Hiện có 2 người xem / 2521108 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/7/2015

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Trong buổi họp hôm nay, để bắt đầu phiên họp Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã mời hai vị khách do cô Kim Sơn giới thiệu tự giới thiệu vắn tắt về mình, và rồi như thường lệ, ông đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn quý thư ông mới có. Cuốn đầu là một cổ thư bằng tiếng Pháp được xuất bản vào năm 1916 tức là đã là một sách cụ 99 tuổi đời. Cuốn sách khổ 8x14 phân mang tựa đề là Tiểu Tự Điển Những Chữ Khó Hiểu và Những Ngoại Lệ trong Pháp Ngữ (Petit Dictionnaire des Difficultés et Exceptions de la Langue Française) dày 573 trang, còn đang ở trong tình trạng khá tốt và toàn vẹn.

Thoạt gặp cuốn này, Dịch giả Vũ Anh Tuấn không cảm thấy hấp dẫn lắm vì ông đã có hai ba cuốn cùng loại rồi. Nhưng khi ông nhìn thấy mấy dòng chữ viết trên trang đầu sách và thấy một con triện và một chữ ký, được ký đè lên con triện, thì cuốn sách bỗng trở thành vô cùng hấp dẫn với ông: lý do đơn giản là cuốn sách có thủ bút, triện và chữ ký của ông cụ Vương Hồng Sển, một người chơi sách nổi tiếng. Ngoài lý do này, cuốn sách còn là một bằng chứng cụ thể về việc tủ sách của ông cụ Sển tan tác mỗi cuốn mỗi nơi thật là thê thảm. Và thế là tuy phải trả một giá hơi bị chém, nhưng ông vẫn vui vẻ ẵm cuốn sách về. Về nội dung thì cuốn sách rất quý giá đối với một người quen biết, và yêu tiếng Pháp (tuy không bằng tiếng Mẹ Âu Cơ) trên nửa thế kỷ như ông.

Cuốn thứ hai là một cuốn tân quý thư mới ra đời 7 năm trước (2008) do nhà xuất bản Thế Giới in, mang tựa đề là Anh Việt Tự Điển Văn Hóa Văn Minh Hoa Kỳ - đó là cái tựa bằng tiếng Việt, còn cái tựa bằng tiếng Mỹ thì chỉ vắn tắt là Dictionary of USA, mà chẳng thèm nhắc gì tới Văn Minh và Văn Hóa cả, thật là vui! Tuy không ham gì lắm, nhưng Dịch giả Vũ Anh Tuấn cũng thấy cuốn sách tương đối có giá trị cho việc tìm hiểu nước bạn Hoa Kỳ nên ông đã mua.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, anh Dương đã lên nói về đề tài mê tín dị đoan, và đề tài lên đồng cùng những điều kinh dị như chuyện xiên lình v.v…

Anh Dương nói xong, anh Phạm Vũ đã lên nói về hai nhạc sĩ có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng và được nhiều người ưa thích là Văn Cao và Phạm Duy.

Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Phùng Chí Tâm lên nói thêm một chút về chuyện lên đồng và ca tặng các thành viên một bài hát của Văn Cao.

Anh Phùng Chí Tâm hát xong, anh Nhựt Thanh lên nói chuyện thêm về mê tín đị đoan và về vấn để coi tướng số.

Sau khi anh Nhựt Thanh nói xong, cô Kim Sơn lên nói về việc đi thăm nhà bà Tâm Nguyện và thông báo về chuyện đi thăm Hồ Tràm vào ngày thứ ba 28 tháng Bẩy và mời các thành viên đăng ký tham dự.

Cuối cùng, anh Thanh Châu với tiếng hát át tiếng bom, đã lên hát tặng các thành viên bài Thiên Thai của Văn Cao.

Buổi họp rất vui và hào hứng này kết thúc vào lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU


VÀI CHI TIẾT VỀ MỘT CUỐN CỔ THƯ HAY MÀ ĐẸP

CỦA VĂN HÀO TÔ CÁCH LAN (Xcốtlen)(*)

Robert Louis Stevenson(1850-1894)

Tôi mua được cuốn quý thư này trong tủ sách của cụ Dương Minh Thới, một trong những người chơi sách thời danh ở Miền Nam. Tuy được người bán ưu tiên mời tới xem trước. Nhưng tôi cũng chỉ lựa được khoảng 20 cuốn và cuốn này là một trong những cuốn đó. Đây thực là một quý thư tuy chưa cổ lắm vì được in năm 1928 (hình như là bản đầu tiên được in ở Mỹ năm 1904), tuy nhiên tính tới nay thì cũng đã 87 năm tuổi rồi. Cuốn sách khổ 21x28 phân, có bìa cứng, và chỉ có 12 tờ tức là 24 trang (12 tờ vì mỗi tờ là 2 tờ ghép vào nhau thành 1 tờ có 2 mặt) nhưng được in bằng chữ cổ, có trang trí bằng hình ảnh có mầu và như thiếp vàng cực đẹp. Cuốn sách mang tựa đề là “Những Lời Cầu Nguyện Được Viết Ở Vailima” (Prayers written at Vailima) là ngôi làng trên đảo Samoa mà ông và bà vợ sinh sống cho đến ngày ông qua đời.

Trước khi kể tiếp về cuốn sách và nội dung, tôi xin nói vắn tắt qua về văn hào người Tô Cách Lan (một xứ ở phía Bắc nước Anh, hồi thế kỷ thứ 17 có tên là Calédonie) Robert Louis Stevenson. Ông sinh ngày 13/11/1850 và mất ngày 3/12/1894 khi mới 44 tuổi. Tuy chỉ sống một cuộc đời thật ngắn ngủi, nhưng ông đã để lại cho đời những tác phẩm bất hủ sẽ sống mãi với thời gian, đồng thời ông cũng là một trong 26 đại văn hào trên thế giới mà các danh tác của họ được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Tôi biết tới ông khá sớm vì trong tủ sách gia đình của cha tôi có cuốn Đảo Chôn Vàng (còn có tên là Châu Đảo) mà tên tiếng Pháp là “L’ile au trésor” và tên tiếng Anh là “Treasure Island”. Người mình có thể chỉ biết hai tác phẩm của ông là Đảo Chôn Vàng và Bác sĩ Jekill và Ông Hyde mà thôi. Tuy chết trẻ, nhưng ông là văn hào di chuyển nhiều nhất và đi du hành nhiều nhất. Năm 1890, 4 năm trước khi qua đời, ông có mua một mảnh đất 1600m2 tại đảo Samoa ở miền trung Thái Bình Dương và sinh sống tại đó một thời gian. Thậm và chí ông còn lấy tên (theo tiếng của dân trên đảo) là Tusitala có nghĩa là Người kể chuyện. Và cũng vì thời gian sinh sống với vợ trên đảo đó mà ông đã viết ra tác phẩm nói trên, mà tôi muốn nói tới hôm nay.

Cuốn sách chỉ có 12 tờ (mỗi tờ do 2 tờ gập làm 1), nghĩa là chỉ có 24 trang, và gồm có Phần Giới Thiệu do chính phu nhân của văn hào viết, cho biết là cư dân trên đảo có tục lệ, được áp dụng và thực hành rất triệt để, là tục lệ mỗi ngày toàn thể mọi người cùng nhau đọc các lời Cầu Nguyện hai lần, sáng và chiều, và có những lời cầu nguyện họ còn cùng nhau đọc thêm vào ban tối.

Sau phần Giới Thiệu, phần còn lại gồm 14 loại Lời Cầu Nguyện như dưới đây:

1.- Lời cầu nguyện xin được thành công trong mọi việc

2.- Lời cầu nguyện xin được các ân sủng

3.- Lời cầu nguyện vào buổi sáng

4.- Lời cầu nguyện vào buổi chiều

5.- Lời cầu nguyện thêm cho buổi tối

6.- Lời cầu nguyện khi mưa

7.- Lời cầu nguyện thêm khi mưa

8.- Lời cầu nguyện trước lúc tạm biệt

9.- Lời cầu nguyện cho bè bạn

10.- Lời cầu nguyện cho gia đình

11.- Lời cầu nguyện cho ngày Chủ nhật

12.- Lời cầu nguyện để sám hối

13.- Lời cầu nguyện để quên mọi niềm đau

14.- Lời cầu nguyện để niềm vui trở lại

Đây là những lời cầu nguyện mà văn hào Robert Louis Stevenson đã viết theo những nội dung của cư dân trên đảo. Người viết chỉ mới có thì giờ đọc lướt qua thì thấy đó là những lời cầu nguyện rất chân thành, rất mộc mạc, và rất tốt đẹp, Thượng Đế hay Chúa Trời nghe thấy chắc sẽ hài lòng lắm.

Cuốn sách thật đẹp và rất xứng đáng với danh hiệu quý thư của nó.

Người viết ngay lúc này đã “giã từ hai thứ dụng cụ đáng yêu là Anh và Pháp ngữ” nhưng chỉ giã từ chúng về mặt công việc thôi, trái lại sẽ còn sử dụng chúng ráo riết hơn bình thường để đọc cả ngàn cuốn sách hay mà anh ta chưa có thời giờ để đọc, và anh ta đã tự hứa với mình, là sẽ đọc hết các sách đó trước ngày… đi hành hiệp!

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN

(*) Hồi thế kỷ XVII Tô Cách Lan có tên là Calédonie


TRAO ĐỔI VỚI PHÓNG VIÊN BÁO CG&DT VỀ CUỘC TRƯNG BÀY

ĐỒ THỜ PHƯỢNG CÔNG GIÁO CỔ & XƯA

1. Pv.: Chào Cha, xin cha cho độc giả được biết đôi nét về cuộc trưng bày này?

§ Lm. Triết: Kể từ 2012, hằng năm Nhà Truyền thống Tổng Giáo phận Tp.HCM vẫn tổ chức những cuộc trưng bày những hiện vật văn hóa vật thể và phi vật thể thuộc hai nền văn hóa dân tộc và văn hóa Kitô giáo. Đây là mục tiêu của Nhà Truyền thống Giáo phận: sưu tầm, lưu giữ, bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc và Kitô giáo.

Đã có các cuộc trưng bày về “Những đóng góp của Giáo Hội Công giáo cho nền văn hóa dân tộc” qua những tác phẩm văn hóa Hán Nôm và Quốc ngữ từ thuở ban đầu khi Đức tin được đón nhận trên quê hương đất nước Việt Nam thân yêu; Hai cuộc trưng bày đèn cổ “Ánh sáng muôn dân”; Một cuộc trưng bày Tem Công giáo của nhà sưu tập Phêrô Nguyễn Chí Từ Uyên với chủ đề “Đức tin Kitô giáo”; Một cuộc trưng bày “Văn hóa liên tôn” do ban Mục vụ Liên tôn Tổng Giáo phận Tp.HCM tổ chức; Một cuộc trưng bày “Chum chóe cổ”.

Hiện nay là cuộc trưng bày “Đồ thờ phượng Công giáo cổ và xưa”. Song song cuộc trưng bày này thì có cuộc trưng bày hội họa của nhóm họa sĩ Công giáo dưới sự điều hành của nữ họa sĩ Maria Bùi Thị Thắm, nhóm có 9 họa sĩ trong đó có 3 nữ tu, chủ đề của cuộc trưng bày tranh là “Cuộc đời dâng hiến” đáp ứng yêu cầu mục vụ “Năm tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ và các cộng đoàn dâng hiến”. Về cuộc trưng bày “Đồ thờ Công giáo cổ và xưa” trong ngành khảo cổ người ta phân biệt các hiện vật cổ tức là đã có 100 năm tuổi trở lên (theo tiêu chuẩn VN). Hiện vật dưới 100 năm được xếp loại “xưa”. Cuộc trưng bày này có hơn 200 hiện vật được dùng trong phụng vụ và á phụng vụ Công giáo. Trước hết và chủ lực là các tượng ảnh Chúa, Đức Mẹ và Các Thánh.

1.1 Về chất liệu: Các ảnh tượng được làm bằng chất liệu đa dạng như bạc, đồng, các hợp kim, antimoine, gang, sắt, pháp lam (đồng tráng men), thủy tinh, đá, cẩm thạch, đất nung, thạch cao, gỗ… đặc biệt có loại thủy tinh mờ, tiếng chuyên môn gọi là “Etling” rất đẹp, rất quý và rất đắt.

1.2 Về niên đại: Đa số hiện vật có niên đại từ thế kỷ 18, 19 sang đầu thế kỷ 20.

1.3 Về xuất xứ: Các hiện vật có nguồn gốc từ Việt Nam, Âu châu (nhất là Pháp), Mỹ châu, Á châu.

1.4 Nói về các nghệ nhân Công giáo Việt Nam, trong bộ sưu tập có những hiện vật do những nghệ nhân Công giáo nổi tiếng Việt Nam. Từ đầu thế kỷ 20, đã sản xuất và cung cấp hai dòng tượng ảnh cho cả nước. Về tượng gỗ chúng ta có các tác phẩm của Phó Gia ở địa phận Bùi Chu: Đẹp, cân đối, đa số tạc theo phong cách Âu châu. Về đất nung chúng ta có các tác phẩm của Phó Túc ở địa phận Phát Diệm (tượng Chúa Giêsu là Vua cao hơn 10m ở giữa hồ trước Nhà thờ Đá Phát Diệm, tượng Thánh Phêrô, Phaolô trước Nhà thờ Đá do Phó Túc đắp vào năm 1925. Các tượng đất nung trên Dòng khổ tu Nho Quan cũng do Phó Túc làm…).

1.5 Những hiện vật mang tính hội nhập văn hóa rất xưa và rất đẹp:

- 2 bộ bát bửu gỗ vàng tâm sơn son thếp vàng.

- 1 bộ Thánh giá nến cao gỗ vàng tâm sơn son thếp vàng.

- Tủ thờ gỗ trắc, cẩn xà cừ các hình ảnh Công giáo cực kỳ tinh vi, tặng phẩm của bà Lành, con gái ông Hội đồng ở Bình Dương cho cha Phaolô Nguyễn Xuân Đĩnh, ngài nhường lại cho Nhà Truyền thống. Đây phải nói là một tủ thờ Công giáo cẩn ốc phong cách thuần Việt duy nhất và quý nhất tại Việt Nam, khó mà tìm được cái thứ hai.

- Các Thánh giá gỗ quý, cẩn ốc thật tinh vi.

- Hộp gỗ trắc cẩn ốc hình Thánh giá cho thấy đây là đồ dùng trong một gia đình Công giáo khá giả xưa.

- Chiếc mũ Tông đồ chế tác theo hình thức mũ tế nơi các đình làng, hội quán Việt Nam.

Trong dòng hội nhập văn hóa, Nhà Truyền thống còn một cỗ kiệu Kỳ An (kiệu Thánh Thể) bằng gỗ vàng tâm sơn son thếp vàng cực kỳ tinh xảo, hơn 100 năm tuổi được mua từ miền Hải Hậu, Bùi Chu. Hiện nay bị thất lạc, không biết nằm ở đâu. Đây là tài sản của Nhà Truyền thống chính tôi mua tặng, không phải của ai khác hay của một tổ chức nào. Thật đáng tiếc! Đặc biệt có bức tượng thuộc dòng gốm Biên Hòa cao khoảng 50cm, với đường nét thanh tú và mang tính hội nhập cao: Đức Mẹ mặc áo dài giống áo dài của phụ nữ Chăm (không phải váy Âu Mỹ), choàng khăn phủ từ đầu tới chân, hai tay nâng Chúa Hài Đồng lên khỏi đầu, dựa theo ý tưởng kinh Lạy Nữ Vương: “Xin tỏ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu” (Et Jesum benedictum fructum ventris tui Nobis post hoc exilium ostende). Mẫu tượng này ban đầu là của họa sư Lê Văn Đệ (họa sĩ xuất sắc của trường Mỹ Thuật Đông Dương, trở lại đạo Công giáo), sáng tác vào khoảng thập niên 1940 thế kỷ 20. Sau này nhiều lớp học trò làm lại, và đây chính là mẫu gợi hứng cho tượng đài Đức Mẹ Bãi Dâu (xem hình).

1.6 Trong cuộc trưng bày này có sự đóng góp của anh Antôn Nguyễn Ngọc Long, một tín hữu giáo xứ Nam Thái. Anh Long là hội viên trong Hội Cổ Vật Tp.HCM, anh sưu tập các ảnh tượng và đồ thờ Công giáo cổ và xưa, cỡ vừa và nhỏ. Anh đã có 3 tủ nhỏ những hiện vật như thế.

2. Đâu là điểm nhấn của cuộc trưng bày này?

Điểm nhấn là nét đẹp văn hóa Kitô giáo từ nghệ thuật điêu khắc, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sử dụng đường nét, chất liệu, mầu sắc để thể hiện sự thánh thiện của Chúa, Đức Mẹ và các Thánh làm thành bộ môn riêng biệt, được gọi là nghệ thuật thánh. Nhất là sự tinh vi, tế nhị trong văn hóa hội nhập (Kitô giáo hòa nhập với dân tộc).

3. Sứ điệp cuộc trưng bày này muốn gởi gắm?

Mọi người hãy hiểu biết, bảo tồn và phát huy nền văn hóa Kitô giáo, vì việc tôn kính ảnh tượng giúp khơi dậy, duy trì, củng cố và phát huy đức tin. Trong công thức làm phép ảnh tượng, chúng ta nghe đọc: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa không chê bác việc tạc vẽ ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các Thánh của Chúa, để mỗi lần con mắt thể xác chiêm ngưỡng những ảnh tượng đó thì mỗi lần chúng con cũng dùng con mắt ký ức để suy niệm các hành vi và đời sống thánh thiện của các Đấng mà bắt chước. Chúng con nài xin Chúa làm phép V và thánh hóa V các ảnh tượng này để tôn kính và tưởng niệm đến Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria mẹ Chúa Giêsu và các Thánh… Xin đoái thương ban cho những ai siêng năng tôn sùng cung kính trước những ảnh tượng này thì nhờ công nghiệp và sự che chở của các Đấng ấy, họ được Chúa ban ơn Thánh ở đời này và vinh hiển vĩnh cửu ở đời sau. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con – Amen”.

Lời nguyện làm phép của Hội Thánh nói lên tất cả công dụng, hiệu quả của việc tôn kính ảnh tượng Công giáo đối với đời sống đức tin của tín hữu. Đây là thông điệp chính mà cuộc trưng bày muốn gởi tới mọi người.

4. Phải mất bao lâu mới quy tụ được bộ sưu tập?

Mất hơn 20 năm, rong duổi từ Nam ra Bắc và cả những chuyến đi nước ngoài nữa.

Xin cảm ơn sự cảm thông, tinh thần chung tay xây dựng Nhà Truyền thống của mọi người, mọi nơi, cụ thể là các giáo xứ: Nhà thờ Đức Bà Sàigòn, Chợ Đũi, Hạnh Thông Tây, Thủ Đức, Thái Hòa, Phổ Hiền, Mẫu Tâm (Chí Hòa), Thánh Phanxicô Xaviê, Ngã Sáu (Chợ Lớn), Thủ Thiêm, Thị Nghè, Vĩnh Hòa… đã góp một số hiện vật.

5. Đến nay đồ thờ Công giáo có ý nghĩa thế nào đối với đời sống Kitô giáo tại Việt Nam?

Xưa cũng như nay, đồ thờ phượng Công giáo luôn giữ vai trò quan trọng trong phụng vụ của Hội Thánh và trong đời sống đạo hằng ngày của tín hữu. Định luật tâm lý “Nghe – Nhìn” thời đại nào cũng đúng, cũng cần áp dụng. Người ta vẫn nói “Trăm nghe không bằng một thấy” – Một thầy Dòng Chúa Cứu Thế đang tu chui ở Trung Hoa lục địa có lần đến với tôi nài nhượng lại mấy tượng ngà quý, thầy cho biết bên Trung Quốc vấn đề truyền giáo còn khó khăn, những ảnh tượng cổ đem về đặt trong một phòng trưng bày, các sinh viên ngoại đạo tới xem, nhân cơ hội tiếp xúc này, cắt nghĩa về Chúa, về đạo cho họ, như thế không vi phạm lỗi “truyền giáo bất hợp pháp”. Tượng ảnh cổ trở thành phương tiện truyền giáo tại những nơi còn khó khăn về tôn giáo, thật là tuyệt vời !

Giáo xứ Tân Sa Châu, ngày 27 tháng 07 năm 2015

TRƯỞNG BAN VĂN HÓA GIÁO PHẬN

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết


VIỆC TRUYỀN Y BÁT

LIÊN QUAN ĐẾN CÁCH HIỂU

ĐẠO PHẬT NHƯ THẾ NÀO?

Nhiều Phật Tử, nhất là Phật Tử bên Phật Giáo Nguyên Thủy hoàn toàn không biết gì về việc Truyền Y Bát trong Đạo Phật. Họ không hề thắc mắc hoặc có nghe thì xem thường, thậm chí còn bôi bác như một Cư Sĩ đã viết: “Không lẽ mỗi Tổ Sư chỉ sắm có một bộ y và một cái bát để dành chờ đến tuổi già giao phó lại cho vị Tổ khác, rồi trọn đời Tổ ấy mặc cái chi?” (Chọn con đường tu Phật, tr.117 - C ư Sĩ Trùng Quang). Đó là vì họ không hiểu được tầm quan trọng của việc Truyền Y Bát trong Đạo Phật được bắt đầu khi chính Đức Thích Ca trao cho Ngài Ca Diếp làm Tổ thứ I.

Hành động đó không đơn thuần chỉ là trao lại Bộ Y và Cái Bát như những người chỉ nhìn bên ngoài mà đánh giá, mà có một ý nghĩa rất thiêng liêng và quan trọng, nói lên là người Thầy, ngoài ấn chứng cho người đệ tử đã thông suốt đường lối của mình, còn giao quyền để thay mình mọi mặt. Nếu nói theo quy mô của một quốc gia thì Y, BÁT như ấn, tín của Vua cha truyền lại cho con hay người kế vị. Đó là vật quý báu nhất tượng trưng cho vương quyền mà người dân nhìn vào người giữ ấn tín biết đó là vị tân vương là người nối ngôi đúng theo luật pháp. Trong Đạo Phật, Y Bát là tín vật để người Phật Tử biết rằng đó là người đại diện cho Phật. Thấy Y Bát tức là thấy Phật, vì người giữ đã được chính thức trao quyền để cầm nắm Giáo Pháp cũng như Tăng Chúng. Người có Y Bát phải là người đã Chứng Đắc. Do đó, cũng phải được xem là Phật đương thời.

Từ Đức Thích Ca, Y Bát đã truyền xuống cho Ngài Ca Diếp. Người không hiểu con đường tu Phật thì thấy rằng đó chẳng qua là vì Ngài Ca Diếp là bậc Trưởng Lão, theo hầu Phật lâu năm, nên Phật giao cho Ngài cai quản Tăng Chúng cũng là điều bình thường. Đó là vì họ không biết rằng trong Đạo Phật có việc rất quan trọng là Chứng Đắc. Người Chứng Đắc phải đầy đủ cả hai: Lý và Hạnh. Thời Phật giảng dạy, trong nhóm đệ tử của Ngài lúc đó chỉ có mỗi Đức Ca Diếp là thông hiểu hoàn toàn Phật Pháp, cũng như Hạnh của Ngài không tỳ vết mới được giao cho. Ngài A Nan lúc đó dù thuộc pháp của Phật như “Nước trong bình đổ ra, không thiếu một giọt”, nhưng vì Hạnh của Ngài chưa tròn, nên Phật dặn Ngài Ca Diếp sẽ trao Y Bát lại cho Ngài sau đó.

Lịch sử chép lại việc Truyền Y Bát lần đầu tiên như sau: Trong một lần giữa đại chúng, Đức Thích Ca cầm cành Sen đưa lên. Trong khi đại chúng ngơ ngác không hiểu gì thì Ngài Ca Diếp mỉm cười. Chỉ vì cái cười đó mà Ngài được trao Y Bát, làm cho những thế hệ về sau bàn tán xôn xao. Hoặc chấp nhận mà không hiểu lý do tại sao. Có vị đặt cho nụ cười đó một cái tên nghe rất kêu: “Niêm hoa vi tiếu” mà không giải thích được cái cười đó mang ý nghĩa ra sao. Một trong những người không hiểu đó là Ngài Vô Môn. Ngài đã bàn trớt quớt như sau: “Nếu Ngài Ca Diếp không cười, thì Y Bát làm sao truyền? Nếu cả đám cùng cười thì Y Bát đủ đâu để truyền?” vì Ngài cho rằng do nụ cười đó mà được Truyền Y Bát, nghĩ rằng Ngài Ca Diếp đã cười đúng lúc! Vậy mà lý luận này cũng được bao nhiêu thế hệ tu hành truyền nhau để học tập!

Tuy nhiên, theo tôi, phải chăng từ bao đời cho đến nay chúng ta vẫn ca tụng Đức Thích Ca là toàn giác. Ca tụng trí huệ Ngài siêu đẳng. Phật Pháp là chân lý, là vi diệu, là bất khả tư nghì? Như vậy chẳng lẽ việc Truyền Y Bát là một việc vô cùng quan trọng, vì người được giao Y Bát sẽ cầm nắm vận mạng của Đạo Phật lại có thể dựa vào may rủi, tình cờ hay sao? Cho rằng chỉ vì cười đúng lúc mà được trao Y Bát, thì xin hỏi: Nếu không phải là Ngài Ca Diếp, mà một tên ngoại đạo, hay tên dở khùng dở điên nào đó, đang suy nghĩ chuyện gì khác, rồi cười vu vơ... chẳng lẽ Đức Thích Ca cũng sẽ trao Y Bát cho hắn? Đánh giá như thế khác nào bôi bác Đạo Phật? Vậy thì Trí Huệ của Đức Phật để làm gì? Một Giáo Pháp có vẻ thuyết phục, nói toàn chuyện thần thánh, cao siêu mà kết quả lại tầm thường như vậy liệu có đáng cho chúng ta tin tưởng theo học như hiện nay chăng? Không thể nói gì hơn là những người đánh giá như thế không hiểu chút gì việc Truyền Y Bát cũng như Chứng Đắc của Đạo Phật!

Tôi cũng từng được nghe những lập luận hết sức là mâu thuẫn của một người có tâm đạo rất lớn về việc Truyền Y Bát. Trong việc Đức Thích Ca truyền cho Ngài Ca Diếp thì ông bảo: “Ngài Ca Diếp đã theo hầu Phật nhiều năm, lại lớn tuổi, có uy tín, thì giao cho Ngài thống lãnh đồ chúng là quá đúng rồi”. Ông không đồng ý việc Tổ thứ Ba truyền Y Bát lại cho Tổ thứ Tư là Ưu Ba Cúc Đa, một thanh niên mới 20 tuổi, vào tu chỉ được có 3 năm, vì: “Còn trẻ quá, tuổi đạo lại chưa có, làm sao điều khiển Tăng Chúng, trong đó có những bậc Trưởng Lão”! Đến lượt Lục Tổ Huệ Năng thì ông cho là: “Y Bát giao cho người trẻ là đúng rồi. Vì Sư Thần Tú đã già, sống được bao lâu? Giao cho người trẻ sẽ hộ trì lâu dài hơn”!

Qua 3 lần chọn 3 người để trao truyền, chúng ta thấy: lúc thì già, lúc lại trẻ. Không thể đoán được vì sao. Nếu không nắm rõ lý do có khi chúng ta còn cho là do Tổ trước thiên kiến cũng nên. Nhưng nói rằng Tổ thứ Ba thiên kiến vì Ngài Ưu Ba Cúc Đa là đệ tử được kềm cặp riêng những 5 năm trước khi Xuất Gia làm thị giả cho Ngài. Vậy thì Ngũ Tổ làm sao thiên kiến, vì Lục Tổ Huệ Năng từ lúc vô Chùa không có lên nhà trước để gặp Ngài, chỉ ở nhà sau chẻ củi, giã gạo?

Người không hiểu về tiến trình tu hành theo Đạo Phật sẽ không khỏi hoang mang, không biết dựa vào đâu mà Tổ trước truyền Y Bát lại cho Tổ sau. Thậm chí các vị Trưởng Lão đã bất mãn tách ra để lập Trưởng Lão Bộ sau khi Phật Nhập diệt khoảng 100 năm, để hình thành Phật Giáo Nguyên Thủy ngày nay và không nhìn nhận Tổ thứ 3 cũng như tất cả các Tổ về sau có lẽ cũng vì thế. Trong khi đó, Đại Thừa đã có một nguyên tắc bất di bất dịch: Phải là người Chứng Đắc, tức là Thấy Tánh, mới được truyền Y Bát.

Người không biết thế nào là Chứng Đắc thì không thể hiểu được. Nhưng nếu chúng ta có đọc lịch sử 33 vị Tổ, phần viết về Tổ Ưu Ba Cúc Đa thì sẽ thấy: Tuy chưa Xuất Gia, nhưng qua 5 năm được Tổ Thương Na Hòa Tu kềm cặp, Ngài Ưu Ba Cúc Đa đã điều phục được cái Tâm qua việc chọn đá đen, đá trắng khi khởi Tâm xấu hay tốt. Đầu tiên đá đen nhiều hơn đá trắng. Kế đó là hai bên bằng nhau. Về sau chỉ còn toàn là đá trắng. Ngài cũng đã Thấy được cái Tâm hay cái Tánh qua đối đáp khi xin theo Tổ làm thị giả:

Tổ hỏi: Ngươi nay bao nhiêu tuổi?

Đáp: Bạch thầy, tôi nay 17 tuổi.

Hỏi: Thân ngươi được 17 tuổi hay Tánh ngươi được 17 tuổi?

Đáp: Bạch Thầy! Chẳng hay tóc trắng của Thầy đó là tại tóc trắng hay là Tâm trắng?

Tổ đáp: Tóc ta trắng chớ không phải Tâm ta trắng.

Ưu Ba Cúc Đa thưa tiếp: Bạch thầy. Tôi đây cũng vậy. Thân tôi được 17 tuổi chớ không phải Tánh tôi 17 tuổi.

Lục Tổ Huệ Năng cũng thế. Ngài đã THẤY TÁNH trước khi đến gặp Ngũ Tổ, Kinh viết:

Lần đầu Ngài Huệ Năng đến chùa Huỳnh Mai. Khi vào làm lễ, Ngũ Tổ hỏi:

Người là người ở phương nào, muốn cầu việc chi?

Ngài Huệ Năng đáp: Đệ tử là dân huyện Tân Châu, xứ Lãnh Nam, thiệt ở phương xa đến đây, lạy Tổ Sư, chỉ cầu Thành Phật chớ chẳng cầu chi khác.

Tổ Sư nói: Người là người xứ Lãnh Nam, lại là giống man rợ, thế nào thành Phật được.

Ngài Huệ Năng trả lời: “Con người tuy phân có Nam, Bắc, chớ Phật Tánh vốn không có Nam, Bắc. Cái thân man rợ này đối với Hòa Thượng tuy chẳng giống nhau, cái Tánh Phật nào có khác”.

Rõ ràng Lục Tổ Huệ Năng đã thấy, đã biết cái TÁNH trước khi vô Chùa. Đã biết rằng Thân mỗi người dù có khác nhau, nhưng Tánh Phật không khác. Điều này có lẽ làm cho nhiều người ngạc nhiên, không thể tin là có chuyện chưa tu học ngày nào mà đã Thấy Tánh như thế. Nhưng ai đã tin Đạo Phật thì cũng phải tin Nhân Quả. Mà đã tin Nhân Quả thì cũng phải tin có Luân Hồi, vì đó là nơi để Nhân Quả “thi hành án”.

Đọc những truyện kể về Phật, ta thấy nhiều vị Đại Đệ Tử của Ngài đã phát tâm trở lại để hộ trì Chánh Pháp, và Kinh cũng viết: “Chư Phật ba đời không nhàm chán xác thân”, vì nếu không làm một con người bình thường, sống chung với mọi người thì làm sao để hướng dẫn cho con người. Do vậy, việc trở lại của các vị Giác Ngộ để hộ trì Chánh Pháp chẳng phải là điều gì mới lạ. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong Sử 33 vị Tổ, nhiều vị đã nhiều tuổi còn chưa biết đi, biết nói. Lúc gặp Tổ đến mới nói, thời gian sau đó là nhận Y Bát. Có vị còn đang say sưa, cặp nách bầu rượu. Có nghĩa là các Ngài là người quay trở lại. Những gì cần học, cần hiểu đã xong ở kiếp trước, nên chỉ cần có người nhắc khẽ là họ nhớ lại ngay.

Phải chăng chúng ta đều chấp nhận rằng chỉ người đã ra khỏi rừng Mê mới biết lối mà hướng dẫn cho người sau? Đời cũng không khác. Chỉ những người thông thạo đường lối, hay ngành nghề nào đó mới có thể chỉ dạy lại cho người sau. Cũng giống như người đã học xong môn gì đó, nhưng bỏ quên, đến lúc có người nhắc là lập tức nhớ lại. Còn với những người mới bắt đầu học ở hiện kiếp thì có thể cần thêm một thời gian. Do đó chúng ta không lấy làm lạ khi các vị Trưởng Lão, hay Sư Thần Tú, dù tu học rất nhiều năm mà vẫn chưa Thấy Tánh, so với một người mới vào tu có 3 năm như Tổ Ưu Ba Cúc Đa hay với Lục Tổ Huệ Năng, mới chân ướt chân ráo, vô chùa còn chưa kịp Quy Y, thế phát!

Hẳn chúng ta đều đồng ý rằng không phải tất cả những người học cùng trường, cùng lớp, cùng Thầy đều tốt nghiệp như nhau? Trong việc tu học cũng thế. Không phải ai theo tu học với Phật ngày xưa đều Đắc Đạo. Người chưa “Đắc Đạo” bản thân chưa biết rõ con đường. Chưa hiểu phải làm gì tiếp theo. Kết quả cuối cùng ra sao? Thì làm sao hướng dẫn cho người khác? Từ ngàn xưa đến nay vẫn thế. Do vậy, mà Đức Thích Ca đã phải TRUYỀN Y BÁT cho người kế nhiệm. Cho nên, chỉ những người không hiểu hết về Đạo Phật và những diễn tiến của con đường tu Phật mới cực lực phản đối việc Thấy Tánh và Truyền Y Bát, cho rằng chỉ cần tu lâu năm, học đủ bài vở, lễ nghi và cách thức tu hành là có thể truyền lại cho đệ tử!

Nhưng Tánh là gì? Thấy Tánh là thấy cái gì? Liên quan gì đến việc Chứng Đắc của Đạo Phật? Điều này e rằng không thể chỉ bằng một vài câu mà có thể diễn tả hết được, mà có cả một trình tự theo hướng dẫn của Đạo Phật chúng ta mới có thể mường tượng ra.

Nhiều người tu Phật mà không biết Tánh là gì? Liên quan đến việc tu hành như thế nào? Nhưng đọc Pháp Bảo Đàn Kinh, ta thấy Lục Tổ chỉ rất rõ ràng khi các đệ tử của Ngài hỏi: “Hòa Thượng để lại Giáo pháp gì khiến cho những người mê muội đời sau đặng thấy Phật Tánh?”.

Lục Tổ dạy: “Chúng người hãy chú tâm nghe cho rõ. Những người mê muội đời sau, nếu biết cái Tâm Chúng Sanh tức là thấy đặng Phật Tánh. Bằng chẳng biết Cái Tâm của chúng sanh thì muôn kiếp tìm Phật ắt khó gặp. Nay ta dạy các ngươi phải biết Chúng Sanh ở Tâm mình thì thấy Phật Tánh ở Tâm mình. Muốn cầu thấy Phật thì phải biết Cái Tâm Chúng Sanh. Chỉ vì Tâm Chúng Sanh làm mê muội Tánh Phật, chớ chẳng phải Tánh Phật làm mê muội Tâm Chúng Sanh. Nếu Tánh mình giác ngộ thì Chúng Sanh là Phật. Bằng Tánh mình mê muội thì Phật là Chúng Sanh. Tánh mình bình đẳng thì Chúng Sanh là Phật. Tánh mình tà hiểm thì Phật là Chúng Sanh. Nếu Tâm chúng ngươi hiểm khúc tức là Phật ở trong Chúng Sanh. Một niệm bình đẳng, ngay thật, tức là Chúng Sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật. Phật ở Tâm mình mới thiệt là Chơn Phật. Nếu tự mình không có Tâm Phật thì tìm Chơn Phật ở nơi nào? Cái Tự Tâm của chúng ngươi là Phật, chớ khá hồ nghi”.

Tu Phật nếu không phải để Thành Phật thì tu làm chi? Tu Phật mà không biết phải làm thế nào để Thành PHẬT thì làm sao để thành? Phật thì phải “Độ tận Chúng Sinh” mới thành. Nếu không biết Chúng Sinh là gì? Ở đâu? Thì làm sao mà “Độ”? Muốn tiến bước trên con đường Thành Phật thì phải phân biệt được giữa Chúng Sinh và Phật, vì Phật là do Chúng Sinh “Độ” mà thành. Phật và Chúng Sinh là hai tình trạng của ý thức. Khi MÊ thì là Chúng Sinh. Khi Ngộ thì Chúng Sinh thành Phật. Người chưa minh định được những điều căn bản này thì tu như thế nào? Về việc thành PHẬT cũng thế. Do người đời hiểu lầm PHẬT là một vị thần linh, cho nên không thể tưởng tượng một ngày nào mình có thể Thành Phật được, và cho rằng người nào dám khởi tâm muốn Thành Phật là Tăng Thượng Mạn!

Cũng do Đức Thích Ca ngày xưa thấy người đời quá bám vào trần cảnh rồi tranh giành nhau, gây đau khổ cho kiếp sống, nên đã dùng phương tiện quá nhiều. Ngài đã mô tả những Cảnh Phật, những vị Phật với hào quang chói lóa, những Nước Phật với Bảy Báu chất đầy, mục đích là làm cho họ thấy những điều tốt đẹp rồi vọng về đó mà bớt đi những mê đắm của cải, vật chất trần gian rồi ngưng tranh giành, tàn sát nhau làm cho kiếp sống không yên ổn. Bởi chính những việc tranh giành đó tạo ra những ác nghiệp, để kiếp hiện tại, bản thân người tạo Nghiệp và chung quanh đều phải khổ và những kiếp về sau lại phải Trả Nghiệp, lại càng Khổ hơn. Thế rồi người đời không chịu tìm hiểu thêm, cứ tin đó là thật, để sinh ra một số người bỏ hết việc đời, chuyên chú tụng Kinh, Niệm Phật để mong được về Tây Phương Cực Lạc, bỏ quên cuộc sống hiện tại với trách nhiệm của một con người đối với bản thân, gia đình và xã hội.

Theo Đại Thừa thì từ PHẬT chỉ để nói về tình trạng an ổn, thanh tịnh, giải thoát khỏi phiền não của những người Xả được Cái Tâm của họ thoát khỏi những chấp nhất, dính mắc vào cuộc đời giả tạm mà thôi. Không phải là thần linh. PHẬT chỉ có nghĩa là GIẢI THOÁT. PHẬT TÁNH là cái TÁNH GIẢI THOÁT. TÁNH này mọi người đều sẵn có, chỉ cần khai thác, phát huy mà thôi. Không phải làm điều gì mới mẻ hay cầu xin ai ban cho. Nói rằng PHẬT có thể “cứu độ cho Tam Thiên Đại thiên Thế Giới”, vì trong mỗi người chúng ta lúc nào cũng chứa đầy THAM, SÂN, SI, gặp pháp nào đến là lập tức những tư tưởng nhiễm những thứ đó tuôn ra ào ạt gọi là “trùng trùng duyên khởi”. Người tu Phật là người phải cứu độ cho hết chúng mới thành tựu con đường tu hành. Nếu chúng ta chưa biết Chúng Sanh mà Phật đã “Độ” là những gì? Phải làm thế nào để “Độ”? Thì làm sao bắt chước Phật để được như Ngài? Đó là lý do mà ta thấy rất nhiều người tu hành nhưng cứ loanh quanh tôn thờ, phụng sự cho Phật, không bao giờ dám nghĩ rằng có ngày mình cũng sẽ được như Phật.

Thời xa xưa cách đây đã mấy ngàn năm mà Đức Thích Ca đã quán sát thấy rằng tư tưởng trong Tâm mỗi con người cứ khởi, diệt không dứt, và Ngài đặt tên là Chúng Sinh. Gần đây, theo những nhà nghiên cứu về tư tưởng của Úc, thì mỗi ngày, mỗi người sản xuất khoảng 50.000 tư tưởng. Điều đó cho ta thấy trí hiểu biết của Đức Thích Ca đã đi trước con người gần 3.000 năm! Do tư tưởng mà sinh ra hành động. Tư tưởng thì xuất phát ở Tâm. Nhưng đa phần thì xấu nhiều hơn tốt. Do vậy mà người Tu Phật được dạy phải nhắm vào Tâm của mình mà hành trì, mà Điều Phục những tư tưởng xấu xa độc ác mà Phật gọi là Chúng Sinh đó, cho nó bỏ đi những toan tính, suy nghĩ Ác, hướng về điều THIỆN. Việc làm đó Phật gọi là “Cứu độ cho Tam thiên Đại Thiên thế Giới”.

Có hiểu về CHÚNG SINH như thế, mới hiểu vì sao “Nước Phật chứa đầy Bảy Báu”, hay “Chúng Sinh cúng dường châu báu cho Phật” trong ý nghĩa là người tu hành XẢ hết những chấp nhất của mình đã ôm giữ từ vô lượng kiếp đến nay để được Giải Thoát. THÂN có Ba Nghiệp là Tham, Sân, Si. Khẩu có Bốn Nghiệp là Nói láo. Nói lưỡi đôi chiều. Nói khen mình. Nói chê người. Xả được 7 thứ này thì Phật gọi là BỐ THÍ BẢY BÁU. Nói rằng BÁU, là vì mọi người ôm giữ, không chịu xa rời, giống như người giữ của quý. “Viên trân trâu có giá trị liên thành”, “xâu chuỗi”, “viên châu có giá trị trăm ngàn lượng vàng”, “dinh thự, lâu đài”, “kiệu cáng, thành quách, vợ con”… cũng chỉ để nói về những thứ mọi người đeo mang, quý trọng, ôm giữ, yêu thích, trụ chấp, trú ngụ trong đó. CÚNG DƯỜNG CHO PHẬT có nghĩa là XẢ hết những thứ đó để được Giải Thoát, không phải cúng cho tượng hay cho Phật nào bên ngoài.

Kinh dạy: “LY KINH NHẤT TỰ ĐỒNG MA THUYẾT. Y KINH GIẢI NGHĨA TAM THẾ PHẬT OAN” Rời Kinh một chữ thì đồng với thuyết của ma, mà Y theo chữ trong Kinh mà giải thích thì làm oan cho Chư Phật Ba Đời. Bởi ngày xưa, chư Đệ Tử của Phật cũng là người xuất gia tu hành, làm gì có dinh thự, lâu đài, trân châu mà cúng cho Phật để được Thành Phật? Nếu thật sự ai có những thứ của cải đó mà muốn Thành Phật đều phải Cúng cho Phật, thì khác nào Vua quan thời nay nhận hối lộ để cho thăng quan, tiến chức? Người hiểu như vậy phải chăng là bôi bác Đức Thích Ca và Đạo Phật? Chúng ta thử nhìn lại những gì được mô tả về Phật lúc sinh thời để thấy: Nếu Phật nhận được của cúng nhiều như vậy tại sao Ngài vẫn phải mặc Y bằng vải liệm thi và ngụ ở cội cây hay ở trong rừng? Phật cũng không có cất Chùa, vậy những của cải đó, nếu nhận, Phật cất dấu ở đâu? Chẳng lẽ mang về Tây Phương Cực Lạc để ở đó? Nhưng Tây Phương Cực Lạc thì Vô Tướng, dụ cho cái Tâm thanh tịnh của người tu thì làm sao mang vật chất hữu vi cất vô đó được?

Nhưng nếu việc tu hành chỉ là SỬA CÁI TÂM, sao người tu Phật được bày vẽ nhiều việc đến như thế? Nào là VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, TỨ DIỆU ĐẾ, BÁT CHÁNH ĐẠO. Buộc người tu phải giữ GIỚI. Thậm chí muốn tu hành thì phải Xuất Gia, Cạo Tóc, Đắp Y, không được dính dáng đến các việc thế gian? Rồi không chỉ VĂN-TƯ-TU, Đạo Phật còn đòi hỏi phải có GIỚI-ĐINH-HUỆ. Giới đầy đủ, Định không lay động, nhưng nếu không có HUỆ thì GIỚI, ĐỊNH đó chỉ có giá trị như một người có đạo đức mà thôi, không đưa người đó đến CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT được?

Hẳn chúng ta đều đồng ý là không thể có một ai mới nghe giảng vài câu thì đã hiểu, đã chấp nhận, đã thâm nhập. Do vậy, buổi đầu bắt buộc phải có một số hình thức để đưa người tu vào khuôn phép. Nếu trước kia họ quen sống trong buông lung, tự do hành động, tự do suy nghĩ thì bắt đầu vào tu là phải giữ GIỚI để hạn chế bớt chạy theo sự điều động của cái Thân. Nhưng buổi đầu, dù bớt được phần nào, nhưng do bị ép buộc, không phải tự nguyện. Vì thế, Đạo Phật hướng dẫn cho người tu cách suy nghĩ, tìm hiểu về điều họ cần phải xa lìa. Khi rõ những tính cách của nó thì không cần ép buộc, đương nhiên họ cũng sẽ bỏ. Đó là lý do vì sao phải Quán Sát, Tư Duy, phải hành theo Bát Chánh Đạo. Vì không Chánh Tư Duy làm sao có Chánh Kiến? Nếu đã không có Chánh Kiến thì làm sao hiểu rõ Nhân Quả để có thể nuôi mạng bằng nghề chân chánh, và luôn ý thức để tinh tấn trên con đường tu hành. Lúc nào người tu cũng phải phải dẹp bỏ những tà niệm, tạp niệm để tâm trí luôn thành tịnh. Lời nói cũng phải chân chánh để người nghe không bị nghi ngờ thì tương lai mới có thể làm lợi ích cho Đạo. Tóm lại mục đích của 8 con đường Chánh này là để người hành theo luôn giữ gìn THÂN, KHẨU và Ý được thanh tịnh. Hơn nữa, Đạo Phật đâu có cần những người mê tín. Nói gì cũng tin. Nếu vừa Nghe đã Tin thì đó đâu phải là người sáng suốt. Vì thế mỗi điều ta Nghe cần phải suy nghĩ (Tư Duy) để xem đúng, sai như thế nào rồi mới hành theo. Do đó, GIỚI-ĐỊNH- HUỆ. VĂN-TƯ-TU là sáu căn bản không thể thiếu cho người muốn đi theo Phật Đạo.

Dù đường lối tu hành, được Phật sử dụng rất nhiều phương tiện, nhưng một khi đã tìm hiểu rõ thì rất là đơn giản: Mọi việc chỉ do TÂM. “Vạn Pháp duy Tâm tạo”. Vì thế, người tu chỉ cần tìm Tâm, thấy được nó rồi thì chuyển Vọng Tâm thành Chân Tâm. Do đó mà Tu Phật được gọi là TU TÂM. Kết quả là được Thoát Khổ.

Nhưng muốn TU TÂM thì phải biết Phật gọi cái gì là TÂM? Nó ở đâu? Nó đã làm gì để phải TU? Tu như thế nào mới đúng Chánh Pháp? Vì thế mà cần phải TƯ DUY. Không Tư Duy thì làm sao có sự hiểu biết? Nếu thiếu hiểu biết thì có thể ta sẽ phí thì giờ vào những chuyện vô ích. Điều đó cũng giống như Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “Cũng giống như người muốn đào giếng, lại lên gò cao mà đào. Cho dù họ có kiên trì bao nhiêu, tốn rất nhiều công sức, nhưng vẫn không có được nước”. Kinh Đại Bát Niết Bàn dạy: “Dù có người trải qua vô lượng vô số kiếp chuyên tâm thính pháp. Nhưng nếu không Tư Duy thì không thể đạt Vô Thượng Bồ Đề”. Chính nhờ Tư Duy mới sinh Trí Huệ. Đời cũng như Đạo đều thấy: Không phải chỉ là chuyên cần, gắng sức là đủ để thành công. Do đó, Đạo Phật dạy phải có TRÍ HUỆ, để biết rõ, nắm vững phương tiện sau khi đã hiểu được Mục Đích của Đạo.

Lý lẽ của Đạo Phật dù đã được thuyết cách đây cả mấy ngàn năm, nhưng đường lối, cách thức đều thực tế, không mơ hồ, không ảo tưởng, không suy diễn. Lý thuyết và thực hành đều tương ứng, hỗ trợ cho nhau, vì thế được gọi là Chân Lý. Đạo Phật quan niệm rằng đời là Bể Khổ, “Hữu thân, hữu Khổ”. Do vậy muốn Hết Khổ hay Thoát Khổ phải hiểu do đâu mà con người phải KHỔ, rồi tìm cách tháo gỡ. (còn tiếp)

TÂM NGUYỆN


Phụ Bản I

Về tác giả

Constantin Mikhailovitr Staniucovitr

( 1843-1903)

Constantin Mikhailovitr Staniucovitr là nhà văn Nga, con trai của Thủy sư Đô đốc M.N. Staniucovitr. Từ năm 1857 đến năm 1860, ông học trường Võ bị hải quân ở Sankt-Peterburg. Từ 18/10/1860 đến tháng 04/8/1863, tham gia chuyến viễn du vòng quanh thế giới. Ông xuất phát từ Cronstadt tháng 10/1860 trên các tàu tuần phòng hạm Calevala chạy bằng chân vịt với tư cách là học viên khóa tốt nghiệp trường Võ bị, và trở về Peterburg ngày 28/9/1863 lúc này đã là Chuẩn úy hải quân, giao thông viên của chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương, được cử mang những giấy tờ khẩn cấp từ Thượng Hải về để trao cho người phụ trách bộ Hải quân.

Sở dĩ C.M.Staniucovitr được tham gia cuộc viễn du đại dương này là do có yêu cầu đặc biệt của giám đốc trường Võ bị Hải quân, Thiếu tướng hải quân S.S Nakhimov; ông này được bố của nhà văn tương lai khẩn cầu vì rất lo lắng khi thấy con trai mình muốn rời bỏ quân ngũ để chuyển sang trường đại học. Chuyến viễn du đã đóng một vai trò quan trọng trong số phận nhà văn của C.M.Staniucovitr. Chuyến đi bắt đầu trên tuần phòng hạm Calevala do thượng úy V.F.Davưdov chỉ huy, thượng úy này là con người có những quan điểm tiến bộ. Sau khi tới Vladivostoc, C.M.Staniucovitr mắc bệnh sốt rét và phải nằm ở trạm quân y địa phương hơn ba tháng. Sau khi xuất viện, từ tháng 11/1861, ông phục vụ trên tuần phòng hạm Người Nhật chạy bằng chân vịt; còn từ giữa tháng 6/1862 đến 11 tháng giêng năm 1863 phục vụ trên tàu buồm cao tốc Arbec, sau đó được cử sang Nam Kỳ, tới Sài Gòn trên chiếc tàu buồm cao tốc chạy bằng chân vịt Gaidamac, chiếc tàu này thường chạy ven bờ biển Trung Quốc, Nhật Bản và trên sông Amur. Trên chiếc tàu cuối cùng này, C.M.Staniucovitr phục vụ từ ngày 18/2/1863 đến ngày 10/7/1863.

C.M.Staniucovitr đã ở Nam Kỳ khoảng một tháng, tức là từ giữa tháng 1 đến giữa tháng 2 năm 1863, với nhiệm vụ được giao là miêu tả tỉ mỉ Sài Gòn và tình trạng của người Pháp và quân đội của họ ở đây. Trong thời gian của chuyến công tác này, C.M.Staniucovitr đã nhiều lần tới tỉnh Bà Rịa cùng với những đoàn quân thảo phạt của Pháp được phái đi để chinh phục những người An Nam.

Thúy Toàn

(Vào Internet bạn phải tìm KONSTANTIN STANIUKOVICH)

Con CỘC

K.Staniukovich

I

Vào một buổi sáng tuyệt đẹp vùng nhiệt đới tại vũng tàu Xanhgapo, nơi hạm đội Thái Bình Dương của Nga, di chuyển trong những năm 601 đến hội quân, viên sĩ quan trưởng mới được bổ nhiệm, nam tước Phon der Bering, một người đàn ông tóc hung, người xương xương cao lênh khênh và nghiêm chỉnh khác thường, tuổi chừng ba mươi nhăm, với sự hộ tống của thủy thủ trưởng Gordeev, trong lần đầu tiên đi kiểm tra hải phòng hạm “Mogutsii” 2, đã sục sạo vào mọi ngóc ngách kín đáo nhất trên tầu. Chuyển từ tầu ba buồm “Golub” 3 theo bố trí của thủy sư đô đốc, chỉ mới tối hôm qua về hải phòng hạm “Hùng tráng”, bây giờ nam tước đi làm quen với hải phòng hạm.

Mặc dù ý muốn của viên nam tước cố chấp với tư cách là “cây chổi mới” phải xét nét bẻ hành bẻ họe một điều gì đó, điều đó hóa ra tuyệt đối không thể làm được. Hải phòng hạm “Mogutsii”, đã hai năm ròng tiến hành cuộc viễn du vòng quanh thế giới, được giữ gìn một cách kiểu mẫu và bóng lộn từ trên xuống dưới bởi vẻ cực kỳ sạch sẽ. Không phải ngẫu nhiên mà vị sĩ quan trưởng trước đây, Xtepan Xtepanovich, vừa được cử làm chỉ huy một trong những con tầu ba cột buồm, được cả các sĩ quan cũng như mọi thủy thủ yêu quý gửi trọn tâm hồn chất phác vào công việc để làm sao hải phòng hạm “Mogutsii”, như Xtepan Xtepamovich gọi, phải là một mẫu “đồ chơi”, mà bất cứ một thủy thủ am hiểu công việc nào cũng đều phải ngắm nghía chiêm ngưỡng. Và quả thực như vậy, ở tất cả các bến cảng mà con tầu ghé thăm, người ta đều trầm trồ chiêm ngưỡng “Mogutsii”.

Bằng bước đi chầm chậm, pha chút uể oải, xuống thăm boong dưới nơi ở, nam tước Bering bỗng chững lại ở buồng thủy thủ và chỉ ngón tay trỏ dài, trắng trẻo của mình, trên đó lấp lánh chiếc nhẫn có mang gia huy của dòng họ lâu đời các nam tước Kurliand. Ngón tay này chỉ chú chó to đùng lông vàng bù xù đang say sưa ngủ, duỗi dài cái mõm xấu xí, hầu như không hề là thuần chủng của mình, trong một góc khuất nẻo và mát mẻ nơi ở của thủy thủ. Sau một hai giây yên lặng một cách đắc thắng, nam tước cất tiếng hỏi, giọng oai vệ và nghiêm khắc:

- Đây là cái gì vậy?

- Con chó, thưa đức ông - Thủy thủ trưởng vội trả lời, nghĩ rằng viên sĩ quan trưởng không nhận ra chú chó trong góc tối của phòng thủy thủ, cho là một vật gì đó khác chăng.

Nam tước dằn giọng bình thản nói, giọng không lên cao:

- Đồ ngu. Tôi cũng nhìn thấy con chó, chứ không phải búi giẻ lau nhà. Tôi hỏi tại sao chó lại ở đây? Không lẽ có thể nuôi chó trên chiến hạm. Con chó của ai?

- Thưa đức ông, chó hạm tầu ạ.

- Thủy thủ trưởng… Họ của anh?

- Gordeev, thưa đức ông.

- Thủy thủ trưởng Gordeev. Nói cho rõ ràng hơn, tôi không hiểu anh. Chó hạm tầu là thế nào?

Nam tước nói tiếp vẫn cái giọng chậm chạp, sẽ sàng và buồn tẻ, phát âm từng từ với sự rành rẽ mà những người Nga gốc Đức thường quen dùng, cặp mắt xanh to và lạnh tanh của ông ta dừng lại nhìn chằm chằm vào mặt thủy thủ trưởng. Viên thủy thủ trưởng đã đứng tuổi, cho đến nay, dường như mọi người đều đã hiểu rất rõ, loại trừ có chăng đôi trường hợp khi có lần xẩy ra, bác từ bỏ trở về tầu say sỉn, ngạc nhiên nhìn bộ mặt vô cảm, trắng phớt hồng, nhẵn nhụi không để ria, dài ngoẵng, thả bộ râu quai nón khoanh bự như miếng thịt băm nặn phồng, và có lẽ, chán ngán vì cái câu cật vấn rầy rà thay vì câu trả lời, liên tiếp chớp cặp mắt nhỏ mầu xám của mình.

- Vậy chó “hạm tầu” này là thế nào hả?

- Chó của thủy thủ, có nghĩa là, của chung, thưa đức ông.

Viên thủy thủ trưởng cau có trả lời và cùng lúc đó thầm nghĩ: “Này cây sào, liệu anh có hiểu không hả!” . Nhưng “gã cây sào”, hình như, không hiểu và lên tiếng:

- Anh kể cho tôi cái chuyện kỳ cục gì thế. Mỗi con chó đều phải có chủ của nó.

- Thế nhưng, con chó này không, thưa đức ông. Nó là con chó hoang.

- Chó gì? - nam tước hỏi lại, hẳn là không biết nghĩa của từ này.

- Chó hoang, thưa đức ông. Ở Kronshtadt nó bám theo một thủy thủ của chúng ta và xuất hiện trên hạm tầu, lúc đó hạm tầu thả neo ở cảng. Từ đó con Cộc đi cùng chúng tôi. Gọi nó như vậy là bởi vì cái đuôi, thưa đức ông - Viên thủy thủ trưởng nói thêm để giải thích.

- Chó trên chiến hạm là phá kỷ cương, chúng sẽ bậy bạ làm bẩn tầu.

Thủy thủ trưởng lên tiếng bênh vực cho con Cộc:

- Xin được báo cáo, thưa đức ông, con Cộc là con chó thông minh và biết tuân theo mọi quy định. Về cái chuyện đó không bao giờ vi phạm. Ngài sĩ quan trưởng trước đây, Xtepan Xtepanovich, đã cho phép nuôi nó, bởi vì con Cộc, có thể nói là một con chó cần mẫn và cả hạm tầu đều yêu mến nó.

- Trước đây người ta đã cho phép các anh quá nhiều, để tôi xem họ đã buông thả các anh ra sao. Tôi sẽ xiết chặt các anh, anh có nghe rõ không?

Nam tước nghiêm khắc nhận xét, ông ta cảm thấy rằng những giải thích của viên thủy thủ trưởng có phần sỗ sàng. Và bản thân thủy thủ trưởng dường như không đặc biệt gì sợ hãi trước ngài sĩ quan trưởng.

- Xin tuân lệnh, thưa đức ông.

Nam tước thoáng đắn đo và nhăn trán thầm quyết định trong đầu thân phận của con Cộc. Và thủy thủ trưởng có thiện cảm với con Cộc lo sợ chờ đợi quyết định ấy. Cuối cùng viên sĩ quan trưởng phán:

- Nếu một khi tôi nhận xét thấy điều gì đó là con chó này làm bẩn thỉu boong tầu của tôi, tôi sẽ ra lệnh ném nó xuống biển. Có hiểu không?

- Hiểu ạ, thưa đức ông.

- Và nhớ là tôi không nhắc lại lần thứ hai các mệnh lệnh của tôi đâu.

Nam tước oai vệ bồi thêm, vẫn như trước không cao cái giọng bèn bẹt đều đều của mình.

Thủy thủ trưởng Gordeev, một người phục vụ già, đã từng thấy trong đời mình không ít các vị cấp trên đủ loại và có thể hiểu được mọi người, và không có lời răn đe này cũng đã thấy ra rằng “gã cao kều” này không ngẫu nhiên nói se sẽ, không hề nóng nẩy, mà cái loại “dịch hạch” này, mọi người làm việc với hắn sẽ chẳng lấy gì làm vui đây chứ không như với Xtepan Xtepanovich.

Nghe thấy mấy lần tên gọi mình, con Cộc duỗi dài, mở mắt ra, lười nhác đứng lên, bước đi mấy bước ra khỏi góc tối gần với ánh sáng, và như biết suy nghĩ, hiểu biết kỷ luật trước một người lạ mặc quân phục sĩ quan liền ngọ nguậy mấy lần mẩu đuôi cộc của mình.

- Phù, con chó mới gớm ghiếc làm sao.

Nam tước lí nhí qua kẽ răng một cách kinh tởm, ném cái nhìn đầy khinh bỉ lên con chó sù sì tầm thường xấu xí, với bộ lông mầu hung hung thô cứng xồm xoàm, đôi tai sứt sẹo dựng đứng, cái mõm rộng lỗ chỗ những vệt hói, dường như trám nhựa. Chỉ có đôi mắt thông minh lạ thường và hiền hậu của con Cộc, nhìn chằm chằm nam tước, ít nhiều giảm bớt bề ngoài quái gở của nó. Nhưng, hẳn là nam tước không nhận ra đôi mắt ấy.

- Làm sao để tôi không gặp phải con chó tồi tệ này nữa.

Nam tước thốt lên. Và buông những lời ấy xong ông ta quay đi và leo lên tầng trên, viên thủy thủ trưởng buồn phiền và cau có theo sau hộ tống. Cụp mẩu đuôi cụt của mình, vết tích trò đùa độc ác của một đầu bếp ở Kronstadt, con Cộc lần bước, một chân trước bị gẫy từ lâu, chui vào góc tối của mình, có lẽ là cảm thấy mình không có cái may mắn được cảm tình của người cao lênh khênh với bộ râu quai nón mầu hung và cái nhìn độc địa, con người này chẳng báo trước cho điều gì tốt đẹp. Một thủy thủ nghe thấy những lời nói của viên sĩ quan trưởng vỗ về con chó yêu quý của hạm tầu, con chó đáp lại biết ơn liếm bàn tay nhám ráp của người thủy thủ.

II

Chịu đựng cảm giác buồn bực nặng nề, cái cảm giác trong con người Nga bình thường bị những lời răn dậy và những lời lẽ thảm hại rầy rà, viên thủy thủ trưởng còn phải mất đến một phần tư giờ, nếu không phải hơn thế, đứng nghiêm trong ca bin của nam tước và tay mân mê trong sự sốt ruột chiếc mũ lưỡi trai, nghe những lời răn dậy dài lê thê cặn kẽ và đơn điệu, rằng là từ nay sẽ có những quy củ như thế nào trên hạm tầu, ông ta sẽ đòi hỏi ở thủy thủ trưởng và các hạ sĩ quan những gì, các thủy thủ sẽ phải xử sự ra sao, rằng theo quan niệm của nam tước thì kỷ luật là như thế nào và ông ta sẽ trừng phạt không thương tiếc tội say rượu khi lên bờ.

Cuối cùng được ra khỏi ca bin với lời dặn dò “nhớ cho kỹ những điều vừa được nói ra, và truyền lại cho những ai cần thiết”, viên thủy thủ trưởng sung sướng thở phào và toàn thân đỏ tưng bừng như vừa ở nhà tắm hơi ra, bác ta nhẩy lên boong trên và đi đến đầu mũi tầu vội vàng lấy thuốc sợi ra nhồi tẩu hút.

Ở đó bác ta bị hầu như tất cả các đại biểu giới quý tộc của mũi tầu vây lấy: viên y sĩ, pháo thủ, phụ tá tài sản, thợ máy, hai viên thư lại và mấy gã sĩ quan.

Từ khắp các phía mọi người nhao nhao hỏi:

- Thế nào, Akim Zakharưts, sĩ quan trưởng của chúng ta ra làm sao? Bác thấy ông ta ra sao?

Để trả lời, viên thủy thủ trưởng tuyệt vọng phẩy bàn tay lông lá đỏ lựng gân guốc của mình và giận dữ nhổ nước bọt vào miệng thùng gỗ. Cả cử chỉ ấy, cả cái nhổ toẹt mạnh mẽ và thái độ bực tức trên bộ mặt sạm nắng, đỏ lự của viên thủy thủ trưởng, thả bộ râu quai nón đen đốm bạc, với cái mũi đỏ giống củ khoai tây và cặp lông mày cau có, nói tóm lại, mọi cái hình như đã nói cả: “Chà, tốt hơn là đừng có hỏi han gì!” .

- Dữ dội à? - ai đó hỏi.

Nhưng viên thủy trưởng trưởng không vội đáp. Bác ta ra sức kéo hai ba hơi thuốc đã, lại nhổ và đưa mắt đầy sự quan trọng nhìn mọi người nghe đang khao khát được biết sự đánh giá của con người thông minh và đầy uy tín này; cuối cùng, hơi hạ cái giọng oang oang, căng cổ họng, viên thủy thủ trưởng được mệnh danh “cổ họng bằng đồng”, buông ra:

- Phải nói thẳng: đúng là đồ “dịch hạch Thổ Nhĩ Kỳ!” .

Câu đánh giá có sức thuyết phục và quả quyết đến thế đã gây một ấn tượng khá mạnh đối với những người có mặt. Còn phải nói. Sau hai năm đi tầu với viên thủy thủ trưởng, người mà theo cách nói của các thủy thủ, là một “người hiền” và “thương người”, không làm khổ họ bằng quá nhiều những công việc phục vụ và những buổi tập tành quá sức, rất hiếm khi ẩu đả - có chăng do nóng nảy mà không bao giờ do ác ý, đối xử một cách độ lượng với điểm yếu của thủy thủ - “nếm đủ” những lần ghé vào bờ, đối đầu với “ôn dịch” đã cho thấy không lấy gì là hấp dẫn. Không lấy gì làm lạ là gương mặt mọi người trở nên nghiêm trang và tư lự. Phải kéo dài đến một phút im lặng căng thẳng.

- Tuy nhiên, Akim Zakharovich, ổng là ôn dịch theo nghĩa nào?

Viên y sĩ trẻ tóc xoăn lên tiếng hỏi, đối với cậu ta, theo nhiệm vụ của mình, so với những người khác, sẽ ít có cơ hội phải đối đầu với viên sĩ quan trưởng. Không để ý đến thầy thuốc, rủi phải vào trạm quân y, cứ gọi là toi đời.

- Người anh em của tôi ơi, ôn dịch theo đúng mọi ý nghĩa, tức là nói chung là một người chán ngấy, i ỉ như cưa gỗ, không cho anh được thở nữa, cái đồ cao lênh kha lênh khênh. Vừa xong ở ca bin của ông ta tôi bị ông ta dầy dà mãi không dứt khi cái của nợ ấy cứ giương cặp mắt cá chết nhìn tôi, rồi thì: i ỉ, i ỉ, - viên thủy thủ trưởng nhại lại nam tước. - Tôi, ông ta nói, sẽ xiết chặt tất cả bọn các người. Ông ta nói, tôi sẽ có những quy định mới. Tôi, ông ta nói, sẽ trừng trị thật nghiêm khắc về tội say khi ghé lên bờ… nói tóm lại, cứ i ỉ mãi không dừng… làm tôi phát ngấy.

- Ông phó chỉ huy tầu, hôm qua đưa xuồng chở ông sĩ quan trưởng mới từ tầu “Golub” về cũng không hề có lời khen ông ta. Ông ấy bảo, con người khó tính và cố chấp này cứ lải nhải suốt ngày làm rầy rà mọi người cùng hạm tầu, một hạ sĩ quan nói chen vào. - Trên tầu “Golub” mọi người đều vui mừng việc ông ta đi khỏi, bởi vì ông ta cứ đeo bám như nhựa cây ấy… Còn chuyện đấm đá, theo như người ta kể, ông ta không đấm đá và không đánh đòn, mà ông ta trừng phạt theo cách của mình: bắt đi chân trần trên giây thừng neo buồm, bắt ra ngồi đầu thang ngang giữ buồm. Còn nói, ông ta rất hay hạnh họe và dựa nhiều vào chính bản thân mình… mà họ của ông ta là gì nhỉ?

- Hình như là Vermikov, - thủy thủ trưởng đáp, biến báo cái họ kiểu Đức sang kiểu họ Nga - xuất thân từ hàng nam tước gốc Đức. Còn cái chuyện ông ta cứ ỷ vào tại bản thân mình thì vô ích, bởi vì ông ta có gì để ỷ! - viên thủy thủ trưởng nói thêm đầy quyết đoán.

- Mà vì sao kia?

- Là vì, chẳng nhận ra ở ông ta có gì là thông minh. Điều đó thể hiện ở mọi lời lẽ ông ta. Mới vừa đó, tôi phải nói với mọi người, ông ta không hiểu nổi rằng con Cộc là chó của cả hạm tầu là nghĩa thế nào… Của cả hạm tầu... có nghĩa là gì? Ông ta hỏi. Nhất thiết là phải đưa chủ nhân của nó ra đây…

- Do đâu mà hai người lại nói đến con chó thế? - Có ai đó hỏi.

- Chả là như thế này này, anh bạn. Ông ta không thích con Cộc, tất cả chỉ có thế thôi. Ông ta nói, không được phép nuôi chó trên tầu, và dọa rằng sẽ ra lệnh ném con Cộc xuống biển nếu như nó làm ô uế ra boong tầu… Ông ta còn nói làm sao không để cho ông ta gặp lại nó.

- Thế con Cộc làm gì ông ta kia chứ? Cản trở ông ta điều gì ư?

- Thì mọi cái đều cản trở ông ta, đồ đáng nguyền rủa. Đến giống vật không biết nói mà cũng bị ông ta chèn ép. Anh em ạ, phải, Chúa đã gửi đến một cái đồ chơi con trẻ không còn chê vào đâu được nữa. Cầu mong có được cuộc sống khác. Lại nhớ tiếc Xtepan Xtepanưts, cầu Chúa phù hộ cho ông, con chim cu yêu mến có được sức khỏe - viên thủy thủ trưởng nói, và sau đó đổ tro thuốc ra khỏi ống tẩu, cất nó vào túi quần.

- Thuyền trưởng của chúng ta sẽ không để cho ông ta hoành hành, theo tôi là như vậy, - viên y sĩ trẻ nhận xét, - Ông không cho phép quá làm bậy. Anh bạn ơi đừng có mà giỡn. Ngày nay không còn có những quyền hành như trước nữa. Thì đấy, bây giờ đám nuigich đã được tự do rồi, và mọi người đều có quyền theo pháp luật…

Viên thủy thủ trưởng văng ra:

- Ngài thuyền trưởng không để mắt được đến mọi chuyện. Mà cái chính là hàng ngày sĩ quan trưởng quan hệ trực tiếp với chúng ta.

- Trường hợp có chuyện gì đó có thể cũng vẫn trình được lên thuyền trưởng. Thưa thuyền trưởng, sự thể là thế, là thế - viên y sĩ hăng lên.

- Nhanh nhẩu gớm nhỉ. Nhưng cậu cứ thử nghĩ xem, liệu ngài thuyền trưởng, chẳng hạn là lại đi chống lại làm xấu mặt chính người anh em của mình, cứ cho là vì một anh chàng hạ sĩ vớ vẩn nào đó. Chính cái mấu chốt của vấn đề là ở chỗ ấy. Không, người anh em của tôi ơi, cứ đơn độc kêu ca là không ổn, chỉ tổ làm cấp trên phát bực mà chẳng được tích sự gì, chính cậu lại còn bị ăn đòn. Ngày xa xưa đã có một quy củ khác kia. - Viên thủy thủ trưởng nói thêm, nghiêm chỉnh bám theo truyền thống nếp sống, như vẫn nói đấy là thể thức của thủy thủ.

- Nó là như thế nào kia, Akim Zakhazưts?

- Là thế này, chẳng hạn, một khi chẳng nguyên cớ gì người ta lại đi làm người anh em thủy thủ ta khốn khổ, mọi người, có nghĩa là không chịu đựng được áp chế, khi đó toàn đội cùng đi đến nước cùng: tập hợp lại hàng ngũ nghiêm chỉnh và qua thủy thủ trưởng bầy tỏ yêu sách với chỉ huy.

- Rồi thế nào, có hiệu quả không?

- Cũng tùy con người. Đôi khi thay vào phân giải người ta lại ra lệnh đánh đòn cả nửa đội thủy thủ, nhưng có người khác lại lắng nghe và xử sự theo lương tâm. Tôi còn nhớ, có một lần trong buổi điểm danh - bấy giờ tôi mới phục vụ được năm đầu tiên, - chúng tôi trình với thủy sư đô đốc Tsaplưghin yêu sách đối với viên chỉ huy Zinozov, một con thú mặc quân phục. Vậy là, trên tầu của chúng tôi thay vì việc xét xử, người anh em của tôi ơi, suốt một ngày diễn ra cuộc đánh đòn… Tiếng rên rỉ kéo dài, cả tôi cũng bị một trăm roi, tất cả yêu sách là thế đấy. Lại một lần khác chúng tôi cũng đưa trình yêu sách về thủy thủ với thuyền trưởng Tsulkov, bấy giờ ông ta đã được thăng cấp lên đô đốc rồi. Vậy là, sự việc xoay chuyển ngược lại. Ngài Tsulkov lắng nghe đầu đuôi, cau mày, thật nghiêm nghị, tuy nhiên hứa sẽ phân xử…

- Thế rồi thế nào? Ông ấy có phân xử?

- Có phân xử. Sau một tuần viên thủy thủ trưởng bị sa thải khỏi chiến hạm, với lý do dường như bị ốm, thế là chúng tôi thở phào… Và chúng tôi không bị sao cả… Thế đấy, người anh em của tôi ạ, sự thể xẩy ra đủ loại như thế đấy…

- Thế thì, chỉ huy của chúng ta, có lẽ chẳng để cho đơn vị bị xúc phạm.

- Tất cả hy vọng ở người chỉ huy, nhưng dù sao cũng phải để mắt với viên sĩ quan trưởng này trong mọi việc. Cái lão Đức cao kều này sẽ dầy dà đây!

Câu chuyện bàn tán về viên sĩ quan trưởng mới còn kéo dài thêm một chút nữa. Mọi người quyết định tạm thời cứ chờ đợi các hành động tới. Có thể ông ta cũng sợ thuyền trưởng mà không thay đổi nề nếp mà Xtepan Xtepanưts đã thực thi. Những tính toán đó ít nhiều làm yên lòng mọi người có mặt. Bấy giờ anh chàng thư lại trẻ trong đám con lính, một anh chàng đỏm dáng bạt mạng, đeo chiếc nhẫn thạch anh tím trên ngón tay út, lên tiếng hỏi:

- Akim Zakharưts, thế bây giờ cái chuyện lên bờ sẽ ra sao đây? Liệu ông ta có cho chúng ta lên ngó xem Xanhgapo không nhỉ?

- Về chuyện này đã không có bàn tới.

- Vậy bác đáng ra phải báo cáo với sĩ quan trưởng chứ, bác Zakhar Zakarưts.

- Thì tôi cũng đã trình báo.

- Mọi người đều thích thú, và cháu nghĩ phải dạo chơi trên bờ. Nghe nói ở Xanhgapo này thậm chí còn rất kỳ lạ... Cả về vẻ đẹp của thiên nhiên, cả về các quán nhậu... Cả các sạp hàng, nghe nói cũng rất hay… Bác Akim Zakharưts, xin bác báo cáo đi chứ không chửa biết chừng chúng ta mất toi dịp vui thú.

Đúng lúc ấy anh chàng cần vụ trẻ Oskhurkov ba chân bốn cẳng hộc tốc chạy đến boong mũi tầu.

- Akim Zakharưts. Sĩ quan trưởng có lệnh đòi bác.

- Ông ta lại còn đòi hỏi gì nữa?

- Tôi không được biết. Tại ca bin của mình ông ta đang rà soát các giấy tờ gì đó…

- Lại bắt đầu sinh sự đây. A há…

Và, buột miệng văng ra một câu chửi đổng, thủy thủ trưởng chạy lên gặp ngài nam tước.

- Thế cậu, Van, ở lại chỗ sĩ quan trưởng làm cần vụ ư? Cử tọa mũi tầu xúm xít hỏi Oskhurkov.

- Thì tôi ở lại đấy. Biết làm thế nào khác được… đành phải chịu đựng vậy… Rõ là Chúa đã thay vì một Xtepan Xtepnưts lại cho tôi cái gai nhọn. Ông ta đã hành hạ tôi về cái khoản, có nghĩa là những quy củ của mình. Ông ta phán, mọi cái phải đồng bộ như một cỗ máy. (còn tiếp)

Thúy Toàn dịch


***

Khái Hưng

với Văn & Thơ


(1896-1947)

Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, sinh năm 1896 tại làng Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Dương. Con trưởng của tuần phủ Trần Mỹ, cử nhân Hán học, tác giả tập thơ “Cổ Phần Lái Khúc”. Lúc nhỏ, Khái Hưng theo học chữ Hán, sau theo học trường trung học Albert Sarraut, đỗ tú tài, về Ninh Giang hoạt động thương mại, được một thời gian, không thành công, trở lại Hà Nội dạy học ở trường Thăng Long của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Nơi đây, ông gặp Nhất Linh.

Khái Hưng tin tưởng nơi đạo Phật , thuở nhỏ mỗi khi bị uất ức chuyện gia đình, thường vào chùa niệm Phật, tụng kinh cứu khổ. Khi mẹ ông mất năm 1944, ông thức khuya tụng kinh Địa Tạng và A di đà cầu siêu cho mẹ. Trong các tác phẩm của ông thường có điều gì phảng phất những ý tưởng siêu thoát của đạo Phật (theo “Ba Tôi”, N T Triệu). Cách hành xử hòa ái, cung cách tương kính trong gia đình, trong xã hội, cũng như lòng tin người, không hận thù của ông phải chăng là lý tưởng sống nhẹ nhàng thanh thoát của một Phật tử? Các tác phẩm của Khái Hưng thường được xuất bản nhiều lần, do nhu cầu người đọc, có khi lên tới 10.000 cuốn.

Khái Hưng dịch bài thơ nổi tiếng

của nhà thơ Pháp Alexis Felix Arvers.

Nguyễn Tường Triệu tức Trần Khánh Triệu là dưỡng tử của Nhà Văn Khái Hưng Trần Khánh Giư cho biết: Trong tác phẩm “Khói Hương” (1935) bố tôi có đưa vào bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Pháp Alexis Felix Arvers (1806-1850).

Mời các bạn thưởng thức một bài thơ tình được coi là hay nhất “Un secret” của Arvers - thi sĩ và kịch tác gia Pháp.

Nguyên bản tiếng Pháp :

Mon âme a son secret, ma vie a son mystère

Un amour éternel en un moment conçu:

Le mal est sans espoir, aussi j'ai dû le taire,

Et celle qui l'a fait n'en a jamais rien su.

Hélas! j'aurai passé près d'elle inaperçu,

Toujours à ses côtés et pourtant solitaire;

Et j'aurai jusqu'au bout fait mon temps sur la terre,

N'osant rien demander et n'ayant rien reçu.

Pour elle, quoique Dieu l'ait faite douce et tendre,

Elle suit son chemin, distraite et sans entendre

Ce murmure d'amour élevé sur ses pas.

A l'austère devoir pieusement fidèle,

Elle dira, lisant ces vers tout remplis d'elle:

“Quelle est donc cette femme ?”et ne comprendra pas.

Bản dịch của Khái Hưng: “Tình tuyệt vọng”

Lòng ta chôn một khối tình

Tình trong giây phút mà thành thiên thu

Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu

Mà người gieo thảm như hầu không hay.

Hỡi ơi! Người đó ta đây

Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân?

Dẫu ta đi trọn đường trần

Chuyện riêng há dám một lần hé môi.

Người dầu ngọc nói hoa cười

Nhìn ta như thể nhìn người không quen

Đường đời lặng lẽ bước tiên

Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình.

Một niềm tiết liệt đoan trinh

Xem thơ nào biết có mình ở trong

Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng:

“Người đâu tả ở mấy giòng thơ đây”

Hồn Bướm Mơ Tiên

- tác phẩm đầu tiên của Tự lực Văn đoàn

Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng là tác phẩm đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Mặc dù chỉ là truyện ngắn vỏn vẹn chừng một trăm trang giấy, nhưng nó lại là tác phẩm nổi tiếng nhất của Khái Hưng, được nhiều người say mê, hâm mộ và có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông. Một truyện tình lãng mạn tuyệt vời, bay bướm y như các truyện ngắn của Ivan Tourgueniev, giá trị nghệ thuật rất cao, tâm lý nhân vật sâu sắc thể hiện sự tranh đấu giằng co giữa tình yêu và lòng mộ đạo ở nội tâm một người đệ tử xuất gia, nó cũng là một trong những tác phẩm giá trị nhất của nền văn học cận đại và hiện đại nước nhà.

Theo dư luận chung của độc giả và dư luận phê bình, Khái Hưng đã được coi như một trong những tác giả lớn nhất của nền chương Việt Nam, có người cho ông là cột trụ thứ hai của Tự Lực Văn Đoàn (Nhất Linh và Nhị Linh).

Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng nhưng nó thể hiện một bút pháp già dặn của một tác giả lành nghề, có phần vững vàng hơn so với Nửa Chừng Xuân.

Hài kịch ở phần đầu thật là có duyên, dí dỏm và bi kịch ở phần cuối khiến truyện trở nên sầu thảm và Lan đã thành một nhân vật đáng thương. Cô thuộc gia đình dòng dõi, thông minh, thuở nhỏ theo học chữ nho. Ông thầy là người mộ đạo thường giảng giáo lý nhà Phật cho cô, cô yêu mến cái đạo lý dịu dàng êm ái ấy, cha mẹ mất Lan ở với chú, chú muốn ép gả cô vào nơi phú quý, linh hồn cô đã tiêm nhiễm những tư tưởng cao thượng cho đó là chuyện nhỏ nhen. Lan đã thề cùng mẹ khi bà hấp hối, cô bỏ nhà trốn đến quy y thụ giới tại chùa Long Giáng, cô đã vờ bỏ lại nhiều tang vật trên bờ sông, người ta tưởng cô đã tự vẫn.

Ở phần này người ta cảm thương cho Lan vì con đường xuất gia thoát tục của cô đang hanh thông bỗng nhiên gặp nhiều trắc trở.

“Nương náu cửa từ bi hơn hai năm nay, được sư tổ quý mến truyền giáo đạo Phật, giốc lòng ngày đêm dùi mài kinh kệ, đã tưởng dứt bỏ được trần duyên ai ngờ...”

Cho tới khi kết thúc truyện, cô vẫn là một người chân tu đáng kính, mặc dù lòng trần chưa rũ sạch, rồi một mối tình đầu chớm nở, Lan vẫn còn đủ nghị lực để đẩy lui những sự cám dỗ ngọt ngào và vẫn dấn thân trên con đường xuất gia thoát tục.

Hồn Bướm Mơ Tiên, tác phẩm đầu tay của Khái Hưng, nhưng kỹ thuật mô tả tâm lý nhân vật ở đây có lẽ lại là sâu sắc nhất so với toàn bộ văn nghiệp của ông, có thể coi như một trong những tác phẩm sâu sắc nhất của nền văn chương Việt Nam, nó cũng gần giống như kỹ thuật trong các tác phẩm của Dostoievsky, một nhà văn cổ điển Nga. Dostoievsky là người đi tiên phong trong kỹ thuật mô tả tâm lý nhân vật tường tận, ông đã ảnh hưởng rất nhiều tới nền văn học mới trên văn đàn thế giới và có lẽ ông cũng đã ảnh hưởng đến Khái Hưng.

Ở Dostoievsky luận đề chính trong các tác phẩm là sự tranh đấu giữa thiện và ác ở nội tâm con người để làm chủ tâm hồn, ở Hồn Bướm Mơ Tiên là sự tranh đấu giằng co giữa tình yêu và chân lý, giữa bụi trần và lòng mộ đạo ở tâm hồn một cô gái trẻ đẹp đang trên đường tu hành thoát tục.

Qua ngọn bút mô tả của Khái Hưng, Ngọc và Lan thể hiện hai thế giới hoàn toàn khác biệt: Ngọc tiêu biểu cho người trần tục nghĩ rằng tình yêu mới là quan trọng vô biên, ở chàng cũng đã diễn ra sự tranh đấu giằng co giữa lương tâm và tội lỗi, chàng cũng ý thức được rằng lấy tình yêu để cám dỗ một người mộ đạo như Lan là điều tội lỗi, chàng có lòng quân tử nhưng bị Thần ái tình chế ngự, chàng đã không giữ được lời thề:

“Chỉ vì tôi không quên được nên tôi mới khổ tâm thế này... nếu tôi quên được hết thì đâu đến nỗi…”

Lan tiêu biểu cho con người xuất thế, cô cho rằng tình yêu chỉ là ảo tưởng của hạnh phúc, một sự thể hiện của chốn trầm luân, nó chỉ là một sự nhỏ nhen so với lòng bác ái của Đấng Từ Bi.

“Trên đời chỉ có lòng bác ái mới là đáng kể”.

Phần kết thúc Ngọc có nói rằng:

“…Tôi không có gia đình nữa. Đại gia đình của tôi nay là nhân loại, là vũ trụ, mà tiểu gia đình tôi là... hai linh hồn đôi ta, ẩn núp dưới bóng từ bi Phật tổ”.

Và như vậy tình yêu của Lan và Ngọc chỉ là một phần tử nhỏ nhen của lòng bác ái bao la, vì lòng bác ái mà Phật Tổ đã lang thang khắp bốn phương trời để tìm phương giải thoát cho nhân loại.

Hồn Bướm Mơ Tiên, tác phẩm của tình yêu... nó thể hiện một tình yêu rộng rãi bao la: đó là Tình Yêu Nhân Lọai .

Nhìn Về Tác Phẩm của Khái Hưng

Theo thời gian xuất bản gồm:

Hồn Bướm Mơ tiên (1933),

Nửa Chừng Xuân (1934), Tiêu Sơn Tráng Sĩ (1934),

Trống Mái (1935), Tiếng Suối Reo (1935),

Gia Đình, Khói hương (1935),

Dọc Đường Gió Bụi (1936),

Thoát Ly (1937), Tục Lụy (1937),

Thừa Tự (1938), (Theo Vũ Ngọc Phan: Thừa Tự (1940)),

Hạnh (1938), Đợi Chờ (1938),

Đẹp (1939),

Cái Ấm Đất (1940),

Những Ngày Vui (1941), Đội Mũ Lệch (1941),

Đồng Bệnh (1942),

Băn Khoăn - Thanh Đức (1943)

Bóng Giai Nhân (1946),

Khúc Tiêu Ai Oán (1946), Hạnh (1940),

Đẹp (1941)...

Viết chung với Nhất Linh:

Anh Phải Sống (1934),

Gánh Hàng Hoa (1934),

Đời Mưa Gió (1936).

Viết chung với Trần Tiêu:

Dưới Ánh Trăng (1936).

Tiểu thuyết lý tưởng, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết phong tục

Trong “Văn học Sử Giản Ước Tân Biên”, dẫn chứng một số tác phẩm tiêu biểu của Khái Hưng qua tiểu thuyết về ái tình, gia đình và đoản thiên đoản kịch, Phạm Thế Ngũ kết luận: “Khái Hưng là một cây bút đi nhặt nhạnh truyện người, một thứ gương pha lê hướng ra cuộc đời lắm vẻ và dung nạp một cách trung thực và khoan hòa những tâm tư và hình thái của một xã hội chung quanh ông”.

Cùng quan điểm với tôn chỉ trong Tự Lực Văn Đoàn, Khái Hưng đã thể hiện tiếng nói trong văn nghiệp của ông qua toàn bộ tác phẩm . Đúng ra, phải phân tích toàn bộ tác phẩm của ông mới nói lên được hành trình ông đi và gửi gắm tâm hồn người cầm bút trong từng tác phẩm. Tuy nhiên, với Khái Hưng chỉ nhìn vào vài tác phẩm tiêu biểu cũng thấy được cuộc hành trình đó. Tiểu thuyết của ông phần đông thuộc tiểu thuyết lý tưởng, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết phong tục... nhằm bày tỏ cái hay, cái đẹp, nhân phẩm, giá trị của con người, sự rung cảm của con tim, tình người trong cuộc sống. Đưa ra hình ảnh hủ lậu, quan niệm khắt khe, phong kiến, bảo thủ của tầng lớp phong kiến... đã từng gieo rắc bao tai họa, bất hạnh, khổ đau không những cho kẻ khác mà ngay cả người thân trong gia đình để soi nhìn thực trạng bi thương, phũ phàng của thời đại sinh sống.

Mối tình bi đát nhưng rất cao đẹp giữa Phạm Thái & Trương Quỳnh Như qua tiểu thuyết lịch sử Tiêu Sơn Tráng Sĩ. Nếu gò bó trong hôn nhân, bị tan vỡ giữa Lộc & Mai đưa đến tình yêu lý tưởng trong Nửa Chừng Xuân thì trong Trống Mái quan niệm về tình yêu có vẻ phóng khoáng, thanh thoát hơn. Hiền thích Vọi với thân hình lực lưỡng, vẻ đẹp của chàng trai đánh cá, có lúc yêu nhưng không muốn tiến đến hôn nhân vì Hiền, cô gái thuộc hạng phong lưu, có tư tưởng mới... Giữ trong tim hình ảnh đẹp, lấy nhau, cách biệt về cuộc sống, không còn đẹp đôi.

Khái Hưng đưa ra hình ảnh chân thực về tình yêu, hạnh phúc đích thực trong cuộc sống trong Gia Đình. Phụng, Nga, Bảo là ba cô con gái ông bà án Báo. Phụng & Nga lấy chồng tri huyện, kẻ tham lam, người nhu nhược, ham chơi nên có tiếng nhưng không có gì hạnh phúc. Nga lấy Hạc, chàng sinh viên, bỏ học, đi làm đồn điền, cả hai đều bắt tay tạo dựng cuộc sống mới, công tác xã hội, giản dị, hòa đồng, dung dị, tìm được niềm vui, hạnh phúc bên những người thân quen.

Viết về hình ảnh trong sáng, Khái Hưng sử dụng ngòi bút thật uyển chuyển, nhẹ nhàng, bóng bẩy để tô điểm bóng dáng nhân vật hài hòa trong văn.

Bên cạnh đó, hình ảnh ông huyện bà phán nhố nhăng, kịch cỡm, hách dịch, đanh đá... với lời lẽ châm biếm, gay gắt cho phù hợp với nhân vật đang bị nguyền rủa.

Bà Phán Trinh trong Thoát Ly, vợ lẽ, cầm quyền trong gia đình. Người dì ghẻ thâm độc, gian ác, nham hiểm, tìm mọi thủ đoạn để hành hạ Hồng, mồ côi mẹ lúc 6 tuổi, sinh viên sư phạm Hà Nội. Trong tình yêu, Hồng gặp bao cảnh ngang trái lại bị dì ghẻ manh tâm phá hoại, Hồng bất lực trước cuộc sống và tìm cái chết để thoát ly cõi đời lầm than, bất hạnh.

Bà án Ba trong Thừa Tự cũng thuộc mẫu ngưởi đàn bà gian ngoa, bủn xỉn, mê tín, hợm hĩnh. Gia đình giàu có nhưng trở thành bi kịch bởi lòng tham, đố kỵ, giành giựt, tranh nhau chiếm đoạt đất đai để thủ lợi.

Bà Án trong Nửa Chừng Xuân thể hiện mẫu người có đầu óc phong kiến, thiếu tình người, không có lòng nhân ái, độ lượng. Cái lý của bà Án trong quan niệm vị kỷ nên tìm cách bảo thủ làm hại cuộc tình của Mai và Lộc.

Đặc biệt, tiểu thuyết văn học hiện sinh đã xuất hiện với “Băn khoăn” của Khái Hưng

Ba nhân vật Cảnh, ông Thanh Đức, cô Hảo là chính trong câu chuyện “Băn khoăn” của Khái Hưng. Thời gian của tác phẩm ngắn ngủi, khởi đầu từ lúc có tin ông Thanh Đức muốn tục huyền cho tới khi cô Hảo, người con gái mà ông Thanh Đức theo đuổi, báo tin lấy ông huyện Tô thì chấm dứt.

Khung cảnh xã hội “một đời nhiễu loạn, vô gia đình giáo dục, vô gia đình luân lý”, đưa thanh niên đến nhận định “sinh ra ở đời để mà sung sướng, để mà thỏa mãn, chớ không phải để khổ sở; để than phiền, hay để theo đuổi một mục đích viễn vông nào.” Khung cảnh của một xã hội thượng lưu với rượu, với cà-phê rum ngây ngất, với những canh bạc không nghĩ đến ăn thua; với một phút quyết định đã đủ phương tiện để rời Hà-nội đi Sầm-sơn tắm biển, rồi từ Sầm-sơn đi Hải-phòng coi chớp bóng, ngủ với gái, với sinh viên luật thấy chẳng cần phải thi đỗ, với bác sĩ có bệnh viện giao cho người phụ trông nom, với những cô gái mà tất cả các bạn đều là tình nhân chung chăn chung gối, chán người này đổi người khác, một xã hội mà ngay trong đó đã có người phán xét... “thấy đám thanh niên sống không mục đích, hay với mục đích độc nhất là sự chơi bời phóng lãng thì em ghê sợ... cho họ quá, và tiếc cho họ nữa... Những bực thanh niên trí thức như anh Đoan em mà chịu khó làm việc, làm việc với lòng tín ngưỡng thì... hay biết bao, có ích cho đồng bào biết bao?”.

Những nhà luân lý đã từng nói đến những truyện của nữ sĩ Văn học hiện sinh Pháp Françoise Sagan nổi tiếng nhất là tiểu thuyết đầu tiên của bà - Bonjour Tristesse (Buồn ơi, chào mi) (1954) - được viết về thanh thiếu niên vô luân thời hậu chiến, mà có ai nhớ đến rằng, chính đời sống vô luân, cảnh chồng chung vợ chạ, cảnh đề cao thú vui xác thịt - Văn học hiện sinh đã có trong tác phẩm Khái Hưng từ thời tiền chiến ở Việt Nam.

TÓM TẮT.

Khái Hưng đã phác họa bức tranh sống và thực trong giai đoạn thực dân và phong kiến nhằm phơi bầy cái xấu xa, lạc hậu, lên án đầu óc ích kỷ, vụ lợi, cậy quyền cậy thế... đã hãm hại chà đạp tình yêu, nhân phẩm, cuộc sống của tha nhân và ngay chính người thân thuộc. Ca ngợi tinh thần tự chủ, tự lập, đề cao phẩm cách của người phụ nữ trong sinh hoạt gia đình và xã hội; tôn trọng đời sống riêng tư, tình cảm cá nhân, lòng vị tha và nhân ái.

Khái Hưng đã dấn thân trong văn giới với tấm lòng của nhà giáo, với hoài bão của người cầm bút chân chính nhằm đem vẻ đẹp của Chân Thiện Mỹ để trang trải, tô điểm cho cuộc sống có ý nghĩa đích thực của nó. Khái Hưng sáng tác rất dồi dào, phong phú... với sự đam mê và giàu nghị lực. Vũ Bằng đã kể về những khuôn mặt trong Tự Lực Văn Đoàn: “...Có một lần nhìn vào bản thảo của Khái Hưng, người ta thấy anh viết ở đầu trang một chữ “Gia Đình”, ở cuối trang một chữ “Người con gái đẹp” và ở giữa trang một dòng “Trời ơi, biết viết gì đây, hở trời?”. Khái Hưng đã từng đưa ra vấn nạn, hình ảnh “người con gái đẹp” trong thảm cảnh “gia đình”. Làm sao dung hòa, giải thoát cuộc sống, tình yêu... cho thích nghi, phải đạo, có tình có lý. Sự thận trọng, cân nhắc, đắn đo, suy ngẫm đó cho thấy tinh thần trách nhiệm và ý thức sáng tạo của người cầm bút.

Khái Hưng chọn nghề văn, nghề báo như là nguồn sống cao quý để dâng hiến cho tha nhân với tâm tư, tình cảm, nhận thức của văn nhân để cùng nhau trang trải nỗi niềm. Nhà giáo, nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng chân chính... luôn luôn mang tâm hồn nhân bản để xây dựng cái hay, cái đẹp, nhân cách con người, giá trị đạo đức trong từng cá nhân, gia đình và xã hội. Khái Hưng vẫn còn khả năng cống hiến cho đời những đứa con tinh thần đáng giá, nhưng tiếc thay! kẻ bạo tàn đã nhẫn tâm thủ tiêu cây bút đầy lòng nhân bản đang dấn thân cho nghiệp dĩ, khi Khái Hưng bước vào đoạn đường tranh đấu cách mạng cùng các bạn, cùng toàn dân để giải phóng dân tộc và Khái Hưng đã chết trong cuộc tranh đấu đó.

Cuộc hành trình của ông còn dang dở nhưng tên tuổi Khái Hưng đã có chỗ đứng vững vàng trong lịch sử Văn học Việt Nam .

PHẠM VŨ

(Tham khảo: Sách báo & Internet)

100 NĂM NGÀY RA ĐỜI

BÁO NÔNG CỔ MÍN ĐÀM

LÊ NGUYỄN

Ngày 1 tháng 8 năm 1901, tờ Nông Cổ mín đàm (NCMĐ) ra đời, được vinh dự mở đầu sinh hoạt báo chí Việt Nam thế kỷ XX. Đây cũng là tờ báo đầu tiên bàn luận về các vấn đề canh nông, thương mại một cách tương đối khoa học và có một đời sống tương đối dài.

Giáo sư Dương Quảng Hàm cho là NCMĐ ra đời năm 1900 (Việt Nam văn học sử yếu - Trung tâm học liệu - Sài Gòn - 1968 - trang 426), kỳ thực ngày ra đời của tờ báo này là 1.8.1901, cách nay hơn 100 năm. Cách đó 36 năm (1865), Gia Định báo, tờ báo in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta ra đời. Từ ấy cho đến hết thế kỷ XIX, một số báo khác bằng chữ quốc ngữ cũng được ấn hành:

-Nhựt trình Nam Kỳ (Le Journal de Cochinchine) - Tuần báo in bằng hai thứ chữ: Pháp và Việt ra ngày thứ bảy, sống không hết một tháng 1.1883.

- Thông loại khóa trình - Nguyệt san do Pétrus Trương Vĩnh Ký chủ trương, số đầu tiên ra vào tháng 1.1888, đình bản vào tháng 10.1889.

- Phan Yên Báo do Diệp Văn Cương biên tập. Nhiều tư liệu cho là tờ báo này ra đời năm 1868. Chi tiết này có một số điểm không hợp lý. Theo nhà nghiên cứu Bằng Giang (1922-2000), tác giả quyển “Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930” (Nhà xuất bản Trẻ - tái bản lần thứ nhất - 1998), tờ báo này ra đời năm 1898 và qua năm sau, bị cấm.

Sự ra đời của NCMĐ đánh dấu một bước tiến mới khá quan trọng, dù do một tư nhân người Pháp làm chủ, nhưng người viết phần lớn là người Việt và những điều trình bày trong nội dung tờ báo đều là những vấn đề thiết thực đối với đời sống của người Việt đương thời. Trên trang 1 của số phát hành đầu tiên, dòng chữ “Nông - Cổ Mín - Đàm” được in đậm nét, chiếm trọn chiều ngang trang báo, bên trên là ngày tháng năm cả âm lịch lẫn dương lịch của thời điểm phát hành báo. Bên dưới tên báo bằng chữ quốc ngữ là 4 từ “Nông cổ Mính Đàm” bằng Hán tự, dưới nữa là dòng chữ Pháp “Causeries sur l’agriculture et le commerce” (Bàn chuyện về canh nông và thương mại). Giữa trang báo là giá bán báo, phí rao vặt, tên chủ nhơn là Canavaggio, chủ bút là Lương Khắc Ninh tự Dủ Thúc, tòa soạn đặt tại số 84 đường Lagrandière - Sài Gòn (sau là đường Gia Long, nay là đường Lý Tự Trọng). Cũng ở trang 1 của tờ báo đầu tiên, người ta đọc thấy nghị định ngày 14.2.1901 của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer cho phép ra báo:

“Quan Tổng thống Đông Dương

Nghị Định

Điều thứ nhứt - Chuẩn cho ông Canavaggio lập nhựt trình Nông cổ in chữ quốc ngữ và chữ nho.

Điều thứ hai - Quan Thống đốc Nam Kỳ cùng quan Chưởng lý đề hình trong cõi Đông Dương đều tùy theo phận sự lãnh thi hành nghị định này”.

Lời ra mắt đầu tiên của chủ nhân Canavaggio biểu lộ đặc trưng của văn quốc ngữ tại Nam Kỳ đầu thế kỷ XX, xin chép lại nguyên văn (giữ y các lỗi chính tả):

“Nông Cổ nhựt báo tự tự

Hai mươi năm chẳng ở miền Nam thổ, nay đã tiệm thành cơ chỉ qui mô. Đường thiên lý lục tình dù khác đạo cang thường lể nghĩa như nhau, nơi nơi cũng “Tạo doan hồ phu phu”. Việc hiếu sự nay đà rang rảnh, tình thê nhi thêm lại rịch ràng. Vậy nên công sự từ hưu, vui theo thú thê trì nông cổ. Thường Nam thổ dường như cố thổ, mến Nam nhơn quá bảng Tây nhơn, muốn sao cho nông cổ phấn hành, sanh đại lợi cùng nhau cọng hưởng.

Vậy ra sức lập nên nhựt báo thông tình nhau mà lại rộng chỗ kiến văn, lần lần liệu ta cử đồ đại sự.

Trong Đông cảnh Cao ly, Nhựt bổn, nước Xiêm la cùng nước Đại thanh đâu đâu cũng đều có công văn nhựt báo. Há Lục tỉnh anh hùng trí dỏng, lại khoanh tay ngồi vậy mà xem, không thi thố cùng người mà trục lợi.

Nay nhờ lượng quan trên nghị chuẩn, cho ấn hành Nông - cổ mín đàm. Vậy xin lục dịch lảm tàng, mà gắn sức giúp nhau nên việc.

Canavaggio cẩn tự”.

Cần nhắc lại ở đây là trước thế kỷ XX, nhiều tác phẩm bằng chữ Hán đã được dịch ra chữ quốc ngữ như Tứ thư (1889), Minh tâm bửu giám (1891-1893)… của Trương Vĩnh Ký hay Cổ văn chơn bửu (1896) của Trương Minh Ký. Nhưng phải chờ đến đầu thế kỷ XX, mới có truyện Tàu đầu tiên được dịch ra chữ quốc ngữ. Đó là truyện Tam quốc chí và người dịch đầu tiên quyển truyện lừng danh này lại không phải là người Việt, mà là… Canavaggio. Bản dịch ra mắt ngay số NCMĐ đầu tiên và lần đầu tiên người Việt không thông thạo chữ Hán biết đến những nhân vật tuyệt luân trong lịch sử Trung quốc: Khổng Minh, Quan Vân Trường, Tào Tháo…

Sau Canavaggio, phải kể đến chủ bút Dủ Thúc Lương Khắc Ninh người Bến Tre mà loạt bài “Thương cổ luận” (luận về việc thương mại) cũng được đăng từ NCMĐ số 1 và kéo dài hàng mấy mươi số báo. Tác giả đưa “Sở xe lửa Chợ Lớn đi Sài Gòn” làm ví dụ về một hình thức hùn vốn kinh doanh mà chỉ có người Tây điều hành, không một người Việt nào để ý đến, đồng thời đưa ra nhiều lập luận kêu gọi người bản xứ từ bỏ lối làm ăn đơn lẻ, kết hợp nhau lại để phát triển xứ sở. Bên cạnh đó, tờ báo cũng chú trọng đến những bài viết hướng dẫn độc giả cải tiến việc chăn nuôi và trồng trọt. Chăn nuôi có bài “Giá thảo súc vật” của Canavaggio bàn về việc trồng và khai thác các giống cỏ có lợi cho việc chăn nuôi trâu, bò, ngựa, việc nuôi ngựa giống để kinh doanh… về canh nông, có những bài hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt một cách khoa học như bài “Nói chuyện trồng dừa” cũng của Canavaggio, trong đó tác giả nêu rõ từng công đoạn phải làm, từ lựa giống, dọn đất đến đào mương, bón phân…

Báo NCMĐ phát hành hàng tuần vào ngày thứ năm với số độc giả khoảng 400 người. Con số này cũng không phải là nhỏ trong điều kiện dân số và dân trí tại Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Không lâu sau, báo được sự hưởng ứng và cộng tác của nhiều nhân sĩ đương thời như Nguyễn Chánh Sắt ở Bạc Liêu, Nguyễn Thần Hiến ở Hà Tiên, Đặng Thúc Liêng ở Sa Đéc, Nguyễn Liên Phong (tác giả Nam Kỳ phong tục nhân vật diễn ca - 1906) ở Cầu Muối… Cũng từ đó thể tài các bài báo cũng được mở rộng sang các lãnh vực khác như “chánh khí bất úy tà mị” của Nguyễn Chánh Sắt kể về một câu chuyện huyền hoặc thời vua Minh Mạng, thơ của Nguyễn Thần Hiến, “Chuyện Thủ Huồng” bằng thơ của Nguyễn Liên Phong… Ngoài văn chương còn nặng ảnh hưởng của Hán tự như “bình an vô sự”, “phú thọ khương ninh”, “đa văn quảng kiến”, “phong hòa võ thuận”…, điều dễ nhận ra nhất là các bài báo sai chính tả rất nhiều như tịm (tiệm), tiết (tiếc), hùng (hùn), thỉnh thoản (thoảng)… Ngay cả tên của tờ báo cũng có chữ sai, chữ Mính là trà non (bút danh của cụ Huỳnh Thúc Kháng là Mính Viên) thì in là Mín… Tuy nhiên mục quảng cáo, rao vặt của báo ngày một phát triển, chứng tỏ báo được sự quan tâm của một bộ phận độc giả nhất định. Đến năm thứ tư - 1904, đôi lúc trong 8 trang báo, có đến 3 trang rao vặt, văn chương cũng đặc chất Nam bộ và thô kệch của thời kỳ đầu thế kỷ XX, như các mục sau:

“Nhà bán bánh mì của người An Nam làm là Pierre Ngạn ở tại đường Kinh - lấp tục gọi Boulevard Charner, số 95. Người làm bánh mì này học nghề làm như người Lang Sa, bánh tốt và ngon, bột chẳng có pha vật chi vô hết, chỉ có ý làm hơn của người ta đặng dễ bán, bán giá thường, và có thứ bánh ngọt ngon lắm, xin anh em mua thử mà dùng, thì biết ngon hơn hay là kém hơn những người khác”

hoặc:

“Ông MULOT, là người bao lảnh (sic) việc làm nhà, cần dùng một người Annam thạo nghề làm thợ hồ, đặng làm cai thử những thợ ấy; sự lương tháng, giáp mặt sẽ định bao nhiêu. Ai có muốn lảnh chức ấy, xin đến Viĩnh Long nhà ông đó mà lảnh”

Không lâu sau, ngày 31.7.1902, tuy vẫn còn giữ cương vị “chủ nhơn” của NCMĐ, nhưng Canavaggio có bài “Bổn quán cáo từ” giao hẳn việc quản lý tờ báo cho Lương Khắc Ninh:

“…Nay ta phú thát (sic) nhà nhựt trình Nông cổ này cho ông Lương Dủ Thúc, xin anh em lớn nhỏ vui lòng ráng mua thêm mà giúp sức cho nên, kẻo tội nghiệp công người gánh vát (sic)…”.

Sau Lương Khắc Ninh, lần lượt đến Gilbert Trần Chánh Chiếu, Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn Đồng Trụ… cho đến khi báo đình bản năm 1924. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, tiếp bước NCMĐ tại Nam Kỳ, người ta còn thấy có Nhựt báo tỉnh (1905), Lục tỉnh tân văn (1907), Nam Kỳ địa phận (1908). Nhiều tập truyện của Trương Duy Toản, Trần Thiên Trung (Trần Chánh Chiếu), Trần Phong Sắc… ra đời, báo hiệu một bình minh xán lạn của chữ quốc ngữ…

HOÀNG KIM THƯ st.

Kỷ niệm 70 năm ngày chiến thắng

chủ nghĩa phát xít 9/5/1945 - 9/5/2015

BÀI HỌC TỪ

CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI

LẦN THỨ HAI

Đại chiến thế giới thứ 2 được châm ngòi và bùng nổ vào tờ mờ sáng ngày 1/9/1939, khi phát xít Đức ồ ạt tiến công vào Ba Lan trên toàn tuyến biên giới.

Ngày 9/5/1945, chủ nghĩa phát xít Đức đã buộc phải hạ vũ khí đầu hàng quân Đồng Minh, nền văn minh nhân loại thoát khỏi một hiểm họa khủng khiếp.

Nhưng cái giá phải trả về người và của trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 thật không thể tưởng tượng nổi.

Sau sáu năm chiến tranh khốc liệt (1939-1945), cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã thu hút 61 nước tham gia với số dân là 1,7 tỷ người, chiếm 80% dân số thế giới lúc bấy giờ, so với cuộc chiến tranh thế giới lần 1 nhiều hơn 25 nước và 700 triệu dân. Lực lượng vũ trang các nước tham chiến đã động viên đến 110 triệu người, nhiều hơn cuộc chiến tranh thế giới 140 triệu.

Cuộc đại chiến diễn ra giữa hai phe, một bên là quân phát xít Đức, Ý, Nhật, một bên là lực lượng đồng minh gồm các nước Liên Xô (cũ), Anh, Pháp, Mỹ… Riêng phát xít Đức đã chuẩn bị cho cuộc “chiến tranh tổng lực” này với đội quân ban đầu là 2.750.000 người gồm 103 sư đoàn, không kể quân dự bị, với 10.000 khẩu pháo, 3.200 xe tăng, trên 4.000 máy bay chiến đấu, 182 tàu chiến, trong đó, có 57 tàu ngầm.

Cuộc chiến tranh đã cướp đi trên 55 triệu sinh mạng. Trong đó, Liên Xô (cũ) chết 27 triệu người, Trung Quốc 10 triệu, Ba Lan 6 triệu, Nam Tư (cũ) 1,7 triệu, Nhật 2 triệu, Mỹ trên 1 triệu, Anh 0,8 triệu, Pháp 0,6 triệu, Ý 0,4 triệu… Trong số người chết, có 11 triệu người bị thiêu sống trong các trại tập trung của Hitle. Số bị thương lên gần 90 triệu người, trong đó, có khoảng 20 triệu người bị tàn phế suốt đời. Riêng lực lượng quân phát xít Đức đã bị tiêu diệt tất cả 10 triệu tên trong tổng số 13,6 triệu quân bao gồm các lực lượng chính của quân liên minh phát xít gồm 606 sư đoàn.

Theo nhà kinh tế học R.W.Stowen, tổn phí của cuộc chiến tranh thế giới 2 lên tới 2.500 tỉ USD và của cải vật chất bị phá hủy là 316 tỉ USD theo thời giá của thập kỷ 40.

Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã để lại một trang đau thương vô bờ bến trong lịch sử của thế kỷ 20. Hậu quả mà cuộc chiến tranh gây ra thật vô cùng thảm khốc. Với những tội ác đẫm máu của nó, chủ nghĩa phát xít là sự thù nghịch quái gở đối với loài người, là họa diệt chủng đối với các dân tộc, hủy diệt thể xác và tinh thần con người bằng những biện pháp từ man rợ đến tinh vi, trong đó điều đau xót nhất là mọi thành quả tri thức của loài người bị chúng sử dụng thật triệt để nhằm chống lại con người.

Ngày 9/5/1945, thế giới chứng kiến một thắng lợi lịch sử huy hoàng. Chủ nghĩa phát xít phải đầu hàng quân đội Xô-viết và Đồng Minh, kết thúc cuộc chiến tranh lớn nhất, dã man nhất trong lịch sử loài người cho đến thời gian ấy.

Chiến thắng chủ nghĩa phát xít, vì thế, là chiến thắng vĩ đại của văn minh chống lại bạo tàn. Vinh quang này mãi mãi thuộc về các lực lượng hòa bình, dân chủ trên thế giới, trong đó nhân dân các dân tộc và hồng quân Liên Xô đóng vai trò quyết định.

Loài người tiến bộ đời đời ghi nhớ công lao Hồng quân Liên Xô và nhân dân Xô-viết anh hùng đã chấp nhận những hy sinh, tổn thất to lớn nhất, giành thắng lợi quyết định, cứu nhân loại thoát khỏi họa diệt chủng.

Biết ơn những chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít không phải chỉ có những người rên xiết trong các trại tập trung, dưới xích sắt của những chiếc xe tăng sơn chữ thập ngoặc, mà là hàng triệu triệu người thuộc hàng trăm dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam.

Thắng lợi vĩ đại chống chủ nghĩa phát xít đã tạo điều kiện cho các dân tộc Châu Á vùng lên đánh tan chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản, giành lại độc lập, tự do cho đất nước mình..

Với chiến thắng vô song của Hồng quân Liên Xô và đồng minh, tháng 8/1945, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã thực hiện thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 lịch sử, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Bài học cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã và đang cảnh tỉnh loài người đoàn kết lại, chặn đứng mọi cuộc chiến tranh phi nghĩa và không chấp nhận bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ và công bằng xã hội.

Bùi Đẹp st

SƠN MÀI

MỘT NGHỆ THUẬT TUYỆT VỜI

Sơn mài là một nghề thủ công lại là một nghệ thuật, một nghệ thuật khá cao, đậm đà tính dân tộc, có tiếng vang xa thế giới. Tranh sơn mài, lọ hoa sơn mài, bìa anbom sơn mài, bàn cờ sơn mài, hộp nữ trang sơn mài, bàn ghế sơn mài…, đấy là những món hàng quý giá mà khách nước ngoài, dù phải tốn “bao nhiêu của, mấy ngày đường” cũng tìm mua cho được. Tác giả của những thứ quý giá đó, là những người thợ thủ công Việt Nam đang miệt mài sản xuất ở biết bao cơ sở sơn mài khắp trong Nam ngoài Bắc. Người thợ sơn mài ngày nay đang gắng sức giữ cho trường tồn một cái “nghề tổ” đã xuất hiện trên đất nước này từ trước khi Chúa Gia-tô giáng thế. Ta cứ bâng khuâng tự hỏi: những người thợ sơn nào đã phủ sơn đen sơn vàng lên chiếc mái chèo và những chiếc cán giáo tùy táng trong ngôi mộ cổ Việt Khê (Hải Phòng) từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Những người thợ sơn nào đã để lại những đồ dùng của nghề sơn, như chiếc mỏ vầy (để quấy sơn) trong ngôi mộ cổ (khoảng hai, ba thế kỷ trước Công nguyên) tìm thấy ở Kim Bảng (Hà Nam cũ). Những người thợ sơn nào đã sơn những cỗ kiệu lộng lẫy vàng son ở phường Tàng Kiếm (Thăng Long) mà Nguyễn Trãi đã ghi trong “Dư địa chí”. Những người thợ sơn nào đã tạo ra “những đồ gỗ sơn son thiếp vàng, những đồ gỗ sơn (như bàn, ghế…) không thua kém nước nào” xuất khẩu ra nước ngoài vào thế kỷ 17, và được lái buôn phương Tây tên là Đampiê trầm trồ khen ngợi trong cuốn sách “Một chuyến đi đàng Ngoài” của ông ta, xuất bản năm 1688?

Chiếc mái chèo ở Việt Khê, chiếc mỏ vầy ở Kim Bảng là những chứng tích của tổ tiên xa xưa để lại, nói với ta rằng: vào cuối đời Hùng Vương, nghề sơn đã là một nghề thành thục của dân ta. Nếu như vậy thì cây sơn hẳn đã có mặt trên những quả đồi của đất tổ Hùng Vương từ thời thẳm xa ấy.

Sơn mài là một nghề thủ công lại là một nghệ thuật. Tôi muốn nói nghệ thuật vẽ tranh sơn mài. Ít có nghề nào mà người nghệ sĩ và người thợ thủ công “keo sơn gắn bó” với nhau chặt chẽ như nghề này. Trong số các bạn họa sĩ của tôi, anh Lê Quốc Lộc là một người bạn thân đã lâu năm. Những lần đến thăm anh, tôi thường gặp ở nhà anh những lão nghệ nhân sơn mài đã trở thành bạn cố tri với lão họa sĩ.

Làm tranh sơn mài như Lê Quốc Lộc không những là công việc lao động trí óc mà còn là công việc lao động chân tay. Trong lĩnh vực này, lao động trí óc mệt nhọc đã đành, nhưng lao động chân tay cũng không nhẹ nhàng gì. Ngay từ khi còn là sinh viên trường Mỹ thuật Đông Dương, anh đã “cặp kè” với một người thợ sơn trứ danh tên là Đinh Văn Thành quê ở làng Hạ Thái, một làng có nghề tổ. Anh học ở bác Thành từ ngọn nguồn nghề sơn đến những công việc cụ thể của người thợ sơn: đánh sơn, pha sơn và nhiều khâu tỉ mỉ trong việc làm thành tấm “vóc” cho tranh. Có Vóc mới có nền để vẽ tranh cũng như có đất mới có nền để xây nhà được. Thế là bàn tay họa sĩ kiêm cả bàn tay người thợ. Cho nên họa sĩ họ Lê có thể nói chuyện khá tinh tường về phần việc thủ công của nghề làm sơn mài. Cũng như những nghệ nhân sơn mài có thể nói chuyện khá tinh tường về nghệ thuật hội họa. Nghệ sĩ và nghệ nhân học lẫn nhau là thế. Cái chất dân gian trong cảm xúc nghệ thuật của Lê Quốc Lộc có lẽ cũng bắt nguồn từ sự gắn bó với những nghệ nhân tiêu biểu cho nghệ thuật dân gian. Anh nói đúng: “Nghệ thuật nào cũng bắt nguồn từ nghệ thuật dân gian. Trong bầu trời nghệ thuật dân gian nảy ra những ngôi sao sáng”.

“Từ thời Phục hưng, các họa sĩ phương Tây luôn luôn băn khoăn về việc tìm chất để thế hiện… Ngoài sơn dầu, người ta đã dùng đá, đồng, sứ, cả thủy tinh, sắt thép nữa để khảm, để ghép, để gắn thành tranh. Có người đã trộn cát vào sơn dầu để tạo ra một chất mới. Họa sĩ Việt Nam kế thừa một nghề cũ của ông cha, đã tạo ra một chất mới độc đáo: chất sơn mài. Sơn mài với màu đen sâu thẳm, màu sơn chói lọi, màu vàng màu bạc lộng lẫy, tạo nên hòa sắc kỳ ảo, giúp cho ngôn ngữ của cảm xúc nghệ thuật thêm nhiều khả năng diễn tả. Mà ngôn ngữ của cảm xúc nghệ thuật thì không thể cứ sao chép tự nhiên, không thể tự nhiên chủ nghĩa. Trong cảnh tự nhiên thì trời xanh mây trắng đã đành, nhưng trong tranh sơn mài có khi trời đen, trời đỏ mà vẫn rất thực, rất gợi cảm”. Nghe họa sĩ Lê Quốc Lộc nói, tôi lại nhớ tới đại ý một câu nói của nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nadim Hichmet: “Trong thực tế, không có con ngựa nào màu xanh, nhưng vẽ ngựa, có lúc phải vẽ ngựa xanh mới đúng được cảm hứng”. Nghệ thuật dân gian ta cũng không tự nhiên chủ nghĩa, không dừng chân ở sự sao chép tự nhiên. Đấy, thử xem con lợn màu tím, lại có khoáy “âm dương” trong tranh dân gian. Và con gà có cánh có đuôi giống như cánh phượng, đuôi phượng.

Vẽ tranh sơn mài có nhiều cái khó. Rất thực mà rất ảo, rất ảo mà rất thực. Họa sĩ lại phải có sức tưởng tượng nhạy bén để lường trước hiệu quả của đường nét, hình khối, màu sắc khi chúng còn ẩn dưới những lớp sơn phủ chứa màu. Vẽ sơn dầu thì thấy ngay hiệu quả vì nó lộ ngay ở nhỡn tiền. Vẽ sơn mài thì phải nén lòng chờ đợi. Có khi một bức sơn mài phải làm đến ba tháng mới xong. Giờ phút sung sướng nhất của họa sĩ là lần mài cuối cùng, kết thúc việc xây dựng tác phẩm. Họa sĩ giội nước vào bức tranh như tắm gội cho nó. Dưới hòn đá mài đã mòn, loang loáng trong nước, màu sắc lung linh của bức tranh lộ ra như một sự xuất hiện kỳ lạ. Họa sĩ là người đầu tiên xúc động trước sự sáng tạo của chính mình. Dù “có lúc sờ đến mấy ngón tay mài thì đầu ngón tay đã rớm máu, da đã chun lại vì cầm đá quá lâu, nước lại sũng vào” như Nguyễn Văn Tỵ đã tả trong một bài viết của anh thì vẫn vui mà quên hết vất vả.

Năm 1958, Triển lãm nghệ thuật tạo hình đầu tiên của các nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức ở Mátxcơva. Việt Nam tham gia triển lãm với tranh khắc gỗ, tranh ký họa và đặc biệt là tranh sơn mài. Trước ngày khai mạc, lúc ta dỡ hòm tranh ra để chuẩn bị trưng bày, đã có những người tò mò tìm đến. Từ những chiếc hòm độn rơm và giấy lót, những bức tranh còn bụi bặm chưa kịp lên khung, được đưa ra ánh sáng, đã bừng lên một vẻ khác thường trước mắt người xem. Nhiều phóng viên nước ngoài bị thu hút mạnh. Người ta không tiếc lời khen. Nào “hay”, nào “lạ”, nào “tuyệt”! Trong cuốn sách xuất bản ở Liên Xô năm 1959 giới thiệu tranh Việt Nam dự triển lãm Mátxcơva có đoạn viết:

“ …Sơn mài, với những cách diễn tả hết sức chọn lọc và quý giá, có nhiều khả năng dùng cho những sáng tác quy mô bao quát. Trong nền nghệ thuật cách mạng Việt Nam, luôn luôn hướng về những đề tài rộng lớn, sơn mài trở thành hình thức diễn tả chủ yếu, không phải là ngẫu nhiên. Khán giả Xô viết rất quý những tác phẩm như “Nhớ một chiều Tây Bắc” của Phan Kế An, “Thôn Vĩnh Mốc” của Huỳnh Văn Thuận, “Kéo pháo” của Dương Hướng Minh, “Đón giao thừa” của Lê Quốc Lộc, “Bình minh trên nông trang” của Nguyễn Đức Nùng, “Hành quân đêm” của Nguyễn Hiêm, “Tổ đổi công cấy lúa” của Hoàng Tích Chu và nhiều bức khác.

Khi đi dự triển lãm ở Liên Xô, Lê Quốc Lộc mang theo tác phẩm của mình, của các bạn đồng nghiệp, và cũng không quên mang theo mấy mảnh sơn mài mẫu, kết quả thí nghiệm thành công của anh và nghệ nhân Đinh Văn Thành. Với những mảnh sơn mài ấy, anh đã đi chu du nhiều nước khác, và sau khi nghe anh thuyết trình về sơn mài, người ta đã sờ mó, ngắm nghía những mảnh bảo vật thần kỳ ấy, không biết chán. Có những nước vốn có một nền hội họa nổi tiếng lâu đời cũng được thuyết phục về nghệ thuật tranh sơn mài của ta và xin “nhập môn” vào nghệ thuật độc đáo này.

TRẦN LÊ VĂN

ĐỖ THIÊN THƯ st.


Phụ Bản II

CA DAO

TÌNH CẢM QUÊ HƯƠNG

Quê hương vùng đồng bằng sông Cửu Long miền Tây Nam Bộ có nhiều sông rạch chằng chịt. Những dòng sông cuồn cuộn phù sa nuôi dưỡng cây lúa cây trái miệt vườn, là môi trường để các loài cá tôm sinh sôi nẩy nở nuôi sống con người. Dòng sông còn là con đường thủy giao thương để người dân chuyên chở hàng hóa buôn bán từ miền này sang miền khác.

Trên những nẻo đường quê hương một dòng sông, một bến đò, một con đường đều gợi lên tình yêu quê hương gắn bó. Ca dao là tiếng nói trữ tình thể hiện được tất cả những sinh hoạt hàng ngày của người dân lao động, cuộc sống hòa quyện trong thiên nhiên, chuyển tải tình cảm thủy chung của con người.

Hình ảnh con đường quê cùng với sự khao khát của con người mong muốn ra đi cho biết đó biết đây:

“Đưa chân anh một đỗi đường

Nhớ nhau chẳng biết có thường cho không”

“Mưa dầm gió lạnh bên ngoài

Đường lên quan ải có dài không anh”

“Đường cái là đường cái quan

Chân em ra chợ làm tan chợ rồi”

“Đi cho biết đó biết đây

Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”

“Ra đi mẹ có dặn dò

Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi”

Đã rời quê hương ra đi đến một vùng đất xa lạ trong lòng mỗi người ngổn ngang lo lắng, nhìn cảnh vật thiên nhiên muông thú đều sinh động mới lạ.

“Tới đây đất nước lạ lùng

Chim kêu cũng sợ, cá vàng cũng kiêng”

“Tới đây đất khách quê người

Cái thương cũng sợ, cái cười cũng ghê”

Dù đi đến đâu trong lòng mỗi người vẫn mang nặng tình yêu quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình, nhớ nhung quê nhà. Mượn lời ca dao than thở tỏ bày tâm trạng, trách cứ lẫn nhau

“Say mê cát bụi đô thành

Quê hương nỡ để tan tành sao anh ?”

“Ai đem em tới Sài thành

Phồn hoa ai khéo dỗ dành hả em”

“Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”

Nỗi nhớ quê nhà của người đi xa, còn gắn liền với những dòng sông con thuyền là những hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm của con người trong cuộc sống trong lao động:

“Long đong sóng vỗ mạn thuyền

Thuyền trôi theo nước thề nguyền cũng trôi”

“Sông sâu nước đục lờ đờ

Cắm sào đợi nước bao giờ cho trong”

“Thuyền ngược ta khấn gió Nam

Thuyền xuôi ta khấn mưa nguồn gió may”

“Sa cơ nên phải lụy đò

Thuyền buôn lỡ chuyến, lửng lơ đầu ghềnh”

Dòng sông, con thuyền qua ca dao là những câu hát sâu nặng nghĩa tình của đôi lứa chung sức chung lòng trước sóng gió của thiên nhiên:

“Đôi ta cố sức lên ghềnh

Em ra đứng mũi cho anh chịu sào”

“Anh ơi sóng gió liên miên

Ra công bát cạy cho thuyền tới nơi”

“Thuyền anh mỏng ván bóng láng nhẹ chèo

Xin anh bớt ngọn thả lèo chở em”

“Xin anh hãy nhẹ mái chèo

Thuyền em rã ván nát lèo như chơi”

Bên cạnh những dòng sông có những bến nước bến đò là nơi hò hẹn đưa tiễn nhau của những chàng trai cô gái, của đôi vợ chồng chung thủy sắt son. Câu ca dao buồn da diết trước cảnh chia ly, thương nhớ khôn nguôi:

“Thuyền ơi có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”

“Trăm năm đành lỗi hẹn hò

Cây đa bến cũ con đò khác đưa”

“Ẵm con ra tựa bến tàu

Còi tu tu thổi dạ em sầu biết bao”

“Cây đa bến cũ đò xưa

Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ”

“Nhà Bè nước chảy chia hai

Ai về Gia Định Đồng Nai thì về”

Dù đi đâu sống ở đâu, có lẽ trong lòng mỗi con người xa quê vẫn cảm thấy đâu đó một miền quê xưa cũ của mình, không xa khỏi dòng sông con thuyền bến nước đã ghi sâu vào ký ức qua dân ca, ca dao trữ tình đối với tình cảm quê hương. Xa và nhớ! Chờ đợi ngày trở về. Về với đất.

HUỲNH THIÊN KIM BỘI



Gởi một tấm lòng

thương nhớ quê hương

Năm trước anh viết cho em

Bài thơ “Gởi người lìa xứ”.

Thơ đã bay xa, nỗi đau vướng mãi trong lòng.

Quê mình đang nắng,

Em nói bên ấy “đã mùa đông”,

Mưa tuyết, em lo thiếu ấm.

Thư em viết: “Giờ này lạnh lắm !

Buốt thịt da, nhức nhối tận xương… ”

Anh hiểu rồi, xa bếp lửa quê hương

Lò sưởi điện - chỉ héo thêm tơ lòng xa xứ.

*

Đằng đẵng tám năm sống đời lữ thứ

Vị ngọt quê người đắng lưỡi tê môi.

Ôi ! (tiếng em than) Khao khát một khung trời

Dòng sông quê nho nhỏ

Đôi khóm tre xanh

Bóng chim nhảy nhót trên cành…

Đơn giản quá !

Với em, thành mơ ước lớn.

Hàng chữ cuối đượm niềm đau đớn

Lòng đã không vui

Từng chữ trong thư tức tưởi, ngậm ngùi

Trang giấy trắng ngạt mùi đắng chát :

“Lỡ một lần, tan một kiếp”…

Lẽ nào buồn đến thế, sao em ?

Không đâu, đời nào nhẫn tâm với những tâm hồn

Biết thương nước, nhớ màu mây, sắc nắng.

Gạt bớt đi em - giọt buồn, giọt đắng

Cho lòng mình ấm nắng quê hương.

Chiều xuân quê gió nhẹ, mờ sương

Tưới luống cúc vàng, da diết nhớ em lê bước

Đường phố quê người lướt thướt gió mưa bay,

Biết tâm sự cùng ai

Niềm thương xứ sở !

Âm thầm đi, chiều tuyết rơi băng giá

Một mình em…

*

Tiếng pháo đầu xuân ran ran trước ngõ

Giọt mưa nào làm buốt giá lòng anh ?

Tu hú gọi xuân thảnh thót trên cành

Rượu đang vui, bỗng dưng cay đắng thế !

Bữa cơm tất niên, cuối bàn thừa chiếc ghế

Bởi một người xa - vò võ nhớ quê hương.

An Giang, Xuân 87

MAI VĂN TẠO

MAI THỊ THỦY HOA st.


RU MUỘN

Nghe người ta hát bài về Mẹ
“Thắp nén hương tưởng niệm trước mồ”
Sao đôi mắt bỗng dưng nhòa nhạt
Và tiếng lòng ran rát rưng rưng

Một dáng người nho nhỏ chốn xa xôi
Nghe phảng phất nỗi ngùi xưa bóng nhớ
Giữa không gian đắng con tim òa vỡ
Những ngày xưa… ngăn ngắt… những ngày xưa

Cuối con đường van vát những cơn mưa
Xiêu mái lá ngẩn ngơ chiều năm ấy
Gió miền xa cứ thì thào là vậy
Gọi Người đi đi mãi phía xa xăm

Người ta hát và người ta vẫn hát
Những yêu thương những iu ấp vòng tay
Lời ru nào ru muộn mắt cay cay
Kìa con sóng vẫn xô bờ cát cũ

Đàm Lan

BÂNG KHUÂNG

Em đợi chờ ai trông ngóng ai

Thẫn thờ đêm trắng tóc mơ phai

Thu buồn sương lạnh hoàng hôn tím

Nhung nhớ đầy vơi ai có hay?

*

Em đứng bên song vời vợi sầu

Áng mây lụa trắng bay về đâu

Mình em thăm thẳm hoài thương nhớ

Tình ơi mộng ước tàn phai mau

*

Bâng khuâng lá úa rụng đầy sân

Theo gió chiều bay chẳng ngại ngần

Xa vắng thật rồi trăng mật ngọt

Anh đi héo úa cả trời xuân...

*

Hồn em lắng đọng nỗi sầu riêng

Tìm ánh sao khuya gởi nỗi niềm

Nhớ quá bàn tay nồng ấm áp

Bờ môi - Tình thanh khiết dịu êm...

Phạm Thị Minh-Hưng.

Anh đi

Anh đi như chiếc lá thu bay

Vương vấn hồn em giấc mộng dài

Chiều thu lạnh giá, sầu xa vắng

Sương rơi ướt áo, gió heo may

*

Anh đến rồi đi tình úa phai

Tình em thăm thẳm nhớ nhung hoài

Anh nào biết cõi lòng tê dại

Tình hững hờ, cay đắng, đổi thay!

*

Anh bỏ đi, tình buồn xác xơ

Có biết tình mơ mộng ngóng chờ

Vẫn ngắm mây bay chiều lộng gió

Thương sao, tình lỡ chẳng như mơ...

*

Canh khuya viết nốt mấy vần thơ

Ôi! Cuộc tình tan ai có ngờ

Đếm ánh sao rơi hồn tiếc nuối,

Tìm đâu cho thấy bóng tình xưa

Phạm Thị Minh-Hưng

NHÌN TA

Ta về như sỏi đá

Đứng bên đời bơ vơ

Nhìn đời bao gian trá

Ta thương mình dại khờ.

*

Ta về làm cây cỏ

Ru đời ta ngây ngô

Ta nhìn ta thấy tỏ

Tình ta, tình vu vơ...

*

Ta về bên sông nước

Bôi xóa một chữ tình

Đắng cay chừng cũng đủ

Quên một đời linh đinh

*

Ta về soi bóng nhỏ

Một vầng trăng bên đời

Bạn cùng trang sách cũ

Quên bỏ chuyện đầy, vơi...

*

Ta về bên tiếng nhạc

Ru ngủ vết thương lòng

Cảm ơn tình đen bạc

Dạy đời ta Sắc, Không,

*

Ta về sau cánh cổng

Khép lại chuyện vui buồn

Lợi danh như huyễn mộng

Xin trả về hư không

Lệ Hoa Trần Cali.

LỜI MẸ KỂ

Mẹ ru theo tiếng võng đưa

Tôi thiu thiu ngủ tuổi vừa chớm ba

Trưa hè bóng nắng phớt qua

Có con chó nhỏ góc nhà ngủ say

Mẹ nhìn tôi bật cười ngay

Nửa trên có áo dưới nầy thì không.

Trần Văn Hữu

BỨC ĐỒ DƯ

(tặng K.L KH. PH)

Biệt ly tiễn bước người đi

Bỏ quê qua tận Hoa Kỳ định cư

Nhớ nước Việt (nhìn) bức đồ dư (*)

Bỏ câu lạc bộ, giã từ Bích Câu (*)

Để rơi ký ức qua mau

Có người nhặt được chuốc sầu vu vơ.

Trần Văn Hữu

Trích yếu: Bức dư đồ, của Tản Đà

Bích Câu: quán Bích Câu

Thường rủ nhau vô quán Bích Câu ngồi uống nước

ĐÓN…

Có tiếng oe oe mắt nhắm nghiền

Đến từ mãi chốn rất mông lung

Đến mà chẳng chút chi hay biết

Nhận cõi trần đời, cõi ước mong…

*

Có tiếng bi bô với sáo diều

Chen trong lãng đãng lá thu rơi !

Cô bé ngày nao như đủ lớn

Mà nhận ra thương giận vợi vời…

*

Có tiếng đàn vương trên tóc mây,

Có lũ thơ hát giọng vơi đầy,

Có cả nụ cười chen nước mắt…

Niềm vui vừa đến đã xa bay…

*

Có tiếng hạnh phúc khóc ngoài sân

Như đôi guốc mộc gõ âm thầm

trên phố, giữa đêm trăng cô quạnh

Như người vợ trẻ nhớ tình quân…

*

Có tiếng oe oe: con chào đời!

Ngày xưa, mẹ cũng thế con ơi!

Rồi ngày sẽ đến: con quạt mẹ

Quạt giữa nghĩa trang… mẹ mất rồi!

LAM TRẦN

ĐƯA…

Có tiếng thở dài trong nắng sớm

Tiễn người về chốn chẳng chờ trông;

Tiễn người thời gian không gặp nữa;

Tiễn người những bước rất lặng thầm…

Có tiếng chim cười trên đỉnh lá

Rung rinh cho giọt đẫm sương đêm

Rơi xuống ưu phiền trong thoáng chốc

Rồi loang như ánh mắt quầng thâm…

*

Có tiếng kèn đưa rơm rớm lệ

Tỉ tê như tiếng ếch ạp uồm

Lững thững đưa hồn xa cõi thực…

Nến buồn tê tái giọt sầu tuôn…

*

Có tiếng ậm ừ theo gió buốt

Mênh mang mà lắng đọng nơi hồn.

Nghe như từ xa văng vẳng lại

Nghe như tim tưới những thở than…

*

Có tiếng gai xuyên gót chân trần

Ôi! Ta còn sống giữa buồn vương

Ôi ta chưa từng thiêm thiếp chết!

Rũ buồn… cho nhẹ bước ngựa hồng…

LAM TRẦN 16.07.2015

KẾT BẠN

Son trẻ ngày nao, thoáng bạc đầu

Vui tình bè bạn, nghĩa thâm sâu

Vần thơ trau chuốt tô nguồn cảm

Điệu nhạc du dương giải độc sầu

Rượu ngọt tri âm say kết bạn

Trà nồng tri kỷ thưởng bình câu

Lợi danh không sánh bằng hiền hữu

Đạo lý khuyên nhau rõ nhiệm mầu

Thanh Châu

TÌNH BẠN

Bốn biển năm châu cũng một nhà

Trọng tình bằng hữu chốn gần xa

Vần thơ nghệ thuật trao tin nhạn

Đạo lý kinh luân gởi thiếp quà

Tâm sự đưa tình đầy chén ngọc

Ngôn từ kết nghĩa trổ lời hoa

Hương trà, men tửu thêm tha thiết

Kết bạn văn chương xướng họa ca...

Thanh Châu

THĂM RỒNG

Lần đầu tiên đến nước Hàn*

Sao ta vẫn cứ ngỡ ngàng như mơ

Niềm vui tới quá bất ngờ

“Con rồng Châu Á” mong chờ hiện ra

“Trăm năm trong cõi người ta”

Cơ may gặp được cũng là cái duyên

Mới hay “Danh bất hư truyền”

Dân giàu, nước mạnh, mọi miền tươi xinh

Seoul hiện đại văn minh

Non xanh, nước biếc hữu tình nên thơ

Tự nhiên tôi lại ước mơ

“Rồng Việt” rồi sẽ bao giờ hiện ra ?

Vượt qua ngàn dặm đường xa

Thăm quan, thấy nước người ta mà “thèm”

8/6/2015

LÊ MINH CHỬ

*Hàn Quốc


VỊNH CÂY BẦN

Thân em như quả bần trôi

Nhấp nhô sóng đánh bồi hồi con tim

Cũng may ghé phải cồn Lim

Nẩy mầm sinh lá ấm êm tươi cành

Gió giông lụt bão hoành hành

Vẫn trơ ngó chịu sẵn dành nuôi bông

Nhìn tây rồi lại xem đông

Chà thường cặm rạo cá mong có nhà

Cây thì chẻ củi đun trà

Nhánh to cất gác đỡ đà chuồng heo

Rễ ra nằm nước chứa bèo

Dụ tôm nhử tép một lèo có công

Đừng chê bần mọc bờ sông

Tôi tên “Thùy Liễu” chớ hòng đổi tên

LANG NGUYÊN

Vịnh chữ già

Trâu già gởi nghé thằng chăn

Người già dưỡng lão công bằng dưỡng nuôi

Cây già làm củi đun nồi

Đá già tạc tượng để đời cháu con

Cỏ già đốt cháy như rơm

Gừng già ngâm rượu trị cơn lạnh tỳ

Tóc già bạc trắng khác chi

Lửa già sắt thép phèn phi luyện dùng

Đất già cây mọc lung tung

Trời già mưa gió bão bùng biết bao

Trẻ già tánh nết giống nhau

Chồng già vợ trẻ khác nào lên tiên

Vợ già chồng trẻ bình yên

Quách già ôm xác hồn thiên về trời

LANG NGUYÊN

TỰ SỰ

Năm nay bảy chục vẫn lo toan

Mong muốn gia đình sống vẹn toàn

Tuổi trẻ nuôi con cần khỏe mạnh

Nay già chăm cháu được bình an

Sương nắng đồi mồi qua giai đoạn

Tóc trắng run tay đếm thời gian

Cặm cụi quanh năm thơ với thẩn

Vui tươi sảng khoái vẫn không than

QUANG BỈNH

TRÀ

Trà Ô Long cảm khái mùi hoa

Trà Móc Câu hương vị đậm đà

Trà Sen giải nhiệt bổ tim mạch

Trà Tàu lai rai hãy nhẩm xà

Trà Huế đặc trưng Cung Đình hội

Trà Lài tỏa bay mùi bông xa

Trà Thái Nguyên hương thơm Bắc bộ

Trà xanh cùng bạn gặp nhau là

QUANG BỈNH

TƯỞNG NIỆM CHA

Cánh hạc khuất mờ sau bóng mây

Cung thương lắng đọng giữa ngàn cây

Nghĩa trang chiều tím buồn hoang vắng

Bến đợi ngày tàn lạnh ngất ngây

Ánh mắt cha hiền xa diệu vợi

Nỗi lòng con dại quá chua cay

Hoàng hôn hiu hắt lòng xao xuyến

Giọt lệ nhòa theo hương khói bay

NGÀN PHƯƠNG

NHỚ CHA

Nhớ ngày quẳng gánh bỏ đi xa

Đau đớn đàn con dại mất cha

Biền biệt người về nơi chín suối

Bơ vơ kẻ ở chịu phong ba

Ngàn năm cách biệt đời côi cút

Đôi ngã chia ly kiếp hải hà

Ai sẽ lái thuyền qua bão tố

Gia đình lận đận khúc bi ca !

NGÀN PHƯƠNG

KHÓC CHA

Giã biệt phụ thân bóng xế chiều

Âm dương chia cách cảnh cô liêu

Đoạn lìa cõi thế thân sầu tủi

Lạc lõng đường trần phận hẩm hiu

Thân quyến gần xa đầy ái ngại

Láng giềng sau trước thoáng đăm chiêu

Thành tâm khấn nguyện cha siêu thoát

Tê tái lòng con khổ hận nhiều

NGÀN PHƯƠNG

LÒNG CHA

Qua cơn sóng gió nhớ lời cha

Khuyên nhủ con luôn biết vị tha

Thiện ý kính trên lòng trọn vẹn

Thành tâm nhường dưới tính chan hòa

Quê hương vun đắp luôn giàu đẹp

Tổ quốc dựng xây rực gấm hoa

Đứng vững đừng xa lìa đất Mẹ

Đói thơm rách sạch nặng tình nhà

NGÀN PHƯƠNG

LỜI CHA DẠY BẢO

Vọng tưởng quê nhà nhớ cố hương

Lời cha khuyên nhủ lúc lên đường

Không hề chùn bước khi gian khổ

Chẳng quản bận tâm lúc nhiễu nhương

Yêu quyến thuộc trong cơn bão tố

Thương bằng hữu giữa kiếp phong sương

Dẫm lên nghịch cảnh quên cay đắng

Can đảm luyện rèn chí bốn phương

NGÀN PHƯƠNG

TỦI BUỒN

Ước mơ trở lại tuổi thơ ngây

Hạnh phúc chan hòa với gió mây

Mái ấm đề huề - tuy vất vả

Gia đình sum họp rất vui vầy

Mâm cơm đạm bạc - chim liền cánh

Tiệc rượu chia ly - nhạn lạc bầy

Buồn tủi từ ngày cha khuất bóng

Con côi mẹ góa kể từ đây

NGÀN PHƯƠNG

TRĂNG MẬT

Trăng mật ngọt ngào

Hương thơm lê táo

Trăng mật huyền ảo

Thơm cả trời si

Trăng mật mê li

Chân trời góc biển

Trăng mật bịn rịn

Chẳng muốn rời xa

Trăng mật dâng hoa

Làm say ong bướm

Trăng mật dâng hiến

Ngất ngây thuyền biển

Trăng mật sinh sôi

Bao huyền thoại mới

Trăng mật lên ngôi

Tình yêu trẻ mãi

Tôi yêu trăng mật

Hạnh phúc tuyệt vời

Tôi yêu trăng mật

Trăng mật tuyệt vời

Sài Gòn 2006

PHÙNG CHÍ TÂM

LÊN THĂM

TƯỢNG CHÚA


Anh nắm tay em

Lên thăm tượng CHÚA

Tiếng hát yêu thương

Ngân vang từ đó

Tình thắm thiết hơn

Bên nhau cười vui

Kìa CHÚA mỉm cười

Giang tay chào đón

Những người yêu đời

Tình CHÚA mênh mông

Như trời biển Đông

Cho đến vô cùng

CHÚA cười trìu mến

Tay nắm tay nhau

Về miền hạnh phúc

CHÚA ban phước lành

Đời mãi thanh bình

Anh nắm tay em

Lên thăm tượng CHÚA

Đỉnh núi Nghinh Phong

Hân hoan chào đón

Ta hát say sưa

Bên nhau đằm thắm

CHÚA ban phước lành

Đời mãi thanh bình

Tình CHÚA mênh mông

Như trời biển Đông

Cho đến vô cùng

CHÚA cười trìu mến

Tay nắm tay nhau

Về miền hạnh phúc

CHÚA ban phước lành

Đời mãi thanh bình

Sài Gòn 2007

PHÙNG CHÍ TÂM


Nhật ký thơ

THEO DẤU CHÂN CHÚA

(ghi lại chuyến hành hương Israel)

Hạnh phúc quá, này mắt tôi đã thấy

Israel dấu chân thật vinh quang

Hai ngàn năm thánh địa phai tàn

Dấu chân Chúa như còn vương khắp lối

Vui lên đi nào, Israel hỡi

Bao trái tim, bao thế hệ ước mong

Được hiện diện tìm về nơi đất thánh

Động Truyền tin, nơi khi xưa hoang vắng

Sứ thần truyền, Mẹ cất tiếng Xin vâng

Để giờ đây lộng lẫy một Vương cung

Trung tâm điểm cuộc hành hương tìm Chúa

Nagiarét dấu tích xưa còn đó

Cùng thánh giá Chúa sống kiếp con người

Nơi xưởng mộc, cùng Giuse lao động

Biển Galilê thuyền chông chênh lướt sóng

Chính nơi đây bao phép lạ Chúa làm

Và Simon quyền tối thương Chúa ban

Đây tảng đá đầu tiên xây Hội thánh

Caphanaum, Cá Phêrô nếm thử

Nhìn biển Hồ gợn sóng Chúa đi qua

Rồi Galilê lên đỉnh núi Tabô

Dung nhan Chúa vẫn còn đây rực rỡ

Tiệc cưới Cana Chúa cùng tham dự

Phép lạ xưa, chum rượu vẫn còn đây

Tình yêu Chúa hòa chung tình đôi lứa

Vượt sa mạc Samari lạnh giá

Sông Giođan, thuở trước đến đây rồi

Với Gioan làm phép rửa cho Người

Tiếng Chúa Cha còn vang vọng nơi nơi

“Con yêu dấu, này Con Ta yêu dấu !”

Và tôi nghe tiếng reo hò vang dội

Giêrusalem, tôi đã đến đây rồi !

Cầm vạn tuế đón chào Vua chí ái

Trên lưng lừa, Chúa đang vào thành thánh

Đường quanh co đưa tới vườn Giệt

Tảng đá xưa Chúa đang quỳ cầu nguyện

Vườn cây dầu, nơi Giuđa phản bội

Chúa vui lòng để đem lại tin yêu

Ơn cứu độ của Người cho nhân loại

Belehem chúng con đang quỳ gối

Đây hài nhi nhập thể xuống cứu đời

Hang Belem mục đồng đang tìm tới

Với ba vua con kính cẩn dâng lên

Tấm lòng con cùng với cả xác hồn

Chúa thánh hóa cho con ơn cứu rỗi

Phòng tiệc ly Chúa đang ăn bữa tối

Thương môn đồ sắp phải cảnh ly tan

Mình Máu Người Chúa trao tặng chúng con !

Ôi tình Chúa thật cao siêu vời vợi !

(Dinh Caipha lý hình đang điệu tới)

Một Giêsu đầy vết tích đau thương

Đưa mắt buồn Người nói với Simôn :

“Con chối Thầy khi gà chưa gáy sáng”

Giêrusalem khung trời đầy ảm đạm

Philatô lên án tù Chúa tôi

Vác Thập giá theo Người lên núi Sọ

Đường gập ghềnh khúc khuỷu, uốn quanh co

Máu Chúa rơi hòa cùng nước mắt Người

Thương nhân loại đắm chìm trong tội lỗi

Đỉnh Canvê con quỳ đây thống hối

Chúa chết treo trên thập giá, thương ôi ?

Ôm mộ Thánh lòng đau thương kính cẩn

Thánh tích Chúa in vào lòng con mãi mãi

Và còn đây nhiều dấu tích xưa nữa

Bethinia, núi cám dỗ đi qua

Giêricô cây chà là rợp bóng

Tắm Biển Chết nhưng lòng tôi đang sống

Bao hân hoan, bao hy vọng niềm vui

Xin tạm biệt Người, Israel ơi !

Nhớ hoa cải nở vàng bên sườn núi…

BS.Doanlinh

ĐỪNG NHƯ

Đừng như cát ở trong tay

Nắm vào giữ chặt nào hay chẳng còn

*

Đừng như sớm nở tối tàn

Thà làm ngọn cỏ lan man ngoài thềm

*

Đừng như tơ nhện giăng tìm

Một đời bắt bóng bóng in phận mình

*

Đừng như ảo mộng xây thành

Nhọc lòng se cát cuộc tình hư không

*

Đừng như… dễ đã trăm lần

Để trăm lần lại nhủ thầm… đừng như…

LÊ NGUYÊN

MÂY TRÔI

Sao tôi lại có em

Cuộc đời kỳ lạ thế

Giữa mênh mông dâu bể

Hiện cánh buồm bình yên

*

Dẫu chỉ là một thoáng

Trên đường mây phù vân

Có nắng hồng thắp sáng

Có tia lửa ấm gần

*

Ta như mây lang thang

Gặp lại mùa thu vàng

Có ríu ran tiếng nhạn

Có dịu ngát hương lan

*

Nào phải đâu hò hẹn

Sợi duyên buộc đó thôi

Chưa quen hơi bén tiếng

Ta đã có nhau rồi

*

Mùa thu sẽ đi qua

Mang hương lan bay xa

Nhạn về nơi di trú

Sắc hương sẽ phôi pha

*

Để lại đây khung trời

Với mây trôi mây trôi

Em có còn tiếp nối

Đi đến cùng cuộc chơi…

LÊ NGUYÊN (28.8.2007)

NGHĨ VỀ ĐÔN-KIHÔTÊ *

Luyện tay bằng lò xo nhỡ

Gồng lên tôi đẩy, nó lùi.

Nghỉ, nó dồn tôi hết cỡ

Giằng co trận địa tới, lui.

Tham nhũng như lò xo sắt

Đẩy lùi ? Cuộc chiến lê thê.

Chiều thu, tôi buồn hiu hắt

Nghĩ về Đôn-Kihôtê

Hiệp sĩ Đôn-Kihôtê

Đánh nhau với cối xay gió

Trẻ đọc: khoái, cười hả hê

Già đọc: cười, sao mắt đỏ ?...

Granada, Tây Ban Nha, 22.9.2002

VŨ ĐÌNH HUY

*Đôn-Kihôtê: tên nhân vật chính trong kiệt tác “Đôn-Kihôtê” của văn hào Tây ban Nha Mighen-Xécvantét (1547-1616)

THINKING OF DON QUIXOTE *

Training my hand with the medium-sized spring

Bulging my muscle, I pushed and it receded.

Leaving off, it repressed me boundlessly

Coming to grasp the battlefield back and forth.

Corruption is like an iron-spring

Repressing it ? The war is draggling.

In the autumnal evening, I was so lonely and sad

And thought of Don Quixote !

The knight Don Quixote

Fighting against the windmill

Children read: were pleased and laughed

Old people read: also laughed but why with reddish eyes ?...

Granada-Spain, 22.9.2002

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN

*Don Quixote: name of the main character in the masterwork entitled “Don Quixote” by Spanish writer Miguel de Cervantes Saavedra (1547-1616)

NGUYỆN

(Phúc đáp bài thơ Tự tình của L.L.)

Trăm năm duyên muộn mất rồi,

Trời xui, đất khiến bồi hồi lòng nhau !

Liệu mình có vợi nỗi đau,

Liệu mình có vẹn trước sau nghĩa, tình ?

Tôi buồn vì lỡ mùa sinh,

Tiếc không gặp được khi mình còn son !

*

Dù cho sao rụng, trăng mòn,

Nguyện xin kiếp khác khuyết tròn có nhau !

Vũng Tàu, 06.01.2002

VŨ ĐÌNH HUY

PRAYING

(In response to the poem entitled: “Retiring within oneself” by L.L.)

It’s too late for our fate in love

As Fate wills it, we both felt fretty in our hearts !

Will our sufferings be reduced

Will our perfect intimate attachment be always the same ?

I’m sad because I wasn’t born at the right time,

I regret that I hadn’t met you when you’re still single !

*

Though stars might fall, and the moon might be waning,

I pray that in the afterlife, though perfect or imperfect, we’ll be together !

Vũng Tàu, 06.01.2002

VŨ ĐÌNH HUY

Translated by VŨ ANH TUẤN


Dương Lêh

Cứ mỗi buổi sáng, tập thể dục xong, trên đường về nhà ông Bửu ghé bà bán bánh mì ngồi trên lề đường trước rạp hát Nam Quang mua hai ổ bánh mì không, rồi lững thững đi về nhà. Khi đi ngang ông già hớt tóc dù ông ta có bận hay không bận hớt cho khách, ông Bửu thường kêu ông bằng những câu quen thuộc:

- Ăn sáng đi!

hoặc:

- Cà phê đi!

Ông quay lại cười thoải mái nhưng không nói gì. Ông Bửu biết ông đang cười thật, vì ông thợ hớt tóc này hình như bị chứng viêm dây thần kinh ở mặt nên khi ông đứng hớt tóc cho khách, ông chăm chú đưa tông-đơ lướt nhẹ trên đầu khách, chốc chốc ông nhếch miệng về hai bên như đang cười rồi trở lại bình thường và chỉ vài giây sau ông lại tiếp tục, rồi tiếp tục “cười giả”. Cho nên nhìn qua thấy ông lúc nào cũng có vẻ vui tươi, yêu đời.

Ông Bửu thấy cách làm ăn của ông già hớt tóc thật thư thái, thanh bình. Mỗi ngày ông chỉ làm việc có buổi sáng. Đến trưa ông dọn dẹp chỗ làm, về nhà ăn cơm rồi biến mất qua đến sáng hôm sau lại xuất hiện.

Chừng hơn một tháng hay gần hai tháng, canh đúng vào ngày chủ Nhật, ông Bửu đem đầu ra cho ông hớt. Ông Bửu kêu ông là ông già, thật ra ổng mới sáu tám, sáu chín gì đó. Nhỏ hơn ông Bửu ba bốn tuổi. Ông ít nói, hỏi gì ổng trả lời nhè nhẹ và rất ngắn gọn. Ông Bửu làm bộ hỏi khéo về gia cảnh của ông:

- Ông làm như vậy rồi tiền để đâu cho hết?

- Xài cũng hết.

- Ông mà xài cái gì? Có nhậu nhẹt, bia ôm không?

- Không!

- Bữa nào rảnh kiếm bà nào dẫn đi du lịch chơi he.

- Ý! Bà tui bẻ cổ liền.

- Vậy là ông còn có bà ở nhà. Rồi con cái ra sao?

- Nó lấy chồng ở chỗ khác. Có con rồi!

- Vậy thì dẫn bả xã đi du lịch.

- Bả không đi.

- Sao vậy?

- Già yếu.

Ông Bửu dám bày vẽ cho ông già hớt tóc này cái chuyện đi du lịch, vì ông Bửu biết tuy hớt tóc bên lề đường nhưng thu nhập cũng khắm khá chứ không phải ít ỏi gì. Ông Bửu không dám nói cho ổng biết bài toán mà ông Bửu đã có trong đầu về thu nhập của ông già hớt tóc này. Tuy nhiên ông Bửu cũng thấy mừng cho ông già này dù già cả mà có công việc làm ăn quá tốt, nhưng bề ngoài lại thấy vô cùng khiêm tốn, ít ai để ý. So với ông Bửu bây giờ thì ông ta kiếm cơm giỏi hơn nhiều. Từ đây ông Bửu rút ra, không phải kinh nghiệm, mà là một triết lý đã có từ lâu mà ông sực nhớ: Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh. Ông già hớt tóc này vinh hiển quá đi chứ.

Vẫy tay từ giã ông già hớt tóc, ông Bửu băng qua đường, vào cổng chung cư, lên lầu bước vào nhà. Bà xã ông đang ngồi trước laptop, rê tới rê lui con chuột cho “nhu cầu tiếp cận thông tin” buổi sáng. Ông Bửu mở tủ lạnh lấy ra một đĩa pa-tê và một dĩa xốt mai-on-ne để cho vào hai ổ bánh mì không ông vừa mua về, rồi đưa cho bà xã ông một ổ để vừa ăn vừa cập nhật tin tức. Hai món pa-tê và xốt ông mua của một tiệm bán bánh mì đối diện rạp hát Nam Quang. Ông không biết tiệm bán bánh mì này có từ hồi nào nhưng ông mua bánh mì của tiệm này tính đến nay cũng hơn ba chục năm. Ông Bửu và bà xã ông rất hợp tình hợp ý ở chỗ cả hai đều thích ăn bánh mì kẹp thịt ở đây. Vừa rồi có một người bạn cũ ở nước ngoài về, ông mua tặng cho một ổ kẹp đầy thịt và giới thiệu đây là chỗ bán bánh mì kẹp thịt ngon nhất Saigon. Ông bạn mang về khách sạn ăn sau đó gọi điện thoại cho ông Bửu xác nhận đúng như vậy, quả thật là ngon hơn những tiệm bánh mì nổi tiếng mà ông đã ăn qua.

Sau khi làm xong mấy công việc “cô Tấm, cô Cám” của buổi sáng, Ông Bửu thong thả đến bàn ngồi vào máy trong khi bà xã bước ra phòng khách chuẩn bị lên lớp ca sáng. Ông đóng cửa phòng, cảm thấy vô cùng “tự do” để miệt mài với máy vi tính của riêng ông.

Sáng nay mở hộp thư đến. Một người bạn đã gửi cho ông một địa chỉ web, ông nhấp chuột vào đó và tìm được một bài viết nói về mấy ông “thầy” ở An Giang có tài đuổi ma quỷ bằng cách xiên lình. Đây là cách mấy ông gọi là “thầy” tự hành xác, dùng cây sắt nhọn đầu đâm xuyên qua hai bên gò má để cho thiện nam tín nữ tin là có thần thánh hoặc vong linh ông, bà, cô cậu nào đó đang ở bên kia thế giới đã “nhập” vào xác phàm của ông này cho nên những cây sắt nhọn đâm xuyên qua hai bên gó má mà không bị chảy máu. Không còn tin cái gì hơn nữa, thiện nam tín nữ cúng tiền vô tới tấp.

Qua sự kiện này, ông Bửu liên tưởng đến một chuyện lên đồng khi ông còn trẻ ở trọ nhà một người bạn. Nhà ông bạn này là lò sản xuất miến dong nên có đông đúc thợ thuyền. Một ngày nọ, nhà bạn ông bị kẻ trộm đột nhập trong đêm lấy mất một số vòng vàng tiền bạc, không để lại dấu vết. Cơ quan điều tra tìm mãi không ra manh mối. Cả nhà sốt ruột, bảo bạn ông Bửu đến một đình thần ở gần cầu Bến Lược (1) cúng và xin thần mách bảo. Người bạn dẫn ông Bửu đi theo. Hai người đến nơi đúng ngay lúc đang cúng lên đồng. Khung cảnh thật là nghiêm trang, có cả đàn cổ nhạc như đàn gáo, đàn kìm, đàn sến và trống nhỏ gần bằng cái xô đựng nước cho tiếng kêu tung tung như trống dẫn đầu đám tang. Tất cả mọi người quì như ngồi trên những chiếc chiếu bông cỡ lớn làm thành hình vòng cung. Ngay chính giữa sát bàn thờ, một người phụ nữ ngồi như pho tượng, đầu trùm kín bằng một chiếc khăn đỏ có tua màu vàng viền chung quanh. Phía trước mặt có một lư hương trên đó có nhiều điếu thuốc đầu lọc được gắn lên những cây chưn nhang. Trên đầu mỗi điếu thuốc có bôi một chất màu đen chiếm gần một phần ba điếu thuốc. Đối diện có bốn năm bà mặc đồng phục áo dài màu đen ngồi vòng cung hát theo tiếng đàn ò í e. Phía sau mấy bà lão này có khoảng mười người ngồi xếp chân, chắp tay, lim dim, miệng lép nhép gì đó không nghe rõ. Người bạn và ông Bửu ngồi gần sau cùng, nghiêm trang, kính cẩn. Bỗng nhiên, bà đồng giật mình giơ hay tay lên, run rẩy, bàn tay cứ nắm chặt rồi buông thẳng ra, đầu lắc lư rồi quay vòng tròn từ trước ra sau và từ sau ra trước, chiếc khăn điều từ từ rớt xống, để lộ ra một khuôn mặt thoa đầy phấn son, không có vẻ đàn bà cũng chẳng có vẻ đàn ông. Bà vuốt mặt rồi mở mắt ra, nhìn mọi người nói:

- Ta về đây. Các người muốn ta giúp gì nào?

Mấy bà già mặc đồng phục, rót nước mời Bà đồng uống:

- Rước ngài xơi nước.

Một bà già rút trên lư hương một điếu thưốc mời Bà đồng. Bà đồng kê vào cây đèn cầy gần đó, rồi rút hết thuốc trong lư hương mời tất cả mọi người. Mấy bà già đỡ lấy rồi chuyền cho những người ngồi phía sau. Trong khi đó những người quì phía sau lần lượt bò lên gặp bà đồng xin quẻ bói. Ông Bửu và người bạn cũng có thuốc hút. Hai ông bật quẹt mồi thuốc rít như những người khác. Ông Bửu cũng rít vào một hơi thấy có mùi thơm là lạ, ông hỏi nhỏ người bạn:

- Họ bôi cái gì đen đen ở trên đầu điếu thuốc vậy?

- Opium!(2)

Ông bạn nói rồi, giơ ngón tay trỏ lên ngang miệng ý bảo ông im lặng.

Một lát sau đến lượt anh bạn ông Bửu bò tới ngồi đối diện bà đồng. Hai người nói với nhau rù rì ông Bửu ngồi dưới ngày không nghe được gì hết cũng giống như những người đã lên trước đó. Có lẽ chuyện riêng tư của mỗi gia đình bà đồng không muốn cho người khác biết chăng?

Sau anh bạn kế lại cho ông Bửu biết, bà đồng bảo về nhà mua heo cúng để giải hạn xui xẻo, của đi thay người, sau này làm ăn sẽ khá lên lấy lại được những gì đã mất. Cuối cùng anh bạn kết luận:

- Bà nội này xạo quá, phán tầm bậy tầm bạ.

Ông Bửu nghĩ lại tự nhiên cảm thấy lo sợ vì đã lỡ hút xong điếu thuốc có tẩm á phiện rồi. Ông sợ bị ghiền giống như ông dượng chồng của một bà dì. Hồi ông Bửu còn nhỏ đến thăm nhà bà đi, ông ít khi thấy ông dượng đó. Bà dì thường bảo ông ở trên gác đọc sách và không cho tụi nhỏ lên gác sợ làm ồn. Khi ông Bửu lớn lên, một lần nhân ngày Tết đến thăm, bà dì nói ổng bệnh nằm trên gác, ông Bửu không đợi xin phép, ông phóng lên gác thấy ông dượng đang nằm phi thuốc phiện giống như những hình biếm họa trên báo. Đó cũng là lần đầu tiên ông thấy tận mắt được cảnh người hút á phiện. Báo chí ngày xưa thường gọi cái ống điếu là khẩu “ba-zô-ka”, còn người đang nằm hút như vậy gọi là đang… bắn khỉ. Ông Bửu cảm thấy ngỡ ngàng hỏi thăm qua loa vài câu rồi chạy xuống thang gác ra về không quên chúc tết bà dì cho đúng với thủ tục ngày đầu xuân. Ông không dám hỏi bà dì cái ý nghĩ những người hút á phiện thường làm biếng… tắm.

Ngày nay, tuổi đã cao, ông Bửu sau khi hồi tưởng lại chuyện coi người ta lên đồng bói toán, ông nghĩ lại bây giờ người ta cũng còn mê tín dị đoan nhiều quá. Ngoài xã hội lại xuất hiện nhiều thứ “ông thầy”. Có người đang làm ruộng về nhà tự nhiên kêu đau đầu, chóng mặt, rồi nhảy lên giường nằm một lát sau ngồi dậy nói chuyện bá láp bá xàm, chuyện Tam Tạng thỉnh kinh, bà con la toáng lên là ông thần này nhập bà cốt kia nhập rồi ông ta tự xưng là thầy thuốc trị bệnh. Sau đó, cái đám cò mồi làm marketing như thế nào mà có rất nhiều người từ khắp mọi miền đất nước, cơm nắm muối mè, lần mò đến tận nơi để xin trị bệnh. Chung quanh nhà ông thầy tự nhiên mọc lên những “chòi trọ” để cho người bệnh nghỉ ngơi. Đa số những người bệnh thường là những ông già bà lão, đi đứng xiêu vẹo, phải có người dìu đỡ. Hầu hết những người này đã bị bác sĩ ở các bệnh viện “chê”, người nhà mang tới đây theo cái kiểu còn nước còn tát. Nhiều người thân đã từng đưa người nhà qua nhiều ông “thầy” được hỏi trị bệnh ra làm sao, họ trả lời:

- Ôi đủ thứ, có chỗ bán thuốc mua đem về sắc(3) uống. Thuốc thì gồm những thứ rễ cây, lá cây, có khi cả vỏ cây, không nhận biết được thứ gì là thứ gì, có lần phải mua các loại cao đơn hoàn tán, thuốc tể... từng hột giống như phân dê. Uống hết thang này đến thang nọ có thấy hiệu quả gì đâu.

Một chỗ khác cũng chiêu mộ được rất đông bệnh nhân. Đó là khu vườn “bí ẩn” ở Long An, tại đây không có lương y, thầy thuốc, bà, cậu bị ma quỉ nhập… đứng ra trị bệnh cho bá tánh. Người bệnh đến đây để được... uống nước lạnh miễn phí. Ông Bửu và mấy người bạn đã đến tận nơi này để tìm hiểu phương pháp trị bệnh. Khi lên đến nơi mọi người thấy người bệnh chỉ việc vô vườn lấy nước đem về nhà trọ uống là xong. Trong vườn có một gian nhà để mọi người vô đó cầu nguyện. Gian nhà trống trải vách ngăn sơ sài, không bàn thờ Phật hay Chúa hay một tôn giáo nào khác, cũng không có lư hương nên không có nhang khói mù mịt, chỉ có một bóng đèn huỳnh quang soi sáng gian phòng. Mọi người vô đó cầu nguyện tự do, không theo giờ giấc nhất định. Ai không cầu nguyện thì ra vườn trải những tấm bạt nằm ngồi tán gẫu, nghỉ ngơi. Trong vườn người ta để một dãy thùng phi nhựa được giàn ống dẫn nước bơm vào. Dưới mỗi thùng phi có vòi nước để người ta lấy nước vào bình nhựa cho người bệnh uống.

Gần trưa, khoảng mười một giờ bệnh nhân và thân nhân bắt đầu lấy nước. Ông Bửu lấy chai nước có sẵn đã uống gần hết đem ra hứng lấy một chai mang về ngồi cạnh mấy người bạn uống thử. Một người nói:

- Giống như nước giếng bình thường thôi!

- Đúng vậy!

- Nước này chưa khử trùng. Coi chừng đau bụng!

- Không sao. Nước này để trị bệnh, vi trùng chạy trốn hết rồi.

Đang ngồi thử nước phép, ông Bửu đột nhiên phát hiện phía đằng kia có một đám đông nhốn nháo. Ông Bửu tò mò rủ một người bạn đến xem. Thì ra những người này đang chờ đợi đến lượt chụp hình. Người làm công tác nhiếp ảnh là một phụ nữ, cô này không dùng máy chụp hình bình thường mà lại dùng hai máy điện thoại di động. Mới đầu ông Bửu thấy không có gì lạ, nhưng chợt nghe người bên cạnh nói, ông Bửu mới ngạc nhiên:

- Cô đó chụp hình khi rửa ra giấy thấy có hào quang chung quanh người chụp.

Hèn gì người muốn chụp hình rất đông, một người chụp hai ba kiểu tựu trung đều theo kiểu ngồi kiết già, xếp bằng hai tay bắt ấn như ông Phật. Ông Bữu khẽ hỏi một bà bên cạnh:

- Bà ơi, tôi vô đó ngồi chồm hổm chụp được không?

- Không nên đâu ông, coi chừng hào quang không hiện ra.

- Vậy hả.

Nói rồi ông Bửu lẻn ra ngoài sau lưng cô thợ chụp hình, nhìn vào màn hình máy di động cô đang chụp. Ông thấy trên màn hình có một vòng cung sáng đỏ trên đầu người đang ngồi chụp hình. Khi cô lấy cái điện thoại di động thứ hai để chụp một người khác, cũng có một vùng hào quang nhưng khác một chút là có phần màu vàng nhiều hơn, bao quanh thân người ngồi chụp hình. Như vậy rõ ràng trong hai cái máy di động của cô đã cài đặt sẵn hai kiểu hào quang và khi rửa ra giấy người nào cũng chỉ có hai kiểu hào quang đó thôi. Tuy nhiên với trình độ công nghệ thông tin của ông Bửu, ông cũng chỉ biết lờ mờ vậy thôi chứ không nghĩ ra được cách nào để tạo ra hào quang trên điện thoại di động. Rất nhiều người thích để cô chụp hình và chờ in ra giấy để mang về làm kỷ niệm.

Một điều làm ông Bửu bức xúc là cô thợ chụp hình này ăn nói rất lỗ mãng, cô la lối với những người ngồi không trúng cách, hay có dáng điệu cô không vừa mắt. Chính cô đã làm mất đi hình ảnh đẹp của khu vườn bí ẩn, không cần biết khu vườn này có trị được bệnh cho bá tánh hay không.

Nhìn chung tất cả những nơi trị bệnh theo kiểu đồng bóng, bùa phép, thần này nhập, xác kia thành thánh đều giống nhau ở một chỗ là tất cả những người đến trị bệnh vài lần hay nhiều lần sau đó về quê biến mất luốn không đến nữa. Không ai biết họ hết bệnh không hoặc chết ngắt rồi không ai báo tin làm gì. Điều rõ ràng nhất ở đây là những cách trị bệnh kỳ quái này không hề mang tính khoa học rất dễ có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng. Báo chí đã nói nhiều có rất nhiều cái chết thương tâm đã xảy ra như là việc trị bệnh bằng cách đốt lửa quanh người bệnh nhân để trừ tà ma quỉ quái, hoặc bằng cách cho uống nước tàn nhang để trị bệnh ung thư… Riêng về bệnh xơ gan cổ trướng, thầy lang băm thường cho rằng bệnh nhân bị người ta “thư” tức là cho vào trong cơ thể người bệnh những vật dụng như dao, kéo, bàn chải, tóc, da súc vật… Sau đó thầy lang dùng trò ảo thuật lấy ra từ bụng bệnh nhân những vật dụng này mà thầy đã cho biết trước.

Một điều làm ông Bửu suy nghĩ mãi không ra, đó là trong hàng ngũ trí thức cũng có một số người tin vào những chuyện âm binh, oan hồn, ma quỉ. Họ tin về kiếp sống tiếp theo của con người ta sau khi chết sẽ biến thành những oan hồn lang bạt trong cuộc sống hiện tại mà người trần mắt thịt không thể nhìn thấy. Cũng như ở bên Mỹ có biết bao nhiêu trí thức chạy theo tin một sư cô sắc nước hương trời. Vậy muốn bài trừ mê tín dị đoan cần phải nâng cấp trình độ dân trí nhất là những ở bộ phận người dân lao động có văn hóa kém. Nhưng đối với một số người trí thức mà còn bị mê tín dị đoan chi phối thì nâng cấp dân trí như thế nào đây?

Dương Lêh

(1) Đã đổi tên địa danh này.

(2) Thuốc phiện

(3) Cho vào dụng cụ dùng để nấu thuốc Bắc.

HÀNH TRÌNH

CỦA MỘT E-MAIL

THY TRÂN

Hiện nay đối với khoảng 150 triệu người dùng máy vi tính trên thế giới thì chuyện nhấp nút Send gửi một thư điện tử (E-Mail) là… chuyện nhỏ! Có thật là “chuyện nhỏ” không? Chúng ta thử nghe John Dyson phân tích hành trình của một e-mail qua câu chuyện sau đây.

Doug và Julie Young ở một miền quê bang Ohio nước Mỹ thích nuôi chó. Cách đây không lâu hai bạn ấy muốn xin một tấm ảnh về chú chó có tên là “Mr D” của tôi. Tôi định gửi tấm ảnh theo đường bưu điện thông thường. Nhưng như vậy sẽ mất bốn ngày. Tôi bèn quyết định gửi e-mail cho nhanh.

Từ căn phòng của tôi trên bờ sông Thames, London, Anh, tôi ngồi vào máy tính gõ địa chỉ young montizard.com gửi một thông tin nhỏ kèm với ảnh “Mr D”. Tôi nhấp nút Send. Bây giờ tôi thử theo hành trình của “Mr D”.

Chia ra thành mảnh nhỏ: Đầu tiên Mr D theo xa lộ miền Tây London đến cơ sở Cable & Wireless, công ty có nhiệm vụ nối máy tính của tôi với Internet qua đường điện thoại. Mr D được dẫn vào một căn phòng rộng, chia ra làm nhiều ngăn nhỏ gọi là những “rack”, mỗi rack có một máy vi tính với màn hình 21 inch, nhưng giá mỗi máy hơn giá một xe hơi đời mới. Mỗi máy được đặt một tên riêng. Một người tên là Jason Semple nói: “Chiếc máy này tên Marvin, nó xử lý e-mail của anh”. Ông ta thao tác rất nhanh và giải thích: “Khi máy PC của anh nhấn gọi thì máy Marvin này trả lời, nó kiểm tra tên và mật mã (password) của anh rồi hỏi máy anh muốn gì. Sau đó nó nhận e-mail của anh”.

Mr D được đưa vào “mail server”, tức 1 chùm 5 máy rack. Nó đọc địa chỉ đến của e-mail, và tìm địa chỉ này trong máy danh bạ của Internet. Trong 1 phần 10 giây đồng hồ, nó tìm được địa chỉ, nằm trong số 10 triệu địa chỉ lưu trữ!

Đến đây sẽ xảy ra một chuyện kỳ lạ: Mr D được chia thành 120 “miếng nhỏ” (packet), để rồi sẽ ráp lại ở đầu máy nhận bên kia đại dương.

Nhưng 120 miếng nhỏ đó chưa lên đường ngay đâu. Chỉ 1 trong 120 miếng đó đi dò đường (scout) trước. Nó sẽ đến gõ cửa công ty Buckeye Net ở Mỹ, là công ty nối kết máy của bạn tôi, Doug và Julie Young, với Internet. Công ty này chào đón và mở cổng cho “miếng dò đường” tìm được ngõ vào.

Những đứa bé cầm đèn nháy: Hãy hình dung Internet là 65.000 xa lộ chạy ngang dọc địa cầu, nối với vô số đường quê và đường phố khác. “Miếng dò đường” tựa như một anh cảnh sát chạy qua vô số ngã tư ngã ba trên đây. Nhưng nó rất tài, tìm đúng ngay ngã nào phải đi. Nó chạy đến trung tâm chuyển tiếp của hãng Cable & Wireless, nằm ở Docklands. Và rồi nó gọi tất cả 120 miếng nhỏ cùng chạy đến trạm Cornwall, trạm gần nhất giữa Anh và Mỹ.

Tất cả cuộc chạy đua này của 120 “miếng nhỏ” chỉ mất khoảng 4 phần nghìn giây đồng hồ.

Tôi đón một chuyến tàu hỏa để đến Cornwall xem sao. Đây là trạm chuyển tiếp xuyên đại dương của đường dây cáp Gemini, truyền tín hiệu bằng cáp quang, thông thường gọi là “đường ống” (pipe). Một tia sáng laser bắn tín hiệu kỹ thuật số đi qua “đường ống” với tốc độ 200.000 kilômét/giây. Vị giám đốc ở đây, ông Dave Shirt giải thích: “Kỹ thuật này giống như hai đứa bé ở hai đầu dây ra hiệu cho nhau bằng đèn nháy. Chúng nháy rất nhanh, mỗi giây nháy được 10 tỉ lần”.

Chuyên gia đeo hoa tai vàng: Mr D đã được truyền đi xuyên đại dương, qua Mỹ.

Tôi về London, lên máy bay qua Mỹ, tìm tới cơ sở Gemini ở New Jersey. Tôi được biết ảnh Mr D chỉ đi mất 40 phần nghìn giây để qua tới West Orange bang New Jersey. Từ New Jersey, 120 “miếng nhỏ” còn phải xuyên “đường ống” qua Philadelphia, qua thung lũng Ohio, qua Cleveland, rồi đến cơ sở ở Willow Springs ngoại ô Chicago. Tất cả 120 “miếng nhỏ” được tập trung ở đây trong 1 phần nghìn giây đồng hồ, rồi được gửi theo “đường ống” đến tòa nhà trụ sở chính của công ty Fibre Network Solutions ở Columbus, Ohio.

Tôi đến tòa nhà trụ sở ấy và gặp vị giám đốc 27 tuổi tên là Kyle Bacon. Anh ta đeo hoa tai vàng như phụ nữ, nhưng là chuyên gia về “đường ống”, đang kiểm soát tất cả các “đường ống” Internet để thu phí! Công ty này chỉ có 45 người.

Từ trụ sở này, ảnh Mr D được chuyển trực tiếp đến công ty Buckeye Net ở Ohio, một công ty có độ vài nghìn khách thuê bao mạng, trong đó có hai bạn Doug và Julie Young của tôi. Chủ công ty Buckeye Net cũng là một thanh niên 27 tuổi, anh Jonathan Sheline, cũng đeo hoa tai vàng như phụ nữ!

“Ôkê, tôi nghe”: Máy server của Buckeye Net ở Ohio gửi một tín hiệu đến London cho biết đã nhận được ảnh của Mr D. Máy 2 bên nói chuyện bằng ngôn ngữ điện toán gọi là SMTP (Simple Mail Transfer Protocol) dịch ra như sau:

Ohio: Ôkê, tôi nghe.

London: Tôi đã nhận mail từ j.dyson ở cwcom.net.

Ohio: Hân hạnh gặp bạn

London: Tôi đã có mail gửi cho montizard.com.

Ohio: (kiểm tra danh sách khách hàng) Ôkê, được.

London: Tôi gửi dữ liệu đi rồi.

Ohio: Bắt đầu nhận mail.

Thế là khoảng 30 giây sau khi tôi nhấp nút Send, ảnh của Mr D đã đến Mỹ. Từ cơ sở của Buckeye Net đến nhà 2 bạn Doug và Julie Young của tôi là 8 kilômét cuối cùng mà ảnh của Mr D phải đi qua.

Tôi đến nhà họ ở Rushville. Julie Young đang cho bầy chó của họ ăn. Còn Doug Young đang nhấp nút Get Mail trên máy vi tính của anh và nhận tín hiệu từ máy server của Buckeye Net. Ảnh của Mr D hiện lên màn hình máy vi tính rõ, đẹp, sau khi đã đi qua 6.500 kilômét trong 30 giây. Nếu tôi mang ảnh đó đến cho bạn tôi thì mất khoảng 14 giờ vừa đi máy bay, tàu điện và xe hơi. Còn nếu gửi bưu điện thông thường thì mất 4 ngày như đã nói.

(Theo John Dyson, Reader’s Digest số tháng 7.2000)

BS. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st.


Phụ Bản III

ĐỒNG XU

Họ là một nhóm bạn thân từ thuở còn học trò. Đến khi vào đời, dù cũng có người biền biệt phương xa, nhưng họ vẫn đậm đà tình bạn. Trong không gian đậm đà ấy, là sự nổi trội của tình yêu tay ba giữa Oanh và hai người bạn trai: Hùng, Trọng.

Tình yêu giữa họ thật đặc biệt: hai anh thanh niên thân với nhau như anh em nhà ấy lại cùng yêu cô bạn tuy không đẹp nhưng rất có duyên. Oanh yêu cả hai người như nhau! Lắm lúc cô thấy khổ tâm vì biết sẽ có lúc phải chọn lựa. Nếu là món hàng bình thường thì cô đã ném cả đôi cho khuất mắt, rồi lựa cái khác mà chưng trong tủ kính. Nhưng tình cảm chưa bao giờ là như thế, nhất là đối với cô!

Chẳng lẽ ở vậy hoài khi tuổi đời ngày càng lớn? Thế là cô chọn một giải pháp thật đơn sơ mà hiệu quả, dù sẽ mang lại cho cô ít nhiều tiếc nuối phải mất đi nửa con tim của chính mình!

Ừ! Cô tung đồng xu sau khi đã ghi rõ vào giấy, mặt xu nào là “đại diện” cho Hùng, mặt nào là Trọng. Cô nín thở tung đồng xu lên cao. Nó rơi xuống nền nhà rồi loay hoay bệt xuống. Cô vừa bằng lòng vừa bất mãn với đồng xu màu xám ấy!

Dĩ nhiên, cô chẳng nói với cả hai người bạn về cách cô chọn ý trung nhân. Nhưng Trọng vui bao nhiêu thì Hùng buồn bấy nhiêu. Đám cưới diễn ra thật tưng bừng. Nụ cười của phù rể Hùng thỉnh thoảng có cái gì đó ngao ngán mà chỉ Oanh và Trọng là nhận ra.

Dù sao, ván cũng đã đóng thuyền. Và vì họ là bạn tốt của nhau nên tốt nhất là Hùng bớt đi lại, rồi dần dần biến mất khỏi cuộc đời cặp uyên ương ấy.

Mái gia đình trẻ ấy có cái không may là không có tiếng cười con trẻ. Họ cũng không hề hối tiếc về điều ấy, vì chính tình yêu đã dẫn đưa họ đến với nhau, thì tình yêu vẫn là thứ duy nhất gắn bó họ dù có xảy ra chuyện gì bất trắc.

Nhưng cái chết lại là chuyện khác! Trọng bỗng trở bệnh. Mấy năm trời nằm trên giường bệnh làm anh suy nghĩ rất nhiều. Oanh sẽ ra sao nếu mình về cõi thiên thu? Câu hỏi ấy dằn vặt anh từng ngày, nhất là anh biết mình chẳng còn bao lâu nữa sẽ xa rời cõi thế…

Đám bạn xưa biết tin Trọng lâm bệnh nên lần lượt đến thăm. Nhìn cơ ngơi của cặp vợ chồng không con ấy, họ thấy tiếc cho cả đôi. Nhưng chẳng ai dám nói ra cái nghĩ suy của mình, vì dầu sao, Trọng vẫn còn ở kia, dù là nằm trên giường thinh lặng, chỉ có đôi môi là thỉnh thoảng hé ra cười với bạn bè xưa cũ. Hùng cũng như mọi người, anh đến thăm Trọng mà xót xa. Lòng anh đau đớn cho người bạn trai hiền hậu ấy bao nhiêu thì lại tiếc cho hạnh phúc của cô bạn gái bấy nhiêu… Anh ghé tai nghe Trọng, nghe bạn thì thầm điều gì đó mà bỗng băn khoăn, hai tay mãi vặn vẹo vào nhau, khó nghĩ.

Rồi Trọng qua đời. Bạn bè lại tụ họp đưa anh về tận huyệt mộ cho trọn cái tình xưa bạn cũ. Nhìn khuôn mặt bơ phờ của con chim gãy cánh mà bạn bè cám cảnh! Chẳng lời ủi an nào làm Oanh mở được đôi mắt nhắm nghiền vì đau đớn! Chẳng ngụm nước nào làm thỏa cơn khát nhớ thương đang xé rách buồng tim cô!

Ngày lại ngày qua…

Mưa theo đuổi nắng…

Những người thiết tha với tình bạn chưa hề bỏ rơi Oanh trong vũng buồn cô đơn tối ám. Những khuôn mặt thân quen vẫn thỉnh thoảng hiện ra nơi chiếc tổ đã mất lửa rơm. Nỗi buồn dần tan đi theo nụ cười gượng gạo. Mái tóc của cô được bạn bè o bế, xem ra đem lại cho cô chút nào tươi tỉnh. Những cánh tay bạn bè dần lôi cô ra khỏi cái mênh mông tù mù. Son môi cô đã tô lại cho nét duyên xưa chợt trở về như chưa từng mất.

Hùng cũng vẫn đều đặn xuất hiện với lũ bạn chân tình. Anh nào đã lấy vợ khi cái duyên của Oanh đã chiếm hữu tim anh cả cuộc đời. Anh loay hoay với ý nghĩ rất gần mà lại rất viển vông: Chờ hết tang Trọng, anh sẽ ngỏ lời với nàng…

Dĩ nhiên, Oanh cũng để cho cái khéo léo của Hùng được tự nhiên thể hiện. Tình yêu ngày nào tuy ẩn nấp rất sâu trong những tháng năm qua, nhưng không vì thế mà nó mất đi sức quyến rũ, khiến dù có nén lòng lắm, Oanh vẫn ngời đôi mắt mỗi khi Hùng đến thăm.

Mọi sự tưởng như êm như giòng suối. Thì lại gợn lên hòn đá chặn ngang lối về của hạnh phúc. Trong một tối tâm tình bên ánh trăng, Oanh mơ màng cầm đồng xu kỷ niệm, chìa cho Hùng:

- Đố biết đây là cái gì?

- Thì là… đồng xu! Hùng ngạc nhiên…

Rồi cô kể cho anh nghe về “sự tích” tình yêu của cô, về “vai trò” của đồng xu trên cuộc tình tay ba dạo ấy. Nghe xong, anh chỉ ậm ừ…

Rồi từ đó, anh không hề đến nữa!

Sự thành thật của Oanh khiến anh đắng lòng. Giá như cô đừng nói thì cái duyên của cô đối với anh ngàn đời vẫn còn sức hấp dẫn. Nhưng chuyện hôn nhân mà để đồng xu quyết định thì một người nghiêm túc như anh không thể nào chấp nhận!

Oanh cũng lờ mờ nhận ra như thế. Nỗi buồn lại tiếp nỗi buồn, nhưng cô vẫn chải chuốt mái tóc cho gọn gàng mỗi khi ra phố. Vì buồn mà làm gì khi cuộc đời cô còn thừa sức để đi tìm cái gì đó cao hơn, lộng lẫy hơn!

Gia tài của cô tuy không lớn, nhưng nó có đủ sức hút để Lợi mon men đến gần. Oanh thừa biết đàng sau cử chỉ mơn trớn, yêu chiều của Lợi chỉ là trục lợi mà thôi. Thế nên cô đóng vai kẻ lãng tai và mù màu để chẳng thấy và cũng chẳng nghe lời ong bướm cứ sỗ sàng gieo vào tai cô, cho đến khi anh chàng này… giã từ vũ khí!

Hành trình tìm bến đậu của Oanh xem thế mà gian nan. Câu chuyện đồng xu bí mật ấy hóa ra mọi người đều biết. Cô không ngờ Hùng lại “bán” câu chuyện ấy cho nhiều bạn bè xưa cũ. Người thì an ủi cô:

- Ôiz! Có gì đâu mà mày phải buồn! May mà mày không ở với cái thằng tẹp nhẹp ấy, chứ không thì cũng cãi cọ nhau vì bất đồng quan điểm!

Kẻ khác lại dè bỉu cô:

- Nó làm như nó giàu lắm hay sao mà làm phách! Thằng Lợi có ngu mới đâm đầu mà lấy nó…

Mãi rồi Oanh vẫn cô đơn. Nơi cô muốn đến thì người ta xa lánh. Kẻ cô nghi ngờ lại xăng xái làm quen!

LAM TRẦN

15.07.2015

THỬ BÀN VÀI ĐIỀU

VỀ MÊ TÍN - DỊ ĐOAN

1/ COI TƯỚNG

Xưa nay người đời thường nói con người sang, hèn, giàu có, nghèo khổ… đều thể hiện trên khuôn mặt, ánh mắt, tướng đi… Có câu nói thể hiện cách coi tướng như: Mặt chữ điền không tiền mà mua, con gái có lưỡng quyền cao là sát chồng… Sự thật về việc coi tướng đó có đúng hay không?

Tôi thấy bạn tôi khi còn đi học, mặt cũng xương xương như bao bạn khác. Lớn lên, khi làm ăn khá lên, người mập mạp, má cũng phính phính ra trông có dáng dấp chữ điền (…). Lại nói đến lưỡng quyền cao thì khi ốm là lưỡng quyền cao thật nhưng khi mập mạp ra, tôi thấy lưỡng quyền không còn cao nữa vì thịt phía dưới đầy lên thì nó trở lại bình thường. Tuy nhiên cũng có trường hợp giàu hay nghèo, khuôn mặt vẫn không thay đổi. Theo tôi, tướng chỉ thể hiện hiện tại là người đó giàu hay nghèo khổ mà thôi.

Còn nói con gái có lưỡng quyền cao là sát chồng, theo tôi là không đúng.

Lúc tuổi thanh niên, tôi có quen với một cô gái dáng dấp, tánh tình đều được cả duy lưỡng quyền hơi cao nên tôi do dự mãi. Sau khi tốt nghiệp Sư phạm, tôi được bổ về vùng quê và thấy mình có vẻ sáng giá nên lơ đi. Cô ta lấy chồng và mới chết khoảng hơn mười năm nay, thọ hơn sáu mươi tuổi. Chồng cô ta năm nay gấm ghé vào tuổi bát tuần mà vẫn còn khỏe mạnh và chạy cả xe gắn máy nữa.

Với trải nghiệm của tuổi cổ lai hy, tôi cho rằng ta sống cho ta, bao năm cũng là một đời, không có gì phải hối tiếc cả. khi ưng ý thì ta cứ hòa nhau vui sống, không có gì phải bận tâm, không có gì phải đắn đo suy nghĩ.

2/ COI CHỈ TAY

Viết về mê tín dị đoan mà không có câu nào về coi tay là thiếu. Lúc trẻ, tôi cũng mua sách coi chỉ tay mà học coi tay với mục đích làm quen với các bạn gái mà thôi. Tôi xem và nhớ kỹ các đường mạng đạo, tâm đạo, trí đạo và các gò trong bàn tay. Tôi cũng nhớ ý nghĩa một số hình. Về các hình thì khó thấy bàn tay nào có nên tôi dựa vô vài nét kinh nghiệm bản thân về cuộc sống mà nói. Ví dụ con nhà giàu ít lao động thì bàn tay nõn nà mềm mại, lao động nhiều thì có chỗ chai cứng… Tôi học nằm lòng một số nét chung chung về cuộc đời.

Khi coi tay, tôi mân mê hai bàn tay, dựa vào một số chỉ tay căn bản mà tán, mắt lay láy nhìn, nếu vẻ mặt chăm chú lắng nghe thì coi như mặt đó đúng và tán thêm ra, bằng không thì chuyển hướng khác. Nay sách coi chỉ tay đã mất nên không còn nói nhiều được. Vả lại việc tương lai của mình, mình phải tự nỗ lực mà làm, hễ thành thì tốt bại thì thôi. Coi bói nếu bị nói là thất bại, sự nỗ lực kém đi thì thất bại thiệt đó.

Tôi viết mấy hàng nầy nhằm nhắc các bạn trẻ nhờ người ta coi tay, coi chừng bị người ta tán láo như tôi hồi thuở hơn hai mươi tuổi đấy.

3/ COI TUỔI VỢ CHỒNG

Năm sanh thì có năm Tý, Sửu, Dần, Mẹo… sách Tử vi ghi tuổi nầy là Dương, tuổi kia là Âm. Tôi chưa đọc được sách nào giải thích tại sao ghi dương hay âm. Và người tuổi Dương mà mệnh ở cung Dương thì tốt, ở cung âm thì xấu. Ngoài tuổi dương hay âm còn có mạng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nữa và nói Lưỡng Kim Kim khuyết, Lưỡng Mộc Mộc chiết… và Kim cũng khắc Mộc vì kim loại chặt đứt cây. Vì thế nên hai người mạng Kim không cho kết duyên với nhau. Rồi lại có câu “Thân, Tý, Thìn tam hạp” thì kết duyên được. “Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ hành xung” thì không kết duyên được. Về mạng, sách Tử vi lại ghi tuổi Tý nầy mạng Kim, tuổi Tý kia mạng Thủy, tuổi Tý nọ mạng Hỏa. Sách coi tuổi vợ chồng họ tính theo CAN (Giáp, Ất, Bính, Đinh…) hợp với CHI (Tý, Sửu, Dần, Mẹo…). Họ chỉ nói CAN nầy hợp với CHI kia mà không hợp với CHI nọ và không thấy giải thích gì. Tôi cho rằng coi tuổi vợ chồng họ theo Ngũ Hành hợp hay khắc và ÂM DƯƠNG thuận hay nghịch mà đoán.

Việc xác định tuổi ÂM hay DƯƠNG và mệnh theo Ngũ Hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ có chính xác không? Nếu người đáng lý sanh ngày mùng hai tháng giêng âm lịch, họ xin giải phẫu để sanh ngày hai mươi chín tháng chạp của năm trước thì sao? Như vậy số trời về tuổi là không chính xác được. Về cầm tinh nầy hợp với cầm tinh kia, tuổi âm dương, mạng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ cũng sai lung tung thì việc coi tuổi nầy liệu có đúng không?

Có người kể rằng tôi tuổi DẦN, người ta nói tuổi Dần nhiều chồng nên khó lấy chồng. Ba Má tôi làm khai sanh lại, cho tôi nhỏ hơn bốn tháng tuổi thành tuổi Mẹo. Sau khi lấy chồng, đến tuổi lục tuần thì bà mới nói thiệt là mình tuổi Dần. Vợ chồng vẫn ăn ở đầm ấm tới già.

Một người anh bạn dì của tôi sanh năm 1944. Anh thương một cô gái, khi coi tuổi, thầy mở sách ra chỉ rằng đây là tuổi “Bắt sang” nghĩa là lấy nhau thì một người chết, muốn may ra sống thì biểu cô gái theo không, không làm đám cưới gì cả. Nhưng theo không hay làm đám cưới thì hai người nầy vẫn lấy nhau, vẫn chung sống với nhau thì cái lễ cưới có nghĩa gì mà quan trọng quá vậy. Cô gái kia là con một nên nhà gái bắt phải làm đám cưới. Dì tôi cũng chiều ý con, liều làm đám cưới. Hai vợ chồng sống đến nay, con cái đều nên cả. Anh tôi cũng trên bảy mươi tuổi rồi.

Như vậy, tôi cho rằng việc coi tuổi không cần thiết. Tuy nhiên đôi khi cũng có sự trùng hợp đấy.

Một ông Dượng tôi được khen là coi tuổi vợ chồng hay lắm. Ai tới coi tuổi thì ông hỏi hai đứa nó biết nhau chưa? Nếu nói là coi để tìm tuổi nào đó khi hai đứa chưa biết nhau thì ông coi. Nếu nói hai đứa đã biết nhau thì ông nhứt định không coi và giải thích: lỡ tôi thấy không được mà nói là có ý ngăn sự tác hợp của hai cháu là tôi có tội. Hễ hai trẻ thương nhau thì cưới chớ không cần coi tuổi vì hai trẻ đã hợp nhau được nhiều mặt rồi nghĩa là điện từ của hai đứa hút được với nhau thì chúng sống được với nhau.

Ngoài việc coi tuổi vợ chồng theo CAN - CHI - Ngũ Hành và sao tốt, xấu theo sao thủ mệnh ở Tử vi lại còn theo cung mệnh nữa. Tôi thấy sách ghi ví dụ:

Tân Dậu thuộc cung CÀN

Mậu Thìn thuộc cung ĐOÀI

Và ghi CÀN hợp với ĐOÀI là tốt. Trong bảng kê hợp cung tốt có ghi: CÀN với CÀN; KHẢM với KHẢM; CẤN với CẤN; CHẤN với CHẤN; TỐN với TỐN; LY với LY; KHÔN với KHÔN; ĐOÀI với ĐOÀI. Sách lại ghi Tân Dậu (nam) không hợp với tuổi Dậu (nữ) nghĩa là kể cả Tân Dậu nữ. Đã nói cùng cung là tốt, cùng tuổi Tân Dậu với nhau nghĩa là cùng cung thì phải tốt chớ! Cái nguyên tắc tốt xấu như thế nào? Nó lung tung như vậy thì phiền quá. Do đó, việc coi tuổi vợ chồng, coi tay, coi tướng… không cần đâu. Không coi là tốt nhứt.

4/ XÂY MẢ CHO ÔNG BÀ CHA MẸ

Người miền Nam thì cho rằng xây mả là việc hệ trọng, chỉ được xây trong vòng 49 ngày sau khi mất. Cũng có người cho rằng chỉ được xây mả trong tang mà thôi.

Ba tôi qua đời năm 1975, gia đình khó khăn vả lại xi măng thời đó mua khó lắm nên chúng tôi để mả đất. Một năm nước ngập lớn, nông dân cuốc 2/3 mả của Ba tôi để ngăn nước. Sau đó anh em tôi quyết định xây mả. Các chú họ tôi biết được, họ tới ngăn cản và dọa: Việc yên rồi, tụi bây đừng làm lung tung coi chừng rụi hết đó! Một số bạn bè bàn rằng xây mả là việc làm tốt, không lợi thì thôi chớ sao lại hại? Người Bắc sau khi chôn ba năm, thì họ cải táng thì sao? Và mọi người đều góp ý là muốn xây mả thì phải coi ngày cho kỹ.

Anh em tôi quyết định 25 tháng chạp là ngày tảo mộ, chúng tôi về làm một ngày cho xong với ý nghĩ đắp mả bằng xi măng. Chúng tôi không coi ngày giờ gì cả.

Xây mả xong, anh em tôi làm ăn phấn chấn hơn chớ không ai bị hại gì. Một đứa cháu kêu tôi bằng Bác họ thấy vậy, nó cũng bắt chước xây mả cho ông nội nó. Sau đó, nó làm ăn mỗi ngày một khá hơn, và trở nên giàu có trong khi các anh, chị em nó thì chỉ khá đôi chút mà thôi. Qua đó, tôi thấy việc cữ xây mả cho ông bà cha mẹ là không đúng.

Khánh Hội-Quận Tư Sài Gòn 18.6.2015

NHỰT THANH

(Phạm Hiếu Nghĩa)

20 LỜI KHUYÊN

GIÚP BẠN SỐNG HẠNH PHÚC

Trầm cảm và chẳng thích gì hết, bạn thấy cuộc đời thật buồn bã và không một tia hy vọng. Thế nhưng, đừng buông mình như thế, bạn hãy theo 20 lời khuyên dưới đây để sống có ý nghĩa hơn.

Cuộc đời của mỗi chúng ta đều có những bước thăng trầm. Tuy nhiên, không có lý do gì để kéo dài những giờ phút buồn bã. Nếu chứng trầm cảm có thực sự xảy đến với bạn thì sự giúp đỡ của một chuyên gia tâm lý là cần thiết; và bạn có thể tự mình vượt qua những cơn buồn nản. Các nghiên cứu mới về tâm lý đã cho thấy rằng không phải những khắc nghiệt của cuộc sống khiến chúng ta nản lòng, mà đúng hơn là do cách chúng ta diễn đạt chúng. Nếu bạn thuộc loại người hay than vãn, luôn tin rằng mình không đủ khả năng lo liệu và mọi việc đều không ổn, thì làm sao bạn vui sướng được? Trong khi đó, những kẻ lạc quan thường rút ra điều tốt đẹp trong cuộc sống và nụ cười luôn nở trên môi họ. Điều đó sẽ kéo dài cuộc sống hạnh phúc cho họ.

Khi biết mình rõ hơn, bạn sẽ giải quyết tốt những khó khăn. Cần nhất là đừng bao giờ để các yếu tố tiêu cực chế ngự lấy bạn.

1. Suy nghĩ hợp lý:

Bạn luôn xếp hàng cuối trong siêu thị? Khi lái xe, bạn luôn gặp đèn đỏ? Nếu đó là cảm tưởng của bạn trong cuộc sống thì tất nhiên bạn là nạn nhân của tư tưởng bi quan. Hãy suy nghĩ hợp lý và bạn sẽ thấy rằng, không phải lúc nào mình cũng gặp rủi ro. Nên nhớ đến những lần bạn đã vượt qua được sự bi quan.

2. Có những quyết định rõ ràng:

Đừng kéo dài các vấn đề. Hãy có một quyết định dù chúng khó khăn, đừng thay đổi ý kiến và phải đòi hỏi sự rõ ràng với mọi câu hỏi.

3. Hãy yêu:

Tình yêu khiến người ta vui vẻ và yêu đời hơn. Điều lý tưởng là phải yêu. Không cần tìm một mẫu người hoàn hảo, hay để thay thế người vừa bỏ bạn. Chỉ cần yêu một người có thể giúp bạn có những tư tưởng tốt đẹp. Người đó sẽ khiến bạn thích và khiến bạn muốn thức dậy sớm mỗi buổi sáng…

4. Hãy đi ra ngoài:

Nên đi ra ngoài, dù bạn không thích. Tất nhiên cũng rất quan trọng khi bạn biết được nỗi cô đơn và dành ra những phút giây suy ngẫm cho mình. Khi bị trầm cảm thì không ích lợi gì nếu cứ ẩn mình mãi trong “ổ kén”.

5. Cần giải quyết tận gốc:

Hãy lập danh sách những gì khiến bạn bận tâm. Một số vấn đề có thể rất dễ giải quyết. Chẳng hạn phải biết xin lỗi lúc cần, điều đó có thể làm bạn nhẹ nhõm.

6. Hãy quên sự khó chịu của ông chủ:

Đừng để mình bị ám ảnh bởi sự khó chịu của ông chủ, nếu ông ta xử sự bất công, có lẽ bởi vì ông ta cũng đang bực bội. Có thể vì không giải quyết được vấn đề, nên ông ta trút sang bạn. Chắc chắn ông ta sẽ biết điều đó và sẽ nghĩ lại.

7. Tự đối xử như một người bạn:

Hãy tự rộng lượng với bản thân khi mọi việc không ổn (đừng tự trách mình quá mức). Và đối với bạn bè cũng vậy. Nếu có thể được, hãy tự mua một món quà cho mình.

8. Hãy viết:

Có thể sẽ rất khó giãi bày nỗi bất hạnh của mình hay tìm được người biết lắng nghe lúc cần. Một phương pháp tốt là ghi chép lại tất cả những vấn đề buồn phiền, gởi thư cho người làm bạn giận hay viết nhật ký. Khi các cảm tưởng, nỗi ngờ vực hay hy vọng của bạn hiện ra trên giấy, bạn sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn về mọi việc. Và như thế, việc giải quyết sẽ rất dễ dàng.

9. Hãy hành động thực sự:

Khi muốn thay đổi công việc, đổi nhà hoặc tìm bạn mới (vì người bạn cũ làm bạn buồn phiền, chẳng hạn), mà bạn chẳng biết giải quyết làm sao, bạn sẽ có cảm tưởng thất bại. Hãy hành động thực sự và đừng than phiền nữa.

10. Hãy giải phóng tình cảm:

Khi đè nén các cảm tưởng tiêu cực như buồn phiền hay giận dữ, bạn phải sử dụng rất nhiều năng lực. Cứ như thế, bạn sẽ cảm thấy bị gò bó và tự giận mình vì đã không phản ứng gì cả. Hãy giải phóng tình cảm, có thể khóc lên, việc đó rất tốt cho bạn, nó giúp bạn nhẹ nhõm và tăng cường thêm sức mạnh để suy nghĩ tích cực hơn.

11. Biết tôn trọng cơ thể:

Đừng tự hủy hoại mình. Tạm thời có thể dễ chịu hơn khi ăn một th an h chocolate, hút một gói thuốc hay bỏ một buổi tập thể dục, nhưng dần dần, điều đó sẽ có hại. Đ ừng buông thả mình. Chẳng có gì tệ hơn ý thức xấu: phá hoại tinh thần và thể xác bạn.

12. Trau giồi sự hấp dẫn:

Trong một buổi tiệc, mọi người đều cố tỏ ra hấp dẫn. Dù bạn không phải như thế, cũng nên tập thay đổi cách xử sự đối với người khác. Nên ý thức đến khía cạnh quyến rũ của mình.

13. Hãy hành động:

Hãy thực hiện những việc mà bạn chưa dám làm. Nên phát triển khả năng hành động của bạn bằng cách lao vào các hoạt động giúp bạn tiến xa hơn; và từ chối những gì mình không thích. Đừng nghe lời xúi giục để mua một chiếc áo mà bạn sẽ không bao giờ mặc; trả lại cho nhà hàng một thứ rượu không ngon; và đừng mất thì giờ cho những sự vô bổ, nếu bạn còn nhiều việc phải làm.

14. Nên ấn định mục tiêu phù hợp:

Hãy ấn định các mục tiêu, nhưng đừng quá cao. Đảm bảo rằng đó là mục đích của bạn chứ không phải của người khác. Đừng bao giờ so sánh việc mình làm với một lý tưởng xa vời, vì sẽ khó thỏa mãn được.

15. Trang điểm cho cuộc sống thường ngày:

Hãy thay đổi nội thất: cắm hoa, thay vải giường, thay thảm, đóng cái kệ mà bạn cần. Điều đó rất quan trọng khi bạn cảm thấy thích thú.

16. Biết chọn bạn:

Những người xem thường bạn, đó không phải là bạn bè thật sự của bạn. Bạn nên rời xa những người đó và dành thời gian cho những người bạn vui vẻ, năng động và biết tôn trọng bạn.

17. Hãy lắng nghe bạn bè:

Đừng nghĩ rằng bạn bè không hiểu được điều bạn cảm nhận. N ên lắng nghe lời khuyên của họ. Đ ôi khi một cái nhìn khách quan từ bên ngoài sẽ rất hữu ích.

18. Hãy nghe nhạc:

Một nỗi buồn phiền về tình cảm sẽ không thể xóa nhòa khi bạn nghe các bản nhạc gợi lại chuyện ấy. Nhưng âm nhạc có thể là giải pháp. Hãy nghe một bản nhạc rock, nó sẽ giúp bạn hồi phục lại hoạt động, tống khứ các bực dọc; hay có thể nghe nhạc cổ điển để chống stress.


Phụ Bản IV

19. Hãy nói: “Tôi không muốn”:

Đừng bao giờ tự nhủ rằng bạn không thể hoặc phải làm điều này, điều kia. Nên tìm các từ củng cố cho nghị lực và khả năng hoạt động của bạn. Hãy thay “tôi không thể” bằng “tôi không muốn”; “tôi phải” bằng “tôi có thể”; “đó là một vấn đề” bằng “đó là một khả năng”,…

20. Hãy chăm sóc bản thân:

Khi mọi việc không ổn, người ta thường thích bỏ mặc - kể cả chính bản thân. Thật sai lầm. Nếu không chăm lo đến đầu tóc, quần áo hay trang điểm, chúng ta sẽ chán chường với cả chính mình khi nhìn vào gương. Nên chăm sóc đến bản thân, vì bạn xứng đáng được như thế. Bạn sẽ cảm thấy dễ chịu hơn và tự ái của bạn sẽ được vuốt ve.

MINH THU (Theo Forme)

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

KHÔNG PHẢI LÀ HOA

ĐÀM LAN

Tôi đưa tay xé một tờ lịch, bất chợt nghe một cảm giác pha lẫn một chút sững sờ, một chút bàng hoàng và cả một chút xót xa thương cảm lặng thầm. Tờ lịch mang những con số “18-4”, và một hàng chữ đậm rõ nét “Ngày Người Khuyết Tật” .

Nhà tôi có một nhà giáo, một bác sĩ, một doanh nhân và một quân nhân. Đó là một vài trong số những nghành nghiệp đã được xã hội dành hẳn cho một ngày riêng biệt để tôn vinh. Vào những ngày đó, không khí trong gia đình, cũng như không khí ngoài xã hội, có một chút đổi thay. Đó là những nụ hoa, những món quà trong lớp giấy đẹp, những lời chúc tốt lành, và cả những bữa tiệc hoan hỉ, vui say. Những nhân vật của những ngày ấy trông mới xinh tươi, hồ hởi, sung sướng và hãnh diện làm sao. Chính tôi cũng đã nhiều lần hòa cùng cuôc vui trong bầu không khí thân thương ấy, cũng đã tự tay đi chọn những bông hoa đẹp nhất, cũng đã trù bị trong đầu những lời chúc mừng hay nhất, và cũng tự tay nấu những món ăn ngon nhất, để góp một chút vui của mình trong sự tôn vinh chung của người người, và cũng là để đem đến cho những người ấy chí ít là một nụ cười thỏa mãn, vì cái ý thức được ưu đãi được tôn trọng, và cả một phần tự hào với những gì mà bản thân đã được đóng góp mà trong xã hội đời sống con người này luôn cần đến. Còn tôi? Cái số phận không may mắn gì, không vui vẻ gì, không thích thú gì, đã buộc tôi phải rơi vào một ngày sau chỉ một cơn sốt cao. Cái ngày mà lẽ ra đừng nên để nó hiện thành câu thành chữ trên một tờ lịch thế này. Tại sao người ta lại dành ra một ngày cho nó làm gì chứ? Nó đâu có mang lại được một điều gì hay hớm cho những chủ nhân của nó đâu, nó cũng không tạo ra được một thứ không khí nhộn nhịp như những kiểu ngày khác, thậm chí nó còn như một nhát roi quất vào lòng của những người như tôi lúc này. Cái ngày dành riêng này gần như chỉ mang lại sự phản cảm, là bởi hầu hết mọi người đều có thái độ tránh né, coi như đó chỉ là một ngày bình thường như bao ngày bình thường khác. Không tránh né thì còn làm được gì, có ai đi chúc mừng nỗi bất hạnh của người khác bao giờ, trong sinh hoạt hàng ngày lỡ có điều sơ sẩy đụng chạm đến đã là một nỗi khó khăn lắm rồi, lại còn đi nhắc nhở vào một ngày để gây thêm sự tổn thương cho người nữa sao. Không, không thể. Tuyệt nhiên không ai có thể tỏ một chút động thái nào, cho dù với một thiện ý tốt đến mấy đi nữa. Vậy thì dành ra một ngày này để làm gì? Chỉ để cho những người trót không may phải mang trong mình một sự khiếm khuyết đáng buồn nào đó, lại cảm thấy mình đáng thương hơn.

Nỗi buồn cứ dâng mãi, ngút ngát cả tâm hồn, tôi chợt bật dậy, với lấy đôi nạng chống đi, đi vài bước tôi quay lại, xé luôn tờ lịch ấy, cứ để cho thời gian chạy nhanh hơn một chút cũng được. Khép lại cánh cửa, bỏ lại đằng sau ngôi nhà vắng lặng, như mọi ngày, những người trong nhà tôi đã tỏa ra các ngả đường từ sớm, chỉ còn tôi loay hoay với cái máy giặt, với các vật dụng bếp núc, với những trang báo và với những mẩu văn rời rạc của mình, những đoạn viết ấy chủ yếu chỉ để gói gém niềm tâm sự mà tôi không biết thổ lộ cùng ai, thi thoảng được in trên một trang báo, đó là niềm hạnh phúc rất lớn với tôi. Tôi đi dọc theo bờ hè, có một vài chỗ hè hẹp quá vì xe cộ dựng ngang dọc, vì những thứ hàng hóa người ta phải bày lấn ra, tôi phải bước xuống lòng đường, những chiếc xe ngược chiều vội vã lách qua. Thành phố vẫn đông đúc những sắc màu rộn rã, vẫn chật chội chất chứa trong lòng bao tất tả ngược xuôi. Trên những con đường như thế này thường rất hiếm những người như tôi, nghĩa là những người tự biết mình dễ bị mất an toàn khi tham gia vào một lưu lượng người xe như thế. Tôi cũng không ra khỏi nhà nhiều lần trong ngày làm gì. Chỉ thỉnh thoảng lóc cóc khua đôi nạng ra khu chợ cách nhà không xa mấy, mỗi khi phải mua thức ăn vì chị hoặc em tôi ngày đó vội đi sớm, hoặc mua một vài thứ gì đó cho riêng mình. Nhưng hôm nay, con đường tôi đi không dẫn tôi ra khu chợ ấy, mà nó đang trải dài lối đến vườn hoa thành phố. Thiên nhiên chắc sẽ giúp tôi thanh thản được lòng chăng? Quả là vậy. Bước chân vào vườn hoa, những xôn xao sắc lá màu hoa trong cảnh sắc hài hòa êm ả, tôi nghe lòng mình nhẹ hẳn đi, một làn gió thoảng qua làm tôi thêm dễ chịu. Chọn một chiếc ghế đá tôi ngồi xuống, ghép đôi nạng gỗ gọn qua một bên. Cái vật vô tri này đã theo tôi hơn hai mươi năm nay rồi, nó cũng tăng dần theo chiều cao của cơ thể, mặc dù bỏ nó ra tôi cũng nhẩn nha từng bước được, nhưng sẽ bị vấp ngã nhiều hơn, vì vậy tôi chỉ rời nó khi loanh quanh trong nhà, ra đường thì không thể thiếu nó được. Tự nhiên tôi vuốt nhẹ đôi nạng gỗ, như thay cho lời cảm ơn, và tôi bỗng mỉm cười một mình. Tâm trạng tôi đã khác lúc ngồi ở nhà rất nhiều, nếu không ra đây thế này, chắc tôi lại vùi mình trong những giọt nước mắt tủi thân mất. Nước mắt. Đã từ rất lâu tôi không để cho chúng tùy tiện chảy ra nữa, người ta hay nói, khi có tâm trạng không tốt nếu khóc được chắc sẽ nhẹ lòng hơn, tôi thì không cho là thế, đành rằng cũng có đôi lúc thật, nhưng khi chảy nước mắt sao thấy mình yếu đuối quá, thậm chí là ươn hèn nữa. Khóc chẳng giải quyết được gì cả, chỉ làm mình thêm yếu lòng, thêm thấp bé đi thôi, mà với một người như tôi thì rất cần sự mạnh mẽ, cứng rắn, có khi là chai lỳ nữa, có thế thì tôi mới vượt qua được những lúc khó khăn trong lòng, càng khóc thì lại càng thấy nỗi đau của mình lớn thêm thôi. Nên nếu có những tình huống nào đó, e chừng mình sẽ bi lụy , tôi luôn tìm cách thoát khỏi nó, và hầu như lần nào tôi cũng thành công, như lần này chẳng hạn. Đưa mắt nhìn quanh, tôi thở một hơi sâu, cảm giác trong buồng phổi mình có bao nhiêu ngõ ngách đều nở hết cả ra.

Ánh mắt tôi chợt đậu lại một điểm, một khối hình dưới một tán cây, khối hình ấy có một kích thước ngắn hơn bình thường mà lẽ ra nó phải, và thay vào cái đoạn ngắn hơn ấy là một hình khung bằng sắt, cái hình khung này có thể di chuyển được nhờ hai cái bánh xe. Nói tóm l ạ i là tôi nhìn thấy một người đàn ông trên chiếc xe lăn. Thật tệ hại khi cho r ằ ng đó là một niềm vui. Nhưng rõ ràng trong tôi dội lên một thứ cảm xúc như vui vẻ, một thứ cảm xúc mang lại một sự gần gũi mơ hồ nào đó . Kể ra thì không hề nghịch lý một chút nào, vì trong hoàn cảnh này, đó là một sự đồng cảm. Người xưa đã có một câu nói thế nào trong trường hợp này nhỉ? A, phải rồi “Đồng bệnh tương lân”. Khi có cùng một sự rủi ro ngưòi ta cảm thấy gần nhau dễ hơn là có cùng một sự may mắn, chẳng hiểu sao lại lạ thế chứ. Nhưng lúc này thì rõ ràng đó là một minh chứng tuyệt đối. Tôi tuy có khiếm khuyết về thể hình, nhưng bản tính tôi lại khá tự nhiên và cởi mở, đây là nhận xét của khá nhiều người, và có lẽ đó là một thế mạnh hay còn gọi là một cứu cánh của tôi vậy. Vì nhờ nó mà đời sống tinh thần của tôi không đến nỗi nghèo nàn hay ủ dột. Hình như đó là sự công bằng của tạo hóa, khi lấy đi một thứ này thì sẽ bù đắp bằng một thứ khác, hẳn là như vậy, nếu không con người làm sao tồn tại nổi giữa cuộc đời nhiều nguy ngại này. Bây giờ thì bản tính của tôi lại một lần nữa thúc giục hành động của tôi. Tôi chống nạng đi đến gần người ấy.

- Chào anh ạ.

Giật mình và có lẽ còn giật mình hơn khi ngoảnh nhìn sang bên thấy một hình hài. Nửa ngạc nhiên và nửa thân thiện là ghi nhận đầu tiên của tôi trong mắt người ấy.

- Vâng! Chào cô ạ.

- Nếu anh không ngại, cho phép tôi mời anh đến băng ghế kia để trò chuyện một chút, được không ạ?

Một nụ cười vui vẻ:

- Vâng vâng, thế thì còn gì bằng nữa ạ.

Có vẻ anh ta cùng có cùng tâm trạng như tôi trong cái ngày này thì phải. Và như thế thì lời đề nghị của tôi quá hợp tình hợp lý rồi. Anh bạn ấy lăn xe theo tôi đến chiếc ghế băng đá, và cố xê đi dịch lại cho ngang tầm cái ghế ngồi. Tôi nhìn thoáng qua gương mặt người bạn đồng trạng, một gương mặt vuông vức, đầy đặn, đầy vẻ tự tin, vững chãi. Nếu có một cơ thể hoàn chỉnh, có lẽ đây là một người đàn ông rất uy phong, sẽ là một đối tượng thu hút không biết bao nhiêu là cái nhìn ngưỡng vọng của những người khác phái. Nhưng… lại cái chữ nhưng chết tiệt ấy. Ôi trời, bỗng nhiên lại đổ tội cho chữ nghĩa, đúng là vớ vẩn. Tôi thoáng cười thầm cho những suy nghĩ lẩm cẩm của mình.

- Công viên hôm nay vắng người nhỉ?

- Ngày thường mà, ai cũng đang loay quay với công việc cả, có thời gian đâu mà ra đây giờ này.

- Chắc chỉ có những người như chúng ta mới có thời gian vào lúc này thôi cô nhỉ.

Hai đôi môi cũng nhếch một nụ cười đồng nghĩa. Sau một vài câu hỏi han, chúng tôi đã biết một số thông tin về nhau. Tuy mỗi lý do dẫn đến bệnh trạng có khác nhau, nhưng tâm trạng thì không khác nhau là mấy. Tôi nói những suy nghĩ của mình về hàng chữ trên tờ lịch. Anh bạn khẽ lắc đầu:

- Tôi lại không cho là thế. Tuy đúng là nó có nhất thời mang đến cho ta những phản cảm, nhưng vấn đề là ở chính ta chứ không phải ở xuất xứ của nó. Bởi chính ta còn mang nặng những tự ti mặc cảm, còn chưa bước qua được cái rào cản của chính lòng mình. Chứ nếu nhìn về mặt tích cực của ý nghĩa thì nó lại biểu thị một điều khác. Đó là sự quan tâm, sự tiếp nhận của mọi người về sự tồn tại những người như chúng ta.

- Anh không cho đó là một sự chiếu cố sao?

- Về một góc hẹp nào đó thì có. Và cũng phải thừa nhận rằng, có một thành phần trong xã hội nhìn chúng ta bằng ánh mắt tội nghiệp, ban bố. Nghĩ gần, ta cho đó là sự xúc phạm, là làm tổn thương lòng tự trọng của mỗi chúng ta, nhưng nghĩ xa, ta không thể đòi hỏi họ một cái nhìn bình đẳng, và cũng không thể trách họ nếu họ có sự thương cảm nào đó, vấn đề là cách thể hiện thôi. Nếu ta hiểu họ, và ta hiểu ta thì không nên đặt nặng vấn đề làm gì, hãy coi đó là một sự thông thường trong cuộc sống. Nói cho cùng, không ai là người không khiếm khuyết cả, chỉ là nhìn thấy bằng mắt hay nhìn thấy bằng lương tri thôi.

- Anh nói nghe sâu xa quá.

Một nụ cười nhẹ:

- Tôi cũng đã từng đi qua những tâm trạng, cũng đã từng khổ tâm dằn vặt, sao mình không chết quách đi cho rồi, người như mình thì sống trên đời này làm chi cho chật đất, cho vướng bận mọi người. Thậm chí cũng đã có lúc tôi định tự tử vì một cú sốc nào đó. Nhưng rồi qua đi, tôi lại bình tĩnh nhìn lại mình và cuộc sống. Chúng ta là những người thiếu may mắn, không được tạo hóa ban cho sự công bằng về mặt hình thể, và chính xác là chúng ta phải chịu những thiệt thòi nhất định về tinh thần tình cảm và cả vật chất nữa. Nhưng chúng ta còn cả một tâm hồn và cả một trái tim, khối óc, hãy biết cách để không phải sống thừa. Cô thấy đấy, vẫn có những người khuyết tật làm nên những kỳ tích, không phải họ cố để chứng minh một cái gì đâu, chỉ là họ không thể tự vứt bỏ mình, bởi nếu chính mình vứt bỏ mình thì sẽ chẳng có ai cần mình nữa.

- Nhưng dẫu sao cũng còn những hạn chế mà ta không thể phủ nhận, và khi nhìn vào những hạn chế ấy, làm sao tránh khỏi sự tủi thân hở anh?

- Tất nhiên, vì là một con người đúng nghĩa, bản thân ta cũng vẫn có những khao khát, những ước vọng, nhưng điều kiện bản thân không cho phép, nên buộc phải có lúc mình phải chấp nhận sự bất lực chứ, và những lúc như thế thì rõ ràng là phiền muộn, là tâm trạng rồi. Vậy nên tốt nhất hãy biết hạn chế những ước vọng của mình, nếu có gì đó nảy sinh, mà xét thấy mình không thể đạt được, thì hãy gạt phắt nó đi, và nghĩ đến những gì trong tầm tay mình thôi, như vậy sẽ dễ sống hơn.

- Tôi có nhiều lúc rất buồn vì phải sống dựa vào sự cưu mang của người thân, cho dù hàng ngày tôi cũng làm một số công việc trong nhà, nhưng không trực tiếp làm ra tiền để có thể tự lo cho mình, nên cũng nghĩ ngợi lắm.

- Đây là một vấn đề rất bức thiết của chúng ta, tuy xã hội cũng đã có những hướng tạo công ăn việc làm cho những người khuyết tật, nhưng con số đó còn quá ít. Số còn lại phải tự mưu sinh bằng mọi cách có thể, may mắn hơn một chút như cô còn có người thân giúp đõ, còn nhiều, nhiều lắm những người đang phải sống lây lất từng ngày kia. Nói gì thì nói, đa số những công sở, nhà máy vẫn không thể chấp nhận chúng ta, vì cái họ cần là hiệu suất công việc, so ra thì đương nhiên chúng ta không thể bằng người bình thường rồi, hơn nữa những nơi ấy đâu phải là nhà từ thiện cho dù ở mức độ nào đi nữa. Nếu chúng ta cứ để tâm đến những bất bình đẳng của xã hội, thì không thể nào có được sự bình yên cho mình cả.

- Thế theo anh thì phải làm sao?

- Hãy bằng lòng với những việc dù nhỏ nhặt mà mình đã làm được, đừng đòi hỏi mình nhiều quá, dễ dẫn đến một tâm trạng yểu nhược. Ví dụ như cô, cô nấu được một bữa ăn ngon, những người thân của cô vui thích thưởng thức, và có đầy đủ dinh dưỡng để làm được nhiều việc, để tránh được những bệnh tật, thế đã là tốt rồi, hoặc như cô nói, cô cũng thỉnh thoảng viết lách đôi chút, vậy thì một bài thơ, một bài văn hay, gây được cho người đọc chút niềm vui, chút thư giãn đầu óc sau những công việc mệt mỏi, thế là hay rồi. Còn với tình cảm của mọi người, hãy mở lòng đón nhận, dù cách thể hiện của họ đôi khi không được tế nhị lắm, nhưng đừng quá tự ti mặc cảm mà phủ nhận, đó cũng là tự hắt hủi mình đấy.

Càng nói chuyện với con người này tôi càng cảm thấy bộ óc mình như nở ra, có những điều tôi cũng đã từng nghĩ đến, nhưng để diễn tả thành lời được thì không dễ, bất giác tôi kêu lên một tiếng thán phục:

- Hôm nay thật là môt ngày đẹp trời để tôi được trò chuyện với anh thế này.

- Thật ra đây cũng là một dịp may cho tôi, vì không dễ tìm được một người có thể nghe và hiểu được mình muốn nói gì.

- Vâng. Đúng thế đấy anh ạ. Trong cuộc sống mình có thể gặp rất nhiều người, nhưng với một số thì chỉ có thể bâng quơ hay đùa cợt dăm câu rồi qua chuyện, còn để nói được những chuyện thuộc tư duy thì không nhiều lắm.

- Đối với loại chuyện mang tính tâm cảm đặc trưng như chúng ta lại càng khó. Bởi với những người bình thường, họ không thể hiểu hết được tâm can của ta, mà ta thì vì lòng tự trọng cũng không dễ thổ lộ với họ.

- Như vậy nhất thiết chúng ta phải tìm đến nhau để có thể giải tỏa những gút mắc trong lòng phải không ạ?

- Được thế thì quá tốt.

- Thế thì số điện thoại của tôi đây, còn anh?

- Tốt quá, tôi không có điện thọai, nhưng không sao, tôi vẫn có thể liên hệ với cô mà.

Ông mặt trời đã lên khá cao, ánh nắng đã có phần gay gắt, tôi nhớ đến công việc của mình.

- Chắc tôi phải chào tạm biệt anh rồi.

- Vâng, cô có việc thì cứ về trước, tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi đây. Chúng ta sẽ còn nhiều dịp để trò huyện với nhau mà.

Nói rồi anh chìa ra một tập vé số nãy giờ nằm nép một bên, tôi ái ngại:

- Ôi chết, vì tôi mà …

- Cô không phải nghĩ ngợi, đây là việc hàng ngày, còn buổi nói chuyện của chúng ta nó có một giá trị riêng chứ, đâu thể so sánh nhau được.

Tôi mỉm cười chợt nghĩ và nói:

- Anh nghĩ sao nếu cuộc nói chuyện của chúng ta sẽ một ngày xuất hiện trên một trang báo nào đấy?

- Thế thì quá tốt, biết đâu cũng có những người bạn như chúng ta đây gặp được một sự đồng cảm dễ chịu này.

- Tôi chợt nảy ra một ý, nếu ta thành lập được một Câu lạc bộ cho những người khuyết tật thì hay biết mấy anh nhỉ?

- Một ý kiến tuyệt đấy, nhưng mà hơi to tát, mà không chừng, biết đâu đấy…

- Ồ, bỗng nhiên tôi có một hứng thú ghê gớm cho việc này, ta sẽ bàn với nhau sau nhé. Giờ thì chúc anh gặp may với những người khách dễ tính.

- Dễ tính thôi chưa đủ, họ còn phải có một khao khát nữa cơ.

- Khao khát một món lợi dễ kiếm thì hầu như ai cũng có, nhưng đặt niềm khao khát vào sự may rủi thì không nhiều đâu anh ạ.

- Tất nhiên, nếu không tôi đã trở thành một nhà tỷ phú nhờ kinh doanh vé số mất rồi.

Những tiếng cười vui vẻ, sảng khoái luôn đem lại cho những gương mặt người một vẻ rạng rỡ yêu đời, chúng tôi chào từ biệt nhau trong tiếng cười thanh thỏa ấy. Vừa quay lưng trở bước, tôi nghe anh bạn gọi:

- Này, nếu có nhuận bút thì phải nhớ chia cho tôi một nửa đấy nhé.

- Anh yên tâm, hai phần ba cũng được mà.

Đôi nạng lại đưa tôi về phía khu chợ, hôm nay tôi mua một số thực phẩm ngon về chế biến, tôi thường rất vui khi những món ăn của mình được mọi người yêu thích và sử dụng hết với vẻ còn thòm thèm, hôm nay chắc chắn niềm vui ấy trong tôi sẽ tăng lên gấp nhiều lần.

ĐÀM LAN

CÂU CHUYỆN CỦA MỘT ĐỨA TRẺ

THẰNG NHÓC

CƠ XƯỞNG

(Hải Đảo Của Tôi)

Tôi ra đời ngày 13/05/18… tại một tỉnh lỵ trong vùng Languedoc, nơi mà cũng như hầu hết các tỉnh lỵ miền tây, người ta gặp nhiều nắng nóng đầy bụi bậm và vài đền đài kỷ niệm Romain.

Cha tôi là ông Eyssette. Thuở ấy cha tôi làm nghề thương mãi về tơ lụa tại cửa cổng tỉnh lỵ nói trên, trong một cơ sở vĩ đại. Nơi đây, cha tôi có xây dựng thêm một cơ ngơi khang trang, dưới bóng mát của những cây bàng, và cách xa cơ xưởng bởi một khu vườn rộng rãi.

Đó là nơi tôi đã chào đời, và cũng là nơi tôi đã trải qua những năm tháng đầu đời huy hoàng nhất. Như vậy đó, mà lòng biết ơn của tôi đã lưu luyến mãi cái mảnh vườn, cái cơ xưởng, những cây bàng một kỷ niệm khó phai mờ, và khi mà sự suy sụp của cha mẹ tôi, làm cho tôi phải xa rời những cảnh vật nầy, tôi thật sự nuối tiếc...

Để bắt đầu câu chuyện, tôi phải nói rõ rằng, sự ra đời của tôi không đem lại hạnh phúc cho nhà Eyssette. Bà vú già Annou đã thường kể cho tôi nghe. Có một dạo nào đó, trên đường đi xa thì cha tôi nhận được hai tin trong một lúc. Một tin vui về sự ra đời của tôi, và một tin buồn về một người khách hàng giựt nợ hơn 40.000 quan. Ông Eyssette bàng hoàng đến độ, không biết nên khóc vì khách hàng giựt nợ, hay là nên cười cho sự chào đời của bé Daniel. Nên khóc đi, ông Eyssette tốt bụng. Phải khóc gấp đôi đi.

Đó là sự thật. Vào lúc khai sanh tôi, thì những tai họa khó lường đổ ập xuống cha mẹ tôi, ở nhiều nơi. Đầu tiên là những khách hàng xấu ở Marseille, kế đó là hai trận hỏa hoạn trong năm, kế đó là sự đình công thợ thuyền, kế đó là sự xung đột với cậu Baptist, kế đó là một vụ kiện tụng tốn kém với khách hàng cung cấp phẩm màu, kế đó là một sự gia tăng tai họa do Cách Mạng 18... làm trì trệ công việc làm ăn.

Kể từ đó, cơ xưởng chỉ còn hoạt động cầm chừng; từ chút từ chút, các lán trại trống dần; mỗi tuần một tay nghề bỏ đi; mỗi tháng một bàn in vải ít hơn. Thật là tội nghiệp, mà nhìn thấy sự sống cứ lần lượt ra đi khỏi nhà chúng tôi, như một thân thể bệnh hoạn, chầm chậm, mỗi ngày một chút. Có một lần, người ta không còn bước vào phòng trợ lý nữa. Một lần khác, cái sân việc của xưởng bị đình chỉ. Những điều đó dây dưa trong vòng hai năm. Cái cơ xưởng hấp hối trong vòng hai năm.

Rốt cuộc rồi, vào một ngày nọ, thợ thuyền không ai tới nữa. Chuông kẻng cũng không đổ nữa. Bánh xe guồng nước giếng ngừng hoạt động. Nước trong hồ giặt giũ tơ lụa đứng im.

Và liền theo đó, thì toàn bộ cơ xưởng chỉ còn lại có cha tôi và mẹ tôi, bà vú già Annou, anh Jacques và tôi, kế đó là ông bảo vệ với đứa con trai nhỏ Rouget đang trông coi cái cơ xưởng hoang vắng ở tận đàng kia.

Thôi hết rồi. Chúng tôi đã bị phá sản rồi.

Thuở đó, tôi lên sáu hoặc bảy tuổi gì đó. Cha mẹ không muốn cho tôi đi học, bởi vì tôi vốn yếu đuối và bệnh hoạn. Nhân dịp ở nhà, mẹ tôi cũng có chỉ dạy cho tôi, tập đọc, và tập viết cộng thêm vài tiếng Y Pha Nho, với mấy điệu nhạc Guitare, và nhờ đó mà người ta cũng tạo được một niềm hãnh diện nho nhỏ cho gia đình.

Bởi cái giáo dục nầy mà tôi không bao giờ rời khỏi nhà chúng tôi, nên tôi có thể chứng kiến tất cả chi tiết về cơn hấp hối của nhà Eyssette. Tôi phải thú thật, là tôi dửng dưng trước tình cảnh nầy. Lúc đó tôi còn quá trẻ con để hiểu biết nỗi buồn, trái lại tôi còn cảm thấy thích thú ở một góc độ êm ái hơn, rằng tôi có thể chạy nhảy tung tăng tùy thích ở mọi nơi trong cơ xưởng, điều mà lúc trước tôi chỉ được phép vào ngày chúa nhật mà thôi.

Tôi nghiêm chỉnh nói với thằng bé Rouget rằng: “Bây giờ, cái cơ xưởng nầy là của tao. Người ta cho tao để chơi”. Và thằng Rouget thì tin tôi. Nó tin tôi mọi điều mà tôi nói với nó. Cái thằng Rouget thật là tội nghiệp.

Dĩ nhiên, là mọi người ở trong nhà, không ai xem sự sụp đổ đó là một niềm vui.

(Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật

VÙNG TRỜI KÝ ỨC

Dáng núi thấp thoáng phía chân trời. Lòng chị bỗng dưng cồn cào nỗi gì rất lạ. Xao xuyến bồi hồi, thương cảm trộn lẫn vào nhau. Nước mắt tràn qua mi, chị len lén kéo chiếc nón che mặt để chị bạn ngồi bên không nhìn thấy. Đưa tay chặn lên ngực như dỗ dành trái tim hãy thôi thổn thức. Chỉ một chút nữa thôi chị sẽ đến Buôn Ma Thuột. Nơi mà chồng chị đã góp phần nhỏ làm nên chiến thắng khởi đầu cho cuộc Tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và anh đã hy sinh ở đây, để lại trong lòng chị nỗi thương tiếc không bờ bến. Nơi cứ mãi ám ảnh, réo gọi chị một lần giáp mặt. Vậy mà mãi đến giờ, tóc đã ngả màu sương khói chị mới có dịp thỏa mơ ước tìm kiếm dấu vết yêu thương. Chiếc xe ung dung lướt qua những con dốc cứ cao dần lên. Hai bên đường hàng hàng lớp lớp cây cao su đứng lặng thầm thẳng tắp. Chị ngỡ ngàng, nao nao khi nhìn thấy những ngôi nhà gỗ xiêu xiêu quanh sườn đồi xa xa. Sự vắng vẻ, thinh lặng khiến chị lo lắng về cuộc sống bấp bênh nghèo nàn. Nhưng tiếp liền đó là cảnh bạt ngàn những nọc tiêu xanh um. Đã vậy, phía dưới gốc cây tiêu là những luống cải non tơ. Người hướng dẫn viên du lịch buột miệng:

- Rau cải nầy mà bóp dầu giấm chấm nước cá kho tộ thì còn gì bằng.

Mọi người bật cười. Cô ấy chỉ tay về phía trước:

- Kia rồi! Đó là rừng cây cà phê. Tiếc là bây giờ đã qua tháng bảy. Chứ nếu đoàn chúng ta đến đây vào tháng ba, tháng tư thì sẽ được dịp ngắm sắc trắng của hoa cà phê. Đẹp lắm các chú, các cô ạ. Hoa mọc thành từng chùm trắng tinh khôi, bồng bềnh như mây. Chúng ta sẽ được thưởng thức mùi thơm ngào ngạt của hoa. Nếu dừng xe lại, các cô chú len vào rừng cà phê lúc bấy giờ sẽ say ngây ngất với vẻ đẹp hoang dã, ong bướm rập rờn. Hương thơm phủ trùm lên tóc, len vào nếp áo và cả hơi thở cũng thơm tho. Tội là hoa mau tàn lắm. Chỉ vài ba hôm khoe hương sắc rồi rụng trắng mặt đồi. Bù lại, quả cà phê xuất hiện. Mỗi quả có hai hạt. Chắc các cô chú biết rồi, những hạt này sau quá trình chế biến trở thành một loại thức uống cực kỳ ngon, mang lại cảm giác sảng khoái, tỉnh táo suốt ngày.

Một anh bạn trong đoàn chen ngang:

- Quý vị có muốn biết nguồn gốc của cây cà phê không?

Ai cũng bảo muốn. Cô hướng dẫn viên đưa micrô cho anh. Anh bạn đứng lên, bước ra giữa lối đi trong xe, tựa người vào thành ghế của người ngồi cạnh rồi bắt đầu gạ gẫm:

- Nhưng nếu tôi kể thì các bạn có hứa sẽ đãi tôi một chầu cà phê Buôn Ma Thuột không?

Mọi người cười ồ:

- Chuyện nhỏ mà. Kể đi ông trời con ơi.

Anh ta bắt đầu oang oang:

- Ngày xửa, ngày xưa. Xưa thiệt là xưa. Ở một ngôi làng nhỏ của đất nước Ethiopia nằm ở phía đông Châu Phi bỗng xảy ra hiện tượng kỳ lạ lắm. Mấy con dê tự nhiên… làm biếng. Thậm chí những chú dê đực cũng chẳng màng đến… dê cái. Chúng cứ nằm mẹp. Riêng chỉ có vài chú dê… ở độ tuổi dậy thì là còn sung sức. Chúng chạy lăng quăng trong rừng và vô tình ăn một loại cây có quả. Liền đó, chúng bỗng chạy nhảy như phát rồ. Thấy vậy, những người chăn dê nầy hái một ít lá cho những chú dê lười ăn thử. Lạ làm sao. Bọn dê lười tự nhiên… siêng hihi… Chúng chạy nhảy như đang mùa lễ hội ấy. Những người chăn dê bèn trở lại rừng và quan sát kỹ. Loại cây này có quả nhiều màu sắc khác nhau. Có chùm quả màu xanh, có chùm quả màu vàng, có chùm lại màu đỏ và có chùm thì màu đen. Họ đoán là lúc chín nẫu thì nó có màu đen bóng như thế nên họ tách vỏ quả xem thử. Bên trong có hai hạt nằm úp vào nhau. Nhai thử hạt ấy, họ cảm thấy trong người như có một luồng sinh khí lan tỏa khắp cơ thể khiến họ vui vẻ và hưng phấn lạ thường. Những người chăn dê kể lại cho các giáo sĩ nghe. Các vị này thường phải thức khuya, dậy sớm để đọc kinh. Họ rất cần một chất kích thích như thế. Vậy là cây cà phê bắt đầu được vun trồng và sử dụng kể từ đó. Rồi chẳng biết bằng cách nào, cây cà phê “nhập cư” vào Việt Nam và trở thành thức uống tuyệt vời làm cho chúng ta đâm nghiện hương vị của nó. Câu chuyện đến đây là hết rồi! Ha ha…

Tiếng cười vỡ ra vui nhộn. Có người thắc mắc :

- Chuyện thiệt hay bịa vậy ông tướng?

Anh ta trả lời tỉnh rụi:

- Thiệt hay bịa gì thì tôi cũng có một chầu cà phê miễn phí rồi ha ha…

Mọi người cười dễ dãi. Họ tựa lưng vào thành ghế lim dim và thiếp dần đi. Chị cũng nhắm mắt nhưng chị tỉnh táo như vừa nhấp một ngụm cà phê. Trong lòng chị khuôn mặt chồng hiện rõ hơn bao giờ hết. Người đàn ông đầu tiên và duy nhất của đời chị. Anh đã từng là bộ đội và hẳn là đã qua đây sau khi cưới chị mới có một tuần. Lúc đó chiến tranh đang hồi khốc liệt. Anh Năm Chính trị viên đã vận động thanh niên trong làng vào bộ đội. Gia đình chồng chị vốn dòng dõi cách mạng nên họ đã khuyến khích anh đăng ký. Đã vậy, Lệnh tổng động viên của phe địch giống như một động lực thúc đẩy thanh niên xung vào… bộ đội nếu không muốn bị bắt quân dịch. Anh là một trong số đó. Một đám cưới diễn ra chóng vánh và đơn giản để giúp cho hai người cùng làng đang yêu nhau trở thành vợ chồng. Tuy biết sau đó một tuần anh phải nhập ngũ nhưng gia đình chị vẫn vui vẻ chấp thuận. Thời chiến tranh, sự bất trắc xảy ra như cơm bữa. Trong làng đã có vài cô gái vì chạy không kịp đã bị cưỡng hiếp khi có trận càn quét, bố ráp của giặc. Ba mẹ muốn chị yên bề gia thất. Vả lại hai bên sui gia vốn là bạn thân nên chuyện tác hợp cho hai trẻ đều khiến mọi người hạnh phúc.

Làm sao chị quên được đêm đầu tiên gối đầu lên cánh tay anh, lắng nghe hơi thở dồn dập rồi những nụ hôn dài như bất tận. Chị tan ra thành những mảng sáng của trăng khuya. Chị chìm trong hoan lạc và hạnh phúc. Thật không ngoa khi gọi đó là tuần trăng mật. Vỏn vẹn có bảy ngày chồng vợ thôi mà. Nhưng anh chị yêu thương nhau, sống trọn vẹn cho nhau, mê đắm nhau đến tận cùng. Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Nhưng cuộc vui của đời chị qua mau như một cái chớp mắt. Sau đó là một chuỗi nhớ nhung âu lo, chờ đợi khắc khoải. Chị và gia đình cứ mãi ngóng theo dấu chân anh. Lúc ở Lộc Ninh, lúc về Đăk Nông, lúc qua Buôn Ma Thuột. Một đêm, trăng khuya đã chênh chếch mái nhà láng giềng, anh chợt về thăm. Cả nhà mừng rỡ vô cùng. Anh ôm chị vào lòng, vỗ về rằng chiến tranh sắp kết thúc rồi. Chẳng còn bao lâu nữa anh sẽ về với chị và gia đình. Anh chị sẽ có con và xây dựng một mái ấm hạnh phúc. Rồi anh vội vã chia tay mọi người. Anh gửi gắm chị cho ba mẹ chồng, xin họ thương yêu và bao bọc chị. Anh phải đi ngay vì đang cùng đồng đội chuyển một số thuốc men chuẩn bị cho một cuộc đánh lớn. Tiện đường anh ghé thăm nhà một thoáng cho đỡ nhớ. Không ngờ đó là lần gặp gỡ sau cùng. Khi cuộc tổng tiến công khởi đầu ở Buôn Ma Thuột thành công rồi đến Thừa Thiên Huế và chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi. Đất nước thống nhất. Cả nước chào đón hòa bình thì cũng là lúc gia đình nhận được tin anh đã hy sinh. Chị đau khổ cùng cực. Mọi hy vọng tắt ngúm trong lòng chị. Chị tiếc là mình đã không sinh được một đứa con để làm niềm an ủi cho gia đình và cho chính chị. Đứa bé sẽ là chỗ dựa tinh thần cho gia đình, xoa dịu phần nào nỗi đau mất mát chiến tranh đã bắt họ gánh chịu. Ba mẹ chồng thấy chị còn quá trẻ lại xinh đẹp nên đã gợi ý cho phép chị về sống chung với cha mẹ ruột và có thể bước thêm bước nữa. Chị quỳ xuống bên chân ba mẹ chồng xin được mãi mãi làm người của gia đình chồng. Chị xin được sống ở đây và chết cũng sẽ ở đây. Tuy cuộc sống hôn nhân của chị ngắn ngủi nhưng anh đã cho chị quá nhiều yêu thương, những giây phút mặn nồng ý nghĩa. Chị không tin rằng mình sẽ tìm thấy hạnh phúc ở một nơi nào khác hay ở một người đàn ông lạ. Chị xin ba mẹ chồng hãy xem chị là một đứa con gái ruột thịt để chị được thay anh phụng dưỡng sớm hôm. Ba mẹ chồng chị cảm động đến rơi nước mắt. Từ đó, chị sống trong sự thương yêu, quý trọng của ba mẹ chồng và láng giềng. Họ xem chị như một tấm gương trong mà khi soi vào họ nhìn thấy giá trị đạo đức tồn tại một cách kiêu hãnh, đáng tự hào. Một lần nọ, ba chồng chị ngỏ ý muốn gả chị cho một người cùng cơ quan với ba. Theo ông đây là người tốt. Ông muốn chị có hạnh phúc riêng tư nhưng chị từ chối. Chị chỉ xin phép được thi vào Đại học Sư Phạm để sau đó vừa có công việc làm ổn định và cũng vừa thỏa mơ ước góp phần trong sự nghiêp trồng người. Cuộc sống của chị êm ả trôi bên những người thân yêu. Một ngày của chị là sau khi đi dạy về chị lo cơm nước, giặt giũ, chăm sóc ba mẹ. Thỉnh thoảng chạy về thăm ba mẹ ruột. Lâu lâu, chị cùng đồng nghiệp đi du lịch, đi chùa hoặc đi làm từ thiện. Chị bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Chị chỉ ao ước có một lần được đến Tây Nguyên để tìm lại những dấu chân anh, những giọt máu của anh đã đổ xuống thấm đẫm núi đồi. Có phải vì thế mà màu đất bazan đỏ như màu của máu?

Điểm đến đầu tiên của đoàn du lịch là Bản Đôn. Mọi người vây quanh chú voi hiền hậu. Có vài anh chị trèo lên lưng voi, để nó đưa đi vài vòng. Chị đứng lặng nhìn dòng sông Sêrêpôk ngang qua, khuất dạng ở khúc quanh. Biết đâu anh đã từng đắm mình trong dòng nước mát lành nầy. Anh đã từng ngồi trên chiếc thuyền độc mộc và thả trôi theo dòng những đóa hoa rừng để chúng ngược về xuôi tặng chị. Chị đi lên chiếc cầu treo Bản Đôn. Gió mơn man khuôn mặt đẫm nước mắt cảm xúc và thổi tung mái tóc chớm bạc về một phía. Nghe tiếng gọi của bạn thân, chị vội đi về phía khu nhà sàn. Có lẽ gọi nó là nhà dài thì đúng hơn vì nó dài thậm thượt. Trên bậc thang, một cô gái mặc bộ đồ thổ cẩm đang tạo dáng để đoàn người du lịch chụp ảnh. Rồi cô mời mọi người vào nhà tham quan những vật dụng của người Ê đê. Chị choáng váng muốn té khi chợt thấy trên trang thờ trên vách tre có tấm ảnh của chồng chị và tấm ảnh một sơn nữ đặt sau bình hương. Chị lắp bắp hỏi:

- Hai người em thờ là gì của em?

Cô gái ngước nhìn, mim cười :

- Dạ đó là ba mẹ của em.

Chị thấy đất như sụp lở dưới chân và chị lọt thỏm xuống vực thẳm đau đớn, tuyệt vọng và niềm tin vỡ vụn. Chị đứng không nổi nữa, khuỵu xuống rồi ngồi bệt lên sàn nhà dài. Chị bạn thân cũng nhận ra người đàn ông trên trang thờ là ảnh chồng của bạn nên vội đến gần chị hỏi dồn :

- Chị sao vậy? Chị có sao không chị?

Người bạn nắm lấy bàn tay lạnh ngắt của chị trong khi chị cố gắng thều thào:

- Ba mẹ em mất lúc nào?

Cô gái giọng đượm buồn:

- Dạ ba em mất khi chiến tranh vừa kết thúc còn mẹ em mất cách nay đã hơn mười năm.

Chị òa khóc khiến cô gái hốt hoảng:

- Cô có sao không cô? Vì sao cô khóc vậy cô?

Làm sao con bé hiểu được sự đổ vỡ lòng tin về chồng khiến chị muốn nghẹn thở. Anh đã phản bội chị, đã từng ôm ấp người đàn bà khác và chắc tình nồng thắm lắm nên mới tụ hình một đứa con chung. Vậy mà bấy lâu chị cứ xem chồng như một vị thánh. Nước mắt chị rơi lã chã. Đúng lúc đó có một người đàn ông mái tóc bạc trắng mặc bộ quần áo thổ cẩm cắt may rất khéo bước vào nhà. Cô sơn nữ trẻ chạy đến cặp tay ông ta, nũng nịu:

- Cha à, hôm nay khi đoàn khách du lịch về rồi, cha cho con đi chơi thác Dray Dur nha.

Người cha vò đầu con gái, mắng yêu :

- Ừ, cha mầy.

Chị và người bạn thân kinh ngạc quá. Thế này là thế nào? Chị bạn thân vội hỏi người đàn ông :

- Ủa, ông là cha ruột của cô ta à .

Người đàn ông nhíu mày:

- Sao cô hỏi kỳ vậy? Nó là con ruột tui chứ con ai?

Chị bạn chỉ về phía tấm ảnh:

- Còn người đàn ông trên bàn thờ kia là gì của cô bé sao nó cũng gọi là cha?

- À, đó chỉ là cha nuôi thôi. Anh ấy là bạn thân của tui. Khi tui bị thương, chính anh ấy đã cõng tui về trạm cứu thương và đã hiến máu cho bác sĩ cứu tui vì hai đứa tui có cùng nhóm máu. Ơn này cao hơn núi nên tui bảo vợ phải xem anh như anh ruột của tui và con gái phải gọi là cha, dù khi sinh nó ra anh ấy đã mất lâu rồi.

Anh ta ngậm ngùi nói tiếp:

- Hai cô biết không, trong người tui giờ có dòng máu của anh ấy lẫn với máu tui mà. Nếu không có anh ấy cứu thì làm sao vợ tui còn chồng, con tui được sinh ra. Vì vậy, tui lập bàn thờ anh ấy là vậy đó. Nghe đâu anh ấy đã có vợ mà chưa có con. Tui cho con tui làm con anh ấy luôn đó.

Chị òa khóc. Chị bạn thân cũng rươm rướm nước mắt, chỉ vào chị:

- Đây là vợ của người bộ đội trong ảnh đó anh.

Anh ta sững người giây lâu rồi đến bên chị, đỡ chị ngồi lên chiếc ghế tre.

- Giàng ôi! Giàng ôi! Thiệt là mừng được biết chị.

Chị nghẹn ngào:

- Dạ, tui cũng mừng khi được biết anh đã từng ở cạnh chồng tôi và còn thờ chồng tôi nữa. Tôi cảm ơn anh vô cùng.

- Ơn gì đâu chị. Chị ở chơi lâu lâu nghen, tui mua thịt heo rừng về nướng đãi hai chị.

Chị lắc đầu:

- Cám ơn anh. Vì đi theo đoàn du lịch nên không thể ở lại được. Khi khác tôi sẽ đưa ba mẹ chồng lên đây một chuyến để thăm anh và con gái. Chắc ba mẹ tôi vui lắm, vì có một đứa cháu nội nuôi xinh đẹp và hiền lành. Ba mẹ chồng tôi sẽ tự hào lắm khi biết con trai đã từng sống tốt với mọi người như thế. Tôi cám ơn anh nhiều lắm anh ạ .

Anh ta có vẻ ngạc nhiên khi nghe chị cứ mãi cám ơn. Anh ta có biết đâu nhém chút nữa chị đã nghĩ oan cho chồng và đau khổ một cách vô lý. Chị ngầm trách mình hồ đồ, ghen vội ghen vàng. Mới nghe chẳng chịu suy nghĩ về sự khác lạ rằng giải phóng đã gần bốn mươi năm, còn cô gái này chỉ chừng mới hai mươi mấy tuổi. Thử hỏi làm sao chồng chị là cha của cô bé được khi anh đã an nghỉ từ lâu lắm. Mà nghĩ cho cùng, phải chi anh có một đứa con với người đàn bà khác thì cũng là một điều may về sự nối dõi tông đường kia mà. Ba mẹ chồng chị có niềm vui ngày xế bóng.

Đường về xuôi thật êm đềm và bình yên. Lòng chị như có ai tưới lên đó một đó một làn nước mát lành. Chị ngất ngây, đê mê như vừa nhấp mấy ngụm cà phê của Buôn Ma Thuột. Nơi chồng chị đã biến thành vùng trời ký ức tuyệt đẹp để chị tin và yêu cuộc sống này biết bao nhiêu.

NGUYỄN THỊ MÂY

Trà Vinh, ngày 25/07/2015

MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 11.7.2015… ........................................ Vũ Thư Hữu .... 01

Vài chi tiết về 1 cuốn cổ thư hay mà đẹp của văn hào Tô Cách Lan

(Xcốtlen) Robert Louis Stevenson (1850-1894) ............ Vũ Anh Tuấn .... 04

Trao đổi với phóng viên báo CG&DT về cuộc trưng bày

đồ thờ phượng Công giáo cổ & xưa ......... Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 09

Việc truyền Y Bát liên quan đến

cách hiểu Đạo Phật như thế nào? ...................... Tâm Nguyện .... 14

Về tác giả Constantin Mikhailovitr Stniucovitr .............................. Thúy Toàn .... 26

Con Cộc (K.Staniukovich) .......................................................... Thúy Toàn dịch .... 28

Khái Hưng với Văn & Thơ ...................................................................... Phạm Vũ .... 39

100 năm ngày ra đời báo Nông Cổ Mín Đàm .................... Hoàng Kim Thư st .... 49

Kỷ niệm 70 năm ngày chiến thắng chủ nghĩa phát xít:

Bài học từ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 ............. Bùi Đẹp st .... 54

Sơn mài một nghệ thuật tuyệt vời ............................................. Đỗ Thiên Thư st .... 56

Ca dao tình cảm quê hương ........................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 62

Gởi một tấm lòng thương nhớ quê hương (thơ) ................ Mai Thị Thủy Hoa .... 65

Ru muộn (thơ) ......................................................................................... Đàm Lan .... 67

Bâng khuâng (thơ) ............................................................ Phạm Thị Minh Hưng .... 68

Anh đi (thơ) ........................................................................ Phạm Thị Minh Hưng .... 69

Nhìn ta (thơ) .............................................................................. Lệ Hoa Trần Cali .... 70

Lời Mẹ kể (thơ) ................................................................................ Trần Văn Hữu .... 71

Bức đồ dư (thơ) ............................................................................... Trần Văn Hữu .... 71

Đón (thơ) .................................................................................................. Lam Trần .... 72

Đưa… (thơ) ............................................................................................. Lam Trần .... 73

Kết bạn (thơ) ...................................................................................... Thanh Châu .... 74

Tình bạn (thơ) .................................................................................... Thanh Châu .... 74

Thăm Rồng (thơ) .............................................................................. Lê Minh Chử .... 75

Vịnh cây bần (thơ) ............................................................................ Lang Nguyên .... 76

Vịnh chữ già (thơ) ............................................................................. Lang Nguyên .... 77

Tự sự (thơ) ............................................................................................ Quang Bỉnh .... 78

Trà (thơ) ................................................................................................ Quang Bỉnh .... 78

Tưởng niệm Cha (thơ) ..................................................................... Ngàn Phương .... 79

Nhớ Cha (thơ) .................................................................................... Ngàn Phương .... 79

Khóc Cha (thơ) ................................................................................. Ngàn Phương .... 80

Lòng Cha (thơ) ................................................................................. Ngàn Phương .... 80

Lời Cha dạy bảo (thơ) ...................................................................... Ngàn Phương .... 81

Tủi buồn (thơ) .................................................................................... Ngàn Phương .... 81

Trăng mật (thơ) ............................................................................. Phùng Chí Tâm .... 82

Lên thăm tượng Chúa (thơ) ........................................................ Phùng Chí Tâm .... 83

Theo dấu chân Chúa (nhật ký thơ) ................................................. Bs.Doanlinh .... 84

Đừng như (thơ) ....................................................................................... Lê Nguyên .... 86

Mây trôi (thơ) ......................................................................................... Lê Nguyên .... 87

Nghĩ về Đôn-Kihôtê (thơ) ............................................................... Vũ Đình Huy .... 88

Thinking of Don Quixote (thơ) .............................................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 89

Nguyện (thơ) ..................................................................................... Vũ Đình Huy .... 90

Praying (thơ) .............................................................................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 90

Chuyện người ta hay kể ....................................................................... Dương Lêh .... 91

Hành trình của một e-mail ........................................... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .... 99

Đồng xu .................................................................................................... Lam Trần .. 104

Thử bàn vài điều về mê tín dị đoan ................................................. Nhựt Thanh .. 107

20 lời khuyên giúp bạn sống hạnh phúc ..................... Đào Minh Diệu Xuân st .. 112

Không phải là hoa ................................................................................... Đàm Lan .. 117

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc ................ Thanh Châu dịch thuật .. 126

Vùng trời ký ức ........................................................................... Nguyễn Thị Mây .. 128

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế