Hiện có 5 người xem / 2521152 lần xem
         info@sachvatranh.com       84 (0) 1 222 929 703        

VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 09 / 4 /2016 

CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY

Như thường lệ, để mở đầu phiên họp Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai cuốn sách mà ông mới có: lần này cả hai cuốn đều là tân thư, một cuốn bằng A nh ngữ và một cuốn bằng tiếng Việt vừa được cho ra lò. Cuốn tiếng A nh mang tựa đề là “Cuộc theo dõi cuối cùng những chuyện tầm phào” (The U ltimate Trivial Pursuit). Cuốn sách khổ 13x18, dày 866 trang này, dù cái tựa đề dùng cụm từ những chuyện tầm phào, nhưng trên thực tế là một dạng sách Hỏi Đáp chứa đựng 2500 câu hỏi và 2500 câu đáp (trả lời) thuộc các lãnh vực như: Địa lý – Gi ả i trí - Lịch sử - Nghệ thuật và Văn chương - Khoa học và Thiên nhiên - Thể thao và Thư dãn, và là kết quả của Trò chơi trên mạng mang tên “Cuộc theo dõi những chuyện tầm phào” trong 25 năm vừa qua. Tuy mang tên là Tầm phào nhưng đây là những câu hỏi đáp giúp người đọc nâng cao kiến thức phổ thông khi đọc chúng. Và sau đây là một vài thí dụ Hỏi - Đáp trích trong sách:

A.- Hỏi - Cái tên gồm 4 chữ cái của nước Thái Lan trước năm 1949 là gì?

Đáp - SIAM

Câu hỏi nằm ở trang trước và câu đáp nằm ngay ở trang sau.

B.- Hỏi - Ai là ông Bầu của ca sĩ Elvis Presley?

Đáp - Đại Tá Tom Parker

Với những câu hỏi đáp như câu này thì quả thật là chuyện tầm phào vì ai cần biết ông bầu của anh bạn ca sĩ này là ai cơ chứ? Và biết thì được ích lợi gì?

C.- Hỏi - Nelson Mendela lập gia đình mấy lần?

Đáp - Ba lần (nghĩa là nhân vật này có 3 Quốc Hội)

Tuy nhiên, ngoài ba câu hỏi trên, 2497 câu còn lại liên quan tới 6 lãnh vực nói trên cũng cực tốt để giúp người đọc học hỏi, mở mang kiến thức. Ngoài ra cuốn sách được in cực đẹp nên người viết, vốn là kẻ rất hay tò mò về chuyện đời, đã rất yêu thích cuốn sách.

Cuốn thứ nhì được giới thiệu là tác phẩm mới ra lò mấy ngày trước của chính một thành viên của CLB là cô Huỳnh Thiên Kim Bội, ái nữ của tác giả - nhà thơ Huỳnh Thiên Kim, người đã viết bộ “Cận Đại Việt Sử diễn ca” bằng thơ lục bát rất được mọi người đọc yêu thích hồi nửa thế kỷ trước, vào năm 1962. Tác phẩm mang tựa đề là Sầu Riêng, dày 164 trang, do Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TPHCM in và được trình bày rất đẹp, rất bắt mắt. Nội dung gồm 5 truyện ngắn, là những truyện có thực của bản thân tác giả và của gia đình được viết thành truyện ngắn, bằng một văn phong trong sáng, thuần Việt không hơi hướm lai căng, ẩn dụ, hiện dụ, hậu hiện đại, hậu ma dại, như sách của nhiều tác giả khác thường được “hơi bị chê” bởi người đọc; nhiều người trót mua, đọc chán quá mang đi bán lại chưa được 1/4 số tiền đã trả. Văn phong của tác giả không những giản dị, trong sáng và thuần Việt, mà còn rất sâu sắc, mang dấu ấn cuộc chiến mà đất nước ta đã kinh qua trong mấy chục năm gần đây. Khi được tác giả tặng, người viết cũng đã đọc được hai trong năm truyện và cảm thấy thích thú, coi như nữ tác giả đã khá thành công, và rồi sẽ được người đọc yêu thích. Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu xong, vài thành viên đã chuyền tay nhau xem hai cuốn sách một cách thích thú. Giới thiệu sách xong, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã thông báo về việc thôi không làm triển lãm các tác phẩm của các thành viên vào kỳ họp kỷ niệm 10 năm ngày thành lập CLB vì không thấy có tác dụng gì cho lắm.

Sau khi Dịch giả Vũ Anh Tuấn giới thiệu sách xong, anh Dương Lêh đã có một bài nói chuyện ngắn về cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và một vài ca khúc rất nổi tiếng đã được sáng tác trong nhiều tình huống khác nhau. Anh Dương Lêh nói xong, anh Nhựt Thanh lên nói về “Tiếng hò miền Nam” qua một bài nói ngắn. Sau anh Nhựt Thanh, anh Thanh Châu, với tiếng hát át tiếng bom quen thuộc, đã lên hát tặng các thành viên bài Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn. Anh Thanh Châu hát xong, cô Kim Sơn lên nói về Lễ Tết 4 nước ở Campuchia và hát tặng các thành viên bài Samaki nói về tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia. Tiếp lời cô Kim Sơn, anh Lê Nguyên lên ngâm tặng các thành viên 2 bài thơ. Anh Lê Nguyên ngâm thơ xong, đến lượt anh Quang Bỉnh lên hát tặng các thành viên một bài cổ thi. Anh Quang Bỉnh hát xong Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã kể tặng các thành viên một truyện khôi hài ngắn mang tựa đề là “Hắn, tên Thiện Quỷ” là một truyện của ông đã được đăng tải trên trang Hoamai-aus.org.au ở Úc Châu. Buổi họp sau đó đã kết thúc vào lúc 11g15 cùng ngày.

VŨ THƯ HỮU

VÀI CHI TIẾT VỀ MỘT QUÝ THƯ

CHƯA CỔ LẮM MÀ TÔI MỚI CÓ

Mấy ngày trước, trong lúc đang tầm quý thư tại một tiệm sách của một anh bạn ở ngay trước cửa nhà tôi, tôi tình cờ bắt gặp cuốn quý thư này, và rất thích, vì thấy nó được đóng bìa cứng rất đẹp, mà bên trong thì bìa trước bìa sau đều còn nguyên cả, nhất là nó lại là bản in lần thứ nhất. Cuốn sách mang tên là NHỮNG LỖI THÔNG THƯỜNG TRONG THUẬT VIẾT VĂN, của nhà giáo Nguyễn Văn Hầu (1922-1995), người mà tôi tuy không quen biết, nhưng cũng được gặp ông hai lần tại một khách thính ở Saigon cũ.


Cuốn quý thư này được Cơ Sở Xuất Bản Tự Do xuất bản năm 1960, sau đó được tái bản lần thứ nhất bởi nhà xuất bản Hương Sen vào năm 1972, và gần đây được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ ba vào năm 2005. Sau khi trả 350 đô mít(*) và rước quý thư về, tôi liền bỏ ra 2 giờ liền để lướt qua toàn bộ cuốn sách và thấy nó rất hay, nên hôm nay xin hân hạnh giới thiệu nó với quý bạn thành viên. Sách dày 190 trang và được chia thành 10 chương và 4 chương phụ lục nói về “Các loại văn”.

Chương 1.- Mang tựa đề là Ý VÀ LỜI được viết để khuyên người viết nên viết sao cho “lời phải xứng ý”, không nên viết ý ít lời nhiều cũng như ý nhiều lời ít. Cuối chương là một bài văn mẫu.

Chương 2.- Mang tựa đề là CÂU VĂN được viết để khuyên người viết viết sao cho câu văn được lành mạnh trong sáng, và nên tránh các câu văn dài, ngắn, què, tối nghĩa, huyênh hoang, và vô nghĩa.

Chương 3.- Mang tựa đề là CHỮ DÙNG TRONG VĂN được viết để khuyên người viết sao cho chữ nghĩa phong phú, nhưng chính xác, không dùng chữ sai, chữ khiên cưỡng, cũng như không nên dùng quá nhiều những điển cầu kỳ, và chương này cho vài thí dụ về “tài lựa chữ của cổ nhân” rất hấp dẫn.

Chương 4.- Mang tựa đề là CHẤM CÂU được viết để khuyên người viết nên tìm hiểu rõ “công dụng của các dấu”, để biết những “dấu chấm và phết có thể sửa được”, để biết dùng nhiều “dấu ngoặc và dấu gạch”, cũng như để đừng dùng chấm hỏi không nhằm chỗ, và để hiểu rõ “quy tắc chấm câu”. Cuối chương là một bài viết ngắn phân tích lối chấm câu của nhà văn Lan Khai.

Chương 5.- Mang tựa đề là CHÍNH TẢ được viết để giúp người viết hiểu “viết sai chính tả có hại ra sao”, và để cho người viết biết về “sự viết sai và khác nhau của đồng bào ta ở ba phần”, và về “sự viết sai của nhà văn”, cũng như “cần tập nói đúng để viết đúng”, và “trong lúc chưa nói đúng được thì phải làm sao?”

Chương 6.- Mang tựa đề là CÁI RƯỜM TRONG VĂN được viết để giúp người viết tránh được những từ ngữ rườm, nhưng câu rườm, những đoạn rườm, và cuối chương là vài đoạn văn không rườm rà mà cũng không cộc được nêu ra như những thí dụ.

Chương 7.- Mang tựa đề là CÁI SÁO TRONG VĂN được viết để giúp cho người viết hiểu thế nào là “cái sáo trong văn”, thế nào là “văn sáo” và thế nào là “văn thoát sáo”.

Chương 8.- Mang tựa đề là CÁI ĐIỆP TRONG VĂN được viết để giúp người viết hiểu rõ về “điệp ý và điệp lời”, “điệp âm và điệp vận”, “điệp điệu”, những “điệp tự không thể sửa” và về “phép điệp”.

Chương 9.- Mang tựa đề là HÌNH ẢNH TRONG VĂN được viết để giúp người viết hiểu rõ phải làm gì “nếu không kiếm được hình ảnh”, nếu “hình ảnh kỳ quặc”, hoặc “non nớt”, và để hiểu về “những tiếng tượng hình và tượng thanh”, cũng như “những hình ảnh trong văn cổ” và cuối cùng là hiểu về “phép kiếm hình ảnh”.

Chương 10.- Mang tựa đề là NHẠC TRONG VĂN được viết để giúp cho người viết biết rằng “văn xuôi cũng cần nhạc”, và chuyện gì sẽ xảy ra “nếu viết câu khó đọc”, nếu “viết văn khô khan”. Đồng thời cho người viết biết là “tiết điệu cũng quan hệ tới nhạc”, và phải biết “đối chỉnh ảnh hưởng tới nhạc” ra sao. Và cuối chương là “một đoạn văn có nhạc” được dùng làm thí dụ.

PHẦN PHỤ LỤC mang tên là CÁC LOẠI VĂN

Phụ lục 1.- Mang tựa đề là MIÊU TẢ được viết để giúp người viết biết là phải “quan sát để miêu tả” và cho người viết hay về các “loại miêu tả” như “tả đồ vật, tả thực vật, tả loài vật, tả người, tả hoạt cảnh, phong cảnh và tả hiện tượng”

Phụ lục 2.- Mang tựa đề là THUẬT SỰ được viết để giúp người viết hiểu về “cách viết văn thuật sự, cách thuật chuyện đã nghe và chứng kiến, cách thuật ký ức của mình hay của người khác, và cách thuật chuyện đàm thoại của nhiều người”.

Phụ lục 3.- Mang tựa đề là THƯ TÍN được viết để giúp người viết hiểu về “cách viết thư tín” và về các loại thư như “thư gửi cho người thân, thư xã giao, thư công việc”.

Phụ lục 4.- Mang tựa đề là NGHỊ LUẬN được viết để giúp người viết hiểu rõ về “đại cương của nghị luận, về luận phổ thông và về luận văn chương”.

Tóm lại cuốn sách là cả một giáo trình, cả một kho tư liệu về viết văn, đồng thời cuốn sách cũng cho người đọc và người viết biết về sự phong phú vượt bực của tiếng Mẹ Âu Cơ, với biết bao thí dụ đọc thú hơn là đọc tiểu thuyết… vậy!

Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, Chương VI

VŨ ANH TUẤN

(*) Tuy giá cuốn sách tái bản năm 2005 chỉ vài chục ngàn chưa tới 100 ngàn, nhưng tôi vẫn rất hạnh phúc khi phải trả 350 ngàn… đơn giản chỉ vì sách là BẢN GỐC.

THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ VỀ

“CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG

Bản dịch của Linh mục Aug. Nguyễn Văn Trinh

(Tiếp theo số 119 )

IV. SUY GIẢM PHẨM CHẤT CUỘC SỐNG

VÀ SUY THOÁI CỦA XÃ HỘI

43. Nếu chúng ta nhận thức con người là một thụ tạo trên trái đất này, họ có quyền sống và hạnh phúc, ngoài ra còn có một phẩm giá rất đặc biệt; chúng ta không thể bỏ qua các hậu quả của việc tàn phá môi trường, của mẫu phát triển hiện hành và văn hóa đào thải đối với sự sống của con người.

44. Ngày nay, tỉ dụ, chúng ta quan sát sự phát triển vô giới hạn, vô trật tự của các tỉnh thành, đến độ không còn có thể sống lành mạnh tại đây, không những vì việc ô nhiễm do khí thải độc hại, nhưng còn vì sự lộn xộn trong thành phố, vì vấn đề giao thông và khổ ải vì tiếng động và mầu sắc. Nhiều thành phố đã trở thành những cơ cấu không chút kinh tế, sử dụng năng lượng và nước quá tải. Có những khu phố, dù mới được xây dựng, bị tắt nghẽn và vô trật tự, không có đủ các mảng xanh. Điều này không thích ứng cho dân cư của hành tinh, bị chết nghẹt vì xi-măng, dầu đường, các tấm kiếng, kim loại và cướp đi sự liên hệ thể lý với thiên nhiên.

45. Nhiều vùng trong thành thị cũng như thôn quê bị tư nhân hóa đất đai, gây khó khăn cho dân cư khó tiếp xúc với các vùng này và không thể chiêm ngắm vẻ đẹp các nơi đây. Nhiều nơi khác, người ta tạo những vùng “sinh thái” để chỉ phục vụ một ít người, nhưng cấm kẻ khác bước vào để đừng phá sự yên tĩnh nhân tạo. Người ta cũng tìm thấy một thành phố có những không gian xanh được chăm sóc tốt đẹp thường ở những nơi “được bảo đảm”, nhưng lại không có trong những vùng của những người bị xã hội loại trừ.

46. Nơi những thành phần xã hội của việc thay đổi toàn cầu cũng có những hiệu quả của việc thay đổi về mặt kỹ thuật trên lao động, sự loại trừ về mặt xã hội, bất bình đẳng trong việc phân phối và sử dụng năng lượng và những việc phục vụ khác, sự phân rẽ xã hội, gia tăng bạo lực và xuất hiện những hình thức tấn công xã hội, việc buôn bán ma túy và gia tăng lượng xì ke nơi giới trẻ, việc mất đi căn tính. Đó là những dấu chứng giữa những thứ khác, cho thấy việc phát triển trong hai thế kỷ sau cùng, dưới nhiều phương diện không mang ý nghĩa phát triển và làm tốt phẩm chất cuộc sống. Vài dấu chỉ cho thấy hiện tượng sa sút về mặt xã hội, một sự đổ vỡ âm thầm của những liên hệ hội nhập và cộng đồng xã hội.

47. Ngoài ra còn có sự năng động của các phương tiện truyền thông xã hội và thế giới kỹ thuật số, một khi đã hiện diện ở khắp nơi, không thích hợp để triển khai khả năng sống khôn ngoan, suy tư sâu xa và tình yêu quảng đại. Những người khôn ngoan trong quá khứ, trong môi trường này, sẽ nhìn thấy sự khôn ngoan của mình tắt dần giữa sự ồn ào của các quảng cáo. Điều này đòi buộc chúng ta phải cố gắng để những phương tiện liên hệ đưa ra một sự phát triển về mặt văn hóa của nhân loại và không đánh mất sự phong phú sâu xa nhất. Sự khôn ngoan đích thực, do suy tư, đối thoại và gặp gỡ khoan dung giữa con người, không thể đạt được do việc chất đầy những dữ kiện, chỉ đưa đến một thứ thỏa mãn làm ô nhiễm môi trường tinh thần. Đồng thời cũng có xu hướng trong liên hệ đích thực với người khác với đòi hỏi phải thay thế qua mạng. Điều này cho phép chọn lựa hay loại bỏ những liên hệ theo sở thích của chúng ta, từ đó nảy sinh một mẫu tình cảm nhân tạo, chỉ qua máy móc hay màn ảnh hơn là với con người và vạn vật. Những phương tiện hiện hành đưa đến việc chúng ta trao đổi kiến thức và tình cảm với nhau. Dù vậy, đôi khi chúng ngăn cản chúng ta bước vào liên hệ trực tiếp với âu lo, bất an, niềm vui với kẻ khác và với cảm nghiệm cá nhân của mình. Vì thế chúng ta cũng không lấy làm lạ, dù có quá nhiều sản phẩm, nhưng vẫn có một sự không thỏa mãn chua xót nào đó trong liên hệ giữa con người hay một sự cô đơn buồn thảm.

V. SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG TOÀN CẦU

VỀ MẶT XÃ HỘI

48. Môi trường nhân loại và môi trường tự nhiên cùng xấu đi và chúng ta không thể đối mặt với sự hủy hoại môi trường, nếu không chú tâm đến các nguyên nhân liên kết với việc sa sút trên bình diện con người lẫn xã hội. Thật vậy, sự hủy hoại môi trường và xã hội gây tác hại cách đặc biệt cho những gì yếu đuối nhất của hành tinh: “Như kinh nghiệm chung của đời sống hằng ngày cũng như việc nghiên cứu theo khoa học cho thấy những người nghèo nhất phải chịu hậu quả nặng nề nhất của mọi thứ tấn công vào môi trường”[26]. Tỉ dụ như việc làm cạn nguồn các loài cá, gây nguy hại đặc biệt cho những người sống về nghề cá và không còn gì để thay thế được; việc làm ô nhiễm nguồn nước đụng chạm đặc biệt đến những người nghèo khổ nhất, họ không có khả năng để mua nước trong chai lọ, và việc mặt nước biển dâng cao ảnh hưởng trên những cư dân ven bờ, không có khả năng tìm nơi cư trú khác. Hậu quả của các hình thức hiện hành về việc sái trật tự được thấy rõ nơi những cái chết sớm ở người nghèo, trong sự xung khắc vì thiếu tài nguyên và nhiều vấn đề khác, không còn đủ không gian cho trật tự hiện hành này của thế giới[27].

49. Tôi muốn nhấn mạnh, người ta không có những trình bày rõ ràng về các vấn đề ảnh hưởng đặc biệt trên những người bị xã hội loại trừ. Họ là thành phần đông đảo nhất của hành tinh, hàng tỉ người. Ngày nay, họ chỉ được trình bày trong các thảo luận chính trị và kinh tế toàn cầu, nhưng hình như vấn đề của họ chỉ được xem như một thứ phụ lục, được thêm vào vì bị bó buộc hay phải nằm bên lề, khi người ta không xem họ như một vấn đề tệ hại phụ thuộc. Trong thực tế, khi đi vào hoạt động cụ thể, họ thường chỉ được nhìn ở vị trí cuối. Điều này chỉ vì, các nhà chuyên môn, lãnh đạo ý kiến, trung tâm liên lạc và quyền lực đã ở quá xa họ, trong những vùng thành phố bên lề, không có liên hệ gì đến vấn đề của những người bị loại. Những vị này sống và suy nghĩ từ một sự thoải mái theo cái nhìn của trình độ phát triển và một phẩm chất cuộc sống mà phần đông dân chúng toàn cầu không có được. Sự thiếu sót trong việc đụng chạm thể lý và gặp gỡ, đôi khi vì sự phân rẽ trong thành phố của chúng ta, giúp họ trấn an lương tâm và không biết đến một phần thực tế qua những phân tích lộn xộn của họ. Điều này cũng liên kết với những bài diễn văn “xanh”. Nhưng ngày nay chúng ta phải nhận rằng, một tiếp cận đích thực về mặt môi sinh phải biến thành một tiếp cận xã hội, phải có nhận định về mặt công bình trong các bàn thảo về môi trường, để lắng nghe tiếng than của trái đất, cũng như của người nghèo.

50. Thay vì giải quyết vấn đề của người nghèo và suy nghĩ về một thế giới khác, một số người chỉ đề nghị việc hạn chế sinh sản. Không thiếu những áp lực quốc tế trên các nước phát triển, trong khi những việc giúp đỡ kinh tế cho một số quyết định chính trị gắn liền với việc “sức khỏe sinh sản”. Những “việc chia sẻ dân chúng không đều và tài nguyên trong việc sử dụng lại ngăn cản việc phát triển và việc sử dụng lâu dài môi trường, người ta phải công nhận rằng, việc gia tăng dân số phải phối hợp với việc phát triển trọn vẹn và liên đới”[28]. Kết án việc gia tăng dân số và không đếm xỉa gì đến việc tiêu thụ quá đáng của một số người ưu tuyển, thì không thể là cách thế giải quyết vấn đề. Một cố gắng, hợp pháp hóa mẫu hiện tại của việc phân chia, trong đó số ít tin rằng mình có quyền tiêu thụ, điều không thể nào phổ quát cho tất cả mọi người được, chỉ vì hành tinh không thể có khả năng chịu đựng được rác thải của một thứ tiêu thụ như vậy được. Ngoài ra chúng ta cũng biết rằng, một phần ba lương thực cho cuộc sống bị phung phí và “lương thực bị bỏ đi, cũng là cướp đi từ bàn ăn của người nghèo”. Dù vậy, phải chú tâm đến sự mất cân bằng trong việc phân chia dân số trên đất đai, về phương diện quốc gia cũng như trên phương diện toàn cầu, chỉ vì sự gia tăng sức tiêu thụ sẽ đưa đến sự lộn xộn trong hoàn cảnh của nhiều vùng vì liên hệ đến các vấn đề như ô nhiễm môi trường, giao thông, xử sự với rác thải, tài nguyên bị thất thoát và phẩm chất cuộc sống.

51. Sự bất bình đẳng không chỉ ảnh hưởng đến từng cá nhân, nhưng trọn cả đất nước, buộc phải suy nghĩ đến đạo đức trong liên hệ quốc tế. Thật vậy, có một “món nợ về mặt môi sinh” – đặc biệt giữa miền bắc và miền nam – liên kết với sự bất bình đẳng trong thương mại và những hậu quả của chúng trên bình diện môi trường cũng như với việc sử dụng bất bình đẳng các tài nguyên thiên nhiên. Việc xuất khẩu vài thứ nguyên liệu thô, thỏa mãn thương trường của miền bắc với công nghệ của họ, đã tạo nhiều tai hại cho địa phương như việc gây ô nhiễm với chất thủy ngân trong các mỏ vàng hay gây độc hại với chất dioxid lưu huỳnh trong các mỏ đồng. Người ta phải chịu trách nhiệm trước sự kiện sử dụng không gian môi sinh của cả hành tinh để chất chứa các khí thải, gom góp lại trong vòng hai thế kỷ và đã tạo ra hoàn cảnh đưa tất cả quốc gia trên trái đất cùng chịu khổ. Sự đun nóng do việc tiêu thụ kinh khủng của các nước giàu, đưa đến hậu quả trong các vùng nghèo khổ trên trái đất, đặc biệt là Phi Châu, mà việc gia tăng nhiệt độ đưa đến khô hạn, tàn phá các vùng canh tác. Còn những tai hại khác, việc xuất khẩu các rác thải cứng và lỏng độc hại vào các nước đang phát triển và qua tác động gây hại cho môi trường do các các nước giàu, vì cho rằng họ mang tài chính đến các nước nghèo này: “Chúng tôi xác nhận các nhà kinh doanh quốc tế, đã làm như thế tại đây điều mà họ không được phép làm trong các nước phát triển, thường được gọi là thế giới thứ nhất. Nói cách chung, họ phải ngưng ngay hoạt động của họ và rút khỏi nơi đây, họ đã để lại nhiều tai hại cho con người và môi trường như thất nghiệp, làng mạc không sức sống, cạn kiệt dự trữ tự nhiên, rừng bị tàn phá, làm nghèo cả nông nghiệp địa phương và nuôi súc vật, cỏ dại, đồi trọc, sông bị nhiễm khuẩn và vài công tác xã hội không còn khả năng tiếp tục”[30].

52. Món nợ bên ngoài của các nước nghèo trở thành một công cụ quản lý, nhưng nó không giống với món nợ môi trường. Theo nhiều cách, một ít dân tộc phát triển chú tâm đến việc dự trữ môi sinh, tiếp đến là việc phát triển các nước giàu nhất, dựa trên giá trị của hiện tại và tương lai. Đất đai của người nghèo ở miền nam thật phì nhiêu và ít bị hủy hoại môi trường, nhưng để chiếm hữu những tài sản và tài nguyên này để thỏa mãn cho cuộc sống, họ bị một hệ thống thương mãi và sở hữu quái ác ngăn cấm. Các nước phát triển cần phải giải quyết món nợ này, bằng cách giới hạn việc sử dụng năng lượng không thể tái hồi và phải cứu trợ cho những nước cần nhất, để nâng đỡ hệ thống chính trị và những chương trình giúp cho việc phát triển lâu dài. Những vùng và các quốc gia nghèo nhất có rất ít khả năng để áp dụng các mẫu mới để thu hẹp các tai họa của hoạt động con người trên môi trường, vì họ không được đào tạo để triển khai các tiến trình cần thiết và họ cũng không có khả năng để trả phí tổn. Vì thế, người ta phải ý thức, trong việc thay đổi khí hậu, phải có những ý thức cần thay đổi (diversifizierte Verantwortlichkeiten – responsabilités diversifíées) và – như các Giám Mục nước Mỹ nói – “phải tập trung vào nhu cầu đặc biệt của người nghèo, người yếu đuối và những người bị thương tật, trong một tham luận thường chỉ chú tâm vào lợi ích của những người giàu”[31]. Chúng ta cần ý thức mạnh mẽ hơn, chúng ta là một gia đình nhân loại duy nhất. Không có ranh giới hay rào cảng chính trị ngăn cách chúng ta lẻ loi, vì lý do đó, không có chỗ cho việc toàn cầu hóa sự dửng dưng.

(còn tiếp)

(Đã được Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh cho phép phổ biến)

PHÁT HIỆN MỚI

VỀ CHÚ ĐẠI BI

Có lẽ gọi đó là phát hiện mới thì cũng không có gì sai, vì bao đời nay, CHÚ ĐẠI BI là Kinh Nhật Tụng của các tu sĩ. Phật tử cũng được khuyến khích trì tụng, vì cho là “chỉ cần thành kính tụng chú này thì được sự hộ trì của Chư Bồ Tát, cầu gì được nấy. Trước khi tụng lại phải chuẩn bị mọi thứ sạch sẽ, trang nghiêm. Lúc đọc cũng phải rõ ràng, giọng phải trầm hùng thì mới có hiệu quả”. Vì thế, tôi không ngạc nhiên khi đọc được những lời phát biểu đầy hoang mang của một số Phật Tử khi nhận được và gởi cho nhau bản dịch của dịch giả Huỳnh Bá Hinh (xin mạn phép dịch giả để phổ biến tiếp).

Trước khi nghiên cứu Đạo Phật được áp dụng theo kinh điển Đại Thừa tôi cũng thấy có đôi chút tò mò về Mật Tông, vì theo lời giới thiệu ở đầu quyển Kinh của Ô. Ngô Trọng Anh, một C ư S ĩ nổi tiếng ở Saigon trước 75: “Mật Tông là phương tiện thiện xảo cho người hành trì đã và đang được duy trì bên Tây Tạng và Thiên Trúc mà những C ao Tăng đi vào con đường giải thoát bằng Phép Thuật” . Do đó, tôi cũng có đọc qua, nhưng không nghiên cứu sâu về Tông này, vì thấy đa phần trong Kinh hướng dẫn khi Lập Đàn, Đọc Chú, đều vì mong cầu, trong khi mục đích của người Phát Tâm tu hành chân chánh thật sự là vì thấy cuộc đời là Khổ, nên vào tu hành là mong muốn Thoát Khổ, không phải để cầu những điều hơn thua trong cuộc sống. Nhưng Kinh viết:

Lập Đàn số 3: muốn biết việc vị lai. Số 15: Cầu hơn trong tranh tụng, đấu tranh. Số 19: Cầu giàu có, nhiều của báu. Số 20: Khiến người kính thương, vui mừng. S ố 26: Hai bên giao tranh cầu chiến thắng.

Người vào tu Phật vì thấy rằng cuộc đời là giả tạm, nên phát tâm đi tu để tìm Chân Lý Thường Còn. Kinh Mật Tông lại dạy những điều mong cầu đáp ứng cho cái Giả Ngã được thuận lợi hơn người. Như thế sao gọi là tu hành để Xả cái Giả Ngã?

Nhưng nếu chưa biết trong đó chứa đựng những gì mà vội bài bác thì cũng không đúng với tinh thần người muốn học hỏi. Thế là tôi đã để thêm một số thời gian, đọc Kinh CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI để xem sự khác biệt giữa HIỂN TÔNG với bao nhiêu Pháp cần Tư Duy, Soi Quán, T hực H ành, so với MẬT TÔNG Lập Đàn, Kết Ấn, gọi là tu theo PHÉP THUẬT như thế nào?

Mở đầu Kinh, tôi thấy giải thích: “Một đời thuyết pháp của Đức Như Lai, giáo lý của Ngài chia ra làm 3 Tạng, gọi là KINH, LUẬT, LUẬN. Tạng Giáo tuy phân ra làm ba, nhưng không ngoài Hiển Giáo và Mật Giáo.

Hiển Giáo nói rộng Tánh, Tướng để hiểu ngộ lý mầu, tu chứng Pháp Thân. Mật Giáo chỉ khiến tụng trì được thầm lên Thánh vị và vượt ra ngoài sự hiểu biết”.

Theo chỗ tôi hiểu thì mãi sau khi Phật nhập diệt 200 năm mới có Kinh điển thì thời đó làm sao có Kinh mà tụng, lại chỉ cần tụng mà lên Thánh Vị? Như vậy, thời Phật hiện tiền Kinh chưa có, thì các vị Giác Ngộ lấy đâu mà tụng để đắc Quả Thánh? Hơn nữa, nếu nói Kinh này cho người cuối Đại Thừa, mà theo Đại Thừa, thì Quả Vị “chỉ là hóa thành cho người tu lâu không thấy đạt được gì thì sợ họ nản lòng”, nên Phật tạm đặt ra, để cho họ vì ham muốn, mà tiếp tục hành trì. Mục đích tu hành của Đạo Phật là để được Giải Thoát, đâu phải để đạt Quả Vị? Nhưng tôi cũng đọc tiếp để thấy phần Kinh văn viết khá nhiều câu Chú bằng tiếng Phạn, và người muốn cầu mong điều gì thì Lập Đàn, Tụng Chú và Bắt Ấn bằng cách đan những ngón tay với nhau tương ứ ng với câu Chú. Nhưng phần câu Chú thì không giải nghĩa hết, chỉ giải thích một số từ. Chính vì vậy Chú mà trở thành mật ngữ, vì người đọc không biết tiếng Phạn thì làm sao hiểu nội dung câu Chú có ý nghĩ gì. Do đó, họ cứ đọc, chọn những Đàn mà họ cần, mục đích để mong cầu mà thôi. Chẳng biết xuất phát từ đâu mà có nhiều người còn cho rằng “càng không hiểu ý nghĩa thì mới càng linh ứng”!

Phần Lập Đàn, Bắt Ấn thì tùy theo sự kết hợp của những ngón tay với nhau mà Ấn có những tên gọi khác nhau, và để mong đạt mục đích khác nhau. Nhưng xem kỹ thì thấy: Mỗi ngón tay tượng trưng cho một việc làm:

- Năm ngón bên trái tượng trưng cho: TRÍ, HUỆ, TIỆN, NGUYỆN, LỰC.

- Năm ngón bên phải tượng trưng cho ĐÀN, GIỚI, NHẪN TẤN, THIỀN.

Đó là mười việc mà người tu theo Hiển Tông phải thực hành theo Luật Nhân Quả. Tôi tin rằng không thể nào chỉ dùng mấy ngón tay kết vào nhau mà cho rằng mình đã thực hành những pháp đó, sẽ mang lại kết quả như mong muốn!

Đọc hết quyển Kinh, tôi thấy trong đó có ghi rõ: “Người tu theo Mật Tông cũng phải có GIỚI, ĐỊNH, HUỆ”. Kinh cũng dặn dò những cách thức trước khi khởi ý muốn LẬP ĐÀN. Dặn dò khi muốn cầu mong việc gì, thì cần làm những điều gì? Qua đó, tôi cho rằng đó chẳng qua là phương tiện của Chư Vị Giác Ngộ đặt ra để người thích những gì cao siêu, huyền bí, đinh ninh đây là pháp cao của Đạo Phật để thực hành theo đó. Do vậy, trước khi khởi tâm mong đạt được điều gì đó thì họ bắt buộc trước đó phải hành một số pháp mà đối chiếu lại thì thấy không khác với bên Hiển Tông. Nhưng hình như đa phần người Lập Đàn chỉ nhắm vào Đàn mà bỏ quên những điều cần thực hành trước khi Lập!

Thật vậy, nếu có GIỚI, có ĐỊNH, có HUỆ tôi tin rằng không ai khởi tâm tranh hơn thua, hay mong muốn được điều nọ điều kia mà không phải do sức của mình làm tương ứng với Luật Nhân Quả. Hơn nữa, cuối Kinh còn có lời dặn dò người Lập Đàn: “Phải biết tội có tánh tội và giá tội, sám hối phải đủ sự, lý. Tánh thời không luận Thọ Giới hay không Thọ Giới, làm là có tội”.“Nếu phạm cấm Giới, căn cứ theo luật nói sám hối, gia thêm Thần Chú, thời sự, lý gồm đủ, tánh giá đều tiêu hết không sót. Không thể vừa nghe công lực của thần chú như thế, liền trái lại phạm cấm Giới, không y luật sám hối thì giá tội cũng phải còn. Hoặc nhờ nương nghi quỹ Chơn Ngôn lại tạo thêm các lỗi. Thí như người ngu, ỷ thế lực của Vua, rộng tạo các ác, họa trọn đứt đầu. Nghiệp tâm không dứt, tội thật khó trừ, quyết khiến thân tâm điều tiêu mới được tội diệt, như ánh mặt trời sương mù tiêu tan. Rõ ràng là lời cảnh báo mạnh mẽ cho những ai mong nương nhờ Công Lực của Thần chú để tiếp tục tạo ác. Từ đó tôi không còn thắc mắc về Mật Tông nữa, dù nghĩ rằng hẳn phải có một số linh ứng nhất định nào đó, nên nhiều người mới tu theo.

Cách đây vài tháng, có người gởi cho bài TÌM VỀ CHÚ ĐẠI BI của dịch giả Huỳnh Bá Hinh. Dịch giả cho rằng vì thuở nhỏ nghe thấy các Sư tụng bằng một ngôn ngữ lạ hoắc “bà dô bà ra” không hiểu gì. Ông tò mò hỏi nhiều vị thầy thì được trả lời: “Đó là chú của nhà Phật, bất khả tư nghì, không thể nghĩ bàn, nói ra thì sợ mất linh ứng”. Nhưng khi lớn lên, ông tìm hiểu thì biết bài chú đó có tên là “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni”, do Bồ Tát Quán Thế Âm tuyên chú trước hội các Chư Phật, Bồ Tát.

Theo dịch giả, rất nhiều Kinh đã được dịch ra tiếng Việt thì cũng có một số chỉ chuyển từ phiên âm chuyển sang phiên âm khác để trở thành tối nghĩa, thậm chí người Trung Hoa đã y theo 84 câu để chế ra 84 hóa thân của Đức Quán Âm, trong khi nguyên văn chỉ có 36 câu. Xin được trích lại nguyên văn bài dịch, mạn phép bỏ đi phần viết bằng tiếng Phạn vì có lẽ có viết ra cũng không có ai hiểu nổi:

Câu 1 : Nam Mô Hắc Ra Đát Na Ra Dạ Da (thành kính đảnh lễ ngôi Tam Bảo)

Nam Mô A Rị Da Bà Lo Yết Đế Thước Bát Ra Da (thành kính đảnh lễ Đức Quán Tự Tại - Đức Quán Thế Âm)

Câu 2 : Bồ Đề tát đỏa bà da ma ha tát đóa bà da ma ha ca lô ni ca da (bậc Bồ Tát giác ngộ hữu tình - bậc đại sĩ - bậc đại bi tâm)

Câu 3: Án tát bản ra phạt duệ số đát na đát tá (tán thán việc quy y nhất thiết thánh chúng và chánh pháp tùy thuộc)

Câu 4: Nam Mô tất kiệt tật đóa y mông a rị da bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đá bà Nam Mô na ra cần tri hê rị (Sau khi hoàn tất việc đảnh lễ đấng quán Tự Tại Quán Âm Đại từ Bi Tâm Địa tiếp đến thành kính đảnh lễ các bậc đại chí thánh, bậc hiền thiện tôn giả).

Câu 5 : ma-ha bàn đa sa mê (Phóng ra ánh sáng đại quang minh)

Câu 6 : Tát bà tát ba a tha đậu du bằng a thệ dựng Tát bá tát da na ma bà tát đa (Khiến cho hết thảy chúng sanh nhất thiết được vô ưu tý bỉ vô tham và trong sạch diệu tịnh)

Câu 7 : Na ma bà tát da Nam ma bà dà Ma phạt đạt đậu

(Từ đó, hướng tâm đảnh lễ quy y bậc thiện hữu tình, quy y bậc đồng từ mà trời và người đều hằng mong thân cận).

Câu 8 : Dát diệt tha Án A bà lo hê Lo ca đế (Thần chú tuyên ra: Hợp nhất thể đại đồng với Quán Tự Tại)

Câu 9 & 10 : Ca ra đế Di hê rị Ma ha bồ đề tát đỏa Tát bà tát bà Ma ra ma ra (Từ người phát đại bi tâm đến nhất thiết các đại giác hữu tình như hoa thanh tịnh vô nhiễm lan ra khắp nơi chốn)

Câu 11 & 12 : Ma hê ma hê ra đà dựng

(phát đại tự tại tâm hăng hái thường tạo nên các thiện nghiệp )

Câu 13 &14 : Cu lô cu lô yết mông Đô lô đồ lô phạt xà da đế Ma ha phạt xà da đế Đà la đà ra Địa rị ni Thất Phật ra da (mới có năng lực độ thoát khỏi các triền phược và vượt thẳng lên được, phải ráng sức duy trì cho có được tâm kiên cố dũng mảnh tự tại)

Câu 15 : Giá ra giá ra Ma mạ phạt ma ra Mục đế lệ (lâu dần cho biến hóa dẫn đến sự giải thoát vô nhiễm)

Câu 16 & 17 : Y hê di dê Thất na thất na Ra sâm Phật ra xá lợi Phạt sa phạt sâm Phật ra xá da (nương theo đó mà thực hiện hoằng pháp hởi vị Pháp vương tử chủ của hòa bình).

Câu 18 & 19 : Hồ lô hô lô ma ra Hô lô hô lô hê ly (tiếp tục tu hành, tiếp tục làm sạch thân và làm sạch tâm - thanh tẩy thân tâm)

Câu 20 & 21 : Ta ra ta ra Tất rị tất rị Tô rô tô rô Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ Bồ đà đa bồ dà dạ (với tâm đại từ đại bi khi người đã thành tựu trong việc giải thoát tương ứng với vạn pháp, thành tựu trong đức hạnh)

Câu 28 & 29 & 30 : Ma ra na ra Ta bà ha Tất ra răng a mục khê da Ta bà ha Ta bà ma ha a tất dà dạ Ta bà ha (Thành tựu trong diệu nghĩa vô cấu, thành tựu không ai có thể sánh khi nói ra có sức thuyết phục, thành tựu ai có thể sanh trong tất cả các ý nghĩa sâu sắc)

Câu 31 & 32 : Giá kiết ra a tất đà dạ Ta bà ha Na đà ma kiết tất đà dạ Ta bà ha

(thành tựu không ai sánh trong chuyển pháp luân, thành tựu không ai sánh trong đóa sen đỏ tượng trưng cho diệu tịnh nghiệp)

Câu 33 & 34: Na ra cần trì bàn đá ra dạ Ta bà ha Ma bà rị thắng yết ra dạ Ta bà ha ( thành tựu trong việc trở thành Đức Thế Tôn, thành tựu trong đem uy đức của mình tạo ra tín nhiệm cho mọi người)

Câu 35 : Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da Nam mô a rị da Bà lô kiết đế Thước bàn ra dạ Ta bà ha (thành kính đảnh lễ ngôi tam Bảo, thành kính đảnh lễ đức Quán Tự tại, Đức Quán thế Âm)

Câu 36 : Án Tất diện đô Mạn đà ra Bạt đà gia Ta bà ha

(tuyên chú: hiệp nhất các thành tựu viên mãn, đạt được sự viên mãn thành tựu đó qua trì tụng lời chân ngôn này).

Việt dịch của trọn bài chú như sau :

“Thành kính đảnh lễ Ngôi Tam Bảo. Thành kính đảnh lễ Đức Quán Tự Tại Quán Thế Âm, Bậc Bồ Tát giác ngộ hữu tình, bậc Đại Sĩ, bậc Đại Bi Tâm. Tán thán việc quy y nhất thiết Thánh Chúng và chánh pháp tùy thuộc. Sau khi hoàn tất việc đảnh lễ đấng Quán Tự Tại Quán Âm Đại Bồ Tát Đại Từ Bi, tiếp đến thành kính đảnh lễ các bậc Đại Chí Thánh, bậc Thiện Hiền tôn giả. Phóng ra ánh sáng đại quang minh khiến cho hết thảy chúng sinh nhất thiết được vô ưu tý bỉ vô tham và trong sạch diệu tịnh. Từ đó hướng tâm đảnh lễ quy y bậc thiện hữu tình, quy y bậc đồng tử mà trời, người đều rất mong thân cận.

Thần chú tuyên ra: Hợp nhất thể đại đồng với Quán Tự Tại. Từ người phát Đại Bi Tâm đến nhất thiết các đại giác hữu tình như hoa thanh tịnh vô nhiễm lan ra khắp nơi chốn phát Đại Tự Tại Tâm, hăng hái thường tạo nên các thiện nghiệp mới có năng lực độ thoát khỏi các triền phược và vượt thẳng lên được, phải ráng sức duy trì có được tâm kiên cố dũng mãnh tự tại, lâu dần cho biến hóa dẫn đến sự giải thoát vô nhiễm. Nương theo đó mà thực hiện hoằng pháp bởi vị pháp vương tự chủ của hòa bình. Tiếp tục tu hành, tiếp tục làm sạch thân và làm sạch tâm - Thanh tẩy thân, tâm. Với Tâm Đại Từ Đại Bi khi người đã thành tựu trong việc giải thoát tương ưng với vạn pháp, thành tựu trong đức hạnh, thành tựu trong diệu nghĩa vô cấu, thành tựu không ai có thể sánh khi nói ra có sức thuyết phục, thành tựu không ai có thể sánh trong tất cả các ý nghĩa sâu sắc, thành tựu không ai sánh trong chuyển pháp luân, thành tựu không ai sánh trong đóa sen đỏ tượng trưng cho diệu tịnh nghiệp, thành tựu trong việc trở thành Đức Thế Tôn, thành tựu trong đem uy đức của mình tạo ra tín nhiệm cho mọi người. Thành kính đảnh lễ ngôi Tam Bảo, thành kính đảnh lễ Đức Quán Tự Tại, Đức Quán Thế Âm. Tuyên chú: Hiệp nhất các thành tựu viên mãn, đạt được sự viên mãn thành tựu đó qua trì tụng lời chơn ngôn này”.

Rõ ràng toàn bài chú toàn là những việc cần phải hành trì để trở thành Đức Thế Tôn, bằng cách: Hăng hái tạo các thiện nghiệp, thanh tẩy thân, tâm, hiệp nhất với Ngài Quán Tự Tại, với tâm Đại Từ, Đại Bi để đạt được thành tựu trong giải thoát vô nhiễm, trở thành Đức Thế Tôn.

Phải chi những vị có trách nhiệm phổ biến Đạo Phật trước kia đã chịu khó dịch hết nguyên văn bài Chú Đại Bi này, thì biết bao nhiêu thế hệ qua đã không mang ra mà tụng, mà đọc để được hộ trì, mà hiểu được rằng: Đó là những lời nhắc nhở mà chúng ta nên tâm niệm, đọc đi đọc lại hàng ngày cho tới lúc thấm nhuần những hướng dẫn trong đó, rồi mang ra thực hành.

Xin trích một phần trong lời của dịch giả Huỳnh Bá Hinh: “Người xưa có nói, làm thầy thuốc phạm sai lầm thì giết một mạng người, làm chính trị sai lầm giết một dân tộc, nhưng làm văn hóa sai lầm thì giết cả một thế hệ.

Trong những bài Kinh tiếng Phạn được phiên âm sang tiếng Hán rồi lại phiên âm lần thứ nhì qua tiếng Hán-Việt tối nghĩa trên, đây không những là giết một thế hệ mà trên ngàn năm qua đã giết cả một nền đạo học tâm linh của biết bao thế hệ người Việt. Tệ hại nhất là hàng Tăng chúng với kỹ thuật hiện đại ngày nay lại không tìm hiểu nghiên cứu để phục hồi lại ý tưởng thâm diệu ban đầu của Kinh tạng, chẳng những vậy, y cứ trên hàng cư sĩ không hiểu rõ đạo, các thầy giảng dạy tùy hứng tùy tâm sở tri kiến của các thầy đến với người nghe rõ ràng là đem hạ kinh điển chư Phật xuống ngang hàng với kiến thức không thể nghĩ bàn của bản thân mình.

Phật pháp thậm thâm vi diệu cứ như thế được một số tăng chúng vô minh lợi dụng”.

Theo tôi, nếu nghiên cứu cho kỹ thì sẽ thấy Phật Pháp thật ra không có quá thậm thâm vi diệu, trái lại, mà hết sức thực tế, vì dùng Nhân Quả để giáo dục con người. Mục đích chỉ để giáo hóa con người CẢI ÁC, HÀNH THIỆN để cuộc sống hiện đời và những kiếp về sau đều được an vui, hạnh phúc. Chỉ có điều Đạo Phật đã dùng quá nhiều phương tiện, cho nên dễ gây ra hiểu lầm, nhất là với những người không chịu tìm hiểu cho kỹ, cứ “vừa mới nghe đã vội tin nhận, suy gẫm để chứng lấy” (trích Kinh Diệu Pháp Liên Hoa).

Thật vậy, đa phần người Phật Tử, kể cả nhiều Cao Tăng, dù cũng nói rằng Đạo Phật là Đạo Giải Thoát, nhưng khi thực hành thì đều cho rằng Phật là thần linh, luôn đặt trọn niềm tin vào sự cứu độ của Phật, để rồi làm gì cũng hướng về Phật, nghĩ đến Phật, cầu xin Phật, tôn sùng, phụng sự cho Phật, mà không biết rằng từ PHẬT chỉ để nói về tình trạng giải thoát mà Đức Thích Ca và Chư Vị Giác Ngộ quá khứ đã đạt được, và tất cả mọi người, hiện tại, tương lai, ai làm giống như thế cũng đều có thể đạt được. Chính vì vậy mà Đạo Phật gọi là có TAM THẾ PHẬT, không phải Tam Thế Phật là Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc như nhiều người đã hiểu sai.

Do hiểu rằng Phật là thần linh, cho nên nhiều người tu dù hành trì bao nhiêu hạnh cũng xem như để “kể công với Phật”, không phải là để bản thân mình cũng được Giải Thoát hay THÀNH PHẬT.

Trong bài chú này, ta thấy viết lại hành trình để thành ĐỨC THẾ TÔN, là “Cứu độ chúng sanh (Phóng ra ánh sáng đại quang minh khiến cho hết thảy chúng sanh nhất thiết được vô ưu tỷ bỉ, vô tham và trong sạch diệu tịnh). Để làm được điều đó thì phải: Phát Đại Tự Tại Tâm, hăng hái thường tạo nên các thiện nghiệp mới có năng lực độ thoát khỏi các triền phược và vượt thẳng lên được. Phải ráng sức duy trì cho có được tâm kiên cố dũng mãnh tự tại lâu dần cho biến hóa dẫn đến sự giải thoát vô nhiễm.

Sự kiên trì này phải được tiếp tục nuôi dưỡng: Tiếp tục tu hành, tiếp tục làm sạch thân và làm sạch tâm - thanh tẩy thân, tâm. Người hành trì như thế sẽ thành tựu trong việc giải thoát với các pháp, thành tựu trong đức hạnh, thành tựu trong chuyển pháp luân, trong đóa Sen Đỏ tượng trưng cho tịnh nghiệp, thành tựu trong việc trở thành Đức Thế Tôn.

Qua bản dịch CHÚ ĐẠI BI được làm rõ, dù chỉ có 36 câu, nhưng những gì được viết trong đó là tóm tắt những gì cần hành trì, là: Mọi người cần tự tinh tấn thanh lọc Thân, Tâm, để Sen Đỏ được nở, được trở thành Đức Thế Tôn. Tôi nghĩ, có lẽ không chỉ Bài Chú Đại Bi này, mà có thể còn rất nhiều tài liệu khác, do người trước không dịch hết nghĩa tiếng Phạn, nên người sau không hiểu được những ý nghĩa chân chính, do đó mà trở thành “xa kín nhiệm sâu, linh thiêng, huyền bí”. Mà đã xa kín nhiệm sâu, không thể hiểu đó là gì, thì làm sao Hành để đạt tới?

Đạo Phật đã có mặt ở trần gian gần 3.000 năm rồi. Lẽ ra với thời gian dài như thế thì mọi giáo điều, mọi lời Phật dạy, đã được những người có trách nhiệm nghiên cứu cho thật kỹ rồi mới truyền bá cho bá tánh để phổ biến cho mọi người, mọi giới. Không phải cứ “xưa bày, nay làm”, cứ thế mà thế hệ trước truyền cho thế hệ sau và tiếp nối, không cần quay lại nguồn gốc cho phù hợp với một Đạo Phật do Đức Thích Ca thuyết giảng. Vì đã qua gần 3.000 năm, qua biết bao nhiêu thế hệ, mọi thứ đều bị biến dịch bởi không gian, thời gian, những nhà tu hành tùy tiện chế biến theo hiểu biết của mình nên trở thành sai lạc với một ĐẠO GIẢI THOÁT mà tất cả mọi người, trong mọi hoàn cảnh, vừa có thể tu sửa bản thân, vừa trực tiếp đóng góp cho xã hội, không chỉ gò bó trong khuôn viên Chùa, làm phí phạm biết bao nhiêu tài năng, sức trẻ, vì cho rằng muốn đi tu là phải bỏ hết việc đời, phải Xuất Gia, phải đầy đủ hình tướng mới có thể tu hành thành công!

Đọc hết giáo pháp của Đạo Phật ta sẽ thấy: Tất cả những Quả vị, những cõi nọ, cõi kia chỉ là những phương tiện dụ người tu thôi đeo bám trần cảnh để khỏi Khổ, vì mục đích tu hành của Đạo Phật thật ra chỉ là để Thoát Khổ. Đạo Phật được gọi là ĐẠO ĐỘ KHỔ. Tu hành theo Đạo Phật mục đích là để được Thoát Khổ, không phải để thành Thánh, thành Phật theo nghĩa là thành một vị Thần Linh! Và cái Thoát Khổ đó phải được diễn ra ngay tại cảnh Khổ. Không phải xây tường rào che chắn hay né tránh các pháp.

Đối chiếu với cuộc đời ta sẽ thấy: Cũng giống như những người vì cuộc sống thường phải đi lại trên sông nước nên cần phải học bơi để không bị nước nhấn chìm. Học bơi là để tiếp tục đi trên sông nước. Đâu phải học bơi rồi dọn lên bờ ở để khỏi bị nước xâm phạm? Đạo Phật đâu có dạy người tu học Pháp để rồi né tránh các Pháp, không cho nó chạm đến mình? Nếu né tránh thì sao gọi là Thoát Pháp? Việc Độ KHỔ cũng thế. Đạo Phật chỉ cho chúng ta biết rằng mỗi người đều có KHẢ NĂNG THOÁT KHỔ, đó là cái PHẬT TÁNH. Chỉ cần mỗi người ý thức được điều đó, rồi theo hướng dẫn của Đạo Phật để tìm gặp và khai thác khả năng đó nơi mình để tự mình Giải Thoát gọi là Thành Phật, đâu có phải để cầu mong Phật của Đức Thích Ca cứu độ hay giải thoát giùm cho ta?

Cũng do những người đi trước đã hiểu sai rồi truyền bá lại, làm cho Đạo Phật bị hạn hẹp, biến người tu Phật lại trở thành những người vô trách nhiệm với cuộc đời, đứng bên lề cuộc đời, vô cảm với đời, không thực hiện đúng như mong mỏi của đấng sáng lập. Thật vậy, phải chăng Đạo Phật dạy người tu xong phần mình thì phải đền đáp TỨ ÂN? Như vậy, nếu ta chỉ đền ÂN PHẬT bằng cách bỏ cha mẹ, vợ chồng, con cái, bỏ hết mọi trách nhiệm với xã hội để vô chùa phụng sự cho Phật, vậy thì Ba Ân kia chúng ta làm sao báo đáp? Như vậy ta sẽ trả lời thế nào khi đối chiếu với lời Phật dặn dò? Cho nên, theo tôi, nếu thật sự chúng ta đã quyết tâm chọn Đạo Phật để theo. Sẵn sàng hy sinh cuộc đời để phụng sự cho Phật thì tốt nhất là chúng ta nên học cho hết Giáo Pháp của Đức Thích Ca, tìm hiểu cho thật kỹ đâu là NGỮ, đâu mới thật sự là NGHĨA, để trả lại cho Đạo Phật những gì thuộc về Đạo Phật. Gạt bỏ đi những nghi thức cúng tế rườm rà, Cầu An, Cầu Siêu bị lai căng bởi các Thần Giáo khác, vì chính Đức Thích Ca cũng chỉ Tự Độ cho bản thân Ngài. Con một của Ngài còn phải đi tu, sao ta lại nghĩ Ngài sẽ Độ cho mình? Nên thực tế nhìn ra thế giới, ngay chính tại Népal là quê hương của Phật mà bệnh tật, đói, nghèo, tội ác vẫn triền miên diễn ra. Năm vừa qua còn mấy trận động đất sụp đổ bao nhiêu Tháp Cổ, giết chết gần 9.000 con người! Chẳng lẽ chưa đủ cảnh tỉnh ta? Nếu Phật đã độ được hẳn Ngài đã ra tay, đâu đợi mọi người cầu xin mỏi mòn? Ba ngàn năm rồi chớ đâu phải một vài năm mà cho rằng Phật chưa nghe thấy? Vậy mà vẫn còn những người cứ hô hào, vận động cất Chùa cho thật hoành tráng để cạnh tranh với các nước trong khu vực. Ngày càng dùng chất liệu cho thật quý, tạc cho thật to, xây những tượng vĩ đại để hao phí bao nhiêu tiền bạc của bá tánh mà lẽ ra để giúp cho người nghèo thoát Khổ hay giúp cho đất nước vượt qua khó khăn, đi đến phồn thịnh hơn một cách thực tế, thì lại kêu gọi mọi người cứ cầu xin rồi ngồi chờ Phật cứu trong khi Ngài hoàn toàn không thể làm được?

Chính vì vậy, tôi nghĩ, trước hết là những vị có nhiệm vụ hướng dẫn các Phật Tử cần rà soát lại cái hiểu về Đạo Phật của mình coi đúng Chánh Pháp hay chưa? Trong khi Giáo Pháp của cả Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa lúc nào cũng nói Đạo Phật là Tự Độ mà Chùa nào cũng cứ sớm tối chuông mõ, hương khói để cầu xin mà không thấy là đang đi ngược với lời Phật dạy: “Kẻ nào ca tụng ta, tán thán ta mà không hành theo lời ta chỉ dạy, kẻ đó đang phỉ báng nặng nề ta”. Theo tôi, đến thời này, mọi thứ đã được các vị giác ngộ lần lượt khai sáng thì chúng ta cũng đừng nên tiếp tục tự huyễn hoặc mình để thật sự quay về với Chánh Pháp. Thay vì nghĩ rằng đi tu là để phụng sự cho Phật, thì ta nên thực hành theo đúng Chánh Pháp bằng cách để Thành Phật, thực hiện lời Thọ Ký: “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành” như mong mỏi của Phật theo lời Kệ trong Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA:

Xá Lợi Phất nên biết.

Ta muốn tất cả chúng.

Bằng như ta không khác” .

Bằng như ta” tức là Thành Phật hay thành Đức Thế Tôn bằng những việc làm mà bài CHÚ ĐẠI BI đã đề cập một cách rõ ràng. Như vậy mới thật sự là Đệ Tử của Phật, bằng không thì rõ ràng ta chỉ là chỉ là những “Gã Cùng Tử” như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã chê trách, tiếp tục “mang Phật ra mà lạy Phật” như Tổ Đạt Ma đã cảnh báo.

Điều đáng buồn là nước ta Tu Sĩ gần 600.000 vị, vậy mà phải đợi một Cư Sĩ bỏ thì giờ ra đi học tiếng Phạn và dịch để nhiều người mới có thể hiểu được trọn bài Chú ĐẠI BI! Đó phải chăng là điều đau lòng cho người tu hành cũng như Phật Tử, thấy rằng bao nhiêu thế hệ qua đã bị chồng mê một cách oan uổng để truyền nhau, cứ tin rồi hàng ngày đọc tụng theo đó rồi chờ mong mỏi mòn!

Dù vậy, theo tôi, muộn còn hơn không bao giờ. Đã đến lúc người tu Phật cần mạnh dạn thực hiện những công việc mà CHÚ ĐẠI BI hướng dẫn. Đó là giai đoạn khởi đầu cho việc hiểu và đưa Đạo Phật quay về đúng với Chánh Pháp: Quay về tìm Phật ở nơi Tâm của mình. Không còn nương tựa, cầu xin Phật ngoài. Tu Phật là để Thành Phật, là phải Thành Phật, Phật như những gì mà Đức Thích Ca và chư Vị Giác Ngộ mong mỏi. Không phải để núp bóng Từ Bi của Phật! Không cứ máy móc niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” mà không hiểu đó là ý nghĩa của việc “hướng về ánh sáng soi suốt mười phương không ngăn ngại”. Soi suốt đó có nghĩa là trong Tâm của mình không còn tồn tại 10 điều Tà. Vì vậy, theo tôi, thay vì tin theo Tà Pháp để chính bản thân mình đi lạc mục tiêu của Đạo Phật. Hy sinh cuộc đời một cách oan uổng, lại truyền bá cái sai, nhân số người mê càng nhiều thêm lên! Theo Luật Nhân Quả thì dù do cố tình hay do hiểu lầm mà chồng mê cho người khác thì đều phải trả giá. Tích CON TRÂU của Ngài Quy Sơn trong Quy Sơn Cảnh Sách mà tất cả người vào tu đều phải học qua để thấy cái Quả của những người lợi dụng của thường trụ là không phải nhỏ. Không phải chỉ “chết là hết”. Đó là điều đáng sợ cho ai có chút hiểu biết về Nhân Quả vậy!

TÂM NGUYỆN Tháng 10/2015

LỄ TƯỞNG NIỆM 80 NĂM NGÀY MẤT

CỦA HỌC GIẢ NGUYỄN VĂN VĨNH

và QUỸ VĂN HÓA PHAN CHÂU TRINH

trao chứng nhận DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngày 27.4.2016, tại hội trường lớn của khu Biệt thự Hồ Tây, Hà Nội, Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh đã kết hợp với gia tộc nhà báo - học giả Nguyễn Văn Vĩnh, đã long trọng tổ chức lễ tưởng niệm 80 năm ngày mất của học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1936 - 2016) và trao Bản chứng nhận của Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh, vinh danh nhà báo - học giả Nguyễn Văn Vĩnh là DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM thời hiện đại (Giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX).

Đến tham gia buổi lễ lịch sử này, ngoài sự có mặt của các thành viên là con cháu, chắt, hậu duệ của nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, còn có rất nhiều các nhà nghiên cứu khoa học về lịch sử, văn hóa, xã hội, các nhà văn, nhà báo cả Việt Nam và Pháp, là những người đã nhiều năm quan tâm, chú ý tìm hiểu với tấm lòng ngưỡng mộ cuộc đời, sự nghiệp và sự hy sinh trong lao động của nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh.

Ông Hoàng Vinh, nguyên là giảng viên của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trong lời phát biểu của mình trước diễn đàn, đã chân thành cảm ơn Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh, là Tổ chức đã thay mặt các cơ quan nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, thực hiện một nghĩa cử vô cùng có ý nghĩa trong việc tri ân với các bậc hiền tài của dân tộc, mà vì nhiều lý do, các cơ quan chuyên môn chưa thực hiện được trong những năm qua, để lại sự thiệt thòi cho sự hiểu biết của hậu thế, hạn chế việc học tập các tấm gương tiêu biểu của dân tộc trong lịch sử phát triển văn hóa, trí tuệ.

Cụ Đinh Xuân Mậu, thay mặt bà con dân làng Phượng Dực, quê hương của nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh đã trao tặng gia tộc học giả Nguyễn Văn Vĩnh lẵng hoa chúc mừng vô cùng tươi thắm, cùng lời bày tỏ đầy ân tình của những người dân địa phương với niềm tự hào sâu sắc khi chứng kiến một người con của mảnh đất quê hương được vinh danh là người yêu nước và là Danh Nhân Văn Hóa.

Nhà văn Nguyên Ngọc, thay mặt Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh đọc quyết định vinh danh nhà báo - học giả Nguyễn Văn Vĩnh là DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM. Nhà văn nhấn mạnh:

“Hôm nay, chúng ta tôn vinh Nguyễn Văn Vĩnh, một nhà hoạt động văn hóa kiệt xuất đã hy sinh trong cuộc đối đầu quyết liệt với chế độ thống trị của thực dân Pháp, ông đã mất như một liệt sỹ văn hóa của dân tộc!”.

Diễn văn lễ tưởng niệm

80 năm ngày mất học giả Nguyễn Văn Vĩnh

(1936 – 2016)


Toàn cảnh khán phòng nơi tổ chức lễ tưởng niệm 80 năm ngày mất của nhà báo - học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Hội trường lớn, khu Biệt thự Hồ Tây, Hà Nội

Kính thưa Nhà văn Nguyên Ngọc, đại diện Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh!

Kính thưa các cô, các chú cùng các chị các anh em và các cháu, chắt là hậu duệ trong gia tộc học giả Nguyễn Văn Vĩnh!

Kính thưa các vị khách quý!

Quá khứ của một con người, một gia đình, một gia tộc luôn luôn là một phần của lịch sử đối với một dân tộc, một quốc gia.

Thế kỷ XX của đất nước Việt Nam đã đi qua đầy biến động với những thăng trầm ngập trong đau thương, mất mát và sự ly tán. Những tổn thất qua những cuộc chiến tranh ác liệt sẽ còn đọng mãi trong mỗi con người Việt Nam, gia đình Việt Nam, trong đó có gia tộc của học giả Nguyễn Văn Vĩnh.

Tuy nhiên, những sự tàn phá khốc liệt của hoàn cảnh đã không khuất phục được dân tộc này. Một dân tộc đã vượt qua những thử thách kinh hoàng và tồn tại nhờ có những tố chất đáng quý, trong đó có yếu tố vô cùng hệ trọng, đó là bản sắc văn hóa độc lập, và người đã có đóng góp một phần không nhỏ vào tiến trình hình thành bản sắc văn hóa đó, đó là nhà báo, học giả Nguyễn Văn Vĩnh!

Với 30 năm lao động cống hiến không ngừng nghỉ, Nguyễn Văn Vĩnh đã miệt mài đi trên con đường tạo dựng nền văn hóa chữ Quốc ngữ cho đồng bào mình. Thành quả này đã được khẳng định không phải bàn cãi về bản sắc văn hóa riêng của một dân tộc: nói thế nào thì viết như vậy!

Sự thật ngoạn mục này đã chứng minh hùng hồn sức sống mãnh liệt, bản năng trường tồn của những giá trị văn hóa, đồng thời cũng là một minh chứng cho tấm lòng thiết tha của mỗi người con dân Việt trong việc xây dựng một nền độc lập không lệ thuộc, đặc biệt là về văn hóa.

Sinh thời, Nguyễn Văn Vĩnh đã tận tụy phấn đấu cho mục đích cao quý này cho đến tận hơi thở cuối cùng, bất chấp những sự chà đạp và cả bổng lộc mê man của các thế lực chính trị cường quyền. Vậy nhưng, dù đã đạt được những kỳ tích trong sự nghiệp khai dân trí, Nguyễn Văn Vĩnh vẫn luôn khẳng định trên tờ nhật báo đầu tiên của lịch sử báo chí Việt Nam, tờ Trung Bắc Tân Văn, rằng: Tôi chỉ là người thường - Tôi chỉ là người thường.

Nguyễn Văn Vĩnh đã tự tin tuyệt đối vào những nỗ lực và sự dâng hiến của mình cho nền văn hóa của dân tộc, của đất nước này vì ông tin, sẽ đến một ngày, mai hậu sẽ nhớ ơn những công lao động và đức hy sinh của ông. Sẽ đến một ngày có một tổ chức đầy tính nhân văn, trí tuệ mang tên người đồng chí mà ông từng tâm đắc, tin tưởng, đó là Phan Châu Trinh, mà hôm nay là Quỹ Văn Hóa mang tên Phan Châu Trinh. Quỹ Văn Hóa đầy tính danh dự và lòng trung thực này đã quyết định vinh danh ông, chiêu tuyết cho linh hồn ông, và khẳng định cuộc đời này nhớ ơn ông, ông là DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM.

Kính thưa vong linh học giả Nguyễn Văn Vĩnh!

Kính thưa các vị quý khách, thưa các thành viên là hậu duệ của Danh Nhân Văn Hóa Nguyễn Văn Vĩnh!

Từ một cõi xa xăm trong vũ trụ, chắc chắn vong hồn người quá cố biết tất cả chúng ta hiện đang có mặt trong khán phòng này, trong giây phút này vì một nỗi niềm tri ân sâu sắc về những di sản văn hóa hiện hữu mà con người đó đã làm bằng tất cả trí lực, tình cảm và tài năng thiên phú của mình, chỉ để mong tạo dựng được một giống nòi khỏe về lực, mạnh về trí, một dân tộc tiến bộ, cơ sở để xây dựng được một đất nước phát triển, đem lại cho tất cả mọi người quyền được sống như nhau.

Nguyễn Văn Vĩnh, ông sẽ mãi mát lòng vì từ những năm tuổi thơ của mình, ông đã miệt mài dịch từ tiếng Pháp, ra cái thứ chữ dễ học cho đồng bào của ông những câu chuyện để đời của một trong những nhà văn Pháp vĩ đại nhất Jean de La Fontaine.

Năm 2008, trong ngày lễ truyền thống Fracophonie 20.3, ngài Abdou DIOUF Tổng thư ký Hội Quốc tế Pháp ngữ, vì cảm cái việc làm đầy tính nhân văn của một con người sinh ra từ cái đất nước tăm tối, đói nghèo, nhưng đã thành công thực sự trong việc chuyển tải những giá trị nội dung của các câu chuyện ngụ ngôn nhờ sự uyên thâm tiếng Pháp của Nguyễn Văn Vĩnh. Ông A. DIOUF đã nhận xét với đầy sự thán phục rằng:

Nguyễn Văn Vĩnh hiểu được cái thứ tiếng mà, như một trong các ông tổ đã sáng lập ra, cho rằng mang tính nhân văn trọn vẹn và được dệt vòng quanh trái đất.

Jean de La Fontaine đã dùng cái năng khiếu đặc biệt của mình xây dựng nên các nhân vật để qua đó hình thành cách nhìn mang tính triết lý hình tượng khái quát về con người với tất cả thói kiêu căng cũng như sự mực thước”.

Kính thưa các vị khách quý!

Trong các câu chuyện của nhà văn vĩ đại Jean de La Fontaine, có câu chuyện đặc trưng về lòng biết ơn, về đạo lý trong ứng xử đã làm Nguyễn Văn Vĩnh đắm đuối sâu sắc, đó là câu chuyện “ Con chó rừng và con cò ”.

Từ ngày hôm nay, ông sẽ không còn phải lo lắng, rằng sự vô ơn sẽ xâm chiếm cuộc đời này. Ông đã thật có lý khi cho khảm cả câu chuyện ý nghĩa đó lên đôi ghế tràng kỷ, dùng cho gia đình của mình vào đúng cái năm mà hệ thống cai trị đã chính thức ban hành việc dạy chữ Quốc ngữ thay chữ Nho cho con trẻ trên toàn cõi Việt Nam, đó là năm 1919.

Chúng tôi, hậu duệ trong gia tộc Danh nhân Văn hóa Nguyễn Văn Vĩnh thành thực biết ơn sự nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá của Hội đồng Khoa học về sự nghiệp lao động và những cống hiến liên tục của học giả Nguyễn Văn Vĩnh trong lịch sử phát triển văn hóa Việt Nam ở thế kỷ XX để tôn vinh ông. Quyết định này vô cùng ý nghĩa và là dấu ấn thực sự mang tính lịch sử của Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh. Sự kiện này đã chứng minh: Nguyễn Văn Vĩnh là một phần của lịch sử phát triển văn hóa, trí tuệ của dân tộc Việt Nam.

Chúng tôi tin tưởng rằng, một giống nòi, không biết lòng liêm sỷ, không biết niềm tự hào chính đáng về cội nguồn đầy sự kỳ vỹ của mình, đó là sự bất hạnh. Các hậu duệ trong gia tộc học giả Nguyễn Văn Vĩnh sẽ ngày càng gắn bó với nhau hơn nhờ quyết định vinh danh này của Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh, một tổ chức tiêu biểu, đầy uy tín của các tri thức Việt Nam thời hiện đại.

Chúng tôi xin cảm ơn sự chia sẻ của tất cả các vị khách quý đã đến dự buổi lễ trang trọng lịch sử này, biết ơn tất cả các bác, các cô, các chú, các anh chị em và bạn bè gần xa, trong suốt cả chục năm qua đã giúp đỡ, chỉ bảo, động viên và cả sự bao dung đối với chúng tôi trên con đường dài phục dựng lại chân dung thực của Người Nam mới đầu tiên - Tân Nam Tử - Nguyễn Văn Vĩnh.

Xin kính chúc các quý vị mọi sự tốt lành!

Xin cảm ơn sự chú ý, quan tâm theo dõi của các quý vị và các bạn!

Kính trọng!

Nguyễn Lân Bình.

Bs. Nguyễn Lân-Đính st.


 

Phụ Bản I

GẶP GỠ QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT

NHỮNG NGƯỜI DỊCH VĂN HỌC VIỆT NAM

RA TIẾNG NƯỚC NGOÀI

BÀI TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

CỦA DỊCH GIẢ THÚY TOÀN

P.V: Thưa ông, ông có thể cho biết lý do và mục đích tổ chức cuộc gặp này?

DG. THÚY TOÀN : Tổ chức Cuộc gặp gỡ quốc tế lần thứ I những người dịch văn học Việt Nam lần này, như cái tên của nó, chúng ta chỉ muốn tạo ra cơ hội bước đầu để những người dịch yêu quý văn học Việt Nam ở các nước cũng như trong cả nước có dịp chính thức hội ngộ. Các dịch giả bạn bè ở các nước có cơ hội một lần nữa đến Việt Nam, tìm hiểu thêm đất nước, con người, cuộc sống đổi mới, gặp gỡ các nhà văn nhà thơ của chúng ta, thấy thêm những thành tựu văn học của chúng ta. Ở cuộc gặp gỡ này phần nào có thể trao đổi ít nhiều về công việc dịch văn học Việt Nam, hoạt động nghề nghiệp dịch văn học nói chung, và đề xuất những sáng kiến, những đề nghị xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa những người dịch với nhau, giữa những người dịch với các tác giả, nhà văn, nhà thơ Việt Nam… Nhân đây cũng là dịp để chúng ta có thể cảm ơn chung các dịch giả, bạn bè gần xa bấy lâu đã yêu quý Việt Nam, dịch và giới thiệu văn học Việt Nam cho bạn đọc ở các nước biết đến, qua các tác phẩm này có thể hiểu hơn đất nước ta, nhân dân, sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc ta.

Trước đây, có lần Nhà nước ta cũng đã có cử chỉ cảm ơn đối với một số văn nghệ sĩ các nước, trong đó có một số dịch giả Xô Viết vì những đóng góp giới thiệu và phổ biến văn học Việt Nam: vào khoảng đầu những năm 80, Nhà nước ta đã trao tặng huân chương hữu nghị cho một số văn nghệ sĩ Xô Viết, trong đó có các dịch giả văn học Việt Nam Marian Tkatsev, Nikolai Nikulin, Inna Zimonhina… Phải nói các dịch giả Nga Xô Viết bắt đầu từ nửa sau những năm 1950 thế kỷ qua đã có đóng góp rất lớn trong việc dịch và giới thiệu văn học Việt Nam sang tiếng Nga, và qua tiếng Nga nhiều tác phẩm của các nhà văn nhà thơ chúng ta lại được dịch và giới thiệu sang các thứ tiếng dân tộc ở Liên Xơ cũ và nhiều thứ tiếng khác không những ở Châu Âu, mà sang cả Châu Phi, Châu Mỹ… Chỉ trong vòng vài ba thập kỷ văn học Việt Nam đã được dịch và giới thiệu khá đầy đủ và có hệ thống ở Liên Xô trước đây. Từ truyện cổ tích dân gian, thơ văn cổ điển với những tên tuổi như Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương đến văn thơ đương đại như “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng, “Gặp gỡ cuối năm” của Nguyễn Khải, từ những tuyển chọn lẻ tẻ từng tác giả đến Bộ tuyển đồ sộ 15 tập văn thơ cách mạng Việt Nam, bao gồm các tác phẩm tiêu biểu của các thế hệ nhà văn Việt Nam trước và sau cách mạng tháng tám 45 cũng như trưởng thành trong hai cuộc chiến tranh cứu nước, giữ nước, thống nhất đất nước… Ngoài những dịch giả tên tuổi nhắc đến ở trên còn nhiều dịch giả nhà văn khác không chỉ ở Nga mà ở nhiều nước khác, trong bao nhiêu năm qua đã gắn bó với văn học Việt Nam, đóng góp không nhỏ công sức và để lại nhiều thành tựu dịch đáng kể, bên cạnh đó lại có thêm nhiều những dịch giả mới xuất hiện trong những năm gần đây ở nhiều nước nữa, ở Mỹ, ở Pháp, các nước Bắc Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia… Xin nhắc lại, cuộc gặp gỡ quốc tế những người dịch văn học Việt Nam lần này cũng là dịp để chúng ta, những nhà văn Việt Nam và công chúng bạn đọc Việt Nam, có dịp bày tỏ lòng biết ơn đối với đông đảo các dịch giả bạn bè ở khắp năm Châu, những người có mặt, cũng như những người không có điều kiện đến tham dự được cuộc gặp gỡ này.

P.V : Có nhiều dịch giả quốc tế tham dự cuộc gặp này không, thưa ông?

DG. THÚY TOÀN : Xét khả năng của mình Ban tổ chức chỉ dám gửi giấy mời đến chừng 50 dịch giả ở các nước và hơn 30 dịch giả trong nước, những người “dịch ngược”. Tuy vậy do thời gian tổ chức vào cuối năm hơi gấp gáp, đường xá lại xa xôi, kinh phí eo hẹp, nên số các dịch giả đến từ các nước không được đông. Nhiều người nhận được lời mời rất xúc động, gửi lời cảm ơn, chúc cuộc gặp gỡ thành công, nhưng bày tỏ sự đáng tiếc vì tuổi cao, sức yếu, cũng như công việc không cho phép nên không sang dự được.

Chẳng hạn trường hợp của cả ba dịch giả Nga nổi tiếng và từ lâu đã thân thiết đối với giới văn học chúng ta: Marian Tkatsev, Nikolai Nikulin, Inna Zimonhina. Thay mặt các dịch giả Nga tham dự cuộc gặp gỡ chỉ có chị Tachiana Filimonova. Chị không phải là dịch giả nhưng chị là một nhà Việt Nam học có uy tín ở Nga, một nhà giáo dạy tiếng Việt và truyền thụ kiến thức về văn học, văn hóa Việt Nam cho nhiều thế hệ thanh niên Nga, một nhà nghiên cứu chuyên sâu về thơ ca Việt Nam và từng tham gia Ban biên tập Bộ tuyển 15 tập văn học đương đại Việt Nam bằng tiếng Nga vào những năm 1977-1983. Hay giáo sư Tha Ui Giang Kim, người sáng lập tạp chí “Việt học” ở Băng Cốc, giới thiệu và dịch nhiều tác phẩm văn học Việt Nam sang tiếng Thái cũng như dịch giả, nhà nghiên cứu Huỳnh Minh Thông, người đã có kỷ lục về dịch và giới thiệu văn học Việt Nam ở Mỹ, từng được giải thưởng cao của Nhà nước… nay cũng đều ở tuổi cao, đi lại xa là cả một vấn đề khó khăn, dịch giả Chúc Ngưỡng Tu, giáo sư chủ nhiệm khoa tiếng Việt Đại học Nam Kinh, người dịch Ông cố vấn của nhà văn Hữu Mai với tên sách Tuyệt đối bí mật, được NXB Quân sự nghị văn ở Bắc Kinh xuất bản, cũng chỉ gửi bài tham luận nhờ đại diện của mình đọc mà không tham dự được…

Dự cuộc gặp gỡ này ngoài Tachiana Filimonova nhắc ở trên, có S.Dashtsevel, dịch giả đến từ Mông Cổ có các tên Việt Nam là Viên, đã gắn bó với văn học Việt Nam từ những năm 1960, là dịch giả người Mông Cổ duy nhất dịch văn học Việt Nam trực tiếp từ nguyên bản, từng dịch Nhật ký trong tù, Máu và Hoa, Dế mèn phiêu lưu ký, Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam, Tuyển thần thoại cổ tích Việt Nam… cùng với Dashtsevel còn có nhà văn Zagdiin Tumenjargal, ủy viên Ban lãnh đạo Hội nhà văn Mông Cổ (mới tái lập), cũng tham gia các hoạt động của cuộc gặp này. Trung Quốc cử một đoàn đại biểu do nhà văn Kim Kiến Phạm, Phó chủ tịch Hội nhà văn Trung Quốc, Tổng biên tập báo văn nghệ kiêm Trưởng ban đối ngoại Hội nhà văn Trung Quốc, dẫn đầu. Đoàn còn có Lý Tú Chương, giáo sư Đại học Bắc Kinh, từ những năm 60 đã dịch nhiều tác phẩm văn học Việt Nam, trong đó có nhiều tác phẩm của các tác giả miền Nam chiến đấu, và Kỳ Quang Mưu, trường Đại học Lạc Dương, Hà Nam, hiện đang làm nghiên cứu sinh tại Việt Nam, đại diện cho dịch giả Chúc Ngưỡng Tu. Đoàn đại biểu Mỹ đông nhất, gồm ông Bruce Weigl, cựu chiến binh, hiện là Giảng viên Đại học Pensylvania, cùng dịch và biên tập thơ với ông Kevin Bowen và dịch riêng tập thơ Các bài thơ và tài liệu thu giữ được trong chiến tranh (phần lớn của các chiến sĩ quân giải phóng Việt Nam), ông Nguyễn Bá Chung, Việt Kiều, hiện là Giảng viên Đại học Massachusetts, trợ lý trực tiếp tham gia các chuơng trình, dự án liên quan đến nghiên cứu văn hóa và văn học Việt Nam, đã dịch và biên dịch cùng ông Kevin Bowen và Bruce Weigl, xuất bản nhiều thơ, văn Việt Nam tại Mỹ, ông Lary Heineman, cựu chiến binh, là nhà văn đoạt giải Pulitzer với Câu chuyện Taco, đã sang thăm Việt Nam nhiều lần, là khách mời của Hội nhà văn Việt Nam, tháng 11 đến Huế theo chương trình Fullbright nghiên cứu về văn hóa Việt Nam thời gian 9 tháng, bà Lay Borton, nhà văn viết tiểu thuyết, dịch văn học Việt Nam, hiện là Giám đốc tổ chức Quaker Mỹ tại Việt Nam và ông John Balaban, người dịch Hồ Xuân Hương sang tiếng Anh, bản dịch Spring Essence Hồ Xuân Hương của ông đã trở thành “hiện tượng ở Mỹ”, một trong những cuốn sách được hoan nghênh nhất, bán hết ngay trong hai năm sau xuất bản lần đầu 20.000 cuốn. Đáng ra đoàn Thụy Điển có tới 3 người, nhưng rất tiếc là ông John Erik Forslund, giám đốc Hội nhà văn Thụy Điển và ông Stybjom Gustafsson, giám đốc NXB Tranan, có việc không ở lại lâu được phải trở về nước sớm, nên tham gia cuộc gặp chỉ có bà Karin Liden, người đã dịch 10 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp với tên sách Muối của rừng, Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh và đang có dự định hoàn thành tuyển truyện ngắn Việt Nam hiện đại gồm các tác giả Ma Văn Kháng, Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Phan Thị Vàng Anh. Và đoàn đại biểu Hàn Quốc gồm ông Yang Soo Bae, chủ nhiệm khoa tiếng Việt trường Đại học ngoại ngữ Pusan, tiến sĩ Văn học Việt Nam, tác giả nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa và văn học Việt Nam và đã dịch một số truyện ngắn Việt Nam sang tiếng Hàn như truyện của các tác giả Trần Văn Tuấn, Nguyễn Khải, v.v… và ông Oh Eun Chol, nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại, đề tài về Tự lực văn đoàn và dịch sách lý luận văn học Việt Nam.

Bên cạnh các dịch giả từ các nước tới có đội ngũ các dịch giả trong nước dịch văn học Việt Nam sang tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, Trung Quốc, Tây Ban Nha và Esperanto… Như vậy đại biểu chính thức gồm hơn năm mươi người, cùng tham gia các hoạt động khác của cuộc gặp có nhiều nhà văn, nhà thơ, dịch giả Việt Nam, là khách mời.

P.V : Cảm tưởng chung của các đại biểu quốc tế được mời tham dự cuộc gặp này?

DG. THÚY TOÀN : Các đại biểu quốc tế được mời tham dự cuộc gặp gỡ lần này, theo tôi biết, đều đánh giá tốt việc tổ chức của chúng ta. Họ hài lòng về việc đón tiếp và chương trình các hoạt động trong khuôn khổ cuộc gặp gỡ. Nhiều đại biểu coi đây là một sáng kiến rất hay, kịp thời của Việt Nam. Tuy số người đến tham dự chưa được đông, tổ chức lần đầu tiên nên cũng cũng còn có chỗ này chỗ khác sơ suất, thời gian hơi ngắn nên chưa có điều kiện cho các đại biểu trao đổi ý kiến, giao lưu nhiều hơn nữa. Nhưng nhìn chung, mọi người cho là thành công, ra về đều hài lòng và mang theo ấn tượng tốt.

P.V : Ông có thể nêu tóm tắt những vấn đề chính được đề cập qua các tham luận của các đại biểu?

DG. THÚY TOÀN : Mang tên gọi cuộc gặp gỡ, chứ không phải “hội nghị”, “hội thảo”, nên nội dung chủ yếu là bước đầu giao lưu, tập hợp lực lượng hay “điểm binh” gì đó thôi. Lần đầu tiên nhiều người cùng làm một công việc - các dịch giả dịch văn học Việt Nam - có dịp gặp nhau, biết nhau. Trước đó có thể đã nghe tên nhau nhưng lần này mới có dịp gặp mặt. Trong gặp gỡ tất nhiên có sự trao đổi, trong các phát biểu hội trường các đại biểu thông báo cho nhau biết rõ hơn về tình hình dịch với giới thiệu văn học Việt Nam ở mỗi nước. Trao đổi về quan niệm, các vấn đề của dịch thuật văn học. Và giới thiệu cho nhau biết thêm về tình hình văn học của mình, chúng ta giới thiệu thêm các thành tựu văn học của ta. Đề xuất những ý kiến nhằm khắc phục những trở ngại khó khăn trong hoạt động dịch văn học Việt Nam, và dịch thuật nói chung, đề xuất những biện pháp khuyến khích người dịch, kiến nghị với nhà nước và các tổ chức hữu quan có những chính sách thỏa đáng đối với lao động dịch thuật trong bối cảnh kinh tế thị trường.

P.V : Đánh giá của ông về kết quả cuộc gặp gỡ?

DG. THÚY TOÀN : Theo nhiều ý kiến khách quan tôi được biết và qua những lời chúc mừng của nhiều đại biểu trong ngoài nước cũng như nhiều khách mời về thành công của việc gặp gỡ, thì có lẽ tổ chức lần này đã thu được thành công nhất định. Trong ngày khai mạc sự có mặt của Phó thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, Phó chủ nhiệm Ủy ban văn hóa giáo dục của Quốc hội chứng tỏ đã có sự quan tâm của Nhà nước ta tới hoạt động này và cũng chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước ta đối với công việc dịch văn học nói chung, vấn đề dịch văn học Việt Nam nói chung. Một đại biểu quốc tế, nhà văn Trung Quốc Kim Kiến Phạm đã phát biểu: “…Văn học Việt Nam hiện chưa được biết nhiều không chỉ ở Trung Quốc mà nhiều nước trên thế giới, những hoạt động như thế này rất cần thiết để Việt Nam có cơ hội quảng bá nền văn hóa của các bạn, qua đó các dịch giả, nhà nghiên cứu nước ngoài hiểu thêm về con người và đất nước Việt Nam”. Ông còn nói thêm: “Việt Nam và Trung Quốc, hai nước láng giềng gần gũi núi liền núi, sông liền sông, có đời sống văn hóa khá tương đồng thì việc tăng thêm hiểu biết con người Việt Nam thông qua tác phẩm văn học càng cần thiết. những dịp như thế này còn góp phần mở rộng triển vọng hợp tác và phát triển quan hệ giữa Hội nhà văn nói riêng, nhân dân hai nước nói chung… Riêng cá nhân tôi và Hội nhà văn Trung Quốc cho rằng cần phải học tập Việt Nam tổ chức những cuộc gặp gỡ như thế này. Trong tình hình thế giới có xu hướng hội nhập người ta thường tự giới thiệu mình, nhưng chủ yếu giới thiệu về kinh tế, về khoa học, kỹ thuật. Việt Nam đi trước. Giới thiệu văn hóa, văn học. Trước đây Mông Cổ cũng đã có tổ chức những hoạt động tương tự: Các hội nghị quốc tế về Mông Cổ học… Nhưng trong thời điểm đó không được sự chú ý mấy. Cuộc gặp gỡ này quy mô nhỏ, lần đầu, nhưng đúng lúc nên rất hiệu quả”…

Cuối cùng lần này cũng là thêm một dịp để Hội nhà văn Việt Nam tập duyệt tiến tới có thể đứng ra tổ chức nhiều hoạt động giao lưu quốc tế khác nữa về mặt văn hóa.

Tóm lại theo tôi, Hội nhà văn Việt Nam và những người dịch văn học ở Việt Nam đã tổ chức được một hoạt động có ý nghĩa, nhất là trong dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Hội nhà văn Việt Nam.

P.V : Xin cảm ơn ông đã trả lời bài phỏng vấn này.

(P.V. thực hiện)

MỘT CÕI THIÊN ĐƯỜNG 

Truyện giả tưởng

1.

Năm tôi năm mươi tuổi đã lập gia đình, có một con trai mười tuổi. Hai vợ chồng đều là cán bộ nhà nước, có chút tiếng tăm trong thành phố. Nhìn bề ngoài với căn biệt thự nhỏ xinh xắn, một chiếc xe hơi, hai xe gắn máy, rất thuận lợi cho hai vợ chồng. Tôi và vợ tôi đều biết lái xe, ai cũng có thể sử dụng xe hơi hay xe gắn máy đi làm, đi chơi tùy thích. Những kỳ nghỉ, đi du lịch hay về quê thăm gia đình nội ngoại, tôi thường để bà ấy lái xe, về đến quê ai cũng trầm trồ khen ngợi, đàn bà lái xe là chuyện lạ ở vùng quê nghèo.

Hạnh phúc viên mãn! Đó là lời ca tụng của mọi người, bạn bè, đồng nghiệp. Như tôi đã nói, nhìn bề ngoài là thế, hạnh phúc ấm êm, nhà cửa sang trọng, tiền bạc sung túc đầy đủ, công danh sự nghiệp tiến triển, có quyền lực. Nhưng đối với tôi, cái màu hạnh phúc trong mười hai năm, sống đời vợ chồng, có một vẻ lung linh, lung linh, tôi không tìm được hương vị ngọt ngào của tình yêu say đắm ngất ngây. Một cuộc sống đơn điệu, bà ấy yêu tôi và ghen. Tôi đào hoa, có đôi lần buông thả vào những cuộc tình trăng hoa, tạm bợ. Dù sao, tôi cũng giữ được gia đình yên ổn, không sóng gió, đưa đến tan vỡ, ly hôn. Cuộc sống trôi qua, ngày lại tiếp nhau.

Đến một ngày, tôi đột quỵ bất ngờ, còn một chút tỉnh táo, trước khi ý thức được điều gì sẽ xảy đến, cái chết, tôi cảm thấy có cái gì đó trong tôi không thể xa rời… thân xác tôi nằm đó trong phòng cấp cứu, bác sĩ, y tá, rộn ràng chuẩn bị, chẩn đoán bệnh, cấp cứu khẩn cấp, dùng đến máy móc trợ tim, thở bình oxy… vô hiệu, trái tim tôi ngừng đập, linh hồn tôi thoát khỏi thể xác nhanh như làn khói, tôi nhẹ tênh, bay lơ lửng, lơ lửng trên bầu trời đầy mây trắng, bầu trời cao thăm thẳm. Hình như có một người nào đó nắm lấy tay tôi, một giọng nói vang lên:

- Tôi là người hướng dẫn cho cư dân mới. Hãy theo tôi.

- Theo ông, đi đâu?

- Về cõi trời.

- Cõi trời, có một cõi trời thật sao?

- Từ bỏ cõi trần, lìa bỏ thân xác, linh hồn của con người, sẽ có một cõi trời để nương náu.

- Cõi trời có giống như cõi trần hay không?

- Đương nhiên là khác chứ, cõi trời người trần gian gọi là thiên đàng.

- Thế thì được, tôi theo ông.

Người đó nắm tay tôi lướt nhanh trong mây, mây bềnh bồng trôi chầm chậm, mây xanh chen lẫn mây trắng, bầu không khí mát dịu thật dễ chịu. Đột ngột người ấy dừng lại, đáp xuống một vùng đất thật xinh đẹp, bãi cỏ non xanh mơn mởn chạy dài, ngút ngàn xa tít tận chân trời, mọc lẫn trong cỏ là hoa: hoa hồng, hoa huệ, hoa lưu ly, hoa mẫu đơn… một rừng hoa đầy màu sắc rực rỡ. Những cây cao mọc thẳng hàng, chạy dọc theo những con đường quanh co, xa xa nhìn thấy những ngôi nhà mái ngói đỏ au, tường vôi trắng. Một thành phố thật yên bình. Người đó nhìn tôi nói:

- Cõi trời là cõi ảo tưởng. Mọi chuyện không cần sức lực hay thời gian như cõi trần. Tất cả đều từ tư tưởng mà tạo ra mọi việc, mọi vật. Ông muốn sống ở đâu, ngôi nhà như thế nào, hãy tập trung tư tưởng thì sẽ có ngôi nhà y hệt như anh nghĩ. Tạm biệt anh, có cần gì cứ nghĩ đến tôi, tôi sẽ đến.

Người đó lướt đi vùn vụt trong mây rồi mất hút. Tôi đứng ngẩn ngơ một lúc, nhìn cảnh vật chung quanh, rồi đứng yên, tôi tập trung tư tưởng nghĩ đến ngôi biệt thự ở cõi trần. Thật lạ lùng, ngôi biệt thự hiện ra ngay cạnh con đường có hàng cây cao. Tôi giơ tay đẩy cánh cửa lập tức người tôi đi xuyên qua cửa vào thẳng trong nhà. Hay thật! Mọi đồ vật vẫn giống như nhà cũ ở cõi trần. Tôi cảm thấy đói, nên đi xuống nhà bếp, ngồi vào bàn ăn, trong đầu tôi nghĩ đến tô phở nóng hôi hổi, thơm lừng: “Ồ, trên bàn là một tô phở bò, những miếng thịt bò màu nâu sậm chen lẫn những cọng hành xanh, bên cạnh dĩa rau xanh mơn mởn, những cọng giá trắng ngần”. Tôi ăn ngấu nghiến. Ăn xong tôi đi ra cửa, ngó ra ngoài trời xem trời đã tối chưa.

Ủa, trời vẫn sáng trưng như ban ngày. Lạ thật! Ước gì có người hướng dẫn ở đây, hỏi ông ấy thêm vài điều.

Tôi vừa nghĩ đến ông ấy, ngay lập tức, ông ấy xuyên tường đi vào nhà. Tôi mùng rỡ, hỏi rối rít:

- Ở cõi trời, thời gian sáng tối có giống như ở trần gian hay không?

Ông ta cười lắc đầu đáp:

- Không có ngày và đêm, ta cũng không cần ngủ tám tiếng như ở cõi trần. Nơi đây, nơi nào cũng luôn luôn có ánh sáng.

- Thế à? Vậy dùng thời gian làm việc gì đây?

- Ở cõi trần anh làm việc gì, ở đây anh tiếp tục học hỏi, rèn luyện, để kiếp sau tiến hóa cao hơn.

Tôi mỉm cười nhìn ông ta nói:

- Nghề nghiệp của tôi ở cõi trời này vô dụng, không có xã hội, không có cộng đồng, lãnh đạo ai đây.

- Vậy ông có thể học hỏi các môn khác như ngành nghệ thuật, ngành khoa học v.v… ông muốn làm gì tùy thích, tự do, không có gì ràng buộc như cõi trần.

- Hay quá! Còn việc này, nếu tôi nhớ cõi trần, nhớ vợ con, tôi có thể về thăm hay không?

- Được, cũng dùng tư tưởng, ý chí của mình. Còn hỏi gì nữa không?

- Như thế là đủ hiểu. Cám ơn ông.

Người hướng dẫn đi rồi, tôi ngồi xuống xa-lông, tôi cảm thấy khát và thèm uống một ly cam vắt. Trên bàn có ngay một ly cam vắt màu vàng óng ánh, lăn tăn những viên đá bi trong veo. Tôi uống từ từ, thưởng thức xem hương vị của ly nước cam này thế nào, thật ngon, đúng mùi vị ly nước cam ở cõi trần.

Tôi ngả người nằm dài xuống xa-lông, nhắm mắt, thoải mái, tự dưng tôi buột miệng:

- Chết cũng dễ chịu thật. Mình đâu có đối mặt với ông tử thần, bị bóng ma đen tối nào lôi kéo. Vậy mà bấy lâu nay sợ chết, sợ khủng khiếp… ha… ha… ha… Ôi! Nghĩ lẩn thẩn.

Tôi cứ nằm thế một lúc lâu, mà đâu có ngủ, giấc ngủ không đến, mắt cứ mở trao tráo, trí óc nghĩ vẩn vơ, nghĩ đến vợ con. Chợt cảm thấy toàn thân tôi chuyển động, nhấc bổng người lên bay bay giữa bầu trời, việc di chuyển thật dễ dàng mau lẹ. Tôi từ từ hạ xuống đất, ngay trước cửa nhà tôi. Ngó vào, tôi thấy cỗ quan tài, đặt giữa nhà, ảnh tôi lồng trong khung kính màu đen đặt ở giữa, bên dưới là dĩa trái cây, bát nhang, bình bông huệ trắng. Khói nhang nghi ngút lan tỏa, lan tỏa. Một người nào đó đang đứng trước quan tài, tay cầm nhang xá xá, xong cúi đầu tưởng niệm, đi đến cắm nhang vào bát nhang. Bước đến nói lời chia buồn với vợ con tôi. Vợ tôi và con trai bận đồ tang trắng toát, đứng hai bên quan tài, nét mặt vợ tôi buồn thảm, hai mắt đỏ sưng húp, ngân ngấn nước mắt. Con trai vẻ mặt ngơ ngác, buồn hiu, mắt mở to. Nhìn hai mẹ con thật tội nghiệp tội tình. Thương quá, tôi đi vào đứng cạnh con trai, giơ tay định ôm nó vào lòng, nhưng không chạm vào nó được, chỉ đi xuyên qua người nó. Có vài người khách đến viếng tang. Tôi đi trở ra ngoài sân, ngồi xuống ghế đá ở hàng hiên. Cõi trần giờ này là buổi tối, bầu trời tối đen, đầy sao lấp lánh, lấp lánh. Trong nhà đã vắng lặng, cô T. em vợ tôi đang dỗ dành bảo vợ tôi vào ăn cơm nghỉ ngơi. Bà ấy lắc đầu nói:

- Không đói. Dì đưa cháu vào ăn cơm, dỗ cháu ngủ luôn giùm nghe dì.

Tôi đứng lên, đi đến ngồi xuống ghế bên cạnh vợ tôi. Tôi thấy bà ấy thoáng rùng mình, vòng tay ôm trước ngực.

- Phải chăng linh cảm của em biết có anh ở gần bên tha thứ cho anh em nhé! Tình nghĩa vợ chồng của chúng ta ở kiếp này ngắn ngủi quá. Anh có lỗi với em nhiều lắm, anh sống với em chỉ có bổn phận và nghĩa vụ. Trái tim anh, tình yêu của anh đã dành cho người con gái khác. Một tình yêu đơn phương. Đến giờ phút này anh mới dám tỏ bày với em. Em hãy sống tốt đẹp, nuôi con chúng ta trưởng thành. Vĩnh biệt! Vĩnh biệt!

Tôi đứng dậy, bước ra cửa, trí óc tôi vừa nghĩ đến em, bỗng dưng, tôi đã đứng trong phòng ngủ của em. Căn phòng nhỏ xíu, trên chiếc giường đơn. Em nằm ngủ, chiếc chăn mỏng đắp ngang người. Tôi ngắm nhìn em, khuôn mặt trẻ thơ xinh đẹp ngày nào, theo thời gian đã in dấu những nét sầu muộn, tàn phai. Tính từ ngày đầu tiên tôi gặp em, nay em đã ngoài bốn mươi tuổi rồi còn gì. Dù thế nào, trong trái tim tôi, luôn luôn nhớ đến em, cô bé ngây thơ, hồn nhiên, vui vẻ với mọi người. Em nhìn tôi với đôi mắt trong veo. Tôi yêu em từ ánh nhìn đầu tiên đó, yêu và ước muốn có em mãi mãi trong đời.

Hình như số phận không mỉm cười với tôi. Những định kiến của xã hội, bản thân tôi đã gắn chặt trong guồng máy, tôi không thoát ra được. Tôi và em vẫn gặp nhau thường xuyên, em cứ là cô bé vô tư. Em không biết trái tim tôi đau khổ, dằn vặt, ánh mắt tôi nhìn em say đắm, em vẫn nhìn tôi với ánh mắt trong trẻo, nụ cười hiền. Tình yêu của tôi dành cho em, chỉ được thể hiện bằng một vài lần bắt tay tình cờ giữa đông người. Bàn tay em nhỏ nhắn dịu êm, nằm trong tay tôi, tôi xiết thật chặt để hơi ấm từ bàn tay tôi truyền đến tay em. Giữ chặt tay em lâu hơn mọi người, ánh mắt không rời khỏi em. Từ đó, có lẽ em đã hiểu được tình yêu tôi dành cho em, ánh mắt em nhìn tôi dịu dàng, cảm thông chia sẻ. Trái tim tôi yêu em, nhưng cuộc đời tôi không có sự lựa chọn và quyết định theo ý mình. Hôn nhân của tôi có sự sắp đặt của người khác. Tôi cưới vợ và chuyển công tác ở vị trí cao hơn, quyền lực hơn. Không còn gặp lại em cho đến ngày lìa đời.

Tôi tiến đến cạnh giường, tôi muốn chạm vào bàn tay em như ngày xưa, nhưng không thể. Nhưng kìa em trở mình thức giấc, vẻ mặt ngơ ngác. Mắt mở to, hình như em thức tỉnh giữa cơn mơ. Không lẽ giữa linh hồn tôi và em có một sợi dây vô hình gắn kết. Em nói thì thầm.

- Mình mơ thấy anh, anh đứng nhìn mình, nét mặt buồn u uất. Lâu lắm rồi không biết tin tức gì của anh.

Ngoài khung cửa sổ, bình minh đã ló dạng. Cõi trần bắt đầu một ngày mới. Em ngồi dậy rời khỏi giường, mở cửa đi ra ngoài. Tôi không muốn rời đi, lặng lẽ ngồi xuống giường, chờ đợi. Tôi không biết tôi chờ đợi điều gì đây. Hiện tại tôi chỉ là một linh hồn, một linh hồn có trái tim yêu em. Em bước vào phòng, tay cầm tờ báo. Em ngồi xuống giường sát cạnh bên tôi, em mở tờ báo, nét mặt em sửng sốt trước tin tôi từ trần. Em nhìn trân trối tấm ảnh của tôi, nước mắt rơi xuống, từng giọt, từng giọt. Im lặng bao trùm. Những giọt nước mắt, thương tiếc một người đã mất, nỗi buồn không biết tỏ cùng ai, khóc một mình. Đối với tôi, như thế đã mãn nguyện, tôi hạnh phúc khi nghĩ rằng em còn nhớ đến tôi. Em có yêu tôi hay không, điều đó là điều bí ẩn của trái tim em. Em cứ giữ điều bí ẩn của trái tim mình em nhé!

2.

Trở về cõi trời, trở về ngôi biệt thự của tôi, trống trải, vắng lặng. Tôi buồn, nỗi buồn không có nước mắt, đàn ông không khóc, không ủy mị như đàn bà. Tôi gặp người hướng dẫn nhiều lần, tập thích nghi với cuộc sống mới, nơi cõi trời. Tôi có gặp gỡ nhiều người quen ở cõi trần đã chết trước tôi. Ở đây cũng có nhiều cặp vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau, cuộc đời họ diễn ra êm đềm. Cõi trời không có chiến tranh, thù hận, chém giết nhau, thú vật không làm hại con người, con người cũng không làm hại thú vật. Đúng như người đời đã nghĩ có một cõi thiên đàng. Riêng tôi, nếu có em bên cạnh tôi, ở đây mới là một thiên đàng thật sự.

Nhiều năm trôi qua ở cõi trần gian. Tôi đã nhiều lần về thăm vợ con, con tôi đã lớn, đã bước vào đại học. Vợ tôi vẫn là người nhà nước, với vị trí và quyền lực cao hơn. Bà ấy chưa yêu người khác, đó là điều tôi không muốn, tôi mong vợ tôi gặp được người xứng đáng để lập gia đình mới. Đàn bà sống cảnh góa bụa, buồn tủi, cô đơn, tội nghiệp, tội tình, tội lỗi do tôi, tôi lìa bỏ cuộc đời quá sớm.

Em, người tôi yêu. Tôi nhìn thấy em sống vất vả, một mình nuôi mẹ già bệnh tật. Tôi xót xa thương cảm, tôi mà có quyền lực, có phép thuật, tôi sẽ làm một điều kỳ diệu cho em, giúp em sống thảnh thơi sung sướng. Một lần, ngồi cạnh bên giường, nhìn gương mặt em tiều tụy, thương quá! Tôi tập trung tư tưởng cúi xuống định hôn em. Bỗng nhiên có một sức mạnh ngăn lại, tôi ngước mắt nhìn lên, thấy một cụ ông, đầu tóc bạc phơ, râu dài phất phơ, cụ nhìn tôi với ánh mắt hiền từ, giọng nói ấm áp:

- Ta không cho phép.

- Cụ là… cụ là…

- Con gái của ta.

- Xin lỗi. Con yêu em từ khi còn ở cõi trần.

- Ta biết, ta biết tất cả. Thôi, ta về trời, sẽ nói chuyện với nhau.

Tôi và cụ gặp nhau thường xuyên, cụ kể:

- Thời thanh niên ta cũng hào hoa, được nhiều cô gái yêu. Bà vợ đầu tiên, đẹp, hiền hậu, nhân đức, yêu ta nhiều, nhưng có lẽ số phận và định mệnh đã giáng một đòn đau đớn, sống với nhau hơn mười năm, con trai còn nhỏ dại, bà ấy đã ra đi sớm, chết trẻ.

Cụ ngừng nói, vẻ mặt u uất, tôi an ủi cụ:

- Hoàn cảnh của con cũng giống cụ, nhưng con là người ra đi sớm.

Cụ nhìn tôi độ lượng:

- Không giống, mỗi một kiếp người là một bi kịch của người đó. Không người nào giống người nào, hạnh phúc cũng như đau khổ. Lúc ta gặp má của con gái ta, bà ấy mười tám tuổi. Gặp mặt lần đầu, ta thương liền, năm đó ta đã ngoài bốn mươi. Khi hỏi cưới, bà ấy trả lời: “Làm con, cha mẹ dạy phải vâng lời”. Ta biết, do tuổi tác chênh lệch, bà ấy không yêu ta, nhưng về sống với nhau, có con cái, bà ấy làm tròn bổn phận của người vợ hiền, chăm lo con cái chu đáo. Bao nhiêu năm sống cùng bà ấy, thật sự ta chỉ đi làm việc, làm thơ, viết sách, chơi cờ tướng, có bao nhiêu tiền đưa hết cho bà ấy chi tiêu trong gia đình. Ta ít bận tâm đến nhà cửa, con cái. Giờ đây ta cứ hối tiếc mãi về việc ấy. Đời, một kiếp người chỉ một lần, không có lần thứ hai.

- Cụ thật sung sướng, hạnh phúc, đời cụ có hai người vợ đẹp, hiền, hết lòng yêu thương cụ.

- Ờ, con gái ta, càng lớn càng giống bà ấy, xinh đẹp, ngoan hiền, giỏi bếp núc. Ta thương nó nhất nhà. Năm nó mười bảy tuổi, ta bị đột quỵ trên đường đi làm việc trở về nhà, hôn mê, nằm bệnh viện nhiều tháng liền. Hai năm bệnh triền miên, bà ấy và con gái túc trực nuôi ta trong bệnh viện cũng như lúc an dưỡng ở nhà. Sự chịu đựng của bà ấy làm trái tim ta đau nhói. Đời người làm sao tránh được giây phút sinh ly tử biệt. Ta rời xa bà ấy và con gái lúc bảy mươi mốt tuổi. Ta chưa làm được điều gì cho con gái, nó phải thay ta gánh vác lo toan cho cả gia đình, một mình bước vào đời với hai bàn tay trắng. Bởi thế, linh hồn ta luôn luôn vương vấn cõi trần, ta nguyện sẽ chờ đợi bà ấy và con gái.

Tôi buột miệng nói:

- Con quyết tâm ở cõi trời chờ đợi cô ấy.

Cụ mỉm cười, khoát tay:

- Con với nó đâu có duyên nợ gì với nhau mà chờ đợi.

- Con biết, kiếp trước không có duyên nợ, nên con chờ ở kiếp lai sinh.

- Ờ, ta nghĩ thế này, có lẽ linh hồn con quyến luyến nó hoài, nên nó không gặp được duyên, phải sống cô đơn thui thủi một mình.

- Có lẽ cụ nói đúng.

Cụ lại cười, nét mặt vui vẻ hóm hỉnh:

- Con muốn chờ, cứ chờ, ta không cấm được, nhưng nói cho con biết việc này, tâm hồn con gái ta rất đa cảm, lãng mạn. Ta biết, từ nhỏ nó thích chờ đợi sẽ gặp một nhà thơ.

- Ý cụ muốn nói con phải thay đổi tư tưởng, thiên hướng tâm linh chuẩn bị cho những kiếp sau là nhà thơ.

- Kiếp trước con là người có quyền lực, bị trói buộc vào guồng máy, không chọn lựa được cuộc sống theo trái tim mình, phải không? Vậy thì phải thay đổi, thay đổi như thế nào tùy con.

Bởi lý do em sống đơn độc một mình ở cõi trần, làm sao linh hồn tôi an tâm, làm sao linh hồn tôi siêu thoát. Tình yêu, chỉ có tình yêu cân bằng với cái chết, sẽ giúp linh hồn tôi và em cùng gặp nhau trong một kiếp ở tương lai. Tôi phải thay đổi, phải là người sống theo ý thích của mình, lãng mạn, say mê văn thơ nghệ thuật. Từ tình yêu, tôi viết câu chuyện: Một cõi thiên đàng.

3.

Đã lâu tôi không về cõi trần thăm em, lòng tôi xốn xang, thương nhớ em. Đã lâu cũng không gặp cụ, ba em. Giây phút này đột nhiên lòng tôi nôn nao, linh cảm một điều gì đó xảy ra cho em. Tôi tập trung tư tưởng hướng về em, tôi bay về cõi trần. Khuya thật khuya, bầu trời tối đen, âu u, vắng lặng, các nhà chung quanh đèn đã tắt. Sao khung cửa sổ phòng em còn sáng đèn, ánh đèn vàng vọt hiu hắt. Tôi đi xuyên qua tường vào phòng em, hơi ngỡ ngàng, em đang ngồi nơi bàn viết, đầu hơi cúi xuống, bờ vai gầy guộc. Tôi đến gần, đứng ở sau lưng em, nhìn xuống trang giấy, em viết nhật ký:

- Ba ơi! Thật lâu lắm rồi, con không nằm mơ thấy ba. Từ đêm hôm ấy, một giấc mơ con thấy đi lạc vào một khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, đi hoài không có lối ra, cuối cùng đi đến một ngôi nhà rộng lớn nguy nga, vào bên trong gặp ba nằm trên giường bệnh, gặp con, ba bảo lạnh và thèm uống cà phê sữa. Tỉnh dậy, con nghĩ ba đã rời xa cõi trời đi về một nơi nào đó, hoặc ba đã tái sinh lại cõi trần. Ba bỏ con một lần nữa phải không? Lúc này má và con rất khổ sở. Con cầu nguyện ba hằng đêm, mà không gặp được ba. Em ngừng viết, khóc nức nở, nước mắt đầm đìa: Ba ơi! Ba ơi! em gọi ba thật thảm thiết.

Tôi tập trung tư tưởng thầm gọi: Cụ ơi! Cụ ơi! Mong cụ sẽ đến ngay trong lúc này. Nhưng không có việc gì xảy ra. Tôi tức tốc bay nhanh về cõi trời, tập trung tư tưởng để gặp người hướng dẫn, tôi hỏi dồn dập:

- Ông có biết cụ ở đâu không?

- Có thể cụ đã đi sâu trong vùng hoang vắng, của cõi tâm linh để hoàn thiện cho quá trình tiến hóa của một linh hồn. Vì vậy, anh không thể gặp cụ được.

- Trời ơi! Tôi cần gặp cụ khẩn cấp lắm!

- Xảy ra chuyện gì khẩn cấp ở cõi trời mà anh kêu trời?

- Con gái của cụ ở cõi trần, khóc nức nở, muốn gặp cụ.

- Chuyện của con gái cụ, anh lo làm gì? Thôi tôi đi đây.

Tôi la lớn gọi người hướng dẫn

- Vùng hoang vắng ở đâu, làm ơn cho tôi biết.

Người hướng dẫn trả lời mà không quay đầu lại

- Tự anh đi tìm thì sẽ gặp.

Tôi đi mãi, con đường nào cũng đầy hoa, bãi cỏ. Tôi đi qua nhiều vùng đồng quê, rải rác nhiều nơi có những tòa nhà lớn, có vẻ giống những ngôi trường ở cõi trần. Mắt tôi nhìn thấy phía trước có một khoảng giống như khu rừng dầy, cây cao thật cao, tôi hạ xuống bìa rừng, ngồi xuống một gốc cây cổ thụ, rễ cây dầy, làm chỗ ngồi thật dễ chịu. Tôi ngồi im lặng một hồi lâu, trong tâm trí cứ nghĩ tới cụ, tìm cụ ở đâu giữa đất đai bao la của cõi trời, làm sao cho cụ biết tin con gái cụ đang khổ sở, khóc than, thương nhớ cụ. Ngay lúc đó, tôi nhìn thấy một bóng người trắng toát đang đi chầm chậm về phía tôi, chính là cụ. Tôi mừng rỡ, định đứng lên lao về phía cụ, cụ giơ tay ra dấu bảo tôi ngồi yên đó, cụ đi đến ngồi xuống bên cạnh tôi, cụ mỉm cười, nét mặt vui tươi, ánh mắt sáng ngời.

- Ta vào ở ẩn trong khu rừng này, luyện cho trí tuệ tiến hóa cao hơn nữa, cho linh hồn hoàn thiện cao cả. Ta không muốn tái sinh lại cõi trần.

- Cụ đã quên bà cụ và con gái sao?

- Ta không quên. Ta biết mọi chuyện, thời gian này bà vợ và con gái ta gặp nhiều chuyện buồn phiền, con gái ta bị người khác hãm hại. Nhưng không sao cả. Con gái ta sống lương thiện, có Trời chứng giám, không ai hại nổi nó đâu.

- Con rất lo lắng, em mà gặp chuyện gì nguy hiểm, con giận cụ suốt đời.

- Con lo cho nó, thì theo bảo vệ nó. Một kiếp người ở cõi trần sẽ qua mau. Con chờ thì sẽ gặp lại. Thôi ta đi đây.

Cụ đi trở vào khu rừng rậm rạp, bóng dáng tan biến xóa nhòa trong mắt tôi.

4.

Tôi đi lang thang vô định, bỗng nhiên trước mắt tôi hiện ra một tòa nhà lộng lẫy nguy nga, tráng lệ, ánh sáng từ bên trong sáng ngời, chói lọi, tôi nghe văng vẳng tiếng đọc thơ, một giọng nữ ngọt ngào êm dịu: “Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trong thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong. Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Ôi! Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du. Chắc đây là trường học về nghệ thuật, thơ văn. Tôi len lén đi nhẹ đến gần, nhìn vào bên trong, đúng là một lớp học, thấy có mấy ghế trống gần cửa, tôi xuyên tường đi vào ngồi xuống. Không ai nhìn tôi cả. Mọi người im lặng chăm chú nghe đọc thơ, giảng thơ.

Suốt một thời gian dài đằng đẵng, tôi đọc thơ, đọc tiểu thuyết từ cổ chí kim, cổ xưa, cận đại, hiện đại, từ văn hóa phương Đông đến văn hóa phương Tây, càng đọc tôi càng say mê, tri thức của con người bao la như biển trời. Tôi đã tìm được sự bình yên và giải thoát, chỉ khi nào con người học được cách biết và hiểu chính mình, thì mới có thể thay đổi được chính mình.

Dường như tôi đã quên em. Em chỉ là một bóng hình mờ ảo, không hiện thực trong cuộc đời tôi ở cõi trần, hiện tại càng xa vời vợi. Linh hồn tôi tự do, linh hồn tôi bay bổng trong cõi thiên đàng. Thể xác tan biến nhưng linh hồn tôi bất diệt.

Tháng 5-2015

HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Trích từ tập sách “Sầu riêng” tr.41-60

NXB Tổng Hợp Tp.HCM Quý I-2016


ĐỌC SÁCH

“SẦU RIÊNG”

của HUỲNH THIÊN KIM BỘI

Mở đầu là câu chuyện “Duyên muộn” cũng là phần tiếp theo của “Biển đêm bồng bềnh”. Nguyễn tình cờ gặp lại Bạch Dương sau khi đã chia tay 10 năm để ra nước ngoài sống với những người thân trong gia đình (Điều kỳ diệu của tình yêu NXB tổng hợp Tp.HCM Quý III 2015). Và Nguyễn lại ra đi trong sự nuối tiếc, để rồi 3 năm sau lại trở về. Một cái kết đẹp cho Nguyễn và Bạch Dương, hai người đợi chờ đã 13 năm: “Bạch Dương không thể dối lòng mình, cô vẫn yêu Nguyễn, cô chỉ yêu một người duy nhất, một tình yêu duy nhất” (Duyên muộn tr. 22).

Chuyện thứ 2 là “Con búp bê tật nguyền”:

Con búp bê kỷ niệm của người cha đã vĩnh viễn nằm xuống ở tận biên giới xa xăm khi Châu mới có 2 tuổi, cô không biết đến mẹ vì bà đã bỏ đi để cô lại cho ông bà nội nuôi. Châu sống một cuộc đời khép kín như bà cụ non già trước tuổi. Rồi một ngày tai họa ập đến, cô không được sống chung với gia đình nội nữa phải ra đời bươn chải rồi bị lừa tình, lừa tiền… Trân Châu đã vượt qua cơn bão lũ đời mình, xây dựng lại trên đống hoang tàn đổ nát, “trên một quá khứ buồn, một quá khứ khốc liệt, khổ đau nhọc nhằn, để từ đó, cô tự tin bước vào cuộc sống mới, tin vào tính vị tha của con người”. Cô đã tha thứ hết: tha thứ cho chính lầm lỗi của mình, sự lọc lừa của những người chung quanh và rồi ông trời cũng trả lại cho cô người mẹ thân thương, một gia đình đã mất, một mùa xuân đoàn tụ, một mùa xuân yêu thương.

Kế tiếp “Một cõi thiên đàng” một câu truyện giả tưởng về đời sau.

Câu truyện giả tưởng này đã dẫn dắt người đọc đến tình yêu của một anh chàng khi vừa bước qua thế giới bên kia đã vội phụ tình với vợ con để đến bên người tình hằng thầm yêu trộm nhớ. Anh ta chỉ cần nghĩ đến nàng là đã kề cận với nàng ngay bên cạnh, nghĩ tới phở là có ngay một tô phở bò nóng hôi hổi, thơm lừng.

Đọc đến đây tôi chợt nhớ đến “Hắn, tên Thiện Quỉ” của Dịch giả Vũ Anh Tuấn:

Trong lúc ngồi chơi ở phòng khách, một bà nói: “Đang vui thế này, anh không được bỏ đi đấy nhé”. Hắn trả lời: “Chưa chắc bỏ đi mà không vui, sợ còn vui hơn ấy chứ!”. Một bà khác nói: “Ngỏm nằm cong queo còn vui chi mà vui!”. Hắn nói: “Quý EM làm ơn nghe cho kỹ này nhé, ngay lúc này nếu anh muốn đi thăm Kim thì chỉ thăm được Kim, muốn thăm Ngọc thì chỉ thăm được Ngọc, và muốn thăm Tuyết thì chỉ thăm được Tuyết, NHƯNG KHI ĐI RỒI, ANH CÓ THỂ CÙNG MỘT LÚC CÓ MẶT Ở CÙNG KHẮP MỌI NƠI, NÊN CÓ THỂ THĂM CẢ BA EM, LÚC ẤY CHẢ VUI HƠN HAY SAO?

Nhưng ở đây Kim Bội đưa người đã chết lên chốn cao hơn vì có những lớp đào luyện các kỹ năng để tiến hóa cao hơn vì cuộc đời sau là vô tận để khỏi nhàm chán vì thể xác này chỉ tồn tại khoảng 100 năm thì tan biến nhưng linh hồn thì bất diệt .

“Đất và người” câu chuyện có thật về gia đình ông bà ngoại của tác giả (dĩ nhiên tên người có thay đổi).

Nguyễn Long Trảo đã viết lời tựa: “…nghe tác giả nói lại đây là những câu chuyện thật của gia đình, của người thân được viết thành truyện thì tôi lại muốn đọc, bởi tôi nghĩ rằng mỗi chuyện đời, mỗi hoàn cảnh riêng tư đều rất đáng để cho ta tìm hiểu, nó có thể làm phong phú thêm vốn liếng về xã hội vốn muôn màu muôn vẻ, những câu chuyện mà chúng ta không phải cất công đi đâu xa để tìm hiểu, thì rất đáng để ta dành thời gian ra đọc lắm chớ!”

Cuối cùng là chuyện “Sầu riêng” một chuyện tình buồn làm chủ đề cho cuốn sách. Dưới gốc sầu riêng đã chứng kiến mối tình góa bụa sau 10 năm được hồi sinh. Rồi vui buồn lẫn lộn khi cả hai đấu tranh với đủ thứ vui buồn trong cuộc đời, với mọi bất hạnh đều có thể xảy đến nhưng chỉ ước mơ đơn giản: “một gia đình đầy đủ chồng vợ, con cái xum vầy bên nhau”. Vậy mà Ngâu cũng chẳng được hưởng niềm vui giản đơn ấy khi một lần nữa lại gãy gánh lần thứ hai.

Đúng là trái sầu riêng thì gai góc như cuộc đời của những nhân vật trong truyện. Nhưng Kim Bội luôn viết những cuộc tình có hậu thành ra những đứa trẻ khi lớn lên lại đến với nhau bằng tình yêu đầu đời say đắm, và cây sầu riêng lại là nơi hò hẹn. Mùa sầu riêng chín cũng là lúc gia đình đón thêm thành viên mới. Mọi người đã quên những đau khổ, những sợ hãi, không còn căm hờn, tất cả đã giải thoát chỉ còn lại hương thơm ngát của cây sầu riêng như lời kết của cuốn sách.

Chỉ 5 câu chuyện với lối văn giản dị, đơn sơ, lôi cuốn người đọc đến những dòng cuối cùng, để cảm thông cho thân phận phụ nữ luôn chung thủy với tình yêu, rất dễ dàng yếu mềm trước tình cảm, nhưng lại rất mạnh mẽ vươn lên trước số phận, luôn tha thứ cho những lỗi lầm… Đặc biệt khi cô viết về câu truyện giả tưởng dẫn dắt người đọc đến trường học nghệ thuật, thơ văn văng vẳng tiếng đọc thơ ngọt ngào:

“Trăm năm trong cõi người ta.

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Truyện Kiều đã khiến anh chàng này say sưa đọc thơ, đọc sách từ cổ chí kim, từ văn hóa phương đông đến văn hóa phương tây. Và càng đọc càng thấy say mê với tri thức bao la như biển trời của con người. Anh đã tìm được sự bình yên và giải thoát, học được cách biết và hiểu chính mình để thay đổi chính mình. Anh ta đã quên đi tình yêu hằng mong nhớ và linh hồn anh được tự do bay bổng trong cõi thiên đàng, anh ta đã nâng chính mình lên một tầng cao mới… Đó cũng chính là những lời nhắn nhủ mà tác giả Kim Bội muốn gửi gắm với mọi người.

HÀ MẠNH ĐOÀN

70 NĂM UNESCO

(1945-2015)

Tổ chức Giáo dục, Khoa học

và Văn hóa của Liên hiệp quốc

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (tiếng Anh: United Nations Educational Scientific and Cultural Organization, viết tắt UNESCO) là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên hiệp quốc hoạt động với mục đích “thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo” (trích Công ước thành lập UNESCO).

UNESCO hiện có 195 quốc gia thành viên. Trụ sở chính đặt tại Paris, Pháp, với hơn 50 văn phòng và vài viện hay trung tâm trực thuộc đặt khắp nơi trên thế giới.

Một số các dự án nổi bật của UNESCO là duy trì danh sách các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới, di sản tư liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại

Chức năng

UNESCO có 3 chức năng hoạt động chính phục vụ cho mục đích của tổ chức, bao gồm:

1. Khuyến khích sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau giữa các dân tộc thông qua những phương tiện thông tin rộng rãi; khuyến nghị những hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu tư tưởng bằng ngôn ngữ và hình ảnh;

2. Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục quần chúng và truyền bá văn hóa bằng cách:

· Hợp tác với các nước thành viên trong việc phát triển các hoạt động giáo dục theo yêu cầu của từng nước;

· Hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý tưởng bình đẳng về giáo dục cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ hoặc bất cứ sự khác biệt nào khác về kinh tế hay xã hội;

· Đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp để luyện tập thiếu nhi toàn thế giới về trách nhiệm của con người tự do;

3. Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức bằng cách:

· Bảo tồn và bảo vệ di sản thế giới về sách báo, tác phẩm nghệ thuật và các công trình lịch sử hay khoa học, khuyến nghị với các nước hữu quan về các Công ước quốc tế cần thiết;

· Khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các ngành hoạt động trí óc, trao đổi quốc tế những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hóa kể cả trao đổi sách báo, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ thí nghiệm và mọi tư liệu có ích;

· Tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc tiếp xúc với các xuất bản phẩm của mỗi nước thông qua các phương pháp hợp tác quốc tế thích hợp.

Cơ cấu

UNESCO được tổ chức với một Đại hội đồng, một Hội đồng chấp hành và một Ban Thư ký. Đại hội đồng gồm các đại diện của các nước thành viên UNESCO (mỗi nước thành viên được chọn cử 5 đại biểu). Hội đồng chấp hành gồm các ủy viên được Đại hội đồng bầu ra trong số các đại biểu được các nước thành viên ứng cử; mỗi ủy viên của Hội đồng chấp hành đại diện cho Chính phủ nước mình. Ban Thư Ký UNESCO gồm có Tổng Giám đốc và số nhân viên được thừa nhận là cần thiết. Tổng Giám đốc do Hội đồng chấp hành đề nghị và Đại hội đồng bầu cử (nhiệm kỳ 6 năm) với những điều kiện được Đại hội đồng chấp nhận. Tổng Giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO.

Hiện UNESCO có 195 quốc gia là thành viên. Các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc có quyền gia nhập UNESCO; còn các quốc gia khác có thể được chấp nhận nếu được Hội đồng chấp hành giới thiệu và được Đại hội đồng biểu quyết với đa số hai phần ba thành viên có mặt tán thành.

Các quốc gia thành viên thường thành lập một tổ chức đại diện cho UNESCO ở nước mình, tùy điều kiện cụ thể. Phổ biến hiện nay là Ủy ban quốc gia UNESCO, trong đó có đại diện của Chính phủ và của các ngành Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thông tin. Tuy có đại diện tại từng quốc gia, phương châm hoạt động của UNESCO là không can thiệp vào vấn đề nội bộ của các quốc gia. Ủy ban quốc gia UNESCO làm nhiệm vụ cố vấn cho đoàn đại biểu nước mình ở Đại hội đồng và cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan đến UNESCO. Ủy ban này thường gồm đại diện các Vụ, Cục, các Bộ, các cơ quan và tổ chức khác quan tâm đến các vấn đề giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin, các nhân vật độc lập tiêu biểu cho các giới liên quan. Nó cũng có thể bao gồm Ban chấp hành thường trực, các cơ quan phối hợp, các tiểu bang và các cơ quan phụ cần thiết khác.

Lịch sử

UNESCO được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1945 với việc ký kết Công ước thành lập của UNESCO.

Ngày 1 tháng 11 năm 1946, Công ước này được chính thức có hiệu lực với 20 quốc gia công nhận: Úc, Brasil, Canada, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Cộng hòa Dominica, Ai Cập, Pháp, Hy Lạp, Ấn Độ, Liban, Mexico, New Zealand, Na Uy, Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.

Thập niên 1970 và 1980, UNESCO là trung tâm của một tranh cãi trong đó Hoa Kỳ và Anh cho rằng đây là một diễn đàn để các nước theo chủ nghĩa cộng sản và thế giới thứ ba chống lại phương Tây. Hoa Kỳ và Anh lần lượt rút khỏi tổ chức này năm 1984 và 1985. Sau đó, Anh và Hoa Kỳ lại tham gia tổ chức này lần lượt vào các năm 1997 và 2003.

Những năm cuối thập niên 1990, UNESCO đã thực hiện một số cải cách trong tổ chức, như cắt giảm nhân lực và số đơn vị. Số văn phòng giảm từ 79 (năm 1999) xuống 52 (hiện nay).

Năm 1998, UNESCO ủng hộ phần mềm tự do.

Con số UNESCO đã thu nhận được:

1. Danh sách Di sản thế giới đến năm 2014:

· Châu Âu: 478 di sản

· Châu Á và châu Đại Dương: 277 di sản

· Châu Mỹ: 170 di sản

· Châu Phi: 138 di sản

2. Công viên địa chất toàn cầu: 258 (trong đó Việt Nam có công viên đá Hà Giang)

3. Dự trữ sinh quyển 1976-2010: 504 (Việt Nam có 9)

4. Di sản văn hóa phi vật thể: 213 (Việt Nam có 8)

5. Di sản tư liệu: không kiểm kê được (Việt Nam có 5)

Từ 1945 đến 2014 trên thế giới có 1868 di sản thế giới các loại.

Tính đến năm 2015, Việt Nam có 31 di sản thế giới.

BÙI ĐẸP biên soạn

ĐIỆU HÒ

TRONG VẠN CẤY MIỀN NAM

I. Hoàn cảnh lịch sử miền Nam trước khi hò vạn cấy ra đời:

Năm 1470 vua Lê Thánh Tôn chiếm kinh thành ĐỒ BÀN. Vua lấy ĐỒ BÀN, ĐẠI CHIÊM và CỔ LŨY lập thêm đạo Quảng Nam. Năm 1777 Nguyễn Huệ chiếm xong Gia Định rồi trở về Qui Nhơn. Năm 1778 Nguyễn Nhạc xưng Đế hiệu gọi Đồ Bàn là Hoàng Đế thành. Như vậy thành Đồ Bàn ở Qui Nhơn và nhà Lê chỉ mở mang về phía Nam tới Qui Nhơn mà thôi.

Nguyễn - Trịnh đánh nhau 45 năm từ 1627 đến 1672. Đất mới lập, dân cư có lẽ cũng thưa thớt nhưng vì chiến tranh, nhiều người trốn vào Bà Rịa, Đồng Nai làm ruộng. Năm 1674 chúa Hiền phá được Saigòn, vây Nam Vang. Năm 1679, Tổng binh nhà Minh ở Quảng Đông, Quảng Tây đem 3.000 quân sang xin làm dân Việt, chúa cho ở Biên Hòa, Đồng Nai và Mỹ Tho. Ở đây, Nhựt, Chà Và và người phương Tây đến buôn bán đông đúc.

Năm 1708, Mạc Cửu, người Trung Hoa trốn nhà Thanh sang chiếm vùng Hà Tiên dâng cho chúa Nguyễn được phong làm Tổng binh. Về hình thức, tới năm nầy ta mới chiếm trọn miền Nam.

Năm 1753 Nguyễn Cư Trinh sang Chân Lạp đánh Nặc Nguyên, Nặc Nguyên dâng đất chuộc tội, Cư Trinh đem người Chiêm Thành bị Cambodia húng hiếp cho ở Tây Ninh và Châu Đốc, mỗi nơi có lẽ cũng 5.000 người để chặn quân Cambodia sang đánh. Người Cambodia bản địa còn lại có lẽ cũng năm bảy ngàn người là ít, kế đó là người Chiêm Thành, Trung Hoa và người Việt cứ vô thêm lần. Như vậy, bước đầu, dân miền Nam là dân hòa hợp nhiều dân tộc. Tôi võ đoán rằng tới khoảng 1802 trở đi thì văn học miền Nam bắt đầu hình thành. Tục ngữ, ca dao, dân ca thì xuất hiện liên tục nhưng những thể loại ca ngâm mới nhen nhóm thôi. Năm 1915 Vọng cổ miền Nam xuất hiện thì các thể loại văn học, ca ngâm bắt đầu xuất hiện.

II. Điệu hò vạn cấy miền Nam ra đời lúc nào?

Sau khi thống nhứt giang sơn về một mối, từ 1802 trở đi, vua Gia Long chú ý mở mang việc học cho miền Nam. Trong chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Phúc Ánh, lính Trung vào Nam cũng đông. Sau đó, lính miền Nam ra Bắc trở về… Điệu hò hát miền Trung bắt đầu là “Hơ…” hay “Ơ…”. Miền Bắc hát ru con bắt đầu là “À ơi” hay “Ạ ơi”, “A ời…” hòa nhịp nhau. Do thổ nhưỡng, cách phát âm, cách thẩm âm của miền Nam, bài hát ru con miền Nam bắt đầu là “Ù ơ…” hay “Ầu ơ…”. Ví dụ:

“Ầu ơ… ví dầu cầu ván đóng đinh…a á… cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi… Ầu ơ… khó đi khó đẩy về rẫy ăn còng, về sông ăn cá… về đồng ăn cua”.

Có bài hát ru con với hình thức thơ lục bát, nó hình thành lần điệu hò miền Nam nói chung, điệu hò vạn cấy nói riêng. Điệu hò nầy đã ngưng và mất hơn nửa thế kỷ rồi mà đi tìm nguyên nhân xuất hiện của nó chỉ là suy đoán mà thôi.

Từ sau năm 1802, vua Gia Long mở mang việc học cho người miền Nam nhưng đất mới, người thưa, việc lao động sanh sống cũng dễ dàng nên ít người chú tâm tới việc học. Cả miền Nam có lẽ chỉ có Gia Định là có mở kỳ thi Hương. Ai đậu cao là Cử nhơn, đậu thấp là Tú tài, rớt chỉ là anh Khóa.

Hồi nầy các ông đồ miền Trung vô Nam dạy học cũng nhiều. Họ đi các nơi, nếu có nhà giàu nào mời dạy con, ông chỉ ra điều kiện là nuôi cơm cho ông thôi. Nếu có ai gởi con học thêm ông cũng nhận nhưng học phí chủ nhà nhận làm gì thì làm, ông không cần biết. Nếu chủ nhà thấy con họ học không tiến bộ thì ngưng, cho ông một ít tiền lộ phí để ông đi. Khi phát hiện học trò giỏi thì ông ghi nhớ. Nếu có nhà giàu khác mời dạy, ông ra điều kiện nuôi ông và đứa học trò giỏi của ông, được thì ông gọi tới để dạy tiếp. Do đó, người có học trong xã hội cũng có tuy ít. Những người có học nầy góp phần vào việc tạo câu hò đấy. Cô, dì tôi nhờ ông nội, ông ngoại tôi làm giúp câu hò đối lại những câu hò hóc búa mà các chàng trai hò cho khỏi tức. Yếu tố câu hò có rồi, yếu tố phát sanh ra hò, tôi cho là bắt đầu câu nói khuyên nhau hay chống chế nhau rồi nó mở rộng ra là trai gái ghẹo nhau rồi tỏ tình với nhau.

Sau năm 1975, tôi về quê canh tác một mẫu ruộng, mỗi lần cấy, tôi kêu 12 công cấy một ngày xong. Về sau phải 15 công mới xong. Chọn công cấy giỏi thì họ trọng tuổi nên đã có chồng con. Khi cấy gần hết một lối nghĩa là khoảng hơn một giờ, họ bắt đầu nói chuyện tùm lum, chuyện tục ý thanh, chuyện thanh ý tục, câu đố… Có lẽ từ câu đố vui, nó đi tới câu đố thử nhau rồi tới câu ghẹo nhau, tỏ tình với nhau chăng?

Ngược về đầu thế kỷ 20, dân miền Nam còn thưa nên những ông địa chủ có từ 10 mẫu ruộng trở lên rất nhiều, có người có tới 150 mẫu đấy. Muốn cấy thì phải kêu công cấy. Kêu 30, 40 người không phải dễ nên mỗi xã có một ông trùm vạn. Ai muốn đi cấy thì tới ghi tên đề ông trùm vạn sắp xếp. Nếu xã nhà không đủ công, ông trùm vạn sẽ sang nhờ ông trùm vạn các xã kế cận hỗ trợ. Một vạn cấy thường gồm 30 người dàn thành một hàng ngang mà cấy. Các cậu có học chút đỉnh đọc những câu lục bát làm sẵn cho vui. Kế tiếp là ghẹo các cô công cấy. Các cô tức mình về nhờ người có học làm câu lục bát trả lời. Họ học thuộc lòng để đọc. Học riết, đọc riết đâm quen và tiến tới tự làm được. Nhưng đang cấy mà đứng lên đọc một câu thơ lục bát thì hơi kỳ. Do đó, từ đệm khởi đầu “Ầu ơ” đến. Ở ngoài ruộng mà nói “Ầu ơ” ru em thì chướng tai. Cái “Hơ…” của miền Trung khi bắt đầu hò một câu gì đó đến trong trí thì họ biến thành “Hò ơ…” hay “Hò lơ…” nghe tự nhiên hơn. Tất cả là do tôi võ đoán cả. Làm câu hò công cấy trai gái ghẹo nhau thì nói sao cho hợp, tôi không nhớ câu nào dù có nghe kể. Tôi táo bạo bịa ra câu hò để ứng phó một sự kiện đó là trời chuyển mưa mù mịt, một công cấy lên tiếng:

- Hò lơ… Mây tuôn đen kịt ai ơi…

Hò lờ Cấy mau khỏi ướt tơi bời lạnh run.

Nói thế đương nhiên có người phản ứng ngay và trong hoàn cảnh nầy phải kêu người ta lắng tai nghe:

- Hò lơ hó lơ lắng tai nghe tiếng tôi hò lờ

Cấy mau khỏi bị mưa vây… A lê hò lờ

Mai kia ông chủ… A lê hò lờ…

Ông chủ bắt mãi như vầy mệt ơi…

Ban đầu thì hò khơi khơi thôi nhưng sau đó nó tiến lần tới khiêu khích trả lời. Nhưng trả lời bằng thơ ngay thì hơi khó nên nó chuyển sang câu đối để dùng từ diễn ý thoải mái hơn. Sau, nó chuyển tới cách đối đại khái nhưng câu nói phải nghe xuôi tai. Như vậy là công cấy được hò tự do.

Trong tác phẩm “Chuyện tình trong chiến khu” của Lương Minh, ông có kể vài câu hò mà tôi nghe gần gũi với tôi vì ý giông giống như những câu hò mà tôi đã nghe nhưng tôi không nhớ. Tôi xin lược kể một đoạn của ông. Một hôm trong đám cấy, mặt trời lên khá cao, các cô gái trỗi giọng hò mấy câu cho vui thì có ba thanh niên ở xóm gần đó tới ngồi trên bờ nghe và coi cấy, cô Út lên tiếng:

- Hò ơ ơ ơ… Nhìn lên trời thấy đôi chim ô thước,

ngó xuống nước có con cua đang bò…

Hò ơ… Các anh tới đây không hát thì hò,

đâu phải con cò ngóng cổ mà nghe.

Một cậu thanh niên lên tiếng:

- Hò ơ ơ ơ…

Trên ngọn trâm bầu có con chim cu đang gáy.

Dưới đám ruộng có đôi trâu kéo cày.

Hò ơ ơ ơ…

Anh thương em muốn tính chuyện lâu dài, nhưng ngại gặp nhằm con hổ cái thì cuộc đời tàn luôn.

Có tiếng xì xào trong đám cấy, một chị nói:

- Sao tụi bây không chêm cho nó vài câu hóc búa cho nó ngán?

Cô Tư Em cất giọng:

- Hò ơ ơ ơ…

Lục bình trôi sông phải chăng họ hàng cùng rau mác, con cò không nhát sao gọi là cò ma.

Hò ơ ơ… Trông thấy anh có vẻ thật thà, nếu anh đối đặng gái già nầy sẽ theo không!

Một cô nói: “Chà! Vụ này hơi kẹt đó nghen”.

Trên bờ ruộng, một chàng trai cất giọng:

- Hò ơ ơ… Con mèo không rách sao gọi là mèo vá, con cá không ai thờ sao gọi là cá linh?

Hò ơ ơ… Trông thấy em, anh có cảm tình, rõ ràng là hữu duyên thiên lý nên chúng mình gặp nhau.

Có tiếng nói: “Chu choa, mùi quá rồi đó nghen!” rồi họ cười rân với nhau. Đại để là như vậy.

Điệu hò vạn cấy phát triển rầm rộ, các cô gái trẻ, các cậu thanh niên háo hức trong mùa cấy, ở nhà họ nhẩm thuộc lòng một số câu hò để ra ruộng tùy nghi. Nhưng khi nó lên cao tột đỉnh rồi thì nó cũng cáo chung mà thôi. Hai trong số ba câu hò chấm dứt hò vạn cấy, mỗi câu tôi nhớ non một vế nhưng cũng bịa thêm cho đủ hai câu. Cao hứng thế nào mà một chị công cấy hò:

- Hò ơ ơ… Thiên sanh nhơn sanh mộc, thọ khí âm dương, mộc dĩ đọt non.

Hò ơ ơ… Người sanh người nhưng làm sao tạo được con? Ai mà đối được…

Hò ơ… Ai mà đối được tôi mua gan công mật cóc thuốc chồng tôi theo!

Một thanh niên hò đối lại:

- Hò ơ ơ… Nhơn sanh nhơn, mộc sanh mộc. Cây chuối một mình lại mọc chuối con.

Hò ơ ơ… Người sanh người mà cách tạo con… Hò ơ… Em về em hỏi ông nội ông ngoại em chớ anh là kẻ thơ sanh biết gì!

Chồng chị công cấy đang phát cỏ bờ gần đó xách phảng đi tới đám công cấy, và anh cũng hò:

- Hò ơ ơ ơ… Nghe bây nói mà tao phát nổi xung…

Cho bây một phảng bây chun vô thùng!

Anh tới phảng cô vợ một phảng. Có lẽ trước 1945 màng lưới y tế nông thôn không có, nông dân thì cầm máu kém nên chị công cấy chết. Sau đó có lịnh cấm không cho hò nữa. Ông tôi là Hương Quản trong xã và cũng là điền chủ nên khi vạn cấy cấy ruộng của ông, ông ra thẳng ngoài ruộng vừa coi cấy, vừa truyền lịnh không cho hò. Rể của ông cũng là Hương Quản một xã khác, cũng là địa chủ, ông cũng ra ruộng coi cấy và truyền lịnh không cho hò. Các trùm vạn, không ai muốn công cấy của mình bị nạn nên trước khi công cấy xuống ruộng, họ cũng nhắc là cấm hò.

Có lịnh cấm nhưng có lẽ khí thế đang lên cao nên nó còn kéo dài thêm một thời gian nữa. Tôi còn nhớ thấy cô họ tôi ngồi một mình nói lảm rảm. Tới gần, cô đuổi đi. Má tôi nói đi chơi để cô học câu hò để mai hò đối với người ta. Đồng lúa vẫn còn xanh um dù Tây vô làng thì chúng muốn giết ai thì giết. Chiến tranh ác liệt dần, năm 1949 tôi lên Saigòn, lúc đó tôi tám tuổi. Sau đó, khi về quê, tôi không nghe ai nói đến vụ hò nữa.

Khánh Hội-Quận Tư-Saigòn 16-3-2016

NHỰT THANH

Vua hề CHARLOT

với Giấc mơ Mỹ

và bài học cho Du học sinh


Tượng Nữ thần Tự do , NY city, là biểu tượng của giấc mơ Mỹ

Giấc mơ Mỹ (American Dream)

Là một niềm tin về sự tự do mà cho phép tất cả các công dân thường trú nhân của Hoa Kỳ theo đuổi các mục tiêu của họ trong cuộc sống qua sự làm việc siêng năng và tự ý chọn lựa. Một người có thể đặt ra chỉ tiêu cao nhất của họ là đạt được thành công về tài chánh, và vì thế họ nỗ lực để đạt được điều đó theo kiểu cách rất Mỹ bằng khả năng hơn là bằng địa vị xã hội của mình. Đối với những người khác thì Giấc mơ Mỹ có thể bao gồm việc đạt được tình trạng tự do, không bị ràng buộc bởi đồng tiền và cấu trúc xã hội. Hai thí dụ về Giấc mơ Mỹ này là hai tia của quang phổ còn mở rộng gồm những điều có thể xảy ra.

Ý nghĩa của thuật từ này đã tiến hóa theo tiến trình lịch sử của Hoa Kỳ. Những nhà khai quốc Hoa Kỳ đã dùng thuật từ, “cuộc sống, tự do, và sự mưu cầu hạnh phúc”. Nó bắt đầu như cái cơ hội để đạt được sự thịnh vượng về mặt vật chất to lớn hơn là có thể có được tại quốc gia gốc của mình. Đối với những người khác, nó là cơ hội của con cháu họ lớn lên và nhận được một nền giáo dục tốt và sau đó là các cơ hội nghề nghiệp mà nền giáo dục đó mang lại. Giấc mơ Mỹ là cơ hội chọn lựa của từng cá nhân, không bị hạn chế ràng buộc bởi giai cấp , tôn giáo hay chủng tộc .

Tổng thống Clinton nói: “Chúng ta cần một tinh thần cộng đồng mới, một cảm xúc rằng tất cả chúng ta đang ở trong cộng đồng này cùng với nhau, hoặc Giấc mơ Mỹ sẽ tiếp tục héo tàn. Vận mệnh của chúng ta bị ràng buộc với vận mệnh của mọi người Mỹ khác”.

Nguồn gốc

Nhà văn kiêm sử gia James Truslow Adams (đạt giải Pulitzer về lịch sử) đã tạo ra thuật từ “Giấc mơ Mỹ” trong cuốn sách xuất bản năm 1931 của ông có tựa đề là Epic of America (Thiên hùng ca Mỹ):

Giấc mơ Mỹ là giấc mơ của một vùng đất mà ở đó cuộc sống đáng tốt đẹp hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho mọi người. Ở đó mỗi người có cơ hội theo khả năng hoặc thành tựu của mình. Đấy là một giấc mơ khó khăn cho tầng lớp thượng lưu châu Âu diễn giải đầy đủ, và cũng thật khó khăn cho tất cả chính chúng ta những người càng ngày ngờ vực và không tin tưởng vào nó. Nó không phải là một giấc mơ về các loại xe hơi hay đơn thuần là tiền lương cao, nhưng là một giấc mơ về trật tự xã hội mà trong đó mọi đàn ông và đàn bà sẽ có thể đạt được tầm vóc đầy đủ cái khả năng bẩm sinh của mình, và được những người khác công nhận họ vì những gì của chính họ, không phân biệt môi trường hoàn cảnh sinh ra hay địa vị ngẫu nhiên của họ.”


Vua hề Charlot:

Charles Spencer Chaplin (18891977)

Là một diễn viên, đạo diễn phim hài người Anh trở nên nổi tiếng trong kỷ nguyên phim câm. Chaplin trở thành một hình tượng toàn cầu thông qua nhân vật Tramp (Gã lang thang), thường được xem là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử ngành công nghiệp điện ảnh. Sự nghiệp của ông kéo dài trên 75 năm, từ tuổi thơ trong kỷ nguyên Victoria cho đến một năm trước khi qua đời ở tuổi 88, đem lại nhiều lời tán dương cũng như tranh cãi.

Tuổi thơ của Chaplin ở London cực kỳ khổ cực và nghèo đói. Cha bỏ mặc gia đình, để mẹ ông chật vật kiếm tiền, ông đã hai lần bị gửi vào trại tế bần trước khi lên 9. Năm Chaplin 14 tuổi mẹ ông phải vào trại tâm thần. Chaplin bắt đầu trình diễn khi còn nhỏ tuổi, lưu diễn ở các rạp hát và sau đó trở thành một diễn viên sân khấu, một nghệ sĩ hài. Ở tuổi 19 ông gia nhập công ty danh tiếng Fred Karno, và có chuyến đi đầu tiên tới Hoa Kỳ, nơi phát triển sự nghiệp của ông.

Tới năm 1918, Chaplin đã trở thành một trong những nhân vật nổi danh nhất trên thế giới. Ông từ chối chuyển sang làm phim có tiếng vào những năm 1930, thay vào đó tiếp tục sản xuất các phim câm City Lights (1931) và Modern Times (1936). Ông trở nên ngày càng quan tâm tới chính trị và phim tiếp đó của ông The Great Dictator (1940), nhắm vào đả kích Adolf Hitler.

Chaplin đã viết, đạo diễn, sản xuất, biên tập, diễn xuất và sáng tác nhạc cho hầu hết các phim ông tham gia.

GÓC TỐI của Vua HỀ CHARLOT

Sinh thời, Charlie Chaplin đã tìm mọi cách phong tỏa thông tin về cuộc sống phía sau màn ảnh của mình. Tuy vậy, những bí mật về “vua hề Charlot” vẫn dần được hé lộ theo thời gian.

Nhân vật “The Tramp” ra đời như thế nào?

Có lần được giao đóng vai một người say hồi năm 1914, Chaplin đã bị thu hút bởi chiếc quần rộng thùng thình của một nam diễn viên. Chaplin bắt đầu hình dung về một nhân vật hội tụ tất cả những điểm đối lập - “quần rộng, áo chật, mũ nhỏ, giày to”. Vậy là nhân vật “The Tramp” ra đời, thể hiện cách nhìn của Chaplin đối với những người đàn ông trung lưu. Với chiếc mũ quả dưa thể hiện lòng tự trọng. Đó chính là ý niệm mà Chaplin gửi gắm vào nhân vật hài kinh điển.

Vua hề” trên màn ảnh,

“Quái vật” khắc nghiệt trên phim trường

Sinh thời, Charlie Chaplin đã phải dày công che giấu cách làm việc của mình trên phim trường. Thường khi một nghệ sĩ lao động nghệ thuật nghiêm túc, đó là niềm tự hào và họ sẽ không ngần ngại chia sẻ với người hâm mộ.

Nhưng trong trường hợp của Chaplin, ông lao động nghệ thuật một cách khắc nghiệt, với chính mình và với đoàn phim, đến mức trở thành nỗi ám ảnh của những người cộng tác. Đối với một diễn viên hài - người luôn mang lại tiếng cười sảng khoái cho khán giả, nếu để lộ khía cạnh khắc nghiệt, đáng sợ của mình, sự nghiệp “gây cười” sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Vì vậy, Chaplin đã bằng mọi cách giấu kín cuộc sống phía sau màn ảnh.

Chaplin không cho phép phóng viên, thợ ảnh, được xuất hiện trên phim trường của ông. Dù Chaplin có viết tự truyện, nhưng ông đề cập rất ít tới quá trình thực hiện các bộ phim kinh điển của mình. Chaplin đã cố gắng phong tỏa những thông tin bất lợi, nhưng một khi đã vươn tới đẳng cấp của ngôi sao quốc tế, việc đó gần như bất khả thi.

Trong phim “City Lights” (1931), có một cảnh nhân vật “The Tramp” lần đầu gặp cô gái mù đứng bán hoa trên phố, Chaplin đã yêu cầu nữ diễn viên đóng cặp với mình đóng đi đóng lại cảnh này tới 360 lần trong ròng rã 10 tháng. Cuối cùng, ông đã thực hiện bộ phim trong 179 ngày kéo dài từ năm 1928 đến 1930 một cách không liên tục. “City Lights” là bộ phim quay lâu nhất trong sự nghiệp của ông.

Trong phim “The Gold Rush” (1925), khi “The Tramp” và một anh bạn (nam diễn viên Mach Swain thủ vai) bị kẹt vì bão tuyết trong hành trình đào vàng, họ đã buộc phải ăn giày chống đói. Chaplin yêu cầu cả mình và bạn diễn đều phải… ăn giày. Một người thợ chuyên làm bánh mứt kẹo được đặt hàng thực hiện 20 đôi giày làm bằng cam thảo. Để thực hiện cảnh này, Chaplin yêu cầu quay đi quay lại 64 lần.

Khắc nghiệt với người lớn, dịu dàng với trẻ nhỏ

Tuy là một con người khắc nghiệt trên phim trường nhưng trong những giờ nghỉ giải lao, dù rất mệt mỏi, Chaplin vẫn luôn “tấu hài” phục vụ cho đoàn phim và những trẻ em nghèo háo hức “lân la” quanh phim trường. Có lẽ đó là cách “vua hề” đền bù cho những lúc căng thẳng với đoàn phim.

Một điều lạ là Chaplin làm việc rất suôn sẻ với trẻ em, như với cậu bé Jackie Coogan xuất hiện trong phim “The Kid” (1921).

Tuổi thơ đầy bi kịch

Chaplin sinh ra trong nghèo khó ở London, Anh năm 1889. Mẹ của Chaplin có cuộc sống khá rắc rối, bà có ba người con với… ba người đàn ông, từng phải ra vào trại tâm thần và cuối cùng phải đưa các con vào trại tế bần.

Tuổi thơ của Chaplin bị ông coi như đã kết thúc từ năm lên 7, khi đó, ông phải vào trại tế bần. Thực tế, đây là cú sốc mà không bao giờ Chaplin có thể vượt qua.

Hollywood là một khu của thành phố Los Angeles , California , Mỹ, nằm về phía tây bắc của thành phố này. Được biết đến như một trung tâm lịch sử điện ảnh , Hollywood đại diện cho ngành giải trí và điện ảnh của Hoa Kỳ. Ngày nay, những ngành phục vụ cho công nghiệp điện ảnh của nước này cũng được mở rộng ra những vùng lân cận như Burbank Westside , nhưng những ngành quan trọng như biên tập , kỹ xảo , hậu sản xuất và ánh sáng trong phim ảnh vẫn được duy trì ở Hollywood.

“Giấc mơ Mỹ” của Charlie Chaplin

Ngay từ nhỏ, Chaplin đã bắt đầu tham gia biểu diễn trong những vở kịch vui để kiếm sống. Năm 1910, chàng thanh niên Chaplin cùng đoàn kịch có chuyến lưu diễn đầu tiên sang Mỹ. Khi thuyền sắp tới Mỹ, tất cả mọi người đều lên boong để được nhìn thấy nước Mỹ từ xa. Khi đó, Chaplin một chân ghếch lên thanh chắn an toàn, hai tay dang rộng và tuyên bố: “Nước Mỹ, ta tới đây để chinh phục! Tất cả đàn ông, phụ nữ, trẻ nhỏ rồi sẽ phải nhắc tới tên ta!”. Sau này, giây phút “tiên đoán” của Chaplin đã được nam diễn viên hài Stan Laurel - một đồng nghiệp cùng có mặt trên boong tàu lúc đó - kể lại.

Ngay năm sau, ở tuổi 25, vận may bắt đầu mỉm cười với Chaplin khi nhân vật “The Tramp” ra đời và được khán giả Mỹ yêu mến. Một thập kỷ sau, Chaplin đã trở thành người giàu có, nổi tiếng và thế lực ở Hollywood. Cho tới giờ, Chaplin vẫn được coi là “kỳ quan của điện ảnh”. Ông tin vào sự hoàn hảo và mỗi bộ phim của Chaplin đều là bằng chứng của tài năng.

“Hitler đã sao chép ria mép của tôi”

Chaplin từng chia sẻ nửa đùa nửa thật rằng: “Khi lần đầu tiên nhìn thấy Hitler, tôi đã nghĩ ông ta sao chép hình ảnh của tôi, lợi dụng thành công của tôi”. Đối với Đức Quốc xã, Chaplin là cái gai trong mắt, phim của Chaplin bị cấm lưu hành.

Khi căng thẳng gia tăng ở Châu Âu, Chaplin nảy ra ý tưởng rằng sự tương đồng giữa “The Tramp” và Hitler về mặt ngoại hình sẽ là một cơ hội để đả kích trùm Phát-xít.

Chaplin “trêu” Đức Quốc xã

Sau khi nhận được sự ủng hộ của tổng thống Mỹ Roosevelt, “The Great Dictator” (1940) được xúc tiến thực hiện hoàn toàn bằng tiền của Chaplin. Đức Quốc xã gọi đây là “bộ phim chống Đức một cách hốt hoảng” bởi thoạt tiên phim bị “ế” khi ra rạp. Tuy vậy, càng về sau, phim càng trở nên ăn khách, đặc biệt ở thời điểm sau khi Thế chiến II kết thúc.

Phim cũng đánh dấu mốc quan trọng đối với Chaplin. Đây là bộ phim đầu tiên Chaplin có sử dụng lời thoại, trước đây, nhân vật của ông chỉ im lặng “tấu hài”. Đồng thời, đây cũng là lần cuối cùng “The Tramp” xuất hiện trên màn ảnh và là thành công sau chót của nhân vật này.

-Tạ thế và quan tài bị đào lấy cắp: v ào sáng sớm ngày 25 / 12 /1977 (lễ Giáng s inh ) ông mất tại nhà sau khi mắc cơn đột quỵ trong lúc ngủ, thọ 88 tuổi. Thi hài ông được mai táng ở nghĩa trang Corsier và sau đó quan tài của ông bị đào lấy cắp để đòi tiền chuộc từ vợ ông là Oona Chaplin . Sau kẻ trộm bị bắt, quan tài được tìm thấy và được đem táng lại tại nghĩa trang Corsier và vây kín bằng bê tông cốt thép.

Câu chuyện này đã được dựng thành phim “Cái giá của sự nổi tiếng” (La Rançon de la gloire). Phim có sự tham gia diễn xuất của con trai V ua hề, Eugene Chaplin.

- Chuyển tới Thụy Sĩ : Những năm 1940 là một thập niên đầy những tranh cãi đối với Chaplin, và danh tiếng của ông bị ảnh hưởng nặng nề . Ông bị cáo buộc là có cảm tình với cộng sản, trong khi những vấn đề xoay quanh hôn nhân với những phụ nữ ít tuổi hơn nhiều và nghĩa vụ làm cha của những đứa con với những phụ nữ này gây ra một loạt vụ bê bối. FBI mở một cuộc điều tra, và Chaplin buộc phải rời Mỹ để tới Thụy Sĩ định cư.

- Chaplin vẫn là một nhân vật gây tranh cãi trong suốt những năm 1950 , đặc biệt sau khi ông nhận Giải thưởng của Hội đồng Hòa bình Thế giới ( của phe Liên Xô), cũng như sau cuộc gặp với Chu Ân LaiKhrushchev .

- Năm 1972, Viện Hàn lâm Điện ảnh Mỹ dành tặng Chaplin giải thưởng “Oscar danh dự ” , mà Robinson xem là một dấu hiệu rằng nước Mỹ “muốn thực hiện những đổi thay”. Ông trở lại Mỹ lần đầu tiên trong 20 năm. Ở đêm trao giải Oscar năm đó ông nhận được công chúng hiện diện đứng dậy vỗ tay 12 phút liên tục.

LỜI KẾT

“Giấc mơ Mỹ” và bài học cho Du học sinh

Mặc cho sự thay đổi về kinh tế và chính trị trên toàn cầu - nước Mỹ vẫn duy trì được đẳng cấp của mình bởi nó dành tặng một món quà đặc biệt gì đó rất riêng cho tất cả mọi người đã đặt chân đến đây.

Nói như người Mỹ - “a melting pot of culture”

Bất kỳ người dân Mỹ nào cũng có thể nói với bạn rằng Mỹ là một “lò luyện kim” nung chảy và hòa quyện tất cả các nền văn hóa với nhau. Ở Mỹ nếu chia theo ngôn ngữ thì chỉ tính riêng các ngôn ngữ thuộc Châu Á đã có đến 15 nhóm lớn - nhưng để đưa tất cả các nền văn hóa về làm “hàng xóm” của nhau - người Mỹ có lẽ đã phải rút ra nhiều bài học hơn chúng ta để tất cả các “hàng xóm” này có tiếng nói chung.

The American dream – Giấc mơ Mỹ

Rất nhiều người dân Mỹ theo đuổi giấc mơ này. Khái niệm giấc mơ nước Mỹ giờ đã quen thuộc bắt nguồn từ Bản tuyên ngôn độc lập của họ. “Tất cả mọi người được tạo ra bình đẳng”. “Quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Vì tất cả mọi người là bình đẳng nên giàu hay nghèo, quý tộc hay không, xuất thân nô lệ hay tự do và các ngành nghề đều được coi trọng miễn là tôn trọng luật pháp.

Một góc nào đó cho mỗi con người

Mặc dù Mỹ là một quốc gia non trẻ nhưng trên 200 năm tuổi đầy chông gai của họ đã nhào nặn nên một bản sắc khá độc đáo. Người ta tìm thấy ở nước Mỹ vòng tay chào đón mọi nền văn hóa và ít sự lảng tránh những gì là mới lạ và khác biệt. Đó là bởi người Mỹ hiểu rằng họ có đủ mọi điều kiện để giúp bất kỳ cá nhân nào hòa nhập, tôi luyện và thành tài. Từ thành phố lớn đến thị trấn nhỏ, từ vùng đất tuyết trắng Alaska đến điều kiện khí hậu ấm mát quanh năm California, là những điều kiện sống phong phú nuôi dưỡng những cá nhân dựng “nghiệp”.

Một dãy vô tận các chương trình giáo dục

Các trường cao đẳng và đại học ở Mỹ rộng mở đón các học sinh, sinh viên quốc tế với vô số lựa chọn các chương trình học. Chính vì con số các trường đại học và cao đẳng đáng kính nể (hơn 4,000 trường), một bạn học sinh có thể lựa chọn cho bản thân mình các chương trình học độc đáo tại một trường và vẫn có thể lọc được ra nhiều trường khác với một chương trình giáo dục tương tự trong trường hợp muốn chuyển. Trong thời đại công nghệ thông tin, sự linh động là số 1.

Chính vì có tài nguyên, con người, hệ thống luật pháp chặt chẽ và những cá nhân xuất sắc, nước Mỹ sẽ tiếp tục là một điểm đến vô cùng hấp dẫn đối với tất cả những ai ấp ủ giấc mơ vươn tới thành công, tiền bạc và sự nổi tiếng hay đơn giản chỉ là nâng tầm bản thân bằng tri thức. Nào, đã đến lúc chúng ta cần nghĩ: mình đã có giấc mơ Mỹ? Đã sẵn sàng cho các thử thách và khám phá bản thân? Hãy tự tin và chúc các bạn thành công!

PHẠM VŨ


Phụ Bản II

Cầm nhầm thơ

Nhà thơ Hoàng Lộc thông báo có người cầm nhầm thơ của anh để đăng lại trên trang Fb của họ. ( https://www.facebook.com/loc.hoang.3…/posts/959764124052780… )

Người “cầm nhầm” vừa lên tiếng xin lỗi tác giả vì “thấy hay nên copy cho bạn bè xem. Không ngờ là của anh”.

Ngày xưa tôi cũng gặp hai trường hợp “không ngờ” khi người ta chép lại thơ mình để đăng báo và in thành sách.

Vài năm trước đây có người báo cho nhà văn Trần Hoài Thư biết bộ sách “Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến” (Tập I) của Thư Ấn Quán xuất bản có… nửa bài thơ “Bài Tình Ca Ở Hậu Nghĩa” của Thiếu Khanh được ghi tên tác giả là Tôn Nữ Kim Phượng. Sau khi kiểm tra lại, anh Trần Hoài Thư đã phải viết lời xin lỗi độc giả, xóa bỏ tên ông nhà thơ Tôn Nữ Kim Phượng khỏi bộ sách trong lần in tiếp theo, và trả lại bài thơ trọn vẹn vào mục Thiếu Khanh trong Tập II của bộ sách “Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến”. Thực ra, sự nghiệp thi ca của ông (bà/cô?) Tôn Nữ Kim Phượng này thật “hẻo”. Ngoài nửa bài thơ đó của tôi mà ông ấy cóp trên Bán Nguyệt San Thời Nay để gởi đăng lại trên Tạp chí Văn vào khoảng đầu năm 1968 cho đến nay dường như ông ấy không có thêm một tác phẩm nào khác, cho nên tên ông ấy không có lý do để tồn tại trong bộ sách đầy công phu tâm huyết với di sản văn học Miền Nam của nhà văn Trần Hoài Thư. Nếu không có việc phát giác này trong bộ sách của anh Trần Hoài Thư, tôi đã quên mất cái tên Tôn Nữ Kim Phượng. (Tuy xưng Tôn Nữ, nhưng chắc chắn ông ấy là Tôn… Nam thì đúng hơn. Một tôn nữ cành vàng lá ngọc sao lại vác súng “lên rừng thẳm ngủ chiêm bao” để nhớ một “em mắt nghìn thu xanh cỏ biếc”!). Nhưng ông ấy không ngờ bài thơ dài gấp đôi phần ông ấy chép được, cho nên những người đã nghe hay đã đọc và nhớ bài thơ ấy phát hiện ngay và báo cho anh Trần Hoài Thư biết.

Trường hợp “không ngờ” thứ hai rơi vào một nhà thơ khác mà thời gian qua lâu tôi cũng không còn nhớ tên(*). Năm 1972, tôi đang giữ vài mục thường xuyên cho tuần báo Thời Mới ở Đà Nẵng. Một hôm có người mang sách đến biếu tại tòa soạn Thời Mới. Đó là một tập thơ có tựa “Ôm Đọt Sầu Mây”. Khi đọc tập thơ để viết lời giới thiệu trên báo, tôi phát hiện trong tập thơ “Ôm Đọt Sâu Mây” này có đến… sáu bài thơ của mình, tất cả đã được đăng trên Bán Nguyệt San Thời Nay ở Sài Gòn trước đó. Nhà thơ không ngờ “khổ chủ” vốn trước đó ở Sài Gòn lại đang có mặt ở đây nên anh ta vô tư đến tặng sách. Sau đó anh em trong tòa soạn lần lượt viết nhiều bài báo phanh phui vụ việc, và tôi nghe lời anh em nộp đơn kiện tác giả tập thơ “Ôm Đọt Sầu Mây” ra tòa án tại Đà Nẵng, có kèm theo vật chứng là tập thơ “Ôm Đọt Sâu Mây” và sáu tờ báo Thời Nay đã đăng sáu bài thơ bị tác giả tập thơ “mượn vô phép”.

Tòa án thụ lý nhưng để dằng dai không xử. Một thời gian sau, tòa án mời tôi đến đề nghị tôi bãi nại hoặc… giải hòa! Họ bị lâm vào thế khó, vì “nhà thơ” này là em út của một người tên Ngô Búa, dường như là Chủ tịch nghiệp đoàn Lao Động tại Đà Nẵng, thế lực rất lớn, dù nhà thơ ăn cắp thơ kia chỉ là em út của ông ta thôi mà đến tòa án cũng phải chùn tay. Dĩ nhiên tôi từ chối đề nghị của tòa án. Và sự việc từ từ… hóa bùn, cho đến năm 1975.

Tôi không nhớ hết sáu bài thơ bị ăn cắp, nhưng trong đó có bài thơ Bữa Đó (đã post ở đây nhân kỷ niệm 46 năm ngày cưới). Điều tức cười là “nhà thơ” đề tặng bài thơ cho một người tên Tôn Nữ Vân, và lấy tên Tôn Nữ Vân đó thay cho tên Kim Anh của nhà tôi ở câu thơ cuối:

Em chưa phấn son nghiêng lòng nguyệt bạch

Nghe lòng ta âu yếm gọi… Tôn Nữ Vân!

Thiếu Khanh

(*) Mới đây có người nhắc tên tác giả tập thơ “Ôm Đọt Sầu Mây” năm đó, và tôi nhớ lại, nhưng không muốn ghi ra đây.

Biến cố 1975 có cái “lợi” bất ngờ là nó quét đi giùm mình những thứ “tác phẩm” như thế. Tuy vậy, tập thơ của mình chưa in ra mà có đến sáu bài trong đó đã nằm trong một “tác phẩm” của người khác từ hơn 40 năm trước thì nói của mình ai tin! Nói như nhà thơ Hoàng Lộc: họ “cầm nhầm” của mình vài bài thơ thì không sao. Có điều về sau, khi con cháu mình đem thơ mình ra in bị thiên hạ nói mình ăn cắp thơ của ai đó, mới dễ điên chớ.

BA ĐÓ

Bữa đó rừng xanh vừa rửa mặt

Trời mới tinh hớn hở ở trên cao

Tha cọng cỏ con chim về xếp đặt

Chỗ ăn nằm trong cành lá chiêm bao

*

Trời bữa đó bữa nay ta vẫn nhớ

Như con nai nằm mộng nhớ thu xa

Vì bữa đó lòng ta vàng lót ngõ

Gấm trải đàng nghênh đón bước em qua

*

Ta cuống quít nhắm nghiền hai con mắt

Say trên môi mà run rẩy ở trong lòng

Ta ứa lệ nói miên man ngây ngất

Em ở nơi này vĩnh viễn nghe không?

*

Mở con mắt - Đất trời còn ở đó

Người với người hoa và lá quen thân

Ngày tươi rói giữa cuộc đời niềm nở

Ngõ nhà ai ta cũng muốn vào thăm

*

Từ bữa đó đời đã thay niên lịch

Ta bắt đầu tính một tuổi xuân xanh

Em chưa phấn son

           nghiêng lòng nguyệt bạch

Nghe lòng ta âu yếm gọi Kim Anh!

Thiếu Khanh

(Ngân Khánh Tình Ta) 

ÔNG THIỆT LẠ…!!

Ông thiệt lạ, nói chi nhiều thế

Rồi bảo rằng không phẻ, mệt ghê

Nói nhiều điều xấu đáng chê

Vì ông không nhớ lời thề năm xưa

*

Ông không khỏe tôi thừa trông thấy

Đã bao ngày ông ngấy ngán cơm

Nhìn ông dáng hạc thêm còm

Xót xa khi ngắm khi nhòm hư hao.

*

Ông thường nhắc tôi mau uống thuốc

Vậy mà nay tôi nuốt một mình

Nhìn ông những lúc vô minh

Chìm trong giấc ngủ hay tình thờ ơ

*

Tôi đã hiểu... Ông đang suy yếu

Cho nên ông mới thiếu tự tin

Tôi đang uống thuốc giữ mình

Cho tôi được khỏe níu tình giữ ông.

*

Ông hãy ngắm nhìn tôi cho kỹ

Dáng chúng mình từ ý đến hình

Cặp đôi hoàn hảo trao tình

Chúng ta đã hẹn ba sinh đi về.

*

Chính vì vậy lời thề phải trọn

Ngồi dậy đi để dọn cái tâm

Đây là bát cháo đã hâm

Ăn rồi uống thuốc, đi nằm ngủ yên.

*

Ông cần khỏe, đừng phiền lo nghĩ

Hết mệt rồi... thủ thỉ tiếp thêm

Bây giờ thì cứ ngủ êm

Tôi đang ngồi cạnh quạt mềm phẩy tay.

*

Ráng cùng sống chung xây phút cuối

Bạn tình già đắm đuối gởi trao

Tôi không chịu nổi trước sau

Chúng mình đã hứa bên nhau trọn đời.

Lê Thị Ngọc Thủy

16.04.2016

Tôi thích!

Ngày xưa ông quá thật thà,

Ngây ngô quá đỗi đúng là ghét ghê !

Nói năng nhỏ nhẹ vỗ về,

Dong dỏng cao ráo, thêm mê cái hiền

*

Lúc ông ấp úng ghẹo duyên,

Nói năng lộn xộn hiện nguyên dáng hình.

Rối bời của kẻ si tình...!

Liêu xiêu đến tội... nói... trình khó khăn.

*

Mặt khuôn... già bởi nhó nhăn,

Nụ cười héo hắt... vì căng quá mà.

Tự nhiên tim cảm tình xa,

Thế là chấp nhận lời qua trao tình,

*

Bàn tay ông vuốt nhẹ thinh,

Nâng niu dìu bước chúng mình sánh đôi.

Tay ông thường nắm tay tôi,

Song hành trao đổi những lời mật hoa

*

Thoi đưa cuộc sống trôi qua,

Chúng mình vui đón xuân đà bao xuân.

Cũng mang nhiều nỗi gian truân,

Cảm ơn ông đã vác khuân muộn phiền.

*

Trao tôi cảnh giới thần tiên,

Để tôi được sống trong miền yêu thương.

Bàn tay ông vẫn nhẹ vươn...

Cho vòng ôm nhẹ tình nương đậm tình.

*

Muối pha mái tóc trắng tinh,

Ông luôn chải vuốt với nghìn yêu xưa.

Nhẹ nhàng với sợi gió đưa,

Nâng niu chải gỡ cho vừa tình ông

*

Đến nay con đã yên xong,

Đôi ta tình vẫn mênh mông xuân thì.

Tôi luôn cảm xúc những khi...

Canh dài trăn trở ông ghì nhẹ tay.

*

Thương ông quay quắt tim này,

Ông đừng tưởng chỉ... đêm ngày nhớ thương !

Chỉ mình vò võ đêm trường,

Đôi ta đồng nhịp vấn vương duyên tình

*

Chín mươi vẫn thấy duyên xinh,

Vì tôi luôn có bên mình tình yêu.

Ông ơi ! Tôi thích ông nhiều,

Nào ông có biết mỹ miều tình tôi.

Lê Thị Ngọc Thủy

05.04.2016

DAY DỨT

(Tâm sự người vợ khuyết tật)

Mình hay bảo tôi mang nhiều mặc cảm

Tôi chỉ cúi đầu yên lặng mà thôi

Nhiều đắng cay nên tôi biếng môi cười

Mình đừng nghĩ tôi lạnh lùng, xa cách

Không mặc cảm nhưng tôi buồn nhiều lắm

Khi soi gương, khi tự vấn bản thân

Tôi hiểu mà… Tôi thua kém, tật nguyền

Thì tại sao mình yêu tôi đến thế ?

“Tình yêu chân thành mù lòa lý lẽ

Anh yêu mình đâu cần hiểu vì sao…”

Lời nói mình thật ấm áp, ngọt ngào

Nhưng trong tôi vẫn đong nhiều ngờ vực:

Mình yêu tôi kiếp này hay kiếp trước ?

Sống hôm nay, tôi sợ hãi hôm mai

Biết chừng đâu - bất chợt - có một ngày

Mình bừng tỉnh cơn mê dài si dại

Mình phân vân, hoang mang, nghi ngại

Thì thời gian có quay lại bao giờ ?

Tuổi trẻ qua rồi, mình nuối tiếc ngẩn ngơ

Và mình sẽ…

Tôi suy tư nhiều quá !

*

Không thể được, dừng lại thôi, mình ạ !

Tôi phải đi…

Tôi đã quyết định rồi !

Mình hãy tìm người xứng đáng hơn tôi…

*

Tôi quay lưng, mấy lần còn ngoảnh mặt

Miền địa đàng đã tuột khỏi tầm tay

Còn lại đây vùng bóng tối lưu đày

Hai tay nhỏ ủ vai gầy lạnh giá

Hai tay nhỏ ôm niềm đau tượng đá

Môi cắn môi, ngăn tiếng nấc nghẹn ngào.

*

Mai mình về, mình đừng hỏi: vì sao ?...

GIÁNG NGỌC (G.Đ.)

Người thắc mắc : Chết là Vui hay Khổ ?

Xin trả lời : vui lắm chứ sao không ?

Quẳng cái xe hay chết máy giữa đường

Để nhận lấy một con xe xuất xưởng

*

Tiếc làm chi tấm thân già bệnh hoạn

Nay đau lưng, mai nhức mỏi toàn thân

Mặt mày thì đầy những dấu chân chim

Tim, phèo, phổi, ruột, gan đều quá đát !

*

Níu cuộc sống nhờ vào vô số thuốc

Huyết áp rồi tim mạch, khớp và xương

Nói năng thì lộn xộn, nhớ rồi quên

Mắt mờ ảo, nhìn đời như sương khói !

*

Chân từ lâu đã xa vòng danh lợi

Răng cái còn, cái mất, có gì ngon ?

Bạn bè thì được mấy kẻ thật lòng ?

Con cái có việc riêng cần đối phó

*

Ta đã vượt biển đời nhiều sóng gió

Suốt cuộc đời ta đã sống nhiệt tình

Đã yêu thương và cống hiến hết mình

Nên Thân cũng vì ta mà mòn mỏi

*

Chết là thay tấm thân già còm cõi

Thì có gì phải khổ, phải sầu bi ?

Đến rồi đi, chỉ là một chu kỳ

Thay áo mới để đảm đương việc mới

*

Lại tiếp tục, hành trình còn đang đợi

Sao đổi ngôi để lấp lánh hơn xưa

Chuỗi ngày qua ta đã sống không thừa

Đã trọn vẹn cho một thời rong ruổi.

Tâm Nguyện

Tháng 4/2016

Thơ Tình

Tao đàn kỳ ngộ kết thân nhau

Thi phú văn chương quá nhiệm màu

Sông núi muôn trùng tình thắm thiết

Quan san vạn dặm nghĩa nồng sâu

Hồn thơ phơi phới hòa âm điệu

Nét bút thanh cao nối nhịp cầu

Bằng hữu tâm giao vui sướng họa

Vần thơ dệt đẹp để ngàn sau

XUÂN VÂN

Tưởng niệm 1 năm chị Xuân Vân ra đi

Dù chưa gặp chị lần nào

Lòng em sao mãi dạt dào tiếc thương

Xui chi bệnh hoạn thê lương

Chị đem giấu kín vấn vương cõi trần

Dân ca đàn hát dần dần

Phải đành đoạn tuyệt bao lần lao đao

Giờ đây ngồi lại với nhau

Tỉ tê tâm niệm đớn đau bạn mình

Một năm tưởng niệm linh đình

Nào Thơ nào Nhạc khắp hình bóng ai

Tiếng đồn quả đúng không sai

Tài hoa như chị bi ai để đời

Xuân Vân chị quá tuyệt vời

Thành tâm dâng kính ngàn lời ngợi ca

Dù cho vĩnh viễn cách xa,

Chị là ngọn đuốc bao la sáng ngời.

Thùy Hương dâng kính

(20/5/2015)

HƯƠNG GIANG

THƯƠNG NHỚ

Hương Giang ta bạn tâm tình

Thuở còn thơ ấu ngâm mình trên sông

Mặc cho mưa gió bão giông

Chiều về lưu luyến mênh mông đất trời

Nước sông như có lời mời

Cùng ta với bạn bao lời hàn huyên

Nhìn lên Thiên Mụ uy nghiêm

Âm vang chuông vọng thiên nhiên tuyệt vời

Hương Giang vẫn mãi rạng ngời

Đừng chia ly nhé tỏ lời thiết tha

Ngâm mình tự hứa không xa

Ta cùng sông nước bao la hữu tình

Thế rồi cuộc chiến thình lình

Tạ từ chốn cũ Trường Đình mến thương

Giờ đây cách trở vấn vương

Ngự Bình, Bến Ngự, Thừa Lương xa rồi

Thuận An, Vĩ Dạ tuyệt vời

Kim Long tôi đó vạn lời ngợi ca

Miền Nam nhớ quá muốn ra

Ngại nhìn sông núi xót xa u hoài

VŨ THÙY HƯƠNG

ĐÁM CƯỚI BÀ A

HAY ÔNG B CƯỚI VỢ

Ngồi buồn viết mấy câu vè

Để ai thích tiếu xem nghe sự tình

Có người ở huyện Đức Linh(1)

Tuổi vừa năm chín nhân tình năm ba

Ông B tuổi mới năm ba (53)

Bà A năm chín (59) thật là hữu duyên

Gặp nhau hò hẹn kết nguyền

Xây dựng chồng vợ nên duyên tuổi già

Ông B đi cưới bà A

Trầu cau rượu thịt hết ba trăm ngàn

Áo quần mũ nón mùng màn

Hết bảy trăm nữa đứt ngang triệu đồng

Lại thêm chiếc nhẫn đôi bông

Để làm quà cưới 5 triệu đồng có dư

Thống kê kết toán cộng trừ

Tổng cộng chi phí hai tư triệu đồng(2)

Cưới về nhưng chẳng động phòng

Phòng bà, bà ngủ giường ông, ông nằm

Anh em, bè bạn hỏi thăm

Ông B không nói, chống cằm thở ra

Đến khi chồng vợ rầy rà

Bà A nói toạc ông là Bê Đê

BÁ MẠNH (Đức Linh 12/2006)

(1) Huyện Đức Linh thuộc tỉnh Bình Thuận

(2) Hết hai mươi bốn triệu

TẬN THẾ

Tận thế là khi nhân loại điêu tàn

Dù sự sống mãi còn trên trái đất

Dù không muốn nhưng đó là sự thật

Chỉ có thời gian, chưa biết đến khi nào

Kinh tế toàn cầu đang lúc đảo chao

Nguồn năng lượng sắp đến hồi cạn sạch

Khí hậu đổi thay, chiến tranh, đói rách

Bão lụt nhiều hơn, động đất nhiều hơn

Có phải trái đất đã nguội rồi chăng

                     hay mặt trời sắp tắt?

Không đâu!

Tự nhiên còn có thể cho loài người

                thiên đường hạnh phúc

                            đến hàng tỷ năm

Nhưng chính loài người đang đánh mất lương tâm

Lương tâm mất đó là ngày tận thế.

Lương tâm mất, sống còn là xâu xé

Giành miếng ăn, bằng phá hủy môi trường

Ai sống sót cũng chết dần trong khốn khó

Và cứ thế loài người đi vào tận thế…

VÕ KIM CƯƠNG 

DÒNG ĐỜI DÒNG SÔNG

Em hỏi tôi có vui không ?

Biết trả lời sao được nhỉ

Tôi nghĩ đến một dòng sông

Đến một chân trời góc bể

Tôi là hạt sương của lá

Là giọt nước trong suối nguồn

Sắp hòa mình vào biển cả

Còn chi phải lụy vui buồn

Đã vui niềm vui tuyệt đỉnh

Đã buồn nỗi đau tận cùng

Đã bạc hai lần áo lính

Nợ vay trả mãi chưa xong

Đã hóa thân vào dòng chảy

Đỏ lòng nặng hạt phù sa

Những con sóng ngầm ai thấy

Qua hàng dâu biếc bãi xa

Anh trả lời em rồi đấy

Vui buồn giờ nhẹ như không

Dòng đời dòng sông vẫn chảy

Dẫu không bến hẹn bờ mong

LÊ NGUYÊN

THU

Thu đến song hành với gió mây

Mắt thu thăm thẳm, dáng thu gầy

Hồn thu theo gió lang thang mãi

Mang nắng vàng gieo khắp đó đây

Thu vẫn song hành với gió mây

Muôn hoa hương thắm khiến lòng say

Chiều thu trôi xuống trong sương lạnh

Để lại trong đêm bóng liễu gầy

Thu sớm phai tàn thương lá cây

Nhung nhớ mùa thu đã rụng đầy

Cánh hoa muộn màng bay theo gió

Ngập ngừng hương cuối phút chia tay…

DOANLINH 09/4/16

THƠ KHÔNG ĐỀ

Nhớ đến ngày sinh nhật 25/4

Đêm từng đêm trông đợi thời gian trôi

Để ngẫm nhớ ngàn lần về ký ức

Thời gian cứ cùng ta thổn thức

Để mơ về dĩ vãng trong ta

DOANLINH 09/4/16

NÚI BÀ ĐEN

Núi Bà Đen thắng cảnh Tây Ninh

Lên dốc mệt nhoài thật hoảng kinh

Hẻo lánh chùa Hang cây phủ kín

Chơi vơi mỏm Đá cỏ chân tình

Cáp treo lướt gió đưa du khách

Đường bộ băng ngàn đón tứ linh

Chánh điện Sư Cô ngồi tụng niệm

Đánh chuông khấn Phật độ nhân sinh.

NGÀN PHƯƠNG

NHẬT LỆ

Nhẹ bước chiều Xuân nắng khẽ khàng

Hùng ca Nhật Lệ sóng reo vang

Choàng mây động cát còn e ấp

Cợt gió rừng dương thoáng ngỡ ngàng

Khúc nhạc êm đềm sương bát ngát

Câu thơ tha thiết biển mênh mang

Thuyền tình say đắm vờn cung bậc

Quấn quýt tơ vương cõi địa đàng.

NGÀN PHƯƠNG

HỒ HOÀN KIẾM

Bồng lai tiên cảnh lạc trần gian

Bóng nắng nghiêng nghiêng mộng ngút ngàn

Dậy sóng Hồ Gươm như bão nổi

Chọc trời Tháp Bút tựa trăng tan

Ngàn năm kiếm báu còn lưu tiếng

Vạn thuở rùa thiêng vẫn vẻ vang

Lòng nặng niềm yêu nòi giống Việt

Kiêu hùng giữ nước thật kiên gan.

NGÀN PHƯƠNG

PHONG NHA

Bâng khuâng ngỡ lạc giữa thiên đàng

Danh thắng Phong Nha đẹp ngút ngàn

Lấp lánh mặt sông in nguyệt lạnh

Long lanh bờ đá ánh dương quang

Trời Nam thu gọn thân đài các

Đất Việt tập trung dáng dịu dàng

Vạn trạng thiên hình quy tụ lại

Tự hào Tổ quốc ngập tâm can.

NGÀN PHƯƠNG

VIỆT NAM – CĂMPUCHIA - SA-MA-KI*

Mây ôm núi bồng bềnh huyền thoại

Bước chân người chiến sĩ phiêu diêu

Kìa đồng bằng chan chứa đất phì nhiêu

Đất trăn trở bao điều… khó ngủ

*

Trải lòng mình theo đường đời quân ngũ

Nhớ về nhau đồng đội ngày xưa

Tình nguyện quân ở đất Căm-pu-chia

Đánh Pôn-pốt, Iêng-xa-ri khát máu

*

Tôi từng đến rừng chúng đã chôn dấu

Những hố xương người còn đó bày phơi

Dấu ấn tày trời thời Khơ me đỏ

Mây trắng buồn lững lờ trôi theo gió

*

Chọc thủng mây lộ khoảng trời mắt đỏ

Dưới hố sâu hỗn độn mớ xương khô

Bỗng từ đâu một câu hỏi mơ hồ:

Là con người mà sao họ dã man đến thế?

*

Tôi không khóc nhưng trong lòng ứa lệ

Hồn linh thiêng người có thể lắng nghe

Theo thời gian mọi sân hận sẽ qua

Ngủ yên nhé ở trong lòng đất mẹ

*

Trong hoạn nạn ta cùng nhau chia sẻ

Chung dòng Mê kông nghĩa nặng tình sâu

Bạn láng giềng ơi! Thân thiết bên nhau

Dang rộng tay siết chặt tình đoàn kết.

LÊ MINH CHỬ

*Sa-ma-ki: đoàn kết

50 CÂU HÁT XƯA

Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

Làm lành lánh dữ vậy ru

Lửa lòng dục tắt chớ cho hẩy hừng.

Người dưng phải đãi người dưng

Bà con chẳng phải thì đừng bà con.

Dạy con từ thuở còn thơ

Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.

Làm sao đến nỗi chồng chê

Tham ăn là một vụng về là hai.

Ngồi ra sao chẳng xe bay

Đến khi có cá mượn chày ai cho.

Tay làm bụng mới có no

Ăn cần ở kiệm khỏi lo cơ hàn.

Chữ nhẫn là chữ tương vàng

Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu.

Đói ăn rau đau uống thuốc

Đời xưa đã dạy lớp sau vâng lời.

Quét nhà ra rác chẳng sai

Miệng người thường nói bói thời ra ma.

Áo cũ để mặc trong nhà

Áo mới để mặc đi ra ngoài đường.

Vẽ hùm khó nổi vẽ xương

Biết người biết mặt biệt phương biết lòng(1)

Trai khôn tìm vợ chợ đông

Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.

Gái khôn tránh khỏi đò đưa

Trai khôn tránh khỏi vợ thừa người ta.

*

Hùm chết còn để lại da

Người chết còn để lại mà tiếng thơm.

Đi cho biết đó biết đây

Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.

Cười người chớ có cười lâu

Cười người hôm trước hôm sau người cười.

Vàng đem thử lửa thử than

Chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời.

Khi vui thì muốn sống dai

Khi buồn thì muốn thác mai cho rồi.

Có công sống mấy chục năm

Thử xem thửa ruộng mấy trăm người cày.

Còn duyên như tượng tô vàng

Hết duyên như ổ ong tàn ngoài mưa.

Còn duyên kẻ đón người đưa

Hết duyên đi sớm về trưa một mình.

Ở sao cho vừa lòng người

Ở rộng người cười ở hẹp người chê.

Béo chê béo trục béo tròn

Gầy chê xương sống xương sườn lòi ra.

Người khôn ở cửa ở nhà

Kẻ dại ra đứng miếu bà xin ăn.

LANG NGUYÊN st.

Trích từ Đồng âm tự vị của Nguyễn Văn Mai

(Hà Nội 1949)

(1) Do câu: “Họa hổ họa bì nan họa cốt,

Tri nhân tri diện bất tri tâm”

SỐNG YÊU ĐỜI

SỐNG mà vui vẻ trẻ đương thời

VUI tươi việc thiện giúp người đời

SỐNG mãi thời gian qua số kiếp

KHỎE người đi dạo ngắm cảnh chơi

SỐNG tập dưỡng sinh ngày hai buổi

YÊU thương con cháu nhắn nhủ lời

ĐỜI ta như nước nguồn trôi nổi

LÃO ngông sống khỏe để yêu thôi

QUANG BỈNH

QUÁN HÈ PHỐ

Túp lều nhỏ bên cạnh chung cư

Em dọn hàng còn đọng sương mai

Vài ba anh khách thuận đường đi

Thường ghé lại thuốc thơm ít điếu

*

Mỗi sáng ngày cà phê sữa trà nước

Chuyện lai rai từ phố đến nhà

Anh bạn hiền sau buổi tan ca

Ghé quán nhỏ thảnh thơi tâm sự

*

Cái lều cóc cũng qua ngày tháng

Một mình em chịu khó đa mang

Cuộc đời thường vất vả gian nan

Đùm bọc nhau cho cháu ăn học

*

Ở đời lắm sự người bôi bác

Làm sao cho vừa ý thế gian

Đều để ngoài tai không cần than

Em chỉ mong quán nước bán đắt

Khách vào ra vui vẻ gần xa

Ai cần chi em giúp người ta

Chỉ mong được bình yên mạnh khỏe

Nuôi cháu nhỏ học hành tiến bộ

*

Bao năm rồi cam phận lẻ loi

Sống tu nhân đùm bọc thương nhau

Bỏ qua đi bao sự khổ đau

Ước nguyện có một đời sống mới.

QUANG BỈNH 2016

SAO ANH CHƯA VỀ

Sao anh chưa về thăm cố hương

Vắng bước chân anh mọi nẻo đường

Hoa cà phê trắng nồng sương sớm

Nhớ quá ngày xưa bao luyến thương !

*

Sao anh chưa về thăm phố núi

Đất đỏ mưa dầm vương gót chân

Nương rẫy tinh mơ nghe tiếng dế

Se sắt hồn em những hẹn thề

*

Trường xưa còn đó vẫn đợi chờ

Bước anh về ôn kỷ niệm xưa

Anh có nhớ dưới hàng phượng đỏ

Hai trái tim khờ đã mộng mơ ?

*

Sao anh chưa về thăm xóm cũ

Thác Nhà Đèn có những hoàng hôn

Nhìn dòng nước chảy cùng mơ ước...

...Thời gian xa vắng nát tâm hồn !

*

Anh có về không bên đồi biếc

Ngắt đóa hoa sim ngắm mây chiều

Màu hoa tim tím hồn mơ mộng

Thơ thẩn bên nhau bao dấu yêu ?

*

Sao anh không về giữa đại ngàn

Nghe hồn gió hú giữa đêm hoang

Dã quỳ thương khóc bên triền suối

Cung đàn nhỏ lệ tiếc mơ tàn...!

*

Cao nguyên vẫn đợi bước anh về

Tiếng cồng chiêng nhung nhớ lê thê

Mơ dáng ai ngày xưa bên suối

Tình thơ ngây tuổi mộng hẹn thề !

*

Nhớ nhé anh ơi về Ban Mê

Cho kỷ niệm xưa cũng theo về

...Mùa xuân hoa nở sân đầy nắng

Đón người lạc bước ấm tình quê !

Phạm Thị Minh-Hưng

SG-CN-27/3/2016

ANH LẬP TÔN GIÁO

Anh lập tôn giáo EM

Mình em ngôi CHÚA HIỀN

Mình anh quỳ ngưỡng niệm

Trong GIÁO TÒA THIÊN NHIÊN.

Đà Lạt chớm xuân 2003

BÙI MINH QUỐC

I’M FOUNDING A RELIGION

I’m founding the “THEE” religion

Thee alone are the VIRTUOUS GODDESS

I alone kneel down venerating and praying

In THY NATURIST HOLY SEE.

Dalat beginning of spring 2003

BÙI MINH QUỐC Translated by VŨ ANH TUẤN

GIẤC XUÂN

Tặng các bạn cùng thế hệ của tôi

Anh ru em và em ru con

Vườn khuya lộp bộp tiếng sương buồn

Anh ru xua bớt buồn đêm thẳm

Hai mẹ con dần êm giấc ngon.

*

Lặng ngắm thiên thần yên giấc ngon

Đang bay vào mộng tắm hương nguồn

Anh xin riêng thức che ngày cũ

Vẫn ám vọng hoài những đợt bom.

Đà Lạt chớm đông 2003

BÙI MINH QUỐC

A SPRINGTIME SLEEP

Offered to all friends belonging in my generation

I’m lulling you asleep and you’re lulling our child

In the late in the night garden, resounds the

                                      pitter-patter of sad dew

I’m lulling to chase away the sadness of the

                                   unfathomable night

Gradually and sweetly fall asleep mother and chid

In silence I admire the angels who, in their sound sleep

Are flying into dreamland to bathe in the

                                    perfume of the source

I beg to remain awake, covering the old days

That are still obsessed by echoes of bombing waves.

Dalat, beginning of winter 2003

BÙI MINH QUỐC Translated by VŨ ANH TUẤN

CHUYỆN CỦA ÁI

Đã lâu lắm tôi không biết gì tin tức của Chuyên, chồng Ái , hình như Chuyên đã xuất cảnh sang Mỹ với hai con trai sau khi Ái mất không lâu. Sáng nay, tôi đưa bé Hoàng Thủy đi khám bệnh ở BV Nhi Đồng 1, khi chạy xe ngang căn nhà cũ của Ái tôi chợt nhớ Ái quá. Ái qua đời đã hơn mười lăm năm có lẽ. Hồi chị Ái lâm bệnh nặng rồi mất, tôi không biết tin, vì lúc ấy tôi đã ra Nha Trang dạy học, rồi gặp Hoàng ở đó, mãi loay hoay với cô học trò nhỏ và chuyện tình cảm nên tôi đã vô tâm với những chuyện ở Sài Gòn.

Sau khi đưa bé Thủy đi khám bệnh xong ra về, tôi chợt muốn đến thánh đường cầu nguyện cho chị Ái, tôi nghĩ chắc chị bây giờ đã thanh thản ở trên trời.

Tôi quay xe lại và nói với con:

- Hôm nay, mẹ và con gái đi sang nhà thờ cầu nguyện cho dì Ái nghe.

Con tôi hỏi:

- Dì Ái là ai vậy mẹ?

- Dì Ái là bạn rất thân với mẹ, dì mất lâu rồi, mẹ nhớ dì nên mẹ đi cầu nguyện cho dì, con đi với mẹ nhé.

Tôi và Hoàng Thủy đi qua thánh đường Bắc Hà và bước vào các hàng ghế quỳ xuống cầu nguyện cho chị bạn ngày xưa của tôi lúc cùng làm chung ở công ty dược phẩm C.P.

Lời kinh tôi dâng lên Chúa để cầu cho linh hồn chị Ái hòa với dòng nước mắt nhớ về chị ấy, nhớ quay quắt chuyện đời, chuyện tình buồn của chị trước đôi mắt mở to đầy kinh ngạc của bé Thủy bên cạnh tôi.

Năm ấy, tôi 18 tuổi, mới học xong Đệ Tứ đã vội xin nhà để được đi làm thư ký cho một công ty tư nhân. Mới đầu ba mẹ tôi không bằng lòng vì cho tôi còn bé mà lại chưa học lên Tú tài lại nôn nóng đòi đi làm việc, sau vì tôi năn nỉ mãi nên mẹ ba đành chìu ý, gửi tôi cho bà chị họ dẫn dắt, kèm cặp. Thế là một buổi sáng đẹp trời vào đầu tháng, tôi mặc chiếc áo dài mới màu tím Huế rất yêu thích đi theo chị tôi vào công ty ở trên đại lộ gần nhà bắt đầu một công việc mới. Ở nơi đó, tôi đã gặp chị Ái, làm chung phòng và được chị hướng dẫn. Tôi và Ái thân nhau từ đấy và quý nhau thật tình, vì chị tính tình hiền lành dễ mến hay giúp đỡ người khác.

Vì là người mới lại còn quá trẻ nên tôi rất nhút nhát, cả ngày cứ cắm cúi đánh máy các bảng kê nguyên liệu bào chế thành phẩm đã được tính giá vốn cho mỗi lô hàng. Ái thì trái lại, tính tình chị linh hoạt hay chuyện trò với nhân viên các phòng ban, chị làm xong việc là tìm cách kéo tôi vào cuộc chuyện phiếm của chị, lần lần tôi cũng thích nghe chị kể chuyện nhà, chuyện ca hát, ca đoàn của chị và chuyện tình yêu mà tôi thích nghe nhất.

Chị Ái không mang một sắc đẹp mặn mà, nhưng có duyên ngầm nên có rất nhiều bạn bè yêu mến chị, kể cả bạn trai theo đuổi chị cũng nhiều, chị nói vậy và tôi cũng cảm thấy vậy.

Chị thường nói về khoảng thời gian học ở trường Quốc Gia Nghĩa Tử ở đâu đó mà tôi không biết mà cũng không hỏi thêm. Kể về chuyện người bạn học cùng trường, khác lớp và nhỏ tuổi hơn chị, hay tặng quà và đưa đón. Ái kể tôi nghe và tôi thường trêu chọc chị:

- Vậy thì tình chị em có xảy ra không hở U? (tôi thường gọi yêu chị Ái như thế).

Ái đỏ mặt giãy nảy:

- Làm gì có, làm gì có, ta đã có người yêu rồi mà.

Tôi bật cười và từ đó theo gặng hỏi mãi chị ấy mới tiết lộ “bí mật yêu”.

Anh chàng người yêu của Ái là một sinh viên y khoa sắp ra trường tên là Mẫn. Cả hai đều được gia đình đồng ý, chỉ chờ chàng ra trường, đọc lời thề Hypocrate là làm đám cưới. Chị kể với vẻ mặt vui vẻ, mắt sáng ngời làm tôi thầm ngưỡng mộ pha lẫn chút ganh tị, đúng là người có tình yêu. Rồi chị Ái cũng kể cho tôi nghe về Mẫn, khi hai người bên nhau, thề hẹn gì, con cái sẽ đặt tên gì, hai người có mơ ước gì trong tương lai sắp tới, chàng thì thế nào, nàng thì ra sao. Tôi nghe mà vừa vui vừa thẹn thùng vì còn là một cô gái trẻ chưa biết yêu. Không ngăn được sự tò mò, tôi níu áo chị Ái hỏi:

- Những chuyện đó, chị Ái chỉ kể cho một mình em nghe biết thôi phải hông?

Chị Ái mỉm cười:

- Không chỉ một mình em, Trúc ạ. Chị còn kể những chuyện ấy cho Phương Linh nghe nữa, em quên Phương Linh với Ái là bạn thân à? Bạn từ thuở nhỏ cơ, mà Phương Linh cũng quen biết Mẫn của chị từ lâu rồi.

Nghe chị Ái nói thế, bất giác tôi có linh cảm chẳng lành nhưng rồi tôi tự nghĩ dẫu sao Phương Linh cũng thân thiết với chị Ái còn hơn mình, chắc không có việc gì đâu. Cô gái tên Phương Linh ấy cũng sinh hoạt cùng chung ca đoàn Quê H. với Ái, đi đâu cũng có nhau hết, như cặp bài trùng vậy. Tôi có gặp cô ấy một đôi lần lúc theo chị Ái đến phòng thu âm các bài thánh ca để lên đài truyền hình, tôi còn nhớ cô ta tóc dài, dong dỏng cao, mặt mũi cũng đẹp nhưng có vẻ kiêu kỳ “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” của nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi cảm thấy không thích Linh nhưng không dám nói với chị Ái điều đó.

Những điều tôi cảm thấy bất an về chuyện của chị Ái đã thành hiện thực. Một hôm, chị ấy kéo tôi ra một góc và đưa một tấm thiệp cưới. Tôi mừng rỡ reo lên:

- A! Chị Ái làm đám cưới hả?

Chị cười buồn nói:

- Không đâu, em xem thiệp ấy.

Tôi mở ra xem, thì ra tên chú rể là Mẫn nhưng cô dâu lại là một người khác, xa lạ không phải Ái.

Tôi mở to mắt:

- Sao vậy chị? Sao lại xảy ra chuyện như thế hả?

Chị Ái buồn bã thì thầm với tôi:

- Chị không ngờ chị đã quá tin người yêu, quá tin vào người bạn thân nhất, để rồi chuyện gì cũng kể ra, luôn cả những tâm tình của hai người yêu nhau, chị những tưởng nó bình thường, nào ngờ từng ngày từng ngày nó đã nghe và thần tượng hóa Mẫn. Chị phát hiện có một ngày nó lân la nhờ Mẫn đưa đi khám bệnh, đến nơi này nơi khác với nhau nhưng chị không biết, sau cùng có một dịp nó đã tỏ tình với Mẫn, Mẫn kể như vậy đó em.

Chị Ái kể với giọng đều đều như không cảm xúc trong khi đó tôi buồn muốn khóc hét lên:

- Giờ làm sao đây chị? Chị xử lý ra sao chuyện này?

- Giữa tình yêu và tình bạn chị đã không biết làm sao cho phải, đành phải lặng thinh.

Tôi nghẹn ngào:

- Và anh Mẫn đã chọn giải pháp kết hôn với người thứ ba hả chị?

Nhìn chị Ái không hề có giọt nước mắt nào còn tôi thì lại khóc tức tưởi thương cho chuyện đổ vỡ của chị. Lúc ấy, tôi thấy tức giận Mẫn quá chừng, tại sao anh ta lại xử sự như vậy để khổ chị Ái, nhưng sau này với thời gian tôi trưởng thành hơn và hiểu là Mẫn đã chọn giải pháp tốt nhất cho cả ba người. Không biết có đúng không, nhưng chị Ái của tôi thật đáng thương!

Tôi nhớ “thằng cha ấy” có đẹp trai gì đâu, chỉ được cái mang kính cận vẻ tri thức còn thì cao nhòng, ốm nhách. Đó là ý nghĩ của cô gái 20 tuổi chưa va chạm nhiều với cuộc đời. Bây giờ, nghĩ lại tôi thấy buồn cười thật.

Tôi cũng không biết an ủi chị Ái điều gì để chị ấy dịu lòng. Chị cầm tay tôi và nói một câu vừa quen vừa lạ hình như tôi đã từng nghe:

- Đừng kể tất cả những điều gì của người yêu cho bất cứ ai dù đó là bạn tri âm, tri kỷ thân tình nhất nghe Trúc, em sẽ bị cướp trắng tình yêu mà không tìm lại được đấy.

Tôi nghe mà chưa hiểu thấu nỗi sâu xa mà Ái đã gửi qua câu nói ấy.

Ngày tháng cứ trôi qua, chị Ái vẫn đi làm việc như thường lệ, chắc chị ấy phải cố gắng lắm để giữ vẻ bình thường ở bên ngoài thì phải, tôi đoán vậy. Rồi không lâu sau, chị Ái kết hôn với Chuyên. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng thầm nghĩ chị Ái đã tìm được bến đỗ cho tâm hồn đau khổ của chị. Lễ cưới của chị ấy với Chuyên đã cử hành ở nhà thờ ĐT, tuy đơn sơ nhưng trang trọng, ấm cúng, dù hôm ấy, trời mưa như trút và tôi đã bước vào giáo đường với bộ cánh ướt sũng mà cũng may cho cô dâu chú rể đã lên nhà thờ trước cơn mưa nên không có lếch thếch lôi thôi như tôi.

Gia cảnh hai anh chị cũng giống nhau, mồ côi và có một anh chị lại ở xa nên hai người tự sắp xếp đám cưới của mình. Ngày ấy tôi cũng đã hết lòng cầu xin Thiên Chúa ban hạnh phúc lâu bền cho chị Ái và Chuyên.

Trong thời gian chị Ái buồn rầu, đau khổ vì Mẫn và Phương Linh, thì Chuyên biết rõ tất cả những việc đã xảy ra, nhưng vẫn cận kề bên chị lo lắng cho chị hết mọi điều, và sau cùng là hai người đưa nhau đến trước Chúa để cùng thề hẹn trọn đời bên nhau. Tôi lại nghe tin sau lễ thành hôn của Ái - Chuyên, Phương Linh đã xin được học bổng sang Pháp để học tiếp ngành Văn Chương hay Triết Học gì đó. Thở phào nhẹ nhõm, tôi nghĩ từ đây ba người đã có từng cuộc đời riêng, thế cũng xong.

Đến khi miền Nam được giải phóng, đó là biến cố lịch sử của đất nước và cũng là của chị Ái và tôi. Ông chủ Công ty của chúng tôi ra nước ngoài, công ty giải thể, mọi người chúng tôi rời nhau, mỗi người mỗi ngã để lo toan đời sống của bản thân. Hai năm sau, tôi tình cờ đi qua nhà chị Ái, ghé thăm gia đình chị thì chị đã có hai đứa con trai chừng 5 tuổi, 3 tuổi rất nghịch ngợm, láu lỉnh. Ở lại ăn một bữa cơm nghèo với chị (Ái nói thế). Tôi thấy chị có gầy hơn lúc trước, song vẫn vui vẻ và phóng khoáng như hồi xưa. Anh Chuyên thì mến khách, tiếp tôi rất thân tình.

Lúc từ giã chị vẫn với bản tính nghịch ngợm, tôi nháy mắt, hỏi nhỏ chị:

- Sao hở U, hạnh phúc chứ!

Chị mỉm cười:

- Trúc đừng lo, anh Chuyên rất tốt với chị, lo lắng cho chị đủ điều.

- Nè, U đừng có ăn hiếp người ta nha!

Chị đánh mạnh vào vai tôi, nói:

- Con nhỏ này thật là…, chị nắm tay tôi: “Trúc à, em phải nhớ nhé ‘Hãy lấy người yêu mình chứ đừng lấy người mình yêu’ em nhớ đó Trúc”.

Đó là lần cuối cùng tôi gặp Ái vì những ngày sau tôi rời Sài Gòn đi Nha Trang theo lời mời của người bà con xa đến nhà dạy kèm cho con cô ấy môn ngoại ngữ, thế là tôi khăn gói lên đường để làm việc và để quên một chuyện tình lỡ dỡ không kết quả ở đây.

Cô gái bình thường như tôi cũng không tránh được sự mơ mộng ảo tưởng về tình yêu, cuộc sống, không lường hết những gian truân khó khăn trước mọi sự việc nên thường bị thất vọng, buồn rầu. Với tình yêu, tôi là cô gái khờ khạo, dễ tin người, vì thế chỉ toàn gặp ảo ảnh, thua thiệt. Không bao lâu, tôi lại bỏ xứ biển đầy thơ mộng ấy trở về như tên quân thất trận tình, tâm hồn tả tơi, bối rối vì Hoàng đã cưới một cô gái đẹp, giàu, có nhà có cửa, bề thế, quên hết những lời hứa hẹn với tôi. Mẹ đón tôi với đôi mắt rưng rưng, còn ba tôi chỉ thở dài buồn bã cho đứa con gái út.

Từ đó, tôi theo mẹ ra chợ bán rau quả hàng ngày mà không dám nghĩ gì xa vời hơn, chỉ biết phụ mẹ giúp gia đình qua cơn khó khăn chung ngày ấy.

Nhưng số phận lại cho tôi gặp lại Nhã, anh ấy là bạn của anh trai tôi, vào năm 1976, anh đã vượt biên với gia đình nhỏ của mình. Nhưng bây giờ anh trở về thành phố một mình vì vợ con anh ấy đã nằm lại dưới đáy đại dương sau một cơn bão lớn. Thật ra, tôi không nhớ anh Nhã, vì ngày trước khi anh đến chơi với anh Trường tôi, tôi còn bé lắm, anh thì quá lớn trong mắt tôi… Rồi, thỉnh thoảng anh lại ghé nhà tôi trò chuyện với mọi người, hỏi thăm tôi vài câu, tôi thì xem anh Nhã như người anh ruột trong gia đình mà thôi. Nhưng bỗng một hôm, mẹ tôi gọi tôi vào phòng và nói:

- Con biết Nhã, bạn của anh trai con chứ?

- Dạ, con biết.

- Con à, hôm kia, Nhã đã sang thưa với ba mẹ xin cưới con đó.

- Trời ơi, sao có chuyện này vậy mẹ? Con đâu có quen anh ấy - tôi giẫy lên như đỉa phải vôi - mẹ à, con không ưng đâu.

Mẹ tôi cười nhẹ, ôn tồn:

- Thì trước lạ sau quen mà con. Gia đình Nhã với gia đình mình thân thiết từ lâu rồi mà con, lại cùng đồng đạo nữa, con biết mà.

Tôi ngập ngừng:

- Nhưng, con…

Mẹ tôi ngắt lời:

- Thì, trước đây ba mẹ cũng đã cho con gái tự do chọn lựa đó thôi mà có xong đâu nào, thì nay, ba mẹ nhắm rồi, thấy ổn nên đã bằng lòng rồi đó, con cứ suy nghĩ đi, tuy Nhã có lớn tuổi và đã lỡ dỡ nhưng tính tình hiền lành, chân thật con còn mơ mộng gì nữa sao?

Mẹ tôi lại tằng hắng:

- Hay con đã có người rồi nên không ưng cậu Nhã?

Tôi vội nói:

- Không mẹ ạ, con không có ai hết, mẹ để con nghĩ kỹ đã, được không mẹ?

Mẹ tôi gật đầu đồng ý và tôi đi nhè nhẹ ra ngoài phòng khách ngồi bệt xuống ghế. Lúc đó, tôi chợt nhớ đến chị Ái và lời nói của chị ấy: “Đừng lấy người mình yêu…”

Sau mấy tuần lễ suy nghĩ, lại thêm những lời góp ý của các anh chị đều tán thành việc tôi thành hôn với anh Nhã và nhất là lời khuyên răn của ba tôi. Cuối cùng tôi gật đầu đồng ý nhưng xin tiếp tục ghi tên học đại học Ngữ Văn. Ba mẹ tôi và Nhã cũng phải chiều cô gái út bướng bỉnh này.

Tôi tốt nghiệp ra trường, về công tác cho một tờ báo của Quận và một bản tin địa phương, sau đó kết hôn với Nhã. Cũng giống phần nào như Chuyên của chị Ái, anh Nhã tuy nghiêm nghị nhưng rất hiền lành, cởi mở, hay lắng nghe và thân thiết, hay kết giao bạn bè tốt.

Khi tôi nóng nảy, thì anh ấy ôn tồn khuyên giải, lúc tôi buồn bã, gặp khó khăn trong công việc thì anh lại an ủi vỗ về như một đứa em gái nhỏ. Ngày qua ngày, tôi càng mến và yêu anh lúc nào không hay cho đến khi chúng tôi có bé Hoàng Thủy, cô bé xinh xắn và giống Nhã từ khuôn mặt đến bàn tay. Điều đó đã làm ba mẹ tôi càng vui mừng trước cuộc hôn nhân không định trước của tôi.

Nỗi buồn của tôi khi nhắc về chị Ái vẫn còn theo tôi mãi suốt trên đường về đến nhà. Chị Ái ơi! Trúc nhớ chị vô cùng, cả một cuộc đời ngắn ngủi, đau khổ khôn nguôi của chị đã được Thiên Chúa ban ơn, đưa linh hồn chị an nghỉ trên cõi trời cao.

Nhã thấy tôi không được vui mà vẻ mặt cứ ảm đạm buồn rầu, vội hỏi liền:

- Sao vậy em? Bé Thủy khám bệnh có sao không?

Tôi vội đáp ngay:

- Không có gì đâu, bé Thủy bệnh nhẹ, viêm mũi theo mùa thôi anh à.

Chồng tôi cười:

- Vậy mà làm anh lo quá, ngỡ có chuyện xảy ra cho hai mẹ con chứ.

Tôi trấn an Nhã:

- Em đã bảo là không có gì rồi mà anh.

Cả hai vợ chồng cùng cười vui vẻ với bé Hoàng Thủy, rồi tôi vào bếp để lo bữa ăn cho cả nhà được hoàn tất.

Nhưng đêm đến, khi cả hai vợ chồng cùng ngồi ở phòng khách, tôi đã không kềm được nỗi niềm của mình, đã kể hết cho Nhã nghe chuyện của chị Ái, chuyện của người bạn gái một đời đau đớn của tôi.

Sau khi lắng nghe hết câu chuyện kể, Nhã trầm ngâm suy nghĩ một lúc, rồi ôn tồn bảo tôi:

- Nếu anh nói với em rằng mỗi cuộc đời của chúng ta đều đã có một số phận định sẵn, em có tin không?

Tôi gật đầu nước mắt rưng rưng. Anh ấy nói tiếp:

- Vậy thì em đừng buồn nữa, chuyện chị Ái đã đau buồn, đã sầu khổ vì lòng người thay đổi, tình đời bạc bẽo như thế, nhưng Chúa cũng đã thương cho chị gặp Chuyên và có được thời gian hạnh phúc tuy ngắn ngủi nhưng như vậy cũng đủ rồi em. Còn việc người khác làm sai, lỗi gì đó, thì nên để Chúa phán xét em à… cứ vậy đi nhé, cô vợ bé bỏng hay thương vay khóc mướn của tôi. Hãy cầu nguyện cho chị Ái nhiều.

Nghe chồng nói có lý, tôi bỗng thấy nỗi niềm nhẹ hẳn, lòng lắng xuống trong tình yêu gia đình, chồng con đang hiện hữu trước mắt, tôi chợt quay sang nắm chặt tay anh và cả hai cùng mỉm cười vui vẻ. Nhưng trước lúc chìm vào giấc ngủ êm đềm, tôi lại nhớ đến Mẫn và Phương Linh, chợt nghĩ: “Hai người đó, hai nhân vật chính trong vở kịch đời của Ái, bây giờ họ đang ra sao? Đang làm gì? Họ có khi nào nhớ đến Ái và nghĩ lại việc mình đã làm với Ái, đã thản nhiên dẫm lên nỗi đau của người yêu, người bạn thân của mình khi hành động như ngày xưa không nhỉ?”.

Chắc ở chốn thiên đàng Ái đã tha thứ cho họ rồi, nhưng tôi thì…

Giấc ngủ chợt đến không mộng mị bên anh Nhã đã cắt rời ý nghĩ của tôi mất rồi.

Đêm 28/3/2016

HOÀI LY

Tôi khóc vì được cho sách

13g12 nhận được cuộc điện thoại lạ.

- Alo, ai đấy ạ.

- Thưa! Chú có phải chú Phạm Thế Cường không ạ.

- Vâng, tôi là Phạm Thế Cường đây ạ.

- Chú ơi, cháu ở thị xã Dĩ An, Bình Dương có 100 cuốn sách muốn tặng cho thư viện của chú được không ạ.

- Tuyệt quá! Cám ơn bạn.

- Cháu mang cho chú đến đâu ạ.

- Bạn gửi bưu điện được không.

- Chú chỉ đường cháu mang đến ạ.

Tôi chờ cháu tại chân cầu vượt Tân Hiệp và 14g20 chú cháu tôi đã ngồi bên nhau. Cháu gái nói cho tôi biết: Cháu rất thích đọc sách, con cháu 10 tuổi cũng thích đọc, bé còn vẽ và sáng tác truyện tranh nhưng bé nhà cháu lại không thích đọc truyện tranh. Cháu để lại cho bé tất cả sách văn học còn sách sử thì mang đến tặng Thư viện của chú.

Ngạc nhiên, tôi hỏi:

- Sao cháu có nhiều sách sử vậy?

- Cháu học Sử ra dạy lớp 10, cháu có gia đình và 2 cháu. Hồi chưa lập gia đình có bao nhiêu tiền cháu mua sách hết, cháu đọc xong thì cho hàng xóm, bạn bè và trẻ em, khi có gia đình thì giữ lại sách văn học cho mọi người sách kỹ năng, sách hạt giống tâm hồn. Còn sách sử là sách nghiên cứu để giảng dạy. Bây giờ khó khăn quá cháu phải đi hợp tác Lao động để trang trải cuộc sống nên chuyển sách cho chú.

Hai chú cháu nói về Đài Loan nơi một cô giáo dạy sử đầy tâm huyết phải bỏ nghề đi làm osin xứ người để nuôi con.

Đến gần 15g cô giáo trẻ đứng dạy xin phép ra về vì cô phải về tận Đồng Nai.

21g tôi mới có thì giờ mở thùng sách cô giáo trẻ tặng và soạn ra lau chùi từng quyển. Hầu như toàn bộ số sách là sách sử, sử Việt Nam, sử nước ngoài, sách về lãnh tụ đều phục vụ cho công tác giảng dạy môn lịch sử. Vừa soạn, vừa lau mà nước mắt tôi thỉnh thoảng nhỏ xuống sách. Tôi khóc vì từ nay Dĩ An mất một nhà giáo trẻ tâm huyết, môn lịch sử mất một nhà giáo am hiểu lịch sử và yêu nghề. Tôi khóc vì nghề giáo viên dạy sử bạc bẽo quá làm người giáo viên không thể sống với nghề. Vâng! Lần đầu tiên tôi đã khóc khi được cho sách.

PHẠM THẾ CƯỜNG


Phụ Bản III

SỐNG TRONG THẾ GIỚI

CỦA RIÊNG MÌNH

Tôi nói dối. Anh nói dối. Đó là chuyện thường tình. Khi cần chế nhạo những vị hay nói dối, ta thường đùa: “Tay này mắc bệnh nói dối”. Nhưng ít ai ngờ: có bệnh nói dối thật! Khoa học đã xác định được nó, và lo ngại thật sự với những người vướng phải căn bệnh quái quỷ này. Họ vật vờ trong thế giới riêng của họ, mặc cho óc tưởng tượng phiêu lưu, và đau khổ tột cùng, nếu bị đem trở lại thế giới thật! Cuộc đời của họ là những quyển tiểu thuyết…

THỬ XEM QUA VÀI TRƯỜNG HỢP:

Marie là một cô gái cao lớn, mười bảy tuổi. Trông cô có vẻ bí hiểm như những nhân vật nữ trong những truyện phiêu lưu mạo hiểm. Những người gần gũi cô sẽ cảm thấy bị mê hoặc, vì “hình như cô có biệt tài vượt qua những gì cấm kỵ”. Marie trông vừa nết na vừa đáo để, sẵn sàng khuất phục đối phương. Bạn bè cô sửng sốt khi biết cô yêu say đắm những người đàn ông trạc tứ tuần. Cô sưu tập người tình với tính cẩn thận của một nhà côn trùng học. Những chuyện tình ấy được Marie kể lại cho bạn bè, với nội dung hết sức lả lướt và thơ mộng. Tất cả chăm chú lắng nghe, và cảm thấy như đặt chân vào một thế giới không thể tiếp cận được. Mọi người có cảm giác hừng hực như đứng dưới ánh mặt trời nhiệt đới. Khi câu chuyện chấm dứt, người nghe bao giờ cũng khó chịu, vì cảm giác kỳ lạ: vừa no nê vừa đói khát! Tóm lại, tài kể chuyện của Marie thuộc hàng vô địch.

Và một hôm, cô đi biệt. Bạn bè ngơ ngẩn, vì thèm được nghe mãi những câu chuyện kỳ bí. Nhiều năm sau, một người bạn của Marie tình cờ gặp bà mẹ của cô giữa phố. Bà cụ cho biết: “Marie ấy à? Nó đi bán hàng ở xa rồi. Vẫn độc thân, không ra khỏi nhà buổi tối bao giờ. Bác lo quá. Nó lớn ngộc rồi, mà cứ đọc ba cái thứ tiểu thuyết nhăng nhít. Hình như nó không có bạn trai, cháu ạ. Kỳ nghỉ hè nào, nó cũng đi chung với gia đình cả”. Tất cả bạn bè Marie chới với. Thì ra, cô ta chỉ biết kể chuyện, chứ không biết gì về tình yêu. Một con mọt sách, vậy mà lại tỏ ra sành sỏi đến không ngờ.

Marina là con một bà nấu bếp. Cô sống chung với mẹ, giữa một dinh thự nguy nga. Cô chạm mặt triệu phú, tỷ phú như cơm bữa, thậm chí, chơi đùa với những đứa bé thuộc dòng dõi “trâm anh thế phiệt”. Lâu ngày, Marina cảm thấy bực bội vì “thân phận hèn kém” của cô. Cô càng mang thêm cái mặc cảm tai hại. Và bệnh hoang tưởng bắt đầu. Marina bắt đầu nói dối. Gặp ai, cô cũng nói dối về trình độ học vấn, về nghề nghiệp và thân thế của mình. Cô muốn mọi người phải chú ý và cảm phục mình! Marina bắt đầu ăn nói văn hoa, xử sự như tầng lớp quý tộc. Tóm lại, cô muốn rũ bỏ thân phận “đầy tớ”. Về sau, cô làm phóng viên một tờ báo khá lớn. Được dịp tiếp xúc với những siêu sao, cô càng biết thêm nhiều điều. Và lại thêm thắt khi kể chuyện cho bạn bè nghe. Rồi để người nghe đừng chán ngán, cô lại vọt miệng: “Mình đã từng là tình nhân của một ngài bộ trưởng cơ đấy. Trong tòa lâu đài (!), mình là người được sủng ái bậc nhất. Các bạn biết không, khi ngài bộ trưởng tổ chức tiếp tân, tôi phải đón khách ở cổng lâu đài đấy, chứ bà vợ già dở hơi của ông ấy đâu có ra!”. Cuộc sống của Marina cứ thế trôi đi, trong cách thức dối mình dối người. Và một hôm, khi ngồi thầm một mình trong phòng, với chiếc máy điện thoại, Marina bỗng giật mình: “Thì ra, cuộc sống của ta vẫn thế, vẫn tẻ nhạt, chả có lâu đài gì tất!”.

Alain lại là một trường hợp khác. Thuở nhỏ, anh được nghe những khúc nhạc rất hay, vì bố mẹ đều là nhạc sĩ. Tình yêu âm nhạc ngấm sâu vào da thịt lúc nào không biết. Khi trưởng thành, Alain lại thường xem phim khoa học viễn tưởng. Những cảnh tượng hoang đường trên hành tinh lạ, đầy màu sắc kỳ thú đã làm anh choáng váng. Kỹ xảo điện ảnh đã ám ảnh Alain. Và nó đã cùng với âm nhạc thuở bé hành hạ tâm trí Alain. Anh mất ăn mất ngủ, luôn mơ ước được sống trong khung cảnh xa xôi, huyền hoặc, đi lang thang giữa miền vắng, nghe những bản nhạc tuyệt vời. Cứ thế, Alain đâm bất mãn với cuộc sống hiện tại. Anh chỉ muốn tách rời “cuộc sống tầm thường, chán ngắt”, để được du ngoạn vào cái thế giới ấy. Đi làm về, Alain không kịp thay quần áo, đã vội phóng lên giường, mở nhạc, và nhắm mắt. Anh hoàn toàn hạnh phúc khi được đắm mình vào cõi riêng, và cực kỳ đau khổ, khi bừng mắt dậy. Rốt cuộc, cái ngôi nhà nhỏ xinh với khu vườn râm mát cùa Alain làm anh điên tiết. Anh bỏ mặc, không thèm thu vén. Và khi trò chuyện với bạn bè - nhất là những người mới quen - Alain không ngần ngại nói dối: “Tôi sống trong một ngôi nhà đặc biệt, toàn ánh sáng xanh đỏ hỗn hợp. Khu vườn của tôi toàn kỳ hoa dị thảo, đầy màu sắc lạ. Nhạc réo rắt, ngây cả người”. Nhiều người đã ngờ ngợ: anh chàng này bị yếu thần kinh! Và cũng đến cái ngày họ khám phá ra: Alain chỉ nói dối.

VÌ ĐÂU NÊN NỖI?

Điều khác nhau giữa một người nói dối bình thường và một người bệnh là gì? Tật nói dối bình thường đều có lý do, và không thoát khỏi “khuôn viên truyền thống”. Nói dối vì hèn nhát, vì khoe khoang, thậm chí vì lơ đễnh. Nói dối để tô hồng, bôi nhọ, để vỗ ngực xưng tên, gây lòng ngưỡng mộ hay khơi lòng trắc ẩn. Còn những người bệnh thì nói dối với một mức độ không thể tưởng tượng được. Chẳng hạn, nếu ta bảo: “Hôm nay, vợ tôi phải vào bệnh viện, nên tôi đi làm trễ”, thì vẫn là bình thường, dù có hơi độc địa. Nhưng nếu ta bảo: “Catherine Deneuve phải năn nỉ tôi chỉ cách mua sắm quần áo, để đóng phim”, thì quả là quá đáng!

Người bị bệnh thường nhầm lẫn giữa sự thật và hoang đường. Anh ta tự khoác lấy cái vỏ bí mật, và khoác luôn cho thiên hạ. Để hiểu rõ vấn đề, có lẽ nên giật lùi vào thời thơ ấu của con người. Khi lên bảy, một đứa trẻ vẫn chưa hiểu đâu là thực tế, và đâu chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Em sẽ thổi phồng và tô hồng tất cả. Nếu cha em là nhân viên ngân hàng, em sẽ nói “bố tao là giám đốc nhà băng cơ”. Và nếu ông là hoa tiêu, thì em sẽ bảo là thuyền trưởng. Lên tám, em sẽ bắt đầu phân biệt được mọi việc. Nhưng khi đến tuổi vị thành niên, thì vấn đề lại rắc rối hơn. Con người lúc này chưa phải là người lớn, lại hết là trẻ em. Khi soi gương, thấy mụn nổi đầy mặt, người ta dễ tưởng tượng và suy ra đủ thứ. Người mắc bệnh nói dối giống như giai đoạn “lỡ cỡ” này vậy. Họ cứ bồng bềnh theo những trò tưởng tượng và không chấp nhận những gì thuộc về sự thật. Tai hại hơn, họ chạy trốn cuộc đời thật, vì thấy nó không thích hợp với mình chút nào. Marie mơ có những cuộc tình như tiểu thuyết, và cô phải nói dối, để quên đi cuộc đời thật của mình: không có một mảnh tình vắt vai! Marina quên đi thân phận “con một bà nấu bếp”, để được sống trong nhung lụa, để được yêu ngài bộ trưởng. Và Alain phải sống trong khung cảnh huyền hoặc, đã quên đi thực tại. Họ thèm khát cuộc đời thứ hai đến độ không thể nói thật. Nhà văn André Malraux từng nói: “Đấy là một cách chối bỏ sự thật, chối bỏ chứ không quên nổi”. Nhìn chung, đây là mẫu người thiếu tự tin, luôn bất mãn và dễ bị kích động.

Có những cô gái luôn khoe khoang và tự mãn về gia phả của mình, trong khi họ chả có gì đặc biệt. Họ nhai những món nhạt thếch, và cứ nói là được dùng sơn hào hải vị. Và chỉ trong vòng vài năm, họ đã dựng lên cả một thế giới đối lập với thế giới thật. Cũng may là còn người thân, để níu họ lại! Theo các nhà tâm lý học, thì không chỉ có phụ nữ mới mắc bệnh này. Đàn ông cũng đau khổ như thế, chỉ có điều họ ít bị hành hạ hơn. Theo Luce Janin-Devillars - bác sĩ tâm thần kiêm nhà phân tâm học - thì “đàn ông ít tưởng tượng hơn đàn bà. Họ ít khi để tình cảm của mình bay lượn đến độ phiêu lưu”. Có lẽ, anh chàng thợ săn trong “Tartarin de Tarascon” của văn hào Alphonse Daudet là mẫu người như thế. Anh ta khoe khoang về những thành tích không có thật, vì chưa làm nổi! Đàn ông hay bịa về quá khứ của mình, với những người mới quen, và những người ít tuổi hơn mình. Nhìn theo góc độ tâm lý, họ nói dối, vì quá khứ chả có gì vẻ vang, hào hùng! Có những điều bất thành suốt thời trai trẻ, đã đọng lại như một nuối tiếc, dằn vặt. Bác sĩ Anne Vallée nhận xét: “Đàn ông thường để vuột nhiều cơ hội trong thời thơ ấu và lúc trưởng thành. Họ cần xác định một tính cách nào đó mà chưa được. Và họ tin rằng đấy là đẹp, là đúng. Và họ đâm ra hoang tưởng, vĩ cuồng!”.

Rất ít người chịu nói về chuyện lòng, về những rắc rối của mình. Họ chỉ thêu dệt, mơ mộng và ngớ ngẩn. Họ sẵn sàng tô vẽ - cho riêng mình - bằng mọi giá, và cực kỳ mệt mỏi khi lê gót về nhà. Ở đây, họ phải đối diện với chính mình, họ biết mình đã nói dối. Và nỗi đau khổ là vô cùng lớn. Bác sĩ Luce nói: “Khi sáng tác hay kể chuyện, người ta còn cái gì đó ràng buộc với kịch nghệ. Khi viết, là đã đi vào sự thật. Còn những con bệnh này thì không có kịch, và không có sự thật nốt!”.

Hạnh phúc gia đình đã từng bị căn bệnh này hành hạ. Những ông chồng từng định hình “mẫu người lý tưởng” trong óc, sẽ chán nản, khi vợ mình không có những tiêu chuẩn ấy. Họ vẫn yêu vợ, nhưng đau khổ một mình. Lúc nào, họ cũng mơ về một thiếu nữ “như ta hằng mơ ước”, và đâm xa lánh vợ lúc nào không biết. Những lúc cãi cọ với vợ, họ tự nhủ: “Ước gì là người kia, chắc sẽ êm đẹp rồi”.

Căn bệnh tai hại này đã làm giảm khả năng lao động và sáng tạo của rất nhiều người. Vì thế, các nhà nghiên cứu đang hy vọng tìm ra cách chữa trị.

XUÂN HUYÊN

(Theo Avantages - 2/93,

Prima - 2/93 và Châtelaine - 2/93)

HOÀNG KIM THƯ st.

ĐẠP XE TRÊN PHỐ

Đạp xe tà tà trên đường phố cũng có cái thú vị rất riêng. Này nhé, ta có thể thong thả theo chân một gia đình vợ chồng con cái, mỗi người 1 chiếc xe đạp xịn và rất xì-po đang nối đuôi nhau trong giòng xe chảy về khắp chốn. Vượt lên trước họ để thấy được cái tươi vui của 1 gia đình với giải pháp tạo niềm vui thật đơn giản: cùng cố gắng thêm cho mỗi người chút sức khỏe, cũng là tăng thêm sự bền chặt của sợi giây gia đình thiêng liêng và thân ái...

Ta có thể quan sát, thậm chí được níu kéo bởi những cánh tay túa ra từ vệ đường, được mời mọc bởi những giọng người ồn ã, được chiêu mộ bởi những làn khói tỏa ra từ các bếp bán đủ thứ trên vệ đường ta đi ngang. Ở đó, ta thấy có những người dễ dãi, có cả những cậu cô thanh niên đẹp trai, xinh gái... xì xụp bên món gì đó chắc đủ để ta chảy nước miếng nếu ghé qua...

Ta có thể dừng lại sát lề đường khi đèn đỏ tô màu rực lên cô bé phía trước. Ta bình thản khoanh tay nhìn thiên hạ nhấp nhổm cái xe của mình, đèn xanh chưa bật mà kèn đã tin tin giục giã. Ta kệ... xác thằng cha phía sau cứ muốn đuổi ta đi, để hắn có thêm không gian mà nhào lên phía trước. Ấy mà giá có ông giao thông nào đứng đấy thì hắn ta hiền như ma-sơ ngay. Này, ông có muốn lên thì xin mời, còn tui chỉ muốn đứng đây chờ các ngài đi hết tôi mới thủng thẳng đi. Vội mà làm gì! Về nhà lại phải phụ vợ nấu cơm chứ bổ béo gì cơ chứ các cụ ạ!

Ta có thể len len lỏi lỏi vào cái rừng xe kia, tiếp tục chuyến vi hành của mình, mặc xác cái đám người đang bu quanh ai đó, làm cản trở lưu thông. Cái đám người tò mò thắc mắc thấy 1 ông già mắt ngước lên ngọn cây, rồi cả bọn cũng đều nhìn lên ngọn cây ấy xem có chi nghiêm trọng, đến nỗi ông già cứ xua tay khi có ai théc méc vì sao và vì sao thế. Để rồi, cuối cùng, ông già cúi xuống bình thường và rất thong thả, ổng giải thích: Trời ơi... tui bị chảy máu cam chứ có cái gì lạ đâu. Và cả đám nhe răng cười... thộn...

Ta có thể coi xem trên con đường chật chội ấy, người ta bán những cái thứ gì mà lắm vậy. Chà, có cả hàng trăm cái xe đẩy tay, cái thì bán kem, cóc, ổi, bắp xào bơ, trứng... nướng, bao điện thoại, móc khóa (có cả móc... túi nữa), quần áo, bánh mì và đủ các loại bánh... Có cả khói nghi ngút từ mấy cái quán bán bánh xèo, có cả tiếng lanh canh của mấy cha nhậu vỉa hè, có cả rừng âm thanh chan chát, lèng phèng từ mấy cái thùng loa to hơn miệng người đang nhả ra những bài ca nghe... chẳng rõ.

Ngồi xe hơi, hay xe máy, nội cái muốn băng qua cái đám nháo nhào nhào ấy cũng muốn lộn ruột rồi chứ đừng nói là coi coi người ta bán cái thứ chi mà nhộn thế. Ấy là chưa nói đến cái sự bán vé số. Cứ như người ta mù không bằng, cứ xỉa phát một vào giữa mặt người ta mà la bai bải, số 79 đây bác ơi... Khỉ ạ! ông chỉ thích số... 35 thôi nhé! Có không thì bảo? Ấy vậy mà nếu có, các cụ mà không mua thì nó... rủa cho điếc tai mới thôi đí nhé...

Ta có thể đi ngang qua một đám tang. Người chết thì nghoẻo rồi, còn người sống có khi chắn cả con đường nhỏ làm nơi không chỉ là tiếp khách đến viếng, mà còn là nơi cho các trự có quen biết chi đó với khổ chủ, ghé vào và cũng... lai rai tới sáng. Cho vui í mà!

Và khi ta mỏi chân, nếu trời không tối lắm, ta có thể ngồi đâu đó dưới gốc cây công viên, ta có thể lắng nghe các cặp tình nhân khúc khích cười đâu đó quanh ta. Tùy ý, ta có thể ở lại lắng nghe mọi sự từ những vì sao trên trời, từ tiếng ì ầm xe cộ ngoài kia, và từ trong lòng ta mách bảo: Thôi, cha nội ơi, về đi cho con nhờ, về đi cho mấy đứa yêu nhau còn... gì gì ai mà biết.

LAM TRẦN

19.04.2013

Chuyện

sân

quần

vợt

Dương Lêh

Công ty ra thông báo tất cả công nhân và viên chức quản lý từ nay sau giờ làm việc được đến sân tennis Bình Hòa để luyện tập, mỗi tuần ba buổi, quần áo giày vợt banh người chơi tự lo, công ty không có lo.

Đây là công ty liên kết nửa nội nửa ngoại, tức là có nước ngoài hùn vốn. Nước ngoài ở đây từ một quốc gia nhỏ xíu bằng “cái đầu đũa chấm lên bản đồ”, gần đây nổi lên thành một con rồng châu Á. Con rồng này âm thầm lặng lẽ vào đất nước rừng vàng biển bạc, nhưng chỉ mới bằng con… thằn lắn, để kinh doanh và hốt vàng bạc về làm giàu thêm cho đất nước của rồng. Không giống như con rồng phun lửa trên cầu sông Hàn ồn ào hằng đêm phun ra hàng đống lửa, không biết đã dụ dỗ được bao nhiêu khách du lịch để làm giàu cho xứ sở mà ngày xưa Tây nó gọi là Tourane ?

Đúng là làm việc cho một công ty nước ngoài có khác. Từ ngày vô làm việc cho công ty này ông Rắc cảm thấy rất thích thú vì ngoài mức lương thơm phức, nhân viên còn được hưởng nhiều phúc lợi như được tặng sản phẩm vào dịp lễ, hoặc tổ chức nghỉ mát ở Vũng Tàu, hỗ trợ khi nhân viên có đám cưới, đám ma… Vì vậy ông Rắc sẵn sàng đem hết khả năng ra làm tốt phần việc chuyên môn của mình. Tuy nhiên sau này ông Rắc nghe một đồng nghiệp trẻ nói nhỏ:

- Khi anh mới vô làm việc ở đây, mấy bà mấy cô trong này có vẻ không thích anh.

- Sao vậy?

- Xin lỗi anh Rắc nhe. Tại anh hơi cao tuổi.

- Tôi mới bốn mấy mà cao nỗi gì?

- Mới đầu nghe nói có người vô làm công việc này, bà con hy vọng có anh chàng nào độc thân, trẻ trung một chút, ai dè sau này biết anh gần tới U50.

- Vậy mà mấy cô cũng “oải” à? Anh không nghe hồi xưa nữ hoàng Anh có nói bà không thích những người trẻ vì tuổi tác nhưng bà thích những người trẻ ở tâm hồn à?

- Mình là dân An-nam mà anh! Mấy cô ở đây mới hai mấy ba chục. Cao lắm là cô Tám ngồi góc đằng kia mới ba lăm, có chồng hai con.

Ông Rắc chợt nói nhỏ lại:

- Ừ, thấy bả sồ sề quá he.

- Coi vậy chứ bả cũng còn diện mượt mà lắm đó. Anh thấy không?

Ông Rắc ưỡn ngực ra như để cho anh bạn đồng nghiệp thấy mình còn khỏe mạnh:

- Anh thấy tôi cũng còn bảnh lắm chứ?

- Phải rồi, anh càng bảnh các cô càng không dám gần.

- Anh nói sao? Tui chả hiểu.

- Thiệt mà, mấy cô sợ làm thân con muỗi bị chết đuối trong nghiên son. Tức là mấy cô sợ bị anh chinh phục.

- Không dám, tui có vợ con rồi cha!

- Biết vậy. Nhưng “đời là vạn ngày sầu” mà anh.

Ông Rắc đã kín đáo để ý quan sát những đóa hoa trẻ trung xinh xắn và cả ba chàng “ngự lâm pháo thủ” ngồi dãy bên trái gần cửa sổ, còn anh chàng đồng nghiệp trẻ lém lỉnh lúc nãy làm ở bộ phận khác nhưng ngồi chung phòng. Tất cả nam nữ nhân viên trong phòng đều có điểm chung là tốt nghiệp đại học, cho nên họ ăn nói rất lịch sự. Đặc biệt có một cô vì lịch sự quá nên biến thành điệu đàng. Không biết hồi ở trường cô học cái môn Kỹ năng giao tiếp như thế nào mà bây giờ khi trao đổi báo cáo qua điện thoại với đồng nghiệp nam ở các chi nhánh trên toàn quốc, cô cho bà con trong phòng nghe với một giọng nói đặc biệt, nhão hơn cơm nếp. Cô Tám có lần nói nhỏ với mọi người chung quanh:

- Nó điệu quá không biết chừng nào tìm được anh chàng hy sinh cuộc đời cho nó đây.

- Biết đâu được chị Tám, xấu đẹp tùy người đối diện, thế nào cũng có cá dính câu…

Người đã nói câu này có lẽ cũng muốn dành cho cô một niềm hy vọng nào đó, nhưng ông Rắc thấy chuyện lương duyên của cô này coi bộ không được trơn tru lắm.

Có một cô ngồi trước mặt ông Rắc, biết cả tiếng Nhật. Công ty thường cho cô ra tiếp khách hàng Nhật Bản đến làm việc với công ty. Tài giỏi như vậy và cũng còn trẻ trung, cô lại có tính hơi trầm lặng và đặc biệt cô thích nói chuyện về giáo lý nhà Phật. Cô thích ăn chay và luôn tuân thủ nghiêm nhặt những ngày chay lạt như ba mươi, mùng một, mười bốn, rằm. Cô thường nói cô ăn chay như vậy để cầu mong cha mẹ cô được sống lâu. Cô Tám người có vẻ rành đời có lần nói nhỏ với những người khác:

- Nó muốn tu để cầu cho ông bà già sống lâu nhưng nó không lo chuyện chồng con thì ông bà già có sống lâu chắc cũng phải mòn mỏi trông chờ cháu ngoại.

Ông Rắc xía vô, nói nhỏ với cô Tám:

- Ông Phật có nói con cái ăn chay thì con đực, ủa quên, cha mẹ có được sống lâu không vậy?

- Cái này tui không rành, nhưng người ta tin như vậy, biết nói sao bây giờ…

Còn có một cô cũng còn trẻ trung xinh xắn có phần dạn dĩ và lanh lợi hơn mấy cô khác, có lần hỏi thẳng ông Rắc:

- Anh Rắc, sao cái tên anh ngộ vậy, giống như tên hai quốc gia nào đó hồi xưa đánh nhau. Nước Một Răng đánh với nước Một Rắc.

- Trời ơi, đó là nước I-răng đánh với I-rắc. Em kiếm ở đâu ra tên quốc gia gì kỳ cục vậy.

- Hồi còn sinh viên đám con trai xí gạt em đó. Tụi nó nói chữ “I” là số “1”.

Ông Rắc biết cô này không đọc sách đọc báo gì cả, nhưng ông phải giải thích cho cô biết:

- Tên anh là do ông nội anh đặt bằng tiếng Tây là Jacques nhưng khi ra hộ tịch làm khai sanh, ông hộ tịch bắt phải ghi theo tiếng Việt Nam là “Rắc”, Trần văn Rắc.

- Hèn gì! Bây giờ mới biết tên anh là tên Tây. Mỗi khi người ta kêu anh “Rắc, Rắc” tưởng chừng như có cành cây nào đó đang gẫy.

- Chọc quê he!

- Em xin lỗi. Chết, sếp vô kìa.

Rồi cô bỏ về bàn làm việc.

Từ khi có thông báo công ty đã thuê được sân cho nhân viên chơi tennis, bà con cảm thấy hăng tiết canh đổ xô đi mua quần áo, giày vớ, banh vợt. Chi phí ban đầu này so với đồng lương của nhân viên ở đây chỉ là chuyện nhỏ. Quan trọng là cây vợt. Người này mua Wilson, người kia mua Head… , đến trưa sau giờ cơm, mọi người đem ra bi bô so sánh. Cô nàng lanh lợi, có lần chọc tên ông Rắc, cũng khoe cây vợt mới cáu:

- Cây vợt của em hiệu chữ “P”, chủ tiệm nói có nghĩa là “Phang”, nghĩa là ra đấu em sẽ phang tự do.

- Đừng xạo. Có huấn luyện viên hướng dẫn, ở đó mà phang tới phang lui.

Đối với ông Rắc, môn tennis này không có gì lạ. Hồi còn là sinh viên, ông được đi theo người cậu tập chơi gần được hai năm. Sau đó ông nghỉ chơi để lo thi ra trường và tìm việc làm. Nay chơi trở lại môn này ông Rắc không lấy gì làm khó khăn. Bên bộ phận kho bãi cũng có mấy người đã biết chơi rồi nên ông Rắc tấp theo đánh độ cũng vui. Riêng cái nhóm mới tập thì chỉ mới biết hất banh qua lại, dù đã được huấn luyện viên hướng dẫn, nhưng còn chạy tới lui loạn xạ và kêu nhau inh ỏi.

Vì mê cái môn tennis này nên ông Rắc cũng thường xuyên theo dõi những giải đấu quốc tế trên TV và càng theo dõi ông càng phát hiện ra những đấu thủ tennis tranh giải thường giàu quá. Có anh chàng người Serbia, hiện là số một thế giới, đã vượt qua ngưỡng một trăm triệu đô la tiền thưởng. Anh chàng người Thụy sĩ cũng được ngót nghét 98, 99 triệu đô la. Bên phía nữ thì không ai không biết cô nàng người Mỹ da màu. Thân hình cao lớn, phốp pháp cộng với vòng số một gần như quá khổ, người ta những tưởng chừng như khi cô chạy trên sân, mặt sân xi măng phải nứt rạn, và nếu ở sân cỏ thì không còn ngọn cỏ nào có thể mọc lên được ngay thẳng. Nhưng không, cô vẫn thi đấu thanh thoát và mang về chiến thắng hết giải này đến giải khác.

Xem TV tường thuật thể thao, chỉ phiền một điều là các ông “tường thuật gia” này sính xài tiếng nước ngoài quá. Nhân dân ta phần lớn còn nghèo. Thành phần lao động chiếm khoảng 70, 80 phần trăm. Ngoài môn thể thao vua là bóng đá bà con đã thưởng thức quen rồi, nay muốn thưởng thức thêm món tennis nhưng nghe ông tường thuật gia nói mà không hiểu gì hết. Cho nên bà con lao động ở dưới quê phần lớn không thích xem các giải đấu tennis. Khi một trong hai đối thủ đang bị dẫn điểm, tức là đang yếu thế, ông tường thuật gia bèn phang lên lời bàn Mao tôn cương liền: “Đấu thủ Nadal cần phải sửa lại lối đánh để hóa giải những đường bóng sắc sảo của đối phương và giành lại bréc”. Đúng là một câu nói vừa huề vốn vừa khó hiểu. Huề vốn là vì đối thủ đang bị dẫn điểm nếu không sửa lại lối đánh thì đương nhiên thua đẹp luôn. Ước gì đấu thủ đó nghe được lời ông tường thuật gia này chắc chắn là sẽ thắng ngay lập tức. Còn “bréc” là gì? Lại sính tiếng nước ngoài. Sao không tìm ra một từ ngữ nào đó thích hợp để dịch ra cho bà con người ta hiểu với? Mỗi đấu thủ khi ra sân thi đấu luôn luôn có ông huấn luyện viên ngồi gần đâu đó để nhắc nhở về chiến thuật và kỹ thuật. Ông tường thuật gia này muốn được coi là bậc thầy trong môn tennis. Đó là cái bản chất thích làm thầy người ta. Ông Rắc thấy hình như trên TV có nhiều tường thuật gia y chang như vậy.

Một hôm, ông Rắc đến dự hội chợ sách, gặp bà xã của một người bạn đang chơi tennis ở một sân khác, bà cho biết dạo này ông chồng bà “vẫn đi đánh tennis, nhưng lại không phải … đánh tennis”. Ông Rắc ngạc nhiên, hỏi:

- Lâu lâu gặp, chị nói tui không hiểu gì hết trơn.

- Anh bình tĩnh. Nó là vậy nè. Ông nhà tui chơi tennis lâu rồi, anh cũng biết. Chủ nhựt nào ổng cũng đánh từ sáng tới trưa, về đến nhà mồ hôi mồ kê và mùi rượu bia nồng nặc. Ổng hối tui lấy đồ đạc ra cho ổng đi tắm. Tôi thấy đó là chuyện thường ngày ở huyện, xã nào đó như người ta hay nói. Nhưng rồi cách đây hơn tháng tôi phát hiện hai ba Chủ nhựt liên tiếp, ổng đi đánh tennis về mà sao áo quần khô queo, còn sạch bong giống như lúc mới mặc lúc sáng. Tôi bắt đầu nghi vấn, nhưng để bụng, mà không dám hỏi sợ ổng la rồi nói tôi ghen tương bậy bạ. Tôi để ý những buổi tối ổng tiếp khách về trễ, tôi đợi ổng ngủ rồi lén lấy cái áo sơ mi của ổng ra sau bếp mở đèn sáng lên kiểm tra. Tuyệt nhiên tôi không tìm thấy một vệt son môi, một sợi tóc dính lưng chừng ở nút áo, và cũng không có mùi nước hoa nào hết. Khoan, cho tôi uống miếng nước, đi anh!

Ông Rắc lịch sự quay sang tủ nước nóng, lạnh gần đó lấy một ly nhựa, hứng gần đầy ly đưa cho bà. Bà đón lấy rồi đưa lên miệng tu liền một trăm phần trăm và đưa lại cái ly không cho ông Rắc đang chìa tay chờ lấy để bỏ vô thùng rác bên cạnh.

- Tôi chưa hết nghi ngờ đâu anh. Đàn ông các anh khi hiện yêu, hiện quỷ lên rồi thì khôn lắm. Ông nhà tôi không thích nước hoa và ổng khuyên tôi không nên dùng. Ổng lý luận ngang tàng lắm đó. Ổng nói người nào thân hình hôi hám mới phải xài nước hoa. Cho nên tôi đoán, ổng mà đi chơi với bồ, hả, đừng hòng cô nào được xức nước hoa. Bởi vậy tôi kiểm tra cái áo không thể phát hiện một mùi nước hoa nào hết.

Có lần ông để cái điện thoại nằm thờ ơ trên bàn trong khi ổng đang ở trong toilet, tôi định chụp cái điện thoại coi nhanh chóng thử xem có cái mét-xa gửi cho cô nào không, nhưng hoàn toàn không dám lấy điện thoại của ổng để kiểm tra. Chúng tôi đã có một thỏa thuận rất nghiêm khắc là thư từ điện thoại của ai nấy lo gìn giữ mà xài. Ngay cả khi có hỏa hoạn, người này không được lấy điện thoại của người kia để gọi xe cứu hỏa hay cứu thương. Lúc đó tôi thấy rất hay và thấy ổng có vẻ tôn trọng mình nên tôi ngoéo tay với ổng, nhưng bây giờ tôi muốn xem cái điện thoại của ổng mà không dám và phải chịu thua.

Ông Rắc cảm thấy hơi sốt ruột hỏi như hối thúc:

- Rồi, rồi sao nữa? Ổng có theo đuổi bà nào không?

- Anh từ từ để tôi nói tiếp cho mà nghe. Mấy bà bạn tôi bày những tối khi ổng về trễ coi hai cái gác chân ở phía sau mở ra hay xếp vào. Nếu mở ra thì đúng là có chở một người nào đó. Đàn bà là chắn chắn rồi. Tôi nói phương pháp này xưa quá rồi mấy mẹ ơi. Nó có từ thời của ông Sơ-lốc Hôm(1) lận! nhưng tôi cũng thấy phương pháp nghiệp vụ hình sự đó không chính xác. Cho dù đúng đi nữa nhưng ổng chối bay bảy thì mình cũng không làm sao buộc tội.

Thấy coi bộ căng cho nên tôi phải áp dụng phương pháp nghiệp vụ sau cùng là “theo dõi” và “đột nhập”. Buổi sáng Chủ Nhật đó, ông vừa ra khỏi nhà, tôi khóa trái cửa lại phóng vội ra cửa sau leo lên xe ôm của anh Tú tôi đã dặn đậu chờ ở sau nhà, chạy theo và tôi cũng đã dặn anh Tú chạy phía sau cách xa xa một chút khoảng hai chục mét, trong khi tôi cố gắng theo dõi không để cho vuột mất.

Từ xa tôi trông chừng theo ổng. Đến gần ngã tư ông tấp vô lề dừng lại ngay trước một tiệm bán quần áo thời trang. Một người đàn ông từ trong tiệm bước ra, ăn mặc như một đấu thủ sắp ra sân tennis nhưng không đeo túi đựng vợt, trong khi đó túi đựng vợt của ông nhà tôi để ở phía trước xe. Tôi nhận ra người đàn ông này đúng là bạn tennis với ông xã tôi. Tôi lấy làm lạ sao ông này không đem vợt theo. Mấy ông chơi môn thể thao này thường quen sử dụng vợt riêng của mình chứ không thích mượn qua mượn lại. Ông xã tôi, chở người bạn sau lưng, chạy tiếp qua hai ngã tư rồi dừng lại ngay trước tiệm phở “Xe lửa”. Tôi nói với anh Tú, xe ôm:

- Mấy ổng đi ăn sáng.

- Cô cũng vô ăn với mấy ổng luôn cho rồi!

- Không được. Anh không thấy tôi đang “tác nghiệp” sao?

- Cô không thấy đói bụng à?

- Đang theo dõi cái vụ này, tôi không thiết gì ăn với uống.

Thực sự tôi nói dóc đó chứ tui cũng đang đói bụng quá trời, nhưng tôi kiên trì phải làm cho ra chuyện trong buổi sáng nay.

Một lát sau, hai người lên xe đi tiếp. Tôi đoán giờ này hai người ra sân là cái chắc, nhưng tôi hết sức bất ngờ khi thấy ông nhà tôi lái xe chở ông bạn trở về nhà ông ta, chỗ tiệm bán quần áo thời trang. Hai người đẩy xe vào trong tiệm rồi mất hút ở trong đó. Anh xe ôm hỏi tôi:

- Cô tính sao bây giờ?

- Tôi cũng hết biết luôn.

Rồi tôi ra lệnh cho anh xe ôm:

- Thôi anh về đi. Tôi ở đây chờ. Trả tiền anh đây.

Đứng nép bên gốc cây gần nửa tiếng đồng hồ tôi không thấy động tĩnh gì cả. Không thấy bóng dáng một người phụ nữ nào đến tiệm quần áo thời trang đó, ngoài một vài cặp nam nữ chở nhau đến mua hàng hóa hay sản phẩm của tiệm. Quái lạ, không có vẻ như hai ông đang chờ một bà nào đó sẽ đến. Một ý nghĩ rất hay vừa thoáng qua trong đầu tôi. Có thể là một người phụ nữ nào đó đã đến và đợi sẵn ở trong nhà. Tôi cảm thấy tâm phục khẩu phục bộ óc nhanh nhạy của tôi. Tôi phải vào nhà bắt tại trận mới được, để cho mọi chuyện đâu đó rõ ràng.

Đến đây ông Rắc hết chịu nổi, chận ngang bả liền:

- Rồi bà có vô không?

- Có chứ. Tôi vô liền.

- Tôi sửa lại bộ dáng cho thật nghiêm trang, hít trước mấy hơi thở thật sâu, bình tĩnh bước vào tiệm. Mấy cô bán hàng xinh xắn chạy đến hỏi:

- Cô kiếm ai?

- Cho tôi gặp chủ nhà.

- Cô đi lối này.

Vừa đẩy cửa bước vào bên trong, bước thêm vài bước, tôi đã gặp ngay hai ông đang ngồi trước máy TV như đang chơi game, Tôi hỏi ông xã tôi:

- Anh nói đi đánh tennis?

- Đúng!

- Hai anh ngồi đây mà đánh đá cái gì. Chờ ai vậy?

- Trời ơi! bà lại đây coi. Đây không phải tennis chứ là cái gì?

- Tôi bước tới nhìn lên mà hình TV, trên đó đang chiếu một trận tennis, có hai đấu thủ như đang thi đấu, trên tay hai người đàn ông này đang cầm hai cầm hai cái thiết bị điều khiển chơi game. Thì ra hai người đang chơi game tennis. Tôi cứng họng không biết nói gì, ông chồng tôi cười kha khà lên tiếng:

- Bộ bà đi bắt ghen hả? Bắt được không vậy? Thời buổi bây giờ khoa học tiến bộ, mình chơi tennis không cần ra sân, không cần mua quần áo, giày vớ, vợt lớn vợt nhỏ chi cho tốn tiền. Thôi về đi bà ơi!

Tôi quê quá bỏ ra về một nước…

Chiều nay, những người trong công ty ra sân khá đông, ông Rắc cũng vừa đến nơi chờ tham dự. Trên hai cái sân đã được công ty thuê có bốn cặp đang thi đấu sôi nổi. Nhìn về góc sân bên kia có cô cùng làm chung phòng với ông Rắc, bên cạnh là anh chàng làm ở bộ phận kho bãi. Hai người ngồi nói chuyện có vẻ rất thân mật. Ông Rắc quay qua cô Tám hỏi nhỏ:

- Cô Tám, coi có cặp kia thân mật quá tay.

- Anh Bảo bên kho đó, biết chơi trước rồi. Từ hôm ra sân tập đến nay, anh chàng theo tập cho con nhỏ đó miết, đến nay nó cũng đánh kha khá rồi. Coi bộ hai người kết nhau rồi đó. Có đứa trong phòng gặp anh chị đi uống cà phê dưới phố.

- Vậy là thành công rồi.

- Anh nói ai thành công?

- Công ty. Công ty tạo được sân chơi cho mấy người trẻ gặp nhau và mở ra cơ hội để họ thành lập gia đình…

Dương Lêh

(1) Sherlock Holmes - Tên nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám của Sir Arthur Conan Doyle.


Phụ Bản IV

VỢ TÔI VIẾT VĂN

Một hôm, vợ tôi cao hứng tuyên bố:

- Em sẽ viết văn, anh ạ!

Tôi trố mắt, như thể vừa nghe nàng nói… tiếng nước ngoài:

- Nghĩa là viết truyện, là làm văn sĩ ấy à?

Vợ tôi gật đầu:

- Em vừa nghĩ ra một ý truyện hay lắm. Viết xong em sẽ gửi tham dự cuộc thi TRUYỆN NGẮN HAY, biết đâu chẳng đoạt giải nhất?

Tôi hoan hỉ tán thành ngay. Tôi vốn là người chồng biết quý trọng tài năng của vợ mà. Nghĩ đến viễn tượng được đọc thấy tên vợ mình trong danh sách trúng giải, tự nhiên tôi vinh dự quá. Ôi chao, lúc đó mặc sức cho những ai vẫn yêu mến hay vẫn ghen ghét gia đình tôi phải càng yêu mến và càng ghen ghét nhiều thêm!

Tưởng tượng thế, tôi phơi phới trong lòng. Tôi tích cực đi mua ngay một tá bút bi và hai ram giấy A4 trắng tinh về cho vợ làm nháp mà sáng tác. Tôi dọn cho nàng chỗ ngồi viết nên thơ, mát mẻ và nhiều ánh sáng nhất. Tôi khuyến khích nàng dành cả thời gian cho “sự nghiệp văn chương”, việc đi chợ nấu ăn mỗi ngày đã có tôi tình nguyện… phục vụ. Nói thế chứ tôi có cực nhọc gì đâu, vì hai vợ chồng đã nhất trí với nhau rằng: trong thời gian vợ tôi sáng tác, cả gia đình sẽ… mua cơm hộp! Thế thôi.

Mất hai ngày, vợ tôi vẫn chưa tìm ra được một cái tựa đề ưng ý. Không ngờ viết văn khó đến thế?

- “Vạn sự khởi đầu nan” em ạ.

Tôi động viên, và chốc chốc lại rót vào tai nàng:

- Em viết xong đưa cho anh duyệt trước, có gì anh góp ý cho, nhất định sáng tác đầu tay của em phải là một tuyệt phẩm!

Sang ngày thứ năm, sau khi xé xé dập dập hết gần ba chục tờ giấy nháp, vợ tôi cũng đã viết xong đoạn mở đầu. Mừng quá, tôi kéo ghế lại ngồi sát bên cạnh, ghé mắt nhìn vào trang giấy.

Dưới hai chữ “truyện ngắn” thật nắn nót là tựa đề to tướng NGƯỜI CHỒNG CẬN THỊ.

Tôi sửng sốt kêu lên:

- Ô hay! Anh cận thị hồi nào?

- Ơ kìa, em có viết về anh đâu?

- Thế em viết về ai?

- Không về ai cả. Viết bâng quơ thế thôi. Gia đình nào mà chẳng có một người chồng?

- Nhưng tại sao lại cận thị mà không là một bệnh nào khác?

Vợ tôi giảng giải:

- À, em đang kể về một ông chồng bị cận thị rất nặng, một hôm làm vỡ mất mắt kính, thế là có rất nhiều chuyện buồn cười xảy ra.

Tôi liếc mắt xuống dưới, lại phát hiện chi tiết không thể bỏ qua:

- Khanh là ai đây?

- Là nhân vật chính, là người chồng cận thị.

- Sao lại tên Khanh?

- ???

- Có hàng tỉ cái tên sao em không chọn, lại chọn tên Khanh? Thôi, anh biết rồi, tên người yêu cũ của em chứ gì?

Vợ tôi kêu lên:

- Vớ vẩn! Làm gì có chuyện đó!

- Anh nghi lắm. Phải “có gì” thì em mới đặc biệt ưa thích cái tên ấy chứ?

- ???

- Sao em không đặt tên anh? Bộ tên anh không hay bằng tên Khanh à?

- Anh thật lẩn thẩn. Ừ, thì đặt tên anh vậy.

Vợ tôi gạch chữ Khanh đi và viết thay vào đó tên tôi.

Tôi đọc tiếp: Ngọc nhìn sâu vào mắt chồng sau cặp kính dày cộm. Cô thì thầm: “Em thích anh đeo kính lắm, lúc đó em có cảm tưởng được anh yêu nhiều hơn…” Tôi nhăn mặt:

- Nghĩa là sao? Chẳng lẽ những người chồng không cận thị như anh thì không biết yêu vợ?

- Không phải, em không định nói thế. Em chỉ muốn người đọc liên tưởng cô Ngọc rất yêu chồng nên yêu luôn cặp mắt kính dày cộm của chồng thôi.

- Dài dòng! Thì cứ viết “Ngọc rất yêu chồng” có hơn không? Viết văn mà lê thê thế là hỏng, chỉ tổ làm khổ người đọc. Tại sao cứ thích viết cho cầu kỳ rắc rối rồi bắt người đọc liên tưởng? Thế lỡ người ta không chịu liên tưởng thì sao nào?

- Thì… thôi!

Tôi hùng hổ:

- Thôi sao được? Là thừa, là phí giấy, là tốn mực… Biết chưa?

Vợ tôi ngẩn mặt ra, có vẻ dao động dữ dội.

Cuối cùng, nàng xóa bỏ hết đoạn vừa rồi, thay vào mấy chữ cụt ngủn “Ngọc rất yêu chồng” đúng như góp ý của tôi. A, có thế chứ! Được vuốt ve tự ái, tôi hả dạ lắm. Rồi ra vẻ sành sỏi, tôi giảng giải:

- Em biết không, các văn hào trên thế giới mỗi người đều có một sở thích riêng nên họ mới viết ra tác phẩm nổi tiếng toàn cầu được. Ông vừa viết vừa ngốn hàng thùng bánh ngọt. Ông sáng tác dưới ngọn nến tù mù. Ông chuyên dùng bút chì. Ông khác chỉ viết được khi trời mưa bão sấm chớp thôi… Còn em thì cần gì nào?

Vợ tôi thật thà:

- Em chỉ cần yên tĩnh một mình.

Tôi cụt hứng, lẳng lặng đi lại góc nhà, nằm xuống đ i-văng đọc báo, vờ không chú ý đến vợ nữa.

Được yên tĩnh một mình, quả vợ tôi có hăng hơn thật, cầm bút viết nhoay nhoáy.

Tôi băn khoăn thắc mắc quá: Quái, vợ tôi viết những gì mà lắm thế? Nhân vật nào đang xuất hiện tung hoành bên trong bộ óc xinh xinh kia? Có bóng dáng một “cố nhân” nào của nàng không?

Nghĩ thế, tôi giật thót người. Chết thật, tôi thiếu cảnh giác quá, ai lại để vợ tự do mơ mộng thế bao giờ? Ừ, đúng đấy, thích viết văn thì cứ viết, ai cấm, nhưng mượn văn chương chữ nghĩa để nhớ nhung “người này người nọ” là không xong! Cần phải kiểm soát ngay xem nàng viết những gì.

Tôi vùng dậy, lại bàn cầm tờ giấy lên và chẳng lâu lắc gì đã “tóm” được ngay một câu: Lúc chàng cười, đôi mắt chàng sáng rực lên

- Hừm, lại “chàng” nào đây?

- Thì vẫn là nhân vật giống tên anh chứ ai.

- Viết Hắn, , Y… được rồi, “chàng” nghe “sến” lắm. Mà này, em gạch bỏ hết câu này cho anh.

- Sao thế?

- Viết sai bét chứ còn sao trăng gì nữa? Làm gì có ai khi cười mà mắt sáng rực lên được, người nào lúc cười cũng híp mắt lại thì có.

- !!!

- Đây nữa: Ngọc khổ vì mùi thuốc lá của chồng. Mỗi lúc ở bên nhau, mùi thuốc khét lẹt làm cô như ngạt thở… Trời ạ, viết thế có chết người ta không? Anh Xuân, bạn thân của anh nghiện hút thuốc lắm, anh ấy tưởng em chỉ trích sẽ giận vợ chồng mình đấy.

- Trên đời này thiếu gì người nghiện hút thuốc, đâu phải mình anh Xuân?

- Đành vậy, nhưng anh Xuân là bạn thân của anh, vẫn giúp đỡ anh nhiều trong công việc làm ăn, không nên làm mất lòng anh ấy.

Vợ tôi đấu dịu:

- Thôi được, để em sửa lại. Nhân vật trong truyện của em bắt buộc phải đam mê một thứ gì đó. Em sẽ cho anh ta nghiện rượu, chiều nào cũng vào quán nhậu đến bò lê bò càng. Được chưa?

- Ấy đừng! Chồng chị Hai là dân nhậu chính cống, em viết thế, chị ấy chửi cho tắt bếp.

Vợ tôi ngẫm nghĩ:

- Vậy để anh ta đánh bài nhé? Hay mê đua ngựa?

Tôi sừng sộ:

- Này, em định bêu xấu cả nhà anh đấy à? Em đã biết anh nghiện đua ngựa còn anh Ba của anh thì mê đánh bài mà.

- !!!

- Anh không hiểu sao em cứ phải để cho nhân vật của em nghiện hết thứ này đến thứ khác như thế? Rõ rắc rối! Bỏ phứt thằng cha ấm ớ ấy đi cho xong chuyện!

Mặt vợ tôi ngẩn ra:

- Tức là bỏ cả cái truyện ngắn của em đi à?

- Nghĩa là… Ý anh muốn nói… À không, em cứ giữ lại truyện ngắn của em chứ, nhưng cho cô Ngọc bỏ quách anh chồng ẫm ương kia đi cho rảnh! Đàn ông gì mà hết nghiện hút thuốc, ghiền rượu rồi lại mê đánh bài, đua ngựa thì… Ơ… ơ…

Tôi lỡ trớn nói hớ thành ra ú ớ nửa chừng. Nhưng may quá, vợ tôi không chú ý chi tiết đó. Nàng đang chống tay ngồi buồn xo.

Một lúc lâu sau, vợ tôi lẳng lặng thu dọn giấy bút, xếp lại cẩn thận cất vào tủ. Những ngày sau đó cũng không còn nghe nàng đả động gì đến truyện ngắn dự thi ấy nữa.

Như thế nghĩa là vợ tôi đã có quyết định dứt khoát rồi: vì không thể cho cô Ngọc bỏ chồng được (mà suy cho cùng, trên đời này làm gì tìm cho ra một người đàn ông không vướng vào một thứ đam mê nào cơ chứ?) thành thử vợ tôi đành bỏ ý định viết văn cho xong chuyện!

A ha, đấy thấy chưa? Tôi đã biết mà, vợ tôi có bao giờ làm được điều gì đúng như nàng đã nói đâu? Đàn bà thường thế đấy, họ thay đổi ý kiến xoành xoạch, y như… chong chóng! Thích viết văn thì cứ viết đi, ai cấm?

GIÁNG NGỌC (G.Đ)

SỰ KỲ DIỆU CỦA CÁI MŨI

Đó là một căn phòng bày biện sơ sài. Một vài cái ghế đặt chung quanh một cái bàn. Tất cả những cái ghế đều giống nhau. Cánh cửa mở ra. Một phụ nữ tiến vào, nhìn khắp lượt, ngần ngừ trong giây lát rồi ngồi xuống.

- Cám ơn bà, bà có thể đi ra được rồi…

Giáo sư Kirk-Smith, đứng phía sau cái gương không tráng thủy, sau khi quan sát cảnh tượng ấy đã tỏ vẻ hài lòng. 840 phụ nữ lần lượt bước vào phòng thí nghiệm của Trường đại học Birmingham (Anh) và 80% đã chọn chiếc ghế ấy. Phải chăng nó chứa đựng một điều gì kỳ diệu? Ê kíp của giáo sư Kirk-Smith đã lý giải rằng cái ghế ấy đã có một sức hấp dẫn đặc biệt vì sự bốc hơi của một phân tử trích ra từ mồ hôi của đàn ông: androsténol. Hơi của giống đực, dù đã tan loãng và không còn nhận ra mùi được nữa, vẫn có khả năng thu hút các phụ nữ! Công trình của Kirk-Smith được công bố năm 1978 đã bị một số nhà nghiên cứu phản đối.

Trái lại, cũng những thí nghiệm ấy được thực hiện ở loài vật lại chẳng bị ai phản đối. Thí dụ, từ những năm 60, người ta đã biết rằng sự dậy thì của những con chuột cái mới lớn đã được khởi động mau chóng bởi sự hiện diện của một con đực, hoặc nói một cách cụ thể: bởi cái mùi nước tiểu của nó. Như vậy, con vật đã tiết ra những thông điệp hóa học hoặc “phéromone” có khả năng tác động tới những hormone của chuột cái. Ngôn ngữ của những phân tử ấy còn cho phép các cô chuột bí mật chọn một con đực tốt nhất: với 2-3 cái hít hà, nó có thể biết “thằng chả” có bệnh tật gì không, có cùng huyết thống với mình hay không?

Một cuộc thí nghiệm khác được tiến hành với giống đực. Người ta chọn một trăm người đàn ông rồi chia họ làm 4 nhóm. Mỗi nhóm phải hít trong 20 phút một hỗn hợp gồm có nước và chất dịch của phụ nữ được gọi là “copuline”, mà thành phần thay đổi theo nội tiết của chu kỳ kinh nguyệt. Nhóm thứ nhất được thử nghiệm với “copuline” tương ứng với thời kỳ có kinh; nhóm thứ hai, với “copuline” trong thời kỳ rụng trứng (khoảng 12 ngày sau khi có kinh); nhóm thứ ba, với “copuline” của cuối chu kỳ (ngày thứ 27); và nhóm thứ tư sẽ là nhóm “đối chứng”, chỉ có nước lã thuần túy. Người ta thử đo lường, trước và sau cuộc thí nghiệm, tỉ lệ testostérone trong nước bọt của những người đàn ông này. Testostérone là một hormone kích thích sự sản xuất tinh trùng và biểu lộ một xung năng tình dục.

Astrid Jutte, một nhà tập tính học người Áo, đã thực hiện cuộc thí nghiệm ấy tại Vienne vào năm 1996. Những kết quả nghiên cứu của bà vẫn chưa được công bố chính thức, nhưng bà đã thông báo cho chúng ta những nhận xét bổ ích: “Tất cả những người tham gia thí nghiệm sau khi hít “copuline” đều tiết ra testostérone. Đặc biệt, hiệu quả ấy được phát hiện ở những người đã ngửi một hỗn hợp tương ứng với thời kỳ rụng trứng của phụ nữ”. Như vậy cái mũi của người đàn ông cũng rất nhạy cảm với sự bốc hơi của phái nữ, nhất là vào những ngày mà người phụ nữ dễ thụ thai.

Săn lùng phéromone

Bấy lâu nay khoa học đã đánh giá thấp những hiệu năng của khứu giác chúng ta. Những khám phá khác mới đây đã xác định hiệu năng của khứu giác. Thật vậy, năm 1991, sự tò mò của nhiều nhà cơ thể học đã dẫn dắt họ tìm ra ở dưới đáy hốc mũi của chúng ta có hai cái túi nhỏ vốn cũng tồn tại ở những loài có vú khác, nhưng lại chưa được chú ý đúng mức. Những cái túi ấy được biết đến dưới cái tên “organe voméronasal” (vùng lá mía mũi), đặc biệt ở loài vật, chúng là những máy thu các thông điệp hóa học do đồng loại của chúng gửi tới, tức là các phéromone.

Mạch dẫn truyền thần kinh của cơ quan này độc lập với mạch dẫn truyền thần kinh của khứu giác. Nó không cùng đi một đường: mũi và phéromone không biểu hiện cùng một lúc trong những phần của não. Nhờ sự dẫn truyền lạ lùng ấy, vùng lá mía mũi đã cho phép các phéromone của một cá nhân tác động trực tiếp tới việc sản xuất hormone ở một cá nhân khác.

Nhưng vấn đề đặt ra là ở con người vùng lá mía mũi vẫn còn ở trong tình trạng vận hành được, và nó không làm mất đi - trong tiến trình tiến hóa - khả năng kỳ lạ của tình dục vốn có ở loài gậm nhấm. Những cuộc thí nghiệm nói trên đã chứng tỏ rằng chúng ta cũng có những luận chứng hóa học trong đối thoại yêu đương, nghĩa là chúng ta đã trò chuyện qua phéromone mà không biết. Thiết tưởng cũng nên ghi nhận rằng các nhà giải phẫu học thế kỷ 18 cũng đã phát hiện ra vùng lá mía mũi (organe voméronasal) trong mũi của người lớn, nhưng đến những năm 80, không có một nhà sinh học nào muốn nhắc tới nó nữa. Nguyên nhân? Có lẽ là vì nghiên cứu về khứu giác không được xem trọng bằng nghiên cứu về thị giác và thính giác. Vả chăng nói phéromone và xung năng động vật ở con người - cách đây không lâu - có thể bị coi là bất nhã và thô bỉ.

Mãi tới năm 1994, chỉ có một ê kíp Mỹ ghi lại hoạt động của vùng lá mía mũi (organe voméronasal) của người, khi cho người thử nghiệm hít một hỗn hợp do họ chế tạo. Phương thức cửa họ đã được cấp bằng, nhưng cuộc thí nghiệm ấy chưa được kiểm soát bởi các nhà nghiên cứu khác. Cuộc chạy đua săn tìm phéromone của con người đang ở giai đoạn sôi nổi, với sự tham dự của một vài nhà chế tạo nước hoa.

“Nếu tiền không có mùi, thì chính mùi sẽ làm ra tiền!”, Pierre Bustany, nhà thần kinh - dược lý học phát biểu. Ông đang nghiên cứu một loại son tô môi có tẩm phéromone được giả định. Mục tiêu: điều hòa chu kỳ hormone của những phụ nữ sống độc thân. “Đã từ lâu - ông nói tiếp - các nhà buôn đã hiểu rõ sự chi phối của các mùi đối với tập tính của chúng ta. Khi một chiếc xe cũ có mùi da mới thì mùi da sẽ bốc lên trong không khí. Rồi ngay cả áo tắm tỏa ra mùi iode cũng gợi cho người ta mùi vị của biển. Thị trường mùi quả là to lớn!”. Và thị trường phéromone cũng khiến người ta thèm khát. Nhưng cũng có cả những nỗi lo âu: Liệu rồi đây người ta có thoát khỏi cái trò gian xảo vô hình ấy không? Về vấn đề ấy, Pierre Bustany, với tư cách một nhà nghiên cứu, muốn trấn an dư luận: “Không nên đánh giá quá cao quyền hạn của phéromone. Nó giúp cho một vài khuynh hướng, nhưng không kiểm soát bộ não của chúng ta và không thể buộc chúng ta làm những điều chúng ta không muốn làm”.

Dù sao mặc lòng, nước Anh cũng dự trù việc cấm thương mại hóa phéromone của con người, bởi nó sẽ làm rối loạn cái tính tỉnh bơ của dân tộc họ.

PHAN NGHỊ

(Theo Science et Vie Junior, 89/1997)

Đỗ Thiên Thư st.

LÒNG VỊ THA

LIỀU THUỐC CHỮA LÀNH

VẾT THƯƠNG LÒNG

Một số bậc cha mẹ không bao giờ biết khen ngợi mà chỉ biết quở trách. Những ông chủ nóng tính sẵn sàng buông lời chỉ trích. Những người vợ hoặc chồng không chung thủy… đó là những người gây ra các vết thương lòng khiến ta phải đau khổ khôn nguôi. Phẫn uất, chúng ta nói những lời thậm tệ về họ, hay cứ nghĩ mãi về những điều mà chúng ta muốn nói với họ. Thật lòng, chúng ta muốn trả thù.

Nhưng thật ra, cách tốt nhất là không nên trả thù, mà hãy sẵn lòng nói: “TÔI THA THỨ”.

Tha thứ không có nghĩa là chịu thua mà là bỏ qua tất cả. Một khi bạn tha thứ, bạn không còn bị dằn vặt vì những khổ đau mà bạn gánh chịu. Sự tha thứ giúp bạn thoát khỏi những cơn ác mộng và giúp bạn sống thanh thản.

Một giáo sĩ Do Thái đã mất cả gia đình vì bọn phát xít Đức, đã nói rằng: ông tha thứ bởi vì ông quyết định không nên đem theo Hitler đến cuối cuộc đời. Một khi bạn tha thứ là bạn có quyền chọn lựa. Cũng đừng bận tâm về việc người ấy có đáng được tha thứ hay bạn có đáng được thoát khỏi đau khổ hay không? Một lý do mà chúng ta không nên tha thứ là khi lòng vị tha đồng nghĩa với sự yếu đuối hay đầu hàng. Bishop nói: “Một số người nghĩ rằng tha thứ là tự nhận mình sai, còn người kia đúng. Nhưng tha thứ không có nghĩa là để người kia quên đi nỗi bực tức mà chính là giúp ta trút hết mọi muộn phiền”. Lòng vị tha giúp người vợ cũ hết cay đắng về người chồng cũ của mình, hay một người bà con không còn băn khoăn vì không được mời dự đám cưới họ hàng mình.

Trong nhiều trường hợp, người kia không hề biết gì về nỗi đau đớn của bạn. Trong khi bạn cứ bị đau khổ dằn vặt, thì người gây ra nỗi đau ấy không hề mảy may xót xa, ân hận.

Lòng vị tha có lợi cho thể xác lẫn tâm hồn. Cứ hồi tưởng về những nỗi đau rất có hại cho sức khỏe của bạn. Những suy nghĩ xấu có thể gây ra stress thì cũng liên quan đến bệnh cao huyết áp hoặc co thắt động mạch vành. Thực ra, lời chỉ trích chỉ mất vài phút, nhưng việc tha thứ lại đòi hỏi một thời gian khá dài. Nhiều nhà tâm lý học khuyên rằng: “Thoạt đầu bạn chịu đựng những cảm xúc bực dọc như tức giận, buồn phiền và xấu hổ. Sau đó, bạn cố gắng tìm hiểu những gì xảy ra hay xem xét tình tiết giảm nhẹ. Rốt cuộc, bạn có thể hiểu người gây ra đau khổ cho bạn bằng một cái nhìn mới. Với cách nhìn này, kẻ gây ra đau khổ trở thành người sai sót, yếu đuối, bệnh hoạn hoặc ngu dốt. Nhưng những người bị đau khổ giày vò vì chính những người mà họ yêu thương và tin cậy từ thuở ấu thơ, thì họ khó lòng tha thứ được. Tuy vậy, chỉ cần tha thứ một phần lỗi lầm của người khác cũng đã có lợi cho chính cá nhân bạn.

Để trở thành người có lòng vị tha cao thượng, mong bạn đừng quên:

Bỏ qua những lỗi lầm nhỏ:

Hãy tha thứ những lỗi lầm nhỏ do những người xa lạ gây ra - chẳng hạn như nhân viên ngân hàng gian lận tiền của bạn hay người tài xế taxi tính tiền quá quãng đường đi. Bỏ qua những lỗi lầm nhỏ là bạn đã chuẩn bị để sẵn lòng tha thứ những lỗi lầm lớn.

Đừng nghĩ những điều xấu:

Hãy thổ lộ những bực tức hay thất vọng với một nguòi bạn thân. Điều này giúp bạn có thêm kinh nghiệm biết lắng nghe. Bạn có thể thổ lộ những suy nghĩ này mà không sợ rằng đã nói hay làm điều gì khiến bạn sẽ hối tiếc sau này. Nếu bạn không tức giận mà chỉ buồn phiền, thì bạn nên viết nhật ký. Bằng mọi giá, nên tránh những hành vi “giận mất khôn” như lái xe bất cẩn, đóng sầm cửa, hay đập phá đồ đạc…

Viết thư cho người gây ra đau khổ:

Hãy nói hết sự thật về những gì xảy ra mà bạn biết, đừng trách móc hay phán xét. Có thể dùng đại từ nhân xưng “TÔI” (TÔI NGHĨ, TÔI KHÔNG HIỂU).

Trình bày tác động do cách cư xử của người kia gây ra cho bạn, nói lên sự thiết tha được biết suy nghĩ của người đó và tìm cách giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, nếu người gây đau khổ cho bạn đã qua đời hay không thể nghe những gì bạn tỏ bày, thì bạn cũng nên viết một lá thư, rồi đốt đi. Như vậy, bạn đã xóa hết nỗi bực tức trong lòng “tan thành mây khói”.

Đừng nghĩ rằng mặt đối mặt là cần thiết:

Trong những trường hợp loạn luân, cưỡng hiếp và những hành động tội ác khác, nạn nhân không nên tha thứ trước mặt người phạm tội, bởi vì sự đối mặt là không an toàn. Thật ra, bạn không cần đối mặt với người phạm tội - sự tha thứ không đòi hỏi đến sự liên quan hay nhận thức của người kia. Người được tha thứ có thể không bao giờ biết rằng họ đã làm điều có hại cho bạn, hay không bao giờ biết bạn đã tha thứ cho họ. Chẳng hạn như những người say rượu làm sao hiểu được những điều bạn cố gắng giãi bày. Họ có thể chối bỏ tất cả.

Điều quan trọng là bạn đã thoát khỏi những muộn phiền.

Lắng nghe bằng sự đồng cảm:

Nếu bạn đối mặt với người đáng bị trừng phạt, hãy bình tĩnh lắng nghe người ấy rồi liên hệ lại những gì thật sự đã xảy ra. Như thế bạn sẽ bắt đầu nhìn hành vi của người kia theo một sự đánh giá mới; và bạn sẽ trở nên biết chịu đựng hơn. Điều đánh giá này có thể sẽ dẫn đến sự tha thứ.

Suy ngẫm hay cầu nguyện:

Làm người ai chẳng có sai lầm. Hãy quay về với đức tin, suy ngẫm để tâm hồn bạn tràn ngập niềm tin thánh thiện và chính nghĩa, lập tức lòng vị tha sẽ đến với bạn…

Tha thứ không phải là quên hẳn:

Chúng ta không thể quên, cũng không nên quên những nỗi đau đớn ấy. Chính những điều trải nghiệm sẽ dạy ta đừng là nạn nhân một lần nữa; và cũng đừng gây ra đau khổ cho người khác.

Hãy nhìn về tương lai:

Bằng cách nhìn về tương lai, bạn sẽ có thêm nhiều niềm vui sống. Hãy xem xét trường hợp hai chị em giận nhau vì việc chăm sóc người mẹ đau ốm của họ. Người chị ở gần oán trách người em ở xa chỉ biết gởi tiền về mà để chị phải chịu gánh nặng chăm sóc trực tiếp cho mẹ. Cuối cùng người chị tự hỏi: “Mình thực sự cần điều gì lâu dài?”. Câu trả lời là: “Tôi muốn có qaun hệ tốt đẹp với em tôi. Cách duy nhất mà tôi có thể làm là quên giận hờn và tha thứ cho cô ấy”. Giờ đây, họ có thể thảo luận về việc chăm sóc người mẹ mà không phải dùng những lời lẽ nặng nề; và người em ở xa sẵn lòng gọi điện cho các bác sĩ. Cả hai chị em cùng tìm cách chạy chữa cho mẹ khỏi bệnh.

Rõ ràng, lòng vị tha đem lại sự bình thản cho tâm hồn. “Một khi bạn đã tha thứ, bạn sẽ cười nhiều hơn, biết cảm nhận sâu sắc hơn và dễ gần gũi với người khác hơn”. Lòng vị tha là liều thuốc nhiệm mầu giúp ta hàn gắn vết thương lòng, khiến trái tim ta khỏe và yêu đời hơn.

PHẠM THỊ CÚC

(Theo Reader’s Digest, 5/95)

ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st.

THẰNG NHÓC

Histoire d'un Enfant

của Alphonse Daudet

ĐÔI MẮT ĐEN

Vào ngày xin việc làm ở phòng ông Hiệu trưởng

Rồi, ông Viot mở cửa cho tôi đi ra khỏi phòng Hiệu Trưởng, và đóng lại sau lưng tôi, vừa khua xâu chìa khóa “Cà-reng. Cà-reng. Cà-reng”.

Trời đã tối, mà các ngài quên cho tôi đèn để soi đường. Tôi phải quờ quạng từng chập, theo cái hành lang dài tối tăm, và tôi phải lần mò, nương náu vào cái vách tường để tìm lối đi. Xa xa, một chút ánh trăng xuyên qua khung cửa sổ, giúp cho tôi xác định được phần nào phương hướng con đường.

Thình lình, trong bóng tối của dải hành lang, một điểm sáng lóe lên, hướng đến tôi. Tôi bước thêm vài bước nữa, thì ánh sáng to ra, lại gần tôi, vượt qua, xa dần, rồi mất hút. Đó cũng giống như một cơn ảo mộng. Nó qua mau quá, đến đỗi tôi không nhận định được chi tiết gì.

Hãy tưởng tượng hai hình bóng. Một bà già nhăn nhíu, lưng còng, với hai mắt kiếng to che khuất gương mặt, và một cô bé gái độ 14 tuổi mỏng manh, ốm yếu theo lứa tuổi, đặc biệt là có đôi mắt to đen lấp lánh. Bà già cầm cây đèn lồng, cùng cô gái đi lướt qua, mà không nhìn tôi. Họ đã đi mất dạng lâu rồi, mà sao tôi vẫn còn đứng đó để nhìn theo bóng tối.

Thế rồi, tôi lại tiếp tục đi, trong những bước chập chững lần mò đường sá, với trái tim đập mạnh cô đơn. Tôi luôn luôn thấy trước mặt tôi, trong bóng tối, một bà tiên già đeo mắt kính hung dữ, đi bên cạnh một đôi mắt đen dịu dàng.

Ông Thầy dạy lớp trung cấp có việc, phải rời trường thình lình, nhưng mà ông Hiệu Trưởng lại không muốn tìm thầy dạy mới, do năm học sắp hết, người ta phải mượn một thầy tu già có râu, qua coi lớp trẻ con, còn tôi thì phải đảm nhiệm lớp trung cấp.

Tôi xem đó như là một tai họa.

Đám học trò trung cấp này làm cho tôi lo sợ, thông qua những kỳ sinh hoạt ngoài trời ở bãi cỏ, và với ý nghĩ mà phải sống chung với chúng nó, tôi rất đỗi băn khoăn.

Rồi tôi phải xa lìa lớp học sinh thơ ngây của tôi, những đứa trẻ mà tôi rất đỗi thương mến. Chúng nó sẽ ra sao, với ông thầy tu có râu? Tôi rất là khốn khổ, và mấy đứa học sinh nhỏ cũng buồn bã, mà thấy tôi phải rời đi. Có một khoảnh khắc thật chạnh lòng, khi mà chuông đổ vào giờ học cuối cùng của tôi đứng lớp. Tất cả học sinh đều đến vây quanh ôm tôi. Có đứa còn bộc lộ tình cảm bằng lời lẽ vô cùng cảm động.

Như vậy đó, mà tôi đành phải lên dạy lớp trung cấp.

Lớp nầy có khoảng 50 học sinh miền rừng núi, cục mịch và thô lỗ, từ 12 đến 14 tuổi… Các chủ đồn điền giàu có, họ gởi con ra trường tỉnh để học làm sang, làm người văn minh.

Đó là một lũ học trò xấc láo, vô kỷ luật. Chúng nó nói chuyện với nhau bằng một loại ngôn ngữ rừng rú, mà tôi không hiểu biết gì hết. Chúng nó lại căm ghét tôi ngay từ buổi đầu, bởi vì tôi không có cái ngoại hình lực lưỡng để trấn áp chúng. Từ cái ngày mà tôi lên đứng lớp, là những cuộc chiến tranh khốc liệt, không ngơi nghỉ chút nào.

A, những đứa trẻ hung dữ này, chúng nó đã làm cho tôi đau lòng biết là dường bao.

Tuy vậy, tôi không muốn nói dối, tôi đã được đền bù một phần lợi, phần an ủi nào đó, trong việc phải trao đổi lớp học.

Đó là cô gái với đôi mắt đen, đã xuất hiện vào buổi chiều, mà tôi đến trình diện dạy học, trong bóng tối của dãy hành lang. Nay, ở trong nhiệm vụ mới, tôi đã gặp lại Đôi Mắt Đen khả ái đó.

Hai lần mỗi ngày, vào giờ ra chơi, tôi nhìn thấy Đôi Mắt Đen từ đàng xa, đang bận bịu làm việc trong cửa sổ ở tầng một. Đôi Mắt Đen ở đó, đen hơn, to hơn, đang chăm chú thêu thùa, từ sáng đến tối. Đôi Mắt Đen thêu thùa, thêu thùa mãi mãi, mà không biết chán. Người ta kể, là Bà Tiên Già đeo kính đã xin nàng ở Trại Mồ Côi, không cha, không mẹ. Nàng phải thêu thùa, từ đầu năm đến cuối năm, mà không ngơi nghỉ, dưới sự quản lý chặt chẽ của Bà Tiên Già đeo kính.

Còn tôi, thì tôi nhìn nàng mà cảm nhận rằng, ở đó đang có một người bạn đau khổ.

Đôi Mắt Đen cũng nhận biết như vậy rằng, có tôi đang ở đây, cùng chung cảnh ngộ.

Giờ ra chơi, sao mà chóng thế?

Thỉnh thoảng, Đôi Mắt Đen ngước lên khỏi khung thêu, và chúng tôi nói chuyện âm thầm, qua ánh mắt:

- Bạn có vẻ khổ sở đó, bạn Eyssette?

- Bạn cũng vậy, phải không, Đôi Mắt Đen?

- Mình không có cha, cũng không có mẹ.

- Còn mình, thì cha mẹ ở rất xa.

- Bà Tiên già đeo mắt kính dữ quá, bạn có biết không?

- Những đứa học trò rừng rú đó, cũng làm khổ tâm cho mình quá.

- Hãy can đảm lên, bạn Eyssette.

- Hãy can đảm lên, Đôi Mắt Đen khả ái.

Người ta không thể nói chuyện nhiều hơn nữa.

Tôi thì luôn luôn e ngại, khi phải thấy ông Viot xuất hiện, với xâu chìa khóa: “Cà-reng. Cà-reng. Cà-reng”, và ở trên tầng cao kia, Đôi Mắt Đen cũng có một ông Viot kế bên. Sau cuộc đàm thoại giây phút, Đôi Mắt Đen cúi xuống, và tiếp tục thêu thùa, dưới sự quan sát nghiêm nghị của Bà Tiên Già đeo mắt kính gớm ghiếc.

Đôi Mắt Đen thân mến, mà tầm nhìn nói lên rằng, có một người bạn gái dũng cảm ở đó, để dành cho riêng tôi, bằng ân huệ của Thượng Đế.

Bây giờ, trường học đã vào hè, trở nên vắng vẻ.

Tất cả mọi người đều ra về.

Những bầy chim se sẻ thừa dịp, tụ họp lại, để líu lo suốt ngày, rầy cả tai.

Dưới mái nhà, trong một gian phòng nhỏ, Thằng Nhóc đang làm việc. Vì tình thương, người ta cho nó được ở lại trong trường vào dịp nghỉ hè. Nó nhơn dịp này mà nghiên cứu lại môn triết học cho được tinh thông hơn. Nhưng mà, chỉ tội cho căn phòng này quá nóng, vì cái trần nhà quá thấp, lại không có cửa lá sách, nên mặt trời cứ chiếu thẳng vào như ngọn đuốc, nung nóng tất cả.

Hãy làm việc đi, Daniel Eyssette. Hãy xây dựng lại gia đình.

Ôi, không xong rồi.

Sao mà chữ nghĩa cứ quay cuồng trước mắt nó. Rồi cuốn sách nó quay. Rồi cái bàn nó quay. Rồi căn phòng nó quay. Để xua đuổi cơn uể oải kỳ cục này, Thằng Nhóc đứng dậy, bước đến cửa. Nó loạng choạng rồi té xuống sàn nhà.

Thăng Nhóc chìm đắm vào cơn mê lạ lùng. Dường như có tiếng ai đó quen thuộc đang gọi nó:

- Daniel. Daniel.

Có tiếng đập mạnh vào cửa:

- Daniel. Daniel. Cha đến đây, mở cửa đi.

Ôi, cơn ác mộng dị hợm.

Thằng Nhóc muốn trả lời, mà không thể nào. Nó nhỏm dậy trên khuỷu tay, rồi ngã xuống bất tỉnh.

Khi mà Thằng Nhóc tỉnh dậy, nó rất ngạc nhiên, mà thấy mình nằm trên giường nệm, bao bọc chung quanh bởi một tấm màn xanh, ngăn tầm nhìn. Ánh sáng dịu dàng trong căn phòng yên tĩnh, không có tiếng động nào khác, ngoài ra tiếng tíc-tắc của cái đồng hồ, và tiếng muỗng khua vào ly nước leng-keng. Thằng Nhóc không biết nó đang ở đâu, nhưng mà nó cảm thấy rất là dễ chịu.

Tấm màn xanh được vén lên, và ông Eyssette cha hiện ra, nhìn nó với nụ cười đẫm lệ. Thằng Nhóc vẫn cứ tưởng còn đang nằm trong mơ:

- Cha ơi, có phải là cha đó không?

- Ờ, Daniel, cha đây.

- Trời ơi, con đang ở đâu vậy?

- Ở tại phòng y tế, đã mấy hôm rồi… Bây giờ, thì con đã khỏe.

- Nhưng mà làm sao cha lại ở đây? Nhìn thấy cha mà con cứ tưởng như đang trong cơn mơ… Mẹ đâu?

- Được rồi, con đắp mền lại, ngoan đi. Thầy Thuốc không muốn con nói chuyện nhiều. Mẹ con vẫn khỏe. Anh Jacques vẫn khỏe.

Ôi, phòng y tế hạnh phúc. Thằng Nhóc đã trải qua những giờ phút thoải mái, giữa tấm màn xanh, và giường nệm. Ông Eyssette thì không rời nó. Ông ngồi với nó suốt ngày ở đầu giường. Thằng Nhóc ước ao rằng cha nó không ra đi nữa. Ôi, không thể nào được đâu. Công ty rượu đang cần người. Cha nó đang đi công tác ở vùng Cévènes, nên mới có cơ hội ghé thăm nó. Bây giờ, cha nó phải ra đi, để kịp tháp tùng với phái đoàn kinh lý.

Sau khi người cha đi rồi, thì đứa con ở lại một mình trong phòng y tế. Sáng và chiều, có bà Cassagne mang cơm nước đến, và Thằng Nhóc thỏ thẻ cám ơn bà. Chẳng có việc gì làm hơn nữa, nên Thằng Nhóc cứ ngồi trên ghế dựa gần cửa sổ mà đọc sách.

Như vậy đó, mà một buổi sáng nọ, Thằng Nhóc toan mở lời cám ơn như mọi khi, với đôi mắt không rời trang giấy đang đọc, thì nó rất đỗi ngạc nhiên, khi nghe tiếng nói dịu dàng của ai đó:

- Hôm nay có khỏe không, thầy Daniel?

Thằng Nhóc ngẩng đầu lên nhìn, và bạn hãy đoán xem nó đang thấy gì.

Đôi Mắt Đen… Đôi Mắt Đen hiện thân, đang đứng mỉm cười trước mặt nó.

Đôi Mắt Đen còn cho biết rằng, bà bếp bị bệnh, nên nàng phải thay thế công việc, và nàng nói thêm là rất vui mừng mà trông thấy thầy Daniel đã bình phục. Nàng nghiêng mình chào, rồi ra đi, vừa cho biết chiều nàng sẽ đến… Thật sự là chiều nàng đến, và cả sáng mai, và cả chiều mai nữa,

Thằng Nhóc thật là hạnh phúc. Nó cầu nguyện phúc lành cho bà bếp… Nó cầu nguyện phúc lành cho tất cả mọi người… Nếu không có ai bệnh hoạn, thì làm sao nó gặp mặt được người bạn gái nhỏ bị cấm cung.

Đôi Mắt Đen đến rồi đi, trong phòng y tế, trông nom mọi thứ để cho Thằng Nhóc không phải thiếu thốn điều gì. Thằng Nhóc rất muốn cám ơn, nó muốn nói lên điều gì thật dễ thương với bà Sơ*14 tuổi… Đôi khi nó gom hết can đảm để bập bẹ: “Cô… Cô…”. Thế là xong. Không có chuyện gì để nói sao?

Đôi Mắt Đen tinh nghịch, nở nụ cười, càng làm cho Thằng Nhóc trở nên bối rối. Đôi Mắt Đen thấy vậy nên giúp cho nó nói chuyện:

- Hôm qua, Thầy uống sữa có thấy ngọt không? Sáng nay, canh có ngon không?

Thằng Nhóc hăng hái trả lời:

- Tuyệt diệu. Ngon tuyệt diệu.

Rồi đó, nó ngưng tịt.

Đôi Mắt Đen bèn bĩu môi duyên dáng, như muốn nói: “Ông Thầy trẻ này không biết nhiều chuyện. Tôi gợi ý mà. Ở xa thì nói huyên thuyên, ở gần thì lặng câm”. Và Đôi Mắt Đen thở dài ra đi.

Khi Đôi Mắt Đen vắng bóng rồi, Thằng Nhóc xấu hổ cho sự nhút nhát của nó. Nó tự nhủ: “Ồ! Để ngày mai, mình không lầm lỗi nữa. Mình phải cám ơn cô bé đã chăm sóc mình tận tình. Ngày mai, mình sẽ có dịp làm lại từ đầu”.

Bây giờ, thì hãy chuẩn bị, đã tới giờ bà Sơ dịu hiền đến. Thằng Nhóc hứa, là sẽ can đảm phát ngôn, khi nàng bước vào… Sự việc sẽ diễn ra theo dự tính... Đôi Mắt Đen bước vào, để thức ăn lên bàn: “Chào thầy Daniel”. Và, kế đó là Thằng Nhóc sẽ nói ngay lời cám ơn đẹp đẽ mà nó đã chuẩn bị trước.

Nhưng mà, suỵt, có bước chân ngoài hành lang… Đôi Mắt Đen đến… Miệng Thằng Nhóc há hốc. Tim đập mạnh. Cánh cửa mở ra… Ôi, gớm thay.

Thay vì Đôi Mắt Đen, thì Bà Tiên Già xuất hiện với đôi gọng kính to. Thằng Nhóc không dám hỏi lời giải thích. Nhưng mà nó lấy làm sửng sốt. Tại sao nàng không đến? Nó sốt ruột mà đợi đến chiều… Rủi thay, chiều Đôi Mắt Đen cũng không đến. Rồi ngày mai cũng không. Rồi ngày mốt cũng không. Nàng không bao giờ đến nữa. Người ta đã đuổi Đôi Mắt Đen… Người ta đã sa thải Đôi Mắt Đen rồi.

Đến bây giờ, tôi mới biết là Đôi Mắt Đen đã lén vụng trộm đường, để pha chế cho sữa của Thằng Nhóc được ngọt hơn.

Ô, món nợ ân tình này lớn biết là bao nhiêu, mà Thằng Nhóc đa mang đối với Đôi Mắt Đen.

Tạm biệt những ngày tốt đẹp ở phòng y tế.

Tạm biệt Đôi Mắt Đen.

Ngày nghỉ hè sao mà chóng qua.

Ngày khai trường lại đến…

(Còn tiếp)

Thanh Châu dịch thuật

* Bà Sơ còn gọi là Dì phước (tu hành trong dòng nữ), mặc y phục trắng đội mũ trắng, đến bệnh viện để chăm sóc bệnh nhân, vào những ngày xa xưa.

MỜ XA BÓNG CHIỀU

Đùng một cái Hạnh Sương thông báo “lấy chồng”… Trời đất ơi! Sao lại trời đất ơi? Con gái lấy chồng là chuyện bình thường, đáng mừng nữa chứ, ba mẹ khỏi lo bom nổ chậm, để rồi bước qua ngưỡng cửa hôn nhân thì chín chắn hơn, trưởng thành hơn, đẫy đà phong vị phu nhân hơn. Nếu thế thì nói gì nữa, nàng này thì quá trưởng thành rồi, quá chín chắn rồi, quá đẫy đà đường bệ rồi, bởi nàng này đã tròn đến… năm mươi mùa trăng non lẫn trăng già rồi cơ ạ. Ối giời! Ờ mà cũng có sao, yêu thì tuổi nào mà chả được, duyên phận muộn màng lại càng nên vun đắp chứ, tuổi này bầu bạn mới bền đây. Ừ có lẽ…

Vóc người cân đối, hơi đẫy một chút cho vừa dáng vẻ của một bà chủ cửa hàng mỹ phẩm tương đối có hạng trong dãy phố khu trung tâm. Gương mặt cũng vừa đủ dáng nét phong thái của một người bà trung niên quý phái, cũng dễ nhìn ra một cô gái duyên dáng xinh xắn thuở nào. Chỉ có ánh mắt ẩn chứa khá nhiều phức tạp mà không dễ ai nhìn ra, đôi khi còn ánh lên chút sắc lạnh, nhất là khi nhìn thẳng vào những gương mặt đàn ông đang hàm ý lân la nào đó. Rõ ràng là mẫu phụ nữ mà đàn ông phải xếp hàng. Bao giả thiết đồn đoán đều không thể tìm ra nguyên nhân vì sao với một người phụ nữ sáng giá như thế mà không có bóng trượng quân nam tử nào bên cạnh. Hạnh Sương không phải là người không biết rõ những ưu khuyết điểm của mình. Nhìn vào, ai cũng dễ dàng nhận ra những ưu điểm đáng kể cần có ở một người phụ nữ hiện đại. Ăn nói hoạt bát có duyên, tính tình khi cởi mở chan hòa khi lặng lẽ kín đáo, nhưng thường để lại cảm tình cho người tiếp xúc. Nội trợ kinh doanh giải trí đều rất có phong cách. Những câu hỏi đại loại “sao không lấy chồng đi, sao kén kỹ thế hay là có vấn đề gì về sức khỏe, hay là hay là…sao sao…”, đều rơi rụng dần theo con số thời gian. Mỗi khi tụ họp đông người, những gương mặt đã sần lên những vết sẹo thời gian, phần lớn đã lên chức nội ngoại cả, Hạnh Sương vẫn là một “cô gái” tươi tắn môi hồng đào má xôn xao, mặc dù chẳng cần trang điểm nhiều lắm. Luôn là một mục tiêu cho những mắt tròn ghen tị ước ao.

- Đêm qua tôi trằn trọc mãi không ngủ được các bà ạ.

- Sao thế? Chuyện đứa lớn hay đứa bé? Đứa già hay đứa trẻ?

- Không, không phải chuyện nhà tôi.

- Thế bà đang lo chuyện bao đồng cho ai à?

- Hạnh Sương.

- À, chuyện thời sự nóng hổi suốt mấy hôm nay.

- Tôi không làm sao hiểu nổi lý do bỗng nhiên mợ muốn lấy chồng.

- Thì bỗng nhiên bây giờ người ta mới cảm thấy cô đơn, bỗng nhiên bây giờ người ta mới tìm được người hợp ý…

- Hay bỗng nhiên bây giờ nàng ấy bỗng hồi xuân.

- Mà nè, hồi xuân vào tuổi này bằng mấy ngày trẻ đấy nhá.

- Khá khá khá… nhưng mà tôi vẫn không thấy lý do nào hợp lý cả.

- Sao không? Có gì khó hiểu đâu nào?

- Các bà thử nghĩ xem. Suốt mấy chục năm nay mợ ấy xem đàn ông như cỏ dại bên đường ấy, biết bao tay cũng ra trò ra dáng lắm mà cũng có đánh đổ nổi đâu, mà gần đây cũng không thấy mợ ấy đi đôi với ai cả, nếu có ai đó vừa ý thì cũng phải vài lần tay trong tay cho bạn bè biết mặt chứ, đằng này vẫn im ỉm ìm im rồi đùng một cái…

- Ừ, tôi thấy bà nói cũng có lý đấy, mợ này xem ra thích bỏ bom thích làm những chuyện giật gân ấy nhỉ?

- Nếu biết đối tác tương lai của mợ ấy là ai thì có thể đoán được phần nào nguyên nhân.

- Nhưng khó hiểu ở chỗ vì sao lại bí mật thế nhỉ?

- Chắc sẽ không khó để tìm ra, xem nào…

…………….

- Này các bà nhận thiệp mời cả rồi chứ?

- Rồi, mà sao?

- Không để ý tên chú rể à?

- Thì tên là Nhật Tường, cái tên hay đấy chứ .

- Tôi không nói là hay, dở, các bà biết gì về người này?

- Tôi chỉ nhớ mang máng là ngày xưa có quen biết gì với Hạnh Sương.

- Tôi thì không biết gì cả.

- Ông này là Phó Tổng giám đốc một công ty liên doanh với nước ngoài, cũng thuộc hàng máu mặt đấy.

- Úi chà, cũng ngon quá hả. Hạnh Sương chọn đúng người rồi còn gì.

- Đấy là một chuyện, chuyện tôi muốn nói là chuyện khác cơ. Tôi thật sự không nghĩ ra vì sao lại là anh ta?

- Mà chuyện gì? Bà nói ra đi, cứ ngắc ngứ hoài vậy, câu giờ à?

- Tôi… tôi không biết có nên nói không, đây là một chuyện rất xưa và rất đau lòng của Hạnh Sương, mợ ấy đã chôn chặt từ lâu lắm rồi, giờ sao lại…

- Sốt ruột, có nói không thì bảo?

- Thôi được, tôi nói, nhưng các bà đừng để cho Hạnh Sương biết.

- Được rồi, phải biết là chuyện gì mới giải mã được bí ẩn chứ.

…………….

Nếu có gì đáng ghen tị trong thế giới sinh viên của trường đại học Văn Khoa này thì phải kể đến câu chuyện tình của đôi bạn trẻ Nhật Tường và Hạnh Sương. Nhật Tường đang học năm thứ ba, còn Hạnh Sương thì mới năm nhất. Họ bén nhau ngay phút đầu tiên chạm phải ánh mắt, rồi khá nhanh chóng không rời được nhau. Những tưởng sẽ có một kết thúc đầy hoa khi cả hai đã hoàn thành chương trình đại học và bắt đầu tương lai với những hình ảnh phơi phới phía trước. Nhưng nghiệt ngã thay, một sự đổi thay vô cùng bất ngờ đột ngột và không chỉ là lệ mà còn cả máu. Sau hai năm, khi Nhật Tường chuẩn bị ra trường, Hạnh Sương gần như mất phương hướng khi Nhật Tường nói lời chia tay khi cả hai không hề xảy ra một va chạm mâu thuẫn căng thẳng đáng kể nào. Gặng hỏi bao nhiêu thì cũng chỉ một “hãy thông cảm cho anh, anh có lý do riêng”. Cuối cùng bằng nhiều cách có thể, Hạnh Sương được biết cái lý do riêng ấy là một cái ghế tương đối trong một địa chỉ công quyền mà hàng triệu sinh viên mơ ước, điều kiện thì rất đơn giản, chàng sinh viên chuẩn bị ra trường chỉ có được và được, được tất cả mà không phải mất một chút gì, hay nói đúng hơn chỉ đánh đổi bằng mối tình đầu đẹp đẽ. Xét cho cùng sự đánh đổi ấy là quá nhẹ với một thanh niên đầy tham vọng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Sự đau đớn dồn cả về phía người con gái, Hạnh Sương không chỉ chua xót vì trái tim tứa máu, mà nghiêm trọng hơn cô vừa phát hiện mình đã có một mầm sống trong người. Bằng vào niềm tin tình yêu và hy vọng với sợi dây nối đặc biệt, cô sẽ giữ lại được hạnh phúc của mình. Nhật Tường choáng váng khi biết tin Hạnh Sương đã có thai, nhưng chẳng thể làm gì được khi hai bên gia đình đã hiện thực hóa câu chuyện tương lai bằng một bữa tiệc đính hôn linh đình mà Hạnh Sương không hề biết. Sau vài lần năn nỉ dọa dẫm hứa hẹn, nhưng Hạnh Sương vẫn không chịu đi phá thai, Nhật Tường đã quyết định làm một việc. Hạnh Sương không chút nghi ngờ khi đồng ý đi chơi cùng người yêu trong một buổi tối, cô khóa vòng tay đầy tin tưởng vào vòng eo Nhật Tường khi ngồi sau xe máy, gió hiu hiu mát khiến cô xao xuyến lim dim đôi mắt, và mở ra khi chiếc xe dừng lại. Thật ngạc nhiên khi cả hai đang đứng ở một nơi vắng vẻ, Nhật Tường bảo Hạnh Sương ngồi xuống bãi cỏ, cô vừa ngồi xuống, Nhật Tường đã ôm riết vào lòng, sau một hồi chầm bập xục xạo, Nhật Tường với giọng hôi hổi ma mị bên tai Hạnh Sương:

- Hạnh Sương, anh thương em, anh yêu em, anh xin em, em hãy bỏ đứa bé này đi, sau này khi nào đủ điều kiện, chúng mình sẽ có những đứa con khác mà em, hãy nghe anh đi em yêu…

Đang mềm người trong cao trào cảm xúc, Hạnh Sương bỗng cảm giác mình bị hẫng đi, cô định thần một chút như để nhận diện thực tại, rồi bất chợt xô Nhật Tường ra, giọng cô thảng thốt:

- Không, không bao giờ, em đã nói với anh nhiều lần rồi, em không thể bỏ đứa con này, nó là máu thịt của em, là tình yêu của chúng ta, bỏ nó có nghĩa em sẽ mất tất cả, anh vẫn muốn bỏ em để cưới người ta phải không?

Nhật Tường bỗng đổi giọng, âm sắc như có phần đe dọa:

- Anh đã năn nỉ em nhiều lần rồi, em nhất định không nghe phải không?

Hạnh Sương không trả lời mà nhướng mắt lên nhìn người đàn ông trước mặt, trong bóng tối chập chờn, gương mặt ấy đang ẩn chứa một điều gì đó mà trong khoảnh khắc cô chưa kịp hiểu, chỉ cảm thấy gai gai trong người, nhưng cô vẫn cứng cỏi bảo vệ đứa con còn rất non nớt trong bụng mình. Nhật Tường gằn giọng thêm lần nữa:

- Em có nghe lời anh không?

- Anh muốn làm gì?

Hạnh Sương ý thức được sự nguy hiểm nên vừa hỏi cô vừa đứng dậy mắt đảo quanh như muốn tìm cái gì để tự vệ, nhưng Nhật Tường không để cho cô kịp phản kháng, hắn đẩy Hạnh Sương ngã xuống đất và liên tục đạp vào bụng cô. Hạnh Sương cong người để bảo vệ con, cô kêu cứu, nhưng Nhật Tường thách thức:

- Kêu đi, kêu to mấy thì cũng không có ai nghe đâu, tao đã nói mà mày không chịu nghe thì đừng trách tao ác… này con này con này…

Những cú đá đạp vẫn thi nhau giáng lên người con gái yếu ớt không được bảo vệ và cũng không tự vệ được. Hạnh Sương đuối dần đuối dần và cô ngất đi. Nhật Tường còn lật ngửa cô lên đạp thêm mấy cái mạnh vào giữa bụng rồi lên xe rồ ga vù đi. Hạnh Sương ngất đi bao lâu không rõ, khi cô tỉnh dậy chỉ thấy mình đau dữ dội và bằng tất cả sức lực còn lại, cô lết dần theo mặt trời lên, nơi vọng lại thanh âm của những động cơ, và cô lại ngất đi lần nữa khi chạm đến mặt đường.

Phải mất đến mấy tháng nằm viện, Hạnh Sương mới có thể trở về từ cõi chết, và cô được biết vì bị tổn thương quá nặng nên cô sẽ không thể mang thai được nữa. Gia đình Hạnh Sương quá đau xót cho con gái nên định đâm đơn kiện Nhật Tường, nhưng sự dàn xếp của đồng tiền kèm theo “nếu làm to chuyện thì có khi hại nhiều hơn cho Hạnh Sương vì sẽ chẳng ai dám lấy nữa”. Lời cảnh báo quá hiệu quả, nên câu chuyện lui dần vào dĩ vãng. Nhưng với Hạnh Sương thì cái đêm nghiệt ngã ấy không thể phai mờ trong cô, nó trở thành một nỗi ám ảnh khủng khiếp, đóng đinh vào tâm não, về sau cứ mỗi khi có người đàn ông nào xuất hiện là những hình ảnh ấy lại hiện rõ trong tâm trí, cô không thể nào hiểu nổi vì sao: một người đã từng tha thiết yêu thương đã biến thành một kẻ tàn nhẫn, và chỉ vừa sau những hành vi âu yếm đã ngay lập tức ra đòn chí mạng, chỉ vì muốn giết chết đứa con còn trong trứng nước để rảnh nợ đi tìm niềm vui khác. Nỗi cay hận của niềm tin bị đổ vỡ cùng sự đau đớn kinh hoàng ấy đã khiến trái tim cô không thể chữa lành được vết thương, và cô mất dần cảm xúc yêu đương, hóa thành một người đàn bà lãnh cảm. Mặc cho bao đồn đoán, Hạnh Sương đã trở thành một người câm lặng trước tình yêu.

…………………

- Thật khủng khiếp, quá dã man.

- Không thể nào chấp nhận được đó là một con người.

- Quá hèn hạ và đê tiện.

- Khốn nạn, khốn nạn không thể nào chấp nhận nổi, vô lương tâm và quá sức hèn mạt.

- Những thằng đàn ông hèn như thế nhiều lắm lắm luôn, chúng chỉ muốn thỏa mãn cơn dục vọng của bản thân, và khi nói đến trách nhiệm thì tìm đường tháo chạy.

- Người con gái nào khi mới lớn lên đều ươm cho mình một giấc mộng yêu đương lãng mạn đẹp đẽ, thế mà …

- Chúng ta ai cũng đều gặp phải những chuyện nọ kia trong tình cảm và hôn nhân của mình, nhưng đến mức như vậy thì… không thể tưởng tượng nổi.

- Đúng là một lần để hận cả đời không nguôi, tôi mà như gia đình bà ấy thì cho hắn đi tù mọt gông…

- Thì vốn ở đời vẫn cứ lo cho cái sĩ diện hơn những điều thiết thực khác mà.

- Cứ tưởng mợ ấy mãi tồng tênh thoải mái muốn đi đâu thì đi muốn làm gì thì làm, không phải dạ thưa đầu tắt mặt tối, để tụi mình mãi ghen tị chứ.

- Vậy mà sao bây giờ bà ấy lại chịu lấy hắn?

- Hay vẫn còn yêu? Hận cũng là một phần của yêu đấy, nếu không thì làm sao lại đâm đầu vào ngõ cụt như vậy?

- Tôi thì không nghĩ thế, có thể đây không phải là một cuộc hôn nhân thực sự, mà là…

- Sự trả thù!

- Đúng thế, để trả thù.

- Nhưng… bằng cách nào?

…………………

- Cái thằng cha này, số đúng son thật.

- Khà khà, ghen với tôi thì các ông có mà ghen cả đời.

- Một vợ hai con ba tầng bốn bánh, đó là mục tiêu của tất cả đàn ông, mà ông còn hơn thế nữa, có bí quyết gì truyền cho anh em nghe với.

- Hàng tá bí quyết, nhưng còn phải xem số trời nữa, chỉ bí quyết không mà số má hẩm hiu đen đủi thì cũng chịu thua, số tui ông Trời biểu rứa, mần răng chừ… khà khà…

Nhật Tường không giấu nổi vẻ tự mãn của một người đàn ông được hưởng nhiều ưu đãi. Mấy chục năm không tăm tích, bỗng gặp lại Hạnh Sương trong đám cưới con một người bạn, Nhật Tường khá choáng khi thấy nàng vẫn giữ được phần nhiều dáng nét ngày xưa, trông có phần duyên dáng mặn mà của một người phụ nữ đang độ hồi xuân. Sau vài lần hẹn với những câu chuyện xưa nay, Hạnh Sương chủ động đề nghị nối lại tình xưa. Quả là quá hợp tình hợp lý, khi Nhật Tường góa vợ đã mấy năm, phần nữa là do nhớ lại chuyện xưa, Nhật Tường cũng thấy mình có lỗi, nên cũng mau chóng nhận lời và thật sốt sắng trong sự chuẩn bị cho cuộc tái hợp sắp tới.

- Mà nè, chẳng lẽ thật là nàng chờ ông từ đó đến giờ không lấy chồng sao?

- Tất nhiên, trông nàng còn ngon cơm lắm nhé, tôi cũng không ngờ nàng vẫn chờ đợi tôi, đúng là tình đầu khó phai.

- Vậy thì chúc mừng ông, mà sao lại làm đám cưới rình rang chi vậy? Lần hai rồi thì vài mâm ra mắt cho gọn nhẹ không hợp tình hơn sao?

- Tôi cũng tính thế, nhưng nàng bảo với nàng là lần đầu nên cũng đừng để thiệt thòi quá.

- Ừ cũng phải. Ông cũng nên đối xử thật tốt với nàng, bù đắp cho nàng thật xứng đáng nhé.

- OK. Tôi chìu theo tất cả ý nàng thích, giờ nàng đang tự tay sửa sang trang hoàng cho căn phòng hạnh phúc của chúng tôi đấy.

- Thôi thôi, đừng nói nữa mà thèm.

- Cạn nào, hôm đám cưới các ông tha hồ tẹc ga nha.

- Còn phải nói… dô dô…

…………………

- Hạnh Sương, bà nói thật cho tụi tôi nghe đi, bà đang toan tính chuyện gì đấy?

- Chả toan tính gì cả.

- Tôi không tin, lý do gì bà lại lấy lão Nhật Tường?

- Chả có lý do gì cả, thích thì lấy thôi.

- Không đúng, không đúng một chút nào, ai không biết thì nghĩ đây là một cuộc tái hợp viên mãn hạnh phúc, nhưng tôi thì không tin, hoàn toàn không tin. Bà nói đi, bà định trả thù hắn ta đúng không?

- Tình cũ không rủ cũng tới mà.

- Thật không?

- Thật hay không cũng là chuyện của tôi, các bà có muốn đi dự đám cưới hay không thì tùy, đừng có hoạnh họe tôi nữa.

- Đó là tụi tôi lo cho bà, nếu bà có ý định trả thù thì tôi khuyên bà không nên, chuyện qua rồi hãy để cho nó qua luôn đi, đừng chất chứa trong lòng chi cho nặng.

- Phải đó, hãy buông bỏ mà sống cho nhẹ lòng, chứ xảy ra chuyện gì nghiêm trọng thì bà tiêu phí quãng đời còn lại trong nhà tù à, không đáng đâu.

- Bà nghĩ lại đi, ai đối xử với mình không phải thì trời có mắt mà, rồi họ cũng phải trả giá thôi mà.

- Các bà chỉ nói cái miệng thì hay lắm, cứ nhẹ tênh đi như thả một tờ giấy bay bay trong gió vậy, các bà có phải nếm trải những điều khốn khổ cay đắng tàn hại cả một đời như tôi đâu mà biết nó cay nhức bỏng buốt đến thế nào. Trời ư? Trời ở đâu? Trời là chi? Trời làm được gì? Tôi chả thấy trời đất đâu cả, chỉ thấy nó phây phây suốt mấy chục năm qua, vợ đẹp con khôn, danh vọng địa vị tiền tài có đủ. Chẳng lẽ nó không phải trả giá một chút gì cho những việc mà nó đã làm sao? Đừng, đừng ai nói thêm một câu nào nữa, không ăn thua gì đâu, tôi đã quyết rồi, tôi phải đòi lại sự công bằng cho mình, không ai cản được tôi đâu.

- Hạnh Sương… Hạnh Sương… trời ơi… làm sao bây giờ?

…………………

Hạnh Sương đẹp lộng lẫy trong bộ trang phục cô dâu nhu nhã mà quý phái, với cách trang điểm nhẹ nhàng cầu kỳ trẻ trung, không ai nghĩ đó là một người phụ nữ tuổi năm mươi. Nhật Tường cũng tươi hơn hớn trong bộ veston màu tro, với mái tóc chải bồng vuốt keo láng lẩy trông cũng trẻ ra cả chục tuổi. Người người trầm trồ họ đẹp đôi hạnh phúc thật viên mãn. Nhật Tường luôn miệng cười tươi rạng rỡ cụng ly lốp cốp hể hả nhận những lời chúc tụng, còn Hạnh Sương giữ khóe miệng cười mỉm nhẹ nhàng trông càng thêm phần quý phái trong chiếc váy màu vàng đồng dát kim tuyến lóng lánh. Họ đã khiến bao người phải nhức nhối trái tim vì ghen tị và ao ước.

Sau tiệc cưới, một nhóm bạn thân kéo hai người đi tăng hai tăng ba cho đến sẩm tối mới về đến nhà. Căn nhà bây giờ là thế giới riêng cho đôi tân hôn, vợ chồng đứa con trai lớn thì về nhà riêng, cô con gái thì đã lên máy bay về trường vì đang trong mùa thi. Nhật Tường mỉm một nụ cười mãn nguyện khi thấy Hạnh Sương đi nhanh vào phòng ngủ đóng cửa lại. Anh ta buông mình xuống chiếc ghế sô pha xoãi ra thư giãn, giây lâu Nhật Tường đứng dậy đi về phía căn phòng đang có Hạnh Sương, đẩy nhẹ thấy cửa phòng chốt trong, định gõ cửa, nhưng chợt nghĩ chắc Hạnh Sương còn đang bận chuẩn bị gì đó, nên anh ta đi lên tầng trên, lúc sau đi xuống với chiếc áo ngủ choàng quanh người. Đến trước cửa phòng, Nhật Tường vừa gõ cửa vừa gọi nhẹ nhẹ:

- Sương ơi… Sương ơi!

Không nghe tiếng trả lời, anh ta gọi to hơn và gõ cửa mạnh hơn, vẫn không có động tĩnh gì, Nhật Tường hốt hoảng xô mạnh cánh cửa, nó bật ra và lôi anh ta chúi nhủi vào phòng. Căn phòng phủ đầy bóng tối, chưa kịp định thần để nhận thức thì bên tai Nhật Tường vẳng lên một thứ thanh âm, khiến anh ta nổi gai buốt sống lưng và bật run lên. Cốc… cốc… cốc… đó là tiếng gõ mõ, và tiếng tụng kinh âm trầm bí hiểm. Nhật Tường bật lao đến công tắc đèn, ánh đèn vàng tỏa từ chùm đèn trần cho Nhật Tường nhìn thấy một cảnh tượng, anh ta không kìm được tiếng hét thất thanh. Trên cái giường nệm sang trọng kia, không phải là một người đàn bà trong chiếc áo ngủ bằng voan đầu quyến rũ đang chờ vòng tay người đàn ông, mà là thân hình bao trùm bằng một bộ áo choàng đen, và cả cái mũ trùm gần hết khuôn mặt cũng đen, trước mặt người ấy là một bàn thờ khói hương lởn vởn, có một tấm hình dựng lên ở giữa, Nhật Tường lại hét lên khi nhìn thấy tấm hình, và không chỉ một tấm hình ấy, mà trên bốn bức tường treo đầy những tấm hình tương tự, đó là hình thù những thai nhi chưa tròn vẹn, chúng có những hình thù dị dạng, càng chập chờn ma quái hơn vì những tấm hình chỉ dính vào tường phần trên, và chúng lật phật khi luồng gió từ chiếc quạt quay lướt qua. Trong ánh đèn mờ ảo, Nhật Tường cảm thấy như một đoàn âm binh ma quái bao quanh mình. Anh ta cố hít không khí và một tay bám chặt vào cái tai ghế cho khỏi ngã, chiếc ghế cũng rung lập cập lập cập. Tiếng tụng kinh to lên một chút và chuyển qua đoạn niệm chú, nghe dập dồn và ma mị. Nhật Tường ướt đầm mồ hôi và ngã quỵ xuống sàn, anh ta muốn kêu muốn nói một câu gì đó nhưng không thể cử động hai quai hàm cứng đơ. Giây lát, Nhật Tường cố nhoai mình nhích từng chút từng chút mong thoát khỏi căn phòng âm binh. Tiếng tụng kinh đột ngột dừng lại, Nhật Tường tưởng đã được giải thoát, nhưng hốt nhiên, cái thân phì nục đang lê từng chút ấy giật nảy lên khi “Ổi con ơi là con ơi, con chết đau chết đớn chết tức chêt tưởi, chết mà chưa được một ngày nhìn thấy ánh mặt trời, chết mà chưa từng nghe được một lời mẹ ru, con chết khốn chết khổ chết tan chết nát, chết mà chưa một lần cất tiếng khóc tiếng cười, chết khi đang còn trứng nước, chết vì con không được phép làm người, con chết vì chính người đã tạo ra con, con chết bởi chính cha con đó con ơi, cha con đã giết con… cha con đã giết con… cha con đã giết con…

Tiếng kêu khóc của Hạnh Sương khi nỉ non thống thiết khi sôi réo róng riết, khi thét giãy lên sần sận. Tràng thanh âm điên loạn ấy cứ xoáy cứ xoáy sâu vào tận ngóc ngách tế bào thần kinh đã căng đến hết mực của người đàn ông đã bước qua cái tuổi hơn nửa cuộc đời, nhất là câu réo cuối cứ lập đi lập lại càng lúc càng căng tức căng tức cả âm điệu lẫn sức ép. Nhật Tường với hai cánh tay về phía trước rồi thả rơi bất động.

…………………

- Sếp mình trăng mật kỹ ghê nha. Gần tháng rồi mà chẳng thấy mặt mũi đâu, điện thoại cứ tắt miết.

- Hồi xuân mà lỵ, trăng mật tuổi này mới đúng là mật đấy.

- Lại tình đầu tìm được nhau nữa chứ, eo ui còn phải biết.

- Gớm, được mấy gờ-ram kinh nghiệm rồi mà hiểu biết thế? Tôi lo đám giấy tờ hợp đồng chưa ai ký kia, không khéo phải đem đến nhà cho Sếp ký mất.

- Thôi đi, không nên đâu, mà biết đâu chừng họ đi du lịch nước ngoài thì sao? Điện thoại không liên lạc được mà.

- Có lẽ thế. Hỏi con ông ấy xem.

- Hỏi rồi, cậu ấy bảo không rõ, cũng muốn để ba với dì thoải mái nên cũng không hỏi han gì.

- Mấy người cứ khéo lo, hai ông bà vi vu chừng tháng là hết cỡ, yên tâm đi.

- Ừ chắc vậy.

…………………

- Này, các bà có gặp Hạnh Sương đâu không? Sau ngày cưới là mất biệt, tôi cứ lo lo thế nào ấy.

- Không, chẳng thấy đâu cả, cửa tiệm thì vẫn giao cho quản lý, họ cũng không biết bà ấy đi đâu. Điện thoại thì tịt mít.

- Tôi đi qua nhà ông Nhật Tường mấy lần toàn thấy đóng cửa.

- Họ đem nhau đi đâu nhỉ? Tôi chỉ lo là chưa kịp làm gì nó, vừa manh nha ý đồ, nó đã biết nó cho một nhát rồi vứt xác xuống sông là tiêu đời, sức vóc đàn bà được bao nhiêu.

- Hay là bà ấy cho thuốc độc vào thức ăn rồi cả hai cùng ăn cùng chết.

- Khiếp, nghe bà nói kinh cả người.

- Chứ bà tính, muốn trả thù một thằng đàn ông thì làm thế nào?

- Tôi chịu, có biết thù ai bao giờ đâu mà biết trả.

- Khổ đời, yêu cho chán rồi thù rồi hận.

- Cái hận ở đây không chỉ hận vì sự phản bội tình yêu, mà chính là vì sự tàn nhẫn hủy hoại không thương tiếc kể cả sinh linh bé nhỏ non nớt là con của chính mình, hại cả một cuộc đời của người đàn bà mà mình đã từng ấp gối.

- Này, nói không phải vơ đũa chứ phần lớn đàn ông nó khốn nạn thật đấy. Trên cả thế giới này chắc chỉ khoảng vài phần trăm là những người đàn ông tử tế có lương tâm có tình cảm có trách nhiệm thôi, còn bao nhiêu là ích kỷ chỉ biết thỏa cái ý mình.

- Thì thế, khốn nỗi đàn bà khi yêu hết lòng thì rất mù quáng, và đàn ông thì rất biết cách lợi dụng điểm này.

- Nghe bà nói tôi chợt nghĩ, có khi nào câu chuyện của họ đang diễn ra không như tụi mình nghĩ không?

- Là sao?

- Là biết đâu họ đang rất hạnh phúc bên nhau khi nối lại tình xưa, hận cũng là một màu sắc của yêu đấy, đàn bà lại dễ mềm lòng, nghe đàn ông vuốt ve lỗi lệch vài câu lọt tai là bỏ qua hết.

- Được thế cũng tốt, thực ra thì tôi cũng mong Hạnh Sương bước qua được cái hố sâu thù hận mà sống những ngày êm đềm để bù lại bao mất mát.

- Người ngoài cuộc nói nghe dễ lắm, cái đau nó cắn cấu trong tim, nó cào xé trong gan, đau tê điếng, đau chết lặng cả tâm hồn mỗi khi nghĩ đến, bỏ qua mà đơn giản thế được thì đã chẳng là phận người.

- Đúng đấy, chỉ nghĩ ví như chồng mình vừa thơn thớt nói yêu mình vuốt ve mặn nồng với mình mà đã có thể phản bội ngay mình đi ôm ấp yêu thương người đàn bà khác là tôi đã uất đến hộc máu ra rồi, huống chi lại còn đang tay nhẫn tâm đánh đập và giết chết con mình nữa thì đúng là cả đời không thể nào quên được thật.

- Nhưng để trả thù mà đánh mất cả cuộc sống thậm chí là tính mạng của mình thì có đáng không?

- Khi lửa hận đang bốc ngùn ngụt thì làm sao tính được là đáng hay không đáng, chỉ biết làm thế nào để trả được thù thôi.

- Ối giời ơi, Sương ơi là Sương ơi, bà đang ở đâu? Còn sống hay chết hả???

…………………

Nhật Tường lờ đờ mở mắt, cố nhướng hai mí bùm bụp lên để nhận định chung quanh, ông chỉ thấy một không gian tù mù trong thứ ánh sáng vàng vọt, cố nhúc nhắc cái đầu nặng chịch và đau nhức, chân tay bải hoải rũ liệt như không thể cử động. Một giọng nói mơ hồ như xa xôi lắm:

- Ông lại tỉnh rồi đấy hả?

- Nước… nước…

Một chất nước ấm ấm ngọt ngọt thấm vào lưỡi trôi xuống cổ, Nhật Tường đã tỉnh tỉnh lại sau mấy muỗng nước ấy, ông nhìn rõ hơn gương mặt đang gần kề, gương mặt của một bóng ma luôn chập chờn suốt những ngày qua. Một tia sáng len qua vùng mù tối của tâm thức, Nhật Tường gắng gượng nhúc nhích cơ thể, hai cánh tay vẫn bị níu về hai phía bằng hai sợi dây vải thun, loại vải có thể cho phép cử động co duỗi trong một phạm vi. Ít giây cho sự hồi thức, Nhật Tường thều thào:

- Bà, bà tha cho tôi đi, tôi biết tội tôi rồi…

- Biết… biết tội thì phải đền tội, tôi không để ông chết đâu, ông phải biết cái sự đau đớn suốt mấy chục năm trời trong tôi là thế nào, ông phải trả giá, phải trả giá biết không?

- Tôi xin lỗi bà, ngàn lần xin lỗi bà, tôi thấm thía lắm rồi.

- Chưa, chưa là gì cả, mới gần một tháng trong cảm giác âm ty địa ngục chưa đủ cho ông đền bù tội lỗi, ông đã giết con tôi, ông đã hại cả một đời tôi, ông độc ác, ông tàn nhẫn, ông không phải con người, ông biết không… biết không… Trả con cho tôi… trả con cho tôi…

Âm sắc câu nói càng lúc càng to dần và trở thành tiếng gào thét, cùng một vật thể lạnh ngắt như đồng áp sát vào người Nhật Tường, kèm theo đó là tiếng trẻ con khóc ngằn ngặt chát chúa. Tràng thanh âm khiếp hãi ấy là nỗi kinh hoàng suốt những ngày qua khiến Nhật Tường cong người lên giật cùng cục, cái đầu lắc liên hồi, và sau rốt là một tiếng hét nửa chừng tắt lịm. Nhật Tường lại rơi vào trạng thái mê man. Hạnh Sương ngưng lại cơn gào thét, ngồi bật ra cái ghế dựa thở hổn hển. Giây lát bà đứng dậy, nhìn vào người đàn ông đang nằm sõng sượt trên giường, đôi mắt tối thẫm một miền u minh, rồi chợt đưa hai tay lên ôm mặt, nảy ra những tiếng nấc nhẹ, ít giây sau, khẽ lắc nhẹ vài cái, Hạnh Sương đi vào phòng vệ sinh. Đồng hồ đã chỉ con số 00h, Hạnh Sương nhẹ nhẹ bước ra mở cửa và cổng, không lâu, một chiếc xe hơi màu đen trườn nhẹ vào sân, người lái xe nhanh nhẹn nhảy xuống quay ra sau mở cốp xe và xách những cái túi lớn nhỏ vào nhà, khi đã xong, Hạnh Sương đưa cho người ấy một mảnh giấy, rồi vẫn im lặng như thế, chiếc xe lùi ra cổng và lướt êm trong đêm. Hạnh Sương, đóng cổng cửa, tắt đèn và đem các thứ vào bếp. Một nắm gạo cho vào nồi, lát sau, gạn nước từ nồi cháo cho vào cái bình thủy, đó là thứ thực phẩm duy nhất, khi được đưa vào cơ thể Nhật Tường thì pha thêm một ít sữa, và không lần nào quên một viên thuốc nhỏ. Chính viên thuốc nhỏ này luôn giữ Nhật Tường trong trạng thái lơ mơ không tỉnh nổi, và cũng góp phần suy giảm sức lực của người đàn ông trung niên bảnh bao phong độ. Vài lần đầu khi tỉnh lại, Nhật Tường cố vận dụng ý thức của mình mà la hét kêu cứu, xong đó là điều vô ích, khi căn phòng được trang bị một lớp cách âm kín đáo sau các hình thù trang trí đẹp mắt. Bỗng nhiên Hạnh Sương ngồi phịch xuống chiếc ghế, mắt đăm đăm nhìn lên trần nhà. Mấy con thạch sùng đuổi nhau kêu kèn kẹt.

…………………

- Anh nè, sao ba với cô lạ hé. Đi đâu mà biệt tăm không tin tức gì cả.

- Em lo chi, chắc ông ba đi du lịch nước ngoài, hổng có chuyện chi đâu, ông ba mình tha lừa người ta thì thôi chứ ai lừa được ổng. Mà lần này đám cưới với cô Sương coi bộ chắc cú, nhưng hổng biết rồi có lâu dài không nữa.

- Chắc ba nghĩ kỹ rồi mới đám cưới, chứ hồi giờ ổng bồ bịch tá lả có nghe cưới xin gì đâu, nghe nói cô này là người yêu hồi đại học phải không anh?

- Ừ, hồi đó trắc trở gì đó hai người không đến được với nhau, giờ tình xưa nối lại coi bộ đậm đà ha.

- Em thấy cô Sương cũng được đó chớ, tuổi đó rồi mà coi còn sắc nước lắm chắc hồi trẻ cổ cũng đẹp lắm ha.

- Do đó mà ông ba mình đắm đuối quên hết mọi sự đời chứ gì.

- Hai ông bà cũng lớn tuổi rồi, về với nhau vậy là yên tâm. Kìa anh, điện thoại anh có tin nhắn kìa.

- Số lạ. Cái gì vậy nè “Tụi con về lo cho ba đi cô chịu hết nổi rồi” . Ủa có chuyện gì vậy ta?

- Sao tự nhiên có chuyện gì kỳ vậy? Mình về coi mau đi anh.

………………..

- Ủa sao cổng cửa mở mà không thấy ai vậy nè. Ba ơi! Cô Sương ơi!

- Ủa, bếp cũng lạnh tanh à, cô ấy đi đâu rồi? Vô phòng ba coi.

- Trời! Anh ơi…

- Sao? A trời… Ba ba… ba sao vậy nè? Ba ơi… ba ơi!

- Mới hơn một tháng mà ba bị bịnh gì đến nỗi này vậy hả?

- Trời, cái gì đây? Thuốc ngủ à…

- Cái thùng rác gì mà hôi quá à, trời đất, bỉm của người lớn, kinh khủng vậy nè… Sao cô Sương không đưa ba đi bệnh viện, không báo cho mình biết sớm, đợi ba hôn mê vầy mới báo…??? Gọi cô Sương đi.

- Gọi không được, máy tắt rồi. Có chuyện gì với ba vậy? Hôm đám cưới nhìn ba có sao đâu, hay ba bị đột quỵ, bị tai biến? Thôi cứ đưa ba đi bệnh viện đã, tính sau.

- A ba tỉnh rồi nè… cái gì ba… ba nói gì vậy…?

- Ba xin… lỗi… lỗi con… tôi xin… lỗi… lỗi bà… xin… lỗi… lỗi…

- Ba. Ba xin lỗi ai vậy?

- Ba đang nói sảng hay sao ấy. Thôi cứ đưa ba đi bệnh viện đã anh.

……………………

- Ba, ba nói cho tụi con nghe đi, có chuyện gì xảy ra vậy? Mà cô Sương đi đâu không ai biết, chỉ để lại tờ đơn xin ly dị. Sao kỳ vậy? Đám cưới chưa bao lâu mà. Cô ấy đã làm gì ba phải không?

- Sao ba cứ im lặng hoài vậy. May mà ba chỉ bị suy nhược và sang chấn nhẹ, nếu có gì nghiêm trọng hơn thì tụi con biết làm sao đây. Ba phải nói cho con biết chuyện gì đi chứ. Lúc mê man ba cứ nói xin lỗi xin lỗi, ba xin lỗi ai mà sao lại phải xin lỗi? Ba nói đi ba.

Nhật Tường vẫn lặng im trên chiếc xe lăn. Sau mấy tháng điều trị, ông đã qua cơn nguy hiểm và đang hồi phục, tuy nhiên, ông khó mà trở lại trạng thái của ngày trước. Vào cái tuổi gần sáu mươi, bất kỳ ai có sự sa sút về sức khỏe, lập tức là cơ hội cho một số bệnh tiềm ẩn phát ra, và chúng liên hoàn tấn công cơ thể đã mất dần sức đề kháng, để một ngài phó tổng đang thời phong độ uy nghi giờ chỉ còn là một người đàn ông già yếu bệnh tật cả thân xác lẫn tâm hồn. Khi có lại được nhận thức một cách rõ ràng về những chuyện đã xảy ra, lương tâm ông lên tiếng thóa mạ và vạch mặt những góc đen tối nhất của một quãng đời. Đã làm chồng làm cha, ông càng ngẫm càng thấy rõ tội lỗi của mình không thể dung thứ. Và ông cũng hiểu rõ một điều, chút lòng nhân hậu của người đàn bà ấy đã giữ lại cái mạng này cho ông, sự trả giá ấy cũng chỉ là một phần, chưa đủ đền bù tội lỗi để lương tâm ông sẽ không còn được yên bình trong những tháng ngày còn lại. Một câu hỏi luôn ong ong trong tâm trí “Tại sao ngày ấy ta lại có thể ra tay một cách khốn nạn như vậy?”. Có hàng vạn câu trả lời thì cũng không câu nào là khả dĩ. Và những gì đã diễn ra trong căn phòng ấy, suốt đời chôn sâu trong tận cùng tâm can ông, chỉ một mình ông. Một mình ông biết và thấm là đủ lắm rồi.

……………….

- Xa thế nhỉ? Dân ở đây đúng là khổ. Đường xá thì cheo leo dốc đá, đất đai thì khô cằn bạc thếch, làm không đủ ăn nói gì đến những thứ khác.

- Có thế thì chúng ta mới lặn lội mang vác lên đây, chắc bọn trẻ mừng lắm đấy.

- Bố mẹ chúng nó cũng mừng chứ riêng gì chúng nó. Còn bao xa nữa nhỉ?

- Gần đến rồi các bác ạ, cố lên tí nữa nhé.

- Các bà này, nghe nói chùa này lâu đời lắm rồi, nhưng ít khách vãng lai, vậy mà Sư cô còn nuôi một đống trẻ con thế thì lấy gì mà sống?

- Nghe nói Sư cô này rất quý trẻ con, từ khi bà về chùa thì mới có hoạt động này, chắc thấy trẻ con nơi này đói khổ quá mà.

- Ừ thì làm được gì có ích cho mọi người thì cứ làm, như chúng ta đi làm từ thiện lâu nay vậy, mỗi người một công một sức mà.

- Ngày xưa mỗi lần đi đâu cấm vắng mặt bà Hạnh Sương nhỉ.

- Nhắc đến lại thấy buồn. Giờ chả biết lưu thân chốn nào?

- Có khi đi nước ngoài từ hồi ấy rồi. Đúng là đàn bà dễ có mấy tay nhỉ. Không biết bà ấy làm thế nào mà chỉ một thời gian ngắn mà lão kia thân tàn ma dại.

- Đấy, cho các lão mở to mắt ra, không phải cứ muốn làm gì thì làm, phụ nữ cũng phải có cuộc sống cho ra người chứ, đâu cứ còng lưng chịu phép các lão, cần thì nắm níu, không cần nữa thì đá hất.

- Cứ phải ra đòn, phụ nữ ngày nay phải biết giữ lấy giá trị đúng mức của mình, đừng quá nhún nhường để đàn ông họ có cớ xem thường.

- Kìa, cổng chùa rồi kìa, mải chuyện quên cả mệt.

- Thì thế, đi đường xa cứ chuyện rôm rả là qua nhanh lắm.

- Mô Phật.

- Chào Sư cô ạ.

- Ơ…

- Ôi…

- Nam mô ai di đà Phật. Kính thí chủ lên chùa.

- Suỵt. Nói chuyện sau, mang đồ vào cho các cháu đi đã.

…………………..

- Ui chao, thật không ngờ lại gặp bà ấy ở đây.

- Thôi thế cũng tốt, vừa thanh thản tâm thân lại giúp ích cho đời.

- Tôi vẫn vã mồ hôi đây. Đúng là tài thánh cũng không tìm ra được thật. Ai mà ngờ…

- Ôi cuộc đời ơi…Tình - Thù Vô nghiệt chi giao.

Đàm Lan

HẠNH PHÚC

Thầy ốm! Cả lớp xôn xao. Những ánh mắt nhìn nhau rất vội. Nhiều cánh môi chu lại, thì thầm. Ngoài hai nhỏ lớp trưởng và phó, còn lại, tất cả đều vui mừng.

Vậy là thoát! Tiết kiểm tra Địa đình chỉ bất ngờ. Đứa nào cũng mừng quýnh. Bao nhiêu đất nước trên thế giới nầy và những con số chết tiệt về nó. Rồi những con sông, ngọn núi, con người với bao đặc điểm… thầy Địa cứ “nhét” hết vào đầu chúng tôi. Mỗi lần sắp có giờ Địa chúng tôi phờ phạc vì phải học ra rả như cuốc kêu mùa hè. Nhớ được dăm điều, xong kiểm tra, quên tuốt. Chúng tôi trả lại gần hết cho thầy. Mãi đến lúc thi học kỳ, thầy phải quay chúng tôi như quay dế, mổ banh những bộ óc chật hẹp, nghèo nàn ra, nhồi đầy kiến thức trọng tâm.

Hôm nay lại có kiểm tra. Bảo đảm chẳng mấy đứa thuộc bài. Hay tin thầy sổ mũi, nhức đầu, đứa nào đứa nấy hí hửng mà cố nén.

Nhỏ Thương lớp trưởng vẻ mặt căng thẳng:

- Thầy bệnh, coi bộ các bạn vui hơn buồn.

Hồng Lém chớp mắt:

- Hổng dám đâu! Tụi nầy đau khổ gần chết đây!

Thương bĩu môi:

- Đau khổ mà mặt tươi như hoa mùa xuân vậy hả?

Như bay bổng tận chín tầng mây, Hồng Lém nghiêng đầu làm dáng:

- Mặt của mình có cỡ vậy sao! Chúa ơi, con vô cùng biết ơn Người.

- Lãng xẹt! Hùng bực bội gắt:

- Bà đẹp lắm, có thể làm giáo cụ dạy môn Sinh.

Cả lớp cười vang. Ai mà chẳng nhớ chuyện ngày xưa của Hồng Lém. Trong lúc giảng bài, thầy tìm trong cặp chẳng có giáo cụ, chắc ông để quên ở nhà. Thầy đi đi lại lại trên bục giảng. Một tay gát lên mông, bàn tay còn lại sờ cằm tìm… râu. Bỗng mắt thầy sáng lên khi nhìn xuống bàn tôi. Ông gọi Hồng. Chúng tôi ngạc nhiên chẳng hiểu chuyện gì thì thầy chỉ cái bục rồi bảo:

- Em hãy đứng đó!

Xoay sang chúng tôi, thầy nghiêm trang:

- Các em, con người là một sinh vật tuyệt vời của tạo hóa. Nếu không kể dáng dấp bên ngoài thì còn có cả một kho tàng bí ẩn nép mình bên trong cơ thể.

Ngừng lại, thầy dùng thước chỉ về phía hông của Hồng:

- Dưới bộ sườn nầy, em nào biết có những gì?

Tôi đưa cao tay, thầy gọi:

- Thưa thầy, đó là “bộ đồ lòng”.

Cả lớp cười ầm ĩ, thầy cũng cười:

- Được, nhưng nên nói rõ hơn về từng bộ phận!

- Thưa thầy, núp sau bộ sườn của bạn là tim, gan phèo phổi ạ!

Cả lớp lại cười. Thấy không xong, thầy ra hiệu:

- Em ngồi xuống! Các em nên dùng thuật ngữ Sinh học cho quen. Bây giờ, ai có thể cho biết hệ tuần hoàn giữ chức năng gì trong cơ thể?

Chắc thầy trông thấy Tài đang nhìn ra khoảng trời xanh ngoài khung cửa sổ, ông gọi lớn:

- Tài!

Giật nẩy mình, Tài đứng bật dậy, ấp úng:

- Dạ, chi ạ?

Có tiếng cười khúc khích, thầy lặp lại câu hỏi:

- Hệ tuần hoàn giữ chức năng gì?

Tài gãi đầu:

- Nhưng… hệ tuần hoàn là cái gì, thưa thầy?

Thầy Chinh cố nén cho đừng mất bình tĩnh, ông đỏ mặt, ghìm giọng nói không quá chát chúa:

- Là tờ kiểm điểm! Ngày mai, em phải nộp tờ kiểm điểm cho tôi và phải học thuộc tất cả những gì về hệ tuần hoàn.

Hồng đứng co rúm người trước cơn giận dữ của thầy. Hồi lâu, nó lễ phép thưa:

- Thưa thầy, còn em… thì sao?

Thầy Chinh trở lại chỗ ngồi, ông phất tay:

- Về chỗ! Thật là thất vọng!

Từ đó, ngoài cái tên Hồng Lém, chúng tôi còn gọi nó là Hồng Thất Vọng, dù biết trạng thái tinh thần kia không phải do Hồng gây ra.

Hôm nay, nghe Hùng gợi lại, tôi chợt nhớ, bảo Hồng:

- Nhìn mày là tao đã thấy thất vọng rồi!

Vừa lúc đó, thầy giám thị vào lớp, ông nghiêm khắc ra lệnh:

- Trong lúc chờ đợi học tiết kế các em phải im lặng cho lớp khác học. Ai muốn giỡn, xuống căn tin hoặc về nhà!

Dĩ nhiên chúng tôi chọn căn tin. Giờ học, căn tin vắng khách. Mấy chị “quản lý ăn uống” đang ngồi tán gẫu. Thấy bọn tôi, mấy chị tươi ngay nét mặt. Loáng cái, ba chiếc bàn chật ních người ngồi. Con gái chiếm hai bàn đặt trong góc cho tiện việc ăn uống. Chị Hạnh đến bên vui vẻ hỏi:

- Các em dùng chi?

Tôi hỏi:

- Có cocacola không chị?

Chị Hạnh mừng rơn: “Có”

Nga chớp mắt làm dáng:

- Có cà phê sữa đá không chị?

Chị vui vẻ bảo có.

Hoàng ra vẻ e lệ:

- Có So-da hột gà không chị?

- Có.

Tôi phát hoảng liền đặt vấn đề “trọng tâm”:

- Ai trả tiền?

Im lặng!

Hồng Lém tuyên bố:

- Vậy thì cho 20 ly đá bào! Mạnh ai nấy trả tiền.

Cả bọn cười rộ. Chị Hạnh cũng cười dễ dãi, lắc lắc mái tóc dài mướt rượt. Chị đi ra sau quầy, chiếc máy bào nước đá xoay tít trong tay chị. Tiếng sẹt sẹt vang lên liên miên và từng ly đá bào xuất hiện trước mặt chúng tôi. Vừa nhấm nháp vị lành lạnh ngòn ngọt của đá bào tôi vừa quan sát. Ôi, đủ loại bánh. Từ bánh “quí tộc” đến bánh “bèo”. Từ đồ mặn đến đồ… chua. Không thiếu thứ gì trong cái căn tin này. Tôi nhìn mấy trái cóc ngâm đường với ánh mắt cảm tình:

- Cóc ngon ghê!

Hồng Lém liếc sang bọn con trai:

- Hùng, Tài, Lợi, Lộc… cóc kìa!

Nhóm Tứ Tiên làm tỉnh:

- Kệ nó!

Tôi bĩu môi:

- Thật là keo kiết!

Lợi cười cười:

- Hổng dám hào phóng đâu!

Nhỏ Hoàng Chua lên giọng chanh:

- Làm trai chẳng đáng nên trai

Cóc ngâm hỗng dám mua vài trái… ăn!

Bài thơ có tác dụng ngay, Lộc gào lên:

- Cho 20 trái cóc đi chị Hạnh!

Tiếng vỗ tay hòa lẫn tiếng cười ròn tan như nhai cóc. Rồi thi nhau tán tỉnh:

- Hào hoa ác ôn!

- Vừa đẹp trai vừa… học yếu!

- Vừa mo-den vừa… có tiền mua cóc!

- Vừa hào phóng vừa… đau khổ!

Cứ thế, đến khi những trái cóc chỉ còn trơ cái hột gai góc thì bọn con gái mới ngừng tán tỉnh. Đúng lúc đó, tiếng chuông đổi tiết vang lên, cả nhóm lại kéo nhau về lớp.

Giờ học kết thúc. Cô Tiếng Anh vừa đi ra, Thương lớp trưởng chạy vội lên bục giảng:

- Các bạn hãy nán lại ít phút cho mình trình bày một việc!

Chờ cả lớp xếp tập bỏ vào cặp xong, tiếng ồn đã lắng xuống, Thương nói:

- Thương nghe nói thầy dạy môn Địa bệnh nhiều lắm! Gia đình thầy lại ở xa, chắc hiện giờ không ai chăm sóc thầy. Thương đề nghị cả lớp đến thăm thầy! Có tiếng nhao nhao:

- Đúng! Chiều đi thăm thầy.

- Chủ nhật hẵng đi.

Thương có vẻ buồn, cặp mắt mọng nước:

- Đi ngay bây giờ được không các bạn?

Im lặng, bỗng dưng tôi xốn xang nỗi gì rất lạ! Đúng rồi, sao không đến thăm thầy ngay mà phải chờ đến chủ nhật. Tôi buột miệng:

- Thương, mình sẽ đi với bạn ngay bây giờ.

Cả lớp hình như cũng hổ thẹn như tôi, các bạn kêu lên:

- Ừ đi, đi ngay đi!

Nhà thầy đứng khép nép tận cùng trong khu chung cư. Rêu phủ dầy trên mái tôn thâm thấp. Tường vôi vàng xỉn có vài đường nứt ngoằn ngoèo. Dường như thời gian đã ghi lên đó nét tàn phá của tháng năm. Ngôi nhà cũ kỹ đứng ủ rũ giữa căn hộ đã được tân trang sáng sủa, trông nó như một người bệnh hoạn ho hem đứng cạnh những dáng dấp lực lưỡng, khỏe mạnh. Chỉ tay vào ngôi nhà trắng có cửa sổ xanh Thương giải thích:

- Người ta phân cho thầy ngôi nhà đó nhưng thầy đã nhường cho thầy Tuấn và cô Lan.

Tôi kêu lên:

- Trời, uổng vậy!

Thương chớp mắt:

- Cô Lan bảo thầy tốt lắm. Thầy biết vợ chồng cô Lan đông con, cần phải ở chỗ tốt Thầy có một mình, nếu nó sập bất tử thì…

- Thì chết cô đơn chứ gì!

Câu pha trò của Lợi chẳng ai cười mà có vài bạn lau nước mắt. Hồng gõ nhẹ lên cánh cửa khép hờ, lát sau có tiếng dép lê. Cửa mở, thầy Địa hiện ra hốc hác, suy sụp khác thường, giọng run run vì cảm động. Thầy bảo:

- Các em, các em vào nhà ngồi nghỉ!

Bên trong căn nhà càng thảm hại hơn. Tối và chật hẹp hết sức. Chỉ có một cái giường cá nhân, bốn chiếc ghế vây quanh một cái bàn đã cũ. Cái tủ áo nhỏ đứng cạnh cái kệ sách to tướng. Ở đây, sách chiếm chỗ gần hết. Cái kệ không còn chỗ trống. Sách phải nằm tạm trên đầu tủ áo và chui xuống gầm giường. Ngôi nhà đã hẹp lại càng thêm hẹp. Bây giờ, có thêm chúng tôi chen vào mùi ẩm mốc hòa lẫn mùi mồ hôi của các bạn gây cảm giác nóng bức, khó thở.

Thầy lúng túng bảo:

- Nhà hẹp quá, thầy lại không có ghế cho các em ngồi.

Thương lễ phép thưa:

- Dạ không sao, tụi em đứng được.

Để thầy khỏi ngại, một số bạn đi ra sân, ngồi xuống thềm. Thấy vậy, thầy cũng ra theo, ông ngồi xuống cạnh Tài. Lập tức chúng tôi tràn ra vây quanh thầy rồi đua nhau hỏi thăm:

- Thầy khỏe chưa thầy?

Thầy mỉm cười:

- Đã đỡ rồi nhưng còn nặng ngực.

Tài sốt sắng nói:

- Cô hay tin thầy ốm chưa thầy? Thầy cho em địa chỉ, em đi gửi mail báo tin nha thầy?

Bỗng dưng thầy tựa người vào Tài, ông đưa tay vuốt ngực, mặt tím tái, hơi thở nặng nhọc, chúng tôi hoảng hồn tưởng như nghẹn thở theo. Tài run giọng:

- Thầy… Thầy có sao không thầy?

Giây lâu, gương mặt thầy đã có sắc hồng. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Thương đứng dậy:

- Để tụi em đưa thầy vào nhà nằm nghỉ nha thầy!

Lắc đầu, thầy ôn tồn bảo:

- Cảm ơn em, thầy đã khỏe rồi, không sao đâu, chỉ hơi xúc động.

Thầy trầm giọng:

- Thầy và cô đã thất lạc nhau. Năm năm rồi mỗi người mỗi nơi. Mỗi người theo con đường mình tự chọn để tìm kiếm hạnh phúc. Niềm vui và lẽ sống của thầy là mảnh đất thân thương hình chữ S nầy đây. Thầy sung sướng được đứng trên bục giảng, nói với các em về những điều kỳ diệu của trái đất. Từ ngọn núi cao chót vót đến biển cả mênh mông. Thầy hài lòng với đời sống hiện tại.

Còn cô, mơ ước của cô là vùng đất xa xôi bên kia bờ đại dương. Ở đó, những ngôi nhà nhiều tầng cao vòi vọi. Phương tiện phục vụ đời sống hiện đại vô cùng. Vật chất xa hoa là hạnh phúc của vợ thầy. Vì thế, cô đã ra đi cùng với cha mẹ ruột.

Thầy trầm ngâm giây lâu. Chúng tôi cũng lặng im trước nỗi niềm của người thầy đáng kính. Tôi tưởng như mình không dám thở vì sợ nhịp đập trái tim làm cơn đau của thầy thức giấc. Dù vậy, thầy vẫn khổ sở:

- Rốt cuộc, thầy khám phá một điều: Vợ chồng thầy chưa thật sự yêu nhau. Người nào cũng ích kỷ, chỉ biết sống cho riêng mình.

Không nén được, Thương chen vào:

- Nhưng con đường thầy chọn đúng hơn! Em nhớ có người đã viết rằng “Quê hương nếu ta không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”.

Tôi cũng lý sự:

- Thầy mới là người tìm thấy hạnh phúc! Chẳng biết cô tìm thấy gì bên kia bờ đại dương?

- Có lẽ cô rất hạnh phúc vì hiện giờ cô rất giàu và sắp có chồng khác.

Chúng tôi ồ lên kinh ngạc. Tài chém tay vào không khí: “Tệ quá!”

Tôi gầm lên:

- Cô không xứng đáng với tình yêu của thầy. Thầy đừng yêu cô nữa! Không thèm nhớ. Phải trả thù! Cưới vợ khác đi thầy!

Thầy phì cười khi thấy chúng tôi nhảy nhót, la hét rùm trời “Cưới vợ khác! Cưới vợ khác!...” Chờ cho cơn kích động qua đi, thầy ôn tồn bảo chúng tôi:

- Các em à, đâu phải muốn quên là lòng mình không nhớ! Với thầy mọi thứ đâu dễ đổi thay. Biết ai xứng đáng hơn ai? Yêu mà phải trả thù là loại tình yêu thầy không quen biết! Thầy không làm vậy được đâu.

Thương bất bình nói lớn:

- Nếu vậy thói ích kỷ lại thắng lòng vị tha sao thầy? Chẳng lẽ cô lại được sung sướng hơn thầy?

Thầy ngồi thẳng dậy, mắt chợt sáng niềm tin:

- Không! Chưa hẳn là cô thắng thầy! Cô đã không quyến rũ được thầy đi theo khát vọng của cô. Còn thầy, thầy có tất cả những gì thầy muốn. Đó là quê hương và các em. Thầy có đất nước lẫn con người. Có các em, những đứa học trò lúc nào cũng yêu quý thầy, lắng nghe từng lời giảng của thầy. Và rồi các em sẽ trở thành rường cột của đất nước. Thầy hài lòng lắm! Mãn nguyện lắm! Như thế là hạnh phúc. Thầy rất hạnh phúc, các em biết không?

Tôi cũng bỗng thấy hạnh phúc. Hạnh phúc được nhìn thấy thầy thoát khỏi vòng lẩn quẩn khổ đau. Hạnh phúc được biết sự cần thiết của học sinh chúng tôi đối với thầy và mọi người. Hạnh phúc vì biết sắp tới mình phải làm gì để không đi chệch hướng.

Trên đường về, tôi siết chặt tay Hồng Lém:

- Bây giờ, mình thích học môn Địa Lý lắm!

Hồng đưa một ngón tay lên môi làm duyên:

- Nhưng trước tiên bọn mình phải học bài cho thuộc đã!

Hai đứa cười vang. Tôi bảo:

- Như thế chắc thầy hạnh phúc lắm!

Hồng Lém lý sự:

- Tất nhiên! Và, làm cho người khác hạnh phúc thì chính mình sẽ hạnh phúc gấp đôi.

NGUYỄN THỊ MÂY


MỤC LỤC

Vài chi tiết về kỳ họp ngày 09.4.2016… ......................... Vũ Thư Hữu .... 01

Vài chi tiết về một quý thư chưa cổ lắm mà tôi mới có ......... Vũ Anh Tuấn .... 04

Thông điệp Laudato Si’ của ĐGH Phanxicô (tt) .... Lm.Aug. Ng.V.Trinh dịch .... 08

Phát hiện mới về Chú Đại Bi ............................................. Tâm Nguyện .... 15

Lễ tưởng niệm 80 năm ngày mất của học giả Nguyễn Văn Vĩnh

& Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh trao chứng nhận

Danh Nhân Văn Hóa Việt Nam ......... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .... 29

Gặp gỡ quốc tế lần thứ nhất những người dịch Văn Học Việt Nam

ra tiếng nước ngoài – Bài trả lời phỏng vấn của Dịch giả Thúy Toàn ............. 36

Một cõi thiên đường (truyện giả tưởng) .................. Huỳnh Thiên Kim Bội .... 44

Đọc sách “Sầu Riêng” của Huỳnh Thiên Kim Bội .............. Hà Mạnh Đoàn .... 57

70 năm Unesco (1945-2015) .................................... Bùi Đẹp biên soạn .... 61

Điệu hò trong vạn cấy miền Nam ....................................... Nhựt Thanh .... 65

Vua hề Charlot với Giấc mơ Mỹ & bài học cho Du học sinh........ Phạm Vũ .... 72

Cầm nhầm thơ ................................................................ Thiếu Khanh .... 81

Ông thiệt lạ…!! (thơ) ................................................. Lê Thị Ngọc Thủy .... 84

Tôi thích! (thơ) ......................................................... Lê Thị Ngọc Thủy .... 86

Day dứt (thơ) ......................................................... Giáng Ngọc (G.Đ.) .... 87

Sao đổi ngôi (thơ) .......................................................... Tâm Nguyện .... 89

Thơ Tình (thơ) ..................................................................... Xuân Vân .... 90

Tưởng nhớ (thơ) ................................................................ Thùy Hương .... 91

Hương Giang thương nhớ (thơ) ....................................... Vũ Thùy Hương .... 92

Đám cưới bà A hay ông B cưới vợ (thơ) .................................... Bá Mạnh .... 93

Tận thế (thơ) ................................................................ Võ Kim Cương .... 94

Dòng đời dòng sông (thơ) .................................................... Lê Nguyên .... 95

Thu (thơ) .......................................................................... Bs.Doanlinh .... 96

Thơ không đề (thơ) ............................................................ Bs.Doanlinh .... 96

Núi Bà Đen (thơ) .............................................................. Ngàn Phương .... 97

Nhật Lệ (thơ) ................................................................... Ngàn Phương .... 97

Hồ Hoàn Kiếm (thơ) .......................................................... Ngàn Phương .... 98

Phong Nha (thơ) ............................................................. Ngàn Phương .... 98

Việt Nam - Cămpuchia - Sa-ma-ki (thơ) ............................ Lê Minh Chử .... 99

50 câu hát xưa (thơ) ..................................................... Lang Nguyên st. . 100

Sống yêu đời (thơ) ............................................................. Quang Bỉnh .. 102

Quán hè phố (thơ) ............................................................. Quang Bỉnh .. 102

Sao anh chưa về (thơ) ........................................... Phạm Thị Minh-Hưng .. 103

Anh lập tôn giáo (thơ) ..................................................... Bùi Minh Quốc .. 105

I’m fouding a religion (thơ) ......................................... Vũ Anh Tuấn dịch .. 105

Giấc Xuân (thơ) .............................................................. Bùi Minh Quốc .. 105

A springtime sleep (thơ) ............................................. Vũ Anh Tuấn dịch .. 106

Chuyện của Ái ........................................................................ Hoài Ly. .. 107

Tôi khóc vì được cho sách .......................................... Phạm Thế Cường .. 116

Sống trong thế giới của riêng mình ............................. Hoàng Kim Thư st .. 119

Đạp xe trên phố ................................................................. Lam Trần .. 124

Chuyện ở sân quần vợt ..................................................... Dương Lêh .. 127

Vợ tôi viết văn ......................................................... Giáng Ngọc (G.Đ.) .. 141

Sự kỳ diệu của cái mũi .................................................. Đỗ Thiên Thư st .. 147

Lòng vị tha, liều thuốc chữa lành vết thương lòng .. Đào Minh Diệu Xuân st .. 151

Câu chuyện của một đứa trẻ: Thằng Nhóc (tt) ...... Thanh Châu dịch thuật .. 155

Mờ xa bóng chiều ............................................................... Đàm Lan .. 163

Hạnh phúc ..................................................... Nguyễn Thị Mây .. 183

|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
 106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
 111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
 121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
 126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
 136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
 141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
|  101 |
 102 |
 103 |
 104 |
 105 |
|  106 |
 107 |
 108 |
 109 |
 110 |
|  111 |
 112 |
 113 |
 114 |
 115 |
|  116 |
 117 |
 118 |
 119 |
 120 |
|  121 |
 122 |
 123 |
 124 |
 125 |
|  126 |
 127 |
 128 |
 129 |
 130 |
|  131 |
 132 |
 133 |
 134 |
 135 |
|  136 |
 137 |
 138 |
 139 |
 140 |
|  141 |
 142 |
 143 |
 144 |
 145 |
|  146 |
 147 |
 148 |
 149 |
 150 |
 
Netadong.com thiết kế