VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09/6/2018 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên 2 cuốn sách, một cuốn mới có và một cuốn ông có vào dịp Tết hai năm trước (2016) mà ông tình cờ vừa tìm thấy. Cả hai cuốn sách đều là sách mới. Cuốn ông có vào dịp Tết 2016 là một cuốn sách mang tựa đề là “Chu Lượng với nh ữ ng người bạn”. Cuốn sách khổ 25x31 cm là một dạng tự truyện kể lại những quan hệ của tác giả với một số nhân vật trong lãnh vực thi ca kịch nghệ, những nhân vật mà ông đã vẽ chân dung, và mỗi chân dung đăng trong sách đều có vài lời của nhân vật được vẽ, phần lớn là những lời khen tặng, cảm ơn v.v… cùng với chữ ký c ủ a nhân vật đó. Tìm thấy cuốn sách và thấy lời đề tặng của tác giả vào dịp Xuân Bính Thân (2016) dịch giả Vũ Anh Tuấn chợt nhớ ra lý do ông được tặng. Thì ra, qua sự giới thiệu và thể theo lời yêu cầu của một người bạn, ông đã đóng góp vào cuốn sách vài bài dịch Việt-Anh, nên được tặng sách. Ông đem cho các thành viên xem để họ thấy lúc này sách của chúng ta được in khá đẹp, và ông cũng có một chút đóng góp vào cuốn sách này qua mấy bản dịch Việt-Anh. Cuốn thứ nhì thì Dịch giả Vũ Anh Tuấn mới được tặng hôm mùng 8/6/2018 tức là mười mấy ngày trước. Cuốn sách khổ 25x27 cm , dày 186 trang mang tựa đề là “Họa sĩ Tạ Kim Dung và cuộc hành trình tìm cái đẹp”. Cuốn sách được in rất đẹp, toàn bằng màu, cho thấy rất nhiều tác phẩm hội họa c ủ a tác giả sách. Tác giả Tạ Kim Dung không xa lạ gì với CLB Sách Xưa & Nay, vì 12 năm trước, nữ họa sĩ này, và phu quân cũng là một họa sĩ (họa sĩ Đoàn Quốc), đã có mặt trong ngày lễ ra mắt CLB Sách Xưa & Nay (17/6/2006). Dịch giả Vũ Anh Tuấn được tặng cuốn sách mới ra lò này vì ông cũng đã có chút đóng góp là vài bài dịch Việt-Anh được đăng trong sách. Các tác phẩm hội họa của tác giả được đăng bằng màu trong sách rất đẹp khiến nhiều thành viên thưởng thức một cách thích thú sau khi sách được giới thiệu xong.
Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, anh Phạm Vũ đã lên và có một bài nói ngắn về chuyện ăn chay theo Phật giáo và Hồi giáo. Sau khi anh Phạm Vũ nói xong, một thành viên ít khi dự họp là bà Hoàng Thị Vinh, 90 tuổi, đã lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ và đã hát tặng mọi người một bài hát. Tiếp lời bà Vinh, thành viên Kim Mai lên hát tặng các thành viên bài Hòn Vọng Phu III. Sau khi, Kim Mai hát xong, nhà thơ Hải Âu lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ của người anh Thùy Hương đã qua đời. Hải Âu ngâm thơ xong, thành viên Hoài Ly lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Tiễn biệt Lang Nguyên” một thành viên của CLB mới qua đời vài hôm trước. Hoài Ly ngâm thơ xong, anh Lê Nguyên lên ngâm bài thơ “Mặt người” và hát tặng các thành viên bài “Mỗi ngày một niềm vui”. Sau anh Lê Nguyên, anh Phùng Chí Tâm lên hát tặng cặp đôi Thùy Hương và Hải Âu bài “Lên thăm tượng Chúa” và bài “Nụ cười sơn cước” theo điệu Valse (nhịp ba). Tiếp lời anh Phùng Chí Tâm, anh Tấn Thuận lên hát tặng các thành viên bài “Chiều lên phá Tam Giang”. Anh Tấn Thuận hát xong, Thùy Hương lên ngâm một bài thơ tưởng nhớ người anh mới mất và hát tặng các thành viên bài “Tình thơ”. Tiếp lời Thùy Hương, anh Thanh Phong lên ngâm tặng Lệ Ngọc bài thơ vui “Cái ấm cụt vòi”. Sau anh Thanh Phong, Quan Thúy Mai lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Quan Thúy Mai ngâm xong, Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên bài thơ “Đôi bờ”. Sau Lệ Ngọc, Kim Sơn cũng lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ. Và cuối cùng, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom, lên hát tặng các thành viên bài “Diễm Xưa”. Buổi họp kết thúc trong niềm vui tái ngộ lúc 11g15 cùng ngày. VŨ THƯ HỮU
CÁM ƠN WORLD CUP GIÚP MÌNH CÓ QUÝ THƯ Bốn tháng trước mình có được ông Th. m ột ông bạn già của mình trước là bạn học của nhân vật Tr.C, C. và là một người từ Pháp về (retour de France) mời tới nhà và để cho mình một bộ 8 cuốn quý thư thuộc loại sách đẹp của tác giả Henry de Montherlant, Viện sĩ Hàn Lâm Viện Pháp. Tám cuốn sách này thuộc loại có đánh số, và có những minh họa nguyên trang thật đẹp, dành cho người chơi sách do nhà xuất bản danh tiếng Lidis xuất bản trên nửa thế kỷ trước. Mấy chục năm trước ông Th. c ũng có nhiều sách không thua gì mình, nhưng sau khi đi học tập về, ông đã nhường lại rất nhiều sách cho ông Khai Trí, sau khi chỉ lựa giữ lại cho mình những thứ ông đặc biệt yêu thích. Lấy xong bộ tác phẩm 8 cuốn của Montherlant, mình còn nài nỉ ông để lại cho thêm 2 cuốn một bằng tiếng Việt thuộc loại mới vì được xuất bản năm 2006 bởi nhà xuất bản Tự Điển Bách Khoa mang tựa đề là Tự Điển Nhân Vật Thế Giới; còn cuốn bằng Pháp văn thì được xuất bản năm 1968 (vừa đúng 50 năm trước) bởi nhà xuất bản Đại Học của Pháp và mang tựa để là “Tự Điển Văn Học Hiện Đại” (Dictionnaire de la littérature contemporaine) của một nhóm 15 tác giả mà người đứng đầu là Pierre de Boisdeffre, một người mà mình biết tiếng và quý trọng. Mình đ ề nghị trả ông một triệu đô mít, nhưng ông không chịu và cho biết còn rất yêu thích hai cuốn đó và nhất định giữ lại không nhường. Chiều hôm qua, sau gần 10 ngày đá banh World C up, mình bỗng được ông ghé thăm, mang cho 2 cuốn sách và cho biết ông “chấp thuận nhường cho mình với điều kiện là khi thanh toán một triệu, mình cho ông ta mượn thêm hai triệu trong vòng một tháng sẽ hoàn lại”. Thế là, dù là một người không thích và chẳng quan tâm gì tới đá banh, đá bung, tôi cũng cảm thấy chịu ơn World C up một chút, vì nhờ nó mà tôi có được hai quý thư tôi yêu thích. Có được hai cuốn sách quý, tôi bỏ ra liền trên ba tiếng đồng hồ để “cưỡi ngựa xem hoa” để có thể giới thiệu qua hai cuốn sách với các quý bạn. Cuốn Tự Điển Nhân Vật Thế Giới được nhà xuất bản Tự Điển Bách Khoa in khổ 21x27 và dày 910 trang, bìa cứng thật đẹp, bìa trước có hình 6 nhân vật và bìa sau có hình 5 nhân vật, và trong số 11 nhân vật đó mình nhận diện được 6 vị sau đây: Einstein, Hemingway, Napoléon, Hugo, Lincoln, và Shakespeare. Nội dung gồm khoảng gần 5000 nhân vật thế giới với phần tiểu sử sơ lược, nhưng dở một điểm là chỉ có chữ, tuyệt đối không có hình chân dung nào cả, ngoại trừ 11 chân dung được đưa lên bìa trước và bìa sau. Tuy nhiên mình vẫn thích vì biết được tiểu sử của gần 5000 danh nhân thì cũng thú rồi.
Cuốn “Tự điển văn học hiện đại” bằng Pháp văn, khổ 11x22, dày 695 trang, nội dung nói về tiểu sử, sự nghiệp, và tác phẩm của kho ả ng gần 800 nhân vật văn học. Tuy nhiên cuốn này được tôi cực kỳ yêu thích vì nhân vật nào cũng có hình chân dung (thường to hơn trong các tự điển thông thường) được chụp thật rõ, thật đẹp khiến tôi thích quá.
Việc nhờ World C up mà tôi có được hai quý thư đã khiến tôi nghĩ rằng “trong đời cái chi chi cũng có mặt xấu, mặt tốt”. Vụ cá đá banh là một chuyện mà tôi không quan tâm và cho là xấu vì chẳng khác chi cờ bạc, nào ngờ nó cũng có mặt tốt là, nhờ nó mà tôi được sở hữu hai quý thư mà tôi yêu thích ngang với các quý bà bảo-tích-phương. Hi! Hi! Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI” VŨ ANH TUẤN CÓ TẬN THẾ KHÔNG? THỰC PHẨM BẨN (tiếp theo số 145) 59. Chả cá sử dụng chất phụ gia không rõ nguồn gốc. Báo Thanh Niên ngày 6/6/2016 (btv Bình Minh): PC49 kiểm tra, phát hiện cơ sở của bà N. có sử dụng chất phụ gia (bột màu trắng) không nhãn mác, không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có thời hạn sử dụng. Ngoài ra, cơ sở này không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện về an toàn thực phẩm. 60. Phát hiện chất cực độc trong lô 30 tấn cá nục đông lạnh. Báo Thanh Niên ngày 11/6/2016 (btv Nguyễn Phúc): Ngày 10/6, Sở Y tế tỉnh Quảng Trị đã có báo cáo cho UBND tỉnh Quảng Trị kết quả kiểm nghiệm các lô cá tại kho đông lạnh của bà LTT (trú Tt. Cửa Tùng, H. Vĩnh Linh, Quảng Trị). Tại thời điểm kiểm tra (7/6), trong kho đông lạnh của bà T. có 110 tấn cá, gồm 70 tấn cá nục, 10 tấn cá ngừ, 20 tấn cá trích, cá sòng và 10 tấn cá lẫn lộn khác. Mẫu cá nục đại diện cho lô hàng thu mua ngay sau thời điểm cá chết đã phát hiện có hàm lượng Phenol 0,037mg/kg là chất cực độc, tuyệt đối cấm, không được phép có trong thực phẩm. Ngành chức năng đã tiến hành lấy 6 mẫu ngẫu nhiên tại kho đông lạnh của bà T. gồm: 1 mẫu cá ngừ, 1 mẫu cá trích, 1 mẫu cá sòng và 3 mẫu cá nục (1 mẫu đại diện cho 20 tấn thu mua trước thời điểm sự cố cá chết bất thường). Kết quả phân tích kiểm nghiệm cho thấy 5/6 mẫu các chỉ tiêu đều nằm trong giới hạn cho phép. Riêng mẫu cá nục đại diện cho lô hàng thu mua ngay sau thời điểm cá chết đã phát hiện có hàm lượng Phenol 0,037mg/kg là chất cực độc, tuyệt đối cấm, không được phép có trong thực phẩm. Sở Y tế đề nghị UBND tỉnh Quảng Trị chỉ đạo các ngành cho phép tiêu thụ 5 lô hàng có kết quả đạt yêu cầu và tiêu hủy 30 tấn cá nục có chứa chất cực độc. 61. Tự cứu mình trước nạn thực phẩm bẩn. Báo Thanh Niên 11/06/2016 (Ban CTBĐ): Trong tin Nhiễm liên cầu lợn vì bán thịt heo bệnh trên Thanh Niên ra ngày 10/6 đã nhận được sự quan tâm của nhiều bạn đọc: - Cẩn thận với tiết canh : Các bác sĩ đã có rất nhiều khuyến cáo về việc ăn tiết canh. Trong tiết canh tiềm ẩn rất nhiều mầm bệnh nguy hiểm như: tiêu chảy, tả lỵ, liên cầu lợn... nhưng nguy hiểm nhất là bệnh liên cầu lợn (Đào Minh Bằng, Vinh, Nghệ An). - Có người ăn tiết canh dê nhưng lại nhiễm bệnh liên cầu lợn. Nói thế để thấy khâu vệ sinh trong ăn uống của ta rất có vấn đề. Có khi dê, lợn làm chung một lò mổ hoặc trộn tiết lợn, tiết dê vào nhau... Tốt nhất hãy là người ăn uống cẩn thận và có hiểu biết. Ăn chín, uống sôi, hợp vệ sinh (Phan Hoài Phương, Q.4 Tp.HCM). - Bệnh liên cầu lợn khá nguy hiểm, tốn kém trong điều trị và để lại nhiều di chứng sau khi khỏi bệnh. Vì vậy tốt nhất đừng chủ quan. Nên luôn trong tư thế chủ động phòng tránh bệnh, nhất là những người thường xuyên tiếp xúc với heo như chủ trại chăn nuôi, nhân viên giết mổ, nhân viên thú y, bác sĩ thú y, người bán thịt và cả người tiêu dùng (Nguyễn Thị Thùy Dung, H. Bình Chánh, Tp.HCM). 62. “Bùa” nước muối thành… nước mắm cá cơm. Báo Thanh Niên ngày 16/6/2016 (btv Công Nguyên): Loại nước mắm được dán nhãn là “ nước mắm cá cơm ” nhưng thành phần không có bất cứ một loại cá nào mà được sản xuất hoàn toàn bằng nước, muối và hóa chất mua ở chợ Kim Biên. Nước mắm làm từ hóa chất chợ Kim Biên: Trưa 13/6, PV Thanh Niên theo chân đoàn kiểm tra đến kiểm tra cơ sở nước nắm trên. Tại đây, đoàn kiểm tra bắt quả tang ông H. và bà T. đang sang chiết nước mắm từ trong bồn chứa ra chai nhựa (loại 1 lít), đóng nắp, dán nhãn nước mắm hiệu Tân Phú. Đoàn kiểm tra phát hiện tại đây có 1.414 chai nước mắm hiệu Tân Phú (loại 1 lít), 600 lít nước mắm chuẩn bị sang chiết, 1.400 nắp chai và 5.250 chai nhựa loại 1 lít chưa qua sử dụng, 130kg nhãn giấy ghi nước mắm Tân Phú và các thông số chất lượng về sản phẩm. Bên cạnh đó, đoàn kiểm tra phát hiện nhiều bột chua, phẩm màu, bột chống mốc, đường hóa học sodium cyclamate, bột ngọt (bên ngoài có nhiều dòng chữ Trung Quốc) tại cơ sở sản xuất nước mắm của ông H. Sản xuất nước mắm tại địa chỉ này từ năm 2013 đến nay, cơ sở không đăng ký kinh doanh theo quy định, chưa được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, không công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Muối, hóa chất dùng sản xuất nước mắm, chai nhựa, nắp chai được mua tại chợ Kim Biên (Q.5, Tp.HCM). Theo bà T., để sản xuất 500 lít nước mắm, bà dùng 1 bồn nhựa loại 1.000 lít, bơm nước máy và đổ 200 kg muối hột vào ngâm từ 7 - 10 ngày. Sau đó, rút nước muối này qua bồn chứa loại 500 lít rồi pha 200gr bột chua, 100gr màu thực phẩm, 200 gr bột chống mốc, 200 gr đường hóa học và 2kg bột ngọt rồi dùng cây tre khuấy đều. Hỗn hợp này được bơm vào một bình chứa khác để lọc cặn rồi sang chiết ra các chai nhựa loại 1 lít rồi dán nhãn, hạn sử dụng, đóng nắp chai... thành nước mắm “cá cơm”. Mỗi lần cơ sở của bà Tâm sản xuất ra hàng nghìn lít nước mắm, bán ra thị trường. Nhiều bất thường: Khai với đoàn kiểm tra, vợ chồng ông H. cũng thừa nhận đã từng bị Phòng Y tế, Công an Q. Thủ Đức và UBND P. Hiệp Bình Phước kiểm tra xử phạt. Theo người dân, sau mỗi lần kiểm tra thì cơ sở nước mắm này hoạt động trở lại và sản xuất nhiều hơn trước. 63. Bắt gần 1,7 tấn thịt bẩn tại Tp.HCM. Báo Thanh Niên ngày 18/6/2016 (btv Công Nguyên): Sáng 17/6, Công an Q. Tân Bình bắt quả tang một cuộc vận chuyển nhiều thùng xốp chứa heo sữa đã qua giết mổ về một căn nhà tại hẻm 270B Lý Thường Kiệt (P.6, Tân Bình). Kiểm tra ngôi nhà này, công an phát hiện 972kg heo sữa đã làm sẵn chứa trong các thùng xốp, tủ cấp đông, không có giấy tờ chứng nhận kiểm dịch, rỉ dịch và bốc mùi hôi thối mua ở các tỉnh miền Trung rồi vận chuyển bằng xe khách vào Tp.HCM để bán cho các quán ăn, nhà hàng. Trước đó, chiều 16/6, Chi cục Thú y Tp.HCM kiểm tra ngôi nhà trong hẻm 356 Phạm Văn Bạch (P.15, Tân Bình) phát hiện 17 thùng xốp chứa 727kg thịt động vật đã qua tẩm ướp gia vị đựng trong nhiều bao ni lông. Chủ cơ sở thừa nhận số thịt trên không có giấy chứng nhận kiểm dịch. Cơ sở này nhập các loại thịt động vật không rõ nguồn gốc về sơ chế, tẩm ướp gia vị, đóng gói bao bì bán cho các quán ăn. Đoàn kiểm tra lập biên bản, lấy mẫu thịt xét nghiệm để có cơ sở xử lý. 64. Tiếp tay cho thực phẩm bẩn là tội ác. Báo Thanh Niên ngày 19/6/2016 (Ban CTBĐ): Rất nhiều bạn đọc bức xúc về cách làm của Viện Y tế công cộng Tp.HCM, được phản ánh qua bài Thực phẩm nhập khẩu không đạt chất lượng vẫn được “tuồn” ra bán trên Thanh Niên ngày 18/6. - Hoang mang : Như thông tin báo nêu, với 13 cơ sở có thực phẩm nhập khẩu, Thanh tra Bộ Y tế đã phát hiện 3 cơ sở chưa thực hiện quy định kiểm nghiệm định kỳ, 1 cơ sở bán sản phẩm khi chưa có giấy thông báo kết quả đối với lô hàng nhập khẩu (mặc dù cơ sở đã được thông báo qua điện thoại là lô hàng không đạt chất lượng nhập khẩu). Bấy nhiêu cũng đủ cho thấy tỷ lệ sai phạm của các cơ sở là khá cao (Ngô Đình Toàn, P. Linh Trung, Thủ Đức, Tp.HCM). - Độc hại ai chịu? Một câu hỏi đặt ra là những sản phẩm chưa có giấy chứng nhận chất lượng nhưng vẫn được doanh nghiệp bán ra thì trách nhiệm thuộc về ai (Đào Ngọc Duy, xã Phước Kiểng, Nhà Bè, Tp.HCM). - Thực phẩm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe người tiêu dùng. Chỉ cần các cơ quan chức năng lơ là, thiếu trách nhiệm là người tiêu dùng lãnh đủ khi bỏ tiền cao để mua sản phẩm nhập khẩu kém chất lượng (Huỳnh Minh Đạt, Q. Phú Nhuận, Tp.HCM). - Không phải cứ hàng ngoại, hàng nhập là tốt. Thời gian gần đây, các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu kém chất lượng hoặc chứa chất độc hại được phát hiện khá nhiều (Nguyễn Hoàng Thái, H. Nhà Bè, Tp.HCM). 65. Nhiều người nhập viện sau khi ăn bánh mì thịt. Báo Thanh Niên ngày 19/6/2016 (btv Gia Bình, Đức Huy): Ngày 18/6, có thêm 14 người vào Khoa Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện (BV) đa khoa Lâm Đồng để điều trị ngộ độc thực phẩm, nâng tổng số người nhập viện điều trị ngộ độc thực phẩm từ ngày 16/6 đến nay ở BV này lên 21 người. Hầu hết những người này đều ở xã Hiệp An (H. Đức Trọng) và bị ngộ độc nghi do ăn bánh mì thịt nướng. Cùng ngày 18/6, lãnh đạo BV Sản nhi Phú Yên cho biết khoảng 20g40 BV tiếp nhận 6 ca ngộ độc trong tình trạng ói mửa, gồm 2 trẻ em và 1 phụ nữ. Theo các bác sĩ, các bệnh nhân cho biết đã mua bánh mì tại một tiệm ở ngã năm Tp. Tuy Hòa, sau khi ăn thì có triệu chứng ói mửa nên gia đình đưa đến BV. Trước đó, vào chiều tối Trung tâm chẩn đoán y khoa Đức Tín (Tp. Tuy Hòa) cũng tiếp nhận 2 bệnh nhi bị ngộ độc sau khi ăn bánh mì. 66. Báo Thanh Niên 9/7/16 (btv Công Nguyên): Tiêu hủy hàng trăm ký “bò viên” làm bằng thịt heo xay và bột, 211 kg bò viên thành phẩm để dưới sàn nhà dơ bẩn. Cơ sở không phép không đủ điều kiện vệ sinh. Nguyên liệu không rõ nguồn gốc. Đương sự khai xay thịt với bột, hương liệu bò và chất bảo quản làm thành “bò viên” bán cho các quán ăn. 67. Báo Thanh Niên 9/7/16 (btv Nguyên Nga): Tuyên chiến với chả bẩn (Hoan hô cơ sở này). Trước tình trạng nhiều nhà sản xuất bỏ hóa chất vô tội vạ vào cây chả để bán cho người tiêu dùng, một cơ sở tại Tp.HCM đứng ra tuyên chiến với chả bản đó là cơ sở chả Quang Hậu (Q. Tân Phú, Tp.HCM). 68. Báo Thanh Niên 9/8/2016 (btv) Trọng Kha: Thực phẩm chức năng Triều Tiên “Chứa kim loại nặng”. Xét nghiệm 13 mẫu xuất từ Triều Tiên thì 10 mẫu chứa lượng chì và thủy ngân vượt quy định an toàn tới 200.000 lần, có nguy cơ đe dọa sức khỏe người dùng! 69. Báo Thanh Niên 13/7/16 (btv Công Nguyên - T. Tùng): Sản xuất chả cá chứa formol, hàn the. Ngày 12/7 công an Q. Thủ Đức phát hiện đường dây sản xuất, vận chuyển chả cá ướp hóa chất từ Bà Rịa Vũng Tàu về Tp.HCM tiêu thụ. 1.256kg chả cá và 288kg thịt ghẹ làm sẵn, xét nghiệm nhanh chả cá nguyên liệu cá kém chất lượng (cá ươn, cá dạt) nên người sản xuất dùng hàn the và formol để làm cho sản phẩm không trương phình, giữ được lâu và làm cho sản phẩm dai, giòn (chỉ khổ người ăn thôi!). 70. Phát hiện cơ sở chế biến mỡ heo không rõ nguồn gốc: Tại cơ sở Q. Hoàng Mai HN, CA thu giữ 2.000 lít mỡ nước và 100kg mỡ động vật đang vận chuyển đến, tất cả đều không có giấy tờ xác minh nguồn gốc, an toàn vệ sinh (Hà An). 71. Báo Thanh Niên 16/7/16 (btv Hiền Lương): Bán tôm hấp dừa nhiễm khuẩn cao gấp 56 lần cho phép. Cơ quan chức năng Khánh Hòa cho biết kết quả 7 mẫu thức ăn tại nhà hàng Four Seasons (Nha Trang) món tôm hấp dừa chứa vi khuẩn clostridium perfringeus cao 56 lần cho phép. Tối 9/7 800 nhân viên công ty CP Thế Kỷ vào ăn, qua ngày 10/7 và 11/7 có 119 người nhập viện vì ngộ độc thực phẩm. (còn tiếp) Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết (Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông) CÁC THỪA TRONG ĐẠO PHẬT Khi Đức Thích Ca mới thành lập thì Đạo Phật là một khối duy nhất. Nhưng từ sau khi Phật nhập diệt, tới đời Tổ Thứ Tư thì các Vị Trưởng Lão đã tách ra. Kể từ đó Đạo Phật chia ra thành 2 Thừa. Trưởng Lão Bộ hay Tiểu Thừa, và Đại Chúng Bộ hay Đại Thừa. Cả hai đều dùng tài liệu khi Kết Tập, nhưng giải thích về lý do, cũng như kết quả tu hành đều không giống nhau. Quả vị cao nhất bên Tiểu Thừa là A La Hán. Người cho là đắc được A La Hán do thấy các Pháp là Không. Nhờ thấy các Pháp là Không nên được an lạc, gọi là đạt được Niết Bàn. Quả vị của Bên Đại Thừa là Thành Phật, vì cho rằng “con thì phải nối nghiệp cha”. Cha là Phật thì con cũng phải là Phật theo lời của Đức Thích Ca đã Thọ Ký. Thành Phật cũng không phải là thành Thần Linh như nhiều người đã hiểu lầm. Chỉ là “Thành tựu Công việc Giải Thoát cho bản thân hết Khổ” mà thôi. Muốn Thành Phật thì phải qua Địa Vị Bồ Tát, phải Độ tận Chúng Sinh của chính bản thân, và phải tự làm, không lệ thuộc, không cầu xin ai, không nhờ ai giúp được, nên gọi là TỰ ĐỘ. Từ lúc chia ra đến nay, trước, sau ta thấy chỉ có Hai Thừa, nhưng đọc Diệu Pháp Liên Hoa, ta thấy Kinh viết là Đạo Phật có đến 3 Thừa: Tiểu Thừa, Đại Thừa và Phật Thừa, và nhiều lần lập đi lập lại rằng “Chỉ có Phật Thừa là được diệt độ thôi, không có Thừa nào khác”. Vậy thì thế nào là Phật Thừa? Mục đích của Đạo Phật là Độ Khổ. Do quan sát thấy con người mải mê ngụp lặn trong bể Khổ mà không biết, không hay, và dù Khổ mặc lòng, con người vẫn không chịu buông bỏ, không muốn Thoát ra. Vì thế, Đức Thích Ca đã dùng nhiều phương tiện để dụ cho con người buông xả các Pháp để thoát Khổ. Bản tánh con người vốn tham lam, nếu không biết rằng nó sẽ có những thứ quý giá hơn, tốt đẹp hơn thì nó sẽ không bao giờ buông bỏ cái nó đang có, do vậy mà Đức Thích Ca phải dùng rất nhiều phương tiện để dẫn dụ. Đầu tiên là Phật hứa 4 Quả vị cho người nào chịu Quán Sát, Tư Duy. Theo Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận thì: 1. Người thấy được Thân này là giả dối, mượn nó để tu học gọi là tỏ ngộ được THÂN KHÔNG thì sẽ được Quả Dự Lưu Tu Đà Hoàn. 2. Người thấy được Chân Tâm, nương Chân Tánh để tự làm chủ lấy mình, gọi là tỏ ngộ TÂM KHÔNG, thì gọi là chứng Quả Nhất Lai Tư Đà Hàm. 3. Người ngộ được Tánh của mình thường yên lặng, mà có cảm ứng thần thông biến hóa vô cùng, oai linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu, tự giác, tự ngộ, linh thiêng vô tận, vắng lặng triệt để, vô vi mà thường vi, gọi là tỏ ngộ TÁNH KHÔNG, thì chứng Quả Bất Lai A Na Hàm. 4. Người biết quan sát Kinh điển của Phật nói ra đều là những pháp môn phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào đạo. Như nước dùng để rửa bụi. Như thuốc dùng để chữa bệnh. Bệnh khỏi thì thuốc cũng trừ gọi là tỏ ngộ PHÁP KHÔNG. Y theo đó tu hành thì chứng đặng Quả Vô Sanh A La Hán. Đó là Tứ Quả Thánh mà người tu hành theo Thanh Văn đạt được. Vì sao hàng Thanh Văn bị chê là “Chồi khô, mộng lép”? Do thấy các Pháp là Không, nên họ chán đời. Không hơn thua đã đành, nhưng cũng không muốn tham gia bất cứ việc gì với cuộc đời nữa, mà cũng không suy nghĩ, không cần biết phải làm gì tiếp theo. Vì thế, cuộc sống họ trở thành chơ vơ, chỉ còn chờ ngày về Niết Bàn, cho rằng đã được Diệt Độ! Người sống như thế không làm lợi ích gì cho chính bản thân họ, vì họ sống chỉ để chờ hết kiếp, cũng không giúp đỡ gì được cho ai, vì quan niệm tham gia vô việc của người khác là chia Nghiệp với họ. Không những bản thân người theo Tiểu Thừa nghĩ như thế mà còn khuyên dạy Phật Tử cũng làm như họ. Chính vì vậy mà Đại Thừa chê họ là “chồi khô, mộng lép”, vì không nẩy nở, sinh sản được pháp nào nữa, kể cả pháp Thiện! Lý do là vì họ học chưa hết Giáo Pháp của Đạo Phật. Chính vì vậy mà Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA mượn lời Phật để giảng cho hàng Thanh Văn, mở “Con Đường Độ Sinh” cho họ, đưa họ ra khỏi cái Không Vô Ký, vào địa vị Bồ Tát để thành Phật. Kinh viết: “Xá Lợi Phất! Ta thuở xưa dạy ông chí nguyện Phật Đạo, ông nay đều quên mà bèn tự nói đã được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bổn nguyện cùng đạo đã làm, mà vì các Thanh Văn nói Kinh Đại Thừa tên là DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIÁO BỒ TÁT PHÁP PHẬT SỞ HỘ NIỆM”. Tại sao phải giảng cho hàng Thanh Văn? Tại vì những vị Thanh Văn khi quán sát thấy các Pháp là Không, vì cuối cùng nó sẽ về Không, lại nghe Phật dạy cuộc đời là VÔ THƯỜNG, nên không nghĩ ngợi, tha thiết gì về cuộc sống. Do không suy nghĩ, không dính mắc gì với cuộc sống mà họ có được cái tâm nhẹ nhàng, khinh an, được gọi là đạt được Niết Bàn tự tâm hay đắc Quả A La Hán rồi đắm mình trong đó. Họ không biết mục đích của Đạo Phật là để giúp cho con người sống giữa trần gian, nhưng không bị các pháp trần vùi dập, được như Hoa Sen, sống giữa bùn mà không bị bùn làm cho ô nhiễm. Đó là lý do mà Đạo Phật dùng Hoa Sen làm biểu tượng. Hoa Sen vẫn sống giữa bùn cho đến khi tàn tạ, đâu có chê bùn là nhơ bẩn để dời đến sống trong chậu nước tinh khiết? Người đời học Phật Pháp là để “Thoát phiền não ngay chính trong phiền não” chớ đâu có tránh né, trốn phiền não, xây tường rào ngăn cách, hay lên non cao, động vắng, xa lánh cõi trần để được thanh tịnh? Người tu học theo Đạo Phật là để giải quyết cuộc sống, để tiếp tục sống giữa các Pháp Thuận, Nghịch trong đời mà vẫn được an vui. Không những thế, kiếp sau nếu có càng tốt đẹp hơn vì cả đời chẳng những tránh Ác, mà còn hành Thiện để xây dựng cảnh trần thêm tốt đẹp, mà nếu ai có đọc mô tả 32 Tướng Tốt, 80 Vẻ Đẹp của Phật sẽ thấy: mỗi việc cư xử với nhau trong cuộc sống tượng trưng cho MỘT TƯỚNG không phải là những hảo tướng tự nhiên sinh ra. Chính vì vậy mà Lục Tổ Huệ Năng có Kệ: “Phật Pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác. Ly thế mịch Bồ Đề. Cáp như cầm thố giác”. Có nghĩa là “Pháp Giải thoát ở ngay tại thế gian. Không thể rời thế gian mà giác ngộ. Rời thế gian mà tìm Giải Thoát cũng như đi tìm sừng thỏ”. Chính vì trần gian có quá nhiều khổ đau mà con người mới cần Pháp Giải Thoát. Rời thế gian, không còn gì để đau khổ, phiền não thì cần gì Giải Thoát? Thật thế. Bỏ trần gian, vô Chùa, xây tường rào ngăn chặn các Pháp, các Pháp không xâm phạm được thì có gì phiền não nữa đâu, mà cần phải Giải Thoát? Nhiều người hiểu lầm, cho rằng Xuất Gia đi tu là Thoát Phàm, Thoát Phiền Não. Thấy người mang bộ Y, với cái Đầu cạo láng thì cho đó là Tu Sĩ. Thật ra, nghĩa của Tu là Sửa. người đang chỉnh đốn Thân, Tâm với Thân Giới, Tâm Huệ thì đó mới đúng là Tu Sĩ theo đúng với tinh thần Đạo Phật. Chiếc Áo, cái Đầu mới nói lên phần hình tướng mà thôi, không có giá trị gì đối với người Tu Phật chân chính. Người đời cũng nói: “Chiếc áo không làm nên Thầy Tu”. Phật Ngôn cũng dạy: “Nếu chiếc áo Ca Sa có uy lực giải trừ Tham, Sân, Si thì cha mẹ hay người thân đứa bé chỉ cần khoác nó lên người đứa bé mới sinh là đã được toại nguyện”, cho thấy rằng nhận định giữa Đạo với Đời không khác! Dù hai Thừa cùng hành chung Giáo Pháp là Giới và Bát Chánh Đạo, là hai căn bản cần thiết cho người tu, nhưng mục đích tu hành Thoát Khổ không giống nhau: Tiểu Thừa do hiểu lầm Phương Tiện của Đạo Phật nên cho rằng trần gian là ô uế, là phiền não, nên “Xuất Gia Đầu Phật” để tìm an ổn cho mình bằng cách tránh Pháp, không tiếp xúc, không tham gia với người đời, với cuộc đời. Cuộc sống chỉ để dành Ngồi Thiền, Tụng Kinh, Niệm Phật, chờ về Niết Bàn. Đương nhiên người không phải lo toan mọi vấn đề. Từ cất Chùa cho tới cơm áo, vật dụng, phương tiện đều do thí chủ cung cấp. Mọi thứ đã có thí chủ phục vụ. Tu sĩ không cần biết đến tiền bạc. Không hay thị trường giá cả lên xuống. Không phải chi trả bất cứ thứ gì, lại không đau đầu vì vợ con mè nheo, lải nhải đòi tiền chợ, tiền học, tiền trường, tiền phấn son, quan hôn, tang tế… thì tâm hồn sao mà không thanh thản? Do vậy họ cho rằng mình đã đạt đến Niết Bàn, thanh tịnh, và đó là rốt ráo của Đạo Phật, cần gì phải thắc mắc tìm kiếm điều chi thêm nữa? Trong khi đó, con đường Giải Thoát của Đại Thừa từ Phát Tâm cho đến kết quả cuối cùng có cả một quy trình được giải thích hoàn toàn hợp lý, không khiên cưỡng, không áp đặt. Họ được hướng dẫn cho phân tích từ lý do Phát Tâm cho tới cách tìm nguyên nhân gây ra Khổ, cách thức khắc phục, kết quả, đều thuận Đạo, hợp đời, vì tu hành không phải để Đắc Quả hay về cõi nào, mà chính là để giải quyết cho cuộc sống. Do đó, họ không một bề theo Đạo, bỏ Đời. Trái lại nhờ Đạo rèn giũa tâm tính để sống mội kiếp người thật xứng đáng, có ích cho mình, cho người, làm cho cõi Đời thêm tốt đẹp. Thật vậy. Đại Thừa cũng cho rằng Đời là Bể Khổ, nhưng biết rằng lỗi không phải chỉ do Các Pháp, mà trong đó có sự tiếp tay của nội ứng từ bên trong mỗi người. Đó là cái Vọng Tâm. Do vậy, muốn Trừ cho tận nguồn gốc của Khổ thì phải nhận biết cả hai: TÂM và PHÁP, nhưng Pháp thì vô tình, cứ vô tư khởi rồi diệt. Do cái TÂM CHẤP LẤY PHÁP mà ra chuyện. Vì vậy, người tu được dạy ĐIỀU TÂM, không ĐIỀU PHÁP. Họ cũng được dặn dò không nên Tin những gì đã Nghe, mà khi Nghe xong phải suy nghĩ, thấy đúng thì mới hành theo gọi là VĂN-TU-TU. Biết thủ phạm là cái VỌNG TÂM, họ sẽ nương theo hướng dẫn của Đạo Phật dành thì giờ quán sát, tư duy để tìm cho ra nó, rồi cũng theo cách thức mà Đạo Phật bày cho để biến Vọng Tâm thành Chân Tâm, gọi là “Phản Vọng quy Chân”. Trong Tâm có hai tình trạng Tốt và Xấu nên gọi là PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ. Trong quá trình quán sát cái Vọng Tâm thì người tu sẽ thấy rằng trong đó có những tư tưởng luôn khởi, diệt. Những tư tưởng xấu được Đạo Phật gọi là “Chúng Sinh”. Chúng Sinh này luôn theo các pháp mà “trùng trùng duyên khởi”. Con người bị Phiền Não là vì những Chúng Sinh này. Vì vậy, muốn thành Phật thì phải “Độ” cho hết những Chúng Sinh, bao giờ Chúng Sinh hết Khổ, được an ổn, gọi là Thành Phật, thì người Độ mới hoàn tất công việc tu hành. Việc điều phục hay hóa giải Chúng Sinh, là công tác chỉnh đốn cái Tâm, nên gọi là TU TÂM. Cũng theo Đạo Phật, dù “Chúng Sinh vô lượng”, nhưng không ngoài 6 Đường (Lục Đạo). Muốn Độ cho Sáu con đường này thì phải làm Sáu Việc gọi là LỤC ĐỘ. Đó là Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, và Trí Huệ. Muốn tu hành đạt được kết quả thì cần có sự sáng suốt gọi là Trí Huệ. Muốn có Trí Huệ thì phải Định, tức là dừng lại, là ngưng chạy theo các Pháp và tìm hiểu về chúng. Muốn tìm hiểu vấn đề gì đó thì cần phải tập trung mà suy nghĩ, Đạo Phật gọi là Tư Duy, do đó mà có Thiền Định. Ngày xưa người ta đã dịch rất sát nghĩa của Thiền, là TƯ DUY TU. Nhưng về sau chỉ gọi là Thiền nên nhiều người không biết phải Ngồi như thế nào, chỉ khoanh tay, khoanh chân, mắt khép hờ Ngồi một cục, hết giờ thì Xả ra, thấy mình Ngồi Thiền được 1 suất! Thiền đang được nhiều phái sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau: Thư giãn, điều tức trị bệnh, xuất hồn, luyện Khí Công đều Ngồi Thiền. Thiền của Đạo Phật cần kết hợp với Quán Sát, Tư Duy nên gọi là THIỀN QUÁN (Vipassana). Nhờ Thiền Quán mà người tu sẽ có được sự hiểu biết sáng suốt, rồi sẽ hành theo sự hướng dẫn của cái Biết. Cái Biết đó gọi là Trí Huệ. TRÍ HUỆ quan trọng đến nỗi BÁT NHÃ TÂM KINH viết: “Tam Thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Có nghĩa là Ba Đời Phật đều nương Trí Bát Nhã mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Kinh Đại Bát Niết Bàn viết: “Dù có người vô lượng vô số kiếp chuyên tâm thính pháp, nhưng nếu không Tư Duy thì trọn không thể đạt Vô Thượng Bồ Đề”. Nói về THIỀN, Kinh Viên Giác viết: “Đây là phương tiện tu hành của Hành giả, tức là BA PHÁP QUÁN (CHỈ, QUÁN và CHỈ QUÁN SONG TU). Nếu các chúng sanh tinh tấn siêng tu Ba Pháp này được hoàn toàn, tức là Như Lai xuất hiện ở thế gian vậy”. Vừa Soi Quán, vừa kiên trì đối chiếu với Chính Kinh, vừa thực hành, để cái Lý với cái Hành đồng nhất thì dần dà người hành sẽ có được sự tự chủ vững mạnh để tiếp tục sống giữa cuộc đời mà không còn bị cảnh Khổ hành hạ nữa. Không còn bị xao động, bị Khởi Ghét, yêu vì các pháp. Thấy các Pháp như nó vốn như thế, nên gọi là Như Thị. Người thấy các Pháp đều Như, không còn khởi tâm khi đối Pháp gọi là Như Lai. Do đó, Như Lai không phải là Phật Tổ Như Lai quyền phép tột cao để mọi người tạc tượng mà Thờ! Người theo Tiểu Thừa, vừa Thấy các Pháp là Không thì chấp lấy đó, không muốn tiến tu tiếp. Không cần tìm hiểu thêm. Người theo Đại Thừa vẫn Biết các Pháp cuối cùng là trở về Không, nhưng hiện tại nó đang tồn tại, nên học cách đối phó với nó mà không chấp lấy, không ôm giữ, đeo bám nó, chỉ cư xử với nó đúng như cần thiết mà thôi. Do vậy họ không bị điên đảo với các Pháp. Không mừng khi được. Không tiếc khi mất. Không ham hố danh lợi, không tranh giành với mọi người nên được cuộc sống an ổn. Chính nhờ không BỎ ĐỜI, chỉ bỏ THAM, SÂN, SI, THƯƠNG, GHÉT. Không bỏ nhà thế gian, chỉ RỜI XA NHÀ LỬA TAM GIỚI. Bỏ THAM ÁI, không bỏ cha mẹ. Bỏ Ba Nghiệp của Thân và Bốn Nghiệp của Khẩu gọi là RỜI XA QUYẾN THUỘC NGU SI... nên họ vẫn làm mọi việc, vẫn sống một cuộc đời như một người bình thường trong xã hội. Nhờ đó họ vừa có thể đền được TỨ ÂN, vừa thực hành để có được 32 Tướng Tốt của Phật, đồng thời làm lợi mình, lợi người, Đạo Phật gọi là Tự Độ đồng Độ Tha. Họ đã đi một vòng. Từ một con người sống trong cuộc đời đầy phiền não. Từ một chúng sinh đau khổ, họ vào Đạo Phật để học cách tự cứu độ. Công việc tu hành là nương hướng dẫn của Đạo để chiêm nghiệm, thực hành từng pháp. Sau một thời gian Quán Sát, Tư Duy, Giữ Giới, đi trong Bát Chánh Đạo, làm Lục Độ Ba La Mật… Họ điều phục được cái Tâm, hóa giải được các Pháp, Xả được cái Vọng Tâm, quay về với Chân Tâm để thấy Cái Thân không phải là Mình, chỉ là phương tiện ứng hiện để cho Nhân Quả vay trả mà thôi. Kể từ đó họ trở lại cuộc đời với một tâm thế khác. Không còn để cho cái Thân sai sử để tạo Nghiệp. Trái lại điều khiển nó, dùng nó như chiếc phao để bơi qua bể Sinh Tử. Khi rũ sạch hết Phiền Não, Độ hết những Chúng Sinh, họ làm Chủ được Thân, Tâm của họ, nên dù vẫn ở trong thế gian mà thế gian không còn làm Khổ họ được nữa, gọi là được Giải Thoát hay Thành Phật. Ứng dụng Đạo Phật vào thế gian chúng ta sẽ thấy: Nếu trước khi chưa tu hành, tâm của mỗi chúng ta đầy những dục vọng, Tham, Sân, Si lúc nào cũng chực chờ để khởi lên, thì người đã chuyển hóa xong cái Tâm ngược lại, Tâm họ lúc nào cũng tràn đầy Từ, Bi, Hỉ, Xả. Họ có được cái Thường Vui hay là an lạc trong tâm. Họ không thù ghét cái Thân, chê chán cuộc đời. Trái lại cảm ơn cái Thân, vì nhờ có cái Thân mà họ mới có Mắt để đọc những lời dạy của Phật, của Chư Vị Giác Ngộ. Có Tai để nghe những lời giảng dạy. Có Tay, Chân để thực hành những việc tốt đẹp cho đời để đền đáp những gì họ được hưởng dụng từ biết bao thành phần trong xã hội. Họ cảm ơn cuộc đời, vì có cuộc đời với những Pháp thuận, nghịch mà họ có những bài học để tiến tu. Họ không còn BỊ SỐNG, bị dòng đời lôi cuốn, vùi dập. Trái lại họ thấy mình ĐƯỢC SỐNG, hoàn toàn làm chủ cuộc sống. Nhờ Ý thức Vô Thường nên họ quý từng phút giây bên cha mẹ, bên bạn bè, người thân, vì biết rằng cái Duyên gặp nhau có hạn, không thể ở bên nhau mãi. Họ không còn tranh giành vật chất với mọi người, khi tu hành thì cũng không ham Chùa to, tượng lớn để lấy uy tín, vì biết rằng ngày nào đó ra đi cũng không mang theo được. Họ ý thức giá trị của Giải Thoát nên cũng mong muốn tất cả mọi người cùng được Giải Thoát, hết khổ, mà dùng sự hiểu biết của mình để cùng Chư vị Giác Ngộ tiếp tục “mồi ngọn Vô Tận Đăng”, tát cạn bể khổ của trần gian, để Hoa Sen được nở giữa biển lửa. Qua đó, chúng ta thấy người tu theo Đại Thừa đúng nghĩa thì không câu nệ hình tướng. Không phân biệt trong Chùa hay ngoài Chùa, có sắc phục hay không sắc phục. Chủ yếu là điều phục cái Tâm, vì “Giải Thoát hay ràng buộc cũng chỉ do cái Tâm”. Họ không cần Quả Vị, không cần ai biết mình tu. Vì thế, họ Tu mà thoát Tu. Hành mà thoát Hành. Thoát cả Quả Vị, vì biết rằng tu cho chính bản thân mình, nên không thắc mắc, không tìm cầu. Họ không cần Chư Phật phải chứng minh mà cũng không đòi hỏi sự tôn trọng của người khác, cũng không cần ai phải cung dưỡng để mình tu, vì ý thức Nhân Quả. Suy cho cùng, việc tu theo Đạo Phật chỉ là để “Ở trong thế gian mà thoát thế gian. Ở trong phiền não mà thoát phiền não”. Mọi Quả Vị, Tây Phương, Đông Phương, Phật Quốc v.v... chỉ là phương tiện để giúp cho con người hy vọng được về đó mà Xả bỏ mọi thứ giả tạm đang ôm giữ để được Thoát Khổ, vì mục đích của Đạo Phật là để phục vụ cuộc sống, phục vụ con người, để con người có cảnh sống yên lành, hạnh phúc cho đến hết kiếp. Nói Vô Thường là để con người thấy rằng cuộc sống không trường tồn, thấy đó rồi mất đó, để mọi người đừng vì danh, lợi mà đánh mất tình nghĩa, để cư xử với nhau tốt đẹp hơn. Không phải để mọi người chê chán cuộc đời. Tu chỉ có một nghĩa là SỬA. Là bỏ đi những thói hư, tật xấu, học hỏi những điều tốt đẹp. Do vậy, độc thân hay có gia đình, già hay trẻ, học ít hay học nhiều, địa vị cao hay thấp, nam hay nữ đều có thể tu được. Mỗi người tu là chỉ để bản thân nhờ, không thể tu giùm cho người khác. Vì vậy, người tu không có quyền nhân danh tu hành rồi bỏ hết trách nhiệm đối với cuộc đời, vì còn sống một ngày là còn hưởng dụng mọi thành quả của biết bao nhiêu thành phần trong xã hội, có nhiệm vụ phải đền đáp. Kiếp này không trả thì kiếp sau vẫn phải trả, vì Nhân Quả không mất. Phật dạy “Nhân thân nan đắc”. Khó khăn lắm mới có được thân người. Cha mẹ phải giữ gìn, nâng niu, phải nuôi dưỡng bao nhiêu năm dài mỗi người mới có được một tấm thân toàn vẹn, thì không lý do gì khi vào tu hành lại chỉ sống để chờ chết, phí phạm bao nhiêu công sức của cha mẹ, áo cơm của cuộc đời! Người cổ súy cho mọi người bỏ hết việc đời để đi tu, chẳng những có lỗi với cuộc đời mà còn có lỗi với Đạo Phật, vì Phật dạy, người tu phải có Tứ Vô Lượng Tâm, đâu có dạy Vô Tâm, vô cảm trước cuộc đời? Bởi sau khi hoàn thành việc tu hành cho mình còn phải đền Tứ Ân. Phật đâu có phải là Thần Linh để chúng ta cầu xin gia hộ cho đất nước, cho ông bà, cha, mẹ để báo Ân? Cũng không cần phải tôn thờ Đức Thích Ca hay Chư Vị đã Đắc Đạo chỉ cần hành theo những gì các Ngài đã hướng dẫn, vì mỗi người đều có thể Chứng Đắc, thành Phật như các vị đã thành. Vì thế, Tổ Đạt Ma dạy: “Đừng mang Phật ra mà lạy Phật”. Giới và Bát Chánh Đạo cũng giống như là bờ ngăn hay xe tập đi để đứa bé chưa đủ vững thì dựa vào đó để bước cho khỏi té ngã. “Tâm sinh vạn pháp”, chỉ cần Điều phục cái Tâm thì nó không còn dắt binh tướng đi làm việc sai quấy, cần gì đến mấy trăm Giới đến quay đâu cũng đụng Giới, cuộc sống chỉ làm nô lệ cho Giới? “Điều Tâm chớ không Điều Thân” Tâm ngay thẳng cần gì phải Tứ Oai Nghi? Giả sử có vi phạm Giới thì cũng chính mình là người chịu hậu quả, cần phải tự Sám Hối để không tái phạm, đâu cần phải Sám Hối với Phật? Phật đâu có quyền tha lỗi, hay chịu Nghiệp thế cho ta được? Vì vậy, không phải Tiểu Thừa, không phải Đại Thừa, mà chỉ có Phật Thừa mới được Giải Thoát. Có nghĩa là hành giả phải thực hiện tất cả những pháp tốt đẹp của thế gian, mà không đi ngược với Luật Nhân Quả, cũng không chống trái với thế gian, nhưng không chấp vào thành quả thì mới có thể đưa đến kết quả Giải Thoát. Không phải phàm, không phải Thánh. Không dính mắc với thế gian mà cũng không Trụ ở Thừa nào. Đó là Phật Thừa. Vì còn thấy mình Thành Thánh, Thành Phật, còn cao thấp, hơn thua… là còn dính mắc, không thể Giải Thoát được vậy. Tâm Nguyện - Tháng 5/2018
Kể chuyện về các nhà văn Nga NHÀ VĂN TSEKHÔV VÀ CÁI ỐNG NGHE THẦY THUỐC …
Antôn Tsekhôv (17/1/1860 - 2/1/1904) Mùa thu ấy Tsekhôv sống ở Yanta. Vào một đêm nọ, chừng 12 giờ khuya mà Tsekhôv vẫn còn chưa tắt nến đi nằm. Ông còn mải miết viết dưới ánh sáng của mấy ngọn nến, như thói quen bấy nay. Ngoài trời thời tiết giở chứng. Mưa đổ xuống ào ào, gió rít từng cơn, sóng biển ào ạt xô bờ tung cao đập rào rào bên thành đá... Nhà văn thỉnh thoảng lại dừng bút, tư lự trên trang giấy. Bỗng nghe có tiếng gõ cửa ở dưới nhà. Tiếng gõ cửa được lặp lại hối thúc. Phải là người lạ nào đó mới gõ cửa như vậy, bởi những ai quen biết thì đã giật dây chuông. Tsekhôv bật dậy, nhanh nhẹn xuống nhà. Ai thế nhỉ? Ông hé mở cánh cửa. Dưới ánh nến chập chờn, nhà văn nhận ra một người đàn ông Tácta râu tóc ướt nhòa, áo quần lướt thướt. Người đàn ông cúi rạp xuống cung kính chào và cất tiếng run rẩy, giọng đầy nước mắt: - Bẩm quan ngài tôn kính, xin quan ngài làm phúc cho đứa con trai tôi được vào nhà. Mưa bão, cháu ốm... chúng tôi đưa cháu đi chữa chạy... Còn tôi xin ngủ ngoài xe cũng được... - Cháu bé đâu? Người đàn ông ngoái lại sau, chỉ ra phía đường cái: - Kia là chiếc xe ngựa kéo của tôi. Cháu bé ở trong xe. - Đưa ngay cháu vào trong này! - Tsekhôv nghiêm giọng ra lệnh. Trong lúc người đàn ông đi đưa đứa con trai đang ốm vào nhà, nhà văn châm thêm nến ở sảnh nhà, thu dọn mặt ghế đi-văng trong phòng làm việc của mình. Cháu bé đang sốt nóng hầm hập, vật vã trên tay người cha. Tsekhôv soi đường dẫn cha con họ vào phòng làm việc, bảo người cha đặt cháu nhỏ xuống ghế đi-văng. - Cởi bỏ áo quần ướt của cháu ra - Tsekhôv chỉ bảo: hong tất cả lên lò sưởi kia. Tôi sẽ lấy chăn nệm, rồi sẽ xem cho cháu. Các vị may đấy, đưa đến đúng ngay chỗ thầy thuốc. Tsekhôv về phòng ngủ và cố nhớ xem mình cất cái ống nghe và chiếc búa con khám bệnh ở chỗ nào... Lâu nay về đây sinh sống ông không còn hành nghề bác sĩ nữa. Ông mang chăn đệm trở lại chỗ cháu bé, ủ ấm cho cháu và đặt cháu nằm ngay ngắn trên ghế đi-văng và bắt đầu khám bệnh cho cháu, ông áp tai vào bên ngực cháu bé. Nhưng tiếng gió rít, tiếng sóng biển ầm ĩ ngoài trời át đi mất. Tsekhôv không làm sao nghe bằng tai được nhịp thở của cháu bé. Trong khi đó cháu bé sốt nóng rừng rực. Phải tìm ống nghe mới chẩn đoán được chính xác bệnh tình. Nhưng ông đã để cái ống nghe ấy ở đâu nhỉ? Tsekhôv đứng lên băn khoăn đi lại trong phòng, còn người đàn ông Tácta nhìn ông chằm chằm kính cẩn hồi hộp chờ đón mọi lời phán bảo như ở một thầy pháp sư cao tay nhân hậu. Chợt Tsekhôv ra khỏi phòng, thoăn thoắt lên gác trên đánh thức cô em gái. - Có chuyện gì thế anh? - Thật chẳng ra sao? Thằng tôi đáng phải bị nọc ra đánh đòn... Tsekhốv thốt lên - người ta chở người ốm đến gặp thầy thuốc, vậy mà thầy thuốc bó tay, bởi anh ta không có dụng cụ khám bệnh. Maria Pavlôpna (tên gọi cô em gái nhà văn) suy nghĩ: - Ở chỗ mẹ thì phải! Có, em nhớ ra là cái ống nghe và chiếc búa con dùng để gõ khám bệnh của anh đã được mẹ cất đi, giữ làm kỷ niệm, vì Antôsa (tên gọi Tsekhôv một cách thân mật trong gia đình) không còn cần đến nữa. - Đành phải đánh thức mẹ. Còn Maria, cô đi đặt ngay cho một ấm nước sôi. Hóa ra cháu bé viêm phổi. Tsekhôv ngồi vào bàn viết liến thoắng những gì đó trên trang giấy trắng. Ông cho vào phong bì và đưa cho người đàn ông Tácta. - Ngày mai ông tìm đến địa chỉ này ở Ianta. Người ta sẽ đưa con ông vào an dưỡng đường “Iauzlar”, Tsekhôv đặt tay lên vai người đàn ông Tácta trấn an. Việc này miễn phí, cháu bé sẽ được chữa chạy bằng tiền của hội tương tế các nhà văn. Từ cái đêm mùa thu năm ấy trên bàn làm việc của Tsekhôv bên cạnh giấy bút, bên cạnh những tập bản thảo, những cuốn vở ghi chép... bao giờ cũng có sẵn cái ống nghe và chiếc búa con dùng để khám bệnh... Thúy Toàn Rút ra từ “Kể chuyện về các nhà văn Nga”
Phụ Bản I Vô thường - Luân hồi - Định mệnh Vẻ đẹp của Cuộc sống
1. VÔ THƯỜNG Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm, để lại ý nghĩa tốt đẹp cho đời và cuối cùng đặt cho mình một dấu châm hết thật tròn. Cuộc sống và vạn vật quanh chúng ta, từng giờ từng phút luôn luôn biến đổi theo không gian và thời gian, không có gì tồn tại vĩnh viễn. Đó chính là “Vô thường” nghĩa là không có gì thường xuyên trường tồn mãi mãi, Thân vô thường, sinh, lão, bệnh, tử, bệnh tật, tai nạn bất thường luôn xẩy ra. Cuộc đời con người cũng vậy nay còn mai mất. Tâm vô thường, lúc này yêu tha thiết nhưng gặp nghịch cảnh thì chuyển thành oán hận là chuyện thường tình. Lòng tin cũng dễ lung lay, lý tưởng cũng dễ thay đổi. Thời gian “vô thường”: Cuộc sống hối hả, ai ai cũng chạy theo công việc tất bật hàng ngày, tranh đấu trong thương trường, trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, chợt ngoảnh lại thấy mình đã già, thời gian trôi mau đời người thật ngắn ngủi để rồi thoáng chốc hiểu ra một điều được sống thanh thản hưởng trọn niềm yêu thương là điều vô cùng quý giá . “LINH HỒN và CÕI ÂM” của GS TS Bùi Duy Tâm (San Francisco, CA): - “Tôi sinh ra trong một gia đình ba đời theo Đạo Kitô, đã đọc Thánh Kinh. Sau này làm bạn tâm giao với cố Linh mục Bửu Dưỡng và Hòa thượng Thích Mãn Giác, nên tôi có điều kiện đàm luận về Kitô Giáo và Phật Giáo. Tôi đã hiểu được cái tinh túy của Lý Dịch và Đạo Nho, các cuốn Tử Thư của Ai Cập và Tây Tạng cũng như nhiều sách khác cùng loại, sang Ai Cập, Ấn Độ, Tây Tạng… để tìm hiểu thêm về Huyền Bí Học và Siêu Hình Học. Nhưng tất cả đều mù mờ về “Linh hồn” và “Cõi đời sau khi chết”. Tình cờ cầm tờ Y Tế Nguyệt San số 5, tháng 5/2001 của Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ nên đề tài “Linh hồn và Cõi âm” đã có cơ hội hé mở sau bao thất vọng. Còn đợi gì nữa mà không về Việt Nam, đến cầu Hàm Rồng để tìm gặp cô Phương cho ra nhẽ? Sau này mỗi lần về thăm quê hương, tôi đều đưa mẹ tới gặp cô Phương. Sau này tôi có gặp nhiều nhà ngoại cảm khác ở Việt Nam, họ cũng có khả năng như cô Phương - cô Bằng, cô Thảo, cô Mến trên đường từ Hà Nội qua Hải Dương đến Hải Phòng. Tôi cũng đã gặp các nhà ngoại cảm tìm mộ như Cậu Liên, anh Nguyễn Khắc Bảy, cô Phan Thị Bích Hằng… Tôi cũng đã gặp các nhà khoa học nghiên cứu về tâm linh như TS Nguyễn Chu Phác, GS Ngô Đạt Tam, GS Phi Phi, TS Ngô Kiều Oanh… làm việc ở các cơ quan khác nhau. Tôi đã được đọc câu kết luận của một tài liệu ở Việt Nam (không phổ biến công khai) như sau: “Thế giới tâm linh là có thật. Đó là một thực tế khách quan cần được các nhà khoa học nghiên cứu nghiêm túc. Chúng ta hãy bình tĩnh, khách quan lắng nghe những lời nhắn như từ thế giới tâm linh để có cuộc sống nhân ái hơn, lương thiện hơn”. 2. LUÂN HỒI (trong Phật giáo còn gọi là “Vòng luân hồi” hay “Bánh xe luân hồi”) Thuật ngữ này chỉ những lần đầu thai tiếp nối nhau, trạng thái bị luân chuyển của một loài Hữu tình khi chưa đạt giải thoát , chứng ngộ Niết-Bàn . Sau khi tái sinh, phần lớn các chúng sinh sẽ không còn nhớ gì về kiếp trước đó. Các chúng sinh sẽ có một cuộc đời mới. Việc chúng sinh sẽ tái sinh vào cõi nào sau khi chết có thể dự đoán được nếu quan sát cận tử nghiệp của chúng sinh đó. Cội nguồn của luân hồi từ đâu, loài hữu tình có từ bao giờ…, những câu hỏi này đã được nhiều người nêu lên nhưng Phật tuyệt đối không trả lời những sự thắc mắc vô bổ này vì theo Phật, chúng chẳng giúp ích gì trên con đường tu tập. Niết-Bàn, sự giải thoát khỏi luân hồi chỉ có thể thực hiện trong kiếp làm người; trong tất cả con đường tái sinh khác chúng sinh không thể đạt Bồ-đề vì không có đủ khả năng nhận thức được yếu tố chính của luân hồi, đó là tham và vô minh. Muốn thoát khỏi luân hồi thì cần phải dứt được nghiệp chướng do dục giới mang lại; muốn thoát khỏi nó, theo Phật, chỉ có con đường bát chính đạo mới dẫn con người đến cõi Niết-Bàn. Trong Đạo Phật, vào thời điểm sắp chết , tâm thức (thức của những giác quan khác nhau, chẳng hạn như nhãn thức, nhĩ thức,...) hoạt động như hạt giống cho sự sản sinh một tâm thức mới trong một cấu trúc sinh học mới, dẫn đến ý chí thúc đẩy tại thời điểm của cái chết (là điều tự chúng tiêm nhiễm bởi những sự thúc đẩy của ý chí kiếp trước). Đạo KiTô và Đạo Phật: Cả hai bên đều nhìn nhận về sự kiện vô thường Là người Việt Nam, chúng ta cần tìm hiểu về Đạo Phật là đạo đang có nhiều người theo. Chúng ta cần biết sự tương đồng lẫn sự dị biệt giữa Đạo Kitô và Đạo Phật. Chúng ta tôn trọng niềm tin và quyết định của người theo các tôn giáo khác, nhưng chúng ta cần biết sự thật về sự khác nhau giữa các tôn giáo để khỏi mơ hồ và khỏi hiểu lầm. Những điểm tương đồng giữa Đạo Phật và Đạo Kitô: Cả hai bên đều nhìn nhận về sự kiện vô thường. Nhìn cuộc đời chúng ta thấy sự đổi thay. Không có gì là vĩnh viễn cả, cỏ khô, hoa rụng, đế quốc nầy hưng thịnh rồi suy đồi, người ta sống rồi người ta chết. Đời sống con người sinh ra, lớn lên, trở nên già, mắc bệnh rồi chết. Đó là vô thường. Cả hai bên đều nâng cao các tiêu chuẩn đạo đức. Cả hai đều dạy mọi người phải nói thật, kỷ luật, tâm trí tinh sạch, thương người. Cả hai đều cấm giết người, cấm gian dối, cấm tham muốn tình dục, cấm nói dối, tham ăn, và say sưa. Trong Đạo Phật có Ngũ Giới và Bát Chánh Đạo thì trong Đạo Kitô có Mười Điều Răn. Cả hai bên đều nhấn mạnh đến sự suy gẫm và kỷ luật tự giác. Cả hai bên đều khen ngợi sự thương người và kính trọng sự sống. Đạo Phật dạy hãy từ bỏ mọi ham muốn, Đạo Kitô dạy hãy giữ mình khỏi những dục vọng thấp hèn và ô uế. Đạo Phật phái Đại Thừa tin nơi thiên đàng và địa ngục với phần thưởng hay hình phạt tương lai cũng tương tự như quan niệm về tương lai thưởng phạt của Đạo Kitô. Cả hai đều nói về sự bình an trong tâm hồn (Mục Sư Nguyễn Văn Huệ) Đạo Kitô với Luân hồi - LTCG (09.04.2012) Chuẩn bị cho đại lễ Phục sinh, đức hồng y Godfried Daneels TGM Malines (Bỉ) đã cho phổ biến thư mục vụ mang tựa đề “Bên kia cõi chết” trong đó ngài nhấn mạnh những khác biệt căn bản giữa đức tin Kitô giáo vào sự Phục sinh và niềm tin vào Luân hồi. Về sự Phục sinh được đề cập thì đây không phải sự sống lại của Đức Kitô nhưng là của mọi con người sau khi chết “Cái chết không có nghĩa là sự kết thúc của hữu thể nhân loại, họ vẫn tiếp tục sống bên cạnh Thiên Chúa là Đấng đưa họ vào mãi mãi trong cuộc sống mới cùng với một thân xác được tôn vinh, tất cả những điều này vì cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô Đấng không ở lại trong mồ nhưng quyền uy Thiên Chúa đã làm cho Ngài về lại cõi sống” (KinhThanhvn.org) Còn đây là cái hiểu về Luân hồi “Sau khi chết, hữu thể nhân loại trở về lại cuộc sống dương thế nhưng là trong một thân xác khác. Tiến trình này thay đi đổi lại một số lần không xác định được, như vậy có khả năng “làm lại cuộc đời” (kinhThanhvn.org). Sự khác biệt ấy thế này - Phục sinh được hiểu như là con người chỉ sống có một kiếp sống và sau khi chết đều được về sống… bên cạnh Thiên Chúa. Còn - Luân hồi thì phải trải qua vô số kiếp không thể xác định. Lập luận sau khi chết, con người đều được… phục sinh còn được lập lại thêm một lần nữa. Tóm lại, Đạo Phật và Đạo Chúa đều có quan niệm về sư kiện “Vô thường” - “Luân hồi”, nhưng diễn tả hơi khác nhau. 2. ĐỊNH MỆNH Một số người tin rằng những diễn biến xảy ra trong cuộc đời đã được an bài sẵn. Khoa chiêm tinh (astrology) tin rằng những diễn biến trên quả địa cầu và tánh tình con người đều bị ảnh hưởng bởi những vị trí ngôi sao trên trời. Nếu ta sanh vào ngày tháng nào đó thì sẽ bị dấu ấn của những vì sao ảnh hưởng lên tánh tình và những diễn biến trong cuộc đời. Những người đó tin rằng ngay khi sanh ra là định mệnh đã an bài rồi, không ai chạy khỏi hết. Thí dụ người tuổi Sửu thì trong cuộc sống sẽ trải qua những năm thuận và năm kỵ tuổi. Năm thuận và kỵ như những cái đèn xanh đèn đỏ của đời người. Năm thuận thì gặp đèn xanh nhiều, làm gì cũng êm xuôi và năm kỵ thì trường hợp ngược lại. Người đạo Kitô giáo tin rằng những gì xảy ra cho họ là do ý muốn của Đức Chúa Trời. Chúa đặt đâu ta ngồi đó. Có người Chúa đặt vào hoàn cảnh giàu sang, còn người khác bị lâm vào hoàn cảnh nghèo đói. Ta không cãi ý Chúa được. Ta cần cầu nguyện để cho Chúa thương xót mà thay đổi hoàn cảnh cho ta. Có thể những hoàn cảnh khó khăn là những thử thách nên ta không nên than trời trách phận. Một số con chiên còn mang mặc cảm tội lỗi là mình đã làm gì khiến Chúa phật lòng nên Ngài mới đặt mình vào hoàn cảnh khổ sở. Người Phật tử thì tin rằng định mệnh là nghiệp. Mình đang ở hoàn cảnh xấu là do mình tạo nghiệp xấu từ kiếp trước. Mình nên “trả nghiệp” bằng cách chịu đựng một thời gian thì nghiệp sẽ hết. Khi cái nghiệp xảy ra thì mình không thay đổi được. Nhiều người cũng không muốn thay đổi vì e rằng làm như thế nghiệp sẽ nặng hơn. Giống như thiếu nợ thì phải trả cho chủ nợ, cứ khất nợ hoài thì nó chồng chất, mình sẽ trả không nổi. Có nghĩa là mình muốn thoát hoàn cảnh này thì sợ gặp phải hoàn cảnh xấu hơn nữa, như tục ngữ có câu: chạy ông mồ mắc ông mả. Những người tin hoàn toàn vào định mệnh thì sẽ rất thụ động. Nói đúng hơn họ sợ làm cái gì đó khác hơn để thay đổi hoàn cảnh, nên phải đứng yên cắn răng chịu đựng. Đó là những người rất lo âu trước cái vô định của cuộc sống nên thích tin vào một đường lối đã vạch định sẵn. Tha thứ là giải thoát khỏi định mệnh Hiểu được lực nhân quả tương tác ở nội tâm thì ta mới hiểu được tại sao các vị lãnh tụ tôn giáo kêu gọi sự tha thứ… Nếu không có tha thứ thì không ai có thể trở về cái vị trí an lạc ban đầu được. Ý nghĩa Cứu thế của Chúa Jesus là Ngài tự nguyện tha thứ những người hại Ngài, như một gương sáng giúp nhân loại vượt qua được sự vay trả đời đời của hận thù. Thù qua ghét lại có thể coi như là tội nguyên thủy của loài người. Tha thứ mới là phép mầu nhiệm thật sự. Phép mầu này ít ai nhận thấy được vì nó trong sáng trong sự khiêm nhượng tột bực chớ không phải là sự màu mè hào nhoáng của Superman hay điệp viên 007 làm được những điều phi thường. Hiểu như thế Chúa cứu thế không đến với ta từ hành tinh khác mà Chúa sẽ hiện diện trong chính ta nếu ta thực hiện được sự tha thứ trong đời ta. Khi sống trong khiêm nhượng và tha thứ thì ta như con nhộng xé được cái vỏ của ngạo mạn để trở thành con bướm muôn màu. Ta không đợi đến khi chết mới được Chúa rước. Khi ra khỏi được cái vỏ của ngạo mạn thì ngay trong giây phút đó ta thấy Chúa hiện diện trong lòng ta. Phật thì khuyên ta nên hỷ xả, có nghĩa là bỏ qua trong sự vui vẻ. Ở dưới biển, có một loài cua thích sống trong vỏ sò (hermit crab), khi cua lớn lên thì nó phải vui vẻ bỏ cái vỏ sò nhỏ để tìm cái lớn hơn chọn làm nhà. Hỷ xả cũng như thế, là từ bỏ sự nhỏ mọn để nhìn thấy sự rộng lượng. Hỷ xả là một phương pháp trị cái bịnh của ngã (cái tôi). Nếu ta cứ bám vào tiền tài, sắc đẹp, danh lợi thì cái lòng tham và sân của ta càng ngày càng lớn. Khi cảm thấy ta được càng nhiều (sở đắc) thì ngạo mạn càng tăng theo. Sự đời vô thường làm cho ta không bao giờ giữ được mãi mãi những gì mình muốn vì thế lòng tham ngày càng tăng trưởng. Khi có ai tước đoạt những gì ta đang được thì ta sanh lòng bực tức sân hận. Tham và sân là nguyên nhân chính của lo âu. Tham có thể hiểu theo nghĩa rộng là muốn đem về cho ta vì sợ để lâu thì ta sẽ hết được phần lợi đó. Sân là sự bực bội khi gặp hoàn cảnh nghịch ý ta... Bề mặt bạo động của sân là chửi bới đánh lộn, còn mặt thụ động là “tự ái”, hờn dỗi để bụng. Bụt dạy ta nên thấy cái vô thường của cuộc đời để lúc được thì không tham và lúc mất thì không sân. Ta phải tập hạnh hỷ xả thì mới phát triển từ bi được. Tại sao tôn giáo nào cũng khuyên con người bố thí? Ta có thể hiểu tham, sân, si trên lý thuyết nhưng chỉ có hành động thực hiện sự ban cho mới giúp ta nhận thức rõ những hạn chế của ta. Thí dụ như khi cho mà ta thấy còn quyến luyến vật ta muốn cho thì lúc đó mới chợt nhận ra mình còn lòng ham muốn. Khi bớt lòng ham muốn đem về cho mình rồi thì mình mới thông cảm kẻ khác được. Đây là cách bố thí nhận thức của người có căn cơ cao. Người căn cơ thấp thì áp dụng bố thí trao đổi chớ không phải bố thí nhận thức. Bố thí trao đổi là bố thí để được hưởng phước lộc. Ta cho để lấy lòng đấng nào đó mà ta thờ phụng. Ta bố thí để được Chúa hay Phật ban phước lành hay phù hộ. Chỉ có bố thí nhận thức mới giúp ta phát triển tâm linh được. Định mệnh có hay không là do ta. Khi ta biết tập những phương pháp mở rộng nhận thức tâm linh thì cái khả năng ta thay đổi cuộc đời rất cao. Nếu ngược lại ta thụ động đổ thừa cho số mạng hay ngồi đó chờ một phép lạ xảy ra thì lúc đó định mệnh có thật vì ta không tận dụng khả năng thay đổi cuộc sống của ta. Nói một cách khác, nếu ta tin có ma thì sẽ gặp ma, ta tin có Phật hay Chúa thì sẽ gặp những đấng mà ta tin. Nếu có người ở trình độ thấp thì tin vào định mệnh cũng có cái lợi của nó là lòng tin đó giúp họ chấp nhận những biến cố xấu và trải qua những đau khổ cuộc đời dễ dàng hơn. Họ không than trời trách phận hay sanh lòng ganh ghét hoặc hận thù vì “đó là số mệnh của mình”. Tuy nhiên nếu ta có trình độ cao thì nên tập những phương pháp giúp tâm tĩnh lặng vì đó là phương pháp nhanh và gọn để “chuyển nghiệp” dẫn ta đến hạnh phúc ngay trong đời này. Phương pháp này cũng giúp ta hiểu các tôn giáo một cách sáng tạo chớ không kẹt vào chữ nghĩa văn tự nữa. Bất kỳ độc giả ở tôn giáo nào, khi mỗi người trong chúng ta phát triển được ý thức tâm linh qua tâm tĩnh lặng thì ý thức này sẽ cộng hưởng với nhau. Rồi một ngày nào đó nó sẽ trở thành ý thức tâm linh cộng đồng (collective spiritual consciousness) làm xoay chuyển xã hội vật chất. Chúng tôi hy vọng sẽ có một ngày ý thức tâm linh cộng đồng sẽ phát triển đến độ mà con người sẽ nhận thức rằng những tôn giáo đều hướng về một con đường chung: đó là con đường tâm linh (spiritual way). Lúc đó con người sẽ sống hạnh phúc an bình ở một kỷ nguyên mới. Ta cần có về một triết lý sống có thể giúp ta có hạnh phúc ngay trong đời này, và đưa những dẫn giải y khoa rất lý thú! (BS Thái Minh Trung). LỜI KẾT Đạo Phật và Đạo Chúa đều có quan niệm về sư kiện “Vô thường” - “Luân hồi”, nhưng diễn tả hơi khác nhau. Tha thứ là giải thoát khỏi định mệnh: Hiểu được lực nhân quả tương tác ở nội tâm thì ta mới hiểu được tại sao các vị lãnh tụ tôn giáo kêu gọi sự tha thứ... Nếu không có tha thứ thì không ai có thể trở về cái vị trí an lạc ban đầu được, một triết lý sống có thể giúp ta có hạnh phúc ngay trong đời này, và đưa những dẫn giải y khoa rất lý thú! Những hiểu biết về kiếp trước kiếp sau giúp chúng ta sống an nhiên tự tại. Đối với người viết, thế giới kia cũng rất thật như thế giới này. Khi người thân qua đời thì đau buồn là chuyện thường tình, nhưng không nên tỏ ra bi thương thái quá… THƠ NHẠC về Vô thường, Nhân quả và Định mệnh Niệm khúc cuối Dù cho mưa ta xin đưa nhau đến cuối cuộc đời… (Ngô Thụy Miên) Ngày chia tay sớm muộn gì cũng tới Ở lại đừng buồn tiếc nhớ thương nha! “Khi tôi chết hãy mang tro ra biển Ngược trôi đi đưa hình hài phiêu bồng” (Du Tử Lê) Đừng cầu chúc tôi lên miền cực lạc Đời Vô thường - Nhân quả, một niềm tin Sau chết, Tái sinh chờ đúng thời cơ Kiếp sau tùy thuộc Nghiệp-duyên mỗi người! Tống biệt Lá vàng rơi rắc lối Thiên thai, Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi… (Tản Đà) “Nằm đây tưởng chuyện ngàn sau Lung linh nến cháy hai đầu áo quan Nhìn lên tươi tốt nắng vàng Tơ xanh trần thế, dịu dàng cõi âm” (Huy Cận, Hồ Dzếnh) Nhạc thính phòng, kinh cầu vang Sen hồng, huệ trắng bần thần tiễn nhau “Hồn ta là đốm tinh hoa” (Vũ Thành An) An nghỉ (Rest in peace - RIP) rồi về viễn phương tái sinh… Cát Bụi - Trịnh Công Sơn Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi Để một mai vươn hình hài lớn dậy. Ôi cát bụi tuyệt vời Mặt trời soi một kiếp rong chơi. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi Để một mai tôi về làm cát bụi. Ôi cát bụi mệt nhoài Tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi… Thinh Không (Thiền Ca 1 trong 10 bài của Phạm Duy ) Thinh Không/ Trống trải mênh mông Rộng rãi vô cùng/ Cao thấp vô lường À à a a bỗng/ Đầy ắp sinh trùng/ Tất cả là tôi/ Mà cũng là chung... Thinh Không/ Vắng vẻ trầm ngâm/ Lặng lẽ âm thầm/ Yên tĩnh vô cùng À à a a bỗng/ Rộn rã tưng bừng/ Nhất nhất trùng trùng/ Nhưng cũng là không… PHẠM VŨ (Tham khảo: Sách báo - Internet)
BỘ SƯU TẬP ĐÈN CỔ CỦA LM. NGUYỄN HỮU TRIẾT TỪ GÓC NHÌN BẢO TÀNG TS. Trịnh Thị Hòa Nguyên GĐ BTLSVN-Tp.HCM Linh mục Nguyễn Hữu Triết (Chánh xứ giáo xứ Tân Sa Châu, Quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh) là người mà tôi hân hạnh được quen biết từ cách đây hơn 20 năm (1997), khi Bảo tàng lịch sử Việt Nam - Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Bảo tàng lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh) bắt đầu có sự tiếp xúc với các nhà sưu tập để phối hợp trưng bày, giới thiệu các di sản văn hóa (DSVH) dưới dạng cổ vật (phụ lục 1) mà họ là chủ sở hữu. Có thể nói, lúc bấy giờ đa phần các nhà sưu tập cổ vật còn e ngại hợp tác với các bảo tàng nhà nước (nay gọi là bảo tàng công lập) vì chưa hiểu rõ chính sách của nhà nước đối với các sưu tập tư nhân, nhất là khi Luật DSVH chưa được ban hành. Tôi còn nhớ lúc đó chỉ có 7 nhà sưu tập, trong đó có Lm. Nguyễn Hữu Triết tham gia các cuộc trưng bày chuyên đề do Bảo tàng lịch sử Việt Nam - Tp. Hồ Chí Minh (BTLSVN-TPHCM) tổ chức như: “Việt Nam 2000 năm giao lưu văn hóa”, “Cổ vật thời Lý”, “Cổ vật thời Trần”, “Cổ vật thời Lê”, “Cổ vật thời Nguyễn”, v.v… Và, mặc dù sự hợp tác của 7 nhà sưu tập trên với BTLSVN-TPHCM ở buổi ban đầu đó chỉ thông qua việc cho bảo tàng mượn cổ vật trưng bày trong thời hạn 6 tháng, nhưng cũng đã cho thấy sự “dũng cảm” của họ, bởi thực tế khi đó có nhiều người sợ cho bảo tàng nhà nước mượn cổ vật thì nhà nước sẽ tịch thu luôn nên họ không dám tham gia. Dần dần, qua thời gian, càng ngày càng nhiều nhà sưu tập hiểu rõ chính sách của nhà nước thông qua “cầu nối” là BTLSVN-TPHCM nên đã tự nguyện tham gia trưng bày cùng với BTLSVN-TPHCM và về sau, phối hợp cả với một số bảo tàng khác nữa. Điều đáng nói ở đây là, trong số các nhà sưu tập hợp tác với BTLSVN-TPHCM trước đây và BTLS-TPHCM sau này, Lm. Nguyễn Hữu Triết là một trong số ít người đầu tiên, tích cực, nhiệt tình và liên tục phối hợp với bảo tàng trong việc “đưa” các di sản cổ vật trong bộ sưu tập của mình “đến” với công chúng ở Tp.HCM và một số nơi như: Huế, Hà Nội, Cần Thơ, Biên Hòa, Bến Tre, Hải Phòng, Hưng Yên, v.v… Cũng chính vì lý do trên, khi Lm. Nguyễn Hữu Triết có ý mời tôi viết một bài cho cuốn sách giới thiệu Bộ sưu tập đèn cổ của ông sắp xuất bản, mặc dù biết trình độ của mình còn hạn chế, nhưng vì sự quý trọng và nể phục ông, tôi không nỡ từ chối. Và, để viết gì đó về Bộ sưu tập đèn cổ của Lm. Nguyễn Hữu Triết, tôi nghĩ rằng, tốt nhất là nên xuất phát từ góc độ nghề nghiệp của bản thân, đó là nghề Bảo tàng. Sau đây là một số suy nghĩ của tôi: 1. Trong hoạt động bảo tàng, việc thu thập, sưu tầm hiện vật để xây dựng các sưu tập là vô cùng quan trọng, thậm chí là điều kiện tiên quyết để các bảo tàng ra đời, tồn tại, phát triển cũng như các sưu tập được hình thành và hoàn thiện. Tuy nhiên, để thực hiện điều đó, bảo tàng công lập (bảo tàng nhà nước) có thuận lợi hơn bởi bảo tàng thuộc loại này được nhà nước tạo cơ chế hoạt động, được cấp kinh phí, được hỗ trợ về mặt pháp lý…, còn các bảo tàng ngoài công lập (bảo tàng tư nhân) và các nhà sưu tập phải tự lo tất cả. Nói như thế để thấy rằng, một nhà sưu tập tư nhân như Lm. Nguyễn Hữu Triết để có được kết quả như hiện nay với một khối lượng lớn hiện vật (trên 4.000 món), thì chắc chắn vị Linh mục này đã phải gặp vô vàn khó khăn và thật vô cùng vất vả. Và, theo tôi, không cần tính đến cả mấy ngàn hiện vật thuộc sở hữu của Linh mục (phụ lục 2) mà chỉ riêng bộ sưu tập đèn cổ của ông với gần 1.500 chiếc có xuất xứ từ gần 20 nước trên thế giới, gồm: Việt Nam (chiếm 4/5), Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan, Hồng Kông, Ấn Độ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Mỹ, Israel, Đan Mạch, Hà Lan, v.v… thì cũng đã thật đáng trân trọng và nể phục. Tuy nhiên, giá trị của bộ sưu tập trên không chỉ thể hiện qua số lượng và xuất xứ của nó, mà còn thể hiện qua một số điểm nổi bật khác như: sự phong phú về chất liệu (đất nung, đồng, gang, sắt, antimoine, bạc, nhôm, thủy tinh, sành, gốm, sứ); sự đa dạng về kiểu dáng, màu sắc, hoa văn, cách tạo tác; sự khác nhau về chức năng sử dụng (dùng để chiếu sáng, dùng làm tín hiệu, dùng trong nghi lễ thờ cúng, thắp sáng trên bàn thờ gia tiên, trong các đình, chùa, đền, miếu…) cũng như về phạm vi sử dụng (trong nhà, tại sân vườn, ở nơi thờ cúng, trên tàu hỏa, tàu thủy, trên xe hơi, xe ngựa, xe đạp, v.v… Ngoài giá trị thể hiện qua hình thức của những chiếc đèn như vừa nêu, Bộ sưu tập đèn cổ của Lm. Nguyễn Hữu Triết còn có giá trị mang tính nhân văn bởi mỗi cây đèn đều gắn với những câu chuyện, những ký ức liên quan đến nó, chẳng hạn, đèn gốm thời Lê sơ, thời Mạc, thời Hậu Lê hay thời Nguyễn thì gắn với một làng nghề, một lò gốm truyền thống, hay một nghệ nhân, một người thợ làm gốm nào đó, thậm chí cả câu chuyện về sự gian truân của nhà sưu tập để giữ lại cổ vật đó cho mai sau…; hoặc, những cây đèn dầu cũng có thể gợi lại những kỷ niệm còn lưu giữ trong ký ức của mỗi người về thời tuổi trẻ như: khi sử dụng cây đèn dầu để đi học bổ túc văn hóa thời hòa bình mới lập lại, khi ngồi học dưới ánh đèn dầu trong căn hầm tránh bom thời chiến tranh, khi thắp nén nhang từ cây đèn dầu đặt trên bàn thờ để tưởng nhớ Tổ tiên v.v… Tất cả những câu chuyện, những ký ức gắn với cây đèn sẽ giúp cho mọi người, nhất là những thế hệ trẻ hiểu sâu hơn về thời quá khứ, từ đó, càng trân trọng những gì mà tiền nhân đã tạo lập và để lại đến ngày hôm nay. 2. Căn cứ vào thực trạng Bộ sưu tập đèn cổ mà Lm. Nguyễn Hữu Triết là chủ sở hữu và đối chiếu với khái niệm “Di sản văn hóa vật thể” và khái niệm “Sưu tập” hiện vật bảo tàng (phụ lục 3) quy định tại khoản 9, điều 4 - Luật DSVH được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2002 thì đây là một Bộ sưu tập có số lượng vô cùng lớn các Di sản văn hóa vật thể dưới dạng di vật, cổ vật, đồng thời Bộ sưu tập trên đã đáp ứng các tiêu chí cần thiết của một sưu tập hiện vật bảo tàng, bởi đó là một tập hợp các di vật, cổ vật được thu thập, gìn giữ, sắp xếp theo những dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu. Bên cạnh đó, sưu tập này có thể đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về một số vấn đề liên quan đến lịch sử xã hội của Việt Nam qua các thời kỳ mà các hiện vật đó được sản sinh như: về đời sống sinh hoạt, truyền thống văn hóa, nghề thủ công cổ truyền, quan niệm thẩm mỹ… Vì vậy, tôi cho rằng, nếu có điều kiện thành lập bảo tàng, Bộ sưu tập đèn cổ đồng thời cũng chính là những di sản cổ của Lm. Nguyễn Hữu Triết sẽ trở thành một bộ sưu tập hiện vật bảo tàng đúng nghĩa và rất có giá trị không chỉ đối với bảo tàng của ông, mà cả đối với hệ thống bảo tàng ở Việt Nam (bao gồm cả bảo tàng công lập và bảo tàng ngoài công lập). 3. Tôi được biết, tính đến nay, ở Việt Nam đã có 2 bộ sưu tập tư nhân về đèn cổ được đề cập đến qua một số phương tiện truyền thông, gồm: Bộ sưu tập của Lê Công Anh Đức ở TPHCM (phụ lục 4) với gần 500 chiếc và bộ sưu tập đèn cổ của Bác sỹ Trần Văn Huy ở Nha Trang với gần 300 chiếc. Những đèn cổ thuộc cả 2 bộ sưu tập trên đều có xuất xứ từ Việt Nam và một số nước trên thế giới. Ngoài ra, còn có sưu tập đèn dầu bằng gốm với 100 chiếc có xuất xứ từ một số lò gốm ở miền Đông Nam Bộ vào đầu thế kỷ 20 của nhà sưu tập Vũ Kim Lộc ở Tp.HCM. Sưu tập này đã được ông tặng cho BTLSVN-TPHCM vào năm 1999. Như thế, so với các bộ sưu tập đèn cổ khác ở Việt Nam, tính đến thời điểm này, Bộ sưu tập đèn cổ của Lm. Nguyễn Hữu Triết là bộ sưu tập lớn nhất. Và, Bộ sưu tập này cũng đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục là Bộ sưu tập đèn cổ nhiều nhất tại Việt Nam (2005). Cùng với việc tôn vinh trên, ông còn được nhiều người ví như một vị “thần đèn” hay Người “chép sử” bằng đèn cổ. Liên quan đến bộ sưu tập trên, còn một điều đáng quý cần nhắc đến nữa là, hiện nay, tuy tuổi đã cao nhưng với cái tâm cao cả đối với việc bảo tồn và phát huy DSVH dân tộc, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ của một Linh mục đối với Giáo hội và giáo dân thuộc giáo xứ của mình, ông vẫn cố gắng tiếp tục công việc thu thập, sưu tầm bổ sung cho Bộ sưu tập đèn cổ của mình ngày càng thêm phong phú, đa dạng và hoàn chỉnh hơn nữa để qua đó, các thế hệ hôm nay cũng như mai sau có thêm cơ sở hiểu biết và trân trọng những di sản mà các thế hệ tiền bối đã tạo ra và giữ lại cho các thế hệ sau kế thừa. 4. Theo suy nghĩ của tôi, Bộ sưu tập đèn cổ của Lm. Nguyễn Hữu Triết là nguồn tư liệu bằng vật thật, là những chứng cứ xác đáng góp phần tìm hiểu đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử và cả của một số dân tộc khác trên thế giới thông qua bằng chứng là những chiếc đèn cổ, mà nếu không có những bằng chứng đó sẽ khó tạo được lòng tin cho mọi người, hay nói cách khác, nếu không có những bằng chứng đó, những nhận định, kết luận của các nhà nghiên cứu liên quan đến những chiếc đèn dầu sẽ kém tính thuyết phục bởi như Ông Cha thường nói: “trăm nghe không bằng một thấy”. Có thể nói, với hơn 20 năm dày công tìm hiểu và sưu tầm, đến nay, Lm. Nguyễn Hữu Triết đã có được một Bộ sưu tập đèn cổ rất lớn về số lượng và rất cao về chất lượng. Với bộ sưu tập này, ông đã đóng góp cho kho tàng DSVH nước nhà một nguồn di sản đèn dầu rất có giá trị, góp phần vào việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam mà từ trước cho đến nay, chưa có ai làm được. 5. Với việc một cá nhân như Lm. Nguyễn Hữu Triết đã tạo dựng được một bộ sưu tập đèn cổ đồ sộ như trên còn góp phần chứng minh sự đúng đắn của chủ trương “xã hội hóa hoạt động bảo tàng” của Đảng và nhà nước Việt Nam nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ, tâm huyết, cơ sở vật chất… của các tổ chức và cá nhân để cùng với Nhà nước đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Để thực hiện mục tiêu đó, nhà nước đã từng bước tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân xây dựng các sưu tập tư nhân và tiến tới việc thành lập các bảo tàng khi có thể (tính đến cuối năm 2016, ở Việt Nam đã có 31 bảo tàng tư nhân hay còn gọi là bảo tàng ngoài công lập). Thực tế đó cho thấy, nếu không có chủ trương “xã hội hóa hoạt động bảo tàng” với những quy định mới trong Luật DSVH thì các cá nhân khó có thể, thậm chí không thể tiến hành việc sưu tầm một cách công khai để có được những sưu tập tư nhân như hiện nay và tất nhiên, cũng sẽ không có nhà sưu tập nào dám “công khai hóa” sưu tập của mình thông qua việc xuất bản sách để giới thiệu bộ sưu tập của bản thân như một số nhà sưu tập đã làm trong những năm qua và Lm. Nguyễn Hữu Triết đang làm như hiện nay. Và, thực tế cũng đã chứng minh rằng, sự ra đời và phát triển của các sưu tập tư nhân và các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam từ khi có chủ trương xã hội hóa hoạt động bảo tàng của Đảng và nhà nước đã góp phần đẩy mạnh hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH nước nhà. Riêng đối với Lm. Nguyễn Hữu Triết, tôi biết rằng, ông không chỉ muốn phát huy giá trị của các di sản cổ vật trong bộ sưu tập đồ sộ của ông, trong đó có Bộ sưu tập đèn cổ thông qua việc phối hợp trưng bày hay xuất bản sách, mà ông còn có tâm nguyện thành lập bảo tàng để thuận lợi hơn trong việc “đưa” các di sản đó đến với công chúng, nhất là thế hệ trẻ để những người trẻ có điều kiện hiểu thêm về các DSVH của dân tộc mà các thế hệ tiền nhân đã tạo lập và trao truyền cho thế hệ này. Theo tôi, nếu tâm nguyện của Lm. Nguyễn Hữu Triết được thực hiện sẽ rất hữu ích bởi cách bảo tồn di sản tốt nhất và có trách nhiệm nhất chính là việc tìm cách phát huy giá trị của chúng một cách hiệu quả nhất và bảo tàng sẽ là nơi có điều kiện thuận lợi để làm công việc trên. Vì vậy, các tổ chức Giáo hội nên hỗ trợ nhà sưu tập Lm. Nguyễn Hữu Triết có nơi để làm bảo tàng hoặc chí ít cũng có được một nơi để trưng bày trọn vẹn Bộ sưu tập theo tâm nguyện của ông. Trên đây là một vài suy nghĩ của tôi về Bộ sưu tập di sản đèn cổ của Lm. Nguyễn Hữu Triết từ góc nhìn Bảo tàng. Và, để kết thúc bài viết này, một lần nữa, tôi xin tỏ lòng trân quý và ngưỡng mộ đối với nhà sưu tập Nguyễn Hữu Triết - một vị Linh mục đã dành cả đời mình đóng góp cho Giáo hội và lo cho giáo dân, song, vẫn kiên trì và cần mẫn góp sức mình vào sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị DSVH dân tộc. Tp.HCM, tháng 01/2018 TTH - ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Khái niệm Cổ vật trong Điều 4 - Luật DSVH ban hành năm 2002: […] 6. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên. Phụ lục 2: Khái niệm “Di sản văn hóa vật thể” và khái niệm “Sưu tập” trong Điều 4 - Luật DSVH ban hành năm 2002: […] 2. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. […] 9. Sưu tập là một tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia hoặc di sản văn hóa phi vật thể, được thu thập, gìn giữ, sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử tự nhiên và xã hội. Phụ lục 3: Ngoài bộ sưu tập đèn cổ, Lm. Nguyễn Hữu Triết còn có bộ sưu tập cổ vật về Văn hóa trầu cau, trong đó có hàng trăm chiếc bình vôi với loại hình, kiểu dáng, chất liệu, niên đại… khác nhau cùng một số cổ vật quý hiếm thuộc các chủ đề Văn hóa Đông Sơn, đồ gốm sứ, tranh sơn dầu… Ngoài ra, ông còn sở hữu một bộ sưu tập sách cổ với trên 100 cuốn được in từ thế kỷ XIX, một bộ sưu tập truyện Kiều bằng chữ Hán - Nôm với 27 cuốn và 170 đầu sách Kiều bằng nhiều thứ tiếng khác nhau như: Nhật, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Rumani và gần 1.000 đầu sách có bài nghiên cứu về Kiều và Nguyễn Du; hơn 100 tạp chí có bài về Kiều và Nguyễn Du; gần 100 hiện vật và tranh về Kiều và Nguyễn Du… Phụ lục 4: Lê Công Anh Đức là kỹ sư vô tuyến điện sinh năm 1970 tại Hà Nội và mất năm 2002 tại Tp.HCM do tai nạn giao thông. Từ năm 22 tuổi, Lê Công Anh Đức đã cất công sưu tầm đèn cổ từ khắp các tỉnh thành ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới. Ước mơ của nhà sưu tập này là sẽ mở được một bảo tàng tư nhân để lưu giữ những chiếc đèn dầu cổ, từ đó, sẽ tích góp một nguồn kinh phí cho việc xây dựng trường học tại quê hương Điện Hồng, Điện Bàn, Quảng Nam. Sau khi Lê Công Anh Đức mất, có nhiều người ngỏ lời muốn mua bộ sưu tập đèn dầu cổ đó, nhưng gia đình từ chối bán. Và, để thực hiện ước mong của người con trai là giữ trọn bộ sưu tập hơn 500 đèn dầu cổ cho mọi người chiêm ngưỡng và phải mang lại công ích cho xã hội nên năm 2011, gia đình đã bàn bạc và thống nhất chuyển giao toàn bộ số cổ vật này cho Bảo tàng huyện Điện Bàn và năm 2012, trường mầm non Lê Công Anh Đức đã được xây dựng và khánh thành tại xã Điện Hồng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam từ nguồn kinh phí quy đổi bộ đèn dầu cổ có giá trị hàng tỷ đồng của Lê Công Anh Đức.
Phụ Bản II CHUYỆN NGẮN ĐỜI DÀI Bàn ăn hằng ngày của nhóm năm người hôm nay rộng thinh thang vì không có mặt hết hai người. Ông Hai Quân Nhân mất hồi đầu hôm do đột quỵ. Bà Sáu Chợ An Đông được người nhà rước về dự lễ sinh nhựt con của một đứa cháu ngoại. Nhân viên phục vụ đem đồ ăn tới, ba người ngồi ăn uể oải, kẻ nuốt không vô vì thấy người bỗng nghĩ đến ta, kẻ trầm tư vì tủi thân ở đây lâu húm người thăm viếng đã không thì chớ, người đoái hoài cũng vắng bóng luôn. Không nói mà cả ba người đều chớ hề rớ tới muỗng nĩa, ngồi dựa lưng vô ghế, chẳng thèm ngó ngàng gì đến ly sữa đầu ngày hay ly nước lạnh dùng để uống cả bụm thuốc như thường lệ. Dì Chưởng lên tiếng trước sau khi sửa lại cách ngồi, chồm tới để hai tay khoanh trên bàn: - Anh em sống ở đây quen nhau, bỗng nhiên thiếu đi một hai người, buồn hiu như cha chết mẹ chết. Chú Hoạt cười buồn bắt bẻ: - Mình từng tuổi nầy, cha mẹ nào vô đó mà chết nữa bà nội! Chú trấn an mọi người. Chắc chắn nay mai sẽ có ai vô thế chỗ của ông Hai Quân Nhân, rồi mình sẽ quen thôi. Còn Bà Sáu thì vài bữa về tới bây giờ chớ gì. Người ta còn con cháu cũng phải cho về nhà chớ, tội nghiệp là tội nghiệp bọn mình đây nè. Ai tới rước đâu! Dì Chưởng thắc mắc ngang: - Ờ mà ổng mất rồi tôi mới dám hỏi, sao gọi là Ông Hai Quân Nhân? Cũng chú Hoạt mau miệng: - Tôi có hỏi nhỏ ổng chuyện đó trước đây, được giải thích là ổng tự hào về đời binh nghiệp của mình nhưng không muốn nói đến chức vụ, ngại bị kết tội khoe khoang. Bác Trịnh chép môi: - Ờ chức vụ thời xa xưa quên đi là đúng. Chú Hoạt tâm sự thêm vì ý của mình chưa được nói hết: - Tôi thèm được có con cháu bu quanh quá đi. Thấy người ta có thân nhơn tới thăm, tủi thân cách gì! Không khóc mà nước mắt cứ tràn ra hoài, kềm cũng khó. Dì Chưởng đưa tay nầy vuốt vuốt mu bàn tay kia, rờ rờ sợi gân xanh hình chữ Y nổi lên như cọng rau muống già: - Ối! Thèm chi cho mệt, tủi chi vô ích! Tụi nhỏ tới cho có lệ chứ thương yêu gì ông bà già cúp bình thiếc như tụi mình. Ngó qua ngó lại một chút rồi rủ nhau đi shopping hay tạt vô tiệm làm tóc hoặc sơn móng tay. Tôi chứng kiến nhiều lần chúng nó ra dấu bằng mắt khi vừa mới nói đâu được chừng một hai câu. Cho có mặt vậy mà! Bác Trịnh khoan dung hơn, chậm rãi: - Có còn hơn không, người vô đây thăm, lạ mình còn mừng huống chi thân nhơn cháu chắt. Mà thôi, bữa nay nhóm mình còn ít người, để cho có chút ý nghĩa nào đó tôi đề nghị mỗi người nói chuyện đời mình cho nhau nghe. Chỉ kể một hai điều quan trọng thôi. Chuyện đau buồn hay chuyện vui cũng được. Để rút ra ý nghĩa cuộc đời vậy mà. Chúng mình gần ăn đất hết rồi, tốt xấu gì cũng là chuyện đã qua, không có gì phải mắc cở, cũng không có gì phải dấu diếm… Cứ tự nhiên kể, tuổi trẻ lầm lỡ thường tình phải không hai vị… Dì Chưởng liếm mép muốn nói gì đó nhưng chú Hoạt đã buột miệng: - Mình nghe rồi rút ra bài học, xin đừng dùng để nhìn xấu về nhau sau nầy. Cũng đừng bình phẩm khi người kia kể, cho bạn mình khỏi chia trí hay mất hứng vậy mà. May mà chúng ta còn tương đối mạnh khỏe và tỉnh táo, biết đâu mai đây có người muốn kể cũng không còn sức, không còn trí. Trời kêu đâu biết được lúc nào! Cả ba làm thinh một lúc hèn lâu, như bị câu nói tác động. Tiếng nhạc nhè nhẹ buổi sáng lan tỏa trong không gian yên tĩnh, người bốn bàn kế bên đã lác đác quay về phòng, chỉ còn lại vài ông bà phải ngồi xe lăn ngác ngơ cần có nhân viên lại đẩy và những người thích ngồi kế cửa sổ ngó ra vườn hay hóng nắng sớm mai. Chuyện mẹ nhân ái . Thể chất tôi èo uột ngay từ lúc mới ra đời nên người nuôi rất cực khổ. Ba tôi mất sớm, gánh nặng đó chuyển lên vai của má. Tôi thường bị bịnh ban cua, lưỡi trắng, bên trong miệng lại có đẹn nên ăn gì cũng đau rát, không muốn nhai nuốt, thường phun nhả. Những ai trông coi thường đánh tôi vì chuyện đó, nhưng má tôi thì không bao giờ, bà xuýt xoa, dỗ dành, khuyên tôi cố gắng ăn uống. Tôi mới 4, 5 tuổi, chẳng hiểu gì nhiều nhưng cảm nhận những lời ngọt ngào và cử chỉ thương mến của bà, thích cái vỗ tay của bà khi tôi cố gắng nuốt nên khoái được má đút cơm. Bà kiên nhẫn, còn tôi thì gượng đau rát. Mỗi bữa cơm là một cực hình cho cả hai má con, tốn nhiều thời giờ ít ỏi của bà, nhưng tôi chưa bao giờ thấy bà bực mình vì chuyện đó. Người ta nói tôi bị ban khỉ vì bịnh làm cho chưn tay tôi trở nên khẳng khiu và dài sọc, mặt mày ốm trơ xương, giống như mặt khỉ già. Mỗi tuần hai ngày má cõng tôi trên lưng khom khom đứng đón xe ngựa đi lên nhà thuốc Ông Tạ để được bắt mạch hốt hai thang thuốc đem về. Xe ngựa chật, ngộp, bó rọ trong lòng má, tôi thường khóc giãy khiến bà phải dỗ dành và xoa xoa lưng tôi mới cảm thấy dễ chịu mà nín khóc. Xe ngựa ngừng ở ngoài đường lớn, má lại cõng đi vô đường đất đỏ cả một đoạn dài, lắm khi trơn trợt sau cơn mưa. Nhiều lần bà té lên té xuống nhưng lúc nào tôi cũng cảm nhận là bà che chở cho tôi khỏi ướt, khỏi dơ còn bà sao cũng được, nhiều khi tới nơi rồi thì sình bùn đã hơi khô khô, dính vô cái áo túi của bà từng mảng, từng mảng. Trong khi chờ đợi được kêu tới số thẻ của mình, bà từ tốn lột quăng ra xa. Phòng chờ đợi quá đông nên nóng hầm, tôi thường đòi chạy ra sân, nhưng má tôi sợ con té, lạc đường hay bị chó cắn, bà thường giằng lại trong lòng, cam chịu sự giãy dụa, bất bình của tôi. Lúc nhỏ mình chỉ biết làm cho đã nư, lớn nên nghĩ lại, nhớ ánh mắt thương mến của bà khi nhìn tôi mà cảm động và thương má muộn màng, nghĩ là có chết cũng chẳng đền bù được. Vậy đó, tôi sống còn, tuy đau yếu, chậm lớn, nhỏ con, nhưng trong tim tôi chứa đầy ánh mắt bao dung và lòng thương mến bạt ngàn của má mà trời biển cũng còn nhỏ hơn. Còn nhớ năm đầu đi học lớp Năm, hầu như mỗi ngày đi học tôi đều khóc, và má phải cõng tôi tới trường, đứng lúp ló ngoài cửa lớp hèn lâu rồi mới len lén đi về. Trưa tan trường, trống chưa đánh tôi đã thấy bóng dáng má tôi với cái nón lá và cái áo bà bà quen thuộc. Lúc học năm thứ hai trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn thì ý định đi vào đường nghiên cứu văn học Việt Nam đã rõ nét sau khi đã sưu tập được một số tài liệu quan trọng cũng như đã khởi thảo được một vài tác giả cơ bản. Tất cả tư liệu và bản thảo đều được xếp vào một thùng giấy trước đây người ta dùng đựng sữa hộp, thời đó gọi đơn giản là thùng sữa, đêm đêm tôi lôi ra đọc đọc viết viết cần cù quên mệt mỏi. Má tôi học ít, chỉ đọc được chậm chạp những hàng chữ lớn trên báo hằng ngày mà thôi, thấy con mình quý thùng sữa giấy rách đó và say mê công việc nên bà thường yên lặng đặt kế bên con một ly nước trà đá chanh đường cũng như sẵn sàng xếp lại gọn gàng mỗi khi tôi bày binh bố trận. Năm đó, khi đang ngồi ở Thư Viện Quốc Gia ở đường Gia Long học bài thì nghe tin lửa cháy bên kia Cầu Ông Lãnh, khu nhà tôi ở phía đó, xóm Vĩnh Hội. Tôi lật đật kiếm đường về mà không được, các cầu đi về hướng có đám cháy đều bị ngăn chặn, đò ngang cấm không được cặp bến để cho lính chữa lửa làm việc và nhân viên công lực ngăn ngừa trộm cắp. Nóng ruột về tài liệu khó kiếm chắt mót bấy lâu nay, về quyển sách coi như đã hoàn thành được hơn một nửa, lòng tôi bồn chồn, lăng xăng lên xuống bên Bến Chương Dương ngó ngọn lửa mà thở dài, nhiều khi muốn cởi áo lội qua sông nhưng thấy có nhiều nguy hiểm nên đành đứng trong đám đông bên nầy trơ mắt ngó. Gần sáng, khi đám cháy tàn, tôi lò mò về khu nhà cũ. Mọi thứ đều hoang tàn, mấy cây dừa xưa lả ngọn nên thơ giờ chỉ còn trơ gốc đen xì giáp mép bùn khô, buồn bã. Cầu khỉ cầu ván đi vào hư vô, ao rạch cạn cùn phơi đáy trơ vơ những góc ván ngựa nám đen ai đó trong khi quýnh quáng đã chùi vội xuống nước. Tôi nôn nóng tìm má thì ít mà lo cho số phận thùng sách của mình thì nhiều. Biết bao nhiêu công trình tìm tòi và suy nghĩ. Biết bao nhiêu thời gian lục lọi nằn nì. Mất nó chắc tôi bỏ cuộc luôn chuyện viết lách mới nhen nhúm đầu đời. Khi gặp má tôi đương ngồi đăm chiêu, mệt mỏi, gương mặt lấm lem vài vệt lọ nghẹ, câu hỏi đầu tiên của thằng con là thùng sách của mình. Má tôi vui cười chỉ thùng báu vật của con mà bà đương ngồi trên đó, ý chừng để ngăn ngừa bọn hôi của đương hoành hành đâu đó. Tôi nhớ mình vì quá mừng, lính quýnh nên đã quên hỏi má về những vật dụng của riêng bà. Gần mười năm sau quyển sách đầu đời của đứa con vô tâm được in thì má nó đã đi vào nơi hằng cửu một vài năm trước. Cầm quyển sách đầu tiên thơm mùi giấy mực tôi không vui mà chỉ buồn nhớ má, mắc cở cho thái độ của mình ngày xảy ra đám cháy. Tôi nói thầm: Má ơi. Má viết quyển sách nầy chớ không phải con! Nếu má không cứu cái thùng sữa thì ngày nay đâu có sách… Mỗi khi cầm sách nầy lên là con nhớ hình bóng má với ly nước trà đá chanh hay cử chỉ chịu đựng khi dọn dẹp tài liệu bừa bãi của con ngày trước… Con cám ơn và xin lỗi má dầu muộn màng! Vậy mà chẳng phải chỉ lỗi lầm đó với má tôi thôi, còn nhiều lỗi lầm khác nữa. Cũng dàn trời mây luôn. Chỉ xin đơn cử một trường hợp. Từ khi cưới vợ và ra ở bên nhà vợ, tôi ít khi về thăm má mình. Vợ giàu không thích về thăm má chồng nghèo nên tôi chỉ về thăm má một mình, năm khi mười họa. Một hôm rảnh rang, bỗng nhiên nhớ tới má, tôi lái xe hơi về xóm nhỏ thăm bà. Quẹo vô cái chợ chồm hổm tự phát đầu xóm tôi nhói tim khi thấy má ngồi trước cái ông lò than đỏ đương nướng trở bánh tráng, bánh phồng. Dáng má khẳng khiu, ốm o, hốc hác. Tôi ngừng xe trước hai rổ bánh đầy ắp của má. Má vội vã giải thích rằng bà kiếm thêm chút đỉnh, ngồi không chẳng ích gì. Đi bán cho vui, ở nhà tù túng thêm bịnh. Tôi thương má gần như muốn khóc, năn nỉ bà về, bỏ hết ba cái thứ lỉnh kỉnh đó đi, má bán lời bao nhiêu một ngày, con sẽ đưa cho má tiền lời một lần bằng năm bảy tháng bán. Má nói bán lời chút nào hay chút nấy, tiền con để con xài. Năn nỉ hoài má cũng không chịu về, tôi đưa tay đè nhấn bể hết hai rổ bánh tráng nướng của bà, tôi bắt gặp ánh mắt tiếc rẻ của bà mà xót ruột. Thấy chuyện dằng co, người bán hàng kế bên khuyên má tôi nên về và hứa sẽ đem thúng mủng lại nhà chiều nay. Má tôi về nhưng nhứt định không lên xe hơi. Bà quơ cái khăn rằn choàng lên đầu, trước khi bước đi không quên ngó ngoái lại lò than nướng bánh tráng của mình. Má tôi vậy đó, không bao giờ đi xe hơi của con, dầu tôi năn nỉ bao nhiêu cũng vậy thôi, nhiều lắm bà chỉ rờ rờ khen xe đẹp mà từ chối lên xe với lý do đi không quen, chóng mặt, khó chịu, nếu đi rồi sẽ nhức đầu cả buổi… Bữa đó tôi ở nhà má, được ăn bánh tráng nướng, bánh phồng kẹo, những món tôi rất thích khi còn nhỏ mà nước mắt rưng rưng. Tôi đã bỏ bê má mình để chạy theo những công danh phù phiếm bấy lâu nay. Tôi hứa với lòng là sẽ thăm viếng má nhiều hơn. Tôi móc đưa bà tất cả số tiền có trong túi như nhiều lần trước. Má nhận với gương mặt thoáng ưu tư, ngần ngừ, không cười cười như những lần trước. Nhưng rồi tôi không có dịp thăm viếng má nhiều, má mất sau đó ít lâu. Anh Hai đưa tôi một gói giấy dầu cuộn tròn, mở ra mới thấy từng xấp từng xấp tiền, vẫn còn y nguyên như những lúc tôi đưa cho má mình trước đây. Phía dưới cùng của xấp tiền có tờ giấy xé ra từ tập học trò, chữ rất xấu của má: trịnh má thương con nhiều con không có lỗi gì với má hết. Má tôi viết không chấm, không phết, không viết hoa, chẳng ngay hàng nhưng tôi đọc được trong đó lòng bao la của má tôi, giờ đây kể lại chuyện nầy mà tôi vẫn còn muốn khóc. Chuyện đời đưa đẩy, tôi vào quân đội, mỗi khi hành quân tôi đều vái van má tôi trước, coi như vị Bồ Tát bổn mạng của tôi. Người ta kẻ đeo bùa cà tha, kẻ mang nanh heo rừng hay ngậm răng cọp, tôi thì mang hình ảnh má mình trong tim với lời xin lỗi muộn màng. Vậy mà đạn tránh tôi nhiều lần, lúc thì trợt trên nón sắt, lúc thì tránh trái tim, chỉ xuyên qua bả vai. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Chuyện lớn là chuyện lúc tôi linh đinh trên biển mới đáng nói. Cho nghỉ uống miếng nước thấm giọng nghe. Nói nhiều khô cổ quá! Nhỏ tới giờ mang hình ảnh mẹ trong lòng, hôm nay xin cám ơn Dì Chưởng với Chú Hoạt đã cho tôi có dịp nói lên lòng mình. Nói mà tôi cảm thấy bóng dáng má thấp thoáng trước mặt. Nhiều khi tôi ước ao, dầu thấy rằng vô lý, là phải chi mỗi người có cả chục người má, mới thỏa được cái tình má con. Nói tóm lại, tôi thèm tình mẹ, cho đến ngày nay dầu đầu bạc cổ lai hy, tôi vẫn không hiểu hết chiều sâu trong trái tim của Mẹ. Trở về chuyện vượt biên. Năm nào đó tôi được biệt phái về lại nhiệm sở cũ là Trường Trung học nhỏ trong quận Cần Đước. Má tôi quá vãng cũng đâu được mấy năm rồi. Dạy học thì cũng thường thôi, vai trò của thầy giáo dạy Việt Văn tôi làm nhiệm vụ chuyển tải những kiến thức văn học trung thực cho học sinh chẳng liên quan vì đến chánh trị đương thời. Sau biến cố 75 thì tôi bị cho ra ngoài biên chế, không được lưu dụng vì môn dạy của mình. Giữa một đất nước mọi thứ trao đổi kinh tế đều bị cấm đoán, không việc làm có nghĩa là thiếu thốn cùng cực và bị dòm ngó nặng nề. Chứng kiến thêm những bất công hằng ngày chung quanh, tôi phải bỏ đi thôi nếu không thì có ngày mang khổ lụy vì phản ứng trước những bất công. Và tôi vượt biên. Bốn ngày linh đinh trên biển, một đêm kia trong khi phần đông khách đi tàu đương ngồi ngủ chồm hổm dưới khoang tàu tối đen như mực thì một đóm lửa của cụm nhang do chủ tàu chuyền tay cho khách với giọng ai đó vừa ai oán vừa chịu đựng: - Bà con cầm một cây nhang cho gia đình mình, còn bao nhiêu chuyển cho người kế bên nha. Ai đạo Phật thì cầu Phật Bà, ai đạo Chúa thì cầu Đức Mẹ, tàu mình bị vô nước, tối quá không thấy chỗ lủng. Tàu sẽ chìm trong vài giờ nữa… Có tiếng ai đó nhẹ nhàng nhưng trong hoàn cảnh nầy nghe hơi bi hài: - Còn tôi đạo Cao Đài thì sao? - Thì vái Phật Mẫu! Tôi vẫn không biết tại sao mình buột miệng mau như vậy. Lại còn nói thêm: - Tên gọi thế nào thì cũng chỉ là một thôi, cũng là tạo thành bằng yếu tố T ừ Bi. Từ Bi mà, bà con biết đó! Tôi tiếp nhận cụm nhang, lấy riêng cho mình một cây, trao cho vợ một cây, còn bao nhiêu đưa cho người ngồi kế bên. Nước lên ướt đít lạnh lạnh. Tôi vái Phật Bà, tôi van vong hồn má tôi cho chúng tôi người lớn chết hết cũng được, không ân hận gì, nhưng các con tôi và tất cả con nít khác trên tàu xin được cứu sống, chúng vô tội, chưa từng hưởng điều sung sướng nào trên cõi đời nầy. Nước từ từ ngập tới háng, tôi cố gắng ngồi nhón chưn cho thân mình cao hơn, buồn ngủ quá, tôi thiêm thiếp trong mơ màng. Thời gian trôi qua, trong đêm tĩnh lặng chỉ có tiếng gió biển rít trong không gian, tới một lúc tôi nghe văng vẳng chủ tàu nói mơ hồ là tìm được lỗ lủng rồi, yêu cầu bà con có áo quần dư chuyển sang phía bánh lái tàu để bịt lỗ. Tôi không còn sức để mở mắt, mà dầu có mở lớn mắt cũng không thấy gì, hầm tàu tối đen như đêm ba mươi, thỉnh thoảng cảm thấy ai đó chuyển quần áo đụng vô mặt mình hôi hám dơ dáy. Trong mơ hồ tôi thấy hình ảnh Đức Phật Bà Quán Thế Âm và gương mặt vui vui của má tôi. Ánh mắt hai người đều hiền từ. Rồi giống như trong kỹ thuật điện ảnh, hình ảnh hai bà từ từ chồng khít lên nhau để rồi cũng một bức hình đó khi thì hiện lên má tôi, khi thì hiện lên Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi hứa với lòng là sẽ thờ Phật Bà khi sống sót, lập một cái trang thờ mẹ và kỵ giỗ long trọng hằng năm. Vậy mà suốt thời gian hơn hai mươi năm sống ở đây tôi mãi chạy theo công ăn việc làm lại không làm được cái trang thờ dầu chỉ là một tấm ván nhỏ đóng lên tường có dựng hình mẹ và một lư hương. Đứa con trai tôi mua nhà trước khi cưới vợ, hôm đám cưới nó dọn hình ảnh ba má tôi lên chừng độ hơn hai giờ đồng hồ rồi ngay sau khi đàng gái vừa ra về khỏi cửa nó với vợ mới cưới liền đem hình ông bà nội xuống. Nhà là nhà của nó, tôi không thể mở miệng nêu ý kiến gì, nói ra thêm dư lời mà chắc chắn không kết quả. Chúng sẽ xúm lại công kích tôi vụ hình thức, tôi còn quá Việt Nam nên chú ý tới chuyện nhỏ mọn, chuyện tào lao. Nhà của tôi còn bị chê bày biện sao nhà quê giống Việt Nam ruộng, huống chi nhà nó. Tôi chiêm bao thấy má mình nhiều lần nhưng chưa lần nào nghe má tôi nhắc đến lời tôi hứa lập trang thờ. Khi vô sống ở nhà Dưỡng Lão nầy, ngồi buồn tôi nhớ hình ảnh chồng lấp của má và Đức Quán Thế Âm, tôi nghiệm ra rằng má ta là Đức Bồ Tát của ta, là sự Từ Bi rót lên đời ta ngay từ lúc mới sơ sanh để ta sống sót. Phật Bà nói chung là má của tất cả mọi người. Má của người nào là Phật Bà mà chỉ có đứa con mới cảm nhận được thôi. Gần đất xa trời tôi mới cảm nghiệm được chơn lý đơn giản nầy. Tiếc quá! Tiếc nhưng biết làm sao hơn, nhân loại sanh ra để va vướng vào những mê lầm muôn thuở mà dầu ta có học xong bài học và được phép mầu làm cho trẻ lại nhiều lần đi nữa thì cũng mắc mê lầm lại y chang như cũ, cũng hờ hững và không thấu được lòng mẹ bao la… (còn tiếp) NGUYỄN VĂN SÂM (Victorville, CA, Aug. 21-28, 2011)
RIÊNG MỘT MIỀN TRỜI Có mai sớm âm âm từ trong gió Bước ai về nhè nhè giữa sương tan Cánh hoa xinh khe khẽ ánh nhụy vàng Dường như đón Dường như chờ Hương ấm Có trưa vắng ven bờ kênh róc rách Tiếng như vui như nhắc một ngày xanh Có cánh cò rẽ cánh lượn quanh Dường như ngóng Dường như trông Bóng khát Có chiều mộng lênh loang vồng hoa tím Sắc như tranh bẽn lẽn một chuyện tình Trong iu ấp lòng thơ lời như hát Dường như mơ Dường như níu Ngày xa Có mảnh trăng vẹt mùa nghiêng chênh chếch Giữa muôn vì tinh tú vẫn đơn côi Riêng một ánh giữa miền trời thăm thẳm Dường như quên Dường như nhớ Mịt mờ ĐÀM LAN KHÚC MƯA THU Bước bên nhau mưa tả tơi mờ mịt Mưa giăng giăng che khuất bóng người qua Hồn bâng khuâng tình xa cách nhạt nhòa Con ve sầu ướt đẫm nỗi chia xa... Mưa còn rơi phượng rũ buồn hiu hắt Giọt tình sầu hoen ánh mắt người thương Tí tách mưa rơi gõ nhịp trên đường Se sắt âm thầm đường vắng mờ sương Cơn mưa chiều tình lạc bước chơi vơi Quên hay nhớ - giận hờn sao không nói Cứ vô tư ai biết mình có lỗi Mưa vẫn rơi, ướt áo nước đầm đìa... Chuyến xe đã qua - tình xa xôi quá Xa cách thật rồi hồn bỗng chông chênh Có còn gì ... buổi chiều mưa tháng chín Ôi, tình yêu vụt mất ... cánh chim di ? Phạm Thị Minh-Hưng Hoa Quỳnh 2 Thơ nạm ngọc - uống làn hương dịu mát Khói hương trầm yểu điệu nhả men say Bướm tương tư hoa quý chập chờn bay Khẽ âu yếm chọn đóa Quỳnh hé nụ * Đêm tuyệt diễm trước tinh hoa vũ trụ Ôm vầng trăng mỹ lệ đẹp duyên thề Dỗi hờn mây - nhạc biếc gợn đam mê Vườn thượng uyển nẩy mầm Xuân thắm thiết * Tình nguyên thủy nở trong tim băng tuyết Hồn say sưa, rạng rỡ cánh môi tươi Nét diệu huyền giao động tuổi đôi mươi Đời rực rỡ - câu hò ngân thánh thót * Thơ bừng dậy gió chan hòa mật ngọt Cả hành tinh rộn rã tiếng hoan ca Tâm sự mông mênh - ý nhớ mặn mà Tay nâng nhẹ chén rượu đào mới chuốc * Đêm thanh thoát - trời pha lê trong suốt Mắt người xưa đắm đuối ngỡ chiêm bao Lời tự tình e ấp luyến lưu trao Mùi hương quý - ôi nghẹn ngào nhịp thở * Màu hoa trắng bâng khuâng mang nỗi nhớ Nhụy thanh tân - lộng lẫy dáng kiêu sa Như con thuyền chở mộng vượt phong ba Ngàn sao rụng, trang sử tình ngây ngất * Từng nhịp bước thời gian rung chuyển đất Hoa sắp tàn ủ rũ sắc mơ phai Phút anh linh ngàn kiếp vẫn thương hoài Lòng xao xuyến nên nghẹn lời tiếc nuối. NGÀN PHƯƠNG NHỚ VỀ EM Nhớ về em, mong em hạnh phúc Nhớ đến em tươi trẻ ngọt ngào Nhớ về em lòng dạ xôn xao Em tự lập tâm hồn trung thực Trái đất xoay tròn biết bao cơn lốc Anh mong em vững bước giữa đời Anh hiểu lòng em mong ước trên đời Là thanh thản bình thường giản dị Cảm ơn em đã cho anh chân lý Cảm ơn em cho anh quả ngọt ngào Bông Hồng yêu tươi trẻ biết bao Em hồn nhiên như mùa xuân đến Hãy giữ gìn những niềm thương mến Dù nơi đâu năm tháng bềnh bồng Tình ta biển rộng mênh mông Tàu em tới bến nắng hồng tươi xanh Chúc em đời mãi trong lành Chúc em mạnh khỏe an bình vui tươi Hy sinh cao cả niềm vui Bình yên kỷ niệm cuộc đời nở hoa. PHÙNG CHÍ TÂM MỪNG CHÚA GIÁNG SINH Hào quang sáng tỏa khắp nơi nơi Mừng Chúa Giáng Sinh đẹp đạo đời Non xanh nước biếc Hang Tạo Hóa Nơi Người giáng thế xuống trần ai * Lễ hội No-en rước Chúa Trời Khắp nơi cầu nguyện khắp nơi chơi Nhà thờ đông chật nghe cha giảng Kính lễ bên thềm có cả tôi * Kính lễ bên thềm có cả tôi Hoa thơm hảo tiến Tạ ơn Người Lòng son ghi tạc từ Xuân ấy Mãi mãi sau này cứ chẳng thôi * Thật chúc người cùng cứu giúp ta Sống cho phải đạo chớ gian tà Mới mong thoát khỏi vòng ngang trái Hòe quế xum vầy nở rộ hoa. HOÀNG THỊ VINH 24-12-2004 Hát một mình Tôi vẫn thích hát một mình Những bài hát xưa Những bài bolero dịu dàng tha thiết Tôi hát cho mình Giọng thì thầm Ru trái tim mình trong huyễn hoặc Câu hát trở về miền quá khứ Câu hát tìm về nỗi nhớ Vùng lá me bay Em về kẻo mưa Chuyện ngày xưa Ngày xưa của một cô học trò Áo trắng đơn sơ Mộng trắng trong Ngày nay tôi hát một mình Câu hát buồn não nuột Cát bụi cuộc đời Sầu lẻ bóng Thời gian mãi trôi Câu hát còn đọng lại Trong trái tim buồn đơn côi. HUỲNH THIÊN KIM BỘI GIA ĐÌNH ANH CHỊ CỦA TÔI (1) Hồ Gươm phẳng lặng như tờ Hàng liễu xanh thắm lơ thơ bên hồ Một buổi sáng thật tinh mơ Ra ngắm phố phường thủ đô Hà Thành Đây phố cổ là Hàng Đồng Kia là Hàng Bạc, Hàng Đường, Hàng Bồ Nhà Hàng Bồ của anh chị Để cháu du học sang Canada(2) Nhà đã cho thuê nguyên căn Anh chị tôi đang ở đường Bạch Đằng Cùng gia đình con gái đầu Quận Hoàn Kiếm phố Tràng Tiền gần bên Tôi về miền Bắc vài lần Tới nhà anh chị vài tuần ở ăn Anh chị là cựu quân nhân Đã qua rồi thời bao cấp gian nan Tới thời kinh tế thị trường Mở mang doanh nghiệp anh thời thành công Bây giờ anh chị thanh nhàn Du lịch nhiều nước, nhiều miền ước mơ Phúc đức cũng nhờ tổ tiên Đất nước thanh bình, nhân dân ấm no. QUAN THÚY MAI 06-6-2018 ----------- (1) Anh Dương Di Định với tôi là anh em đôi con dì ruột. (2) Hai cháu ngoại của anh chị học ở Canada. TÌNH KHÁCH Họa vần “Duyên tiền định” Đường đời vạn dặm nẻo gió sương Hoa nở bốn mùa ngát tỏa hương Khách đi khách lại lòng nhung nhớ Gửi đến muôn nơi những đoạn trường Mộng ngày thơ ấy còn dang dở Rải khắp nơi qua tình mến thương Rồi vội ra đi không tiếc nuối Nào biết khi nao đến cuối đường. LANG NGUYÊN TIỄN BIỆT Họa vần bài “Tình khách” Kính tặng hương hồn thi sĩ Lang Nguyên Đưa tiễn người anh theo gió sương Đau buồn chìm lắng trong khói hương Mắt lệ nén vào tim chất ngất Ba tuần nhang tỏa mấy đoạn trường Từ nay hai nẻo đời cách biệt Hạnh phúc chia ly bao tiếc thương Trần ai ngắn ngủi đành xa mãi Bao giờ hội ngộ chốn thiên đường. HOÀI LY TRĂN TRỞ Đời bể khổ, ta thường hay nói Xét cho cùng, tại lỗi chúng ta Làm ăn chẳng chịu thật thà Dối gian nên bị Trời la, Phật rầy Muốn giải thoát từ nay thay đổi Sống hiền hòa theo lối tiền nhân Đừng tham đừng dối thì hơn Cán cân tạo hóa chẳng phân giàu nghèo Sức con người trời trao có một Tại sao còn, ham hốt của dân Thôi thì dứt khoát cho xong Lấy ân báo oán, vạn lòng vui lây Sáng mở cửa, bạn thầy lui tới Tối đóng rào, tý hợi còn kêu Giao lưu đức độ mọi điều Sống vui sống khỏe trăm chiều vĩnh an Có như thế, họ hàng xem trọng Suốt cả đời khỏi ngóng việc nhàn Tự nhiên nó tới vinh quang Hết lo bể khổ, xóa tan mọi điều. LANG NGUYÊN NGƯỜI BẠN GÁI Tôi quen nàng mùa xuân năm trước Đến xuân này đã được tròn năm Dung nhan đẹp đẽ trăng rằm Thướt tha hoa nở, giắt trâm, lược cài * Nàng duyên dáng khoan thai ăn nói Tánh hiền lương theo dõi giúp người Ra vào, ngọc thốt, hoa cười Gia đình hạnh phúc vui tươi tháng ngày * Nàng nhà giáo ai ai kính mến Dạy học trò rèn luyện nhân tài Trồng người, nhiệm vụ cũng oai Trau dồi đèn sách, miệt mài sử kinh * Nàng là bạn với mình tri kỷ Đàm luận nhau đạo lý ở đời Mến nàng đẹp nết, đẹp lời Thương nàng, thương cả nụ cười duyên quê… Thanh Châu BUỒN (Trang 69 Bút Quan Hoài) Buồn đến đêm nay mới thực buồn Giời sao hiu hắt cảnh sao suông ? Bạn ham xe ngựa quên lời ước Chùa chán từ bi vắng tiếng chuông Tâm sự nóng ran lò lửa bốc Nhân tình lạnh ngắt hạt mưa tuôn Càng buồn càng nghĩ càng thêm chán Kìa cái đồng hồ tích tắc luôn. Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI KÍNH HỌA (Y đề vận) Ủ mộng non sông cảm cảnh buồn Thẫn thờ độc ẩm uống trăng suông Tự do ca ngợi ngâm thơ phú Dân chủ hô hào gióng trống chuông Chẳng vẹn tình nhà niềm tủi đọng Chưa tròn nghĩa nước giọt sầu tuôn Trông tàn đêm tối ngày tươi sáng Cờ đỏ sao vàng phất phới luôn. THANH VĨNH 2003 Quy Nhơn Quy Nhơn đẹp quá phảỉ không em ? Quy Nhơn trong vắt nắng hồn nhiên Quy Nhơn khúc khích nghiêng vành nón Reo giữa lòng anh những tiếng chim * Quy Nhơn hiền quá phải không em ? Quy Nhơn ngường ngượng nắng chiều êm Bàn tay mềm nắm bàn tay mạnh Bước lạ bềnh bồng giữa phố quen * Quy Nhơn hoa đào trên nét môi Anh đi hồ hải bốn phương trời Trang thư không hết niềm tâm sự Thắp lửa rừng khuya nhớ nụ cười * Quy Nhơn tóc dài như sóng đêm Ru anh êm ái giấc mơ hiền Mai kia sông núi mình quang rạng Dành trọn đời anh để ngắm em * Quy Nhơn lên trường mỗi sớm mai Anh ra núi lớn nối sông dài Bao giờ hai nửa trăng về một Em có so bì ai nhớ ai ? * Ngày xa Quy Nhơn ngày dài thêm Quy Nhơn hun hút phía mây chìm Chiều xưa còn đọng trên Gành Ráng Chút nắng vàng phai áo lụa mềm ? * Bây giờ mùa Đông hay mùa Xuân ? Quy Nhơn ngăn ngắt giấc mơ gần Anh ngoài sông núi xa lồng lộng Hướng một phương trời nhớ Tuyết Vân ! Thiếu Khanh Trảng Bàng - Tây Ninh, 12/1964 (Nghìn Xưa Để Lại) Ghi chú: Cách đây ít lâu TK tình cờ tìm thấy một “dị bản” bài thơ Quy Nhơn, chép bên ngoài (bản thảo) tập thơ Nghìn Xưa Để Lại. “Dị bản” này gồm 7 đoạn (thay vì 6 như được post trên Facebook và đăng lại trên một số website) với nhiều câu thơ khác với bài thơ trong tập bản thảo, và nhất là thời gian sáng tác được ghi tháng 12/1964, sớm hơn một năm, thay vì 12/1965. Có lẽ hồi đó khi chép lại mình không còn nhớ nguyên văn bài thơ ban đầu nên đã chép thiếu một đoạn và “sáng tác lại” những câu đã quên. Nhân hôm nay Facebook nhắc lại bài thơ này, TK đã edit bài thơ theo bản mới tìm thấy, và xác nhận bản được edit này là bản chính. (12/3/2018) CHÚC ĐÁM CƯỚI Se duyên đôi trẻ bởi tâm hồn Nẩy nở tình yêu kết nụ hôn Chú rể cô dâu vui mộng ước Sui gia hai họ thỏa tông môn Uyên ương tiến bước cùng gia tộc Ngày tháng qua mau sinh tử tôn Hạnh phúc gia đình luôn phước lộc Bách niên giai lão được trường tồn. QUANG BỈNH 2018 TỰ BẠCH Chó chạy về gà gáy ó o Tuổi già yếu đuối phải chăm lo Còn say hồn bút mê tình tứ Vẫn tếu nàng thơ đến tối mò Ân phước lộc trời chưa định mức Tình quê giữ vẹn trí không mờ Thời gian giao hảo mừng vui vẻ Nguyện ước gia đình mãi ấm no. QUANG BỈNH THẤT THẬP NIÊN Mậu Tuất xuân thu - thất thập niên Đường đời lắm cảnh - vẫn hồn nhiên Nghĩa tình vạn nẻo, đường từ thiện Giảng pháp muôn nơi, đạo hữu duyên Bút tự cao siêu, tài đức lộc Văn thơ xướng họa, trí tâm yên Nhị tam, nguyệt lục - vui mừng tuổi Hòa thượng chư tăng - thọ bá niên. PHƯỚC HẢI TẶNG THẦY (Khoán thủ) Phúc chí tâm linh đẹp tuổi già Như vườn xuân rộ nở, ngàn hoa Đông hòa trời đất, an làng xóm Hải thuận non sông, thịnh nước nhà Thọ giúp ích đời tăng trí lực Tỷ bồi lẽ sống vượt phong ba Nam kha quyến rũ đâu sờn dạ Sơn thủy mai chiều phỉ chí ta. PHƯỚC HẢI 23.6.2018 RƠI MẤT RỒI Chiến tranh tuy nghiệt ngã Nhưng mọi thứ rạch ròi Hòa bình thống nhất rồi Khó phân biệt thật giả * Sao nay khó phân minh Chân thực và giả trá Vì bọn đạo đức giả Lại cho là thanh cao * Ôi ! Phải sống thế nào Với cái lũ vô cảm Có trái tim đười ươi Kẻ được gọi là “người” * Thời thế lúc thăng trầm Danh dự và lương tâm Ngày xưa không còn nữa Họ đánh rơi mất rồi. LÊ MINH CHỬ SỐNG THẾ NÀO ĐÂY ? (2) Ung dung, tự tại, thảnh thơi, Khơi trong gạn đục dòng đời đổi thay Bị cuốn trôi theo dòng lịch sử Ta cảm thông nỗi đau khổ của con người Phút quyết định chọn lựa chỗ đứng cuộc đời Ta ở phía nhân dân và dân tộc. LÊ MINH CHỬ CHỈ MỘT LỜI THÔI Dẫu có là ngọn lửa Lửa bùng lên rồi sẽ tắt thôi Nhưng đâu phải tình yêu không còn nữa Phút tình thăng hoa đẹp mãi không thôi Để lúc ra đi vĩnh biệt cuộc đời Ta có thể nói lời mãn nguyện Chỉ một lời thôi trọn vẹn Tôi đã yêu và được yêu rồi ! 15.5.2007 LÊ NGUYÊN LỬA TÌNH YÊU HÀ NỘI - TRÀNG AN Chào những người con yêu Hà Nội Chào những trái tim mở hội Tràng An ! Giữa mùa thu rực rỡ nắng vàng Quên sao được ngày trở về phố cũ Năm cửa ô rợp trời cờ đỏ Như năm cánh hoa nở ngàn cánh sao bay * Tuổi xuân ngày đó như vẫn còn đây Ta vẫn mang trong lòng tia nắng Ba Đình, bóng nước Hồ Gươm huyền sử Vẫn nặng lòng phù sa sông Hồng cuộn đỏ Dù đi đâu xa khắp bốn phương trời Xuống biển lên rừng hay giữa trùng khơi Ta lại về đây có nhau giữa mùa thu hội ngộ Tóc ngả sương rồi tim còn thắm đỏ Mắt còn xanh bởi hồn thơ Còn rộn ràng tình khúc mộng mơ * Nào nối vòng tay xoay tròn luân vũ Hãy đốt lên ngọn lửa thiêng từ cội nguồn đất Tổ Lửa tình yêu Hà Nội - Thăng Long Lửa tình yêu Hà Nội - Tràng An. LÊ NGUYÊN 10.10.2011 TƯỞNG NHỚ Vào Nam nhớ quá người Em Tuy là hàng xóm mà xem ruột rà Em tôi hiếu nghĩa Ông Bà Kính Cha thương Mẹ sao mà thiết tha Giờ đây tôi ở phương xa Quê nhà báo tử Em ra đi rồi Nghe tin lòng dạ bồi hồi Mồ Em cỏ mọc núi đồi mờ sương Đâu đây vang vọng ễnh ương Nhìn xem di ảnh thê lương não nùng Em nằm dưới đất lạnh lùng Chị nơi trần thế nhớ nhung mãi hoài Lặng thầm tưởng niệm bi ai Ngắt cành hoa dại xin cài tặng Em. VŨ THÙY HƯƠNG TƯỞNG NHỚ 100 NGÀY ANH RA ĐI Thôi rồi Anh đã ra đi Trăm ngày tưởng nhớ chia ly não lòng Anh còn đâu nữa mà mong Từ đây tình nghĩa Vợ Chồng cách xa Nào ngờ Trời nổi phong ba Cháu - Con - Dâu - Rể xót xa đau buồn Bà con lối xóm tiếc thương Bạn bè quý trọng còn vương vấn hoài Anh nằm nơi ấy lạc loài Vườn hoang nhà trống chẳng ai chu toàn Anh ơi ! Em dấu lệ tràn Phương xa cúi lạy nén nhang lưu tình Ở nơi ấy ! Anh có linh Hãy về đón nhận thâm tình của Em Đứa Em gái út chưa quên Nén nhang tưởng niệm ước nguyền trao Anh. Em gái út VŨ THÙY HƯƠNG (05/6/2018) Tơ Vương Chiều mưa chia tay! Em về lẻ bóng Ta về cô đơn bóng lẻ. Em về ! Thu bỗng giăng mưa Trêu ngươi hò hẹn mộng đùa nhặt… Hương Trinh nguyên lưu dấu bên đường Để chàng lữ khách tơ vương say tình Tình ơi ! Sao nỡ phiêu linh Cho ta lẻ bóng một mình cùng Trăng Gom Hương Trinh giữa hồng trần Tỉnh - Say ! Say - Tỉnh ! Mộng gần nhớ xa Em về ! Lặng lẽ mưa qua Có nghe lạnh buốt ngọc ngà dáng… Hương Thu ơi ! Đừng nữa sầu vương Cho đời Trinh Nữ đoạn trường lẻ loi Thu ơi ! Đừng nữa lệ rơi Em về còn mãi nụ cười Thanh Xuân. HẢI ÂU BƯỚM VÀ HOA Nhớ xưa em là hoa hồng thắm Ta bướm đi hoang lạc bến chiều Mật ngọt lòng hoa ngất ngây nếm Ngẩn ngơ hồn bướm bỗng đăm chiêu. Từ đó đi về những nẻo xa Vui cùng mây nước với trăng hoa Sống đời hoang dã xa nhân thế Không cả tình thương một mái nhà.
Vườn hồng độ ấy nở nhiều hoa Bến cũ tình xưa lại ghé qua Ngan ngát hương yêu giờ hạnh ngộ Thương ai lệ thắm bỗng chan hòa. Một sớm tung tăng dưới ánh hồng Mơ màng đuổi bắt ánh sương trong Sương tan đời bướm theo mây gió Vắng bướm, tình hoa có não nùng ?
THANH PHONG KHẮC KHOẢI Ta dừng lại bên đường Nghe chân mình thắc mắc Sao cứ mãi phong sương Để chân này mỏi mệt ? Ta dừng lại bên đời Nghe gió lùa câu hỏi Đời nếu sẵn niềm vui Sao tay hoài vẫy gọi ? Ta dừng giấc mơ xa Nghe chính mình chất vấn Sao mãi ở trong nhà Lủ khủ chuyện ngô nghê ? Ta thử ngừng nghĩ suy Bỗng thấy mình cô quạnh Ta định chẳng làm gì Phải chăng, rồi mụ mẫm ? Lại dợm bước lên đường Tay níu hết phong sương Cho đêm đầy mộng ảo Cho mai lại khác thường… 07.4.2018 LAM TRẦN TÂM SỰ VỚI CON Ngôi nhà này ông nội con dựng lên Trên nền đất Tổ tiên để lại. Cha lẫm chẫm men tường vôi thơm ngái, Trong mắt vui ngời sáng của ông bà. * Giặc Pháp càn qua, bắn toác mái nhà Bom Mỹ giội, tường nứt dài hun hút. Kháng chiến trường kỳ - Pháp hàng, Mỹ cút, Cha mẹ trằn lưng hàn gắn mái, tường. * Ngôi nhà từng che mưa, nắng, gió, sương Cho gia đình ta ba thế hệ, Từng thấm mồ hôi, máu và cả lệ Của ông bà, cha mẹ, các con ! * Ngôi nhà ấp iu kỷ niệm vui, buồn Kèo cột mọt rồi, nóc thì cũng dột ! Nếu phải phá đi - cha đứt từng khúc ruột ! Chống đỡ làm sao cho khỏi sụp bây giờ ? * Thấp thỏm cha lo tường đổ bất ngờ, Chỉ hình dung… đã rùng mình kinh hãi ! Thôi… tùy các con, liệu mà xây lại Trên nền xưa nhà mới đẹp cao hơn ! VŨ ĐÌNH HUY TA SỐNG DUNG DỊ… Ta sống dung dị và tự nhiên như Cây, như Đá Không là công cụ trong tay ai để đánh chó, dọa người Dù Cây cũng hoảng hồn khi nhìn lưỡi búa Và Đá cũng rùng mình trước lũ thợ nung vôi… Trần Nhuận Minh WE LIVE SIMPLY… We live simply and naturally like trees, like stone… Being not the instrument in whoever’s hand to beat dogs and intimidate people Even a Tree turns terrified when seeing the ax And Stone also shudders upon facing the workers baking quicklime… Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn SÁNG QUA ANH ĐẾN… Sáng qua anh đến thăm em Thấy cha đứng ở bên thềm, tưới hoa Thấy em soạn sách trong nhà Chao ôi! Lộn xộn, toàn là sách… Tây Anh về bán cái xe Uây (*) Mua toàn sách Việt, xếp đầy một gian Nào là Sự tích chùa Hang Chuyện anh hùng Núp, Chuyện nàng Tiên Dung… Tặng em Em vứt lung tung Rằng: - Đồ thải thuở vua Hùng, ai mê… Anh nhìn gió động bờ tre Thương con cò trắng bay về, bơ vơ… Trần Nhuận Minh (*) Một thứ xe gắn máy (Wave) YESTERDAY MORNING I CAME… Yesterday morning I came to see you I saw your father standing on the threshold, sprinkling flowers I also saw you sorting out the books in the house Oh dear! It’s quite a confusion, all the books are… French ones I went back and sold the Wave moped (*) And bought only Vietnamese books which I arranged all over a room We have the history of the Hang (Grotto) pagoda The story of hero Núp, the story of Tiên Dung… (**) I offered them to you You throw them higgedly piggedly Saying: “These are discarded books from King Hùng’s time, who would care about… I looked at the wind that moved the bamboo hedge And had pity of the white stork that flew back, so lonely… Trần Nhuận Minh - Translated by Vũ Anh Tuấn -------------------- (*) Name of a type of moped (**) Names of folkloric works well-known in North, Centre and South Vietnam VÀI CÂU ĐỐ Ở NAM BỘ NGUYỄN PHÚC NGHIỆP Câu đố ở Nam Bộ rất phong phú, đa dạng. Nó có những sắc thái riêng hết sức độc đáo của một vùng đất mới được khai phá khoảng vài trăm năm trở lại đây. Cũng như ca dao, câu đố là một loại hình văn nghệ bình dân được quần chúng ưa thích và sử dụng rộng rãi ở khắp mọi nơi: khi cấy lúa dưới đồng, lúc dạo chơi trên đường làng, khi giã gạo trong sân, lúc chèo thuyền trên sông rạch v.v… Câu đố giúp mọi người được giải trí một cách tích cực; để qua đó, mỗi người tự rèn luyện óc phán đoán, nâng cao thêm năng lực quan sát, trình độ nhận thức, trí thông minh, sự ứng phó nhanh nhạy cho bản thân… Trước hết, xin được giới thiệu những câu đố đơn giản, mà lời giải đố đã có sẵn trong câu đố. Đối với dạng thức này, người giải chỉ cần tinh ý là được. Chị Xuân đi chợ mùa hè, Mua cá thu về, chợ hãy còn đông. (Bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông) Chị Hươu đi chợ Đồng Nai, Bước qua Bến Nghé, ngồi nhai thịt bò. (Huơu, Nai, Nghé, Bò) Ai đem chú ủi sang sông, Để cho chú ủi, ủi giồng khoai lang. (Con heo) Song, cũng có những câu đố rất khó giải đáp, mặc dù lời văn của câu đố rất hợp lý, hiện thực. Đối với trường hợp này, người giải đố phải “mạnh dạn” vận dụng lý lẽ của mình để đối đáp. Ví dụ: Con mèo không rách sao kêu mèo vá? Con cá không thờ sao gọi cá linh? Trăng bao nhiêu tuổi trăng già? Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non? Non cao ai đắp mà cao? Sông sâu ai bới, ai đào mà sâu? Tất cả các câu đố trên đều có lời hỏi. Vậy, vật đố là “bánh hỏi”. Đôi khi, người ta dựa vào cấu tạo của chữ quốc ngữ để ra câu đố, chẳng hạn: Bỏ đầu là loại trái ngon, Đứt đuôi đích thị là tên trộm gà. (Đó là trái hồng và con chồn, xuất phát từ chữ “chồng”) Tuy nhiên, đối với đa số quần chúng, câu đố dưới dạng nói láy được sử dụng rất phổ biến, phù hợp với tính cách hóm hỉnh, hài hước của dân chúng Nam Bộ. Ví như: Chè gì không ngán, chỉ ngán chè ghim (Chè ghim - Chìm ghe) Để câu đố thêm tinh vi, rắc rối; người ra câu đố thường kết hợp cách nói lái với miêu tả, khiến cho người giải đố, nếu chỉ lo tìm vật đố theo miêu tả thì sẽ không thể nào trả lời câu đố được chính xác: Bằng ngón tay nằm ngay bàn Phật, Tụng kinh rồi búng cánh bay xa. (Búng cánh - Bánh cúng) Cây xanh xanh, lá xanh xanh, Cái bông trên cành, cái trái cận mây. (Cận mây - Cây mận) Ngoài ra, ta cũng phải kể đến những biến thể của nó, mà chính cái này mới phản ánh đậm nét phong cách địa phương của câu đố. Đó là việc, nhiều từ ngữ được phát âm giống nhau, mặc dù những từ ngữ đó khác nhau về ý nghĩa và chính tả. Ví dụ: Vừa đi, vừa lủi, vừa mổ. (Lủi, Mổ - Lỗ mũi. Thanh hỏi đọc thành ngã) Chợ trong không bán, bán tránh chợ ngoài. (Bán tránh - bánh tráng. Âm “án” đọc thành âm “áng”) Trong đời sống hàng ngày nơi thôn dã, người dân lao động tiếp xúc với nhiều vật dụng vốn rất đỗi thân thiết đối với họ, như con trâu, chiếc cày, cây chuối v.v… và đó cũng là đề tài để người nông dân sáng tạo ra những câu đố hết sức khéo léo, thông minh, tài tình, thông qua lối miêu tả. Họ thường dựa vào đặc điểm, hình dáng bên ngoài của sự vật để ra câu đố, chẳng hạn: Cây xanh bông trắng, Lá quấn nhụy huỳnh, Móc ruột moi gan, Hai hàng chao lại. (Cây ớt) Mình dài một tấc, Áo mặc để da, Cha mẹ sinh ra, Vô ngôn vô ngữ, Đến ngày chí tử, Mới nói nhất ngôn. (Viên pháo) Hoặc cũng có khi, người ta dựa vào tính chất của vật đố để ra câu đố. Tỷ như “Nhỏ mà cay” (trái ớt hiểm); hoặc là: Cái gì nó bé nó cay, Cái gì nó bé nó hay cửa quyền. (Hạt tiêu - Đồng tiền) Đặc biệt, người dân còn kết hợp lối miêu tả với ẩn dụ, để câu đố thêm “hiểm hóc”, và người giải đố phải biết liên hệ với nhiều vật dụng thì mới trả lời được chính xác. Dây mong manh, trái mành mành, Không nấu canh mà để dành ăn sống. (Loài vật được miêu tả thành cây trái, đó là “sợi tóc” và “trứng chí” - trước đây phụ nữ thường cắn trứng chí!). Một bầy cá trắng nhảy lao xao, Cá chạch lại dòm, lấy nơm úp lại. (Vật dụng được miêu tả thành loài vật, đó là “nồi cơm sôi”) Một chổi mà quét hai hè, Quét đi, quét lại, rồi đè hang sâu. (Đuôi trâu) Ăn nằm ngửa, ngủ nằm nghiêng, Uống rượu thì kiêng, lại chuyên ăn thịt. Ăn rồi lại quỵt, rửa mặt đi nằm, Hỏi tới thì câm, ai mời lại đến. (Cái thớt) Đầu đội bình đinh hỏa Chân đạp mồ thủy thổ, Hồn thăng thiên độ, Thác phách nhập thần mồ. (Cây nhang) Em dòn anh quá si mê, Em già, anh lại nhún trề bởi đâu? (Con cá chán) Bên cạnh đó, so sánh vật đố với các sự vật của hiện thực khách quan cũng được quần chúng xây dựng rất tinh tế: Trong nhà bằng bắp tay, Ra đường bằng thúng giạ. (Cây dù) Thuyền long hai chiếc thuyền long, Mình rồng đuôi phụng, đánh đong hai hàng. Một chiếc thì chở năm nàng, Hai chiếc thì chở mười nàng mà đi. (Đôi guốc) Có những câu đố, ngay trong nội dung đố cũng có ý nghĩa trái ngược nhau, nhưng chính sự trái ngược ấy lại nói lên đặc điểm của vật đố. Ví như “Càng kéo càng thun” (Điếu thuốc); hoặc: Ngoài trắng như bông, Trong rối tơ vò, Đầu đội thúng tro, Đít ướt nhèm nhẹp. (Điếu thuốc) Ngoài ra, còn có một loại câu đố nói về các mối quan hệ xã hội, như cần lao, khuyến học, giao thiệp, hiếu hạnh, tình yêu, nghĩa vợ chồng v.v... mà người giải đố phải có sự suy diễn biện chứng, lôgíc thì mới đáp đúng: Ba đồng một chục đàn ông, Ta bỏ vào lồng, ta xách ta chơi. (Đàn ông thật rẻ quá; đó là cái rõ rẻ) Trời mưa vần vũ, bạn cũ xa rồi, Biết ai nương tựa lần hồi tấm thân. (Lời than thở của một người đang lâm vào cảnh hoạn nạn; đó là hòn than) Chúng chị là gái chung vàng, Đứng trên đỉnh núi mà ngang với trời. (Các cô gái này quả quá phách lối; đó là cặp phách - một dụng cụ âm nhạc) Tới đây ăn gởi nằm nhờ, Ơn ông chưa trả, mà rờ con ông. (Rõ là người vô hạnh này có tính phản phúc; đó là cái phảng - một nông cụ để phát cỏ) Em thì đi cấy ruộng bông, Anh đi cắt lúa, góp công một nhà. Đem về phụng dưỡng mẹ già, Muôn đời tiếng hiếu, người ta còn truyền. (Thật anh em gia đình ấy nêu một tấm gương lao động và hiếu thảo; đó là cái gương soi) Bao nhiêu lá rụng quét dồn, Bao nhiêu nợ bạn, hãy gồm trả cho. (Bạn bè như thế thật chí thiết; đó là cái bao) Cha già đã tám mươi tư, Ngày ngày gồng gánh còn dư sức thừa. (Ông lão quả là tráng kiện; vậy ông có tên là Mạnh) Móc mắt, gõ cóc (Móc mắt thì mù, gõ cóc thì u; đó là cây mù u) Vai mang khăn gói sang sông, Má kêu mặc má, con thương chồng con theo. (Rõ là cô gái phụ bạc má mình để theo chồng; đó là chim bạc má) Em ngồi trước mũi ghe lê, Ước chi anh được ngồi kề với em. (Từ “ước” và “ướt” ở Nam Bộ đọc giống nhau; đó là bánh ướt) Lên non khấn Phật tìm chồng, Phật tề mới phán đàn ông hết rồi. (Đàn ông hết thì các cô bị ở giá. Ở Nam Bộ, từ “giá” và “vá” đọc giống nhau; đó là cái vá) Chồng chết chưa mãn tuần, Ai kêu ngoài ngõ, xách quần chạy theo. (Cô gái bị phê phán ham chơi là rượn. Ở Nam Bộ, có một vài nơi, từ “rượn” đọc giống từ “gượng”; đó là cây gượng - một loại cây bắc dọc theo cầu, để vịn) Để câu đố thêm sinh động, đa dạng, không đơn điệu, có khi từ một sự vật, hiện tượng; nhân dân lại có nhiều cách ra câu đố khác nhau: Đầu giống cây duối, Cuối giống cây da, Da da chà, chà chà duối. (Chà duối - chuối già - nói lái) Cô khoe là cô chưa chồng, Cô ở một mình sao lại có con? (Cây chuối - nhân hóa) Bốn ông đạp đất, Một ông phất cờ, Một ông vơ cỏ, Một ông đổ phân. (Con trâu - nhân hóa) Hai hàng cột trụ, cột trụ hai hàng, Trước, giáo bạc nghinh ngang, Sau, cờ đen phất phới. (Con trâu - ẩn dụ) Qua những câu đố vừa trình bày, chúng ta thấy rằng câu đố phản ánh tri thức của nhân dân lao động, mà những tri thức này rất khái quát, rất chính xác mang tính cách tư duy trừu tượng rất cao, bởi chúng được nảy sinh từ sự quan sát tinh tế, bén nhạy. Đối với trẻ em, câu đố là một loại hình nghệ thuật rất tốt để các em nhận thức được thế giới xung quanh, óc tưởng tượng và trí thông minh. Có thể nói, câu đố là một “trò chơi” đầy trí tuệ của kho tàng văn hóa dân gian. ĐỖ THIÊN THƯ st.
Phụ Bản III TÔ VŨ MỤC DƯƠNG, MỘT KHÚC CA BI TRÁNG Câu chuyện người chăn dê nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc đã trở thành một điển cố gây nhiều xúc động trong văn chương và nghệ thuật cổ Việt Nam: Chí khí trai Tô Khanh thời Hán Mười chín thu một cán cờ không Hoàng Sĩ Khải Bức tượng dân gian của một nghệ nhân Việt Nam tạo hình Tô Vũ đang chăn đàn dê, vai khoác nón, ngồi tư lự, đăm chiêu như thả hồn về cố quốc, tay cầm chặt chiếc cán cờ chỉ còn một sợi dây tua gù cờ. Trên cánh đồng Bắc Hải mênh mông băng giá đó, con người cô đơn này chỉ có những con dê quấn quýt bầu bạn. Hồng Đức quốc âm thi tập của Tao Đàn Nhị thập bát tú do vua Lê Thánh Tôn chủ xướng, có viết về chuyện Tô Vũ nơi bể Bắc. Bể Bắc xuân chầy, dê chẳng nghén Trời Nam thu thẳm, nhạn khôn thông. Hoặc: Tô Lang nằm lỗ giá ăn sương, ruột sầu rười rượi. Vua Trần Trùng Quang, một ông vua kiên trì kháng chiến chống Minh, gởi tâm sự vào tấm gương Tô Công: Thú tinh chiên Hồ tặc chín hăm Gan thiết thạch Tô Công dễ đổi. Hoàng Sĩ Khải, một danh nho thời nhà Mạc làm đến chức Hộ bộ thượng thư, từng đi sứ nhà Minh, viết tập thơ Sứ trình khúc, Tứ thời khúc, trong đó có nhắc tới Tô Khanh. Sử có ghi thời Mạc có Nguyễn Quang Bật đi sứ nhà Minh bị giữ ở đất Bắc 19 năm mới được về nước, bấy giờ đã già, râu tóc bạc phơ. Vua Mạc Phúc Nguyên nhớ chuyện Tô Vũ phong cho ông là Tô Quận Công. Người ta ức đoán đây là đề tài của tập thơ Tô Công phụng sứ, tác giả khuyết danh, được lưu hành thời bấy giờ. Vậy Tô Vũ là ai? Tô Vũ tự Tử Khanh, quê ở Mậu Lăng, huyện Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây, người đời Tây Hán, làm quan triều vua Nguyên Đế (48-33 trước D.L.). Nhà Hán đến lúc suy, giặc Hung Nô xâm lấn Trung Nguyên. Hán thất bại. Tình thế nguy ngập. Hán Nguyên Đế đành nuốt lệ, giấu mặt, cắt lòng đưa nàng cung phi mỹ lệ Chiêu Quân Vương Tường, một trong bốn cô gái đẹp nhất (tứ đại mỹ nhân) ở cổ Trung Hoa sang cống cho chúa Hung Nô, xin cầu hòa. Nhưng đến Lạc nhạn đài bên sông Hắc Thủy, Chiêu Quân trầm mình tự tử. Tình thế càng căng thẳng. Lấy cớ cống phẩm “người đẹp” đã mất, chúa Hung Nô đổ quân sang xâm lấn biên cương. Hán lại cầu xin giảng hòa. Tô Vũ được lãnh sứ mạng của một nước yếu chiến bại làm sứ giả sang một nước mạnh thắng thế. Chúa Hung Nô thấy Tô Vũ ứng đối cứng cỏi, lưu loát tỏ người có tài lỗi lạc, nên ý muốn thu dùng, tìm lời dụ hàng. Không kết quả nhưng chúa Hung Nô không chán nản, truyền cho Vệ Luật, nguyên là người Hán đầu hàng, lấy tình đồng bang mà tìm lời khuyến dụ. - Tô quân nếu không nghe lời tất bị giết. Chịu chết như thế phỏng có ích gì. Chi bằng đầu hàng đi. Tài hèn như tôi còn được trọng dụng, huống chi bực đại tài như Tô quân tất được phong vương bái tướng. Vinh hoa phú quý hẳn nắm chắc trong tay. Tô Vũ đứng phắt dậy, đưa tay chỉ vào mặt Vệ Luật: - Ta không ngờ nhà ngươi lại vô lương tâm đến thế. Đã muối mặt thờ kẻ thù để cầu vinh, tưởng không còn dám trông ta, ai ngờ nhà ngươi lại mặt dày mày dạn quá, đến đây giở giọng thuyết ta đầu hàng. Bước ngay ra đi, chớ nhận ta là người cùng nòi cùng nước nữa. Vì nòi giống Trung Quốc không bao giờ có hạng vô sỉ như thế. Bị sỉ nhục thậm tệ, Vệ Luật giận lắm bèn tâu với chúa Hung Nô xin giết Tô Vũ. Chúa Hung Nô mỉm cười thâm độc, nói: - Nó muốn chết thì có khó gì, nhưng khi nào ta cho nó chết ngay đâu. Ta còn phải làm cho nó phải chịu đủ điều khổ nhục để xem cái gan của nó to bằng nào. Rồi chúa Hung Nô sai giam Tô Vũ vào một cái hầm đất tối tăm, ẩm ướt, hàng ngày chẳng cho ăn uống gì cả. Thương hại cho Tô Vũ bị giam trong hầm, chăn chiếu không có, ngày đêm lại có mưa tuyết, đã đói lại rét, chẳng biết tìm gì ăn đành phải lượm những cục tuyết và nhặt những lông áo chiên tạm nhai cho đỡ đói. Đến năm hôm, chúa Hung Nô sai người đến dọ xem thì thấy Tô Vũ ngồi châm hâm, vẻ mặt như thường. Lấy làm lạ, chúa Hung Nô hạ lệnh đem Tô Vũ lên Bắc Hải là một miền hoang vu, quanh năm giá rét, giao cho một đàn dê đực bắt phải chăn nuôi, và hạ lệnh, chừng nào đàn dê này đẻ con thì mới cho về nước. Vốn nhận thức được rằng đời người không phải luôn luôn êm ả, phẳng lặng như mặt nước hồ thu, mà phải có lắm cảnh phong ba, mười chìm, năm nổi, nhiều gian nan, thử thách. Tô Vũ từ nhỏ đã rèn tập mình chịu đựng kham khổ, nên nay trước cảnh đọa đày vất vả, họ Tô vẫn xem thường. Ở Bắc Hải, ban ngày, Tô đuổi đàn dê ra một bãi cỏ, cho tự do đi lại kiếm ăn; còn Tô thì tìm bắt chuột đồng và bứt cỏ non ăn tạm qua ngày. Tối đến lại dồn đàn dê về hầm nằm ngủ. Hết bãi cỏ này sang bãi cỏ khác. Ở đây, ngoài đàn dê làm bầu bạn, Tô Vũ còn một cờ tiết mao của nhà vua giao cho khi đi sứ là biểu hiện một sứ mạng trọng đại, Tô cầm luôn trong tay không lúc nào rời. Tháng lụn ngày qua, trải năm này sang năm khác, những lông trên ngọn cờ dần dần trút rụng hết, chỉ còn trơ lại cán không. Lâu ngày, Tô Vũ nghĩ được cách báo tin về nước. Ông xé mảnh áo, cắn lấy máu đầu ngón tay viết vào đó, rồi buộc vào chân chim nhạn mà ông bắt được, thả cho chim bay đi. Mùa đông chim nhạn ở Bắc Hải đổ về Trung Nguyên để tránh rét và bay vào vườn Thượng uyển của nhà vua, làm ổ. Quân giữ vườn bắt được dâng lên nhà vua. Nguyên Đế giở mảnh lụa ra xem mới biết thư của Tô Vũ, người còn sống bị đày ải một nơi cực kỳ gian khổ, lấy làm mủi lòng thương xót vô cùng. Mãi đến 19 năm sau, Hán chiến thắng được Hung Nô, vua nhà Hán buộc chúa Hung Nô phải trả Tô Vũ về nước. Hai mươi năm trời, người sống kiếp đọa đày ở một hoang địa của nước địch, nay trở về cố quốc, khi đi là một chàng tuấn tú, vạm vỡ, giờ đã là một cụ già lụ khụ, thân hình tiều tụy, râu tóc bạc phơ… Một sứ giả của một nước, mặc dù bị địch đem chức trọng quyền cao mua chuộc, mặc dù bị đọa đày trong cảnh gian khổ nhưng không làm lay chuyển khí tiết, kiên trung. Ôn Đình Quân, một thi hào đời nhà Đường, khi qua miếu thờ Tô Vũ có cảm đề: Tô Vũ hồn tiêu Hán sứ tiền, Cố từ cao thụ lưỡng man nhiên Văn biên nhạn đoạn Hồ thiên nguyệt, Lững thượng dương quy tái thảo yên Hồi nhựt lâu dài phi giáp trướng, Khứ thời thư kiếm thị đính niên Mậu lăng bất kiến phong hầu ấn ? Không hướng thu ba khốc thệ xuyên. Nghĩa là: Hán sứ nghe tin bỗng hết hồn Cây cao miếu cũ bóng hoàng hôn Chân mây nhạn trắng trăng Hồ nhạt, Sườn núi dê về khói ải tuôn Trở lại lâu đài nguyên nếp cổ Ra đi thư kiếm buổi xuân còn Mậu lăng sao chẳng phong hầu nhỉ ? Trông loáng thu ba khóc nước nguồn. (Bản dịch của Tô Nam) “Mậu lăng bất kiến phong hầu ấn?”, tác giả Ôn Đình Quân vừa than cho ai mà cũng vừa trách ai? Phong hầu được cũng tốt. Nhưng người có khí tiết giữ tròn như Tô Vũ, nguyện vọng tha thiết đâu phải ấn phong hầu? BÙI ĐẸP KỶ NIỆM KHÓ QUÊN với cố GS Tiến Sĩ, Nhà thơ VŨ ĐÌNH HUY Trưa ngày 3/6, khi mở e-mail, tôi bàng hoàng nhận được Cáo phó của Cố Giáo Sư Tiến Sĩ, Nhà thơ VŨ ĐÌNH HUY, do phu nhân của Ông gởi đến, báo tin là Gs HUY đã ra đi lúc 23 giờ ngày 2 tháng 6. Sau khi gởi e-mail chia buồn cùng tang quyến, vì tôi ở xa, lại đang bận một số việc nhà, không thể về Thành phố để chia buồn, tôi lập tức gọi điện báo cho ô. Chủ nhiệm Vũ Anh Tuấn cũng như chuyển tiếp e-mail đến ông, vì lúc đó Chủ Nhiệm chưa nhận được Cáo Phó của gia đình tang gia, để ông biết ngày giờ, địa điểm mà thay mặt các Thành Viên CLB SÁCH XƯA & NAY đến viếng và phân ưu cùng gia đình cố Ts VŨ ĐÌNH HUY. Tôi thầm nói lên lời từ biệt người Giáo Sư dung dị, thân thiện mà tôi còn nhớ lần đầu gặp Ông là ngày đầu tiên Ông đến sinh hoạt với CLB SÁCH XƯA & NAY cách đây đã mấy năm. Hôm đó tôi đến rất sớm, ngồi một mình nơi phòng họp thì thấy ông bước vô. Trước đó, tôi đã được Ô. Chủ Nhiệm tặng cho Quyển Thơ “TÀU XANH LƯỚT GIỮA BIỂN TRỜI” của Ông, do Chủ Nhiệm dịch ra tiếng Anh, nên đã nhìn thấy ảnh của Ông và gia đình in trong đó. Rất dễ nhận ra cố Gs HUY, bởi mái tóc bạc gợn sóng, không thể lẫn với bất cứ ai, nên tôi đã chủ động chào và mời ông ngồi, rồi tự giới thiệu, thì Ông nói có đọc nhiều bài viết về Đạo Phật của tôi và rất ái mộ, vì rõ ràng và dễ hiểu. Sau đó thì tôi dời nhà về tỉnh, vì ở đó chưa có địa chỉ, nên khi PGS Tiến Sĩ Trần Minh Thái cùng dạy ở Đại Học Bách Khoa với Ông, muốn tặng cho tôi quyển Kỷ Yếu của Trường. Tôi nói với PGS Thái là GS Huy vẫn hay đến sinh hoạt với CLB, xin nhờ Gs Huy chuyển lại giùm tôi. Gs Huy nhận lời, sau đó đã trao cho tôi Quyển Kỷ Yếu trong một kỳ họp. Quả là đúng với tính cách của một Nhà Khoa Học, không chấp nhận nửa vời. Lần đó ông đọc một bài viết về Đạo Phật của tôi và có thắc mắc nên hỏi địa chỉ, rồi dù tôi ở mãi tận Nhà Bè, Ông đã không ngại đường xa, đích thân ghé để tôi giải thích thêm điều mà Ông chưa rõ, chứng tỏ Ông không chỉ đọc lướt qua, mà đã để tâm tìm hiểu. Ông cho biết, bản thân Ông cũng có Quy Y với một vị Sư, và cũng được hướng dẫn cho Ngồi Thiền nhiều năm rồi. Lần khác, Ông đọc bài tôi viết về bức tượng Đức CHUẨN ĐỀ mà người bạn cùng tu học chung Thầy với tôi, trong một lần đi du lịch đã thỉnh về. Có in hình ảnh Bức Tượng và một câu chuyện ly kỳ liên quan. Trong chuyện, tôi kể, tôi có bà bạn tu cùng Thầy, từ rất lâu có ý định thỉnh một tượng Đức CHUẨN ĐỀ, nhưng chưa có duyên gặp được. Lần đó, nhân chuyến du lịch, bà ghé lại một ngôi Chùa ở Nha Trang, thấy pho tượng, bà rất mừng, nên nói với người trông coi là bà xin thỉnh tượng đó, thì người này kêu bà chờ để họ mời Trụ Trì ra gặp. Khi biết bà bạn là người muốn thỉnh Tượng, thì Trụ Trì cho biết: Tượng này là do chính tay một vị Sư ở Tích Lan làm để ở đó, chờ gặp người thỉnh tượng. Vì theo Sư, người thỉnh tượng có liên quan tới giòng Chánh Pháp tại Việt Nam. Nhiều năm rồi, mỗi năm Sư sang Việt Nam, ngụ tại Chùa 6 tháng để đợi người thỉnh tượng. Thời điểm bà bạn tôi đến thì Sư vừa về nước ít lâu, dặn Trụ Trì hỏi rõ địa chỉ, số điện thoại của người thỉnh tượng, lúc nào Sư trở lại sẽ liên lạc. Sau đó, bà bạn tôi bán nhà dời đi. Không biết vị Sư đó có trở qua Việt Nam hay không? Nhưng vợ chồng người bạn tôi vẫn còn giữ bức tượng để thờ tại nhà. Đọc xong bài viết, Gs HUY đã đề nghị tôi dắt đi đến tận nơi có bức tượng để Ông chiêm ngưỡng. Một buổi sáng Chủ nhật, tôi đã đi cùng Gs HUY đến nhà người bạn đó, được đưa lên lầu để nhìn tận mắt bức Tượng, cũng như được bà bạn kể lại câu chuyện giống như những gì tôi đã viết trong Bản Tin. Sẵn dịp, tôi cũng đưa Gs HUY đến nhà một cô bạn nhỏ ngày trước cùng tu chung một Thầy với tôi và hai ông bà có bức tượng cũng ở gần đó. Chúng tôi được mời lên lầu của một biệt thự bề thế để xem phòng thờ Thầy tôi rất trang trọng. Cô bạn trao đổi danh thiếp với Cố Gs HUY. Ông khen nhà cô ấy đẹp, và nói rằng gia đình Ông sống ở một căn Hộ Chung Cư, không được đẹp như nhà của cô và của vợ chồng bà bạn có bức tượng vừa ghé thăm. Không riêng gì cố Gs HUY, có một em trẻ tuổi, trí thức, cũng theo học hỏi với một trong số anh em tu chung với tôi. Em này biết rõ cuộc sống của từng thành viên trong nhóm chúng tôi, đã nói rằng rất ngạc nhiên thấy rằng những người học Pháp với Thầy tôi, ai cũng sống đời Cư Sĩ bình thường. Không ai cất Chùa và hưởng lộc của bá tánh, nhưng đời sống ai cũng có vẻ thong dong, hanh thông. Một số người trong nhóm thì sau 75 vẫn tiếp tục làm việc, nên có người sau đó khá lên hơn. Người thì may mắn bán được nhà trước kia được cấp nên cũng có được số tài sản khá lớn. Riêng tôi thuộc loại nghèo nhất trong nhóm. Từ sau 75 là không có làm ăn gì hết, chỉ dồn hết thì giờ nghiên cứu Kinh Phật, nên có 2 căn nhà, mặt tiền Quận 1 và Quận Bình Thạnh, và 1 căn trong hẻm thì cũng thì bán đi để tiêu dần. Từ Quận 1 chuyển về Quận Bình Thạnh, sau đó chuyển ra ngoại thành, rồi chuyển thẳng về Tỉnh. Cuối cùng còn được 1 căn nhà và một mảnh vườn nho nhỏ! Phần Thầy tôi thì có đến 10 người con, 6 định cư ở nước ngoài, 4 ở Việt Nam, nhưng ai nấy cũng đều khá giả, trên mức trung bình, nên em này cho rằng nhóm chúng tôi có phước báo, được sự hộ trì của ơn trên, kết luận là nhóm chúng tôi tu đúng Chánh Pháp! Về những bài vở tôi đã viết trong Bản Tin, có bài cố Gs HUY kêu tôi gởi e-mail qua cho Ông để Ông share cho bạn bè. Kỷ niệm sâu sắc nhất của tôi với cố Gs HUY là chính Ông là người gợi ý cho tôi in những quyển Kinh mà tôi đã lược giải. Lúc đó tôi ngại ngần, vì số tiền cần in khá lớn. Nhưng khi nghe tôi kể về các con của Thầy tôi đều thành đạt, Ông khuyên tôi nên đề nghị các con Thầy hỗ trợ để phổ biến pháp môn của cha các em. Dù không muốn chút nào, nhưng tôi đã tiếp thu ý kiến và nói chuyện với con của Thầy và được trợ giúp để in mấy quyển đầu, là Từ Tu Thiền đến Tu Phật, Pháp Bảo Đàn Kinh, Sáu Cửa vào Động Thiếu Thất. Sau đó tôi tự bỏ tiền để in tiếp Kinh Viên Giác, Thủ Lăng Nghiêm và Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận. Về những quyển Kinh mà tôi đã in, ngoài quyển tặng cho Ông, Ông còn kêu tôi đưa cho Ông một số để Ông tặng cho bạn bè. Không những thế, Ông còn đề nghị gởi cho Ông tất cả bản thảo, có lẽ Ông muốn nghiên cứu cho kỹ, và tôi cũng đã thực hiện. Từ lúc dọn nhà về Tỉnh thì tôi ít đi họp ở CLB, nên không còn gặp Ông. Có một lần tôi e-mail hỏi thăm tình hình sức khỏe, thì Ông trả lời là đang bị di căn chứng Ung thư Bao Tử mà Ông đã mổ nhiều năm trước đó, đang vô hóa chất, nên người rất mệt, và rụng tóc rất nhiều. Cuối năm vừa rồi, tôi cũng không có về dự tiệc Tất Niên với CLB, nhưng Chủ Nhiệm nói với tôi là có cố Gs HUY và phu nhân đến dự. Trông Ông có vẻ yếu đi nhiều. Tuần vừa qua, nghĩ tới Ông, tôi cũng định hỏi thăm, nhưng loay hoay lại quên, lúc nhận được hung tin thì thấy rằng đã muộn, vì thế, tôi viết những dòng này. Trước hết là cảm ơn Cố Gs VŨ ĐÌNH HUY, vì nhờ Ông khuyến khích nên tôi đã in được những quyển Kinh mà tôi đã lược giải từ rất nhiều năm trước đó, nhưng cho tới thời điểm gặp Ông vẫn còn giữ ở dạng bản thảo. Sau đó là lời vĩnh biệt muộn màng và xin cầu chúc cho hương linh cố Giáo Sư được tiêu diêu nơi miền Cực Lạc. Thật ra, theo tôi, đó là câu nói thường tình của mọi người với bất cứ người nào qua đời. Riêng đối với trường hợp như Cố Gs VŨ ĐÌNH HUY, dù địa vị rất cao, vừa là Nhà Khoa Học, vừa là Viện Sĩ Viện Hàn Lâm, vừa là Nhà Thơ có tiếng, nhưng chắc ai tiếp xúc cũng thấy: Ông rất hiền hòa, giản dị, dễ gần. Một người cả đời chỉ có Nghiên Cứu Khoa Học, đi dạy và làm thơ, lại có tâm tu hành, đã sống một kiếp xứng đáng, cống hiến cho đời cho đến lúc sức tàn, lực kiệt, thì hẳn như dòng tưởng niệm của Chủ Nhiệm: “Anh đã lên con TÀU XANH LƯỚT GIỮA BIỂN TRỜI đưa anh về cõi Niết Bàn. Những người có cuộc sống tốt đẹp, chân chính, tài hoa và giá trị như anh, chắc không thể đi nơi nào khác. Quần tiên sẽ có cái may được anh ngâm cho nghe những vần thơ đắm say, lãng mạn”. Tôi cũng tin chắc như thế. Thế là Câu Lạc Bộ SÁCH XƯA & NAY lại vắng thêm một Nhà Thơ. Trước đó khoảng 1 tuần là Nhà Thơ Lang Nguyên. Mấy năm trước là nhà Thơ Xuân Vân, Nhà nghiên cứu Phạm Phú Thành. Họ đã cùng hội ngộ với Phó Chủ Nhiệm Lưu Nhật Quang, cùng với Bs Nguyễn Lân Đính để mở CLB SÁCH ở cõi bên kia. Chúng ta cũng yên lòng là họ không lẻ loi và không thiếu niềm vui ở Cõi Vĩnh Hằng. TÂM NGUYỆN (tháng 6/2018) Lời Của Trái Tim Hồi còn trẻ, chúng ta thường nghĩ rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp và có ý nghĩa hơn sau khi chúng ta lập gia đình, sinh con v.v… Sau đó chúng ta vỡ mộng, vì con cái chúng ta còn quá nhỏ. Rồi tự nhủ rằng: Mọi việc sẽ tốt đẹp hơn một khi chúng lớn khôn. Và chúng ta lại thất vọng khi con cái của mình đến tuổi niên thiếu vì chúng ta lại phải chăm sóc và lo lắng cho chúng. Chắc chắn chúng ta sẽ hạnh phúc hơn khi các con trưởng thành... Chúng ta lại tự nhủ rằng cuộc sống rồi sẽ tốt đẹp hơn một khi gia đình được ổn định, khi chúng ta tậu được một chiếc xe đẹp hơn, khi chúng ta đi nghỉ hè thoải mái, và cuối cùng là khi chúng ta được về hưu. Sự thật là không có một thời điểm nào tốt đẹp và hạnh phúc bằng hiện tại cả! Nếu không đúng, vậy thì thời điểm nào là hạnh phúc nhất? Cuộc sống của bạn luôn bị quay cuồng bởi các thách đố, các đòi hỏi và nhu cầu. Tốt nhất là bạn nên nhận thấy rằng hiện tại là thời gian hạnh phúc nhất của mình, mặc dù cuộc sống đầy dẫy những khó khăn và muộn phiền. Một thời gian rất lâu, tôi cứ ngỡ rằng cuộc đời của tôi sắp bắt đầu. Một cuộc đời, cuộc sống thật sự. Nhưng lúc nào cũng có nhiều việc xảy đến, một thử thách phải vượt qua, vài công việc còn phải hoàn tất, vài việc khác cần phải phân chia, còn vài hóa đơn phải thanh toán. Sau đó, thì cuộc sống của ta sẽ bắt đầu… Cuối cùng tôi mới khám phá ra rằng, chính những sự việc này là một phần của đời sống chúng ta… Từ cái nhìn này tôi thấy được rằng không có con đường nào đi đến hạnh phúc cả. Hạnh phúc chính là con đường chúng ta đang đi… Hãy trân quý và hưởng mọi phút giây mà chúng ta đang có! Không nên chờ đợi nữa, chờ đợi tốt nghiệp ra trường, chờ đợi ngày trở lại trường, chờ đợi xuống thêm vài ký, lên thêm vài ký, chờ đợi việc làm mới, chờ đợi ngày kết hôn, mong đợi đến tối thứ sáu, sáng chủ nhật, một chiếc xe mới, đợi trả nợ xong, trông chờ xuân đến, hạ về, đợi đến đầu tháng, cuối tháng, đợi nghe bản nhạc hay trong radio, chờ ngày từ giã cõi đời, ngày tái sinh… trước khi quyết định sống thật hạnh phúc. Hạnh phúc là hành trình, chứ không phải là điểm đến! Không có một giờ phút nào quý cho bằng… HIỆN TẠI! Hãy sống và tận hưởng từng giây phút! Chúng ta hãy suy nghĩ và cố gắng trả lời các câu hỏi sau đây: 1. Bạn hãy nêu ra tên của 5 người giàu nhất thế giới hiện nay. 2. Tên của 5 Hoa Hậu thế giới gần đây nhất. 3. Tên của 10 người lãnh giải Nobel gần đây nhất. 4. Tên của 10 người lãnh giải Oscar gần đây nhất. Bạn không trả lời được? Có thật sự khó không? Không sao cả, không ai có thể nhớ những điều này. Các tràng pháo tay rồi cũng chấm dứt. Các giải thưởng cũng sẽ đóng bụi. Các quán quân hoặc kẻ thắng cuộc rồi cũng sẽ bị quên lãng. Chúng ta lại thử trả lời các câu sau đây: 1. Bạn hãy nêu tên 3 thầy, cô giáo trong cuộc đời bạn. 2. Tên 3 người bạn đã từng giúp bạn trong những giây phút khó khăn nhất. 3. Hãy nghĩ đến vài người đã từng cho bạn những cảm giác đặc biệt. 4. Và tên 5 người mà bạn lúc nào cũng muốn gần gũi. Các câu này có vẻ dễ trả lời hơn, phải không bạn? Những người có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc sống của bạn, không phải là những người “giỏi nhất”, họ cũng không là người giàu nhất, và cũng không đoạt được một giải thưởng nào cả… Họ là những người nghĩ đến bạn, lo lắng cho bạn và luôn ở bên cạnh bạn khi bạn cần đến. Hãy suy nghĩ về điểm này… Cuộc sống rất là ngắn ngủi! Và bạn được đứng trong danh sách nào của tôi? Bạn có biết không? Hãy cho tôi nắm lấy tay bạn. Bạn là một trong những người “nổi tiếng” nhất trong danh sách của tôi, mà tôi đã không quên để gửi đến bạn thông điệp này… Van-Thien Dinh - Hoàng Kim Thư st. CUỘC PHIÊU LƯU KỲ THÚ CỦA BÁCH KHOA TOÀN THƯ Ngay từ khi phát minh ra chữ viết, con người đã muốn thu thập và sắp xếp những kiến thức của mình. Từ thời Sumer đến thời đại truyền thông đa phương tiện, cuộc phiêu lưu hàng chục ngàn năm nay là cuộc tìm kiếm và xếp đặt kiến thức… Đạt tới một kiến thức trọn vẹn là một trong những mơ ước của nhân loại vốn đã được ghi nhận từ khi chữ viết xuất hiện. Bị chia sẻ giữa nỗi lo sợ mất mát kiến thức và nỗi lo sợ sụp đổ trước khối lượng kiến thức, con người đã không ngừng thu thập, sắp xếp và phổ biến kiến thức. Ba hoạt động đó xác định tinh thần của bách khoa toàn thư, sự thôi thúc đi vào “không gian của các khoa học”. Thực ra, bách khoa toàn thư là một từ được hình thành vào thời Phục hưng, từ chữ Hy Lạp enkuklios paideia (giáo dục trong hội). Nhưng thử thách của cấu tạo của thế giới có thực, qua trung gian của những từ và những khái niệm, đã được biểu lộ trong những nguyên bản cổ nhất của người Sumer (3.000 năm trước Công nguyên). Đó là những mục lục được xếp theo chủ đề, những tiền đề của phương pháp khoa học. LỊCH SỬ ĐÃ ĐƯỢC GIẢI THOÁT Ở THỜI KINH THÁNH Người ta đã tìm thấy ở Warka (Iraq), địa điểm của Uruk cổ, một trong những thị trấn nổi tiếng nhất ở vùng Lưỡng Hà, 24 tấm đất sét có khắc những dấu hiệu hình nêm, có từ 600 năm trước Công nguyên. Bộ bách khoa toàn thư trước khi có chữ viết đó là một bản kiểm kê hai ngôn ngữ Sumérien-Akkadien, những khoáng vật, thực vật, thú vật cũng như những bộ phận của cơ thể con người, những vì sao, sông, núi, tất cả đều kèm theo những đặc trưng của chúng. Bên cạnh những bộ bách khoa toàn thư thực thụ đó, người ta còn bảo tồn trong các thư viện những văn bản tôn giáo, chính trị và những văn kiện hành chính, những tuyển tập về đạo đức và pháp chế, những chuyên luận về toán học, y học và bói toán… Những cuộc khai quật ở địa điểm Ninive, thủ đô cũ của vương quốc Assyrie, đã đem ra ánh sáng hàng chục ngàn mảnh đá, di tích của hàng ngàn văn bản được bảo tồn trong thư viện của vua Assurbanipal (661-629 trước Công nguyên). Nhưng chính triết gia Hy Lạp Aristote (384-322 trước Công nguyên) là người sáng lập khoa học và phát minh ra lôgic học, cố gắng đầu tiên của nền văn minh Hy Lạp nhằm tổ chức và đối chiếu những nhận thức. Phương thức của Aristote là dựa vào kinh nghiệm, lý trí và hợp nhất: thế giới được tổ chức thành các phạm vi, như được vạch ra với một com-pa, từ tâm trái đất cho tới bầu trời, trong đó tất cả các thực thể, có hay không có vật chất và sự sống, đều có vị trí theo thứ bậc. Năm 335 trước Công nguyên, Aristote lập ra trường Lycée ở Athènes. Trái với tất cả những gì vẫn được thực hành ở các trường Hy Lạp khác, thường dành một vị trí ưu thế cho lối truyền miệng và trí nhớ, học sinh ở đây học với những bằng chứng và những quan sát trực tiếp, nhưng cũng sử dụng cả những văn bản. Những nhà bác học ở trường này lập ra những bộ sưu tập giáo trình, cho phép họ lập ra danh sách những lời giải khác nhau. Và như vậy, họ ý thức được sự tiến hóa của kiến thức. Uy tín của cơ chế đó đã góp phần phổ biến triết học Aristote. Quả thực, trong nhiều thế kỷ, nhân vật Aristote sẽ ngự trị khoa học. Đạo Hồi ở thế kỷ thứ 8 đã có sức sống mãnh liệt nhờ gộp những kiến thức Hy Lạp, Ba Tư và Ấn Độ, và người ta tìm thấy ở Aristote “người thầy đầu tiên”. Bằng cách dựa vào những tác phẩm của Galien và Hippocrate, những thầy thuốc của Hy Lạp cổ đại, và học thuyết Aristote, triết gia Avicenne (980-1037) đã soạn cuốn Quy tắc y học, vẫn được coi là nền tảng của y học ở phương Tây mãi cho đến thế kỷ 17. Ở thời kỳ văn minh Hy Lạp có ảnh hưởng sâu rộng, sự hiểu biết dẫn tới triết học. Ở phương Tây thời Trung cổ, nó dẫn tới sự thật, đạo lý và Thượng đế. Các nhà thông thái của đạo Cơ đốc ở thời Trung cổ, cũng như các nhà thông thái của đạo Hồi và đạo Do Thái, tìm cách dung hòa những kiến thức hợp lý với những dữ kiện mới được phát hiện. Họ lao vào những cuộc bàn luận về những văn bản ngoại đạo nhằm xác định chiều hướng mà họ cần phải tác động đối với một tín đồ. Tiếp theo sau nhà triết học Ả Rập Averroès (1126-1198) và nhà triết học Aristote, một số lại chú tâm vào việc phân biệt hai cách nhận thức không mâu thuẫn nhau. Được phát hiện lại vào thế kỷ thứ 12, những tác phẩm của Aristote đã làm đảo lộn giới tăng lữ của phương Tây thời Trung cổ. Aristote tin vào sự vĩnh cửu của thế giới, trong khi tôn giáo báo trước ngày tận thế sắp xảy ra. Đối với triết gia Hy Lạp, mô hình lý tưởng của cuộc đời con người nằm trong quy luật tự nhiên, trong khi tôn giáo đặt nó trong sự khôi phục nội tâm. Cái nhìn mới đó về con người và thiên nhiên đã khiến người ta quan tâm trở lại đến tính cụ thể. Lịch sử đã được giải thoát khỏi thời đại của Thánh kinh, để quan tâm tới những con người và hành động của họ. Chủ nghĩa tự nhiên hình thành. Ở thế kỷ thứ 13, nhà thần học và nhà triết học người Anh Roger Bacon (1214-1294) kêu gọi mọi người cố gắng đạt được những hiểu biết trực tiếp và trực giác về mọi vật qua trung gian của thực nghiệm. Ông đã mở ra con đường cho khoa học hiện đại thực chứng chứ không còn theo thuyết Aristote nữa, nghĩa là dựa trên kinh nghiệm chứ không dựa trên những ý niệm thừa hưởng của quá khứ. TỪ BÁCH KHOA TOÀN THƯ SINH RA CÁCH MẠNG Vào thời Trung cổ, song song với nền văn học bác học, một nền văn học phổ thông đã phát triển. Hình ảnh thế giới, do học giả Gossuin de Metz viết năm 1246, là bộ bách khoa toàn thư đầu tiên bằng ngôn ngữ bản xứ. Nhưng tiếng La tinh vẫn là ngôn ngữ của những nhà bác học cho tới thế kỷ thứ 17. Con đường đi tới kiến thức được mở rộng với sự sáng lập trường đại học vào thế kỷ 13, phân chia ngành giáo dục thành bốn lĩnh vực khoa học: thần học, luật học, y học và nghệ thuật. Lĩnh vực tri thức cuối cùng này tập hợp những nghệ thuật tự do, vào thời cổ đại được coi là gắn liền với sinh hoạt tinh thần: ngữ pháp, phép biện chứng và thuật hùng biện, cùng với âm nhạc, hình học, toán học và thiên văn học. “Lợi dụng khoa học của thiên nhiên và không đi vào bóng tối của thời cổ đại”, theo lời nhà triết học Anh Francis Bacon (1561-1626), là khẩu hiệu của các nhà bác học ở thời kỳ cổ điển. Họ cũng quan tâm đến kỹ thuật. Ý niệm về sự tiến bộ đã ra đời, cùng với ý niệm về tính tương đối của khoa học. Các nhà khoa học ở thế kỷ 18 đã ý thức được tính vô hạn của các kiến thức mà họ còn phải khám phá. Kiến thức không còn là một cái cây có những “cành” mà là một đại dương cần phải “bơi”. Được khơi mào bởi cuộc thám hiểm châu Mỹ ở thế kỷ 16, việc mở cửa ra thế giới được kéo dài bởi nhiều chuyến đi và thám hiểm. Mỗi bộ môn trở nên phong phú hơn nhờ những phát hiện về địa điểm, chủng loại và phong tục… Các lĩnh vực kiến thức rộng lớn đến nỗi một người không thể am hiểu tất cả: sự chuyên môn hóa các nhà khoa học đi đôi với sự hợp tác của họ. Khoa học kỹ thuật và triết học phải tham gia vào việc cải thiện đời sống con người, giải quyết những vấn đề xã hội và chính trị. Những ưu tư đó được thể hiện trong một công trình phổ cập hết sức hấp dẫn: bộ Bách khoa toàn thư của Diderot và d’Alembert. Tác phẩm trình bày có lập luận, tổng hợp và có phương pháp sư phạm những hiểu biết đặt con người ở trung tâm của vũ trụ. Nó được khích lệ bởi ý muốn thông báo cho các dân tộc, tinh thần tự do, ý thức công dân khiến cho các vị vua và các giáo hội phải lo lắng thật sự bởi vì nó mở đầu cho cách mạng. Ở thế kỷ 19, phái Bách khoa chạy theo sự toàn thiện mà con người không bao giờ đạt được. Một số tác phẩm đồ sộ được xuất bản, chẳng hạn như: Đại từ điển bách khoa phổ cập của Pierre Larousse (in từ 1864 đến 1876). Thời đại đi tìm một phương pháp độc nhất, có thể chi phối các quy luật thích hợp với từng bộ môn. Chính trong tâm trạng hoàn toàn khác biệt đó, ông Raymond Queneau đã bắt tay vào đề án biên soạn cuốn Bách khoa toàn thư vào năm 1954: “Khoa học hiện nay gom góp những chất liệu nhưng không có một nguyên lý nào để xây dựng chúng. Độc giả sẽ được biết để rồi quên đi và nghi ngờ. Thành quả chính của phương pháp khoa học là sự sáng suốt. Đó cũng là khả năng sáng tạo”. Trong việc phổ biến kiến thức, vai trò của chữ viết rất quan trọng. Sự hoàn thiện chữ cái của người Phénicie ở cuối năm 2.000 trước Công nguyên đã làm cho chữ viết trở thành một công cụ của kiến thức dễ hiểu với mọi người bởi sự đơn giản của nó: một dấu hiệu duy nhất tương ứng với một âm thanh duy nhất. Sự hợp thành và phổ biến kiến thức sau đó lại trở nên dễ dàng hơn bởi sự sáng tạo ra Dược điển vào những thế kỷ đầu tiên của Công nguyên, cuốn sách mà ngày nay ai cũng biết, được làm bằng những cuốn sách gắn liền nhau, có những trang để trống. Dược điển dễ sử dụng và tra cứu hơn những bó volumen - những cuộn giấy của thời cổ đại; nó đã giúp người ta đọc, viết và có thể đối chiếu các văn bản. Sau đó nghề in ra đời, mở rộng khả năng tiếp xúc với kiến thức. Con cháu của nó là những bộ máy điện tử “kỳ diệu”: các phương tiện thông tin đa dạng. Những kỹ thuật mới đó làm đảo lộn quan hệ giữa con người với chữ viết. Trong cỗ máy của tương lai, một “nhân tố thông minh” sẽ tác động theo những chuỗi ý nghĩ của người sử dụng, sẽ tìm tòi và sắp xếp những tài liệu và trao tại nhà, ở trên màn hình. Sẽ còn lại câu hỏi ngàn đời: “Cần phải học cái gì?”. Xin nhường lời cho ông Hugues de Saint-Victor, một bậc thầy ở tu viện Saint-Victor tại Paris, một trong những trung tâm văn hóa quan trọng nhất của châu Âu vào thế kỷ 12: “Học tất cả, sau đó ta sẽ thấy không có gì là thừa. Một nền khoa học hạn hẹp chẳng có gì là hay ho cả”. CATHERINE CHAUVEAU HOÀNG HƯNG lược dịch (từ Science et Vie số 954/97) LỆ NGỌC st. TOP SÁCH KỶ LỤC GUINNESS THẾ GIỚI 1. Cuốn sách cổ nhất - Diamond Sutra (Kinh Kim Cang) Cuốn sách mang tên Diamond Sutra (Kinh Kim Cang) - có từ năm 868 sau Công nguyên được xem là bản in cổ nhất còn tồn tại trên thế giới, hiện được trưng bày tại thư viện Anh Quốc ở Luân Đôn.
2. Cuốn sách màu cổ nhất - Hướng dẫn nghệ thuật thư pháp và hội họa. Cuốn sách có tựa đề Hướng dẫn nghệ thuật thư pháp và hội họa được xem là cuốn sách màu cổ nhất thế giới. Được viết vào năm 1633 và là tác phẩm cổ nhất được in bằng phương pháp khắc gỗ nhiều màu, đó là phát minh của Hu Zhengyan. Kỹ thuật này sử dụng nhiều khối gỗ in khác nhau, được in theo thứ tự với nhiều loại mực in để đạt được vẻ ngoài của một bức tranh màu nước vẽ tay.
3. Cuốn sách bí ẩn nhất - Mật mã Voynich Cuốn sách bí ẩn nhất mà đến nay các nhà khoa học cũng như ngôn ngữ vẫn chưa thể giải mã được chính là Mật mã Voynich có từ thời Trung Cổ. Hiện đang được lưu trữ tại Đại học Yale với ký hiệu MS 408.
4. Cuốn sách nhỏ nhất - Teeny Ted from Turnip Town Teeny Ted from Turnip Town được coi là cuốn sách nhỏ nhất thế giới do các nhà nghiên cứu Canada tìm ra. Cuốn sách là một câu chuyện cổ tích kể về cuộc thi tài giữa các củ cải với nhau, có chiều rộng 0.07 mm và chiều dài 0.10 mm. Để in được cuốn sách này người ta phải sử dụng một chùm tia gali-lon hội tụ chiếu vào khoảng trống từng chữ cái trên những mảnh silin kính trắng và để đọc được nó bạn phải dùng đến kính hiển vi.
5. Cuốn sách lớn nhất - This is Mohamed (Nhà tiên tri Mohamed) Cuốn sách This is Mohamed (Nhà tiên tri Mohamed) với kích thước 5m x 8,06m, nặng 1.500kg, dày 429 trang đã trở thành cuốn sách lớn nhất thế giới, vượt qua cuốn sách ảnh Beirut’s Memory (Ký ức về Beirut - dày 304 trang, kích thước 3,85m x 2,77m và nặng 1.060kg của tác giả Ayman Trawi) để ghi danh vào kỷ lục Guinness.
6. Cuốn sách dày nhất - Wikipedia Tác phẩm Queen of Crime của nhà văn nổi tiếng Agatha Christie đã lập kỷ lục là cuốn sách dày nhất thế giới vào 20/5/2009, với 4.032 trang và chiều dày gáy sách là 32,2cm. Thế nhưng có lẽ ít người biết rằng trên thế giới còn tồn tại một cuốn sách dày hơn thế - cuốn Wikipedia với 5.000 trang và dày 47,5cm.
7. Cuốn sách đắt nhất - Codex Leicester Codex Leicester là tác phẩm của Leonardo da Vinci, được viết vào khoảng năm 1508, là một trong 30 cuốn ghi chép trong suốt cuộc đời của ông. Vào năm 1994, tỷ phú Mỹ Bill Gates đã mua cuốn sách trong một phiên bán đấu giá với mức giá 30,8 triệu USD, biến nó thành cuốn sách đắt giá nhất thế giới.
8. Cuốn sách có nội dung ít chữ nhất - Đàn ông nghĩ gì ngoài sex? Đàn ông nghĩ gì ngoài sex? Chính là tiêu đề của một cuốn sách bán chạy và có nội dung ít chữ nhất hiện nay! 200 trang của cuốn sách chẳng có nội dung gì, hoàn toàn trắng trơn. Tuy vậy, nó vẫn được bán rất chạy và đã từng “vượt mặt” cả Harry Potter và mệnh lệnh phượng hoàng của JK Rowling hay Mật mã Da Vinci của Dan Brown trên bảng xếp hạng sách bán chạy của Amazon.
HÀ DIỆP st. Đi câu Mấy cha con, dòng họ nhà giun vừa ngoe nguẩy cái thân mình vốn đang bị vướng vào đâu đó..., vừa cãi lộn ì xèo. Ông già giun lên giọng thuốc lào: - Tao đã nói là đừng có lại chỗ đó mà tụi mi chẳng đứa nào chịu nghe, để giờ này... - Cha ơi là cha, mà cha cũng bị như cả nhà đấy thôi. Sao cha không ở nhà cho khỏe cái thân... giun của cha? - Ơ! thằng này láo! Tao đâu có ra đó. Tại cả nhà ra nên tao phải ra coi có động tịnh gì chăng. Á! Đau quá... Chẳng là cái đám giun loe ngoe luẩy nguẩy này bị cái giống loài người bắt rồi xỏ vào lưỡi câu ra bến Bạch Đằng câu cá. Thằng cha thợ câu đâu có biết cơ man nào là sinh linh giun đang rên xiết dưới cái sự vũ phu tàn tệ của thằng chả. Uisss... Giun mà! Cái đám giun cứ cãi nhau chí chóe, chẳng thằng nào con nào “nghĩ” ra kế hoạch kế sách gì để thoát ra khỏi cái lưỡi câu gì mà sắc rùng rợn. Có mỗi thằng cha đầu đàn là có tí ti “đầu óc” thì tuổi trời cho cũng đã gần quy tiên nên giun vẫn hoàn giun, chả làm được gì ráo... Rồi đàn cá nghênh ngang bơi từ xa tới. Đứa thì chạy ngược, đứa trôi ngang, cứ y như mấy cầu thủ vắt giò trên sân mà chạy theo trái bóng và theo đội hình chi chi đó của huấn luyện viên, nhưng tóm tại là luôn tìm cách lao về phía khung thành đối phương dù có phải chơi xấu, hoặc bị đốn ngã bằng cách đá vào cơ phận truyền giống tuy khỏe mà cực kỳ khó bảo vệ. Ừ! Đàn cá cũng vậy, tụi nó đâu cần biết có ai đó đang gào cả cái gân... cá ra mà cảnh báo, cảnh cáo, cảnh tỉnh, cảnh giới (và đủ loại cảnh) rằng thì là mà chớ lại gần bờ kẻo bị giun câu. Chúng cứ tưởng giun là kẻ thù, nhưng thực ra cái loài đi hai chân mà che phủ hết mọi sự trên mình dẫu có hấp dẫn hở hang vân vân và vân vân hay nhìn zùng zợn như cái gì (eo ơi chả dám nói đâu) bằng cái thứ mà chúng gọi là quần áo! Đích thị cái loại này mới là kẻ thù không “đội nước” chung với họ hàng nhà cá chúng ta, chứ đâu phải là mấy thằng giun nhỏ bé suốt đời cứ chũi đầu chũi đít vào đám bùn! Vậy mà họ hàng nhà cá cứ ăn dơ như vậy đó. Giun ăn dơ, cá ăn giun thì cá cũng zơ vậy! Và nhất là cá cứ tưởng giun là kẻ thù cơ đấy. Chuyện này có thể phát xuất từ mấy tư tưởng điên điên rồ rồ nào đó của lũ cá sống ở Trung Quốc. Nghe đồn vậy! Cũng có cả cá cảnh sát, cá an ninh, cá quân đội huýt còi giữ trật tự lộn cả sóng nước lên mà con dân nhà cá cứ hè nhau nào nhào nào lộn ngược lộn ngửa nào gắn hỏa tiễn vào đằng ngược với đằng đầu là đằng đít mà phi thẳng lên giời và bay cái “tủm” vào cái thùng đựng cá của mấy cha thợ câu mà khỏi phải qua “công đoạn” ăn giun chi bã cả cái mõm ra. Nghĩa nà ý quên nghĩa là chả hơn gì họ hàng nhà giun đang run rẩy rên xiết rung rinh kia, lũ cá lại xơi mồi, mà tới lượt lại làm mồi cho mấy cha bợm nhậu nhà nghèo, chỉ cần vài ba con cá nướng lên là lai rai ngồi tới tối, xe đạp thì xỏ cái ống chân ngang vào sườn, đứa nào có “lỡ dại” ăn cắp thì này nhé, mày tha cả ông về nuôi luôn đi, nếu không muốn bẻ cái chân cà tàng tao ra khỏi cái xe cà tịch và cà lăm của tao nhé con! Mấy thằng chả này bạo tay lắm. Ai đời thân cá Thượng đế ban tạo cho toàn thể thế giới và vũ trụ mà chúng cầm cái đuôi con người ta, rồi sau vài cái lẳng nhẳng... lấy đà, ông nội tôi đập cái chát vào ghế đá công viên, rồi bắt chước Mr. Bean mà nhậu nhiều cách rất ư là hoang dã và hung dữ như quân dữ trong Tuần Thánh vậy. Còn mấy cha thượng đế hơn thì lại móc mấy thằng cá ngu (nguyên) si dốt nát vào mấy lưỡi câu bự hơn đặng câu thứ khác to hơn, hoành tráng hơn, đẹp hơn, nhiều giá trị hơn. Rĩ nhiên thỉnh thoảng mấy thằng cha í (sao lại không có con mẹ nào cà!) cũng câu được cả giày bốt đờ sô, guốc, rác, lục bình vân vân và vân vân là những thứ chả có giá trị kinh tế, nhân văn vân vân và vân vân gì ráo trọi. Thì liệng đi chứ sao mà còn hỏi. Và nếu mấy con mẹ và thằng cha, vẫn còn zài, thôi thì kêu là mấy mẹ cha, chứ không là cha mẹ cho có vẻ tôn trọng nữ giới . Phải rồi, nếu mấy mẹ cha có học tiếng Đức thì thể nào cũng cần có 1 cái mi cờ rô phôn ghi âm lại đặng lần sau khỏi phải phát ngôn chi cho mỏi miệng và dơ mồm. Thì câu phải đồ kém giá trị vân vân và vân vân thì chẳng chửi thì làm cái gì đây. Ăn no bụng chỉ để đi chơi và để chửi chứ làm gì nữa! Thử đói mà coi có toang nổi cái bản họng ra không nào. Rồi mấy mẹ cha lại bù khú với nhau, lúc đầu anh anh em em, sau chuyển ngữ thành mày mày tao tao, kế sao mày gọi tao là mày, bộ mày không biết trên thế giới này chỉ có thủ trưởng của tao mới gọi tao là mày thôi nhé. Í quên, còn vợ tao nữa, chỉ có vợ tao mới được tự cho cái quyền gọi tao là mày thôi nhé cái thằng hàm hồ. Mày là hàm... hổ tao mới sợ. Rồi... bịch nhau, gọi tên cha mẹ của nhau ra mà réo như mấy đứa trẻ con. Cá đi đàng cá, giun đi đàng giun, người đi đàng nhà thương, nhà lao, nhà xác. Rip! Giả như có ông giời, và nếu ông giời không có lòng nhân ái chứ chưa nói đến thiên ái, thì ổng đã cho ngay một búa thiên lôi cái đám lâu nhâu lẩu nhẩu này, kể cả cá, cá to và cá bé, kể cả giun, kể cả các mẹ cha chúng ta. Khỏi Rip! Còn ai sống mà đọc rip với chả riếc. Giời ạ! Con biết tuy “mang tiếng” là Giời đấy, nhưng Giời chắc cũng khổ lắm về cái tính cục bộ lại hay cục tác của cõi nhân sinh này. Đáng lẽ ra khi sinh ra chúng con, Giời cứ cho khối óc tốt như thế nhưng phải làm cho mấy mẹ cha vân vân và vân vân có trái tim biết yêu nhiều nhiều một tí. Vì con nghĩ nếu yêu thì ta sẽ nắn nót cuộc đời cho đẹp; còn nếu “chẳng yêu đâu” thì tròn cũng hóa xéo xèo xẹo thôi Ngài ơi. Đấy, Ngài thấy không, vì con yêu cô kia mà con phải tha cổ về ở mấy chục năm ròng mà con có than phiền gì đâu! Nhiều lúc con ngậm đắng nuốt cay vì tính tình nhõng nhẽo khó chiều của cô ấy mà con vẫn nhe răng cười cho vui nhà vui cửa, chỉ sợ một ngày nào đó khi chỉ còn lợi mà không còn răng, rồi con có còn làm cho cổ vui khi nhe lợi ra mà nhát như thế. Nghĩ đến đây, con buồn quá, chả nghĩ thêm điều gì được cả. Thôi con đi gọi vợ con về, rủ cổ ra bến Bạch Đằng câu cá đây. Con kính cẩn chào Ngài! Chúc Ngài luôn là Thượng Đế con thờ. Mà con nói cho Ngài biết nhé. Con vô cùng ghét, cực kỳ ghét, ghét cay ghét đắng những ai làm Thượng Đế mà không biết thương bàn dân thiên hạ. Ngài mà như vậy, con khóc cho mà coi... LAM TRẦN 18.03.2012
Phụ Bản IV Làm người nên học cách im lặng, đừng nói lời xấu về người, chỉ cần làm tốt việc của mình là đủ 1. Bạn vĩnh viễn không biết rằng bản thân mình ở trong miệng người khác có bao nhiêu phiên bản, cũng sẽ không biết được người khác vì bảo hộ chính mình mà đã từng nói những lời gì về bạn, càng không cách nào ngăn cản được những lời đàm tiếu ấy. Nhưng có một điều bạn có thể làm được, chính là bỏ mặc, cũng không cần phải đi giải thích, người hiểu bạn sẽ vĩnh viễn tin tưởng bạn. Có một câu nói rất hay: “Nếu bạn không mù, thì đừng quen biết tôi qua miệng của người khác”. 2. Làm người, trạng thái tốt nhất chính là hiểu được tôn trọng. Bất kể người khác hành xử thế nào, bạn nhất định phải biết kiềm chế, không nên khoe mẽ hay thể hiện bản thân. Bạn càng trưởng thành sẽ càng hiểu được, bên ngoài bầu trời còn có bầu trời khác, trên người tài còn có người tài hơn, bởi thế giới này không phải chỉ riêng bạn đang tồn tại. Làm người nên học cách im lặng, đừng nói lời xấu về người, chỉ cần làm tốt việc của mình là đủ. Không cầu sâu sắc, chỉ mong đơn giản. 3. Có những sự tình bạn cảm thấy là chuyện trọng đại, nhưng trong mắt người khác đó có thể chỉ là chuyện nhỏ. Bởi vì họ không phải là bạn, nên họ không cách nào hiểu được cảm giác mãnh liệt này của bạn. Cho đến một ngày bạn sẽ hiểu ra, nhiều khi không cần phải nói hết ra cho người khác, bạn cũng có thể tự mình giải quyết. Trên thế giới này, ngoại trừ bản thân ra sẽ không ai có thể thực sự cứu được mình. 4. Có một sự thật là, chúng ta luôn mang theo mặt nạ để đối diện với tình yêu, luôn muốn biểu hiện ra mặt tốt đẹp nhất của bản thân mình. Cho đến khi hai người càng thân thiết hơn, liền cảm giác thấy đối phương đã thay đổi. Kỳ thực, họ không hề thay đổi, chỉ là chúng ta đang tiến đến bề mặt chân thực nhất của họ, nên mới cảm thấy bị mất phương hướng. Bởi vậy, khi bạn muốn tiếp nhận một người, thì không chỉ là tiếp nhận mặt ưu việt của họ, mà đối với những khuyết điểm của họ cũng nên mở lòng ra và bao dung lấy. 5. Ta nâng bạn lên, bạn chính là chiếc ly thật đẹp; ta buông tay xuống, bạn có thể sẽ trở thành những mảnh thủy tinh vỡ vụn. Bất luận là người yêu hay bằng hữu ta đều nên trân trọng. Bởi mỗi lần ta khổ sở, thương tâm thì họ chính là người ở bên cạnh bầu bạn; mỗi khi trong lòng có ưu tư thì họ cũng là người đầu tiên nhận ra điều đó. 6. Có những việc hôm nay được xem là chuyện lớn nhưng ngày mai lại chỉ là chuyện nhỏ; việc xảy ra trong năm nay được coi là chuyện lớn, sang năm chỉ còn là một câu chuyện; kiếp này được coi là đại sự, kiếp sau cũng chỉ là truyền thuyết. Khi gặp khó khăn trong cuộc sống hay trong công việc, hãy tự nhủ với bản thân rằng: Hôm nay sẽ qua đi, ngày mai rồi sẽ đến, một ngày mới sẽ lại bắt đầu. 7. Nhân sinh cũng giống như một ly trà, đong đầy cũng tốt mà vơi nửa cũng chẳng sao, cần chi phải tranh giành? Nồng đậm cũng tốt mà nhạt nhẽo cũng được, vẫn đều có hương vị riêng. Vội vàng cũng tốt mà chậm chạp cũng được, vậy thì đã làm sao? Ấm áp cũng tốt mà lạnh lẽo cũng được, chỉ cần nhìn nhau cười một cái thôi. Cuộc sống, bởi vì để tâm cho nên mới đau khổ; bởi vì nghi ngờ cho nên mới tổn thương; bởi vì xem nhẹ cho nên mới vui vẻ; bởi vì đạm bạc cho nên mới hạnh phúc. Chúng ta đều là những vị khách qua đường của đất trời, có rất nhiều việc chúng ta không thể làm chủ được, vậy nên hãy cứ để vạn sự tùy duyên đi! 8. Thời điểm ta khóc mà không có người dỗ dành, ta học được kiên cường; thời điểm ta sợ hãi mà không có ai bên cạnh, ta học được dũng cảm. Thời điểm phiền não mà không có người hỏi han, ta học được cách thừa nhận; lúc mệt mỏi không có người dựa vào, ta học được cách tự lập. Cứ như vậy ta tìm được chính bản thân mình, vốn là người rất tài năng, ưu tú. KIM SƠN st.
Đọc sách giùm bạn 1. TÀU XANH LƯỚT GIỮA BIỂN TRỜI A BLUE SHIP GLIDING OVER THE BOUNDLESS SEA Tác giả Cố Giáo sư Tiến sĩ khoa học Vũ Đình Huy. Được dịch giả Vũ Anh Tuấn chuyển ngữ từ Việt sang Anh. Sách dầy 288 trang khổ 14 x 20.5cm, do NXB Văn Học in và nộp lưu chiểu tháng 01/2012 gồm có: Phần I: - Lời giới thiệu (từ trang 5-31) - 144 bài thơ song ngữ (từ tr ang 32-237) Phần II: - Trích Nhận xét và Phê Bình (từ trang 238-261) - Lời bạt (từ tr ang 262-275) 2. TRỐN TÌM (thơ) Tác giả TRẦN THỊ TỐ NGA bút danh Tố Nga, Phó chủ nhiệm CLB sáng tác thơ văn Cung VHLĐ Tp. HCM. Sách dầy 110 trang khổ 13 x 19cm gồm 62 bài thơ, do NXB Văn Học in tháng 11/2007 3. TRĂNG PHỐ (thơ) Tác giả TRẦN THỊ TỐ NGA Sách dầy 90 trang khổ 13 x 19cm gồm có: Phần 1: 48 bài thơ từ trang 7-62 Phần 2: 16 bài thơ (từ tr. 64-85) được nhạc sỹ Lê Nguyên phổ nhạc Do NXB Văn Học in tháng 04/2015 HÀ MẠNH ĐOÀN
ÔNG LÃO MÙ Khí trời đang chuyển tiết, thoang thoáng cái lạnh se se tuồn về. Lại một mùa đông như bao mùa đã qua. Khái niệm thời gian trong ông lão mù bây giờ là những cơn ho khù khụ, nhích nhắc rồi dai dẳng, quen thuộc đến nỗi ông không còn nghĩ đến chuyện tặng cho cái cổ họng tội nghiệp đó vài viên thuốc. Nhưng dẫu sao thì trong cái túi áo quăn queo ấy vẫn còn một lọ dầu, bôi một tí vào cổ, vào mũi xong, ông lão nghểnh tai nghe ngóng. Tiếng xôn xao xếp hàng dọn quán như hồi chuông đồng hồ của ông. Quờ tay vào chiếc mũ để trước mặt, ông lão nhặt mấy tờ tiền lẻ nhàu nát, khẽ vuốt từng tờ và rờ rẫm dọc ngang tờ bạc xong ông xếp tờ nọ lên tờ kia. Hết những tờ tiền ở cái mũ, ông cho tay vào lần áo trong, lôi ra những tờ tiền khác cũng nhàu nhĩ không kém, và cũng vuốt xếp cẩn thận từng tờ như thế. Xếp xong mớ tiền, ông quơ tay ra sau lưng lấy cây gậy đặt nép dưới chân hè, lọng khọng chống dạy, ông đi thẳng đến chỗ bà hàng cháo. Mùi thơm của một tô cháo nóng rắc nhiều tiêu hành bốc hơi nghi ngút khiến ông thấy cồn cào trong ruột. - Ông cứ ngồi xuống đấy đi, chỗ này khách đang ăn đông lắm. Vẻ nhẫn nhục ông dọn chân ngồi xuống cách gánh cháo một đoạn. Một người khách đang ngồi chờ đến lượt, thấy vậy nói: - Bác cứ múc cho ông lão trước đi, cháu chờ thêm một tí nữa cũng được. Ông nhướng tai về phía ấy, giọng nói của một cô gái trẻ, ai mà tử tế thế nhỉ? Những lời tử tế như thế, ông không mấy khi được nghe. Tiếng bà hàng cháo lóe xóe: - Dào ôi, ông ấy được ngồi đợi còn mừng nữa ấy chứ. - Sao thế ạ? - Vãn khách thì tôi bán rẻ cho chứ sao. - Chẳng đáng bao nhiêu, sớm muộn gì bác cũng cứ bán re rẻ cho ông lão tí bác ạ. Khổ, đã già cả còn mù lòa thế kia, không biết có vợ con gì không bác nhỉ? Giọng bà hàng cháo hạ thấp xuống, nghe không rõ nhưng ông cũng đoán biết người ta đang nói chuyện về mình. Ông cố nuốt tiếng thở dài vào ngực, bật ra vài tiếng ho húng hắng. Ông ngồi bó gối, đầu hơi cúi xuống, điệu bộ trông thật thiểu não. Ít phút sau, ông nghe bước chân đến gần, và giọng nói lóe xóe của bà hàng cháo: - Cháo đây, ông ăn đi, hôm nay đ ược bao nhiêu? Đưa tôi đổi cho nào. Ông đưa một tay đón tô cháo, tay kia cho vào túi lấy ra nắm tiền đã xếp cẩn thận đưa cho bà, bà nhẩm đếm rồi kêu lên: - Hôm nay được nhiều nhỉ! Những tám nghìn, trừ một nghìn tiền cháo, t ô i đổi cho ông bảy nghìn đây nhá. - Vâng, cảm ơn bà. Cầm những tờ tiền bà hàng vừa đổi, ông bỏ luôn vào túi không cần kiểm lại. Vì ông tin người đàn bà ấy mồm miệng nhưng tốt bụng. Hơn nữa, ông cũng áng chừng được số tìền của mình qua sự nhận biết bằng tay. Chủ yếu là kích thước của những tờ bạc giúp ông nhận biết được mệnh giá của chúng. Nhỏ nhất là tờ hai trăm, nhỉnh hơn một chút là tờ năm trăm, tờ một ngàn thì cứng hơn, độ dài của nó cũng chỉ nhích hơn tờ năm trăm độ vài li. Tờ hai ngàn ít khi có, nếu có thì ông có thể nhận ra bằng một điểm nổi trên tờ bạc, điểm nổi này phải linh tay lắm mới nhận ra được, đôi khi bằng trực giác. Những tờ có mệnh giá lớn hơn, thì hầu như ông không có cơ hội cầm vào tay, ngay cả tiền mà bà hàng cháo đổi cho ông cũng không quá tờ hai ngàn, bà bảo nhỡ có tiêu nhầm cũng không bị mất nhiều. Ông coi mình còn may mắn khi được nhận một lòng tốt như vậy. Không nhanh cũng không chậm, tô cháo được trút vào dạ dày ông như một đồng xu rơi vào chiếc chum rỗng, vọng lên một tiếng kêu yếu ớt, nhưng chỉ bấy nhiêu cũng đủ cho ông một đêm ngủ không phải nằm quắp bụng. Trả cái tô cho bà hàng xong, chiếc gậy lại dẫn đường cho ông. Dáng liêu xiêu, ông khuất dần về phía cuối chợ. Lọm khọm chui vào cái “vòm” của mình, ông lão chợt giật nảy người khi nghe có tiếng thở, ông thốt giọng khàn khàn hỏi: - Ai đấy? Không có tiếng trả lời, hình như ai đó còn đang giấc. Định tiến lại gần để gọi, nhưng ông chợt khựng lại, biết đâu lại thằng xì ke nào muốn chiếm chỗ chui ra chui vào của ông. Trước cũng đã vài lần ông phải đeo xách chống gậy lần đi tìm chỗ ngủ giữa đêm khuya. Khi bị một tên bụi đời nào đó hung hãn, ngang tàng chiếm chỗ. Sức già lại mù lòa, chẳng làm gì được nó, thôi đành chịu thiệt cho yên thân. Từ ngày lần được đến cái vòm này, ông được yên ổn trong một thời gian khá dài. Đó là một con hẻm nhỏ, trước là đường đi của nửa nhà sau, sau khi đã cắt bán một nửa phía trước, về sau họ bán nốt, chủ nhà phía trước mua luôn rồi phá thông, con hẻm thành thừa, thi thoảng làm chỗ để xe. Khi ông dạt được vào đây, có lẽ nhìn bộ dạng hom hem, mấp mé của ông, người ta không nỡ đuổi, chỉ buông lời đe nẹt: - Đừng có mà bày bẩn ra đó nghe không? Giọng nói xách mé của một người mà ông đoán tuổi còn khá trẻ, cũng không làm ảnh hưởng đến niềm vui và sự an tâm của ông khi không còn phải đêm hôm vất vưởng. Thế mà giờ hình như ông có nguy cơ bị trôi dạt lần nữa. Ngẫm nghĩ một lúc, ông quyết định đến gần xem người đang ngủ đó là ai. Bàn tay ông vừa chạm vào làn da người ấy thì vội rụt lại, nhưng lập tức lại đặt lên vội vã, cuống quýt. Khi đôi tay báo cho ông biết đó là một đứa trẻ trai, thì trong ông thay thế nỗi lo lắng này bằng nỗi lo lắng khác. Đứa trẻ này là ai? Sao lại nằm đây trong lúc sốt cao thế này? Ông lão không có thời gian cho sự giải đáp, ông lần tay xuống đáy giỏ đeo bên mình lấy ra một củ gừng đã hơi héo. Ông cắn một miếng, nhai dập rồi vạch môi thằng bé mớm vào. Làm độ vài lần như thế, xong ông lấy cái khăn mặt thấm ướt bằng chai nước để trong góc vòm, ông lau khắp người thằng bé. Vừa làm ông vừa gọi chừng “Cháu ơi! Tỉnh dậy đi cháu ơi!”. Lau một lúc, ông ngừng tay. Ông nghĩ đến một viên thuốc hạ sốt, nhưng tiệm thuốc tây ở đâu thì ông chịu. Bây giờ mà đi hỏi thăm để mua cho được, thì không biết thằng bé này sẽ ra sao. Còn đang lúng túng chưa biết làm cách nào, thì ông nghe đứa trẻ ú ớ trở mình, ông vỗ về và gọi, một lúc thì nó tỉnh hẳn. Trong màn đêm tối sẫm, thấy có bóng người bên cạnh, thằng bé hốt hoảng chống tay định ngồi dậy, nhưng ông chận lại bảo: - Cháu cứ nằm yên đây cho khỏe, để ông đi mua thuốc cho cháu. Thằng bé ngạc nhiên: - Ông là ai mà mua thuốc cho cháu? - Rồi cháu sẽ biết. Cháu có đói không? Ông mua cả bánh mì cho cháu nhá. Đó là thứ thằng bé đang cần, nó ngoan ngoãn “Dạ”. Nhưng khi thấy ông quờ gậy dò đường, biết ông bị mù, nó nhổm dậy chạy theo: - Ông ơi! Ông bị mù làm sao đi mua được? - Không sao, ông đi quen rồi, ông hỏi thăm người ta là được mà. Cháu cứ nằm nghỉ đi. Thằng bé tần ngần một chút rồi nói: - Để cháu dẫn ông đi nhá. - Cháu còn đang mệt mà. - Cháu đỡ mệt rồi ông ạ. Ông lão rờ trán thằng bé, thấy đã bớt nóng nhiều, ông đồng ý. Có đôi mắt phụ, bước chân ông nhanh hơn và vững hơn. Lát sau, một già một trẻ trở về với ổ bánh mì trên tay thằng bé. Đêm đó nó ngủ lại với ông, và ông lão phải một đêm khó ngủ không phải vì chỗ nằm chật hơn. Những câu hỏi dọc đường đi đã cho ông hiểu rõ hoàn cảnh thằng bé. Thằng bé có cái tên là Lạc. Không phải là môt cái tên nắn nót ghi trên một tờ giấy khai sinh với ý nghĩa là vui thú. Mà chỉ là một cái tên đặt tạm ở một trại trẻ mồ côi. Nó đã chín năm ở đó, từ khi còn là một hài nhi. Hậu quả của một người mẹ trẻ, đã bỏ trốn khỏi nhà hộ sinh. Nó không nhớ được nó đã qua cái tuổi chập chững thế nào, nhưng rồi đến lúc nó hiểu được rằng, người ta không thể nuôi nó lâu hơn được nữa. Số nhân khẩu càng tăng thì khẩu phần ăn càng giảm. Không hiểu vì sao mà ngày càng nhiều đứa trẻ được đưa vào trại tế bần thế không biết? Đã xuất hiện những cuộc cãi vã tranh giành nhau miếng ăn, đứa lớn bắt nạt đứa bé, cốt sao cho đầy cái dạ dày. Chúng thường xuyên lâm vào cảnh thiếu bữa hoặc nửa bữa, các cô bảo mẫu thì luôn miệng kêu ca là quỹ từ thiện ngày càng ít. Cuối cùng, nó bắt chước một số đứa lớn, bỏ trốn ra ngoài đi xin ăn. Cũng có khá hơn thật, nhưng đêm đêm nó phải vạ vật dưới những mái hiên, vỉa hè. Mưa khuya gió sớm đã vượt quá tầm sức chịu đựng của nó, để một chiều, nó hổn hển những bước chân nặng nhọc với cơ thể đang tăng dần nhiệt độ dạt vào cái vòm của ông lão. Dù không muốn cũng phải nói rằng “Có bàn tay điều tiết của Thượng đế ở đây”. Kể từ hôm đó, người ta không thấy ông lão mù ngồi thu lu ở một góc chợ nữa, mà đôi lão ấu ấy dung dăng qua các ngõ ngách của góc chợ, cái mũ cũng nhiều lần được cho vào túi áo hơn, bà hàng cháo có thêm một khách quen, có điều khách này phải xơi một lúc hai tô. Một lần thằng bé thắc mắc hỏi ông lão: - Ông ơi! Thế lúc trước không có cháu dắt, ông làm sao đi? - Ông có nhiều mắt lắm cháu ạ. Đây này… Ông lão chỉ vào đôi tai, cái mũi, đôi tay, đôi chân và cả cái gậy. Thằng bé tròn mắt ngạc nhiên, ông cười giải thích: - Này nhé, từ chỗ ông cháu ta ngủ ra hết ngõ hẻm là ba mươi tư bước chân, từ ngõ hẻm ấy rẽ trái, đi bảy mươi tám bước nữa là đến chỗ gò thùng. Từ chỗ gò thùng cách hàng phở là sáu mươi hai bước, qua hàng phở bốn mươi sáu bước thì rẽ phải, ở đó có cái cột đèn đường, từ cột đèn ấy đã nghe lao xao tiếng chợ búa, ông sẽ đi thêm độ chín mươi bước nữa là đến được chỗ ngồi. Sức nóng của ánh mặt trời và những âm thanh quen thuộc xung quanh là chiếc đồng hồ của ông đấy. Thằng Lạc ngẩn người ra nghe rồi nói: - Ông có nhiều mắt thế thì đâu cần phải có cháu dắt. - Cần chứ, có cháu ông đi được nhiều chỗ hơn, lại được nói chuyện thế này. Cháu không thích ở với ông sao? - Cháu thích chứ. Cháu không ở với ông thì ở với ai bây giờ. Cháu không về trại nữa đâu, cháu sợ lắm rồi. Chả cứ gì đám trẻ trong trại tế bàn ấy tranh giành nhau miếng ăn, chả cứ gì nơi buôn ngược bán xuôi mới tranh giành nhau cái sống, mà ngay đến cái chốn gọi là “đáy xã hội” cũng không thoát khỏi quỹ đạo ấy. Khu chợ không bao lớn mà ngày càng nhiều đệ tử Cái Bang. Cái mũ của ông cháu lão mù đã phải nhận nhiều cái lắc hơn, kèm theo câu than vãn: - Buôn bán thì ế ẩm, mà cứ liên tục đóng thuế không biên lai này thì chết. Không biết ở đâu ra mà lắm thế? - Ăn mày là ai? Ăn mày là ta. Đói cơm rách áo thì ra ăn mày. Nói đâu xa, cứ một cơn bão lũ đi qua, là biến khối người thành bốn không rồi, không đi ăn mày thì còn làm sao? - Đời sao chán vạn cảnh khổ thế bà nhỉ? Cứ chắt bóp chưa đâu vào với đâu, ông trời cuốn phăng đi một cái lại trắng tay. - Thế cho nên mới nói, ăn ở nhờ cái đức, trời thương thì được nhờ chứ trời hại chẳng mấy chốc. Đại loại những câu chuyện như thế vọng vào tai ông lão, nhưng ông vẫn chưa có ý định đi tìm mảnh đất sống khác. Nói gì thì nói, làm nghề gì cũng lệ thuộc vào cái thói quen, quen nơi thuộc chốn rồi bỏ đi cũng khó. Cho đến một hôm như thường lệ, cháu đi trước ông đi sau, chợt có một người giữ tay ông lại hỏi: - Ông ơi! Đi cùng ông có mấy người? Ông lão ngẩn ngơ chưa biết câu hỏi ấy là ý gì, nhưng ông cũng trả lời: - Dạ hai. Tôi và cháu bé đây. Lập tức giọng nói lúc trước vang lên một cách tức giận: - Cô kia, sao cô lại chận tiền của họ hả? Một người đàn bà bế một đứa bé đáp lại với giọng ngang ngược: - Việc gì đến chị mà chị xía vào. Nhiều tiếng nói xôn xao nổi lên: - Ôi trời! Lại còn cái nước thế nữa. Thảo nào, cứ thấy thằng bé chìa mũ, móc ra cho thì cái ca nhựa đón lấy. Thật tệ quá, cùng cảnh ngộ với nhau mà còn không biết thương nhau… - Lại còn ăn nói cái giọng bầy chây thế hả? - Cho nó vài cái tát vỡ mặt đi. - Cho nó vào đồn công an đi. Ông lão mù nghe rõ chuyện, tâm trạng ông bừng lên sự phẫn nộ: - Trời ơi! Sao cháu không nói cho ông biết? Thằng Lạc mếu máo: - Bà ấy dọa đánh cháu, không cho cháu nói. Người đàn bà kia bế con lủi vào đám đông biến mất. Cũng chẳng ai thèm đuổi theo, vài người chửi với vài câu cho bõ ghét. Ông lão mù đứng thuỗn người, cơn phẫn nộ nhanh chóng chìm xuống, và trỗi dậy trong ông là một cảm giác xót xa, tê tái. Tâm trạng bất lực vì không thể tự vệ, cũng không được bảo vệ khiến ông rã rời, ngao ngán. Ông lào thào bảo thằng Lạc: - Thôi, ta về đi cháu. - Nhưng mà sáng giờ chưa xin được đồng nào cả ông ạ. Câu nói của thằng bé cộng với câu chuyện vừa xảy ra làm một số người động lòng trắc ẩn, những tờ tiền lẻ thi nhau rơi vào mũ, hai ông cháu luôn miệng cảm ơn. Hôm sau ông bảo thằng Lạc: - Đừng ra chợ nữa cháu ạ, ông cháu mình chịu khó đi xa một tí vậy. Thằng Lạc vừa tức giận vừa buồn bã nói: - Cháu mà lớn tí nữa, họ không bắt nạt được cháu đâu. - Thôi cháu ạ, họ cũng khổ quá mới làm thế. - Ông cháu mình cũng khổ vậy, nhưng có làm thế bao giờ đâu. - Ừ thì ông cháu mình khác họ. Mà thôi, biết đâu mình đi dọc những khu phố lại xin được nhiều hơn thì sao. Câu động viên mang theo tí ước vọng làm khuôn mặt thằng Lạc tươi tỉnh lên. Thế là hai ông cháu thung thăng qua các ngả đường. Quả là cũng có khá hơn thật, đôi khi sự rủi ro này lại đem lại điều may mắn khác. Trên những con đường hai ông cháu ngày ngày đi qua có một cái trường học. Mỗi lần đi qua đó, thằng Lạc lại lần chần chậm bước, bên trong vọng ra tiếng đọc bài giòn giã. Mấy lần thế, ông lão để ý, và ông hỏi: - Cháu có thích đi học không? - Cháu thích lắm. . . nhưng mà… Ông không nói gì. Lúc còn đi xin ở chợ, ông thường được nghe khối chuyện. Ông nhớ có lần nghe người ta kể về một lớp học tình thương của các ma sơ nào đó, ông hỏi tìm đến chỗ ấy. Đúng như ông đã nghe, có người tốt bụng dẫn hai ông cháu đến tận nơi. Và thế là ngày ngày, hai ông cháu chỉ đi dạo buổi sáng, chiều đến thằng Lạc lại để ông ngồi một chỗ nào đó, tan học nó ra đón. Trong cái vòm của ông lão bây giờ, tối tối có thêm ngọn đèn dầu con con. Thằng Lạc vui sướng kể cho ông nghe những gì nó đã được học làm ông cũng vui lây. Một hôm nó buộc miệng: - Không có ông, chắc cháu chẳng được đi học thế này đâu ông nhỉ? - Không có ông thì cũng sẽ có người khác chứ. - Chẳng có ai thương cháu như ông đâu ông ạ. Rồi nó vụt bá cổ ông: - Ông ơi! Cháu cảm ơn ông lắm. Trong náo nức tình cảm của thằng bé, giọng ông chợt xa xôi, mơ hồ: - Ông phải cảm ơn cháu mới đ úng chứ. Thằng Lạc nghe không rõ, hỏi lại: - Ông nói gì thế ạ? Ông sực tỉnh khỏa lấp: - Không, không nói cháu, cháu học bài xong chưa? - Gần xong rồi ông ạ. - Ừ thôi, học cho xong đi rồi đi ngủ. Lát sau, nó giục ông: - Ông ơi! Cháu ngủ đ ây, ông cũng ngủ đi ông nhé. - Ừ, cháu cứ ngủ trước đi. Nói xong, ông lão ngồi dựa lưng vào vách tường. Trong tâm trí ông, cuốn phim quá khứ đang tua ngược. Một quá khứ mà ông đã bao lần vùi chôn, cuộc trò chuyện với thằng bé vừa rồi như một nhát cuốc vô tình đã đào xới lên tất cả. Cho đến bây giờ ông cũng không hỉểu nổi, tại sao một biến cố lớn lại có thể xảy đến với con người ta dễ dàng như thế? Là con trai độc nhất giữa năm chị em, ông gần như được hưởng toàn phần sự ưu đãi của cha mẹ. Thôi thì không còn thiếu những ý thích gì của ông mà không được thực hiện. Một cụm từ nghe vừa xưng tụng vừa mỉa mai được gán cho ông “Ông Trời con”. Nhận thức được vai trò “độc đinh” của mình, ông lại càng không biết đâu là giới hạn. Thói đời “chìu chuộng sinh hư hỏng, lêu lổng đâm điếm đàng”. Cha lại là một quan chức có cỡ nên không ít người cầu cạnh, không thiếu kẻ van xin. Những đồng tiền qua tay ông không khác gì lá mùa thu gặp gió. Nhưng kim trong giẻ lâu ngày cũng phải chòi đầu ra. Một loạt đơn thư tố cáo kèm theo những chứng cứ cụ thể, đã giáng một vị đương kim chức sắc xuống thành một tên tội phạm. Gia sản bị tịch biên, cha ông vừa nhục nhã vừa tuyệt vọng, vì mức án được tuyên cũng đủ cả đời còn lại không nhìn thấy ánh mặt trời, nên đã tự tử chết trong tù. Mẹ ông vốn quen ăn trắng mặc trơn, gặp cảnh gia đình sa sút, thêm tang chồng nữa, chỉ biết ngồi khóc than, nên chẳng bao lâu bà cũng đi theo chồng. Những đứa con phải tứ tán tha phương cầu thực. Một gia đình bề thế phút chốc thành tan hoang. Một điều mặc nhiên là “Không có nghề trong tay tất có ngày ăn trộm”. Vốn quen tiêu tiền như nước, lại bản tính hoang đàng thích xưng hùng xưng bá, chẳng bao lâu ông nổi danh là tay anh chị một vùng. Nhưng cổ nhân đã thừa kinh nghiệm “ Vỏ quýt phải có móng tay”. Sau một trận tranh hùng, ông bị ném ra đường chẳng khác một cái bao rách, và hậu chứng vĩnh viễn là một khoảng tối tăm bao la như cuộc đời còn lại của ông. Đã đôi lần ông tìm đến cái chết, xong không đủ can đảm, và như có một điều gì đó ngăn ông lại, đánh thức trong ông một góc người. Rồi ông nghĩ, ông phải sống, cho dù cuộc sống bây giờ như một sự đọa đày, nhưng có lẽ nó còn là một lời ăn năn sám hối, một sự thanh toán sòng phẳng của một kiếp người. Ơn trời dun rủi, đẩy thằng bé lạc loài này vào tay ông. Dù chỉ là một chút nhỏ nhoi cũng đủ cho ông có được cảm giác thanh thản khi nhắm mắt, rằng cả một đời người, không đến nỗi là một sự quá thừa thãi. Ông khẽ thở ra một hơi dài, vùng ký ức không thể nào bôi xóa, mỗi lần hiện về lại nhấn chìm ông trong sự đau thương, tiếc nuối. “Giá như ta được sinh ra trở lại!” Trời đêm, những con gió đông hun hút, thằng bé đã ngủ rất say, nó cong người như con tôm luộc trong cái áo đầy mụn vá của ông thay cho tấm chăn. Ông lão mù lần tay, kéo cái áo lên đắp kín cổ cho thằng bé, xua xua mấy con muỗi, ông nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh. Thằng Lạc trở mình quay lại, quặp chân tay ôm chặt lấy ông. Ông khẽ vỗ vỗ vào lưng thằng bé, và đưa tay quệt nhẹ một chất ướt trên khóe mắt mình. ĐÀM LAN
GIA TÀI Năm tôi mười ba tuổi, ngoại mất. Gia tài ông để lại cho tôi nằm gọn trong một cái tủ gỗ thao lao chạm khắc tinh vi, trông rất đẹp. Tủ có hai ngăn. Ngăn trên chứa những mẫu vật ngoại sưu tầm. Một cái hộp thiếc đựng những đồng xu đủ loại. Những đồng có lỗ được xâu thành một chuỗi. Trong số đó, tôi thích nhất là những đồng cà-rô-bi có in hình nữ hoàng. Lẽ ra, xâu chuỗi còn dài hơn nếu trước đó tôi không xin ngoại một ít để phân phát cho bạn bè dùng thay compa khi vẽ vòng tròn hoặc mang về biếu bà của chúng làm vật cạo gió. Bên cạnh hộp đựng tiền cổ là một bát sứ đầy vun những viên bi to nhỏ, màu sắc sặc sỡ. Có viên bằng thủy tinh trong veo nổi bật những vân màu xanh, đỏ, tím… Có viên bằng sành, men nền màu nâu hay màu rêu bóng loáng điểm xuyết li ti những cánh hoa vàng. Có viên màu hoa Tú Cầu. Có viên màu lửa đượm. Ba viên đặt ở trên cùng chỉ to bằng đầu ngón tay trỏ, bị khờn lỗ chỗ. Nhưng ngoại quý chúng hơn hết khi biết tôi có được từ một việc làm tốt. Tôi thường cho thằng cu Tuấn mượn bút chì màu trong giờ tập vẽ. Tuấn đã lựa ba viên bi đẹp nhất trong số bi của mình để tặng tôi. Tôi biếu lại cho ông. Có lần tôi hỏi: - Ngoại cất bát bi ấy để làm gì? - Để ngắm. Chúng đẹp phải không? Gật đầu tán thành nhưng tôi vẫn chưa hết thắc mắc: - Thiếu gì đồ đẹp hơn sao ngoại không chọn? - Vì nó vừa túi tiền của ngoại. Vả lại, chúng còn gợi nhớ những trò chơi vui nhộn thời thơ ấu. Một vật dù tầm thường nhưng mang màu sắc kỷ niệm cũng trở nên vô giá . Điều đó phải mất một thời gian dài tôi mới hiểu. Cái hộp giấy đựng tem chết chiếm chỗ gần hết phân nửa ngăn tủ trên. Những con tem chết lem luốc dấu bưu chính nằm bất động, chồng chất lên nhau được ngoại làm cho chúng có linh hồn, bằng một quyển sổ ghi chép lịch sử hình ảnh của từng con tem. Tôi thích trò chơi nầy lắm. Thấy ai có thư, tôi cũng năn nỉ xin con tem trên phong bì, mang về biếu ông. Ngoại lại mất mấy ngày vào ra thư viện để tìm hiểu, ghi chép vào sổ. Chỉ chờ có thế, tôi đọc ngấu nghiến trong vài giây. Trong ngăn tủ nầy, những mẫu hoa văn ngoại sưu tầm được bà khen là thực tế nhất. Vì ông đã sử dụng chúng khi vẽ trang trí lên những bức tường rào quanh các ngôi chùa trong vùng. Công đức ấy được nhiều người đền bù bằng cử chỉ ngã mũ, khom người cúi chào khi gặp ông bà ngoại tôi. Ông không tranh luận với bà nhưng tâm sự với tôi: - Ngoại làm công quả không phải để đánh đổi những điều đó. Ngoại già rồi, không lo làm việc có ích thì đợi đến bao giờ. Tôi gật đầu, điều nầy tôi thật sự cảm thông với ngoại. Ngăn dưới, ngoại xếp một chồng sách và một chồng vở. Những quyển sách đã ngả màu vàng ố nhưng không hề bị quăn góc. Từng trang vẫn phẳng phiu vì mỗi lần đọc sách ông luôn cầm bằng hai tay. Đó là bộ: “Cuốn theo chiều gió”, những quyển truyện truyền thuyết Việt Nam, quyển thơ Lục Vân Tiên, một quyển nói về cây thuốc nam. Chồng vở còn phong phú hơn. Ông dành để ghi chép nhiều loại: ca dao, tục ngữ, động vật, thực vật, về những người nổi tiếng trong và ngoài nước… Ngày nào đi học về, tôi cũng chúi mũi săm soi cái gia tài của mình. Hết mân mê vật nầy đến chăm chú cúi gầm vào quyển sách kia. Tôi nhận ra có một thế giới kỳ ảo nằm trong chiếc tủ con. Nhưng niềm vui kéo dài chẳng bao lâu. Một trận hỏa hoạn xảy ra đã cướp đi tất cả. Ngọn lửa quái ác, tàn khốc thiêu rụi cả xóm tôi. Ngôi nhà thân yêu và chiếc tủ quý báu của tôi biến thành tro bụi. Những người hảo tâm đã giúp xóm tôi dựng lại nhà. Nhưng trong ngôi nhà mới thiếu chiếc tủ thao lao chạm khắc tinh vi. Tôi buồn như mất ông lần thứ hai. Một hôm, tôi bỗng nghĩ ra một cách: “Tự tạo gia tài ở lứa tuổi học trò”. Muốn làm ra tiền thì không phải dễ nhưng phục hồi gia sản của ông chẳng khó khăn mấy, nếu tôi có quyết tâm và kiên trì. Tôi thực hiện ngay ý định. Từ đó, mỗi sáng tôi chỉ đỡ dạ bằng một bát cơm nguội rồi đến trường. Tiền mẹ cho ăn quà bánh tôi để dành. Chẳng bao lâu, tôi có một số tiền đủ để mua bảy quyển sổ bìa cứng tuyệt đẹp. Tôi đặt tên cho chúng là Tìm hiểu tự nhiên - Tìm hiểu xã hội - Tuyển văn - Tuyển thơ - Thuốc hay - Mẹo vặt - Văn hóa. Mỗi chiều, tôi đến thư viện với một trong số các quyển sổ ấy. Ngoài ra, tôi còn sưu tầm các mẫu vật, tem thư, những hình ảnh đẹp và lạ. Tất cả những thứ đó được đựng trong… một cái thùng mì gói, đặt dưới gầm giường của tôi. Dù vậy, tôi cảm thấy vui hơn bao giờ hết. Tôi đã nhận ra và hiểu sâu sắc ý nghĩa “cái gia tài” ông để lại cho tôi. Đó là niềm say mê nét đẹp trong cuộc sống, nỗi khao khát chiếm lĩnh tri thức và vận dụng chúng để làm đẹp đời mình, đời người. Ngoại đã giúp tôi tìm thấy ý xuân trong từng thời khắc sống. Ôi! Tôi biết ơn ngoại vô cùng! NGUYỄN THỊ MÂY MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 09.6.2018…....Vũ Thư Hữu ... 01 Cám ơn World Cup giúp mình có quý thư ........... Vũ Anh Tuấn ... 05 Có tận thế không? (tt) ................ Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết ... 08 Các thừa trong Đạo Phật .................... Tâm Nguyện ... 15 Nhà văn Tsekhôv & cái ống nghe thầy thuốc… ......... Thúy Toàn .... 27 Vô thường - Luân hồi - Định mệnh, vẻ đẹp của cuộc sống ...... Phạm Vũ ... 31 Bộ sưu tập đèn cổ của Lm. Nguyễn Hữu Triết từ góc nhìn bảo tàng ............. Đào Minh Diệu Xuân st. .... 43 Chuyện ngắn đời dài .................... Nguyễn Văn Sâm .... 53 Riêng một miền trời (thơ) ............... Đàm Lan ... 64 Khúc mưa thu (thơ) .......... Phạm Thị Minh-Hưng .... 65 Hoa Quỳnh 2 (thơ) ..................... Ngàn Phương .... 66 Nhớ về em (thơ) ............ Phùng Chí Tâm ... 67 Mừng Chúa Giáng Sinh (thơ) .............. Hoàng Thị Vinh .... 68 Hát một mình (thơ) ......... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 69 Gia đình anh chị của tôi (thơ) ........ Quan Thúy Mai .... 70 Tình khách (thơ) ......... Lang Nguyên .... 71 Tiễn biệt (thơ) ............... Hoài Ly .... 71 Trăn trở (thơ) ......... Lang Nguyên .... 72 Người bạn gái (thơ) ............. Thanh Châu .... 73 Buồn (thơ) ........... Á Nam Trần Tuấn Khải .... 74 Kính họa (thơ) ............. Thanh Vĩnh .... 74 Quy Nhơn (thơ) ................ Thiếu Khanh .... 75 Chúc đám cưới (thơ) ............ Quang Bỉnh .... 77 Tự bạch (thơ) ............ Quang Bỉnh .... 77 Thất thập niên (thơ) ................. Phước Hải .... 78 Tặng Thầy (thơ) ......... Phước Hải .... 78 Rơi mất rồi (thơ) ......... Lê Minh Chử .... 79 Sống thế nào đây ? (2) (thơ) ............. Lê Minh Chử .... 80 Chỉ một lời thôi (thơ) .............. Lê Nguyên ... 80 Lửa tình yêu Hà Nội - Tràng An (thơ) ...... Lê Nguyên ... 81 Tưởng nhớ (thơ) ............... Vũ Thùy Hương .... 82 Tưởng nhớ 100 ngày Anh ra đi (thơ) ......... Vũ Thùy Hương .... 82 Tơ vương (thơ) .................... Hải Âu ... 83 Bướm và hoa (thơ) ................. Thanh Phong .... 84 Khắc khoải (thơ) ................. Lam Trần .... 85 Tâm sự với con (thơ) .................. Vũ Đình Huy .... 86 Ta sống dung dị… (thơ) ............. Trần Nhuận Minh .... 87 We live simply… (thơ) ............... Vũ Anh Tuấn dịch .... 87 Sáng qua anh đến… (thơ) .................. Trần Nhuận Minh .... 88 Yesterday morning I came… (thơ) ...... Vũ Anh Tuấn dịch .... 89 Vài câu đố ở Nam Bộ ............. Đỗ Thiên Thư st. .... 90 Tô Vũ Mục Dương, một khúc ca bi tráng ............... Bùi Đẹp .... 98 Kỷ niệm khó quên với Cố Gs Tiến sĩ, Nhà thơ VŨ ĐÌNH HUY .................. Tâm Nguyện . 103 Lời của trái tim .............. Hoàng Kim Thư st. .. 108 Cuộc phiêu lưu kỳ thú của Bách Khoa Toàn Thư ......... Lệ Ngọc st. . 111 Top sách kỷ lục Guinness thế giới ............... Hà Diệp st. . 117 Đi câu .................................. Lam Trần .. 121 Làm người nên học cách im lặng,… là đủ ........ Kim Sơn st. . 126 Đọc sách giùm bạn: Tàu xanh lướt giữa biển trời (thơ) - Trốn tìm (thơ) - Trăng phố (thơ) ......... Hà Mạnh Đoàn . 129 Ông lão mù ........................... Đàm Lan .. 130 Gia tài ................. Nguyễn Thị Mây .. 141 |