VÀI CHI TIẾT VỀ KỲ HỌP NGÀY 13/12/2014 CỦA CÂU LẠC BỘ SÁCH XƯA & NAY Trong kỳ họp này CLB có hai khách mời, nên Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã mời hai vị khách nói vài lời tự giới thiệu mình với các thành viên. Sau đó, như thường lệ, Dịch giả Vũ Anh Tuấn đã giới thiệu với các thành viên hai quý thư mới mà ông mới tìm gặp được: Hai cuốn này một cuốn bằng Pháp văn và một cuốn bằng Anh văn. Cuốn bằng Pháp văn khổ 18x27 phân, dày 113 trang và mang tựa đề là: Phụ Nữ Việt Nam Thời Trước Qua Ca Dao (La Femme Vietnamienne d’Autrefois à Travers les Chansons Populaires), của tác giả Nguyễn Hữu Tấn viết bằng Pháp văn và được in như là Một tập Kỷ Yếu của Hội Nghiên Cứu Đông Dương (Bulletin de la Société des Études Indochinoises) vào Đệ nhất tam cá nguyệt năm 1970 (44 năm trước). Tác giả đã sưu tầm tổng cộng 200 câu và bài ca dao về người phụ nữ Việt Nam thời trước và đã dịch tất cả những câu và bài đó ra tiếng Pháp cùng với những lời bình luận cũng bằng tiếng Pháp, một thứ tiếng Pháp trong sáng, chỉnh chu rất đáng khen. Người viết chỉ xin đưa ra vài ba câu để người đọc có một ý niệm về những câu ca dao đó: “Chè la chè lẩy,(*) Con gái bảy nghề: Ngồi lê là một, Dựa cột là hai, Ăn khoai là ba. Ăn quà là bốn, Trốn việc là năm, Hay nằm là sáu, Hay ăn dỗ cháu là bảy”. (*) Hồi còn trẻ người viết đã từng thấy ghi là: Thìa la thìa lẩy. “Chơi cho thủng trống long bồng, Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm. Chơi cho thủng trống long chiêng, Rồi ra ta sẽ lập nghiêm lấy chồng”. * “Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư. Sư về sư ốm tương tư, Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu. Ai làm cho dạ sư sầu, Cho ruột sư héo như bầu đứt dây”. Người viết từ lâu nay vẫn tự hào là mình đọc hơi nhiều, nhưng khi gặp cuốn quý thư này thì mới thấy là có tới những 200 câu và bài ca dao, mà trong số đó người viết thấy mình chỉ biết có lẽ không quá 20 câu và bài. Cho hay, biển học thực vô bến bờ! Người viết tự nhủ sẽ dành cho cuốn sách này ít nhất là 5 giờ đồng hồ để lướt qua tất cả 200 câu ca dao kỳ thú này. Cuốn sách thứ nhì là một cuốn bằng Anh Văn khổ 16x21cm dày 960 trang mang tựa đề là Một Ngàn Lẻ Một Phim Bạn Cần Phải Xem Trước Khi Về Bên Kia (1001 Movies You Must See Before You Die). Đây là một cuốn sách được in năm 2008 mà nhóm tác giả lựa chọn trong hằng hà sa số những phim đang hiện hữu 1001 phim từ khi có Ngành Điện Ảnh mà họ cho là hay nhất. Mỗi phim đều có hình ảnh, truyện phim, tài tử, đạo diễn vv… thật đầy đủ. Người viết gặp được cuốn quý thư tuyệt vời này trong một tiệm sách rất kín đáo trong một chung cư ở đường Phạm Ngọc Thạch và quyết định mua liền không một giây do dự vì giá chỉ có 650 đô mít, quá rẻ so với giá trị cuốn sách! Có cuốn sách trong tay, người viết đã dành cho nó 3 giờ liền đi lướt qua tất cả 1001 phim, và mới thấy rẳng, tuy mình đã xem cả chục ngàn phim trong đời nhưng trong số 1001 phim này thì chỉ biết được tối đa là gần 100 phim, và chỉ thực sự đã xem được độ 50 phim là cùng. Sau phần giới thiệu hai cuốn sách được các thành viên chuyền tay nhau xem một cách thích thú. Sau phần giới thiệu quý thư, nhà thơ nữ Phạm Thị Minh Hưng, một thành viên, đã lên giới thiệu tác phẩm mới của bà là tập thơ Thoáng Hương Xưa vừa được in rất đẹp bởi Nhà Xuất Bản Đồng Nai, và sau khi giới thiệu nhà thơ đã tặng các thành viên hiện diện mỗi người một cuốn với lời đề tặng và chữ ký của tác giả. Tiếp lời nhà thơ nữ Minh Hưng, anh Nhựt Thanh đã có một thuyết trình ngắn về đề tài: “Rước Ông Bà” trong dịp Tết. Sau anh Nhựt Thanh, anh Phạm Vũ đã lên nói về Tự Lực Văn Đoàn và giới thiệu tác phẩm Bướm Trắng. Tiếp lời anh Phạm Vũ, anh Lê Nguyên và người khách mới bạn anh Lê Nguyên là anh Phùng Chí Tâm đã song ca tặng các thành viên, bẳng giọng ca thật hay và điêu luyện, hai bài Cho Em và Bài Ca Thân Ái. Sau đó anh Dương Lêh đã lên nói về việc nhạc sĩ Phạm Duy đem nhạc vào ca dao như thế nào. Tiếp lời anh Dương Lêh, anh Hữu đã lên ngâm tặng các thành viên bài thơ “Trở Về Làng Xưa” bằng giọng ngâm rất truyền cảm của anh. Sau anh Hữu, anh Gia Bảo, một khách mới đã lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ và giới thiệu Hội Lịch Sử Dòng Họ. Cuối cùng anh Lê Nguyên lên ngâm tặng các thành viên một bài thơ nhan đề là “Người Anh Cả” nói về tướng Giáp, và buổi họp kết thúc lúc 11g30 cùng ngày. VŨ THƯ HỮU
VỀ MỘT CUỐN SÁCH MÀ 70 NĂM NAY LÚC NÀO TÔI CŨNG YÊU THÍCH Mấy bữa nay tôi có dành thì giờ dọn, và sắp xếp lại mấy ngàn cuốn sách tôi hiện đang giữ, để rồi trong lúc làm việc này, tôi lại được gặp lại một cuốn sách, mà trong suốt 70 năm nay tôi đã thích và đến nay tôi vẫn thích. Đó là cuốn Truyện Trẻ Con (Contes de Perrault) do cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch và được Thư Xã Đắc Lộ (Editions Alexandre de Rhodes) xuất bản vào năm 1943, khi tôi còn là một cậu bé mới chập chững bước vào đời. Tôi may mắn có cha tôi và chú tôi đều là những nhà trí thức thích sách. Và tuy các cụ không chính thức chơi sách như tôi, nhưng hai cụ cũng có hai tủ sách to đùng ở ngôi nhà số 216 Đường Cát Dài, nơi tôi đã có một tuổi trẻ thật hạnh phúc, từ ngày ra chào đời cho tới năm 1954, khi tôi cùng gia đình lên đường vào Nam. Trước khi nói về cuốn sách xin có vài chi tiết về tác giả Charles Perrault trước. Charles Perrault sinh ngày 12 tháng giêng năm 1628 và là con một luật sư, nhưng ông không theo nghề nghiệp của cha, mà chỉ đi làm thư ký cho người anh cả là một quan chức. Do chỉ làm cho anh nên ông rất nhàn rỗi và dành nhiều thời giờ cho việc viết lách, và trở nên rất nổi tiếng trong một thời gian sau đó, khiến ông để lại tên tuổi hơn người anh cả, và vị luật sư thân phụ của ông rất nhiều, vì vào năm 1671 ông được bầu vào Hàn Lâm Viện Pháp Quốc. Mười sáu năm sau, vào năm 1687, ông đã chủ xướng việc nghiên cứu vấn đề Tân và Cựu và là tác giả bộ sách So sánh Cựu với Tân (Parallèle des anciens et des modernes) viết từ năm 1688 tới năm 1698 và gồm 4 tập. Ngoài ra ông còn là tác giả một bài thơ rất nổi tiếng mà ông đã đọc ở Hàn Lâm Viện Pháp, bài “Thế kỷ Lộ Y Đại đế” (Le Siècle de Louis le Grand), đồng thời vào năm 1694, ông cũng là người viết lời nói đầu cho bộ Bách Khoa tự điển của Hàn Lâm Viện Pháp cực kỳ nổi danh. Tuy nhiên, những thành quả đó vẫn không khiến ông nổi danh bằng những truyện cổ tích của ông (Contes de Perrault). Ở nước ta thì, trừ bản dịch của cụ Vĩnh, chúng ta không biết gì nhiều thêm về những truyện cổ tích này, nhưng ở Pháp thì những truyện cổ tích này được bàn cãi, thảo luận, nghiên cứu trong nhiều hội thảo, được dùng để dạy học vv… Đúng là con người có số, nếu Charles Perrault theo nghiệp cha, thì chỉ là một luật sư ít được ai biết đến, và sẽ chẳng được muôn thuở lưu danh. Cụ Vĩnh đã không dịch một hay mấy truyện đầu bằng thơ mà chỉ dịch 8 truyện bằng văn xuôi là các truyện dưới đây: 1. Hằng Nga ngủ ở trong rừng (La belle au bois dormant) 2. Con bé quàng khăn đỏ (Le petit Chaperon rouge) 3. Con yêu Râu-Xanh (La Barbe-Bleue) 4. Con mèo đi hia (Le chat-botté) 5. Các nàng tiên (Les fées) 6. Lọ Lem (Cendrillon) 7. Hoàng tử có bờm (Riquet à la houppe), và 8. Thằng bé tí hon (le petit Poucet). Các chuyện đều được cụ dịch rất trong sáng, mạch lạc, và rất hấp dẫn vì nguyên bản nó vốn đã li kì hấp dẫn sẵn rồi. Đây là những truyện tuy chỉ đọc có một hai lần 70 chục năm về trước mà nay tôi vẫn còn yêu, còn thích như thường. Cầm cuốn sách trong tay, tôi mơ màng mường tượng lại hình ảnh 70 năm trước tôi nằm dài trên cái ghế đá đặt ở phía trước hòn non bộ to đùng của ông tôi đặt ở ngôi vườn rất đẹp trong cái nhà ở đường Cát Dài… (Trích Hồi ký 60 năm chơi sách, chương VI) VŨ ANH TUẤN
Một thoáng Đạo trời * (Tiếp theo và hết) 8. H. Cấp Địa phương Giáo hội được tổ chức thế nào? T. Mỗi quốc gia có Hội Đồng Giám Mục, gồm các Giám mục của quốc gia ấy, đứng đầu là vị Chủ tịch HĐGM. Quốc gia chia làm nhiều Tổng Giáo phận, đứng đầu là vị Tổng Giám mục, mỗi Giáo phận có một Giám mục Chính tòa và có thể có Giám mục Phó và Phụ tá. Mỗi Giáo phận lại chia thành nhiều Giáo hạt, mỗi Hạt có Linh mục Hạt trưởng đứng đầu. Mỗi Hạt lại gồm nhiều Giáo xứ, mỗi Giáo xứ có Linh mục chánh xứ đứng đầu, có thể có một hay nhiều Linh mục Phụ tá tùy xứ lớn hay nhỏ. Mỗi xứ có Hội đồng Mục vụ cộng tác với cha chánh xứ trong việc điều hành. Mỗi xứ lại có thể có các họ lẻ tùy thuộc Giáo xứ. Người tín hữu đi bất cứ đâu trên thế giới trình giấy Rửa tội đều được địa phương đón nhận và giúp đỡ về mặt tinh thần và có thể cả phương diện vật chất nữa. Điều này cho thấy tính phổ cập của đạo, đúng với danh nghĩa của mình là đạo Công giáo, đạo chung của mọi người, mọi nước, mọi thời. NHẬN ĐỊNH Vấn đề thứ nhất , cũng là điều quan trọng nhất: Tin chắc chắn có Thiên Chúa, có Ông Trời, Ông Trời có mắt. Quan niệm: “Có Chúa hay không có Chúa” là vấn đề đức tin nằm ngoài phạm vi của khoa học, của cảm giác. Đây là một tiền đề (Axiom), thật ra tiền đề “có Chúa” dễ tin hơn tiền đề “không có Chúa”. Nhà Bác học Newton đã làm một mô hình thái dương hệ rất đẹp để trên bàn, một ông bạn vô tín ngưỡng tới khen và hỏi “Ai đã làm ra vậy?”. Newton hóm hỉnh “Tự nhiên mà có đấy thôi!”. Ông bạn không tin, bấy giờ Newton mới trả lời “Thế tại sao cậu lại tin cả vũ trụ kỳ diệu, chuyển động nhịp nhàng này lại không cần Đấng sáng tạo?”. Khi đã có niềm tin cơ bản vào một Đấng Chí Tôn tạo dựng muôn loài thì mọi thắc mắc (về đạo Trời) đều được giải đáp dễ dàng, kể cả các phép lạ của Chúa Giêsu trong Tân Ước (Tiến sĩ vật lý Phan Như Ngọc). “Chính sự hiểu biết về những quy luật tuyệt vời của vũ trụ vĩ đại và kỳ diệu đã đem đến cho tôi niềm tin sâu sắc về sự hiện diện của một Đấng quyền năng tối thượng đã sáng tạo vũ trụ, cái mà con người không thể lãnh hội bằng lý trí của mình, Đấng ấy chính là Đức Chúa Trời của tôi” (Albert Einstein, trong The Universe and Dr. Einstein của Barnett Lincoln, trang 95). Vấn đề thứ hai : Con người có linh hồn thiêng liêng không bao giờ tan biến, chính bởi vì được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa. Linh hồn được ghi nhận qua hai tài năng là lý trí và ý chí hay tự do (loài vật không có). Tuyệt đại đa số trong nhân loại tự cổ chí kim tin con người có linh hồn được gọi bằng nhiều cách: Linh hồn, hương hồn, vong linh, vong hồn, hồn thiêng… Vấn đề thứ ba : Ơn cứu rỗi tức là hạnh phúc vĩnh hằng. Các tôn giáo nói chung chủ trương tự mình tu luyện, làm lành lánh dữ để đạt ơn cứu rỗi. Đạo Công giáo chủ trương vẫn phải tự tu luyện nhưng chỉ sức mình mà thôi thì không thể đạt ơn cứu rỗi, tức là chiếm được hạnh phúc đời đời, mà chủ yếu phải có ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu là Ngôi Thứ Hai Chúa Trời xuống thế chỉ đường, đồng thời chịu nạn chịu chết trên cây Thánh giá, lập công trạng lớn lao vô cùng có thể đền tội thay cho loài người, mở ra nguồn ơn tha thứ, đem lại hạnh phúc đời đời. Chỉ có Thiên Chúa giáo mới có Đấng Cứu Thế chịu nạn chịu chết đền tội thay cho nhân loại, không có vị sáng lập đạo nào đã làm như vậy, các ngài chỉ vạch đường cho người ta tự đi bằng sức lực và đôi chân của mình. Vài trường hợp cụ thể giải thích lý do cần Đấng Cứu Thế: Một anh thanh niên nóng nảy đấm vào mặt bạn mình, tội tương đối lớn. Nhưng cũng cái đấm ấy anh đấm vào mặt bố mẹ anh, tội lớn quá sức rồi. Cũng cái đấm đó anh đấm vào mặt ông vua của thời phong kiến, tội không thể thứ tha, đem đến án tử hình anh và tru di tam tộc hay cửu tộc anh. Tội xúc phạm đến Chúa nặng vô cùng, loài người sức có cùng không thể đền được tội vô cùng. Cách nay mấy năm, một vụ sập hầm mỏ ở Chilê, gần 100 công nhân bị giam trong hầm tối cách mặt đất 700m, đội cứu hộ với những phương tiện hiện đại nhất đã khoan lỗ thông khí, tiếp nước, đồ ăn rồi đào bới mở đường tiếp cận, phải mất gần một tháng mới cứu được các công nhân khỏi chết. Nếu chỉ để họ tự tìm đường đi lên thì chẳng bao giờ và cũng chẳng ai lên được. Ơn cứu độ của loài người cũng phải nhờ Đấng Cứu Thế như vậy. “Thiên Chúa đã định cho Đức Kitô phải đổ máu mình ra làm hy lễ đem lại ơn tha tội cho những ai tin” (Rm 3,25). Vấn đề thứ tư : Ơn cứu rỗi chỉ được bảo đảm qua việc Chúa Giêsu sống lại. Tất cả các bài thuyết pháp của các Tông đồ đều có trọng tâm là Chúa Giêsu đã sống lại: “ Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này ” (Lc 24,46-48). Đây là sự kiện lịch sử, nghĩa là việc ấy đã xảy ra trong thời gian và không gian nhất định. Đây cũng là phép mầu lớn nhất trong Kinh Thánh và là cột trụ của toàn bộ Giáo lý Công giáo. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì tất cả Giáo lý Công giáo sụp đổ: “Nếu Chúa không sống lại thì đức tin của anh chị em là hư không” (1Cr 15,14). Sự kiện người chết tự mình sống lại là điều ngoài sức tưởng tượng của con người, từ xưa tới nay chưa từng xảy ra và từ nay đến tận thế cũng sẽ không xảy ra, vậy mà các Tông đồ, các môn đệ và hơn 500 chứng nhân dám quả quyết Chúa Giêsu đã sống lại, họ còn đem cả mạng sống mình mà bảo đảm tính xác thực thì chỉ có thể xảy ra ở một trong hai trường hợp sau đây: - Một là những người này điên, mất trí hoàn toàn (nhưng nếu có điên thì một hai người thôi chứ lấy đâu ra một lúc cả 500 người điên như vậy – hơn nữa điên thì không thể nhất trí được với nhau). - Hai là quả thật những người này đã qua trải nghiệm: Mắt thấy tai nghe, tay đã chạm tới như trường hợp Thánh Tôma đòi xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào vết đâm cạnh sườn Chúa (Ga 20,25), hay như Thánh Phêrô đã quả quyết: “Chúng tôi đã cùng ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại” (Cv 10,41). Ngày nay liệu có ai đó dám ra công trường đông người mà tuyên bố: “Ông nội tôi đã chết, chôn ba ngày rồi mới sống lại” không? Giả như có người dám làm như vậy thì liệu người ấy có sẵn sàng chịu mất việc việc làm, nhà cửa, phải tù tội, bị tra tấn và chịu chết vì lời tuyên bố ấy chăng? Và liệu người ấy có chinh phục được ai không? Những câu hỏi này buộc chúng ta phải suy nghĩ về lời làm chứng của các Tông đồ và những người tin theo Chúa Giêsu. Lời chứng đó chỉ có thể là sự thật mà thôi. Vấn đề thứ năm : Kiếp sau vĩnh hằng nhưng sẽ như thế nào? Niềm tin có kiếp sau vĩnh hằng là phổ biến, bằng chứng là ở khắp nơi người ta vẫn cúng giỗ, tưởng niệm nguyện cầu cho người đã khuất, nhất là ông bà, cha mẹ, tổ tiên của mỗi người. Nhưng kiếp sau sẽ như thế nào? Chỉ với sự suy luận của chúng ta, chúng ta cũng thấy rằng: - Kiếp sau sẽ là thế giới “phẳng”, không biên giới, không lãnh thổ manh mún, không phân biệt màu da, chủng tộc, địa vị (nếu có phân biệt thì chỉ phân biệt người làm điều lành, kẻ làm điều dữ ở trần gian này). - Kiếp sau sẽ chỉ có một vị Chí Tôn thống lãnh toàn diện, không còn vua chúa nào khác: “Ai tự xưng là vua tức là kẻ thù của vua” (Ga 19,12). Không còn cảnh mỗi giáo chủ làm “vua” một cõi, lại còn một số người không theo giáo chủ nào… Tất cả chỉ còn một mối, chỉ có một vị Chí tôn quyền năng vô đối đã tạo dựng trời đất muôn loài muôn vật, sẽ xét xử, thưởng phạt công minh, mọi người phải quy phục. Vương quốc của Ngài sẽ thiên thu vạn đại, phúc cho ai được vào vương quốc ấy và cũng khốn cho ai bị loại khỏi vương quốc ấy. (Nói về công bằng xã hội, nhiều người bi quan) – “Nhà triết học người Đức, Kant không bi quan như vậy. Theo ông, công bằng nếu là thì tương lai ở thế giới bên này, đương nhiên sẽ là thì hiện tại ở thế giới bên kia. Không một ai có thể thoát khỏi luật nhân quả hiển nhiên này. Điều đó càng chứng tỏ rằng một cuộc sống sẽ được tiếp tục sau khi chết và sự hiện diện của Thượng Đế để giải quyết công bằng. Như vậy có nghĩa là con người không thể tự mình thực hiện công bằng mà phải nhờ vào bàn tay Thượng Đế”. (Hà Thúc Minh – Báo Xưa và Nay số 357, tháng 6/2010, trang 12-14). Thi sĩ Đỗ Tâm Linh có một vấn nạn về kiếp sau: Tiên cảnh ở đâu? Con người sống chết lẽ thường Nào ai biết được Thiên Đường ở đâu? Biết bao người đã nguyện cầu Đến khi chết cũng nằm sâu dưới mồ, Còn linh hồn ở nơi mô? Có ai hiểu được dẫn cho biết cùng. (Tập thơ Tâm Linh, trang 48 Nxb. Thanh Niên – 2010) Lưu ý điều chót : Mọi điều phúc họa ở kiếp sau đều tùy thuộc sự chọn lựa đúng, sai của mỗi người. Kiếp sau không còn có thể đổi thay được nữa, muốn lập công thêm cũng không được, muốn phạm tội ác thêm cũng không được, vì xác hồn đã tạm chia lìa, không còn kết hợp với nhau để cùng hành động nữa. Ngày đó cũng không còn niềm tin và niềm hy vọng nữa vì mọi sự đã rõ như ban ngày. Người ta được thấy nhãn tiền, được biết đích xác, sẽ chỉ còn tình thương, hạnh phúc của kẻ lành và sự ân hận, nỗi đau đớn của kẻ dữ mà thôi. Đó chính là Thiên Đàng và Địa Ngục vậy. KẾT LUẬN Nếu kiếp sau vĩnh hằng, chỉ còn một mối, chỉ còn một vị Chí Tôn chi phối mọi người, mọi sự thì điều quan trọng nhất là ngay khi còn sống, mỗi người hãy chọn tôn thờ đúng vị Chí Tôn đó, và thành tâm giữ đạo của Ngài. Nếu cả đời mình đã tôn thờ một vị thần minh hay giáo chủ nào đó, mà ở kiếp sau vị ấy lại chính là Đấng Chí Tôn thì đời mình thật lên hương, trái lại, nếu vị đó không phải là Đấng Chí Tôn thì kể như đời mình “lúa”! “Xôi cũng hỏng mà bỏng cũng không”, mất “cả chì lẫn chài” (cả xác lẫn hồn, cả đời này lẫn đời sau). Cho đến hơi thở cuối cùng, bạn vẫn còn tự do lựa chọn, tự do thay đổi. Chết là chấm dứt khả năng chọn lựa hoàn toàn và vĩnh viễn. Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
VỀ KINH NGỤY TẠO (Bài trả lời cho TT Thích Nhật Từ và Bà Giáo Sư KYOTO TOKUNO Ph.D. University of Washington). Tình cờ được người bạn gởi cho một email ghi lại bài do TT. THÍCH NHẬT TỪ giảng, và bài viết của Bà Giáo Sư KYOTO TOKUNO, Đại Học Washington, nói về KINH NGỤY TẠO, trong đó có liên quan đến Kinh ĐẠI THỪA. Thiết nghĩ đây là một vấn đề làm nhiều người tu Phật không khỏi hoang mang. Đề tài này ắt cũng gây ra nhiều cuộc tranh cãi, bởi người theo Thừa nào cũng cho bên mình mới đúng, và bài viết này lại do một Giáo Sư Đại Học viết, đưa ra nhiều tựa đề Kinh, có kèm thêm xuất xứ và thời gian mà nó xuất hiện, càng khẳng định đó đúng là Ngụy Tạo. Nhưng thế nào là mới nên gọi là Kinh Ngụy Tạo? Có nên gọi tất cả những Kinh được viết sau thời Phật nhập diệt là Ngụy Tạo cả chăng? Nếu không thì tại sao? Với tư cách của một cư sĩ đã bỏ ra khá nhiều năm nghiên cứu Đạo Phật, tôi cũng có lý lẽ riêng của mình, dựa theo sử liệu của Phật Giáo để phản biện, xin được trả lời cho hai tác giả để rộng đường dư luận. Vì đây là một đề tài rất là quan trọng, người Phật Tử cần biết để tránh bị dắt đi sai lạc mục tiêu. Bởi nếu tin theo bài phân tích, bỏ hết Kinh Đại Thừa không đọc, là một bất lợi lớn, vì đó là những bài giảng dạy, giải thích của những Tổ chính thức được Truyền Y Bát. Còn nếu không may bỏ thì giờ, công sức, hành trì theo những hướng dẫn của Kinh Ngụy Tạo, thì uổng phí công năng. Mở đầu là Bài giảng của TT. Thích Nhật Từ. Theo bài giảng này, thì các Tổ Sư Trung Quốc đã ngụy tạo Kinh Phật. Do đó, Tịnh Độ Trung Quốc rất khác với Tịnh Độ trong kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà thì ghi 5 tiêu chuẩn để được vãng sinh. Trong khi đó, Tổ Sư Trung Quốc dạy rằng chỉ cần TÍN-NGUYỆN-HẠNH và nhất tâm bất loạn để được vãng sinh. TÍN là có niềm tin về Cõi Cực Lạc. Nguyện là có Nguyện được về nước đó. HẠNH là Niệm Phật. Niệm ngày, niệm đêm, niệm cho phát sanh công đức để được vãng sanh. Diễn giả nêu rõ: Niệm Phật chẳng có công đức gì hết, niệm như phương tiện cột tâm, không khởi lên vọng niệm để thiện tâm phát sanh. Nếu chỉ ngồi niệm Phật mà không hành thiện thì chuyện vãng sanh là bất khả thi, là hoang tưởng. Diễn giả cho rằng gần 2.000 năm qua, từ khi phong trào ngụy Kinh bắt đầu, Tịnh Độ Trung Quốc đã đưa chúng ta lạc ra ngoài dòng pháp của Phật, họ nô lệ hóa đời sống tâm linh của chúng ta bằng vào “phép lạ” của việc niệm Phật. Diễn giả cho rằng nhiều Thầy cũng biết chuyện ngụy kinh là có thật, nhưng không dám lên tiếng vì sợ đụng chạm đến sinh hoạt của Chùa. Diễn giả cũng nói rằng Kinh Đại Thừa chỉ xuất hiện sau khi Phật nhập diệt 500 năm, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, không biết do ai kết tập, vào thời kỳ nào? Thông thường, phải có ít nhất 1.000 thánh Tăng trong mỗi kỳ kết tập. Các vị Thánh Tổ cũng không thấy được nêu tên trong việc đưa ra Tông phái Đại Thừa. Việc tạo dựng Đại Thừa rất âm thầm, có lẽ bị nhiều vị Cao Tăng chống đối vì có tính cách làm đảo lộn Giáo Lý Đạo Phật. Đại Thừa đưa ra hình tượng A Di Đà và Quán Thế Âm để thu hút những người mê tín, ham thích lối tu hành không cần gắng sức. Đây là việc làm bất chánh, rao bán hàng giả mà tuyên truyền rằng hàng có chất lượng cao! Diễn giả cho rằng Phật A Di Đà và Quán Thế Âm là do các Tổ Sư Trung Quốc dựng lên nhằm mê hoặc tín đồ để họ chỉ biết quỳ lạy, cầu xin. Ngay cả Đức Thích Ca khi sống cũng không có để lại hình ảnh, mà sau khi Ngài mất 400 năm, các nghệ nhân mới tưởng tượng và tạc ra. Rồi từ mê tín rơi vào cuồng tín. Đạo Phật đang bị hủy diệt bởi những “con trùng trong thân Sư Tử”. Người Phật Tử trở thành nô lệ tâm linh, xiển dương giáo thuyết không phải của Đức Thích Ca. Nếu không ý thức thì vô hình chung chúng ta đóng góp cho sự tàn phá Đạo Phật, bởi nhiều người đã cho rằng 45 năm thuyết pháp của Đức Phật là không cần thiết, chỉ cần Lục Tự niệm Phật là đã có thể giải quyết mọi chuyện, và cảnh báo về việc ngoại đạo đang có ý đồ cải đạo của chúng ta. Qua việc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, diễn giả khuyên mọi người nên nhìn thấy dã tâm của người Trung Quốc, và cho rằng như vậy cũng không nguy hiểm bằng việc khiển sử, lèo lái tâm linh của chúng ta để chúng ta thức tỉnh mà vượt thoát cái thứ giáo lý ma quái do họ sáng tạo để trở về Chân Lý Giải Thoát của Đức Phật. Tiếp theo là bài viết của nữ Giáo Sư TOKUNO, Đại Học Washington nói về Kinh Ngụy Tạo. Theo Giáo Sư, Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ Kinh Ngụy Tạo để gọi văn học Phật Giáo phát triển nhiều ở khu vực Á Châu, giả mạo những văn bản Phật Giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Kinh Ngụy Tạo có đặc điểm chung là loại văn học vốn thuộc tôn giáo bản xứ nhưng lại tự cho mình có nguồn gốc hoặc mối liên hệ với Phật Giáo Ấn Độ. Gs. Tokuno trích ra vài Kinh Ngụy Tạo, đặc biệt là của Phật Giáo Đông Á, mạo nhận chính nó là Giáo Pháp của Đức Phật, tự nhận là Kinh. Đôi khi mạo nhận lời luận giảng về Kinh từ một vị Thầy có tiếng tăm của Phật Giáo Ấn Độ, tức tự mạo nhận là LUẬN. Một số tuyên bố xuất phát từ tuệ giác của các đấng Giác Ngộ ở Ấn Độ hoặc người được truyền thừa Tuệ Giác đó từ một dòng phái chính thức. Vì dụ như các Bộ Tánh Thư Quý Báu (Gterma) của Tây Tạng. Một số Kinh Ngụy Tạo được soạn thảo theo văn phong kinh điển kiểu kể chuyện, như Bộ Tiền Thân Đức Phật (Jakata). Kinh Ngụy Tạo luôn tuyên bố hoặc cố ý ám chỉ rằng nó xuất nguồn từ Ấn Độ. Các Bộ Kinh Trung Quốc hay Tây Tạng luôn để mở hay bỏ ngỏ với mục đích cho phép sự tiếp tục thêm vào dễ dàng các bản Kinh mới từ Ấn Độ qua nhiều thể kỷ, tạo cảm hứng và khích lệ sự sáng tạo ra các bản Kinh gọi là Kinh Ngụy Tạo. Kinh Pali của vùng Nam và Nam Á trái lại đã “cố định” rất sớm trong lịch sử. Điều này khiến khó có thể thêm vào đó những nội dung nào khác. Nữ Gs. cho rằng rất khó khăn khi xác quyết một văn bản về mức độ giả tạo cũng như làm nhái các văn bản Phật Giáo của các tác giả ngụy Kinh, đòi hỏi các chuyên gia thư mục phải có kiến thức rất rộng về Phật học mới có thể truy tìm, đặc biệt khi chúng được tạo ra bởi những người thông hiểu lý thuyết và thực hành trong Phật Giáo, nhất là khi họ còn có thêm kỹ năng văn chương. Khi tranh luận trong việc loại bỏ các yếu tố ngoại lai ra khỏi thánh điển có thể đưa Đạo Phật vướng vào sự chỉ trích của các đối thủ về mặt tôn giáo và tư tuởng Đạo Lão, Đạo Khổng. Có khoảng 450 tựa đề Kinh Ngụy Tạo Trung Quốc liệt kê trong danh Mục Đại Tạng Kinh. Nhưng con số thật sự gần đến 550, lần lượt được tìm thấy trong các văn bản và bản thảo tại Trung Quốc và Nhật Bản, Khoảng chừng 2/3 còn tồn tại đến nay, đã chứng minh cho tính lợi hạnh của kinh Phật ngụy tạo trong bản xứ và cũng chứng minh cho sự kiện người Trung Quốc tiếp tục tin dùng loại văn bản này. Trong đó có cả nhà phân tích thông tuệ như TRÍ DI (538-597), người hệ thống hóa trường phái Thiên Thai của Đạo Phật Trung Quốc. Sự bùng nổ của hiện tượng ngụy Kinh lan rộng tại các vùng khác thuộc Đông Á, nhưng nhiều nhất là tại Trung Quốc. Người ta đã tìm thấy trong kho Đôn Hoàng ở Trung Á vào thế kỷ 20, các bản thảo từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 11. Và tại Nanatsu-dera ở Nagoya Nhật Bản. Năm 1990 phát hiện cho thấy cả ngụy thư của Trung Quốc lẫn Nhật Bản. Điều kinh ngạc nhất là cuốn Kinh PILUO SANMEI JING – the Scripture on the Absorption of Pliuo, một cuốn kinh giả mạo nhưng được chứng thực trong Đại Tạng Kinh soạn bởi nhà sư học giả nổi tiếng ĐẠO AN (312-385), trước đó thì kinh này không ai biết. Bản thảo kinh Phật tại Nhật Bản chỉ là bản sao của Bộ ngụy thư có sớm nhất từ Trung Quốc. Vài kinh ngụy tạo rất khéo léo trong sự tổng hợp tài liệu của Phật Giáo Nguyên Thủy từ Ấn Độ mà không nói gì về nguồn gốc tộc hệ của chúng. Tuy thế, một số kinh ngụy tạo khác tuyên truyền về những loại đức tin và những loại thực hành phổ biến, tiêu biểu cho văn hóa bản địa, đồng thời thêm vào một cách vụng về, cẩu thả những yếu tố Phật Giáo nhắm mục đích giải thích cho cái tựa đề là Kinh. Đa số các Kinh ngụy tạo Trung Quốc rơi vào hai cực đoan khi ca ngợi các đức tin và thực hành Phật Giáo như phương tiện để thu hoạch lợi ích vừa trần gian vừa tâm linh. Sau đây là những phê bình có chọn lọc về những nguyên cớ cho sự xuất hiện của Kinh giả tạo, đồng thời phán ánh cái cách mà Giáo Pháp của Đức Phật đã bị đóng khung và bị suy diễn. Trước hết là hai ví dụ kinh ngụy tạo từ học thuyết ĐẠI THỪA, ủng hộ một lý thuyết hay một cách thực hành không có phiên bản tương ứng trong Phật Giáo Ấn Độ. 1/- KHỞI TÍN LUẬN (Dasheng Qisin lun), tái tạo Phật Giáo chính thống bằng cách tổng hợp ba khuynh hướng chính của học thuyết Ấn Độ: TÁNH KHÔNG (Sunyata), A LẠI DA THỨC (Alayavijnana) và THAI TẠNG GIỚI (Tatha Gatagarbha). Kinh này nhằm đặt ra một Bản Thể Luận cho tâm trí con người. Theo đó, tâm trí có thể đồng thời vừa Vô Minh vừa có Tánh Giác Nội Tại. Sau khi xuất hiện ở thế kỷ thứ 6, Bộ Luận Khởi Tín có lẽ đã trở thành ví dụ nổi bật của sự tác động của kinh ngụy tạo vào sự phát triển của hệ tư tưởng Phật Giáo Trung Quốc, vì nó trở thành chất xúc tác cho sự hình thành các học thuyết của các Giáo Phái bản xứ như Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Thiền Tông TQ. 2/- Trường hợp thứ hai là cuốn Kinh KIM CANG ĐỊNH (Jin’gang samei jing Vajrasamadhi sutra) được tạo bằng sự pha trộn hỗn tạp của tất cả học thuyết Đại Thừa, nhằm cung cấp một nền tảng cho một hệ thống thực hành Thiền và khẳng đinh hiệu quả Giải Thoát của hệ thống đó. Đây là 1 trong những bản Kinh lâu đời nhất của Thiền Tông Trung Quốc và Đại Hàn. Một số kinh ngụy tạo thêm vào nguồn dẫn và sự suy diễn với mục đích tăng cường một giá trị hay quan điểm nào đó của Đạo Phật với môi trường bản xứ. GIỚI LUẬT, nền tảng của Giải Thoát Phật Giáo đã được kinh ngụy tạo thể hiện nổi bật như một chủ đề. Thí dụ như Kinh Phạm Võng. Kinh này thay đổi một phần Giới Luật của Bồ Tát Đạo bằng cách thêm vào khái niệm Hiếu của Đạo Khổng. Có Kinh ngụy tạo đưa ra Giới Luật nhấn mạnh một cách đặt biệt vào giới Cư Sĩ. Các ngụy kinh này dạy hướng dẫn đạo đức cơ bản cho cư sĩ, như Ngũ giới, Thập thiện, sự quan trọng của Cúng Dường. Tất cả được dựng trong học thuyết của Nghiệp và Tái Sanh. Năm Giới của Cư Sĩ được cho là điều kiện đủ để đạt tới Giác Ngộ của Phật, một con đường cực kỳ đơn giản vạch ra để động viên sự tham gia của cộng đồng cư sĩ vào thực hành Đạo Phật. Khái niệm Hiếu thể hiện rất rõ trong ĐẠI BÁO PHỤ MẤU TRỌNG ÂN, đặt căn bản trên giáo huấn cụ thể của người con bất hiếu và thúc đẩy anh ta phải báo đáp cha mẹ, phải hy sinh bằng cách cúng dường Tam Bảo. Loại Kinh này là kinh ngụy tạo phổ biến nhất vào thời Trung cổ. Luật Nghiệp và Tái Sanh được đề cập ở trên là một chủ đề có khắp mọi nơi hay một hậu cảnh của Kinh ngụy tạo, thí dụ Kinh Thập Điện Diêm Vương, minh họa giáo lý Đạo Phật Ấn Độ cho độc giả Trung Quốc bằng mô tả sự thanh tẩy sau khi chết. Kinh Ngụy Tạo là sản phẩm ở những không gian và trong những thời gian đặc biệt, hoặc phê phán tình trạng tôn giáo nào đó, hay phê phán toàn thể xã hội, cả cấp quốc gia mà chính sách của nó thực hiện đối với Đạo Phật. Những phê phán như vậy thường thể hiện trong khái niệm về thuyết Mạt Thế gọi là Thời Mạt Pháp truyền vào từ các nguồn Ấn Độ. Kinh NHÂN VƯƠNG mô tả sự thoái hóa tất cả các tầng lớp xã hội, sư suy đồi, biến dạng Đạo Phật, buông lơi Giới của Phật Tử. Giải pháp được đề xuất cho khủng hoảng này là sự hoàn thiện Tuệ Giác, cái được tin là có thể khôi phục trật tự tôn giáo xã hội, ngay cả bảo vệ được sự diệt vong của đất nước, đặc biệt là trong giới cầm quyền, ít nhất là vì nó khẳng quyết về việc bảo vệ quốc gia. Kinh Tỳ Kheo Nguyệt Quang đưa ra một giài pháp khác cho thời Mạt Pháp: Nó tiên tri một đấng cứu thế xuất hiện vào lúc khủng hoảng và suy đồi đã đến lúc cực điểm. Một thông điệp cứu thế như vậy không thể không có cội nguồn từ Phật Giáo Ấn Độ - giáo phái thờ Phật Di Lặc là một ví dụ. Nhưng sự đề xuất một đấng cứu thế trong thế giới hiện tại có thể dễ bị giải thích cho một sự lật đổ chính trị và là thách thức cho nhà cầm quyền thế tục. Kinh này là một kinh ngụy tạo được tìm thấy tại Đôn Hoàng 1400 năm sau lúc có bằng chứng là nó được sáng tác. Tác giả kết luận là chỉ chạm đến một phần rất nhỏ về chuyện kinh Phật Giáo ngụy tạo, và cho rằng ngay cả khi làm rõ thì Kinh Ngụy Tạo vẫn chiếm một chỗ quan trọng trong lịch sử Phật Giáo như sự đổi mới và thích nghi để nối liền văn bản từ truyền thống Phật Giáo Ấn Độ với tôn giáo, văn hóa xã hội bản địa Trung Quốc, cung cấp tài liệu cho các nhà nghiên cứu đối chiếu với các thánh điển, các kinh trong các truyền thống tôn giáo khác nhau”. Đến đây là hết phần trích bài viết của Gs Tokuno. Đọc bài này, ta thấy nổi bật các điểm sau: Ngoài nói về Kinh Ngụy tạo thì hàm ý chê Kinh Đại Thừa: 1/- Kinh Đại Thừa “xuất hiện sau Phật nhập diệt 500 năm. Không rõ nguồn gốc, xuất xứ, không biết do ai Kết Tập? Vào thời kỳ nào? Vì thông thường phải có ít nhất 1.000 thánh Tăng trong mỗi kỳ Kết tập”. Đại Thừa đưa ra hình ảnh A Di Đà và Quán Thế Âm để thu hút người mê tín ham thích lối tu hành không cần gắng sức. Đây là việc làm bất chính, rao bán hàng giả mà tuyên truyền rằng hàng có chất lượng cao! 2/- Việc tạo dựng Đại Thừa rất âm thầm, có lẽ bị nhiều Cao Tăng chống đối. 3/- Các Tổ Sư Trung Quốc dựng lên Phật A Di Đà Phật và Quán Thế Âm nhằm mê hoặc tín đồ để họ chỉ biết quỳ lạy cầu xin… Người Phật tử trở thành nô lệ tâm linh, xiển dương giáo thuyết không phải của Đức Phật Thích Ca. Nếu không ý thức thì vô hình chung ta đóng góp cho sự tàn phá Đạo Phật, khi cho rằng chỉ cần Lục Tự niệm Phật mà đã có thể giải quyết mọi chuyện. Diễn giả kêu gọi Phật Tử cần thức tỉnh vượt thoát cái thứ giáo lý ma quái do họ sáng tạo để trở về Chân Lý Giải Thoát của Đức Phật. Là một cư sĩ đã có gần 40 năm học hỏi, nghiên cứu Giáo Pháp của Đức Thích Ca qua những Bộ Kinh Đại Thừa, tôi xin được trả lời về những vấn đề được 2 tác giả nêu ra như sau: Về việc tạo dựng Đại Thừa không phải “rất âm thầm có lẽ do nhiều Cao tăng chống đối, một việc làm có tính cách đảo lộn Giáo Lý Phật”. Theo lịch sử Đạo Phật, ĐẠI THỪA, và PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY xuất hiện cùng lúc. Sự phân chia bắt đầu từ kỳ Kết tập lần thứ 2, sau Phật nhập diệt khoảng 100 năm. Do có sự bất đồng quan điểm giữa các vị trong ban lãnh đạo Đạo Phật thời bấy giờ. Từ một khối, họ chia ra làm 2 nhóm. Một Nhóm là các vị Trưởng Lão, gọi là THƯỢNG TỌA BỘ, cũng gọi là TIỂU THỪA. Về sau đổi thành PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY. Nhóm còn lại gọi là ĐẠI CHÚNG BỘ hay ĐẠI THỪA. Nhưng thật ra, tính về nguồn gốc, thì ĐẠI THỪA là nhóm đi theo đường Truyền mà người đứng đầu là Tổ thứ Nhất chính là Đức CA DIẾP, đã được Đức Thích Ca truyền Y BÁT. Tổ thứ Hai là Ngài A Nan. Tổ thứ Ba là Ngài Thương Na Hòa Tu. Tổ thứ Tư là Ngài Ưu Ba Cúc Đa. Tổ cuối cùng là Lục Tổ Huệ Năng của Trung Quốc, là Tổ thứ 33. Tất cả Tổ của ĐẠI THỪA đều được liệt kê trong danh sách, có tất cả là 33 Vị. Như vậy, chính Tiểu Thừa hay Phật Giáo Nguyên Thủy chỉ mới xuất hiện từ kỳ Kết tập Thứ 2, tức là sau khi Phật nhập diệt khoảng 100 năm! Do bất đồng nội bộ. Lý do thì Bên nhóm các Trưởng Lão cho là bên Đại Chúng Bộ, tức ĐẠI THỪA, có nhiều cải cách, không giống như những gì Đức Thích Ca đã thuyết trước kia. Từ đó bên Phật Giáo Nguyên Thủy không hề đá động đến các Tổ trước đó và cả những vị được truyền nối về sau. Trước kia tôi cũng đọc sơ qua và biết có sự phân chia như vậy, rồi không quan tâm đến nữa. Nhưng nhờ bài giảng của TT. Thích Nhật Từ, nêu lên nghi vấn, cho rằng “việc tạo dựng Đại thừa rất âm thầm, có lẽ lúc bấy giờ cũng có nhiều vị Cao tăng chống đối, do có tính cách đảo lộn giáo lý Phật, cho nên chẳng có kết tập, chẳng biết ai là người chủ tọa, chứng minh cho sự ra đời của Đại Thừa” nên tôi mới tò mò mở lại lịch sử của 33 vị Tổ để đối chiếu, thì thấy có điểm đáng lưu ý là: Ngài Thương Na Hòa Tu lúc đó là Tổ thứ Ba. Khi Ngài qua nước Sất Ly, gặp 1 người tên Ưu Ba Cúc Đa mới 17 tuổi xin theo hầu làm thị giả. Qua đối đáp, Tổ Thương Na Hòa Tu nhận ra đây là người có khí lượng Đại Thừa nên nhận, và chỉ 3 năm sau thì Ngài Ưu Ba Cúc Đa đắc pháp và được Truyền Y Bát cho làm Tổ thứ 4. Lúc đó Ngài mới 20 tuổi. Sự việc này trùng khớp với việc tách ra của các Vị Trưởng Lão, vì trong lịch sử Đạo cũng có ghi là khoảng chừng 100 năm sau khi Phật Nhập Diệt. Có lẽ các vị Trưởng Lão thấy rằng Tổ lại đi truyền Y Bát cho một chàng trai trẻ, mới vô tu được có 3 năm, trong khi mình đã tu lâu năm và là bậc Trưởng Lão trong Tăng Chúng, nên bất mãn. (Điều này do suy luận của riêng tôi khi đối chiếu 2 việc trong cùng thời điểm, không có ghi trong lịch sử Đạo Phật. Có thể đúng mà cũng có thể sai). Nhưng nếu sự việc diễn ra đúng như tôi suy diễn, thì theo thường tình ai cũng nghĩ là tu lâu phải cao, phải giỏi hơn người mới vào đạo. Không biết rằng trong Phật Pháp có câu: “Mê nhất kiếp, Ngộ nhất thời”. Mê hay Ngộ là do cái Tâm sáng hay tối, không phải là do tu nhiều năm hay ít năm. Có người tu cả đời mà vẫn không THẤY TÁNH. Về phần Kinh, theo tài liệu ghi lại, thì sau khi Đức Thích Ca nhập Niết Bàn khoảng 4 tháng thì Ngài Ca Diếp sợ rằng nếu không gom lại các Giáo pháp mà Ngài đã thuyết thì e rằng với thời gian các đệ tử sẽ quên, nên lúc đó Ngài quy tụ 500 vị đã đắc Quả A La Hán để cùng nhau Kết Tập. Phần Pháp thì do Ngài Anan - người được cho là có thể kể lại những gì Phật đã thuyết “như nước trong bình rót ra, không thiếu một giọt” - đọc lại. Phần Luật thì do Ngài Ưu Ba Ly, người được gọi là “Đệ Nhất Trì Giới” kể lại. Hội đồng thẩm định là những vị A La Hán, vì các ngài là những đệ tử chính tai đã nghe Phật giảng Pháp, chỉ cần Ngài Anan nhắc lại là các Ngài sẽ nhớ ra và xác nhận. Ngài Ca Diếp là người được Truyền Y Bát đầu tiên làm chủ trì. Nhưng thời điểm đó cuộc Kết Tập chưa ghi chép lại thành văn bản, mà tất cả chỉ ghi nhớ rồi học thuộc lòng, rồi thuật lại cho những ai muốn học hỏi gọi là “Khẩu Truyền”. Theo các nhà nghiên cứu thì ngay cả 4 Bộ Kinh đầu tiên có sớm nhất là 218 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn, lúc đó mới được kết tập bằng chữ viết (theo sử liệu Nam truyền). Như vậy, kể cả 4 Bộ Kinh đầu tiên cũng không xuất hiện thời Phật hiện tiền, mà sau đó ít ra là 218 năm. Trước đó toàn là Khẩu Truyền. Thời điểm xuất hiện của những Bộ Kinh đầu tiên thì các vị Đại Đệ Tử đã Kết Tập thời kỳ đầu đã về Niết Bàn cả rồi. Có lẽ là ít ra phải đến đời đệ tử thứ 3 hay thứ 4, liệu có “tam sao thất bổn”? Tuy vậy, điều đó không quan trọng, vì tuy là Khẩu Truyền, nhưng các Tổ bên ĐẠI THỪA vẫn có người Chứng Đắc để kế tục nhau. Điều mà bên Phật Giáo Nguyên Thủy không hề đề cập đến, nhưng rất là quan trọng cho người học Đạo Phật: Đó là việc TRUYỀN Y BÁT. Trong khi Phật Giáo Nguyên Thủy cố tình bỏ quên, không nói đến, nên con cháu đời sau hoàn toàn không biết đến việc này, thì bên phía Đại Thừa vẫn kế tục nhau cho đến Tổ thứ 33. Cũng do bên phía không có Y Bát cố tình tìm mọi cách để chiếm đoạt. Kể cả sẵn sàng giết người giữ nó. Việc đó kéo dài mãi, mức độ đe dọa ngày càng tăng, đến độ Ngũ Tổ khi truyền cho Lục Tổ thì đặn “Phải dấu đi, không truyền nữa, vì người giữ có thể nguy hiểm đến tính mạng” thì mới ngưng. Đọc Pháp Bảo Đàn Kinh ta thấy Lục Tổ Huệ Năng mấy phen suýt chết. Ngay sau khi được Truyền là Ngũ Tổ phải đưa Ngài ôm Y Bát trốn đi xứ khác. Phải mai danh ẩn tích, trốn lánh, trà trộn trong đám thợ săn đến 15 năm dài. Vậy mà họ cũng chưa từ bỏ ý định. Khi Lục Tổ bắt đầu ra Hoằng Pháp thì họ lại tiếp tục. Hết phóng hỏa đốt Chùa, đến cử người tới trộm pháp. Cho Sư Chí Triệt tới ám sát Ngài, chém đến 3 dao, thấy Lục Tổ không chết mới hoảng sợ buông đao sám hối. Nhiều năm sau đó, Chí Triệt trở lại làm đệ tử của Ngài! Trước thời Ngũ Tổ thì sự tranh chấp không biết xuất phát từ đâu. Nhưng ngay thời Lục Tổ Huệ Năng thì phe tranh dành định chiếm đoạt Y Bát toàn xuất phát từ Chùa Ngọc Tuyền của Sư Thần Tú. Bản thân Sư trước kia là Giáo Thọ trong Chùa của Ngũ Tổ mà không được Truyền Y Bát. Lẽ ra không được quyền giảng pháp những cũng mở ra để giảng dạy. Đệ tử lại tôn Sư lên là Tổ Thứ Sáu, nhưng vì ai cũng biết Lục Tổ Huệ Năng là người chính thức được truyền, nên cố tìm mọi cách chiếm đoạt Y Bát để “hợp thức hóa” cho Thầy mình! Qua đó ta có thể đánh giá mức độ tu hành của họ. Nếu họ dành được Y Bát không hiểu Chánh Pháp sẽ ra sao! Việc Truyền Y Bát mang ý nghĩa như sau: “Người đang Giữ Y Bát, thấy đệ tử hay người nào đó, không cần biết già hay trẻ, tu lâu hay mới, học nhiều hay ít, thuộc dòng dõi sang cả hay hạ tiện, chỉ cần THẤY TÁNH, là ấn chứng cho là đã Chứng Đắc, và trước khi nhập diệt thì trao lại Y BÁT là vật được truyền từ đời Đức Thích Ca - để người giữ nó được trao cho sứ mạng thay mình cầm nắm Tăng Chúng và giữ gìn, phát huy Đạo Pháp - theo như lời Đức Thích Ca đã dặn dò từ lúc trao cho Ngài Ca Diếp. Về Kinh ĐẠI THỪA chỉ xuất hiện 500 năm sau khi Phật nhập diệt, có liên quan đến việc TRUYỀN Y BÁT của Đạo Phật. Từ thời Đức Thích Ca tại thế thì Người Chứng Đắc mới được TRUYỀN Y BÁT. VIỆC Truyền Y Bát có nghĩa là người đang nắm giữ, thấy người sau đã đầy đủ LÝ CŨNG NHƯ HẠNH, nên giao Y bát như vật để làm tin, cho mọi người biết đây là người chính thức thay Phật để cầm nắm Tăng Chúng và phát huy Giáo Pháp. Người Chứng Đắc là Phật đang thời, vì vậy, những gì Vị đó thuyết thì cũng giống như Phật thuyết, không khác. Do vậy, các Ngài có giảng hay viết Kinh thì cũng không có gì phải thắc mắc. Đường tu cũng đâu có khác đường đời. Cũng là lý thuyết, thực hành. Trường đời cũng đâu phải chỉ có lớp Bác Sĩ tốt nghiệp đầu tiên và duy nhất. Mà về sau, tất cả sinh viên trường Y nào sau thời gian học, đủ trình độ, kiến thức chuyên môn, thi đủ điểm, thì đều là Bác Sĩ như nhau. Như vậy, nếu có Bác Sĩ nào mới ra trường mà viết một đề tài nào đó về chuyên môn của mình, chúng ta có thể kết luận là họ không có quyền viết, chỉ có lớp Bs. đầu tiên là được viết chăng? Đạo Phật cũng vậy. Người tu học nếu đã Chứng Đắc thì cũng đạt đến trình độ hiểu biết như các vị đi trước, có toàn quyền diễn đạt lại theo cách của mình. Đó là lý do mà Gs. Tokuno viết: Rất khó khăn khi xác quyết một văn bản về mức độ giả tạo cũng như làm nhái các văn bản Phật Giáo của các tác giả ngụy Kinh, đòi hỏi các chuyên gia thư mục phải có kiến thức rất rộng mới có thể truy tìm, đặc biệt khi chúng được tạo ra bởi những người thông hiểu lý thuyết và thực hành trong Phật Giáo”. Qua đây, ta biết rằng Gs. Tokuno chỉ là một nhà nghiên cứu thuần túy, không phải là một người tu học theo Đạo Phật. Vì nếu có tu học theo Đạo Phật, bà sẽ hiểu rằng Người thông hiểu lý thuyết và thực hành trong Đạo Phật mà có khả năng viết ngụy Kinh có thể là người thật sự chứng đắc, là “Phật đương thời”, có toàn quyền thay Phật để cầm nắm tăng Chúng và phát huy Đạo Pháp. Như vậy, các Ngài hoàn toàn có quyền viết Kinh. Việc có Ngụy Kinh là điều hiển nhiên. Vì ai vào tu một thời gian, thấy chút gì đó cũng muốn viết ra để phổ biến. Cho nên đến nay đã tràn lan. Thật, giả chỉ người nắm vững Giáo Pháp mới phân biệt được. Ngay cả Chính Kinh cũng bị những người “Y KINH GIẢI NGHĨA”, hiểu sai, Hành sai, làm sai lạc ý nghĩa thật sự của Đạo Phật chân chính. Thí dụ như cho rằng Niệm Phật ngày đêm sẽ phát sinh công đức để được vãng sinh. Rồi thay vì dùng “Hương” của những việc làm tốt đẹp dâng cúng lên Chư Phật, tức là Sự Giải Thoát của Tâm Mình, thì đốt Nhang làm bằng bột gỗ, cúng lên tượng đồng. Thay vì dùng những Hạnh mà Phật đã Hành, tượng trưng cho TƯỚNG TỐT, 80 vẻ đẹp của Phật rồi Hành theo đó, gọi là CHẠM, KHẮC TƯỢNG PHẬT CHO MÌNH, thì dùng vàng, đồng, xi măng, thạch, cao, đổ thành Tượng, rồi thắp hương trần tục để thờ cúng. Thay vì thực hành theo lời Kinh dạy, thì mang Kinh ra mà Tụng ngày mấy thời. Biến Đạo Phật thành Tà Đạo mà Kinh Kim Cang của Đại Thừa đã viết: “Nhược dĩ Sắc kiến ngã. Dĩ âm thanh cầu Ngã. Thị nhân hành tà đạo. Bất năng kiến Như Lai”. Do vậy, chúng ta không thể nhìn vào những người hiểu sai, hành sai lời Kinh dạy mà gán cho đó là do các Tổ Đại Thừa, hay Kinh Đại Thừa dạy sai. Chúng ta cần phân biệt cho rõ, không thể gom tất cả những tác phẩm viết sau thời Phật giảng cho đó đều là Kinh ngụy tạo, mà chỉ nên nói về những quyển kinh được viết bởi những người CHƯA THẤY TÁNH, CHƯA CHỨNG ĐẮC. Không thể nói là Ngụy Kinh đối với những quyển Kinh ĐẠI THỪA do các Tổ được TRUYỀN Y BÁT viết, dù các Ngài không nêu rõ danh tánh hay thời điểm viết Kinh, mà dùng văn phong y như những lời ngày xưa Phật đã dùng. Cũng bắt đầu bằng “Ta nghe như vầy…” hay “Chính tôi được nghe” như là do chính Ngài Anan kể lại. Cũng không thể vì qua một vài hành động lỗ mãng của người Trung Quốc mà kết luận rằng Đạo Phật do người Trung Quốc truyền là sai. Vì NĂM VỊ TỔ SAU CÙNG ĐƯỢC TRUYỀN Y BÁT LÀ NGƯỜI TRUNG QUỐC. Vị đầu tiên mà Trung Quốc gọi là SƠ TỔ chính là Ngài ĐẠT MA, là Tổ thứ 27 của Ấn Độ, đã đi thuyền 3 năm mới tới Trung Quốc. Sau khi diện bích 9 năm thì bắt đầu ra thuyết giảng. Chính Ngài đã Truyền Y Bát lại cho Tổ đời thứ nhất của Trung Quốc. Sau đó các Tổ đó lần lượt truyền xuống. Từ 5 vị Tổ của Trung Quốc, Đạo Phật mới lan truyền sang các nước Châu Á như Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bổn mà đa phần kinh điển của nước ta đang dùng đều được dịch từ những Tạng Kinh của Trung Quốc. Tất nhiên, là người sáng suốt, thì bổn phận của người sau chúng ta là cần chọn lọc trong số các sách Giảng, Luận tràn lan đó, quyển nào thật sự là Ngụy Kinh, làm cho người tin theo đó trở thành mê mờ để khuyên Phật Tử đừng tu học theo đó. Như vậy buộc bản thân người chọn lọc cũng phải biết chọn được Ngọc giữa rừng đá cuội! Đọc Kinh ĐẠI THỪA ta thấy trong đó không hề cổ súy cho việc tu hành mà không cần gắng sức. TU NGHĨA Là SỬA. Vì vậy, vấn đề của người TU là phải biết CẦN SỬA Ở ĐÂU? SỬA NHƯ THẾ NÀO? Không phải gắng sức nhiều đã là đúng. Phần những vị Phật, Bồ Tát mà kinh Đại Thừa tả, không phải là để mọi người quỳ lạy, van xin, mà đó là để tả CẢNH GIỚI BẤT NHỊ, tức là CẢNH GIỚI diễn ra TRONG NỘI TÂM CỦA MỖI NGƯỜI, mà Kinh gọi là “PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ”. Do ngày xưa, khi Phật thuyết pháp thì ngôn từ chưa đủ để diễn tả phần VÔ TƯỚNG trong Tâm, nên Ngài phải “Nhân Cách Hóa” những tình trạng diễn ra trong Nội Tâm mà ta thấy: PHẬT, tượng trưng cho những tư tưởng thánh thiện, thanh cao, tốt đẹp. CHÚNG SINH tượng trưng cho những tư tưởng xấu, ác. Vì vậy mà cần có những tư tưởng trung gian để làm công việc giáo hóa cho những tư tưởng còn mê lầm đó bỏ đi những cái xấu. Tư tưởng trung gian đó Kinh gọi là BỒ TÁT. Bồ Tát này có nhiệm vụ lắng nghe những động tịnh của Chúng Sinh để cứu giúp, vì thế nên có tên gọi là QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. Tôi không có nghiên cứu đường lối tu hành của bên Phật Giáo Nguyên Thủy, không biết đường lối tu hành bên đó như thế nào? Kết quả về đâu? Nhưng theo hiểu biết của tôi về bên Đại Thừa, thì cho rằng mọi việc tốt, xấu, lành, dữ đều do Cái Tâm điều động. Cũng một cái TÂM, khi suy nghĩ điều lành, thì đó là TÂM PHẬT. Khi suy nghĩ điều ác thì gọi là TÂM CHÚNG SINH. Tu hành chính là làm công việc Giáo Hóa những tư tưởng xấu trong Tâm, cho tất cả đều hướng Thiện. Muốn vậy, người tu Phật cần phải “NỘI QUANG PHẢN CHIẾU” để thấy chúng sinh trong TÂM mình mà giáo hóa chúng. Việc giáo hóa này cũng gọi là ĐỘ SINH. Độ hết CHÚNG SINH thì sẽ được Giải Thoát hay còn gọi là Thành Phật. Phần còn lại thì đều là Phương Tiện mà Đức Thích Ca dùng để dẫn dắt: Như Tây Phương Cực Lạc. Đông Phương Tịnh Quốc. Tịnh Độ, Niết Bàn vv... Do con người đã quen buông lung, trong một bước không thể nào bỏ ác, hành Thiện, vì thế mà GIỚI, HẠNH được đặt ra để đưa họ vào khuôn phép. Con người quen tiếp xúc với ngoại cảnh qua 6 cửa ngõ: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý mà Phật gọi đó là LỤC CĂN. Lục Căn này mỗi cái đều có sự hiểu biết riêng. Cái Biết của Mắt gọi là NHÃN THỨC. Của TAI gọi là NHĨ THỨC. Của Mũi gọi là TỶ THỨC. Của Lưỡi gọi là THIỆT THỨC. Của THÂN gọi là THÂN THỨC. Của Ý gọi là Ý THỨC. Khi các pháp bên ngoài qua Lục Căn đưa vào thì Đạo Phật gọi là LỤC NHẬP. Tất cả đưa vào thì có bộ phận tiếp nhận, phân tích và xử lý rồi đưa ra phản ứng. Hoặc là Thích, hoặc là Ghét. Tất cả những phản ứng không ngoài 3 món là THAM, SÂN và SI. Bộ phận này Phật gọi đó là cái TÂM. Đại Thừa cho rằng cội nguồn Thiện, Ác, Khổ, Vui đều bắt đầu từ đây, nên phải nhắm vào đó mà TU, mà SỬA. Vì thế, TU theo Đạo Phật của Đại Thừa được gọi là TU TÂM. Ngũ Tổ dạy: “Nếu không Thấy được Bổn thể Tâm thì học pháp vô ích”, “Giải Thoát hay ràng buộc cũng do Tâm”. Vì thế, Giữ Giới cho nhiều, 250 hoặc 350 mà cái Tâm buông lung thì cũng vô ích mà thôi. Theo đó, tất cả Giáo Pháp, tất cả những phương tiện mà Đức Thích Ca đặt ra chỉ nhằm cho con người CẢI ÁC, HÀNH THIỆN để có được cuộc sống an lành, hạnh phúc. SỐNG GIỮA CẢNH ĐỜI ĐẦY PHIỀN NÃO, mà Thoát Phiền Não. Được như Hoa Sen, sống trong bùn mà không vương mùi bùn, mà Đạo Phật dùng làm biểu tượng. Đó là mục đích của Đạo Phật khi đưa ra Giáo Pháp để hướng dẫn cho con người. Phật ngôn có câu: “Như nước biển chỉ có một vị mặn, Giáo Pháp của ta cũng chỉ có một vị Giải Thoát mà thôi”. Vậy thì Giải Thoát khỏi điều gì? Điều gì ràng buộc để phải Giải Thoát? Giải Thoát đó phải tìm ở đâu? Những điều đó đều được giải thích rõ trong Kinh Đại Thừa. Hoàn toàn không có mê tín, không Thần Quyền. Không xem Phật, Bồ Tát như là những vị Thần Linh. Không dạy Thờ Phật. Chỉ dạy Tự Tin, Tự Độ. Tin sâu Nhân Quả. Do đó, chúng ta không thể gom hết những Kinh viết sau thời Phật là Ngụy Kinh. Vì như thế, vô tình chúng ta phủ nhận Di Ngôn của Đức Thích Ca về việc Truyền Y Bát. Phủ nhận luôn Chư Tổ là những vị được Phật Thích Ca dặn dò để nối truyền Pháp môn, đã tiếp tục khai sáng Giáo Pháp của Đạo Phật mà đôi chỗ vì thời xưa chưa đủ ngôn ngữ để diễn tả. Điển hình là Tổ Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng là hai vị giải thích rất rõ về tất cả những gì Phật Tử đã hiểu lầm trong Sáu Cửa vào Động Thiếu Thất và Pháp Bảo Đàn Kinh. Trong Phật Pháp không có ranh giới giữa quốc gia này với quốc gia khác. Giữa người ở trong chùa hay ở ngoài. Giữa Nam hay Nữ, mà chỉ phân ra MÊ và NGỘ. Vì con người thì tri thức, tâm tình không khác gì nhau. Thời nào cũng giống như thời nào. Cũng vẫn là Yêu, Ghét, Giận, Hờn, Tham, Sân, Si. Nhưng buổi đầu khi mới nhóm họp Tăng Chúng thì người tu cần có hình tướng để phân biệt với những người không tu và các nhóm tu theo đường lối khác. Nhưng dần dà, qua các Tổ khai sáng, thì việc tu hành theo Đạo Phật chỉ là để THOÁT KHỔ, THOÁT PHIỀN NÃO. Ngay tên TỲ KHEO mà Phật đặt cho Tu sĩ cũng chỉ có nghĩa là; BỐ MA, PHÁ ÁC, PHÁ PHIỀN NÃO. Như vậy, người làm công việc đó lẽ nào do thiếu đi hình tướng mà không có thành quả giống như người ở trong Chùa, đầy đủ hình tướng? Do vậy mà TU SĨ hay CƯ SĨ thì việc Điều Phục Cái Tâm nào khác gì nhau? Tại sao ta cứ phải vin theo những hình thức ngày xưa để cho rằng nhất định phải là Tu Sĩ, phải Xuất Gia, ở trong Chùa mới tu hành được? Người đời cũng cho là “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Thời gian đã chứng minh có biết bao nhiêu người đầy đủ hình tướng tu hành mà buông lung, phá Giới? Như vậy thì Đại Thừa cho rằng ở đâu? Mặc gì? Làm gì? cũng có thể TU được có gì sai? Đạo Phật là phải cứu độ cho bá tánh, tại sao cho rằng chỉ người Xuất Gia mới được cứu? NGỮ của Xuất Gia là rời nhà, vô Chùa. Nhưng NGHĨA thật sự của XUẤT GIA là RA KHỎI NHÀ LỬA TAM GIỚI. Và Phật đã dạy: Y NGHĨA, BẤT Y NGỮ. Phật Thọ Ký cho tất cả Chúng Sinh, đâu có dành đặc quyền cho giới nào? Hơn nữa, việc tu hành chỉ cần Điều Phục Cái Tâm, thì đâu cần đòi hỏi phải là người độc thân, phải tập trung riêng một nơi nào đó mới tu được. Có vậy Đạo Phật mới “bình đẳng tế độ” được. Trong một khu rừng, có gai gốc, hầm hố, vô số thú dữ, nhưng cũng có hoa đẹp, dược liệu. Không thể vì một lóng bị sâu mà bỏ cả cây mía! Trung Quốc có những kẻ xấu, nhưng cũng có đến NĂM TỔ CHÍNH THỨC của Đạo Phật được chính TỔ ĐẠT MA là Tổ thứ 27 mang Chánh Pháp từ Ấn Độ truyền sang Ấn chứng, lần lượt truyền cho nhau. Cũng có Đức Khổng Tử, Lão Tử mà thuyết của các Ngài được cả thế giới khâm phục. Do vậy, theo tôi, là người muốn tu hành theo Đạo Phật thì nên tìm hiểu cho kỹ, phân biệt chánh, tà, rồi sau đó sẽ chấp nhận theo Thừa nào. Đừng vội như có một số Tỳ Kheo thời Phật giảng, mới vừa nghe Phật thuyết rằng “Thân này là ổ chứa nhóm tội lỗi, không nên chấp vào đó”, đã vội thuê người giết mình! Không nghe tiếp để thấy Phật nói: “Nhưng đó cũng là nơi phát sinh công đức tu hành, thành tựu Phật quả”! Bỏ cái Thân rồi lấy gì tu tập? Theo tôi, nếu thật sự là Phật Giáo Nguyên Thủy, đúng như nghĩa của hai từ Nguyên Thủy, thì lẽ ra các vị không được bỏ qua bất cứ lời dặn dò nào của Đức Thích Ca mới đúng. Vậy thì các vị nghĩ sao về Di Ngôn TRUYỀN Y BÁT của Ngài? Việc đó là sự thật, đã diễn ra, còn ghi lại trong lịch sử Đạo. Việc làm đó để chứng tỏ rằng khi Đức Thích Ca đã đưa ra lý thuyết “Phàm Sở Hữu Tướng Giai Thị Hư vọng” thì đương nhiên Ngài biết rằng Thân Phàm của mình sẽ không tồn tại mãi để giữ gìn Giáo Pháp đã đưa ra, cần có người nắm đầy đủ Lý, Hạnh cũng tròn đầy, để tiếp nối. Và cứ tiếp tục như thế để ngọn ĐUỐC PHÁP mãi soi sáng trong thế giới Vô Minh. Nhưng chính sai lầm của các vị Trưởng Lão ngày trước, tách ra khỏi đường truyền Chánh Pháp do Phật để lại, không chấp nhận dưới quyền của Tổ mới – là người thay mặt cho Phật đương thời - Ngược lại, còn tuyên truyền, chống đối những người chính thức thừa hành lời dặn dò của Phật, để thế hệ con cháu về sau xem đó như là việc làm bất chánh, cho rằng những người Đại Thừa rao bán hàng giả mà tuyên truyền là hàng có chất lượng cao! Nếu nhìn lại diễn tiến của Đạo Phật từ lúc mới thành lập Tăng Đoàn, thì Tổ, là người được trao cho trách nhiệm cầm nắm Tăng Đoàn. Như vậy, nhóm chống đối, tự tách ra, không chấp nhận dưới quyền lãnh đạo của Tổ đã được ủy nhiệm, thì cũng đồng thời chống lại lời dặn dò của Đấng Đạo Sư. Lịch Sử Đạo Phật còn sờ sờ ra đó, không thể chối cãi. Có lẽ những ai còn tự nhận là Đệ Tử của Phật cần xét lại để đừng tiếp tục gieo tiếng oan cho Đại Thừa, bởi vừa bất lợi cho bản thân, vì không được học hỏi Giáo pháp do chính những người thật sự Đắc Pháp truyền lại, vừa là người phản lại Di Ngôn của vị khai sáng Đạo mà mình đang tôn kính, đang theo học, thậm chí đang rao giảng! Phật DI LẶC mà Kinh đề cập chính là sự thành tựu của người đã điều phục xong LỤC TẶC, tức là SÁU TÊN GIẶC NƠI MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN, Ý mà ta thấy Tượng của Ngài có 6 đứa bé leo trèo bu quanh, còn Ngài thì vui cười thoải mái. Đó chỉ là hình ảnh để diễn tả sự an lạc của người đã thành tựu! Cho nên hiểu sai Ý Phật, lời Kinh, đọc mà cứ Y NGỮ, không tìm NGHĨA để Y, thì dù có đọc ngay Chính Kinh cũng biến Chánh Pháp thành Tà Pháp. Người Tu Phật là người xem cuộc thế là giả tạm. Ngay cả cái Thân mà họ còn không cho đó là Thật. Từng sát na họ phải canh chừng, không để cho niệm xấu trồi lên. Họ thấy vạn pháp là Không, thấy cảnh đời, lợi, danh, bon chen là phiền não, thì đâu có mưu đồ để tranh giành với ai, chỉ lo điều phục THÂN, TÂM, lo “Thu thúc Lục Căn” vì cho rằng Phiền Não, Đau Khổ đều xuất phát ở đó. Cho nên suy đoán rằng việc Kinh viết về Đức Di Lặc như một đấng cứu thế trong thế giới hiện tại “có thể bị hiểu lầm thành một sự lật đổ chính trị và là một thách thức cho nhà cầm quyền của chế độ thế tục” quả là một bôi bác cho Kinh Đại Thừa. Một lần nữa, xin nhắc lại: Tất cả Phật, Bồ Tát, Chúng Sinh, kể cả rồng, thuồng luồng, núi Tu Di, gò nỗng, hầm, biển… trong Kinh, đều nói về Cảnh Giới NƠI NỘI TÂM CỦA CON NGƯỜI khi chưa tu hành. Và Cảnh TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC, hay ĐÔNG PHƯƠNG TỊNH QUỐC, là cảnh của một cái TÂM ĐÃ ĐỘ THOÁT HẾT NHỮNG CHÚNG SINH LAO XAO trong đó. PHẬT DI LẶC XUẤT HIỆN là nói về CÕI TÂM ĐÃ ĐIỀU PHỤC XONG, LỤC TẶC đã trở thành SÁU ĐỨA TRẺ CON, VÔ HẠI. Không có một Đức Di Lặc nào sẽ xuất hiện từ trên trời cao hay xuất hiện ra đời như hàng Nhị Thừa vẫn hiểu lầm rồi mong đợi. Bên nào cũng cho mình mới đúng là Chân Truyền, mới dạy đúng Chánh Pháp của Đức Thích Ca. Nhưng phía ĐẠI THỪA thì rõ ràng có Đường Truyền, bắt đầu từ Tổ CA DIẾP, do chính Đức Thích Ca ấn chứng và Truyền Y bát để làm tin, kéo dài cho đến Tổ thứ 33. Còn các vị lãnh đạo tinh thần bên PHẬT Giáo Nguyên Thủy bắt đầu từ đâu? Do ai ấn chứng? Có lẽ cũng còn nhiều điều cần xét lại. Chính kết luận của Gs TOKUNO thêm một lần nữa, chứng tỏ là Gs chỉ là một nhà nghiên cứu thuần túy - dù rất công phu - nhưng chưa từng bước Đạo, nên chưa có cái nhìn của người thật sự hiểu và Hành theo đường lối tu hành theo NHẤT THỪA như Kinh ĐẠI THỪA hướng dẫn. Vì thế, Bà Gs chưa biết thế nào là “Nội Quang phản chiếu” để thấy tất cả những gì Kinh viết, đều mô tả những cảnh trong NỘI TÂM của con người. Cũng may. Nếu luận này được viết ra vào thời các bạo chúa mà họ nghĩ là phải chính xác - bởi do một đại trí thức viết - thì những người theo Đại Thừa tránh sao khỏi tội mưu đồ làm phản, biết đâu không thoát tội tru di tam hay cửu tộc! Như thế, càng chứng tỏ lời Phật dạy: “Y KINH GIẢI NGHĨA TAM THẾ PHẬT OAN” đã gần 3.000 năm vẫn còn nguyên giá trị. Xin hoan hỉ đón nhận ý kiến phản bác để học hỏi thêm. Trân trọng. Tháng 11/2014 TÂM NGUYỆN (Để đọc được bài viết bằng Anh ngữ của tác giả KYOTO KOKUNO và bài dịch ra tiếng Việt, mời quý độc giả ghé trang mạng THƯ VIỆN HOA SEN.
Phụ Bản I TỪ LÁY VÀ NHÂN VẬT Phạm Đan Quế (Tiếp theo) 4. Một vài văn cảnh khác. a. Ngoài ra, khi Kiều xăm xăm băng lối sang nhà Kim Trọng thì: 0435. Sinh vừa tựa án thiu thiu, Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê. 0439. Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần, Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. Khi Kim – Kiều thề nguyền là gạn hỏi cho cùng thì tóc tơ căn vặn, nói cặn kẽ xoắn vó với nhau (Từ điển Truyện Kiều): 0451. Tóc tơ căn vặn tấc lòng, Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. b. Còn tiếng đàn của Kiều cũng làm chàng thờ thẫn như chỉ chú ý vào một việc nghe đàn mà không để ý đến cái gì khác nữa: 0485. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ, Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu. Nhưng rồi sau khi nghe đàn, Kim Trọng đã “đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu” nên: 0499. Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Ba từ láy được sử dụng trong hai dòng thơ cho thấy cái lòng muốn yêu của Kim Trọng đã nổi lên như sóng dào dạt ở trong lòng, làm cho cái đạo tâm (cái tâm đạo lý) của chàng muốn không đứng vững được nữa, có thể làm cho Kim Trọng không giữ được vẻ đứng đắn với Kiều nữa. c. Để tải Đạm Tiên xuất hiện trong giấc mơ của Thúy Kiều, Nguyễn Du viết: 0187. Thoắt đâu thấy một tiểu kiều, Có chiều phong vận, có chiều thanh tân. 0189. Sương in mặt, tuyết pha thân, Sen vàng lãng đãng như gần như xa. Từ láy “lãng đãng” hay ở chỗ đã gợi lên được cái bước chân vừa thực vừa hư của bóng ma Đạm Tiên. Bản Đào Duy Anh chép “Sen vàng lững thững như gần như xa”. Từ láy lững thững gợi tả dáng đi thong thả, chậm chạp từng bước một, một dáng đi rất cụ thể. Xét trong tương quan với hình tượng Đạm Tiên, rõ ràng từ láy “lững thững” không đem lại được giá trị thẩm mỹ của câu thơ. Còn lãng đãng là trạng thái di động chậm chạp, nhẹ nhàng, khi ẩn khi hiện, khi xa khi gần, mờ mờ ảo ảo (Từ điển tiếng Việt) rất phù hợp với bóng ma Đạm Tiên. Cho nên ta có thể nói việc lựa chọn từ của nhà thơ bao giờ cũng chịu sự chi phối trực tiếp của hình tượng là như vậy. Trong Từ điển Truyện Kiều chỉ có một từ lãng đãng và giải thích là lờ mờ, chập chờn trong câu: 1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng, Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi. Lãng đãng là ở trạng thái di động chậm chạp nhẹ nhàng khi ẩn khi hiện khi gần khi xa, khi mờ khi ảo (Từ điển tiếng Việt) đều đúng với cả hai trường hợp trên, nói về bước chân của Đạm Tiên cũng như bóng chiều phía trời tây. d. Ta hãy xem hành động của Tú Bà được Nguyễn Du dùng từ láy để mô tả ra sao. Kiều vừa đến Lâm Tri đã thấy mụ Tú “ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao” tỏ ra xuồng xã hỏi chào: 0925. Trước xe lơi lả han chào, Vâng lời, nàng mới bước vào tận nơi. Mụ đã nổi cơn tam bành đánh chửi Kiều đến nỗi nàng phải tự tử thì mụ run lên vì sợ mất vốn đến nỗi hai hàm răng va vào nhau cầm cập: 0989. Nàng thì bằn bặt giấc tiên, Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay. Mụ phải tìm cách mơn trớn vuốt ve nàng để lựa lời khuyên giải: 1003. Tú Bà chực sẵn bên màn, Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần. Nhưng khi Kiều đã chạy trốn theo Sở Khanh và bị bắt lại thì: 1133. Tú Bà tốc thẳng đến nơi, Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà. 1135. Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra, Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời. Ba từ láy liên tiếp hăm hăm, hung hăng, tơi bời cho thấy rõ hành động tàn bạo, dữ tợn của mụ Tú ghê gớm đến thế nào. Nhưng khi Kiều đã chịu phép của mụ đồng ý tiếp khách thì thái độ của mụ khác hẳn, 4 từ láy gạn gùng, nồng nàn, thong dong, dặn dò cho thấy cái vẻ khoan thai, dịu dàng của mụ: 1153. Mụ càng kể nhặt kể khoan, Gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha. 1199. Vừa tuần nguyệt sáng gương trong, Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò. e. Trong quan hệ với Thúy Kiều, Thúc Sinh dần dần, từ xa đến gần, từ việc này sang việc khác tạo ra một quan hệ tiếp xúc gần gũi nên Nguyễn Du viết: 1289. Sớm đào tối mận lân la, Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng. Rồi bị lôi cuốn tập trung vào vui chơi không dứt ra được: 1299. Miệt mài trong cuộc truy hoan, Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình. Nếu Kim Kiều thề nguyền là Tóc tơ căn vặn tấc lòng thì với chàng Thúc lại là: 1367. Cùng nhau căn vặn đến điều, Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời. Rồi tỉ tê chuyện tâm tình suốt đêm cho gần tới sáng: 1369. Nỉ non đêm ngắn tình dài, Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương. Trước phủ đường, Thúy Kiều bị đánh đập tàn nhẫn nên: 1431. Nghĩ tình chàng Thúc mà thương, Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa. Với tiếng khóc nhỏ kéo dài, chàng có vẻ ngậm ngùi như cố giấu, cố nén nỗi đau lòng để trình bày với quan phủ về quan hệ của mình với Thúy Kiều: 1439. Sụt sùi, chàng mới thưa ngay, Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân. Được Kiều khuyên nhủ động viên, Thúc Sinh về Vô Tích muốn thú thật với Hoạn Thư mà trước hết là dần tìm cách từng bước từ xa đến gần, xem ý vợ cả ra sao: 1573. Chàng về xem ý tứ nhà, Sự mình cũng rắp lân la giãi bày. Nhưng rồi chàng nghĩ Hoạn Thư đã bất động mảy may, nói ra càng lôi thôi nên sau này biết thì đã muộn: 1579. Những là e ấp dùng dằng, Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi. Có thể nói những từ láy Nguyễn Du dùng để miêu tả hành động nhân vật đều biểu thị đúng những điều muốn nói. Tuy Nguyễn Du chấp nhận lối kể khái quát nhưng đã biết đi đến tận cùng những đặc điểm, tính chất sự vật nên dễ gây được ấn tượng nơi người đọc và lớp từ láy dùng như trên đây đã giúp ông thực hiện tốt được ý đồ nghệ thuật của mình. IV. TỪ LÁY VỚI NỘI TÂM NHÂN VẬT 1. Là một phương diện đời sống quan trọng của con người, nội tâm là cuộc sống bên trong bao gồm các trạng thái tình cảm, các cảm giác và xúc cảm. Khi xây dựng hình tượng nhân vật, nhà văn không thể bỏ qua việc khám phá và thể hiện phương diện đời sống quan trọng này, nhưng do những quan niệm mỹ học khác nhau của thời đại mình, từng nhà văn sẽ có sự chú ý khác nhau… Phần lớn các truyện Nôm cũng như văn xuôi thời Trung đại do chú trọng đến hành động, các tình tiết éo le nên dường như bỏ qua việc miêu tả đời sống nội tâm nhân vật. Trái lại, Nguyễn Du với Truyện Kiều bất hủ đã biết tận dụng sức mạnh của thơ lục bát, vốn là một thể thơ giàu chất trữ tình, đi sâu khám phá chiếm lĩnh đời sống bên trong các nhân vật và thể hiện nó bằng nhiều hình thái ngôn ngữ khác nhau: ngôn ngữ nhân vật, tả tình, tả cảnh ngụ tình. Vì vậy người Việt Nam yêu thích Truyện Kiều vì đã nói lên được những buồn vui đời mình qua những dòng thơ trữ tình giàu âm điệu với những từ ngữ chính xác và trong sáng… Khi đi vào miêu tả nội tâm nhân vật, từ láy tỏ ra có một ưu thế rõ rệt, thể hiện trước hết vì trong ngôn ngữ độc đáo của mình, người Việt Nam có một lượng từ láy rất phong phú, và theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì tiếng Việt là một trong những ngôn ngữ có lượng từ láy phong phú nhất. Những từ này bao gồm đủ các lĩnh vực như: các từ chỉ tâm trạng (như chán chường, dùng dằng, rụt rè, ngao ngán, ngơ ngẩn, ngổn ngang, bâng khuâng, lâng lâng, bồi hồi…), các từ chỉ mức độ tình cảm (như khăng khít, tán hoán, tê mê, lai láng, canh cánh…), các từ chỉ thái độ (như hằm hằm, hung hăng, ngại ngùng, sượng sùng…) và một số từ khác (thẫn thờ, ngậm ngùi, ngơ ngẩn, rụng rời…). Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng tới khá nhiều từ láy loại này đã nói lên được phần nào ý thức của nhà thơ trong việc sử dụng chúng vào tả tình như thế nào. 2. Tuy đã sử dụng một lượng lớn từ láy vào việc tả tình, Nguyễn Du lại biết vận dụng nhiều cách để từ láy xuất hiện khá linh hoạt, khi trong ngôn ngữ tác giả, khi trong ngôn ngữ nhân vật. Đặc biệt với việc miêu tả nội tâm Thúy Kiều, rồi đến Kim Trọng và một số nhân vật khác, các từ láy dù không vẽ ra được, không làm hiện lên được một cách cụ thể các trạng thái tình cảm của nhân vật nhưng nó có thể giúp cho ta cảm nhận được thực thể trừu tượng đó. Đó chính là một ưu thế của từ láy mà các lớp từ khác không có được. Ta hãy xét đến các từ láy trong việc thể hiện nội tâm Kim Trọng trong mối tình đầu với Thúy Kiều. Ngay trong buổi tương kiến đầu tiên, Kim đã thấy “Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai”, để rồi sau đó cả chàng và nàng đều ở trong trạng thái như thức như tỉnh, nửa ngủ nửa mê: 0165. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê, Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. Từ hội Đạp Thanh trở về là hình ảnh nàng lúc nào cũng ở bên lòng không để cho yên: 0245. Chàng Kim từ lại thư song, Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây. 0247. Sầu đong càng lắc càng đầy, Ba thu dọn lại một ngày dài ghê. Từ láy canh cánh có một nội hàm rất đáng chú ý. Từ điển Truyện Kiều giải thích đây là từ chỉ tình hình mang luôn (mối thương nhớ) ở trong lòng, không bao giờ khuây. Từ điển tiếng Việt giải thích tương tự là (điều lo nghĩ) lúc nào cũng ở bên lòng không để cho yên. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện khi nêu một số suy nghĩ về nghệ thuật dịch Truyện Kiều đã tâm sự: “Khi một người tình cảm thấy bâng khuâng là lúc anh ta cảm thấy như loãng ra trong sự vật; còn khi hình ảnh người yêu ám ảnh anh ta, và khi mỗi nhịp đập của con tim lại gợi nhớ đến nàng, nhà thơ lại dùng từ canh cánh và người dịch đành phải dùng cả một đoạn văn rườm rà”. Cụ thể là ông phải dịch 4 câu thơ trên thành: Derrière sa fenêtre, parmi ses livres, le souvenir Obsédait le jeune Kim; plus il jaugeait sa tristesse Plus elle débordait. Les jours d’attente s’étiraient En de longs et interminables automnes... Rồi chàng Kim luôn luôn nghĩ đến Kiều, liên miên không dứt, người thiếu nữ mà chàng nhớ mong ước muốn đến nỗi trong lòng buồn rầu chán nản, không còn thấy thích thú gì nữa: 0251. Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, Mặt tơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng. Đến gió thổi vào làm bức mành lay động cũng có tiếng phất phất như đánh đàn để mùi hương đáng lẽ làm cho khuây lòng, lại chỉ gây thêm niềm nhớ đến mùi hương của Kiều và nước trà lẽ ra làm cho êm giọng lại cho thấy thiếu ý vị tình tứ, uống trà mà chẳng thấy có ý vị gì: 0255. Mành Tương phân phất gió đàn, Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình. Để đến nỗi chàng có những cảm xúc luyến tiếc nhớ thương xen lẫn gây ra trạng thái trong lòng nghĩ ngợi thương nhớ ngẩn ngơ phải tìm đến nơi đã được gặp Kiều: 0259. Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người, Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi. Không gặp được nàng, đến nhà Kiều lại là cảnh kín cổng cao tường, chàng còn đang mải nghĩ ngợi chưa biết nên làm gì, thẫn thờ vì thương nhớ thì lại thấy được một ngôi nhà bỏ trống mà vội tìm cách đến thuê: 0273. Tần ngần đứng suốt giờ lâu, Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà Từ láy tần ngần diễn tả vẻ người thẫn thờ vì đang mải nghĩ ngợi chưa biết nên làm gì hoặc quyết định ra sao, đúng với tâm lý của chàng. Chính tại ngôi nhà này, gần hai tháng sau, Kim Trọng đã nhặt được cành thoa mà chàng cứ ngắm đi ngắm lại một cách chăm chú, kỹ càng đầy thích thú thì mùi hương trầm mà nàng xức vẫn nhẹ nhàng lan tỏa chỉ đủ để chàng cảm nhận chưa phai nhạt để ngay sáng hôm sau đã phải tìm tòi ngẩn ngơ: 0299. Liền tay ngắm nghía biếng nằm, Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai. 0301. Tan sương đã thấy bóng người, Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ. Rồi sau đó khi đã vượt qua tường được gặp Kiều, là những từ láy mang nội tâm của cả hai người: 0319. Thang mây dón bước ngọn tường. Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe. 0321. Sượng sùng giữ ý rụt rè, Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu. Quả là từ đấy mối tình như thấm sâu vào tư tưởng tình cảm đến nỗi tâm trí như đang để ở đâu đâu, chàng như không còn để ý gì đến xung quanh: 0363. Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ. Nhân ngày sinh nhật ngoại gia, Kiều đã sang nhà Kim Trọng, đề thơ trên bức tranh Tùng rồi tâm sự và trong lòng họ cảm thấy hả hê, vui tươi đầy sức sống như say trong men rượu: 0423. Đủ điều trung khúc ân cần, Lòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng. Khi Kiều sang nhà Kim Trọng lần thứ hai thì chàng vẫn đang còn đang trong trạng thái như luyến tiếc nhớ thương xen lẫn như ngơ như ngẩn, chập chờn nửa tỉnh nửa mơ: 0439. Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần, Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. Họ đã cùng nhau thề thốt dưới vầng trăng vằng vặc, rồi Kiều đàn cho chàng nghe và Kim Trọng đã: 0499. Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Khi Kim Trọng phải về Liêu Dương thì tâm sự của chàng được diễn tả bằng từ láy đinh ninh nói đi nói lại nhiều lần, nói tỉ mỉ, cặn kẽ, từ đầu đến cuối: 0537. Gót đầu mọi nỗi đinh ninh, Nỗi nhà tang tóc, nỗi mình xa xôi. Và đến khi phải chia tay lại là những từ láy dùng dằng, ngại ngùng tả nội tâm không muốn xa nhau của Kim Trọng và Thúy Kiều: 0559. Dùng dằng chưa nỡ dời tay, Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà. 0561. Ngại ngùng một bước một xa. Một lời trân trọng, châu sa mấy hàng. Để dẫn đến cảnh: 0563. Buộc yên quẩy gánh vội vàng, Mối sầu sẻ nửa, bước đường chia hai. 3. Nội tâm con người là một lĩnh vực khó nắm bắt và khó cụ thể hóa. Các trạng thái tình cảm của con người lại vốn rất tinh tế và đa dạng nên cảm nhận được là điều rất khó. Và con người đã sáng tạo ra một hệ thống từ ngữ chỉ trạng thái tâm lý, mà từ láy chiếm số lượng tương đối lớn. Nên khi phải phân loại những từ này cũng rất khó khăn. Ở đây chúng tôi sẽ vận dụng để xem xét vai trò của từ láy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật Truyện Kiều như thế nào. Ngày nào Kiều còn “nhỏ nước mắt” khóc nàng Đạm Tiên với hàng loạt từ láy lâm ly và biết bao đau xót (những đau đớn, phũ phàng, mòn mỏi, phôi pha…) thì nay chính nàng cũng không thoát khỏi bàn tay của số phận. Ta hãy xem Nguyễn Du đã sử dụng từ láy như thế nào để miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu xanh Lâm Tri. Bị ném vào lầu xanh trong cuộc sống “sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh”, Kiều càng thêm xót xa và đoạn ngôn ngữ tác giả sau đây cũng là lời nàng băn khoăn tự hỏi: 1219. Những nghe nói đã thẹn thùng, Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe. Rồi đến những đoạn sau với hàng loạt từ láy tả tâm sự của nàng: 1233. Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa. 1235. Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. 1237. Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân! Tác giả đã sử dụng 4 từ láy trong 6 câu với 3 thành ngữ, đoạn thơ thể hiện tâm trạng đau đớn của Kiều khi lâm vào cuộc sống nhục nhã chốn lầu xanh. Với cấu trúc tan tác như hoa giữa đường vốn là cấu trúc quen thuộc của ca dao, với thành ngữ phong gấm rủ là, dày dạn gió sương và bướm chán ong chường, đoạn thơ thêm đậm đà chất dân gian. Và sau đó lại một đoạn với 7 từ láy trong 8 câu: 1247. Vui là vui gượng kẻo là, Ai tri âm đó mặn mà với ai. 1249. Thờ ơ gió trúc mưa mai, Ngẩn ngơ trăm nỗi dùi mài một thân. 1251. Ô m lòng đòi đoạn xa gần, Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau… 1267. Song sa vò võ phương trời, Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng. 1269. Lần lần thỏ bạc ác vàng, Xót người trong Hội đoạn trường đòi cơn. Nhìn chung khi đề cập đến nội tâm nhân vật, Nguyễn Du hay dùng từ láy và thành ngữ. Tác dụng của từ láy và thành ngữ ở đây đã góp phần tạo âm điệu, ngữ điệu cho đoạn thơ. Ở nhiều chỗ, ta cũng không thể xác định được đây là những ý nghĩ của Kiều hay là của người kể chuyện và đó cũng là một đặc điểm của ngòi bút Nguyễn Du. (Còn tiếp) Phạm Đan Quế - phamdanque@yahoo.com (Trong THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRUYỆN KIỀU Nhà xuất bản Thanh Niên – 2013)
LƯỠI DAO CẠO VLADIMIR NABOKÔV * (1899-1997) Không phải ngẫu nhiên mà trong trung đoàn người ta gọi hắn là: Lưỡi dao cạo. Ở con người này bộ mặt thiếu hẳn hình chính diện. Khi những người quen biết nghĩ đến hắn, thì chỉ có thể hình dung ra cho mình hình nhìn nghiêng của hắn – và cái hình nhìn nghiêng đó thật đặc sắc; cái mũi sắc cạnh, như cái góc của một hình tam giác, cái cằm chắc nịch, như cái cùi tay, hàng lông mi dài mềm và độc ác. Tên hắn là Ivanôv. Trong cái biệt danh mà người ta đã đặt cho hắn, có một dấu hiệu báo trước chuyện lạ lùng về sau. Rất hiếm có người mang họ Stein lại trở thành nhà khoáng học xuất sắc. Và đại úy Ivanôv, sau cuộc tháo chạy lịch sử và vô số những khốn khổ vô vị đã lưu lạc tới Berlin, ở đây hắn đã làm chính cái công việc mà biệt danh trước đây của hắn đã ám chỉ - đó là nghề thợ cạo. Hắn vào làm ở một cửa hiệu cắt tóc không lớn lắm, nhưng sạch sẽ, nơi ngoài hắn còn có hai phó cạo khác cũng làm việc cắt tóc và cạo mặt, hai người này khá là vui vẻ kính trọng “viên đại úy Nga” và còn chính ông chủ - một gã béo phị, rầu rĩ, với cái máy tính tiền có cái tay quay bằng bạc kêu ầm ầm, và còn nữa là cô thợ sửa móng tay nước da thiếu máu, trông bóng láng, và có cảm giác, đã bị khô rộc vì phải động chạm liên miên với muôn vàn những ngón tay mà người ta đặt nằm xòe trên cái gối con bọc gấm trước mặt cô ta. Ivanôv làm việc rất thuần thục, nhưng cũng xẩy ra đôi chuyện lỡ dở bởi hắn nói tiếng Đức còn tồi. Phải nói là, hắn cũng nhanh chóng hiểu ra phải xử sự ra sao, cụ thể là: sau một câu nói phải đặt từ hỏi “nhikht”, còn sau câu nói tiếp theo là từ hỏi “nax?”, và sau đó lại là từ “nhikht”. Và cứ tiếp tục như thế mãi. Và một điều thật tuyệt vời là, mặc dù hắn mới chỉ học được nghề cắt tóc Nga, những người mà, như ai cũng biết, luôn tay bật kéo đánh lách tách một cách không cần thiết, lách tách, lách tách, chăm chăm nhìn, chộp lấy một cụm tóc này, rồi cụm thứ hai và lại thoăn thoắt, dường như theo một quán tính, tiếp tục bật lưỡi kéo trong không trung. Các đồng nghiệp của hắn kính trọng hắn chính bởi cái âm thanh đỏm dáng đó. Kéo và dao cạo chính là những võ khí lạnh, và vì thế âm thanh thép thường xuyên ấy có gì đó làm cho tâm hồn nhà binh của Ivanôv lấy làm thích thú. Hắn là một kẻ thù dai và không ngu ngốc. Quê hương rộng lớn, cao cả, tuyệt vời của hắn đã bị một tên hề ảo não vì một thứ hào nhoáng đã dìm chết mất – điều đó hắn không thể tha thứ. Trong tâm hồn hắn mối hận trả thù được dồn nén như một chiếc lò xo ép chặt, cho đến một lúc nào đó. Một lần vào buổi sang hè nóng bức, oi ả, cả hai đồng nghiệp của Ivanôv, lợi dụng cái chuyện là vào thời điểm này hầu như không có khách, đã chuồn đi đâu đó một lúc, còn chính gã chủ cửa hiệu, thì bải hoải vì nóng bức và niềm mong muốn chín rục từ lâu, lặng lẽ đưa cô thợ sửa móng tay da trắng bợt, ngoan ngoãn ưng thuận mọi chuyện đi vào buồng ở phía sau, Ivanôv, còn lại một mình trong cửa hiệu cắt tóc sáng sủa, ngó qua tờ báo rồi sau đó, lấy thuốc ra hút, toàn thân trong tấm áo choàng trắng, lững thững đi ra ngưỡng cửa đứng nhìn người qua lại. Ngang trên hè thấp thoáng người qua lại với sự hộ tống của những cái bóng xanh lơ của mình, những cái bóng gây ra ở rìa mặt đường và trườn trườn đi một cách không biết sợ dưới vệt lăn loang loáng của bánh những chiếc ô tô, để lại trên mặt đường nhựa nóng những vệt loằn ngoằn như nốt rắn loang lổ. Và đột nhiên từ vỉa hè một đức ông chắc nịch, vóc dáng thấp bé, mặc bộ complet đen, đội mũ quả dưa, ôm khư khư cái cặp dưới nách, rẽ ngang đi thẳng vào chỗ Ivanôv một màu trắng – Ivanôv chớp mắt vì ánh nắng, tránh sang một bên nhường lối cho ông ta đi vào cửa hiệu cắt tóc. Khi đó người vừa vào lập tức hiện ra ở trong tất cả mọi tấm gương treo nơi cửa hiệu – hình trông nghiêng, xoay người, sau đó là chiếc mũ quả dưa được nhấc lên để treo lên cái móc, để lộ ra cái đầu hói với làn da bóng như sáp và khi đức ông quay mặt về phía các tấm gương sáng trên những cái bệ để đầy chai ve thủy tinh mầu vàng mầu xanh, Ivanôv lập tức nhận ra bộ mặt lầm lì, phì phị với cặp mắt nhỏ sắc lạnh và một nốt mụn cơm to sù sụ bên cánh mũi phải. Đức ông lặng lẽ ngồi xuống trước gương và làu bàu điều gì đó, đưa ngón tay chuối mắn lập bập bên má lởm chởm có nghĩa là: cạo mặt. Ivanôv trong trạng thái lơ mơ như đi trong đám sương mù bởi sự kinh ngạc, phủ tấm khăn vải trắng lên người ông ta, đánh bọt xà phòng âm ấm trong cái cốc sứ, với lấy cái chổi lông nhỏ bé bắt đầu bôi bọt xà phòng lên hai má, cái cằm tròn trịa, lên hàng mép, thận trọng tránh cái nốt mụn cơm, đưa ngón tay trỏ lau bọt xà phòng, mọi việc đó hắn làm như một cái máy, bởi vì hắn quá đỗi ngạc nhiên về việc gặp lại con người này. Giờ đây bộ mặt của đức ông ẩn sau cái mặt nạ xà phòng trắng xóa, chừa có đôi mắt, mà đôi mắt ông ta thì nhỏ như những cái bánh xe lấp loáng của cỗ máy đồng hồ. Ivanôv mở lưỡi dao cạo ra và khi đưa dao liếc vào tấm dây da, đột nhiên hắn không còn cảm giác ngạc nhiên nữa mà thấy ra là số phận con người này đang nằm trong tay hắn. Thế là, gấp người cúi qua đầu hói bóng như sáp, hắn đưa lưỡi dao cạo sắc xanh ánh thép gần lại cái mặt nạ bọt xà phòng và lên tiếng rất sẽ sàng: - Xin có lời chào kính cẩn, thưa ông đồng chí. Ông rời xứ sở chúng ta đã lâu chưa nhỉ? Không, xin đừng động đậy, chứ không tôi có thể ngay bây giờ cứa đứt ông mất. Những chiếc bánh xe nhớp nháp đảo nhanh hơn, ngước nhìn hình trông nghiêng của Ivanôv, rồi chững lại. - Tôi rất nhớ rõ ông, ông đồng chí ạ. Xin lỗi, tôi không lấy gì làm thích thú gọi tên của ông ra đây. Tôi nhớ, ông đã thẩm vấn tôi ra sao, ở Kharkôv, khoảng sáu tháng trước đây. Tôi nhớ chữ ký của ông, con người quý mến của tôi… Nhưng ông thấy đấy, tôi vẫn cứ sống. Và khi đó đã xẩy ra chuyện như sau! Đôi mắt bé tí tẹo nhớn nhác đảo đi đảo lại rồi bỗng nhắm nghiền. Con người ấy co dúm lại như con thú, cái con thú cho rằng đôi mắt nhắm chắc hẳn nó trở thành vô hình. Ivanôv nhẹ nhàng đưa lưỡi dao cạo trên cái má lởm chởm khô lạnh. - Hoàn toàn chỉ có hai ta thôi, ông đồng chí ạ. Ông có hiểu không? Nếu như lưỡi dao mà trượt đi sai một ly là lập tức sẽ chảy nhiều máu. Động mạch cổ nằm ở chỗ này. Nhiều máu, thậm chí rất nhiều máu. Nhưng để có việc ấy tôi muốn bộ mặt ông phải được cạo cho sáng sủa, và ngoài ra, tôi muốn tôi còn được nói cho ông nghe thêm đôi câu chuyện. Ivanôv dùng hai ngón tay thận trọng nâng đầu cái mũi mập mạp của ông ta lên và vẫn cứ nhẹ nhàng bắt tay vào cạo hàng da mép. - Sự thể nó là thế này, ông đồng chí ạ, tôi vẫn nhớ hết mọi chuyện, nhớ rất rõ và tôi muốn rằng ông cũng phải nhớ… Và bằng cái giọng sẽ sàng nhỏ nhẹ Ivanôv lên tiếng, vừa trò chuyện, vừa từ tốn đưa lưỡi dao cạo cạo bộ mặt bất động, ngửa ra đằng sau. Và câu chuyện này, chắc hẳn phải là rất khủng khiếp, bởi vì thỉnh thoảng tay hắn lại phải dừng lại và hắn cúi xuống sát bên cạnh đầu đức ông lúc này đang choàng tấm khăn vải liệm trắng toát, ngồi đó như một cái xác chết, hai mí mắt phồng lên khép hờ. - Đấy, tất cả là như vậy, - Ivanôv thở phào… Câu chuyện tất cả thế là hết. Ông nghĩ như thế nào, có thể lấy gì để chuộc lại tất cả mọi điều đó. Người ta có thể ví lưỡi trường kiếm với cái gì nhỉ? Và ông cũng nghĩ thêm nữa, hai ta hoàn toàn chỉ có riêng mình, hoàn toàn chỉ có riêng mình… Những người chết bao giờ cũng được cạo mặt, - Ivanôv nói tiếp, đưa lưỡi dao cạo từ dưới ngược lên trên cái má căng thẳng của ông ta. – Người ta cạo mặt cho cả những kẻ bị kết án tử hình. Và bây giờ tôi cạo mặt cho ông. Ông hiểu không, điều gì sẽ xảy ra? Con người đó, không động đậy, mắt không mở. Giờ đây mặt ông ta đã được lột sạch cái mặt nạ xà phòng, vết bọt xà phòng chỉ còn lại trên gò má và gần hai bên tai. Bộ mặt căng thẳng như không có hai mắt phốp pháp này trắng bệch ra đến nỗi Ivanôv đã nghĩ rằng, phải chăng ông ta đã bị liệt, nhưng khi hắn đặt nằm lưỡi dao cạo vào bên má ông ta, toàn thân ông ta bỗng giật lên. Có điều ông ta không mở mắt ra. Ivanôv vội vã lau mặt cho ông ta, cầm cái ve thủy tinh có nối quả bong bóng bóp hơi phun nước vào mặt ông ta. - Thôi thế là đủ với ông, - hắn nói một cách bình thản. – Tôi đã hài lòng, ông có thể đi đi. Hắn vội vã vẻ kinh tởm giật tấm khăn vải choàng khỏi vai ông ta ra. Con người ngồi nguyên bất động. - Thôi, đứng dậy, đồ ngốc! – Ivanôv quát lên và cầm ống tay áo ông ta kéo dậy. Người kia đứng lên trơ trơ với đôi mắt nhắm nghiền ở căn phòng nhỏ của cửa hiệu. Ivanôv chụp chiếc mũ quả dưa lên đầu ông ta, giúi cái cặp vào tay ông ta và xoay người ông ta ra phía cửa ra vào. Chỉ đến lúc đó con người mới động đậy, bộ mặt với đôi mắt vẫn nhắm của ông ta thoáng lướt qua trong tất cả các tấm gương treo một hàng, như một cái máy ông ta bước chân qua ngưỡng cửa mà Ivanôv đã mở sẵn, và vẫn cái điệu bộ như một cái máy, bằng cánh tay buông thõng cứng như thanh củi giữ cái cặp và nhìn ra phố mung lung bằng cặp mắt như mắt của những bức tượng cổ Hy Lạp, ông ta bỏ đi. THÚY TOÀN dịch * Ở Việt Nam gần đây mới biết đôi chút về nhà văn vốn là người Nga khá nổi tiếng này. Trước 1975, ở miền Nam bạn đọc nước ta đã được đọc bản dịch Lôlita, một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của V.Nabôkôv. Mới đây năm 1999, tạp chí Văn học nước ngoài Hội Nhà văn Việt Nam cùng giới thiệu tiểu thuyết Tiếng cười trong bóng tối của ông do Nguyễn Thị Kim Hiền dịch. Truyện ngắn Lưỡi dao cạo là một trong những tác phẩm điển hình trong thể loại truyện ngắn của V.Nabôkôv. Đến giờ tác giả Vladimir Nabokôv đã được giới thiệu khá nhiều ở nước ta: trên tạp chí Văn học nước ngoài, nhiều sách báo khác và mới đây tác phẩm Lôllita của ông đã được nhà văn - dịch giả Dương Tường dịch lại và bản dịch của ông đã được đánh giá cao.
TIẾNG ĐỒN GẦN TIẾNG ĐỒN XA SAU MỚI RA BÁO CHÍ Từ thời thượng cổ loài người đã biết dùng tiếng hú, tiếng kêu riêng để gọi nhau mà chỉ cùng người bộ tộc mới biết được, rồi đến những thông tin đầu tiên là những hình vẽ trên da thú hay trên những vách hang động mà chúng ta biết được trên báo đài. Thời Hy Lạp cổ, trong cuộc chiến ở làng Marathon có một chiến binh đã dũng cảm băng rừng lội suối, bất chấp mọi gian khổ để chạy về báo tin thắng trận, vì quá kiệt sức với đoạn đường tương đương 42,195km, anh ta về thành Athenes chỉ kịp nói được hai chữ “Chiến thắng” thì tắt thở. Đó được xem như là chiến công vẻ vang nhất của ngành thông tin thời bấy giờ. Sau nầy để ghi nhớ chiến công của anh người ta đã tổ chức thi chạy việt dã cùng với cự ly như vậy. Trong lịch sử các nước như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Trung Hoa, văn minh khoa học chưa nẩy nở, thì chưa có phương tiện làm ra tờ Báo, cho nên chưa có ai nghĩ đến việc làm Báo. Tuy vậy, không phải lớp người sống bịt bùng, ở đâu chỉ biết sống ở đó, và đối với chuyện xảy ra chung quanh, thì “mù tịt”. Tuy rằng báo chí chưa có, nhưng những biến cố lớn lao, thí dụ như cái chết của vua Ramsès II của Ai Cập (vào năm 1225 trước J.C), cái chết của vua Cyrus của Ba Tư (530 năm trước J.C), cuộc chiến tranh vĩ đại giữa hai thành Sparte và Athènes của Hy Lạp (4 thế kỷ trước J.C) nhà triết học Socrate bị cường quyền Hy Lạp bắt tội, Đại đế Alexandre chinh phục cả vùng Cận Đông (3 thế kỷ trước J.C), Hoàng tử Gautama Siddharta ở Ấn Độ bỏ trốn khỏi kinh thành trong đêm khuya để vào rừng, đi tìm đạo giải thoát (5 thế kỷ trước J.C), vua Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa bắt dân chúng xây Vạn Lý Trường Thành (3 thế kỷ trước J.C) vv… những việc quan trọng lớn lao như thế, xảy ra ở mỗi địa phương xa lắc xa lơ, núi sông cách trở, sự thông thương đường bộ đường thủy khó khăn, và không có báo chí thông tin cho nhau thế mà các xứ lân cận đều biết cả. Ấy là nhờ họ truyền miệng cho nhau lời đồn gần đồn xa, tuy rằng tin tức thường bị phóng đại, nhiều khi bị xuyên tạc, và rất chậm trễ, nhưng loài người cũng dùng lời nói để “báo” cho nhau biết những chuyện lớn xảy ra chung quanh mình. Chính nhờ những “tin tức” loan truyền bằng miệng đó, mà khi một bà hoàng hậu nước Tàu khám phá ra con “Tằm” và nuôi con Tằm để lấy tơ (2698 truóc J.C) thì sau đó Hy Lạp đã hay tin và đã có những người tu sĩ đi qua Tàu để lén ăn cắp trứng bướm đem về Athènes Thèbes, Corinth để cho nở ra Tằm, và mở ra kỹ nghệ làm tơ. Cho đến thế kỷ XII, vua Sicile cũng vì nghe được tin ấy, bèn đem một đạo thuyền binh vượt bể Địa Trung Hải, sang đánh các thành phố Hy Lạp để chiếm lấy các hãng nuôi Tằm, và chặt những cây Dâu, bắt những con Tằm và người nuôi Tằm đem về lập ra những xưởng làm tơ đầu tiên ở Âu Châu. Đó là một thí dụ để cho biết rằng đời xưa tuy chưa có báo chí thông tin, nhưng “tin tức” vẫn được loan truyền từ Á sang Âu, từ Đông sang Tây, bằng “ba tấc lưỡi” và cuộc diện thế giới đã bao phen thay đổi, cũng vì “ba tấc lưỡi” của con người đem chuyện nầy chuyện kia mà phao tin “đồn-đãi” từ nơi nầy qua nơi nọ. Rồi đến thời kỳ “mới”. Mãi cho đến khi có người phát minh ra nghề in chữ, từ đấy bắt đầu có những tờ báo thông tin chính thức. Năm 1423, người Hòa Lan Coster ở Haarlem, khắc ra chữ in bằng gỗ, và năm 1440 Gutenberg người Đức đặt ra chữ in Latin, bằng kim khí để in sách. Rồi bắt đầu từ đó, suốt hai thế kỷ XV, XVI, có những thợ in nổi danh như Plantin Elsevier, Dolet phát triển nghề in, và kỹ nghệ ấn loát, bắt đầu mở mang khắp cả Âu Châu. Chữ in, đấy là phương pháp thuận tiện nhất để phổ biến tin tức cũng như tư tưởng của con người. Kỹ nghệ in vừa bắt đầu thịnh hành thì các tờ “Báo” đầu tiên cũng bắt đầu xuất hiện, đó là, dĩ nhiên của cuộc tiến triển toàn diện về tinh thần và kỹ thuật chung khắp cả Tây Phương. Những tờ báo đầu tiên của Âu Châu trong thời kỳ phôi thai báo chí, hãy còn để lại dấu vết trong các tàng cổ viện. Năm 1583 một tờ tuần báo đầu tiên tên là Relatio Historica xuất bản ở Ý. 1594 ở Augsburg (Đức) 1600 ở Venise (Italie – Ý) 1605 ở Anvers (Belgique – Bỉ) 1609 ở Strasbourg (Pháp) 1610 ở Bâle (Suisse – Thụy Sĩ) 1619 ở Amterdam (Hollande – Hòa Lan) 1621 ở Vienne (Autriche – Áo) 1622 ở London (England – Anh) 1631 ở Paris (France – Pháp) Tờ báo “Ordinari Zeittungen” xuất bản năm 1594 ở Augsburg do một nhóm chủ nhà ngân hàng Đức Fugger ấn loát và phát hành thường xuyên để thâu thập tin tức chính trị và đăng cả những bài phê bình thời sự. Ở Italie xuất bản những tờ Fogli Avoisi (bản báo cáo) đăng tin tức trong nước và ngoài nước năm 1600 (bản báo cáo). Năm 1600 ở Cận Đông có những cuộc chiến tranh lớn giữa Turquie và các nước lân cận, một người ở Venise (Italie) lợi dụng cơ hội, xuất bản một tờ báo để đăng tin chiến sự, có quan hệ đến việc buôn bán với Tây phương. Những tờ báo ấy bán 1 đồng bạc Ý, gọi là 1 gazettita, đó cũng được gọi là Gazetta. Ở Anh tờ báo đầu tiên là tờ “News tin tức thời sự” xuất bản ở London (Luân Đôn) năm 1622. Những tờ báo quan trọng nhất ở Âu Châu thời bấy giờ là tờ “Neiuwe Tjdinghen” chủ nhiệm kiêm chủ bút là Abraham Verhoeven xuất bản ở Anvers (Bỉ) do đặc ân của công tước Albert và nữ Công tước Isabelle đang cai trị ở Bỉ, cho phép đăng những tin chiến tranh giữa xứ Éspagne và Hòa Lan “Bỉ” tờ báo số 1 Neiuwe Tjdinghen đăng rõ trận Eskeren ngày 17 tháng 5 năm 1605 lại có cả hình ảnh một cuộc xáp chiến, bằng bản gỗ in trên giấy rất rõ ràng. Đó là tờ báo có tranh ảnh đầu tiên trên thế giới. Số 14 tờ báo ấy lại đăng cả một bản đồ chiến sự rất tỉ mỉ. Kế tiếp tờ Neiuwe Tjdinghen của Bỉ, là tờ báo đầu tiên của Pháp tên là “La Gazette” số 1 xuất bản ngày 30/5/1631 do một văn sĩ kiêm y sĩ có danh thời bấy giờ làm chủ nhiệm, và chủ bút, là tờ Théopharaste Renaudot dưới tên báo có ghi rõ một giòng chữ như sau đây: “Commemcement de la Publicité politique Le premier journal français” (khởi đầu tuyên truyền chính trị tờ báo đầu tiên của Pháp). Sự thật La Gazette là một tờ tuần báo, xuất bản ngày thứ Bảy, được các giới trí thức và quý phái đọc nhiều hơn. Dân chúng thỉnh thoảng mới được coi, vì giá bán quá đắt, không hợp với túi tiền của đại chúng, chính vua Louis XIII cũng thường viết bài trong báo La Gazette, cho đến năm 1762 thì tờ báo trở thành cơ quan của chính quyền và đổi tên là Gazette de France (Gazette Pháp quốc). Tất cả các báo Tây phương thời bấy giờ là tuần báo, vì việc ấn loát còn sơ khai (còn in bằng tay) máy in chưa được chế tạo. Mãi đến năm 1660 tờ nhật báo đầu tiên mới ra đời ở Leipzig của người Đức tên là Ritzich, viết bằng tiếng Đức. Rồi trên 100 năm sau, năm 1777 nước Pháp mới bắt chước Đức mà xuất bản tờ nhật báo đầu tiên tên là Journal de Paris. Từ đây trở đi, các tờ báo khác đua nhau ra đời, ở khắp các kinh đô và các thành phố lớn ở Âu Châu, như những tờ Journal de genève (Suisse), Journal de Bruxelle (Belgique), Courrier de L’Europe, La Gazette de Clèves, vv… Cuộc cách mạng Pháp 1789 là một cơ hội rất thuận tiện cho các báo của nhân dân ra đời do các nhà “văn Cách Mạng” và các nhà luật sư làm chính trị chủ trương như: Les Révolution de France của nhà thơ Camille Des Moulins, Le journal de Paris của nhà thơ trẻ tuổi André Chénier và nhiều tờ báo khác nữa. Tổng cộng riêng ở thủ đô Paris năm 1789 có 150 tờ báo hằng ngày và hằng tuần, 1790 thêm 140 tờ báo mới, rồi bắt đầu con số sụt xuống còn năm 1791 (85 tờ), năm 1792 (60 tờ), năm 1793 (50 tờ), năm 1794 (40 tờ), và năm 1795 (35 tờ). Đặc biệt nhất là tờ báo Le Moniteur Universel sống lâu hơn tất cả các báo khác và tiêu biểu rõ rệt tinh thần của những tờ báo mà ta thường gọi là “theo gió phất cờ” những tờ báo xu thời, sống dưới chế độ nào cũng được cả, khéo uốn nắn ngòi bút để nịnh bợ các chính quyền liên tiếp đổi thay cầu mong được yên thân để lo được làm giàu. Số 1 tờ Le Moniteur Universel ra ngày thứ ba 24/11/1789 giữa lúc cao trào cách mạng Pháp đang bồng bột, người Chủ nhiệm của nó tên là Charles Joseph Panckoucke tuyên bố 5 mục tiêu phụng sự Cách Mạng nhân dân, thông tin đầy đủ về quốc hội, và chính sách quốc nội, và quốc ngoại, về hành chánh, và làm cơ quan Văn học. Khoa học nghệ thuật, sau là đăng quảng cáo các nhà buôn và của tư nhân, để “ủng hộ bạn đọc”. Châm ngôn in trên trang nhất của tờ báo là một câu Latin: “Scribiturad narrandum, non ad probandum” (ghi chép và tường thuật, mà không phê bình). Sự thật thì ông Chủ nhiệm và ông Chủ bút chuyên môn viết bài nịnh tất cả các nhà cầm quyền của các chế độ liên tiếp đổi thay, nhờ vậy mà báo nào chết chứ báo Le Moniteur Universel vẫn ngang nhiên sống, báo nào bị đóng cửa chứ báo Le Moniteur Universel cứ luôn luôn mở cửa. Thời kỳ nhân dân cách mạng, lập Cộng Hòa và giết vua, báo Le Moniteur Universel đăng thơ của ông Chủ nhiệm đại khái như bài sau đây: Peuple éveille-toi, romps tes fers La liberté t’appelle Tu naquis pour elle Peuple éveille-toi, romps tes fers! (Hỡi nhân dân, thức tỉnh dậy, bẻ xiềng sắt! Hãy nghe tiếng gọi của tự do Ta sinh ra vì Tự do Hỡi nhân dân…) Tờ báo đả đảo nhà vua, đả kích chế độ quân chủ và suy tôn nhà lãnh tụ cách mạng Robespierre, một vị anh hùng dân tộc, vị cứu tinh của nước Pháp vv… 18 tháng sau bị tòa án nhân dân kết tội chém, báo Le Moniteur Universel không ngần ngại đăng liền “hắn là con cọp khát máu” (un tigre altéré de sang). Sau đó các chính phủ kế tiếp rồi đến Napoléon thì Le Moniteur Universel suy tôn hoàng đế Napoléon “một César mới, vị chúa tể của Âu Châu” vv… đến khi Napoléon bị đày ra đảo Elbe, Louis XVIII của giòng họ Bourbons tái vị, thì báo Le Moniteur Universel quay lại chưởi bới Napoléon, ca ngợi Louis XVIII. Sau 10 tháng bị lưu đày, ngày 01/3/1815 Napoléon đổ bộ trên vịnh Juan được quân đội và dân chúng nhiệt liệt hoan hô, đón tiếp niềm nở trở về Paris thì báo Le Moniteur Universel viết là vua Louis đã trốn đi, hoàng đế Napoléon chiều nay sẽ hồi loan đúng 8 giờ về điện Tuileries của ngài, “Hoàng đế muôn năm”. Không dè Napoléon chỉ ngồi trên ngai vàng được 100 ngày rồi bị bắt buộc phải thoái vị, vì đại bại ở Waterloo, vua Louis XVIII trở lại ngôi, vua Napoléon bị đầy qua đảo Sainte Hélène, báo Le Moniteur Universel đăng “thế là kẻ độc tài bạo chúa Bonaparte từ nay sẽ hết đường chọc nước khuấy trời, đó là hình phạt xứng đáng…” Và cuối cùng tờ báo hô to “Vua Louis XVIII muôn năm”. Không biết ở xứ ta có như vậy không? Tờ báo đầu tiên ở Mỹ có tên là Boston News Letter xuất bản số 1 ngày 23/4/1704 là tờ báo tuần, tờ báo hàng ngày là Pennsylvania Evening Post xuất bản ngày 30/5/1783. Đa số các báo ở nước tư bản nghe nói họ có quyền hành đứng thứ tư, trong các nước dân chủ tư bản thật sự, báo chí có uy quyền lớn lao bên cạnh quyền hành pháp, quyền lập pháp và quyền tư pháp (Pouvoirs Exécutif, Législatif, et judiciaire) bởi ảnh hưởng của tờ báo rất sâu rộng đối với chính quyền và dư luận nhân dân. Tại sao dân ưa nói “Làm báo nói láo ăn tiền”. Xin chào thua…! TRẦN VĂN HỮU st NHÂN 910 NĂM THÀNH LẬP QUỐC TỬ GIÁM VĂN MIẾU NGUYỄN VINH PHÚC Văn Miếu được xây dựng vào năm Canh Tuất (tức năm 1070) để làm nơi thờ tự tổ đạo Nho. Sáu năm sau, năm 1076, Quốc Tử Giám được xây ở phía sau Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong con em nhân dân. Như vậy là cho tới hết thế kỷ 18, có tới 800 năm Quốc tử giám là trường học cao nhất nước, góp phần đào tạo nhiều nhân tài thuộc nhiều thế hệ. Chỉ từ thế kỷ 19, khi Nguyễn Gia Long lên cầm quyền, dời Quốc Tử Giám vào Huế, thì nhà giám cũ này bị chuyển làm điện Khải Thánh, tức nơi thờ cha mẹ của ông tổ đạo Nho. Tới năm 1946, giặc Pháp đã đốt trụi điện ấy, do đó ngày nay khu nhà giám cũ chỉ còn là khu đất bỏ trống. Tuy nhiên, qua thư tịch cổ, có thể hiểu phần nào diện mạo của nhà giám đó. Nhưng trước hết phải đi qua Văn Miếu đã. Văn Miếu ở Hà Nội mặt chính nhìn ra phố Quốc Tử Giám. Xung quanh có tường bao bọc, xây bằng gạch Bát Tràng, bên trong có những tường thấp ngăn ra làm năm khu. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính, có tên là “Văn Miếu môn”. Sau cổng này là con đường lát gạch dẫn đến cổng thứ hai “Đại Trung môn” mở đầu cho khu thứ hai. Hai bên cổng Đại Trung này có hai cổng nhỏ gọi là Thành Đức (trở nên đạo đức) và Đại Tài (tài lớn). Vẫn lối đi ấy dẫn tới Khuê Văn các. Gác này dựng vào mùa xuân năm 1805, là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình dung sao Khuê tỏa tia sáng. Ở hai bên gác cũng có hai cổng nhỏ tên là Súc Văn (văn hàm súc) và Bỉ Văn (văn sáng đẹp). Khu thứ ba từ Khuê Văn các đến Đại Thành môn. Ở chính giữa khoảng này có hồ vuông xung quanh xây tường hoa, gọi là Thiên Quang tinh (giếng trời trong sáng). Hai bên hồ là hai khu Vườn bia, tức nơi dựng những bia ghi tên những người đỗ tiến sĩ từ năm 1442 đến năm 1774. Lẽ ra phải có 124 bia, vì trong khoảng thời gian đó có 124 khoa thi, nhưng nay chỉ còn đếm được có 82 bia. Bước qua cửa Đại Thành là khu thứ tư, có nhà đại bái và hậu cung, nơi thờ tổ đạo Nho và hai nhà tả vu, hữu vu ở hai bên vốn là nơi thờ các danh nho xưa (Chu Văn An, Trương Hán Siêu,…). Sau lưng nhà đại bái là khu Quốc tử giám cũ. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục thì ở khu nhà giám có hai dãy nhà giảng ở hai bên, mỗi dãy 14 gian. Phòng học của giám sinh cũng ở hai bên đông – tây, mỗi bên ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian dành cho hai giám sinh. Giám sinh – học sinh trường Quốc tử giám – là những người đã đỗ kỳ thi Hương, vào đây học để chuẩn bị dự thi Hội tức kỳ thi cuối cùng. Cũng có cả những người đã dự thi Hội, nhưng bị hỏng đến học tại trường giám cho nên coi Quốc tử giám là một loại trường đại học thì cũng rất phải, bởi đó là trường ở cấp cao nhất. Đời Lê Thánh Tông có định thể lệ chia giám sinh đã dự thi Hội làm ba loại: thượng xá sinh là những người đã thi Hội trúng ba kỳ (trúng cả 4 kỳ mới đỗ) được cấp mỗi tháng 1 quan tiền (10 tiền = 360 đồng tiền), trung xá sinh (trúng được 2 kỳ) được cấp 9 tiền, hạ xá sinh (trúng 1 kỳ) được cấp 8 tiền. Lệ học ở đây là cứ mỗi tháng trước ngày rằm, mùng một là ngày có bình văn (tức là ngày 14 âm lịch và ngày 29 hoặc 30). Trước đó giám sinh đã làm bài và nộp cho các thầy tư nghiệp chấm. Bài nào khá thì các thầy tư nghiệp trình với tri giám (người đứng đầu trường giám). Tri giám quyết định một số bài đem ra bình, tức là chấm tập thể. Hôm bình văn, có các quan chức cao cấp chủ trì. Phạm Đình Hổ có kể lại một buổi bình văn đại thể như sau: Ở nhà giảng học trải ba chiếc chiếu trúc. Trên cùng là chiếu quan tri giám. Giữa là chiếu quan tham tụng (tể tướng) hoặc hành tham tụng (phó). Dưới là các bồi tụng. Còn các người khác (tư nghiệp, thị độc, thị giảng…) thì ngồi ở hai bên. Chính những người này thay nhau đọc các bài được bình. Các bồi tụng bàn bạc cân nhắc, cuối cùng quan tham tụng quyết định điểm số, xếp loại cao thấp. Lần ấy Phạm Đình Hổ thấy tri giám là Nguyễn Hoàn, tham tụng là Bùi Huy Bích, các người đọc văn thì Hoàng Vĩnh Trân giọng trong và vang, Nguyễn Cần giọng rõ và bình dị. Lưu Tiệp thì đọc rất khó nghe… Cuộc bình văn kéo dài tới xế trưa, quan tri giám tuyên bố bế mạc và mời mọi người dùng cơm. Tiền chi phí lấy ở khoản thuế các hồ quanh Giám. Xây dựng từ cách đây 910 năm, có thể coi Quốc tử giám còn là một trường đại học ra đời vào loại sớm trên thế giới. ĐỖ THIÊN THƯ st
DÂN CA VÍ, DẶM NGHỆ TĨNH TRỞ THÀNH DI SẢN Dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh đã chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đêm 27.11 ở Paris-Pháp . Theo tài liệu công bố của Bộ Văn Hóa – Thể thao và Du lịch, hát ví, dặm là hai lối hát dân ca không nhạc đệm được cộng đồng người xứ Nghệ Tĩnh sáng tạo ra từ hàng trăm năm nay, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Nghệ Tĩnh và là phương tiện nghệ thuật để biểu đạt tư tưởng, tình cảm, tăng cường giao lưu, gắn kết cộng đồng. Hát ví, dặm được thực hành trong lao động và đời sống thường nhật như lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc dệt vải, xay lúa, vì vậy các lối hát cũng được gọi tên theo các hoạt động như ví phường vải, ví đò đưa, ví phường nón, dặm ru, dặm kể, dặm khuyên… Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch cho biết tại cuộc họp ở Paris, các thành viên của Ủy ban đều nhất trí đánh giá cao nội dung và giá trị tinh thần của dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh và đề nghị ghi danh dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là sự công nhận giàu ý nghĩa nhân văn của thế giới đối với Việt Nam khi một loại hình dân ca ở các làng quê hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, gắn bó với sinh hoạt hàng ngày của người dân như làm ruộng, làm nón, chèo thuyền, kéo lưới, ru con… được UNESCO vinh danh. Đến nay, 314 loại hình nghệ thuật đã được vinh danh trên toàn thế giới cho hạng mục này. B.Đ. st CÚNG RƯỚC ĐƯA ÔNG BÀ DỊP TẾT Khi bàn đến việc rước ông bà về ăn Tết trong dịp Tết, ta cần xét xem đó có phải là phong tục chính thống của Việt Nam không? Sách “Thời đại Hùng Vương” của Văn Tân, Nguyễn Linh, Lê Văn An, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng trang 256 viết: “Một đặc trưng của văn hóa Lạc Việt trong thời đại Hùng Vương là tục thờ cúng tổ tiên và sùng bái anh hùng cứu nước”. Một tục lệ khác là cứ tới 25 tháng chạp, người Việt đi tảo mộ để sửa sang mồ mả cho ông bà ăn Tết, trong khi người Trung Hoa thì phải đến tháng ba trong lễ Thanh Minh. Tuy nhiên việc tảo mộ của người Việt cũng được du di từ rằm tháng chạp trở đi để con cháu có thể tảo mộ được ông bà ở những nơi cách nhau xa. Từ 25 tới 30 tháng chạp, con cháu được làm mọi việc mà không phải coi ngày kể cả việc bốc mộ. Do hai sự kiện rước ông bà và tảo mộ, tôi cho rằng tục lệ rước ông bà về ăn Tết là của Việt Nam nên ta phải trân trọng gìn giữ. Cứ đến trưa 29 (tháng thiếu) hay 30 tháng chạp thì nhà người Việt Nam nào cũng bày lễ cúng rước ông bà gồm: 1. Một mâm cơm canh (thường là canh chua cá kho), thịt kho tàu (thịt ba rọi xắt miếng lớn, kho hơi lạt, có nước dừa tươi nên ăn béo và ngon), dưa giá, tôm khô, củ kiệu. Một số người còn cúng một con vịt nữa. 2. Một dĩa trầu cau gồm: - 3 lá trầu - 1 trái cau - Một chút vôi quệt vô lá trầu hay thành dĩa - Một nhúm thuốc rê (thuốc sợi chưa vấn thành điếu) 3. Một bình bông 4. Nhang, đèn, nước và rượu 5. Một ít giấy tiền vàng bạc. Sau khi lễ vật đầy đủ, nhang đèn được thắp lên, người chính trong gia đình đứng trước bàn thờ và vái đại khái là mời ông bà, tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu. Trong bốn ngày Tết thì sáng cúng nước với mứt, bánh; trưa cúng cơm, chiều cúng cơm, tối cúng nước với mứt, bánh. Việc đốt giấy tiền vàng bạc nầy, ở các lễ phụ hàng ngày thiết tưởng bỏ đi. Bốn lần cúng một ngày kể ra cũng mất công. Thiết nghĩ ta dọn lên đó, rót nước, đốt nhang và khấn vái thôi và miễn việc cúng nước khi lễ xong. Khi nhang tàn thì coi như cúng xong. Nếu muốn dọn thức ăn xuống sớm thì mới cần cúng nước để báo lễ cúng chấm dứt. Các bậc bề trên có lẽ không ai thích nhấm nháp nước trà như người trần thế đâu. Tới ngày mùng bốn thì cũng bày thực vật như ngày rước ông bà nhưng có thêm ít nhứt hai đòn bánh tét đối với người miền Nam, một cái bánh chưng đối với người miền Bắc. Nhưng ngày nay nhiều người đưa ông bà vào ngày mùng ba cùng với lễ cúng con gà vì trước 1975, mùng bốn thì công chức phải đi làm. Ngày nay thì tùy nghi. Nhưng theo tôi, đưa ông bà vào ngày mùng ba là vừa. Trong ngày mùng ba có cúng một con gà nấu cháo. Con gà để nguyên trên dĩa với bốn chén cháo. Tất cả dọn lên một chiếc bàn ở nhà trên mà cúng. Sau khi đốt nhang vái cúng một lát thì đem con gà xuống chặt ra, một nửa để vô dĩa, một nửa xé ra trộn với rau cải xắt nhỏ gọi là gà xé phay, tất cả bưng lên cúng tiếp gọi là cúng Việt lề. Cúng Việt lề nầy tôi có hỏi người Việt gốc Hoa, họ nói là họ không biết. Tra tự điển Việt Hán, có một chữ Hán giải nghĩa là dân Việt thì viết: chớ không phải Việt là vượt lên Chữ lề, chữ Hán không có. Vậy cúng Việt lề là cúng theo phong tục Việt Nam. Cứ suy theo nguồn gốc người Việt đi tàu, thuyền tới định cư ở lục địa Châu Á từ nam sông Hoàng Hà trở xuống, tôi cho rằng tục cúng nầy là của người Việt. Con gà tượng trưng cho sự linh hoạt. Gà sống trên đất liền, khi cần thì bay được để thoát nạn khi té xuống sông, nước. Từ đó suy ra một số người cúng đưa ông bà bằng con gà nấu cháo và bánh tét và vái là hôm nay tôi cúng con gà để đưa ông bà về trời và cầu xin ông bà phò hộ trong nhà trong cửa, giúp con cháu mạnh giỏi, làm ăn phát đạt. Cúng kết hợp như vầy là không đúng. Phải cúng con gà ở bàn riêng, còn cúng đưa ông bà là cơm canh cúng ở bàn thờ. Vái cúng mùng ba phải đưa về truyền thống dân tộc Việt là giống độc thần, thờ thần mặt trời. Vái cúng mùng ba, theo tôi là cầu trời phò hộ cho gia đình được may mắn và bình yên. Thực tế cuộc sống ngày nay là ai cũng lo lao động kiếm sống. Lao động quần quật quanh năm, có mấy ngày Tết thì cũng cần tranh thủ đi đây đi đó một chút. Người ta tranh thủ tối 30 Tết thì lạy ông bà để sáng mùng một về nội hay ngoại. Có lẽ luân phiên thì hơn vì Tết là ngày ngày sum họp gia tộc là chính. Tranh thủ với tục lệ như vậy thì ngày Tết trở thành ngày phiền phức. Theo tôi thì nên tổ chức thành gia tộc. Mỗi gia tộc có một ngôi nhà thờ để thờ dòng tộc. Ngày tết, con cháu tranh thủ một buổi nhứt định về nhà thờ để sum họp gia tộc. Con cháu tề tựu trước bàn thờ để cúng tổ tiên. Trên bàn thờ có ghi tổ tiên từ đời xa nhứt mà ta biết tới nay là đủ. Cúng ở bàn thờ đó là đủ. Ta nhờ một người không có nhu cầu đi đây đi đó ở đó lo cúng kiến. Tất cả đều rảnh rang. Trong buổi họp mặt, cả gia tộc cùng quây quần ăn uống vui vẻ. Đó mới là mục đích của sum họp gia tộc trong ngày Tết. Ai không về được ngày mùng một tết thì hẹn nhau ngày chúa nhựt sau Tết kế tiếp thì về nhà thờ để sum họp có lẽ hay hơn. Quận Tư ngày 20.11.2014 NHỰT THANH (Phạm Hiếu Nghĩa)
Phụ Bản II MASSACHUSETTS : Thủ đô kháng chiến BOSTON với ca khúc Giáng sinh “JINGLE BELLS” BOSTON – THỦ ĐÔ KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP. Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ kéo dài từ 1775 tới 1781. Thành phố Boston (đặt theo tên một cảng nằm ở đông bắc Anh Quốc và cũng là tên của điệu slow waltz theo tiếng Pháp) của tiểu bang Massachusetts (MA - đặt theo tên một bộ lạc Da đỏ, có nghĩa “đồi lớn”) thuộc khu vực New England – đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc tranh đấu giành độc lập. Chính những biến cố tại Boston đã dẫn đến Cách Mạng. Du khách có thể thăm những cột mốc Cách Mạng bằng cách dạo một vòng “Con Đường Tự do”: 1. Đường Tự do bắt đầu tại “Boston Common”. Ngày nay là một công viên, Common thời xưa là khu đất trống dùng để hành hình tử tội và làm trại lính. Khi người Anh chiếm Boston vào năm 1768, họ đóng quân ở đây và trận đánh đầu tiên với dân 13 Thuộc địa xảy ra tại Common. 2. Trong thời gian dẫn đến Cách Mạng, “Old South Meeting House” là một nhà thờ và, như tên gọi, là một nơi hội họp quan trọng của dân Boston. Ở đây, các nhà lãnh đạo như Samuel Adams đã đọc diễn văn khơi gợi những cảm xúc của 13 Thuộc địa. Chỉ vài giờ trước khi “Boston Tea Party” (dân giả dạng làm Da đỏ, ném nhiều thùng trà xuống vịnh Boston, để phản kháng người Anh), hàng ngàn dân mới họp để thảo luận về thuế trà quá cao. 3. “Old State House” là tòa nhà từ nơi này, người Anh cai trị thuộc địa Massachusetts. Vào ngày 18/7/1776, bản Tuyên ngôn Độc lập được tuyên đọc từ ban công tòa nhà này. Tượng sư tử và kỳ lân, quốc huy của người Anh bị hạ bệ. Đường phố phía ngoài tòa nhà Old State House cũng là nơi xảy ra “Boston Massacre” (người Anh trả đũa và gây ra cuộc thảm sát dân Boston) vào năm 1770. 4. “Faneuil Hall”, đôi khi được gọi là “Nôi của Tự do”, có chức năng vừa là ngôi chợ (tầng dưới) vừa là nơi hội họp (trên lầu). Sau bị người Anh chiếm mất. 5. Đường Tự do đi tiếp đến khu Bắc Boston, ở đây du khách có thể thăm “Ngôi nhà của Paul Revere” – là một thợ bạc và một anh hùng nổi tiếng của Cách Mạng. 6. Thăm ngôi nhà mà George Washington đã sử dụng làm trụ sở sau khi nhậm chức Tổng tư lệnh Quân đội Lục địa - lãnh đạo cuộc Cách mạng - ở đây năm 1775; ngôi nhà này sau này trở thành nhà của nhà thơ thế kỷ 19 Henry Wadsworth Longfellow . 7. Chặng cuối của Đường Tự do là “Bunker Hill”. Dân Thuộc địa bảo vệ nơi này chống lại một đội quân Anh hùng hậu hơn. Tuy sau bị thua, nhưng đã gây thiệt hại lớn lao cho quân Anh. Sự kiện Bunker Hill thuyết phục dân Thuộc địa chiến đấu hăng say hơn. Đối với dân Thuộc địa, đó là chiến thắng trong chiến bại. Chính vì thế, tiểu bang Massachusetts được vinh dự mang Mã Bưu điện (Zip code) là: MA01xxx, MA02xxx (xxx chỉ Thành phố, Hạt, Thị trấn thuộc Tiểu bang đó). Tiếp theo là - RI02 –NH03 –ME04 –VT05 –CT06 –NJ07xxx→NJ09xxx –NY10xxx→NY16xxx –PA17xxx →PA19xxx -DE9 –Maryland: MD20xxx, MD21xxx -District of Columbia: DC20xxx -VA22xxx→VA23xxx, rồi tới -CA90xxx→CA96xxx, và cuối cùng là -WA98xxx→99xxx. Trung tâm giáo dục đầu tiên Cambridge của Hoa Kỳ Cambridge , thành phố Đông Bắc bang Massachusetts , là một phần của Đại đô thị Boston . Cambridge là một trung tâm giáo dục và nghiên cứu nổi tiếng, đây là nơi có Đại học Harvard (1636) danh tiếng, trường đại học đầu tiên ở Bắc Mỹ , đây cũng là nơi có Học viện Công nghệ Massachusetts ( MIT ) và Đại học Lesley. Ngành in ấn và xuất bản của thành phố này bắt đầu từ năm 1640, khi báo in đầu tiên của Mỹ được thành lập ở đây. Hiện nay ngành công nghệ sinh học và công nghệ máy tính cũng là ngành chính của thành phố. Các ngành chế tạo gồm có: thiết bị điện tử, thiết bị khoa học, hóa chất. Trong số những người nổi bật thế kỷ 19 sống ở Cambridge có thầy thuốc-tác gia Oliver Wendell Holmes và nhà thơ-nhà ngoại giao James Russell Lowell . Thành phố này có Quảng trường Harvard; nhiều bảo tàng do Đại học Harvard quản lý, nơi trưng bày một trong những bộ sưu tập nghệ thuật đại học tốt nhất trên thế giới. Cambridge được thành lập với tên gọi New Towne năm 1630 và đã là thủ phủ của Massachusetts Bay Colony cho đến năm 1634. Nó được đổi tên thành Cambridge năm 1638 theo tên của Cambridge, Anh và trở thành một thành phố năm 1846. Năm 1912, một đường tàu điện ngầm đã hoàn thành nối thành phố Cambridge với Boston. Đại học Harvard (Harvard University)
Là một trường đại học tư thục tọa lạc ở Cambridge, thuộc Boston, Massachusetts và là một thành viên của Ivy League . Được thành lập ngày 8 tháng 9 năm 1636 bởi cơ quan Lập pháp thuộc địa Massachusetts , Havard là đại học lâu đời nhất tại Hoa Kỳ, cũng là cơ sở giáo dục đại học đầu tiên ở châu Mỹ . Nó cũng là tập đoàn đầu tiên tại Bắc Mỹ. Đại học Harvard bao gồm 11 cơ sở học thuật riêng lẻ - 10 khoa và Viện Cao học Radcliffe - với những khu học xá nằm rải rác khắp vùng đô thị Boston . Với tên gọi ban đầu là “New College” hay “The college at New Towne”, trường được đổi tên thành Harvard College vào ngày 13 tháng 3 năm 1639 , sau khi John Harvard , một mục sư trẻ tuổi ở Charlestown , hiến tặng cho trường một thư viện khoảng 400 đầu sách và 779 bảng Anh (khoảng phân nửa tài sản của ông). Văn kiện đầu tiên đề cập đến Harvard với danh xưng “Viện Đại học” (university) là bản Hiến pháp Massachusetts năm 1780 . Trong nhiệm kỳ kéo dài 40 năm (1869-1909) của mình, Viện trưởng Charles William Eliot thay đổi triệt để Harvard thành một đại học nghiên cứu. Các cải cách của Eliot bao gồm các khóa học nhiệm ý, mô hình lớp học nhỏ, và các kỳ thi tuyển. Mô hình của Harvard đã có ảnh hưởng trên nền giáo dục quốc gia Hoa Kỳ, ở cấp đại học và trung học. Thư viện Đại học Harvard với hơn 15 triệu đầu sách là thư viện trường học lớn nhất thế giới, và đứng thứ tư trong số năm “thư viện hàng triệu” (mega-library) của thế giới (sau Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ , Thư viện Anh Quốc , và Thư viện quốc gia Pháp , nhưng xếp trước Thư viện Công New York ). Trong số các Tổng thống Hoa Kỳ , có tám người tốt nghiệp từ Harvard, 75 khôi nguyên giải Nobel từng theo học hoặc giảng dạy tại đây, và 62 tỉ phú hiện còn sống là cựu sinh viên Harvard, đông nhất trong cả nước. Harvard thường xuyên có mặt ở hoặc gần vị trí đầu tiên trong các bảng xếp hạng giáo dục đại học quốc tế. Harvard cũng là tổ chức có nguồn cung ứng tài chính lớn thứ hai (sau Quỹ Bill & Melinda Gates ), với khoảng 32 tỉ USD vào năm 2011 . Học viện Công nghệ Massachusetts Học viện Công nghệ Massachusetts (Massachusetts Institute of Technology, MIT) là học viện nghiên cứu và giáo dục ở thành phố Cambridge , Boston. MIT trở thành nổi tiếng trong khoa học công nghệ , cũng như là các lĩnh vực khác, trong đó có quản lý , kinh tế , ngôn ngữ , khoa học chính trị và triết học . Trong các lĩnh vực tiềm năng nhất và trường đào tạo là Lincoln Laboratory , và phòng thực hành trí tuệ nhân tạo và khoa học vi tính , phòng thực hành truyền thông MIT, học viện Whitehead và trường quản lý Sloan của MIT. Các cựu sinh viên và giáo sư gồm cả các nhà chính trị nổi tiếng, quản lý doanh nghiệp, nhà văn, nhà nghiên cứu không gian, khoa học và nhà phát minh. Có tổng cộng 77 người có liên quan đến trường này như học sinh, giáo sư, nhân viên hiện tại hay trước đây đã đạt giải Nobel . Nguyệt san Atlantic năm 2004 xếp hạng MIT như là một trong những đại học khó vào nhất Hoa Kỳ. Theo US News và World Report's annual ranking của đại học Hoa Kỳ thì, MIT là 1 trong 5 trường xếp hạng cao nhất, cùng với Harvard , Stanford , Yale , Princeton . MIT xếp hạng thứ 7 chung cuộc năm 2004. JINGLE BELLS CA KHÚC GIÁNG SINH NỔI TIẾNG JINGLE BELLS của BOSTON. Jingle Bells (Tiếng chuông ngân), là một bài hát rất nổi tiếng trong chủ đề nhạc Giáng Sinh . Bài hát có sức ảnh hưởng rộng và được đa số những người quan tâm đến lễ Giáng Sinh thuộc mọi lứa tuổi thuộc lòng và hát trong dịp này. Độ ảnh hưởng và phổ biến của bài hát khiến nó nhiều lần bị nhầm tưởng là một bài hát dân ca . Bài hát được sáng tác lần đầu vào năm 1840 với tên gọi “One Horse Open Sleigh”. Tác giả của bài hát là James S. Pierpont , một người sinh trưởng tại Medford , ngoại ô của Boston, tiểu bang MA, rất có năng khiếu về âm nhạc. Ban đầu, bài hát được sáng tác cho ngày lễ Tạ Ơn, nhưng đã bị nhầm thành nhạc Giáng Sinh do được trình diễn thành công đêm Giáng Sinh vào lúc mới sáng tác. Biên soạn. “Jingle Bells” đã được giữ bản quyền với tên ban đầu là “One Horse Open Sleigh” vào ngày 16/9/1857. Nó được in lại năm 1859 với tiêu đề sửa đổi “Jingle Bells”, hoặc “ One Horse Open Sleigh”. Tình trạng bản quyền của bài hát này có kể từ khi được đưa vào phạm vi công cộng. Nhà lịch sử âm nhạc James Fuld ghi chú rằng “jingle” trong tiêu đề và mở đầu là một động từ bắt buộc”. Tuy nhiên, nó thường được dùng để chỉ một loại chuông Hoàn cảnh sáng tác. Năm 1840, Pierpont được giao sáng tác một nhạc phẩm đặc biệt để hát trong dịp Lễ Tạ Ơn . Khi đang ở nhà anh bắt gặp một nhóm người đang đua xe trượt tuyết giữa trời đông lạnh. Anh đã tham gia với họ và chiến thắng, cũng vào lúc đó, anh bị ấn tượng bởi những chiếc chuông kêu lanh canh gắn trên xe ngựa kéo. Bài hát được sáng tác trong đêm đó và được đánh thử nghiệm bằng cây đàn piano của bà hàng xóm Otis Waterman.
Bảng kỷ niệm: “Jingle Bells đã được sáng tác tại đây” tại 19 High Street, Medford, MA. James tập bài hát đó cho ca đoàn nhà thờ Medford và hòa âm cho bài nhạc để trình diễn vào lễ Tạ ơn, ngày lễ quan trọng và có rất nhiều người tham dự tại New England lúc ấy. Bài hát được hoan nghênh và yêu cầu hát lại vào dịp Giáng Sinh tại nhà thờ dù phần lời bài hát có nội dung không phù hợp lắm với nhà thờ (đề cập đến cảnh ngựa đua xe trượt băng, lối hẹn hò trai gái và cá cược). Lần trình diễn này là một thành công lớn đến nỗi một số khách tới thánh đường dự lễ đã xin bản nhạc đem về địa phương của mình. Vì trình diễn vào lễ Gíáng Sinh nên bài hát đã được xem như một bài hát Gíáng Sinh thực thụ. Pierpont tìm được người chịu xuất bản bài hát đó năm 1857, và đến năm 1864 khi tờ báo Salem Evening News đăng bài tường thuật câu chuyện về bản nhạc này khiến bài ca đã mau chóng phổ biến thành bản nhạc phổ thông nhất vùng New England rồi tràn xuống phía nam. 20 năm sau đó, “Jingle Bells” có lẽ là bản nhạc Giáng Sinh được phổ biến nhất và là một trong những bản nhạc cổ nhất nước Mỹ. Bài hát ghi đậm ảnh hưởng vào những hình ảnh mùa Giáng Sinh trên các thiệp chúc mừng, sách báo, phim ảnh và cả những nhạc bản giáng sinh khác cho đến tận ngày nay. Lời tiếng Anh Dashing through the snow in a one-horse open sleigh, Over the fields we go, laughing all the way; Bells on bob-tail ring, making spirits bright, What fun it is to ride and sing a sleighing song tonight. Jingle bells, jingle bells, jingle all the way! Oh what fun it is to ride in a one-horse open sleigh; Jingle bells, jingle bells, jingle all the way! Oh what fun it is to ride in a one-horse open sleigh. Lời tiếng Việt Mừng ngày Chúa sinh ra đời nào cùng nắm tay vui cười Hòa bình đến cho muôn người cùng cất tiếng ca mừng vui Mừng ngày giáng sinh an hòa mừng hạnh phúc cho muôn nhà Từ thành phố hay đồng quê muôn nơi vang tiếng hát ca vang lừng Đêm nô-en đêm noel ta hãy cùng vui lên Đêm nô-en ơi đêm ta sinh ơn trên ban hòa bình cho trần thế Đêm nô-en chuông vang lên chuông giáo đường vang lên Đêm nô-en đêm noel ta hãy chúc nhau an bình Boong binh boong... Boong binh boong chuông giáo đường ngân vang Đêm nô-en chuông vang như mang bao yêu thương lan trên ánh sao sáng Boong binh boong... Boong binh boong đêm giáng trần Thiên Chúa Xin dâng lên tiếng kinh trong đêm Thiên Chúa giáng sinh ra đời… Nhân dịp lễ Chúa Giáng sinh 2014 - Tết Dương lịch & Ất Mùi 2015, Thân chúc tất cả Thân hữu và Gia quyến “MỘT MÙA GIÁNG SINH BÌNH AN và MỘT NĂM MỚI THÂN TÂM AN LẠC” PHẠM VŨ (Tham khảo: Tài liệu trong Sách báo & Internet) KHÔNG CÓ MÙA XUÂN Cuộc đời không có mùa Xuân Quạnh hiu đi trọn đường trần đơn côi
Trăng sầu héo úa vành môi Như con chim nhạn lẻ đôi lạnh lùng
Trang thơ vui gượng lắng chùng
Tàn phai tựa cánh Phù dung cuối ngày
Kiếp xưa tội lỗi đọa đầy Kiếp này phải nhận chua cay bẽ bàng
Hoa Sầu đâu tím ngỡ ngàng
Ngậm hương vị đắng dở dang suối tình
Tìm đâu ánh nắng bình minh Đốt lò hương cũ phận mình xót xa
Cánh cò bay lả bay la Đồng xanh lúa mới đậm đà tơ duyên
Bể đời chìm nổi thân thuyền Sóng xô, gió dạt ước nguyền vỡ tan
Nhạc lòng thổn thức trái ngang Cung đàn đứt đoạn úa tàn cỏ hoa
Dư âm nửa khúc tình ca Bờ mi nhẹ khép – nhạt nhòa bão giông NGÀN PHƯƠNG TÌNH TA Yêu em từ độ trăng tròn Đến tuần trăng khuyết vẫn còn thiết tha Yêu từ mới chớm nụ hoa Khi tàn úa vẫn đậm đà thủy chung. NGÀN PHƯƠNG
NỖI NIỀM Anh sâu kín như loài hoa bất hạnh Như dòng sông cổ tích buổi khai nguyên Như bóng núi đắm mình trong tuyết lạnh Cho em buồn đau gãy cánh chim uyên NGÀN PHƯƠNG MIỀN CA DAO Em rủ anh về miền ca dao Chiếu trải, chè xanh, bướm lượn bờ ao Cánh cò bay lả, mây bông trắng Lắc lẻo cầu tre, nón quai thao * Thuyền ai buồm thắm lướt trên sông Ai đợi chờ ai, sáo sổ lồng Xa xót bên bồi thương bên lở Âm thầm nước mắt lá diêu bông * Nghĩa mẹ ơn cha sáng nước non Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông Tình làng nghĩa xóm thơm hương cốm Trầu cau e ấp thắm vườn hồng * Chùa xuân trảy hội hương sen ngát Én liệng, cờ bay, lúa mượt đồng Tiếng chim nào vang trong tiếng hát Lục bát ai về, ai nhớ mong? Mùa xuân Giáp Ngọ 2014 VÕ KIM CƯƠNG
GIỌT XUÂN Giọt xuân không rơi từ đỉnh trời mà rơi từ hoa lá thấm vào lòng đất đá nồng ấm sức xuân Giọt xuân không rơi từ đỉnh trời mà rơi từ hoa lá thấm vào lòng người lan tỏa khát vọng tươi xanh làm bừng nở trên môi em tươi thắm và rực sáng trong mắt anh mê đắm… Hãy hứng trọn giọt xuân của Đất Trời để bừng nở trong tất cả mọi người ấm nồng sức xuân và tươi xanh hoa lá 05.02.2014 VÕ KIM CƯƠNG
HOA NGUYỆT Hoa khoe thắm nét, Nguyệt hằng nga Nguyệt sáng, Hoa tươi dáng mượt mà Hoa cảm Nguyệt quang, thêm sắc sảo Nguyệt nhường Hoa đẹp, ánh bao la Tối về lạnh lẽo Hoa trông Nguyệt Ngày đến nồng nàn Nguyệt đợi Hoa Kết nối tình Hoa duyên hảo Nguyệt Nguyệt Hoa rạng rỡ đẹp đời ta... Thanh Châu PHONG LƯU Bao năm thoải mái, tuổi vui già Xuân ở trong lòng chớ chẳng xa Tối đến thưởng trăng, trêu chị Nguyệt Ngày về dạo kiểng, ghẹo nàng Hoa Bon chen thế sự thôi ham muốn Xướng họa thơ vần tiếp hát ca Cuộc sống phong lưu xem cũng thích Bao năm thoải mái, tuổi vui già ... Thanh Châu XUÂN… MIÊN MAN Chưa đủ ấm mà sao xuân tắt nắng, Để võ vàng lộc mới nhú mầm duyên ? Chưa đủ nhớ mà sao em xa vắng Để thẫn thờ lòng mới trỗi màu xuân ? 04.02.2014 Nắng ấm, môi tươi Ánh mắt ngời ngời Xuân đà quay gót Hương mãi gọi mời Sáng nay nhặt cánh mai tươi Thả bay phố thị nhớ thời đã qua Mùa xuân chẳng chút phôi pha Kể từ em đậu trong nhà riêng tôi... 05.02.2014 Bao giờ xuân trở lại Xin gói ghém hành trang Cho chuyến đi vô lượng Cho niềm vui ngút ngàn Phủ trên muôn cành phượng Sắp đỏ vị nát tan Hãy là xuân ngất ngưởng trên đất trời miên man... 06.02.2014 Có lẽ rằng, rằng xuân là bong bóng Tròn thật tròn mà mỏng mảnh vô cùng Chưa kịp ngắm đà phập phù tan vỡ Chưa kịp hôn môi đã muối lệ dâng Đừng yêu xuân, vì xuân muôn đời chỉ hẹn hò cùng những kẻ nát buồng tim ! 06.02.2014 Có lẽ mai này ta vẫn sẽ Nhìn bình minh bằng ánh mắt hôm nay Một ngày dài có hương vị ngất ngây Khi em qua phố, chợt nhìn ta bối rối... 06.02.2014 LAM TRẦN QUÀ TẶNG Có người khâu mũ cho tôi Để che gió lạnh ủ hơi ấm nồng Có người tặng áo mùa đông
Ướp cả hoa đồng hương bếp lửa than Có người tặng một cây đàn
Tình tang trầm bổng nhặt khoan tiếng đời Có người tặng bút cho tôi Để nguồn thơ nhạc viết lời yêu thương
Riêng người chỉ tặng vô thường Không mà hóa có dặm đường bên nhau. LÊ NGUYÊN (13.6.2002) Rượu SAKÊ Tặng X.P. Rượu SAKÊ em trao Mang huơng thơm anh đào Từ cõi xa Phú Sỹ Mà ấm gần xiết bao Chỉ còn anh và em Bên nụ mai hé nở Cần chi lời chúc nữa Sẽ vừa thiếu vừa thừa
Phải đâu tại miếng trầu Để trò chuyện tâm giao Chút gừng cay xứ Huế Mứt ngọt lịm cho nhau. Rượu còn nguyên chưa rót Mà đã lâng lâng rồi Bởi trái tim đã trót Mang cơn bão không nguôi !
LÊ NGUYÊN Chiều 01.02.2011 29 tết TÂN MÃO LÚA Lúa vàng, lúa bạc Lúa ngọc, lúa ngà Lúa tươi trĩu hạt Lúa hát tình ca Lúa thơm đồng nội Lúa về muôn nơi Lúa nguồn hạnh phúc Lúa ấm muôn đời Lúa tròn óng ả Lúa ấm lòng tôi Lúa xinh lúa đẹp Bình minh trong tôi Lúa vui lúa khỏe Lúa hát, lúa cười Lúa nguồn thương mến Thiên thần trong tôi Hãy về đây nhé Lúa ơi, Lúa ơi Miền Nam rất trẻ Yêu lúa muôn đời. PHÙNG CHÍ TÂM
KÍNH DÂNG MẸ Mẹ là mặt Trời Mẹ là mặt Trăng Mẹ là trái đất Mẹ là sông dài Mẹ là biển rộng Mẹ là núi cao Mẹ là hoa thơm Mẹ là trái ngọt Mẹ dòng sữa trào Mẹ là Thánh Tiên Mẹ là Chúa Trời Mẹ là Đức Phật Mẹ sinh các con Hạnh phúc tự hào. PHÙNG CHÍ TÂM Sài Gòn – 10.2005 HƯƠNG PHỐ XƯA Phố xưa – Lời bỏng cháy Nụ hôn đầu đắm say Nồng nàn ôm bóng tháp Hồ Gươm xanh trời mây * Rộn ràng hương hoa sữa Rực thời hoa đỏ say Nuột nà em trăng phố Sóng xô bờ ngất ngây PHÙNG CHÍ TÂM CUNG CHÚC TÂN XUÂN Chúc mừng thi hữu buổi tân niên Đạo phúc đầu năm kết nụ duyên Nét bút văn chương nhiều triển vọng Việc nhà sinh kế vẫn triền miên Giàu nhân giàu nghĩa nhiều châu báu Đông cháu đông con lắm của tiền Tết đón đôi vần xin kính chúc Toàn gia vui vẻ được bình yên LANG NGUYÊN XUÂN THANH BÌNH Hoa hồng hé nhụy đợi Xuân sang Già trẻ đón đưa rộn xóm làng Ngày tết cờ mừng bay phất phới Đầu năm pháo rước nổ rền vang Lập lòe ngấn nước in làn biếc Ngào ngạt hương mai lộ sắc vàng Môi nhấp rượu nồng say thế sự Thanh bình rạng rỡ khắp quê hương LANG NGUYÊN KHAI BÚT ĐẦU XUÂN (XƯỚNG) Ất Mùi mong đến đợi xuân sang Khai bút đầu năm thảo mấy hàng Chúc bạn cuộc đời luôn hạnh phúc Mong mình sức khỏe vẫn an khang Quê nhà về ở không do dự Đất khách rứt đi hết buộc ràng Sự nghiệp tinh thần trao đất nước Nâng đàn vui khải tính tình tang Gs. Tiến sĩ TRẦN VĂN KHÊ
MỪNG ĐÓN XUÂN VỀ (Họa bài thơ của chú Trần Văn Khê) Mai vàng ngậm nụ tiết xuân sang Tập tễnh đường thi dệt mấy hàng Tình nhạc điểm tô niềm hạnh phúc Duyên thơ nồng thắm nghĩa ninh khang* Sầm Giang quan khách mời tham dự Đất Vĩnh bà con chúc rộn ràng Mừng đón người về nơi đất khách Quê nhà cung bậc “nốt” tình tang. TRẦN THỊ NGỌC HỒNG 16.11.2014 · Trần Thị Ngọc Hồng là cháu ruột của Gs. Trần Văn Khê, Gv Trường Mỹ Thuật Vĩnh Kim Rạch Gầm, Tiền Giang. · Câu 4: “Duyên thơ nồng thắm nghĩa tào khang” (tôi nói “tào khang” không được ổn và đề nghị sửa lại là “ninh khang”). Tác giả Ngọc Hồng chấp nhận cho tôi được sửa lại là “Duyên thơ nồng thắm nghĩa ninh khang” MÙA XUÂN HÒA BÚT (Trần Thị Ngọc Hồng bảo tôi họa bài thơ của chú Khê cho vui) Gió thoảng giao mùa xuân báo sang Đề thơ khai bút chúc vài hàng Vang lừng hải ngoại người xa xứ Quê cũ ta về vẫn kiện khang Giám khảo nhiều nơi mời được dự Nhớ về cố quốc rõ ràng ràng Tu Tây thân gởi tâm đầu Việt Du ký Lão hãnh chí khí “tang” TRẦN VĂN HỮU 07.12.2014 Trích yếu: “Tu” là tu nghiệp Ghi chú: Kiện khang: được mạnh khỏe bình an Luận ngữ: Hành tàng. Dụng chi tắc tàn xả chi tắc tàn (dùng thì ra làm không dùng thì ở ẩn) Rõ ràng ràng: một cách rõ ràng
Chú ý: Tàng đọc trại thành “Tang” cho đúng luật vần Lão Tảng Du Ký: cuốn tiểu thuyết của Trung Hoa, ông này có nghề đàn hát rất hay chuyên về bốc thuốc trị bệnh có tài, ông đi chơi và viết Du Ký ghi lại nhiều nơi đã đi qua trong nước Trung Hoa. Ai ai cũng đều kính nể.
Dáng con thuyền lướt nhẹ băng băng Mây bềnh bồng như tóc ai phiêu lãng Dù nắng rất trong hay màu trời ảm đạm Như chẳng định hướng đi thuyền vỗ sóng bập bùng Và muốn dấu những niềm riêng bối rối Nên mặt hồ vẫn phẳng lặng mênh mông. * Thuyền muốn đi xa, có biển rộng vô cùng Ào ạt dậy muôn ngàn con sóng cả Sóng dào dạt như tình yêu em đó Chẳng bao giờ em hiểu được đâu anh! * Yêu rất yêu mặt hồ dịu dàng khép kín Mà vẫn hướng về mặt biển rộng mênh mông Biết lòng anh như con sóng mịt mùng Lòng em vẫn xanh màu tình yêu dào dạt. * Sao hiểu được biển muôn trùng bát ngát Vẫn nghìn đời cuốn hút trái tim ai? Đinh Xuân Hảo
MÀU TÌNH YÊU Trong lòng em Tình yêu vẫn rất xanh Chẳng chút bụi thời gian nào Làm phai mờ dĩ vãng … * Trong lòng em Tình yêu vẫn rất gần Dù người đã xa xăm … * Như cánh chim xa khơi ! Anh đi tìm đất mới Tình yêu xưa Chắc đã phai màu ? Còn gì chăng Khi mây chiều bối rối ? Còn gì chăng Khi sóng vỗ xa khơi ? Đinh Xuân Hảo
ĂN TẾT Mới đó mà Xuân đã đến đây ! Xuân đi, Xuân lại, có gì hay ? Quanh năm ăn mãi, còn chưa đổi ? Suốt tháng mặc hoài, vẫn muốn thay ! Cơm nước ngày thường đà mắc nợ Rượu chè Tết nhất lại đi vay ! Tân gia, giỗ chạp… ăn, rồi Tết Mồm bé mà sao khó đổ đầy ! Tâm Nguyện ÔNG TRỜI CŨNG BÓ TAY! Thật là hết nói, đám con người Lấy nhau không được, họ kêu Trời ! Oán trách Ông Tơ, hờn Nguyệt Lão Sao không cho họ kết thành đôi ! Cho thành chồng, vợ, tưởng yên rồi Vài năm, hục hặc, đổ cho Trời "Chẳng chịu ban Duyên, giao cục Nợ" ! Bó tay ! Không lẽ gọi Thiên Lôi ? ! Tâm Nguyện XUÂN XƯA Hương xuân tết cổ truyền muôn thuở Tôi chìm vào nỗi nhớ xa xưa Giá lạnh ùa về trời lất phất mưa Ấy là lúc xuân đến nhà gõ cửa * Trời đất đang cựa mình thay áo mới Lao xao lá vàng, mầm non phơi phới Ấm áp xuân đời, mùa nào đẹp hơn Xua tan giá lạnh tê tái tâm hồn * Những trải nghiệm luôn luôn háo hức Bầy trẻ thơ náo nức vui tươi Xuân tràn trề trong ánh mắt nụ cười Như những mầm non, đầy căng sức sống * Trò chơi xuân giản đơn mà sôi động Trống hội xuân vang rộn khắp miền quê Rung động tâm hồn tuổi trẻ ngây thơ Xuân xưa quay về… lấp lánh giấc mơ LÊ MINH CHỬ EM & THỜI GIAN Mùa Xuân rủ nhau ra phố Chợ hoa rực rỡ khoe tươi Em – tôi rộn ràng hớn hở Hạt dưa hồng thắm môi cười. Trước biển nồng nàn – mùa Hạ Tự dưng nhớ đến se lòng! Hình như tiếng nàng tiên cá Đang hòa cùng sóng mênh mông? Mùa Thu – nhặt từng chiếc lá Chợt nghe tiếc nuối đong đầy Nhớ lắm áo em buổi đó Cũng vàng như lá chiều nay… Mùa Đông – se se lạnh gió Nhớ người đan áo năm xưa Mười ngón tay thon bé nhỏ Ủ cho ấm áp suốt mùa. Thời gian – giống hệt như em: Đã qua là qua mãi mãi Mặc người ai nhớ ai quên Cũng chẳng bao giờ trở lại! GIÁNG NGỌC (G.Đ.) LỤC BÁT TÌNH XƯA Trăm năm trong cõi phù sinh Ba sinh duyên nợ duyên tình trớ trêu Đoạn trường tình cũ Thúy Kiều Vầng trăng muôn thuở càng khêu tấc lòng Vườn Thúy thoa đổi khăn hồng Thề nguyền ghi tạc chữ đồng trăm năm So dây gảy phím đàn cầm Khúc Chiêu Quân đó thanh âm xoay vần Trăng thề còn đó ngàn năm Người thề bỗng chốc xa xăm cuối trời Lỡ duyên tủi phận một đời Tiết trinh đánh mất bời bời lòng son Hiếu trinh giữ vẹn tình con Nhờ Vân kết nghĩa sắt son cùng chàng Kim Trọng giữ ngọc thề vàng Đường xa nghìn dặm tìm nàng về đây Thúy Vân giữa cảnh xum vầy Duyên em còn đó giờ đây chị về Thúy Kiều Kim Trọng đề huề Bái đường giao bái phu thê giao hòa Tình này có phải trăng hoa ? Đem tình ân ái đổi ra sắt cầm Khăn hồng tái hợp cành trâm Đoạn trường chín khúc ngũ âm thỏa nguyền Lục bát tình nối thiên niên Trăm năm hoài niệm Tiên Điền Nguyễn Du HUỲNH THIÊN KIM BỘI CÁM ƠN TÌNH YÊU Cám ơn anh đã yêu em Yêu như nắng sớm nối thêm đêm dài Cám ơn anh đã yêu em Yêu mê say đắm êm đềm ngất ngây Anh yêu nhất làn tóc mây Hương thơm hòa quyện cho đầy nhớ nhung Cám ơn anh đã thủy chung Tình nồng say đắm tương phùng với nhau Trời chiều bỗng đổ mưa mau Nụ hôn bất chợt, ôi ! sao ngọt ngào Tim em xao xuyến dạt dào Bướm hoa cành lá, xôn xao giật mình Cám ơn nơi chốn tự tình Nụ hồng lay động, nhìn mình hôn nhau HUỲNH THIÊN KIM BỘI
NGỢI CA HỒNG ÂN CHÚA Đêm đông rực rỡ ánh đèn màu Ngàn sao lấp lánh tỏa trời cao Bên nhau cùng hát mừng Thiên Chúa Vang tiếng chuông ngân vui dạt dào. * Mừng Chúa giáng trần độ thế nhân Ban xuống đời bao ước mộng xanh Hồng Ân, ơn Chúa thành tâm nguyện Thương yêu, hạnh phúc sống an bình. * Noel cùng hát, ngợi ca Người Bài đồng ca Chúa Sinh ra đời Trong hang đá BeLem giá lạnh Giáng Sinh, ban tình yêu muôn nơi * Cùng ngợi ca Tình Yêu Thiên Chúa Người xuống đời gánh chịu thương đau Cho kiếp người vơi bớt khổ sầu Nơi trần thế Hồng Ân cứu rỗi.
Phạm Thị Minh-Hưng
LÁ THƯ ĐẦU XUÂN Xuân đang về, nhớ ngày xưa không anh, Đã mấy mùa qua, lá rụng bên mành Anh đi mãi - xa khung trời kỷ niệm, Mình em ngồi, đong đếm dấu tình xanh * Trời đang mưa cõi lòng em hiu quạnh, Nhớ rất nhiều ngày hai đứa bên nhau, Mùa Xuân cũ, ngất ngây tình yêu dấu Anh dịu dàng, e ấp nói lời yêu, Tình đẹp như... mây trắng với trời cao ! Trong sáng quá, ngây thơ như vạt nắng, Quấn quýt nồng nàn, ấm áp chiều đông, "Anh nhắn nhủ, hãy tin yêu hy vọng, Tình ban đầu, nhớ giữ mãi cho nhau..." Lời anh hứa, em vội về ươm mộng, Xây lâu đài, ước vọng mai sau... Mong duyên mình ngát thơm hương cau Em có đâu ngờ...tình bỗng phai màu Bao thay đổi, ôi, dòng đời muôn sắc, Mùa Xuân ấy, một ngày xuân tan tác, Anh ra đi, tình cách ngăn còn đâu Em vẫn mơ, lòng vơ vẩn âu sầu, Chẳng biết được... tình chỉ là ảo mộng Hiu hắt, héo mòn, vời vợi ngóng trông, Ôm trái sầu, nhung nhớ mấy mùa đông ! * Mùa xuân này, anh nhớ về nha anh, Cành Hồng thắm ngày xưa anh tặng Vẫn còn đây, nồng ấm nụ hôn đầu, Nhớ ngày xưa, dấu yêu, ta bên nhau, * Anh yêu hỡi, nhớ về như ước hẹn Hãy về nha anh, Xuân nồng thắm đợi chờ Nhớ thương xưa, tình vấn vương vời vợi, Tình nồng xanh - thuở ấy vẫn tràn đầy, Bao kỷ niệm, còn trong em muôn thuở, Là vạt nắng hồng sưởi ấm nỗi đơn côi Tình yêu dấu, Xuân nay còn ngóng đợi Như cánh hoa đời, cần thiết nắng Xuân tươi... Phạm Thị Minh-Hưng 14/2/2013.
MẸ VỚI SÔNG CẦU Sông Cầu nước chảy lơ thơ Triền miên bồi đắp đôi bờ phù sa Âm thầm mỗi phút giây qua Nuôi con, mẹ vắt sức ra vơi đầy… * Mở bàn tay gặp chỉ tay, Dòng sông thao thiết đêm ngày trong con. Mẹ như nước chảy tự nguồn, Con như đất bãi, sóng cồn phù sa… Bắc Ninh, 08.3.1964 VŨ ĐÌNH HUY MOTHER AND THE CAU RIVER The Cau river flows stragglingly Interminably consolidating the two silty shores Keeping silence in each one of the minute and second that has gone by Feeding me, you’ve squeezed out your strength and health… * Opening the palm, one sees its lines That are like rivers that flow so passionately day and night in my mind You’re like water originating from the source I’m like an alluvium land with whirling silty waves… Bắc Ninh, 08.3.1964 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN TÂM HỒN Tâm hồn người như biển bao la Tình thương yêu như nước chan hòa Hơi nước thành mây, mưa khắp chốn Lại tụ về sông chảy đến ta Hà Nội, 04.5.1963 VŨ ĐÌNH HUY THE SOUL Our soul is like the immense sea While love is like overflowing water Water steam turns into cloud and rain everywhere Then gather into rivers that again flow towards us. Hà Nội, 04.5.1963 VŨ ĐÌNH HUY Translated by VŨ ANH TUẤN
NGỌC LAN Nằm nghe tiếng hát nhân ngư Nửa đêm hoang đảo vật vờ triều lên Còn nhung mềm bước chân em Anh rêu xanh phủ kín miền biển xưa Hom hem ghềnh đá già nua Nghìn năm nằm mộng đợi mùa trùng sinh Em ngoe nguẩy mắt vô tình Bước đi dẫm động hồn anh lạ lùng Chưa chung sông đã cách sông Nghìn sau cổ tích nát lòng hỡi Lan! Thiếu Khanh (Trên sông Sài Gòn, đêm 16/01/1966) (Nghìn Xưa Để Lại)
Về bài thơ Ngọc Lan: Ngọc Lan là tên một người con gái mà nếu bây giờ vẫn còn ở đâu đó trên cõi đời này thì nàng còn cách cái ngưỡng “xưa nay hiếm” không bao lâu nữa. Tôi không nhớ do tình huống nào mà, cách đây gần năm mươi năm, ba cậu thanh niên, thân nhau qua những sinh hoạt “thi văn đoàn” từ thời Trung học ở Phan Thiết, giờ lại có chung một cô “em gái kết nghĩa” là học trò trường Tây ở Sài Gòn. Trong ba người “anh kết nghĩa” của Ngọc Lan, chỉ có Hoàng ở ngay tại Sài Gòn; Thành và tôi ở bên ngoài hoặc xa thành phố, chỉ lâu lâu mới có dịp gặp nhau, mà gặp nhau đủ bốn người thì thường là vào dịp Tết. Có lần, vào một ngày mồng một Tết, bốn chúng tôi như trẻ con, mua mấy phong pháo, thuê một chiếc xe ngựa chạy lóc cóc khắp đô thành, vừa ngồi trên xe đốt từng chiếc pháo rời ném xuống đường nổ lốp bốp. Chúng tôi chạy cả vào đường Tự Do, tức đường Catinat. Hồi đó xe ngựa còn chạy chở khách trong nội thành nhưng người ta cấm xe ngựa chạy vào con đường quý tộc này. Tuy vậy, ngày Tết đường phố vắng vẻ lắm, chớ không nhộn nhịp như bây giờ, nên chúng tôi cứ cho xe chạy và đốt pháo suốt đường mà chẳng sao. Ngọc Lan thích lắm. Ngọc Lan tuy không thuộc hàng giai nhân chim sa cá lặn, nhưng nàng khá xinh và rất khả ái. Cùng với phong thái lịch thiệp và tự nhiên của “con gái trường Tây” (Ngọc Lan học Marie Curie) Ngọc Lan còn có bản tính hồn nhiên rất đáng yêu và luôn tế nhị trong xử sự với ba người “anh khác họ” của mình. Sau một thời gian, cả ba chàng “ngự lâm quân” đều đem lòng yêu cô em kết nghĩa bao giờ không hay. Với sự nhạy cảm của con gái, Ngọc Lan biết điều đó. Vào đêm 16/01/1966, còn vài ngày nữa hết năm Ất Tỵ sang năm Bính Ngọ, chúng tôi có đủ bốn người. Sau một buổi chiều đi chơi và ăn tối với nhau trong phố, chúng tôi thả bộ ra Bến Bạch Đằng (bờ Sông Sài Gòn) ngồi chơi trò chuyện với nhau đến khuya. Như những lần đi chơi trước, thỉnh thoảng Ngọc Lan hát khe khẽ một bài tình ca bằng tiếng Pháp. Tuy không phải là một ca sĩ chuyên nghiệp và không nhạc đệm, nhưng giọng hát của “mỹ nhân ngư trên bờ” luôn khiến ba “chàng trai thời chiến” ngây ngất. Tuy vậy, đêm đó tôi không dành tâm trí để thưởng thức tiếng hát của Ngọc Lan. Trong lần hội ngộ này, tôi và Thành nhận ra Ngọc Lan có vẻ thân thiết với Hoàng hơn, dù nàng cố giấu tình cảm thật của mình để buổi đi chơi không mất vui. Lâu lắm chúng tôi mới gặp nhau đông đủ thế này nên dễ nhận ra những biến đổi tình cảm biểu lộ qua những cử chỉ bên ngoài dù cố kềm chế của Hoàng và Ngọc Lan mà trong những lần họp mặt nhau trước đây không có. Ngọc Lan đã chọn Hoàng. Lớn hơn tôi một tuổi, Hoàng có một thân hình cao to vạm vỡ, rất giỏi võ (tập võ từ nhỏ) tính tình hào hiệp, ngay thẳng, thân ái với mọi người, bạn được Ngọc Lan chọn là đúng. Hoàng lại ở ngay Sài Gòn, có nhiều cơ hội tới nhà thăm… mẹ nàng vào cuối tuần và thường được bà cho phép đón Ngọc Lan đi chơi! Thấy tôi im lặng khá lâu, Ngọc Lan hỏi: “Tối nay anh nghĩ gì mà luôn có vẻ tư lự?” Tôi nói: “À, anh đang làm thơ.” “Thế thì anh phải đọc cho em và anh Hoàng, anh Thành cùng nghe.” Tôi cười. Tất nhiên. Nhưng nghe tôi đọc xong Ngọc Lan bối rối . Em chống chế yếu ớt: “Em ngoe nguẩy mắt vô tình” với anh bao giờ đâu!” Dù sao, với hai câu cuối trong bài thơ tôi đã tiên liệu một đoạn kết không vui về mình. Đó là lần cuối cùng, chúng tôi gặp nhau đủ mặt bốn người. Sau Tết, từ Hậu Nghĩa, tôi nhận được thư của Hoàng “tâm sự” về tình cảm của mình với Ngọc Lan, và cả dự định cưới nàng. Tôi ngạc nhiên thấy mình không tuyệt vọng đau đớn gì cả! Cũng không thấy buồn nhiều lắm. Khi làm bài thơ Ngọc Lan, tôi đã biết chuyện đó rồi. Tuy vậy tôi cũng hơi cảm thấy hụt hẫng, chơi vơi, nhẹ nhẹ… đủ để làm thơ! Nhưng từ đó tôi không có một bài thơ thất tình hay thương nhớ nào khác với Ngọc Lan! “Như thế là phải – Hai đứa nó lấy nhau là phải”, tôi an ủi mình. “Đâu có… rớt ra người ngoài! Nàng vẫn còn là em gái kết nghĩa của mình mà!”. Ít lâu trước khi rời Sài Gòn vào gần cuối năm 1968, tôi có dịp đến thăm vợ chồng bạn và ở lại chơi một ngày từ sáng tới chiều tại tổ uyên ương của họ ở một nơi nào đó ở Gò Vấp mà bây giờ tôi đã quên. Lần đó, tôi biết rõ một điều đã biết: Ngọc Lan trước sau chỉ là một đứa em gái đáng yêu! Em chưa là người tình của mình một ngày nào cả; và gần ba năm sau gặp lại, em vẫn là một đứa em kết nghĩa rất dễ thương như từ nhiều năm trước. Nhưng bài thơ Ngọc Lan thì vẫn còn như một kỷ niệm. Ngọc Lan biết hạnh phúc của mình nằm ở đâu nên sau ngày cưới em không tiếp tục đến Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Đó cũng là lần cuối cùng tôi gặp Hoàng và Ngọc Lan, và mãi 32 năm sau tôi mới từ núi rừng trở về lại thành phố vào năm 2000. Đến nay, dường như không ai trong các bằng hữu xưa có thông tin nào rõ ràng về gia đình người sĩ quan không quân này. Bản thân tôi từng trôi dạt lên rừng núi hàng chục năm, không có dịp trở về Phan Thiết. Khoảng năm 2005, biết tin tôi… sống sót sau cuộc chiến tranh và đã trở về thành phố, Thành đang dạy học từ Long Khánh đã về Sài Gòn tìm thăm tôi. Theo Thành cho biết, sau “ngày giải phóng” có người gặp Hoàng tại Phan Thiết, trong tang lễ của ông thân sinh của Hoàng. Nhưng sau đó không lâu Hoàng đã “biến” đi đâu không rõ. Có người nói đi học tập về Hoàng đã đưa gia đình đi “kinh tế mới” ở đâu đó, nhưng cũng có tin Hoàng đã vượt biên. Cả gia đình ư? Nếu Hoàng vượt biên một mình, như thế có khả năng hơn, thì Ngọc Lan ra sao? Bao nhiêu người trở về làm “Việt kiều yêu nước”, Hoàng vẫn bặt tin. Chỗ ở trước kia của vợ chồng Hoàng ở Gò Vấp thì tôi không nhớ. Thành phố thay đổi nhiều quá không còn dấu vết xưa nào làm mốc nhắc nhở nữa. Cả ngôi nhà bà mẹ của Ngọc Lan mà ngày xưa chúng tôi từng nhiều lần đến thăm (con gái) bà, bây giờ tôi cũng không nhớ nó ở đâu! Bà cụ chắc đã qua đời từ lâu. Tôi và Thành cũng không được gặp lại người em trai của Ngọc Lan để biết tin tức gia đình nàng. Trong hồi ức của mình tôi chỉ còn “dấu giầy” cổ tích của Ngọc Lan từ “nghìn xưa để lại”. Còn Thành bây giờ đã về hưu đang sống ở Long Khánh. Mấy năm gần đây Thành bị thoái hóa điểm vàng trong mắt, thị lực cứ yếu dần. Lúc này Thành không còn nhìn thấy những chữ số trên điện thoại cầm tay của mình để bấm gọi cho bạn bè được nữa. (Có cháu nào trên là con hay cháu của ông Đ.H Thành nói ở đây, tình cờ đọc được bài này, hãy đọc cho ba/ông của cháu nghe mấy dòng hồi ức này của bác Thiếu Khanh).
Phụ Bản III
Tác giả: Dương Lêh Cứ mỗi lần đi đâu về không thấy bà ở nhà, ông Chín lẩm bẩm: - Thiệt tình không hiểu nổi. Người ta uống rượu, nó vô máu mới có chuyện ghiền, còn cái này, đánh bạc có gì vô trong cơ thể đâu mà sao ghiền dữ vậy? Đó là ông Chín muốn nói tới bà nhà của ông lúc này đang ngồi ở một sòng tứ sắc tại nhà một bà bạn, vợ của một đồng nghiệp cũng đã về hưu có tên là Mạnh giống như thể chất của ông ta, rất khỏe. Hai ông bà này sống rất thoải mái. Con cái, chỉ hai đứa, một trai một gái đều đã có gia đình và đã có nhà cửa ở riêng. Hai ba tuần lễ họ mới về thăm hai ông bà trong một buổi sáng hay một buổi chiều chủ nhật nào đó, rồi biến đi để lại hai ông bà già trong căn nhà hai tầng ở cuối một con hẻm cụt sạch sẽ và rất yên tĩnh. Hai ông bà già này rất hợp tính nhau vì có cùng sở thích đó là chơi bài tứ sắc. Mỗi khi bà đang chơi bài với bạn rủi như phải làm một việc gì đó trong chốc lát, nếu có ông ở nhà, ông sẵn sàng nhảy vào trám chỗ, cầm bài giùm bà một cách chuyên nghiệp. Ông Mạnh cũng thường đi đánh tennis, một tuần ba hoặc bốn buổi sáng. Ngày nào ông đi đánh tennis coi như hết cả buổi sáng có khi quá trưa mới về nhà. Ông nói, có gì đâu, đánh tennis xong cả “hội” kéo nhau đi ăn sáng. Địa điểm ăn sáng cũng thường thay đổi, nay ăn phở “tàu lặn”, hôm khác ăn bánh mì “bò né”, hoặc “búp-phê”. Cũng có khi họ kéo vào nhà hàng “trăm món”. Nói như vậy là vì trong nhà hàng này bán rất nhiều món, thôi thì đủ thứ, hủ tíu mì, bánh ướt, bánh cuốn chả lụa, bún bò, phở tái… giá, bánh bèo, bánh nậm... nhiều lắm không thể nào nhớ hết. Mỗi món là một gian hàng dưới những hình thức khác nhau sắp thành hàng trong khu vực sân trước. Có cả hàng gánh bán rong, có cả xe hủ tíu mì theo kiểu người Tàu trong Chợ lớn, chung quanh bọc kiếng có vẽ hình Tề thiên Đại Thánh và những nhân vật trong Tam Quốc Chí như Quan Công, Trương Phi và đặc biệt có hình Triệu Tử Long đang đánh trận Đương Dương Trường Bản. Có cả xe bán cháo gà treo lủng lẳng mấy con gà vàng rực, bóng lưỡng. Thức uống thì có cả xe nước mía, xe bán đậu xanh bánh lọt, cái món uống ngon lành đã xuất hiện ở các trường học cách đây năm sáu chục năm về trước. Các hội viên trong nhóm tennis mỗi lần đến nhà hàng này khi ra về đều mang cái bụng căng kè vì đã ăn hơi nhiều món. Có người ăn một tô hủ tíu mì có cả hoành thánh rồi, nhưng sau đó vẫn phải chơi một cái bánh tiêu bỏ vào đó một cái xíu mại nóng hổi cùng với một cái dầu chá quảy chấm với nước lèo hủ tíu. Có người làm một tô bún bò đặc biệt còn kèm thêm một đĩa bèo, nậm, lọc, ít… Mấy bà vừa đi ra về vừa than: - Mèn ơi! Ăn kiểu này cholesterol rượt chạy có cờ! Ông Mạnh trấn an: - Lâu lâu ăn một lần đâu có sao. - Sao hay trăng gì không thấy. Tới chừng ngả một cái bịch thì biết liền. Nói vậy chứ chừng một tháng sau mấy người lại trở về cái nhà hàng trăm món này. Cả hội đều là những thành viên rất sành điệu về ẩm thực. Cho nên, mỗi khi ăn xong, cả hội kéo vào một quán cà phê “chính hãng” Ban Mê Thuột chứ không bao giờ vào một quán giải khát bình thường, mặc dù khi vào quán không một người nào gọi một ly cà phê đặc sản mà chỉ gọi những thức uống thông thường như nước ngọt, trà lipton, la hán quả, có ông mạnh dạn lắm mới gọi một ly sữa chocolat để thưởng thức mùi thơm của cacao. Hỏi ra thì người nào cũng sợ bị “ép tim” sau khi uống một ly cà phê chính hiệu con nai vàng. Đây là giờ phút để mấy hội viên này hàn huyên tâm sự. Có bà thì kể về chuyến đi từ thiện vừa qua ở mấy xã vùng sâu vùng xa. Bà này cũng than thở thấy người dân ở đó nghèo khổ tội nghiệp quá! Mỗi lần đi như vậy đều có bác sĩ đi theo để khám bệnh, cho thuốc. Những người bệnh nặng thì được hướng dẫn lên trạm y tế để nơi đây điều trị hoặc chuyển lên tuyến trên. Có bà thì kể chuyện đi chùa. Bà này kể hôm lễ Vu Lan bà đi viếng mười cái chùa trong vòng một ngày. Bà than thở: - Mới đầu tui chưa biết đi mười cái chùa ra sao, người ta nói là “mười kiểng chùa”, tui đi thử, trời ơi, mệt ứ hơi. Bà bên cạnh nghiêm trọng: - Ý. Bà đừng nói mệt, phải nói là khỏe, “ở trên” mới chứng cho bà làm công quả tốt. - Vậy hả? Mà sao người ta kêu là “kiểng” chùa? Ông Mạnh chen vô giải thích: - Từ ngữ này có từ xưa rồi. Từ hồi còn vua chúa trên đất nước này. Hồi đó người ta không nói là “cảnh” vì sợ phạm húy, sợ trùng tên với một ông hoàng tử trong triều đình. Rồi bà này quay sang bà kia: - Bà bảo phải nói “khỏe” rồi ai chứng nhận cho bà? - Thì hổng ông Trời cũng ông Phật chứ ai? Bà được chứng nhận người tốt việc tốt để sau này bà chết khỏi cần… nhắm mắt. - Bà! Quỷ!! Rồi thoi vào hông bà kia một cái. - Oái! Sorry, bà chết nhắm mắt như thường! Ông Mạnh lại chen vô: - Thực sự tôi chưa nghe nói trong kinh nào khuyên chúng sinh nên tranh thủ đi viếng mười cái chùa trong vòng một ngày… Trời đã trở về trưa, Các bà lần lượt ra về. Còn lại mấy ông cũng đứng dậy. Một ông như ra lệnh xuất phát: - Chỗ cũ! Đó là mấy ông gọi nhau ra một điểm hẹn để lai rai vài chai bia và khi về đến nhà thì trời đã quá trưa… Tại sòng tứ sắc, các “con bạc” âm thầm lặng lẽ quăng những con “rác” để cho các tay dưới “ăn” hoặc “đôi” hoặc bị chê. Có người đang ôm cái “đứt đầu” được người bên cạnh quăng cho lá bài chính là cái đầu bị đứt thì không có gì ngon lành cho bằng. Có khi tình huống này xảy ra khi đang đủ lệnh để “tới”, người Bắc gọi là “ù”, có nghĩa là thắng ván bài đó. Chơi tứ sắc rất thú vị thường dành riêng cho quí bà. Cũng có những sòng tứ sắc lọt vào một hoặc hai người đàn ông. Trong giới có cuộc sống sung túc người ta thường giải trí bằng món đỏ đen này. Họ thường biết tự điều chỉnh luật chơi để không bao giờ đi đến sát phạt, làm cho người này, người nọ thua nhiều dẫn đến suy sụp. Cho nên ở các khu lao động người ta thỉnh thoảng tổ chức chơi tứ sắc trong nhà, công an đi qua nhìn thấy cũng không bắt bớ làm gì. Nói gì thì nói, ông Chín không thích bà Chín cứ ngày nào cũng đến nhà bà Mạnh để chơi bài mặc cho ông ở nhà chèo queo một mình. Ngày nào bà ở nhà thì bà lên ngay chương trình đi mua sắm ở siêu thị, bà mua đủ thứ lương thực chất đầy trong tủ lạnh, có khi ăn không hết phải đem bỏ thùng rác, thường là những loại rau, cải, củ hoặc trái cây. Có khi bà bỏ quên mấy ông tướng xanh, tướng đỏ để bà vô chùa tụng kinh niệm Phật. Bà nói: - Mình thỉnh thoảng phải nghĩ đến cõi trên, phải đến chùa cầu nguyện cho con, cháu được mọi sự bình an. Nghe bà nói như vậy ông hết đường tranh cãi với bà. Ông bà có hai người con gái lấy chồng sống ở nước ngoài, người nào cũng có con cái tổng cộng ông bà cũng đã có được bốn đứa cháu ngoại rồi. Ông bà rất mực thương con nhất là thương mấy đứa cháu ngoại. Tối nào bà cũng mở máy vi tính để chat với con, với cháu. Nhờ vậy hai ông bà không phải nhớ nhung gì và cũng không nhất thiết phải đi nước ngoài để thăm con gái và mấy đứa nhóc. Bà kể: - Tối nào thấy mấy đứa nhỏ nhí nhố trên màn hình là tui ngủ ngon liền. Bà cho rằng giá mà bà có cháu nội chắc là bà không thương bằng mấy đứa cháu ngoại này. Ai thắc mắc bà giải thích: - Thì có gì lạ đâu. Cháu ngoại là do chính con gái mình sinh ra. Không trật đi đâu hết. Thương hết mình là dĩ nhiên rồi. - Còn cháu nội, sao lại không thương bằng. Nó nối dõi tông đường? - Đúng. Nó nối dõi tông đường. Nhưng có chắc chắn nối dõi tông đường của thằng con trai nó cưới hỏi đàng hoàng hay là tông đường của anh chàng hàng xóm nào đó. - Bà sao vơ đũa cả nắm, tầm bậy tầm bạ! - Tầm bậy sao được, bà! Thời buổi bây giờ dễ gặp “âm binh” lắm. Ví dụ như tui có một thằng con trai ngớ nga ngớ ngẩn bị con nhỏ nào bắt giò, đem về cưới hỏi, đãi tiệc năm sáu chục bàn, bảy tám tháng sau có con, như bà, tính sao? - Tôi không nghĩ như vậy, rủi như con gái của bà bị bên nhà chồng nghi ngờ thì sao? - Họ có quyền nghi ngờ gì đó cũng được miễn là chồng nó đóng dấu xác nhận đó là con của nó. Nếu cần thì cho thử ADN. Mà dầu gì đi nữa con của nó vẫn là cháu ngoại của mình. Ông Chín thấy bà cũng có lý, nhưng không vì ý nghĩ đó mà ông thương con gái hơn con trai. Ông thấy rõ ràng khi sinh một đứa con gái cha mẹ phải lo lắng cho nó nhiều hơn là lo cho một đứa con trai. Đầu tiên là phải lo cho nó ăn học đến nơi đến chốn. Có như vậy chồng nó sau này sẽ là người có ăn có học ít nhất là phải bằng nó hoặc cao hơn càng tốt. Thông thường trình độ học vấn bao giờ cũng là điều kiện thuận lợi để tạo ra một người có văn hóa tốt. Con cái đỗ đạt rồi, cha mẹ lại âm thầm lặng lẽ chờ đợi con gái có được bạn trai, và khi con gái dẫn anh bạn trai về trình diện cha mẹ để tính tới việc cưới hỏi thì cái niềm hạnh phúc này nó to lớn biết chừng nào. Cha mẹ phải gọi anh chàng rể này là “ân công” của gia đình. Có hạnh phúc bước đầu rồi, cha mẹ cũng chưa hết lo. Bây giờ là giai đoạn trông chờ con gái có bầu rồi sinh con một cách vuông tròn như những người khác. Nỗi lo lắng này cũng không phải nhỏ. Ông Chín có một người bạn già gả được đứa con gái đầu, mừng quá, hai vợ chồng tự ăn khao bằng cách dắt tay nhau đi du lịch khi thì Thái Lan, rồi Singapore, rồi Hàn Quốc dung dăng dung dẻ vô cùng hạnh phúc. Đến khi hai ông bà này trở về từ cái tour Trung Quốc thì hai ông bà sực nhớ ra: “Chúng nó lấy nhau đã hai năm rồi mà sao vẫn chưa có em bé”. Vợ chồng ông bạn của ông Chín hết sức lo ngại khi nhận thấy gia đình bên sui gia đã lo bấn xúc xích từ lâu. Thế là hai họ cùng âm thầm hợp tác để chung lo cho “đại cuộc”. Hai bà sui lặng lẽ đi từ chùa này đến chùa khác, từ đình lớn đến am nhỏ để cầu tự. Ông sui gái, bạn ông Chín cũng tự tìm chùa trên hướng khác để cầu xin. Sau cùng, những tấm lòng thành khẩn có lẽ đã thấu tận trời xanh, cuối năm đó cô dâu có bầu, và không bao lâu sau ông bạn này có được đứa cháu ngoại đầu tiên. Tội nghiệp cho vợ chồng người bạn của ông Chín. Vừa ăn mừng đón nhận đứa cháu ngoại đầu tiên, ông bà bỗng giật mình nhìn lại cô con gái thứ hai đã xấp xỉ ba mươi mà chưa thấy dẫn về một chàng trai nào trình diện hai ông bà. Ông Chín nghĩ trong trường hợp này ông bạn già làm gì để giúp con gái. Ông ta không thể nào tìm được một cái chùa nào “cầu phu”, tức là tìm phu quân giùm cho con gái. Có lẽ ông chỉ biết im lặng ngồi chờ không biết đến chừng nào duyên trời đến với con gái. Chịu. Hái sao trên trời có lẽ còn dễ hơn! Ông Chín ngồi nghiệm lại trường hợp vợ chồng người bạn già với mối lo dai dẳng về con cái rồi suy nghĩ lại hoàn cảnh gia đình mình. Ông thấy vợ chồng ông quả là may mắn. Con cái đã thành đạt. Cả hai đều có được gia đình đầm ấm và hạnh phúc. Hai ông bà không đòi hỏi gì hơn là sớm tối có nhau vui hưởng tuổi già. Nỗi bực dọc về việc bà Chín thích chơi bài tứ sắc ông Chín thấy không cần thiết phải có rồi. Bả cũng cần phải có thú vui để tiêu khiển nữa chứ! Dương Lêh CẢNH ĐẸP ĐẤT NƯỚC NÚI NGŨ HÀNH Ngũ Hành Sơn, một thắng cảnh bậc nhất của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Truyền thuyết kể rằng núi này sinh ra từ một quả trứng rồng: Rồng từ ngoài biển vào nơi đây đẻ trứng rồi lại quay về biển. Rùa vàng xuất hiện, bới cát ấp ủ cho trứng nở. Rồi rùa dặn lại một người dân: “Ngươi hãy bảo vệ dòng giống này của Long Quân”. Người dân hỏi: “Làm cách nào để bảo vệ?” Rùa vàng liền trao cho một móng chân. Sau đó trứng nở thành nàng tiên, còn vỏ thì thành núi Ngũ Hành! Ngũ Hành Sơn, còn được gọi là hòn Non Nước, gồm năm ngọn núi đá mang tên gọi năm yếu tố vật chất cấu tạo thành vũ trụ theo vũ trụ quan phương Đông cổ: Kim sơn, Mộc sơn, Thủy sơn, Hỏa sơn, Thổ sơn. Năm ngọn nhấp nhô nổi lên giữa vùng ven biển phía đông huyện Hòa Vang. Từ Đà Nẵng sang bên kia bến Hà Thân rồi đi dọc biển độ 7-8km là tới nơi. Phía tây Ngũ Hành Sơn có sông Hàn uốn lượn, phía đông có biển lớn bao bọc. Đúng là sơn thủy hữu tình! Trong các ngọn núi này có nhiều hang động như Huyền Không Linh Nham, Tàng Chân, Vân Nguyệt, Thiên Long Cốc… và nhiều chùa đền đài tạ như Tam Thai, Ứng Chân, Vọng hải đài, Vọng giang đài… Trong số các hang động trên, Huyền Không động là đẹp hơn cả. Động cao và rộng khác nào một ngôi nhà lộ thiên, vì ngửa mặt trông lên qua năm khoảng trống có thể thấy được cả trời mây. Trong động có nhiều nhũ đá buông xuống mọc lên thành nhiều hình nhiều vẻ. Núi Thủy ở về phía đông bắc có ba ngọn nên còn gọi là núi Tam Thai. Trên núi có chùa cũng gọi bằng tên núi. Núi Kim thì phía đông có Vọng hải đài, phía tây có Vọng giang đài. Trên núi có hai cái hang. Một cái đi lên phía trên gọi là đường lên trời, một cái đi sâu xuống lòng núi gọi là đường xuống âm phủ. Hồi kháng chiến chống Pháp, năm 1947, một đội du kích đã rút vào hang đó. Giặc dùng chất ngạt và ớt hun vào hang gọi hàng. Nhưng cả tiểu đội quyết chiến đấu đến cùng. Khi hết đạn, họ đành theo đường xuống âm phủ để xem sao, thì ra đường này thông ra biển và thế là họ thoát vòng vây địch. Núi Ngũ Hành là một cảnh đẹp, đồng thời còn là một mỏ đá quý, đá cẩm thạch như gấm như mây. Đó là nguồn nguyên liệu để chế tạo nhiều mặt hàng trang sức và mỹ nghệ nổi tiếng. Để có vật lưu niệm, du khách có thể vừa chờ vừa xem người nghệ nhân tài hoa biến hóa chất đá thành tác phẩm nghệ thuật đẹp và lạ. ĐÀO MINH DIỆU XUÂN st
Bạn đã từng ngăn cản ai làm một việc gì chưa? Bạn có cho rằng những việc đó là viễn vông? Bạn cho rằng đó là việc hái sao trời? Những chuyện viễn tưởng của Jules Verne bây giờ đã được thực hiện hết rồi đó. Hãy đọc câu chuyện dưới đây bạn nhé: Có một cậu bé sống cùng với cha của mình, một người làm nghề huấn luyện ngựa. Do công việc, người cha phải sống như một kẻ du mục. Ông đi từ trang trại này đến trang trại khác để huấn luyện các chú ngựa chưa được thuần hóa. Kết quả là việc học hành của cậu bé không được ổn định lắm. Một hôm, thầy giáo bảo cậu bé về viết một bài luận văn với đề tài “Lớn lên em muốn làm nghề gì?”. Đêm đó, cậu bé đã viết bảy trang giấy mô tả khát vọng ngày nào đó sẽ làm chủ một trang trại nuôi ngựa. Em diễn đạt ước mơ của mình thật chi tiết. Thậm chí em còn vẽ cả sơ đồ trại nuôi ngựa tương lai với diện tích khoảng 200 mẫu, trong đó em chỉ rõ chỗ nào xây nhà, chỗ nào đặt làm đường chạy cho ngựa. Viết xong, cậu bé đem bài nộp thầy giáo. Vài ngày sau, cậu bé nhận lại bài làm của mình với một điểm 1 to tướng và một dòng bút phê đỏ chói của thầy “Đến gặp tôi sau giờ học”. Thế là cuối giờ cậu bé đến gặp thầy và hỏi: - Thưa thầy, tại sao em lại bị điểm 1? Thầy trả lời: - Em đã hoạch định một việc mà em không thể làm được. Ước mơ của em không có cơ sở thực tế. Em không có tiền, lại xuất thân từ một gia đình không có chỗ ở ổn định. Nói chung, em không được một nguồn lực khả dĩ nào để thực hiện những dự tính của mình. Em có biết để làm chủ một trại nuôi ngựa thì cần phải có rất nhiều tiền không? Bây giờ tôi cho em về làm lại bài văn. Nếu em sửa chữa cho nó thực tế hơn thì tôi sẽ cứu xét đến điểm số của em. Rõ chưa? Hôm đó, cậu bé về nhà và nghĩ ngợi mãi. Cuối cùng cậu gặp cha để hỏi ý kiến. Cha cậu trả lời: - Con yêu, chính con phải quyết định vì cha nghĩ đây là ước mơ của con. Nghe cha đáp, cậu bé liền nhoẻn miệng cười và sau đó đến gặp thầy giáo của mình: - Thưa thầy, thầy có thể giữ điểm 1 của thầy, còn em xin được giữ ước mơ của mình. Nhiều năm trôi qua, vị thầy giáo đó đã tình cờ dẫn 30 học trò của mình đến một trang trại rộng 200 mẫu để cắm trại. Thật tình cờ, hai thầy trò đã gặp nhau. Cầm tay, thầy nói: - Này, khi anh còn học với tôi, tôi đã đánh cắp ước mơ của anh, và suốt bao nhiêu năm qua tôi cũng đã làm thế với bao đứa trẻ khác, tôi rất ân hận về điều đó. Nghe thầy nói thế, cậu bé nay đã là ông chủ vội đáp: - Không, thưa thầy, thầy không có lỗi gì cả, chẳng qua thầy chỉ muốn những gì tốt đẹp sẽ đến với học trò của mình mà thôi. Còn em chỉ muốn theo đuổi tới cùng những khát vọng của đời mình. Cậu bé trong truyện trên cho dù sinh ra và sống trong một gia đình nghèo, không có chỗ ở cố định, cha là người làm thuê này đây mai đó. Kế hoạch của cậu xem ra thật là chuyện không tưởng. Thầy giáo chỉ muốn những gì tốt đẹp khi muốn cậu đưa ra 1 kế hoạch có thể thực hiện được chứ đừng để những ước mơ chỉ là mơ ước. Nhưng với ý chí quyết tâm cậu đã vượt qua nhiều gian khó để có thể biến ước mơ thành hiện thực. Nhưng có ai đánh thuế ước mơ cơ chứ. Bất quá khi nói ra họ chỉ “cười hở mười cái răng” dăm ba phút. Tôi chợt nhớ câu nói của nhà văn, nhà giáo Nguyễn Thái Học trong “Lời khuyên học trò”: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Cậu bé đã vượt qua nhiều gian khó để có ngày hôm nay. Nhớ lại ngày nào khi học ở nhà trẻ, mẫu giáo chúng ta đều mong lớn lên làm cô giáo vì lúc bấy giờ cô giáo là thần tượng của mình. Nhưng khi lớn lên chứng kiến nghề giáo nghèo, bươn chải dạy thêm… lúc được hỏi lại các cánh tay dần dần chuyển sang ngành nghề khác chẳng cần phải ngăn cản nào là nghèo, nào là khó lập gia đình… Trong Bộ sách Rich Dad’s (Dạy con làm giàu - 13 cuốn) có kể lại câu chuyện: Có một anh chàng thắc mắc tại sao cha ruột học vị Thạc sĩ làm Hiệu trưởng lại nghèo trong khi cha nuôi học vấn chỉ lớp 8 lại giàu quá xá. Cha nuôi từ tốn chỉ vào một gian hàng trong siêu thị: “Con thích các món đồ đó phải không? Nhưng nếu con đặt vấn đề thì cha con sẽ nói sao? Món đồ này mắc tiền lắm, hay là con chưa đến tuổi chơi… nhiều lý do lắm lắm. Đơn giản là vì lương cha con không có nhiều để chi tiêu những món đó. Còn ta, ta sẽ khuyên con lên kế hoạch dành dụm mọi thứ để mua nó”. Như vậy thay vì loại bỏ ước muốn của cậu thì người cha giàu đã khuyến khích chàng thiếu niên nọ và gợi ý cho cậu làm cách nào để đạt mục đích của mình. Năm 1973, tôi có học thêm Toán để thi tú tài. Những năm đó thi đậu là vinh dự của bản thân và cho cả gia đình. Ở thời điểm đó phần lớn là rớt chẳng đậu nhiều như bây giờ đâu. Mà rớt thì đi lính ra chiến trường dễ chết lắm (ai không sợ chết?). Còn đậu thì vào trường sĩ quan ngon lành hơn. Bấy giờ tôi gặp được Gs. Cù An Hưng. Vừa vào lớp thầy phán ngay một câu: “Ai vào đây chỉ mong đậu tú tài thì đi về. Tôi không dạy đậu tú tài. Tôi dạy cho các anh đậu đại học”. À thì ra thầy hướng chúng tôi lên tầm cao hơn: “Đậu tú tài mà không đậu đại học thì cũng vô ích”. Có lẽ quan niệm lúc ấy và bây giờ cũng như nhau. Nhiều người bây giờ có quan niệm ngược lại: Học cao, học nhiều đi xin việc làm cũng khó và họ cho con họ bỏ học - thực ra con họ có học hành giỏi giang chi, cứ 2 năm 1 lớp riết rồi ở nhà - gặp những người chăm con cho đi học trường nọ trường kia rồi ganh ghét. Những người đó thuộc họ “bùi lan” (bàn lui). Kệ họ dẫu sao người có học vẫn hơn. Những người này thuộc loại đánh cắp ước mơ vì ganh ghét hãy tránh xa những người này. Bạn có những ước mơ gì? Cho con du học Mỹ. Sau 20 năm làm việc có tiền mua căn nhà 3 tấm mặt tiền. Du lịch khắp thế giới cùng gia đình mỗi năm một nước. Sum họp cùng ông bà cha mẹ, anh chị em mỗi sinh nhật của các thành viên tại nhà hàng khác nhau. Cứ thử ghi ra 1 tờ giấy. Thật là thú vị khi 10 năm hay 20 năm sau mở ra cho con cháu xem. Như đã nói ở trên chẳng ai đánh thuế bạn cả. Tóm lại: Hãy cứ ước mơ và nhất là đừng vùi dập những ước mơ của con trẻ. Hãy lắng nghe và gợi ý để chúng có thể từng bước biến những ước mơ đó thành hiện thực bạn nhé. HÀ MẠNH ĐOÀN PHÚT CHỐC NHÌN LÊN NGỘ LẼ TRỜI Khi nắng Khi mưa. Xuân sang Hè về Thu tới Đông sang Họ luôn luôn ở bên nhau dù xảy ra bất cứ điều gì. Trừ một điều... * Only friends and family will be present in sickness. Stay in touch. (Chỉ có gia đình và bạn bè bên cạnh khi đau ốm. Nhớ gần gũi họ) * Life is too short. Don’t waste time hating anyone. (Cuộc đời quá ngắn ngủi. Đừng phí thì giờ ghét bỏ ai làm gì) * Make peace with your past so it won’t screw up the present. (Hãy chôn quá khứ để hiện tại không bị xáo trộn) * Don’t compare your life to others. They have different journeys. (Đừng đem đời mình so với ai đó; đời mỗi người mỗi khác) * Everything can change in the blink of an eye. (Mọi chuyện ở đời có thể thay đổi trong chớp mắt) * You don’t need to win every argument. Agree to disagree. (Không cần thắng trong mọi cuộc tranh luận. Hãy chấp nhận bất đồng) * Crying is good, but it’s more healing crying with friends. (Khóc cũng tốt, nhất là khi khóc với bạn bè) * Take a deep breath. It calms the mind. (Hít thở sâu giúp tinh thần ổn định) * Get rid of anything that is neither useful, beautiful, nor joyful. (Hãy gạt bỏ những gì vô ích, xấu xa, buồn bã) * What doesn’t kill you really makes you stronger. (Điều gì không giết ta được sẽ giúp ta mạnh hơn) * Today is special. Enjoy it. (Ngày hôm nay là ngày đặc biệt. Phải tận hưởng nó) * Your belief of your being right doesn’t count. Keep an open mind. (Đừng tin rằng mình luôn luôn đúng. Phải có đầu óc cởi mở) * Forgive everyone everything. (Hãy tha thứ tất cả cho mọi người) * What other people think of you is none of your business. (Đừng bận tâm về nhận xét của ai đó về mình) * It’s OK to yield. (Nhường nhịn một chút cũng không sao) * However good or bad a situation is, it will change. (Tình thế dù tốt hay xấu, rồi cũng thay đổi) * Don’t take yourself so seriously. No one else does. (Đừng quá nghiêm khắc với bản thân. Không ai làm như vậy) * Release your children when they become adults, its their life now. (Hãy buông con cái ra khi chúng trưởng thành. Chúng đã có cuộc sống riêng) * Time heals almost everything. Give time time. (Thời gian hàn gắn gần như mọi sự. Hãy để cho thời gian có thì giờ) * Trăm năm ngó xuống đời hư ảo Phút chốc nhìn lên ngộ lẽ trời. * Yêu thương xin nở nụ cười Vị tha là để lòng người thanh cao * Hơn thua so với chính mình Hôm nay mình phải hơn mình hôm qua * Ngỡ chỉ là một cuộc chơi Ngoái lại sau thấy một trời phù vân * Hãy sống và ước vọng Để thấy đời mênh mông * Trần gian mắc đọa nợ nần Mai sau hóa kiếp bụi trần tìm vui * Ta nay ở trọ trần gian Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời * Đơn sơ thôi những nụ cười Cho ta ý nghĩa cuộc đời từ nhau * Người từ vô tận tái sinh Đi qua trần thế mang tình nhân gian. * Đường về khép bóng trần gian Lợi danh gói một hành trang vô thường. * Núi là núi, sông là sông Thiền là một tách trà nồng trên tay. * Ở đời muôn sự của chung Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. * Bóng trúc quét sân trần chẳng đọng Vầng trăng xuyên biển nước không xao. * Khói trần bén giấc mơ tiên Bâng khuâng trăng trải qua miền quạnh hiu. * Trần gian mỏng mộng vô thường Đường xa mỏi mệt tôi nhường nhịn tôi. * Trải qua mấy bận long đong Ngộ ra chẳng sắc thì không cũng đành. * Cuộc đời bao khúc bể dâu Tặng nhau chữ Tín bắc cầu Phúc duyên. * Nếu biết vô thường cơn sóng lặng Thì lời trùng ngộ thốt mà chơi. * Phú quý vinh hoa như mộng ảo Sắc tài danh lợi tựa phù du. * Có tài chớ cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần. * Ngày mai mơ mộng làm chi Sẽ tàn sẽ mất còn gì nữa đâu. * Điều chí thiện long lanh cùng cái đẹp Mỗi ngày đời lắng đọng cả trăm năm * Đường trần ta cứ rong chơi Vui thêm bước nữa buồn thôi lại về. * Bỗng nhiên ta gặp lại ta Bồng bềnh trong cái gọi là nhân gian. * Ngước lên cao để thấy mình còn thấp Nhìn xuống thấp để thấy mình chưa cao. * So với cái mênh mông của vũ trụ Thì nỗi buồn của hạt bụi có ra chi. * Bản lĩnh tài năng nên sự nghiệp Nhân hòa đức độ tạo thành công. * Ngoảnh nhìn lại cuộc đời như giấc mộng Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không. * Muốn thành công phải trải qua thất bại Trên đường đời có dại mới có khôn. * Yêu ghét ta chẳng bận lòng An tâm tự tại thong dong bên đời. * Giã từ cõi mộng điêu linh Ta về buôn bán với mình phôi pha. * Ta về ngồi lại tình hư ảo Hư ảo không còn chỉ có ta. * Bởi kiếp sống biến ta thành gỗ mục Ta vươn mình hóa kiếp Phong Lan. * Cuộc đời sóng gió nuôi ta lớn Bao lần thất bại dạy ta khôn. * Tất bật hơn thua rồi cũng bỏ Thong dong tự tại vậy mà vui. * Ngày mai chẳng biết ra sao nữa Mà có ra sao cũng chẳng sao. * Đường tương lai gặp nhiều gian khó Đừng nản lòng hãy gắng vượt qua. * Có gì đẹp trên đời hơn thế Người yêu người sống để yêu nhau. * Vui câu nhân nghĩa tròn sau trước Lấy chữ chân tình gửi tặng nhau. Hoàng Kim Thư st
BẠN LÀ NGƯỜI CÓ PHÚC Nếu bạn thức dậy sáng nay vẫn có nhiều sức khỏe hơn bệnh tật, được sống tự do, không phải nằm trong phòng cấp cứu bệnh viện... Thì bạn đang may mắn hơn hằng triệu người sắp chết tuần này... Người ta hay coi thường những gì mình đang có! Chỉ khi nào mất đi, mới hiểu và ân hận muộn màng! Nếu bạn chưa từng cảm nhận sự nguy hiểm trong chiến trường, sự cô đơn trong ngục thất, sự đau đớn khi bị hành hình, cảnh nhục nhã, trốn tránh, sự đói ăn khát uống, cảnh sống lang thang vô gia cư, sống không biết ngày mai sẽ ra sao... Thì bạn đã hạnh phúc hơn mấy trăm triệu người trên thế giới... Nếu bạn được đi du lịch mà không sợ bị làm khó dễ. Bạn may mắn hơn đa số trong khoảng gần 3 tỉ người trên thế giới Nếu bạn có thức ăn trong tủ lạnh, có áo che thân, Có nơi cư ngụ và có nơi để gối đầu khi ngủ, Không phải lo lắng quá nhiều về ngày mai... Bạn đã giàu có hơn 75% người trên thế giới này Nếu bạn có tiền trong nhà ngân hàng, trong ví, và có bạc lẻ đâu đó... Thì bạn là một trong số 8% người giàu có hơn rất nhiều người trên cả thế giới này. Nếu cha mẹ bạn vẫn còn sống và may mắn hơn, vẫn còn sống chung với nhau, vẫn thương yêu, săn sóc bạn, trong gia đình không có tang tóc... Bạn thật sự là người may mắn hiếm có! Bạn còn chờ gì mà không bày tỏ tình cảm với Cha Mẹ, thương yêu anh chị em, các người thân, bạn bè... Sao bạn lại phải chờ đến khi Cha Mẹ sắp qua đời mới thương yêu, săn sóc? Hạnh phúc đang trong tay các bạn đó! Còn đi tìm đâu nữa? Lên Thiên Đường đã chắc đâu được gặp Cha Mẹ,Vợ Chồng, anh chị em, người thân? 10 năm nữa, có khi bạn không thể làm điều đó đâu!!! Cuộc đời trôi qua và thời gian không bao giờ trở lại! Nếu bạn có thể ngẩng cao đầu, có thể mỉm cười và cảm thấy biết ơn cuộc đời... Bạn đã là người có hạnh phúc vì đa số chúng ta có thể cảm nhận điều đó. Nhưng lại không chịu làm điều này. Quá nhiều người tham lam, tự làm khổ mình... Nếu bạn có thể nắm tay người nào đó ôm choàng họ, hoặc vỗ về an ủi, động viên họ bằng hình thức nào đó, từ tinh thần tới vật chất... Bạn đã là người có hạnh phúc vì bạn có thể hàn gắn vết thuơng lòng, làm vợi đi nỗi buồn của nhân loại! Hàng ngày, ngay lúc này đây, đang có biết bao người đau khổ vì đủ mọi bất hạnh, từ bệnh tật đến chiến tranh, tù đầy, các hoàn cảnh cơ cực, hàng nghìn trẻ em chết đói ở châu Phi mỗi ngày... Nếu bạn có thể đọc được email này. Bạn là người có phúc hơn 2 tỉ người trên cả thế giới, vì họ không thể đọc được bất cứ chữ gì và sống như các động vật... Bạn là người đang có nhiều hạnh phúc, đang sung sướng chỉ có điều... Bạn chưa biết đó thôi! Đừng than phiền, đòi hỏi quá nhiều... Mai đây, chưa biết những gì sẽ tới! Quy luật “Vô thường” luôn đúng... Xin đừng phí phạm hạnh phúc trong tay ! Hoàng Chúc st NĂM TUẦN LỄ (Cinq Semaines En Ballon) của Jules Verne SỬA CHỮA KHINH KHÍ CẦU (Sau khi bị bị đàn chim đại bàng mổ lủng, khinh khì cầu rơi tuột xuống biển Tchad. Bạn Joe phải tự hy sinh nhảy ra khỏi con tàu để cứu vớt hai người bạn còn lại) . Sáng hôm sau, hai nhà du hành còn lại mới nhận diện được cái bờ biển mà họ đang chiếm cứ... Đó là một loại cù lao ở giữa một vùng đầm lầy rộng lớn, mà không ai có thể vượt qua được, bảo đảm an ninh cho con tàu Khải Hoàn. Họ chỉ cần canh giữ ở mặt bờ hồ mà thôi... Hai người, chưa ai dám nhắc đến người bạn xấu số. Kennedy là người đầu tiên chia sẻ sự phỏng đoán với ông bác sĩ: - Joe chắc là không sao đâu. Nó là đứa khỏe mạnh và lanh lợi, vả lại nó bơi lội rất giỏi. Chúng ta rồi sẽ găp lại nó thôi. Lúc nào và khi nào thì tôi không biết. Chúng ta không nên lơ là để tạo ra cho nó có cơ hội tiếp cận. Bác sĩ nói với giọng cảm động - Trời cũng đồng tình với bạn đó vậy. Chúng ta sẽ làm hết sức mình để tìm lại người bạn của chúng ta. Hãy định hướng cái đã. Nhưng mà, trước tiên là tháo gỡ cái vỏ rách bên ngoài của khinh khí cầu. Nó không còn lợi ích gì nữa. Như vậy,thì nhẹ bớt cho chúng ta một trọng lượng đáng kể. Cả trăm kí lô cũng xứng đáng với công lao khó nhọc lắm đó. Vị bác sĩ và gã thợ săn bắt tay vào việc. Họ cảm thấy thật là khó khăn, là vì họ phải cắt ra từng miếng nhỏ, cái vỏ balong dai nhách và kéo nó ra khỏi cái mạng lưới chằng chịt bao quanh. Cái mỏ chim đã xé toạc một đường dài. Cái công tác tháo gỡ nầy kéo dài bốn tiếng đồng hồ. Rốt cuộc rồi thì cái balong phụ ở bên trong cũng lòi ra ngoài toàn diện, mà không có một tổn thương nào hết. Khinh khí cầu bây giờ đã nhỏ đi phân nửa. Sự khác biệt nầy làm cho Kennedy lo ngại. Gã mới hỏi bác sĩ: - Liệu nó có đủ sức chuyên chở không? - Đừng lo lắng về việc đó, Dick. Tôi sẽ thiết lập lại cân bằng, và nếu như bạn Joe có mặt, thì chúng ta vẫn tiếp tục cuộc hành trình như thường. - Trong lúc rơi, tôi nhớ là chúng ta cách một hòn đảo không xa, đó bác sĩ. - Tôi cũng nhớ đúng là như vậy, và những hòn đảo trong biển hồ Tchad thì được cư ngụ bởi một giống mọi rợ hung dữ, cướp bóc, giết người. Chúng nó đã chứng kiến tai nạn của chúng ta. Nếu như, bạn Joe lọt vào tay chúng nó, thì có lẽ sự mê tín thần thánh có thể cứu Joe, chớ biết làm sao bây giờ. - Nó là người khéo xoay xở. Tôi tin vào sự khôn ngoan, nhạy bén của nó. - Tôi cũng hy vọng là như vậy. Bây giờ đây, bạn Dick ạ!, bạn nên đi săn bắn đi, để khẩn cấp dự trữ thức ăn, vì chúng ta đã quăng bỏ hết rồi. Nhưng đừng bao giờ đi xa. - Vâng, thưa bác sĩ, tôi không đi lâu đâu. Kennedy cầm cây súng hai nòng, và đi vào rừng. Nhiều tiếng súng nổ báo hiệu một cuộc săn bắn có kết quả tốt. Trong lúc đó thì bác sĩ lo kiểm soát những vật dụng còn sót lại trong con tàu, và tái lập lại cân bằng cho khinh khí cầu mới, và sự sắp đặt cho hậu quả về sau. Ông thay thế sức nặng của Joe bằng một số bao bì phụ, và ông cũng đã chuẩn bị mọi thứ cần thiết vừa xong thì Kennedy cũng về tới. Cuộc săn bắn có kết quả tốt, nào là ngỗng trời, vịt trời, chim chóc đủ thứ… Kennedy lo làm bếp, nấu nướng thức ăn dự trữ xong thì trời đã tối. Sự mệt mỏi làm cho họ ăn khỏe và ngủ ngon giấc. Sáng hôm sau, ông bác sĩ nói với bạn Kennedy: - Tôi đã suy nghĩ nhiều về những điều thiết yếu để tìm lại bạn Joe của chúng ta. - Bất luận ý kiến nào của ông, tôi điều đồng ý. - Điều quan trọng trước tiên là cho bạn Joe biết được tin tức của chúng ta. - Không sai. Nếu chàng trai tốt bụng không phải nghĩ rằng chúng ta bỏ rơi nó. - Nó biết rành chúng ta mà. Không bao giờ nó có có ý nghĩ như vậy. Nhưng phải làm cách nào cho nó biết, là chúng ta đang ở đâu? Kennedy hỏi: - Làm sao đây? - Chúng ta vào giỏ tàu, và bay lên không gian. - Nhưng mà gió có thể lôi chúng ta đi mất. Bác sĩ trả lời: - Không sao đâu, may thay. Xem nầy bạn Dick, có ngọn gió nhẹ thổi ra biển hồ. Cái trường hợp nầy bất lợi cho ngày hôm qua, lại trở nên thuận lợi cho ngày hôm nay. Chúng ta cố gắng giữ vị thế ở trên mặt hồ nầy suốt ngày, vì bạn Joe lúc nào cũng hướng tầm nhìn lên trên. Nó có thể thông báo cho chúng ta, nơi nó ở. - Nếu nó tự do, thì nó sẽ làm được. - Nếu nó bị bắt, - Bác sĩ nói tiếp - thì nó cũng được tự do, vì theo thói quen của bọn thổ dân là không bao giờ nhốt tù. Nó sẽ ra hiệu nơi mục tiêu cứu vớt. Kennedy kết luận: - Cuối cùng rồi thì chúng ta cũng đã tiên liệu mọi trường hợp để cứu hộ. - Bây giờ, chúng ta thử bay đến phương bắc của biển hồ xem, và khám phá các bờ bãi, nơi mà bạn Joe có thể lưu lạc tới. - Vậy thì, chúng ta lên đường, đi. Thanh Châu dịch thuật
Phụ Bản IV ĐƯỜNG MINH HOÀNG xử bọn cho vay nặng lãi
Truyện có thể có thật, tặng tất cả những ai là nạn nhân của loài cá mập Người đời, nhất là người Việt chúng ta, thường chỉ biết tới Đường Minh Hoàng qua chuyện ông du nguyệt điện, và luôn luôn cho rằng ông là một vị hoàng đế hào hoa, phong nhã, bay bướm… Ít ai biết tới chuyện ông còn là một vị quân vương rất có lòng thương dân, nhất là dân nghèo, những nạn nhân của bao chèn ép, áp bức, đau thương, thiếu thốn… Câu chuyện chúng tôi xin kể dưới đây minh họa cho lòng yêu thương dân của nhà vua. Đời Đường được biết đến như là một thời kỳ hoàng kim trong lích sử Trung Quốc, nhưng ít ai ngờ rằng trong đời Đường, nạn cá mập cho vay nặng lãi lại cực kỳ dữ dội. Cho vay, tự nó không phải là một việc xấu, nếu không muốn nói là một việc phúc đức – trong lúc túng bấn mà được người có dư tiền của cho vay mượn đỡ, với một lãi suất rất tượng trưng, vừa phải, để rồi lúc có tiền lại trả lại, thì người được vay rất nên biết ơn kẻ có lòng tốt cho vay – nhưng ngược lại, nếu lợi dụng sự túng đói của người ta mà cho vay để đòi những lãi suất kinh khủng, đôi khi tới 50, 60% thì thực là hành vi của loài cá mập, rất đáng ghét, cần phải trừng trị. Dưới triều Đường Minh Hoàng, ngay tại kinh đô, nạn cho vay nặng lãi hoành hành dữ dội, có những con nợ bị con chủ nợ (tại sao có con nợ lại không có con chủ nợ nhỉ?) ăn lời tới tận xương tủy, 50, 60%, lãi mẹ đẻ lãi con, vay một, được tiêu một, chỉ một thời gian sau đó, phải trả thành 10, 15 có lúc thành 20, 30 lần, đến nỗi nhiều kẻ tán gia bại sản. Nhiều con nợ chịu không thấu, tuyệt vọng, đi tìm những giòng sông như giòng Mịch La để trốn nợ đời, và trốn luôn các con chủ nợ. Số người tự tử vì không trả được nợ nần gia tăng, việc đến tai nhà vua, ông liền bỏ một buổi không vào chầu Dương Quý Phi để suy nghĩ tìm cách giải quyết. Sau đúng hai giờ 35 phút suy tư mãnh liệt, nhà vua bỗng vùng bật dậy, ngoác miệng cười. Thì ra nhà vua đã tìm ra kế sách để trị bọn con chủ nợ, cho dù các con nợ chẳng ai dám hé môi than thở, chứ đừng nói dám đi khai báo khi ai nấy đều gần như cấm khẩu vì sợ hãi bọn đầu trâu mặt ngựa, tay sai của các con chủ nợ, trừng phạt (mới hay cả ngàn năm trước cũng như bây giờ, đời thịnh Đường mà cũng có lũ ngưu đầu mã diện y chang như lũ mặt rô, đầu gấu trong đời chúng ta). Có được kế sách tốt là thi hành liền. Nhà vua lập tức sai sứ giả đi khắp mọi nơi khua chiêng gõ mõ kêu gọi tất cả những ai là nạn nhân của bọn cá mập, những ai vay một phải trả gấp mười, gấp trăm, hãy ra trình diện hết để nhà vua giải quyết hộ - ngài cũng không quên câu thòng là nhà vua bảo đảm sẽ không một ai bị bọn ngưu đầu mã diện xử tội, không khai rất uổng – Chỉ trong thất nhật (một tuần lễ), số con nợ không khả năng chi trả ra trình diện đứng gần đầy một nửa khuôn viên hoàng thành. Nhà vua ra lệnh cho họ đứng về một bên, phần chỗ còn lại nhà vua dành cho các con chủ nợ cũng được lịch sự mời đến – bọn này được sắp xếp đứng vào bên kia – và sau chót là lũ ngưu đầu mã diện cũng được mời đến một cách không mấy lịch sự, nhưng cũng không có sự đe dọa chi cả. Sau khi mọi người đã yên vị - lúc này quang cảnh thật đáng tức cười, một bên là lũ người ăn mặc diêm dúa, mặt mày son phấn, tay đeo vòng vàng, ngọc thất nhật, có con chủ nợ chân cũng có đeo vòng như em lulu; tất cả cái nhân loại này mặt mày không mấy vui, nếu không muốn nói là hầm hầm như ông khuyển ăn vụng bột. Còn bên kia,thì ôi thôi, áo quần lôi thôi lếch thếch, tất cả các vị này mặt mày cũng chả dám vui, nhưng nghe đâu trong ánh mắt ai nấy đều có chút tia hy vọng. Còn phần cuối của sân thì khỏi nói, quý vị cũng có thể hình dung được sự khủng khiếp của những bộ mặt nửa người, nửa quỷ, tóc tai bờm sờm, rất nhiều đứa búi tó, lại có những đứa theo mốt mới để ngôi giữa, hai bên là hai mớ tóc dài thòng hất về đằng sau, bay lòa xòa như hồn ma nhà họ Hứa… Nhà vua, sau khi khuyên nhủ mọi người nên thương nhau, chỉ nên giúp đỡ nhau chứ không nên bóc lột nhau, đã ban lệnh cho tất cả các con nợ kê khai số tiền vốn đã vay mượn, thời gian vay mượn, để rồi thể theo số vốn đích thực được vay và thời gian đã vay mà tính một số lời theo quốc khố hoàng gia (Ngân hàng thời đó) để đứng ra đảm bảo việc trả lại cho các con chủ nợ, bắt chúng phải chấp nhận lãi suất hợp lý, chứ không bắt tội gì cả. Phần đông các con nợ đều mừng húm vì có cơ trả được dễ dàng nếu không bị lãi mẹ đẻ lãi con, không bị phạt tiền vì trả chậm vv… Tuy nhiên, cũng có một số con nợ quá nghèo, không còn chi để trả. Số con nợ này được nhà vua xuất tiền quốc khố ra thanh toán cho con chủ nợ hộ và cho phép làm lụng kiếm tiền trả dần lại cho quốc khố. Phán truyền xong, nhà vua cho thi hành liền, ai phản đối sẽ bị trừng phạt. Các con chủ nợ tuy buồn vì mất tiền nhiều nhưng không dám cãi, vì đây là lần đầu tiên hành vi cá mập của chúng bị đem ra công khai, vả lại vì chúng hèn và giàu nên chúng rất nhát sợ bị tù tội. Còn về phần chúng con nợ thì ai nấy đều vui mừng lạy tạ nhà vua đã để mắt ngó tới thảm cảnh của mình. Nhà vua liền cho phép các con chủ nợ và các con nợ ra về, nhưng ngài lưu bọn ngưu đầu mã diện lại, và cho biết sẽ có một cuộc tiếp xúc thân mật với chúng. Ngài cho chúng lại gần và phán với chúng như sau: “Các ngươi thật là dại dột khi chịu nhận cục xương bọn cá mập vứt cho, để cúi đầu làm tay sai cho chúng đi đàn áp, đánh đập những người nghèo khổ. Các ngươi có dám chắc là trong đám những người đó không có họ hàng, ông bà, cha mẹ, anh em của các người không? Tại sao không tìm cách gì để lấy bằng chứng là chúng đã sai bọn ngươi làm một việc phi pháp (ví dụ giả vờ kêu là điếc, bắt bọn chúng viết ra những gì chúng muốn – thời đó chưa có máy ghi âm), sau đó đem hù dọa lại chúng, làm tiền lại chúng, để đòi nhiều cục xương khác, có phải là được ăn tiêu dài dài không? Mà lại không phải đi làm những việc thất đức! Nhưng nói thế thôi, nếu các người biết từ bỏ, không thèm làm tay sai cho bọn cá mập mà chịu khó đi làm ăm kiếm sống cách lương thiện thì là hay nhất. Thôi, cho tất cả ra về!”. Từ đó, nạn cho vay nặng lại tàn lụi dần rồi từ từ hết hẳn… VŨ ANH TUẤN (Kể theo một bài viết của nhà Trung Hoa học Nít-Hem)
ĐÍNH CHÍNH Bản tin 104 Trang 10 dòng 6 từ trên xuống: “… nền văn minh” sửa là: “hai là nền văn minh” Trang 12 dòng 2 từ trên xuống: 2 chữ “này này” Bỏ 1 chữ “này” Trang 21 dòng 15 từ dưới lên: 1,20m x 3,70m sửa là: 1,20m x 2,70m Trang 23 dòng 4 từ trên xuống: …thuật Gia Định thêm: Sơn dầu, kích thước Trang 28 dòng 4 từ dưới lên: “lấy bóp…” sửa lại: “lấy trong bóp…” Trang 30 dòng 1 từ trên xuống: 526kg sửa lại: 1.526kg Một vấn-đề đặc-biệt của các bà: GHEN GHEN CŨNG CÓ MỘT NGHỆ THUẬT Không nên GHEN mà làm đổ vỡ hạnh-phúc Nên GHEN, nhưng phải biết kiến-tạo hạnh-phúc gia-đình. Khi các bà ghen, các ông chồng cần phải làm gì? Bài của VIỆT ANH Đã là con người, có lấy vợ lấy chồng, thì phải ghen. Có thể nói ghen là bản chất của con người. Người ta còn biện bạch thêm cho cái ghen, vì ghen tức là yêu. Hay là có yêu mới ghen, thì cũng vậy. Cái ghen của phụ nữ Có thể nói: chị em phụ-nữ, đi lấy chồng, đều đã có ghen, hay là phải ghen. Khi thấy chồng san sẻ tình yêu với một người khác, người đàn-bà thấy uất-ức, đau-khổ, vì chồng đã không chân-thành với mình. Hầu hết những bà ghen, là vì tình yêu. Phải nhận rõ điều ấy. Tuy nhiên, ngoài cỡ đó, còn phải kể những cớ phụ thuộc khác: trong cái ghen, cũng có một chút lòng tự-ái bị thương-tổn (sợ chị em chê cười), và cũng có một ý-chí muốn bảo-vệ quyền lợi của mình và con mình (sợ chồng vung phí tiền tất gia-đình sẽ thiếu thốn). Các bà nên ghen không Đặt một câu hỏi như vậy, cũng bằng thừa. Vì ghen đã là một cái thiên tính “Trời” phú cho, thì ai mà không ghen… Sở dĩ chúng tôi đặt câu hỏi đó ra, là để được cơ hội trả lời rằng “ta cũng nên ghen” dù rằng ta có thể không ghen. Ta cũng nên ghen, vì 2 cớ chính: 1. Cái ghen điểm thêm một chút mãnh-lực cho tình-yêu. Không ghen tức là lòng yêu đã chết. 2. Không ghen, thì người chồng sẽ được tự-do và lợi dụng tự-do đó để đi chơi-bời mèo chuột. Thói thường, những người chồng được vợ nể, sợ, lại tự nghĩ có thể đi chơi tự-do, chứ không nghĩ rằng phải nể, phải thương vợ mình. Bởi 2 cớ đó, người vợ cũng nên ghen. Nhưng phải biết cách ghen! Vì ghen là một nghệ-thuật Nhưng, ngay cả trong cái ghen hành động của người vợ cũng phải rất thận-trọng. Có cái ghen làm cho hạnh-phúc gia-đình đương có, mà giảm đi, mất đi. Có cái ghen làm cho gia-đình tan vỡ. Và có cái ghen làm cho hạnh-phúc gia-đình thêm chặt-chẽ, mối tình vợ chồng thêm đằm thắm. Cũng có cái ghen giải quyết các mối khổ-tâm, hàn-gắn lại hạnh-phúc gia-đình đã rạn-nứt. Thế nào là ghen làm giảm hạnh-phúc gia-đình Vợ chồng yêu nhau khăng-khít. Nhưng vì người vợ bao giờ cũng có tiên kiến rằng “đã là đàn-ông thì phải hay đi chơi gái, hay chọc-rỡn đàn-bà” nên người vợ bao giờ cũng nhìn các hành-động của chồng bằng con mắt đa-nghi. Do đấy, nhiều khi người vợ hiểu lầm chồng. Chồng đi làm, mắc nhiều công-chuyện, phải về chậm: vợ tưởng là chồng đi chơi với gái. Chồng cần bận quần-áo đứng-đắn để giao thiệp, vợ tưởng chừng chồng đã có nhân tình. Ra ngoài đường, chồng có thể ngó mọi người, kể cả các đàn-bà khác: vợ tưởng rằng chồng có ý thèm muốn người khác. Có nhiều bà ra cửa đón chồng về bằng những cái nhìn soi-bói: coi có cái tóc dài nào trên vai chồng, có mùi nước thơm lạ nào trên áo chồng, có vết son nào trên má chồng, v.v… Vì đa-nghi, các bà có những hành-động cật-vấn chồng về mọi chuyện, làm cho chồng buồn-bực. Hạnh-phúc đương đầy đủ, do đấy phải sứt mẻ đi. Ấy là cái ghen vô lý, cái ghen không duyên cớ làm giảm hạnh-phúc gia-đình. Người vợ phải biết tin ở chồng. Đa nghi quá, ghen hão huyền không duyên cớ, chỉ khổ cho mình và hại cho mối tình chung. Thế nào là ghen để cho mối tình thêm đằm-thắm Không có chứng cớ rõ-rệt, chỉ vì đa nghi, mà ghen, cái đó, người vợ không có lỗi. Người vợ chỉ có lỗi khi nào vì ghen vô-lý mà rầy la, làm khổ chồng như trong trường hợp trên. Nhưng người vợ có thể có những cử-chỉ nhã-nhặn hơn trong việc ghen ấy. Thí dụ: thấy chồng đi làm về chậm, đừng nên rầy la chồng “Đi với con điếm nào”, mà nên vui vẻ nói: “Mình đi làm về chậm, em lo lắm. Mà em cũng ghen lắm, em tưởng chừng như mình đi với cô nào đẹp… Nhưng mình chẳng nỡ lừa dối em, nên em lại bớt ghen”. Thiết tưởng trước những lời như vậy, làm chi mà chồng chẳng phải thương yêu vợ thêm và giải-thích hoặc xin lỗi vì chỗ mình về chậm? Ghen đổ vỡ ái-tình hạnh-phúc Trở lên trên là nói về những trường hợp ghen không có lý-do, ghen vì đa-nghi. Nhưng nếu người vợ biết chắc chắn là chồng có nhân tình rồi, người vợ sẽ làm gì? Phần lớn các bà thấy chồng có ngoại-tình, bèn quá giận dữ mà không thể nào kiềm chế được những hành-động của mình. Vì thế mà người ta thường được thấy, những cảnh đánh ghen dữ-dội: có bà chửi mắng chồng, cấu, ngắt, đánh xé chồng: có bà sỉ-nhục chồng ở giữa công-chúng; có bà tới nhà tình địch chửi mắng rêu rao ngoài đường lộ hàng mấy giờ đồng hồ. Ghen như thế, có lợi không? Xin thưa ngay: Không lợi. Người chồng bao giờ cũng có chút tự-ái. Nếu sỉ-nhục chồng, chạm lòng tự-ái của chồng quá, thì chồng có thể vì cáu mà đi hẳn với “mèo”. Lúc đó, nếu “mèo” khéo mơn trớn lòng tự-ái của chồng mình, thì thật là nguy cho tình vợ-chồng lắm đó. Một khi chồng còn có lương-tâm, còn có thể trở về với vợ và con, thì đừng bao giờ nên có những hành-động gạt cho chồng đi xa ra. Phải bỏ hẳn cái lối ghen tầm thường, cái lối ghen làm đổ bể hẳn hạnh-phúc. Phải có nghệ-thuật ghen, để hàn gắn lại hạnh-phúc đương rạn nứt Nếu gặp cảnh ngộ có chồng hư, đốn, bỏ gia-đình đặng tìm những thú vui khác, thì phải coi như chồng mình mắc một thứ bệnh phải chữa. Hạnh-phúc gia-đình rạn nứt, phải tìm cách hàn gắn lại đừng tức giận điên cuồng mà đập cho đổ nát. Phải làm thế nào, để hàn gắn lại? Ngồi yên, nhẫn-nại chịu cảnh đau-thương, tin tưởng rằng chồng mình sẽ không thể bỏ được vợ con, và thế nào cũng phải bỏ các mèo, nhân-tình, để hoàn-toàn trở lại với vợ con chăng? Chúng tôi không dám nghĩ như vậy “Mèo” phần nhiều chỉ cốt đục khoét chồng mình, và khi nào chồng mình hết tiền, ‘Mèo” sẽ đi. Cái đó đúng nhưng nếu để cho chồng mình thong thả đi chơi, lỡ ra việc ăn sâu, sẽ khó gỡ. Cho nên người vợ sẽ phải khôn khéo, rất khôn khéo; phải hành động thế nào cho hạnh-phúc đừng tan vỡ, mà cũng phải tích-cực hoạt-động để cắt đứt những mối tình lạc loài, tới phá hoại hạnh-phúc gia-đình. Người vợ sẽ phải làm 2 loại công việc. Xem xét lại cử chỉ của mình, để thay đổi cho hợp với ý chồng. Nhiều khi vì chồng chán ngán đời sống trong gia-đình, nên mới đi chơi ngoài. Phải làm cho đời sống gia-đình vui tươi lại, cho chồng thấy rằng sống với vợ con là một sự sung sướng. Tích-cực hoạt-động một cách khôn khéo để gỡ ra cho chồng. Phải biết gợi sự hiểu biết của chồng. Phải khuyên giải, nhưng từ tốn, nhẹ nhàng. Lời lẽ đôi khi có quyết-liệt, có sự hăm dọa, nhưng lại dịu ngay đi. Làm thể nào mà khơi lại tất cả mối tình thương vợ, thương con trong đầu óc chồng, những kỷ-niệm cũ làm cho chồng cảm thấy sự vô lý và đê hèn của kẻ có vợ mà còn có mèo. Có thể tìm đến người đàn bà lạ kia để nói chuyện thẳng, nhẹ nhàng mà quả quyết, để cho họ hiểu rằng không thể nào phá nổi mối tình vợ chồng này. Kết luận Ghen: được lắm. Nhưng nếu biết trấn tĩnh, kiềm chế được lòng mình, thì bao giờ cũng tìm được phương pháp hay để giải-quyết, để hàn gắn hạnh-phúc gia-đình. Bs. NGUYỄN LÂN-ĐÍNH st
BUỔI HẸN ĐẦU TIÊN Dựa chiếc xe đạp cà tàng vào cột đèn, Dũng thấy mình sao mà ngô nghê quá. Nó thấy dường như mọi người đi qua đều nhìn nó với ánh mắt chế diễu. Không bất thường sao được khi chính cái chỗ vắng vẻ này chỉ có nó hết đứng song song với cây cột cao ngất thì cũng đi qua đi lại như chờ đợi ai. Lại nữa, vào cái giờ chẳng còn ai đi học, mà nó lại thẳng thớm quần xanh áo trắng trong khi trên tay và trong giỏ xe chả có cặp sách gì cả… Dũng cảm thấy mình thật lố bịch khi ai đó đi qua, khẽ ngoái đầu lại xem thằng con nhà ai lui cui dưới ngọn đèn đường đầy những con thiêu thân đang lòe ngòe trong lùm sáng. - Ê! Mày làm gì đấy Dũng? Nó ngước nhìn,và thấy cái thằng Hảo Nhiều Chuyện đang ngồi chênh vênh trên xe đạp, đưa cái cằm ra về phía nó chờ đợi câu trả lời chưa kịp nghĩ ra: - Thì… - À! Hay mày hẹn con nào? - Tao… có hẹn ai đâu! Giọng nó run rõ ràng. - Hm… Mắt Hảo… hảo cả ra, và môi nó dài ơi là dài. Này, chắc là mày hẹn con Tâm phải không? - Thôi đi mày! Nó lí nhí. - Thôi thì thôi nhá. Mai tao lên lớp là mày biết mặt. Bây giờ, một là khai ra, hai là ngày mai vui lắm nhá thằng ranh! Chọn cái nào. Thằng Hảo gân cả cái cổ dài ngoẵng của nó ra như cổ con ngỗng có lần Dũng đến nhà Tâm chơi. Bất chợt, cái bóng xinh xinh của cô bé vừa xuất hiện đầu đường. Bí thế, Dũng đành gật gật cái đầu nhanh như chưa bao giờ có: - Ừ! Tụi tao hẹn nhau đi ăn chè thôi. Mà mày đi về đi. - Dũng sốt cả ruột. - Ơ! Cho tao đi với. Hảo cà chớn. - Thôi, tao lạy mày mà. Dũng điên lên khi bóng nàng đã nom rõ lắm trong ánh đèn vấn vương. Thằng Hảo dõi theo ánh mắt của Dũng và phát giác ra Tâm đang lò dò đi tới. Dường như cô nàng khựng lại khi thấy ai đó đang đứng nói chuyện với Dũng. Dũng phát khóc với cái thằng ôn dịch này. Thấy bạn mình bối rối phát tội nghiệp, Hảo bỏ đi, miệng còn léo nhéo: - Bạn bè chó gì mà có ly chè cũng không dám bao. Rồi nó phóng xe đi như ma đuổi… Tâm với cái váy xanh học trò cũng vừa đến. Trông cô xinh xinh với cái áo sơ mi màu da trời có những nốt nhạc màu đỏ nhảy múa thật vui mắt. Dũng như muốn há hốc mồm ra vì cái sự xinh xắn ấy của Tâm. - Ơ hay! Sao không nói gì mà mặt cứ ngố ra vậy. Tâm vừa hỏi vừa đưa con mắt nai nhìn Dũng, khiến nó run cả lên, bằng cớ là miệng nó lập bập cứ y như lúc không thuộc bài: - Thì đợi… nãy giờ nè. Sao mà lâu thế? - Ơ! Người ta còn phải rửa chén rồi mới đi được chứ! Ấy là trốn đi, chứ bố mà biết thì chỉ có chết đòn. Dũng run cả lên, vì mấy cái chữ “người ta” sao mà dễ thương thế cơ chứ. Lại còn nói “bố”, cứ như bố ấy là bố cả của nó nữa. Nghĩ vậy mà Dũng thấy… sướng làm sao! - Thế cứ đứng đây mà ăn vạ hả? Cô bé xinh xinh lại vặn vẹo anh chàng lóng ngóng. - Thế… muốn đi đâu? Dũng thấy thật khó khăn khi không biết có nên thêm cái tên Tâm vào những câu hỏi không, vì chẳng hiểu sao, nó ngại quá, đành nói trổng vậy thôi. - Trời ơi! Rủ người ta ra đây mà không định đi đâu à. Tâm nheo nheo con mắt, dường như cô có vẽ tí ti cái gì trên bờ mi hay sao ấy, mà Dũng nom long lanh ơi là long lanh. Đến đây thì anh chàng mới nhớ ra câu trả lời đã dọn và thuộc cả buổi chiều, và nó quên cả hai cái đầu gối đang lập cập vào nhau, mà tuôn một hơi không nghỉ: - Ơ! Thì… muốn đi đâu cũng được! Có… là vui rồi! Rõ khỉ, thậm chí nó không dám gọi tên cô bé ra nữa. Mà Tâm cũng đã nhận ra cái sự bất bình thường ấy. Cô nàng còn ghẹo: - Bữa nay… bị á khẩu à? Cô bé cũng vừa chợt thấy mình cũng chẳng khác gì kẻ đợi chờ kia, khi ngại gọi tên Dũng. Thật lạ! - Có á khẩu hồi nào đâu! Đi ăn chè nhé? Cái môi hồng hồng hơi làm duyên một chút rồi nở ra mấy chữ: - Ăn chè ở đâu? - Thế Tâm thích ăn ở đâu? Lạ thật, cả Dũng lẫn Tâm đều thấy tự nhiên kêu tên nhau ngon ơ, như hồi nảo hồi nao đến giờ. Cô bé trả lời, cô thấy cái giọng của mình hôm nay sao nhõng nhẽo ghê đi. - Hay ra ngã tư quốc tế nhé. Ấy, không được, người ta thấy đó. Đến đây, Dũng mới biết vấn đề đi ăn ở đâu cũng quan trọng lắm chứ. Trong bụng thì cứ nghĩ người ta biết thì kệ người ta, càng thích. Mà cũng sợ chết khiếp, bố mẹ mà biết nó dắt ai đi ăn chè thế này thì nguy to. Rồi nó ngẩn người, ô hay, mình đi ăn chè với bạn hoài có sao đâu. Trái tim nó như muốn thắt lại khi bắt đầu lờ mờ hiểu ra, yêu là chuyện nghiêm trọng lắm chứ chẳng chơi! Chẳng hiểu làm sao mà nó nhớ ra gần Hồ Con Rùa cũng có quán chè. Thế là mắt nó sáng lên: - Mình lên Sài Gòn nhé. - Xa quá à! - Sợ bố la hả. Mình đi lẹ được không? - Ừ! Trả lời là vậy, mà Tâm cũng lo lo, chỉ sợ về muộn bố chửi cho thì chết. Được cái học giỏi, lại ngoan nên ít khi cô bé bị bố mẹ la rầy. Nhưng bố mẹ Tâm không muốn cô đi chơi nhiều làm sao lãng việc học. Dĩ nhiên là Dũng phải cong đuôi mà chở cô bé trên cái xe cà tàng. Cơ khổ! Mọi khi cái thắng chỉ kêu ri rí thôi mà hôm nay lại lẹt xẹt phát quê cả ra. Nhưng cái man mát dịu dàng của đường phố làm nó thấy sướng cả lòng. Nó phát giác ra đôi chân nó hôm nay sao mà khỏe thế. Cả cái miệng mom móm của nó cũng trở nên trơn tru khi suốt trên đường đi, tiếng lẹt xẹt cứ hòa với những câu nói bông đùa để cả hai đứa cứ thỉnh thoảng cười rũ rượi, có lúc suýt làm nó lạc tay lái mà đâm vào gánh xôi, khiến bà già chửi cho một trận nên thân. Cái miệng móm lí nhí xin lỗi, còn đôi má đã hồng, dưới ánh đèn đường lại thêm mê hoặc. Cái xe thổ tả bắt đầu sinh sự. Cái bánh sau xẹp lép. Thế là hai đứa phải lội bộ. Còn xa mới đến Hồ Con Rùa. Mà quay về thì cũng đã lỡ đường. Hai đứa đành lội bộ kiếm chỗ vá xe. Dũng áy náy: - Thông cảm nhé Tâm, ai ngờ xe hư. Giọng nó muốn khóc luôn. - Không sao đâu Dũng ơi, hình như là đôi mắt chứ không phải miệng Tâm nói như thế. Bên kia đường, chỗ vỉa hè trước tiệm sách đã đóng cửa, có ông già ngồi sửa xe. Hai đứa băng ngang đường. Tâm nắm lấy cánh tay Dũng, chẳng biết níu hay dìu anh chàng đi nữa… Trời đổ mưa. Hai đứa để xe cho ông già sửa. Chúng đứng sát cánh cửa vì sợ mưa tạt vào. Thỉnh thoảng có tia chớp ngoằn ngoèo trên bầu trời tối hủm, làm Dũng thấy khuôn mặt Tâm thật là xinh. Những sợi tóc của cô lòa xòa vào mặt Dũng. Dũng kệ, mà Tâm cũng kệ. Tâm biết Dũng nhìn mình, nhưng cô cũng… kệ. Trong lòng cô như có cái gì đó tuy mơ hồ mà cũng rõ lắm. Cô chẳng biết gọi là gì nữa. Họ im lặng. Bỗng Dũng co một chân, lấy mấy ngón chân di di vào bàn chân Tâm. Cô để yên. Cô thấy mình hạnh phúc. Hai đứa chẳng nói với nhau lời nào, mà sao êm đềm quá đi thôi. Chúng quên hết mọi sự, quên cơn mưa, quên cái xe cà tàng, quên cả ly chè… - Xe sửa xong rồi mấy đứa ơi. Dũng giật bắn người, rụt chân lại. Xe đã sửa xong ngon lành. Ông già còn tử tế chỉnh cho nó cái thắng cho hết lẹt xẹt vô duyên nữa Vậy mà chẳng hiểu làm sao hai đứa cứ thế đi bộ. Trời đã tạnh mưa. Có chút gió cũng hay hay. Gió làm hai đứa trẻ đi sát vào nhau. Đường về khá xa nhưng lại vô cùng gần, vì con đường nối đôi bờ tim đã thông suốt. Đêm nay, Dũng sẽ làm thơ; Tâm sẽ khó ngủ. Thằng Hảo thế nào ngày mai cũng lu loa cho cả lớp biết. Kệ bu nó… LAM TRẦN 15.10.2014 BIỂN ĐÊM BỀNH BỒNG Bạch Dương đến thành phố biển trong một buổi chiều muộn. Cái nắng ngột ngạt oi bức làm cô cảm thấy khó chịu mệt nhọc sau một chặng đường dài ngồi xe dằn xóc, mỏi nhừ tay chân. Tiếp tân nhà nghỉ đưa cô và Hạnh lên một phòng ở trên lầu, phòng có cửa sổ nhìn về phía biển. Hạnh vội vàng mở vali lấy quần áo đi vào phòng tắm. Bạch Dương ngồi xuống giường, ngồi im không động đậy. Hạnh bước ra nhìn Bạch Dương hỏi: - Chị có đi tắm biển không em đợi. - Hạnh đi chơi cùng các bạn đi. Tôi hơi mệt, muốn nghỉ ngơi trong phòng. Hạnh đi ra khỏi phòng, bước đi nhanh nhẹn náo nức, thân thể khỏe mạnh căng tròn trong chiếc váy hoa rực rỡ. Nắng, gió, tiếng sóng biển đang vẫy gọi Hạnh lao nhanh để đắm mình trong làn nước trong xanh mát lạnh, để bơi lội vẫy vùng vui đùa nhảy sóng. Hạnh là hình ảnh của cô hai mươi năm trước mỗi khi đến với biển. Bạch Dương đi đến bên cửa sổ, mở toang hai cánh cửa. Cơn gió lồng lộng ùa vào, gió làm mái tóc Bạch Dương hất ngược cả về phía sau bay bay lòa xòa, mơn man vào má và vùng cổ nhột nhột làm cho cô một cảm giác vui vui. Bạch Dương hít thở sâu, gió biển có một mùi hương rất lạ như pha trộn giữa sự tươi mát và sự nồng mặn của muối. Cô ngắm nhìn phong cảnh chung quanh, dưới sân nhà nghỉ những hàng cây, hoa kiểng, ghế đá nằm im lìm trong nắng chiều hiu hắt đang tắt dần nhường chỗ cho hoàng hôn đang tới chầm chậm. Trời tối dần, không gian như lặng đi vào mênh mông của đất trời bao la. Những ngọn đèn vàng dưới sân bật lên sáng leo lét khuất trong những chòm lá. Khu vườn trở nên mờ ảo thơ mộng lung linh lung linh giữa màn đêm. Gió biển càng lúc càng thổi mạnh, tiếng gió rì rào rì rào đưa Bạch Dương trở về với thực tại. Cô cảm thấy từ trong sâu thẩm trái tim có một điều gì đó mơ hồ nôn nao khi trở lại nơi này. Như một tiếng gọi thì thầm… Biển. Biển của ngày xưa. Bạch Dương nhìn vào gương, khuôn mặt người đàn bà tuổi trung niên phảng phất nét buồn u sầu, khóe mắt có vài nếp nhăn, dù cô đã trang điểm nhẹ một lớp phấn son. Cô chọn một áo đầm đen đơn giản dài quá gối, với đôi dép đi biển cũng màu đen, trên quai có gắn một bông hoa tím. Hình như trang phục không phù hợp với buổi đi dạo biển và trông Bạch Dương có vẻ già đi. Rời nhà nghỉ, Bạch Dương thong thả bước đi trên bãi cát, cát lạo xạo theo từng bước chân. Biển đêm êm đềm, một vài đôi tình nhân tay trong tay đi sát vào nhau. Một nhóm người tắm biển đêm lặn hụp trong làn nước, rượt đuổi nhau cười đùa vui vẻ, tiếng cười trong trẻo bay xa. Bạch Dương đi lần xuống mép nước, sóng biển dạt dào, nước mát lạnh dưới chân cô, từng cơn sóng ùa vào bãi cát, sóng gợn lăn tăn, xô giạt tràn vào bờ từng đợt, trào vào rồi lại trở ra, sóng vỗ dạt dào một nhịp điệu nhảy múa triền miên không ngừng nghỉ. Bạch Dương đứng im lặng ngó mong về phía biển. Biển bao la. Bầu trời bao la đầy sao lấp lánh lấp lánh trong màn đêm như những viên kim cương rực rỡ. Cô cảm thấy mình lẻ loi đơn độc giữa biển đêm bềnh bồng. Cô đi ngược trở lên, đi dọc theo bờ cát. Đi như người mộng du. Hình như sau lưng cô cũng có tiếng bước chân người rất gần. Bỗng một cơn gió từ ngoài xa khơi thổi ào ào, có lẽ là một cơn giông, sương đêm buốt lạnh. Bạch Dương rùng mình, lạnh buốt cả người, toàn thân cô hoàn toàn kiệt sức, quỵ người ngồi xuống bãi cát vòng tay ôm ngực. Một người khẽ khàng ngồi xuống bên cô, giọng thì thầm: - Bạch Dương, em… Ngơ ngác, Bạch Dương ngước nhìn lên, cô không tin ở mắt mình. Cô chớp mắt “Tại sao người đàn ông này lại có mặt nơi đây, trên bãi biển này, ngồi sát bên cô dường ấy”. Người đàn ông nhìn cô với ánh mắt lo lắng thương cảm: - Em lạnh, hãy nép vào anh cho ấm. Người đàn ông vòng tay ôm cô, nhẹ nhàng đỡ đầu cô ngả vào ngực mình. Hơi ấm từ người đàn ông truyền qua thân thể cô, lan tỏa khắp người, thân thể cô ấm dần, trái tim cô thấy ấm áp, cô không còn lẻ loi đơn độc. Cô nhắm mắt thở nhè nhẹ, cảm giác được che chở bảo bọc thật là dễ chịu. Hai người ngồi im lặng một lúc lâu. Ông âu yếm nắm tay Bạch Dương ân cần: - Nào đứng lên. Anh đưa em về nhà nghỉ. Bạch Dương như bừng tỉnh, ngước mắt nhìn ông khẽ hỏi: - Tại sao anh có mặt ở đây đêm nay? - Anh vừa về Việt Nam. Một người bạn rủ đi biển. Không ngờ gặp em ở đây. - Bạn của anh đâu rồi? - Anh ấy về khách sạn trước. Hai người lặng lẽ đi bên nhau, con đường dẫn về nhà nghỉ vắng tanh. Bầu trời mù sương xuyên qua những tàng cây, cành lá lao xao rì rào. Trăng muộn nhô lên một màu vàng hiu hắt, ánh trăng vàng bao trùm lên bóng hai người. Ông đi sát bên cô, bàn tay cô được ủ ấm trong lòng bàn tay ông suốt chặng đường về. Đến cửa nhà nghỉ, tay ông rời khỏi tay cô sau khi xiết chặt. Hai người dừng lại. Ánh mắt ông nhìn cô đăm đắm như muốn nói điều gì đó nhưng im lặng. Bạch Dương đứng im, hai tay buông xuôi bất động, giọng cô chìm xuống - Cảm ơn anh. Chúc ngủ ngon. - Em cần uống một viên thuốc cảm. Em có mang thuốc trong hành lý hay không? - Có. Em sẽ uống. Thôi anh về đi. - Em vào trước rồi anh sẽ đi. - Vâng. Đêm đã khuya. Bạch Dương không ngủ được, cô trằn trọc trên giường với những ý nghĩ rối bời. Tình cờ hay bất ngờ của cuộc đời đây? Ngày xưa cô và ông có một thời yêu nhau, duyên nợ không thành. Khi ông rời bỏ đất nước ra đi, cô rất đau khổ, dằn vặt, sa sút tinh thần. Ba mươi tuổi với trái tim tan nát, cô khép lại lòng mình sống độc thân cho đến ngày nay. Đêm nay gặp lại nhau, chính nơi thành phố biển, nơi ngày xưa cô đã trao cho ông tất cả tình yêu say đắm, những nụ hôn đầu đời đam mê đắm đuối. Đêm dưới ánh trăng huyền hoặc nơi bãi cát, hai người nằm bên nhau đắm chìm trong cảm xúc yêu đương cuồng nhiệt. Hai người đã đi đến tận cùng sự cám dỗ của con rắn độc, ông Adam và bà Eve sẽ ăn trái cấm… Nhưng Nguyễn dừng lại đúng lúc, anh bảo muốn giữ gìn sự trong trắng cho cô, chờ đợi đến khi cả hai thuộc về nhau mãi mãi, chờ đến đêm tân hôn. Những hồi tưởng ngọt ngào làm Bạch Dương rơi nước mắt. Ôi! Tình yêu. Tình đầu cũng là tình duy nhất của đời cô. Nguyễn cũng thức suốt đêm. Ông không thể tin là có sự ngẫu nhiên kỳ lạ đến thế sau mười năm xa cách. Ông gặp lại Bạch Dương một mình lẻ loi đơn độc trên bãi biển. Ông nhớ khuôn mặt cô xanh xao, thân thể nhỏ nhắn run rẩy trong vòng tay ông. Dù bao nhiêu năm đã xa, dù thời gian có phủ mờ lên nhan sắc của cô thiếu nữ xinh đẹp tươi trẻ ngày nào, ông vẫn không quên cô, không ngừng yêu cô. Ngày đó ông không quyết định được cuộc sống của mình như ý muốn, cần phải phụng dưỡng cha mẹ già, thời cuộc thay đổi… Cả hai đều có những lý do riêng, không vượt qua được hoàn cảnh, không vượt qua được số phận. Tình yêu và những ước mơ hạnh phúc đẹp đẽ bị chôn vùi vào trong nỗi thất vọng, xa nhau vĩnh viễn xa cách nghìn trùng. Khi có gia đình, sống không hạnh phúc, ông càng nhớ đến cô, trong tim ông hình bóng của cô người vợ không thay thế được. Tình yêu của ông và Bạch Dương ngọt ngào trinh nguyên như màu hoa cúc trắng mà cô yêu thích. Cô từng ước mơ ngày đám cưới của hai người, cô dâu sẽ đội vương miện là một vòng hoa cúc trắng, ông phải trang hoàng phòng cưới toàn hoa cúc trắng. Những hồi tưởng trở về trong tâm trí đem lại cho ông một quyết định mới. Định mệnh có mỉm cười với ông hay không? Ngày mai… Buổi sáng ngày thứ hai của chuyến du lịch Bạch Dương đang ngồi ở ghế đá trong khuôn viên nhà nghỉ. Ông Đàn đi đến, ngồi xuống cạnh cô: - Chào Bạch Dương. - A! Chào anh Đàn. Anh đi du lịch hay đi công tác? - Đi chơi với bạn Việt kiều. Tôi không ngờ Bạch Dương cũng là bạn của anh Nguyễn. Bạch Dương mở to mắt nhìn ông Đàn, nét mặt gợn chút bâng khuâng lo lắng. Ông Đàn là người đàn ông cô quen biết trong công việc từ vài năm nay. Ông đã ly hôn. Quen biết cô, ông để ý thương quý cô và mong tiến đến hôn nhân. Ông đã ngỏ ý nhưng cô chưa trả lời. Suy nghĩ một lúc Bạch Dương ngập ngừng hỏi: - Anh Nguyễn… anh ấy… Ông Đàn cười vui vẻ, ánh mắt tinh nghịch: - Đêm qua anh ấy trở về rất vui và tâm sự nhiều điều với tôi. - Còn anh, có tâm sự điều gì hay không? - Không. Tôi chỉ lắng nghe và cảm thấy đau khổ. Giữa tôi và Bạch Dương còn chờ một quyết định. Bạch Dương cúi mặt vẻ suy nghĩ, cô quyết định trả lời thẳng thắn: - Cảm ơn anh. Tôi mong anh vẫn là người bạn tốt của tôi như nhiều năm qua. Nói thật lòng cho đến giờ tôi vẫn chưa có ý định kết hôn. Ông Đàn mở to mắt nhìn Bạch Dương, ông hơi bất ngờ trước câu trả lời của cô. Từ lâu ông vẫn biết Bạch Dương là người phụ nữ có cá tính, nghiêm túc trong giao tiếp. Ông nghĩ cô sẽ nhận lời cầu hôn của ông. Cô không còn trẻ, trong khi ông đạt đủ tiêu chuẩn của người đàn ông thành đạt mà các cô gái trẻ vẫn mơ ước. Tại sao ông có thể tự tin đến thế? Tình yêu là điều khó lý giải, không thể đem tiêu chuẩn thành đạt, tiền tài, danh vọng mà mua chuộc trái tim con người. Đối với Bạch Dương, người phụ nữ ông yêu vì nhân cách tài năng điều này càng không thể. Để chinh phục được người phụ nữ như cô, ông phải làm gì đây? Dù thất vọng, ông Đàn vẫn vui vẻ trò chuyện - Tối nay tôi và anh Nguyễn mời Bạch Dương dùng cơm. Bạch Dương nghĩ không thể từ chối, nhưng cô không muốn đi một mình, mỉm cười nhỏ nhẹ nói: - Tôi mời cô bạn cùng phòng đi được không? Ông Đàn cười to sảng khoái: - Được chứ. Bạch Dương sợ phải đối diện với hai người đàn ông cùng yêu mình sao? Bạch Dương cười: - Chuyện cũ… xưa rồi anh Đàn à. Nhưng mà Hạnh, bạn tôi trẻ trung xinh đẹp, còn độc thân đó. - Vâng, tôi rất hân hạnh làm quen với bạn của Bạch Dương. Bảy giờ tối, tôi đến đón hai người. Ông Đàn đi rồi. Bạch Dương ngồi im lặng nơi ghế đá. Cô suy nghĩ về câu chuyện vừa trao đổi với ông Đàn. Cô đã từ chối lời cầu hôn của ông. Tại sao cô trả lời trong buổi sáng hôm nay? Chẳng lẽ vì ông Đàn là bạn của ông Nguyễn hay sao? Không. Không. Đơn giản vì cô không yêu ông Đàn. Cô nghĩ hôn nhân phải có tình yêu, sự hòa hợp từ cả hai người. Hình như ông Đàn rất tự tin và quyết tâm chinh phục trái tim cô. Cho dù cô đã từ chối xem ra thái độ của ông vẫn không thay đổi. Bạch Dương biết mình còn phải cần nhiều thời gian để giữ được một sự giao tiếp bình thường vui vẻ. Bữa cơm tối ông Đàn chiêu đãi ở khách sạn, diễn ra trong không gian lịch sự êm ả. Không khí buổi gặp gỡ vui vẻ cởi mở. Hạnh rất tự nhiên, cô nói chuyện có duyên tạo được cảm tình với hai người đàn ông lớn tuổi lần đầu gặp mặt. Ông Đàn với cung cách lịch lãm làm Hạnh chú ý. Ông Nguyễn điềm đạm, trầm tĩnh ít nói. Hạnh liến thoắng trêu đùa Bạch Dương: - Em thật ngưỡng mộ chị. Người gì đâu mà bí mật, giờ mới bật mí, giới thiệu cho em cùng lúc hai người đàn ông thật “bảnh” – đạt tiêu chuẩn 5 sao. Đàn tiếp lời nhũn nhặn: - Hai chúng tôi chỉ là hai người đàn ông bình thường và vô duyên đó cô Hạnh. Bởi thế nên bị “té đau” kết hôn rồi ly hôn. - Chuyện nhỏ… Vợ chồng ly hôn thời bây giờ là chuyện bình thường không ai quan tâm. Hạnh nhìn Bạch Dương rồi nói tiếp: - Phải thế không chị Bạch Dương? Ông Nguyễn nhìn Hạnh giọng buồn buồn: - Chuyện không nhỏ như Hạnh nghĩ đâu. Cho dù là lỗi của ai, chuyện đổ vỡ tình cảm thật sự rất bi thảm. Một thời gian dài cuộc sống của tôi thật buồn rầu trống rỗng. Hạnh mỉm cười ý nhị: - Hạnh nghĩ, hôm nay anh Nguyễn đã lắng lại lòng mình. Quá khứ buồn rầu đã đi qua. Hiện tại là một đêm vui vẻ. Ông Đàn tiếp lời: - Tôi không bi quan như anh Nguyễn. Tôi không nhớ lại chuyện cũ. Cuộc sống luôn có những điều rắc rối, gặp thất bại sẽ là điều giúp ta có ý chí để xây dựng lại cuộc sống tốt hơn. Tôi đang đi tìm “người thương”. Nào, mời các bạn nâng ly chúc mừng cho cuộc hội ngộ đêm nay. Bốn người nâng ly của mình uống cạn. Bữa ăn kết thúc, ông Nguyễn lịch sự ngỏ lời để ông và Bạch Dương đi dạo với nhau, lý do ngày mai ông phải trở về thành phố. Ông Đàn mời Hạnh đi xem ca nhạc. Hạnh vẫn vô tư hồn nhiên như tuổi trẻ của cô. Cô từ giã Bạch Dương với một cái nháy mắt tinh nghịch và thì thầm: - Anh Nguyễn là nguyên nhân làm đêm qua chị mất ngủ phải không? Tình yêu là điều kỳ diệu, hãy mở cửa trái tim đón nhận nha bà chị. Sống cô đơn hoài ai nhìn cũng xót xa thương cảm. Anh Nguyễn đúng là người cần cho đời chị. Đêm. Giữa trời biển bao la, hai người xuống bãi cát. Ông Nguyễn vòng tay ôm vai Bạch Dương. Cô ngồi im không động đậy. Ông Nguyễn tâm sự với cô biết bao câu chuyện, chuyện đời sống xa xôi nơi xứ người, chuyện gia đình rối rắm đưa đến ly hôn. Những năm tháng đã qua ông vẫn không quên Bạch Dương, giờ đây số phận đã cho hai người gặp lại nhau trong một không gian và thời gian như quay ngược trở lại ngày xưa – quá khứ đã nối liền với hiện tại. Cuộc hành trình bao nhiêu năm qua ông đi, ông tìm gì và được gì? Không gì cả. Tình yêu, hạnh phúc là con số không. Hiện tại không hẹn mà gặp. Bạch Dương chỉ im lặng nghe. Cô im lặng và cảm nhận được trái tim mình đập rộn ràng trong lồng ngực. Cả hai biết rõ những ngón chân họ sát cạnh nhau được mơn man… mơn man theo từng cơn sóng dội vào bờ. Ông Nguyễn nắm tay Bạch Dương, ánh mắt nhìn tha thiết giọng âu yếm: - Bạch Dương, chúng mình cưới nhau nhé! Hôn lễ sẽ ngập tràn hoa cúc trắng. Bạch Dương cúi mặt, suy nghĩ, ngước lên nhìn ông Nguyễn mỉm cười, dịu dàng: - Gặp lại anh em rất vui. Chuyện hôn nhân em chưa nghĩ tới. Ông Nguyễn ngỡ ngàng trước câu trả lời rõ ràng minh bạch của Bạch Dương. Ông đặt thẳng vấn đề: - Em không còn yêu anh, không muốn sống cùng anh sao? Nếu em không muốn rời Việt Nam, anh sẽ về đây sống cùng em. - Cho em một lời xin lỗi. Anh cũng biết với người phụ nữ khi tuổi xuân đã trôi qua, tình yêu dang dở trắc trở khiến trái tim họ dường như băng giá lạnh lẽo. Riêng em từ ngày xưa ấy, em và anh chia tay, chuyện tình yêu đã khép lại, có lúc lãng quên, có lúc chợt nhớ đến anh, chỉ là những cảm giác dịu dàng không giận hờn không nuối tiếc. Đột ngột, Nguyễn áp cả hai bàn tay nâng mặt Bạch Dương kề sát mặt mình, nhìn vào mắt cô thì thầm: - Anh không tin lời em nói. Không còn cảm xúc yêu thương. Hãy cho anh hôn em, nụ hôn say đắm của ngày xưa. - Em không thể. Nguyễn buông xuôi hai tay. Không gian và thời gian như đọng lại. Hình như biển lặng hơn bao giờ hết, gió đã ngừng thổi, mây đã ngừng trôi, vầng trăng mờ mờ tối. Nguyễn im lặng cúi đầu. Hai người ngồi bên nhau im lìm như tượng đá. Về khuya trời se lạnh, Bạch Dương cố giấu những cảm xúc buồn thương chợt đến trong trái tim mình. Một nụ hôn sẽ đánh thức trọn vẹn từ trái tim đến thân xác là sự cám dỗ của nhục cảm, cô không muốn điều đó xảy ra trong đêm nay. Cô tin là Nguyễn thành thật, tin những lời ông nói, ông vẫn còn yêu cô như ngày xưa. Biển của ngày xưa là những ngày nghỉ tuyệt vời hạnh phúc. Biển đêm nay không thể trở lại với một Bạch Dương sầu muộn cô đơn. Ông Nguyễn hình như đã trấn tĩnh, cầm tay Bạch Dương xiết nhẹ nói: - Anh xin lỗi. Anh là người vô tâm. Anh không hiểu được sự nhạy cảm của trái tim em, của người thiếu nữ đoan chính. Anh yêu em và anh sẽ chờ đợi. Bạch Dương nhắm mắt tận hưởng giây phút bình yên thanh thản, thư giãn. Trong cái mênh mông bao la của biển trời, cô thấy mình thật nhỏ bé, thấy đời mình không có một hành trinh nào gian nan vất vả. Cô dậm chân tại chỗ. Cuộc đời bình yên, bình yên phẳng lặng như ngày và đêm, như mặt trời và mặt trăng, như gió và mưa, như kim đồng hồ quay đều, quay đi quay lại tuổi bốn mươi đến lúc nào không kịp nhớ… Hai người ngồi bên nhau cho đến khi ánh bình minh ló dạng, mặt trời nhô lên từ xa tít mù khơi, tỏa ánh sáng rực rỡ tràn ngập trên bờ cát. Ngày thứ ba, khi ông Nguyễn đã đi về thành phố. Bạch Dương vẫn một mình lang thang tên bãi biển. Chiều xuống chậm, cô ngồi ngó mong ra biển với một tâm trạng khắc khoải, cô chợt nhận ra trái tim mình lao xao như sóng dập dờn. Dĩ vãng, quá khứ của ngày xưa và hiện tại như trò đùa của số phận. Cô đau đầu khi nghĩ đến việc phải đối mặt với hai người đàn ông. Cô sẽ còn gặp lại Nguyễn, vẫn còn giao tiếp với ông Đàn trong công việc. Cô đã từ chối hai lời cầu hôn, từ chối một nụ hôn. Dường như tâm trí và trái tim cô có một chu trình đối nghịch. Tình yêu là món quà Thượng đế trao cho con người. Tại sao cô phải sống cô đơn? Tại sao cô phải dằn vặt? Trái tim cô thổn thức mong cô chấp nhận tình yêu… Yêu Nguyễn. Tại sao lại từ chối một nụ hôn? Có lẽ bởi lý trí cô quá cứng ngắc, đạo đức, phong kiến chăng? Tất cả những điều đó cô không lý giải được. Bạch Dương trở về phòng, không bật đèn. Cô đứng bên cửa sổ nhìn xuống con đường mờ mờ tối. Gió thổi tung tóc cô, gió thổi không ngừng. Cánh cửa số lắc lư, lắc lư. Trên con đường vắng hiện ra hai bóng người nắm tay nhau bước đi chầm chậm. Đến cửa nhà nghỉ họ dừng lại, bất ngờ người đàn ông ôm ghì người đàn bà, họ hôn nhau, một nụ hôn dài bất tận. Gió vẫn thổi. Bạch Dương nhìn trân trối hai bóng người gắn chặt vào nhau. Khi hai người rời nhau, người đàn bà đi vào nhà nghỉ, dưới ánh đèn vàng Bạch Dương nhận ra người đàn bà là Hạnh. Cô như bừng tỉnh, thở một hơi dài nhẹ nhõm: “Tiếng sét ái tình. Hạnh ơi! Chị mừng cho em”. Hạnh bước vào phòng, nét mặt nụ cười tươi roi rói, mắt lóng lánh, cô ôm ghì Bạch Dương nói: - Ngày mai phải trở về thành phố. Sao kỳ nghỉ qua nhanh quá, chị Dương ơi! - Ờ, qua nhanh quá và cũng để lại nhiều kỷ niệm phải không em? Hạnh cười e thẹn, trên ghẹo Bạch Dương: - Kỷ niệm gì đâu, chị vui gặp lại người xưa thì có. Hai người cùng cười. Họ qua một đêm ngủ yên lành giữa tiếng sóng biển dạt dào, gió vẫn thổi qua khung cửa. HUỲNH THIÊN KIM BỘI TẤM VÉ MÁY BAY Đàm Lan Nghe tiếng xe xịch về đến cửa. Thủy gọi to: - My ơi! Ra mở cửa cho ba kìa. Bé My lóc xóc chùm chìa khóa chạy ra, lóc xóc theo sau là cu Tú, miệng reo: - A, ba về... ba về… Tuấn vừa đẩy cánh cửa sắt qua một bên thì cu Tú đu lên cánh tay: - Ba cho Tú đi một dzòng đi ba. - Ờ, lên đây ba cho đi một dzòng nha. Bé My dẩu môi: - Lêu lêu cái đồ con trai mà nhõng nhẽo. - Ba, My kêu con nhõng nhẽo kìa ba. - Ừ để ba la My. My không được chọc em nha. Đi nè… Tiếng Thủy vọng ra: - Có đội mũ chưa mà đi đó? - À, ba quên, My lấy cho em cái mũ con. My cầm cái mũ chạy ra đưa ba rồi nhìn theo cái xe bon bon trong chiều gió. Cô bé chợt giật mình khi nghe tiếng mẹ: - My ơi ! Tắm thay đồ rồi đi học đi, gần sáu giờ rồi. Lẹ lên, chút ba về ba chở đi luôn, mẹ khỏi dắt xe ra. Bé My dạ rồi chạy lên lầu, một lúc sau bước xuống với cái cặp quàng sau vai. Vừa lúc đó hai cha con về đến cửa, trên tay cu Tú là một món đồ chơi. Có thế cu cậu mới chịu ngồi lại cho ba chở chị đi học. Tuấn quay về, bỏ cái xe vào nhà, mắc cái mũ lên giá treo, hỏi Thủy: - Mẹ đăng ký vé máy bay được chưa? - Chưa. Họ bảo vé chờ thôi. Nói ba đăng ký từ hôm bữa rồi, không lo, giờ không biết có vé mà về không nữa. - Lu bu quá mà có nhớ gì đâu. Không có vé máy bay thì ráng ngồi xe thôi, còn không thì ở lại đi Vũng Tàu. - Đi Vũng Tàu thì chừng hai ngày chớ mấy, đâu có vui bằng về nhà. Năm ngoái đã không về rồi, ở lại một cái tết là đủ biết mùi rồi, năm nay mà không về được nữa thì buồn chết luôn. Thủy ràu ràu nói. Cô ngưng một chút lại tiếp: - Về xe thì chịu hổng nổi, xe ngày tết nó nhét chặt cứng vậy, về được đến trên đó thì cũng hết ăn tết, tội mấy đứa nhỏ chớ. Tuấn nói vọng ra từ phòng tắm: - Thì phải chờ xem có vé máy bay không chớ biết tính sao bây giờ. Thủy không nói gì nữa, cô lúi húi lau bàn dọn cơm. Nhớ đến những ngày tết ở lại Sài Gòn hồi năm ngoái mà cô phát chán. Thường ngày, Sài Gòn đông đúc người xe là thế, nhưng vào những dịp lễ tết là đường phố vắng tanh. Khắp các ngả đường rặt những ngôi nhà đóng cửa. Hầu hết người ta tranh thủ những ngày nghỉ để được sống trong một không gian thoáng đãng, nhẹ nhõm, được hít thở một bầu không khí trong lành tươi xanh tại một vùng quê, hay đẫm mình dưới làn nước biển với những cơn sóng dập dồi ở một nơi nào đó. Cho thần kinh, gân cốt được xả giãn sau một năm dài mê mải nơi thị thành. Sài Gòn vốn chỉ là nơi để kiếm tiền, tuy rằng nó gần như cung ứng được tất cả các phương tiện cần thiết cho nhu cầu một đời sống hiện đại, nhưng nó luôn làm cho con người ta có cảm giác như bị cuốn vào một chiếc máy nghiền. Ồn ào, thôi thúc, rượt đuổi. Chiếc kim đồng hồ đủng đỉnh là thế, nhưng chẳng ai bắt kịp nó cho dù vắt giò mà chạy đến tối mũi. Lúc nào cũng vội vội vàng vàng, lúc nào cũng thường trực những nỗi lo toan, mệt mỏi. Nhưng nó vẫn là một chiếc bánh ngon khổng lổ, ai cũng chen chen chúc chúc, cố ghé cho được răng vào mà ngoạm một miếng, để rồi khi có dịp tách ra khỏi nó, dẫu chỉ là một thời gian rất ngắn, người ta vụt thở ra đánh khì như vừa cất xuống một ách cày trên vai. Âu cũng là một quỹ đạo của sự sinh tồn. Để đáp ứng được tất cả những nhu cầu trong đời sống, thì dù muốn dù không, người ta cũng phải luôn tất tả ngược xuôi, và cho dù có nghẹt thở đến thế nào thì những thành phố lớn, có tốc độ phát triển kinh tế cao, vẫn có thể cho con người ta nhiều cơ hội hơn là những tỉnh lẻ, nhất lại là những vùng cao ngược đường, bất thuận về giao thông, bất tiện trong sự thu hút đầu tư các ngành nghiệp. Khi không có cùng một mặt bằng môi trường và phương tiện, thì không thể không chọn lựa. Để rồi, nơi đông lại càng đông, chốn vắng lại càng vắng. - Alo bác Mai hả? Chưa… thì cũng đang lo đây… về chớ, kiểu gì thì cũng phải về mà… nói bác Lan lo mà nhốt gà đi nha, cho cá ăn nhiều cho mau lớn nữa nha… chứ còn gì nữa, trông về vì nhiêu đó thôi mà… rồi rồi, có là báo liền… Thôi nha. Bai. - Bác Mai hả mẹ? - Ừ, bác Mai hỏi tết có về không? Để mấy bác còn chuẩn bị. - Về nha mẹ, con không thích tết mà ở đây đâu, buồn lắm. - Ừ, mẹ cũng muốn về mà. Em đâu con? - Nó bên nhà bác Bảy từ trưa đến giờ rồi. - Con qua dắt em về đi, hôm nay không phải đi học thêm phải không? - Dạ. Mẹ ơi! Tự nhiên con thèm ăn bắp luộc quá à. - Sắp ăn cơm rồi, mà có ai bán đâu mà ăn. Bé My ngước mắt ra đường, rồi nói: - Mẹ ơi! Bắp luộc trên Buôn Ma Thuột ăn ngon hơn bắp ở đây, mẹ ha. - Ừ, vì bắp ở trên đó, người ta bẻ ở rẫy rồi luộc liền, nó không bị khô mất nước ngọt, còn bắp ở đây người ta phải chuyển từ nơi khác về nên nó héo đi rồi, bớt chất ngọt hơn. Con có đói không? Chờ lát ăn cơm luôn ha. - Dạ con không đói lắm, thôi chờ ăn cơm cũng được, con qua nhà bác Bảy kêu thằng Tú về mẹ nha. - Ừ, kêu em về tắm rửa đi. Bé My chạy ào đi, Thủy tần ngần giở những tờ lịch, còn gần một tháng nữa là đến tết rồi. Bỗng cô trỗi lên một nỗi nhớ cồn cào. Cái chốn quê nhà đất đỏ mà hai vợ chồng cô đã rời nó gần mười năm nay, cũng có những lúc cô đã có cảm giác thân quen với nhịp độ hối hả của thành phố này. Nhưng cứ mỗi cuối năm, là lòng dạ lại bổi hổi bồi hồi nhớ về chốn cũ. Không nhớ làm sao được, khi từ tiếng khóc oe oe với bao vui buồn từ thuở nhỏ. Nếu chỉ riêng mình, chắc cô cũng không rời bỏ nơi thân thuộc ấy, nhưng do sự phát triển công việc của chồng, do sự học tập của con cái mà cô phải chuyển về đây. Để rồi, cứ mỗi mùa tết đến lại thắc tha thắc thỏm trở về. - Alo. Vâng đúng rồi. Có gì không ạ? A, có vé máy bay rồi á, đủ ba vé luôn à? Vâng vâng, cảm ơn cô. Vâng, tôi nhớ rồi, là vào ngày 26 tết. Cảm ơn cô nhiều nha. Nét mặt Thủy tươi rói khi nhận được tin báo đã có vé máy bay cho ngày hai sáu tết. Cô lập tức báo tin cho chồng, cho người thân ở Buôn Ma Thuột. Giọng cô líu ríu chen lẫn nói cười. Rồi cô bắt tay vào chuẩn bị cho cái ngày đang náo nức ấy. My dắt em về tới, nghe mẹ thông báo, cô bé nhảy cẫng lên: - A, đã quá, vậy là con được vào vườn bác Lan để câu cá rồi, sướng quá, sướng quá. Tú ơi! mình sắp được về nhà bác Mai bác Lan rồi, Tú thích không? Cu Tú chẳng hiểu gì, thấy chị reo cười hỏi, cũng gật đầu lia lịa. Sân bay Tân Sơn Nhất những ngày cuối năm không có chỗ mà chen chân. Không chỉ có người là người, lại còn bao nhiều thứ đồ đạc lỉnh kỉnh nữa. Biết rằng mang xách bộn rộn, nhưng ai cũng muốn đem những món quà vui, nhiều ý nghĩa cho những người thân nơi xa. Mấy ngày trước, Thủy cũng đi siêu thị ôm mang một lô một lốc về. Tuấn cằn nhằn giờ mọi thứ ở đâu cũng có, mang xách chi cho cực. Biết vậy, nhưng cái thú đi chọn lựa từng món quà, cái này cho người này, cái này biếu người kia, vẫn là một cái thú rất đẹp cho cái tình thân thuộc. Cũng như vậy cho người nhận, nhận một món quà lặn lội qua một chặng đường, vẫn thấy vui hơn, thích hơn là mấy tờ giấy bạc, cho dù giá trị nó có tương đương nhau, không khéo nó còn bị mang tiếng là coi thường nhau nữa. Cũng như chuyện mời ăn. Mệt phờ vì bao công nấu nướng sắp dọn, người được mời đến thì vui vẻ hỉ hả, còn vì bất kỳ lý do nào đó không đến được, hoặc khi đi ăn người được mời tranh trả tiền thì buồn bực, nghĩ ngợi có khi cả giận hờn nữa. Cái nét văn hóa Việt nó nhiêu khê và cầu kỳ là vậy đấy, nhưng đó mới đúng đặc trưng của người Việt vậy. Một số người cho rằng, theo văn hóa phương Tây, ai ăn nấy trả là tiện nhất. Cũng đúng, trong một số trường hợp thì cần dứt dạt cho thoải mái, nhưng trong một số khác, thì đó coi như không còn vướng víu tình cảm gì nữa. Lại vẫn là tính hai mặt thôi. Cái nào thì cũng có hay có dở cả, vấn đề là sự vận dụng tùy theo từng trạng huống mà thôi. Trước những chiếc bàn làm thủ tục, hàng người cứ nhích dần nhích dần. Cuối cùng thì cả nhà cũng thở phào khi vào được phòng chờ. Từ đây đến chỗ cái máy bay kia chỉ còn một quãng rất ngắn cả thời gian lẫn đoạn đường. Chiếc máy bay đang hạ dần độ cao. Qua cửa kính, Thủy đã thấy rõ những cảnh vật quen thuộc của thành phố Buôn Ma Thuột, những nóc nhà, những con đường và kia, cả chỗ Tượng đài Xe tăng, hay còn gọi là Tượng đài Ngã Sáu, là biểu tượng của thành phố. Cô nôn nao nôn nao. Bé My đang tỏ ra rành rẽ chỉ chỏ cho cậu em trai mới bốn tưổi thấy. Câu chào bằng hai thứ tiếng Việt-Anh phát ra từ hệ thống loa của khoang ghế khi máy bay đang dần chạm vào đường băng. Cuối cùng thì cũng đến lúc mọi người hồ hởi hít thở không khí mát rượi của vùng cao nguyên. Tuấn nán lại chờ lấy hành lý, khi ba mẹ con Thủy nhanh nhanh buớc về phía những bàn tay đang vẫy rối rít. - A, bác Mai, bác Lan… - Ra đây, ra đây bác bế cái nào… ui da ơi… - Bác Mai đang đợi My về để gói bánh chưng đó. - Gói riêng cho con một cái, em Tú một cái nữa nha. - Ừ, mà hai đứa phải thức canh nồi luộc bánh chưng với bác đó, đứa nào mà đi ngủ trước thì khỏi ăn luôn. - Bác Mai làm khó tụi con quá ha. Bác Lan canh phụ cho nha. - Mấy mẹ con mệt lắm không? - Xuống tới đây là hết mệt liền. Đợi Tuấn lấy hành lý ra rồi về nhà. - Ừ, nãy dặn sẵn một em taxi rồi. - Sao lại em? - Thì nữ tài xế mà. Cả dàn có mỗi một em ấy thôi, nên phải dặn trước chứ không thì hụt mất. - Đúng là bác Lan. - Kìa, Tuấn ra rồi kìa. Chu choa. Răng mà nhiều đồ dữ rứa? - Nội quà cho cả hai nhà đã hết quá nửa rồi. Thôi, về về… Chiếc taxi nuốt hết vào bụng cả người lẫn đồ đạc. Tuấn nói: - Chị Lan lên taxi luôn đi, đưa xe cho em. - Ừ đúng đó, bác Lan lên đây luôn để ba Tuấn đi. Những cái bánh xe quay tròn. Thủy nhìn ra cửa kính, thở một hơi: - Về tới đây thấy nhẹ hẳn người. Nội cái không phải hít mùi xăng, khói, không phải dang nắng đến mấy tiếng đồng hồ cũng đủ tăng lên được mấy ký rồi. - Vậy thì về đây mà hít thở luôn đi. - Hì. Cho em khất vài chục năm nữa nha các bác. - Khi đó lại càng không về được. - Lúc đó con cái lớn hết rồi, đâu vào đó hết rồi, thì về được chứ. - Thôi đi mợ ơi! Con cái là cái dây buộc cả đời. Hết con rồi đến cháu, ở đó mà mơ. - Thôi thì cứ mỗi năm ráng về được hai ba lần cũng đỡ rồi. Ở đây mà cũng dễ kiếm tiền như dưới đó thì khỏe quá ha. - Tham thế. - Đây với Sài Gòn còn khó khăn thế nói gì đến bên Úc. - Ờ, giờ này bên đó Chính nó cũng đang nhớ nhà lắm đấy. Mấy hôm trước nó cũng mới gọi điện về. Hỏi nhà sắm tết tới đâu rồi? - Ở bên đó thì chỉ khổ cái nhớ nhà, chứ không ngột ngạt như Sài Gòn. Chắc phải ít lâu nữa tụi nó mới về thăm được. - Bác Mai ơi! Gần tới nhà rồi đó. - Ừ, qua hai cái quẹo nữa là tới rồi. Ngôi nhà quen thuộc đã dần hiện ra. Thủy ngồi im không nói gì nữa, cô lặng nghe một cảm giác rộn rạo trong lòng. Ngày ba mươi tết. Chắc chắn không có nhà nào, từ Nam chí Bắc, từ Đông chí Tây ở cái nước Việt Nam này, là không chộn rộn trong cái ngày chót cùng của một năm theo lịch truyền thống. Bao nhiêu là thứ cần phải làm, nào là chợ búa, nào là giặt giũ, nào là quét dọn. Ôi chao là từ tờ mờ sáng đã hò nhau từ trong ra ngoài. Cứ làm như cả năm không dọn dẹp gì, cứ làm như cả năm không ăn uống gì, cái tủ lạnh phải một phen bội thực. Bao là rác từ mọi ngóc ngách được lôi ra. Rồi nào là kê bàn xếp ghế, nào là trang trí hoa hòe, giấy dán đủ màu sắc. Người ra người vào, người lên người xuống, ai cũng tất bật như con lật đật. Đường xá đông nượp người, người mang xách, người chuyên chở, chỗ này hoa, chỗ kia trái. May mà một năm chỉ có một lần với ba ngày tết, nếu vài ba lần với năm bảy ngày không biết còn đến đâu nữa. - Mẹ ơi! Con có bánh chưng nè. - Con cũng có nè. Hai chị em My, Tú tưng tưng hai cái bánh chưng còn nóng. Suốt buổi chiều hôm qua, cả hai cứ lăng xăng quanh chỗ gói bánh chưng. Tối đến cũng giành ngồi canh lửa, được một lúc thì ngủ lăn ra mất. Sáng vừa mở mắt đã hỏi bánh chưng của con đâu. - Con muốn ăn bây giờ hả? Còn nóng mà. - Dạ, đợi hết nóng rồi ăn. - Ừ, đợi hết nóng đã, nhớ cho mẹ ăn với đó nha. - Trả tiền cho bác Mai rồi mới được ăn chớ. - Bác Mai nói lì xì cho con mà. - Bác Mai nói hồi nào, ai làm chứng? - Hồi hôm qua đó, có bác Lan, cả mẹ con làm chứng nữa đó. - Thật không? - Thật mà. Thật mà Tú ha. Cu Tú toét miệng cười gật đầu, Tuấn ôm xốc thằng bé lên quay mấy vòng rồi cù mặt vào người nó, làm cu Tú cười lên sằng sặc. - Bác Mai coi coi còn thiếu gì nữa không nha? - Chắc không thiếu gì nữa đâu. Mai nhìn quanh nhẩm nhẩm, rồi nói: - Còn mỗi hoa thì tối đi mua. - Đêm ba mươi thích nhất là đi chợ hoa. - Ừ, làm nhanh cho xong đi, chiều cúng sớm, ăn sớm rồi đi. Trễ quá hết hoa đẹp đó. Lật bật rồi trời cũng đã sẫm tối. Cả nhà ăn uống xong, kéo nhau đi dạo chợ hoa. Đâu chừng vài năm nay, người ta hình thành một cái lệ mới. Đi mua hoa, cây cảnh vào đêm ba mươi. Nên những con đường có bán mặt hàng này đông đen vào buổi tối. Cơ man nào là hoa đủ các loại, các sắc màu, đủ các cấp giá. Từ vài triệu đến vài trăm, vài chục. Đi dạo chợ hoa như đi thưởng ngoạn một khu vườn thượng uyển vậy. Thấy cái gì cũng muốn bê tất về nhà mình. Chọn lựa mãi, cuối cùng cũng chở về nhà một chậu quất, một chậu hồng nhung, một chậu cúc đại đóa, và một chậu hồng ngân với những đóa hoa nhỏ màu hồng nhạt. Căn nhà sáng hẳn lên từ những sắc hoa. Tuấn vừa kê xong mấy chậu hoa vào mỗi chỗ, xoa tay cười hỏi: - Mấy nàng ngắm đi xem vừa ý chưa nè. - Rồi, được rồi đó, cho cái chậu hồng ngân sít qua một chút cho cân. Rồi được rồi. - Thôi lo bày bàn ra đi, gần tới giao thừa rồi kìa. - Bác Mai chuẩn bị tiền lì xì cho con với em Tú đó nha. - Rồi thưa cô, tui không quên đâu cô à. - Hí hí, có con nhắc làm sao bác Mai quên được. - Sao con nhắc mỗi bác Mai à? Còn bác Lan nữa chớ. - Cần gì nhắc đủ tên, My ha. Yên tâm đi, các bác lo phong bao hết rồi. Ráng đầu tư mai mốt mà khai thác chớ, ha My ha. Bé My cười khăng khắc vì bị bác Lan cù nách. Mai bật nhạc. Khúc ca “Xuân đã về, xuân đã về...” làm bừng lên một không khí mùa xuân. Tuấn loay hoay với những chiếc ly uống rượu cao chân và chai Vang Đà Lạt. Chiếc đồng hồ vang lên tiếng chuông báo. Trên màn hình ti vi tiếng phát thanh viên đang reo vui “CHÚC MỪNG NĂM MỚI”. Những chùm pháo hoa bung lên vòm trời dêm sáng rực. Cả nhà đứng trước bàn thờ cúng giao thừa. Thời khắc thiêng liêng của khúc giao mùa, dậy lên trong lòng mỗi người những ước nguyện. Có những hôm qua qua đi, có những ngày mai đang tới, và có hôm nay đang hiện thực. - Roang….roang….roang… Những nén nhang vừa được cắm vào chiếc lư, và mùi trầm huơng thoang thoảng, thì tất cả giật mình vì tiếng chuông điện thoại. - Chắc Chính gọi điện về đó. Alo… A Chúc mừng năm mới. Chúc cả nhà cậu Chính năm nay nhiều thành công và sức khỏe nha. Ừ, các bác chúc Cún con và Miu con học giỏi, mau lớn nha. Wa. Happy New year. Yes, yes. Thanks very much. Rồi rồi. Nghe đủ hết cả rồi đây. Cả My Tú cũng nghe nữa nè. Đây, My chúc cậu Chính đi. Những nói cười hân hoan cho một ngày mới tỏa rạng trên gương mặt người người. Tuấn rót rượu ra những cái ly rồi đưa cho mỗi người, xong Tuấn nói vọng vào điện thoại: - Chính ơi! Cụng ly chúc mừng năm mới nè nha. Tất cả cùng đồng thanh : - CHÚC MỪNG NĂM MỚI. Đàm Lan
ĐIỆU MÚA NGÀY XUÂN NGUYỄN THỊ MÂY Vào một đêm cuối đông, mọi người bỗng choàng tỉnh khi nghe tiếng khóc, tiếng kêu cứu vang trời dậy đất: “Cháy! Cháy!... Bớ làng xóm… cháy… nhà…!”. Kinh hoàng, cả nhà vùng dậy mở cửa chạy ào ra sân. Một biển lửa hung tợn trùm lấy những căn nhà đầu xóm. Ngọn gió quái ác, tàn nhẫn lùa từng đợt sóng đỏ rực tới trước, bốc từng mảng lửa ném vào mái lá lân cận nhà tôi. Lửa chồm tới, chồm tới… Chưa bao giờ tôi sợ hãi đến thế. Hai chân như đeo chì, bước chẳng muốn nổi. Bà và mẹ gào lên: “Chạy trước đi con!” rồi hai người phóng trở vào nhà. Tôi bừng tỉnh đuổi theo. Mỗi người chỉ kịp vớ một thứ thì lửa đã liếm tới. Sau trận hỏa hoạn, tôi chỉ còn cái cặp da với sách vở đang học và mấy bộ đồ mà mẹ đã ôm ra. Còn bà, món bà giữ lại được là cái đầu lân, di vật của ông tôi. Ông ngoại tôi là một nghệ nhân có tính cách độc đáo. Có lẽ vì thế mà ông rất nghèo, dù tên tuổi ông cũng được nhiều người biết đến. Ông say mê nghệ thuật, hăng say sáng tạo. Những tác phẩm của ông thiên về dân gian hơn là trừu tượng. Ông chọn những thể hình phù hợp với phẩm chất mộc mạc làng quê. Nhìn những bức họa của ông, người ta liên tưởng đến tranh làng Hồ với nét ngộ nghĩnh, duyên dáng, hóm hỉnh, tươi vui. Tuy nhiên, tranh vẫn mang phong cách riêng. Cũng chú gà nhưng lông xanh, đỏ, mỏ vàng, cặp mắt tròn xoe nhìn chị mái mơ nâu óng ả. Cũng chú chuột, nhưng tinh nghịch đứng bằng hai chân sau để chân trước nâng một miếng mỡ to, dâng lên chú mèo đang lim dim ngủ… Ngoài ra, ông còn vẽ những tấm phông lớn cho các chùa trong vùng. Mấy người mộ đạo đều tấm tắc ngợi khen mỗi lần ngắm phong cảnh tiên Phật ông tôi vẽ. Họ thấy lòng như trải rộng ra, từ bi hơn và thanh thản vô cùng. Khuôn mặt Đức Phật trong tranh thánh thiện, bao dung lạ lùng. Ai cũng ngạc nhiên trước đường nét mà ông ghi chép, tạo hình. Các sư cũng thán phục ông nên đem đến nhà một số tiền khá lớn do phật tử quyên góp để thưởng công. Nhưng ông đã từ chối và xin cúng lại cho chùa. Chuyện nầy khiến cho bà con láng giềng xôn xao, bàn tán. Người khen ông tốt, biết làm việc nghĩa. Kẻ chê ông ngu, suốt đời chỉ biết làm mọi không công. Người lại bảo ông hám danh, bỏ lợi để được chút tiếng… Ôi thôi, đủ thứ dư luận. Ông nghe hết, biết hết nhưng làm lơ và tiếp tục những công việc mà ông yêu thích. Một trong những sở thích đó là làm đầu lân. Về hội họa, ngoại tôi còn thua nhiều nghệ sĩ tạo hình khác. Nhưng về đắp đầu lân. Ít ai qua được ông vào thời ấy. Ngoại tôi khéo tay lắm! Đầu lân ông làm trông vừa cổ quái vừa oai phong, lẫm liệt. Cặp mắt ốc nhồi như nhìn xoáy vào kẻ đối diện. Cái sừng to cộ nửa giống sừng trâu nửa hao hao sừng tê giác. Chiếc mũi to bè, dị hợm. Cái miệng há rộng như chực nuốt trọn bất cứ cái gì. Bà tôi thường chế giễu ông: - Nếu bây giờ, trong ba ngày tết, bỗng dưng có chằn tinh xuất hiện, xuống núi quấy nhiễu dân lành. Chỉ cần đem cái đầu lân nầy ra múa. Bảo đảm quái vật sẽ cao bay xa chạy và người ta ngỡ vị đạo sĩ ngày xưa sống lại. Ông đã cho kỳ lân xuất hiện, uy hiếp chằn để cứu dân. Ông tôi cũng không chịu thua, liền đùa: - Nhưng bà phải lấy mấy cái nắp nồi vỗ vào nhau như chặp chả, bảo con cháu gõ vào xửng hấp bánh thay phèn la thì quái vật mới khiếp vía. Bà tôi cướp lời ông: - Vỗ vô bụng ông thay trống. Như vậy mới đủ bộ. Cả nhà được dịp cười vui vẻ. Những ngày hạnh phúc ấy qua rồi. Trong một lần bệnh nặng, ông ngoại tôi đã qua đời. Gia tài ông để lại chỉ có cái bóp da màu hung, loại bỏ túi. Trong đó, năm tờ giấy bạc còn mới được lồng vào giữa lớp ny lông, như để trang trí. Một quyển sổ ông dùng để vẽ lại mẫu hoa văn sưu tầm được và cái đầu lân chưa kết đuôi vào. Dù vậy, bà tôi cũng xem nó như một báu vật. Bà đặt nó lên bàn thờ, cạnh bài vị của ông. Ngày nào cũng vậy, sau khi thắp nhang xong, bà đứng lặng nhìn rồi len lén lau nước mắt. Lúc nhà cháy, bà quên lấy tiền bạc, quần áo, vật dụng cần thiết mà chỉ nhớ có mỗi cái đầu lân. Bà đã cứu nó thoát khỏi ngọn lửa hung tợn và giữ gìn cho đến bây giờ. Đông tàn, xuân đến, bà lại tỉ mẩn lau lớp bụi bám trên lớp giấy của cái đầu lân cũ kỹ sẫm màu năm tháng. Bà trân trọng, quý yêu nó. Hết thờ thẫn vào ra lại thở dài hoặc thì thầm một mình: - Nhanh quá! Mới đó mà tết nữa rồi! Bà làm cho căn nhà vốn đã buồn lại càng buồn thêm. Tôi chua xót nhìn nỗi đau dai dẳng của bà. Muốn an ủi bà nhưng tôi không dám. Cuối cùng tôi cũng nghĩ ra cách làm bà vui trong mấy ngày tết. Mỗi tối, tôi có đến Trung tâm văn hóa tỉnh để học võ Karate. Trong thời gian nầy, tôi âm thầm xin gia nhập đội lân và kiên trì tập múa. Thầy dạy võ cho tôi cũng là đội trưởng hướng dẫn kỹ thuật múa lân. Thầy thường khen tôi tiếp thu nhanh, múa dẻo. Cái đầu lân trong tay tôi như một con vật sống. Cử chỉ, điệu bộ ngang tàng, dũng mãnh. Do vậy, thầy rất quý mến tôi. Khi nghe tôi nói về bà và mơ ước của mình, thầy tỏ vẻ cảm động và hứa sẽ giúp tôi toại nguyện. Ngày mùng một tết, sau khi đem lân đi mừng tuổi ở một số cơ quan chủ chốt của địa phương. Thầy và đội lân theo tôi về nhà. Đoàn dừng lại trước cổng. Sau khi ổn định hàng ngũ, dụng cụ, theo khẩu lệnh của thầy, các bạn tôi nổi trống chiêng vang động một vùng. Phút chốc, người lớn, trẻ con, đàn bà, đàn ông… lũ lượt kéo tới đông nghẹt. Họ vây quanh rào nhà tôi, tò mò nhìn ngắm, chỉ trỏ, bàn tán. Bà ngoại và mẹ tôi cũng hớt hải chạy ra cửa, kinh ngạc trố mắt nhìn. Đúng lúc đó, tôi bắt đầu điệu múa. Con lân ngóng cổ nhìn vào. Cái đầu nghênh nghênh, tìm kiếm. Nó thụt lùi rồi tiến tới. Cái đuôi uyển chuyển trườn theo. Đi qua cổng, lân rạp mình bái tạ trời đất. Lân ngoái nhìn, chép miệng như ngầm chúc mọi người đầu năm vui vẻ. Lân rùng rùng cái đuôi, lân gục gặc cái đầu. Lân vờn lũ trẻ hiếu kỳ, lân rướn cao vẫy chào người lớn đang tròn mắt ngó. Lân cuộn lấy ông địa có cái quạt mo to tướng. Lân trêu cái bụng phệ của ông địa. Lân vòng quanh rào như xem hoa đua nở rồi lân vái chào. Nó quỳ mọp trước bàn thờ tổ tiên, lân dập đầu lạy ông mấy lạy và lạy bà, lạy mẹ. Lân nghiêng chào cái đầu lân cũ kỹ như mừng gặp lại cố tri. Sau khi nhận gói giấy đỏ tiền lì xì của bà, tôi cho lân lạy tạ, kết thúc điệu múa. Mọi người vỗ tay tán thưởng vang dậy. Trong lúc mẹ lăng xăng bày bàn tiệc chiêu đãi đội lân, bà tôi vừa lau nước mắt vừa nói với thầy: - Các cháu giỏi lắm! Các nghệ nhân tạo ra hình tượng kỳ lân. Còn các cháu, các cháu đã làm cho tác phẩm của họ có linh hồn. Thầy tôi cảm động chớp mắt, cầm lấy hai bàn tay của bà ngoại, giọng trầm ấm: - Thưa ngoại, tạo hóa đã phân định thời gian, tạo ra mùa xuân. Còn ngoại, ngoại đã cho chúng con ý xuân và hạnh phúc. Chúng con cảm ơn ngoại lắm! Tôi cảm thấy Chúa Xuân đang ở quanh mình và cuộc sống thật là thi vị! MỤC LỤC Vài chi tiết về kỳ họp ngày 13.12.2014… ................................ Vũ Thư Hữu .... 01 Về 1 cuốn sách mà 70 năm nay lúc nào tôi cũng yêu thích .... Vũ Anh Tuấn .... 05 Một thoáng Đạo Trời (tt & hết) ........................... Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết .... 11 Về Kinh Ngụy Tạo ............................................................................ Tâm Nguyện .... 17 Từ láy và nhân vật (tt – kỳ 4) .................................................... Phạm Đan Quế .... 33 Lưỡi dao cạo (Vladimir Nabokôv) ............................................ Thúy Toàn dịch .... 42 Tiếng đồn gần tiếng đồn xa sau mới ra báo chí .................... Trần Văn Hữu st .... 47 Nhân 910 năm thành lập Quốc Tử Giám Văn Miếu ............. Đỗ Thiên Thư st ... 54 Dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh trở thành di sản ............................................. B.Đ. st .... 57 Cúng rước đưa ông bà dịp Tết ........................................................... Nhựt Thanh .... 58 Massachusetts: Thủ đô Boston & ca khúc Jingle Bells .................... Phạm Vũ .... 62 Không có mùa Xuân (thơ) ............................................................. Ngàn Phương .... 70 Tình ta (thơ) ...................................................................................... Ngàn Phương .... 71 Nỗi niềm (thơ) ................................................................................... Ngàn Phương .... 7 1 Miền ca dao (thơ) ......................................................................... Võ Kim Cương .... 72 Giọt Xuân (thơ) ............................................................................. Võ Kim Cương .... 73 Hoa nguyệt (thơ) ................................................................................ Thanh Châu ... 74 Phong lưu (thơ) ................................................................................... Thanh Châu .... 74 Xuân… miên man (thơ) ....................................................................... Lam Trần ... 75 Quà tặng (thơ) ....................................................................................... Lê Nguyên .... 76 Rượu Sakê (thơ) .................................................................................... Lê Nguyên .... 77 Lúa (thơ) ....................................................................................... Phùng Chí Tâm .... 78 Kính dâng Mẹ (thơ) ..................................................................... Phùng Chí Tâm .... 79 Hương phố xưa (thơ) .................................................................. Phùng Chí Tâm ... 79 Cung chúc tân xuân (thơ) ................................................................ Lang Nguyên ... 80 Xuân thanh bình (thơ) ..................................................................... Lang Nguyên .... 80 Khai bút đầu Xuân (thơ) ................................................... Gs.Ts.Trần Văn Khê .... 81 Mừng đón Xuân về (thơ) ................................................... Trần Thị Ngọc Hồng .... 81 Mùa Xuân hòa bút (thơ) ................................................................ Trần Văn Hữu .... 82 Hồ và biển (thơ) ........................................................................... Đinh Xuân Hảo .... 83 Màu tình yêu (thơ) ...................................................................... Đinh Xuân Hảo .... 84 Ăn tết (thơ) .......................................................................................... Tâm Nguyện .... 85 Ông Trời cũng bó tay (thơ) ............................................................... Tâm Nguyện .... 85 Xuân xưa (thơ) ................................................................................... Lê Minh Chử .... 86 Em và thời gian (thơ) ............................................................... Giáng Ngọc (G.Đ.) .... 87 Lục bát tình xưa (thơ) ...................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 88 Cám ơn tình yêu (thơ) ...................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .... 89 Ngợi ca hồng ân Chúa (thơ) ............................................. Phạm Thị Minh Hưng .... 90 Lá thư mùa Xuân (thơ) ..................................................... Phạm Thị Minh Hưng .... 91 Mẹ với sông Cầu (thơ) ..................................................................... Vũ Đình Huy .... 93 Mother and The Cau River (thơ) ........................................... Vũ Anh Tuấn dịch .... 93 Tâm hồn (thơ) .................................................................................. Vũ Đình Huy .... 94 The soul (thơ) ............................................................................ Vũ Anh Tuấn dịch .... 94 Ngọc Lan (thơ) ................................................................................... Thiếu Khanh .... 95 Hái sao trên trời ..................................................................................... Dương Lêh .. 100 Cảnh đẹp đất nước: Núi Ngũ Hành ............................. Đào Minh Diệu Xuân st .. 106 Chắp cánh ước mơ ..................................................................... Hà Mạnh Đoàn .. 108 Phút chốc nhìn lên ngộ lẽ trời ................................................. Hoàng Kim Thư st .. 112 Bạn là người có phúc ..................................................................... Hoàng Chúc st .. 118 Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (tt – kỳ 7) ................. Thanh Châu dịch thuật .. 120 Đường Minh Hoàng xử bọn cho vay nặng lãi ............................. Vũ Anh Tuấn .. 125 Ghen cũng có một nghệ thuật ...................................... Bs. Nguyễn Lân-Đính st .. 129 Buổi hẹn đầu tiên .................................................................................... Lam Trần .. 134 Biển đêm bềnh bồng ......................................................... Huỳnh Thiên Kim Bội .. 138 Tấm vé máy bay ..................................................................................... Đàm Lan .. 147 Điệu múa ngày xuân ................................................................. Nguyễn Thị Mây .. 156 |