VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 11/08/2018 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Như thường lệ, để mở đầu phiên họp, dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai tân quý thư mà ông mới có. Lần này cả hai cuốn đều bằng Pháp văn, một cuốn tương đối cũ, một cuốn mới. Cuốn thứ nhất mang tựa đề là “Vỡ Mộng” (Illusions perdues) của đại văn hào Pháp Honoré de Balzac và là một cuốn được coi là dài nhất và quan trọng nhất trong bộ sách bất hủ của ông là bộ Tấn Tuồng Đời (La comédie humaine) gồm tổng cộng trên 90 cuốn về đủ mọi lãnh vực thuộc về cuộc sống của con người. Cuốn sách khổ 14x20 phân, dày 781 trang, có 32 minh họa được dán vào nguyên trang cực đẹp, do nhóm Câu Lạc Bộ các nhà sách ở Pháp (Club des Libraires de France), in năm 1957 (61 năm trước) có đánh số và mang tựa đề là Vỡ Mộng (Illusions perdues), đồng thời có ghi ở dưới là “nghiên cứu phong tục thế kỷ 19”. Có thể nói đây là một kiệt tác về quy mô rộng lớn của bức tranh xã hội được mô tả vào thời điểm đó, cũng như về tính sâu sắc của sự phân tích các tệ lậu của xã hội tư sản vào thời điểm những năm 1835-1843. Nhân vật chính Louis Chardon de Rubempré là một nhà báo trẻ ở nơi anh sinh sống nhưng anh ta ôm mộng và có ảo vọng muốn trở thành thật nổi danh ở thủ đô Paris. Là tình nhân của một bà nhà giầu, và để tránh những lời ong tiếng ve, anh và tình nhân bỏ quê nhà lên thủ đô Paris sinh sống. Những ngày ở Paris trở nên khổ cực khốn khó khi anh bị tình nhân bỏ rơi, nhưng rồi anh tìm được một chút thoải mái khi qua lại một câu lạc bộ văn nghệ và quay sang làm báo. Trở thành người tình một nữ diễn viên nổi tiếng , anh có một cuộc sống khá dễ chịu nhờ bán rẻ ngòi bút của mình. Nhưng rồi không biết cơ man nào là các sự khổ ải, nỗi thất vọng, thất bại, nối tiếp nhau xảy đến khi ế n anh tiêu tan mọi ảo vọng và hoàn toàn vỡ mộng quay về tỉnh nhà cũ. Đây có thể nói là cuốn dài nhất và hay nhất trong bộ Tấn Tuồng Đời của đại văn hào Honoré de Balzac (1799-1850). Thật khó tin mà có thật vì Balzac chỉ sống được 51 năm trên đời mà ông lại trở thành một trong những đại văn hào viết nhiều nhất, và hay nhất trên đời. Viết đến đây người viết bỗng hồi tưởng lại trên 60 năm trước khi được cụ thân sinh cho đọc bộ Tấn Tuồng Đời trong tủ sách to đùng của cụ, và cho biết “đọc bộ sách này đi, và con sẽ có được rất nhanh rất nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống”. Người viết đã đọc trong gần một năm và thấy rằng lời khuyên của cụ thân sinh ra mình quả là quá ư chính xác. Cuốn thứ nhì là một cuốn cũng bằng Pháp văn nhưng mới hơn, vì được in vào năm 2000 (18 năm trước). Cuốn sách này cũng khổ 14x20, dày 311 trang, mang tựa đề là “Những kẻ vô danh mà trứ danh” (Inconnus célèbres) của nhà báo Patrick Pesnot, thuộc bộ sách của Bellemare một tác giả thật nổi danh của Pháp. Sách viết về 16 nhân vật mà cuộc sống đã cho các nhà văn lớn như Émile Zola, Alexandre Dumas, Gustave Flaubert, Maurice Leblanc, Honoré de Balzac vv… cảm hứng để tạo ra những nhân vật chính trong các tác phẩm của họ. Nhà báo Pesnot đã bỏ công sức tìm hiểu về cuộc đời những kẻ vô danh mà trứ danh, vì đã khiến các văn hào có cảm hứng tạo ra những nhân vật chính của họ, và qua chuyện này ông ta muốn chứng minh là “cuộc sống thật của những người chẳng ai biết tới, những người vô danh, mà trong thực tế lại có phần l y kỳ hấp dẫn hơn cả cuộc sống của các nhân vật tiểu thuyết của các nhà văn lớn. Đây quả là một cuốn sách lạ và hấp dẫn mà người viết tự hứa sẽ đọc ngay và đọc kỹ. Sau khi được giới thiệu , hai cuốn sách đã được vài thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú. Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, thành viên Phước Hải lên đọc tặng các thành viên một bài thơ mang tính cách khuyên răn người đời sống tốt. Tiếp lời anh Phước Hải, thành viên Tấn Thuận lên kể với các thành viên một vài kỷ niệm mới và cũ của anh. Sau anh Tấn Thuận, anh Phạm Vũ lên nói về cố thi sĩ Nguyên Sa Trần Bích Lan. Anh Phạm Vũ nói xong, anh Nhựt Thanh lên nói về việc Khúc Thừa Dụ gi ành độc lập cho Việt Nam. Anh Nhựt Thanh nói xong, anh Thanh Phong lên đọc tặng các thành viên vài bài thơ vui anh mới làm. Sau anh Thanh Phong, Thùy Mai lên ngâm tặng các thành viên bài Về Quê. Tiếp lời Thùy Mai, Lệ Ngọc lên hát tặng các thành viên bài “Quen nhau trên đường về”. Sau Lệ Ngọc, Hải Âu lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Thuở ấy”. Anh Hải Âu ngâm x ong, thành viên Hoài Ly lên đọc tặng các thành viên bài “Kỷ niệm xưa”. Tiếp lời Hoài Ly, Thùy Hương lên ngâm tặng các thành viên bài “Hương G iang thương nhớ”. Sau Thùy Hương, Quan Thùy Mai lên nói về một cuốn sách của tác giả Đỗ Hồng Ngọc nói về đề tài “Già kiểu nào thì tốt ” . Quan Thúy Mai nói xong, anh Phùng Chí Tâm lên nói về chuyện lúc này có thể coi là 60 tuổi mới là dậy thì, 70 mới đi vào đời rồi nói về một vài phương cách giữ sức khỏe và hát tặng các thành viên bài “Quê em miền Trung du”. Sau anh Phùng Chí Tâm, anh Lê Nguyên lên hát tặng các thành viên hai bài. Anh Lê Nguyên hát xong, thành viên Lê Ái Liên lên nói về việc các người già nên trông vào cách sống chứ đừng trông vào thuốc, và dặn mọi người chủ yếu là nên ăn nhiều rau củ quả. Lê Ái Liên nói xong, Kim Sơn lên nói thêm về Nguyên Sa Trần Bích Lan, và hát tặng các thành viên bài Áo Lụa Hà Đông là bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa được phổ nhạc. Tiếp lời Kim Sơn, thành viên Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc, lên hát tặng các thành viên bài “Hồn Quê” và sau cùng, thành viên Tuyết lên hát tặng các thành viên bài ca quen thuộc “Đường Xưa lối cũ” và cuộc họp kết thúc lúc 11g cùng ngày khi mọi người vui vẻ ra về hẹn nhau gặp lại trong kỳ họp tháng tới. VŨ THƯ HỮU
VÀI CHI TIẾT VỀ MỘT QUÝ THƯ 142 TUỔI ĐỜI Sáu năm trước, vào năm 2012, một ông bạn thân của tôi qua Pháp dự đám cưới của con trai ông ta. Trong chuyến đi ông đã có ghé chợ sách cũ trên bờ sông Seine, và bê được cuốn quý thư này về.
Được ông cho xem, tôi khoái quá và đề nghị ông nhường lại cho tôi vì tôi rất mê Le Sage, tác giả truyện Gil Blas de Santillane mà gần một thế kỷ trước cụ Vĩnh, một trong những người hiếm hoi mà tôi thật lòng quý trọng, đã cất công dịch ra tiếng Việt, nhưng bạn tôi nằng nặc từ chối và cho biết ông ta cũng quý cụ Vĩnh không thua gì tôi. Cuốn quý thư đó được in năm 1876 (142 năm trước) và mang tựa đề là “Các tác phẩm của Le Sage” (Oeuvres de Le Sage). Ở tuổi 142, cuốn sách vẫn còn mới tới 80%, khổ của sách là 20x28, và số trang là 647 trang, bìa cứng với các góc cạnh mạ vàng vẫn còn v à ng chói. Truyện Gil Blas de Santillane mà tôi yêu thích chiếm 370 trang đầu của sách. Tuy lúc đọc bản dịch của cụ Nguyễn Văn V ĩ nh là gần 60 năm trước, tôi vẫn nhớ rất rõ là Gil Blas là một thanh niên con nhà nghèo, trên đường đi lên một trường Đại Học để nhập học, anh ta gặp một số tai nạn và hoàn cảnh khiến anh ta không vào Đại Học được mà còn trở thành tòng phạm trong một băng tội phạm, rồi lâm vào vòng lao lý, nhưng sau khi trải qua những tình huống ít may mắn như vậy, chàng thanh niên quê mùa bỗng trở nên cực kỳ khôn ngoan, cực kỳ thông minh và thủ đoạn, để cuối cùng trở thành một nhà quý tộc và cưới được người mình thật lòng yêu. Cuốn sách được coi như một áng văn nổi tiếng của văn học Pháp, và được coi là một cuốn tiểu thuyết mô tả cuộc sống của giới giang hồ tứ chiếng (roman picaresque), trên 70 năm trước đã được cụ Vĩnh dịch rất hay ra tiếng Việt, và đã thực sự khiến một độc giả trẻ là tôi đã bị cuốn hút và đọc hết trong trên ba ngày liền . Ẵm cuốn sách trên tay, tôi chợt thấy nàng quý thư và tôi quả là có cơ duyên khi, nhờ một chuyện rất tầm thường vừa xảy đến, tôi đã có nàng! Ôi bóng đá ơi là bóng đá! Tuy ta chẳng quan tâm gì tới mi, nhưng ta vẫn muốn cảm ơn mi, vì nhờ mi, mà ta đã có được một quý thư ta thật sự yêu thích! Trích “Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI” VŨ ANH TUẤN CÓ TẬN THẾ KHÔNG? THỰC PHẨM BẨN (tiếp theo và hết) 93. Báo Thanh Niên 21/9/16 (btv Lê Quân, Liên Châu). Công bố mới nhất về vụ Formosa gây ô nhiễm: Hải sản tầng đáy chưa ăn được. 94. Báo Thanh Niên 30/9/16 (btv Bùi Ngọc Long). Phát hiện giá đỗ “ngậm” hóa chất ở Huế. Cơ quan chức năng kiểm tra một cơ sở phát hiện 44 thùng đang ủ giá đỗ, 60 bao đậu xanh, 200 gói hóa chất “tạo giá” tất cả đều ghi nhãn hiệu chữ Trung Quốc. Bình quân mỗi ngày xuất 500kg giá đỗ sinh trưởng nhờ hóa chất (chỉ chết biết bao người đã ăn?). *** Xin tạm dừng tổng hợp các phản ánh của báo chí về thực phẩm bẩn. Nếu tiếp tục thì không biết đến bao giờ mới hết chuyện. Chỉ xin kêu gọi lương tâm những nhà sản xuất và sự khôn ngoan chọn lựa của người tiêu dùng để sức khỏe của cả nhà không bị ảnh hưởng. Xin kêu gọi lương tâm nghề nghiệp của những người có trách nhiệm bảo đảm an toàn thực phẩm cho dân. Nếu cứ “lờ đi” hay chỉ “lướt qua” thảm kịch lịch sử Formosa (được Bộ TN-MT công bố ngày 29/9/2016) thì dân biết tin cậy ai bây giờ? (Nguyên Hằng - TN 01/10/16). ***
Thay lời muốn nói N gười viết xin mượn lời một độc giả của báo Thanh Niên số 127 ngày 0 6/5/2016 như sau: “Tôi thấy thật khủng khiếp và rùng mình sau khi đọc bài báo. Cám ơn công phu điều tra của quý báo đã cảnh báo cho cả xã hội biết về chất độc hại borax. Chúng ta hằng ngày hằng giờ cố bảo toàn sức khỏe tránh khỏi những căn bệnh chết người, nhưng bây giờ lại đối diện với những loại thực phẩm có quá nhiều chất độc hại…” (Lê Thị Lệ, Q.12, Tp.HCM). Chúng tôi hiểu các phóng viên đăng các phóng sự là có ý thông tin rộng rãi cho càng nhiều người đọc càng tốt để xã hội tốt đẹp, con người hạnh phúc hơn. Cùng chung mục tiêu đó, người viết tổng hợp các nguồn tin theo chủ đề môi trường nước, khí, đất, an toàn thực phẩm… chỉ nhằm thông tin cho dân chúng thấy rõ sự nghiêm trọng của vấn đề mà tìm cách ứng x ử tốt, để chúng ta và con cháu chúng ta sống khỏe, sống vui và sống hạnh phúc hơn. Tân Sa Châu, ngày 10/10/2016 Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết (Tổng hợp nguồn báo chí và các phương tiện truyền thông) HÃY TRẢ LẠI CÔNG BẰNG CHO ĐẠI THỪA Bốn mươi năm trước đây, tôi bước vào tìm hiểu và tập tành tu học Đạo Phật với thầy tôi là một Cư Sĩ Đại Thừa. Buổi đầu tôi cũng không dễ dàng tin theo, thậm chí còn cho rằng người theo Đạo Phật là mê tín. Nhưng sau thời gian dài tự mình cố gắng tìm cách bắt bẻ những ý tưởng được trình bày cũng như giải thích trong Kinh mà không được, thì tôi bị thu nhiếp vì thấy Kinh Phật dù được viết cách đây hàng ngàn năm, nhưng mọi việc được trình bày quá hợp lý và rõ ràng, đến nỗi sau đó đọc Kinh một cách mê say trong nhiều năm dài, rồi cố gắng mà học, mà hành theo những gì được hướng dẫn trong Kinh. Sau gần 10 năm đọc Kinh miệt mài tìm Nghĩa để Y, không y theo Chữ, phần nào nắm vững và hệ thống được con đường tu hành, tôi bắt đầu lược giải Kinh, mục đích để hiểu cho rõ thêm, đồng thời kiểm tra chéo xem Kinh Đại Thừa do nhiều Tổ viết nhiều thời khác nhau thì có chống trái hay mâu thuẫn nhau không? Nhưng qua cả 9 Bộ, từ Pháp Bảo Đàn Kinh, Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, Duy Ma Cật, Bát Nhã Tâm Kinh, Diệu Pháp Liên Hoa, Đại Bát Niết Bàn, Kim Cang, Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên… tôi thấy, tất cả dù trình bày nhiều cách khác nhau, nhưng phần thực hành cũng như kết quả đạt được đều được dạy giống nhau, đều đưa đến cùng kết quả, và không hề mê tín, thần quyền. Không hề dạy nương tựa, cầu xin, đúng như mục đích Đạo Phật là Tự Độ. Một dịp tình cờ lên mạng, tôi thấy có đề tài nói về sự tranh chấp giữa hai bên: Đại Thừa và Phật Giáo Nguyên Thủy và có người bên Phật Giáo Nguyên Thủy thóa mạ người theo Đại Thừa một cách nặng nề, làm tôi ngạc nhiên không hiểu Phật Giáo Nguyên Thủy đào tạo thế nào mà Phật Tử không giữ “Thân, Khẩu, Ý ba nghiệp thanh tịnh”, không hành Hạnh “Thường Bất Khinh Bồ Tát”, xem mọi người như là những vị “Phật sẽ thành”, để nếu không kính trọng thì cũng không khinh chê, phỉ báng, vì mỗi người đều có quyền tự do chọn Tôn giáo mà mình yêu thích. Nhân đó tôi cũng tìm hiểu lý do vì sao có sự chia rẽ thành hai hệ phái, thì đọc được bài viết trích trong ĐẠI CƯƠNG TRIẾT HỌC TRUNG QUÁN, của tác giả Jaidev Singh, người dịch Thích Viên Lý do Viện Triết Lý VN và Triết Học Thế Giới Xuất Bản nói về lý do tách làm Hai Thừa như sau: “Theo nhận xét của R. Kimura thì ĐẠI CHÚNG BỘ (MAHASANGHIKAS) là hệ phái bảo tồn nghĩa Phật Giáo thông tục (?), đã có nhiều tiến bộ và tự do hơn THƯỢNG TỌA BỘ (STHAVIRAS). Trong cuộc hội tập tại Tỳ Xá Lỵ (Vaisali), các Tỳ Khưu thuộc ĐẠI CHÚNG BỘ hoặc Vijjian (Bạt Kỳ Tộc) đã bị quở trách và trục xuất vì các Tỳ Kheo thuộc THƯỢNG TỌA BỘ cho rằng Giáo Nghĩa chính thống và Kiến Giải của họ đã bị vi phạm bởi những quan điểm dị biệt và đã công khai chỉ trích các thầy Tỳ Khưu thuộc ĐẠI CHÚNG BỘ là Ác Tỳ Khưu và “kẻ thuyết phi pháp”. ĐẠI CHÚNG BỘ vì muốn biểu thị rằng giáo nghĩa của họ ưu thắng, vượt hẳn giáo nghĩa của THƯỢNG TỌA BỘ nên đặt ra danh từ ĐẠI THỪA (Chiếc xe lớn) để làm tên gọi cho hệ phái của mình và gọi đối thủ của họ là NGUYÊN THỦY”. Đọc những lời trên thì không thể hiểu cách nào khác hơn là các Tỳ Khưu bên ĐẠI CHÚNG BỘ đã bị các TRƯỞNG LÃO quở trách và trục xuất vì Kiến Giải có quan điểm dị biệt, đồng thời các TRƯỞNG LÃO cũng gọi họ là những Ác Tỳ Khưu và “kẻ thuyết phi pháp”. Theo tôi, điều này rất quan trọng, vì nếu sự thật không đúng như thế sẽ trở thành một vụ Án Oan sẽ dính với Đại Thừa ngàn đời. Không chỉ kéo theo sự tin tưởng của tất cả Sư Tăng, Phật Tử bên Phật Giáo Nguyên Thủy đã đành, mà những người muốn chọn lựa Pháp Môn để tu hành sẽ bị cản trở, vì làm sao có thể theo học với hậu duệ của những người đã bị gọi là “Ác Tỳ Khưu”, thậm chí đã bị trục xuất vì “thuyết phi pháp”? Trong khi đó, xuyên suốt cả 9 Bộ Kinh mà tôi lược giải, cộng thêm mấy chục Bộ Kinh mà tôi tham khảo, không hề thấy nói điều gì phi pháp so với Chánh Pháp mà Đức Thích Ca đã dạy từ buổi đầu khai mở Đạo Phật. Rồi tại sao trong khi bên ĐẠI THỪA có 33 vị Tổ, mà bên PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY chỉ nhìn nhận có 2 Tổ là Ngài Ca Diếp và Ngài Anan, không hề nhắc đến những Tổ về sau? Hẳn là vào thời TỔ THỨ BA phải có một biến cố lớn đã xảy ra, hay có một sự tranh chấp quyết liệt nào đó mà dù cả hai bên đều chấp nhận tu hành theo Giáo Pháp của Phật, nhưng không thể cùng ngồi chung với nhau như tinh thần LỤC HÒA TĂNG mà Phật đã dạy nữa! Điều này cần phải làm cho rõ để đúng, sai được sự đánh giá công tâm của tất cả mọi người. Sự phân chia của Hai Thừa được xác định là sau khi Phật Nhập Diệt chừng 100 năm. Mở lại lịch sử 33 vị Tổ, căn cứ vào việc chỉ nhìn nhận 2 Tổ đầu tiên, thì tôi thấy thời điểm này trùng khớp với thời của Ngài THƯƠNG NA HÒA TU, là Tổ Thứ 3. Đọc tiếp câu truyện kể về Tổ Thứ Tư, tôi thấy đó là một thanh niên mới có 20 tuổi, mới vào Chùa có 3 năm mà lại được Truyền Y Bát, trong khi đó, Tăng Đoàn có rất nhiều vị đã tu hành rất nhiều năm, lên đến bậc TRƯỞNG LÃO! Với những người không hiểu gì về việc Truyền Y Bát thì sẽ thấy các vị Trưởng Lão phản đối là đúng, vì người tu lâu hẳn sẽ cao đạo hơn người mới vào. Nhất là một thanh niên mới có 20 tuổi, mới vô tu hành được có 3 năm làm sao thông hiểu Phật Pháp và đủ chín chắn để giao cho cầm nắm, phổ biến Giáo Pháp, cai quản Tăng Đoàn, trong đó có nhiều vị cao niên, tu hành nhiều năm? Nhưng qua cái nhìn của người đã nhiều năm nghiên cứu Kinh Phật, tôi lại thấy những điểm sau: 1. VỀ VIỆC TRUYỀN Y BÁT. Đức Thích Ca là người đã đặt ra lệ Truyền Y Bát, - nói rõ hơn là giao trách nhiệm thống lãnh Tăng Đoàn và giữ gìn, phổ biến Giáo Pháp của Ngài cho người kế nhiệm - Người được nhận Y Bát phải là người đã Chứng Đắc. Đầu tiên Y Bát được Truyền cho Ngài Ca Diếp, dựa vào một lần trước đại chúng, Đức Thích Ca đưa cành Sen lên, mọi người đều ngơ ngác, chỉ riêng Ngài Ca Diếp mỉm cười. Với Nụ cười đó, Đức Thích Ca biết rằng Ngài đã Chứng Đắc, đã nắm vững Giáo Lý của Đạo Phật, có thể thay Phật để quán xuyến việc Đạo, nên giữa đại chúng tuyên bố trao Chánh Pháp cho Ngài. Nhưng với người không hiểu thế nào là Chứng Đắc thì thắc mắc không hiểu tại sao Ngài Ca Diếp chỉ cần Cười mà lại được Truyền Y Bát? Đó là một bí ẩn lớn đối với nhiều người, nhiều thời, làm cho họ hoang mang, nghi ngờ, đoán già đoán non đủ thứ. Do không hiểu gì về Truyền Y Bát, nên nhiều người cứ tưởng đó chỉ là giao lại Bộ Y và cái Bát mà người đi trước đã dùng! Thậm chí có người còn viết: “Pháp Bảo Đàn Kinh chép rằng tại Thần Tú phá rối nên Y Bát chân truyền đã thất lạc mất hết rồi. Theo Pháp Luật, lúc Xuất Gia, Giới Tử phải sắm y bát để dùng, khi y rách phải đổi cái khác, Không lẽ mỗi vị Tổ sư chỉ sắm một bộ Y và một cái Bát để dành chờ tuổi già giao phó lại cho vị Tổ khác, rồi trọn đời Tổ ấy mặc cái chi? Có phải tại Lục Tổ không truyền Y Bát nên các nhà sư Thiền Tông bây giờ không dùng Y Bát nữa chăng? Còn nếu nói thất chân truyền có nghĩa là không còn ai truyền tâm pháp, thì tại sao lại còn người tu theo Thiền Tông?”(Cư sĩ Trùng Quang trong CHỌN CON ĐƯỜNG TU PHẬT trang 117, xuất bản năm 1958, tái bản năm 2014). Rõ ràng người viết trên không hề biết rằng việc Truyền Y Bát trong Đạo Phật rất là quan trọng. Không phải chỉ là truyền lại cái Y và cái Bát là hai vật dụng tầm thường, bất cứ người tu thời nào cũng sắm được, mà đó là sự Ấn Chứng của Phật Thích Ca, bàn giao quyền hành thay thế mình cầm nắm Tăng Đoàn và giữ gìn giềng mối Đạo cho Ngài Ca Diếp. Y Bát là vật chứng để làm tín hướng cho người muốn học Đạo biết đó là người có trách nhiệm truyền bá Chánh Pháp để mà theo học. Do thời xưa chưa có chữ viết, mà người tu hành thì không có vật dụng nào quý giá để truyền lại, chỉ có cái Y Phật hay mặc và cái Bát mà Phật thường dùng. Thấy những vật đó như thấy Phật, nên người giữ hai vật đó là người đại diện cho Phật. Từ đó, mỗi thời các Vị Tổ Đại Thừa đều tiếp tục theo nguyên tắc này để bá tánh biết ai là người đương thời cầm nắm Chánh Pháp mà Phật giao phó lại, vì người Xuất Gia thì đông, nhưng người Chứng Đắc thì hiếm hoi. Những kẻ lười biếng núp bóng Chùa Chiền cũng không ít. Đọc lịch sử Truyền Y Bát chúng ta thấy, lúc Truyền cho Ngài Ca Diếp, Đức Thích Ca bảo: “Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm; Pháp môn ấy mầu nhiệm vô cùng, chẳng lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền. Vậy ngươi khá giữ gìn Chánh Pháp này, rồi sau sẽ truyền lại cho A Nan kế hậu”. Chánh Pháp Nhãn Tạng tức là Con mắt nhận ra được tạng Pháp Chân Chánh. Niết Bàn Diệu Tâm là Niết Bàn ở nơi Tâm. Pháp này rất mầu nhiệm, ngoài giáo được truyền riêng. Phật giao lại cho Ngài Ca Diếp giữ gìn, sau này sẽ trao lại cho Ngài A Nan. Người được Truyền Y Bát chắc chắn phải là người có “Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm”, có sứ mạng lớn lao là thay Phật để mở mang Đạo Pháp nên không thể vị tình riêng. Ngay cả A Nan là em Phật cũng không được truyền, dù so với những Đệ Tử còn lại thì Ngài thuộc những lời Phật giảng làu làu, “như nước trong bình đổ ra, không thiếu một giọt”, nhưng vì Ngài chưa Chứng Đắc, cần thêm thời gian để tôi luyện. Thời gian sau, trước lúc gần nhập diệt thì Ngài Ca Diếp đã theo lời Phật dặn dò đã truyền lại cho Ngài A Nan, và Ngài A Nan tiếp tục truyền xuống. Tiếc thay, lời Phật chỉ được tuân giữ đến đời Tổ Thứ Ba. Đến lượt Tổ Thứ Ba Truyền Y Bát cho Ngài Ưu Ba Cúc Đa thì các Trưởng Lão bất mãn. Kể từ đó Tăng Đoàn bắt đầu chia ra thành 2 hệ phái. Phái chấp nhận Tổ Thứ Tư thì thành lập ĐẠI CHÚNG BỘ, Các Trưởng Lão lập TRƯỞNG LÃO BỘ, mỗi bên tiếp tục truyền bá Đạo Phật theo con đường của mình. Theo Lịch Sử 33 vị Tổ thì một số người được Truyền Y Bát là người “trở lại” để đảm nhiệm việc Đạo. Về Tổ Thứ Tư thì trong đó viết: Khi Tổ Thương Na Hòa Tu đã già, muốn tìm người kế nhiệm mình thì nhập định quan sát, biết ông Thiện Ý Trưởng giả chưa có con. Ông đến nhà ông Trưởng giả, nói rằng nghe tin Trưởng giả Xuất Gia, thì ông này bảo là bận bịu việc đời nên không thể Xuất Gia. Nhưng hứa là nếu có sinh được con trai thì sẽ cho theo hầu Tổ làm thị giả. Năm sau, phu nhân Trưởng giả thọ thai và sinh được một đứa con trai, đặt tên là Ưu Ba Cúc Đa, mặt mũi rất khôi ngô, tính tình rất khéo léo, thạo nghề bán buôn. Đến năm đứa bé được 12 tuổi thì Tổ bắt đầu đến nhà ông Trưởng giả mà giảng dạy cho nó. Đầu tiên dạy lấy đá đen tượng trưng cho niệm ác, và đá trắng tượng trưng cho niệm thiện. Buổi đầu thì đá đen nhiều hơn trắng, lần hồi hai bên bằng nhau, cuối cùng thì chỉ còn đá trắng. Đến năm Ưu Ba Cúc Đa 17 tuổi thì theo Tổ xuất gia. 20 tuổi thì Đắc Pháp, Chứng Quả. Đó là lý do mà Ngài Ưu Ba Cúc Đa được Truyền Y Bát. Trên thực tế là dù mới Vô Chùa có 3 năm, nhưng Ngài đã tu tại nhà từ lúc mới 12 tuổi do Tổ đến nhà dạy, và đã luyện được cái Tâm thuần thiện, không còn niệm ác, và tính đến lúc Chứng Đắc cũng đã theo học với Tổ Thứ Ba hết 8 năm. Công phu tu chứng của người tu Phật cũng chỉ chừng đó, chẳng phải là điều gì xa kín nhiệm sâu, và Ngài Ưu Ba Cúc Đa thậm chí còn đã làm xong trước khi Xuất Gia theo hầu Tổ. Người chưa Chứng Đắc thì không thể nào đánh giá thế nào là người Chứng Đắc. Nhưng xét về mặt tôn ty trật tự, các Vị Trưởng Lão là người tu hành, có Giới, lẽ ra phải triệt để chấp hành quyết định của Tổ, vì Tổ là người chính thức được Truyền Y Bát từ Đức A Nan để cai quản Tăng Đoàn. Đó là đại diện cho Phật tại thế, mọi người không được quyền phản đối. Mặt khác, đâu phải ai tu hành lâu năm thì cũng Chứng Đắc? Trường hợp các Trưởng Lão dù cao niên, dù tu hành nhiều năm, nhưng chưa Chứng Đắc, nên không thể giao lại quyền thay Tổ để lo việc Đạo. Chính thái độ bất mãn, bỏ ra lập hệ phái riêng của các Ngài đã chứng tỏ Tổ Thứ Ba đã nhận xét không sai: Các Vị dù tu nhiều năm, nhưng cái Ngã vẫn còn kiên cố, vẫn ham muốn được Danh, được uy tín trong Đạo. Trong khi đó, những Tỳ Kheo còn lại vẫn chấp nhận dưới quyền điều khiển của một Tỳ Kheo trẻ theo quyết định của Tổ. Lịch sử Đạo đã chứng minh: Tổ Thứ Ba không hề sai lầm. Vị Tổ non trẻ kế tục đó, dù ít tuổi mà vẫn đủ khả năng để đảm đang việc Đạo, nên việc Truyền Y Bát lại tiếp tục. Khoảng hơn một ngàn năm sau, Lịch Sử một lần nữa đã lập lại. Khi Ngũ Tổ Truyền Y Bát cho Ngài Huệ Năng là một thanh niên nhà quê dốt nát, 25 tuổi, mới vô Chùa có 8 tháng chưa kịp thế phát, Quy Y, chưa được phép lên nhà trên để nghe Pháp, chỉ ở nhà sau chẻ củi, giã gạo mà thôi. Nhưng không phải đột nhiên mà Ngũ Tổ đi Truyền Y Bát cho Ngài Huệ Năng. Trước đó, Ngũ Tổ đã kêu tất cả môn nhân trong Chùa làm Bài Kệ để Ngài xét, nếu đủ trình độ thì sẽ Truyền cho mà làm Tổ. Lúc đó các Sư Tăng trong Chùa không ai làm Kệ nổi, trông cậy vô Sư Thần Tú là Giáo Thọ của mình. Nhưng do chưa Chứng Đắc nên bài Kệ của Thần Tú bị Ngũ Tổ chê là “mới ở thềm cửa, chưa bước vào nhà”. Riêng Lục Tổ, là “người trở lại”, nên lần đầu nghe câu Kệ trong Kinh Kim Cang “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Nên sinh cái Tâm không trụ bất cứ đâu) Ngài đã nhớ lại con đường tu hành, nên nhờ người lo cho thân mẫu để đi tìm Ngũ Tổ xin học Pháp. Rồi dù mới vô Chùa nhưng trong thời gian chẻ củi, giã gạo, Ngài đã Chứng Đắc. Bản thân Ngài không biết chữ, nhưng chỉ cần nghe qua bài Kệ của Sư Thần Tú, biết ngay người làm chưa Thấy Tánh, và chỉ cần sửa vài chữ thì Ngũ Tổ đã nhận ra đó là người đã Chứng Đắc, chỉ còn chờ Ấn Chứng mà thôi. Lúc đầu khi nghe Bài Kệ được sửa của Ngài Huệ Năng thì cả Chùa kinh hãi, gọi Ngài là “Bồ Tát xác phàm”. Nhưng Ngũ Tổ cũng biết lòng đố kỵ của đám đệ tử mình, sợ họ sẽ hại Ngài Huệ Năng, nên phải nói là Bài Kệ đó cũng chưa Thấy Tánh, rồi canh ba đêm đó lén Truyền Y Bát cho Ngài Huệ Năng và đích thân chèo ghe đưa Ngài đi trốn, đồng thời dặn Y Bát từ đây phải dấu đi không được truyền nữa vì đó là mối nguy hiểm cho người có nó. Khi nghe tin Y Bát đã giao cho Huệ Năng rồi thì mấy trăm Sư Tăng trong Chùa kéo nhau đi tìm để giành lại. Lục Tổ trốn trong núi thì họ đốt cả núi. Ngài phải ở chung với đám thợ săn trong suốt 15 năm mới dám ra mặt giảng Pháp. Phần Sư Thần Tú, lẽ ra chưa Chứng Đắc thì không được phép giảng Pháp, vậy mà vẫn mở ra thuyết pháp ở Chùa Ngọc Tuyền. Đệ tử theo học rất đông. Nhưng chính vì chưa Đắc Pháp nên không thể lý giải Phật Pháp một cách rõ ràng. Vì vậy mà một số môn đồ của Sư Thần Tú sang học hỏi với Lục Tổ. Khi được trả lời thỏa đáng, họ ở lại theo hầu Lục Tổ luôn, không trở về. Do vậy, phe Đệ Tử của Sư Thần Tú càng tức tối, tiếp tục theo quấy phá. Sai đệ tử đi trộm pháp, và có lần đã cử Sư Hành Xương tới Chùa chém Lục Tổ. Hắn chém 3 dao không đứt cổ Tổ mới buông dao quỳ xuống Sám Hối! Dù suýt bị giết, nhưng Lục Tổ không oán hận, lại cho vàng, kêu hắn trốn đi, thời gian sau quay lại Ngài sẽ độ cho. Dù phía Đệ Tử của Lục Tổ chưa bao giờ trả thù hay báo với chính quyền để làm khó dễ, nhưng ngược lại, phe kia vẫn tiếp tục ôm giữ mối thù hận không nguôi. Sau khi Lục Tổ nhập diệt, mười mấy năm sau, đệ tử của Ngài là Pháp Hải đứng lên mở ra để giảng dạy thì cũng bị phe kia vu cáo cho Vua bắt đày đi! (theo tài liệu Ngài Nguyệt Khê). Thiết tưởng bao nhiêu đó cũng đủ chứng minh bên nào Chánh bên nào Tà rồi. Người tu chỉ có hai món quan trọng là GIỚI và HẠNH. Công năng chính yếu của người tu Phật không phải là Ngồi Thiền, Tụng Kinh, Niệm Phật hay Giảng Pháp, mà là chuyển hóa cái Tâm, để nó cải Ác, hành Thiện. Vậy mà những người đã mang danh tu hành lại cứ đi theo tranh giành Y Bát, nuôi dưỡng ác tâm, sẵn sàng giết hại đối phương để giành ảnh hưởng, thì thử hỏi họ đã tu hành thế nào? Giới, Hạnh ra sao? Ngồi Tòa giảng pháp gì? 2. Về việc cho rằng các Sư bên ĐẠI CHÚNG BỘ “bị các Trưởng Lão quở trách và trục xuất khỏi Tăng Đoàn, bị gọi là “Ác Tỳ Kheo” và “người thuyết phi pháp”, tôi thấy như sau: Đó là một sự ngụy biện để che dấu hành vi chống đối Tổ mới của nhóm Trưởng Lão Bộ. Tổ mới là người chính thức kế thừa do Tổ trước bàn giao. Đó là người có toàn quyền thống lãnh, có quyền cao nhất trong Tăng Đoàn. Các Trưởng Lão chỉ là thành viên trong Tăng Đoàn thì làm gì có quyền trục xuất người thống lãnh? Điều đó hết sức vô lý! Tổ mới lại là người cầm nắm Chánh Pháp theo truyền thừa của Phật thì sao có thể gọi những gì Ngài thuyết là “phi pháp”? Điều đó không chỉ làm thiệt hại đến danh dự của bên Đại Thừa, mà còn hại cho những người muốn tìm người hướng dẫn để tu hành nhiều thời sau, làm cho Chánh Pháp không đến với nhiều người được. Lẽ ra khi thấy mình không được lên làm Tổ thì các Trưởng Lão nên xét lại Hạnh của mình. Ngược lại, các vị ly khai, lập hệ phái riêng, bất chấp lời dặn dò của Đức Thích Ca khi Truyền Y Bát: “việc đó nên tiếp tục để Chánh Pháp được lưu truyền mãi mãi”. Như vậy xem ra từ Nguyên Thủy có vẻ khiên cưỡng, vì nếu vẫn xem Phật là Giáo Chủ thì họ phải tôn trọng và thực hành nghiêm chỉnh những gì Ngài dặn dò mới đúng! 3. Về NĂM VỊ TỔ TRUNG QUỐC. Do không biết gì về Truyền Y Bát, nên nhiều người cũng không biết luôn là Tổ Đạt Ma là Tổ thứ 28 bên Ấn Độ đã bỏ 3 năm đi thuyền để sang Trung Quốc mở mang Đạo Phật vì thấy căn khí Đại Thừa bên đó vượng. Phía Trung Quốc xem Ngài là Sơ Tổ. Ngài đã Truyền Y Bát cho Tổ Huệ Khả là Tổ đầu tiên người Trung Quốc. Tổ Huệ Khả truyền cho Đức Tăng Xán làm Tổ Thứ Ba. Tổ Thứ Tư là Ngài Đạo Tín. Tổ Thứ Năm là Ngài Hoằng Nhẫn. Tổ Thứ Sáu là Lục Tổ Huệ Năng. Nếu tính theo thứ tự từ Đức Ca Diếp, thì Lục Tổ là Tổ thứ 33 và là Tổ cuối cùng. Từ sau đó Y Bát dấu đi, không còn truyền, nên không có Tổ nữa. Trước khi Tổ Đạt Ma sang, thì Tiểu Thừa đã giảng dạy ở Trung Quốc. Người Phật Tử của Tiểu Thừa không hiểu thế nào là Công Đức, thế nào là Phước Đức, nên lần đầu diện kiến với Tổ Đạt Ma, Vua Lương Võ Đế - người đã cất 72 kiểng Chùa, độ vô số Tăng - đã hãnh diện khoe với Tổ: “Trẫm trọn đời cất Chùa, độ Tăng, đãi chay, làm phước, có Công Đức gì”? Tổ Đạt Ma trả lời là: “thiệt không có Công Đức” làm cho Vua bất mãn! Về điều này, Lục Tổ Huệ Năng giải thích: “Thiệt không có Công Đức. Chớ nghi lời của Thánh Nhơn đời trước. Võ Đế lòng tà, không biết Chánh Pháp. Cất Chùa, Độ Tăng, Đãi Chay, làm phước… ấy gọi là Cầu Phước. Không thể lấy Phước mà kể Công Đức được. Công Đức ở trong Pháp Thân, chớ chẳng phải ở việc Tu Phước”. Hai từ này nếu người tu còn chưa phân biệt thì khó thể tu hành thành công được. Có vị Thượng Tọa rất có uy tín (T.N.T) đã kêu gọi chống các Tổ Trung Quốc, trong khi các Ngài là những người kế thừa chính thức theo đường Truyền Y Bát từ Đức Thích Ca, thì ta thấy sự nguy hại của lời tuyên truyền Nhóm Đại Thừa là những “Ác Tỳ Khưu, bị trục xuất vì thuyết phi pháp” ảnh hưởng tới những thế hệ về sau như thế nào! 4. VỀ KINH SÁCH ĐẠI THỪA. Bên Phật Giáo Nguyên Thủy không nhìn nhận Chư Tổ nên không nhìn nhận kinh sách của ĐẠI THỪA, cho đó là ngụy tạo, không phải lời Phật thuyết. Họ không hiểu gì về Chứng Đắc, nên không hiểu việc Chứng Đắc có ý nghĩa như thế nào đối với người tu Phật. Thật vậy. Với người đời thì việc Chứng Đắc đó là tốt nghiệp. Trong Đạo Phật, người Chứng Đắc là người đạt được kết quả của Đạo. Kết quả này là Giải Thoát, nghĩa khác là Thành Phật. Người muốn Giải Thoát phải thấy Tâm, Thấy Tánh, phải “Độ tận Chúng Sinh”. Khi đã Thành Phật rồi thì trình độ như nhau vì: “Phật trước Phật sau đều bình đẳng”. Do vậy, người Chứng Đắc sau cũng có toàn quyền thuyết pháp, viết Kinh, như những người đi trước. Chính nhờ Chư Tổ lần lượt khai sáng mà càng về sau Phật Pháp được giảng giải rõ ràng hơn, không còn huyền bí hay bất khả tư nghì nữa. Sở dĩ có việc khó hiểu hay hiểu lầm những lời dạy của Đức Thích Ca, vì thời xưa ngôn ngữ chưa phong phú, sự hiểu biết của con người cũng có giới hạn. Cách đây gần 3.000 năm thì không thể nào diễn tả phần Vô Tướng trong tâm, nên Đức Thích Ca phải mượn hình ảnh bên ngoài khi tả về Chúng Sinh, về Bồ Tát, Phật. Mặt khác, thấy rằng con người có mặt ở trần gian chỉ chừng trăm năm là hết kiếp. Vậy mà vì quá tham đắm vật chất tạm bợ nơi cảnh trần rồi tranh giành, giết hại, tàn sát lẫn nhau, làm cho cuộc sống bất ổn, nên Ngài phải diễn tả Tây Phương Cực Lạc đầy dẫy châu báu để con người ham về đó bỏ bớt đam mê, tham đắm trần cảnh. Nói Quả Vị, nói tu hành sẽ thành Thánh, Thành Phật, vì con người lúc nào cái Tâm cũng thích hơn người khác, chỉ buông bỏ những thứ đang đeo đuổi khi biết sẽ được cái khác quý hơn. Nhưng đó chỉ là phương tiện của Đức Thích Ca bày ra để dẫn dụ con người bớt tham đắm vật chất hữu vi tạm bợ và ngưng tạo Nghiệp, để bản thân người hành và tất cả mọi người chung quanh đều được hết Khổ mà thôi. (còn tiếp) Tâm Nguyện Tháng 7/2018 PHAN CHÂU TRINH ( 1872 - 1926 )
Chí sĩ Phan Châu Trinh & Mộ của Ông tại Tân Bình , Tp.HCM Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) Là nhà thơ , nhà văn , và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam , sinh ngày 0 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước , phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh ), tỉnh Quảng Nam , hiệu là Tây Hồ, Hy Mã , tự là Tử Cán . Sự nghiệp Khoa Canh Tý ( 1900 ), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân thứ ba ở trường Thừa Thiên . Năm sau ( 1901 ), triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng , đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc . Khoảng thời gian này, người anh cả mất nên ông về để tang, ở nhà dạy học đến năm Quý Mão ( 1903 ) thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ . Vào Nam, ra Bắc, sang Nhật Ông là người có học vấn, lại tiếp xúc với nhiều người có tư tưởng canh tân và đọc được các tân thư, năm 1905 , ông từ quan, rồi cùng với hai bạn học là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng (cả hai đều mới đỗ tiến sĩ năm 1904 ) làm một cuộc Nam du, với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng. Đến Bình Định , gặp kỳ khảo hạch thường niên của tỉnh, ba ông lẩn vào các khóa sinh. Vào trường thi, Phan Châu Trinh làm một bài thơ, còn hai bạn thì làm chung một bài phú . Cả ba đều ký tên giả là Đào Mộng Giác. Nội dung bài không theo đầu đề, mà chỉ kêu gọi sĩ tử đang đắm đuối trong khoa trường và danh lợi, hãy tỉnh dậy lo giải phóng giống nòi khỏi cảnh lao lung. Các tỉnh quan Nam triều hoảng sợ, đem bài trình cho viên Công sứ Pháp, đồng thời ra lệnh truy tìm tác giả, nhưng ba ông đã rời khỏi Bình Định , tiếp tục đi vào các tỉnh phía Nam Trung Kỳ . Trên đường đi, ba ông lần lượt kết giao với Trương Gia Mô , Hồ Tá Bang , Nguyễn Hiệt Chi … Sau cuộc Nam du, Phan Châu Trinh ra Nghệ Tĩnh , Thanh Hóa , Hà Nội để gặp gỡ và hội ý với các sĩ phu tiến bộ, rồi lên căn cứ Đề Thám quan sát tình hình, nhưng thấy khó có thể tồn tại lâu dài. Năm 1906 , ông bí mật sang Quảng Đông ( TQ ) gặp Phan Bội Châu , trao đổi ý kiến về việc cứu nước khỏi thực dân Pháp rồi cùng sang Nhật Bản , tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu ) và xem xét công cuộc duy tân của xứ sở này. Phát động phong trào Trong số các sỹ phu đương thời và cả sau này, Phan Châu Trinh là người thấy rõ nhất những nhược điểm của xã hội và con người Việt Nam. Ông chủ trương phải thay đổi từ gốc rễ bằng cách nâng cao trình độ trí tuệ và đạo đức của người Việt, phát triển kinh tế - văn hóa, học những tư tưởng tiến bộ của Phương Tây, từ bỏ phong tục tập quán lạc hậu... Ông cho rằng Việt Nam phải phát triển kinh tế và giáo dục để tự lực tự cường, hội nhập vào thế giới văn minh rồi mưu cầu độc lập chứ không cầu viện ngoại bang dùng bạo lực giành độc lập. Chỉ như vậy mới bảo đảm Việt Nam sẽ có một nền độc lập chân chính, lâu bền về chính trị lẫn kinh tế trong quan hệ với ngoại bang cũng như nhân dân sẽ được hưởng độc lập và tự do cá nhân trong quan hệ với nhà nước. Mùa hè năm 1906 , Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức thư chữ Hán (quen gọi là Đầu Pháp chính phủ thư) cho Toàn quyền Paul Bert vạch trần chế độ quân chủ chuyên chế thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh. Sau đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng , Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Phương thức hoạt động của phong trào là bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, giáo dục ý thức công dân - tinh thần tự do, xây dựng cá nhân độc lập - tự chủ - có trách nhiệm với bản thân và xã hội, thay đổi tận gốc rễ nền văn hóa - tâm lý - tính cách - tư duy - tập quán của người Việt, phổ biến các giá trị của nền văn minh phương Tây như pháp quyền - dân quyền - nhân quyền - dân chủ - tự do - bình đẳng - bác ái, cải cách trên mọi lãnh vực. Phong trào thực hiện mục tiêu cải tạo con người và xã hội Việt Nam bằng cách khuyến khích cải cách giáo dục (bỏ lối học từ chương, phát động phong trào học Quốc ngữ ), mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, thay đổi tập quán (cắt tóc ngắn, cắt ngắn móng tay)... Tháng 7 / 1907 , Phan Châu Trinh nhận lời mời ra Hà Nội tham gia diễn giảng mỗi tháng 2 kỳ ở Đông Kinh Nghĩa Thục . Bị giam lần thứ nhất Tháng 3 / 1908 , phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ nổ ra bị triều Nguyễn và chính phủ bảo hộ Pháp đàn áp dữ dội. Phan Châu Trinh cùng nhiều thành viên trong phong trào Duy Tân bị nhà cầm quyền buộc tội là đã khởi xướng nên đều bị bắt ở Hà Nội , giải về Huế . Tòa Khâm sứ Huế và Nam triều đều muốn khép ông vào tội chết, nhưng nhờ sự can thiệp của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Hội Nhân quyền tại Hà Nội, họ buộc lòng phải kết ông án " trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên " (nghĩa là tội chém nhưng chỉ giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về), rồi đày đi Côn Đảo; đến năm 1910 thì bị giam lỏng tại Mỹ Tho. Rồi nhân nghị định của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp nên năm 1911 , chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật. Bị giam lần thứ hai tại Pháp Sang Pháp, việc đầu tiên của ông là đưa cho Hội Nhân quyền Pháp bản điều trần về vụ trấn áp những người dân chống sưu thuế tại Trung Kỳ năm 1908 . Sau đó, ông còn lên tiếng tố cáo tình trạng các tù nhân ở Côn Lôn bị đối xử tồi tệ, và nhờ Liên minh cầm quyền, Đảng Xã hội Pháp can thiệp. Ông cũng đã tiếp xúc nhiều lần với những nhân vật cao cấp ở Bộ Thuộc địa, với Albert Sarraut (sắp sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương ) để đưa ra những dự án cải tổ nền chính trị ở Việt Nam nhưng không có kết quả. Ngày 0 3/8 /1914, Đức tuyên chiến với Pháp. Nhân cơ hội này, nhà cầm quyền Pháp tại Paris đã gọi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường (một luật sư, nhà báo người Việt chống thực dân) phải đi lính, nhưng hai ông phản đối. Mấy tháng sau, chính quyền khép tội hai ông là gián điệp của Đức để bắt giam Phan Văn Trường giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ở nhà tù Santé , Paris, từ tháng 9 / 1914 . Cũng trong năm này, vợ ông là bà Lê Thị Tỵ qua đời ở quê nhà ngày 12/5/1914. Tháng 7 / 1915 , vì không đủ bằng chứng buộc tội, chính quyền Pháp phải trả tự do cho hai ông . Thấy hoạt động ở Pháp không thu được kết quả gì, đã nhiều lần ông yêu cầu chính phủ Pháp cho ông trở về quê hương, nhưng đều không được chấp thuận. Năm 1925, khi thấy sức khỏe ông đã suy yếu, nhà cầm quyền Pháp mới cho phép ông về nước. Về nước rồi qua đời Ngày 29/5 / 1925 , Phan Châu Trinh cùng nhà cách mạng trẻ Nguyễn An Ninh xuống tàu rời nước Pháp, đến ngày 26/6/1925 thì về tới Sài Gòn. Tuy bị bệnh nhưng Phan Châu Trinh cố gắng diễn thuyết thêm hai đề tài là Ðạo đức và Luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa. Hai bài này đã có tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ tại Sài Gòn , trong đó có Tạ Thu Thâu . Ngày 24/3 / 1926 , lúc 21g30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn. Hưởng dương 54 tuổi. Phản ứng Khi Phan Châu Trinh qua đời, có rất nhiều cá nhân và tổ chức gửi câu đối và thơ văn đến đám tang của ông. Trong số đó có bài điếu văn của Huỳnh Thúc Kháng , người bạn thân thiết của Phan Châu Trinh, phản ánh rõ nét cuộc đời và quan điểm chính trị của ông.
QUỸ VĂN HÓA PHAN CHÂU TRINH Giải thưởng Phan Châu Trinh, tên đầy đủ là Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh là một giải thưởng được Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh trao hằng năm cho các cá nhân có cống hiến xuất sắc trong các lĩnh vực Giáo dục, Nghiên cứu văn hóa, Việt nam học và Dịch thuật. Lịch sử Tên giải thưởng mang tên của Phan Châu Trinh - nhà cách mạng, nhà cải cách và là nhà văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ 20. Giải thưởng được sáng lập bởi tổ chức Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh do bà Nguyễn Thị Bình , nguyên phó chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam và đồng thời cũng là cháu ngoại của Phan Châu Trinh làm chủ tịch và GS Chu Hảo , nguyên thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ làm phó chủ tịch. Giải thưởng được trao lần đầu tiên vào năm 2007, từ năm 2010 trở đi được trao vào ngày 24 tháng 3 hằng năm, đúng vào ngày giỗ của Phan Châu Trinh tại Tp.Hồ Chí Minh. Từ năm 2011 trở đi giải “Giáo dục” được đổi tên thành “Vì sự nghiệp văn hóa và giáo dục”. Chia sẻ của bà NGUYỄN THỊ BÌNH “Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh” là khẩu hiệu hành động được nhà văn hóa, nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh nêu lên từ đầu thế kỷ XX. Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập của đất nước ngày nay, khẩu hiệu ấy vẫn tiếp tục mang tính thời sự nóng hổi. Hơn bao giờ hết, tương lai nước Việt phụ thuộc vào khả năng của chúng ta trong việc xây dựng một nền văn hóa phát triển với những chủ nhân tự do, sáng tạo và có trí tuệ ngang tầm thế giới. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ ấy, Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh được một nhóm các trí thức tâm huyết với văn hóa đất nước lập nên… mong muốn đóng góp vào việc nâng dân trí, góp phần hiện đại hoá đất nước, đưa dân tộc Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy văn minh và tiến bộ của nhân loại…” LỜI KẾT Dự án “Ngôi Đền Tinh Hoa Văn Hóa Việt Nam Thời Hiện Đại ” nằm trong sứ mệnh của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh, bao gồm: Du Nhập, Phục Hưng, Khởi Phát, Gìn giữ & Lan Tỏa những giá trị tinh hoa văn hóa nhằm góp phần canh tân văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 21. “Ngôi Đền Tinh Hoa Văn Hóa Việt Nam Thời Hiện Đại” mang trong mình hai mục đích: 1. Để tri ân và tôn vinh các danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam thời hiện đại. 2. Để góp phần lưu giữ và lan tỏa những giá trị tinh hoa văn hóa của các danh nhân văn hóa này thông qua các tư liệu/tài liệu mà họ để lại và các tư liệu/tài liệu viết hay nghiên cứu về họ. “Ngôi Đền” này được truyền cảm hứng từ Điện Panthéon (Pháp), và chỉ dành cho các danh nhân văn hóa tiêu biểu của nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Cũng trong “Ngôi Đền” online này, mỗi danh nhân văn hóa sẽ có một cái “am văn hóa” (chuyên mục) của mình, nơi cất giữ nhưng phần “hồn” của các danh nhân thông qua việc một tập hợp sâu rộng những tư liệu về cuộc đời của danh nhân, các tác phẩm và thành tựu tiêu biểu của danh nhân, những bài viết và nghiên cứu đặc sắc về danh nhân cũng như một số đề xuất nghiên cứu thêm về từng vị danh nhân. PHẠM VŨ Tham khảo Internet
Phụ Bản I VỀ QUỸ “QUẢNG BÁ VĂN HỌC VIỆT NAM -VĂN HỌC NGA” Quỹ trực thuộc Hội Nhà văn Việt Nam do một nhóm dịch giả dịch văn học Nga cùng chung sức hoạt động, trong đó tôi có phần lo công việc điều hành. Thành lập từ 2012 để hợp tác với nhà xuất bản Nga Lokid Premium thực hiện chương trình đề án sách Tổng thống LB Nga gửi tặng bạn đọc Việt Nam. Từ 2012 đến nay tủ sách đã ra được 40 đầu sách (H.1)và sắp tới, ngày 24 tháng tám sẽ ra mắt đợt sách mới (H.2). THÚY TOÀN
NHÀ CỔ NGOẠN VƯƠNG HỒNG SỂN với SÀI GÒN TẠP PÍN LÙ & HƠN NỬA ĐỜI HƯ Nhà cổ ngoạn, nhà văn Vương Hồng Sển (1902-1996) có bút hiệu: Vân Đường, Đạt Cổ Trai. Theo từ và cách phát âm Hán Việt, chữ (âm) Sển đọc đúng là Thạnh, nhưng khi khai sinh; người viết, nghe đọc âm Thạnh (giọng Phước Kiến) nên viết trong giấy khai sinh là Sển, Vương Hồng Sển. Nguyên quán tỉnh Phước Kiến (Trung Quốc), đến đời tổ phụ sang cư ngụ tại làng Khánh Hưng, tổng Nhiêu Khánh, tỉnh Nguyệt Giang (sau đổi là Sóc Trăng) sinh ngày 27 tháng 9 năm Nhâm Dần (Â.lịch) 1902, nhưng trong giấy khai sinh ghi ngày 4-1-1904 (Giáp Thìn) tại làng Xoài Cả Nả (tên Khmer) tức làng Đại Tâm, tỉnh Sóc Trăng ngày nay. Ông là người có 3 dòng máu trong người: Việt, Hoa, Miên ở Sóc Trăng (cha Hoa - Việt, mẹ Miên). Năm 8 tuổi vào học trường Sơ học Khánh Hưng, năm 18 tuổi đậu bằng Tiểu học (Primaire) Pháp Việt. Năm 1919 lên Sài Gòn theo học tại trường Chasseloup-Laubat (nay là trường Lê Quý Đôn), năm 1923 thi đỗ Brevet-Elémentaire (18-6-1923) và bằng Thành Chung (Diplôme d’étude Complémentaires franco-indigènes) (2-7-1923) Năm 1923, ra trường được tổ chức Thư ký tại Trường Máy Á châu (L’Ecole des Mécaniciens Asiatique) đường Đỗ Hữu Vị Sài Gòn (nay là trường Kỹ Thuật Cao Thắng, đường Huỳnh Thúc Kháng, Sài Gòn), năm 1928 làm việc tại Tòa bố Sa Đéc (1932), năm 1933 chuyển về tùng sự tại Sở Địa bộ tỉnh Sóc Trăng. Năm 1936 đổi lên “đứng bàn ông chánh” (thông ngôn chánh tòa bố) tỉnh Cần Thơ. Năm 1938 về Sài Gòn làm việc ở phòng Dân sự tại Dinh Toàn quyền Decoux với chức danh “Thơ ký hạng nhất” (Secrétaire de première classe). Năm 1943 đổi về quê nhà làm việc ở Tòa bố tỉnh Sóc Trăng cho đến ngày hưu trí ngạch công chức Nam Kỳ. Hơn 20 năm phục vụ ngành hành chánh thuộc địa Nam Kỳ, ông đã hơn tám lần thi nhập ngạch tri huyện nhưng trước sau đều hỏng (khi đậu viết, hỏng vấn đáp, lúc đậu tập sự, hỏng lý thuyết). Về già khi tính sổ đời, ông tự cho mình là “thằng hư” và “cám ơn đời được thi rớt” nên khỏi mắc tội với lương tâm vì đã làm việc cho Pháp. Sau ngày Nhựt đảo chánh Pháp năm 1945, ông được tổ chức Thanh Niên Tiền phong địa phương tiến cử làm Phó tỉnh trưởng hành chánh tỉnh Sóc Trăng, cho đến ngày Pháp tái chiếm Nam Bộ. Năm 1949 làm việc ở Viện Bảo tàng Sài Gòn, về sau giữ chức Giám đốc viện này cho đến ngày hưu trí thiệt thọ. Vương Hồng Sển là người sống gần trọn thế kỷ XX chứng kiến nhiều biến cố lịch sử Việt Nam ở miền Nam. Có thể nói, ông là người am tường về nhiều lĩnh vực liên hệ đến văn hóa Nam Bộ và là nhà cổ ngoạn độc nhất Việt Nam. Ông sưu tập được một số đồ cổ Trung Hoa, Việt Nam có giá trị nghệ thuật độc đáo mà giới văn hóa thân quen gọi thân mật là “Cụ Vương cổ ngoạn”. Ông là tác giả các sách: Thú chơi sách (1960), Sài Gòn năm xưa (1962), Hồi ký hai mươi năm mê hát (1968), Chuyện cười cổ nhân (1971), Phong lưu cũ mới (1970), Thú xem chuyện Tàu (1970), Thú chơi cổ ngoạn (1971), Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (1972), Cảnh Đức trấn đào lục (1972), Cuốn sổ tay của người chơi cổ ngoạn (1972), Khảo về đồ sứ từ hậu Lê đến sơ Nguyễn (1993), Những đồ sứ do đi sứ mang về (1993), Sài Gòn tạp pín lù (1992), Những đồ sứ khác (Quốc dụng, Ngự dụng… 1993), Tự vị Tiếng Việt miền Nam (1994), Hơn nửa đời hư (1992), Nửa đời còn lại (1995) và nhiều bản thảo khác… Trước khi qua đời ông hiến tất cả gia tài (gồm ngôi nhà cổ, đồ cổ ngoạn và sách vở đã sưu tầm được trong hơn 70 năm) để làm một Tàng cổ Vương Hồng Sển tại Sài Gòn. Trong một lễ sinh nhật (trước khi mất) “một bạn trẻ” trang tặng tác giả Hơn nửa đời hư một bài hát nói có thể tóm tắt được con người Vương Hồng Sển trong cuộc đời mà có lúc ông tự cho là “trọn đời hư” vì mình là “một thằng hư”. “Bán thế túy tâm cầu cổ ngoạn Nhứt sanh trắc nhĩ thướng thanh ca”(1) Chín mươi mấy như ông, chín mươi mấy không già Mà già chăng nữa cũng là già số một ! “Tối thế thượng chi phong lưu giang hồ khí cốt Cực nhân gian chi phẩm giá phong nguyệt tình hoài”(2) Giắt trong lưng sẵn một chữ tài, Tiêu từ nẳm tới nay, tiêu hoài chưa thấy hết Lại còn tiếng là người lịch duyệt, Biết cải lương, biết đồ cổ, biết nhà xẹt,(3) biết cầm chầu(4) Biết như ông, biết vậy cũng nên cầu, Đàn em muốn nhưng mà đâu có được Hiên Đạt Cổ ngậm ngùi thương buổi trước Phủ Vân Đình thủ thỉ nhắc người sau Thú phong lưu ngày tháng vẫn phong lưu Chuyện tang hải mặc dầu non tự tại Đồng Nai đã từng, Phú Xuân cũng trải Hơn nửa đời hư mà tính có gì hư ? Hỏi ông, ông chớ cười trừ !(5) (Nguyễn Minh Hoàng) Vào tuổi xế bóng, ông có mấy tác phẩm tâm đắc của mình được xuất bản, trong đó có cuốn Sài Gòn tạp pín lù (tức Sài Gòn năm xưa II, III) nối tiếp Sài Gòn năm xưa I in từ những năm 60. Sài Gòn tạp pín lù đến với độc giả tuy trễ nhưng vẫn được độc giả say sưa đọc bởi vì văn phong có một không hai của ông. Có thể nói Sài Gòn tạp pín lù(6) như là một thứ Sài Gòn vang bóng của dân Sài Gòn. Đã lâu lắm chúng ta mới được thưởng thức một bữa “tạp pín lù” đặc biệt. Nói là đặc biệt bởi vì người nấu và dọn cho chúng ta bữa ăn này là nhà văn, nhà học giả kiêm nhà chơi đồ cổ Vương Hồng Sển lão thành. Đất miền Nam, chủ yếu là vùng châu thổ của hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang, trước khi được đặt tên là Đồng bằng sông Cửu Long, vẫn được nhiều người miền Nam cố cựu gọi một cách thiệt thà nôm na là Nam Kỳ Lục tỉnh. Dấu tích đó còn thấy trong câu hát: “Anh đi Lục tỉnh giáp vòng Tới đây trời khiến đem lòng thương em” Hơn nửa thế kỷ trước, đối với người dân Lục tỉnh, điểm trung tâm thu hút và quyến rũ là đất Sài Gòn. Suốt cuộc đời vất vả cày sâu cuốc bẫm, người dân Lục tỉnh nào cũng mơ ước được đặt chân, ít nhất một lần, lên “đất Sài Gòn hoa lệ”, “hòn ngọc Viễn Đông” này. “Giỏi giỏi theo anh lên xứ Sài Gòn xem nam thanh nữ tú, Ở chi chốn này vượn hú chim kêu!” Sài Gòn tuy không có một quá khứ “nghìn năm văn vật” nhưng lại có những “nam thanh nữ tú”, nhất là có một cái duyên ngầm tạo được những sợi dây tình cảm cắt không đứt bứt không rời. Trong số những người nặng tình với Sài Gòn chúng tôi biết có nhà văn Vương Hồng Sển. Hồi năm 1962, ông có cuốn Sài Gòn năm xưa mà trong lần in thứ nhứt ông viết: “Vì thấy tôi là người cố cựu của Sài Gòn, lại thêm có tật chứa sách vở, giấy má cũ đầy nhà; nên những bạn từ ngoài Bắc vào đây thường hỏi tôi về lịch sử và gốc tích của hai chữ Sài Gòn”. Vậy Sài Gòn năm xưa là phần nói về nguồn gốc và vị trí lịch sử của thành phố Sài Gòn. Cuốn chúng tôi đang nói, cuốn Sài Gòn Tạp pín lù là phần tiếp theo để nói về “nam thanh nữ tú”, về cảnh sinh hoạt của Sài Gòn khoảng hơn 70 năm về kỷ niệm xưa, về những mối vương vấn tưởng là tầm thường nhưng đã để lại trong lòng người trong cuộc những rung động còn kéo dài mãi đến tận bây giờ và có thể tận mai sau. Tác giả gọi là Tạp pín lù là để nói về mọi việc, để không bị gò bó bởi thứ tự thời gian, để “nhớ đâu nói đó”, để mở rộng giới hạn cho câu chuyện của mình. Cái duyên riêng của “cụ Năm Sển” là ở đó. Nói “cu cu chằng chằng” nhưng không lạc đề và với rất nhiều nghệ thuật. Xã hội miền Nam thời còn thuộc Pháp là một xã hội “tứ chiếng”, một xã hội có tính cách “siêu quốc gia” (cosmopolite) với đông đủ mặt “Tây, Chệt, Chà, Maní”; với những nhân vật có nhiều khía cạnh lạ lùng mà ngày nay, trong mắt chúng ta, những người miền Nam không thuộc hàng những người cố cựu, có vẻ như bị bao phủ trong một không khí huyền thoại. Cô Ba Trà, cô Tư Nhị, cô Sáu Ngọc Anh, cô Năm Pho, cô Bảy Hột Điều… bao nhiêu người đẹp của một thời mà tác giả Sài Gòn Tạp pín lù đã nhắc lại, gợi lại làm chúng ta khi nghe, cảm thấy bồi hồi như thi sỹ Villon ngày xưa của Pháp đã ngâm “Mais òu sont les neiges d’autan?” (Đâu rồi những vầng tuyết cũ). Sài Gòn Tạp pín lù còn là một thứ “à la recherche du temps perdu” (Đi tìm thời gian đã mất), một thứ hành hương (pèlerinage) về quá khứ, để hồi tưởng những thú vui, những cảm xúc, những mùi vị không còn nữa. Tô cháo cá chợ Cũ, bát phở đường Turc (nay là đường Hồ Huân Nghiệp), món bò bung, bánh hỏi của ông già Thủ Đức cũng tạo được sự kỳ diệu của chiếc bánh Madeleine nhúng vào tách nước trà tilleul đối với Marcel Proust năm nào. “J’avais vingt ans et c’était le printemps”, câu hát của Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Tạp pín lù mà chúng tôi xin phép được đổi từ thì hiện tại ra thì quá khứ để cùng nhau tiếc cái tuổi Hai mươi và mùa xuân rực rỡ của mình. Cái thú khi đọc Sài Gòn Tạp pín lù(7) là ở đó, mà cũng tại văn phong “cụ Sển” nữa. Tiếp theo là bộ Hơn nửa đời hư do NXB Thành Phố Hồ Chí Minh xuất bản cùng năm. Hơn nửa đời hư là những ký ức của một người đã có cái may - hay cái rủi - được sống nhiều, nếm trải nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều, sướng nhiều, khổ nhiều, ê chề bầm dập nhiều, hy vọng nhiều mà thất vọng cũng lắm. Và nhất là đã một vài lần tình cờ được làm một khán giả ngồi ở ghế hàng đầu để xem một số con rối của lịch sử mang râu đội nón diễn những tấn tuồng hưng phế. Những sự việc, những cảnh đời, những ngón nghề quỷ thuật, những vốn sống, kể cả một ít triết lý về đời người cũng như người đời. Vương Hồng Sển mà một số người thân gọi là “bác Năm Sển” hay “cụ Vương cổ ngoạn”. Không phải là một nhà chép sử, nhưng đọc ông và bằng vào cách thu nhặt tài liệu của ông, chúng ta thấy ở ông có một cái gì gần như là “xương cốt” của một nhà chép sử. Nếu xem ông là một nhà viết ký sự thì ắt hẳn chưa đúng; vì Hơn nửa đời hư vừa là một thứ truyện kể ở ngôi thứ nhất. Nhưng dầu là thứ gì, cái đáng quý ở Hơn nửa đời hư là từ trang đầu đến trang chót, tác giả đã rất thành thật với độc giả và với chính mình, như chính ông tự bạch: “Bù qua sớt lại chỉ tồn còn một cái Hư to tướng (…) Tôi thấy nhiều người về già thường viết hồi ký bêu thơm. Tôi lại muốn riêng bêu xấu…”. Có thể tác giả không tỏ ra “ngạo đời” chút nào khi viết như vậy và cái muốn riêng bêu xấu cũng không có gì để cho các môn đệ của Freud phải bận tâm mổ xẻ hết. Chữ Hư mà ông dùng, có người cho là ông tự trào, tự giễu, tự biếm nhưng có một số người cả độc giả ông vẫn nghĩ là ông bộc trực. Cái bộc trực tưởng là ngông nghênh, ngang bướng - xấc xược - mà thật sự có chất ngang bướng, nhưng thật tình vẫn có một cái gì rất đáng yêu của những người lớp cũ của miền Nam “Trước khi vác đá liệng người, xin xét kỹ, nếu quả không nhơ bởn, thì xin cứ chọi”. Ông khuyên chúng ta mà cũng là tự khuyên mình. Ông không muốn xét việc, xét người và xét mình theo tiêu chuẩn do chính ông đưa ra mà bằng cái tiêu chuẩn do chính những người đọc ông sẽ tự chọn lấy. Ông đã từng sống trong những thời kỳ có những hình thức xã hội ương ương dở dở, lố lăng, hỗn loạn khác nhau, nào “Tây cuốn gói, Nhật chạy càng, đến ông Ngô băng lẹ như diều đứt dây”, nên cái nhìn của ông vào những xã hội ấy có khi hằn học, có khi nghiêm khắc, có khi phẫn nộ, có khi khinh bỉ và lắm lúc ông luôn miệng chế giễu, nhưng về sau này, càng sống, càng thấy ông càng có thái độ khoan dung, đắm thắm hơn! Hơn nửa đời hư là hồi ký về cuộc đời tác giả, cái đó hẳn là như thế, nhưng cũng còn là hồi ức của phần đất miền Nam. Nó có thể được xem như là một công trình có tính cách biên niên sử bao quát cả một thời kỳ từ những năm đầu thế kỷ đến tận hôm nay. Đằng sau tác giả Hơn nửa đời hư chúng ta thấy thấp thoáng bóng dáng tác giả của những Sài Gòn năm xưa, những Sài Gòn Tạp pín lù, và những Phong lưu cũ mới, Nửa đời còn lại… Cuốn này tiếp sức cuốn kia để lần lần mở ra cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ và rõ ràng hơn về tâm hồn và con người của phần đất mới (Sài Gòn). Sài Gòn Tạp pín lù, Hơn nửa đời hư là hai trong những cuốn sách đúng diện mạo “cụ Vương cổ ngoạn” của đất Sài Gòn. Tháng 10 - 1998 NGUYỄN Q. THẮNG - HOÀNG KIM THƯ st. ---------------- (1) Câu đối của cố thi sỹ Đông Hồ (1906-1969) tặng cụ Vương. Nghĩa: Nửa đời [người] dốc lòng sưu tầm, và chơi đồ cổ; Cả cuộc sống giành [tai] thưởng thức giọng ca hay (Ý tác giả nói nửa đời Vương Hồng Sển chỉ lo chơi cổ ngoạn và trọn đời nằm nghe giọng ca hay của vợ - Bà Năm Sa Đéc, vợ Vương tiên sinh là một diễn viên kịch nói mà cũng là một danh ca cổ nhạc tại Sài Gòn - nên cụ Vương thường tâm sự với bạn văn rằng “Đông Hồ chưởi ta cưới đào hát nhưng đúng và hay nên ta vẫn treo liễn”) (2) Câu thơ chữ Hán trong bài hát nói của Tú Xương (1870-1907) có nghĩa là: “Cái phẩm giá ở nhân gian là cái tình nhớ thuơng trăng gió; Sự phong lưu nhất ở trên đời là cái khí cốt giang hồ” (3) Xẹt: chữ Pháp: Cerle: câu lạc bộ (4) biết cầm chầu: biết cầm dùi đánh trống chầu thưởng thức hát bội. (5) In trong phần Phụ lục Hơn nửa đời hư (6) Đúng âm của từ này là Tả pín lù (Tạp pín lù), viết ra từ Hán Việt là đả biên lô; đả là đánh, biên là bên, gần bên cạnh; lô là cái lò, cái cù lao lửa. Vậy Tả pín lù chữ Hán là đả biên lô tức món ăn nấu chín (tái) gần bên (trên) lò lửa, là ăn thịt sống nhứng vào nước sôi bắt trên lò lửa nóng mà dân Nam Bộ, nhất là dân Sài Gòn thích ăn. (7) NXB Hội nhà văn, 1993, 1994; NXB Văn Hóa, 1997, 1998. TUỘT DỐC ĐỜI Tôi biểu anh xe ôm ngừng lại. Anh ta hỏi tôi sao đi làm về khuya dữ vậy. Chỗ nầy thúi lắm ai ở cũng bị viêm mũi, viêm cuống họng mà cô ở được cũng hay. Tôi nói láo tài tình rằng mình ở đây cả chục năm rồi, có viêm gì đâu ngoài viêm màng túi. Anh ta cười vui nói màng túi thì lúc nầy ai lại chẳng bị viêm trừ bố già hay con cái các đại gia. Tôi trả tiền anh hậu hĩ rồi lững thững đi dọc theo lề đường, giỏ xách trên vai. Phố khuya vắng tanh tới chó cũng đi ngủ hết chẳng thấy con nào sủa bâng quơ hay lang thang lục lọi mấy bao rác như buổi chiều. Gió thổi lồng lộng. Gió càng mát thì càng nghe mùi thúi. Nồng nặc. Tanh tưởi. Hèn chi cái địa danh Cống Thúi không biết ai đặt mà chết tên luôn lâu nay. Tôi trở tay, ôm cái giỏ xách vào ngực, thân thương quá đi. Tủi thân con tôi, biết hít thở hơi trần thế chưa đầy một tiếng đồng hồ rồi thì vĩnh viễn. Mẹ thương con biết là bao nhiêu, bây giờ sẽ xa con luôn rồi. Hơi lạnh như đồng từ túi xách quyện vô ngực tạo cho tôi cảm giác sợ hãi. Chưn tôi quíu lại. Lề Cống Thúi kia rồi. Chỉ cần một cái vung tay là xong chứ gì! Tôi ngần ngừ ngang. Tụi nó nói nhiều lần đây là mồ chôn uổng tử. Tôi lờ mờ biết uổng tử là những đứa trẻ chết oan khi còn nhỏ. Bây giờ mới biết rằng đưa một uổng tử xuống dòng kia là chuyện không phải dễ dàng gì dầu chẳng ai thấy cũng không ai biết. Nước Cống Thúi đen ngòm chẳng khác nước sông Nại Hà, như không chảy vì nước đặc quánh, vì màu đen của nó hợp với màu đêm. Mùi thúi nãy giờ mà mũi tôi cũng vẫn chưa làm quen được, dưới dòng kia một vài chỗ lấp lánh ánh sáng phản chiếu từ những ngọn đèn leo lét của mấy căn nhà cất chồm lên mé kinh càng làm cho dòng nước mang màu sắc kinh dị hơn. Con tôi không thể hóa thân ở đây được. Dầu sao cũng là kiếp người, con phải được đối xử khác với những thứ vật dụng phế thải, những chất ô uế, những con chuột chết mèo chết người ta vất liệng dưới kia. Gió bây giờ lạnh hơn, tôi ôm cái giỏ vào ngực mà nghe nước mắt mình rơi rơi. Một ông xe ôm chạy trờ tới gạ đi đâu ông chở, tôi trả lời trong xa vắng không biết tại sao mình lại có ý tưởng nầy: “Cho tôi đi Bến Xe Miền Đông”. Người đàn ông xô cửa bước ra. Chín Tươi nghe một mùi thúi nồng nặc mũi, chạy tới hai bên màng tang tỏa ra một xú vị chua chua làm nó muốn mửa ngang, nó nhăn mặt một chút rồi lách mình bước vô, rán sức kéo khép cánh cửa lại. Cánh cửa cũ hư, hơi nặng, xệ xuống do lệch bản lề, phía cạnh dưới lại bê bết nên không thể che chắn kín được hoàn toàn. Chín Tươi hơi do dự nhưng khi liếc thấy sau mình còn mấy người sẵn sàng chồm lên thế chỗ nên mạnh dạn đặt chưn lên một chỗ tương đối sạch rồi tìm chỗ cho cái chưn kia. Cái giỏ bỏ giấy rác hơi cao, trong đó lền khên đủ loại giấy dơ không thể cho con vô đó được. Con phải nằm ngoài. Mẹ thương con quá nhưng biết làm sao bây giờ. Đời mẹ còn lo chưa xong, không còn tay nào đưa ra nâng dắt đời con được. Con hãy quay trở lại bằng ngõ khác đủ ăn đủ xài, ít ra cũng dễ thở hơn đời mẹ. Chín Tươi móc trong giỏ xách nãy giờ nó cặp bên nách một gói gì đó bao bọc bằng cái khăn lông, nhè nhẹ đặt xuống kế bên cái giỏ rác, dựa vô góc tường. Nó lật một chút chéo khăn lên, dòm dòm vô đó rồi sụt sịt khóc… Thời gian lặng lẽ trôi qua. Cái mùi khó chịu bắt nhức đầu lúc mới bước vô giờ không còn nữa. Bên ngoài có giọng oang oang của một người đàn bà lớn tiếng trong khi gõ ầm ầm lên cửa buồng cầu: - Ai trong cầu số 7 thì đi ra liền nhe. Tới giờ làm vệ sinh rồi. Đừng có mà ngủ luôn trong đó! Ngủ thì về nhà mà ngủ, đây không phải là phòng ngủ đâu nhe! Chín Tươi lật đật đứng dậy, lách mình đi ra, cố tránh ánh mắt của người đàn bà làm vệ sinh, một người đàn bà dáng dấp đàn ông, mang ủng cao su che gần hết ống quyển, một tay cầm chổi tàu cau, tay kia cầm đồ gắp rác, mặt mày coi bộ bặm trợn, khó chịu, như sẵn sàng cà khịa với bất kỳ ai. Chín Tươi bước đi mau, đưa tay chùi nước mắt. Người sao nhiều quá, buổi sáng có khác. Biết vậy mình quanh vô đâu đó để trưa hãy đi. Nó mới ra chưa tới buồng số 2 thì chị làm vệ sinh kêu giật giọng: - Nè cô kia! Đứng lại cho tui hỏi chút coi. Làm gì mà đi như chạy trốn vậy? Chín Tươi giả đò không nghe, bước mau hơn, nhưng nó buộc lòng phải đứng lại khi nghe tiếng hăm dọa chắc nịch: - Ê, không đứng lại tao kêu Bảo Vệ vô đó - Chị kêu tui? - Mầy chứ ai, bộ tao điên tao kêu tao chắc? Đâu có huỡn dữ vậy đâu bây! Bà nầy nói đã nhiều mà coi bộ thích câu mâu dàn trời. Chín Tươi nhỏ nhẹ: - Chuyện gì vậy chị? - Mầy đừng làm bộ giả mù sa mưa nữa. Chơi cho sướng rồi bỏ con vô cầu tiêu! Sợ người đối thoại phản đối, chị bước tới nói thêm liền, không kịp thở. - Đây đây nè, Vô đây tao chỉ cho coi. Chị ta nắm tay Chín Tươi kéo vô phía trong trở lại. Chín Tươi điếng hồn. Chuyện tầy huầy rồi, làm sao bây giờ. Nó chống chế yếu ớt: - Ai biết gì đâu nè, khi không cái đề án tử người ta. - Mầy chối hả, cái mặt mầy xanh chành. Chém chết cũng mới đẻ, đẻ một mình không có mụ nên mất máu. Mới nứt mắt đã bày đặt! Chị ta vừa nói vừa lận cái môi dưới ra dài sọc: - Chơi cho đã rồi liệng con, không biết đứa nhỏ còn sống hay đã chết nữa. Chị nói mà vẫn nắm chặt tay Chín Tươi kéo về phía buồng cầu số 7. Những người đàn ông đàn bà đang đợi đi cầu, nghe chuyện kéo nhau tới, bu kín. Chín Tươi vẫn yếu ớt chối: - Đâu phải tui, tui không biết gì hết. Chị đừng nói oan cho người khác nha. Nó tủi thân khóc thút thít như con nít bị rầy oan. - Hình như đứa nhỏ đã chết rồi. Nè tội giết con nặng lắm nhe. Nếu đẻ chưa đủ tháng nó chết thì tội còn ít. Đủ ngày đủ tháng, nó sống mà mẹ nó giết liệng xác thì là tội giết người đó. Năm nay ít nhứt là cả chục đứa nhỏ bị bỏ như thế nầy, kiến bu đầy hai mắt với lỗ rún, tội nghiệp ôi là tội nghiệp! Ôi con ôi! Mẹ đâu có muốn vậy. Con chết khi mới chào đời chớ không phải mẹ làm con chết phải không con! Xin con hãy làm chứng cho tình của mẹ đối với con. Có tiếng ai đó hỏi: - Rồi xác mấy đứa nhỏ đó ra sao? Chị ta ngó vô mặt người đặt câu hỏi, trả lời mà coi bộ khinh thị một người gà mờ chẳng biết gì hết: - Thì cũng đem vô đống rác Đông Thạnh, Hốc Môn bỏ như bao nhiêu thứ rác khác, chứ còn gì nữa mà hỏi. Bộ đem về xào ăn được chắc? Ai ở không mà điều cha điều mẹ chi cho mệt. Bịnh viện Từ Dũ mỗi ngày nạo cả trăm ca thì cũng vậy thôi. Chị ta ngừng một lúc, mắt đảo chung quanh: - Nhưng mà biết được ai liệng bỏ con thì cũng bắt giao lên phường để họ giải quyết làm gương cho người khác. Chín Tươi vùng vẫy mạnh: - Chị đừng đổ tội oan cho người ta, tôi không có đẻ đái gì hết! - Không có thì mầy về phường nói chuyện với công an. Ai chịu cha ăn cướp bao giờ! Hai bên cãi nhau qua lại, người tò mò mỗi lúc một đông. Chín Tươi như đuối lý và đuối sức, nó khóc lớn và muốn buông trôi cho chuyện tới đâu hay tới đó. Mệt lắm rồi, quá sức chịu đựng rồi. Bỗng có một người trung niên ăn mặc hơi sạch sẽ hơn những người khác, vẹt đám đông bước vô: - Chuyện gì đây em! Rồi anh ta quay vô người phụ nữ làm vệ sinh: - Thôi chị đừng nghi oan cho vợ tôi nữa. Nó hiền lắm ai nói oan gì cũng chỉ biết khóc mà thôi. Chị cầm số tiền nầy, chiều nay làm phước mua chút nhang đèn cúng vái cho oan hồn đứa nhỏ dễ đi đầu thai. Chị làm vậy là có phước lắm đó, còn hơn cất năm bảy kiểng chùa. Chị thấy nó trước mà không cúng vái thì nó theo phá chịu không nổi đâu! Cô hồn các đảng đó. Anh ta nhấn mạnh mấy tiếng chót. Người đàn bà liếc vội xuống nắm tiền trong tay người đàn ông mới tới. Coi bộ hơi nhiều à nhe. Tờ giấy năm trăm ngàn bọc ở ngoài. Chị dịu giọng: - Tui đâu có biết cô nầy là vợ ông. Mấy cô gái mới lớn, không chồng, đẻ non hay tự phá thai liệng con ở đây hoài hoài. Chỗ nầy còn ít, ở Cống Thúi khu chế xuất Sóng Thần còn ghê gớm hơn. Tối liệng xuống đó có trời mà biết! Những người xúm coi bây giờ chuyển hướng đề tài bàn tán sang qua con nít phá thai liệng con ở đâu nhiều, Cống Thúi, cầu tiêu công cộng, vườn cao su hay mấy cái vườn bông…” Chín Tươi được kéo ra ngoài, ấn lên một chiếc taxi. Người đàn ông trao cho tài xế một số tiền, nói với anh ta chạy tới chỗ cô nầy muốn, rồi bước qua đường lên một chiếc xe ôm.. Chín Tươi chưa hết bàng hoàng, mặt vẫn cúi gầm xuống và những giọt nước mắt tủi nhục vẫn rơi thấm ướt cổ tay áo… Từ giã người tình, Chín Tươi bước lên xe Lam. Nó mỉm cười khi nhớ lại câu năn nỉ nho nhỏ của Tư Thiện: - Tối nay 9 giờ anh chờ em ở chỗ cũ, bụi chuối của bà Tư bán xôi. Em nhớ ra đó nhe, đừng để anh chờ mỏi mòn như lần rồi nha cưng. Tuy không muốn hẹn hò lúc nầy nhưng Chín Tươi thích câu nói có tiếng cưng ngọt ngào đó. Tiếng cưng đeo đuổi nó suốt đường từ chợ về nhà như một hương vị ấm áp không gì so sánh được trong hoàn cảnh gia đình địa ngục hiện giờ. Xe ngừng trước hẻm, Chín Tươi bước xuống lầm lũi đi, tránh những cái nhìn soi mói như muốn lột trần của lũ bạn anh nó đương ngồi nhậu ở đầu hẻm. Hi vọng không có ảnh trong đó. Nó khựng lại khi thằng Chảy kêu lớn, giọng của kẻ cầm quyền: - Tươi, mầy về nhà mau mau nấu nồi cháo vịt cho tao. Con vịt tao cột ở nhà bếp. Mau lên nhe mậy. Chín Tươi không trả lời trả vốn gì hết, nó quày quả đi mau hơn. Ông thần men nầy mà càng nói thì càng sanh giặc. Thằng Chảy như bị mất mặt với bạn bè nói vói theo: - Tao nói mầy nghe không đó, bộ câm sao không trả lời. Lát nữa tao về mà không có cháo thì mầy đừng sống với tao. Chín Tươi nuốt nước miếng. Anh em mà làm như chủ đối với nô lệ, lại hăm dọa. - Ờ mà mầy đứng lại cho tao nói một câu được không, hay là mầy muốn ăn đòn. Đứa em gái đứng lại, bất động xa xa thằng anh: - Tao mới lấy mấy triệu của Dì Hai trên chợ để cho mầy đi thành phố làm giấy tờ lấy chồng Hàn quốc, mầy sửa soạn mai đi cho người ta coi mắt đó. Tao không có tiền trả lại cho người ta đâu. - Không có tiền sao anh dám lấy tiền của thiên hạ xài. Em đâu muốn lấy chồng xa đâu. Ba già rồi, sống nay chết mai làm sao bỏ đi cho đành. - Thây kệ ổng, ổng già cúp thùng thiếc, chết thì cũng được rồi. Tao phải lo thân tao chớ. Mầy đi thì tao có chút đỉnh, mầy ở lại thì tao có khỉ khô gì. Không được cãi, mầy mà không nghe lời tao thì thằng Tư Thiện có ngày đổ ruột đó. Tao nói thiệt chứ không hăm dọa ai đâu. Tao biết mầy với nó hẹn hò ở đâu hết mà tao chưa kịp nói đó thôi. Tôi bỏ đi mờ mờ sáng hôm đó. Ở lại thì có ngày Thiện đổ ruột thiệt tình. Ai chứ ông nội Chảy thì chuyện gì mà không dám làm. Có lần hết tiền trả chầu nhậu, bạn bè thách thức ảnh đã dám đem cái xe máy của tôi đi cầm khỏi cần giấy tờ gì hết. Bị ba rầy ảnh đã cự cãi và lật đổ tung bàn thờ rồi bỏ đi mấy ngày mới vác mặt về. Vậy mà có thôi đâu, ảnh còn hăm hễ ông già cằn nhằn nữa thì ảnh chém chết rồi đi tù. Tôi chỉ khóc thầm và ba thì lặng lẽ như chiếc bóng. Giờ ảnh lại muốn cà khịa tới Thiện. Tôi không trốn đi thì Thiện chắc chắn sẽ có nhiều nguy cơ. Đi trình diện ngoại nhân cho họ ngắm nghía sờ nắn thân thể tinh khiết của mình không mảnh vải che thân để lựa chọn eo xèo là điều tôi không thể nào chấp nhận được. Cưới vợ hay mua heo chó đây? Thôi, phải giải quyết, ở đây như nằm trong hai từng địa ngục chịu sao thấu. Thành phố may ra chứa chấp tôi. Địa chỉ mấy con bạn trong túi, tôi hẹn Thiện để gặp nhau lần cuối. Trăng mờ mờ, tình cảm dồn dập, nỗi bi thiết phải xa người tình không biết có còn gặp nhau được nữa chăng khiến tôi dễ dãi mà chính mình cũng lấy làm lạ. Hai bàn tay Thiện hăm hở khám phá người tôi không còn chỗ nào là không biết. Da thịt hưởng ứng thiệt nhiệt tình, tôi chỉ nín thở ngó trăng. Thỉnh thoảng tôi cảnh giác từ tốn kéo tay Thiện đặt lên má mình để tránh khỏi tuột dốc đời. Tôi còn quá trẻ, chỉ mới 17 chứ mấy. Bàn tay Thiện ướt trơn, tôi xấu hổ muốn chết mà Thiện thì cứ thở dồn dập áp mắt mũi vào mình tôi. Nghĩ đến nỗi khó khăn của mình trong tương lai, tôi dằn lòng mạnh dạn đứng dậy, quyết liệt từ giã. Không thể được Tươi ơi, đàn ông chỉ biết hiện tại, mầy có thân phải lo. Và tôi để Thiện ngơ ngác chưa kịp hoàn hồn, chận chiếc xe Lam sớm lên chợ, giã từ đời sống thôn quê dấn thân vào nơi gió cát hi vọng khỏi tuột dốc đời. Chín Tươi về tới xóm mình lúc gần chín giờ sáng. Hai dãy nhà trọ đâu mặt tưng bửng sáng hay xế xế chiều thì ồn ào với những sinh hoạt cá nhân, giờ nầy vắng hoe. Hai sợi dây kẽm dài giăng từ trong cùng ra tới cửa cổng treo máng đầy dẫy áo quần và đồ lót rẻ tiền… bình thường nó không chú ý lắm bây giờ phải chun qua để vô mở cửa phòng làm cho nó thêm chán ngán trong lòng. Tay run run Chín Tươi mở cửa, kéo lại màn phân cách giữa hai cái giường, nó liệng cái giỏ xuống đất, hất mạnh giày ra khỏi chưn, ngả mình thiệt mạnh lên giường, nhắm mắt tĩnh thần. Nó nghĩ tới ân nhân xuất hiện đúng lúc đã cứu mình ra khỏi cơn bối rối mà thầm mừng. Nó nhớ lại gương mặt nhăn nheo của đứa con đỏ hỏn khi mới sanh rồi tím bầm sau đó không lâu. Nó nhớ tới Thiện để tội nghiệp người tình chung sao mình lại tiếc làm gì cái đêm hôm ấy. Nhớ tới ba với cái quán hớt tóc ọp ẹp mà treo bảng Thanh Bần bữa nào cũng bị thằng con trai trời thần hỗn hào lột tới đồng bạc cuối cùng nên suốt đời chịu cảnh bần sát ván. Ba ơi, tội nghiệp ba quá chừng đi thôi! Có tiếng đập mạnh vô cửa phòng, giống như lúc nãy ở bến xe Miền Đông: - Em Tươi, mở cửa cho anh vô với. Anh thèm em quá. Chín Tươi chùi đầu mạnh xuống nệm như thể nệm có thể che kín đầu nó, ngăn chặn được âm thanh nó không muốn nghe: - Em Tươi, anh đây mà, nhớ em quá chời! Cho anh yêu em một lần nữa đi! Chín Tươi lăn mình trở dậy, ụa ói trên nệm những thức ăn của ngày hôm trước. Nó bịt mạnh hai tai như muốn đè dính hai vành tai vô màng tang. Mặt nó đỏ ké như da cắc kè. Bên ngoài tiếng gõ càng gấp rút hơn và lời năn nỉ trở thành lời chửi bới tục tĩu lẫn những hăm dọa: - Kim chích dính máu HIV của tao còn đây để đợi mầy. Mầy không cho tao vô mai chiều tao gặp là đâm liền cho mầy biết si đa là gì… ĐM. cự cãi, tránh né rồi mầy cũng có bầu với tao như mấy con nhỏ khác ở xóm nầy, đừng bày đặt chảnh với tao. Yên lặng đâu chừng năm bảy phút bên ngoài, bên trong là hơi thở dồn dập như tức giận kinh hồn đang được dồn nén xuống. - Mở cửa cho anh nha Tươi. Anh xin yêu đểu lần nầy nữa thôi. Lời hứa danh dự đó. Chín Tươi bật khóc: - Tình yêu đích thực lại tiếc chẳng cho, tình xin đểu lại nhắm mắt, tặc lưỡi giao nộp không biết bao nhiêu lần. Sao đời tôi khổ như thế nầy! - Em Tươi, thiệt ra lần nầy anh chỉ muốn rờ bụng em để nghe con máy động mà thôi. Anh biết em gần ngày mà… Con! Người ta còn nói đến chữ con được sao. Con phải được tạo nên do tình yêu. Con có mặt bất ngờ do cưỡng bức không bao giờ có cha, chỉ có mẹ mà thôi. Mẹ nó không thể cưu mang nó được thì nó giã từ thế gian nầy để sau đó trở lại bình thường trong sự thương yêu của hai đấng tạo thành. Phải vậy không con? Phải vậy không con? Chín Tươi bật cười khan, cười rũ rượi cho đến khi nó bỗng nghe bực một cái và cảm giác như mình đang bị rơi từ trên cao chín từng mây xuống. Máu đỏ từ từ lan ra trên nệm. Bên ngoài vẫn là tiếng đập cửa ồn ào, chửi rủa, hăm he. Bên trong yên lặng như tờ, Chín Tươi bất động, mặt mày thanh thản, nét thanh thản nó cố tìm bấy lâu nay tới bây giờ mới có. Lúc đó Chín Tươi mới bước qua tuổi mười tám không lâu. NGUY ỄN VĂN SÂM Victorville, CA. Nov.20-Dec 02, 09
Phụ Bản II KHÁI QUÁT VỀ Ý NIỆM “THƠ ĐƯỜNG ĐƯƠNG ĐẠI” Lâu nay người ta thường sánh thơ Đường* như một ông già khó tính nên khó gần, khó chơi vì những quy tắc niêm luật khắt khe, gò bó của nó. Cấu trúc ý tứ thì khuôn sáo, chuẩn mực, từ ngữ thì chứa đựng nhiều điển cố, điển tích rối rắm. Người xưa thì cho là như thế thì bài thơ mới súc tích. Cũng do những tính chất đó mà thơ Đường luật từ xưa được xem là thể thơ bác học, một sân chơi chỉ dành riêng cho các bậc thâm nho. Từ ngày CLB UNESCO Thơ Đường Việt Nam đề ra chủ trương “Thơ Đường đương đại” như thổi vào hồn thơ một luồng gió mới, làm cho câu thơ thêm khoáng đạt hơn, trẻ trung hơn. Những cụm từ “mộng ước ba sinh”, “hoàn châu hiệp phố”, “bóng câu cửa sổ”, “gió thoảng qua mành”,… xưa nay đã được các nhà thơ dùng tới dùng lui hàng ngàn lần đã trở nên sáo mòn đến độ nhẵn bóng mà giờ đây giới làm thơ Đường không còn ưa chuộng nữa. Đã qua rồi cái thời vàng son của những câu như: “Vung gươm ải Bắc là quyền bạn “Ấn nguyệt hồ Đông đấy chuyện mình…” Hoặc: “Câu chuyện Bàng Tôn bia miệng nhắc “Mối tình Liêm Lạng dấu đời roi…” Trích thơ bác Hoài Chân Hay là: “Hồi văn dâng đến vua ngơ ngẩn “Thối lổ vang lên giặc rụng rời “Ấm lại nghĩa tình Phi Thực đấy “Mỗi lời mỗi lạng há rằng chơi” Trích thơ Bác Thành Văn Đành rằng câu thơ mang nhiều điển cố, điển tích như thế sẽ hàm súc hơn, hay nói cách khác: ta có thể “nén chặt” bao điều muốn diễn đạt chỉ trong một số câu chữ mà không phải sử dụng nhiều từ hơn nữa. Nhưng khi đó đòi hỏi cả người viết và người đọc đều phải có tầm tri thức nhất định. Như thế sẽ mất đi tính phổ quát của thơ. Ngày nay giới làm thơ Đường thích viết những câu đại loại như: “Thuốc tàn sầu chẳng tan theo khói “Mộng cách thơ không nối được dòng… Bài “Dang dở” Hoặc: “Dường như xuân đã đến đâu đây “Vạn vật xem chừng cũng đổi thay “Ngực biển bớt phồng hơi thở sóng “Đầu non nới lỏng dải khăn mây…” Bài “Xuân mới” của Đinh Vũ Ngọc Và bài thơ Đường luật sau đây có ai nghĩ tác giả là một cụ già trên 70 tuổi. MỜI Em cứ ngang nhiên đẩy cửa vào Ngồi chơi giây phút có là bao Cho mây theo tóc bay qua ngõ Cho gió tìm hương thoảng trước rào Em nói cho tròn muôn ý nhạc Em nhìn cho sáng cả trời sao Và khi em mỉm cười quay gót Chẳng biết lòng anh sẽ thế nào ! Đinh Vũ Ngọc Bài thơ sau của Bà Hương Thu - P.Chủ Tịch BCH CLB UNESCO Thơ Đường Việt Nam, phụ trách phía Nam - cũng đề tài tình yêu nhưng thật nhẹ nhàng và đầy màu sắc trẻ trung hiện đại. XUÂN MUỘN Ừ nhỉ ! Dường như xuân đã sang Ngoài hiên đã rộ chậu mai vàng Áo em trắng xóa tình phai sắc Chiều phố xanh lơ mộng nối hàng Ví thử cuộc đời… là ảo ảnh Vẫn còn kỷ niệm quá mênh mang Thì thôi, anh nhé… dù quên nhớ Cũng một mùa xuân, dẫu muộn màng ! HT Qua những bài thơ Đường luật nêu trên, chúng ta thấy nó được thể hiện phong cách khá mới trong từ ngữ, ý tứ thanh thoát, khoáng đạt mà vẫn giữ được quy luật rõ ràng về niêm, vần, đối, bố cục chặt chẽ. Bình cũ nhưng đã được thay bằng rượu mới rồi. Không ai còn coi thơ Đường luật là một cụ già đạo mạo nghiêm khắc nữa. Tôi xin khẳng định một điều: ở đây tôi không có ý định đả phá lối thơ Đường cũ, hay muốn tranh luận chê khen giữa hai phong cách thơ Đường cũ và mới, mà chỉ muốn trình bày khái quát về chủ trương phát triển “Thơ Đường đương đại” của BCH CLB UNESCO Thơ Đường Việt Nam, hầu đưa thơ Đường xích lại gần hơn với nhiều giới, nhiều người, ăn sâu vào sở thích của mọi lứa tuổi, đặc biệt là giới trẻ vốn từ lâu nay vẫn rất ngán ngại và luôn quay lưng với thơ Đường. Với chủ trương đổi mới phong cách sáng tác như trên, số người đến với thơ Đường ngày một đông thêm và dần được trẻ hóa. Chúng ta có quyền hy vọng trong tương lai gần thơ Đường sẽ mãi mãi là một trong những thể thơ được yêu chuộng nhất trên thi đàn Việt Nam, trả lại chỗ đứng vốn có của nó trong những thập niên đầu thế kỷ 20. THÀNH NHÂN - ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st. ---------------- * Chữ “Thơ Đường” trong bài viết này là cách nói vắn tắt của “thơ Đường luật” hay “thơ luật Đường”, khác với thơ viết trong đời Đường như quan niệm của một số người (NV). TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM Tôi là người Việt Nam Tôi yêu những cụ già chống gậy Tóc lơ phơ râu lơ phơ Mỗi buổi sáng lơ phơ qua từng con ngõ nhỏ
Tôi yêu những em bé hồn nhiên Chân tung tăng tay tung tăng Mỗi buổi sáng tung tăng trên những con đường
Tôi yêu những anh công nhân Áo lem lem mũ lem lem Mỗi buổi sáng lem lem bên từng cỗ máy nổ
Tôi yêu những bác nông dân Lưng lom khom dáng lom khom Mỗi buổi sáng lom khom trên từng cánh ruộng
Tôi yêu những người phụ nữ gánh gồng Mắt tất tả môi tất tả Mỗi buổi sáng tất tả qua những làng thôn
Tôi là người Việt Nam Tôi yêu những màu áo xanh biên giới Chân rắn chắc tim rắn chắc Mỗi mỗi ngày rắn chắc trên những dốc đồi
Tôi yêu những người công nhân vệ sinh Ngày cần mẫn đêm cần mẫn Mỗi mỗi ngày cần mẫn bên chiếc xe hôi
Tôi yêu những người bảng đen phấn trắng Tháng miệt mài năm miệt mài Mỗi mỗi ngày miệt mài bên từng trang giáo án
Tôi yêu những lương y từ mẫu Giây phập phồng phút phập phồng Mỗi mỗi ngày phập phồng theo hơi thở bệnh nhân
Tôi yêu những khúc dân ca mượt mà hương lúa Đây ngân ngân đó ngân ngân Mỗi mỗi ngày ngân ngân trong những tâm hồn dân nước Việt
Vâng ! Có thể Việt Nam tôi còn phải nhiều lo lắng Có thể Việt Nam tôi chưa thật mạnh thật giàu Có thể Việt Nam tôi vẫn lắm mồ hôi và nước mắt Có thể Việt Nam tôi phía trước những ngặt nghèo
Nhưng vẫn mãi trong tôi một tình yêu cháy bỏng Màu da vàng son sắt những ước mơ Xin được góp nốt nhạc trầm tôi nhỏ bé Cho khúc ca ngày yêu dấu Việt Nam ơi ! ĐÀM LAN THÁNG BẢY MƯA Gió lạnh lùng tung làn tóc rối, Cây Phượng buồn hoa rụng tả tơi Mưa rơi ướt nhạt nhòa sân vắng Trường xưa chẳng thấy bóng một người... Mưa giăng giăng rớt giọt vơi đầy Không gian sầu lắng đọng cỏ cây Màn mưa sương khói mờ che khuất Phố cũ lạnh tanh nào thấy ai! Tìm đâu tia nắng ấm bên song Từng hạt bình minh lấp lánh hồng Gió kéo mưa về ngang lối nhỏ Tình ơi thương nhớ rối tơ lòng! Có tiếc gì không thuở hẹn hò Bơ vơ một bóng dưới trời mưa Mưa chất ngất bay - hồn tượng đá, Hững hờ ảo ảnh - chập chờn mơ...! Phạm Thị Minh-Hưng Cơn giông Cơn giông ! Cơn giông ào ngang thành phố Bầu trời tối sầm một chiều tăm tối Cây cổ thụ ven đường người chắn lối Cơn lốc xoáy ! Cơn lốc xoáy ! Ô ! Ô ! Cây tróc gốc đổ nhào chặn ngang đường Con người run rẩy đứng nhìn kêu la Hàng xe trên đường... Hãy tránh xa... Con người là một sinh vật nhỏ nhoi Giữa cơn thịnh nộ của cơn giông lớn Con người im lặng chịu đựng và thở Thở dài... nhìn nhiều cảnh rất tang thương Nhà cửa sập đổ... Ôi ! Sinh mạng con người. Chỉ trong phút giây nhắm mắt lìa đời Cơn giông là một bài học cho đời Thông điệp của đất trời cao vời vợi Con người ! Hãy sống xứng đáng là Người. Huỳnh Thiên Kim Bội Búng Bình Thiên Mênh mông - lai láng bạt ngàn Búng Bình Thiên ở An Giang tuyệt vời Quanh năm trong suốt rạng ngời Phù sa màu mỡ - cuộc đời ấm no * Những làng Chăm ở ven bờ Siêng năng dệt lụa - hát hò ngân vang Bông Điên Điển rực rỡ vàng Lẫn trong hoa Súng dịu dàng trắng trong * Thú vui phiêu lãng - bềnh bồng Dìu du khách dạo ngược dòng thời gian Vô cùng thích thú rộn ràng Lễ nghi truyền thống - y trang hợp thời * Giăng câu chài lưới vui chơi Cá to - tôm sú không nơi đâu bằng Nét bình yên đẹp vĩnh hằng Thiên nhiên quyến rũ - vầng trăng mượt mà * Trên sông Châu Đốc dịu hòa Mái chèo thoăn thoắt đưa ta miệt mài Tích xưa hạn hán kéo dài Nhà Tây Sơn khốn đốn hai tháng liền * Một nhà sư có phép tiên Cầu xin Trời Phật diệu huyền giúp mau Thanh gươm cắm xuống đất sâu Bỗng nhiên biến hóa thành màu biếc xanh * Một hồ nước rộng vây quanh Nước trong leo lẻo - thiên thanh nhiệm màu Các loài tôm cá - bí - bầu Hồi sinh mạnh mẽ - vào đầu mùa mưa * Giờ đây - quýt ổi cam dừa Xanh tươi rợp bóng - đong đưa nồng nàn Là nơi du khách tham quan Điểm du lịch lý tưởng càng nên thơ * Mở vòng tay ấm đón chờ Búng Bình Thiên tựa giấc mơ mộng vàng Ai về Châu Đốc An Giang Đừng quên ghé lại Khánh An Khánh Bình * Cầm chân quý khách - hữu tình Búng Bình Thiên đẹp lung linh chào mời Dù đi ngoạn cảnh - muôn nơi Cũng còn nhớ mãi “Hồ Trời” bao la. NGÀN PHƯƠNG HỒI TƯỞNG Hạ nồng, đông rét lân lân Tháng ngày dồn dập tấm thân già rồi Kinh thành hoa điểu xa rời Giang hồ rũ áo, chốc mười năm nay Tuổi xanh già mất khó thay Gõ đầu ta nhớ, lòng này còn vương. LANG NGUYÊN ĐÁ VỌNG PHU Người hay đá, hỏi là ai ? Bao năm đầu núi đội trời đứng trơ Gió mưa chẳng một giấc mơ Chữ trinh muôn thuở chưa mờ tấm thân Sầu thu ngấn lệ chứa chan Rêu in nét mặt băn khoăn khó bày Non xanh khắp bốn phương trời Cương thường luôn để phận người thuyền quyên. LANG NGUYÊN GIÓ HẠ Gió hạ trầm ngâm cơn oi bức Chạnh nỗi lòng thao thức thâu canh Ai xui tiếng ếch gọi tình Điều thương, nỗi nhớ, với mình với ta * Gió hạ đìu hiu qua đây đó Tâm tình riêng biết ngỏ cùng ai Dáng thân ái, nhớ nhung hoài Trăm năm biết được duyên này hay không ? * Gió hạ về có nồng, chẳng ấm Tình cảm càng sâu đậm biết bao Hỏi xin Ông Tạo nhiệm mầu Cơ may kết nối nhịp cầu trao duyên * Gió hạ thẫn thờ xuyên liếp cửa Chưa mát người cho bữa cơm ngon Nặng lòng vì mối tình son Dầu cho cách trở nước non xa vời. Thanh Châu KỶ NIỆM MƯA Tặng T. Mưa rơi từng giọt ngắn dài Cho ta thương nhớ những ngày xa xưa Đường qua cây lá lưa thưa Giàn hoa tím cũ ướt vừa trên sân Bước chân nào cứ ngại ngần Chờ ai trước ngõ mấy lần lặng im Bây giờ đã bặt cánh chim Người đi đi mãi biết tìm nơi nao. HOÀI LY Về nghe anh Giang hồ áo bụi tả tơi Em ngồi vá áo ngoài trời dế than Đôi bờ vai lạnh canh tàn Xuồng trôi đêm vắng trăng tan sông dài Bao năm mòn mỏi chờ ai Ngoài kia bìm bịp kêu hoài, nước lên Xót thân củi mục lênh đênh Em xin trân trọng để bên bếp hồng. HOÀI LY 0 1/4/2016 SỐNG THẾ NÀO ĐÂY (3) Có khi Trò chuyện tâm tình Có khi chia sẻ Chuyện mình chuyện ta Ẩn ức của số phận Bị kìm nén âm thầm Chia sẻ nỗi đau đời Bừng nở đóa hoa tâm. LÊ MINH CHỬ ĐẦU TƯ CHO CON CÁI Đầu tư cho con cái Nguồn nhân lực tương lai Nhìn xa và lâu dài Là đầu tư cho đất nước. LÊ MINH CHỬ ĐỒNG CẢM Lắng nghe Em diễn đạt đời mình trong niềm xúc động! Anh đã chạnh lòng nghe tim mình nhói đau. Thôi Em đừng nữa lệ rơi Khổ đau ! Ai cũng kiếp người phải qua
Nếu còn những giấc mơ hoa Hãy trang điểm dáng ngọc ngà để say Cùng Trăng nâng cốc Tình đầy Để quên năm tháng lưu đày trái tim Để quên năm tháng xa tìm Bờ môi xưa cũ dấu in Xuân Hồng * Thôi Em đừng nữa sầu mong Cho nhan sắc úa theo dòng thời gian Thôi Em đừng nữa thở than Kỳ duyên dẫn lối nồng nàn đắm say Quên đi lẻ bóng heo may Trăm năm hạnh phúc… Từ nay thôi sầu. HẢI ÂU Saigon một sáng đầu Thu 02/8/2017 NHÂN DUYÊN Từ khi nhẫn cưới trao tay Rượu hồng tiệc cưới đắm say lòng người Bao năm tháng thật thảnh thơi Giao lưu Thơ - Nhạc đầy vơi nghĩa tình Xa rồi đơn chiếc một mình Xế chiều lưu dấu say tình cùng nhau Giờ đây Anh ốm - Em đau Sóng nhồi thác đẩy - Huơng Âu mặn nồng Tình yêu lưu dấu xuân hồng Ánh dương rạng rỡ - Vợ Chồng sắc son Dẫu cho nước chảy đá mòn Đôi tim nguyện vẫn keo sơn ước nguyền Cùng nhau hạnh phúc đoàn viên Rượu hồng nâng cốc hữu duyên tràn đầy Rót thêm ly nữa cho say Trăm năm trần thế chung xây mộng vàng. THÙY HƯƠNG - HẢI ÂU Thu tháng 8-2018 PHÚ MỸ HƯNG LÊN NGÔI Ông Tiên bay trên trời Đi thị sát khắp nơi Mới tới bên quận Bảy Bỗng thấy ông vui cười Hì, hì, hì - Hì, hì ! Ô lạ ghê ! lạ ghê Nơi đầm lầy nước đọng Hóa lâu đài mê ly Dòng sông xanh uốn lượn Đường hoa bướm bay về Nơi đây bao đổi mới Nhựa sống vui tràn trề Ông Tiên lại vui cười Tay vuốt râu, tay chỉ PHÚ MỸ HƯNG tuyệt vời Ông Tiên còn nhắc nhở Nhớ ơn bạn đời đời Đã dốc lòng giúp đỡ Cả một vùng lên ngôi Đã hết lòng giúp đỡ Phú Mỹ Hưng lên ngôi ! PHÙNG CHÍ TÂM NÉT MÀU QUÊ HƯƠNG Gửi con - họa sỹ Lê Thiết Cương trong chuyến đi Triển lãm tranh ở Châu Âu năm 1998
Con bay sang tít trời Âu Mang theo hình bóng nét màu quê hương Những đồ vật quá bình thường Đũa tre, guốc mộc, mảng tường rêu phong Ngọn đèn bấc đỏ chong chong Cánh diều nghiêng ngả long đong phận người Chẳng có đâu những nụ cười Cũng không gặp thấy mặt người phấn hoa Lặng thiền trên bến phù sa Lá bay nhuộm cả hồn ta sắc vàng Trâu về trong khói chiều lam Trăng lên soi mặt thời gian đồng hồ Ngắm sen vào cõi hư vô Chụm đầu nương dưới mái chùa thực hư Nơi trời tây - những thủ đô Paris hay giữa sương mù Luân Đôn Berne hay Stockholm Bạn tri âm với tâm hồn Việt Nam Gặp cái nhìn chẳng cao sang Trong veo giản dị không gian thật nhiều Khung tranh rộng mở niềm yêu Để trò chuyện với những điều trẻ thơ Với hoa sen, với mùa thu Nơi chinh chiến đã phai mờ dấu bom * Mang về cho bố, nghe con, Một nhành thạch thảo tuyết vương cuối mùa Paris trời đỡ lạnh chưa ? Phòng tranh con mở nắng vừa gọi xuân. LÊ NGUYÊN (4.98) --------------- * Những từ gạch dưới là hình ảnh và tên tranh của họa sỹ CHIỀU HẨM Trời xõa tóc mưa trọn lưng chiều Hoang đàng bước vụn ngóng lời phai Từ khúc tình ca xưa xưa lắm Mà mới vô cùng dưới mưa lay… * Trời ngậm ì ù tiếng thất thanh Chen vào lời hát vốn hồn nhiên Mắt ta chợt mỏi cơn mong đợi Ù ì chi nữa, mưa đành hanh ! * Lá ướt, lòng khô khốc tay đàn Phím run lạnh với gió mê man Môi thô, hát gì khi trời ẩm Qua song, lặng ngắt ánh dương tàn… LAM TRẦN 28.04.2015 KHÓC MẸ (liên hoàn) Vượt khỏi trần gian, giũ bụi rồi Đau buồn con khóc chạnh lòng côi Thân mang áo thụng, khăn tang chế Tay gậy vải thưa, mặc giáp khôi Van vái linh hồn mau hội ngộ Cầu cho thể phách, được hương hồi An thân cực lạc, hồn siêu thoát Sự nghiệp gia cư vứt bỏ thôi. PHƯỚC HẢI 10-8-2018 CÕI TIÊN Vứt bỏ thôi, đi đến cõi tiên Tiêu diêu Cực lạc, giũ lòng phiền Tam niên nhũ bộ, tâm luôn nhớ Cửu nguyệt cưu mang, dạ chẳng quên Tạo hóa xoay vần, thân cận địa Càn khôn, lão tử, thức thăng thiên An cư từ mẫu, thân hồn định Chín bảy, lìa trần trí tuệ yên. PHƯỚC HẢI 10-8-2018 SIÊU THĂNG Trí tuệ khương ninh, bóng lẻ mình Thâm ân, dưỡng dục, lúc sơ sinh Hồn thiêng, siêu thoát, ngời gia cảnh Vía thánh, hiển linh, tỏa huệ minh Đốt nét hương trầm, cầu thể phách Dâng hoa khấn nguyện, đấng vong linh Gia đình họ tộc, đều rơi lệ Nội ngoại cầu mong đến Thượng đình. PHƯỚC HẢI 10-8-2018 THÀNH THẬT PHÂN ƯU (khoán thủ) Thành kính chia buồn Võ Đức gia Thật tình kính mến, đệ huynh xa Phân trần mấy tiếng, cùng anh chị Ưu ái bao lời, với chủ nhà Hiền mẫu hồn thiêng về cực lạc Mẫu thân giũ sạch, chốn phồn hoa Quy y giáo lý, nương theo Chúa Tiên cảnh bồng lai, Phật Thích Ca. PHƯỚC HẢI 10-8-2018 TRANH ĐUA Tháng bảy vu lan xá tội nhân Con người đắm tục bởi mùi trần Nhà tù chứa đủ lòng tiêu cực Cải tạo tham quan nghĩ bản thân Kẻ ác gian manh luôn xảo quyệt Nhơn tình bội bạc mãi tranh phần Từ tâm hãy giúp nghèo cô thế Phục thiện là gương tốt bản thân. QUANG BỈNH 6/2018 VĨNH KIM (Tiền Giang) Sữa Lò Rèn quả giống quê hương Ấm áp tình thương mọi nẻo đường Vị ngọt mát lòng người viễn xứ Trái lành toại ý kẻ tha phương Nơi đây hoa quả vùng cây trái Đường nhựa mở mang điện sáng thường Xúc động cho ai tìm kỷ niệm Lời nào diễn đạt mến yêu thương. QUANG BỈNH ĐỂ NƯỚC CUỐN ĐI Tưởng nhớ anh hồn Ns. Trịnh Công Sơn, Người đã gợi hứng cho thi khúc này
Trên bến thu xưa một buổi chiều Lòng nghe hoang vắng giữa cô liêu Bâng khuâng nhìn ngắm: trời, mây, nước… Nhớ lắm, em ơi! Nhớ thật nhiều! * Lê bước chân mòn qua bãi dâu Lung linh trăng nước đẹp muôn màu Chở hồn ta đến nơi xa thẳm Tìm bóng nàng thơ khuất đã lâu * Nàng đi từ thuở trăng còn khuyết Ta đứng bơ vơ dưới tháp buồn Hy vọng một ngày em trở lại Nào ngờ từ đấy mất em luôn * Mong chờ mòn mỏi đến hôm nay Ghé bến thu xưa lúc cuối ngày Nhìn bóng trăng lên đầu ngọn tháp Nhớ lời hẹn ước buổi chia tay * Giờ đây ta biết ngỏ cùng ai Khi trái tim ta vỡ nát rồi Lệ ta nhỏ xuống đời hiu quạnh Hòa theo dòng nước cuốn trôi xuôi. THANH PHONG ĐẮP MỘ CHO ANH Lời một Liệt sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam
Vượt Trường Sơn đánh Mỹ, Tôi nhớ mùi cốm non. Anh bị cầm súng Mỹ, Mờ mịt trong hơi cồn. Anh, tôi không quen biết, Không hận thù – giết nhau! Bên sông Hàn thê thiết Hai xác vùi nông, sâu!
Trải nắng thiêu, mưa xối, Trải gió sương dãi dầu, Hai cô hồn trôi nổi, Đói, khát cùng chia nhau. Mỹ đã về nước Mỹ, Núi sông nối lại rồi! Mẹ tìm mộ liệt sĩ, Anh chỉ hài cốt tôi.
Mẹ ơi, xin đắp mộ Cho anh – lính Cộng hòa, Trước khi con chuyển chỗ Về nghĩa trang, gần cha. Nghĩa trang sao lấp lánh, Khói hương trầm quanh năm. Thương hồn anh cô quạnh Có ai người viếng thăm?...
VŨ ĐÌNH HUY CHIỀU YÊN TỬ Tài tri vô tự thị chân kinh (Mới hay không chữ chính là chân kinh) NGUYỄN DU
Chợt ngân một tiếng chuông Sắc cỏ bỗng hoe vàng Như có ai lững thững Trong bóng chiều lang thang Tiếng chuông như hồn người Cô đơn và thăm thẳm Như nẻo đời quạnh vắng Chẳng bao giờ gặp nhau
Tôi nằm trên vệ cỏ Đối mặt với trời cao Một nỗi niềm trinh bạch Giữa bốn bề gian lao Tiếng chuông đến tìm tôi Tỏa từng vòng tím tái Bông lau như mất hồn Trắng mờ chiều hoang dại
Cuộc đời đến đâu ư ? Con người là gì vậy ? Họa phúc có hay không ? Kiếp sau ai đã thấy ? Mỗi người một câu hỏi Đi mang mang trong đời Nổi chìm bao ghềnh thác Tôi chưa tìm thấy tôi…
Tiếng chuông lừng lững tắt Rừng già chìm âm u Những mảnh hồn thao thức Bơ vơ trong sương mù… Thượng Yên 4-1983 TRẦN NHUẬN MINH EVENING AT YÊN TỬ One learns that the Wordless constitutes the authentic scriptures NGUYỄN DU Suddenly resounds a modulated sound of bell The tint of grass turns unexpectedly yellowish Seeming like there exists someone walking leisurely And wandering in the evening shade The bell sound is like a man’s soul That’s lonely and very far away Similar to various life directions That never stumble upon one another
I lie on the curb of grass Facing the high sky A virginal feeling Amidst a multitude of hardships The bell sound came looking for me Scattering livid purple wreaths The reed seems like losing its soul While dimly white was the wild evening
To where would life lead ? What’s the meaning of man ? Do happiness and suffering exist ? Had anyone seen his future existence ? Each man has his own question Accompanying him throughout his life Up hill and down dale I haven’t yet found myself…
The bell sound obviously died down The high forest fell into darkness Restless fragments of the soul Wandered forlornly in the fog… Thượng Yên April 1983 TRẦN NHUẬN MINH - Translated by VŨ ANH TUẤN YÊN TỬ Yên Tử (hay An Tử) còn gọi là Bạch Vân Sơn (núi giữa mây trắng) chạy dài gần 40km, ngăn cách hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh, đỉnh cao nhất là 1068m cách Đông Triều 23km. Trung tâm Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ 13. Từ xa xưa Yên Tử đã được coi là “núi Tổ miền Hải Đông”, nơi phát tích của Thiền Phái Trúc Lâm thấm đượm hào khí độc lập tự cường của dân tộc do vua Trần Nhân Tông (1258-1308) sáng lập. Những ai quyết chí tu hành. Chưa lên Yên Tử chưa dành lòng tu. Yên Tử cảnh đẹp nhưng đường khá cheo leo, lắm suối, nhiều đèo, dốc cao khe sâu, lối mòn ngoắt nghéo luồn qua thung trúc rừng tùng, dẫn lên tới đỉnh quanh năm mây phủ. Rời thị xã Uông Bí, đi về phía mỏ Vàng Danh, đến Lán Tháp, rẽ theo con đường nhỏ hướng Tây, qua xã Thượng Yên Công, khoảng 4km nữa là tới khu danh thắng Yên Tử… Địa điểm đầu tiên thu hút sự chú ý của du khách là Suối Tắm, tương truyền đó là nơi vua Trần Nhân Tông trên đường từ kinh đô lên Yên Tử đã dừng chân để tắm gội cho sạch bụi trần. Gần Suối Tắm là chùa Cấm Thực, nơi nhà vua dùng bữa cơm chay đầu tiên, chỉ có rau rừng và nước suối; tiếp đó là chùa Lâu Động, xưa vốn rất lớn, nay đã đổ nát, chỉ còn lại mấy chục ngọn tháp với vài tấm bia. Vượt qua đèo Voi, du khách ghé thăm chùa Giải Oan bên suối Giải Oan. Vốn có tên cũ là Hồ Khê. Truyền thuyết kể rằng: Khi Trần Nhân Tông vào núi, nhiều cung nữ đi theo. Nhà vua bắt họ phải quay về. Để tỏ lòng trung trinh, các cung nữ đã gieo mình xuống suối. Một số lớn được cứu sống, xếp chỗ bên ngoài cho ở, thành làng Nương làng Mụ (nay là đất xã Thượng Yên Công gần Lán Tháp). Một số bị chết đuối, vua cho lập đàn tràng cầu siêu, đổi tên suối thành suối Giải Oan dựng chùa Giải Oan bên suối. Qua núi Hạ Kiệu (nơi Trần Anh Tông phải xuống kiệu đi bộ vào thăm vua cha) có con đường nhỏ dẫn tới chùa Hoa Yên, dốc núi cheo leo xếp đá thành bậc, hai bên là những cây tùng cổ thụ, đã sáu bảy trăm năm mà vẫn xanh tươi, gốc lớn hàng mấy người ôm mới xuể. Trên đường lên chùa, du khách sẽ qua khu tháp gần hòn Ngọc, nơi dựng Tháp Tổ, tương truyền có chứa xá lỵ của Trúc Lâm đệ nhất tổ: Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Tháp cao 10m, có 6 tầng. Nền tháp hình sáu cạnh ghép bằng những tảng đá lớn, chạm hoa văn sóng nước hình núi; bệ tháp tạc hình hoa sen 102 cánh đỡ lấy thân tháp hình trụ, càng lên cao càng thu nhỏ lại. Tầng trên mở cửa hướng Nam, trong đó có tượng Trần Nhân Tông khoác áo cà sa để trần vai bên phải, đang ngồi trong tư thế nhập thiền, tạc bằng đá trắng, cao 0,65m, đặt trên bệ đá chạm rồng. Nghe nói ngày xưa tượng đúc bằng vàng. Đỉnh tháp tạc búp sen đá. Tháp được đặt giữa một khu đất hình vuông, mỗi chiều gần 13m, có tường cao trên 2m xây bằng gạch vồ nung già vây quanh bốn mặt. Bờ tường lợp ngói mũi hài kép, trông như sóng gợn. Mặt tường phía Nam và mặt tường phía Bắc có cửa vòm cuốn. Từ chân tháp ra tới cửa phía Bắc hướng lên đỉnh núi có lối đi lát gạch vuông cỡ lớn, màu đỏ sẫm, trang trí hoa cúc, vòng tròn đồng tâm. Bên ngoài tường vây là 44 ngọn tháp của tôn thất nhà Trần đã tu hành và viên tịch ở Yên Tử. Phía sau Tháp Tổ là chùa Hoa Yên, dựng trên mặt bằng cao hơn sân nền tháp khoảng 7-8 mét, giữa những cây tùng lực lưỡng cao vút, những cây đại cổ thụ xòe tán đơm hoa, tỏa hương thơm ngát. Đường từ tháp lên chùa rất đẹp, cúc mọc san sát hai bên lối đi gặp mùa hoa nở rộ, trông như những dải gấm vàng rực rỡ. Chùa vốn được dựng từ thời Lý mang tên Phú Văn cho mãi tới đầu thời Trần vị sư trụ trì ở đây được phong làm Quốc Sư. Thời Trần Nhân Tông, chùa mang tên Vân Yên, đến đời Lê mới gọi là chùa Hoa Yên. Trước kia, chùa có quy mô khá lớn, ngoài mấy tòa kiến trúc chính còn có lầu chuông, gác trống, nhà tăng, nhà khách, am Thiền Định… sau đổ nát cả. Chùa hiện nay dựng lại trên nền cũ, nhỏ gọn hơn, bao gồm tiền sảnh và hậu cung xếp theo kiểu chữ đinh, thờ Trúc Lâm Tam tổ (Trần Nhân Tông - Pháp Loa - Huyền Quang). Tượng Trần Nhân Tông lớn nhất, đặt ở chính giữa hậu cung. Trong chùa có quả chuông đúc thời Lê mạt trên khắc bài văn về Trúc Lâm Tam tổ. Sau chùa, cách khu vườn trúc là tháp Độ Nhân xây bằng gạch, tráng men xanh, gần tám thế kỷ dãi dầu mưa nắng mà vẫn bền màu. Từ chùa Hoa Yên đi men theo sườn núi phía tay phải, qua suối Ngự Dội (nơi vua tắm) sẽ tới ngọn Vân Am (Am nằm trong mây), nơi Trần Nhân Tông viên tịch. Am dựa vào vách núi, nhìn ra biển Đông, xung quanh thông trúc xanh rờn, mờ mờ ẩn hiện giữa làn mây mỏng. Trước kia ở am này có pho tượng Trần Nhân Tông tạc theo tư thế nằm, có cây trúc xuyên qua núi, tả lại sự tích nhà vua khi tịch diệt nằm bên khóm trúc, vắng vẻ không ai biết, lâu ngày trúc mọc xuyên qua người (Tượng hiện thờ ở chùa Yên Sinh trên núi Tương Sơn gần Yên Tử). Tiếp tục đi sâu nữa vào phía trong là chùa Một Mái, dựng trong hang đá, có một mái che phía ngoài, cúng thờ Trúc Lâm Tam tổ. Rời chùa Một Mái, đi tiếp theo con đường mòn quanh co khúc khuỷu sẽ đến chùa Bảo Sái có hang đèo nhũ đá buông rèm, có suối trong róc rách, nơi Trần Nhân Tông thường ngồi di dưỡng tinh thần. Phía Tây chùa Bảo Sái là chùa Vân Tiêu nay chỉ còn lại nền chùa, bệ thờ với mấy gốc thông trơ trọi. Gần đó là tháp Vọng Tiên chín tầng, kiểu dáng độc đáo, đỉnh nhọn hoắt. Từ chùa Bảo Sái lên cao nữa, đường càng thêm khó đi. Trước mặt là dốc núi dựng đứng, một bên là vách đá cheo leo, một bên là khe sâu hun hút đá lớn gối lên nhau tạo thành bậc cao thấp không đều, luồn lách qua khóm trúc hàng thông lối đi chỉ vừa đủ chỗ đặt chân. Vượt đèo Trúc Hoa đầy phong lan, du khách sẽ đi ngang qua một mỏm đá giống như pho tượng cao tới 2m, được gọi là tượng An Kỳ Sinh - người trên ngàn năm trước đã đến núi này tu luyện đạo trường sinh. Theo Phan Huy Chú (1782-1840), tác giả bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí” thì ở thời ông người ta vẫn còn thấy dấu tích lò luyện thuốc của đạo sỹ họ An. Qua tượng An Kỳ Sinh, mộ đệ tử An Kỳ Sinh, Cổng Trời, Chợ Trời… rồi đến bia chữ Phật là đã lên tới vị trí cao nhất của núi Yên Tử. Bia là tấm đá lớn, cao hơn 3m, rộng hơn 2m. Mặt phía Bắc khắc ba chữ “Thiên Trúc tự”. Mặt phía Nam khắc chữ “Phật” lớn trong một vòng tròn. Gần bia là chùa Đông (Thiên Trúc tự), tương truyền do bà vợ một chúa Trịnh dựng: cột, kèo, rui, mè, dầm, mái, tượng Phật Quan Âm, bát hương, chuông, khánh, v.v… tất cả đều bằng đồng. Thời Lê Hiển Tông, cả chùa lẫn tượng đều bị mất, sau được thay thế bằng mái tôn khung sắt vào đời Nguyễn. Từ trên đỉnh cao này có thể nhìn bao quát cả một vùng núi non hùng vỹ mênh mông thành phố, xóm làng đông vui trù phú. Tương truyền: mỗi khi đánh chuông ở chùa Đông thì mây mưa liền kéo tới. Có lẽ truyền thuyết ấy muốn nói lên độ cao chạm mây của đỉnh Yên Tử. Đỉnh cao chót vót này cũng đã đi vào thơ Nguyễn Trãi: Yên sơn sơn thượng tối cao phong Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại Tiếu đàm nhân tại bích vân trung… (Trên đỉnh cao nhất núi Yên Tử, mới đầu canh năm mặt trời đã đỏ rực; phóng tầm mắt nhìn ra xa thấy được biển cả, tiếng người cười như lẫn trong mây xanh…). Vậy mà, một số nhà địa chất đã tìm thấy ở đây dấu tích vỏ sò và ngấn sóng! Phải chăng, hàng trăm triệu năm về trước, chốn “non xanh giữa mây trắng” này vốn là biển sâu muôn trượng với những lớp sóng bạc đầu?. BÙI ĐẸP st. MÙA XUÂN CỦA BÉ BÔNG (tiếp theo số 147) Khi Việt Thu dứt lời, cha H. trầm ngâm suy nghĩ một giây lát rồi đáp: - Anh có biết sơ Khanh, nhưng lâu nay không có liên hệ thường xuyên nên không nắm rõ tình hình hoạt động của Mái Ấm nầy, với lại nơi đây cũng là cơ sở xã hội dưới sự bảo trợ của chính quyền nên có gì cũng phải thông qua, vậy thì để anh liên lạc với sơ Giám Đốc xem có chấp thuận xin con nuôi không rồi anh sẽ báo hai em biết nhé, à mà nếu có thì phải qua rất nhiều thủ tục pháp lý nghe hai em, hai vợ chồng nên chuẩn bị tâm lý nhé. Thu và Hà vội đáp lời: - Dạ, chúng em hiểu, vấn đề này, nên nhờ anh hỏi giúp cho, chúng em rất cám ơn cha. Đến đây, hai người trẻ từ giã cha H. để về kịp chuyến xe đã đặt trước để trở về Sài gòn. Cha H. vui vẻ tiễn hai vợ chồng ra cửa nhà xứ. Hai người trẻ vừa về tới đầu ngõ chợt nhìn thấy bà Ngọc Hương đang đứng trước cổng nhà, vẻ bồn chồn sốt ruột, mắt ngóng ra hẻm, Ngọc Hà và Việt Thu vội vàng đi nhanh đến gặp mẹ. Hà ôm chầm lấy mẹ miệng hỏi liền: - Mẹ mới vô hả mẹ, sao mẹ đi thình lình mà không cho chúng con hay để đi đón mẹ, mẹ đi bằng gì mà đến sớm vậy, may chúng con về kịp lúc không thôi… Việt Thu thấy cảnh hai mẹ con gặp nhau đầy cảm động, vội lên tiếng để ngăn bớt niềm cảm xúc của Ngọc Hà: - Em à, mình đưa mẹ vào nhà nghỉ, rồi tính sau đi em. Nghe chồng nói thế, Ngọc Hà sực tỉnh, vội ngưng tiếng nắm tay dìu bà Ngọc Hương vào nhà. Cả ba người vào phòng khách, khi bà mẹ ngồi yên vị trên sô pha, Ngọc Hà lại ân cần hỏi tiếp: - Mẹ có khỏe không mẹ, đi xe có mệt nhiều không? Việt Thu rót ly nước khoáng mang lại mời bà mẹ uống. Bà cầm lên nhấp một hớp thấm giọng, rồi chậm rãi đáp: - Mẹ đi xe tốc hành chạy trong đêm, mẹ có nghỉ ngơi nên không mệt lắm đâu, con đừng lo lắng. - À, mà mẹ vô có chuyện quan trọng phải không? Chứ lâu nay mẹ có đi xa đâu. - Ừ, thì có công chuyện mẹ mới phải vô đây, mà đi thăm con gái không được sao. Lâu rồi mẹ không vào Sài gòn rồi. - Mẹ cứ nói thế chứ, con cũng nhớ mẹ lắm. Con với nhà con định ra giêng sẽ thu xếp về Nha Trang thăm mẹ và em, không ngờ mẹ lại vô thăm chúng con. Bà Ngọc Hương chậm rãi nói: - Mẹ vô thăm Ánh Mai, con gái của dì Tâm đang nằm bệnh viện ở trong nầy. - Vậy hả mẹ, em ấy bệnh gì? - Ở trong bệnh viện, người ta báo về theo địa chỉ trên hồ sơ bệnh án, dì Tâm giờ cũng bệnh khớp, mắt mờ nên dì nhờ mẹ đi giùm. - Dì Tâm lúc này yếu mệt lắm hả mẹ? - Ừ, mẹ phải nhờ cô Thảo bên cạnh nhà dì trông chừng, mẹ vội vàng để em com ở nhà đi học rồi lên xe đi ngay vào đây, cũng chưa biết tình hình của Ánh Mai ra sao nữa. Đến đây, Việt Thu ngồi bên cạnh liền lên tiếng: - Con mời mẹ đi nghỉ ngơi một chút, rồi dùng bữa với tụi con, xong rồi con đưa mẹ vào thăm Ánh Mai được không mẹ? Ngọc Hà nhìn sang chồng hỏi: - Anh có phải vào công ty sáng nay không? Hay để em đi với mẹ? - Anh vẫn còn ngày phép, em mới về còn mệt, nên ở nhà nghỉ và lo cơm nước cho mẹ nữa, để anh đi với mẹ được rồi. - Dạ, vậy em ở nhà, chút nữa em đi chợ làm cơm đãi mẹ. Vậy anh cũng thay quần áo, nghỉ đi lát nữa đi với mẹ nha anh. Tuy nói thế, nhưng cả hai vợ chồng cùng tất bật dọn dẹp nhà cửa cho tươm tất, dọn phòng để tiếp đón bà mẹ. (còn tiếp) HOÀI LY
Phụ Bản III CÔNG CỦA ÔNG KHÚC THỪA DỤ 1. Tên gọi nước Việt Nam từ Triệu Đà tới nhà Tiền Lý Khi Triệu Đà đánh được An Dương Vương thì thành lập nước Nam Việt. Sau, nhà Hán lấy nước Nam Việt thì gọi là Giao Chỉ. Nhà Ngô gom Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và đặt là Giao Châu. Ông Lý Bôn giành độc lập và xưng là Nam Việt đế, chiếm giữ Long Biên, đặt quấc hiệu là Vạn Xuân. Nhưng chỉ một năm sau ông phải bỏ Long Biên nên tên Vạn Xuân không thấy nhắc đến. Khi Triệu Quang Phục xưng là Việt Vương cũng không thấy nói đến quấc hiệu. Khi Lý Phật Tử diệt Triệu Việt Vương cũng không thấy nói đến quấc hiệu. Như vậy, trong thời Bắc thuộc lần thứ hai nầy, gọi nước Việt ta là Giao Châu thiết tưởng cũng được. Khi vua Văn Đế nhà Tùy sai Lưu Phương đem quân sang đánh Giao Châu, Phương cho người sang dụ hàng, Lý Phật Tử sợ quá nên đầu hàng và sách Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim ghi là Giao Châu lại bị nước Tàu cai trị 336 năm nữa. 2 . Ông Khúc Thừa Dụ và việc giành độc lập cho Giao Châu Nhà Tùy mất, nhà Đường tiếp cai trị Giao Châu thật khắc nghiệt. Dân Giao Châu không chống nổi nên dụ nước Nam Chiếu sang đánh quân Đường. Năm 846, 862 và 863 quân Nam Chiếu sang đánh quân nhà Đường nhưng cũng không tránh khỏi quân Đường bắt người Giao Châu làm lính đánh phụ nên người Nam Chiếu đã giết hại 15 vạn người Giao Châu. Khi nước Tàu vào thời Ngũ Đại Thập Quấc, vì lo tranh quyền cướp ngôi vua nên các triều vua nầy lo củng cố thế lực của triều đình là chánh nên việc cai trị ở Giao Châu trở nên lỏng lẻo. Nhà Đường chỉ còn nước Nam Đường ở phương Nam nhưng cũng lung lay. Đó là cơ hội để các hào trưởng ở Giao Châu mộ tráng sỹ tạo thế lực mà ít bị dòm ngó. Đường Chiêu Tông phái Độc Cô Tổn sang làm Tiết độ sứ Giao Châu. Các phe trong triều Nam Đường biếm chức và lăm le cướp ngôi vua nên Độc Cô Tổn sợ quá chạy ra đảo Hải Nam. Ghế Tiết độ sứ bỏ trống. Hào trưởng Khúc Thừa Dụ rèn gươm giáo, sửa soạn cung tên, tuyển tráng đinh vào rừng luyện võ, tập trận… có tới ba ngàn tráng sỹ. Trưởng phái võ Mai Động là Nguyễn Tam Thanh với hàng trăm dũng sỹ. Nho sỹ Trịnh Khiển Lâm mở trường dạy học nhưng ông cũng quan tâm rèn luyện các học trò có tâm huyết với tiền đồ tổ quấc. Ông cũng có quan hệ đồng tâm đồng chí với Khúc Thừa Dụ. Ghế Tiết độ sứ Giao Châu bỏ trống đó là thời cơ có một không hai nên Khúc Thừa Dụ liên kết với võ phái Mai Động của Nguyễn Tam Thanh… tích cực hành động để chiếm thành Đại La mà nắm quyền cai trị Giao Châu. Quân nhà Đường d o Lý Bính cầm đầu với bốn ngàn quân nhưng đang hoang mang vì không mong gì được hỗ trợ từ chánh quấc. Thêm vào đó còn có hai ngàn quân Giao Châu do Đoàn Thao, người Giao Châu, cũng không có tinh thần chiến đấu. Khúc Thừa Dụ cho người vào thành buôn bán với lính và vợ lính người Giao Châu nên họ trà trộn và có khi ngủ lại trong thành để thừa cơ mở cửa thành Đại La cho nghĩa quân bất ngờ tràn vào thành. Lại mời Đoàn Thao ra ngoài thành với lý do ăn giỗ. Đoàn Thao được thuyết phục ngã về phe Khúc Thừa Dụ. Khi cổng thành mở, quân của Khúc Thừa Dụ tràn vào lúc lính đang ngủ. Lý Bính bước ra thì đèn đuốc sáng lòa, nghĩa binh khắp chốn lại có cả Đoàn Thao kêu gọi đầu hàng để tránh đổ máu. Lý Bính buông đao và nói: “Xin giữ toàn mạng cho binh sỹ”. Khúc Thừa Dụ cử phái đoàn sang Nam Đường xin được phong làm Tiết độ sứ Giao Châu. Vua Nam Đường sai đại thần sang Giao Châu, ban Tiết việt và sắc phong Khúc Thừa Dụ chức Đồng bình chương sự và rút quân Đường về nước. 3 . Sửa sang đất nước và việc chống ngoại xâm Non một năm thì Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Thừa Hạo lên thay. Các hào trưởng tìm tới hợp tác. Khúc Thừa Hạo giao Đinh Công Trứ làm Thứ sử Hoan Châu, Dương Diên Nghệ làm Thứ sử Ái Châu và bảo rằng các ông là nanh vuốt của Đại La đấy, cần mộ quân luyện tập để mai nầy tiếp ứng với Đại La. Về chánh trị thì lãnh thổ được chia thành lộ, phủ, châu, giáp và xã và chọn người tài năng đứng đầu. Ông chủ trươ n g khoan sức dân, khuyến khích nông tang và rèn luyện võ bị. Khúc Thừa Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên thay. Lúc nầy Nam Đường đã mất, quân Nam Hán sang đánh bắt và giết Khúc Thừa Mỹ. Dương Diên Nghệ cùng Ngô Quyền, Đinh Công Trứ ... từ Ái Châu ra chiếm lại thành Đại La và đánh tan quân Nam Hán. Làm được công nghiệp nầy, tôi cho là công của họ Khúc. Không phong chức và khuyên rèn luyện quân thì làm sao có được việc hai châu liên kết nhau kéo ra diệt giặc? Nhưng họ Khúc thì cầu phong ở nước Nam Đường, họ Dương thì cầu phong ở Nam Hán. Như vậy họ vẫn là quan của Trung Hoa. Họ Khúc và họ Dương xưng vương như Ngô Quyền có được không? Phải nói là không vì dù sao cũng phải nói quân của họ Khúc là quân ô hợp không thể đương đầu với quân đã quen chinh chiến của Trung Hoa. Dương Diên Nghệ đánh tan quân Nam Hán nhưng là bước đầu đương đầu với giặc ngoại xâm thì còn cần rút kinh nghiệm và củng cố lại mới mong đương đầu có hiệu quả. Lúc nầy, các hào trưởng lẻ tẻ manh mún trong nước mới thấy được ngoại xâm còn đang dòm ngó, ta có thể chận được chúng nên tất cả mạnh dạn đoàn kết thành một khối vững mạnh để chận ngoại xâm tại biên giới chớ không để họ chiếm nước cho khó gấp bội. Việc kêu quân Nam Chiếu đánh quân Đường để họ giết 15 vạn dân Giao Châu là kinh nghiệm xương máu. Nhưng Dương Diên Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết và cũng sang Nam Hán cầu phong nhưng lần nầy quân Nam Hán sang đánh Giao Châu và bị Ngô Quyền từ Ái Châu đem quân ra giết Kiều Công Tiễn, đánh tan quân Nam Hán và xưng vương dựng nền độc lập cho dân tộc từ đây. Ngô Quyền dám xưng vương vì tinh thần dân tộc chống ngoại xâm đang lên và cũng vì đối đầu trực diện khi giặc mới kéo sang và đánh tan được chúng. Hơn nữa, từ thời họ Khúc năm 907 đến năm 938 nầy là trên 30 năm, việc tổ chức quấc gia và rèn luyện quân sự đã vững và đã hai lần đánh tan được quân Nam Hán. Do diễn biến lịch sử từ Khúc Thừa Dụ tới Ngô Quyền, tôi cho rằng Khúc Thừa Dụ là người có công đầu trong việc dựng nền độc lập cho dân tộc sau Bắc thuộc lần thứ hai. Sử sách Việt Nam xưa nay chỉ kể đến việc giành độc lập mà không thấy đề cao Khúc Thừa Dụ và hình như tôi vẫn chưa thấy có tên đường Khúc Thừa Dụ . Đó là sự bất công của dân tộc Việt Nam ta đối với ông. Ta phải nhớ tới ông. Khánh Hội - Quận 4 ngày 07-7-2018 PHẠM HIẾU NGHĨA NHỮNG LÁ THƯ MỘT THỜI Đã lâu lắm rồi Hạnh mới nhận được thư. Cô khá ngạc nhiên vì thật ra, từ ngày về đây ở cho gần ngôi trường, nơi cô hàng ngày đem hết tâm lực ra dạy dỗ đám trẻ, cô chưa từng được quen biết ai. Chẳng hiểu sao mà một cô giáo vừa xinh xắn lại vừa năng động như cô lại chưa có nổi một tấm chồng, dù cô có chút gì gọi là khó tính đâu. Thỉnh thoảng cô chép miệng: - Ế chồng thì đã làm sao nào! Bức thư lại càng gây cho cô thêm thắc mắc, vì thật ra trong cái bì thư không đề tên người gửi ấy là một bức thư viết từ lâu lắm rồi. Người viết chẳng ghi ngày tháng, nhưng nét chữ thì đúng là gà bới mà nội dung là gửi cho cô từ ngày cô còn ngồi ghế nhà trường. Cô độ chừng người viết, chắc là bạn học cùng lớp với cô dạo ấy, viết bằng bút máy, có lẽ là cây pilot hay paker gì đó mà một thời áo trắng ai cũng biết. Điều này làm cô nhớ lại những tháng ngày dùi mài kinh sử. Cô chợt nhớ ra, nhiều khi thầy vừa quay lên bảng là y như có cái tàu bay giấy của “thằng” bạn nào đó phóng từ cuối lớp đến đúng chỗ cô ngồi. Cô quay lại và kìa! Đứa nào cũng có vẻ khả nghi hết, vì mọi hàm răng đều nhe ra như đồng lòng về trò đùa mới xảy ra ấy. Rồi hôm nay, bức thư tàu bay giấy ấy lại trở lại với cô. Nét gấp của nó nếu lần theo mà xếp lại, chắc cũng thành hình chiếc tàu bay nghuệch ngoạc những chữ gà bới còn đẹp hơn. Cô lẩn thẩn mở ra coi với nụ cười bỗng nhiên nở trên đôi môi có vẻ gì thú vị: “Này, thích H lắm nhá, nhưng ngại quá trời. Hay mai mời H đi ăn chè ở quán bà Công nhé. Nhưng mà H nhớ mang tiền theo, vì… tớ hết tiền rồi”. Lá thư không gửi ngày ấy chẳng có tháng ngày nên cô áng chừng chắc được “biên soạn” vào những ngày đệ ngũ, đệ tứ gì đó. Thằng này định gửi cho mình mà chẳng hiểu sao lại thôi, để giờ đây khi tóc mình đã bắt đầu điểm bạc, nó mới trình làng tác phẩm ngâm tôm đã hằng mấy mươi năm. Chẳng sao, vì như thế mình đã không bị bao mất chầu chè! Mấy hôm sau, lại thế này: “Hôm nay, H cột tóc đẹp ghê…” Rồi soạn giả hý hoáy vẽ cô gái đẹp gần bằng con gà mái ngoài sân, ý là mô tả cô. Rồi chẳng hiểu vì cớ sự gì mà cạnh hình vẽ là vũng mực xanh, có lẽ do lọ mực bị đổ vào. Vậy mà cái thằng ranh này còn cố giữ lá thư ấy đến tận hôm nay, lá thư mà đoạn sau bị mực đè chết gấp! Những lá thư ấy khiến cô vừa buồn cười vừa vô cùng tò mò về tác giả của nó. Cho đến một hôm, sau giờ tan học, có một người đàn ông tìm gặp cô trong sân trường. - Chào cô giáo! - Chào anh… - Tôi là bố của cháu Lan mà cô là dạy… - À, con bé nhà anh học giỏi lắm… - Thế cô không biết tôi à? Cô còn đang lúng túng, thì anh ta mới bỏ cặp kính nhuộm màu trên mắt xuống. Cô ngờ ngợ: - Có phải Thanh không đây! - Ừ! Thanh đây, Hạnh ơi! Suýt chút nữa thì cô đã ôm chầm lấy anh, người bạn học ngày xưa! Mấy hôm sau nữa, anh đến nhà cô, dắt theo chị vợ xinh xắn. Vợ chồng anh đưa cho cô cái hộp nhỏ, lắc nghe lóc xóc cái gì trong đó, rồi dặn dò: - Đây là món quà đặc biệt, tụi này về, Hạnh mới được mở coi. Và họ chào cô với nụ cười ý nhị. Quà cũng lại là thư. Những bức thư ngờ nghệch. Những giòng thư nguệch ngoạc. Nhưng lời thư thì đậm một trái tim đang reo vui hẹn hò. Cô đọc hết lũ thư ngày xưa ấy, mặc cho cái đói đang sôi trong bụng cô. Đáy hộp là một phong thư khác, và ruột của nó còn trắng tươi với những giòng chữ còn xấu xí hơn, viết bằng bút bi, có lẽ vì cây viết ngày xưa đã hồn lìa khỏi xác: “Hạnh mến, mình thật hạnh phúc vì biết thế nào H cũng đọc được những giòng chữ này, sau khi đã săm soi lũ thư cũ mèm kia. Mình chưa xưng tên đâu H à! Cũng như ngày xưa, mình nhát lắm. Mình phải chờ để H đọc hết thư thì mình mới tin chắc rằng, nếu H có tìm gặp mình thì nhất định là H phải có tí tình cảm nào đó với mình, và như thế, ước vọng của mình mới có thể thành sự thật. Cả một thời gian dài mình sống phiêu bạt, có lẽ chẳng bao giờ H có thể tưởng tượng được mình từng nghèo như thế nào đâu. Nay mình đã tương đối ổn thỏa, nên muốn trở về chốn xưa mà làm cái gì đó đáng làm trong cuộc đời. Nếu H có chút đồng tâm, thì sáng chủ nhật này, mời H dời gót đến…” Cô ù tai vì lời đề nghị bất ngờ ấy. Trong cô có cái gì cảm động vì “mối tình” câm lặng mà người ấy dành cho cô suốt bao năm trường. Trời lâm râm mưa, giòng nước chảy vô tình kéo chiếc lá vàng vừa rơi xuống đi một đoạn, rồi kẹt lại bên hốc đá ven tường. Tự nhiên cô thở phào như tìm ra được chân lý của cuộc sống. Chẳng hiểu cuộc gặp gỡ đã diễn ra như thế nào, nhưng mấy tháng sau thì cô Hạnh lập gia đình, cứ như chuyện cổ tích. Hai người ngày xưa từng ghét nhau như chó với mèo nay lại ở với nhau trong ánh mắt thật nồng nàn. Vợ chồng Hạnh và vợ chồng Thanh phải oẳn tù tì để xem ai có quyền lưu trữ những lá thư một thời ấy. Dĩ nhiên, vợ Thanh phải xúi chồng giả vờ thua cho… phải phép! LAM TRẦN 10 KIỆT TÁC HỘI HỌA ĐẮT GIÁ NHẤT MỌI THỜI ĐẠI NGUYỄN THANH HẢI Bức chân dung Adele Bloch-Bauer của Gustav Klimt (135.000.000 USD) Đây là tác phẩm hội họa được bán đấu giá cao nhất thế giới từ trước tới nay, hiện nay thuộc sở hữu của Chính phủ Áo. Bức tranh gây nhiều tranh cãi trong hơn một năm và sau đó được trao trả cho Áo sau một thời gian bị Đức quốc xã chiếm trong Thế chiến thứ hai. Bức tranh được danh họa Gustav Klimt vẽ vào năm 1907. Năm 2006, bức họa được Ronald S. Lauder mua lại để làm tài sản thừa kế. Bức tranh “Garçon à la Pipe” của Pablo Picasso (104.100.000 USD) Bức tranh nổi tiếng này được sáng tác trong thời kỳ Hoa Hồng: Garçon à la Pipe (Cậu bé với ống điếu) thể hiện tài năng của danh họa Picasso qua việc phối hợp hai màu cam và hồng. Bức họa được vẽ bằng màu dầu trên vải có kích thước 100cm x 81,3cm, thể hiện hình ảnh của một cậu bé người Paris đang cầm một tẩu hút thuốc bằng tay trái. Kỷ lục của bức tranh này do nhà bán đấu giá Sotheby’s ghi nhận vào ngày 4 tháng 5 năm 2004, làm cho tất cả những người tham gia cuộc đấu giá ngạc nhiên vì không ai ngờ một danh họa chuyên vẽ tranh lập thể lại có thể sáng tác một bức tranh tả chân xuất thần như vậy. Bức tranh “Dora Maar với mèo” của Pablo Picasso (95.200.000 USD) Một kỷ lục khác về tranh nghệ thuật được xác lập vào năm 2006, khi một bức tranh của Picasso được mua với giá 95.200.000 USD tại phiên đấu giá do nhà đấu giá Sotheby’s tổ chức vào ngày 3 tháng 5 năm 2006. Bức tranh này được vẽ vào năm 1941, được xem là một trong những họa phẩm cuối cùng của danh họa Pablo Picasso, mô tả Dora Maar, nhân tình của ông. Hai người từng có quan hệ mặn nồng suốt 10 năm trong thập niên 1930 và 1940. Bức “Chân dung bác sĩ Gachet” của Vincent Van Gogh (82.500.000 USD) Bức tranh này được danh họa Hà Lan Vincent Van Gogh sáng tác. Sau khi qua đời Vincent Van Gogh đột nhiên nổi tiếng khắp thế giới và tranh của ông có giá rất cao. Nhà tài phiệt Ryoei Saito Nhật Bản đã mua bức “Chân dung bác sĩ Gachet” với giá 82.500.000 USD trong một phiên đấu giá tại nhà đấu giá Christie’s ở New York (Mỹ). Saito có ý tưởng rất ngông là muốn bức tranh này được đốt sau khi ông qua đời. Saito qua đời vào năm 1996 nhưng may mắn thay bức tranh được “cứu” vì con cháu ông không ngông như ông. Vincent Van Gogh đã từng vẽ hai phiên bản của bức “Chân dung bác sĩ Gachet”. Bức tranh “Bal au Moulin de la Galette” của Auguste Renoir (78.000.000 USD) Bức tranh “Bal au Moulin de la Galette” (Vũ hội ở quán Moulin de la Galette) được Auguste Renoir sáng tác vào năm 1876. Ngày 17 tháng 5 năm 1990, nhà bán đấu giá Sotheby’s ở New York đã bán bức tranh này với giá 78.000.000 USD cho nhà tài phiệt người Nhật Ryoei Saito, người đã mua bức “Chân dung bác sĩ Gachet”. Bức tranh “Vụ thảm sát người vô tội” của Rubens (76.700.000 USD) Bức tranh này được danh họa Peter Paul Rubens vẽ vào năm 1611, được bán cho Kenneth Thomson với giá 76.700.000 USD tại nhà đấu giá Sotheby’s vào năm 2002. “Chân dung tự họa” của Vincent Van Gogh (71.500.000 USD) Bức “Chân dung tự họa” này là một trong những bức chân dung tự họa nổi tiếng của danh họa Hà Lan Vincent Van Gogh. Ông đã vẽ bức tranh này tại Saint-Rémy-de-Provence (Pháp) vào tháng 9 năm 1889. Đây là bức tranh sơn dầu trên vải có kích thước 40cm x 31cm. Bức “Chân dung tự họa” đã lập kỷ lục bức tranh đắt giá nhất mọi thời đại khi được bán với giá 71,5 triệu USD vào năm 1998 ở New York (Mỹ). Bức tranh “Những quả táo to” của Paul Cézanne (60.500.000 USD) Bức tranh này được Paul Cézanne vẽ trong khoảng thời gian 1893-1894, được bán cho Whitney với giá kỷ lục 60.500.000 USD tại nhà đấu giá Sotheby’s ở New York vào ngày 10 tháng 5 năm 1999. Whitney sinh ra trong một trong những gia đình giàu có nhất nước Mỹ chuyên đầu tư vào các lĩnh vực có nhiều rủi ro, xuất bản sách báo, phim ảnh ở Hollywood và có nhiều đóng góp cho công tác từ thiện. Bức tranh “Femme aux bras croisés” của Pablo Picasso (55.000.000 USD) Bức tranh “Femme aux bras croisés” (Người phụ nữ khoanh tay) được vẽ vào năm 1901, là một trong những kiệt tác của Pablo Picasso trong thời kỳ Xanh, với màu chủ đạo là màu đen, phản ảnh nỗi buồn của nhà danh họa. Bức tranh thể hiện một phụ nữ khoanh tay trước bụng, được bán với giá 55.000.000 USD vào ngày 8 tháng 11 năm 2000 tại nhà đấu giá Christie’s tại New York (Mỹ). Bức tranh “Hoa diên vỹ” của Vincent Van Gogh (53.900.000 USD) Vincent Van Gogh đã vẽ kiệt tác này tại Saint Paul-de-Mausole ở Saint-Rémy-de-Provence (Pháp) vào năm 1889, một năm trước khi qua đời. Năm 1987, bức tranh này trở thành họa phẩm đắt giá nhất thế giới khi được bán cho Alan Bond với giá cao ngất ngưởng 54.000.000 USD, sau đó nó được bán lại cho Bảo tàng Getty ở Mỹ. LỆ NGỌC st.
Đọc sách mới HIỆN ĐẠI VIỆT SỬ DIỄN CA Tác giả HUỲNH THIÊN KIM BỘI Đây là cuốn thứ 3 trong bộ sách VIỆT SỬ DIỄN CA: - Cuốn 1: Cận Đại VIỆT SỬ DIỄN CA (1785-1917) Tác giả Huỳnh Thiên Kim. Thân phụ của Huỳnh Thiên Kim Bội viết và được xuất bản năm 1962. - Cuốn 2: Cận Đại VIỆT SỬ DIỄN CA (1918-1945) Tác giả Huỳnh Thiên Kim. Do ái nữ Huỳnh Thiên Kim Bội liên kết với NXB TH Tp.HCM xuất bản năm 2016. - Cuốn 3: Hiện Đại VIỆT SỬ DIỄN CA (1945-1954) Tác giả Huỳnh Thiên Kim Bội. Từ Nam bộ kháng chiến mở màn đến chiến dịch HCM toàn thắng (1945-1975) Do NXB Tổng hợp Tp.HCM in xong và nộp lưu chiểu quý III/2018. Cả 3 cuốn đều được viết với thể loại thơ diễn ca lục bát, khiến người đọc dễ nhớ những sự kiện lịch sử. Sách khổ 16x24 dày 432 trang được chia ra: Phần I: Kháng chiến chống Thực dân Pháp (1945-1954) - Từ trang 10 đến trang138 Phần II: Kháng chiến chống Đế quốc Mỹ (1954-1975) - Từ trang 140 đến trang 411 Sách có bán tại các nhà sách với giá 190.000đ. HÀ MẠNH ĐOÀN CÁC KỶ LỤC VỀ NGƯỜI MẪU & HOA HẬU THẾ GIỚI NGƯỜI MẪU Nguồn gốc nghề người mẫu thời trang: Người mẫu đầu tiên là một thiếu nữ người Anh, cô Twiggy, đã nổi tiếng khắp thế giới. Tên thật của cô là Lesley, nhưng tầm vóc hạn chế (cao 1m55, nặng 45kg; các số đo 75-55-80) nên cô được mệnh danh là Twig (cọng cây). Cô được trả thù lao 240 đô la/ giờ vào năm 1966. Ngày nay, cô vẫn còn là biểu tượng của thập niên 60. Các hãng thời trang danh tiếng: Elite đứng hàng đầu thế giới trong nghề người mẫu thời trang. Có chi nhánh tại 22 quốc gia, hãng này tập hợp 80 thiếu nữ đẹp nhất thế giới mang lại 450 triệu Franc hàng năm. Hãng này có trong tay những người mẫu đắt giá như Linda Evangelista, Naomi Campbell, Karen Mulder, Nadja Auermann. Các cuộc thi: Elite Model Look là cuộc thi quốc tế tuyển chọn người mẫu thời trang lớn nhất, được tổ chức năm 1983. Bảy mươi ứng cử viên thuộc 52 nước đã tham dự. Có hơn 450.000 ứng cử viên muốn tham dự cuộc thi này. Người mẫu đoạt giải nhất là một thiếu nữ Nga tên là Natalia Semanova. Cô đã thắng trong cuộc thi năm 1994 và ký hợp đồng 2 năm với hãng Elite, với khoản tiền 150.000 đô la. Khi đó Natalia mới 14 tuổi rưỡi. Người mẫu đắt giá nhất: Cô gái Mỹ Cindy Crawford với 32,5 triệu Franc thu nhập năm 1994, đứng đầu các người mẫu đắt giá nhất. Một cuộc biểu diễn có thể mang lại cho cô 150.000 Franc. Hợp đồng gần đây nhất của cô với hàng Revlon đạt tới 24 triệu F. Giờ đây cô đành “nhường” cho Claudia Schiffer - siêu người mẫu này có thu nhập từ 8 đến 14 triệu đô la/ năm. Hợp đồng dài nhất: Isabella Rossellini giữ kỷ lục với hợp đồng quảng cáo 12 năm cho hãng mỹ phẩm Lancôme. Người mẫu được đăng ảnh bìa nhiều nhất: Đó là Claudia Schiffer. Đã có 600 tạp chí in ảnh lên trang bìa. Người mẫu bé nhỏ và gầy nhất: Cô gái Anh Kate Moss, chỉ cao 1,73m với số đo 84-58-86. Đôi chân dài nhất: Thiếu nữ Berlin Nadja Auermann có cặp giò dài 1,15m so với thân hình cao 1,79m. Siêu người mẫu có số đo hoàn hảo nhất thuộc về Claudia Schiffer, với các số đo lý tưởng 92-62-92 và chiều cao 1,80m. HOA HẬU Cuộc thi hoa hậu quốc tế đầu tiên được P.T.Barum tổ chức vào tháng 6 - 1855 tại Mỹ, công chúng là người chấm giải. Cuộc thi Hoa hậu Thế giới được sáng lập năm 1951 và cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ được tổ chức vào năm 1952. Mỹ giật được nhiều giải Hoa hậu Hoàn vũ nhất (5 lần: 1954, 1956, 1960, 1967, 1980). Năm 1983 là năm kỷ lục các quốc gia tham dự một cuộc thi Hoa hậu: 81 nước. Nước Anh giữ kỷ lục với 5 lần chiến thắng trong các cuộc thi Hoa hậu thế giới. Số lượng ứng cử viên đông đảo nhất là 84 người vào năm 1988. Hoa hậu Pháp: Cuộc tuyển chọn Hoa hậu Pháp lần đầu tiên được tổ chức năm 1928 do nhà báo - nhà văn Maurice de Waleffe chủ trì. Hoa hậu Pháp tầm vóc cao lớn nhất là Pascale Taurua (Hoa hậu Calédonie) năm 1978, và Suzanne Iskandar (Hoa hậu Alsace) năm 1985. Hai cô đều cao 1,78m. Các người đẹp thấp bé nhất (1,66m) là Sabrina Belleval (Hoa hậu Côte d’Azur) năm 1982 và Sylvie Berlin (Hoa hậu Bresse-Bugey) năm 1986. (Theo Guinness des Records) VƯƠNG BẠCH - ĐỖ THIÊN THƯ st. ĐỂ KHỎE MẠNH, SỐNG LÂU HÃY THƯỜNG XUYÊN DAY BẤM HUYỆT TÚC TAM LÝ Sách Nhật Bản chép rằng: Giữa năm Nguyên Bảo thứ 15, khi thông xe chiếc cầu vĩ đại nhất nước Nhật, Nhật Hoàng cho mời tất cả các Cụ trên 99 tuổi tới dự lễ cắt băng khánh thành và đi qua cầu trước tiên. Hôm đó người ta thấy có ba cặp vợ chồng của dòng họ Mikawa: ông bố 224 tuổi, bà mẹ 221 tuổi, người con trai 193 tuổi, người con dâu 174 tuổi, người cháu dâu 138 dẫn theo sau các chắt, chút, chít,… trên 99 tuổi nhiều vô kể. Nhật Hoàng thân mật hỏi: Các Cụ có bí quyết gì mà sống lâu như vậy? Cụ Mikawa cao tuổi nhất trả lời: Chúng tôi sống thọ tới ngày nay nhờ bí quyết gia truyền lâu đời của dòng họ là thường xuyên day bấm huyệt Túc Tam Lý; làm cho hệ thần kinh thực vật luôn tỉnh táo hoạt động! Đó là câu chuyện ngày xưa. Còn ngày nay có rất nhiều y gia nổi tiếng về bấm huyệt, day huyệt, châm huyệt, cứu huyệt, điện châm, thủy châm,… nghiên cứu vấn đề này. Tất cả các phép day, bấm, châm, cứu đều nhằm chung mục đích làm thức tỉnh hệ thần kinh thực vật để con người khỏe mạnh, sống lâu. Khoa học đã chứng minh trong con người chúng ta luôn bị chi phối bởi hai hệ thần kinh: thần kinh động vật (điều khiển) và thần kinh thực vật (tự động). Giải thích về hệ thần kinh động vật thì mọi người dễ thấy. Ví như: tai nghe, mắt nhìn, tay sờ, chân đi, miệng nói, vv… đều do hệ thần kinh động vật, từ bộ óc, điều khiển. Còn hệ thần kinh thực vật, nằm sâu trong tủy sống, có mạng chỉ huy nối liền với “lục phủ, ngũ tạng”: tim, phổi, dạ dày, gan, mật, lá lách, thận, vv… Nó nằm rất kín đáo, ít khi bị bên ngoài va chạm. Nó hoạt động tự động theo bản năng, liên tục suốt ngày đêm từ khi con người bắt đầu sinh ra cho tới khi kết thúc. Phải làm việc liên tục như vậy, rồi cũng đến lúc hệ thần kinh thực vật này đòi hỏi nghỉ ngơi, và đến lúc nó nghỉ thì con người cũng không tồn tại nữa. Cho nên, ta phải thường xuyên tác động làm cho hệ thần kinh thực vật không được phép nghỉ ngơi, mọi cơ năng trong con người sẽ được vận hành đều đặn: hô hấp phổi hít thở đều, tuần hoàn tim đập nhịp nhàng, tiêu hóa dạ dày co bóp tốt,… các bộ phận sản sinh hồng cầu, bạch cầu, tinh trùng,… làm việc ổn định, sức đề kháng mạnh, đẩy lùi được bệnh tật, khỏe mạnh sống lâu. Mỗi ngày day và bấm huyệt TÚC TAM LÝ từ 3 đến 5 lần; mỗi lần ấn từ 8 đến 10 phút. Phương pháp: Bất kể ở tư thế ngồi hay nằm, trước hết dùng ngón giữa ấn thử lên dấu huyệt, nếu thấy đau đau là đúng huyệt. Trước khi bấm mạnh vào huyệt ta hít một hơi thật sâu, lồng ngực và bụng phình căng như quả bóng, trong khi bấm thật mạnh vào huyệt liên tục nhiều cái. Cố gắng nín thở và lên gân toàn cơ thể để chống đỡ những “trận dội bom” của đầu ngón tay xuống đỉnh huyệt tạo ra một thế cân bằng, bão hòa. Lúc đó ta sẽ mất hết cảm giác đau. Thường xuyên làm sẽ nâng cao được thể trọng và hệ thần kinh thực vật sẽ được phục hồi và trẻ lại. ĐÃ CHỮA KHỎI HOÀN TOÀN CÁC BỆNH: SỎI THẬN, SỎI MẬT, MỤN TRỨNG CÁ, KINH NGUYỆT KHÔNG ĐỀU, ĐAU BỤNG KHI HÀNH KINH, NHIỀU KHÍ HƯ, NHỨC ĐẦU, MẤT NGỦ, CAO HUYẾT ÁP, ĐAU LƯNG, GẦY QUÁ, BÉO QUÁ,… Huyệt Túc Tam Lý nằm dưới đầu gối 10cm sâu vào trong xương ống chân.
PHÙNG CHÍ TÂM st. GIÀ KIỂU NÀO THÌ TỐT ? Bs. ĐỖ HỒNG NGỌC Già là một vấn đề sinh học, nhưng trước hết là một vấn đề văn hóa. Về sinh học, người ta có thể “đo già” bằng nhiều cách, như đo mức tăng huyết áp, khả năng điều tiết của thủy tinh thể, khả năng nghe v.v… Ta biết mạch máu giống như cái ống dẫn nước bằng cao su, dùng càng lâu càng khô cứng, không dẻo dai như lúc mới. Càng có tuổi, mạch máu càng căng giòn, huyết áp tăng dần lên và do đó cũng dễ vỡ. Thủy tinh thể ở mắt như một cái ống kính của máy hình nhưng co giãn được để điều tiết nhìn gần nhìn xa, khi có tuổi, độ co giãn không còn linh hoạt nữa, đơ cứng và vì thế phải mang “kính lão” để điều chỉnh mỗi khi cần đọc sách báo… Thế nhưng như đã nói, già trước hết là một vấn đề văn hóa. Có nền văn hóa, ở đó người ta ham già, mong chóng già; có nền văn hóa người ta sợ già, trốn già! Ở Đông phương ngày trước, với nền văn minh lúa nước, vẫn còn rất tôn trọng tuổi già: “kính lão đắc thọ”, “già làng”, “lão làng”, ở đó người ta thích già sớm, có khi phải sắm vai… già, tằng hắng ho hen vài tiếng cho tụi nhỏ nó nể nang. Trái lại, ở Tây phương người ta tôn trọng tuổi trẻ, sức mạnh, nhan sắc, nên người ta che giấu tuổi già, luôn sắm vai… trẻ để không bị coi thường. Cái gì quá đáng cũng trở nên lố bịch. Chưa già mà làm bộ già đã khó coi mà quá già lại làm bộ trẻ thì càng lố bịch! Tiếng Việt ta rất hay, có già cả, già khú, già khú đế, già dê, già dịch, già không nên nết… đủ thứ! Phim ảnh, tiểu thuyết, kịch nghệ, ngay cả truyện cổ, truyện cười bên Tây… hễ có một ông già thì thường là người biển lận, bủn xỉn, còn nếu là một bà già thì thường là mụ phù thủy độc ác gớm ghiếc. Ta thì khác, Phúc Lộc Thọ râu tóc bạc phơ, cháu con đầy đàn, tượng trưng cho hạnh phúc. Ông Bụt, ông Tiên trong cổ tích luôn là một ông già phúc hậu nhân từ, bà Tiên thì hiền lành, xinh đẹp, hiện ra giúp đỡ mọi người! Trong một thế giới “toàn cầu hoá” như hiện nay thì sự phân biệt già Tây và già Ta không còn rạch ròi rõ nét như xưa. Người ta quan tâm đến Chất lượng cuộc sống (Quality of life) của người già nói chung: đó là “những cảm nhận của các cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa và các hệ thống giá trị mà họ đang sống, liên quan đến các mục đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ” (Tổ chức Sức khỏe Thế giới, WHO). Một bà cụ già “nhà quê” sống vui với cánh đồng lúa vàng, với dòng sông xanh mát, cá kho tộ, tô canh chua, bông bí chấm kho quẹt được con cái -- nay là đại gia ở thành phố lớn - tỏ lòng hiếu thảo mang về thành phố nhốt trong phòng máy lạnh, ăn uống toàn cao lương mỹ vị… chắc chắn sẽ rất buồn khổ, chỉ mong tìm cách trốn thoát! Trong bảng đánh giá chất lượng cuộc sống có câu hỏi: “Tự nhìn nhận bản thân mình thế nào? Có hài lòng với dáng vẻ bên ngoài của mình không?” là những chỉ số quan trọng. Cha mẹ già còn khỏe, có thể “tự lập” được nhưng con cháu… quá chiều chuộng, quá “hiếu thảo” đút từng món ăn, nâng từng bước đi, bắt khám bệnh liên tục, bắt uống thuốc liên tục sẽ… làm cho nhanh chóng kiệt quệ và trở nên lệ thuộc. Bỏ bê thì đáng trách mà cung phụng bảo bọc quá cũng làm… hư mấy cụ. QUAN THÚY MAI st. Trích trong “Già sao cho sướng? - Để có một tuổi già hạnh phúc”, xuất bản năm 2015 Bạn đang SỐNG hay chỉ đang TỒN TẠI? “Sống” là điều rất hiếm thấy trên thế giới này. Hầu hết nhân loại đều chỉ đang “tồn tại” chứ không phải đang “sống”. - Oscar Wilde Thế nào là “SỐNG” và thế nào là “TỒN TẠI”? Tôi và bạn có ở trong số những người hiếm hoi đang “sống” trên trái đất này hay chỉ là một sự “tồn tại” bình thường? Chúng ta cùng nhau tự nhìn lại “con người thật” của mình qua một số câu hỏi sau nhé. 1. Bạn có hoàn thành bất kỳ mục tiêu nào của mình hay không? Hãy nghĩ và nhớ lại về những mục tiêu mà mình đã đặt ra trong cuộc sống. Những ước mơ, dự định, những mục tiêu dài hạn, mục tiêu ngắn hạn,… hay nói cho đơn giản và dễ hiểu hơn là hàng ngày khi thức dậy vào buổi sáng, bạn có đưa ra được một danh sách những công việc cần phải làm hoặc cần phải hoàn thành để thực hiện trong ngày hay chỉ là “tới đâu hay tới đó”, “cầm hơi sống cho qua ngày”? Nếu bạn đang trong một giai đoạn khó khăn thì việc bạn tập trung hết tất cả năng lượng chỉ để vượt qua được ngày “hôm nay” thì đó là điều bình thường. Tuy nhiên, nếu mọi thứ vẫn đang suôn sẻ, tiếp diễn một cách bình thường, ổn định; thì bạn cần phải có những mục tiêu cụ thể và hoàn thành chúng. Những mục tiêu này có thể chỉ là những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống, như gọi điện thoại cho cha mẹ hay hoàn thành một công việc đang làm dở dang. Dù mục tiêu là gì thì việc bạn cố gắng sống trọn từng ngày của mình mới là điều quan trọng nhất. 2. Bạn có đang vui vẻ hay không? “Sống” có nghĩa là tận hưởng từng khoảnh khắc trong cuộc đời mình. Dù bạn là người thích phiêu lưu mạo hiểm hay chỉ thích nằm nhà đọc sách, xem phim… thì vẫn là cách thức tận hưởng cuộc sống của riêng bạn. Và hãy nhớ: sở thích hay đam mê là thứ quan trọng cần phải có trong cuộc đời của mỗi chúng ta. 3. Bạn có dùng đến cảm xúc của mình không? Cười khi vui hay khóc khi buồn là những trạng thái cảm xúc của con người. Bạn có thường có những cảm xúc này không? Thậm chí là những cảm xúc tiêu cực thì chúng vẫn có đôi chút giá trị của riêng mình. Chúng ta hãy sống thật và thoải mái với chính mình không nên kìm nén tất cả mọi cảm xúc, miễn là chúng không gây phiền toái hay tạo ảnh hưởng xấu cho những người thân yêu hoặc làm việc cùng với mình. 4. Bạn có đánh giá cao những gì mình đang có hay không? Bất kỳ người nào sống trên mặt đất này, kể cả những người khốn khổ nhất cũng vẫn luôn có một vài điều hài lòng với cuộc sống của mình. Do đó, bạn cũng nên đánh giá cao những gì mình có được, dù có thể chúng chẳng là gì nếu đem so với người khác. Vì chỉ có như thế bạn mới có thể sống vui và tận hưởng trọn vẹn từng giây phút mình có được. 5. Bạn có những mục tiêu về lâu dài hay không? Ngoài những mục tiêu nhỏ cần hoàn thành trong ngày thì một mục tiêu lâu dài cũng là điều vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Chẳng hạn như bạn cần biết mình muốn đạt được điều gì trong sự nghiệp của mình. Hay như khi bạn đang yêu thì mục tiêu kế tiếp cho tình yêu của bạn sẽ là gì, một ngôi nhà cùng với người ấy và những đứa trẻ đáng yêu hay tìm người khác thích hợp hơn? 6. Bạn đang làm điều mình muốn hay chỉ làm những điều được người khác chỉ bảo? Khi còn bé, có rất nhiều việc chúng ta bị bắt buộc phải làm, chẳng hạn như đi học, hoặc phải làm việc này không được làm việc kia,… Nhưng khi đã lớn hơn, chúng ta dần dần được học cách chịu trách nhiệm cho những việc mình làm và từng bước tiến đến việc tự lập. Điều này có nghĩa là bạn không để cho người khác ảnh hưởng đến những quyết định dành cho tương lai của mình, cũng không có nghĩa là bạn sẽ mạo hiểm đời mình với những việc sai trái hay nguy hiểm, nhưng nó chính là bạn cần phải sáng suốt tìm ra hướng đi, lý tưởng của chính bản thân mình với sự góp ý, tư vấn của những bậc tiền bối tốt, nhiều hiểu biết, khôn ngoan, giàu kinh nghiệm sống và luôn thương yêu bạn. 7. Bạn có nỗ lực nâng cao chất lượng cuộc sống của mình không? Đời sẽ không bao giờ thay đổi trừ khi bạn bắt buộc nó thay đổi. Vì vậy, bạn sẽ không thể nào cảm nhận được mình đang sống thật sự cho đến khi nỗ lực vì cuộc sống của mình. Tìm công việc mới, gặp những người bạn mới hoặc cố gắng “đẩy nhanh” chuyện hẹn hò… Hãy làm bất kỳ điều gì để tạo ra vận may của mình. Đừng mãi chỉ ngồi một chỗ trong khi thế giới đang chuyển động. Bạn cần phải nỗ lực thì mới có được cuộc sống hạnh phúc, để cảm nhận được là mình đang sống, chứ không phải chỉ tồn tại tạm bợ trên thế gian này. Theo AllWomenStalk – Hoàng Chúc st.
Phụ Bản IV NHẠC XƯA VÀ HAY (Kỳ 2) Trong những cuộc thăm dò xem ai là người được đề cao nhất trong các soạn nhạc gia cổ điển, ba “cây đại thụ”: Beethoven, Mozart và Bach hầu như luôn luôn được nhắc đến. Mỗi người có sắc thái khác nhau, Mozart thì trong sáng, thanh khiết, vui vẻ, Bach thì cao siêu, thánh thiện, Beethoven thì sâu sắc, nhân bản, nhất là hòa âm thì tuyệt vời. Nhiều người cho rằng ông là người có chỗ đứng cao nhất. Ludwig van Beethoven sinh tại Bonn (Đức) năm 1770, sống tại Vienna (Áo) từ năm 16 tuổi cho đến khi mất, năm 1727. Cuộc đời của Beethoven có nhiều điều bất hạnh: - Ông bị sưng tai từ nhỏ, không được chữa trị kỹ càng, sau bị điếc. Khoảng 10 năm sau cùng bị điếc hoàn toàn, khi cần nói chuyện với ai thì phải “bút đàm”. Ông không nghe được nhạc của mình. Sức khỏe của ông kém, hay đau bụng, mệt mỏi, có lẽ do nhiễm độc chất chì hoặc do bị bệnh giang mai. Do đó ông ít khi vui vẻ, cởi mở với mọi người. - Mẹ ông chết sớm, ở tuổi 40, ông phải kiếm tiền để nuôi các em. Ông cũng rất vất vả vì phải nuôi một người cháu hư hỏng, nghiện ngập, con của em ông. - Bố ông là nhạc sĩ và ca sĩ của triều đình, và là một người nghiện rượu nặng. Khi thấy Mozart (hơn Beethoven 14 tuổi) nổi danh, ông bèn dạy con mình chơi piano và violin. Cậu bé Ludwig học nhạc rất tấn tới, nhưng ông bố không bao giờ hài lòng, thường đánh đập và bắt cậu học quá sức, cậu thường bị đánh thức dậy lúc nửa đêm để đánh đàn. Năm 11 tuổi, Ludwig không được cắp sách đến trường nữa, mà phải ở nhà để chỉ học nhạc mà thôi. - Ổng yêu nhiều, tình yêu của ông không được đáp lại. Ông không có vợ, không có con, chết ở tuổi 56. Lần đầu tiên Ludwig được ông bố cho xuất hiện trước quần chúng, như là một thần đồng, là lúc cậu được 7 tuổi, nhưng ông bố quảng cáo là 6 tuổi. Năm 16 tuổi, cậu đến Vienna và xin học nhạc với Mozart, Mozart bảo cậu đánh thử một bài, cậu bèn chơi bài Piano Concerto No. 24 của Mozart, Mozart xua tay và nói rằng bài này dễ quá, ai đánh cũng được, hãy chơi bài nào đó do cậu soạn ra. Khi Ludwig đánh xong, Mozart khen và nói với vợ (Constanze): “Tay này sẽ nổi danh toàn thế giới” và bằng lòng dạy cậu. Ludwig về chuẩn bị. Nhưng chưa kịp học thì cậu bị gọi về gấp, vì mẹ cậu đang hấp hối. Rồi mẹ cậu chết, 5 năm sau khi cậu trở lại Vienna thì Mozart đã qua đời ở tuổi gần 35. Ludwig cũng có học nhạc với vài người khác, đáng kể nhất là Haydn. Âm nhạc đã có từ lâu, nhưng cái gọi là Nhạc Cổ Điển Tây Phương thì chỉ mới xuất hiện từ thời Phục Hưng. Khi Beethoven bắt đầu viết nhạc thì Nhạc Cổ Điển đã qua khỏi giai đoạn 1 của 4 giai đoạn (Baroque, 1600-1750) và đang ở giai đoạn thứ 2 (Classicism, 1750-1820). Mới đầu ông viết theo khuynh hướng Classicism này, như Mozart, Haydn... đã và đang viết, phục vụ cái chân, thiện, mỹ. Nhưng ông thấy bị gò bó. Ông làm cho âm nhạc có thêm chiều sâu, chiều rộng, bằng cách thêm nhiều nhạc khí vào bản nhạc giao hưởng (symphony orchestra). Ông là người đầu tiên đưa giọng người (hợp ca) vào ban nhạc giao hưởng. Quan điểm, sở trường của người viết nhạc được đề cao. Những cải cách của ông đưa đến một giai đoạn mới của Nhạc cổ điển. Năm ông mất, (1820) được coi như là khởi đầu của giai đoạn Romanticism, với những soạn nhạc gia lừng danh như Chopin, Liszt, Wagner, Strauss, Tchaikovsky, Brahms... chữ Romanticism không liên quan gì đến lãng mạn theo nghĩa thông thường. Beethoven viết nhạc rất công phu, sâu sắc, không dễ dàng như Mozart. Ông thường xóa đi, viết lại nhiều lần. Ông không có tài viết opera, vở opera Fidelio độc nhất của ông không mấy thành công. Vì dàn nhạc giao hưởng đã trở nên rộng lớn, viết nhạc giao hưởng rất công phu, nên ông chỉ viết được 9 bài. (So với số bài symphony của Mozart là 41, và của Haydn là 106). Sau đây là những tác phẩm của Beethoven mà người viết mời quý vị thưởng thức: - Moonlight Sonata. Beethoven viết tặng một cô học trò 17 tuổi mà ông yêu, nữ Bá tước Giucciardi. Chopin vì thích bản này mà sáng tác một bản bất hủ là Fantaisie-Impromptu. - Kreutzer Sonata. Thúy Kiều của Nguyễn Du mà chơi bản này thì tuyệt vời: Trong như tiếng hạc bay qua Đục như tiếng suối mới sa nửa vời Tiếng khoan như gió thoảng ngoài Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. (Bốn câu thơ này được trích trong truyện Kiều của Nguyễn Du, mô tả tài đánh đàn của Thúy Kiều, rất thích hợp với bài Kreutzer Sonata) Nhà văn Nga Leo Tolstoi vì bản nhạc này mà viết nên cuốn tiểu thuyết cùng tên. - Ode to Joy (Khúc Hoan Ca) đây là phần cuối của Symphony No.9. Beethoven phổ nhạc vào bài thơ Ode to Joy của thi sĩ Schiller. Bài này nói lên tình huynh đệ và niềm vui vì nhân loại sống trong hòa bình. Liên minh Âu Châu dùng bài này làm bài ca chính thức. Hai nước khác cũng đã dùng bài này làm quốc ca là Rhodesia và Kosovo. FIFA cũng dùng bản này trong những trận túc cầu khai mạc hoặc chung kết. Nhưng bản này phổ thông nhất là tại Nhật. Tù binh Đức trong trận Thế Chiến thứ 2 đã dạy cho người Nhật bản này, và theo truyền thống, mỗi năm vào mùa Đông, người Nhật tổ chức những buổi hát bài này một cách say mê. Bạn chỉ cần vào Google, gõ lên bàn phím “10000 Beethoven” là thấy ngay một vạn người Nhật đang hát bài này một cách say mê trong một vận động trường. - Choral Fantasy cũng là một bài hợp ca nói lên ước mong được sống trong một thế giới hòa bình dưới sự dẫn dắt của Chúa. Bạn sẽ thấy tài năng của Beethoven trong việc viết hòa âm, nhất là ở đoạn gần cuối Mời bạn gõ vào bàn phím: “Choral Fantasy KBS” để thưởng thức bài này do ban nhạc của Đài Phát Thanh Hàn Quốc. - Spring Sonata cũng thể hiện tại hòa âm của Beethoven. Tiếng đàn piano và violon làm cho ta liên tưởng đến hai con chim, hoặc hai con bướm đang chơi đùa với nhau trong không khí vui vẻ của mùa Xuân. - Triple Concerto cũng cho thấy tài hòa âm tuyệt vời của Beethoven với 3 nhạc khí violon, piano, cello và ban nhạc đại hợp tấu. Còn rất nhiều nhạc hay của Beethoven nữa, đáng kể là các bản Piano Concerto số 3, 5, Violin Concerto; Symphony số 3, 6. (Kỳ sau người viết sẽ viết về một bộ môn cao quý: Opera) N C T Người cưỡi ngựa Đó là một đêm lạnh cóng ở phía bắc bang Virginia rất nhiều năm về trước. Sương xuống lạnh khủng khiếp nhưng vẫn có một cụ già đứng bên kia đường chờ có người cho quá giang. Không biết cụ đã đợi từ bao giờ và sẽ phải đợi thêm bao lâu nữa, nhưng cụ vẫn run rẩy đứng đó, kiên nhẫn chờ đợi. Có rất nhiều người cưỡi ngựa đi qua nhưng ông cụ lặng im không vẫy họ. Thậm chí cụ cũng không làm gì để gây chú ý. Từng người, từng người qua chỗ cụ đứng nhưng ông cụ vẫn như một bức tượng đá. Đêm khuya dần, trời càng lạnh và người qua lại thưa thớt dần. Bỗng ông cụ đứng bật dậy khi có tiếng vó ngựa lại gần: - Con trai, liệu con có thể cho ta đi nhờ một đoạn đường không? Đoạn này nhiều tuyết quá, ta không đi nổi nữa… Người cưỡi ngựa ghìm cương, nhảy xuống đỡ ông cụ lên ngựa. Anh ta không chỉ cho ông cụ “đi nhờ một đoạn đường” mà còn đưa ông đến tận nhà. Trước khi ông cụ vào nhà, người cưỡi ngựa tò mò hỏi: - Ông ạ, con thấy ông đứng ở đó đã lâu rồi. Tại sao ông không đi nhờ sớm hơn? Đường này nhiều người qua lại lắm mà. Tại sao ông cứ đứng chờ trong khi trời tối và lạnh như vậy? Ông cụ nhìn vào mắt người cưỡi ngựa, và trả lời: - Con trai, ta ở vùng này đã lâu rồi. Ta có thể nhìn vào mắt một người và phán đoán được về người đó. Khi những người cưỡi ngựa trước đi qua, họ liếc nhìn thấy ta rồi quay đi ngay. Trong ánh mắt đó không hề có sự quan tâm hay tình cảm. Nên ta nghĩ dù ta có vẫy họ thì họ cũng chẳng để ý đâu. Nhưng khi con đi tới, từ đằng xa, con đã nhìn ta và không rời mắt khỏi ta. Trong ánh mắt đó, ta nhìn thấy sự cảm thương và lo lắng. Và ngay lúc ấy, ta biết con muốn giúp đỡ ta. Những lời đó thật sự làm cho người cưỡi ngựa cảm động: - Con rất cảm ơn ông đã nói những lời đó. Hy vọng rằng con sẽ không bao giờ quá bận rộn đến mức không nhìn thấy những người khác khi họ cần giúp đỡ… Và ngay lúc đó, Thomas Jefferson* quay ngựa lại Nhà Trắng. KIM SƠN st. * Thomas Jefferson là tổng thống thứ 3 của Mỹ, người đã viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776. GIỌT NƯỚC MẮT NGỌT NGÀO (tiếp theo và hết) Uyên không đủ sức cất tiếng, cô đưa tay bụm miệng và vứt mảnh giấy lên người Sinh rồi bỏ chạy. Sinh chộp mảnh giấy, nhìn vào phần kết luận, anh choáng váng, bủn rủn, quờ tay chụp vào cái cột và sụm xuống. Những người chung quanh hốt hoảng: - Bác sĩ… bác sĩ ơi… Sinh được đưa vào phòng, đặt nằm lên giường, một mảnh khăn ướt đắp ngang trán. Cầm mảnh giấy trong tay Sinh, nhìn lướt qua, vị bác sĩ đã biết nguyên nhân vì sao. Đợi cho Sinh hồi phục sau cơn sốc, ông mới nắm tay anh ôn tồn nói: - Anh hãy gắng bình tĩnh. Dù căn bệnh này hiện vẫn đ ang là sự thách đố nền y học, nhưng nó chưa phải đã chấm dứt ngay mọi sự. Nếu được điều trị đúng mức và một chế độ sinh hoạt và phòng tránh phù hợp, thì anh vẫn còn khá nhiều thời gian cho mình và người thân. Sinh ngồi bật dậy ôm đầu gào lên: - Trời ơi! Tôi đã làm gì để phải chịu cái sự oan nghiệt này vậy hả? - Anh không biết mình bị nhiễm bệnh từ đâu sao? - Không, tôi không biết. Tôi không quan hệ bậy bạ, tôi không nghiện chích hút, sao tôi lại mắc phải nó hở trời? - Vậy gần đây anh có điều trị gì cần phải tiếp máu không? - Gần đây tôi có bị mổ ruột thừa, nhưng không có tiếp máu. Có phải… Sinh chợt nhìn vị bác sĩ với nét nghi hoặc, ông ta vội lắc đầu: - Không, không phải anh bị nhiễm từ khi mổ ruột thừa, mà là từ trước đó. Khi xét nghiệm máu để chuẩn bị mổ cho anh thì phát hiện ra. - Trời ơi! Vậy thì từ đâu? Từ bao giờ? Khốn nạn cái thân tôi, bị kết án tử hình mà không biết tội danh là gì. Người bác sĩ nhíu mày suy nghĩ: Lạ thật. Không quan hệ bừa bãi, không tiêm chích, không làm trong ngành y, vợ cũng không bị, vậy thì do đâu? Một trường hợp khó hiểu. Nhưng cho dù với bất kỳ lý do gì, thì cuộc đời người đ àn ông này, và cả những người thân của anh ta, từ nay đã khác, khác rất nhiều. Những sự khác ấy theo chiều hướng vui hay buồn, ấm hay lạnh, nặng hay nhẹ, thì tùy thuộc vào tất cả những người liên quan. Người bác sĩ nén một tiếng thở dài. Cái nghiệt của người làm ngành y là luôn phải đối diện với bao bất hạnh của người đời. Uyên vốn đã bơ phờ vì những đêm mất ngủ với thắc thỏm trông mong và mỏng manh hy vọng, giờ cô thực sự quỵ ngã trước một hung tin quá đỗi bàng hoàng. Cô cũng đã chuẩn bị tinh thần để tiếp nhận một tình huống xấu, nhưng cô không hề mảy may ngờ đến một chứng bệnh. Có biết bao thứ bệnh nan y mà loài người luôn có nguy cơ mắc phải. Vậy tại sao chồng cô lại mắc đúng một thứ bệnh ghê tởm nhất trên đời này? Cái thứ bệnh không những không có thuốc chữa, mà hàm ý trong nó còn là cả những dấu hỏi to tướng về tư cách của một con người, nhất là người đàn ông, và đã là một người chồng, một người cha. Sự hệ lụy của căn bệnh này ghê gớm hơn rất nhiều những loại bệnh khác. Xưa nay cô vẫn luôn tin tưởng anh. Từ ngày yêu nhau, anh chưa từng làm mất niềm tin trong tình cảm của cô. Cho dù với bản năng luôn hoài nghi trong tình yêu của người phụ nữ, cô cũng hầu như chưa có cơ hội để chứng thực sự hoài nghi của mình. Vậy mà… c ô không tin nổi, không thể tin rằng có một ngày một trái núi đổ ập xuống gia đình nhỏ bé của cô. Không thể làm gì hơn trong tâm trạng khủng hoảng này, trời tảng sáng, Uyên bật dậy sắp xếp một số quần áo cho cả hai mẹ con. Bé Ngọc mơ màng dụi mắt: - Đi đâu vậy hả mẹ? - Đi về ông bà ngoại, con à. Dậy đánh răng rửa mặt rồi đi con. - A, con lại được về bà ngoại rồi, ba ơi… Bé Ngọc tỉnh ngủ, chạy lên nhà trên gọi toáng, Uyên vội kêu: - Ba đi công tác rồi, con đừng gọi nữa. Nhanh lên nè. Bé Ngọc xìu mặt: - Sao ba đi công tác hoài vậy mẹ? Uyên ậm ừ không giải thích, đưa ly sữa cho con bảo uống nhanh. - Chị Mai ơi! Em gửi chìa khoá cho nhà em nhé. - Ủa, hai mẹ con đi đâu mà sớm vậy? - Dạ, em cho cháu về ngoại. - Sao mới về đó mà lại về nữa rồi? - Dạ, má em kêu về có chuyện. Nhà em đi công tác nên không chờ được. Chị đưa giúp em nha. - Ừ, báo cho chú ấy rồi hả? - Dạ. Thôi em đi nha. Bà Sáu thấy Uyên lếch thếch bồng con về thì hết hồn: - Có chuyện chi mà về bất chừng dzậy hả? Uyên thả phịch giỏ đồ, bỏ bé Ngọc xuống rồi òa ra khóc: - Má ơi! con muốn ch ế t cho xong má ơi… - Chuyện chi dzậy? Từ từ nói má nghe coi. Chắc lại giận hờn chi đó chứ gì? Nghĩ con gái lại hờn lẫy chuyện v ớ vẩn nào đó, bởi Uyên là con gái út, từ nhỏ đã được cưng chìu, bà Sáu dìu con ngồi xuống ghế, vỗ về dỗ dành. Uyên sụt sùi, tức tưởi kể lại chuyện cho bà Sáu nghe. Nghe xong, bà nhảy dựng lên, nghiến răng: - Cái thằng trời đánh này, mày làm khổ con bà cháu bà rồi. Trời ơi là trời! - Con đâu có ngờ, hồi nào tới giờ ảnh đâu có chuyện gì lăng nhăng, giờ bỗng nhiên trở chứng để nên nỗi vầy chớ. Uyên cứ rũ ra khóc không dứt, bao chất chứa lâu nay giờ mới được thỏa sức trút ra. Bà Sáu hơ hơ hỏng hỏng trước cái tin sét đánh đó, chẳng biết làm sao cũng mếu máo, bé Ngọc thấy mẹ khóc, bà khóc cũng khóc theo. Giữa khi đó ông Sáu về tới, thấy cảnh tượng như vậy, ông thất kinh hỏi: - Chuyện gì mà mẹ con bà cháu bây khóc um sùm dzậy hả? Bà Sáu bỗng đổ cơn giận lên đ ầ u chồng: - Đó, ông giỏi khen thằng con rể ông nữa đi, giờ nó hại chết vợ con nó rồi đây nè. - Đầu đuôi sao thì phải nói tui mới biết chớ. Cuối cùng thì qua từng khúc đoạn khóc kể chen lẫn nhau, ông Sáu đã hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra. Ông ngẩn người, con rể ông, cái thằng Sinh hiền lành ấy không phải là đứa hư hỏng, ông không thể nhầm lẫn khi giao phó cả hạnh phúc cuộc đời của con gái ông cho nó. Nhưng vì sao lại có chuyện động trời như vầy chớ? Ông lật đật đi tìm những người làm ngành y mà ông quen biết, để hỏi xem cụ thể căn bệnh quái ác này là như thế nào? Căn bệnh mà ông thường nghe đài báo nói đến với những lời cảnh báo đầy nguy hiểm, vậy mà giờ đây nó đang có mặt trong gia đình ông. Sinh mở mắt, cảnh vật quanh anh lờ mờ, một giọng nói quen quen: - Tỉnh rồi hả? - Sao tao lại ở đây? - Còn sao nữa, goắc cần câu hổng nhớ gì hết hả? Giận hờn ai mà uống cho đã rồi ngơ ngơ ngẩn ngẩn ngoài đường khuya vậy? May mà tao thoáng thấy màu áo quen quen, quay lại thì đúng là mày. Nghe Khánh nói, Sinh nhớ lại hết câu chuyện của hôm qua, anh chống tay ngồi dậy, mặt mũi bơ phờ, hốc hác hẳn. Khánh lom lom nhìn bạn: - Mày có chuyện gì hả? - Tao… tao sắp chết rồi. - Nói tầm bậy. Đang ngồi lù lù đây mà bảo là sắp chết. Điên à? - Giá mà điên được thì tốt quá. Khánh lạ lùng với kiểu nói lủng củng của bạn. Bạn thân nhau từ bé, Khánh hiểu phải có chuyện gì nghiêm trọng lắm mới biến một thằng Sinh vui nhộn, tếu táo mà tốt tính ra một gã dở hơi lẩm cẩm như thế này. Đưa ly cà phê sữa đá cho bạn, Khánh nói: - Uống cho tỉnh táo đi rồi nói cho tao nghe mày đang gặp chuyện gì. Đừng có nghĩ quẩn, chuyện gì rồi cũng có cách giải quyết cả. - Nhưng chuyện này thì không. Không có cách nào nữa cả. - Mày đâu phải là đứa dễ bi quan thế đâu. Uống đi đã. Nghe Khánh giục, Sinh hớp một ngụm cà phê, rồi lại một ngụm, một ngụm nữa. Chất vị ngòn ngọt, beo béo, đăng đắng, mát lạnh trôi vào cổ, vào ruột làm anh tỉnh lại phần nào. Sinh đưa cho bạn xem tờ giấy kết quả khám nghiệm, rồi kể cho bạn nghe chuyện vừa xảy ra với mình. Khánh nghe xong chưng hửng. Trời! Không thể tin được thằng bạn có tiếng là nghiêm túc, đàng hoàng nhất bọn lại bỗng nhiên vác một con virut HIV to tướng vào người. Bằng cách nào? Không tiêm chích vì nghiện hút, không quan hệ bừa bãi luông tuồng, cũng chưa từng phải mổ xẻ truyền máu tại một cơ sở y tế nào. Vậy làm sao cái con virut chết tiệt ấy lại chui vào được trong cơ thể thằng bạn này, để giờ nó chết ngất chết ngư như vậy? Khánh ngẫm ngợi một hồi lâu rồi bất chợt hỏi Sinh: - Mấy lúc trước mày có đến nhà thằng Châu chơi không? - Thì thỉnh thoảng vẫn đến, mà sao? - Mày đến đó có đụng chạm gì vào đồ vật cá nhân của nó dẫn đến trầy xước gì không? - Trầy xước? Sinh ngơ ngác trước câu hỏi của bạn, một ý nghĩ lướt qua: - Ý mày là… - Thì mày cứ nói đi đã. Có không? Sinh nhíu mày một lúc rồi vỗ đùi một phát: - Tao nhớ rồi. Có lần tao vào nhà vệ sinh của nó, khi ra thấy râu ria tua tủa, tao có lấy cái bàn cạo râu của nó cạo, vừa lúc đó thì nó vào, nó giật lại làm xước nhẹ một đường trên môi. A… Sinh chợt nhớ đến vẻ mặt hốt hoảng của Châu khi làm xước da m ì nh, lúc đó anh không hiểu vì sao, chỉ hơi ngạc nhiên rồi đùa : “Sao thế? Sợ mòn lưỡi cạo à?” rồi cười đi ra ngoài, không để ý đến thái độ tiếp theo của Châu là gì. Sinh đờ đẫn trước một phát hiện đáng tiếc. N ế u như được biết trước bệnh trạng của bạn thì đã không xảy ra chuyện tệ hại này. Biết trách ai bây giờ? Có chăng là trách số phận mình nghiệt ngã mà thôi. Khánh vỗ vai bạn: - Trong nhóm chỉ có tao là biết nó bị nhiễm bệnh thôi. Mày còn nhớ hồi đó nó đau khổ thế nào khi phải chia tay với nhỏ Huyền Anh không? - Tao nhớ chứ, hồi đó nó bảo là gia đình nó phản đối dữ quá. Thì ra… Trời ơi! Khốn nạn cho cái thân tao. - Thôi, đừng ngồi đây mà than thở nữa, tụi mình đến nhà nó đi. - Đến để làm gì nữa? Bắt đền nó à? - Không phải. Đến để hỏi kinh nghiệm chữa trị và phòng ngừa của nó. Nếu không mày vô tình lây nhiễm cho người khác thì sao? Sinh thẫn thờ đi theo Khánh, bước chân anh chập choạng như đang đi trên bờ vực, những bước chân không thực. Một biến cố lớn trong đời đột ngột đổ ụp lên anh, lên gia đình bé nhỏ của anh. Con đường phía trước anh bỗng nhiên trở nên tối đen. Châu ôm đầu hối hận: - Lúc đó tao đã nghi nó bị rồi, nhưng tao không đủ can đảm để nói. - Mày làm vậy là không được. Nếu mày nói ngay thì biết đâu còn kịp, vì mới bị phơi nhiễm thôi. Bây giờ hối hận thì cũng chẳng còn làm được gì nữa. Cũng như trước giờ, nếu mày nói cho bạn bè cùng biết thì đã… Nghe Khánh chỉ trích, Châu gào lên: - Nói… nói. Mày bảo tao làm sao mà nói ra được, nói ra để không còn ai dám đến với tao nữa, nói ra để biến thành một con chó ghẻ đường cùng sao. Nếu tao không còn mẹ già thì tao cũng đã chết quách cho rồi. Sống trong tâm trạng chờ chết như tao sung sướng lắm sao? Sinh ngồi như phỗng nghe hai người bạn nói, tự nhiên anh hiểu ra tất cả những suy nghĩ của Châu. Một sự bế tắc, một sự tuyệt vọng không còn le lói chút ánh trời ban mai. Châu qua cơn bức xúc, anh trấn tĩnh lại rồi nhìn Sinh: - Tao biết, giờ có nói ngàn lời xin lỗi cũng chẳng để làm gì, nhưng tao vẫn muốn xin lỗi mày. Tuy căn bệnh này còn đang là sự thách thức với nền y học, nhưng được điều trị đúng thì thời gian cũng còn kéo dài. Mày ráng lên đi. - Ráng. Tao làm sao nhìn mặt vợ con tao được nữa. Mà không biết vợ tao có bị lây chưa nữa? - Lần gần vợ mày sau nhất là bao giờ? Sinh đăm chiêu một lúc: - Cũng lâu rồi, trước khi cô ấy cho bé Ngọc về quê. Khi lên tới thì cũng là lúc tao bị đau ruột thừa, rồi sau đó thì phát hiện ra, thì ra… Sinh nhớ đến sự né tránh của vợ Như vậy là Uyên đã biết từ lâu rồi. - Sao? Có chuyện gì à? - Không, là hình như vợ tao đã đoán biết rồi hay sao ấy. - Cũng có thể là do bác sĩ thông báo. Ừ, mà cũng phải thông báo chứ. Cô ấy cho mày ăn củ “riềng năm” à? Sinh khẽ nhếch mép, anh tạm yên tâm một điều là vợ anh chưa bị nhiễm từ anh. Nhưng rồi sẽ thế nào đây? Dù sao thì tất cả cũng đã không thể như trước được nữa rồi. Cả nhà bố mẹ, anh chị Uyên cứ như là một cuộc hội thảo chuyên đề vậy. Một cuộc hội thảo mất trật tự, huyên náo và đầy cảm xúc. - Sống dở chết dở thế thì còn làm ăn gì nữa. Giải tán luôn đi. - Dì còn trẻ quá mà, tội gì vấn víu với nó, nếu bị lây bệnh nữa thì sao? Ai lo cho bé Ngọc? - Bao nhiêu thứ bệnh tật, lại mắc đúng cái thứ bệnh tai tiếng thế chứ. Hay là trước giờ chú ấy vẫn có gì mà cô không biết. Đàn ông mà, lúc nào không ẩn chứa mầm phản bội, có cơ hội là tới luôn bác tài, mặc kệ hậu quả cho vợ cho con. - Cho giỏi lắm sống được mười năm nữa, thì cũng chẳng còn làm gì được lại tốn kém thuốc thang, lại điều ra tiếng vào. Cô không nghĩ cho mình thì cũng phải nghĩ cho con bé. Mai này nó lớn, có cha bị ết còn ai dám lấy, khổ cả một đời nó. - Tụi bây nói nghe sao dễ quá, vợ chồng có phải là những kẻ ở trọ sớm đến tối đi đâu, còn tâm tư tình cảm, còn lương tâm trách nhiệm bỏ đâu. Cứ yên lành sung sướng thì ở với nhau, khó khăn khổ nạn thì bỏ nhau à? Hơn nữa, chưa biết rõ vì sao nó nhiễm bệnh thì đừng có bàn lung tung. Ông Sáu lên tiếng khi cảm thấy không khí quá ngột ngạt, lại ông vẫn cứ tin vào thằng con rể hiền lành mà ông vẫn rất quý. Ông từng tuổi này rồi, nhìn người có không chính xác hết thì cũng không quá nhầm. Ông chắc phải có lý do nào khác chứ không phải chuyện hư đốn mà thành bệnh. Uyên thì chỉ biết đỏ mọng mắt, cô không biết phải xử sự, chọn lựa thế nào cho đúng. Nửa tin nửa ngờ rằng chồng mình lăng nhăng, nên cô rất lúng túng, những lời bàn tán lại càng làm cô rối trí. Một đằng là tình nghĩa vợ chồng, một đằng là tương lai con cái. Khánh và Châu bước vào giữa lúc căng thẳng ấy. Và cuối cùng, mọi người đều hiểu rõ nguyên nhân, Châu cúi mặt nói thêm: - Cháu thưa chuyện với hai bác và gia đình không phải chỉ để minh oan cho Sinh, mà cháu còn muốn xin lỗi mọi người, chỉ vì cháu đã bất cẩn trong cuộc sống mà gieo tai họa cho chính mình và cả bạn bè, biết hối thì đã quá muộn, cháu chỉ mong gia đình thương lấy Sinh, nó đang rất tuyệt vọng. Những điều Châu nói đã đem lại cái nhìn rất khác cho mọi người. Bà Sáu thở dài quệt nước mắt, rồi nói với con gái: - Giờ chuyện đã rõ ràng vậy rồi, con tính sao thì tùy con, má chỉ mong con thực sự có hạnh phúc. Uyên khóc vùi từ khi nghe rõ chuyện, tâm trạng cô bây giờ thật khó tả, vẫn là những nỗi lo rối rắm, nhưng thoảng một nét vui vừa phả vào. Rốt cuộc Sinh của cô vẫn không phụ lòng cô. Những kỷ niệm trong suốt thời gian qua từng giày vò xâu xé cô giữa bao cảm trạng mâu thuẫn, thì lúc này nó biến thành một sự thúc hối… - Má ơi… cho con về với ba đi má. Bé Ngọc vừa bệu bạo khóc vừa nắm lấy cánh tay Uyên mà nói. Uyên ôm con vào lòng. - Ừ, má con mình đi về với ba thôi. Sinh nằm ngửa mặt nhìn trân trân cái trần nhà. Anh đã qua cơn sốc của sự kiện, giờ đây trong anh là sự thăm thẳm của bế tắc và tuyệt vọng. Tất cả đều đổ sụp cả rồi. Anh như thấy rõ trước mắt những ánh nhìn rẻ khinh xa lánh của bao người, anh như nghe rõ những lời thầm thì tô vẽ, và điều hiển hiện nhất là cái nhìn trách móc oán hận của vợ anh, con anh. Anh đã từng hứa hẹn sẽ đem lại cho họ một cuộc đời bình yên hạnh phúc, vậy mà giờ đây anh đã choàng lên họ một tấm màn đen u ám. Đánh đổ hết những ước vọng tương lai tươi sáng của họ. Và bỗng nhiên, nảy ra trong anh một ý định. Có lẽ đó là cách duy nhất để giải quyết tất cả. Có thể mọi người sẽ trách anh là không đủ dũng cảm để đương đầu với sự nghiệt ngã, đã dùng giải pháp tối cùng để trốn tránh, nhưng chỉ có như thế anh mới tự giải thoát được cho mình và cho người thân. Rồi thời gian qua, họ sẽ có cách sống khác phù hợp hơn, dễ chịu hơn, và cũng hạnh phúc hơn. Trong chớp mắt, ý nghĩ biến thành hành động, Sinh vùng dậy viết cho vợ những lời tuyệt bút. Và rồi, anh quơ tất cả những viên thuốc mà bác sĩ đã kê đ ể điều trị dốc cả vào mồm. Uyên thấy lòng như lửa đốt khi gõ cửa mấy tiếng mà Sinh không ra mở. Chị Mai cũng tỏ vẻ lo lắng: - Từ hôm qua tôi đã thấy chú không ra khỏi nhà. Làm sao bây giờ? Uyên chạy vụt đi kêu một số người đến phá cửa. Một lần nữa cô phải hộc tốc đưa chồng vào phòng cấp cứu. Sau tất cả những biện pháp can thiệp, cô thở dốc khi nghe bác sĩ nói: - Tốt rồi, anh ấy đã qua cơn nguy hiểm. Chắc không lâu nữa sẽ tỉnh lại thôi. Uyên như rơi xuống chiếc ghế, nhìn Sinh thiêm thiếp, cô thầm kêu lên: - Anh mau tỉnh lại đi. Anh không được chết, anh còn phải trả nợ cho mẹ con em nữa chứ. Anh phải thực hiện lời hứa của anh nữa chứ, em không cho phép anh trốn chạy vậy đâu. Anh tỉnh lại mau đi anh ơi… Có lẽ tâm thức của Sinh đã nghe được lời kêu cầu của vợ, anh chập chờn chập chờn rồi tỉnh lại. Nhìn thấy gương mặt Uyên hốc hác, Sinh xót xa: - Em, anh xin lỗi, anh đã làm khổ em quá nhiều rồi. Uyên cầm tay Sinh siết chặt: - Không, anh không có lỗi, em biết cả rồi. Anh yên lòng đi, chúng ta đủ thời gian để nuôi con khôn lớn mà. Số phận chúng ta nghiệt ngã, nhưng chúng ta không thể buông xuôi phó mặc. Em sẽ luôn bên anh, đừng dại dột lần nữa, anh nha. Nước mắt Sinh nhạt nhòa , nước mắt của người đàn ông mặn chát, đồng thời vị ngọt của đằng sau nó thấm tận vào đáy lòng. Hai người tay trong tay, m ắ t trong mắt, nhịp đập thổn thức của hai trái tim đang viết tiếp một câu chuyện đời đầy thách thức. ĐÀM LAN NẮNG CUỐI NGÀY Ánh nắng cuối ngày hối hả tuôn trên chóp mái nhà cao tầng phía xa. Không có khói thổi cơm chiều cuống quýt bay lên vòm mây rực sáng màu lửa đượm. Hàng cây vẫn lặng im thả vài chiếc lá vàng rơi trên lối đi qua ngõ nhà Yên. Có một chú chim lạ bay lạc vào khu vườn hoa của mẹ. Nó ngơ ngác kêu lên mấy tiếng rồi vút lên không mất dạng. Yên tiếc nuối ngóng theo. Chợt lo lắng khi nắng phụt tắt, bầu trời tím dần. Chẳng biết con chim có kịp tìm thấy tổ ấm trước khi đêm về? Yên chắp hai bàn tay nhỏ xinh, lẩm bẩm: “Ước gì thời gian dừng lại!” Có tiếng huýt sáo mồm trượt dài trên đường. Yên bật cười, hắn đúng giờ như một cái đồng hồ điện tử. Chiều nào hắn cũng gò lưng trên chiếc xe cà tàng lướt qua ngõ nhà Yên với âm thanh rộn rã của… tiếng huýt gió. Hình như hắn ở trọ gần đây. Và tự nấu ăn vì trên giỏ xe đạp của hắn có một bó rau muống to đùng. Có gì vui mà hắn chu miệng thổi nên giai điệu hồ hởi đến thế? Khu phố nầy vốn yên tĩnh đến… buồn thiu. Vậy mà mấy ngày nay xuất hiện một gã đen nhẻm tới lui, đi về đều đặn như cây kim đồng hồ. Hắn khuấy động cuộc sống, tạo nên một nỗi xao xuyến lạ lẫm mà Yên không sao giải thích được. Mấy ngày nay, chiều nào Yên cũng đứng bên cửa sổ phòng tận lầu ba để… chờ hắn ngang qua, để mỉm cười một mình, để nghĩ vẩn vơ một chút. Ngày mai, chắc Yên không còn rảnh rang để mơ mộng. Mẹ bảo có mời một gia sư đến nhà kèm cặp Yên học Văn. Mẹ bảo người Việt mà để yếu tiếng Việt thì thật đáng xấu hổ. Yên không đồng ý như vậy. Chẳng lẽ môn học nào Yên cũng phải giỏi! Nếu có yếu Văn chút đỉnh cũng có sao đâu. Điểm thi môn Tiếng Việt của Yên cũng trên trung bình kia mà. Nhưng mẹ nói sắc gọn: - Không! Vậy là Yên hiểu mình phải giỏi Văn thì mẹ mới vui lòng. Dầu sao, Yên cũng không muốn mẹ khổ hơn nữa. Lâu lắm rồi, mẹ Yên lặng thầm như chiếc bóng trong căn nhà thênh thang, lạnh lẽo. Bà chỉ mỉm cười khi nhìn thấy Yên. Lúc đó, mắt mẹ long lanh, ngời sáng như có ai thắp lửa trong đáy tim của mẹ. Yên biết mình chính là niềm hạnh phúc nhỏ nhoi còn sót lại trong đời mẹ. Từ lúc Yên bắt gặp mẹ quỳ gối trước mặt ba, khóc lóc, van xin: - Anh ơi, em xin anh đừng bỏ mẹ con em. Con cần có anh! Ba đã lạnh lùng bảo: - Đừng hòng dùng nó làm chiếc phao để… Yên bước vào phòng, quỳ xuống, ôm chầm lấy mẹ. Nó thét lên: - Hãy để ông ta đi! Ba Yên thoáng ngỡ ngàng rồi nhanh chóng trấn tĩnh. Ông đi như chạy ra khỏi ngôi nhà, kết thúc những ngày tháng khoắc khoải bên Yên và mẹ. Những ngày đầu vắng ba, ngôi nhà bỗng dưng trống trải kỳ lạ. Dù gần đây, ông cũng thường xuyên vắng nhà. Sáng nào ba Yên cũng đi làm thật sớm và trở về lúc nửa đêm với hơi men nồng nặc. Ban đầu, mẹ cằn nhằn nhưng ba phản ứng bằng cách văng tục và ném vỡ vụn bất kỳ thứ gì trong tầm tay, khiến mẹ và Yên hoảng sợ. Lạ một điều, những ngày sau đó, khi nghe tiếng xe máy của ba ngừng trước ngõ, mẹ lặng yên ra mở cửa rồi mời ba dùng cơm, nhưng ông vẫn nổi nóng, vẫn gào thét, mắng nhiếc… Ông làm cho láng giềng cũng hoang mang theo. Họ lân la hỏi han nhưng mẹ chỉ tìm cách rút êm vào nhà. Bây giờ thì cuộc sống của Mẹ và Yên êm đềm, ổn định. Mẹ không còn ru rú trong nhà, ủ dột chờ đến giờ ăn mới rời khỏi phòng. Bà đã tìm được một việc làm phù hợp với năng khiếu vốn có là viết văn và gửi đến các báo. Tác phẩm của mẹ được giới văn nghệ khen ngợi. Nhờ vậy, mẹ như được hồi sinh và Yên cũng cảm thấy mình như có thêm sức sống mới. Ngoài giờ sáng tác, mẹ chăm chút vườn hoa trước nhà và dành hết tình yêu thương cho Yên. Yên hiểu mình phải ngoan ngoãn, vâng lời mẹ. Đó là cách tốt nhất để hai người có niềm vui sống. Thật bất ngờ, người thầy mẹ mời kèm cặp môn Văn cho Yên là… hắn! Một gã trai… hơn Yên một tuổi và… một cái đầu. Điều nầy có lẽ đúng ở nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Vì hắn cao lêu nghêu như cây tre miễu. Mỗi lần nói chuyện với hắn, Yên phát mỏi cổ. Đã vậy, điều đó lại rất thuận lợi cho việc hắn có thể dễ dàng cốc vào đầu Yên khi Yên… bướng. Và cái đầu của hắn thì đầy chất xám. Hắn học giỏi đều các môn. Đã vậy, hắn còn biết tự kiếm việc làm để lo chi phí ăn học và tự… nấu cơm. Nghe đâu, ba hắn bệnh liên miên sau khi mẹ hắn bỏ nhà theo người đàn ông khác. Một mình hắn bôn ba lên thành phố ôn thi và đỗ Đại học. Mẹ Yên rất quý hắn vì hắn là một cây bút trẻ đầy tiềm năng. Bà mong với sự “dạy dỗ” của hắn, Yên cũng khấm khá lên đôi chút. Đúng như mẹ mong đợi, điểm thi tốt nghiệp môn Văn của Yên vọt lên loại khá. Và Yên đỗ Đại học. Mẹ tổ chức một bữa tiệc mừng Yên bước vào ngưỡng cửa Đại học, đồng thời cũng để tạ ơn hắn. Giữa lúc mọi người đang vui, ba về. Ông mang theo một bó hoa. Nhưng vừa chạm mặt hắn, ông sững sờ giây lâu rồi bỗng quay lưng, đi như chạy ra khỏi nhà. Yên thảng thốt hỏi: - Ủa, sao lạ vậy, mẹ? Mẹ lặng im lắc đầu. Hắn mỉm cười chua chát: - Có gì đâu, chẳng qua ông ta trông thấy tôi, người đã bị ông ta cướp mất người mẹ. Mẹ và tôi bàng hoàng nhìn hắn trân trối, chẳng biết phải làm sao. Nhưng hắn mỉm cười, thản nhiên bảo: - Chúng ta đều là nạn nhân. Đồng cảnh tương liên mà, phải không Yên? Yên bỗng thấy yêu đời. Đâu phải ai gặp nghịch cảnh cũng trở thành người xấu, phải không anh? NGUYỄN THỊ MÂY MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 11.8.2018… ......... Vũ Thư Hữu ... 01 Vài chi tiết về một quý thư 142 tuổi đời ........ Vũ Anh Tuấn ... 06 Có tận thế không? (tt & hết) ......... Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết ... 08 Hãy trả lại công bằng cho Đại Thừa ............. Tâm Nguyện ... 10 Phan Châu Trinh (1872-1926) ................ Phạm Vũ ... 22 Về Quỹ “Quảng bá văn học Việt Nam văn học Nga” ..... Thúy Toàn .... 31 Nhà cổ ngoạn Vương Hồng Sển với Sài Gòn tạp pín lù & Hơn nửa đời hư ......... Hoàng Kim Thư st. .... 32 Tuột dốc đời .............. Nguyễn Văn Sâm .... 40 Khái quát về ý niệm “Thơ Đường đương đại” ....... Đào Minh Diệu Xuân st. .... 52 Tôi là người Việt Nam (thơ) ................ Đàm Lan ... 56 Tháng Bảy mưa (thơ) ............ Phạm Thị Minh-Hưng .... 58 Cơn giông (thơ) .................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 59 Búng Bình Thiên (thơ) .............. Ngàn Phương .... 60 Hồi tưởng (thơ) ............... Lang Nguyên .... 62 Đá Vọng Phu (thơ) .............. Lang Nguyên .... 62 Gió hạ (thơ) .................. Thanh Châu .... 63 Kỷ niệm mưa (thơ) .............. Hoài Ly .... 64 Về nghe anh (thơ) ................. Hoài Ly .... 64 Sống thế nào đây (3) (thơ) ......... Lê Minh Chử .... 65 Đầu tư cho con cái (thơ) .............. Lê Minh Chử .... 65 Đồng cảm (thơ) ...................... Hải Âu ... 66 Nhân duyên (thơ) ............... Thùy Hương-Hải Âu ... 67 Phú Mỹ Hưng lên ngôi (thơ) .......... Phùng Chí Tâm ... 68 Nét màu quê hương (thơ) ............ Lê Nguyên ... 69 Chiều hẩm (thơ) .............. Lam Trần .... 70 Khóc mẹ (thơ) ............ Phước Hải .... 71 Cõi tiên (thơ) .............. Phước Hải .... 71 Siêu thăng (thơ) .......... Phước Hải .... 72 Thành thật phân ưu (thơ) ............... Phước Hải .... 72 Tranh đua (thơ) ............ Quang Bỉnh .... 73 Vĩnh Kim (Tiền Giang) (thơ) ............. Quang Bỉnh .... 73 Để nước cuốn đi (thơ) .................. Thanh Phong .... 74 Đắp mộ cho anh (thơ) ............... Vũ Đình Huy .... 75 Chiều Yên Tử (thơ) ................ Trần Nhuận Minh .... 76 Evening at Yên Tử (thơ) ............ Vũ Anh Tuấn dịch .... 77 Yên Tử ................... Bùi Đẹp st. .... 79 Mùa xuân của Bé Bông (tt) .............. Hoài Ly .... 83 Công của ông Khúc Thừa Dụ ............ Phạm Hi ếu Nghĩa ... 87 Những lá thư một thời ..................... Lam Trần .... 91 10 kiệt tác hội họa đắt giá nhất mọi thời đại ......... Lệ Ngọc st. ... 94 Đọc sách mới: Hiện Đại Việt Sử Diễn Ca ......... Hà Mạnh Đoàn ... 99 Các kỷ lục về người mẫu & hoa hậu thế giới ....... Đỗ Thiên Thư st. . 100 Để khỏe mạnh, sống lâu hãy thường xuyên day bấm huyệt Túc Tam Lý ........ Phùng Chí Tâm st. . 102 Già kiểu nào thì tốt? .............. Quan Thúy Mai st. . 105 Bạn đang SỐNG hay chỉ đang TỒN TẠI? ......... Hoàng Chúc st. .. 107 Nhạc xưa & hay (tt) ........................ NCT . 111 Người cưỡi ngựa ..................... Kim Sơn st. . 115 Giọt nước mắt ngọt ngào (tt & hết) ................. Đàm Lan .. 117 Nắng cuối ngày ................... Nguyễn Thị Mây .. 128 |