VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09/9/2017 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách “ mới mà cũ” mà ông mới có. Hai cuốn sách này được gọi là “mới mà cũ” vì chúng là những cuốn sách ông đã mua từ những năm 60, sau bị thất lạc đi trong nhiều năm, để rồi mới đây, ông lại có cơ duyên gặp lại chúng trong tủ sách của một thân hữu, và được vị đó nhường lại cho.
Cuốn đầu bằng tiếng Việt, và đúng ra là một cuốn sổ loại lớn cỡ 30x40 phân dày trên 200 trang và chứa đựng hai bộ truyện tranh mang tựa đề là Anh Hùng Vô Địch và Huynh Đệ Hiệp, mỗi bộ gồm trên 350 hình vẽ, đã được người chơi sưu tầm và cẩn thận dán vào cuốn sổ cỡ lớn. Hai bộ truyện tranh này là hai bộ truyện kiếm hiệp Trung Hoa được in trên phần gọi là Ích Hữu Họa San (phụ-trương Ích-Hữu tuần báo) 84 năm trước. Hai bộ truyện rất ly kỳ hấp dẫn và mấy trăm hình vẽ đều rất đẹp. Điều đáng trân trọng nhất là người sưu tầm đã có kỳ công là cắt và dán thật đầy đủ khiến cả hai truyện đều không bị thiếu một hình nào. Cuốn sách còn có ở bìa trước tên, chữ ký, và triện son của Dịch giả Vũ Anh Tuấn có ghi rõ là ông đã mua hồi tháng 2 năm 1958. Việc gặp lại cuốn sách sau nhiều năm thất lạc quả là một cơ duyên hiếm có. Cuốn thứ hai là một cuốn bằng Pháp văn khổ 22x28 phân, và dày 558 trang, mang tựa đề là Tự Điển các Trò Chơi (Dictionnaire des Jeux), gồm tổng cộng 556 trò chơi ở khắp mọi nơi trên thế giới. Cuốn sách tuyệt đẹp và có khoảng 1000 minh họa đen trắng và màu. Trong tổng số 556 trò chơi, người viết bỏ công đọc lướt qua, và thấy là người Việt mình chỉ được biết về 27 trò chơi trong sách mà thôi. Các trò chơi được chia thành 14 loại, trong đó người Việt mình chỉ biết có 3 loại là “các trò chơi thể thao”, “các trò chơi cờ bạc đỏ đen”, và “các trò đánh bài”… Trong khi đọc lướt qua, người viết gặp rất nhiều trò chơi ở nhiều quốc gia khác nhau rất ư là rắc rối, phải mất nhiều thời gian nghiên cứu thì mới thấu hiểu nổi. Tuy không thấy ham lắm, nhưng hồi đó người viết cũng đã mua vì thấy cuốn sách đẹp và chứa đựng cả ngàn minh họa rất hấp dẫn. Sau khi hai cuốn sách được giới thiệu, một vài thành viên đã mượn xem qua và xin chụp vài hình ảnh. Sau phần giới thiệu hai cuốn sách quý, anh Phạm Vũ đã lên nói về cụ Dương Khuê, một tác giả cổ điển. Tiếp lời anh Phạm Vũ, nhà thơ Hải Âu đã lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Thổn thức” mô tả sự ly tán của một gia đình và bài thơ “Nợ tình”. Sau nhà thơ Hải Âu, anh Tấn Thuận đã lên hát tặng các thành viên bài “Sơn nữ ca” thời danh mà hầu hết các thành viên đều biết. Anh Tấn Thuận hát xong, anh Phước Hải lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Tình nghĩa phu thê”. Tiếp lời anh Phước Hải, một người khách mới là cô Hương Mai lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Sau cô Hương Mai, một vị khách mới khác là cô Thanh Xuân cũng ngâm tặng các thành viên một bài thơ ngắn. Tiếp lời cô Thanh Xuân, anh Chử lên “hát thơ” tặng các thành viên bài “Mẹ là tất cả” do chính anh sáng tác. Sau anh Chử, cô Cúc lên đọc một bài thơ về CLB Hương Việt và hát tặng các thành viên bài “Hòn vọng phu”. Cô Cúc hát xong, cô Thùy Mai lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ nói về các cô giáo miền rừng núi. Sau cô Thùy Mai, cô Hoài Ly cũng lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ, và Hoài Ly ngâm xong, anh Lang Nguyên lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Văn chương là gì”. Sau anh Lang Nguyên, bà Tâm Nguyện lên ngâm một bài thơ bà đã họa lại một bài của nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà. Sau bà Tâm Nguyện, cô Hương Quế lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Về đây nghe em”. Sau đó cô Thùy Hương lên ca bài ca “Chung đường”. Sau cô Thùy Hương, anh Nhựt Thanh lên nói về việc sưu tầm và về Bến Nhà Rồng. Tiếp lời anh Nhựt Thanh, cô Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên bài “Gặp nhau”. Sau Lệ Ngọc, anh Minh lên hát tặng các thành viên bài “Giọt mưa trên lá”. Anh Minh hát xong, Kim Sơn lên hát tặng các thành viên bài “Nhớ mùa thu Hà Nội” của Trịnh Công Sơn. Sau Kim Sơn, nhà thơ Thiếu Khanh có lên phát biểu về việc sưu tầm bài viết đưa vào Bản Tin, và cuối cùng, anh Thanh Châu, với “tiếng hát át tiếng bom” đã hát tặng các thành viên bài “Hè về”, và buổi họp kết thúc lúc 11g15 cùng ngày. VŨ THƯ HỮU
VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN “SỐNG VÀ VIẾT” CỦA NGUIEN-NGU-I Tôi hiện còn đang ôm trong nhà khoảng 5 ngàn cuốn sách, phần lớn là sách ngoại ngữ, chỉ có độ 1/5 là sách tiếng Việt. Rất may là từ nhiều chục năm về trước, tôi đã làm như ông Sển, nghĩa là để riêng vào một cái tủ lớn những cuốn sách ta và tây mà tôi ưa thích và đã chọn lọc kỹ. Tóm lại ngoài bộ sưu tập Kiều mà tôi để riêng một tủ, và một tủ chỉ để những sách của thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20, tôi còn có một tủ chỉ dành riêng cho những cuốn sách ta cũng như tây mà tôi đặc biệt ưa thích. Tới nay, khi đã hết “hai mươi tuổi lần thứ tư cộng ba”, ngày hôm nay tôi đã để thì giờ soạn lại cái tủ sách tôi ưa thích và đã tình cờ gặp lại cuốn “SỐNG VÀ VIẾT” của Nguien-Ngu-I, một tác giả tên thật là Nguyễn Hữu Ngư, mà tôi đã gặp vài lần ở tòa soạn Báo Bách Khoa, ở số 160 Phan Đình Phùng, hồi trước ngày 30/4/75, bốn năm trước ngày ông qua đời (1979). Trưa nay tôi đã dành 3 giờ đồng hồ để đọc lại cuốn sách, và bây giờ tôi xin có ít lời mô tả cuốn sách rất quý này với tất cả các người bạn yêu thích quý thư của tôi. Cuốn sách này khổ 12x18 và dày 380 trang, được xuất bản năm 1966 bởi nhà xuất bản NGEI XANH và mang tựa đề SỐNG VÀ VIẾT với các tác giả NHẤT LINH, LÊ VĂN TRƯƠNG, Á NAM, LÊ VĂN SIÊU, DOÃN QUỐC SỸ, ĐÔNG HỒ, SƠN NAM, BÌNH NGUYÊN LỘC, LÊ NGỌC TRỤ, VI HUYỀN ĐẮC, NGUYỄN HIẾN LÊ và HỒ HỮU TƯỜNG. Mỗi một trong những nhà văn danh tiếng nói trên được tác giả cuốn sách dành cho một cuộc phỏng vấn rất dài về đủ loại đề tài liên quan tới văn chương, cũng như tới đủ mọi lãnh vực và khía cạnh của cuộc sống. Mấy chữ phỏng vấn chưa đủ để nói về bài viết dành cho mỗi người trong các nhà văn danh tiếng trên. Đơn giản vì tác giả không chỉ phỏng vấn mà còn đàm đạo, chuyện trò, tìm hiểu một cách hứng thú, và rất vui về các đối tượng của ông. Đối với một người yêu sách như tôi, mỗi bài viết trong cuốn sách này chẳng khác gì một bữa tiệc siêu thịnh soạn, một bữa tiệc tinh thần siêu tuyệt. Qua bài viết, người đọc như được quen biết, được thấu hiểu đủ mọi điều về những nhà văn danh tiếng mà mình yêu thích và quý trọng. Tôi đặc biệt yêu thích bài viết về nhà văn Lê Văn Trương là người mà trước kia, vào những năm 70, khi làm Đại diện Thương Mại cho Nhật (Hãng Máy Cày Maruka ở số 13 đường Trần Hưng Đạo) tôi đã được có dịp gặp gỡ ông nhiều lần, vì chiều nào ông và người đệ tử Tân Hiến (hư một mắt) của ông cũng về qua văn phòng trên đường Trần Hưng Đạo của tôi. Tôi thích bài viết đó vì tác giả Nguien-Ngu-I đã viết rất chính xác về nhà văn tôi quen và thích. Sau khi đã viết được về mỗi nhà văn mà tên tuổi được nêu ở tên, tác giả cuốn sách còn cung cấp cho các độc giả một hình chân dung và một tiểu sử thật xác đáng và chi tiết. Trong mắt tôi, 380 trang sách của cuốn SỐNG VÀ VIẾT, mãi mãi là một bữa đại tiệc tinh thần của riêng tôi và sẽ theo tôi, sẽ ở bên tôi cho tới ngày... tôi đi hành hiệp. Bản thân tôi chỉ là một người chơi sách và yêu sách. Chẳng phải là nhà văn nhà veo gì, nhưng tôi cảm thấy mình đã thật may mắn khi trong đời đã quen biết cơ man nào là nhà văn, nhà thơ miền Nam, và hai nhà thơ miền Bắc là các bác Lê Văn Trương và Thế Lữ khi sau năm 75, bác Thế Lữ vào ở tại số 161 Phan Đình Phùng cũ, nay là Nguyễn Đình Chiểu... Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI” VŨ ANH TUẤN CÓ TẬN THẾ KHÔNG ? (Tập 11 – tiếp theo) Đã thu gom được 30 tấn cá chết : Theo báo cáo sơ bộ của Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Quảng Trị, tính đến ngày 21/4 người dân ven biển đã thu gom được khoảng 30 tấn cá chết. * Báo Thanh Niên 23/04/2016: Formosa xả thải ra biển (btv. Thanh Niên): Sau thông tin Báo Thanh Niên đăng tải tại bài Nghi vấn ống xả thải khổng lồ dưới biển Vũng Áng, chiều cùng ngày, Phó thủ tướng Trương Hòa Bình đã có văn bản chỉ đạo Bộ Tài nguyên - Môi trường chủ trì, phối hợp với UBND tỉnh Hà Tĩnh và các cơ quan liên quan kiểm tra, làm rõ các thông tin liên quan. “Nếu thật sự có một đường ống xả thải như vậy thì nó thật sự là điều hết sức nguy hiểm cho môi trường. Hiện tượng cá chết kéo dài dọc bờ biển miền Trung cho thấy mức độ ô nhiễm môi trường nước biển trên một khu vực rất rộng lớn” (TS Vũ Ngọc Long, Viện trưởng Viện Sinh thái học miền Nam). Trước đây, chính quyền nhiều nước, vùng lãnh thổ đã phát hiện và xử phạt nặng nhiều doanh nghiệp, nhà máy bí mật lắp ống xả để đổ chất thải độc hại ra sông, biển, gây tổn hại nặng nề cho môi trường. Hồi đầu tháng này, tòa án ở bang Hawaii (Mỹ) đã phạt Công ty hàng hải Doorae Shipping của Hàn Quốc 950.000 USD vì vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường. Doorae Shipping là chủ sở hữu tàu chở dầu B.Sky bị phát hiện lén gắn ống xả gần 1.892 lít nước thải chứa dầu ra biển. Trước đó, Bộ Bảo vệ môi trường Israel vào tháng 3 phạt Công ty lọc dầu Paz Ashdod gần 5 triệu USD vì hành vi cài cắm ống xả thẳng nước thải chưa qua xử lý ra biển, theo trang Sviva.gov.il. Tại Đài Loan, Cơ quan bảo vệ môi trường vùng lãnh thổ này (EPA) vẫn đang điều tra vụ nhà máy mạ điện ở TP. Đài Nam sử dụng đường ống ngầm bí mật để dẫn nước thải ra sông Tam Gia, bị phát hiện vào tháng 9.2015. Tờ Taipei Times dẫn kết quả điều tra cho thấy nước thải đổ ra sông chứa đầy hóa chất độc hại. Chủ sở hữu nhà máy đã bị buộc đóng phạt hơn 600.000 USD cũng như đối mặt một cuộc điều tra hình sự. Ngoài ra, EPA cho biết đang chuẩn bị hồ sơ pháp lý để buộc ban lãnh đạo nhà máy chịu chi phí xử lý ô nhiễm dòng sông Tam Gia trong thời gian tới (Danh Toại). * Báo Thanh Niên 25/4/2016: Ác mộng “vịnh thủy ngân” Minamata (btv. Lan Chi): Hơn 6 thập niên trôi qua nhưng hậu quả của thảm họa nhiễm độc thủy ngân do Tập đoàn hóa chất Chisso gây ra vẫn hằn sâu lên thành phố cảng nhỏ bé Minamata, tây nam Nhật Bản. Tháng 10/2013, lễ tưởng niệm khoảng 2.000 nạn nhân đã tử vong trong vụ nhiễm độc thủy ngân nghiêm trọng nhất lịch sử nhân loại được tổ chức tại Minamata với sự tham dự của đại diện 140 quốc gia. Đó là chưa kể hàng chục ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn người bị ảnh hưởng sức khỏe ở nhiều cấp độ khác nhau từ vụ bê bối về môi trường này. Đây cũng được xem là trường hợp đầu tiên của hàng loạt vụ ô nhiễm công nghiệp nghiêm trọng trong thế kỷ 20. Thập niên “biển trắng” : Theo Đài truyền hình RTS, năm 1907, một nhà máy hóa dầu của Chisso được mở ở Minamata. Từ năm 1932, nhà máy này bắt đầu xả nước thải của quá trình sản xuất nhựa tổng hợp, có chứa nhiều kim loại nặng, đặc biệt là thủy ngân, ra biển. Năm 1949, dân địa phương đã bắt gặp những chú mèo bị co giật, còn gọi là “mèo nhảy múa”, hoặc kỳ lạ hơn là lao thẳng xuống biển chết. Tuy nhiên, ban đầu, chưa ai quy trách nhiệm cho Chisso, vốn được xem là một công ty kiểu mẫu của Nhật Bản. Và sau những cái chết kỳ quái của mèo và chim biển, đến lượt những người có sức khỏe dễ bị ảnh hưởng nhất - trẻ em, thai phụ, người cao tuổi. Năm 1953, những ca đầu tiên chính thức được ghi nhận và 3 năm sau thì được công nhận là “bệnh lạ”. Chính quyền địa phương nghi ngờ đây là một dịch bệnh nên bệnh nhân bị cô lập. Những người tử vong được chôn cất âm thầm vào đêm khuya để tránh gây thêm lời đồn. Năm 1959, sau khi khám nghiệm những con mèo chết kỳ quái, một nhóm khoa học gia kết luận có sự liên quan giữa “bệnh lạ” ở Minamata với nước thải chứa thủy ngân từ nhà máy của Chisso, cho đến năm 1968 mới bị buộc phải ngưng vì Bộ Y tế Nhật Bản xác nhận nguyên nhân gây “bệnh lạ” chính là thủy ngân. Ước tính, tổng cộng nhà máy hóa chất của tập đoàn này đã xả ra biển 400 tấn thủy ngân, trong đó, riêng giai đoạn từ 1956-1968 là 150 tấn. Gian nan tìm công lý: Theo Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), thảm họa sinh thái ở Minamata là một trường hợp điển hình của ô nhiễm kim loại, vốn là một dạng ô nhiễm cực kỳ khó xử lý với hậu quả kéo dài vì kim loại không tự tiêu hủy được. Khi con người ăn hải sản nhiễm thủy ngân, kim loại này cũng tích tụ lại và dần tàn phá hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh ngoại biên. Báo cáo của CNRS cho biết vào thập niên 1950, 1960, một số mẫu cá bắt được ở vùng biển ven Minamata có lượng thủy ngân cao gấp 500.000 lần so với thông thường. Tại khu vực này, một số loài động vật thân mềm (nghêu, ốc), cũng có lượng thủy ngân cao hơn 10.000 lần. Năm 1973, 2.665 người được công nhận để được bồi thường còn 16.000 hồ sơ đã bị bác. Năm 1996, thêm 12.371 nạn nhân được nhận một khoản bồi thường 2,6 triệu yen mỗi người để rút đơn kiện Chisso. Năm 2009, một dự luật được thông qua quy định mức bồi thường cho khoảng 40.000 người bị bệnh Minamata vẫn chưa được chính thức công nhận là nạn nhân của Chisso. Rất nhiều nạn nhân vì bệnh tình trầm trọng nên đã qua đời trước khi được xử thắng kiện. * Báo Thanh Niên 25/4/2016: Xả thải ra biển không ai biết (btv. Thanh Niên): 4 tháng, Formosa nhập 300 tấn hóa chất tẩy khử : Ông Khâu Nhân Kiệt, Giám đốc bộ phận an toàn vệ sinh môi trường của Formosa giải thích, công ty nhập khẩu các loại hóa chất trên là để súc rửa hệ thống đường ống của hệ thống xử lý nước thải. Lượng nước sau khi súc rửa đường ống được đưa vào khu xử lý nước thải để xử lý theo quy trình tự động khép kín, đạt tiêu chuẩn của Bộ TN-MT VN rồi mới xả thải ra ngoài, thông qua hệ thống đường ống dài 1,5 km nối liền từ dự án ra đáy biển. Tuy nhiên, trả lời PV Thanh Niên, lãnh đạo chính quyền và một số người dân ở các xã Kỳ Lợi, Kỳ Nam, Kỳ Phương (Tx. Kỳ Anh) cho biết Formosa đã xả thải ra vùng biển Vũng Áng từ lâu nay và các lần tẩy rửa ống xả thải không hề thông báo trước lịch trình, quy trình xả thải cho địa phương biết. “Họ xả thải không thông báo nên chúng tôi không giám sát được việc xả thải đó có gây ô nhiễm môi trường không”. * Báo Thanh Niên 28/4/2016: Còn chi là biển? Đó là câu hỏi đặt ra của nhiều bạn đọc sau bài viết Chất thải từ luyện thép đều là chất độc đăng tải trên Thanh Niên 27/4 (Ban CTBĐ). Đáng xấu hổ! - Đọc những thông tin liên quan đến vụ cá biển chết do nghi ngờ Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS) xả thải ra biển, và những vấn đề chung quanh, tôi thấy đáng xấu hổ. Phải chăng các cơ quan chức năng bất lực trước việc các công ty đầu tư nước ngoài có thể tự tung, tự tác trên đất nước mình (Nguyễn Thanh Phương, Tp.Thủ Dầu Một, Bình Dương). Làm kinh tế hay hủy diệt? - Nếu cá biển chết là do chất độc trong nước thải của FHS thì đó là điều còn may mắn cho người dân Hà Tĩnh. Nếu như phương án trước là FHS sẽ xả thải ra sông Quyền thì có thể hậu quả còn kinh khủng hơn khi cá, tôm trong sông không sống nổi đã đành, vườn, ao hồ và cả nguồn nước ngầm của người dân dọc con sông này sẽ bị nhiễm độc nghiêm trọng, có thể gây bệnh hoặc làm chết người hàng loạt. Tôi thật không dám nghĩ tiếp về hậu quả của việc xả chất độc ra sông, ra biển của FHS. Tại sao họ biết xả thải như thế cá tôm sẽ chết mà họ vẫn thải? Đó là hành vi hủy diệt chứ không còn là làm kinh tế nữa rồi (Đỗ Hoàng Thanh - P.3, Q.4, Tp.HCM). Sao không ngưng hoạt động? - Nếu Vedan xả thải ra môi trường và nhận lãnh hậu quả là sự tẩy chay của hàng triệu người tiêu dùng thì với hành vi của FHS, chúng ta sẽ phải làm gì đây để doanh nghiệp này phải biết tôn trọng khách hàng, tôn trọng người dân và đất nước VN? Thiết nghĩ, trong giai đoạn hiện nay phải buộc FHS ngưng hoạt động, không được tiếp tục xả thải, đợi kết quả điều tra và đề ra phương án xử lý (Trần Minh Hưng - Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức, Tp.HCM). Với những nhà đầu tư không có tâm thì họ bất chấp tất cả để mang về lợi nhuận cao nhất, kể cả hủy hoại môi trường. Vấn đề then chốt là nhà nước, cơ quan quản lý phải là những người giám sát chặt chẽ, buộc nhà đầu tư tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về môi trường của VN. Nếu ta lỏng lẻo, dễ dãi thì họ làm càn, làm ẩu cũng là điều dễ hiểu. Trách nhiệm trong việc này là người đứng đầu các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường (Huỳnh Minh Phương - Vĩnh Cửu, Đồng Nai). Ai dám tắm biển khi biết biển nhiễm độc? Hậu quả của việc này quả là kinh khủng. Biển VN liệu trong tương lai sẽ còn xanh trong như nó vốn có hay trở thành bãi thải chất độc? Ai trả lời giùm câu hỏi này? (Võ Thị Phương Ánh, Q.8, Tp.HCM). * Báo Thanh Niên 2/5/2016: Không ai được bao che thủ phạm gây ô nhiễm (btv. Khánh Hoan - Nguyên Dũng): 12.570 tàu đánh bắt ngừng hoạt động, 63.000 lao động ngừng làm việc. “Phải làm rõ để giải thích cho nhân dân hiểu rằng chúng ta không bao che cho ai, nhưng phải làm một cách thận trọng, trên cơ sở khoa học” (Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc). * Báo Thanh Niên 2/5/2016: Lập đoàn kiểm tra các công ty có nguồn thải ra biển (btv. Lê Quân): Sau khi dự cuộc họp do Bộ KH-CN phối hợp với Viện KH-CN tổ chức, Bộ trưởng Bộ TN-MT Trần Hồng Hà đã chỉ đạo khẩn lập đoàn kiểm tra liên ngành, với sự tham gia của các tổ chức khoa học trong và ngoài nước, để kiểm tra đánh giá độc lập đối với các doanh nghiệp có nguồn thải ra môi trường biển… Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng chỉ đạo lập trạm quan trắc chất lượng nước thải, chất thải thường xuyên đối với các nhà máy đang xả thải lớn ra môi trường biển cho đến khi những tồn tại liên quan đến sự cố môi trường được xác định và đảm bảo các nguồn thải của các doanh nghiệp đóng trên khu vực này trước khi xả ra môi trường phải được kiểm soát, giám sát thường xuyên. * Báo Thanh Niên 6/5/2016: Cá chết hàng loạt trên sông Bưởi, Thanh Hóa (btv. Ngọc Minh): Theo phản ánh của người dân địa phương, khoảng 6 giờ ngày 4/5, nước trên sông Bưởi đoạn qua các xã Thạch Lâm và Thạch Quảng (H. Thạch Thành, Thanh Hóa) đột nhiên chuyển sang màu xanh đục, nổi bọt đen ngòm, bốc mùi hôi thối. Đến khoảng 7 giờ cùng ngày, cá trên sông chết hàng loạt, khiến người dân lo lắng. Trong ngày 5/5, cá trên sông Bưởi tiếp tục chết. Nhiều người đã dùng thuyền vớt số cá bị chết mang vào bờ nhưng không dám sử dụng vì sợ nhiễm độc. * Báo Thanh Niên 7/5/2016: Cá chết trên sông Bưởi do nhà máy đường xả thải (btv. Ngọc Minh): Theo giải trình của lãnh đạo công ty này, nhà máy đang trong quá trình chạy thử và hệ thống xử lý nguồn nước thải chưa được hoàn thiện. Nước thải được thu gom về hồ chứa trong khu vực nhà máy. Đến ngày 3 - 4/5, do hồ quá đầy nên công ty đã xả nước thải chưa qua xử lý ra thượng nguồn sông Bưởi. Ông Lê Văn Bình cho biết tính đến chiều 6/5, đã có gần 7 tấn cá nuôi tại các lồng bè trên sông Bưởi của người dân xã Thạch Lâm, Thạch Quảng, Thạch Cẩm, Thành Mỹ (huyện Thạch Thành) chết. * Báo Thanh Niên 21/5/2016: Nhà máy chế biến sắn xả thải chưa xử lý ra môi trường (btv. Giang Phương): Ngày 20/5, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường Công an tỉnh Tây Ninh đã bắt quả tang Nhà máy sản xuất, chế biến tinh bột sắn thuộc doanh nghiệp Tư nhân Phước Dân, (ấp Hội Tân, xã Tân Hội, H. Tân Châu) xả nước thải chưa xử lý ra môi trường. Đáng nói, toàn bộ nước thải trong quá trình sản xuất, có màu đen đục với công suất xả thải khoảng 300 m3/ngày được nhà máy xả thẳng ra suối Nước Đục - con sông dẫn ra sông Tha La rồi đổ về hồ Dầu Tiếng. * Báo Thanh Niên 10/5/2016: Dân khởi kiện doanh nghiệp gây chết cá (btv. Nguyễn Long): Hơn 30 hộ dân nuôi cá lồng bè trên sông Chà Và ký đơn nhờ các văn phòng luật sư trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu khởi kiện 14 doanh nghiệp chế biến hải sản tại xã Tân Hải yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo các hộ dân thì chính 14 doanh nghiệp (DN) chế biến hải sản ở xã Tân Hải (H.Tân Thành) đã xả nước thải ô nhiễm ra sông Chà Và làm cá nuôi chết hàng loạt trong năm 2015, gây thiệt hại cho người nuôi hơn 17 tỉ đồng. Đề nghị Bộ Công an chỉ đạo điều tra vụ cá chết trên sông Bưởi (btv. Ngọc Minh): Ngày 9/5, tin từ Văn phòng UBND tỉnh Thanh Hóa cho biết, Chủ tịch UBND tỉnh này vừa báo cáo Thủ tướng Chính phủ về hiện tượng cá chết hàng loạt trên sông Bưởi (H.Thạch Thành) và khu vực cảng cá Lạch Bạng (H.Tĩnh Gia). Công khai thông tin các nguồn thải vào lưu vực sông Bưởi; phối hợp với UBND tỉnh Thanh Hóa xác định mức độ thiệt hại đến môi trường do Nhà máy đường Hòa Bình gây ra. Bơm nước, vớt tảo bốc mùi hôi thối ở hồ Ngọc Khánh (btv. Lê Quân - Phạm Dự): Sau khi báo Thanh Niên đăng bài Hồ Ngọc Khánh quá thối ngày 9/5, thì sáng cùng ngày, lãnh đạo Ban Quản lý dự án (QLDA) thoát nước Hà Nội đã liên hệ thông báo sẽ tổ chức khắc phục mùi hôi thối: “… Nếu tình trạng hồ tiếp tục bốc mùi hôi thối sẽ nghiên cứu biện pháp xử lý hiệu quả hơn”, để chấm dứt tình trạng ô nhiễm như hiện nay. * Báo Thanh Niên 18/5/2016: 3 đơn vị xả thải ra sông Bưởi bị phạt gần 4 tỉ đồng (btv. P.Hậu - L.Quân): Ngày 17/5, ông Nguyễn Văn Tài, Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên Môi trường đã ký các quyết định xử phạt hành chính đối với 2 doanh nghiệp, 1 cơ sở chăn nuôi nằm trên địa bàn xã Tân Kỳ, huyện Lạc Sơn, Hoà Bình về hành vi xả thải ra sông Bưởi, gây ô nhiễm, khiến cá lồng của người dân nuôi trên sông chết hàng loạt… đình chỉ hoạt động trong 12 tháng, tính từ ngày 20/5, phải cải tạo và nâng cấp, xây dựng bổ sung hệ thống xử lý nước thải đạt Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp, trước khi thải vào mương thoát nước ra sông Bưởi… Báo cáo kết quả khắc phục hậu quả vi phạm về Sở TN-MT tỉnh Hòa Bình và Tổng cục Môi trường trước ngày 30/9. * Báo Thanh Niên 31/5/2016: Nhiều cơ sở bị nghi “nhuộm đen” sông Vàm Cỏ Đông (btv. Giang Phương): Liên quan đến việc nước sông Vàm Cỏ Đông (đoạn qua cầu Bến Sỏi, H.Châu Thành, Tây Ninh) bỗng đổi màu đen kịt, bốc mùi hôi thối (Thanh Niên phản ánh ngày 27/5), ngày 30/5, ông Nguyễn Đình Xuân, Giám đốc Sở TN-MT Tây Ninh khẳng định nguồn nước bị ô nhiễm có nguyên nhân từ các cơ sở chế biến thực phẩm và may mặc. Trong quá trình khảo sát, rà soát toàn bộ khu vực nghi bị xả thải dọc sông Vàm Cỏ Đông, lực lượng chức năng phát hiện toàn bộ nước thải trong quá trình sản xuất cùng nước thải sinh hoạt của công ty TNHH Hight Vina Apparel (chuyên may mặc, xã Long Thành Nam, H.Hòa Thành - hạ nguồn khu vực cầu Bến Sỏi) thải trực tiếp ra sông. Nhà máy này chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải, lưu lượng nước thải chưa qua xử lý là 70 m3/ngày đêm. Cũng theo ông Xuân, một tác nhân quan trọng khác gây ô nhiễm sông Vàm Cỏ Đông là nước thải sinh hoạt của hơn 10.000 người dân tại TT.Châu Thành (do khu vực này chưa có hệ thống xử lý nước thải) trực tiếp xuống sông cùng nước thải sinh hoạt của toàn bộ Tp.Tây Ninh. * Báo Thanh Niên 28/5/2016: Đừng để những điều tồi tệ xảy ra nữa (Ban CTBĐ tổng hợp): Phải kiểm tra gắt gao và xử lý nghiêm hành động hủy hoại môi trường, đó là ý kiến của nhiều bạn đọc sau khi Thanh Niên ngày 27/6 đăng bài Kiểm tra Nhà máy giấy Lee & Man. Cứu lấy môi trường - Đây là hậu quả của việc nhắm mắt phát triển mà bất chấp gây nguy hại cho môi trường sống. Việc xử lý nước thải của các nhà máy giấy rất phức tạp, nếu không làm tốt hoặc nhà máy cố tình gian lận thì sẽ gây hậu quả khôn lường cho vùng hạ lưu sông Hậu. Điều này thì ai cũng biết, thế nhưng tại sao khi cấp phép xây dựng cho nhà máy lại không quan tâm đến việc kiểm tra, xử lý. Nếu không làm tốt thì vùng biển cũng như vùng ĐBSCL sẽ chết trong tương lai gần (Văn Khoa khoalama@gmail.com). Phải di dời - Nhà máy này tiềm ẩn thảm họa môi trường khôn lường cho cả vùng. Giả sử bây giờ có kiểm tra kết quả tốt đi nữa thì liệu cơ quan chức năng có thể giám sát được 24/24 giờ không? Bài học về môi trường do các nhà máy xả thải ra vẫn còn nguyên giá trị, nó gây hại vô cùng nặng nề cho môi trường mà cho dù có tiền cũng không thể phục hồi được. Do vậy, theo tôi phải dứt khoát di dời nhà máy ra khỏi khu vực sông nước này (Nguyễn Mai Thảo: timtims_ng@ yahoo.com). Phải tính kỹ - ĐBSCL sẽ bị bức tử nếu nhà máy này đi vào hoạt động bởi công nghiệp giấy là thủ phạm gây ô nhiễm hàng đầu với lượng hóa chất, nước thải cực lớn, thêm vào đó là làm ô nhiễm không khí cả một vùng rộng lớn cho dù có công nghệ xử lý tốt đến đâu. Tiền và phát triển kinh tế thì ai cũng cần, nhưng không thể đánh đổi bằng tất cả, bất chấp hậu quả (Nguyễn Ngọc Anh - Q. Bình Thạnh, Tp.HCM). Không có nơi nào cho phép xả chất thải trực tiếp ra sông, đặc biệt là vùng ĐBSCL, nơi mà cuộc sống của hàng triệu người dân gắn liền với đồng ruộng, sông nước. Nếu không tính toán kỹ lưỡng mà cho phép nhà máy hoạt động, xả thải ra sông như vậy thì chắc chắn vùng này sẽ thành đất chết (Đỗ Văn Duy - Tp.Biên Hòa, Đồng Nai). * Báo Thanh Niên 01/07/2016: Gây cá chết hàng loạt ở biển miền Trung: Formosa nhận tội (btv. Chí Hiếu - Anh Vũ): Formosa cam kết bồi thường 11.500 tỉ đồng, cơ quan tố tụng sẽ xem xét khởi tố hay không. Khởi đầu một cuộc đấu cam go (btv. Nguyên Hằng): Gần 90 ngày kể từ khi hiện tượng cá chết bắt đầu từ Hà Tĩnh lan ra 4 tỉnh miền Trung, gây nên thảm họa môi trường chưa từng thấy tại VN, ảnh hưởng đến sinh kế của hàng triệu người dân. Cuối cùng thì Formosa đã nhận tội… 500 triệu US = 11.000 tỉ đồng VN. Tổng số dân 4 tỉnh 25 triệu. 11.000 tỉ: 25 triệu = 440.000 đồng. “Với Formosa một người dân Việt Nam chỉ bằng 2 thùng mì tôm sao?” (FB Vănsan Thomas sáng 4/7/2016). “Phải mất nửa thế kỷ để khắc phục rặng san hô ở 4 tỉnh miền Trung” PGs. Ts. Nguyễn Chu Hồi, Chủ tịch Hội Thiên nhiên và Môi trường biển (FB Muối Cho Đời sáng 3/7/2016). * Báo Thanh Niên 9/7/2016 (btv. Đình Tuấn - Lê Quân): Nhà máy tuyển luyện đồng bức tử dòng sông. Sông Cẩm Đàn (Bắc Giang) đang bị công ty CP Tập đoàn khoáng sản Á Cường liên tục xả thải trực tiếp gây ô nhiễm nghiêm trọng nhiều năm nay… dòng sông thu hẹp đến quá nửa do bùn thải từ quá trình luyện đồng - nước giống nước vo gạo bốc mùi nồng hóa chất - chảy xuôi về sông Lục Nam, xuống Hải Dương, Hải Phòng. Không thấy dấu hiệu sống của tôm cua cá - mức ô nhiễm vượt chuẩn từ 5 đến dưới 10 lần, tồn đọng các chất độc hại chì, đồng, mangan, sắt, sunfua chỉ tiêu chất lượng nước như COD, BOD5 đều vượt từ 2,6 - 8,6 lần. UBND Bắc Giang phạt hành chánh 10 triệu đồng! Yêu cầu khắc phục, thế nhưng vẫn tiếp diễn… ü Báo Thanh Niên 09/07/2016 (btv. Mai Trâm): Phạt công ty sản xuất cồn xả thải trực tiếp ra sông Hậu 860 triệu đồng. 19g30 ngày 16/5 PC49 bắt quả tang Lê Văn Hai đang mở van xả thải chưa xử lý (màu nâu đỏ, có mùi hôi đặc trưng của mật đường, nhiệt độ cao) trực tiếp ra sông Hậu. Qua xét nghiệm 11/16 thông số vượt 10 lần chuẩn cho phép. Năm 2007 bị phạt 13 triệu - 2008 bị phạt 22 triệu - 2011 bị phạt 370 triệu… đến 23g ngày 25/5/2013 PV49 bắt quả tang công ty này thuê tàu lai dắt sà lan 250 m3 xả thải màu đen, nóng ra giữa sông Hậu - Sau đó bị phạt 340 triệu. (Lời người viết: Cố chấp như thế mà cứ tồn tại cũng lạ - tiền phạt có làm cho nước sông sạch không, con người, súc vật bị nhiễm bệnh có hết bệnh không?) * Báo Thanh Niên 12/7/16 (btv. Trường Sơn): Vụ Formosa còn tiềm ẩn nhiều vấn đề lâu dài. Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà… nơi có nguồn thải nguy hiểm nhất là lò luyện cốc. * Đài VOA trong chương trình học Anh ngữ đã cung cấp thông tin từ tổ chức World Economic Forum và Ellen Mac Arthur Foundation cho biết hằng năm người ta tống ra biển 8 triệu tấn thải nhựa. Nếu tiếp tục như vậy năm 2025 cứ 3 tấn cá có 1 tấn thải nhựa và năm 2050 thì nhựa nhiều hơn cá (cá nào sống nổi, người ăn cá nhiễm bẩn thải nhựa cũng chẳng sống nổi). * Báo Thanh Niên 14/7/2016 (btv. Nguyễn Long): Kiên quyết di dời xưởng nhuộm chui tại huyện Châu Đức. Xưởng nhuộm lén lút đưa vào hoạt động. Năm 2010 bị phạt 330 triệu vì xả thải thẳng ra môi trường. Năm 2016 phạt 640 triệu vì sai phạm về môi trường. Ngành nhuộm có nguy cơ ô nhiễm cao, đặc biệt nước thải có hợp chất hữu cơ khó phân hủy, phẩm nhuộm có độc tố cao. * Báo Thanh Niên 16/7/16 (btv. Phước Hiệp, tin và ảnh): Vứt hàng trăm xác heo thối ra thượng nguồn sông Sàigòn. Công ty Việt Phước đã thừa nhận (công ty hiện nuôi 27.000 con heo, có bao nhiêu tấn phân và nước thải? Xử lý thế nào?). * Báo Thanh Niên 20/7/16 (btv. Nguyễn Phúc, tin và ảnh). Nguyên nhân cá chết trắng hồ Đại An (Quảng Trị) không loại trừ nguyên nhân từ những ống cống đen ngòm đang xả thải vào lòng hồ Đại An. ü Báo Thanh Niên 2/8/16 (btv. Hoàng Sơn - Nguyễn Tú): Lò mổ lớn nhất Đà Nẵng xả thải trộm cá chết bất thường ở công viên 29/3. Toàn bộ nguồn nước từ hồ chứa được xả thẳng ra dòng kênh đều chưa qua xử lý. Hồ công viên 29/3 (Q. Thanh Khê) đã có hơn 1 tấn cá chết nổi lềnh bềnh, còn nhiều cá khác lờ đờ, ngáp ngáp… * Báo Thanh Niên 15/7/16 (btv. Giang Phương): Phạt cơ sở sản xuất bún, hủ tiếu xả thải ra sông Vàm Cỏ Đông mà chưa xử lý số tiền 114,8 triệu. * Báo Thanh Niên 15/7/16 (tôi có ý kiến) - Phải mạnh tay đóng cửa việc xả thải ra đầu nguồn nước sinh hoạt nơi cấp nước cho 90% dân Bà Rịa Vũng Tàu cho thấy DN nhuộm Mei Sheng hủy hoại môi trường và sức khỏe của dân, cần đóng cửa vĩnh viễn (btv. Văn Thiên). Ô nhiễm khắp nơi: Formosa đầu độc biển - Lee & Man đầu độc sông Hậu tới lượt Mei Sheng đầu độc nguồn nước của 90% dân Bà Rịa Vũng Tàu (Nguyễn Thanh). * Báo Thanh Niên 31/7/16 (btv. Trung Chuyên - Ngọc Anh). Sự cố tràn hóa chất tại nhà máy Alumin Nhân Cơ (Đắk Nông). Cá chết, người bị ngứa - 9,58 m3 kiềm, thấm xuống đất (khoảng 600 m2) một phần tràn ra suối Đắk Dao qua cửa xả số 3 của nhà máy. * Báo Thanh Niên 5/8/16 - Thường trực ban Bí thư Đà Nẵng Đinh Thế Huynh đánh giá sự cố môi trường do Formosa gây ra là rất nghiêm trọng ảnh hưởng môi trường không chỉ trước mắt mà về lâu dài (Thanh Niên). * Báo Thanh Niên 6/8/16 (btv. Giang Phương). Công ty Highvina Apparel (ngành may mặc) xả bẩn ra sông Vàm Cỏ Đông bị phạt 153 triệu đồng (tổng coliforsus vượt 2,7 lần, lưu lượng xả 20-40 m3/ngày). * Báo Thanh Niên 13/8/16 (btv. Hoàng Tuấn). Công ty Chin Well Fasteners VN bị phát hiện có hệ thống xả ngầm đặt dưới lòng đất và chôn lấp than bùn (lắng đọng từ hệ thống xả thải) trong khuôn viên công ty sai quy định, doanh nghiệp đã thừa nhận 2 hành vi này. * Báo Thanh Niên 24/8/16 (btv. Phan Ngọc). Cá nuôi trên sông Nậm Nơn chết bất thường. Hiện cá lồng vẫn còn chết nữa, kiểm tra chưa đưa ra kết luận chính thức. * FB Nguyễn Hữu Thảo 27/8/16 lúc 16g10. Mỗi ngày biển nuốt 1 tấn phenol? Nếu không được xử lý, mỗi ngày biển (Hà Tĩnh) phải uống từ lò luyện cốc của Formosa (HT) khoảng 1.000 - 1.200 m3 nước thải bẩn. Số nước trên nếu không được xử lý kỹ sẽ có 1 tấn phenol độc hại xả ra biển. * Báo Thanh Niên 30/08/16 (btv. Phan Hậu - T.Q.Nam). Công bố 3 vùng biển chưa khai thác hải sản sau sự cố Formosa, đó là Sơn Dương (HT), Nhật Lệ (QB) và Sơn Chà (Huế). Trước đó sáng ngày 8/8 dân đánh cá huyện Bố Trạch phát hiện 1 tàu chở hàng loại lớn sơn đen không rõ số hiệu, che phủ bạt, tàu vừa chạy vừa có 3 người vứt xuống biển nhiều túi nilon - nghi là chất thải rắn của Formosa (HT). * Báo Thanh Niên 10/9/16 (btv. Phạm Đức - Tân Kỳ). Cá nuôi lồng chết hàng loạt ở vùng biển Nghi Sơn (Thanh Hóa). Sáng 8/9, nước biển có hiện tượng đổi mầu. Sau đó cá chết hàng loạt. 47,45 tấn cá chết, thiệt hại 6-7 tỉ đồng. Cũng báo trên (btv. Lê Lâm) có bài: Phạt công ty xả thải ra sông Đồng Nai 205 triệu đồng. Ngày 9/9 công ty TNHH Header Plan (H. Vĩnh Cửu) bị phạt 205 triệu do xả thải vượt nguy hiểm 2-5 lần, buộc khắc phục trước 30/9. Thay lời muốn kết Chúa tạo thành nước như là nguồn sống ngay từ thuở ban đầu. Sự sống được Chúa tác sinh từ nguồn nước và cũng nhờ môi trường nước mà mọi loài lớn lên, phát triển tới nay. “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước… Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc và loài chim phải bay lượn trên mặt đất dưới vòm trời” (St 1,2.20). “Một con sông từ Eden chảy ra trước khu vườn và từ đó chia thành 4 nhánh. Tên nhánh thứ nhất là Pisôn nó bao quanh tất cả đất Khavila... Nhánh thứ hai là Ghikhôn… bao quanh tất cả đất Cút. Nhánh thứ ba là Tích-ra chảy ở phía đông At-sua. Còn nhánh thứ tư là Euphơrat” (St 2,10-16). Ngày nay con người tự mãn về những tiến bộ khoa học nhưng chính bàn tay con người đã biến nước, nguồn sống thành nước gieo mầm sự chết qua “thành tích” xả thải ô nhiễm ra sông biển… Đâu còn cảnh thơ mộng như thị kiến của tiên tri Ezêkiel xưa: “… và này nguồn nước từ bên phải Đền thờ chảy. Người ấy đi ra phía đông, tay cầm dây đo, đo 500 thước rồi dẫn tôi đi qua nước. Nước ngập đến đầu gối. Người ấy lại đo 500 thước nữa và dẫn tôi đi qua, nước ngập đến ngay lưng. Người còn đo 500 thước nữa. Đó là con sông tôi không thể đi qua được vì nước đã dâng cao, khiến không thể đi qua mà chỉ bơi mới được thôi… Người ấy dẫn tôi trở lại bờ sông thì này có rất nhiều cây cối ở 2 bên bờ sông. Người ấy bảo tôi: Nước này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng Araba rồi đổ ra biển chết làm cho nước biển hóa lành. Sông chảy tới đâu thì làm cho mọi sinh vật lúc nhúc ở đó được sống. Sẽ có rất nhiều cá vì nước này chảy tới đâu thì nó chữa lành, sông này chảy tới đâu thì ở đó có sự sống… trên hai bờ sông sẽ mọc lên mọi giống cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không bao giờ hết. Mỗi tháng cây sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ Thánh Điện. Trái dùng làm lương thực còn lá dùng làm thuốc” (Ed 47,1-13). Trong các chương trình không gian thăm dò mặt trăng, sao hỏa… tốn kém nhiều tỉ dollars, điều các khoa học gia chú tâm lùng sục nhất là nguồn nước, vì có nước là có sự sống. Thế mà hỡi ôi! Nguồn nước sống dồi dào Chúa ban cho mọi loài làm cho trái đất trở nên hành tinh xanh xinh đẹp nhất vũ trụ lại đã bị con người làm cho trở thành nguồn mạch sự chết đe dọa mạng sống con người và muôn sinh vật. Con người đã trở thành hung thần hủy diệt và làm ra tận thế, điều mà Thiên Chúa dự trù chứ chưa ra tay. Cuối cùng xin mọi người cùng đọc và suy gẫm bức thư chung thống thiết của Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp - Giám mục Chính tòa địa phận Vinh: THƯ CHUNG Về thảm họa ô nhiễm môi trường biển miền Trung Kính gửi: Quý Cha, quý Tu sỹ, quý bà con giáo dân và tất cả mọi người Trong những ngày qua, chúng ta đau lòng chứng kiến thảm họa ô nhiễm môi trường biển chưa từng thấy. Hàng trăm tấn cá chết trôi dạt vào bờ biển Miền Trung. Tôm, ngao sò, chim chóc, rừng ngập mặn đột nhiên chết hàng loạt, hệ sinh thái của thềm lục địa bị phá hủy. Hàng triệu ngư dân, người nuôi trồng thủy sản, làm muối, buôn bán hải sản, kinh doanh dịch vụ ăn uống và du lịch... đột nhiên rơi vào cảnh thất nghiệp và điêu đứng vì nghề nghiệp mưu sinh hoàn toàn bị đảo lộn. Hoảng loạn, bần cùng và phẫn nộ, đó là những khốn khổ mà người dân đang nếm trải. Hiện nay, dù các người hữu trách chưa đưa ra kết luận chính thức, nhưng nhiều người vẫn đinh ninh rằng, chất thải có chứa độc tố kim loại nặng từ khu công nghiệp là nguyên nhân của thảm họa trên. Nếu thực sự như vậy thì thảm họa môi trường này có mức độ lâu dài và nguy hiểm vô cùng to lớn. Chắc chắn phải mất nhiều thập niên nữa hệ sinh thái của thềm lục địa Miền Trung mới khôi phục được. Về phương diện kinh tế, tuy chưa có thống kê cụ thể, nhưng nhiều người cho rằng, thiệt hại do thảm họa môi trường này gây ra vượt rất xa lợi nhuận mà một khu công nghiệp có thể mang lại. Hậu quả của nhiễm độc kim loại nặng đối với sức khỏe con người còn khủng khiếp hơn. Các độc tố này sẽ tồn tại lâu dài trong lòng biển. Nước biển và hải lưu sẽ làm loãng nồng độ chất độc để không gây chết tức thì cho sinh vật biển, nhưng các sinh vật này sẽ bị tác hại lâu dài qua việc hấp thụ độc tố từ chuỗi thức ăn. Khi con người tiêu thụ thủy sản, nước mắm, muối có nhiễm độc, các độc tố này sẽ xâm nhập và tích lũy ngày càng nhiều trong cơ thể. Đến một lúc nào đó hàm lượng độc tố này vượt ngưỡng cho phép, chúng sẽ gây bệnh tật như ung thư, tổn thương não... và có thể gây dị dạng, quái thai cho các thế hệ sau. Mặc dù tầm mức nguy hiểm của thảm họa to lớn như vậy, nhưng đã hơn một tháng qua, các nhà chức trách vẫn né tránh việc công bố nguyên nhân và thủ phạm gây ra thảm họa này. Bên cạnh đó một số người còn khuyến khích dân chúng tiêu thụ thủy hải sản một cách thiếu căn cứ khoa học. Trong khi đó, thật khó hiểu khi nhà cầm quyền lại nặng tay đàn áp những người biểu tình ôn hòa đòi trả lại môi trường trong sạch cho người dân. Đứng trước thảm trạng này, chúng ta phải có thái độ như thế nào? Thánh Công Đồng Vaticanô II dạy rằng: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và âu lo của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và âu lo của người môn đệ Đức Kitô, không có gì đích thực nhân loại mà không có âm vang trong cõi lòng người Kitô hữu” (CĐ Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 1). Vì vậy, chúng ta không thể nào dửng dưng trước thảm họa ô nhiễm môi trường đang phá hủy không những vùng biển Miền Trung mà còn gây thảm họa lâu dài cho cả dân tộc. Thật vậy, chúng ta đang đối diện với một vấn đề vô cùng quan trọng, không chỉ liên quan đến chính mỗi người chúng ta mà còn liên quan đến nhiều thế hệ. Có thể nói rằng, biển kêu gào thảm thiết vì bị bức tử và mọi người, mọi vật đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng do thảm họa này. Chúng ta cần biết rằng việc phá hoại môi trường, làm nhơ bẩn nguồn nước, đất đai và không khí bằng những độc tố là tội lỗi, và sẽ gánh lấy hậu quả. Vì “tội lỗi chống lại tự nhiên, cũng là tội lỗi chống lại chúng ta và là tội lỗi chống lại chính Thiên Chúa” (ĐGH Phanxicô, Laudato Sí, số 8). Theo giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta không thể dung thứ bất cứ thái độ vô cảm và vô trách nhiệm nào đối với môi trường. Đồng thời, chúng ta có quyền đòi hỏi người khác, trong lúc tìm cách đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại, không được tác hại đến các thế hệ tương lai. Chúng ta có quyền yêu cầu các nhà hữu trách phải tạo lập một hệ thống pháp lý chặt chẽ và hữu hiệu để bảo vệ môi sinh. Không cho phép những ai lạm dụng quyền lực và dựa vào mô hình kinh tế - kỹ thuật để phá hoại đất nước, sự tự do cũng như công bằng xã hội (x. ĐGH Phanxicô, Laudato Sí, số 53 và số 59). Vì thế, tôi tha thiết mời gọi Anh Chị Em thể hiện căn tính Kitô hữu của mình, có trách nhiệm với quê hương đất nước và các thế hệ tương lai, đồng thời hiệp thông chia sẻ với những người đang là nạn nhân của thảm họa ô nhiễm môi trường bằng những việc làm cụ thể sau đây: - Biết sẵn sàng từ bỏ lối sống hưởng thụ coi thường môi sinh và cương quyết không sản xuất, chế biến “thực phẩm bẩn” gây hủy hoại sức khỏe, tổn thương đến tính mạng của đồng bào mình; từ bỏ lối phát triển kinh tế không những không bền vững mà còn hủy hoại môi sinh; - Giúp đỡ những anh chị em đang là nạn nhân của thảm họa này qua sự thăm viếng, động viên tinh thần cũng như giúp đỡ bằng vật chất; - Chủ động tiêu hủy, chôn cất một cách an toàn nhất có thể, những sinh vật biển bị chết để ngăn chặn chất độc phát tán; không tàng trữ, buôn bán những hải sản, thực phẩm chế biến từ hải sản đã nhiễm độc hoặc nghi ngờ nhiễm độc; - Hợp tác với những cá nhân và tổ chức thành tâm thiện chí để tìm ra nguyên nhân gây thảm họa, đồng thời nỗ lực tìm kiếm biện pháp khắc phục thảm họa này; - Thực hiện quyền công dân được Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các Công ước Quốc tế quy định ; thể hiện một cách ôn hòa quyền đòi hỏi sự minh bạch trong việc điều hành đất nước, cũng như xử lý thảm họa và buộc những kẻ đã gây ra phải bị xét xử đúng với công lý. Đặc biệt, tôi tha thiết mời gọi Anh Chị Em cầu nguyện cho công cuộc bảo vệ môi trường, bảo vệ sự thật và quyền được sống trong một môi trường lành mạnh, hài hòa và bền vững. Rất có thể con cháu chúng ta sau này sẽ hỏi: Vào thời điểm đất nước lâm nguy, Biển Đông bị ô nhiễm, ông, bà, cha, mẹ đã làm gì để cứu biển và cứu chúng con? Tin tưởng vào lời hứa của Đức Mẹ Fatima, tôi kêu gọi mọi người siêng năng lần hạt Mân Côi, để nhờ sự phù hộ của Đức Mẹ, chúng ta không những biết can đảm bảo vệ non sông đất nước mà còn không để lại hệ lụy cho thế hệ tương lai. Xin Chúa chúc lành và ban bình an cho mọi người trên đất nước Việt Nam thân yêu. Kỷ niệm 99 năm ngày Đức Mẹ hiện ra lần thứ nhất tại Fatima, Xã Đoài, ngày 13 tháng 5 năm 2016 GIÁM MỤC GIÁO PHẬN VINH X Phaolô Nguyễn Thái Hợp CÁC GIÁM MỤC NHẬT BẢN LÊN ÁN HÀNH ĐỘNG BỨC TỬ BIỂN Nhân Ngày của dân biển 10/7, các Giám mục Nhật Bản đã công bố sứ điệp khẳng định biển khơi đang chết, và nguyên nhân chính là sự ích kỷ của con người. Sứ điệp tựa đề “Trên cùng con thuyền. Với lòng thương xót của Thiên Chúa Cha” mang chữ ký của Đức cha Michele Matsuura Gora, Chủ tịch Ủy ban đặc trách người di cư tị nạn của HĐGM Nhật. Các Giám mục Nhật Bản nhấn mạnh rằng các khó khăn và nguy hiểm mà những người sống và làm việc trên biển gặp phải không chỉ đến từ thiên nhiên. Thật thế, bởi biển ngày càng trở thành nguy hiểm hơn vì các vụ thử bom nguyên tử, và các chất độc hại các chất thải có chất phóng xạ ô nhiễm thải vào biển, tạo ra các tình trạng vô cùng nguy hiểm cho người và các loài vật sống trong biển. Các Giám mục Nhật Bản nhắc lại rằng trong Năm Thánh Lòng Thương Xót tất cả mọi người đều được mời gọi yêu thương nhau như các thành phần trong cùng một gia đình được Thiên Chúa Cha hướng dẫn. Nhưng tình yêu thương xót này không luôn bao gồm các người sống và làm việc trên biển cả. Đức cha Matsuura Gora nhận xét rằng rất ít khi chúng ta nghe được các tin tức liên quan tới họ, mặc dù hằng ngày họ phải đương đầu với biết bao nhiêu nguy hiểm. Đức cha nhấn mạnh, biển cả là ơn tạo dựng tuyệt diệu của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta không được phép gây ô nhiễm để chỉ nuôi cái tôi ích kỷ của mình. Cơm bánh chúng ta ăn hằng ngày cũng đến từ những người làm việc trên biển cả. Chúng ta tất cả đều ở trên cùng một con thuyền. Vì vậy chúng ta phải lưu tâm tới các người làm việc trên biển cả cũng như trên đất liền, và hỗ trợ lẫn nhau. Trong Ngày của dân biển này, chúng ta hãy cầu nguyện cho các người làm việc trên biển cả và gia đình họ. (T.L, báo Người Công giáo Việt Nam số 35, ngày 28/8/2016) Tân Sa Châu, ngày 10/10/2016 Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết (Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông)
Chuyến xe buýt 100 năm trước Phụ Bản I LẠM BÀN VỀ CHỮ VẠN CỦA ĐẠO PHẬT Có hai biểu tượng của Đạo Phật mà ai cũng biết: Đó là Hoa Sen và Chữ VẠN. Hoa Sen thì ai cũng hiểu là để nói về sự “Thoát bùn dù vẫn ở trong bùn”, tượng trưng cho hình ảnh của người tu Phật thành công,“Ở trong trần gian mà không nhiễm mùi trần”, hay “Ở trong trần tục mà được giải thoát” nên không có gì để bàn cãi. Riêng chữ VẠN thì nhiều người đã thắc mắc, không hiểu vì sao các Chùa làm chữ Vạn không đồng nhất. Chùa thì làm theo chiều kim đồng hồ (gọi là mẫu A), Chùa thì làm ngược lại (gọi là mẫu B). Cũng có nhiều người đã bàn về vấn đề này, nhưng không thống nhất ý kiến với nhau được. Đọc trên mạng tôi thấy có một bài viết khá dài, nói khá rõ về Chữ VẠN, xin được tóm tắt như sau: “Chữ VẠN là một trong những quý tướng của Đức Phật, biểu thị công đức vô lượng của Ngài. Sở dĩ ứng hiện nơi ngực của Phật là nói lên ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn của Phật. Ở giữa tượng trưng cho lý Trung Đạo, không kẹt hai bên, vượt ngoài đối đãi, nhưng lý giải thì có các quan điểm sau: - Theo nghiên cứu của Tiến Sĩ Quang Đảo Đốc ở Đại Học Quốc Sĩ Quán Nhật Bản thì đó là ký hiệu (symbol) không phải là chữ viết. Nó xuất hiện rất sớm, có thể là từ thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên, và đến thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên mới được dùng trong kinh Phật. Nhưng ký hiệu này đã không thống nhất. Có lúc viết theo mẫu tự A, có chỗ viết theo mẫu tự B. Có lúc xoay phía mặt và cũng có khi xoay phía trái. Từ đó có những lý luận cho rằng Chữ VẠN của Phật giáo phải xoay hướng này mới đúng, hướng kia thì sai. - Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu cũng nói chữ VẠN là hình tướng, không phải là chữ, nên dịch là cát tường, hải văn tướng, cho rằng nên xoay về bên hữu, giống như đi vòng quanh để tỏ lòng tôn kính Phật thì phải đi về bên hữu. Do vậy xoay về bên hữu mới là tướng cát tường. Xoay bên trái là lầm. - Tự Điển Phật Học của Đoàn Trung Còn thì cũng nói rằng chữ VẠN cũng kêu là kiết tường, là một chữ linh bên Ấn Độ, có sức đưa lại các điềm tốt lành, vui vẻ, phước đức. Tác giả cũng lưu ý là không nên viết chữ VẠN ngược chiều, vì các nhà học đạo cho rằng 4 cái đầu lửa, quay thuận chiều thì diệt sạch phiền não, đem lại sự an lạc, nghịch chiều thì thiêu hủy các công đức, thiện căn! Nhưng cũng không giải thích lý do có sức thuyết phục. - Tự Điển Phật học của GHPGVN cho là vòng về bên phải (Mẫu A) là tốt lành, cát tường. Bên trái (Mẫu B) là sai lầm. - Wikipedia thì cho là xoay bên nào đều được. - Từ Điển Phật Học Việt nam của Thích Minh Châu và Minh Chí (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1991) thì cho rằng không có cơ sở nào đủ sức thuyết phục, cho nên không thể kết luận bên nào hoàn toàn đúng, bên nào hoàn toàn sai. Không nên nghĩ chữ VẠN quay theo chiều nào đó thì nó thiêu hủy công đức. Chỉ có những việc làm sai trái của ta mới thiêu hủy được công đức của ta. Chúng ta cứ để mặc cho chữ VẠN quay tự do mà không cần bàn cãi, chúng ta chỉ cần cố gắng làm tròn nghĩa vụ của mình, lập công, bồi đức càng nhiều càng tốt. Người ta cũng kể lại dưới thời Pháp thuộc, năm 1941, một viên công sứ Pháp đi từ Phủ Doãn lên Đàn Nam Giao, khi đi ngang qua Chùa Từ Đàm Huế, thấy các hình chữ VẠN chung quanh tường rào được nhìn thấy từ hai phía, ông ta bắt trụ trì phải xây phông ở phía sau để chỉ nhìn được phía mặt chữ VẠN của Phật Giáo. Cũng có người kể rằng Bác Sĩ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM, một cư sĩ nổi danh thời trước, khi xây đựng Chùa Từ Đàm đã có chạm chữ VẠN trên cửa ra vào. Nhà cầm quyền Pháp cho là hình chữ VẠN của Đức Quốc Xã nên bắt phải đổi hướng kia. Nhưng khi Cư Sĩ vào Chùa nhìn ra vẫn thấy hình ảnh như trước. Chùa Linh Sơn ở Đà Lạt, lúc vào, nhìn thấy chữ VẠN Mẫu A, nhưng khi ra, nhìn lên lại thấy Mẫu B. Do đó, bài viết kết luận là do vị trí mà ta nhìn thấy khi thì quay ngược, lúc lại xuôi theo chiều kim đồng hồ, do đó, mặt trước hay mặt sau cũng chỉ là một chữ VẠN mà thôi. Tác giả đề nghị thế giới Phật Giáo cần nghiên cứu xem cách viết nào đúng, để đưa ra một quyết định, một sự thống nhất chung, mọi người đều tuân thủ ngõ hầu tạo tính thuần nhất về những biểu tượng đặc thù của Phật Giáo. Không thể chấp nhận kiểu viết theo cảm tính, Chùa này viết khác, Chùa kia viết khác, nhất là trong một chùa mà lại có hai chữ VẠN khác nhau. Tác giả cũng đề cập đến chữ VẠN của nhà độc tài Phát Xít Hitler. Nhưng Chữ Vạn này màu đen, được vẽ nghiêng một góc 45 độ trong một vòng tròn màu trắng, được mọi người gọi là “Chữ Thập ngoặc”. Đó là viết tắt của hai chữ State: Quốc Gia và Social: Xã Hội. Đời nhà Đường, Hoàng Hậu Võ Tắc Thiên cũng từng sáng tạo ra một chữ VẠN, độc âm là Nhật. Đây chỉ là biếu tượng cho mặt trời mà thôi. Chữ ấy ngoặc sang bên trái. (trích Internet Phật Giáo Việt Nam, tác giả Tâm Minh Ngô Tăng Giao)”. Không riêng gì giới tu hành, mọi người hẳn không ai không đồng ý về lời giải thích trong Từ Điển Phật Học của Đoàn Trung Còn là “nếu chữ VẠN quay trái chiều thì sẽ thiêu hủy các công đức, thiện căn”! Thiêu hủy của ai? Của người làm? Của Phật hay của người nhìn thấy? Do đó chúng ta không thể nào chấp nhận những lời giải thích mơ hồ, thiếu căn cứ và thiếu khoa học như thế. Hơn nữa, trong Đạo Phật không có nói về sự linh thiêng, huyền bí. Ngay cả 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp của Phật cũng chỉ để nói về những việc thiện, việc tốt đẹp mà thôi. Không có gì là siêu phàm hay hiển linh nào cả. Theo giải thích trong bài viết, thì mọi người cho rằng có lẽ Chữ VẠN là quý tướng của Phật, nhưng tôi mở 32 Tướng Tốt, 80 vẻ đẹp của Phật thì không thấy nói có tướng nào mang hình chữ VẠN hết. Dù vậy, theo tôi, cũng như 32 tướng tốt của Phật, mỗi tướng là tượng trưng cho một việc làm và dạy người tu nương theo đó để tạc cho mình, nhìn thấy đó như tấm gương để học hỏi, để thực hiện, không phải để dùng chất liệu quý rồi đúc hay tạc lên để thờ. Trường hợp chữ VẠN này cũng vậy. Theo tôi, do không có lời giải thích nên mạnh ai nấy làm và hiểu theo ý mình. Có thể nghĩ rằng là Phật đã nhiếp phục được Vạn Pháp chăng? Bởi vì trước khi tu hành, mỗi người đã bị Vạn Pháp điều khiển, làm cho quay cuồng, điên đảo, đau khổ. Khi bắt đầu tu hành là phải làm chủ nó, nhiếp phục được nó, cuối cùng mới thoát khỏi sự kiềm tỏa của nó. Và hình ảnh đó như dấu ấn về sự chiến thắng và làm chủ Vạn Pháp của Phật chăng? Nhiều năm trước, nhóm tu học của chúng tôi cũng đã từng bàn về chữ VẠN. Có một ý kiến nêu ra mà tôi thấy có lý phần nào. Đó là: Người tu Phật là phải XẢ, phải MỞ, phải HÓA GIẢI các pháp. Vì vậy, theo ông bạn này, nếu chữ VẠN theo chiều kim đồng hồ thì sẽ thấy đó là siết chặt thêm, ôm vô, giữ chặt lại, na ná như chữ VẠN của Hitler, chỉ khác vị trí: một bên đứng thẳng, một bên chéo góc mà thôi. Trái lại, Chữ VẠN ngược chiều kim đồng hồ thì vừa có thể diễn tả về sự “Tháo gỡ, Xả, Giải tỏa”, vừa khác chiều với chữ Vạn của Hitler. Do đó, theo tôi, Kinh sách đã giải thích:“Phật là Vô Tướng, do vô lượng Công Đức mà thành”. Nhưng nếu ta tạc ra bằng tướng, thì nên làm thế nào để hình tướng đó gợi cho người nhìn một ý nghĩa về công việc tu hành, để người nhìn thấy có thể theo đó mà thực hiện cho bản thân, chớ không chỉ nhìn đó như hình ảnh độc quyền của Phật, ta không có liên quan. Hoặc do chạm lộng, nên đứng phía trong hay phìa ngoài mà nhìn thấy hình chữ VẠN xuôi hay ngược, chẳng có nghĩa lý gì, chẳng có gì khác biệt! Tác giả bài viết cũng có kêu gọi một sự thống nhất về cách viết của biểu tượng này. Vì vậy, tôi cũng lạm bàn, là một khi đã tạo ra một hình ảnh, thì tốt nhất là ngoài hình thức thì cũng nên mang một ý nghĩa tượng trưng cho một việc làm. Hình Chữ VẠN xoay ngược chiều kim đồng hồ có lẽ cũng gợi cho người Phật Tử một hình ảnh XẢ, THÁO GỠ đối với Vạn Pháp. Biết đâu cũng có được chút lợi lạc nào đó để người Phật Tử nhìn thấy như một sự nhắc nhở là bản thân mình cũng cần Xả, cần phải tháo ra, gỡ ra, đừng tiếp tục ôm giữ các pháp chăng? Tháng 7/ 2017 Tâm Nguyện HŨ VÀNG CỦA AI (Truyện dân gian Armênia) Tôi được ông bà già nhà chúng tôi kể cho nghe, ông bà già nhà chúng tôi lại được các cụ mình kể lại, còn các cụ của ông bà già nhà chúng tôi - lại được nghe các kỵ mình kể rằng, ngày xửa ngày xưa có một bác thợ cầy nhà nghèo. Nhà bác chỉ có một mảnh đất nhỏ với đôi bò kéo. Đã vậy đột nhiên mùa đông ấy đôi bò kéo của bác thợ cầy nghèo lại đổ. Sang xuân thời vụ gieo cấy đến, không còn bò kéo bác thợ cầy chịu bó tay, đành phải cho người hàng xóm thuê đất. Người hàng xóm bắt tay vào cầy ruộng, đột nhiên lưỡi cầy của bác ta đụng phải vật gì rắn rắn. Bác ta bới đất lên xem, thì ra đó là một cái hũ lớn đựng đầy vàng. Bác ta bỏ bò, bỏ cầy đấy chạy về gặp chủ ruộng. - Này, trời đã đem phúc đến cho anh! - bác ta reo lên - Ở ruộng nhà anh có hũ vàng. Anh ra mà nhận mang về! - Không, người anh em ơi, đó không phải vàng của tôi, - chủ ruộng trả lời - Anh đã thuê ruộng của tôi, anh cầy đất, vậy thì tất cả những gì trên đất đó là của anh. Anh tìm thấy vàng đi nữa cũng đều là của anh. Anh cứ nhận lấy! Hai người tranh cãi nhau: người này: - Vàng là của anh, người kia: - Không, của anh. Cuộc tranh cãi mỗi lúc một hăng, đi đến chỗ hai người túm lấy nhau ẩu đả, rồi kéo nhau lên tận nhà vua thưa kiện. Nhà vua vừa nghe nói đến hũ vàng, cặp mắt ngài liền rực sáng lên. Ngài phán: - Không phải vàng của ngươi, mà cũng không phải vàng của tên kia. Hũ vàng tìm thấy trên đất của trẫm có nghĩa là của trẫm. Lập tức nhà vua cùng đám quần thần vội vã đến ngay chỗ ruộng bác thợ cầy đã tìm ra cái hũ, ra lệnh mở nắp hũ ra. Nhưng ngài lại thấy, cái hũ đầy những rắn là rắn. Vừa sợ vừa tức nhà vua trở về cung điện và ra lệnh trừng trị hai tên thợ cầy láo xược dám đánh lừa ngài. - Cầu chúc đức vua trường thọ, vạn tuế, - hai kẻ đáng thương giãi bầy, - vì lẽ gì mà đức vua muốn hãm hại chúng thần? Trong hũ chẳng hề có rắn rết nào hết, ở đó thực sự chỉ có vàng, vàng! Nhà vua phái tay chân đi xem lại. Đám người được phái đi trở về tâu: - Trong hũ quả là đầy vàng. - Chà! - nhà vua ngạc nhiên, nghĩ bụng: có lẽ ta không nhìn kỹ hoặc giả đã thấy cái hũ khác. Thế là ngài lại vi hành đến đó, mở hũ ra. Nhưng trong hũ vẫn đầy rắn là rắn. Sao lại có chuyện lạ làm vậy? Không ai hiểu. Bấy giờ nhà vua ra lệnh triệu tất cả các nhà thông thái trong khắp vương quốc đến. Ngài phán truyền: - Hỡi các bậc tài giỏi, các khanh hãy giảng giải điều này có thể là thế nào? Hai gã nông phu tìm thấy hũ vàng. Trẫm đến xem thì trong hũ đầy những rắn, bọn họ đến nơi thì hũ lại đầy vàng. Như vậy nghĩa là làm sao? - Xin đức vua đừng giận về những lời của kẻ hạ thần. Cái hũ đầy vàng tặng cho hai kẻ nông phu nghèo vì họ làm lụng chăm chỉ và họ trung thực. Khi họ đến nơi thì tìm ra vàng, đó là phần thưởng cho họ. Còn khi đức vua đến và muốn chiếm đoạt của cải của người khác thay vì vàng, ngài thấy rắn mà thôi. Nhà vua không biết phải trả lời ra sao. - Thôi được. - cuối cùng ngài phán - Nhưng bây giờ các khanh hãy phân xử: số vàng này thuộc về ai trong hai người kia? - Tất nhiên, thuộc chủ ruộng! - Bác thợ cầy thuê đất thốt ngay lên. - Không, thuộc về người cầy ruộng chứ. - chủ ruộng bác ngay lại. Và lại nổ ra cuộc tranh cãi. - Thôi được, thôi được, khoan đã, - các vị quân sư can ngăn - các bác có con cái gì không, con trai hay con gái? Hóa ra là một người có con trai, còn người kia có con gái. Bấy giờ các vị quân sư phán quyết: tác thành đôi trai gái và trao hũ vàng cho đôi vợ chồng trẻ. Hai bên đều đồng ý, mọi người hả hê. Cuộc tranh cãi kết thúc và đám cưới bắt đầu. Họ tổ chức đám cưới suốt bẩy ngày bẩy đêm. Còn hũ vàng tặng vật vì sự lao động cần mẫn và lòng chân thực, họ đem tặng cho con cái mình. Vàng - cho đôi trẻ tân hôn, còn rắn rết - cho tên vua tham ác. Thúy Toàn dịch Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM & Nữ Trạng nguyên duy nhất NGUYỄN THỊ DUỆ
- Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Văn miếu Trấn Biên, Đồng Nai (ảnh trái) - Nữ Trạng nguyên duy nhất sử Việt Nguyễn Thị Duệ (ảnh phải) NHỮ THỊ THỤC là một nữ lưu nổi tiếng tinh thông số mệnh, c hỉ có ước vọng duy nhất: Sinh ra con là bậc Thiên Tử, nhưng người phụ nữ này lại sinh ra hai người con là Trạng Nguyên và đều là những nhân tài hiếm có trong lịch sử. Vào thời là Lê ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, xứ Hải Dương (nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Tp.Hải Phòng) có người phụ nữ thông minh đặc biệt tên là Nhữ Thị Thục, con gái của quan Thượng thư bộ Hộ, tiến sĩ Nhữ Văn Lan dưới thời Lê Thánh Tông. Vì sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng nên bà thông minh và học rất giỏi, tính tình quyết đoán, thông kinh sử; không chỉ thế bà thông tỏ cả dịch lý, tướng số, mang chí lớn của bậc trượng phu. Biết tướng mạo của mình sẽ sinh quý tử, lại thấy khí số nhà Lê đã đến hồi suy tàn và mất, nên bà quyết phải lấy được người chồng có số làm vua hoặc có số sinh được con thành bậc Thiên Tử này. Chính vì thế mà dù sinh trưởng trong gia đình quý tộc, có rất nhiều trang tuấn kiệt được giới thiệu hay để mắt đến bà đều lần lượt từ chối, bởi bà biết rằng vận mệnh họ chỉ làm quan phục tùng Vua mà thôi, tuổi trẻ của bà dần trôi qua với những cuộc giao du sơn thủy. Vào những năm cuối của thời trẻ bà đã gặp được ông đồ nhà quê ít tiếng tăm tên là Nguyễn Văn Định ở huyện Vĩnh Lại (Vĩnh Bảo ngày nay), sở dĩ bà Thục đến với ông vì bà biết rằng ông có tướng sinh ra quý tử. Tương truyền thì bà Thục đã tính toán rất cẩn thận ngày giờ hợp cẩn nhằm sinh ra con có thể lên ngôi Thiên Tử - đây là mong ước lớn nhất cả đời của bà. Đêm tân hôn bà dặn đi dặn lại chồng rằng khi trăng lên đến đầu ngọn tre mới được động phòng. Ông Định cứ phải đi qua đi lại ngoài sân, rồi cứ liên tục ngước nhìn ngọn tre mong cho sớm đến giờ. Giai thoại lưu truyền trong dân gian kể rằng ông Định sốt ruột mà động phòng hơi sớm vì thế mà dù sinh con là bậc thiên tài nhưng cũng không thể làm được Thiên Tử. Sau đó bà thụ thai, sau khi sinh con đặt tên là Nguyễn Văn Đạt, là tên khai sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này. Bà Nhữ Thị Thục rất kỳ vọng vào con nên ngay từ thuở nhỏ đã chăm sóc dạy dỗ con rất chu đáo, từ khi mới sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm được mẹ hát ru bằng những câu dân ca hoặc những vần thơ do bà sáng tác. 1. Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) Ông có hiệu là Bạch Vân Am cư sĩ và thường được tôn xưng là Tuyết Giang phu tử. Theo truyện kể trong dân gian thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đầy thôi nôi đã biết nói, lên 4 tuổi đã được mẹ dạy học thuộc lòng các bài chính nghĩa của kinh, truyện cùng với mười bài thơ Nôm. Công lao dạy dỗ của bà đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc đến trong bài “Tựa Bạch Vân Am” của ông. Vì muốn con sau này làm Vua, vì thế mà bà Thục có những xích mích với chồng, trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện những xích mích này. Một lần khi bà Nhữ Thị Thục đi chợ, ông Định ở nhà buộc dây vào cành tre, kéo lên, kéo xuống cho con chơi và ngâm đùa rằng: “nguyệt treo cung, nguyệt treo cung!” Tưởng con không biết gì, ai ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “vịn tay tiên, nhè nhẹ rung” Khi bà đi chợ về, ông Định kể lại chuyện khoe vợ, chẳng ngờ bà gay gắt nói: “Nuôi con mong thành Vua, thành Chúa, chứ thành bầy tôi thì nói làm gì” (Nguyệt tượng trưng cho bầy tôi) . Lần khác lúc vợ đi vắng, ông Định lấy sách của vợ tìm một câu để dạy con, thấy câu: “Bống bống, bang bang, ngày sau con lớn, con tựa ngai vàng”. Ông Định hoảng sợ, lo con đọc có khi bị cho là tội phản nghịch bị chém đầu bèn sửa chữ “tựa” thành chữ “vịn”. Bà Thục biết chuyện thì than: “Sinh con ra, mong con làm ‘vua’ thiên hạ. Nay thầy nó dạy con làm ‘tôi’, chán quá!” Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm dần khôn lớn, bà Thục thấy con mình có tướng mạo rất tốt, hiềm nỗi da hơi dày nên biết dù có là thiên tài cũng chẳng thể làm Vua, cộng thêm mâu thuẫn trong việc dạy con, khiến bà chán nản bỏ đi. Ít lâu sau bà gặp và lấy ông Phùng Chí Công và sinh được một ông Trạng nữa cũng nổi danh đất Việt là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. 2. Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan Về việc này gia phả họ Phùng ở Phùng Xá, Thạch Thất, Sơn Tây, mang tên “Ký lục tiên tổ sự tích” có ghi như sau: “Khi thân phụ Phùng Khắc Khoan ở Từ Sơn, có gặp một thiếu phụ từ Hải Dương đến, lông mày lá liễu, sắc mặt hơi buồn. Bà đi cùng đường với ông, được chừng một dặm, ông thấy bà nhàn rỗi như đi dạo, bèn trò chuyện, hỏi han. Thấy ông có phúc tướng, bà mới bộc bạch nỗi lòng. Ông rơi lệ cảm động. Hai người kết nghĩa vợ chồng. Qua năm sau, sinh được con trai có tướng lạ, mới 5-6 tuổi mà đã có khí vũ của bậc trượng phu. Bà mừng rỡ bảo ông nên dạy cho nó học, nếu trời xanh không phụ, may gặp thời phò được thiên hạ nghiêng đổ thì chí thiếp mãn nguyện”. Người dân làng Phùng Xá cũng như nhà nghiên cứu đều nhìn nhận rằng người phụ nữ Hải Dương ấy mang họ Nhữ, mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm với lời Sấm truyền chính xác Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ nổi danh nhờ tài học sâu rộng, có tầm nhìn chiến lược, mà còn được người đời tôn kính vì những lời sấm truyền chính xác. Nguyễn Bỉnh Khiêm dù không phải là vua, nhưng lại là người quyết định thế cuộc của các thế lực Vua Chúa thời bấy giờ. C ác bậc vua chúa thời đó đều phải tới hỏi ý kiến ông: - Khi vận nước rối bời, vua Mạc Mậu Hợp đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về thế cuộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đáp rằng: “Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời”. 7 năm sau vua Mạc bị quân Trịnh đánh bật khỏi Thăng Long, nhớ lời dặn của cụ Trạng liền về đất Cao Bằng, quả nhiên giữ thêm được 96 năm nữa. - Khi Nguyễn Hoàng lo lắng bị chúa Trịnh sát hại bèn hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bỉnh Khiêm không trả lời chỉ nói rằng:“Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (nghĩa là: “Hoành sơn một dãy, dung thân ngàn đời”) Nguyễn Hoàng liền đến phía nam dãy Hoàng Sơn chính là vùng đất Thanh Hóa, xây dựng cát cứ lập ra nhà Nguyễn sau này. - Khi vua Lê Trung Tông mất, Trịnh Kiểm muốn nhân cơ hội này muốn chiếm ngôi Vua của nhà Lê, bèn hỏi ý kiến Phùng Khắc Khoan, nhưng ông cũng không biết nên làm thế nào bèn phái người bí mật hỏi anh mình là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng “Năm nay thóc giống không tốt, chúng bay nên tìm thóc cũ mà gieo mạ”, “Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản”. Phùng Khắc Khoan hiểu ý anh mình, nói với chúa Trịnh rằng phải thờ vua Lê thì mới được lâu dài. Sau này con cháu nhà Trịnh nhiều người muốn cướp ngôi nhà Lê, tìm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ông đều nói rằng “Lê tồn, Trịnh tại; Lê bại, Trịnh vong” khiến chúa Trịnh không dám cướp ngôi vua Lê. Đến đời vua cuối cùng của nhà Lê là Lê Chiêu Thống mất ngôi thì nhà Trịnh cũng bị diệt. Nữ Trạng nguyên duy nhất trong sử Việt: Nguyễn Thị Duệ Thời xưa “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được xem là việc của đàn ông, vì thế mà cảnh đèn sách đi thi của các sĩ tử thì tuyệt chỉ có nam giới, không hề có bóng nữ nhi nào. Chính vì thế nếu có bậc nữ nhi nào thông tỏ Tứ thư Ngũ kinh, có chí dùi mài kinh sử thì chỉ có nước đóng giả nam mới có cơ hội lọt vào trường thi. Lịch sử Việt Nam cũng đã từng có một bậc nhi nữ phải cải trang thành nam để thi tài, kết quả đã vượt qua tất cả các sĩ tử khác đứng đầu khoa thi. Nguyễn Thị Duệ (1574 - 1654) quê phường Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ bà có tên là Nguyễn Thị Ngọc Toàn. Tương truyền rằng khi lên 4 tuổi bà đã biết viết chữ, đọc văn thơ, nức tiếng gần xa. Trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện rằng, thuở nhỏ, khi bị một cậu ấm trong vùng đến chọc ghẹo, bà đã làm hai câu thơ như sau: Sá chi vàng đá hỗn hào Thoảng đem cánh phượng bay cao thạch thành. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” thì “bà thông minh hơn người, học rộng hay chữ, hơn 10 tuổi giả trai, theo thầy học tập”. Cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, cuộc chiến Trịnh - Mạc nổ ra. Năm 1592, Trịnh Tùng đưa quân tiến đánh Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn, chính là gần với quê hương của Nguyễn Thị Duệ. Trận này Mạc Mậu Hợp thất thế và bị bắt, vùng đất Hải Dương bị chiến tranh tàn phá, nhiều người chết. Để tìm đường sống, nhiều người dân trong vùng theo chân nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, gia đình Nguyễn Thị Duệ cũng nằm trong số đó. Tại Cao Bằng, bà tìm học người thầy họ Cao. Khi nhà Mạc mở khoa thi năm 1594, dù có phần sa sút so với trước kia nhưng vẫn có nhiều sĩ tử các nơi đăng ký tham gia. Nguyễn Thị Duệ cùng người thầy của mình cũng đăng ký. Nguyễn Thị Duệ năm ấy 20 tuổi, cải trang nam nhi mang tên là Nguyễn Du, vượt vào trường thi. Kết quả bất ngờ là bà đã đứng đầu cuộc thi này, còn thầy của bà đứng thứ hai. Hiền tài khiến Vua chúa triều nào cũng mến phục Đến buổi yến tiệc dành cho các sĩ tử, nhiều ánh mắt đổ về người đỗ đầu với sự ngưỡng mộ. Vua Mạc Kính Cung thấy chàng trai đỗ đầu này dáng người mảnh mai, nét mặt thanh tú, bèn tìm cách dò hỏi mà biết rõ mọi chuyện của Nguyễn Thị Duệ. Thế nhưng khi biết thân thế thật sự của bà, vua Mạc không trách cứ mà còn khen ngợi. Nguyễn Thị Duệ được mời vào cung để làm thầy dạy cho các phi tần của vua, ban hiệu là “Lễ nghi cố vấn”, rồi sau đó được tuyển làm Tinh phi. Vì thế người đời quen gọi bà là “Bà chúa Sao”. Năm 1625, quân Trịnh tiến đánh Cao Bằng diệt nhà Mạc, Nguyễn Thị Duệ phải chạy vào ẩn náu trong rừng nhưng bị quân Trịnh đuổi theo bắt được. Tướng nhà Trịnh là Nguyễn Quý Nhạ vốn cùng quê với bà, từ lâu đã nghe danh tiếng của bà, bèn thảo một tờ biểu cho chúa Trịnh xem xét. Chúa Trịnh Tráng sau khi tìm hiểu, biết bà là người có học thức bèn giao cho bà giảng dạy cho các phi tần ở phủ chúa, cung vua. Với học vấn uyên thâm, Nguyễn Thị Duệ ở trong cung dạy lễ nghĩa, văn thơ. Tại phủ chúa mỗi khi được hỏi han, bà đều viện dẫn kinh sử cùng các tích cổ nhằm khéo khuyên chúa nghe theo lời răn dạy của các bậc Thánh hiền, lấy dân làm gốc. Có công lớn trong nền giáo dục nước nhà Cả vua Lê và chúa Trịnh đều coi trọng bà, phong bà là Nghi Ái Quan, cho phép bà được chấm các bài thi Hội, thi Đình. Nhiều câu chuyện về bà được lưu truyền trong dân gian. Năm Đức Long thứ 3 thời vua Lê Thần Tông (1631), bà làm giám khảo kỳ thi tiến sĩ được tổ chức ở làng Mao Điền, Hải Dương, có rất nhiều sĩ tử dự thi. Khi chấm bài, các quan giám khảo thấy có một quyển làm 4 mục rất tốt, nhưng lại bỏ qua không làm 8 mục. Nhưng vì bài làm rất tốt nên các quan không nỡ đánh trượt, bèn trình lên cho Chúa xem. Chúa đọc thấy rất tâm đắc nhưng còn vài chỗ chưa hiểu nên hỏi Nguyễn Thị Duệ. Bà liền giải nghĩa theo điển tích, nói ra hàm ý sâu xa, khiến Chúa cùng các quan phải khâm phục cả người làm lẫn người diễn giải. Bà còn bình rằng: “Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ”. Thế là các quan cùng đồng ý chấm cho người làm bài đậu tiến sĩ khoa thi năm đó. Đến lúc tra ra mới biết sĩ tử làm bài thi đó là Nguyễn Minh Triết, em họ của bà. Nhằm khuyến khích việc học tập khắp nơi để có được hiền tài cho đất nước, Nguyễn Thị Duệ đã gửi đề thi đến từng địa phương, rồi tập trung bài lại để chấm. Nguyễn Thị Duệ cũng xin triều đình lấy nhiều mẫu ruộng tốt cho canh tác lấy hoa lợi, số tiền thu được dùng để thưởng cho những ai có thành tích tốt trong học tập. LỜI KẾT Tưởng nhớ Trạng Trình và Nữ Trạng Nguyên - Văn Miếu ở Mao Điền: Chính giữa thờ Khổng Tử, sau đó lần lượt hai bên là Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Sư Mạnh, Vũ Hữu, Tuệ Tĩnh và đặc biệt bà Nguyễn Thị Duệ là nữ trạng nguyên duy nhất của nước Việt (Văn Miếu ở Mao Điền chỉ đứng sau Văn Miếu Quốc Tử Giám bởi nó đã có 500 năm tồn tại). - Khu di tích và đền thờ Trình Quốc Công là quần thể các công trình lịch sử - văn hoá gắn với cuộc đời và sự nghiệp danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm, một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử Việt Nam thế kỷ 16, trên quê nội (thuộc làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng). Qua cổng tam quan với 3 chữ Hán “Trung Am từ” (đền Trung Am) là khu đền chính thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đền được xây sau khi Trạng Trình mất (1585) với diện tích hơn 4ha, gồm 3 gian được lập trên nền nhà cũ của Trạng Trình, nơi đặt tượng và bài vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau này những nhà nghiên cứu về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đều đánh giá cao vai trò của bà Nhữ Thị Thục trong việc giáo dục Nguyễn Bỉnh Khiêm, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng có nhận xét rằng: “ Bà Nhữ Thị Thục - thân mẫu danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong ba người phụ nữ nổi tiếng, tài trí hơn người của Việt Nam ở thế kỷ XVI. Đó là Trạng nguyên Linh phi Nguyễn Thị Duệ, Quận công Nhữ Thị Thuận và phu nhân Nhữ Thị Thục” . PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo - Internet) Bài thơ Ghẹo Thị Lộ không phải là của Nguyễn Trãi Nguyễn Văn Sâm Ai cũng biết bài thơ gọi là ‘Ghẹo Thị Lộ’ tương truyền là của Nguyễn Trãi: Ả ở đâu bán chiếu gon, Hỏi xem chiếu ấy hết hay còn ? Xuân thu nay được bao nhiêu tuổi Đã có chồng chưa được mấy con ? Và bài thơ trả lời tương truyền là của thiếu nữ Thị Lộ: Em ở Hồ Tây bán chiếu gon, Việc chi ông hỏi hết hay còn, Xuân thu nay được trăng tròn lẻ, Chồng còn chưa có, có chi con ! Bài thơ suông sẻ, không có chữ khó do ngày xưa gọi cách khác nay cách khác, cũng không có cấu trúc câu văn làm khổ người đọc hiện nay. Chỉ có một từ khó là gon trong từ chiếu gon. Tự điển Huỳnh Tịnh Của không có từ gon, tuy rằng có tới 53 mục từ chiếu như sau: Chiếu cạp | Chiếu bông | Chiếu du | Chiếu chẽ | Chiếu chỉ | Ban chiếu chỉ | Chiếu | Chiếu thơ | Chiếu dụ | Chiếu liếp | Chiếu lác | Chiếu mây | Chiếu ngà | Chiếu bạch định | Chiếu kế | Hàng chiếu liếp | Chiếu hoa | Chiếu dày trân | Chiếu nôi | Chiếu manh | Chiếu đất màn trời | Chiếu sáng | Chiếu khắp | Chiếu hào quang | Nhựt nguyệt tuy minh nan chiếu phúc bồn chi hạ | Ngồi đồng chiếu kính | Chiếu ứng | Chiếu theo | Chiếu giám | Linh tê chiếu thủy | Đèn chiếu ngũ sắc | Chiếu tướng | Chiếu cố | Chiếu con cờ | Chiếu diễn | Đổng giám, chiếu giám, giám lượng, giám nguyên | Đắp chiếu dọc | Chiếu đắp | Liệt chiếu giầng | Giầng cao chiếu sạch | Giầng ngà chiếu ngọc | Chiếu hội | Chiếu y | Chiếu kiến | Ngồi đồng chiếu kiến | Chiếu kính | Chiếu lâm | Chiếu lệ | Chiếu luật | Ngồi đồng chiếu kinh | Chiếu nhận | Chiếu quản | Ra chiếu chỉ | Hai tự điển Génibrel và Taberd đều có giải thích gon 棍 (mượn từ côn) là một loại lác, loại bàng (espèce de jonc). Chắc xưa ở miền Nam có nhiều loại lác, bàng để làm chiếu, làm nóp, làm giỏ, làm cặp học trò, làm buồm nên vùng Chợ Lớn ngày xưa có đường tên gọi là Quaie des Joncs… Ngoại sử kể lại là từ sau cuộc đối đáp đó cô bán chiếu Thị Lộ trở thành nàng hầu thân cận nhứt của đại thần Nguyễn Trãi… và sau đó xảy ra chuyện tru di tam tộc họ nhà Nguyễn Trãi do cái án vườn trái vải (lệ chi viên). Tôi không được hân hạnh thấy hai bài xướng họa trên trong chính sử nào, của Ngô Sĩ Liên chẳng hạn, cũng chưa thấy trong một sách Nôm nào, chỉ thấy trong các sách bằng quốc ngữ chép qua chép lại. Từ đó tôi ngờ rằng hai bài xướng họa nầy xuất phát từ cảm hứng của một nhà Nho nào đó khoảng giao thời giữa hai thế kỷ 19-20, cảm hứng phát ra từ trong thâm tâm ông - hay do ông mô phỏng một bài thơ nào mà ông thich - trong khi ông sáng tác ra truyền thuyết ‘Thị Lộ - Con rắn trả thù’ để giải thích về trường hợp oan ức của đại công thần Nguyễn Trãi. Lý do là ta khó thể hình dung được một đại công thần, vào thời Khổng giáo cực thịnh ở nước ta, lại có thể cợt nhả một thiếu nữ mới lớn, đáng hàng cháu chắt của mình. Sự tưởng tượng của tác giả bài thơ đó càng bộc lộ hơn khi ta đọc Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi với lời thơ gút mắc xa xưa của vần thơ cũng như của ngôn từ. Lấy đại bài đầu tiên: Thủ vĩ ngâm: Góc thành Nam lều một căn. No nước uống, thiếu cơm ăn. Con đòi trốn dường ai quyến, Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn. Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá, Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn. Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải. Góc thành Nam lều một căn. Bài thơ có hai điểm khó căn bản: a. Từ ngữ xưa: con đòi (tớ gái, hầu gái, tỳ nữ...), bà ngựa (con ngựa, ngựa), vằn (con chó, con vện), quyến (dụ, dụ dỗ), hẹp hòi (chật chội, nhỏ), thú thứa (thanh thản, thong thả), triều quan (quan trong triều đình). b. Cách nói khác ngày nay: no nước uống (nước thì có nhiều), thiếu cơm ăn (thức ăn thì không đù), dường ai quyến (bỏ đi, như là có ai dụ dỗ)… Không phải chỉ có bài nầy mới khác xa với hơi hướm của bài ghẹo Thị Lộ, bài nào trong Quốc Âm thi Tập cũng vậy, khác biệt như trắng và đen. Chuyện nầy cũng như chuyện quyển Gia Huấn Ca mà trước đây có thời được gán cho Nguyễn Trãi, và mấy chục năm trước cái thoại nầy đã bị bác bỏ đi bởi học giới. Mươi năm trước tôi được người bạn tặng cho quyển sách mỏng, toàn chữ Nôm viết ở mặt sau những tờ lịch sách, nói là sưu tập ở Cái Tàu Hạ, Sađéc. Trang đầu có ghi Tân Dậu niên 辛酉年 , bát nguyệt 捌月 , sơ thập nhựt, 初拾日 , của trò Qui ghi 徒 䢜記 . Tức là trò Qui ghi chép ngày mồng 10, tháng tám, năm Tân Dậu, trong đó có bài thơ tôi xin ghi lại (theo bản chụp bên dưới): - Con gái nhà ai bán rượu ngon, Lại đây anh hỏi hết hay còn. Xuân đến năm nay mười mấy tuổi, Thằng bồng con nẩy cháu hay con. - Vốn thiệt tôi là bán rượu ngon, Mua không mà hỏi hết hay còn. Xuân đến năm nay mười tám tuổi, Chồng đà chưa có lọ là con. (NVS phiên âm) Bài chép trong sách Nôm năm Tân Dậu (1921) vậy nó phải được truyền tụng ở đâu đó cả vài thập niên trước. Và chắc hẳn là từ sự truyền tụng đó một thoại ta có bài bán rượu ngon nầy và một thoại ta có bài bán chiếu gon nói ở trên. Tóm lại bài bán chiếu gon chắc chắn là không phải của Nguyễn Trãi. Nếu ở đâu đó có học giả nào đã xác nhận điều nầy với lý chứng khác thì chúng tôi rất mừng và cũng rất cảm ơn. Nguyễn Văn Sâm (California, 26 tháng 9 năm 2017)
Chân dung Nữ danh họa Lê Thị Lựu Phụ Bản II UPTON SINCLAIR LẬP NÊN SỰ NGHIỆP CÁCH NÀO NGUYỄN HIẾN LÊ Upton Sinclair đã viết bốn mươi tám cuốn sách và bán ra trên năm trăm bài châm biếm. Sách của ông đã bán được hai triệu cuốn ở Đức, ba triệu cuốn ở Nga. Những truyện có tính-cách cấp tiến của ông có lẽ đã giúp cho Cách-mạng Nga thành-công. Mặc dầu ông là người Mỹ mà sách của ông được hoan-nghênh ở châu Âu nhiều hơn là ở Mỹ. Có lần tôi vào một tiệm sách nhỏ ở miền Nice, thấy sách của Upton Sinclair còn nhiều hơn sách của hết thảy các tác giả Anh, Mỹ khác nhập lại. Tác-phẩm của ông đã được dịch ra bốn mươi bốn thứ tiếng và có lần ông bảo tôi rằng chính ông cũng không biết hết những tiếng đó là tiếng gì và ở nước nào. Khắp thế giới, ông là nhà văn còn sống mà được nhiều người đọc nhất. Bây giờ ông sáu mươi tám tuổi và ông đã viết trên năm chục năm, từ hồi ông mười sáu. Ông đã viết hàng tỉ chữ, hơn số chữ trong Cựu và Tân-Ước hợp lại. Vẻ mặt ông hao hao như ông Woodrow Wilson và ông hăng hái nuôi một lý-tưởng. Ông muốn diệt con ma nghèo, vì kinh-nghiệm đã cho ông biết nỗi cay đắng của cảnh nghèo. Ông bảo tôi rằng có lần, luôn trong sáu năm trường, gần như ngày nào ông cũng bị cái đói gậm nhắm. Thân-phụ ông là một người bán rượu huýt-ky và nghiện rượu; và hồi nhỏ, khi ông ở Baltimore, rồi sau ở Nữu-Ước, cứ đêm đêm, ông thường đi kiếm cụ ông ở khắp các tửu quán, rồi đỡ cụ về nhà, khiêng vào gường, còn cụ bà thì móc túi chồng để lấy tiền giấu đi, phải vậy thì hôm sau mới có tiền đi chợ. Gia đình đó nghèo tới nỗi họ phải sống trong những nhà cho mướn rẻ tiền nhơ nhớp đầy muỗi, rệp; nghèo tới nỗi phải dời nhà hoài, vì thiếu tiền trả, bị chủ đuổi đi. Upton Sinclair điên cuồng chủ-trương sự cấm bán rượu mạnh. Ai ở vào cảnh ông mà không vậy. Rượu mạnh đã tàn phá gia đình ông và làm cho tuổi thơ của ông khô héo, cằn-cỗi. Ông bảo rằng rượu mạnh đã làm cho hai người bạn thân nhất của ông chết yểu, tức Jack London và Eugene V.Debs. Ông cũng không uống trà và cà-phê mà cũng không hút thuốc. Mãi tới hồi mười tuổi, ông mới được tới trường, nhưng đã tự học mà biết đọc, và trước khi vô trường thì ông đã nghiến-ngấu hết các tác-phẩm của Dickens và của Thackeray, lại đọc mấy chục cuốn sách khác và một phần lớn bộ Bách- khoa tự điển. Mới vô trường được hai năm, ông đã đủ sức theo ban đại học rồi. Hồi vào đại học, ông không có lấy một xu mà lại phải nuôi mẹ nữa. Vì vậy, ông phải vừa học vừa viết những truyện cười và truyện ngắn cho các tạp chí rẻ tiền, để lấy tiền ăn học tại City College ở Nữu-Ước và trường đại-học Columbia. Mỗi đêm ông đọc cho người khác chép một truyện dài tám ngàn chữ, nghĩa là mỗi tháng ông vừa học vừa viết được một tiểu-thuyết dài trung-bình. Sức làm việc của ông thật kinh thiên. Cả triệu người không được một người như ông. Ở trường đại-học ra, ông viết những truyện loại kiếm-hiệp hấp dẫn cho các tạp-chí nhi-đồng và kiếm được mỗi tuần lễ mười bốn Anh-kim. Số tiền đó đã lớn đối với một tác-giả mới hai mươi tuổi. Nhưng ông viết không phải là để kiếm tiền. Ông viết với mục-đích diệt sự nghèo khó và sự bất công; cho nên mặc dầu vợ thì đau, con thì nhỏ, một mình ông phải lo nuôi gia-đình, mà ông dám bỏ số tiền đó, dựng một cái lều vải ở New Jersey và bắt đầu viết những tiểu-thuyết tuyên-truyền, những tiểu-thuyết để cải tạo thế-giới. Ông bỏ ra năm năm soạn năm tiểu-thuyết và năm cuốn đó đem lại cho ông có hai trăm Anh-kim, nghĩa là có bốn mươi Anh-kim mỗi năm, bằng số tiền ông kiếm được trong ba tuần, hồi ông viết truyện cho trẻ em. Gần như lúc nào ông cũng chịu cảnh đói. Một hôm, bà vợ, vốn khao-khát một chút xa-hoa, vào một tiệm mua về một tấm khăn trải bàn sọc đỏ giá một cắc sáu. Nhưng ông bắt bà đem lại tiệm trả và đòi tiền về, vì một cắc sáu đủ cho cả nhà ăn trong một ngày. Tiểu-thuyết thứ sáu của ông nhan đề là Rừng rậm được độc-giả rất hoan-nghênh và đem về cho ông sáu ngàn Anh-kim. Ông đem trọn số tiền đó tặng một hội ở New Jersey, một loại hợp-tác-xã của văn-nhân, họa-sỹ, nhạc-sỹ mục-đích là giúp đỡ lẫn nhau sống một cách tiết-kiệm, Sinclair Lewis sống ở đó một thời- gian và giữ việc coi lò, nhưng chắc chắn Lewis làm không được việc gì, vì một đêm lửa trong lò bắt vào nhà, và nhà cháy rụi, thế là hội tan. Upton Sinclair luôn luôn là một nhà cải cách hăng-hái. Ông và Inez Mullholland cầm đầu một cuộc biểu-tình đầu tiên ở châu-thành Nữu-Ước để đòi cho phụ-nữ được quyền đầu phiếu. Ông luôn luôn chiến đấu chống lại sự hạn-chế sanh đẻ(1) và luôn ba chục năm ông là một trong những người chỉ-huy đảng xã-hội ở Mỹ. Khi ông muốn cái gì, ông nhất định theo cho tới kỳ cùng. Chẳng hạn một lần ông muốn học đờn vĩ-cầm, ông tập mỗi ngày tám giờ, gần như không bỏ ngày nào, trong ba năm. Các người hàng xóm phàn-nàn về tiếng cù-cưa nhức óc của ông, ông ôm đờn vào rừng kéo cho chim và sóc nghe. Ông bảo tôi rằng ông đã bị bắt bốn lần. Một lần bị bắt và nhốt vào khám mười tám giờ ở Wilmington vì ông chơi quần vợt ngày chủ nhật. Lần khác ông bị giam ở Tombs tại Nữu-Ước trong ba ngày vì ông lẳng-lặng đi đi lại lại trước phòng giấy của John D.Rockefeller. Lần thứ ba ông bị bắt vì bán một cuốn Thánh- kinh cho sở Công-an ở Boston; và lần cuối cùng ông bị bắt vì ráng đọc bản Hiến-pháp Huê-Kỳ, trong khi đứng trước một tư-gia, mà trong tay có giấy của chủ nhà ấy cho phép đứng tại đó! HOÀNG KIM THƯ st. ---------- (1) Ảnh hưởng của Malthus, một người chủ-trương rằng sức sản-xuất vật thực không theo kịp sức sinh sản của loài người, nên phải hạn chế sự sinh đẻ loài người khỏi chết đói.
NGÀY MỞ ĐẦU Một ngày mở đầu bằng khúc nhạc Bằng email của những anh em Thấy tâm hồn thư thái hơn lên Và bỗng thấy một ngày thật đẹp quá Cuộc sống cho ta những ngày yên ả Những thênh thang nắng gió khắp phương trời Cho ta luôn thanh thoát những tiếng cười Và bỗng thấy trần gian là mật ngọt Hãy với ta hãy từng ngày như thế Để trái tim rung những nhịp bồi hồi Để rưng lòng những khoảnh khắc chơi vơi Để biết khóc biết cười cùng nhân thế Nếu ngày sau có những lời vui kể Hẳn cõi trần thêm một phút hương hoa Hẳn sông đời thêm một khúc tình ca Và như thế chan hoà là lẽ sống. ĐÀM LAN CON KHỈ VÀ TRÁI CHANH Le Singe et Le Citron Fable de La Fontaine Con khỉ hái một trái chanh Tưởng là trái chín, trên cành thì ngon Ruột chua lét, vỏ bòn hòn Cắn rồi, liền nhả lăn tròn trái chanh Ê răng, khỉ mới dặn mình “Phải dò trong ruột, chớ tin bề ngoài” . Cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch thuật CON CHÓ VÀ CON MÈO Le Chien et Le Chat Fable de La Fontaine Chó săn đã bán đi rồi Sút xiềng, mừng rỡ, cong đuôi chạy về Chủ ở ác, chó không dè Xách roi, tay đánh, miệng thề đuổi đi Con mèo thấy chó sầu bi Chạy ra mới nói còn gì mà mong Thôi đừng bịn rịn uổng công Ai thương chi bậu, bậu hòng mến thương... Cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch thuật Thanh Châu st. CHIỀU THU Những chiếc lá xạc xào đây đó Duỗi trên sân dưới nắng ban chiều Thỉnh thoảng bám trên vệt rong rêu Cho đậm sắc mùa thu vừa đến Chú chim non nghiêng tai nghe ngóng Chiêm chiếp lời gọi mẹ tìm sâu Cánh bay dẫu mỏi từ lâu Mẹ chao nghiêng tổ ngọt ngào nhìn con Có sợi tóc bềnh bồng trong gió Thiếu nữ nhìn tóc cố chênh chao Cứ như nhớ tiếc mái đầu Thơm tho gương lược rì rào thu sang Ánh biếc ngọc mắt nàng chớp khẽ Làm bâng khuâng bướm vẽ trời hoa Làm thu thêm bội ngọc ngà Làm ai lấp ló đàng xa, tần ngần. LAM TRẦN NGÀY NÀO ĐÓ Ngày nào đó đột nhiên Thân trở mặt Chẳng còn thèm nghe lệnh chủ - là Ta Định đi thẳng, nó ngả nghiêng, bất chấp Va đâu thì ráng chịu, chớ kêu ca! Chân cũng thế, xưa tung tăng, chạy nhảy Giờ thôi là điểm tựa của toàn thân Đi, ngồi, đứng… cũng đều nghe nhức nhối Nào uống, xoa… chỉ giảm được đôi phần Thân lúc đó như ngôi nhà vô chủ, Khách không mời cứ thoải mái vô, ra Một cơn gió cũng làm cho đổ bệnh Người yếu, mềm, như đứa trẻ lên ba! Thứ đáng sợ giờ đây đang ập đến TUỔI GIÀ ơi! Ta ghét nhất trên đời Là điềm báo ngôi nhà đang xuống cấp, Cơn gió qua là tan tác, tả tơi ! Tốn tiền của, xây, tô, vàng ngọc dát, Nó cũng lần hư hỏng, cũng mòn hao! Đổ cho nó bao sơn hào, hải vị Bao thuốc men, có cải thiện được nào ?! Thân đang nhắc: Nó, Ta, hai cá thể Chỉ đi chung trong một khoảng thời gian Khi dứt Nghiệp, là đường ai nấy bước Chẳng lưu tình, không một chút liên quan! Cảm ơn nhé, Bệnh ơi! Lời nhắc nhở Rằng: Chẳng còn mấy bước đến mồ rồi! Phải rũ bỏ đống xương, da già cỗi Chỉ mang theo Nghiệp Thiện, Ác mà thôi! Trăm năm đó, đâu ngờ như ánh chớp, Trên biển đời, ta có nghĩa chi đâu! Vùng vẫy lắm, xây bao nhiêu mộng ảo Cũng bọt bèo theo sóng cuộn lao xao…! Tâm Nguyện 20/9/2017 TRÒ CHUYỆN TỪ XA VỚI THI SĨ LUÂN HOÁN Người xưa bảy chục là hiếm lắm Nhiều vị quân vương chỉ hưởng dương Chúng mình đang sống phần khuyến mãi Dẫu chẳng là vua cũng chẳng buồn. Tôi lỡ nhiều phen ra biển lớn Câu thơ từ đó chẳng nên lời. Nơi anh tuyết trắng nhiều hơn nắng Chén rượu đong sầu nhớ bạn chơi ? Tôi suốt cả đời không nghiện rượu (Vui bạn vài chai cũng chẳng sao) Mặc người cười giễu “Nam vô tửu...” Cờ nắm vào tay hẳn biết nhau! Luân Hoán là nhà thơ xứ Quảng Rất mê người đẹp của sông Hàn Tôi - tên lãng tử quê Bình Thuận Từ Thức nơi này gặp Giáng Hương! Ôi xót một thời ta chiến bại Đã làm khổ lụy đến giai nhân Câu thơ nhai nuốt không đầy bụng Bạc dần manh áo Trác Văn Quân Kẻ sĩ có thời như tráng sĩ Mài dao bên suối ở ven rừng Chém tre đẵn gỗ làm sinh kế Khoai bắp vui cùng núi Thú Dương Đất nước ngày càng thêm khốn khó Làm thơ tình mãi nghĩ không đành Bầu trời vắng bóng chim biền biệt Chắc chúng dời sang phía đất lành Anh ở bên trời đang nhớ nước Tôi từ trong nước nhớ trời xanh Mỗi khi anh gặp điều không toại Hãy nghĩ bên nhà có Thiếu Khanh! Sài Gòn, 25/09/2017 Thiếu Khanh THIÊN THU TÌNH MỘNG (Tình Thiên Thu) Từ anh đi em một đời mộng mị Tình héo hon tiếc nuối tuổi xuân thì Hoa tình yêu ủ rũ khép đôi mi Anh xa cách tình thôi đành dang dở...
Cô đơn bước u buồn trên ngõ nhỏ Anh đi rồi còn ai đón, ai đưa Công viên chiều hàng cây đứng ngẩn ngơ Nơi hò hẹn - tìm đâu ngày yêu dấu?
Anh chẳng nói một lời tình giã biệt Cõi tình chung em tha thiết mong chờ Bởi vì đâu tình phai nhạt hững hờ Mãi trong em tình nhung nhớ, bơ vơ!
Em nức nở bài "Thiên Thu Tình Mộng" Tiếng đàn ai thao thức những đêm mơ Tình ngọt ngào đong đầy bao kỷ niệm Thiên thu tình buồn, còn mãi vương tơ!...
Phạm Thị Minh-Hưng CHÚT ĐỜI CÒN DƯ Gặp nhau một chút... Xa rồi Thì thầm gọi khẽ, tên người - cố nhân Mấy mươi năm mãi ngại ngần Tháng 10 hấp tấp xoay vần tìm nhau!
Tình buồn, sắc lạnh hơn dao Vương mang mộng mị, lao đao ngọn sầu Hẹn hò chi... đợi kiếp sau Cầu còn chưa bắc nơi nào ghé qua?
Lời thơ nhỏ giọt xót xa Đi tìm ảo ảnh, ngày qua đêm tàn Chơi vơi ngọn nến xanh vàng Lung linh ánh lửa,... hoang mang mắt buồn
Anh đi hư ảo canh trường Sài gòn mưa lạnh con đường lá rơi Tìm đâu một phút bên người? Tiếc gì nhau nhỉ... Chút đời còn dư ?!...
Phạm Thị Minh-Hưng GIỮ GÌN TIẾNG HÁT DÂN CA Người nghệ nhân già say sưa hát quên trời, quên đất Quên cả sự thật Nghịch cảnh cuộc sống mình Trở về với dân ca Được đắm mình trong mạch nguồn dân tộc Am tường ý nghĩa sâu xa Âm thầm giữ vốn văn hóa của ông cha Lung linh ký ức tuổi thơ Xốn xang giọng hát, nắng ngơ ngác nồng Khúc ru buồn đến đắng lòng Nghệ nhân dần mất… theo dòng thời gian Văn hóa dân tộc còn tồn tại hay không ? Cũng do ý thức cộng đồng biết hát dân ca Nhưng từ lý thuyết đến thực tế Là cả một con đường dài, rất xa. LÊ MINH CHỬ ĐỪNG NHẦM Đức kém mà địa vị cao Tài hèn việc lớn làm sao hoàn thành Những kẻ tham lợi, hám danh Là bọn cơ hội mong anh đừng nhầm. LÊ MINH CHỬ ĐÊM NGỒI ĐỌC THƠ ĐƯỜNG Kính tặng chú Huỳnh Thanh Hòa đã mất Đêm khuya ngồi đọc Đường thi Mơ “Lầu Hoàng Hạc” còn gì hay chăng Thi nhân yêu mến “Quảng Hàn” Viết vần thơ cổ “Đêm Trăng” nhớ nhà Mãi xem thi tứ “Thường Nga” Lại ghi nhớ “Thanh Bình ca” điệu buồn “Nguyệt lạc ô đề” sương tuôn Bến sông vẳng tiếng xa chuông vọng về Đêm tàn còn đọc say mê Nỗi lòng “Khuê oán” não nề ngàn xưa Ngoài trời rả rích cơn mưa Ngâm “Tĩnh dạ tứ” mà chưa lắng hồn. HOÀI LY TIẾNG SÁO ĐÊM Tặng người nghệ sỹ vô danh Tiếng sáo đêm dìu dặt Bên phố khuya thưa người Như nỗi buồn dấu mặt Chia người hai phương trời Tiếng sáo đêm tha thiết Ngân tình sầu không tên Điệu lý xa từ biệt Cho hồn ta lênh đênh Tiếng sáo đêm vi vút Người nghệ sỹ trải lòng Gửi đời từng giây phút Thương cảm mình long đong Tiếng sáo đêm vọng mãi Nhân thế nay đâu rồi Hương khói trầm vương lại Bao giấc mộng đầy vơi. HOÀI LY Đêm vắng hờn ai Hờn ai trăng lững lờ trôi Sao buồn rụng xuống đất trời mênh mông Củi khô ai đặt theo dòng Khua chèo nước động bềnh bồng chơi vơi Hờn ai Vạc khóc sương rơi Dế than đêm lạnh oán đời bi ai Vẳng nghe tiếng Cuốc* canh dài Nhạc buồn lũ Ếch kêu hoài mé sông Đất trời vẫn cứ mênh mông Mình ôm mình... đợi... Kẻ không quay về. Nguyên Lê * Cuốc:là con chim quốc TÂY BẮC VẪN CÒN ĐÂY… “Tuổi cao tóc bạc cái râu bạc Nhà ngặt đèn xanh con mắt xanh” (Nguyễn Trãi) Tuổi cao đôi mắt còn xanh lắm Vạn dặm trường chinh đã trải rồi Thác ghềnh chìm nổi qua bom đạn Trăng tỏ và hoa thắm gọi mời Bạn lên Viễn xứ đỉnh trời Tây Tôi trấn LAO HÀ giữa trời mây Giành dân giành đất từng hang núi Cho vòng xòe lại nối vòng tay Vũ khí đâu chỉ là cây súng Trái tim ngòi bút sẵn sàng đây Bạn ẩn trong mình zen nghệ sỹ Tôi trót mang hồn thơ đắm say Nơi tôi sinh giữa phố Hàng… bên thành cổ Như bạn năm xưa vừa hết tuổi thơ Xếp bút nghiên - ra đi trong bão lửa Để được trở về với 1000 năm - Hànội - Thăng Long Tây Bắc vẫn còn đây trong trái tim người lính Trong nghĩa tình đồng đội thiêng liêng ! Hà Nội - Sài Gòn 7.6.2014 LÊ NGUYÊN Nụ hôn đầy nước mắt Phút giây đưa tiễn ngậm ngùi Nụ hôn mằn mặn pha mùi biển xanh Hôn nhau nước mắt chảy quanh Nồng nàn chua chát ngọt lành đắng cay Mắt chìm trong mắt đắm say Bàn tay nắm chặt bàn tay bồi hồi Ai làm chim nhạn lẻ đôi Ai làm chia cách bờ môi nhạt nhòa Đã bao thế kỷ trôi qua Ngàn năm sỏi đá mặn mà cho nhau Mùi hương phấn bướm nao nao Ươm duyên kỷ niệm dạt dào trong mơ Bàng hoàng đánh rớt vần thơ Con tim ngừng đập xóa mờ lương tri Tình yêu chẳng có biên thùy Nụ hôn bất diệt - rèm mi tủi hờn Cho dù quá hải xuyên sơn Lung linh dĩ vãng - chập chờn thủy chung. NGÀN PHƯƠNG Giã từ mơ ước Hạc vàng thảng thốt kêu sương Loãng tan trong gió - vấn vương giọt sầu Cuộc đời cay đắng biển dâu Tình xưa nghĩa cũ chôn sâu ngõ hồn Trách sao mộng chẳng vuông tròn Hai ta phiêu bạt đầu non cuối ghềnh Đường xa vạn dặm lênh đênh Cánh buồm viễn xứ tìm quên hận lòng Thu phai mây trắng bềnh bồng Vườn xưa sót lại đóa hồng héo hon Nửa vầng trăng khuyết chon von Gối đầu đỉnh Nhớ - mỏi mòn ưu tư Trái tim thắp nến tạ từ Đốt tương lai - mộng thiên thư lặng thầm Thời gian dời đổi thăng trầm Dặt dìu tiếng sáo - sóng ngầm xót xa. NGÀN PHƯƠNG CẬU TÔI Cậu tôi là thầy giáo Nói chuyện vui như pháo Cậu quan tâm đến tôi Bao giờ cháu thành đôi ? Ngày đám cưới đến rồi Thời bao cấp xa xôi Kinh tế còn eo hẹp Cậu bảo về nhà chồng Phải đón bằng xe hơi Thế rồi cũng thành đôi Trong ngày vui hai họ Bạn bè độ dăm người Nhớ lại ngày xưa ấy Cậu lo cho cháu gái Như ông cậu bà mợ Nuôi thế hệ má tôi Từ bé đến thành đôi Ông cậu cũng là thầy(1) Bà mợ là thương gia(2) Ông bà đều chu toàn Dạy con và chăm cháu Trở thành người chăm ngoan Giờ nghỉ hưu rảnh rang Nhớ cậu thật da diết Tôi muốn sang thăm cậu Cùng họ hàng thân thương Bên nước Mỹ xa xôi Nhưng cậu đã qua đời Năm hai nghìn mười hai Cậu đại thọ chín hai Chừ nhớ cậu khôn nguôi Một người cậu tuyệt vời. THÚY MAI ------------ (1), (2): sinh các cậu, dì và nuôi 5 chị em mẹ. NỢ TÌNH Saigon đêm mưa cuối Hạ Nợ Em! Ta vẫn nợ Em! Nợ đêm thức trắng bên thềm Hoa Trăng Nợ Em nửa bóng THANH TÂN Nhặt gom ký ức hóa thân đợi chờ Lưu tình giăng mấy câu THƠ Mời trăng uống cạn giấc mơ Xuân Hồng Nợ Em gối lẻ tình không Nợ Em năm tháng bạc lòng cố nhân Nàng Thơ ơi! Ai Phong Trần Sao ta vẫn mãi nợ nần Tình Em Nợ Em! Ta vẫn nợ Em ! Để Em dáng Ngọc từng đêm đợi chờ Còn Ta! Ta vẫn ngây ngô Trăn năm nguyện vẫn dại khờ YÊU EM. HẢI ÂU Chung đường Saigon vào Thu lưu dấu Đón Đưa Từ nay ra khỏi cửa nhà Chúng mình chung chiếc mặn mà làm sao Anh ngồi đằng trước thao thao Em sau phụ họa chao ôi nghĩa tình Đôi khi bất chợt thình lình Anh quên đèn đỏ lặng thinh Em cào Suýt nhìn cảnh sát vẫy chào Để rồi rút ví ngọt ngào chung chi Lúc về Em trách mê si Đường đèn bất cẩn thầm thì mãi sao ? Hờn Anh rồi thấy nao nao Đường tình chung lối ngọt ngào yêu thương Đêm ngày sao mãi vấn vương Tâm tình đồng cảm ÂU HƯƠNG trải lòng. VŨ THÙY HƯƠNG THẦM MƠ Thức giấc chợt nghĩ đến Anh Chăn đơn gối chiếc mong manh thân gầy Ước ao cuộc sống sau này Đôi ta hạnh phúc tràn đầy SẮC XUÂN Để quên năm tháng cô thân Để quên năm tháng nợ nần khổ đau Cùng nhau sống đến bạc đầu Trăm năm tình nhớ kiếp sau vẫn còn. VŨ THÙY HƯƠNG ƯỚC VỌNG Bao la, biển rộng, sông dài Tình yêu đất Việt, còn hoài trong tôi Chim trời bay mãi xa xôi Còn tôi rảo bước, về nơi quê nhà Nơi đất Việt, dẫu là gian khổ Người người còn, phải đổ mồ hôi Tâm đã nguyện, ở nơi đất Việt Quản ngại chi, công việc nhọc nhằn Dù nắng hay mưa gắng quyết tâm Mong đất Việt toàn dân no lành Con con, cháu cháu, được học hành Sánh vai cường quốc, cùng thiên hạ Nhắm mắt xuôi tay dạ phỉ nguyền. THANH XUÂN ĐƯA TÌNH ĐẾN NGÕ SÂN BAY Tàu vừa đến niềm thương anh náo nức Cỏ chân mây tím cả trời chiều Trên đường về con đường quá hoang liêu Hai hàng lá rủ trên vai buồn ngất Ngày chủ nhật ôi một ngày chủ nhật Sáng tiễn nhau chiều đã mất nhau rồi Ngày chủ nhật ôi một ngày chủ nhật Chiều mất nhau đêm cuồng mộng về nhau Sông trước mặt ta biến thành thác lũ Tiền kiếp nào đã vùng dậy kêu than Giờ sóng lạnh chôn tình ta tận sáng Gài lên bờ thành quách quá dã man Công viên ơi hoàng hôn đã xuống màn Tàu vừa đến tiễn chân mây vào mộng Hồn hoang mang còn đọng nỗi niềm đau Em nhớ mãi tiễn đưa chiều chủ nhật. THÙY QUÂN HƯƠNG MAI TÌNH QUÊ Gió thoang thoảng bóng chiều lả lướt Áng mây trời sụp trước thềm ba Ai ơi mau trở lại nhà Cơm canh chờ đợi ông bà khổ tâm Đường đất thịt mưa dầm trơn trợt Kẻ hành nhân lạnh rớt áo tơi Ra đi tranh đấu chợ đời Khi về cảm thấy lôi thôi chuyện mình Lúc tuổi trẻ sắc xinh tươi đẹp Đến già nua gối xếp da nhăn Ở ăn trong kiếp hồng trần Đói no cùng cảnh chiếu chăn một nhà Bỗng nghĩ lại lòng ta thấp thỏm Nhớ tình quê tối sớm vị tha Tổ tông cha mẹ ông bà Cái nôi ấm cúng không xa bao giờ. LANG NGUYÊN VÌ MỘT TRẬN CƯỜI Giận nhau vì một trận cười Thương nhau hàn gắn hai người đẹp đôi Miệng cười thỏ thẻ sự đời Dạy khôn dạy khéo mở lời cùng nhau Miệng cười chua chát như cau Trề môi uốn lưỡi lắc đầu khó quên Miệng cười mủm mỉm có duyên Khiến cho quân tử liên miên vui tình Miệng cười ẻo lả thân hình Bao chàng háo sắc để tình đam mê Miệng cười Bao Tự khổ ghê Làm cho Châu Quốc mất quê dạt dào Miệng cười của kẻ kế cao Bột mì pha lẫn chuối ngào thơm hương Miệng cười chú khỉ bên đường Chẳng ra hình dạng dị thường dị nan Miệng cười là bước leo thang Ta nên bảo vệ của vàng bạn ơi Trên đây vài mẫu chuyện cười Mua vui vài phút cho đời thêm tươi. LANG NGUYÊN HÀ TIÊN Tham quan du lịch đến Hà Tiên Chợ Cũ nơi đây thuốc cổ truyền Thạch Động chùa hang luồn gió mát Hòn Chông bãi biển tắm thêm ghiền Phù Dung cổ tự linh thiêng bái Phụ Tử hòn bà trơ mặt biển Đi tối quanh đường nhiều thực khách Vui chơi dạo cảnh cũng về liền. QUANG BỈNH 2017 MỘT ĐI… Môt đi ba bảy cũng đi (*) Sáng thì núi Bắc, chiều thì biển Nam Thấy ông Trời ở Trị An Gặp bà Trăng ở rừng chàm Cà Mau… Cuối cùng chẳng biết đi đâu Ngồi trong Tháp Đá nhai trầu không vôi… Tháp Chàm rằng: Lão già ơi ! Ta cho thiếu nữ, múa… rơi cạp quần Ối Giời ơi ! Đất xoay vần… Lạy Trời, lạy Phật, con lần về quê Vợ ra ruộng khoán vừa về Rằng: Không thoát khỏi gái sề này đâu ! Ta ngồi bỏm bẻm nhai trầu Nhìn mưa bụi trắng một màu thế gian… Trần Nhuận Minh ----------------- (*) Ba bẩy: Ba chìm, bẩy nổi ONCE I’VE DECIDED TO GO… Once I’ve decided to go, I would go in spite of all ups and downs (*) In the morning I traveled to the Northern mountain, in the evening I went to the Southern sea I saw Heaven at Trị An And met with Mrs. Moon in the indigo plant forest at Cà Mau… Finally, I didn’t know where to go And sat inside the Stone-Tower chewing the limeless quid of betel… The Cham Tower said: “Oh! Old man ! I’ll get a young girl dancing and… dropping her trousers’ belt…” Oh ! My God ! The Earth is revolving I pray to Heaven and implore Buddha, I warily went back home My wife who just came back from the hired field Said: “You simply cannot escape from this sow of a matron !” I sat chewing leisurely a quid of betel Looking at the drizzle with its worldly white colour… TRẦN NHUẬN MINH - Translated by VŨ ANH TUẤN ------------------ (*) The ups and downs in life TRONG THẾ GIỚI NHỮNG CÂU LẠC BỘ Ở LONDON Xin đừng nghĩ ngay tới những câu lạc bộ bóng đá. Đó chỉ là loại hình câu lạc bộ sinh sau đẻ muộn hơn so với những câu lạc bộ kỳ cựu nói tới trong bài này. Đó là những câu lạc bộ có truyền thống độc đáo riêng biệt, tuy đang bị tàn tạ đi, nhưng tinh thần của nó vẫn tồn tại bền vững với người dân Anh quốc. Không có gì sặc mùi Ăng-lê hơn các câu lạc bộ (CLB). Phileas Fogg, chàng quý tộc - nhân vật chính trong truyện “Vòng quanh thế giới 80 ngày” - đã bắt đầu cuộc du hành của mình từ CLB Reform, rất nhiều nhà văn đã sáng tác tại các CLB như Trollope, Dickens, Thackeray, Stevenson, Kipling… Tiến sỹ Johnson viết: “Một người đàn ông sẽ chẳng ra tích sự gì nếy y không có chân trong một CLB”. Các CLB của giới quý tộc Anh bắt nguồn từ nhóm Hiệp sỹ Bàn tròn thời Trung cổ. Cho đến đầu thế kỷ này, chỉ khu Tây London thôi đã có tới 200 CLB như thế dành riêng cho nam giới. Ngày nay, khi mà các CLB đang đà suy tàn, thì hầu hết trong số hơn 40 CLB còn sót lại đều đã chấp nhận cho các bà vợ của hội viên tới cùng dùng bữa. Vì đặc điểm chung nổi bật của các CLB là tinh thần coi thường nữ giới. Người ta bảo: có mặt đàn bà là ông nào cũng “giữ kẽ” hoặc “giương vây”. Mà lúc nào cũng phải ra vẻ như vậy thi còn gì là sinh hoạt CLB nữa. Mặc dù ngày nay, các CLB có nguồn tài chánh tốt hơn, lệ phí hội viên cao hơn (khoảng 1.200 USD/năm) nhưng tinh thần chung của hội quán “nam giới uể oải” vẫn không thay đổi. Các CLB khởi đầu là những quán cà phê hồi cuối thế kỷ XVIII. Ở đó, những người quan tâm tới chính trị có thể đọc báo, rỉ tai nhau các tin tức, rồi chơi bài, rượu chè gì đó. Đa số các CLB đều mang tên người phục vụ ở đó, như Boodle, Brook, hay White (CLB lâu đời nhất ở London, mang tên Ý: Bianco, anh này xây dựng CLB từ một quán bán chocolate vào năm 1693). Một số CLB có xu hướng quy tụ các võ quan vệ binh hay kỵ binh. Một số khác, như CLB Beefsteak, lại có không khí kín đáo riêng tư đến độ một đám thanh niên có thể nhầm đó là một nhà thổ hạng sang, nhưng khi xông vào thì lại có thể đụng mặt Thống đốc Ngân hàng Anh quốc, Giám mục giáo xứ Canterbury, ngài Đại Pháp quan, hay cả Thủ tướng nữa không chừng. Thế kỷ XIX, cách mạng công nghiệp bùng nổ khiến các CLB lại càng thu hẹp một cách kiêu ngạo hơn (không thích cho giới tư sản thị dân tham gia). CLB trở nên một nơi để sống nhưng không phải là nhà, ở đó, người đàn ông có thể ăn, uống, đọc, ngủ, lại có bồi chăm sóc mọi sự. Với người già, đó còn là nơi giải trí. Trong tinh thần của người Anh, có cái gì đó không thiện cảm với phụ nữ. Người ta nói: dân Pháp, dân Ý tìm vui bằng cách kiếm nhân tình, còn người Anh thì chui vào một cõi… cấm đàn bà. Nhưng lịch sử của các CLB thì mang khí thế tiến công hơn là thế rút lui. Một mệnh phụ thời Victoria còn ghi lại trong nhật ký: “Chúng tôi cưới nhau được hai năm, nhưng chồng tôi chỉ dùng bữa tối với tôi có một lần. Còn tối nào ông ấy cũng ăn ở CLB Brook”. CLB còn là nơi mà các cậu ấm quý phái có thể sống như những cậu học sinh, càu nhàu, la lối hay ném thức ăn vào nhau hoặc vào người hầu bàn. Pritchet, tác giả cuốn London Perceived (1962) có viết: “London là để dành cho đàn ông, những câu lạc bộ thà để ghế trống còn hơn tiếp phụ nữ… Sự uể oải quanh quẩn trong không khí như khói xì-gà chính là điều nhắc nhở buồn bã về cái điều kỳ cục nhất trong cuộc chiến tranh phái tính: bọn đàn ông giống nhau, cũng như mấy con chó giống nhau vậy. Đồ ăn thì chán ơi là chán, nhưng có một điều mà các bà không biết được, đó là rượu thì tuyệt ngon và rẻ”. Giai thoại về CLB thì vô khối. Nhà thơ Swinburne một bữa không tìm ra cái nón của mình trong phòng gởi đồ, đã la lối mọi người lung tung, sau đó hầu phòng nhắc rằng ông đã tới đây đầu trần, thế là các hội viên yêu cầu ông rút tên khỏi CLB. Nhà văn Evelyn Waugh đã mắng mỏ cục cằn người hầu bàn vì anh ta không gọi được cho ông một chiếc taxi trong lúc trời đang mưa tầm tã. Nhà văn Henry James đã sống suốt 20 năm ở CLB Reform, ông ghi trong sổ tay: “Câu lạc bộ là không thể thiếu được. Không có nó, tôi đã đâu thèm ở lại London này, tôi yêu nó vô cùng”. Kiến trúc của các CLB thường có nét giống nhau: mặt tiền mang nét Ý, vốn rất phổ biến hồi đầu thế kỷ XIX, cầu thang thật rộng rãi, nhiều phòng riêng, nhiều thư viện. Đôi lúc chúng được lấy làm bối cảnh cho các tiểu thuyết của P.G.Wodehouse, Graham Green, G.K.Chesterton… Nhiều CLB có thói quen gọi chung một tên cho mọi hầu bàn, thí dụ ở CLB Pratt, mọi hầu bàn đều được gọi là George, ở Beefsteak là Charles. Sau đây là vài CLB lừng danh của London: 1. Athenaeum (thành lập năm 1824) nổi tiếng nấu ăn dở. Huân tước Ralph Richardson cho rằng khi tới đây nhớ mang theo đồ ăn trưa là tốt nhất. Athenaeum được đánh giá cao vì có hội viên thuộc giới trí thức, cực kỳ yên tĩnh, và có một thư viện rất đồ sộ, là nơi thường lui tới của giới nghị sỹ, quý tộc và tu sỹ. Yêu cầu đối với hội viên phải là dân chuyên viên đã thành danh. Kipling mô tả Athenaeum như “một giáo đường sau buổi lễ”. Giống như nhiều CLB khác, nó cũng có hơn chục phòng ngủ cho hội viên muốn trú lại ít ngày. Nhà văn Trollope cũng thường ngụ lại kiểu đó. Cũng chính nơi đây, ông đã được khuyên là kết liễu nhân vật Bà Proudie lừng danh của ông đi vì đã bị ông lạm dụng quá rồi. Hồi giữa thế kỷ XIX, nhiều người làm đơn xin gia nhập đã phải chờ… 16 năm mới vào được! 2. Boodle (thành lập 1762) nổi tiếng vào thời xưa là đã cho ủi phẳng những tờ báo, nhúng nước sôi những đồng xu trước khi mang tới cho các hội viên. Các hầu bàn ăn mặc nghiêm chỉnh như các gia nhân nhà quý tộc. Hội viên cũng gồm nhiều quý tộc công hầu, sau lại còn có cả Adam Smith, Beau Brummel, Churchill cũng từng là hội viên ở đây. Câu lạc bộ này vẫn thường được coi là yên tĩnh và kín đáo nhất trong các CLB. Nhà văn Ian Fleming (cha đẻ James Bond), trước là hội viên của CLB White, sau chuyển qua câu lạc bộ này vì thích có một không khí yên tĩnh hơn. Ông cũng thường sáng tác tại CLB, đã cho nhân vật M (“sếp” của 007, là giám đốc cơ quan phản gián Anh) thành một hội viên thường xuyên tới ăn trưa ở CLB này, có điều ông đổi tên là CLB Blade. 3. Garrick (thành lập 1813) nổi tiếng là câu lạc bộ lãng tử nhất. Nó được biết tới với những phòng ăn trang nhã nhất, thắp sáng bằng nến, trang trí bằng những bức tranh nền của các hí viện xưa, có truyền thống quy tụ hội viên là các nhà văn, kịch sỹ, đạo diễn lừng danh. Và năm trước, thái tử Charles cũng tham gia CLB này. Đây cũng là CLB có nguồn tài chánh ổn định nhất. 4. Traveller’s (thành lập 1819) khởi đầu như một hội quán của các nhà thám hiểm - điều kiện gia nhập phải là nhà quý tộc đã từng du hành xa khỏi London 500 dặm, tuy nhiên họ cũng nhận những chức sắc ngoại giáo nước ngoài như những hội viên danh dự. Cung cách này vẫn còn được giữ tới nay. Hầu hết những nhà du hành cũng là những con mọt sách, nên thư viện của CLB cũng rất vĩ đại. 5. White (thành lập 1693) có lẽ là CLB trưởng giả và cổ lỗ nhất. Nó được gọi là “nguyên mậu của một CLB quý tộc”. Dù J.Swift (tác giả Gulliver Phiêu lưu ký) có chê bai thế nào, thì thực sự thành viên của CLB này thường là dòng dõi hoàng tộc và bạn bè của họ, chẳng hạn công tước các xứ Kent, Edinburgh và York. Một sử gia của CLB 35 năm trước đã gọi nó là “ốc đảo văn minh duy nhất giữa sa mạc dân chủ”. Các tác gia Kim Philby, Evelyn Waugh cũng từng là hội viên ở đây. Người ta kể rằng: nếu có ai tới đây dò hỏi làm sao để nộp đơn gia nhập CLB này, thì người ta sẽ trả lời - thưa ngài, đây không phải là vũ trường! Các CLB quý tộc ngày nay đã trở thành cổ xưa và khá suy tàn, nhưng xem ra cũng khá hơn so với thập niên trước. Nhiều CLB đã sụp đổ: hội viên cư ngụ ở ngoại ô hoặc rời bỏ CLB, giới trẻ thì không thích trò này. Năm 1974, tổ chức IRA (tổ chức đòi chiếm lại Bắc Ireland) đã ném bom và xả súng bắn vào hội quán của hai CLB. Ngày nay, các CLB đang phục hồi, không còn kiểu bó hẹp cho giới quý tộc nữa, mà hoạt động như một cơ sở kinh doanh, có quản lý chặt chẽ và vận dụng cả máy vi tính nữa. Cũng bắt đầu có tiếp viên nữ khá là sexy xuất hiện ở một số CLB. PHẠM VIÊM PHƯƠNG dịch ĐỖ THIÊN THƯ st.
Phụ Bản III LẬP DỊ Hành trình kiếm vợ của Hoài thật gian nan… Thật ra, chàng là người dễ tính! Nhất là chàng vẫn khẳng định mình đi lấy vợ chứ không lấy mỹ nhân. Nghĩa là chàng sẵn sàng lấy ai thật sự ít ra là mến chàng, bất kể cô ấy, bà ấy có xấu xí đi chăng nữa! Mọi sự xảy ra đúng như lời chàng nói. Tuy không đẹp trai, lại chỉ làm công nhân ba cọc ba đồng, nhưng cái vẻ bất cần đời của chàng cũng khiến nhiều nơi… mơ tưởng! Nhưng chàng chê cô này chảnh chọe, chê bà kia lớn tuổi quá, đẻ đái gì được nữa… Rồi người ta làm mai cho chàng một cô nàng xinh xinh. Cô đã hơn 30, có ý lo lo về cái vụ ế chồng. Họ đi chơi với nhau dài dài, tưởng rằng mọi việc sẽ xuôi xị. Ai ngờ, chàng báo với bà mai: - “Nghỉ” rồi chị ơi! - Sao vậy? - Vì nó bảo với em rằng em phải có nhà nó mới chịu lấy… - Thì em có nhà kia mà! - Ừ! Thậm chí em còn cho thuê phòng trọ nữa chứ! - Vậy sao… - Hm, em nghĩ nó lấy em chứ lấy cái nhà sao mà hoạnh họe! Cho nó… lên đĩa luôn đi! Hoài nghĩ mình cũng điên điên, rồi chàng chặc lưỡi: - Thôi kệ cha nó, kiếm chỗ khác chị ơi! - Ông cố nội ạ, năm nay ông đã 49 rồi nhé… Những ông mai bà mối lại bàn giao cho chàng một nàng khác, họ báo với chàng là cô còn trẻ, xinh, mỗi tội là cái miệng hơi bị méo chút đỉnh do di chứng bệnh tim mạch. - Nhằm nhò gì bác Ba ơi, miễn là người ta tử tế là được rồi! Ông Ba hàng xóm dẫn chàng tới nhà người cháu gọi ông bằng bác. Hoài và Huệ nói chuyện với nhau có vẻ tâm đắc lắm, kệ cho mấy đứa cháu ốc tiêu con bà chị gái của Huệ vui đùa trong gian nhà ấm cúng. Sau vụ ấy, ông Ba cứ thắc thỏm vì Huệ cho biết chẳng thấy ảnh a lô a liếc gì, cũng chẳng thấy ảnh ghé chơi như đã hứa. Không lẽ ông phải hỏi chuyện cái thằng này. Mà không được! Ít ra, ông phải giữ “giá trị” cho cháu ông chớ. Rồi cũng có bữa, Hoài mời ông đi uống cà phê, chàng thật thà phân trần: - Cám ơn bác Ba nhá. Con thấy Huệ rất dễ thương, ăn nói dịu dàng, lại có việc làm ổn định. Nhưng con thấy, trong nhà bừa bãi quá, chứng tỏ Huệ biếng nhác việc nhà. Lấy nhau về, chắc cháu è cổ ra mà dọn dẹp! - Mày nghĩ vậy sao! Nhà có con nít thì bừa bãi là chuyện bình thường, nhất là lúc mày tới, tụi nhỏ đang trửng giỡn mà… - Nhưng chắc không xong đâu bác ơi. Với lại duyên số mà, có duyên là xáp lẹ lắm… Ông Ba bực lắm, nhưng nói sao với cái thằng ưa để ý chuyện làm xàm, vớ vẩn. Lần này, thì chàng tự ý làm quen với Hương ròm. Nàng chẳng xấu chẳng đẹp, hơi ốm ốm một chút. Và theo Hoài, ốm vậy mặc áo dài mới đẹp! Anh rể của Hương là bạn với Hoài. Thế mới sinh cớ sự! Dù Hương là em vợ mình, nhưng Trọng - tên anh ấy - vẫn nói với Hoài: - Bộ mày hết người rồi sao mà quen với em tao? Nó đoảng lắm đấy! - Hương đoảng thì đã có tao lo, mày lo cho bà vợ già của mày đi! Lộn xộn! Cặp ấy quen nhau chừng hai tháng. Một hôm, đang ngồi nói chuyện với nhau ở nhà Hương, thì Trọng sang. Thấy anh rể, Hương lật đật lấy ly rót nước đưa cho Hoài. Chờ Trọng vào đàng sau, Hoài hỏi Hương: - Sao em không rót nước cho thằng Trọng? - Ơ! Ngày nào ảnh chẳng qua đây, anh em nhà mà! - Vậy sao hôm nay lại rót nước cho anh, lâu nay có nước non gì đâu mà bữa nay lạ vậy? - Ơ! Tại anh Trọng khó tính lắm! Khách đến nhà mà không mời nước là ảnh nói cho nhức đầu luôn! Có vậy thôi mà chàng cũng bái bai con người ta. Chàng lập luận rằng, chàng chưa bao giờ thắc mắc việc nàng chẳng bao giờ rót cho chàng miếng nước; Rồi chỉ vì sợ ông anh rể mà… Thôi! Chẳng chơi nữa. Riết rồi anh chàng lập dị ấy vẫn ế chỏng ra. Cái ước muốn lấy vợ vẫn đầy trong ánh mắt của chàng. Chàng không thèm đi làm nữa, mà tỉnh bơ sáng sáng ngồi đầu ngõ làm tài xế xe ôm. Hỏi sao nghỉ việc, chàng cười cười, chẳng biết nói thật hay nói chơi: - Ồ! Tôi mới trúng 10 tấm, nên nghỉ cho khỏe, khỏi phải làm tôi ai hết. - Thiệt không cha? Mà cha chạy xe làm gì cho cực? - Tin hay không thì tùy. Còn chạy xe để thấy mình tự do, thích thì chạy, chẳng thích thì đi chơi. Ai bắt? Thỉnh thoảng vẫn thấy chàng chở ai đó ôm cứng cái eo ếch của chàng. Chẳng biết là khách đi xe hay bồ bịch lôi thôi… Chỉ tiếc cho chàng, nếu chàng cứ “thành thật” rằng, anh có nhà nè, có 15 tỉ gửi ngân hàng nè, thì thiếu gì kẻ sẵn sàng xây căn nhà tình ái với chàng, dẫu chàng có 50, 60, hay thậm chí có 70 tuổi đời chồng chất… Mà kệ cha chàng đi, đồ khùng! 20.03.2015 LAM TRẦN VĂN NGHỆ SỸ LÊN TEM HUYỀN VIÊM Không chỉ để tưởng niệm những danh tài thành công xuất sắc trong các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật đã qua đời mà còn ưu ái tôn vinh các tài năng nổi tiếng đang còn sống… Ngày 24.3.1993 tại bang California, Bưu chính Mỹ đã cho phát hành bộ tem để tưởng niệm Grace Kelly (1929-1982) nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng của Mỹ. Thuở nhỏ, Kelly chỉ là một cô gái bình thường, không có gì xuất sắc. Lớn lên, cô được tuyển vào Học viện nghệ thuật kịch ở New York City. Học xong, cô đóng kịch một vài lần rồi đến Hollywood đóng thử một vai trong phim Giờ thứ 14. Thành công, cô lần lượt đóng chung với các diễn viên thượng thặng như Gary Cooper trong phim Đỉnh cao nhất trong nghệ thuật, với Ava Gardner và Clark Gable trong phim Mogambo, với Ray Milland trong phim Quay điện thoại tự động số M cho vụ giết người, với James Stewart trong phim Cửa sổ ở phía sau, với William Holden trong phim Cây cầu ở Toko-Ri, với Bing Crosby trong phim Cô gái quê v.v. Vai cô gái quê trong phim này đã mang về cho cô giải Oscar năm 1955. Do một chuyến đi tình cờ qua Monaco, Kelly quen ông hoàng Rainier của xứ này và sau đó kết hôn với ông (1956), sinh cho ông một hoàng tử để nối ngôi: Albert Alexander Louis Pierre. Ngày 14.9.1982, cô đào - và cũng là bà hoàng nổi tiếng này đã từ trần vì một tai nạn giao thông lúc mới 53 tuổi. Bưu chính Mỹ phát hành bộ têm này không phải để tưởng niệm một bà hoàng mà để tưởng nhớ một nghệ sỹ tài danh. Năm 1994 Bưu chính Pháp, Bỉ và Thụy Sỹ đã cho phát hành loại tem 2,80 franc in hình Georges Simenon (1903-1989) nhà văn người Bỉ chuyên viết loại truyện trinh thám rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Ông đã cho xuất bản đến 300 tác phẩm gồm 134 tiểu thuyết tâm lý xã hội, 80 tiểu thuyết trinh thám, còn lại là truyện vừa, truyện ngắn và ký. Tiểu thuyết của Simenon rất sáng sủa, ai đọc cũng hiểu. Truyện của ông có tính chất bình dân, phản ánh xã hội một cách rõ nét hoặc vạch trần tội ác của thực dân ở các thuộc địa như cuốn Trận ốm say ánh trăng nên được đông đảo bạn đọc ưa thích. Năm 1996, Bưu chính các nước trên đây phát hành một loạt tem về các nhân vật nổi tiếng nhất của Georges Simenon như: Arsène Lupin, Belphégor, Fantomas, Rauletabille, Nestor Burma và cảnh sát trưởng Maigret. Ngày 5.1.1995 Bưu chính Mỹ lại phát hành con tem in hình Marilyn Monroe (1926-1962), cô đào chiếu bóng tuyệt sắc đầy huyền thoại của Mỹ. Cô sinh ở Los Angeles với tên Norma Jeane Mortension, nhanh chóng bước lên đài danh vọng khi còn rất trẻ với tiếng tăm lừng lẫy. Ngày 5.8.1962 cô qua đời lúc mới 36 tuổi, kết luận của pháp y cho là cô uống thuốc ngủ quá liều, nhưng phần đông dư luận cho là cô bị giết. Cái chết đầy bí ẩn của cô đào trẻ tuổi này đã gây không ít băn khoăn, thắc mắc và thương tiếc cho cả đồng nghiệp lẫn khán giả và người ta dựng lên biết bao huyền thoại chung quanh cái chết ấy, trong đó có chuyện cô là người tình của hai anh em cố Tổng thống Kennedy và nhiều người cho rằng đấy là nguyên nhân cái chết của cô. Nhân dịp lễ sinh nhật lần thứ 69 của Marylin (1.6.1995), Bưu chính Mỹ lại cho phát hành loại tem giá 32 cent in hình cô với mong muốn còn lưu giữ mãi vẻ đẹp đẽ, trẻ trung, mượt mà của minh tinh điện ảnh này. Năm 1995 Bưu chính Pháp cho phát hành bộ tem Những người khốn khổ (Les misérables) nhằm kỷ niệm tác phẩm vỹ đại này của đại văn thi hào Victor Hugo (1802-1885) đã từng đươc dựng thành kịch, thành phim trên khắp thế giới. Ông là nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch lớn của nước Pháp. Vốn rất yêu nền công hòa nên ngày 2 tháng 12 năm 1851, khi Louis Bonaparte (1808-1873) làm cuộc đảo chính lật đổ nền Đệ nhị cộng hòa để thiết lật đế chế rồi tự xưng là Napoléon Đệ tam, Hugo kịch liệt chống đối và làm thơ đả kích. Bị truy nã ráo riết, ông phải chạy sang Bỉ, ra đảo Jersey rồi đến ở hẳn đảo Guernesey. Ông lên tiếng bảo vệ các phong trào giải phóng dân tộc cũng như các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột người da màu nên được nhiều tầng lớp nhân dân yêu quý. Cũng trong năm 1995, theo ngành Bưu điện Mỹ thì con tem in hình ca sỹ Elvis Presley bán đạt kỷ lục cao nhất xưa nay với khoảng 50 mẫu tem, mẫu nào in ra cũng bán hết sạch. Elvis Presley (1935-1977), ông vua nhạc Rock and Roll, từ một cậu bé da trắng nghèo đã mang dòng nhạc của người da đen hòa vào dòng nhạc chung của thế giới và “anh là sức mạnh văn hóa lớn nhất của thế kỷ XX” (Leonard Bernstein, nhà soạn nhạc Mỹ). Elvis sinh năm 1935 tại Mississippi, sáng tác các bài hát pha trộn giữa dòng nhạc blues và country nên được coi như người sáng lập ra thể loại rock’n’roll. Năm 1955 Elvis cho ra đời bài hát đầu tiên và năm sau, bài hát Heartbreak Hotel được xếp đầu bảng. Anh đã bán được 120 triệu đĩa nhạc chỉ riêng tại Hoa Kỳ. Chẳng bao lâu, Elvis trở thành một hiện tượng toàn cầu. Dù là một nhạc sỹ và ca sỹ nổi tiếng thế giới, anh vẫn bị gọi nhập ngũ năm 1958 và được điều sang Đức, đóng lon trung sỹ và phục vụ hai năm trong quân đội. Trong thời gian này, anh quen Priscilla An Beaulieu và cưới nàng năm 1967 nhưng cuộc hôn nhân chỉ kéo dài có 5 năm. Năm 1968 Priscilla sinh cho anh một bé gái tên là Lisa Marie. Trong thập niên 70 thế kỷ trước, Elvis đi biểu diễn nhiều nơi và rất thành công, chiếm được cảm tình của giới yêu nhạc khắp thế giới. Từ 1969 đến 1977 anh đã biểu diễn đến 1.100 buổi. Vì ăn thức ăn nhiều mỡ và uống nhiều thuốc gây tác dụng phụ, anh đã chết vì trụy tim ngày 16.8.1977 lúc mới 42 tuổi. Bưu chính các nước không chỉ đưa lên tem những văn nghệ sỹ đã quá cố mà còn đưa lên tem những người nổi tiếng hiện còn sống, đó là trường hợp của ngôi sao điện ảnh Hollywood Cameron Diaz. Cô sinh ở San Diego California (Mỹ) ngày 30.8.1972, năm nay mới 35 tuổi, sắc đẹp lộng lẫy. Mới đây, hình ảnh cô được in trên những con tem Bưu điện ở Cộng hòa dân chủ Congo và Kyrgystan, một vinh hạnh rất lớn đối với một nghệ sỹ còn trẻ tuổi. Cô đã khẳng định được mình trong nghệ thuật thứ bảy như một Thiên thần của Charlie (Charlie’s Angel) tài hoa và xinh đẹp. Những việc làm trên đây tuy không to tát gì nhưng biểu lộ lòng ưu ái đối với các văn nghệ sỹ tài danh. Họ đã dành cả cuộc đời cho văn học nghệ thuật, đã tốn biết bao mồ hôi, nước mắt để mang lại niềm vui cho khán giả và độc giả thì cũng đáng được tưởng thưởng lắm chứ! Không biết bao giờ thì văn nghệ sỹ Việt Nam mới được lên tem? ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st. Đôi dòng tâm tình Hơn mấy mươi năm qua, tưởng chừng như đã bỏ quên sự say mê viết lách văn chương vì những sự việc khó khăn về tinh thần lẫn vật chất. Nhưng cách đây không lâu, do một cơ duyên mà tôi cảm nghiệm là thiên định, một người bạn mới quen biết - nhà văn, nhà thơ Thanh Châu đã tặng tôi một quyển Bản Tin của Câu lạc bộ Sách Xưa & Nay tháng 11 năm 2015 và giới thiệu tôi tìm đến tham gia vào Câu lạc bộ này. Thế là vào Thứ Bảy tuần thứ 2 mỗi tháng buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ bắt đầu vào 9 giờ sáng đến khoảng 11 giờ với các tiết mục giới thiệu sách Xưa & Nay của Chủ Nhiệm và tiếp theo là nhà văn, nhà thơ lên diễn đàn trình bày tác phẩm của mình rồi đến các bài thơ, thi phẩm mà các thành viên sáng tác được đọc lên qua các đề tài vui tươi, lãng mạn, yêu đời, yêu người đầy đủ cả, xen lẫn với những tiếng hát lời ca vang lên trong căn phòng họp đầy ắp tình thân ái. Bản thân từ đó như bị cuốn hút bởi những bài viết về đề tài tôn giáo điển hình như “Thông Điệp Laudato Si” của Đức Giáo Hoàng Phanxicô do Linh mục cố vấn Nguyễn Hữu Triết đăng lên (bản dịch của Linh mục Nguyễn Văn Trinh) và một công trình nghiên cứu về đạo Phật của nhà văn Tâm Nguyện, tác giả của “Góp nhặt quanh đời” mà tôi rất yêu thích. Thế rồi, niềm cảm hứng về văn chương thi phú lại trở về trong tôi, và trong các buổi sinh hoạt tôi giơ tay đăng đàn đọc thơ và gửi đăng trong Bản Tin, những vần thơ lãng mạn của tôi. Từ đây, tôi hăng say tìm cảm hứng để làm thơ và còn hơn thế nữa, qua sự động viên của người em cũng là bạn thân, tôi đặt bút viết lại các thể loại truyện ngắn như những năm xưa khi cộng tác cho tờ Nội san Uyên Ương của Trung Tâm GĐ Mục Vụ của Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn phát hành nội bộ. Đó là nguyên do “Chuyện của Ái” được ra mắt các thành viên CLB Sách Xưa & Nay đầu tiên và các thân hữu gần xa. Và lần lượt “Miền quê 18 thôn”, “Tha thứ cho anh”, “Đêm Giáng Sinh năm ấy” và bút ký “Lagi - miền biển rừng” đã được Ban biên tập Bản Tin chọn đăng. Đó cũng là một vinh hạnh của Hoài Ly được đăng tên cùng với các nhà văn Giáng Ngọc, Dương Lêh, Đàm Lan, Lam Trần, Nguyễn Thị Mây, v.v… Và mục đích tập hợp thành tập truyện ngắn này để kỷ niệm cùng bạn bè, thân hữu gần xa và cũng để ghi nhớ những thời gian tham gia sinh hoạt CLB Sách Xưa & Nay từ trước cho đến hiện giờ. Nhân đây, Hoài Ly gửi lời cám ơn đến Ban Biên Tập Bản Tin Câu lạc bộ và anh Hà Mạnh Đoàn đã nhiệt tình góp ý giúp đỡ việc in ấn và hoàn thành Tập Truyện Ngắn của Hoài Ly. Gửi đến các bạn văn, thơ của Hoài Ly lời cảm mến chân thành. HOÀI LY NGƯỜI CHẶT CÂY QUẾ TRONG CUNG TRĂNG Truyện thần thoại, sách "Dậu dương tạp trở" có nói: trong mặt trăng có cây quế cao 500 trượng. Dưới gốc có một người cầm búa chặt mãi, nhưng chặt xong thì dấu chặt dính liền lại như cũ. Người ấy tên Ngô Cương quê ở Tây Hà, tu tiên có lỗi bị phạt chặt cây. Kịch thần thoại "Lên cung trăng" của Ngô Tổ Quang cũng có chép: Ngô Cương và Phùng Mông là học trò của Hậu Nghệ. Nghệ sinh ở bờ biển Đông tức nước Hữu Cùng, võ nghệ phi thường, sức có thể nhổ núi lấp sông lại giỏi về kỵ xạ. Hai người học trò cũng đều tài ba xuất chúng. Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân. Ngô Cương lại tòng theo thầy làm nhiều điều tàn ác, giết chóc sinh linh vô số. Phùng Mông là người hiền, can thầy can bạn không được, bỏ đi theo đám dân nghèo chống lại thầy. Hậu Nghệ bắt Hằng Nga làm hoàng hậu. Sợ nàng trốn, Nghệ giam một nơi và bắt Ngô Cương canh giữ. Một hôm, Nghệ đi săn, Hằng Nga lấy cỏ Linh chi (cỏ trường sinh) của Nghệ uống vào, mình nhẹ bổng nên nàng cùng con Ngọc Thố bay lên cung trăng. Nghệ đi săn về thấy mất Hằng Nga nên tức giận, bóp cổ Ngô Cương cho đến chết. Vong hồn Ngô Cương bay lên cung trăng gặp Hằng Nga, định giết nàng báo thù. Hằng Nga hoảng hốt thì vừa lúc ấy Nguyệt Lão đến, quát to: - Ngày trước nhà ngươi giết hàng triệu sinh linh, ngày nay phải chịu quả báo, thế chưa biết ăn năn hối cải sao? Ngô Cương đáp: - Tôi chết rồi... vì Hằng Nga trốn nên đại vương giết tôi. Tôi chết oan uổng nên hồn không tiêu tan, tôi muốn trả thù. Cụ già mỉm cười: - Nhà ngươi chết như thế phải lắm, còn muốn chết làm sao nữa? - Tôi hết lòng trung vì chúa, đánh đông dẹp bắc, ngày đêm lo việc trị dân. Cụ già gật gù hỏi: - Nhà người trị có được không? hay càng trị càng rối. - Tại đại vương quá giận giết tôi. Nếu không, tôi có cách trị an thiên hạ. - Cách gì? Ngô Cương tỏ vẻ cương quyết: - Giết. Cụ già cười ha hả: - Nhà ngươi giết mấy chục năm rồi mà càng giết càng đông, càng loạn. Đồ khùng! Thân xác đã chết rồi mà hồn chưa tỉnh ngộ. Ngô Cương, có thấy cây quế kia không? Cụ già vừa nói vừa đưa tay trỏ cây quế. Ngô Cương đáp: - Thấy, mà có quan hệ gì tới tôi. - Nhà ngươi chặt cây kia ngã được thì mới có thể giết người để bình thiên hạ được. Cụ già vừa nói xong, đưa tay móc túi lấy ra một cây búa trao cho Ngô Cương. Hắn tiếp lấy búa, đưa thẳng tay lên chặt vào cây quế. Lửa trong cây quế văng ra. Cương buông búa, xuýt xoa kêu: - Cây cứng quá! Cụ già cười xòa: - Phải, nó còn cứng hơn nhà ngươi. Ngô Cương thẹn thùa, đưa tay nhặt lấy búa đưa thẳng tay chặt lia lịa. Lửa lại bắn ra tứ tung. Mỗi lần giở búa ra thì dấu chặt lại dính liền như cũ. Cụ già bảo: - Thôi, chặt không được đâu. Ngô Cương càu nhàu: - Thây kệ tôi. - Đồ ngu đến chết vẫn không tỉnh. Nhà ngươi không thấy cây quế ấy, mày càng chặt thì cây càng lớn, càng cao, càng đẹp sao? Được, mặc kệ cho mày chặt. Ta đi đây. Cụ già nói xong biến mất. Ngô Cương vẫn cầm búa chặt mãi... chặt mãi mà cây quế kia không bao giờ đứt, vẫn tươi sống kiếp kiếp đời đời. BÙI ĐẸP st.
CÂU CHUYỆN RỒNG Năm 1957 tôi học lớp 9, giáo sư Sử Địa Vũ Huy Chấn kể rằng năm 1922, ngay ngã ba sông Saigòn và sông Ông Lãnh, một đêm trăng người ta bỗng thấy như hai con rắn lớn và dài, dài lắm. Đầu rắn có hình dáng giống như đầu rồng mà người ta chạm trổ hay tạc tượng ở các đền thờ, chùa… Dân ra xem rất đông và có cả người Pháp nữa. Một lát lâu sau, có hai người Pháp đem súng ra định bắn thì người Việt cản lại. Người ta cho rằng đó là một cặp Rồng, là linh khí của đất Việt. Nó hiện nguyên tinh khí của nó lên đùa giỡn khoảng hơn một giờ thì lặn mất. Từ đó đến nay không nghe ai nói về hai con Rồng đó xuất hiện nữa. Địa danh Nhà Rồng nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước có từ lúc nào? Con Rồng có thiệt hay không? Nhiều người cho rằng con Rồng mà các đền thờ, chùa… chạm trổ hay tạc tượng là do người Trung Hoa tưởng tượng, gán ghép mà vẽ ra thôi. Rồng là linh vật được truyền tụng từ xưa đến nay có thật hay chỉ là tưởng tượng? Nước Cambodia ở cạnh ta cũng có biểu tượng Rồng. Con Rồng Naga của Cambodia có bảy đầu trông giống như con rắn, đuôi xòe ra. Về con Rồng có râu, có mào trên đầu như đã hiện ra ở ngã ba sông Saigòn và sông Ông Lãnh thì trước đây, vào khoảng thập niên 50 của thế kỷ 20; người ta kể rằng có một viên phi công bay qua một sa mạc, ông thoáng thấy một con Rồng đang rượt theo, ông vội ghi hình dáng con Rồng vô sổ nhựt ký. Thế rồi con Rồng bắt kịp máy bay của ông, nó đưa hai chiếc râu dài của nó quấn vô hai cánh máy bay của ông. Ông quăng sổ nhựt ký xuống đất. Đương nhiên chiếc máy bay mất tích. Một thời gian sau, có người lượm được cuốn nhựt ký nên kể lại sự việc. Ở Saigòn nầy, ngoài Nhà Rồng còn có một chỗ không xa Nhà Rồng cũng gọi tên có từ “Rồng” nữa. Đó là Phủ Đầu Rồng hay Dinh Độc Lập hay Dinh Thống Nhứt. Xưa kia sông lớn vô tới Chợ Bến Thành. Phải chăng đường Hàm Nghi, Nguyễn Huệ… xưa kia là sông? Như vậy vùng ngã ba sông Saigòn với sông Ông Lãnh là một vùng nước tụ rộng lớn nuôi cho con Rồng ở Phủ Đầu Rồng mà lâu lâu các con Rồng nầy hiện tinh khí nguyên hình lên đùa giỡn chăng? Sông Saigòn uốn khúc hợp với sông Ông Lãnh, rạch Cần Giuộc tiếp giáp phía Đông và Nam Saigòn. Sông Saigòn lại tiến ra phía Đông Nam hợp với sông Đồng Nai ở Nhà Bè để chảy ra biển. Con Rồng ở Phủ Đầu Rồng được gọi là con Phục Long. Đầu ở Phủ Đầu Rồng, mình chạy dài vô Chợ Lớn rồi cuộn lại, cái đuôi ở Hồ Con Rùa đường Phạm Ngọc Thạch, gần Nhà Văn hóa Thanh Niên. Tôi cho rằng nguồn nước nuôi con Phục Long nầy dồi dào lắm nên nó vẫn còn sống lâu. Con Rồng có hay không, không ai biết. Nhưng Rồng đối với dân Việt Nam ta thì được cho là biểu tượng hưng thịnh của đất nước. Dù Rồng vẫn còn là một ẩn số nhưng ta cứ tin con Rồng Việt Nam vẫn trường tồn. Khánh Hội - Quận Tư Saigòn 14-4-2017 PHẠM HIẾU NGHĨA BÀ LUCIE RANDOUIN NHÂN VIÊN HÀN LÂM VIỆN Y KHOA, GIÁM ĐỐC VIỆN KHOA HỌC VỆ SINH THỰC PHẨM - ĐÃ LIỆT KÊ NHỮNG THÀNH KIẾN VỀ… THỨC ĂN TRONG ĐỜI SỐNG Từ xưa tới nay, chúng ta ăn uống theo thành kiến (thói quen) nhưng chắc chắn chúng ta không hiểu rõ lắm hiệu năng hoặc tính độc của đồ ăn thức uống! HUYỀN CHÂU Lectures pour Tous Dù ăn để sống hay sống để mà ăn, rất nhiều người trong chúng ta chỉ hành động theo thói quen - hay đúng hơn là thành kiến - được lưu truyền từ đời này sang đời khác về hiệu năng hoặc tính làm hại của vài thức ăn, thức uống. Nhưng phải thành thật nhìn nhận rằng chúng ta không được hiểu rõ lắm về ăn uống. Rất nhiều chuyên viên đã để tâm điều tra, phân tách, gạn lọc tính chất đúng hay sai của vấn đề nầy trong ý kiến chung. Trong số các chuyên viên đó có bà Lucie Randouin, nhân viên Hàn Lâm viện Y Khoa, giám đốc viện Khoa học Vệ Sinh Thực Phẩm, đã liệt kê những thành kiến rất thông dụng và bình quyết của mỗi trường hợp như sau: Ăn chay tốt cho sức khỏe? Không đúng. Dùng thuần loại ngũ cốc thì không đủ bởi vì chúng ta đừng quên rằng loài người là giống hỗn thực (ăn đủ mọi thứ) và vật thì phải dưỡng nhơn. Những thực phẩm gốc ở loài thú cần cho sự làm việc của sự tiêu hóa yếu kém, nó có lợi ích dinh dưỡng dưới một thể tích rất ít. Ăn chay mà có thêm sữa hoặc trứng có thể áp dụng để đề kháng được. Nấu chín hủy hết sinh tố? Đúng, trên tổng quát bởi vì hiện tượng ốc-xy hóa - nguyên nhân chính yếu trong việc hủy hoại những sinh tố, nhứt là sinh tố C và B1 khi ở nhiệt độ quá cao. Đồ hộp không còn sinh tố? Không. Số lượng sinh tố trong rau cải và cây trái đóng hộp, theo phương cách sản xuất, nhiều hơn là rau cải, cây trái được bày bán cả ngày ngoài chợ búa mà chúng ta mua về để tự do nấu nướng. Gọt vỏ trái cây là bỏ sinh tố? Không. Phần lớn trái cây chứa nhiều sinh tố trong ruột cũng như ở ngoài vỏ. Gọt vỏ trái cây không mất chút sinh tố nào mà trái lại còn hữu ích trên phương diện vệ sinh. Trái cây chín cây tốt hơn chín ép? Đúng. Sinh tố có rất nhiều ở trái chín cây hơn là hái lúc còn xanh rồi đem “ủ chín”. Mặt khác trái cây chín ép nhờ sự hỗ trợ của vài hóa chất nên rất dễ sinh độc tố. Củ cà rốt ăn sống tốt hơn nấu chín? Không đúng. Củ cà rốt có chất ca-rô-ten, tiền sinh tố A, rất cần thiết cho cơ thể nhưng cần phải nghiền nát nếu không sẽ làm cho khó tiêu hóa. Nấu chín có cái hại là hủy sinh tố nhưng có cái lợi là dễ tiêu hóa chất cellulose. Vả lại trong vài loại rau cải khác còn sống như: cresson, ngò tây, bồ công anh v.v… cũng chứa ca-rô-ten dồi dào. Tỏi có hiệu năng trừ độc ở ruột? Đúng. Tỏi chứa những nguyên chất sát trùng. Rau mồng tơi giàu chất sắt, dễ tiêu? Đúng. Rau mồng tơi giàu chất sắt nhưng cũng cần lưu ý cơ thể chỉ tiêu hóa tối đa là 10% chất sắt được cho vào bụng. Phần lớn rau cải xanh khác cũng chứa chất sắt. Ăn không muối làm cho ốm? Đúng. Ăn không muối có thể chắc chắn làm cho ốm bởi vì tác dụng biến thể của muối dính liền với nước. Những người bị phù thũng phải kiêng muối chính là để thải chất nước trong tế bào. Thịt tái tốt hơn nấu thật chín? Không. Vài sinh tố có thể bị hủy khi nấu quá lâu nhưng nên nhớ không phải chỉ có thịt là cung cấp sinh tố. Vả lại, thịt nấu chín dù mất sinh tố nhưng chúng ta vẫn tìm được trong nước canh. Thịt đùi bổ hơn thịt sườn? Không. Thịt con thú bất cứ chỗ nào cũng có giá trị bổ dưỡng như nhau. Chất óc phong phú nhứt? Không. Chính gan mới chứa rộng rãi sinh tố và vi lượng nguyên tử (oligo éléments) thích ứng hơn cả. Chất não có khả năng dễ tiêu hóa song có cái hại là chứa nhiều a-xít uric và chất độc cho thận. Loại tôm cua có hại cho gan? Sai đối với gan bình thường. Nhưng cần nhấn mạnh là chớ ăn mỗi ngày bởi vì tôm cua có thể làm mệt hệ thống tiêu hóa. Cả loài ốc cũng vậy. Trứng như thế nào? Nhiều người cho rằng tròng trắng trứng không bằng tròng đỏ. Đó là một sai lầm. Chính tròng đỏ trong vài trường hợp có thể đưa đến những xáo trộn tiêu hóa. Riêng về việc dùng trứng luộc chín dễ tiêu hóa hơn để sống hoặc hơi chín thì vấn đề đã có những kết quả trái ngược nhau. Do vậy vấn đề tùy thuộc vào tạng của mỗi người. Dùng sữa trong lúc ăn sẽ khó tiêu? Không. Sữa có thể dùng vô hại vì nhờ nó giữ chất calcium lactose và sinh tố. Tuy nhiên nên biết rằng sữa không phải là thức ăn đầy đủ cho người lớn mà chỉ nên để cho bé thơ dưới 5 tháng. Mặt khác, sữa khử trùng hoặc nấu chín thiếu sinh tố C, một sinh tố trị hoại huyết (antiscorbutique). Đồng thời, trong vài trường hợp ngộ độc, đặc biệt ngộ độc kháng chất như chì, sữa đề kháng chất độc. Đó là lý do người ta khuyên các công nhân như ấn công, thợ làm bình ắc quy nên dùng sữa thường hơn. Rượu chát cần cho người dùng sức? Không. Rượu không cần thiết lắm cho những người lao lực bởi vì nó không cung ứng trực tiếp nhiệt lượng sử dụng khi làm việc. Tuy nhiên rượu chát tốt hơn rượu trắng. Rượu sâm banh tốt cho người mới sanh? Nhiều người cho là sâm banh có khả năng vạn ứng đối với người mới lành bịnh, mới giải phẫu và mới sanh. Điều đó không đúng. Sâm banh có chứa gaz carbonique, kích thích rất ít cho bộ phận tiêu hóa, nếu dùng quá độ. Rượu bia bổ hơn rượu khác? Phản ứng của cơ thể mỗi người rất khác nhau. Rượu bia độ rượu không cao lắm, chứa nhiều sinh tố kể cả sinh tố PP. Nhưng mỗi ngày dùng nửa lít thì tốt nhứt, hơn 1 lít mỗi ngày thì không nên nhứt là đối với các bà cho con bú. Nhưng dù thế nào đi nữa, sữa bao giờ cũng tốt hơn bia đối với các bà vậy. Đường lọc ít tốt hơn đường ngà? Không, trắng hay ngà, đường nào cũng đều cấu tạo bằng chất đường (saccharose) cả. Đường phá hoại răng? Đúng. Theo thí nghiệm trên loài chuột người ta đã đi đến kết quả như trên. Vì vậy sau các bữa ăn cần đánh răng để tránh bị sâu răng. Mật bổ hơn đường Không. Mật là thực phẩm có tính lực như đường. Nhưng có điều chắc chắn dù với lượng rất ít sinh tố và các chất hữu ích khác, mật cũng hơn đường về mặt cung ứng. Một ly khai vị trước bữa ăn rất tốt? Không. Vì nó gây ra phỏng nhẹ trong dạ dầy khi cảm thấy đói. Sô cô la làm hại gan? Không. Dù trong sô-cô-la có chất béo cacao nhưng nó không chịu trách nhiệm hoàn toàn về xáo trộn biến ứng. Cần phải ăn chậm chậm Đúng. Nhai kỹ bao giờ cũng có lợi cho sự tiêu hóa. Nhưng có điều nên nhớ là ăn chậm không có nghĩa là ăn một chút rồi nghỉ một chút lại tiếp tục ăn nữa. Các bà bầu phải ăn gấp đôi? Không, dù trong trường hợp nào. Trong vài tháng đầu mang thai, nhu cầu không thay đổi. Bốn, năm tháng sau, nhu cầu gia tăng mãnh liệt nhưng không hề gấp đôi. Thí dụ nhu cầu nhiệt lượng (calorie) lên từ 20 đến 25% và nhu cầu đản bạch chất (protéine) từ 30 đến 35%... Như thế các bà bầu ăn nhiều hơn thường lệ mà thôi. LỆ NGỌC st. Điểm sách Tháng 9 vừa qua, CLB Cha Triết - cố vấn CLB - đã tặng mỗi thành viên 1 cuốn “Lược đồ Văn chương & Tư tưởng Kitô giáo qua các thời đại” của tác giả Phan Quang Định do NXB Tôn Giáo phát hành. Sách có khổ16x24 gồm 470 trang liệt kê các tác giả và tác phẩm văn chương Kitô giáo, nghĩa là chưa đi sâu vào lãnh vực nghiên cứu hay phê bình một cách sâu rộng. Cũng trong tháng 9, Cô Tâm Nguyện thành viên của CLB sách Xưa & Nay đã cho ra mắt 2 tập thơ: - Về Nguồn: gồm 67 bài thơ Về Nguồn với Thầy và với bạn.
- Cuộc trần: gồm 86 bài thơ nói về Cuộc trần: Ta tìm ta, Ta thấy ta, Tu tướng, Tu tâm. Ly gia - Cắt ái…
HÀ MẠNH ĐOÀN
Phụ Bản IV 14 ĐIỀU KHÁC BIỆT - PHỤ NỮ CẦN BIẾT - Phụ nữ ngu ngốc chăm chăm vào khuyết điểm của đàn ông. Phụ nữ thông minh tán thưởng ưu điểm của đàn ông. - Phụ nữ ngu ngốc cãi nhau với đàn ông mọi lúc mọi nơi, khiến cho đàn ông mất mặt. Phụ nữ thông minh giữ thể diện cho đàn ông trước mặt người ngoài. - Phụ nữ ngu ngốc không ngừng bới móc quá khứ. Phụ nữ thông minh cùng đàn ông tạo dựng tương lai. - Phụ nữ ngu ngốc thích so sánh người đàn ông của họ với người khác. Cô ta không biết đây là đang giết chết tình yêu. Phụ nữ thông minh biết hoàn cảnh của đàn ông. Cô ta hiểu rằng đấy là tạo động lực cho đàn ông. - Phụ nữ ngu ngốc tự cho mình nhìn thấy bản chất đàn ông. Phụ nữ thông minh sẵn lòng thông cảm tha thứ cho đàn ông. - Phụ nữ ngu ngốc sẽ nói: “Anh cút đi”. Phụ nữ thông minh sẽ nói: “Anh không được phép rời bỏ em”. - Phụ nữ ngu ngốc xem đàn ông như cung tên, kéo càng căng thì mũi tên bay càng xa. Phụ nữ thông minh xem đàn ông như cánh diều, thong thả giữ lấy dây diều trong tay. - Phụ nữ ngu ngốc quá đề cao cái tôi của mình. Phụ nữ thông minh khôn khéo gửi gắm và dựa dẫm. - Phụ nữ ngu ngốc không rời đàn ông nửa bước. Phụ nữ thông minh hiểu được lúc gần lúc xa. - Phụ nữ ngu ngốc chỉ biết giặt giũ nấu ăn, nhưng quên mất làm đẹp cho bản thân. Phụ nữ thông minh cũng biết giặt giũ nấu ăn, nhưng không quên làm đẹp cho bản thân. - Phụ nữ ngu ngốc mang đến cho đàn ông áp lực và kìm nén. Phụ nữ thông minh đem đến cho đàn ông động lực và hứng thú. - Phụ nữ ngu ngốc khiến đàn ông thất bại trong những giọt nước mắt của cô ta. Phụ nữ thông minh khiến đàn ông thành công trong nụ cười rạng rỡ của cô ta. - Phụ nữ ngu ngốc hay đả kích đàn ông. Phụ nữ thông minh hay cổ vũ đàn ông. - Phụ nữ ngu ngốc đọc xong bài viết này là bĩu môi. Phụ nữ thông minh đọc xong bài viết này là mỉm cười mãn nguyện. Kim Sơn st.
TÔI ĐÃ HỌC RA RẰNG… - Dù có bất kỳ chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, dù ngày hôm nay có vẻ tồi tệ đến thế nào, thì cuộc sống vẫn tiếp diễn và ngày mai sẽ tươi sáng hơn. - Sống trên đời không nên chỉ lúc nào cũng nhận mà cũng cần phải trao đi, vì chính lúc đó tôi mới tìm được niềm vui. - Nếu tôi theo đuổi hạnh phúc, hạnh phúc sẽ lẩn tránh tôi. Còn nếu tôi tập trung vào việc hoàn thiện bản thân, làm lợi cho mọi người và cho cuộc đời này với cả tấm lòng, thì hạnh phúc sẽ tìm đến tôi. - Hễ tôi quyết định chuyện gì đó với một trái tim rộng mở, đại lượng và vị tha, thì thường tôi sẽ ra được quyết định đúng đắn. - Kể cả khi tôi đau đớn, thì tôi cũng không bắt buộc phải là cơn đau. - Khi cãi nhau nếu bực mình quá thì nên im lặng, đợi khi bình tĩnh mới thảo luận tiếp, kẻo lại phát ngôn bừa bãi. - Chuyện gì bỏ qua được thì bỏ qua, đừng cứ mà đong đỏng lên đòi làm cho “ra môn ra khoai” thì sẽ không hay chút nào đâu. - Mỗi người nhường nhau một tí để được yên ấm, chứ cứ la ó lên rồi lại “giận quá mất khôn”. - Đang bực bội thì đừng lên facebook, yahoo… vì rất dễ phát ngôn nhiều câu thiếu suy nghĩ. - Không có luật nào là con trai phải làm hòa trước; nên khi con gái sai hãy lên tiếng trước, tránh mọi chuyện đi quá tầm kiểm soát. - Hãy tự mình quyết định - sau khi đã tìm hiểu kỹ sự việc, cũng như đã được những người lớn tuổi khôn ngoan hoặc các chuyên gia về lãnh vực ấy tư vấn - vì chính mình sẽ là người lãnh nhận tất cả những cái gọi là kết quả (hay hậu quả) xảy ra sau đó. Và… Trong cuộc sống, ta luôn phải đánh đổi một điều gì đó để có được thứ mình muốn: - Muốn có kiến thức, chúng ta phải chịu khó tìm tòi, học hỏi, giảm bớt những vui chơi, giải trí. - Muốn có tiền bạc, chúng ta phải đánh đổi bằng cách lao động - chân tay hoặc trí óc - một cách siêng năng, cần mẫn. - Muốn có sức khỏe, chúng ta phải biết chăm sóc cơ thể một cách chính đáng: ăn uống đầy đủ, đúng cách, siêng năng tập thể dục,… - Muốn có tình yêu, chúng ta phải biết chấp nhận hy sinh, thiệt thòi, đôi khi cả sự tổn thương nữa… Được cái này mất cái kia, cái này đổi lấy cái kia, không có ngoại lệ; ngay cả với những mơ ước được coi là chính đáng hay những thứ được dán nhãn cho không. Luôn có một điều gì đó được (hay bị) bỏ lại để tiếp nhận cái mình muốn, ngay cả khi ta không ý thức được. Rốt cuộc, không ai sống mà tách bạch khỏi quá trình trao đi - nhận lại, có được - mất đi. Đó là quá trình sinh tồn, là điều kiện của sự trưởng thành, và cũng là sự công bằng của cuộc sống. Như vậy ở trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta: không có gì miễn phí, nhưng hãy nhớ một điều: bạn hoàn toàn được tự do cũng như được quyền chọn lựa cái giá xứng đáng cho mỗi thứ bạn muốn. Hoàng Chúc biên soạn VẦNG TRĂNG NGÀY ẤY Người đàn ông ngồi trước mặt tôi có một khuôn măt xương xương, đôi má hóp lõm càng làm cho hai gò lưỡng quyền nhô cao, càng làm cho gương mặt với làn da sạm thêm phần khắc khổ. Ngoài bốn mươi, anh vẫn đang độc hành với những bước chân vô định. Ánh mắt đong đầy, trĩu nặng một nỗi niềm ray rứt xa xưa nào đó. Hai bàn tay xương xẩu đan vào nhau, bần thần, vụng vịu. Không phải là một cặp tình nhân, mặc dù cả hai chúng tôi có chung một điểm mà bạn bè cho rằng “Một điều kiện quá thích hợp như thế rồi, còn chờ gì nữa”. Còn chờ gì nữa - Nghe thật quá đơn giản, những con mắt khách quan thường phiến diện, cứ cho rằng trong một tối thiểu nào đó, có thể là đã đủ để làm nên một vấn đề. Họ nhầm lẫn hay họ vô tâm không đọc hết được những ngõ ngách của người khác. Mà cũng phải, trong cái cõi tâm can của một con người thường ẩn nấp bao điều bí ẩn, những điều mà có thể chính bản thân mình cũng không bao giờ đọc hết được, huống chi người bàng quan bên ngoài. Thật ra, những lời nhã ý của bạn bè không phải là không có lý, mà lại còn rất có tình nữa là khác. Có điều, chuyện hôn nhân không phải là một con tính, để cứ cộng lại là xong. Tôi còn nhớ rất rõ, ngày Thắng về cơ quan nhận chân bảo vệ. Với một lý lịch dễ gây hoài nghi cho những ánh mắt. Bộ đội xuất ngũ, nhưng có đến năm quyển lịch được đếm thầm trong một con dấu đỏ. Vì tội danh gì thì tôi không rõ, nói đúng hơn là không nên gợi lại những sai lầm mà người ta đã phải trả giá. Thắng bước qua được cái cổng này là nhờ sự giới thiệu của ông phó giám đốc, nghe nói trước đây họ cùng một binh chủng. Một bảo vệ và một văn thư, hai công việc dường như chẳng có liên quan gì với nhau, nhưng một ngày bốn lần vào ra cánh cổng, cũng là bốn lần gật nhẹ chào nhau. Một cử chỉ không phải cũng có ở tất cả mọi người. Sở dĩ tôi cẩn thận như thế bởi do bản tính khá phép tắc, lại thêm phải tiếp xúc nhiều, nên cử chỉ ấy ăn sâu thành thói quen, may mà một thói quen tốt. Hơn nữa, từ khi nghe loáng thoáng câu chuyện không đầu không đuôi về nguời đàn ông này, tôi không cảm thấy sự ngại ngùng, e dè, ác cảm, mà còn có một cái gì đó thông cảm, vỗ về trong tâm tưởng. Tôi không tự lý giải được cảm xúc này, nhưng trên gương mặt lúc nào cũng phảng phất nét mặc trầm, và trong đôi mắt vẫn chất chứa một nỗi u hoài nào đó, khiến cho tôi tin đây không phải là người có thể làm việc ác. Vả lại, vướng vào vòng lao lý đâu chỉ có những hành động man rợ mất nhân tính, mà đôi khi còn có nhiều uẩn khúc khác nữa. Thế rồi đôi ba câu thăm hỏi, chuyện vãn, thi thoảng những nụ cười thiện cảm, trong nhà ngoài ngõ rì rầm “thế thế… chắc là thế”. Buồn cười thế đấy, trong con mắt của một số người, cứ một nam một nữ chuyện trò với nhau vui vẻ là phải có một cái gì đó nhập nhèm. Tôi chẳng thanh minh, chẳng xác nhận, chuyện vu vơ ấy mà. Nhưng rồi tôi rất ngạc nhiên khi một chiều ra cổng, Thắng ngập ngừng, ấp úng: - Tôi… tôi muốn mời cô đi uống nước, được không ạ? Tôi nhướng mày ngạc nhiên, Thắng lại bối rối: - Là tôi… tôi có việc này... muốn nhờ cô. - À, nếu là công việc thì anh cứ nói luôn ở đây đi cũng được. - Chuyện này… chuyện này không tiện nói ở đây, nếu cô ngại thì thôi vậy. - Không, không, tôi không ngại gì đâu, thôi được. Một lời mời đột ngột đương nhiên là làm tôi rất nghĩ ngợi, nhưng thôi đã nhận lời thì cứ đi xem anh ta nói gì, dẫu có là tán tỉnh thì tôi vẫn có chủ kiến của tôi cơ mà. Tôi tuy đã ngoài băm, đã vào cái lứa muộn mằn đường duyên nợ, nhưng tôi không lo lắng vội vã nghe những lời giục giã, tôi nghĩ, nếu có lập gia đình, thì phải là một người mình yêu thương, và ngược lại, chứ không việc gì vì điều tiếng dư luận nọ kia mà phải vớ đại một ai đó, để rồi dìm cuộc đời mình trong bất hạnh. Nói cho đúng ra, lấy chồng muộn đâu phải là cái tội, mà lấy chồng sớm cũng chưa chắc đã là chuyện hay, duyên phận mỗi người mỗi khác, hãy cứ bình tâm mà đợi đến đúng lúc của mình. Đối với Thắng, tôi chỉ nghĩ anh là một người bạn, một người bạn trầm tĩnh, hơn vài ba tuổi, đủ để cho tôi một số kinh nghiệm nào đó, ngoài ra không có thứ cảm xúc nào khác, và nếu anh có suy nghĩ gì, chắc tôi cũng lựa lời cho anh hiểu. - Có việc gì thì anh cứ nói đi, nếu không ngoài khả năng, tôi sẽ không từ chối đâu. Tôi lên tiếng giục khi thấy Thắng cứ chần chừ, lúng túng. Hình như việc gì đó khó nói lắm thì phải. Nhưng rồi Thắng cũng phải nói, vì đó là mục đích của cuộc gặp này mà. - Tôi phải xin lỗi cô trước, nếu việc tôi nhờ có làm cô phật ý. - Anh yên tâm đi, tôi không phải là người hay chấp nhất những chuyện nhỏ nhặt, cuộc sống ai cũng phải có lúc cần cậy nhờ mà. Trước khi vào việc chính, Thắng phải uống một hơi hết gần nửa ly cà phê đá chứng tỏ anh đang rất căng thẳng, tôi cũng hồi hộp chờ nghe. - Tôi muốn… tôi muốn nhờ cô giả làm bạn gái của tôi. - Cái gì? Tôi nhảy dựng lên. - Xin cô hãy bình tĩnh nghe tôi giải thích, nếu nghe xong mà cô vẫn không thể giúp tôi được thì tôi cũng rất cảm ơn cô vì đã bỏ thời gian đến đây. Thắng cúi mặt như để chuẩn bị, tôi vẫn còn chưa tan hết cảm giác kinh ngạc. Đó là việc mà tôi không thể ngờ tới, nhưng hãy nghe anh ta nói xem thế nào đã. Những ngón tay vẫn vặn vẹo vào nhau. Tôi ngồi yên chờ đợi. Hẳn phải có một lý do gì đó rất đặc biệt, rất nghiêm trọng, và phải là rất cần thiết nữa, thì mới khiến cho một người đàn ông từng tuổi này, đi nhờ một người bạn bình thường như tôi, đúng là bình thường thôi, vì tôi khẳng định, trong giao tiếp hàng ngày tôi chưa hề tỏ ra một dấu hiệu nào khác lạ để anh ta ngộ nhận. Nhưng tại sao Thắng lại chọn tôi chứ? Chăng lẽ chỉ với một lý do là tôi còn độc thân, chắc không chỉ có thế, vì trong cơ quan tôi, củng có vài chị nữa, cũng suýt soát tuổi tôi, và cũng vì vài lý do nào đó, đang loay hoay với những trăn trở của riêng mình. Thắng bất chợt ngẩng lên nhìn thẳng vào tôi, cái nhìn như biểu lộ tất cả những cố gắng của anh. - Ba tôi bị ung thư gan giai đoạn cuối rồi, và sự mong ước lớn nhất của ông là được nhìn thấy tôi lập gia đình, hay chí ít cũng có được một người phụ nữ bên cạnh. Mà tôi thì… hiện tại không thể nào thực hiện được mong muốn của ông, tôi thấy mình có tội với ông quá, nên đành nghĩ ra cách này, xin lỗi, tôi không hề có ý lạm dụng cô. Một phần thắc mắc được lý giải, nhưng chưa là tất cả. - Tôi không nghĩ anh lại gặp khó khăn nhiều quá trong việc này, vì trông anh… Bỏ lửng câu nói khi thấy Thắng nhếch môi trong một cái cười buồn, nhớ đến một vài lời đồn đại, tôi thử thăm dò: - Nếu không có gì quá lắm, anh có thể cho tôi biết lý do được không? - Đây có phải là điều kiện để tôi có hy vọng nhận được sự giúp đỡ của cô không? Một chút do dự rồi tôi gật đầu: - Cho là thế cũng được. Đôi mắt của người đàn ông chập xuống trong một sự trầm buồn kỳ lạ, thái độ của anh bỗng làm tôi áy náy, hình như tôi vừa làm một điều bất nhẫn thì phải. Tôi ngập ngừng: - Nếu không tiện thì… - Không, không sao đâu, tôi sẽ nói, tôi cũng muốn nói ra câu chuyện, dù có thể cô sẽ không tin. Nhưng… Một khoảng lặng của tâm trạng, Thắng bỗng ngước lên nhìn bầu trời, hôm nay hình như gần đến rằm thì phải, trăng lên sớm và ánh sáng nhẹ nhàng tao khiết phang phác ở từng cao, dưới mặt đất chỉ một vài tia yếu ớt chập choạng giữa những ánh đèn, chỉ có thể nhìn thấy rõ được một vài đốm hiếm hoi sau một vài tán cây khuất bóng đèn điện. Tôi cũng ngước nhìn theo Thắng, khi nhìn lại gương mặt anh, tôi sững sờ, trên hai khóe mắt của người đàn ông kia lóng lánh hai giọt nước. Người đàn ông khóc luôn là chuyện nghiệt ngã, bởi cá tính và cái sĩ diện tối thiểu của họ không cho phép họ có nhiều nước mắt như đàn bà, và một khi họ phải chảy nước mắt, mà lại là những giọt nước mắt trong thinh lặng thế kia, thì có nghĩa trong cõi lòng họ đang tan nát đến vô cùng. Thốt nhiên tôi như bị xơ cứng trong một tư thế, như sợ một chút cử động nhỏ của mình cũng phá hỏng niềm cảm xúc trong một tâm hồn đang thao thiết kia. Rồi cũng đến lúc Thắng mở miệng: - Câu chuyện của tôi có lẽ là chuyện duy nhất xảy ra trên cõi đời này. Người ta thường nói “Mối tình đầu là một vết khắc không thể nào quên”. Với tất cả mọi người, thì đó là những kỷ niệm đẹp của sự rung động đầu đời, là sự đánh dấu bước trưởng thành trong mỗi con người, là tất cả những gì đẹp đẽ mới mẻ và trong sáng nhất. Với mối tình của tôi, tôi cũng đã có được những cảm xúc đáng yêu như vậy. Nhưng nghiệt ngã thay, ngoài những điều đẹp đẽ ấy, tôi còn phải nhận lãnh một nỗi đau cùng cực, một sự đau đớn sẽ đeo đẳng tôi suốt cả cuộc đời này. Anh ngừng lại, cố nuốt một cái gì đó như đang chẹn ngang cổ họng, tôi im lặng, biết rằng có một cái gì đó thực sự thống thiết trong trái tim đang ứa máu kia. Giọng Thắng đã có vẻ bình tĩnh trở lại. - Ngày đó cô ấy mười tám tuổi, cái tuổi hồn nhiên, trong trẻo và đẹp nhất của cuộc đời một người con gái. Chúng tôi đã gia nhập quân ngũ theo tiếng gọi của đất nước, tôi thuộc sư đoàn bộ binh, còn cô ấy bên quân y. Tuổi trẻ thì dù trong bối cảnh nào cũng có những cuộc sống riêng của nó. Nhất là trong một nơi khô khắc như chiến trường, nơi chỉ có rừng xanh và súng đạn, thì tình yêu là một động lực, và cũng là một điểm tựa hết sức cần thiết cho tinh thần. Tôi và cô ấy yêu nhau mới được mấy tháng, chỉ có mấy tháng thôi, nhưng tình cảm của chúng tôi đã rất gắn bó và nồng đậm. Đùng một cái, có lệnh chuyển một nửa sư đoàn sang trận địa khác, trong số đó có tôi. Quân lệnh không phải là điều mà người ta có thể bàn bạc và thương lượng, chúng tôi chỉ có một đêm cho sự chuẩn bị. Thật ra lính tráng thì có gì phải chuẩn bị nhiều đâu, ngoài một số tư trang và súng ống thì chỉ còn chuyện của trái tim là quan trọng nhất, và cũng là điều khó khăn nhất. Đêm ấy trăng sáng lắm, hình như chưa bao giờ trăng sáng đến thế, nguyên một vạt rừng thưa cứ dãi dễ trăng là trăng, chúng tôi quý báu từng phút thời gian ít ỏi tôi vừa trò chuyện với cô ấy vừa tranh thủ lau súng. Chung quanh chúng tôi cũng có rất nhiều đồng đội, một số đôi cũng chụm vào nhau trong tình cảm mặn nồng. Chẳng ai ngại ngần gì nữa cả, vì chỉ còn một đêm ấy nữa thôi, về sau ai còn ai mất làm sao biết trước được. Hai chúng tôi cũng trong tâm trạng ấy. Chúng tôi nói với nhau rất nhiều, và cô ấy khóc cũng rất nhiều, thế rồi vì không muốn cho tôi quá nặng nề tâm cảm trước lúc chia tay, cô ấy gượng cười, và cố làm cho tôi vui. dưới ánh trăng cô ấy đứng ra vừa hát vừa múa, ngắm nhìn cô ấy quả thật tôi cũng vui lên phần nào. Khẩu súng đã được lau dầu kỹ lưỡng, tôi giương thử vào một khoảng không, bất chợt cô ấy nhảy chắn trước nòng súng, vừa cười vừa nói “Anh thử bắn em xem nào” Tôi cũng dứ dứ đùa khẩu súng, không ngờ đạn đã lên nòng, và một chút bất cẩn của ngón tay tôi… Thắng ngưng bặt và gục đầu xuống, tôi cũng thảng thốt, trời, sao lại có những việc có thể xẩy ra một cách dễ dàng như thế. Thắng từ từ ngẩng lên, mắt anh giàn giụa nước, anh nói tiếp, nghẹn ngào: - Tôi cứng người nhìn cô ấy ngã xuống, trong một thoáng, tôi nghĩ cô ấy đang đùa, nhưng tiếng súng đã làm chấn động những người chung quanh, họ xông đến, đỡ cô ấy dậy, nhưng đã không còn kịp cho một biện pháp nào nữa. Khi nhận thức được vấn đề, tôi quay súng vào đầu mình định bóp cò thì có ai đó hất văng ra. Thế rồi tôi bị kết án năm năm tù vì tội vô ý làm chết người, đó là tòa án còn châm chước cho tôi, nếu không mức án còn có thể cao hơn. Nhưng với tôi, tôi cho rằng tôi phải nhận mức án cao nhất mới phải. Có ai như tôi không hở trời? Tôi đã tự tay bắn chết người tôi yêu. Thắng lại gục xuống, lần này thì anh khóc đến rung vai. Tôi kéo ghế lại gần anh vỗ về an ủi. Quả thực là một câu chuyện quá đau buồn, một nhà văn giỏi tưởng tượng mấy chắc cũng không tự nghĩ ra được một tình huống xót xa đến thế. Bây giờ thì tôi hiểu vì sao trên gương mặt anh luôn thiếu vắng nụ cười. Tôi không nói được gì để hóa giải bớt tâm trạng cho anh, chỉ biết xoa nhẹ lưng anh, một cách sẻ chia lặng lẽ. Quán cà phê về khuya đã vắng người, chỗ chúng tôi ngồi khuất sau một chậu hoa lớn nên càng yên tĩnh. Cơn xúc động lắng xuống, Thắng ngồi thẳng lên đưa tay lau nước mắt. Tôi cầm tay anh nhẹ giọng: - Anh cố gắng đi, chuyện cũng đã qua rồi, chắc cô ấy không oán trách gì anh đâu. - Có thể là cô ấy không oán trách tôi, nhưng tôi thì tự oán trách mình suốt đời. Sau khi ra tù, tôi đã đến mộ cô ấy, và đã nguyện để tang cho cô ấy mười tám năm, tôi phải trả cho cô ấy cái tuổi mười tám thần tiên mà tôi đã cướp đi mất ấy. - Anh đừng nghĩ mãi như vậy, sẽ không tốt cho anh đâu. - Với tôi thì tốt hay không cũng có gì là quan trọng nữa đâu. - Không hẳn thế đâu, anh còn phải sống cho bản thân và cho gia đình nữa chứ. Câu nói của tôi làm Thắng nhớ đến mục đích chính của cuộc gặp. - Nhắc tới gia đình, tôi mới nhớ, cũng vì bố tôi mà tôi mới đề nghị cô giúp đỡ một chuyện thế này. Biết chuyện của tôi, trong những năm trước, mọi người cũng khuyên tôi nên nghĩ khác, nhưng lương tâm tôi không thể, hai năm trước là tôi hết hạn mười tám năm tang cô ấy, gia đình lại giục giã tôi chuyện hôn nhân, nhưng nói thật, tôi chẳng còn thiết tha gì nữa. Cứ mỗi đêm trăng sáng, thì hình ảnh cô ấy lại hiện về rõ mồn một như vừa mới hôm qua, tôi không thể nào bôi xóa được, thì làm sao nói chuyện tình cảm với ai khác chứ. Nhưng bất ngờ bố tôi phát hiện ra là bị ung thư gan. Nay đã vào giai đoạn cuối, bác sĩ bảo chỉ còn mấy tháng nữa thôi. Bố tôi bảo, chưa thấy tôi yên ổn chuyện gia đình, thì ông chết cũng không nhắm mắt được. Tôi làm sao để bố tôi ra đi khi trong lòng còn trĩu nặng như thế. Nên tôi mạo muội nhờ cô, xin cô thứ lỗi nếu tôi có đường đột. - Không, anh đừng nghĩ thế, sau khi nghe chuyện của anh, tôi rất hiểu và thông cảm cho anh nhiều. Nhưng cho tôi hỏi: Vì sao anh lại chọn tôi để nhờ chuyện này? - Tôi cũng không rõ được là vì sao, nhưng nhìn cô và từng tiếp xúc với cô, tôi có cảm giác cô sẽ nhận lời. - Nếu tôi không nhận lời thì sao? - Thì… thì… Vẻ thất vọng và buồn bã trên gương mặt đã nhiều đau khổ của Thắng khiến tôi không nỡ kéo dài sự lấp lửng của mình. - Thôi thôi, tôi nói đùa đấy, đã biết được vấn đề của anh như thế mà tôi không giúp anh thì còn ra cái gì. Thắng tươi nét mặt lên một chút: - Thế là cô chịu giúp tôi rồi ạ. Cảm ơn cô quá, cảm ơn cô nhiều lắm. Bước vào nhà Thắng với túi quà trên tay, tôi hơi lo lắng và hồi hộp, liệu tôi có đóng trọn được vai diễn của mìnnh không đây? Vốn dĩ tôi không hay lừa dối ai, kể cả những điều nhỏ nhặt nhất mà giờ phải đi lừa dối một người lớn tuổi, lại là một người sắp chết, tôi thấy bứt rứt thế nào ấy. Thắng đưa mắt cho tôi, vẻ vừa động viên vừa khẩn nài. Tôi khẽ gật đầu và hít sâu một hơi. Ông cụ đang nằm trên giường, thấy có khách vào thì gượng ngồi dậy, tôi vội nói: - Bác cứ nằm nghỉ đi ạ. Tay tôi đỡ lấy đầu ông cụ và kê lại cái gối, xong tôi ngồi vào cái ghế mà Thắng vừa mang tới. Ông lão nhướng mày về phía con trai, Thắng ấp úng: - Thưa bố… đây là… bạn gái của con. Âm sắc giọng nói rõ ràng là không bình thường, nhưng ông cụ không kịp để ý đến, mà quay sang nắm lấy tay tôi, lập bập: - Con… con ơi… bác mừng quá. Tôi ngượng ngùng: - Dạ con… con có chút quà biếu bác đây ạ. Ông cụ chống tay cố ngồi dậy, đỡ túi quà tôi trao, ông nhìn tôi, rồi lại mân mê gói quà, đột nhiên ông tỏ ý muốn đi xuống giường, Thắng vội đến bên cạnh: - Bố, bố cần gì ạ? Ông cụ bíu vào tay con để lấy sức, và rồi ông chập choạng bước ra phía bàn thờ, tay cầm theo gói quà của tôi. Tôi ngạc nhiên nhìn theo, Thắng cũng ngạc nhiên cứ hỏi: - Bố cần gì để con làm cho ạ? Ông cụ ra hiệu cho Thắng đốt mấy nén nhang, rồi ông trịnh trọng đặt gói quà của tôi lên bàn thờ, trước ảnh mẹ Thắng, cố đứng cho thẳng, ông cụ cúi đầu khấn vái. Tôi ngây sững người trước những cử chỉ của ông, cảm giác thương cảm lẫn xấu hổ làm tôi thắt lòng, muốn khóc. Trời ơi! Giá như đây không phải là sự dối trá. Thắng nhìn tôi với vẻ đau đớn, anh bặm môi cố ngăn niềm xúc cảm. Nếu không cố gắng lắm thì tôi đã bỏ chạy, để khỏi chứng kiến một cảnh đau lòng vì tính chất không minh bạch của nó. Cảm giác hổ thẹn vì sự dối trá như tăng lên gấp nhiều lần. Tâm trạng tội lỗi khiến tôi càng lúng túng hơn khi Thắng dìu ông cụ trở lại giường, một lần nữa anh lại ánh sang tôi cái nhìn van vỉ. Tôi cố gắng, cố gắng khỏa lấp bằng một vài câu thăm hỏi bệnh tình ông cụ. Và khi tìm được cách cáo từ, tôi đi như chạy ra khỏi nhà. Thắng tiễn tôi với gương mặt buồn rười rượi, anh cũng không dễ dàng gì trong việc này. - Tôi xin lỗi vì đã lôi cô vào chuyện này. - Thôi anh vào với bác đi, cố đừng để bác nghi ngờ, ta gặp lại nhau sau nhé. Tôi không thể nào ngủ được với những hình ảnh lúc ban ngày, tâm trạng của một kẻ có tội rất khó chịu, bỗng nhiên tôi đọc rõ hơn tâm trạng của Thắng trong việc sơ sẩy của anh. Tôi càng hiểu rõ hơn nỗi ân hận, thương tiếc, và sự ám ảnh trong anh nặng nề đến thế nào. Trong khi tôi chỉ với một sự dối trá bắt buộc, một sự dối trá chân chính mà còn khó khăn thế này, thì với Thắng, bước qua được sự việc không khác gì phải trèo qua một dãy núi. Nhưng dù có thế nào thì cả hai chúng tôi vẫn phải tiếp tục sự lừa dối ấy, bởi vì nếu không thế thì lại càng tồi tệ hơn. Cho đến một ngày, Thắng hốt hoảng tìm tôi: - Ba tôi chắc sắp đi rồi Phương ạ. Tôi lật đật bỏ công việc chạy đến, ông cụ đang trong những giờ phút cuối cùng, thấy tôi đến, nét mặt ông giãn ra như đã từng trông đợi lắm. Ông vẫy nhẹ mấy ngón tay gọi tôi. Tôi đến bên cạnh, nắm lấy bàn tay xương xẩu đang lạnh dần của ông, ông cố bóp tay tôi, phều phào: - Con… con hãy… thương nó nhiều… nó bất hạnh… lắm rồi… Tôi bật khóc, không thể nói lên một lời hứa hẹn. Thắng cũng đã đến bên cạnh, ông cụ cầm tay hai chúng tôi đặt vào nhau và mỉm cười. Thế rồi ông ra đi, nhẹ nhàng thanh thản. Tôi khóc ông, đau xót như khóc một người cha thực sự. Trong thâm tâm, tôi thầm hứa với ông, nếu tôi xóa được nỗi ám ảnh sâu nặng trong lòng Thắng, thì sự lừa dối hôm nay không phải là sự lừa dối hoàn toàn. Nhìn Thắng phủ phục bên mộ cha, tôi không sao chịu đựng nổi. Quả thực là anh có nhiều bất hạnh quá, con người ta nếu có phải chịu nỗi bất hạnh này thì sẽ được đền bù bằng một hạnh phúc khác. Liệu anh có được đền bù khi đã phải chịu đựng quá nhiều như vậy không? Tôi ngước lên trời: “Hỡi người con gái bạc mệnh xa xưa kia. Nếu cô còn yêu anh ấy, và nếu cô đã tha thứ cho anh ấy, thì xin hãy giúp tôi, giúp tôi tìm được phương thuốc hiệu nghiệm để chữa lành vết thương cho anh ấy, dẫu chỉ một phần. Tôi không lấy hết anh ấy của cô đâu, anh ấy sẽ còn là một nửa của cô với những êm đềm đẹp đẽ của năm tháng ấy, nhưng xin đừng dằn vặt, đừng bắt anh ấy phải ôm mãi nỗi khổ đau trong lòng, cuộc đời anh ấy ít ra cũng phải có được một chút gì dó để sống chứ. Cô có nghe tôi nói không? Hỡi người con gái của vầng trăng hôm nào!” Chiều tàn trên nghĩa trang, những cơn gió se se thổi luồng buốt lạnh, những nụ hoa trắng đỏ, vàng tím loe hoe không át nổi cảnh đìu hiu chốn ngàn thu viễn mộng. Tôi đến bên anh, đỡ anh đứng dậy, dìu anh từng bước chập chừng trên con đường lục xục sỏi đá. Một đàn chim về tổ, thả những tiếng ríu ran hiền hòa giữa thinh không. ĐÀM LAN
ÊM ĐỀM XÓM QUÊ - Cút cu, cút cu, cu cút…! Nghe ám hiệu, Thuyền đang học bài vội xếp sách vở phóng đến “hầm bí mật”. Đó là ngôi nhà cuối trong dãy phố bảy căn của ba má Phong. Trước đây, họ dùng để chứa xi măng. Bây giờ, mái tôn bị thủng lỗ chỗ. Mùa mưa sắp đến, sợ xi măng chết, họ cho căn nhà thất nghiệp. Nhân cơ hội nầy, thằng Phong liền tận dụng làm “hầm bí mật”. Phong vốn là đứa thích tưởng tượng những chuyện không thể xảy ra nên căn nhà nằm chình ình trên mặt đất, cửa chính quay ra đường cái. Ánh mặt trời rọi thấu từ trước ra sau. Mọi thứ phơi bày rõ mồn một, dù nhắm một mắt. Vậy mà thằng Phong gọi đó là “Hầm bí mật”. Biết vậy, Thuyền vẫn thích. Ở xóm nghèo nầy đâu có chỗ nào sang trọng hơn để tụ tập, bày trò chơi. Nhất là so với nhà Thuyền. Mái dột, cột xiêu. Mỗi lần gió thốc qua, tiếng kèn kẹt rền rĩ nghe vừa sợ vừa chán. Phong đang đứng dạng chân trước cửa hầm. Hai tay nó đưa ngang miệng như cầm một cái tù và tưởng tượng, tiếp tục thổi ra những tiếng như chim kêu “Cút cu, cút cu….” Bé Tí, Cẩm Vân, Hạnh Ù cũng vừa chạy tới. Lợt đợt phía sau là Lâm Cà Lơ, Liên Mặt Mâm, Long Cà Xích. Chúng vừa đi vừa kháo nhau “Hầm bí mật đã đến hồi bật mí”. Phong ngồi bệt xuống thềm, khoát tay: - Tụi mình chơi cất nhà chòi đi! Lâm vỗ đùi đánh bốp: - Phải à! Nhưng cất bằng cái gì? Cẩm Vân chu miệng: - Cất bằng vật tư của nhà thằng Phong. - Tụi mầy muốn tao ăn chổi lông gà hả? Long Cà Xích bật cười: - Ừ, dám lắm đó. Ba mầy còn bị bả đánh. Phong xụ mặt. Cả bọn bụm miệng cười. Hôm đó, nghe tiếng gầm của ba Phong: “Cho mầy chết, cho mầy chết!”. Cả xóm hoảng vía kéo tới để can gián. Nào ngờ, một cảnh tượng lạ đời khiến ai cũng ngỡ ngàng. Ba Phong nằm sấp trên bộ ván gỗ nâu bóng. Má Phong đứng cạnh đó, tay cầm chổi lông gà, quất túi bụi lên mông chồng. Theo nhịp roi, ba Phong gào lên: “Cho mầy chết, cho mầy chết…!”. Mọi người rút êm về nhà… cười thầm. Mỗi lần nhớ lại, Thuyền vừa tức cười vừa thắc mắc. Ba Phong vạm vỡ thế kia sao lại sợ một người đàn bà gầy gò. Vì lẽ gì chứ? Thuyền hỏi ngoại. Ông cười bảo: - Nhất vợ, nhì trời, không sợ sao được! Ông ngoại có sợ bà ngoại không? - Sợ chứ. - Bà ngoại đâu có đánh ông ngoại. Ông ngoại sợ bà ngoại ở chỗ nào? Ngoại cười: - Ngoại sợ cái lưỡi. Cái lưỡi bà ngoại con nói ra ngọt như đường phèn, như mật. Ngọt mật chết ruồi. Thấy vậy mà cái lưỡi ghê gớm như cây roi đó. Đúng là bà ngoại rất ngọt với ông ngoại. Một tiếng cũng “Ông ơi” hai tiếng cũng “Ông ơi!” Khi nào giận lắm bà gọi cộc lốc một tiếng ông. Chữ “ơi” biến mất. Thuyền vẫn chưa hết thắc mắc: - Cái lưỡi ghê gớm ở chỗ nào vậy ngoại? - Ở chỗ “Nói ngọt lọt tận xương”. Còn ở chỗ cái lưỡi mà biết lựa lời để nói thì vừa lòng mọi người. Như bà con cứ: “Ông ơi, khi nào khỏe trong người, ông sửa lại cái máng xối giùm tôi nghen ông! Gần tới mùa mưa rồi. Ông thích uống nước mưa lắm phải không?”. Nào là: “Ông ơi! Lần trước, ông trổ tài làm món cá kho tộ ngon đáo để. Bầy trẻ ăn vét nồi. Bữa nay, ông chỉ tôi làm nghen. Đó, con thấy chưa, ngoại mệt vì cái lưỡi. Thuyền phì cười. Đúng là bà ngoại sai khiến ông bằng cái lưỡi dẻo quẹo. Ông ngoại làm luôn tay, luôn chân nhưng vẫn vui vẻ. Ông còn bảo: - Bà ngoại bây mà bảo: “Ông ơi, ông nhảy vô lửa lượm cho tôi cục than hồng đi ông!” thì ông cũng liều. Thuyền bảo: - Thôi, tụi mình đừng phá đồ của má bạn Phong. Để tao về nhà lấy cây dù của ông ngoại làm nhà chòi. Còn tụi mầy đi hái ổi hay bần để chơi bán hàng. Tụi mình ra chỗ bờ xẽo, cạnh cây cầu ván. Chỗ đó mát lắm. Khi Thuyền đến chỗ hẹn thì các bạn đã tề tụ đông đủ. Thuyền giương cây dù của ngoại lên. Tán dù rộng, lợp bằng vải đen nên tạo ra cảm giác mát rười rượi một vùng phía dưới. Thuyền lấy khăn rằn của bà buộc vòng quanh dù khiến cho tán dù nới rộng thêm nữa. Lâm Cà Lơ lấy dây chuối cột mấy gọng dù vô gốc cây gần đó để giữ thăng bằng. vậy là cái nhà chòi đã thành hình. Để trang trí, nhỏ Hạnh Ù, Cẩm Vân, bé Tí hái hoa trâm ổi, bông bụp, hoa lục bình cho Thuyền cột lòng thòng ở những sợi dây buộc dù. Bọn con trai chặt mấy tàu lá chuối trải như thảm, bẻ gai tre để kết những chiếc lá dầu làm vương miện chúng còn lấy dây chuối buộc ngang bụng, giắt gươm làm bằng sống lá chuối xề xệ trông oai ra phết. Bọn con gái xé tàu lá chuối làm đôi rồi lại xé sợi tua. Sau đó, cột ngang bụng như mặc váy. Thuyền nghĩ ra một cách trang điểm. Nó lấy dây lát buộc quanh trán rồi cài lên đó một chùm bông giấy. Bọn con gái cài đủ thứ hoa khiến bọn con trai trố mắt nhìn. Thằng Phong chắc lưỡi: - Chao ơi, đẹp ác ôn! Dòm giống mấy bà chúa… ăn mày. Bé Tí quát: - Còn tụi bây là Hoàng tử Cóc. Hạnh Ù lật đật giảng hòa: - Thôi, xin can hai đàng… Bây giờ tụi mình chơi trò “hò đố - đáp” đi! Một bên hò đố, một bên hò đáp. Bên nào thua phải cõng bên thắng một vòng. Phong vỗ tay: - Vụ này hay à! Nhưng con Hạnh mập lù, hơi dài ba cây số, làm sao hò lại nó? Thuyền cười: - Ừ, vậy thì ai đáp hay, đúng thì thắng. Còn hơi dài thì… kệ hơi dài. Cả bọn cười xòa. Bọn trẻ lập tức chia làm hai phe. Một phe nữ, một phe nam. Phe nữ hò trước. Hạnh Ù đứng dậy, ưỡn ngực, hai tay bắt loa trước miệng: - Hò… ớ… ớ… ơ… ơ… Đầu làng có một cây đa. Ở giữa đồng trống có… ma rập rình. Đêm đêm nó vẫn hiện hình. Đố anh có dám… hò ớ… đố anh có dám… một mình đi chơi… ơ. Cả bọn cười ầm ĩ. Con nhỏ này cắc cớ thiệt. Nó thừa biết bọn con trai nhát như thỏ đế, làm sao dám đi chơi đêm. Tụi con trai chụm đầu bàn bạc một hồi. Thằng Phong đứng dậy chống nạnh một tay, tay còn lại đưa ra phía trước như diễn thuyết. - Nghe nè, hò ớ… ơ… ơ… Đầu làng dù có cây đa. Ở giữa đồng trống có ma… kệ mầy! Ban đêm anh mắc học bài. Mấy mình cũng hổng dám… hò ớ… mấy mình cũng hổng dám bởi anh sợ thầy hơn ma. Hò ớ… thầy có cây chổi lông gà Quất đau tóe khói, hò ớ… quất đau té khói, ở nhà êm ru. Bé Tí vừa cười, vừa nói: - Vậy là tụi mầy thua rồi, tụi mầy hổng dám đi ngang. Phong gân cổ cãi: - Ai biểu nó đố lãng xẹt. Khi không đầu làng có cây đa, giữa làng đồng trống. Vậy là vắng hoe, có ai ở đó để đi ngang cho mắc công. Phải chi nhà tụi mầy ở đó thì tao băng ngang. Cây đa ở đây nghĩa là gì vậy? Hạnh Ù cãi: - Thì tao phải nói vậy cho có vần, có điệu chứ bộ. Phong phẩy tay: - Đố d ở ẹc. Thôi, thua đi! Quyên chen vô: - Thôi, bỏ câu đó đi. Tới phiên bên con trai hò: Long Cà Xích liền đứng dậy: - Hò… ớ… ơ… ơ… Nước trong leo lẻo, con xẽo quanh co. Mỗi khi nghe tiếng ai hò, bỗng dưng nước rút, hỏi trò tại ai? Quyên bật cười: - Chắc tại mầy quá Hạnh. Mầy hò giống bìm bịp kêu nước lớn nước ròng. Hạnh bĩu môi: - Để tao hò đáp cho: Nó đứng dậy, ưỡn cái bụng to như cái trống cơm: - Hò… ớ… ơ… ơ… Con xẽo luồn lõi vô đồng. Nó chảy lòng vòng rồi lại chảy ra. Nước rút đâu phải tại… bà. Mà tại Long Cà Xích… Hò… ớ… ơ… ơ… tại Long Cà Xích nó hò chớ ai. Cả bọn cười vang. Chỉ có Long càu nhàu: - Thôi, dẹp vụ này đi, Tụi bây chọc tức tao không hà. Chắc tao nổi sùng bây giờ. Quyên tán thành: - Đúng là nãy giờ tụi mình nói xàm quá trời. Người lớn hò hay lắm kìa. - Hò sao mà hay. Đâu, mày hò thử coi. Hạnh Ù có vẻ không vui. Quyên cười mím chi: - Tao hò dở lắm nghen. Không giao cười à. Phong ngồi bệt lên cỏ: - Hò đi, ở đó ẹo hoài: Quyên đứng dậy, nhìn ra dòng xẽo lờ đờ chảy luồn lõi mất hút sau rặng dừa. Nó cất giọng: - Hò ớ… ơ… ơ… Đức vua, phụ mẫu, phu thê ngồi lại một thuyền. Gặp trận giông chìm xuống. Hò ớ, gặp trận giông chìm xuống, Em hỏi chàng vậy chớ vớt ai? Phong vỗ đùi đánh bốp: - Úi cha, câu này ngộ ghê! Cái thuyền bao lớn mà chở nhiều quá vậy? Ủa, ông vua đi đâu lại ngồi chung thuyền với phụ mẫu, phu thê để… chết chìm vậy kìa? Long Cà Xích cười: - Chắc ổng di hành. Gặp tao, tao vớt ổng. Công cứu giá thế nào cũng được phong làm quan. Sung sướng cả đời. Lâm Cà Lơ chen vào: - Gặp tao, tao vớt vợ tao. Má tao thường bảo với ba tao “Vợ chồng như đũa có đôi”. Mất một chiếc làm sao tao gắp. Long cú đầu Lâm: - Gắp cái đầu mầy. Vậy là mầy bỏ vua, bỏ cha mẹ chết chìm phải không? - Vậy chớ mầy vớt ai? - Tao vớt chiếc thuyền. Thuyền chìm kể như nghèo. Nghèo khổ lắm. Muốn ăn kem cũng không tiền mua. Quyên hỏi Phong: - Mầy vớt ai, Phong? Phong gãi đầu; - Tao… tự vận chết quách cho nó khỏe. khỏi mang tiếng bất trung, bất hiếu gì ráo. Quyên phì cười: - Rốt cuộc, thằng Phong đáng tội nghiệp nhất. Đã không cứu được ai mà còn thiệt thân. Phong khịt mũi: - Theo mầy phải làm sao? Quyên làm ra vẻ nghiêm trang: - Tao cũng không biết phải làm sao vì tao không biết bơi. Tao chỉ nghe ngoại tao kể là có một người đàn ông đáp hay lắm. Cả bọn nhao nhao: - Nói sao? - Vầy nè, “Đức vua anh đội trên đầu, phụ mẫu anh vác hai vai, hiền thê đừng sợ, có anh đây, đưa lưng anh cõng, hai tay anh vớt thuyền...”. Ghê chưa? Ông ta chẳng bỏ ai, kể cả chiếc thuyền. Lâm cà lơ nhăn mặt; - Sao tao thấy vô lý quá, làm sao ông ta vớt nổi. Một người đè trên đầu, hai vai gánh hai mạng, lưng cõng một bà, hai tay vớt thuyền rồi làm sao bơi được. Kỳ quá! Quyên giải thích: - Đâu có gì kỳ. Đây là câu đố để thử lòng, thử cách ứng xử. Ông ngoại tao nói vậy đó. Chứ làm gì có chuyện lạ vậy. Vua, cha mẹ ngồi chung một thuyền. Phong chép miệng: - Ông ngoại mầy kể nhiều chuyện hay ghê! Ông ngoại bịa hay người ta kể vậy? Liên liếc xéo Phong: - Ông ngoại không bao giờ bịa chuyện. Có chuyện ông thấy rồi kể lại. Có chuyện ngoại nghe người khác kể. Có chuyện thì ngoại đọc được trong sách. - Hèn gì nhà mày khoái mua báo quá trời. Nhà nghèo mà cũng mua báo. Mỗi tờ báo gần bằng một lít gạo. Quyên tỉnh bơ: - Ngoại tao bảo sống không phải để ăn, mà ăn để sống. Chị Hai tao cũng bảo: Sách báo là món ăn tinh thần. Phong khịt mũi; - Mầy có đọc báo không Quyên? - Có chứ! - Báo nào? - Nhiều lắm nghen! Tờ Tia Sáng, tờ Tuổi Ngọc cho chị Hai, tao còn đọc nhiều tờ khác nữa. - Xạo! Tờ khác là tờ nào? Sao không thấy mầy mua? Quyên cười: - Tao đâu có mua. Mấy tờ báo gói đồ đó. Trước khi đem đi nhóm lửa, tao đọc ráo nạo. Có khi tờ giấy gói chuối chiên dính dầu mỡ tao cũng đọc. Bởi vậy ông ngoại mới gọi tao là “Con sâu báo” Lâm Cà Lơ nhìn Quyên: - Con sâu báo là sao, tao không hiểu? Phong nhanh nhẩu: - Là con sâu đeo dính tờ báo đó. Thông thường những con sâu khác chúng đeo vào hoa, vào lá cây. Hiểu chưa, ông? - Chưa. - Trời đất! Nói vậy mà cũng chưa hiểu. Tao phục mầy luôn. - Phục tao cái gì? - Phục tài… cà lơ của mầy đó. Cẩm Vân nhìn Quyên: - Mầy mê báo chắc trong đó có gì hay thử kể tao nghe coi. - Nhiều chuyện lắm. Chuyện nào cũng hay, biết kể cái gì bây giờ? Phong nhón một trái chùm ruột, bỏ vào miệng nhai rau ráu. Quyên chảy nước miếng. Nó cũng bóc một trái cho vào miệng. Lâm Cà Lơ cũng chọn một trái ổi, nó bảo: - Vừa ăn, vừa nghe kể chuyện thì còn gì khoái hơn. Quyên mỉm cười: - Để tao kể cho tụi mầy nghe một chuyện vui vui: “Có một sư cụ kia thường lén ăn thịt chó. Một hôm, có một chú tiểu bắt gặp sư cụ đang ăn thịt chó trong hậu liêu. Chú hỏi: “Bạch thầy, thầy đang ăn gì vậy?”. Sư cụ đáp tỉnh rụi: “Ta đang ăn đậu phụ”. Vừa lúc đó, ngoài cổng chùa có tiếng ầm ĩ. Sư cụ hỏi chú tiểu: “Cái gì ồn ào thế kia”. Chú tiểu lễ phép thưa: “Bạch thầy, đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa ạ!”. Cả bọn cười vang, Phong thắc mắc: - Chuyện đó có thật không vậy? Sư phụ mà ăn thịt chó. Quyên làm ra vẻ hiểu biết: - Ối, mấy chuyện chọc cười đó mà. Chắc không có thật đâu. Hồi nào tới giờ, tao chưa thấy sư phụ nào ăn thịt chó. Cẩm V â n bĩu môi: - Sao hổng có. Đó là mấy ông tu giả bộ đó. Long Cà Xích phê bình: - Tao thấy đó đâu có hay mà mầy kể. Quyên trợn mắt: - Sao không hay! Tao nghe chị hai tao bảo thâm thúy lắm. Ông thầy tu gọi thịt chó là Đậu Phụ nên chú tiểu cũng gọi chó là Đậu Phụ. Người lớn nói bậy, làm bậy thì trẻ nhỏ cũng sẽ bắt chước. Phong gật gù: - Cũng có lý. Người lớn phải làm gương chứ. Hạnh Ù nhìn Quyên: - Còn chuyện gì hay hơn nữa không? Quyên mỉm cười: - Thiếu gì. Nhưng bây giờ tao làm biếng rồi. Đứa nào muốn tìm hiểu thì qua nhà tao, tao cho mượn… báo cũ. Bé Tí trợn mắt; - Chị Hai mầy quý báo hơn vàng, bả cho mượn không đó? - Sao không. Miễn mầy giữ kỹ, đọc xong trả lại liền. Phong bật cười: - Nó thắc mắc cũng phải vì nó mượn đồ của ai cũng muốn tịch thu luôn. “Có của cho mượn mất công đi đòi”. Bé Tí đỏ mặt tía tai, nhớ lại chuyện má nó mượn cái cuốc nhà Phong. Nó cao giọng: - Chứ không phải nhà mày rít hả. Mượn cây cuốc xách về chưa tới nhà đã chạy qua đòi lại Phong đứng dậy định gân cổ cãi thì bỗng nghe văng vẳng: - Phong ơi, bớ Phong! Nhận ra giọng của má, nó hoảng vía lột cái vương miện ném xuống đất. Rút cây gươm sống lá quăng xuống xẽo. Nó dạ một tiếng thật to rồi phóng như bay về hướng đó. Bỏ mặc lũ bạn ngơ ngác bên cái chòi xinh xắn. NGUYỄN THỊ MÂY
MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 09.9.2017… ....................... Vũ Thư Hữu ... 01 Vài chivve62 cuốn “Sống và Viết của Nguien-Ngu-I Vũ Anh Tuấn ... 05 Có tận thế không? (tập 11- tt) .......... Lm. Joseph Nguyễn Hữu Triết ... 07 Lạm bàn về chữ VẠN của Đạo Phật ............................ Tâm Nguyện ... 29 Hũ vàng của ai (truyện dân gian Armênia) ........... Thúy Toàn dịch .... 34 Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm & Nữ trạng nguyên duy nhất Nguyễn Thị Duệ .......... Phạm Vũ ... 37 Bài thơ Ghẹo Thị Lộ không phải của Nguyễn Trãi ...... Ng.Văn Sâm .... 46 Upton Sinclair lập nên sự nghiệp cách nào ......... Hoàng Kim Thư st. ... 51 Ngày mở đầu (thơ) ................................................................. Đàm Lan ... 55 Con khỉ và trái chanh (thơ - Ng.V.Vĩnh dịch thuật) Thanh Châu st. ... 56 Con chó và con mèo (thơ - Ng.V.Vĩnh dịch thuật) . Thanh Châu st. .... 56 Chiều thu (thơ) ....................................................................... Lam Trần .... 57 Ngày nào đó (thơ) ............................................................ Tâm Nguyện ... 58 Trò chuyện từ xa với thi sĩ Luân Hoán (thơ) ................ Thiếu Khanh ... 59 Thiên thu tình mộng (Tình thiên thu) (thơ) ... Phạm Thị Minh-Hưng .... 61 Chút đời còn dư (thơ) ........................................ Phạm Thị Minh-Hưng .... 62 Giữ gìn tiếng hát dân ca (thơ) .......................................... Lê Minh Chử .... 63 Đừng nhầm (thơ) ................................................................ Lê Minh Chử .... 63 Đêm ngồi đọc thơ Đường (thơ) ................................................. Hoài Ly .... 64 Tiếng sáo đêm (thơ) .................................................................... Hoài Ly .... 64 Đêm vắng hồn ai (thơ) .......................................................... Nguyên Lê ... 65 Tây Bắc vẫn còn đây… (thơ) .............................................. Lê Nguyên ... 66 Nụ hôn đầy nước mắt (thơ) ............................................. Ngàn Phương .... 67 Giã từ mơ ước (thơ) .......................................................... Ngàn Phương .... 68 Cậu tôi (thơ) .............................................................................. Thúy Mai ... 69 Nợ tình (thơ) ................................................................................. Hải Âu ... 70 Chung đường (thơ) ...................................................... Vũ Thùy Hương .... 71 Thầm mơ (thơ) ............................................................. Vũ Thùy Hương .... 72 Ước vọng (thơ) ................................................................... Thanh Xuân ... 72 Đưa tình đến ngõ sân bay (thơ) ................... Thùy Quân Hương Mai ... 73 Tình quê (thơ) .................................................................... Lang Nguyên .... 74 Vì một trận cười (thơ) ....................................................... Lang Nguyên .... 74 Hà Tiên (thơ) ....................................................................... Quang Bỉnh .... 75 Một đi… (thơ) ............................................................ Trần Nhuận Minh .... 76 Once I’ve decided to go… (thơ) ............................. Vũ Anh Tuấn dịch .... 77 Trong thế giới những CLB ở London ..................... Đỗ Thiên Thư st. .... 78 Lập dị ...................................................................................... Lam Trần .... 84 Văn nghệ sỹ lên tem ..................................... Đào Minh Diệu Xuân st. .... 87 Đôi dòng tâm tình ....................................................................... Hoài Ly .... 91 Người chặt cây quế trong cung trăng .................................. Bùi Đẹp st. .... 93 Câu chuyện Rồng ..................................................... Phạm Hiếu Nghĩa ... 96 Bà Lucie Randouin… thức ăn trong đời sống ................ Lệ Ngọc st. ... 98 Điểm sách: Lược đồ văn chương & tư tưởng Kitô giáo qua các thời đại Về nguồn (thơ) Cuộc trần (thơ) ......................................... Hà Mạnh Đoàn 103 14 điều khác biệt - phụ nữ cần biết ................................... Kim Sơn st. 106 Tôi đã học ra rằng… .................................... Hoàng Chúc biên soạn . 108 Vầng trăng ngày ấy .................................................................. Đàm Lan . 110 Êm đềm xóm quê ....................................................... Nguyễn Thị Mây . 121 Thông báo Kỳ họp tiếp theo của CLB sách Xưa & Nay sẽ diễn ra vào lúc 9:00 ngày 11/11/2017 tại nhà thờ Tân Sa Châu, số 387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình. Bài viết cho bản tin nội bộ xin gửi về: hamanhdoan69@yahoo.com hoặc liên hệ với Hà Mạnh Đoàn - 0937 108489 Các bản tin trước có thể xem tại: www.diendan.songhuong.com.vn www.giaimakinhphat.com www.sachvatranh.com www.newvietart.com www.vandanviet.net www.hoamai-aus.org.au |