VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 14/5/2016 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư. Cuốn đầu tiên được giới thiệu hôm nay là một cuốn báo bằng P háp văn tương đối cổ vì được xuất bản năm 1943 (73 năm trước). Cuốn báo, gồm 22 số liên tục, mang tựa đề là Đông Dương - Tuần báo có minh họa, và tên tiếng Pháp là Indochine - Hebdomadaire illustré. Đây là một thứ tuần báo lúc này khá hiếm và giá ở thị trường sách nước ngoài mỗi khi có thường rất mắc. Thoạt đầu người viết được báo giá là 500 đô mít một số, sau nhờ anh chủ sách đau phải nằm viện, cuốn báo được bán cho một cháu bán sách rất thân với người viết, nên cuối cùng người viết đã có được cuốn báo với giá 350 đô mít (350 ngàn) một số. Số tiền bỏ ra tuy không thật nhỏ, nhưng rất xứng đáng, khi chứa đựng trong 22 số (khoảng độ 700 trang) hàng ngàn hình ảnh, và gần 40 đề tài hấp dẫn như lịch sử các dòng tu của đạo Công Giáo (Franciscain, Dominicain, Cistercien hay Trappiste), Hồi ký của một người đang A nam mít hóa (của Lm L.Cadière), hình ảnh các thành viên người Việt của Hội Đồng Liên Bang Nam Kỳ (Conseil Fédéral de la Cochinchine), hình ảnh những người được Pháp ban tặng Bắc Đẩu Bội Tinh, nhất là một số đặc biệt gần 100 trang về đề tài Quy Hoạch Đô Thị (Urbanisme) cho thấy người Pháp đã quy hoạch những đô thị lớn của ta như thế nào v.v… Trong số cả ngàn hình ảnh vừa chụp, vừa vẽ có những hình ảnh đặc biệt, thí dụ như một hình toàn bộ phía sau Nhà Thờ Đức Bà ở Sài Gòn được che gần hết bởi một hình Thống Chế Pétain khổng lồ. Tóm lại đây là một cuốn báo rất đáng tiền, và là một kho tài liệu cho những ai quan tâm tới những năm cuối thời kỳ chúng ta bị Pháp đô hộ. Cuốn thứ nhì được giới thiệu là một cuốn sách bằng A nh ngữ mang tựa đề là Trung Hoa - theo mô tả của Lm Dòng Tên Matteo Ricci (1552-1610). Lm Dòng Tên này tới Trung Hoa vào năm 1583 và trở thành rất nổi tiếng ở Trung Hoa và đã mất năm 1610 khi mới 57 tuổi ở Bắc Kinh. Khi mới gặp cuốn sách, Dịch giả Vũ Anh Tuấn không thấy thích lắm, nhưng sau thấy nó thuộc dạng sách đẹp, và nhất là lại là ấn bản đầu tiên nên ông đã mua, và hôm nay ông mang cho các thành viên xem để có ý niệm về sách đẹp và ấn bản lần thứ nhất (first edition), thường là rất có giá sau này, càng để lâu càng có giá thêm.
Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, Anh Phạm Vũ đã đăng đàn và có bài nói chuyện về vua Hề Charlot và nước Mỹ. Anh Phạm Vũ nói xong, anh Nhựt Thanh lên nói chuyện và giới thiệu cuốn sách mới có được viết về Đinh Bộ Lĩnh. Tiếp lời anh Nhựt Thanh, anh Dương L ê h lên nói về đề tài khoa học huyền bí và về Tử vi. Anh Dương L ê h nói xong, anh Phùng Chí Tâm lên giới thiệu cuốn sách trị b ị nh mang tựa đề là Đức Phật Dược Sư - Thuốc Gia Truyền, Thuốc Phật, Thuốc Tiên - Thần Thánh Dược. Giới thiệu xong, anh tặng mỗi thành viên một cuốn, sau đó anh hát tặng các thành viên bài Hoa Hồng của Nga để mừng Sinh nhật một nàng Nga nào đó tên là Tatiana. Anh Tâm hát xong, anh Hữu lên ngâm tặng các thành viên bài “Màu tím hoa sim” thơ Hữu Loan. Anh Hữu ngâm bài thơ xong, Kim Sơn lên và cũng ngâm tặng các thành viên bài thơ Thế là được. Tiếp lời Kim Sơn, Bs. Doan Linh cũng ngâm tặng các thành viên hai bài thơ rất dễ thương. Cuối cùng, cô Thùy Hương lên để cho biết là cô rất ái mộ một nhà thơ nữ, nhà thơ Xuân Vân, một thành viên của CLB đã mất hồi năm ngoái, và sau đó cô ngâm một bài thơ của nhà thơ đã quá cố để tưởng niệm người đã ra đi. Buổi họp kết thúc lúc 11g15 và các thành viên vui vẻ chia tay hẹn ngày tái ngộ sẽ là phiên họp kỷ niệm 10 năm thành lập Câu Lạc Bộ. VŨ THƯ HỮU
VÀI CHI TIẾT VỀ CUỐN QUÝ THƯ “HẾT ĐƯỜNG ẢO TƯỞNG” (ILLUSIONS PERDUES) CỦA H. DE BALZAC Cuốn quý thư này đến với người viết trong một trường hợp hơi là lạ và vui vui. Ba ngày trước, vào lúc 8 giờ rưỡi sáng, người viết đang đứng ở trên đường Phan Đăng Lưu chờ đón taxi thì bị một cháu gái chạy xe Honda ngược chiều đụng nhẹ, khiến người viết ngã chúi vào trong lề, đụng phải một bà ve chai đang gánh một gánh sách vừa đi từ cư xá Chu Mạnh Trinh ra. Cháu gái xin lỗi và nói cần chạy về gấp đưa mẹ cháu vô bệnh viện nên mới đụng phải. Người viết thấy mình không việc gì nên để cháu gái đó đi. Sau đó liền cúi xuống lượm sách bỏ lại vào thúng giúp bà ve chai. Khi bỏ mớ sách vào thúng, người viết đã chợt có cơ duyên tìm thấy nàng quý thư trong số mấy cuốn còn nằm lại trong đáy thúng. Thật là tuyệt vời, và người viết cảm thấy mình và nàng quý thư quả là được Hoàng Thiên se duyên nên mới “ngã chúi mũi vào nhau” như vậy! Sau khi năn nỉ bà ve chai nhận một số tiền nhỏ gấp đôi giá tiền bà đòi, người viết hí hửng ẵm nàng lên taxi về dinh. Sở dĩ phải năn nỉ vì giá tiền bà ve chai đưa ra quá hẻo, mà khi đưa hơn thì bà nói “bà không cần bồi thường vì sách chỉ rớt khỏi thúng chứ không hư hại gì”. Người viết cảm thấy bà ve chai nghèo này đáng kính trọng gấp ngàn lần những đứa đã giầu có nứt nố đổ vách… mà tham vẫn hoàn tham! Cuốn sách khổ 14 x 20 phân, dày gần 800 trang. Mang tựa đề là “Hết Đường Ảo Tưởng” (Illusions Perdues), người viết xin tạm dùng tựa đề này bằng tiếng Việt, trong khi nghĩa đen của mấy chữ “Illusions Perdues” là “Những ảo tưởng đã bị mất đi”, vì cuốn sách kể chuyện một kẻ thoạt tiên có rất nhiều ảo tưởng, nhưng sau mất sạch, nên “hết đường ảo tưởng” nữa.
Honoré de Balzac (1799-1850) là một đại văn hào Pháp mà người viết rất yêu thích. Ông có một cuộc sống rất ngắn ngủi, chỉ vỏn vẹn có 51 năm nhưng ông viết được 89 hay 90 cuốn tiểu thuyết cực hay trong bộ “Tấn Tuồng Đời” (La Comédie Humaine). Theo nhiều nguồn tin khác thì ngoài bộ sách bất hủ này ông còn một số tác phẩm khác, nhưng người viết chỉ thích bộ này mà thôi. Cuốn “Hết Đường Ảo Tưởng” này là một trong những cuốn văn hào Balzac viết để mô tả “Những Cảnh Đời Nơi Tỉnh Lẻ” (Scènes de la vie de province). Cuốn sách gần 800 trang được chia làm 3 đoạn: Đoạn đầu: Có bối cảnh là tỉnh nhỏ Angoulême và mô tả tình bạn giữa hai nhân vật Lucien Chardon và David Séchard là hai nhà thơ, và sau David Séchard thành anh em rể của Lucien. Là một nhà thơ trẻ, đầy tham vọng và đẹp trai, Lucien Chardon quyến rũ được bà vợ trẻ một quan chức, và cả hai rủ nhau bỏ tỉnh nhỏ để lên thủ đô Ba Lê (Paris) lập nghiệp, mang trong đầu óc không biết cơ man nào là ảo tưởng. Đoạn hai: Mô tả sự tan vỡ của mối tình và sự chia tay của đôi tình nhân cùng với đủ thứ thất bại, đủ nỗi đớn đau, của nhà thơ mang đầy tham vọng và ảo tưởng khiến anh “hết đường ảo tưởng”, phải trở lại tỉnh lẻ với vỏn vẹn 20 quan tiền trong túi là tiền được một kỹ nữ bố thí. Đoạn ba: Trở lại bối cảnh là tỉnh lẻ Angoulême và mô tả những thất bại nơi quê nhà, khiến nhà thơ trẻ lúc trước khi đi đ ầy tham vọng và ảo tưởng, nay thất bại trở về và đã “hết đường ảo tưởng” nên đã đi tới ý định tự vẫn cho xong đời, nhưng rất may là anh đã gặp được một nhân vật kỳ lạ, và rất độc đoán, giả dạng là một tu sĩ, đã cứu và hứa sẽ giúp anh thành công nếu lại theo ông ta lên th ủ đô trở lại. Dưới tựa đề “Hết Đường Ảo Tưởng” còn thấy ghi mấy chữ “Nghiên cứu phong tục thế kỷ thứ 19”. Người viết thực sự ái mộ đại văn hào Balzac, vì trong thời tuổi trẻ đã từng bỏ ra cả mấy năm trời để đọc được gần nửa bộ Tấn Tuồng Đời, để khi đọc xong, thì cảm thấy như là mình đã được đại văn hào cho đọc cả một giáo trình về các khía cạnh khác nhau của cuộc sống, để vào đời với khá nhiều kinh nghiệm giúp mình hiên ngang đối mặt với cuộc sống. Đại văn hào Balzac tuyệt vời ở chỗ, với một cuộc sống ngắn ngủi chỉ có vỏn vẹn 51 năm mà ông đã viết quá nhiều, và thuộc nhóm những văn hào thế giới có nhiều tác phẩm để đời nhất. Nói tới ông, có th ể nói người Pháp nào, già cũng như trẻ đều biết tới, chẳng khác chi cụ Nguyễn Du ở nước mình. Thậm và chí, là người Việt, mà người viết còn biết là đại văn hào của mình đã có lúc quên bẵng hẳn đức khiêm tốn khi có câu nói sau đây: “Mọi người hãy chào mừng Ta đi, vì đơn giản là Ta đang trên đường trở thành một thiên tài!” (Saluez-moi, je suis tout bonnement en train de devenir un génie)… Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI VŨ ANH TUẤN CHUNG MỘT TÌNH YÊU THƠ MI-SKI-Ê-VICH(1) Hình ảnh nhà thơ Vũ Đình Liên vào những năm cuối đời thường mang theo cái cặp căng phồng bản thảo, tài liệu, lụi hụi đi trên đường phố Bà Triệu hay dọc theo đường sắt đối diện công viên Lê-nin… làm tôi lại nhớ đến câu chuyện nhà thơ – dịch giả Nga Xô-viết có tiếng I-a-kốp Cô-dlôp-xki có lần đã kể về một ông già Nga ở thế kỷ XIX: “Bấy giờ là những năm 70 thế kỷ trước. Ở công viên Mùa hè (Pê-tec-bua), nơi đã có một thời nào đó người ta thường dẫn cậu bé Ô-nhê-ghin (nhân vật tác phẩm Ep-ghê-nhi Ô-nhê-ghin của A.Pu-skin) dạo chơi, vào đầu mùa thu, gần như sáng nào cũng xuất hiện một con người kỳ cục cắp cái cặp căng phồng. Người ấy lẩm bẩm điều gì đó một mình, bước thong thả trên thảm lá vàng lạo xạo, đôi khi dừng lại lấy cuốn sổ ghi chép ra và sau khi ngồi xuống ghế băng trong vườn, lúi húi ghi ghi chép chép điều gì đó. Đối tượng đầu tiên chú ý tới con người ấy chính là cảnh sát, nhưng khi xác định được “nhân thân” của người ấy thì cảnh sát lại đâm ra bối rối ngỡ ngàng, bởi vì đó chẳng phải ai khác mà chính là vị nguyên lão Ni-kô-lai Pê-trô-vich Xê-mi-ê-nốp(2), một nhà hoạt động nhà nước có tên tuổi, cựu Tổng chưởng lý, một trong những người ủng hộ cuộc cải cách giải phóng nông nô. Những đôi tai dài và thính của cảnh sát nhanh chóng nắm bắt được là ngài Xê-mi-ô-nốp đến công viên Mùa hè ngâm vịnh thơ. Khi được báo cáo về việc này Bộ trưởng Nội vụ Sa hoàng thực sự lo lắng: - Liệu Ni-kô-lai Pê-trô-vich đáng kính có được khỏe không đấy? Sự thể là ngài Xê-mi-ô-nốp đến công viên Mùa hè để dịch thơ Mi-ski-ê-vich, thi hào dân tộc Ba Lan, ngọn cờ của tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc. Vào đầu những năm 60 Lit-vi-a, lúc đó nằm trong đế chế Sa hoàng Nga, đang bao trùm cơn lốc cách mạng. Chính thời điểm này N.P.Xê-mi-ô-nốp được cử đến Vin-na làm chưởng lý tỉnh này. Ông bắt đầu phận sự của mình từ việc thanh tra nhà tù địa phương. Trong số tù nhân bị giam cầm trong các xà lim có mấy thanh niên người Ba Lan bị quy tội hoạt động cách mạng. Một trong số họ bị kết án tử hình. Khi vào xà lim của người ấy, ngài Xê-mi-ô-nốp đã ngạc nhiên bởi thấy người tử tù hoàn toàn bình thản, tươi tỉnh và minh mẫn, đang ngâm vịnh thơ ca. Ngài Xê-mi-ô-nốp hỏi chàng trai xem có mong muốn gì trước khi bị hành quyết, anh thanh niên Ba Lan bình tĩnh trả lời: “Nếu có thể được, thưa ngài chưởng lý, xin ngài hãy ra lệnh mang vào cho tôi một tập thơ Mi-ski-ê-vich. Tôi rất muốn được đọc lại thơ của Người trước khi ra đi”. Ngài Xê-mi-ô-nốp đã ra lệnh lập tức thỏa mãn yêu cầu của người tử tù. Xúc động bởi tình yêu của chàng trai đối với thơ Mi-ski-ê-vich, ông đã đề nghị lên quan thống đốc hoãn việc thi hành án. Với lý do phải thẩm vấn thêm một số việc, ngài Xê-mi-ô-nốp hầu như ngày nào cũng vào thăm anh thanh niên Ba Lan. Hẳn đó là duyên số chăng, bởi lẽ chẳng bao lâu chính ngài Xê-mi-ô-nốp cũng yêu say đắm thơ Mi-ski-ê-vich, chẳng khác gì tình cảm của chàng chiến sĩ khởi nghĩa người Ba Lan đối với nhà thơ vĩ đại của dân tộc mình. Ngài Xê-mi-ô-nốp bắt đầu học tiếng Ba Lan để đọc Mi-ski-ê-vich trong nguyên bản. Cuối cùng chàng thanh niên Ba Lan được giảm án, không bị hành quyết. Để làm được việc đó ngài chưởng lý Xê-mi-ô-nốp đã sử dụng mọi mối quan hệ trong giới quan trường của mình, vắt óc vận dụng mọi sáng tạo pháp lý. Ni-cô-lai Pê-trô-vich Xê-mi-ô-nốp đã được hưởng một niềm hạnh phúc song đôi:ông đã làm bớt đi được một cái án tử hình, còn bản thân ông lại được sung sướng suốt đời tiếp cận với thơ của Mi-ski-ê-vich. Ngài Xê-mi-ô-nốp bắt đầu dịch thơ của Mi-ski-ê-vich sang tiếng Nga. Ông dịch âm thầm, giấu kín mọi người. Chỉ có một người duy nhất biết chuyện này – đó là viện sĩ viện Hàn lâm khoa học Nga la.K.Grốt(3), lấy em gái của Ni-cô-lai Pê-trô-vich Xê-mi-ô-nốp – cô Na-ta-li Pê- trốp-na. Mãi đến năm 1869 trở thành nghị sĩ nguyên lão viện, ngài cựu chưởng lý mới cho đăng chùm thơ Xô-nê Crưm của Mi-ski-ê-vich do ông dịch trên tạp chí Zaria (Bình Minh), cũng trên tạp chí này muộn hơn một chút ông cho đăng bản dịch một số chương trong trường ca Côn-rat Van-len-rốt của Mi-ski-ê-vich. Năm 1876 ông chủ xuất bản M. Vôn-phơ cho công bố trên báo Gôlôx (Tiếng nói) thông báo ý định của Nhà xuất bản cho tuyển tập tác phẩm của Mi-ski-ê-vich và để làm việc đó ông đang thu thập các tác phẩm thơ của Mi-ski-ê-vich đã được dịch sang tiếng Nga và công bố từ trước đến bấy giờ. Sau khi có thông báo, ngài N.P. Xê-mi-ô-nốp đã tìm đến văn phòng của M.Vôn-phơ. Ông chủ xuất bản vô cùng ngạc nhiên khi Xê-mi-ô-nốp cho biết ông đã dịch thơ Mi-ski-ê-vich. Khối lượng bản dịch của Xê-mi-ô-nốp rất lớn, một số ông đã công bố trên báo chí, có điều ông không ký đầy đủ tên họ, mà chỉ viết tắt mấy chữ cái đứng đầu. Vì vậy cho đến lúc này người dịch vẫn hoàn toàn là bí mật đối với người đọc. Năm 1885, N.P. Xê-mi-ô-nốp cho xuất bản tuyển tập các bản dịch thơ Mi-ski-ê-vich của mình. Ông chỉ đưa vào tuyển tập những bản dịch được lựa chọn hết sức khắt khe, có chất lượng nghệ thuật cao nhất. Còn lại ông đã đốt đi hết. Tập thơ dịch của N.P Xê-mi-ô-nốp năm 1886 đã nhận được giải thưởng văn học Pu-skin của Viện Hàn lâm khoa học Nga. Thúy Toàn (1) Mi-ski-ê-vich A-đam (Mixkiewiez 1798-1855) nhà thơ lớn, nhà hoạt động phong trào giải phóng dân tộc Ba Lan, ông tổ chủ nghĩa lãng mạn Ba Lan. (2) N.P. Xê-mi-ô-nốp (1823-1904) – Nhà hoạt động Nhà nước Nga, thuộc nhóm “Các nhà bảo thủ tự do”. Tham gia cuộc cải cách nông dân 1961. (3) la.K.Grốt (1812-1893) – Nhà ngữ văn học, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga (1856) SÁCH - Tình Yêu của tôi Câu Lạc Bộ Sách Xưa & Nay kỷ niệm 10 năm thành lập: 2006-2016. 10 năm một chặng đường bình yên êm ả của những tâm hồn đồng điệu, yêu sách, sưu tầm sách, yêu văn chương, mê đắm thơ ca. 121 số Bản Tin như 121 lần hò hẹn, CLB Sách Xưa & Nay là nơi chốn thân thiện, vui vẻ, chan hòa, thân ái; mỗi thành viên đến với CLB là đến bằng trái tim, bằng trí tuệ để tìm niềm vui, tìm cho mình một tri thức vô tận của văn hóa đọc. Dù là chuyên nghiệp hay là ngòi bút tự do đều được thỏa sức sáng tác thơ truyện, sưu tầm các vấn đề văn hóa. CLB tặng Bản Tin cho các thành viên, mà không đóng một đồng hội phí nào cả, Ông Chủ Nhiệm “bao đọc” “bao viết” từ A đến Z. Lm. Nguyễn Hữu Triết là chủ nhà, cho CLB mượn phòng họp rộng rãi, đãi các thành viên đến dự họp một loại trà là đặc biệt thơm ngon, nóng hôi hổi vừa thổi vừa uống, ai cũng thích. Lm. Triết đạo mạo đúng như chức vị của mình, trong giao tiếp với các thành viên, ông rất tao nhã, trò chuyện vui vẻ với mọi người, giản dị, hòa đồng với tập thể. Một nhân cách đáng nể phục. Lm. Nguyễn Hữu Triết ngoài vai trò cố vấn cho CLB, ông viết nhiều bài cho Bản Tin về đề tài Công Giáo được mọi người đón nhận. Ông Vũ Anh Tuấn Chủ nhiệm CLB Sách Xưa & Nay, một trí thức, dịch giả đa năng, đa tài, đào hoa, lịch lãm, tính tình vui vẻ phóng khoáng, ăn nói có duyên pha chút hóm hỉnh… ông đã quy tụ được vào CLB của mình nhiều nhà văn, nhà thơ, dịch giả có tiếng tăm trên văn đàn. Chủ nhiệm Vũ Anh Tuấn có nhiều truyện ngắn như Hảo Mộng, Bạn Tôi, Hồi ký 60 năm chơi sách v.v… rất độc đáo, văn phong mang một dấu ấn rất riêng, đọc là biết của Vũ Anh Tuấn. Rất may mắn, tôi được quen biết Lm. Nguyễn Hữu Triết, Dịch giả Vũ Anh Tuấn tròn mười năm, tham gia là thành viên CLB Sách Xưa & Nay. Tôi nghĩ “duyên nghiệp văn chương” của mình nẩy mầm nở hoa từ đây. Hai quyển sách “Điều kỳ diệu của tình yêu”, “Sầu Riêng” được xuất bản, những độc giả đầu tiên là Chủ nhiệm Vũ Anh Tuấn, chị Tâm Nguyện, anh Hà Mạnh Đoàn và các thành viên CLB. CLB đã giới thiệu sách và viết bài cảm nhận, tôi rất xúc động và vui, niềm vui khó tả được thành lời, là niềm cổ vũ lớn lao, niềm động viên tinh thần quý giá, giúp tôi tự tin hơn trên con đường văn chương. Anh Hà Mạnh Đoàn, thư ký CLB Sách Xưa & Nay, là người chủ lực không thể thiếu của Bản Tin, anh là người yêu sách sưu tầm sách. Được họp, sinh hoạt CLB, làm việc với anh, tôi rất tin tưởng, anh có trách nhiệm, tận tụy chu đáo với công việc mình đảm trách, trình độ dàn trang trình bày bài ở của Bản Tin rất có nghệ thuật, đẹp. Anh Hà Mạnh Đoàn viết nhiều đề tài, nhiều bài viết có giá trị: “Đồi thông hai mộ”, “Hàn Mặc Tử”, “Nữ sĩ Tuệ Mai”, “Những kỷ niệm về nhà thờ Đức Bà” v.v… Còn rất nhiều thành viên khác đã không nề hà công sức sáng tác đóng góp nhiều bài vở… Riêng với chị Tâm Nguyện, từ ngày quen biết nhau trong CLB Sách Xưa & Nay, tôi rất quý chị. Tôi là người ngoại đạo, đọc các bài viết của chị về Phật giáo, đọc các sách về kinh Phật của chị đã xuất bản, giúp cho tôi mở rộng tri thức về một đề tài mới lạ bao la. Tôi nhớ có một lần hỏi một Sư thầy câu kinh “Yết đế, yết đế ba la yết đế” dịch nghĩa là gì? Sư thầy bảo không biết. Khi chị Tâm Nguyện tặng sách “Sáu cửa vào động thiếu thất” của Bồ Đề Đạt Ma (Như Tâm Nguyện lược giải, Nxb Tôn giáo 2015), tôi hiểu nghĩa câu trên là “Cứ đi, cứ đi, đi nhanh hơn mà qua bên kia bờ”. Từ đó tôi ngộ ra nhiều điều, “Phải chăng khi người đời không còn đối đầu, thù nghịch, tranh giành với nhau, mà chỉ còn tình yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, thì tất cả sẽ được sống an lành và hạnh phúc cho hết kiếp trên hành tinh xanh này. Đó không chỉ là mục đích của đạo Phật mà cũng là mục tiêu của tất cả tôn giáo chân chính và những con người văn minh tiến bộ vậy”. Tâm Nguyện. Thơ thiền, Phật ngôn và thơ đời. Sách góp nhặt quanh đời… Cảm ơn chú Vũ Anh Tuấn, chị Tâm Nguyện, anh Hà Mạnh Đoàn, chị Từ Nguyên đã nhiều lần đến nhà thăm viếng, động viên trong lúc tôi gặp khó khăn, bệnh… CLB đã cho tôi một tình cảm được chia sẻ, giúp đỡ, nặng tình nghĩa của người thân, gia đình. Chị Tâm Nguyện viết trong bài cảm nhận sách: “Vâng, chúng ta sẽ cùng đợi chờ với tác giả, biết đâu một ngày nào đó ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU sẽ xảy ra?”. Tôi cảm động, nghĩ chị Tâm Nguyện lo lắng cho mình như một cô em gái. Nhân bài viết này xin được bộc bạch: “Dù cuộc sống đơn độc một mình, năm tháng đã trôi qua, đã đi đến cuối mùa thu của cuộc đời, cùng tình yêu ở lại với tôi, duy nhất là được tự do trong thế giới của riêng mình, đọc sách là niềm vui, viết là hạnh phúc. Vâng, Sách-Tình yêu của tôi”. Kỷ niệm 10 năm thành lập CLB Sách Xưa & Nay, xin kính chúc tất cả các thành viên luôn “Trẻ mãi không già”, tích cực tham gia CLB, ngòi bút mãi mãi tuôn trào “nhả ngọc, phun châu” đem niềm vui đến cho chính mình, cho mọi người. HUỲNH THIÊN KIM BỘI Tháng 6 năm 2016 THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ “CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG” Bản dịch của L inh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh (Tiếp theo số 120) VI. SỰ YẾU KÉM CỦA CÁC PHẢN ỨNG 53. Những hoàn cảnh này gợi lên tiếng rên siết của chị trái đất, liên kết với các tiếng rên siết của những kẻ bị bỏ rơi trên trái đất, trong tiếng khóc than yêu cầu chúng ta chuyển đi một hướng khác. Không bao giờ chúng ta lại đối xử tàn tệ và làm thương tổn ngôi nhà chung của chúng ta như trong hai thế kỷ qua. Nhưng chúng ta đã được kêu gọi để thành khí cụ của Thiên Chúa, Cha của chúng ta, để hành tinh của chúng ta được trở nên như ước muốn của Người khi Người sáng tạo nên nó, và đáp ứng được dự kiến hòa bình, đẹp đẽ và tràn đầy. Vấn đề là chúng ta chưa có thứ văn hóa cần thiết để đối mặt với cơn khủng hoảng này; cần phải tạo nên một nhóm lãnh đạo leaderships , để vạch con đường trong lúc tìm cách đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại gồm trọn tất cả mọi người, mà không gây nguy hại cho các thế hệ đang đến. Cần phải tạo một hệ thống pháp lý, cho thấy các ranh giới không vượt lên và bảo đảm việc bảo vệ hệ thống môi sinh, trước khi có những hình thức quyền lực, dựa vào mô mẫu kinh tế - kỹ thuật, cuối cùng phá tan không những chính trị, nhưng cả sự tự do và công bằng. 54. Người ta thấy rõ sự yếu kém về mặt phản ứng chính trị toàn cầu. Chính trị phải tùng phục kỹ thuật và vấn đề tài chính, điều này cho thấy trong sự thất bại của cả thế giới về vấn đề môi trường. Có quá nhiều lợi lộc kinh tế riêng tư, và cũng dễ dàng nhằm vào lợi lộc kinh tế, đưa đến người nắm quyền đánh giá cao ích lợi chung và khuynh đảo những thông số để không ảnh hưởng gì đến những chương trình riêng của họ. Theo nghĩa này, Tài Liệu Aparecida, đòi buộc “khi khai thác các tài nguyên tự nhiên, không được phép chỉ nhắm đến lợi ích các nhóm kinh tế, họ chỉ tàn phá một cách bất hợp lý các nguồn sống”[32]. Sự liên kết giữa kinh tế và kỹ thuật sẽ bỏ qua tất cả những gì không dính dáng đến lợi ích trực tiếp của họ. Như thế, người ta chỉ nghe những tuyên bố hời hợt, vài hành động đơn độc giả hình và cả những cố gắng cho thấy họ cũng chú tâm đến môi trường, nhưng trong thực tế, cố gắng tổ chức xã hội như thay đổi sự vật, chỉ gây khó chịu do các ảo tưởng lãng mạn hay như một sự ngăn cản phải đối mặt. 55. Dần dần một số quốc gia cũng có thể minh chứng những bước tiến có ý nghĩa, phát triển các kiểm soát có hiệu quả và một sự chiến đấu đích thực chống lại sự hủy hoại. Có nhiều cảm nghiệm về mặt môi sinh trong quần chúng, nhưng cũng không đủ để thay đổi các thói quen tiêu thụ có hại, không phải loại bỏ, nhưng phổ biến và triển khai. Để đưa ra một tỉ dụ đơn sơ, việc sử dụng các máy lạnh ngày càng tăng và nhiều hiệu năng hơn. Các thị trường hưởng lợi trực tiếp, càng kích thích những yêu cầu này. Nếu có ai đứng bên ngoài chú ý đến dân chúng trên trái đất này, sẽ rất kinh ngạc vì thái độ này, vì cho đến bây giờ thái độ này bị xem như một thứ tự tử. 56. Trong thời gian qua, các quyền lực kinh tế tiếp tục hợp pháp hóa hệ thống toàn cầu hiện tại, bằng cách nêu lên một định hướng và một cố gắng theo lợi nhuận tài chính để làm quên đi hiện trạng cũng như hậu quả trên phẩm giá con người và môi trường. Như thế rõ ràng, việc làm ô nhiễm các điều kiện môi trường và ô nhiễm trên bình diện nhân phẩm và đạo đức, liên kết mật thiết với nhau. Nhiều người nói rằng, họ không ý thức việc làm của họ vô đạo đức, vì việc phủ nhận giúp chúng ta can đảm nhìn thực tại trong một thế giới bị hạn hẹp chóng qua. Vì thế mà ngày nay “tất cả những gì yếu đuối cũng như môi trường không có gì tự vệ để chống lại lợi ích của thị trường, được thần thánh hóa, trở thành lề luật tuyệt đối”[33]. 57. Có thể thấy trước rằng, đối diện với việc làm cạn kiệt một số tài nguyên, sẽ đưa đến một hoàn cảnh, dễ dàng tạo ra chiến tranh, giấu mặt dưới sự yêu sách cao thượng. Chiến tranh sẽ gây biết bao tai họa nặng nề cho môi trường cũng như cho sự phong phú về mặt văn hóa của dân chúng, và nguy cơ sẽ gia tăng khủng khiếp, khi người ta nghĩ đến các khí giới hạt nhân và sinh học. Vì “dù các thỏa thuận toàn cầu đã có việc nghiêm cấm các loại chiến tranh hoá học, vi khuẩn và sinh học, nhưng thực sự, trong các phòng thí nghiệm người ta vẫn tiếp tục tìm kiếm chế tạo các vũ khí tấn công mới, có thể thay đổi sự quân bình tự nhiên”[34]. Về mặt chính trị, cần phải có một sự chú ý đặc biệt trong mọi hoàn cảnh để thấy trước và giải quyết các xung khắc mới. Thế nhưng, quyền lực liên kết với hệ thông kinh tế, thì những cố gắng đáng được mơ ước, sẽ làm cho các chương trình chính trị không thể nào đi xa được. Tại sao ngày nay người ta lại muốn giữ một quyền lực, mà người ta đã thấy sự bất lực của nó trong quá khứ, để can thiệp khi tình trạng khẩn cấp và cần thiết? 58. Trong một số nước, có nhiều tấm gương tích cực trong việc làm tốt môi trường. Như việc làm sạch một số sông bị ô nhiễm trong nhiều thập kỷ, hay trồng lại các cánh rừng địa phương hay làm đẹp các cánh đồng nhờ các công tác làm sạch môi trường hay những dự án xây dựng nhà cửa với nhiều giá trị thẩm mỹ hay phát triển trong việc sản xuất năng lượng không gây ô nhiễm, làm tốt các phương tiện giao thông và các việc khác nữa. Các hoạt động này chưa giải quyết được vấn đề toàn cầu, nhưng dù sao cũng cho thấy, con người có khả năng can thiệp cách tích cực. Con người được tạo dựng để yêu, giữa các hạn hẹp của mình, cũng có thể đưa đến các cử chỉ quảng đại, liên đới và chăm sóc. 59. Nhưng đồng thời, một khoa sinh thái bề ngoài và hời hợt, chỉ giúp cho sự vô trách nhiệm và dửng dưng. Trong những giai đoạn khủng hoảng lớn lao, đòi hỏi phải có những quyết định can đảm, chúng ta lại nghĩ rằng những gì đang xảy ra thì không rõ lắm. Nếu như chúng ta chỉ nhìn các sự vật theo bề ngoài, qua những dấu chỉ khả giác về ô nhiễm và suy thoái, thì có cảm giác là các dấu chỉ này không trầm trọng mấy và hành tinh có thể tồn tại lâu dài dưới những điều kiện hiện nay. Thái độ thoái thác này cho phép chúng ta tiếp tục vẫn giữ được lối sống cũng như thói quen sản xuất và tiêu thụ. Đó là cách con người cho tất cả đều tốt đẹp, nhưng lại gây thêm những gánh nặng tự hủy hoại chính mình: con người cố không nhìn thấy tình trạng đó, không công nhận, không đưa ra những quyết định quan trọng, cứ xem như không có gì quan trọng đang diễn ra. VII. NHỮNG Ý KIẾN KHÁC BIỆT 60. Cuối cùng, chúng ta nhận ra rằng có nhiều cách nhìn và đường hướng suy tư triển khai để đi đến những cách giải quyết khả thể. Một mặt, nhiều người đại diện kiên định với huyền thoại phát triển và cho rằng, vấn đề môi sinh có thể giải quyết một cách đơn sơ với những chương trình kỹ thuật mới, không màng đến đạo đức và những thay đổi căn bản. Mặt khác, người ta cho rằng, con người chỉ gây thêm tổn hại với sự can thiệp của mình và ảnh hưởng đến hệ thống môi sinh toàn cầu. Vì thế, phải thu hẹp sự hiện diện của con người trên hành tinh này và ngăn cấm mọi thứ can thiệp. Giữa hai thái cực này, phải suy nghĩ đến những kịch bản khả thể trong tương lai, vì không phải chỉ có một cách giải quyết duy nhất. Điều này mở ngõ cho nhiều tranh luận khác nhau, có thể đi đến đối thoại hướng vào những câu trả lời trọn vẹn. 61. Về những vấn nạn cụ thể, trên nguyên tắc, Giáo Hội không có lý do để đề nghị một giải đáp dứt khoát và Giáo Hội hiểu, phải biết lắng nghe, sau đó đề nghị một cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học, nhưng phải luôn tôn trọng các ý kiến khác biệt. Chỉ cần nhìn thực tại cách thành thật để thấy ngôi nhà chung của chúng ta đang bị hủy hoại. Hy vọng mời gọi chúng ta nhận ra, vẫn còn có lối thoát, vẫn luôn có khả năng xác nhận hướng đi cách mới mẻ, vẫn có khả năng làm một điều gì đó để giải quyết vấn đề. Dù vậy, nhiều hiện tượng của một sự gãy đổ do vận tốc thay đổi và hư hoại thật lớn lao đã được nhận ra trong các tai họa thiên nhiên theo từng vùng cũng như khủng hoảng xã hội hay cả về mặt tài chánh, vì vấn đề thế giới không thể nào phân tích hay tách rời cách đơn độc. Nhiều vùng đang gặp nguy hiểm đặc biệt, và không cần nhìn đến những dự đoán các tai họa, cho thấy hệ thống toàn cầu hiện hành dưới nhiều phương diện không còn có thể chấp nhận được nữa, vì chúng ta đã không suy nghĩ đến mục đích hoạt động của con người: “Khi chúng ta nhìn vào nhiều vùng khác nhau trên hành tinh, thật đau buồn để nhận ra rằng, nhân loại đã làm hỏng các sự chờ đợi của Thiên Chúa”[35] . CHƯƠNG HAI TIN MỪNG VỀ SỰ SÁNG TẠO 62. Tại sao, trong bản văn được gởi đến cho tất cả mọi người có thiện chí, lại có một chương nói về xác tín của niềm tin? Tôi biết rõ rằng, trong lãnh vực chính trị và suy tư, một số người mạnh mẽ phủ nhận ý tưởng về Đấng Sáng Tạo hay xem đó là không quan trọng, hay chỉ được xem là phong phú cho các tôn giáo khi nói về môi sinh cách trọn vẹn và một sự phát triển nhân loại mà thôi. Trong những trường hợp khác, người ta xem các tôn giáo chỉ là một thứ văn hóa thấp kém (Subkultur – sous-culture), tạm chấp nhận. Thêm nữa, khoa học và tôn giáo đưa ra những tiếp cận rất khác biệt về thực tại, có thể bước vào một cuộc đối thoại năng động và hữu ích cho cả hai phía. I. ÁNH SÁNG DO NIỀM TIN MANG ĐẾN 63. Khi chú tâm vào sự đa dạng của cơn khủng hoảng môi trường và các nguyên nhân muôn mặt của nó, chúng ta phải công nhận, các giải pháp không thể đến từ một con đường duy nhất do việc giải thích thực tại và thay đổi chúng. Cần phải có sự hỗ trợ của nhiều văn hóa phong phú, nghệ thuật và thi ca của các dân tộc về cuộc sống nội tại và cả tinh thần, Nếu chúng ta thật sự muốn gầy dựng một môi trường sinh thái, tái lập lại những gì chúng ta đã hủy hoại, thì không được phép bỏ qua những ngành khoa học và các hình thức khôn ngoan, ngay cả tôn giáo cũng như ngôn ngữ tôn giáo. Về mặt này, Giáo Hội Công Giáo đã mở ra những cuộc đối thoại với các tư tưởng triết học, nhờ đó đã đưa đến các tổng hợp khác nhau giữa lý trí và niềm tin. Những gì đụng chạm đến vấn đề xã hội, cũng có thể tìm thấy trong quá trình phát triển Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội; giáo huấn này luôn mời gọi phải luôn được làm phong phú dựa vào những đòi hỏi mới mẻ. 64. Mặt khác, dù Thông Điệp này khai mở một cuộc đối thoại với tất cả mọi người để cùng nhau tìm con đường giải thoát chung - ngay từ đầu, Tôi xin đưa ra những xác tín của niềm tin cho các Kitô hữu và phần đông những người tin thuộc các tôn giáo khác, những động lực quan trọng để chăm sóc thiên nhiên và các anh chị em yếu đuối nhất. Duy chỉ sự kiện làm người, cũng thúc đẩy con người phải chăm sóc thiên nhiên mà chúng ta là thành phần của chúng, “đặc biệt, các Kitô hữu […] biết rõ rằng bổn phận của họ ở giữa thiên nhiên và trách nhiệm của họ đối với thiên nhiên và với Đấng Sáng Tạo là thành phần căn bản cho niềm tin của họ”[36]. Vì thế, một điều tối lành cho nhân loại và cho thế giới là chúng ta, những kẻ tin, biết rõ những việc dấn thân cho môi sinh phải xuất phát từ xác tín của chúng ta. (còn tiếp) (Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)
Phụ Bản I ĐẠO PHẬT KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO MÀ CHỈ LÀ MỘT PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC (Công trình nghiên cứu của Tâm Nguyện) Nhiều người cho rằng khó mà định nghĩa cho chính xác về hai từ TÔN GIÁO. Nhưng theo tôi, dù định nghĩa, giải thích cách nào thì cuối cùng Tôn Giáo nào cũng có Ba thứ không thể thiếu, là GIÁO CHỦ, GIÁO PHÁP và TÍN ĐỒ. Hầu hết các Tôn Giáo đều xây dựng Giáo Pháp nhằm tôn vinh Giáo Chủ. Theo đó, Giáo Chủ toàn quyền quyết định vận mạng cho tín đồ. Mọi sự thưởng, phạt đều do thực hành đúng hay không đúng những giáo điều đã được ban ra. Trong khi đó, xem kỹ lại toàn bộ Giáo Pháp và những việc mà Tín đồ của Đạo Phật phải thực hiện cũng như kết quả cuối cùng, thì Đạo Phật không đưa đến việc tôn vinh Giáo Chủ. Tất cả những điều cần phải thực hành không nhằm mục đích phụng sự, tôn sùng Giáo Chủ, hay vì kinh sợ bị trừng phạt, mà chỉ nhằm lợi ích cho chính người thực hiện. Cuối cùng thì người theo Đạo Phật dù được hướng dẫn bằng đủ thứ cách thức: Nói Quả Vị. Nói Niết Bàn hay các Nước Phật, Chư Phật, Chư Bồ Tát, 32 Tướng Tốt của Phật. Nói rằng tu Phật là để đắc Quả Vị, để thành Phật v.v… nhưng tất cả chỉ là phương tiện để dẫn dụ người hành trì trở thành một con người hoàn chỉnh qua những việc: Biết kính yêu cha mẹ. Yêu thương xã hội đất nước để đền trả công ân dưỡng dục, cưu mang mình. Tôn sư, trọng đạo. Giúp đỡ bạn bè và yêu thương tất cả mọi loài biết sống. Tin sâu Nhân Quả để có cuộc sống lành mạnh. Luôn giữ gìn THÂN, KHẨU và Ý để chẳng những không xâm phạm, không làm tổn hại ai bằng lời nói, hành động, mà ngay cả Ý tưởng cũng phải thanh tịnh, ngay chính. Kết quả là để người thực hành được an vui, hạnh phúc trong kiếp sống. Nếu có tái sinh cũng sẽ được về nơi tốt đẹp. Cho nên phân tích cho kỹ thì Đạo Phật không phải là một Tôn Giáo, mà chỉ là một Phương Pháp giáo dục siêu đẳng cho con người bằng nhiều phương tiện mà thôi. Xin lần lượt chứng minh sau đây. Trước hết, xin nêu ra một thí dụ điển hình cho Tôn Giáo là Thiên Chúa Giáo. Dù không có nghiên cứu sâu về Đạo này, nhưng theo tôi được hiểu thì Thiên Chúa Giáo xây dựng trên Niềm Tin. Tín đồ được dạy để tin rằng Giáo chủ của mình không phải người phàm, mà là Thượng Đế, là một trong Ba Ngôi từ trời giáng thế. Chính Ngài đã tạo ra toàn thể vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, các vì sao và trái đất, trong đó có loài người và các loại cầm thú. Ngài cũng là người cầm nắm, điều hành vận mạng, quyết định mọi sống, chết, phúc, họa, an, nguy của mọi loài. (Một sợi tóc trên đầu con rụng xuống cũng là do ý Chúa). Ông A Dam và Bà Eve là hai con người đầu tiên do Thượng Đế tạo dựng, từ đó mà sinh sôi, nảy nở cho đến nay. Tín đồ được dạy phải tôn thờ vị Giáo Chủ và hoàn toàn vâng phục “Sống chết thế nào mặc thửa ý Chúa phân định”. Giáo Pháp của Thiên Chúa Giáo thì có hai Bộ: Cựu Ước và Tân Ước để nói về những giao kết giữa Thượng Đế và con người. Giới của Thiên Chúa Giáo gồm có 10 Điều Răn của Chúa và Sáu Điều Răn Hội Thánh. Người nào biết Kính thờ Thượng Đế và yêu thương người khác, không phạm tội thì khi chết được thưởng về Thiên Đàng đời đời. Nếu phạm tội mà biết ăn năn thì sẽ được tha. Ngược lại thì bị phạt xuống Địa Ngục đời đời kiếp kiếp. Đó mới thật sự là một Tôn Giáo, vì vị Giáo Chủ tạo dựng, và toàn quyền định đoạt cho số phận của Tín Đồ. Tín Đồ chỉ việc Tin và sống theo Giáo Pháp để được ban ân khi sống và khi chết được rước về Thiên Đàng. Trong khi đó thì Giáo Chủ của Đạo Phật là Đức Thích Ca, là một con người hoàn toàn bình thường như tất cả mọi người. Ngài là Thái Tử sắp nối ngôi, con của một vị Vua của một nước nhỏ ở Ấn Độ. Có vợ và 1 con trai. Vì thấy nỗi Khổ đè nặng trên kiếp sống của con người, nên rời bỏ ngai vàng, cung điện, vợ con để đi tìm cách GIẢI THOÁT khỏi những nỗi Khổ đó. Sự “Đắc Đạo” của Ngài không phải là học được một thứ quyền năng cao siêu để cứu cho nhân loại khỏi Khổ, mà chỉ là khám phá được nguyên nhân và cách thức để THOÁT KHỔ. Người muốn Thoát Khổ phải tự mình hành trì, không ai có thể làm giúp cho ai được, nên Đạo Phật còn gọi là TỰ ĐỘ. Sau khi thấy được cách thức thì Đức Thích Ca đã dành hẳn cuộc sống cho đến cuối đời để hướng dẫn lại cho Đệ Tử và tất cả những ai có cùng mong muốnThoát Khổ. Tất cả các việc hành trì cũng như kết quả đều được diễn ra tại cảnh sống hiện tại, không chờ đến kiếp sau. Dù vậy, nếu có kiếp sau hay cuộc đời bên kia thế giới thì do những điều tốt đẹp đã thực hiện, Tín Đồ của Đạo Phật cũng sẽ được đến những cảnh giới tốt đẹp, không bị đọa vào cảnh Khổ. Hầu hết các Tôn giáo đều buộc Tín Đồ phải Tin vào Giáo Pháp, không được thắc mắc, vì cho rằng người phàm không đủ trí tuệ để hiểu những điều sâu xa của đấng bề trên. Trong khi đó, Đạo Phật không những không buộc tín đồ phải Tin, mà còn dạy VĂN-TƯ-TU, tức là khi NGHE điều gì đó về Đạo thì phải suy nghĩ, tìm hiểu cho rõ (TƯ DUY) rồi mới TU (SỬA hay thực hành). Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN viết: “Ngay đối với lời của Như Lai, nếu có lòng nghi ngờ thì cũng không nên thọ trì”. Đạo Phật cũng không nói về Thượng Đế, Thần Linh. Không hứa hẹn thưởng, phạt, mà cho rằng mỗi người tự làm, tự hưởng hay chịu kết quả việc của mình đã làm theo một quy luật gọi là NHÂN QUẢ. Giáo Pháp của Đạo Phật cũng chỉ để hướng dẫn cho con người cách nhận thức, ứng xử, để giải quyết cuộc sống hiện tại một cách tốt đẹp, đưa đến an vui, hạnh phúc. Không chỉ có thế, chính nhờ được khuyên không Làm Ác, chỉ Hành Thiện, nên kiếp sau nếu có, lại càng tốt đẹp hơn lên. Do mỗi người được tự thực hành để đạt đến kết quả nên gọi là TỰ ĐỘ. Do dùng Lý Nhân Quả để hướng dẫn cho tín đồ, nên Đạo Phật còn được gọi là ĐẠO NHÂN QUẢ. Giáo Lý của Đạo Phật. Đạo Phật ra đời do nhìn thấy những nỗi đau khổ Sinh, Lão, Bệnh, Tử đè nặng trên cái Thân của con người. Đạo Phật cho rằng cuộc đời là KHỔ. Có Thân là có Khổ. Nhưng đã có mặt ở cuộc đời rồi thì dù muốn dù không cũng phải sống cho đến hết kiếp. Vì thế, Giáo Pháp của Đạo Phật giải thích về Nỗi Khổ của kiếp sống, và đưa ra cách thức để giải quyết: Làm thế nào cho con người sống giữa cảnh Khổ mà không bị nó hành hạ nữa. Được như HOA SEN, sinh trưởng, tàn lụi trong Bùn mà không bị Bùn làm cho nhiễm ô. Nhưng không phải Thoát Khổ bằng cách cầu xin Phật cứu cho, mà Đạo Phật chỉ cho con người cách thức để nhận biết sự thật về Bản Thân, về cuộc đời, về Các Pháp, để tìm cách giải quyết. Theo Đạo Phật, trong cuộc sống, các pháp luôn có liên quan, chuyền níu, tác động đến mỗi con người. Vì vậy, muốn Thoát Khổ người tu được dạy cho phân tích rõ về Thân, Tâm, về Các Pháp, về Kiếp sống. Khi thấy được từng món rõ ràng thì cũng học được cách để đối trị. Kết quả cuối cùng của việc tu Phật không phải là Quả Vị, là được thành Thần Linh hay thành Thánh, mà là Thành Phật. “Thành Phật” không phải là thành một vị Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, ngồi trên Tòa Sen để cứu nhân độ thế, mà chỉ có nghĩa là “Thành Tựu công việc Giải Khổ” cho bản thân. Đức Thích Ca đã làm được điều đó và để lại con đường cho tất cả những ai muốn Thoát Khổ như Ngài. Tất cả mọi người đều có thể Thành Phật được nên Ngài dạy: “Ta là Phật đã thành. Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành”. MỤC ĐÍCH TU PHẬT Tu Phật không phải là để phụng thờ, phục vụ cho Phật, hay kêu gọi thêm nhiều người Quy Y theo Phật, mà là để được THÀNH PHẬT. Dù là Đức Thích Ca, Chư vị Giác Ngộ trong quá khứ, hay người thời nay và muôn vạn đời sau, khi thành tựu thì cũng bằng nhau: “Phật trước Phật sau đều bình đẳng” , vì những hiểu biết, việc làm, kết quả đạt được đều giống như nhau. TU nghĩa là SỬA. Sửa không phải là thay đổi hình tướng, cách thức ăn mặc cho giống Phật, mà là SỬA những hiểu lầm đã gây ra nỗi KHỔ đến với mỗi người trong kiếp sống. Do đó, bất cứ ai, không phân biệt tuổi tác, giới tính, giai cấp, trình độ, dù ở thời Quá Khứ, hay Hiện Tại, Vị Lai, nếu theo đúng Giáo Pháp của Đạo Phật mà hành thì đều là sẽ được Giải Thoát như nhau. Vì thế, gọi là có TAM THẾ PHẬT. Tức là Quá Khứ đã có những vị tu hành thành công. Hiện tại, người tu hành đúng cũng thành công. Tương lai cũng thế. Do con đường Tu Phật cuối cùng là đi đến kết quả THOÁT KHỔ, nên Đạo Phật còn được gọi là ĐẠO ĐỘ KHỔ. Giáo Chủ của Đạo Phật là ĐỨC THÍCH CA không bao giờ muốn mình là ngôi vị tối thượng, là độc tôn để tín đồ phải tôn thờ mình. Trái lai, muốn tất cả mọi người đều bình đẳng như mình. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA có Kệ: “XÁ LỢI PHẤT NÊN BIẾT TA MUỐN TẤT CẢ CHÚNG BẰNG NHƯ TA KHÔNG KHÁC” Và chính lời Thọ Ký: “TA LÀ PHẬT ĐÃ THÀNH. TẤT CẢ CHÚNG SINH LÀ PHẬT SẼ THÀNH” là một minh chứng cho điều mong mỏi đó. Điều kiện cần có để Thành Phật là THẤY TÁNH. Tổ Đạt Ma còn nhấn mạnh thêm: “Nếu Thấy Tánh thì Chiên Đà La cũng Thành Phật được”. “Thấy Tánh” cũng không phải là thấy trước việc nọ việc kia, hay có được một phép màu hay thần thông cao siêu nào, mà chỉ là nhận ra được Bản Thể thật sự của mình mà thôi. PHẢI Ở ĐÂU MỚI TU ĐƯỢC? TU chỉ có một nghĩa là SỬA. Vì thế, ai chấp nhận làm công việc đó thì gọi là đang TU. Bất luận hình tướng, giới tính, nơi ở. Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA viết: “CÕI NƯỚC CHỖ NÀO NẾU CÓ NGƯỜI THỌ TRÌ, ĐỌC TỤNG, GIẢI NÓI, BIÊN CHÉP, Y PHÁP TU HÀNH. HOẶC LÀ CHỖ CÓ QUYỂN KINH, HOẶC TRONG VƯỜN, HOẶC TRONG RỪNG, HOẶC DƯỚI CÂY, HOẶC TĂNG PHƯỜNG, HOẶC NHÀ BẠCH Y, HOẶC ĐIỆN ĐƯỜNG, HOẶC NÚI HANG ĐỒNG TRỐNG, TRONG ĐÓ ĐỀU NÊN DỰNG THÁP CÚNG DƯỜNG. VÌ SAO? PHẢI BIẾT CHỖ ĐÓ CHÍNH LÀ ĐẠO TRÀNG. CÁC ĐỨC PHẬT Ở ĐÂY MÀ ĐẶNG VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC. CÁC ĐỨC PHẬT Ở ĐÂY MÀ CHUYỂN PHÁP LUÂN. CÁC ĐỨC PHẬT Ở ĐÂY MÀ NHẬP NIẾT BÀN”. THẾ NÀO LÀ PHẬT và CÁCH THỨC TU HÀNH ĐỂ THÀNH NHƯ LAI Tu Phật là để được THÀNH PHẬT, thành NHƯ LAI. Kinh viết: “ĐÂY LÀ PHƯƠNG TIỆN ĐẦU TIÊN TU HÀNH CỦA HÀNH GIẢ, TỨC LÀ BA PHÁP QUÁN. NẾU CÁC CHÚNG SANH TINH TẤN, SIÊNG TU BA PHÁP QUÁN NÀY ĐƯỢC HOÀN TOÀN TỨC LÀ NHƯ LAI XUẤT HIỆN Ở THẾ GIAN VẬY”. Ba Phép Quán tức là CHỈ, QUÁN và CHỈ QUÁN SONG TU. Thành Phật cũng là thành NHƯ LAI, Nhiều người đã cho rằng NHƯ LAI là PHẬT TỔ NHƯ LAI, quyền năng tối thượng, cứu vớt, ban ân, giáng phúc cho mọi người. Phàm phu không bao giờ có thể trở thành Đức Như Lai được. Họ không biết rằng từ NHƯ LAI chỉ để giải thích tình trạng KHÔNG KHỞI khi đối pháp của người đã đạt được cái hiểu về sự bình đẳng của vạn pháp. Nhờ hiểu được vạn pháp bình đẳng, họ không khinh, không trọng, không yêu, không ghét, không chấp, không bỏ, không khởi Tham lam, Sân hận, Si Mê đối với các pháp. Không sinh những TÀ TÂM, Ác Ý, vì thấy CÁC PHÁP ĐỀU NHƯ, nên gọi là NHƯ LAI. Tất cả mọi người, mọi thời đều có thể đạt được địa vị này bằng cách tu hành. Đạo Phật không hề dấu diếm để truyền riêng, mà tất cả đều được chỉ rõ trong Kinh. Kinh VIÊN GIÁC giải thích về NHƠN ĐỊA TU HÀNH CỦA CÁC ĐỨC NHƯ LAI. Đó cũng là phương pháp mà TAM THẾ PHẬT đều y theo đó mà tu hành, thành Phật như sau: THIỀN ĐỊNH Ai vào Đạo Phật thì cũng biết Đức Thích Ca “Đắc Đạo” nhờ 49 ngày đêm Thiền Định. Mục đích của THIỀN ĐỊNH không phải chỉ để đạt được sự tĩnh lặng, mà là để sinh TRÍ HUỆ, tức là sự sáng suốt để đưa đến thành tựu cho con đường tu hành. Nhưng nếuTHIỀN ĐỊNH mà thiếu Quán Soi thì không thể sinh TRÍ HUỆ. Vì vậy, THIỀN của Đạo Phật gọi là THIỀN QUÁN hay THIỀN MINH SÁT. Để giải thích thế nào là THIỀN, Kinh VIÊN GIÁC có Kệ: “BIỆN ÂM ÔNG NÊN BIẾT CÁC TRÍ HUỆ THANH TỊNH CỦA TẤT CẢ BỒ TÁT ĐỀU DO THIỀN ĐỊNH SANH THIỀN ĐỊNH LÀ “CHỈ”, “QUÁN” VÀ “CHỈ, QUÁN, SONG TU ” BA PHÁP, PHÂN ĐỐN, TIỆM THÀNH RA HAI MƯƠI LĂM MƯỜI PHƯƠNG CÁC NHƯ LAI VÀ HÀNH GIẢ BA ĐỜI ĐỀU Y PHÁP MÔN NÀY MÀ THÀNH ĐẠO BỒ ĐỀ ” THIỀN ĐỊNH cũng là CHỈ, QUÁN và CHỈ QUÁN SONG TU. Ba Đời Chư Phật đều y theo ba pháp này để thành Đạo Bồ Đề. Nhưng tại sao bao nhiêu đời rồi, có biết bao nhiêu người đã hành các pháp này mà không thấy có người Thành Phật? Xin trả lời: Đó là do người sau đã NGỒI THIỀN không đúng cách. Quán, Soi không đúng pháp. Đúng như thế. Nếu ai có nghiên cứu về THIỀN thì đều biết rằng dù cùng dùng hình thức NGỒI THIỀN giống nhau, nhưng do điều động hơi thở, ý thức mà cho ra nhiều kết quả khác nhau: Phái Yoga thì dùng Thiền để khai mở Luân Xa. Khí Công thì dùng Thiền rồi điều khiển hơi thở để trị bệnh. Phái Xuất Hồn thì dùng Thiền để Xuất Hồn. Do đó, người muốn THIỀN ĐỊNH cho có kết quả theo Đạo Phật thì có ba vấn đề phải khai thông trước lúc NGỒI THIỀN. 1. Phải biết thời xưa Đức Thích Ca đã Ngồi như thế nào? 2. Ngài làm gì trong lúc NGỒI THIỀN? 3. Pháp mà Ngài đã chứng đắc là gì? Nếu chưa giải mã được 3 điều này thì dù có Ngồi Thiền 24/24 kiếp này sang kiếp khác cũng vô ích mà thôi. Đó là lý do khiến bao nhiêu đời nay có biết bao nhiêu người cũng Ngồi Thiền miên mật mà không có mấy người “Đắc Đạo” như Đức Thích Ca. Thắc mắc thứ nhất thì ai cũng trả lời được, và bao nhiêu thời qua, biết bao nhiêu Tông, Phái, cá nhân đều Ngồi giống y như Phật đã Ngồi. Thiền Viện, Thiền Đường mọc lên như nấm, khắp thế giới hầu như nước nào cũng có. Nhưng sở dĩ không có người Thành Phật là vì chưa giải mã được 2 vấn đề mấu chốt thứ 2 và thứ 3. Lý do là do Kinh sách không nói rõ là Đức Thích Ca đã làm gì khi NGỒI THIỀN nên đa phần người Ngồi Thiền chỉ làm đúng phần hình tướng, không biết phải làm gì trong lúc Ngồi. Do đó sẽ có một số hiện tượng diễn ra khi Ngồi Thiền: 1. Ngồi Sững ở đó. Trong Kinh DUY MA CẬT cũng có viết về Ngài XÁ LỢI PHẤT Ngồi Thiền mà bị Ngài Duy Ma Cật quở trách, vì: “Ngồi Thiền không phải là ngồi sững ở đó”. 2. Thả tư tưởng rong chơi. Có nhiều người cũng NGỒI THIỀN, cũng khoanh chân, khoanh tay, mắt khép hờ, nhưng thả tư tưởng rong chơi khắp nơi. Nhưng ngồi đó mà nhớ đủ thứ việc, tơ tưởng tới đủ thứ người. Như vậy họ chỉ ngưng nghỉ cái THÂN, còn tư tưởng thì đâu có ngưng nghỉ? 3. Ngủ ngồi. Có người NGỒI THIỀN rồi dứt bặt tư tưởng. Họ giống như người ngủ sâu, không biết không hay gì tới những gì diễn ra chung quanh. Đó là NGỦ NGỒI, không phải là NGỒI THIỀN? 4. Thấy vào các Cõi . Có người NGỒI THIỀN thì cái Thức thế gian không còn hoạt động thì mở ra các Cảnh Giới vô hình. Họ thấy mình gặp Quỷ, gặp Ma, gặp Thánh, Thần, Bồ Tát. Thấy đến cảnh non bồng nước nhược, gặp tiên Ông, Tiên Bà… như vậy khác nào đi xem phim? Xả Thiền ra cũng đâu có hiểu biết thêm điều gì về Đạo Phật? 5. Dùng Thiền Định để Khai Công Án. Có người NGỒI THIỀN để khai các CÔNG ÁN. Họ nhận một Công Án tức là một Đề Tài của người Thầy, hay tự mình lấy một đề tài nào đó để Tham trong thời gian NGỒI THIỀN. Có người thì Tham chữ VÔ. Có người thì Tham câu “Ai Niệm Nam Mô A Di Đà Phật”. Có người thì Tham “Tổ Sư Tây Lai Ý”… là những Công Án nổi tiếng từ xưa. Tất nhiên Tham điều gì thì thấy điều đó. Tham chữ VÔ thì gặp chữ VÔ. Tham Tổ Sư Tây Lai Ý thì hiểu về cái Ý của Ngài khi sang Tây. Những điều đó đâu có liên quan gì đến sự Đắc Đạo của Đức Thích Ca? Muốn biết Đức Thích Ca đã làm gì trong khi NGỒI THIỀN, ta có thể mở lại lịch sử tu hành của Ngài để thấy ghi rõ: Sau nhiều ngày đêm Thiền Định, thì rạng sáng ngày thứ 49 Đức Thích Ca Đắc Đạo nên xả Thiền, đứng dậy rồi tuyên bố “Ta lang thang trong vòng Luân Hồi qua bao nhiêu kiếp, tìm mãi mà không gặp Kẻ Làm Nhà. Hỡi kẻ làm nhà, từ đây ta đã gặp được người rồi. Người không được xây nhà nữa. Bao nhiêu cột kèo của ngươi đã tan nát cả rồi, rui mè của ngươi cũng nát vụn cả rồi. Tâm trí ta đã đến vô thượng Niết Bàn. Ta đã hoàn toàn giải thoát”. Như vậy, từ kết quả, ta truy ngược sẽ thấy là Đức Thích Ca lúc Ngồi Thiền không có ngồi một cục, cả Thân và Tâm đều ngưng hoạt động. Trái lại, giờ THIỀN ĐỊNH đó Ngài nhiếp niệm để truy lùng THỦ PHẠM ĐÃ XÂY NGÔI NHÀ SINH TỬ. Cuối cùng Ngài đã tìm gặp được thủ phạm cũng như khống chế được hắn không cho xây nhà Sinh Tử nữa thì gọi là Đắc Đạo. Do đó, THIỀN của Đạo Phật được Chính Kinh ghi rõ là THIỀN QUÁN hay THIỀN MINH SÁT. Có nghĩa là khi hành giả NGỒI THIỀN là ngưng nghỉ mọi hoạt động của Lục Căn. Dừng lắng mọi vọng niệm mà QUÁN SOI về mục đích của của Đạo Phật. Mục đích tu Phật là để được GIẢI THOÁT hay để Thoát Khổ. Muốn THOÁT KHỔ thì phải biết đâu là nguyên nhân? Cách thức để Giải Khổ. Khi THẤY được thì gọi là Gặp, khám phá được, hay là Đắc Đạo. Chỉ đơn giản như thế. Nhưng nhiều thời rồi, do kinh sách không chỉ rõ nên người đi sau mất phương hướng. VỀ THÂN VÀ TÂM Tu Phật thì không ngoài Thân và Tâm, không phải ở nơi nào khác. Vì thế, người tu Phật cần tập trung ở hai nơi này. Đạo Phật cho rằng con người gồm có 2 thành phần: a) Phần HỮU TƯỚNG, tức là CÁI THÂN thịt mà ta đang mang. Thân này do Tứ Đại hợp thành. Sở dĩ nó có mặt ở kiếp sống này là để TRẢ những gì đã gieo ở kiếp trước. Khi nó dứt Nghiệp thì sẽ trả về cho Tứ Đại những gì đã vay mượn. b) Phần VÔ TƯỚNG hay còn gọi là Thần Thức, Linh Hồn hay bên Tiên Đạo thì gọi là Tiểu Linh Quang. Bên Đạo Phật cho rằng Cái này Thường Còn, thanh tịnh, không nhơ, không sạch, không ô nhiễm, không Sinh, Không Tử. Cái Thể xác hữu tướng đã Sinh thì phải Tử. Phần Thần Thức thì các Tôn Giáo khác cho rằng sẽ về với Chúa hay Thượng Đế để được ban thưởng hay chịu phạt. Đạo Phật gọi phần Vô Tướng là THẦN THỨC, CHÂN TÁNH hay là BỔN THỂ TÂM, và cho rằng cái đó mới là CÁI TA THẬT SỰ, ở chung với cái TA GIẢ TẠM, tức cái THÂN PHÀM . Trong quá khứ, cái CHÂN TÂM, CHÂN TÁNH, do MÊ lầm mà hướng dẫn cho cái Thân Giả Tạo Nghiệp, nên sau khi Thân Giả hết Nghiệp, tan rã thì lại phải nhận một cái Thân mới để trả. Tùy theo Nghiệp đã làm mà vòng quanh trong Lục Đạo, hết kiếp này sang kiếp khác gọi là Luân Hồi. Cho đến bao giờ tỉnh ngộ, nhận ra cái TA thật, thì mới hết Sinh Tử Luân Hồi, vì lúc đó không còn hành động trong mê lầm nữa, mà sáng suốt tự làm chủ mọi hành vi của mình. Khi vào Tu Phật thì người tu được dạy cho Soi, Quán để tìm cái TÂM MÊ. Thấy được nó rồi thì phải hàng phục nó. Công việc hàng phục Vọng Tâm gọi là tu hành. Do vậy, Tu Phật không phải là Sửa Tướng cho nghiêm trang. Đầu phải tròn, áo phải vuông, phải Ăn chay, tụng Kinh, Niệm Phật, mà việc quan trọng phải làm chính là TÌM cho được cái VỌNG TÂM, rồi chuyển nó thành CHÂN TÂM, gọi là BIẾN MÊ thành NGỘ. Chính vì vậy mà Tu Phật được gọi là TU TÂM. “Giải Thoát hay ràng buộc cũng chỉ nơi cái Tâm”. Vì thế, Tổ Đạt Ma dạy: “Muốn tìm Phật thà tìm Tâm”. TƯ DUY hay CHỈ, QUÁN và THỰC HÀNH Kinh Tâm Địa Quán viết: “Các vị còn trong phàm phu địa, không quán được Tâm, nên phải trôi giạt trong bể Sinh Tử. Chư Phật, Bồ Tát vì Quán được Tâm, nên qua được bể Sinh Tử, đến bờ Niết Bàn”. Muốn Quán được TÂM thì không thể nào không TƯ DUY. Để Tư Duy cho có hiệu quả thì phải Chỉ, sau đó mới Quán. CHỈ tức là dừng lắng mọi ý nghĩ, không cho nó chạy lăng xăng, để tập trung mà QUÁN. Quán cũng có một nghĩa khác là TƯ DUY. Tư Duy không phải là suy nghĩ để tìm xem Cảnh Giới của Phật ở đâu? Làm thế nào để đến đó. Kinh LĂNG NGHIÊM DẠY: “Gút ở đâu thì mở ở đó”. Gút của người đi theo con đường của Đạo Phật là mong mỏi được THOÁT KHỔ. Do đó, muốn Mở Gút KHỔ thì phải đi tìm nguyên nhân, gốc gác của nó. Cũng theo Đạo Phật, cái KHỔ dính liền với CÁI THÂN, “CÓ THÂN LÀ CÓ KHỔ”. “THÂN là GỐC KHỔ”, vì thế, người tu sẽ được hướng dẫn quan sát CÁI THÂN và những gì đang diễn ra quanh nó để thấy hết những nỗi Khổ nào đang vây quanh nó, và cách thức để hóa giải. Do đó mà TỨ DIỆU ĐẾ là bài học căn bản, phân tích về những Nỗi Khổ diễn ra trong cuộc sống, để đưa đến kết luận là: chỉ có ĐẠO ĐẾ mới đưa con người đến Thoát Khổ mà thôi. Tất nhiên muốn chuyển hướng từ nhận thức này sang một nhận thức khác không phải là điều đễ dàng. Người tu cũng không thể nhắm mắt cứ theo lời dạy bảo của Phật hay của Thầy, cũng không thể giữ nguyên nếp sống cũ, mà cần hạn chế cái Thân, không cho nó tự do, bừa bãi theo nhu cầu của Lục Căn như trước, nên 3 căn bản đầu tiên không thể thiếu là GIỚI - ĐỊNH - HUỆ. Có GIỚI, ĐỊNH thôi thì chưa đủ, mà phải nghe lời giảng giải của người đi trước đã biết rõ đường lối để hướng dẫn cho. Hoặc đọc những gì Chư Tổ khai triển lời Phật dạy, và Tư Duy để có sự hiểu biết sáng suốt theo chiều hướng Đạo gọi là TRÍ HUỆ. Do vậy, có thêm 3 Căn Bản nữa, gọi là VĂN-TƯ-TU. Song hành với VĂN-TƯ-TU người tu không thể giữ nếp sống cũ, mà cần sống theo TÁM CON ĐƯỜNG CHÂN CHÁNH mà Đức Thích Ca đã đặt ra. Để hỗ trợ cho việc tu hành. Đó là: CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY, CHÁNH NGỮ, CHÁNH NGHIỆP, CHÁNH MẠNG, CHÁNH TINH TẤN, CHÁNH NIỆM và CHÁNH ĐỊNH. Để có cái CHÁNH KIẾN thì cần phải có sự TƯ DUY chân chánh nên gọi là CHÁNH TƯ DUY. Người đã có sự hiểu biết chân chánh thì biết tự trọng cũng như tôn trọng người khác nên không thể nói láo, nói thêm, bớt, nói để khen mình, chê người, gọi là CHÁNH NGỮ. Không sinh ra Tà Niệm. Không thể hành Tà Nghiệp. Không thể nuôi mạng bằng những phương tiện thiếu chân chánh. Siêng năng hành theo các hướng đó gọi là CHÁNH TINH TẤN. Phân tích ra thì ta thấy: CHÁNH NGHIỆP, CHÁNH MẠNG thuộc về THÂN. CHÁNH NGỮ thuộc về KHẨU. CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY, CHÁNH NIỆM, CHÁNH ĐỊNH thuộc về Ý. CHÁNH TÍNH TẤN cho cả ba. Tóm lại, TÁM CON ĐƯỜNG CHÁNH này nhằm kiềm chế THÂN, KHẤU và Ý cho nó không còn nghĩ Ác, hành ÁC. Đó là là Tám cách sống mà người tu Phật dù đã Chứng Đắc rồi nhưng suốt vô lượng kiếp vẫn phải đi trên đó. THUYẾT CÓ, KHÔNG Muốn thực hành cho đúng thì trước hết phải có cái LÝ đúng. Đạo Phật cho rằng sở dĩ con người phạm nhiều sai lầm, tạo nhiều Ác Nghiệp là vì: 1. Không biết hậu quả điều mình làm. 2. Không biết gì về kiếp sống, về cuộc đời. Do không biết tại sao mình lại có mặt ở cuộc đời? Sống để làm gì? Chết sẽ về đâu, nên mọi người lầm lũi sống, lầm lũi mà Tạo Nghiệp. Vì vậy, khi vào tu, Đạo Phật dạy mọi người phải tìm hiểu về Cái Thân của con người, về Kiếp sống, để thấy rằng sở dĩ ta cắm cúi sống và chấp nhận mọi điều khổ, vui đến với Ta, vì cho rằng là cái THÂN là TA. Cuộc đời là THẬT, ngoài ra không thắc mắc, tìm hiểu thêm. Người CHẤP như thế Đạo Phật gọi là người CHẤP CÓ. Cái lý thuyết Các Pháp là thật CÓ hay KHÔNG có cũng làm cho cuộc sống của người Chấp bị đảo lộn. Người CHẤP CÓ thì tranh giành mọi thứ với cuộc đời, sinh ra THAM, SÂN, SI khi không dành được. Khi tranh dành bất chấp thủ đoạn lại tạo ra ÁC NGHIỆP, làm xáo trộn cuộc sống của bản thân và của mọi người chung quanh. Làm xã hội rối loạn. NGƯỜI CHẤP KHÔNG thì bỏ hết tất cả, sống như kẻ vô hồn. Hàng ngày vẫn hưởng dụng mọi thứ vật chất mà cho rằng KHÔNG, nên không thiết tham gia mọi việc đời, không tiếp tay với xã hội để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn lên. Do đó cuộc sống của họ thành phí phạm và mâu thuẫn với những gì đã nói, cũng như không thực hiện đúng lời dặn dò của Đức Thích Ca, là phải đền TỨ ÂN. Nếu ta chỉ vô Chùa để tu hành thì rõ ràng ta chỉ đền được Ấn Phật, còn Ân Phụ Mẫu, Ân Chúng Sinh, Ân Đất nước làm sao đền? Phật cũng chỉ là người bình thường, nhờ tu hành, đắc đạo mà được Giải Thoát, đâu có phải là Thần Linh để ta cầu nguyện Ngài phù hộ cho đất nước, cho cha mẹ để thay cho việc Báo Ân? Chính Ngài dặn ta phải đền Tứ Ân, đâu có kêu ta cầu xin Ngài vì Ngài đâu có quyền phù hộ cho ai. Nếu phù hộ được hẳn Ngài đã dặn dò rồi. Có lẽ mọi người nên xem lại khoảng này để khỏi sai lạc tôn chỉ của đạo Phật. Hơn hữa, nếu nói rằng “tất cả đều là KHÔNG” thì lẽ ra cũng không có Phật, không có họ, không cả ăn, uống, sống, chết mới đúng! Đàng này họ vẫn phải sống, vẫn xây Chùa, đúc Tượng, vẫn chiêu mộ tín đồ, vẫn tổ chức lễ nọ lễ kia, cầu An, cầu Siêu… thì Không chỗ nào?! (còn tiếp) TÂM NGUYỆN LỄ HỘI HOA PHƯỢNG ĐỎ VÀ “KHU TƯỞNG NIỆM VƯƠNG TRIỀU MẠC” LỄ HỘI HOA PHƯỢNG ĐỎ Lễ hội “Hoa Phượng Đỏ lần thứ nhất” đã khai mạc ngày 9-6-2012 tại Hải Phòng - thành phố nằm trong Tam giác du lịch Hà Nội - Hạ Long - Hải Phòng của miền Bắc, nhằm để chuẩn bị cho Năm Du lịch Đồng bằng Sông Hồng năm 2013. Lễ hội giới thiệu cho du khách các tiềm năng du lịch của Hải Phòng, với hai màn hoạt cảnh diễn lại “Người mở cõi: Nữ tướng Lê Chân sáng lập vùng đất An Biên” tức là Hải Phòng ngày nay. Năm 2010, Hà Nội đã tổ chức Lễ hội 1000 năm Thăng Long - Hà Nội vang dội cả nước. Sau đó, với việc Vịnh Hạ Long được bình bầu là một trong 7 tân Kỳ quan thiên nhiên cùng với hai sự kiện rầm rộ: - ngày 27-4-2012: Lễ đón nhận danh hiệu và công bố “Tân Kỳ quan thế giới” ở Hà Nội và - ngày 1-5-2012: Lễ hội Carnaval ở Hạ Long chào mừng Vịnh Hạ Long - rạng danh dòng giống Tiên Rồng. Và bây giờ là góc thứ ba của Tam giác du lịch là Hải Phòng tổ chức Lễ hội Hoa Phượng Đỏ này. Khắp mọi nơi, khi nghe bài hát “Thành phố Hoa Phượng Đỏ” thơ của Hải Như, nhạc của Lương Vĩnh, thì ai cũng nhớ tới một thành phố biển, lớn thứ hai ngoài Bắc: Tháng Năm rợp trời hoa Phượng Đỏ Ôi! Hải Phòng thành phố quê hương… Quả thật, khi người viết ghé thăm Hải Phòng, thì thấy khắp các con đường phố, trong nội thành cũng như ngoại thành, đều rực màu hoa phượng đỏ, du khách nín thở để cảm thấy không gian đầy cây phượng với hoa phượng đỏ. Màu đỏ là màu môi của cô thiếu nữ trong tà áo dài cổ truyền dân tộc. Màu đỏ còn là màu nối tiếp một thời trai trẻ, một thời yêu đương... Phượng có lá nhỏ, chỉ lớn hơn lá me, lá phượng chẳng có công dụng gì ngoài việc tạo “việc làm” cho học sinh thực tập “vệ sinh trường lớp”. Nhưng phượng có hoa màu đỏ (người ta còn thấy hoa phượng màu hồng, tím, trắng…), một màu đỏ tươi thắm tuyệt vời, một màu đỏ trẻ trung vui vẻ, tượng trưng xứng đáng cho tuổi học trò, cho lứa tuổi vừa lớn, “tuổi ô mai”. Khi phượng “già” đi, màu đỏ có hơi sẫm hơn, cánh hoa trở thành mỏng manh, một cơn gió nhẹ thổi qua có thể làm các cánh hoa rơi lả tả. Phượng lại còn có trái, trái phượng có cánh hình cung, dài chừng 3, 5 tấc, khi trái già, bóc ra, bên trong có nhiều hột nằm xếp hàng theo hình cánh cung, ăn có vị chát chát, bùi bùi, ngọt ngọt. Phượng cũng còn có một nhiệm vụ vô hình nhưng rất là thân thiết với học trò, đó là báo hiệu mùa Hè đã về. Ai từng đi học mà chẳng mong… Hè về! Vì thế hoa phượng còn được gọi thân thương là “Hoa Học trò”. Cây phượng vĩ có gốc từ đảo Madagascar, thuộc địa cũ của Pháp, nên dân Hải Phòng phải nhớ ơn đảo quốc này. Ta yêu Thành phố quê ta như yêu chính người thương yêu nhất Những hẹn hò bên bờ sông Lấp Những con đường tấp nập áo Thợ ngày đêm Những Bến Bính, Xi Măng, Cầu Rào, Cầu Đất, Lạc Viên… Hải Phòng có tiềm năng về du lịch rất lớn, dù hơi kém hơn hai góc kia của Tam giác du lịch - là Hà Nội và Hạ Long - một chút ít, Hải Phòng có: Khu du lịch Đồ Sơn. Đây là một trung tâm du lịch lớn, có khu nghỉ mát với những bãi biển lượn quanh bán đảo Đồ Sơn, vươn ra Biển Đông tới 5km. Từ nhiều năm nay, Đồ Sơn, Cát Bà đã trở thành những khu nghỉ mát và giải trí nổi tiếng trong nước và quốc tế. Tại quận Đồ Sơn, cách nội thành Hải Phòng trên 20km người viết được tham dự Lễ Khai trương Tuyến xe Điện chạy trong Khu du lịch vào chiều ngày 24-5-2012 để mở màn cho Lễ hội Hoa Phượng Đỏ vào ngày 9-6-2012. Đồ Sơn là nơi có Casino đầu tiên của Việt Nam, có Biệt thự Bảo Đại nằm trên một ngọn đồi nhỏ. Đồ Sơn còn nổi tiếng với lễ hội Chọi Trâu, diễn ra vào ngày 9-8 âm lịch, phần nghi lễ rất trang trọng với lễ thần trên kiệu rồng, có tán và lọng che, phường bát âm. Đền Nghè. Đền nằm ở trung tâm thành phố Hải Phòng, cách Nhà Hát thành phố chừng 600m về phía tây nam. Đền thờ bà Lê Chân, một nữ tướng của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40-43. Chính bà Lê Chân là người lập ra làng An Biên, tiền thân của thành phố Hải Phòng sau này. Lúc đầu, đền là một miếu nhỏ, năm 1919 tòa hậu cung của đền được xây dựng, năm 1926 tòa nhà tiền bái được xây dựng, đây là một kiến trúc văn hóa quý với voi đá, ngựa đá, sập đá, bia đá. Nổi tiếng nhất là với bức tượng nữ tướng Lê Chân oai phong trong bộ áo giáp đứng cao ngất ngưởng trên tượng đài, nhìn ngắm Hải Phòng, đây là bức tượng to lớn nhất tại thành phố này. Lễ hội Đền Trạng. Lễ hội tưởng niệm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được tổ chức nhân ngày mất (28-11 âm lịch), đây là sự kiện văn hóa lớn, cư dân nhiều địa phương trong vùng thôn Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, rất nhiều du khách cũng đến dâng hương tưởng niệm cụ Trạng Trình dịp này và thăm khu du tích Nguyễn Bỉnh Khiêm. Những cái tên nghe chẳng thơ đâu nhưng với ta vô cùng oanh liệt Ôi thân thiết tự hào quê hương Hỡi em yêu trong đêm dài tiễn biệt Chưa trọn nghĩa Sài Gòn - Đà Nẵng Ta tạm biệt xa nhau chào Phố biển thân yêu… Hải Phòng với hải cảng sầm uất, nhộn nhịp ngày đêm, luôn nhớ tới các hải cảng anh em: Sài Gòn và Đà Nẵng thân thương… Cát Bà – Khu dự trữ sinh quyển Thế giới Cát Bà là một quần đảo có 366 đảo lớn nhỏ. Đảo chính là Cát Bà, có nhiều cảnh quan đẹp, tài nguyên rừng và biển phong phú, hang động trên biển làm mê hồn du khách. Năm 2004, Cát Bà được UNESCO công nhận là khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới. Bằng tàu thường hay cao tốc, du khách có thể tới thăm đảo và vườn quốc gia Cát Bà, vịnh Hạ Long hay Bái Tử Long. Nằm kề bên vịnh Hạ Long, quần đảo Cát Bà - đúng ra là Các Bà, nữ sĩ Vân Đài với bài “Bốn năm trên đảo Các Bà” tháng 7-1944 viết: “Các Bà xưa kia vẫn có một tên mà người Khách gọi là Appovan và người Nam gọi là Các Bà, do lấy tên một ngôi mộ của hai nữ thần không tên, chết ở đâu, trôi về và hiển linh tại đấy. Ngôi mộ ấy gọi là ngôi mộ của Các Bà, người ta lập miếu thờ và người ta muốn biểu dương cái uy linh của các bà, nên lấy tên Các Bà đặt cho hòn đảo”… Trước đây, quần đảo này thuộc tỉnh Quảng Ninh, đến năm 1956 mới tách về Hải Phòng và gọi là Cát Bà, có lẽ vì nằm trong huyện đảo Cát Hải? (Vì vịnh Hạ Long có vô số đảo nên nhường bớt lại cho thành phố này). Vườn quốc gia Cát Bà nằm trên đảo Cát Bà, có diện tích 15.200ha, trong đó có 9.800ha rừng và 5.400ha biển. Địa hình rất đa dạng, chủ yếu là núi đá vôi, nhiều hang động kỳ thú và xen kẽ là những bãi cát trắng phau, với hệ động vật có 32 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư. Đặc biệt là loài Voọc đầu trắng trên vách núi đá cheo leo ven biển Cát Bà, đây là loài thú quý hiếm, đang được bảo vệ nghiêm ngặt và trở thành biểu tượng của Vườn quốc gia Cát Bà. Tại đây còn có khỉ vàng, sơn dương và nhiều loài chim đẹp như: cao cát, bói cá, hút mật, đầu rìu… những cánh rừng nguyên sinh nhiệt đới lớn với 620 loài thực vật bậc cao gồm có 438 chi và 123 họ, trong đó có 350 cây thuốc. Hải Phòng đó hiên ngang chỉ biết ngẩng đầu Trăm trận đánh quê ta kiên cường Hải Phòng ơi, năm xưa bé nhỏ Nay ta đã thấy rộng dài rực sáng Sánh vai cùng Sài Gòn - Đà Nẵng quê hương Ta mang người trong giữa trái tim ta. Sông Bạch Đằng Con sông lịch sử ở phía đông bắc Hải Phòng, cách trung tâm thành phố 20km. Bạch Đằng là con sông nổi tiếng với những chiến công vang dội trong lịch sử chốn ngoại xâm của dân tộc Việt Nam: - Năm 938, Ngô Quyền đã đánh tan các đạo thủy binh lớn của quân Nam Hán. - Năm 981, tướng Lê Hoàn cũng đã tiêu diệt các đạo thủy binh của quân Tống trên sông Bạch Đằng (sau là vua Lê Đại Hành). - Năm 1288, quân dân nhà Trần dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trần Hưng Đạo đã nhấn chìm hàng trăm chiến thuyền của quân Mông Nguyên (nhà Nguyên của Mông Cổ chiếm đóng Trung Hoa), bắt sống tướng Ô Mã Nhi, chấm dứt âm mưu thôn tính nước ta - như chúng đã xâm chiếm gần hết Châu Âu. Hàng năm trên dòng sông lịch sử này thường tổ chức Hội thi bơi thuyền Vượt sông Bạch Đằng. Hội đền An Lư Đền An Lư thuộc xã An Lư, huyện Thủy Nguyên, thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và An Sinh vương Trần Liễu (thân phụ Trần Hưng Đạo). Hàng năm vào ngày 10- 11/11 âm lịch, lễ hội được tổ chức nhằm tưởng nhớ công đức của Trần Hưng Đạo đã có công đánh tan giặc Nguyên cứu nước và tôn vinh Trần Liễu. Lễ dâng hương được tổ chức rất trang nghiêm, sau phần nghi lễ là phần hội với những trò vui như: chơi đu, đánh đúm nam nữ, chọi gà, cờ tướng… Từ Đồ Sơn về trung tâm thành phố Hải Phòng, ngay đoạn giữa lộ trình, chúng ta bắt gặp khu đền đài uy nghi, rạng rỡ, đó là: KHU TƯỞNG NIỆM VƯƠNG TRIỀU MẠC Tỉnh Thanh Hóa nổi tiếng với Di sản Thế giới “Thành nhà Hồ” - là bức tường thành duy nhất trên đất Việt xây bằng đá - được UNESCO công nhận ngày 27-6-2011 và mới tổ chức Lễ Đón nhận Bằng công nhận vào ngày 16-6-2012. Lễ Đón nhận này được tổ chức ngay tại khu vực Thành nhà Hồ với nhiều hoạt cảnh ngay trên bức tường thành cao ngất ngưởng, diễn lại cảnh dân phu cả nước vất vả mang từng tảng đá to lớn, về ráp lại, dù không có xi măng mà bức tường thành vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt trên 3 thế kỷ nay, làm quan khách bàng hoàng, xúc động - vì các kỳ quan thế giới như Kim tự tháp Ai Cập, Đền Taj Mahal Ấn Độ, Vạn lý Trường thành Trung Hoa… cũng đều trộn lẫn mồ hôi lẫn xương máu của biết bao dân phu mới tạo dưng nên. Chúng ta nhớ lại Lịch sử với 15 Vương triều đất Việt: Hùng Vương - Thục - Trưng - Tiền (Hậu) Lý - Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần - Hồ Lê Sơ - Mạc - Lê (Trung hưng) - Tây Sơn - Nguyễn. Lịch sử Tiên Rồng! (Lời mới bài “London Bridge”) Chính Thành nhà Hồ ở Tây Đô này - về sau đã là nhân chứng lịch sử cho cuộc khởi nghĩa kháng Minh của Lê Lợi, thiết lập triều Lê Sơ, và rồi đến triều Mạc với thời Nam - Bắc Triều: nhà Mạc định đô ở Đông Kinh (Thăng Long) và nhà Lê Trung hưng đóng đô ở Tây Kinh (Tây Đô cũ ở Thanh Hóa). Và sau khi nhà Mạc thất thủ phải di dời lên đất Cao Bằng thì nhà Lê trở về lại Thăng Long, nhưng Khủng hoảng Cung đình vẫn tiếp diễn với việc tướng nhà Lê là Nguyễn Kim đã bị một hàng tướng nhà Mạc giết chết, rồi Trịnh Kiểm lên thay chủ tướng và có thái độ lộng hành, nên vua Lê chỉ còn hư danh dẫn đến thời kỳ “Vua Lê - chúa Trịnh”, rồi “Trịnh - Nguyễn phân tranh” kéo dài cho đến cuộc khởi nghĩa của Tam kiệt Tây Sơn, chính Nguyễn Huệ tài ba đã dẹp tan vua Lê, chúa Trịnh - Nguyễn, thống nhất sơn hà. Triều nhà Hồ của Hồ Quý Ly (dù chỉ tồn tại 7 năm) cũng bị ngộ nhận và tai tiếng như triều nhà Mạc của Mạc Đăng Dung, ngày nay cả hai vương triều đó được Lịch sử nhìn nhận lại những công lao đã đóng góp cho đất nước, hy vọng theo thời gian, hai từ “ngụy triều” sẽ thay đổi, từ từ mọi người sẽ hiểu rõ hơn, thông cảm hơn… Chính vì lý do đó, thành phố Hải Phòng đã đặc biệt xin Nhà Nước cho xây dựng Khu tưởng niệm Vương triều Mạc tại đất Dương Kinh xưa, quê hương của Thái tổ Mạc Đăng Dung - do ông Hoàng Văn Kế, Phó chủ tịch UBND thành phố và là Chủ tịch Hội đồng Mạc Tộc Hải Phòng (ông Kế thuộc họ Hoàng gốc Mạc) vận động kêu gọi các dòng họ Phạm, Phan, Vũ, Hoàng (gốc Mạc, vì chính trị nên cải họ khác để bảo toàn dòng họ Mạc) đóng góp thêm để xây dựng. Trong cộng đồng trăm họ ở Việt Nam, họ Mạc là một trong số ít dòng họ phát tích, có nhiều đóng góp trong lịch sử phát triển của dân tộc. Trong lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước, họ Mạc đã sản sinh ra nhiều danh thần trí dũng song toàn, có nhiều công lao với dân với nước, như: - Mạc Hiển Tích năm 1086 đỗ Trạng nguyên triều Lý, thời vua Lý Nhân Tông (1066-1127) - Mạc Đĩnh Chi sáng danh “Lưỡng quốc Trạng nguyên” thời vua Trần Anh Tông (1272-1346). Gần 200 năm sau, vào năm 1527, đất Dương Kinh phát tích, Mạc Đăng Dung đăng quang ngôi Hoàng đế, mở đầu một triều đại tồn tại 150 năm trong lịch sử hào hùng của nước Đại Việt, có nhiều cải cách tiến bộ… Để ghi nhớ công đức các vị Vua triều Mạc, năm 2009, Nhà Nước đã cho xây dựng “Khu tưởng niệm Vương triều Mạc” trên đất Dương Kinh xưa (thôn Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy) thành phố Hải Phòng nay. Công trình được gắn biển chào mừng kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, vào dịp khánh thành giai đoạn 1, ngày 25-12-2010. Trong lịch sử dân tộc cũng nhiều lần xảy ra Khủng hoảng Cung đình như khủng hoảng cuối triều Tiền Lê sang Lý, khủng hoảng cuối Lý sang Trần, hay như “Loạn ba vương thời Lý”, việc tiếm ngôi của Dương Nhật Lễ cuối Trần… nhưng chưa bao giờ khủng hoảng lại diễn ra lâu dài và trầm trọng như lần này. Lịch sử đang cần có một nhân vật đứng ra giải quyết khủng hoảng để yên dân, dựng nước. Lịch sử chọn Mạc Đăng Dung. Ông là cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi. Ngày trước vốn ở Hải Dương sau dời sang thôn Cổ Trai, huyện Nghi Dương, tỉnh Kiến An (nay là thành phố Hải Phòng). Mạc Đăng Dung thuở trẻ nhà nghèo làm nghề đánh cá nhưng có sức khỏe phi thường, thi đỗ Đô Lực sĩ, làm Đô Chỉ huy sứ triều Lê Uy Mục, đến triều Tương Dực được phong Vũ Xuyên Bá, sau vua Chiêu Tông lại phong Vũ Xuyên Hầu. Năm 1527 Mạc Đăng Dung lên ngôi, ông làm vua được 3 năm rồi truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, lui về Cổ Trai làm Thái Thượng Hoàng. Nhà Mạc truyền ngôi được 5 đời (65 năm): - Thái tổ Mạc Đăng Dung (1527-1529) - Thái tông Mạc Đăng Doanh (1530-1540) - Hiển tông Mạc Phúc Hải (1541-1546) - Tuyên tông Mạc Phúc Nguyên (1546-1561) - Mục tông Mạc Mậu Hợp (1562-1592) Ngoại giao : Nhà Mạc đã thi hành chính sách mềm dẻo, khôn khéo, linh hoạt. Riêng việc “Cắt đất dâng cho nhà Minh” thì lịch sử vẫn còn để lại rất nhiều nghi vấn. Việc “Xin hàng” này, Minh sử có chép, nhưng không hề chép việc cắt đất mà chỉ chép “Mạc Đăng Dung đã trả lại đất 4 động đã xâm chiếm, xin nội vụ xưng thần”. Như vậy, nhà Mạc trả lại cho nhà Minh là trả lại đất lấn, không phải cắt đất để đút lót. Thần Siêu trong “Phương Đình dư địa chí” đã soi tỏ vấn đề lịch sử để soi tỏ sự vô tội của nhà Mạc. Cố giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng sử nhà Minh chép hệt như Thần Siêu: Đấy chẳng qua là đường lối “thần phục giả vờ” của triều Mạc. Sau khi thất thế, nhà Mạc tiếp tục dựa vào ảnh hưởng của nhà Minh để tồn tại ở Cao Bằng, nhưng tuyệt nhiên không mượn quân nhà Minh. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, đại thần Mạc Ngọc Liễn trước khi mất, đã dặn lại vua tôi họ Mạc rằng: “Nay khi vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng… Dân ta là dân vô tội mà để phải mắc nạn binh đao, sao lại nỡ thế!... Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than, đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng…” Các đời sau họ Mạc đã làm đúng như vậy. Thua trận phải dời khỏi ngôi cai trị nhưng không cố giành giật lại bằng mọi giá. Kinh tế: Mạc Đăng Dung đưa ra một số quy chế về ruộng đất gồm: binh điền, lộc điền, quân điền và cho đúc tiền Thông Bảo. Nội trị: Thời thịnh trị của triều Mạc đời sống nhân dân no đủ, xã hội ổn định. Theo sách Đại Việt Thông sử của Lê Quý Đôn phải thừa nhận Mạc Đăng Dung “được lòng người hướng về”. Sau đó, thua chúa Trịnh Tùng, nhà Mạc lên cát cứ tại Cao Bằng, nếu không được lòng người thì không thể tồn tại tới 85 năm. Thi cử: Nhà Mạc rất chú trọng tới nhân tài, tuy chinh chiến triền miên nhưng nhà Mạc vẫn tổ chức các khoa thi Hội, lấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguyên… Trong 65 năm định đô ở Thăng Long, nhà Mạc mở 22 kỳ thi Hội, lấy đỗ 485 Tiến sĩ, trong đó có 13/49 Trạng nguyên trong suốt 800 năm thi cử Nho học thời phong kiến Việt Nam. Khi rút lên Cao Bằng, họ Mạc vẫn tổ chức thi cử để lấy người hiền tài. Có một kỳ thi người đỗ đầu là một phụ nữ giả trai đi thi tên là Nguyễn Thị Duệ. Di tích Mạc Triều 1. Thành nhà Mạc ở Lạng Sơn: hiện nằm trong khu vực phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia, đưa vào phục vụ khách du lịch tham quan. 2. Thành nhà Mạc ở Tuyên Quang: được xây vào năm 1592, được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia. 3. Thành nhà Mạc ở Cao Bằng: là thành Trà Lữ, khi nhà Mạc rút lên Cao Bằng (1592-1677), trong 85 năm, bốn đời Thân vương triều Mạc đóng đô ở Cao Bằng đã cho tu sửa, xây thành cao lên để phòng thủ. 4. Thành nhà Mạc ở Thủy Nguyên, Hải Phòng: thành ở bờ tây sông Bạch Đằng, trong thung lũng núi Dền, địa thế hiểm trở, thành xây dựng dựa vào thế núi, tạo lợi thế cho phòng thủ. 5. Khu tưởng niệm Vương triều Mạc : ở đất Dương Kinh xưa, Hải Phòng nay, mới khánh thành giai đoạn 1 vào ngày 25-12-2010, còn được gọi là Thế Miếu: Người viết có dịp thăm viếng Thế Miếu này với khuôn viên to lớn, gần bằng khu Văn miếu - Quốc Tử giám Hà Nội. Khu này thờ tượng 5 vị Hoàng đế triều Mạc định đô tại Thăng Long. Du khách chú ý đến một “Thanh đại long đao của Thái tổ Mạc Đăng Dung” - đã được bảo quản và lưu thờ nhiều thế kỷ tại Từ đường chi họ Phạm gốc Mạc, thôn Ngọc Tỉnh, thị trấn Xuân Trường, Nam Định. Thanh đại long đao này được Mạc Đăng Dung, thời làm võ tướng, sử dụng để xông pha trận mạc với nhiều trận bách chiến bách thắng - Từ đất Dương Kinh 418 năm về trước, Thanh đại long đao đã ra đi lánh nạn sau ngày Thăng Long thất thủ. Trải qua hành trình lịch sử đằng đẵng, 418 năm sau từ đất Thiên Trường (Từ đường họ Phạm gốc Mạc), Báu vật của Tiên đế được long trọng rước về Dương Kinh, trưng bày tại Thế Miếu, trước linh vị thần tượng vị “Hoàng đế Anh linh hộ quốc an dân, Sáng nghiệp Mạc triều thiêng liêng” trong ngày Lễ chính kỵ lần thứ 469 Đức Mạc Thái tổ (1541 - 2010), trong dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Hiện nay, Châu Á chỉ còn 2 binh khí được lưu thờ là vật thái bảo: - Thứ nhất là Thanh đao của Tống Thái Tổ nhà Bắc Tống (Trung Hoa) - Thứ hai là Thanh đại long đao của Mạc Thái Tổ đang được lưu thờ tại Khu tưởng niệm Vương triều Mạc, thành phố Hải Phòng. TÓM LẠI Với tiềm năng du lịch của một Thành phố biển, Hải Phòng với biết bao thắng cảnh thiên nhiên và lịch sử, khu du lịch Cát Bà - Đồ Sơn, bức tượng Bà Lê Chân uy nghi, vĩ đại, nhưng nay, đặc biệt với việc Khu tưởng niệm Vương triều Mạc xuất hiện tại đất Dương Kinh xưa - với Thanh đại long đao quý giá của Mạc Đăng Dung - thì tiềm năng du lịch của Thành phố Hoa Phượng Đỏ này chắc chắn sẽ được nâng lên một tầm cao mới! PHẠM VŨ Tham khảo: Các tài liệu do Khu tưởng niệm Vương triều Mạc cung cấp và trên Internet. Phỏng vấn Cụ Đào-văn-Minh một lão Hội-viên VỀ GỐC TÍCH TRƯỜNG BƯỞI Cụ đã 73 tuổi, cảnh già điền viên, nhưng cụ cũng vẫn nhanh nhẹn, ưa hoạt động, và rất thiết-tha với Ái-Hữu. Biết trước tính cụ không ưa khách sáo, nên Phóng Viên Vác Dù vào câu chuyện ngay. Dưới đ ây, xin thuật lại những câu hỏi và câu trả lời của cụ: Hỏi.- Thưa cụ, Trường Bưởi có phải là Trường Trung-học đầu tiên được mở tại Hà-Nội không? Đáp.- Có thể nói là đúng, vì có mấy trường mở trước, tuy lấy tên là “Collège”, nhưng chỉ là những trường chuyên đào-tạo thông ngôn hoặc giáo viên cấp thời. Trường Yên-Phụ (phía Bắc Hà-Nội) được mở vào tháng 10 năm 1892. Ngôi nhà ấy đến sau này đã được sửa chữa, để dùng làm trường-sở trường Tiểu-học Yên-Phụ. Hồi bắt đầu mở trường “Collège des Interprètes” Yên-Phụ, đất Bắc còn thờ-ơ với việc học tiếng Pháp, nên đa số thông ngôn đều là các ông phán Sài-gòn. Đến năm 1899, Trường được chuyển tới một tòa nhà, trụ-sở cũ của Nha Thương-Chính (Quan Thuế) ở đường Bờ Sông (tên thời Pháp là Quai Clémenceau và nay là đường Nguyễn-trường-Tộ) nên người ta quen mồm gọi là Trường Thương-Chính. Trường Collège Jules Ferry mở tại Nam-Định, năm 1904, lấy mấy lớp nhất của Trường Tiểu-học Nam-Định (Trường mệnh danh là Trường Trong, gồm từ lớp ba trở lên; còn Trường Ngoài gồm từ lớp tư trở xuống) làm trường sở. Trường này cũng là trường theo một chương trình cấp tốc, với mục đích đào tạo thông ngôn. Trường Collège Doudart de Lagrée, mở tại đường Hàm-Long, Hà-Nội, năm 1906, đặc biệt để đào tạo giáo viên. Như tôi đã nói ở trên, tuy những trường kể trên được mở trước Trường Bưởi, nhưng chỉ có tính cách những lớp cấp tốc đào tạo thông ngôn hoặc giáo viên cần thiết cấp thời, nên chương trình học cũng như việc cho học trò lên lớp, đều co dãn, tùy theo nhận xét của Ban Giáo sư và Ban Giám đốc. Trường Bưởi tức là Collège du Protectorat, là Trường Trung học đầu tiên có quy-củ, có chương trình 4 năm học, mở cho người Việt-Nam, tại Bắc-Hà. Trường được đặt nền móng năm 1907, trên một bất động sản mua lại của nhà in Schneider, bên bờ Hồ Tây, thuộc địa phận làng Thụy-Khuê, huyện Hoàn-Long, tỉnh Hà-Đông. Khu đất rất rộng, nằm từ ven Hồ-Tây ra tới đường xe điện chạy Hồ Hoàn-Kiếm - Yên-Thái. Làng Yên-Thái, tên nôm là làng Bưởi, nên đường xe điện lên Yên-Thái được gọi nôm là đường lên Bưởi. Hồi đó, phương-tiện giao-thông tiện lợi nhất là xe điện, nên đa số học-sinh đi học Collège du Protectorat đều sử-dụng xe điện lên Bưởi. Do đó, phát nguyên danh-từ “Trường Bưởi”. Cả khu trường được sửa sang và nhà dựng lên lần lần, nên niên học chính-thức đầu tiên, 1908-1909, còn thiếu thốn về mọi phương diện. Buổi đầu, chưa có phòng tắm cũng như phòng rửa mặt, nên lưu trú học sinh đều phải chạy xuống Hồ-Tây rửa mặt buổi sáng và tắm buổi chiều. Đến sau, nhà trường mua (hay đi xin được) 50 vỏ thùng rượu vang, mang mỗi thùng cắt đôi, để học sinh dùng làm thùng tắm. Chiều chiều, lao công gánh nước Hồ-Tây, đổ đầy các thùng, vào khoảng 4 giờ, để đến 5 giờ, học sinh lưu trú luân phiên tắm gội. Chúng tôi có thói quen vui nhộn, hò nhau cùng ngồi vào thùng tắm, nhúng cả mình, trước khi ra mặc áo quần. Ông Hiệu trưởng đầu tiên của trường, là ông Cyprien Mus, tính nết hòa nhã, nhân đi qua, nghe thấy tiếng chúng tôi hò nhau vui vẻ, nên ghé tới xem chúng tôi tắm. Tôi ngồi ngay ở thùng đầu tiên, tự nhiên phản ứng như lúc ông Hiệu trưởng vào thăm lớp học, vội vàng đứng dậy chào. Tức thì, các bạn tôi cũng làm như tôi, mọi người cùng tồng ngồng đứng trong thùng rượu bổ đôi. Ông Hiệu trưởng vừa cười, vừa chào trả lại. Hỏi.- Được biết cụ đã học Collège Jules Ferry, trước khi lên trường Bưởi. Vậy xin cụ cho biết qua về trường ấy. Đáp.- Tiếng gọi là Collège, nhưng chương trình học và sự sắp xếp lớp học rất co dãn. Muốn có ngay học sinh niên khóa đầu tiên, 1904-1905, đặc cách cho Cours supérieur tiểu học là 1re année, rồi cuối năm thi đậu bằng Tiểu học, cho lên 2e année. Đến cuối niên học 1905-1906, cho ngay 10 người đầu lớp 2e année lên Hà-Nội thi Đíp-Lôm (Diplôme de fin d’études complémentaires franco-annamites). Năm 1906 là năm đầu tiên có kỳ thi Đíp-Lôm; thí sinh chỉ gồm có 10 học sinh Collège Jules Ferry và ngót hai mươi học sinh Collège des Interprètes Hà-Nội. Người đỗ đầu khóa thi ấy, là cụ Nguyễn-phan-Long (con cụ cố Thông phán Nguyễn-phan-Toán, lúc đó làm việc tại tòa sứ Nam-Định) học sinh trường Collège Jules Ferry. Đậu Đíp-Lôm xong, cụ lại được bổ nhiệm làm giáo sư ngay ở trường Collège Jules Ferry cụ học trước. Niên khóa 1906-1907, cụ dậy lớp 3e année, nghĩa là dậy ngay bạn đồng học 2e année cũ, nhưng mọi người đều thán phục tài đức của cụ, trong việc giảng dạy. Mấy tháng sau, có kỳ thi Tham-tá quan thuế, cụ dự thí, lại đỗ đầu và được bổ nhiệm ngay tại Hà-Nội. Nhưng chỉ vài năm sau, nhân cụ thân sinh về hưu-trí, trở lại Nam-Phần, cụ xin thôi nghề công chức, để về làm báo tại Saigon, như chúng ta đã biết. Có một hồi, lúc tuổi già, cụ đã gánh vác nhiệm vụ Thủ-tướng Chính-phủ. Trong số 10 cụ đậu “Đíp-Lôm” đầu tiên của trường Collège Jules Ferry, chỉ còn có 3 cụ còn sống, là cụ Đào-đức-Tầm, 80 tuổi, cụ Hoàng-mạnh-Ngọc, 76 tuổi, hiện nay vẫn mạnh khỏe, ở tại Saigon, và cụ Nguyễn-văn-Bằng, 78 tuổi, ở lại Nam-Định. Chuyện lên lớp ở Collège Jules Ferry rất co dãn, như tôi đã nói. Tôi còn nhớ số chước tịch của cụ Nguyễn-phan-Long và Hồ-sĩ-Nam là 922 và 921, còn số của tôi là 2.394; có sự cách biệt con số như trên, vì khi hai cụ ấy học lớp nhất, tôi mới học lớp chín. Lẽ ra phải thua tám lớp, nhưng trong một năm, nhờ về những bài thi chính tả chữ Pháp liên tiếp được trội điểm hơn cả, tôi đã nhẩy tới 5, 6 lớp, thậm chí đến niên học 1905-1906, tôi chỉ còn kém hai cụ có một lớp. Trường Collège Jules Ferry được đóng cửa vào cuối niên học 1907-1908, để dồn học-sinh lên Trường Bưởi. Thực ra, nhờ về sự chuyển học-sinh này, Trường Bưởi mới có đủ các lớp từ 1re année đến 4e année, vào niên-khóa 1908-1909. Với việc dồn trường ấy, tôi trở thành học-sinh Trường Bưởi. Hỏi.- Xin cụ cho biết qua về việc giảng dạy ở Trường Bưởi hồi bấy giờ. Thi cử ra sao? Đời sống lưu-trú học-sinh như thế nào? Đáp.- Niên học 1908-1909, Trường Bưởi gồm có Petit Collège, cho bậc tiểu học, có chừng 250 học sinh và Grand Collège, cho bậc trung học phổ thông có chừng 120 học-sinh. Học trò phải đậu tiểu học mới được thi vào 1re année, và hết 4e année mới được thi trung-học phổ-thông. Vì mục đích lúc đó là đào tạo công chức, nên đến 4e année, mỗi lớp tùy theo sự lựa chọn của học-sinh, chia làm hai ban: ban hành chánh (section administrative) thi ra làm ông phán (thư ký), ban sư-phạm (section normale) thi ra làm ông giáo viên tiểu-học. Đặc biệt có niên-khóa 1909-1910, có 11 người, vì bài Pháp văn không đủ điểm, nên thi rớt Đíp-Lôm; nhà trường cho học lại, nhưng cho ngồi riêng một lớp, gọi là 5e année, có ý đề cao học-sinh đàn anh về niên học. Cuối niên-học sau (1910-1911) mười người thi đậu “Đíp-Lôm”, một người thi rớt, nhưng chỉ một tháng sau, đậu kỳ thi thông ngôn Tòa sứ. Vị hiệu-trưởng đầu tiên là ông Cyprien Mus, tính nết hòa nhã, vui vẻ, rất gần gũi học-sinh, luôn luôn bình tĩnh ôn tồn, dầu xảy ra việc gì không vừa ý. Ông nói chuyện thân mật với học-sinh, nói tiếng Pháp thanh thanh rất dễ nghe. Ông cho học-sinh biết: ông là người tỉnh Tours, vùng Touraine, đã đậu thủ khoa trường Ecole Normale Saint-Cloud. Ông vừa làm hiệu-trưởng, vừa dạy 4e année, về môn sư-phạm. Vì tôi học ban sư-phạm, nên cảm thấy giờ học ông là những giờ thích-thú nhất. Ông săn sóc đến học-sinh từ chỗ học, đến nơi ăn, chốn ngủ, thường nếm cả cơm cùng các thức ăn, và lúc nào cũng chú ý đến lời kêu ca của học-sinh. Trừ một giáo sư có bằng cử nhân văn khoa, toàn thể giáo sư Pháp dạy hồi đó là giáo viên tiểu học bên Pháp sang. Tuy vậy, chính ông giáo sư có bằng cử nhân, nhưng không hề học qua lớp sư phạm, lại dạy học không có kết quả nhất. Giáo sư Việt-Nam có hai vị: 1o cụ Trần-hữu-Đức, người Hà-Nội, hồi đó chừng 50 tuổi, dạy phiên dịch Việt-Pháp (thème et version), tài chuyển ngữ Việt Pháp có phần trội hơn cả cụ Nguyễn-văn-Vĩnh; sau này, cụ tham dự phong trào cách mạng và tạ thế tại Hà-Nội, nên không ai nhắc đến tên cụ nữa, 2o cụ tú tài Ngô-tiến-Tiệp dạy chữ Nho. Học-sinh hồi đó là con cháu các gia-đình hấp thụ Nho phong, nên đối với giáo sư hết sức kính cẩn. Sự kính cẩn đối với thầy ấy đã làm cho một giáo sư người Pháp tên là Roland đi quá trớn; trong khi rầy la học trò, đã dùng những danh từ quá đáng. Cả Ban Trung-học (gồm chừng 120 người đã có tới 100 người là lưu trú học-sinh, vì được hưởng học bổng) phẫn uất về cách ăn nói trên, nên một buổi tối, sau bữa cơm chiều, thảo luận về thể thức phản ứng lại. Mọi người đồng thanh cùng ký một lá đơn xin đổi giáo sư Roland. Sáng hôm sau, một bạn ở lớp trung-học có giờ giáo sư Roland đầu tiên, viết lên bảng câu: “Socrate a dit: Il ne m’aime pas. Que pourrai-je lui apprendre?”. Lúc ông Roland đến, học-sinh đứng dậy chào như thường lệ và yêu cầu ông đọc câu trên bảng. Đọc xong, ông nổi cơn thịnh nộ và đe dọa: cửa Trường Bưởi mở rộng! Một học-sinh đấu khẩu trả lời xin để ông hiệu-trưởng giải quyết. Đồng thời, mọi người ra khỏi lớp học, sắp hàng đôi, đi rất trật tự và bình tĩnh, từ lớp học đến phòng giấy ông hiệu-trưởng, đệ lá đơn xin đổi ông Roland, mà mọi người đã ký từ đêm hôm trước. Ông hiệu-trưởng Cyprien Mus, như đã nói ở trên, rất gần gũi học-sinh, nên sau khi đọc xong đơn, khuyên học trò bình tĩnh trở lại lớp học, chờ cuộc điều-tra của ban giám-đốc nhà trường, và trong khi chờ đợi, giáo sư Roland sẽ tạm ngưng giảng dạy. Chỉ trong vòng một tuần lễ sau, giáo sư Roland có sự-vụ-lệnh thuyên chuyển sang Lèo và toàn thể lưu trú học-sinh Ban Trung-học phải phạt không được ra chơi phố, hai tuần lễ (2 privations de sortie). Chúng tôi đã vui vẻ chịu phạt. Sách học hồi đó phát đủ cho học-sinh, không phải mua, nói là cho mượn, nhưng cuối niên học, cũng không lấy lại. Việc thi hồi đó cũng giản dị lắm. Không phải lập hồ-sơ giấy tờ phiền toái như ngày nay. Độ nửa tháng trước ngày thi Đíp-Lôm, ông hiệu-trưởng lập danh sách thí sinh trường mình, lấy chữ ký từng thí sinh, rồi gửi tới Nha Học chính là đủ. Vào năm tôi đi thi (niên học 1911-1912), trước ngày thi, chúng tôi được ông hiệu-trưởng báo cho biết đến thi tại trường Trung-học Pháp Paul Bert (hồi đó chưa có Lycée Albert Sarraut; chỉ có Collège Paul Bert, ở đường Đồng-Khánh, gần nhà Gô-Đa), chúng tôi thấy vẻn vẹn có 30 thí sinh, mà Trường Bưởi đã có tới 25 thí sinh, toàn thể lại là lưu trú học-sinh, chỉ có 5 thí sinh tự do (candidat libre), thật là phiền phức cho chúng tôi, về sự chuyển vận tới nơi thi. Lập tức, ông hiệu-trưởng Cyprien Mus, can thiệp với Nha Học-chính và chúng tôi được thi tại Trường Bưởi. Vì cận ngày quá, không kịp báo cho 5 thí sinh tự do, nên sáng sớm ngày thi, Nha Học-chính cho người đón 5 thí sinh tự do tại Collège Paul Bert để chuyển lên Trường Bưởi. Kỳ thi ấy, 18 thí sinh Trường Bưởi đậu, rớt 7 người, và 5 thí sinh tự do đều hỏng cả vì học không đủ để làm bài. Lúc đó, thi rớt “Đíp-Lôm” cũng không buồn, vì luôn luôn có những kỳ thi tuyển thư ký: học lực đi thi “Đíp-Lôm” dư để thi đậu thư ký, vì phần đông thí sinh Thư ký chỉ vừa mới thi xong bậc Tiểu-học. Câu chuyện khi đó xảy ra cũng ngược đời: đậu “Đíp-Lôm” tháng 6, đến tháng 9 mới được bổ nhiệm làm công chức; nhưng thi hỏng “Đíp-Lôm”, đậu kỳ thi thư ký, vào tháng 7 chẳng hạn, đầu tháng 8 đã được bổ nhiệm làm công chức rồi. Hồi đó, ông Hiệu-trưởng sống thân mật với học-sinh lắm: mỗi kỳ thi Đíp-Lôm xong là ông khao một bữa ngay tại trường, cấp cho chừng 5, 7 con gà tây quay bơ và mươi chai rượu vang, tùy theo số người mãn khóa. Đời sống lưu trú học-sinh cũng dễ chịu lắm. Giám thị đối với học-sinh 4e année, nhất là đặc biệt 5e année, hầu như không có ảnh hưởng; anh em 5e année và 4e année chia nhau, mỗi người săn sóc chừng dăm em lớp dưới, cả từ lúc ăn lẫn lúc học, như anh cả đối với các em nhỏ. Thực đơn hàng tuần đều do chúng tôi xếp đặt và đề nghị với nhà trường. Tôi xin kể một chuyện xảy ra trong niên học 1910-1911, nhân dịp ông Giám thị tên là Tuân tạ thế. Học sinh phải làm điếu văn, lúng túng mãi không biết gọi bằng “ông”, hay “thầy”, hay là “anh” vì vừa năm trước, ông ấy cũng là học-sinh trường Bưởi. Việc mang ra thảo luận gay go, sau tôi mang ra một tờ nguyệt san giáo dục Pháp có in một bài điếu văn của một giáo sư, tiến sĩ văn chương, khóc một đồng nghiệp, vừa là thầy cũ bậc tiểu-học, vừa là bạn cũ bậc đại-học, lại vừa là học trò cũ, cũng bậc đại-học. Bài điếu văn ấy bắt đầu như sau: “Thưa Thầy thân ái, “Thưa Bạn thân ái. “Thưa Học trò thân ái,” Mọi người thỏa thuận để bài điếu văn bắt đầu bằng “Thưa Anh”, và người đại diện đọc điếu văn là một học sinh lớp 4e année. Khi điếu văn vừa đọc xong, cụ Giám thị Nguyễn-đình-Quế, tỏ vẻ tức bực, khó chịu và ứng khẩu mấy câu chua chát như sau: “Thưa Anh! Anh Tuân ơi! Tuy anh chẳng dạy được ai, nhưng anh cũng đã dầm sương, dãi nắng ở sân nhà trường. Than ôi! Dã tràng xe cát biển Đông!…” Đến đây, Phóng Viên Vác Dù thấy đã quá kéo dài cuộc phỏng vấn, làm cụ lão hội viên mất nhiều thời giờ và thêm mệt mỏi, nên xin cáo lỗi đối với cụ, để xin rút lui. Nhưng cụ lão hội viên Đào-văn-Minh, cụ già quắc thước đáng kính mến, mặt như sáng thêm lên và niềm nở bảo tôi rằng: Tôi lấy làm thích thú góp phần tinh thần vào Ái hữu Cựu học sinh trường Bưởi và kể xong cho ông nghe câu chuyện trường xưa, thầy và bạn cũ, tôi đã quay lại cuốn phim thiếu thời, riêng tôi cảm thấy như mới ngày hôm qua, còn sống ở ký túc xá trường Bưởi, không mệt mỏi đâu. PHÓNG VIÊN VÁC DÙ BS.NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st. GIỚI THIỆU TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐINH BỘ LĨNH Tác giả HÀN THẾ DŨNG Tiểu thuyết lịch sử Đinh Bộ Lĩnh của Hàn Thế Dũng do Nhà xuất bản Công an nhân dân cho ấn hành năm 2004 gồm 382 trang. Dẫu rằng tiểu thuyết là có hư cấu thêm vô nhưng tôi cho rằng các nhơn vật chủ chốt trong tác phẩm là có thật. Trong tác phẩm nổi bật là nhà mưu lược Trịnh Khiển Sơn đã góp công dựng nghiệp cho Dương Đình Nghệ (sách sử ghi Dương Diên Nghệ), Ngô Quyền và Đinh Bộ Lĩnh. Về Khúc Thừa Dụ, ba triều đại họ Khúc, sách Việt Nam sử lược Trần Trọng Kim tái bản năm 2012 chỉ ghi vỏn vẹn không đầy một trang rưỡi. Tự chủ thời đại bắt đầu từ nhà Ngô. Trong truyện Đinh Bộ Lĩnh, chương I đầu tiên ghi: “Họ Khúc dựng quyền tự chủ”. Tôi tâm đắc điều nầy vì nếu không có họ Khúc tạo cơ sở vững chắc ở nhiều nơi và giương cao ngọn cờ tự chủ thì liệu Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền có đuổi ngoại xâm dễ dàng như vậy không? Họ Khúc dựng quyền tự chủ: Đường Chiêu Tôn sai Độc Cô Tổn sang An Nam làm Tiết độ sứ. Các phe phái trong triều hặc tội, Tổn sợ quá chạy ra đảo Hải Nam. Các phe phái trong triều Nam Đường chực cướp ngôi nên họ bỏ ngỏ nước Nam. Bốn ngàn quân chủ lực của nhà Đường do Lý Bính chỉ huy trong thành Tống Bình (vùng Đại La) hoang mang. Hai ngàn lính Việt do Đoàn Thao chỉ huy không có tinh thần chiến đấu. Khúc Thừa Dụ là hào trưởng miền Hồng Châu thuộc Ninh Giang - Hải Dương liên kết với các võ sư làm nanh vuốt. Trưởng môn phái võ Mai Động là Nguyễn Tam Thanh cho người vào thành Đại La làm nội công. Đoàn Thao cũng được thuyết phục ủng hộ Khúc Thừa Dụ. Cửa thành mở, Khúc Thừa Dụ vào chiếm và được tôn làm Tiết độ sứ. Ông cử người sang Nam Đường xin Tiết Việt và được phong Tĩnh Hải Tiết độ sứ và gia phong Đồng bình chương sự. Non một năm, Thừa Dụ mất truyền lại cho con là Khúc Thừa Hạo. Khúc Thừa Hạo ban dụ chiêu hiền nạp sĩ. Dương Đình Nghệ hào trưởng ở Ái Châu. Đinh Công Trứ, Nguyễn Thước là hào mục ở Đại Hữu cùng Trịnh Khiển Sơn vào gặp Nghệ và cùng ra Đại La gặp Khúc Thừa Hạo. Hạo giao Dương Đình Nghệ làm Thứ sử Ái Châu, Đinh Công Trứ làm Thứ sử Hoan Châu và cho tuyển binh tập luyện làm nanh vuốt và cứu viện khi cần. Hạo chủ trương khoan sức dân, khuyến khích nông, tang và chia nước thành những đơn vị hành chánh, chọn người tài năng chính trực đứng đầu. Tôi cho rằng việc nầy là tiền đề của nền tự chủ sau nầy. Sau khi Khúc Thừa Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên thay, Mỹ thiên về dùng bạo lực, nghe đâu không yên là phái quân tới đánh. Vua Nam Hán sai Lương Khắc Chính (sử ghi Lý Khắc Chính) sang đánh bắt Khúc Thừa Mỹ. Dương Đình Nghệ đem quân ra giết Lương Khắc Chính, chém Chinh Nam tướng quân Trình Bảo sang cứu viện nhưng ông cũng sai sứ sang Nam Hán xin phong làm Tiết độ sứ và ban Tiết Việt. Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán dựng nhà Ngô: Đánh tan quân ngoại xâm xong, Nghệ cử con rể là Ngô Quyền làm Thứ sử Ái Châu, Đinh Công Trứ vẫn giữ Hoan Châu và coi đó là hậu phương và nanh vuốt bảo vệ nước nhà. Được 6 năm, Kiều Công Tiễn ám sát Dương Đình Nghệ và cử người sang thông hiếu với Nam Hán. Vua Nam Hán sai Thái tử Hoằng Tháo sang chiếm Giao Chỉ chớp nhoáng. Ngô Quyền được tin Dương Đình Nghệ bị ám sát liền hiệu triệu ứng nghiã và nhanh chóng ra Đại La bắt và giết Kiều Công Tiễn. Chận đánh Hoằng Tháo ở sông Bạch Đằng, bắt và giết đi. Ngô Quyền xưng vương ở ngôi được 7 năm thì mất. Ngô Xương Ngập lên thay, bị cậu là Dương Tam Kha soán ngôi xưng vương là Dương Bình Vương. Ngô Xương Văn mưu cùng các tướng phế Dương Bình Vương làm Chương Dương công và được tôn là Nam Sách Vương. Vương rước anh về cùng coi việc nước nhưng hai anh em không được hòa nhau. Từ khi Dương Tam Kha định soán ngôi cho tới khi có sự phế lập, các tướng lục tục xin đi trấn nhậm các nơi để phòng hậu họa. Các hào trưởng khắp nơi lo mộ quân để tự vệ. Đinh Bộ Lĩnh cũng mộ quân xây thành Quèn ở Hoa Lư. Hai vương đem quân tới đánh, đánh không nổi Bộ Lĩnh nên phải rút về. Các tướng trấn nhậm các nơi thấy vậy liền mộ quân để củng cố thế lực. Do đó, các sứ quân nổi lên khắp nơi nhưng có 12 sứ quân mạnh nhứt là: 1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (sau khi Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn chết, Ngô Xương Xí lên thay nhưng vì yếu thế nên chỉ là một sứ quân thôi). 2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang. 3. Trần Lãm giữ Bố Hải Khẩu. 4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (cháu nội Kiều Công Tiễn) 5. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái 6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm 7. Lý Khuê giữ Siêu Loại 8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du 9. Lữ Đường giữ Tế Giang 10. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì - Hà Đông) 11. Kiều Thuận giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê - Sơn Tây) 12.Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu (Nam Sách) Qua ba nhân vật Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền tôi thấy: a. Khúc Thừa Dụ là người có công đầu trong việc dựng nên quyền tự chủ cho dân tộc. b. Dương Đình Nghệ một sớm một chiều đem quân từ Ái Châu ra giết tướng giặc bảo vệ được nền tự chủ cho đất nước. c. Ngô Quyền cũng một sớm một chiều đem quân từ Ái Châu ra diệt nội phản, đánh tan quân xâm lược kéo sang bảo vệ được quyền tự chủ cho dân tộc. Tôi cho rằng Khúc Thừa Dụ có công lớn nhứt vì vạn sự khởi đầu nan. Họ Khúc tổ chức và xây dựng thế lực ban đầu tạo cơ sở cho công cuộc bảo vệ tổ quấc. Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền, công giữ nước ngang nhau nhưng xưa nay sử ta tôn vinh Ngô Quyền là người mở đầu cho nền tự chủ nước nhà. Khúc Thừa Dụ và Dương Đình Nghệ không thấy nói tới có lẽ vì Ngô Quyền xưng vương, hai ông kia vẫn giữ chức Tiết độ sứ của Trung Hoa. Nhưng thời thế lúc bấy giờ phải làm thế mà thôi. Nay ta cần trả lại sự công bằng là tôn vinh Khúc Thừa Dụ có công đầu, kế đến là Dương Đình Nghệ nữa. Thời loạn hào kiệt tranh hùng-Họ Đinh dựng nghiệp đế: Bị đánh, Đinh Bộ Lĩnh tạo thanh thế bằng cách liên minh với kẻ nhơn từ và nghĩa khí, đó là Trần Lãm. Lãm bị bọn cướp Vân Hán ở rừng núi Gôi ức hiếp, thổ hào Vũ Liệp bắt trâu nên nhờ Bộ Lĩnh giải quyết. Tới Vũ Liệp, Nguyễn Bặc trổ sức thu phục được Vũ Liệp. Tổ chức phá sào huyệt của Vũ Hán ở hai mặt. Hán phục tài Nguyễn Bặc nên hàng, hai bên cùng kêu thuộc hạ ngừng tay. Vân Hán lại kêu gọi các đám ăn cướp khác qui hàng Đinh Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh tổ chức lại căn cứ núi Gôi làm cứ điểm và giao cho Đinh Liễn và Lê Hoàn đem quân tiến lần lên đánh chiếm Cổ Loa. Ngô Xương Xí bị hai quan đại thần lăm le chiếm ngôi, Ngô Nhật Khánh đem quân bản bộ về Đường Lâm lập căn cứ. Ngô Xương Xí về Ái Châu chiếm giữ thành Bình Kiều. Thấy vậy, Đỗ Cảnh Thạc về xúi hai quan đại thần đánh nhau để ông hưởng lợi nhưng bị Đinh Liễn và Lê Hoàn chiếm Cổ Loa, thu phục các sứ quân Lữ Đường, Kiều Thuận, đánh Kiều Công Hãn, Hãn chạy xuống Thiên Trường, đánh Phạm Bạch Hổ, Hổ chạy về Thanh Hải miền Sơn Nam hạ. Đỗ Cảnh Thạc liên minh với Ngô Xương Xí tiến đánh Hoa Lư, bị phục binh Xí chạy thục mạng. Thạc đi đường thủy, Tuân Cảnh đi đường bộ bị chận đánh sắp vỡ, Thạc lên bộ tổ chức tiến đánh. Lĩnh 3.000 quân, Thạc 5.000 quân nên ở thế thua. Lê Hoàn trở về tiếp cứu và mở thế bao vây, Thạc chạy về Đỗ động. Vạn Thắng Vương lúc bấy giờ mới nhận ra chia quân chiếm đất giành dân là sai. Thế bây giờ là phải rút quân các nơi về tổ chức thành lực lượng mạnh mới đánh được. Trịnh Khiển Sơn chiêu hàng được Phạm Bạch Hổ. Đỗ Cảnh Thạc liên minh với các sứ quân khác để báo thù. Ngô Xương Xí, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu thì chỉ phái hai tướng, mỗi vị 500 quân là chặn được. Ngô Nhật Khánh lúc này thế cũng lớn nhưng Phạm Bạch Hổ chỉ xin 500 đi chận. Đỗ Cảnh Thạc đi đường thủy, đổ bộ xong, tiến quân thì đụng độ ác liệt với Vạn Thắng Vương. Thạc dụ Vương vào hiểm địa để bao vây nhưng bị Vương lập kế bao vây lại, Thạc thua lại rút về Đỗ động. Nghe tin Thạc bại trận, Khánh chạy về Thiên Trường. Trịnh Khiển Sơn chiêu hàng được Ngô Nhật Khánh. Vạn Thắng Vương tổ chức đánh vô Đỗ động. Đỗ Cảnh Thạc thua phải chạy trốn. Trên đường về quê, ông ngã bịnh và chết. Vạn Thắng Vương kéo quân về Hoa Lư, lên ngôi vua xưng là Đại Thắng Minh Hoàng Đế (sử ghi là Tiên Hoàng Đế), đặt quấc hiệu là Đại Cồ Việt, định đô tại Hoa Lư. Tiểu thuyết lịch sử Đinh Bộ Lĩnh tới đây là chấm dứt. Chủ trương của Đinh Bộ Lĩnh là hạn chế đổ máu. Bước đầu ông chiêu dụ các sứ quân có tiếng là nhơn nghĩa. Ông đem nhơn nghĩa và trổ sức mạnh để chiêu hàng. Sau, ông nêu việc Bắc Tống đã vượt sông Dương Tử tiến xuống phía Nam để kêu gọi đoàn kết giữ độc lập. Sứ quân Phạm Bạch Hổ và Ngô Nhật Khánh bề thế lớn hơn hết, phải Trịnh Khiển Sơn khéo nói họ mới chịu hàng. Hai tướng giỏi Phạm Bạch Hổ và Đỗ Cảnh Thạc có công giúp Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán thì một hàng, một thua chạy. Giai đoạn cuối của một sứ quân họ nói gì? - Phạm Bạch Hổ nói với phó tướng Cao Dư (tr.302): · “Ta không sợ nguy hiểm nhưng sợ mình làm sai đạo lý” và tiếp: · “Ta lấy lòng thành thờ họ mà họ không lấy lòng thành đãi ta thì lỗi ở họ”. - Đỗ Cảnh Thạc nói với chỉ huy thủy trại Mỹ Hưng là Vương Anh Tá: · “Không bảo vệ được lãnh thổ là cái nhục của người làm tướng, giữ lấy tính mệnh cho quân sĩ là cái đức của người làm tướng. Tình thế đã đến thế này mà còn cố cưỡng thì không những vô ích mà còn có tội. Các ngươi nên đầu hàng, giữ tính mệnh để về với vợ con” (tr. 377, 378). Những lời nói trên đây là những lời vàng ngọc đáng ghi nhớ. Khánh Hội - Quận 4 - Saigòn 18.3.2016 NHỰT THANH (Phạm Hiếu Nghĩa) GIỞ CHỒNG BÁO CŨ “TẠP CHÍ NAM PHONG” HƯƠNG GIANG Sách “Thư tịch báo chí Việt Nam” do PGS.TS Tô Huy Rứa chủ biên, NXB CTQG, H, in năm 1998, trang 283 viết về Tạp chí Nam Phong như sau: “Nam Phong, tạp chí văn học, khoa học xuất bản hàng tháng, số 1 tháng 1-1917, số cuối cùng 210, ngày 16-12-1934. Có phụ trương chữ Hán và chữ Pháp. Chủ bút kiêm quản lý Phạm Quỳnh từ số 1 đến số 198, 16 tháng 6 năm 1934. Nguyễn Tiến Lãng làm chủ bút hay Phạm Quỳnh từ số 199, 1-7-1934 đến số cuối cùng. Quản lý: Lê Văn Phúc. Tòa soạn: 80 phố Hàng Gai, Hà Nội. In ở nhà in Tôngkinoadờ, khổ 265x185cm2”. Đã 70 năm qua tính đến số cuối cùng của Nam Phong ở Việt Nam, bạn đọc chỉ có thể đến Thư viện Khoa học xã hội Trung ương Hà Nội hoặc đến một số gia đình Nho học cũ: Quang Đạm, Cao Xuân Dục… mới có thể tiếp cận được tạp chí này. Gia đình Nguyễn Tiến Lãng may sao còn giữ được toàn bộ Nam Phong. Và bà Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh, năm 2000 đã làm một đề tài khoa học về Nam Phong tại Paris. Hy vọng rằng giới báo chí, khoa học lịch sử Việt Nam sớm có được tác phẩm này của bà Phạm Thị Ngoạn để mở rộng đường nghiên cứu. Tạp chí Nam Phong như vậy là đã ra được 210 số. Các đề mục (chuyên mục, chủ đề) trên Nam Phong rất phong phú, đạt tới con số 51. Ngoài những mục theo bộ môn như: triết học, văn học, lịch sử, địa dư, du lịch còn có các mục nhỏ. Ví dụ như: trong bộ môn xã hội có công dân, hôn nhân, gia đình, hương thôn, cải lương, phụ nữ, quan lại, thượng lưu, trí thức, trị thủy, vệ sinh, ngoại quốc. Bộ môn văn học, có văn học, văn hóa, văn minh, văn gia, thi gia, truyện ngắn, truyện dịch, tiểu thuyết, hài văn, hí văn, kịch tuồng, khai trí tiến đức, phê bình sách, việc học, thi thơ, ca dao, tục ngữ, câu đối, diễn thuyết, hát tuồng, chèo, ả đào, kịch, tùy bút. “Với nhiều chủ đề bao quát, Nam Phong đã chủ trương tỏ thuật tư tưởng Âu Tây (quốc tế), nhưng vẫn không quên cái quốc túy trong nước (dân tộc). Nhiều thanh niên tri thức đã có thể căn cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí để bồi bổ cho cái học còn khiếm khuyết của mình. Thậm chí, còn có người lấy Nam Phong mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông Tây. Muốn hiểu những vấn đề của đạo giáo, muốn biết văn học sử cùng học thuật tư tưởng nước Tàu, nước Nhật, nước Pháp, muốn đọc thi ca Việt Nam từ đời Lý-Trần cho đến nay, muốn hiểu thêm lịch sử nước Nam, tiểu sử các đấng danh nhân nước nhà, muốn am hiểu các vấn đề xã hội Âu Tây và cả học thuyết của mấy nhà hiền triết cổ Hy-La, chỉ đọc kỹ Nam Phong cũng có thể hiểu được. Vì vậy, tạp chí Nam Phong có thể giúp cho học giả một phần to tát trong việc soạn một bộ bách khoa thư bằng chữ quốc ngữ”. Suốt trong một thời 17 năm xuất hiện trên văn đàn báo chí Nam Phong đã đăng 1391 bài tiếng Việt, 414 bài tiếng Pháp. Không kể phần Hán văn, tổng cộng đã công bố gần 2.000 bài. Trong gần 2.000 bài này đã có 123 tác giả viết bằng tiếng Việt, 41 người bằng tiếng Pháp. Người viết tiếng Việt nhiều nhất là Dương Bá Trạc (bút danh Tuyết Huy), Đặng Xuân Viện, Lâm Tấn Phát (Đông Hồ), Lê Dư (Sở Cuồng), Nguyễn Bá Học, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn Phục (Tùng Vân), Nguyễn Hữu Tiến (Đông Châu), Nguyễn Mạnh Bổng (Mân Châu), Nguyễn Trọng Thuật (Đỗ Nam)… Ngoài ra, còn có những tác giả khác như: Phan Anh, Tôn Quang Phiệt, Hoàng Ngọc Phách (Song An), Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Tường Phượng, Phạm Duy Tốn… Người viết nhiều nhất là Phạm Quỳnh (còn ký bút danh: Thượng Chi, Hồng Nhân) với 458 bài tiếng Việt và 33 bài tiếng Pháp (chưa kể chữ Hán), chiếm khoảng trên dưới 30% tổng số bài đã đăng trên Nam Phong, số bài còn lại khoảng 50-60% là do 162 người viết, trung bình cứ một tuần trong 17 năm tồn tại của Nam Phong, bên cạnh các công việc khác, Phạm Quỳnh viết được và đăng được một bài. Nhận xét về sức lao động này, V.N.K đã viết: “Phạm Quỳnh có một khối lượng công trình biên soạn khá đồ sộ, phần lớn đăng báo. Sau in lại trong bộ Nam Phong tùng thư và Thượng Chi văn tập. Một số người am hiểu Nam Phong đã coi Phạm Quỳnh gắn liền với Nam Phong “là linh hồn của Nam Phong tạp chí”. Nam Phong còn in 200 bức ảnh về chân dung một số nhân vật Pháp, Việt, phong cảnh đất nước, chùa chiền, di tích, một kho tàng ảnh đáng quý. Như trên đã trình bày, bộ bách khoa Nam Phong, ngay cả những bài viết có màu sắc chính trị vẫn giúp cho ngày nay và mai sau nhiều bổ ích. Như Bác Hồ đã giải thích “cách mạng là đổi cái cũ ra cái mới, đổi cái xấu ra cái tốt. Cái tốt học để phát huy, cái xấu biết để đề phòng, tránh xa”. Theo nghị định số 92/2002 ngày 11-11-2002 của Chính phủ quy định một số điều chi tiết về Luật di sản văn hóa thì “di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật khoa học…”. Về mặt nghiên cứu, Nam Phong có thể giúp chúng ta trên nhiều mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là một trong những nhân chứng lịch sử của những năm 1917-1934, giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Mười Nga cho đến chính phủ bình dân ở Pháp-diễn ra trên đất nước VIệt Nam. Người ham đọc sách có thể tìm thấy trên Nam Phong nhiều điều thú vị, ôn cố để tri tân. Bạn đọc Hải Dương có thể tìm hiểu thêm bài “Danh nhân Hải Dương” của Đ.N., viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm, bà Mẫu, Trần Vĩnh Tụy, Phạm Duy Quyết, Nguyễn Doãn Nhân, anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mận. Các giáo sư, thầy giáo rất tâm đắc khi Hạc Đình dẫn câu “Phàm làm thầy, nếu không học thêm mãi thì không thể dạy cho đích đáng được-Trường đại học là nơi trung tâm nghiên cứu, lại là nơi chủ động đạo đức và kinh tế nữa”. Bộ môn nhạc cụ chắc sẽ có thêm tri thức khi đọc một loạt bài của Hoàng Yến viết về “Khảo về nghề đờn ca ở nước ta”, “cầm học tầm nguyên”, “tiểu dẫn thông cảo, các thứ đờn: đờn cầm, đờn sắt, đờn tranh, đờn trúc, đờn không hầu, tỳ bà, dương cầm, đờn nhật, đàn nguyệt, đờn nhị, đờn tam, đờn độc huyền, đờn đáy, ống sanh, hoàng, địch, quản, tư huân, thược… sáu điều kỵ và bảy điều không nên đờn…”. Các nhà quản lý có thể đọc bài “Phụ mẫu dân hay là công bộc dân” của Thượng Chi, nhà nghiên cứu ngôn ngữ, sẽ có thêm tư liệu khi Hồng Nhân (Phạm Quỳnh) về tiếng quốc ngữ: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta còn”. Có thể nói, không ngoa rằng, ai có ý thích, tâm huyết tìm hiểu về tình hình nước ta về mặt văn chương, báo chí, khoa học, kinh tế, xã hội… thời kỳ 1917-1934 không thể không đọc Nam Phong. Bản thân các tác giả Nam Phong là người Việt, viết báo tiếng Việt, in trên đất Việt, dù còn có chỗ này, chỗ kia do lịch sử quy định, thiết nghĩ vẫn là tài sản của dân tộc ta, cần được nghiên cứu, khai thác để đóng góp phần hữu ích trong công cuộc xây dựng nền văn hóa của nước nhà, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ĐỖ THIÊN THƯ st. “TRÊN ĐƯỜNG SỰ-NGHIỆP” và TOÀN-THỂ VĂN-NGHIỆP của NGUYỄN-CÔNG-HOAN Đã hai tháng nay, không phải hội-viên hội KHUYẾN-HỌC mà tôi được cái hân-hạnh tới góp mặt mỗi kỳ với quí-ông, quí-bà trong ban trị-sự của hội. Đó là cái ơn tri-ngộ của Đoàn tiên-sanh, chánh hội-trưởng, của ông bạn Hải-Đường và của hết thảy các ngài đây. Tôi phải giúp các ngài trong việc định-đoạt một phần thưởng văn-học mà hội KHUYẾN-HỌC sẽ phát vào cuối năm nay. Tuy được tiếng là một nhà phê-bình nhưng quả thiệt không phải sách nào xuất bản cũng tới trình bày ở trước mắt tôi. Đã lâu nay nhiều tác-giả và nhiều nhà xuất-bản đã quên gởi sách tặng tôi và tôi cũng hình như đã quên ngó tới công việc của họ làm. Chịu lời ký-thác của các ngài, tôi đã bỏ hết ngày-giờ và trí-não để tìm-kiếm trong những tác-phẩm xuất-bản năm nay một tác-phẩm mà tôi cho là xứng đáng. Tôi đã kiếm những tác-giả mới. Tôi đã trở lại với những tác-giả cũ. Tôi đã nhận thấy có người chỉ xuất-sắc ở một vài tác-phẩm đầu tay rồi sự-nghiệp một ngày một đi xuống. Tôi còn nhận thấy có người đều đều đi tới, không thành-công một cách rực-rỡ ở một văn-phẩm nào nhưng đã thành-tựu một cách hoàn-toàn cả một cái sự-nghiệp văn-chương đồ-sộ. Tôi muốn lựa một tác-phẩm xuất-sắc trong năm 1941 nầy, dầu tác-giả chỉ sanh được một mình nó mà thôi. Tôi đã luống công vô-ích vì tôi kiếm nó không ra. Tôi tìm trong số những văn-sĩ đương thời. Tôi kiếm được một nhà văn đáng tiêu-biểu. Tôi lại may-mắn được đọc một tác-phẩm mới của nhà văn đó xuất hiện năm nay. Nhà văn đó là ông NGUYỄN-CÔNG-HOAN. Tác-phẩm mới ra của Nguyễn-quân là bộ tiểu-thuyết “TRÊN ĐƯỜNG SỰ NGHIỆP”. “Trên đường sự-nghiệp” có thể không phải là một công trình tuyệt-tác của tác-giả nhưng vẫn xứng đáng để tiêu-biểu cho cả một sự-nghiệp văn-chương đã thành và còn tiến. Đọc qua gần hai chục bộ sách đã xuất-bản, vừa chuyện ngắn, chuyện dài, tôi nhận thấy ở Nguyễn-công-Hoan có những đặc-điểm như sau nầy; 1. Một khiếu quan-sát linh-động. 2. Một khí-vị hài-hước thần-tình. 3. Một lối miêu-tả kỳ-thú thứ nhứt là trong sự miêu-tả nhơn vật. 4. Một lối văn sáng-sủa, dễ-dãi, không chịu ảnh-hưởng của ai mà cũng không ai bắt chước được. Trong lịch-sử văn-học thế-giới đã có nhiều nhà văn đui cả hai con mắt mà vẫn cứ việc sáng-tác như thường vì họ đã có cả một nguồn sống mãnh-liệt ở trong phát ra và có một khối óc tưởng-tượng phong-phú. Nhưng ở Nguyễn-công-Hoan thì hai con mắt chính là gốc của sự-nghiệp vì không có hai con mắt đó ngó ra cái xã-hội phiền-phức, lộn-xộn, đầy những sự tương-phản với những cảnh thương-tâm thì làm sao cho ta được thưởng-thức những bức tranh tả-thực của ngọn bút hoạt-kê. Sở trường về thuật đối-chiếu, Nguyễn-quân thường bày ra hai cảnh tượng trái-ngược để cảnh nầy làm tăng cái ý-nghĩa cảnh kia mà gây nên cái vị chua-chát của đời người. Một anh kép diễu có tài, trong khi cha hấp-hối thì đương phải bán cười ở trên sân khấu. Một đứa nhỏ ăn mày, tiều-tụy và ốm nhom, khỏe ăn nhưng bụng đói đối chiếu với một bà phú-hộ mập-ù, uống thuốc cùng khắp nơi mà vẫn không làm sao cho biết đói được. Đó là những cách kết-cấu thần-tình ý-vị. Ngoài ra ông lại còn là một tay vẽ người rất tinh-xảo. Lắm chuyện ngắn của ông chỉ là những bức truyền-thần một vài nhơn-vật tiêu-biểu, như những “Portraits” của La Bruyère. Chuyện “Cô Kếu, gái tân thời” trong “Kép Tư Bền” có đoạn tả cảnh sửa-soạn của cô Kếu như sau nầy: “Cô xổ khăn ra. Lấy lược chải lại mái tóc. Rồi rẽ lệch đường ngôi. Rồi uốn lại mái tóc cho cong xuống và thò ra mang tai. Rồi cô bôi phấn khắp mặt, tai và gáy(1). Rồi cô vươn cổ ra để thoa cho đều. Rồi cô rề dài môi ra để tô son… Rồi cô mặc quần trắng, xếp cho thẳng nếp, đứng ống. Rồi cô vận cái sơ-mi, cái áo cánh và cái áo dài sặc-sỡ, vuốt cho phẳng-phiu. Xong đâu đấy, cô nhận đôi giầy mang cá, ôm cái ví đầm, đến trước tủ gương mà đứng. Cô quay đằng trước. Cô quay đằng sau. Cô đi đi. Cô lại lại. Cô uốn-éo, cô thướt-tha. Cô đứng yên cô ngắm. Cô bàn. Cô tán. Cô bình-phẩm… Cô khoái lắm!...” Cô khoái lắm! Mà ta được ngắm cô như thế cũng khoái lắm! Khoái vì không phải là ta đương ngắm một bức tranh không hồn mà là đương coi một khúc phim hoạt-động. “Kép Tư Bền” ra đời đã lâu rồi. Nhưng ở ngay “Trên đường sự-nghiệp” mới xuất-bản đây ta cũng thấy cái hoạt-động, cái thần-tình như thế. Một cặp tình-nhơn ngồi nói chuyện ở trên lầu tới lúc phải xa nhau: “Chàng nhìn theo nàng, Minh-Châu vén tà áo, cúi đầu nhẹ-nhàng bước mấy bước, rồi rón-rén xuống cầu thang. Chỉ còn từ bụng trở lên. Chỉ còn từ ngực trở lên. Chỉ còn từ cổ trở lên. Nàng quay nhìn chàng, mỉm cười, gật chào lần cuối cùng. Chàng vẫn nhìn theo, ngây người đến nỗi không đáp lại. Lấp cái cằm… Lấp cái má…Chỉ còn bộ tóc đen…. Chỉ còn tí đỉnh đầu đen nhánh…Hết”. Hết đoạn đó còn đoạn khác mà trong văn-chương của Nguyễn-công-Hoan chẳng thiếu gì. Thật là một sự ngẫu-nhiên mà cái tác-phẩm còn nóng-hổi của Nguyễn-quân đây lại thấy nói tới cái đời sống của một chàng văn-sĩ. Trái với thường-lệ ông đã nói tới chàng một cách thân yêu, âu-yếm. Ông không ngạo chàng, ông không diễu chàng. Ông để cho người trong các giới khác phê-bình chàng ra sao mặc ý. Nhưng ông lại cho một người con gái đến làm bạn với chàng để giúp-đõ chàng về vật-chất, để an-ủi chàng ở tinh-thần, để chàng mạnh bạo tiến tới trên đường sự-nghiệp. Tôi tự hỏi: nhà văn-sĩ tả-chơn, mắt không rời khỏi “những cảnh khốn nạn” trong xã-hội của ta, sao nay lại vẽ ra những nhơn-vật lý-tưởng. Rồi tôi tự trả lời: “Trên đường sự-nghiệp” chính là một giấc mộng thân-yêu của văn-sĩ. Ông có thể đem cặp mắt khôi-hài mà ngó ra ngoại-cảnh ngoại-vật nhưng ông không thể cười-cợt với những cái gì thâm-thiết hơn hết ở trong tâm-hồn của ông. Chàng Sơn mà ông vẽ ra há không phải là cái hình-ảnh của ông đấy ư? Cái công việc hắn làm, cái hoài-bão hắn mang há không phải là công việc của ông, hoài-bão của ông đó ư? Còn cái cô tình-nhơn khả-ái của hắn há không phải là tình-nhơn của ông đấy ư? Nhưng cô tình-nhơn nầy không phải là người mà ông đã tìm ra ở trong xã-hội. Đó chỉ là hiện-thân của một nữ-thần ở trong lý-tưởng mà nữ-thần đó chính thị là “Nữ-thần văn-chương”. Nguyễn-công-Hoan có thể cười cợt với hết thẩy, có thể chế diễu đủ các hạng người, nhưng không thể chế diễu được nữ-thần văn-chương mà ông đương phụng-sự và cười cợt với cái sự-nghiệp bình-sanh. Phải. Cái tác-phẩm mới nầy có một tánh-cách khác với những tác-phẩm ra trước, nhưng chính là để bổ-khuyết cho toàn-thể sự-nghiệp của ông. Ông đã cho ta vui cười ra nước mắt. Nay ông bắt ta phải ngẫm nghĩ để châu mày. Ông đã cho ta thấy cái hài-kịch của thế-sự. Nay ông cho ta thấy cái hoài-bão của văn-nhơn. Như vậy là ông muốn nói rằng: những khi ông nhìn đời mà trào phúng chính là những lúc ông băn-khoăn trên đường sự-nghiệp. Những nỗi băn-khoăn của ông, tôi mong rằng ông Hội-trưởng và hết thẩy các ngài trong ban trị-sự hội KHUYẾN-HỌC sẽ cũng thấu tỏ như tôi để tưởng-lệ nhà văn-sĩ đặc-sắc mà tôi đã giới-thiệu với các ngài. Nhà văn-sĩ đó năm nay được các ngài khuyến-khích. Nhà văn-sĩ khác sang năm sẽ cũng được các ngài khuyến-khích. Rồi mỗi năm đều có một sự khuyến-khích như thế. Thời-gian có thể xóa-nhòa được hết thảy nhưng chẳng có thể xóa-nhòa được những cái tinh-thần đặc biệt của non sông. HỘI KHUYẾN-HỌC NAM KỲ đã có công săn-sóc tới những cái tinh-thần đó chính là đương làm những việc đáng ghi vào lịch-sử văn-học Việt-Nam sau nầy. THIẾU-SƠN HOÀNG KIM THƯ st. ------------------- (1) “Gáy” là cái ót. NGÀY QUỐC TẾ THIẾU NHI CÓ TỪ ĐÂU ? 23 giờ ngày 9-6-1942, bọn phát xít Đức bất ngờ sục vào làng ở Tiệp Khắc, khi dân làng đang ngủ yên. Sau khi cướp hết tiền bạc, của cải của dân, bọn chúng bắt đầu tàn sát. Những em bé chưa đầy 1 tuổi liền bị giật khỏi tay những bà mẹ, quẳng lên xe chở đi nơi khác. Những thiếu nữ khoảng 15 tuổi cùng các phụ nữ trong làng đều bị đưa đến trại tập trung. Những thiếu niên, thanh niên và nhiều người khác bị bắn chết ngay tại chỗ. Những người còn lại thì bị chúng đẩy vào các lò thiêu người. Chỉ trong 1 ngày hôm đó, bọn đao phủ Hitler đã giết 192 người dân làng, trong đó có 98 trẻ em. Ngày 10-6-1944, tại thị trấn Oradour-Sur-Glane, Pháp, phát xít Đức dí súng và lưỡi lê vào lưng người dân, đẩy họ vào nhà thờ rồi tưới xăng thiêu chết 642 người trong đó có 267 trẻ em. Với trách nhiệm thiêng liêng và cao quý của mình, năm 1949 Liên đoàn Phụ nữ dân chủ Quốc tế đã quyết định lấy ngày 1 tháng 6 hàng năm làm ngày Quốc tế bảo vệ thiếu nhi, nhằm mục đích: · Đòi Chính phủ các nước phải nhận trách nhiệm về đời sống thiếu nhi, giảm ngân sách quân sự để tăng ngân sách giáo dục, bảo vệ thiếu nhi. · Vận động toàn thể phụ nữ, tất cả bà mẹ trên thế giới nhận rõ trách nhiệm đối với hạnh phúc của con em mình, ngăn ngừa những tai họa đe dọa đời sống yên ổn của thiếu nhi. Quốc tế thiếu nhi (QTTN) là ngày hội của nhiều trẻ em trên thế giới, thường tổ chức vào ngày 1-6 hằng năm. Nhưng có 1 số quốc gia khác tổ chức kỷ niệm ngày này vào một ngày khác như: Nhật Bản, vào ngày 5-5 để đánh dấu sự trưởng thành của đứa trẻ. Ở Đức, trong thời gian diễn ra cuộc Chiến tranh lạnh, ngày dành cho trẻ em được tổ chức thành 2 ngày khác nhau là ngày QTTN là 1-6 (kindertag, viết tắt là GDR) và ngày Thiếu nhi thế giới tháng 9 (weltkindertag, viết tắt là FRG). Tuy nhiên, từ năm 1990, ngày GDR và FRG được nhập một và lấy tên chung là FRG. Ở Ấn Độ, lấy ngày 14-11 hằng năm (ngày sinh của lãnh tụ Jawaharla Nehru) là ngày dành cho trẻ em. Thổ Nhĩ Kỳ, là ngày 23-4, gắn với sự kiện khai mạc Quốc hội năm 1920 trong cuộc chiến tranh giành độc lập của Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày QTTN có nguồn gốc từ Hội nghị thế giới vì hạnh phúc của trẻ em tổ chức năm 1925 tại Genève, Thụy Sĩ. Không rõ lý do tại sao người ta lại chọn ngày 1-6, có người cho rằng ngày 1-6 năm ấy, Tổng lãnh sự Trung Quốc tại San Francisco (Mỹ) đã tập hợp một số trẻ em mồ côi người Trung Quốc tham dự lễ hội trên tàu Dragon Boat, vô tình ngày này trùng với Hội nghị Genève. Hội Phụ nữ dân chủ quốc tế đã quyết định chọn ngày 1-6 hằng năm là ngày Quốc tế bảo vệ thiếu nhi, để nhắc nhở động viên mọi người hãy nhớ tới vụ thảm sát tháng 6 ở Tiệp Khắc (1942) và ở Pháp (1944). Và từ năm 1950 trở đi, ngày 1-6 đã được tổ chức trên khắp thế giới. Tháng 4-1952, Hội nghị Bảo vệ thiếu nhi thế giới gồm 64 quốc gia họp ở thủ đô Viên (Áo), các đoàn thể dân chủ và các nhân sĩ nổi tiếng toàn thế giới đã nhất trí lấy ngày 1-6 là ngày Quốc tế bảo vệ thiếu nhi. Ngày hội Quốc Tế Thiếu Nhi Việt Nam đầu tiên nằm trong giai đoạn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang ở thời kỳ cam go khốc liệt nhất. Ngày 1/6/1950, Ban Huynh trưởng Thiếu nhi (Tiền thân của Hội đồng Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh) được Trung ương Đoàn giao cho việc tổ chức Ngày Quốc tế Thiếu nhi đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Buổi lễ diễn ra trong bí mật vì sợ địch ném bom nhưng đã để lại cho những người tham dự ấn tượng không thể quên. Vậy ngày Quốc tế Thiếu nhi đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1950. Sau khi đất nước ta giành được độc lập, ngày 1/6 hàng năm đã được tổ chức và trở thành ngày hội vui chơi tưng bừng của thiếu nhi trong cả nước . BĐ st.
Phụ Bản II NHÌN LẠI TÁC GIẢ VĂN HỌC THẾ KỶ XX THẾ LỮ (1907-1989) LỜI GIỚI THIỆU Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ (1907-1989). Bút danh khác là Lê Ta, sinh ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (nay là Từ Sơn - Bắc Ninh). Là nhà văn, nhà thơ, nhà hoạt động sân khấu, Nghệ sĩ Nhân dân. Trong lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại, Thế Lữ luôn luôn được xác định một vị trí trang trọng và xứng đáng. Cống hiến của ông thể hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống văn chương, nghệ thuật. Trên lĩnh vực văn chương, ông là người có công “dựng thành nền Thơ mới ở xứ này” (Thi nhân Việt Nam - 1942), là người “làm cho ta tin cậy ở tương lai của Thơ mới” (Nhà văn hiện đại - 1942). Với tập Mấy vần thơ (1935) và đặc biệt là bài Nhớ rừng, Thế Lữ “đã làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch” của thơ ca trung đại để đưa vào thế giới nghệ thuật thơ những sắc màu lung linh của hoàn vũ và vẻ đẹp vừa hư vừa thực của đời sống con người. Ở địa hạt văn xuôi, Thế Lữ cũng là nhà văn có sở trường đặc biệt trong loại truyện ly kỳ rùng rợn và tiểu thuyết trinh thám. Đã có nhà nghiên cứu xem ông là một trong số ít nhà văn của thế kỷ XX tiếp nối được truyền thống ở thể loại truyền kỳ. Ngay ở những lần xuất bản đầu tiên, các tập: Vàng và máu (Đời nay, 1937), Lê Phong phóng viên (Đời nay, 1937), Gói thuốc lá (Đời nay, 1940), Gió trăng ngàn (Đời nay, 1941), Trại Bồ Tùng Linh (Đời nay, 1941)… đã để lại ấn tượng hết sức rõ nét trong công chúng nghệ thuật nói riêng và trong lịch sử văn học nói chung. Trong tổ chức Tự lực văn đoàn, Thế Lữ không chỉ là một trong 8 thành viên chủ chốt mà còn là một trong những người sáng lập văn phái. Đóng góp của Thế Lữ cho lịch sử văn chương, giai đoạn 1932-1945 do vậy là hết sức quan trọng và to lớn. Ngay trong quá trình hoạt động văn chương, từ năm 1935, Thế Lữ đã dần chuyển hướng sang một lĩnh vực khác, đó là lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn sân khấu kịch nói. Trên báo Ngày nay số 116, Thế Lữ đã giải thích lý do của việc chuyển hướng này. Qua lời giải thích của ông, có thể thấy rõ ông đã ý thức trước được sứ mệnh của mình đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn kịch nói. Với việc thành lập Nhóm kịch Thế Lữ ở Hải Phòng (1935), Ban kịch Tinh Hoa (1936), Ban kịch Anh Vũ ở Hà Nội, Thế Lữ thực sự trở thành hạt nhân gắn kết các nghệ sĩ có tên tuổi cùng tham gia xây dựng nghệ thuật biểu diễn kịch nói chuyên nghiệp mà trước đó mới chỉ là hoạt động tài tử, nghiệp dư. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngay từ ngày đầu tiên, Thế Lữ đã cùng với những nghệ sĩ cách mạng vừa sáng tác, vừa đạo diễn, biểu diễn và tổ chức xây dựng các đơn vị nghệ thuật, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của nghệ thuật biểu diễn sân khấu kịch nói hiện đại. Các vở Tin chiến thắng Nghĩa Lộ; Cụ Đạo, Sư ông… là những cống hiến nghệ thuật độc đáo của Thế Lữ trên lĩnh vực sáng tác. Tại Lễ kỷ niệm 90 năm sinh Thế Lữ tổ chức ngày 9-6-1997, các nhà hoạt động sân khấu đã suy tôn Thế Lữ là ông Tổ của nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở nước ta. Đánh giá vị trí, vai trò của Thế Lữ trong lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại, có nhà nghiên cứu đã tôn vinh ông là nghệ sĩ hai lần tiên phong (Tạp chí Văn học số 7-1997). Đặc biệt, với thành tích cống hiến to lớn cho văn học nghệ thuật, Thế Lữ đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt II) cho các tác phẩm tiêu biểu: Cụ Đạo, Sư ông; Đề Thám. Đó là một phần thưởng cao quý và xứng đáng đối với một nghệ sĩ suốt đời tận tụy lao động và sáng tạo nghệ thuật. PHAN TRỌNG THƯỞNG HOÀNG KIM THƯ st.
NHỚ RỪNG (Lời con hổ ở vườn bách thú) Tặng Nguyễn Tường Tam Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi, Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, Với cặp báo chuồng bên vô tư lự * Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa, Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội, Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc. Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc, Là khiến cho mọi vật đều im hơi Ta biết ta chúa tể cả muôn loài, Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi. Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan? Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới? Đâu những bình minh cây xanh nắng gội, Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng? Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt, Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật? - Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? * Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu, Ghét những cảnh không đời nào thay đổi, Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng; Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng Len dưới nách những mô gò thấp kém; Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm, Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu Của chốn ngàn năm cao cả, âm u. * Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ ! Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị, * Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa, Nơi ta không còn được thấy bao giờ ! Có biết chăng trong những ngày ngao ngán, Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi, - Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi ! ------------ * Hầm thiêng: cũng như hùm thiêng (B.T) BÔNG HOA CỦA XƯA & NAY Mừng Sinh Nhật, Bản Tin thơ Xưa & Nay đúc kết những giờ gặp nhau Quảng đại Cha Triết đầu tàu Tận tâm giúp đỡ trước sau đủ đầy. Điều hành Anh Tuấn khéo xoay Cho Câu Lạc Bộ an bày niềm tin Chủ biên, chủ nhiệm nhiệt tình Điển xưa, sách cũ, quá trình đông tây. Dương Lêh hăng hái trổ tài Văn chương phú lục cổ lai vẽ vời. Thông tin Phạm Vũ khắp nơi Tài liệu trong nước đến trời Mỹ Âu. Chơn như Tâm Nguyện nhiệm mầu Thuyết minh Phật Pháp làu làu rõ thông. Lê Minh Chử cũng kiên trung Ca thơ chuyên nghiệp vui lòng hôm nay. Nguyễn Lân-Đính bác sĩ tài Có nhiều bản lĩnh, soạn bài cao siêu. Thanh Châu trình diễn đều đều Giúp vui tiếng hát át nhiều tiếng bom. Mạnh Đoàn phụ trách ống nhòm Cùng là in ấn cho tròn bản tin. Kim Sơn lanh lẹ đẹp xinh Giỏi ca, giỏi nói, cảm tình thiết tha. Từ Nguyên duyên dáng như hoa Có công rót nước đãi trà hội viên. Tài danh Bá Mạnh hò miền Câu vè, câu hát triền miên tiếng cười. Ngàn Phương thi phú tuyệt vời. Thùy Hương nhớ Huế ghi lời sông Thương. Cổ nhạc Quang Bỉnh cải lương. Minh Hưng sâu lắng tình trường bâng khuâng. Đàm Lan triết lý nghĩa nhân. Lê Nguyên nghệ sĩ phổ vần nhạc xuân. Doan Linh bác sĩ âm thầm Làm thơ cầu phúc hồng trần bình an. Tâm tình Kim Bội nhẹ nhàng Viết điều kỳ diệu buộc ràng tình yêu. Lang Nguyên viết lách cũng nhiều Quê hương đất nước mỹ miều đẹp tươi. Nhựt Thanh bình luận việc đời Truyền thông phong hóa những thời xa xôi. Sau đây Anh Hữu ngỏ lời Giọng ngâm đặc biệt mọi người ngợi khen. Hoài Ly là giấc mơ tiên Mùa xuân kết nối kê biên cho đời. Về đây nhớ lấy bạn ơi Xưa & Nay sum họp khắp trời bông hoa *Ta về ta tắm ao ta *Dù trong, dù đục, ao nhà vui hơn. Thanh Châu (12/04/2016) TỰ VẤN Kỷ niệm 10 năm thành lập CLB Sách Xưa & Nay Câu lạc bộ Sách Xưa & Nay Xuân qua hè tới vừa đầy mười năm Ai người yêu mến đến thăm Mười năm năm ấy tiếng tăm lan truyền Giao lưu vui vẻ bạn hiền Giãi bày tâm sự nỗi niềm gần xa Yêu mến công lý - chúng ta Thấy cảnh ngang trái bỏ qua sao đành ? Lẽ nào “sống chết mặc bay” Tiền “thày” cứ bỏ cho đầy túi tham ? Lẽ nào nhắm mắt bàng quan Để cho cái bọn gian tham lộng hành ? Ta xua tan mọi nỗi lo Như chim tung cánh tự do trời hồng Nửa ngày “mơ mộng viển vông” Chiều tà liệu có nên công cán gì ? Ta đâu phải loại “cám bèo” Làm xấu đất nước, làm nghèo quê hương Chỉ là một phó thường dân Mà yêu đất nước quê hương chân tình Ta ngồi tự vấn lòng mình “Gái hóa”* lo việc triều đình - sao đây ? “Đình đổ đã có người xây Việc gì gái hóa lo ngày lo đêm” ? LÊ MINH CHỬ * Gái hóa: gái góa bụa LỜI RU CHO EM À ơi hãy ngủ đi em Trăng khuya vằng vặc đang thèm lời ru Thúy uyên rã cánh .... mịt mù.... À ơi anh hát tiếng ru ngọt ngào Tìm ai trăng lặn sông sâu Nhớ ai tiếng hát lạc vào thinh không Bốn bề trời đất mênh mông Em khơi lửa ấm... Anh không kịp về. Trong ngôi nhà tranh ấy Thao thức ngọn đèn chông Năm trăm mùa trăng đợi Chỉ một bóng âm thầm. Nguyên Lê - Trảng Bàng Về đâu bím tóc người thương Hè sang đã vắng em rồi Nhà bên cửa sổ ai ngồi thắt nơ Cột vào bím tóc như tơ Em đi không biết bây giờ về đâu Mồng tơi rụng tím giọt sầu Bìm leo trước ngõ từ lâu tím đường Xa nghe tiếng trống tựu trường Em đi chỉ gió muôn phương tựu về Về đâu với mái tóc thề Cột thành hai bím cho tê tái lòng Hè qua rồi đến thu đông Đợi chờ mòn mỏi em không trở về Nguyên Lê - Trảng Bàng GẶP LẠI MÙA XUÂN Anh sẽ đưa em lên thăm xứ anh đào Gặp lại mùa xuân ở mãi trên cao Gặp lại một thời tuổi xanh ngày ấy Anh lính biên cương chân đất áo chàm Hát vang bài ca chính khí Hiên ngang trấn giữ một giải biên thùy SAPA trong mây hiện lên như mơ Ta nắm tay nhau lên đồi xuống chợ Tiếng khèn gần xa ai gọi ai chờ Xin chào mỗi ngọn thông ! Mỗi nhành hoa mặt tường rêu đỏ Chào em gái H’mông ! Tóc bạc nhòa trong sương Màu thời gian nửa thế kỷ dặm trường Ngờ đâu có ngày gặp lại Giữa vườn đào vẫn bừng sắc thắm Trong vòng tay bạn trẻ hôm nay Nghe hồn thơ và sóng nhạc dâng đầy SAPA ơi! Tuổi 100 tròn mà như cô gái đôi mươi Xin được hòa vào tiếng thông reo lời trái tim náo nức Nơi mái nhà PHĂNG SI PĂNG mây trắng vắt ngang trời ! LÊ NGUYÊN BẮT CHƯỚC CAO BÁ QUÁT I. MÙA HÈ Tàn Xuân - cảnh vật bước sang hè Nắng quái nhuộm vàng vá lũy tre “Khắc khoải đã đau lòng cái cuốc Băn khoăn thêm tức ngực con ve” Phượng hồng rực rỡ khoe duyên dáng Mây trắng lang thang chói lập lòe Gió hạ vi vu như tiếng sáo Đàn chim quên hót - lặng im nghe NGÀN PHƯƠNG II. HÈ VỀ Suối Đá tươi vui dưới nắng hè Từng đàn cá lội cạnh bờ khe Vượt đèo qua dốc quên màu phượng Lướt gió băng rừng nhớ lũy tre “Khắc khoải đã đau lòng cái cuốc Băn khoăn thêm tức ngực con ve” Chồn chân mỏi gối nên dừng bước Rôm rả chuyện trò - bướm lắng nghe NGÀN PHƯƠNG THI THƠ LUẬN Thi thơ thích lắm bạn đời ơi Hơn mọi thú vui chí thảnh thơi Tán thán cổ kim gương rọi lối Chỉnh thu thế sự thước cho đời Không say không lụy không vinh nhục Có nghĩa có tình có thức thời Mở túi càn khôn xem rộng hẹp Nghiêng bầu nhật nguyệt rót đầy vơi LANG NGUYÊN VỊNH HỒ THAN THỞ Dạo hồ Than Thở giữa rừng thông Thấy cảnh đìu hiu lạnh cõi lòng Mặt nước não nùng đôi ảo tưởng Rừng Ngo rên rỉ cặp tình chung Hay hờn người nỡ chia tơ thắm Hoặc trách ai kia bẻ chữ đồng Mượn suối giải oan sầu rửa sạch Bền vui hớn hở với non sông LANG NGUYÊN ĐƯỜNG ĐẾN TRÁI TIM Nhà gần thế, chẳng bao giờ thân thiết. Vì then cài, cửa đóng, khóa quanh năm. Điện thoại reo: chả một chút ân cần; Còn dấm dẳng: Gặp ai ? rồi thở hắt ! * Xe đẹp thế ! Mới thế ! Mà meo mốc. Vì có dám chở ai lỡ bước đường về. Để “ân tình” là hai chữ lê thê Khó học quá, nên chẳng bao giờ học ! * Người đẹp thế mà nụ cười quên mất ! Mắt nấp sau cặp kính rất model To, rõ to và đen đến…khiếp hồn. Chẳng biết có nhìn ai ? Hay nhìn mà không thấy ! * Đường rộng thế: thênh thang không chút bụi ! Có bao giờ chịu đến viếng thăm nhau. Lý do ư ? Than thở đến phát sầu : “Bận quá ! Vả lại đường xe hay kẹt lắm !” * Người như thế, thì dù đường có ngắn. Cũng dài như đuôi mắt kẻ khinh đời. Người như thế chỉ đến mỗi một nơi; Và nơi ấy là nơi chưa bao giờ là câu tự hỏi… Lam Trần 16/01/2012 NHỚ THƯƠNG QUÊ CŨ Cố Đô sao lắm phong ba Đền đài lăng tẩm nguy nga xa rồi Suy đi ngẫm lại bồi hồi Huế thơ, Huế mộng núi đồi hào quang Giờ đây như vết dầu loang Về thăm quê cũ tan hoang tiêu điều Tìm đâu vóc dáng mỹ miều Hữu tình non nước bao điều nghĩ suy Sao lòng vẫn mãi tư duy Thiên Mụ hùng vĩ uy nghi rêu mờ Tâm tư sâu lắng thẫn thờ Chốn xưa tìm lại nào ngời bi ai Tha phương cầu thực không sai Nỗi buồn nặng trĩu đôi vai gầy mòn Nhớ Thuận An, nhớ Cầu Lòn Đông Ba đậu phụng vừa giòn vừa dai Xuôi về đến tận Cầu Hai Non xanh nước biếc bồng lai chạnh lòng Giờ đây ghi lại vài dòng Nhớ nơi quê cũ long đong đoạn trường Về thăm xứ Huế yêu thương Nghe trong hồi ức, quê hương dạt dào VŨ THÙY HƯƠNG TỰ BẠCH Từ khi rời Huế ra đi Mẹ cha khuất núi, ướt mi lìa chồng Thương con nào dám đèo bồng Xiêm y xin đổi màu hồng thành đen Phồn hoa sao lắm bon chen Mẹ con lạc lõng gót sen ngại ngùng Đêm nằm gối chiếc lạnh lùng Lăn qua trở lại hãi hùng sầu riêng Rồi thì suy nghĩ liên miên Thân mang trọng bệnh đoàn viên mỏi mòn Người thương nay đã không còn Lẻ loi giữa chốn Sài Gòn kiêu sa Mong sao dứt cảnh phong ba Chuỗi ngày tiếp nối thơ ca vơi sầu. VŨ THÙY HƯƠNG TÁC HẠI RƯỢU Ai sống đời cũng biết rượu cay Bạn bè thân hữu vui luôn chai Uống lai rai rượu ngon đại bổ Choáng váng rồi thì đi ngủ ngay Men chế cồn vào dạ phổi thận Người đà say nghĩ việc làm sai Thói không nên sáng say chiều sỉn Xã hội tránh xa cũng tại ai QUANG BỈNH 2016 Tìm bạn Từ Huế về lại Sài Gòn Dừng chân Đà Nẵng phố thời khá xinh Nơi đây tìm bạn thâm tình Thuở xưa cùng lớp chúng mình chơi thân Tham quan Cầu Đúc Sông Hàn Điện màu thắp sáng tỏa tràn bờ đê Có thuyền du ngoạn cà phê Nhạc vàng cung bổng đê mê lòng người Nhớ nhau Anh ghé thăm chơi Tấm lòng thân thiện đến nơi bạn chờ Tình quê cảm xúc làm thơ Vui gặp bè bạn ước mơ lâu rồi. QUANG BỈNH 2016 SÂN CHƠI NGƯỜI LỚN TUỔI Ôi quang cảnh hôm nay trời đẹp quá Mây cuối tuần tháng hạ ánh trăng non Tiếng thơ ca tiếng nhạc điệu vui giòn Đây ca sĩ nhà thơ và nghệ sĩ
Hòa quyện nhau một tâm hồn đồng chí Cùng dìu đưa câu lạc bộ đi lên Vẫn không quên những khúc nhạc êm đềm Bao câu hát giọng hò luôn nhớ mãi Bầu không khí vui tươi tình thân ái Những tâm hồn văn nghệ giữa hoàng hôn Cùng ước mong Câu lạc bộ trường tồn Nơi lý tưởng sân chơi người lớn tuổi.
BÁ MẠNH BÊN NÀY MIỀN ĐẤT HỨA Tôi dừng lại, đứng triền dốc bên này Ngó qua bên kia miền đất hứa Muốn đứng dậy cố gắng lần nữa Chợt nghe hoàng hôn lên vai Bốn mùa thu về đậu trong mắt ai Vai em gầy trong lời kinh ban sáng Tôi ngang qua đời em nghe rờn rợn Kiếp người mỏng manh sợi tơ chùng
Thôi bạn ơi tôi bỏ cuộc nửa đường Đứng bên này hối tiếc về bên ấy Lễ ban mai bạn ơi có thức dậy Có nhớ thương - xin hộ đọc câu kinh ! Lạy Chúa tôi, tôi lỡ lạc đường tình Lời thánh vịnh khóc trên cung đàn lỗi Xin dâng Chúa lời kinh rất vội Cho kiếp người như nắng héo ngoài kia !!
DOANLINH XIN LÀ… Xin là ngọn gió trưa hè Quạt mát lưng mẹ Đi về chợ xa Xin là giọt mật phù sa Thơm đồng lúa chín Thơm hoa cúc vàng
Xin là vạt nắng mơ màng Bay xanh tà áo Rộn ràng đường mây Xin là ánh nắng thơ ngây Dung dăng dung dẻ Bắt tay học trò
DOANLINH TÌNH SỬ HOA ĐÀO Quý tặng Dịch giả Vũ Anh Tuấn V ui đón xuân xứ Bắc U yển chuyển khúc giao hòa A ! Cành đào ký ức N hớ người hùng Nguyễn Huệ H ướng về nắng phương Nam T hương ơi ! Nàng công chúa U uẩn đợi tin chồng A nh hùng và giai nhân N gày xuân nhớ Ngọc Hân… TÌNH sử đẹp trăm năm YÊU sách và yêu hoa SÁCH và hoa hoan ca. HUỲNH THIÊN KIM BỘI LÀNG QUÊ Tặng Cô Hương của tôi Hôm kia tôi chợt thấy nhớ làng Đôi bờ sông vắng bến đò ngang Dáng cô thôn nữ nghiêng vành nón Che đầu qua chợ dưới nắng vàng Hôm sau tôi thấy nhớ miền quê Chiều xuống từng đàn trâu trở về Lúa đồng xanh tốt vờn như sóng Tiếng chim sáo nhỏ hót trên đê Hôm qua tôi bỗng nhớ vườn cau Trồng trước sân nhà cạnh cầu ao Giàn trầu xanh mướt rung rinh gió Bà tưới ngày ngày bên luống rau Tôi nhớ làm sao mấy bụi tre Buổi sáng rộn ràng bao tiếng ve Các đàn em bé chăn trâu đến Nô đùa, chạy nhảy mỗi trưa hè Và nhớ quá ngôi nhà Tổ xưa Ba gian hai chái gió đung đưa Song thưa vách gỗ, đà, hao mục Nền cũ rong rêu nép khóm dừa Tôi nhớ khôn nguôi mái đình thôn Trống chầu vang vọng lúc hoàng hôn Lễ cúng kỳ yên người nô nức Mà khi khởi nghĩa cũng dập dồn Nhưng giờ biết bao nhiêu đổi thay Đường quê đất đỏ bấy xưa rày Đã tô trơn láng, nhà gạch mới Xa rồi hàng mái tranh lắt lay. HOÀI LY 4/4/2016 VỀ CHỐN SƯƠNG MÙ 1 Tặng em Thúy Liễu Tháng giêng em về Đà Lạt Bụi mù sương kín núi đồi Pensée tím buồn trong nắng Nghe sao se lạnh bờ môi Tháng hai thông sầu lên tiếng Thác ngàn ru giấc mơ em Mười năm tình đầu miên viễn Thôi đành mãi mãi cô miên Tháng năm rời xa chốn cũ Mang theo kỷ niệm xa mờ Dấu xưa tràn theo mưa lũ Mênh mang trời đất như thơ Rồi mai giã từ Đà Lạt Một mình lặng lẽ trong mưa Người xa nghìn trùng gió cát Em về thôi chẳng ai đưa HOÀI LY (Trích “THƠ TÌNH MÙA THU”) KHI…NGHĨA LÀ… Khi nhận được một lời thăm hỏi Nghĩa là ta đang tồn tại trên đời Nghĩa là ta đang có một ngày vui Một ngày mới rất lạ lùng trong mắt Khi vấn vít một tia nhìn man mác Nghĩa là ta đang nhớ đến một người Là mảnh hồn ta đang lúc chơi vơi Gọi một cái tên người trong xa vắng
Khi nghe được gió lùa trong nắng Nghĩa là ta đang thinh lặng với mình Đang tự hỏi một lời không quá khó Nhưng chẳng hề giải đáp được vì sao Khi ngước nhìn ngăn ngắt giữa trời cao Nghĩa là gửi chút mộng mơ nào đó Nắng hanh hao nắng khi vàng khi đỏ Giấc mộng nào ta sẽ có ngày mai
Khi âm thầm tiễn một cánh hoa phai Nghĩa là biết một đời hoa đã tận Tiếc bóng xuân tiếc ngày hương phấn Cho cuộc đời một chút xênh xang Khi thâu đêm, một đêm trắng võ vàng Nghĩa là ta đang đợi chờ khắc khoải Nghĩa là ta vẫn chốn đời mê mải Vẫn hong mình vào mỗi nắng ban mai
ĐÀM LAN Em xưa Em xưa tóc xõa ngang vai Tóc bay theo gió cho dài nhớ mong Diễm kiều áo lụa trắng trong Tôi về mơ giấc tình hồng mênh mang Tình ơi dù có muộn màng Thu về rơi rắc lá vàng sầu khơi Hồn lênh đênh nỗi chơi vơi Nhớ thương bóng dáng ai vời vợi xa...
Chiều buồn mưa đổ nhạt nhòa Mưa giăng ngõ vắng xót xa tình đầu Tháng năm nào có mưa ngâu Sao tình đôi ngả mộng sầu vấn vương Tìm đâu một thoáng môi hôn Tình ơi tháng nhớ ngày thương hững hờ Mình tôi một cõi bơ vơ Dệt bao mộng ước tình mơ lỡ làng.
Phạm Thị Minh-Hưng LÀN MÂY NHỎ Làn mây nhỏ sao em nghiêng nghiêng xuống Thả tâm tư thoang thoảng chút hương xưa Tiếng ngân nga lắng đọng một chiều mưa Cho ta thấy thoáng tình trong mắt biếc Ta gặp nhau chiều mưa thu lất phất “Buồn tàn thu” với tiếng sáo chơi vơi Em chói sáng cất giọng cao chất ngất Mưa ngừng rơi lặng lẽ ngắm dung nhan
Cơn gió nào đưa em đi “Tìm mộng” Lạc vườn thơ thương tiếc lá “Vàng thu” Hồn thổn thức ý thơ cùng điệu nhạc Hay duyên trời sợi mỏng đón đưa ta? Làn mây nhỏ từ đâu như phép lạ Thiết tha tình - Ta trở giấc phù sinh, Bước tình hồng vẫn như còn bỡ ngỡ... Lòng bâng khuâng xao xuyến - Nắng chiều mơ
Phạm Thị Minh-Hưng * - Buồn tàn thu: nhạc Văn Cao - Tìm mộng & Vàng thu: thơ của PTMinh-Hưng ÔI ĐÓA TƯỜNG VI Ôi đóa tường vi ngan ngát hương Lẫn trong bờ bụi giữa vô thường Anh đi không mỏi đường muôn dặm Em nở lặng thầm tan gió sương. Đà Lạt thu 2002 BÙI MINH QUỐC O THE EGLANTINE… O the eglantine exhaling so much fragrance Mingling with the thick bush of impermanence I set out untiredly on the thousand leagues way While you’re budding furtively in the wind and the vanishing dew.
Dalat autumn 2002 Bùi Minh Quốc - Translated by Vũ Anh Tuấn NGHIÊNG Em nghiêng phía thu vàng Có nghe rào rạo lá Dưới miền nghiêng mơ màng Chính thơ anh trải đó Em nghiêng về đông giá Có thấy lửa bập bùng Mái lều xưa rừng cũ Chính thơ anh nhen mừng * Nghiêng nghiêng em vào hạ Thơ anh dào dạt xuân. Đà Lạt thu 2002 Bùi Minh Quốc INCLINED You’re inclined towards the golden fall Don’t you hear the rustling of leaves Down in the sloping region that’s so dreamy Are my own poems that are spread and shown You’re inclined towards the cold winter Do you see the fire flickering Under the old tent in the ancient forest Are my own poems kindling the fire to celebrate * Inclined, inclined you step into the summer While my poems are brimming over with springtime. Dalat autumn 2002 Bùi Minh Quốc - Translated by Vũ Anh Tuấn CỰ MÔN HÃM ĐỊA Vừa vào làm việc ở cái công ty Mua Bán Năm Châu, chiều về ông Phục báo cáo ngay cho bà xã: - Chắc làm ở đây không lâu rồi em ơi. - Sao vậy? - Hậu vận của anh chàng giám đốc này yếu quá? Bà xã hiểu ý hỏi liền: - Tướng ổng ra sao? - Mông xẹp. - Cỡ như ông Lý hồi trước không? - Y chang. Ông Lý là một ông già người Hoa tình cờ quen với ông Phục lúc ông Phục còn trẻ, khoảng ba chục, bán cà phê ở hẻm bệnh viện Triều Châu, trong khi ông Lý tròm trèm sáu chục. Ông Lý gọi ông Phục là bạn vong niên. Hồi còn trẻ ông Lý từng làm quản lý cho khách sạn “Móng trời” trong Chợ lớn. Là một người Hoa nhưng ông lại biết cả tiếng Anh và tiếng Pháp, cho nên ở khách sạn ông kiêm luôn chức vụ tiếp khách quốc tế. Ông thường xuyên tiếp những diễn viên Hồng Kông đến Việt Nam dự hội nghị điện ảnh hoặc đi du lịch như Khương Đại Vệ, Địch Long, Trịnh Phối Phối v.v... Mỗi lần ông Lý đưa họ về đến khách sạn, bà con lao động trong xóm bu lại đông đen trước của khách sạn để xem mặt các diễn viên mà họ yêu thích qua các phim Thập tam thái bảo, Vô địch quyền vương v.v... Đến khi thời cuộc thay đổi, ông Lý nghỉ việc ở nhà lêu bêu mỗi sáng, khi đi một mình, khi dắt bà vợ trẻ cũng người Hoa, không biết nói tiếng Việt, đến quán ông Phục uống cà phê. Biết ông Phục từng là một thầy giáo dạy tiếng Anh, ô ng Lý rất thích ngồi nói chuyện với ông Phục và thường khen ông Phục biết lịch sử Tàu nhiều quá, có khi còn hơn nhiều người Hoa đang sống trong khu vực Chợ lớn này. Thực ra ông Phục biết lịch sử Tàu nhờ đã đọc qua những cuốn truyện Tàu từ hồi lớp Nhứt, tiểu học, như Tam quốc diễn nghĩa, Đông Châu liệt quốc, Đông Hớn, Tây Hớn… Ông Phục còn biết thêm lịch sử Tàu nhờ hồi nhỏ theo bà ngoại đi xem hát bội Hồ Quảng Tiết Giao đoạt ngọc, Lưu Kim Đính giải giá thọ châu… Nói theo anh chàng Tâm trong cuốn Bút nghiên của Chu Thiên là học sử qua “phường chèo”. Ông Lý còn dạy cho ông Phục nói tiếng Quảng Đông. Ông Phục là người thích học ngoại ngữ nên tranh thủ ghi nhớ tất cả những gì ông Lý giảng dạy, và chỉ ba tháng sau ông Phục nói được khá nhiều ngôn ngữ này mà không cần học viết. Thấy ông Lý tài giỏi lại hiền lành chơn chất, ông Phục rất cảm mến. Trong thời gian quen biết ông Lý, ông Phục đang tìm hiểu về tướng số. Ban đầu ông Phục không thích những kiểu bói toán có tính mê tín dị đoan, nhưng tình cờ một buổi chiều ông dắt bà xã đi dạo phố Lê Lợi, ngang qua một quầy bán sách, ông hỏi bà: - Mua một cuốn gì về đọc chơi nhe! - Được thôi! Kiếm cuốn nào mà đọc hoài không chán. - Khó à! Sách truyện không được rồi. - Có cuốn “Tướng mệnh” kìa anh! - Hay lắm! Vừa đọc giải trí vừa ngâm cứu. Vậy là ông bà Phục thay nhau đọc và tra o đổi nhận xét về những khách hàng đến uống cà phê. Hai ông bà đồng tình với nhau về việc mua được cuốn sách lý thú và nhờ nó mà ông bà tìm hiểu ở một vài khía cạnh của từng khách hàng. Đến khi gặp ông Lý đến uống cà phê, ông Phục phải công nhận ông Lý có dáng người cao ráo, rất đẹp lão. Mới sáu mươi ngoài nhưng tóc bạc trắng cộng với bộ ria trắng được cắt tỉa gọn gàng, nhìn bề ngoài như vậy ai cũng cho rằng ông Lý có một quá khứ rất vinh hoa phú quý.Tuy nhiên khi ông Lý đứng dậy ra về, ông Phục thấy, giờ này, qua tuổi sáu mươi, ông Lý thất nghiệp có lẽ đã ứng với bộ tướng của ông rồi. Ông cao ráo, gần một mét bẩy chớ không ít, nhưng khổ một cái là vòng số 3 của ông yếu quá. Nhìn phía sau từ thắt lưng kéo xuống một đường thẳng đứng không hề gặp một trở ngại nào hết. Giống như một người đàn ông mà không có mông. Bằng phẳng, không cân đối. Sách tướng nói đây là trường hợp thiếu cái ghế bành trợ giúp cho có một chỗ dựa êm ái về cuối đời. Có nghĩa là người đàn ông này khi về già sẽ lâm vào hoàn cảnh khó khăn cần phải có người hào hiệp ra tay trợ giúp... Nghe ông Phục về báo cáo nhân dạng của ông giám đốc công ty, bà Phục từ từ an ủi ông: - Chắc không sao đâu. “Đức năng thắng số”. Mình cứ làm hết bổn phận để nuôi vợ con. Nếu ổng vắn số th ì sẽ có ngư ờ i khác thay. - Đúng vậy. Mình cứ làm việc bình thường, đến khi nào tới số… nghỉ thì tan hàng thôi. Sau đó, ông Phục vừa làm việc vừa chú ý đến nhân dạng từng người trong công ty. Có người ông thấy có thể suy luận ra một khía cạnh nào đó của cuộc đời họ, nhưng cũng có người ông lén nhìn mãi cũng không cho ra một ý nghĩ gì. Ông coi như phải chịu thua. Một buổi sáng, đã hơn 8g30, mọi người đang chú tâm vào công việc của mình, ông Giám đốc ngồi ngay chính giữa phòng, nhìn mông lung ra cửa, ông Kế toán tổng hợp đẩy cửa bước vào, ông này phân bua sau cái gật đầu chào ông giám đốc: - Sáng nay sao Thiên Mã(1) của tôi gặp Triệt(1), xe bị lủng ruột, đẩy vô chỗ vá gặp Đại Tiểu Hao(1), thằng thợ chém 30 đồng(2), còn bị vô trễ. Ông giám đốc mỉm cười: - Thôi vô làm việc đi. Khi nghe ông Kế Toán tổng hợp nói một tràng Thiên Mã, rồi Triệt rồi Đại Tiểu Hao…, ông Phục giật mình phát hiện ông Kế Toán này là một cao thủ về khoa Tử Vi. Ông Phục cũng đã từng xem qua cái khoa bói toán cao cấp này rồi, nhưng chỉ ở mức cưỡi ngựa xem hoa, chứ chưa dám đi sâu vì ông thấy giống như cái mê hồn trận. Có người nói khi rớ vô cái món này sẽ bị lậm, giống như người sử dụng ma túy. Hồi xưa, chưa có máy vi tính, mỗi khi muốn lập một bản tử vi người ta phải dựa theo từng trang sách hướng dẫn. Lập xong lá số là tới phần luận đoán. Đây mới là phần quan trọng, tiền giải đoán lá số cao hay thấp tùy theo số năm kinh nghiệm mà ông “thầy” tích lũy dựa trên tiếng tăm đã được âm thầm phổ biến trong dân chúng. Có những bậc cao thủ không cần phải vẽ bảng tử vi mà chỉ đưa bàn tay lên rồi chỉ vào đó đoán ra vận mệnh sau khi biết được ngày tháng năm sinh của khách hàng. Hiện nay môn xem bói bằng tử vi có tổ chức thành một thị trường rất kín đáo. Khách hàng có nhu cầu cứ đến ngay địa chỉ của ông thầy được truyền tai từ người này đến người khác. Ông thầy sẽ nhanh chóng lập bảng tử vi bằng máy vi tính, sau đó ông luận đoán vận mệnh của khách hàng. Ông thầy không quên thu âm tất cả những điều ông nói ra để cuối cùng ông chuyển vào một đĩa CD giao cho khách hàng và thu tiền. Một ông bạn của ông Phục thường than thở: - Bà tui mới nghe nói ai đó coi tử vi hay lắm, bả nằng nặc đòi đi coi. Bây giờ ở nhà đứng ngồi không yên. - Sao vậy? - Sợ mất tiền, sợ tai nạn, sợ bệnh tật. - Cái gì mà lo sợ lung tung vậy? - Thì thằng cha thầy bói đó, nói bả coi chừng cái hạn này, coi chừng cái xui nọ, rồi xúi bả đi chùa làm từ thiện. - Hơi sức đâu mà ông tin mấy cha nội bói toán đó. - Bà tui tin dữ lắm. Ai đời bỏ ra một số tiền cụ thể bạc triệu đi đổi lấy những câu nói vu vơ của cha thầy bói! - Mấy bà này nhẹ dạ quá trời! - Tui nghe nói có một ông đại gia nào đó có bà vợ mang bầu gần tới ngày sanh, ông coi thầy chọn “ngày giờ tốt” rồi mời bác sĩ cho bà vợ sanh theo đường mổ bắt con. Ghê chưa? - Ông đại gia đó bị “thiểu năng trí tuệ” nếu không muốn nói ổng thuộc dòng họ đại ngu. - Vì sao vậy? - Vì ổng muốn đoạt quyền sinh sát của ông Trời. Con người ta được sinh ra vào ngày giờ nào không thể xác định trước được. Khi bác sĩ quyết định phải mổ bắt con vì sự an nguy của thai nhi hoặc người mẹ, thường ở trong tình trạng khẩn cấp, không hề quan tâm đến giờ nào tốt giờ nào xấu. Cái chuyện coi ngày giờ hoàng đạo trước, đó là mê tín dị đoan. Thực ra, theo ông Phục, bảng tử vi là một bảng “ma trận”(3) biến hóa như một chương trình vi tính. Với 14 chính tinh kết hợp với gần cả trăm phụ tinh rồi chia thành từng nhóm nhỏ với 3, 4, hoặc 5 ngôi sao, mỗi nhóm nói lên nhiều mặt của con người như tình cảm, tài lộc, công danh … Những nhóm ngôi sao này không chỉ nằm trên một cung của 12 cung trên lá số tử vi mà còn gắn kết với nhau qua cách xung chiếu, tam hợp, nhị hợp. Nhiều người nghiên cứu lâu năm thuộc lòng cách an vị những chính tinh trên lá số tử vi bằng những câu thơ tự chế hoặc đã từng học với nhau qua truyền khẩu: Tử vi, Thiên cơ nghịch hành bàn Cách nhất Dương, Vũ, Thiên Đồng đương, Hựu cách nhị vị Liêm Trịnh địa Không tam phục kiến Tử vi lang(4)… Bài thơ này người ta làm ra cốt để nhớ vòng Tử Vi trong 14 chính tinh. Mỗi ngôi sao được đặt vào vị trí từng ô trên bảng tử vi, ngoài ra không có ý nghĩa gì hết. Ông Phục từng biết có nhiều người mê nghiên cứu môn tử vi và có thể bị môn này mê hoặc. Có người từng nói với ông Phục: - Tôi thực sự mê cái môn này quá. Sao hồi xưa tôi học hành không ra cái đống ôn gì, nhưng tới cái môn Tử vi này tôi đọc tới đâu thấm tới đó. Ông Phục hiểu ra ngày xưa thời cắp sách đến trường, có thể nói cứ sáng trưa chiều tối lúc nào cũng gắn liền với quyển sách, cuốn vở. Lơ đễnh một tí, xa rời hình ảnh thầy cô giáo chuyện học hành sẽ lôi thôi. Nay thì thời gian dư dả, chỉ ôm mỗi cuốn sách Tử vi thì có gì là không dễ tiếp thu? Hơn nữa nghe người ta nói người đàn ông ở tuổi bốn mươi, năm mươi trí óc phát triển tối ưu nên người bình thường cũng thấy thông thái ra, và những nhà bác học thường có những phát minh vĩ đại. Trường hợp ông kế toán tổng hợp này chắc cũng rớt vào mê hồn trận rồi cho nên ổng nói chuyện gì chốc chốc cũng gài vô mấy ngôi sao trong là số tử vi. Có lần, ông trợ lý giám đốc đi nhảy đầm, bị vợ vô tận vũ trường đánh ghen. Cũng may, bà vợ chỉ bạt tai cô vũ nữ rồi lôi ông chồng về. Ông kế toán tổng hợp bình luận: - Ông trợ lý này chắc là có sao Đào Hoa(1), Hồng Loan(1) chiếu mạng rồi, nên đàn bà con gái theo rần rần. Còn bà vợ coi bộ hơi dữ dằn à, chắc là bả ôm bộ sao gốc Sát(1), Phá(1). Tham(1) rồi đó. Lần khác, anh chàng trưởng phòng kế hoạch chọc ghẹo cô thư ký riêng của ông giám đốc sao đó làm cho cô này khóc, ông kế toán tổng hợp dỗ dành: - “Thôi nín đi em, lệ đẫm vai rồi!”(5) thằng này hôm nay nó bị hạn Cự Môn(1) hãm địa nên nói bá láp đó, em đừng để tâm. Trong công ty có anh chàng phụ trách công việc giao nhận hàng xuất nhập khẩu. Anh cao khoảng một mét… tám mươi lăm cho nên công ty bố trí anh vào công việc khá vất và này và được anh nhận lãnh một cách vui vẻ. Anh rất được ông giám đốc cưng chìu vì anh có cô bạn gái sắp đám cưới làm việc ở phòng cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Vì vậy chỉ có anh giao liên mới gặp mặt cô bạn của anh chàng cao khều này. Một hôm anh giao liên chạy về gặp ông kế toán tổng hợp nói nhỏ: - Trời ơi, cô bạn gái của anh Long thấp thấy mồ, thua em cái đầu, chừng một mét năm hai. - Mầy kêu trời cái gì? Ổng sắp xếp rồi đó! - Sao anh biết? - Người ta sắp đám cưới, thấy chưa? Tao coi lá số tử vi của ổng rồi. Cung Thê(6) mà có Đại(1), Tiểu Hao(1) trùng phùng thì bà xã làm sao cao được. Ông Phục thấy đây chẳng qua là một sự trùng hợp ngẫu nhiên chứ mấy ngôi sao trên trời làm gì có liên quan đến sinh mệnh con người ta ở trái đất này? Trên trời có hàng tỉ ngôi sao thì kiếm đâu ra những sao trên bảng tử vi như Thiên Phủ, Liêm Trinh, Tham Lang v.v... Chỉ có hai sao Thái Dương và Thái Âm, một tượng trưng cho mặt trời và một tượng trưng cho mặt trăng là hai trong mười bốn chính tinh trên bảng lá số, có tầm quan trọng như nhau ảnh hưởng đến các cung Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức v.v… nhưng trên thực tế mặt trời và mặt trăng khác nhau một trời một vực về độ lớn và tầm quan trọng đối với sự sống trên trái đất này. Như vậy những ngôi sao trên bảng lá số tử vi kể cả Thái Âm và Thái Dương đều là tưởng tượng, nghĩa là không có thật, và những gì người ta cho là đúng đều là ngẫu nhiên theo kiểu bói ra ma, quét nhà ra rác. Có nhiều thầy tử vi lý giải bá láp, vi phạm những quy định bất thành văn trong nghề thầy bói, đó là không được nói khách hàng của mình năm nào tháng nào sẽ… chết, hoặc năm nào sẽ gặp tai nạn thảm khốc… Đây là “thiên cơ”, tối kỵ, mấy thầy chuyên sờ mu rùa này đừng bao giờ nhắc tới. Ngày xưa có người thân của ông Phục được cha mẹ chia gia tài cùng với mấy anh em khác. Có tiền nhiều ông thả đi xem bói chơi, không ngờ gặp ông thầy bói phán cho ông chết vào tuổi 45. Lúc đó ông mới bốn chục. Thế là ông xài hết tiền của cha mẹ chia cho với suy nghĩ: “Để tiền làm chi, vài năm nữa chết rồi”. Và thực sự ông hết tiền! Chỉ tội cho vợ con ông phải gánh chịu đời sống vất vả. Hồi xưa, một tờ nguyệt san ở Saigon có mục xem tử vi cho độc giả. Nhờ mục này tờ nguyệt san đó ăn nên làm ra. Lần đó người giữ mục này nhận thư của hai độc giả nhờ xem giùm lá số tử vi và có lẽ tổ trác, hai độc giả này ở hai tỉnh cách nhau rất xa nhưng lại có cùng ngày, tháng, năm và giờ sinh. Đây là chỗ bí của tử vi nếu như không gửi cho hai độc giả này hai bảng tử vi và lời giải y chang nhau. Người giữ mục tử vi phải nhắn tin và xin hai độc giả này gửi cho hai tấm ảnh nhìn thẳng. Sau đó dựa trên hai tấm hình này, ông ta soạn ra hai lời giải đáp khác nhau cho hai độc giả này. Đúng hay không hay đúng được bao nhiêu phần trăm chỉ có trời biết. Ông giữ mục tử vi này đã vận dụng tướng mặt của hai người để giải đoán là số tử vi, vì trên khuôn mặt của mỗi người cũng có mười hai cung như trên lá số tử vi. Như vậy, theo ông Phục, tử vi phải đứng sau tướng số. Tuy nhiên có người coi tướng số là một khoa học chưa hoàn chỉnh vì không qua thực nghiệm đầy đủ, cho dù trong quá khứ có nhiều trường hợp xét về tướng số rất đúng. Ví dụ ngày xưa ngưới ta nói Uông Tinh Vệ có tướng “bạch diện vô tu”, tức là mặt trắng không râu, lúc đầu phát rất mạnh có lúc lên đến nguyên thủ quốc gia (1941), cuối đời bị ám sát rồi chết, sau đó lại bị Tưởng Giới Thạch quật mồ đốt xác. Nghiên cứu về tướng số, ông Phục thấy rất thú vị khi phát hiện có một số người mà dáng vẻ bên ngoài giống như hình dáng một động vật nào đó. Như người có tướng giống con gấu, gọi tướng gấu, có người giống gà gọi là kê hình, có người giống như heo gọi là trư hình, có người giống chồn, giống cáo, phụ nữ thì có người đi đứng vặn vẹo gọi là xà hình, đàn ông tay dài quá gối gọi là hầu hình. Đặc biệt tâm địa những người mang hình dáng những động vật như vậy thường giống những con vật đó. Như một người bạn của ông Phục, mập tròn trùng trục thêm một tướng xấu nữa là khi ăn anh ta nhai và phát ra âm thanh “xạp xạp” giống heo y chang. Về tính tình, anh ta rất thích đi bia ôm và quấn quít theo mấy con gà móng đỏ. Anh chàng nào giống chồn, giống cáo thì tâm tính cũng y hệt như con cáo con chồn. Một vài câu nói trong dân gian ông Phục thấy hết sức bậy bạ, đó là “không chơi nhà thằng lé, chớ ghé nhà thằng lùn”, hoặc “lưỡng mục bất đồng tâm trung bất chính”. Đây là những khuyết tật mà ông Trời bắt con người ta phải chịu, chứ họ không bao giờ muốn như vậy. Những ông thầy tướng không nên coi đây là những tướng xấu vận vào cuộc đời những người đau khổ này. Dương Lêh (1) Tên các ngôi sao trong lá số tử vi (2) Ở ngoài chợ người ta thường gọi tắt là đồng thay vì ngàn đồng. (3) Matrix, một phương pháp tính toán trong toán học. (4) Bài thơ này người viết học từ một người bạn qua truyền khẩu cách đây khoảng 30 năm, không biết tác giả. (5) Bài hát “Sang ngang” của Đỗ Lễ.
Phụ Bản III BÍ ẨN PHÒNG HỔ PHÁCH THỜI SA HOÀNG VÀ CUỘC KHÁM PHÁ NĂM 2008 Căn phòng hổ phách lúc đầu được dựng tòa cung điện Catherine thuộc Tsarskoye Selo gần Saint Petersburg là một kiến trúc tuyệt đẹp với các vách ngăn làm từ hổ phách và vàng lá nguyên chất, những tấm gương được trang trí công phu. Tạo nên vẻ đẹp huyền ảo của phòng hổ phách là sáng tạo đầy tâm huyết của một tập thể các nghệ nhân lão luyện người Đức và Nga. Công trình chế tác phòng hổ phách được bắt đầu khởi công xây dựng vào năm 1701 và năm 1709 ở nước Phổ. Nhà điêu khắc bậc thầy người Đức Andreas Schlter là tác giả của ý tưởng này, và việc xây dựng căn phòng này do nghệ nhân bậc thầy người Đan Mạch là Gottfried Wolfram chỉ đạo thực hiện. Công việc tạo tác được thực hiện trong một thời gian dài tại cung điện Charlottenburg cho mãi đến năm 1716, khi đó nhà vua Phổ là Friedrich Wilhelm I chuyển giao tuyệt tác này cho Sa hoàng Nga Pier Đại đế. Ở Nga, việc mở rộng và nâng cấp căn phòng hổ phách vẫn liên tục tiến hành thêm vài lần nữa, căn phòng rộng hơn 55m2 với hơn 6 tấn hổ phách nguyên chất được sử dụng cho việc chế tác. Vào năm 2003, sau hàng thập kỷ làm việc nghiêm túc, các nghệ nhân Nga đã khôi phục căn phòng hổ phách mới và làm lễ khánh thành ngay tại Cung điện Catherine ở Saint Petersburg, Nga. SÁNG TẠO… Căn phòng hổ phách được chế tác từ năm 1701 nhằm trang trí cho Cung điện Charlottenburg, nơi ở của vị Hoàng đế Friedrich Wilhelm I, nhà vua muốn bày tỏ tình yêu với người vợ yêu của mình là Hoàng hậu Sophie Charlotte. Tuy nhiên, tuyệt tác vô giá này không yên vị lâu tại Cung điện Charlottenburg. Trong một lần viếng thăm nước Phổ vào năm 1716, Sa hoàng Nga là Pier Đại đế hoàn toàn bị chinh phục bởi nét đẹp không tiền khoáng hậu của căn phòng hổ phách. Hoàng đế đầu tiên của nước Phổ là Friedrich Wilhelm I, đã đồng ý chuyển phòng hổ phách cho vương quốc Nga. Việc tặng báu vật này còn có lý do muốn thắt chặt quan hệ liên minh Nga - Phổ chống lại Nhà nước Thụy Điển. Vào năm 1755, Nữ hoàng Tsarina Elizabeth của vương quốc Nga đã chuyển phòng hổ phách vào Cung điện Mùa Đông và sau đó mới chuyển nó đến Cung điện Catherine. Từ Berlin, Friedrich II Đại đế đã chuyển loại hổ phách vùng Baltic theo ý tưởng sáng tạo của bậc thầy kiến trúc triều đình Italia là Bartolomeo Rastrelli cho việc nâng cấp phòng hổ phách tại Nga. …VÀ “BỐC HƠI” Một thời gian ngắn sau khi quân Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô trong Thế chiến II, những người phụ trách Cung điện Catherine nhận được lệnh phải di chuyển các kho báu nghệ thuật ở Leningrad trong đó có cả việc tháo rời và di chuyển cả căn phòng hổ phách đến nơi khác. Một vài năm sau đó, do không được bảo quản chu đáo, phòng hổ phách trở nên khô bề mặt và rất dễ gãy, vì thế khi người ta tháo rời và cất giấu căn phòng này. Một phần phòng hổ phách đã bị gãy vỡ. Để tránh quân Đức Quốc xã nhòm ngó, báu vật này được bọc giấy dán tường thật kỹ. Tuy nhiên những nỗ lực cất giấu vẫn bị thất bại. Lính Đức Quốc xã đã tháo rời phòng hổ phách chỉ trong vòng 36 giờ. Vào ngày 14-10-1941, Rittmeister Graf Solms-Laubach nhận được lệnh phải làm “bốc hơi” 27 tấm hổ phách từ Cung điện Catherine đến Cung điện Konigsberg ở phía đông nước Đức, tại đây chúng sẽ được bảo quản và trưng bày trong một lâu đài. Vào ngày 13-11-1941, báo Konigsberger Allgemeine Zeitung tường thuật rằng có một cuộc triển lãm về những gì còn sót lại của phòng hổ phách tại Cung điện Konigsberg. Một số nhân chứng kể lại rằng, họ nhìn thấy báu vật tại nhà ga đường sắt. Cũng có nguồn tin cho rằng, phòng hổ phách đã bị đắm cùng một con tàu của Liên Xô. Một nơi cũng bị nghi là đang lưu giữ phòng hổ phách chính là Weimar. Sau đó, Cung điện Konigsberg bị đánh bom bởi Không lực Hoàng gia và phòng hổ phách bị hư hại nặng nề. Kể từ sau khi Cung điện Konigsberg bị phá hủy, người ta không bao giờ còn nhìn thấy lại được kiệt tác vô giá này nữa. Nhiều cuộc nghiên cứu, truy lùng dấu vết về căn phòng vô giá này song không đem lại thành công. Cho đến năm 1998, hai nhóm tìm kiếm riêng biệt (của Đức và Lithuania) loan tin rằng, họ đã tìm thấy vị trí của phòng hổ phách, nằm ngủ yên trong một mỏ bạc. Tuy nhiên, cũng có một nguồn tin công bố vào năm 1997 cho biết, một thợ khảm đá người Italia đã tìm ra 4 mảnh bị nghi là từ phòng hổ phách ở Tây Đức, 4 mảnh hổ phách này là tài sản của một gia đình lính Đức lấy được từ căn phòng hổ phách huyền thoại. CUỘC KHÁM PHÁ VÀO NĂM 2008 Cuộc khám phá mới nhất về phòng hổ phách được thực hiện vào tháng 2-2008, khi người ta đào một hầm mồ sâu 20 mét ở Deutschneudorf, một thành phố nhỏ gần biên giới Đức - Séc. Tại hầm mỏ này, người ta tìm thấy khá nhiều hiện vật bằng vàng và bạc. Ông Hans-Peter Haustein, Thị trưởng thành phố Deutschneudorf, nói rằng: “Chúng tôi xác nhận những hiện vật này là từ phòng hổ phách”. Ngày 20-2-2008, các nhà săn lùng kho báu người Đức tuyên bố rằng họ đã tìm thấy phòng hổ phách. Phát hiện này thu được khoảng 2 tấn vàng và bạc nguyên chất. Ngoài ra còn khám phá ra một căn phòng thô sơ chưa xây dựng xong, trong căn phòng này treo rất nhiều bẫy mìn do các chuyên gia chất nổ trang bị trước đó. Thị trưởng thành phố Deutschneudorf cũng là người dẫn đầu nhóm các nhà săn lùng kho báu đã tiến vào rặng núi Ore thuộc nước Đức, và nói rằng đã tìm thấy sự hiện hữu của phòng hổ phách. Một cuộc điều tra khác gần đây của Tổ chức Bảo tồn phòng hổ phách diễn ra trong một số ngọn núi cách Weimar khoảng 30 dặm về hướng đông. Henry Hatt, người phát ngôn của tổ chức này nói với báo giới rằng, ông thực sự biết địa điểm của căn phòng huyền thoại được chôn giấu. Theo lời Henry Hatt, căn phòng hổ phách cùng với các kho báu Hohenzollem và kho báu của hoàng tử nước Phổ đã được di chuyển đến Weimar. Từ Weimar, căn phòng hổ phách lại được chuyển đến địa hạt Saalfeld và được giấu trong một căn hầm dưới lòng đất của một mỏ khai khoáng. Hiện tại, tổ chức này đang đề xuất với một hãng phim trong việc làm một bộ phim tư liệu khoa học lịch sử. (Theo An Ninh 834, 25-2-2009) Hoàng Chúc st. PHƯỢNG LỬA Những cánh phượng rũ lũ sâu mưa đang cố bám chặt vào màu hừng hực lửa của chúng… Thật ra, khi súng sính những nàng mưa ấy trên thân thể đỏ au của mình, chị em nhà phượng thấy đất trời mát rượi đến nỗi họ những muốn gốc phượng dưới chân hãy đổ mình, đổ mình xuống nữa mà ngâm các nàng hẳn vào lòng con kênh be bé, cho mùa hạ thêm phần thi vị. Hoặc ít ra, ngã xoài xuống để bò rạp trên khoảng sân còn lóng lánh nước, dẫu như thế, có làm rụng rơi đôi chút những lá phượng bé tẻo teo,vì, lũ lá ấy cũng rất điệu nghệ mà lăn qua lăn lại, xoay tới xoay lui, làm những cô nàng phượng thắm trố đôi mắt mỹ miều nhìn đắm đuối… Chỉ cần một chút nước thôi, các nàng phượng vĩ sẽ soi đôi mi cong vút vào, rồi như một giấc mơ, quý nương khẽ reo lên, hè về, hè về… Phượng còn mong mưa làm mát cái thân thể của mình, vốn suốt ngày trân mình trong cái chói chang của mặt trời khô khốc. Nàng vẫn mỗi ngày chứng kiến bao là khúc khích, bao là thút thít của lũ áo trắng lăng quăng dưới chân. Có khi một đứa con trai muốn lắm, mà mãi vẫn chưa nắm tay được đứa con gái để nói điều cần nói, vì 90 ngày nữa, hai đứa ấy chẳng còn cơ hội gặp nhau. Có phải Phượng gây khó dễ cho chúng đâu: thậm chí, khi trời đổ mưa, những tán lá Phượng cũng thừa sức làm không gian thêm lãng mạn cơ mà! Còn trời nắng ráo, ôi chúng lại còn lắm trò mà nâng niu nhau: Cậu cố mà lau cho cô những giọt mồ hôi trên trán. Cô có vẻ e lệ, nhưng cứ thế mà chẳng có phản ứng gì, vì trong lòng cô có cái gì lạ lắm đang làm cô bần thần. Dường như cô cậu có cái gì khó nói, đến nỗi cậu dúi vào tay cô một bì thư xanh xanh có tẩm nước hoa thơm, mà mùi dễ thương của nó bay lên khiến Phượng như muốn xỉu té. Đưa thư rồi, mà cậu cứ lợi dụng để tay cậu yên trong tay cô... Rồi cô đưa cho cậu cái khăn mùi soa, chẳng hiểu sao cũng có mùi thơm y như mùi thơm của lá thư ban nãy! Thế là họ giật nảy người làm gốc Phượng lẩy bẩy theo… Có tiếng huyên náo. Một lũ áo trắng bầy hầy mồ hôi và rừng rực ánh mặt trời trên từng khuôn mặt. Chúng ù té mà chẳng biết sẽ lao mình về hướng nào. Lão phượng phát giác ra chúng đang bổ nhào như chú diều tít trên kia, về phía mình. Lũ con gái cong mình nhặt những cánh phượng dễ thương rồi cài trên mái tóc. Lũ con trai cứ như động kinh rượt nhau chạy tóe khói. Có đứa đứng lại, len lén nhặt cánh phượng nào đỏ nhất, rồi dấu cái tay cầm cánh phượng ấy sau lưng, và nhẹ như con rắn, lẻn đến sau lưng con bé mà nó để ý từ đầu năm học (có hôm, trong giờ học, nó nhìn cô nàng đến lác cả mắt ra, đến nỗi thầy “phết” cho nó một roi đau điếng). Ừ! Nó lén dúi vào làn tóc đẹp ơi là đẹp của con bé kia, rồi…đực ra, á khẩu! Phượng thở dài. Khỉ ạ! Ta cũng chỉ là một tạo vật mà trời đất sản sinh, rồi ấn ta vào những tháng ngày mà ta nào được phép lập trình. Ai cũng khen rằng ta đẹp quá! Và ai cũng bảo rằng ta ác nghiệt! Vì cứ hễ có ta là có chia ly! Cứ hễ có ta là mặt trời cay cú tỏa xuống gian trần những tia sáng cháy bỏng. Ta đứng đây làm đẹp bao điều, nhất là không gian ta chiếm hữu luôn là cái gì đó mộng mơ, phiêu lãng. Nhưng loài người, kể cả lũ học trò kia lại cứ ngóng cho đất trời sầm cơn mưa càng to càng tốt. Cho mát ư? Phải rồi! ta cũng muốn mưa xối trên ta ngày đêm, để ta cho đời những cánh hoa thắm hơn. Và như thế, ta lại đem cho đời bao điều nhung nhớ, bao nước mắt lững lờ, và nhất là bao kỷ niệm thật êm đềm… Không tin, cứ hỏi những kẻ đã từng mài đũng quần trên ghế học đường, xem có ai ghét ta, dẫu là Lão Phượng Già, dẫu là những Nàng Phượng Lửa, hay dẫu là những lá phượng tẻo teo, bay bay trong không gian, chờ mưa tắm gội… Lam Trần 24/5/15 LƯỢC KHẢO VỀ THƯ VIỆN VÀ THƯ TỊCH VIỆT-NAM NGUYỄN HÙNG CƯỜNG Nước Việt-Nam có một quá trình rất vẻ vang về ngành Thư viện và Thư tịch. Vì vậy, trước khi nghiên cứu tỉ mỉ vấn đề này trong thời hiện đại, chúng ta cần phải xét một cách tổng quát cuộc tiến hóa chung của toàn thể Thư viện và Thư tịch qua các triều đại trước. LỊCH TRÌNH TIẾN HÓA CỦA NGÀNH THƯ VIỆN VÀ THƯ TỊCH VIỆT-NAM Việt-Nam là một nước văn hiến. Vậy mà sách vở để lại thường bị thất lạc và khiếm khuyết. Các nguyên nhân về sự tổn thất tài liệu ấy đã được ghi trong sách “Đại Việt Thông Sử” của Lê-Quý-Đôn, (trong bài tựa Nghệ Văn Chí) (thế kỷ thứ 18) và trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan-Huy-Chú (trong bài tựa Văn Tịch Chí) (thế kỷ thứ 19): - Nguyên nhân đầu tiên do ở chỗ ta không có những phương pháp nhất định về sự tàng trữ thư tịch. - Nguyên nhân thứ hai do ở tâm lý các nhà nho chỉ chuyên cái học từ chương, không chú trọng tới các sách không liên can đến khoa cử. Hoặc giả, có người nào thích sưu tầm sách quý, lại giữ làm bảo vật riêng. - Nguyên nhân thứ ba là do loạn lạc trong nước luôn luôn tiếp diễn dưới đời các vua, khiến các sách vở vừa mới sưu tầm được lại bị tản mác. Trong bài tựa của Lê-Quý-Đôn có ghi rõ những sự cố gắng các triều vua trước để thu thập các sách cũ; song các công việc ấy đều bị tình trạng loạn lạc phá hoại. DƯỚI TRIỀU LÝ Năm 1018, vua Lý Thái Tổ sai Nguyễn-Đạo-Thanh và Phạm-Hạc sang Tống lấy kinh Tam Tạng (chữ Phạn gọi là Tripitaka) đem về để vào Thư viện Đại Hưng. Năm 1021, Viên ngoại lang Nguyễn-Khoan-Thái, Nguyễn-Thủ-Cương sang Tống dựng kinh tạng, nhà chứa kinh kiểu bát giác. Năm 1027, đời Lý Thái Tổ năm 17, có soạn được cuốn “Hoàng Triều Ngọc Điệp”; đó là một bộ sách chép các mệnh lệnh, từ, cáo và niên phả của hoàng gia. Khoảng năm Thiên Thành (1028-1033) đời Lý Thái Tôn, có cuốn “Bí Thư” định rõ các thể lệ truất trắc trong ngạch quan lại. Năm 1042, vua Lý Thái Tông (Minh Đạo nguyên niên) có ban bố một bộ Hình thư. Quyển này đã thất lạc, nhưng ta có thể căn cứ vào các điều ghi chép trong sử và trong các sách khác như bộ “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí” (quyển thứ 33) của Phan-Huy-Chú, bộ “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”, “Đại Việt Sử Ký” và “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” của Lê-Văn-Hưu soạn và do Ngô-Sĩ-Liên hiệu bổ, quyển “Lý Thường Kiệt” của ông Hoàng-Xuân-Hãn. Năm 1148, đời Lý Anh Tôn, có cuốn “Nam Bắc phiên giới địa đồ” ra đời. Ngoài các cuốn sách ghi trên, ta còn thấy những bài minh ký khắc vào chuông đồng, bia đá rất mạnh mẽ cứng cáp. Lê-Quý-Đôn trong sách “Kiến văn tiểu lục” giới thiệu với chúng ta những bài này còn lại: 1. Bài minh khắc vào chuông chùa Thiên-Phúc núi Phật-Tích do sư Huệ-Hưng soạn (1109). 2. Bài bia chùa Sùng-Nghiêm diên thánh ở Ái Châu do sư Pháp-Bảo viết (1118) 3. Bài bia tháp Hội-Thanh núi Lăng-Cia (1092) do pháp sư Lê-Kim soạn. 4. Bài minh khắc vào chuông và bài bia chùa Viên-Quang đều do Đinh-Dật viết (1122). 5. Bài bia tháp Sùng-Thiên diên linh (1121) ở núi Long-Đột thuộc huyện Duy-Tiên tỉnh Hà-Nam do Mai-Công-Bật soạn. 6. Bài bia chùa Linh-Xứng núi Ngưỡng-Sơn làng Ngô-Xá, huyện Vĩnh-Phúc, tỉnh Thanh-Hóa do sư Pháp-Bảo làm năm 1126. 7. Bài bia chùa Diên-Phúc thôn Cổ-Việt của Nguyễn-Công-Đạm là gia khách nhà Đỗ-Anh-Vũ soạn năm 1113. Như vậy, các tài liệu vụn vặt tản mác trong sử cũ đã chứng minh là dân tộc Việt-Nam ngay từ thế kỷ thứ 11 (đời nhà Lý) đã có đủ khả năng tiến triển về phương diện Thư viện và Thư tịch tuy lúc đó còn phôi thai, nhưng không thua kém dân tộc nào trên thế giới. DƯỚI TRIỀU TRẦN Chữ Nôm được xuất hiện và đắc dụng. Tiếng Việt được dùng làm thi ca, khúc ngâm. Nói vậy, không phải là nhà Trần triệt để dùng chữ Nôm. Các chiếu chỉ của nhà vua vẫn là chữ Hán. Về việc ban bố, Ty Hành khiển có nhiệm vụ giảng cả âm lẫn nghĩa ra tiếng Việt để dân hiểu (phàm thư). Văn hóa đời Trần cũng dành cho sử ký một địa vị quan trọng. Trần-Tấn làm cuốn Việt chí tức Việt sử sau do Lê-văn-Hưu sửa lại tức là bộ Đại Việt sử ký chép từ đời Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng gồm 30 quyển. Đây là bộ sử đầu tiên của nước ta. Dưới triều Trần, hai bộ Luật đã được ban hành: Vua Trần Thái Tông cho soạn quyển Quốc Triều Thống Chế gồm 20 quyển. Vua Trần Dụ Tông sai Trương-Hán-Siêu và Nguyễn-Trung-Ngạn soạn quyển Hình luật thư. Nhà Trần thiết lập cả Quốc học viện, Quốc tử viện là những cơ quan đào luyện anh tài và tất phải lưu trữ cả sách vở. Dưới đời Trần Nghệ Tôn, văn học đã thịnh nhưng vì loạn đột nhập vào kinh thành nên sách vở bị đốt phá mất hết. DƯỚI ĐỜI NHÀ HỒ Sau khi kinh thành thất thủ, tướng nhà Minh là Trương-Phụ thu thập hết cả cổ kim thư tịch chở về Kim-Lăng dâng lên Minh Đế. Do đó, chúng ta mất rất nhiều sách quí mà nhân tài hai triều Lý, Trần đã biên soạn. Theo Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch Chú (Phan-Huy-Chú), những sách dưới đây đã bị tịch thu hồi đó: 1. Hình Thư của vua Lý Thái Tông .......................... 3 quyển 2. Quốc Thiều Thông Lễ của vua Trần Thái Tông 10 quyển 3. Hình Luật ................................................................. 1 quyển 4. Thường lễ niên hiệu Kiến Trung ........................ 10 quyển 5. Khóa hư tập ............................................................. 1 quyển 6. Ngự thi ..................................................................... 1 quyển 7. Di hậu lục của vua Trần Thái Tông ..................... 2 quyển 8. Cơ cừu lục ............................................................... 1 quyển 9. Thi tập ...................................................................... 1 quyển 10. Trung Hưng thực lực của vua Trần Nhân Tông 2 quyển 11. Thi tập .................................................................... 1 quyển 12. Thủy vân tùy bút của vua Trần Anh Tông ....... 2 quyển 13. Thi tập của vua Trần Minh Tông ....................... 1 quyển 14. Trần triều Đại diễn của vua Trần Dụ Tông ...... 2 quyển 15. Bảo hòa điện dư bút của vua Trần Nghệ Tông 8 quyển 16. Thi tập .................................................................... 1 quyển 17. Binh gia yếu lược của Trần Hưng Đạo .............. 1 quyển 18. Vạn kiếp bí truyền của Trần Hưng Đạo ............ 1 quyển 19. Tứ thư thuyết ước của Chu Văn Trinh .............. 1 quyển 20. Tiều ẩn thi ............................................................. 1 quyển 21. Sầm lâu tập của Uy Văn Vương Trần Quốc Toại ................. 1 quyển 22. Lạc đạo tập của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải ....... 1 quyển 23. Băng hồ ngọc hác tập của Trần Nguyên Đán ... 1 quyển 24. Giới hiên thi tập của Nguyễn Trung Ngạn ........ 1 quyển 25. Giáp thạch tập của Phạm Sư Mạnh .................... 1 quyển 26. Cúc đường di thảo của Trần Nguyên Đào ........ 2 quyển 27. Thảo nhàn hiệu tần của Hồ Tôn Vụ .................. 1 quyển 28. Việt Nam thế chí ......................................................... 1 bộ 29. Việt sử cương mục ..................................................... 1 bộ 30. Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu ....................... 30 quyển 31. Nhị Khê thi tập của Nguyễn Phi Khanh ............ 1 quyển 32. Phi Sa tập của Hàn Thuyên ................................. 1 quyển 33. Việc diện u linh tập của Lý Tế Xuyên .............. 1 quyển Những sách ấy bây giờ không biết mất ở đâu mà cũng không thấy quyển nào nữa. Thật là một điều thiệt hại không nhỏ cho nền văn hóa Việt-Nam. DƯỚI TRIỀU LÊ Vua Lê Thánh Tôn (1460-1497), một vị vua có tài văn học lỗi lạc, mở rộng nhà Thái học (tức là Quốc tử giám), làm nhà Văn miếu, làm các Phòng ốc để sinh viên trọ học, làm kho chứa sách, đã hai lần ban chỉ dụ tìm sách quí. Đầu niên hiệu Quang Thuận (1460), vua đã ban chiếu cầu hỏi các dã sử (sử của tư nhân soạn), sưu tầm các cổ kim truyện ký của các tư gia. Vào khoảng giữa niên hiệu Hồng Đức (1470-1497), một đạo chiếu khác đã ban hành lệnh tìm các di thư để tàng trữ vào kho bí thư (tức là nội các của nhà vua) và trọng thưởng các người dâng sách. Nhờ biện pháp này, sách quí mỗi ngày thu thập thêm lên. Vua lại hay thi ngâm, đặt ra Quỳnh Uyển cửu ca, sai Thân-Nhân-Trung và Đỗ-Nhuận làm bộ Thiên Nam dư hạ tập (một quyển ghi chép các chế độ, luật lệ, văn hàn, điển cáo của các triều Lê), 100 quyển nói về việc chính và hình luật đời Hồng Đức. Chính vua tự làm ra quyển “Thân chinh ký sự” thuật việc vua đi đánh Chiêm Thành, Lão Qua và các mường. Sau kinh thành bị loạn Trần-Cảo đốt phá, thư tịch bị vất đầy đường. Dưới đời nhà Mạc, công cuộc thu thập sách quí lại bắt đầu. Đến khi nhà Lê trung hưng lấy được kinh thành, các thư tịch một lần nữa lại làm mồi cho binh lửa. Những sách lưu trữ tại các nhà sĩ phu cũng ít khi giữ được, đến nỗi tán lạc cả. Chính vì các cớ kể trên mà ngày nay, các sách vở của hai đời Lý và Trần đều khiếm khuyết. Theo Lê-Quý-Đôn, tuy các Thư tịch không có, song ngày nay trong các sử và truyện ký, còn có những tài liệu gián tiếp rất quan trọng để phác họa cho ta trạng thái Thư tịch và Thư viện trong thời cổ. Cũng nhờ vậy mà ta có thể vạch lại quãng đường tiến hóa gần hai mươi thế kỷ, của ngành Thư tịch và Thư viện Việt-Nam. Trong Đại Việt Thông Khảo, Lê-Quý-Đôn nhờ có lời ghi chép của sử cũ, đã sao lấy mục sách, từ đời Trung Hưng cho đến triều cuối, chia ra làm bốn loại: một gọi là “Hiến Chương”, hai gọi là “Thi Văn”, ba gọi là “Truyện Ký” và bốn gọi là “Phương Ký” (về nghệ thuật), tạm liệt rõ tên, số từng cuốn và phô bày cả ý tưởng các tác giả. Đây là một bộ Thư tịch thành công đầu tiên về thế kỷ thứ 18 của nước ta. DƯỚI TRIỀU NGUYỄN Vua Thế Tổ biết rằng việc trị nước có võ cũng cần phải có văn, nên đêm ngày lưu ý đến việc học hành, thi cử trong nước. Vua lập nhà Văn Miếu thờ Đức Khổng Tử, đặt Quốc Tử giám, lo cả đến ngành địa dư và quốc sử nên sai quan Binh bộ thượng thư Lê-Quang-Định kê cứu từ Lạng-Sơn đến Hà-Tiên, đường sá, sông bể làm thành sách “Nhất Thống Địa Dư Chí” (10 quyển). Năm 1811, vua sai tìm các dã sử nói về nhà Lê và nhà Tây Sơn để sửa lại quốc sử. Quốc âm thời bấy giờ thịnh lắm: Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn-văn-Thành, tổng trấn Bắc Thành, ra chủ tế, là một bài văn chương đại bút. Ngoài ra, còn những truyện như “Hoa Tiên” của Nguyễn-huy-Tự, truyện “Kim Vân Kiều” của Nguyễn-Du. Đời vua Thế Tổ đã đặt Thị thư viện làm chốn cơ yếu ở trong điện để có điều gì thì vua hỏi han và làm các việc như biểu, sách, cáo, chương, tấn, sắc, mệnh v.v… Năm 1811, vua sai Nguyễn-văn-Thành làm Tổng tài coi việc soạn ra bộ Luật mới lấy luật cũ đời Hồng Đức nhà Lê và tham chước với luật nhà Thanh, cả thảy có 22 quyển và 398 điều. Vua Thánh Tổ (niên hiệu Minh Mạng) mới lên ngôi đã lo đến việc Thư tịch. Vua đặt ra Quốc sử quán để góp nhặt những truyện làm quốc sử, lưu ý đến việc tưởng lệ những người có công biên soạn sách vở, xuống chiếu: hễ ai tầm được sách cũ, hay là làm ra sách mới thì được ban thưởng. Từ đó, Trịnh-Hoài-Đức dâng sách “Gia-Định Thống Chí” và sách “Minh bột di hoán văn thảo”; Hoàng-Công-Tài dâng bản “Bản triều ngọc phả”, hai bản ký sự; Cung-văn-Hi dâng bẩy quyển “Khai quốc công nghiệp diễn chí”; Nguyễn-đình-Chính dâng 34 quyển “Minh lương khải cáo lục”; Vũ-văn-Tiêu dâng 1 quyển “Cố sự biên lục”; vua lại sai quan soạn xong bộ “Liệt Thánh thực lục tiền biên”, bộ “Khâm định tiểu bình lưỡng kỳ phỉ khấu phương lược”. Còn vua tự soạn ra hai bộ “Ngự chế tiểu bình Nam-Kỳ lặc khấu thi tập” và “Ngự chế thi tập”. Chính năm 1821 (Minh Mạng thứ 2) Phan-huy-Chú đã sưu tầm và trước tác xong bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” và dâng lên vua Minh Mạng. Sách gồm 49 quyển chia ra làm 10 phần: 1. Địa dư chí 2. Nhân vật chí 3. Quan chức chí 4. Lễ nghi chí 5. Khoa mục chí 6. Quốc dụng chí 7. Hình luật chí 8. Binh chế chí 9. Văn tịch chí 10. Bang giao chí Đây là một kho tài liệu quý để nghiên cứu các điển chương và các định chế xã hội và chính trị thời trước. Trên bình diện Thư tịch học, phần “Văn tịch chí” đáng được chú ý vì sau Lê-Quý-Đôn, về thế kỷ thứ 19, tác giả đã thành công và hoàn tất một quyển thư mục gồm các sách của những triều trước chia làm bốn mục: Hiến chương (phép tắc), Kinh sử (kinh truyện và lịch sử), Thi văn (thơ và văn xuôi) và Truyện Ký. Tác giả thấy từ trước đến giờ, “Hội Điển” của các triều chưa có hợp lại thành một pho, sự ghi chép linh tinh ở những sách và bài văn sót lại, chưa phân tích được đầu đuôi. Vậy nên, tác giả sưu tập nhũng điều kiến văn phân biệt ra từng mục loại, để làm thành một cuốn “Hiến Chương”. Về phương pháp trước tác, tác giả có óc khoa học biết khách quan sưu tập các tài liệu cổ, có óc phân bình xét đoán, biết cân nhắc giá trị của từng văn kiện, từng chế độ mỗi khi cần tới. Vua Dục Tôn (niên hiệu Tự Đức) là một ông vua hay chữ nhất đời nhà Nguyễn, trọng sự nho học đặt ra “Tập Hiền Viện” và “Khai Kính Điện” để vua ngự ra cùng các quan bàn sách vở, làm thơ phú, lại sai soạn bộ “Khâm Định Việt Sử” từ đời thượng cổ đến hết đời nhà Hậu Lê. Trên đây là vài nét đại cương về quá trình tiến hóa của ngành Thư viện và Thư tịch qua các triều đại trước. Phần nhiều những kho sách nói trên là của nhà vua và lưu trữ sách chữ nho. Tuy nhiên, thường thường quan lại những triều trước cũng có thư viện riêng và nhiều khi cho phép thường dân hiếu học tới tham khảo. Chúng ta phải chờ tới đầu thế kỷ 20 mới thấy xuất hiện tại Việt-Nam các thư viện công cộng lưu trữ những sách Việt ngữ hay Tây phương ngữ. ĐỖ THIÊN THƯ st. TÀI LIỆU THAM KHẢO - B.E.F.E.O, tập IV, 1904, tt. 617-67. - B.E.F.E.O, tập XVI, 1916, tt. 1-55. - B.E.F.E.O, tập XX, 1920, tt. 73-120. - B.E.F.E.O, tập XXXIV, 1934, tt. 1-173. - CHU, Phan Huy. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí. Saigon, Luật khoa Đại học Đường, 1957. - KIM, Trần Trọng. Việt Nam Sử lược. Saigon, Tân Việt, 1954 - MẪU, Vũ Văn. Dân luật khảo luận. Saigon, Bộ Quốc gia Giáo dục, 1958. - Quốc Triều Hình Luật (Hình Luật Triều Lê). Saigon, Trường Luật khoa Đại học, 1956. - SƠN, Phạm Văn. Việt sử Tân biên. Saigon, Trần-Hữu-Thoan, 1956. CON TRÂU của TRẦN-TIÊU Ông Trần-Tiêu, một tác-giả mới chào làng văn, đã xuất bản quyển tiểu thuyết nhan đề “Con Trâu”. “Con Trâu” hình-dung được những gia-đình nghèo, đông con, chuyên về nghề ruộng ở thôn-dã xứ Bắc. Bác Chính là vai chánh trong truyện. Bác Chính sống kề bên một vợ hiền, một gái lớn giỏi-giắn và hai đứa con còn nhỏ. Bác sống siêng-năng, cần-mẫn với cái ý-chí của một nhà nông biết lo-lắng. Bác Chính có thể sống phong-lưu hơn, nhưng lúc nào bác cũng ăn cần, ở kiệm đặng dành-dụm chút ít tiền-bạc vì bác nuôi mãi một ước-ao: “Bác Chính muốn tạo một con trâu cái. Con trâu cái, đối với vợ chồng bác, có lợi nhiều lắm. Với nó, chồng có thể kiếm mỗi ngày ba cắc. Đến khi nó đẻ, bác lại có nghé bán. Hai bác tính trong vài năm sẽ kéo lại được vốn. Con trâu cái sẽ giúp bác kiếm ra tiền”. Sau một mùa ruộng, hai vợ chồng bác Chính trả nợ xong lại có dư được trong nhà. Đáng lẽ, ngay khi ấy, bác Chính mua con trâu cái mà bác mơ-ước mãi. Nhưng không. Bác Chính phải nán qua mùa ruộng khác vì sống ở làng, phải có một chút danh-vọng đặng tránh trăm việc nặng-nề đổ dồn trên đầu thằng dân tay trơn. Vậy lo bàu xã là việc cần-ích khẩn-cấp. Thế bác Chính đem tiền đi lo. Bác Chính đã trở nên bác Xã Chính. Làm xã, bác Chính từ đây có một địa-vị mới trong làng. Bác xã Chính phải tốn thêm thời-giờ với hội-hè, đình-đám và phải gặp nhiều dịp xài bất-thường từ đó mà đến… Rồi kế đại hạn. Thất mùa. Dân sự nghèo đói. Gia-đình bác xã Chính cũng không qua khỏi tai-ách ấy. Gia-đình trở nên bẩn-chật hơn xưa. Cảnh nghèo-đói từ đó không đi khỏi cửa bác xã Chính nữa. Nhà thiếu hụt càng thiếu hụt thêm. Vợ bác xã lo bói thầy, coi bóng. Cả nhà bác tin theo thầy địa lý, sửa ngôi mộ ông bà lại cho cả họ bác xã sung-túc hơn. Nhưng, trái với ý muốn, gia-đình bác xã càng suy-sụp thêm. Một hôm, bác xã đi cày ruộng. Bác mắc một đám mưa. Bác cảm nặng. Bác, lúc gần thở hơi cuối-cùng còn lầm-thầm: “con trâu cái! con trâu cái!”. Bác xã Chính đã chết. Con trâu cái ước-mơ, bác vẫn chưa mua được. Ông Trần-Tiêu khi tả các dịp náo-nhiệt, vui chơi ở đồng ruộng lại diễn ra được cả sự thương yêu, bực-tức, bâng-khuâng, hồi-hộp, vui, mừng, thèm-thuồng và khổ sở của đám dân quê ở đất Bắc. Cô gái lớn của Bác xã là cô Mít. Cô thương thằng Tửu là một đứa mục đồng. Thằng Tửu cũng trả sự thương lại với cô Mít. Mít và Tửu thương nhau bằng cái tình thật-thà, vô tư-lợi. Một cảnh phụ thuộc êm-đềm, ngộ-nghĩnh và cảm-động! Ông Trần-Tiêu vẽ nó bằng ngòi bút cẩn-thận, đã quan-sát một cách châu đáo. Ông đặt nó kề bên bức tranh chánh, bằng một thứ-tự, lề-lối tự-nhiên. Ông khéo làm cho cả tình-thế nổi lên tỏ rõ bằng một vài chuyện nhỏ-nhặt mà đáng ghi. Ông Trần-Tiêu để cho vai truyện sống thật. Lời thuật gọn gàng, dẫu rằng lắm khi hơi dài một chút. Câu văn nhẹ-nhàng chuyển rất khéo, đựng đủ ý-nghĩa để cảm độc-giả. Mỗi người ở trong truyện, có tính cách riêng. Từ điệu đi, đứng, nói cười, từ cử-chỉ đến hành-động, mỗi mỗi phô diễn rất trung thành một tâm-lý. Cảnh nào, người nấy. Một thật-tế phân-biệt và hợp-lý: coi hát ở làng, coi đình-đám, đi gặt, tát nước, ăn tết ở thôn-quê… với cái ung-dung mộc-mạc của người làm ruộng. Ông Trần-Tiêu để cho ý-nghĩ quây cuồng theo danh-vọng và tiền-bạc, nó vật lộn mãi với nhau… “Con Trâu” vẽ cảnh sống của dân quê xứ Bắc với bao nhiêu sự muốn, sự vui, buồn, lại lột ra được cái đặc-điểm của nó rất dễ-dàng. “Con Trâu” vẽ nhiều bức tranh về đồng ruộng, tuyệt đẹp và đúng với sự lộng-lẫy, bát-ngát, bao-la của Trời, Đất. “Con Trâu” mô tả được một tình yêu thật-thà, không ích-kỷ của đám thanh-niên làm ruộng. Tình của họ phản-chiếu ra trong bao nhiêu việc làm nhỏ-nhen mà rất cảm-động. “Con Trâu” đựng từ trương đầu đến trương chót một triết-lý đáng chú-ý: Sống ở đời, lắm khi người ta chỉ ước-ao một việc rất tầm thường đối với sức mình. Nhưng công kia việc nọ niếu kéo ràng buộc người mãi. Rồi đến khi đã nằm trên giường chết, người cũng chưa nắm đặng sự mơ-ước. Thằng Tửu nói với cô Mít: “Có tính siêng năng, cần kiệm như ông lão (bác xã), anh chắc thế nào cũng tạo được con trâu”. Cô Mít đáp: “Em cũng mong thế, nhưng còn nhờ Trời, nhờ số phần, mình biết trước sao được”. Bác xã Chính nói: “À sá! Số mạng khá, thì vạn sự đều nên”. Ông Trần-Tiêu cho các vai truyện vịn vào số-mạng. Ông Trần-Tiêu tin định-mạng chủ-nghĩa, tin số tiền-định tại Trời và ở mình. Tác-giả có một cái kết-cấu hay, nhờ một nét vẽ khéo nó làm biểu-lộ ra cả bản-sắc của nhân-loại. Thật thế, ta thấy rõ tận đáy lòng của các vai truyện, ta cảm với họ vì họ là hình-thức của xã-hội ta đang sống. Quyển “Con Trâu”, nhắc lại rằng ở vùng quê đất Bắc người ta… … … (kiểm duyệt) … … … còn tin tưởng: “nhơn sanh hữu mạng”. Về mặt đạo-đức “Con Trâu” không làm tổn thương.- “Con Trâu” phải làm cho người suy-nghĩ và dòm lại cả cuộc đời sống mình. Muốn là một việc. Sống là một việc. Sự cần chánh, là không nên nản lòng muốn và sống. Ngoài ra, phân-sự ta đã tròn. Một lối sắp đặt tài-tình nên để ý: cốt-truyện là con trâu cái, nhưng mà con trâu không có vai nào ở trong truyện cả. Ông Trần-Tiêu đáng lẽ phải lấy ba chữ “Con Trâu Cái” làm nhan quyển sách mới đúng. Về ý-tứ, về văn-chương, về đạo-đức, quyển “Con Trâu” đáng cho chúng ta chú-ý. Chúng tôi xin mời ban trị-sự bỏ thăm giải-thưởng văn-chương 1941 của hội KHUYẾN-HỌC NAM KỲ cho quyển “Con Trâu”, đặng nung chí một tác-giả mới. HẢI-ĐƯỜNG CHIM-HẢI-YẾN (Septembre 1941) ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st. TẤM CHÂN TÌNH Mỗi lần nhớ đến cái tên của mình, tôi lại hờn dỗi má, vì má chính là người đã chọn tên đó cho tôi. Khi sinh anh Sáu, má đã gọi anh là Út. Hai năm sau má sinh chị Bảy, thế là anh Sáu được má “nâng cấp” thành Út Anh để phân biệt với chị Bảy là Út Em. Liên tiếp mấy đứa con nữa ra đời, mang những cái tên nôm na diễn tả nỗi lòng má: Út Thêm, Út Dư, Út Thôi và cuối cùng là tôi: Út Ngán! Má thường nói nhờ cái tên mà hồi nhỏ tôi ít bệnh hoạn. Trong khi các anh chị lây nhiễm nhau hết quai bị đến ho gà, trái rạ rồi ghẻ lác thì riêng tôi, tụi vi trùng cũng… ngán! Tôi mạnh khỏe cùi cụi như con trai, lũ bạn trong xóm chẳng đứa nào dám ăn hiếp. Nếu đúng như lời má nói thì đây là cái tên “phản chủ”! Vi trùng ngán, tôi càng sống khỏe, bạn bè ngán, tôi càng khoái, nhưng bây giờ cả anh Điền cũng “ngán” thì thật đau khổ cho tôi! Tôi, anh Điền và chị Phấn là hàng xóm cạnh nhà nhau từ bé nên yêu mến, khắng khít với nhau cách đặc biệt. Tôi nhỏ tuổi nhất nên được anh Điền thương nhất. Buồn thay, đó chỉ là tình thương của anh trai dành cho đứa em nhỏ nhít trong nhà. Tôi không thích vậy, tôi mong muốn có với anh mối quan hệ khác kia. Chẳng biết có hiểu tâm sự thầm kín của tôi không mà anh Điền mãi vô tình, dửng dưng với tôi, đôi khi khiến tôi phát khóc vì tủi thân. Trong mắt anh, tôi cứ mãi là đứa bé “hỉ mũi chưa sạch”! Ừ, thì cứ cho là vì trước kia anh Điền có chị Phấn rồi nên chẳng thèm chú ý tới tôi, nhưng chị Phấn đã đi lấy chồng Đài Loan mấy năm nay rồi còn gì? Chị Phấn mồ côi từ bé, sống với người cô - là má thằng Son. Nhà tôi nghèo, nhà chị còn nghèo hơn. Chị chịu thương chịu khó, vất vả làm thuê, bươn chải buôn bán chẳng nề hà. Dầm mưa dãi nắng mà chị vẫn trắng trẻo xinh xắn, với anh Điền siêng năng tháo vát quả là một cặp đẹp đôi. Vậy mà không hiểu sao, một ngày kia, thình lình chị Phấn theo ai đó lên thành phố mấy ngày, rồi quyết định theo chồng sang Đài Loan. Báo hại anh Điền như mất hồn, ủ ê sầu thảm, hết cả tinh thần làm việc. Tối tối, tôi thấy anh trải chiếu ra trước sân, mua rượu lai rai với thằng Son. Chẳng biết anh buồn cỡ nào chứ chứng kiến anh như thế, tôi xót xa quá đỗi. Tôi đứng tựa cửa bên này nhìn sang, lòng héo như dưa. Tôi biết nhậu là cái cớ, thật ra anh Điền chỉ muốn được nghe thằng Son kể chuyện. Thằng này lạ lắm, toàn kể chuyện chị Phấn thôi: - Ch ị Ph ấ n m ớ i g ọ i đ i ệ n v ề cho má em sáng nay. - … - Ch ị Ph ấ n có b ầ u r ồ i. Bác s ĩ nói con trai. Chèng ơ i, c ả nhà ch ồ ng m ừ ng h ế t bi ế t, c ư ng con dâu nh ư U V ươ ng c ư ng Bao T ự … Tôi lầm bầm chửi thầm thằng Son: “Đồ ngu, ví von kiểu gì dốt như bò!”. Chắc nó mới xem vở cải lương Tiếng Cười Bao Tự tối qua đây mà! - Ch ồ ng ch ị Ph ấ n có m ộ t tay thôi mà làm ru ộ ng gi ỏ i l ắ m, nuôi h ế t c ả nhà. Ờ, một tay thì mai mốt làm sao bồng con được, há? Mặt anh Điền như sẫm lại. Thằng Son ngu quá đỗi, nó đang hồn nhiên khoét mũi dao vào vết thương lở loét trong lòng anh Điền. Tôi thương anh quá, những lời vô tình của thằng Son đang làm anh nhức nhối. Một tay đã bồng nổi chị Phấn thì đứa con bé tí sao không bồng được? Một lúc sau, thằng Son say mèm nằm lăn ra chiếu, sải tay ngáy pho pho. Anh Điền chưa say cũng không buồn ngủ cứ ngồi lặng thinh, buồn hiu hắt. Tôi bước sang, khẽ khàng nhắc nhở: - Khuya r ồ i, vào nhà ng ủ thôi anh! Anh Điền nhìn tôi đăm đăm. Ánh mắt anh đêm nay thật lạ, như lửa đốt, như gió xoáy khiến tôi bối rối. Tôi cố làm tỉnh, giục: - Kêu th ằ ng Son vô nhà luôn, n ằ m đ ây l ỡ trúng s ươ ng trúng gió thì kh ổ . Bất ngờ, anh Điền nắm cánh tay tôi lắc mạnh: - Út Ngán, em nói cho anh nghe đ i: sau này em s ẽ chọn người chồng như thế nào? Câu hỏi đột ngột làm tôi ngây mặt ra, lúng túng: - Em… không bi ế t. Em… chưa chọn ai… Mà anh đừng uống rượu nữa. Phụ nữ không thích đàn ông uống rượu đâu. Anh Điền thả tay tôi ra, giọng nghèn nghẹn: - Ngày ấ y… anh c ũ ng đ âu có u ống rượu bao giờ… “Lại nhớ chị Phấn rồi”, tôi nghĩ và thầm ghen với chị. Chị Phấn đang ở đâu đó tận đất Đài Loan xa xôi mà cứ quanh quất rất gần bên anh Điền, còn tôi ở cạnh đây mà lại như muôn trùng xa cách. * Đột ngột, chị Phấn trở về, bồng theo đứa con nhỏ gần thôi nôi. Từ hôm đó, tôi không còn thấy thằng Son sang uống rượu với anh Điền nữa, có lẽ chị Phấn cấm nó. Có ai hỏi chuyện về những năm tháng lấy chồng ở Đài Loan, chị Phấn không nói, chỉ thở dài hoặc lảng sang chuyện khác. Người ta thi nhau râm ran bàn tán, quả quyết chị Phấn đã ly dị người chồng khuyết tật ấy rồi. Người đoán do ông chồng vũ phu quá, đánh đập vợ tàn nhẫn nên chị chịu không thấu phải bỏ trốn về nước. Lại có người tỏ ra thông thạo kể rằng ở Đài Loan, chị Phấn cùng lúc phải làm vợ cho cả ba anh em trai lẫn người cha già khụ của chồng… Nhưng tất cả chỉ là lời đồn, thực hư thế nào mình chị Phấn biết, mà chị lại nhất quyết không hé răng, ngay cả với người trong nhà. Nếu không, cái miệng thằng Son hớt lẻo làm sao ngậm kín được những chuyện hấp dẫn như thế? Từ ngày chị Phấn trở về, anh Điền không còn ủ ê nữa. Anh vui lắm, cười với tôi luôn. Nhưng anh càng cười tươi, tôi càng sầu thảm. Hễ gặp tôi là anh lại nói chuyện thằng Bèo: “Thằng Bèo thế này… thằng Bèo thế kia…”. Bây giờ chỉ có thằng Bèo là số một! Cái thằng hết sức tham lam và tột cùng độc địa! Nó chiếm hết tâm hồn anh Điền rồi, chẳng chừa lại cho tôi một thẻo xíu xiu nào! Thằng Bèo? Thì con chị Phấn chứ ai! Tới hôm nay, thằng Bèo đã lững chững bước đi và tập nói vài câu rời rạc. Lạ thật, sao nó chẳng có nét nào giống mẹ cả? Mẹ nó xinh xắn trắng trẻo thế kia còn nó xấu xí, da đen thui lại ghẻ lở thường xuyên. Những nốt mụn mọng đầy mủ xanh bốc mùi tanh tưởi, mọc chi chít khắp người nó làm tôi không dám đến gần. Đâu phải chỉ mình tôi, cậu Son nó cũng thế. Vậy mà anh Điền không sợ, không chê thằng Bèo xấu xí, dơ bẩn hay tanh tưởi. Anh vẫn ôm hôn như mưa lên mặt nó, đến chừng nó đau quá khóc ré lên, mới buông ra. Rảnh đôi chút là anh sang nhà Son chơi đùa với thằng Bèo. Anh công kênh nó lên vai, vừa hát nghêu ngao vừa rảo đầu làng cuối xóm. Có hôm anh còn gội đầu, cắt móng tay cho nó. Nhiều lần tôi bắt gặp anh Điền đặt thằng Bèo ngồi lên đùi, lấy kim nhẹ nhàng khêu từng nốt mụn ghẻ của nó cho chảy hết mủ xanh mủ vàng ra, rồi xức thuốc lên. Nó xót, vừa khóc hù hụ vừa giãy tê tê, còn anh thì luôn miệng hít hà, cứ như chính anh đang bị đau chứ không phải là nó. Thằng Son có lần đã hỏi: - Th ằ ng Bèo gh ẻ l ở th ấ y ghê quá, anh không ớ n h ả ? Anh ngạc nhiên nhìn sững Son, hỏi lại: - Sao ớn? Là da là thịt của Phấn mà! Anh trả lời tỉnh queo làm tôi uất nghẹn đến trào nước mắt. Rõ ràng anh vẫn còn yêu chị Phấn đến dại cuồng, hẳn anh đang mong mỏi tái hợp với chị. Nhưng chị Phấn lúc này lạ lắm, cứ im im lạnh lạnh, làm như tim chị đã sượng ngắt, thành sỏi đá mất rồi. Thấy anh Điền lò dò sang là chị tránh đi nơi khác, để mặc anh cứ việc ôm ấp, chơi đùa với thằng Bèo, đến khi chán chê thì lại lầm lũi về. Tôi nghĩ mãi cũng không hiểu nổi chị Phấn. Trước kia, hai người đã từng rất yêu nhau mà? Có phải cuộc hôn nhân sai lầm đã làm chị sợ đàn ông? Hay chị đang mặc cảm? Hoặc chị chỉ giả bộ thế thôi? Chị Phấn đã khó hiểu, anh Điền còn khó hiểu hơn. Ngày trước người ta đã phụ bạc bỏ đi lấy chồng xa xứ rồi bây giờ trở về lại tiếp tục làm khổ anh, mà anh chẳng trách móc lời nào, cũng chẳng nản lòng, vẫn âm thầm theo đuổi. Trời ạ, phải chi vai trò của chị Phấn đổi sang cho tôi? - Chính anh c ũ ng không hi ể u mình n ữ a, Út Ngán ạ . Trong lòng anh, anh th ấ y Ph ấ n v ẫ n y nh ư h ồ i x ư a. V ậ y m ớ i ch ế t! Nói tiếng “chết” mà mắt anh Điền sáng lên, mặt mày hí hửng. Tôi biết mình luôn luôn là người bị đẩy ra ngoài lề trái tim anh Điền. Sẽ chẳng bao giờ anh yêu tôi đâu, bởi trong lòng anh mãi mãi chỉ có một mình chị Phấn, dù chị có ra thế nào đi nữa. * Thằng Son chạy sang nhà tìm tôi, báo tin: - H ồ i đ êm, c hị Phấn đem thằng Bèo bỏ đi rồi. Tôi chưng hửng: - Đ i đ âu? - Lên thành ph ố . C ó người làm mai cho chị lấy chồng Hàn quốc. - Tr ờ i đấ t! Th ậ t không cha n ộ i? - Th ề đ ó. X ạ o ch ế t li ề n! - Đem thằng Bèo cùng đi lấy chồng luôn hả? - Thì ông Hàn quốc kia cũng chịu vậy mà. - Anh Điền biết chưa? - Mới biết tức thì. - Nói gì không? Thằng Son chỉ nhún vai, bỏ đi. Tôi chẳng cần nghe nó trả lời cũng đoán được. Một lần nữa, cái tin thắt tim này giáng cho anh Điền một đòn ngất ngư chí tử. Anh đổ bệnh nằm cả tháng, hốc hác bơ phờ, râu ria tua tủa. Nhìn anh già sọm mau quá, tôi không khỏi nhói lòng. Thằng Son cũng bị sốc, nó cảm thấy xấu hổ vì chị Phấn. Mọi người đang râm ran bàn tán cười chê làm nó thêm mặc cảm. Nó cũng đồng tình với dư luận. Một lần lấy chồng Đài Loan nếm mùi cay đắng rồi tưởng phải khôn ra chứ, có đâu lại… Nhìn bộ dạng anh Điền, thằng Son vừa thương vừa tức. Nó hậm hực xúi: - Quên ph ứ t đ i anh ơ i. Con ng ườ i x ấ u xa t ồi tệ đến nước đó còn tiếc làm chi nữa? Anh Điền nghẹn ngào: - Cô ấ y độ c ác quá… đem cả thằng Bèo đi… Nỡ nào cạn tình với anh đến thế? “Người ta cạn từ lâu rồi, giờ anh mới nhìn ra” , tôi hờn dỗi nghĩ. Khác với lần chị Phấn lấy chồng Đài Loan, lần này trong nỗi đau của anh Điền còn có thêm thằng Bèo nữa. Anh nhớ nó quay quắt, đến khổ sở, đến ứa nước mắt khi nghe ai nhắc đến nó. Thì ra nó đã là tim, là máu thịt của anh mất rồi. Bây giờ thì tôi đã đủ để hiểu: yêu chị Phấn bao nhiêu thì anh Điền yêu thằng Bèo bấy nhiêu. Nó từ chị Phấn tách ra mà! Trong mắt anh, chị Phấn luôn đẹp tuyệt vời nên thằng Bèo cũng tuyệt vời đẹp, dù nó xấu xí, ghẻ lở “thấy ớn” như thằng Son nhận xét. * Thêm ba năm từ khi chị Phấn bỏ đi lấy chồng lần thứ hai. Không hề có một tin tức gì của chị đưa về, có lẽ mẹ con chị đã yên phận ở Hàn quốc rồi. Ba năm cũng đã phần nào hàn gắn lại trái tim tan nát của anh Điền nhưng nó càng chai lì, đóng kín hơn. Vì thế Út Ngán hàng xóm vẫn cứ mãi ôm mối tình đơn phương bế tắc. Tôi buộc phải chấp nhận sự thật đó, dù không dễ dàng gì. Sau nhiều ngày tháng buồn tủi vì thất vọng, tôi cũng dần bình tĩnh lại, thấy lòng yên ả hơn, thôi dậy sóng, buồn mà không còn đau, thương mà không còn nhớ. Chị Phấn và thằng Bèo ngủ yên dần trong trí nhớ của tôi. Cho đến một ngày, tôi có việc lên thành phố. Buổi trưa, tôi ghé vào một quán cơm bình dân. Quán nhỏ chỉ có vài cái bàn thấp, khách lưa thưa, nhìn mộc mạc tuềnh toàng nhưng sạch sẽ. Thật bất ngờ, chủ quán lại là chị Phấn. Thấy tôi, chị sửng sốt kêu lên: - Út Ngán, em đấ y à? Tôi ngỡ ngàng không kém: - Ủ a, sao ch ị ở đ ây? Chị từ Hàn quốc về khi nào? Nhìn chị Phấn gầy nhom và già đi ngoài tưởng tượng, tôi không khỏi ngậm ngùi. Không cần hỏi, tôi cũng hình dung ra được cuộc hôn nhân thứ hai của chị cũng bất hạnh chẳng kém cuộc hôn nhân đầu. Hôm đó, tôi đã ở lại một đêm với mẹ con chị. Thằng Bèo năm nay học lớp Lá,* lanh lợi bảnh bao, da dẻ trơn láng khác hẳn ngày thơ bé. Hai chị em thức trắng rì rầm tâm sự. Thì ra mọi chuyện không như mọi người vẫn nghĩ. Chị Phấn có lấy chồng Hàn quốc bao giờ đâu. Chị không lấy ai cả. Mấy năm nay lên thành phố, chị bươn chải nhiều nghề nuôi con: làm công nhân, giữ trẻ rồi mướn mặt bằng mở quán cơm. Tôi kể chuyện anh Điền cho chị nghe, trách chị vô tình đến tàn nhẫn. Chị bật khóc: - Ch ị hi ể u lòng anh Đ i ề n l ắ m ch ứ , vì th ế mà ch ị quy ế t đị nh đ em th ằng Bèo đi. Nếu chị còn ở gần bên, anh ấy sẽ vì chị, vì thằng Bèo mà quên hạnh phúc riêng anh. Chị đâu xứng đáng với tấm chân tình ấy. Chị Phấn bảo rằng chị tin rồi anh Điền sẽ yêu tôi vì chị đâu ngu ngốc đến nỗi không đọc được tình cảm đơn phương của tôi. Muốn thế, chị phải rứt thằng Bèo - phiên bản của chị - ra khỏi anh. - Ngày tr ướ c c ũ ng vì nh ẹ d ạ c ả tin mà ch ị mắc sai lầm không thể sửa chữa được. Đã sai một lần, có đâu chị còn để lặp lại sai lầm lần nữa? Mấy năm nay, chị tưởng em và anh Điền đã… Tôi gượng cười mà nước mắt ứa ra. Phải, chị Phấn đã tưởng về chúng tôi cũng như chúng tôi đã tưởng về chị. Cuộc đời và tình yêu đâu đơn giản như thế, dễ dàng xuôi theo sắp đặt của con người? Dù chị cố tình làm cho mình xấu xa đi thì anh Điền cũng không vì thế mà thôi yêu chị, bởi chỉ có chị mới là chiếc chìa duy nhất mở được ổ khóa trái tim anh. Lúc từ giã, chị Phấn xiết tay tôi, tha thiết dặn: - Xin em gi ữ bí m ậ t giùm ch ị , đừng nói cho ai biết mẹ con chị ở đây. Chị tin sớm muộn gì cũng có ngày anh Điền hiểu lòng em, sẽ… Tôi buột miệng hỏi: - Ch ị Ph ấ n, ch ị còn yêu anh Đ i ề n không? Thay cho câu trả lời chỉ là những giọt nước mắt lăn dài. Lời yêu cầu của chị Phấn cứ ám ảnh tôi suốt đường về. Liệu tôi có nên giữ bí mật tin tức của chị? Để vùi chôn chị vĩnh viễn vào mớ tro tàn quá khứ trong sâu thẳm trái tim anh Điền? Để tôi còn le lói hy vọng một ngày nào đó sẽ được anh yêu? Ngày đó là ngày nào? Đã bao nhiêu ngày trôi qua rồi và còn bao nhiêu ngày trôi qua nữa? Năm năm, mười năm hay mãi mãi? Nghĩ đến tấm chân tình của hai người, tôi bồi hồi xúc động. Chị Phấn thật sự muốn tác thành cho tôi còn anh Điền luôn tử tế với tôi. Hai người thương tôi như thương một đứa em ruột thịt, nhỏ bé… Tôi có quyền im lặng không? Tôi có quyền chứ, vì chính chị Phấn đã khẩn khoản đề nghị mà! Nhưng như thế, tôi sẽ càng nhận rõ hơn tại sao mà tôi mãi mãi nhỏ bé! GIÁNG NGỌC (G.Đ) * Lớp LÁ: lớp dành cho trẻ 5 tuổi, lớp cuối của bậc mầm non.
Phụ Bản IV NỮ TIẾN SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM LÀ AI ? TRẦN HỒNG Dưới thời phong kiến ở nước ta, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã không cho giới nữ được bình đẳng với nam giới, kể cả việc học hành, thi cử. Vậy mà có một người con gái tài sắc, đức độ, trí tuệ trác việt đã vượt qua luật lệ khắt khe đó, đạt tới học vị tiến sĩ. Đó là Nguyễn Thị Duệ (Theo tài liệu của Văn miếu Mao Điền - Hải Dương) ở làng Kiệt Đoài, xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương) núi non trùng điệp, soi bóng xuống lòng Lục Đầu Giang. Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh đô Thăng Long, nhà Mạc rút chạy lên Cao Bằng. Nguyễn Thị Duệ theo gia đình cũng chạy lên Cao Bằng sinh sống. Tại đây, nhà Mạc mở khoa thi kén người tài, sĩ tử rất đông. Là một người hiếu học, song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành, thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để đi thi. Cô mang tên Nguyễn Du ở khoa thi năm Giáp Ngọ (1594), khi ấy vừa tròn 20 tuổi. Khi công bố người đỗ đại khoa (tiến sĩ), Nguyễn Du đỗ đầu. Triều đình mở yến tiệc gặp gỡ các vị tân khoa. Vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ tuổi này rất khác lạ: dáng mảnh mai, thanh tú, mắt sáng như màu ngọc, môi đỏ như son, miệng rất duyên dáng, những ngón tay búp măng thon dài trắng muốt, toát lên một vẻ đẹp kiêu sa, kiều diễm. Vua Mạc liền xét hỏi và sự thật được làm rõ. Nguyễn Thị Duệ không bị khép tội mà còn được khen ngợi. Vua Mạc Kính Cung đã xót xa, ân hận về cái luật phi lý này và rất nể phục sự dũng cảm “vượt rào” của người con gái đã dám chứng minh “không hề thua kém giới mày râu?”. Vậy là Nguyễn Thị Duệ đã trở thành vị tiến sĩ đầu tiên của nước ta vào cuối thế kỷ XVI (1594), Vua Mạc mời tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ vào cung để dạy các phi tần và sau lấy làm vợ, đặt tên cho nàng là “Bà Chúa Sao”. Nàng còn tên nữa là Ngọc Toàn, hiệu Diệu Huyền. Tên vua ban là Tinh Phi (Sao Sa). Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc, bà Duệ bị bắt. Quân lính dẫn bà về kính tiến Chúa. Vua Lê - Chúa Trịnh đã mời bà coi việc dạy học trong vương phủ, ở đây bà giúp vua và các quan giám khảo chấm thi trong các kỳ thi tuyển chọn người tài. Từ trong cung vàng điện ngọc, bà luôn nghĩ đến người dân và đặc biệt dành cho quê nhà. Bà tự tay ra đề bài cho các quan và sĩ tử hàng huyện học tập. Bài làm xong được các quan tư văn niêm phong đưa về cung cho bà chấm. Phải chăng đây là kiểu học từ xa đầu tiên trên thế giới. Một lần dự cuộc vui trong hoàng cung, bà Duệ được làm quen với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông). Từ đấy, hai bà trở thành đôi bạn tri kỷ. Hàng tháng bà cùng hoàng hậu đi lễ chùa để gặp các nhà tu hành cũng là những người học nhiều, biết rộng; gặp gỡ các sĩ phu Bắc Hà - những nhà chân nho thực tài như Thám hoa Giang Văn Minh, Thám hoa Khương Thế Hiền… nên biết được tình hình trong nước và những bất bình trong dân, giúp vua - chúa kịp thời điều chỉnh chính sách cho dân bớt khổ. Bà được phong chức “Chiêu Nghi” hiệu là “Nghi Ái Quan”. Bà Nguyễn Thị Duệ để lại cho đời nhiều văn thơ, nhưng đến nay chỉ còn một số trong gia ký: Nữ nhi dù đặng có lề Ắt là tay thiếp kém gì trạng nguyên. Tháp mộ bà trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương). Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ, trong đó có những câu: Lạ thay nhất kính chiếu ba vương Kiệt đặc tinh phi vốn cố hương Đẹp tuyệt trần gian thêm sắc sảo… Đình làng Kiệt Đoài có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị Duệ) và một sắc phong thờ phụng: “chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân…”. Năm 2004, có 8 vị đại khoa của Hải Dương là hiền tài của đất nước được đúc tượng đồng và khám thờ, trong đó có nữ tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ. Bà được thờ cùng Khổng Tử tại hậu cung Văn miếu Mao Điền (Hải Dương) cách Hà Nội 42km. ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.
Tượng Nữ Tiến sĩ đầu tiên Nguyễn Thị Duệ tại Hải Dương câu chuyện của một đứa trẻ THẰNG NHÓC Histoire d'un Enfant của Alphonse Daudet VẦN THƠ LỢI HẠI Đó là ngày lễ của thánh Saint Esprit. Ông Hiệu Trưởng mặc bộ y phục veston màu đen, có bông hoa bạc cài gắn trên ngực. Sau ông, là bộ tham mưu giáo sư bận áo pháp quan lễ phục. Những nhà khoa học thì đeo phù hiệu màu cam. Những nhà nhân chủng học thì đeo phù hiệu màu trắng. Các giáo sư cấp hai thì được mang găng tay, và đội nón kiểu cách. Ông Viot lại có vẻ không mấy hài lòng. Trong nhà thờ thì có rất nhiều học sinh. Thằng Nhóc cứ nhìn với cặp mắt thèm thuồng, cái áo pháp quan oai vệ, và cái bông hoa bạc danh dự Khi nào mà nó sẽ trở thành giáo sư như người ta. Khi nào mà nó sẽ khôi phục lại gia đình. Than ôi, trước khi đạt được những yêu cầu đó, thì còn biết bao nhiêu là thời gian, và trở lực nữa. Thằng Nhóc cảm thấy buồn bã trong lòng. Tiếng đàn vang lên làm cho nó muốn khóc Thình lình, trong một góc giáo đường, Thằng Nhóc bắt gặp một gương mặt nhân hậu đang nhìn nó mà mỉm cười. Nụ cười đó làm phấn khởi Thằng Nhóc. Đó là vị linh mục Germane, người rất can cường và vui tánh mà nó vừa mới kết thân Hai ngày sau buổi lễ thánh Saint Esprit, thì diễn ra một cuộc lễ long trọng khác. Đó là lễ mừng ông Hiệu trưởng. Cái ngày đó, cái ngày mà từ xa xưa lắm, nhân ngày thánh lễ Saint Théophile, cả trường Cao Đẳng người ta mở Hội để ăn mừng ông Hiệu Trưởng, với sự cung cấp dồi dào thịt nguội, và các món ăn bồi dưỡng khác với rượu nho ngon Limouk. Lần này, cũng theo thói thường như những lần khác, ông Hiệu Trưởng không câu nệ điều gì cả, cốt sao lấy được khí thế cho buổi tiệc nhỏ gia đình, với tấm lòng quảng đại của ông. Mới rạng đông, người ta đã dồn tất cả - học sinh và thầy giáo - lên những xe tải, có treo cờ thành phố, và đoàn xe phóng nước đại, kéo theo sau là những toa móc hậu chở đầy rượu thịt, và thức ăn ngon lành. Xe hàng đầu thì chở các bậc trưởng thượng và giàn nhạc. Người ta ra lệnh cho âm nhạc trổi lên thật to. Những ngọn roi nẹt chan chát, những lục lạc vang rền, những chồng dĩa lắc lư, khua động với nồi niêu. Tất cả phố Sarlande, trong áo ngủ, đều ra cửa sổ để xem cuộc lễ của ông Hiệu trưởng diễu hành. Công viên Prairie là dịa điểm được chọn lựa cho buổi tiệc. Đến nơi, người ta vội trải khăn bàn xuống bãi cỏ và bày tiệc ra… Đám trẻ con thì cười đùa bên cạnh các ông giáo sư, họ đang ngồi bẹp trên cỏ xanh như mọi người. Những dĩa thức ăn được chuyền tay nhau. Những nút rượu nổ dòn. Những cặp mắt sáng ngời. Người ta nói chuyện huyên thuyên. Chỉ duy nhất, ở giữa cái đám ồn ào chung, thì Thằng Nhóc có vẻ rất bận rộn. Bỗng nhiên, người ta thấy nó sượng sùng đỏ mặt. Ông Hiệu Trưởng cũng vừa đứng lên, tay cầm một tờ giấy: - Xin thưa với quý vị, người ta vừa mới trao cho tôi mấy vần thơ, của một thi sĩ vô danh viết tặng tôi. Mặc dầu bài thơ có tánh cách chúc mừng riêng tư, tôi cũng xin mạn phép đọc lên, để mọi người cùng nghe. - Vâng. Đọc đi. Đọc đi. Với một âm điệu khả ái, ông Hiệu Trưởng bắt đầu đọc. Đó là những vần thơ khen tặng khéo léo về ông Hiệu Trưởng và mọi quan khách. Mỗi người một bông hoa. Người ta vỗ tay khá lâu. Vài người hỏi tên tác giả. Thằng Nhóc đứng lên, mặt mày đỏ như bông lựu, và nó nghiêng mình chào khiêm tốn. Một sự hoan hô đặc biệt lại trổi lên. Thằng Nhóc trở thành anh hùng trong buổi tiệc. Ông Hiệu Trưởng ôm nó vào lòng. Những ông giáo sư già đến bắt tay nó một cách trìu mến. Ông thầy giáo cấp hai thì xin những vần thơ của nó để đăng lên báo… Thằng Nhóc rất lấy làm hài lòng. Tất cả cái hương vị nầy xông lên cân não của nó cùng với men rượu, và khi nó đang ngà ngà say, thì bỗng chợt nghe ông linh mục Germane thì thầm: “Vô ý thức!”, và xâu chìa khóa của đối thủ đang đay nghiến dữ dội. Sự tán dương nồng nhiệt vừa hạ xuống, thì ông Hiệu Trưởng vỗ tay xin im lặng: - Bây giờ là đến phiên ông Viot. Sau vần thơ vui, thì đến vần thơ nghiêm túc. Ông Viot đứng lên một cách oai vệ, lấy trong túi ra một quyển sổ tay, và bắt đầu đọc, vừa liếc nhìn về phía Thằng Nhóc. Tác phẩm của ông Viot là một thể thơ cổ điển nói về nội quy nhà trường. Học sinh Ménalque và học sinh Dorilas đối đáp với nhau qua những vần thơ xen kẽ. Học sinh Ménalque theo học một trường rất có quy củ nề nếp. Học sinh Dorilas thì học ở một trường khác mà kỷ luật lỏng lẻo. Học sinh Ménalque thì phấn đấu với kỷ luật nghiêm khắc. Học sinh Dorilas thì vui chơi vô bổ của sự tự do hỗn loạn. Sau cùng, học sinh Dorilas phải thua cuộc, nên phải nhường phần thưởng thắng trận vào tay bạn Ménalque, và hai đứa nhỏ đồng hát để ca ngợi nội quy nhà trường Bài thơ đọc xong. Một sự yên lặng hãi hùng. Trong lúc đọc thơ, mấy đứa học sinh vội vã mang dĩa thức ăn ra ngoài góc sân, ăn cho yên ổn, để cách xa với học sinh Ménalque và học sinh Dorilas. Ông Viot nhìn chúng nó với nụ cười đắng cay. Các ông giáo sư thì ngồi nghe thoải mái, nhưng mà không ai có can đảm để vỗ tay. Thật là một sự thất bại. Ông Viot bất hạnh thì thôi. Ông Hiệu Trưởng cố gắng an ủi: - Thưa quý vị, đề tài thì đơn sơ, nhưng mà lời thơ thì trau chuốt. Thằng Nhóc cũng cuống quýt nói theo: - Tôi thấy những vần thơ thật là đẹp. Bây giờ, nó mới thấy lo ngại cho sự chiến thắng của nó. Ngụy biện thật là vô ích. Ông Viot không muốn được an ủi. Ông ta nghiêng mình chào mọi người, mà không nói năng gì, chỉ nở một nụ cười chua chát. Ông ta giữ thái độ đó suốt ngày, và đến chiều tối, vào giờ cầu kinh, giữa đám học trò, Thằng Nhóc vẫn còn nghe bên nó, tiếng khua của xâu chìa khóa đối thủ: “Cà-reng! Cà-reng! Cà-reng! Này gã thi sĩ kia, chúng ta sẽ trả đũa cho ngươi đấy”. (Còn tiếp) Thanh Châu dịch thuật Khi tôi là nhà văn Khi tôi là nhà văn, ngẫm ra có quá nhiều chuyện để nói. Đầu tiên đó là một loại hình công việc không quá phổ biến, chính vì vậy mà không phải ai cũng hiểu rõ về mặt bản chất. Từ các góc độ cảm thức liên quan mà khi soi vào mặt bằng cuộc sống chung thì lộ ra khá nhiều bất cập, cũng từ đó mà vô hình chung lập thành một hệ quy chiếu riêng. Khi tôi là nhà văn, tôi luôn nhìn các vấn đề cuộc sống qua con mắt thứ ba. Con mắt của cân nhắc đong đo đào bới phân tích định lượng… là những yếu tố dẫn đến sự thẩm thấu giá trị thực của vấn đề. “Giá trị thực” với đa số cảm quan người đời là vật chất, là những hình khối từ những hiện thực hóa của khả năng của tham vọng của những đòi hỏi, nhưng trong góc nhìn riêng của nhà văn thì giá trị thực là tính nhân bản, những cái đẹp thực chất có trọng tâm trí nhân của đời sống, những điều có thể khó nhận diện những luôn tồn tại và tiềm ẩn trong mọi ngóc ngách cuộc đời. Người ta thường ảnh hưởng bệnh nghề nghiệp, và tôi cũng không ngoại lệ, hàng ngày làm việc với những con chữ, nên sử dụng và lập luận ngôn từ cùng cách lý giải thể hiện đương nhiên là khá khác với nhiều người. Không chủ ý lên gân hay cố chứng tỏ, thì trong tự nhiên của tư duy và phát ngôn cũng thường hàm chứa những ý nghĩa mà tôi luôn trăn trở, với nhiều và rất nhiều người chung quanh tôi, họ có chung một ý nghĩ, tôi dạy đời. Chà, cái lẽ tất yếu của con người ta luôn không muốn mình bị thua kém bất kỳ ai về bất kỳ mặt nào đó, dù rất nhỏ rất mơ hồ, họ vẫn luôn ám thị bản thân rằng phải hơn, hơn tất cả, hơn mọi thứ, có điều tạo hóa thường phân chia những khả năng khác biệt, vì vậy khi họ cảm giác họ kém chút ít về một tối thiểu nào đó, lập tức giương ngạnh mà tự vệ mà đối phó, và cách thường làm nhất là quy kết cho đối phương một cái nhìn một cách nghĩ một phát ngôn nào đó khó nghe nhất, mang tính tiêu cực nhất. Và cũng vì vậy mà khi biết tôi là nhà văn, hầu hết bạn bè tiếp xúc đều có thái độ e dè né tránh và cả phòng bị. Nhà văn thường nhiều chuyện, họ e rằng con mắt hay soi mói đào bới ngóc ngách đời sống họ và biến thành cái loa tung hê những điều họ muốn giấu giếm ra cả thiên hạ. Mà ai lại chẳng có điểm yếu, chẳng có những điều đáng chê trách, những hỏng hóc trong đời sống cá nhân lẫn gia đình luôn là một nhược điểm mà họ luôn tìm cách che đậy, thế nhưng các nhà văn lại xem đó như mảnh đất sống tha hồ cày bừa khai thác, chưa kể là đơm đặt thêu dệt thêm cho ly kỳ gay cấn. Cho dù là khi xem phim hay đọc sách, ai cũng thích các tình tiết phải phong phú phải thể hiện được đa chiều nhất các góc độ đời sống, phải phơi bày được nhiều nhất những góc khuất của tất cả con người trên thế giới, trừ họ. Mặc dù chính xác thì tất tật những cam go thử thách chìm nổi tình tiền thù hận khốc liệt ấy đều từ những mảnh ghép lớn nhỏ của mỗi con người trong thế giới đầy hỉ nộ ái ố này. Nhưng hãy cứ xem như đó là nói về ai ai đó chứ không thể là mình dù một mảy may. Vì thế thấy đối phương có cái phong vị đầy nguy cơ thì tốt nhất tránh ngay cho nó lành. Khi tôi là nhà văn, điều tôi xem trọng nhất là tác phẩm. Đầu tiên là tác phẩm tôi có gói ghém gửi gắm được thông điệp tích cực hữu ích gì cho cuộc đời. Chuyện hay dở để chán vạn độc giả cảm nhận, không quá bận tâm với những luồng dư luận liên quan nếu bản thân tác giả đã có một chủ ý nhất định và lối hành văn phù hợp. Bởi không thể thỏa ý được với tất cả mọi chiều hướng cảm quan, thuận và nghịch luôn là hai kẻ song hành không chạm mặt trong đời sống, trong văn chương lại luôn có hai vế rành mạch: chính - tà. Và đương nhiên, người viết văn đều hướng đến một mục tiêu: nhân thiện, cho dù các tuyến nhân vật diễn trình câu chuyện có dích dắc đen trắng, thì kết cuộc vẫn phải đưa ra được một ý chính có sức thuyết phục về mặt nhân bản. Một tác phẩm nếu có hội đủ được các yếu tố cần thiết cả về nội dung và nghệ thuật thì rõ ràng nó không thể đơn giản mà hình thành được trong một khoảng thời gian ngắn hoặc rất ngắn. Có những câu chuyện có thể chỉ cần viết trong vài giờ, nhưng từ khi khởi niệm đề tài cho đến lúc thành phẩm thì không thể định lượng thời gian cụ thể. Người đọc có thể đưa ngay ra nhận xét dựa trên các chi tiết nội dung đã được kết cấu hình thành. Nhưng người viết có thể ví như một nhà nông bắt đầu từ cày bừa cấy hái đến chế biến gia giảm, mới có thể dọn lên bàn một món ăn, chưa nói đến chuyện khẩu vị, và người ăn thì chỉ có mỗi việc bưng lên. Vì vậy, hầu hết những hậu ý hảo ý ác ý thiên thiên ý đối với tác phẩm chỉ mang tính thỉnh dự, về mặt cơ bản không thay đổi được gì. Vì vậy, việc chú trọng tác phẩm phải được bắt đầu ngay từ khi chọn đề tài, diễn dẫn, điều tiết và kết cấu cho đến dấu chấm cuối cùng là cả một chặng trình. Một điều tất yếu là luôn có những giới hạn về tri thức về cảm thụ về khả năng diễn đạt về độ thẩm thấu suy nghiệm cuộc sống, nên bất kỳ tác phẩm nào, cho dù với một nhà văn có bề dày khả dĩ nhất, thì cũng đều có đôi ba khuyết thiếu. Thế nên việc luôn phải tìm ra những chỗ lệch của mình để kê cho bằng là một kỹ năng song hành cùng nghiệp viết vậy. Quỹ thời gian, tâm lực và và sự nhiệt thành thì phần lớn tạo hóa ban đều cho mọi người, khác nhau là lĩnh vực. Khả năng tự nhiên, sự đam mê yêu thích của mỗi người thuộc về lĩnh vực nào đó thì khuynh hướng bản năng cũng thuận hợp và có một phần thích nghi rõ rệt, việc còn lại là đi sâu, tiệm cận và phát triển. Biệt trù của nhà văn, phần nào đó mang công năng của những cây thước, thước đo thước kẻ thước ba ke thước xếp…, thước nào thì cũng có một định khuôn. Nhà văn có trách nhiệm phải cân đong ni tấc những hay dở đúng sai của cuộc sống, ghi chép và trình bày những góc nhìn những bố cục những kết cuộc của những hành vi con người, giúp cộng đồng thẩm nghiệm sát hơn mỗi hệ lụy hệ quả của bản thân, và sự hướng thiện nhiều khi nhờ đó mà lan tỏa. Chưa thể đầy đủ cho sự mô tả công việc của một nhà văn, nhưng qua đôi nét cũng có thể hình dung thời gian và công sức của một nhà văn được sử dụng như thế nào. Nên không khó hiểu vì sao phần lớn nhà văn không có thế mạnh về kinh tế. Không những thiếu hụt khả năng làm ra tiền mà còn khá khó khăn trong sự suy tính làm cách nào để thò tay vào túi thiên hạ. Kể cả là chính đáng hoặc vô cùng chính đáng thì nhà văn vẫn cứ ngại ngùng khi nói đến một câu chuyện lợi lộc nào đó. Và trong bình diện chung của cuộc sống, cho dù với bất kỳ thời đại nào, thì cư dân vẫn chia đủ các thành phần, và thành phần có tiềm năng kinh tế mạnh bao nhiêu thì chiếm ưu thế nhiều bấy nhiêu, và cũng chi phối được nhiều thang bậc trong xã hội nhất. À, thế thì nhận ra rồi nhỉ. Là vì khi chưa biết đó là nhà văn, và càng chưa biết hơn cốt lõi những vấn đề của nhà văn, thì nhà văn đích thị là “nhà nghèo”. Nhà nghèo thì sao nhỉ? Đâu có gì lạ, nghĩa là phải chịu khá nhiều thua thiệt trong đời sống, nghĩa là ai đó giàu có thì ngại đến gần vì chắc chắn người ta sợ mình vay mượn nhờ vả (không quá đâu, đã rất nhiều minh chứng). Cũng như hầu hết nhà nghèo khác, thì nhà văn nhà nghèo cũng đầy lòng tự trọng, tự ái và rất nhạy cảm, nhưng do quán tính hay ngẫm ngợi, đọc được kha khá ý nghĩ của các thành phần, nên nhà văn tự tiêu được nhiều chướng ngại hơn, và cũng tự khống chế kiểm soát được mình phần lớn để không bị rơi vào những phản ứng cực đoan. Chắc chắn đang có kha khá những cử chỉ nho nhỏ để biểu thị một hàm ý, đại khái như: chả có gì to tát cả… ôi xời chuyện vớ vẩn… ca cẩm nỗi gì, ai bảo… Đại loại là thế, nhưng mà cơ khổ chả phải ca cẩm cũng chả phải nỉ non chi chi cũng chả phải ai bảo được cả… là tạo hóa bảo thế mà, đã là tạo hóa bảo thì cãi cố cũng chả được, đơn giản linh tinh chút những điều có thể đã nhiều người biết nhưng cũng rất rất nhiều người chưa biết, gọi là nhận diện đôi nét về cái nghiệp của mình vậy thôi. Nhưng mà này, hạnh nào thì phúc nấy nhá, không có bất cứ một công việc một hoàn cảnh sống nào chỉ riệt một phía sướng hoặc khổ vui hoặc buồn cả, luôn luôn có sự đan xen đánh đổi, một cuộc đời luôn luôn được hình thành trên mọi cung bậc trạng thái, và mỗi người đều thẩm nghiệm được cái giá trị cuộc sống của bản thân mình qua những trầm thăng mất được ấy. Nhà văn cũng vậy, nhưng có chút lợi thế hơn do thước đo giá trị cuộc sống của nhà văn có nhiều trường đoạn hơn đa số. Nên có những giá trị mà đối với đa số chẳng có giá trị gì thì với nhà văn ít nhiều gì đó cũng là một đáng kể. Phần nữa, nhà văn có kỹ năng nhìn nhận khá nhiều góc độ cuộc sống với sự đa sắc đa chiều đa kích nên luôn có thể nhặt nhạnh được vô số điều nho nhỏ mà góp nên thành một giá trị tổng thể. Chính vì thế mà những được của nhà văn không nhiều người nhìn thấy, và nhà văn hài lòng với những được nhờ sự chắt lọc từ nghiệp duyên của mình. Nhưng trong một số góc nhìn thì nhà văn là những người hão viển vông dở hơi khùng… Ai dà dà… lại đành chắt lưỡi… kệ thôi… mần răng chừ… Nhưng có thế thì cuộc sống này mới có thể cân bằng và còn có phần bù lấp được đâu đó, chứ nếu ai cũng khôn và rất khôn thì chắc cuộc đời đã không thể tồn tại được đâu nhỉ. Chỉ có điều, khôn và dại rất nhiều khi lại chẳng phân định được rạch ròi, tưởng là thế, thế mà không phải thế… Có một điều rất rõ, không phải tất cả, nhưng đa số nhà văn có phong thái và tâm thế sống khá cân bằng, độ tĩnh là điều được tôn đúc theo dần năm tháng ngẫm nghiệm. Chí ít thì nhà văn cũng tránh được một số hệ lụy hậu quả đáng tiếc, bởi những nông sâu chuyện đời qua lăng kính nhà văn đều có phần đo đắn, ở một góc độ khác, nhà văn cũng tự giải mã phá khóa được một số vấn đề của bản thân, vì vậy mà tránh được những cảm quan vội vã như hối tiếc oán trách và quy chụp cho một căn nguyên bất hợp lý nào đó. Suy cho cùng, mọi sự tính toán của tạo hóa đã rất logich hợp lý nên đã lập trình cho mỗi con người bằng những chi tiết cần thiết đến chi li, để con đường của mỗi người không thể lập lại đồng nhất bất kỳ. Nên dù có hay dở được mất thế nào thì mỗi người cũng đều phải gánh cái trách nhiệm mà tạo hóa đã giao đến trọn đời. Nhà văn và các thế hệ nhà văn tiếp nối đã luôn tạo thành một biên niên sử của loài người cũng như vạn vật đã từng sinh tồn trong cõi huyền nhiên này. Vì vậy mà sự mong đợi lớn nhất của bản thân khi tôi là nhà văn là ít nhiều gì đấy cũng góp được chút góc nhìn đúng đắn vào cuộc sống, là một vài suy kiến mang tính tham khảo, là một nhỏ nhoi nào đấy giúp ai đó bước qua cái hố tức thời của họ bằng bước chân vững chãi hơn. Đơn giản cũng chỉ là một công việc mà mình có thể làm với tất cả sự yêu thích và nhiệt huyết nhất, còn lại thì… thôi lại dành cho ba dấu chấm lửng đi nhỉ… ĐÀM LAN hạnh phúc Thầy ốm! Cả lớp xôn xao. Những ánh mắt nhìn nhau rất vội. Nhiều cánh môi chu lại, thì thầm. Ngoài hai nhỏ lớp trưởng và phó, còn lại, tất cả đều vui mừng. Vậy là thoát! Tiết kiểm tra Địa đình chỉ bất ngờ. Đứa nào cũng mừng quýnh. Bao nhiêu đất nước trên thế giới nầy và những con số chết tiệt về nó. Rồi những con sông, ngọn núi, con người với bao đặc điểm… thầy Địa cứ “nhét” hết vào đầu chúng tôi. Mỗi lần sắp có giờ Địa chúng tôi phờ phạc vì phải học ra rả như cuốc kêu mùa hè. Nhớ được dăm điều, xong kiểm tra, quên tuốt. Chúng tôi trả lại gần hết cho thầy. Mãi đến lúc thi học kỳ, thầy phải quay chúng tôi như quay dế, mổ banh những bộ óc chật hẹp, nghèo nàn ra, nhồi đầy kiến thức trọng tâm. Hôm nay lại có kiểm tra. Bảo đảm chẳng mấy đứa thuộc bài. Hay tin thầy xổ mũi, nhức đầu, đứa nào đứa nấy hí hửng mà cố nén. Nhỏ Thương lớp trưởng vẻ mặt căng thẳng: - Thầy bệnh, coi bộ các bạn vui hơn buồn. Hồng Lém chớp mắt: - Hổng dám đâu! Tụi nầy đau khổ gần chết đây! Thương bỉu môi: - Đau khổ mà mặt tươi như hoa mùa xuân vậy hả? Như bay bổng tận chín tầng mây, Hồng Lém nghiêng đầu làm dáng: - Mặt của mình có cỡ vậy sao! Chúa ơi, con vô cùng biết ơn người. - Lãng xẹt! Hùng bực bội gắt: - Bà đẹp lắm, có thể làm giáo cụ dạy môn Sinh. Cả lớp cười vang. Ai mà chẳng nhớ chuyện ngày xưa của Hồng Lém. Trong lúc giảng bài, thầy tìm trong cặp chẳng có giáo cụ, chắc ông để quên ở nhà. Thầy đi đi lại lại trên bục giảng. Một tay gát lên mông, bàn tay còn lại sờ cằm tìm… râu. Bỗng mắt thầy sáng lên khi nhìn xuống bàn tôi. Ông gọi Hồng. Chúng tôi ngạc nhiên chẳng hiểu chuyện gì thì thầy chỉ cái bục rồi bảo: - Em hãy đứng đó! Xoay sang chúng tôi, thầy nghiêm trang: - Các em, con người là một sinh vật tuyệt vời của tạo hóa. Nếu không kể dáng dấp bên ngoài thì còn có cả một kho tàng bí ẩn nép mình bên trong cơ thể. Ngừng lại, thầy dùng thước chỉ về phía hông của Hồng: - Dưới bộ sườn nầy, em nào biết có những gì? Tôi đưa cao tay, thầy gọi: - Thưa thầy, đó là “bộ đồ lòng”. Cả lớp cười ầm ĩ, thầy cũng cười: - Được, nhưng nên nói rõ hơn về từng bộ phận! - Thưa thầy, núp sau bộ sườn của bạn là tim, gan phèo phổi ạ! Cả lớp lại cười. Thấy không xong, thầy ra hiệu: - Em ngồi xuống! Các em nên dùng thuật ngữ Sinh học cho quen. Bây giờ, ai có thể cho biết hệ tuần hoàn giữ chức năng gì trong cơ thể? Chắc thầy trông thấy Tài đang nhìn ra khoảng trời xanh ngoài khung cửa sổ, ông gọi lớn: - Tài! Giật nẩy mình, Tài đứng bật dậy, ấp úng: - Dạ, chi ạ? Có tiếng cười khúc khích, thầy lặp lại câu hỏi: - Hệ tuần hoàn giữ chức năng gì? Tài gãi đầu: - Nhưng… hệ tuần hoàn là cái gì, thưa thầy? Thầy Chinh cố nén cho đừng mất bình tĩnh, ông đỏ mặt, ghìm giọng nói không quá chát chúa: - Là tờ kiểm điểm! Ngày mai, em phải nộp tờ kiểm điểm cho tôi và phải học thuộc tất cả những gì về hệ tuần hoàn. Hồng đứng co rúm người trước cơn giận dữ của thầy. Hồi lâu, nó lễ phép thưa: - Thưa thầy, còn em… thì sao? Thầy Chinh trở lại chỗ ngồi, ông phất tay: - Về chỗ! Thật là thất vọng! Từ đó, ngoài cái tên Hồng Lém, chúng tôi còn gọi nó là Hồng Thất Vọng, dù biết trạng thái tinh thần kia không phải do Hồng gây ra. Hôm nay, nghe Hùng gợi lại, tôi chợt nhớ, bảo Hồng: - Nhìn mày là tao đã thấy thất vọng rồi! Vừa lúc đó, thầy giám thị vào lớp, ông nghiêm khắc ra lệnh: - Trong lúc chờ đợi học tiết kế các em phải im lặng cho lớp khác học. Ai muốn giỡn, xuống căn tin hoặc về nhà! Dĩ nhiên chúng tôi chọn căn tin. Giờ học, căn tin vắng khách. Mấy chị “quản lý ăn uống” đang ngồi tán gẫu. Thấy bọn tôi, mấy chị tươi ngay nét mặt. Loáng cái, ba chiếc bàn chật ních người ngồi. Con gái chiếm hai bàn đặt trong góc cho tiện việc ăn uống. Chị Hạnh đến bên vui vẻ hỏi: - Các em dùng chi? Tôi hỏi: - Có cocacola không chị? Chị Hạnh mừng rơn: “Có” Nga chớp mắt làm dáng: - Có cà phê sữa đá không chị? Chị vui vẻ bảo có. Hoàng ra vẻ e lệ: - Có So-da hột gà không chị? - Có. Tôi phát hoảng liền đặt vấn đề “trọng tâm”: - Ai trả tiền? Im lặng! Hồng Lém tuyên bố: - Vậy thì cho 20 ly đá bào! Mạnh ai nấy trả tiền. Cả bọn cười rộ. Chị Hạnh cũng cười dễ dãi, lắc lắc mái tóc dài mướt rượt. Chị đi ra sau quầy, chiếc máy bào nước đá xoay tít trong tay chị. Tiếng sẹt sẹt vang lên liên miên và từng ly đá bào xuất hiện trước mặt chúng tôi. Vừa nhấm nháp vị lành lạnh ngòn ngọt của đá bào tôi vừa quan sát . Ôi, đủ loại bánh. Từ bánh “quí tộc” đến bánh “bèo”. Từ đồ mặn đến đồ… chua. Không thiếu thứ gì trong cái căn tin này. Tôi nhìn mấy trái cóc ngâm đường với ánh mắt cảm tình: - Cóc ngon ghê! Hồng Lém liếc sang bọn con trai: - Hùng, Tài, Lợi, Lộc… cóc kìa! Nhóm Tứ Tiên làm tỉnh: - Kệ nó! Tôi bĩu môi: - Thật là keo kiết! Lợi cười cười: - Hổng dám hào phóng đâu! Nhỏ Hoàng Chua lên giọng chanh: - Làm trai chẳng đáng nên trai Cóc ngâm hỗng dám mua vài trái…ăn! Bài thơ có tác dụng ngay, Lộc gào lên: - Cho 20 trái cóc đi chị Hạnh! Tiếng vỗ tay hòa lẫn tiếng cười ròn tan như nhai cóc. Rồi thi nhau tán tỉnh: - Hào hoa ác ôn! - Vừa đẹp trai vừa… học yếu! - Vừa mo-den vừa… có tiền mua cóc! - Vừa hào phóng vừa… đau khổ! Cứ thế, đến khi những trái cóc chỉ còn trơ cái hột gai góc thì bọn con gái mới ngừng tán tỉnh. Đúng lúc đó, tiếng chuông đổi tiết vang lên, cả nhóm lại kéo nhau về lớp. Giờ học kết thúc. Cô Tiếng Anh vừa đi ra, Thương lớp trưởng chạy vội lên bục giảng: - Các bạn hãy nán lại ít phút cho mình trình bày một việc! Chờ cả lớp xếp tập bỏ vào cặp xong, tiếng ồn đã lắng xuống, Thương nói: - Thương nghe nói thầy dạy môn Địa bệnh nhiều lắm! Gia đình thầy lại ở xa, chắc hiện giờ không ai chăm sóc thầy. Thương đề nghị cả lớp đến thăm thầy! Có tiếng nhao nhao: - Đúng! Chiều đi thăm thầy. - Chủ nhật hẵng đi. Thương có vẻ buồn, cặp mắt mọng nước: - Đi ngay bây giờ được không các bạn? Im lặng, bỗng dưng tôi xốn xang nỗi gì rất lạ! Đúng rồi, sao không đến thăm thầy ngay mà phải chờ đến chủ nhật. Tôi buột miệng: - Thương, mình sẽ đi với bạn ngay bây giờ. Cả lớp hình như cũng hỗ thẹn như tôi, các bạn kêu lên: - Ừ đi, đi ngay đi! Nhà thầy đứng khép nép tận cùng trong khu chung cư. Rêu phủ dầy trên mái tôn thâm thấp. Tường vôi vàng xỉn có vài đường nứt ngoằn ngoèo. Dường như thời gian đã ghi lên đó nét tàn phá của tháng năm. Ngôi nhà cũ kỹ đứng ủ rũ giữa căn hộ đã được tân trang sáng sủa, trông nó như một người bệnh hoạn ho hem đứng cạnh những dáng dấp lực lưỡng, khỏe mạnh. Chỉ tay vào ngôi nhà trắng có cửa sổ xanh Thương giải thích: - Người ta phân cho thầy ngôi nhà đó nhưng thầy đã nhường cho thầy Tuấn và cô Lan. Tôi kêu lên: - Trời, uổng vậy! Thương chớp mắt: - Cô Lan bảo thầy tốt lắm. Thầy biết vợ chồng cô Lan đông con, cần phải ở chỗ tốt Thầy có một mình, nếu nó sập bất tử thì… - Thì chết cô đơn chứ gì! Câu pha trò của Lợi chẳng ai cười mà có vài bạn lau nước mắt. Hồng gõ nhẹ lên cánh cửa khép hờ, lát sau có tiếng dép lê. Cửa mở, thầy Địa hiện ra hốc hác, suy sụp khác thường, giọng run run vì cảm động. Thầy bảo: - Các em, các em vào nhà ngồi nghỉ! Bên trong căn nhà càng thảm hại hơn. Tối và chật hẹp hết sức. Chỉ có một cái giường cá nhân, bốn chiếc ghế vây quanh một cái bàn đã cũ. Cái tủ áo nhỏ đứng cạnh cái kệ sách to tướng. Ở đây, sách chiếm chỗ gần hết. Cái kệ không còn chỗ trống. Sách phải nằm tạm trên đầu tủ áo và chui xuống gầm giường. Ngôi nhà đã hẹp lại càng thêm hẹp. Bây giờ, có thêm chúng tôi chen vào mùi ẩm mốc hòa lẫn mùi mồ hôi của các bạn gây cảm giác nóng bức, khó thở. Thầy lúng túng bảo: - Nhà hẹp quá, thầy lại không có ghế cho các em ngồi. Thương lễ phép thưa: - Dạ không sao, tụi em đứng được. Để thầy khỏi ngại, một số bạn đi ra sân, ngồi xuống thềm. Thấy vậy, thầy cũng ra theo, ông ngồi xuống cạnh Tài. Lập tức chúng tôi tràn ra vây quanh thầy rồi đua nhau hỏi thăm: - Thầy khỏe chưa thầy? Thầy mỉm cười: - Đã đỡ rồi nhưng còn nặng ngực. Tài sốt sắng nói: - Cô hay tin thầy ốm chưa thầy? Thầy cho em địa chỉ, em đi gửi mail báo tin nha thầy? Bỗng dưng thầy tựa người vào Tài, ông đưa tay vuốt ngực, mặt tím tái, hơi thở nặng nhọc, chúng tôi hoảng hồn tưởng như nghẹn thở theo. Tài run giọng: - Thầy… Thầy có sao không thầy? Giây lâu, gương mặt thầy đã có sắc hồng. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Thương đứng dậy: - Để tụi em đưa thầy vào nhà nằm nghỉ nha thầy! Lắc đầu, thầy ôn tồn bảo: - Cảm ơn em, thầy đã khỏe rồi, không sao đâu, chỉ hơi xúc động. Thầy trầm giọng: - Thầy và cô đã thất lạc nhau. Năm năm rồi mỗi người mỗi nơi. Mỗi người theo con đường mình tự chọn để tìm kiếm hạnh phúc. Niềm vui và lẽ sống của thầy là mảnh đất thân thương hình chữ S nầy đây. Thầy sung sướng được đứng trên bục giảng, nói với các em về những điều kỳ diệu của trái đất. Từ ngọn núi cao chót vót đến biển cả mênh mông. Thầy hài lòng với đời sống hiện tại. Còn cô, mơ ước của cô là vùng đất xa xôi bên kia bờ đại dương. Ở đó, những ngôi nhà nhiều tầng cao vòi vọi. Phương tiện phục vụ đời sống hiện đại vô cùng. Vật chất xa hoa là hạnh phúc của vợ thầy. Vì thế, cô đã ra đi cùng với cha mẹ ruột. Thầy trầm ngâm giây lâu. Chúng tôi cũng lặng im trước nỗi niềm của người thầy đáng kính. Tôi tưởng như mình không dám thở vì sợ nhịp đập trái tim làm cơn đau của thầy thức giấc. Dù vậy, thầy vẫn khổ sở: - Rốt cuộc, thầy khám phá một điều: Vợ chồng thầy chưa thật sự yêu nhau. Người nào cũng ích kỷ, chỉ biết sống cho riêng mình. Không nén được, Thương chen vào: - Nhưng con đường thầy chọn đúng hơn! Em nhớ có người đã viết rằng “Quê hương nếu ta không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Tôi cũng lý sự: - Thầy mới là người tìm thấy hạnh phúc! Chẳng biết cô tìm thấy gì bên kia bờ đại dương? - Có lẽ cô rất hạnh phúc vì hiện giờ cô rất giàu và sắp có chồng khác. Chúng tôi ồ lên kinh ngạc. Tài chém tay vào không khí! “Tệ quá!” Tôi gầm lên: - Cô không xứng đáng với tình yêu của thầy. Thầy đừng yêu cô nữa! Không thèm nhớ. Phải trả thù! Cưới vợ khác đi thầy! Thầy phì cười khi thấy chúng tôi nhảy nhót, la hét rùm trời “Cưới vợ khác! Cưới vợ khác!...” Chờ cho cơn kích động qua đi, thầy ôn tồn bảo chúng tôi: - Các em à, đâu phải muốn quên là lòng mình không nhớ! Với thầy mọi thứ đâu dễ đổi thay. Biết ai xứng đáng hơn ai? Yêu mà phải trả thù là loại tình yêu thầy không quen biết! Thầy không làm vậy được đâu. Thương bất bình nói lớn: - Nếu vậy thói ích kỷ lại thắng lòng vị tha sao thầy? Chẳng lẽ cô lại được sung sướng hơn thầy? Thầy ngồi thẳng dậy, mắt chợt sáng niềm tin: - Không! Chưa hẳn là cô thắng thầy! Cô đã không quyến rũ được thầy đi theo khát vọng của cô. Còn thầy, thầy có tất cả những gì thầy muốn. Đó là quê hương và các em. Thầy có đất nước lẫn con người. Có các em, những đứa học trò lúc nào cũng yêu quý thầy, lắng nghe từng lời giảng của thầy. Và rồi các em sẽ trở thành rường cột của đất nước. Thầy hài lòng lắm! Mãn nguyện lắm! Như thế là hạnh phúc. Thầy rất hạnh phúc, các em biết không? Tôi cũng bỗng thấy hạnh phúc. Hạnh phúc được nhìn thấy thầy thoát khỏi vòng lẩn quẩn khổ đau. Hạnh phúc được biết sự cần thiết của học sinh chúng tôi đối với thầy và mọi người. Hạnh phúc vì biết sắp tới mình phải làm gì để không đi chệch hướng. Trên đường về, tôi siết chặt tay Hồng Lém: - Bây giờ, mình thích học môn Địa Lý lắm! Hồng đưa một ngón tay lên môi làm duyên: - Nhưng trước tiên bọn mình phải học bài cho thuộc đã! Hai đứa cười vang. Tôi bảo: - Như thế chắc thầy hạnh phúc lắm! Hồng Lém lý sự: - Tất nhiên! Và, làm cho người khác hạnh phúc thì chính mình sẽ hạnh phúc gấp đôi. NGUYỄN THỊ MÂY MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 14.5.2016… ........................ Vũ Thư Hữu ....... 01 Vài chi tiết về cuốn quý thư “Hết đường ảo tưởng”… ... Vũ Anh Tuấn ....... 05 Chung một tình yêu thơ Mi-ski-ê-vich… ................................ Thúy Toàn ....... 08 Sách - Tình yêu của tôi ........................................... Huỳnh Thiên Kim Bội ....... 12 Thông điệp Laudato Si’… (tt) ........................... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch ....... 15 Đạo Phật không phải là một tôn giáo mà… .................. Tâm Nguyện ....... 23 Lễ hội Hoa Phượng Đỏ và… ............................................ Phạm Vũ ....... 38 Phỏng vấn cụ Đ.V.Minh về Trường Bưởi ......... Bs. Nguyễn Lân-Đính st ....... 51 Giới thiệu tiểu thuyết lịch sử Đinh Bộ Lĩnh ........................... Nhựt Thanh ....... 59 Giở chồng báo cũ “Tạp chí Nam Phong” ....................... Đỗ Thiên Thư st ....... 66 “Trên đường sự nghiệp” … của N.C.Hoan ................ Hoàng Kim Thư st ....... 70 Ngày Quốc Tế Thiếu Nhi có từ đâu? ......................................... Bùi Đẹp st. ....... 75 Nhìn lại tác giả văn học TKỷ XX: Thế Lữ… ........ Hoàng Kim Thư st ....... 79 Nhớ rừng (thơ) ...................................................................................... Thế Lữ ....... 81 Bông hoa của Xưa & Nay (thơ) ............................................ Thanh Châu ....... 83 Tự vấn (thơ) ............................................................................. Lê Minh Chử ....... 84 Lời ru cho em (thơ) ....................................................................... Nguyên Lê ....... 85 Về đâu bím tóc người thương (thơ) ........................................... Nguyên Lê ....... 86 Gặp lại mùa Xuân (thơ) .............................................................. Lê Nguyên ....... 87 Mùa hè (thơ) ............................................................................ Ngàn Phương ....... 88 Hè về (thơ) ............................................................................... Ngàn Phương ....... 88 Thi thơ luận (thơ) ..................................................................... Lang Nguyên ....... 89 Vịnh hồ Than Thở (thơ) .......................................................... Lang Nguyên ....... 89 Đường đến trái tim (thơ) .............................................................. Lam Trần ....... 90 Nhớ thương quê cũ (thơ) .................................................. Vũ Thùy Hương ....... 91 Tự bạch (thơ) ....................................................................... Vũ Thùy Hương ....... 92 Tác hại rượu (thơ) ...................................................................... Quang Bỉnh ....... 92 Tìm bạn (thơ) ............................................................................. Quang Bỉnh ....... 93 Sân chơi người lớn tuổi (thơ) ........................................................ Bá Mạnh ....... 93 Bên này miền đất hứa (thơ) ..................................................... Bs.Doanlinh ....... 94 Xin là… (thơ) ............................................................................. Bs.Doanlinh ....... 95 Tình sử hoa đào (thơ) .............................................. Huỳnh Thiên Kim Bội ....... 95 Làng quê (thơ) ................................................................................... Hoài Ly ....... 96 Về chốn sương mù 1 (thơ) ............................................................... Hoài Ly ....... 97 Khi… nghĩa là… (thơ) .................................................................. Đàm Lan ....... 98 Em xưa (thơ) ............................................................. Phạm Thị Minh-Hưng ....... 99 Làn mây nhỏ (thơ) .................................................. Phạm Thị Minh-Hưng ..... 100 Ôi đóa tường vi (thơ) ............................................................ Bùi Minh Quốc ..... 101 O the eglantine… (thơ) ................................................... Vũ Anh Tuấn dịch ..... 101 Nghiêng (thơ) ......................................................................... Bùi Minh Quốc ..... 101 Inclined (thơ) .................................................................. Vũ Anh Tuấn dịch ..... 102 Cự Môn hãm địa .......................................................................... Dương Lêh ..... 103 Bí ẩn phòng hổ phách… .......................................... Hoàng Chúc st. ..... 113 Phượng lửa ..................................................................................... Lam Trần ..... 117 Lược khảo về Thư Viện & Thư Tịch Việt Nam ............ Đỗ Thiên Thư st ..... 119 Con trâu của Trần Tiêu ....................................... Đào Minh Diệu Xuân st ..... 128 Tấm chân tình ................................................................. Giáng Ngọc (G.Đ.) ..... 132 Nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam là ai? ............ Đào Minh Diệu Xuân st ..... 142 Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) Thanh Châu dịch thuật ..... 145 Khi tôi là nhà văn .......................................................................... Đàm Lan ..... 149 Hạnh phúc ......................................................................... Nguyễn Thị Mây ..... 155 |