính là chuyện đạp xe suốt ngày, coi như… tập thể dục! Vợ chết, bốn đứa con đã dựng vợ gả chồng, tất cả đều lam lũ kiếm ăn và thuê nhà ở Sài Gòn, nhưng ông Hai không thể nương nhờ vào đứa con nào. Chỗ ông đang ngủ qua đêm cũng là căn phòng trọ bé xíu của vợ chồng con gái út, đứa con tạm gọi là có hiếu nhất. “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày” như trường hợp ông Hai thì thời nào cũng có và nơi đâu cũng có, nhưng đó là câu chuyện khác…

Những người già không được ai nuôi và không tự nuôi nổi mình như ông Hai, may thay vẫn còn sống được nhờ những bữa ăn từ thiện. Có thể chỉ ra ngay những địa chỉ cần biết ở Sài Gòn cho một bữa ăn trưa khi đang gặp khó khăn: quán cơm chay miễn phí Thiện Tâm trên đường Hoàng Sa, gần cầu Lê Văn Sỹ (mở cửa các ngày thứ Ba, Năm, Bảy) từ 10-12 giờ với khoảng 400 suất ăn, quán cơm 2000 ở đường số 3, cư xá Lữ Gia, quận 11 (mở cửa thứ Hai, Tư, Sáu).

Quán cơm 2000 ở 14/1 đường Ngô Quyền, quận 10 (mở cửa thứ Ba, Năm, Bảy) mở cửa từ 11-13 giờ với khoảng 200-300 suất ăn mỗi ngày. Rồi quán Vợ Thằng Đậu của cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu ở 40 Đặng Văn Bi, quận Thủ Đức mở cửa hằng ngày với vài trăm suất cơm chay. Riêng bếp ăn từ thiện Bảo Hòa, 220 Đinh Tiên Hoàng, quận 1 chuyên cung cấp khoảng gần 1.000 suất ăn miễn phí từ lúc 7 giờ sáng hằng ngày cho bệnh nhân ở các bệnh viện Ung Bướu, Chợ Rẫy, Gia Định… và hầu hết các chùa trên địa bàn thành phố đều sẵn lòng phục vụ bữa ăn cho người lỡ đường.

Nói chung, chỉ có hai khác biệt dễ nhận thấy ở các bữa ăn từ thiện trong thành phố. Thứ nhất, hầu hết những bữa cơm tại các địa chỉ nói ở trên đều hoàn toàn miễn phí, chỉ có hai quán cơm 2000 ở cư xá Lữ Gia và đường Ngô Quyền là thu tượng trưng 2.000 đồng cho mỗi suất ăn. Thứ hai, trong khi tất cả các quán cơm từ thiện khác không phân biệt đối tượng, chỉ quy định chung là người gặp khó khăn và… sinh viên nghèo thì bếp ăn Bảo Hòa lại phát phiếu ăn hằng tháng cho các bệnh nhân sau khi họ đã đưa ra những giấy tờ cần thiết như hồ sơ bệnh án, giấy tờ tùy thân…

Đi một vòng quanh những địa chỉ cung cấp bữa ăn từ thiện, dễ thấy trong số những người đến ăn, ngoài người già có hoàn cảnh như ông Hai, còn có các em bé bán vé số, đánh giày, những người chạy xe xích lô, bệnh nhân ở tỉnh lên thành phố chữa trị, các sinh viên nghèo, những kẻ lỡ đường… Đó là người được nhận bữa ăn, còn những người làm ra bữa ăn từ thiện đó là ai?

Lòng tốt kiểu Sài Gòn:

Anh Phúc, một trong những người đang điều hành bếp ăn Bảo Hòa là một dân nhập cư gốc Bắc. Hằng ngày, anh tất bật với cả một núi công việc, từ khâu tổ chức nấu ăn, vào hộp, vận chuyển đến các bệnh viện để phân phát cho bệnh nhân, chuẩn bị cho ngày tiếp theo và cả tiếp nhận quà hỗ trợ từ những người hảo tâm đóng góp. Khi chúng tôi đến, anh đang viết “Giấy cảm tạ” để gửi cho một tiểu thương chợ Bà Chiểu đã tặng bốn bao gạo loại 25kg.

Rất bận bịu, nhưng anh vẫn cười tươi: “Mệt, nhưng vui!”. Khi chúng tôi chưa kịp hỏi vui thế nào thì ngoài đường có một thanh niên dừng xe lại, thả xuống một bao gạo, mỉm cười và đi luôn! Anh Phúc nhún vai, cười nhẹ, lật sổ ghi vào: “Một bao gạo 25kg - Người cho: Vô danh”. Chúng tôi không hỏi tiếp nữa, bởi vừa được chứng kiến niềm vui của người đang điều hành bếp ăn từ thiện lớn nhất thành phố này.

“Tất cả rau, củ phục vụ cho bếp ăn đều là của chị em tiểu thương các chợ trong thành phố mang cho, mà nhiều nhất là chợ đầu mối Bình Điền. Còn gạo thì nhiều lắm, kiểu như anh thanh niên thả bao gạo lúc nãy thì ngày nào cũng có” - anh Phúc vui vẻ nói.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, thoạt tiên những người sáng lập ra các bữa cơm từ thiện như cô Thủy ở bếp ăn Bảo Hòa, nghệ sĩ Lê Vũ Cầu ở quán Vợ Thằng Đậu, ông Thương ở quán Thiện Tâm, chủ nhân các quán cơm 2000 ở đường Ngô Quyền và cư xá Lữ Gia… đều muốn làm điều hảo tâm với những gì họ có. Theo thời gian, lòng nhân ái của họ đã tác động đến cộng đồng cư dân Sài Gòn và thế là các bếp ăn từ thiện phát triển được như hiện nay.

Ông Thương, người sáng lập ra quán cơm Thiện Tâm cho biết, quán cơm tồn tại và phát triển được như ngày hôm nay là nhờ vào một doanh nhân có cổ phần ở Ngân hàng Phương Nam, vị Mạnh Thường Quân này khá kín tiếng và cứ đến giờ phát cơm từ thiện lại có mặt để… lặng lẽ nhìn mọi người. Quán Vợ Thằng Đậu làm từ thiện chủ yếu dựa vào lợi nhuận có được từ sự ủng hộ của khách đến lai rai món nhậu bình dân. Các quán cơm 2.000 làm từ thiện bằng chính tiền túi của những người đang điều hành quán và một số ít từ tiền ủng hộ không thường xuyên của các Mạnh Thường Quân. Riêng bếp ăn Bảo Hòa là có cách làm bài bản nhất và cũng là nơi nhận được nhiều sự đóng góp nhất.

Chúng tôi gặp ông Sáu, người điều hành hoạt động của bếp ăn Bảo Hòa tại buổi phát cơm cho bệnh nhân Bệnh viện Ung Bướu lúc bảy giờ sáng. Dù tất bật với việc giữ ổn định cho việc xếp hàng nhận cơm của các bệnh nhân, ông Sáu vẫn cười tươi: “Mọi hôm không chen lấn như thế này đâu, tại hôm nay ngoài phần cơm ra còn có thêm phần quà gồm năm gói mì cho mỗi người của một doanh nghiệp tặng”.

Theo lời ông Sáu thì ngoài các doanh nghiệp tài trợ thường xuyên như Công ty cân Nhơn Hòa, Công ty Nguyên Đạt (đường Trịnh Văn Tấn, quận 1), Công ty Văn Hóa Văn Lang (đường Phan Đăng Lưu, quận Phú Nhuận)… thì còn có nhiều doanh nghiệp, cá nhân khác cũng thỉnh thoảng đóng góp tiền và gạo. Riêng khoản rau, củ… thực phẩm chủ yếu của bữa ăn từ thiện thì trông nhờ vào tiểu thương các chợ, mà nhiều nhất là chợ đầu mối Bình Điền.

Nếu thiếu thì sao? Khi nghe chúng tôi thắc mắc như thế, ông Sáu mỉm cười: “Ở bếp ăn Bảo Hòa, gạo không thiếu, rau củ thì chỉ đủ khoảng 50%, số còn lại phải ra chợ mua. Tuy nhiên, với khoảng 100 triệu đồng tiền dành cho các suất ăn mỗi tháng, so ra lại… ít hơn số tiền mà bếp ăn tặng cho các bệnh nhân nghèo để họ có tiền mua thuốc, tiền xe tàu về quê!”.

Cũng với thắc mắc “nếu thiếu thì sao?”, ông Thương, chủ quán cơm Thiện Tâm vui vẻ: “Thiếu hoài chứ gì! Có hôm 400 suất ăn mà vẫn không đủ, phải chạy đi mua thêm. Cũng có hôm còn hơn chục người đến muộn mà hết cơm, ông Thương bèn dẫn họ… đi ăn phở!”. Hôm chúng tôi đến quán Thiện Tâm, có một người đàn ông thường xuyên đến ăn cơm từ thiện và đã được ông Thương cho một chiếc xe đạp để mưu sinh nay quay lại tặng ông Thương một bó hoa, nói lời biết ơn và… xin tiền mua một cái lốp xe mới. Chẳng nói chẳng rằng, chủ quán cơm Thiện Tâm móc túi lấy ra 100 ngàn đồng! Đúng là lòng tốt kiểu… Sài Gòn.

Có khi nào lòng tốt ấy bị lợi dụng không? Chẳng hạn nếu lực lượng ăn xin hùng hậu lên tới hàng vài chục ngàn người cùng đổ về một quán cơm từ thiện thì sao? Theo quan sát của chúng tôi, cũng có những người ăn xin đến ăn ở những quán cơm từ thiện nhưng không nhiều, thậm chí còn ít hơn những người bán vé số. Tìm hiểu mới biết, ăn xin ở Sài Gòn bây giờ đa số do “chăn dắt”, không phải muốn đi xin ở đâu cũng được, số “làm ăn riêng lẻ” thì không thể cứ đi xin gần quán ăn để canh giờ đến ăn, nếu đang ở xa thì thà rằng mua cơm ăn còn “kinh tế” hơn.

Những bữa ăn miễn phí chính là hình ảnh đẹp nhất thể hiện lòng tốt của người Sài Gòn. Lòng tốt ấy người phương xa có thể cảm nhận được ngay từ lần đầu tiên đặt chân đến mảnh đất này. Không lạ chút nào khi câu nói “Đường đi ở ngay miệng mình” xuất phát từ chính ở Sài Gòn. Bất cứ nơi đâu trong thành phố và gặp bất kỳ ai, bạn cũng dễ dàng nhận được câu trả lời kỹ càng và nhiệt tình cho câu hỏi về đường đi đến nơi nào đó. Chú xe ôm, bà bán tạp hóa, anh cảnh sát, chị công chức hay cô gái đang đi trên đường đều vô tư chỉ dẫn cho bạn, kể cả khi bạn hỏi trống không: “Nè, về ngã tư Phú Nhuận đi đường nào?”.

Không chỉ có ăn miễn phí, ngay tại cửa một nhà thờ trên đường Lê Văn Sỹ, lúc nào cũng có một thùng trà đá miễn phí cho người đi đường. Lại nói chuyện chỉ đường, nếu có dịp đi qua ngã tư Nguyễn Thị Minh Khai - Cao Thắng, chúng ta sẽ thấy một tấm bảng chỉ đường đặt ngay góc ngã tư của chủ nhân một sạp bán áo mưa phủ xe hơi: “Bệnh viện Từ Dũ, bà con hãy nhìn phía đối diện bên trái”, kèm theo đó là một mũi tên chỉ hướng cẩn thận và cuối cùng là: “Xin… cảm ơn bà con!”. Thế đấy, một kiểu lòng tốt của người Sài Gòn được thể hiện rất độc đáo và lịch sự!

Tản mạn cho và nhận:

Cô gái tên Di, nhà ở quận 1, năm nay 16 tuổi, đang học lớp 11 tại một trường quốc tế ở Singapore. Cuối năm, Di về Việt Nam vì có kỳ nghỉ giữa năm dài một tháng rưỡi. Hằng ngày, Di đến bếp ăn Bảo Hòa phụ giúp việc chuẩn bị các bữa ăn. Trả lời cho thắc mắc của chúng tôi về chuyện tại sao không tận dụng thời gian nghỉ ngắn ngủi để đi chơi đây đó mà lại đến đây gọt củ cải, cô gái chỉ cười: “Em thích dzậy!”.

“Thích” không phải là lý do, mà những người đang cùng ngồi gọt củ cải cùng cô bé ấy ở cơ sở Bảo Hòa là những người làm từ thiện… chuyên nghiệp! Nhóm của dì Hai (gồm những người cùng quê ở Vĩnh Long) là một trong 13 nhóm tình nguyện của bếp ăn Bảo Hòa. Mỗi năm dì lên Sài Gòn một tháng làm nhiệm vụ chuẩn bị bữa ăn từ thiện tại đây. “Ở nhà đang sạ lúa và dọn rẫy, nhưng tới phiên nhóm mình thì phải giao việc lại cho mấy cha con để lên đây thôi” - dì cho biết.

Cái sự cho và nhận thì phải những người trong cuộc mới thấy hết ý nghĩa. Những lời có cánh thường được nghe trên tivi hay đọc trên các bài báo về các Mạnh Thường Quân có vẻ như rất xa lạ đối với những người như em Di, dì Hai, chú Tám, anh Phúc hay anh thanh niên thả bao gạo xuống rồi mỉm cười đi ngay. Họ đang làm những việc đầy ý nghĩa với suy nghĩ rất đơn giản là giúp một tay cho những người đang gặp khốn khó. Chỉ một điều chắc chắn là tất cả đều rất vui, rất hạnh phúc với những việc mình đang làm.

Đó là tâm tư của những người cho, còn kẻ nhận thì sao? Lần chúng tôi ghé quán cơm 2000 ở cư xá Lữ Gia, có một nhóm sinh viên đang ngồi ăn trưa ở quán cơm đối diện quán 2000. Minh, một sinh viên đại học Bách khoa, quê ở Bình Thuận tâm sự: “Ăn bên này trả bảy ngàn đồng cho một đĩa cơm, bên kia chỉ tốn có hai ngàn đồng. Tụi em chọn bên này vì gia đình cũng không đến nỗi, lại có tiền nhờ đi dạy kèm, còn để dành phần ăn bên kia cho mấy bạn sinh viên năm đầu, nhà nghèo, vì số suất ăn hai ngàn đồng có hạn. Coi vậy chứ mấy bạn đó cũng băn khoăn lắm khi buộc phải vào ăn cơm từ thiện, cực chẳng đã thôi anh à”.

Nhận bao giờ cũng khó khăn hơn là cho, kể cả khi được nhận ở nơi hào phóng như ở miền đất hứa này. Điển hình như ông Hai, dù đã có “thâm niên” hai năm đi ăn cơm từ thiện, ông vẫn ước ao có ít vốn liếng để lấy vé số đi bán hầu tự nuôi sống tuổi già của mình. Chúng tôi đã vào vai một người lỡ đường đi ăn cơm từ thiện và cảm nhận được tâm thế của kẻ nhận. Còn vui buồn của người cho? Khi tạm biệt ông Hai, tôi móc túi tặng ông mười ngàn đồng. Ông Hai nhìn chúng tôi biết ơn, giọng cảm động: “Chừng này là tui đủ trả năm ngày ăn cơm rồi đó!”.

Bs. Nguyễn Lân-Đính st trên internet

Cách phát hiện camera quay lén

trong khách sạn và nhà nghỉ

Minh Hùng

Sau đây, CameraHuyenVu sẽ hướng dẫn các bạn các cách để phát hiện camera quay lén trong khách sạn, nhà nghỉ, phòng thay đồ, phòng tắm hay trong nhà vệ sinh…

1/ Cách phát hiện camera quay lén trong khách sạn nhà nghỉ:

Khi đi chơi xa, chúng ta bắt buộc phải ở những nơi hoàn toàn xa lạ. Việc đề phòng bị quay lén trong sinh hoạt cá nhân vẫn luôn là một lưu ý. Bài này bàn về cách phát hiện các camera quay lén, chỉ áp dụng với camera sử dụng tia hồng ngoại.

Camera thường không quay được ban đêm vì phải cần đèn. Camera hồng ngoại được sử dụng nhiều hơn cho mục đích quay lén cả ngày và đêm. Vì vậy, cách phát hiện nó như sau:

Dùng điện thoại di động có camera, quét một vòng ở những khu vực mình nghi ngờ. Nếu phòng đó có gắn camera hồng ngoại, nó sẽ sáng đèn trên màn hình điện thoại.

Cách kiểm tra như sau: Lấy một cái remote bất kỳ, nhấn vài nút và chĩa ống kính điện thoại vào đó. Nó sẽ sáng đèn trên màn hình. Trong khi mắt thường không thể thấy.

Đây là 1 trong những cách đơn giản nhất do CameraHuyenvu nghiên cứu và ghi nhận lại được trong quá trình sửa chữa và lắp đặt camera tại tất cả các tỉnh thành trong nước cho khách hàng. Bạn có thể áp dụng ngay bây giờ để tránh phải bắt gặp “cảnh nóng” của mình và người yêu khi đang vui vẻ bên nhau nhé.

2/ Cách làm sao để phát hiện camera quay lén trong phòng thay đồ :

Xin vui lòng gởi điều này đến bạn của bạn để phổ biến vấn đề này đến công chúng. Để ngăn cản các quý bà vô tội khỏi máy quay lén.

Ở trước phòng thay đồ lấy di động của bạn và bảo đảm rằng mình có thể gọi điện thoại…

Sau đó vào trong, lấy di động của bạn và gọi điện.

Nếu bạn không thể gọi điện!!!

Có máy quay lén…

Đây là do sự can thiệp của cáp quang trong khi truyền tín hiệu.

3/ Cách làm thế nào để tìm phát hiện camera quay lén lắp trong văn phòng hay trong nhà:

a/ Bạn có thể mua các loại thiết bị phát hiện camera quay lén.

b/ Dùng lấy cái điện thoại đang xài, chuyển sang chế độ quay phim, rà hết căn phòng, chổ nào thấy trên màn hình quay phim có một đóm đèn sáng chớp tắt thì y như rằng ở đó có máy quay, bạn có thể kiểm chứng bằng cách lấy một cái remote dùng điện thoại đưa vào cái đèn trên remote sau đó bấm loạn xạ, bạn sẽ thấy trên điện thoại cái đèn ấy chớp tắt liên tục mặc dù nhìn mắt thường thì không hề thấy được một chút ánh sáng nào, vì mắt thường không nhìn thấy được tia hồng ngoại…

Cách này duy nhất xài được cho máy quay có đèn hồng ngoại (dùng quay cả vào ban đêm).

4/ Làm sao để phát hiện gương 2 chiều trong phòng thay đồ:

Đã có nhiều trường hợp mọi người bị gắn máy những tấm gương 2 chiều trong phòng thay đồ nữ hoặc phòng tắm hoặc phòng ngủ.

Rất khó để thực sự nhận biết bề mặt khi chỉ nhìn bằng mắt. Vậy, làm sao chúng ta xác định được loại gương mình đang soi vào là gương gì?

Khi chúng ta đi vào nhà vệ sinh, phòng tắm, phòng khách sạn, phòng thay đồ, vv… Bao nhiêu người trong các bạn biết chắc rằng cái gương treo trên bức tường là tấm gương thực sự, hoặc thực chất lại là gương 2 chiều, nghĩa là họ có thể thấy bạn, nhưng bạn không thể thấy họ.

Vậy, có các cách như sau:

(Hãy chia sẻ bài viết này cho chị em phụ nữ và người thân trong gia đình mình ngay các bạn nhé)

Đặt đầu móng tay của bạn lên bề mặt phản chiếu và nếu có khoảng cách giữa móng tay của bạn và hình ảnh của nó thì đó là tấm gương thật.

Tuy nhiên, nếu móng tay của bạn trực tiếp chạm vào hình ảnh của nó, hãy coi chừng, đó là gương 2 chiều! (có thể có ai đó thấy bạn từ phía bên kia). Vậy hãy nhớ, mỗi khi bạn thấy 1 cái gương, hãy làm thử nghiệm bằng móng tay. Nó không làm cho bạn phải tốn bất cứ thứ gì. Thật đơn giản để thực hiện.

Đây thực sự là điều tốt để làm. Lý do có khe hở trên gương thực sự, là vì lớp bạc phía sau của tấm kính.

Còn với gương hai chiều, lớp bạc ở ngay trên bề mặt. Ghi nhớ nó! Đảm bảo và kiểm tra mỗi khi bạn vào trong phòng khách sạn.

Ở trên chỉ là các cách để kiểm tra và phát hiện được 1 số loại sản phẩm Camera IP thông thường, còn 1 số loại cao cấp hơn, họ dùng các công nghệ tiên tiến để lắp đặt camera, sẽ rất khó có thể phát hiện, bạn nên cẩn thận đề phòng và tránh né.

ĐỖ THIÊN THƯ st.

Kịch vui

KIỆN AI ĐÂY?

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

NHÂN VẬT

1. BÀ BA 50 tuổi Chủ vườn bưởi

2. ÔNG BẢY 50 tuổi Chồng bà Ba

3. BÀ BỐN 45 tuổi Em bà Ba

4. ANH THANH NIÊN 30 tuổi

MỘT MÀN – MỘT CẢNH

(Vườn bưởi nhà bà Ba. Dưới đất bỏ lăn lóc mấy bội rác chứa bưởi héo. Bên cạnh vườn bưởi là một mương nước).

BÀ BA

(Đi tới đi lui ngó mong ra ngoài) Trời ơi! Cả tuần nay vườn bưởi vắng tanh vắng ngắt không một bóng người lai vãng, không có mối manh nào đến mua. Cứ đi ra đi vào ngóng cổ chờ… chờ đến bao giờ đây?

BÀ BỐN

(Đi ra, tay cầm hai trái bưởi bỏ vào bội rác) Chị Ba, bưởi héo rụng xuống đất, em chứa trong mấy cái bội này… nhiều ngày… nhiều trái bưởi bị thúi, mùi thúi bốc mùi, ghê ơi là ghê!

BÀ BA

Dì Bốn có biết tại sao vườn bưởi nhà mình lâm vào cảnh khốn đốn này không?

BÀ BỐN

Do đâu vậy chị?

BÀ BA

Người ta đồn rùm lên là ăn bưởi bị ung thư.

BÀ BỐN

Ai tung tin đồn động trời như vậy?

BÀ BA

Có tin lan truyền từ một bài báo.

BÀ BỐN

(La lên) Báo nào? Báo hại? (Nghẹn lời, tức tưởi) Nghe đến hai chữ nhà báo làm em muốn nghẹt thở. Gia đình em lâm vào hoàn cảnh tan vỡ cũng do chồng em bị nhà báo bươi móc… mất chức.

BÀ BA

(An ủi) Quên chuyện đau buồn đó đi em. Mấy năm nay em lên đây sống cùng anh chị, giúp đỡ chị trông nom vườn bưởi này

BÀ BỐN

Thế bài báo viết tin gì vậy chị?

BÀ BA

Chị không đọc bài báo đó. Chỉ nghe người ta đồn truyền miệng… ở vùng nông thôn mình người dân ít học, chỉ biết đọc chữ i chữ tờ, đọc được cái tên mình.

BÀ BỐN

Anh chị biết chữ sao không tìm bài báo đó đọc.

BÀ BA

Khi tin đồn đến vùng này, bưởi ế không ai mua mới biết.

BÀ BỐN

Em không đi ra ngoài cũng không biết gì. Vậy bây giờ khoanh tay chịu trói nhìn cả vườn bưởi này héo thúi bỏ đi hay sao?

BÀ BA

Chớ chị biết làm gì đây?

ÔNG BẢY

(Đi ra) Bà Ba, dì Bốn đều ở cả đây à.

BÀ BA

Không ở đây thì ở đâu, không lẽ ngồi quán nhậu như ông. Ông nhìn đi, mấy bội rác đầy bưởi héo thúi um lên kìa… Ông tính cách gì đi.

ÔNG BẢY

Tôi tính gì được mà tính. Gáng chờ đợi… chờ đợi một vài ngày xem tình hình có khá hơn không.

BÀ BA

(Dậm chân, khóc rống lên) Ư…ư… Trời ơi… bưởi ơi là bưởi! Bao nhiêu công sức, tiền bạc tôi đổ vào vườn bưởi này đây. Xảy ra tin đồn không bán được bưởi, đến kỳ trả nợ ngân hàng, tiền đâu trả… phá sản… Tôi treo cổ lên cây bưởi tự tử. (Khóc càng lúc càng to)

ÔNG BẢY

Bà Ba ơi, nín đi… từ từ rồi tính, nợ nần là chuyện của hai vợ chồng… tôi sẽ nghĩ cách.

BÀ BA

Từ từ… ông nghĩ ra cách chắc vườn bưởi này tiêu luôn.

ÔNG BẢY

Vậy bà muốn tôi làm gì bây giờ.

BÀ BA

(Lấy trái bưởi trong bội rác liệng ông Bảy, liệng tứ tung) Ông không làm gì để cứu nguy vườn bưởi của tôi thì ông đi đi. Đi cho khuất mắt tôi, đàn ông gì mà hèn nhát nhu nhược như gà mái. Đáng lẽ ông phải chạy vạy khắp nơi kêu cứu…

ÔNG BẢY

Bà hỗn… dữ… chửi chồng, dám nói tôi hèn nhát như gà mái. Bà nên nhớ tôi là đàn ông là con gà trống gáy ò ó o… thiệt to.

BÀ BA

(Liệng thêm một trái bưởi trúng ngay bụng dưới ông Bảy) Gáy ò ó o thiệt to nè.

ÔNG BẢY

(Ôm bụng rên rỉ) Ôi! Ôi! Cái bụng của tui… chắc bể… bể…

BÀ BA

Bể… bể cái gì hả gà mái.

ÔNG BẢY

Bể cái ổng… thành gà trống thiến cho bà tiêu luôn.

BÀ BỐN

(Đến gần ông Bảy) Anh Bảy, có sao không?

ÔNG BẢY

Dì Bốn ơi, đau bỏ mẹ bỏ cha đây nè. (Ôm bụng đi vào trong)

BÀ BA

(Khóc rống lên) Ư…ư…Dì Bốn ơi! Lâm vào hoàn cảnh này, tôi muốn chết phức đi cho rồi.

BÀ BỐN

(Dỗ dành) Thôi nín đi, theo ổng vào trong xem có cần đưa đi khám hay không? (Cả hai đi vào trong)

(Một thanh niên vai đeo ba lô, máy ảnh đi ngang qua vườn bưởi của bà Ba)

ANH

TH. NIÊN

(Dừng lại) Quang cảnh ở đây thật hữu tình. Ngồi xuống đây nghỉ chân một lát. (Ngồi xuống đất để ba lô, máy ảnh bên cạnh, lấy cuốn sổ ghi ghi chép chép)

(Bà Ba, bà Bốn đi ra, nhìn thấy anh thanh niên. Hai bà núp vào gốc cây)

ANH

TH. NIÊN

Chuyến đi này thực hay, thu thập được nhiều tư liệu. Bài viết của mình chắc sẽ thành công… A! Chụp mấy tầm hình để minh họa. (Đứng lên cầm máy ảnh chụp bốn phía). Trời nóng quá. Chung quanh không có ai, xuống mương nước rửa mặt cho mát. (Đi lần ra mương nước)

BÀ BA

(Chạy ra, miệng la bài hãi) Chính là nhà báo… (Chạy đến sau lưng anh ta, xô anh ta té ùm xuống nước)

ANH

TH. NIÊN

A… A… Bớ người ta…

BÀ BỐN

(Chạy ra, đến lấy ba lô, máy ảnh đi vào, miệng lẩm bẩm) Nhà báo… tao ghét nhà báo… để chị Ba cho một trận tởn tới già.

BÀ BA

(Nhìn anh thanh niên loi ngoi dưới nước, cười to) Ha… ha… ha… Giỏi cho nhà báo dám vác mặt đến vườn bà Ba bán bưởi. Bà tóm được nhà báo, nắm được chứng cớ cho khỏi chối chuyện loan tin thất thiệt.

ÔNG BẢY

(Đi ra) Chuyện gì vậy bà Ba?

BÀ BA

Nhà báo tới thám thính vườn bưởi… tôi thu tóm hết đồ nghề xô anh ta xuống mương nước.

ÔNG BẢY

Bà làm chuyện điên rồ xằng bậy… Anh nhà báo à, bước lên đây nói chuyện.

ANH

TH. NIÊN

(Từ mương nước bước lên, la lớn) Ông bảo bà Ba bán bưởi trả ba lô máy ảnh cho tôi ngay. Có chuyện gì cũng nói ngay.

BÀ BA

Không trả. Anh trả lời ngay có phải anh là người viết bài báo ăn bưởi bị ung thư. Hôm nay trở lại đây chụp hình vườn bưởi héo, tung tin giật gân.

ANH

TH. NIÊN

Thì ra là thế. Bà Ba hiểu lầm rồi. Tôi đúng là phóng viên đi thực tế vùng này để viết bài về thời tiết mưa lũ.

ÔNG BẢY

Bà nghe rõ chưa. Tự nhiên sanh chuyện. Dì Bốn… dì Bốn đem các thứ ra trả cho anh nhà báo ngay.

BÀ BỐN

(Đi ra, để ba lô máy ảnh xuống đất, nguýt anh thanh niên) Đây trả cho nhà báo… xạo.

BÀ BA

Tôi cũng không tin anh ta. Biết đâu giả danh nhà báo. Ông bảo đưa xem viết cái gì tôi mới tin.

ANH

TH. NIÊN

(Vẻ mặt lấm lét, lên giọng) A! Hai bà này láo xược. Tự dưng vu cáo tôi giả danh nhà báo. Vô cớ xô tôi xuống mương nước, quần áo còn lướt thướt đây. Ăn trộm đồ của tôi, trong ba lô của tôi có hơn năm triệu đồng người dân đóng tiền ủng hộ bão lụt. Tôi chưa kiểm tra xem có mất tiền hay không?

BÀ BỐN

Ừ, tôi có lấy ba lô của anh, nhưng chưa động đến thứ gì bên trong… mở ra kiểm tra… đưa thẻ nhà báo cho xem luôn.

BÀ BA

Đúng, đưa thẻ nhà báo ra luôn.

ANH

TH. NIÊN

(Giận dữ) Bà là gì mà đòi xem thẻ nhà báo của tôi.

BÀ BA

Là bà chủ vườn bưởi. Anh đi vào vườn bưởi nhà tôi, lấm la lấm lét chụp hình không xin phép. Tôi phải đề phòng kẻ gian, may mà tôi chưa báo Công an.

ANH

TH. NIÊN

(La lên) Tôi làm chuyện gì mà báo Công an. Thôi không đôi co với bà. Tôi phải đi.

BÀ BA

Khoan… khoan… Xin lỗi cậu. Nếu cậu là nhà báo thật tôi muốn hỏi cậu một chuyện, nếu nhà báo đăng tin không đúng sự thật gây thiệt hại cho bà con nông dân. Tôi muốn kiện nhà báo, phải làm sao?

ANH

TH. NIÊN

(Ngó sững bà Ba) Kiện nhà báo. Chuyện này tôi không biết. Tôi đi đây.

BÀ BỐN

Không ở lại để nắm tình hình hoặc vận động đóng góp tiền ủng hộ bão lụt sao?

ANH

TH. NIÊN

Không. Tôi có chuyện phải đi gấp. Buổi chiều tôi dự họp ở huyện. (Tất tả bỏ đi)

ÔNG BẢY

Anh nhà báo, đứng lại…

(Anh thanh niên không quay lại, mà còn chạy nhanh vào trong)

ÔNG BẢY

(Cười lớn) Ha… ha… ha…

BÀ BA

Ông kêu anh ta quay lại làm gì? Rồi đứng đó cười khan một mình.

ÔNG BẢY

Tôi cười bà. Gặp anh thanh niên không biết là nhà báo thật hay giả, tự dưng xô anh ta xuống nước… đòi kiện nhà báo… khiến anh ta hoảng hồn chạy thục mạng… Bà Ba bán bưởi muốn kiện ai đây?

BÀ BỐN

Em cũng nghĩ như anh. Nếu là nhà báo thật tại sao anh ta bỏ chạy. Anh ta kiện chị Ba về tội xúc phạm danh dự người khác.

ÔNG BẢY

Ôi… nhà báo thật hay giả gì cũng bỏ qua. Bà Ba đừng lo lắng, từ từ tình hình sẽ ổn thôi, chính quyền đã có ý kiến về việc này. Bưởi nhà mình ngon có tiếng không sợ ế đâu. Bà Ba bán bưởi đừng đòi kiện ông Trời.

BÀ BA

(Cười e lệ) Ừ, giống như chuyện đời xưa “Cóc kiện Trời”.

HẾT


Phụ Bản IV

NĂM TUẦN LỄ

(Cinq Semaines En Ballon)

của Jules Verne

ĐÁM MÂY CÀO CÀO

(Niềm vui sum hợp của ba thầy trò chưa được mấy chốc, thì niềm lo khác lại chợt đến. Đó là cái balong đang xuống cấp, mà không có cách gì khác để sửa chữa...)

Lúc đó dòng sông Niger đã bị phân chia, bởi các cù lao lớn, tạo thành những chi nhánh sông hẹp, nên nước chảy rất siết.

Nhà chòi của những người chăn cừu mọc lên rải rác, nhưng mà khó lòng để ghi nhận chính xác vào bản đồ, tại vì con tàu Khải Hoàn cứ luôn luôn tăng tốc độ bay. Rủi quá, nó cứ xuôi về hướng nam, và vượt qua trong chốc lát cái biển hồ Debo. Bác sĩ Fergusson tìm kiếm ở các độ cao, những luồng gió khác nhau, bằng cách tăng sự giãn nở của khí ga một cách vô ích. Ông bỏ cái ý định nầy đi, bởi vì hơi giãn nở có thể thoát ra nhanh hơn, nơi cái balong đang xuống cấp trầm trọng.

Ông bác sĩ không nói gì, nhưng mà ông trở nên trầm tư lo lắng. Sự ngoan cố của ngọn gió cứ thổi về hướng nam, làm sai lệch toan tính chương trình. Nếu ông không đến được lãnh thổ của Anh, hoặc là của Pháp, thì chuyện gì sẽ xảy ra, ngay ở giữa các đám mọi rợ dẫy đầy ở các bờ biển Guiné. Làm thể nào để chờ đợi cho được một chuyến tàu biển, mà trở về Anh Quốc, và cái hướng gió hiện giờ, đang xua đuổi họ đến vương quốc Dahomey, một bộ lạc dã man cực kỳ. Chúng có thể giết hại cả ngàn người trong một kỳ lễ hội.

Rơi vào đó, là cái chết chắc chắn.

Một mặt khác, cái khinh khí cầu đang xuống cấp nhanh chóng, và ông cảm thấy sự việc hỏng rồi.

Ông ước mong sao, thời tiết sẽ thay đổi.

Bác sĩ đang cảm thấy bực bội về tình hình bất lợi, thì Joe phát biểu:

- Tốt lắm, đây là một đám mây mưa to, một cơn lũ quét. Cứ nhìn mà xem cái đám mây đen đang kéo đến thì phải biết.

Bác sĩ hỏi:

- Còn có một đám mây sao?

Kennedy trả lời:

- Một đám mây đen tuyệt vời.

Joe tiếp lời:

- Tôi chưa từng thấy.

Bác sĩ nói:

- Tôi nghĩ rằng đó không phải là đám mây đâu.

- Vậy là giống gì?

- Một vầng bụi.

- Vậy sao?

Bác sĩ bảo:

- Một vầng bụi cào cào.

- Đó là cào cào sao?

- Hàng triệu con cào cào sẽ bay qua xứ sở nầy như một cơn lốc. Nếu chúng nó chịu hạ cánh xuống, thì tất cả cây cối, mùa màng đều bị tàn phá sạch.

Joe nói:

- Tôi muốn chứng kiến.

- Đợi một chút đi Joe. Trong vòng mười phút nữa, bầy cào cào đến đây, thì bạn sẽ trông thấy tận mắt.

Bác sĩ Fergusson nói đúng. Cái vầng mây dầy đặc hàng mấy cây số dài bay đến với tiếng kêu điếc tai, và kéo lê thê dưới đất một cái bóng vô tận. Trước con tàu 100 mét, bầy cào cào đáp xuống một vùng đất xanh tươi. Sau 15 phút, bầy cào cào bay đi, những nhà du hành chỉ nhìn thấy cây cối xơ xác như một mùa thu cằn cỗi.

- Thế nào rồi Joe? - Bác sĩ hỏi.

- Thưa thầy, thật là vui mắt. Một con cắn một chút, thì nhiều con thành ra một cuộc phá hoại lớn.

- Thật là một trận mưa khủng khiếp, - Gã thợ săn nói - và còn khủng khiếp hơn sự tàn phá của một trận mưa đá.

- Và không thể nào tránh né được đâu. - Bác sĩ giải thích thêm - Đôi khi thổ dân có ý định đốt cả rừng rú, đốt cả mùa màng để ngăn chận bầy côn trùng. Nhưng mà, những con đi đầu nhảy vào dập tắt lửa với số lượng, rồi cả bầy cứ tiến tới. Nhưng cũng còn may là có sự bù trừ, thổ dân bắt những con cào cào mà ăn thịt một cách rất ngon lành.

- Đó là những con tôm trời. - Joe nói - Chỉ tiếc là mình không có cơ hội để nếm thử qua, cho biết.

Địa hình trở nên sình lầy về chiều. Những cánh rừng nhường chỗ cho những bụi cây lẻ loi. Dọc theo bờ sông, người ta nhận thấy vài đồn điền trồng thuốc lá.

Ông bác sĩ đang bận lo vứt bỏ các đồ vật dụng như: những chai không, những thùng đựng thực phẩm vv... Ông đang thành công giữ vững con tàu Khải Hoàn trong tầng khí quyển thuận lợi cho kế hoạch.

Các nhà du hành không thể quan sát cảnh vật theo ý muốn. Họ bay quá mau, thẳng hướng tây bắc, và sự lo lắng của bác sĩ cũng dịu đi phần nào.

- Theo cái đà nầy, chúng ta sẽ đến Sénégal trong hai ngày nữa.

- Và chúng ta sẽ đến xứ sở của bạn bè, phải không?

- Hy vọng là như vây. Chỉ cần cái balong chịu đựng khoảng 200 cây số nữa, thì chúng ta đến bờ biển hướng tây an toàn.

- Như vậy là chấm dứt cuộc hành trình. - Joe nói - Nếu không có chuyện gì khoái để kể chuyên lại, thì tôi không thích để tiếp đất nữa. Nhưng mà bác sĩ liệu coi người ta có chấp nhận câu chuyện của chúng mình không?

- Ai mà biết được đó bạn Joe dũng cảm. - Bác sĩ bảo - Rốt cuộc lại, thì có một điều không thể chối cãi được, là có cả ngàn người chứng kiến chúng ta khởi hành ở bờ biển bên kia, và cũng có cả ngàn người chứng kiến chúng ta trở về ở bờ biển bên nầy.

- Trong trường hợp hiện tại - Kennedy nói - cũng khó lòng mà phủ nhận được rằng chúng ta đã đi xuyên qua lục địa Phi Châu.

Thanh Châu dịch thuật

BÃO LÒNG

Tin cô Tâm tái hôn ở tuổi sáu mươi bảy sau mười lăm năm ly thân với chồng khiến mọi người ngạc nhiên lạ lẫm. Điều gì đưa cô đến quyết định tái hôn? Vì tình yêu chăng? Ai quen biết với cô Tâm đều thắc mắc đặt câu hỏi như vậy?

Cô Tâm tái hôn với ông Thành bảy mươi tuổi. Ông là giáo viên về hưu góa vợ. Hai ông bà tổ chức một buổi tiệc thân mật trong gia đình, sau đó lên sống ở thành phố cao nguyên Đà Lạt. Những đôi tân hôn trẻ thường là đi hưởng tuần trăng mật, với cô Tâm là một công đôi ba việc, cô lên đó trông nom dùm cơ ngơi của người em gái đang xây dựng, cũng là để hai người có một cuộc sống riêng tư với nhau.

Tôi và cô Tâm là quan hệ họ hàng cô cháu cùng họ. Tôi nhỏ hơn cô Tâm mười tuổi, nhưng trong giao tiếp rất tâm đầu ý hợp, mỗi dịp gặp nhau là tíu tít chuyện trò cởi mở như bạn bè. Tôi có thể tâm sự với cô về chuyện tình cảm, những khó khăn trong cuộc sống. Cô cũng thường tâm sự kể cho tôi nghe chuyện gia đình chồng con của mình. Kể thật lòng không giấu diếm, cuộc đời cô, con người cô như thế nào cô nói thế, không hề khoe khoang sự giàu có hay giấu đi những sự thật trần trụi, khổ đau.

Cô Tâm xuất thân từ một gia đình có tiếng tăm ở nông thôn. Sinh ra và lớn lên khi quê hương chìm đắm trong chiến tranh loạn lạc. Sống ở quê cô chỉ được đi học hết bậc tiểu học. Sau đó gia đình lên thành phố Sài Gòn sinh sống. Ba mẹ cô Tâm là cơ sở của cách mạng, nuôi chứa cán bộ, vận chuyển lương thực thuốc men vào chiến khu. Ba cô từng bị bắt chịu cảnh tù đày, mẹ và cô thường xuyên xách giỏ đi thăm nuôi tù chính trị. Thăm ba cô và những người đồng chí của ông. Thời đó gia đình cô thường xuyên bị theo dõi, sống rất khốn khổ. Chính từ môi trường và hoàn cảnh sống nguy hiểm, được tiếp xúc nhiều với cách mạng và sự giáo dục của gia đình, rèn luyện cho cô có tư tưởng phóng khoáng và thương người. Dù văn hóa thấp nhưng cô có ý chí cầu tiến, quyết đoán và kiên định của người đàn ông. Chuyện đời của cô Tâm có nhiều điều khiến tôi suy ngẫm và muốn kể lại câu chuyện này.

Năm hai mươi bốn tuổi cô gặp dượng là người đàn ông có học thức đẹp trai. Cô yêu dượng bằng tất cả tình yêu đầu đời của cô thiếu nữ ngây thơ trong trắng. Dượng từ quê lên thành phố học, tứ cố vô thân, dượng cưới cô và sống ở rể. Cô Tâm sống hạnh phúc trong vài năm ngắn ngủi. Khi các con lần lượt chào đời, dượng làm việc có tiền, ông không chịu được những phiền toái của cuộc sống gia đình nghèo, ông càng ngày càng xa rời cô, bỏ bê gia đình. Đối với cô Tâm con cái là hạnh phúc đầm ấm, là sợi dây thắt chặt tình vợ chồng, ràng buộc người đàn ông vào bổn phận trách nhiệm với gia đình. Cô yêu dượng và nghĩ người đàn ông có tính trăng hoa chơi bời chán sẽ hồi tâm trở về với vợ con. Cho đến khi người thứ ba xuất hiện, bão tố sóng gió nổi lên trong lòng cô Tâm.

Cô Tâm kể cho tôi nghe:

- Lần đó dượng trở về nhà với thái độ lầm lì như trêu tức cô.

- Cô có hỏi thẳng dượng về việc ngoại tình không? Tôi thắc mắc.

- Có chớ sao không con. Cô nói rạch ròi với dượng là cô không trẻ đẹp, có học như người tình của ông. Đàn ông có tính trăng hoa chơi bời… cô tha thứ. Nhưng dứt khoát cô không chấp nhận cảnh chồng chung vợ chạ.

- Dượng trả lời cô như thế nào?

- Ông nói thật là cô gái ấy đã có thai.

Tôi háo hức hỏi dồn:

- Cô xử trí việc đó thế nào?

Cô thở dài áo não, vẻ mặt lạnh băng:

- Đến cơ sự này cô biết đã mất chồng. Dượng làm ra vẻ thản nhiên kiểu bắt cá hai tay, nghĩ rằng cô sẽ im lặng chịu đựng và chấp nhận.

- Còn cô gái người tình của dượng có thái độ gì không cô?

- Con không tưởng tượng được đâu, đúng thật là một người đàn bà trơ tráo. Cô ta nói với mọi người là cô ta mới thật sự là người dượng yêu thương, xứng đáng làm vợ ông ấy hơn cô.

- Trời ơi! Kiêu kỳ và kênh kiệu còn hơn cả Hoạn Thư. Cướp chồng của người khác không biết xấu hổ. Tôi bực tức kêu lên.

- Ừ. Cô im lặng một hồi lâu.

Nhìn cô Tâm tôi cảm thấy chạnh lòng, nhưng phải tiếp tục câu chuyện:

- Nghe những lời như thế, dượng xử trí thế nào?

- Vẫn giữ thái độ im lặng. Lần cuối ông về nhà bảo cô nấu cơm cho ăn tối. Lòng cô đã quyết cắt đứt, cô bảo ông đi khỏi nhà ngay và đừng bao giờ trở về.

- Dượng có chịu đi hay không?

- Không. Ông ấy nhất định không đi, còn nói nhiều lời khó nghe. Nào là tại cô không hiểu biết chồng, không chìu chồng nên ông ấy mới chơi bời. Trong khi cô gái đó yêu ông, đã dâng hiến trinh tiết, dám vượt qua dư luận cam chịu làm vợ bé… Cô phải chấp nhận, ông sẽ tiếp tục chu cấp tiền bạc nuôi con… Giọng cô Tâm càng lúc như uất nghẹn…

Tôi an ủi:

- Cô uống ngụm nước cho mát.

Cô Tâm cao giọng kể tiếp:

- Nghe những lời như thế, không dằn được nỗi bực tức từ lâu chất chứa trong lòng, không nói lời nào, trên bếp có nồi nước sôi đang nấu, cô bưng tạt vào người ông ấy… vừa la… vừa khóc.

- Cô tạt nước sôi lỡ dượng ấy bị thương tích…

- Cô biết, giận mất khôn nhưng nước sôi không làm chết người chỉ phỏng nhẹ sẽ khỏi thôi. Dượng có thưa gởi cô cũng không phạm tội gì, ông ấy mới là người vi phạm luật hôn nhân gia đình.

Tôi bật cười:

- Một kiểu ghen lạ lùng… dượng đi luôn khỏi nhà hả cô?

- Ừ, từ lần đó đi luôn.

- Cô dượng có làm thủ tục ly hôn không?

- Không. Suốt mười mấy năm sống một mình lo cho con. Trong lòng cô không giây phút nào nguôi ngoai. Đôi khi trong ý nghĩ cô chờ dượng quay về…

- Nghĩa là cô vẫn còn yêu thương dượng?

Cô im lặng một lúc, ánh mắt xa vắng, giọng cô chùng xuống:

- Yêu và ghen, đau khổ bao nhiêu năm vì ông ấy. Con cũng biết về mặt văn hóa cô không bằng ai, tay trắng làm nên sự nghiệp.

- Con nhớ cô bắt đầu việc kinh doanh từ lúc dượng bỏ đi.

Cô Tâm buông một tiếng thở dài.

- Vào lúc đó gia đình cô không khá giả như hiện nay. Con gái lớn cô có quyết định đi du học cũng phải bỏ để ở lại chăm sóc cô. Sau một thời gian suy sụp tinh thần, bệnh tật, cô bừng tỉnh lại, nghĩ đến tương lai của các con. Cô là trụ cột của gia đình, vừa làm mẹ vừa làm cha. Vấn đề gai góc là phải kiếm tiền nuôi sống gia đình. Ban đầu cô buôn bán nhỏ trước nhà, sau đó sang được cửa hàng ở chợ, phát triển lần lần từ bán lẻ sang bán sỉ bỏ mối cho các đại lý ở tỉnh.

- Cô thật giỏi giang, hiếm có người đàn bà nào bì được. Chồng bỏ vượt qua nghịch cảnh một mình nuôi con, con cái thành đạt đều là bác sĩ, kỹ sư giàu có hạnh phúc.

- Bây giờ kể lại chuyện ấy nghe thật dửng dưng, thật ra lúc đó cô hận ông ấy bạc tình bạc nghĩa, chà đạp danh dự gia đình. Lòng cô nung nấu toàn là sự hận thù, cứ nghĩ đến cảnh ông ấy vui vẻ hạnh phúc bên cạnh người tình… nếu giết được ông ấy cô cũng giết.

Tôi bàng hoàng thảng thốt không thể tin những lời cô vừa thốt ra, nó bật ra sau bao nhiêu năm ẩn giấu chất chứa trong lòng. Như là lời thú nhận với chính mình. Yêu và ghen, lòng căm giận của người đàn bà bị bỏ rơi, bị xúc phạm. Nói theo lẽ thường tình ghen tuông là trạng thái tâm lý chung của con người. Ghen tuông bắt nguồn từ ý niệm tư hữu, khi người khác chiếm đoạt người chồng người cha của các con mình, đưa gia đình đến chỗ tan vỡ ly tán đương nhiên người đàn bà phải phản kháng lại. Làm thế nào để thoát khỏi bi kịch, thoát khỏi người đàn ông trăng hoa đa tình. Có thể ý nghĩ giết người xẹt đến trong đầu cô Tâm trong một phút giây tuyệt vọng. Bi kịch của cô Tâm may mắn là dừng lại đúng thời điểm không có chuyện giết người, chỉ là tạt nước sôi nóng bỏng và sự ra đi của người chồng. Một kết thúc tốt đẹp.

Hình như cảm nhận được ý nghĩ của tôi, cô Tâm nói tiếp:

- Con sống độc thân không hiểu được tâm trạng của người đàn bà bị phụ tình như thế nào đâu… những đêm dài cô đơn trống trải. Cảm giác bị chà đạp, bị lăng nhục, con người đối xử với con người sao mà tàn nhẫn cay nghiệt đến thế.

- Vâng, con hiểu cô.

Trả lời cô như thế, nhưng trong thâm tâm tôi có suy nghĩ khác. Tôi nghĩ trong một thời gian dài phải chịu đựng nỗi đau hờn ghen bị phản bội, cô Tâm quá thụ động và bất lực trước hành vi ngoại tình của chồng. Cô bộc lộ nhiều yếu điểm trước đối thủ. Cuối cùng cô dùng hình thức thô bạo là tạt nước sôi xua đuổi người chồng. Hành động ghen tuông như thế mặc nhiên thừa nhận đối thủ đã chiến thắng trên trận chiến tranh giành tình yêu. Cô vô tình đẩy người đàn ông rời bỏ gia đình, dứt khoát ra đi mà không bị tiếng thị phi là ngoại tình và phụ bạc vợ. Nếu như cô Tâm tỉnh táo chế ngự nỗi khổ, sự ghen tuông, tìm ra một phương pháp ôn hòa hơn để khắc phục hậu quả. Tại sao cô không tìm đến các nhà tư vấn về hôn nhân và gia đình nhờ giúp ý kiến. Có thể đến gặp trực tiếp cô nhân tình, dùng tiền bạc mua chuộc để cô ta chịu giao con mà làm lại cuộc đời… Biết đâu… nhưng như cô Tâm đã nói, làm sao tôi hiểu được yêu và ghen như thế nào mà suy nghĩ làm chi cho mệt!

Tôi gặp cô Tâm một năm sau ngày tái hôn. Nhìn cô mập mạp trắng trẻo ra so với độ tuổi sáu mươi tám. Phải chăng đó là điều kỳ diệu của tình yêu? Dù tình muộn, tình già cũng ảnh hưởng thay đổi dáng vẻ nhan sắc của người đàn bà. Dù là yếu tố tâm lý hay sinh lý, tình yêu đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống người đàn bà. Điều này tôi đọc trong sách vở y học, có lẽ đúng với trường hợp cô Tâm.

Dượng Tâm chở cô trên chiếc xe Dream mới bóng lộn. Cô dượng thật đẹp đôi vui vẻ hạnh phúc. Cô giới thiệu dượng với tôi.

- Chào cháu. Dượng vẫn nghe cô nhắc đến cháu.

- Dạ. Rất vui được gặp dượng.

Dượng có dáng người cao gầy, gương mặt nghiêm trang, giọng nói điềm đạm thể hiện tác phong tư cách của một người thầy giáo. Tôi không còn thắc mắc với câu hỏi vì sao cô Tâm tái hôn. Dượng khác hẳn với người chồng trước của cô Tâm. Cô đã chọn được bến đỗ bình yên cho đoạn cuối con đường. Cuộc đời cô Tâm - cuộc đời của một người đàn bà long đong như con thuyền giữa cơn sóng dữ. Cô đã vững tay chèo vượt qua bão tố của cuộc đời. Vượt qua dư luận nghiệt ngã, tiếng đời thị phi, chọn cho mình một cuộc sống mới. Một cuộc sống đích thực có ý nghĩa cho bản thân mình. Người đàn bà cần được sống trong tình yêu và hạnh phúc. Cần có một người đàn ông của riêng mình để yêu thương chìu chuộng, để chia sẻ buồn vui, chăm sóc nhau trong lúc tuổi già. Đối với cô Tâm, điều ước mong giản dị là được hạnh phúc trong hôn nhân. Bằng nghị lực cô đã tìm được vào buổi xế chiều. Cô cười nói với tôi:

- Cuộc sống của cô giờ đây rất bình yên, con cái có việc gì cần giúp đỡ là cô dượng tới ngay. Thời gian rảnh đi du lịch các nơi cho biết đó biết đây.

- Con rất phục cô.

Chuyện của cô Tâm có lẽ không còn gì để nói. Nếu ta tin vào luật nhân quả thì điều này lại rơi đúng vào người chồng trước của cô Tâm. Sau khi cô Tâm làm xong các thủ tục ly hôn, phân chia tài sản rõ ràng. Cô Tâm có nhiều tài sản tạo dựng được trong thời kỳ sống ly thân. Người chồng trước - người đàn ông ngoại tình bỏ rơi vợ con nay cũng bước vào tuổi già không còn phong độ, không còn tiền bạc, không tài sản. Không hiểu lý do vì sao người tình cũng rời xa, một thân một mình trở về nương náu, sống nhờ sự chu cấp của con gái cô Tâm.

Cô Tâm dường như nguôi ngoai mối hận tình. Cơn bão lòng đã lắng dịu. Cô khuyên các con chăm sóc đối xử tốt cho cha mình. Nhưng thật trớ trêu, người đàn ông ấy, chứng nào tật ấy, quen thói trăng hoa, ông ta lại quan hệ với một cô gái bằng phân nửa tuổi mình. Hai người đi với nhau, nhìn vào người ta tưởng là cha con. Một người đàn ông không tôn trọng thuần phong mỹ tục, đạo lý, cuộc sống mãi mãi kéo dài là một sự đam mê nhục dục? Hay chỉ vì lòng tự ái, khi người vợ trước bị ông bỏ rơi giờ đây sống trong hạnh phúc, ghen và căm tức nên ông cũng yêu đương bất tận. Một cách trả thù chứng tỏ tính cách đàn ông của mình. Trong con người đàn ông đó hai dòng máu yêu và ghen lúc nào cũng nóng bỏng bừng bừng không bao giờ dập tắt được.

Tôi không còn gì để kể cũng không phê phán hay bình luận. bởi vì câu chuyện cũng không hay ho gì. Có chăng chỉ là nỗi buồn của cô Tâm và những tiếng thở dài!

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

*

MÊNH MANG NHẠC TRẦM

ĐÀM LAN

M ưa. Ù ù từ phía trời xa, cơn mưa như một bầy chim di trú đang trên đường tìm về phương nắng ấm. Những va chạm của những hạt mưa rơi trên từng phiến lá, mái nhà, bể nước, bạt che... tạo thành một thứ hợp âm rất lạ. Khi to thì như một trận tranh cãi sôi nổi náo nhiệt, khi nhỏ thì rì rầm như đôi tình nhân thủ thỉ, hoặc có khi reo vui tựa như một dàn đồng ca trẻ nhỏ, có lúc trầm trầm mênh mang như một bản nhạc không lời.

Mưa luôn đem lại trong tôi một cảm giác chênh chao, buồn buồn nhơ nhớ, nhiều khi chẳng biết nhớ gì và buồn gì, nhưng vẫn cứ lênh loang vời vợi. Thói quen đồng hành với hợp âm mưa là một thứ hợp âm cất lên từ sự cộng hợp các loại khí cụ. Một giai điệu trầm da diết, buồn len lỏi, đưa dắt lòng người vào tận cõi tình sâu, để từ đó lại trỗi lên một cảm trạng dạt dào riết róng, một nỗi niềm thao thiết lênh đênh.

"Ướt Mi". Không bản nhạc nào hợp với ngữ cảnh hơn bản nhạc này. Khi nghe đúng ngữ cảnh, sự cảm nhận thấm tận đến từng tế bào, cảm giác như tê lịm theo từng tiết tấu cung bậc. Hẳn "chàng nhạc sĩ tài hoa" cũng đã viết ra bản nhạc này trong cùng ngữ cảnh. Nếu không, làm sao lột tả cho hết được những tầng tầng xúc cảm của tâm can. Bản nhạc không chỉ là sự khởi đầu cho một sự nghiệp âm nhạc đầy phong sắc, mà còn gieo mãi vào những hồn người niềm cảm thức thân thương, muốn được yêu nhau hơn, gần nhau hơn, trái tim cũng nóng hơn, và tâm hồn cũng rộng mở hơn.

Tôi thẩm thấu bản nhạc cùng ngữ cảnh này không chỉ vì những đặc trưng tinh túy của nó, mà còn vì nó mang một kỷ niệm có lẽ là bất diệt trong tôi. Một kỷ niệm không chiếm nhiều thời gian, không mang tính sự kiện, không hệ quả, hệ lụy, không chất chứa ẩn ức, không bồn chồn đợi mong. Nhẹ thôi, như một câu thơ, như một dòng nhạc, như một nét chì kẻ mờ trên một bức tranh, vậy mà ẩn mãi trong tôi, như một ám ảnh, miên man, dai dẳng...

Lần đó, tôi đi dự một cuộc hội thảo chuyên đề của khu vực, niềm vui gặp gỡ anh em các tỉnh bạn là những cuộc chuyện lớn nhỏ, xa gần, rộng hẹp. Anh và tôi thường là người dẫn dắt đề tài, tranh luận sôi nổi, tạo ra những tiếng cười sảng khoái, âm vang những cuộc vui như rộn rã hơn. Cũng tưởng chỉ là câu chuyện của những ngày... rồi xa đi khi mọi sự lại trở về nhịp điệu của nó. Nhưng...

Hôm ấy sau một bữa cơm chiều từ phòng ăn của nhà khách, tôi thong thả về phòng trong một không gian chạng vạng. Bất chợt, một cái gì đó gợn lên trong giác cảm, tôi tự nhiên dừng lại và đưa tia mắt về một phía. Anh đang đứng nghiêng người, chụm tay đốt điếu thuốc. Hình ảnh người đàn ông cao cao trong một bộ quần áo đen, một bên mặt lóe lên trong đốm lửa giữa ánh trời sâm sẩm bỗng trỗi lên trong tôi một cảm xúc rất lạ. Cái khoảnh khắc ấy như một cánh chim vút qua, chưa kịp nhận biết đó là gì thì tôi đã trở về thực tại khi anh trở bước, và tôi cũng tiếp tục hướng đi của mình. Về phòng, tôi bật laptop lên nghe nhạc. Pha một ấm trà nóng, tôi đắm mình trong hương thơm của trà và lênh đênh của nhạc. Một đĩa nhạc hòa tấu của Trịnh Công Sơn, loại nhạc tôi thường nghe lúc một mình và hơi cảm trạng một chút. Bỗng có tiếng gõ cửa. Tôi đứng dậy, cửa mở, tôi ngỡ ngàng khi anh đứng đó, một nét cười và một giọng trầm:

- Anh vào được chứ?

- Dạ được, mời anh.

- Em đang nghe nhạc gì đấy?

Câu trả lời là một khoảng lặng im, anh kêu lên:

- Ô, em cũng thích nghe loại này à?

- Phải nói là mê mới đúng nghĩa.

- Ừ, thích thôi chưa đủ, phải mê mới chính xác.

Tôi rót mời anh tách trà. Anh nhấp một ngụm rồi mân mê ly trà trong tay, cả hai chúng tôi ngồi im để cảm thụ những giai điệu. May quá, nếu không phải là người đồng điệu thì tôi phải gián đoạn buổi nhạc của mình rồi. Đến bản nhạc Ướt Mi, anh khẽ kêu lên:

- Anh thích bài này lắm.

Như phụ họa, như đồng cảm, như đơm thêm chút lãng mạn, ngoài trời bỗng đổ cơn mưa. Không hẹn, cả hai chúng tôi nhìn nhau cười ngụ ý. Bản nhạc bật lại lần thứ hai, anh nhìn tôi, do dự một chút rồi nói:

- Nghe bài này, lại trong lúc mưa rơi... nếu trong một không gian bớt sáng đi một chút thì tuyệt quá.

Tôi ngần ngừ một chút, nhìn ra cánh cửa vẫn mở, ừ cũng có sao đâu. Tôi đứng dậy vặn cái nút đèn, ánh sáng trong phòng êm dịu hẳn. Trở lại chỗ ngồi, tôi cảm giác như mình đang lênh đênh trên một con thuyền dập dềnh giữa biển khơi. Anh lấy gói thuốc ra hỏi nhẹ:

- Anh hút thuốc được chứ?

Nếu là lúc khác chắc tôi sẽ lắc, nhưng lúc này, tôi chỉ có thể nhè nhẹ gật đầu. Một lần nữa, ánh lửa chập chờn trên gương mặt anh, lần này lại quá gần khiến hơi thở tôi như mạnh hơn, tôi phải nín thở để ép lại cảm xúc của mình. Trong khoảng sáng mờ mờ màu vàng sẫm, gương mặt anh trở nên huyền hoặc trong làn khói thuốc vờn quanh. Bản nhạc cứ bật lại, bật lại. Quả đúng là rất tuyệt, sự kết hợp các yếu tố thuận cảm làm nhấn thêm chút sắc thái, điểm thêm chút phong vị, nồng đậm thêm tính chất của bối cảnh. Rót một tuần trà mời, anh khẽ đưa chiếc tách cụng nhẹ vào tách của tôi. Ngụm trà thơm nóng cho tôi một cảm giác dịu nhẹ. Ngoài trời vẫn mưa, cánh cửa phòng vẫn mở, thêm một chút se se lạnh, ánh mắt chúng tôi chạm nhau, ấm áp và an lành. Một góc khác tâm hồn chúng tôi nhận ra nhau, cái góc ấy lặng hơn, trầm hơn, sâu hơn, và cũng thật hơn. Con người ta luôn có nhiều gương mặt, mỗi gương mặt mang một sắc thái tương ứng với từng cảnh huống khác nhau. Tôi và anh lúc này khác hẳn tôi và anh lúc chốn đông người. Thế cho nên, để hiểu đúng về một người không chỉ bằng vào một góc độ.

Chúng tôi cứ thế lặng im miên man theo dòng nhạc. Càng nghe càng thấm, càng thấm càng say. Nhưng rồi cơn mưa ngoài trời nhẹ hạt dần, một vài người đi qua ném cái nhìn tò mò. Tôi thầm tiếc sao cơn mưa không kéo dài thêm chút nữa. Có lẽ anh cũng vậy, đôi mắt anh thăm thẳm nồng nàn sau màn sương. Từng làn khói thuốc vẫn tỏa nhẹ từ đôi môi anh. Hơi thuốc cuối cùng, anh thở ra thật nhẹ, thật chậm, làn khói mỏng mảnh như sương bạc cứ vấn vít, vấn vít. Lại những bước chân và những tiếng nói vọng gần, anh nói trong một âm sắc thoang thoảng:

- Thôi, anh về nhé.

- Dạ, anh về.

Nhưng câu nói ấy như rơi vào một vùng mang mang vô ảnh. Tôi lại bật lại bản nhạc, không hiểu sao máy trục trặc, tôi phải bật sang bản khác, cũng là một bài của Trịnh "trên đời người cỏ lá hoang vu...", âm giai của bản nhạc cứ như nắm níu nắm níu. Một lúc sau, anh lại:

- Thôi, anh về.

- Dạ, anh về. Chúc anh ngủ ngon.

Anh vẫn chưa đứng dậy sau câu nói, và tôi, lại rót thêm một tuần trà. Lần thứ ba, anh không nói gì nữa, chỉ đứng dậy và chìa bàn tay ra trước tôi, tôi nhẹ nắm lấy tay anh, hai bàn tay riết lấy nhau, ấp lấy nhau như cố giữ lại một cái gì, nhưng cuối cùng chúng cũng phải tiếc nuối mà rời nhau. Anh quay đi, ra đến cửa còn gửi lại một ánh nhìn nồng ấm.

Tôi thẫn thờ đóng lại cánh cửa, rồi tắt máy, tắt đèn, ngồi bó gối trong màn đêm. Cứ thế chìm trong một thứ cảm xúc ngập tràn. Tận đáy lòng, tôi bồi hồi muốn nghe tiếng gõ cửa một lần nữa, nhưng tôi biết, sẽ không có, bởi vì nếu đã có thể khác, thì cánh cửa không phải mở ra đóng vào đến hai lần. Theo lịch trình, thì chiều mai là kết thúc cuộc hội thảo, một số đoàn đã nhộn nhạo cho sự trở về sau bữa tiệc chia tay ngày mai. Tôi và anh, ai sẽ dời chân trước? Và về sau...?

"Đêm qua em ngủ có ngon không? Đi uống cà phê với anh nhé".

Dòng tin nhắn dẫn tôi ra một quán cà phê, anh đã ngồi ở đó. Chút nắng sáng loe hoe dưới tàn cây. Cái mát dịu tinh tươm của buổi sáng tạo một cảm giác lâng lâng thanh thỏa. Chúng tôi nói về những câu chuyện cuộc sống, gia đình, xã hội, công việc, vẫn những câu chuyện như ngày hôm qua như ngày hôm kia, nhưng mắt vào mắt thì âm trầm một tiếng thầm thỉ. Khi rời quán cà phê để trở về phòng họp, anh đưa cả hai bàn tay nắm lấy bàn tay tôi. Giọng anh trầm xuống:

- Sau buổi sáng hôm nay là chúng ta phải chia tay nhau rồi, nếu còn nhớ đến nhau, thỉnh thoảng gửi một lời thăm nhau nhé.

Tôi mỉm cười gật đầu.

- Vâng, và hy vọng sẽ có ngày mình gặp lại nhau.

Bốn bàn tay lồng vào nhau siết chặt, rồi chúng tôi im lặng bên nhau suốt quãng đường về. Từ lúc ấy cho đến khi lên xe trở về, tôi không gặp lại anh nữa.

Thời gian đầu chúng tôi còn thi thoảng vài tin nhắn, vài cuộc điện, sau thưa dần, chủ yếu là do sự ngần ngại của tôi, vì biết đâu một chút mênh mang ấy sẽ trở nên sự rầy rà bất ổn, khi bị một cái nhìn lệch lạc hoài nghi. Cũng ngỡ khoảnh khắc ấy rồi cũng qua nhanh trong bao bề bộn đời thường. Nhưng không, cứ mỗi lần trời mưa và nghe bản nhạc Ướt Mi, thì trong tôi lại ngồn ngộn hiện rõ hình ảnh của buối tối hôm ấy. Trăm lần như một, tôi vẫn nguyên cái cảm xúc dạt dào, nao nuối, thao thiết về một bóng hình.

ĐÀM LAN

NGÀY XƯA

CON NGỖNG TÍM

NGUYỄN THỊ MÂY

Tôi lấy cây thước gạt mạnh trái banh. Nó lăn ra khỏi đáy tủ. Chợt nhìn thấy một cuốn sổ đầy bụi bám, tôi nằm rạp xuống kéo nó ra rồi mở dần từng trang giấy đã ngả màu vàng úa. Toàn là những con số. Chắc là sổ tính tiền của mẹ tôi! Một tờ giấy rơi ra. Tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy đó là một bức tranh vẽ bằng mực tím hình con ngỗng đang lội trên mặt ao. Hình vẽ đơn sơ nhưng sống động y như con ngỗng thật.

- Cái gì đó Dy?

Tôi giật mình nhìn lên. Ông ngoại tôi đã đứng cạnh từ bao giờ.

- Tranh con ngỗng nè ngoại!

Ngoại nheo mắt hỏi:

- Ai vẽ vậy?

Tôi đáp ngay, không chút do dự:

- Con vẽ đó!

Ánh mắt ngoại sáng lên xen lẫn nét giễu cợt:

- Con vẽ hồi nào vậy?

Tôi ấp úng:

- Dạ, lâu rồi. Bị lạc mất, bữa nay mới kiếm được.

Ngoại nghiêm nghị tiếp:

- Con coi chừng nhà! Ông ngoại đi chợ. Vẽ lại đi. Lát nữa về ngoại coi.

Bất giác, tôi rùng mình. Làm sao bây giờ? Chỉ vì ham được tiếng khen mà tôi lỡ nói dối. Làm sao vẽ được con ngỗng đẹp như vậy? Ngoại sẽ không bỏ qua đâu! Tôi nhớ lại chuyện cũ:

...Một hôm, được lãnh bảng danh dự hạng nhất mang về, tôi hãnh diện nói với chị Hai và thằng Út:

- Trong nhà nầy, em học giỏi nhất!

Đến trưa, ngoại lấy ra mấy củ khoai lùi. Bốn ông cháu ngồi ăn. Ngoại bỗng hỏi:

- Dy có thích nghe kể chuyện không?

Tôi nháy mắt với chị Hai và thằng Út:

- Dạ, con thích lắm! Ngoại kể cho tụi con nghe đi!

Ngoại nhìn ra khoảng sân chan hòa ánh nắng. Giọng ông trầm ấm, thu hút:

- Chuyện xảy ra tại một vùng đất xa xôi. Ở đó, người ta chuộng võ nghệ hơn văn chương, chữ nghĩa. Ai cũng tranh đua học võ. Hàng năm, nhà vua tổ chức đấu võ để tuyển chọn nhân tài. Người thắng cuộc rất vinh dự và được mọi người nể sợ.

Năm ấy, anh chàng thắng cuộc cũng được mọi người sợ như sợ cọp. Đi đâu hắn cũng huênh hoang: Ta đây Đệ nhất anh hùng! Thỉnh thoảng, hắn ra tay đánh đập những người làm trái ý để thị uy. Dần dần, những nơi hắn thường lui tới không còn ai dám bén mảng qua lại. Hắn bực lắm vì thấy mọi người dường như muốn xa lánh mình. Chợt nhớ đến ngày 23 Tết, đưa ông Táo, chợ đông người. Hắn cùng hai đứa học trò đi vào chợ. Vừa nhác thấy hắn, mọi người khép nép tránh ra cho hắn đi. Hắn càng thêm tự đắc. Nhưng kìa! Một ông lão nhà quê đang ngồi bó gối dựa lưng vào tường. Nét mặt ông rầu rầu, có lẽ vì mớ cau tầm dung ế ẩm trước mặt. Chẳng lẽ ông lão có trông thấy hắn ta mà ông vẫn ngồi yên không động đậy. “Đệ nhất anh hùng” bước tới, hách dịch hỏi:

- Cau ngon không?

Ông lão mừng rỡ đáp:

- Bẩm quan, ngon lắm!

- Ta thích cau thật cứng ăn mới dòn.

- Dạ, đây là loại “Cau Tầm Dung” trồng trên núi. Cứng lắm, bẩm quan.

- Để ta xem.

Hắn cúi xuống cầm một nhánh cau rồi lần lượt bóp nát từng trái. Mọi người kinh hoảng suýt soa còn hắn ta thích chí hét:

- Lão già láo thật! Cau mục mà dám nói cau ngon. Ta sẽ trị tội nhà ngươi.

Hắn ném mạnh buồng cau vào mặt cụ già. Ai cũng đinh ninh rằng ông lão sẽ bị trúng đòn. Nhưng, lạ lùng làm sao! Nhanh nhẹn chưa từng thấy. Bàn tay trái ông gạt mạnh buồng cau. Bàn tay phải ông thọc sâu vào bức tường nhẵn nhụi phía sau lưng và rút ra một viên gạch, trông dễ dàng như rút một lá bài trong bộ bài. Tiện tay, ông lão phóng thẳng viên gạch vào mặt tên hống hách. Ông nói lớn:

- Vậy nhà ngươi thử cắn viên gạch này xem nó có mục không?

Viên gạch đập mạnh vào miệng làm hắn bị gãy mất mấy cây răng. Máu chảy xuống cằm. Xấu hổ lẫn tức giận, hắn nhảy xổ đến định nắm tóc đánh cụ già. Nhưng ông ta đã né sang bên và vung tay bẻ quặt cánh tay hắn ra sau. Hắn kêu lên đau đớn. Hình như lúc này cả chợ đều quên mất việc mua bán mà bu lại xem đông nghẹt. Họ vỗ tay reo hò. Vài người khác ném khăn nón lên trời hoan hô. Ông lão nói:

- Từ nay, nhà ngươi nên nhớ câu “Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị”. Đừng ỷ tài hà hiếp nhân dân nghe chưa?

Rồi cụ đập mạnh một cái. Hắn té chúi nhủi xuống đất. Hai tên học trò lật đật tới đỡ hắn dậy rồi len lén cõng hắn dông mất. Từ đó, không còn ai trông thấy hắn nữa. Có lẽ vì nhục nhã nên hắn đã bỏ xứ ra đi.

Nhà vua hay chuyện nên từ ấy bãi bỏ việc đấu võ. Ngài ra lệnh cho dân phải học cả văn lẫn võ. Vì, người toàn diện phải có cả tài lẫn đức.

Ngoại kể đến đây thì tôi biết ngay là ông răn dạy mình. Tôi bèn hỏi:

- Câu nói của ông lão nghĩa là gì vậy ngoại?

- Ý ông lão muốn nói: Người giỏi thì có người giỏi hơn. Hôm nay con học được hạng nhất nhưng biết đâu tháng sau con hạng nhì hay tệ hơn nữa. Ngoại có đọc được câu này: “Những điều ta biết chỉ là giọt nước. Những điều ta chưa biết là cả một đại dương”. Con nên học thuộc câu đó, đừng khoe khoang mãi xấu lắm!

...Hôm nay, tôi lại phạm một khuyết điểm là đã nói dối ông. Tôi vò đầu bứt tai một hồi. Chợt tôi nghĩ ra một cách: quăng trái banh trở lại góc tủ và chạy đi rửa tay, xong tôi lấy ngay cuốn tập nháp với cây bút chì. Tôi tập vẽ.

Eo ơi! Con ngỗng đầu tiên của tôi trông chẳng khác nào con cò bị vặt trụi lông. Còn cái mỏ và con mắt thì nằm sát bên nhau. Trông nó thật tức cười! Tôi vội lật qua trang khác rồi vẽ con ngỗng thứ hai. Con ngỗng này có cái mỏ hơi giống nhưng cái đầu thì nhỏ quá! Lông nó dựng đứng như bị trúng gió độc. Hai mắt thì ti hí. Nó đang nằm ngâm mình dưới nước. Bực tức, tôi xé vụn tờ giấy. Thế rồi con ngỗng thứ ba, thứ tư,... đến con thứ mười thì ông ngoại đi chợ về.

Vừa đặt cây dù xuống bộ ván, ông cầm ngay cuốn tập nháp của tôi lên. Nhìn ánh mắt ông, lòng tôi tràn ngập một niềm vui khó tả. Ông nói:

- Con ngỗng này đẹp hơn con ngỗng hồi nãy.

Ông vuốt tóc tôi:

- Con ngoan lắm! Con không như những đứa trẻ khác không ham danh, ham tiếng mà giành lấy công lao của kẻ khác. Con có thể trở thành họa sĩ.

Ôi, ông ngoại tôi! Tôi xấu hổ rươm rướm nước mắt, không thốt nên lời. Có lẽ ngoại tôi muốn nhắn nhủ với tôi rằng, có làm thì mới có hưởng. Và, chắc ngoại tôi muốn an ủi tôi, chớ con ngỗng tôi vẽ làm sao đẹp bằng tấm tranh tôi đã lượm được. Nghĩ vậy, tôi liền nói:

- Sao con thấy con ngỗng nầy xấu hơn.

- Không đâu! Con ngỗng của con vẽ giống y như thật. Còn con ngỗng kia giống con ngỗng trời. Con nầy mập mạp, sắc lông mượt mà. Ngoại thích con ngỗng con mới vẽ hơn.

Thế là từ đó tôi mê vẽ. Ngoại đã khuyến khích tôi thật nhiều. Hôm tôi đưa hình cái chén mới vẽ ra, chị tôi ôm bụng cười, thắng Út ngây thơ hỏi:

- Anh vẽ cái thau hả?

Ngoại cười cười nói:

- Bậy nè! Cái chén đó, cái thau đâu có vẽ bông hoa như vậy. Cái chén nầy lớn đựng được nhiều cơm hơn chén thường.

Còn tấm hình con cá sấu, mẹ tôi nói:

- Dy vẽ con ếch giống ghê!

Cả nhà được dịp cười muốn vỡ bụng. Thấy tôi chực khóc, ngoại nói:

- Mẹ con không có cặp mắt thẩm mỹ. Nhìn phụng ra gà. Con đừng nản. Thử cho mẹ con vẽ coi. Chê thì dễ chớ làm thì biết. Con cứ cố gắng sẽ thành công.

Dy ngừng kể. Anh moi tìm hộp quẹt trong túi áo. Đốm lửa lóe sáng cho tôi nhìn thấy đôi mắt đượm buồn của anh. Anh nói tiếp:

- Tôi bắt đầu vẽ từ đó.

Tôi lên tiếng tìm hiểu:

- Bức tranh nào anh đắc ý nhất?

Dy nâng ly cà phê lên uống cạn. Trầm ngâm một lúc, anh chỉ cho tôi xem một bức tranh và nói:

- Hôm ấy, tan học về. Mới tới đầu ngõ, tiếng khóc, tiếng người xôn xao làm tôi lo sợ bàng hoàng. Tôi chạy nhanh vào nhà và trông thấy ngoại tôi đang nằm oằn oại trên bộ ván. Người xoa bóp. Người lo rang muối. Ông Tư, y tá ở cạnh nhà, đang lúi húi chà xát bàn chân của ngoại. Tôi bước tới, nghẹn ngào:

- Ngoại ơi, ngoại sao vậy?

Mẹ tôi vội đẩy tôi ra nói nhỏ:

- Đừng con! Đừng làm rối!

- Ông ngoại sao vậy? Tôi lặp lại câu hỏi.

- Ngoại trèo lên nóc nhà quét máng xối. Không biết sơ ý thế nào lại té xuống ngay hàng rào bị gãy chân, chảy máu đầu.

- Trời ơi! Biết có sao không?

- Chắc không sao! Nhưng mà đau lắm!

Tôi lui ra sau bếp, ngồi xuống ngạch cửa, nhìn ra sân. Ánh nắng cuối ngày gay gắt khác thường. Tôi nhìn trân trân vào cái hàng rào.

...Thì ra, bức tranh với đống gạch vụn và cái hàng rào bị gãy gục kia lại mang một kỷ niệm sâu sắc của Dy. Tôi lên tiếng hỏi, sau khi nghe Dy kể xong câu chuyện:

- Còn những đóa hoa hồng là sao?

- Đó là linh hồn của ông tôi!

Ánh mắt Dy chùng lại. Tôi hối hận quá. Phải chi tôi đừng tò mò. Nhưng biết làm sao? Không phải chỉ có mình tôi muốn tìm hiểu những gì ẩn náu sau những bức tranh của anh. Anh được mọi người mến phục. Tranh của anh có nội dung, đường nét lạ lùng, mới mẻ, gây nhiều cảm xúc đối với người xem. Tôi hỏi tiếp:

- Anh có học vẽ với ai không?

- Không! Ông ngoại tôi là người đầu tiên gieo vào lòng tôi niềm say mê nghệ thuật. Ông không dạy tôi cách vẽ. Nhưng, nhờ những lời khuyên răn của ngoại tôi mà tôi nghĩ ra rằng, sáng tạo và lòng say mê sáng tạo nghệ thuật sẽ giúp tôi tìm tới những giá trị đích thực ở đời.

Anh mỉm cười nhìn lên ngọn cây sao đong đưa trước gió.

NGUYỄN THỊ MÂY

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 14.3.2015........................... Vũ Thư Hữu .... 01

Vài điều nên biết về cuốn cổ thư 129 tuổi đời (1886) mang tựa đề là Hạm đội của Thủy sư Đô đốc Courbet của Đại úy Hải quân Maurice Loir ........................... Vũ Anh Tuấn .... 05

Ngược dòng (tt – kỳ 2) ...........................Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 09

Lợi ích của người tin Nhân Quả .......................... Tâm Nguyện .... 23

Á Nam Trần Tuấn Khải, Anh Khóa với những vần thơ nước non ............ Phạm Vũ .... 34

Đường đi có lối rẽ .......................................................................... Dương Lêh .... 45

Từ nhà lao Hỏa Lò “Khách sạn Hintơn Hà Nội”, đến tháp trung tâm ....... Bùi Đẹp st .... 51

Tản mạn về vọng cổ & đờn ca tài tử ............................... Phạm Hiếu Nghĩa ... 56

Phục thù .................................................................. Hoàng Kim Thư st .... 61

Giả sử… (thơ) ............................................................. Giáng Ngọc (G.Đ.) .... 68

Đức Giêsu (thơ) ................................................................... Bs Doanlinh .... 70

Con tàu (thơ) ....................................................................... Lam Trần .... 7 1

Câu thơ gửi bạn (thơ) .............................................................. Đàm Lan .... 72

Phụ Nữ ngày 8/3 (thơ) ....................................................... Thanh Châu .... 73

Một cung đường (thơ) ............................................................ Thanh Châu ... 73

Lời người xa xứ (thơ) ................................................... Lệ Hoa Trần Cali. .... 74

Sen hồng (thơ) ........................................................ Phạm Thị Minh Hưng .... 76

Tình ta đẹp tựa vần thơ (thơ) ......................................... Phạm Thị Minh Hưng .... 76

Thiên nhiên cuồng nộ (thơ) ................................................ Ngàn Phương .... 77

Tủi hờn (thơ) .................................................................... Ngàn Phương ... 78

Ảo vọng (thơ) ................................................................... Ngàn Phương .... 79

Em biết rồi đây có một ngày (thơ) ........................................ Kim Sơn ... 79

Bịnh tương tư (thơ) .............................................................. Lang Nguyên ... 80

Hai chữ Nhẫn Kiên (thơ) .................................................... Lang Nguyên .... 80

Tình Mẹ (thơ) ...................................................................... Lê Minh Chử .... 81

Ở trọ (thơ) ......................................................................... Trần Văn Hữu .... 82

Kể chuyện Áo quen xưa (thơ) ......................................... Thiếu Khanh .... 83

Bài ca con đường đi lên (thơ) ........... S.Đesheven-Viên & Thúy Toàn dịch .... 84

Trái tim biết nói (thơ) ...................................................... Lê Nguyên .... 85

Nơi viết tên anh (thơ) ............................................................ Lê Nguyên .... 86

Cả nhà Sơn ca (thơ) ....................................................... Phùng Chí Tâm .... 87

Anh về đúng giờ (thơ) ....................................................... Phùng Chí Tâm .... 88

Bữa đó (thơ) .................................................................... Thiếu Khanh .... 89

Dặn con (thơ) ................................................................. Trần Nhuận Minh .... 90

Recommendation to one’s child (thơ) ............................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 91

Từ OK trong tiếng Anh ............................................. Đào Minh Diệu Xuân st ... 93

Câu Lạc Bộ Giỡn Chơi ................................................................... Lam Trần .... 95

Lòng tốt kiểu Sài Gòn ................................................... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .... 99

Cách phát hiện camera quay lén trong khách sạn & nhà nghỉ ...... Đỗ Thiên Thư st .. 106

Kiện ai đây ? (kịch vui) ................................................. Huỳnh Thiên Kim Bội .. 109

Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (tt – kỳ 10) ............... Thanh Châu dịch thuật .. 118

Bão lòng ................................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .. 122

Mênh mang nhạc trầm .................................................................. Đàm Lan .. 129

Ngày xưa con ngỗng tím ....................................................... Nguyễn Thị Mây .. 134

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế